Thanh Triều Ngoại Sử (Bộ 1..Giang Nam Thất Hiệp) - THH

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 29: Đại náo tân phòng

Phi Yến tuy bên ngoài làm mặt tỉnh và khiêu khích Tiểu Tường chứ thật ra trong lòng nàng buồn vô hạn. Từ ngày Phi Nhi bận biên soạn Văn Vận Phủ Phi Yến cô đơn lắm, không còn ai đùa vui với nàng nữa, mỗi chiều nàng đều xuống núi dạo chơi trong trấn.

Có một hôm Phi Yến đi ngang qua quán rượu mà lần đầu nàng gặp Cửu Dương, trong lòng bồi hồi, định bụng vào mua vài cân mang về tặng chàng, ngờ đâu mới xế chiều quán đã đóng kín cửa. Phi Yến thấy là lạ, không nén được, lập tức gõ cửa. Từ bên trong có giọng đàn ông vọng ra:

- Quán hôm nay đóng cửa, đã có thông báo phía trước. Quý khách vui lòng tìm nơi khác!

-Tôi không phải khách dùng bữa, chỉ muốn vào hỏi thăm một việc.

Có tiếng động kèn kẹt, cánh cửa quán mở he hé, một người đàn ông trạc tuổi tứ tuần ló đầu ra nhìn, vẻ sợ sệt. Phi Yến chắp tay chào:

-Chào ông chủ! Xin thứ lỗi cho tôi đường đột…

Chủ quán tên Tứ Bình nhớ ra nàng, người mà đêm nào cũng mang đến cho y nhiều mối rượu, vội vái chào lại:

-Hóa ra là cô nương, không dám, chẳng hay cô có việc gì muốn hỏi tôi?

Phi Yến chưa đáp vội mà đưa cặp mắt liếc nhìn vào trong, thấy trong nhà trang hoàng hoa đèn, dán đầy giấy hoa văn màu đỏ, hình long phụng rực rỡ. Song ở góc phòng có một cô gái trẻ trạc mười lăm mười sáu ngồi ủ rũ, khuôn mặt khá xinh xắn. Nàng ngần ngại hỏi:

- Chẳng dám nào, nếu ông chủ không trách là tôi đây quá tò mò xin cho hỏi quán có hỉ sự mà tại sao lệnh ái dường như không được vui cho lắm?

Cô gái nghe nói, chừng như động mối thương tâm, lại oà lên khóc nức nở. Tứ Bình mời Phi Yến vào nhà, thở dài:

- Hai chị em cô là khách quen quán tôi nên chẳng giấu gì cô, sáng mai là ngày xuất giá của tệ nữ…- Chủ quán cúi mặt buồn rầu - Nhưng sự thực là tệ nữ bị ép buộc phải về làm vợ người ta, thật đáng xấu hổ cho kẻ làm cha, có hai cánh tay này mà đành bất lực nhìn con bị đưa vào chỗ chết!

Phi Yến nổi giận xung thiên, đôi mày liễu cau lại:

- Kẻ nào ngang ngược, dám cưỡng hôn con gái nhà lành, họ là quan chức hay dân thường vậy?

- Đến quan quyền tỉnh này còn phải sợ, không dám đụng đến hắn. Hắn chính là đại thủ lĩnh của bọn cướp Lãnh Hải Sơn, biệt hiệu là Châu Tân Trình.

Lãnh Hải là ngọn núi nhỏ cách chợ Hồ Lô chừng vài dặm.

- Chẳng lẽ quan quân cũng chịu thua, không dám ra tay trừ diệt bọn sơn tặc này sao?

Tứ Bình lắc đầu, cười khinh miệt:

- Quan quân thời nay chỉ biết ăn của đút, sợ giặc như cọp, xem dân như thù, đâu tha thiết gì đến trị an vỗ về dân thứ. Vả lại, sào huyệt chúng trên núi rất kiên cố, giăng nhiều cạm bẫy. Mỗi lần bị đuổi đánh chúng rút về núi là an toàn, quan quân không sao tấn công vào được. Chờ quan quân đi rồi lại hoành hành như cũ.

Phi Yến lắng nghe chủ quán nói, xen lẫn đó là tiếng khóc rấm rức với những lời than thở khe khẽ:

-Tiểu Liên, con gái khổ mạng của mẹ con đừng khóc nữa.

Phi Yến hỏi:

- Chừng nào chúng đến bắt người?

-Ba ngày trước chúng đã đem ít vật dụng đồ cưới và trang phục cô dâu đến, hẹn sáng mai bình minh lên sẽ mang kiệu lại rước dâu. Chúng nói nếu không giao cô dâu ra, cả dòng họ nhà tôi sẽ nguy mất.

Tự nhiên Phi Yến hỏi:

-Rượu ở quán này ngon nhất Tứ Xuyên, không biết bọn thổ phỉ có dùng rượu quán này đãi tiệc cưới ngày mai?

Tứ Bình đáp:

-Đương nhiên có, chúng vừa cướp người vừa cướp vật, bảo rằng khi kiệu tới rước dâu thì nhà gái cũng phải cho người khiên hai mươi vò rượu theo tới trại.

Trong đầu Phi Yến lóe một tia sáng, nàng nói:

- Nếu ông không muốn giao lệnh ái cho bọn cướp tôi sẽ giúp đỡ cho?

Tứ Bình ngần ngại nhìn nàng dò xét:

-Cô nương giúp chúng tôi bằng cách nào?

Nghe Phi Yến nói sẽ tìm cách giúp mình, Tiểu Liên lật đật chạy đến quỳ thụp trước mặt khách, vừa lạy vừa van cầu:

- Xin hãy cứu giúp cuộc đời muội, muội xin nguyện làm thân trâu ngựa, suốt kiếp chẳng quên ân đức tỉ. Bằng không… muội cũng sẽ tìm cách tự tử mà chết.

Phi Yến xua tay:

- Ầy! Tiểu muội muội đứng lên, bình tĩnh lại nào, tỉ sẽ có cách mà. Tên cướp nào dám xuống đây ép hôn tỉ bảo đảm sẽ không toàn mạng trở về.

Tứ Bình phu nhân trong bụng thấp thỏm, không nhịn được vội bước lại xen vào:

- Bứt dây động rừng, tôi e là nếu giết mấy tên cướp lẻ tẻ xuống đây e rằng bọn còn lại trên núi vẫn chưa bị diệt trừ. Chúng chờ cho cô đi mới trở xuống bắt tội gia đình chúng tôi, khi đó thì lấy ai bảo vệ cho?

Phi Yến nháy mắt:

-Tôi có kế sách này thần diệu lắm, có thể đột nhập vào hang ổ bọn chúng để diệt tận gốc rể.

- Kế sách gì thế, thưa cô?

-Sáng mai tôi sẽ trà trộn vào sơn trại lục lâm bằng cách hóa thành một trong những người gánh rượu...

Phi Yến nói, và nàng nhìn gia đình chủ quán rượu, cười nhẹ:

-Thiên cơ bất khả tiếc lộ. Tôi chỉ nói được bấy nhiêu. Nhưng tôi bảo đảm các người tôi sẽ xâm nhập được vào cấm địa bọn chúng cứu tiểu thư đây ra và không gặp nguy hiểm, hãy an tâm. Ngày mai sau khi kiệu tới rước dâu đi, hai vợ chồng các người hãy đến miếu Quan Công dưới chân núi Lãnh Hải mà chờ, lánh thân vào một chỗ an toàn, tôi sẽ tìm cách đưa tiểu thư ra khỏi sơn trại đến đó hội ngộ hai người.

Tứ Bình vẫn tỏ vẻ rụt rè:

- Bọn cướp này đông đảo, võ nghệ lại cao cường e rằng cô nương khó lòng đối phó.

Thấy ông ta vẫn còn chưa tin tưởng lắm, Phi Yến bèn nhìn quanh quất, rồi đi đến cúi xuống nhặt hòn đá xanh khá to trước cửa quán, quay lại chìa ra hỏi:

- Cái đầu chúng có cứng bằng viên đá này không nhỉ?

Nói xong nàng gồng bàn tay bóp lại, rồi xoè ra, hòn đá vỡ vụn, rơi xuống lả tả. Gia đình chủ quán kinh ngạc đến há hốc cả mồm.

Từ bây giờ tới giờ rước dâu không còn bao thời gian nữa. Phi Yến phải trở về chuẩn bị. Nàng bái chào họ rồi ra về.

---oo0oo---

Trời tờ mờ, trông xa không rõ mặt người. Hừng đông không lộ sáng bởi những đám mây đen vần vũ phía xa. Phi Yến thức dậy tự lúc đầu giờ Dần, ngồi dáng lớp da lên mặt, rồi dùng cọ kẻ kẻ đánh đánh thêm nhiều lớp phấn lên cho tấm da mặt tiệp với màu da cổ nàng. Cuối cùng nàng búi tóc cao lên, dùng khăng trắng quấn lại. Đâu đó xong xuôi, nàng dùng thân đao làm gương soi mình một lúc, hài lòng với diện mạo của một nam tử rồi mới cất đao đi.

Ở khu trại ba cô gái ngủ chung một lều, thật may tối qua Phi Nhi không có trong lều, do nàng bận bịu với việc biên soạn thơ Đường nguyên đêm. Phi Yến cả mừng, hóa trang mặt mày y phục xong xui nàng nhón gót đi tới cửa lều, chưa vén rèm đã nghe tiếng:

-Ai đó!

Tiểu Tường nghe tiếng động, đang ngủ ngồi bật dậy, mắt nhắm mắt mở nhìn Phi Yến, sau đó nàng mở cả hai con mắt thật to hô lên:

-Á à! Là tên du côn du kề ngươi, ta tìm nhà ngươi lâu lắm rồi! Hôm nay bổn nương không tha…

Phi Yến đưa tay lên môi suỵt khẽ:

-Đừng la, là tôi, Phi Yến này!

Tiểu Tường phát hiện tên sờ ngực nàng hôm nọ chính là Phi Yến, như đặt được một tảng đá trên ngực xuống.

Và trái với suy nghĩ của Phi Yến, Tiểu Tường cũng không trách giận chi nàng, chỉ thò lò con mắt hỏi:

-Thuật dịch dung của cô cũng khá tốt đó, mà sao sáng nay lại cải nam trang chi nữa vậy?

Vừa nói vừa sờ tay lên mặt Phi Yến tìm đường giáp ranh giữa cổ và tấm da mặt.

Phi Yến phủi phủi tay Tiểu Tường ra, nói:

-Tôi đi làm việc nghĩa, tình lang thường bảo người có võ phải làm việc ích dân lợi nước là gì?

Dứt lời định quay đi.

Tiểu Tường gọi giật:

-Này!

-À quên - Phi Yến quay lại - Không biết cô đây có biết cái chi sáng sáng không, tôi cần cái gì đó phản chiếu ánh sáng.

-Tấm gương? - Tiểu Tường đáp.

-Đúng đúng! - Phi Yến mừng mừng.

Dè đâu Tiểu Tường đáp gọn:

-Không có.

Phi Yến cụt hứng đi một vòng quanh lều hất tung cả chiếu, gối, quần áo đồ đạc sang bên để tìm. Vừa tìm vừa lẩm bẩm như một bà cụ đãng trí:

-Bọn chúng thế nào cũng khám xét ta, ta phải dùng vật gì bắt ánh sáng mà không bị nghi ngờ đây nhỉ?

-Tôi có cái này - Tiểu Tường sau hồi suy nghĩ cũng nhớ ra.

Nhưng chưa chịu đưa Phi Yến ngay mà nói:

- Cô phải nói tôi nghe chuyện nghĩa hiệp gì mới được, và dùng nó bắt được ánh sáng để làm chi? Trông cô bí bí mật mật như vậy, chắc định làm chuyện không tốt rồi. Cô mà không chịu nói tôi hô lên cho sư tỉ cô biết đấy!

Câu hăm dọa thật là có tác dụng, Phi Yến không cách nào bèn kể Tiểu Tường nghe chuyện cướp dâu, cũng không quên căn dặn Tiểu Tường không được tiếc lộ với sư tỉ nàng, bằng không với tánh tình Phi Nhi lại cản không cho nàng đi.

Tiểu Tường vạch túi hành lý của nàng lôi ra một vật:

-Cái này? Được không? Từ khi lên đây huynh ấy thoát ly chuyện giang hồ, không dùng lâu rồi.

Phi Yến nhìn nan quạt làm bằng sắt, ôm hôn Tiểu Tường một cái “chụt” rõ to lên má, mừng nói:

-Cô đúng là Quan Âm tạ thế! Đúng thứ tôi cần!

Chợt thấy trên quạt có vẻ hình một người con gái, nàng hỏi:

-Ả này... có phải là tiểu sư muội huynh ấy?

-Ừ.

Đáp lại lời Tiểu Tường là cái bĩu môi của Phi Yến.

---oo0oo---

Phi Yến tới quán rượu lúc trời hãy còn mù sương. Thường thì đám cưới nhà ai đều cũng có đông đủ thân thuộc láng giềng đến dự, nhưng đám cưới này vắng tanh vắng ngắt, chỉ có bốn người gánh rượu, Tứ Bình cùng vợ y đang ngồi trong nhà, cửa mở toát hoác.

Hai mươi vò rượu được chuẩn bị xong thì giờ hẹn rước dâu cũng vừa đến. Ngoài cửa có tiếng chân khá đông người giậm huỳnh huỵch và giọng cười nói xôn xao. Chợt có tiếng thét dõng dạc:

- Xin mời tân nương ra kiệu hoa.

Tứ Bình bước tới mở cửa. Phi Yến thấy tên cướp Lôi Đại Hổ với bộ râu tóc xoăn dài, và đám thủ hạ của hắn. Người này là sư đệ của Châu Tân Trình. Một chiếc kiệu hoa lộng lẫy phủ lụa đỏ tơ vàng được bốn người lực lưỡng khiêng dừng ngay trước cửa. Người nào cũng có giắt gươm đao vũ khí cạnh bên hông. Bọn cướp thấy cha nàng dâu thì cũng làm theo lễ chắp tay vái một cái chào.

Tứ Bình vội vàng đáp lễ, xong nói:

- Mời đàn trai ghé vào tệ quán xơi ly rượu cho ấm bụng.

Lôi Đại Hổ lắc đầu:

- Chúng tôi được lệnh đại ca mang tân nương về sơn trại liền không được chậm trễ, e giờ lành sẽ qua đi.

Tứ Bình phu nhân không nỡ xa con gái, định nói gì đó để giữ chân bọn cướp lại thêm một hồi nhưng Phi Yến đã lên tiếng trước. Nàng ra vẻ sợ sệt nói:

- Vâng vâng, chúng ta không nên trái lệnh đại vương.

Tứ Bình phu nhân đành bước vào trong bảo Tiểu Liên trùm khăn che mặt lên, rồi từ nhà sau dìu cô dâu ra. Tiểu Liên bước lên kiệu.

Lôi Đại Hổ nói:

- Lệnh ái và đại vương thành duyên giai ngẫu, sau này chúng ta đã là người một nhà, quán rượu này hằng tháng không cần phải đóng tiền bảo hộ nữa. Xin chào!

Lũ cướp cũng vái chào từ biệt. Phi Yến và mấy người nam nhân gánh rượu mỗi người cùng gánh bốn vò, bắt đầu đi theo kiệu dâu hướng tới Lãnh Hải sơn.

---oo0oo---

Cửu Dương đang ở trong lều biên soạn nốt mấy trang cuối của quyển một Văn Vận Phủ, tối qua chàng thức trắng đêm. Lão Trần như thường lệ ở cạnh bên chuẩn bị thêm giấy bút cho chàng. Khi này các cống sinh còn chưa ngủ dậy. Nghị Chánh thì đã dẫn Hiểu Lạc đi săn.

Một xấp giấy hoa tiên được lão Trần để ngay ngắn trên bàn, mực cũng được mài sẵn, có hai cây bút mềm gác hai bên. Thêm một ly trà nóng, một tí hương trầm cho vào lò sưởi đặt ở giữa căn lều. Rồi ông lão đi lấy chiếc áo khoác mang đến cho Cửu Dương, kính cẩn nói:

- Thất gia, mặc thêm áo nầy vào rồi hãy làm việc tiếp. Trời đang lạnh thế này sẽ bệnh đấy.

Cửu Dương đỡ lấy áo, thấy ông lão xem mình như con trong lòng cảm động vô cùng.

- Dạ cám ơn Trần thúc.

-Có chi đâu thất gia, tại lão nô cảm thấy lo lắng vậy thôi, ngài không chê lão nô này già ưa lải nhải là được rồi.

Ông lão móm mém nụ cười hiền, nói thêm:

- Lão nô hiểu ngài nhiều lắm. Ngài là một người có trách nhiệm với công việc đã được giao phó, nhưng làm thơ xong gắng đi ngủ để giữ gìn sức khỏe nhé.

Cửu Dương lại nói tạ ơn, sau đó cúi xuống tiếp tục với công việc của chàng.

Tứ bề bây giờ hoàn toàn yên tĩnh, chàng cầm bút nhìn giấy trước mặt. Nghe tiếng gió thổi bên ngoài từng đợt từng đợt qua. Trong giấy có bài thơ nói về tiết Thanh Minh đã sớm qua rồi. Đêm mưa tiễn xuân tàn, đặc biệt buồn thê lương. Đọc thơ nghĩ đến phận mình, ngày xưa cũng là một thiếu gia như ai, ở quê nhà được cha mẹ thương yêu, có thầy đến tận nhà dạy học mọi thứ, nhưng rồi vì gia đình tham gia cuộc khán chiến chống triều đình đã làm mất đi hai đấng sinh thành, cha mẹ đã mất nhà cửa tiêu tan, hai anh em chàng mồ côi cô quạnh, nếu không có Giác Viễn, Cửu Nạn sư thái và Mã Lương, không biết rồi tương lai sẽ về đâu? Nghĩ đến cảnh nước mất nhà tan mà lòng buồn bã. Bên ngoài tiếng gió tiếp tục thổi vi vu, âm thanh đơn điệu buồn buồn.

Cửu Dương biên vừa xong một trang thơ thì nghe có tiếng chân ngoài cửa lều, rồi Phi Nhi mang vào một xấp giấy nói:

-Bản cảo Đường Thi đã chỉnh lý xong, xin mời huynh xem.

Cửu Dương nhìn đôi mắt Phi Nhi mà quên hẳn buồn bực. Chàng cầm lấy xấp giấy lật xem, thấy phần mở đầu của bộ Đường Thi là mười bài thơ của Đường Thái Tông Đế Kinh Thiên Thập Thủ. Phi Nhi chọn những bài này là đúng ý chàng. Cửu Dương mỉm cười, những câu thơ đó mang khí thế khoát đạt, tâm thế hoành tráng diễm lệ, thể hiện tiết tháo cao thượng và hoài bão vĩ đại làm cảm khái và rung động lòng người.

Cửu Dương đọc lên hai câu:

-Tâm tùy lãng nhật cao,

Chí dư thu sương khiết

Phi Nhi nói:

-Muội trích hai câu này từ cuốn Thăm lại chiến địa đánh bại Tiết Cử Bá Vương.

Gương mặt chàng không giấu vẻ cảm kích:

-Tốt! Tốt lắm! Để chiều này huynh sẽ duyệt lại tất cả.

Phi Nhi được khen ửng hồng đôi má, đoạn nói:

-Có việc này muội muốn tham khảo ý kiến của huynh.

Cửu Dương đặt xấp bản khảo qua một bên, nói:

-Chuyện gì?

Phi Nhi nói:

-Trong bản khảo Đường Thi này, riêng phần thơ của Lý Bạch có tám trang, nhưng một trang trong đó muội nghĩ có gì không đúng.



-Tại sao?

Phi Nhi nhìn Cửu Dương, cười dịu dàng:

-Muội coi nhiều sách cũ, nhưng trong bản cảo Đường Thi này lại xửa Cửu Huê Sơn thành Cửu Tử Sơn.

Cửu Dương ngạc nhiên:

-Ồ, vậy sao? Để huynh xem thử nào.

Lại cầm xấp giấy lên. Phi Nhi giúp chàng lật đến những trang thơ của Lý Bạch, nói:

-Muội nghĩ ý của Lý Bạch phải là Cửu Huê Sơn mới đúng, vì nhớ hồi Lý Ngụy đánh Tấn đã có câu “Cửu Huê Sơn nhất thiên tự, tản hại dân vũ trung,” còn có câu này còn xưa hơn nữa này, nói là “Cửu Huê kỳ tú cận tại thiên đài,” cho nên muội thấy cần phải sửa lại đoạn đó.

Cửu Dương cùng lão Trần lắng nghe, Phi Nhi nói tiếp:

-Cửu Huê Sơn trong đoạn thơ này của Lý Bạch muội nghĩ chính là viết về Ngưỡng Huê Sơn Tịch, một thiền sư sống thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều, là môn đệ lừng danh của Huê Sơn Linh Hựu và là người khai sáng tông Huê Ngưỡng. Trí huệ và kinh nghiệm giác ngộ thâm sâu của Sư nổi danh trong thiền giới thời đó nên Sư cũng có biệt danh là "Tiểu Thích ca." Trước tuổi hai mươi, Sư yết kiến và trau dồi kinh nghiệm với nhiều ngôi sao sáng trong Thiền tông và đã mang danh là một thiền sinh xuất sắc. Dưới sự hướng dẫn của Huê Sơn, rất nhiều người đạt yếu chỉ thiền.

Cửu Dương xúc động lặng lẽ nhìn nàng. Chờ cho Phi Nhi nói xong, lão Trần nói:

- Lộ tiền bối có cô cháu gái thông minh vô cùng, lại còn thông thạo về sử và thơ, nếu là lão nô đã không bao giờ phát hiện ra rồi.

Phi Nhi được khen khiến nàng sung sướng trong lòng, cười nói:

-Vãn bối làm sao được kỳ tài như thất gia chứ, chỉ là con mọt sách thôi.

Cửu Dương cũng nhìn Phi Nhi với nụ cười dịu dàng, ánh mắt chàng giữ yên trên mặt nàng khá lâu, bấy nay chàng cứ ngỡ nàng chỉ là một cô bé ham chơi, không ngờ làm được việc như vậy.

Tiểu Tường mang bình trà nghi ngút khói và ba món điểm tâm vào đặt trên bàn, mời những người trong lều đến ăn. Phi Nhi trố mắt:

-Hôm nay lẽ ra tới phiên Phi Yến nấu ăn chứ tỉ? Chắc muội ấy lại ngủ quên, thật là ngại quá.

Tiểu Tường đương nhiên nhớ hôm nay là ngày nàng được ngủ nướng thêm một chút, nhưng không tiện nói ra tại sao Phi Yến lại vắng mặt.

Thấy đôi mắt sáng long lanh của Tiểu Tường cứ đảo qua đảo lại như xao xẹt, còn miệng thì cứ “à à” liên tục, Cửu Dương biết nàng đang giấu chuyện gì đó. Tra hỏi một hồi Tiểu Tường cũng nói ra tông tích của Phi Yến.

Phi Nhi nghe danh Châu Tân Trình, bật đứng dậy nói:

- Nguy! Người này đã từng tay không đơn thân độc mã đột phá tam ải của Thanh Thành để đoạt lấy bảo đao của chưởng môn chúng tôi!

Lão Trần nói với Cửu Dương:

-Sư đệ hắn Lôi Đại Hổ cũng là chủ tiêu cục Đại Bảo, vì là một phần tử trong giới lục lâm nên những chuyến tiêu của hắn không bao giờ bị cướp hàng.

Cửu Dương cũng lo lắng nghĩ “võ công hai người này rất cao cường, so với Phi Yến hơn hẳn ít nhất cũng mười mấy bậc.”

Đối diện với sơn trại là một khu rừng khá rậm. Cửu Dương chọn một tán lá rậm rạp trèo lên ẩn mình kín đáo trong đó đưa mắt quan sát mọi động tĩnh ở hậu hoa viên. Chàng không tiện ra mặt, sợ bọn thổ phỉ vốn có thù với Giang Nam thất hiệp, phát hiện ra chàng và những cống sinh đang ở Tứ Xuyên, chừng đó lại phải tiếp tục chạy nạn đi nơi khác.

Chàng đoán Phi Yến sẽ tìm cách cướp dâu ở hậu viên, nhưng nhìn mãi mà không thấy Phi Yến đâu. Cửu Dương bắt đầu cảm thấy sốt ruột thì bỗng thấy trong hoa viên thấp thoáng có bóng người. Người đó đi xuyên qua những luống hoa trà về phía tân phòng mà không bị ai cản lại.

Chàng chợt mỉm cười và lắc đầu, đúng là ngé con không biết sợ cọp, mặc kệ có mai phục hay không cô bé này cứ thích là làm.

---oo0oo---

Quả như Phi Yến nghĩ, lúc trước khi đặt chân vào trại nàng và bốn người gánh rượu ai cũng bị xét toàn thân xem có mang vũ khí vào không. Phi Yến đã dùng vải bó ngực chặt lại cho thật phẳng để giống nam nhân. Bọn gác cổng không phát hiện vật gì khả nghi ngoài cây quạt của nàng, nên cho năm người nàng qua cổng.

Năm người gánh rượu trên vai đi một vòng thật xa từ cửa trước ra hậu viên, đặt hai mươi vò rượu vô bếp. Ở trên núi thì trại chủ là vua, nên cái ăn cái mặc cũng bắt chướt y vua. Bọn đầu bếp dùng kim vàng thử xem rượu có độc không mới cho năm người nàng ra về.

Khi bước ra khỏi bếp Phi Yến ôm bụng kêu đau quá, nói xin vào nhà xí một lát, thực chất là quản binh để đi tìm nàng dâu. Hồi sau Phi Yến cũng lén lút lần vô được đến tân phòng, vừa cởi đồ và gở tấm mặt nạ đang đeo ra vừa nói:

-Nè, muội mặc vào mau.

Tiểu Liên gật đầu, nhưng vẫn còn lo lắng nhìn Phi Yến:

- Thế còn...

Phi Yến nói:

-Muội đừng lo, những đồ sính lễ trang phục cô dâu cứ để lại đây cho tỉ. Tỉ sẽ không sao đâu.

Phi Yến giục Tiểu Liên thay quần áo, đeo mặt nạ nam nhân vào rồi ra khỏi phòng, giao mọi việc lại cho nàng giải quyết. Tiểu Liên đi rồi, Phi Yến đến nơi chiếc giường, ở trên giường thất bảo đặt sẵn bộ trang phục cô dâu tha thướt với những đồ trang sức đắt tiền do bọn cướp đưa đến đặt cạnh bàn phấn. Nàng nhủ bụng “mình phải bắt tay thi hành kế hoạch ngay không nên chậm trễ…”

Sau khi Phi Yến dùng một tấm da mặt khác hóa thành Tiểu Liên rồi, nàng cầm bộ áo cô dâu khoác vào người. Nàng bỏ khăn quấn tóc, xổ mái tóc dài óng mượt xuống phủ lưng, chảy tóc và đội mảo đỏ lên ngắm mình trong gương. Xong phủ khăn che kín mặt.

- Thật là một vị tiểu thư nhan sắc khuynh thành! Tôi đây chỉ mới ngắm cái lưng đã mê. Hèn chi trại chủ trông thấy đã phải chết mê chết mệt!

Phi Yến ngoảnh lại, thấy bà mai đứng nhìn mình ra vẻ tán thưởng. Nàng hỏi:

-Đến giờ bái thiên địa rồi sao?

-Dạ, mời trại chủ phu nhân.

Bà mai trả lời, hơi ngạc nhiên vì bây giờ dáng đi cô dâu trông rất ung dung tự tại, khác hẳn thái độ chậm rụt lo âu sợ sệt lúc nãy. Tới khi bái đường, bà ta càng được dịp ngạc nhiên hơn khi cô dâu còn vén khăn che đầu sang bên mỉm cười nheo mắt tỏ vẻ bỡn cợt.

Phi Yến bái thiên địa xong được bà mai dìu trở về phòng chờ tân lang, vừa vào phòng nàng liền đánh ngất rồi giấu bà ta dưới gầm giường. Phi Yến đi đến bàn ăn đặt giữa phòng, khi này trời gần trưa, nàng chưa ăn điểm tâm nên đói bụng lắm rồi, thấy trên đó nào là một con gà trống luộc, chè trôi nước, bánh phu thê, mì xào, mứt táo khô, trái cây, và một vò rượu, bất quá nhịn không được rót một ly ra uống.

Phi Yến ngồi chờ lâu rất lâu, cuối cùng đói quá đành ăn sạch luôn đĩa bánh ngọt, quất luôn đĩa mì xào, nhay xong trái lê, cửa liền mở ra. Nàng lật đật kéo khăn xuống phủ mặt.

Châu Tân Trình ăn tiệc cưới với khách đã đời, mãi đến khi khách khứa ai cũng say mèn mới đi tìm tân nương tử của y. Y đi vào chưa kịp nâng khăn che mặt Phi Yến lên đã dang tay ôm nàng. Phi Yến giãi ra:

-Ôi! Chàng này, buông thiếp ra, chúng ta hãy ăn viên chè đi, kẻo qua giờ lành bây giờ!

Châu Tân Trình cười giả lả:

- Ta không ăn chè đâu, chỉ ăn.... nàng thôi.

- Ít ra chàng cũng phải đóng cửa lại đã chứ!

Châu Tân Trình bế thốc Phi Yến lên:

- Ta không đợi được!

Vừa nói vừa bế nàng đưa vào giường.

- Người đẹp, nàng sẽ vĩnh viễn là của ta, đúng vậy chứ?

Phi Yến dịu dàng đáp:

- Bao giờ thiếp cũng là của chàng mà. Cả trước đây cũng vậy!

Châu Tân Trình nhắm mắt, ngây ngất hít lấy hít để mùi hương thơm tho từ người thiếu nữ tỏa ra. Nhưng mùi hương mỗi lúc một gắt, khiến Châu Tân Trình buồn ngủ. Y cảm thấy có gì đó không bình thường, quả nhiên Phi Yến lấy khăn trùm đầu xuống, lột miếng da mặt ra. Châu Tân Trình vội mở bừng mắt nhổm lên định nhảy khỏi giường nhưng chân tay mềm nhũn, dục vọng lập tức biến đi không còn chút dấu vết, mắt kinh hoàng nhìn ra cửa, há miệng định kêu thét lên.

Phi Yến điểm huyệt câm của y, dí sát mặt nàng vào mặt y, cười nhăn nhở nói:

- Tân nương của ngươi bây giờ đã cao chạy xa bay với người yêu của cô ấy rồi! Hi hi!

Châu Tần Trình muốn la lên nhưng bị điểm huyệt khiến y không phát ra được tiếng nào, ngã gục xuống giường, người lịm dần đi.

Cửu Dương nấp trên cành cây quan sát mọi cảnh tượng xảy ra trong sơn trại. Thoạt tiên chàng trông thấy Phi Yến với vẻ mặt tuấn tú, giả dạng nam nhi giống không chê vào đâu được, thẳng bước đi vào hoa viên. Chàng mỉm cười, chợt nhận ra người con gái này tinh nghịch nhưng cũng vì lòng trắc ẩn mới làm vậy. Tiếp đó, chàng thấy nàng đột nhập vào phòng tân hôn của Châu Tân Trình, không đơn giản chỉ là việc cướp dâu.

Đúng như chàng nghĩ, sự việc mới chỉ bắt đầu thôi. Sau khi đánh thuốc mê tân lang, Phi Yến lục lạo trong tủ lấy đi cùng nhiều thứ trang sức quý giá, cho vào miếng vải rồi cột thành cái túi quàng qua vai. Trước khi trốn đi còn dùng rượu tưới khắp tân phòng nữa. Trông nàng khi ra khỏi phòng tân hôn phấn khởi ra mặt. Chuyến đi này của Phi Yến chẳng những kết quả mỹ mãn mà còn có thể nói là thắng lợi vượt quá mọi dự kiến.

Phi Yến đứng ở hành lang ngước mặt nhìn lên cao, lúc này mặt trời đứng bóng, nàng dùng nang quạt mang theo trong mình phản chiếu ánh sáng của mặt trời chiếu vào rượu dưới sàn, làm lửa bốc cháy cả phòng. Lửa theo đường rượu lan từ tân phòng đi rất nhanh, từ hậu viên ra đại sảnh, tràn đến nhà chứa rượu, làm nổ một tiếng lớn như núi lửa phun trào. Vì bấy giờ là mùa khô nên rất dễ bốt cháy, mà sơn trại lại được xây hoàn toàn bằng gỗ, phút chốc doanh trại đã chìm trong biển lửa. Thì ra lúc trước khi đặt chân vào sơn trại, Phi Yến đã ngấm ngầm với những người gánh rượu, bảo với họ rằng khi nào đi gần tới trại thì dùng một chiếc đinh nhỏ làm vò rượu bể một lỗ, rượu được gánh đi suốt từ cổng trước ra cổng sau, bị rò rỉ mà không ai hay rồi theo đó mà bốt cháy thiêu đốt khu sơn trại.

-Mau lên! Mau lên!

-Trại chủ ơi!

-Đại ca!

Phi Yến hy vọng lần này trở về nhất định sẽ nhận được lời khen ngợi từ Phi Nhi, không ngờ ở cuối hành lang lại thấy ai như Lôi Đại Hổ và một nhóm chục tên cướp núi đang tất tả mang nước lại tân phòng cứu hỏa. Bọn chúng chưa phát hiện ra nàng, Phi Yến nấp sau một cây thông cao hơn nàng cái đầu, đợi chúng đi qua rồi mới nhanh chóng thi triển khinh công nhảy qua khỏi bức tường để vượt ra ngoài. Nào ngờ nàng vát theo quá nhiều vàng bạc trên lưng, phi thân không qua được bức tường cao, lúc đáp xuống nàng còn bị mất thăng bằng nên trặc mắt cá chân.

-Úi da!

Phi Yến kêu lên, nước mắt trào cả mi.

-Ai đó?

Bọn Lôi Đại Hổ nghe tiếng kêu chỗ phía sau cây thông, khả nghi vội tiến lại.

Cửu Dương thấy Phi Yến sắp bị nguy hiểm, nhưng lại sợ bị Lôi Đại Hổ và đàn em hắn nhận diện sẽ tạo thêm thù với tiêu cục Đại Bảo, chàng bèn xé toạt một manh áo phủ lên mặt rồi nhanh tay cột một gút phía sau gáy, phóng đến sau lưng Phi Yến.

-Theo ta! - Cửu Dương vừa nhỏ tiếng nói vừa dùng tay bịt miệng nàng lại, bế nàng lên phóng qua bức tường.

Khi Lôi Đại Hổ lại đến nơi thì phía sau cây thông không còn ai nữa. Mà y cũng không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, lửa bốc ngút trời, khói đen dày đặc, Lôi Đại Hổ phải nghỉ cách rời khỏi sơn trại. Bọn cướp phần đông say mèm ở nhà trước nên đều bị thiêu chết cả, phần nhỏ còn lại thì hớt hải đi làm nhiệm vụ chữa cháy, sau hồi thấy lửa quá lớn, mà nhị trại chủ lại biến mất, chúng biết sẽ không dập tắt thành công được, người nào người nấy cong mông chạy như vịt.

Phi Yến cũng được ân công nàng bế chạy như bay xuống núi. “Én nhỏ” được người ta cứu thoát, nhưng tánh tình vốn dĩ rất ngạo mạn, không nói câu cảm ơn nào hết, cứ nghĩ người này cứu mình chắc vì số vàng mang theo trên lưng mình. Trong lúc hai người chạy tới gần một ngôi đền nàng lại tưởng người đàn ông này sờ mó nàng vì khi đó bàn tay y vô tình đặt sai vị trí trên mình nàng. Nàng hét lên:

-Ê! Quân thô bỉ hạ lưu, định thừa cơ hả? Thả tôi ra! - Vừa hét nàng vừa giải dụa đạp chân loạn xị, còn cắn vào vai y một miếng nữa.

Bịch! Cửu Dương giật mình thả tay, Phi Yến liền té xuống đất.

Phi Yến nằm dưới đất ngó lên, lúc này mới có dịp nhìn kỹ tướng tá của ân nhân nàng.

-Tình lang, là huynh sao? - Nàng phát hiện đôi mắt người này quen quen, vội kêu lên.

Cửu Dương cởi bỏ tấm khăn che mặt, gật đầu, đoạn cúi xuống tháo chiếc giày của nàng ra, tay phải giở gót chân. Chàng nhìn bàn chân nàng nhỏ nhắn, vừa cầm tới đã nhớ tiểu sư muội, nhớ hồi còn nhỏ mỗi lần hai người ngồi chơi bên Tây Hồ chàng đều rửa chân cho nàng, thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn lên, bắt gặp Phi Yến nhìn chàng mỉm cười. Nụ cười sao mà giống tiểu sư muội như vậy? Trong ánh nắng ban trưa, Cửu Dương thấy khuôn mặt Phi Yến rạng rỡ tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến chàng nhớ người thương, như ngây như dại.

Phi Yến thì cảm kích tình lang lắm, cổ nghẹn lại không thốt nên lời. Lát hồi nàng lấy lại vẻ liến thoắng nói:

- Thật nhờ huynh lanh trí cứu muội. Vì sao huynh biết muội đang gặp nguy mà đến kịp thời như thế?

Ánh mắt Cửu Dương không rời mặt nàng, đáp:

-Sợ người ta bắt muội đi, lúc đó lại phải dùng ngân lượng để đánh đổi.

Phi Yến hiểu là chàng nói dối. Trống ngực nàng đập liên hồi. Chàng theo dõi mình chăng? Có phải chàng lo lắng đến sự an nguy của nàng mà chủ tâm rình rập, hòng xuất hiện đúng lúc để cứu nàng? Phi Yến tin chắc như vậy. Nàng cảm thấy nỗi sung sướng tràn ngập cả lòng. Ừ nhỉ, chàng cũng không phải là kẻ vô tình trước vẻ yêu kiều diễm lệ của nàng. Bất giác nàng đưa mắt nhìn Cửu Dương lần nữa, và bắt gặp chàng vẫn chưa quay đi. Tâm hồn nàng xao xuyến vô biên.

Phi Yến không còn sức để đi tiếp nữa, chân nàng bắt đầu sưng phồng lên, con đường xuống núi hãy còn xa, hai người đành trú lại trong ngôi đền hoang. Cửu Dương dìu nàng ngồi xuống giữa đền, dùng hai viên gạch kê cao chân bị đau của nàng lên, sau đó lấy một chiếc bát đựng nước lạnh và một đầu mảnh vải nhúng trong bát nước, đầu còn lại dùng để quấn vào chân nàng để cố định vết thương. Nước lạnh thấm theo tấm vải có tác dụng như chườm lạnh trong khi chàng đi tìm hái lá chìa vôi, lá bạc thau, lá đau xương, lá cúc tần, lá thầu dầu tía, lá ngải cứu, và lá náng hoa trắng. Dùng mỗi thứ một nắm tay, nhai nát đắp vào chỗ chấn thương. Những thứ lá đó đắng vô cùng, Phi Yến vừa ngửi qua đã muốn nôn ọe, thế mà chàng lại bình thản được. Nàng nhìn chàng tỏ vẻ biết ơn, đôi mắt long lanh vô cùng xinh đẹp.

Trời tối, có tiếng sói tru nghe lanh lảnh. Cửu Dương tìm củi đốt lửa sưởi ấm và tiện để xua đi thú dữ. Hai người ngồi bên nhau, nhìn đống củi cháy phát ra âm thanh nghe lốp bốp, Phi Yến giơ tay lên bịt lấy đôi tai nói:

-Muội không ngủ được, muội sợ tiếng sói lang lắm, hay huynh làm một bài thơ cho muội nghe?

Cửu Dương không có tâm trạng làm thơ nhưng cũng gật đầu chiều theo nàng, suy nghĩ một chút chàng cất giọng:

-Ngày về chốn cũ bỗng nhớ Ai?

Tình ta treo đó biết bao ngày

Hẹn Em sao mãi nhìn nhau ngại

Mộng ước tan rồi khoé mắt cay!

Bạn bè nâng ly rượu lai rai

Tạc tới tạc lui suốt mấy ngày

Tưởng quên mà nhớ ngày Thơ mãi

Tình đầu sao xoá, dễ gì phai?

Phi Yến bảo thêm một bài, chàng lại dễ dãi gật đầu, thoáng suy nghĩ rồi đọc:

-Em đã đến và đi không từ giã

Mặc mùa thu chết lặng đón đông qua

Xác bàng rơi xào xạc trước hiên nhà

Như chôn kín tình ta vào thổ mộ

Thời gian ơi! Biết bao giờ tao ngộ

Cảnh tương phùng chắc đợi đến chiêm bao

Dạ đêm trường dằn dặt đến nôn nao

Hồn lở loét cồn cào da diết gọi

Bóng Người đi biền biệt hoài không mỏi

Bao năm rồi khóe mắt vẫn cay cay

Sau đó tiếp tục đọc:

-Tựa cửa nhìn xa ngắm nguyệt tà

Cung Hằng bám gót nửa cành đa

Rãi lên nhân thế muôn trùng sáng

Màu lạ quấn quanh cõi ta bà

Dạ lý xả mùi quyện tinh sương

Ngát tỏa hương xa khắp vô thường

Bướm ong ngủ kỹ không bay lượn

Bỏ mật phấn ngồi kết tơ vương

Ai hay ai biết nhớ Người thương

Nước mắt hoen mi rớt ướt giường

Gặp nhau trong mộng cười sung sướng

Tỉnh giấc lên đường trấn biên cương

Rồi lại đọc:

-Ngày xưa đó hồ Tây sao êm ả

Chiều xa nhà lặng lẽ ngắm hoàng hôn

Một năm trôi sao dạ thấy bồn chồn?

Ngày trở lại rộn ràng da diết nhớ

Phố ngàn thông mang tình yêu cởi mở

Thu sắp về, hạ tím ủ vần thơ...

Đọc đến cuối bài, Cửu Dương quay sang nhìn Phi Yến, giật mình khi chàng trông thấy nàng ngồi bó gối như một con chim nhỏ, tướng ngồi giống sư muội chàng đến lạ!


Én nhỏ, đêm nay muội ngồi cạnh huynh, những bài thơ u hoài vừa rồi huynh đọc, muội có hiểu gì không mà mặt lại ngẩn ngơ?

Phi Yến ngồi dầm mình trong ánh lửa bập bùng, đôi mắt đẹp long lanh như hai vì sao biếc, có đôi khi Cửu Dương tưởng chính sư muội chàng đang ngồi nghe chàng làm thơ bên bếp lửa của Hắc Viện năm nào. Và chàng thấy trái tim mình sống lại.

Phi Yến tựa đầu lên vai Cửu Dương.

Chàng ngồi im lặng để nàng trong tư thế ấy một hồi lâu mới đẩy nhẹ nàng ra. Chàng biết làm gì khác hơn? Xa Tây Hồ, chàng cứ mong tình xưa hãy tắt, nhưng đêm nay nhận ra nó mãi còn cháy ở trong lòng, và tê tái hiểu ra dầu cho mai này chàng đến với ai thì mối tình ấy chẳng qua chỉ là sự nối dài của mối tình chàng với sư muội chàng qua một hình bóng khác. Cứ nghĩ cảnh ôm Phi Yến trong tay mà lòng cứ ngỡ đang hôn sư muội đắm đuối, Cửu Dương rùng mình, nghe lạnh toát sau lưng.

Cửu Dương bỏ đi ra ngoài sân đền, ngồi xuống bật thềm, nâng ống tiêu lên, nghe lòng mình rạn vỡ. Tiếng tiêu sầu gửi buồn thương theo gió, từng cơn từng cơn len lỏi trên áo như muốn xoa dịu lòng chàng.

Nữ thần y, muội có biết không, đêm nay có một người đang nhớ về muội? Giấc ngủ muội cách chỗ huynh ngồi hàng vạn dặm, biết đâu trong cơn mơ đêm nay muội đang lần theo tiếng tiêu này dọ dẫm đến nơi này, ngồi lặng lẽ bên bếp lửa như một con mèo nhỏ năm nào.

Cửu Dương thổi xong khúc nhạc đưa tay lên ôm đầu và ngạc nhiên thấy mồ hôi ra uớt từng chân tóc, mặc dầu ngoài trời đã lạnh lắm sương khuya.

Phi Yến đứng đằng sau lưng chàng tự hồi nào. Khi Cửu Dương buông ống tiêu xuống nàng khẽ đặt tay lên vai chàng bồi hồi không nói. Lâu thật lâu, Phi Yến mới hỏi, ngậm ngùi:

- Có phải huynh thổi điệu nhạc này cũng dành cho người ta?

Giọng nói không khác sư muội chàng là bao, câu hỏi kề bên mà nghe như ảo ảnh, như có như không. Cửu Dương đáp và nghe tiếng lòng mình từ xa xăm vọng lại:

- Bản nhạc nào huynh cũng thổi về nàng ấy cả. Nhưng hai đứa chúng tôi như sao Sâm sao Thương, bầu trời kín mà quay hoài chẳng gặp.

Lúc đó, tuyết rơi.

(còn tiếp)

Hồi: Đại náo tân phòng (hạ)

Sáng hôm sau hai người rời ngôi đền trở về Đồng Sơn. Phi Yến khập khiễn đứng dậy, chu mồm phụng phịu:

-Muội chưa đi được, muội muốn như hôm qua.

Vừa nói nàng vừa chỉ chỉ tay xuống chân nàng, khi này sưng vù lên như một cái giò heo, rồi chỉ tay lên ngực chàng. Phi Yến nhìn Cửu Dương chờ đợi. Ánh mắt nàng có cái gì vừa dịu dàng vừa tha thiết khiến chàng không sao từ chối được, đành gật đầu.

Có dịp gần gũi chàng như vậy, Phi Yến càng bị choáng ngợp với vẻ ngoài của người đàn ông này. Nàng không khỏi ngỡ ngàng. Chàng quả là rất đẹp trai, vẻ đẹp của người đàn ông đầy bản lĩnh. Khác hẳn vẻ già dặn của lần gặp trước, lần này chàng trẻ trung dễ gần hơn.

Vả lại lần này nàng được chàng cứu mạng, lòng đã thương càng thêm thương. Nàng nhìn chàng như sói ngắm một con mồi mà chưa biết cách nào để tóm gọn.

Dường như đọc được những suy nghĩ trong đầu nàng, cặp mắt dài đầy tinh quái của Cửu Dương nheo lại.

-Hình như muội đang ngầm coi huynh là con mồi ngon nhỉ?

Phi Yến lúng túng trước cặp mắt như nhìn thấu mọi suy nghĩ của chàng. Sau một lúc cũng đáp lại đáo để:

-Nếu huynh tự cho mình là con mồi thì muội sẵn sàng làm thợ săn.

Cửu Dương cúi đầu, quan sát cô gái nằm trên tay mình. Mười bảy tuổi, trẻ trung, có ý chí. Cơ thể tràn đầy sức sống, đôi mắt sáng và biết nói, đó thực sự là một cô gái tuyệt vời. Thật đáng tiếc…

Chàng chỉ lắc đầu, cười nhẹ nhàng.

-Huynh cười tưởng muội nói đùa sao? Muội… tình cảm của muội là thật đó, từ ngay lần đầu gặp gỡ muội đã nhận ra huynh chính là định mệnh của đời muội.

-Muội yêu huynh vì cái gì?

-Nhiều lắm, vì huynh trưởng thành, khẳng khái, nam tính, biết quan tâm đến người khác, muội không kể hết được. Dù sao thì huynh khác hẳn với những người đàn ông muội đã từng gặp, huynh rất đặc biệt.

Phi Yến định nói thêm vì huynh chung tình nữa nhưng cuối cùng nàng dừng lại, nàng hạn chế hỏi về người cũ vì sợ lại khơi lên vết thương lòng chàng. Giờ nàng không biết gì hơn là ở bên cạnh chàng và chờ.

Cửu Dương bế Phi Yến trong tay đi đến chân núi Đồng Sơn. Nàng im lặng suốt một đoạn đường bỗng nói:

-Muội biết huynh cần thời gian, thời gian là liều thuốc tốt nhất chữa lành mọi vết thương, quá khứ dù đẹp đến đâu cũng không thể tồn tại, chỉ có hiện tại và tương lai là mãi mãi, muội chấp nhận chờ huynh.

Lời này khiến cho lòng Cửu Dương chấn động mạnh.

- Thơm quá, muội rất thích! Huynh để muội xuống đi.

Chàng chưa biết nói gì thì Phi Yến lại bảo đặt nàng xuống.

Chân núi Đồng Sơn hoa trà thi nhau đua nở, hoa trà là một trong những loài hoa chuyên nở trong mùa đông.

Phi Yến đứng giữa rừng trà hoa cười rạng rỡ như mặt trời mùa hạ:

-Huynh đừng lo, muội nói là chấp nhận chờ huynh không có nghĩa là buộc huynh mai này phải yêu muội, cũng không cần huynh phải thương hại, chỉ cần huynh cho muội mượn bờ vai, mượn đôi vòng tay, để dựa và sưởi ấm, như vậy đủ rồi, muội hứa sẽ trả lại cho huynh…

Khi nói câu này nàng hy vọng rằng trái tim chàng cần thời gian để chấp nhận thực tế là cuộc đời đôi khi vẫn thế, không phải điều gì ta muốn cũng được, đặc biệt khi đó là tình yêu.

-Hãy cứ bên muội như những ngày đã qua, cứ nhẹ nhàng và là chính con người huynh như thế nhé. Huynh không cần phải thương hại muội đâu, cũng không cần phải thấy mình có lỗi. Chúng ta không ai có lỗi chỉ vì mình không yêu lại một người yêu mình. Điều muội cần chỉ đơn giản là, cho muội mượn bờ vai một chút để muội dựa vào, để muội tự làm lành trái tim mình. Rồi một mai nhỡ mà huynh tìm được hạnh phúc rồi, cũng không sao, sự đợi chờ của muội sẽ không đi vào lảng phí đâu, khi đó muội sẽ đứng dậy, trả lại cho huynh bờ vai ấm áp đó. Muội sẽ chào huynh, sẽ mỉm cười chúc phúc huynh bên một người con gái khác, người con gái nào đó thuộc về huynh!

Cửu Dương xúc động nhìn Phi Yến, bên nàng chàng không cảm thấy áp lực, phải chăng vì bầu trời của nàng luôn tràn nắng lấp lánh? Và tự nhiên nghĩ nếu chàng yêu cô gái này, chỉ có hạnh phúc, hạnh phúc và hạnh phúc, vui vẻ mãi mãi.

Một cơn gió mạnh thổi tạt qua bụi hoa trà làm những cánh hoa bay tán loạn như những cánh bướm. Cảnh này khơi lại ký ức Cửu Dương hồi nhỏ, có lần hai đứa bé trốn học ra Tây hồ chơi.

Hôm đó đứa con trai đang ngồi trong học đường, một tú tài là người chuyên phụ trách dạy văn cho các cô nhi nói:

- Các em phải viết cho xong bài văn đây, kẻo rồi khi phu tử về lại mắng các em là mải chơi!

Đứa con trai kia là người nộp bài sớm nhất, vừa đặt tờ giấy lên bàn thầy giáo đã định chạy đi chơi. Vị tú tài nọ chộp lấy cánh tay nhỏ của nó, chậm rãi hỏi:

- Đã thuộc mấy bài thơ “cảm thông cho người chinh phụ” của Lý Bạch chưa nào?

- Thuộc rồi ạ - Bé trai nói.

- Đọc một bài cho huynh nghe xem.

- “Khi tóc thiếp xõa ngang trán, bẻ hoa chơi trước cửa nhà”

Trong những bài thơ về chinh phụ ngâm, bé trai thích nhất bài Trường Can Thành của Lý Bạch nên đọc thuộc lòng bài đó:

-"Chàng cưỡi ngựa trúc đến

Quanh giường nghịch ném quả mơ xanh

Cùng sống trong đất Trường Can

Hai đứa không hề ý tứ

Năm mười bốn làm vợ chàng

Mặt thẹn chẳng lúc nào tươi tỉnh

Cúi đầu ngoảnh vào vách tối

Gọi nghìn câu, không trả lời một lần"

Đang đọc bỗng bé trai im bặt, mắt chăm chú nhìn về phía một góc trong vườn hoa.

- Sao hả em? Không thuộc bài nữa hay sao? - Tú tài ôn tồn hỏi.

- Không ạ - Bé trai nói mà vẫn dán mắt về phía góc vườn ban nãy, có một người đang nấp trong đó, hai bím tóc ló ra đung đưa, cộng thêm ngón tay nhỏ nhắn xinh xinh đang chỉ chỉ về phía cầu Đoạn.

Khi này một tú tài khác bước vào, lớp học đành ngưng lại một chút, hai người thanh niên cùng trò chuyện gì đấy, lát hồi ngoảnh lại thì trên những chiếc ghế nhỏ đã vắng một học trò.

Đứa con trai vừa đặt chân lên cầu Đoạn, bé gái đã hớn hở reo:

-Đẹp không? Thất ca! Đẹp không?

Đứa con trai đứng sững lại, ngây người ra.

-Nhìn kìa, Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài - Tay bé gái chỉ sang bên kia bờ hồ.

Nói rồi đứa con gái chạy băng băng sang bên đấy. Đứa con trai vụt chạy nhanh lên phía trước.

-Trên tay của huynh cầm cái gì?

