Thanh Triều Ngoại Sử (Bộ 1..Giang Nam Thất Hiệp) - THH

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Thanh Triều Ngoại Sử (Bộ 1..Giang Nam Thất Hiệp) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Image

Thanh Triều Ngoại Sử _ Đệ nhất bộ: Giang Nam thất hiệp

Tác giả : THH


Giới Thiệu

Ngày 5 tháng 2 năm 1661, vị vua thứ ba của nhà Thanh là hoàng đế Thuận Trị qua đời. Sau khi Ngài băng hà, con trai là Ái Tân Giác La Huyền Diệp lên kế vị ngai vàng, lấy niên hiệu là Khang Hi hoàng đế. Huyền Diệp bấy giờ chỉ mới tám tuổi, trở thành vị vua trẻ tuổi nhất của triều đình Mãn Châu.

Năm đó vì ấu chúa tuổi còn quá nhỏ cho nên chính sự do bà nội của Huyền Diệp là thái hoàng thái hậu Hiếu Trang và bốn vị đại thần phụ chính lo liệu. Thời khai quốc, triều Thanh lấy quân công làm đầu nên hiển nhiên Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ Ngao Bái luôn nổi bật nhất. Phía sau lần lượt có tam trụ đại thần Tô Khắc Táp Cáp, chủ trương đại thần Át Tất Long, và nghị chính đại thần Sách Ni.

Mặc dù có sự trợ giúp của Thái hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính, tân tiểu hoàng đế vừa phải vật lộn với căn bệnh hiểm nghèo, vừa phải đấu tranh chống lại âm mưu soán ngôi đoạt vị của Đại gian thần Ngao Bái. Chẳng những thế, ngài còn phải đương đầu với sự quấy phá và bành trướng thế lực của Đại Minh Triều – một bang phái giang hồ luôn giương cao lá cờ “Phản Thanh phục Minh.”

Trong có gian thần, ngoài có phản tặc, Khang Hi không khỏi rơi vào tình cảnh tấn thoái lưỡng nan, khổ cực trăm bề. Để củng cố ngai vị, ngài không tiếc hy sinh nhân lực vật lực, thậm chí cả những thần tử trung thành nhất của mình. Vì thiên thu đại nghiệp, những âm mưu quỷ kế như bão tố cuộn trào, đưa đến trận trận ái hận tình thù đẫm máu và nước mắt trong giới võ lâm…
Last edited by tuvi on 13 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 1: Đại thích khách (Thượng & Hạ)

Nằm phía tây cách kinh thành hơn hai trăm dặm, Quan Âm Tự - tỉnh Sơn Tây đứng tựa lưng vào vách núi cao sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt. Mé tả là một ngọn thác hiểm trở, dòng nước hung dữ từ độ cao hơn chục trượng ầm ầm đổ xuống, bọt tung trắng xóa. Mé hữu trái ngược, lại là cánh rừng thông xanh ngắt, lác đác sắc xám của đá núi bốn phía xung quanh. Trong không khí đẫm hơi nước mát mẻ, khu rừng như khoác lên một màn sương mờ ảo, có phần u tĩnh hiền hòa. Một động một tĩnh không hề đối chọi, lạ thay lại kết hợp hài hòa tạo nên kỳ cảnh nhân gian hiếm có.

Không còn ai biết chính xác Quan Âm Tự được dựng từ bao giờ, màu thời gian huyền ảo ấy càng phủ lên ngôi chùa này một sắc thái cổ kính và linh thiêng huyền bí, góp phần đưa nó trở thành chốn ưa thích không chỉ của khách hành hương mà cả giới tao nhân mặc khách suốt một dải trăm dặm Sơn Tây.

Có điều hôm nay, Quan Âm Tự thường ngày tấp nập lại vắng bóng du khách. Không những thế, chu vi năm dặm quanh đây càng không một bóng người, ngoại trừ lác đác từng tốp lính tuần phòng qua lại. Vài vị khách phương xa sau cơn hoảng hốt vì bị xua đuổi, hỏi ra mới hay từ mười ngày trước Hoàng đế Thuận Trị băng hà khiến thiên hạ rúng động. Cho nên từ kinh thành xa xôi, xa giá Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang cùng tân Tiểu hoàng đế ngày đêm vội vã khởi hành đến tận Quan Âm Tự nơi này, lo chuyện hậu sự cho Tiên đế Thuận Trị. Đồng thời truy tôn thụy hiệu Tiên hoàng thành “Thể Thiên Long Vận Đỉnh Thống Kiến Cực Anh Duệ Khâm Văn Hiến Vũ Đại Đức Hoằng Cung Chí Nhân Sơ Hiếu Chương Hoàng Đế.”

Người ta thường nói “Hoàng đế động, thiên hạ rùng rùng theo sau,” huống hồ giờ đang là thời điểm chuyển giao quyền lực vô cùng nhạy cảm. Cũng dể hiểu vì sao ngoài quân địa phương Sơn Tây phong tỏa năm dặm chung quanh, mặt chính diện Quan Âm Tự còn cờ xí rợp trời, lớp lớp nhân mã khôi giáp vũ khí sáng loáng, đội ngũ chỉnh tề, canh gác cẩn mật. Chỉ cần kẻ am hiểu tình hình kinh thành có mặt nơi đây, ắt nhận ra cờ hiệu kia đại diện cho Tứ mệnh đại thần cùng đoàn quân Bát Kỳ. Ngay cả rừng thông bên mé hữu cũng âm u khác hẳn thường ngày, lộ ra một sát khí chết người. Với địa hình hiểm trở cùng bố phòng nghiêm mật như vậy, kẻ nào có ý định hành thích tân hoàng hẳn là điều hết sức ngu xuẩn.

Bất quá trong thiên hạ, thời nào cũng vậy, đâu thiếu kẻ anh hùng hào kiệt, gan lớn trùm đời…

Chính điện Quan Âm Tự hương trầm bảng lảng. Khang Hi tiểu hoàng đế lúc bấy giờ đang bái lạy bài vị của tiên hoàng Thuận Trị. Bên cạnh là thái hoàng thái hậu Hiếu Trang hoa dung sầu lụy, đau buồn ủ rũ, lã chã lệ châu. Phía sau mấy bước, đương cung kính cúi đầu là hai nhân vật tay nắm trọng quyền, đã sớm tuyên thệ trung thành với Khang Hi - Lại bộ thị lang Sách Ngạch Đồ và Ngự lâm quân thống lĩnh Mã Tề.

Trong không khí thành kính trang nghiêm, bỗng hai vị đại nhân ấy chau mày, đưa mắt nhìn nhau. Hiển nhiên, họ đã phát hiện ra điều bất thường. Mã Tề quay sang nhìn Sách Ngạch Đồ, khẽ hỏi:

- Sách đại nhân, ngài có nghe thấy tiếng gì không?

Sách thị lang nhẹ gật đầu. Sau một thoáng chăm chú, Mã Tề thấp giọng:

- Bước chân di chuyển quá nhẹ nhàng. Những kẻ đang đến chắc chắn đều là hàng cao thủ.

Sách Ngạch Đồ gật gù khẳng định:

- Ừ, hẳn vậy!

Bàn tay Mã Tề bất giác siết chặt chuôi kiếm.

Vù, vù, vù...

Mã Tề chưa kịp rút kiếm, đã có tiếng y phục lất phất, tám bóng người thình lình xuất hiện ngoài sân, trong đó bảy người khoác y phục dạ hành. Những kẻ này dù che đi diện mạo, nhưng tướng tá cao ráo đường bệ uy vũ hiên ngang, cho thấy đều không phải hạng vô danh tiểu tốt. Người duy nhất không che mặt, là một lão ni cô, tóc bạc trắng như tuyết.

Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang dầu có chuẩn bị tâm lý sẵn nhưng vẫn không khỏi giật mình kinh hãi, theo phản xạ vội đỡ Khang Hi dậy, ôm chặt vào lòng, cặp lông mày ngài nhíu chặt, lộ ra bảy phần tức giận ba phần lo lắng. Bên ngoài có một vòng phòng vệ, vậy mà tám người này như đi vào chốn không người. Sách Ngạch Đồ và Mã Tề đương nhiên ý thức được điều nguy hiểm tột đỉnh sắp sửa xảy ra rồi, tức tốc đứng cạnh nhau, thành tấm bia chắn sống cho tiểu hoàng đế.

Ngự lâm quân thống lĩnh Mã Tề cao giọng:

- Tại hạ Mã Tề, tuy không còn lăn lộn giang hồ đã lâu, nhưng đồng đạo võ lâm vẫn thường gọi Thần Kiếm Thiên Long. Dám hỏi các vị hảo hán là người phương nào?

Thân mang quan tước không nhỏ, Mã Tề lại xưng hô bằng ngoại hiệu trong giang hồ, ý đồ hòa hoãn rất rõ. Song lão ni cô chỉ đảo mắt một cái, nhếch mép khinh bỉ không thèm trả lời.

Mã Tề nhíu chặt cặp lông mày rậm, quan sát kỹ hơn, chỉ thấy một khuôn mặt lạnh lùng. Môi lão ni cô khép chặt, phần môi trên khá mỏng tạo cho người ta ấn tượng đây là con người khắc nghiệt. Đôi mắt bà hơi híp lại, sắc như đao kiếm. Mã Tề nhìn xuống thì thấy một ống tay áo phất phơ trong gió, hiển nhiên lão ni cô này đã cụt mất một tay. Tay còn lại cầm cây phất trần lại không mất đi phần tiêu sái. Trong đầu Mã Tề nảy ra một suy đoán, thốt lên kinh ngạc:

- Không lẽ bà là Cửu Nạn sư thái? Các ngươi là Giang Nam thất... phỉ?

Bà lão bấy giờ mới chịu lên tiếng, môi không hề mấp máy, âm thanh vẫn cuồn cuộn phát ra cho thấy nội lực phi phàm:

- Không sai! Coi như kiến thức tên cẩu quan nhà ngươi cũng không tệ.

Câu đầu tiên đã mắng chửi người, lại xuất ra từ một lão ni đầu bạc, không khỏi khiến người ta coi thường. Song Mã thống lĩnh lại biết tám người này bất cứ ai cũng có bản lãnh khuynh đảo một phương, thường hay hành hiệp trượng nghĩa nên danh vọng rất cao trong võ lâm, tự xưng là Giang Nam thất hiệp. Ngoài cường hào ác bá, không ít quan quân triều đình Mãn Thanh đã chết dưới tay bọn họ. Dưới con mắt triều đình, từ lâu bọn họ đã là phỉ đồ.

Có điều hai tiếng “thất phỉ” với bọn họ lại vô cùng chối tai, nhất là Cửu Nạn sư thái ghét ác như cừu, đó không khác gì sự sỉ nhục nặng nề.

Thực ra, Mã Tề đã từng nghe danh tiếng lẫy lừng của tám người này, có phần coi nhẹ. Nhưng trăm nghe không bằng mắt thấy, tiếng quát của Cửu Nạn sư thái chứa đựng một luồng nội lực cực lớn, ong ong mãi trong đầu Mã Tề, lúc gần lúc xa, lúc cuồng nộ như sấm chớp, lúc thanh thoát như chốn địa đàng. Quái âm nửa âm nửa dương khác người như vậy khiến họ Mã vô cùng khó chịu. Hiển nhiên âm công của lão ni cô rất cao cường.

Da gà hốt nhiên nổi đầy hai cánh tay Mã Tề. Một cảm giác lạnh buốt như có ai đó đặt một lớp băng trên đỉnh đầu gã vậy. Nó chạy dọc từ đằng sau cổ của Mã Tề, men theo sống lưng, một mạch xuống tận hai gót chân.

Dù Mã Tề được giang hồ xưng tụng là Thần Kiếm Thiên Long, nhưng đứng trước bà lão này lại không khỏi phát run. Chỉ riêng phong thái tiêu sái bất phàm, ung dung giữa thiên quân vạn mã ấy Mã Tề tự thẹn không bằng.

Trái ngược với Mã Tề, Sách Ngạch Đồ nãy giờ vẫn điềm tĩnh, chẳng chút e ngại. Phần vì bấy lâu nay Sách Ngạch Đồ có tiếng là kiệm lời, phần khác đừng thấy gã trông như thư sinh mà coi thường. Tuy là Lại Bộ thị lang song người trong võ lâm đều biết tiếng, vốn là kẻ không sợ trời đất, nao núng trước quỷ thần. Trước đòn thị uy của Cửu Nạn sư thái, Sách gia chỉ đáp một câu gọn lỏn:

- Ngưỡng mộ đã lâu!

Xong ngửa mặt lên trời cười nhạt.

Mã Tề sau cơn hốt hoảng, cố gắng lấy lại bình tĩnh mạnh giọng quát hỏi:

- Các ngươi muốn gì?

Hỏi xong y lập tức thấy hớ. Người bình thường không được tuyên triệu dám tiếp cận hoàng đế đã đủ mang ra chém đầu rồi. Huống chi một đám mặc y phục dạ hành giữa ban ngày, vượt qua tầng tầng lớp lớp quân phòng vệ, thử hỏi còn mục đích gì nữa, ngay đứa trẻ lên ba cũng trả lời được. Nó cho thấy Mã Tề vẫn chưa thoát khỏi trạng thái hốt hoảng bối rối. Tố chất ấy với một Thống lãnh ngự lâm quân mà nói, quả thực không xứng chút nào.

- Hỏi dư thừa!

Quả nhiên Cửu Nạn sư thái nở nụ cười giễu cợt:

- Ngoài lấy đầu thằng nhãi kia còn muốn gì nữa?

Dứt lời, cây phất trần liền ra sức đánh tới, thế nặng như núi.

Phiên chợ đầu xuân ở Sơn Đông thường mở vào ngày mùng tám tháng hai hằng năm. Thông lệ này không rõ có tự bao giờ, nhưng cứ đúng ngày, thương lái khắp các tỉnh Tây Bắc và Tây Vực lại đổ xô về mảnh đất trống ở ngoại thành Sơn Đông, cùng làm nên phiên chợ náo nhiệt nhất trong năm. Nhưng năm nay vì Hoàng Hà vỡ đê liên tục, khắp cả vùng Sơn Đông chìm trong biển nước trắng xóa, chợ buộc phải hoãn lại mãi cho đến tận đầu thu và dự định kéo dài khoảng một tháng.

Trong dịp này, người ta có thể mua bán vô vàn chủng loại hàng hóa từ Nam chí Bắc. Song do điều kiện địa lý, thời tiết nên mặt hàng chính vẫn là tơ lụa, gấm vóc, trà và ngựa - sản phẩm chủ yếu của vùng Sơn Đông. Dĩ nhiên càng không thiếu những lái buôn bày bán lông thú, nhân sâm, thảm len, dược liệu của Tây Vực và thổ cẩm Tây Bắc.

Trên khoảng đất trống kế bên quan đạo, các sạp hàng, cửa hàng dựng lên san sát như nấm sau mưa, chia thành từng khu riêng biệt. Ngoài nơi bày sản vật địa phương, có một khu vực riêng chuyên kinh doanh trang sức quý giá như nhẫn, vòng, ngọc bội... và đồ thủ công mỹ nghệ gồm tranh ảnh, vải vóc, thảm, chiếu… Nhỏ hơn và lộn xộn là khu vực tập trung các gánh hàng chuyên bán rau dưa, thịt, trái cây và các loại đồ ăn vặt đã được chế biến sẵn...

Bình thường đường đi lối lại trong chợ khá rộng, cánh lái buôn có thể cưỡi ngựa hay mang xe kéo tới từng sạp hàng. Song có ngày cao điểm, thúng mẹt bày la liệt trên mặt đất, người bán chễm chệ trên đòn kê, kẻ đứng người ngồi chồm hổm xúm xít coi và mua hàng. Khi ấy đường chỉ còn đủ cho ba bốn người tránh nhau. Hai bên rìa, tiếng ngựa hý, gà trong lồng kêu quang quác, lợn trong rọ kêu eng éc cùng hàng trăm cái miệng thi nhau rao hàng, kỳ kèo trả giá bằng đủ các loại ngôn ngữ Hán, Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Một mớ âm thanh hỗn tạp trộn với nhau thành bản hợp xướng ồn ào náo nhiệt.

Bấy giờ là bình minh, mặt trời mới đương le lói đằng Đông, đã không ít người dạo chợ sớm rồi.

Trong đám đông đang ngắm nghía hàng hóa, bỗng đâu xuất hiện một thằng bé. Nom nó chỉ độ mười, mười một tuổi, gương mặt sáng sủa thông minh. Cứ nhìn đôi mắt lanh lợi, pha chút lém lỉnh dưới vầng trán rộng kia, chẳng một ai hoài nghi điều đó.

Trên người thằng bé là bộ đồ nâu, không giấu nổi thân hình gầy ốm khẳng khiu. Tay nó cầm một gậy tre, quẩy trên vai một bọc hành lý vắt vẻo, hờ hững như mời gọi đám trộm cắp vặt. Bất quá nhìn bộ y phục tầm thường, cũ kỹ thế kia, lũ đạo tặc chẳng thèm động đến.

Thằng bé cứ một mình một đường, nhẩn nha dạo qua các gian hàng. Nó hờ hững nhìn lũ nhỏ đang xúm xít quanh các gian hàng bán chong chóng và đồ chơi xanh đỏ bắt mắt.

Đến chỗ mấy gánh bánh bao, đập vào mắt thằng bé là một đứa con gái cũng trạc tuổi nó. Đứa bé gương mặt đầy những nhọ và bụi bẩn, y phục tả tơi hệt đứa ăn mày, mắt hau háu nhìn những chiếc bánh trắng phau nghi ngút khói mà nuốt nước bọt ừng ực. Chẳng suy nghĩ lâu, nó liền tấp vào.

Ngồi bên lồng hấp là một bà trung niên béo tròn. Mới sáng sớm đã có con bé rách rưới ám quẻ, bà ta đã chẳng vui nổi rồi, giờ lại đến thằng nhóc không hơn ăn mày là mấy. Mặt bà ta đanh lại, một tràng chửi mắng chuẩn bị tung ra. Nhưng chỉ trong chớp mắt, bão tố lạnh lẽo thoắt chuyển tiết xuân ấm áp hết sức thần kỳ, khi thằng bé thò tay vào lưng quần, thản nhiên lấy ra một đồng xu.

Khỏi phải nói, hai cái bánh lập tức được trao, kèm nụ cười niềm nở cực kỳ tiêu chuẩn. Nhận bọc giấy dầu, thằng bé đưa luôn cho con bé. Sau thoáng ngỡ ngàng nó liền chụp lấy, cắn từng miếng nhai ngon lành, có vẻ đã nhịn đói lâu ngày lắm rồi. Thằng bé chỉ mỉm cười độ lượng, thích thú ngắm con bé vừa ngồm ngoàm vừa lúng búng gì đó trong miệng. Thoáng chốc, cái bánh được xử lý xong. Khi cơn đói đã được xoa dịu, con bé mới sực nhớ ra. Nó ngượng ngùng chìa ra chiếc còn lại, có điều vẻ tiếc nuối hiện rõ trong mắt.

- Cứ cầm đi, ca không đói! - Thằng bé lắc đầu cười.

Thấy con bé ngần ngại, nó bèn gợi chuyện hỏi han. Từ ánh mắt, cử chỉ, lời nói đều toát lên nét chững chạc, chẳng có vẻ nhút nhát và non nớt của những đứa con nít cùng trang lứa. Vì thế con bé vừa khóc vừa kể lể như thể gặp lại người thân. Hóa ra nhà nó ở tỉnh Cam Túc, đúng vùng tâm lũ, nên người thân đã thất lạc cả, chỉ còn bà nội già yếu. Hai bà cháu lếch thếch theo đám dân chạy lụt tới huyện thành thì bà nó ngã bệnh, giờ đang nằm ở cái miếu rách ngoài thành, mấy ngày rồi chưa có gì vào bụng.

Thằng bé động lòng trắc ẩn, lại lấy ra đồng xu nữa cho nó. Sau mấy lời an ủi san sẻ muộn phiền hai đứa mới chia tay. Dõi theo bóng hình liêu xiêu của con bé dần xa, thằng bé khẽ lắc đầu như thể một ông cụ non chán ngán nhân tình thế thái. Tay xoa xoa cái bụng đang réo lên òng ọc, nó vừa đi vừa thở dài lẩm bẩm “Người tốt bao giờ cũng lận đận…"

Loanh quanh một lúc, nó bỗng chú ý một đám xúm đông đằng trước. Từ tiếng chiêng trống ồn ào mà đoán hẳn là một đoàn mãi võ. Lòng hiếu kỳ nổi lên, nó liền chen vào xem bản lĩnh của họ thế nào.

Năm xưa, thời Tống Huy Tông có Tống Giang cùng ba mươi sáu hào kiệt phất cờ ở Lương Sơn chống lại triều đình hủ bại. Khởi nghĩa tuy không thành, nhưng đã khơi lên tinh thần hiệp nghĩa trừ gian diệt bạo trong trái tim người Sơn Đông. Nên có một thời, tập luyện võ nghệ là chuyện rất thịnh hành. Dĩ nhiên trong quá trình tập luyện hay hành tẩu giang hồ, không tránh khỏi vài lần ngộ thương. Vì thế phải giắt lưng một phương thuốc hoặc bí dược trị nội ngoại thương là điều bắt buộc. Dần dà, có người lại đem nó ra làm kế sinh nhai, trước khi bán thuốc liền biểu diễn vài màn công phu lòe thiên hạ. Danh xưng "mãi võ Sơn Đông" trở nên quen thuộc từ đó.

Giữa mảnh đất trống rộng chừng ba trượng, bày một giá vũ khí và mấy thứ đạo cụ. Một đôi nam nữ đang múa gươm đấu kiếm, người đàn ông tuổi đã trung niên, cô gái thì còn rất trẻ. Khi thằng bé len vào, đang đến đoạn người trung niên chúi đầu xuống đất trồng cây chuối, cô gái sau khi lộn nhào vài vòng liền tung mình đứng chuẩn trên hai bàn chân ông ta. Hít một hơi ổn định thân hình, cô liền làm động tác nuốt thanh kiếm vào bụng. Đám đông tức thì ồ lên khen hay.

Song có kẻ lại không nghĩ vậy, một đại hán lưng giắt thanh đại đao bĩu môi cất tiếng ồm ồm:

- Công phu cũng chỉ tầm thường thế thôi.

Đương lúc huyên náo, lời bình phẩm ấy chỉ mấy người quanh đó nghe được, lập tức ném cho gã ánh mắt khó chịu. Riêng thằng bé lại gật gù biểu thị tán đồng, trong mắt nó mấy trò này đúng là tầm thường quá. Một gã mặt dơi có vẻ là đồng bạn với đại hán lên tiếng:

- Trương huynh, đệ thấy để giữ được thăng bằng như vậy, đôi song trảo kia không tầm thường đâu.

Họ Trương lắc đầu không tán đồng:

- Người anh em, nếu huynh đã từng thấy một người, sẽ thấy đây chỉ là trò trẻ con. Một trảo của vị ấy sấm rung chớp giật, vỡ đá tan bia.

- Trương huynh, nhân vật nào lợi hại vậy? - Mặt dơi hiếu kỳ hỏi.

- Trang huynh đã nghe tới cái tên Tần Thiên Nhân chưa?

- Có phải Nam hiệp thần quyền Tần Thiên Nhân? - Họ Trang thốt lên kinh ngạc.

- Chính là người ấy!

- Nhưng đệ nghe nói, Tần đại hiệp nổi danh nhờ đôi thần quyền đánh không địch thủ suốt một dải Giang Nam mà.

Đại hán khẽ gật lại lắc đầu kể:

- Huynh đệ biết một không biết hai, đôi song trảo của họ Tần cũng cực kỳ lợi hại. Chắc huynh vẫn nhớ Thiết Bi Tặc Thủ, tay đại đạo khét tiếng hoành hành ở Tế Nam nhờ môn công phu Thiết Bố Sam đã luyện đến mức lô hỏa thuần thanh chứ. Bao người muốn trừ y mà không được, bởi ngoài da thịt như sắt thép, y còn bận thêm một lớp hộ giáp dày. Vậy mà gặp Tần đại hiệp, chỉ một chiêu cả người lẫn giáp thủng mười lỗ lớn. Chuyện này chính tôi tận mắt chứng kiến đấy…

Đại hán càng nói càng hăng, đồng thời không giấu nổi vẻ hả hê khi thấy đồng bạn le lưỡi, xuýt xoa sợ hãi.

Không chỉ họ Trang, nãy giờ khi ba tiếng Tần Thiên Nhân lọt vào tai, thằng bé lập tức chú ý rồi. Nó dỏng tai lắng nghe. Nhất thời cảnh tượng kinh tâm động phách ấy như hiện ra trước mắt khiến tim nó đập thình thịch, song phần nhiều là vui sướng.

- Có điều đã lâu, ta không còn nghe tin tức gì về Tần Thiên Nhân nữa - Đại hán họ Trương bỗng trầm ngâm.

- Sao thế Trương huynh?

- Ừm, chính xác thì từ khi Tần đại hiệp gia nhập Đại Minh Triều, trở thành nhị đương gia của bang hội này, ít người thấy huynh ấy đi lại trên giang hồ.

Nghe vậy họ Trang không khỏi kinh hô:

- Đại Minh Triều! Thứ cho tiểu đệ kiến thức hạn hẹp, xin hỏi Trương huynh đây là bang phái gì? Nghe tên đã thấy liên quan đến tiền triều, lẽ nào…

Thoáng nhìn xung quanh, đại hán họ Trương gật đầu, giọng nhỏ xuống vài phần:

- Trang huynh đoán đúng rồi. Đại Minh đã không còn, nhưng một số người không chịu nổi cái nhục Trung nguyên nằm dưới sự cai trị của người Mãn, bèn tụ lại lập ra bang phái này. Đại Minh Triều tuy là một bang phái giang hồ nhưng tôn chỉ hoạt động của nó là "phản Thanh phục Minh", chuyên nhằm vào quan lại binh lính theo triều đình. Nghe nói bang này có tám “Đường," lại chia thành Tiền tứ phòng bốn đường, Hậu tứ phòng bốn đường. Mỗi Đường hoạt động tại một tỉnh ở Giang Nam, do một vị đương gia bí mật lãnh đạo. Dựa vào võ công Tần Thiên Nhân ngồi ghế nhị đương gia, ta đoán mấy vị kia bản lĩnh cũng không hề kém đâu.

“Hứ, đâu chỉ không hề kém, nếu nghe tên tuổi họ chắc ông phải trợn mắt kinh ngạc ấy chứ. Nhất là sư phụ ta” – Thằng bé dương dương đắc ý nghĩ thầm.

- Huynh không biết bọn họ là ai ư?

- Trang huynh đề cao tôi quá rồi. Nếu không phải chú ý nghe ngóng về Tần Thiên Nhân, tôi cũng không biết đại hiệp đã gia nhập Đại Minh Triều.

- Đúng vậy, bọn họ khác nào thần long thấy đầu không thấy đuôi chứ.

Một tiếng cảm thán vang lên khiến đại hán và họ Trang không khỏi giật mình. Hóa ra có không ít người bị câu chuyện của họ thu hút. Thằng bé ngó sang, thấy người vừa lên tiếng là một trung niên trạc tứ tuần, gương mặt góc cạnh, đường nét đoan chính. Nhận ra sự cảnh giác của hai người, ông ta mỉm cười chắp tay:

-Hai vị, tại hạ là Thanh Sam Thiết Câu Hoành Lập ở Trịnh Châu. Nghe chuyện của Trương huynh đây hấp dẫn quá, không kìm được xen vào, có phần mạo muội rồi.

- Hoành huynh khách sáo, bọn tôi là Hắc Đao Trương Thiết, Bức Diện Trang Kình. Ngưỡng mộ đã lâu!

Hai người sau thoáng nhìn nhau, cũng đáp lễ. Thực ra bọn họ lần đầu nghe cái tên này, nói vậy là lịch sự mà thôi.

Người hành tẩu giang hồ là thế, sau phen chào hỏi, tự nhiên thân thiết hơn vài phần, bất giác lại trở về câu chuyện dang dở ban nãy. Họ Hoành hạ giọng làm bộ thần bí:

-Ngoài Nam hiệp thần quyền, trong bảy vị đương gia Đại Minh Triều, ít nhất tôi còn biết thêm một người.

- Là ai? Mong Hoành huynh chỉ giáo cho!

- Hai vị hẳn nghe danh một người trí kế siêu quần, tính toán quỷ thần, như Gia Cát Lượng tái thế chứ?

Cả hai nghe vậy sửng sốt kinh hô:

-Phải chăng là Cửu Dương tiên sinh ở Hàng Châu?

“Đến rồi, đến rồi!” - Thằng bé cũng thầm hô hoán, trong lòng dậy sóng. Bởi với nó đây là người quan trọng nhất trên đời.

-Đúng vậy, vị kỳ nhân này cũng đã ngồi vào ghế thứ bảy, được gọi là thất đương gia của Đại Minh Triều rồi.

Bọn họ lặng người trầm ngâm, lát sau đại hán họ Trương chắt lưỡi:

-Không rõ hội chủ là ai, lại có thể tụ tập hào kiệt một phương dưới cờ như vậy?

- Người này tôi cũng biết một chút – Trung niên họ Hoành đắc ý nói tiếp.

- Hoành huynh, mong huynh giải đáp cho. Lát nữa nhất định bọn tôi mời huynh một chén! - Trang Kình hiếu kỳ thốt lên.

- Ha ha, được được tôi nhớ lời này của Trang huynh – Hoành Lập cười lớn, thoáng dừng như sắp xếp lại suy nghĩ rồi nói tiếp - Nói đến càng kỳ lạ, người này là nữ nhân, hơn nữa là một ni cô, người ta hay gọi là Cửu Nạn sư thái. Bà ta chính là Tổng đà chủ, tức người đứng đầu Đại Minh Triều đó.

- Một ni cô ư?

Trương Thiết trợn mắt ngạc nhiên.

-Sao tôi chưa bao giờ nghe cái tên này nhỉ?

- Người ta là người xuất gia tu hành, quanh năm tụng kinh gõ mõ trong am thờ, Trương huynh biết mới lạ đó.

Trang Kình cười giễu.

- Hẳn bản lãnh bà ta phải kinh khiếp quỷ thần lắm, mới khiến đám cao thủ nhất phương như Tần Thiên Nhân quy phục.

Họ Trương chưa hết kinh ngạc hít hà.

-Bản lãnh vị sư thái ấy tôi không rõ đến đâu. Nhưng Trương huynh nghĩ mà xem, nếu bà ta có thân phận công chúa tiền triều, chẳng phải sức hiệu triệu gấp mấy lần Tần Thiên Nhân rồi ư? – Trung niên họ Hoành tung ra tin tức kinh người.

Quả nhiên Trương Thiết và Trang Kình chấn động. Hồi lâu, họ Trương thở dài cảm khái:

-Quả nhiên những người trong Đại Minh Triều đều là bậc hào kiệt hiếm có, đáng để Trương mỗ này ngưỡng mộ.

Cả bọn gật đầu xưng phải.

Nghe lén nãy giờ, thẳng bé mũi càng nở hết cỡ, hiển nhiên tự xếp bản thân vào số hào kiệt đó rồi.

Bất chợt có kẻ lên tiếng đề tỉnh:

- Ba vị huynh đệ, ngoài cửa thành dán đầy cáo thị truy nã người Đại Minh Triều kia kìa. Còn chưa kịp ngưỡng mộ không khéo đã đầu một nơi thân một nẻo.

Đại hán đang nhíu mày trầm ngâm nghe vậy trợn mắt tức giận quát:

- Hắc Đao Trương Thiết này tự thẹn bất tài. Tuy chẳng có đảm lược đứng lên rửa nỗi nhục phải mang đuôi sam này sau đầu, nhưng nói vài lời thật lòng Trương mỗ đâu có sợ!


Tức thì kẻ đó lắc đầu bỏ đi, đám người xung quanh sợ tai bay vạ gió cũng tản dần.

Họ Trang e ngại nhìn quanh, kéo tay Trương Thiết và Hoành Lập nói:

- Thôi không nói chuyện dễ mất đầu này nữa. Chúng ta đi uống rượu thôi, tôi mời hai vị!

Thằng bé nhìn theo ba người, không khỏi nghĩ thầm: "Vị Trương thúc này cũng là người đáng mến, đang lúc khát nhân tài. Nếu mình dẫn tiến vào Hội có khi được sư phụ khen ngợi không chừng. Còn người kia chắc hẳn chưa đến ngay đâu."

Nghĩ là làm, nó vừa dợm bước bỗng nghe đâu có tiếng nói rất nhỏ như tiếng muỗi kêu vo ve:

- Địa chấn cao cương thiên cổ tại.

Công phu Tụ Lý Truyền Âm này chẳng phải điều lạ với nó, nên thằng bé giật nảy mình. Song bề ngoài nó tỉnh bơ, khịt mũi làm bộ ngó lơ vài vòng. Quanh đấy lác đác vài người, khả nghi nhất là một thanh niên sau lưng nó, đầu đội nón tơi sùm sụp không rõ bao tuổi, mặc chiếc áo dài màu xanh lá cây và chiếc quần đen, tay dắt theo con ngựa trắng. Nó ngờ ngợ đi lướt qua, hạ giọng nói khe khẽ qua kẽ răng:

- Tam hợp hà thủy vạn niên lưu.

Các câu ám hiệu nó biết có rất nhiều loại, nhưng câu nói được phổ biến rộng rãi nhất là hai câu trên. Khi người trong hội cần gặp nhau, một người sẽ đọc nửa vế đầu “địa chấn cao cương thiên cổ tại.” Người kia sẽ đọc vế còn lại “tam hợp hà thủy vạn niên lưu.” Chỉ thấy người thanh niên kia kín đáo làm một thủ thế đã qui ước trước, thằng bé liền đi thẳng một mạch ra khỏi chợ.

Lòng vòng suốt một khắc, tới một con lộ đất chạy dài dẫn tới một rừng tre xanh nằm phía xa xa, xung quanh không một bóng người, thằng bé đứng lại đợi người thanh niên tới gần. Lúc này nó mới nhìn kỹ hơn, dù không rõ dung mạo nhưng còn khá trẻ chỉ ngoài hai mươi là cùng. Y mỉm cười chào:

-Anh bạn nhỏ, làm phiền đệ rồi!

- Huynh là người đưa thư? – Đáp lại thằng bé nghiêm mặt hỏi.

-Đúng vậy, thư đến từ Hắc Viện.

Mắt nó sáng rỡ, hô lên:

-Phải chăng người nhận là một cô gái?

- Đúng vậy, sao đệ đoán hay thế? – Người thanh niên tấm tắc khen.

Thằng bé cười toét miệng, song nó bĩu môi đáp:

-Thư tín từ Hắc Viện tới đây, trước nay chỉ gửi cho người đó thôi. Có gì giỏi chứ! Để Hiểu Lạc dẫn huynh đi!

- Hóa ra đệ chính là Hiểu Lạc mà Cửu Dương tiên sinh hay nhắc đến. Nhạc Tam Nguyên ngưỡng mộ đã lâu!

Chẳng người lớn nào đi nói ngưỡng mộ một thằng nhóc mười một tuổi cả, nhưng có thể thấy người thanh niên này rất giỏi pha trò làm vui lòng người khác. Thằng bé Hiểu Lạc cười tít mắt, nhất là khi nghe được điều mong ước bấy lâu: “Hóa ra sư phụ hay nhắc tới mình,” liền thấy họ Nhạc này thân thiết hơn vài phần. Hai người cất bước hướng về rừng tre xanh mướt phía xa.

Vừa đi vừa trò chuyện, thoáng chốc cả hai như thân quen đã lâu. Bỗng người thanh niên nghiêm nét mặt:

-Thực ra huynh đã đứng ở đám mãi võ một lúc. Không định gặp đệ ở chốn đông người đó đâu nhưng vẫn phải lên tiếng. Đệ biết vì sao không?

Vốn thông minh hơn người, thằng bé thoáng suy nghĩ rồi đáp:

-Chẳng lẽ huynh biết đệ định đi theo người tên Trương Thiết kia?

- Đúng vậy. Đệ nên biết chúng ta đang bị triều đình Mãn Thanh truy nã gắt gao, có rất nhiều thám tử triều đình giả trang làm khách giang hồ lưu lạc trong dân gian. Để lần ra chúng ta, chúng sử dụng đủ mọi âm mưu quỷ kế, thậm chí khổ nhục kế nhằm tìm cơ hội trà trộn vào Hội. Đệ có thấy kẻ nào ngu ngốc đến mức công khai đứng giữa chốn đông người, nói lời ủng hộ chúng ta như vậy không? Đệ có nghĩ tới sinh mạng của các huynh đệ tỷ muội trong Hội, thậm chí sự nghiệp to lớn khôi phục Thiên triều sẽ thế nào nếu có kẻ gian lọt vào không?

Mấy lời chất vấn nghiêm khắc của người nọ như thùng nước đá dội lên Hiểu Lạc, khiến nó giật mình, lạnh buốt toàn thân. Ngẫm kỹ lại nó thấy mình đúng là khinh suất tự mãn, quá kích động trước mấy lời nhiệt huyết của họ Trương rồi. Thằng bé ủ rũ nói như mếu:

-Hiểu Lạc biết lỗi rồi.

Thấy trách mắng đã đủ, họ Nhạc siết nhẹ vai thằng bé an ủi:

-Cũng không trách được đệ. Dù ta biết đệ rất thông minh, Cửu Dương tiên sinh khen đệ nhiều. Nhưng có một số việc, ở tuổi đệ khó lòng suy xét được, từ nay đệ phải thực sự cẩn trọng trong hành động!

Như suy ngẫm điều gì, y thở dài nói tiếp:

- Cũng có thể huynh quá đa nghi. Nhưng đệ hiểu không, đã đi lên con đường này, chỉ một sai lầm nhỏ tất cả chúng ta sẽ rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục.

- Đệ hiểu. Đệ nhất định không tái phạm đâu!

Hiểu Lạc gật mạnh đầu, chợt nhỏ giọng năn nỉ:

- Huynh đừng nói chuyện này với sư phụ nhé!

- Được, huynh sẽ không nói.

Họ Nhạc mỉm cười đáp.

Là đứa khôn ngoan trước tuổi, Hiểu Lạc không hề giận dỗi hay tủi thân vì bị trách mắng như đám trẻ cùng lứa. Nó chỉ thấy vị đại ca này bản lĩnh suy xét rất lợi hại, không hổ là người đến từ Hắc Viện, được sư phụ nó tin tưởng nhờ cậy.

"Người sư phụ nhìn trúng nào phải tầm thường" - Nó đắc ý thầm nhủ.

Đi chừng một khắc nữa, hai người dừng chân trước một hàng rào dây leo bao bọc một gian nhà tranh, nằm giữa khu rừng tre hoang sơ. Đừng nhìn rừng tre xanh rì nom rất yên bình này mà lầm, nơi này có rất nhiều rắn độc đấy, một ít vốn ở đây từ trước, phần còn lại chúng được thả vào, nên từ lâu nơi đây đã không có ai dám vào rừng bẻ măng. Nghe đồn có loại rắn tới hai ba đầu, sống từng bầy từng đàn nhiều như cỏ dại, với nọc độc cực mạnh cắn một phát là cả con bò trưởng thành chết ngay tấp lự. Thế nên ngoại trừ những người trong hội đã được uống thuốc giải bách độc mới dám bước vào, những người khác không ai biết trong rừng có một căn nhà.

Trẻ con thoắt vui thoắt buồn, thằng bé mở cổng hàng rào, nhảy chân sáo đi trước, chưa tới cửa nhà nó đã la lớn:

- Sư mẫu, sư mẫu, có khách đến!

- Hứ! Ai thèm làm sư mẫu của đệ!

Có tiếng hứ dài, giọng nói tuy đang giận lẫy mà trong trẻo như tiếng ngọc chạm vào nhau, vang lên từ bên trong căn nhà tranh:

-Đã nói với đệ bao lần rồi mà cũng không chịu sửa lại dùm cho tỷ một cái, đừng gọi vậy nữa được không?

Tiếng vừa dứt, người lập tức xuất hiện. Thiếu nữ mặc bộ đồ màu hồng phấn, gương mặt khả ái như một đóa hoa hải đường, song đôi mắt có phần u buồn. Thân hình nàng rất đẹp, ngực nở eo thon hết sức cân đối, xứng đáng gọi là tuyệt sắc giai nhân. Tay bưng niêu thuốc còn đang nghi ngút khói, mùi thuốc bắc đăng đắng lan tỏa khắp gian nhà tranh.

Ngôi nhà này được dựng theo hình một cây nấm rơm, có đường kính năm trượng, cao hai trượng, chia làm hai gian, được ghép lại từ hai ngàn thân tre. Trong nhà ngoại trừ cô gái thì vắng tanh vắng ngắt, đồ vật trang trí cũng rất sơ sài. Gian trước là chổ để chẩn mạch và chứa thuốc. Xung quanh ba mặt vách đóng nhiều kệ bằng tre, trên đặt các hủ chứa các loại thảo dược đã được phơi khô. Giữa nhà có một cái bàn và năm cái ghế gỗ cũng được đóng bằng tre nốt. Gian trong có hai cái giường ngủ, phía sân sau nhà còn có một cái bếp nhỏ nữa để nấu ăn và mấy cái sào để phơi áo quần.

Thằng bé che miệng làm bộ lở lời, giơ tay gãi gãi đầu, cười hì hì nói:

- Xin lỗi sư mẫu… à quên sư tỷ, Hiểu Lạc gấp quá nên quên mất.

Cô gái nhìn thoáng ra cửa hỏi:

- Đệ đưa ai đến vậy?

Hiểu Lạc chưa kịp trả lời, họ Nhạc đã bước vô nhà, y tháo hẳn chiếc nón xuống, để lộ gương mặt nho nhã như một văn sĩ. Trong giây lát có phần ngây ngất trước sắc đẹp của nàng, nhưng rất nhanh y chỉnh lại sắc mặt, nghiêm túc chắp tay chào:

- Tại hạ Nhạc Tam Nguyên, xin có lễ cô nương!

- Nhạc huynh khách khí rồi – Cô gái mỉm cười đáp lễ, hỏi lại - Không biết huynh từ đâu tới?

- Từ An Huy, Hàng Châu.

Bình thường thư tín vẫn được gửi từ Hàng Châu bằng đường bồ câu tới nội thành, rồi có người mang tới đây. Bữa nay người đưa thư lại trực tiếp chạy tới, đủ thấy có sự bất thường rồi. Cô gái lộ vẻ khẩn trương:

- Hẳn là chuyện rất quan trọng?

- Đúng vậy, chuyện này liên quan trực tiếp tới cô nương. Thất đương gia gởi thư này cho cô.

Cô gái nghe vậy bất giác cau đôi mày liễu, trống ngực đập thình thịch. Nàng lo lắng hồi hộp đến nỗi quên luôn phép lịch sự mời khách ngồi nghỉ chân uống trà, lòng thầm suy đoán. Đưa luôn niêu thuốc cho Hiểu Lạc bảo nó cầm giúp, nàng hấp tấp mở thư ra đọc.

Chỉ thấy trên tờ giấy Tuyên Thành, viết nắn nót bốn chữ “Gả cho huynh nha,” bên dưới có vẽ đôi hồ điệp quấn quýt trông rất sinh động đẹp mắt.

Đôi mắt đen láy nhất thời trợn tròn, hàng mi cong chớp chớp liền mấy lượt. Cô gái như không tin vào mắt mình, môi hồng hé ra lắp bắp:

- Thế này, thế này...là...là...

Trước khi mở thư nàng đã chuẩn bị tâm lý đối mặt với chuyện xấu nhất rồi. Nhưng không bao giờ nghĩ tới có màn trêu chọc này.

Nhìn đôi hồ điệp quấn lấy nhau không rời, mặt ngọc phủ lên ráng hồng, càng lúc càng đậm. Nhưng chỉ giây lát, cảm giác xấu hổ liền nhường chỗ cho một nỗi bực dọc. Nàng tức giận thầm nhủ: "Đây mà cũng là thư quan trọng sao? Thực uổng công mình lo lắng vô ích."

Đã vậy phải nhờ một vị tú tài ngựa không dừng vó ngàn dặm đến trao cho nàng. Mà tới từ An Huy Hàng Châu thì đích thị là người trong học đường Hắc Viện rồi. Những tú tài nơi này làm văn đệ thơ đều xuất chúng, nổi tiếng cả vùng sông nước miền Nam.

Thiếu nữ hoa dung sa sầm, gương mặt xinh xắn như trăng rằm vụt hóa trăng úa, nàng liền vo tròn tờ “đệ thư cầu thân” đó ném luôn xuống đất.

Hai gã trai một lớn một nhỏ chứng kiến sắc mặt giai nhân thoắt hồng thoắt tối, trong giây lát cảm xúc đã biến ảo mấy lần liền, đã tò mò lắm rồi. Giờ lại thấy nàng ta quăng bức thư quan trọng ấy đi thì ngạc nhiên há hốc miệng.

Khéo thay, lá thư vo tròn lăn đến chân hai người. Nhạc Tam Nguyên vì phép lịch sự phải cố nén, thằng bé Hiểu Lạc đâu nghĩ nhiều như vậy. Nó chỉ biết sắp có trò hay, liền cúi xuống đặt niêu thuốc sang bên, tay nhặt tờ giấy lên phủi phủi bụi mở ra xem.

- Không được coi! Trả cho tỷ!

Cô gái muốn giành lại mà không kịp, chỉ biết dậm chân giận dỗi. Nhạc Tam Nguyên không dằn nổi hiếu kỳ, cũng nhón chân liếc mắt đọc ké. Bốn chữ rơi vào mắt, y liền lắc đầu cười khổ:

- Đúng là chỉ có thất đương gia, đến nước này mà còn giỡn chơi được.

Nhưng Hiểu Lạc không biết lịch sự như thế, nó cười gập cả bụng, thậm chí ngã lăn ra đất, cứ khanh khách hoài.

Cô gái vì quá ngượng, không làm gì được thằng nhóc nên mím môi, trút giận vào kẻ đưa thư:

- Nhạc huynh, huynh cũng rảnh rỗi quá ha, vâng lời huynh ấy quá ha, lại phi ngựa đến tận đây giúp người ta trêu chọc tôi?

- Ấy, Tam Nguyên đâu dám, đó là lời dặn của thất đương gia đấy. Tam Nguyên chỉ có nhiệm vụ làm theo thôi, thực sự không biết nội dung thư lại như vậy.

Họ Nhạc cuống quít phân trần, lại lấy ra một phong thư.

- Huynh ấy dặn đi dặn lại phải đưa lần lượt. Đây là cái thứ hai, mong cô nương nhận lấy cho.

Nàng áo hồng chần chừ chưa chịu cầm lấy phong thư, nghi ngại săm soi cái phong bì màu vàng nhạt, như thể trong đó có con quái thú chỉ chực bay ra hù nàng chết khiếp. Hồi lâu nàng mới nhận thư xé ra đọc.

Lần này là mấy dòng ngắn gọn: “Chuyến đi lần này thập phần nguy hiểm, có nguy cơ thất thủ rất cao. Cho nên đọc được thư này hãy mau chóng rời khỏi Sơn Đông, để cho an toàn, tốt nhất là đến Hồi Cương, đừng đi Hàng Châu …”

- Tỷ à – Thằng bé Hiểu Lạc đã mon men tới sau nàng từ khi nào, đọc ké tới đoạn này lo lắng hỏi - Lần này chuyện lớn rồi đó. Tính sao đây tỷ?


- Tỷ không biết.

Nhìn kỹ lại lần nữa, nàng lật thư thấy phía sau có vẽ nguệch ngoạc bằng tay một tấm địa đồ liền đưa cho Nhạc Tam Nguyên:

- Đây là địa đồ gì vậy, Nhạc huynh biết chăng?

Y đón lấy đọc lướt qua, nghiên cứu kỹ tấm địa đồ, đoạn nói:

- Đây hẳn là địa đồ Cửu Dương tiên sinh vẽ ra khi suy tính kế hoạch, liên quan đến một việc kinh tâm động phách.

- Là việc gì mà huynh ấy vội đến mức không kịp lấy tờ giấy khác, viết thư lên đó luôn chứ?

Cô gái thấp thỏm hỏi.

- Việc này rất bí mật, chỉ giới hạn trong mấy vị đương gia được biết. Nhưng có lần Tam Nguyên được thất gia tin tưởng, đem ra thảo luận cùng nên tôi có biết một hai. Nghe nói họ lên kế hoạch định hành thích Khang Hy tiểu hoàng đế.

-A!

Hai tỷ đệ cùng thốt lên kinh hãi. Trong đầu thằng bé Hiểu Lạc chợt văng vẳng câu hát:

"Gió hiu hiu hề, nước sông Dịch lạnh ghê

Tráng sĩ một đi không trở về."

Trước mắt nó như mường tượng ra hình ảnh đầy nhiệt huyết năm xưa tráng sĩ Kinh Kha đi ám sát vua Tần. Hình ảnh ấy nhòe dần nhòe dần, rồi biến ảo thành bóng hình hiên ngang của sư phụ nó cùng mấy vị đương gia. Chỉ nghĩ tới cảnh mấy con người đơn bạc vượt trùng vây thiên quân vạn mã để thích sát hoàng đế, máu trong người nó như sôi lên vì kích động. Song lại sợ hãi thắt ruột, dường như lần cuối nó gặp sư phụ đã lâu lắm rồi...

Còn cô gái là lo cho an nguy của tất cả mọi người, hoa dung thất sắc cùng dáng vóc yêu kiều khiến họ Nhạc không khỏi sững sờ. Thực ra nàng chỉ thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên đó thôi, thường ngày trước thằng bé Hiểu Lạc thế nào thì bây giờ trước Nhạc Tam Nguyên vẫn vậy. Song nàng đâu biết, một trang giai nhân tuyệt sắc như nàng mọi cử chỉ đều lộ vẻ quyến rũ chết người, nhất là với nam nhân trưởng thành.

Họ Nhạc thừa nhận đây là người con gái đẹp nhất y từng gặp song lập tức tự đề tỉnh bản thân, trong lòng xấu hổ thầm hô: "Nhạc Tam Nguyên hỡi Nhạc Tam Nguyên, mi sao lại luống cuống như vậy chứ?" Bởi y biết rõ vị trí của cô gái này trong tim Cửu Dương tiên sinh quan trọng đến mức nào, mà y, lại là người vô cùng kính trọng tiên sinh.

Hít một hơi thật sâu lấy lại trấn tĩnh, Nhạc Tam Nguyên trải bức thư ra bàn. Hai chị em xúm lại, nhìn theo ngón tay y khoanh một vòng tròn trên địa đồ, vừa khoanh vừa giảng giải:

- Mời cô nương xem qua. Nhìn vào địa hình đây hẳn là Quan Âm Tự ở Sơn Tây. Nơi này khá nổi tiếng, giới văn nhân như tại hạ rất thích đến chỗ này ngắm cảnh vịnh thơ. Đó là một ngôi chùa được xây ở lưng chừng triền núi, cạnh bên chùa có một khu rừng. Nếu có phục binh, ắt sẽ ẩn nấp trong khu rừng thông sát ngôi chùa này. Muốn tới Chính điện để bái lễ chỉ có duy nhất con đường mòn này, nên binh lính canh gác càng nghiêm ngặt. Cho nên họ dự định chọn vực thẳm cao nhất, dùng lăng ba vi bộ thi triển khinh công vượt qua…

Chỉ chưa đầy một khắc mà cô gái trải qua một lượt đến mấy loại cảm xúc khác nhau, nào là hồi hộp, mắc cỡ, tức giận, sợ sệt, rồi giờ lại đến phiên lo âu, nàng run giọng hỏi:

- Lần đi này, ngoài mấy vị đương gia còn có những ai?

Nhạc Tam Nguyên trầm giọng đáp:

- Theo lời Cửu Dương tiên sinh, Cửu Nạn sư thái vì muốn chắc chắn hoàn thành nhiệm vụ nên đích thân lâm trận…

- A, nguy hiểm vậy sao sư thái cũng đi!

Hiểu Lạc la lên:

- Lỡ có... thì Hội chúng ta phải làm sao?

Từ câu chuyện nghe được ở chợ hôm nay, thằng bé đã hiểu Cửu Nạn sư thái quan trọng với Đại Minh Triều nhường nào. Thân phận của bà có sức mạnh hơn bất cứ thứ võ công vô địch nào.

Thực ra, họ Hoành nọ đoán chẳng sai. Cửu Nạn sư thái cũng chính là Trường Bình công chúa của tiền triều Đại Minh - triều đại cuối cùng của người Hán trước khi bị thôn tính bởi nhà Thanh tộc Mãn Châu. Năm xưa, bà là vị công chúa vô cùng đặc biệt. Do ghét cuộc sống tù túng trong lầu vàng điện ngọc, Trường Bình công chúa trốn đi lưu lạc giang hồ, để tiện hành tẩu bèn lấy biệt danh là A Cửu.

Khi nước nhà lâm nguy, như bao trang nam nhi, bà cũng rút kiếm xung trận. Rốt cuộc sức người chẳng chống nổi mệnh trời. Nước mất nhà tan, lại bị mất một cánh tay trong một trận huyết chiến kịch liệt, A Cửu xuất gia đầu phật, lấy pháp danh là Cửu Nạn. Điều đó lý giải vì sao hiện nay ít người trên giang hồ biết đến cái tên Cửu Nạn sư thái.

Nhạc Tam Nguyên nhìn Hiểu Lạc tán thưởng rồi đáp:

- Hai người an tâm. Với võ công của sư thái cùng bảy vị đương gia, dù không thành công song rút lui vẫn thừa sức.

Cô gái nhíu mày suy nghĩ, nhẹ gật đầu. Nhạc Tam Nguyên nói chẳng sai, bảy vị đương gia này nàng có lòng tin tuyệt đối.

Thật ra vị thất đương gia Cửu Dương này, người được giang hồ xưng tụng Gia Cát Lượng tái thế chính là sư phụ của thằng bé Hiểu Lạc. Ngoài ra y còn một thân phận khác là viện trưởng của Hắc Viện, một học đường nổi tiếng vùng Giang Nam. Một điều nữa giang hồ càng ít biết, y và Tần Thiên Nhân cùng chung một huyết thống, tên thật của y là Tần Thiên Văn.

Chiều dần buông, vầng thái dương chênh chếch gác về ngọn núi phía Tây, đã mất đi vẻ chói rực ban ngày.

Sau một hồi suy tính, cô gái áo hồng quyết định trở về An Huy Hàng Châu thay vì đi Hồi Cương theo lời khuyên trong thư. Nàng cùng với Hiểu Lạc và Nhạc Tam Nguyên, ba người ba ngựa lập tức lên đường.Vì quá gấp rút nên cô gái và Hiểu Lạc không thu dọn được hành lý nhiều. Chỉ đem theo vài ba bộ áo quần, mấy lọ thuốc trị thương và lương khô. Tất cả xếp vào một tấm vải hình vuông rồi cuộn lại, cột thành cái nút đeo lên lưng là được. Riêng cô gái không quên mang theo một bộ kim châm được đúc từ vàng ròng, là di vật sư phụ nàng để lại. Có khách giang hồ kể rằng, sư phụ nàng từng dùng chúng cứu sống được cả người vừa tắt thở. Thực hư thế nào không rõ, song với nàng đó là vật bất ly thân.

Cũng vì lo xa nên ba người chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi, chưa được bao xa thì trời đã nhá nhem tối. Ở vùng hoang dã này ngay cả một hộ nông gia cũng không sao tìm thấy, huống chi quán trọ. Nhưng ba người từ nhỏ đã quen sống cảnh thanh bần nên không kén cá chọn canh gì, liền tìm một tảng đá lớn để ngả lưng là xong.

Màn đêm buông xuống, bóng tối mờ nhạt dần dần bao trùm khắp nơi. Những ngôi sao một khắc trước còn mờ ảo, giờ cũng đã rõ dần. Chẳng bao lâu mặt trăng đã bắt đầu ló dạng, to tròn như chiếc mâm bạc trong vắt, lơ lửng trên bầu trời thăm thẳm. Ánh trăng bàng bạc nhuộm khắp cây cối, núi đồi. Tứ bề cảnh vật im lặng, gió nhè nhẹ lay động tán cây như nâng niu vẻ đẹp ánh trăng đêm nay.

Nhưng cô gái chẳng có tâm trạng nào mà thưởng thức, nàng chỉ đứng bần thần dõi mắt về phương trời xa xăm, lòng dạ rối bời lo lắng.

Nhạc Tam Nguyên đã cho ngựa đi ăn cỏ. Hiểu Lạc sục sạo quanh đó một lúc, hái về mấy trái táo rừng rồi đi cắt một ít cỏ. Sau khi quét dọn sạch sẽ nó liền phủ xuống đất làm chỗ nằm nghỉ.

- Tỷ à, đệ làm được cái giường cỏ rồi đấy. Tỷ có mệt thì ngả lưng nghỉ ngơi, ngủ một giấc lại sức rồi đi tiếp.

Nó vừa nói vừa kéo tay nàng ngồi xuống “cái giường."

Song cô gái lắc đầu đáp:

- Tỷ không muốn ở đây mất thời gian, hay là chúng ta tiếp tục đi?

Vừa lúc Nhạc Tam Nguyên dẫn ngựa trở về, nghe được liền lắc đầu:

- Trời tối như vầy họa chăng có thánh mới thấy đường mà đi. Đành chịu thôi, chờ đến sáng hẳn chúng ta tiếp tục khởi hành.

Nói đoạn, Nhạc Tam Nguyên lấy bình nước và gói giấy dầu bọc mấy chiếc bánh bao trong túi hành lý treo trên lưng ngựa, rồi đến ngồi xuống cạnh đệm cỏ, mở bọc giấy trải trên tảng đá.

-Hai tỷ đệ ăn tạm cho đỡ đói nhé!

-Cảm ơn Nhạc huynh, tôi không đói! – Cô gái tựa lưng vào tảng đá lắc đầu, giọng buồn buồn.

Hiểu Lạc tưởng nàng không muốn ăn bánh, bèn cầm mấy quả táo đưa nàng. Cô gái tiếp tục lắc đầu.

Nhạc Tam Nguyên và Hiểu Lạc đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn lại dung nhan u sầu ảm đạm trước mặt họ, không biết mở lời an ủi thế nào.

Nhạc Tam Nguyên đương nhiên biết nàng đang lo cho sư thái và mấy vị đương gia, bây giờ trước mặt dẫu có sơn hào hải vị cũng không nuốt trôi được. Thực ra y chẳng khác chi, trong lòng cũng như nàng thôi, lo âu lắm, nuốt miếng bánh mà thấy nghèn nghẹn, bèn đẩy cả sang cho Hiểu Lạc.

Nhạc Tam Nguyên lại nhìn cô gái, mấy lần định lên tiếng mà không biết nói gì bây giờ? Lời trấn an thì lúc ban sáng đã có nói với nàng rồi, đành bất lực quay qua Hiểu Lạc cười khổ, giấu tiếng thở dài.

Có người nói nếu trong lòng trùng trùng tâm sự thì dù trời quang mây tạnh, nắng vàng rực rỡ cũng thấy u ám khôn nguôi. Ngược lại, tâm thái quang đãng thì dù đang mưa rào rào vẫn thấy bầu trời sáng sủa vô cùng. Thực đúng là "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ."

Cứ như thằng bé Hiểu Lạc, dẫu sao vẫn chỉ là đứa trẻ mười tuổi. Mà trẻ con thì bản tính vô tư vô lo, buồn đấy nhưng thoáng cái bay mất tiêu. Đi đường suốt mấy canh giờ nó sớm mệt mỏi lắm rồi, liền ngồi xếp bằng trên cỏ hết nhai bánh ngồm ngoàm đến cắn táo sần sật, rồi uống nước ừng ực một cách ngon lành.

Chỉ nhoáng cái đã xử lý hết mấy phần bánh bao, Hiểu Lạc xoa xoa cái bụng căng tròn, ngáp một cái thật dài, vô tư buông mình nằm xuống đệm cỏ êm ái. Nó ngẩng đầu lên nhìn Nhạc Tam Nguyên, cười hỏi:

- Nhạc sư huynh à, người ta nói buồn ngủ mà gặp chiếu manh nghĩa là như vầy đó hả?

Nhạc Tam Nguyên bật cười gật đầu, đưa tay xoa đầu Hiểu Lạc. Thằng bé khoái chí cười khanh khách rồi lim dim nhắm mắt, thoáng cái đã chìm vào giấc ngủ thật ngon.

-Hay là cô nương cũng nằm xuống đi, nhắm mắt lại vỗ giấc ngủ một tý?

Cũng như ban nãy, lời đề nghị của Nhạc Tam Nguyên chỉ nhận được cái lắc đầu.

Một cơn gió ùa qua thổi tung tà áo, từng lọn tóc mây đen huyền óng ả mượt mà bay lòa xòa qua vai nàng. Ngồi giữa rừng cây gió lộng, dưới suối trăng bàng bạc trông nàng sáng bừng lên, diễm lệ thánh khiết như tiên nữ giáng trần. Y thoáng sững sờ, bất giác lẩm nhẩm đôi câu:

Bóng trăng nhạt nhòa, xiêm y phấp phới

Mỹ nhân như ngọc, lạc hạ nhân gian.

Cô gái dường như không nghe thấy, lấy một chiếc vòng cỏ cất trong tay áo ra, đeo vô cổ tay trắng ngà, mịn màng không tì vết của nàng. Lúc trước Nhạc Tam Nguyên từng có một khoảng thời gian du ngoạn qua tây bắc, nên biết theo phong tục vùng Hồi cương đeo vòng cỏ là tượng trưng cho sự cầu may.

Trời càng khuya, sương trắng mờ mặt đất.

Dầu có lạnh nhưng Nhạc Tam Nguyên không dám đốt lửa để sưởi ấm cho ba người họ, ánh lửa trong đêm tối rất dễ gây chú ý. Nhất là giữa nơi hoang vu hẻo lánh thế này, binh lính công sai thì chưa chắc song giặc cướp lại rất nhiều. Ngộ nhỡ có kẻ bất lương tìm đến, xui nhất là cả một đám thì phiền phức to. Không dưng có ba người, một nam một nữ một trẻ con lang thang giữa rừng sâu hoang vu vào đêm hôm khuya khoắt thế này. Của cải nhiều ít chưa cần biết, nhưng cô gái sắc nước hương trời thế kia kẻ bất lương nào cầm lòng cho đặng. Họ Nhạc y dẫu dũng mãnh đến mấy cũng rơi vào cảnh "mãnh hổ nan địch quần hồ" mà thôi. Cứ cẩn tắc vô áy náy cho chắc.

Nhạc Tam Nguyên ngần ngừ mãi đành cởi áo khoác đang mặc trên người xuống đưa cô gái, không khỏi phân trần:

- Tam Nguyên tôi không có ý gì đâu, nhưng chúng ta ngộ biến tòng quyền. Cô nương thông cảm cho.

Là người thông minh, nàng gật đầu tỏ ý đã hiểu, liền cầm lấy nhưng không mặc vào mà đắp lên mình Hiểu Lạc. Thằng nhóc ngủ ngáy o o không biết trời trăng mây nước gì hết.

Cô gái áo hồng dường như định trắng đêm không ngủ, ngồi bó gối thẫn thờ. Không rõ nàng đang hồi tưởng chuyện gì mà kiềm lòng không được, lệ bỗng tuôn không ngớt trên gương mặt khả ái. Nhạc Tam Nguyên chỉ biết liên tục đưa tay ngắt mấy cọng cỏ mọc xung quanh tảng đá, bối rối theo từng tiếng rưng rức của nàng, thầm ảo não: "Nhạc Tam Nguyên ta thường ngày tuy không phải là một chuyên gia văn chương thư pháp hay tuyệt như Cửu Dương tiên sinh, nhưng dầu gì cũng là tú tài, cũng biết đệ mấy câu thơ chọc ghẹo các cô gái giặt giũ bên bờ Tây hồ trơn tru tự nhiên lắm chứ, đâu có phải tay chân thừa thãi chẳng biết làm gì như lúc này? "

Bởi vậy mới hay, cười cười nói nói thốt lời trêu chọc mấy nàng liễu yếu đào tơ thì dễ, chứ nói mấy lời đàng hoàng, an ủi lúc người ta sầu khổ rơi nước mắt mới thực sự khó. Hữu hiệu nhất lúc này là một bờ vai giúp mỹ nhân tựa vào, nhưng Nhạc Tam Nguyên y dám hay sao?

Nguyên đêm Nhạc Tam Nguyên cũng thức trắng như cô gái áo hồng. Một mặt y lo có thú rừng tấn công bất chợt, mặt khác y không nỡ... để một cô gái ngồi đó cô đơn khóc thút thít một mình. Vả lại, y hết lo lắng cho an nguy của Cửu Nạn sư thái và bảy người đương gia, lại trăn trở cho vận mệnh hội Đại Minh Triều sau này.

Cứ thế cho đến tờ mờ sáng, cô gái đánh thức Hiểu Lạc dậy, kêu nó chuẩn bị lên đường. Thằng bé ngơ ngác, đưa tay lên dụi dụi mắt, con nhắm con mở như mắt bồ câu con bay con đậu. Rồi nó ngó thấy mắt nàng đỏ quạch, sưng húp như hai quả nhót, ái ngại hỏi han:

- Cả đêm tỷ không ngủ được á?

Nàng lắc đầu. Nó chẹp chẹp miệng, khoát tay nói:

- Sư phụ có võ công cao cường lắm, nhất định sẽ không sao đâu, tỷ đừng lo.

Nàng thoáng ửng hồng gò má, nguýt nó:

- Hứ, linh tinh! Ai nói với đệ tỷ khóc huynh ấy?

Dứt lời nàng mặc xác thằng nhóc, leo lên yên ngựa giật cương phi đi trước. Nhạc Tam Nguyên tức tốc giục ngựa chạy theo nàng. Họ hướng tới trường học Hắc Viện ở An Huy.

Hiểu Lạc sau cái vò đầu, cũng nhảy tót lên ngựa đuổi theo hai người, còn hô với theo:

- Chứ còn ai vào đây nữa hả tỷ?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 2: Độc Kinh Phủ (1)


Trở lại Quan Âm Tự, nơi Cửu Nạn sư thái và bảy đương gia Đại Minh Hội bất ngờ tập kích vua tôi Khang Hi.

Bấy giờ sư thái hét lên một tiếng thật to trợ oai, quét ngang phất trần hướng tới Sách Ngạch Đồ. Bất quá Sách thị lang đã sớm đề phòng, trước thế công nặng tựa núi bèn thối lui về phía sau. Cửu Nạn sư thái thuận thế quay người vài vòng, bất thần buông tay, quăng phất trần thẳng vào nhóm người Khang Hi.

Phất trần xoay tròn lao đi, xé gió vù vù tựa cơn gió lốc. Song Sách Ngạch Đồ cũng cực nhanh lao tới, kiếm lập tức rời vỏ, nhằm chuẩn túm lông đuôi phất trần mà chém một nhát.

Bùng!

Một âm thanh trầm đục vang lên. Cây phất trần được quán chú đầy nội lực của sư thái va chạm với trường kiếm của họ Sách nổ tung thành đám tơ vụn, bay mù mịt.

Đương lúc khí huyết Sách Ngạch Đồ còn chưa hết nhộn nhạo, Cửu Nạn sư thái thét lên tiếng nữa, tung mình bay lên cao xuất chiêu Càn khôn tập trảo, năm ngón tay như móc câu chộp vào cổ họ Sách. Sách Ngạch Đồ cũng chẳng phải tay mơ, vận công cố nén khí huyết đang sôi trào, tả thủ nắm thành quyền đánh trả.

Binh! Binh!...

Hai bóng người đan xen qua lại, chớp mắt đã trao đổi mười mấy chiêu.

Trong lúc đó, bảy người đương gia cũng dợm bước tới, định vây Khang Hi và thái hoàng thái hậu Hiếu Trang vào giữa. Song họ còn chưa kịp hành động, đột nhiên từ trên cao một đám thị vệ đu dây đáp xuống che chắn cho Tiểu hoàng đế. Đồng thời một bọn khác từ ngoài cửa cũng ùn ùn kéo vào. Bảy người đưa mắt nhìn nhau hội ý, lập tức chia ra một nửa tiếp tục thích sát Khang Hi, nửa còn lại chống đỡ tập kích đằng sau lưng.

Đại điện Quan Âm Tự theo thiết kế có năm tầng lầu, cho nên tận dụng lúc bọn thị vệ cản bước đám thích khách, ngự lâm quân thống lĩnh Mã Tề liền dẫn Khang Hi và thái hoàng thái hậu Hiếu Trang chạy lên tầng hai.

- Đại ca, đừng để cẩu hoàng đế tẩu thoát!

Trong đám thích khách có kẻ hô lớn. Liền đó một gã bịt mặt thân hình cao lớn đến mười thước là ít, liều mạng mở một con đường máu, lật đật đuổi theo. Chợt thấy từ trên lầu lại ùa xuống một toán binh lính, gã thét lớn vung tay, tiếng loảng xoảng vừa vang lên, một tên lính gần nhất đã bay đầu.

Trên tay gã xuất hiện một sợi xích sắt, một đầu gắn một thứ có hình dạng như lồng chim, được nung bằng sắt, trong lồng có nhiều cạnh bén nhọn. Chính vật này vừa rồi đã lấy đầu kẻ nọ. Toán lính trông thảm trạng của đồng bạn không khỏi hoảng hốt chùn cả lại, sợ hãi nhìn gã thích khách cầm sợi xích điều khiển lồng sắt quay vù vù.

Mã Tề cũng giật mình, cả kinh kêu lớn:

- Thiết Đầu Lôi!

Thích khách nọ đôi mắt lấp lánh thần quang, lom lom nhìn họ Mã, cười khùng khục:

- Nhãn quan không tệ, nhận ra lai lịch của đại gia ta!

Dù mặt che một lớp vải đen, giọng y vẫn sang sảng như tiếng chuông đồng.

Thái hoàng thái hậu Hiếu Trang sau cơn hốt hoảng, giờ phần nào đã lấy lại bình tĩnh, tò mò hỏi:

- Mã ái khanh, kẻ này nguy hiểm lắm sao?

Mã Tề cung kính đáp:

- Bẩm Thái hậu, tên này mới xuất hiện thời gian gần đây. Song vô số quan binh triều đình đã mất mạng trong tay hắn. Chúng thần vẫn chưa biết hắn là ai bởi mỗi lần ra tay đều che kín mặt mũi như vậy. Nhưng hắn luôn tự xưng là sát thủ Thiết Đầu Lôi, thứ vũ khí hiểm ác độc địa kia chính là vật để nhận ra hắn.

- Đúng là hình dáng rất kỳ lạ!

- Cứ như một món đồ chơi vậy! - Khang Hi reo lên ngạc nhiên.

Mã Tề cười khổ:

- Thái hậu và Hoàng thượng không biết đó thôi. Vật này như chính cái tên Thiết Đầu Lôi, nhanh và chuẩn, lấy đầu người ta trong nháy mắt, có thể nói giết người như chớp. Thực không ngờ kẻ này lại liên quan với Giang Nam thất hiệp!

Họ Mã chỉ nói đúng một nửa, thích khách Thiết Đầu Lôi này không chỉ liên quan mà chính là một trong bảy người xưng Giang Nam thất hiệp. Cũng là bảy người giỏi võ công nhất trong hội Đại Minh Triều, được những thành viên của hội tôn làm đương gia, thứ bậc lần lượt xếp theo tuổi tác.