Lát sau bé gái cũng qua tới bên kia bờ hồ, vừa ôm ngực thở vừa hỏi.

-Không có gì - Đứa con trai trả lời, hí hửng cười nói và giấu bàn tay đằng sau lưng.

-Đưa đây muội coi?

-Không đưa.

-Đưa đây mau lên!

Lời nói như ra lệnh, đồng thời chân bé gái cũng dậm thình thịch.

Đứa con trai cũng chiều mà đưa tay ra, ngỡ sư muội sẽ vui.

Hai giọt lệ xuất hiện trên má cô bé:

-Muội rủ huynh đến đây để ngắm cảnh hoa bướm mùa xuân, ai kêu huynh làm chúng chết đâu, coi huynh kìa, đã gây nghiệp chướng rồi đó. Coi nè, tụi nó đang là một đôi phu thê tốt đẹp như hai đứa chúng mình sau này vậy, huynh đã chia rẽ tụi nó rồi!

Dáng điệu buồn buồn của bé gái làm tim đứa con trai đau nhói. Nó giương đôi mắt vừa to vừa đen nhìn cô bé một cách ngây ngô, hồi lâu mới tiu nghỉu nói:

-Huynh bắt nó vì muội bảo thích, nếu không thì huynh bắt làm gì? Huynh đã chán trò này từ lâu lắm rồi!

Nói xong cầm con bướm ném đi…

Những cánh hoa trà chau lượn như bướm trắng một vòng cũng rơi xuống đất. Cửu Dương trở về với hiện tại, lại nhìn Phi Yến, khi này dang rộng hai tay như đôi cánh chim hít lấy hít để mùi hương dìu dặt. Khi nàng quay lại đã thấy Cửu Dương đi về phía những bụi hoa. Lúc xưa chàng đã từng hứa với sư muội rằng một mai này khi non nước tàn chiến chinh, sẽ đưa nàng đi đến thảo nguyên, tìm nơi mà trăm hoa đua nở hái tất cả các loại hoa khác nhau ở đó tặng nàng.

Cửu Dương hái không chỉ một nhánh trà hoa mà cả một bó, và với bó hoa to đùng đó trên tay chàng rảo bước đến trước mặt én nhỏ. Rồi không nói một lời, chàng lặng lẽ và trang trọng đặt bó hoa vào tay Phi Yến, lòng xao xuyến như đang ký thác cả một trời tâm sự.

Phi Yến nhẹ nhàng ôm lấy bó hoa nhưng không nhìn hoa mà mỉm cười nhìn vào mắt Cửu Dương.

Trong một thoáng, chàng chợt nhận ra nàng đáng yêu không thể tả. Trước đây chàng cũng đã nhận ra điều đó nhưng lần này mới là lần phát hiện có giá trị nhất. Và cũng chính trong khoảnh khắc kỳ diệu đó, chàng hiểu rằng nụ cười và ánh mắt nàng hôm nay sẽ mãi mãi in sâu vào tâm khảm chàng, mãi mãi, không thể phai mờ.

Mọi diễn biến chỉ xảy ra trong một tích tắc nhưng Cửu Dương cảm thấy cái giây phút ấy dường như kéo dài vô tận. Chàng thấy thời gian như ngưng đọng lại, và đúng vào lúc chàng đinh ninh hai người sắp sửa biến thành hai tượng đá giữ rừng hoa trà thì đâu đây có tiếng sột soạt vừa đột ngột phát ra từ bụi hoa bên cạnh, như thể có một con thỏ vừa phóng ra khỏi chỗ nấp. Cửu Dương giật mình đảo mắt nhìn qua bên kia bụi hoa thấp thoáng sau bóng cây thưa, một cái bóng nhỏ đang chạy vụt đi khiến chàng bỗng bồi hồi tự hỏi, ai như là Tiểu Tường?

---oo0oo---

-Muội muội ngốc, sao lại không nói với tỉ, suýt nữa hai chị em mình đã không còn dịp thấy nhau.

Cả đêm qua Phi Nhi bồn chồn chờ Phi Yến dưới chân núi Đồng Sơn, giờ thấy mặt liền ôm chằm lấy em gái vừa trách vừa khóc.

-Xin lỗi tỉ tỉ - Phi Yến ái náy đáp.

Hai người dìu nhau trở về khu trại trên Đồng Sơn.

---oo0oo---

Tiểu Tường chạy băng băng qua rừng hoa trà, dừng lại bên một cây đa to, khi nãy nàng thấy Phi Yến Cửu Dương bên nhau hai người đáp trả thoải mái, nàng không chịu được cái cảnh này, vừa nghĩ tình yêu của nàng dành cho chàng ấm áp và chân thành biết bao! Chuyện gì cũng làm vì chàng, vậy mà...Sao huynh không chọn muội!

Tiểu Tường ngồi xuống bên gốc cây.

-Tường Nhi...

Có tiếng ngập ngừng từ phía sau nàng.

-Huynh đừng gọi người ta!

Tiểu Tường nói lớn, vẫn không quay lưng lại. Những trăm ngàn uất ức trong lòng nàng vào giây phút này đã tràn khỏi con đê ngăn.

Tiểu Tường khóc rồi, khóc nức nở, đôi vai nhỏ run bần bật, nước mắt vòng quanh mặt, nhưng không muốn chàng thấy nàng khóc, liên tục dùng tay lau mặt, lau vừa mạnh vừa nhanh. Thôi thôi đừng khóc nữa, nàng nhủ bụng, mi lúc nào cũng thế này, toàn tự một mình huyển hoặc, cứ hy vọng mãi, tưởng sẽ thay đổi được người ta... Bây giờ mi không còn cơ hội gì nữa rồi...không còn cơ hội gì nữa…

-Thôi nín đi, nghe huynh này.

Cửu Dương đi vòng ra trước mặt quỳ xuống, dỗ dành, dùng ngón tay cái lau nước mắt cho nàng. Sau một hồi, Tiểu Tường không khóc nữa. Rồi một hồi nữa, mới bình tĩnh lại, nhìn chàng:

-Những gì huynh nói, toàn là nói dối, huynh từ chối tình cảm của người ta, sở dĩ như vậy chỉ vì không ưa thích, chứ sao lại nói rằng chưa quên được tiểu sư muội?

Nàng khi nói câu này đã chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất, nhưng câu đầu tiên của Cửu Dương đã làm nàng giật mình.

-Không, lòng của huynh cũng như kim chỉ nam, từ xưa tới nay cũng chỉ cùng một phương hướng thôi.

-Huynh nói dối, rõ ràng có tình với Phi Yến!

Nàng lại bị kích động khi nói câu này, giọng nói gằn cao.

Tiểu Tường nói rồi yên lặng nhìn chàng. Nàng nhớ mới đây thôi, khi trao bó hoa đó cho Phi Yến, cái ánh mắt đầy quan tâm của chàng nàng đã thấy một phần tình cảm dành cho Phi Yến. Lúc đó nàng cứ ngỡ rằng chàng đã yêu. Thế mà bây giờ chỉ nói là khí phách của người thanh niên, muốn bảo vệ, che chở cho một cô gái yếu đuối thôi sao? Và Tiểu Tường bỗng giật mình. Như vậy thì Phi Yến là người có nhiều hấp lực thật. Bất cứ một người nào đến gần đều như bị cuốn hút, đều có cảm tình với cô ta.

Cửu Dương im lặng, Tiểu Tường hỏi:

-Muội nói trúng rồi, chối không được, phải không?

Chàng lắc đầu.

-Vậy tại làm sao?

Cửu Dương tặt lưỡi, tránh không nhìn Tiểu Tường:

-Vì huynh thấy Phi Yến có nhiều cử chỉ giống…nữ thần y.

Tiểu Tường như từ trên mây rơi xuống đất. Lời giải thích của Cửu Dương khiến nàng thẫn thờ. Hoá ra là vậy. Không ngờ một vị anh hùng tay không đánh cả thiên quân vạn mã ở rừng Tây Sơn lại ngây thơ và ngốc nghếch quá đỗi. Cô gái đó đã dẫm qua đời chàng bằng đôi giày đầy gai nhọn, trái tim chàng rớm máu, sao lòng còn giăng mắc sợi tơ xưa? Để bây giờ tìm một hình bóng giống vậy mà thay thế, tình yêu tạm bợ này sẽ tồn tại đến bao giờ?

-Huynh vẫn không thể gạt đi bóng hình nàng ấy để tìm đến một người hoàn toàn mới, vẫn vẽ hình nàng ấy hằng đêm, và thậm chí khi đi qua những nơi giống như góc nhỏ kỷ niệm, vẫn còn cảm giác tim nhói buốt. Phi Nhi nói huynh chưa chịu buông tha tình cũ cũng đúng, Nghị Chánh nói huynh là một gã dở hơi ôm ấp một mối tình si cũng chẳng sai. Là huynh cam tâm tình nguyện đứng yên một chỗ chờ đợi, dù cô ấy có khi đã không còn nhớ tới. Là huynh cam tâm tình nguyện đứng phía sau dõi theo bóng của cô ấy dù đã nói câu cố quên hàng vạn lần, cách nhau hàng vạn ngày thương nhớ.

Tiểu Tường nhìn Cửu Dương, chàng đẹp, từ dáng người đến khuôn mặt, tiếng nói trầm bỗng, phong nhã, đĩnh đạc, duyên phải biết. Thế mà...

Ánh mắt nàng chợt dàu dàu. Người ta hay nói đàn bà vương vấn tình xưa, đàn ông say đắm tình vừa mới quen, còn chàng, thì ngược lại.

Nhớ hồi ở Hàng Châu, gái đẹp đi qua, chàng không liếc nhìn huống chi dán mắt vào họ, chàng hoàn toàn không bận tâm tới những cô nương môi son má phấn ấy, như bị mê muội bởi một bóng người thướt tha đứng bên bờ hồ. Mà người đó bất quá khi gặp chỉ hỏi vài câu bâng quơ, ra vẻ chẳng quan tâm gì chàng. Còn mấy cô nương xinh đẹp tài mạo không kém theo tán, chàng tiếp chuyện, nhưng trong lòng không buồn để ý. Họ ức lắm, sau này Tiểu Tường hay nghe các cô gái Hàng Châu khi nói về chàng thường có câu: “Vẫn bộ y phục màu trắng, như một u hồn đang phiêu diêu nhưng đầy mê hoặc, mặt mang một nỗi điềm nhiên lạnh lùng.” Sau đó họ đọc:

“Ngũ quan Tuấn tú

Lắm cô si mê

Nhưng anh trót thề

Yêu mãi mình em

Vẻ ngoài bảnh bao

Ăn nói ngọt ngào

Duyên anh sẵn có

Thuỷ chung anh thừa!”

Đọc rồi họ bưng miệng cùng cười.

Ngồi nhớ lại, Tiểu Tường hỏi:

-Cả đời này huynh chỉ yêu sư muội thôi sao?

Cửu Dương gật đầu một cách cương quyết.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 30: Tam kỳ nữ

Phi Yến dùng vàng bạc lấy được ở sơn trại đưa hết cho Cửu Dương, số tiền không nhiều cũng không ít. Chàng trao phần lớn cho Nghiêm Hồng Đạt để khắc bản in Văn Vận Phủ, phần còn lại dùng để mua gạo, lương thực, áo ấm, và xây thêm lều cho các cống sinh.

Một buổi chiều Tiểu Tường tìm Nghị Chánh để khoe bài thơ nàng mới vừa làm:

-Sóng gió phong ba thổi tình ta đi mất

Cảm tình thân mật phút chốc hoá hư vô

Thôi đành duyên thuận theo thiên ý

Tiếc rằng hồng nhan tri kỷ trong đời gặp mấy khi?

Nhớ xưa ở chốn Kinh kỳ

Chia ly nước mắt bề mi lệ tràn

Hẹn Người ở chốn quan san

Trùng phùng tao ngộ giờ chàng nơi đâu?

Nghị Chánh thấy Tiểu Tường trong một thời gian ngắn mà tiến bộ vượt bật, gật gù bảo:

-Bài này cũng tạm đó, muội đã khá hơn xưa nhiều rồi!

-Thật không?

-Ừ!

Tiểu Tường vui mừng ra mặt, từ độ theo chàng học làm thơ nàng nhìn Nghị Chánh với cặp mắt khác hẳn, có thiện ý hơn.

-Vậy nhé, buổi học hôm nay kết thúc được rồi, huynh có dịp phải xuống núi một lát.

Nghị Chánh đi rồi, nàng hớn hở định tìm Cửu Dương để đọc chàng nghe, bỗng thấy Phi Yến kéo tay Phi Nhi vòng ra đằng sau lu nước. Bộ dạng hai người lấp ló, Tiểu Tường lấy làm lạ, nấp mình sang bên lắng nghe.

Phi Nhi nói:

-Tỉ đang bận lắm, muội kêu tỉ ra đây có chuyện gì?

Thấy Phi Yến cứ ngập ngừng mãi, Phi Nhi sốt ruột lại nói:

-Không phải muội bảo có chuyện quan trọng muốn nói sao, nếu tỷ không nghe thì tỷ không quan trọng rồi!

Phi Yến ấp úng:

-À… à… muội đây.... muốn hỏi là… cái gì mình biết nó ở đâu thì có cho là mất không ạ?

Nãy giờ phải chứng kiến cảnh muội muội khác hẳn ngày thường, ăn nói sao mà lâu lắc, mà Phi Nhi vốn đã bận nên cũng bực, nghe vậy không cảnh giác, liền miệng nói:

-Sao muội hỏi lẩn thẩn quá? Đã biết nó ở đâu rồi lại còn gọi là mất thế quái nào được!

Phấn khởi còn hơn “lụm” thỏi vàng, Phi Yến vinh lý này mà nhanh nhảu thưa:

-Hú vía! Thế thì cây quạt của huynh ấy không bị mất, muội biết nó nằm ở đâu đó trong sơn trại đấy, khi rời khỏi muội lỡ tay làm rớt!

Phi Nhi nghe vậy biến sắc, không tin vào tai nàng:

-Hả! Muội vừa bảo sao?

Phi Nhi bắt đầu căng thẳng. Không khí đang vui vì sắp xuất bản Văn Vận Phủ, hóa ra nặng nề.

-Cây quạt muội làm rơi trong sơn trại - Phi Yến tỉnh bơ nói - Chắc đã bị lửa thêu trụi rồi.

-Úi! -Phi Nhi nghe vậy giật mình lần nữa, kêu lên một tiếng, thiếu điều sắp xỉu tới nơi.

Như thế là lớn chuyện rồi! Phi Nhi nơm nớp nghĩ. Trong một lúc, nàng bần thần hình dung ra cảnh Cửu Dương đuổi hai chị em nàng đi, nàng và chàng từ đây sẽ sống mỗi người một ngả, thấy sự chia ly quả là đau khổ biết chừng nào. Chỉ tưởng tượng thôi mà ruột nàng đã muốn thắt lại.

Tiểu tường nghe được, có dịp lên mặt:

-Cái con én bay này! Ngu sao mà ngu lạ!

Hai chị em giật thót quay lưng nhìn, Tiểu Tường bước ra khỏi chỗ nấp. Phi Yến bình tĩnh đáp lại:

-Cô nói ai ngu? Kế này là do cô nghĩ ra, nếu huynh ấy buột tội tôi cô cũng có phần!

Phi Nhi nhìn cả hai cô gái, chẳng biết nên giận hay không nghĩ tới nghĩ lui. Mãi một lúc, Phi Nhi mới tìm ra lời an ủi:

-Chuyện đã lỡ - Phi Nhi thở dài - Có trách hai người cũng không được gì, để ta suy nghĩ một chút đã.

Tiểu Tường nhìn Phi Nhi, ngập ngừng:

-Làm một cây quạt khác, được chăng?

Nói xong đâm ra nghĩ ngợi, rồi nhìn sang hỏi Phi Yến:

-Không biết sẽ mất bao nhiêu thời gian đây?

Phi Yến chưa biết tính sao, Phi Nhi nói:

-Chẳng những làm một cây quạt mới, mà còn làm cho nó thành một thứ binh khí tân tiến hơn thế nữa.

Rồi quay qua Tiểu Tường, Phi Nhi lo lắng:

-Tôi nghe nói ở trong phủ huyện tỉnh kế bên có thỏi nam châm gọi là nam châm vĩnh cửu, nghe nói rất quý giá, được một trang trại vô tình đào được khoảng hơn tháng nay, đang chuẩn bị tiến kinh.

Phi Yến nhìn Tiểu Tường chưa hiểu, thì sư tỉ nàng lại tiếp:

-Nhưng mà… vào trong phủ huyện là một vấn đề, ở đó binh sĩ trùng trùng, e là chúng ta khó mà lọt qua cửa chứ đừng nói chi đánh cắp.

Tiểu Tường tuy ăn nói cộc cằn nhưng cũng hết lòng tìm cách giúp cho Phi Yến, hôm nàng nhìn thấy Phi Yến được tặng hoa, lòng nàng cũng buồn cũng ganh. Nhưng khi nghe Cửu Dương giải thích, chợt thấy không còn ghen còn ghét cô ấy nữa, bởi vì... Tự nhiên nàng quay sang trách chàng, người đào hoa như chàng, đi đến đâu reo rắc tình cảm đến đó… Nhưng mà, trái tim nó có lý lẽ riêng của nó. Bất quá chàng cũng không thể sai khiến nó theo ý chàng được.

Càng nghĩ càng buồn, cố tìm cách để giúp Phi Yến, cuối cùng Tiểu Tường nói:

-Đến nước này rồi đành đánh liều vậy, nếu mà thành công, đây có thể gọi là loại vũ khí độc nhất vô nhị, dùng để thu hút lấy binh khí kẻ khác.

---oo0oo---

Ba nàng chờ trời tối lẻn vô phủ huyện, phân công Tiểu Tường bám cột trèo lên nóc nhà của đại sảnh quan sát mọi thứ, hễ thấy có biến động là tìm cách đánh lạc hướng binh lính hoặc báo động cho Phi Nhi. Phi Nhi thì ở trên hành lang tiếp ứng trong khi Phi Yến đi tìm kho bạc.

Phủ huyện rất rộng, từ nhà trước ra nhà sau phải đi qua một khoảnh sân đất đỏ, hai bên sân là phòng ngủ của đám người ở và binh sĩ.

Phi Yến thấy một con nô tì tóc rẻ ngôi thắt hai bím bưng trà đi từ hướng đại sảnh ra sân, liền đánh ngất rồi kéo nó giấu bên dưới một băng ghế trong sân, mặc đồ nó vào.

Có một toán binh lính thường trực đi tuần, Phi Yến lấy vẻ bình thản cuối chào họ.

“Đây rồi! Đây rồi! Cuối cùng cũng tìm ra mi!” Đi lòng vòng một hồi ở khu nhà trước cuối cùng cũng tìm ra kho bạc, Phi Yến hứng khởi nhủ bụng. Nàng nấp mình đằng sau cây cột ghé mắt nhìn, thấy cửa vào đó đã bị canh phòng nghiêm ngặt, Phi Yến quyết định đành phải lẻn vào bằng đường cửa sổ.

Phi Yến nhẹ nhàng mở cửa sổ bay vào trót lọt. Nhưng vì quá lụp chụp nên lúc bay vào Phi Yến đã không ngừng kịp, đụng người vào tấm bình phong, làm tấm bình phong đổ, lại kéo thêm mấy cái bình cỗ ngã. Ðám lính gác bên ngoài nghe tiếng đổ rầm rầm loảng xoảng trong phòng, biết có trộm vội vàng chạy vào. Thế là sự hiện diện đông người làm Phi Yến giật mình, lấy được thỏi nam châm giấu vào tay áo xong, nhưng bước đi loạng choạng thế nào mà như chiếc cây đổ, ngã nhào xuống đất. Phi Yến vừa lồm cồm ngồi dậy, thấy đám lính chạy tới chĩa gươm thẳng vào người nàng, sợ quá khoác tay:

- Không phải trộm! Không phải trộm đâu! Là ta đây mà!

Tụi binh lính không nhận ra Phi Yến trong quần áo của một đứa nô tì, giận dữ:

- Tiểu Xảo! Ngươi lại làm gì? Tại sao phá cửa sổ nhảy vào đây? Có biết phép tắc là gì không chứ?

Phi Yến cười giả lả, bỗng con nô tì thắt hai bím tóc chạy tới nói:

-Trộm! Mau bắt lấy!

Nó vừa nói xong là tụi binh lính vây lấy Phi Yến, nàng nhanh như sóc phóng mình qua cửa sổ chạy ra hành lang. Ném thỏi nam châm về hướng Phi Nhi, Phi Nhi chụp lấy rồi theo kế hoạch bỏ chạy ra khỏi phủ. Tụi binh lính chỉ biết phi thân đuổi theo Phi Yến chứ không phát hiện có thêm trên trộm khác là Phi Nhi. Phi Yến thấy tình hình nguy cấp quá, cũng muốn chị gái thoát khỏi an toàn nên cũng đánh lạc hướng bọn truy binh. Phi Yến gia tốc chạy nhanh hơn. Nhảy qua hòn giả sơn rồi nhảy qua hồ nước trong sân.



Ðâu phải chỉ có bọn binh lính, mà cả bọn người ở cũng được lệnh ra bắt én nhỏ lại. Thế là cả phủ huyện người với người, chưa bao giờ lại ồn ào một cách bát nháo như thế.

Phi Yến chạy vòng ra một góc trong hậu viên, nhảy xuống giếng khoảng chừng hai thước đứng dang hai chân hai tay bám trụ vào vách giếng như con sao biển, trốn dưới đó.

Hai tên bộ đầu vội dẫn đám lính xông vào hậu viên, quan huyện cũng vừa đến. Quan huyện nói: - Dám lẻn vào phủ ta thì quả là to gan thật, phải bắt cho được con này.

Binh lính xem xét từng căn phòng một trong hậu viên vẫn không trông thấy bóng tên trộm đâu. Điều đó làm bọn chúng lạ lùng vì chúng biết rõ từng ngõ ngách vậy mà tên ăn trộm đã chạy đâu?

Hồi sau cùng chia nhau lục soát vẫn không có kết quả. Một tên bộ đầu nói:

- Lạ thật! Thấy cô ta chạy vào rõ ràng mà, sao lại mất tiêu?

Quan huyện trách:

- Tụi bây là lũ ăn hại cả! Đông người thế này mà chỉ một tay ăn trộm lại bắt không được, thật đáng xấu hổ!

Tên bộ đầu nói:

-Dạ bẩm đại nhân, tay trộm này thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn chắc hẳn phải thuộc hàng cao thủ.

Quản gia thắc mắc:

- Lạ thật, huyện này lại không có cửa hậu, chẳng lẽ tay trộm đã tàng hình? Hay là thừa lúc bọn ta xông vào lục lọi chẳng để ý đã lẻn được ra ngoài?

Tên bộ đầu nói:

- Không thể được! Tôi đã xem xét rất kỹ, cô ả mà thoát được chỉ có nước là tàng hình thôi.

Khi này tụi lính sắp đi tới giếng nước, Phi Yến đã mỏi chân lắm rồi, chỉ mong bọn chúng đi ngang cho mau để mà trèo trở lên. Ngờ đâu gã bộ đầu hất hất đầu nói với một tên lính:

-Ngươi qua đó xem coi.

-Dạ.

Tiểu Tường trên nóc nhà đại sảnh thấy Phi Yến sắp bị nguy hiểm, liền dặm chân đạp lên mái ngói rầm rầm cố để bọn lính nghe được.

Bọn lính cùng quan huyện bỏ hậu viện mà chạy ra sân, thấy Tiểu Tường trên mái nhà, giương cung lên bắn. Tiểu Tường liên tục nhảy tránh. Phi Yến cũng thừa dịp này nhảy ra khỏi miệng giếng, rồi dùng một sợi dây dài mà nàng đeo vòng quanh hông, ở đầu dây có cái móc như năm ngón tay, ném qua bức tường ở hậu viên, trèo tường trốn ra khỏi phủ.

Khi này tụi binh lính có người đã leo được lên tới mái nhà. Tiểu Tường vừa phải nhảy nhót như một vũ công tránh mũi tênh bên này xong tránh mũi đao bên kia, tả xung hửu đột với cả chục người. Phi Yến đứng bên ngoài trông thấy không khỏi lo lắng.

Nhưng Tiểu Tường không phải là tay yếu. Tiểu Tường thừa cơ đoạt được một thanh đao của một tên lính, ánh thép trong tay nàng vung lên, gạt phăng những lưỡi gươm và tênh kia đi. Những lưỡi đao tứ phía vừa bị dạt ra đã bủa tới, nên Tiểu Tường phải ứng phó cật lực. Có điều nàng nghe nói quan huyện này cũng khá thanh liêm, nên đường gươm nàng chỉ có tính cách chống đở, chứ không muốn sát thương một ai. Trong khi các binh sĩ kia thì lại quyết tâm hạ thủ, vì vậy cuộc chiến khá ác liệt. Tiểu Tường đã phải chống trả một cách cực nhọc, càng lúc càng ở vào thế hạ phong.

Thêm một lúc nữa thì “toạt” một tiếng, vai áo của Tiểu Tường đã bị rách một miếng, nhưng may là chưa chạm vào da thịt trên vai. Vũ khí trên tay nàng cũng bị một tên lính đá rơi xuống. Phi Yến đứng ngoài phủ sợ hãi không biết tính sao.

Một tên lính khác đứng phía sau Tiểu Tường đá một cú vào lưng nàng, thế là nàng mất đà lại té xuống. Nhưng nàng chẳng chịu thua, vừa chạm mình xuống mái nhà nàng đã lộn một vòng, rồi nhặt lấy thanh đao rơi dưới đất, tiếp tục chiến đấu.

Có điều… Mảnh hổ nan dịch quần hồ. Một vạt áo của nàng lại bị kiếm đâm toạt, bấy giờ Tiểu Tường xanh cả mặt. Lúc hai chân hai tay nàng mõi nhừ rồi thì chợt có tiếng lao đi vun vút, cấm phập xuống mấy miếng ngói ngay dưới chân nàng, rồi tiếng Phi Yến la lên:

-Bên này!

Tiểu Tường nhìn xuống chân, thấy có một sợi dây được buột vào một cái móc hình bàn tay năm ngón đang quặp lại. Hóa ra Phi Yến buột sợi dây thừng vào một thân cây cổ thụ mọc bên ngoài phủ, rồi ném đầu còn lại của sợi dây đó về hướng Tiểu Tường. Tiểu Tường nhanh nhẹn cúi nhặt sợi dây lên, từ trên nóc nhà đu dây bay đi.

Phủ huyện nằm giữa thị trấn, ngõ hẻm chằng chịt như lạc vào thiên môn trận, Phi Yến Tiểu Tường cứ chạy, chạy mãi, vòng qua ngõ này quẹo sang ngõ kia, cuối cùng trời thương hai nàng cũng ra khỏi trấn. Họ ngẩng lên nhìn thấy sao lác đác, bây giờ đã là canh một.

Tụi binh sĩ cũng chạy ra khỏi phủ tìm kiếm khắp nơi. Thấy hai cái bóng đang chạy như ma đuổi về phía tây, chúng liền xách binh khí hè nhau đuổi gấp.

Tiểu Tường Phi Yến chạy được mấy dặm, phía trước có một đám ruộng bỏ hoang, cỏ bông lau mọc khá cao, hai bóng người vừa chui vào ruộng đã mất tích không thấy đâu nữa. Tụi truy binh phải chui vào theo, vừa quát tháo vừa đuổi. Đi hết ruộng cỏ lau, phía trước lại là một khu rừng vừa rậm rạp vừa tối đen, hai cô gái chạy một mạch vào trong rừng.

Lúc đó Phi Nhi đã nhảy tót lên cây tuyết tùng, thấy bóng Tiểu Tường và Phi Yến chạy tới thì từ trên cây thòng dây nói xuống:

-Nắm lấy tôi kéo lên! Mau mau!

Phi Yến Tiểu Tường chạy thục mạng nãy giờ đuối sức lắm rồi, may là có người kéo lên chứ bắt họ trèo họ không đời nào lên đó được.

Một đám binh lính đuổi theo họ vô rừng. Ba cô gái nấp trên cây, nhìn những đóm đuốt lập lòe lúc ẩn lúc hiện như nhóm lửa ma trơi làm cho họ run rẩy. Phi Yến đưa mắt nhìn vào bóng tối dày đặc chung quanh, không biết phải làm gì.

Tiểu Tường nói với Phi Yến:

-Cảm ơn cô lúc nãy cứu tôi.

Phi Yến nói:

-Là cô cứu tôi trước, bằng không bọn chúng đã phát hiện ra tôi dưới giếng rồi hu hu.

Hai cô gái nắm lấy tay nhau. Phi Yến khóc thút thít.

Phi Nhi định trấn an em gái thì Tiểu Tường nói:

-Đừng lo, trên này rất cao, tàng cây rậm rạp, sẽ không ai phát hiện ra chúng ta đâu.

Phi Nhi tự nhiên thấy thương cô bạn gái này quá. Nàng biết Tiểu Tường đang rúng động trong lòng nhưng vẫn cố trấn an hai chị em nàng. Lời đó nghe như ngọn lửa ấm truyền sang nàng, và nàng dịu dàng nói:

- Thôi, trời cũng khuya rồi, theo đà này bọn lính có lẽ sẽ truy tìm cả đêm, và chắc cũng đang còn đứng canh ở bìa rừng, chúng ta không trở ra cũng không đi sâu vào được, đành ngủ một giấc lấy sức vậy.

Đoạn nàng chỉ hai cành cây to và chắc, nói:

- Có lẽ phải chia ca trực, cứ hai người ngủ một người thức.

Phi Yến ngước nhìn lên trời, cố tìm một ngôi sao lấp lánh nhưng chẳng thấy gì, có lẽ mây đen kéo đến hoặc những cành cây tuyết tùng đang giăng kín bầu trời, biết rằng cho dù ba người nàng có muốn đi cũng không thấy đường mà đi, nàng cũng hy vọng tối nay không mưa.

Phi Nhi bình tĩnh phân công:

- Bây giờ tôi sẽ trực ca đầu tiên, hai người ngủ đi, khi tôi mệt rồi tới phiên Tiểu Tường, tôi sẽ đánh thức cô dậy. Sau đó đến Yến muội. Mọi người đồng ý không?

Không biết tự lúc nào cả bọn mặc nhiên coi Phi Nhi là thủ lĩnh.

- Ðồng ý! - Hai cái miệng kia cùng nói.

Phi Nhi cẩn thận dặn dò:

- Trong phiên trực của mình, ai phát hiện binh lính từ xa phải lập tức đánh thức cả bọn dậy, mọi người đều phải đề cao cảnh giác.

Nàng nói xong, Phi Yến tự động nằm vắt vẻo trên một cành cây to, Tiểu Tường thì cũng sửa soạn chỗ nằm. Phi Nhi kéo hai tàng lá lại làm mềnh đắp lên mình Phi Yến và Tiểu Tường. Tuy là ba người đang gặp nạn, nhưng có bạn đồng hành cũng đỡ cô đơn.

Trời sáng.

Truy binh còn chưa rút ra rừng, lại còn dẫn thêm một đàn chó vào lục tung từng bụi cây bụi cỏ. Khu rừng rất rộng, ba cô gái sợ bọn chó săn đánh hơi được bèn dùng sợi thừng ném từ ngọn cây này sang ngọn cây kia, đu dây mà bay đi, tới khi không còn nghe tiếng chó sủa nữa mới dám dừng chân lại.

Phi Yến cả đêm qua rồi sáng này chưa có gì bỏ bụng, đói lắm rồi, ngồi xuống ôm bụng mếu xệch miệng không chạy trốn được nữa.

Tiểu Tường dìu Phi Yến đứng lên, dỗ dành:

-Én bay này, cô ráng một chút đi, về tới khu trại rồi tôi gói há cảo cho cô ăn đã đời luôn.

Phi Yến nghe đến há cảo, mà lại là há cảo chính Tiểu Tường làm thì nước bọt ứa ra, nuốt đánh ực một tiếng, nói:

- Nhưng biết đường đâu mà về?

Tiểu Tường nghe hỏi giật mình, phân vân. Lát hồi lấy lại bình tĩnh, đáp:

- Tối qua tụi mình chạy vô rừng này, mà khu rừng lại nằm hướng tây, bây giờ phải đi ngược lại theo hướng đông.

- Làm sao biết hướng nào là hướng đông? - Phi Yến vẫn thấp thỏm - Mình đâu có đem theo la bàn, có một cái thì đang ở khu trại trên Đồng Sơn rồi.

Tiểu Tường cười xòa:

- Én bay ơi là én bay, cô sao mà ngốc quá! Bộ không biết nhìn mặt trời để coi hướng hả?

Rồi nàng bỉu môi:


- Thế mà cũng đi lại giang hồ đấy!

Lúc nói câu ấy Tiểu Tường đâu có hay nàng cũng sẽ không thể nào phân biệt hướng nào là hướng nào. Tiểu Tường nhìn lên trời, nỗi cụt hứng khiến gương mặt của nàng xìu xuống như một cọng bún.

Phi Yến cũng phát hiện điểm này, ngửa cổ ngẩn lên trời, rồi khóc tồ tồ. Vì chẳng biết tự bao giờ bọn họ lọt vào một khu rừng dày, các tàng cây rậm rạp trên đầu gần như giao nhau, che khuất mất mặt trời, chỉ có vài giọt nắng lốm đốm lọt keo kiệt qua kẽ lá.

-Có phải chúng ta sẽ chết ở đây không? Tỉ tỉ ơi, muội sợ quá, hu hu...

Tiểu Tường cũng muốn khóc theo Phi Yến quá, song chỉ đưa mắt nhìn Phi Nhi, mặt Tiểu Tường méo đi không nói được tiếng nào.

- Ðừng lo! Chúng ta sẽ tìm cách khác! - Phi Nhi dùng tay áo lau nước mắt cho em, nói - Bây giờ chắc cũng đã trưa, mặt trời nằm ngay đỉnh đầu, nếu nhìn thấy, tụi mình cũng không xác định phương hướng được đâu! Mà đi hướng đông thì chỉ dẫn chúng ta trở ra khỏi rừng này, trở về hướng phủ huyện tự sa vào lưới thôi. Chúng ta nên đi hướng Nam kia.

Tiểu Tường gật gù nói:

- Chợ Hồ Lô nằm ở hướng nam, nhưng làm cách gì để tìm ra hướng Nam?

- Nhìn thân cây. Phía nào ẩm ước nhiều là hướng bắc. Vì mặt trời không đi qua hướng này, rồi từ đó tính ra.

Tiểu Tường nhìn quanh, bất giác buông một tiếng thở dài:

- Thua rồi. Trong khu rừng dày như thế này, lại đang là mùa đông, tôi nghĩ thân cây có lẽ ẩm ướt cả bốn phía.

Mấy cô gái tiếp tục động não suy nghĩ.

Phi Yến hai mắt đỏ hoe, hiển nhiên nàng đã khóc rất nhiều, bỗng nàng nghĩ ra được gì đó, chớp chớp mắt xen vào:

- Thế thì chúng ta phải tìm chòm sao Bắc Ðẩu…

Phi Nhi rành tánh em gái mình, biết Phi Yến thiên chất ngây thơ nên không nỡ mắng, mà Phi Nhi khi này đang rầu thúi ruột, nghe nói vậy cũng phải lắc đầu cười. Chỉ có Tiểu Tường là cốc đầu Phi Yến một cái cốp.

-Úi da! Sao cô đánh tui?

Tiểu Tường nói:

-Bây giờ trời đang sáng trưng, ở đó mà Bắc Ðẩu với Nam Tào! Mà dẫu có là ban đêm, cành lá um tùm thế kia, có tài thánh mới hòng nhìn thấy nổi!

Giả tỷ hôm trước Phi Yến mà nghe câu này tất không khỏi nổi giận, nhưng bây giờ tự nhiên thấy thân thiết Tiểu Tường, lại nữa đúng là nàng ăn nói không chịu suy nghĩ thiệt, Phi Yến lỏn lẻn cười:

-À há!

Ðể mặc hai người kia tranh cải, Phi Nhi đi lòng vòng quanh gần đó lặng lẽ quan sát.

Hai cô gái nhìn theo Phi Nhi, vẻ mặt hy vọng như nhìn một vị cứu tinh. Họ hy vọng không phải là không có lý. Phi Nhi có tư chất thông minh, đang cúi lom khom, nghiêng nghiêng ngó ngó,

trầm ngâm một lúc rồi quyết định chủ ý rồi, nàng đứng thẳng người dõng dạc hô:

- Tìm thấy rồi!

Nàng chỉ tay ra tứ phía, giọng hân hoan:

- Hướng này là bắc, hướng này là đông. Vậy hướng này là nam. Tụi mình đi về hướng này.

Phi Yến vẫn hoài thắc mắc:

- Làm sao tỉ tỉ biết được vậy hở?

- Thường thường kinh đô hay thị trấn đều xây cửa chính của các ngôi miếu, đình, tháp hướng về phía Nam. Muội muội cứ nhìn tháp Hoa và đình Mẫu Tử ở đằng kia thử xem.

Quả thật Tiểu Tường và Phi Yến nhìn theo tay chỉ của Phi Nhi, ở đằng xa xa thấy thấp thoáng cái chóp nhọn của tháp Hoa và nóc nhà của đình Mẫu Tử, tất cả hướng về cùng một phía. Hai nơi này là gần chợ Hồ Lô.

Phi Nhi nói thêm:

- Muội muội đừng lo. Hướng đó chắc chắn là Nam, vì tỉ có tìm thêm chi tiết quan trọng nữa để xác định.

- Chi tiết gì vậy?

- Lúc nãy tỉ đã đi quanh nơi này tìm tổ kiến bởi bọn côn trùng sâu bọ thường làm tổ hướng về Nam…

-Cô thật là thông minh!

Tiếng reo của Tiểu Tường không dấu được nỗi vui mừng.

Trước khi rời khỏi khu rừng, ba cô gái quyết định từ đây dẹp bỏ những chuyện đố kỵ ganh ghét lẫn nhau sang bên, cùng nhau... theo hầu tình lang, bái thiên bái địa kết nghĩa làm tỉ muội. Trên có lá cành, dưới có đất đai làm chứng. Tiểu Tường bẻ ba cây que tượng trưng cho nhang cắm xuống đất, rồi ba cô gái quỳ trước bàn hương án tạm lập giữa trời, nhìn lên trời nói:

- Trên có Ngọc Hoàng Thượng Đế, dưới đất có Diêm Vương và tất cả những cây cỏ thú rừng đang sống quanh đây, xin hãy chứng giám cho Tiểu Tường này. Bắt đầu từ hôm nay xin thề với trời đất Thánh Thần nguyện cùng song Lộ Phi nương kết nghĩa tỉ muội. Từ nay có ăn cùng ăn, có mặc cùng mặc, cư xử nhau như tỉ muội ruột thịt. Nếu phản bội lời thề, phải chết thảm với gươm đao, hoặc bị đám ngựa phanh thây!

Tiểu Tường vái xong, quay qua Phi Yến Phi Nhi:

-Bây giờ đến phiên hai cô đấy!

Phi Nhi cũng thành khẩn bái:

- Trên có trời dưới có đất, tôi Lộ Phi Nhi xin được cùng Tiểu Tường...

Vừa nói đến đây, Phi Nhi chợt nhớ ra, quay sang hỏi:

- Tiểu Tường cô năm nay bao nhiêu tuổi? Sinh tháng nào?

- Tôi sinh năm Nhâm Tuất, năm nay mười bảy tuổi, vào tháng mười một.

- Hai tỉ muội chúng tôi cũng sinh năm Nhâm Tuất, ngày sinh là mùng bảy tháng tám. Vậy giữa ba đứa ta, cô là muội muội rồi?

Nhưng Phi Yến vội vã giành làm út, nói:

- Muội muốn làm tiểu tam cơ.

Tiểu Tường nghe vậy phá lên cười. Phi Nhi thì cũng khe khẽ lắc đầu, nàng thấy em gái lại dụng sai từ trong câu nói nữa rồi nhưng không có thời gian chỉnh lại, chỉ nói:

-Vậy đâu có được, muội đây lớn hơn Tiểu Tường mà.

Phi Yến phụng phịu.

Tiểu Tường vừa cười vừa nói:

-Không sao đâu, tôi cũng không muốn làm cô út, thôi thì Phi Nhi làm chị cả, tôi là chị hai, còn én bay là cô út vậy!

Thế là ba người đồng lòng bái thiên bái địa, vái lại:

- Trên có trời, dưới có đất. Ba đứa chúng tôi cảm thấy tâm đầu ý hợp nên xin kết nghĩa tỉ muội. Bắt đầu từ đây, có phước cùng hưởng, có nạn cùng chia, có chồng... cùng cung phụng, bất luận số mệnh của mỗi người thế nào, phúc họa ra sao cũng không bỏ nhau! Lời thề này chung cho ba người, xin thánh thần chứng giám.

Lễ kết nghĩa kết thúc, Tiểu Tường nhẹ nhàng nói với Phi Yến:

-Yến muội, muội đói bụng và mệt quá không đi nổi nữa thì lên đây tỉ cõng cho.

Phi Yến cảm động rơi nước mắt, riu ríu nói:

-Cám ơn chị hai.

Ba cô gái ứa lệ nhìn nhau, lòng ngập đầy tình cảm.

-Hay quá, chúng mình đi thôi!

Tiểu Tường vừa nói vừa khom người xuống cho Phi Yến leo lên lưng.

Phi Yến được cõng đi, từ trên lưng Tiểu Tường hoan hỉ hỏi:

- Chị cả, chị hai, bọn mình bình yên vô sự thật rồi ư?

Phi Nhi mỉm cười gật đầu, như thường lệ, trách nhiệm của một thủ lĩnh là vọt lên trước mở đường.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 31: Thanh Quan mai phục đoạt kim ngân

Lữ Nghị Trung và nữ thần y đặt chân lên con đường sỏi dẫn đến chợ Đông Ba của tỉnh Hàng Châu, chợ này được xây dọc theo Tây Hồ, một bên đường đặt các xạp bán hàng, bên kia đường dòng nước lững lờ trôi, cuốn theo nào rong rêu nào rác rến, bọt sủi trắng một vùng. Xa xa ẩn hiện vài cánh buồm nâu, thấp thoáng in bóng tận cuối chân trời, cho ý niệm mơ hồ về cảnh bao la của vũ trụ.

Lữ Nghị Trung đưa mắt nhìn ra xa xăm, cảm thấy con người quá bé nhỏ và yếu đuối trước thiên nhiên, thầm nghĩ tại sao con người không hợp quần để tạo thành sức mạnh chống chọi lại nó để tạo nên cuộc sống no ấm yên bình? Tại sao con người cứ mãi bon chen danh lợi, chà đạp chém giết lẫn nhau chẳng hề thương xót? Loài dã thú dẫu ngu si, cục súc, dẫu dữ tợn hung tàn, vẫn còn biết tình đồng loại, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, thố tử hồ bi. Con người mệnh danh là thông minh, văn hiến, ngẫm cho kỹ còn thua lũ muông cầm. Chàng mơ màng nhớ đến lời Giác Viễn:

-Công danh, bọt nước tựa bèo mây

Gác gấm, lầu cao được mấy ngày?

Tưởng đâu sung sướng, cười khây khẩy

Hóa ra toàn mộng, mấy người hay?

Mạt kiếp thời suy, vô biên trị

Càn khôn dịch chuyển, thấy người xoay...

Không, ta không thể chịu thua cuộc đời. Đời vẩn đục ta cần phải lắng cho trong, lọc cho sạch còn hơn ngồi bó tay chờ thiên căn nhân quả. Nhất định ta phải hoàn thành tâm nguyện của tổng đà chủ, xây dựng một thế giới công bằng và nhân ái. Thiên đường cũng có thể kiến tạo tại nhân gian nếu mọi người đồng tâm hợp lực, không phải chỉ trông mong vào quyền phép của một đấng thiêng liêng bên ngoài trần thế để tách biệt về một nơi chốn xa xôi…

Lữ Nghị Trung nhủ bụng, đoạn quay nhìn nữ thần y, bắt gặp nàng cũng đang nhìn sang chàng, Nghị Trung chép miệng thở dài:

-Ước vọng muôn đời của người dân duy nhất chỉ là được no cơm ấm áo, thế mà suốt bao năm nay yêu cầu nhỏ nhoi chính đáng ấy không bao giờ được trời cao đáp ứng. Nào là thiên tai, địch họa, nào dịch bệnh, mất mùa, không lúc nào dân chúng an cư lạc nghiệp!

Nữ thần y gật đầu, Lữ Nghị Trung tiếp:

- Chẳng những do trời mà còn do con người tạo ra nữa. Ở địa phương thì quan lại nhũng nhiễu, cường hào áp bức, trong kinh thành thì vua hèn tôi kém, tranh giành quyền lợi, mặc tình thi nhau bóc lột làm khổ dân tình…

Hai người vừa đi vừa chuyện trò, lát sau họ đến cuối chợ, nữ thần y quét mắt một vòng, đêm qua Nghị Trung bảo nàng nơi này đang có rất nhiều người tị nạn. Quả thật là vậy, nữ thần y thấy một phụ nữ mặc áo nâu quần đen, bà ngồi ôm một người đàn ông thân thể gầy gò xanh xao, ông ta nhắm nghiền mắt không biết đang ngủ hay chết rồi. Khi nàng và Nghị Trung đến gần, bà kêu khóc:

-Hai vị làm ơn ban phát chút lòng thương, chồng tôi bệnh rồi.

Lữ Nghị Trung đưa cho bà một chục quan tiền.

-Thiền Phúc, Tử Hiên mau cám ơn đi các con.

Bà bảo đứa bé trai khoảng mười tuổi và một thiếu nữ có gương mặt khả ái quỳ xuống dập đầu tạ ơn. Cánh tay trái thằng bé đeo một cái băng quàng qua cổ như đang bị thương.

-Đa tạ nhị vị.

Nữ thần y và Lữ Nghị Trung đở hai người đứng lên. Nữ thần y ái ngại nhìn gia đình bốn người chạy nạn đó một thoáng, đoạn quay sang Nghị Trung hỏi:

-Hôm nay có bao nhiêu người bệnh như vậy?

Nghị Trung đáp:

-Hôm nay có thêm mười mấy người.

Lúc này có tiếng chân rần rần từ xa vọng đến. Một gã bộ đầu dẫn đám lính hai mươi mấy tên chạy tới, nhiều người dân cũng bu lại xem. Một tên lính chỉ vào đám người tị nạn, nói:

-Thưa bộ đầu, ngài xem, triệu chứng của những người này như bệnh dịch.

Hai từ “bệnh dịch” đập vào tai những người dân Hàng Châu, họ lật đật đứng lùi ra dùng tay áo che mũi. Một người dân hoảng hốt nói:

-Nếu vậy phải đem họ đi thiêu thôi! Nếu không cả trấn sẽ bị lây lan!

Lập tức có nhiều tiếng vang lên:

-Đúng rồi!

-Đem thiêu đi!

Một người chỉ tay vào gia đình của người đàn bà với người chồng bị bệnh và hai đứa con:

-Mau khiên tên đó đi ra đồng, cùng tất cả những người bệnh đang nằm la liệt trong chợ nữa.

Tên bộ đầu nói với đám lính của gã:

-Chuẩn bị lửa củi!

-Xin đừng thiêu chết chồng tôi! - Người đàn bà ôm lấy chồng thị, khóc nức nở - Chồng tôi chỉ bệnh thương hàn!

Tên bộ đầu nói:

-Chồng bà không phải bị thương hàn, là bệnh dịch đó!

Đoạn hắn hạ lệnh:

-Bắt hết những người bị bệnh đem đi cho ta!

Thế là đám lính vây quanh khúc chợ bắt người, tiếng la tiếng hét, tiếng vẫy vùng, van xin cùng tạo nên một mớ âm thanh vô cùng hỗn độn. Những người bệnh khác nghe vậy, có kẻ còn sức lực gắng xông ra ngoài:

-Bọn họ định thiêu chết chúng ta, chúng ta chạy thôi!

Những người bệnh khác không tự sức đi được quỳ xuống van cầu:

-Xin hãy tha cho chúng tôi.

-Xin mọi người dừng tay!

Giữa khung cảnh đang hỗn độn bỗng vang lên một tiếng quát đanh. Mọi người quay nhìn, phát hiện người vừa hô là Lữ Nghị Trung, bên cạnh chàng là một cô gái gương mặt đầy ắp những vết bỏng và sẹo. Gã bộ đầu sau thoáng giật mình kinh hãi vì dung nhan của nàng thì nói:

-À, ra là Lữ phu tử, xin chào.

Hắc Viện là trường dạy học nổi tiếng khắp miền Nam, toàn đào tạo những học sinh có danh sách trong Quốc Tử Giám. Gã bộ đầu chỉ là một tên lính, không thể không có lễ. Những người dân cũng cúi chào Nghị Trung. Chàng cũng cúi đầu đáp lễ lại.

Nữ thần y bước tới một bước nói:

-Xin đừng mang họ đi thiêu.

Gã bộ đầu hỏi:

-Cô nương là ai? Đừng xen vào, coi chừng lại bị bệnh.

Nữ thần y dưới lớp một cô gái xấu xí nói:

-Tiện nữ có học y thuật ở hồi cương, khẩn xin ngài để tiện nữ thử chữa trị cho họ?

Gã bộ đầu chưa đáp lời nàng thì một người dân Hàng Châu ái ngại nói:

-Cô nương có chắc không? Ngay cả Ngan Phổ thầy thuốc giỏi nhất vùng này cũng bó tay, làm sao cô có thể chữa trị được?

Một người dân Hàng Châu khác đưa mắt nhìn những bệnh nhân tứ chi lỡ loét, cũng nhăn mặt nói:

-Đúng rồi đó! Sinh mạng những người trong trấn An Huy này không thể vì mấy lời của cô mà trở thành trò đánh cược được.

Những người dân khác cũng lên tiếng:

-Đúng rồi! Rất nguy hiểm!

-Không thể để mấy người này sống thêm nữa!

-Tuyệt đối không thể!

Nữ thần y nói:

-Xin các vị hãy an tâm, chỉ cần tiện nữ đưa họ đến ngôi miếu bỏ hoang ở ngoại trấn này, tập trung luôn cả những người có tiếp xúc với người bệnh đến đó, nơi đó ít người qua lại, xin vị bộ đầu cho tiện nữ thời hạn mười ngày, nếu không trị khỏi cho họ tiện nữ sẽ chết chung với họ. Sẽ không liên lụy các người đâu.

---oo0oo---

Sáng hôm sau.

Lữ Nghị Trung đi như bay tiến vào ngôi miếu hoang rồi vòng ra sau bếp. Căn bếp này được chàng xây hồi tối hôm qua. Thật ra thì đó chỉ là một mái lá chắn mưa đằng sau ngôi miếu mà thôi, bên dưới mái lá đặt một cái bàn cho tiện việc sắc thuốc, trên bàn bài đầy rể cây và lá khô, nồi niêu và một chồng chén bát, dưới đất lại có thêm mười mấy cái lò than.

Những người chạy nạn không chỉ mắc phải chứng bệnh dịch mà còn nhiều căn bệnh khác nữa.

Lữ Nghị Trung ngó thấy một học sinh đứng cạnh nữ thần y sắc thuốc. Hắn đang dùng kim ngân hoa, lá cối xay, cỏ chỉ thiên, sài đất và dây thồm lồm sắc thành một nồi. Nghị Trung biết toa thuốc này là dùng để chữa chứng viêm da lở loét đây. Chàng lại thấy một học sinh khác đang ngồi ngâm một thao lá trầu không, lá bồ giác, lá ba chạc, lá mần tưới, lá sòi, lá mỏ quạ và lá diếp cá hoà với phèn chua. Nghị Trung biết toa thuốc này chính là dùng để rửa sạch các vết lở trên thân thể của các bệnh nhân.

Chàng cũng ngó thấy một học sinh nữa lấy lá dâu cái, lá trầu vò nát hai thứ lá này và cho vào chén, đổ nước sôi rồi mang đưa cho một bệnh nhân bị đau mắt, bảo đưa mắt bị đau sát miệng chén để xông hơi nóng bốc lên. Người bệnh nhân đó lập tức làm theo.

Nghị Trung gật gù hài lòng, những học sinh này, đều là người của trường học của chàng, hôm qua chàng nhờ họ đến ngôi miếu này phụ giúp nữ thần y sắc thuốc, luôn tiện làm những việc giặt giũ, nấu nướng, phân phát cơm và chăm sóc các bệnh nhân.

Nghị Trung tiến lại gần nữ thần y. Nàng khi này một tay bưng một cái niêu hãy còn nghi ngút khói, tay kia cầm cái chén sành nhỏ. Chàng lấy trong tay áo ra bốn gói giấy màu vàng nhạt, bảo:

-Đây là Đồ Tô muội cần, còn đây là Dịch Thần Tiên, Tuyết Đại Hạn, và Cam Lộ.

-Cám ơn Lữ huynh.

Nghị Trung gật đầu, đặt mấy gói giấy trên bàn, nói thêm:

-Kho thuốc trong trường học chúng ta chỉ còn lại bấy nhiêu, bây giờ huynh sẽ đến tiệm thuốc Chu Minh tìm thêm.