Song có một bí mật mà Mã Tề cũng như ít người giang hồ biết. Không chỉ y, cả bọn bảy đương gia đều xuất thân từ lò võ Thiếu Lâm, mà nói đến sư phụ bọn họ, lai lịch lại càng kinh người.

Trong mấy đời trụ trì Thiếu Lâm Tự gần đây, nổi danh nhất có một vị đại sư pháp danh Giác Viễn. Dù viên tịch đã lâu song nhắc đến ông người giang hồ không ai không biết tiếng. Vào những năm Hoàng Thái Cực - vị vua thứ hai của triều đình nhà Thanh, khi ấy còn đang rong ruổi trên lưng ngựa nơi biên cương tái ngoại, đánh chiếm giang sơn Đại Minh thì Giác Viễn đại sư, nhờ sáng lập ra bộ Thất thập nhị huyền công mà thanh danh vang dội võ lâm Trung nguyên, được thiên hạ tôn xưng Võ Thánh.

Khéo thay, khi đó vùng Tây Bắc cũng nổi lên một người là Long Thiên Hổ, tự xưng là Võ Ma. Thực ra Long Thiên Hổ là một chuyên gia ám khí, nổi danh bất khả chiến bại. Loại ám khí họ Long thành thạo có rất nhiều nhưng tinh thông nhất là phi đao. Kẻ Nam người Bắc, vô hình chung hai vị cao thủ được khách giang hồ đem ra so sánh những lúc trà dư tửu hậu. Từ đó truyền lưu vô số câu chuyện li kỳ, bay khắp các vùng đại giang nam bắc. Dù vậy bọn họ không hề có ý định gặp nhau tranh cao thấp, mặc kệ thiên hạ bàn tán.

Nhưng đến một ngày, Long Thiên Hổ quyết định vượt đường xa vạn dặm từ Mông Cổ đến tận chùa Thiếu Lâm tìm Giác Viễn yêu cầu tỉ thí thì mới hay đại sư đã qua đời trước đó hai ngày rồi. Trận tỷ thí cả võ lâm mong đợi vì vậy không thành, để lại vô vàn tiếc nuối. Quyển Binh Khí phổ nổi tiếng của Lộ Thần tiên sinh đành xếp hạng Võ Thánh - Võ Ma ngang nhau.

Sau này có người thắc mắc, tại sao Long Thiên Hổ không tìm đến Thiếu Lâm thách đấu sớm hơn, mà phải chờ đến tận lúc đó? Quanh chuyện này có nhiều giả thiết, song đáng tin nhất, nghe nói sau khi triều Minh bị thôn tính vào tay những người thắt bím tóc thuộc tộc Mãn Châu, Giác Viễn đại sư nản lòng thoái chí lui khỏi chốn võ lâm. Nhưng thực ra ông bí mật cùng một số nghĩa sỹ nổi tiếng như Lâm Vĩ, Tần Nhị và Mã Lương phu tử theo phò một vị công chúa triều Minh khi đó vừa xuống tóc làm ni cô. Năm người âm thầm lập ra một hội kín tụ tập anh hùng thiên hạ chống đối triều đình nhà Thanh. Mà Long Thiên Hổ khi ấy lại là đại diện tiêu biểu cho giới cao thủ vùng tái ngoại, quê hương của người Mãn Châu. Chỉ cần họ Long đả bại Giác Viễn, chẳng khác nào phá sập biểu tượng Thiếu Lâm Tự, đánh tan niềm kiêu hãnh của người Trung nguyên. Có điều người tính không bằng trời tính, họ Long chỉ chậm có hai ngày, toan tính của người Mãn Châu đã thất bại.

Thực hư không rõ ra sao, có điều từ hôm đó người trong giang hồ không thấy Long Thiên Hổ đâu nữa. Tuyệt kỹ phi đao Ngũ Hành Thần Đao vì vậy mà mai một dần. Phải mãi tới năm Thuận Trị thứ mười hai, người ta mới lại thấy một thiếu niên mười ba tuổi sử Ngũ Hành Đao pháp một cách thần kỳ ở trận đánh Giang Hoa. Thế là một lần nữa, chủ đề về Võ Thánh - Võ Ma lại bùng lên, trở thành tâm điểm bàn tán sôi nổi hằng ngày trong các tửu lâu. Khách giang hồ háo hức tự hỏi, không biết đến khi nào thì truyền nhân của Võ Ma lại tìm tới truyền nhân của Võ Thánh để thách đấu nữa đây?

Bất quá tạm gác câu chuyện võ lâm bí sử này lại. Trở lại Quan Âm Tự, khi ấy Khang Hi nghe Mã Tề kể xong liền tò mò ghé đầu ra nhòm một cái thì bắt gặp thích khách trợn mắt, trừng trừng nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống. Tiểu hoàng đế sợ hãi, rụt đầu núp sau lưng Mã Tề lắp bắp:

- Ta với bọn họ chẳng quen biết gì, cớ sao lại muốn hại trẫm?

Mã Tề khom lưng, nghiêm giọng đáp:

- Hoàng thượng là tương lai giang sơn và muôn dân trăm họ. Bọn chúng lại là dư nghiệt Minh triều, chính là muốn phá hủy cơ nghiệp Đại Thanh ta đó ạ!

Gương mặt thơ ngây của tiểu hoàng đế lộ vẻ bàng hoàng, bên tai văng vẳng tiếng vũ khí va loảng xoảng, tiếng hò hét, tiếng rú thảm đau đớn của lũ thị vệ dưới lầu. Trong đầu vị hoàng đế mười tuổi bất giác nảy sinh trăm mối suy tư: "Hôm nay bao người vì bảo vệ ta mà táng mạng dưới tay bọn thích khách, nhưng càng nhiều hơn nữa, là bao tướng sĩ đã đánh đổi mạng sống để giành lấy giang sơn Đại Thanh này. Lẽ nào ta mang họ Ái Tân Giác La lại hèn nhát trốn đằng sau. Tổ phụ trên trời mà biết hẳn tức giận lắm thay."

Nghĩ tới đó nỗi sợ hãi bỗng chốc tan biến, một cơn phẫn nộ dâng trào khiến tiểu hoàng đế kích động nghiến răng nghiến lợi:

- Một đám giặc cỏ mà dám mưu đồ hủy cơ nghiệp của chúng ta sao? Giết hết bọn chúng cho trẫm!

Dù giọng trẻ con còn non nớt song đã phảng phất thần thái của đấng cửu ngũ chí tôn. Mã Tề thầm cảm thán "Thực đúng là thiên tử, dù là hổ con thì hổ vẫn là hổ."

Thái hậu Hiếu Trang không khỏi vui mừng trước sự trưởng thành của cháu nội, gật đầu cao giọng:

- Tất cả xông lên cho Ai gia! Ai giết được thích khách, gia phong Tứ phẩm đối đao thị vệ, thưởng ngàn vàng.

Họ Mã dù kinh ngạc song cũng hùa theo quát:

- Đã nghe Thái hậu ban chỉ hay chưa, kẻ nào còn do dự không lên lập tức khép tội khi quân!

Người ta nói "Thưởng to ắt có dũng sĩ" quả không sai, đám thị vệ rục rịch giây lát rồi hò reo ùa cả lên. Sát thủ Thiết Đầu Lôi thấy thế nhếch môi cười gằn:

- Chỉ một nhúm người mà đòi cản bước đại gia ta, nằm mơ đi!

Nhất thời tiếng la tiếng hét vang dội, máu bắn tứ tung nhuộm đỏ cả một góc cầu thang, bốc lên mùi tanh tưởi rợn người. Dù đám thị vệ đông người, vẫn bị y quay Thiết Đầu Lôi mòng mòng khiến cả bọn phải chạy tới chạy lui, vừa lo hộ giá đẩy lui kẻ địch xuống cầu thang, vừa nơm nớp sợ hãi thứ vũ khí chết chóc kia nhắm vào mình. Thế là tên sát thủ phản khách vi chủ, chiếm được thượng phong. Bọn thị vệ rối loạn cả lên, bị y đả thương tám tên, phút chốc lại thêm sáu kẻ xấu số bay đầu. Nhân cơ hội đó, y tiến lên được bảy bậc thang, ý định tấn công Mã Tề. Vì ai cũng biết chỉ cần hạ được họ Mã thì Khang Hi chẳng khác nào cá nằm trên thớt.

Phía dưới lầu, sáu người đương gia còn lại đang phải chống cự kịch liệt với quân Thanh. Họ hạ được rất nhiều kẻ địch, nhưng cứ giết hết lớp này lại thấy một lớp khác xông tới, liên miên không dứt như sóng xô bờ.

Đúng lúc đó, từ ngoài cổng Quan Âm Tự một toán nhân mã ùn ùn kéo tới. Nhìn cờ hiệu xem ra đó là đạo quân của phụ chính đại thần Sách Ni - cha của Sách Ngạch Đồ đến trợ giúp cho hoàng đế. Nhưng tuyệt nhiên không thấy cờ của ba vị đại thần còn lại, nhất là Ngao Bái đâu. Cả Át Tất Long và Tô Khắc Táp Cáp cũng vắng mặt. Cứ như thể tam mệnh đại thần này bốc hơi đi đâu mất vậy.

- Không xong, bọn chúng lại có viện binh! - Một người trong bọn la lớn.

- Phải tốc chiến tốc thắng thôi. Tam ca, huynh mau tới giúp đại ca một tay, chỗ này để bọn đệ chống đỡ! - Kẻ khác giục.

Người được gọi Tam ca vừa đâm chết một tên thị vệ xong, ngừng tay kéo khăn che mặt xuống thở hổn hển. Chỉ thấy y sở hữu ngũ quan cân xứng, khuôn mặt phương phi nhưng không thể gọi là sáng sủa, hai bên cằm đầy đặn, trông thấp hơn sát thủ Thiết Đầu Lôi nửa cái đầu.

Nghe đồng bọn kêu, y nhìn ra cổng, còn đang quan sát thì bên tai bỗng vang tiếng gió. Quay sang liền thấy hai tên thị vệ hùa nhau cầm đao tấn công hai bên tả hữu, khiến y phải liên tục đánh trả. Trường đao của tên lính Thanh thứ nhất vừa đâm ra, y thấy thế đao lợi hại bèn né sang trái, nhưng đao của tên lính Thanh thứ hai đã sớm chờ sẵn. Y biết nếu quay lại chống đỡ thì tên lính thứ nhất sẽ thừa thế đánh tiếp, cứ như vậy nhiều người đánh một, kéo dài mãi không thôi. Dù y võ công lợi hại đến mấy, nhưng bị vây công mãi thế này, không chết vào tay quân triều đình thì cũng chết vì kiệt sức.

Nói thì dông dài nhưng xảy ra chỉ trong chớp mắt mà thôi. Y không do dự nữa, liền hú lên một tiếng phi luôn thanh kiếm trên tay vô ngực tên lính gần nhất. Tay kia rút xoẹt từ thắt lưng ra cây nhuyễn kiếm, đảo trái đỡ phải quyết đả phá vòng vây tới trợ giúp Khẩu Tâm. Dưới tay y cây kiếm mềm mại, uốn lượn khác thường, thoắt ẩn thoắt hiện như độc xà, lóe một cái là lấy mạng một người. Phút chốc đã mở con đường máu tới gần cầu thang.

Người trong nghề nhìn cái biết hành gia, vốn cùng sử kiếm Mã Tề đã sớm chú ý tới tên thích khách này rồi. Gã nhíu mày lẩm bẩm:

- Kiếm pháp độc đáo bực này, ở Giang Nam e chỉ có một người thôi. Quả nhiên là hắn, Nghĩa Đảm kiếm khách Trương Quốc Khải!

Quả thực Mã Tề đoán không sai. Y chính là Trương Quốc Khải, ngồi ghế thứ ba trong hội Đại Minh Triều, được các hội viên gọi là tam đương gia. Họ Trương thành danh nhờ vũ khí là một cây kiếm rất đặc biệt, được đúc bằng một loại thép mỏng, nhẹ mà vô cùng dẻo dai. Bình thường y đeo nó vòng quanh thắt lưng, nhìn vào chẳng ai nghĩ đấy là binh khí, mà cho rằng đó là sợi đai lưng tiệp màu với bộ quần áo đang mặc trên người. Bởi vậy mấy vị đương gia bèn đặt luôn cho cái tên Phục Y Kiếm.

Dù tự thị vào bản lãnh của mình, Thống lĩnh Ngự lâm quân Mã Tề cũng không dám chắc có thể phân cao thấp trong vòng trăm chiêu với họ Trương, chưa nói tới đối đầu với tên sát thủ kia gã càng không đủ tự tin. Thấy nguy đến nơi, gã bèn quỳ xuống thỉnh cầu:

- Bẩm Thái hậu và hoàng thượng, tình hình vô cùng bất lợi. Vì an nguy xin thứ cho chúng thần tội phạm thượng bất kính!

Thái hậu Hiếu Trang vội xua tay:

- Mã thống lĩnh mau đứng lên! Các vị xả thân hộ giá, Ai gia đâu nỡ trách tội! Có gì đứng lên hẵng nói.

- Tạ ơn Thái hậu. Thần định sai người cõng Thái hậu đi trước, hạ thần cõng hoàng thượng theo sau. Chúng ta nên chia ra hai đường, rồi sẽ hội họp lại sau.

Thái hậu Hiếu Trang thoáng nhíu mày suy xét, rất nhanh liền gật đầu:

- Được, cứ theo an bài của thống lĩnh!

Họ Mã bèn quay sang một tên thị vệ thân tín:

- Ngươi! Cõng hoàng thái hậu cho ta, phải nhớ rằng sẵn sàng dùng tính mạng bảo vệ Người!

Tên thị vệ dạ một tiếng, lập tức khom lưng xuống chờ Thái hậu căn dặn vài lời với tiểu hoàng đế xong mới leo lên lưng y. Hai người nhảy từ lầu hai xuống đất, phút chốc mất dạng sau tán cây.

Liền đó, Mã Tề rút ra một cây chủy thủ hét lớn:

- Tặc tử xem đao!

Một luồng sáng chớp lên, bay vèo về phía tên sát thủ. Y vung Thiết Đầu Lôi, "xoảng" một tiếng gạt bay ám khí, cười khẩy:

- Trò trẻ con...

Lời còn chưa dứt, đột nhiên y biến sắc rú lên đau đớn. Thì ra họ Mã hô lớn rồi phóng đao chỉ là hư trương thanh thế, cùng lúc đó gã cũng khởi động tụ tiễn bí mật giấu trong ống tay áo. Mũi tên thép được bắn ra bằng lực nén lò xo, lại ở cự ly gần lập tức cắm vào vai tên sát thủ, xuyên ra sau lưng, ghim chặt luôn y vào vách gỗ phía sau.

Sát thủ Thiết Đầu Lôi đau thấu tâm can, tới độ hai mắt tối sầm, tai lại nghe Mã Tề hô:

- Xông vào giết hắn cho ta!

Y mở mắt ra vừa may đúng lúc hai tên lính thừa cơ áp sát. Một tên dùng kiếm chém nhằm cổ tay, tên khác cũng cầm gươm đâm vô mặt. Dù khoảng cách gần, lại xuất thủ rất nhanh, song y nén đau nghiêng người né được trong gang tấc. Vừa sợ vừa giận, y rống lên một tiếng, tả thủ thu lại thành quyền, đấm hai tên lính hộc máu bay ra đằng sau, nằm im không động cựa. Mã Tề thầm hô đáng tiếc, không chút dây dưa đích thân cõng Khang Hi phi thân ra khỏi cửa sổ lầu hai Đại điện.

Tên sát thủ chỉ biết nhìn theo bất lực, một bên vai y đã bị thương, giữa vòng vây của kẻ địch tự lo cho mình còn khó, sức đâu đuổi theo. Song may cho y, vừa lúc Trương Quốc Khải đến cứu viện kịp thời. Y bèn hét lên:

- Mau đuổi theo, không cần lo cho ta!

Trương Quốc Khải trước tiên xem xét qua thương thế của y, thấy không đến mức nghiêm trọng liền tức tốc đuổi theo Mã Tề vô rừng thông.

---oo0oo---

Khu rừng thông bạt ngàn này có chu vi kéo dài vài chục dặm. Trên là những cây thông cao chót vót, bên dưới là thảm cỏ xanh rờn phủ đầy mặt đất, khiến bốn mùa khu rừng như khoác lên mình chiếc áo màu xanh biếc. Xuyên qua rừng lại có một dòng suối quanh năm thủ thỉ tâm tình, hòa cùng tiếng thông reo vi vu, dệt nên một điệu đàn tuyệt diệu.

Bấy giờ mới qua buổi sáng, mặt trời chỉ le lói xuyên qua rặng thông dày nên sương vẫn đọng trên các nhánh cây long lanh như những hạt ngọc.

Có điều Trương Quốc Khải chẳng lòng dạ nào mà ngắm cảnh, y tập trung ngó nghiêng bốn phía, rất nhanh liền phát hiện dấu vết đám cỏ đổ rạp dẫn tới một rặng đá xám đằng xa. Vừa dợm bước chạy theo, bất thần có tiếng rít lạnh người đập vào tai buộc y phải cấp tốc đảo người né tránh.

"Phụp!"

Một ánh thép lướt qua, xé toạc mảnh áo trước ngực. Y quay đầu nhìn cây chủy thủ cắm ngập vào gốc thông phía sau mà tim đập thình thịch. Vận sức rút con dao kéo theo cả mảng gỗ, Trương Quốc Khải không khỏi toát mồ hôi lạnh. Chỉ thấy mũi dao bén ngót lại có móc ngược, ghim vào thịt khác nào bắt rễ bên trong. Nếu khinh suất dùng sức rút ra đảm bảo mất một miếng thịt lớn, chưa nói mũi đao còn thấp thoáng ánh xanh, hiển nhiên còn được tẩm độc. Hít một hơi nhằm trấn tĩnh, y liền tung mình thi triển tuyệt kỹ khinh công Thiểm Dực Thuật đuổi theo bóng người thấp thoáng xa xa, tinh thần càng thêm cảnh giác cao độ.

Trong lúc đó Mã Tề cõng Khang Hi triển khai khinh công chạy như bay, lòng hết sức bực dọc. Gã không bỏ chạy ngay mà mạo hiểm nán lại tập kích, hòng bất ngờ cho kẻ địch một cú tất sát. Vậy mà hắn ta vẫn thoát được trong đường tơ kẽ tóc. Không biết bữa nay ngày gì, mấy lần ra tay đều thất ý.

Phải cõng thêm một người dẫn đến động tác thiếu linh hoạt, tốc độ Mã Tề chậm hẳn. Chẳng mấy chốc đã có tiếng loạt xoạt đằng sau. Gã liền xoay người phóng luôn hai cây chủy thủ. Chỉ nghe hai tiếng leng keng lảnh lót, đối phương hẳn vẫy kiếm gạt được rồi. Gã càng lúc càng lo lắng, chạy đến chỗ này đáng ra phải có bọn lính Bát kỳ mai phục, song quanh đây lặng như tờ, rõ ràng chẳng có một ai.

"Lẽ nào tam mệnh đại thần... có ý soán nghịch?" - Một ý nghĩ lóe lên trong đầu khiến Mã Tề sợ run.

Thình lình gã nghe tiếng ám khí xé gió đằng sau, mục tiêu chính là Khang Hi trên lưng. Hoảng hốt, Mã Tề đành xoay người để né tránh khiến hai chủ tớ mất đà loạng choạng. Liền đó lại nghe tiếng gió trên đầu, ngẩng lên đã thấy Trương Quốc Khải tay lăm lăm kiếm chặn trước mặt rồi.

- Chạy đâu cho thoát, nạp mạng đi thôi!

- Hoàng thượng mau tránh đi một lát!

Bất đắc dĩ, Mã Tề đành phải đẩy Khang Hi trốn ra sau gốc cây gần đó, còn mình rút kiếm đối đầu với Trương Quốc Khải. Hai người qua lại chưa được chục chiêu, Mã Tề nhanh chóng nhận ra bản lãnh thua kém đối phương không chỉ một bậc.

Kiếm pháp họ Trương nổi tiếng Giang Nam dĩ nhiên chẳng phải hư danh, lại được y thi triển hết tuyệt kỹ bình sinh. Chẳng mấy chốc thanh Phục Y Kiếm trong tay y như kết thành tấm lưới bủa vây Mã Tề trong màn mưa kiếm. Qua được vài chiêu nữa, họ Mã chỉ còn biết công ít thủ nhiều, càng thêm chật vật.

Tình cảnh ấy khiến Khang Hi trốn đằng sau thân cây bách tùng gần đó không khỏi lo sợ. Trái tim non nớt của Tiểu hoàng đế đập thình thình trong lòng ngực, như chực nhảy bổ ra ngoài. Lúc này Mã Tề không khác gì vị thần hộ mệnh của Khang Hi. Nếu gã cũng thất bại, hôm nay chắc chắn là ngày giỗ của tiểu hoàng đế rồi.

Quả nhiên sợ cái gì thì cái đó tới, chỉ thấy Mã Tề la lên đau đớn, hạ bàn đã trúng một kiếm ngã vật ra đất. Trương Quốc Khải cũng chẳng thèm nhìn xem đối phương sống chết ra sao, lập tức phóng tới trước mặt Khang Hi, định một kiếm lấy cho xong thủ cấp của tân hoàng.

Họ Trương lừ lừ bước tới đối diện tiểu hoàng đế, đôi mắt sáng quắc như mắt loài chim ưng. Song trước mắt y, hiện ra là đứa trẻ hình dung tiều tụy đang rúm ró vì sợ hãi, gương mặt non nớt lấm tấm những chấm đen lem luốc như bệnh đậu mùa. Nào thấy bóng dáng của bậc chân mệnh thiên tử, đấng cửu ngũ chí tôn đứng đầu thiên hạ như người đời thường ca tụng. Đôi mắt đương sợ hãi kia, rành rành chẳng khác chi lũ trẻ vạ vật ngoài phố. Thế là ánh mắt Trương Quốc Khải dịu lại như xót thương như trìu mến, hiền hòa như con hổ dữ đã thuần hóa, bỗng dưng thấy người chủ nhân của nó.

Lại thấy "đứa trẻ tội nghiệp" ấy mếu máo thút thít:

- Đại thúc... thúc sao lại muốn giết cháu?

Nghe vậy lòng họ Trương mềm nhũn, kiếm vung lên mà không sao hạ xuống được, không biết làm sao đành ngửa mặt nhìn trời thở dài:

- Than ôi, Trương Quốc Khải ta một đời hành hiệp, quang minh lỗi lạc chẳng thẹn với đời. Không ngờ hôm nay vì đại nghiệp, chẳng những vung kiếm lạm sát kẻ vô tội, còn phải xuống tay với đứa bé yếu ớt tay không tấc sắt!

Còn đang do dự bất quyết thì nghe phịch một tiếng, tiểu hoàng đế chừng như sợ quá đã ngất đi rồi. Nhìn thân thể ốm o nằm rúm ró trên mặt đất, Trương Quốc Khải chán nản nghĩ thầm: "Một đứa trẻ bệnh tật như vậy cũng có thể làm hoàng đế. Giết nó rồi thì sao chứ, người Mãn lại lập nên hoàng đế mới. Nhưng từ hôm nay không chỉ huynh đệ chúng ta mà còn vô số người phải bồi táng cùng đứa trẻ yểu mệnh này rồi."

Trương Quốc Khải không nỡ nhẫn tâm xuống tay, do dự suy tính một hồi đột nhiên nảy ra một ý: "Nếu ta bắt sống tiểu hoàng đế thì sao? Tin rằng quan binh vì "sợ ném chuột vỡ đồ" hẳn không dám quyết tuyệt, lại vừa hay đem nó đi cứu mọi người. Quả là vẹn cả đôi đường!"

Nghĩ là làm, Trương Quốc Khải liền cắp lấy Khang Hy định lộn trở lại đại điện Quan Âm Tự. Bất thần ánh kiếm chợt lóe khiến y phải giật mình thoái lui, nhìn lại hóa ra là Mã Tề toàn thân nhuộm máu, lảo đảo đứng trước mặt.

- Mã Tề ta chưa chết, phản tặc đừng hòng...

Còn chưa nói hết câu, đập vào mắt gã là Khang Hi mềm rũ kẹp dưới nách thích khách. Mã Tề kinh hồn táng đởm cả người lạnh buốt, cảm thấy trời đất như quay cuồng chao đảo. Gã rú lên căm hờn:

- Hoàng thượng...! Phản tặc, ta liều mạng với ngươi!

Đúng lúc đó, một toán binh lính nghe tiếng vừa hay chạy đến. Thấy Thống lãnh thị vệ toàn thân đầy máu, tiểu hoàng đế rũ rượi trong tay thích khách thì sợ tái mặt rầm rập ùa tới. Trương Quốc Khải lập tức quát lớn:

- Hoàng đế trong tay ta, kẻ nào dám...!

Bất quá trông tiểu hoàng đế mềm oặt thế kia, ai biết còn sống hay đã chết. Khang Hi có làm sao, hộ giá thất trách là bọn chúng cũng không thoát khỏi tội tru di. Thế là cả đám mặc kệ Trương Quốc Khải hăm dọa, cứ hò hét lao tới như không cần mạng, hòng lập công chuộc tội để khỏi liên lụy người nhà.


Võ công Trương Quốc Khải nào phải tầm thường, kiếm pháp của gã càng không ngại quần đấu. Ánh kiếm cứ lóe lên là loại một kẻ ra khỏi cuộc chiến. Song y phải xách theo một người, giữa vòng vây thân pháp phần nào mất đi sự linh hoạt. Nhất thời rơi vào khổ chiến không tài nào thoát ra được.

Có điều may mà bọn thị vệ vẫn vô cùng e ngại, chỉ cần họ Trương xoay tiểu hoàng đế sang bên nào, đao kiếm mé ấy lập tức tránh đi không dám mạo phạm. Thế là Khang Hy không khác nào tấm lá chắn sống cho y mặc sức xoay trái quay phải, tả xung hữu đột giữa trùng vây.

Bất thình lình y thét lên một tiếng chói trời chói đất, ngực phải đau thấu tâm can, cánh tay tê dại nhất thời tuột mất Khang Hy. Tiểu hoàng đế rớt cái bịch, lăn vài vòng trên mặt đất rồi nhỏm dậy la lớn:

- Mau mau cứu trẫm!

Biến cố đột ngột khiến tất cả sững sờ. Song có một bóng người nhanh như chớp lao tới, ôm lấy tiểu hoàng đế lăn đi một vòng, vừa hay tránh kịp một chưởng cách không vỡ đá tan bia của thích khách. Không ngoài ai khác chính là Mã thống lĩnh.

Họ Mã ôm chặt tiểu hoàng đế trong lòng mà mừng phát khóc, gã run run hỏi:

- Hoàng thượng, người... người không sao chứ?

Gương mặt non nớt tuy tái nhợt, lấm lem bụi đất vô cùng thảm hại song đôi mắt Khang Hi sáng quắc đáp:

- Trẫm không sao, mau bắt lấy thích khách. Y không cầm cự được lâu đâu!

Chỉ thấy khí thế bừng bừng nào còn vẻ yếu ớt trước đó. Hóa ra khi hai bên đối mặt, phát hiện ánh mắt kỳ lạ của họ Trương, Khang Hi đã nhạy bén nhận ra đối phương là kẻ dễ mềm lòng. Tiểu hoàng đế nhanh trí liền tỏ ra yếu ớt đáng thương, quả nhiên khiến thích khách do dự không nỡ xuống tay. Bất quá trẻ con vẫn là trẻ con, tình cảnh cái chết cận kề khiến tiểu hoàng đế hồi hộp lo sợ đến thắt tim, bệnh cũ bỗng tái phát liền ngất đi. Khéo thay lại giúp vở diễn càng thêm hoàn hảo. Đến lúc tỉnh lại đã thấy bị thích khách kẹp trong tay quay trái quay phải chóng hết cả mặt, xung quanh cả đống quan binh mà không làm gì được. Dù sốt ruột lắm song cơ hội chưa đến tiểu hoàng đế nào dám hành động khinh suất.

Chịu đựng mãi rốt cuộc cũng có được tư thế thuận lợi, Khang Hi liền rút con dao vẫn nắm chặt trong ống tay áo ra, đâm cho Trương Quốc Khải một nhát chí mạng. Dẫu còn trẻ con nhưng từ nhỏ đã rèn luyện võ nghệ, lại dùng hết sức cộng thêm họ Trương mất cảnh giác không vận khí hộ thân nên con dao vẫn cắm gần lút cán.

Uất ức thay Trương Quốc Khải chỉ vì lòng nhân từ mà lãnh họa vào thân. Mắt y tối sầm lại, hai chân loạng choạng một cái, ngực đau buốt xộc lên tận óc, hơi thở liền thấy khó khăn. Thế nên dù y gắng vận sức đánh ra một chưởng hòng vớt vát thì vẫn chậm hơn Mã Tề một bước rồi.

Rốt cuộc Mã Tề thành công cứu thoát Khang Hi, tránh được cái tội hộ giá thất trách, nào dám dây dưa ở đây nữa bèn tẩu như phi, để mặc cho binh lính giải quyết tên thích khách. Lính Thanh thấy Trương Quốc Khải loạng choạng thì biết rằng y sắp xong đời bèn cả mừng hò hét nhào tới giết. Trương Quốc Khải phải liên tục vung kiếm ngăn đỡ. Thế là cả trăm người khỏe mạnh cùng một người đang bị thương đánh nhầu một trận.

(còn tiếp)

Mỗi khi dùng sức bên tay thuận, Trương Quốc Khải thấy lồng ngực đau nhói bèn chuyển thanh kiếm sang tay nghịch đâm bọn quan binh. Nhưng sử kiếm bằng tay nghịch hiển nhiên chiêu thức không còn quen lề lối thông thường nữa, nên Thanh binh đỡ được đường gươm của y khá dễ dàng. Thế là Trương Quốc Khải vừa đánh vừa phải lui, thoáng chốc đã bị lính Thanh ép sát vô hàng thông. Bỗng nghe tiếng gió sau lưng, y kịp thời nghiêng người né tránh.

Thì ra ở phía sau, một toán lính chẳng biết phục kích từ bao giờ, chỉ chờ có thế lập tức ra tay. Tuy đã tránh được một hai mũi, nhưng nhìn trường mâu tua tủa đang đâm tới y không khỏi ngậm ngùi than thở:

- "Rốt cuộc ta cũng phải phơi thây chốn rừng hoang này..." Nhưng trước lúc chết, y tính chịu mấy nhát rồi liều chút hơi tàn hòng kéo theo một hai mạng.

Đúng lúc tưởng chừng Trương Quốc Khải chấp nhận số phận rồi, đột nhiên một thứ xoay tít như bánh xe gió vù vù liệng qua khiến bọn lính rú lên, đồng loạt buông trường mâu ôm tay đau đớn. Chỉ thấy một người cũng mặc trang phục dạ hành che kín mặt mũi, chân đạp cây nhẹ tựa chim én lao vút tới, ung dung đón lấy vật màu trắng đang xoay một vòng lượn trở lại. Hóa ra lại là một cây quạt xếp. Đáp xuống bên cạnh Trương Quốc Khải, dạ hành nhân kêu lên áy náy:

- Xin lỗi Tam ca, đệ tới muộn!

Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, Trương Quốc Khải lắc đầu, vỗ vai đồng bạn cảm khái đáp:

- Không muộn. Dù có chết nhưng được gặp Thất đệ lần cuối là ta mừng lắm rồi!

- Huynh nói vớ vẩn gì thế, từng này chẳng đủ nhét kẽ răng bọn ta.

Cả hai cười lên ha hả. Chợt nhớ ra, Trương Quốc Khải lo lắng hỏi:

- Mọi người bên kia thế nào rồi?

- Không tốt lắm nhưng vẫn cầm cự được. Đệ không yên tâm về huynh nên mở đường máu đuổi theo, may mà vừa tới kịp. Phù...

Nghe vậy Trương Quốc Khải không khỏi hổ thẹn nói:

- Thất đệ. Xin lỗi... huynh...

- Tam ca đừng tự trách nữa, trước mắt phá vòng vây rồi nói - Dạ hành nhân khoát tay.

Trương Quốc Khải gật đầu. Hai huynh đệ liền áp lưng sát vào nhau cùng tử chiến với quân Thanh. Quân Thanh bao vây họ càng lúc càng đông, tưởng như không thể nào đếm hết được, thực như đàn ruồi bu chén mật. Nhìn đâu cũng không thấy kẽ hở nào để tẩu thoát. Nhưng võ nghệ của dạ hành nhân vô cùng cao cường, lâm nguy vẫn không loạn. Chỉ thấy cây quạt trắng trong tay y thiên biến vạn hóa, đầy trời bóng quạt trập trùng biến ảo khôn lường, kín kẽ tưởng như không gì có thể chui lọt. Khi xòe ra thì sắc bén tựa đao, lấy mạng người trong chớp mắt. Lúc xếp lại có thể đỡ, gạt, đâm, thậm chí bất thần kẹp lấy lưỡi gươm, mũi giáo của đối phương rồi xoay người một cái, dùng chính những vũ khí đó phi thẳng tới kẻ đối diện. Thế nên giữa vòng vây mà chẳng khác nào hổ lạc bầy dê, thoáng chốc đã giết được vài chục tên.

Quân Thanh không khỏi hốt hoảng, hàng trước vội vã thoái lùi. Dạ hành nhân thoáng thấy cơ hội, liền hú lên một tiếng, người quạt hợp nhất xoay tít như một cơn lốc xoáy xộc thẳng vào hàng ngũ kẻ địch. Người tới đâu, lính Thanh rú lên thảm thiết tới đó, lũ lượt đổ gục như thân chuối gặp phải cưa máy.

Phía bên phải vì vậy mà hở ra một lỗ lớn. Trương Quốc Khải luôn bám sát theo sau, hai huynh đệ lập tức tẩu thoát. Hai người tháo chạy một hồi, nhưng vẫn chỉ loanh quanh trong khu rừng thông rất rộng này. Chạy thêm một quãng, Trương Quốc Khải vì bị mất quá nhiều máu nên không đi nổi nữa, dạ hành nhân bèn dìu Trương Quốc Khải nấp ở đằng sau một thân cây. Đó là một cây tùng đại thụ rất to, đường kính phải năm người dang tay ra đứng xung quanh cũng chưa chắc ôm trọn được.

Sau khi xem xét vết thương, dạ hành nhân nhíu mày nói:

- Phải lập tức rút cây đao mới cầm máu được, huynh chịu đau chút nhé!

- Được, đệ cứ làm đi!

Dạ hành nhân liền cẩn thận rút con dao ghim trong ngực Trương Quốc Khải ra. Trông vậy mà lưỡi dao cắm khá sâu, khiến họ Trương phải nghiến răng nhăn mặt. Đắp tạm thuốc cầm máu, giây lát sau Trương Quốc Khải thở ra một hơi nhẹ nhõm. Nhưng sư đệ y lòng nặng trĩu, nhìn máu ứ ra từ vết thương có màu đen là biết Trương Quốc Khải đã trúng độc rồi. Hơn nữa, trông gương mặt sư huynh xanh xao, đôi môi tím ngắt, hiển nhiên khí lực đang dần tàn suy. Dạ hành nhân khẽ thở dài một hơi, đoạn dìu Trương Quốc Khải tựa vào gốc cây nghỉ ngơi.

Trong lòng gã lại nghĩ tới chuyện hôm bữa, có biên thư nhờ học trò trao cho một người, khuyên nàng ta đi Hồi cương lánh nạn, đừng trở về Hàng Châu nữa. Càng nghĩ gã lại thầm rủa bản thân tơi bời, vì dù cho thoát khỏi trùng vây lần này, thì khi đưa được Trương Quốc Khải trở về tổng đà, lấy ai mà giải độc được đây?

- "Ôi, ông trời thực khéo trêu ngươi!" - Dạ hành nhân ảo não nhủ thầm.

Bấy giờ Trương Quốc Khải khí sắc càng lúc càng kém, y cũng biết tình hình của mình bất lợi, nặng nhọc nhìn sư đệ nói:

- Thất đệ à, ta không ổn rồi. Đệ cứ đi đi… bỏ mặc tam ca, chạy trước đi!

- Tam ca, huynh coi đệ là hạng người gì chứ? Nếu đi thì cùng đi, còn không chúng ta cùng liều chết! - Dạ hành nhân la lên.

Trương Quốc Khải không nói nên lời, đấm mạnh lên thân cây một cái, phẫn hận thốt:

- Chỉ vì ta vô dụng, còn làm liên lụy đệ!

Dạ hành nhân đang định an ủi sư huynh vài câu, đúng lúc đó có tiếng chân người rầm rập từ đằng xa vọng đến. Gã nấp đằng sau thân cây ló đầu ra nhìn, liền thấy một đội quân thiết giáp đông đảo hùng hậu đang ùn ùn kéo tới. Dẫn đầu lại có một người mặc giáp bạc, gương mặt xương xẩu thiếu biểu cảm, hai mắt sâu hun hút như hai cái hố tăm tối. Tay y cầm một thanh trảm mã đao, mũi đao chênh chếch hướng xuống đất, toát ra sát khí lạnh người. Sau vài nhịp thở, cả quân lẫn tướng chỉ còn cách chỗ hai huynh đệ ẩn nấp khoảng chừng vài chục bước chân. Nhưng gã tướng quân đó bỗng giơ tay làm hiệu, toàn quân lập tức dừng lại, hàng ngũ tề chỉnh không chút xao động.

"Kẻ này không tầm thường!" - Dạ hành nhân lẩm bẩm, tâm trạng càng thêm trầm trọng. Gã không ngại quần chiến, nhưng một đội quân kỷ luật có sự chỉ huy của tướng tài rõ ràng khó chơi hơn đám quân ô hợp lúc nãy rất nhiều.

Quả vậy, gã nhận xét không sai. Vì người mặc giáp bạc đó tên Tô Khất, là kẻ khá có danh tiếng trong hàng ngũ tướng lĩnh Kinh thành. Hiện y đang giữ chức phó tướng Mai Lặc Chương Kinh, trực thuộc Phủ Viễn phủ Đại tướng quân.

Mà nhắc đến vị Đại tướng quân này, cũng phải nói qua một chút. Lúc này triều đình Mãn Thanh vẫn khá coi trọng quân công, cho nên Ngao Bái - đệ nhất dũng sĩ Mãn Châu, người có danh vọng rất cao trong đám tướng lĩnh mới xếp đầu trong Tứ mệnh đại thần. Bất quá y cũng là người tỏ ra bất mãn khi tiểu hoàng đế lên ngôi, dẫn đến không ít kẻ a dua hùa theo, đối với tân hoàng bằng mặt mà không bằng lòng.

Dưới áp lực ấy, còn may Khang Hi vẫn được một số người trung thành như cha con Sách Ni, Sách Ngạch Đồ hay Mã Tề hết lòng phò tá. Song đáng kể nhất phải kể đến sự ủng hộ của vị Phủ Viễn Đại tướng quân này. Tuy còn khá trẻ nhưng Phủ Viễn tướng quân nổi tiếng văn võ song toàn tài năng trác tuyệt, bắt đầu cầm quân đã lập vô số chiến công, là người duy nhất có thể đối trọng với Ngao Bái trong quân đội. Và Tô Khất cũng chính là cánh tay phải đắc lực của Phủ Viễn Tướng quân.

Lần này y mang quân phục kích ở bìa rừng là theo kế hoạch của thượng cấp. Ngay khi Khang Hi định đi Sơn Tây, qua mật báo Phủ Viễn tướng quân đã biết sẽ có đám người giang hồ tự xưng Giang Nam thất hiệp, một đám dư nghiệt tiền triều tìm đến hành thích, bèn tương kế tựu kế lệnh cho Mã Tề có nhiệm vụ hộ giá Khang Hi vờ tháo chạy vào khu rừng thông, cuối cùng mới bủa lưới xua quân phục kích bắt gọn phản tặc.

Có điều, cần Tô Khất ra tay bởi y có một nhiệm vụ quan trọng được giao phó. Nhớ lại mấy ngày trước, đích thân Đại tướng quân đã gặp y bảo rằng:

- "Chuyến đi này với ngươi vừa dễ lại vừa khó. Vì xét cho cùng, đám đương gia của Đại Minh Triều cũng chỉ là bọn võ phu giang hồ, võ công có cao cường đến mấy cũng chẳng thể bằng sức vài người chống lại thiên quân vạn mã. Song có một kẻ trong bọn lại không thể coi thường. So với võ công, tài trí của hắn càng thập phần lợi hại. Theo tin tức mà ta biết, đứng sau mấy vụ tập kích quân triều đình ở Giang Nam đều có bàn tay kẻ này vận trù sắp xếp kế hoạch. Không những thế hắn thông thuộc nhiều nơi, quen biết rộng nên còn giữ nhiệm vụ liên lạc bốn phương và thám thính tin tức trong hội. Thực xứng danh là kẻ túc trí đa mưu, ứng biến linh hoạt.

- Đại tướng quân, nói vậy đây là một nhân vật quan trọng rồi.

- Đúng vậy, đáng tiếc hắn lại lầm đường lạc lối. Nếu chiêu mộ được kẻ này, nói không ngoa rằng đó là người thích hợp để giúp hoàng thượng bày mưu lập kế tiêu trừ đám gian thần tặc tử, củng cố vững chắc ngai vàng, kiến lập đại nghiệp thiên thu vạn đại.

Tô Khất có phần không phục:

- Đại tướng quân đề cao hắn quá chăng, dẫu sao cũng chỉ là kẻ giang hồ thảo mãng. Mạt tướng thấy có ngài phò tá là đủ lắm rồi.

- Ha ha, ngươi chớ khinh thường người trong chốn dân gian. Chẳng phải Gia Cát Lượng trước lúc vang danh thiên hạ cũng chỉ là kẻ làm ruộng ở Long Trung đó sao? Hơn nữa luận hành quân đánh trận, Tế Nhĩ Ha Lãng Dương Cát Nỗ ta tự hào không thua kém ai, song về âm mưu quỷ kế, đó lại không phải sở trường của ta.

- Hắn sao có thể sánh với Khổng Minh?- Tô Khất còn chưa phục.

Đại tướng quân nhếch môi cười:

- Ngươi không biết đám Đại Minh Triều ca tụng hắn là Gia Cát Lượng tái thế hay sao? Cho nên một việc nữa là chúng ta cần thuyết phục, khuyên răn hắn ta trở giáo quy hàng triều đình, phò trợ đương kim hoàng thượng. Đây chính là nhiệm vụ khó khăn mà ta muốn nói. Nhưng nếu làm được, Tô Khất ngươi đã ghi đại công rồi đó!"

Bởi vậy khi đứng từ xa quan sát, nhìn thấy binh khí của một kẻ trong bọn, Tô Khất nhớ tới lời mô tả "kẻ này hay dùng binh khí là một chiếc quạt màu trắng, nan làm bằng sắt, khi đánh phát ra tiếng leng keng chói tai khiến đối phương nhiễu loạn tâm thần." Y liền biết đó là mục tiêu Đại tướng quân nhà mình tìm kiếm bấy lâu nay. Không chút chần chờ, Tô Khất lập tức xua quân ào tới khép chặt vòng vây.

- Xin hỏi Cửu Dương tiên sinh, Thất đương gia của bang phái Đại Minh Triều có ở đó hay chăng? - Tô Khất hắng giọng hô to.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 2: Độc Kinh Phủ (2)

Nghe vậy dạ hành nhân thầm ngạc nhiên, song vẫn ung dung bước ra đáp:

- Có thì thế nào?

- Nghe danh tiên sinh đã lâu!

Thì ra người này chính là Cửu Dương, đứng hàng thứ bảy trong Giang Nam thất hiệp. Song chàng ta không khẳng định cũng chẳng phủ định, chỉ dửng dưng nhìn đối phương.

Đã chắp tay chào hỏi song nhận lại chỉ là vẻ thờ ơ lạnh nhạt, Tô Khất không vì thế mà tức giận, lại hỏi:

- Tiên sinh thấy binh sĩ của ta thế nào?

"Tên này định giở trò chi đây?" Thầm lấy làm lạ nhưng ánh mắt Cửu Dương chẳng thèm ngó lấy một cái, đáp gọn lỏn:

- Tinh nhuệ thiện chiến, kỷ luật nghiêm minh lắm!

Được đối phương khen ngợi, Tô Khất không khỏi tự đắc gật gù:

- Ta từng nghe người giang hồ ca tụng cây quạt trong tay Thất đương gia rất lợi hại. Vừa nãy đã được chứng kiến, quả nhiên danh bất hư truyền...

Đột nhiên y cao giọng:

- Vậy tiên sinh nắm chắc mấy phần phá được vòng vây của bọn ta?

- Không đến nửa phần! - Cửu Dương thản nhiên đáp.

Tô Khất bật cười, mỉa mai nói:

- Hừ, e là tiên sinh quá tự mãn rồi. Ta thấy một chút hy vọng cũng chẳng có đâu!

- Vậy thì thế nào? - Cửu Dương tỉnh bơ hỏi.

- Thì Tô Khất ta khẳng định hôm nay sẽ là ngày giỗ của tiên sinh đó!

Im lặng vài giây như để đối phương có thời gian cân nhắc, y bỗng dịu giọng nói tiếp:

- Có điều nếu theo chúng tôi về kinh thành, thì không những tính mạng tiên sinh được bảo toàn mà...

- Ha ha! Vị tướng quân này, ngươi coi ta là trẻ lên ba chắc? – Chẳng chờ đối phương dứt lời ngon ngọt, Cửu Dương đã cười lớn cắt ngang.

Tô Khất nhíu mày tắt tiếng, trong lòng không khỏi bực bội, hóa ra nãy giờ mình đã phí lời. Song rất nhanh y trấn tĩnh lại, nhẩm lại một lượt sách lược của Đại tướng quân, rằng “trước nên khích bác, sau nói lời ngon ngọt. Nếu không thuyết phục được ngay thì hãy ra tay bắt sống, nhất định không được để thoát…”

Ngẫm nghĩ lựa lời một chốc xong, y lắc đầu thở dài:

- Đáng tiếc, đáng tiếc, thật là đáng tiếc…

Lúc này Cửu Dương đã mơ hồ nhìn ra dụng ý của đối phương rồi. Nhưng phần vì để khẳng định phán đoán này, phần khác muốn kéo dài thời gian giúp Trương Quốc Khải phục hồi phần nào chút sức lực, chàng ta bèn nhàn nhã hỏi:

- Đáng tiếc cái gì?

- Là bản tướng tiếc cho tiên sinh đó. Một người lòng mang chí lớn, tâm hoài đại nghiệp không đi làm việc đại chí đại nghĩa lại hòa cùng đám thất phu tặc tử làm điều phản nghịch!

Không để đối phương kịp đáp trả, Tô Khất vội bồi thêm:

- Hơn nữa một thân nam nhi đại trượng phu hùng tài vĩ lược lại đi bám váy phò trợ cho con mụ già!

- Ha ha ha!

Tuy bị chửi bới khích bác Cửu Dương vẫn cười lớn, thầm nghĩ "Rốt cuộc đã lòi ra bản chất của kẻ mãng phu!" Đoạn thong thả đáp trả:

- Từ xưa tới nay, phàm là người trung nghĩa hiểu biết tất sẽ tìm tới kẻ thừa mệnh trời, tự nguyện dốc hết tài năng phò tá đấng minh quân ấy kiến công lập đại nghiệp! Còn hoàng đế người Mãn các ngươi thì sao? Vốn đời đời ở nơi quan ngoại, lại đem quân xâm chiếm Trung nguyên chúng ta. Cứ cho là qui luật tự nhiên, triều đại này suy ắt có triều khác thay thế. Nhưng nếu là một đấng minh quân, việc đầu tiên nên làm là phải lấy đức thu phục chúng sinh, chứ ta chưa từng nghe có ai lại đi uy hiếp bá tánh, dùng máu và đầu người đặng xây nền móng cả!

Biết rằng đối phương ám chỉ chuyện triều đình bắt người Trung nguyên để tóc đuôi sam, song không tiện tranh luận việc này, Tô Khất bèn theo lời dặn của tướng quân, cười khẩy nói lảng đi:

- Lòng dạ mềm yếu sao có thể làm chuyện đại sự. Tiên sinh nghĩ xem sẽ thế nào, nếu năm xưa Đường Cao Tổ ở Thái Nguyên khởi sự, cũng do dự bất quyết như ngài? Nếu không phải nhờ con trai thứ hai của ngài là Lý Thế Dân năm lần bảy lượt thúc ép thì Thái Tổ đâu có thể khoác lên vai áo vàng. Và cũng chính Đường Thái Tổ nếu e sợ miệng lưỡi thế gian, không dám xách động chính biến Huyền Vũ Môn thì đâu có một thịnh thế Đại Đường độc nhất vô nhị ngày sau!

Thấy Cửu Dương ngẩn người câm lặng, nghĩ đối phương đã thông suốt rồi, Tô Khất hăng hái nói văng bọt mép:

- Hai vị này bất đắc dĩ vì mưu đồ đại sự cho nên mới phải làm vậy. Nhưng khi lên làm quân chủ đều là bậc minh quân hiền đức. Thử hỏi hậu thế sau này, có ai là không kính ngưỡng họ!

Tô Khất cứ thao thao bất tuyệt mà không biết rằng, ngoài những buổi Cửu Dương cùng Giác Viễn đại sư luyện tập võ nghệ sau chùa Thiếu Lâm, chàng ta còn theo Mã Lương phu tử dùi mài kinh sử, ôn luyện văn thơ. Mã phu tử lúc trước vốn là thầy giáo dạy cho các trường học ở miền nam. Sau này mới cùng một số bạn bè đứng ra tự mở trường dạy miễn phí cho đám trẻ nghèo khó nhưng ham học, đặt tên là Hắc Viện. Trong trường có rất nhiều học sinh, nhưng Cửu Dương chính là học trò tâm đắc nhất của phu tử, thậm chí được phu tử yêu mến nhận làm nghĩa tử. Mã Lương phu tử là viện trưởng đầu tiên của Hắc Viện. Sau khi ông mất thì Cửu Dương trở thành viện trưởng đời hai của trường học này.

Cho nên trái với những gì Tô Khất lầm tưởng. Một người thuộc làu kinh sử như Cửu Dương khi nghe Tô Khất múa may mồm mép chỉ cảm thấy buồn cười, nhủ bụng không ngờ tên võ tướng trông thô lỗ này lại chịu khó học thuộc sử Đường đến thế.

Bất quá chàng ta chẳng buồn tranh cãi, chỉ nhếch môi cười nhạt, nói cứng như đinh đóng cột:

- Nay bọn ta lọt vào tay các người, muốn chém muốn giết cứ việc tùy ý, cần chi nói nhiều!

Không khỏi thất vọng, song Tô Khất chưa chịu từ bỏ nhiệm vụ khuyên địch quy hàng, tiếp tục tặc lưỡi nói:

- Tiên sinh ơi là tiên sinh, với tài nghệ và kiến thức của ngài, quan trường mới là nơi để ngài dung thân, phát triển sự nghiệp tạo phúc cho muôn dân. Chuyện này đối với Cửu Dương ngài và trăm họ bá tánh mà nói, đều lợi cả đôi đường. Không phải hay sao? Hoàng thượng thánh minh, sau này nhất định sẽ không bạc đãi người. Hà cớ gì cứ ngoan cố không chịu nghe? Sao hả? Ta nói như vậy, ngài nghĩ thế nào?

Cửu Dương bỗng lấy làm lạ, chỉ bằng mấy lời tầm thường thế này mà đòi thuyết phục chàng quy hàng thì kẻ địch quá ngây thơ rồi. Nhưng cớ sao gã này cứ nhì nhèo mãi không buông? Cho nên chàng liền tập trung suy nghĩ, thầm phán đoán về dụng ý thật sự của đối phương. Bất giác quay sang bắt gặp Tam ca liếc nhìn mình, ánh mắt là lạ như thấp thoáng nỗi băn khoăn, Cửu Dương giật mình bừng tỉnh.

Thử nghĩ mà xem, Giang Nam thất hiệp bọn họ, trong khi sáu người bị coi là phản tặc cần phải tru diệt. Riêng mình chàng lại được đối xử đặc biệt, trước đích danh gọi ra nói chuyện, sau lấy lễ đối đãi rồi dùng lời thiết tha khuyên bảo. Chuyện này nếu truyền ra, thì dù có chạy thoát được hôm nay cũng không tránh khỏi người trong hội xì xào bàn tán. Đến lúc đó dẫu bảy người tình như thủ túc nhưng ai dám chắc qua sự kiện này quan hệ giữa chàng và cả bọn không có vết gợn. Quả nhiên chia rẽ ly gián mới là dụng ý sâu xa của kẻ địch.

Cửu Dương cười khổ, bèn nói nhỏ:

- Tam ca, cẩn thận kế ly gián!

Nhưng ngẫm lại, một kẻ nom lỗ mãng như tên tướng quân này khó có khả năng dùng tâm kế. Vậy hẳn là do cao nhân nào đó đứng sau bày ra rồi. Thế là chàng càng thêm cảnh giác.

Về phần Tô Khất, nói hết nước hết cái song đối phương chỉ một mực im lặng, y bực tức kêu:

- Ngài không nghe theo lời ta khuyên, mai này thiên hạ phỉ nhổ đừng có hối hận. Sao một kẻ có tài năng, tự cho mình là hiểu biết lễ nghĩa lại đi làm chuyện hành thích hoàng đế, làm việc đại nghịch bất đạo, thiên tru địa diệt như vậy chứ?

Trương Quốc Khải được sư đệ nhắc nhở, bấy giờ mới vỡ lẽ, lòng có chút ngượng ngùng. Tai lại nghe tên tướng giặc khốn kiếp chửi sư đệ như vậy, máu nóng dồn thẳng lên trên đỉnh đầu. Lửa giận nổi phừng phừng, Trương Quốc Khải mới thò đầu ra khỏi thân cây lớn tiếng mắng:

- Mẹ kiếp, con bà nhà ngươi, cái tên cẩu quan kia, nói mà không biết ngượng à? Bọn ta còn chưa chửi nhà ngươi bất trung bất nghĩa đấy? Còn dám nói sư đệ ta khụ khụ…

Vì vận sức lấy hơi đột ngột động tới vết thương nơi ngực, thành ra chưa hết câu y đã ho sặc sụa. Cửu Dương đặt tay lên vai Trương Quốc Khải, ý như muốn bảo sư huynh bình tĩnh lại, sau đó nghiêm mặt đáp:

- Tên võ quan vô lại kia, ta nghe giọng của ngươi, rõ ràng cũng xuất thân người Hán, cớ sao lại đi phò trợ cho đám người dị tộc? Ngươi nghĩ ngươi như vậy, là anh hùng, là hảo hán lắm sao? Giang sơn gấm vóc người Hán chúng ta hôm nay lọt vào tay lũ mọi rợ Mãn Châu, để chúng tự ý phân chia, cai trị bằng đòn roi hà khắc. Hằng ngày đâu đâu cũng có chuyện bất bình, hà hiếp bá tánh, ngươi có thể nhắm mắt làm ngơ hay sao?

Tô Khất trợn mắt chưa biết đối đáp thế nào, Cửu Dương lại nói tiếp:

- Ta nghĩ thay vì nhận giặc làm cha trợ Trụ vi ngược, bị người sau ngàn đời nguyền rủa. Bây giờ còn chưa muộn đâu, hãy quay giáo theo ta phò trợ Tổng đà chủ, đưa người trở thành một Võ hoàng đế thứ hai, một quân chủ nhân nghĩa trị quốc anh minh, giúp người Hán ta đem đám người Mãn đuổi ra ngoài quan ngoại…

Cửu Dương còn nói nhiều nữa nhưng Tô Khất chẳng muốn nghe. Thầm nghĩ tên này ngoan cố không chịu quy hàng rồi, y thô lỗ cắt ngang, cách thức xưng hô cũng thay đổi:

- Chim khôn biết lựa cành lành mà đậu, kẻ biết thời cơ mới là trang tuấn kiệt. Chẳng lẽ ngươi chưa nghe qua câu đó à?

Xem chừng cũng quá ngán ngẩm rồi, y cáu tiết xua tay nói tiếp:

- Mà thôi đi! Bản tướng chẳng thèm nhiều lời với nhà ngươi nữa. Bây giờ ta đếm ba tiếng, nếu như ngươi còn không chịu vác mặt ra quy hàng, thì chỉ có con đường... Chết....


Dứt lời bèn hô to:

- Một!

Đoạn y giơ tay làm hiệu, đoàn quân thiết giáp phía sau đồng thanh thét lớn.

- Haiiii!

Cửu Dương trầm mặc nhìn Trương Quốc Khải rồi ngoảnh đầu về phía ngôi chùa Quan Âm. Chàng ta nghe văng vẳng trong gió tiếng hò reo chém giết dữ dội, tiếng vũ khí chạm nhau loảng xoảng xen lẫn tiếng súng đạn nổ đùng đùng. Quân Thanh đã dùng tới thứ vũ khí lợi hại này, chỉ sợ sư thái và mấy vị đương gia kia lành ít dữ nhiều rồi.

- Đằng nào huynh cũng khó thoát kiếp nạn này, để ta cầm chân bọn chúng, đệ mau chạy đi! - Trương Quốc Khải giục.

Nhưng Cửu Dương chỉ lắc đầu bởi chàng ta đã có quyết định của riêng mình. Quay sang Trương Quốc Khải, giọng Cửu Dương nhẹ tênh như chẳng để ý sinh tử đang kề bên:

- Tam ca, còn nhớ lúc bảy người huynh đệ bọn ta cắt máu ăn thề có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu không? Phúc thì chưa thấy song ít nhất cũng được như tâm nguyện, chúng ta không sinh cùng năm nhưng lại được chết cùng ngày cùng tháng!

Nghe vậy Trương Quốc Khải không khỏi nghẹn ngào, bao lời khuyên nhủ định thốt ra lại nuốt ngược trở lại. Thất đệ đã quyết ý như vậy y còn biết nói gì đây. Trong lòng cảm động vô cùng, y đặt tay lên vai sư đệ, xiết thật chặt:

- Thất đệ, nếu có kiếp sau chúng ta lại là huynh đệ tốt!

Hai người thoải mái hàn huyên chẳng cần biết bọn quân thiết giáp đã hô đến tiếng thứ ba. Dứt ba tiếng mà không thấy Cửu Dương vác mặt ra hàng, Tô Khất bực mình sẵng giọng:

- Đúng là thân lừa ưa nặng, nói nhẹ không nghe cứ thích phải nặng tay!

Đoạn y vung cây trảm mã đao chém vào không khí, quát lớn:

- Lên!

Chỉ chờ có vậy, đoàn quân thiết giáp hò hét xông lên như sóng vỡ bờ, ùa tới vây lấy hai người. Do bọn chúng ai cũng trang bị giáp bọc sắt nên hai huynh đệ vô cùng chật vật, chỉ còn biết vừa đánh vừa lùi. Hơn nữa Trương Quốc Khải trong mình thương thế không nhẹ, chống trả một hồi cũng đành vùng vẫy trong tuyệt vọng. Trước khi gục xuống, y định vung kiếm tự sát còn hơn chết nhục trong tay Thanh binh thì Cửu Dương đã cản lại:

- Tam ca! Chưa đến đường cùng, tội gì phải thế!

Dứt lời chàng quát lên một tiếng, mượn lực từ thân cây kế bên, xoay người thi triển liên hoàn cước khiến hai ba tên lính trước mặt ngã dúi dụi vào đồng bọn phía sau. Tranh thủ lúc đội hình đối phương rối loạn, Cửu Dương lập tức dìu Trương Quốc Khải xoay người bỏ chạy.

- Còn muốn trốn sao? Đuổi theo cho ta! Tô Khất liền ra lệnh.

Đúng lúc ấy bỗng có tên thân binh bước lên thưa:

- Bẩm tướng quân...

- Chuyện gì?

- Nhìn hướng bọn chúng chạy, thuộc hạ e là...

Thấy tên này ấp a ấp úng, Tô Khất không khỏi bực mình gắt:

- Làm sao cứ lúng búng như trẻ con tập nói thế!

- Dạ, hướng bọn chúng tẩu thoát đó là tới hẻm núi Đá Ma!

- Hẻm Đá Ma! Đó là cái gì? - Tô Khất nhíu mày.

- Mấy ngày trước thuộc hạ theo lệnh đi trinh sát khu vực này, có nghe dân địa phương kể, nơi đó không ít thợ săn khi đuổi theo con mồi vô tình chạy vào bỗng dưng biến mất tăm tích. Một số người gan dạ đi vào tìm kiếm cũng cùng chung số phận. Kẻ may mắn sống sót trở ra được thì điên điên khùng khùng, sống dở chết dở, lay lắt thêm mấy ngày cũng chết. Đặc biệt khi gặng hỏi chuyện xảy ra trong khe núi họ tỏ ra vô cùng hoảng loạn. Từ đó dân địa phương sợ hãi chẳng dám bén mảng lại gần…

Nghe vậy Tô Khất nhăn mặt, trầm giọng hừ lạnh:

- Giả thần giả quỷ, hồ đồ nhảm nhí!

Tên thân binh vội nói tiếp:

- Thoạt đầu thuộc hạ cũng không tin bèn đích thân đi vào dò xét. Hóa ra đó là một khu phế tích bỏ hoang, tứ bề núi đá bao quanh. Trên mặt đất rải rác rất nhiều hố sâu như lỗ giếng không rõ để làm gì, thuộc hạ trộm đoán nhiều khả năng đám thợ săn do bất cẩn rơi xuống đó. Có điều...

- Có điều thế nào? - Tô Khất sốt ruột quát.

Tên thân binh lại ấp úng:

- Dạ... có điều thuộc hạ cảm nhận, đúng là trong đó có gì đó rất bất thường, ngột ngạt khó thở cứ như... cứ như, như ai đó đè lên ngực vậy...

- Hừ, nói linh tinh. Tô Khất ta trước nay chỉ tin thanh đao trong tay mình, há lại đi sợ chuyện ma quỷ vớ vẩn này!- Gã nạt nộ thủ hạ, đoạn hô lớn:

- Truyền lệnh bản tướng tất cả lên hết truy bắt phản tặc cho ta, sống thấy người chết phải thấy xác. Kẻ nào còn nói năng xằng bậy làm dao động lòng quân liền xử theo quân pháp!

Chúng tướng dạ ran, lập tức đốc thúc binh lính rầm rập đuổi theo. Chạy không bao xa quả nhiên đến một khe núi cây cối rậm rạp xơ xác, đi vào chừng vài chục bước lại là một khoảng trống rộng rãi, xung quanh ngổn ngang những thanh gỗ mục nát, nhìn hình dáng hẳn lúc trước dùng làm trụ chống và giá đỡ. Mặt trời vừa hay bị rặng núi che khuất một phần, chỉ hắt được xuống thứ ánh sáng mờ mờ. Trong không khí vẩn lên một thứ mùi khó chịu khiến người ta tức thở. Binh lính gặp khung cảnh kỳ dị này liền không tránh khỏi thấp thỏm lo âu.

- Cẩn thận nhìn hố dưới chân! Tên thân binh nọ đang dẫn đầu hô to nhắc nhở.

Tô Khất nhíu mày quan sát xung quanh, không khó để thấy Cửu Dương đứng cách đó không xa. Bên cạnh, Trương Quốc Khải đang ngồi tựa lưng vào một bức tường đổ, xem chửng đã sức cùng lực kiệt. Thế là y đắc ý cười gằn:

- Cửu Dương, xem ngươi còn chạy đi đâu được nữa? Chịu chết đi thôi!

Đáp lại Cửu Dương chỉ cười cười:

- Muốn giết được huynh đệ ta, các ngươi cũng phải trả cái giá không nhỏ đâu!

- Hừ, chết đến nơi còn khoác lác. Bắt chúng cho ta!

Tô Khất quát một tiếng, toán quân đi đầu lập tức dàn thành hình vòng cung chậm rãi tiến lên. Nhưng vòng vây càng siết chặt mục tiêu, tâm trạng Tô Khất trái lại càng bất an. Nhìn đối phương tỏ vẻ thong dong, trực giác của một người cầm quân dày dạn sa trường mách bảo y có điều gì đó không bình thường.

Quả nhiên đang chắp tay sau lưng, tả thủ Cửu Dương bỗng vươn ra, trên tay lập lòe một mồi lửa. Mắt liếc vòng vây trùng trùng đang khép chặt, chàng ta mỉm cười nhẹ nhàng buông tay. Ánh lửa lóe lên, chầm chậm rơi xuống phút chốc biến mất dưới một hố sâu bên cạnh.

Khoảnh khắc thấy Cửu Dương ném xong mồi lửa, liền đó kéo Trương Quốc Khải trốn sau bức tường đổ, trái tim Tô Khất nảy lên một cái, y không rõ chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo song trong lòng cồn cào bất an. Một sự tĩnh lặng bao trùm cả khe núi. Thậm chí Tô Khất nghe rõ tiếng đập thình thịch trong lồng ngực mình.

Y còn chưa kịp hô to cảnh báo, thình lình một tiếng nổ kinh thiên động địa đập vào tai. Mặt đất rung lên rần rần sụt lở từng mảng, vô số cột lửa đỏ rực phun ra từ những hố sâu trên mặt đất, cả khe núi chớp mắt như một Hỏa diệm sơn bốc cháy ngùn ngụt.

Ngay khi đó có người xô một cái thật mạnh khiến Tô Khất ngã nhào. Được thân binh che chở, y nằm rạp trên mặt đất mà mặt mũi tái mét, thất kinh hồn vía nhìn toán quân đi đầu đã biến thành những bó đuốc sống đang gào thét đau đớn rồi từ từ gục xuống quằn quại trong biển lửa.

- Tướng quân, phải mau thoát khỏi đây thôi - Một tên thân binh cuống quít giục.

Cũng may vị trí của y ở giữa đoàn, tương đối gần với lối vào. Bọn thân binh bèn ném khiên xuống đất dập lửa làm thành một con đường, quát tháo binh lính nhường đường rồi liều chết che chắn cho chủ tướng, chật vật một hồi cũng thoát khỏi chảo lửa địa ngục trần gian.

Nhưng phần đông thì không được may mắn thế. Gần lối vào khe núi, quân Thanh hoảng loạn chà đạp, xô đẩy nhau để giành một con đường sống. Song chỉ càng làm bọn chúng níu chân lẫn nhau, chạy tới đâu lửa tràn theo tới đó khiến vô số người chết vì bỏng.

Bởi thế lửa quá mãnh liệt, phụt lên hừng hực từ những lỗ giếng, mà quân của Tô Khất trang bị thiết giáp, vô tình chẳng khác nào những miếng sắt bị nung đỏ nóng rẫy áp lên da thịt, đau đớn không sao tả xiết. Thế là bọn chúng cuống cuồng lột bỏ giáp trụ, vừa đạp lên nhau vừa la khóc ầm trời.

Phải một lúc sau sức lửa mới giảm bớt, vẫn còn cháy chỉ còn cây cối và gỗ mục quanh đó. Chỉ chờ có thế, Cửu Dương kéo Trương Quốc Khải chui ra khỏi hầm trú ẩn. Hai huynh đệ dìu nhau lom khom tìm đường thoát.

Khói lửa mịt mù rất khó thấy đường đi song như đã có chuẩn bị, Cửu Dương trùm lên cả hai một tấm vải sũng nước. Sau khi xác định đúng phương hướng, hai huynh đệ nín thở để khỏi chết ngạt rồi chạy thật nhanh theo lối đã dự tính trước. Trong cảnh hỗn loạn, binh Thanh kẻ nào kẻ nấy chỉ lo thoát thân đâu còn lòng dạ nào để ý ai với ai nữa. Vì thế bọn họ dễ dàng trà trộn thoát ra ngoài.

Vừa dừng chân tạm nghỉ, Trương Quốc Khải liền ho sặc sụa, dù thở không ra hơi vẫn không quên tán dương huynh đệ:

- Thất đệ... đệ thực lợi hại! Một mồi lửa đã nướng trọn cả đội quân tinh nhuệ!

Nhưng Cửu Dương chỉ lắc đầu, đoạn nặng nề đáp:

- Vạn bất đắc dĩ mà thôi. Nếu không buộc phải "tìm đường sống trong chỗ chết," đệ thật không muốn tạo sát nghiệp kiểu này!

Thoáng trầm ngâm, Trương Quốc Khải thở dài:

- Ta hiểu nỗi khổ tâm của đệ nhưng đã đi con đường vì đại nghiệp phục quốc này, chúng ta đâu có nhiều lựa chọn...

Chưa hết câu y đã ôm ngực ho khù khụ, gương mặt tím tái đỏ bừng. Cửu Dương lo lắng hỏi:

- Hay trước mắt cứ tìm một nơi an toàn để Tam ca ẩn náu đã?

- Không... không sao! Lửa lớn còn không thiêu chết được bọn ta, thế này ăn nhằm gì. Đệ đừng lo, ta vẫn cầm cự được! Mau tới đại điện hội họp với mọi người thôi!

Xem ra Trương Quốc Khải vẫn canh cánh trong lòng sự sống chết của đồng bạn. Thế là Cửu Dương xúc động gật mạnh đầu:

- Đi!

Hai người tiếp tục dìu nhau hướng tới bìa rừng. Bất quá vừa dợm bước ra khỏi rừng thông liền thấy hàng hàng cung thủ đang giương cung lắp tên cùng vô số trường mâu tua tủa, chĩa lên trời rậm rạp như rừng. Ba quân nghìn nghịt, thật không rõ là đông tới bao nhiêu.

Trước trận, Tô Khất dù đã chỉnh trang giáp trụ song râu tóc tán loạn, đen nhẻm tro than đang bầm gan tím ruột gào thét:

- Cửu Dương! Bản tướng phải băm vằm ngươi ra mới hả giận!

Quả thực chỉ cần một hiệu lệnh của Tô Khất là hàng ngàn hàng vạn mũi tên cùng lớp lớp trường mâu sẽ nhằm vào hai người họ phóng tới, dù bản lĩnh bằng trời cũng không thoát khỏi tình cảnh như con nhím.

Cửu Dương bèn dìu Trương Quốc Khải dứt khoát lộn trở lại vào rừng. Trong lúc vội vã, cả hai đều không biết một cuộn trúc nhỏ cỡ bó đũa đã rớt ra từ trong người chàng...

Một tên lính cung kính dâng lên cho Tô Khất:

- Bẩm tướng quân, trong lúc truy đuổi nghịch tặc đã nhặt được vật này!

Y không do dự cầm lấy mở ra xem. Chỉ thấy sau khi trải rộng hai ống trúc liền hiện ra bức tranh vẽ một người con gái. Vừa nhìn thoáng qua, cặp mắt hổ của vị phó tướng bỗng dưng trợn lên như bị trúng tà. Tô Khất ngơ ngác hồi lâu, ngẩn người chăm chú nhìn hình vẽ đến xuất thần.

Đó là chân dung một người con gái với nét đẹp vô cùng diễm lệ. Nàng không những xinh đẹp vô song mà từng nét vẽ còn làm nổi bật lên vẻ thuỳ mị đoan trang, sống động tuyệt vời. Nói không ngoa rằng, người họa sỹ vẽ bức họa này quả thật đôi tay như thần, đã thành công thổi vào hình hài trên giấy một linh hồn. Hoặc giả, biết đâu tâm sự của người nghệ sĩ hoàn toàn ký thác vào đó thì tác phẩm mới có thể có thần đến như vậy…

Lại nói tiếp về Cửu Nạn sư thái. Sau mấy mươi hiệp bất phân thắng bại bà biến chiêu từ trảo thành chưởng vỗ vào mặt Sách Ngạch Đồ. Y đưa kiếm lên cản, lại thấy bàn tay sư thái không kịp rút về để hở một khoảng trống trước ngực. Nhân cơ hội đó, Sách Ngạch Đồ bèn hoành ngang đầu kiếm biến thành thế chém thẳng qua. Nhưng hóa ra, sư thái chỉ giả vờ để dụ kẻ địch lỡ đà ra chiêu mà thôi. Chờ họ Sách xuất chiêu rồi bà lập tức nghiêng mình ra sau tránh né, xuất cước đá trúng vào vùng hạ bộ của Sách Ngạch Đồ.

Lãnh trọn một cước Liêu Âm Thoái của Cửu Nạn sư thái, Sách Ngạch Đồ la thảm, đổ gập người xuống đau đớn. Sư thái thừa thế xông tới, định bồi thêm liên hoàn cước nữa kết liễu sinh mạng họ Sách, song lại bị mấy tên lính Thanh gần đó vung trường đao, liều chết xông qua cứu viện.

Sách Ngạch Đồ thoát nạn, thở ra một hơi gượng đứng thẳng dậy, nghiến răng cố nén cơn đau. Y căm tức mắng:

- Con mụ già thủ đoạn thực ti tiện!

Cửu Nạn sư thái lạnh lùng đáp lại:

- Hừ, giết được đám cẩu quan Mãn Thanh các ngươi, ti tiện đến mấy lão ni ta cũng sẵn sàng làm!

Vừa may lúc này một viên quan khác của triều đình Mãn Châu là Long Khoa Đa kéo một đội quân trang bị súng ống đến trợ giúp. Sách Ngạch Đồ chẳng thèm do dự bèn nhảy ra khỏi vòng chiến mặc lời mắng chửi của Cửu Nạn sư thái. Chỉ chờ có thế, Long Khoa Đa hô khẩu lệnh, một loạt đạn đùng đùng bắn ra.

Lập tức Cửu Nạn sư thái rơi vào cảnh lưỡng nan thọ địch, vừa phải đối phó với Thanh binh vung kiếm chém tới tấp phía trước vừa phải lo tránh né những viên đạn bắn tới mạn sườn phía sau. Tâm cơ máy động, bà bèn cong tay thi triển Kim Cang Trảo chộp lấy kẻ đứng gần nhất hòng đem y làm tấm khiên thịt chắn đạn cho mình. Dè đâu trảo vừa chạm đỉnh đầu địch thủ, lồng ngực sư thái bỗng đau điếng khiến cả người loạng choạng, mới hay đã trúng đạn rồi.

- Tổng đà chủ...!

Mắt vẫn bao quát toàn trường, Tứ đương gia Đoàn Khiết Tường và Lục đương gia Cung Từ Ân thấy vậy không hẹn cùng kêu lên thất thanh, bèn thi triển khinh công lao tới cứu viện. Nhưng sư thái miễn cưỡng còn cử động linh hoạt, bà vừa xoay người né đao của một tên lính Thanh nhân cơ hội đánh lén, ống tay áo quét ngang quật thẳng vào ngực khiến hắn tuyệt khí bỏ mình, đoạn trấn an hai người:

- Không sao, còn chưa trúng chỗ yếu hại. Mau tiêu diệt bọn lính hỏa thương!

Binh khí mà Đoàn Khiết Tường và Cung Từ Ân sử dụng đều là trường cung, quả thực rất phù hợp đối phó với hỏa lực quân Thanh. Hai vị cao thủ xạ tiễn vừa đứng chắn cho sư thái vừa liên tay kéo cung không ngừng. Tiếng cung bật veo véo liên hồi, một trận mưa tên khiến quân Thanh ngã đổ nháo nhào, phút chốc giết được hàng chục tên. Bất quá cuối cùng họ cũng không chống lại được súng ống phương tây. Khi hàng xạ thủ thứ hai của quân Thanh nổ súng, hai người bị đạn bắn trúng đầu gối ngã quỵ xuống đất. Còn đang đau đớn, gắng gượng đứng dậy thì trước ngực lại trúng một loạt đạn nữa, liền gục tại chỗ.

- Không... Khiết Tường... Từ Ân!!!

Chứng kiến hai vị đương gia vì thế mà chết thảm, Cửu Nạn sư thái kêu lên thảng thốt, quát một tiếng nén đau dợm xông lên nhưng đội hỏa thương đã nạp xong đạn, lại tiếp tục nã đùng đùng. Bất đắc dĩ sư thái phải liên tục xoay người nhảy tránh.

Nhị đương gia Tần Thiên Nhân đang bị vây công gần đó, thấy vậy nghiến răng chịu vài đao, đột phá vòng vây xông ra. Mắt liếc thấy một chiếc Lư hương đúc bằng đồng bày trước sân Đại điện, cao chừng hơn trượng, vừa dày vừa to. Tần Thiên Nhân thét lớn, lấy hết sức bình sinh xuất Hoàng Xà Địa cước, đá một cú mạnh như sấm sét khiến chiếc lư đồng xoay ngang rồi đổ ầm lăn đi, vừa may chắn trước người sư thái. Một loạt tiếng keng keng vang lên liên hồi, song đạn bắn vào lư đồng chỉ để lại vài vết xước nhỏ. Hơn nữa khi nó đổ xuống đất làm tro bụi rơi vãi bay mù mịt, khoảng sân chùa bỗng chốc như chìm trong tấm lưới xám xịt. Đội hỏa thương không thấy được thích khách, nhất thời chẳng dám nổ súng bừa bãi. Nhân cơ hội đó Tần Thiên Nhân đỡ lấy sư thái giục:

- Tổng đà chủ, chúng ta tạm thời rút lui thôi!

- Không được, còn chưa giết được cẩu hoàng đế... - Sư thái mím môi đáp.

- Đây là một cái bẫy. Bọn chúng đã sớm chuẩn bị huy động cả quân hỏa thương, có nhanh cách mấy chúng ta cũng không xông qua nổi đâu!

Thực ra Cửu Nạn sư thái cũng hiểu điều này, bà uất hận thốt lên nghẹn ngào:

- Nhưng... ta không cam lòng. Lẽ nào để Khiết Tường và Từ Ân chết vô ích vậy sao?

Tần Thiên Nhân đau đớn nhìn hai huynh đệ nằm đó, đoạn cắn răng tiếp tục khuyên nhủ:

- Chỉ cần Tổng đà chủ còn, Đại Minh Triều chúng ta còn có thể báo thù rửa hận. Nếu bây giờ xông bừa vào, chết oan uổng dưới tay quân Thanh mới phụ sự hy sinh của họ đó!

Sau một thoáng trầm ngâm, sư thái đành nặng nề gật đầu. Vừa may lúc đó lại có Ngũ đương gia Tàu Chánh Khê tiếp ứng. Thế là người lăn lư đồng, người dìu sư thái, cả ba nấp phía sau cùng bỏ chạy. Chiếc lư đồng nặng vạn cân như hòn núi nhỏ lăn ầm ầm, lăn tới đâu bọn lính Thanh kinh hồn táng đởm chạy tán loạn đến đó, nhờ thế ba người họ thuận lợi xuống núi. Song tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, bất ngờ lại đụng độ một toán quân phục sẵn, mà người chỉ huy chính là Cửu Môn đề đốc thành Bắc Kinh Nhạc Chung Kỳ.

- Để đệ cản bọn chúng, hai người mau chạy đi!

Dứt lời, Tàu Chánh Khê liều mình khua đao đánh át vào trận địch, quyết mở con đường máu cho Tần Thiên Nhân đưa tổng đà chủ thoát hiểm. Có điều Tần Thiên Nhân vừa phải dìu sư thái, vừa phải chống đỡ binh lính tập kích tứ bề, không làm sao thoát nhanh ra được, tức thì lại rơi vào thế hạ phong. Vừa lúc song đao của hai tên lính Thanh đồng thời công đến, Tần Thiên Nhân lừa thế cướp được một, tiện tay dùng làm binh khí chống trả kẻ địch.

Nhạc Chung Kỳ đứng ngoài đốc chiến, lúc này sát tâm máy động, quyết hạ cho bằng được Tần Thiên Nhân để giết sư thái. Chỉ cần thành công thì gã lập đại công rồi.

- Lũ giặc cướp, mau mau chịu chết!

Vì thế sau một tiếng quát, gã xách thương gia nhập vòng vây.

Tần Thiên Nhân vốn là quyền gia cao thủ, không quen dùng đao. Nhưng chiêu số quyền thuật tác dụng chỉ trong phạm vi gần, nếu không nhập nội thì không đả thương đối phương được. Thêm nữa dù võ công của Tần Thiên Nhân rất cao cường, song họ Nhạc cũng không hề kém, thương pháp lão luyện có thể tự thị là cao thủ chốn công môn.

Nhạc Chung Kỳ biết đối phương nôn nóng muốn đào tẩu nên y chẳng việc gì phải vội, trước tiên cứ thủ kín như bưng. Cây Huyết đương thương không ngừng múa tít trên tay khiến Tần Thiên Nhân không sao tiếp cận được. Hơn nữa Tần Thiên Nhân lại vướng một tay phải dìu sư thái đang bị thương, cho nên loay hoay mãi chưa biết đột phá thế nào.

Thêm một khắc nữa trôi qua, Cửu Nạn sư thái mất máu quá nhiều dường như sắp lả đi. Phát giác điều này, đường thương của Nhạc Chung Kỳ không đánh vào Tần Thiên Nhân nữa, mà đổi hướng công đến cổ sư thái.

- Khốn kiếp!

Tần Thiên Nhân thốt lên giận dữ, cả kinh vẫy đao gạt ra, song y vì lo bảo vệ sư thái mà bị mũi kiếm của tên lính phục đằng sau đâm cho một nhát vào lưng. Còn đang giật mình, thì tay cầm đao lại nhận thêm một vết chém nữa, cử động vì thế mà chậm hẳn lại. Nhạc Chung Kỳ đâu để lỡ cơ hội này, càng tấn công ráo riết.

Phía đằng kia cũng chẳng khá hơn là bao, Tàu Chánh Khê sau một hồi tả xung hữu đột, quân địch chẳng ít đi thì chớ mà càng lúc càng đông. Y đành lực bất tòng tâm, không tài nào phá vây được.

Đúng lúc Tàu Chánh Khê tưởng đâu cả ba người bọn họ phải bỏ mạng ở Sơn Tây rồi, thình lình biến cố xuất hiện.

Chỉ thấy một bóng người toàn thân y phục đỏ rực như máu, lướt tới tựa vệt sao băng ngang trời. Song kiếm trong tay người đó nhoáng lên, chỉ với hai chiêu đã ép Nhạc Chung Kỳ thoái lui ba bốn bước. Từ dáng hình yểu điệu Tàu Chánh Khê dễ dàng nhận ra là một cô gái. Bất quá y không biết đó là ai vì trên mặt nàng cũng đeo một chiếc khăn lụa đỏ rực.

Kiếm pháp của nàng hoa mỹ, lại thêm y phục đỏ chói dưới ánh mặt trời ban trưa, trông lộng lẫy rực rỡ như một con phượng hoàng lửa. Nhạc Chung Kỳ vì thế không khỏi hoa mắt chóng mặt, luống cuống tay chân.

- Ngươi là ai? Có biết trợ giúp phản tặc là trọng tội tru di cửu tộc hay không?

Gã vừa sợ vừa bực mình, quát tháo om tỏi nhưng nàng ta chỉ lặng thinh. Nhờ có cô gái cầm chân họ Nhạc, Tàu Chánh Khê và Tần Thiên Nhân nhẹ nhàng hẳn, mới an tâm quay sang tấn công đám quân Thanh.

Nhạc Chung Kỳ lại khổ không nói nên lời. Dựa vào thân pháp như quỷ mị, Huyết y nữ tử luôn tránh lấy cứng đối cứng với gã. Cho nên dù thương pháp gã mạnh mẽ có thừa, lại như đánh vào không khí, hết sức khó chịu. Ngược lại song kiếm trong tay nàng bám sát gã không rời, phối hợp vô cùng lợi hại, liên miên bất tuyệt như sóng vỗ bờ khiến Nhạc Chung Kỳ không biết đâu mà lần.

Rõ ràng gã nhận thấy mũi kiếm lóe lên nhằm bên mé trái bèn dợm bước sang phải. Ngờ đâu một mũi kiếm khác như độc xà đã đợi sẵn từ khi nào, sẵn sàng đưa gã vào tử lộ. Nhạc Chung Kỳ kinh hãi không kịp né tránh, trong lúc gấp rút phải vứt thương rùn người nhào xuống đất, lăn mấy vòng ra ngoài, mới thoát được độc chiêu.

Vừa khiến Nhạc Chung Kỳ chạy bạt ra xa, cô gái liền vung kiếm, cách không chém liên tiếp mấy nhát nhanh gọn vô những cây cổ thụ mọc gần đó.

Xoẹt xoẹt.

Từ khoảng cách gần trượng, làn kiếm khí nhoáng lên nhanh như chớp, vụn gỗ bắn tứ tung. Lập tức mấy cây đại thụ rầm rầm đổ xuống khiến đất đá nhất thời bốc lên mù mịt. Đám quân Thanh hoảng sợ dạt cả ra, chỉ chờ có thế cô gái hô lớn “Chạy mau!” rồi cùng với Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê dìu sư thái thoát hiểm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 3: Ngự biển

Cửa sau Hắc Viện học xá tỉnh Hàng Châu, một ông lão đầu tóc bạc trắng đang đứng xuôi tay, ánh mắt chăm chăm như muốn xuyên qua cánh cửa đang đóng im ỉm, thi thoảng buông từng tiếng thở dài thườn thượt. Gần đó là Nhạc Tam Nguyên đi tới đi lui trên hành lang, hai tay đấm vào nhau vẻ nôn nóng.

- Đã mấy ngày rồi, sao chẳng có chút tin tức là sao...- Chàng ta liên tục lẩm bẩm.

Chừng như cũng sốt ruột, ông lão quay qua cằn nhằn:

- Tam Nguyên à, cậu đứng yên một chút có được không? Lão chóng hết cả mặt rồi đây!

- Nhưng Trần thúc, cháu... - Chưa nói hết câu, Nhạc Tam Nguyên buồn bực đấm mạnh một cái vào tường.

- Lão biết chứ! Lão cũng đang cồn cào hết cả ruột gan khác gì cậu đâu. Nếu mọi người có mệnh hệ gì, Đại Minh Triều hội chúng ta... Ài, thôi không nói nữa! - Ông thở dài đánh thượt một cái.

Đã mươi ngày nay, từ khi Giang Nam thất hiệp đi hành thích Khang Hi ở Quan Âm tự, hai người họ không đêm nào ngủ được tròn giấc, cứ hễ đặt lưng nằm xuống thiếp đi một hai canh giờ là lại giật mình ngồi bật dậy, ra ngoài cửa này ngóng đợi.

Nhạc Tam Nguyên ngồi phịch xuống bậc thềm gần đó, sầu não nói:

- Cháu thấy mình thật vô dụng, sư thái và các vị đương gia đang cơn gian nguy, sinh tử chưa rõ. Còn cháu chỉ biết ngồi đây bất lực chờ đợi!

Nghe vậy ông lão cười khổ, tiến đến vỗ nhẹ lên vai chàng ta:

- Đừng coi nhẹ bản thân như vậy chứ, không tham gia hành động lần này thì còn lần khác. Tam Nguyên cậu tuổi còn trẻ, tương lai ắt còn nhiều cơ hội ra sức cho Hội. Như lão đây...

Thoáng trầm mặc, ông cảm khái thốt:

- Nắm xương già này chả biết có sống được tới ngày nhìn chúng ta hoàn thành đại nghiệp phục quốc hay không?

Nhạc Tam Nguyên giật mình, biết mình vô tình khơi lên tâm sự của ông lão bèn nói lảng đi:

- Thúc lại cả nghĩ rồi. Hay là thúc đi nghỉ chút đi. Có tuổi rồi, đêm nào cũng thức như vầy hại sức khỏe lắm. Để mình cháu chờ cửa được rồi!

- À được lắm, lão chỉ an ủi mà Tam Nguyên cậu tưởng thật, lại chê ta già hả. Có tin trong mười chiêu lão Trần này gõ bàn tính u đầu cậu không? - Ông lão bật cười mắng.

- Hậu sinh nào dám, ai chẳng biết "Bàn tính gia" ngài xuất quỷ nhập thần chuyên trị đám giang hồ đại đạo, khiến chúng nghe tên là khiếp vía chứ!

Ông lão chỉ lắc đầu cười cười:

- Tam Nguyên cậu học ai không học, lại đi học bản lĩnh mồm mép của thằng nhóc Hiểu Lạc. Thật là...

Hai thúc cháu đều cười xòa khiến không khí nặng nề vơi bớt phần nào. Tuy Nhạc Tam Nguyên có pha trò đôi chút nhưng quả thực chàng ta không hề nói quá. Vốn ông lão này tên họ Trần Tôn, năm nay đã gần lục tuần, râu tóc bạc phơ cả rồi song năm xưa cũng là một hiệp khách cao thủ từng tung hoành ngang dọc ở Giang Nam. Nhờ thứ vũ khí độc đáo là một bộ bàn tính bằng sắt, ông được đồng đạo giang hồ khâm phục tặng cho ngoại hiệu là "Bàn tính gia." Sau này vì cảm phục đức độ của Mã Lương phu tử, ông mới xin theo bảo vệ kiêm luôn việc sổ sách.

Cũng phải nhắc lại rằng, đó là khi Mã Lương phu tử cùng hai người bạn tâm giao Tần Nhị, Lâm Vĩ cùng nhất trí đứng ra mở một ngôi trường dạy học miễn phí cho những người nghèo khó nhưng ham học, đặt tên là Hắc Viện học xá. Sau này, khi biết thật ra ba người họ còn cùng với Cửu Nạn sư thái và Giác Viễn đại sư liên kết lập ra một hội kín chống lại triều đình nhà Thanh từ thời Hoàng Thái Cực, Trần Tôn vui mừng thấy đúng với lý tưởng "phản Thanh phục Minh" luôn nung nấu trong lòng, liền trở thành một thành viên tích cực trong hội từ ngày đó.

Những năm đầu triều đại Hoàng Thái Cực, Bang hội Đại Minh Triều có thanh thế rất lớn. Ngoài hai tổng đà chính, một nằm ở phía Nam tức Hắc Viện học xá của trấn An Huy và một ở Tây Bắc, hội còn xây dựng được vô số các phân đà nằm rải rác khắp các miền đại giang Nam Bắc. Sau này tới triều Thuận Trị thì bị trấn áp dữ dội, hội phải lui vào hoạt động âm thầm và kín đáo hơn.

Song thời kỳ khó khăn nhất của Hội là vào năm thứ mười lăm đời Thuận Trị. Cùng một năm, bốn vị lãnh tụ Tần Nhị, Lâm Vĩ, Giác Viễn và Mã Lương lần lượt qua đời. Đặc biệt sự ra đi của Mã Lương phu tử tưởng đâu khiến Hắc viện học xá phải giải tán. Nhưng đám học sinh cho rằng đạo lý từ xưa tới nay "cha truyền con nối, sư phụ mất thì trò lên thay" bèn nhất loạt bầu người học trò tâm đắc của Mã Lương lúc bấy giờ làm viện trưởng.

Tần Thiên Văn, tức Cửu Dương khi đó nghĩ mình tuổi tác còn trẻ, vả lại tài cán chẳng được bao nhiêu bèn từ chối mãi. Cuối cùng chẳng biết kẻ nào nghĩ ra một ý, lại thêm sự nài nỉ thuyết phục của học sinh, Tần Thiên Văn đành đứng ra thử giảng vài ba buổi. Ngỡ chẳng ai nghe, nào ngờ cách giảng bài mới mẻ của chàng ta không những khiến học đường càng lúc càng đông mà học trò nơi khác nghe danh cũng đến đăng ký theo học.

Bấy giờ cổng trước cổng sau Hắc Viện học xá đều đóng im ỉm, đã qua canh ba một khắc nên bên ngoài tối đen như mực. Trong trường chỉ còn chút ánh sáng hắt ra từ những ngọn đèn lồng treo rải rác trên hành lang. Hai thúc cháu ngồi lặng lẽ, thầm nghĩ đêm nay lại một phen chờ đợi vô ích rồi thì đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa. Hai tiếng nhanh, cách quãng lại một tiếng chậm vang lên khe khẽ song không khác nào tiếng sấm bên tai họ. Đấy chính là ám hiệu các thành viên Đại Minh Triều quy ước với nhau.

Cạch một tiếng, ông lão nhanh tay rút then cài cửa. Nhạc Tam Nguyên cũng mừng như bắt được vàng, vội tiến đến.

- Cảm tạ ông Trời! Viện trưởng, cuối cùng ngài cũng bình an trở về!

Trần lão vui mừng thốt lên khi thấy Cửu Dương lảo đảo lách vào từ màn đêm.

Có thể nói ở trấn An Huy phía tây tỉnh Hàng Châu, Hắc Viện là một trong những học đường nổi bật nhất. Trường được xây cất khá bề thế và khang trang trên mảnh đất hình chữ nhật, tất cả diện tích khoảng ba mẫu. Xung quanh trường được bao bọc bởi một bức tường đá vôi cao hai thước hơn. Toàn Hắc Viện có tất cả ba cổng ra vào, một cổng chính là Tinh Thái và hai cổng hậu nằm ở hai bên hông trường học, lần lượt là Nam Hải và Bắc Sơn. Cửu Dương đi vào là từ cổng Nam Hải bên mé trái.

Trần Tôn liếc qua thấy đầu và cổ Cửu Dương lấm lem đất cát, trên lưng còn cõng thêm một người đang ngất lịm, nằm nghẹo cổ sang bên thì trong lòng hồi hộp. Trời thì tối mà ông lão tuổi già mắt kém, nheo mắt mãi vẫn không rõ là ai đành hỏi:

- Viện trưởng, là ai bị thương vậy?

- Dạ là Tam ca!

Cửu Dương mệt nhọc đáp. Phía sau, Nhạc Tam Nguyên định chốt cửa lại thì lão Tôn vội cản:

-Gượm đã!

Đoạn ông lão ghé mắt nhìn quanh quất một hồi ngoài cổng Nam Hải song nào thấy còn ai ngoài đó nữa. Ánh mắt lo âu nhìn theo bộ y phục tả tơi của Cửu Dương, ông không khỏi sợ hãi nhủ thầm “Trời ạ, chỉ có hai người trở về là sao?”

Vừa nghĩ đã cảm thấy không rét mà run, lão Trần bèn lật đật chạy theo Cửu Dương hỏi:

- Viện trưởng, viện trưởng... còn sư thái và mấy vị kia đâu?

-Dạ, cháu cũng đang lo lắm đây. Nhưng chuyện rất dài,... tóm lại lần này kế hoạch của chúng ta đã thất bại rồi!

Cửu Dương thở hổn hển, vừa trả lời vừa bước nhanh trên hàng lang tiến tới một khoảng sân rộng. Nhạc Tam Nguyên sau khi chốt cửa cẩn thận cũng vội vã chạy theo Cửu Dương và lão Tôn.

Ba người đi trong sân xuyên qua hai dãy nhà ký túc xá được cất song song ở mặt sau của Hắc Viện, mái đều lợp bằng ngói đồng ngói ống. Đông Phong tư thất và Tây Phong tư thất là tên của hai dãy nhà này. Đó là tập hợp những căn phòng rộng rãi lại có hành lang thoáng mát trước cửa với lan can bằng chấn song gỗ nối liền thành một hàng. Ngoài ra nhà bếp, kho chứa thuốc, nhà chứa củi và nhà vệ sinh cũng đều có đủ.

Lúc này đã quá canh ba từ lâu, là lúc đám học sinh đương say giấc nồng. Tất cả đèn phòng đều tắt ngấm, ngoài tiếng chân của ba người bọn Cửu Dương thì tứ bề lặng ngắt như tờ.

Nhạc Tam Nguyên thấy Cửu Dương bước có phần loạng choạng như sắp ngã xuống, vội nói:

- Để học trò cõng Tam gia giúp tiên sinh!

-Không sao, ta còn gắng được!

Cửu Dương gượng cười đáp, hai chân không hề chậm lại bởi lúc này chàng chỉ muốn đi qua khoảng sân này thật mau để đến được Tâm Thiền thư viện, song nghĩ thế nào lại quay sang nói tiếp:

- Tam gia bị một vết thương nơi tâm mạch, nếu khinh suất di chuyển chẳng may vỡ ra ta chỉ e lành ít dữ nhiều!

- Vâng, học trò hiểu! - Nhạc Tam Nguyên đáp, ánh mắt ảm đạm lại sáng lên.

Ba người chân không ngừng bước đi như chạy, vậy mà hồi sau mới tới được chỗ giếng nước Tụ Nguyệt.

Đây là một cái giếng có dạng hình thoi, đường kính miệng giếng ước độ xấp xỉ năm mét. Chiều sâu từ miệng giếng đến đáy giếng là mười lăm mét. Chung quanh ba mặt giếng được trồng một hàng rào hoa giấy cao chừng hai mét. Mặt còn lại dĩ nhiên để trống nhằm thuận tiện cho việc lấy nước. Bên trong hàng rào hoa giấy người ta lại lát một con đường nhỏ bằng gạch nung vòng quanh giếng. Theo quan niệm của người xưa, họ cho rằng giếng hình thoi tượng trưng cho mặt đất, tinh hoa trời mây khi chiếu vào nước sẽ mang đến điều may mắn. Bởi thế mục đích của việc đào giếng này, ngoài cung cấp nước sinh hoạt còn để tạo phúc từ phong thủy.

Về phần cái tên Tụ Nguyệt, lại do chính sư phụ Cửu Dương là Mã Lương phu tử đặt, với mong muốn các học sinh của Hắc Viện học xá như giếng này hấp thu nguyên khí tinh hoa từ mặt trăng, đất trời và vũ trụ, đem ánh sáng tri thức tiếp thu được trau dồi trí tuệ và phẩm chất của bản thân, để trở thành những kỳ tài tô đẹp thêm cho nền văn hóa nước nhà.

Lúc này Cửu Dương cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, bước chân nặng như đeo đá, vừa đi chàng vừa rủa thầm:

- Khỉ thật, cái trường này, đêm nay hình như nó giỡn mặt mình dài thêm ra hay sao ấy! Chứ hằng ngày mình đi từ mặt trước ra mặt sau nhoáng một cái là tới. Thế mà tối nay… phù... thật đúng y câu càng gấp càng thấy lâu, quan tâm tất loạn mà…phù…phù…

Thật ra giếng Tụ Nguyệt vừa khéo là giao điểm giữa mặt trước và mặt sau Hắc Viện học xá. Mặt trước dĩ nhiên dùng làm học đường, bao gồm hai dãy giảng đường và Tâm Thiền thư viện. Hai dãy này lại chia thành giảng đường phía Đông và phía Tây, mỗi dãy ba mươi gian có thể chứa năm mươi học sinh, chủ yếu để giảng dạy. Tâm Thiền thư viện được xây ngay chính giữa hai giảng đường này. Rất nhiều bộ sách nổi tiếng thời bấy giờ, gồm cả chính bản và lưu bản đều được tập hợp lưu giữ ở biểu tượng văn hóa tôn nghiêm này.

Lầu bầu một hồi thì rốt cuộc Cửu Dương cũng thấy tấm bảng của Tâm Thiền thư viện hiện ra trước mắt. Nhạc Tam Nguyên bèn lật đật chạy lên trước đẩy cửa. Quả thực vừa trải qua một trận chiến sinh tử, lại vừa phải bôn ba chạy trốn tận từ Sơn Tây về Giang Nam, Cửu Dương đuối sức quá rồi. Chàng chỉ kịp gật đầu mỉm cười một cái thay lời cám ơn.

Cửu Dương cõng Trương Quốc Khải trên lưng đi tới cuối thư viện, nơi có một cái tủ thờ, trên đặt bài vị ba anh em Lưu, Quan, Trương. Chiều cao phải hơn Cửu Dương khoảng gần một cái đầu.

- Trần thúc, phiền chú mở hộ cháu!

- Ôi, xem lão này, lo lắng đến mụ cả người rồi!

Khẽ vỗ trán, Lão Tôn lập cập chen lên trước, nhanh nhẹn mở cửa tủ, lại kéo cái kệ sách ra, bên trong liền xuất hiện bậc thang để đi xuống một địa đạo.

Ba người cẩn thận đi xuống. Hết bậc thang liền bước vào một căn phòng rộng có treo vài cây đuốc chỉ đủ để soi sáng hai lối đi sâu hun hút ngay trước mặt. Đã quá quen thuộc, Cửu Dương lập tức rẽ sang lối bên phải. Sau khi bước vào căn phòng đầu tiên nằm bên phải, chàng cẩn thận đặt thân thể xụi lơ mềm oặt của Trương Quốc Khải lên chiếc giường trong góc.

Có thể nói, nhìn bề ngoài Hắc Viện chẳng khác gì những trường học bình thường khác. Nhưng bên trong, chỉ những thành viên cốt cán mới biết nơi này ẩn chứa cả một tá bí mật.

Chẳng hạn như ngay bên dưới Tâm Thiền thư viện có xây một địa đạo, nơi những thành viên của Đại Minh Triều sử dụng như một hệ thống phòng thủ trong lòng đất, được các thành viên bắt đầu đào vào cuối thời điểm trị vì của Hoàng Thái Cực và mãi cho đến cuối đời của hoàng đế Thuận Trị mới chính thức hoàn tất.

Họ chọn ở An Huy vì qua khảo sát khu vực này được gọi là "đất thép," tức loại đất sét hòa với đá ong nên có độ bền cao và rắn chắc. Bởi vì địa đạo không chỉ đơn giản là địa điểm bí mật để thành viên họp mặt bàn thảo kế hoạch mà còn là nơi ẩn trú của các đương gia và một số thành viên Đại Minh Triều tại Giang Nam mỗi khi nguy cấp. Ngoài ra, hệ thống này cũng là chỗ cất giấu tài liệu tình báo, trạm cứu thương, kho lưu trữ binh khí, gạo, vàng bạc và lương khô cướp được trước khi đem đi phân phát cho những bá tánh nghèo khổ. Căn cứ bí mật này đã được sử dụng trong một thời gian dài chống phá triều đình nhà Thanh.

Trở lại chuyện Cửu Dương, trong phòng lúc này ngoài ba người Cửu Dương còn có thêm hai huynh đệ nhà họ Lữ, vốn là con trai của học giả Lữ Lưu Lương vừa hay tin chạy đến. Mấy năm trước, nhờ được sư thái thuyết phục, ông đã đưa toàn bộ Lữ gia cùng tham gia phong trào phản Thanh phục Minh.

Hai anh em lần lượt tên là Lữ Nghị Trung và Lữ Nghị Chánh, cũng là một đôi huynh đệ song sinh, năm nay tròn hai mươi tuổi. Thoạt nhìn dáng dấp hai người này hết sức thư sinh, lại thêm hình dung sáng sủa, gò má cao, cái mũi thanh tú và nhất là môi đỏ hồng như con gái, khiến không ít người lần đầu gặp họ chợt nảy sinh suy đoán linh tinh.

Chẳng hạn như thằng nhóc Hiểu Lạc lần đầu thấy họ ở Tây hồ gần Hắc Viện học xá. Khi đó cặp Lữ thị huynh đệ đang ngồi chơi cờ vây trên một chiếc ghe bên dưới gầm cầu Tây Lâm. Thực là non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình hòa quyện cùng một cặp nam tử như ngọc. Ấy vậy mà thằng bé cứ níu tay cô gái áo hồng cười hí hí.

Chỗ hai chị em đứng cách đó một quãng ngay dưới hàng liễu, nàng ta sau khi ngó qua cũng cười nói:

-Ầy! Tuy họ… "mình hạc xương mai" là vậy nhưng bản lãnh không vừa đâu. Tỷ nghe nói không ít kẻ chỉ xem mặt mà bắt hình dong, lỡ xem thường họ đã phải ôm hận khóc ròng đấy. Bọn họ ngoài giờ học thì thích du ngoạn khắp nơi hành hiệp trượng nghĩa. Hơn nữa lại coi tiền tài vật chất như là mây khói, nên rất hợp khẩu vị khách giang hồ, được tặng cho ngoại hiệu Vô Thường Song Hiệp đó biết chưa!

Hiểu Lạc lộ vẻ ngạc nhiên, song vừa nghe hết câu thằng bé liền ngoác miệng cười ha ha:

- Danh hiệu thật là kêu! Rốt cuộc vẫn là một cặp… không bình thường tỷ ơi!

Cô gái áo hồng cũng bật cười, song cốc đầu nó một cái răn dạy:

-Là con nít thì không được nói bóng gió xúc phạm bừa bãi đàn anh rõ chưa?

Hiểu Lạc bĩu môi không phục, nó lia mắt “quýnh giá” hai người kia từ đầu tới chân, không khỏi thầm so sánh với sư phụ Cửu Dương. Nhìn tới nhìn lui nó vẫn cho ra kết luận: "Rõ là ngữ trói gà không chặt," thế là trề môi hỏi vặn:

- Tỷ có biết tý xíu võ công nào đâu, làm sao biết họ đánh đấm giỏi thế nào?

Nghe vậy nàng ta ngớ người ra một lúc rồi đáp:

- Thật ra thì… tỉ cũng chưa được thấy họ so đấu với ai bao giờ. Nhưng nghe nói họ là đệ tử của Giác Tĩnh đại sư, sư đệ của Võ thánh. Từ khi Giác Tĩnh đại sư viên tịch, trong giang hồ không còn ai được chân truyền công phu Mai Hoa Quyền như họ nữa. Vả lại mỗi người bản thân võ công rất khá, lại thêm từ nhỏ không bao giờ rời nhau, cứ như bóng với hình nên phối hợp càng thêm ăn ý. Ở Hàng Châu này nổi tiếng là cặp hiệp đạo trứ danh đấy!

Hiểu Lạc lại thấy hai người một bận áo đen một áo trắng, buột miệng kêu:

- Người gì mà da dẻ trắng bệch như con gái, y một đôi quỷ đòi mạng!

Cô gái áo hồng khúc khích:

- Ủa, đúng là có lời đồn huynh đệ họ thề không lấy vợ, mơ ước trở thành một cặp du hiệp oai danh lừng lẫy. Nên có kẻ ghen ghét gọi họ là Hắc Bạch… Bất Thường thật.

-Đó đó thấy chưa! – Hiểu Lạc được thể khoái chí – Đâu phải chỉ mình đệ bảo họ bất thường!

Hi hi ha ha một hồi, nó bỗng ớ người:

- Ủa, nói nãy giờ mà đệ vẫn chưa biết ai là anh, ai là em đó tỷ!

-Thất ca bảo – Cô gái áo hồng mỉm cười giải thích - Người anh tên Lữ Nghị Trung chuyên mặc áo màu trắng, còn người em tên Lữ Nghị Chánh lại thích mặc áo đen.

Nàng nói tới đó bỗng nhớ có lần Cửu Dương kể rằng cặp Lữ huynh đệ này từng học chung với chàng, nhưng chàng chơi thân với Lữ Nghị Chánh hơn vì tánh tình hợp nhau.

Hồi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường, cứ có dịp không đi cùng anh trai là Nghị Chánh sáp vô Cửu Dương ngay. Hai người hay túm tụm nói chuyện trên trời dưới đất không thiếu thứ gì. Những khi chép bài xong không có chuyện chi làm, buồn chán quá họ bèn trốn Mã Lương phu tử, bá vai bá cổ đi mua rượu rồi học theo mấy vị lãng tử giang hồ, ngửa cổ tu ừng ực. Đi chán mỏi chân lại ngồi nấp trên cành cây bên hồ chén chú chén anh, mắt đong đưa ngắm nữ nhân qua lại, đời thế là vui ngay.

Lại nói thực ra anh em họ Lữ cũng không hề hay biết sự kiện hành thích này. Chẳng qua hôm trước cả hai tình cờ ngang qua chợ Đông, bỗng thấy một đám đông xúm đen xúm đỏ quanh bảng cáo thị. Vốn tính hiếu sự họ bèn len lỏi xông vào đọc. Chỉ thấy trên tờ giấy lù lù mấy chữ rất to, nào là “Giang Nam thất phỉ hoành hành ngang ngược, độc ác vô đạo," rồi thì "cả gan phạm thượng hành thích hoàng đế nhưng bất thành…” Còn bên dưới là lệnh truy nã phản tặc.

Hai anh em đọc mà trợn mắt há mồm, sững sờ hồi lâu trước tin tức kinh người này. Rốt cuộc Nghị Chánh phản ứng trước, bực tức siết chặt nắm đấm vừa nghiến răng trèo trẹo vừa lầm rầm trong miệng:

-Thật là tức quá! Bao nhiêu người võ công trác tuyệt, vậy mà cũng không giết được hắn!

Lữ Nghị Trung đứng sát bên Nghị Chánh, nghe vậy giật đánh thót bèn e hèm một tiếng. Nghị Chánh vẫn tỉnh bơ chắt lưỡi than thở:

- Chậc chậc! Quanh năm suốt tháng hắn trốn trong Cấm thành như con rùa rúc trong mai, chỉ có dịp này mới rời kinh lên chùa cầu siêu cho cha hắn. Biết vậy nên bảy vị đương gia cùng với tổng đà chủ mới đích thân ra tay. Vậy mà...Một cơ hội tốt như vậy.., thật là tiếc quá đi thôi!

Nghị Trung toát mồ hôi lạnh, mắt liếc chung quanh một vòng. Cũng may hai anh em họ vẫn đứng phía ngoài vòng người đang tò mò xem cáo thị. Hơn nữa ai cũng đương mải mê bàn tán, tiếng ồn ào đã át đi phần nào. Bực mình Nghị Trung thúc chõ vào lưng đệ đệ một cái rõ đau, rồi hất đầu ra hiệu bảo Nghị Chánh đi về, tránh bị binh lính trong chợ nghe được câu nói “đại nghịch bất đạo” vừa rồi.

Từ lúc đó hai anh em liền âm thầm để ý động tĩnh trong Hắc Viện. Vừa hay đêm nay Cửu Dương cõng Trương Quốc Khải trở về. Thế là chẳng đợi trời sáng, cả hai sốt ruột bèn xông vào mật đạo thăm hỏi tình hình. Báo hại ba người Cửu Dương được một phen giật mình thót tim.

---oo0oo---

Cửu Dương đắp tấm chăn lên mình Trương Quốc Khải xong, sắc mặt chàng chợt tái đi. Cả người vẫn lấm lem vấy máu, chàng cố gắng bước tới một cái ghế, lảo đảo vịn tay ghế mà không xong bỗng trượt tay ngồi phệt xuống đất.

Cửu Dương ảo não nhìn mọi người nói:

- Cũng tại ta đây bất tài, cảm thấy thật xấu hổ…

Hai anh em Lữ thị bước đến đỡ lấy Cửu Dương. Người anh Nghị Trung nói:

-Viện trưởng à, hoàng thiên bất phụ hảo nhân tâm, đệ tin tưởng sớm muộn gì cũng đến ngày "Thiên địa phục Minh, nhật nguyệt trùng quang" mà!

Nhạc Tam Nguyên thì rót trà, ân cần mang tới cho Cửu Dương. Lão Tôn đang lấy khăn ướt lau qua mặt cho Trương Quốc Khải, nghe vậy liền an ủi:

- Đúng rồi đó viện trưởng, thật ra thì ngài không nên tự trách bản thân quá. Chúng tôi ở Giang Nam cũng có biết phong phanh vài tin tức. Như lần xuất cung này tên nhóc hoàng đế đó mang theo tới hai ba vạn binh mã chứ đâu có ít, hơn nữa toàn là binh lính tinh nhuệ của tộc Mãn Châu. Nghe đâu có tên thống lĩnh thị vệ vỗ ngực kêu rằng, dù cả ngàn thích khách đến đây liều mạng cũng đừng hòng tiến được quá mười thước.

Nói tới đó lão cao giọng khoái trá:

- Nhưng nhìn xem, chúng ta vẻn vẹn chỉ tám người, chẳng phải đã khiến bọn chúng một phen thất kinh hồn vía đó sao?

Cửu Dương nghe mấy câu an ủi này, cố nặn một nụ cười cảm khái, rồi nhìn Nhạc Tam Nguyên chàng sực nhớ ra, ngẩn người hỏi:

- Tam Nguyên ở đây, vậy…

- Vâng, Nữ thần y cô nương cũng ở đây! - Nhạc Tam Nguyên mỉm cười đáp.

- May quá…

Cửu Dương hô lên mừng rỡ, phải hít sâu một hơi để điều khí dưỡng thần, lại uống một ngụm trà rồi mới đánh mắt về hướng Trương Quốc Khải đang nằm bất tỉnh, vội nói:

- Tam gia bị trúng độc không đơn giản, ta đã gắng hết sức dùng nội công nhưng chỉ ép được ít máu độc ra ngoài…

Đang nói Cửu Dương đột nhiên nghe tiếng động vang lên chỗ cánh cửa thông lên trên tầng trệt, rồi có tiếng chân người vội vã đi xuống cầu thang. Chàng ta không khỏi thầm cười khổ:

- "Thế quái nào mà ai cũng biết chạy đến là sao? Giờ tới ai nữa ta?"

Có lần "đột kích" bất ngờ lúc trước của hai anh em họ Lữ, năm người không còn quá mức giật mình nữa, ánh mắt đồng loạt lia về phía cửa, lập tức thấy ba cái bóng xuất hiện. Bốn đôi mắt cùng sáng lên khi thấy ba người đi vào.

Bởi đi trước là một cô gái dung mạo tuyệt thế như thiên tiên trên trời, làm người ta phải chú ý ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nàng ta mặc một bộ y phục màu tím than, tóc dài óng ả thả ngang lưng, toàn thân toát ra vẻ vừa phong trần vừa mỹ lệ. Người đi giữa cũng là một mỹ nhân mặc đồ hồng phấn, tóc đen mượt mà vén qua một bên vai. Gương mặt trái xoan thanh tú trắng hồng, dáng hình thon nhỏ, yểu điệu như liễu trước gió khiến bất cứ nam nhân nào chỉ nhìn qua một cái liền nảy sinh cảm xúc muốn bao bọc che chở. Đi sau cùng là một thằng bé, không ai khác chính là nhóc Hiểu Lạc.

-A! Sư phụ!

Vừa thấy Cửu Dương, thằng bé liền reo lên vui sướng. Nhảy bổ lại gần nó mới la lên oai oái:

- Trời ơi, sao sư phụ máu me lấm lem thế này, người có làm sao không?

Thế rồi cuống quít lăng xăng kiểm tra khắp người chàng.

- Không sao, chẳng phải sư phụ vẫn đủ hai tay hai chân đây ư! - Cửu Dương xoa đầu nó cười.

-Lâm tiểu thư – Trần Tôn thấy cô gái áo tím, khẽ nhíu mày trách - Mấy ngày nay tiểu thư đi đâu vậy? Không thấy cô trong Học xá, hại cái thân già này của lão hủ chạy ngược chạy xuôi tìm cực quá!

Lâm tiểu thư này là chỉ cô gái áo tím. Tên đầy đủ của nàng ta là Lâm Tố Đình, ái nữ duy nhất của Lâm Vĩ. Biết lão Trần đang mắng khéo bản tính hiếu sự của nàng, hẳn ông lão lại sợ nàng chạy ra ngoài gây chuyện đây. Lâm tiểu thư bèn sà tới, vừa như đứa cháu làm nũng trưởng bối trong nhà vừa cười cười trấn an:

- Có chi đâu thúc thúc, cháu chỉ đi đây đi đó dạo chơi chút chút thôi mà!

Bộ dạng đó làm Trần lão chỉ biết lắc đầu cười khổ. Thấy vậy nàng ta le lưỡi một cái, đoạn quay sang Cửu Dương hỏi:

- Thế nào rồi thất ca, có thành công không? Đang đêm mà muội phải dẫn nữ thần y đến xem cái đầu của Mãn Châu hoàng đế đó, coi có khác đầu người bình thường không?


Lần này đến phiên Nhạc Tam Nguyên và anh em họ Lữ lé mắt nhìn nhau. Một mỹ nhân như hoa như ngọc mà thốt lời rùng rợn cứ tỉnh như không. Không ai bảo ai, ba chàng bất giác lùi lại một bước.

Cửu Dương chưa trả lời Lâm Tố Đình do còn bận nhìn cô gái áo hồng. Sau phen thập tử nhất sinh tưởng như vĩnh viễn không còn được thấy nàng, giờ gặp lại “nữ thần y,” trong lòng chàng kích động vô cùng, chỉ muốn đứng bật dậy giơ tay ôm tấm thân thon thả của sư muội vào lòng.

Thực ra "Nữ thần y" không phải tên thật của nàng, mà cũng chẳng ai biết tên nàng là gì. Bởi năm đó, khi còn là đứa trẻ sơ sinh mới một ngày tuổi thì nàng đã được danh y Bảo Chi Lâm nhặt ở chùa Phật Sơn mang về nuôi rồi. Nói đến Bảo Chi Lâm, cả vùng Giang Nam không ai không biết tiếng bà là một lang y đức độ, từng nguyện cả đời hành y cứu dân nghèo. Hơn nữa để tiện việc chữa bệnh, bà còn gom góp tài sản mở được rất nhiều tiệm thuốc rải rác khắp nơi nhưng tiệm thuốc chính vẫn là ở Phật Sơn, Quảng Đông.

Dù bận rộn là thế song việc chăm bẵm Nữ thần y vẫn do bà tự tay làm lấy tất cả. Nghe kể rằng lúc còn ẵm ngửa, cứ hễ được đặt cạnh Bảo Chi Lâm khi bà đang làm thuốc là cô bé không hề quấy khóc một tiếng, chỉ giương đôi mắt đen láy chăm chú quan sát. Mã Lương phu tử mấy dịp ghé qua, thấy thế cho là điềm lạ bèn âu yếm gọi cô bé là "Nữ thần y bé nhỏ." Danh xưng "Nữ thần y" quen thuộc từ ngày đó.

Quả nhiên càng lớn cô bé càng lộ rõ thiên phú về y học. Đến năm sáu tuổi, Bảo Chi Lâm chính thức nhận Nữ Thần Y làm đệ tử chân truyền, đích thân tự mình chỉ dạy. Nàng nổi tiếng thông minh, không những vậy chỉ cần nhìn qua bất cứ nội dung nào liên quan đến y thuật là nhớ ngay. Người ta đồn khi vừa thạo mặt chữ, chỉ mất hơn ba canh giờ Nữ thần y đã đọc thuộc toàn bộ những ghi chép tâm đắc về y thuật của thầy!

Thậm chí trong quá trình học tập, để giúp Nữ thần y nắm chắc kỹ thuật. Bảo Chi Lâm còn tự bẻ cổ tay, lại đem xương chân, xương đùi trực tiếp đánh gãy, sau đó để cho Nữ thần y tự mình thực hành nối xương. Dưới sự chỉ bảo hết lòng và nghiêm khắc như thế, tay nghề Nữ thần y ngày càng vững chắc, chẳng mấy chốc được người Phật Sơn xưng tụng là kỳ tài mới về y thuật.

Mấy năm trước triều đình nghe nói ở Quảng Đông có một thầy thuốc y thuật rất cao minh. Sau khi tìm hiểu lai lịch bèn tuyên triệu Bảo Chi Lâm vào cung chữa bệnh hậu sản cho Đổng Ngạc Phi nhưng bà từ chối. Triều đình tức giận xuống chiếu bức tử, trong đêm khuya hành quyết cả nhà họ Bảo, chỉ một mình nữ thần y khi đó đi lấy thuốc ở phương xa nên may mắn sống sót.

Từ đó nàng tiếp nối tâm nguyện của sư phụ, đem y thuật ra giúp đời. Thấm thoắt đã mấy năm, đến giờ trong Đại Minh Triều Hội ai cũng ví nàng như Hoa Đà tái thế, thậm chí cho rằng tài trị bệnh của nàng đã nổi trội hơn sư phụ rồi.

Lại nói Nữ thần y lúc này cũng trông thấy Cửu Dương, chợt nhớ bức thư hôm bữa chàng bảo Nhạc Tam Nguyên trao cho nàng, gương mặt trắng mịn liền đỏ như gấc chín, nàng cụp mắt xuống như tránh tia nhìn dịu dàng của chàng. Đột nhiên liếc thấy có người nằm bất động trên giường, nhìn kỹ hóa ra Trương Quốc Khải, Nữ thần y giật mình chạy đến kêu lên hoảng hốt:

-Tam ca! Huynh bị sao thế này?

---oo0oo---

Chiều hôm sau Cửu Dương làm theo lời Nữ thần y, đặt tay lên lưng Trương Quốc Khải, truyền nội công chân khí của chàng vô thân thể Trương Quốc Khải để ép chất độc ra ngoài. Cùng lúc Nữ thần y cũng dùng kim châm đả các huyệt Thái Dương, Bách Hội, Nhân Trung, Nhĩ Môn và Giáp Xa điều khí chạy khắp cơ thể Trương Quốc Khải giúp bài tiết một số chất độc thông qua các lỗ chân lông.

Đang lúc chân khí từ Cửu Dương không ngừng được truyền sang Trương Quốc Khải thì bỗng nghe tiếng chân người dồn dập chạy xuống cầu thang. Trần Tôn tưởng Nhạc Tam Nguyên trở về với tin mừng, đôi mắt già nua đầy nếp nhăn của ông lão sáng lên.

Chả là đêm qua Nữ Thần Y nói chất độc đang hoành hành trong mình Trương Quốc Khải có tên là Kinh Phủ, đã tới giai đoạn công tâm, tính mạng Trương Quốc Khải vì vậy đang bị đe dọa. Nàng lại nói chỉ có ở vùng Sơn Thạch Môn cách đây hai mươi dặm mới tìm ra loại thảo dược gọi là Kim Sơn Tử, có thể dùng làm thuốc giải độc. Cho nên tối qua Nhạc Tam Nguyên mới rời Hàng Châu, lãnh nhiệm vụ đi tìm Kim Sơn Tử.

Vì vậy mà Trần Tôn nghe tiếng chân vội vã, người chưa tới đã vội hỏi:

-Có lấy được Kim Sơn Tử không?

Ngờ đâu đập vô mắt ông lão là Hiểu Lạc chứ không phải Nhạc Tam Nguyên. Thằng bé với gương mặt trắng nhợt, rõ ràng là đang hoảng sợ thất sắc.

-Không … - Hiểu Lạc lắc đầu hổn hển trả lời.

Rồi nó lật đật xua tay đính chính:

- À không… ý cháu không phải vậy. Cháu không biết...

Nghe vậy Trần lão cáu lên gắt:

- Cái thằng bé này, sao nói năng lộn xộn vậy chứ? Rốt cuộc có chuyện gì?

Hiểu Lạc hít sâu một hơi, giọng vẫn còn hoảng loạn:

- Ý cháu là có lão quan huyện dẫn một đám quân binh đang đập cửa bình bình ở ngoài cổng chính ấy. Chắc tới muốn bắt sư phụ cháu và tam gia đó!

Rầm một tiếng. Trần Tôn nghe Hiểu Lạc thông báo vậy tưởng chừng như sét đánh ngang tai. Hai anh em nhà họ Lữ đứng gần đấy cũng thất kinh hồn vía.

Lữ Nghị Chánh kinh hãi thốt:

- Chết rồi! Phải làm sao bây giờ?

Lữ Nghị Trung suỵt một tiếng ra hiệu mọi người bình tĩnh song trong lòng cũng rối như tơ vò. Có điều nhất định không được để Cửu Dương nghe thấy lời này, chẳng may phân tâm mà dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, lúc ấy e không tránh khỏi chất độc từ kinh mạch Trương Quốc Khải lại chạy ngược vào cơ thể Cửu Dương.

Nghị Trung sau khi suỵt khẽ mọi người thì dặn Hiểu Lạc ở lại giúp Nữ Thần Y hong nóng những cây kim châm. Còn bản thân y thì cùng với đệ đệ và Trần Tôn ra ngoài tìm cách ứng phó.

Đám người Lữ Nghị Trung vừa đi khỏi, Cửu Dương mở bừng mắt nhìn về phía Hiểu Lạc, nói nhỏ một câu:

-Khóa cửa địa đạo từ bên trong lại mau, đừng lên tiếng! - Rồi nhắm mắt lại tập trung tinh thần bức chất độc, không nói năng gì nữa.

Dù gì Hiểu Lạc cũng sớm lăn lộn, lại là con nhà võ ít nhiều đã trải qua sóng gió, tuy đang sợ mất hồn nhưng nó răm rắp nghe lời Cửu Dương, đi khóa chặt cửa lại.

Lúc nó trở vào, đúng lúc trông thấy Cửu Dương thổ ra một vũng máu, ôm ngực ngã xuống giường chừng như đau đớn lắm rồi ngất hẳn đi.

- Thất ca, thất ca…

Nữ Thần Y kêu lên thảng thốt...

Đương khi đó, bên ngoài cổng Tinh Thái của Hắc Viện, quan Tri huyện An Huy dẫn quân lính tới đập cửa ầm ĩ. Trần Tôn, Lữ Nghị Trung và Lữ Nghị Chánh dẫn toàn thể học sinh trong trường ra làm lễ bái chào.

Mọi người đồng loạt xá một cái, hô lớn:

-Bái kiến tri huyện đại nhân!

-Tần viện trưởng của các người đâu? - Quan huyện lù lù đứng đó, khoanh tay hỏi lão Tôn.

Bụng Trần Tôn giật thon thót, bất giác khẽ đưa mắt về phía thư viện, nơi Cửu Dương đang giúp Trương Quốc Khải trấn áp chất độc Kinh Phủ. Ông lão còn chưa biết phải đáp lời thế nào, may là Lữ Nghị Trung đã nhanh trí bước ra. Xét tư cách nói chuyện, Lữ Nghị Trung khá phù hợp vì y là con trai của học giả Lữ Lưu Lương. Người ta thường nói con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, ngoài bản lĩnh võ công đương nhiên họ Lữ cũng là một bậc túc nho khá nổi tiếng ở Hàng Châu.

- Dạ thưa tri huyện đại nhân, viện trưởng của chúng tôi đi Hà Nam khảo cứu cổ văn rồi ạ!

Trông thấy chàng ta, Quan huyện sáng mắt lên buột miệng hỏi:

- Đây là...

- Thưa huyện tôn, học trò tên là Lữ Nghị Trung!

- Ủa... đàn ông à?

Mọi người nghe vậy không khỏi bấm bụng cười thầm, riêng Nghị Trung tức muốn bể ruột nhưng vẫn phải nhịn xuống đáp:

- Vâng, nam nhi đại trượng phu trăm phần trăm đấy ạ!

Quan huyện liền bĩu môi lầm bầm:

- Nam chả ra nam nữ chả ra nữ!

Chừng như nhớ ra việc chính, gã giật mình buông thõng hai tay, trố mắt hỏi:

- Cái gì? Không phải nói hôm nay là ngày bản quan đem biển đến sao?

Bấy giờ Lữ Nghị Trung và mọi người mới ngớ người vỡ lẽ, nhớ ra hôm nay là ngày đặc biệt gì. Biết lý do quan huyện dẫn quân binh đến đây rồi, trái tim Nghị Trung nhẹ bẫng, chứ một khắc trước nó còn đập thình thịch trong lồng ngực.

- Thật không còn thể thống phép tắc gì nữa! Mấy thứ sách vở rách nát đó đem so với ân điển của Thánh thượng được sao? - Tri huyện bực bội quát tháo.

- Dạ, không dám thưa tri huyện đại nhân - Nghị Trung vẫn chắp tay cung kính đáp - Thực ra Viện trưởng có nói rằng ngài ấy vô đức bất tài, không dám thọ ân sủng bực này…

-Láo toét!

Quan huyện chưa nghe hết câu đã đùng đùng nổi giận, chỉ tay vô tấm ván gỗ đang được hai tên lính bưng ở phía sau lưng, nói như quát:

- Tần Thiên Văn hắn nói vậy là ý gì đây hả? Hả! Tiên đế ban ngự biển là phúc tổ bảy mươi đời nhà hắn, đã không biết ơn thì chớ lại dám viện cớ này nọ là sao?

Dứt lời gã hất mặt, phẩy tay sai binh lính:

- Mau khiêng ngự biển vô.

- Dạ.

Không những vậy còn vung tay hất Lữ Nghị Trung sang một bên khiến chàng ta phải giả bộ như suýt ngã, lảo đảo lui ra sau mấy bước làm hai tú tài phía sau phải vội đưa tay ra đỡ.

Quan huyện khệnh khạng đi trước, lũ công sai thì rồng rắn theo sau. Vừa bước qua cổng Tinh Thái của Hắc Viện, gã ta nhìn tấm biễn cũ bĩu môi lớn tiếng:

- Hắc Viện, cái tên có ý tứ lắm. Thế nào mà bản quan có cảm giác như chui vô ổ trộm cướp à nha!

Các học sinh của Hắc Viện đa phần là người Hán có gia cảnh nghèo khó. Hằng ngày gia đình họ đều ăn không no ngủ không yên, ít nhiều từng bị bọn quan binh quyền quý bức hiếp nên trong lòng rất căm phẫn triều đình Mãn Thanh, đương nhiên càng không có cảm tình với tay tri huyện này. Giờ lại nghe gã buông lời xúc phạm như vậy ai nấy tức giận biến sắc. Nhìn đám học sinh mặt mũi hầm hầm, quan huyện càng hả hê la lối:

- Hừ tức cái gì, chẳng phải sao? Trông có khác gì danh xưng của đám Hắc đạo với Hắc Bang không? Thế mà Tiên hoàng ban cho cái tên mỹ miều như vậy còn bày đặt chê ỏng chê eo, rõ là ăn mày còn kén chiếu hoa!

Lão Trần cũng tức lắm, thầm nghĩ tên tham quan này chắc không được "đấm mõm" chút vàng bạc nên kiếm cớ gây sự đây. Mà nghĩ lại thấy buồn cười, trước nay chỉ có người Đại Minh Triều Hội đi cướp của tham quan, không ngờ bữa nay lại có một tên đến tận cửa vòi tiền. Có điều tình hình đang nguy nan, lúc này lại càng phải nhẫn nhịn, ông bèn lừ mắt nhắc nhở đám học sinh không được kích động làm bừa, đoạn cười khà khà từ tốn nói:

- Đại nhân dạy phải lắm. Nhưng chắc ngài mới đến trấn An Huy này nên có điều không rõ đó thôi. Cái tên Hắc Viện của chúng tôi không phải vô cớ đặt bừa đâu mà đằng sau nó là cả một câu chuyện đấy ạ!

- Ồ, vậy sao! Nói bản quan nghe thử! - Bị khơi lên lòng hiếu kì, quan huyện vểnh râu mép giục.

- Vâng, chuyện vốn là thế này...

Trần lão vuốt chòm râu bạc, ánh mắt bất chợt xa xăm:

- Chắc đại nhân cũng đã biết Hắc viện do Mã Lương phu tử cùng hai vị tri kỷ tâm giao Tần Nhị và Lâm Vĩ tiên sinh lập ra. Từ lâu ba vị ấy đã nảy ra ý định lập một trường học cho con em nhà nghèo. Song khổ nỗi ba người tuy một bụng kinh luân, tài học đầy mình nhưng tài sản ngoài mấy hòm sách vở thì đâu còn gì khác. Cho nên sau khi bán hết gia sản, gom góp được hai nghìn lượng bạc mua lấy mảnh đất này thì chẳng còn dư bao nhiêu, chỉ đủ dựng vài ba dãy nhà tranh vách nứa làm chỗ ở và phòng học cùng bàn ghế cho học sinh thôi ạ!

- Ồ, rách nát thế kia à? - Quan huyện kinh ngạc thốt.

- Vâng, lão hủ dạo đó đã đi theo Mã phu tử nên tận mắt chứng kiến, thiếu thốn vậy đấy ạ!- Lão Trần cảm khái nói tiếp - Vì vậy mùa hè còn đỡ chứ mùa đông lạnh giá, gió cứ lùa qua kẽ liếp khiến cả thầy lẫn trò rét buốt khổ sở không sao kể xiết!

- Sau rồi thế nào? - Quan huyện tò mò hỏi.

- Về sau không biết ai nghĩ ra một ý, lấy nhựa thông đốt trộn cùng gỗ than thành một thứ keo trông như hắc ín, đem phết kín lên mặt ngoài các bức vách. Đơn giản vậy thôi mà không ngờ lại ngăn gió rất tốt...

Nghe tới đây gã tri huyện bật cười:

- Bản quan hiểu rồi. Chính vì nhìn các dãy nhà đen thùi lùi một đống như vậy, nên mới có cái tên Hắc Viện đó hả?

- Vâng, bình dân bá tánh nghèo khổ đa phần thất học, đâu biết ăn nói văn hoa chữ nghĩa, thành thử họ trông thấy thế nào liền gọi thế ấy cho tiện, lâu dần thành quen không sửa được nữa!

- Há há, ra là vậy. Ta cứ tưởng Hắc Viện danh tiếng thì cái tên phải ẩn chứa ý nghĩa thâm sâu thế nào. Ai dè há há...

Gã cười to giễu cợt, đám lính tốt cũng phụ họa cười theo. Phần lớn lứa học sinh này còn rất trẻ, cũng lần đầu được nghe câu chuyện này nên không khỏi trầm mặc xúc động, tưởng tượng về một thời gian khổ của Hắc Viện. Vì thế giữa không khí tĩnh lặng, tiếng cười của gã tri huyện và lũ tay chân nghe lại càng chói tai.

Bỗng Lữ Nghị Chánh hắng giọng e hèm một tiếng khiến quan huyện nhíu mày quay sang, liền đó sửng sốt chắt lưỡi xưng kỳ:

- Ồ, bản quan sớm nghe nói huyện này có đôi mỹ nam song sinh giống nhau như hai giọt nước. Hóa ra là hai ngươi à!

- Đại nhân quá khen! - Nghị Chánh mỉm cười làm lễ.

- Sao? Ngươi cắt lời bản quan là ý gì đây? Ta cười chê Hắc Viện các ngươi là sai sao?

- Học trò đâu dám! Chỉ là nghe đại nhân nói mà thấy đồng cảm quá, muốn chia sẻ chút suy nghĩ thôi ạ!

- Ờ, chứ còn gì nữa! Nói nghe xem! - Gã vênh vênh đắc ý.

Nghị Chánh thở dài một cái, lắc đầu bắt đầu than thở:

- Đại nhân không biết đó thôi, chính vì cái tên này mà khi đi giao lưu ở tỉnh khác, hễ xướng tên trường lên là người ta nhìn chúng tôi chằm chằm đến phát ngượng. Lắm lúc phải phân trần giải thích mỏi mồm đấy ạ!

- Ha ha, ta có thể hình dung được vẻ mặt các ngươi lúc ấy! - Gã nhếch mép cười.

Thành viên của Hắc Viện thì tất thảy sững sờ kinh ngạc, nhìn nhau ngơ ngác không hiểu vì sao Nghị Chánh lại "trở cờ," vào hùa miệt thị trường mình như vậy. Riêng Nghị Trung nhíu mày lo lắng, bởi chàng ta quá hiểu tính cách ngay thẳng, đôi khi liều lĩnh bồng bột chẳng sợ trời sợ đất của đệ đệ mình, trái ngược với vẻ ngoài nhu hòa kia. Còn chưa kịp nhắc nhở thì Nghị Chánh đã nói tiếp:

- Vì thế có một lần học trò đem nỗi ấm ức này kể với gia phụ. Gia phụ mới cười bảo rằng, thực ra trước đây đã có không ít tiên sinh dạy học và học sinh cùng đề nghị phu tử đổi lại tên trường đấy. Nhưng sau khi nghe phu tử nói một hồi thì tất cả tâm phục khẩu phục, chẳng còn bất kỳ ý kiến nào nữa!

- Ông ta nói gì? - Quan huyện hứng thú hỏi.

- Phu tử nói...

Nghị Chánh liền thẳng lưng ưỡn ngực, một tay chắp sau lưng, tay kia giả bộ vuốt râu bày ra vẻ ung dung tự tại, chính khí lẫm liệt:

- Chúng ta là Hắc Viện thì sao? Cái tên xấu xa bất tường thì thế nào? Các vị thử ra ngoài kia, hỏi bất kỳ một bình dân bá tánh nào đó xem! Và hãy nhìn vào ánh mắt ấm áp, hãy nghe giọng nói trìu mến của họ khi nhắc đến Hắc Viện này. Đó chẳng phải là tình cảm chân thành, là sự kính trọng xuất phát từ con tim sao? Ta tin đó cũng là khát vọng mà những kẻ đọc sách thánh hiền chúng ta hằng theo đuổi, là niềm tự hào mà Mã Lương ta cùng các vị nhất định phải gìn giữ...

Hít sâu một hơi, giọng Nghị Chánh bỗng cao lên mấy phần:

- Như thế chẳng gấp vạn lần những kẻ danh xưng mỹ miều, bề ngoài trang phục đẹp đẽ quý phái nhưng tham lam độc ác. Chúng nhân danh công lý và lẽ phải lại công khai cướp bóc tàn hại bá tánh, thậm chí còn vô nhân tính hơn lũ thảo khấu cường đạo. Nhắc đến chúng, nào thấy một câu tốt đẹp mà chỉ rặt những lời nguyền rủa thóa mạ trăm ngàn lần cũng chưa hết tội! Như thế thử hỏi, cái tên Hắc Viện có đẹp hay không?

Đám học sinh như ngừng cả thở lắng nghe đến xuất thần, trong ngực bừng bừng phấn khích khó tả. Lại nghe tiếp vế sau thì đồng loạt lia ánh mắt nhìn Tri huyện An Huy, vẻ mặt hả hê thích thú, lập tức người hô "Đẹp" kẻ kêu "Hay" ầm ĩ cả lên.

Quan huyện không phải kẻ ngốc, lại thêm "có tật giật mình," lập tức hiểu đã bị Nghị Chánh chơi xỏ chửi thẳng vào mặt mà chẳng thể làm gì được, lên tiếng thì khác nào thừa nhận gã cũng là một trong số đó. Cái mặt nung núc tím bầm lại vì căm tức, gã đánh bài lảng lớn tiếng quát học sinh đang đứng quanh đó:

- Quỳ xuống, quỳ xuống, tụi bây còn không quỳ xuống cho mau! Đứng đó trố mắt nhìn tao cái gì hả? Uổng cho tụi bây mang tiếng là dân ăn học, đầy bụng sách vở lễ nghĩa, nay thấy ngự biển như thấy vua mà cứ ớ người ra đấy, còn không chịu quỳ hử!

Trần Tôn lắc đầu cười khổ, đành nghiêm mặt nháy mắt ra hiệu vài cái học sinh mới mặt nhăn mày nhó, miễn cưỡng lục tục quỳ xuống.

Quan huyện hằm hằm đi thẳng vô nơi uy nghiêm nhất của trường là Tâm Thiền thư viện, Trần Tôn và hai anh em họ Lữ cũng phải lật đật chạy theo. Nghị Trung nhân đó nhỏ giọng trách cứ đệ đệ:

- Đây là lúc nào rồi mà đệ còn tranh cường háo thắng hả!

- Đệ cũng muốn nhịn rồi, nhưng nghe hắn cạnh khóe tên trường chúng ta, tức không chịu nổi!

- Ôi, ta đã nói bao lần rồi. Đại trượng phu không chấp cái thiệt trước mắt, không nhịn cái nhỏ sao làm được việc lớn. Thật đau đầu với đệ...

Đáp lại Nghị Chánh chỉ trề môi tỏ vẻ không phục. Lại nghe Nghị Trung ủa một tiếng thì thầm:

- Giờ mới nhớ, đệ lúc nào cũng kè kè bên huynh như hình với bóng. Sao cha kể với đệ lúc nào mà ta không biết nhỉ? Hay là đệ bịa ra đấy!

- Bịa là thế nào, đoạn sau đệ thừa nhận có thay đổi chút cho hợp cảnh nhưng toàn bộ chính Viện trưởng từng nói đó!

- Mã phu tử nói lúc nào sao huynh không hề biết? - Nghị Trung thắc mắc.

- Hà hà, huynh quên còn một vị Viện trưởng à? Chuyện này là huynh ấy kể lại đấy!

- À ra vậy!

Nghị Trung gật đầu vỡ lẽ, dừng một thoáng chàng ta chợt tấm tắc:

- Cơ mà đúng là phu tử, nói quá hay!

Trong lúc đó gã Tri huyện đi một vòng thư viện, đột nhiên dừng chân ngắm nghía chỗ tủ thờ có đặt bài vị Lưu – Quan - Trương, bên trong tủ này chính là cánh cửa dẫn xuống địa đạo.

“Quỷ thật!” Trần lão vẫn luôn theo sát, thấy vậy giật mình lo lắng, trong bụng như có kiến bò.

- Ở đây đã thờ mấy vị Khổng phu tử, lại còn dựng cả bài vị ba người này, lạ nhỉ! - Gã lẩm bẩm.

Ông lão còn chưa biết đối đáp thế nào, may thay vẫn là Lữ Nghị Trung nhanh trí bước lên cười nói:

- Đây lại là ý tưởng của Viện trưởng chúng tôi. Chắc đại nhân cũng biết câu chuyện về ba anh em Lưu - Quan - Trương rồi. Ba người họ gặp gỡ kết nghĩa kim lan khi còn nghèo hèn thấp kém, người dệt chiếu kẻ bán thịt. Vậy mà từ đó cho đến lúc thành vương hầu một cõi, địa vị cao vời nhưng tình anh em vẫn khăng khít bền chặt không hề thay đổi...

- Rồi sao? - Gã tri huyện sốt ruột ngắt lời.

- Hắc Viện học xá cũng vậy, đa phần đều con em bình dân có gia cảnh nghèo khổ theo học. Cho nên Viện trưởng thờ ba vị này là có ý nhắc nhở học sinh lấy họ làm gương, dù phấn đấu lập nên công danh sự nghiệp to lớn đến đâu thì càng không được quên đi tình đồng môn thuở hàn vi.

- Hừ, Viện trưởng các ngươi rõ là vẽ chuyện!

Quan huyện cười khẩy một cái, đứng sờ mép một hồi rồi đi lên tầng trệt. Tâm Thiền thư viện có hai tầng lầu, phía trên là nơi dành cho các phu tử hội họp và nghỉ ngơi giữa các buổi dạy học, cũng là nơi mỗi tháng một lần, đích thân viện trưởng giảng bài cho các tú tài. Quan huyện chỉ tay vào bàn thờ Khổng Tử nói:

-Chỗ này coi bộ sáng sủa nhất ở đây, nom có vẻ được đó. Mấy đứa tụi bây, treo biển lên bức tường phía sau bàn thờ này đi.

Binh lính dạ một tiếng, tức tốc khiêng tấm biển treo lên.

Trong thư viện không có thang, hai tên lính Thanh mới phải quỳ xuống, cho hai tên lính khác đạp lên vai lấy thế mà leo lên trên bàn thờ Khổng Tử mà đứng, rồi hai tên lính khác nữa chuyền tấm biển lên, chúng xê qua dịch lại thế nào mà làm rớt tấm bài vị xuống sàn.