Nghị Trung nói xong bái chào rời đi. Nữ thần y cũng cúi đầu đáp lễ, rồi mang niêu thuốc vừa sắc và cái bát đi vào trong miếu. Mỗi bệnh nhân đều có một cái chiếu, gối, chăn, và một phần cơm. Nàng đến bên Thiền Phúc, quỳ xuống đỡ thằng bé ngồi dậy, rót thuốc ra chén trao cho nó.

-Thuốc này hơi đắng – Nữ thần y dỗ dành - Tiểu đệ đệ ráng uống vào rồi ăn bánh này.

Nghị Trung đi tới cửa miếu, khi này mưa rơi nặng hạt. Chàng quay đầu lại thấy nữ thần y lấy gói bánh Quế Hoa của nàng đem cho Thiền Phúc. Nghị Trung xúc động trong lòng, khẽ cười.

Nghị Trung căng dù lên rồi vẫy tay chào nàng. Nữ thần y cũng vẫy tay chào lại chàng, thoáng mắt Nghị Trung đã mất hút trong màn mưa.

Nữ thần y lại nhìn Thiền Phúc, thấy chén thuốc trên tay nó đã cạn, lòng nàng nhẹ tênh như những chiếc bóng mưa ngoài kia.

-Thế nào – Nàng xoa đầu nó, nói bằng giọng trìu mến - Đệ uống nhanh vậy, có đắng lắm không?

Thiền Phúc trả chén cho nàng, dùng tay áo quẹt ngang miệng đáp:

-Đắng đến không thể nào đắng hơn được nữa.

Nữ thần y nhìn gương mặt nhăn nhó của thằng nhóc, cười nói:

-Tỉ thấy đệ uống một hơi cạn sạch, còn tưởng là không đắng nữa chứ.

Thiền Phúc le lưỡi rồi cầm cái bánh Quế Hoa lên cắn một miếng to.

Nữ thần y dứt lời bỗng nhớ tới Hiểu Lạc, không biết nó bây giờ ra sao? Đã bao lâu rồi không có tin tức gởi về từ Tứ Xuyên. Nàng chớp chớp đôi mắt, ngăn tiếng thở dài, lại đưa mắt nhìn Thiền Phúc, thấy nó cũng trạc tuổi như Hiểu Lạc, tự dưng nàng đem lòng cảm thương thằng bé mới quen này.

Thiền Phúc vừa ăn bánh vừa len lén nhìn nàng, nhưng khi ánh mắt nàng chạm vào mắt nó, nó lại lẩn tránh sang hướng khác. Nữ thần y biết nó đang nhìn những vết sẹo trên mặt mình, bèn nói:

-Đệ đừng sợ. Hồi còn nhỏ do ta bất cẩn đã ngã vào nồi cám heo vừa mới nấu xong, bị bỏng hết mặt mày, cả nửa phần ngực. May mà còn sống sót, nhưng người chẳng ra người, ma chẳng ra ma từ ngày ấy.

Nói xong nàng đứng dậy định trở ra ngoài, nhưng nghe Thiền Phúc nói:


-Tỉ tỉ à...tuy là gương mặt tỉ bị như thế nhưng đệ không sợ đâu, trái lại đệ còn thấy tỉ như một vị bồ tát sống nữa đó, vừa dịu dàng, vừa lương thiện, nhất là rất tốt bụng, giống một vị ca ca mà đệ biết.

Nữ thần y nhìn thằng bé:

-Ồ, vị ca ca nào thế?

-Huynh ấy – Thiền Phúc vẫn còn ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu, một tay nó đưa bánh lên miệng cắn nhai nhồm nhoàm, tay kia xòe ra nói - Đệ gặp có năm ngày, nhưng ngày nào cũng giúp gia đình đệ, cho tiền chúng tôi mua gạo mua thuốc, dạy nhiều lý lẻ.

-Lý lẻ gì, đệ kể tỉ nghe xem?

Thiền Phúc như thể tìm lại được một người bạn đã xa cách lâu năm, nó liền trả cái bánh vào trong bọc giấy, chùi chùi tay vào quần rồi hăng hái kể:

-Ca ca ấy nói, là đấng nam nhi thì không nên sợ cực sợ khổ, dù Thái Sơn có đổ xuống trước mặt cũng không biến sắc mặt. Cho nên chén thuốc này không làm khó được đệ đâu.

Nữ thần y nghe vậy khẽ cười, vừa cười vừa cúi xuống đưa cho nó chén thuốc. Nó méo xệch miệng:

-Lại phải uống thêm chén nữa hả?

Nàng nheo mắt tinh quái nói:

-Không phải lúc nãy đệ đã nói làm nam nhi thì Thái Sơn có đổ xuống trước mặt cũng không biến sắc à?

Thiền Phúc đành đưa tay ra cầm cái chén, nhưng nữ thần y tung cái chén lên cao khỏi đầu nàng rồi chụp lấy, phì cười:

-Tỉ chỉ đùa với đệ thôi, khi nãy đệ đã có thể một hơi uống hết chén thuốc đó, đã lợi hại lắm rồi.

Đoạn nàng đặt niêu thuốc và chén xuống đất, lại quỳ xuống bên cạnh Thiền Phúc nâng cánh tay bị thương của nó lên.

-Tay của đệ, làm sao ra nông nổi này? – Nàng hỏi.

Thiền Phúc đáp:

-Cũng tại đệ đây vô dụng, nhìn thấy cha bị bệnh lại không giúp gì được, mấy ngày nay đệ và Hiên tỉ đi tìm công việc ở khắp nơi trong trấn mà không ai mướn, tới lúc Hiên tỉ đói bụng đến sắp xỉu đệ bèn đánh liều đi ăn cắp bánh bao nên bị người ta đánh.

Nữ thần y nghĩ tới câu bần cùng sinh đạo tặc, nén tiếng thở dài.

-Đệ đừng buồn – Nàng xoa đầu an ủi thằng bé - Bây giờ không phải đã có đồ ăn chỗ ngủ rồi sao, chuyện mai này mai này hẳn tính đi, còn cánh tay bị thương này của đệ, tỉ sẽ điều trị cho, nhưng phải ráng chịu đau.

Thiền Phúc gật đầu:

-Dạ, cám ơn tỉ tỉ, ca ca đó cũng nói có bị thương thì phải đều trị.

Nữ thần y tháo băng vải trên tay thằng bé ra, xoa nắn cánh tay trái của nó, phát hiện nó bị trặc gân cốt khá nặng.

Thiền Phúc cắn răng chịu đau nói:

-Ca ca đó bảo, trong hiện tại có khi mình phải ráng chịu cực chịu khổ thì tương lai sau này mới có ngày sung sướng được, cho nên hôm nay đệ chịu đau đớn như vầy, đệ nhủ lòng coi như là mình rèn luyện thể chất của mình thôi.

Nữ thần y thấy thằng bé đau tới độ nghiến răng nghiến lợi, tiếng keng két vang lên nghe rất đáng thương, nàng muốn nó phân tâm, nên không ngừng hỏi về ca ca của nó:

-Tỉ nghe đệ cứ luôn miệng nhắc đến vị ca ca đó, vậy đệ sùng bái ca ca đó lắm phải không?

Thiền Phúc gật đầu:

-Vâng! Đệ rất sùng bái và ngưỡng mộ huynh ấy, nếu mai này lớn lên đệ mà bằng được một nửa như huynh ấy thì đã mãn nguyện lắm rồi.

Nữ thần y mỉm cười ôn hòa. Thiền Phúc chỉ tay không bị thương lên trần nhà nói:

-Ca ca đó có cái gì mà không biết chứ? Trên có thiên văn, dưới có địa lý, ngoài ra huynh ấy còn dạy đệ nhiều đạo lý làm người. À còn nữa, huynh ấy cũng biết thắt vòng cỏ, gọi là gì nhỉ… à, gọi là “vòng cỏ cầu may!”

Nữ thần y tiếp tục xoa nắn xương tay Thiền Phúc, nói:

-Vậy sao, đệ nói tiếp đi, tỉ muốn nghe ca ca ấy đã dạy đệ thêm những gì nữa đây?

Thiền Phúc suy nghĩ một chốc rồi nói:

-Làm quân tử phải bất khuất, cang kiện tự cường.

Nữ thần y hỏi:

-Có nghĩa là gì?

Thiền Phúc đáp:

-Câu này có nghĩa là đạo làm quân tử thì phải giống như mặt trời mọc, phải chính mình phấn đấu tiến lên không ngừng, không nên dựa dẫm vào một người hay một thế lực nào. Đạo làm quân tử cũng như ngôi sao trên trời vậy, trong đêm tối đen mà vẫn làm nhiệm vụ soi sáng chỉ lối không ngừng.

Nữ thần y gật đầu, nàng đã từng đọc qua Kinh Dịch, nàng nhớ trong có đó có hai câu “Minh xuất địa thượng Tấn, quân tử dĩ tự chiêu minh đức.” Nghĩa là: “Lửa từ mặt đất tấn cao. Nên người quân tử chuốt chau tính Trời.” Người quân tử thấy mặt trời từ lòng đất mọc lên, cũng bắt chước làm cho tàn lửa thiên chân trong mình ngày một thêm sáng tỏ. Mặt trời, vốn quang minh, bị trái đất che khuất mới không sáng soi được. Thần trong ta, vốn quang minh, bị dục tình tham sân si che khuất mới không sáng soi được. Vậy chúng ta phải khử nhân dục, thì vừng Dương thiên lý trong ta mới bừng sáng lên. Dịch muốn cho chúng ta đi đến chỗ phối thiên huyền hóa. Cho nên mới khuyên tự cường bất tức, để theo gương trời tự chiêu minh đức, làm rạng tỏ vầng sáng thiên chân trong tâm hồn ta…

Lại nói tới Thiền Phúc, khi này hãy còn thao thao bất tuyệt bảo với nữ thần y rằng:

-Ca ca đó còn nói thêm, người quân tử coi trọng nhất chính là đạo đức, các đức tính như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Cho nên câu nói “quân tử phải bất khuất, cang kiện tự cường” chính là để khuyên người quân tử hãy nên tu tâm dưỡng tính để làm cho phẩm chất đạo đức, tài năng của mình càng ngày càng sáng như mặt trời hiện lên từ mặt đất, để rồi tiến mãi không ngừng, ví với hình ảnh mặt trời càng đến Ngọ càng sáng chói rực rỡ vậy.

Nữ thần y chờ cho nó nói xong, gật đầu khen:

-Thí dụ này của đệ nghe rất ý nghĩa!

Thiền Phúc nói:

-Là do ca ca của đệ dạy cho đó, không phải do đệ tự nghĩ ra đâu, còn nữa, ca ca cũng dạy đệ “Hư sơn cử lộ cầu di kính, ngọc hải vô nhai khổ tác châu,” câu này có nghĩa là học vấn là vô bờ vô bến, học là cần phải có sự siêng năng và cố gắng. Dầu cho làm vua cũng thế, cũng phải là người có học thức, không được sợ khổ sợ khó mà không học, không được sợ mệt nhọc mà không học. Một nhà vua khi có được kiến thức rồi thì mới có tất cả, ông ta mới có thể trị vì tốt cho thiên hạ bá tánh, có công mài sắc có ngày nên kim, nếu thực sự được như vậy thì quân binh mới hàng phục, và can đảm đi làm việc đại nghĩa cho hoàng đế.

-Làm vua cũng phải có học vấn ư? Tỉ rất thích câu nói này!

Thiền Phúc vừa dứt lời, Nữ thần y liền tấm tắc gật đầu thốt lời khen.

Thiền Phúc nghe lời này của nàng nó càng cười vui vẻ.

Nhân lúc thằng bé đang cao hứng, nữ thần y không báo trước, nhanh nhẹn bẻ phần tay bị trặc của nó lại cho đúng vào khớp xương. Rắc một tiếng rõ to vang lên, ngay sau đó là tiếng la lớn:

-Úi trời ơi đau quá!!!

-Chắc ca ca đó của đệ không dạy đệ câu “binh quý xuất kỳ bất ý” rồi?

Nữ thần y chun mũi lại cười.

Thiền Phúc bấy giờ mới dừng nói về ca ca của nó.

Nữ thần y ngó thấy gương mặt thằng bé khi nãy đang tươi rói giờ trở thành méo mó, giọng nói của nó cũng đứt quãng, nó ngấn lệ nhìn nàng:

-Sao... tỉ tỉ… không… không…cho đệ biết để đệ có phòng bị chứ… Đau quá!

Nữ thần y tiếp tục cười nói:

-Cái này trong binh pháp gọi là “công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý,” tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới sẽ dành thắng lợi.

Nàng nói một câu bông đùa xong thấy nó vẫn còn mày nhăn mặt nhó trông thật đáng thương, bèn xoa đầu nó, thu lại nụ cười mà bảo:

-Thế nào, còn đau lắm à? Nếu tỉ không làm vậy tay của đệ sẽ tàn phế biết không?

Thiền Phúc mím môi gật đầu:

-Ca ca nói làm nam nhi có nước mắt cũng không dễ gì để chảy ra, đệ sẽ không khóc đâu.

Nó vừa bảo vừa ngẩng mặt lên nhìn trần nhà.

-Đệ còn nhỏ tuổi vậy mà đã can đảm hơn rất nhiều người – Nữ thần y cầm cái chén và niêu thuốc đứng dậy – Người tốt bao giờ cũng sẽ gặt được quả tốt. Tỉ tin như thế, và tỉ cũng tin không bao lâu nữa đệ sẽ gặp lại ca ca đó của đệ.

Thiền Phúc nói:

-Sao tỉ biết là đệ sẽ gặp lại huynh ấy, tỉ đã biết tên huynh ấy đâu?

Nữ thần y không đáp, nàng thoáng nhíu mày hỏi lại:

-Vậy chứ đệ gặp vị ca ca đó ở đâu?

-Ở hồi cương vào tháng tám năm ngoái.

Nữ thần y nghe vậy cặp chân mày nàng giãn ra, nhủ lòng không lẽ là chàng sao? Đã bao năm rồi, không ngờ chàng còn trở về căn nhà xưa? Cảnh tượng năm xưa tự nhiên hiện lên trong đầu nàng, rõ nét vô cùng, nàng nhớ năm đó nàng đã đưa một người nam nhân về gian nhà tranh trên đỉnh Thiên Sơn chăm sóc cho từng miếng ăn đến giấc ngủ, mãi cho đến khi thương thế chàng lành lặng hẳn. Lại nhớ lần chàng trèo lên vách núi dựng đứng sừng sững chỉ để hái tổ yến tặng nàng, khi đó nàng đã không tự chủ được nhìn chàng chăm chú, nhủ bụng người hoàn mỹ như chàng vậy, ở vùng hẻo lánh núi non như Thiên Sơn khó mà gặp được.

Bên ngoài căn miếu mưa vẫn không ngừng rơi, bầu trời đang nhờ nhờ đục đục bỗng sáng lên, tiếp theo là tiếng sấm chớp ầm ầm. Nữ thần y như bừng tỉnh, cảnh cũ cũng biến mất trong đầu nàng, nàng lại nhìn Thiền Phúc nói:

-Tỉ sẽ mãi ghi nhớ những điều đệ vừa nói, cũng cám ơn đệ đã chia sẽ những điều này với tỉ, bắt đầu kể từ hôm nay dầu có đi đâu tỉ cũng không sợ đâu, vì khi tối trời sẽ có ngôi sao trên trời chỉ đường cho chúng ta, ban ngày lại có mặt trời soi sáng và tiếng ca trên thảo nguyên đại mạc dẫn lối cho mình, có phải ca ca đó hay nói như thế không?

-Đúng rồi, tỉ thật giỏi đoán!

Thiền Phúc mở to mắt ngạc nhiên nhìn nữ thần y, nó dường như quên bẵng đi cánh tay đang đau, càng thêm ngỡ ngàng khi nghe nàng tiếp:

-Con người đứng trong trời dưới đất, phải dùng tâm tịnh để mà lĩnh ngộ, thì tự nhiên sẽ nhậm ứng tùy tâm, như vậy mới có thể hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống, chỉ có những người làm được điều đó mới có được một cuộc đời ung dung tự trị, không cần phải lo sợ âu sầu gì hết. Ca ca đệ bảo làm người phải nên yêu đời.

-Sao tỉ lại biết rõ về những điều huynh ấy nói vậy, đệ thấy tỉ rất đặc biệt, tỉ có thể nói tên cho đệ biết không?

Nữ thần y lắc đầu. Thiền Phúc nói:

-Đệ cũng không biết tên của huynh ấy là gì.

-Tỉ hiểu người như huynh ấy, có đôi khi không cần thiết phải biết tên, hoặc mỗi ngày gặp mặt nhau, nhưng chỉ cần mỗi lần gặp là mỗi lần ý nghĩa, và hiểu rõ về đối phương là được.

Thiền Phúc gật đầu. Nữ thần y khẽ đọc:

-Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì

Hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ

Nói xong nàng mang chiếc niêu và cái bát quay mình rời đi, bỏ lại Thiền Phúc đang ngồi ngơ ngác giương cặp mắt to tròn nhìn theo nàng, nó nhủ lòng hai câu thơ Thước Kiều Tiên của Tần Quán thời Bắc Tống này, vị ca ca của nó cũng thường ngâm nga.

Nữ thần y chậm rãi bước xuống từng bật thang gác của ngôi miếu, nàng vừa đi vừa vịn vào cầu thang, đã một ngày một đêm rồi nàng không có thời gian nghỉ ngơi, cũng chưa ăn gì, cảm thấy người nhẹ tênh như chiếc lá héo sắp bức khỏi cây. Ngoài kia cơn bão đã tàn nhưng mưa vẫn còn lay bay. Lữ Nghị Trung đứng giũ áo mưa dưới chân cầu thang, tóc của chàng bị ướt và gương mặt trắng xanh. Tuy nhiên chàng cười thật tươi nói:

-Huynh đã tìm được các loại thuốc muội cần, cũng mua được luôn bánh Quế Hoa.

-Cám ơn Lữ huynh. Nhưng huynh mua bánh làm gì?

-Đương nhiên là cho muội rồi, gói bánh kia đã đưa Thiền Phúc rồi không phải sao, tuy gói này không có ý nghĩa bằng nhưng mùi vị cũng như nhau cả thôi.

Nữ thần y cầm lấy gói bánh nhoẻn miệng cười, hiểu rằng chàng vừa nói một câu đầy ngụ ý. Đột nhiên sự im lặng đè nặng lên hai người lạnh giá. Khi này các bệnh nhân và học sinh đều đã an giấc. Nữ thần y đi đến cửa sổ đứng tựa lưng nhìn ra ngoài trời mưa, đôi mắt nàng vốn đã u buồn, sâu thẳm giờ càng xa vắng thêm hơn. Nghị Trung cũng đến đứng cạnh nàng. Bức tượng Bao Thanh Thiên to cao che khuất hai người họ. Nghị Trung không biết nàng đang nghĩ gì trong giây phút này? Dường như có một lúc chàng nghe tiếng thở dài của nàng khẽ rung lên bên tai và âm thầm tan đi trong gió.

Chàng nhỏ giọng hỏi:

-Muội không ngủ được, có phải đang phiền não về chuyện thiếu đà chủ đi Thanh Quan?

Nữ thần y tháo miếng da đắp trên mặt xuống, để lộ dung nhan kiều diễm. Lữ Nghị Trung không khỏi nhìn nàng ngẩn ngơ, trong lòng ngưỡng mộ Tần Thiên Nhân xiết bao. Nàng sở hữu nét đẹp trong sáng như tiên nữ giáng phàm, đôi mắt hồ thu, cái nhìn mơ màng xa xăm, giọng nói nhẹ như gió, cử chỉ uyển chuyển tựa mây đã choáng hết trái tim trượng phu…

Nhắc lại chuyện hôm trước, Tần Thiên Nhân nhận được thư của Tàu Chánh Khê gởi về từ Cam Túc, nhận thấy chuyện cấp bách, tức thời cho người đi mời các trưởng lão, cùng Lữ Nghị Trung, Khẩu Tâm và Trương Quốc Khải tụ tập bàn bạc.

Trong thư Tàu Chánh Khê đại khái nói Hoàng Hà đại nạn, ở Cam Túc khắp nơi đâu đâu cũng là nhà cửa xơ xác, lũ dâng cao, đường sá ngập ngụa trong nước gây trở ngại di chuyển, dân tình rất tệ, rất cần lương thực tiếp tế nhưng khi Tần Thiên Nhân đi kiểm kê đã phát hiện kho lương thực ở tổng đà Hàng Châu đã cạn.

Sông Hoàng Hà là con sông dài thứ hai của Trung Nguyên sau sông Dương Tử. Chữ “hà” có nghĩa là sông, và chữ “hoàng” dùng để ám chỉ màu vàng phù sa hòa trong nước. Sông Hoàng Hà còn có tên dân gian là sông “trọc lưu nước đục.” Cho nên mỗi khi nói bóng gió những điều không bao giờ xảy ra, người ta thường hay ví von “lên trời đã khó, làm cho nước sông Hoàng Hà trong trẻo còn khó hơn.”

Sông Hoàng Hà khơi nguồn từ phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, vốn là nơi ngự trị của dãy núi Côn Lôn hùng vĩ. Dòng nước bắt nguồn chảy hướng nam, uốn cong về phía đông nam, và xuôi theo hướng nam một lần nữa trước khi giáp ranh thị trấn Lan Châu thuộc địa hình tỉnh Cam Túc. Sau đó, con sông uốn lượng về phía bắc qua khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ, chảy tới khu tự trị Hà Sáo Nội Mông. Ở tại vùng Nội Mông, dòng nước màu vàng thình lình đổi hướng trực tiến về nam tạo ra ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Khi trôi về phía đông bắc của thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây thì Hoàng Hà lại một lần nữa ngược hướng chảy về đông, xuyên thành phố Khai Phong, qua đến Tế Nam thủ phủ Sơn Đông rồi cuối cùng đổ ra biển Bột Hải.

Trong lịch sử hàng ngàn năm khai quốc, Hoàng Hà được xem là niềm vui và nỗi buồn của vạn dân. Từ năm 602 cho đến hiện nay, dòng nước màu vàng này đã ít nhất năm lần đổi dòng, làm vỡ các con đê bao bọc trên hết không dưới một ngàn năm trăm lần.

Tần Thiên Nhân, Khẩu Tâm, Trương Quốc Khải và Lữ Nghị Trung đang ở trong kho gạo cùng các trưởng lão. Sau khi nghe Tần Thiên Nhân đọc xong thư, Khẩu Tâm nhìn Trương Quốc Khải nói:

-A di đà Phật! Đúng là hoàng thiên cũng giúp cho mình.

Đoạn nhìn mọi người, Khẩu Tâm nói:

-Bần tăng và tam đương gia đã phát hiện được quân Thanh hiện giờ đang hộ tống cống phẩm và kim ngân đến biên giới nước Nga. Nếu tính không nhầm thì giờ Ngọ ngày mốt bọn chúng sẽ đi ngang Thanh Quan, nơi đó địa hình hiểm trở, thật là tiện lợi cho việc cướp hàng của chúng ta. Dùng số ngân lượng này đem đi mua gạo và lương khô cho các nạn nhân ở Cam Túc.

Trương Quốc Khải gật đầu nói:

-Lần này triều đình chở cống phẩm bằng đường thủy, nhưng dọc theo hai bên bờ sông cũng có binh lính đi theo bảo hộ, dạo này nạn đói nhan nhản, dân chúng cùng đường, bần cùng sinh đạo tặc thành ra để hạn chế vấn đề cướp phẩm vật, triều đình quyết định không hộ tống bằng đường bộ. Tối hôm qua vãn bối và đại đương gia theo dõi họ, thấy họ đã dựng lều nghỉ ngơi ở con suối gần Thanh Quan khoảng bốn mươi dặm, người người cầm đao thương phòng thủ, canh giữ rất nghiêm mật. Hai chúng tôi không tiện đến gần, đợi tối nay sẽ đi thám thính nữa.

Mọi người nghe Trương Quốc Khải nói vậy, nhớ đến câu đang lan truyền trong dân gian gần đây, mà ngay cả đám con nít trong lúc chia phe chơi trò tập trận hay đọc “Nạn đói hoành hành khắp nơi, hoặc là chúng ta cướp, hoặc là chết đói!”

Trương Quốc Khải định nói gì thêm, thì ngoài đường có tiếng bánh xe lộc cộc, rồi tiếng ngựa hí vang. Một hòa thượng vào chắp tay cúi đầu chào thiếu đà chủ và các thành viên của hội, xong bẩm báo:

-Đại đội nhân mã của triều đình và thuyền cống phẩm đã tiếp tục khởi hành một canh giờ trước, có hai tên võ quan là Lương Trung với Lí Tứ chỉ huy một đội hỏa thương và năm trăm tên lính đi áp tải hai chiếc thuyền lớn.

Nói xong, y đi ra ngoài.

Nhất Đình Phong nghĩ từ đây tới giờ Ngọ ngày mốt chẳng còn bao xa, bàn với mọi người:

-Nếu vậy thì chúng ta không còn bao nhiêu thời gian nữa, lương thực nhất định phải được tiếp tế cho Tàu ngũ gia. Đại đương gia nói rất đúng, nếu không ra tay cướp kim ngân ở Thanh Quan thì không còn nơi nào tốt hơn.

Lữ Lưu Lương giơ tay vuốt bộ râu dài, gật gù:

-Từ đây đi về hướng tây, dân chúng cũng ít hơn, tiện cho chúng ta hành sự.

Mọi người đồng thanh nói phải.

Bạch Kiếm Phi trao đổi ánh mắt với Hồ Quảng Đông, sau đó lên tiếng:

-Lương Trung với Lí Tứ, hồi trước là hai võ sư trứ danh của Thanh Long môn, sau đó đi đầu quân cho triều đình Mãn Châu, cam tâm chịu nhục làm tay sai cho giặc. Hai người này võ công rất giỏi. Lần này hộ tống cống vật là do họ dẫn đầu, đúng là dịp tốt để chúng ta tỉ đấu với họ một phen.

Hồ Quảng Đông nói:

-Chuyện này đương nhiên không thành vấn đề! Hai con rùa này, gặp được bảy mươi hai đường Kinh Hồn Đoạt Mạng Kiếm của ta, sẽ đánh cho chúng không còn một manh giáp, ngày mai nhất định không để hai mối họa này sống sót!

Bạch Kiếm Phi lại lên tiếng:

-Thiếu đà chủ! Chúng tôi nói trước, nếu tôi và Hồ đại ca gặp hai con rùa đó trước thì sẽ động thủ trước. Thiếu đà chủ đừng trách chúng tôi là không khách sáo.

Bạch Kiếm Phi và Hồ Quảng Đông là người Tứ Xuyên, dân ở đó quen miệng hay mắng người ta là con rùa.

Tần Thiên Nhân mỉm cười hỏi:

-Hai vị đã lâu không gặp đối thủ, chắc là ngứa tay rồi. Còn tam đệ, có muốn thi triển Thiếu Lâm tam thập lục quyền trước hay không?

Tần Thiên Nhân hỏi như vậy vì Trương Quốc Khải đó giờ hễ có trận đánh là toàn chỉ huy tiên phong. Trương Quốc Khải cười đáp:

-Hai con rùa đó, nhường cho Bạch đại hiệp và Hồ tiền bối, đệ không tranh giành nữa là xong.

Mọi người nghe Trương Quốc Khải bắt chước giả giọng Tứ Xuyên không giống lắm liền bật cười.

Lữ Nghị Trung cũng nhìn Lữ Lưu Lương nói:

-Cha à, tuy lão Trần đã tuyệt giao với Lương Trung Lí Tứ rồi, nhưng ông ấy vốn là người nặng tình nặng nghĩa. May mà ông ấy đang ở Tứ Xuyên cùng với Thất đương gia, không thì chúng ta phải giết hai họ Lương Lí trước mặt ông ấy, cũng có phần trở ngại.

Tần Thiên Nhân nghe vậy nhớ tới Cửu Dương, ước gì… Chàng nén một tiếng thở dài, mở tấm địa đồ chàng mang theo trong mình ra, trải trên bàn nói:

-Theo như vãn bối nghĩ thì ngày mai cứ để chúng đối đầu với các cạm bẫy này trước đã, lợi thế sẽ nghiêng về phía chúng ta, muốn thắng lợi chúng ta phải đục thủng thuyền của bọn chúng, trên đường bộ cũng gài đặt các bẫy thú, làm chiến mã của chúng bị tổn hại, sau đó mới xua quân ra đấu giáp lá cà.

Lại thêm lời:

-Chúng ta chia thành hai nhóm, vãn bối sẽ cùng đại đương gia và hai trăm huynh đệ mai phục tại Thủy Hoàng. Binh sĩ triều đình muốn vận tải kim ngân và cống phẩm phải đi ngang qua Thủy Hoàng trước, nơi đó có hai ngọn đồi Thất, Tinh. Ở trên đồi chứa nhiều tảng đá, chúng tôi sẽ ném đá xuống giết được một phần binh sĩ, phần còn lại không còn đường lui buộc phải chạy đến Thanh Quan.

Tần Thiên Nhân chờ mọi người hiểu hết mới nói tiếp:

-Tam đương gia và các huynh đệ còn lại sẽ phục kích hai bên bờ sông Thanh Quan, bao vây đám quân binh, không được để một tên nào thoát. Sau khi đoạt được ngân lượng và cống phẩm, chúng ta không thể vận tải về Hàng Châu, chi bằng đổ hết xuống sông, con sông này gắn liền với sông Bạch Hà của thị trấn chúng ta. Nhằm khi này trời thường hay mưa to, khiến mặt nước dâng cao và chảy xiết. Cho nên nước sông chính là then chốt trong vấn đề di chuyển vàng nén. Chỉ cần chúng ta vứt số kim ngân xuống thì vận tốc nước sông sẽ mang ngân lượng xuôi dòng về đây.

Mọi người đồng ý. Bạch Kiếm Phi, Hồ Quảng Đông và Trương Quốc Khải lấp tức xuất phát, ba người cúi chào bái lui, lãnh nhiệm vụ dẫn một trăm thành viên của hội đi đặt bẩy thú ở hai bên bờ và cọc nhọn xuống lòng sông Thanh Quan. Họ đốn các loại gỗ lim và gỗ táo trên rừng Hàng Châu, kéo về bờ sông đẽo nhọn cắm xuống dòng nước tạo thành những bãi chông ngầm kín đáo. Sông Thanh Quan nước ròng, lên rất nhanh và xuống rất mạnh, khi thủy triều rút lại còn hiện ra thêm một dải đá ngầm bên dưới lòng sông có thể phối hợp với bãi chông nhằm ngăn chận tàu thuyền của địch.

Những người còn lại tiếp tục chờ nghe chỉ thị, Vạn Văn Thông nói:

-Thế còn đội hỏa thương? Tất cả bọn chúng đều là các xạ thủ, tứ đương gia Cam Phụng Trì và lục đương gia Tí Viên Bạch Thái Quan cũng đã vì họ mà chết không toàn thây.

Khẩu Tâm nói:

-Nơi mà chúng ta sẽ mai phục cách nơi quân địch sẽ là ba trăm bước, tầm bắn của súng trường là hai trăm bước, cung tên là một trăm, không lẽ chúng ta dùng một đội tiên phong một trăm người, chạy thẳng đến tầm bắn của chúng, những người này không được tránh đạn, mà phải lấy thân mình như lá chắn, như thế thì cung thủ của quân ta có thể chạy sau họ và đạt được tầm bắn?

Khẩu Tâm vừa dứt lời thì Lạc Thiết Môn lắc đầu:

-Như vậy phải hy sinh rất nhiều anh em, lấy tánh mạng anh em chúng ta ra đánh đổi lương thực cho những người dân bị nạn bởi “thiên tai” ở Cam Túc, rồi lại để gia đình của anh em ta ở Hàng Châu trở thành nạn nhân của “nhân họa,” tổn thương nhiều nhân mạng, có khác gì nhau?

Tần Thiên Nhân nhìn Khẩu Tâm và Lạc Thiết Môn, thấy cả hai đều có lý. Không biết tính sao, Tần Thiên Nhân suy nghĩ một lát rồi nói:

-Lạc đại hiệp và đại đương gia hai người đều nói đúng, vậy thì chi bằng hợp mưu của hai huynh lại, chúng ta lấy ván gỗ bện đất bùn và rơm ướt, chia ra nhiều toán khiên những chiếc ván gỗ bện rơm ướt này nhất loạt xông ra chặn hỏa lực, khi đạn bị mộc cản sẽ mất đi hiệu lực như vậy thì cung thủ của quân ta có thể chạy sau họ và đạt được tầm bắn.

-Hảo!

-Hảo!

Mọi người đồng ý.

Sau khi được giao nhiệm vụ, mọi người đều rời tổng đà lên ngựa, chia tay với thiếu đà chủ để đi chuẩn bị cho trận đánh ngày mốt. Tần Thiên Nhân cũng cung kính bái chào lại họ, và nói:

-Không có gì bằng tình anh em, thời buổi này, không có anh em, sẽ không sống sót nổi.

Sau cuộc tụ tập thương lượng đó Lữ Nghị Trung đi tìm nữ thần y trong kho thuốc của chùa Thanh Tịnh. Nghị Trung nói:

-Thiếu đà chủ cùng đại gia, tam gia đã đi rồi. Thiếu đà chủ để lại cho muội thư này.

Lữ Nghị Trung nói xong trao lá thư cho nàng. Nữ thần y mở tờ giấy được gấp làm tư ra đọc, trong thư là nét chữ của Tần Thiên Nhân:

“Giang sơn Hán thất, đại nghiệp đứng đầu. Tây Hồ, muội là người của Đại Minh Triều, lại là người yêu quý nhất của huynh, chắc là muội hiểu được lòng dạ của Thiên Nhân này, vì vội vàng ra đi huynh không kịp cáo biệt muội, huynh chỉ để lại món ăn mà muội thích ăn nhất, để cho muội thưởng thức, huynh và các anh em trong hội khi hoàn thành nhiệm vụ huynh sẽ trở về dùng kiệu tám người rước muội, hai chúng ta sẽ chính thức nên duyên vợ chồng.”

Lá thư ngắn gọn. Nữ thần y đọc xong cầm gói giấy Lữ Nghị Trung trao cho nàng, mở gói giấy ra ngắm những cái bánh Quế Hoa nhỏ xinh, mỉm cười nói:

-Huynh ấy thường không bên cạnh muội, nhưng vẫn quan tâm đến muội như vậy, làm sao mà muội nỡ lòng giận cho được?

Nghị Trung nói:

-Huynh thấy hai người như vậy rất là vui mừng. Muội đây tài sắc vẹn toàn, thiếu đà chủ thì oai phong bát diện, hào khí tứ phương, thật là xứng đôi vừa lứa.

-Lữ huynh đã quá lời rồi.

Nữ thần y lại cười. Tuy tâm tình không để lộ ra nhưng nàng nhớ Tần Thiên Nhân da diết.

Nhớ hai người lúc nhỏ khắn khít nhau, nhưng khi lớn lên lại ít có cơ hội gặp nhau, Tần Thiên Nhân thường lãnh nhiệm vụ phải đi xa, mỗi lần về lại Hàng Châu, chàng vẫn đưa mắt nhìn vào hai cánh cổng khép chặt im ỉm dưới mái vòm tam quan chạm trổ hình đầu rồng của chùa Thanh Tịnh, lòng suy nghĩ vẩn vơ. Không hẹn mà nên, qua song cửa kho thuốc nữ thần y lại ngóng nhìn ra cổng mong được thấy chàng trai tài giỏi đã làm tâm hồn trong trắng của cô gái mười mấy tuổi xao gợn sóng tình.

Tần Thiên Nhân hơn nữ thần y bảy tuổi, trưởng thành già dặn hơn, nhưng yêu nàng chàng cứ như trẻ lại. Nhìn nàng như vậy chàng cũng chẳng dám đòi hỏi mấy chuyện đen tối, nàng quá đỗi dễ thương và trong sáng chàng không nỡ.

---oo0oo---

Lại nói tiếp chuyện Lữ Nghị Trung và nữ thần y trong ngôi miếu hoang.

Nữ thần y vẫn còn đứng tựa lưng vào khung cửa sổ, nàng lắc đầu bảo Lữ Nghị Trung:

-Không, muội tin thiếu đà chủ, Đại gia, Tam gia và các huynh đệ trong hội nhất định đoạt được số ngân lượng ở Thanh Quan, chuyện đó không thành vấn đề. Chuyện muội đang lo là một chuyện khác.

Nghị Trung suy nghĩ một lát nói:

-Muội đang lo chuyện thư viện sẽ bị buộc tội à? Hay là tình hình của các cống sinh? Quả như Thất gia nói, triều đình không bắt bớ trường học chúng ta được. Muội không cần quá lo.

Chàng nói xong tự hỏi không biết bây giờ viện trưởng thế nào rồi? Chuyện của Nhạc Tam Nguyên bất thình lình ra đi, chàng cảm thấy thật đáng tiếc, trong hội ai cũng bảo mạng số của nhà họ Nhạc thật là xui xẻo, khi không cả nhà ba người lại bị chết trong đám cháy đó. Nhạc Tam Nguyên là một trong những học trò tâm đắc của Cửu Dương, nên sau đám cháy đó Nghị Trung đã có biên thư đi Tứ Xuyên song đến nay chưa nhận được hồi âm.

Nữ thần y vẫn lắc đầu nói:

-Người nào đi theo Thất gia cũng đều sẽ an toàn, muội tin vào tài trí huynh ấy, tin chắc không sao đâu, chuyện muội đang lo là chuyện Triệu Đô thống sắp sửa điều quân tới vùng này.

Nghị Trung vỡ lẽ, đầu gật gù, chuyện này chàng cũng đã nghe qua, vì sau chuyện Giang Nam thất hiệp hành thích Khang Hi ở Sơn Tây, triều đình đã điều quan Đô thống Triệu Phật Tiêu đến Giang Nam đóng đô, thăm chừng dân tình.

Nghị Trung nói:

-Người này huynh cũng có nghe danh. Hắn là người của bộ tộc Ô Nhã Thị Mãn Châu. Ba năm trước người này chỉ làm Chương kinh trong Quân cơ xứ, một chức quan nhỏ phụ trách ghi chép, sau một năm không hiểu thế nào lại lên đến chức vụ Binh bộ lang trung, rồi là Thịnh Kinh hình bộ thị lang. Sau khi Thuận Trị lâm bệnh thái y chẩn không qua khỏi, thì Triệu Phật Tiêu tức thì thăng làm Hình bộ hữu thị lang. Mấy tháng trước hắn thụ chức Chánh Hoàng kỳ Mãn Châu đô thống.

Nữ thần y nói:

-Hồi muội còn ở Sơn Đông, Triệu Phật Tiêu đem quân đến bắt bớ những học sinh của Bắc Tự Đường, nói là họ viết văn phản động, bắt họ đem đi, bây giờ không biết hành tung họ thế nào.

Nghị Trung nói:

-Ở kinh thành huynh nghe người ta đồn do hắn có Phủ Viễn tướng quân nâng đỡ mới lên được tới chức đó, người này trong quan trường đã nhiều phen kết nối với các thân vương khiến cho Ngao Bái phải tức tối đến đỏ cả mặt mày. Triệu Phật Tiêu có đáng sợ thế nào, cũng không bằng tên chủ soái của hắn.

Lữ Nghị Trung lấy làm lạ, khi chàng chắc tới người gọi là Phủ Viễn tướng quân, gương mặt xinh đẹp của nữ thần y có hơi biến sắc.

Chỉ một chút thôi, sau đó nàng lấy lại vẻ bình thản, gật đầu nói:

-Họ Triệu này thái độ rất cứng rắn, lại xảo huyệt gian trá, khó đối phó hơn lão quan huyện tỉnh Hàng Châu, nếu hắn chưởng quản nam bắc lộ Giang Nam, tuyệt đối không phải là chuyện tốt, sau này hoạt động của chúng ta càng thêm khó khăn. Đời sống dân chúng cũng sẽ không một ngày được yên mà họ thì chỉ yêu cầu đối đãi hợp lý, cần có một con đường sống.

Nghị Trung nói:

-Muội nói không sai nhưng huynh lại cầu cho tới ngày dân chúng cả thảy đồng lòng tham gia tạo phản đây. Quan áp bức, thì dân phải chống, phải tranh đấu tới cùng. Triều đình thấy thiên tai lũ lụt người người chết đói chẳng những không xuất kho cứu đói, còn vẫn không giảm thuế má, sớm muộn hội chúng ta và dân chúng cũng chết, nếu phải chết, chi bằng chết oanh liệt trên sa trường.

Nữ thần y nói:

-Đúng là chúng ta không thể rút lui một cách nhẫn nhịn nhưng muội không muốn chuyện này lại phát triển tới chỗ như vậy.... Vì… suy cho cùng chúng ta cũng đang ở thế bất lợi, hiện thời tổng đà chủ không biết tông tích thế nào, Cam Phụng Trì và Tí Viên Bạch Thái Quan thì đã hy sinh, còn Bát Bộ Truy Hồn và Gia Cát tái lai lại không có mặt ở tổng đà.

Khi nữ thần y nhắc tới tứ đương gia lục đương gia nước mắt lại chảy xuống.

Nghị Trung nghe nàng nói vậy trong lòng cũng buồn không kém, nhủ bụng hai người đương gia còn trẻ tuổi vậy mà đã ra đi mãi mãi, nhớ bữa tối hôm trước khi đi Sơn Tây chàng và họ còn ngồi cạn chén với nhau. Nén một tiếng thở dài, Nghị Trung nói:

-Tóm lại chuyện này không phải do chúng ta quyết định được đâu. Đành chờ thiếu đà chủ, đại gia và tam gia hoàn thành chuyến đi Thanh Quan và bình an trở về vậy, bây giờ chuyện chúng ta có thể làm là thông báo với các huynh đệ trong hội, bảo họ ngày đêm đề cao cảnh giác.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 32: Tình đầu thiên thu

Lữ Nghị Trung, nữ thần y và Thiền Phúc ba người hoà lẫn vào dòng người lũ lượt mua sắm, vừa đưa mắt nhìn ngắm quang cảnh hai bên. Tuy rằng ở Cam Túc, Chiết Giang lũ lụt làm tổn thất mùa màng nhưng ở Hàng Châu vẫn còn yên bình nên phố chợ rất đông vui. Cứ hễ chiều xuống là người các làng Tân Giang, Dư Hàng ra bán vải the, người Tiêu Sơn bán lụa đũi. Ngoài ra còn có gấm vóc của người làng Lâm An, lĩnh của người làng Phú Dương. The lụa đũi vẫn còn để mộc, những người ở Kiến Đức và Đồng Lư đến nhận về nhuộm thâm. Những người ở huyện Thuần An thì nhận về nhuộm màu hay chuội trắng. Những người thợ cửi ở Củng Thự ra Thượng Thành bán xong hàng, lại tìm mua tơ của các nhà buôn ở Hạ Thành để làm hàng cho phiên chợ sau.

Đến một góc đường, ba người chợt nghe tiếng huyên náo, liền cùng một đám đông xúm xít quanh một khoảng đất rộng trước một hiệu buôn vải lớn, trên đó có khoảng chục người mặc đồ màu đỏ và vàng. Thì ra đó là một đám múa lân do ông chủ hiệu buôn vải Nhật Minh mời khai trương chi nhánh mới.

Thiền Phúc chăm chú nhìn đoàn lân người cầm trống người cầm thanh la, rồi não bạt, chờ giờ lành chuẩn bị biểu diễn. Ở giữa mấy người cầm phụ kiện này là hai con lân vàng và đỏ, mỗi con có hai người nâng. Thiền Phúc thích thú chỉ chỉ trỏ trỏ, đầu lân chế tạo rất công phu, bằng giấy bồi cứng, lông gắn rậm rạp, sơn phết đẹp đẽ. Lân đỏ có sừng được buộc mảnh vải cũng màu đỏ, lân vàng không có sừng. Thân của lân là tấm vải dài khoảng năm sảy tay, rộng một sảy, có nhiều miếng vải nhỏ giả làm vảy rồng, nhiều màu sắc. Con lân vì vậy có cái đầu khá to và cái mình khá dài, điều này giúp cho lân có vẻ linh động uyển chuyển khi múa. Trên trán lân gắn một miếng kính tròn nhỏ.

Không nén được tò mò, Thiền Phúc hỏi nữ thần y:

- Tỉ à, sao lân có con có sừng, có con lại không nhỉ?

Nữ thần y mỉm cười đáp:

- Lân đực có sừng, lân cái không có.

Thiền Phúc à lên tỏ vẻ hiểu, rồi hỏi tiếp:

-Thế tỉ có biết nguồn gốc múa lân không? Ý nghĩa của trò này không biết có sự tích gì tỉ kể cho đệ nghe với ạ?

Nữ thần y nhớ lại lời của Cửu Dương, hồi còn nhỏ có lần chàng kể cho nàng nghe, bèn nói:

-Nguồn gốc của trò múa lân à? Hình như có lắm truyền thuyết khác nhau. Người ta kể rằng thời xa xưa ấy có một loài quái thú từ dưới biển Đông lên gây tai họa cho loài người. Di Lặc Bồ Tát mới dùng cỏ linh chi hái trên núi Côn Lôn rồi hóa thân làm ông Địa dụ cho con vật ấy, tức là con lân, ăn cỏ này. Từ đấy nó được thuần phục, chỉ ăn chay, trở nên hiền lành và theo Bồ Tát về trời tu luyện. Hàng năm, vào mùa Tết, ông Địa dẫn lân giáng trần ban phước lộc cho nhân gian. Dựa vào tích này, người ta dựng lại cảnh múa lân trong các dịp lễ và tin tưởng là làm như thế thì vẫn được Bồ Tát giáng phúc lành như xưa. Vì thế khi lân đến nhà múa, lủng lẳng dưới sợi dây cột tiền chủ nhà còn treo thêm rau cải giả làm cỏ linh chi như trong tích cũ.

Nữ thần y nói xong đưa mắt nhìn Nghị Trung ra ý hỏi. Nghị Trung cười đáp:

-Đúng rồi! Theo sự tích khác mà huynh biết thì ngày xưa có năm trời làm thiên tai dịch tả, người chết như rạ. Có một vị lương y lên ngọn núi Côn Lôn tìm thất diệp nhất chi hoa tức cỏ linh chi là loài thuốc quí. Nhưng thuốc này do một con quái thú canh giữ, ông phải dùng mẹo làm thân với nó mới hái được cỏ. Cỏ có bảy lá, ông ta ăn một lá, con quái thú ăn một lá, cả hai nhờ thế được trường sinh. Ông dùng năm lá còn lại luyện thành thuốc rồi rủ con thú đó cùng xuống núi để cứu mọi người thoát khỏi dịch bệnh. Sau đó hai người cùng nhau về trời.

-Vậy thì thầy thuốc đó là ông Địa sao? Còn con thú là con lân?

Thiền Phúc tròn mắt hỏi, Nghị Trung mỉm cười nói tiếp:

-Ừ, cũng có thuyết nữa cho rằng vào thuở khai thiên lập địa, có một con thú ăn thịt người, cứ vào ngày tết hàng năm thì xuất hiện gieo rắc tai họa làm mọi người khiếp sợ. Ngày kia, Đức Di Lặc hiện thân ra tay giúp dân trừ ác thú. Phật hiện thân thành một người mập mạp, bụng to, tay cầm chiếc quạt thần phất lên xua đuổi thú. Đồng thời bảo các đệ tử của Phật giống trống khua chiêng ầm ĩ phụ họa để áp đảo tinh thần con vật, nó khiếp sợ nên bỏ chạy. Con thú đó là con lân, người bụng phệ là ông Địa, các đệ tử nay là nhóm người đánh trống, thanh la…

Thiền Phúc reo lên:

- Hay nhỉ? Nhưng sao sừng con lân kia lại buộc vải đỏ?

Nghị Trung nói:

- Thuyết thứ nhì có nhắc đến việc này, đấy là do có lần lân phạm tội bất kính với Ngọc Hoàng, ngài giận dữ nên trừng phạt lân bằng cách hạ lệnh cho Nhị Lang Thần dùng tam tiên đao chẻ chiếc sừng là nơi chứa đựng sinh lực của lân ra làm hai khiến nó chết đi. Vị lương y nọ đến cầu xin Thánh Mẫu. Nương nương thương xót lân có công cứu chữa dịch bệnh cho nhân gian bèn dùng loại lá thuốc màu đỏ có phép tiên cột chiếc sừng dính lại, rồi đọc thần chú triệu hồn lân trở về, nhờ thế mà lân mới hoàn sinh.

Thiền Phúc suýt soa:

- Ngọc Hoàng thượng đế ác nhỉ? May mà nhờ có Thánh Mẫu nương nương nhân từ!

Rồi nó nhìn thấy một vật trên đầu lân, vội hỏi:

-Ô kìa, trên trán lân có mảnh gì nhoáng thế? Có phải là con mắt thứ ba như của Nhị Lang Thần không hở ca ca?

Nghị Trung lại đáp:

- Không hẳn đâu, đấy chỉ là mảnh gương con gắn trên trán lân mà thôi. Người ta tin rằng nó sẽ làm cho ma quỷ hoảng sợ khi nhìn thấy hình ảnh của chính chúng bị phản chiếu.

Chợt nghe tiếng trống nổi thùng thùng, cuộc biểu diễn bắt đầu. Thiền Phúc lại hỏi:

- Quái, sao chỉ có lân đỏ múa còn lân vàng kia đứng yên một bên?

Nghị Trung chưa trả lời thì nữ thần y nói:

- Cái này tỉ biết nè, đấy là cách “Độc chiếm ngao đầu.’’ Theo vũ đạo này thì chỉ có một con lân biểu diễn độc đấu với bộ pháp hùng dũng, tiến thoái nhịp nhàng, nhảy cao, trèo giỏi thể hiện cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán anh hùng tả xung hữu đột giữa vòng vây địch quân giống như viên hổ tướng nhà Thục Hán là Triệu Tử Long phò ấu chúa ở trận Đương Dương Trường Bảng.

Khi lân dứt bài múa, cúi chào mọi người, tiếng vỗ tay khen ngợi vang như sấm. Thiền Phúc và mấy đứa nhỏ thì nhảy cỡn lên hò reo khen hay. Sau đó lân vàng từ từ bước ra nhập cuộc. Hai con lân vờn quanh nhau có vẻ tươi vui, quyến luyến, thể hiện sự hòa hợp, nghĩa tình.

Nữ thần y giải thích với Thiền Phúc:

- Đấy là điệu múa “Song hỉ,” tiểu đệ xem kìa, đôi lân cùng nhau song vũ coi có đẹp không? Tỉ thích điệu múa này nhất. Điệu múa này tượng trưng cho niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm dương tương hợp.

Nữ thần y khi xem điệu múa này hai mắt sáng long lanh.

Thiền Phúc hỏi:

- Thế còn điệu vũ nào khác chăng?

Nữ thần y chỉ nhớ bấy nhiêu, nhìn sang chờ Nghị Trung đáp thay cho nàng:

- Còn có điệu “Tam Tinh” nữa, ba con lân cùng múa, thể hiện ước nguyện của muôn người để đạt ba điều lành là Phúc, Lộc, Thọ. Hoặc cũng để diễn tả truyện Đào Viên kết nghĩa của ba người tướng tài Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi với tình thương yêu gắn bó nhau hơn cả anh em ruột thịt.

Thiền Phúc hỏi tiếp:

-Thế có khi nào bốn con lân cùng múa?

Nghị Trung gật đầu:

-Có chứ, nếu bốn lân thì là “Tứ Quý hưng long” gồm bốn đầu lân trắng, vàng, đỏ, đen, tượng trưng cho bốn mùa xuân hạ thu đông, hoặc bốn phương đông tây nam bắc, hay bốn hiện tượng trong trời đất diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc.

Nữ thần y và Thiền Phúc nhìn Nghị Trung thán phục, nữ thần y nói:

- Kiến thức của huynh thực là quảng bác. Đi cùng với huynh trí não của muội mở mang ra rất nhiều.

Nghị Trung nghe nói vậy nhìn nàng dịu dàng. Chàng chưa đáp lời thì khi này một người thanh niên đến nói nhỏ vào tai chàng một câu. Sau đó hắn rời đi. Nghị Trung hạ giọng lặp lại lời này với nữ thần y. Nghe những lời này, nhịp mạch trong người nữ thần y như chạy nhanh lên, nàng nhoẻn miệng cười tươi như hoa, tim đập rộn, hai má đỏ bừng. Lữ Nghị Trung nhìn nụ hàm tiếu kia, cảm giác trong lòng chàng khó mà diễn tả.

Nữ thần y nghe xong khẽ cúi chào Nghị Trung rồi nhanh chóng quay gót rời đi. Nghị Trung bèn đưa Thiền Phúc rẻ sang một ngõ khác, tiếp tục dẫn thằng bé đi thăm chợ Đông Ba của Hàng Châu.

---oo0oo---

Nữ thần y tháo miếng dịch dung trên mặt xuống cất trong áo, theo chân Tần Thiên Nhân, Trương Quốc Khải, Nhất Đình Phong đi dọc bờ Tây Hồ. Khi này bờ hồ vắng người.

Mấy lần nữ thần y liếc mắt trộm nhìn Tần Thiên Nhân. Chàng to cao, vạm vỡ và điển trai một cách chết người. Ở chàng có một nét đẹp nam tính cuốn hút, gương mặt góc cạnh.