Trần Tôn và anh em họ Lữ thấy tấm bài vị của nhà khai sáng Nho giáo bị gãy đôi không khỏi cau mày. Nghị Chánh bực mình dợm bước lên thì lập tức bị ông lão kéo lại, nghiêm mặt lắc đầu. Những học sinh đứng dưới sân ngẩn cổ ngó lên để xem chuyện đang xảy ra trên lầu lại càng bất bình xôn xao.

---oo0oo---

Đúng lúc đinh sắp sửa được đóng vào biển rồi thì Lâm Tố Đình xuất hiện lặng lẽ như một bóng ma. Nàng đưa mắt nhìn tấm ván gỗ màu đen bóng, được thợ mộc đẽo từ gỗ huỳnh đàn rất quý hiếm, trên biển có khắc bốn chữ mạ vàng lớn nom như rồng bay phượng múa: “Tây Hồ Thư viện.” Phía dưới còn bốn chữ nhỏ mạ bạc nữa, đệ là “Đồng Lăng An Huy.”

Lâm Tố Đình nhẩm đọc, thầm nhủ hoàng đế Mãn Thanh muốn Hắc Viện phải đổi tên đây mà, thật là ép người quá đáng!

Tiện thể nàng cũng liếc xéo quan huyện một cú, lòng thầm đánh giá. Tri huyện gì mà mặt gãy, mắt híp, nom vừa bần tiện vừa tham lam hệt mấy tên gian thương lưu manh ngoài chợ. Hèn gì mà gã leo lên được tới chức đó!

“Bản cô nương còn khuya mới cho bọn bây treo tấm ván này lên …”

Nghĩ là làm, nàng ngó qua những học sinh đang thập thò ngoài cửa, chợt thấy một gương mặt quen biết thì mừng rỡ ngoắc tay gọi lại, đoạn kề tai thì thào một hồi...

Xong đâu đó Lâm Tố Đình mới thướt tha bước đến nhún chân làm động tác thỉnh chào gã Tri huyện, giọng như oanh vàng thỏ thẻ:

- Kính bẩm tri huyện đại nhân, ngự biển này chúng tôi không dám nhận đâu, xin ngài làm ơn lấy về giúp cho?

Đang buồn bực thì nghe lời dịu dàng bên tai, Quan huyện giật mình ngoảnh sang. Ngay từ hồi mới đến An Huy nhậm chức, gã đã chú ý nghe ngóng ở đâu có mỹ nữ rồi, nên không lạ gì danh tiếng ái nữ của Lâm tiên sinh trong Hắc Viện. Người trong trấn ai cũng ca ngợi, đồn thổi về vẻ đẹp sắc nước hương trời của nàng nhưng gã chưa có dịp thấy mặt, thành ra lúc nãy còn suýt lầm tưởng Lữ Nghị Trung là nàng ta. Giờ có diễm phúc được nhìn tận mắt, quả nhiên dung mạo xinh đẹp như hoa như ngọc. Hơn nữa dáng người nàng ta càng chuẩn, sau vểnh trước nhô khiến quan huyện trong lòng ngứa ngáy, cười hềnh hệch:

- Đây hẳn là Lâm tiểu thư nức tiếng xa gần đi! Tiểu thư à, cô nói cái gì nghe lạ quá chừng vậy? Ngự biển này là của tiên hoàng khâm thí cho các người đó nha, không treo lên trên đó, không lẽ đem tiểu thư cô treo lên hay sao?

Lâm Tố Đình chưa kịp trả lời thì thấy quan huyện cho tay vào túi áo gã lấy ra một tấm lệnh bài. Nàng tò mò hỏi:

- Đại nhân lấy gì đó?

Quan huyện cười hề hề đáp:

- Đây là lệnh câu nã…

- Đại nhân ngài muốn bắt ai vậy?

Tố Đình giật mình thốt.

Nhìn mỹ nhân hoa dung thất sắc, càng tô điểm vẻ mỹ lệ đến nao lòng, gã đâm mê mẩn bèn đưa đẩy:

- Đương nhiên là... Lâm tiểu thư cô rồi!

Lâm Tố Đình nghe rõ mồn một lời cợt nhả của gã, song không tỏ ra ngại ngùng gì hết, chỉ giương cặp mắt tròn đen láy như mắt chim khuyên hỏi:

- Dân nữ có tội gì mà bị bắt?

- Thì…– Quan huyện tặc tặc lưỡi, giọng xuýt soa tiếc hận - Tại cô xinh đẹp như hoa ấy mà lại ở cái nơi xấu xí quá chừng. Hơn nữa ngày ngày sống chung với một đám nam nhân hôi thúi, còn gì là danh tiếng nữa. Tôi thấy xót cho cô quá, mới có ý muốn rước cô vào lầu hồng gác tía đó!

Quả thực Lâm Tố Đình rất xinh đẹp. Nàng không sở hửu vẻ e ấp kín đáo, thùy mị như những thiếu nữ tuổi trăng rằm khác mà lại có nét sắc sảo cá tính khiến ai chợt thấy cũng phải ngẩn ngơ.

Hơn nữa, nàng còn được trời phú giọng hát êm mượt như nhung, trong trẻo như nước. Mỗi khi tâm trạng vui vẻ, tiếng hát ấy cất lên ngọt lịm làm những ai may mắn được nghe không khỏi mê say. Xem ra những gì tốt đẹp nhất ơn trên đã gửi gắm hết cả vào nàng, giúp nàng bừng sáng lộng lẫy như bông hoa rực rỡ nhất trong một rừng hoa đẹp.

Cho nên cũng dễ hiểu khi có vị công tử si tình từng ca ngợi Lâm Tố Đình đẹp như đóa lan rừng! Mà quả thật nếu phải chọn, thì nàng xứng đáng là nữ hoàng phong lan, một nữ hoàng kiêu sa ẩn mình ở trấn miền Nam khỉ ho cò gáy này.

"Lan hỡi lan ơi, uẩn ức chi mà lan ẩn trong rừng vậy chứ? "- Nhớ đến giai thoại này gã quan huyện lại nghe lòng thổn thức.

Chết nữa là Lâm Tố Đình rất ưa cười. Có lẽ nàng tự biết mình có hai cái lúm đồng tiền rất duyên nên càng thích cười để khoe nó ra. Như lúc này đây, nụ hàm tiếu ấy làm điên đảo gã quan huyện, khiến gã không kiềm được phải thốt lên:

-Lâm tiểu thư này, à mà không, phải gọi nàng là tiên nữ hạ phàm mới đúng. Ôi chao, một nàng tiên nữ với giọng hát thật dịu dàng và đắm say...

Nom bản mặt đến là hãm tài còn nghênh lên học theo bộ dạng mấy chàng thi sĩ đa tình, Lâm Tố Đinh suýt phá lên cười. May mà nàng kìm được, khóe môi khẽ nhếch lên. Dè đâu khiến gã quan huyện tưởng rằng vừa khiến người đẹp vui lòng, gã sung sướng lâng lâng cất giọng vịt đực tỉ tê:

- Lần trước Hắc Viện có diễn một màn kịch để quyên góp từ thiện gì gì đó do nàng đảm vai chính. Ta nghe nói người tới xem đông nườm nượp, sau có kẻ kháo nhau rằng họ xem mà nghe giọng hát của nàng đến quên cả thở, cảm thán chưa từng thấy ở đâu hay hơn thế. Lâm tiểu thư hỡi, nàng có biết từ lúc ấy đã có trái tim thổn thức vì nàng hay không? Hé hé!

Lâm Tố Đình nghe mấy lời này thầm bĩu môi, biết tỏng gã mơ mộng rước nàng về dinh thật rồi đây. Nhưng tên tri huyện này háo sắc thành tính, xú danh cưỡng đoạt con gái nhà lành lan xa cả vùng, giờ rước nàng về cũng chỉ nạp làm thiếp mà thôi. Có điều nàng vẫn giả vờ nặn ra nét mặt hết sức ngây thơ mà hỏi:

- Ủa, không biết đại nhân định làm mai cho người nào đó?

Quan tri huyện như đợi câu này, sung sướng cười hề hề:

- Thì làm mai cho... ta nè chứ còn ai vào đây nữa?

Trong đầu Lâm Tố Đình bỗng lóe lên một ý nghĩ, bèn nở một nụ cười rất chi là quyến rũ:

- Vậy không biết đại nhân định dùng quà lễ gì rước tiểu nữ đây?

Quan huyện mừng quýnh, nói quíu cả lưỡi:

- Của cải ta vơ vét được, à không… làm lụng được có thiếu cha gì! Mà... mà tiểu thư đồng ý lấy ta thiệt hả?

-Ây da – Lâm Tố Đình phụng phịu làm bộ giận dỗi – Tiểu nữ không phải là mấy cô con gái trong tửu lầu đâu nha. Sao đại nhân lại mang chuyện vàng bạc ra đây!

- Ôi chao ta xin lỗi, lỡ lời. Vậy chớ tiểu thư thích cái chi chi?

- À thì… hay là đại nhân này, ngài hãy tìm cho ra một trăm cân Kim Sơn Tử đi, mang tới đây làm vật... ra mắt. Lúc ấy tiểu nữ mới coi là... xem xét nha! - Lâm Tố Đình khúc khích cười nói.

Vểnh tai chú ý nãy giờ, Lữ Nghị Trung đang thắc mắc không hiểu sao bữa nay Tố Đình lại dịu dàng thế, nghe đến đây thì vỡ lẽ liền hiểu ra dụng ý của nàng. Song chàng ta không khỏi lo lắng, mạo muội như vậy chỉ e gã tri huyện sinh nghi.

Cũng may tên quan này có vẻ rất… chậm tiêu.

-Tiểu thư không có nói chơi chứ? – Quan huyện đang mờ mắt vì trúng lá bùa yêu, vừa nghe vậy mừng muốn rụng tim.

Nghị Trung thầm thở phào, còn chưa hết hồi hộp bỗng nghe tiếng Nghị Chánh truyền âm nhập mật thì thào bên tai:

-"Đại ca, có người núp trên xà nhà!"

Chàng ta giật mình liếc nhanh một cái, quả nhiên thoáng thấy có bóng người lấp ló sau mấy thanh xà ngay phía trên kệ thờ. Bắt gặp ánh mắt Nghị Trung quét qua, người đó bèn đặt ngón trỏ lên môi ra dấu im lặng. Chàng ta liền hiểu kẻ này hẳn là người quen biết với Hắc viện rồi.

- "Ôi, ai lại bày trò phá rối chi đây?"

Nghị Trung than thầm, đưa mắt dò hỏi Trần Tôn thì ông lão lắc đầu cười khổ, đoạn đánh mắt sang Lâm Tố Đình. Chỉ thấy nàng ta chớp hàng mi cong vút, ánh mắt ướt rượt đang đong đưa gã Tri huyện. Nếu có thể lấy đó làm vũ khí giết người, hẳn quan huyện đã chết lâu rồi bởi hồn vía gã đang chìm nghỉm trong đôi mắt long lanh, trong vắt như sóng nước hồ thu của Lâm Tố Đình.

- Thế nào? – Lâm Tố Đình chớp chớp đôi mắt to, tròn xoe như hai hạt nhãn, liếc xéo một cái hỏi - Ngài nghĩ có tìm được không?

Quan huyện nhìn thân hình nảy nở của ái nữ vị Lâm Vĩ tiên sinh danh tiếng, nuốt nước bọt đánh ực một cái, định gật đầu rồi. Nhưng làm quan một thời gian, ít nhiều gã cũng học được tính thận trọng. Bấy giờ mới nhủ bụng, Kim Sơn Tử là cái giống quỷ gì gã chưa từng nghe qua, thành ra không dám hứa bừa. Có điều không thể mất mặt trước người đẹp, gã vẫn vênh mặt cao giọng:

- À…gì chứ cả núi vàng ta cũng đem đến cho nàng được, sá gì mấy cái Kim Sơn bé tẹo teo này! - Song lại hạ giọng cười hề hề - Nhưng mà để lần tới bàn đi, bữa nay làm cho xong việc chính đã!

Sau khi e hèm một tiếng, gã nói tiếp:

- Thực ra thì hôm nay bản quan đến chính là tìm Tần viện trưởng của các vị đó. Ngày thường ta tới đây hắn luôn vắng mặt, thế hôm nay có nhà không đấy?

- Ủa, không ai nói cho đại nhân là Viện Trưởng đi khảo cứu cổ văn chưa về sao?

Lâm Tố Đình kinh ngạc thốt, vẻ tự nhiên như thật khiến Quan tri huyện lập tức sầm mặt la:

- Ngự biển khâm thứ biết bao kẻ ao ước mà không được, nay trường học này nhận được là phước đức cho các người! Vậy mà họ Tần chẳng biết quý trọng, thật là...

Rồi gã phất tay áo vẻ mặc kệ:

- Mà thôi đi, ngự biển cũng treo lên rồi, thế là bản quan hết phận sự. Giờ tất cả hãy quỳ trước ngự biển cho ta!

Dứt lời, gã bước tới quỳ trước tủ thờ, hô lớn:

- Tam khấu cửu bái!

Nhìn lại sau lưng, ngoài tụi binh lính không thấy ai muốn hưởng ứng nghi lễ này, gã tức giận nạt:

- Khi quân phạm thượng, muốn chết sao? Quỳ xuống, quỳ xuống mau!

Mọi người nhìn nhau, bắt gặp cái gật đầu của Trần lão, đành miễn cưỡng lục tục quỳ cho xong chuyện.

Quan huyện hô to:

- Nhất khấu đầu! Vạn tuế!

Mọi người cúi đầu qua quít ba cái.

- Nhị khấu đầu! Vạn.. vạn tuế!

Lại lạy cho xong ba cái nữa.

- Tam khấu đầu! Vạn...

- Ui chao!

Đúng lúc đó có tiếng la thất thanh. Tất cả giật mình quay sang đã thấy Lâm Tố Đình ngã sõng xoài ra đất, tay ôm đầu gối nhăn nhó.

- Nàng làm sao thế Lâm tiểu thư? - Quan tri huyện hớt hải.

Lâm Tố Đình xuýt xoa đáp:

- Tiểu nữ bữa trước không may bị ngã, đến giờ đầu gối vẫn còn đau. Vừa nãy quỳ xuống lại động tới vết thương nên...

- Ây da, nàng thật là! Bị đau thì cứ nói ra, bản quan đâu nỡ bắt nàng quỳ chứ! - Gã chậc lưỡi xót xa.

- Tiểu nữ..., tiểu nữ cũng định nói nhưng thấy đại nhân tức giận đâm sợ hãi...

Nhìn mỹ nhân mày liễu nhíu chặt, môi hồng chu lên phụng phịu đáng yêu khôn tả, quan tri huyện hận không thể ôm nàng vào lòng nựng nịu. Cả quan lẫn lính ngơ ngẩn ngắm người đẹp đến xuất thần. Ngược lại hai anh em họ Lữ và lão Trần thì trố mắt, thiếu điều chắp tay bái phục tài đóng kịch của nàng ta.

Sau giây lát luống cuống, gã tri huyện hắng giọng nói:

- Thôi được rồi, Lâm tiểu thư bị đau thì miễn đi. Còn lại tất cả theo bản quan hành lễ cho chu toàn!

Tiếp đó gã lại hô:

- Tam khấu đầu! Vạn tuế, vạn tuế...vạn vạn tuế!

Hành đại lễ xong xuôi đâu đó, quan huyện đứng dậy mỉm cười hài lòng, nhìn lại tấm ngự biển trên tường lần cuối. Bỗng gã trố mắt đơ người như không tin vào mắt mình, phải chớp chớp vài ba lượt. Sau khi rõ ràng không nhìn lầm, gã hoảng vía giơ hai tay ôm đầu, kinh hãi lắp bắp:

- Biển… biển, ngự biển… ngự biển đâu rồi?

Cả đám binh lính nháo nhác đứng bật dậy cũng há hốc miệng, ai cũng cảm giác như có luồng khí lạnh đang lan dần ra khắp châu thân.

- "Phen này rắc rối to rồi..." - Lão Trần thầm than, trong lòng vừa bực vừa thấy buồn cười.

Bởi chính cái lúc cả bọn còn đang lóp ngóp lạy lục, ông lão chợt nghe loáng thoáng tiếng xé gió rất nhẹ vụt qua trên đầu. Giật mình lén ngẩng lên nhìn, ông chỉ kịp thấy bóng một vật xoay tít liệng ra phía cửa, liền đó có người nhảy lên bắt gọn rồi chạy mất dạng.

Hai anh em Lữ gia dĩ nhiên cũng biết. Nghị Trung thì mày nhăn tít, vẻ đăm chiêu. Nghị Chánh cũng mặt nhăn mày nhó hết sức khổ sở, rõ là bộ dạng muốn cười mà không dám.

- Úi trời ơi! Cái quái gì đang xảy ra thế này? Chết tui rồi!

Quan huyện hai bàn tay đập vô đầu rền rĩ. Giá như bàn giao xong xuôi hết thảy, ngự biển có mất gã liền phủi tay coi như không liên quan. Đằng này sờ sờ ngay trước mặt, mắt trước mắt sau tấm biển đã mất tăm hơi bảo sao quan huyện không bấn loạn. Chỉ nghĩ tới chuyện làm mất vật khâm thứ, mắc trọng tội với triều đình, gã ta kinh hãi quá chừng, bất giác mồ hôi lạnh đầy người. Rồi như nghĩ ra gì đó, gã bất thần quay phắt sang, nhìn lom lom Lữ Nghị Chánh quát lớn:

- Ngươi, ngươi đứng gần tủ thờ nhất! Có phải nhà ngươi đã lấy không?

Chàng ta giật bắn người, bộ dạng hốt hoảng không biết phải làm sao khiến Lâm Tố Đình thầm cười trộm, xem ra anh chàng này cũng có khiếu đóng kịch ghê. Nghĩ vậy nhưng nàng giãy nảy lên, vội bênh:

- Úy! Đại nhân đừng có nói bậy nha, ngự biển hồi nãy phải mấy người đàn ông lực lưỡng mới treo lên nổi. Một mình Lữ nhị công tử sao có thể thần không biết quỷ không hay khiêng xuống được? Lại nữa chỗ đó cao như vậy, Lữ công tử càng không có cánh, làm sao lên đó chứ?

Nhìn lại thì Nghị Chánh ốm tong teo như một que nhang, so vai rụt cổ gật lấy gật để, nhìn gã bằng ánh mắt oan ức hết sức tội nghiệp, Quan huyện bỗng thấy nàng ta nói... có lý.

- Nhưng mà ngự biển mới vừa ở đây– Quan huyện thần trí rối tựa bòng bong, lẩm bẩm như tự nói với chính mình- Chớp mắt một cái bỗng dưng biến mất, sao lại có thể như vậy được?

Thấy gã lo sợ muốn xỉu, Lâm Tố Đình trong bụng khoái lắm. Chợt nghĩ ra một ý, nàng lộ vẻ căng thẳng, thấp giọng nói:

- Thật ra..., Hắc viện dạo này kỳ lạ lắm đó đại nhân!

- Ý nàng là sao?

- Tiểu nữ muốn nói... - Lâm Tố Đình thì thào hết sức thần bí - Chuyện như thế này đã xảy ra đôi ba lần rồi!

- Úi trời ơi ghê quá! - Một kẻ sợ hãi thốt.

- Hay là... có ma? - Kẻ khác xì xào.

- Thảo nào, lúc chúng ta làm lễ khấu đầu tiểu nhân cảm giác có một luồng khí lạnh thoáng qua trên đầu! - Lại có kẻ la khẽ.

Quan huyện bực mình nạt đám lính:

- Ma! Ma cái đầu tụi bay! Có Lâm tiên nữ ở đây trấn tà, ma cỏ gì!

Lâm Tố Đình bĩu môi, quay sang binh lính và học sinh, bảo họ:

- Nào, nào, đi tìm, các vị mau đi tìm giúp đại nhân đi!

Nửa khắc sau binh lính và học sinh trở lại báo cáo tìm mãi trong thư viện mà không tìm được ngự biển. Lâm Tố Đình nghiêm mặt nói:

- Vậy chỉ còn một khả năng!

- Khả năng gì?

- Bị gió cuốn bay đi rồi!

- Bị gió cuốn! - Quan huyện mặt thộn ra, liền đó trầm giọng thốt - Lâm tiểu thư coi bản quan là trẻ lên ba chắc?

Lâm Tố Đình lắc đầu, vẻ nghiêm túc hỏi:

- Đại nhân, ngài nghĩ mà xem Hoàng thượng là ai? Là thiên tử, con của ngọc hoàng đại đế, đúng không? Mà Ngọc hoàng đại đế là ai? Là chúa tể chư tiên trên thiên đình, đúng không?

- Cái này... cũng đúng. Nhưng liên quan gì? - Quan huyện ngơ ngác.

- Vậy thì đúng rồi. Vì thế nên tấm ngự biển do hoàng thượng viết ra ít nhiều phải dính chút tiên khí, nào phải vật phàm. Còn Hắc viện của bọn tiểu nữ, chỉ là chốn trần tục toàn bình dân bá tánh nghèo khổ. Tấm biển cao quý như vậy dĩ nhiên không ở nổi chỗ này bèn cưỡi gió bay mất tiêu rồi. Cái này chính là ứng với câu...

- Câu gì? - Quan huyện nghệt mặt.

- Câu... câu gì mà có chữ miếu ấy nhỉ?

- Miếu... miếu nhỏ không chứa nổi Bồ tát lớn! - Nghị Chánh nghe nàng ta luyên thuyên bát nháo nãy giờ, thực chỉ muốn ôm bụng cười phá lên, kiềm nén mãi mới thốt ra được.

- Đúng, chính câu đó! - Lâm Tố Đình vỗ tay reo lên.

- Lẽ nào lại như vậy?

- Có khi là thật đó đại nhân!

Vài tên lính thấp giọng lao xao.

Lâm Tố Đình gật đầu an ủi:

- Thế nên đại nhân đừng quá lo lắng, hẳn là ngự biển chỉ cưỡi gió bay đâu đó quanh trấn An Huy này thôi!

Quan huyện nghe mà đầu váng mắt hoa, cảm thấy chuyện rất không bình thường mà không rõ là ở chỗ nào. Thế là suốt buổi chiều hôm đó ở trong trường học, dáo dác sai lính tìm khắp mọi nơi mà vẫn công cốc, khiến gã ta mặt xanh như tàu lá, tưởng bị gió cuốn đi thật, lại kêu binh sĩ tản ra khắp thị trấn tiếp tục tìm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 4: Kỳ nữ giang hồ

Không biết sau bao lâu, Cửu Dương mới tỉnh dậy. Chàng mơ hồ cảm giác có người đặt tay lên trán mình, rồi loáng thoáng nghe thấy tiếng kêu: “Sư phụ! Sư phụ ơi!”

Từ từ mở mắt ra, chàng liền thấy Hiểu Lạc đứng bên giường, đầy vẻ lo lắng. Cạnh đó là Nữ thần y, ánh mắt quan tâm dịu dàng như nước hồ mùa xuân.

- Huynh đã nằm bao lâu rồi? - Cửu Dương hỏi.

- Huynh ngủ hơn một ngày rồi, giờ đã là nửa đêm! - Nữ thần y đáp khẽ, cẩn thận xem lại mạch cho chàng.

Hiểu Lạc đỡ sư phụ ngồi dậy uống nước. Nhân đó Cửu Dương nhìn quanh, giường bên cạnh sư huynh Trương Quốc Khải vẫn hôn mê bất tỉnh, trong mật thất còn có thêm hai anh em nhà họ Lữ và Trần Tôn nữa.

Đúng lúc đó cửa hầm kẹt một tiếng mở ra, Nhạc Tam Nguyên cầm một bọc vải đi xuống nhanh như bay.

Lữ Nghị Chánh và Lữ Nghị Trung đang ngồi trầm ngâm như thôi miên cái ấm trà trên bàn, vừa thấy Nhạc Tam Nguyên trở về thì bật dậy, chạy lại đua nhau hỏi:

-Tìm được Kim Sơn Tử rồi hả?

- Đâu lấy ra cho mọi người coi thử, xem có phải ba đầu sáu tay hay không?

Nhạc Tam Nguyên không kịp trả lời, vội đưa cái bọc vải cho nữ thần y kiểm tra. Dưới ánh đèn cầy leo lét, chàng ta nhìn chằm chằm Nữ thần y, hồi hộp hỏi:

- Thần Y cô nương, thế nào? Có đúng là Kim Sơn Tử không?

Nhận được cái gật đầu, Nhạc Tam Nguyên thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới quay sang nói với hai anh em nhà họ Lữ:

- Phải thế chứ! Có gói lá nhỏ thôi, đệ phải dùng hết hai trăm lượng mới mua được đó. Chỉ sợ lại không phải thì...

- Cái gì! – Lữ Nghị Chánh la lên - Sao mắc dữ vậy?

Lữ Nghị Trung lại nghĩ mạng người mới là quan trọng, liền hỏi điều chàng ta muốn biết nhất lúc này:

- Lấy được Kim Sơn Tử rồi giờ làm sao?

- Không biết có trị được không?

Lữ Nghị Chánh vẫn cái tính bộp chộp, nghĩ gì nói nấy.

Lữ Nghị Trung tức khắc la đệ đệ:

- Đệ thật là...! Trên đời này còn chất độc không thể đối phó được thì làm sao Thần Y cô nương được người ta tặng cho danh xưng Tái Hoa Đà?

Nữ Thần y mặc kệ huynh đệ họ luyên thuyên, chỉ ra lệnh:

-Hiểu Lạc, đệ đem một bồn nước nóng tới đây pha Kim Sơn Tử để tam ca ngâm mình trong đó trước đi.

Hiểu Lạc dạ một tiếng, lật đật chạy đi.

- Mỗi canh giờ phải thay nước thuốc một lần – Nữ thần y dặn những người trong mật thất - Sáng trưa chiều tối là ba lần, tam ca cần người giúp huynh ấy ép chất độc ra ngoài. Đồng thời muội cũng sẽ dùng kim châm điều khí giúp cho huynh ấy, cùng kết hợp ngăn chất độc công vào tâm mạch.

Ngẫm nghĩ một lát, nàng lại thở dài nói thêm:

- Có điều chỉ e là chưa đủ, chất độc trên người tam ca thật không đơn giản...

Vừa lúc Hiểu Lạc khệ nệ bưng bồn nước xuống hầm, nghe được câu này nó cười nói:

- Không sao đâu tỷ à, đệ dám chắc tam đương gia gặp được tỷ, trái tim ấm lại, nhịp mạch mạnh lên, khí huyết thông thuận. Có khi tác dụng còn hơn cả được uống thuốc tiên nữa đó.

---oo0oo---

Sau mấy đêm thức trắng vì lo lắng chuyện chất độc Kinh Phủ, giờ tìm được Kim Sơn Tử rồi, Nhạc Tam Nguyên cảm giác như trút được một gánh nặng trên vai. Nhưng khi nghĩ tới chuyện Cửu Nạn sư thái và năm người đương gia kia hãy còn không rõ sống chết ra sao, chàng ta than thở với Trần lão:

- Cháu cũng muốn đi theo hổ trợ họ, nhưng Thất đương gia cứ nhất định bảo phải đem lá thư đến trao cho Nữ thần y cô nương. Thành ra hành động lần này cháu trở về không kịp...

Trần Tôn trầm ngâm đáp:

- Cậu không nên trách Viện trưởng. Đó là cách nghĩ rất tỉ mỉ của Viện trưởng đấy. Thật ra, những người đi hành thích hoàng đế lần này đều là những kẻ độc thân, không vướng bận. Còn như Tam Nguyên cậu, vẫn phải phụng dưỡng cha mẹ già yếu. Nếu chẳng may bị bắt giữ thì gia đình, thậm chí cả dòng họ cậu cũng sẽ bị liên lụy. Tới chừng đó thậm chí không tránh khỏi tru di cửu tộc!

Mà nhắc tới chuyện xét nhà diệt tộc, Lữ Nghị Trung và Trần Tôn lại đưa mắt ngó nhau, trong lòng hai người lại canh cánh nỗi lo về vụ tấm ngự biển.

Bởi hôm trước, sau khi lùng sục hết cả thị trấn mà không ra miếng ván gỗ, quan tri huyện An Huy dẫn binh lính sồng sộc trở lại trường học.

Song đập cửa một hồi chẳng thấy ai ra đón, gã ta bực quá lập tức ngoác mồm thóa mạ:

- Không lẽ bọn học sinh trong trường này sợ tội đi trốn, hay chết ráo cả rồi hay sao? Con mẹ mười tám đời tổ tông nhà bọn bây!

Lát sau Lữ Nghị Trung mới dẫn học sinh ra chào quan tri huyện, vẫn cung cung kính kính treo trên môi câu nói cũ:

- Được hoàng thượng coi trọng, ủy thác đại sự cho trường học của chúng tôi. Song chúng tôi vô tài vô đức, cảm thấy thật là xấu hổ, không dám nhận!

Quan tri huyện biết họ Lữ muốn chối bỏ trách nhiệm, căm tức cũng giở giọng cùn quát:

- Ngự biển bản quan đã mang tới đây rồi, treo cũng đã treo rồi. Chuyện tự dưng bị mất đó giờ là trách nhiệm của đám người TỤI BÂY, KHÔNG DÍNH DÁNG ĐẾN TAO, NHÁÁ!!!

La hét xong liền dẫn binh lính hằm hằm ra về.

---o0o---

Lại nói sau khi Cửu Dương tỉnh lại, việc đầu tiên Trần Tôn làm là đem chuyện ngự biển trình bày lại với chàng. Cửu Dương chăm chú nghe qua, cân nhắc một hồi biết sự tình nghiêm trọng bèn vội cho người đi kêu Lâm Tố Đình đến.

- Đại muội, muội trao vật đó ra đây!

Lâm Tố Đình vừa bước vào mật thất, đã nghe Cửu Dương nghiêm mặt nói.

Từ hồi bé xíu, Lâm Tố Đình và Nữ thần y đã khăng khít như chị em ruột. Ngoài ra, cả hai cũng hết sức thân thiết với bảy người Giang Nam thất hiệp. Nên với họ, hai cô không khác chi em út, bèn lần lượt gọi Lâm Tố Đình là “Đại muội,” còn Nữ thần y là “Tiểu muội.”

Lâm Tố Đình ngó thấy sắc mặt Thất ca thật dữ dằn quá, đang trợn mắt nhìn nàng thì phụng phịu chối bay chối biến:

-Sao khi không huynh lại nổi hứng ăn nói cộc cằn với muội vậy? Vật gì? Muội chẳng biết huynh đang nói chi. Ai thèm lấy gì của huynh chứ!

- Đừng có đánh trống lảng! Là muội lấy! Dù muội không trực tiếp ra tay nhưng huynh biết chắc là muội giữ nó! – Cửu Dương đanh giọng.

Lâm Tố Đình chột dạ than thầm, nhưng vẫn tỏ vẻ cứng bĩu môi đáp:

- Huynh nói không đầu không cuối, muội chẳng hiểu chi hết!

Nữ thần y đứng gần đó thì sợ hãi, nhìn hai người đối chọi gay gắt không biết phải xử lý sao. Lữ Nghị Trung quá rõ cái tính tiểu thư của Lâm Tố Đình, sợ nàng ta lỡ lời lại khiến người trong nhà xung đột, vội xoa dịu:

-Viện trưởng à, ngự biển vừa to vừa nặng như vậy, phải hai người đàn ông mới có thể treo lên được. Lâm tiểu thư có thể vác đi giấu ở đâu được chứ?

Nhóc Hiểu Lạc cũng hùa theo bênh:

-Sư phụ à, Lữ sư thúc nói đúng đó…

Nhưng Cửu Dương đã chau mày nạt:

- Hiểu Lạc im! Ta không hỏi con! Cũng cấm những người khác không được lên tiếng. Thế nào, Đại muội? Muội nói đi!

Lâm Tố Đình chưa bao giờ thấy Cửu Dương nặng lời đến vậy, bất giác quýnh lên, hết nhìn nữ thần y đến nhìn Trần Tôn. Nhưng vẻ mặt hai người rõ ràng là ủng hộ Cửu Dương rồi. Nàng tủi thân lắp bắp:

-Huynh… huynh… chẳng có chứng cứ mà phán cứ như thiệt vậy đó. Rõ ràng oan cho muội mà!

Vừa nói nàng vừa nặn ra một bộ mặt hết sức thật thà, rồi quay sang cầu cứu Hiểu Lạc, ánh mắt u oán đáng thương như muốn nói "Nhìn coi, sư phụ đệ bắt nạt tỷ đó. Uổng cho tỷ tốt với đệ mấy bữa nay!"

Chả là chú nhóc này hồi đầu tới An Huy buồn chán không biết làm gì, sau được Lâm Tố Đình dắt đi thăm thú khắp nơi. Hiểu Lạc vẫn là đứa nhóc, dĩ nhiên ham vui hiếu động. Lâm Tố Đình thì yểu điệu như tiểu thư thật đấy, song tính tình cũng nháo không kém, chỉ sợ thiên hạ không loạn thì kém vui. Cho nên rất nhanh đã bắt cặp ăn ý, thân thiết như tỷ đệ lâu ngày gặp lại.

Giờ tỷ tỷ tốt đang bị sư phụ quở trách nghiêm khắc, nó áy náy không yên, cảm giác chỉ đứng nhìn có vẻ thiếu nghĩa khí giang hồ quá, bèn cắn răng liều mình can gián:

-Sư phụ...

Có điều mới thốt hai tiếng đã bị Cửu Dương trừng mắt:

- Hiểu Lạc! Ta bảo con câm miệng! Đừng tưởng sư phụ không biết chuyện con làm dạo gần đây. Có muốn diện bích không?

Diện bích là hình phạt bắt ngồi yên quay mặt vào tường trong một khoảng thời gian dài. Với đứa hiếu động ưa chạy nhảy như Hiểu Lạc, còn đáng sợ gấp vạn lần bị ăn roi.

Thế là "nghĩa sỹ" co đầu rụt cổ, nín re chẳng dám hó hé gì nữa, đưa ánh mắt ảo não ngó tỷ tỷ tốt như muốn phân trần "Tỷ à, không phải đệ thiếu nghĩa khí đâu nha!"

Cửu Dương quay sang Lâm Tố Đình nói tiếp:

- Huynh đây không phải là tay Tri huyện ngốc kia, đừng có đem cái trò “gió thổi ngự biển bay đi” mà diễn lại nhé!

- Ấy! - Nghị Chánh bỗng kêu - Viện trưởng sư huynh nói đệ mới nghĩ ra, kẻ thần bí đó ra tay trước mặt bao nhiêu người mà thần không biết quỷ không hay. Cao thủ bực này ngoài sư thái và bảy vị đương gia, đệ thấy hình như không còn ai!

Nhận được cái nháy mắt của Nghị Chánh, Lâm Tố Đình hiểu ý bắt ngay cơ hội phân bua:

- Đúng thế, muội chỉ quanh quẩn ở trấn An Huy, đâu quen biết ai thủ đoạn cao siêu như vậy chứ!

Cửu Dương hừ nhẹ:

- Vừa nghe Trần thúc kể lại, ta thấy chẳng cần phải cao thủ tuyệt đỉnh đâu. Nếu muội vẫn chối, Thất ca sẽ chỉ ra cho muội tâm phục khẩu phục!

- Không liên quan tới muội, sao phải chối chứ! - Nàng bĩu môi lẩm bẩm.

Cửu Dương trầm giọng:

- Tháo biển chỉ trong tích tắc, nghe có vẻ khó khăn nhưng có thể thực hiện được. Bất quá công phu nhu kình luyện đến mức lô hỏa thuần thanh, ra tay êm ru như vậy. Cao thủ tông sư cỡ này trấn An Huy quả thực không có ai...

- Đó, chính huynh thừa nhận đấy nhé! - Tố Đình đắc ý kêu.

Cửu Dương lắc đầu cười nhạt:

- Có điều miễn cưỡng đánh bật đinh đóng chặt vào gỗ chỉ bằng một chưởng, vừa hay ta lại biết người sở hữu công phu như thế!

- Ồ, không một tiếng động, chỉ một chưởng đánh bật mấy cây đinh! Công phu gì lợi hại vậy Viện trưởng sư huynh?

Lữ Nghị Chánh mắt sáng lên. Huynh đệ họ Lữ sở trường Mai Hoa Quyền, dĩ nhiên vô cùng hứng thú mấy loại võ công liên quan tới quyền chưởng.

- Thực ra thì hỏa hầu người này chưa tới mức đó đâu. Thế đệ nghĩ vì sao Đại muội lại phải diễn màn kịch đau chân chứ?

- A ra là vậy!

Nghị Chánh tỏ vẻ đã hiểu, liền đó xoa tay hưng phấn kêu:

- Huynh còn chưa nói công phu đó là gì đấy!

Cửu Dương ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Nếu không lầm hẳn là Vô Âm Chưởng pháp, do một vị sư thái núi Nga Mi nghĩ ra!

- A, nghe đã thấy lợi hại rồi. Huynh biết môn công phu này chứ? - Nghị Chánh xoa tay hỏi.

- Không biết...

- Thế người thần bí đó...

- Huynh cũng chưa dám khẳng định! - Chàng trầm ngâm.

Nghị Chánh ỉu xìu:

- Trời, vậy đệ biết tìm ai thỉnh giáo đây!

Cửu Dương bỗng mỉm cười, chậm rãi nói:

- Nhưng nếu ta suy đoán đúng thì đệ chẳng cần tìm đâu xa. Nghe nói Tố Đình thân quen với người ta lắm, được người ta truyền thụ mấy phần công phu rồi đấy. Phải không Đại muội?

- Thật sao?

Lữ Nghị Chánh mừng rỡ, quay ngoắt sang năn nỉ:

- Lâm tiểu thư, xin được thỉnh...

Còn chưa hết câu, chàng ta đã bị dọa cho im bặt. Lâm Tố Đình trợn mắt, nghiến răng trèo trẹo hét lên lanh lảnh:

- Lữ Nghị Chánhhhh, huynh là đồ ngốc!!!

Đoạn xắn tay áo giương nanh múa vuốt xông tới.

- Ôi, cứu...!

Thoáng chốc mật thất ầm ĩ tiếng la hét chí chóe khiến mọi người vừa bực mình vừa buồn cười. Cửu Dương lắc đầu, trầm giọng quát lớn:

- Đủ rồi đấy Đại muội!

- Thất ca...!

- Muội còn muốn nháo đến chừng nào nữa?

Lâm Tố Đình đành im, dậm chân đầy vẻ ấm ức.

- Trước kia đôi lúc muội bày trò phá người ta, huynh bỏ qua vì dẫu sao chúng cũng vô hại. Nhưng lần này Thất ca buộc phải phạt muội thật nghiêm khắc!

- Chỉ là một miếng gỗ của cẩu hoàng đế Mãn Thanh! Huynh thử hỏi mọi người, xem có ai muốn treo nó lên không?

"Rầm!"

Cửu Dương tức giận đập tay xuống giường:

- Muội sai rồi! Tình cảnh hiện giờ đang nguy hiểm thế nào mà muội suy nghĩ xốc nổi như vậy?

- Muội...

- Chuyện nhỏ à? Nó có thể gây ra hậu quả khôn lường, thậm chí xét nhà diệt tộc đấy muội biết không?

Lâm Tố Đình len lén liếc một cái, thấy Thất ca mắt trợn ngược, hữu quyền nắm chặt đến phát run thì giật mình sợ hãi. Quả thật chưa bao giờ nàng thấy huynh ấy giận dữ đến mức này.

- Ôi, sinh tử của mấy người Tổng đà chủ còn chưa rõ, vậy mà muội... khụ!

- Viện trưởng...

- Sư phụ!

-Sư huynh...

Cửu Dương ôm ngực ho một tràng khiến mọi người lại cuống lên. Cẩn thận xem mạch cho chàng xong, Nữ thần y lui ra, nhân đó khẽ giật tay áo Lâm Tố Đình lắc đầu ra hiệu.

Là mỹ nữ hiếm hoi giữa Hắc Viện phần lớn toàn nam sinh, có thể ví Lâm Tố Đình như viên minh châu sáng chói. Hơn nữa được Giang Nam thất hiệp võ công cao cường cưng chiều như muội muội, trước nay nào đã chịu thiệt bởi ai bao giờ, nên không khỏi có chút ương bướng tinh nghịch. Song về bản chất, nàng vẫn là một cô nương ngây thơ thuần khiết.

Thấy Cửu Dương vì mình tức giận đến nỗi nội thương tái phát, thật ra trong lòng Lâm Tố Đình cũng hối hận rồi. Nàng cúi đầu khẽ nói:

- Thất ca, muội xin lỗi...

Trong mắt Cửu Dương thoáng qua ý cười, song chàng thở dài nói:

- Tố Đình, hẳn muội đang nghĩ nếu nói ra e không nghĩa khí với người ta!

- Muội...

Cửu Dương liền nói tiếp:

- Cho dù muội giấu diếm ta cũng đoán ra bảy tám phần rồi. Có điều nếu muội không nói rõ, Thất ca làm sao dám chắc để đi gặp người ta đây?

Đắn đo một hồi, Lâm Tố Đình không còn cách nào khác đành thú thật…

Nghe xong Cửu Dương không khỏi cười khổ "Quả nhiên là nàng..."

Thoáng chút thất thần, chàng lại thở dài lẩm bẩm:

- Ôi, chỉ là một miếng gỗ sao...

---oo0oo---

Đường xá khu chợ Đông Ba của trấn An Huy tỉnh Hàng Châu cũng như mọi hôm rất tấp nập, dòng người ùn ùn xuôi ngược. Chợt cái tấp nập thường ngày đó có chút xao động, bất giác ồn ào hơn khi đầu phố xuất hiện một thiếu nữ bận đồ xanh da trời đang đẩy chiếc xe gỗ hai bánh, ở trên chất đầy những vò rượu.

Nàng đi đến đâu, người đi đường nhìn theo đến đấy. Thậm chí có người đã lướt qua rồi vẫn quay lại ngó một lần nữa, bởi thiếu nữ này thật xinh đẹp. Dù chỉ khoác trên người bộ trang phục bình dị không chút cầu kỳ, trông nàng vẫn nổi bật khác thường. Đặc biệt là đôi mắt hơi to, sâu thăm thẳm dưới hàng mi cong hút hồn. Nước da trắng mịn như sữa, tương phản là mái tóc đen dài óng ả chấm eo thon. Một đóa hoa mơn mởn xuân thì như vậy, bảo sao chẳng khiến người ta phải ngoái đầu!

- Ui cha, con nhỏ đẹp dữ!

Trong một tửu quán bên đường, ba gã đàn ông đang ngồi ghếch chân lên ghế bật dậy nhớn nhác. Một kẻ trong bọn hỏi với vào trong:

- Bà chủ, có biết con nhỏ kia không?

Một người đàn bà phốp pháp, hẳn là chủ quán nghe tiếng gọi liền đon đả chạy ra, thấy khách hất hàm ra hiệu mới nghển cổ nhìn theo. Sau khi tặng cho ông chồng gày gò cũng đương nhấp nhổm một cái véo rõ đau, bà ta mới bĩu môi nguýt dài:

- Tưởng ai, con nhỏ đó tên Tiểu Tường!

- Ồ, gái đôi tám có khác, trông tươi non thế!- Một kẻ mắt hau háu, gãi mép lẩm bẩm.

- Mà thế nào lại phải tự mình kéo xe rượu thế kia? - Kẻ khác ngạc nhiên hỏi.

Bà chủ cười mỉa mai:

- Nó chuyên pha chế rượu bán cho Túy Hồng Lâu đấy. Cha mẹ mất hết rồi, không tự mình đẩy xe kiếm ăn thì ai đẩy cho!

- Túy Hồng Lâu!

Cả ba ồ lên kinh ngạc, mặt lộ vẻ mơ màng khao khát. Bọn chúng dù mới tới trấn An Huy, thế nhưng đã biết tiếng Túy Hồng Lâu - một trong hai kỷ viện nổi tiếng ở Giang Nam. Nghe nói nơi này muôn hoa khoe sắc khiến khách phong lưu quên cả đường về. Nào là mỹ nữ quyến rũ, say đắm tựa nụ hồng đỏ thắm, rồi thanh nhã cao quý như hoa mẫu đơn, hay thuần khiết thẹn thùng như hoa mắc cở, xinh đẹp hoang dã như hoa loa kèn... Nói chung chỉ cần khách đến chốn này thì luôn luôn có mỹ nữ hợp khẩu vị bọn họ. Nếu vẫn chưa ưng ý, cho đổi tới thay lui đến khi khách vừa lòng hả dạ mới thôi.

Lại thấy bà chủ quán trề môi nói tiếp:

- Ra vẻ thanh cao cho ai xem chứ! Dây dưa với chỗ ấy sớm muộn cũng thành kỹ nữ cho thiên hạ chơi đùa thôi!

- Đi, tụi bay!

Một gã nghe tới đó mắt sáng rực, xô ghế đứng phắt dậy hô.


- Ơ kìa, tiền thịt với rượu!

Mụ chủ béo thoắt cái nhao tới túm áo khách.

Gã bị tóm nom cũng to béo như lợn, cười nhe nhởn:

- Trả sau nhé!

- Á à, định ăn quỵt của bà à? - Mụ ta tru tréo.

Nhìn theo đồng bạn đã chạy đi, gã béo sốt ruột nhe hàm răng vàng khè:

- Giờ ông đây không có tiền, chỉ có cái này thôi!

Đoạn giơ nắm tay to bè lên đe dọa.

- Tưởng bà mày sợ à, chưa trả tiền đừng hòng chạy! - Bà ta nghiến răng đáp trả.

- Lắm lời!

Gã béo bực mình hất tay một cái khiến bà chủ phốp pháp ngã dúi dụi, xô đổ cả hàng ghế đằng sau, xem ra tên này cũng có chút công phu trong người.

- Ối giời ơi, ăn quịt còn đánh người. Thử hỏi vương pháp ở đâu chứ, giời ơi là giời...

Lại nói, thiếu nữ tên Tiểu Tường đang kéo xe gỗ, giao rượu cho một quán ăn trong chợ thì nghe ầm ĩ nơi góc phố, liền tò mò quay lại nhìn. Tiếng huyên náo là từ quán rượu của mụ Trương béo vọng ra. Giữa đống bàn ghế đổ chỏng trơ, mụ ta giãy đành đạch, tru tréo liên hồi. Bên cạnh là ông chồng ốm o loay hoay không biết phải làm sao. Xung quanh người qua kẻ lại, chỉ xúm xít đứng coi trò vui, bởi mụ béo ngoa ngoắt có tiếng, vốn chẳng ai ưa. Giờ chứng kiến mụ chịu thiệt, có người thậm chí còn cười vui vẻ.

Mọi khi gặp chuyện thế này Tiểu Tường nhất định phải len vào xem một chút, nhưng bữa nay còn cả mẻ rượu chưa giao xong. Nàng đành xốc lại đai kéo, quệt mồ hôi vương trên trán rồi bặm môi bước tiếp.

- Tiểu Tường!

Nghe tiếng gọi, Tiểu Tường ngước mắt nhìn quanh. Một phụ nữ trung niên từ gánh mỳ góc đường chạy ra, vẫy vẫy tay:

- Đã phải giao rượu tiếp rồi hả con?

- Dạ, dì Lương. Bữa nay con giao cho quán của Vương thúc!

Gật đầu mỉm cười hiền hậu, bà ngập ngừng một lát, vắt cái khăn lau tay lên vai rồi mới nói:

- Tiểu Tường à, số bạc lần trước...

- Sao vậy dì?

- À, chỉ là... chỉ là bạc lần trước con cho dì mượn, Tiểu Tường thư thư cho dì ít bữa được không?

Thiếu nữ cười xòa nói:

- Ôi, sao đâu dì. Nếu dì khó khăn thì ít bữa nữa trả con cũng được!

- Cám ơn con. Cứ lần lữa mãi thế này dì cũng ngại lắm!

- Ủa, trán dì...

Tiểu Tường vén cái khăn hoa trùm đầu của dì Lương, một bên trán lộ ra vết bầm thật to. Nàng tức giận kêu:

- Lão ta lại đánh dì hả?

- Không... không, là do dì bất cẩn! - Dì Lương lúng túng nói nhỏ.

- Dì thử nhìn lại xem, trên người bao nhiêu vết sẹo rồi. Vậy mà còn bênh lão ấy chằm chặp!

Nở nụ cười gượng gạo, bà phân trần:

- Chỉ lúc uống rượu với thua bạc thôi, bình thường lão ấy vẫn tốt lắm!

- Dì thật là...

- Thôi đi đi kẻo lão Vương sốt ruột. Lát có xong sớm thì qua đây, dì phần con tô ngon nhất!

- Dạ, con đi!

Nhìn theo cái dáng tất tả của Lương đại nương, Tiểu Tường thầm cười khổ "Chắc lão khốn kiếp kia nướng hết vào chiếu bạc rồi. Ôi, cũng là người lụy tình...” Ngẫm nghĩ thế nào, nàng đứng thất thần khẽ lẩm bẩm:

- Còn mình, thì sao đây...?

Tâm trạng bất giác nặng nề, cước bộ cũng trầm xuống vài phần. Kéo xe qua một con phố nữa, trước mặt nàng lại xuất hiện ba gã đàn ông chắn đường. Một gã vừa lùn vừa ốm, ra vẻ thủ lĩnh, hai tên phía sau thì một cao nghều, một mập mạp như con heo ục.

Gã lùn ốm rú lên cười nham nhở:

-Úi mẹ ơi, cô nương này nhìn gần đẹp quá trời quá đất!

Tên cao nghều nuốt nước bọt, gật lấy gật để:

- Con bà nó, ta thích!

Tên mập cũng cười tít mắt, cuống quít nói:

-Ta nữa ta nữa, cũng thích quá trời luôn!

Phải nói Tiểu Tường da sáng thịt mịn, chẳng giống cái vẻ đã từng nếm qua khổ ải chút nào. Cả người nàng sáng bừng, toát lên vẻ dịu dàng thuần khiết hệt đóa hoa nhỏ bên suối.

Thoạt đầu nàng hơi ngỡ ngàng, hình như lâu lắm rồi mới có kẻ lại trêu chọc mình. Đến lúc nghe mấy tên dê xòm kẻ tung người hứng, nàng bực mình cau mày hỏi:

- Các ngươi đang nói ai đó?

- Ủa, ngoài cô em ở đây còn ai nữa sao?

Gã lùn ốm cười hí hí, làm bộ quay trái quay phải rồi sán tới gần tiếp tục chớt nhả:

- Muốn uống cô em, à không, rượu của cô em vô bụng, thì phải trả bao nhiêu tiền đây?

Vừa hỏi gã vừa quơ tay xốc lấy một vò định nếm thử. Dè đâu Tiểu Tường mím môi, vung tay hất luôn.

"Xoảng!"

Chiếc vò bằng sành bắn tung lên, rơi xuống đất vỡ tan tành, rượu tràn ra đường, hương theo gió bốc lên thơm lừng. Nàng buông xe kéo, phủi tay vài ba cái rồi đứng chống nạnh quát:

- Rượu của bổn cô nương đâu phải để thứ như ngươi uống không. Muốn uống rượu, thì phải trả tiền. Còn nữa, thái độ phải biết điều một chút. Bằng không ta thà đổ xuống đất cho chó còn hơn!

Trông thiếu nữ xinh xắn dễ thương, không ngờ mồm mép vô cùng chua ngoa đanh đá. Song mỹ nhân giận dữ lại có hương vị quyến rũ riêng, khiến cả bọn càng thích thú. Tên mập cười rú lên:

- Oa ha ha! Thì ra cũng là con cọp cái đó tụi bây ơi!

Ba từ “con cọp cái” đập vào tai, mày liễu Tiểu Tường lập tức nhíu chặt vào nhau. Nàng chỉ thẳng vào mặt tên mập, thét lanh lảnh:

- Ngươi thử nói thêm lần nữa coi!

Nghe tiếng huyên náo, người đi đường dừng cả lại xem. Có điều ba gã này ỷ có võ công, chẳng thèm để ý. Nghe Tiểu Tường thách thức, bọn chúng còn phá lên cười sằng sặc. Gã mập tức thì nhệch mồm lặp lại luôn, nhưng chưa nói hết chữ “cái,” hai tiếng bốp bốp đanh gọn đã vang lên. Rất nhanh, hai bên má hằn lên năm vệt dài đỏ lừ. Không ngờ thiếu nữ liễu yếu đào tơ, vậy mà lực tay thật mạnh.

- Ôi daaa – Sau cơn choáng váng, gã mập hai tay ôm mặt la chói lói - Đau chết tao rồi…

Gã cao kều thấy đồng bọn bị một thiếu nữ mảnh mai, sức trói gà còn không có đánh đến sưng vù cả mặt mày thì cảm thấy mất thể diện quá, bèn quay sang chửi:

- Mày có im…

Còn chưa dứt câu ngực bỗng đau điếng, gã giật nảy người rú lên.

-Úi!... Chết con…

Trúng một đòn của người ta lại hô "Chết con,” ý vị nghe ra thật hài hước. Song trước diễn biến đột ngột này, ai nấy há hốc mồm ngạc nhiên, chẳng còn tâm trí đâu để cười cợt nữa.

Chẳng đợi tên lùn ốm kịp thốt câu nào, nàng rút lẹ khúc cây dùng để chống xe kéo, tung mình nhảy tới vừa múa thanh gỗ vù vù vừa quát:

- Chết đi, dám chọc giận mẹ tụi bây này!

Sẵn trong lòng bực bội vì chuyện dì Lương ban nãy, nàng thực muốn đánh đấm cho hả giận, vừa hay gặp ba tên dê xồm nên ra tay không chút kiêng dè.

Thật ra ba gã này là lưu manh có tý danh tiếng ở chốn kinh thành. Gặp dịp nghe giang hồ đồng đạo ca ngợi sông nước Giang Nam trù phú, con gái thì xinh đẹp thướt tha bèn hợp với nhau cùng làm chuyến xuôi Nam. Dọc đường qua vô số thành trấn, bọn chúng cũng quậy phá mấy bận, đụng độ vài ba kẻ giang hồ, may mắn toàn thắng không sứt mẻ, tự nhiên nảy sinh cảm giác ngạo nghễ của cao thủ, bèn xưng là Bắc Thiên Tam kiệt.

Bọn chúng tới trấn An Huy vừa được dăm hôm, đã kịp ăn quịt uống chịu cả chục tửu lâu hàng quán. Khéo thay đúng dịp võ lâm Giang Nam dậy sóng vì sự kiện Thất hiệp hành thích Hoàng đế. Ai nấy xôn xao bàn tán, hơi đâu để mắt xem mấy tên giang hồ nhãi nhép phá phách ra sao, thành ra ba đứa lộng hành càng không kiêng nể.

Bữa nay tia thấy mỹ nhân, cứ tưởng được một phen vui vẻ. Nào ngờ chưa đến mấy nhịp hô hấp, hai đồng bạn đã ăn đòn lăn lộn. Có điều chẳng phải vô cớ tên lùn ốm này được tôn làm thủ lĩnh. Dù không phải cao thủ nhất lưu, song cũng có chút công phu quyền thuật. Sau thoáng bất ngờ, gã nghiêng mình né “cây côn” trong nháy mắt. Biết đụng phải cây đinh cứng rồi, gã thối lui định lấy vũ khí sở trường là đôi bao tay gắn móc sắt. Song thế công của thiếu nữ quá dữ dội, bám sát không rời, thở lấy một hơi còn chẳng kịp nói chi đeo vô.

Phút chốc hai bên qua lại mười mấy chiêu. Bí quá hóa cùn, sau một hồi tránh né, gã lùn ốm di chuyển tới sát xe rượu hổn hển quát:

- Còn đánh nữa ông... đạp đổ đấy!

Tiểu Tường sửng sốt, xe rượu là công sức cả tháng trời của nàng, chỉ còn cách dừng tay trợn mắt nhìn. Người xung quanh đứng xem dù không dám giúp nhưng thấy thế không ít người chửi mắng om tỏi.

- Đứa nào chửi ông bước ra đây! - Tranh thủ mang bao tay sắt, gã lùn ốm vừa nhe răng đe dọa vừa quát đồng bọn:

- Hai thằng kia, mau ra giúp... hự!

Bỗng có thứ gì đó bay vèo tới, đánh binh vô ngực khiến gã kêu lên thảm thiết. Nhìn lại không ngờ là một cái bát rượu không, đủ thấy người ra tay nội lực thâm hậu nhường nào. Chưa kịp chửi bới xả giận vài câu thì gã thấy đau quá xá đau, ngực như thể bị bổ ra làm đôi. Choáng váng không thở nổi, Lùn ốm loạng choạng quỳ sụm xuống, gập người ói ra một búng máu.

Tất thảy đều ngơ ngẩn, dáo dác nhìn muốn sái cổ mà chẳng thấy người vừa hạ thủ đứng ở đâu. Lại thấy một vệt sáng vụt qua nhanh như gió cuốn, quét ngang đỉnh đầu tên cao gầy đang nhào tới. Xoẹt một tiếng, chỏm tóc trên đầu gã đứt tung, bay lả tả.

Sau khi xoáy một vòng, nó liệng tà tà bay trở lại tầng hai của tửu lâu phía đối diện. Nói thì lâu nhưng chuyện xảy ra rất đột ngột, lẹ làng đến kinh người. Tiếp đó, một giọng nam nhân trầm trầm từ bên trong lan can vọng ra:

- Ba nam nhân vây đánh một thiếu nữ, da mặt có dày quá không?

Chỉ với hai chiêu, cao thủ giấu mặt làm ba tên côn đồ sợ vãi mật. Tên lùn ốm thì khỏi nói, quỳ gối vẫn chưa dậy nổi. Về phần tên cao gầy, mặt xanh như lá sợ hãi không nói lên lời. Nghĩ mà xem, chỉ cần thấp xuống một vài tấc, chẳng phải cắt ngang cổ họng gã hay sao? Hiển nhiên người ta mới chỉ cảnh cáo, chưa muốn hạ chiêu sát thủ.

Bịch bịch!

Hai đứa mặt cắt không còn chút máu, đồng loạt quỳ xuống khóc lóc van xin:

- Đại hiệp võ công trác tuyệt, không chấp lũ tiểu nhân chúng tôi. Xin ngài tha mạng... tha mạng ạ!

Mọi người sững sờ, im lặng hoàn toàn. Thế này... Mang tiếng xông pha giang hồ, mà nhát chết vậy sao?

-Cút đi!

Người đó quát lên, giọng bực mình.

Cả hai rối rít tạ ơn, xốc gã Lùn ốm dậy lếch thếch cút thẳng trong tiếng hoan hô của người xem. Thủ đoạn cao siêu như vậy, đừng nói bọn chúng, gộp cả tên thủ lĩnh võ công khá nhất vào chỉ sợ chẳng động được sợi tóc của người ta. Cứ ngỡ lần này không chết cũng bị một trận nhớ đời, đâu ngờ người ta cao thủ tuyệt đỉnh, không chấp lũ tôm tép thật. Chả biến cho nhanh còn đợi đến bao giờ.

Tiểu Tường chớp chớp hàng mi cong, nghiêng đầu nhìn lên tửu lâu. Vị cao thủ đó hẳn không muốn lộ mặt. Nàng giơ cao khúc gậy lên cao, rồi gõ bộp một cái vào thành xe. Đó là ám hiệu mà Tiểu Tường tin y nhất định sẽ hiểu. Mỉm cười, nàng vừa thu dọn mảnh sành rơi vãi, vừa vui vẻ nhủ thầm:

- “Lần này huynh chạy không thoát móng vuốt của muội đâu…”

Nàng đã biết vị cao thủ giấu mặt đó là ai. Dù ám khí kia bay cực nhanh, Tiểu Tường vẫn loáng thoáng nhìn ra là một cây quạt màu trắng. Đương nhiên càng rõ lý do người ta đến tìm nàng.

---o0o---

Cả buổi chiều hôm đó với Tiểu Tường mà nói là khoảng thời gian háo hức nhất trong đời. Cuối cùng nàng cũng được gặp lại ý trung nhân trong lòng mình. Hơn một tháng không gặp chàng, mỗi ngày trôi qua khắc khoải tựa trăm năm. Đã vậy lần nào đến trường học tìm, chàng cũng tránh mặt. Nhưng giờ nàng biết chắc, lần hẹn này chàng nhất định phải tới.

Vì thế Tiểu Tường đóng cửa quán rượu từ sớm rồi ăn vận thật đẹp. Mái tóc búi lại, vấn cao trông vừa đơn giản vừa tự nhiên, trên đấy cài nghiêng một chiếc thoa màu ngọc biếc. Ngắm mình trước gương đồng, nom phong tư thước tha yểu điệu hệt như một nàng tiên nữ thanh lệ, Tiểu Tường mới mỉm cười hài lòng. Xong hết đâu đó, nàng đứng chờ chàng trên lan can tửu lầu trong tâm trạng vô cùng hạnh phúc.

Hoàng hôn dần tím dần nơi chân trời. Gió thổi nhè nhẹ, lay động tấm màn dương liễu trước quán rượu, khẽ đong đưa. Trong không khí dịu dàng buổi chiều tà, suy nghĩ của Tiểu Tường bỗng trôi về năm năm trước, về những ngày biến cố ở Hà Nam. Có cơ duyên ấy, nàng mới gặp chàng lần đầu tiên. Và cũng từ dạo đó, chàng như cơn gió thoảng qua đời nàng rồi biến mất.

Cho đến hai năm trở lại đây, Tiểu Tường dò hỏi khắp nơi cuối cùng cũng hay chàng đang trú ở Hắc Viện, thế là nàng bèn theo đến An Huy. Nhờ học được tài pha rượu ở Hà Nam, cùng sự thông minh khéo léo của bản thân, nàng đã trở thành người pha rượu khá nổi tiếng ở vùng này.

Phải nói từ khi đãi khách bằng rượu của Tiểu Tường cất, Túy Hồng Lâu trước đây chỉ được biết đến với các cô nương xinh đẹp, thì nay còn nổi tiếng vì có rượu ngon. Nhờ đó nó từ một trong hai kỷ viện nổi tiếng ở Giang Nam, liền được xưng tụng là thiên hạ đệ nhất lầu, tên tuổi to lớn không gì sánh bằng.

Rượu của nàng từ loại nổi tiếng mà đám quan lại quyền quý ưa dùng, cho đến thứ rượu vô danh trong chốn hoang sơ thôn dã, chỉ cần người nếm qua một lần thì uống đến say sưa ngây ngất, lênh đênh bồng bềnh chẳng khác chi thần tiên. Bất quá rượu đã ngon tuyệt, song thứ hấp dẫn người ta nhất lại chính là… người làm ra chúng. Bởi nhìn khắp thiên hạ, chẳng có mấy thợ cất rượu lại là giai nhân tuyệt sắc như thế. Cho nên lắm kẻ đến uống rượu mà say đến thần hồn điên đảo, cũng chẳng biết do rượu hay vì cô chủ quán xinh đẹp nữa.

Đang thần người nghĩ ngợi, Tiểu Tường bổng nghe có tiếng bước nhẹ trên sàn gỗ. Nàng lập tức nhoẻn miệng cười vui vẻ. Dù số lần gặp gỡ hiếm hoi, nhưng từ lâu rồi nàng đã khắc sâu tiếng bước chân của người ấy.

Quả nhiên là Cửu Dương lên lầu tìm Tiểu Tường, bắt gặp nàng đang tựa mình vào song cửa chạm hoa. Nàng quay lại ngắm nhìn chàng, một nam nhân tuấn tú với những đường nét góc cạnh rất nam tính, mà con gái rất dễ bị cuốn hút khi đối diện.

Tiểu Tường nở nụ cười rạng rỡ, liền bước tới cầm lấy tay chàng, thật lâu vẫn chưa muốn buông.

Cửu Dương khẽ gật đầu thay lời chào, nhưng không biết nói gì đành im lặng ngắm nhìn nàng. Sau khi cân nhắc đôi chút, cuối cùng chàng mới nhẹ giọng thốt:

-Muội đưa tấm biển cho huynh đi!

-Không trả cho huynh!

Tiểu Tường cười đáp rồi đưa tay chỉ ly rượu đặt trên chiếc bàn gần đó:

- Huynh phải đánh bại muội trước đã, rồi mới nói tới chuyện tấm biển nha!

Đã từ lâu Cửu Dương vang danh trong hội là người có tửu lượng rất tốt, nếu bảo vô địch thiên hạ cũng không phải nói quá. Chàng có thể uống cả ngàn ly cũng không hề thấy tuý lúy càn khôn. Không ngờ bữa nay lại bị Tiểu Tường thách rượu, Cửu Dương buồn cười quá bèn hỏi:

-Muội muốn thi uống rượu với huynh thật đó hả?

Tiểu Tường gật đầu, đoạn bưng bình rượu đã pha sẵn rót đầy một ly. Cửu Dương vui vẻ hỏi lại:

-Tường Nhi, dám cá thiệt hả?

Tiểu Tường đương nhiên biết chàng có tài uống rượu rất giỏi, tựa như trăm sông đổ về biển rộng vậy, nên mỉm cười tinh nghịch đáp:

-Dám thì dám chứ, nhưng mà… muội đây không có cái gì đáng giá hết, nếu lỡ bị thua… chỉ sợ muội thua không nổi...

Cửu Dương mơ hồ hiểu ý nàng rồi. Tiểu Tường tiếp tục thỏ thẻ:

-…Hai ta muốn cá cũng đâu cần phải cá bằng tiền đúng không? Huống chi… tiền bạc trong hội, hôm trước các huynh mới cướp được về đó nhiều vô số kể, năm mười ngàn lượng tính ra còn không bằng sợi lông măng của con bò. Cho nên, hay là thế này đi, chúng ta cá ai thua sẽ…

Tiểu Tường ngưng một lúc, khẽ liếc chàng mà ửng hồng đôi má, rồi e thẹn tiếp lời:

-Mình có thể cá bằng thân xác luôn đi. Ừ, cái này mấy cô kỷ nữ trong lầu xanh hay gọi là gì ý nhỉ, à… là… “ba ly da.”

Cửu Dương bấy lâu nay tuy xông pha nghe ngóng tin tức ở chốn phong trần không biết đã bao nhiêu lần, nhưng sao ba từ này đối với chàng nghe vẫn là lạ, bèn trố mắt hỏi:

-Ba ly da nghĩa là gì?

Tiểu Tường che miệng cười khúc khích:

-Thì là ai thua, người đó sẽ ngậm ba ly rượu… đưa qua miệng của người kia.

Má phấn bỗng chốc ửng hồng vô cùng xinh đẹp, nàng nhìn thẳng vô mắt chàng hỏi:

-Thế nào, huynh có chịu không?

Tiểu Tường hỏi xong, rồi lại nghĩ dường như yêu nhau tới nay cũng ngót nghét hai năm rồi, nhưng chưa lần nào cùng chàng tiếp xúc gọi là thân mật hết. Lần này được khóa môi với nàng, hẳn chàng phải phấn khởi lắm. Dịp may thế này có chàng nào không chịu chứ?

Ngờ đâu Cửu Dương chỉ im lặng trầm ngâm. Lúc sau chàng nhẹ nhàng cầm bàn tay nhỏ của nàng, mỉm cười nói:

-Huynh chỉ muốn khi thắng rồi sẽ lấy lại được tấm biển.

Một câu nhẹ nhàng của Cửu Dương làm Tiểu Tường hụt hẫng vô kể. Lòng còn chưa hết tê tái, lại nghe chàng chép miệng nói thêm:

- Hơn nữa... huynh cũng không muốn uống đâu!

-Sao lại không uống? – Tiểu Tường ngạc nhiên kêu lên thảng thốt. Mi cong khẽ cụp, nàng lẩm bẩm thật nhỏ:

- Hay là huynh chê muội… không có kinh nghiệm… hôn?

Rồi như chợt nhớ ra, nàng làm mặt giận trách móc:

- Lại nữa, không khi nào thấy huynh tới quán muội chơi hết đó. Muốn uống cũng nhờ người khác tới mua rượu là sao? Huynh đó, đã muốn uống Hương Chi Đào Hoa, cớ sao không tới tìm muội chứ?

Cửu Dương còn chưa kịp trả lời, Tiểu Tường đã nói tiếp:

- Huynh thật quá đáng, kêu người giả mạo tới đặt rượu, còn đặt tới hai mươi mấy cân...

Quả thật có một hôm Cửu Dương và Lữ Nghị Chánh hai người ngồi so cờ với nhau một hồi trong hầm. Bỗng thấy thèm rượu hoa đào quá, mà Cửu Dương lại ngại giáp mặt Tiểu Tường bèn nhờ Lữ Nghị Chánh đi mua mang về. Ngặt một nỗi Tiểu Tường cũng đâu lạ gì mặt mũi nhị công tử của Lữ gia, nên Nghị Chánh biết không thể để mặt mày trơ trơ như thế đi mua được. Chàng ta mới nghĩ tới cách dùng thuật dịch dung giả làm một người khác rồi đi tới quán nàng đặt mua hai mươi lăm cân rượu Hương Chi Đào Hoa. Bất quá Tiểu Tường cũng đâu phải tay mơ, nghe giọng ồ ồ của họ Lữ nàng đã sớm nhận ra bèn hét giá rất cao, đắt gắp bảy gắp tám lần so với giá rượu thường ngày.

Lữ Nghị Chánh nghe xong tức lắm kêu lên:

- Cô chủ quán gì đó ơi, bán thêm cho tôi con dao luôn đi!

Liền bị Tiểu Tường liếc xéo một cú:

-Vô duyên, ở đây hông bán dao!

Lữ Nghị Chánh đỗ quạu la oai oái:

-Hông bán dao, sao cắt cổ tôi đau vậy?

Giờ nhớ lại chuyện này, Cửu Dương liền hình dung ra bộ mặt cau có của Lữ nhị thiếu gia lúc đó, trong lòng không khỏi vui vẻ cười thầm.

Nhưng Tiểu Tường trước mặt chàng vẫn còn giận lắm. Nàng cau mày liễu hỏi:

-Huynh coi muội là cái gì chứ? Tưởng muội là đồ ngốc à?

Cửu Dương cười khổ đáp:

-Muội biết huynh không bao giờ nghĩ vậy mà!

-Muội không cần biết lý do của huynh là gì! Nhưng huynh phải biết rượu Hương Chi Đào Hoa này muội cất chỉ vì ai chứ? Sao huynh còn bày đặt chuyện bán mua?

Nói ra thì Tiểu Tường đặt tên cho rượu là Hương Chi Đào Hoa bởi có một dịp được cùng chàng dạo bước rất chi tình tứ dưới cơn mưa hoa đào. Chả là mỗi năm vào độ xuân về, khắp vùng Giang Nam đều phủ một màu hồng phấn của hoa anh đào. Từng cánh hoa màu hồng xoay xoay trong gió như những vũ công đang nhảy múa trông vô cùng lãng mạn. Cứ thế kéo dài cho đến tháng Tư, chính là lúc linh khí đất trời thanh khiết nhất. Khi đó nơi nơi người người đều nô nức dẫn nhau đi trẩy hội hoa đào, để cùng tận hưởng một cuộc sống an nhiên và tự tại nhất.

Đó là ngày có nàng thiếu nữ mười sáu tuổi, sau ba năm lặn lội từ Hà Nam, cuối cùng đã gặp lại người trong mộng của mình. Cũng hôm ấy nàng tình cờ được nghe chàng đọc một bài thơ:

Men rượu ngất ngây hương say tình nồng ấm

Nụ cười xinh thắm hồ điệp mộng uyên ương

Tích tịch tình tang ai ôm đàn khẽ gẩy

Má hồng hây hẩy e thẹn giấu yêu thương

Lội suối trèo non mong gặp nàng tri kỷ

Tâm giao thủ thỉ nhấp cạn chén giao bôi

Hương chi đào hoa, ôi rượu ngọt quá thôi!