Nữ thần y hỏi:

-Chuyến đi vận tải lần này, các huynh định tính sao?

Tần Thiên Nhân nói:


-Chuyến đi này, huynh định dùng phương thức một xe ba ngựa. Hiện thời, ngoài Cam Túc thì còn có hai nơi nữa cũng đang chờ chúng ta tiếp tế lương thực. Đoạn đầu, gạo sẽ được mua và chở từ Tung Sơn Tiếu Lâm, vận tải tới Hà Nam, rồi giao một phần ba số gạo cho tiêu cục Hưng Chấn của tỉnh Hà Nam phân phát cho các người nghèo ở đó. Sau đó, các huynh sẽ tiếp tục đem tới ranh giới Phúc Kiến và Quảng Đông giao cho Trùng Khê Thiếu Lâm. Đoạn đường sau cùng, các huynh sẽ vận tải hết số gạo còn lại đến Cam Túc cho Tàu ngũ đệ.

Nữ thần y nói:

-Ranh giới Phúc Kiến và Quảng Đông nghe nói cướp núi cướp cạn trùng trùng, các huynh đi như vậy e là…

Nhất Đình Phong và Trương Quốc Khải đang đi phía sau hai người, Nhất Đình Phong bước lên một bước nói:

-Cô nương không cần sót ruột, ở vùng Phúc Kiến và Quảng Đông, bốn chữ Nghĩa Đảm Kiếm Khách của Trương huynh đây có thể thông qua núi qua rừng. Vả lại, cô nương chớ quên là danh tiếng của Hồ Quảng Đông tiền bối ở vùng Hà Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông cũng không tệ.

Nữ thần y sực nhớ lại Hồ Quảng Đông là người trứ danh nơi mà Tần Thiên Nhân sẽ đi qua, chỉ cần cho biết là mối quen của họ Hồ là không ai dám làm gì cả, giang hồ vì đó mới có câu “oai chấn Hồ Quảng.” Nàng chợt nhận thấy mình lo lắng có phần thái quá, mà nàng vốn dĩ rất bình tĩnh, chỉ khi việc nào liên quan đến chàng mới như vậy, tâm tình bất định. Tần Thiên Nhân là nhược điểm duy nhất của nàng.

Tần Thiên Nhân dừng bước, quay lại phát một cái lên vai Trương Quốc Khải, cười nói:

-Tam đệ, lần này đệ cầm cờ cho ngày thượng lộ, còn huynh, đi vận tải chuyến này sẵn tiện làm mai dùm đệ luôn.

-Ha ha! Được vậy thì tốt -Trương Quốc Khải bật cười - Đệ cũng mong có được một hồng nhan tri kỷ giống huynh!

Nhất Đình Phong bá vai Trương Quốc Khải nói:

-Còn có tôi đi nữa, làm việc khác tôi không đủ sở trường, chứ những việc cầm đao cầm kiếm đi trợ oai cho Trương huynh, tay chân của tôi cũng không chậm chạp.

Tần Thiên Nhân đặt tay lên vai nữ thần y nói:

-Muội đã thấy chưa, đừng lo quá, lần này có rất nhiều huynh đệ của chúng ta sẽ đi vận tải với huynh, sẽ không hề gì.

Nhất Đình Phong thấy thiếu đà chủ cùng nữ thần y thân mật với nhau, nháy mắt với Trương Quốc Khải nói:

-Trời cũng xế chiều, hai huynh đệ chúng ta mới vừa về tới Hàng Châu cũng chưa ăn gì, thôi thì đi uống vài bầu rượu ăn vài ba con gà nạp sức, sẳn tiện để cho hai người họ có thời gian bên nhau, sáng sớm mai chúng ta lại phải lên đường rồi.

Trương Quốc Khải gật đầu nói phải.

Chờ cho hai người kia đi khuất, Tần Thiên Nhân quay sang nhìn khuôn mặt kiều diễm của nữ thần y mà lòng rung động. Hôm nay nàng đẹp lạ thường. Nàng mặc áo màu hồng ngoài khoác thêm chiếc áo trắng viền lông thú trông thật tao nhã xinh đẹp. Tần Thiên Nhân cất tiếng gọi:

-Tây Hồ.

Thanh âm ấm áp ngọt ngào không thể nào diễn tả được. Câu này vừa lọt vào tai nữ thần y, không dằn được, nàng lập tức sà vào lòng chàng, nhón chân ôm lấy cổ của Tần Thiên Nhân, trong lòng vui mừng tới độ không tả thành lời.

Tần Thiên Nhân thấy mặt người yêu, cũng vô cùng mừng rỡ, chỉ hiềm lúc nãy có tam đệ và Nhất Đình Phong ở đó, nên không thể nào dang rộng đôi cánh tay ôm lấy nàng cho thỏa niềm nhớ nhung. Hai người đứng ở bên bờ hồ quên mất thời gian, chỉ mong đất trời cứ thế không bao giờ thay đổi. Tiếng kèn tiếng trống vang dội từ đội múa lân, hòa cùng kinh kịch Nhã bộ từ trong tửu lầu của chợ Đông Ba vang ra, hoàn toàn không khiến họ bận tâm.

Hồi 32: Tình đầu thiên thu (hạ)

Hai người đứng tựa vai nhau ngắm những đám mây chiều in bóng trên mặt nước Tây Hồ. Nữ thần y chợt nhớ vài năm trước có lần họ dắt nhau ra một đồng cỏ xanh như gấm. Hai người nằm cạnh bên nhau trên thảo nguyên nhìn bầu trời Tây Hạ pha ánh nắng chiều đỏ rực. Lúc đó Tần Thiên Nhân nói:

-Tây Hồ à, muội hãy nhìn đám mây trên trời kìa, có giống một đàn dê hay không?

Nữ thần y nhìn theo tay chàng chỉ, cười nói:

-Đúng vậy đó nha! Đám mây lớn như con dê lớn vậy đó, đi theo chung quanh là một đám dê con ha.

Tần Thiên Nhân thu tay về, nằm gối đầu lên hai tay thả hồn mơ mộng nói:

-Tương lai, huynh cũng muốn nuôi một đàn dê con.

Nữ thần y đang nằm ngửa trên bải cỏ, liền chống khủy tay xuống cỏ, nghiên người sang bên tròn mắt hỏi:

-Cái gì chứ? Huynh muốn nuôi dê sao hả?

Tần Thiên Nhân gật đầu:

-Ừ, huynh muốn chúng vui đùa chung quanh huynh, mỗi tay bồng một con, lại còn cõng trên lưng một con, lại có thêm hai con quấn quít dưới chân. Đến lúc đó muội nhất định phải giúp huynh.

Nữ thần y thu nụ cười lại nói:

-Huynh chỉ muốn muội giúp huynh nuôi dê thôi hả?

Tần Thiên Nhân nghe giọng nàng buồn buồn, cười nói:

-Không, đương nhiên là giúp huynh làm dê mẹ cho bầy dê con của huynh.

-Nói gì chứ! - Nữ thần y đỏ mặt ngồi bật dậy, tránh ánh mắt tha thiết của chàng - Huynh mới dê đó, muội trong sáng lắm!

-Không chịu thật sao?

Tần Thiên Nhân cũng ngồi dậy theo.

Nữ thần y sau thoáng cúi đầu tiếp tục ửng hồng hai má, nhìn thẳng vào mắt chàng rồi nói bằng giọng rất chân tình:

-Nếu huynh là gì, thì muội là cái đó, huynh là chim muội sẽ là chim, huynh làm cỏ cây muội sẽ làm cỏ cây, nên nếu huynh mà là dê, thì muội cũng sẽ như vậy.

Nói xong nàng nhoẻn miệng cười.

Không có gì đẹp bằng nụ cười của người mình thương.

Lại nữa câu nói như lời hứa hẹn, Tần Thiên Nhân nghe được vui mừng khôn xiết, bắt hai bàn tay làm loa, la lớn:

-Mọi người trên đời, nghe cho rõ đây, mỹ nữ đẹp nhất thiên hạ nguyện ý làm người họ Tần rồi!

Nữ thần y cũng bắt chước chàng, tiếng nàng cũng vang đi rất xa:

-Đúng vậy, ta nguyện ý làm người của họ Tần đây!

Lời vừa dứt, chàng đã vụt đứng dậy nhấc bổng nàng lên bế trên tay, xoay mình một vòng. Tiếng cười hạnh phúc của đôi trẻ lang xa trên thảo nguyên xanh thẳm.

Ngoài tổng đà ở Hàng Châu bang hội Đại Minh Triều còn một tổng đà thứ hai ở hồi cương, được bay nhảy tự do trên đồng cỏ xanh mát mắt này sau khi thiên hạ thái bình, đều là ước vọng của tất cả những người trong hội.

---oo0oo---

Lại nói tiếp chuyện Tần Thiên Nhân và nữ thần y hai người đang đứng bên hồ. Bấy giờ trời đã tối, nữ thần y hãy còn trông mắt xuống dòng nước đen kịt, chợt thấy bóng một ngôi sao xẹt bay phớt qua, lập tức chắp tay trước ngực.

-Muội đang cầu nguyện à?

Tần Thiên Nhân vương tay ra vuốt tóc nàng, hỏi.

-Vâng, từ lúc Thất ca kể muội nghe sự tích ngôi sao này, hễ mỗi lần sao này xuất hiện muội thường cầu nguyện cho huynh. Nhưng cạnh đó cũng hay cầu nguyện cho Đình tỉ tỉ nữa!


- Vậy ư? Muội cầu nguyện điều gì cho huynh nè?

- Muội cầu nguyện, để cả ba người chúng ta... được bên nhau, hạnh phúc viên mãn.

Tần Thiên Nhân nghe vậy tức thì xoay đôi vai nữ thần y lại đối diện chàng, rồi nâng cằm nàng lên nhìn vào ánh mắt người yêu. Một lúc chàng chau mày nói:

-Huynh cũng mong những lời cầu nguyện của muội sẽ hiển linh. Nhưng huynh chỉ thích thấy muội cười là đã hạnh phúc rồi. Còn người khác thế nào mặc, huynh chỉ muốn được lòng muội!

Nữ thần y nghe vậy cảm động vô cùng, song vẫn nói:

- Nhưng mà...

Nàng chưa nói hết chàng vội lắc đầu:

- Không được! Huynh không bao giờ chấp nhận!

Nữ thần y nhìn vào ánh mắt của người yêu, nàng đã nhìn thấy được cái buồn man mác ở nơi ấy, với giọng đầy đau khổ nàng tiếp:

- Thiên Nhân, huynh khoan hãy từ chối, nghe muội nói đã, muội nghĩ như vậy sẽ vẹn cả đôi đường mà! Tâm sự tỉ ấy thế nào, hai ta đều biết rõ. Tỉ ấy đã yêu thích huynh từ lâu. Trước đó huynh cũng đã có hôn ước với tỉ ấy rồi, đạo làm con cái, bách thiện hiếu vi tiên huynh không có quyền phủ nhận.

Tần Thiên Nhân nhìn thẳng nữ thần y nói:

- Tây Hồ à, huynh không thích năm thê bảy thiếp, bất luận đàn ông hay đàn bà cũng không có quyền làm cho người khác đau khổ. Vì vậy đến thế hệ chúng ta phải dẹp bỏ cái tập tục không hay đó đi.

Đoạn chàng lắc đầu nói thêm:

- Vả lại cái chuyện hứa hôn đó là trong lúc quá bối rối. Khi đó cha huynh đang trong tình trạng thập tử nhất sinh. Vì vậy huynh ngoài chuyện hứa ra chẳng biết phải làm sao nữa. Nhưng rồi sau một thời gian suy nghĩ. Huynh thấy rằng chuyện tiếp nhận hôn sự này là một hành vi bội bạc, tự dối lòng mình, làm một người giả tạo mà huynh đây chỉ muốn sống thật với cảm giác của mình. Huynh không có tình cảm với Tố Đình, không muốn cưới thêm cô ta về để rồi lạnh nhạt với cô ấy, vì nếu huynh như vậy, sẽ chẳng làm cô ấy đau khổ hơn sao? Huynh cũng không muốn bị kết tội là người dụng tình không chuyên. Huynh phải nói thế nào nữa đây, để cho muội hiểu được trong trái tim huynh chỉ có một mình muội, chẳng làm sao dung nạp thêm người khác!

Nữ thần y đứng cúi đầu ngẫm nghĩ.

Tần Thiên Nhân nhìn nàng, lấy miếng giấy nhỏ trong tay áo ra:

- Thôi đi, chúng ta không nhắc đến chuyện đó nữa, nói chuyện của chúng mình hay hơn. Huynh đã chọn được ngày lành rồi, chỉ mong rằng ngày đó mau tới, muội sẽ danh chánh ngôn thuận là người của huynh, để chúng ta đêm ngày có nhau, để khỏi phải khổ vì nhớ thương!

Sau khi khẳng định tình cảm của mình xong Tần Thiên Nhân thấy nữ thần y vẫn im lặng, bèn cầm lấy tay nàng, dúi tờ giấy có ghi ngày thành thân vào tay nàng:

-Tây Hồ à, đến bây giờ muội còn chưa hiểu lòng huynh sao? Từ nhỏ tới lớn huynh chỉ biết đến mình muội thôi!

Nữ thần y nhìn tờ giấy rồi ngẩn lên nhìn chàng. Ánh mắt thành thật của chàng khiến nàng muốn rơi nước mắt, không biết nói xin gì thêm cho Lâm Tố Đình.

Tần Thiên Nhân thấy nàng tiếp tục giữ lặng im, ngỡ nàng vẫn còn chưa hiểu lòng chàng, ôm chặt lấy nàng kéo áp vào ngực chàng. Để nàng thấy tiếng tim chàng đập âm vang trong lồng ngực. Nữ thần y cảm nhận được một tấm ngực đàn ông rắn chắc và ấm áp.

Về phần Tần Thiên Nhân mỗi lần ôm nàng, nhìn nàng thở khe khẽ trong vòng tay chàng, là một nỗi xúc động thật tình chưa từng có trong đời.

Người trong giang hồ hay nói Thần Quyền Nam Hiệp không có nhược điểm, nhưng nếu nói chàng cũng có nhược điểm thì nhược điểm của chàng chính là anh hùng phải lụy mỹ nhân.

-Sáng mai huynh phải đi “áp tiêu,” - Tần Thiên Nhân lại nói, giọng buồn buồn - Đêm nay muội nói những lời này, không lo huynh buồn, không sợ huynh sẽ phân tâm?

Nữ thần y nghe vậy giật mình.

-Được rồi! Muội không nói nữa, ngày mai huynh phải hết sức cẩn thận đó.

Tần Thiên Nhân vuốt ve mái tóc nữ thần y, gật đầu.

Nữ thần y nói rồi tự nhiên cảm giác bất an trong lòng. Tuy biết rằng chàng đã từng theo sư thái hành hiệp không biết bao nhiêu lần, chận đường đánh cướp lương khô của triều đình không biết bao nhiêu vụ, rồi lại mang đi phân phát cho dân chúng ở tận vùng Tây Bắc, hồi cương. Mà lần này cảm giác có gì đó bất ổn, nhưng lá thư Tàu Chánh Khê nói có biết bao nạn nhân đang sắp làm ma đói mà triều đình lại không mở kho cứu tế giúp họ, không thể để họ chịu khổ được.

-Muội vẫn cảm thấy lo, huynh phải xa muội một tháng trời... đến ba mươi ngày chứ đâu có ít?

Tần Thiên Nhân an ủi:

- Một tháng chưa phải là dài. Cũng có thể huynh sẽ trở lại sớm hơn.

Nữ thần y nói:

- Trước đây đối với muội một tháng cũng không phải thời gian quá dài. Thậm chí cả một năm cũng thế. Nhưng bây giờ.... bây giờ thì khác hẳn....

Bất chợt nàng ôm chặt cánh tay chàng, gối đầu lên vai chàng thổn thức nói:

- Bởi vì muội lúc nào cũng nhớ huynh. Lúc nào cũng lo cho huynh. Nếu không có huynh ở bên cạnh chỉ sợ một ngày muội cũng không chịu nổi.

Tần Thiên Nhân dịu dàng nói:

- Muội sẽ chịu được! Chỉ cần nghĩ đến sau này đánh đuổi được bọn người Mãn ra khỏi mảnh đất này, chúng ta có chuỗi thời gian ở bên nhau, ba mươi ngày đó sẽ nhanh chóng qua đi.

Rồi chàng đưa tay áo lau nước mắt cho nàng. Nữ thần y ngập ngừng một lúc rồi gượng cười gật đầu.

Tần Thiên Nhân cũng cười:

- Muội chớ nên lo lắng. Chỉ cần nghĩ đến muội, dù nguy hiểm thế nào huynh cũng ứng phó được.

Nữ thần y ấp úng:

- Huynh nhất định sẽ trở về chứ?

- Đương nhiên, bất luận thế nào, huynh nhất định sẽ trở về.

Tần Thiên Nhân hôn lên tóc nàng, nói thêm:

- Dù có bị chặt đứt cả hai chân huynh vẫn bò về đây với muội.

Nữ thần y nhìn bóng chàng đổ dài trên mặt đất, toàn thân bỗng run rẩy, nước mắt trào ra giàn giụa. Lòng nàng trở nên bấn loạn, như thể dự cảm nỗi bất hạnh nào đó đang đến gần. Câu bông đùa cuối cùng của chàng đã khiến nàng vô cùng lo lắng. Nàng tưởng tượng cảnh chàng bị thất bại trong một trận đánh sắp tới, hai chân bị chém cụt đang bò một cách tuyệt vọng.

Nàng muốn bấp chấp tất cả để giữ chàng bên mình, nhưng không thể làm được, vì hiểu rằng việc của nam nhân, chí trai là ở muôn ngàn phương, nữ nhân tốt nhất đừng can dự vào. Bởi thế nàng không dám đòi lưu giữ chàng lại, mặc dù dự cảm công việc chàng sắp làm lần này sẽ lành ít dữ nhiều.

Không biết làm sao, nữ thần y đành lấy ra hình gỗ Cửu Dương khắc tặng nàng hôm trước, tặng lại cho Tần Thiên Nhân.

Tần Thiên Nhân ngắm người gỗ giống nàng như đúc, nói:

-Mộc mỹ nhân này, huynh sẽ luôn mang theo bên mình.

-Chúng ta sẽ mãi mãi vui vẻ như vậy, huynh sẽ vĩnh viễn yêu thương muội?

Tần Thiên Nhân siết chặt hình gỗ trong lòng bàn tay chàng, gật đầu. Nữ thần y lại nói:

-Có được tình yêu của huynh muội cảm giác thật hạnh phúc.

Dứt lời hai giọt nước mắt lại chảy xuống má nàng. Lúc bé, nàng tưởng cười là vui, bây giờ, lại nghĩ có những giọt nước mắt còn vui hơn cả một trận cười.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 33: Nam hiệp Bắc quan (1)

Lúc mặt trời vừa lên khỏi ngọn tre chưa tới nửa cây sào, Tần Thiên Nhân và những người đi áp tải chuyến tiêu đã xuất phát.

Chuyến đi này ngoài thiếu đà thủ còn có Khẩu Tâm, Trương Quốc Khải, Bạch Kiếm Phi, Nhất Đình Phong và Vạn Văn Thông. Riêng Hồ Quản Đông và Lạc Thiết Môn thì đã tới đồn Bạch Nhật tìm Trần Tử Sang. Do Cửu Nạn sư thái đã lâu không có tin tức gì, đồn Bạch Nhật là tổng đà của hội ở hồi cương hiện như rắn mất đầu. Họ Hồ và họ Lạc bèn tới đó giúp Trần Tử Sang một tay.

Tần Thiên Nhân lãnh đạo một nhóm quần hùng gồm có Bạch Kiếm Phi, Vạn Văn Thông và số anh em giỏi võ công nhất trong hội, áp tải gạo tới Hà Nam, giao một phần cho tiêu cục Hưng Chấn.

Còn Trương Quốc Khải cùng với Khẩu Tâm, Nhất Đình Phong và một phần đông các anh em khác của hội thì mang gạo tới ranh giới hai vùng Phúc Kiến Quảng Đông giao cho Trùng Khê thiếu lâm.

Tần Thiên Nhân hẹn Trương Quốc Khải sau khi giao lương thực xong sẽ gặp ở đoạn đường cuối cùng là huyện Khánh Dương, rồi cùng mang số thảo lương còn lại đến cho Tàu Chánh Khê ở Kim Xuyên tỉnh Cam Túc. Mục đích là cùng tới đó giúp Tàu Chánh Khê đắp đê khoanh vùng.

Đoàn áp tiêu của Trương Quốc Khải lộ trình suông sẻ. Tới gần huyện Bình Lương, chừng bốn năm dặm nữa là tới được Khánh Dương thì xa xa thấy sương mù dầy đặc bốc lên tới lưng chừng trời.

Trương Quốc Khải và Khẩu Tâm cỡi ngựa đi đầu. Trương Quốc Khải bèn thắng ngựa lại hô:

-Ngừng!

Quay sang Khẩu Tâm, nói:

-Đại ca, huynh xem đằng trước, cuồng phong sắp đến rồi.

Khẩu Tâm nhìn kỹ một lúc rồi nói:

- Đó không phải là mây đen, mà là cát bụi dưới đất.

Trương Quốc Khải hỏi:

- Sao lại nhiều cát bụi đến thế?

Khẩu Tâm nói:

- Huynh cũng không biết.

Khẩu Tâm bảo mọi người tấp vào đằng sau một vách núi, nói:

-Mọi người đề cao cảnh giác!

Nhất Đình Phong cưỡi ngựa đi sau cùng, thấy người mình đột nhiên dừng cả lại vội thúc ngựa chạy lên phía trước, hiểu chuyện xong lập tức nhờ vài người đi tới trước coi thử:

-Tịnh Đạo ca, Tam Triệu ca, Di Tính ca! Nhờ ba vị tiến lên đằng trước, còn tất cả khoan hãy ra tay, xem rõ rồi tính tiếp.

Thường Tịnh Đạo, Thường Tam Triệu, Thường Di Tính ba người này là ba anh em, khi đi lại trong giang hồ lấy biệt danh là Thường tam hiệp. Họ người Vân Nam, võ công rất khá, Tịnh Đạo là đại huynh, Tam Triệu là nhị huynh, Di Tính là tiểu đệ. Ba người đồng thanh vâng dạ. Thường Tịnh Đạo nói:

-Đi, chúng ta đến đó xem.

Ba người sợ những kẻ phía trước nghe được tiếng vó ngựa của họ bèn xuống ngựa thi triển khinh công phóng nhanh về phía đó, khi tới gần cát bụi càng mù mịt hơn, thấy một dãy người ngựa đứng thành đường thẳng ở vùng bình nguyên hoang dã phía trước. Lại nghe thấy tiếng trống chiêng văng vẳng truyền tới. Thường Tam Triệu giật mình nói:

- Chết rồi! Đó là quân binh!

Thường Di Tính trong chốc lát cũng nghe thấy tiếng truyền hiệu lệnh, trống chiêng vang như sấm sét. Thường Tịnh Đạo nói:

- Chúng ta mau mau tránh khỏi đây đi.

Trương Quốc Khải, Khẩu Tâm và Nhất Đình Phong chờ ba người họ Thường đi thám thính, lát sau trở về, Thường Tịnh Đạo nói:

-Bẩm đại gia, tam gia, Nhất thiếu hiệp, đằng trước là tụi quan binh.

Khẩu Tâm bèn bảo tất cả quay đầu, cho ngựa chạy khỏi địa phận Bình Lương, nhưng chẳng bao lâu phía trước cũng có một đám bụi bay lên.

Lần này Khẩu Tâm và Trương Quốc Khải đích thân đi coi, hai người nấp sau một thân cây ghé đầu ra nhìn, lại thấy loáng thoáng bóng ngựa và người chắn đầu họ phía trước, bóng người phía trước càng lúc càng lớn. Ngoài đội kỵ mã này còn nghe có tiếng thiết giáp khua lẻng kẻng. Trong đám bụi xuất hiện một lá cờ trắng, viết một chữ Chính rất lớn. Chữ này tượng trưng cho đoàn binh Chính Bạch Kỳ.

Trương Quốc Khải ở rừng Sơn Tây đã từng giao đấu với đội quân thiết giáp của chủ soái đoàn binh Chính Bạch Kỳ này rồi, nếm mùi lợi hại rồi, nên hiểu rõ hiện thời quân mình không thể nào địch nổi, bèn cùng Khẩu Tâm nhanh chóng rời khỏi chỗ nấp.

Biết kế hoạch của mình đã bị bại lộ, bị dí hai đầu tây đông, hai người đương gia về tới nơi hội tụ với đoàn người của họ. Khẩu Tâm lập tức đưa tay ra hiệu bảo tất cả giục ngựa chạy nhanh vào một rừng thông nằm phía nam. May mà cả người và ngựa đều chạy rất nhanh lên chỉ mấy chốc lát đã cách xa hai đội quân này.

---oo0oo---

Nói tới đoàn người của Tần Thiên Nhân khi này đã tới Khánh Dương rồi, đã chờ khoảng nửa canh giờ, chờ thêm nửa canh giờ nữa vẫn không thấy đoàn áp tiêu của Trương Quốc Khải. Bạch Kiếm Phi bắt đầu sốt ruột nói với Vạn Văn Thông:

-Vạn huynh à, hay là mình bàn với thiếu đà chủ, cứ tới thẳng Kim Xuyên gặp Tàu ngũ gia, có khi đại gia và tam gia đã tới đó trước rồi cũng nên?

Vạn Văn Thông lắc đầu:

-Ầy, chúng ta cứ làm theo lệnh của thiếu đà chủ.

Chờ thêm hồi nữa, Bạch Kiếm Phi lại đứng ngồi không yên, nói:

-Lộ trình của mình bí mật vậy, không lí nào xảy ra biến cố?

-Không đâu, chắc do lũ lụt nên đường xá tắt nghẽn gây trở ngại thôi, ta cứ việc chờ.

---oo0oo---

Lại nói tiếp đoàn người của Trương Quốc Khải.

Trương Quốc Khải, Nhất Đình Phong và Khẩu Tâm lòng đầy lo lắng, biết đường tới Khánh Dương đã bị bịt rồi, không biết đoàn người của Tần Thiên Nhân ra sao? Còn đang suy tính đường rút thì đột nhiên rừng đang vắng lặng như tờ vang lên những tiếng huýt sáo dài. Khẩu Tâm lập tức hạ lệnh cho anh em của hội đứng đâu lưng vào nhau, cứ bốn người gộp thành một đội, cẩn thận hết sức đề cao cảnh giác, chuẩn bị tinh thần để đánh.

Bây giờ mặt trời đã lên tới đỉnh núi, cả một vùng rừng núi sáng chóe dưới ánh nắng. Từ ba phía đông tây bắc nghe tiếng chân rần rần và binh khí khua vào nhau lẻng kẻng, nhưng vẫn chưa thấy binh lính triều đình lộ diện, rừng lại đầy những cây bách tùng và vân sam, rất khó nhận biết địch đang phục kích ở đâu.

Trương Quốc Khải định giục ngựa bảo anh em rút ra phía nam của khu rừng thì bỗng nhiên thấy ở phía nam rất nhiều người hiện ra. Đối phương xếp thành hình chữ nhất, từ từ tiến đến gần.

Những người trong hội còn đang thất sắc thì sau lưng họ quân hiệu cũng vang lên. Từng dãy bộ binh hàng ngũ chỉnh tề đang bước tới. Rồi phía trái phải cũng có tiếng chiêng trống rộn ràng. Mặt đất rung lên dưới rất nhiều vó ngựa gõ đều. Kỵ binh tràn ngập cả một vùng hoang dã.

Một nam nhân mặt mày xương xẩu lạnh lẽo như u hồn ngồi trên ngựa rẽ đám đông bước ra, tay cầm thanh trảm mã đao. Trương Quốc Khải nhận biết tên này, bèn rút thanh kiếm đang đeo vòng quanh thắt lưng ra, dùng Phục y kiếm chỉ mặt tên kia quát nói:

-Thì ra lại là mi, con chó bán nước cầu vinh!

Tô Khất thấy Trương Quốc Khải cũng nhớ trận lại đánh vừa rồi ở Sơn Tây. Tô Khất âm thầm sợ hãi, tự khen mình cẩn thận, nếu không thì bây giờ đã bị Cửu Dương biến cho thành con heo quay chết thiêu ở trong rừng rồi.

Tô Khất cố gắng định thần rồi hét lên:

-Bọn ngươi ở Thanh Quan sát hại nhiều binh lính triều đình ta, cướp đi cống phẩm, phạm tội ác không thể dung thứ, bây giờ tự đến đây nộp mạng là hay lắm. Các ngươi là gì trong Đại Minh Triều?

Trương Quốc Khải không đáp, lướt mắt nhìn khắp ba quân rồi nói:

-Hỏi để làm gì? Con chó săn mi hôm nay mang đủ binh lính tới đây rồi, chẳng hay cả thảy cùng lên, hay là người nào lên trước?

Tô Khất nãy giờ không ngừng bị chửi là cẩu nô tài, đầu đã sớm nóng phừng rồi, giờ nghe địch nói thách vậy vung đao quất luôn tới, ra hiệu cho binh lính đánh thẳng tới đoàn người Trương Quốc Khải.

Hai bên bắt đầu hỗn chiến.

Khi Tô Khất bay xuống ngựa để đánh giáp lá cà thì có hai thành viên của Đại Minh Triều mặc áo trắng và đen cầm kiếm chạy tới cản lại. Tô Khất bị vây hai bên tả hữu mà không nao núng chút nào, liền khua đao tung ra hai chiêu liên tiếp là Cương Đao Phạt Mộc và Ngũ Chỉ Thu Đào chém sang hai bên, hai chiêu này thế đi gọn và mạnh như chẻ tre.

Hai người Đại Minh Triều chỉ mới vừa chạy tới vây Tô Khất vào giữa, còn chưa kịp xuất thủ thì bỗng thấy hàn quang chói mắt từ thanh đao của Tô Khất chiếu ra. Người mặc áo trắng khẽ nghiêng đầu để tránh tia sáng liền bị mũi đao đâm phập vào huyệt á môn, nhát đao trí mạng đâm xuyên từ phía trước ra sau ót của y, mũi đao nằm xuyên ở lõm giữa gai đốt sống cổ thứ nhất và đốt sống cổ thứ hai, làm cho người áo trắng thân hình bủn rủn, ngã quỵ xuống đất.

Nói thì chậm chứ chiêu thức khi đó của Tô Khất xuất ra rất nhanh, trong chớp mắt người áo trắng đã đầu lìa khỏi cổ. Tô Khất sau khi xuất thủ chém sang bên phải vội rút đao về lia sang bên trái. Mọi người lại nghe phựt thêm một tiếng vang lên, cái đầu của người áo đen tức thì cũng như đồng bọn rơi xuống đất lăn đi long lóc mấy vòng, máu tươi cũng từ cổ hai người này bắn tung tóe lên cao một trượng, ướt đẫm một khoảnh đất nơi họ nằm chết và phủ đầy lên chiến bào Tô Khất.

Có ba người Đại Minh Triều đứng gần đó thấy đồng bọn mình bị hai thế đao lợi hại giết chết một cách thê thảm, không khỏi kinh hãi trong lòng, chân vội bước lui lại mấy bước.

Lại nữa họ nhìn thân mình Tô Khất đầy máu me, từng giọt nhỏ xuống từ trên mặt trên áo hòa với tiếng giết chóc tứ bề, gương mặt Tô Khất khi này giống như một tu la quỷ dữ đang hiện thân giữa ban ngày ban mặt, làm cho ba người Đại Minh Triều không khỏi kinh sợ, nhất thời chưa ai dám xông lên tấn công.

Tô Khất thấy vậy nhếch môi cười nhạt, lại tiếp tục xuất thủ. Lần này cánh tay cầm đao vừa nãy thu về một lần nữa lại đâm ra, thân mình của Tô Khất cũng theo đà chân mà xoay một vòng, tay cầm đao gạt qua mặt ba người Đại Minh Triều, tức thì ba cái đầu rớt lộp bộp xuống đất. Chỉ với một chiêu, Tô Khất đã giết chết ba mạng người dễ như trở bàn tay.

-Cẩu tặc! Coi ta thu thập mi! – Có tiếng Thường Tịnh Đạo hét to.

Thường Tịnh Đạo thấy năm người phe mình chết thảm, vội đạp gió xông lên giao thủ với Tô Khất. Thường Tịnh đại hiệp là lôi thủ có tiếng vùng Vân Nam. Tô Khất nhận thấy Thường Tịnh Đạo ra đòn tay ác liệt, nên không ngừng khuấy đao liên hồi, ra sức chống đỡ. Hai bên giao đấu trong chớp mắt đã trao đổi mấy chục chiêu.

Trong một lần Thường Tịnh Đạo thừa lúc Tô Khất hạ đao xuống bèn nhảy chân phải tới trước một bước để lấy thế, ngay liền đó hai tay họ Thường cũng thu vào ngực rồi tung chưởng pháp Song Long Thần Chưởng nhằm vào ngay ngực của Tô Khất phát ra.

Thường Tịnh Đạo dồn hết thảy mười hai thành công lực vào chưởng pháp, những tưởng có thể đả thương được kẻ địch rồi, ngờ đâu không chút e dè Tô Khất giơ tay phải lên, cổ tay họ Tô có đeo một miếng bao cổ tay bằng sắt, vung lên đở lấy chưởng pháp của họ Thường. Boong một tiếng. Thường Tịnh Đạo bị đánh bật trở về, từ thế công biến thành thế thủ, Thường Tịnh Đạo lui chân lại ba bốn bước, mắt gườm gườm nhìn Tô Khất.

Nếu Thường Tịnh Đạo không là lôi thủ, sở hửu đôi tay cứng như thép thì khi chạm vào hộ oản của Tô Khất đã rêm xương rồi.

Thường Tịnh Đạo còn chưa biết phải làm cách gì để phá giải đao pháp của Tô Khất, lại thấy thêm hộ oản cứng như một tấm chiên, trong lòng lo lắng hoang mang vô cùng.

Đúng lúc này Tô Khất lại phóng tới dùng đao chém ngang qua yết hầu Thường Tịnh Đạo, chiêu thức này gọi là Cương Đao Trảm Xà.

Thường Tịnh Đạo là một tiêu sư, từng trải qua không biết bao nhiêu trận đánh với bọn lục lâm thảo khấu từ nam chí bắc, vốn rất thâm niên chiến trường, tức thì nghiêng người ra sau thành công tránh nhát đao trí mạng đó. Bất quá Thường Tịnh Đạo chỉ có thể thủ, còn công thì đương nhiên không nhập nội được nữa rồi. Hai người đánh thêm vài chiêu nữa, Tô Khất biết người này hay ngã người ra sau tránh khỏi các chiêu thức của mình, thì bỗng nảy ra một ý. Tô Khất tung ra chiêu Cương Đao Trảm Xà thêm một lần, lại như lúc nãy, Thường Tịnh Đạo lại tránh được, ngờ đâu đó chỉ là cú chém dứ lắt léo. Nhân lúc Thường Tịnh Đạo nghiêng mình ra phía sau tránh đường đao, Tô Khất cuốn tay phải vô ngực rồi một quyền đánh tréo xuống hạ bộ Thường Tịnh Đạo. Tô Khất khi sử chiêu này cũng đã vận hết mười hai thành công lực xuất ra.

Thường Tịnh Đạo không tránh được hiểm chiêu, lãnh trọn Lôi Công Hạ Chưởng vào bụng, kêu hự lên một tiếng, máu từ miệng họ Thường búng ra ngoài một ngụm lớn, thân hình to cao của y đồng thời cũng chúi nhũi về phía trước, như một cây cỏ lau thình lình bị một làng gió mạnh thổi tạt qua vậy.

Thường Tịnh Đạo đầu chúi xuống đất, bụng thầm than khổ, còn chưa biết phải làm gì để chuyển bại thành thắng thì lại thấy một vật đang hướng thẳng vào mặt y lao tới. Thì ra Tô Khất đã co chân lại, dùng mũi bàn chân trái đá thẳng vào mặt họ Thường.

Gió lồng vô ống quần Tô Khất rít lên nghe lồng lộng, tưởng đụng nhầm có thể vỡ tảng đá làm đôi, huống chi là cái đầu của Thường Tịnh Đạo. Nhưng họ Tô chưa kịp xuất Kim Tiêu Cước để đoạt mạng Thường Tịnh Đạo thì Khẩu Tâm ở đâu bỗng phi thân tới. Binh một tiếng vang lên. Khẩu Tâm vừa tới đã xoay lưng đá nghịch mũi bàn chân trái của Tô Khất, chiêu Hổ Vĩ Cước này của Khẩu Tâm đã thành công hóa giải cước pháp Kim Tiêu Cước. Thường Tịnh Đạo vì nhờ có Khẩu Tâm ra mặt mới có thể thoát được cửa tử thần trong đường tơ kẽ tóc, họ Thường hoàn hồn, thở ra một hơi, rồi nhảy lùi ra đứng phía sau lưng Khẩu Tâm.

Về phần Trương Quốc Khải thì cũng muốn tiến đánh Tô Khất để trả thù cho Tứ gia và Lục gia tử trận ở Sơn Tây nhưng lại bị cầm chân buộc phải giao đấu với mười tên lính Thanh, một lúc sau lại có hai tên thị vệ thân tính của Tô Khất đến trợ chiến, rồi thêm hai mươi mấy tên lính khác tứ phía đều ùa tới bao vây Trương Quốc Khải vào giữa.

Lát hồi Trương Quốc Khải thành công đánh bạt đám lính đang bao vây chàng ra ngoài, chạy gần tới chỗ Tô Khất, định hợp sức cùng Khẩu Tâm để tiêu diệt tên bán nước cầu vinh thì bên cạnh lại có bảy tám tên lính nữa chạy đến múa trường đao cản trở. Cứ như thế, binh lính triều đình không cho Trương Quốc Khải tới gần Tô phó tướng của họ. Trương Quốc Khải bèn thi triển kiếm pháp tiếp tục giao đấu.

Lại nói tới Tô Khất khi này cầm đao lăm lăm trong tay, cặp mắt nhìn Khẩu Tâm không chớp lấy một cái. Vẻ như Tô Khất nhận thấy tên hòa thượng này tướng tá to lớn, dũng khí mạnh bạo thì có vẻ bớt khinh địch đi, trên mặt Tô Khất vơi đi vẻ ngang tàng như khi đấu với Thường Tịnh Đạo.

Khẩu Tâm cũng đứng yên như đang âm thầm dò xét thần sắt của đối phương. Khi này đương là chính Ngọ, ánh mặt trời chiếu lên chiếc áo cà sa màu vàng nghệ của Khẩu Tâm, làm cho toàn thân Khẩu Tâm như có dát vàng.

-A di đà phật! – Khẩu Tâm chắp hai tay nói – Thí chủ là cao nhân chốn nào, xin cho biết quý danh?

Hỏi rồi nghe đáp gọn lỏn:

-Tô Khất.

-Thì ra là phó tướng Mai Lặc Chương Kinh! Nghe danh thí chủ đã lâu, hôm nay có dịp gặp gỡ thật là hữu duyên thiên lý.

Khẩu Tâm mỉm cười từ tốn nói một câu, đã từ lâu rồi chàng nghe Tô Khất là một trong số ít các trung thần của Khang Hi tiểu hoàng đế. Người gọi là Tô phó tướng này mới ban đầu xuất thân là một võ trạng nguyên, sau được thái hoàng thái hậu Hiếu Trang hết lòng tin cậy chiêu hầu phong tướng ban cho chức võ quan tam phẩm. Ở trong triều nghe nói Ngao Bái có ý lôi kéo Tô Khất ngã theo phe Tam mệnh đại thần, nhưng trong vòng chưa đầy hai tháng nhập triều Tô Khất đã đầu quân dưới trướng một người gọi là Phủ Viễn tướng quân.

Khẩu Tâm dứt lời khẽ chau mày nhìn Tô Khất, lúc nãy đánh với quân Thanh ở đằng kia chàng đã sớm ngó thấy Tô Khất sử dụng đao thuật rất là linh diệu, các chiêu thức khi đánh với Thường Tịnh Đạo biến hóa vô lường. Khẩu Tâm nhận thấy Tô Khất tuy tuổi còn rất trẻ mà tay chân rất là hoạt bát nhanh nhẹn, còn đao pháp thì trùng trùng kỳ diệu bao la, riêng nội công thì cao siêu thuộc về hàng cao nhân tiền bối rồi.

Về phần Tô Khất thì lúc này cũng đang cau mày quan sát xâu chuỗi tràng hạt mà Khẩu Tâm cầm trong bàn tay trái, Tô Khất đương nhiên biết đó không phải một xâu chuỗi bình thường mà chính là một thứ vũ khí.

Khẩu Tâm chào hỏi xong vẫn còn từ tốn nói thêm:

-A di đà Phật, bần tăng là đại đương gia của Đại Minh Triều, hôm nay mạo phạm, muốn múa rìu qua mắt thánh. Xin thí chủ cho phép bần tăng thỉnh thủ vài đường quyền?

Khẩu Tâm chỉ từ tốn được tới đây, vừa dứt lời không để Tô Khất kịp mở miệng nói tiếng nào, Khẩu Tâm ngay lập tức quàng bàn tay cầm xâu chuỗi ra sau lưng, tay kia tung thủ pháp. Bộ Thủ Chỉ là bộ quyền thuật của Thiếu Lâm chuyên sử dụng các đầu ngón tay và mũi bàn tay để mà ra đòn. Khẩu Tâm xuất Tứ Chỉ Dương Hầu, đòn pháp thứ tư trong Bộ Thủ Chỉ dùng bàn tay bốn ngón lật ngửa ra đâm vào yết hầu của Tô Khất.

Hầu hết trong và ngoài võ lâm ai cũng đều nghe nói đến đại đương gia của Đại Minh Triều, uy danh rất lớn. Cho nên khi Tô Khất nghe địch nhân xưng hô như thế hẳn nhiên là biết sự lợi hại của người này. Tô Khất liền bước chân thoái lui nhường ngón đòn của Khẩu Tâm phớt qua cổ, không dám đánh trả lại.

Vèo, đòn thế đi rất nhanh. Tô Khất tránh được, còn chưa kịp thán phục thủ pháp đó thì đã phải tiếp tục quay mặt né thêm một cú nữa. Chiêu đòn tay này cũng là một chiêu thức trong Bộ Thủ Chỉ gọi là Song Chỉ Thu Châu, đòn này được Khẩu Tâm xuất ra cũng nhanh không kém chiêu thứ nhất.

Tô Khất né được hai chiêu đòn tay, tự nhủ mình tay chân nhanh nhẹn phải biết, bằng không đã bị Khẩu Tâm cong hai ngón tay dùng hai ngón còn lại đâm vào mắt cho đui rồi.

Khẩu Tâm sau khi xuất hai chiêu đương nhiên không dừng ở đó, tiếp tục xuất chiêu thứ ba là Tam Chỉ Thần Ưng, ba ngón cái, trỏ và giữa của Khẩu Tâm đâm thẳng ra. Tô Khất tưởng Khẩu Tâm lại lấy ba ngón tay đâm vào mặt mình như khi nãy bèn giơ đao lên gạt, vì chỉ lo che chắn phần trên của thân thể nên bên dưới Tô Khất để lộ ra một sơ hở rất lớn. Tô Khất vừa kịp ngộ ra sơ hở chết người của mình, song chưa kịp dùng hộ oản chắn lại thì Khẩu Tâm đã chĩa tay thẳng xuống đất lấy thế để chống cho cú đá xuất ra.

Bốp! Tô Khất trúng độc chiêu này, lãnh trọn một cước vào bụng phát lên tiếng kêu rõ to. Họ Tô chưa kịp rên la lại nhận thêm Độc Chỉ Cương Dương, Tô Khất bị ngón cái của bàn tay có cầm xâu chuỗi của Khẩu Tâm đâm mạnh vào be sườn. Khi Khẩu Tâm thu hồi thủ pháp lại thì Tô Khất kêu hự thêm một tiếng động trời nữa rồi thoái lui.

Hai mắt Tô Khất hằng vệt máu, môi mím chặt, vẻ như đang phẫn nộ vì nãy giờ bị tập kích liên tu bất tận mà không kịp đánh trả chiêu nào. Tô Khất vung tay ra Bộ Cương Đao, áp sát vào Khẩu Tâm đánh tới tấp. Ngặt nỗi Tô Khất xuất trăm chiêu, Khẩu Tâm đỡ được hết trăm chiêu. Tới chiêu Cương Đao Khai Trị thì Tô Khất dùng đao từ trong chém vuốt ra ngoài, tia sáng rực từ lưỡi đao phát ra.

Nhân lúc Khẩu Tâm nheo mắt lại tránh tia sáng, Tô Khất tức thì phối hợp với chiêu Cương Đao Sát Thích dùng mũi đao nhắm vào lòng ngực của Khẩu Tâm đâm thẳng một đường.

Khẩu Tâm ở trong Đại Minh Triều giữ chức vị đương gia, thì đương nhiên lâm trận không biết bao nhiêu lần mới lên được tới chức đó, cho nên tiếp chiến rất là ung dung bình tĩnh. Khẩu Tâm nghe tiếng gió thì biết mũi đao đang lao thẳng tới ngực mình bèn vung tay vuốt xâu chuỗi tràng hạt làm cho mấy hạt san hô tức thì rời khỏi sợi chỉ đỏ vù vù bay đi, hướng thẳng vào mũi đao.

Tuy mấy hạt san hô này chỉ được làm bằng đá vôi nhưng với công lực của Khẩu Tâm đem so với Tô Khất vốn cao hơn gấp mấy lần, cho nên lúc mũi đao và mấy hạt san hô chạm nhau đã tạo ra một âm thanh vang rền như tiếng sấm nổ. Ầm! Hạt san hô có tác dụng làm hãm đà mũi đao, Khẩu Tâm nhờ đó mới có thể đảo mình sang một bên mà tránh. Tô Khất thấy mình công kích không trúng mục tiêu được, đành thu đao về.

Chiêu thức Cương Đao Sát Thích là tuyệt kỹ đã làm nên danh tiếng cho Tô Khất, chiêu đó vừa thần tốc vừa chính xác vậy mà chỉ trong chớp nhoáng Khẩu Tâm đã lấy lại thế thượng phong.

Tô Khất ngay sau khi thu đao về lại nhanh như chớp đổi sang chiêu thức khác tiếp tục tấn công Khẩu Tâm, lần này, Tô Khất phóng mình lên cao một trượng rồi hai tay cầm chặt cán đao chém một nhát xuống đầu Khẩu Tâm.

Khẩu Tâm cũng phản ứng nhanh nhẹn không kém, tay trái vội buông xâu chuỗi tràng hạt cho rơi xuống đất, đồng thời bàn tay phải cũng cho vào áo cà sa lấy vũ khí Thiết Đầu Lôi vung ra, bằng động tác nhuần nhuyễn, Khẩu Tâm quất một đường từ dưới lên trên đỡ lấy nhát đao.

Keng! Thanh đao lại bị đánh bật ra, Tô Khất loạng choạng đáp xuống đất.

Trước nay Tô Khất khá tự phụ, nhưng sử xong hai chiêu tuyệt kỹ này thì lùi lại bốn bước, ngẩn ra nhìn đối phương. Trên mặt Tô Khất vẻ như hai phần xấu hổ, hai phần giận dữ, và còn tới sáu phần sợ hãi. Quả thật võ công của Khẩu Tâm rất là lợi hại, các chiêu thức đánh ra không phải tầm thường, mỗi lần xuất thủ là khiến cho địch mất hết cả nhuệ khí.

Khẩu Tâm cũng không cho Tô Khất điều khí định thần, đang ở thế công nên vội cầm dây xích xoay người một vòng, thân hình di chuyển tay cũng xoáy theo, sợi dây quay mòng mòng mấy vòng trên cao rồi bay xoẹt ra. Tô Khất thấy cái “lồng chim” phóng tới thì đảo người sang một bên mà tránh.

Trong một lần Tô Khất không nhảy tránh được nữa, đành dùng đao chém vớt từ dưới hớt lên, xéo bốn mươi lăm độ, xuất chiêu Cương Đao Lia Cành đỡ chiêu thức của Khẩu Tâm.

Keng! Ngờ đâu lần này, khi thanh đao của Tô Khất chạm vào cái “lồng chim” không bị bật trở ra ngoài nữa, mà lưỡi đao lại bị sợi dây xích cuốn luôn lấy.

Tô Khất nghiến răng nghiến lợi cố rút đao về, nhưng lưỡi dao bị sợi xích quấn chặt, không rút về được. Khẩu Tâm sau khi dùng sợi xích quấn lấy binh khí của địch thì một tay cầm sợi dây, một tay tung một chưởng đánh ra. Tô Khất cũng vội dùng tay không cầm đao tả chưởng đánh trả lại, bùm một tiếng vang lên, do nội lực của Khẩu Tâm cao hơn nên Tô Khất bị đánh té bật ngửa ra đất, miệng thổ một ngụm máu tươi.

Khẩu Tâm vì vậy mà đoạt được thanh đao.

Tô Khất bị mất đi binh khí, mặt mày còn đang thất sắc thì vù một tiếng, Thiết đầu lôi lại được Khẩu Tâm vung ra. Tô Khất lăn một vòng tránh cái “lồng chim” rồi bật đứng dậy, song còn chưa đứng thẳng người được đã phải thét lên một tiếng động trời.

Hóa ra y bị chính thanh đao của mình cắm phập vào đùi. Do Khẩu Tâm vừa ném Thiết đầu lôi vừa phóng cây đao cùng một lúc nên Tô Khất không sao tránh khỏi, máu chảy ướt đẩm một bên chân y, Tô Khất thất kinh nhủ bụng “may là ta không thoa độc lên lưỡi đao, bằng không tự ta hại chết ta rồi!”


Tô Khất bị thương đau đến muốn té sụp xuống đất một lần nữa, lúc này tâm trí cũng bắt đầu mơ hồ, vội lắc đầu một cái để trấn tĩnh.

Khẩu Tâm lại tiếp tục vung Thiết đầu lôi.

Tô Khất thấy Khẩu Tâm điều khiển Thiết đầu lôi bay loạn xạ không theo một đường hướng nhất định nào. Họ Tô bị ép chỉ còn cách nhỗ cây đao trong chân ra vung gạt hai bên trái phải, hai chân Tô Khất cũng liên tục nhảy tránh. Chiếc “lồng chim” không ngừng tấn công vùng hạ bộ của Tô Khất và cũng chờn vờn trên đỉnh đầu y, vẻ như chỉ cần y hớ hênh một chút là chiếc lồng liền bay đến chụp lấy chỗ sơ hở đó ngay. Trong chiếc lồng lại nhấp nháy mấy thanh sắt trông như những cái răng bén nhọn, khiến cho bất kỳ người nào ngó thấy cũng phải không rét mà run.

Giao chiến thêm một hồi nữa Tô Khất toàn thân đều bị thương, một chân lại bị mất rất nhiều máu, vẻ như chống không nổi nữa, nhưng vẫn loạng choạng mà đứng ngăn không cho té xuống đất, dường như y biết nếu y nằm đất rồi thì coi như cái chỗ y nằm đó sẽ là nấm mồ của y.

Lát sau Khẩu Tâm lừa được một thế, nhưng chiếc “lồng chim” chưa chạm vào đỉnh đầu Tô Khất thì có đột biến.

Chiếc “lồng chim” tự dưng bị đứt, rơi xuống đất đánh bộp một tiếng.

Thường Tịnh Đạo đang giao đấu với quân binh gần đó, thấy cái “lồng chim” lăng tới dưới chân mình, vội tung một quyền đánh bạt một tên lính ra rồi hét lên:

-Ám khí! Coi chừng ám khí!

Tiếng la thất thanh này của Thường Tịnh Đạo càng làm cho đoàn người Đại Minh Triều thêm hoang mang, họ nhủ bụng chỉ với đoàn quân của Tô Khất mà đã đánh đấm muốn trối chết rồi, bây giờ lại nghe có thêm một đội cung thủ nữa thì coi như chết không kịp ngáp!

Khu rừng lúc chưa rối loạn vốn có nhiều cây thông để làm nơi ẩn nấp, huống gì tình hình lộn xộn bấy giờ không thể nào nhận diện được tụ tiễn hay cung tên sẽ được phóng ra từ hướng nào.

Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo không hẹn mà cùng lia mắt ra tứ bề tìm kiếm, nhưng người vừa cắt đứt Thiết đầu lôi chỉ xuất có một chiêu, sau đó không xuất thêm chiêu nào nữa.

Thường Tịnh Đạo trong lòng lo lắng vô cùng, đoạn liếc sang Tô Khất. Thường Tịnh Đạo suy nghĩ rất nhanh, biết rằng địch đông ta ít khó thắng nổi trận này được bèn chọn cách bắt sống Tô Khất làm con tin. Trong lòng nghĩ nếu có Tô Khất trong tay rồi, bọn binh lính triều đình còn dám kịch chiến nữa sao?

Nghĩ là làm, Thường Tịnh Đạo nháy mắt với Khẩu Tâm một cái, đồng thời cũng hất đầu về hướng Tô Khất đang đứng.

Tô Khất bị Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo dí hai đầu trước sau, rõ là không tháo chạy được rồi. Thường Tịnh Đạo tay rút ra một thanh đao ngắn, định dùng thanh đao này để khống chế Tô Khất nhưng chưa kịp ra tay thì có một loạt những vật gì phóng ra như điện chớp sao xẹt. Thường Tịnh Đạo kêu lớn, té ra đã trúng tiêu.

Tô Khất thừa lúc Thường Tịnh Đạo bị thương vội phóng ra khỏi vòng vây.

Trận này quả như bọ ngựa bắt ve chim sẻ đứng sau.

Khẩu Tâm mất đi con tin, phóng tới gần giúp Thường Tịnh Đạo nhổ phi tiêu trên vai ra. Thường Tịnh Đạo đau tới độ đứng thẳng người không nổi, máu tuông không ngừng, may là phi tiêu chỉ ghim vô hai bả vai y, may mắn chỉ xuyên qua thịt, không làm đứt gân cốt.

Họ Thường vừa ôm lấy hai vai vừa nhủ bụng “kẻ này quả nhiên nội lực siêu phàm thật, y thành thục cả hai tay, bằng không thì không thể cùng lúc ném ra một cặp phi tiêu với vận tốc không chút chênh lệch như vậy...”

Thường Tịnh Đạo còn đang cắn răng nhịn đau, thì lúc này có mười ba tên lính thừa lúc y bị thương liền xông tới đánh. Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo liền hợp sức đối phó đám quân binh.

Lát hồi hai người đánh hạ được đám binh lính đó rồi, Thường Tịnh Đạo và Khẩu Tâm đứng đâu lưng vào nhau, mắt nhìn quanh quất. Tô Khất khi này đương nhiên đã lùi về đứng phía sau một toán lính của y, an toàn rồi.

Thường Tịnh Đạo nghĩ tới chuyện mình bị người ta lén lúc ám toán, không quang minh chính đại chút nào, đương nhiên coi thường lắm, tức thì buông lời thóa mạ:

-Cẩu Thanh quả là cẩu Thanh! Người lỗi lạc không bao giờ làm chuyện mờ ám!

Lời này đương nhiên là dành cho kẻ vừa phóng ra cặp tiêu.

Không nghe tiếng đáp lời, Thường Tịnh Đạo lại hét lên:

-Mi có giỏi thì ra đây thách đấu với ta! Nấp nấp ló ló, còn là anh hùng, còn là quân tử sao?

Thường Tịnh Đạo vừa thét vừa quay đầu sang hai bên mà tìm, nhưng tả hữu vẫn không có ai xuất hiện.

Khẩu Tâm nhìn thương thế trên vai Thường Tịnh Đạo, biết đường bay của cặp phi tiêu nhất định phải được xuất ra từ phía Tây, bèn hất đầu về phía Tây.

Thường Tịnh Đạo bèn hướng về Tây mà quát:

-Vậy ra mi không phải là quân tử ư? Vì nếu phải, thì đường đường chính chính ra đây đương đầu với ta, đừng ở trong tối ra tay ám muội!

Phía Tây vẫn lặng, Thường Tịnh Đạo nhổ một bãi nước bọt xuống đất, dùng giọng khinh miệt tiếp tục nói:

-Hèn mạt vô sỉ!

Lần này Thường Tịnh Đạo vừa nói xong, có tiếng hừ lạnh vang lên, rồi tiếng đáp trả:

-Ám khí, đương nhiên phải dùng để ám toán từ xa rồi, để cho ngươi thấy được, còn gọi là ám khí sao?

Giọng người này âm trầm lạnh lẽo, làm cho tiết trời cũng lạnh lẽo theo.

Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo đưa mắt nhìn nơi vừa phát ra giọng nói lạnh lẽo, chỉ thấy một hàng cây vân sam với những tàn cây đan xen vào nhau dày đặc, một màu xanh ngắt không nhìn xuyên qua được. Hai người còn đang cau mày, thì những tàn cây động đậy, rồi một đoàn quân thiết giáp tay cầm trường mâu lù lù gạt lá tiến ra.

Đoàn quân thiết giáp xuất hiện, sau đó đứng tách sang hai bên, nhường đường cho một nam nhân cũng khoác chiến y màu bạch kim cưỡi một con huyết mã từ từ bước ra. Người này trông vô cùng oai vệ, tướng mạo cao ráo lực lưỡng, khuôn mặt nghiêm nghị, ngay cả con ngựa đang cưỡi cũng lẫm liệt vô thường. Thường Tịnh Đạo thầm nhủ phong thái đĩnh đạc của người đó, đem so với thiếu đà chủ hoàn toàn không hề kém cạnh chút nào.

Thường Tịnh Đạo mới ban nãy còn nói khích chứ bây giờ rầu rĩ vô cùng, mắt nhìn thấy phe địch đã đông giờ lại càng thêm đông đúc hơn, vội lia tia nhìn sang Khẩu Tâm, bắt gặp đôi mắt Khẩu Tâm đen tối như hai cái hố sâu, mặt mày cũng thất sắc không ít hơn mình là bao.

Ở đằng kia Trương Quốc Khải, Nhất Đình Phong, Thường Tam Triệu và Thường Di Tính đang giao đấu với binh lính của Tô Khất, bốn người họ ngó thấy đoàn quân thiết giáp này ai nấy cũng như Thường Tịnh Đạo, người nào cũng đều rầu rầu nét mặt. Nhất là Trương Quốc Khải vốn đã từng nếm qua một lần bị vây đánh ở rừng Sơn Tây rồi, đã biết sự lợi hại của bọn quân áo sắt này.

Người mặc áo bạch kim cho ngựa bước ra từ hàng vân sam xong đứng giữa đoàn quân áo giáp, không nói tiếng nào hết, chỉ đưa cặp mắt sáng quắt nhìn xoáy vào Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo. Tia nhìn này làm cho họ Thường cảm giác như có hàng quang chiếu ra, làm cho y vốn dĩ tự cho mình là một kẻ không sợ trợi không ngán đất cũng bất giác toàn thân ớn lạnh.

Quả thực từ khi đi lại trên giang hồ họ Thường chưa bao giờ thấy một con ngựa nào trông dũng mãnh như thế, mà người cưỡi con chiến mã đó khí thế càng ngạo nghễ hơn gấp trăm ngàn lần.

Tô Khất khi này chạy đến dưới chân nam nhân cưỡi con ngựa đỏ, quỳ phịch xuống vòng tay cúi đầu nói:

-Tham kiến Phủ Viễn tướng quân! Mạt tướng thật là vô dụng!

Người được gọi Phủ Viễn tướng quân cho ngựa bước lên một bước, dời ánh mắt nhìn xuống. Thường Tịnh đạo trong bụng thầm nghĩ gã này chắc sẽ thốt lời trách phạt họ Tô đây, đường đường là một phó tướng tay nắm vạn quân, lại đấu không lại bọn Giang Nam thất phỉ lòe hòe vài ba mống.

Ngờ đâu Thường Tịnh Đạo chỉ thấy tên Phủ Viễn tướng quân kia phất tay một cái, rồi Thường Tịnh Đạo lại thấy hai tên lính áo sắt cúi đầu nhận lệnh, đến đỡ Tô Khất đứng dậy.

-Tô phó tướng cực nhọc rồi – Thường Tịnh Đạo nghe Phủ Viễn tướng quân nói - Mau lui về trại lính dưỡng thương. Nơi này để cho ta.

-Mạt tướng tuân lệnh.

Tô Khất bị đả thương không nhẹ, một bên chân vẫn còn rất nhiều máu chảy ra, vội vòng tay xá một cái sau đó theo hai tên lính thiết giáp rời đi.

Thường Tam Triệu khi này phóng tới đứng cạnh Thường Tịnh Đạo, giương đôi mắt căm thù nhìn tên Phủ Viễn tướng quân, lớn tiếng quát hỏi:

-Thì ra kẻ đả thương đại ca ta chính là tên cẩu quan mi, mi danh tánh thế nào?

Người gọi là Phủ Viễn tướng quân không đáp, chỉ khinh khỉnh nhếch môi cười nhạt.

Thường Tam Triệu thấy tên này hống hách như vậy, giận tím mặt mày, bấy lâu Thường Tam Triệu tự phụ bản thân mình cũng là một cao thủ sử ám khí, nhân lúc này bèn rút trong tay áo một con dao găm phóng ra.

Nếu tên quan này không phải là một cao thủ về ám khí thì chỉ cần một hành động này đủ làm cho táng mạng vì sự thần tốc của nó. Song lúc nãy y đứng ở đằng xa trông thấy đoàn người Đại Minh Triều giao chiến với binh lính của Tô Khất, đã quá rõ bản lĩnh đối phương rồi, nên chỉ bằng một cú nghiêng mình sang trái là đã tránh được ám khí của Thường Tam Triệu lao tới.

Thường Tam Triệu lại tiếp tục phóng thêm hai con dao nữa ra. Phủ Viễn tướng quân một lần nữa cũng phản ứng cực kỳ linh hoạt và chính xác như đã lường trước hành động của đối phương. Quả thật y rất dày dạn kinh nghiệm về các loại phi đao, bởi vậy dù Thường Tam Triệu xuất thủ thế nào cũng không sao chạm được vào người y. Y phất nhẹ một ống tay áo đẩy lùi một mũi dao, đồng thời hơi lách mình sang phải tránh mũi thứ hai lao tới chính diện, động tác vừa ung dung vừa thanh thoát, sắc diện vẫn bình thường tỏ rõ mình đang chiếm ưu thế.

Thường Tam Triệu không chịu thua, lại vung cả hai ống tay áo lên cùng lúc, phất mạnh xuống một cái, một trận mưa chủy thủ từng trong áo Thường Tam Triệu bay vụt đi.

Phủ Viễn tướng quân ngã người cho nằm rạp lên lưng ngựa, tránh trận mưa chủy thủ bay sạt qua khỏi cổ mình, đồng thời một loạt ám khí từ trong áo y cũng nhất thời bắn ra.

Hai mũi cương tiêu một mũi ghim trúng vào yết hầu của Thường Tam Triệu, một mũi trúng bụng dưới của y, Thường Tam Triệu lập tức nhào xuống đất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 33: Nam hiệp Bắc quan (2)

Sau đó Phủ Viễn tướng quân một thân một mình phi ngựa đến gần nơi Khẩu Tâm và Thường Tịnh Đạo đang đứng, một thành viên của Đại Minh Triều mặc áo nâu muốn bảo vệ Khẩu Tâm nên xông ra đưa thương đâm tới. Phủ Viễn tướng quân nghiêng người tránh né, giật lấy cây thương, không đánh trả mà cho ngựa chạy thẳng tới trước. Một thành viên khác của Đại Minh Triều mặc áo xanh bay tới chặn trước đầu ngựa múa đao chém lên, Phủ Viễn tướng quân vung thương ra gạt. Lưỡi thương nhanh như sấm chớp, thuận theo thế mà lướt tới đối phương, cắt đứt bốn ngón tay của người này. Rồi lại giật dây cương cho ngựa quay đầu, ra chiêu Ưng Trảo Phi Thiên đâm thương trúng vào tim người mặc áo xanh.

Phủ Viễn tướng quân ra đòn xong nghe thấy sau gáy có tiếng gió rít lên, biết có địch nhưng không thèm quay đầu lại nhìn. Tay phải đảo thương tiếp tục chém mũi thương ra sau, từ dưới hớt lên. Cây thương chém trúng Thường Di Tính từ dưới nách phải qua tới vai trái, thế là Thường Di Tính muốn ám toán sau lưng đã bị chiêu Trảm Ma Thương kia chém thành hai khúc, máu tươi bắn ra tung tóe.

Những tên lính áo giáp bạc đứng nhìn thấy rõ ràng bèn nện cán trường mâu lên mặt đất phát lên những tiếng rầm rầm, hoan hô vang dội. Còn người của Đại Minh Triều thì nhìn thấy thương pháp của tên quan này đều kinh hãi, thầm nghĩ hai người phe mình là Tam Triệu và Di Tính võ công không tệ, thế mà sử chưa hết năm chiêu đã bị giết rồi.

Thường Tịnh Đạo đích mắt trông thấy hai em bị chết thảm, mà kẻ làm anh trở tay không kịp, lòng đau như cắt, muốn trả thù cho họ nên dù bị thương hai vai vẫn nhảy đến đánh. Phủ Viễn tướng quân chờ cho Thường Tịnh Đạo tới gần cũng phi thân xuống ngựa. Trong chớp nhoáng đó rắc mấy tiếng vang lên. Mọi người còn chưa kịp thấy gì thì ngay sau đó Phủ Viễn tướng quân đã dùng chân đạp gió bay trở lại ngồi chiễm chệ trên lưng chiến mã rồi.

Thường Tịnh Đạo té nằm sấp lên mặt đất, thân thể chạm đất phát một tiếng kêu bịch, thay vì phun bãi nước bọt như lúc nãy thì bây giờ nhổ một bãi máu tươi, rồi tắt thở. Khẩu Tâm sau khi định thần thì ngó thấy xương sườn và xương ngực họ Thường đều bị gảy cả, đâm lỉa chỉa ra lưng. Thường thị đại hiệp thảm bại nhanh đến nỗi Trương Quốc Khải tò mò quay đầu nhìn mà vẫn không kịp trông thấy quyền cước thế nào. Trương Quốc Khải cả kinh nhủ bụng, “tên cẩu quan này, ra đòn hệt như một làn gió lốc, xoáy người bay xuống bay lên là xong sao? Trận chiến bình sinh kết thúc chưa đầy một cái nháy mắt, thật khiến người ta khiếp đảm…”

Nhất Đình Phong khi này đang cùng Trương Quốc Khải đánh đám binh sĩ của Tô Khất, Nhất Đình Phong muốn biết người vừa cho Thường tam hiệp nằm đất võ công lợi hại thế nào, vội nói với Trương Quốc Khải:

-Con bà nó! Đồ cái bị thịt! Để ta!

Dứt lời đạp chân lên vai một tên lính để lấy đà mà bay tới trước mặt Phủ Viễn tướng quân.

Nhất Đình Phong không có màn chào hỏi qua lại như những hảo thủ giang hồ khác, vừa tới đã xuất thủ đánh ngay. Phủ Viễn tướng quân hoàn toàn không tránh né, cũng không chống đỡ. Đợi quyền đến cách mặt mình vài tấc, mới phát chiêu, tả chưởng chặt vào mạch môn trên cổ tay phải của Nhất Đình Phong.

Binh! Nhất Đình Phong không ngờ đối phương phản đòn nhanh đến thế, phải đáp xuống đất, lùi bảy tám bước. Phủ Viễn tướng quân ngồi yên trên ngựa không đuổi theo, nên họ Nhất định thần rồi thi triển Ngũ Hành quyền bay đến tiếp tục tấn công.

Lần này, Phủ Viễn tướng quân thi triển khinh công, đạp chân lên bàn đạp ngựa phóng vụt trên cao khoảng một trượng, chờ cho con ngựa bỏ chạy ra khỏi vòng chiến rồi đáp xuống tung quyền giao đấu với Nhất Đình Phong.

Phủ Viễn tướng quân khi đánh họ Nhất ra tay ung dung chậm rãi, gương mặt điềm tĩnh, tư thế vững vàng trong khi Nhất Đình Phong đánh đấm trối chết mới giữ được thế quân bình. Lại nữa, tên quan này dường như còn có niềm tin tuyệt đối vào bản lĩnh của mình nên qua cả chục chiêu vẫn không một phút hoang mang trước đòn tấn công biến hóa của Nhất Đình Phong.

Thêm vào đó, y hình như đang đùa cợt với Nhất Đình Phong hay sao cho nên không ra hết sức. Còn đoàn quân thiết giáp thì khoanh tay như những kẻ nhàn nhã, vô tư, đứng tụm vào nhau chỉ trỏ bàn luận, dùng lời lẽ đẹp đẽ nhất để tâng bốc chủ soái của bọn chúng.

Qua vài chục chiêu mà thấy kẻ thù công kính như bưng, khí lực dồi dào, Nhất Đình Phong biết không thể đọ sức dẻo dai với người này được rồi, nhưng nhủ bụng thà bị giết cũng không bao giờ tính chuyện rút lui tìm đường tẩu thoát đâu. Mà Phủ Viễn tướng quân cũng không để họ Nhất có dịp dừng tay, chứ đừng nói chi là thoát thân.

Sang đến chiêu thức năm mươi lăm, Phủ Viễn tướng quân lúc nãy xuất quyền đùa chơi cho vui còn bây giờ ra tay dứt khoác hơn, đòn đi hiểm độc hơn, đánh toàn vào yếu huyệt của Nhất Đình Phong. Các chiêu xuất ra đánh liên tục như nước thác đang đổ, chiêu nào cũng đều dũng mãnh, chỉ chực kết liễu tính mạng của đối phương.

Nhất Đình Phong bấy giờ thấy cái chết treo trên đỉnh đầu, có hơi không cam lòng, nhưng y đã lâm vào cảnh tấn thoái lưỡng nan rồi, không lẽ cứ trơ ra chịu trận, cho nên đành phải miễn cưỡng đem hết sức lực bình sinh mà chống cự lại, còn lại thì phó mạng cho trời định đoạt. Nhưng họ Nhất không phải kêu khổ lâu, Khẩu Tâm lại tiếp tục trợ nghĩa tương cứu khi Nhất Đình Phong lãnh một thương vào vai trái.

Nhất Đình Phong kêu lên một tiếng trong đau đớn.

Phủ Viễn tướng quân sau khi xuất thương đâm trúng vai họ Nhất, còn chưa rút thương về, thì Khẩu Tâm đã xuất Song Tiễn cước bay tới đá gãy cây thương làm đôi.

Rắc!

Nhất Đình Phong khi này trên ngực còn cắm nửa cây thương, cắn môi cố nhịn đau dùng tay rút ra rồi ném mạnh xuống đất.

Binh khí trên tay Phủ Viễn tướng quân bị gãy, mà vẫn không hề nao núng, nhìn Khẩu Tâm lên tiếng tán dương:

-Quả nhiên là sát thủ Thiết đầu lôi danh bất hư truyền!

Miệng khen nhưng tay vẫn không chậm lại chút nào, sau khi y quăng cây thương gãy đi rồi, với hai bàn tay không mà sử chiêu nào chiêu nấy ung dung tiêu sái như mây bay trên trời vậy, ra ý là không cần binh khí vẫn đánh được.

Rút kinh nghiệm từ trận đánh cầm cự dai dẳng của Nhất Đình Phong, Khẩu Tâm liều mình đánh nhanh rút gọn. Sang đến chiêu hai mươi, vì muốn chế ngự địch thủ nên Khẩu Tâm sử dụng tất cả mười hai thành công lực vào Bộ Hùng Chưởng.

Khẩu Tâm khua chân bay vèo lên cao khoảng một trượng, chúi người đánh chiêu độc địa nhất của Bộ Hùng Chưởng là Mãnh Công Độc Chưởng thẳng xuống huyệt Bách Hội của địch. Phủ Viễn tướng quân dùng tĩnh chế động, đứng im định thần, đoạn chờ bàn tay của Khẩu Tâm đến sát đỉnh đầu mới khéo léo tung Kim Báo Đảo Quyền, dùng tay trái gạt đi chưởng pháp, đồng thời tay phải thu nắm đấm, đấm vào ngực Khẩu Tâm.

Khẩu Tâm không ngờ kẻ địch nội công thâm hậu đến vậy, hóa giải chiêu thức của mình một cách dễ dàng, đã vậy còn bị nắm đấm mạnh và nhanh như sấm phản hồi lại. Khẩu Tâm liền dùng chiêu cuối của Bộ Hùng Chưởng là Âm Dương Pháp Chưởng, giơ một bàn tay ngửa lên ngang cằm, một bàn tay xuống che ngang ngực, ra sức đỡ cú đấm ác nghiệt đó.

Khi đáp xuống đất, Khẩu Tâm cảm giác rêm cả tay, nhủ bụng “tuy mới tiếp xúc chưa đầy năm mươi chiêu mà công phu giữa ta và hắn tỏ tường như ban ngày rồi, hắn quả là trên ta có đến chục bậc là ít, lại không thuộc về môn phái nào ở võ lâm trung nguyên cả, phù...”

Khẩu Tâm nghĩ rồi đổi phương thức khác, từ chưởng pháp chuyển qua Long Phi Cước, chân trái xê tới bên trái, vọt cao đá bay. Một chân của Khẩu Tâm co lại, chân kia tống một cước vô mặt kẻ địch. Phủ Viễn tướng quân một lần nữa sử dụng sự uyển chuyển tuyệt vời của đôi tay y, hai bàn tay y banh ra, thế như chim hoạch moi cát, tung tuyệt môn Hoạch Sa Hạ Quyền ra bắt lấy một chân của Khẩu Tâm.

Bộp! Khẩu Tâm từ thế chủ động biến sang bị động, chưa tìm ra cách kéo chân trở về thì cảm giác chi dưới tê bại, mới hay đã bị điểm trúng huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân rồi, khí công dồn xuống chân để xuất ra cú đá khi nãy bị dội ngược trở lên, dẫn đến loạn khí, nội công trong mình Khẩu Tâm lập tức bị tổn thương. Khẩu Tâm hộc ra một ngúm máu, cảm giác lòng ngực đau như có một tảng đá đè xuống, đan điền cũng không hơn gì mấy, một chân bị điểm huyệt không cử động được nữa.

-Đại ca!

-Đại đương gia!

Có tiếng kêu thống thiết của Nhất Đình Phong và Trương Quốc Khải.

Thân thể Khẩu Tâm ngay liền đó lại bị ném cho rơi vào một gốc cây cổ thụ, mọi người lại nghe binh một tiếng nữa, thân mình Khẩu Tâm chạm vào gốc cây văng ngược trở ra, lăn vài vòng rồi nằm sấp trên đất.

Phủ Viễn tướng quân đả bại Khẩu Tâm xong chắp tay sau lưng thong thả nhìn Khẩu Tâm lúc này đang cố gắng chống tay ngồi dậy. Thật ra thì Khẩu Tâm đâu phải là võ công thấp hèn, ít nhiều trình độ cũng thuộc vào hàng mà những nhân vật hữu danh giang hồ chẳng dám coi thường. Nay bị thảm bại dưới tay một người không rõ lai lịch thế này, thật là nhục nhã hết sức tưởng tượng.

Phủ Viễn tướng quân khi này còn chưa kết thúc mạng của Khẩu Tâm, mà chỉ đứng yên mà nhìn, lát hồi y vừa dợm chân tiến tới gần Khẩu Tâm, thì Trương Quốc Khải đã kịp thời đánh bạt mấy tên lính đang bao vây chàng ra, nhảy tới tấn công ráo riết để cứu nguy cho Khẩu Tâm.

Biết người này có nội công tinh thâm tuyệt diệu, bản lĩnh siêu việt đó giờ chưa từng thấy, nên Trương Quốc Khải hơi hồi hộp trong lòng, và vì trong lòng chàng lo âu nên những chiêu thức đánh ra có hơi rối loạn một chút.

Lại nữa, Trương Quốc Khải vừa đánh vừa phải ngó chừng đoàn quân thiết giáp, không biết bọn chúng sẽ tấn công vào lúc nào đây? Chàng dùng tay phải khua thanh Phục y kiếm. Nhưng tủy của kiếm pháp phải là điệu bộ thong thả linh hoạt, không nắm chặt lấy cán, có thế mới không làm cản trở kỹ thuật của kiếm chiêu. Nhưng vì đang lo lắng trong lòng nên các chiêu pháp đánh ra có phần hơi hấp tấp hơn so với thường ngày.

Mà tên Phủ Viễn tướng quân nào có chú ý đến cây kiếm mỏng manh kỳ lạ trong tay phải của họ Trương đâu, y chỉ nhìn chằm chằm vào cánh tay trái của Trương Quốc Khải mà thôi. Bởi vì theo võ lý thì yếu quyết của người dùng đao kiếm là “đơn đao khán thủ, bảo kiếm khán đàm.” Tức là để đánh giá trình độ của người sử dụng kiếm, người ta nhìn vào tay không cầm kiếm xem có phối hợp ăn khớp với tay cầm kiếm hay không?

Trương Quốc Khải dùng thanh Phục y kiếm dẻo dai làm lò xo, chống mũi kiếm xuống đất làm điểm trụ hất tung thân mình về phía trước, kích kiếm ra chiêu Thiên Tựu Hoành Phong. Thanh kiếm xé gió tiến thẳng về hướng Phủ Viễn tướng quân.

Y thấy Trương Quốc Khải võ nghệ tài tình, chiêu này kiếm đi thức đẹp tựa rồng bay, kiếm hoa như phụng vũ thì gật gù khen:

-Hảo kiếm pháp!

Trương Quốc Khải hừ lạnh một cái, nói:

-Người Đại Minh Triều ta chỉ biết cách đánh thắng, không biết cách đánh thua!

Phủ Viễn tướng quân nghe nói vậy khẽ nhếch môi cười, chẳng màng tránh né mũi gươm sắp chém vào mặt mình, y nhanh chóng phát huy chiêu Trương Đảo Diệt Khí, chiêu này y dùng hai bàn tay từ hai bên hông chém bập vào giữa thành hình chữ “thập,” đỡ lấy kiếm pháp của Trương Quốc Khải. Lưỡi kiếm chạm vào điểm giữa của chữ “thập,” tức thì bị đánh bật trở ra ngoài. Trương Quốc Khải trợn mắt mà nhìn, thấy hai tay địch nhân không đeo hộ oản mà không bị gì dầu là một vết trầy xước nhỏ.

Trương Quốc Khải còn đang hoảng hốt, nhất thời không tiếp tục tấn công, chàng có nằm chiêm bao cũng không ngờ địch nhân võ công tinh xảo tuyệt diệu đến vậy, cao siêu tột đỉnh, thần lực kinh người thế này, miệng lẩm bẩm “thế mà cũng được hay sao chứ, trên đời có người có thể gồng tay vận quyền khiến cho xương thịt trở nên rắng chắc như sắt thép để đở lấy Phục y kiếm của mình ư…”

Trương Quốc Khải đã từng tỷ thí và trở thành đệ nhất kỳ nhân kiếm thuật không có đối thủ, nay gặp phải một gã cao nhân tại ngoại vô danh này, làm cho chàng không khỏi sửng sốt, mắt trợn tròn không khép lại được.

Phủ Viễn tướng quân nãy giờ phòng thủ nghiêm mật, chớp nhoáng y và Trương Quốc Khải đã đánh được bảy mươi mấy chiêu.

Sang chiêu thứ tám mươi thì Trương Quốc Khải vừa đánh vừa lui, chiết giải toát mồ hôi bởi vì những chiêu thức của đối thủ chàng phức tạp, quái lạ, không thành chương pháp. Trương Quốc Khải cố công tìm kiếm sơ hở để ra đòn trí mạng nhưng địch nhân của chàng nghiêm mật phòng thủ không lộ chút sơ suất nào. Chàng vừa đánh vừa thở phù phù, nhủ bụng “cứ tiếp tục đà này thì mình chẳng những không kết liễu được hắn, mà còn phải dự phòng đoàn binh thiết giáp của hắn ở phía sau lưng mình tấn công đột xuất. Hơn nữa, hắn chưa sử đến ám khí. Nhỡ mà mấy cây phi tiêu bất đắc kỳ tử kia phóng vào mình, thì tánh mạng của mình rủi nhiều may ít rồi, phù phù…”

Trương Quốc Khải đánh sang đến chiêu thứ chín mươi, toàn thân chàng chỗ nào cũng có sơ hở, cứ hễ chàng đưa kiếm lên cản thì tên Phủ Viễn tướng quân lại thu tay về búa tới chỗ khác.

Trương Quốc Khải bắt đầu cảm giác mệt phờ, song chàng nhìn kẻ địch trước mặt chàng thần sắc vẫn cực kỳ ổn định, khí lực đầy đủ, thân pháp cùng bộ pháp hoàn toàn không loạn. Tuyệt nghệ trong binh pháp là vô chiêu thắng hữu chiêu, Trương Quốc Khải cảm giác như tên Phủ Viễn tướng quân này tuy không có kiếm nhưng hắn có nội công tuyệt đỉnh, có thể biến đôi tay thành kiếm khiến người và kiếm hợp nhất. Chàng tưởng chừng khi đối phương tác chiến thì tâm trạng và con người hòa vào trời đất vạn vật mà quên cả bản thân. Cái này trong võ thuật Thiếu Lâm của chàng gọi là thiên địa vạn vật đồng nhất thể. Trong thiên hạ ít có người tập luyện được tới cảnh giới này. Ngoài Võ Thánh thì mãi đến ngày hôm nay chàng mới gặp một người lợi hại thế này, Trương Quốc Khải nhìn các chiêu thức của địch đánh ra mới hiểu ý nghĩa của câu “nhất điểm phát vạn thù, vạn thù quy nhất điểm” là như thế nào. Chàng nhủ bụng tên này hẳn đã tỏ tường bí quyết quan trọng đó rồi nên có thể tự chủ, an nhiên nhàn hạ ứng biến mọi chiêu thức.

Trương Quốc Khải tuy ở thế yếu hơn nhưng lại không ngừng múa tít Phục y kiếm trong tay, xuất một lượt hai kiếm chiêu nữa. Chiêu đầu tiên là Sát Thương Trảm Thạch, Trương Quốc Khải tay khuấy mũi kiếm chung quanh một điểm tròn nhỏ, khi này là giữa trưa, lưỡi kiếm phản chiếu ánh sáng của mặt trời nên nhìn xa xa như đang phát ra hào quang tua tủa. Trương Quốc Khải sau đó chĩa mũi kiếm ra phía trước. Tức thì một cỗ kình phong bay về phía người đối diện. Chiêu thứ hai Vũ Diện Tông Thiền xuất ra còn nhanh hơn chiêu thứ nhất, Trương Quốc Khải rùn chân xuống một cái rồi cả người và kiếm hợp nhất theo trận cuồng phong đó vù vù lao đi.

Người gọi là Phủ Viễn tướng quân lại nhếch môi cười khi thấy hai chiêu thức đẹp mắt của Trương Quốc Khải.

Kiếm chiêu đi rất nhanh, thế mà khi Trương Quốc Khải sắp xửa đến gần thì vẫn thấy địch nhân không có vẻ gì như muốn tránh né. Lại nữa, chàng thấy một tay của địch buông thỏng xuống một bên hông và tay còn lại quàng ra sau lưng. Trương Quốc Khải còn khoảng hai gang tay nữa là đâm trúng địch, trong bụng tưởng đã nắm được yếu quyết của địch rồi, cả mừng chớp cơ hội tốt này bèn hạ thủ không chút lưu tình, càng vận thêm công lực vào thanh kiếm, quyết đâm vào ngực đối phương.

Nhưng kiếm sắp đi tới đích thì cặp mắt của Trương Quốc Khải trợn tròn, lưỡi thanh Phục y kiếm của chàng bị hai ngón tay của địch kẹp lại. Người này xuất thủ nhanh cực kỳ, Trương Quốc Khải còn đang bàng hoàng lại thấy lưỡi gươm cong như hình trăng lưỡi liềm hướng ngược vào người chàng.

Không còn cách nào khác nữa Trương Quốc Khải đành buông chuôi kiếm nhảy ra sau ba bước, Phục y kiếm bị đoạt mất. Còn đang thất sắc, chàng lại thấy ngay sau đó địch nhân theo đà lưỡi kiếm đang cong mà phóng luôn vào chân chàng. Trương Quốc Khải thật nhanh dùng thuật Phi Đảm Tẩu Pháp nhảy lên cao hai thước để tránh né, bằng không hai chân đã bị cắt cho đứt lìa rồi. Cũng vì lo phòng thủ phía dưới chân nên Trương Quốc Khải để lộ sơ hở chết người ở nửa thân trên. Chàng than trời như bộng khi thoáng thấy một tay mà địch nhân quàng ra sau lưng khi nãy bây giờ xuất hiện cùng với một cặp phi tiêu sáng óng ánh, ném một phát vào mặt chàng.

Đúng lúc Trương Quốc Khải mặt mày xám ngắt, chắc chắn sẽ bị mất mạng rồi thì có một bóng đen lướt qua đầu chàng. Nhân ảnh từ phía sau chàng lao tới như ánh chớp, từ trên cao hai tay vung chưởng đánh xuống cặp phi tiêu. Mũi tiêu còn một phân nữa là đâm vào cổ họng Trương Quốc Khải liền bị đánh bật đi. Phập phập hai tiếng vang lên, cặp tiêu bị đánh ghim xuống đất.

Hành động của người đó vô cùng thần tốc.

Trương Quốc Khải nhận ra hán tử vừa xuất hiện, trong lòng cả mừng, thở ra một hơi.

Phủ Viễn tướng quân dùng ánh mắt không có chút ngạc nhiên nào nhìn người vừa mới tới, dường như đã biết trước người này nhất định sẽ xuất hiện. Còn đoàn quân thiết giáp thì nãy giờ hãy còn đứng quanh đó hồi hộp theo dõi, cảm giác lực ném của người vừa mới tới dũng mãnh phi thường, mới trao một chiêu mà đã biết chủ soái của họ đã gặp phải đại kình địch rồi.

Nam nhân vừa tới đứng sừng sững như ông thần hộ pháp làm lá chắn cho Trương Quốc Khải.

Chẳng bao lâu Bạch Kiếm Phi từ phía mé rừng cũng dẫn nhiều người của Đại Minh Triều chạy tới, hỗ trợ các anh em trong hội đánh quân Thanh.

-Tam đệ có bị thương không?

Trương Quốc Khải bị hao tổn rất nhiều sức lực, nghe hỏi không trả lời được ngay, cố gắng điều khí hồi lâu mới nói:

-Đệ không việc gì.

Phủ Viễn tướng quân không màng tới Trương Quốc Khải nữa, mà chỉ nhìn xoáy vào người vừa cứu mạng Trương Quốc Khải.

Khi nãy khí sắc của tên quan trông lạnh lùng sâm nghiêm không tả được, giờ tự nhiên mỉm cười nói:

-Có phải Nam hiệp thần quyền đấy chăng? Thiếu đà chủ của Đại Minh Triều, cao đồ của lò võ Thiếu Lâm, người thông thạo bảy mươi hai chiêu thất thập nhị huyền công lừng danh trong thiên hạ. Nghe danh đã lâu, ngày nay mới được diễm phúc hội diện, thực là phỉ nguyền ao ước.

Tần Thiên Nhân lúc nãy từ đằng xa nhận biết đối thủ không thuộc môn phái trung nguyên nào, lại nữa võ công người này phức tạp vô lường được nên sau khi cứu mạng tam đệ chưa ra tay ngay, mà âm thầm vận công, dõng dạc đáp:

-Chính tại hạ. Nếu đoán không lầm các hạ là Dương Tiêu Phong?

Tần Thiên Nhân dứt lời nhận thấy người kia lại mỉm cười:

-Người trong giang hồ chỉ tán tụng Thần quyền nam hiệp võ công cái thế, nào ngờ còn liệu sự như thần. Đúng thế, chính là tại hạ.

Trương Quốc Khải, Nhất Đình Phong nghe được lời này, không hẹn mà giật nảy mình, nhủ bụng thì ra kẻ địch nhân mà họ giao đấu nãy giờ tên thật là Tế Nhĩ Ha Lãng Dương Cát Nỗ, khi đi lại giang hồ Lộ Thần đặt ngoại hiệu cho y là Dương Tiêu Phong. Y mang ngoại hiệu này vì tài phóng ám khí nhanh như gió của y, như có ngàn tay, trên người toàn là ám khí đủ loại nhưng nhiều nhất là phi tiêu và phi đao phóng ra vừa nhanh vừa chính xác. Thêm vào đó chiến y trên người Phủ Viễn tướng quân khi đứng dưới ánh mặt trời trong trận chiến Giang Hoa nhìn xa xa như một vần dương sáng lấp lánh. Lộ Thần viết trong Binh Khí Phổ: “hai bàn tay chỉ trong khoảnh khắc là có thể phát xạ rất nhiều loại ám khí, người đứng kế bên cũng đừng hòng nhìn thấy rõ ràng được...” Phen này hội Đại Minh Triều đem toàn lực đi cứu dân bị nạn, không ngờ lại lọt vào cái bẫy này!

Trương Quốc Khải bấy giờ đã lui ra, chạy đến bên gốc cây giải huyệt ở chân rồi dìu Khẩu Tâm đứng lên.

Dương Tiêu Phong quan sát khí thế Tần Thiên Nhân một lúc mới nói tiếp:

-Hôm nay tại hạ rất lấy làm hân hạnh, được diện kiến người mà Lộ Thần xếp vào hàng cửu ngũ chí tôn. Tần Thiên Nhân, các hạ không những thông thạo Thiếu Lâm thất thập nhị huyền công, còn thông thạo thêm bộ đường quyền mà Võ Thánh năm xưa đã dùng để hùng bá thiên hạ…

Nói đoạn y suy nghĩ một chút, rồi tiếp:

-Gọi là... Chuẩn Đề Quyền, phải chăng?

Thời bấy giờ ở miền nam thì võ thuật của bang phái Thiếu Lâm là lợi hại nhất. Vậy nên, theo những gì Lộ Thần viết trong binh khí phổ thì không kể đến những kẻ trong quan trường, hay các cao thủ miền biên ải phía bắc, mà chỉ trong nội bộ Đại Minh Triều nói riêng và miền nam nói chung, nếu xếp theo thứ tự võ nghệ của bảy người đương gia ngoại trừ Cửu Dương hiếm khi tỉ thí thì không ai địch nổi Tần Thiên Nhân.

Dương Tiêu Phong sau đó lại tiếp:

-Tần đại hiệp, các hạ cũng biết rồi đó, cuộc giao đấu giữa sư phụ các hạ và sư phụ của ta đã hoãn lại bao năm, không sớm thì muộn, ngày đó nhất định phải tới, chi bằng hôm nay kết thúc chuyện tư đó giữa hai người chúng ta. Tại hạ đây muốn coi thử xem, cái gọi là tuyệt kỹ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quyền của bộ pháp Chuẩn Đề Quyền đó như thế nào.

Dương Tiêu Phong ngay sau đó lại hướng mắt về phía binh lính triều đình và Đại Minh Triều đang hỗn chiến, nói:

- Nhưng… nếu các hạ chịu buông bỏ chức vị thiếu đà chủ, ngay bây giờ kêu gọi bọn họ dừng tay lại, sau đó trao ra kim lệnh, rồi đồng ý quy hàng triều đình thì chuyện cướp cống phẩm hoặc là thích sát ấu chúa ở Sơn Tây vua tôi sẽ không truy cứu nữa.

Dương Tiêu Phong dùng giọng nhã nhặn nói rồi chờ Tần Thiên Nhân đáp lời, trong bụng biết địch dĩ nhiên võ nghệ tinh diệu hơn người, lát nữa không biết sẽ tìm cách phá trận của mình như thế nào? Đồng thời cũng nghĩ họ Tần tuy là địch nhưng ăn nói không đến nỗi tệ, coi vẻ như người có học, tướng mạo dũng mãnh nhưng cũng rất lịch sự, lại nữa cũng khá là hiên ngang, trong mình tuyệt nhiên không toát ra thái độ của hạng võ biền. Tiếc là hai người lại đối đầu nhau, bằng không, Dương Tiêu Phong nhủ bụng, có thể kết tình giao hữu rồi.

Song Tần Thiên Nhân nghe Dương Tiêu Phong nói xong không cần suy nghĩ đã đáp:

-Các hạ vừa nói, lần này tìm tại hạ vì cả việc tư lẫn việc công. Nói về việc tư, thì năm xưa sư phụ chúng ta đôi bên đều khâm phục lẫn nhau, đều muốn tỉ thí với nhau, không phải để phân cao thấp mà để lĩnh hội võ công của đối phương, nên bất cứ khi nào các hạ muốn tỉ đấu tại hạ đây sẵn sàng tiếp nhận. Còn nói về việc công, thì xin thành thật tạ lỗi. Tần mỗ không mặt dày đến nỗi đi làm chó săn cho triều đình Mãn Châu. Các hạ muốn lấy mấy khúc xương tàn này để thăng quan phát tài, thì cứ qua đây mà lấy!

Dương Tiêu Phong nghe Tần Thiên Nhân thốt lời từ chối, còn chửi xéo Tô Khất và các quan lại người Hán khác đang chầu triều Thanh là cẩu nô tài, không chút phiền lòng, bình thản nói:

-Tần đại hiệp, các hạ là người Hán thì nói Đại Minh là sáng, Đại Thanh là tối. Thế nhưng người Mãn chúng tôi thì lại bảo Đại Thanh là sáng, Đại Minh là tối. Nghĩ đến tổ tông người chúng tôi bị người Cát Nhĩ Đan tàn sát, bị người Tây Tạng, Triều Tiên hiếp đáp, chạy đông chạy tây, khổ không kể đâu cho hết. Thời nhà Đại Đường, võ công người Hán các người cực thịnh, giết cũng không biết bao nhiêu dũng sĩ Mãn Châu, bắt bao nhiêu đàn bà con gái Mãn Châu. Đến khi triều Minh đại tận vì Sùng Trinh ham chơi mà lười chính sự, chính trị hủ bại đen tối, triều Minh không được hưng thịnh nữa thì người Mãn lại quay trở lại tấn công người Hán. Đó chỉ đơn giản là luật sinh tồn.

Tần Thiên Nhân im lặng không đáp.

Dương Tiêu Phong đứng chờ, lát hồi không nghe đáp lời tặc lưỡi chậm rãi nói:

-Thật là đáng tiếc, các hạ suy nghĩ kỹ rồi chưa?

Tần Thiên Nhân nghiêm giọng trả lời:

-Tần mỗ đi lại giang hồ đã hơn chục năm, tuy chẳng có tiếng tăm nhưng suốt đời quyết không làm việc gì để bằng hữu võ lâm phải coi thường!

Dương Tiêu Phong nghe đáp thế thì biết không thể nào thuyết phục người này được rồi, vả lại, cũng không cần thuyết phục y, chỉ cần mỗi một Cửu Dương. Song vẫn thầm nhủ thật là đáng tiếc khi phải tiêu diệt y, lại càng không nỡ làm một người đau lòng vì cái chết của y, nhưng biết làm sao khi trong mình mang sứ mệnh không thể để Đại Minh Triều tiếp tục tồn tại được.

Dương Tiêu Phong biết kẻ địch võ nghệ cao cường nên đứng yên đó không dám khinh xuất. Có vẻ như đợi cho đối phương xuất chiêu đánh trước rồi mới phản hồi lại.

Phía đối diện, Tần Thiên Nhân cũng cùng chung tâm trạng như vậy, khi nãy từ xa chàng đã thấy kẻ địch sử vô chiêu thắng hữu chiêu. Thế đánh có độ tự do rất lớn, không bị ràng buộc vào một chiêu thức cố định nào có sẵn. Tùy cơ ứng biến, gặp sự tùng sự, gặp thế tùy thế, linh động như nước chảy, tự do như không khí trong không trung, không bị ràng buộc như mây kia phiêu bồng nên cũng chưa chủ động ra tay.

Lúc này khí trời đang đông, gió mạnh từng cơn quất vào hai người họ, vành tai lạnh tê, rờ vào nhiều khi không cảm giác.

Trời bỗng dưng có tuyết rơi, bay lững lờ trên không trung một hồi rồi theo gió gầm rú, tuyết bắt đầu bay mịt mù trời đất. Điệu này, sáng mai tuyết sẽ phủ một lớp rất dày đây.

Tần Thiên Nhân là cao thủ đòn quyền, bụng bảo dạ nếu mình không tiếp cận đối phương thì sẽ không dễ dàng chế ngự hắn ta được. Tần Thiên Nhân nghĩ đoạn, chuyển thân nhanh như gió thi triển khinh công Vũ Bạt Phong phóng tới ra chiêu đầu tiên của bộ Lôi Công La Hán quyền là Âm Dương Song Quyền, chiêu này dùng ức hai bàn tay mà xuất đòn đánh ra. Hai cú thôi sơn này nhằm vào ngực Dương Tiêu Phong.

Dương Tiêu Phong thấy Tần Thiên Nhân chủ động tấn công mình thì khẽ gật đầu một cái, miệng vẫn giữ nguyên nét cười, chờ cho song quyền đến gần ngực mình mới xê dịch chân phải, móc gót chân ba trăm sáu chục độ để lấy trớn rồi xuất ra cước pháp Đồng Tước Song Phi, cú bay đá ngang của bang phái Ưng Trảo Phiên Tử Môn, cản đòn quyền.

Ầm!

Những người đứng gần đó tưởng chừng như cú song phi cước khi chạm vào song quyền tiết ra gió xoáy lồng lộng, trong một thoáng họ ngỡ như là có tiếng rống của chúa tể sơn lâm đang trong cơn tức giận. Âm thanh như vang xa rầm rộ bốn phương tám hướng. Tiếng hổ rống này trong nháy mắt thay thế toàn bộ tiếng động trong thiên địa. Làm cho mọi người ai cũng kinh ngạc, dẫu họ đã sớm biết hai người này đều có bản lĩnh siêu việt, nhưng vẫn bất ngờ trước công lực phi thường này.

-Hảo! Tiếp chiêu.

Tần Thiên Nhân nói, sau khi định thần một lúc lại tiếp tục giao đấu, càng đánh càng khẩn trương.

Tần Thiên Nhân đang ở thế chủ động, nên liền sau đó xuất tiếp hai chiêu. Đòn thứ nhất Tứ Môn Hổ Quyền được xuất ra khi chân trái Tần Thiên Nhân bước nghịch, chỏ trái cùng lúc đánh vòng tới trước mặt, thế đi của ngón đòn chỏ này mạnh bạo như hổ vồ mồi. Chiêu thứ hai Bình Song Hạc Quyền xuất ra cũng nhanh không kém, Tần Thiên Nhân dùng bàn tay phải như móng vuốt của tiên hạc nắm chặt lấy cổ tay phải của Dương Tiêu Phong. Tần Thiên Nhân định là khi địch nhân trúng đòn chỏ rồi ngã sang một bên thì sẽ theo đà đó mà ra sức quật Dương Tiêu Phong qua vai mình.

Dương Tiêu Phong đương nhiên chẳng phải tay mơ, vừa loáng thoáng ngó thấy đòn chỏ đi tới đã biết Tần Thiên Nhân muốn gì, liền phản chiêu bằng cách khắc tay phải từ trên xuống ra chiêu Hỏa Niệm Thiên Sơn, chiêu này như lấy sức nặng ngàn cân của núi tuyết Thiên Sơn để đè mãnh hổ, quả thật có tác dụng, Dương Tiêu Phong đã thành công cản được ngón đòn chỏ.

Binh một tiếng vang lên cũng lớn không kém âm thanh vừa rồi.

Nhưng sau đó Dương Tiêu Phong lại cảm giác cổ tay phải của mình bị nắm giữ, song chẳng màng bối rối tức thì vận công lực xuất ra chiêu thức Thôi Sơn Hữu Dực, một trong bảy cú đánh cũng bằng đòn chỏ nhưng không phải của Thiếu Lâm mà là của bang phái Ưng Trảo Phiên Tử Môn. Thôi Sơn Hữu Dực là một chiêu thức trong Bộ Phương Dực. Dương Tiêu Phong dùng chỏ trái cấm thẳng về phía trước mặt, hướng vào lưng của địch mà ra sức đánh, cùng lúc tiến chân phải lên đạp một cú vào phía sau đầu gối bên phải của Tần Thiên Nhân. Dương Tiêu Phong phối hợp hai ngón đòn này một cách tinh xảo, đã thành công ép được kẻ địch buông cổ tay mình ra.

Tần Thiên Nhân bị ép nhảy ra khỏi vòng chiến một thước, nhưng ngay đó lại thình lình bay vụt vào nhập nội, xuất cước pháp Mã Thương Lôi. Cú đá này quan trọng là dùng lực ở mũi bàn chân phải mà xuất đòn. Chân trái theo thế kim tiêu để mà lấy thế, Tần Thiên Nhân bật mình dậy tung một cú đá ngoạn mục.

Mũi chân phóng thẳng nhắm ngay cổ Dương Tiêu Phong đâm tới. Chiêu này kình lực vô cùng.

-Được lắm!

Dương Tiêu Phong lại nói, gương mặt không hề dao động trước cú đá mãnh liệt đó.

Rồi không tiến không thoái, cũng không tránh né sang hai bên tả hữu, y xoay mình vận nội công Cửu Long Giáng Địa đón cước pháp thẳng vô vai.

Ầm thêm một thanh âm nữa vang ra. Mọi người lại cảm giác như tiếng này một lần nữa chấn động thiên không, tưởng như bầu trời sắp sụp đổ xuống đầu họ.

Có hai người mặc áo đỏ và áo xám tro ngồi trên hai con ngựa từ xa tiến lại, thấy xung quanh nơi Tần Thiên Nhân và Dương Tiêu Phong đang giao đấu có bụi tuyết bốc lên cuồn cuộn, xoáy vòng như một cái nhiễu, nhìn mà giật mình.

-Ngũ ca huynh xem!

Người mặc áo đỏ chỉ tay hô lớn.

Người kia đáp:

-Mau lên! Mau mau tới đó!

Chiêu thức Cửu Long Giáng Địa là một chiêu thức cũng của bang phái Ưng Trảo môn dùng sức lực để làm cho thân hình nặng thêm ngàn cân. Thiên cân trụy ở đây không giống như của Thiếu Lâm là chỉ đơn thuần là dồn khí vào đan điền, dồn thấp trọng tâm, mà còn phải phân lực ra sao cho cân đối ở hai lòng bàn chân để mà bám trụ vào mặt đất. Then chốt của Cửu Long Giáng Địa của Ưng Trảo môn là ở thế hạ bàn vững chắc không chao đảo, để làm cơ sở mà thực hiện các động tác phòng thủ.

Tần Thiên Nhân trợn tròn mắt khi thấy cú đá của mình vừa chạm vào bả vai Dương Tiêu Phong đã bị đàn hồi, bật ra ngoài ngay lập tức. Tần Thiên Nhân buộc phải thoái lui vài bước, trong lòng thầm khâm phục tài nghệ của đối phương, cho dù là đang giao đấu cũng phải thốt lên:

-Hay lắm! Thế phòng thủ rất cẩn mật, vừa linh hoạt vừa có lực, thủ pháp rất nhanh!

-Đa tạ quá khen – Dương Tiêu Phong đáp.

Nói rồi nhìn xuống cổ tay mình, Dương Tiêu Phong thấy có dấu tím bầm khảm vào da thịt, nhớ lại lúc nãy cổ tay mình bị Tần Thiên Nhân nắm giữ, dấu vết giống như bị dây buộc chặt hay bị phỏng, bất giác trong lòng khâm phục quyền pháp của đối phương.

Cả hai người lại xoắn vào nhau như đôi mãnh hổ tranh mồi nữa, qua một trăm chiêu vẫn bất phân thắng bại, một người đi quyền nhanh gọn, một người công thủ kỹ càng.

Tần Thiên Nhân lần lượt xuất thủ pháp sáu bộ, bốn mươi hai môn Lục Quyền, rồi liên tục sử cước pháp bốn bộ, mười tám môn Tứ Cước. Đòn chân đòn tay bủa tới tấp, cú đánh phủ đầu có, phép sấm sét không kịp bưng tai cũng có, tấn công bất ngờ chớp nhoáng đúng vào lúc đối phương không phòng bị nhất.

Nhưng Tần Thiên Nhân cảm giác kẻ địch của mình thuộc hàng danh tiếng kỳ nhân rồi, không hề mắc bẫy, địch thủ vừa thấy chàng nhích chân thì đã tràn người qua một bên tránh đòn và lập tức xuất chiêu phản kích lại.

Trận giao đấu giữa hai đồ đệ của Võ Thánh-Võ Ma càng lúc càng kịch liệt, tưởng sẽ không bao giờ dứt được.

Dương Tiêu Phong cũng thay phiên xuất hầu hết các chiêu thức của bang phái Ưng Trảo Phiên Tử Môn ra, đặc biệt là bộ pháp Ưng Trảo Quyền hay còn gọi là Ưng Trảo Công bao hàm phép đánh bằng móng vuốt của chim ưng. Từng chiêu phát lực cương bạo, thân bộ linh hoạt. Trong tư thế hùng dũng mà thi triển bài bản, ra đòn hiểm ác hết chiêu này đến chiêu kia. Đồ đệ của Võ Ma lần lượt sử mười sáu môn Bát Bộ Truy và Bát Diện Truy. Tung mười lăm thế Ngũ Thập Lộ Liên Quyền. Thêm vào mười hai chiêu Thập Nhị Lộ Hành Quyền. Các thế quyền linh hoạt biến ảo nhưng bên trong có phần mạnh bạo. Cương nhu tương tế, mềm cứng có đủ. Tay chân di chuyển nhanh nhẹn vững vàng, đòn chân đòn tay cùng kết hợp chặt chẽ. Thủ pháp vồ, đánh, tóm, rứt, lật, khóa, dựa, gạt, cắt, ngăn, bọc, nhưng chú trọng vồ tóm là chính. Về thoái pháp thì có dậm, bật, quấn, xuyên, và liên hoàn thoái. Thân pháp có cúi, ngửa, vặn, xoay, vươn, co, né, sải… nhiều không đếm xuể.

Hai bên loạn đả một hồi, đương cự đến toát mồ hôi, từng dòng chảy xuống ướt đẫm cả mặt mày họ dầu là khi này tuyết vẫn còn rơi mù trời.