Nàng có cùng ta xuôi ngược cuối chân trời góc bể?

Tiểu Tường ngâm lại bài thơ Cửu Dương cao hứng sáng tác hồi trước, đôi mắt đen láy thoáng chút buồn bã mất mát. Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng hỏi:


- Sao lúc đó huynh hỏi muội có muốn xuôi ngược chân trời góc bể cùng huynh? Bây giờ lại luôn trốn tránh muội, hay là huynh chán ghét muội rồi? Huynh không còn quan tâm muội nữa, đúng không? Lúc này đối với huynh, lẽ nào muội như ma như quỷ?

Tiểu Tường càng nói càng cao giọng, nhưng đến câu cuối lại dịu xuống. Trong lòng thầm nghĩ lẽ nào chàng chán ghét cái tánh hung dữ của mình. Có khi thật vậy rồi vì có lần Lữ Nghị Chánh kêu nàng không có tánh đàn bà chút nào hết. Nàng đã tự hứa bản thân sẽ sửa đổi mà rốt cuộc mãi vẫn chưa sửa được.

Về phần Cửu Dương, chàng không phải là kẻ khờ khạo, thậm chí còn rất nhạy cảm là đằng khác. Chàng đương nhiên biết nàng si tình với mình, nhưng không muốn bắt cá hai tay dối lừa nàng. Suy nghĩ thêm một chút, cuối cùng chàng quyết định vẫn nên nói ra lí do. Dù nàng chấp nhận hay không, ít nhất quyền lựa chọn là ở nàng.

Cửu Dương cười khổ nói:

-Thật xin lỗi muội! Không phải đêm nay huynh không có tâm trạng để uống, mà thực lòng huynh không muốn uống!

-Tại sao vậy?

Thầm nghĩ cứ né tránh mãi cũng không tốt, nên chàng đành nói thẳng:

-Tường Nhi à, muội có từng nghe cổ nhân nói qua chưa? Người ta nói nếm ly rượu đầu làm người ta nhớ, uống đến ly cuối mới khiến người ta say. Chuyện tình cảm cũng thường như vậy đấy...

Ánh mắt dõi về phía chân trời đã nhuốm màu tím đen, giọng chàng chất chứa nhiều tâm sự:

- Trong đời mỗi một con người, thường thì phải trải qua vài ba mối tình, rồi cuối cùng mới tìm được một nửa đích thực của đời mình. Nhưng đối với huynh thì huynh muốn say mãi từ ly đầu tiên, chỉ có ly rượu đó thôi huynh không muốn uống một ly nào nữa hết. Cho nên huynh không muốn tối hôm nay gọi thêm làm gì cho lỡ dở hết ra. Huynh không muốn làm một kẻ tham lam…

Nghe chàng bảo vậy cõi lòng Tiểu Tường vụn vỡ, nàng cúi thấp đầu lẩm bẩm:

- Muội hiểu rồi...

Đến khi ngẩng lên, đôi mắt nàng lấp loáng ánh lệ, buồn rầu nói:

- Nhưng huynh có biết không? Cổ nhân cũng nói rằng… một trong những điều khó khăn nhất mà mình phải đối diện chính là ngừng yêu một ai đó. Bởi vì... nỗi đau khi biết người ta không còn yêu mình nữa, thực sự... rất đau...

Cửu Dương nghe vậy thầm than khổ, tự nhủ thế này là nàng hiểu lầm ta thật rồi. Thật ra thì ta đây chưa hề yêu nàng, lúc trước không có, giờ cũng không. Càng nghĩ chàng càng tự trách hồi xưa sao lại đối xử với nàng tốt quá mức như vậy, để giờ đây gây ra sự hiểu lầm không đáng có thế này...

---o0o---

Nhớ năm đó Cửu Dương phụng mệnh Tổng đà chủ đến Hà Nam điều tra vụ một quả phụ bị thổ hào tên là Viên Đức Khánh bức hiếp. Phải mất mấy ngày Cửu Dương mới tìm ra được gã đang mua vui trong một kỷ viện ở Hà Nam.

Sau một hồi giả làm khách làng chơi phong lưu, gọi liền mấy cô nương tới hầu rượu, Cửu Dương viện cớ đi nhà xí, vòng ra hậu viên tìm gã họ Viên. Đang men theo hành lang, chàng chợt ngó thấy một phụ nhân tầm tuổi trung niên, tay cầm ống tẩu bập bập phun sương nhả khói. Đứng đối diện bà ta là một tiểu nha đầu đang sợ hãi khép nép. Quét mắt nhìn qua, chàng đã định bỏ đi luôn nhưng chợt nghe phụ nhân đó cất tiếng hỏi:

- Khuê nữ nhà người ta muốn tránh còn chả kịp. Vì sao mi, một tiểu nha đầu mới nứt mắt đã muốn gia nhập hoa lầu của ta?

Tiểu nha đầu tuy quần áo cũ nát song nom kỹ cũng xinh xắn ưa nhìn, nghe hỏi thì ấp úng thưa:

- Đại nương...

- E hèm...

- Đại... đại tỷ... - Thốt được mấy tiếng nàng òa lên khóc - Vì muội thực sự hết cách rồi...

Nha đầu nọ quỳ thụp xuống, mắt ngập lệ nghẹn ngào:

- Mẹ muội đột nhiên mắc phải ác bệnh, không may qua đời đã được mấy hôm. Gia cảnh muội vốn bần hàn, dành dụm được chút tiền cộng với vay mượn thì đổ hết vào mua thuốc trị bệnh rồi, giờ đến tiền mai táng mẫu thân còn chẳng có. Muội chỉ còn biết ra ngoài chợ dựng tấm biển bán thân chôn mẹ, nhưng khổ nỗi đã ba ngày rồi mà chẳng ai thèm đoái hoài. Thật may chiều nay nghe người ta mách ở đây đang cần con hầu, cầu xin Liên đại tỷ hãy thu nhận muội, mọi thứ muội đều làm được... Chỉ cần có tiền chôn cất mẹ thì việc gì muội cũng chấp nhận! Hu hu...

Phụ nhân đó hóa ra là Liên đại nương, cũng là tổng quản của hoa lầu này. Lăn lộn kiếm ăn bao nhiêu năm trong chốn phong nguyệt, những khổ sở đau đớn, nhục nhã ê chề, lừa lọc gian trá cùng máu và nước mắt, bà ta thấy nhiều rồi, cảm xúc đã sớm chai sạn. Có điều một nha đầu mười ba tuổi vừa trải qua nỗi đau mất mẹ, lại không có tiền lo hậu sự, sự thương tâm ít nhiều vẫn khiến bà ta động lòng. Nói cho cùng, không vì hoàn cảnh bất đắc dĩ, thiếu nữ nào muốn bán thân vào lầu xanh chứ?

Liên đại nương khẽ chau mày, liếc mắt nhìn nha đầu đang chắp tay cầu xin, thầm nghĩ nhìn kỹ con bé này cũng xinh xắn đấy. Chỉ tiếc tuần trước hoa lầu đã mướn thêm mười lăm cô hầu nữ rồi. Hơn nữa người hầu nào muốn vào đây làm việc, đều phải qua một đợt tuyển chọn khắt khe, rồi huấn luyện sơ sơ cầm kỳ thi họa... Có chế độ tuyển người đặc biệt này, là vì Hoa lâu của bà ta tự hào danh tiếng vang dội khắp Hà Nam.

Đương nhiên Liên đại nương có lý do để tự hào. Các cô nương ở đây đều thuộc dạng tài sắc song toàn, mười phân dù không vẹn mười thì cũng tám chín phần. Cho nên Hoa lâu mỗi độ đầu tháng và ngày rằm chính là lúc tài tử phong lưu dập dìu, đông như trẩy hội. Cũng là thời cơ tốt nhất để các cô thể hiện nhan sắc, tài mạo tuyệt vời của mình. Chỉ cần nắm chắc cơ hội, được mấy vị tài tử chú ý, giá trị và tiếng tăm sẽ tăng lên vùn vụt. Còn như thừa dịp có thể lọt vào mắt một hai vị quý nhân thân phận cao vời, chẳng những có thể ngẩng cao đầu mà thoắt cái gà hóa phượng hoàng, ngạo nghễ với đời nữa kia.

Suy xét một hồi, Liên đại nương nhìn tiểu cô nương phía trước, lạnh nhạt nói:

- Hoa lầu này là nơi để khách nhân mua vui, nếu như cả ngày nha đầu ngươi cứ phô vẻ mặt khóc lóc đưa đám này ra thì còn thể thống gì nữa. Vả lại đợt tuyển chọn các hầu gái cũng đã qua rồi. Thôi ngươi về đi, ta không nhận đâu!

Nha đầu nọ quỳ trên mặt đất nghe vậy dập đầu, nước mắt như mưa, dáng điệu xót thương vô cùng. Trong lòng Cửu Dương trào lên cảm giác day dứt khó chịu. Ngặt nỗi chàng đang có nhiệm vụ trong người, không thể dắt nàng theo được. Hơn nữa người nào muốn gia nhập hội, phải qua ngưỡng duyệt của sư thái, chứ không tới phiên chàng quyết định.

Cửu Dương không khỏi đắn đo, bỏ đi không nỡ ở lại cũng chẳng xong. Thoáng ngẫm nghĩ, chàng đành đánh tiếng bước lại gần, cười nói:

- Đây hẳn là Liên đại tỷ đại danh đỉnh đỉnh, nức tiếng xa gần vừa xinh đẹp vừa nhân ái rồi!

Liên đại nương liếc Cửu Dương ngạc nhiên:

-Vị công tử này là ai vậy?

Mặt không đổi sắc, Cửu Dương cung tay mỉm cười:

- Tại hạ đứng thứ bảy trong nhà nên người ta hay gọi là Tiểu Thất. Mến mộ danh tiếng Liên đại tỷ đã lâu nên đến chào một tiếng!

- Ồ, vị công tử này lạ mặt lắm, hình như lần đầu đến chơi, vậy làm sao biết ta nhân ái hay không nhân ái? Đúng là miệng lưỡi ngọt chết người đi được!

Ngắm chàng trai vừa tuấn tú vừa có vẻ ung dung tiêu sái, bà ta lòng vui không kiềm được, mắt mị như tơ lườm xéo một cái.

Cửu Dương cười đáp:

- Sao lại không biết chứ! Chẳng những vậy tiểu đệ còn vô cùng ngưỡng mộ nữa kia!

- Ngưỡng mộ ta ư? – Liên Đại nương che miệng cười tít mắt.

- Tất nhiên! Tuy Tiểu Thất mới tới đây chơi lần đầu, nhưng đại danh của tỷ đã sớm như sấm bên tai. Người trong giới phong nguyệt, ai chẳng biết Hà Nam có một hoa lâu đệ nhất thiên hạ, một lần ghé qua là suốt đời không quên. Mà làm nên danh tiếng đó, chính nhờ tài kinh thương trác tuyệt và lòng nhân ái bao la của Liên đại tỷ đây. Vì vậy tiểu đệ không quản ngàn dặm xa xôi, mong tới đây gặp tỷ một lần cho thỏa tâm nguyện!

"Khục!"

Một tràng tán tụng liên miên khiến Liên đại nương thiếu chút nữa bị hơi thuốc chẹn họng, phải vỗ vỗ ngực ho sặc sụa.

Cửu Dương liền nháy mắt với nha đầu ra hiệu. Đang tròn mắt nhìn, cô bé hiểu ý vội vàng đứng dậy, chạy tới vỗ nhè nhẹ vào lưng Liên đại nương. Bà ta cười ngượng ngùng:

- Khụ... công tử à, có khi người ta nói quá lên đấy!

Cửu Dương nghiêm mặt đáp:

- Thật không dám giấu, ban đầu Tiểu Thất cũng nghĩ vậy. Song vừa gặp tỷ, tiểu đệ liền hiểu vì sao hoa lầu có thể vang danh khắp thiên hạ rồi!

Liên đại nương sửng sốt:

- Tại sao vậy?

- Không giấu gì Liên đại tỷ, tiểu đệ vốn có chút thành tựu về coi tướng, nên vừa nhìn qua đã thấy tỷ đây khí chất cao nhã, ẩn hàm nét trẻ trung mỹ lệ mà không phô trương, đoan trang mà không cứng nhắc, đó là quý tướng. Lại thêm ấn đường sáng rực, chứng tỏ phúc khí tài vận không cầu cũng đua nhau đến. Hoa lầu có một người như tỷ trông nom, muốn không thành công cũng khó!

Chưa nói lời có phải thật lòng hay không, nhưng được người ta ca tụng ai chẳng thích. Liên đại nương càng không ngoại lệ, lòng vui phơi phới bật cười khanh khách:

- Tiểu ca lại quá lời rồi. Ở đây tỷ tỷ cũng chỉ là một quản gia mà thôi, có phải người chủ sự đâu!

Cửu Dương kinh ngạc, trợn mắt thốt:

- Không thể nào! Người như đại tỷ đây còn phải chịu thiệt thòi như thế? Hoa lầu này quả là chốn tàng long ngọa hổ, không thể xem thường rồi!

- Thôi thôi vị tiểu ca này, mở miệng là có thể buông lời mật ngọt, còn nói nữa chắc ta say chết mất - Liên đại nương õng ẹo đưa đẩy - Người ta vẫn nói không có việc cầu người thì không mở miệng tâng bốc. Nói đi, rốt cuộc tiểu ca gặp ta có việc gì?

- Quả không hổ danh Liên đại tỷ mắt sáng như đuốc, thoáng cái soi thấu nhân tâm. Tiểu đệ xin bái phục!

- Ai da vị tiểu ca này, cứ vậy nữa là tỷ tỷ giận đó nha!

Cửu Dương cười ha hả chắp tay:

- Vậy Tiểu Thất đành mạo muội xin được nói đôi lời. Ban nãy quả thực tiểu đệ đã vô tình nghe được câu chuyện của tiểu cô nương đây, cảm thấy hoàn cảnh thật đáng thương. Đại tỷ vốn có tấm lòng Bồ tát, trộm nghĩ tiện tay giúp đỡ nàng ta chắc cũng chẳng khó khăn gì!

- Hứ, tiểu ca thấy nó đáng thương. Sao không làm anh hùng cứu tiểu mỹ nhân luôn đi? - Liên đại nương bĩu môi trêu chọc.

Cửu Dương thản nhiên cười đáp:

- Không dám giấu đại tỷ, đệ vốn đã có ý đó. Nhưng nghĩ lại thì người cô ấy cầu là Liên tỷ, Tiểu Thất tự dưng xen vào chỉ e lỗ mãng, lại mang tiếng giành việc tốt của tỷ. Vả lại, một kẻ giang hồ lưu lạc như tiểu đệ không khỏi khiến người ta nghi ngờ có dụng tâm chi đây. Thôi thì đành đứng một bên góp lời vậy...

Rồi quay sang nha đầu, chàng tấm tắc:

- Hơn nữa Liên tỷ nhìn xem, tiểu cô nương này xinh xắn ưa nhìn, cốt cách cũng yểu điệu thanh kỳ. Chẳng qua mẫu thân vừa mất, tâm tình ảo não vì lo buồn chưa xong chuyện hậu sự. Đợi mấy ngày nữa sau khi mẫu thân được chôn cất tự nhiên sẽ khá lên thôi!

Liên đại nương khoát tay cười bảo:

- Ôi chao ôi, nghe tiểu ca nói đến con kiến cũng phải bò ra khỏi lỗ. Thôi được rồi, được rồi. Tiểu ca muốn thì ta nhận nó vậy...

Dứt lời bà ta gọi một người hầu gái đang đi tới:

- Ca Nhi, muội mang một lượng bạc ra đây tặng cho con nhỏ này đi!

Hầu gái tên Ca Nhi ứng lời lui ra. Cửu Dương nhân đó lại tán tụng một phen:

- Liên đại tỷ tấm lòng khoáng đạt rộng rãi, quả nhiên là bậc nữ lưu hiếm có. Tiểu đệ hết sức khâm phục!

Gương mặt bự phấn của Liên đại nương ửng hồng, bà ta cười khanh khách hết sức vui vẻ, đoạn quay sang hỏi nha đầu:

-Phải rồi, tên của mi là...?

Sắc mặt tiểu cô nương tươi tắn hơn hẳn, vội đáp:

- Tên muội là Tiểu Tường!

- Tiểu Tường? - Liên đại nương trầm ngâm nói - Sau này ở đây mi gọi là Tường Nhi vậy.

- Đa tạ đại tỷ! Đa tạ đại ca! - Tiểu cô nương lễ phép bái tạ.

Cửu Dương mỉm cười gật đầu, nhớ tới việc chính còn chưa xong vội lên tiếng cáo từ. Liên đại nương lại õng ẹo trêu chọc vài câu khiến chàng chỉ biết cười xòa. Trước khi đi còn không quên an ủi tiểu cô nương vài câu:

- Tiểu muội chớ đau buồn quá mà ảnh hưởng tới sức khỏe. Ta tin mẫu thân muội trên trời có linh thiêng, sẽ luôn phù hộ cho muội gặp an lành. Cứ an tâm ở đây làm việc cho tốt, Liên đại tỷ nhất định không bạc đãi muội đâu. Nếu có duyên chúng ta còn gặp lại!

Tiểu cô nương ngân ngấn nước mắt, mím môi gật đầu thật mạnh. Từ giây phút ấy, đã có một nụ cười ấm áp khắc thật sâu vào trái tim thiếu nữ...

Mấy ngày sau, Tiểu Tường đang phụ chuyện lặt vặt trong kho rượu, bỗng nghe một hầu gái bảo nàng đi gặp Liên đại nương. Khi đến nơi nàng thấy bà ta miệng đang rít điếu thuốc hệt đêm nọ. Liếc về phía Tiểu Tường, Liên đại nương nháy mắt mỉm cười bảo:

- Xú nha đầu, mi thật là may mắn đó nghen, trời mới tảng sáng đã có người đem tiền tới chuộc thân cho mi rồi đó.

Tiểu Tường nghe vậy, đôi mắt sáng của nàng trợn tròn ngó dáo dác. Không hiểu sao trong đầu bỗng hiện lên nụ cười ấm áp như mặt trời hôm nào...

---o0o---

Đấy đã là chuyện của năm năm trước. Bây giờ ngẫm lại, một đứa bé mười ba tuổi đột nhiên mất đi người thân duy nhất trên đời, lại phải nếm trải sự vô cảm nhẫn tâm của thế nhân. Khi nó rất cần sự chung tay giúp đỡ thì ngược lại, chỉ nhận được sự lạnh lùng bàng quan, thậm chí cò kè bớt một thêm hai trước nỗi đau mất mát. Cảm giác đơn độc trơ trọi đó, thật đáng sợ nhường nào. Cửu Dương cũng là cô nhi nên chàng hiểu, có điều vung tiền chuộc thân cho nàng, chỉ đơn giản là thương xót kẻ đồng cảnh ngộ vậy thôi.

Nhưng với Tiểu Tường, hành động thi ân không cần hồi báo ấy vĩ đại xiết bao. Nhất là những lời ân cần dịu dàng trước lúc chia tay, chúng như tia nắng sưởi ấm trái tim giá lạnh của nàng. Có thể nói, chàng chính là người duy nhất quan tâm nàng từ khi cha mẹ nàng mất đi. Giữa cuộc đời u ám tối tăm không hy vọng, bỗng chốc chàng như ánh mặt trời, trở thành nguồn sáng của cả cuộc đời nàng.

Chưa kể với ngoại hình cao ráo cùng gương mặt đầy nam tính, nói không ngoa thì Cửu Dương là giấc mơ của biết bao thiếu nữ mới lớn. Ngay từ lúc còn ngồi học trong Hắc Viện, bằng phong thái chững chạc, trưởng thành hơn hẳn đám bạn học cùng lứa, chàng đã có hàng tá cô gái e ấp đón đường sau mỗi buổi tan học. Sau này khi trở thành viện trưởng, sức hút đó không giảm mà lại càng tăng theo thời gian, đến mức nhiều trường học ở các vùng lân cận cũng săn đón mời Cửu Dương về giảng.

Xưa đã vậy, nay thêm vào vẻ phong trần, dĩ nhiên Cửu Dương khiến bao cô gái ở vùng Giang Nam mê mẩn chứ chả riêng gì Tiểu Tường. Nhưng của đáng tội, chàng vẫn thản nhiên chẳng rung động trước bất kỳ bóng hồng nào. Bằng trực giác của nữ giới, Tiểu Tường biết chẳng phải Cửu Dương chai sạn như gỗ đá gì đâu, mà có lẽ, trái tim chàng đã mê mệt người con gái khác rồi. Thậm chí nàng đã mơ hồ đoán ra cô nương đó là ai. Có điều Tiểu Tường vẫn luôn hy vọng, tự nhủ rằng sẽ có ngày khiến trái tim chàng thay đổi hướng về mình.

Bất quá giờ đây, nàng nhận ra hình như mình đã lầm. Lẽ nào người con gái đó, mãi là người đầu tiên và cũng là cuối cùng làm lòng chàng say đắm? Lẽ nào duy nhất chỉ có nàng ta, mới dừng cương được con ngựa bất kham như chàng?

Càng nghĩ lòng Tiểu Tường càng xót xa. Nàng đặt bình rượu xuống thành lan can, quay mặt nhìn ra ngoài sân. Trời đã sâm sẩm tối. Lại quay sang nhìn chàng, người đàn ông mà nàng hết dạ thương yêu, Tiểu Tường bỗng thấy xấu hổ bẽ bàng không để đâu cho hết.

“Huynh ấy... vốn không yêu mình.” Nàng âu sầu ủ rũ.

Mấy năm nuôi mộng tưởng, lang thang tìm chàng khắp mọi nơi, nhưng nàng đâu biết thì ra nàng đã thua cuộc từ lâu lắm rồi. Có khi ngay từ cái đêm người con gái đó xuất hiện trong cuộc đời chàng. Dẫu nàng ta chẳng cần tranh thủ, cũng tự nhiên nắm giữ được tim chàng.

Thật chua chát làm sao khi nàng lại là kẻ đến sau. Chỉ một bước thôi mà xa xôi đến nỗi cả bóng lưng của chàng, nàng cũng chả bao giờ chạm được!

"Mà chàng ấy cũng si tình thật đấy. Thế gian sao lại có người lý tưởng mà lụy tình vậy chứ?" - Tiểu Tường buồn bã nhủ thầm.

Hóa ra cổ nhân nói cũng có khi sai. Mỡ treo miệng mèo, mèo không nhịn được ư? Nàng mỉm cười tự trào.

Rồi như sực nhớ ra điều gì đó, Tiểu Tường chăm chú nhìn Cửu Dương, dùng một giọng hết sức dịu dàng nói với chàng:

- Huynh nói rằng trọn đời này chỉ yêu mình người ta. Nhưng... làm sao huynh biết, nàng ấy sẽ yêu huynh? Lỡ người ta đã có... ý trung nhân rồi thì sao?

Câu nói như tảng băng lạnh buốt nhỏ từng giọt xuống hồn Cửu Dương, bỗng gợi nhớ tới một ký ức xưa cũ, cũng từng có người hỏi chàng như vậy...

---o0o---

Đó là một ngày tuyết bay đầy trời. Trên đỉnh Liên Hoa của dải Hoàng Sơn, Mã Lương phu tử ôn tồn hỏi một thiếu niên:

-Con quyết tâm mai này sẽ lấy nó làm vợ sao?

-Dạ! – Thiếu niên đáp.

Mã Lương liền im lặng trầm ngâm. Cầm lấy tay người học trò cưng, ngắm nghía chăm chú những đường vân tay trong lòng bàn tay non nớt đó, ông vuốt bộ râu dài trắng như tuyết, mắt hướng về đỉnh Quang Minh không khỏi suy tư.

Nằm ở phía nam An Huy, cả dải Hoàng Sơn như một dãy núi được khoác lên tấm áo vàng. Dù có nhiều ngọn nhưng ba đỉnh cao nhất, được biết đến nhiều nhất là đỉnh Liên Hoa, đỉnh Quang Minh và đỉnh Thiên Đô. Cảnh quan khu vực này nổi tiếng đẹp bởi vô số vách đá đủ loại màu sắc. Trải dài theo dãy núi trập trùng là những cánh rừng thông với cảnh trí thay đổi theo mùa, quanh năm phủ mây trắng xóa. Đặc biệt trên núi còn có suối nước nóng và các thác nước tự nhiên đẹp như cảnh tiên. Vì thế không lạ khi Hoàng Sơn luôn là chủ đề ưa thích cho những bức tranh thủy mặc.

- Con nhìn thấy tảng băng kia không? - Mã Lương giơ tay chỉ một phiến đá treo lưng chừng triền núi - Trải qua cả ngàn năm lạnh giá, nó khó mà tan chãy chỉ trong một mùa hè. Thầy e rằng trái tim của con bé đó cũng như vậy đó, cho dù con có thành tâm sâu dày đến đâu, cũng không vì con mà tan chảy được!

Thiếu niên láu lỉnh đáp:

- Ngàn năm lạnh giá chưa tan chảy là vì biết đâu, nó không được ánh mặt trời trực tiếp rọi qua. Vậy con sẽ là ánh mặt trời của nàng, hoặc ít nhất cũng là người mang ánh nắng đến cho nàng, sưởi ấm trái tim nàng không chỉ một mùa hè mà quanh năm suốt tháng!

Mã Lương lắc đầu cười khổ:

- Con nghĩ rằng cứ kiên tâm thì một ngày nào đó cũng có kết quả ư? Có thể lắm, nhưng cái cuối cùng chỉ là sự thương hại của nó mà thôi. Nỗi đau này chỉ e con khó chịu đựng nổi!

Thiếu niên nghe mà không phục, bởi hắn không tin đường tình duyên của hắn còn chưa bắt đầu lại đứt đoạn dễ dàng đến vậy, bèn nói:

- Con có thể khiến nàng thay đổi, toàn tâm toàn ý để theo con. Còn như… ngộ nhỡ hai đứa chúng con không chung đường! Không sao cả, con sẽ vì nàng mà thay đổi lộ trình của mình!

- Nó sẽ không yêu con, kể cả có chung một con đường. Nói thế nào nhỉ? À, dù cho con có trở thành tiên nhân cũng đâu thể cải mệnh trời được! - Mã Lương thở dài - Trong cuộc sống này, điều gì cũng đã được ông trời định duyên cả rồi. Duyên đến duyên đi, đều do số phận sắp đặt cả. Có mối lương duyên từ khi bắt đầu đã chắc như đinh đóng cột, như ván đóng thuyền rồi. Ngược lại thì, chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp, chỉ đồng sàng dị mộng mà thôi. Nếu cứ cố chấp, có khi còn mất đi mãi mãi nữa...

Đắn đo một lúc, ông nói tiếp:

- Đời nó sẽ trải qua ba người đàn ông, người yểu mệnh chiến tử sa trường, kẻ may mắn hơn người đầu tiên thì cũng bị lưu đày không có ngày quay lại. Đến người cuối cùng, rốt cuộc cũng sống một cuộc đời sầu thảm, con biết không?

- Lẽ nào ông trời ganh ghét, lại khiến nàng mệnh khổ vậy ư?

Thiếu niên ngơ ngác lẩm bẩm. Nhưng chỉ thoáng thất thần, hắn cắn răng đáp rất dứt khoát:

- Thế thì đã sao? Con có thể chăm sóc, bảo vệ nàng. Từ lúc gặp nàng, lòng con đã quyết rồi!

-Ôi, đứa trẻ si tình này...

Mã Lương không khỏi thở dài cảm thán, râu tóc bạc phơ lất phất trong gió núi.

- Con bé sẽ mãi không yêu con đâu!

Thiếu niên mỉm cười, một nụ cười hiền hậu, ngọt ngào như trái lê chín mọng:

- Mai này nàng không yêu con, không nhớ con cũng chẳng sao, chỉ cần mình con yêu nàng là đủ. Là một đứa trẻ mồ côi thiếu vắng tình thương của cha mẹ, phần đời này nàng đã phải nếm trải quá nhiều đau khổ rồi, con không muốn sau này nàng cũng sẽ như vậy. Ba người đàn ông đó đều rời bỏ nàng thì sao chứ? Với con sẽ không bao giờ. Con nhất định dùng cả cuộc đời này để nhớ nhung nàng, chờ đợi nàng, để mỗi khi nàng cần sẽ luôn có con bên cạnh chăm sóc và bảo vệ!

Nói tới đây, thiếu niên dõng dạc:

- Nghĩa phụ, người đừng khuyên con nữa. Con tin rằng, nàng... không chừng sẽ có chút gì đó thương yêu con!

- Đứa trẻ ngốc này, con không biết hy sinh vì một người không có tình cảm với mình phải trả giá đắt như thế nào đâu.

Mã Lương nghe vậy không khỏi có chút sốt ruột:

- Nhìn nó sà vào lòng người đàn ông khác, con có thể chịu được à? Tóm lại con chỉ có duyên nhưng không có phận với nó, hãy mau giác ngộ đi thôi!

Thiếu niên ngẩn người tư lự một thoáng như nghĩ đến viễn cảnh đó, rồi mới đáp:

-Thưa nghĩa phụ, thật lòng thì con chẳng bao giờ định giác ngộ, lại càng không muốn thành Tiên thành Phật đâu. Giác ngộ thì sao chứ? Bất tử thì thế nào? Nỗi tịch mịch của bất tử là đồng nghĩa với sự cô độc khi thiếu nàng, con có thể chịu đựng được sao? Con thà là không, chỉ muốn ở mãi mãi trong cõi luân hồi này, miễn có nàng!

Mã Lương nhìn người đồ nhi thương mến của mình thật lâu, rốt cuộc cũng mềm lòng.

-Thôi vậy, chỉ cần con thấy không hối hận là được!

- Con cảm thấy rất xứng đáng! - Thiếu niên vui vẻ nói.

Mã Lương biết không thể lay chuyển nổi chàng thiếu niên này. Trong mắt ông phảng phất một nỗi ưu sầu. Ông trút ra một hơi thở dài, biết rằng đồ nhi này là kẻ cố chấp nhất thế gian, một khi đã quyết định điều gì thì không ai có thể lôi kéo y trở về được. Rồi đây cuộc đời hắn sẽ nếm biết bao nhiêu đau khổ. Trong tháng ngày đăng đẵng trôi, năm đến năm đi, hoa nở hoa tàn, Xuân, Hạ, Thu, Đông, năm qua rồi năm lại… Cô gái đó mãi mãi sẽ nhìn về hướng khác, mà không bao giờ cùng hắn nhìn cùng một phương.

Bất quá ở đời, vẫn tồn tại cái đạo lý người ta luôn ham muốn thứ không thuộc về mình. Con người chẳng phải là thế sao?

Lụy vì tình đơn phương đau khổ thế nào? Trái tim tổn thương sẽ đớn đau ra sao? Đến một thời khắc trong tương lai, chỉ e hắn mới thấu được.

Tuy vừa nói cứng vậy đó, thiếu niên vẫn nhìn băng thạch đến ngẩn người.

Mã Lương vỗ vỗ bờ vai y:

- Con hãy suy nghĩ cho kỹ đi. Đời con còn dài, còn cơ hội gặp gỡ nhiều người khác nữa. Thôi thì hứa với thầy, tới chừng đó nếu có người như vậy, ít nhất hãy mở lòng cho người ta một cơ hội, được không?

Thiếu niên áo trắng mím môi không đáp, chỉ đứng im lìm trên đỉnh núi mà ngước nhìn trời. Giữa bầu trời, hắn như thấy dung mạo tiểu sư muội hiện ra, ngời sáng tuyệt mỹ, lung linh hệt muôn vàn đóa hoa tuyết đương tung bay khắp nơi. Môi nàng hé nở nụ cười, một nụ cười xinh đẹp đến mức có thể dung hòa cả băng tuyết cùng con tim hắn…

---o0o---

Nhận thấy giữa hai người có phần gượng gạo, để thay đổi không khí Tiểu Tường bèn rủ chàng đi chợ đêm chơi. Thực sự Cửu Dương lúc này chẳng có lòng dạ nào, ngần ngại định từ chối, song bắt gặp cái nháy mắt tinh nghịch của nàng kèm câu nói:

- Huynh không đi cũng được. Nhưng biết đâu khi tới đó, tâm trạng muội vui vẻ lại đổi ý cũng nên!

Chàng đành phải cười khổ gật đầu. Dù thế nào, lấy lại tấm biển mới là việc quan trọng.

Khi mặt trời vừa lặn, chợ đêm ở miền Nam náo nhiệt vô cùng. Người mua kẻ bán tất bật quanh những gian hàng được bày biện trang hoàng nhộn nhịp như ngày lễ, Tết. Không khí còn rộn rã hơn khi các nghệ sĩ vẻ tranh và thầy bói bắt đầu xuất hiện. Một quang cảnh nhộn nhịp và hỗn độn, nhưng lạ thay, vẫn nhịp nhàng theo khuôn phép.

Hai người sóng vai rảo bước, ngắm hai bên đường đầy chật những gánh hàng, rôm rả lao xao. Rất nhiều khách từ nơi khác tới ngắm nghía và chọn mua nữ trang, ấm trà, quần áo, tranh ảnh, ngọc bích, cổ vật… Trong khi đó, người địa phương lại ưa thích sản vật tự nhiên. Những mặt hàng như gạo, hải sản, tổ yến... được ngã giá nhanh chóng với vẻ hài lòng.

Tới khu ẩm thực la liệt các món ăn đa dạng, nhất là hàng kẹo hồ lô với màu sắc đỏ mọng trông vô cùng bắt mắt, một trong những món ngọt mà Tiểu Tường rất thích ăn. Cửu Dương liền vui vẻ nói:

- Này, huynh vẫn nhớ vẻ mặt của một cô nương buổi đầu tiên tới đây đấy!

Nói đoạn chàng làm mặt xấu trêu:

- Trông như thế này này, hệt chú mèo con tham lam trước đĩa cá thơm ngon!

- Hứ, ai thèm chứ...

Tiểu Tường ửng hồng đôi má, huých chàng một cái làm bộ giận dỗi.

- Thế ai đã từng nói, ước gì có thật nhiều vàng bạc, sẽ mua đầy một chợ kẹo luôn? - Cửu Dương nháy mắt hỏi.

Hẳn là hồi tưởng về một đoạn ký ức vô cùng đẹp đẽ, nàng nhoẻn miệng cười hạnh phúc, vẻ xinh đẹp rạng ngời khiến người qua lại bất giác phải lén nhìn.

Đúng lúc ấy lại nghe Cửu Dương cười lớn hỏi:

- Bây giờ thì sao nhỉ? Đây, cái này, cái kia, cái kia nữa... muội thích cái nào? Hay vẫn muốn mua hết toàn bộ?

Thật lâu mà không thấy nàng trả lời. Chàng ngạc nhiên quay lại, chỉ thấy nàng đang đắm đuối nhìn mình, môi nở nụ cười mà mắt nhòa lệ:

- Muội... chỉ thích huynh thôi!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 5: Tây Hồ thư viện

Điều dưỡng chưa đầy hai tuần, nhờ có nội lực thâm hậu, lại thêm Nhạc Tam Nguyên lặn lội đường sá xa xôi đi mời danh y, rồi lùng mua được Kim Sơn Tử, nên nội thương của Trương Quốc Khải lành hẳn. Trong mười ngày này nữ thần y đã chăm sóc cho tam đương gia thật là tận tâm tận lực.

Hôm Trương Quốc Khải thức dậy, có thể tự mình xuống giường được, bèn lên lầu hai của thư viện tìm Cửu Dương. Cửu Dương không ở đó, nhưng Trương Quốc Khải thấy tấm biển ghi “Tây Hồ thư viện” đang treo ngay ngắn trên tường, bên trên bàn thờ Khổng Tử. Mặt Trương Quốc Khải vừa có chút khởi sắc liền chuyển sang tím tái. Hiểu Lạc được nữ thần y giao cho nhiệm vụ trông chừng bệnh tình tam đương gia, hay lẽo đẽo theo Trương Quốc Khải, nên nó cũng lên lầu. Trúng hôm các tú tài vào thư viện để nghe viện trưởng giảng bài, Trương Quốc Khải và Hiểu Lạc mới lẵng lặng đi xuống hầm.

Lát hồi các tú tài vào thư viện, hồi nữa Cửu Dương vào theo, ngồi vào chỗ cái sập đặt ngay dưới chân bàn thờ. Các tú tài thì ngồi xếp bằng thành năm hàng ngay ngắn trước mặt chàng.

Cửu Dương như mọi hôm tận tâm giảng bài, cũng bộ y phục màu trắng quen thuộc, cuốn sách cuộn lại cầm trên tay, cùng một tách trà được đặt trên một cái sập làm bằng ngọc nghiến. Vân nghiến trên cái sập đó nhìn như những lớp sóng cuồn cuộn, khi sờ tay vào ngọc nghiến thấy mát lạnh như chạm tay vào đá. Cái sập có vân gỗ tự nhiên và độc đáo này được xưởng gỗ Hàng Châu tặng cho Hắc Viện. Ngọc nghiến trong tên gọi dân dã nghĩa là nghiến hóa thạch, phần cứng nhất của cây gỗ nghiến, được hình thành từ một nguyên do khuyết tật nào đó, chẳng hạn như sâu bệnh, chặt chém, bị sét đánh... trong quá trình phát triển của cây. Theo đó cây gỗ nghiến phải dồn tích rất nhiều dưỡng chất vào chỗ bị thương để bảo vệ và chống sự xâm nhập từ bên ngoài nên phần này phát triển dị thường, tạo những phần gỗ mọc phình ra, đó chính là ngọc nghiến.

Cửu Dương giảng tới đoạn người thành công nhất định phải có tĩnh khí. Chàng bảo các học sinh:

-Cuộc sống với sự cạnh tranh khốc liệt và vòng xoáy kim tiền đã khiến con người trở nên phụ thuộc quá nhiều vào vật chất, áp lực đè nặng lên thân thể, họ dễ dàng bực dọc, nóng nảy, gấp gáp, lo âu… Suy cho cùng, cũng bởi vì họ thiếu một phần tĩnh khí.

Cửu Dương nói đoạn, ngừng lại cho các học sinh theo kịp, rồi tiếp lời:

-Cho nên chúng ta phải tĩnh lặng mới có thể nhìn xa, bình tĩnh mới có thể tĩnh khí, tĩnh khí mới có thể làm được việc, làm được việc mới có thể thành công.

Lại ngưng thêm một chút nữa, chàng tiếp:

-Quá trình hàm dưỡng tĩnh khí chính là quá trình tìm lại sự cân bằng, kiến tạo một loại hài hòa và thành tựu nên một loại cảnh giới. Có tĩnh khí, mới có thể thực sự không màng danh lợi, tâm thái bình thản, không bị tiến thoái quấy rầy, thản nhiên trước sự sủng ái và không sợ hãi trước sự nhục mạ. Có tĩnh khí, mới đặt được ý chí ở nơi cao xa, tâm đặt ở chuyện lớn mà không bị thành tích làm cho kiêu ngạo và thất bại làm cho uể oải, chán nản. Có tĩnh khí, mới coi nhẹ trước bất kể danh lợi nào. Dưỡng được tĩnh khí, thì khi chúng ta gặp bất kể chuyện gì đều sẽ giữ được bình tĩnh, cử trọng nhược khinh. Dưỡng được tĩnh khí chúng ta sẽ vô sự, bình thản và siêu việt chính mình, ngay thẳng, chính trực để xử thế. Có tĩnh khí mới có thể bảo trì trí óc thanh tĩnh, nhìn xa trông rộng, nhìn thấu được cái tinh thâm của trời đất và quy luật của vạn vật.

Chàng nói tới đây thì hỏi các học sinh:

-Các vị còn nhớ hôm trước chúng ta học qua lá thư Gia Cát Lượng viết cho con trai ngài, trong đó nói những gì?

Một tú tài đáp:

-Phu quân tử chi hành,

tĩnh dĩ tu thân,

kiệm dĩ dưỡng đức,

phi đạm bạc vô dĩ minh chí,

phi ninh tĩnh vô dĩ trí viễn.

Phu học, tu tĩnh dã

tài, tu học dã.

Phi học vô dĩ quảng tài,

phi chí vô dĩ thành học.

Cửu Dương hỏi:


-Nghĩa là gì?

Tú tài nọ trả lời:

-Nghĩa là hành của người quân tử là tĩnh để tu thân, cần kiệm để dưỡng đức, không đạm bạc thì cái chí không sáng, không tĩnh lặng thì chí không xa, phải tĩnh mới học được và muốn có tài phải học, không học thì không mở rộng được cái tài, không có chí thì học không thành.

Cửu Dương nghe vậy rất hài lòng, gật đầu:

-Đấy chính là lĩnh hội cả đời của Gia Cát Lượng…

Cửu Dương giảng hồi lâu nữa mới xong bài học, các tú tài đứng dậy cúi chào chàng rồi ra ngoài. Đợi họ đi rồi, một nhóm người từ dưới hầm đi lên thư viện. Lâm Tố Đình ngó tấm bản liền tá hỏa thần hồn. Lúc nãy Hiểu Lạc “tố cáo” với nàng quả nhiên là chuyện có thật.

Biết bát sư muội sẽ nổi cơn thịnh nộ, mà tánh tình nàng ta lúc nóng lên không thua Hỏa Diệm Sơn, Cửu Dương ngồi yên chẳng nói chẳng rằng, vẻ mặt nom có vẻ chịu đựng. Cửu Dương đặt quyển sách xuống bàn, lẳng lặng bưng tách trà lên, dùng nắp gạt nhẹ lá trà trong nước.

Thư viện khi này im phăng phắc, mọi người cũng hầu như nín thở, đương nhiên ngoại trừ Lâm Tố Đình.

Quả thực Lâm Tố Đình chuẩn bị phun lửa, nhưng chưa mở miệng thì Trần Tôn đã lắc đầu nói:

-Viện trưởng à, lão nô đây theo ngài bao năm, sau khi phu tử qua đời tôi nguyện theo hầu ngài, nhưng lần này… không binh được cho ngài rồi đó!

Cửu Dương nghe ông lão nói trong lòng thoáng buồn, đoạn quay sang người đệ tử yêu quý nhất của chàng, phát hiện Hiểu Lạc cũng nhích ra xa chàng mấy bước. Nó liên tục gãi gãi đầu.

Cặp Lữ huynh đệ, Trương Quốc Khải, Nhạc Tam Nguyên cũng lắc đầu thở dài.

Lâm Tố Đình được dịp nói:

-Đó, đó, ngài viện trưởng, ngài đã thấy chưa? Ai ai cũng bất mãn với ngài cả đó, còn không mau tháo miếng gỗ đó xuống!

Cửu Dương không xê dịch, Lâm Tố Đình điên tiết nói:

-Thế nào? Huynh ngại không làm, vậy để cho muội!

Dứt lời nàng định triển khai khinh công nhảy lên tháo tấm biển xuống.

Kịch! Cửu Dương liền có phản ứng, đặt tách trà xuống bàn.

Nữ thần y đứng sau Lâm Tố Đình, ôm ngực hồi hộp theo dõi hồi nào tới giờ, thấy Cửu Dương và Lâm Tố Đình sắp ra tay đánh nhau, liền bước ra nói:

-Này, này! Mọi người khoan hãy tức giận, hãy nhìn thử xem, hình như… có cái gì hơi khác…

Rồi e mọi người không hiểu, nữ thần y chỉ tấm biển:

- Ầy, là muội nói mấy cái chữ trên biển của hôm nay, hình như có chút khác hôm kia.

-Đâu? Đâu? -Lữ Nghị Chánh hỏi - Đâu thấy thay đổi chi đâu?

-Có thay đổi - Nữ thần y nói – Huynh nhìn kỹ lại đi!

Đoạn quay sang Lâm Tố Đình:

-Lâm tỉ à, tỉ có thấy khác không?

-Tỉ ư? – Lâm Tố Đình nhíu mày nhìn tấm biển, so vai – Không! Tỉ thấy nó vẫn rất xấu xí!


Bỗng Lữ Nghị Trung vỗ trán, reo lên:

-À! Có khác, có khác!

Rồi chàng cười to:

-Hàng dưới, chữ thứ hai có khác một nét…ha ha!

Lão Trần bấy giờ mới à một hơi:

-Đúng, đúng! Chữ đó được viết thêm một nét!

Nhạc Tam Nguyên, Lâm Tố Đình, Tiểu Tường, Trương Quốc Khải và Lữ Nghị Chánh cũng đồng loạt gật gù.

Hiểu Lạc chắc tại lùn quá nên nhìn không rõ, hỏi Trương Quốc Khải:

- Tam sư bá ơi, mọi người đang trầm trồ chuyện gì vậy?

Trương Quốc Khải là một võ phu, không rành chữ nghĩa văn chương, không biết giải thích cách sao, còn đang à à luôn miệng thì Lữ Nghị Trung nói:

-Thì lúc ban đầu, tấm biển được mang tới đây, chữ “lăng” vốn chỉ có hai gạch. Bây giờ con nhìn đi, chữ đó lại giống như có ba gạch, đúng không? Chữ lăng có hai gạch gọi là hai điểm thủy, tức là nói cảnh đẹp ở Tây Hồ, có sóng gợn mặt biển rất là mỹ miều, ý của hoàng đế vốn là vậy. Hắn nói giang san này của hắn rất thanh bình. Nhưng không biết “Người nào” đã gạch thêm một gạch nhỏ nữa vào chữ “lăng” đó, khiến cho nó có tới ba điểm thủy, tức là nói khí thế tàn bạo của Tây Hồ, Giang Nam nhất định sẽ có sóng to gió lớn, long giao đấu tranh, hay nói một cách khác nghĩa là dân chúng ở đây đang rất bất mãn với triều đình Mãn Châu…

Hiểu Lạc đương nhiên biết “người nào” là người nào, nó vỗ tay nói:

-Hay quá! Hay quá đi sư phụ ơi!

Những người khác cũng nói:

-Thất ca huynh thật tài!

-Vậy mà huynh cũng nghĩ ra được!

-Hay lắm viện trưởng sư huynh!

Trần Tôn nói:

-Lão nô già rồi nên hồ đồ, xin lỗi thất gia, lão nô đã không tin tưởng ngài, lão nô trách nhầm ngài rồi!

Nhưng khi mọi người dứt lời, ngoảnh sang đã không thấy Cửu Dương ngồi cạnh cái sập.

Chợt họ nghe tiếng trầm trầm như tiếng chuông đồng vang lên:

-A di đà Phật! Thất sư đệ, một người nhứt tâm thanh tịnh, không duyên ngoại cảnh, lòng không chao động trước bất cứ một khuấy rối nào, coi như tất cả không có gì dính líu đến mình, con người đệ bề ngoài hình như kẻ ngây ngô, si độn lắm, nhưng trái lại thật là sáng suốt, thật là thanh tịnh. Người như sư đệ thật không phải dễ kiếm!

Tiếng này phát ra dưới lầu, ngưng một thoáng rồi tiếp:

- Phương chi trong pháp môn niệm Phật có câu: Niệm bất nhứt bất sanh tịnh độ. Mà hễ niệm nhứt thì muôn duyên phải buông bỏ, chỉ chuyên ròng câu niệm Phật. Lòng ta niệm Phật cùng lòng Phật tương ưng. Tây phương không lìa đương niệm, không cần đoán xa xét rộng chi cả mà Phật cảnh vẫn hiện tiền. Hy hữu thay pháp môn tịnh độ. A di đà Phật!

- Đại sư huynh đã quá lời, đệ đâu tài cán gì, nếu có thì hôm đó đã không để thất bại thảm hại, cho nên không dám nhận những lời này, đệ thật cảm thấy xấu hổ.

Những người trên lầu nghe đối đáp, gương mặt họ toát lên những đường nét phấn khởi không tả được. Họ chỉ nghe tiếng nhưng cũng biết người mới tới là ai, người này rất quan trọng trong Đại Minh Triều, từ trận thích khách Sơn Tây trở về.

Tiểu Tường cũng có mặt trong thư viện, từ lúc xuất hiện nàng chỉ đứng yên lặng bên cạnh Lâm Tố Đình. Cửu Dương thấy Tiểu Tường đến có hơi ngạc nhiên. Chàng đâu biết rằng mấy ngày này nàng đã suy nghĩ, đã buồn khổ, đã thất vọng, giờ trong lòng nàng khá bình tâm lại và đã có quyết định của bản thân nàng. Nàng tự nhủ rằng hễ chàng còn độc thân là nàng còn hy vọng. Nàng nhất định không buông bỏ dễ dàng như vậy được. Hạnh phúc là do mình tự tay tranh thủ và nắm lấy. Nàng quyết định phải tiếp tục đánh trận này!

Nhưng khi Tiểu Tường nghe ý trung nhân của chàng lên tiếng, Tiểu Tường thấy chàng nhìn cô ta cười ngọt ngào. Cô gái đó cũng mỉm cười với chàng. Hai người đó đâu ngờ rằng hai người nhìn nhau cười mà tim Tiểu Tường như vỡ ra từng mảnh. Tiểu Tường lại ước gì nàng yêu ai đó khác không phải là chàng. Hoặc nàng xuất hiện sớm hơn. Nhưng rất tiếc nàng đến quá muộn khi mà trong tim chàng người con gái đó đã là tất cả.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 6: Thiếu đà chủ

Nhạc Tam Nguyên làm theo lời Cửu Dương, vội vã đi tìm các trưởng lão đến tụ tập để thương lượng. Hai canh giờ sau, Cửu Dương và các người trong Hắc Viện đã có mặt ở Thanh Tịnh Tự gần Tây Hồ.

Giang Nam có hai ngôi chùa lớn nổi tiếng, đó là Thiếu Lâm Tự và Thanh Tịnh Tự. Sau khi Giác Viễn qua đời, chùa Thiếu Lâm là do Lữ Lưu Lương giữ nhiệm vụ trụ trì. Còn Khẩu Tâm thì coi giữ chùa Thanh Tịnh.

Thanh Tịnh Tự là ngôi chùa cổ bốn mùa hương khói, do đại đương gia của Đại Minh Triều là Khẩu Tâm trông coi. Chùa được xây dựng vào những năm đầu thời Minh, mặc dù đã trải qua những lần trùng tu, sửa chữa nhưng chùa vẫn giữ được những nét nguyên sơ hấp dẫn.

Chùa tọa lạc ở phía tây tỉnh Hàng Châu, cạnh Tây hồ. Theo dân gian tuyên truyền đồn đại, thì chùa được một người ni cô thiết kế.

Quanh chùa cây cối sum sê, làm tăng thêm vẻ hoang sơ độc đáo mà hấp dẫn, rêu phong cổ kính cho ngôi chùa. Mái nhà của chùa được uống cong, nóc có đắp rồng chầu nguyệt. Trên đỉnh có tấm bảng ghi ba chữ Thanh Tịnh Tự. Toàn thể chùa này được xây dựng bằng tre, mặt bằng chùa cấu trúc theo hình chữ tam, một kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau.

Ngoài cùng là tam quan, qua khỏi cổng vào chùa rồi là tới sân chùa, nơi có bày đặt các chậu cảnh và một hòn non bộ. Từ sân chùa dẫn đến nhà bái đường, gian đẹp nhất cả kiến trúc lẫn điêu khắc. Phía ngoài nhà bái đường có lan can bằng đá xanh bao quanh, chạm khắc các hình động vật, điểm xuyến thêm mây, trời, hoa, lá trông vô cùng thần tình và sinh động.

Quy mô của Thanh Tịnh Tự khá nhỏ nên chỉ có một gian bái đường, không như chùa Thiếu Lâm có đến những năm gian bái đường. Ở giữa bái đường có đặt hương án, người đến lễ chùa thường thắp hương ở đây.

Tiếp đến là một hành lang chạy dài nối nhà bái đường với hậu đường, nơi mà Nhạc Tam Nguyên mời các trưởng lão của bang hội phục Minh đến để hội hợp. Tượng bày ở nhà hậu đường có khá nhiều, chính giữa gian là tượng Bồ Đề Đại Ma được đúc bằng đồng đen. Tượng này có kích thước lớn và đồ sộ, cao hơn hai người đứng chồng lên vai nhau, tượng đặt trên tòa sen, đằng sau là vầng hào quan tỏa sáng, bên dưới là các hình trang trí sóng nước sống động như một thủy cung. Kế đó bày tượng Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn, hai bên tượng Quan Âm là hai tượng kim đồng và ngọc nữ…. Đằng sau những pho tượng thờ Phật là những pho tượng thần, rồi đến những nhân thần như Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Vân Trường, Khổng Tử…, những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập và tu luyện đã có tài thần thông biến hóa. Nhờ những khả năng đó họ cứu dân giúp nước và được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng. Ngoại trừ tượng Bồ Đề Đại Ma, tất cả các tượng khác đều được khắc bằng đá vôi.

Tương truyền chùa này nổi tiếng là thiêng, những năm hạn hán, người dân đến đây cầu mưa và cúng tế, sau đó thì trời bao giờ cũng đổ mưa. Có lần tỉnh này mưa đổ như trút nước trong khi mấy làng vô phúc cạnh bên thì vẫn nắng chang chang.

Thanh Tịnh Tự được xây lên bên cạnh Tây Hồ, nơi mà đã từ rất lâu rồi nổi tiếng là một hòn ngọc của vùng Giang Nam. Khi được ngắm từ trên cao, nhất là vào đầu mùa hạ, quang cảnh của hồ đẹp tựa như một bức tranh. Một nơi vô cùng tình tứ, nên thơ, với nhiều hàng bằng lăng in bóng mát rượi. Xen kẽ những cây hoa tím tỏa hương bay ngào ngạt đó là những rặng liễu rủ nhành xuống hồ nước, tạo nên những chiếc bóng trong xanh màu ngọc biếc. Khi ánh bình minh mới vừa nhú lên, hay lúc hoàng hôn buông xuống, mặt hồ như được hàng vạn tia nắng vàng chiếu sáng lấp lánh như một miếng ngọc khổng lồ.

Không biết duyên thơ, duyên đạo, hay duyên lành nào đã đưa đẩy thiên nhiên chế tạo khung cảnh hồ này? Quan khách đến dạo chơi bờ hồ, cảm giác như từng bước chân của họ lạc vào một thế giới mông lung, huyền ảo, những đóa sen nở muộn e ấp ẩn mình trong váng chiều vàng lãng đãng nơi này. Tây hồ được một dãy núi non bao bọc và ôm trọn vào trong lòng như tình thương của một người mẹ và một người con. Hai bên hồ có đôi bờ đê chạy dài như hai vành đai xanh thẳm. Hoa nở như gấm khi quan khách du xuân trên bờ đê này.

Tây Hồ còn có “Tam cầu sóng gió,” nổi tiếng bi ai, vì ba cây cầu này đã khiến cho nhiều cặp tình nhân trải qua bao nhiêu phong ba giông tố. Ngồi trên một trong ba cây cầu đá cong này người ta có thể ngắm trọn nét đẹp riêng của cảnh chùa Thanh Tịnh. Ba cây cầu được chạm khắc rất công phu, tinh xảo, và bố trí rất hài hòa. Tên của ba cây cầu “đau thương” này là cầu Đoạn, cầu Trường, và cầu Tây Lâm. Chữ đoạn của cây cầu Đoạn có nghĩa là đứt gãy từng đoạn, là sinh ly, tử biệt. Cây cầu này đã gắn liền với câu chuyện tình bi thảm của nàng Bạch Tố Trinh và chàng Hứa Tiên trong truyền thuyết Thanh Xà Bạch Xà. Dân gian tương truyền rằng chính tại cây cầu Đoạn, nàng Bạch Xà đã vô tình gặp gỡ chàng Hứa Tiên. Họ phải lòng nhau rồi thành duyên đôi lứa. Trớ trêu khi hai kẻ thương yêu nhau này lại phải đôi đường đôi ngã. Họ chia tay tại cầu Đoạn mà lòng vương vấn không nguôi được. Bạch Tố Trinh nhớ những chuỗi ngày tay trong tay vai kề vai cùng với tướng công của nàng, hai người ngắm những đóa hoa tuyết tan chảy, bên dưới gầm cầu là băng hàn trắng xóa nên Hứa Tiên gọi cảnh đẹp đó là tuyết tàn cầu Đoạn.

Chiếc cầu sóng gió thứ hai làm lay động lòng người là cầu Trường. Nghĩ tới cầu Trường làm người ta nhớ ngay đến mối tình gắn bó của đôi bạn trẻ Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài. Mặc dầu chữ “trường” của cây cầu Trường có nghĩa là dài nhưng chiếc cầu này lại không dài quá ba trăm thước. Bởi thế mà tại cầu Trường, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài đã quyến luyến không rời xa nhau. Họ cùng nhau đi qua đi lại mười tám lần trước khi thốt lời từ giã.

Chiếc cầu Trường và cầu Đoạn đã trở thành chủ đề của rất nhiều thi nhân. Điển hình là hai câu thơ mà dân gian thường hay ngâm nga “Trường kiều bất trường tình nghĩa trường, đoạn kiều bất đoạn thốn trường đoạn.” Hàm ý rằng cầu Trường tuy ngắn nhưng tình nghĩa dài, như chuyện tình yêu của Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài. Còn cây cầu Đoạn không gãy nhưng lại khiến lòng người đau đớn như đứt từng khúc ruột khi nghĩ đến mối tình của Hứa Tiên và Bạch Tố Trinh.

Khi này là mùa thu, gió lúc nhặt lúc khoan, từng cơn gió lạnh ùa vào trong hậu đường của chùa Thanh Tịnh qua cánh cửa sổ bị mối ăn hỏng.

Bên ngoài cổng chùa, tiếng vó ngựa vang lên, thêm mấy người nữa vào trong. Chờ một lúc, lại có thêm nhiều người nữa. Hiểu Lạc nhận ra một trong những người đó là Lữ Lưu Lương. Nó dợm chân định chạy tới chào hỏi liền bị nữ thần y túm áo nó kéo lại.

-Đừng có làm bừa, ở đây toàn những bậc trưởng bối, đệ muốn làm gì thì chờ thất ca bảo đã.

Nó vâng lời nàng không đi nữa, cứ chăm chú mở to mắt nhìn Lữ đại học giả.

Lữ Lưu Lương là một học giả nổi tiếng thời Thuận Trị. Sau khi triều Minh bị diệt vong, ông được Cửu Nạn sư thái thuyết phục tham gia vào cuộc kháng chiến chống Thanh nhưng không thành công nên ở nhà theo giúp Mã Lương mở trường tư dạy học trò. Có nguời tiến cử ông tham dự cuộc thi Hồng từ khoa do hoàng đế Thuận Trị tổ chức, nhưng vì không muốn cộng tác với triều Thanh nên ông kiên quyết từ chối. Năm Thuận Trị đi Giang Nam đã vô tình gặp Lữ Lưu Lương, cả hai đi chung một chuyến đò, khi đó họ Lữ không biết đó là nhà vua xuất tuần, nên có đối đáp một vài câu đối với Thuận Trị. Hoàng đế thích lắm, sau khi trở về hoàng cung thì cho người đến Lữ gia rước ông vào cung để giao phó trọng trách dạy dỗ các vị bối lặc, nhưng một lần nữa cũng bị từ chối. Có một thời gian các quan đến trường học khuyên ông, thậm chí còn dọa nạt đóng cửa trường học để ông hạ sơn. Bất đắc dĩ, ông phải bỏ trường tới ở chùa Thiếu Lâm giả vờ xuống tóc làm hoà thượng. Mãi tới lúc đó các quan mới chịu buông tha.

Làm hòa thượng nhưng ông vẫn không quên việc viết sách, lập ngôn. Sách của Lữ Lưu Lương có những cuốn mang nội dung chống lại sự thống trị của vương triều Thanh của tộc Mãn nên chỉ được in ấn lén lút và được Mã Lương giảng dạy cho các học trò.

Bấy giờ mọi người có mặt đầy đủ trong hậu đường của chùa Thanh Tịnh.

Hiểu Lạc hết nhìn người này đến nhìn người kia, thấy ai cũng khí phách ùn ùn, nó ngưỡng mộ lắm. Chợt nó nhớ ra một chuyện, quay sang nữ thần y hỏi:

-Tỉ à, tại sao tổng đà chúng ta lại đặt ở An Huy vậy?

Nữ thần y mỉm cười đáp:

-Tỉ đã có lần nghe sư thái nói, sở dĩ bà chọn An Huy làm nơi đặt cơ sở hoạt động vì An Huy được xem là một trong những nơi khởi nguyên của dân tộc chúng ta. Đệ biết không, vào cuối thời Tống tại di chỉ huyện Tiềm Sơn của trấn An Huy này đã phát hiện được dấu tích về hoạt động của loài người và những di chỉ văn hóa thời đại đồ đá rồi đó. Hơn nữa An Huy là khu vực thuộc khu đất thép, tức loại đất sét hòa với đá ong. Đất này có độ bềnh rất cao, rất thích hợp cho việc đào địa đạo...

Nàng nói tới đây thì phương trượng của chùa Thanh Tịnh xuất hiện, toàn thân mặc áo trắng, khoác thêm trên vai ca sà màu đen, y bước tới trước mặt các trưởng lão. Người này có gương mặt rộng, hình chữ điền, cằm bạnh, da mặt đen nhánh, y bước ra chắp tay xá các trưởng lão một cái. Người này cũng chính là đại đương gia của Đại Minh Triều, với biệt hiệu là sát thủ Thiết đầu lôi - Khẩu Tâm.

Các trưởng lão cũng bái một cái đáp lễ.

Lữ Lưu Lương nói:

-A di đà Phật, xin hỏi phương trượng, nghe nói tổng đà chủ bị thương ở Sơn Tây không biết tình trạng bà hiện giờ thế nào?

Khẩu Tâm đáp lời:

-A di đà Phật, tổng đà chủ bị trúng hỏa dược, vết thương rất nặng, hiện bà đang quy ẩn để dưỡng thương, có thể sẽ một thời gian dài bà không gặp mọi người được.

Đột nhiên một cơn gió lạnh ùa vào, Cửu Dương cảm thấy trong người ớn lạnh, so vai một cái. Chàng bước ra, lên tiếng hỏi thăm về Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê. Cửu Dương khi về được Giang Nam đã có nghe tin lục ca và tứ ca của chàng là Đoàn Khiết Tường và Cung Từ Ân đã tử nạn rồi. Quân binh dán cáo thị đầy trong chợ, tin này anh em nhà họ Lữ đã nói với chàng.

Khẩu Tâm trả lời Cửu Dương, bảo Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê sau khi thoát khỏi vòng vây đã bí mật quay trở lại tỉnh Sơn Tây đánh cướp thi thể của hai người đương gia xấu số, đem đi an táng.

Trương Quốc Khải nghe quân binh mang thi hài tứ đương gia, lục đương gia, đem treo ở chợ Sơn Tây để răng dân chúng, hừ một tiếng chửi:

-Mẹ kiếp cái bọn chó Thanh!

-A di đà Phật – Khẩu Tâm và Lữ Lưu Lương cùng lắc đầu nói.

Trương Quốc Khải nói tiếp:

-Nhị ca, ngũ đệ, hai người họ gan mật cũng không nhỏ, đã bị phục kích còn dám quay trở lại.


Cửu Dương liếc nhìn Lâm Tố Đình, thấy vẻ mặt nàng hoang mang, nên Cửu Dương nhìn Trương Quốc Khải nói:

-Tuy rằng tên Phủ Viễn tướng quân đó quỉ kế đa đoan thật, nhưng nhị ca võ công rất giỏi, lại nữa về thông minh cơ biến thì ngũ ca ít ai sánh kịp huynh ấy, nên đệ tin chắc hai huynh ấy sẽ không thua thiệt.

Khẩu Tâm gật đầu nói:

-Đúng rồi! Nhờ ơn Phật Tổ Như Lai, nhị đệ, ngũ đệ không sao.

Lâm Tố Đình thở phào một cái, nói:

-Không biết hai huynh ấy khi nào mới về?

Khẩu Tâm nói:

-Sao khi chôn cất thi thể tứ đệ lục đệ, bần tăng làm theo lời tổng đà chủ, bảo hai người họ đến các phân đà báo tin cầu viện. Nếu tính tới ngày hôm nay thì lực lượng của bang hội chúng ta chắc đã đến tụ tập đầy đủ ở tổng đà hồi cương rồi.

Tổng đà ở hồi cương này là tổng đà thứ hai của Đại Minh Triều, có tên gọi là “đồn Bạch Nhật.”

Thằng bé Hiểu Lạc nghe vậy giật giật tay áo nữ thần y, nàng khom mình xuống, nó kề tai nàng nói:

-Tỉ à, năm vị đương gia còn lại của bang hội, ngoài Tần nhị đương gia và Tàu ngũ đương gia thì tất cả đang tập hợp ở đây, các thành viên ở các phân đà nằm rải rác khắp nơi cũng đến tập trung ở tổng đà hồi cương, lần này có chuyện lớn rồi, phải chăng?

Nữ thần y cốc đầu nó một cái nói:

-Vớ vẩn, đương nhiên phải là chuyện lớn chứ!

Quả nhiên Khẩu Tâm nói:

-Tổng đà chủ bảo bần tăng đến gặp các vị, trao lá thư này.

Khẩu Tâm rút lá thư viết cho các trưởng lão trong hội Đại Minh Triều ra. Lữ Lưu Lương xé thư ra đọc lên, thấy đầu thư là mấy câu chào hỏi, tiếp theo là nói về mấy vị bằng hữu trong hội gặp nguy nan, nhờ chiếu cố… Trong thư không ghi rõ khi nào bà trở về gặp mọi người.

Lữ Lưu Lương xem xong, thở ra một hơi nhìn Hồ Quảng Đông.

Hồ Quảng Đông năm nay hơn bảy mươi tuổi rồi, là tổng tiêu đầu của tiêu cục Hưng Chấn ở Hà Nam. Vùng phía nam này, tiêu cục đó là lớn nhất, có phân cục ở cả Quảng Đông, Cam Túc, Tế Nam, Khai Phong, Thái Nguyên. Hồ Quảng Đông oai trấn là vậy nhưng tuổi tác đã lớn, thế mà lão vẫn chưa chịu rửa tay gác kiếm. Ôi chao! Lẽ ra lão nên cáo lão hồi hưu rồi mới phải. Tiêu cục đã phát tài hơn bốn mươi năm trời, chẳng lẽ không biết thế nào là đủ?

Hồ Quảng Đông dựa vào một thanh bát quái đao, một đôi bát quái chưởng, năm xưa đánh khắp vùng đại giang nam bắc không gặp địch thủ, nên mới gọi là “oai trấn Hồ Quảng.” Người trong thiên hạ phải may mắn lắm mới có thể quen thân được với vị lão anh hùng này.

Hồ Quảng Đông cũng như Lữ gia là bạn tâm giao của Cửu Nạn sư thái.

-Phen này tổng đà chủ thật khiến người ta lo quá – Hồ Quảng Đông nói - Không rõ bà đang tính chuyện chi mà bảo chúng ta mọi chuyện trong hội bà giao lại cho thiếu đà chủ đối phó, lại không ghi ai là thiếu đà chủ, cũng không nói cho chúng ta biết bà đang ở đâu.

Một trưởng lão khác trong hội bước ra nói:

-Thế thì chúng ra cứ làm theo ý nguyện của tổng đà chủ, thiên lý đón long đầu, chọn ngày tốt làm lễ tham kiến thiếu đà chủ vậy.

Người mới vừa nói đấy là Lạc Thiết Môn, vốn là một đại hiệp phái Võ Đang. Thời tráng niên ông hành hiệp trượng nghĩa ở vùng Giang Nam, danh trấn giang hồ, cũng là một nhân vật nổi tiếng của bang phái Đại Minh Triều. Thiên lý đón long đầu nghĩa là người của các hội xa đến Giang Nam để bái kiến tân đà chủ, hoặc cũng có thể là các hội viên đón tân đà chủ từ phương xa về.

Con trai thứ của Lữ Lưu Lương là Lữ Nghị Chánh hỏi nhỏ:

-Cha à, theo cha thì chúng ta nên bầu cử ai đây?

Lữ Lưu Lương nói:

-Đương nhiên là một người trong các vị đương gia rồi, sư thái đã dặn như thế.

Lão Trần nói:

-Hiện có đại đương gia, tam đương gia và thất đương gia đang ở đây…

Hiểu Lạc nghe thấy thiếu một người, huýt vô hông Lâm Tố Đình nói khẽ:

-Họ quên còn có bát đương gia tỉ nữa.

Lâm Tố Đình không cười, Hiểu Lạc ngạc nhiên nói:

-Lâm tỉ sao thế? Chắc Lâm tỉ đang nhớ Tần nhị gia? Hay tỉ sợ nhị gia lâu ngày không gặp tỉ, sợ nhị gia thấy người khác đẹp hơn là lập tức thay lòng đổi dạ?

Lâm Tố Đình mỉm cười ngắt lời:

-Đừng có đoán mò, ta đang lo sốt cả ruột đây, mà là lo chuyện khác cơ.

Hiểu Lạc nói:

-Tỉ lo huynh ấy bị bất trắc ư?

Rồi nó làm như người lớn, khoác tay nói:

-Tần nhị gia võ công đệ nhất phương Nam, sẽ không việc gì đâu, đệ chắc rằng khi nhị gia về sẽ đưa tỉ đi ngắm mặt trời mọc trên Tây hồ.

-Ha! Đi chơi? – Lâm Tố Đình nói - Huynh ấy mỗi khi rảnh rỗi chỉ biết gói cảo chỉ mà ăn!

Hiểu Lạc ngơ ngác hỏi:


- Có thật như thế không?

Lâm Tố Đình hỏi lại:

- Sao ta phải lừa gạt đệ? Còn chuyện đi ngắm mặt trời mọc trên Tây hồ thì huynh ấy chỉ thích đi một mình, có bao giờ chịu rủ ta đi cùng đâu!

Hai người nói mà không để ý nữ thần y đứng cạnh đó trong lòng không khỏi áy náy, mặt hơi lộ vẻ hổ thẹn.

Lại nói tiếp chuyện các trưởng lão đang bàn về thiếu đà chủ.

Trương Quốc Khải vốn biết mình hữu dũng vô mưu, không thích hợp để làm kẻ chỉ huy nên lên tiếng từ chối. Chàng bảo bản thân chàng võ nghệ không cao, kiến thức chẳng đủ rộng, tính khí cũng không được trầm tĩnh nên không dám múa rìu qua mắt thợ.

Trương Quốc Khải dứt lời, có một bàn tay đặt lên vai chàng. Kẻ đó là Nhất Đình Phong, chuyên nghề buôn bán vải vóc, làm chủ hai xưởng dệt tơ lụa khá lớn ở phương nam. Tính y hiếu võ nên kết giao với Trương Quốc Khải, rồi được họ Trương giới thiệu vào bang hội Đại Minh Triều. Nhất Đình Phong thân hình mập mạp, năm nay chừng ba mươi mấy tuổi, thường mặc áo dài bằng tơ lụa in bông lớn, ngoài khoác thêm áo choàng màu xanh. Nhìn y chẳng khác gì một vị đại gia sống trong nhung lụa, nào ngờ cũng là hiệp khách phong trần.

-Theo ngu kiến của tôi thì nhị đương gia trực tiếp đứng ra nhậm chức thiếu đà là thích hợp nhất.