Tần Thiên Nhân khi này tuy là khí lực vẫn còn tràn trề song thấy nếu cứ theo đà này mà so tài cao thấp bằng quyền cước mãi không phải là cách, vì tuy là những chiêu thức của phái Thiếu Lâm tấn công ra mãnh liệt thật đấy, nhưng các chiêu thức phòng thủ của Ưng Trảo môn cũng vững vàng không kém chút nào, giống như những đợt sóng biển vỗ vào tảng đá, sóng đập hết cơn này tới cơn khác nhưng tảng đá vẫn đứng vững không rung chuyển, sau mỗi đợt sóng rút về, tảng đá lại lộ ra mặt nước.

Phía đối diện, Dương Tiêu Phong cũng nhận thấy như thế.

Bằng vào võ công, có thể nói Dương Tiêu Phong đứng vào hàng cự phách giang hồ rồi. Xưa nay chưa hề biết qua mùi thất bại là gì. Cho nên y vẫn tự phụ rằng trong thiên hạ chưa chắc có người đương đầu với mình nổi. Nhưng hôm nay gặp người tài giỏi khí thế dữ dội, vừa đánh vừa thủ các huyệt đạo và những chỗ hiểm cẩn thận kỹ càng khiến cho y không đạt được mục đích đả bại. Dương Tiêu Phong thấy lúc nào Tần Thiên Nhân cũng bình tĩnh ứng chiến, chẳng chút khiếp sợ. Chả trách là trước đây có biết bao nhiêu cao thủ lãnh chiếu chỉ triều đình đi truy lùng khâm phạm phản Thanh nhưng đều bị giết mất xác hoặc bị thương trí mạng. Kẻ may mắn sống sót thì lại ôm cái nhục mà chạy dài dài.

Vì thế mà Dương Tiêu Phong nhủ bụng, nếu muốn tiêu diệt triệt để Đại Minh Triều đương nhiên phải bước qua cái ải của Tần Thiên Nhân trấn giữ trước đã.

Nghĩ là làm, Dương Tiêu Phong không làm tấm kiên rắn chắc không gì xuyên thấu nổi nữa, miệng hô lớn:

-Thiếu đà chủ! Nhận chiêu!

Đi cùng với lời nói là đôi tay nhanh như chớp rút ra chín thanh phi đao, rồi thân người và đao hợp nhất, đao theo thì thân chuyển, từ thân thế hợp tứ chi. Bộ pháp nhẹ nhàng, Dương Tiêu Phong dùng tất cả nội lực, kèm theo những gì mà mình học được trong suốt gần hai mươi năm phóng một loạt đao bay đi.

Đạo dùng ám khí là thiên biến vạn hóa. Binh khí hóa nhất. Thiên địa hóa nhất. Tâm linh hóa nhất. Nếu như trong lòng có binh khí thì khi dụng ám khí sẽ hòa cùng thần khí và giác ngộ chiêu thức ở trong ý niệm. Lúc ấy muốn đánh đông trúng đông, đánh tây trúng tây. Mặt trời mặt trăng cùng xuất hiện để hợp nhất thành một chiêu thức. Đất trời cùng nhau dung hòa.

-Nguy rồi, Cửu Ẩn Phi Hoàng Đao!

Trương Quốc Khải hét to khi ngó thấy chín thanh phi đao xuất hiện trong tay Dương Tiêu Phong. Mặt mày Trương Quốc Khải tái xạm, chàng dù chưa từng mục kích bao giờ nhưng đoán đấy chính là chiêu tuyệt kỹ trong bộ Ngũ hành đao pháp, chiêu thức Cửu Ẩn Phi Hoàng Đao này đã làm thành danh tiếng cho Võ Ma.

Quả nhiên Bạch Kiếm Phi, Nhất Đình Phong cũng nói:

-Thiếu đà chủ cẩn thận!

-Coi chừng phi đao!

Đúng là nhân thượng hữu nhân. Người xuất đòn đã tài mà người phản đòn còn có vẻ tài tình hơn nữa!

Đao pháp lao đến càng cao thâm phong phú bao nhiêu thì chiêu thức phản đòn cũng càng uyên áo đa dạng bấy nhiêu.

-Tuyệt diệu! Đúng là tuyệt diệu.

Bạch Kiếm Phi, Nhất Đình Phong và Trương Quốc Khải ba người la lên rồi nghe tiếng của thiếu đà chủ họ cũng vang lên.

Dù thầm phục bản lãnh ghê gớm của đối phương nhưng Tần Thiên Nhân không vì thế mà khiếp nhược. Lúc chín thanh phi đao cuống cuồng xông tới, Tần Thiên Nhân phóng tả chưởng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quyền của bộ pháp Chuẩn Đề Quyền quét qua trước mặt. Bộ pháp này là của Võ Thánh sáng lập mà ra, gồm có chín chiêu thức nhưng chiêu Thiên Thủ Thiên Nhãn Quyền chính là tuyệt kỹ đã làm nên tiếng tâm cho Võ Thánh.

Quân binh triều đình và những người Đại Minh Triều đang đánh nhau ở rừng Bình Lương bất giác cũng ngưng tay cả lại, tò mò quay đầu mà nhìn hai chiêu thức này, lúc nãy họ thấy Dương Tiêu Phong rút ra một loạt phi đao, rồi tai họ nghe có tiếng đao rít vù vù trong tích tắc, nhưng không thấy bóng của phi đao ở đâu hết. Bất chợt, có chín hàn quang khiếp đảm chiếu ra, vừa ẩn, lại hiện.

Mọi người ai nấy cũng đều thót tim mà nhìn chòng chọc vào Tần Thiên Nhân, không biết y sẽ phản hồi chiêu thức này thế nào đây, hay là tránh né bằng cách nào? Nhiều cặp mắt vì vậy mà mở to, sợ sẽ bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở này.

Tần Thiên Nhân khi này cũng như mọi người cũng không thấy rõ đường bay của phi đao vì sự ẩn hiện bất thường của chúng. Đương nhiên cũng bởi vì không nhìn thấy được nên không thể nào tránh né được. Thế mà gương mặt vẫn tuyệt nhiên không để lộ ra một chút lo sợ. Lại nữa mọi người tự nhiên thấy Tần Thiên Nhân nhắm luôn đôi mắt lại, ai nấy không ngừng há hốc miệng ra mà nhìn.

Trong cơ thể con người có rất nhiều giác quan. Hai trong số giác quan đó là xúc giác và cảm giác, hệt như một cao thủ không có đèn trong đêm tối nhưng vẫn xác định được đồ vật chung quanh. Cảm giác giữa địch và ta không khoảng cách. Dĩ bất biến, ứng vạn biến.

Khi chín thanh phi đao vừa vượt gió phóng đến nơi, mọi người ai cũng nghĩ Tần gia lần này chắc chắn phải mất mạng rồi, thì chợt thấy trên mình Tần Thiên Nhân như phát ra rất nhiều cánh tay, giống như là pho tượng phật nghìn mắt nghìn tay mà người ta thường hay thấy mỗi lần viếng thăm chùa chiền, họ mới vỡ lẽ có lẽ vì thế mà chiêu này được gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quyền.

Khi hữu chưởng từ trong hai tay Tần Thiên Nhân phóng thẳng ra, một làn sóng với sức mạnh kinh hồn từ những thanh đao cũng cùng một vận tốc tương tự mà bay tới, hai luồng chân khí liền giao nhau.

Ầm một tiếng vang dội, không khí bị nén chính giữa hai luồng chân khí này không chịu được sức ép nên bộc phát.

Những người ở trong rừng Bình Lương cảm giác như đại địa ầm vang. Nơi họ đang đứng mặt đất như bị chấn động kịch liệt, thêm vào cuồng phong gào thét phát ra từ hai chiêu thức đó khiến cho đại địa vừa rung động vừa xuất hiện dấu hiệu sụp đổ. Mặt đất giống như trở nên mềm mại hơn, phập phồng như cuộn sóng, có tiếng vọng ầm vang nổi lên. Những khe nứt xuất hiện lan tràn ra khắp nơi.

Tứ bề tất thảy mọi người đều lặng đi trong một lúc, duy nhất còn tồn tại lúc này chính là tiếng ầm ầm như tiếng sét đánh càng ngày càng kịch liệt, càng ngày càng điên cuồng, càng ngày càng vang dội.

Một lúc sau cảnh vật trở lại như cũ, tuyết lại tiếp tục rơi.

Trương Quốc Khải ngó thấy Dương Tiêu Phong bị đánh văng bật ngược lại phía sau, ngã ngửa ra đất. Trương Quốc Khải cả mừng trong lòng, song còn chưa kịp reo hò thì nghe bịch thêm một tiếng nữa.

-Thiếu đà chủ! – Trương Quốc Khải miệng hét lên, tay chân cũng cuống cuồng chạy đến đỡ Tần Thiên Nhân đứng dậy.

Hai tên binh lính thiết giáp cũng phóng lại dìu chủ soái của chúng đứng lên.

Mọi người không mấy ngạc nhiên khi thấy Tần Thiên Nhân và Dương Tiêu Phong đồng lượt mỗi người ói ra một bãi máu. Đương nhiên ai cũng biết hai người này nguyên khí trong mình đã bị tổn hại một cách đáng kể, vì lúc Cửu Ẩn Phi Hoàn Đao và Thiên Thủ Thiên Nhãn Quyền va chạm vào nhau, đã khiến cho hai nguồn chân khí ép vào nhau hòa thành một luồng sóng từ trường lớn mạnh. Làn sóng đó phát ra sức bật kinh khủng tung ngược về hướng hai người đang đứng. Cả hai tránh không kịp nên lãnh trọn bức xạ điện từ hung hãn đó.

Thế là chuyện tư giữa Võ Thánh – Võ Ma đã được giải quyết, Dương Tiêu Phong nghĩ tới sư phụ ở dưới suối vàng chắc cũng được an ủi phần nào. Sau đó nhớ tới nhiệm vụ đã được hoàng thái hậu giao phó cho, Dương Tiêu Phong bỏ mặc nội thương trầm trọng phóng trở lại lên lưng ngựa, sắc mặt xanh nhợt như tàu lá chuối song vẫn nghiến răng nén chịu cơn đau lại, phất tay hô lên:

-Đánh!

Chỉ chờ có vậy, đoàn quân thiết giáp kéo rần rần tới hợp cùng với đoàn quân của Tô Khất vây quanh đoàn người Đại Minh Triều.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 34: Họa vô đơn chí

Dương Tiêu Phong điều động toàn quân dàn trận “gọng kìm.” Binh lính triều đình tức thì chia thành hai phe.

Dương Tiêu Phong muốn đích thân thống lãnh đoàn binh thiết giáp nhưng một viên tướng dưới quyền tên Ngụy Tượng Xu thấy chủ soái bị thương nên cản lại, sai người hộ tống chủ soái rời khỏi rừng Bình Lương. Tả đô ngự sử Ngụy Tượng Xu thay Dương Tiêu Phong đem quân bọc sang phía đông, trong khi một người khác là Tổng đốc Trực Khang Sơn Đông - Chu Xương Tô xua quân đến ồ ạc tấn công phía tây.

Chu Xương Tô và Ngụy Tượng Xu ngồi trên ngựa liên tục vung đao kiếm chém trái chém phải khiến người Đại Minh Triều ngã như ngả rạ. Ngụy Tượng Xu giơ tay chỉ vào nơi Tần Thiên Nhân đang đứng mà nói:

- Ai đoạt được đầu tên đó, Phủ Viễn tướng quân thưởng ngay năm trăm lạng!

Binh lính liền tranh nhau mà tiến công điên cuồng trong vùng sơn dã.

Trương Quốc Khải nghe vậy liền hô:

-Bảo vệ thiếu đà chủ!

Người của Đại Minh Triều tức khắc tập hợp lại làm rào chắn cho Tần Thiên Nhân.

Tình hình bấy giờ xáo trộn dữ dội, người của Đại Minh Triều bị bao vây từ hai phía. Hai cánh quân tả hữu đều là tinh binh cờ trắng rồng xanh của Chính Bạch Kỳ Mãn Châu, ai cũng cầm thương dài kích lớn dũng mãnh mà đánh. Tần Thiên Nhân bị vây ở giữa, vận quyền điểm huyệt đản trung ở giữa ngực gần vùng tim, khi điểm huyệt này nội khí đa phần tuy bị tản mạn nhưng ngược lại có thể tạm thời phong bế nội thương đang hoành hành trong ngực chàng lại.

Trương Quốc Khải bợ lấy một bên tay đỡ Tần Thiên Nhân đứng cho vững, hỏi:

-Thiếu đà chủ, huynh cảm thấy thế nào?

Tần Thiên Nhân không đáp, chỉ nặng nhọc thốt được hai tiếng:

-Binh…lang...

Trương Quốc Khải liền cho tay vô áo lấy ra một quả, nói:

-Sao huynh bảo ăn nhiều không tốt cho sức khỏe, bảo đệ nên ăn ít lại?

Tần Thiên Nhân lấy binh lang thảy vô miệng, vừa nhai vừa nói:

-Nhưng mà bây giờ huynh đang cần chất kích thích.

Dứt lời tự nhiên nhớ nữ thần y, đêm trước khi chàng đi áp tiêu nàng bảo “muội không phải lo là huynh không có đủ thể lực, chỉ lo trận này sẽ có nhiều quyền biến…”

Nhất Đình Phong đang cùng Khẩu Tâm và Bạch Kiếm Phi đánh binh lính trối chết. Nhất Đình Phong hạ được năm tên rồi bay lại gần Tần Thiên Nhân nói:

-Thiếu đà chủ, Tam đương gia, làm sao bây giờ?

Binh lang như thần dược trong lúc này giúp Tần Thiên Nhân lấy lại sức, nói:

-Nhất đại hiệp, huynh quen đường xá vùng này, xin hỏi rừng này có lối thoát hiểm nào không?

-Có thì có, nhưng đường đi rất là hiểm trở, vốn dĩ không được xem như là con đường...

Tần Thiên Nhân nghe trả lời, nhìn trận đánh gọng kìm nói:

-Không được cũng phải được!

Rồi quay sang bảo Trương Quốc Khải:

-Hạ lệnh cho tất cả các anh em, dàn thành hàng ngang, đối mặt quân đội để không bị bao vây.

Trương Quốc Khải và Nhất Đình Phong nhìn nhau, rồi thấy phía đông có Ngụy Tượng Xu và đoàn quân thiết giáp xung phong tới, sau đó thấy phía tây cũng có quân của Chu Xương Tô, chỉ còn hở phía bắc và nam nhưng phía bắc là một vực thẳm thì sực hiểu, đồng thanh hô dạ.

Trương Quốc Khải bèn truyền lệnh:

- Toàn quân tản ra!

Vừa hét lớn vừa trực tiếp chỉ huy chiến thuật “dàn hàng” để cho phần nào các huynh đệ trong Đại Minh Triều có thể thoát ra từ hướng nam.

Tần Thiên Nhân tuy nói như vậy nhưng trong bụng rất lo, hẳn biết số lượng quân địch đông còn quân mình ít, nếu dàn quân quá mỏng thì lính Thanh có thể sử dụng chiến thuật áp đảo lực lượng. Mặt khác, lại không thể tập trung quá đông dẫn đến bị bao vây hoặc trở thành đích bắn dễ dàng của địch. Nhưng đây là chiến thuật duy nhất trong tình huống này.

Chu Xương Tô và Ngụy Tượng Xu có rất nhiều năm theo Dương Tiêu Phong giữ yên cương thổ, nên đánh trận chu đáo, hoàn toàn làm chủ tình hình lúc bấy giờ. Sự phối hợp tinh vi của hai vị tướng soái với thế đánh gọng kìm liên tục từ phía đông tây đã buộc phần nhiều huynh đệ bang hội tổn thất nặng nề.

Tần Thiên Nhân nhìn xác người nằm ngổn ngang, nói với Trương Quốc Khải:

-Tam đệ, lập tức đưa những người có thể rút được rút ra khỏi rừng!

Rồi quay sang Nhất Đình Phong nói:

-Nhất đại hiệp, xin dẫn đường cho Tam gia!

Trương Quốc Khải trợn mắt:

-Thiếu đà chủ, lẽ nào huynh không rời khỏi đây sao?

-Huynh phải ở lại đây cản chân bọn chúng.

Nhất Đình Phong đứng gần đó nghe được, vừa đánh vừa lui lại gần Tần Thiên Nhân nói:

-Không được!

Rồi họ Nhất dùng gươm chém đứt đầu một tên lính, lại tung chân đạp vào ngực một tên khác làm cho hắn văng ra kéo theo hai tên lính khác té bật gọng, sau đó tiếp:

- Nhất Đình Phong này rong ruổi giang hồ đã bao năm qua, nào giờ chưa hề sợ thứ gì, lẽ nào hôm nay bỏ lại thiếu đà chủ ở Bình Lương, rồi làm một kẻ đào binh sao hả?

Tần Thiên Nhân vừa dùng hai tay phát ra song quyền đánh vỡ sọ hai tên lính, vừa hất đầu về hướng Khẩu Tâm và Bạch Kiếm Phi đang bị quân của Chu Xương Tô vây, nói:

-Nhưng huynh không thể bỏ đại đương gia và Bạch đại hiệp, huynh không lòng dạ nào mà đi.

Vừa nói xong là có tiếng của Chu Xương Tô vang lên:

-Người của Đại Minh Triều, người nào bỏ gươm xuống quy hàng sẽ được tha mạng, bằng không, chỉ có chết!

Bạch Kiếm Phi nhổ một bãi nước bọt:

-Phì! Tên cẩu quan, mi xem chúng ta là ai đây? Bạch mỗ ta không phải người ham sống sợ chết, bảo ta cất kiếm gác gươm, giơ tay chịu trói, không bao giờ!

Khẩu Tâm cũng nói:

-Đúng vậy! Tất cả các anh em, chúng ta hãy cùng chúng quyết một trận tử chiến, dầu có chết ở nơi này ít nhất cũng phải chết một cách oanh oanh liệt liệt!

Toàn quân Đại Minh Triều hô dạ.


Thế là huynh đệ bang hội người nào người nấy chiến đấu oanh liệt, xông pha công kích binh lính triều đình, can cường đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Nhưng trấn giữ hướng đông một hồi sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự xuất quân ồ ạc như nước vỡ bờ của đoàn quân thiết giáp. Trong khi đó tuyến chống khán phía tây do Khẩu Tâm đảm trách cũng chẳng được khắm khá bao nhiêu.

Tần Thiên Nhân thấy tình huống không thể kéo dài mãi nên quyết định thay đổi chiến thuật, lần này lại muốn quân được chia thành hai nhóm mà chạy. Tần Thiên Nhân bảo Bạch Kiếm Phi và Khẩu Tâm mở đường máu, đảm nhiệm nhóm thứ nhất chạy một phía; phân nửa huynh đệ còn lại thì theo chàng, Trương Quốc Khải và Nhất Đình Phong.

-Chia quân ra!

Tần Thiên Nhân hô lớn.

Người Đại Minh Triều tuân lệnh, một số thân binh cầm gươm đao hộ vệ thiếu đà chủ lập tức mở đường chạy về hướng đông nam, theo sau là nhân mã của Ngụy Thượng Xu.

Ngụy Thượng Xu không để Tần Thiên Nhân thực hiện chiến dịch phân chia binh mã nên đã điều động phần lớn các lực lượng mãnh liệt đuổi theo nhóm người của Tần Thiên Nhân, nhất quyết triệt kẻ cầm đầu trước, quyết hạ được người thủ lĩnh để nhóm phụ tùng còn lại sẽ tự động tan rã.

Chu Xương Tô cũng xua quân đuổi theo binh đoàn của Bạch Kiếm Phi và Khẩu Tâm.

Bên Đại Minh Triều có những người không chạy đi được, ở lại rừng Bình Lương đánh một hồi chỉ còn mấy chục người vừa đánh vừa lùi, chỉ chớp nhoáng là bị Thanh binh vây chặt rồi giết sạch. Xác bị vứt xuống vực thẳm.

Bạch Kiếm Phi và Khẩu Tâm dẫn người mình chạy như gió theo hướng tây nam. Nhưng trong số đó chạy được hai ba chục dặm thì có một số ngựa bị đuối sức lùi lại phía sau. Khẩu Tâm và Bạch Kiếm Phi đành phải quay lại chờ, cả đoàn vì vậy mà chậm hẳn.

Chốc lát sau Thanh binh đuổi tới nơi, lá đại kỳ màu trắng hình rồng xanh bay phấp phới khiến cho tâm trạng quân Đại Minh Triều càng lúc càng tán loạn. Khẩu Tâm dẫn quân chạy tới một ngọn đồi lớn. Chu Xương Tô cưỡi ngựa tốt, cầm đại đao hướng dẫn toàn quân xông tới, có bọn thân binh hộ vệ trước sau.

Tiếng gươm khua ngựa hí rung trời, quân triều đính xông tới chém giết khiến quân Đại Minh Triều đổ rạp như rạ.

- Không xong, mọi người bảo vệ đại đương gia! - Bạch Kiếm Phi hốt hoảng la lớn.

Sau đó lập tức chạy lại gần Khẩu Tâm nói:

- Đại đương gia cứ lui trước, chúng tôi xin đi đoạn hậu!

Bạch Kiếm Phi giục một nhóm người hộ vệ Khẩu Tâm chạy thoát thân, còn họ Bạch và các huynh đệ Đại Minh Triều khác ở lại quyết cầm chân bọn truy quân. Sau khi Khẩu Tâm chạy rồi họ cố gắng chống trả đến cùng, nhưng chỉ nháy mắt là bị quân Thanh giết chết.

Lính của Chu Xương Tô thấy quân Đại Minh Triều bị giết, cả mừng nói:

- Chu tướng quân nhìn xem, bọn chúng không còn bao nhiêu tinh binh nữa.

Lại nói tới kỵ mã của Ngụy Tượng Xu cùng quân thiết giáp và tám mươi tinh binh phóng ngựa đi như tên. Theo sau còn có đoàn bộ binh Chính Bạch Kỳ rầm rộ.

Ngụy Tượng Xu cùng một toán tám mươi kỵ binh đuổi theo Tần Thiên Nhân. Ngựa của tám mươi kỵ binh này đều được tuyển chọn đặc biệt nên chạy rất nhanh, còn đoàn quân thiết giáp thì trang phục nặng nề, khiến cho ngựa đi chậm rãi không sao theo kịp ngay. Còn đoàn bộ binh của họ Ngụy thì đương nhiên bị bỏ lại khá xa.

Binh đoàn của Tần Thiên Nhân chạy tới Không Đồng Sơn, qua khỏi núi này là ra khỏi Cam Túc. Đường lên núi trắc trở, tới chỗ hai vách đá sừng sững, đường hẹp chỉ có thể để một người một ngựa đi xuyên qua nên đành phải chậm lại.

Qua khỏi vách đá, Nhất Đình Phong đi sau cùng, thúc ngựa tiến lên gọi:

-Thiếu đà chủ, truy binh đã đuổi sắp tới nơi rồi, chí ít cũng có tám mươi kỵ binh tinh nhuệ!

-Sao lại nhanh quá vậy? -Trương Quốc Khải nói - Không ngờ chúng ta chọn đi con đường hiểm trở thế này cũng bị chúng theo kịp được.

Tần Thiên Nhân nói:

-Tam đệ, đệ dẫn mọi người đi trước, huynh ở lại.

Đoạn nhìn mọi người hạ lệnh:

-Các người bảo vệ tam gia, đưa cho được huynh ấy về đồn Bạch Nhật, rồi liên lạc với ngũ gia và thất gia. Để ta cầm chân Thanh binh, kéo dài thời gian.

Trương Quốc Khải ngoảnh đầu ra sau nhìn tuyết trắng bay mịt mù từ vó ngựa truy binh đang tiến gần, quay lại nói:

-Thiếu đà chủ, chúng ta là huynh đệ, sao có thể để huynh một mình ở lại đây? Vả lại ở rừng Bình Lương chúng ta mở đường máu được, lần này chi bằng chúng ta lại mở đường máu mà đi.

Tuyết lúc này đã ngưng rơi. Tiếng vó ngựa càng lúc càng gần. Trương Quốc Khải giục:

-Không còn kịp nữa, thiếu đà chủ, huynh hãy mau chạy với mọi người!

-Tam đệ, đệ đã biết không còn thời gian nữa thì nghe lời huynh! Huynh biết nguyên khí trong mình gần cạn rồi, thời gian không còn nhiều, hãy mau đưa mọi người qua khỏi Không Đồng Sơn!

Nhất Đình Phong nói:

-Thiếu đà chủ, huynh hãy cùng đi với chúng tôi, nguyên khí gần cạn nghĩa là còn chưa cạn hẳn. Người xưa có câu còn nước thì còn tát, rừng còn xanh là còn củi đốn.

-Các người nghe ta nói, sư thái đã quy ẩn, chúng huynh đệ đang chạy hướng tây nam không biết có toàn mạng được không nhưng bang hội không thể thiếu người chưởng quản. Ở đồn Bạch Nhật còn có rất nhiều các anh em đang chờ các đương gia về lãnh đạo họ. Ta ở lại chốn này, bảo đảm có kế thoát thân. Yên tâm đi, hẹn gặp nhau ở hồi cương.

Trương Quốc Khải dĩ nhiên không tin Tần Thiên Nhân có thể thoát thân được, thầm nghĩ có lẽ Tần Thiên Nhân biết vết thương hiện thời đang mang trên mình cộng thêm vết thương ở Sơn Tây, biết bản thân mình không đi xa được nữa nên ở lại đoạn hậu.

Dây dưa một hồi Thanh binh đã đuổi gần kịp, Trương Quốc Khải nói:

-Huynh chỉ liều chết thôi, sẽ không thoát thân được! Một mình huynh đang trọng thương sao có thể đấu với tám mươi kỵ binh chứ?

-Đừng nói nhiều, đi mau, rút về hồi cương! Chúng đến rồi, huynh ở lại cầm chân chúng.

Mọi người vẫn không chịu đi, Tần Thiên Nhân quát:

-Đi mau!

Nhất Đình Phong và những người Đại Minh Triều chắp tay cúi đầu nói:

-Xin thiếu đà chủ theo chúng tôi rời khỏi nơi này!

Thấy Trương Quốc Khải cũng như những người khác, nhất quyết không chịu tuân theo lời mình, Tần Thiên Nhân nói:

-Tam đệ, đệ còn không hiểu hay sao? Trong hội đang rất cần người, chẳng lẽ đệ muốn họ hy sinh ở nơi này, để không còn ai bảo tồn con đường phản Thanh phục Minh?

Trương Quốc Khải vẫn chưa chịu đi, Tần Thiên Nhân tiếp:

- Ta đây vốn vô cùng hãnh diện về những vệ sĩ thuộc quyền mình. Tất cả đều can đảm, hy sinh, chịu đựng, nhưng bây giờ lại không tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong giờ phút hiểm họa như thế này.

Tần Thiên Nhân dứt lời lập tức tuốt thanh kiếm Trương Quốc Khải đang mang trong mình, đâm một nhát vào ngực, trước sự kinh hoàng của tất cả mọi người. Nhưng Trương Quốc Khải đã nhanh như chớp xuất quyền đánh cánh tay cầm kiếm đó của Tần Thiên Nhân sang bên, lưỡi kiếm chỉ rạch một đường trên vai trái Tần Thiên Nhân.

-Dừng tay! – Trương Quốc Khải hét lên – Được rồi! Đệ đồng ý với huynh!

Tần Thiên Nhân lập tức hạ kiếm xuống trả cho Trương Quốc Khải.

Sau khi Trương Quốc Khải dẫn quân rời đi khoảng nửa khắc, Ngụy Tượng Xu đã dẫn quân tới ngõ vào của hai vách đá, Ngụy Tượng Xu chần chờ một chút, e có tập kích nên còn chưa cho quân tiến vào, thì thấy Tần Thiên Nhân đang đứng chờ sẵn ở đằng ngõ ra.

Bằng thủ pháp vững chắc nhất có thể, Tần Thiên Nhân dùng chút hơi tàn còn lại xuất chiêu Kim Hoán Chưởng đánh vào hai vách đá muốn làm cho đá đổ xuống, một là đè chết một số kỵ binh, hai là cản trở bọn chúng tiến sang. Nhưng do đang bị thương trong mình nên chưởng pháp cũng yếu đi, thành ra khi Ngụy Tượng Xu cũng đánh ra một chưởng phản hồi lại liền làm chưởng pháp hòa nhau, vang ầm một tiếng trên không trung nghe đinh tai nhức óc, sau đó vách đá vẫn đứng sững.


Ngụy Tượng Xu sau đó xua quân chạy xuyên qua giữa hai vách đá bao vây Tần Thiên Nhân lại. Chỉ trong khoảnh khắc, Tần Thiên Nhân đã lọt vào tay địch. Bọn binh lính đứng vây tròn nhưng lúc nãy đã thấy họ Tần ác chiến với chủ soái của chúng, công phu tuyệt đỉnh, cũng đã giết rất nhiều binh lính tinh nhuệ nhanh như chớp bằng đôi song quyền thì sợ đến vỡ mật, cứ đứng xa xa chưa dám tới gần.

Ngụy Tượng Xu ngồi trên ngựa ở bên ngoài vòng chiến, vung gươm lên phi thân bay vào đối diện Tần Thiên Nhân. Họ Ngụy hô đánh, tụi quân binh tức khắc xông vào.

Tần Thiên Nhân một mình phải đánh với Ngụy Tượng Xu và tám mươi tinh binh, bước đi không vững, may mà song quyền đã được chân truyền trọn vẹn, đủ phong tỏa kín thân mình.

Đánh chừng bốn năm hiệp, Tần Thiên Nhân giết được ba mươi mấy tên lính, cũng lừa thế cướp được hai cây đao, phóng tới chém vào đầu Ngụy Tượng Xu. Bình thường thế đao đi rất nhanh, bách phát bách trúng nhưng hôm nay lại bị họ Ngụy vung kiếm đang cầm bên tay lên đỡ được. Rồi Ngụy Tượng Xu dùng tay không cầm kiếm tấn công vào bên phải Tần Thiên Nhân, quét vẹt song đao của họ Tần qua một bên, vận sức đẩy ra. Tần Thiên Nhân lảo đảo làm rơi cặp đao xuống đất.

Ngụy Tượng Xu thừa thắng xông lên, chém một nhát trúng vai Tần Thiên Nhân, lại bồi thêm một cước trúng vào giữa ngực. Mặt mày họ Tần không còn chút huyết sắc, mồ hôi tuôn đầy đầu, máu cũng chảy lênh láng, bước lui mấy bước rồi té ngửa xuống đất, hộc lên một tiếng, phun ra một ngụm máu lên giày một tên lính gần đó.

Tần Thiên Nhân phải một mình đánh với nhiều hảo thủ. Thêm vào khi này binh lang đã hết tác dụng nên vết thương của chàng lại trở đau, thần trí cũng hơi mơ hồ.

Binh lính thiết giáp bấy giờ mới cởi ngựa tới, đang đi xuyên qua hai vách đá. Nhưng Ngụy Tượng Xu cũng chẳng cần tiếp viện vì lúc này đã hoàn toàn làm chủ tình hình, lại tiến lên nhắm vào cổ Tần Thiên Nhân mà vung gươm, sắp lập được đại công thì bỗng từ xa xa xuất hiện một nhân ảnh. Hóa ra người đó là huyết y nữ tử đã cứu Giang Nam thất hiệp ở Sơn Tây.

Con ngựa trắng của cô gái áo đỏ đang cưỡi sải vó như bay, chỉ chớp mắt đã tiến vào trận địch. Nàng tuốt thanh gươm ra cầm sẵn, vừa tới là chém bay đầu bốn tên lính làm vòng vây tản ra.

Trận chiến này thật sự giống như một bàn cờ, chém giết đã hung hiểm mà tình thế càng phức tạp. Ở giữa thì Dương Tiêu Phong và Tần Thiên Nhân dốc toàn lực đánh nhau thí mạng. Có quân Đại Minh Triều bao vây bên ngoài hai người đó. Bên ngoài Đại Minh Triều lại có vòng vây của lính Thanh và quân thiết giáp của Chu Xương Tô và Ngụy Thượng Xu, huyết y nữ tử lại đang ở bên ngoài vòng vây đó, tìm cách ứng cứu. Bên ngoài của cô nương áo đỏ còn có thêm đại quân Thanh nào đang kéo đến bao vây hay không? Cục diện như thế nào? Chỉ đi sai một nước cờ là thua ngay lập tức.

Ngụy Tượng Xu nhìn cô gái vừa mới đến chỉ để lộ đôi mắt, họ Ngụy ngạc nhiên:

-Dám hỏi cô nương là ai?

Cô gái áo đỏ hét lên:

-Không phải nói nhiều!

Dứt lời nàng huýt sáo miệng một tiếng làm hiệu lệnh, đồng thời cũng bay xuống ngựa vung kiếm lên đánh tới, thế đánh càng gấp rút.

Ngụy Tượng Xu không muốn đánh nhau với nữ giới nên tuy có xuất chiêu đánh trả nhưng phần đỡ và né nhiều hơn.

Cô gái áo đỏ không đến một mình, theo sau nàng là những tiếng ầm ầm. Mấy chục người cưỡi lạc đà nghe tiếng huýt gió phát ra từ miệng nàng tức thì phía sau nàng xung phong ra trước, đồng lượt vung tay ném những cái bọc về phía bọn quân thiết giáp. Quân thiết giáp vươn giáo dài chỉa lên đâm bể những cái bọc, làm cho bụi chứa trong đó rơi ra bay mịt mù, khiến cho những bộ y phục màu bạc của quân thiết giáp đang mặc hóa thành màu vàng chanh. Những người cưỡi lạc đà lại vươn tên lửa bắn tới. Thì ra những cái bọc đó có chứa lưu huỳnh, màn bụi màu vàng tức thì bốc lửa.

Rừng lửa nóng hừng hực thiêu đốt rất nhiều binh lính áo giáp. Mọi người còn đang ngạc nhiên thì lại thấy thêm một nam nhân khác mặc áo xám tro, phía sau y lại dẫn thêm một đám chó sói nhiều không đếm xuể xông thẳng vào giữa đội ngũ quan sai. Quân thiết giáp bị rừng lửa chặn lại, không tiếp ứng cho Ngụy Tượng Xu được. Thêm vào đó quân Ngụy Tượng Xu lại bị áp đảo tinh thần từ hai phía. Bộ binh thì bị bọn người cưỡi lạc đà tấn công, kỵ binh thì có vô vàng sói lang tấn công chiến mã, làm bọn ngựa tung vó hí vang, hất từng tên kỵ binh xuống đất.

Chuyện này thật sự bất ngờ, Ngụy Tượng Xu sau khi phát một chưởng đánh bật cô gái ra bèn phóng trở lại yên ngựa sợ bọn chó lao tới cắn, họ Ngụy liên tục kéo dây cương lùi ngựa lại. Bọn bộ binh lẫn kỵ binh cũng bận bịu tay chân, vừa đánh những người cưỡi lạc đà vừa xua chó dữ đi.

Nam nhân mặc áo xám tro phi con ngựa tốt màu nâu xuất hiện, chỉ huy cho bầy sói tiến công xong cầm dây cương dẫn ngựa trắng của cô gái vòng qua tránh trận hỗn chiến, phi thẳng đến chỗ Tần Thiên Nhân. Gần tới nơi thì nhận ra chính là Tàu Chánh Khê.

-Thiếu đà chủ mời lên ngựa!

Tàu Chánh Khê nhảy xuống đất giúp Tần Thiên Nhân leo lên lưng ngựa trắng, rồi phát vào mông nó một cái để nó đưa họ Tần rời khỏi bãi chiến hỗn độn. Kế đến họ Tàu thúc ngựa nâu chạy lại gần cô gái, đưa tay ra kéo nàng lên ngồi phía sau lưng chàng, họ Tàu cùng cô gái hai người cởi chung một con ngựa hối hả rút khỏi Không Đồng Sơn.

Binh lính triều đình kinh ngạc không hiểu ở đâu xuất hiện cô gái ăn vận như con phượng hoàng lửa cứu Tần Thiên Nhân thoát hiểm.

---oo0oo---

Ngụy Tượng Xu dẫn quân chạy về tới khu trại lính đóng bên ngoài khu rừng Bình Lương. Hai tên lính vừa mở hàng rào là Ngụy Tượng Xu lộn ngay xuống ngựa tiến vào trại. Một tên lính dẫn ngựa cho đi ăn.

Ngụy Tượng Xu vén rèm bước vào lều quỳ xuống nói:

-Tham kiến Phủ Viễn tướng quân, phó tướng quân, Tả đô ngự sử cũng đang trên đường về đây.

Tô Khất nói:

-Làm rất khá.

Dứt lời hất đầu về phía một góc trong lều.

Ngụy Tượng Xu thấy Dương Tiêu Phong ngồi xếp bằng bất động, hai mắt nhắm nghiền.

Tô Khất và Ngụy Tượng Xu bèn ra khỏi lều để cho Dương Tiêu Phong nghỉ ngơi.

Tô Khất nói:

-Phủ Viễn tướng quân trong mình đang bị chấn thương không nhẹ.

Ngụy Tượng Xu nói:

-Không hiểu sau Phủ Viễn tướng quân lại bảo phải để cho bọn Đại Minh Triều đi? Mạt tướng cứ nghĩ diệt được Tần Thiên Nhân là diệt được mối họa của Thanh triều chứ.

Tô Khất còn chưa trả lời, Ngụy Tượng Xu tiếp:

-Hay là Phủ Viễn tướng quân định đợi bọn chúng tụ tập đầy đủ ở đồn Bạch Nhật rồi mới bủa lưới bắt trọn bộ, để từ nay trên giang hồ không còn Đại Minh Triều nữa? Hoặc có thể tướng quân giữ mạng lại cho họ Tần, nhất định là muốn dẫn dụ sư đệ của hắn Cửu Dương lộ diện? Nhưng mà hiện tại thì toàn bộ những tên nòng cốt của bang hội trừ Bạch Kiếm Phi đã thoát hiểm.

Tô Khất cười khà khà nói:

-Hy sinh một số binh mã mà biết được bản lãnh của Tần Thiên Nhân và mấy tên gọi là đương gia của hắn như thế nào, cũng đáng lắm đó chứ.

---oo0oo---

Trương Quốc Khải, Nhất Đình Phong và các thành viên Đại Minh Triều chờ dưới chân núi Không Đồng Sơn, Vạn Văn Thông cũng có ở đó. Trương Quốc Khải trông thấy Tần Thiên Nhân bình an cưỡi ngựa tiến lại, vui mừng trong lòng. Tàu Chánh Khê, huyết y nữ tử và Tần Thiên Nhân xuống ngựa.

Trương Quốc Khải ôm lấy Tàu Chánh Khê vỗ vỗ lên vai, rồi quay sang nhìn cô gái áo đỏ, Trương Quốc Khải nói:

-Đa tạ cô nương cứu mạng, chúng tôi lúc nãy ở cửa tử thần, bị toán quan binh bao vây, không sao ngăn cản nổi, cũng may là có cô nương đây.

Tần Thiên Nhân đã biết cô gái này là ai rồi, tuy chàng chỉ thấy chiếc khăn che mặt đã che khuất mọi thứ, chỉ chừa đôi mắt nàng. Nhưng cái khăn che mặt đó cũng không che đậy được hết cái đẹp, vì đôi mắt kia trong suốt, xanh thẩm. Cái ánh mắt đó buồn buồn, sâu lắng đang nhìn chàng. Cái ánh mắt đó khiến lòng chàng tự dưng xao động. Tần Thiên Nhân vội lẩn tránh, cụp mắt xuống cúi đầu xá một cái:

-Đa tạ đại muội.

Cô gái kéo khăn che mặt xuống. Trừ Tàu Chánh Khê và Vạn Văn Thông tất cả sững người, không ngờ cô nương huyết y phượng hoàng lửa chính là Lâm Tố Đình.

Tàu Chánh Khê nói:

-Chiều hôm qua có người của đệ ở Kim Xuyên phát hiện quân binh đang đóng bên ngoài khu rừng Bình Lương nên đệ và đại muội mới tới hỗ trợ. Giữa đường gặp Vạn lão anh hùng.

Vạn Văn Thông nhìn Tần Thiên Nhân cười ha hả nói:

-Thiếu đà chủ ngạc nhiên lắm phải không? Ta cũng vậy thôi. Tệ hơn là ta tự xưng là lão giang hồ mà không ngờ trong hội có một cô nương võ công trác tuyệt như vậy, trước đó ta lại chưa từng nghe qua.

Lâm Tố Đình nói:

-Vạn lão anh hùng đã quá lời rồi, vãn bối cũng thường theo bảy người đương gia và sư thái ra võ trường luyện phép cưỡi ngựa bắn cung, nên biết qua chút ít võ nghệ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 35: Đồn Bạch Nhật

Đoàn thiên lý mã của quần hùng Đại Minh Triều quả rất phi thường, cưỡi chúng chỉ cảm thấy gió thổi ào ào qua bên tai, đồi núi, cây cối ở hai bên đường lùi về sau lưng như biết bay vậy. Đến giờ hợi quần hùng Đại Minh Triều đã chạy hơn hai trăm dặm, bỏ quân Thanh lại phía sau khá xa. Nghỉ ăn tối và dẫn ngựa cho đi uống nước ăn cỏ xong, họ lên ngựa chạy tiếp, biết mình chạy thêm một ngày nữa là quân của Ngụy Tượng Xu đừng hòng đuổi kịp, có thể yên tâm dựng lều nghĩ đêm.

Đoàn người Đại Minh Triều đi mất ba ngày. Chưa đầy một ngày nữa, họ đã tới Tiêu Châu.

Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình cưỡi chung một con ngựa đi sau cùng. Khi hai người cho ngựa phi ngang Gia Cốc quan, Tàu Chánh Khê giơ tay chỉ cái tháp nói:

-Đại muội còn nhớ hồi xưa mình thường hay lên đỉnh Gia Cốc quan này chăng?

Lâm Tố Đình gật đầu nói phải. Nàng cũng nhớ hồi trước hai người thích đứng tựa vào tháp canh này đảo mắt nhìn quanh thấy trường thành uyển chuyển như sợi chỉ vòng vo ôm lấy giang san hoàng thổ, như chống chọi lại bảo cát thổi đến từ một vùng hoang mạc rộng lớn mà họ sắp phải đi tới.

Lâm Tố Đình bảo Tàu Chánh Khê dừng ngựa lại một chút. Ra ngoài quan ải khi nào nàng cũng theo lệ mà ném một cục đá vào trường thành ở quan ngoại.

Lâm Tố Đình nhặt một hòn đá ném cho bay đi chạm vào vách thành kêu một tiếng cạch rõ lớn, nói:

-Muội còn nhớ ngày xưa huynh bảo hành trình ở vùng gió cát lắm chuyện gian nan, nhưng nếu ai ra ngoài quan mà lấy đá ném vào trường thành thì có thể sống sót trở về quan nội.

Tàu Chánh Khê gật đầu mà cười.

Đoàn người ngựa đi tiếp mấy dặm nữa chỉ còn thấy khói bụi cuồn cuộn, mặt trời đã ngả hoàng hôn. Trương Quốc Khải và Tần Thiên Nhân cưỡi ngựa đi đầu, nghe văng vẳng tiếng hát của Lâm Tố Đình vọng tới. Giọng ca nàng ấm và hay, nhưng sao mà nghe thê lương, truyền đi cả một vùng hoang vắng.

Dọc đường ngày đi đêm nghỉ, họ qua khỏi Ngọc Môn rồi tới Tây An, Lâm Tố Đình lại đập đập vào vai Tàu Chánh Khê la lên:

-Ngũ ca huynh xem, sa mạc từ màu vàng nhạt trở thành vàng đậm, rồi từ màu vàng đậm trở thành màu xám tro rồi kìa!

Tàu Chánh Khê lại gật, Lâm Tố Đình mừng tiếp:

-Vậy là chúng ta sắp đến Qua Bích rồi!

Tàu Chánh Khê thúc ngựa cho chạy nhanh hơn để theo kịp đoàn người trước mặt. Ở vùng này thì không có nhà cửa quán trọ gì nữa. Sa mạc mênh mông, mắt nhìn không vướng, đúng là nơi dụng võ của loài thiên lý mã. Tinh thần như phấn chấn hẳn lên, ngựa của Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình đang cưỡi phi càng nhanh chóng, chẳng bao lâu phía trước đã thấy một dãy núi xuất hiện mờ mờ.

Vách đá càng lúc càng gần, dựng thành hình chữ nhất vươn hẳn ra ngoài. Phía sau núi đá, mây mù bao phủ dày đặc, cứ như trong đó có một khu đất trời khác hẳn. Đi đến gần, mới đột nhiên thấy giữa vách đá có một khe nứt. Quần hùng Đại Minh Triều theo hẻm núi đó mà chạy thẳng vào trong. Đó chính là Tinh Tinh Hiệp, đường giao thông quan trọng nối giữa Trung Nguyên và hồi cương.

Hai bên hẻm núi này vách đá dựng thẳng đứng lên trời, giống như dao gọt mà thành. Ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy bầu trời xanh thẳm, giống như nhìn từ dưới đáy biển vậy. Nếu ban đêm thì nhìn lên chỉ thấy toàn sao, có lẽ vì thế mà hẻm núi này có tên là Tinh Tinh Hiệp. Trong hẻm núi, nham thạch toàn một màu đen tuyền, bóng loáng đến mức phát ra ánh sáng. Con đường quanh qua quẹo lại, khúc chiết lạ thường.

Lúc này đã mùa đông, trong hẻm núi có tuyết. Tuyết trắng đá đen phản chiếu vào nhau, thật là kỳ quan khó tả. Tàu Chánh Khê thầm nghĩ, khe núi này địa thế hiểm trở, dùng binh tấn công qua đây thật là không dễ. Năm xưa, khi chàng còn nhỏ vừa đến Hồi Cương đã thấy cảnh này nhưng lúc đó không lưu ý lắm.

Qua khỏi Tinh Tinh Hiệp, đoàn người ngựa vượt qua thêm một chặng đường nữa thì trời đã tối hẳn, chỉ trông sao mà tiếp tục đi.

Lâm Tố Đình buồn ngủ ngồi phía sau ngáp một cái dài, Tàu Chánh Khê ngồi đằng trước hơi quay đầu ra sau nói:

-Đại muội cố lên, chúng ta lại còn phải đi thêm mười dặm nữa sẽ tới Tháp Bảo, ở đó có một thị trấn thuộc loại lớn ở vùng biên ải này. Đêm nay sẽ trú lại đó rồi đi tới đồn Bạch Nhật.

Lâm Tố Đình nói:

-Muội không sao, muội chỉ muốn cho mau tới tổng đà, lâu lắm rồi muội mới trở về lại nơi đó.

Nói rồi nàng ngồi thẳng lưng lại, nhưng được một chốc thì gục đầu hẳn vào lưng Tàu Chánh Khê.

Qua chiều ngày hôm sau nữa vết thương của Tần Thiên Nhân trở nặng nên đoàn người buộc phải di chuyển chậm lại, kết quả vẫn chưa tới được đồn Bạch Nhật.

Lúc này gió nổi mạnh, mây sà xuống thấp hơn. Ánh chiều tà hồi cương soi sáng một vùng hoang dã mênh mông không bờ bến, nhìn mãi chỉ thấy cát vàng cùng mấy cây xương rồng lơ thơ, chỉ có đoàn người đang đi, trông xa xa như một đàn kiến nhỏ bé giữa muông trùng đại mạc.

Cảnh hoàng hôn vốn đã buồn, tâm trạng tha phương lại càng khó chịu, dường như đoàn người đều mang nỗi thê lương.

Gió sa mạc về đêm lớn và lạnh. Tuấn mã cũng mệt nên họ dựng lều nghĩ lại một đêm, hôm sau lại khởi hành đi tiếp.

Khi đoàn người đi đến nơi mà hai bên đều là những ngọn núi đá đen nhánh liên miên bất tận, Lâm Tố Đình rùng mình. Tàu Chánh Khê biết nàng sợ nơi này. Bố Long Cát này là một đoạn của sa mạc ở khu vực hồi cương, cái tên này có nghĩa là sa mạc quỷ, có rất nhiều chuyện kỳ lạ người ta đồn xảy ra ở đây, chẳng hạn như nghe thấy tiếng hổ gầm, tiếng trẻ con khóc, tiếng hát nữ, thậm chí cả tiếng đàn bị đứt dây.

Đoàn người chạy mấy giờ nữa thì đến đoạn đại mạc gọi là Qua Bích. Qua Bích bằng phẳng như một mặt gương rất lớn, hoàn toàn không có đồi cát như sa mạc thông thường. Lâm Tố Đình đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời đất nối tiếp nhau, cả một vùng thiên địa mênh mông không có một tiếng động, dường như vũ trụ chỉ còn đoàn người của nàng. Tuy võ công của nàng cao cường nhưng thấy cảnh tượng này cũng bất giác sợ hãi, cảm thấy thế giới bao la không bờ bến, còn bản thân mình thì chỉ là hạt bụi vô nghĩa.

Còn đang miên man suy nghĩ thì Tàu Chánh Khê hãm ngựa lại. Phía trước mặt là đồn Bạch Nhật, nơi có những chiếc lều màu trắng nhiều không đếm xuể. Những chiếc lều này được dựng cạnh nhau thành hình xoắn ốc, nhìn xa xa phản chiếu ánh sáng như một mặt trời màu trắng. Đồn Bạch Nhật là khu huấn luyện quân ngũ của bang hội ở hồi cương, cũng là tổng đà thứ hai của Đại Minh Triều.

Tàu Chánh Khê giơ tay chỉ những lá cờ có chữ Chu màu trắng cắm trên mặt cát đang bay phần phật trong gió, mừng nói:

-Phía trước là đội ngũ của chúng ta!

Nói xong từ từ cho ngựa đi về phía doanh trại. Có rất nhiều người ở Đồn Bạch Nhật vừa chạy ra đón vừa hoan hô vang dội.

Đã tới nơi, đoàn người của Tần Thiên Nhân đều nhảy xuống ngựa. Trần Tử Sang, Hồ Quảng Đông và Lạc Thiết Môn dẫn đầu đoàn người ở hồi cương cúi đầu thi lễ với thiếu đà chủ. Có những huynh đệ ở đồn Bạch Nhật còn chưa thấy mặt thiếu đà chủ bao giờ, Hồ Quảng Đông quay sang họ nói mấy câu, các đội trưởng đội kỵ binh liền đến trước mặt Tần Thiên Nhân chắp tay thi lễ rồi nói:

- Thiếu đà chủ vất vả quá.

Vết thương của Tần Thiên Nhân dầu đang đau rất cần nghỉ ngơi nhưng cũng cúi đầu đáp lễ, nhiệt tình hỏi thăm vài câu. Lạc Thiết Môn nhìn nét mặt Tần Thiên Nhân biết vết thương nghiêm trọng, bèn giục Trương Quốc Khải và Khẩu Tâm dìu thiếu đà chủ đi vào một căn lều to nhất ở trại lính. Tần Thiên Nhân có địa vị rất cao trong hội, đi đến đâu thì tiếng hoan hô nổi lên đến đó.

Đến gần cửa lều thì một hồi kèn vang lên, khi này là giờ ngọ, ba đội chiến sĩ đi thành hàng ngũ xuất hiện. Tần Thiên Nhân quay đầu nhìn, thấy người nào cũng tay trái dẫn ngựa, tay phải nắm trường đao. Người đội trưởng ngồi trên chiến mã dẫn đầu, hô lớn:

- Tham kiến thiếu đà chủ!


Bọn chiến sĩ thanh niên đồng thanh hô lớn:

- Đa tạ thiếu đà chủ cùng các huynh đài đã mệt mỏi chống đỡ với cường địch!

Người đội trưởng vung trường đao một cái, dẫn ba đội chiến sĩ đi vòng quanh doanh trại canh gác. Để cho người đội trưởng khác và binh sĩ của y đi nghỉ ngơi.

Tần Thiên Nhân thấy Trần Tử Sang, Lạc Thiết Môn và Hồ Quảng Đông điều động rất có phương pháp, bố trí canh phòng tổng đà này rất nghiêm, nên thầm khen ngợi và cảm thấy yên tâm.

Khẩu Tâm vừa dìu thiếu đà chủ vừa nói chuyện với Trần Tử Sang.

Khẩu Tâm kể lại chuyện bang hội đi chở gạo cứu trợ cho dân bị nạn nhưng không may bị phục kích ở Bình Lương. Dưới ánh dương đao quang của địch phát ra khiếp đảm, mà thần thái những người trong hội ai cũng bi tráng hào hùng. Mọi người đều biết khí thế quân Thanh hùng mạnh, quyết chiến thì thắng ít thua nhiều; nhưng cả thảy người của Đại Minh Triều đều yêu chuộng tự do, quyết không làm nô lệ cho ngoại tộc...

Người Đại Minh Triều ở hồi cương đứng nghe Khẩu Tâm kể, ai cũng nghiến răng nghiến lợi.

Khi Khẩu Tâm kể tới đoạn Bạch Kiếm Phi đi đoạn hậu, Khẩu Tâm lắc đầu bảo:

-Ngoài bần tăng, thì toàn bộ không ai thoát khỏi, a di đà Phật.

Tin Bạch Kiếm Phi và nhiều huynh đệ trong bang hội chết khiến mọi người tiếc thương.

Tần Thiên Nhân đi đường nhiều ngày mệt mỏi, lại trải qua một phen nguy hiểm khác thường, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, vừa vào lều là lập tức thổ huyết rồi loạng choạng muốn ngã xuống. Mọi người thấy vậy hốt hoảng cả lên. Lâm Tố Đình chạy đến định đỡ Tần Thiên Nhân nhưng Trương Quốc Khải đã nhanh tay bợ lấy cánh tay Tần Thiên Nhân giữ cho đứng vững. Tần Thiên Nhân mơ mơ màng màng, luôn miệng gọi “Tây Hồ Tây Hồ,” khiến cho Lâm Tố Đình khựng bước lại.

Lâm Tố Đình bước trở lui đứng cạnh Tàu Chánh Khê sau đám đông. Tàu Chánh Khê nghiêng đầu nhìn sang, thấy mắt nàng rưng rưng, khóe môi rung động. Chàng hiểu ngay, nén một tiếng thở dài thầm nghĩ “đại muội muội thật là mạng khổ, nàng cùng nữ thần y như hai chị em thân thiết nhau từ nhỏ, cả hai sao lại cùng yêu một người? Thật là ngang trái...”

Khi này có một cô gái chạy vào lều vạch đám đông bước tới gần thấy Tần Thiên Nhân ở đó nàng reo lên, trong lòng mừng rỡ như sắp nổ tung ra vậy.

Nữ thần y không ngại sà vào lòng Tần Thiên Nhân giữa đám đông người. Tần Thiên Nhân cũng không bao giờ ngờ lại có thể gặp được nàng ở hồi cương. Chàng cảm thấy tấm thân mềm mại đang tựa vào lòng mình, mùi hương hoa lan trên tóc nàng thoang thoảng truyền vào mũi, đúng là thần hồn phách tán, không biết mình đang mơ hay đã bay lên trời nữa.

Nữ thần y hướng mắt lên nhìn Tần Thiên Nhân thấy mặt chàng trắng như tờ giấy, hơi thở yếu ớt. Nàng liền dìu chàng đến ngồi xuống thảm dựa lưng vào vách lều.

Từ khi nữ thần y xuất hiện Lâm Tố Đình liếc qua em gái một cú, thấy nữ thần y cứ đắm đuối nhìn Tần Thiên Nhân, ánh mắt lộ vẻ ngàn lần ngưỡng mộ, không lo lắng e ngại về sự có mặt của các bậc trưởng bối chút nào. Lâm Tố Đình bất giác thở hắt ra một hơi, quay sang nhìn Tàu Chánh Khê thấy chàng thần sắc ổn định, khí khái nhàn hạ, dáng vẻ tự nhiên vô cùng. Ánh mắt hai người chạm nhau, Tàu Chánh Khê mỉm cười khẽ gật đầu. Lâm Tố Đình hơi đỏ mặt lên, quay đi ngay.

Trương Quốc Khải hỏi nữ thần y về tình hình của tổng đà ở Hàng Châu, nữ thần y chưa trả lời thì một học trò của Cửu Dương tên là Bạch Chấn bước ra nói:

-Bẩm tam đương gia, học trò thấy tên Triệu Phật Tiêu đô thống dẫn quân ùn ùn đến Tây Hồ, vội vã chạy đến miếu Bao Công bảo nữ thần y cô nương trốn đi, rồi về Hắc Viện bẩm báo, nào ngờ chưa vào Hắc Viện đã thấy huynh đệ chúng ta đánh nhau với bọn quan binh trong sân, người chết đầy rẫy, Lữ Nghị Trung phu tử đã bị bắt giữ, tổng đà của chúng ta ở Giang Nam…

Nói tới đây Bạch Chấn lắc đầu, đoạn tiếp:

- Hắc Viện và chùa Thanh Tịnh bây giờ hết rồi!

Nữ thần y rơi lệ, không ngờ nàng gặp may như vậy, tự nhủ trong hội nàng là người yếu đuối vô dụng nhất, nhưng vì nàng dẫn các bệnh nhân ra ngoài trấn trị bệnh dịch mới thoát khỏi thảm cảnh Hắc Viện và chùa Thanh Tịnh bị diệt. Hôm đó nàng đang đứng bên cửa sổ trong ngôi miếu, nghe tiếng chân gấp rút, nghĩ bụng “lúc này vẫn còn người cố đi đêm, không biết có việc gì gấp đây?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 36: Bắc quan đại nhân

Phố chợ Hàng Châu đêm đông vẫn đông người qua lại. Một nam nhân mặc y phục màu bạch kim bước ra từ cổng hậu của Hắc Viện. Phía trước trường học cổng chính đã bị niêm phong bằng hai miếng giấy vàng dán chéo nhau, và như vậy dường như còn chưa đủ để cảnh báo những kẻ không liên quan nên tránh xa thư viện, thêm mười hai người lính đứng cầm trường đao canh gác.

Nam nhân bận đồ bạch kim đi chầm chậm trên lối sỏi hướng tới cầu Tây Lâm, mắt ngắm Tây Hồ về đêm. Hai bên bờ hồ trồng nhiều dương liễu. Mùa này những cây dương liễu hoàn toàn trơ trụi, không có một chiếc lá nào, những cành liễu nghiêng theo gió đông đang thổi.

Khi người này vào chợ Đông Ba có một nhóm kỷ nữ ngồi trong kỷ viện đang vén rèm trông ra. Trông thấy y, mắt họ thoáng ánh kinh ngạc, vẻ mặt hơi sững sờ, nhưng mau chóng lấy lại thái độ bình thường đưa tay vẫy gọi. Nhưng y chỉ đi ngang qua mà không vào, khóe miệng nhếch cười, dời ánh mắt sang chỗ khác. Đám kỷ nữ dõi theo thân hình khôi vĩ vận trường bào màu bạch kim, lưng thắt đai xanh biếc đính ngọc bội đồng màu mà thầm tán thưởng. Y đẹp trai muốn xỉu, họ nhủ bụng, làm cho nữ nhân nhìn thấy chỉ muốn chết vì cái điệu cười nhếch nhếch mép quá sức là lôi cuối, lại thêm khuôn mặt góc cạnh trông rất nam tính, mắt sáng như sao. Người này không thiếu dũng mãnh, khuyết điểm duy nhất của y là dáng đi cứng ngắt như một tấm bài vị biết đi nhưng xét đến cùng vẫn là một mỹ nam tử.

Nam nhân đó đi gần tới một quán ăn lớn, thì nghe từ trên lầu của quán ăn vọng ra tiếng nhổ phì, rồi một miếng thịt heo quay bay vụt xuống nằm trên mặt đường.

Hai đứa trẻ đang bới móc đống rác gần đó, thấy miếng thịt nằm chỏng chơ, xô đến nhặt. Mắt hai đứa sáng rực lên, dán chặt vào phần da phồng lên dòn rụm hấp dẫn. Thấy thức ăn lấm láp, đứa em nuốt nước miếng bảo anh:

- Đại ca, ca thổi sạch rồi mình ăn ha?

Thằng anh phùng má thổi. Bụi đường đã dính, chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp. Chính cái miệng háu đói của nó chạm vào làm miếng thịt quay rơi tõm xuống vũng nước bùn đen kịt.

- Ai biểu ca thổi chi cho mạnh – Thằng em nói rồi thút thít.

- Ừa. Tại ca! Nhưng còn mấy miếng nhỏ còn dính tay nè. Cho đệ ba ngón, ca chỉ liếm hai ngón thôi!

Nam nhân mặt đồ bạch kim lặng người đứng nhìn hai đứa trẻ sinh ra trong thiếu thốn, mà luôn biết yêu thương nhau vì chúng biết rằng chúng cần phải học cách chia sẻ để cùng nhau tồn tại.

Y lại nghe trên lầu có tiếng phân trần:

-Xin các vị quan khách thông cảm cho tệ quán, hôm qua ông chủ Đới làm tiệc thọ đã dùng hết cả đồ ăn ngon trong tất cả các quán tỉnh Hàng Châu này, chỉ còn bấy nhiêu...

Đới Thế Xuân là chủ hãng tơ lụa Thiên Xuân nằm phía tây Hàng Châu, ở miền nam hãng lụa này là lớn nhất. Ba đời họ Đới đều rất giàu có, địa vị ở Hàng Châu đương nhiên vì vậy rất đáng nể. Chưởng quầy nhắc tới họ Đới chỉ mong được những người khách này thông cảm.

Nhưng người ném miếng thịt xuống lầu là Triệu Phật Tiêu. Triệu đô thống ở miền bắc mới tới đóng quân ở đây chưa được một tuần, tuy đang mặc dân phục nhưng cũng là gấm vóc thượng hạng, lại chơi sang bao cả quán ăn nên chưởng quầy đương nhiên phải tìm cách làm dịu lòng khách. Họ Triệu không phải người bản xứ, nhưng cũng có nghe qua Đới Thế Xuân là nhân vật thế nào. Đới Thế Xuân chuyên dùng bạc nén móc nối nên quen biết rất nhiều quan viên trong triều. Nhưng dù họ Triệu có biết vậy mà cũng không kiên dè, vì người chống lưng cho y còn giàu hơn thế nữa.

Ngụy Tượng Xu và Chu Xương Tô ngồi chung bàn Triệu Phật Tiêu. Hai người thấy Triệu Phật Tiêu chê lên chê xuống thì dùng đũa gắp một cọng rau xào và một tai nấm còn bé hơn cả đồng xu lên nếm thử, cũng nhăn mặt.

Triệu Phật Tiêu được thể đập bàn giận dữ nói:

-Đới Thế Xuân là cái thá gì mà dám dùng hết các thức ăn hảo hạng dành để nấu cho chủ nhân của ta ăn?

Hai bên đều là khách giàu sang phú quý, chưởng quầy liên tục vò đầu, thật tình không biết đối đáp thế nào nữa, mà ghe chở thực phẩm đến bỏ cho quán ăn thì còn hai ngày nữa mới tới.

Tô Khất thấy họ Triệu giận dữ vậy, phát vào vai Triệu Phật Tiêu một cái cốt bảo nên bình tĩnh lại. Rồi quay sang chưởng quầy, Tô Khất nói:

-Còn không mau đi vào trong bảo đầu bếp nấu mấy món Tô Châu mang ra đây? Những thứ thô thiển ở Hàng Châu này chủ nhân ta làm sao mà ăn được?

Nam nhân bận đồ bạch kim kia chính là Dương Tiêu Phong, khi này bước qua cửa để đi lên lầu, đến chân cầu thang lại nghe tiếng của một ông lão:

-Vậy mới nói là người giàu không biết cái khổ của người nghèo. Mấy tên đó nhìn tướng tá nom có vẻ là quan quyền hoặc chí ít cũng là bề thế lắm mới dám chửi cả ông chủ Đới. Bá tánh khắp thiên hạ bị đói không biết mấy ngàn mấy vạn, những người lo việc triều chính như bọn họ có bao giờ nghĩ đến cái khổ của chúng ta không? Hôm nay phải chi ta là chưởng quầy ta sẽ cho họ nhịn đói, để sau này hiểu được bá tánh bị đói là khổ sở thế nào.

Tiếng của một lão già khác tiếp:

-Ông nói chí phải, người ta thì đói hết tháng này qua tháng khác, từ năm này qua năm khác, suốt đời không được một bữa no. Bọn tụi hắn chỉ ăn thức ăn đạm bạc chút thôi, có chi đáng kể.

-Đúng vậy, anh em ta hồi nhỏ đã có lần phải ăn rễ cỏ lá cây liền hai tháng. Đám quan lại kia, có muốn thử một lần không?

Dương Tiêu Phong liếc nhìn, thấy hai người vừa nói là hai ông lão viết chữ thư pháp, một người đang dựng lều, người kia đang bài tranh ra bán. Hai lão xuất thân con nhà nghèo khổ. Nhắc đến chuyện đói bụng, ai cũng nhớ lại những chuyện quá khứ, tất cả đều bốc lửa giận lên. Tiêu Phong nghe họ nói người này một câu, người kia một câu. Dầu là hai người nói rất nhỏ tiếng, chàng cũng đứng khá xa họ nhưng tai người tập võ nghe rất thính, huống gì chàng lại có võ công rất cao, những gì hai lão đó nói chàng nghe không thoát một lời.

Tiêu Phong bước vội lên lầu ngồi vào bàn nói:

-Mấy món này đủ cả màu sắc hương vị, không thể gọi là thô thiển được.

Nói xong, chàng đưa đũa ra gắp ngay.

Ngụy Tượng Xu ngồi cạnh, đưa đũa ra cản rồi nhỏ tiếng nói:

-Những thứ thô thiển này chủ nhân không nên ăn, dễ bị đau bụng lắm. Lại nữa trong mình ngài còn đang bị thương.



Nhưng Phủ Viễn tướng quân không xa hoa như Tam mệnh đại thần, dầu thân phận cũng cao quý không kém nhưng có lối sống rất bình dân, hơn nữa những lần viễn chinh phải hành quân rất xa, quen ăn những thứ đã chế biến sẳn rồi mang đi phơi khô nên không câu nệ hương vị gì, ăn để mà lấy sức đánh trận, cứ nghĩ hễ có đồ ăn thức uống đã là tốt rồi.

Thành ra Ngụy Tượng Xu dứt lời, thấy Dương Tiêu Phong gắp một cọng cải bỏ vào miệng ăn ngon lành. Sau đó Tiêu Phong còn khen và bảo chưởng quầy lui ra, rồi bảo Chu Xương Tô xuống lầu kêu hai đứa trẻ lên ngồi chung bàn với mình.

Hai đứa bé này là dân làm nông ở Tây An chạy nạn Hoàng Hà đến đây, cha mẹ chúng đang làm thuê đâu đó trong chợ. Trước nay thân thể tụi nó khỏe mạnh, ăn uống như hùm. Chúng đã hai ngày hai đêm không có gì bỏ bụng, da bụng đã dán sát vào xương sống, làm sao mà nhẫn nại thêm nữa? Chúng đợi những kẻ nam nhân trông rất giàu có này cho phép ngồi xuống ghế là lập tức múa đũa như bay, nhanh gấp mười lần học sinh của Hắc Viện múa bút làm thơ, chỉ trong chốc lát đã ăn sạch sẽ bốn món đồ chiên xào trên bàn, ngay cả bát canh rau dềnh hầm với sườn heo cũng húp cạn đến trơ đáy chén.

Dương Tiêu Phong không đói, vả lại trong mình cũng không được khỏe nên chỉ gắp mỗi đĩa tí xíu, múc một muỗng canh rồi buông đũa, ngồi mỉm cười nhìn hai đứa trẻ ăn như rồng càn qua mâm.

Bọn nhóc ăn xong, thấy người dễ chịu khôn tả. Dương Tiêu Phong xoa đầu hai đứa, rồi bưng chén trà Long Tĩnh màu xanh bích lên uống chậm rãi. Trước khi hai đứa bé xuống lầu Tiêu Phong còn gọi thêm năm phần bánh bao và hai phần thịt quay cho chúng gói mang về.

Bọn nhóc đi rồi, dưới lầu có tiếng ồn ào. Một người nam tử cao lớn trên má phải có vết chàm to bằng cái bát muốn vào quán này tìm người, nhưng bị hai tên tiểu nhị cản lại.

-Xin lỗi vị khách này, trên lầu có người bao cả quán tối nay rồi.

Nam nhân đó đứng dưới lầu nói hướng lên, thanh âm ồn ồn như ngỗng đực:

-Nhà ngươi cứ lên đó báo, có Tiêu Nhất Đông tới xin bái kiến.

Bọn tiểu nhị còn trẻ, vả lại cũng không phải người trong giang hồ nên không biết khách nhân đang đứng trước mặt họ là một trong hai tên Quỷ Kinh Hồn nổi tiếng vùng Thanh Hải. Họ cũng không muốn bữa ăn của khách trên lầu bị quấy rầy nên cứ từ chối.

Tiêu Nhất Đông tức quá gầm lên một tiếng, dầu đang giữa đông mà gã cởi bỏ áo chỉ để ngực trần, vận vỏn vẹn cái quần màu đen, lưng đeo một thanh đại đao. Khách đi đường nghe tiếng gầm to như sấm tưởng sắp có đánh nhau nên hiếu kỳ bu lại xem. Mọi người đều thấy cơ bắp trên người họ Tiêu đường nét rất rõ ràng, trông như đám rễ của một cây to vậy. Mỗi nắm đấm phát ra chắc phải to bằng một cái tô đựng canh, dự là ngay cả con trâu lớn cũng không chịu nổi một quyền, huống chi hai tên tiểu nhị ốm tong như thế này.

-Hừ! Lại thêm một con chó săn của Ngao tông đường xuất hiện nữa, chủ nhân của mi lại sai mi đến ám sát Phủ Viễn tướng quân sao? Bọn mi thật là phiền phức, thất bại không biết bao nhiêu lần vẫn chưa chịu chừa!

Tô Khất nhận ra kẻ đang làm phiền bữa tối là Tiêu Nhất Đông, tức thì thò đầu ra ngoài lan can mắng vọng xuống lầu, Tô Khất lại còn gọi đích danh của một trong bốn tứ trụ đại thần, rõ là không kiêng dè Ngao Bái chút nào.

Người dân trong chợ nghe hai tiếng Ngao Bái, tưởng có tứ mệnh đại thần thân chinh đến Giang Nam, rồi lại nghe có Phủ Viễn tướng quân đang ở trong quán thì càng đổ xô lại đứng dưới đất ngó lên. Họ muốn biết mặt mũi hai người trong câu nói vang rộng khắp các miền đại giang nam bắc là như nào. Ở kinh thành Bắc Kinh truyền ra câu “so độ giàu có, không phủ nào qua được phủ Ngao. So độ rộng lớn và quy mô, không phủ nào sánh bằng phủ Viễn.” Người trong kinh thành đồn hai phủ này, hoành tráng tới nỗi đi từ cổng trước đến cổng sau phải mất cả nửa ngày trời.

Tiêu Nhất Đông nuốt cơn giận bọn tiểu nhị xuống, hòa quản nói với Tô Khất:

-Xin Tô phó tướng thưa với Phủ Viễn tướng quân, cho kẻ hèn này cơ hội theo ngài, tìm bọn Giang Nam thất phỉ để trả mối thù giết sư đệ!

Tô Khất nghe đáp vậy trố mắt quay sang nói với Dương Tiêu Phong:

-Ồ! Muốn gia nhập binh đoàn của chúng ta đấy thưa tướng quân?

Tiêu Phong không nói gì, vẫn còn bưng tách trà từ từ mà uống.

Dương Tiêu Phong vốn là một kẻ mến chuộng người tài, thu nạp rất nhiều tử sĩ trong giang hồ, dầu là người Mãn hay không cũng được. Cho nên khi Tô Khất hiểu cử chỉ của Tiêu Phong dửng dưng như thế, nghĩa là câu trả lời là không được. Tô Khất lại thò đầu xuống cười lớn:

-Ha ha! Chuyến này tiến quân xuống phương Nam, Phủ Viễn tướng quân xuất động mấy mươi vạn bộ binh, kỵ binh, ngoài ra còn có thủy sư từ Tứ Xuyên xuôi dòng Dương Tử xuống nơi này phối hợp tác chiến, thực lực đủ để nghiến nát bất kỳ sự kháng cự nào của quân Đại Minh Triều vốn tướng ít binh thưa. Bằng chứng là tổng đà thứ nhất của bọn Đại Minh Triều ở Hàng Châu này đã bị đánh chiếm rồi đấy. Bởi vậy mới nói, ngài cần thêm chi một con chó què như mi, ngay cả Ngao tông đường cũng chẳng cần nữa là.

Tiêu Nhất Đông nghe Tô Khất không ngừng chửi bới mình vậy, cứ luôn miệng gọi mình là cẩu nô tài, nghiến răng trèo trẹo, nhưng chỉ vì sợ có Dương Tiêu Phong ở đó nên chưa dám manh động. Chứ ngưỡng một mình Tô Khất, hoặc ba tên ngồi cạnh Tô Khất có hợp lực lại chăng nữa cũng chưa chắc là đối thủ của gã. Mà ngẫm cho cùng thì Tô Khất nói cũng phải, từ khi sư đệ Tiêu Nhất Thích của gã bị Tàu Chánh Khê giết chết gã như mất đi một cánh tay trái, Ngao Bái vì vậy mà không cần gã theo phò trợ cho nữa. Mấy hôm trước Ngao Bái nghe phong phanh là Dương Tiêu Phong bị đả thương ở Bình Lương, mới nhắn tin bồ câu sai gã tới thích sát đại kình địch này. Cuối thư đã bảo nếu gã lập được đại công mới cho trở về tiếp tục phò trợ Ngao Bái.

Đúng lúc này có một toán lính từ ở đâu cầm trường đao ùn ùn chạy vô quán ăn, rõ là đã bí mật theo bảo vệ tướng quân của họ. Dương Tiêu Phong ngồi ở trên lầu cạnh lan can thò tay ra phất một cái lệnh cho họ lui ra. Bọn binh lính vâng mệnh, đứng thành hai hàng trước cửa quán ăn.

Dương Tiêu Phong bấy giờ mới uống xong tách trà, đặt xuống bàn nghe kịch một tiếng rồi mở miệng nói mà mắt không nhìn Tiêu Nhất Đông:

-Binh kỷ của Chính Bát Kỳ là không hà hiếp bá tánh, nhưng bản quan nghe nói hai huynh đệ các người chuyên cướp của dân, lại còn hãm hại rất nhiều cô gái ở Thanh Hải. Những tên như các người vậy, thật khiến cho triều đình mang nhiều điều tiếng.

Dương Tiêu Phong dứt lời, không để Tiêu Nhất Đông biện hộ câu nào, một cước xuất ra, chiếc bàn bay vút theo, dĩ nhiên chén dĩa cũng bay theo luôn xuống lầu.

Nhưng Tiêu Nhất Đông đã đề phòng trước, hụp nhanh mình xuống, lòn qua một bên, vọt ra xa hơn trượng. Chiếc bàn nện xuống đất bể ra nát bét, bắn tung tóe bốn phía.

Dương Tiêu Phong xuất chiêu rồi ngồi trên ghế ở trên lầu quan sát cách Tiêu Nhất Đông thoái cước chiêu của mình, đoạn buông gọn:

- Khá lắm!

Khen xong rồi thêm lời:

-Võ công của ngươi có thể gọi là cao, nhưng nói về nội công thì chắc chắn không bằng sư đệ Tiêu Nhất Thích được. Nhưng tránh được cước pháp của bản quan coi như cái biệt danh Quỷ Kinh Hồn của các ngươi quả nhiên danh bất hư truyền.


Lần này Dương Tiêu Phong nói xong nhảy xuống lầu đánh ra liên tiếp hai chưởng nữa.

Tiêu Nhất Đông thấy chưởng lực kinh người không dám dụng lực đối lực, liên tục nhảy tránh chưởng pháp, vừa tập trung hết tinh thần đối phó hai chiêu đả cách không đó, thì đột nhiên cảm thấy chưởng lực đánh mạnh xuống vai. Hóa ra hai chưởng đó chỉ là hư chiêu. Hắn bị trúng đòn kinh hãi trong lòng, Dương Tiêu Phong lại xuất thêm một chưởng.

Tiêu Nhất Đông muốn tránh né hay chống đỡ cũng không kịp nữa, đành phải chịu đau hứng đòn tiếp. Rồi Tiêu Nhất Đông xoay tay phải toan bắt lấy cổ tay phải kẻ địch, Tiêu Nhất Đông muốn khóa lấy cánh tay đang đà đi tới của Dương Tiêu Phong. Đồng thời Tiêu Nhất Đông cũng muốn dùng tay trái, tả quyền đánh mạnh vào khuỷu tay phải địch thủ. Nếu bàn tay của đối phương đã bị khóa lại, thì cánh tay không thể không gãy vì chiêu Xà Vồ Trảm Chi này. Tiêu Nhất Đông nghĩ trên vai không phải là chỗ trí mạng, ỷ vào thân thể cường tráng mà chịu chưởng cũng chưa sao, còn tay phải của đối phương chắc chắn phải tàn phế. Lần này sắp lặp được đại công, sắp được Ngao Bái khen thưởng rồi!

Dương Tiêu Phong đánh trúng vai địch thủ, đang định thu tay về để xuất chiêu tiếp theo thì đột nhiên bàn tay phải của mình bị khóa chặt không rút về được. Khi này lại thấy tả quyền của đối phương sắp đánh xuống khuỷu tay phải của mình. May mà Phủ Viễn tướng quân có kinh nghiệp xông pha chiến trận, cho nên lâm nguy mà không loạn, lập tức tung một cước đá vào đầu gối đối phương, cùng lúc mượn sức đá để giật tay về. Thế là Tiêu Nhất Đông chúi nhũi ra phía trước, cho nên khi tả quyền của gã đánh xuống thì đã mất đi lực độ, và khuỷu tay của Dương Tiêu Phong cũng đã dời qua nơi khác.

Vai của Tiêu Nhất Đông trúng hai chưởng, chân cũng trúng một cước, nhưng gã to như một con voi nên không trọng thương. Dù sao thì huyệt Kiên Tỉnh của gã cũng khá thốn. Hai người chỉ mới xuất chưa được chục chiêu đã nhảy rời ra. Tiêu Nhất Đông trúng liên tiếp mấy đòn, coi như thua mất một hiệp chiêu pháp.

Lúc này hai người đứng gần, nhìn nhau rất rõ ràng. Tiêu Nhất Đông thấy mặt mũi Dương Tiêu Phong trắng và xanh, trên mắt cũng có quầng thâm đen, nghĩ thầm “tên này võ nghệ đầy mình, may là hắn bị Tần Thiên Nhân đánh cho thê thảm như thế, chỉ cần mình kéo dài thời gian cho hắn kiệt sức là hạ được hắn, còn tụi kỳ nhông cắc ké trên kia và tụi binh lính, muốn đánh bại đại gia mình đây à, còn khuya đi!”

Quả tình hôm trước Dương Tiêu Phong bị Tần Thiên Nhân nện cho khá nhiều quyền, bị thương không nhẹ. Hôm nay cước pháp đầu tiên đó đá không trúng Tiêu Nhất Đông, thêm vào chưởng pháp cũng chỉ đánh trúng vai, một phần là do vết thương này ảnh hưởng.

Tiêu Nhất Đông còn đang suy nghĩ thì soạt một tiếng, Dương Tiêu Phong hai tay rút tám thanh phi đao trong áo ra, quát lên:

-Quả nhiên quyền pháp rất cao minh! Nhưng bây giờ chúng ta tỉ thí binh khí xem sao!

Nói rồi phi đao đã nắm trong tay, quyết trừ hại tên Quỷ Kinh Hồn còn lại trên đời này, Dương Tiêu Phong vừa rút đao ra là ném đi ngay, đao thế bay đi liên miên bất tận, toàn là những chiêu thức tấn công mãnh liệt và lợi hại vô cùng.

Tiêu Nhất Đông thấy đao quang của địch trong sáng như nước hồ thu, biết đó là đao rất sắt bén, nếu để binh khí chạm nhau thì chắc mình bị thiệt thòi. Do đó gã không dám dùng thanh đại đao đang mang sau lưng mà công nhiên đón đỡ.

Tiêu Nhất Đông lại nhảy tránh.

Hai người đấu nhau một hồi, vết thương trong ngực của Dương Tiêu Phong lại phát đau lên, cặp chân mày hơi chau lại. Tô Khất, Chu Xương Tô, Triệu Phật Tiêu và Ngụy Tượng Xu ở trên lầu ngó xuống. Bốn người rất tuân mệnh chủ soái của họ, cũng rất tin tưởng vào võ nghệ của chủ soái nên nếu Dương Tiêu Phong không cho phép thì không dám tùy tiện xông vào trợ giúp.

Tuy bị thương nhưng tình thế của Dương Tiêu Phong càng lúc càng sáng sủa. Tuy nhiên đối phương phòng thủ khá nghiêm ngặt nên nhất thời không tấn công vào được. Dương Tiêu Phong đương nhiên biết Tiêu Nhất Đông đang câu giờ.

Bỗng nhiên trong lúc Dương Tiêu Phong dùng hết phi đao đang cầm trong tay, cho tay vào áo rút thêm phi đao ra nữa, thì Tiêu Nhất Đông thừa cơ này rút thanh đại đao sau lưng xuất chiêu Trảm Thần Long chém ngang qua yết hầu của địch. Dương Tiêu Phong bèn đợi đà đao sắp hết rồi lập tức ra chiêu Phi Đao Đảo Huyền, hớt lưỡi phi đao vừa rút từ áo vào sống thanh đại đao.

Tiêu Nhất Đông thu đao về không kịp, thanh sắt bị cắt đứt làm đôi, nhưng họ Tiêu cũng nhanh trí, chĩa ngay ngón giữa và ngón trỏ bên tay không cầm đại đao đâm vào mặt địch, ngờ đâu Dương Tiêu Phong nghiêng đầu tránh được. Nghe tiếng loảng xoảng, một nửa của cây đại đao đã bị phi đao chém đứt mất một khúc rơi xuống đất.

Dù sao thì sau lưng cũng không có mắt. Khi Dương Tiêu Phong phóng ra mấy thanh phi đao mà lúc nãy Tiêu Nhất Đông nhảy tránh được đó, những thanh phi đao đó bay phớt qua Tiêu Nhất Đông, rồi đồng loạt nhập lại thành một theo mô hình một đóa hoa tuyết, quay nhanh như chong chóng bay ngược lại cắt ngọt phía sau ót Tiêu Nhất Đông.

Đầu rơi xuống đất lăn đi long lóc như trái dừa khô bị rụng, máu văng lên tung tóe nhuộm đỏ cả một góc chợ Đông Ba, thân hình cơ bắp của Tiêu Nhất Đông mới từ từ ngã xuống đất theo.

Dương Tiêu Phong đưa tay đón lấy cái vật thể bay như chong chóng ấy, cất vô áo. Dầu trong mình đang bị thương rất nặng, ấy vậy mà không tới ba mươi chiêu đã đánh chết tên ác ma.

Đám đông thấy người chết thì thất kinh hồn vía, kêu á một tiếng rồi hè nhau tản ra.

Khi này chưởng quầy và các người giúp việc trong quán mới biết thân phận vị khách này, lập tức quỳ mọp xuống sàn quán. Dương Tiêu Phong bảo họ miễn đi đại lễ, lấy một lạng vàng ra đưa cho chưởng quầy. Tiền này là để thanh toán chi phí bữa ăn tối, dọn dẹp xác chết, và đền bù đồ đạc đã làm bể. Sau đó Dương Tiêu Phong bước lại gần xác của Tiêu Nhất Đông, nhìn xuống một cái, rồi quay sang toán binh sĩ nói:

-Kể từ hôm nay, binh lính hay quan quyền cũng vậy, không được phép làm sai dưới quyền của ta. Thân phận các người là lính, không phải cướp. Nếu các người làm như vậy không khác gì quân sĩ của Ngao tông đường!

Toán binh sĩ nện cán trường đao xuống đất phát ra tiếng ầm, đồng thanh hô “dạ!”

Dương Tiêu Phong dứt lời hai tay chắp sau lưng, thong thả cất bước đi về phía Hắc Viện.

Tô Khất cùng với Chu Xương Tô, Ngụy Tượng Xu và Triệu Phật Tiêu lật đật chạy xuống lầu đi theo chủ soái. Tụi binh sĩ cũng rồng rắng theo sau. Bỏ lại cái xác không đầu của tên lính của Ngao Bái.

Lát hồi Tô Khất, Chu Xương Tô, Ngụy Tượng Xu và Triệu Phật Tiêu đã bắt kịp Dương Tiêu Phong, bốn người nghe Tiêu Phong nói:

-Khi ta còn là một binh sĩ, ta đã nhìn thấy một người lính khác đánh một người nông dân trên phố, cho đến khi ông ta chảy đầy máu khắp người, không có lý do gì cả, ngoại trừ người kia quá nghèo, nhưng người nghèo thường không dám phản kháng lại, họ chấp nhận như một phần cuộc sống của họ. Từ ngày đó ta đã hứa với bản thân mình rằng nếu mai này quân ngũ do ta nắm quyền, ta sẽ không bao giờ cho phép điều tương tự như vậy xảy ra nữa. Người vào quân đội, là vì họ không muốn bị ức hiếp, đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, điều muốn trốn tránh sự áp bức, cho nên là một người lính, trách nhiệm là phải chiến đấu để dành lấy no ấm cho bá tánh.

Bốn người nghe Tiêu Phong nói, bốn cái đầu cùng gật. Tiêu Phong lại tiếp:

-Ta đã từng nghĩ, phải giết người để tồn tại, nhưng có khi, chúng ta cũng phải giết người để làm điều tốt.

Tô Khất nói:

-Dạ đúng rồi đó tướng quân, ngài tiêu trừ tên Quỷ Kinh Hồn ỷ quyền là lính của Ngao Bái chuyên đi cướp bóc và hiếp dâm gái lành này, từ nay vùng Thanh Hải được yên rồi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 37: Anh hùng nan quá mỹ nhân quan (1)

Những cơn gió mạnh cuốn lá khô bay, làm dạt bím tóc của một người mặc y phục màu bạch kim, y ngồi bất động như một pho tượng trong khuôn viên Hắc Viện đã hơn hai canh giờ rồi. Trên chiếc bàn gỗ chỗ y ngồi có trải một tấm mành trúc nhỏ, chiếc lồng đèn treo trên hành lang phát ra những tia sáng vàng vọt, không đủ để soi sáng hình vẽ một cô gái mặc y phục màu hồng thạch anh, dung mạo nàng toát lên nét duyên dáng với nụ cười e ấp.

Đứng cạnh bên bàn khi này là Tô Khất, cũng đang chăm chú nhìn người con gái trong tranh vẽ, cảm thấy như đôi mắt kia có một sự cuốn hút.

Dương Tiêu Phong dường như không để ý đến sự hiện diện của người thuộc hạ thân tín của mình, chỉ ngồi lẳng lặng ngắm bức tranh, tâm trí chìm vào một dĩ vãng đã qua với người con gái trong tranh này. Nhớ năm đó có đợt trời mưa, nửa đêm đang ngủ bỗng dưng nghe hồng y thiếu nữ thút thít khóc, hỏi ra mới hay nàng nằm mơ thấy nàng đang phải ở một mình. Chàng giơ tay vuốt tóc nàng mà rằng “không sao, có ta ở đây với nàng rồi!” Từ đó về sau mỗi khi trời đổ mưa chàng lại nhớ về nàng và thấy mũi cay cay, tự hỏi liệu bây giờ nàng có còn sợ mưa nữa không?

Kỷ niệm chen chúc ùa về hành hạ khối lý trí lạnh căm và thổi bùng lên ngọn lửa trong con tim ngỡ chỉ còn tàn tro. Nếu không phải là tình yêu, thì chàng e rằng chẳng có sức mạnh nào ghê gớm đến thế.

Gió thu lại chờn vờn đùa nghịch trên chiếc áo phong trần, của người mà từ năm mười hai tuổi đã theo phụ thân xông xáo vào rừng gươm lửa đạn, dựa vào bản lĩnh mà thăng chức làm quan, rất được hoàng đế Thuận Trị tín nhiệm. Từ lâu đã thấy cảnh tan hoang chết chóc nên trái tim chàng đã sớm hóa chai sạn, nhưng năm đó vì có người quan tâm mà trở nên ấm áp lại. Chàng vẫn còn nhớ mùi vị của chén canh tổ yến đường phèn, khi đó chàng lẳng lặng uống hết chén canh, rồi ngẩng đầu lên nhìn nụ cười dịu hiền của hồng y thiếu nữ. Giọng nói nhẹ như gió khiến chàng ấn tượng. Chàng chưa bao giờ nghe thấy cô gái nào có giọng nói hay đến như vậy. Chàng để ý ngay từ lần đầu tiên và cảm thấy ấn tượng vô cùng. Nàng đẹp, một vẻ đẹp nữ tính. Nhất là đôi mắt lúc nào cũng ướt, nhìn vào chỉ muốn mê đắm mãi thôi!

Ở kinh thành có vô vàn mỹ nhân nhưng chàng luôn nhìn nữ nhân với con mắt coi thường, xem họ như một món đồ chơi, một trò tiêu khiển không hơn không kém cho đến khi gặp nàng. Chàng yêu nàng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Càng không thể ngờ trái tim lạnh giá của chàng lại đập với một người con gái xa lạ mà chàng chưa từng hiểu rõ. Cái năm mà chàng bị mắc vào lưới tình của hồng y thiếu nữ đó quả thực không thể dứt ra được khuôn mặt nàng, cặp mắt dài mỗi khi nheo lại đầy hờn dỗi. Ở nàng có cái gì thôi thúc khát khao được yêu, được chinh phục trong chàng. Chàng thầm nhủ người con gái đó sẽ là của mình, cho dù lúc đó chưa từng biết nàng là người như thế nào.

Chàng từng bảo với lòng rằng nàng muốn đi đâu, cho dù là chân trời góc biển chàng cũng sẽ lập tức theo nàng, cho dù hoàng thượng sau này có trị tội cũng không sợ. Để rồi khi về lại kinh thành chàng đã trở thành một con người khác hẳn, vẫn bản lĩnh phong độ nhưng không còn là một tay chơi bời như hồi trước đây.

Ở kinh thành người ta nói chàng rất hào phóng, đã tặng cho nữ nhân quà là toàn những thứ đắt tiền, hơn cả trăm lượng bạc. Có lần sinh nhật một cô nương tên Hà Tử Lăng trong một tửu lâu, chàng tới chơi, bao luôn cả ba tầng lầu, rồi cho khách tới ăn thoải mái, ai cũng tới được, quen hay không quen. Người ta nói chàng hào phóng quá, nàng kỷ nữ đẹp vậy cũng tổng cộng mấy chục lượng vàng, chàng trả lời “đó chỉ là lời đồn nhảm nhí, Tử Lăng là vô giá. Lần này chi tiền là để giúp nàng ấy làm tròn giấc mộng.”

Khang thân vương cũng hay bảo chàng cũng nên nghĩ cho mình, mà sao mãi không nghĩ gì được. Ai chàng cũng thấy nhạt, thấy chẳng giống hồng y thiếu nữ, thấy không vừa ý nữa. Những cô gái yêu chàng toàn người tốt cả, như Hà Tử Lăng, như Mẫn Mẫn tiểu thư... mà sao chàng lại từ chối họ? Ở trong phủ đệ chàng cũng có rất đông nữ nhân nhưng chỉ có hồng y thiếu nữ là cô gái duy nhất mang tới cho chàng cảm giác nhớ nhung, xao xuyến. Chàng bị thu hút bởi ánh mắt ngây ngô của nàng.

Người Mãn hay nói giấc mơ của Đại Hãn là thảo nguyên! Còn chàng? Cũng là người Mãn đấy mà giấc mơ chỉ có nàng thôi!

Người ta cũng thường hay nói gặp đúng người thì ba tháng tưởng chừng như ba năm, ba mươi năm. Chàng chỉ gặp hồng y thiếu nữ trong một mùa đông mà cuộc tình ngỡ như thiên thu bất tận.

Sau rất nhiều, rất nhiều năm tháng của đời chàng, Dương Tiêu Phong vẫn không thể nào quên được cái ngày hôm ấy.

Năm đó trên đỉnh Thiên Sơn vào một ngày cuối tháng giêng...

...Cảnh sắc ở “núi trời” có khác, khắp nơi đều phủ trắng một màu của tuyết nên rất khó để xác định là đang ở thời khắc nào. Gió lạnh như từng ngọn dao chém xuống. Vạn vật y hệt những con cá nằm trên thớt tuyết, chết lạnh, cứng đơ.

Ngàn dặm tuyết rơi, Thiên Sơn như một biển muối mênh mông trắng xóa. Tuyết đông trên đầu cây, tuyết phủ trên mặt đất. Trong khung cảnh tịch mịch hoang vu, chợt nghe có tiếng chân bước.

Tất nhiên, tiếng người bước đi không phải là tiếng khua động lớn, nhưng đối với thính giác tinh nhậy, với sự mong mỏi đợi chờ, tiếng bước chân đủ khẽ, Tiêu Phong vẫn nghe rõ mồn một.

Có một cô gái đi tìm hái hoa Tuyết Liên, loài sen trắng mọc trên núi, chợt nàng phát hiện thấy một người nằm trong hố tuyết, cái hố như nấm mồ chôn vùi đi nửa thân thể y.

Khi ấy trời rét cắt da cắt thịt. Mưa tuyết phủ lên tóc nàng, lên áo nàng một lớp ám ướt và trắng mịn như rây bột, răng nàng va lập cập vì lạnh.

Cô gái lại gần, nhìn diện mạo người nam nhân nàng tự nhủ ở vùng quan ải này lại xuất hiện một người tướng mạo trác tuyệt vậy thật là chuyện hiếm, lại nghĩ người này trông không giống như bọn lục lâm, nhưng người ta nói lương y như từ mẫu nên dù y có là ai nàng cũng sẽ cứu giúp.

Dương Tiêu Phong nằm trong hố tuyết không biết đã mấy canh giờ rồi. Tuyết cứ tiếp tục rơi, gió lạnh không ngừng. Chàng tưởng chừng như sẽ chết ở nơi này thì đương lúc nửa tỉnh nửa mơ, chàng hé mắt ra thấy một cô gái đứng trước mặt chàng. Nàng xách một giỏ hoa mà chàng ngỡ như đang có Quan Âm hiện thân tay cầm bình Cam Lộ. Nhìn thêm lần nữa mới thấy nàng đội khăn quàng màu hồng thạch anh, chỉ hở đôi mắt trong veo và hàng lông mi dày cộp, dáng người nhỏ bé như bị nuốt chửng đi trong chiếc áo choàng cũng màu hồng.

Cô gái nói gì đó, tiếng vẳng qua lớp khăn choàng như nói từ xa lại. Đoạn nàng cởi áo khoác và khăn choàng cổ xuống, đắp lên mình chàng. Lúc này chàng mới nhận ra nàng rất đẹp. Môi bậu, miệng tươi trên làn da trắng mịn màng. Nàng đẹp nhưng thật buồn. Mắt chàng từ từ nhắm lại. Mưa tuyết vẫn lây rây và lạnh buốt.

Cô gái gập người kéo chiếc ván gỗ vào sát mái hiên nhà.

Tối hôm đó ở trong một gian nhà tranh có một ngọn đèn cầy không sáng lắm, song chiếu ngay mặt Dương Tiêu Phong, ánh sáng đó càng làm cho chàng muốn đưa tay lên che, cho đôi mắt bớt chóa song tay cũng như chân không cử động được. Đến chiếc đầu cũng chẳng nghiêng qua né lại được. Thế thì chàng chỉ còn cố mà chịu chóa mắt, chứ còn biết làm gì hơn?

Ngọn đèn chao chao, như di động, như tìm cái chỗ yếu nhất của đôi mắt chàng mà rọi ánh sáng vào để gây khó chịu cho chàng hơn. Thoạt đầu, thì chàng khó chịu suông thôi, dần dần cảm giác khó chịu gia tăng, nghe đầu nhức, rồi trán nóng ran, như có lửa đốt bên trong. Đến khi chàng hết còn chịu đựng nổi cái cảm giác đó rồi, đột nhiên toàn thân chàng như bị rất nhiều mũi kim đâm vào. Lạ là những mũi kim này khiến chàng cảm thấy an thần, làm ấm cơ thể chàng và thả lỏng cơ bắp, chàng dần dần chìm vào giấc ngủ.

---oo0oo---

Có tiếng mở cửa cọt kẹt.

Không biết bấy giờ đang là canh mấy rồi?

Cô gái áo hồng bước vào, cũng với giỏ hoa tuyết liên trên tay. Cây này thuộc loại lưỡng sinh, mọc đâm rễ trong vùng băng tuyết, nở hoa thơm ngát. Mùi hương gần giống hoa sứ nhưng nhẹ nhàng thanh thoát hơn. Sáu năm nở chỉ một lần hoa vào những tháng lạnh nhất.

Gương mặt cô gái vẫn thập phần xinh đẹp, ánh mắt ngời lên sự phúc hậu và hiền dịu nhưng da tái đi vì lạnh. Nàng đặt giỏ hoa xuống sàn nhà, giơ tay phủi tuyết bám trên tóc và áo.

---oo0oo---

Không biết qua bao nhiêu lâu nữa, Dương Tiêu Phong mới tỉnh hẳn lại.

Cô gái đang ngồi đan vòng cỏ trên một chiếc chõng tre ở góc nhà.

-Huynh đã tỉnh dậy rồi!

Cô gái reo lên. Nàng thấy Dương Tiêu Phong vận y phục hoa văn của người hồi, đầu đội mũ trắng nên nói với chàng bằng tiếng hồi. Tiêu Phong lớn lên ở tây bắc nên cũng thông thạo cả ba thứ tiếng là Hán và hồi, và đương nhiên là tiếng Tích Bá vì chàng là người Mãn. Tích Bá là phương ngữ của người Mãn được nói ở vùng Y Lê tại hồi cương.

Dương Tiêu Phong nằm trên giường nhớ lại mười ngày trước chàng lãnh chỉ của hoàng đế Thuận Trị đi đến Khoa Bố Đa thám thính quân tình của Cát Nhĩ Đan, thì chẳng may bị quân của Cát Nhĩ Đan phát hiện. Đội binh sĩ đi theo chàng đều hết lòng bảo vệ cho chàng. Họ bị truy đuổi và bị giết chết, chỉ còn mình chàng chạy được đến chân núi Thiên Sơn. Khi ấy trời lại có bảo tuyết, không ngừng rơi suốt hai ngày hai đêm, y phục của chàng đã bị ướt đẫm. Vừa lạnh vừa mệt, chàng ngất xỉu ở A Lạp Sơn Khẩu, vùng này nằm ở phía bắc của dãy Thiên Sơn, những bộ lạc ở đó chuyên chăn thả gia súc.

Lại nói tới hồng y nữ tử. Nàng dứt lời thì đặt chiếc vòng cỏ xuống nằm chỏng chơ trên chiếc chõng tre, đi ra ngoài. Lát sau vào với chén canh nóng hổi hãy còn nghi ngút khói trên tay, nàng đến bên giường dìu chàng ngồi dậy nói:

-Huynh uống chén canh này.

Tiêu Phong bưng chén canh lên uống, cảm nhận mùi vị ngọt ngào và ấm áp.

-Xin hỏi quý danh của huynh là gì?

Tiêu Phong thoáng im lặng, chàng không biết lai lịch thiếu nữ ra sao, chưa muốn nói cho nàng rõ.

Khi này chén canh cũng được uống cạn. Cô gái thấy chàng không muốn nói danh tánh cho nàng biết, dễ dãi cười nói:

-Huynh đã hôn mê hai ngày hai đêm, giờ chợt tỉnh lại, có lẽ thần trí chưa hoàn toàn phục hồi như cũ được.

Rồi nàng nhận lại chén canh, mang đặt lên chiếc bàn ở giữa căn nhà.

-Ta tên là Á Mạt Đạt.

Tiêu Phong đáp, lấy một cái tên nam nhân thông dụng nhất của người Hồi.

-Cũng được! -Miệng cô gái chúm chím cười, nàng quay lại đứng cạnh giường nói - Nếu thế thì muội tên Á Tây Hạ.

Đây cũng là tên nữ nhân mà người Hồi thường dùng nhất.

-Nàng không tin ta?

-Muội tin, trông huynh dáng vẻ đàng hoàng. Nơi biên cương hoang vắng này rất ít khi gặp những nhân vật tiêu sái như huynh.

Câu nói này khiến cho lòng chàng ấm hơn cả chén canh vừa rồi, Tiêu Phong mỉm cười, nhủ bụng bất kỳ là ai, chỉ cần một lần dõi theo người con gái này sẽ tình nguyện bảo vệ nàng mãi mãi.

-Lạnh thế này huynh chịu nổi không? - Cô gái lại hỏi.

Tiêu Phong muốn nói trời tuy lạnh nhưng cạnh nàng chàng cảm thấy rất ấm, tuy nhiên, chàng suy nghĩ mông lung một lúc cuối cùng chỉ nói:

-Được chứ. Ta vốn sinh trưởng ở Mông Cổ, tuy rằng bây giờ không ở đó nữa, nhưng vào dịp Tết nơi đó còn lạnh gấp mấy thế này.

Cô gái nhìn vẩn vơ ra ngoài cửa rồi bảo:

-Thế huynh đến vùng biên cương tây bắc này để làm gì vậy?

Tiêu Phong lại im lặng, cô gái chờ một lát rồi cười nói:

-Được rồi, huynh không muốn nói cũng không sao, muội sẽ không hỏi nữa đâu.

Nàng dứt lời cho tay vào áo lấy ra chiếc vòng cỏ, bảo:

-Đây là chiếc vòng may mắn, muội đan tặng huynh.

Tiêu Phong cầm chiếc vòng cỏ, lặng lẽ quan sát nàng, ở nàng lúc nào cũng dịu dàng, thùy mị và đơn giản. Đức tính mà chưa bao giờ những vị tiểu thư khuê các cung đình có được. Cũng chưa bao giờ họ muốn có.

Chàng ở Thiên Sơn với cô gái qua hết mùa tuyết phủ.

Đông đi xuân lại. Dương Tiêu Phong tỉnh dậy vào buổi chiều muộn. Lâu lắm rồi mới có được một giấc ngủ ngon như thế. Không bị giật mình, không bị mộng mị. Đầu xuân nhưng khí trời vẫn lạnh, chàng mở cửa sổ hít căng đầy phổi cái không khí lạnh lẽo đó, cảm thấy thoải mái hơn một chút.

Ngôi nhà tranh yên ái vô cùng, cảm giác thanh bình này chàng rất ưa thích, chàng vốn không phải là người của chốn kinh thành náo nhiệt phồn hoa. Nhưng lạ thay hôm nay cái cảm giác yên bình này lại làm cho chàng thấy dường như đang thiếu thốn một thứ gì. Vắng nàng, chàng không nghe được tiếng chân bước đi nhẹ nhàng kia nữa.

Tiêu Phong rời nhà đi tìm nàng, nhủ bụng có lẽ giờ này nàng đang tìm hái Thiên Sơn tuyết liên.

Quả không sai, cô gái bận bộ quần áo màu hồng thạch anh, tay mân mê một đóa hoa ngồi trên mõm đá bên bờ suối, nhìn xuống dòng nước thong thả chảy dưới chân nàng với ánh mắt thẫn thờ. Bên cạnh nàng là một giỏ hoa màu trắng muốt. Cô gái mân mê đóa hoa trên tay. Nàng cũng xinh tươi như vậy, và có thể cuộc đời của nữ nhân cũng ngắn ngủi như đóa hoa kia?

Đột nhiên nàng nghe sau lưng nàng có tiếng động. Cô gái quay lại và nhận ra người đang đến là người mà nàng đã cứu trong rừng cách đây hai tháng. Nàng mỉm cười với chàng. Lúc này, dưới ánh hoàng hôn nàng nhận thấy ánh mắt đối phương không còn xa lạ với nàng như lần trước nữa, mà sáng lên lấp lánh.

Tiêu Phong chăm chú nhìn cô gái. Tay nàng lúc nào cũng đeo chiếc vòng cỏ, tóc bay bay trong gió, quanh nàng là rừng hoa đào rộ nở.

Cô gái không cảm thấy ái ngại, không hiểu sao chỉ một vài tháng ngắn ngủi nàng lại thân thiết với chàng đến thế? Có lẽ trong ánh mắt, nàng biết đối phương có thiện ý với nàng. Dương Tiêu Phong nhìn thấy cô gái trong sáng như hạt minh châu, tim đập rộn lên, thầm nghĩ “sao trên đời lại có người đẹp đến như vậy?” Nàng ngồi bên bờ suối, thư thái tự tại, thanh nhã không giống như người phàm. Bóng nàng soi xuống mặt nước, từng cánh hoa anh đào rơi xuống tóc nàng, áo nàng. Bình thường Tiêu Phong vẫn chuyện trò rất tự nhiên với nữ nhân, có khi còn coi thường họ, nhưng lúc này không nói được một lời nào cả.

Thiếu nữ kia mỉm cười rồi vẫy tay gọi chàng đến gần. Dương Tiêu Phong hết hẳn khách sáo, đến ngồi cạnh nàng và nói chuyện với nàng một cách tự nhiên.

-Nàng thích loại hoa này lắm sao?

Cô gái gật đầu:

-Đây là tuyết liên, chỉ mọc ở trên núi này, hoa rất hiếm và có thể chữa được bách bệnh. Mỗi khi đi rừng muội thường cố đưa các loại kỳ hoa dị thảo về nhà. Huynh ngửi mùi hương thử xem.

Dương Tiêu Phong ngửi thấy hương thơm ngọt ngào từ đóa hoa màu trắng đang được ánh chiều tà soi vào, trông diễm lệ sang trọng phi thường, muôn phần kỳ lạ.

Cô gái lại đi tìm hoa, Tiêu Phong cũng theo nàng. Loại tuyết liên này mọc thưa thớt trên đồi, hai người đi khoảng một dặm mới tìm được thêm một đóa hoa nữa, tuy hiếm là vậy mà chỉ với một đóa thôi đã tỏa hương thơm ngát cả khu đồi.

Cô gái vừa đi vừa vén mái tóc bị gió làm cho tung bay, nói:

-Mỗi cây như vậy phải mất từ năm năm tới bảy năm mới nở một đóa hoa, nhưng một lần nở là tới sáu tháng mới tàn.