Một người trung niên mang chiếc mũ rộng vành ở sau lưng chợt lên tiếng. Y tên là Bạch Kiếm Phi, độc hành đại hiệp, tuổi trạc tứ tuần, y một người một ngựa chuyên đi cướp bọn nhà giàu độc ác. Y cũng từng trong một đêm đánh phá ba gia đình phú hộ ở Kim Lăng, dùng ba món trường đao, đoản đao, phi đao đánh tan hết đám võ sư bảo vệ ba nhà, bắt chúng cúp đuôi mà chạy, từ đó danh chấn giang hồ. Mỗi lần y hành sự đều có thăm dò kỹ lưỡng, nếu đúng là khổ chủ mang nhiều tiếng xấu, làm điều bất nghĩa mới ra tay. Vì thế mỗi lần y cướp được nhiều thì trong lòng lại càng vui vẻ, thật là nhân tâm đại khoái.

Trong hội bấy giờ không ai biết phải nên chọn vị đương gia nào. Một số ít người ủng hộ Khẩu Tâm, vì mặc dù Khẩu Tâm tuy đã xuất gia mà bản tính y vẫn không thay đổi, phóng khoáng hành hiệp giang hồ, họ kính ngưỡng Khẩu Tâm. Còn lại đại đa số muốn theo Tần Thiên Nhân vì tánh tình y thẳng thắn, trung trực, lại rất tài ba, võ công có thể coi như là vô địch ở phương nam, tóm lại y là một kẻ rất có nghĩa khí.

-A di đà Phật - Khẩu Tâm chợt lên tiếng - Cám ơn các vị đã đề bạc, và cũng theo như bần tăng nghĩ thì đúng là có điều đáng tiếc…

Có tiếng vội hỏi:

-Đáng tiếc ở chỗ nào?

Khẩu Tâm nói:

-Theo như bần tăng nghĩ thì Tần nhị đệ, hiện giờ không biết đang ở phương trời nào rồi, nếu đệ ấy không về cho sớm thì không biết chúng ta lại trở thành rắn không đầu tới bao giờ? Lại nữa đệ ấy trong mình đang bị thương, không tiện động thủ. Không phải bần tăng muốn trợ oai cho địch mà hạ thấp bên mình nhưng nhỡ mai này tên Phủ Viễn tướng quân đó mang bọn ưng trảo và quân đội thiết giáp của hắn đến đây, không có Tần nhị đệ của ta đứng ra lãnh đạo, làm sao chúng ta địch nổi đoàn binh áo sắt của hắn? Bần tăng tuy bất tài, nhưng cũng biết coi nghĩa khí quan trọng hơn tính mạng. Bần tăng cả đời này sống là cho bang hội, cái mạng này đã vứt đi lượm lại mấy lần, đem ra liều với chúng cũng không có gì là quan trọng, cho nên…

Mọi người nghe Khẩu Tâm nói bất giác mồ hôi toát ra đầy đầu, uy danh của Phủ Viễn tướng quân quả thật chấn động trung nguyên, trận mai phục vừa qua ở chùa Quan Âm nghe đâu cũng là do hắn tương kế. Mấy câu này của Khẩu Tâm tuy có phần khích bác nhưng hoàn toàn có tình có lý.

Nhưng, cho dù Khẩu Tâm nói vậy mà các trưởng lão trong hội hãy còn phân vân, chưa chịu hưởng ứng việc Khẩu Tâm trở thành thiếu đà chủ, mọi người vẫn cứ mong được Tần Thiên Nhân lãnh đạo họ.

Chợt có một tú tài chạy vào thưa với Cửu Dương:

-Dạ thưa viện trưởng, có người của chúng ta nhìn thấy ngũ đương gia xuất hiện ở thị trấn kế bên.

Trương Quốc Khải cả mừng nói:

-Nếu ngũ đệ đang tới đây thì chắc nhị ca cũng đang trên đường về đây.

Các vị trưởng lão đứng bên rất đắc ý, lại hô lên:

-Cứ nghe lời của Bạch đại hiệp là bảo đảm không lầm!

Những người khác nào còn được phép nghĩ ngợi nhiều, nghe thế thì luôn thanh đáp:

-Đúng vậy! Đúng vậy!

-Quyết định vậy đi!

Ai cũng hưởng ứng chuyện Tần Thiên Nhân lên nhậm chức thiếu đà chủ thay cho sư thái quyết định các chuyện lớn nhỏ trong hội.

Chỉ có Cửu Dương đứng đó nãy giờ là không có phản ứng gì, dường như chàng cũng không bị tác động bởi chuyện ai là thiếu đà chủ, chỉ đang xuất thần quan sát diện mạo từng người đang có mặt trong lúc này. Tự nhiên Cửu Dương nghĩ sống chung với các vị sư huynh bấy lâu, ăn chung một măm, ngủ chung một giường với họ mà giờ chàng mới phát hiện thấy một người sư huynh của chàng có môi trên mỏng hơn môi dưới, người như vậy khó tạo niềm tin, do lời nói không thật thà.

Chàng lại nhìn sang thấy người sư huynh khác thì hai môi đều mỏng, đúng là tướng số của một người thiếu điềm tỉnh, phản ứng nhanh lẹ với ngoại cảnh, nhưng về tình cảm thì khá là thủy chung, chân thật. Cửu Dương lại nhớ đến một người sư huynh nữa không có mặt ở đây, người này môi dày, chính thực là người phản ứng chậm chạp chân chất, nhưng dễ thuyết phục người nghe, trung tín, ít đổi thay.

Còn đệ tử cưng của chàng, Hiểu Lạc thì… môi trên nó dày hơn môi dưới, tài sản khó vững bền được (^_^). Cửu Dương lại nghĩ cũng may là trong hội không có đàn bà nào chàng quen mà tướng số khắc chồng, môi dưới trùm lên môi trên. Trái lại đàn bà mà môi trên trùm lên môi dưới là số khó thành đạt…

Khi này Khẩu Tâm cũng giống Cửu Dương, cũng đứng trầm ngâm đến xuất thần.

Lão Trần thấy Khẩu Tâm không nói tiếng nào hết bèn hỏi:

-Đại đương gia à, ngài suy nghĩ gì mà thất thần vậy?

Trong hậu đường có một người nói đùa:

-Chắc đại đương gia đang lo ngài không ủng hộ nổi?

Cửu Dương bấy giờ mới cười nói:

-Không ủng hộ nổi cũng phải ủng hộ. Đây là ý mệnh của tổng đà chủ, sau khi đồng lòng chọn được người rồi thì bất luận thiếu đà chủ có thành công hay không thì chúng ta cũng phải son sắt một lòng, trung thành với người.

Trước khi Cửu Dương ra khỏi hậu đường có nán lại nhìn Khẩu Tâm thêm một cái, Cửu Dương để ý kỹ thấy Khẩu Tâm có hơi cau mày lại. Tiểu Tường nãy giờ đứng cạnh Cửu Dương, nàng thấy ai cũng đi về cả rồi mà thần thái Cửu Dương hơi lạ, bèn kéo tay áo chàng một cái. Cửu Dương mới chịu cùng nàng và Lâm Tố Đình rời đi.

Lâm Tố Đình thì khỏi phải nói rồi, nàng nghe tin Tần Thiên Nhân bình an vô sự lòng mừng khôn xiết kể. Nàng nhớ Tần Thiên Nhân vô cùng, đã bao lâu rồi không gặp được chàng. Nay nghe chàng được bình an nàng tự nhủ nàng không cần mỗi đêm rúc vào một xó nhà khóc rưng rức nữa.

Lâm Tố Đình vốn dĩ đã tự xem nàng là chị dâu của Cửu Dương, nên mỗi khi hứng chí lên lại lớn tiếng bắt nạt chàng. Vì năm xưa hai nhà họ Tần và họ Lâm trong lúc cao hứng kháo chuyện với nhau, Tần Nhị và Lâm Vĩ đều nói nếu vợ của họ hạ sinh một cặp trai gái sẽ hứa hôn cho hai đứa bé, bằng không, nếu sinh đôi trai hay là đôi gái thì để chúng cùng làm tri kỷ.

Năm Tần Nhị qua đời, trước khi nhắm mắt ông gọi hai người con trai của ông tới nói:

-Thiên Nhân, Thiên Văn à, hai đứa con một người thông minh, lanh lợi, hiếu học, ham hỏi. Một người hiếu thảo, trọng đạo, biết giúp đỡ gia đình. Được hai người con như thế này, kẻ làm cha này không đòi hỏi gì hơn nữa.

Ông lại nhìn con trai trưởng là Tần Thiên Nhân, nhắc lại lời phối hôn của nhiều năm trước, hy vọng Tần Thiên Nhân chăm sóc cho Lâm Tố Đình vì cha mẹ Lâm Tố Đình đã sớm hóa người thiên cổ rồi. Lâm Tố Đình mới vì vậy mà mặc nhiên coi mình là thê tử chưa cưới của chàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 7: Uyên ương hồ điệp mộng

Chàng trai cất bước đi đều đều trên bờ Tây hồ ngắm gió thu đang quét lá rơi. Trời sầm xuống như muốn mưa. Bấy giờ là mùa thu nên chim chóc kéo nhau bay về phương khác tránh lạnh. Có hai chú chim vô tình lạc bầy bay đến, vẫy vẫy đôi cánh nhỏ, mổ lên dăm hạt mầm xanh.

Chàng trai đi dạo một lát rồi dừng chân trên cây cầu Trường, chiếc cầu cong hình bán nguyệt. Khi này lồng đèn được thắp lên và treo lên những cành cây quanh hồ làm cho không gian nơi đây thêm lung linh. Ở mỗi chiếc lồng cứ như đều có một đôi mắt to ngây thơ của một người con gái bồng bềnh ẩn hiện trong trí chàng trai nọ. Mỗi chiếc lồng đều có thể nhắc chàng nhớ đến một sự việc trong dĩ vãng.

Chợt, chàng bắt gặp người con gái đó đứng bên kia bờ hồ, chàng chớp chớp mắt vài cái, đúng là nàng ấy thật. Nàng đang nghiêng nghiêng dùng những ngón tay thon dài chảy lên làn tóc mây thanh nhã của nàng, trên mình nàng phục trang bộ váy mềm lụa mỏng màu hồng phấn, trông đơn giản và tao nhã như một nàng tiên nữ hư ảo không nhiễm bụi hồng trần.

Cửu Dương lại nhớ tới ngày hôm kia, vụ tấm ngự biển, chỉ có nàng là người duy nhất tin tưởng chàng. Khi đó chàng cảm động biết bao nhiêu, nàng hiểu chàng đến từng chân tơ kẽ tóc, không cần dùng đến lời nói, chỉ nhìn vào ánh mắt là đã biết đối phương muốn gì.

Những người qua đường ngó thấy nàng đứng bên bờ hồ, trong giây lát họ cũng đứng sững lại, ngây người ra ngắm nàng.

“Nha đầu kia, mi là con gái nhà ai mà xinh đẹp vậy chứ?” Nữ thần y vừa thầm nghĩ vừa dán mắt vào mặt hồ, nàng ngắm rất kỹ hình của mình trong đó. Từ nhỏ nàng đã biết rằng mình rất xinh đẹp, nhưng đến nay chính hình ảnh của nàng trong gương vẫn gây cho nàng một cảm giác lạ lùng. Đôi lông mày cong cong, đôi mắt đen láy, đôi môi đỏ mọng và tấm thân chín dậy một cách nhanh chóng kia đều nói với nàng rằng nàng đã trưởng thành.

-Xấu! Xấu! - Nàng vừa chun mũi vừa chỉ ngón tay thanh mảnh vào tấm gương nước, khẽ nói - Tự mình khen mình mà không biết ngượng!

Chính vào lúc nàng đang mông lung suy nghĩ, bất chợt thấy có chiếc bóng đứng sau lưng nàng.

-Thất ca!

Nữ thần y quay mặt lại, bắt gặp trong mắt sư huynh ánh lên tia tán thưởng ngây ngất, bèn thẹn thùng cuối đầu xuống.

Hồi lâu sau nữ thần y lấy lại được tự nhiên, mỉm cười nói:

-Huynh nhìn gì mà lâu vậy, bộ mặt của muội dơ lắm hả?

Cửu Dương hãy còn ngẩn mặt ra nhìn sư muội, bảo với lòng nàng cười đẹp quá! Bên Tây hồ gió rít, nụ cười ấy, sao chàng thấy tim ấm lạ!

-Hồi mình còn nhỏ - Cửu Dương nói, mắt vẫn không rời mặt nữ thần y - Có lần huynh mê chơi trong vũng bùn dưới hồ này, nghĩa phụ bảo muội đi gọi huynh về, huynh liền lấy bùn quẹt lên mặt của muội khiến muội vừa đi về vừa khóc, muội còn nhớ không?

-Nhớ chứ - Nữ thần y lườm sư huynh.

-Lúc nhỏ muội ưa khóc lắm - Cửu Dương lại nói - Lớn lên ngược lại không như vậy nữa. Lại nữa hồi nhỏ ai dỗ muội cũng không nín, trừ nhị ca tới dỗ muội mới chịu nín.

Nhị đương gia của bang hội Đại Minh Triều là Tần Thiên Nhân, chàng và Cửu Dương là hai huynh đệ cùng chung một huyết thống nhưng hai người có tính tình đối lập nhau. Tần Thiên Nhân có đôi lông mày đen và rậm, còn đôi mắt thì chính thị là tổ truyền của họ Tần, to, đen và rất sáng. Môi đầy đặn, hàm răng trắng khỏe, chàng như có một sinh lực dồi dào, không biết mệt mỏi. Tánh tình Tần Thiên Nhân rất trầm tư và chững chạc, trong khi đó Cửu Dương suốt ngày cười hi hi há há, về điểm này Cửu Dương khác hẳn anh trai mình. Thêm vào đó hồi còn nhỏ Tần Thiên Nhân rất siêng năng luyện tập võ công không như Cửu Dương chỉ thích rúc vào một hang động nào đó sau chùa Thiếu Lâm nằm đọc sách.

Có lần Cửu Dương trốn sư phụ Giác Viễn không chịu luyện các bài côn pháp của Nam Thiếu Lâm, Giác Viễn mới lôi Cửu Dương về giảng cho một trận nào là quân binh trước khi ra trận phải tập trận cho thật kỹ…

Lúc đầu Giác Viễn chưa phát hiện ra sở trường của Cửu Dương là cước pháp, ông dạy chàng đánh kiếm, dùng côn, sử đao thương, nhưng do Cửu Dương không thích nên lúc nào cũng cố tình làm mấy loại binh khí đó lạc mất.

Năm Cửu Dương mười ba tuổi, có hôm sư phụ chàng giận quá, mới phạt Cửu Dương đứng tấn cả buổi trên Tung Sơn. Trên núi là rừng cây rậm rạp. Lúc đó đã là cuối thu, chỉ trừ những bụi tre bụi trúc vẫn xanh biếc, còn khắp núi đều phủ sắc đỏ vàng của lá.

Sau vài canh giờ Giác Viễn quay lại nói với chàng rằng:

-Thiên Văn à, con có biết đao kiếm là vật bất khả ly thân của một người lính không? Nếu như một người lính khi ra trận mà không có vũ khí sẽ làm gì được?

-Dạ thưa, làm chỉ huy ạ… - Cửu Dương dài giọng nói, trả lời xong ngoác miệng cười khinh khích.

Cửu Dương buông câu đó khiến Giác Viễn chết điếng. Bài giáo huấn đầy hình ảnh bóng bẩy của ông bỗng chốc bị thằng oắt con làm cho sụp đổ tan tành.

Cách đó một quãng, Lâm Tố Đình, Tần Thiên Nhân, Trương Quốc Khải và nữ thần y nấp đằng sau bụi tre cũng bất ngờ không kém Giác Viễn.

Lâm Tố Đình bật tiếng cười to, xòe ngón tay cái ra nói:

- Thất ca huynh ấy trả lời được đấy!


Trương Quốc Khải cũng nghênh đầu trời lên cười sặc sụa.

Nữ thần y thì ý tứ một chút, nàng che miệng lại cười. Duy chỉ có Tần Thiên Nhân là sầm mặt xuống nói:

- Chẳng thích nghe! Chẳng hay!

Giờ nữ thần y nhắc lại chuyện cũ, nàng và Cửu Dương hai người không khỏi phá lên cười.

Nữ thần y cũng nhớ hồi đó nàng rất thích nghe Cửu Dương lắc lư cái đầu, miệng ê a liến liến đọc thơ tình của Lý Bạch, lại thêm bộ mặt luôn cười tinh quái làm cho người ngoài cũng bật cười theo. Trong đám học trò con nít thời bấy giờ Mã Lương cưng Cửu Dương nhất, ông nhận chàng làm nghĩa tử. Ông cũng đã từng nói trong hai anh em thì tư chất của Tần Thiên Nhân mạnh mẽ nhất, song Cửu Dương mới chính là viên ngọc quí nhưng chưa được mài giũa. Ông mới đặc biệt hướng dẫn cho Cửu Dương để biến đứa trẻ ưa nghịch phá này thành một người đầy tài năng, siêu phàm thoát tục.

Cũng nói thêm hồi còn bé nữ thần y đặc biệt thân thiết với Lâm Tố Đình, và hai huynh đệ nhà họ Tần, nhưng suốt ngày Cửu Dương với Lâm Tố Đình cứ gây nhau.

Lâm Tố Đình nhỏ tuổi hơn Cửu Dương. Có hôm Cửu Dương một tay bê ống dế to, tay kia cầm cây cỏ bông lao để đuổi dế. Chàng mặc một tấm áo dài trắng với vạt áo bị túm vào nhét ở thắt lưng quần làm lộ ra cái quần màu đen, tất cả đều dính đầy những bụi. Trên lông mày chàng có một vết nhọ kéo dài xuống tận mũi, trên má thì mồ hôi lẫn đất cát làm cho lấm lem hết cả. Những thứ đó cộng với đôi mắt tròn đen đảo lia lịa như mắt chim tạo ra một vẻ khôi hài, buồn cười đến chết. Cửu Dương đi ngang qua chỗ Lâm Tố Đình đang ngồi đánh đu. Lâm Tố Đình nhìn Cửu Dương. Lâm Tố Đình nhíu mày nhăn mũi ra dáng suy nghĩ rất ghê, một lúc sau đột nhiên giơ tay ngoắt gọi Cửu Dương lại gần nói:

- Hay quá rồi, thất đệ ơi, đi ngang qua mà không thèm đến chào chị dâu vậy! Xem này, tôi chính là chị dâu của cậu đấy, chào chị dâu đi!

Cửu Dương ngoảy người một cái, không chịu chào, miệng lầu bầu những gì không rõ, một lúc lâu sau tự nhiên chu miệng nói:

- Còn khuya đi! Tướng của muội xấu như ma, đến con dế của huynh cũng chưa chắc đã thèm!

Cửu Dương chọc Lâm Tố Đình xong bỏ chạy, Lâm Tố Đình bèn rượt theo chàng. Hai người rượt bắt nhau một lúc Cửu Dương đâm sầm vô nữ thần y đang đi hướng ngược lại khiến cho nữ thần y ngã sóng xoài.

Thế là Lâm Tố Đình cùng Cửu Dương hai người ra sức dỗ dành, cho kẹo, cho bánh... nhưng nữ thần y vẫn không hề ngừng khóc.

Tần Thiên Nhân nghe tiếng khóc vội chạy đến hỏi.

- Không biết được – Cửu Dương và Lâm Tố Đình rụt cổ lại nói - Huynh thử dỗ nín đi được không?

Tần Thiên Nhân thấy nữ thần y vừa ngồi dưới đất mặt mày nhăn nhó vừa lấy tay đè chặt đầu gối. Tần Thiên Nhân liền đỡ nàng dậy, vạch cái váy của nàng lên, ở trong còn chiếc quần hồng phấn bằng vải thô đã bị toạc ra một miếng to, chiếc đầu gối nhỏ đã rịn máu ra. Tần Thiên Nhân bế nàng để ngồi trên phiến đá an ủi:

- Đừng sợ!

Rồi chàng quì xuống mút bỏ máu dơ ở vết thương của nàng, xong ngẩng lên nhìn vào mặt của nàng hỏi:

- Còn đau không?

Nữ thần y cố gượng cười và lấy dáng anh dũng, lắc mạnh đầu. Sự thật thì nàng đang đau đến trào nước mắt. Tần Thiên Nhân xoa đầu nàng, cười một cách cởi mở, động viên nàng:

- Muội không sao đâu, huynh cõng muội đi coi lồng đèn hoa đăng nhé?

Đôi mắt to đen của Tần Thiên Nhân nhìn nữ thần y dịu dàng khiến nàng quên đau ngay. Từ lúc đó, nàng đã cảm thấy rất thân thiết với Tần Thiên Nhân rồi.

Trong hội ngoài Tần Thiên Nhân ra ai cũng rất tốt với nàng, nhất là Bảo Chi Lâm, sư phụ của nàng, người mới hiền hậu dễ gần làm sao, Bảo Chi Lâm đối xử với nàng chẳng khác gì con gái bà, ân cần chu đáo, không có gì mà nàng phải áy náy băn khoăn. Thêm vào đó bảy người sư huynh và Lâm Tố Đình hễ rỗi một chút là kéo nàng đi chơi, chọi dế, thả lồng đèn, thả diều, xem cá vàng, cho chim ăn. Chỉ có võ công là nàng không được học vì hằng ngày nàng phải theo Bảo Chi Lâm học y thuật.

Lại nói tới Cửu Dương, khi này đứng nhìn sư muội khúc khích bưng miệng cười, nụ cười còn mềm dịu và trong sáng hơn cả đóa hoa sen trong hồ. Đôi má của nàng ửng hồng.

Sau hồi Cửu Dương nhắc sư muội chuyện cũ thì lấy trong áo ra một hình gỗ mà chàng đang khắc dang dở, cho nàng xem.

Nữ thần y khá bất ngờ, lâng lâng sung sướng ngắm pho tượng gỗ với gương mặt giống nàng như khuôn đúc. Trong khi nữ thần y ngắm hình gỗ thì Cửu Dương lặng lẽ ngắm nhìn sư muội, không rõ chàng ở trong lòng nàng chứa đựng cảm xúc gì? Nhưng lại không biết phải mở lời thế nào, hồi lâu sau chàng tự nhiên nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng, nhìn nàng cười ý tứ.

Nữ thần y giật thót người như bị điện giật rồi rụt tay về:

- Nhỡ có người nhìn thấy!

- Thì có sao cở - Cửu Dương nói.

- Nhưng năm nay muội đã lớn, người ta nhìn thấy lại nói đấy! - Nữ thần y đáp, nàng ngượng trước sư huynh. Ngày xưa nàng tự nhiên bao nhiêu, bây giờ nàng ngượng ngập bấy nhiêu.

Nhưng chàng vẫn cầm tay nàng như chẳng chịu rời ra, mắt nhìn như dán lên mặt nàng, hồi lâu cười kín đáo, khe khẽ nói:

-Năm nay muội đã qua lần sinh nhật thứ mười sáu rồi.

-Vâng, nên hai ta phải giữ khoảng cách một chút, huynh đừng nắm tay muội như vậy nữa.

Nữ thần y đáp.

Thời này những cô gái trạc tuổi mười lăm mười sáu như nữ thần y đã sớm yên bề gia thất hết rồi. Nữ thần y nghĩ tới việc lập gia đình, lại khiến nàng nhớ người chị em thân thiết của nàng là Lâm Tố Đình cũng sắp sửa tới ngày thành thân rồi. Nửa năm trước Cửu Nạn sư thái đã chuẩn bị cho Lâm Tố Đình và Tần Thiên Nhân chính thức thành vợ thành chồng. Các vị sư huynh trong hội mỗi lần gặp Lâm Tố Đình là trêu Lâm Tố Đình việc "viên phòng viên phòng,” làm cho nữ thần y thấy bất an. Nỗi mất mát, hoang mang, u uất, bực bội, bồn chồn… Nữ thần y không muốn nghe ai nhắc đến viên phòng, nàng càng không dám phân tích tâm tình của mình cho ai nghe, chỉ tự chịu cảm giác trong lòng đầy bứt rức đó.

Gió đêm lay động bộ y phục màu hồng của nữ thần y, thổi vạt áo sau lưng nàng phần phật tung bay. Vì không ai xa lạ ở quanh đây nên trên gương mặt nhỏ xinh trắng mịn kia bỗng thấp thoáng một nỗi buồn hư ảo.

-Thất ca à… - Không hiểu sao lần này nàng muốn nói tâm sự của nàng ra cho Cửu Dương nghe, nàng nói - Muội…


Tuy vậy nữ thần y chỉ thốt bấy nhiêu, có cố gắng cách mấy nàng cũng không nói ra lời được, chỉ gượng gạo đứng dựa lưng vào thân cây đào.

-Muội sao?

Cửu Dương hỏi.

Nữ thần y biết nàng lỡ lời rồi, cứ cúi gục xuống không dám ngẩng đầu lên.

-Hai đứa chúng mình… – Nàng ấp úng một lúc cũng nói - Từ nhỏ đã cùng nhau lớn lên, muội muốn gì, thích gì, huynh phải đương nhiên biết chứ…

-Muội không nói ai mà biết, mau nói đi.

Cửu Dương dứt lời, bất chợt cảm giác dường như chàng vẫn chưa hiểu hết về nàng. Cũng chẳng hiểu vì sao, từ lúc nhỏ có lần trông thấy nàng chàng bỗng có một cảm giác muốn bảo vệ mãnh liệt. Mặc dù nàng không cần đến chàng che chở, nhưng dù có tự giác hay không chàng vẫn muốn lo lắng cho nàng chu toàn.

Cửu Dương buông tay nữ thần y ra, cất tượng gỗ lại trong áo chàng, đứng chờ thêm một lúc không nghe gì hết bèn tiếp tục nói:

-Hôm nay muội đây làm sao vậy nhỉ, vẻ như không được tự nhiên với huynh? Hồi trước cái gì muội cũng kể cho huynh nghe cả đấy!

Nữ thần y nhủ lòng, ừ, cái gì muội cũng có thể nói ca nghe hoặc người khác nghe, duy chỉ có cái này là không thể… Nhưng lời nhỡ nói ra rồi nàng không thu lại được, hơn nữa chàng gặng hỏi quá, nàng đành mỉm cười yếu ớt nói:

-Hình gỗ đó, khi xong rồi sẽ tặng muội?

-Ừ.

-Huynh hứa?

-Ừ.

-Huynh sẽ làm cho nó giống hệt muội?

-Ừ.

-Vậy huynh ấy nhất định sẽ thích lắm!

Lần này Cửu Dương không ừ nữa, mà hỏi lại:

-Người nào?

Nữ thần y cắn môi, nhẹ giọng đáp:

-Không có gì.

-Muội nói ai sẽ thích?

Cửu Dương lại hỏi, trong lòng bỗng nhiên chấn động. Gió đêm mang theo hơi lạnh từ phía thủy hồ.

-Huynh tự suy nghĩ đi!

Nữ thần y nói rồi dợm chân định chạy đi, Cửu Dương kéo tay áo nàng lại, nữ thần y bị mất thăng bằng, hai chân lảo đảo.

-Cẩn thận!

Cửu Dương mắt thấy sư muội đã sắp chúi người xuống hồ nước liền dang tay đỡ lấy nàng, ngờ đâu nữ thần y rơi tỏm xuống nước rất nhanh.

“Ối” một tiếng, nữ thần y uống mấy ngụm nước, hai mắt cay xè và đầu ong ong dữ dội.

-Thất ca cứu muội với! – Nàng tá hỏa kêu lên - Muội không biết bơi đâu!

Rồi nàng cố vùng vẫy để bơi nhưng cố gắng của nàng càng khiến nàng chìm gấp xuống.

Trong chớp mắt Cửu Dương nhảy uống hồ kéo nàng lên khỏi mặt nước. Khuôn mặt nữ thần y tái nhợt, môi nàng chẳng còn sắc máu. Một vài sợi tóc đen mềm mại mang theo hương hoa lài bị gió thổi nhẹ phớt qua bên má Cửu Dương.

-Thất ca đừng buông tay!

Cửu Dương cười thật chậm, nhẹ nhàng ôm lấy bờ vai sư muội, say mê ngửi lấy hương thơm ngọt ngào phảng phất trên tóc nàng.

-Không bao giờ, huynh sẽ không bao giờ buông tay.

Khi nói vậy chàng ôm sư muội thật chặt trong lòng.

Sóng nước Tây hồ lăn tăn từng vòng.

Lúc này màn đêm buông xuống.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 8: Thiên lý đón long đầu

Trời mưa lâm râm. Trong căn hầm của trường học Hắc Viện, một bệ lư hương cổ kính bốc lên những làn khói thơm nồng, thấm đẫm sự an tĩnh, dường như có thể lấn át cả mùi rượu và thức ăn đương tràn ngập khắp hầm.

Trong hầm khi này đang có rất đông các thành viên của bang hội phục Minh, đều là những bậc anh hùng hảo hán đã thành danh trong võ lâm cả.

Hiểu Lạc thì lại có nhiệm vụ canh gác cổng Bắc Sơn của trường học. Các tú tài đang ngủ ở hai dãy nhà trọ Tư Thất. Tối nay tâm tình của Hiểu Lạc phấn khởi lắm, cứ chốc chốc nó lại hé cửa nhìn ra như đang chờ đón ai đó.

Đúng lúc này nó đột nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa rất nhanh, đằng xa xa xuất hiện thấp thoáng hai bóng người khí vũ rất hiên ngang cởi hai con ngựa lông đen tuyền phi tới như bay, chớp nhoáng đã thấy gió thổi tới mặt. Hiểu Lạc vui mừng mở cửa ra đón họ. Hai kỵ sĩ cúi rạp người trên lưng ngựa, phóng một mạch tới cổng sau của Hắc Viện.

Lúc họ lướt qua một tửu lầu tên là Hưng Phát thì có hai người đàn ông đứng dựa vào lan can trên lầu hai nhìn xuống. Hai người trạc tuổi độ tứ tuần. Một người mày dài mắt xếch da vẻ trắng trẻo, sắc diện như một con dơi, còn người kia lưng giắt thanh đại đao, mặt mày đen đúa như than.

-Gã đã về đến rồi – Người mặt dơi nói.

-Ừ - Người mặt đen gật đầu.

Tiểu nhị đi đến sau lưng hai người khách chào hỏi:

-Quí khách mệt nhọc rồi, trong này trà nước rượu cơm đã được dọn đủ, xin mời vào dùng.

Giọng gã mặt đen thô lỗ đáp lại:

-Ngươi cho ngựa của chúng tôi ăn chưa? Mau mau cho chúng ăn, chúng tôi cũng ăn xong là phải lập tức lên đường.

Tiểu nhị vâng dạ liên hồi rồi đi xuống lầu.

Còn lại hai người, gã mặt dơi nói:

-Nhìn thân pháp cưỡi ngựa của gã thì hiểu võ công gã cở nào rồi.

Lại nghe âm thanh thô lỗ vừa rồi đáp:

-Thiếu đà chủ còn trẻ tuổi như thế mà bọn chúng cũng ủng hộ cho hắn!

Rồi gã mặt đen nghĩ bụng “ chúng ta không có nhiều thời gian nữa, ta phải đi báo cho Tô phó tướng biết…”

Hắn mới dặn dò tên đồng bọn dăm câu, rồi nhẹ nhàng bước ra ngoài, băng qua mấy lần sân, vòng ra phía sau khách sạn để lấy ngựa, không hay là tiểu nhị đang theo dõi hắn.

Không phải tiểu nhị lúc nào cũng cố ý nghe lén chuyện của khách, nhưng vì hai người này rất kỳ lạ, lai giả bất thiện, thiện giả bất lai, mà bản thân tiểu nhị lại là một thành viên trong hội nên không thể không đề phòng cẩn thận.

Cặp ngựa dừng bên ngoài cổng hậu của trường học Hắc Viện, hai nam nhân trẻ tuổi nhảy xuống, cởi áo mưa giao cho Hiểu Lạc cầm giữ, rồi tiến vào trong. Hiểu Lạc cúi đầu chào họ xong dắt hai con ngựa đi cho ăn.

Những thành viên của bang hội phục Minh đang ở dưới hầm nghe tiếng bước chân, biết có hai người đi xuống hầm.

Người đi xuống đầu tiên mặc bộ đồ màu xám tro, trên gương mặt ánh lên những đường nét nghiêm nghị và chính trực. Người này là Tàu Chánh Khê, với biệt danh Bát Bộ Truy Hồn, người trong hội đặt cho y biệt danh này vì ở trong hội Tàu Chánh Khê nổi tiếng là không bao giờ khiếp sợ quyền uy hay vị nể tư tình. Tàu Chánh Khê còn rất thanh liêm và nghiêm khắc. Đối với nhiều người trong hội thì Tàu Chánh Khê còn oai vệ hơn cả Cửu Nạn sư thái vì họ Tàu trứ danh là một thiết diện phán quan xử án công minh, chấp pháp vô tư, nhất là trong những lúc chấp chưởng hình đường. Người trong hội kháo nhau rằng thành viên nào mà phạm phải hội qui của bang phái thì cho dù kẻ đó có ẩn náu ở nơi chân trời hay góc bể cũng không thoát khỏi Tàu Chánh Khê được. Kẻ phạm tội đó chắc chắn bị họ Tàu phái thuộc hạ bắt về để xử tội. Bởi thế cho nên hết thảy hàng vạn huynh đệ và bằng hữu tứ phương, hễ mỗi lần nghe nhắc danh tánh Tàu Chánh Khê thì không ai là không hoảng sợ kinh hồn mất vía. Tàu Chánh Khê ngồi ở vị trí thứ năm nên các bằng hữu gọi là ngũ đương gia, một trong bảy người Giang Nam thất hiệp rất được bang hội trọng dụng. Cũng vì ở cương vị cao đó mà Tàu Chánh Khê trở thành một nhân vật đắc lực bên cạnh Cửu Nạn sư thái, thường được bà giao nhiệm vụ huấn luyện binh mã ở tổng đà hồi cương - đồn Bạch Nhật.

Người đi xuống sau cùng là Tần Thiên Nhân, trong tay đang bưng hai hủ sành nhỏ.

Tần Thiên Nhân không hay biết những thành viên trong hội đã làm tiệc rượu đón mình về nhậm chức thiếu đà chủ. Tần Thiên Nhân vẫn như thường ngày mặc bộ y phục màu xanh da trời, lưng thắt đai đen, bên ngoài chiếc áo choàng cũng màu đen khoác trên bờ vai rộng che đi đôi tay cơ bắp của chàng. Tần Thiên Nhân có tấm lưng dầy nên trông rất lực lưỡng. Đôi mày chữ nhất xanh đậm, vắt ngang trên hai mắt to đen. Đôi môi Tần Thiên Nhân có độ dày bằng nhau, đều đặn, cân xứng, và chiếc cằm vuông vức khiến khuôn mặt không thiếu vẻ cương quyết. Tần Thiên Nhân đi xuống hầm mang theo dung mạo toát ra vẻ lạnh lùng khó tả. Ánh mắt vô cảm không hề để lộ nỗi vui buồn trong tâm khảm.

Những người trong hội chạy đến bái kiến. Cửu Dương trông thấy Tần Thiên Nhân liền ôm chầm lấy anh trai, vỗ vỗ vai Tần Thiên Nhân vài cái. Mọi người cũng đều đang lo lắng nên chẳng ai nói mấy câu khách sáo thông thường.

Sau khi làm động tác bái chào đáp lễ lại những trưởng lão và những thành viên đang có mặt ở trong hầm, Tần Thiên Nhân đi thẳng vào vấn đề ngay, giọng của Tần Thiên Nhân rất vang, trung khí đầy rẫy:

-Thi thể của tứ đương gia và lục đương gia bị treo ngoài chợ tỉnh Sơn Tây, chúng tôi đã đi cướp lại được. Còn đây là tro cốt của họ.

Lữ Lưu Lương đón nhận hai hủ tro từ tay Tần Thiên Nhân, lòng ông buồn hiu hắt, ông đặt hai chiếc hủ lên bàn thờ cạnh bệ lưu hương. Giữa bàn thờ có đặt bài vị của Hồng Vũ Thái Tổ - vị hoàng đế đầu tiên sáng lập ra triều đại nhà Minh, và vị vua cuối cùng của triều Minh là Sùng Trinh. Hai bên hai tấm bài vị là bài vị của những người đã sáng lập ra bang phái Đại Minh Triều, gồm có Giác Viễn, Lâm Vĩ, Mã Lương, và Tần Nhị.

Trước nay bang hội Đại Minh Triều có ơn là trả, có thù là báo. Bất cứ ai có chút xíu ân huệ với họ, họ cũng tìm thiên phương vạn kế báo đáp mới thôi. Nếu ai kết oán thù, thù lớn thì trả lớn, thù nhỏ thì trả nhỏ, quyết không chịu bỏ qua.

Lữ Lưu Lương đốt hai nén nhang cắm xuống một chiếc bát, nói:

- Tứ đương gia, lục đương gia, các huynh đệ của Đại Minh Triều nhất định sẽ báo thù cho hai người. Chúng tôi nhất định sẽ lấy được đầu tên hoàng đế cúng tế linh hồn của hai người. Hai người gia nhập bang hội đã lâu năm, có công lao to lớn, muôn đời bất diệt, cao sơn ngang thủy, nhiễu phạm trường trú, hào khí trường tồn.

Lữ Lưu Lương nói xong quỳ xuống bái lạy.

Các thành viên của hội cũng quỳ xuống khấu đầu ba cái, đồng thanh nói:

- Tứ đương gia, lục đương gia, anh hùng bất diệt, hào khí trường tồn!

Từ khi thành lập bang hội Đại Minh Triều đã có không ít lần choảng nhau với triều mình nhà Thanh, mạng người hy sinh không đếm hết được. Cho nên dù đau lòng cách mấy họ vẫn buộc phải dẹp nỗi đau sang một bên mà hoạt động tiếp tục.

Sau hồi làm lễ tế vong linh của hai người đương gia xong rồi mọi người đứng dậy.

Lữ Lưu Lương nhìn Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê, chắp tay bái phục nói:

-Nhị vị đương gia, thật là vất vả cho hai người.

Tần Thiên Nhân vái chào lại, nói khiêm tốn:

-Thưa Lữ thúc, chuyện mà bọn vãn bối làm chỉ được bấy nhiêu, so với chuyện tổng đà chủ đã làm cho bang hội của chúng ta thật tình như một hạt cát trong biển cả. Tổng đà chủ lần này bị đạn bắn trúng ngực, thương tích không nhẹ, may là không trúng chỗ nhược, vãn bối và ngũ đệ đã thành công lấy được viên đạn đó ra. Lúc vãn bối từ giã tổng đà chủ để quay lại Sơn Tây, thấy sức khỏe của người tuy yếu nhưng rất ổn.

Nói đoạn chàng phát hiện Khẩu Tâm đang có mặt trong hầm, liền ngạc nhiên bước lại gần hỏi Khẩu Tâm:

-Đại ca không ở cạnh tổng đà chủ à? Hay người đã về đến Giang Nam rồi?

Tàu Chánh Khê cũng bước lại gần Khẩu Tâm nói:

-Đệ và nhị ca đã làm theo lời huynh, vừa từ Sơn Tây trở về đã gấp rút đến các phân đà ở các vùng lân cận kêu thêm viện binh, dặn họ về đồn Bạch Nhật gấp để đợi lệnh.

Khẩu Tâm trả lời:

-A di đà Phật, sau khi hai đệ đi rồi, sư thái quyết định quy ẩn để dưỡng thương. Trước khi bà ra đi bà còn một tâm nguyện chưa hoàn thành nên viết một lá thư nhờ huynh đưa về Giang Nam trao cho các bậc trưởng lão. Những việc sau này, mọi người đều biết hết rồi.

Lâm Tố Đình đứng nghe, nhũ bụng “ta không yên tâm nên cùng đi với họ lên Sơn Tây. Không ngờ tứ ca, lục ca lại gặp phải kiếp nạn này, hai người tạ thế nhanh chóng như thế, từ nay bang hội sẽ mãi mãi mất đi Cam phụng trì thông và Tí viên bạch thái quan rồi…” Nghĩ rồi trong mắt nàng nhỏ xuống đôi dòng lệ.

Tiểu Tường ôm vai Lâm Tố Đình dỗ dành:

-Đình tỉ đừng quá buồn lòng. Nhất định chúng ta sẽ trả thù cho hai người họ.

Lâm Tố Đình nắm tay Tiểu Tường, khẽ gật đầu, miệng nhoẻn nụ cười buồn.

Khẩu Tâm nói tiếp:

-Lẽ ra sư thái định chờ hai đệ về rồi mới ra đi, nhưng hai đệ đi đến các phân đà đường xa vạn dặm, sư thái không đợi nổi bèn sai huynh về Giang Nam báo cho các vị trưởng lão để bàn luận đại sự…

Các trưởng lão trong hầm nghe vậy, quay trái phải nhìn nhau, như muốn nói chuyện sư thái rời khỏi bang hội vì bị thương, lại chọn viết thư để lại, thật tình có chút không giống tác phong của bà.

Cửu Dương nãy giờ đứng đó im lặng, không dưng lên tiếng:

-May là đại ca được bình an, lỡ có mệnh hệ gì, tâm nguyện của tổng đà chủ sẽ không ai biết nữa.

Cửu Dương nói rồi để ý thấy huyệt thái dương của Khẩu Tâm khẽ giật một cái.

Tần Thiên Nhân nghe Cửu Dương mở miệng, suy nghĩ rất nhanh rồi nói:

-Theo vãn bối thì chúng ta không nên tiết lộ chuyện tổng đà chủ đi quy ẩn, như vậy sẽ làm cho lòng người trong hội hoang mang.

Hồ Quảng Đông quan sát thấy nét mặt Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê có hơi xanh, bèn hỏi:

-Tần nhị gia và Tàu ngũ gia bị thương à?

Tần Thiên Nhân nói:

-Đa tạ Hồ đại thúc, vết thương của vãn bối chỉ là chuyện nhỏ.

Tàu Chánh Khê cũng nói:

-Vãn bối không sao.

Rồi Tàu Chánh Khê kể:

-Tần nhị ca và vãn bối hai người chia ra đi đến các phân đà tìm viện binh, hẹn đến phân đà cuối cùng ở Túc Châu thì hợp nhau, đột nhiên có tám người tìm gặp, nói là phụng mệnh mời vãn bối về phân đà ở Thái Hồ gấp. Tám tên kia biết tiếng địa phương, ăn nói rất khách sáo nhưng có vẻ như buộc vãn bối lập tức đi với họ. Vãn bối thấy không ổn nên khước từ, hai bên càng nói càng căng thẳng, cuối cùng xảy ra chuyện động thủ. Hóa ra tám tên đó là đại nội thị vệ, ngoài bọn chúng ra có thêm hai trăm tên nữa, chúng đều là cao thủ được tuyển chọn đặc biệt, vãn bối khi đó đang bị thương, cùng với Trần đại anh hùng lấy hai địch hai trăm tên, dần dần ở thế hạ phong. May mà có nhị ca kịp thời tới tương cứu. Trong lúc đánh nhau, huynh ấy bị thương tới sáu bảy chỗ mà trước sau vẫn lo bảo vệ cho vãn bối nên vãn bối không bị thương nhiều.

Tần Thiên Nhân đặt tay lên vai Tàu Chánh Khê, ôn tồn nói:

-Huynh này dù mất mạng cũng không để chúng làm phương hại đệ.

Tàu Chánh Khê gật đầu cảm khái, lại tiếp tục kể:

-Trong trận ác chiến đó Tần nhị ca dùng song quyền giết chết hai mươi mấy tên, phóng chưởng đánh chết ba mươi tên, lại còn mấy chục tên trúng trường đao của vãn bối và Trần đại anh hùng…

Nhắc lại hôm Tàu Chánh Khê đang ở tiệm thuốc bắc Khải Nguyên, một phân đà cơ mật của bang hội Đại Minh Triều ở tỉnh Túc Châu. Tàu Chánh Khê bấy giờ đang trò chuyện với Trần Tử Sang trong sân phơi thuốc. Họ Trần là người lãnh đạo phân đà Túc Châu, y cũng chính là đại đệ tử của Hàm chưởng môn Thái Cực Môn ở Túc Châu. Trần Tử Sang tuổi tác cũng tứ tuần, thân lùn chân ngắn nhưng chạy cực nhanh, nghe nói khi y thi triển khinh công chạy đi trông như một quả cầu thịt lăn tròn trên mặt đất.

Sau khi Trần Tử Sang nghe Tàu Chánh Khê bảo cần thêm binh mã thì gấp rút triệu tập những thành viên trong hội bảo họ đến tập trung ở đồn Bạch Nhật. Xong chuyện Tàu Chánh Khê làm theo lời đã định, ngồi ở tiệm thuốc chờ Tần Thiên nhân đến, rồi cả hai mới cùng về An Huy Hàng Châu. Quá trưa mà Tần Thiên Nhân còn chưa tới, Tàu Chánh Khê bồn chồn trong bụng lắm, đứng ngồi chẳng yên, chợt nghe gia đinh của Trần Tử Sang vào bẩm báo nói có tám người tự xưng là người của phân đà Thái Hồ tỉnh Tô Châu đến tìm gặp.

Người chỉ huy phân đà Thái Hồ là Vạn Văn Thông, năm nay khoảng chừng năm mươi lăm tuổi, y là trang chủ của Lôi Phong Bảo, một tòa đại trang hoàng tráng nhất xứ cách đây chỉ chừng hai ba dặm. Tàu Chánh Khê với Vạn lão anh hùng tuy chưa từng gặp mặt nhưng sư thái và họ Vạn từ lâu đã có giao tình, Tàu Chánh Khê đã từng nghe sư thái nói ông ấy gan dạ hơn người, đáng mặt nam tử hán đại trượng phu, cứng rắn như sắt thép.

Tàu Chánh Khê cùng Trần Tử Sang ra gặp nhóm người của Vạn Văn Thông, một người ra dáng thủ lĩnh nhất trong nhóm đó lại gần cúi đầu hạ bái:

-Thật là phiền Tàu ngũ gia phải đích thân đến đây, lão trang chủ của chúng tôi cũng có hay tin bang hội cần viện binh nên đã bảo những thành viên ở Thái Hồ đến đồn Bạch Nhật rồi. Hay là ngũ gia tạm thời đến Lôi Phong Bảo nghỉ sức dưỡng thương một hôm hẳn lên đường, lão trang chủ sẽ thay ngũ gia cho người đi thông báo đến các bằng hữu ở các phân đà khác?

Ban đầu Tàu Chánh Khê có hơi chần chừ vì chàng chưa bao giờ gặp mặt nên không biết người đối diện thật giả ra sao. Trần lão anh hùng thấy sắc mặt Tàu Chánh Khê khó coi, liền hỏi:

-Ý của Tàu lão đệ thế nào?

Tàu Chánh Khê đáp:

-Tiền bối đã sắp xếp thật không thể hay hơn được, nhưng có một điều không dám giấu giếm, vãn bối mang nặng mối huyết hải thâm thù nên ngày nào tên cẩu hoàng đế còn chưa chết thì vãn bối chưa thể ăn ngon ngủ yên được. Đại danh Lôi Phong trang Vạn lão anh hùng thì bọn vãn bối ngưỡng mộ đã lâu. Ông ấy đúng là một lãnh tụ võ lâm tây bắc, đã kết giao là đối đãi nhiệt tâm, nhưng trong lòng vãn bối thật sự không sao yên ổn được nên phải ra về cho sớm.

Rồi Tàu Chánh Khê nhìn đám người của Vạn Văn Thông nói mấy lời từ chối.

Lại nghe đáp trả:

-Tàu ngũ gia đừng nói như thế. Tất cả chúng ta đều là nhân vật giang hồ cả, đều biết phải lấy hai chữ nghĩa khí làm đầu. Phen này thấy ngũ gia gặp phải việc khó giải quyết, nếu không trú ngụ tại đại trang của Vạn lão anh hùng một hôm, lỡ sau này giang hồ biết được, sẽ trách chúng tôi không biết trọng nghĩa khí, bỏ bê ngũ gia đang bị trọng thương, hoặc bảo ngũ gia coi thường ông ấy nên không mời ngũ gia đến được.

Tàu Chánh Khê nghe đối phương nói vậy đã nghi ngờ càng nghi ngờ hơn, nên vẫn kiên quyết nói:

-Được các vị bằng hữu coi trọng tại hạ thật sự cảm ơn, nhưng cái mạng này của tại hạ coi như vứt đi rồi, hồi ở Sơn Tây đã chấp nhận lấy một mạng đổi một mạng cho xong rồi. Lão trang chủ của các vị là một người tốt, làm việc tốt, mà càng là người tốt lại càng không dám để liên lụy đến.

Mới ban đầu Trần Tử Sang cũng định khuyên Tàu Chánh Khê đến Lôi Phong Bảo dưỡng thương, rồi đợi Tần Thiên Nhân ở đó luôn thể, nhưng khi nghe Tàu Chánh Khê đã nói thế thì Trần Tử Sang không chen vào làm gì. Tàu Chánh Khê quyết tâm giữ vững lập trường chắc cũng có nguyên do gì đó, thành ra Trần Tử Sang mới đứng cạnh mà nhìn, không can dự vào.


Tàu Chánh Khê càng nghe càng đoán biết mấy người này không phải là người mình mà là đám người của triều đình phái tới vây giết chàng. Chỉ là Tàu Chánh Khê không biết những người này là người của võ sư đại lực sĩ Ngao Bái hay của Phủ Viễn tướng quân. Người trong giang hồ bấy giờ thừa biết triều đình từ khi Thuận Trị hoàng đế mất đi được chia ra làm hai phe đảng, phân nửa các đại thần theo phe Ngao Bái, số quan viên còn lại theo chầu Phủ Viễn tướng quân.

Tàu Chánh Khê thấy bọn này hung hãn, không biết lai lịch thế nào, đoán rằng chúng có lẽ là một đám hảo thủ của quan phủ ở gần đây, hoặc là mấy tên bộ khoái.

Tám tên đó cũng có hơi dè dặt chưa dám tấn công ngay, vì chúng thấy có Trần Tử Sang đứng đó, nên chúng nghĩ phải dụ Tàu Chánh Khê hạ sơn cho bằng được đã. Có người bảo bọn chúng Tàu Chánh Khê đến đây đơn thương độc mã, thì cứ để y ra trận một mình là tốt nhất. Mà một mình Tàu Chánh Khê bọn chúng cũng khiếp sợ oai danh rồi, vì chúng biết họ Tàu là một trong bảy người đương gia võ công tuyệt nghệ, lại biết bang hội Đại Minh Triều này người đông thế lớn, cao thủ như mây.

Nhưng lần này tám người này có người đỡ sau lưng nên gan mật càng to, cảm thấy mình oai phong lẫm liệt, bằng không chỉ với tám người bọn họ thì quyết không dám gây chuyện với ngũ đương gia của Đại Minh Triều được.

Đôi bên nói qua nói lại thêm một chút nữa, Tàu Chánh Khê bỗng bị một vật gì đó làm chói mắt một cái, Tàu Chánh Khê nhìn lên nóc nhà kế bên tiệm thuốc mới hay Tần Thiên Nhân đang ở trên đó dùng một miếng sắt nhỏ làm ám thị gọi mình, hóa ra Tần Thiên Nhân đã sớm biết bọn này là những người giả mạo gia đinh của Vạn Văn Thông nên âm thầm giết chết mấy tên đang canh cổng sau của tiệm thuốc. Tần Thiên Nhân hất đầu ra hiệu cho Tàu Chánh Khê thoát ra ngoài bằng cổng sau.

Tàu Chánh Khê suy nghĩ rất nhanh tìm kế thoát đi, cuối cùng nói:

-Được rồi, danh tiếng của Vạn lão anh hùng rất lớn, tại hạ không thể coi thường nhân vật đầu não này của võ lâm tây bắc được, tại hạ sẽ theo các vị đến đại trang viếng thăm, chào hỏi Vạn trang chủ. Nhưng phiền các vị chờ một chút để tại hạ vào trong lấy túi hành lý đã, rồi chúng ta cùng nhau lên đường.

Nói xong Tàu Chánh Khê kín đáo nháy mắt với Trần Tử Sang. Trần Tử Sang hiểu ý gật đầu, dẫn ngay Tàu Chánh Khê đi vòng ra phía cổng sau tiệm thuốc, một trong tám tên sát thủ đi theo Tàu Chánh Khê, nói là giúp Tàu Chánh Khê dọn dẹp đồ đạc nhưng cốt là đề phòng ngũ đương gia theo cửa sau chạy trốn.

Lúc ba người đang đi trên hành lan vòng ra cổng hậu của tiệm thuốc, qua khóe mắt Tàu Chánh Khê thấy tên sát thủ đang chú ý quan sát chàng từ trên xuống dưới, lại nữa hắn còn vận công xuống hạ bàn đề phòng chàng tung cửa chạy là hắn liền thi triển khinh công đuổi theo.

Bên ngoài tiệm thuốc đã bị bao vây chặt chẽ từ sớm, đến một con ruồi cũng khó thoát ra được.

Tên sát thủ đi ở giữa, Trần Tử Sang bên trái, Tàu Chánh Khê đi bên phải, cả ba men theo hành lan đi gần tới cổng sau của tiệm thuốc. Đột nhiên Tàu Chánh Khê nhanh chớp nhoáng vận quyền kình vào tay trái, làm động tác quạt cánh tay như đang bơi, dùng hữu chưởng đẩy vào dưới nách hắn một cái, khẽ hất hắn sang một bên. Trần Tử Sang đưa tay phải lên chặt ngang qua cổ tên sát thủ một cái. Tên sát thủ tránh không kịp bị gãy cổ chết tươi, không la hét được tiếng nào. Mỗi người chỉ với một chiêu đã giết chết được tên sát thủ, quả không hổ là những kẻ cầm đầu của bang hội Đại Minh Triều.

Tiếc là có tên sát thủ khác nấp phía sau hai người họ nhìn thấy vậy vội la to lên một tiếng báo động. Trần Tử Sang liền giật lấy khúc cây dùng để chống cửa sổ, sử như một khúc côn phóng lại đánh hắn bể óc mà chết. Nhưng đã quá trễ, bên hiên của tiệm thuốc bắc có mấy chục tên sát thủ đã ùn ùn bay vào giao chiến.

Tàu Chánh Khê bèn ngay lập tức rút cây đao đeo phía sau lưng nhảy ra phía trước đánh trả.

Tàu Chánh Khê múa tít cây đao, định mở đường chạy đến chỗ cánh cổng, thì gặp một đám sát thủ khác nghe tiếng la của đồng bọn giật mình chạy nhanh tới, xông vào cửa hậu. Tàu Chánh Khê đánh át vào bọn này, Trần Tử Sang cũng theo sát sau lưng. Mấy tên sát thủ khi nãy nói chuyện với Tàu Chánh Khê là những người cuối cùng tiến vào, đứng chặn đường lui của hai người họ. Bọn chúng cũng ra hiệu cho đám sát thủ thuận tay đóng chặt cửa sau lại.

Một tên sát thủ cầm sợi dây thừng không ngừng quất vào chân Tàu Chánh Khê khiến Tàu Chánh Khê phải không ngừng nhảy lên tránh né.

Tàu Chánh Khê đang bị thương trong mình mà vẫn công kích rất mạnh mẽ. Trong một lần chân Tàu Chánh Khê vừa chấm đất đã đạp lên sợi dây đó, xong cúi xuống vung tay trái giật mạnh một cái, sợi dây tuột khỏi tay tên sát thủ. Tàu Chánh Khê hét một tiếng như sấm động lưng trời, cổ tay hất một cái, sợi dây duỗi thẳng ra. Tàu Chánh Khê dùng sợi dây làm nhuyễn tiên, lập tức xuất chiêu Nhuyễn Tiên Đoạt Mạng, thân hình xoay tít, thân lộng gió xoáy theo, thế công thật khó mà tránh né.

Tàu Chánh Khê giết chết gần bảy tên sát thủ. Nghe răng rắc mấy tiếng, tứ chi của bọn sát thủ bị trúng nhuyễn tiên lập tức gãy xương rũ xuống, lúc này sau gáy có tiếng gió rít lên, Tàu Chánh Khê biết mình đang bị tấn công sau lưng.

Tàu ngũ đương gia vốn có đề phòng binh khí của địch truy kích nên hai chân vừa chấm xuống đất đã đảo người nhảy sang trái. Dù vậy nhưng vẫn bị thanh kiếm của địch cắm vào vai phải. Lúc này Tàu Chánh Khê không có thì giờ chăm sóc vết thương, chỉ biết dốc hết sức mà đối khán.

Trần Tử Sang thấy cửa bị đóng chặt bèn đá vào hạ bộ của một tên sát thủ, khiến hắn cúi gập người lại rồi đạp lên lưng hắn tung người nhảy lên, nhắm thẳng cổng sau bay ra ngoài. Ngờ đâu tên sát thủ khác thấy họ Trần bay qua đầu mình bèn đẩy tả chưởng ra. Trần Tử Sang bị dính một chưởng đó. Nghe binh một tiếng, Trần Tử Sang té xuống ói ra một ngụm máu. Tàu Chánh Khê chạy lại đở Trần Tử Sang dậy.

Thấy Tàu Chánh Khê và Trần Tử Sang bị đẩy lùi ra khỏi cửa hậu của tiệm thuốc, Tần Thiên Nhân bèn thi triển khinh công bay vô vòng vây cứu nguy cho Tàu Chánh Khê.

Tần Thiên Nhân xuất một thế trong Mãnh Long Thần bộ, chưởng pháp lao đi như phong vũ. Bọn sát thủ cảm thấy một luồng đại lực hất chúng ra, không tự chủ được phải lùi mấy bước.

Trần Tử Sang vừa kinh hãi vừa vui mừng, biết đúng là nhị đương gia đã đến đây.

Tần Thiên Nhân vừa xuất hiện đã đánh chết mười tên, vừa định quay người, lại thấy năm tên khác dùng lưới chạy đến định bủa vây lấy chàng, tức thì vận nội công vào song chưởng vỗ nhẹ một cái, làm chiếc lưới bị rách toạt làm hai mảnh.

Sau đó xuất cước Song Phi Điểu bay tới đá ngang một cú làm xương cổ của năm tên này lập tức vỡ nát, chết ngay tại chỗ.

Bọn thích khách nhìn thấy Tần Thiên Nhân đàng hoàng đứng ngay giữa sân, không khỏi kinh hãi la lên:

-Lùi lại!

-Mau lùi lại!

Lần này bọn chúng có kế hoạch hơn, dàn trận hẳn hoi, bọn chúng đứng thành vòng tròn vây Tần Thiên Nhân, Tàu Chánh Khê và Trần Tử Sang vào giữa, hơn nữa chúng nhận biết đối phương ba người thì đã có hai người bị thương, chúng nghĩ chắc là bắt giết được tất.

Tần Thiên Nhân hôm trước cũng bị thương khá nặng, lại nữa do bôn ba cả chục ngày liền không ăn uống ngủ nghỉ gì nhiều được nên tay chân có phần chậm chạp hơn so với thường ngày.

Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê hợp chưởng lại xuất đánh ra phía trước, lần này bọn sát thủ cúi rạp xuống hết, bọn sát thủ đứng ở phía sau bèn ném những bọc cát vào đám người Tần Thiên Nhân. Trần Tử Sang ngỡ bị tập kích nên vội vàng quay người ra sau, liền bị một màng cát bụi che mắt, chẳng nhìn thấy ai cả, cùng lúc đó đằng sau lưng Trần Tử Sang có nhiều sợi dây quất tới. Tần Thiên Nhân thấy Trần Tử Sang tránh không kịp nữa bèn dùng thân mình làm bia đỡ dùm cho Trần Tử Sang. Tần Thiên Nhân bị ba bốn sợi dây cứng như côn sắt đập “bình” mấy tiếng vào lưng, lập tức té nhào xuống đất.

-Nhị ca!

Tàu Chánh Khê đau xót la lên một tiếng.

Do họ Tàu bị mất tập trung nên khi hai tên sát thủ cầm trường đao chia hai đường tả hữu tấn công tới, Tàu Chánh Khê không chụp bắt được.

Tần Thiên Nhân lại phải tiếp tục đỡ giúp cho sư đệ mình, đứng phắt dậy xô Tàu Chánh Khê sang một bên. Tần Thiên Nhân bị một cây trường đao đâm một cú vào ngực trái, cây đao kia sắp đâm vào vai phải, đành vận sức vào tay phải quét vẹt cây đao bên phải qua một bên, rồi vận sức đẩy cây đao còn lại ra khỏi lồng ngực.

Tần Thiên Nhân lần này gượng đứng dậy mà hai chân đứng không muốn vững, thân mình chỉ chực rơi xuống đất trở lại.

Đằng kia Tàu Chánh Khê, Trần Tử Sang cũng phải một mình đánh với khá nhiều sát thủ nên không tới giúp gì được. Vết thương của Tần Thiên Nhân đang rất đau, thần trí cũng hơi mơ hồ, chỉ biết dùng trường đao vừa đoạt được đó múa tít trên tay, quét ra loạn xạ.

Đám sát thủ bấy giờ đang chiếm được thượng phong.

Nhưng Tần Thiên Nhân lắc lư thân mình mấy cái rồi vận hầu hết mười hai thành công lực vô chân trái dùng sức đạp mạnh. Gió lồng vào ống quần, rít lên dữ dội tưởng chừng như trúng vào vách núi cũng có thể vỡ ra làm đôi. Tần Thiên Nhân xuất cước Thiên Mã bộ pháp của nam Thiếu Lâm, cú đá cách không phóng đi nhanh và mạnh như cuồng phong bảo táp phá được cánh cửa hậu của tiệm thuốc.

Ầm một tiếng.

May mà ngoài cổng khi này có ba bốn con ngựa đang bị cột sẳn vào một thân cây. Ba người mới thành công phóng lên ngựa phi đi.

Ba con ngựa đã chạy xa rồi. Bọn sát thủ đứng lại tiếc rẻ không thể truy đuổi tiếp, bèn bắn một loạt pháo hoa ra ám hiệu cho đồng bọn của bọn chúng ở tỉnh kế bên.

Trần Tử Sang bị trúng chưởng ở ngực, nằm mọp trên lưng ngựa, hồn xiêu phách tán. Tàu Chánh Khê và Tần Thiên Nhân quất roi cho ngựa chạy về phía trước. Chạy được năm dặm, quay lại không thấy ai đuổi theo, hai sư huynh đệ họ mới không thúc ngựa chạy gấp nữa.

Đi khoảng ba dặm nữa Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê mới chia tay Trần Tử Sang, bảo họ Trần đến tổng đà ở đồn Bạch Nhật trước, còn hai người thì cho ngựa chạy hướng An Huy…

Khi Tàu Chánh Khê kể đến chỗ phu quân tương lai của Lâm Tố Đình tung quyền phóng chưởng đánh tan tác những tên đại nội thị vệ, võ công trên cả tuyệt vời, Lâm Tố Đình nghe đến ngẩn mặt ra. Nàng tưởng tượng đến phong độ anh hùng của Tần Thiên Nhân, không nén nổi đem lòng ngưỡng vọng. Hồi lâu Lâm Tố Đình mới thở ra một hơi, giương mắt lên nhìn Cửu Dương, mặt đầy sắc thái chê cười.

Dĩ nhiên Cửu Dương hiểu được ý nàng. Chàng nghĩ bụng “nhị ca ta là một đấng anh hùng hào kiệt, trên đời ít ai bì được. Ta đương nhiên không sánh kịp huynh ấy, chuyện đó ai cũng biết, không cần muội phải nói.”

Tàu Chánh Khê kể tiếp:

-Bọn vãn bối biết chắc không thể ở lại Túc Châu được nữa, bèn cố vượt qua ải Tam Cốc nhưng đêm đó trời tối đen như mực, thật sự không đi được nữa, bèn tìm một khách sạn để dưỡng thương, chỉ mong cho trời mau sáng để mau mau lên đường trở về Hắc Viện, nào ngờ bọn chó săn lại tìm đến.

Cửu Dương nhướng mày:

-Sao bọn chúng biết hai huynh đang Túc Châu mà tìm tới giết?

Tàu Chánh Khê so vai nói:

-Sau khi rời khỏi chùa Quan Âm hai huynh đã rất cẩn thận, không để lại một dấu vết nào. Cho nên thật tình huynh nghĩ mãi mà cũng không hiểu được.

Tần Thiên Nhân cũng lắc đầu.

Cửu Dương đứng đó lại liếc sang Khẩu Tâm, thấy Khẩu Tâm đang lần xâu chuỗi tràng hạt một cách từ tốn.

Cửu Dương nói:

-Các phân đà nằm ở những nơi bảo mật như vậy, ai ngờ lại có kẻ tìm tới được, lại cả gan đụng đến hai vị đương gia…

Cửu Dương chưa dứt lời, Lâm Tố Đình được dịp chen vào nói:

-Huynh đã là Gia Cát Lượng tái thế, sao lại không ngờ được?

Những người trong hội nghe nàng nói thế cười rộ lên.

Sở dĩ Lâm Tố Đình bảo vậy là vì bấy lâu Cửu Dương ở trong hội nổi tiếng là một kẻ túc trí đa mưu, được coi như quân sư trong hội, mà võ công cũng không tệ. Giang hồ tặng cho chàng ngoại hiệu “Gia Cát tái lai.”

Nhờ câu nói của Lâm Tố Đình mà phá tan được bầu không khí ảm đạm lúc bấy giờ. Chỉ có Cửu Dương là bị hỏi một câu vô lý tới như vậy, cho dù đầu óc linh hoạt gấp đôi thì cũng không biết trả lời sao, chỉ còn cách im lặng.

Lữ Nghị Chánh bỗng thông minh bất chợt, đỡ lời dùm cho Cửu Dương, Nghị Chánh nói lảng sang chuyện khác:

-Nếu như hôm đó có nhị vị đi chung với thiếu đà chủ thì hay quá rồi – Nghị Chánh bảo Nhất Đình Phong và Bạch Kiếm Phi - Bọn chó săn đó sẽ bị giết cho sạch sẽ, không ai gặp rủi ro, mà thiếu đà chủ cũng không bị thương đến sáu bảy chỗ nữa…

-Lữ huynh nói gì lạ vậy? - Tàu Chánh Khê vội vàng ngắt lời Nghị Chánh - Thiếu đà chủ nào vậy?

Đến lúc này Lữ Lưu Lương mới nhớ mà lấy trong ngực áo ông ra lá thư của Cửu Nạn sư thái.

Mọi người ai cũng thỉnh cầu Tần Thiên Nhân làm thiếu đà chủ lên thống lĩnh bang hội. Nhưng Tần Thiên Nhân tuy bản lãnh đầy người mà khiêm cung khách sáo, nói sao cũng không chịu tiếp nhận chức vị. Tần Thiên Nhân không chịu vì cứ nói là mình tuổi còn trẻ, kiến thức nông cạn, danh vọng lẫn khả năng đều không xứng với ngôi vị ấy, nhất định đề cử đại đương gia là Khẩu Tâm làm thiếu đà chủ. Dĩ nhiên Khẩu Tâm biết hôm trước có nhiều người không đề cử mình thành thiếu đà chủ cho nên Khẩu Tâm cũng không chịu, tình thế bấy giờ không sao giải quyết được. Mà mọi người thì đang rất là nôn nao để khai hương đường. Nào ngờ lại gặp khó khăn ở đây, nên mọi người chỉ còn cách giương mắt lên mà đợi.

Một bên ép một bên từ chối, chậm trễ bao nhiêu canh giờ.

Cuối cùng Cửu Dương lại phải đứng ra nói nếu Tần Thiên Nhân cứ mãi cãi thì mất cả nghĩa khí anh em. Vì thế Tần Thiên Nhân không cố chấp bảo thủ ý kiến của mình nữa.

Tần Thiên Nhân liền chắp tay vái lạy các trưởng lão và hảo bằng hữu rồi nói:

-Không phải vãn bối không biết điều, chỉ vì tự biết mình còn trẻ tuổi, cả tài lẫn đức đều không đủ đảm đương đại nhiệm. Nhưng các vị yêu mến mà đi từ nơi xa xôi đến tận vùng miền nam này, khiến vãn bối hết sức khó xử. Vãn bối vẫn muốn đợi sư thái về đến đây để mọi người cùng nhau bàn bạc, nhưng bây giờ sư thái gặp nạn không biết tới chừng nào mới trở về được. Các vị cứ ép vãn bối đồng ý việc này, thôi thì cung kính bất như phụng mạng, vãn bối xin nghe các vị trưởng lão và các hảo bằng hữu dặn dò.

Quần hùng Đại Minh Triều nghe Tần Thiên Nhân đã đồng ý nhận chức thiếu đà chủ, đều vui mừng hoan hô, quả là trút được gánh nặng trong lòng.

Lão Trần nói:

-Vậy thì bây giờ mời thiếu đà chủ hành lễ bái tổ sư, đón kim lệnh.

Tiểu Tường biết bang hội nào cũng có nghi lễ riêng biệt. Tôn thủ lĩnh, mở hương đường đều là việc lớn. Tuy giờ không còn nữa nhưng hồi trước nàng là người của hoa lầu, không tiện tham dự, nên nói mấy câu chúc mừng Tần Thiên Nhân rồi xin cáo lui. Tiểu Tường chờ khi làm lễ xong rồi tới giờ đãi tiệc nàng mới vào trở lại.

---oo0oo---

Đêm đã khá khuya, mà trong hội ai cũng chưa chịu về, mọi người cùng nhau ăn uống no nê. Hồ Quảng Đông nói:

-Thiếu đà chủ cuối cùng cũng nhận lời làm thủ lĩnh của chúng ta, thật là vui sướng, ta vì lo quá mà một ngày một đêm chưa được ngủ.

Lữ Lưu Lương nói:

-Tiểu đệ cũng như vậy, thôi thì lỡ rồi chúng ta cứ ở lại đây vậy, anh em ta uống một đêm cho đã, ngày mai mới về.

Bạn già mười mấy năm không gặp, đã nói chuyện thì khó dứt ra. Những chuyện ân oán giang hồ mấy năm nay, bằng hữu võ lâm sinh tử ra sao, kể đến khi trời đông hé sáng cũng mới chỉ qua loa đại khái.

Lữ Lưu Lương ẩn cư tránh họa, đối với những phong ba loạn lạc trong giang hồ không nhớ là bao, bây giờ nghe Hồ Quảng Đông nói cứ như lạc vào cõi khác. Lữ Nghị Chánh đứng cạnh cha, nghe đến chỗ những bi phẫn thì lòng đau như xé, nghe đến những chỗ tráng liệt thì hào khí lại nổi lên bừng bừng. Nghị Chánh bèn hỏi:

-Cha à, thiếu đà chủ của các vị tuổi còn quá trẻ, tại sao được mọi người khâm phục?

Hồ Quảng Đông không biết phải bắt đầu từ đâu, những chuyện hào hùng của Tần Thiên Nhân thì dài lắm, có nói trong một đêm không thể nào hết được, nên đùa:

-Hay là hiền điệt ngươi theo lão già này làm tiêu sư đi, khi cùng nhau đi bảo tiêu, chúng ta vừa đi đường vừa nói chuyện.

Lữ Nghị Chánh tưởng Hồ Quảng Đông nhận mình vào tiêu cục và truyền thụ cho võ nghệ, mừng quá quỳ xuống dập đầu lia lịa nói:

-Xin lão bá thường xuyên chỉ giáo.

Thế là các vị đương gia ngồi chung một bàn ở giữa căn hầm.

Các vị trưởng lão ngồi chung một bàn kế bên họ.

Những hảo bằng hữu cũng ngồi ở các bàn lân cận xung quanh đó.

Lâm Tố Đình và Tiểu Tường là nữ nên cùng Hiểu Lạc xung phong việc bưng thức ăn nước uống.

Trong hầm tổng cộng có mười sáu bộ bàn ghế. Trong đó có chín bộ bàn tròn lớn làm bằng gỗ tử đàn được chạm trổ công phu thuộc hàng cực phẩm, bảy bộ bàn vuông có khắc hoa văn thuộc hàng trân quý. Những bộ bàn ghế này đều là do các xưởng gỗ ở Giang Nam vì quý trọng nên tặng cho trường học Hắc Viện. Lâm Tố Đình, Hiểu Lạc đảm đương việc bưng bê đồ ăn thức uống cho các bàn tròn, còn những bộ bàn vuông chỉ do một mình Tiểu Tường phục vụ.

Khi ngồi vào bàn tiệc rồi, Tàu Chánh Khê ngó sang thấy gương mặt Cửu Dương hơi trầm ngâm khác với vẻ vô tư lự hằng ngày, tưởng Cửu Dương còn buồn chuyện Lâm Tố Đình, Tàu Chánh Khê bèn nói:

-Nếu thất đệ ngờ được việc này, chúng ta đã không quen biết thêm một hảo bằng hữu nữa, người này là một nhân vật rất bí ẩn, võ công cao thâm vô cùng.

Lâm Tố Đình định bưng tô canh đã được khách ăn xong trở vô bếp, nghe vậy thì quay lại hỏi:

-Ngũ ca đang nói ai thế, là danh môn khuê tú hay hiệp nữ giang hồ đây?

Tàu Chánh Khê đáp:

-Huynh vẫn chưa biết tánh danh của cô nương đó.

Lâm Tố Đình bĩu môi làm mặt giận, nói:

- Các huynh không xem muội ra gì hết, lúc nào cũng khi dễ muội, hễ có chuyện gì dễ thì sai muội đi làm, tới chuyện oanh oanh liệt liệt lại không chừa phần cho muội, lần này đi hành thích hoàng đế không rủ muội theo!

-Muội theo làm chi? - Cửu Dương tròn mắt - Lần này là đi cạo lông mày của vua Diêm Vương, sư thái căn dặn đi căn dặn lại không cho muội đi mạo hiểm lần này.

- Viện trưởng nói rất đúng đó Lâm tiểu thư à - Lữ Nghị Trung ngồi ở bàn bên cạnh quay mặt lại bênh Cửu Dương - Lâm tiểu thư cô nhìn mà xem, cả tam gia võ công cao cường cũng bị trúng độc, may là có nữ thần y chứ Thần Nông hoặc Hoa Đà tái thế chưa chắc cứu được huynh ấy, coi bộ cái đầu của Khang Hi không dễ gì lấy được đâu.

Lâm Tố Đình ấn tô canh xuống bàn một cái “cạch,” hứ dài một tiếng:

- Vậy chứ các huynh tưởng song nhị khúc côn của muội làm bằng giấy chắc!

Trương Quốc Khải nghe nhắc tới chàng thì thở dài một tiếng, tự trách:

-Thật là vô dụng, lúc đó huynh đây sắp thành công rồi lại bị đứa bé sáu bảy tuổi đâm trúng một dao…

-Đấy gọi là dư nữ tử, dư tiểu nhân, nam dưỡng giả - Lâm Tố Đình cười hi hi nói - Thấy chưa! Các huynh đừng cứ xem thường bọn đàn bà con nít chúng tôi!

Rồi nàng giơ tay hất lọn tóc đang vắt qua vai ra sau gáy mình, chống một tay bên hông nói bằng giọng kẻ cả:

-Phụ nữ, phụ nữ, hễ là phụ nữ là không làm được việc lớn sao?

Tàu Chánh Khê nhìn Tần Thiên Nhân, gật gù nói:

-Nói vậy chứ lần này nếu như không có cô nương đó giúp đỡ thì người bị mất mạng không chỉ có tứ ca và lục đệ.

Tần Thiên Nhân gật đầu, Lâm Tố Đình nói:

-Chuyện đó đương nhiên rồi!

Rồi nàng cười với Tàu Chánh Khê:

-Ngũ ca à, vậy chứ cô nương đó thế nào, huynh kể cho chúng tôi nghe đi?

Tàu Chánh Khê nhìn nàng, nói:

-Lúc đó nhị ca và huynh dìu sư thái rút lui từ ngôi chùa ra, không ngờ đường mà hai huynh rút lui đã bị bọn quân binh triều đình phát hiện rồi, vào lúc thập tử nhất sinh thấy một ngọn lửa cháy qua đông cháy qua tây, nhìn kỹ mới phát hiện là một cô gái mặc áo đỏ, kiếm pháp rất là lợi hại…

Lâm Tố Đình quay mặt đi tránh tia nhìn của Tàu Chánh Khê, hỏi:

-Thế ngũ ca có xem cho kỹ người đó là ai không?

Tàu Chánh Khê lắc đầu:

-Gương mặt cô ấy đã được dùng khăn che rất kín đáo, chỉ chừa lại cặp mắt long lanh, quả thật như là có tia sáng như lửa chiếu ra…

-Ha ha! - Cửu Dương bật cười chen lời - Nếu nói vậy, người đó chắc là hỏa hồ ly trên núi Sơn Tây rồi.

-Hồ ly gì! – Lâm Tố Đình lao lại thúc chỏ vào hông Cửu Dương một cái đau điếng, lớn tiếng nói - Huynh im đi cho muội nhờ!

Đôi môi Cửu Dương há ra vì cười lập tức thu lại vì đau.

Tần Thiên Nhân nhìn Cửu Dương, lắc đầu nói:

-Không phải là hỏa hồ ly, mà có lẽ là Hỏa Quan Thế Âm bồ tát hiện thân.

Tiểu Tường đang đứng sau lưng Cửu Dương, nàng với tay lấy ly rượu của chàng mà uống một ngụm rượu, bị lời nói của Tần Thiên Nhân làm cho kinh ngạc, Tiểu Tường mới sặc một cái, nàng vụt lấy tay che miệng lại, suýt nữa làm rượu bắn ra đầy bàn:

-Úi cha! – Tiểu Tường tròn mắt - Đây là lần đầu tiên muội nghe thiếu đà chủ khen một vị cô nương!

-Ế thiếu đà chủ - Lữ Nghị Chánh cũng xách ghế lại chen vào ngồi giữa Cửu Dương và Tần Thiên Nhân.

Nghị Chánh quay qua nói với Tần Thiên Nhân, nhưng hai mắt Nghị Chánh lại nháy nháy Lâm Tố Đình:

-Huynh đây đã có hôn phối rồi đấy. Huynh không được suy nghĩ vị cô nương khác hấp dẫn đâu.

Lâm Tố Đình vờ không nghe Nghị Chánh trêu nàng, nhìn Tàu Chánh Khê hỏi:

-Không biết cô ấy bây giờ ở đâu vậy ngũ ca?

Tàu Chánh Khê còn chưa trả lời, Hiểu Lạc ở đâu xông tới cười hí hí nói:

-Lâm tỉ này hỏi thật là lạ, nếu biết cô ấy ở đâu, thì ngũ sư bá còn ở đây nói chuyện với tỉ sao? Đệ nghĩ không lâu nữa sư bá sẽ đi làm con thiêu thân!

Tiểu Tường gắp một miếng thức ăn vô chén Cửu Dương, nói với chàng:

-Thiên Văn à, sao trong giang hồ muội chưa bao giờ nghe có một nhân vật như vậy nhỉ?

-Đó gọi là hiện tượng hậu bối vượt tiền bối, người của thời đại mới sẽ đổi đi người cũ. Âu cũng là một việc tốt.

Lâm Tố Đình ít khi nào đồng ý với Cửu Dương lắm, lần này không hiểu sao nàng vui đến ngoác miệng ra mà cười, rồi nàng vỗ mạnh vào vai Tàu Chánh Khê một cái nói:

-Ơn cứu mạng của cô nương đó, có phải ca sẽ không bao giờ quên không?

-Huynh có biết cô ta là ai đâu? – Tàu Chánh Khê so vai nói - Cô ta cứu hai huynh đệ chúng tôi và sư thái ra khỏi vòng vây xong vụt biến mất, biết đi đâu mà tìm?

Trương Quốc Khải nãy giờ không nói gì, tự nhiên lúc này cũng bật ngón tay cái lên, gật gù khen:

-Vậy là bang hội của chúng ta lại có thêm một vị ân nhân nữa rồi.

Tiểu Tường cũng bắt chước Hiểu Lạc, háy mắt với Tàu Chánh Khê nói:

- Các huynh định đền ơn cứu mạng của cô ta thế nào vậy? Hay là gả một người nam nhân nào trong bang hội cho cô ta?

Lâm Tố Đình nghe vậy đột nhiên thu môi lại không cười hỏi gì nữa.

Tiểu Tường hãy còn bật cười khúc khích:

-Xem chừng ngũ gia có ý với người ta rồi ư, mà hình như huynh đây cũng vẫn chưa thành thân? Hay là…

Tiểu Tường nói đoạn không nói gì thêm nữa. Mọi người ngồi quanh bàn tiệc ai cũng nhìn Tàu Chánh Khê mà cười, khiến họ Tàu lúng túng liên tục nâng ly rượu của mình lên miệng.

Cửu Dương cũng cười, chàng vừa rót rượu vào đầy ly của chàng vừa nói:

-Thôi, mọi người đừng trêu huynh ấy nữa, huynh ấy vốn có tiếng là đạo mạo nhất trong hội mà!

Rồi chàng quay sang Lâm Tố Đình, nói:

-Chứ còn đại muội đây thì sao, bao giờ mới cho các huynh uống ly rượu mừng?

-Ha ha - Lữ Nghị Chánh nghe vậy bá vai Cửu Dương cười đáp - Viện trưởng sư huynh, sao hôm nay tự dưng quan tâm Lâm tiểu thư vậy? Mọi ngày không phải huynh hay nói “con nha đầu đó dở điên dở dại chẳng ai thèm lấy, chắc phải sống cả đời ở trường học này của ta!”

Mọi người ngồi xung quanh nghe được cười rộ lên.

Lâm Tố Đình tức quá dậm chân nói:

-Các huynh còn trêu nữa thì muội đi về ngủ trước đấy.

Mọi người nhìn nhau mỉm cười, không nói gì nữa.

Duy có Tần Thiên Nhân là không động đậy gì. Lâm Tố Đình nói rồi liếc nhìn không thấy vẻ mặt chàng thay đổi một chút nào, không biết trong lòng chàng đang nghĩ gì? Giống như thường lệ, khi mọi người nói đùa họ là một cặp chẳng bao giờ Tần Thiên Nhân phủ nhận, nhưng cũng chẳng thừa nhận bao giờ.

Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê bôn ba đường dài như thế, vả lại cũng đang bị thương trong mình, hai người đã mệt mỏi thật sự. Nên cả hai mới ngồi xuống bàn tiệc gắp vài ba miếng cho có lệ rồi lão Trần dẫn hai người về phòng tắm rửa nghỉ ngơi.

Trời khuya tịch mịch, sương rơi rất lạnh, khắp vùng Giang Nam một cõi âm u.

Ở cách Hắc Viện độ chừng nửa dặm trong một trang viên bị bỏ hoang xuất hiện ba bóng người. Ngọn đèn cầy le lói soi nhợt nhạt hình bóng của một người lưng giắt thanh đao với gương mặt đen đúa, đối diện người này là một người cầm thanh trảm mã đao; và một người nữa dáng dấp oai vệ đang đứng chấp tay sau lưng, nhìn trang phục của hắn ra dáng như một vị tướng.

Quả nhiên tên mặt đen quỳ xuống nói:

-Tham kiến Phủ Viễn tướng quân.

Người mang danh là Phủ Viễn tướng quân không nói không rằng. Người cầm thanh trảm mã đao bèn nói:

-Miễn đi.

Tên mặt đen đứng dậy rù rì gì đó.

Người cầm thanh trảm mã đao kia đáp bằng giọng phấn chấn:

-Thế thì không cần phải nói nữa!

Đoạn gã quay sang người gọi là Phủ Viễn tướng quân, nói:

-Nhưng tướng quân à, không biết tên Gia Cát tái lai đó có chịu xuống núi hay không?

Sau đó ba người họ lại nghe giọng trầm trầm như tiếng chuông đồng vang lên, người thứ tư xuất hiện nói:

-Việc đó lại càng không cần phải lo. Nếu đã là mệnh lệnh của thiếu đà chủ hắn chắc chắn phải tuân thủ.

Lúc tên thứ tư nói tới chữ “thủ,” giọng địa phương miền Nam nghe rất rõ ràng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 9: Vườn tao ngộ

Rạng đông trên mặt Tây Hồ thật là huyền dịu. Tây Hồ không lãng mạn thơ mộng như Thái Hồ ở Tô Châu, hay mang vẻ hùng vĩ hoang sơ như hồ Tử Thần ở tây bắc. Tây Hồ đẹp, lặng lẽ êm dịu, cái đẹp của sự kết hợp hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên và bàn tay con người tạo nên.

Đặc biệt là lúc bình minh khi mặt trời ẩn hiện trên những dãy núi Hoàng Sơn, những đám mây còn e ấp trên những ngọn đồi, thì nhịp sống trên hồ đã bắt đầu tự bao giờ. Nước, núi và người hòa quyện hiện ra dưới cái nắng ban mai. Chỉ cần nhìn thôi cũng đã cảm thấy cái không khí mát lạnh, trong lành đang lấp đầy cơ thể. Một không gian rộng lớn, mờ ảo trong cái hừng đông khiến cho con người nhỏ bé trước thiên nhiên.

Tần Thiên Nhân cũng như Cửu Dương, thông thường rất thích đứng bên hồ này, để thu vào trong tầm mắt chàng một khung cảnh rộng lớn ẩn hiện dưới những tia nắng đầu tiên của một ngày.

Bấy giờ mặt trời vẫn chưa mọc, chỉ thấy những luồng sáng lờ mờ chiếu rọi vào cảnh vật đang trong cơn ngái ngủ.

Tây hồ thưa vắng bóng người, chiếc cầu Đoạn vắt ngang mặt hồ một nhịp chơ vơ.

Nhưng dầu cho dòng người có tấp nập qua lại thì Tần Thiên Nhân cũng không màng đến, vì hôm nay chàng cũng không có tâm tình ngắm cảnh nơi này, chỉ mong gặp một người thôi. Tối qua chờ cả đêm không thấy người đó xuất hiện, trong lòng chàng buồn lắm. Đã một năm xa cách nhau rồi, không biết bây giờ nàng có thay đổi nhiều không?

Tâm tình buồn bực, Tần Thiên Nhân đưa ánh mắt ơ thờ nhìn vào dòng nước trong xanh đang trôi lững lờ trước mặt mình. Chàng nhủ bụng, hiện thời miền Nam không ngừng có người phương tây lui tới mua bán các loại hàng hóa, mà chàng, đã đi đây đi đó bao lâu, làm rất nhiều nhiệm vụ bang hội giao phó cho, thấy người phương tây đã đem lại nơi này một thế giới mới, cũng đã đem đến bao nhiêu là tư tưởng mới, thế mà không hiểu sao… chàng vẫn cứ phải hi sinh cho cái kiểu hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy của xã hội cũ thật là không công bằng!

Chàng rất muốn phản kháng lại, nhất là khi ngày giờ đó đã chọn xong rồi, chỉ còn chờ chàng đúng ngày đúng giờ ra mà làm một tên chú rể xúi quẩy mà thôi. Từ trước đến nay chàng đã có tình cảm với Lâm Tố Đình bao giờ đâu, bất quá chỉ là cả hai từ khi còn bé tí đã từng chơi với nhau, thế thôi. Vậy nên, đối với nàng ấy, chàng chẳng có một tí tình cảm nào hết, làm sao lại bắt chàng phải lấy một cô gái không yêu thích chứ?

Chỉ vì phụ thân phụ mẫu chàng đã chỉ vào bụng để giao ước hôn nhân, gần như là một trò đùa thế ư? Gần đây, chàng đã muốn đem những suy nghĩ của mình mà nói với sư thái rồi, muốn nói với người là chàng say mê một tình yêu khác, một tình yêu mà chẳng cần có mối mang, càng chẳng có cái kiểu chỉ vào bụng mà hẹn ước như là gả bán vậy, rất nhảm nhí! Chàng chẳng những muốn chống trả lại cái số phận đó, thậm chí dự định cả việc đào hôn!

Là một người đã từng chịu sự tiêm nhiễm của trào lưu tư tưởng mới, chàng cảm thấy bất mãn với rất nhiều tập quán truyền thống cũ kỹ, nhất là đối với cái cung cách hôn nhân cổ hủ. Hai con người vốn chẳng có một chút cảm tình nào, thế mà vì một người không có chút tình cảm nào đó, lại buộc phải kết thành chồng vợ, thật là quá không hợp tình hợp lý!

Lâm Tố Đình quả là đẹp tuyệt trần thật đấy, nhưng chàng không cần một người vợ đẹp như hoa mùa xuân, chàng chỉ cần một người vợ tình cảm quyến luyến, cùng xướng cùng họa, bách niên giai lão... chỉ một người đó thôi là đã đủ mãn tâm túc ý rồi!

Tần Thiên Nhân vừa bước đi vừa nghĩ ngợi, theo quán tính mà vô tình đến bên một phiến đá lớn nằm dưới một hàng liễu, mùa này cây cỏ đã bắt đầu rụng lá, hàng liễu chỉ còn những cành trơ xương. Tần Thiên Nhân nhìn phiến đá đã phủ đầy rêu, trong đầu như thấy hình ảnh hai đứa bé đang vui đùa cũng bên hàng liễu này. Thoáng mắt mà đã mười năm trôi qua rồi…

Đó là một buổi sáng trời trong mát.

Một đứa bé trai đứng cạnh hàng liễu, thần thái có vẻ phóng khoáng, một tay bê một bánh pháo to, tay kia cầm một nén nhang đang cháy để đốt pháo. Ngồi ở trên phiến đá là một cô bé với đôi mắt to đen lay láy, sống mũi thẳng, đôi môi thanh, tất cả trên gương mặt non nớt đó toát ra vẻ ôn hoà, một cô bé thật là xinh và có nụ cười rất dễ thương. Tóc nàng kết thành hai bím, má đỏ hây hây như quả táo.

Mấy năm sau hai người lớn lên, cũng tại nơi này, đứa con gái ngồi nhìn thấy một con bướm hai cánh trổ đầy hoa đang lượn chập chờn trên nhành liễu, con bướm lượn lờ chán rồi đậu trên một nhánh liễu khá gần nàng, liền rón rén đi đến định bắt bướm, không đề phòng có người chạy vụt đến, reo to:

- Lại bắt được một chú rồi này!

Thì ra là đứa con trai đã đào đất dưới phiến đá, bắt được một chú dế, sướng quá la lên khoe với nàng. Tại cậu vừa nhảy vừa reo nên làm con bướm kia đã giật mình bay mất.

Đứa con gái tức quá dậm chân kêu:

- Cũng tại huynh hết đó! Chạy nhảy la lớn ghê thế không biết! Con bướm đẹp thế mà làm nó sợ bay đi mất rồi! Ai thèm xem dế của huynh nào, không thích huynh một chút nào hết!

Đứa con trai đứng khựng lại, bàn tay cầm con dế nới lõng ra, con dế liền phóng vào một bụi cây, đứa con trai giương đôi mắt vừa to vừa đen nhìn nàng một cách ngây ngô hồi lâu mới tiu nghỉu nói:

-Tây Hồ, muội vừa bảo không thích huynh, muội không thích huynh thật sao?

Đứa con gái nhìn cậu ta trong mắt lồ lộ nét buồn như vậy, nhún nhún vai cười.

- Muội không thích huynh thật à?

Nàng lại nghe hỏi.

- Thích ai chứ? – Đứa con gái quay lưng đi, song vươn cái cổ ra hỏi – Sao phải thích huynh?

Nàng dài giọng nói rồi che miệng cười khinh khích. Đứa con trai nhìn mái tóc nàng bị gió bên hồ thổi cho bay toán loạn, nói bằng giọng đượm buồn:

-Muội đã nói rằng, về sau thì muội sẽ là của mỗi mình huynh thôi, chẳng bao giờ thích ai khác ngoài huynh đâu, vì muội muốn là cô dâu của huynh, muội đã quên rồi ư?

Đứa con gái chớp chớp mắt không quay đầu lại nhìn chàng, nàng từ lâu cũng đã biết thẹn với hai chữ "cô dâu" rồi.

-Hóa ra đó chỉ là những lời nói đùa, muội hoàn toàn không thích huynh?

-…

-Muội không thích huynh thì huynh đi vậy.

Đáp lại vẫn là sự tĩnh mịch đến đáng sợ, nên khi dứt lời đứa con trai quay lưng bước đi.

Đứa con gái bỗng nhiên quay vụt lại nói:

-Ể! Thiên Nhân, huynh đừng đi, muội…thích!

Đứa con trai khẽ mỉm cười, chân cũng dừng hẳn, song không quay mặt lại nhìn nàng mà hỏi:

-Muội vừa nói thích ai đó?

Nàng đi đến phía sau chàng, lắp bắp mãi mới được một câu:

-Muội thích… người đó…


Giọng nói khe khẽ vang lên, trong suốt như tiếng chim hót mỗi buổi sáng bên hồ. Đứa con trai đứng yên để lắng nghe cho đầy cái âm thanh mà chàng thương mến ấy, mới lên tiếng đáp lại:

-Người đó là người nào?

Hai má nóng lên, đứa con gái thu lại nụ cười, vẫn giọng lắp bắp của khi nãy:

-Là người… đó… đó…

-Huynh không biết muội nói người đó…đó là người nào hết!

Thời phong kiến bấy giờ có câu nam nữ thọ thọ bất thân, lại có câu cô nam quả nữ. Mà đứa con gái này lại được nuôi dạy trong một môi trường lễ nghi và gia giáo thì làm sao dám thừa nhận yêu người khác giới được?

Đứa con gái đỏ mặt hồi lâu, đưa tay khẽ kéo tay áo chàng trai, bậu môi nói:

-Muội thích…huynh.

Đứa con trai bấy giờ mới quay mặt lại, giơ tay vuốt những lọn tóc đang bị gió đùa khiến cho chúng bay lòa xòa trên mặt nàng.

Đứa con gái cũng nhìn sâu vào mắt chàng, hai người đứng im lặng như vậy thật lâu bên bờ Tây hồ, cả hai tự hỏi lòng cũng chẳng biết tại vì sao lại đem lòng yêu thương đối phương? Nàng nghĩ có lẽ vì ở chàng, luôn có hai con người, trẻ con những lúc cần trẻ con, hài hước và chọc cười nàng suốt, và chàng trưởng thành lúc nàng cần tâm sự. Còn với chàng thì điều đặc biệt nhất ở nàng đó là sự cảm thông và thấu hiểu, chính điều đó đã giúp chàng vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như chuyện tình yêu xa của cả hai.

Đó đã là chuyện của mấy năm về trước rồi.

Tần Thiên Nhân mỉm cười rất tươi khi gặp lại người con gái đó đang đứng bên kia bờ hồ. Mái tóc này, dáng đứng này, sớm đã ghi tạc vào tim chàng rồi! Chàng vội vàng đặt chân lên cầu Đoạn.

Vậy là thêm một năm nữa lại trôi qua, chàng thấy mình dường như đã trưởng thành nhiều. Nhưng thương nhớ cũng nhiều.

Mỗi năm may lắm chàng gặp nàng nhiều nhất là hai lần, một lần vào dịp tết Nguyên Đán, một lần là tết Nguyên Tiêu, còn lại muốn gặp nàng rất khó, trừ phi trong hội có ai đó lâm trọng thương, hoặc là chính bản thân chàng bị thương, mà Tần Thiên Nhân thì đương nhiên không muốn những người huynh đệ hay các hảo bằng hữu của chàng xảy ra chuyện gì.

Hôm nay chưa đến tết đã được gặp nàng, chàng thấy lòng hơi run khẽ, và như không tin vào mắt nên đứng ở giữa cầu Đoạn im lặng một chút, để cho cái lạnh của buổi sáng sớm thấm vào chân chàng, cũng thấy trong không khí có gì đó khác biệt.

-Tây Hồ!

Chàng gọi tên mà chàng đặt cho nàng, chuông lòng lanh canh gõ.

Nhưng năm nay, cảnh vật vẫn như cũ, mà con người đã thay đổi mất rồi.

Nữ thần y nghe gọi thì biết là Tần Thiên Nhân đến, liền quay lưng bỏ đi.

Tần Thiên Nhân dễ dàng đuổi theo nữ thần y, đi vòng ra phía trước mặt chặng đường nàng.

-Muội biết hôm qua về không thấy muội, huynh thức trắng cả đêm?

Đập vào mắt chàng vẫn là hình ảnh nữ thần y gục đầu xuống không dám nhìn chàng.

-Muội đang trốn huynh sao?

Nữ thần y không đáp. Tần Thiên Nhân bưng đôi má nàng lên:

- Định trốn huynh đến khi nào?

-Huynh đừng có như vậy mà, nhỡ người ta trông thấy.

Nữ thần y vừa nói vừa thoái lui một bước thoát khỏi đôi tay của Tần Thiên Nhân.

- Thì đã sao? - Tần Thiên Nhân tiến lên tóm chặt lấy hai cổ tay nữ thần y - Sớm muộn muội cũng là thê tử của huynh.

Nữ thần y thử rút tay về, nhưng tay người đối diện như hai gọng kiềm khiến cho nàng càng phản khán thì càng bị siết chặt lấy. Nàng bèn quay mặt đi giấu hai giọt lệ chỉ chực rơi xuống hai bên má.

Tần Thiên Nhân nghe một giọng nói nghẹn ngào như từ đằng xa vẳng lại:

-Huynh đừng quên huynh đã có hôn ước rồi, còn mấy tháng nữa là tới ngày thành thân, chuyện giữa hai ta… không thể nào đâu.

-Ai bảo là không thể?

Tần Thiên Nhân nói rồi nghĩ chỉ vì lời nói của các trưởng bối trong lúc cao hứng của năm xưa mà chia cách họ. Để cho giờ đây định kiến xã hội dẫn họ đi quá xa, nàng lúc nào cũng xua đuổi chàng, buộc chàng phải luôn nhìn về nơi mà có hình bóng một người con gái khác. Nàng ngăn không cho cảm xúc của nàng tự do, ngăn không cho chàng chạm vào nàng dầu là một chút. Giờ đã đến lúc chàng quay đầu lại.

-Nhưng… còn lời hứa của thân phụ huynh…

-Thì đã sao, đấy chỉ là lời nói trong lúc huynh và cô ấy còn chưa chào đời.

Nữ thần y vẫn không thể đối diện chàng, Tần Thiên Nhân quay phắt người nàng trở lại, nhìn chòng chọc vào mắt nàng và hỏi:

-Chỉ vì lời hứa đó mà muội xua đuổi huynh sao? Xem huynh như một món hàng nhường cho người khác sao?

Khi Tần Thiên Nhân thốt ra câu nói đó giọng trầm xuống như đang thất vọng, dứt lời cũng buông tay nữ thần y ra.

Cũng trong giây lát đó câu nói của Tần Thiên Nhân khiến cho nữ thần y đứng sững lại ngây người ra nhìn chàng.

Nàng biết chứ, ngoài miệng tuy nàng bảo vậy chứ suốt những năm ở cùng một bầu trời, nàng trốn chàng như trốn giặc nhưng vẫn dõi theo chàng hàng ngày, nhưng lúc nào cũng lầm rầm mong chàng đừng thấy nàng. Mà chàng nào có vô tâm, chẳng hay biết gì? Mỗi lần chàng được Lâm Tố Đình chăm sóc chàng nhìn biết nàng buồn, biết thi thoảng nàng khóc. Chàng biết nàng nghĩ gì, nghĩ về ai, nhưng chẳng thể nào ra mặt được...

Có gần một khắc trôi qua mà nữ thần y hãy còn đứng đấy im lặng.

Tần Thiên Nhân dịu dàng nhìn nàng, lại nhè nhẹ vuốt má nàng bằng đằng lưng của bàn tay, Nữ thần y tránh ra vội vã nói:

-Không được đâu!

Nhưng Tần Thiên Nhân nhanh như chớp hôn lên má nàng.

Nữ thần y hốt hoảng giật mình, quay mình định chạy đi, Tần Thiên Nhân lại nắm lấy cổ tay nàng.


-Đừng mà! Để muội đi - Nữ thần y thẹn đỏ hết cả mặt, ra sức giãy đi.

-Tại sao lại tránh huynh?

-Đâu mà - Nàng nói, đôi mắt nhìn chàng như khẩn cầu.

-Không tránh thì đứng im nào, chúng mình nói chuyện hẳn hoi.

Nữ thần y gượng đứng yên nhưng mắt lại vọng đông ngó tây, tâm hoang ý loạn những như chỉ e có người trông thấy.

Trong chốc lát Tần Thiên Nhân ngỡ nàng đã thay lòng, cao giọng hỏi:

-Hóa ra muội không còn yêu huynh nữa sao?

Đáp lời chàng lại là nữ thần y rũ đôi mi xuống.

Tần Thiên Nhân lại dằn từng tiếng:

- Chỉ cần muội nói không còn yêu huynh nữa, huynh sẽ đi ngay, đời này không bao giờ xuất hiện trước mặt muội…

Tần Thiên Nhân nói tới đây bỗng ngừng lại.

Nữ thần y ngẩng đầu lên thấy gương mặt Tần Thiên Nhân nhăn lại tỏ vẻ như đang đau, mắt chàng cũng tối thẳm như hai cái hố sâu.

-Huynh bị thương sao?

Tần Thiên Nhân không trả lời, âm thầm vận công đề khí để ngăn cơn đau đang hoành hành trong ngực lại không ngờ mới cố sức một chút trước mắt chàng đã tối sầm lại, miệng thổ ra một vũng máu.

-Thiên Nhân! Huynh cởi áo ra, để muội xem!

Trong đôi mắt đẹp của nữ thần y bỗng dâng lên ánh nước, nàng cuống quýt nói.

-Không cần.

Tần Thiên Nhân gạt tay nữ thần y ra.

-Muội băng bó được những vết thương ngoài da này, không băng bó được vết thương trong lòng huynh!

Tần Thiên Nhân nói rồi quay mình định bỏ đi.

-Huynh đừng đi!

Nữ thần y biết ngoài Cửu Dương thì khinh công của chàng đã là tuyệt đỉnh rồi, một khi chàng đi rồi là nàng không bắt kịp được.

-Còn! Muội còn! Chẳng những còn mà còn yêu rất nhiều nữa!

Nữ thần y nói nhanh, và nàng không chịu được nữa nên bật khóc nức nở:

-Những ngày vừa qua huynh không ở đây, muội luôn canh cánh nhớ huynh! Muội hay bất chợt tự hỏi huynh đang làm gì rồi? Là đang chiêu tập nhân mã hay đang luyện công, đã an giấc chưa, có sinh bệnh không... Nhìn bầu trời xanh muội liên tưởng đến màu áo của huynh, trông chén bát màu xanh muội cũng nghĩ đến huynh... Thiên Nhân, muội nhớ huynh tưởng như sắp tẩu hỏa nhập ma rồi đấy!

Đúng là nàng nhớ chàng thật nhiều, đi đâu cũng thấy hình bóng chàng, nụ cười của chàng. Dưới hàng cây mà năm xưa hai người hay đứng, trên phiến đá họ ngồi. Nàng nhớ lần đầu họ nắm tay nhau, thầm nói đó hẳn là định mệnh.

Nữ thần y không biết bản thân nàng không có một chút võ công mà nói những lời này khiến cho chàng càng yêu nàng nhiều hơn bao giờ.

Quả nhiên Tần Thiên Nhân không đi nữa.

Nữ thần y giúp chàng cởi áo xuống vắt lên một cành cây.

Hai người ngồi lên một phiến đá.

Trên tán cây có vài hạt sương rơi xuống đọng lên thân mình hoàn hảo của Tần Thiên Nhân, từ từ chảy xuống, rơi trên mặt đất, rồi vỡ tan ra thành trăm ngàn bọt nước li ti khác.

Nữ thần y lấy khăn tay thấm nước hồ lau vết máu cho chàng, lại lấy thuốc đắp lên vết thương trên ngực trái của Tần Thiên Nhân, trước khi lấy thêm một chiếc khăn tay khác ra, dùng buộc chặt lại.

Mặt trời mỗi lúc một lên cao.

Tần Thiên Nhân có ngoại hiệu là Nam hiệp thần quyền, hồi mười hai tuổi đã bôn tẩu giang hồ, đã giết chết không biết bao nhiêu bọn gian xảo và hung đồ ác bá. Nhưng bàn tay giết người vô số này lại là bàn tay êm dịu ấp áp của nữ thần y nắm chặt, đúng là nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản.

Nữ thần y đan những ngón tay nàng vào những ngón tay của Tần Thiên Nhân, gối đầu lên vai chàng, lời nói thoảng như giấc mộng:

-Thiên Nhân, muội sẽ không bao giờ quên, cả đời này muội cũng chỉ yêu một mình huynh thôi.

Nàng nói và nhận thấy sắc đen trong ánh mắt của Tần Thiên Nhân dần dần lùi đi, nhường chỗ cho màu lam dịu nhẹ của nền trời đang đua nhau lan tỏa. Nhìn vào đôi mắt của chàng khi đó cõi lòng nàng êm ái lạ thường. Nàng hiểu khi màu mắt của chàng nhạt dần thì đó chính là lúc chàng cảm thấy hạnh phúc và vui sướng, còn màu mắt càng sậm, sắc đen càng sâu, là khi cơn buồn bã và thống khổ của chàng trở nên dày đặc.

Nữ thần y biết chàng là chàng trai mà người con gái nào cũng mơ ước. Và nàng cũng biết nàng thật may mắn khi được chàng yêu.

-Tây Hồ.

Tần Thiên Nhân ôm nữ thần y vào lòng, lại dịu dàng nhè nhẹ vuốt trên vai nàng.

Hơi thở nàng thơm như hương hoa lan, mùi hương ấy từng chút từng chút một thắm đượm vào cõi lòng đang căng thẳng của chàng…

Ở cách đó vài chục bước chân, Cửu Dương và Tiểu Tường đang đứng dưới một gốc cây lớn. Tiểu Tường thầm than khổ trong lòng. Cái cảnh vừa diễn ra giữa hai người kia chắc chắn đã bị Cửu Dương nhìn thấy hết rồi.

Và cũng ở cách đó một quãng Lâm Tố Đình đứng bên kia bờ hồ cũng nghe Tần Thiên Nhân gọi nữ thần y bằng một biệt danh rất lạ, rồi lại nghe nữ thần y gọi tên Tần Thiên Nhân một cách thân mật, lòng Lâm Tố Đình đau lắm. Lâm Tố Đình nghĩ nàng mới chính là hôn thê của chàng mà còn chưa dám gọi bằng tên, chỉ quen gọi bằng nhị ca, xưng là muội. Tần Thiên Nhân cũng chỉ gọi nàng là Đại muội chứ chưa gọi tên nàng bao giờ.

Hai giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống trên đôi má của Lâm Tố Đình, giấc mộng bao năm trong nàng tan nát.

Cây xanh đứng bóng, liễu rủ ven hồ, ánh sáng tản mạn bên bờ nơi nước cạn…
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 10: Tình huynh đệ

Ánh tà dương chỉ còn le lói, rải rác những tia vàng vọt đang còn luyến tiếc dương trần nên cố bám chót ngọn mấy hàng thông. Một vài con chim chưa kịp di cư về phương khác tránh lạnh, đang bay về tổ vui mừng đoàn tụ, xao xác trên các cành cây trụi lá. Loài ăn đêm chuẩn bị đi săn, chập chờn vỗ cánh. Trong tâm chợt phát mối cảm hoài man mác, Tiểu Tường bâng khuâng nghĩ ngợi, chuyện nọ liên tưởng chuyện kia.

Hồi sáng hôm kia nàng ngỡ ngàng bởi cảnh trước mắt. Nàng vừa nhìn thấy cái gì thế nhỉ? Họ lại có thể tự nhiên ôm nhau bên bờ hồ thế ư? Nghĩ rồi nàng lại thắc mắc rằng không biết họ bắt đầu từ khi nào? Rồi còn Lâm Tố Đình...?

Khi đó Tiểu Tường định mở miệng hỏi Cửu Dương, cuối cùng lại thôi, vì thấy chàng hoài im lặng, mắt nhìn về một hướng xa xăm. Nàng nghĩ chắc chàng cũng sửng sốt không kém nàng.

Mấy đêm rồi Cửu Dương cũng không về Hắc Viện, mà ở luôn trong kho rượu của nàng. Nàng thấy chàng thức trắng cả đêm ngồi trơ trơ nhìn chiếc bóng hai người in lên bức tường trong kho rượu.

Hiện giờ chàng cũng đang bên cạnh nàng, hai người bước đi trên còn đường mòn đằng sau chùa Thanh Tịnh.

Có đến một lúc lâu, Tiểu Tường lặng lẽ đi bên cạnh ý trung nhân đang buồn bã của nàng. Nhiều lần muốn buột miệng một câu gì đó để phá tan bầu không khí nặng nề nhưng rốt cuộc nàng không biết phải nói gì. Thà là chàng hét lên, la lối, mắng chửi, chứ mấy ngày trôi qua rồi chàng không mở miệng nói câu gì hết, khiến nàng thật lo lắng.

Không biết phải làm gì đây? Tiểu Tường biết điều chàng cần trong lúc này không phải là những lời khuyên giải hay an ủi qua loa.

Tiểu Tường biết rõ điều đó, cho nên mới lẽo đẽo theo Cửu Dương, đếm từng bước chân, ngực nặng như chèn đá.

Giá như…

Tiểu Tường tiếc nuối vì Giang Nam giấu chàng kỹ quá, đến khi nàng tìm ra thì trái tim chàng đã thuộc về người ta mất rồi. Và vì chàng quá chung tình với người con gái đó nên ban đầu nàng đành nén tình cảm của mình sâu trong tim.

Mà nàng đối với chàng lại là gì đây? Hai người chẳng qua là bèo nước gặp nhau, một dạng của sự cô đơn cần được lấp đầy.

Một giọt nước đọng nơi khóe mi Tiểu Tường, xuýt rơi xuống, Tiểu Tường vội dùng tay áo đưa lên gạt đi, sực nhớ giờ phút này kẻ đau lòng nhất không phải là nàng.

Nàng lại nghĩ tới ngày đầu tiên gặp chàng, nàng mới biết cảm giác nhớ day dứt một người là như thế nào. Nàng không thể giải thích được tại sao hình ảnh của chàng, giọng nói, lẫn nụ cười đó luôn trong tâm trí nàng. Khi biết chàng yêu thích ai, cũng là lúc nàng biết nàng đã xuất hiện trễ rồi nhưng sao không thể quay lại được? Tình cảm là một cái gì rất khó nói, nó là cảm xúc mà người ta không thể kìm nén được. Lời chàng nói với nàng hôm bữa trong quán rượu nàng hiểu hết chứ, vậy nên đã rất can đảm để nói rằng "muội chúc phúc cho huynh," điều mà nàng chưa từng làm với một ai trước đây.

Tiểu Tường nghĩ đến đây khẽ liếc mắt sang Cửu Dương, ánh mắt rưng rưng như chừng muốn nói chàng biết không, đến bây giờ nàng vẫn không ngừng yêu chàng, nàng đã tìm đủ mọi lý do để bảo bản thân đừng yêu chàng nữa nhưng không thể. Nàng phải làm sao mới được đây?

---oo0oo---

Cửu Dương đi một hồi cũng dừng chân ngồi lên phiến đá dưới một gốc cây bồ đề lớn. Tay rút cây quạt cất trong ngực áo ra, Cửu Dương dùng nang quạt khắc mấy dòng chữ trên mặt cát.

Trời mưa bong bóng phập phồng

Em đi lấy chồng để khổ cho anh

Anh về ôm mối thương đau

Em đi có nhớ mưa nào hôm xưa

Phải chi hôm ấy đừng mưa

Phải chi hôm ấy đừng đưa em về

Em đi son sắc lời thề

Vẹn nguyên tình nghĩa, toàn lời chân quê

Hứa về trọn nghĩa phu thê

Giờ quên nguyện ước não nề thế nhân…

Ngày xưa đưa em sang sông

Lệ rơi thấm đẫm vào lòng

Ngày nay tiễn bước theo chồng

pháo hồng đỏ rực rựou mời giao bôi...

Lòng tự bảo lòng lời hẹn năm xưa chàng vẫn còn nhớ mà nàng đã quên rồi sao?

Cảnh xưa hiện ra dần dần trong trí chàng….

Năm đó có hai đứa bé dẫn nhau ra Tây hồ chơi, bàn chân son nhỏ như búp sen của đứa bé gái nghịch làn nước trong hồ.

-Thất ca à – Bé gái ngồi bên bờ buông thỏng hai chân xuống nước, nói – Tố Đình tỉ tỉ nói đợi lớn lên thì tỉ ấy sẽ biến thành tân nương.

Đứa bé trai đang bận vẫy vùng với làn nước mát mẻ trong hồ, vẻ lơ đãng như không nghe gì. Bé gái nhặt một viên sỏi ném xuống hồ, mím môi bảo:

-Muội cũng muốn làm tân nương!

Nhưng khi ngẫm nghĩ lại, bé gái bỗng nhăn nhó:

-Mà muội không có hôn phối với ai hết á.

Đứa con trai nghe sư muội tự dưng vòi làm tân nương mãi, mới ngừng chơi đùa trong nước mà bơi lại gần, nhướng mày hỏi với vẻ kì quặc:

-Muội muốn làm tân nương thật á?

-Phải đó! – Bé gái kia gật đầu lia lịa.

-Vậy... – Đứa con trai bối rối gãy đầu thật lâu, cuối cùng cũng lên tiếng - Vậy muội làm tân nương của huynh là được.

Đứa bé gái nhe răng sún cười toe, trông yêu ơi là yêu.

- Ôi! Thế thì còn phải đợi lâu lắm, đến bao giờ thì muội mới có thể lớn lên đây?

Cũng chỉ vì câu nói trẻ con này mà khiến chàng không sao quên nàng được!

Đó là lần đầu tiên hai người hứa hẹn với nhau, một câu nói ngây ngô. Lúc đó, nữ thần y cũng gọi là lên tám.

Cửu Dương cũng nhớ hồi còn nhỏ chàng rất thích chọc cho sư muội mỉm cười. Nàng cười đẹp lắm, mỗi lần nàng cười là như làm cả một khoảng trời bừng sáng lên, hoặc như đang đi giữa trời mưa, bỗng thấy một vườn cúc vàng rực rỡ. Nhưng giờ đây, nụ cười đó, khiến chàng nghe mà nhói cả lòng. Đã tự bao giờ rồi nụ cười dễ thương đó không thuộc về chàng nữa. Mãi mãi, nó chỉ là hình ảnh trong những giấc mơ!

Khi này có tiếng chân người từ xa vọng đến, Cửu Dương nhanh chóng dùng chân xóa đi mấy dòng chữ dưới đất.

Quả nhiên Tiểu Tường nói đúng, Khẩu Tâm, Tần Thiên Nhân, Trương Quốc Khải, và Tàu Chánh Khê vừa bước qua khỏi chỗ quẹo, bốn người đã nhìn thấy Cửu Dương. Nhưng trái với sự hình dung của bốn người họ, Cửu Dương đang ngồi thừ ra trên phiến đá chứ không bay nhảy đấm đá như mọi ngày.

Tứ bề của mảnh sân phía sau chùa Thanh Tịnh được tre bao bọc, trong sân treo lủng lẳng toàn những bao cát, khúc cây, hình nộm rôm, đó chính là luyện võ đường của các đương gia. Hằng ngày, vào những giờ rãnh rỗi, Cửu Dương thường ra đây ôn quyền luyện cước. Lần nào bắt gặp Cửu Dương ở phía sau chùa, bốn người cũng thấy thất sư đệ tay đấm chân đá huỳnh huỵch vào các bao cát, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Vậy mà hôm nay cái người siêng luyện võ đó lại ngồi im ru trên tảng đá, dáng điệu rù rù như… con gà chết, lạ thật!

Trương Quốc Khải huýt chỏ vô hông Tàu Chánh Khê một cái, đồng thời cũng hất đầu về phía Cửu Dương, cười nói:

-Chắc là đệ ấy lại bị đại muội chọc phá chuyện gì nữa rồi.

Nói xong nhíu mày thêm lời:

-Mà đại muội từ hôm qua tới giờ cũng mất cả hành tung, kỳ thật!

Nói rồi Trương Quốc Khải là người đầu tiên nhanh chân rảo bước tiến lại.

Cửu Dương thấy các sư huynh đến liền đứng dậy, vừa mở miệng định chào hỏi, Trương Quốc Khải đã nhanh nhẩu hỏi trước:

-Thất đệ, sao đệ ngồi đây một mình vậy?

Lúc này Tần Thiên Nhân, Khẩu Tâm và Tàu Chánh Khê cũng tới.

Tàu Chánh Khê nháy mắt nói:

-Tối qua không thấy đệ về trường học? Bọn huynh lo lắng lắm, may là khi nãy gặp Tiểu Tường cô nương, cô ấy bảo đệ ở chỗ cô ấy cả đêm.

Tàu Chánh Khê dứt lời thì cười khà khà.

-Tiểu Tường là một cô gái tốt - Tần Thiên Nhân cũng cười nói - Đệ không được chơi qua đường, phải có trách nhiệm với người ta.

Cửu Dương gật đầu, nghĩ dạo gần đây các đương gia rất hiếm khi đi chung với nhau, vì mỗi người đều có một nhiệm vụ riêng, ai cũng rất bận rộn. Cửu Dương nghĩ chắc là họ có chuyện gì cần bàn luận với mình.

Quả nhiên Tàu Chánh Khê nói:

-Thất đệ à, đệ đi vắng mấy ngày nay chắc chưa hay biết bọn người nha môn đang bắt ép cống sinh nhập kinh?

Vương triều Thanh là do một dân tộc thiểu số phương bắc kiến lập sau khi chinh phục vùng Trung nguyên. Vì thế, họ đặc biệt chú ý tới việc đề phòng tình cảm dân tộc của các phần tử trí thức nguời Hán, thường bắt bớ những nguời có câu chữ khác thường trong văn chương, phát động “Văn tự ngục,” tiến hành các cuộc trấn áp tàn khốc đối với người Hán.

Văn tự ngục là tên chung dùng để chỉ những vụ án do chữ nghĩa mà ra, vô cùng thịnh hành vào thời hoàng đế Thuận Trị tại vị, nhất là ở những vùng miền Nam xa kinh thành, văn tự ngục đã xuất hiện và hoành hành rất nghiêm trọng.

Một số lượng lớn các văn nhân vì viết sai một hai câu, có liên quan đến triều đình trong các tác phẩm của mình là ngay lập tức rước họa diệt môn. Cống sinh nào không nhập kinh thi cử để phò trợ triều đình, hoặc thường dân nào có lời lẽ phỉ bán triều đình đại Thanh, cũng sẽ bị phạt thống quân. Thống quân là hình phạt mà nguời phạm tội bị đưa tới vùng biên viễn làm lao dịch, có các mức một ngàn dặm, hai ngàn dặm, ba ngàn dặm, bốn ngàn dặm, hoặc nặng hơn nữa là bị xử trảm, nặng nhất là tru di cửu tộc.

Lại nói tiếp chuyện cống sinh bị buột phải đi kinh thành, Tần Thiên Nhân kể qua một vài tên học sinh trong danh sách của các cống sinh, Cửu Dương nghe xong nói:

-Những người này đều là những học sinh xuất sắc nhất của trường học.

Đoạn chàng hỏi:

-Thế họ phải ứng thế nào?

Tàu Chánh Khê nói:

-Đương nhiêu là họ không chịu vào Quốc tử giám, có mấy người phản đối kịch liệt bằng cách ngồi thiền trước cửa phủ huyện không chịu đứng dậy, đã hai hôm rồi, lão Trần, Nghị Trung, Nghị Chánh đều mang cơm nước tới, họ cũng nhất quyết chống đối lại nha môn, không chịu ăn không chịu uống, nhịn đói nhịn khát như kiểu tuyệt thực ấy, mấy ngày này bá tánh ngoài đường sá ai nấy cũng đều kéo đến coi, bàn tán xôn xao lắm.

Rồi Tàu Chánh Khê kể cho Cửu Dương nghe lúc thị học đại nhân đến Nam Hải thư viện, đã nói với các cống sinh rằng:

-Hồi nãy, tên của các học sinh mà bản quan đã có gọi đó, đều là những học sinh giỏi văn thơ nhất của trường này, cũng có hạnh kiểm tốt đối với quý thư viện. Ba tháng trước, quan huyện Hàng Châu đã đem văn chương của các vị cho thị học ti ở Kinh Thành, và sau khi trải qua cuộc bình thẩm trong ba tháng, bây giờ đã có kết quả. Tất cả các vị đều được tiếp nhận vào trong sĩ bản của Thiên Môn. Đây là việc rất hiếm có, khi mà toàn bộ những bài văn của trường này khi nộp lên đều được tuyển chọn. Chờ cho đến cuối tháng này, thì sẽ được đưa từ Thiên Môn vào kinh đô quốc tử giám ở kinh thành, chờ đến ba năm sau, chỉ cần các vị chuyên tâm học hành, các vị có thể nhậm chức huyện lịnh, trở về quê nhà làm cha mẹ nở mặt nở mày, tạo phước cho muôn dân, như vậy sẽ không làm phụ lòng đào tạo của triều đình.

Các cống sinh nghe vậy rất bất bình, một người nói:

-Tại sao kỳ vậy? Như vậy chẳng khác nào bắt ép tụi mình đi làm chó săn chứ?

Những người khác cũng nói:

-Tại sao vậy chứ?

-Nếu nhỡ mình không muốn đi thì sao?

Một người ra vẻ già dặn nhất trong nhóm cống sinh nói:

-Chúng tôi không muốn làm con chó của Mãn Thanh!


-Ừ! Đúng rồi! Chúng tôi không muốn làm Hán gian!

Quan tri huyện Hàng Châu vội nạt:

-Đừng ồn, tụi bây chủ yếu là nghe lời của thị học đại nhân đi, được vào bản công sĩ khỏi lo ăn khỏi lo ở, còn muốn nghị luận gì nữa?

Nhưng các học sinh có tên trong danh sách cống sinh vẫn nói:

-Chúng tôi không muốn rời khỏi nơi này!

-Đúng! Chúng tôi muốn ở lại đây theo viện trưởng học!

-Còn ai dạy học hay hơn ngài được đây?

Quan tri huyện chỉ vào mặt họ:

-Không được nói nhiều, con bà tụi bây! Tụi bây mau đi về thu xếp hành lý, chuẩn bị lên đường đi Thiên Môn!

-Chúng tôi không đi!

-Im miệng! Cái tụi chết bầm này! Tụi bây không được phép cải lệnh vua, mau về thu xếp có nghe không?

Tàu Chánh Khê kể tới đây quay sang Tần Thiên Nhân hỏi:

-Nhị ca à, huynh nghĩ chúng ta phải làm sao bây giờ?

Vị trí của Tàu Chánh Khê trong hội thấp hơn Tần Thiên Nhân, khi gặp chuyện khó phân giải thì phải theo qui luật mà thỉnh thị người trên. Nhưng Tần Thiên Nhân cũng không biết tính sao, quay sang Cửu Dương:

-Thất đệ nghĩ sao?

-Chúng ta có thể tìm cách sắp đặt, dẫn họ trốn đi.

-Làm vậy được sao?

Cửu Dương gật đầu:

-Họ đều là những cô nhi, nếu có trốn đi cũng không liên quan tới ai.

Tần Thiên Nhân nghe vậy, gục gặc đầu.

Khẩu Tâm nãy giờ vẫn giữ im lặng, không dưng lên tiếng:

-Dầu gì thì họ cũng là người của trường học chúng ta rồi, tuy không cùng chung máu mủ nhưng đã là người trong hội tức là người thân trong gia đình, vậy nên, theo huynh nghĩ một người trong đám chúng ta nên đích thân đưa họ đi để đảm bảo an toàn cho họ, khi xảy ra chuyện cũng có người gánh vác, vậy mới phải đạo.

Mọi người nghe Khẩu Tâm nói thấy rất có lý, nhưng không biết ai sẽ đưa cống sinh đi rời khỏi Hàng Châu?

Khẩu Tâm nói tiếp:

-Thất đệ, đệ là viện trưởng của trường học, họ tin tưởng vào đệ nhất, hay là đệ đưa họ đi?

Cửu Dương lặng người, đó cũng chính là điều chàng mong đợi, một nơi bình yên như suy nghĩ của chàng cần. Nhưng tại sao lại cảm thấy có sự chạnh lòng như vậy? Lý trí nói rằng chàng không nên gặp nàng nữa, nhất định là không nên gặp, nhưng sự yếu đuối nơi con tim và nỗi nhớ lại khao khát thôi thúc được chuyện trò với nàng, hay chỉ đơn giản là được đứng từ xa nhìn nàng, dầu là một chút, để biết được rằng nàng vẫn khỏe mạnh, vẫn bình an, vậy là được.

Cửu Dương lại khẽ nhìn Tần Thiên Nhân, nhủ bụng nếu chàng ở lại nơi này, những khi nhớ nàng, đành phải kìm nén nhiều lắm. Mà càng kìm nén nỗi nhớ trong lòng thì càng thêm tấy đau tê tái hơn. Chàng phải tự biết chàng là ai. Chàng không còn là kẻ thích nhớ nàng lúc nào cũng được, không được thân mật với nàng nữa.

Mọi thứ cảm xúc đang trải qua thực sự đối nghịch lấy nhau một cách tồi tệ. Cửu Dương chỉ muốn thoát khỏi sự bế tắc trong tâm hồn ngay lúc này. Biết thế nào được nhỉ? Buồn, nhưng chàng vẫn còn rất yêu nàng. Có lẽ sẽ rất lâu sau đó chàng mới bình tâm và quên được nàng. Rời xa nơi này, có phải là sự lựa chọn đúng đắn cho chàng hay không? Liệu đây có là thử thách cuối cùng cho tình yêu này hay là một sự chấm dứt vĩnh viễn để có một bắt đầu mới tươi đẹp hơn? Xa nhau, khoảng cách địa lý, liệu tình yêu chàng dành cho nàng có nguôi ngoai được không, hay lại khiến trái tim chàng vì quá yêu nàng mà không thể một lần rung động nơi đất khách quê người? Nàng vốn dĩ là một làn gió. Đúng hơn là một cơn giông bão, mang tới bao nhiêu cuồng nhiệt nhưng cũng chứa đựng bao nhiêu sự tổn thương cho người đón nhận.

Cửu Dương suy nghĩ một lát cuối cùng cũng gật đầu làm theo lời Khẩu Tâm.

Nhưng Tần Thiên Nhân vừa mới được hội ngộ cùng Cửu Dương, nhất là sau trận hành thích Khang Hi, tưởng rằng không còn cơ hội gặp lại người em trai này nữa, cho nên Tần Thiên Nhân không nỡ xa Cửu Dương.

-Không biết đệ phải đi bao lâu? - Tần Thiên Nhân nói.

Cửu Dương đáp:

-Chắc phải là một thời gian dài, chờ cho chuyện im rồi mới trở về nơi này.

Tần Thiên Nhân lại nói:

-Nhưng đệ là viện trưởng, không dưng mất tích, hình như có gì đó không được ổn cho lắm.

Điều Tần Thiên Nhân nghĩ tới Trương Quốc Khải cũng có nghĩ tới, bèn nói:

-Thường ngày đệ ý cũng ít khi xuất hiện trong trường, chắc sẽ không sao đâu, nhỡ có người hỏi đến lão Trần có thể nói viện trưởng theo lịch trình đi sang các tỉnh lân cận để dạy học rồi, hay là đi nghiên cứu tài liệu ở nơi khác là được rồi.

Tần Thiên Nhân lắc đầu:

-Như vậy chỉ giải quyết được vấn đề tạm thời thôi, không giải quyết được lâu dài đâu.

-Vậy lão Trần có thể nói rằng viện trưởng đã từ chức rồi - Cửu Dương nói.

Tần Thiên Nhân hỏi:

-Từ chức? Với lý do gì mới được chứ?

-Thì... - Cửu Dương trả lời - Lý do là tấm ngự biển, cứ bảo rằng vật khâm thí bị mất đi, chuyện lớn như vậy xảy ra tuy là đã tìm lại được nhưng viện trưởng tự thấy hổ thẹn nên đành từ chức. Cứ nói vậy là được.

Cửu Dương lấy lý do này, Tần Thiên Nhân không biết phải nói gì thêm.

Tàu Chánh Khê chợt nhớ tới một chuyện, vội nói:

-Thế còn cống sinh, nếu binh lính tới trường hỏi tìm cống sinh phải làm sao đây?

-Cứ bảo bọn họ không muốn lên kinh nên về quê hết rồi - Cửu Dương nói.

Tần Thiên Nhân nói:

-Nhỡ mà triều đình buột chúng ta phải chịu trách nhiệm...

Cửu Dương nói:

-Làm gì có chứ, tại sao lại bắt trường học phải gánh trách nhiệm? Chúng ta mở trường, học sinh đến đăng ký theo học, không học có quyền đi về, chúng ta đâu phải nha môn mà bắt giam họ lại được?

-Nghĩ cũng phải…

Tần Thiên Nhân cuối cùng cũng đành để Cửu Dương đi, tuy trong lòng rất buồn, chàng nói:

-Được rồi, mọi việc theo quyết định của đệ.

Trương Quốc Khải thình lình lên tiếng:

-Vậy tất cả cống sinh đêm nay hẹn gặp nhau tại Thanh Tịnh tự chứ? Để đệ đi chuẩn bị ngựa.

Cửu Dương nghe vậy, bấm mấy lóng tay, gật gù nói:

-Nếu tất cả đi chung cùng một lúc như vậy, thì phải cần đến hơn trăm bộ quần áo bông, vì mùa đông sắp tới rồi, thêm vào đó họ đều là sức trai trẻ cả, nên phải mang theo năm chục bao gạo trắng nữa, đi di cư mà, có cơm còn phải có đồ ăn chứ, nên cũng phải vác luôn theo ba trăm cân thịt khô. Sau đó, nhỡ có đụng chuyện đánh nhau với triều đình lại phải cần dùng tới tám chục cây cung, tám trăm cây tênh, ba mươi cây đao bén, ba mươi chiếc xe to và ba chục con tuấn mã để kéo xe. Tất cả tính nhẫm đi nhẫm lại thì là hai trăm ba mươi sáu lượng bạc…

Trương Quốc Khải vốn không quen kiểu nói chuyện lung khởi thường gặp này của Cửu Dương, không biết Cửu Dương đưa ra một lượt các liệt kê về những con số để làm gì? Trương Quốc Khải không ngừng giơ tay lên vò đầu.

Tàu Chánh Khê và Khẩu Tâm thấy vậy bật cười.

Té ra là vậy, Trương Quốc Khải sực hiểu, hóa ra tên thất sư đệ này nói chuyện dông dài cố ý chọc cái tính tình hồ đồ và ưa hấp tấp này của chàng. Cửu Dương thường hay đùa chàng cùng họ Trương giống như Trương Phi, gặp chuyện gì Trương Phi cũng hấp tấp nóng lòng đến độ mũi sắp thở ra khói.

Truơng Quốc Khải há hốc miệng, không dè Cửu Dương lại đùa chàng trong lúc này, liền thu nắm tay lại, đấm vào vai trái Cửu Dương một phát.

Cửu Dương đảo mình sang phải rất nhanh, cùng lúc cũng khua chân chạy đi. Trương Quốc Khải rượt theo sau lưng Cửu Dương.

Tần Thiên Nhân nhìn hai sư đệ một người đánh một người né, cũng cười nói:

-Không đi chung được thì nên chia nhau đi vào ban đêm, khác ngày càng tốt, theo từng nhóm người, rồi hẹn tụ tập ở một nơi nào đó.

Cửu Dương vừa khua chân liên tục chạy thoát khỏi tầm đánh của Trương Quốc Khải, vừa lấy một vật tròn tròn trong lưng quần ra, vẫy trả ra sau. Cửu Dương không dùng kình lực, cái vật tròn nhỏ đó từ từ bay về trước ngực Tần Thiên Nhân.

Tần Thiên Nhân bèn đưa tay đón lấy:

-Đệ đưa đồng xu này cho huynh làm gì?

Cửu Dương ngoảnh đầu lại nói:

-Đồng xu này được cái gì đúc thành?

-Dĩ nhiên là đồng.

-Không - Cửu Dương xua tay - Sáu phần là đồng, bốn phần là chì.

-Thì ra đại Thanh đúc tiền mà cũng là giả sao? - Tần Thiên Nhân tròn mắt.

-Không - Cửu Dương tiếp tục xua tay nói - Vì khó kiếm được đồng, nên người nào tìm được thì sẽ phát tài.

Tàu Chánh Khê và Khẩu Tâm đưa mắt ngó nhau, không biết hai huynh đệ nhà họ Tần đang nói với nhau những gì.

Đến khi nghe Tần Thiên Nhân nói, họ mới à lên một tiếng:

-Thì ra đệ muốn đi đến Đồng Sơn tỉnh Tứ Xuyên?

-Đúng rồi - Cửu Dương đáp, lúc này chân chàng có hơi chậm lại - Đệ muốn hẹn gặp các cống sinh ở Tứ Xuyên, bọn họ có thể giả làm nhân công giúp đệ lên núi tìm đồng, đệ hóa trang thành một thương gia khai thác mỏ đồng, trên tay cầm theo quyển Đồng Sơn Chí thì không ai nghi ngờ gì được.

Tần Thiên Nhân nghe Cửu Dương nói, cho là phải. Dù sao mấy cỗ xe ngựa cùng hành tẩu giang hồ trong một thời điểm như Trương Quốc Khải nói đương nhiên sẽ khiến người ta nghi ngờ. Như vậy sẽ không phải là thượng sách trong kế hoạch trốn chạy này.

-Chỉ e - Tần Thiên Nhân vẫn còn phân vân - Các học sinh ra dáng thư sinh như vậy, da vẻ trắng trẻo không rám nắng như những người thợ đồng...

-Không sao đâu, tới đâu hay tới đó vậy, khi đó đệ sẽ nghĩ thêm ra cách nữa, chuyện bây giờ là đưa họ rời khỏi Hàng Châu trước đã.

Khi Cửu Dương nói câu này thì Trương Quốc Khải đã bắt được tay áo chàng.

Cửu Dương dừng chân hẳn lại. Lúc nãy chàng chỉ thuận miệng nói đùa một câu trêu sư huynh thôi, chứ không có tâm tình tỉ võ với Trương Quốc Khải, nên vội xá một cái nói:

-Rồi, rồi, đệ xin thua!

-Mau tạ lỗi đi!

-Xin lỗi tam ca!

-Vậy mới được chứ!


Trương Quốc Khải cũng chỉ đùa chơi thôi, chàng cũng thu quyền lại bật một tràng cười sảng khoái.

Tàu Chánh Khê thấy hai người kia so tài cao thấp cũng vui nhộn, bước ra nói với Trương Quốc Khải:

-Lúc nãy đệ thấy thần khí của tam ca thật đã khôi phục hoàn toàn cả rồi ha, mà cũng lâu lắm rồi chúng ta không luyện võ với nhau, vậy xin tam sư huynh cho đệ thọ giáo vài chiêu?

-Hảo!

Trương Quốc Khải nói, cả tháng nay chàng bị nữ thần y buộc phải nằm trên giường dưỡng bệnh, “tù cẳng” chết được, nghe vậy thấy phấn khởi trong lòng.

-Vậy đệ không khách sáo đâu!

Tàu Chánh Khê nói rồi phóng lại trước mặt Trương Quốc Khải, xuất chiêu thức đầu tiên trong bộ Phiên Tử Quyền, thu nắm tay phải lại đấm vào mặt Trương Quốc Khải.

Phiên Tử Quyền là một bộ môn quyền thuật chú trọng kỹ pháp tấn công thay vì phòng thủ bằng các chiêu thức thủ pháp và có nguồn gốc từ Ưng Trảo Quyền của Thiếu Lâm, tục gọi Phiên Tử Quyền là loại quyền thuộc dòng đánh gần, giáp lá cà. Bộ pháp này có mười hai giá tử, hay gọi là quyền thức, và tám phép lật tay, hay gọi là Phiên tử trong thủ pháp nên mới có tên là Phiên Tử Quyền.

Trương Quốc Khải nghiêng mình ra sau tránh được chiêu đầu tiên mà Tàu Chánh Khê đánh ra, đồng thời thoái lui mấy bước. Tàu Chánh Khê lại vẫn dùng đòn tay xuất thủ thật nhanh, liên tiếp nhau như mưa rào. Hai tay phát ra như hai ngọn roi da quất lên nghe vùn vụt. Trương Quốc Khải lại tránh được toàn thể hai mươi chiêu.

Sau khi dùng đòn tay mà không tiếp cận được Trương Quốc Khải, Tàu Chánh Khê lại rút cây đao đeo phía sau lưng ra đâm thẳng tiếp. Trương Quốc Khải không có cách nào tránh né nữa, phải tuốt Phục y kiếm ra đỡ. Keng một tiếng vang lên! Hai thanh đao kiếm chạm nhau bắn lửa tung tóe.

Như mọi lần, khi các sư huynh cùng luyện tập võ nghệ, Cửu Dương ít khi tham gia vào, chỉ đứng thổi tiêu để trợ lực thêm cho họ, năm xưa cũng thường như vậy. Cho nên ngoài Cửu Nạn sư thái thì các đương gia cũng không biết rõ dạo gần đây võ công Cửu Dương tiến triển tới mức độ nào?

Một chân Cửu Dương đạp lên tảng đá, hai vạt áo dài màu trắng theo gió bay lên, mắt chàng trông theo hướng bờ hồ, động tác nhuần nhuyễn, âm thanh êm dịu, tiếng tiêu vang xa nghe du dương tao nhã. Tiêu của Cửu Dương là tiêu chín khúc, được làm bằng tre, loại tiêu chín khúc này là quý nhất trong các loại tiêu.

Tần Thiên Nhân và Khẩu Tâm đứng đó mắt thì xem trận tỉ võ, tai thì nghe Cửu Dương thổi bài Đào Xuân Hoa. Tần Thiên Nhân tự nhiên nhớ bài thơ đời nhà Đường mà Lý Bạch từng viết:

Thùy gia ngọc địch ám phi thanh,

Tán nhập xuân phong mãn Lạc thành

(Nghĩa là: tiếng tiêu ngọc nhà ai thoảng đưa tới, hòa trong gió xuân bay khắp thành Lạc Dương.)

Lại nói về trận tỉ võ, thêm một khắc nữa trôi qua, Tàu Chánh Khê và Trương Quốc Khải cả hai qua lại chớp mắt đã được gần một trăm chiêu.

Qua thêm nhiều chiêu thức nữa, Cửu Dương thổi tới đoạn hoa đào bị cuốn xoay tròn trong cơn gió lốc, tiếng tiêu vang lên cao hơn, nhịp cũng gần hơn.

Tàu Chánh Khê cũng theo nhịp tiêu bèn cử đao lên khua đao một vòng, rồi chém cách không vào một tàng thông gần đó, quét chiêu thức về hướng Trương Quốc Khải, bắn ra những lá thông nhỏ và nhọn hoắc như những mũi kim châm. Sau khi Tàu Chánh Khê xuất hư chiêu vội xuất chiêu Thái Cực Đường Lang đâm thẳng vào vai Trương Quốc Khải. Đây chính là tuyệt kỹ của Tàu Chánh Khê, chính chiêu này đã làm nên danh tiếng Bát Bộ Truy Hồn của chàng.

Ngờ đâu kiếm pháp của Trương Quốc Khải rất nhanh, rõ ràng là đang dùng thanh Phục y kiếm quay mòng mòng như chong chóng dốc hết tinh thần đỡ những lá thông đang lao đi vùn vụt, thế mà khi mũi đao gần đâm trúng vai thì chàng đột nhiên đưa hai ngón tay không cầm kiếm lên kẹp lấy lưỡi đao. Tàu Chánh Khê còn đang tròn mắt thán phục, Trương Quốc Khải tiện thể xoay cổ tay một cái, đoạt luôn được cây đao.

Tàu Chánh Khê thua cho Trương Quốc Khải, cam bái hạ phong, nhận lấy thanh đao trả vào vỏ xong cúi đầu nói:

-Người ta vẫn nói ra ngõ gặp anh hùng, công phu của tam ca thật là tuyệt diệu. Tiểu đệ bị thua rồi.

Tàu Chánh Khê nói xong lui về đứng cạnh Tần Thiên Nhân và Cửu Dương. Ba người đứng dưới tàn cây bồ đề. Đến lượt Khẩu Tâm bước ra.

Khẩu Tâm không nói không rằng, bay tới trước mặt Trương Quốc Khải đánh liền ngay ba chiêu trong bộ Độc Lư Hương, trận tỉ đấu đã khai diễn.

-Được lắm!

Trương Quốc Khải nói, kiếm trong tay cũng đảo trái đảo phải cản đường quyền của Khẩu Tâm.

Lần này Trương Quốc Khải đấu với Khẩu Tâm, một người lợi về chiêu thức, một người lợi về sức mạnh, nhất thời đã năm mươi chiêu còn chưa phân thắng bại.

Khẩu Tâm có thân hình to lớn chắc nịch, nên dùng đôi chân và thân mình mô phỏng hoàn hảo thần thái của chiếc độc lư cắm những cây hương trên các bệ thờ. Hai tay Khẩu Tâm cũng to và dài ngoằn, được Khẩu Tâm sử như hai cây thương để đi bài thương Độc Lư Hương, thể hiện sự vững chắc liền lạc, từng chiêu thức kín đáo khi phòng thủ, thần tốc và bất ngờ khi tấn công.

Những khi Khẩu Tâm xuất đòn tay, tiếng gió lồng vào ống tay áo vang lên gấp rút, Trương Quốc Khải đều ngỡ khí thế giống như núi lở.

Đấu thêm mấy mươi chiêu nữa, hai bên thái dương và trán của Trương Quốc Khải đã lấm tấm mồ hôi nhưng thần sắc Khẩu Tâm vẫn ổn định, khí lực vẫn đầy đủ, thân pháp cùng bộ pháp hoàn toàn không chậm lại.

Ngay sau đó kiếm pháp của Trương Quốc Khải đột nhiên thay đổi, chàng đã dùng tới tuyệt kỹ Mãnh Xà Thần Lâu, kiếm pháp khúc xạ ánh mặt trời phát sáng ra và uống lượn như một con bạch xà. Kiếm phong từ mũi kiếm vọt ra, kiếm chiêu nửa hư nửa thật, tưởng là thật mà lại là hư, tưởng là hư nhưng lại thật. Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê hai người đều nín thở ngưng thần nhìn không chớp mắt.

Song Khẩu Tâm rất bình tĩnh tiếp chiêu, chàng dùng thiết đầu lôi được xếp lại như một bát quái đồ cất trong ngực áo. Khẩu Tâm nhanh tay vạch ngực áo ra, dùng thiết đầu lôi như một tấm gương bằng sắt phản chiếu lại quầng kim quang phát ra từ chiêu tuyệt kỹ của Trương Quốc Khải, làm chớp lên những tia bạch quang của trường kiếm. Trương Quốc Khải phải nhắm mắt lại để ánh sáng phản chiếu không làm cho mờ mắt, kiếm chiêu cũng vì vậy mà đi lệch hướng, không trúng mục tiêu nữa. Khẩu Tâm vì vậy mà tránh được chiêu kiếm tuyệt kỹ của tam sư đệ. Và cũng nhân lúc Trương Quốc Khải còn chưa mở mắt ra, Khẩu Tâm mới cất giọng la lên một tiếng, tung mình nhảy một vòng bay lên trời, trong tư thế chúi mình xuống đất Khẩu Tâm cũng đồng thời đánh một chưởng xuống đỉnh đầu Trương Quốc Khải.

Trương Quốc Khải không kịp biến chiêu, cũng không kịp thu kiếm về để đưa mũi kiếm thẳng lên chống đỡ, chỉ còn cách dùng tay còn lại tung chưởng pháp đánh ra. Trương Quốc Khải liền vận nội lực vào tay trái đón tiếp phát chưởng, còn tay phải cầm kiếm đâm xuống đất để giữ thế. Hai chưởng gặp nhau nghe bùng một tiếng.

Hai bên duy trì như thế một lúc. Khí lực của Khẩu Tâm vốn đã mạnh hơn, lại có thế đè từ trên xuống nên chưởng pháp cứ như dần dần ép sát vào đầu Trương Quốc Khải. Thì ra nội lực hai bên phân biệt khá nhiều.

Tần Thiên Nhân và Tàu Chánh Khê hai người không hẹn mà cùng vỗ tay hoan hô.

Khẩu Tâm tung người nhảy ra ngoài một trượng, đáp xuống đất làm động tác thu nội công về.

-Sát thủ Thiết đầu lôi đúng là danh bất hư truyền! - Trương Quốc Khải chấp hai tay lên tiếng tán dương - Đệ chịu thua.

Tàu Chánh Khê đang gật gù thán phục võ công của Khẩu Tâm, chợt chàng bàng hoàng phát hiện từ nãy đến giờ Khẩu Tâm chỉ cần hai tay đã thừa sức áp đảo được Nghĩa đảm kiếm khách, chẳng cần dụng tới binh khí.

Sau khi Khẩu Tâm đả bại Trương Quốc Khải, chỉ còn lại Tần Thiên Nhân, Khẩu Tâm nói:

-Tổng đà chủ ưa khen đệ thông minh, võ công lại cao, huynh cũng muốn xem xem, mấy năm nay, đệ ở đồn Bạch Nhật cùng bà học thêm được những gì?

Nói rồi phát chiêu đánh ngay khi Tần Thiên Nhân vừa mới nhảy vào vòng chiến.

Tần Thiên Nhân khác với Trương Quốc Khải, không vội vã xuất chiêu mà nhường Khẩu Tâm mười lăm chiêu rồi mới đánh trả.

Lần này Khẩu Tâm ra đòn chiêu nào chiêu nấy nom có vẻ cương quyết hơn khi đánh với Trương Quốc Khải, còn Tần Thiên Nhân chỉ phòng thủ chứ chẳn chịu tấn công. Chỉ nghĩ đơn giản đây là buổi luyện tập và trao đổi võ nghệ thôi.

Bấy giờ Cửu Dương đã thổi sang bài Bạch Vân Tiên. Cửu Dương biết rất nhiều bài nhưng có năm bài ruột, một là Đào Xuân Hoa, hai là Long Phụng Ngâm, ba là Bi Đao Ca, bốn là Đại Thiên Sơn, năm là Bạch Vân Tiên. Bài thì khẳng khái kịch liệt, bài thì uyển chuyển triền miên, bài nào cũng có chỗ hay riêng biệt.

Cửu Dương thổi hết bài này đến bài kia, nhất là đây có lẽ là lần cuối chàng thổi tiêu với các sư huynh nơi này, sau đó có thể rất lâu chàng mới về đây nữa, nên cả năm bài tiêu tấu trổi lên từ đầu đến cuối một lần. Tiếng tiêu thanh thoát thấu suốt tầng mây, phủ khắp bốn phương.

Hai đương gia còn đang đánh nhau rất kịch liệt.

Khẩu Tâm xuất một lượt hai mươi bảy trong ba mươi sáu thế Tam thập lục quyền của phái Thiếu Lâm. Tuy những thế đánh này rất hung mãnh bắt buộc Tần Thiên Nhân phải lui nhưng bộ tấn của Tần Thiên Nhân rất vững vàng, khiến cho Khẩu Tâm cứ đánh mà vẫn không thể nào bắt Tần Thiên Nhân xê dịch được. Lại nữa, Khẩu Tâm càng không tránh khỏi những quyền chưởng phóng tới ào ào đập xuống từ thiếu đà chủ. Bao nhiêu quyền, chưởng Khẩu Tâm đánh ra đều bật ngược trở lại, chẳng khác gì đập vào thỏi sắt khiến cho gân tay tê buốt mà Tần Thiên Nhân dường như chẳng cảm thấy gì.

Tần Thiên Nhân nổi danh trong giang hồ là một cao thủ đòn quyền, tuy cũng sử dụng đòn tay Phiên Tử Quyền như trận đánh mở màn của Tàu Chánh Khê đấy nhưng thế thức động tác ngắn nhỏ tinh vi hơn, phát kình cũng nhanh và mạnh, quyền pháp cũng dày đặc hơn.

Khi Tần Thiên Nhân đánh đặc điểm là động tác chỉ một khí, nghĩa là một lần hít thở, là thành quyền, vì thế quyền ngạn mới bảo: Phiên tử nhất quải tiên.

Khẩu Tâm sau mấy mươi chiêu biết nếu như chàng đấu tay không đương nhiên sẽ không bằng Tần Thiên Nhân được. Khẩu Tâm liền cho tay vào áo cà sa để lấy binh khí thiết đầu lôi ra.

Tần Thiên Nhân dường như đọc được suy nghĩ của Khẩu Tâm, lập tức tung Tỏa Chỉ Công, chiêu thức hai mươi hai trong bộ Hổ Hạc Song Hình quyền ra sức bấu vào hai cổ tay Khẩu Tâm, ngăn chặn không cho nắm lấy Thiết Đầu Lôi.

Khẩu Tâm cũng nhanh chớp nhoáng vận quyền thi triển chiêu thứ năm mươi lăm Phân Thủy Công của bộ Hùng Kê Quyền rẽ đôi tay của Tần Thiên Nhân sang hai bên. Tần Thiên Nhân bị ép buộc phải buông tay. Khẩu Tâm mới thành công rút binh khí Thiết đầu lôi ra, vung nghe veo véo. Tần Thiên Nhân liền xoay người một vòng cung chân hất vào những tảng đá gần đó. Đòn thứ mười một Thiết Tảo Công của bộ Thất Thập Nhị Huyền Công này quét vào đá làm bay vèo vèo lên không trung, tung hàng loạt những tảng đá về phía Khẩu Tâm.

Quả nhiên theo tính toán của Tần Thiên Nhân, vũ khí Thiết đầu lôi cho dù có bén nhọn thế nào khi chụp trúng vào những khối đá to lớn cũng không sao cắt nổi được. Hơn nữa còn bị vài khối đá đè cho sợi xích sắt dính chặt xuống lòng đất.

Khẩu Tâm đành vứt Thiết Đầu Lôi sang một bên, vội tung chưởng vào những cành cây khô đã được các chú tiểu quét dọn chất thành một đống cao như cái nhiễu gần đó. Những cành cây bay vọt lên mười mấy thước, Khẩu Tâm lại bồi thêm một chưởng như vũ bão nữa.

Cửu Dương ở cách đó một đoạn tự dưng thấy không yên trong lòng, đứng xem lại càng thất thần. Lúc này chàng suýt quên mất chuyện thổi tiêu của mình, mắt chú ý nhìn trận đánh khi những cành cây khô như một trận mưa tênh bay tới tấp về phía Tần Thiên Nhân.

Song Tần Thiên Nhân không chút e dè, lập tức phá trận bằng cước thứ ba của bộ Thất Thập Nhị Huyền Công là Túc Xạ Công, cú song phi cước cắt chéo tuyệt kỹ này được thể hiện bằng cách chân trái diệt bên phải, chân phải triệt bên trái. Tần Thiên Nhân dùng ngón và ức của bàn chân đá những cành cây đang tấn công chàng từ hai phía tả hữu, làm cho chúng nát tan ra, dệt thành một bức màn như cát bụi li ti.

Cửu Dương lại tiếp tục công việc thổi tiêu.

Ngay sau khi Tần Thiên Nhân sử Túc Xạ Công, tức tốc phối hợp tinh xảo đòn cước với Châu Sa Chưởng, âm công tối độc thứ mười bảy này cũng là của bộ pháp Thất Thập Nhị Huyền Công. Tần Thiên Nhân dùng tay khuấy tấm màn bụi bay vuốt lên cao, xoáy vòng như phong bão, chưởng gió lốc, khí lồng lộng bay về phía Khẩu Tâm.

Cũng vào lúc này âm thanh của tiếng tiêu của Cửu Dương đang êm ái mơ hồ, bỗng cũng đổi điệu cao bổng lên đầy vẻ sát phạt tựa hồ như có thiên binh vạn mã đang kéo đến ầm ầm. Khẩu Tâm nghe tiếng tiêu đồng thời cảm thấy dường như đang bị hãm vào vòng vây.

Khẩu Tâm chỉ còn cách phi thân lên cao nhưng tàn cây bồ đề to lớn không cho phép Khẩu Tâm sử chiêu năm mươi sáu của Thất Thập Nhị Huyền Công là Phi Thiềm Tẩu Bích để nhảy lên tránh né chưởng pháp. Giây phút mà Tần Thiên Nhân thấy đại sư huynh sắp sửa bị nguy kịch, Tần Thiên Nhân vội thu hồi chiêu thức khiến tấm màn bụi ngưng động, rớt xuống mặt đất.

Cửu Dương nhận thấy sắc mặt của Khẩu Tâm đột nhiên lạnh lại, và thấy Khẩu Tâm cũng thừa cơ hội Tần Thiên Nhân thu nội công về phát một chưởng vào giữa ngực Tần Thiên Nhân. Nhưng chưởng pháp xé gió chưa kịp chạm vào ngực thiếu đà chủ đã bất ngờ bị một vật cản lại.

Đồng thời điểm này tiếng sát phạt vọt lên một lúc, mọi người vừa bị cảm xúc thì thanh âm đó cũng im bặt.

Thay vào tiếng tiêu là một tiếng rụp đanh gọn vang lên.

Cửu Dương vụt phóng lại đứng giữa hai người sư huynh, gãi gãi lưng nói:

-Chậc, xin lỗi hai huynh, đệ bị con sâu chết tiệt này…

Vừa nói vừa xòe tay trái ra, có cái gì màu xanh nhỏ xíu trong lòng bàn tay chàng.

Cửu Dương nói rồi chẳng cho ai kịp nhìn con sâu, nhanh tay ném vào một lùm cây.

Tần Thiên Nhân tuy biết mình đã thắng cuộc rồi, vẫn chắp tay cung kính nói:

-Đại ca võ công thật lợi hại.

-A di đà Phật, cũng là nhị đệ nhường cho huynh.

Tần Thiên Nhân lại mở miệng định nói gì thêm, thì lúc này Tiểu Tường, Hiểu Lạc và nữ thần y chạy đến gọi họ về ăn tối.

Khẩu Tâm bái chào mọi người rồi trở vào chùa Thanh Tịnh, còn Trương Quốc Khải và Tàu Chánh Khê thì đi cùng hai người con gái và Hiểu Lạc. Nữ thần y trách Trương Quốc Khải sao lại không ở trong phòng nghỉ ngơi. Trương Quốc Khải giơ tay phân bua gì đó. Nữ thần y bèn quay sang liếc xéo Hiểu Lạc một cú, vì nhiệm vụ của nó là chăm sóc bệnh tình cho tam đương gia. Nữ thần y là cô gái nổi tiếng hiền hậu nhất trong hội, dĩ nhiên cú liếc của nàng không có chứa một chút sát khí gì hết, ấy vậy mà cũng làm cho Hiểu Lạc rụt cổ lại. Bởi từ nhỏ nó đã theo nàng, được nàng chăm sóc như một người chị, đôi khi như một người mẹ. Đúng với câu quyền huynh thế phụ chị cả như từ mẫu mà người xưa hay nói, vì Hiểu Lạc đã sớm là một đứa trẻ mồ côi rồi.

Tần Thiên Nhân và Cửu Dương hãy còn đứng trong luyện võ đường, Cửu Dương nhìn chiếc bóng Khẩu Tâm mất hút sau ngõ quẹo, trong lòng có hơi không vui. Lại đưa mắt nhìn ống tiêu bị gãy làm hai đoạn dưới chân chàng. Cửu Dương thoáng cau mày, nhủ lòng tuy không có giao trước nhưng đây không phải là cuộc tỉ thí thật, không ngờ Khẩu Tâm lại đánh quyết liệt như vậy, nhất là cái chiêu cuối cùng đó... Khi đó mắt chàng thấy Tần Thiên Nhân bị nguy hiểm liền phóng ống tiêu ra đỡ giúp lấy một chiêu.

Cửu Dương quay sang Tần Thiên Nhân, hỏi:

-Huynh có sao không?

Tần Thiên Nhân không nghe câu hỏi này, Cửu Dương thấy sư huynh đang nhìn theo tấm lưng của hai người con gái đang đi đằng xa xa, gương mặt Tần Thiên Nhân rạng lên. Cửu Dương biết ánh mắt Tần Thiên Nhân đang dõi theo người nào, đương nhiên không phải là Tiểu Tường.

Khi bóng hình hai cô gái khuất sau rặng tre, Tần Thiên Nhân chớp mắt trở về với thực tại, nhìn Cửu Dương, nói:

-Hả, đệ vừa mới nói gì?

Cửu Dương lắc đầu.

Đoạn chàng nén cơn đau trong lòng lại, nở một nụ cười:

-Đúng là nhân duyên thiên sinh định, hồng túy vạn ý thiên.

-Hả, đệ nói gì nữa đó? - Tần Thiên Nhân lại ngơ ngác hỏi.

Cửu Dương lại tiếp tục lắc đầu mỉm cười.

Tần Thiên Nhân nhíu mày suy nghĩ câu thơ em trai chàng đọc vừa rồi, nhưng mãi mà không hiểu câu thơ đó có nghĩa là gì, lát sau đành chịu, Tần Thiên Nhân so vai cười nói:

-Viện trưởng quả thật là viện trưởng, người ăn học quả thật có khác, người không được học cao như huynh đây nghe thơ văn gì cũng không thấu hiểu, huynh đây phục đệ rồi đó.

Nói xong chàng bá vai sư đệ, hai người cùng đi về Hắc Viện.

Tiểu Tường vừa đi đằng trước hai sư huynh đệ Tần gia, nàng vừa chuyện trò với nữ thần y, chốc chốc nàng khẽ quay lại nhìn Cửu Dương, nhìn cái dáng của chàng đang liêu xiêu bước đi thật chậm mà lòng nàng nặng trĩu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 11: Âm mưu

Đêm đã khua, bỗng có tiếng vó ngựa lóc cóc càng lúc càng gần, chẳng mấy chốc đã đến trước khách sạn Hưng Phát của tỉnh Hàng Châu. Ngựa vừa dừng vó thì tiếng gõ cửa vang lên, rồi tiếng bọn tiểu nhị mở cửa.

Một người áo đen đội nón rơm rộng vành che sụp xuống gương mặt đưa dây cương cho một tiểu nhị. Tiểu nhị đó chạy ra dắt ngựa đi cho ăn, tiểu nhị khác hỏi khách có trú lại hay không? Người áo đen nói gì đó. Tiểu nhị dẫn y đi đến một căn phòng sang trọng hạng nhất của khách sạn rồi nói sẽ làm nóng bình trà rồi mang tới.

Sau khi tiểu nhị rời đi, người áo đen gõ cửa, có tiếng vọng ra từ trong phòng, người áo đen vội vã đi vào, cởi chiếc nón xuống ôm trong tay.

-Tham kiến Phủ Viễn tướng quân, phó tướng Mai Lặc Chương Kinh.

Người áo đen đi đến góc phòng quỳ xuống thỉnh an hai kẻ nam nhân trẻ tuổi.

-Chuyện cống sinh đã tới đâu rồi?

Phó tướng quân Tô Khất lên tiếng hỏi, sau khi phẩy tay ra hiệu cho tên thuộc hạ đứng dậy.

-Dạ bẩm Tô phó tướng - Người áo đen đáp - Tất cả đã được lo liệu.

Tô Khất nói:

-Người này không dễ dàng đối phó, muôn sự ngươi phải cẩn thận.

-Dạ.

Người được gọi là Phủ Viễn tướng quân nãy giờ ngồi trên ghế không nói năng gì. Y thầm nhủ từ khi Mã Lương qua đời, tưởng đâu Hắc Viện sẽ phải đóng cửa rồi, nhưng thư viện không vì vậy mà vắng đi học trò, trái lại ngày càng đông hơn, cái nhân vật tên là Tần Thiên Văn này quả tình không đơn giản chút nào...

Y còn đang ngẫm nghĩ, thì Tô Khất quay sang y nói:

-Tướng quân à, lần này chuyện Hoàng Hà thiên tai thật là trúng thời điểm, coi bộ lão Thiên cũng giúp cho mình.

Phủ Viễn tướng quân thủng thẳng gật đầu.

Người áo đen nói:

-Lần này điều được hai người đó đi khỏi Hàng Châu, thật đúng như dự định của tướng quân. Còn hắn…thế nào cũng sẽ cần đến lương thực thôi.


Tô Khất nghe người áo đen ám chỉ một người, gật gù:

-Ừ. Chỉ cần hắn đi cướp lương thảo là rơi vào trận mai phục của mình.

Rồi Tô Khất bày một tấm địa đồ lên trên mặt bàn, đem mọi kế hoạch ra kể lại với người áo đen.

Người áo đen chăm chú lắng nghe, đoạn nói:

-Võ công của Vạn Văn Thông, Hồ Quảng Đông, Lạc Thiết Môn, Bạch Kiếm Phi và Nhất Đình Phong rất vững, làm sao có thể giết chết bọn này trước là kế hoạch của chúng ta như đạt được phân nửa.

Tô Khất gật đầu. Mặc dù gật gù là vậy mà trong lòng Tô Khất không tránh khỏi một nỗi lo âu mơ hồ, Tô Khất đã từng nghe người trong giang hồ kể về quần hùng Đại Minh Triều, người nào người nấy bản lãnh ghê gớm. Lại thêm vào mấy người đương gia võ nghệ cao cường nữa, gan dạ cũng không nhỏ. “Nhưng dù sao phe ta có Phủ Viễn tướng quân, ngài là truyền nhân của Võ Ma Long Thiên Hổ, cộng thêm đoàn binh thiết giáp và đoàn cảm tử binh Chính Bạch Kỳ,” Tô Khất tự mình trấn an mình, “thì cho dù bên Đại Minh Triều có giỏi võ tới đâu cũng không địch nổi số đông được.”

Tô Khất và người áo đen hai người nói chuyện với nhau khá lâu, khi nói xong quay sang tướng quân của họ.

Ngờ đâu Phủ Viễn tướng quân nghe xong chỉ nói:

-Đã tìm ra người con gái đó rồi hay chưa?

Người áo đen đáp:

-Dạ bẩm tướng quân, ả đã về đến tổng đà rồi.

Lúc những người này đang nói chuyện thì tiểu nhị của nhà trọ Hưng Phát đứng ở ngoài hành lan ghé tai nghe lén. Tiểu nhị biết nội công của mấy người này thâm hậu, nên không dám chọc thủng giấy dán cửa sổ để nhòm ngó, chỉ cố nén hơi thở mà nghe.

Tiểu nhị nghe tới đoạn nói về một cô gái thì cánh cửa bỗng mở ra. Tiểu nhị bèn giả vờ chuyện không liên can đến hắn, vào phòng đặt bình trà lên bàn rồi ôm chiếc khay vào trong lòng và chậm rãi rời đi. Tiểu nhị trở vô nhà bếp, không hay người áo đen đang lẵng lặng bám theo hắn.

---oo0oo---

Sau bữa cơm chiều khá muộn, Lữ Nghị Chánh thắp đèn chuẩn bị nghỉ ngơi. Phòng ngủ của chàng ở gần cửa phía Nam của Hắc Viện.

Trời bên ngoài nhờ nhờ, đục đục. Trăng thượng tuần xuống đến chân trời, khuất sau những đám mây xa, tỏa ra một thứ ánh sáng mờ mịt trộn lẫn với sương đêm nom như khói xám.

Trong đêm tĩnh lặng, bỗng nổi lên tiếng chó sủa, rồi phảng phất nghe tiếng chân từ xa truyền tới. Lữ Nghị Chánh bèn rời phòng ngủ, bước nhè nhẹ ra hành lang.

Quả nhiên có chuyện bất thường, Nghị Chánh thấy trên bức tường phía Đông thấp thoáng bóng người. Lúc này trời đã tối mịt, Nghị Chánh nấp sau cây cột một lúc thì thấy một người trên nóc nhà nhảy xuống, chân chạm đất không hề phát ra tiếng động, rồi chạy nhanh về hướng giếng nước.

Nghị Chánh nhìn thân pháp hắn di chuyển trên mái nhà, hiểu võ công người này không tệ.

-Bằng hữu là ai? Địch hay bạn?

Nghị Chánh hỏi.

Người áo đen không đáp, biết đã bị phát hiện nên nhanh chóng rút trong áo ra một gói giấy màu vàng nhạt, định mở ra thì Lữ Nghị Chánh đoán hắn muốn bỏ độc vô giếng nước, chàng mới bay đến xuất một cước đá gói giấy đó rơi xuống làm cho bột trong giấy vương đầy lên trên mặt đất.

-Có trộm! - Nghị Chánh la lên.

Lữ Nghị Trung và Nhạc Tam Nguyên có nhiệm vụ tuần tra trường học đêm đó, đang đi gần đó nghe vậy giật mình chạy nhanh tới. Tần Thiên Nhân, Tàu Chánh Khê, Cửu Dương, Trương Quốc Khải, và Khẩu Tâm đang ở trong thư viện bàn bạc công chuyện, nghe vậy cũng nhanh chóng xuất hiện. Bảy người thấy một người đang đứng chỗ giếng nước đối diện Lữ Nghị Chánh.


Lão Trần là người cuối cùng tiến đến. Tám người Đại Minh Triều đứng vây tròn, chặn đường lui của tên này.

-Đêm hôm mà được các hạ bất ngờ đến thăm, không biết có điều chi chỉ giáo? - Tần Thiên Nhân lên tiếng hỏi.

Ăn trộm là một trung niên trạc tuổi độ tứ tuần, Nhạc Tam Nguyên trông thấy gương mặt người này ngờ ngợ, hình như chàng đã từng gặp qua y, mà không nhớ đã gặp ở nơi đâu. Nhạc Tam Nguyên còn đang nhíu mày suy nghĩ, thì người đó động thủ trước với Lữ Nghị Chánh.

Tên trộm biết bản thân khó thoát khỏi nơi này, dự định sẽ bắt Nghị Chánh để làm con tin.

Hai bên lối đi chỗ giếng nước có đặt nhiều chậu hoa san sát bên nhau.

Tên trộm nghiêng mình, chân trái lập tức co lại, bước lên hai bước. Nghị Chánh cũng nghiêng người bước lên phía trước, thế là hai bên bước chéo qua mặt nhau trên lối đi chật hẹp này. Hai bên đều dùng song chưởng công kích đối phương, bốn bàn tay chạm nhau trên không, mỗi người phải lùi mấy bước. Bây giờ vị trí đã thay đổi, Nghị Chánh ở phía đông, tên trộm ở phía tây. Mấy chậu hoa bị ngã sóng soài, hoa cúc vàng đẹp đẽ thế mà trong chốc lát đã bị bốn bàn chân đạp cho dập nát.

Hai người định thần một lúc, lại tiếp tục đấu chưởng. Sau khi hai bên qua lại mười mấy chiêu, Nghị Chánh biết địch thủ nội công hơn hẳn mình nên liền đổi chưởng pháp thành cước pháp. Chàng phóng tới một bước, vọt cả người lên không, khi chạm đất đưa chân quét thành một vòng tròn, Nghị Chánh ra chiêu Triều Dâng Thủy Xoáy đánh vào hạ bàn đối thủ. Tên trộm đảo người lùi lại. Nghị Chánh xuất cước không trúng đích, nhưng không hề nao núng, chàng lại mượn thế đá đó, nhảy lên biến chiêu thành Bộ Thần cước, bay đá ngang. Chàng nhằm bộ vị chính xác, đợi chân đối thủ chạm đất liền đưa chân phải đá ra, tấn công vào be sườn đối phương.

Ngờ đâu tên trộm nhẹ nhàng ễnh bụng ra như một con ếch để hứng cước pháp đó. Trong mình y có mặc giáp bạc nên cước pháp của Nghị Chánh như đá vào một bức tường kiêng cố, không sao làm di chuyển đối phương được. Còn đang thất sắc, thì tên trộm dùng đòn chỏ giáng một cú xuống cổ chân Nghị Chánh. Nghị Chánh liền té sấp xuống. May mà Cửu Dương phóng ra dùng tay đỡ nhẹ vào vai Nghị Chánh. Đồng thời Cửu Dương cũng dùng cây quạt quét một nhát ngang khiến cho tên trộm phải thoái lùi, Nghị Chánh mới không vập mặt xuống đất.

Cửu Dương giúp bạn xong định bắt sống tên trộm này để thẩm vấn thì Khẩu Tâm phóng vào vòng chiến nói:

-Nếu như bần tăng không chế phục được nhà ngươi thì ta đây không phải sát thủ Thiết Đầu Lôi!

Khẩu Tâm bay tới đứng chặn trước mặt Cửu Dương, nói vừa dứt câu liền xuất thủ đánh ngay. Cửu Dương buột phải lui ra.

Võ công Khẩu Tâm từ lâu đã thuộc hàng cao thủ nhất lưu rồi nên quyền pháp xuất ra thật sự nhanh như sấm sét. Lần này tên trộm đánh bảy tám chiêu, biết không thể không dùng tới binh khí cho nên vội rút con dao để trong ngực áo đâm ra. Khẩu Tâm hơi cúi xuống một chút, tay phải đã chụp được cổ tay của tên trộm đang đâm tới, dùng sức vặn ngược lại. Tên trộm phải buông dao ra, Khẩu Tâm lại phóng chân phải ra đá trúng đầu gối của hắn. Với mấy chiêu nhanh chớp nhoáng, Khẩu Tâm làm tên trộm lập tức ngã sấp xuống đất.

Tên trộm hoảng sợ đến độ mất tinh thần, vì khi này hắn nằm dưới đất nên toàn thân sơ hở vô cùng, định lăn mình sang một bên rồi bật đứng dậy nhưng hắn thật xấu số, bị Khẩu Tâm xuất liền một cước nhằm trúng vào nơi hắn lăn mình đi. Ai cũng thấy bàn chân to bè của Khẩu Tâm sắp đạp trúng tên trộm như đạp lên một con kiến. Quả thật tên trộm không tránh né được. Mọi người đứng đó ai cũng nghe “rắc” một tiếng, tên trộm bị bàn chân phải của Khẩu Tâm đạp nát xương cổ.

Sự việc xảy ra quá nhanh, khiến cho Cửu Dương không làm sao ngăn cản được, chàng giật mình nói:

-Đại ca! Hắn ta võ công không bằng chúng ta, sao lại giết hắn?

Khẩu Tâm không trả lời sư đệ, mà đi đến nhặt gói giấy nâng lên cho ánh trăng rọi vào để xem là thứ bột gì. Cửu Dương bước theo Khẩu Tâm, nói:

-Bắt sống hắn đem đi tra khảo có phải hơn không?

-Cái này là thạch tín đó - Khẩu Tâm thản nhiên cắt lời Cửu Dương.

Tần Thiên Nhân cùng Tàu Chánh Khê, Trương Quốc Khải và Lữ Nghị Trung nghe vậy chạy đến đứng tụm đầu lại xem.

Lão Trần cũng bước lại cầm gói giấy nheo mắt coi, lát sau gật đầu khẳng định.

Chỉ có Nhạc Tam Nguyên là không màng tới chất độc suýt bị người ta bỏ vào trong giếng nước để giết hại cả lũ, chàng bước lại ngồi xuống nhìn mặt tên trộm, sau hồi lục lọi trong trí óc chàng cũng nhận diện được người này. Nhạc Tam Nguyên à một tiếng rõ to, đứng dậy nói:

-Thì ra hắn là người của triều đình!

Trương Quốc Khải quay đầu lại hỏi:

-Đệ biết người này?

-Hắn tên là Hoành Lập - Nhạc Tam Nguyên gật đầu nói chắc như đinh đóng cột - Tự xưng là Thanh Sam Thiết Câu ở Trịnh Châu, đệ và Hiểu Lạc đã gặp qua hắn trong một phiên chợ ở Sơn Đông.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 12: Nghi ngờ

Sáng ngày hôm sau, Tần Thiên Nhân lại gặp Cửu Dương ở luyện võ đường đằng sau chùa Thanh Tịnh, vẫn với dáng ngồi ưu sầu ủ rũ một mình trên phiến đá xanh hệt như ngày hôm trước. Tần Thiên Nhân thấy hơi kỳ lạ bèn bước lại nói:

-Thiên Văn, sao đệ lại ở đây một mình, đệ không sao chứ?

Cửu Dương đang ngồi khoanh đôi tay, cúi đầu xuống trầm tư suy nghĩ một chuyện, chàng nghe vậy thì ngẩn lên mỉm cười lắc đầu.

Đã lâu rồi huynh đệ họ hai người không có dịp nói chuyện riêng lẻ với nhau, ai cũng bận rộn với nhiều việc riêng.

Hai người đi dạo trên lối sỏi sau chùa Thanh Tịnh. Mới bang đầu là hàn quyên tích cũ, được một lúc thì Cửu Dương chép miệng thở dài một hơi.

-Kiếp người ngắn ngủi mấy chục năm, thoáng chốc đã chỉ là cát bụi. Con người đối với nhau lại thường xuyên ganh đua, đấu đá, trong “tình, danh, lợi” mà ngày đêm hao tâm tổn chí, cuối cùng cũng chẳng mang gì theo được.

Tần Thiên Nhân khẽ gật đầu. Cửu Dương lại tiếp:

-Người xưa thường nói có lương thực ngàn gánh cũng chỉ ăn một ngày ba bữa, có căn nhà lớn cũng chỉ ngủ ở một gian, báu vật đầy kho trong lòng vẫn có buồn phiền, quan to lộc hậu cũng là đi làm hàng ngày, vinh hoa phú quý cũng chỉ là thoảng qua như mây khói! Vậy, sống trên đời vì sao cứ phải tranh giành?

Tần Thiên Nhân biết sư đệ đang có tâm sự, chàng quay nhìn Cửu Dương:

-Sáng nay dường đệ như có nhiều tâm sự, đệ không sao chứ?

Cửu Dương khẽ lắc đầu.

-Không đúng - Tần Thiên Nhân nhìn Cửu Dương lom lom - Huynh thấy hình như đệ đang có tâm sự gì.

Cửu Dương tiếp tục lắc đầu.

Tần Thiên Nhân dừng bước hẳn, đưa mắt nhìn bâng quơ lên ngọn sầu đông trụi lá, nhẹ giọng nói:

-Chúng ta là huynh đệ cùng chung huyết thống với nhau, Thiên Văn à, nếu có việc gì đệ cứ việc nói, huynh nhất định sẽ giúp đệ.

Cửu Dương cũng dừng chân trong im lặng, lòng chàng rối tợ tơ vò.

-Đệ nói ra đi - Tần Thiên Nhân quay sang đặt tay lên vai em trai, ôn tồn bảo - Huynh sẵn sàng nghe, với huynh đệ là uyên bác nhất, trong cuộc đời huynh chỉ phục có ba người, một là tổng đà chủ, hai là sư phụ, người thứ ba chính là đệ.


Cửu Dương nở một nụ cười buồn:

-Những điều đệ biết chỉ như nắm lá trong rừng mà thôi.

Hai người tiếp tục bước đi. Cửu Dương sau hồi lựa lời không được, quyết định chi bằng nói thẳng, chàng hạ giọng bảo:

-Nhị ca à, huynh có thấy dạo này trong hội dường như có chuyện gì khó hiểu?

Tần Thiên Nhân nhíu mày suy nghĩ lời này, Cửu Dương nói thêm:

-Chuyện tổng đà chủ tự dưng quyết định đi quy ẩn, đệ suy đi nghĩ lại mãi, cũng thấy không giống tác phong của người. Thêm vào đó, người lại chọn phương thức viết thư chứ không mở hội đường từ giã một ai. Nếu tổng đà chủ thật có ý rời xa thế tục, thì theo đệ, với tánh tình của người hẳn ít nhất phải nói một lời với Lữ thúc chứ.

Người sư thúc mà Cửu Dương nói là Lữ Lưu Lương.

Tần Thiên Nhân hãy còn giữ im lặng.

Cửu Dương lại nghĩ tới một chuyện khác nữa, lúc người đó đánh ra chưởng pháp đó… giờ đây nhớ lại chàng bỗng thấy ớn lạnh toàn thân.

Cửu Dương bèn đem ngờ vực trong lòng hết thảy một lần nói ra với Tần Thiên Nhân. Nhưng Tần Thiên Nhân cứ cho là khi đó là do Khẩu Tâm nghiêm túc trong lúc tập luyện võ nghệ, không thể lấy đó mà trách huynh ấy được.

Tần Thiên Nhân cười nói như đúng rồi, làm cho trong lòng Cửu Dương đã rối lại càng thêm rối.

-Vậy… - Cửu Dương cố vớt vác - Huynh nhận thấy đại ca lúc này thế nào?

-Đại ca thế nào? - Tần Thiên Nhân nói - Huynh thấy huynh ấy vẫn như cũ.

Cửu Dương lắc đầu:

-Còn đệ thì thấy khác.

-Khác thế nào?

Ừ nhỉ, Cửu Dương ngớ ra một lúc lâu, chàng cũng không biết khác là khác thế nào, khác ra sao, chàng phải giải thích cái lẽ khác thường đó bằng ngôn từ gì cho Tần Thiên Nhân hiểu? Chỉ là một cảm nhận rất đỗi mơ hồ, chàng cảm thấy đại sư huynh có gì đó hơi khác so với hồi trước khi bảy người bọn chàng đi hành thích Khang Hi tiểu hoàng đế ở Quan Âm Tự. Chàng nhớ là sau khi Khẩu Tâm về đến Giang Nam, có vài lần chàng gặn hỏi, mãi cũng không biết làm cách nào y có thể phá vòng vây để trở ra ngoài được?

Còn đang xấp đặt các nghi vấn lại trong đầu rồi đưa ra chứng cớ thiết thực, Cửu Dương không hay hai người đã đi đến gần ngôi mộ của nghĩa phụ chàng.

Nhớ năm xưa khi Khẩu Tâm xuống tóc xuất gia, thì cái pháp danh Khẩu Tâm chính là do Mã Lương đặt cho, chứ ngay cả bản thân Khẩu Tâm cũng chẳng biết tên thật của mình là gì nữa. Khẩu Tâm vốn là một cô nhi rửa bát cho các tửu lâu ở Hàng Châu, người trong xóm quen gọi chàng là Tiểu Sửu vì chàng có gương mặt vừa to lớn lại đen đúa như than.

Sở dĩ Mã phu tử đặt biệt danh Khẩu Tâm như vậy là vì ông nói ông muốn chàng phải đặc biệt chú trọng đến lời ăn tiếng nói của mình. Mã Lương bảo lời nói đã nói ra như mũi tên đã bắn đi, khó mà thu lại được. Hoặc chàng sẽ làm người khác bị thương, hoặc sẽ biến chính mình thành nạn nhân. Hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi nói. Thêm vào đó Mã Lương muốn Khẩu Tâm sẽ nói những lời an ủi và động viên những ai đang nản lòng. Những người lên viếng chùa Thanh Tịnh, ông hy vọng Khẩu Tâm sẽ cho họ một cái siết tay, một nụ cười, một lời nói của chàng có thể tiếp thêm sức mạnh để người nghe được vững tin mà bước tiếp.

Hôm nay là ngày giỗ của Mã Lương. Khẩu Tâm đứng trầm tư bên ngôi mộ phu tử đốt giấy vàng mã. Trên những tấm giấy tiền âm phủ đều viết Tam Bất Luật. Một xấy giấy vàng mã trên tay Khẩu Tâm bị gió thu cuốn cho bay tứ táng. Một vài tờ vô tình bay đến dưới chân Tần Thiên Nhân, bèn cúi xuống nhặt lên một tờ, thấy trên đó ghi ba điều luật cơ bản do Mã Lương đặt ra cho các thành viên trong hội, là “bất đầu phục Thanh triều, bất bán rẻ huynh đệ, và bất tham nhũng gia sản.”

Khẩu Tâm đứng ngẩn ngơ bên mộ Mã Lương đốt giấy vàng mã một lúc, rồi lau khô nước mắt để đọc tiếp:


-Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.

Và đọc thêm câu:

-Một giết tẩu cẩu Mãn Thanh, hai giết tham quan ô lại, ba giết thổ hào ác bá, bốn giết hung đồ ác đảng.

Tần Thiên Nhân và Cửu Dương đứng nghe Khẩu Tâm đọc bát đại giáo điều của bang hội Đại Minh Triều, cũng là do Mã Lương viết ra. Lại nghĩ tới năm xưa có lần Khẩu Tâm bị Cửu Nạn sư thái phạt ba đao sáu lỗ, vì chàng phạm phải bang pháp.

Khi đó Khẩu Tâm quỳ xuống nói với sư thái rằng:

-Đệ tử đã phạm phải điều đại giới, trong lòng bàng hoàng sợ hãi. Nghiêm túc đem hết mọi việc trước sau trình lên tổng đà chủ, cúi xin khai ân xử lý.

Lời cung của Khẩu Tâm tới đó là hết.

Mã Lương thấy vị tiểu hòa thượng này tuổi còn nhỏ dại khờ, đã đến xin cho Khẩu Tâm. Ba đao sáu lỗ nghĩa là dùng dao nhọn tự đâm ba nhát vào đùi. Ba đao này phải xuyên thủng đùi từ trước ra sau nên mới gọi là ba đao sáu lỗ. Sư thái nghe lời Mã Lương, giao Khẩu Tâm cho Mã Lương cảm hóa.

Mã Lương nói với Khẩu Tâm:

-Con đã phạm phải một trong tám giới luật, may mà lỗi không đại ác. Nếu chịu hối cải, thì như Ngã Phật đã nói, tội thập ác cũng có thể tha, huống chi là lỗi này. Nếu còn tái phạm, thì lập tức trục xuất ra khỏi sư môn. Mong con tự mình lo liệu, theo yếu chỉ Phật môn mà cẩn thận hành sự.

Kể từ đó Khẩu Tâm theo Mã Lương học đạo thánh hiền, chàng thuộc lòng những câu như: nhân chi sơ, tính bổn thiện; tính tương cận, tập tương viễn. Cẩu bất giáo, tính nãi thiên; giáo chi đạo, quý dĩ chuyên. Tử nói phàm con người ta mới sinh ra đều có cái bản tánh tốt lành. Vì cái tánh lành ấy giống nhau nên giúp họ gần nhau. Nhưng khi lớn lên, hòa nhập với xã hội, nhiễm nhiều thói tục ở đời khiến cho tính tình của họ khác đi và thành ra xa nhau. Nếu như con người ta chẳng được giáo dục, dạy dỗ thì tánh lành thuở ban đầu ấy sẽ trở nên thay đổi tùy theo môi trường mà họ tiếp xúc…

Lại nói tiếp chuyện Tần Thiên Nhân và Cửu Dương.

Tần Thiên Nhân hiểu rõ Khẩu Tâm có địa vị rất quan trọng trong tổ chức. Nếu người này có lòng nào thì sẽ là một tổn thất thật hết sức đáng sợ.

Nhưng sau khi Tần Thiên Nhân thấy cảnh Khẩu Tâm trầm ngâm trước mộ Mã Lương, Tần Thiên Nhân liền xóa cái ý nghĩ mà Cửu Dương nói ra khỏi đầu chàng, nhanh chóng phủ nhận Khẩu Tâm là một người như vậy.

Tần Thiên Nhân nói:

-Đại ca trong bao năm qua đã cùng chúng ta vào sinh ra tử, lần trước lại còn xả thân thích sát tiểu hoàng đế, con người huynh ấy, theo huynh nghĩ thì chúng ta không nên nghi ngờ. Huynh ấy làm vậy chắc có nguyên do gì đó, chỉ cần không phạm bang quy là được. Còn những chuyện khác, theo huynh thì chúng ta không nên truy cứu làm gì, để tránh làm tổn thương hòa khí giữa huynh đệ chúng ta.

Tần thiên Nhân còn nói nhiều nữa, sau cùng đặt tay lên vai Cửu Dương, nói:

-Dùng người thì không nên nghi ngờ họ, còn nếu không tin họ thì chớ nên sử dụng họ.

Trong lòng Cửu Dương chợt cảm thấy u buồn. Chàng đương nhiên hiểu sư huynh chàng nói đến chuyện Tào Tháo và Dương Tu.

Năm xưa Tào Tháo là một người tuy đa nghi nhưng mến trọng người tài, sử dụng người tài rất khéo nên sẵn sàng bỏ qua những xích mích trong quan hệ với Dương Bưu để dùng Dương Tu.

Nói tới Dương Tu, y tự là Đức Tổ, là con trai của Dương Bưu, một đại thần dưới triều vua Hán Hiến Đế, ông nội là Dương Tứ, kỵ nội là Dương Chấn đều làm quan to dưới thời Đông Hán. Cha Dương Tu vốn là một số rất ít trung thần dám phản đối quyền thần lấn át thiên tử, trước là Đổng Trác, sau này là Tào Tháo. Vợ của Dương Bưu vốn là em gái Viên Thuật. Viên Thuật lúc đó công khai xưng đế chống triều đình. Tào Tháo vốn không ưa Dương Bưu, bèn nhân đó lệnh bắt giam ông định giết. Nhưng nhờ có Khổng Dung can gián về đức độ của ông, Tào Tháo bèn thả ông. Biết nhà Hán sắp mất không thể cứu vãn được, Dương Bưu bèn cáo bệnh xin về ở ẩn.

Tuy nhiên Dương Tu lại phục vụ dưới trướng Tào Tháo. Ông là người có tài, nhiều lần giúp Tào Tháo xử lý tình huống rất thông minh. Dương Tu được Tào Tháo cho hầu cận trong phủ, thường xuyên cho ở bên kể cả khi ở trong kinh thành cũng như xuất quân. Tào Tháo đối đãi với Dương Tu đúng theo câu nói nổi tiếng của ông "Dùng người thì phải tin, mà đã không tin thì không dùng."

Cửu Dương nghe Tần Thiên Nhân nhắc đến câu nói của Tào Tháo, biết sư huynh không coi trọng những nghi ngờ của mình, trong lòng buồn vô hạn. Nhưng chàng không trách Tần Thiên Nhân được. Cửu Dương biết Tần Thiên Nhân là một người trọng nghĩa khí, nhất là trong tình huynh đệ. Mà bảy người đương gia lại cùng nhau lớn lên, từ tấm bé đã cùng nhau ăn chung một mân, ngủ chung một giường, đắp cùng một tấm chăn. Tình cảm đồng môn thân thiết khắn khít nhau còn hơn Lưu - Quan - Trương kết nghĩa vườn đào nữa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 13: Thần quyền Nam hiệp

Lâm Tố Đình đứng trước cửa phòng Tần Thiên Nhân, mấy lần nàng đi qua đi lại nhưng thật lâu sau mới có can đảm giơ tay gõ cửa.

Kẹt. Một tiếng khô khốc vang lên, khi tay nàng vừa chạm vào thì cánh cửa mở ra. Thì ra cửa phòng chỉ khép hờ chứ không có chốt khóa.

Lâm Tố Đình bước vào đưa mắt nhìn khắp nơi bên trong căn phòng.

Phòng ngủ của nam nhân quả tình giản dị, nàng thấy không có gì ngoài một chiếc giường đặt ở nơi góc phòng, cạnh đó có một cái tủ đựng quần áo, giữa gian phòng là một chiếc bàn và hai chiếc ghế, tất cả đồ dụng chỉ bấy nhiêu, vô cùng sơ sài.

Lâm Tố Đình ngồi trên ghế chờ đợi. Thời khắc cứ chầm chậm đi qua.

Từ ngày nàng gặp Tần Thiên Nhân và nữ thần y bên bờ Tây hồ, thời gian cứ thế trôi. Nàng suy nghĩ ra nhiều điều. Rằng chàng và nàng chưa bao giờ thật sự là một cặp. Nàng nhận ra trước giờ nàng chưa từng tặng chàng gì cả, chưa từng nghĩ qua những câu tỏ tình, chưa từng thử nắm tay chàng, cũng chưa từng dám nhìn vào mắt chàng, huống gì là mở miệng nói yêu chàng như nữ thần y. Lúc gần, lúc xa, nhưng nàng và chàng chưa bao giờ đi quá giới hạn mà họ tự đặt ra. Nàng chợt cảm thấy hối hận vô cùng, nhưng có phải là đã quá trễ để thay đổi rồi?

Lâm Tố Đình ôm chiếc áo vào trong lòng, đương nhiên là áo may tặng cho chàng. Màu xanh là màu chàng thường mặc, không hiểu sao chàng lại ưa thích màu xanh đến vậy? Lâm Tố Đình ưỡn ngực, khẽ cười cố tỏ ra vẻ kiêu hãnh và tự tin "mình sẽ dùng cách riêng của mình để đoạt lại trái tim huynh ấy!”

Lâm Tố Đình ngồi gần nửa canh giờ vẫn không thấy Tần Thiên Nhân đâu.

Mà trong giờ phút này nàng lại muốn gặp chàng biết bao. Gặp người nam nhân với đôi mắt nhìn hút thẳng vào trái tim nàng, ánh mắt ấy, như thiêu đốt nguồn nhiên liệu mà nàng chưa bao giờ san sẻ cho ai.

Lâm Tố Đình khẽ vuốt lại chiếc áo cho thẳng nếp, rồi đặt ngay ngắn lên bàn, nàng ngồi đó hồi hộp đến run người, trời thu lạnh, nhưng không phải vì thế nàng run, mà cảm giác được gặp gỡ người thiêu cháy trái tim nàng, trái tim điên cuồng chưa một lần được tưới nguồn hạnh phúc cứ thôi thúc nàng.

Mãi đến khi vầng dương dần ngã sang chiều, Tần Thiên Nhân mới bước vào, nét mặt tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Lâm Tố Đình.

Đây là phòng của nam nhân cơ mà, Tần Thiên Nhân nhủ bụng, thoáng ái ngại nhưng không mời Lâm Tố Đình trở ra ngoài. Chàng cần phải nói chuyện thật thà với nàng, bởi chính nàng là nguyên nhân của tất cả.

Tần Thiên Nhân tiến lại gần Lâm Tố Đình, nghĩ sự thật dù cay đắng đến nhường nào chàng cũng vẫn phải nói ra, sau đó hy vọng nàng học cách chấp nhận, vì không có một lối nhỏ nào để nàng trú ngụ trong tim chàng được, bởi vì tim chàng đã lấp đầy bằng hình bóng của người con gái khác rồi.

-Nhị ca - Khóe môi Lâm Tố Đình nở một nụ cười tươi, nàng đứng dậy nâng chiếc áo lên - Muội mang áo đến cho huynh, là do chính tay muội may đó, nhị ca, huynh mặc vào thử xem có vừa không?

-Đại muội - Tần Thiên Nhân trầm giọng - Cám ơn muội, muội thật có lòng, nhưng tiếc là huynh không nhận được.

Câu nói này của Tần Thiên Nhân khiến Lâm Tố Đình hụt hẫn, cảm giác như tim nàng đập lỡ đi một nhịp.

Tần Thiên Nhân tiếp tục nói:

-Đại muội muội, huynh cần nói chuyện với muội…

-Đừng bảo muội không nên yêu huynh, muội làm không được!

Lâm Tố Đình nói, đầu cuối xuống, dấu đi những giọt nước mắt cũng rơm rớm muốn tuông rơi. Tần Thiên Nhân im lặng, trong lòng tràn ngập ái ngại, chỉ nhìn nàng.

Một lát sau như đã khôi phục bình tĩnh được đôi chút, Lâm Tố Đình ngước lên cất giọng đầy đau khổ:

-Nhị ca, tình cảm là của muội, huynh không ép buộc muội ngừng lại được, nhưng huynh cũng phải nhớ, huynh đã có hôn ước, và vai vế của huynh trong hội là gì.

-Thì sao?

Tần Thiên Nhân hỏi, phát hiện hai mắt nàng đã ngân ngấn nước.

-Nhị ca…

Lâm Tố Đình vương tay ra nắm lấy tay Tần Thiên Nhân, cố bám víu một chút hy vọng nào đó, như một cụm bèo trôi lênh đênh trên mặt hồ chợt bám vào một vật thể nào đó, cố không để cho nước mang trôi đi, dù rằng tia hy vọng rất mong manh.

Lâm Tố Đình nuốt nước mắt, vừa thương vừa giận, tức tưởi nói một hơi:

-Huynh chỉ là ham chơi nhất thời thôi, đúng không? Đàn ông ai cũng như vậy mà, ai cũng năm thê bảy thiếp hết, nhưng họ chỉ là vui chơi qua đường thôi, phải không? Cuối cùng thật ra người huynh yêu chính là muội...

Câu nói của nàng bị bỏ lửng, thay vào đó là những tiếng nức nở nghẹn ngào, đầy đáng thương vang lên, khiến cho người nào nghe được cũng sẽ không tự chủ được mà mềm lòng, mà muốn yêu thương che chở cho nàng. Đáng tiếc bờ vai Tần Thiên Nhân đã trao người con gái khác rồi.

Tần Thiên Nhân đứng đó hít sâu vào một hơi, sau đó nhẹ thở ra, điều cần nhất lúc này chính là tỉnh táo, không được để cơn xúc động của người con gái này làm chàng mềm lòng được, rồi khiến cho tình hình trở nên nghiêm trọng hơn.

-Không.

Tần Thiên Nhân lắc đầu.

Sau đó từ tốn nói:

-Đại muội à, trên đời này cố làm bất cứ điều gì cũng là một khó khăn với người thực hiện. Nhưng có lẽ khổ nhất là dối lòng mình, để chung sống với một người mà con tim mình hoàn toàn không rung động vì người đó. Điều đó không chỉ mang tới nỗi khổ cho mình, mà còn cho chính cô gái mình yêu.

-Huynh yêu nữ thần y lắm sao, muội ấy có gì hơn muội chứ?

Lâm Tố Đình nghe tới đây không giữ bình tĩnh được nữa, lời nói và nét mặt cũng tỏ vẻ tức giận.

-Tây Hồ không có gì hơn muội cả - Tần Thiên Nhân đáp lời nàng - Muội nói đúng, cái gì cũng không bằng muội, nhưng ở Tây Hồ huynh tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn.

Tần Thiên Nhân trả lời, sau đó động viên Lâm Tố Đình:

-Mà thật sự thì không đáng để muội phải đau khổ nhiều đến vậy khi huynh không đáp trả tình yêu của muội. Muội chỉ nên đau vì một người đàn ông nào đó yêu muội thật lòng. Muội là một cô gái rất tốt. Huynh không yêu muội không có nghĩa là muội thất bại hay không đáng được yêu, mà chỉ là huynh không có diễm phúc được có muội trong đời.

Tần Thiên Nhân còn nói nhiều nữa, muốn tìm mọi cách để nàng chấp nhận thực tế là chàng không yêu nàng một cách nhẹ nhàng nhất.

Sự thật thì chàng không cần phải động viên nàng. Thực ra thì Lâm Tố Đình biết chứ. Nàng đủ cao ngạo để biết rằng cái giá của nàng là như thế nào. Nàng đủ tự tin để hiểu nàng là cô gái ra sao. Chỉ là lúc này con tim nàng không ngừng đập vì chàng, mười mấy năm qua tình yêu dành cho chàng bùng cháy lên dữ dội quá nên thấy trong tim rất đau.

Bên tai nàng vẫn là giọng nói ấm áp thường ngày nàng thích nghe đó, âm thanh đều đặn vang lên, mà sao giờ đây nghe buốt cả lòng.

Hai người nói chuyện thêm một lúc nữa, Tần Thiên Nhân đề cập đến chuyện hai người nên đi gặp những trưởng lão trong hội, để xin hủy bỏ hôn sự, càng sớm càng tốt. Đương nhiên là Lâm Tố Đình không chịu.

-Huynh biết là huynh đang nói cái gì không?

Lâm Tố Đình cuống quít hỏi.

- Huynh biết là huynh đang nói gì! Huynh cần có Tây Hồ, Tầy Hồ cũng cần huynh. Một năm lại đây huynh nhớ Tây Hồ đến phát điên. Đại muội à, hai chúng tôi vốn thuộc về nhau. Đáng lý ra huynh nghĩ chỉ cần muội đồng ý hủy bỏ hôn lễ là huynh sẽ đi nói với sư thái. Nhưng bây giờ huynh biết cho dù không có Tây Hồ huynh cũng sẽ không thành hôn với muội đâu, đơn giản vì huynh không yêu muội, giữa hai đứa chúng ta chỉ có thứ tình cảm đồng môn...

Trí não Lâm Tố Đình vẫn chưa tỉnh táo hẳn, hoặc nàng không muốn hiểu, rằng việc hôn nhân này sẽ không thành được rồi. Đang khi ruột gan trăm mối tơ vò, lại nghe tiếng quạ kêu xa xa bên ngoài cửa Hắc Viện, nàng càng rầu gan rối ruột hơn, thật quả là chẳng biết chui vào đâu cho đỡ khốn khổ. Nàng không ngăn được nước mắt cứ tuôn ra như suối, không nén được cơn đau đớn trong lòng bật thành tiếng khóc rất lớn. Tần Thiên Nhân vỗ về trên vai nàng, liên tục thở dài. Lâm Tố Đình lại càng nức nở. Nàng biết nói sao? Nói thêm thế nào mới được chứ?

Cuối cùng Lâm Tố Đình gắn gượng lắm mới giơ được tay lên quẹt những giòng lệ, ngẩng đầu lên nhìn Tần Thiên Nhân một cái, mà nước mắt cứ tiếp tục trào lên lưng tròng, nàng nghẹn ngào:

-Huynh nói vậy không sợ muội đau lòng?

-Sợ chứ, nhưng huynh thà làm kẻ nhẫn tâm, chứ không muốn Tây Hồ phải đau lòng. Điều sai lầm nhất trong đời người là phủ nhận những gì trái tim họ thật sự cảm nhận.

Lâm Tố Đình cố nín nhịn mà nhịn không được, càng bật khóc dữ dội hơn:

-Huynh nói những lời này cũng vì muội ấy phải không?

-Cả đời này những chuyện huynh làm đều vì Tây Hồ cả.

Tần Thiên Nhân gật đầu, giọng đã trầm lại càng trầm xuống, nghe rất cương quyết.

-Huynh nhớ hồi hai năm trước, lúc huynh bị ốm, Tây Hồ đã khóc thầm bên giường huynh, muội không biết rằng khi đó huynh cảm động đến thế nào đâu. Lúc đó, huynh đã thề với bản thân mình rằng không quản kì khó khăn trở ngại nào, huynh nhất định phải lấy được nàng ấy làm vợ!

Tần Thiên Nhân nói đến đây bỗng thấy nhớ nữ thần y quay quắt. Một ngày không gặp nàng cảm giác như vô nghĩa. Chàng cũng chẳng biết tại sao lại yêu nàng nhiều đến vậy. Để rồi, cho đến bây giờ, những sở thích, thói quen, hình ảnh của nàng, chàng nhìn đâu đâu cũng thấy, yêu nhiều đến độ mỗi khi gặp ai thoáng chút giống nàng, chàng lại giật mình. Nữ thần y thích ăn bánh Quế Hoa, mỗi lần đi làm nhiệm vụ sư thái giao cho, lần nào chàng cũng mang về rất nhiều loại bánh bột gạo màu trắng có vị hoa quế để nàng ăn dần.

-Thế là huynh yêu muội ấy, và muốn lấy muội ấy chứ gì?

Lâm Tố Đình tiếp tục truy hỏi.

-Thật tình xin lỗi muội.

-Muội không biết – Lâm Tố Đình vẫn hoang mang mờ mịt - Chẳng phải là hai ta đã được chọn ngày rồi ư?

Hai nắm tay Lâm Tố Đình nắm lại. Nàng nóng nảy nói, mắt vẫn nhìn chàng một cách bức thiết:

-Chẳng còn bao nhiêu ngày nữa, huynh lại muốn hủy lễ cưới sao?

Tần Thiên Nhân nghe tiếng nức nở của Lâm Tố Đình mà không khỏi chạnh lòng. Dù là vậy, nhưng chuyện đến nước này chàng không thể chấp nhận mà xui theo nàng được, nhất là ngày cưới của hai người họ đang đến gần kề rồi, nên chàng không thể coi như không hay biết gì.

-Nếu lễ cưới ấy là đáng kể thì nó chính là của hai đứa chúng tôi.

Tần Thiên Nhân lạnh lùng ném cho Lâm Tố Đình một câu, câu nói như một mũi dao đâm thêm vào trái tim đang rỉ máu của nàng.

Lâm Tố Đình nới lỏng nắm tay, nhìn thẳng vào đôi mắt u ám của Tần Thiên Nhân, trong đó không có nổi một tia dịu dàng nào dành cho nàng như khi chàng nhìn nữ thần y bên hồ.

Lâm Tố Đình thẳng tay tát vào một bên má Tần Thiên Nhân.

Tần Thiên Nhân im lìm đứng đón nhận cái tát, trong mắt u ám của chàng ánh lên sự áy náy và cảm giác tội lỗi nhưng biết sao được, chàng phải làm theo những gì con tim mách bảo thôi, không thể nào chấp nhận nàng chỉ vì sợ rằng sẽ làm tổn thương tâm hồn một cô gái yếu đuối, để sau này lại làm nàng thêm đau khổ.

Thái độ dửng dưng của Tần Thiên Nhân làm trái tim Lâm Tố Đình tan nát, nàng không còn gì để hy vọng nữa rồi, trong khi nàng hoang mang cực độ, chàng lại bình thản vô cùng.

Tần Thiên Nhân đợi sư muội bình tĩnh lại một chút mới nói:

- Tố Đình à, thời nay khác rồi, bây giờ là tự do luyến ái, hễ hai người yêu nhau thì có thể bối thân bối lễ, tự hứa chung thân được. Còn cái loại hôn nhân do cha mẹ định đoạt đó đã lỗi thời rồi. Nếu muội không đồng ý, thì huynh sẽ dắt nàng ấy rời đi, thoát khỏi cái nơi phong kiến này.

Đấy cũng là lần đầu tiên Lâm Tố Đình nghe Tần Thiên Nhân gọi tên nàng, không ngờ lại trong hoàn cảnh này.

Lâm Tố Đình nhìn chiếc áo trên bàn mà nước mắt thi nhau rơi xuống. Từ nhỏ nàng vốn dĩ rất tôn sùng nam nhân này, không thể ngờ người nàng sùng bái lại có quyết định tàn nhẫn với nàng như vậy. Hỏi nàng còn mặt mũi nào nhìn người khác nữa?

Tình yêu như hai người đứng đối diện, nếu một người cứ cố chạy lại gần, còn người kia không ngừng lùi bước thì mãi mãi chẳng bao giờ tìm đến được với nhau. Cuộc tình của nàng y chang thế. Dù nàng có cố gắng chạy nhanh đến mấy cũng không bao giờ đuổi kịp được chàng. Cuộc chạy trốn của con tim nhanh đến mức nàng chỉ nhắm mắt vào thôi chàng đã ở tận nơi nào.

“Thành thật xin lỗi, huynh không yêu muội!”

“Huynh chưa thuộc về nàng ấy nhưng điều đó không có nghĩa là huynh sẽ yêu muội!”

“Chưa có người con gái nào ẩn sâu trong lòng huynh ngoài Tây Hồ, chưa có bóng hình nào khiến huynh nhung nhớ như thế!”

Tiếng Tần Thiên Nhân liên tiếp vang lên trong đầu Lâm Tố Đình.

Nàng bưng mặt vừa khóc vừa chạy đi trên hành lang của trường học Hắc Viện. Nỗi hụt hẫng, đau khổ và mệt nhoài khi đón nhận sự thất bại ê chề. Chỉ mong cho đó là một cơn mơ.

---oo0oo---

Lâm Tố Đình đi rồi, chiếc áo vẫn còn được đặt ngay ngắn trên bàn. Tần Thiên Nhân cũng không buồn cầm lên.

Chàng vẫn đứng đó, lòng nghe nhẹ tênh. Tất cả đã được giải quyết, mặc dù chàng có hơi buồn vì trước nay vẫn xem nàng là muội muội, giờ lại làm nàng tổn thương quá nhiều.

Bỗng chàng nghe có tiếng cọt kẹt khẽ phát lên đâu đó.

Tần Thiên Nhân giật mình, lia mắt nhìn quanh một vòng trong phòng. Đúng là trong phòng không có ai, nhưng ở góc phòng, trên giường thì chăn bị đội lên, hình như bên trong có người nằm. Chàng tiến lại hất cái chăn ra, quả nhiên trong đó có người nằm quay mặt vào tường. Tần Thiên Nhân khẽ lắc đầu cười, dùng tay chọc khẽ vào lưng người này, vẫn không thấy động tĩnh gì, dùng tay lật lại xem.

Nữ thần y còn chưa nói gì, Tần Thiên Nhân vỗ vỗ vào mép giường ra ý bảo nàng ngồi lên. Nữ thần y ngồi lên mép giường.

Tần Thiên Nhân nhìn nàng dịu dàng, cũng ngồi xuống cạnh nàng.

-Muội không có ý nghe lén việc của huynh đâu, chỉ là ban sáng muội đi cúng chùa, xin được lá xăm. Thầy giải xăm nói muốn ứng nghiệm phải đặt lá xăm đó vào dưới gối của huynh.

Tần Thiên Nhân giở gối lên tìm, nhưng nàng đã giấu đi rồi.

Nét buồn bã của khi nãy đã gần như biến mất trên mặt nữ thần y, song lại hiện ra khi nàng nói:

-Lúc nãy huynh nói những lời đó với Đình tỉ, hình như có hơi quá đáng.

-Phải chịu vậy chứ biết làm sao bây giờ, có những việc mà mình hoàn toàn bất lực.

Nữ thần y nghe Tần Thiên Nhân nói rồi im lặng. Một lúc Tần Thiên Nhân nhìn vào mắt nàng, đau xót vì thấy đôi mắt nàng đỏ hoe, long lanh hai giọt nước mắt. Nàng khóc không thành tiếng.

-Từ nhỏ muội mồ côi cả cha lẫn mẹ, ngoài sư phụ thì Đình tỉ rất tốt với muội. Lúc nào tỉ ấy cũng bảo vệ chăm sóc cho muội, nên muội hiểu tâm tình tỉ ấy, tỉ rất sợ phải cô đơn.

-Ai nói rằng cô ấy sẽ cô đơn, cô ấy còn có hai chúng ta, và những người anh em trong hội nữa. Bất quá, mai này sau khi chúng ta thành thân rồi, huynh sẽ tích cực tìm kiếm một vị anh hào tốt nhất trong hội giới thiệu cho cô ấy, chẳng hạn như... thất đệ, rồi truyền dạy con cái họ các chiêu thức Chuẩn Đề Quyền.

Nghe thế, nữ thần y bật cười. Tần Thiên Nhân giúp nàng lau những giọt nước mắt.

-Nhưng mà...

Nữ thần y nói.

Tần Thiên Nhân không để nữ thần y nghĩ ngợi thêm điều gì chẳng lành, phải khó khăn lắm mới thuyết phục được nàng tiếp tục cuộc tình này, nên ngay sau đó chàng tìm cách nói lảng sang chuyện khác, vội bảo:

-Phải rồi, muội còn chưa nói cho huynh biết trong lá xăm đó nói gì?

Nữ thần y giở tấm chăn lên, lấy mảnh vải màu vàng nhỏ xíu được gấp lại như thân con diều.

-Hôm nay muội đi cúng chùa... - Nàng ửng hồng đôi má, ngập ngừng bảo - Muội cầu Bồ Tát xin được cây xăm này, thầy giải xăm nói là xăm thượng thượng đó, thầy cho biết Bồ Tát nói tất cả đều tốt đẹp, hơn nữa...

-Hơn nữa sao?


Tiếng Tần Thiên Nhân giục giã.

-Trong lá xăm còn cho biết… - Nữ thần y cứ chớp mắt ngập ngừng mãi - Xăm nói nhân duyên của chúng ta là do trời ban cho, sẽ rất mỹ mãn...

-Bồ Tát cũng nói vậy sao?

-Đúng rồi, Bồ Tát còn nói thêm...

-Bồ Tát còn nói thêm điều gì?

Chờ rất lâu vẫn không nghe nàng nói tiếp, chàng lại đành buột miệng hỏi.

Nhưng nữ thần y cứ lắc đầu:

-Không thể cho huynh biết được, huynh biết rồi sẽ không còn linh nghiệm nữa.

Tần Thiên Nhân vốn không tin những chuyện coi quẻ xin xăm này, nên nói:

-Tây Hồ à, muội nói cho huynh biết đi.

Nữ thần y ngập ngừng thêm một lúc, ghé vào tai chàng nói nhỏ:

-Bồ Tát nói... chúng mình sẽ có tới những mười đứa con.

Tần Thiên Nhân nghe vậy không nén được, bật một tiếng cười nhẹ. Nữ thần y đỏ mặt bật đứng dậy định đi ra ngoài.

Tần Thiên Nhân kéo nàng ngồi trở lại trên giường.

-Không cho huynh cười người ta!

Tần Thiên Nhân lại cười, sau đó thấy nàng đang vừa giận vừa thẹn, xoay người sang ôm lấy nàng.

-Có nhiều con như vậy, sau này làm việc gì huynh cũng sẽ cẩn thận, sẽ không bao giờ khiến cho muội phải lo lắng.

Nữ thần y gật đầu.

Tần Thiên Nhân lại nói:

-Mà hai đứa mình có tới những mười đứa con, nếu sinh cách nhau năm một, như vậy sẽ cực khổ cho muội lắm, đành phải sinh cách nhau hai ba năm, mà nếu vậy, thì tính ra …

Tần Thiên Nhân nói tới đây mắt nheo lại:

-...ngay bây giờ phải bắt đầu rồi.

Nói xong chàng nhanh như chớp hôn nàng. Nữ thần y tránh ra cũng nhanh không kém, chắc nàng lường trước được, bật dậy bước xuống giường.

-Còn khuya đi!

-Khuya nay hay là khuya mai?

Lần này nàng không lường được rồi, trong những người đương gia thì Tần Thiên Nhân vốn có tánh tình đạo mạo nổi tiếng trong hội, nữ thần y mới không ngờ chàng lại hỏi một câu như vậy. Chẳng thà người hỏi đó là… Cửu Dương hay là Lữ Nghị Chánh, nàng sẽ không cảm giác bối rối, đằng này, lại là chàng sao?

-Huynh thật đáng ghét, lại chọc người ta nữa!

Tần Thiên Nhân khi này không nghe nàng nói gì, buông một câu bông đùa với nàng xong chỉ xúc động nhìn nàng. Đôi mắt của nữ thần y khi hờn trách thì mở to, có đuôi dài, ánh mắt vừa có vẻ tức bực, vừa có vẻ buồn bã, cam chịu khiến chàng cũng vừa thấy tức cười, vừa cảm thấy mềm lòng.

Nữ thần y thấy chàng nhìn mình không dời mắt bất giác đôi má nàng vốn tự nhiên đã hồng hào càng đỏ ửng hơn, nàng gục đầu xuống không nói một lời.

Tần Thiên Nhân chữa thẹn cho nàng, tằng hắng một tiếng, nói:

-Lá xăm này, phải đặt dưới gối à, không thể mang trong mình được sao?

Nữ thần y im lặng một lúc, ngượng nghịu nói:

-Huynh muốn mang nó theo bên mình? Nhỡ huynh làm mất nó…

-Không có đâu, muội may nó vào trong áo huynh là được.

Nữ thần y nghe chàng nói vậy, nàng đi ra ngoài, lát sau mang một hộp kim chỉ vào. Tần Thiên Nhân ngồi chú ý từng động tác của nữ thần y, bàn tay búp măng thon thả mềm mại đang may từng mũi kim. Chốc chốc nữ thần y cũng khẽ ngẩn đầu lên nhìn chàng mỉm cười.

Người ta yêu nhau trong đôi mắt, tìm nhau bằng đôi mắt. Tần Thiên Nhân bỗng bàng hoàng nhận ra chắc chàng không sống nổi nếu mất đi nàng. Người con gái ấy, thật sự bước vào tình yêu đầu đời của chàng bằng những bước chân nồng nàn nhất.

Ở đằng kia, trên bàn vẫn còn đó, chiếc áo của Lâm Tố Đình nằm chơ vơ.

Hồi sau nữ thần y cũng khâu xong lá xăm vào bên trong vạt áo của Tần Thiên Nhân.

Tần Thiên Nhân đứng lên, không ngờ vạt áo chàng bị may dính vào vạt áo nàng.

Nữ thần y cũng đứng lên theo, nàng nhăn mũi lại, cười nói:

-Thần quyền nam hiệp oai chấn bốn phương, thiếu đà chủ của Đại Minh Triều lừng danh trong thiên hạ, lúc đang say sưa với tình yêu, không dè lại bị trúng ám khí của bổn cô nương đây, nhỡ mà muội là thích khách thì huynh nguy rồi đó.

-Muội thật là nghịch ngợm - Tần Thiên Nhân cũng cười hiền từ.

Đoạn nắm lấy tay nàng, chàng nói:

-Tây Hồ, muội gả cho huynh?

Nữ thần y không đắn đo, khẽ gật đầu.

-Thật không?

-Thật chứ, ai giỡn chi chuyện tình cảm.

Nàng nói rồi sà vào lòng chàng. Mái tóc dài óng ả thả xuống vai nàng, gương mặt nàng hồng hào rạng rỡ. Niềm vui vì yêu và được yêu làm cho người ta đổi khác một cách nhanh chóng. Nàng không còn vẻ héo úa và buồn phiền trước đây nữa. Tần Thiên Nhân dang đôi tay ôm chặt lấy nữ thần y, hôn lên tóc nàng.

-Tây Hồ, muội đừng nhường huynh cho bất kỳ người nào. Huynh chỉ muốn là của muội, một đời, hai đời, thậm chí là ngàn đời. Huynh sẽ mãi mãi thuộc về muội.

Tần Thiên Nhân nói với nữ thần y.

Nữ thần y se sẻ gật đầu.

Đối với các cô nương, Tần Thiên Nhân lạnh lùng và vô tình, chỉ có nàng hiểu chàng là người rất tình cảm. Yêu nhau bấy nhiêu năm, nhưng tình yêu của họ không hề phai nhạt mà trái lại rất cuồng nhiệt, thậm chí còn hơn cả trước đây.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 29 guests