Dứt lời nàng lại cười. Tiêu Phong khi đó nghĩ cô gái này luôn làm chàng thần người không biết phải làm gì, nàng đang đi giữa làn gió nhẹ đầu xuân, cười như một bông bồ công anh thanh nhã đang tan ra trong bao la.

Năm đó chàng mười chín tuổi, dường như đang yêu lần đầu tiên trong cơn gió thắm.

Hai người lại tiếp tục đi tìm tuyết liên, hồi lâu sau không tìm được thêm đóa hoa nào nữa. Họ đi luồn qua những thân cây lớn, vờn qua vờn lại như hai đứa trẻ, cuối cùng dừng lại nằm xoài trên một đám cỏ, thích thú hít vào hương cỏ thơm tho. Cảnh sắc núi non hùng vĩ làm cho Dương Tiêu Phong nhớ tới sư phụ chàng, khi ở quan ngoại cùng Võ Ma chàng cũng đã có một tuổi thơ rong ruổi trên thảo nguyên thế này.

Hồi lâu sau, Dương Tiêu Phong mới thở dài nói:

-Đã rất lâu ta không được nằm trên thảm cỏ thú vị thế này.

-Muội còn biết có một nơi hay hơn nơi này nữa đấy.

Cô gái ngồi bật dậy nói:

-Theo muội đi.

Hai người đi tới một vách núi lớn. Cô gái giơ tay chỉ. Dương Tiêu Phong nhìn theo, thấy trên một vách đá dựng đứng có rất nhiều chim yến và tổ yến lớn bằng cái bát. Có loài chim với lông toàn thân màu đỏ, có yến vàng kim toàn thân màu vàng rực tươi tắn, chim thanh yến với màu lông xanh và sọc xám đen, và thạch yến toàn thân phủ lớp lông vàng xám của đá. Giọng hót của hàng trăm chú chim hòa với tiếng gió ngàn vi vu thổi tạo thành một khúc nhạc hay cực kỳ.

-Nàng thích tổ yến?

Cô gái gật đầu.

Tiêu Phong khẽ mỉm cười, đột nhiên tung người bay lên vách núi. Thiếu nữ kinh hãi la lên:

-Hãy cẩn thận.

Dương Tiêu Phong đã tập trung hết tinh thần vào dồn nội lực xuống đan điền, hoàn toàn không nghe nàng gọi. Bình thường thì với võ công của chàng đương nhiên lên được vách đá này một cách dễ dàng nhưng khi này thương tích của chàng còn chưa lành lại, chàng thật sự không tin chắc khinh công của mình lên được vách đá dựng đứng thế này. Nhưng lúc này không tính toán gì đến vấn đề sinh tử cả, chàng sử dụng cả hai chân hai tay từ từ trèo lên một lúc đã được mười mấy trượng. Vách núi trơn trượt vô cùng. Chàng đã mấy lần sẩy chân xuýt rơi xuống.

Còn cách những tổ chim hơn một trượng nữa, vách núi đột nhiên nghiêng đổ ra ngoài. Phía dưới nhìn không rõ, đến đây chàng mới thấy không thể trườn lên đó được. Tiêu Phong nghĩ thầm “chẳng lẽ đã tới đây rồi mà phải bỏ cuộc hay sao?” Chàng ngẫm nghĩ giây lát, nảy ra một kế, bèn nói vọng xuống:

-Nàng đứng lùi ra đi.

Cô gái nghe lời đứng lùi ra chân núi mấy thước, lại hướng mắt trông lên. Dương Tiêu Phong lấy phi đao trong người ra, nhắm kỹ tảng đá gồ lên cạnh tổ chim, ném phi đao cắt đứt tảng đá. Sau đó bám sát vào vách núi để trận mưa đá không rơi trúng người chàng. Lúc này chàng mới thở ra một hơi. Chàng nhẹ nhàng hái luôn năm tổ yến.

Người bình thường thì xuống núi còn khó khăn nguy hiểm hơn cả lúc trèo lên, nhưng người có võ công thì lại thấy dễ dàng. Chàng cứ men theo vách đá mà tuột xuống, khi tuột quá nhanh thì dùng phi đao ấn vào vách đá. Những đường khứa trên phi đao cắm sâu vào những tảng đá cứng, làm đà rơi chậm hẳn lại.

Đến lúc cách mặt đất khoảng ba bốn trượng, chàng đạp hai chân vào vách núi rồi phi thân xuống như một con chim lớn, nhẹ nhàng chạm đất ngay trước mặt cô gái. Dương Tiêu Phong cất phi đao lại trong áo, mỉm cười rồi đưa tổ yến cho nàng.

Thiếu nữ áo hồng đưa đôi tay trắng trẻo ra đón lấy tổ yến bỏ vào trong giỏ cùng với Thiên Sơn tuyết liên.

Hai người đi bên nhau về hướng ngôi nhà tranh. Dương Tiêu Phong tự nhiên nghĩ bụng “hôm nay mình giống như điên khùng, thật không hiểu vì sao? Đường đường là một tướng quân song chỉ vì cô gái này thích tổ chim mà mình bất kể tính mạng đi hái cho nàng. Lại nữa không những mình ăn nói như một thư sinh mà cách xưng hô cũng đã thay đổi. Nếu những người trong doanh trại thấy Phủ Viễn tướng quân ngoan ngoãn vâng lời một cô con gái, không biết họ sẽ nghĩ sao?”

Dương Tiêu Phong đồng thời cũng thấy nàng là một cô gái kì lạ, chẳng như những nữ nhân õng ẹo của chàng, họ chỉ là những chiếc bình hoa di động, như thứ gia vị làm cho cuộc sống của chàng thêm màu mè. Ở nàng, chàng thấy sự ngây thơ của một cô gái mới lớn chưa hiểu sự đời. Tất nhiên, những bình hoa di động kia chưa đủ tư cách để sinh con cho chàng, chỉ là chơi bời cho vui. Còn nàng, đủ tư cách để sinh cho chàng những đứa con...

Dương Tiêu Phong nghĩ tới đây khẽ cười một mình. Chàng quay đầu lại nhìn vách núi đá, thấy nguy nga dựng đứng, khí tượng thâm nghiêm, đột nhiên cảm thấy thân thể lạnh cóng, lập tức thu môi lại. Thì ra lúc nãy trèo lên vách núi, mồ hôi tuôn ra đầm đìa ướt đẫm quần áo, bây giờ mồ hôi lại thấm trở lại vào trong da, tay chân chàng cũng mệt mỏi rã rời. Chàng biết nội thương của mình còn chưa hồi phục hẳn. Nhưng cô gái này hình như ẩn giấu một sức mạnh thần kỳ, chỉ cần điều gì nàng muốn, dầu cho có tan xương nát thịt chàng cũng không hối hận vì nàng.

Cô gái mân mê tổ yến trong tay, mặt cười rạng rỡ. Nàng quay sang Dương Tiêu Phong hỏi:

-Khi nãy huynh không sợ sẽ ngã chết hay sao?

Tiêu Phong đáp:

-Lúc đó ta không sợ ngã chết, chỉ sợ không lấy được tổ yến cho nàng. Dù nàng muốn gì ta cũng chìu hết.

Cô gái mỉm cười, giơ tổ yến lên trước mặt rồi bảo:

-Những tổ yến này là của huynh đó, muội muốn lấy chúng để nấu canh yến cho huynh, ăn vào sẽ rất tốt cho sức khỏe.

Nàng lại hỏi:

-Huynh đã học qua võ công phải không? Nếu không sao huynh lại có thể trèo lên vách núi cao như thế?

Dương Tiêu Phong nghe cách hỏi thì biết nàng hoàn toàn không hiểu võ công, không nhìn ra khinh công thượng thừa của mình. Chàng bèn đáp:

-Thật ra cũng không khó, chỉ cần có can đảm là trèo lên đó được.

Cô gái không biết đây là lời khiêm nhường, ngẫm nghĩ một lát rồi khen:

-Huynh thật là dũng cảm!

Lời này ngọt ngào khó tả. Trong lòng Dương Tiêu Phong thấy lâng lâng sung sướng.

Màn đêm buông xuống, hai người ăn tối xong ra ngồi tựa lưng vào một tảng đá lớn trong khoảnh sân trước nhà. Cô gái nổi lửa lên.

Nàng huyên thuyên không dứt về những câu chuyện xoay quanh chim yến. Nàng nói:

-Loài yến là biểu tượng của tình yêu. Yến sống trung thành, chết thuỷ chung. Một đôi yến khi đã sống cùng nhau là trọn đời trọn kiếp. Khi đã xây tổ ở đâu là vĩnh viễn không dời đi nữa.

Dương Tiêu Phong lắng nghe cô gái nói bằng giọng ngưỡng mộ:

-Huynh có biết trong hàng ngàn chim yến bay rợp trời kia, các cặp đôi không bao giờ nhầm lẫn, không đời nào lang chạ? Hàng vạn tổ yến xây đặc trên vách đá đó mà yến luôn về đúng nhà của mình. Không bao giờ chiếm tổ chim khác? Nếu không may chim yến mái bị chết đi, chim trống còn lại sẽ sống cô độc suốt quảng đời còn lại...

Từ khi lên bốn Dương Tiêu Phong chỉ lấy đao thương quyền cước làm bạn, đối với những chuyện này chàng hầu như không hề biết tới. Bây giờ nghe nàng nói đến, thật sự chàng thấy khá thú vị.

Cô gái nói một hồi, ngẩng đầu nhìn lên trời. Con sông bạc dài vô tận đang bắc ngang bầu trời, hai ngôi sao Ngưu Lang, Chức Nữ đối diện nhau ở hai bên dải ngân hà.

Nàng chỉ ngôi sao Chức Nữ và nói:

-Huynh xem kìa, tối nay sao Chức Nữ thật là sáng.

Dương Tiêu Phong cũng nhìn lên trời, chỉ vào sao Ngưu Lang:

-Đúng rồi, còn đấy là ý trung nhân của cô ấy.

Cô gái nói:

-Huynh biết chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ?


Dương Tiêu Phong gật đầu. Nàng ngồi xê dịch lại gần chàng, nói:

-Muội thích nghe chuyện Ngưu Lang Chức Nữ lắm, huynh kể câu chuyện đó cho muội nghe đi.

Dương Tiêu Phong suy nghĩ một chút để sắp xếp lại ý tứ trong đầu, rồi kể câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ cho nàng nghe. Cô gái nghe xong ngẩng mặt nhìn lên sông ngân hà, thấy hai ngôi sao cách một dòng sông không thể gặp nhau, bèn mơ màng nói:

-Hồi trước thất ca của muội cũng hay kể chuyện này cho muội nghe. Trước đây mỗi lần muội nhìn chim ô thước chỉ thấy đen thui chẳng đẹp đẽ gì, không thích chút nào. Sau đó nghe chuyện này mới biết loại quạ đó lại tốt như thế, biết bắc cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Nên mãi tới bây giờ mỗi lần thấy ô thước là muội đều cho bọn chúng ăn.

Dứt lời trong mắt nàng óng ánh mấy giọt lệ, im lặng không nói thêm lời nào, mãi nhìn vào ánh lửa. Hồi lâu nàng mới khẽ nói:

-Hai người họ tình cờ quen nhau. Từ những người xa lạ như hai đường thẳng song song, sợi dây tơ hồng vẫn buộc chặt họ lại nhờ một chữ duyên.

Dương Tiêu Phong gật đầu một cái. Dáng điệu buồn buồn của nàng làm tim chàng đau nhói, chàng bảo:

-Hai vị tiên đó tuy rằng một năm chỉ gặp nhau một lần, nhưng hàng ngàn hàng vạn năm sau vẫn còn có thể gặp nhau. Đối với người phàm chỉ mấy chục năm đã phải chết đi, so với chúng ta họ còn khoái lạc hơn nhiều.

Chàng nói tới đây tự nhiên cảm giác thời gian trôi đi nhanh quá, chàng muốn sống chậm lại để được ở bên nàng lâu hơn.

Cô gái nói:

-Chuyện tình Ngưu Lang Chức Nữ như sao Sâm sao Thương, thất ca của muội đã làm một bài thơ nói đến hai vì sao này.

Dứt lời nàng liền đọc cho chàng nghe:

-Bến không em, tiếng đàn kìm ảo não

Sợi đàn ngân sắc sảo cứa tơ lòng

Yêu đương chi trắc trở nhớ chờ mong

Hồn hoang dại phút tương phùng tao ngộ

Như tích xưa sao Thương ngồi mòn mỏi

Mặc đêm trường lạnh giá đón sao Sâm

Lỡ dại ăn trái cấm chốn tiên bồng

Ngọc Hoàng đoạ khiến duyên tình oan nghiệt

Sao hôm- mai mang hình hài bất diệt

Giăng kín trời sao chẳng thể gặp nhau.

Cô gái đọc xong bài thơ, lại ngồi im lặng, lát hồi gối đầu lên tảng đá ngủ thiếp đi. Ở vùng núi non này hễ đêm đến là khí hậu lạnh một cách kỳ lạ. Dương Tiêu Phong tìm mấy cành cây khô đốt cho ngọn lửa thêm bừng lên, rồi cởi áo khoác của chàng ra.

Tiêu Phong nhìn cô gái vô danh, nhủ bụng trông nàng nhỏ bé quả là đáng yêu, lâu lắm rồi chàng mới cảm nhận được hạnh phúc rõ ràng đến thế. Chàng nhẹ nhàng lấy chiếc áo khoác, đắp lên cho nàng. Lòng chàng rộn ràng, muốn nhẹ hôn lên chiếc má mịn màng, hồng hào.

Đúng là lúc đó Tiêu Phong bỗng thấy muốn hôn nàng kinh khủng. Hồng y nữ tử, áng mây lành đã làm dịu mát đời chàng, không chỉ bằng những cử chỉ rất đỗi dịu dàng, mà còn bằng cả những sẻ chia sâu sắc yêu thương. Và nhân ái nữa.

Chàng biết Á Tây Hạ không phải tên thật của nàng, chàng muốn đặt tên nàng là Ninh Vân, nghĩa là mây lành. Nàng dễ thương đến nỗi chàng, một nam nhân đang gánh nặng sự nghiệp phò trợ hoàng đế tránh khỏi những âm mưu soái ngôi đoạt vị của tam trụ đại thần, đã thề quyết không để mình ngã tình vì một ánh mắt đàn bà nào cho đến khi hoàng đế được vững vàng ngai vị, cũng phải thấy lưu luyến. Ông trời quả là đã chu đáo thu xếp cho nàng một tính nết và tư thái khiến bất cứ ai là đàn ông đều muốn nâng niu.

Thiên Sơn hẻo lánh, có một vị quan nhất phẩm ngồi cạnh bên mỹ nhân trong ánh lửa bập bùng, tự dưng y muốn ở mãi nơi này, không muốn về kinh thành nữa.

Trời tờ mờ sáng mà cô gái vẫn chưa ngủ dậy, trên tóc và trên vai đều bám đầy sương. Những giọt sương bám trên mặt nàng rung động theo hơi thở.

Dương Tiêu Phong lay cô gái dậy, bảo đi với chàng tới một nơi. Hai người cởi cùng một con ngựa trắng đi rất xa căn nhà tranh, đống lửa phía sau lưng họ chỉ còn lại một chấm sáng nhỏ, rồi mất hẳn. Đi thêm một quãng nữa chàng bỗng lên tiếng bảo nàng dừng ngựa lại:

-Nàng đợi ta một chút!

Rồi nhảy xuống ngựa lập tức lẩn vào phía sau một hàng cây.

Cô gái chờ đợi hồi lâu không thấy chàng ra, không yên tâm trong lòng. Nàng lo lắng vội cất tiếng gọi:

-Huynh đang làm gì vậy?

Dương Tiêu Phong biết có nàng gọi mà không trả lời, cô gái lại la lên:

-Huynh đừng làm muội sợ, tới đây đi!

-Được rồi, nàng nhắm mắt lại đi.

Cô gái nhắm mắt lại.

-Theo ta.

Chàng nắm lấy tay cô gái, đỡ nàng xuống ngựa rồi dìu nàng đi. Tóc nàng bị gió thổi tung bay dạt vào một bên má chàng, Dương Tiêu Phong cảm giác tóc nàng êm ái như nhung lụa và toát ra hương thơm dịu ngọt. Hai người bước đi sát bên nhau khiến chàng không khỏi say đắm vì mùi hương đó. Lại nữa giữa chốn rừng sâu núi thẳm, trong lòng chàng nảy sinh tình ý triền miên.

-Mở mắt được rồi.

Cô gái mở mắt ra, thấy một cây thông xanh rì, trên thân cây là vô số các đóa hoa tuyết liên được đính trên đó.

Ánh lửa nhảy múa trên ngọn đuốt trong tay Dương Tiêu Phong, bốn bề vắng lặng, chỉ có hương thơm của tuyết liên dạt dào bay tới.

-Nàng có thích không?

Cô gái không trả lời, mắt nàng nhìn cây thông bỗng dưng trổ đầy hoa tuyết liên, vui tới mức khuôn mặt hồng sáng lên. Tiêu Phong biết cô gái đang thưởng thức mùi thơm ngào ngạt của cả trăm đóa hoa được kết lại cùng một nơi, chàng bèn mỉm cười mà nói:

-Chỉ cần nàng thích, sao trên trời ta cũng hái xuống cho nàng.

Cô gái bị câu hỏi này làm đỏ mặt, không biết nói gì. Hồi lâu dùng ánh mắt long lanh nhìn thẳng chàng mà đáp:

-Muội rất thích.

Thiếu nữ ra vẻ cao hứng, nụ cười càng vui vẻ. Trong lúc thần hồn điên đảo vì nụ cười đó, Tiêu Phong nghĩ bụng “chờ khi về đến kinh thành ta nhất định sẽ hủy hôn với Tân Nguyên cách cách, rồi đưa kiệu chín người đến đây rước nàng…”

Một tràng hí dài vang lên. Dương Tiêu Phong vốn dồn hết tâm ý vào hồng y nữ tử, nãy giờ chưa nhìn thấy hai người bọn chàng đã bị bao vây. Nghe tiếng ngựa hí này chàng mới quay nhìn, thấy rất nhiều người hồi đang tức tối nhìn hai người bọn chàng. Chàng nhận ra ngay tên thủ lĩnh đang ngồi trên ngựa là A Mạc Đan, kẻ chuyên chống đối triều đình Mãn Châu.

Lúc này A Mạc Đan cũng nhận ra Tiêu Phong, người hay dẫn binh lính đến các tộc ở hồi cương kiểm tra hộ khẩu, đo đạc đất đai, điều tra ra nhiều mối tệ về thuế má do đó mỗi năm triều đình còn thu thêm được đến hơn trăm vạn lạng bạc. A Mạc Đan ngó thấy Tiêu Phong mặc y phục kiểu người hồi, không khỏi giật mình.

A Mạc Đan là đồ đệ của Thiên Sơn Thần Ưng. Thiên Sơn Thần Ưng là một võ sĩ người hồi khá nổi tiếng ở miền tái ngoại, và cũng là tộc trưởng của bộ tộc Ái Lã. Tiêu Phong nhủ bụng, “Năm ngoái tộc Ái Lã không đóng thuế cho triều đình nên cả bộ tộc bị diệt. Thiên Sơn Thần Ưng mất đi tông tích. Ái Lã cách nơi này cũng cả trăm dặm, sau khi tộc Ái Lã bị diệt chắc A Mạc Đan chạy đến A Lạp Sơn Khẩu gia nhập bộ tộc này...” Tiêu Phong và A Mạc Đan giương mắt nhìn nhau, đều bất ngờ vì đối phương xuất hiện ở đây.

-Chính hắn đã lẻn vào thánh địa hái tuyết liên đấy thưa đội trưởng - Một nam nhân người hồi giơ tay chỉ mặt Tiêu Phong.

Hồng y nữ tử giật nảy mình, lúc nãy vì vui thích quá nàng không để ý, quả thực những đóa tuyết liên trên cây thông là hoa đã hái trong cấm địa của tộc A Lạp Sơn Khẩu, nàng biết. Hoa này có màu hơi vàng như ngà voi, chính là tuyết liên được trồng trong vườn hoa thánh, không phải trắng muốt như hoa mọc ngoài hoang dã. A Mạc Đan nghe thuộc hạ nói vậy, đã tức giận càng nhìn Tiêu Phong như kẻ tử thù.

Người hồi vây quanh Dương Tiêu Phong và cô gái áo hồng từ ba phía. Tiêu Phong tức thì dắt tay nàng quay lưng đi ra phía đang bỏ trống. A Mạc Đan bỗng nhảy từ trên ngựa xuống, người chưa bước tới mà chưởng phong đã phóng tới lưng Tiêu Phong rồi. Tiêu Phong đưa tay trái quàng ngang hông cô gái, tay phải phóng ngược lại một chưởng, mượn sức chưởng của A Mạc Đan vọt nhanh đi. A Mạc Đan lập tức đuổi theo, thân pháp nhanh như tên bắn.

Có mấy người hồi dưới quyền A Mạc Đan có cảm tình với hồng y nữ tử, họ nghĩ “cô gái này đã từng chữa bệnh cho con cháu ông bà chúng ta, là một người tốt, sao lại dính dáng với tên này?”

Dương Tiêu Phong nắm lấy tay cô gái nhắm hướng con ngựa trắng mà chạy, nhưng khi cả hai tiến gần tới nơi, còn vài bước nữa là leo được lên lưng ngựa thì A Mạc Đan đã dùng khinh công bay tới sau lưng giơ tay chụp trúng vai Tiêu Phong.

A Mạc Đan cười nhạt:

- Đại tướng quân vương! Hạnh ngộ, hạnh ngộ. Sau mới đến hồi cương lại bỏ đi sớm vậy chứ? Đúng là không nể mặc tộc trưởng chúng tôi chút nào!

Dương Tiêu Phong xoay mình một cái thoát khỏi cú chộp đó, mắt thấy địch có nhiều người, lại nữa võ công A Mạc Đan cũng không tệ, thêm vào đó chàng cũng đang bị thương trong mình, nhắm không thể đánh thắng trận này được.

A Mạc Đan lại quát lên:

-Hai ngươi cướp phá khu vườn thánh Tuyết Liên, tội này không thể tha thứ, mau theo ta về để tộc trưởng xử lý!

Cô gái áo hồng thầm kinh hãi, nàng nghe nói ai mà ăn cắp tuyết liên trong thánh địa của tộc A Lạp Sơn Khẩu thì dù một đóa cũng bị trừng trị, cứ hể một đóa hoa là đánh đổi bằng một ngón tay. Huống chi trên cây thông đó có cả trăm đóa hoa là ít. Nàng bèn nấp sau lưng Tiêu Phong, nép sát vào người chàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 37: Anh hùng nan quá mỹ nhân quan (2)

Tiêu Phong là người của triều đình, nhủ bụng nếu mà mình theo A Mạc Đan đi gặp tộc trưởng chỉ có chết. Chàng ném ngay hai phi tiêu chia làm hai đường trên dưới đánh tới đối phương, khẽ bảo hồng y nữ tử:

- Ta phải cản trở tên này. Nàng mau lên ngựa chạy trốn đi.

Hồng y nữ tử lắc đầu nói:

- Không! Huynh đánh ngã hắn trước đi, rồi chúng ta cùng về.

Lúc này, Tiêu Phong không còn đủ thời gian để giải thích với nàng là võ công của đối thủ tuy không cao hơn mình nhưng chàng đang trọng thương chưa dứt hẳn. Chàng biết cặp phi tiêu vừa rồi lực đi không nhanh không thể đánh trúng A Mạc Đan được, chỉ nhân lúc hắn né tránh mà bế bổng lấy cô gái đặt lên yên ngựa, rồi đánh một cái mạnh vào mông con ngựa cho nó mang nàng bỏ chạy.

Khi này đồng bọn của A Mạc Đan cũng chạy gần đến nơi.

A Mạc Đan một tay bắt lấy một phi tiêu ở trên, đồng thời dang hai chân nhảy lên né được phi tiêu còn lại đánh vào hạ bộ phía dưới. Sau đó vừa khom lưng vừa lao người phóng tới Dương Tiêu Phong. Phát nhảy này vừa né ám khí vừa đuổi quân địch, nửa thủ nửa công, không cho đối thủ rảnh tay chút nào.

A Mạc Đan dùng phi tiêu của Tiêu Phong tấn công ngược trở lại nhưng Tiêu Phong tránh được. A Mạc Đan bèn rút cây đao mang ở bên hông ra thi triển thế Trảm Viên Tâm, múa đao vòng qua đầu, đoạn chuyển thành Án Sơn Tản Thạch đâm tới vào cổ đối phương. Trước đường đao hung mãnh Tiêu Phong nhảy tránh về sau liên tục. Hai người qua lại được tám chín chiêu.

Trong áo Tiêu Phong bấy giờ chỉ còn một thanh phi đao duy nhất, không muốn dùng đến, bèn nhổ một cây khô mọc gần đó sử như thanh trường côn.

A Mạc Đan lại đánh tới, lần này Tiêu Phong không kịp tránh né, nhanh chóng cầm lấy trường côn đỡ nhát đao đang trờ tới. Tiêu Phong dồn hết thảy nội công vào cây côn, trong tức thời như hóa thanh gỗ đó thành thanh sắt. Hai binh khí chạm vào nhau. Choảng! A Mạc Đan bị đánh bật ra, cảm thấy cánh tay tê nhức, cây đao suýt tí nữa đã rời tay. Hắn thầm kinh hãi cho nội lực siêu việt của kẻ địch.

Hai chiếc bóng lại áp sát vào nhau. Tiêu Phong sử dụng trường côn đương đầu với đao pháp của A Mạc Đan, phút chốc đã trôi qua hơn hai mươi lăm chiêu thức.

Sang chiêu thứ hai mươi sáu thì nội thương trong mình Tiêu Phong phát tán, ánh nhìn bắt đầu hơi nhòe đi, lại còn vừa phải đánh A Mạc Đan vừa phải cầm trường côn đương cự với những tên bộ hạ của hắn.

Dương Tiêu Phong lắc mạnh đầu một cái để trấn tĩnh, sau đó tung hoành tả xung hữu đột, oai hùng như tướng Triệu Tử Long phá vòng vây Đương dương Trường bản. Nhủ bụng vì lần này chàng làm sai thật, nên không muốn sát hại bọn chúng, chàng chỉ dùng mũi côn thích vào cổ tay làm chúng đau đớn buông rời vũ khí rên la ầm ĩ.

Tiêu Phong đánh bật được bọn người hồi này ra rồi, chưa kịp thở thì thêm một toán người hồi nữa hầm hè xông tới như muốn ăn tươi nuốt sống chàng. Tuy nhiên đây chỉ là bọn chăn thả gia súc học mót được dăm ba miếng võ quèn, không phải hạng cao đồ danh môn đại phái nên chỉ vài chiêu thế chàng đã cho cả bọn nằm đo đất. Cuối cùng chỉ còn mỗi một A Mạc Đan là đối thủ đáng gườm của chàng.

Những người bị đánh bại đó lồm cồm bò dậy chạy đi đâu đó.

A Mạc Đan lại vung vũ khí lên tấn công, cầm đao bổ từ trên xuống theo chiêu Luân Thân Hổ Giáng thì Tiêu Phong đã nghiên người lách tránh, đồng thời dụng thanh trường côn phạt ngang hông A Mạc Đan một đòn mạnh như vũ bão.

A Mạc Đan bị trúng đòn, nén đau, cầm đao cả hai tay vung lên chém xéo xuống. Chợt nghe một tiếng “choang” chát chúa, lưỡi đao của gã đã bắn tung lên trời, thì ra đã bị phi đao của Tiêu Phong phóng ra cắt đứt. Đồng thời Tiêu Phong cũng dùng côn quạt một đường vào hai chân hắn làm hắn rú lên một tiếng ngã lăn kềnh ra đất.

Tiêu Phong nhân lúc đó định chạy đi thì A Mạc Đan quyết không để chàng đi. Gã lại đứng bật dậy, lật đật lấy xích chuỳ đeo vòng quanh hông gã ra ném vào lưng chàng.

Tiêu Phong đành phải múa côn bảo vệ quanh mình, thế côn kín mít khiến ngọn chuỳ không sao tiến gần chàng được. Nhân lúc A Mạc Đan sơ hở, đầu côn của Tiêu Phong lại chọc vào giữa vòng xích sắt giật mạnh làm dây chuỳ rơi khỏi tay địch. Tiêu Phong quay vòng xích chuỳ trên đầu côn rồi hất mạnh. Đầu chuỳ gai bắn tung ra trúng vào vai trái của A Mạc Đan. Mặt khác Tiêu Phong điểm đầu côn vào giữa ngực khiến A Mạc Đan tức thở, xây xẩm mặt mày, té quỳ xuống đất.

Đồng bọn của A Mạc Đan lại quay trở lại, lần này dẫn theo rất nhiều chó sói. Bọn chúng huýt sáo miệng mấy tiếng điều khiển bọn sói tấn công Tiêu Phong. Tiêu Phong đánh đấm nãy giờ đã thấm mệt, thấy sói nhiều như vậy cả kinh vội vận kình nhảy ra xa một trượng. Bọn sói cũng nhanh không kém, đuổi theo bọc hậu chàng lại. Đồng bọn của A Mạc Đan để mặc cho bọn sói xử lý kẻ địch, dìu A Mạc Đan rời đi.

Giữa những tiếng tru tréo rợn người, Tiêu Phong vung côn ra tứ phía mà đánh. Nhưng đánh chết hết con này lại tới con khác chồm lên, như những cảm tử quân không biết sợ chết là gì. Chưa đầy nửa khắc mà bọn sói đã dồn chàng vào thế cùng, côn pháp bắt đầu rối loạn.

Hai con sói đói cùng lúc phóng vào Dương Tiêu Phong. Chàng nhìn thấy mấy hàm răng nhọn há hốc trước mặt mình, đảo người tránh né. Một con khác lại phóng tới định cắn vào cổ tay phải chàng, Tiêu Phong dùng mũi côn chém xuống, đánh gục con sói.

Trong một phút sơ hở một con sói khác đã lòn qua thế côn, cắn mạnh vào lưng chàng. Tiêu Phong huơ tay ra sau lưng túm lấy đầu nó quẳng vào một thân cây, con sói bị gãy mấy bẹ sườn kêu oẳng oẳng lên rồi nằm im. Chàng vừa đứng thẳng người lên thì một con sói khác lao đến cắn vào đùi chàng, rứt đứt một khối thịt lớn. Thêm một con nữa cắn vào bắp chân chàng, răng của bọn chó sói dày và nhọn, lại dơ bẩn, mỗi lần cắn vào như là sâu tận xương tủy. Ba vết thương này cộng với nội thương trong mình khiến chàng đau đến nổi muốn ngã nhào xuống đất, nhưng vẫn cung chân xuất được ra một đòn. Hai con sói bị đá văng vào đồng bọn, cả đám sói lang nằm chồng lên nhau. Nhờ vậy mà phía bên đó hở ra một lỗ lớn. Tiêu Phong thấy bọn sói lang nhiều không đếm xuể, không dám ham chiến nữa, liền phóng ra từ lỗ lớn đó, thoát ra khỏi vòng sói vây mà chạy.

Bọn sói điên cuồng đuổi theo chàng.

Tiêu Phong cứ chạy mãi chạy mãi, đột nhiên trước mặt nghe tiếng lộc cộc vang lên, hóa ra cô gái đã cho ngựa quay trở lại tìm chàng. Cô gái giục con ngựa trắng chạy đến bên chờ đợi. Tiêu Phong trong lòng xúc động vô cùng. Cô gái chìa tay ra, Tiêu Phong nắm lấy tay nàng, định leo lên ngựa thì bỗng chiếc vòng cỏ từ trong tay áo chàng rớt xuống.

Cô gái nói:

-Bỏ đi, muội làm cái khác cho huynh.

Nhưng Tiêu Phong thấy chiếc vòng lăn đi, chàng bèn cúi người xuống luồn qua bụng con ngựa trắng để nhặt lấy. Bọn sói lang của tộc A Lạp Sơn Khẩu này được huấn luyện rất hung dữ, theo những người hồi đi săn nai và gấu rừng rất chuyên nghiệp, bám lấy con mồi rất sát. Khi Tiêu Phong nhặt được chiếc vòng cỏ rồi thì bọn chó cũng đang phóng tới, chàng phải vừa đối phó với bọn sói vừa lo cho cô gái áo hồng.

Dương Tiêu Phong thấy một con sói nhảy tới nơi, sắp cắn trúng mặt cô gái thì đưa tay ấn nhẹ xuống mông con ngựa, làm cho con ngựa lồng lên phóng hai chân ra phía trước. Con sói bị ngựa đá trúng, xương cổ gãy nghe rắc một tiếng rồi nằm mợp xuống đất.

Đúng lúc này có hai con sói nữa phóng tới định táp vào lưng cô gái.

Dương Tiêu Phong đang ở dưới bụng ngựa, xoay trở không tiện mà cú nhảy của hai con sói lại nhanh như tia chớp. Lúc khẩn cấp chàng nảy ra sáng kiến, đột nhiên đưa tay từ dưới bụng ngựa vỗ lên. Con ngựa trắng giật mình chồm lên, hai chân sau đá ngược ra. Hai con sói bị đá trúng đầu vở sọ chết tươi.

Chàng lại nghe tiếng cô gái la lên vì ngay lúc ấy một con sói đang nhảy tới cắn thẳng vào chân nàng. Tiêu Phong bèn giơ hai tay chụp lấy hai hàm răng nhọn hoắc, dụng sức banh miệng con sói ra hết cở khiến cho quay hàm của nó gãy nghe một tiếng rụp.

Tiêu Phong xoay mình lên ngựa, hô lớn:

- Chạy nhanh lên!

Hồng y nữ tử lập tức giật cương cho ngựa chạy đi. Bầy sói không chịu buông tha, kéo nhau rượt theo sau. Ngựa chạy nhanh hơn sói rất nhiều, chớp nhoáng đã bỏ bầy sói lại sau mấy dặm. Tiêu Phong ngồi phía sau nàng nói:

-Nàng thật ngốc, sao không chạy đi còn quay lại tìm ta?

-Huynh bất chấp tất cả đi hái Tuyết Liên cho muội, lại vừa liều mạng vì muội, tay không đánh cả bầy sói và đám người A Lạp Sơn Khẩu. Bây giờ muội liều mình vì huynh.

Hai người giục ngựa chạy cực nhanh, thoáng mắt đã bỏ lại bọn sói lang khá xa.

Dương Tiêu Phong vừa phải kịch đấu, tuy thời gian ngắn ngủi nhưng cực kì hung hiểm, đến lúc này khí lực đã kiệt quệ, chạy được một hồi thì dần dần không chịu nổi nữa. Hồng y nữ tử thấy chàng mệt mỏi, lại thấy mình mẩy chàng vấy máu, nổi lòng thương sót liền nói:

- Chúng đuổi không kịp nữa rồi, chúng ta xuống ngựa nghỉ ngơi một chút đi.

Tiêu Phong lảo đảo trèo xuống ngựa, nằm ngửa ra đất thở dốc một hồi. Hồng y nữ tử lấy trong áo ra một cái khăn, lao vết máu trên mặt chàng. Chàng điều hòa hơi thở một lúc, vừa đỡ mệt đã nghe tiếng sủa đuổi theo gấp rút. Hai người vội nhảy lên lưng ngựa phi về nhà.

Tiêu Phong và cô gái thoát hiểm, xuống ngựa chạy vào nhà chốt cửa lại. Hoan hỉ không nén nổi, cả hai bất giác ôm chầm lấy nhau. Mặt cô gái chợt đỏ lên, nàng khẽ đẩy cánh tay chàng ra.

Đêm đã khuya. Ngọn đèn cầy ảm đạm đặt trên đầu tủ không đủ soi sáng hết gian nhà. Dương Tiêu Phong tỉnh lại trong trạng thái mơ hồ. Chàng cảm giác trán mình nóng như bị lửa thiêu, đầu đau nhức, khắp mình mẩy đã được băng bó bằng những miếng vải trắng. Chàng nghiêng đầu nhìn góc nhà, không thấy có ai nằm trên chõng tre. “Lạ thật, giữa đêm tối thế này nàng lại đi đâu?”

Đột nhiên có tiếng khẽ vang lên. Dương Tiêu Phong nằm một mình ở trong căn nhà và trong đêm thanh vắng, chàng nghe tiếng người thì thầm ngoài sân. Tiêu Phong vươn hết thính giác ra để lắng nghe và tin chắc mình nghe được tiếng khóc rất nhỏ của cô gái áo hồng. Tiếng khóc như bị kìm lại bằng bàn tay bịt chặt. Lúc ấy trái tim chàng chợt lặng đi, thắc thỏm và lo âu. Chàng lo nàng đã ra ngoài và bị bọn người A Lạp Sơn Khẩu bắt giữ, hoặc bị bọn sói tấn công, nghĩ tới đây chàng cố ngồi dậy khoác áo vào, phải khó khăn lắm mới chống tay đứng dậy được.

Tiêu Phong bước từng bước nặng nhọc, hơi thở tràn đầy mệt mỏi, đến gần cửa thì qua khe cửa chàng thấy có hai người đang trò chuyện: hồng y nữ tử và một thanh niên bận áo dài màu nâu quần đen. Dưới ánh trăng Tiêu Phong thấy gương mặt người nam nhân xương xương, thừa tương bằng, cặp mắt rất thần đang đứng khoanh đôi tay. Tướng mạo người đó lầm lì, thân cao hai thước, ngực phẳng và rộng, da vẻ rắn rỏi như thợ rèn nói:

-Muội à, sao muội không chịu làm theo lời ca, muội biết hắn là ai không?

-Muội không biết - Cô gái áo hồng lắc đầu, vừa khóc thút thít vừa nói - Nhưng dầu có là ai muội cũng làm không được, xin lục ca đừng ép muội.

Nàng dứt lời, Tiêu Phong thấy gương mặt nam nhân nọ lộ vẻ tức tối, nói danh tánh chàng với hồng y nữ tử.

Cô gái ngạc nhiên và sửng sốt, khuôn mặt xinh đẹp của nàng tái bệch, nhưng vẫn một mực lắc đầu:

-Không! Lục ca, mặc kệ là ai, huynh ấy đối với muội rất tốt, muội…muội không làm được…

Nói đoạn ôm mặt khóc rưng rức.

Tiêu Phong lặng lẽ nghe hai huynh muội tiếp tục nói với nhau bằng tiếng Hán. Chàng sực hiểu, thì ra sư huynh nàng muốn nàng bỏ thạch tín vào chén canh tổ yến. Hai người này là người của Đại Minh Triều. Nàng gọi gã đó là lục ca, như vậy gã phải là lục đương gia Cung Từ Ân. Họ Cung khi đi lại giang hồ lấy biệt danh Tí Viên Bạch Thái Quan. Quả nhiên Tiêu Phong thấy sau lưng gã đó có đeo một bộ cung tên.

Tiêu Phong lại nhìn cô gái, không rõ nàng là nhân vật nào trong hội phục Minh? Chàng cố nén một tiếng thở dài xuống, khẽ lắc đầu. Nguyên tắc của chàng: không làm thân, không gắn bó, không trao gửi tâm tình với bất cứ cô gái nào nay bị lung lạc vì một vị cô nương không biết tên, tiếng khóc cố nén của nàng.

Lại nữa, nếu lát đây nàng mang chén canh đó vào chàng sẽ làm gì? Mồ hôi vã ướt cả trán, Tiêu Phong không kiềm được buông tiếng thở dài, không ngờ cuộc đời chàng sẽ phải chấm dứt ở đây sao? Gặp đãi ngộ này? Chốn cao sơn lưu thủy chết dưới tay một người con gái sao? Ngoài trời bấy giờ đang khuya, đêm xuân, những hơi gió mỏng mảnh đang lùa vào khe cửa mùi ngai ngái của cỏ. Tiêu Phong ước chi nàng không biết chàng là ai, họ sẽ mãi không biết thân phận nhau, để chàng ở nơi này, với nàng, được áp mặt vào bờ cỏ dại ấy và ngủ thiếp đi bên nàng.

Lại nói đến Cung Từ Ân khuyên thật lâu mà cô gái vẫn không chịu bỏ thạch tín vào canh.

-Sư muội, thế muội còn nhớ tổ tông chúng ta không?

Cung Từ Ân hỏi.

Tiêu Phong thấy nét mặt cô gái căng thẳng, vội buông mình quỳ mọp xuống đất. Sau này chàng mới biết, thì ra ở trong Đại Minh Triều, câu hỏi đó chính là lời mở đầu các cuộc công khai thẩm phán, chuẩn bị xử quyết những thành viên phạm tội. Mỗi khi khai đường nhập hội, tuyên án xử phạt, những người giữ chức vị cao đều hỏi hàng chục câu, người có địa vị thấp hơn phải quỳ xuống cung kính trả lời theo thứ tự, khai báo tường tận, không được phép giấu giếm. Những câu hỏi và câu trả lời đều được tất cả các thành viên học thuộc lúc mới gia nhập hội.

Bởi vậy khi nghe câu đó, cô gái không dám chần chừ, lập tức quỳ xuống.

- Được lắm, nếu muội còn nhớ tổ tông thì huynh hỏi muội, lão tổ chúng ta họ gì?

Hai vai cô gái run bần bật, nước mắt ràn rụa.

- Lão tổ chúng ta vốn họ Chu, người hạ phàm để cứu chúng sinh.

Cung Từ Ân lại hỏi:

- Tất cả huynh đệ trong hội chúng ta phải kính nể ba bậc thánh nhân nào?

Thiếu nữ trả lời:

- Một kính Lưu Quan Trương đào viên kết nghĩa, hai kính liệt vị anh hùng Ngõa Cang Trại, ba kính một trăm lẻ tám hảo hán Lương Sơn Bạc.

Cung Từ Ân nói:

- Vậy Tam Bất Luật của Mã phu tử đặt ra là ba điều gì?

Thiếu nữ nói:

- Là bất quy phục Thanh triều, bất tham nhũng gia sản, bất bán rẻ huynh đệ.

Tiêu Phong đứng nghe những lời của Cung Từ Ân và cô gái áo hồng. Cứ mỗi một câu hỏi thì nàng trả lời ngay tức khắc. Hai người một hỏi một đáp hàng loạt giáo điều từ lúc khai lập Đại Minh Triều.

Sở dĩ nàng bảo Lão Tổ vốn họ “Chu,” là bởi người lãnh đạo hội phản Thanh chính là Trường Bình công chúa. Lúc xưa công chúa rời hoàng cung, đi lại giang hồ đã lấy biệt hiệu A Cửu. Sau khi mất một tay, A Cửu xuất gia đầu phật, sửa danh hiệu thành Cửu Nạn. Các thành viên Đại Minh Triều gọi bà là Sư Thái. Bà tên thật là Chu Mỹ Xúc, là con gái thứ hai của Sùng Trinh - hoàng đế nhà Minh với ái thiếp Thuận Phi nương nương. Lúc bà mới chào đời thì ngạc nương mất nên được Chu hoàng hậu chăm sóc. Năm đó vua Sùng Trinh hôn quân vô đạo, bức bách dân chúng, nên bá tánh theo Lý Tự Thành khởi nghĩa. Triều Minh dưới thời Sùng Trinh đã phải chiến đấu với vô số quân giặc xâm lăng. Phía bắc có tộc chủ Mãn Châu Hoàng Thái Cực xua quân đội Bát Kỳ nam hạ, phía đông có Oa Khấu hoành hành, trong triều đình lại bị Ngụy Trung Hiền thao túng, và cùng một lúc Lý Tự Thành nổi dậy tiến vào kinh đô. Trước khi hoàng đế Sùng Trinh cùng đường tự vẫn đã chính tay giết chết hết tất cả hoàng thân quốc thích của đại gia đình hoàng tộc. Ông cầm gươm chĩa thẳng mặt Trường Bình công chúa và nói "chỉ trách số phận ngươi bất hạnh, sinh ra trong hoàng tộc!" Rồi cầm kiếm chém xuống một nhát. Trường Bình công chúa giơ tay đỡ nên thanh gươm chặt đứt cánh tay trái và sau đó đã được Viên Thừa Chí cứu thoát. Lúc rời cung, Trường Bình công chúa quyết định cắt đứt tơ tình với Viên Thừa Chí, xuất gia làm ni cô, bái Mộc Tang đạo nhân làm sư phụ và lấy pháp danh là Cửu Nạn. Từ đó về sau, Trường Bình công chúa trở thành một thủ lĩnh của phong trào phản Thanh phục Minh. Với võ nghệ cao cường, bà được giang hồ mệnh danh là Độc Tý Thần Ni.

Lại nói tiếp chuyện Cung Từ Ân và cô gái áo hồng.

Cung Từ Ân nghiến răng tiếp:


- Bang phái Đại Minh Triều phải cứu giúp bốn loại người nào?

Cô gái đáp:

- Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.

Cung Từ Ân nói:

-Bang hội phải giết bốn loại người nào?

Lần này không nghe trả lời, chỉ có tiếng thút thít không ngừng vang lên, dáng cô gái đang quỳ trông thật nhỏ bé đáng thương nhưng Cung Từ Ân không cảm thấy mềm lòng, chỉ cảm thấy tiếng khóc của sư muội như đổ thêm dầu vào lửa. Họ Cung đùng đùng nổi giận, trợn mắt:

-Thế nào, muội đã quên rồi?

Thật lâu cô gái mới lắp bắp được một câu:

-Một… giết... tẩu cẩu Mãn Thanh, hai giết tham quan ô lại, ba giết thổ hào ác bá, bốn giết hung đồ ác đảng.

Nàng nói tới bốn chữ “tẩu cẩu Mãn Thanh,” Cung Từ Ân thở hắt ra:

- Tứ Đại Giáo Điều của bang hội là gì?

Hai mắt cô gái nhòe đi, lại tiếp tục chết lặng một chỗ, hồi sau mới nói:

-Đầu… hàng… Thanh triều phải giết…Phạm thượng bảng hội phải giết…Bán đứt bằng hữu phải giết…

Nàng chưa nói xong điều thứ tư của Tứ đại giáo điều, Cung Từ Ân nói:

- Hay lắm, vậy muội hãy tự mình kết luận cho ta, muội đã phạm phải điều gì trong Tứ Đại Giáo Điều?

Tiêu Phong thấy cô gái im lặng như một cái xác không hồn, cái ánh mắt lạc lõng buồn bã của nàng làm tim chàng đập mạnh.

- Muội không dám kết luận thì để ta – Tiếng của Cung Từ Ân lại vang lên, gương mặt đanh tím, giọng lạnh ngắt - Muội phạm phải Nhất Đại Giáo Điều và Tam Đại Giáo Điều của bảng phái!

Sau đó gằng giọng thêm lời:

-Muội tuy không được cân nhắc vào hàng đương gia nhưng có một vai trò rất lớn trong hội. Biết quy luật mà phạm lỗi, tội nặng gấp đôi. Lại nữa còn không biết hối cải, đến phút chót vẫn không một chút ăn năn sám hối. Người như muội… sống trên đời chỉ làm nhục danh tiếng Đại Minh Triều, một phong trào mà nhân dân khắp nơi kính phục và các đồng đạo trong giới võ lâm kính nể. Muội bôi nhọ thanh danh Sư Thái, người đã đặt ra quy luật mà từ trước đến nay chưa ai phạm sai lầm. Muội không xứng là hội viên, càng không xứng đáng là thành phần Hán tộc. Muội là kẻ phản bội, nguy hại đất nước, cùng một lũ chim mồi chó săn!

Cung Từ Ân dứt lời rút trong áo một con dao ngắn có răng cưa, ném phập xuống đất. Họ Cung đứng sững như ông hộ pháp, giọng ráo hoảnh:

-Muội muốn tốt thì hãy tự đâm mình ba đao sáu lỗ, rồi theo huynh trở về diện kiến tổng đà chủ để người phán quyết, đừng ép huynh ra tay!

Tiêu Phong nãy giờ vẫn chăm chú nhìn cô gái áo hồng, thấy gương mặt nàng xanh mét, giờ đây hai mắt càng thẫn thờ nhìn con dao. Sau này chàng biết, theo hội qui Đại Minh Triều, thành viên trong hội nếu hồ đồ nhất thời mà phạm đại tội thì có thể thành tâm hối cải bằng cách trước khi tổng đà chủ mở hương đường chất vấn, người phạm tội dùng dao nhọn tự đâm ba nhát vào đùi. Ba đao này phải xuyên thủng đùi từ trước ra sau nên gọi là “ba đao sáu lỗ.” Sau đó tội nhân cầu xin tổng đà chủ và các hương chủ chấp pháp tha thứ thì tội trạng có thể được huyên giảm.

Khi này ánh trăng ẩn rồi lại hiện ra sau những cụm mây đen kịt. Không gian liên tục thay đổi giữa tranh tối và tranh sáng, ánh trăng chiếu lên con dao làm cho chiếc bóng in dài lên khoảng sân mọc đầy cỏ xanh biếc.

Tiêu Phong thấy cô gái vì mình mà sắp phải chịu khổ, trong lòng không nén được xúc động dạt dào, định đẩy cửa xông ra cản nàng, không để nàng tự hủy hoại thân thể thì đột nhiên tứ phía vang lên tiếng chân dồn dập, rồi có thêm tiếng sủa inh ỏi. Cô gái và Cung Từ Ân cũng giật mình.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần. Cung Từ Ân hút sáo miệng. Tức thì khoảng hai mươi chiếc bóng bay đến tụ tập, tay lăm lăm vũ khí. Một trong những dạ hành nhân vòng tay, cúi đầu xá một cái nói:

-Bẩm lục gia, chúng ta đang bị bao vây. Bên ngoài có rất nhiều người Hồi sát khí đằng đằng đang tiến đến đây.

Gương mặt Cung Từ Ân biến sắc:

-Xưa nay chúng ta không tới lui với họ, lại chẳng gây hiềm khích, sao lại xua binh đến đây làm gì?

Hồng y nữ tử đương nhiên biết lí do người hồi kéo đến, gương mặt không lộ vẻ ngạc nhiên chút nào.

Cung Từ Ân hỏi thuộc hạ:

- Bọn họ có bao nhiêu người?

- Ít nhất cũng ba trăm người thưa lục gia.

Cung Từ Ân nghe đáp khẽ chau mày, lát sau giãn ra nói:

- Các vị huynh đệ xin hãy an tâm, ta nghĩ bọn họ sẽ không làm khó dễ chúng ta. Mảnh đất hồi cương này vốn là khu tự trị, hơn nữa người hồi trước nay chỉ gây thù hằn với quân Thanh. Nay họ đem binh đến hẳn có chuyện hiểu lầm. Chúng ta cứ giữ thái độ hòa hoãn, giải thích tường tận, tránh gây hiềm nghi với họ, vì nhỡ có chuyện hiểu lầm dẫn đến đánh nhau sẽ gây bất lợi cho bang hội về sau, chúng ta không thể sử dụng mảnh đất này làm khu huấn luyện binh mã nữa. Các vị cũng biết, chỉ với mỗi đám cẩu tẩu Mãn Thanh chúng ta đã khó đối phó, vì vậy ta không nên sinh thêm thù hằn với các bộ lạc, ta cần phải liên kết với họ, để cùng chống lại triều đình nhà Thanh.

Mọi người hô dạ, đồng lượt cất vũ khí đi.

Cung Từ Ân sau đó đưa mắt nhìn xuống cô gái áo hồng, khi này đang còn khóc lóc bi thương, nhẹ nhàng bước tới vỗ vai nàng nói:

-Thôi, đứng dậy đi.

Vì phải quỳ khá lâu nên đôi chân cô gái mềm nhũn, vừa đứng dậy là đã không vững chân. Cung Từ Ân đở cánh tay nàng cho khỏi ngã, nói:

- Tiểu muội muội, hãy nghe lời ca rời khỏi Thiên Sơn. Huynh không muốn muội vướng vào trận ẩu đả này. Cho dù có lầm lỗi gì muội vẫn là muội của ta.

-Thế còn lục ca…

- Muội đừng lo ca sẽ không việc gì, đây chỉ là hiểu lầm, chờ bọn họ đến mọi việc sẽ được sáng tỏ.

Cô gái gật đầu, nhưng chưa kịp rời đi thì người hồi đã kéo đến. Trên mặt người nào người nấy đầy lửa giận. Đám người Đại Minh Triều liền tụ lại đứng sau lưng Cung Từ Ân, che khuất cô gái. Khoảnh sân êm đềm trước căn nhà trong phút chốc sắp trở thành một bãi chiến trường đẫm máu.

Cung Từ Ân nhìn mấy trăm người hồi mang gậy gộc giáo mác trừng mắt nhìn bọn chàng, lại còn có thêm trường đao, kiếm, côn, chùy xích... đủ cả các loại binh khí trong thiên hạ. Cầm đầu đoàn người là một ông lão đầu trọc, mặc áo trắng hở ngực, râu xoắn quanh cằm, lông mày chổi xể, cất tiếng ồ ề như trâu rống:

- Mấy đứa tụi bây dám làm loạn thánh địa, chắc khinh thường Hoắc Tư Lạp ta không có tay đánh vỡ mặt à?

Cung Từ Ân nhận ra người này là tộc trưởng của Á Lạp Sơn Khẩu. Chàng chưa kịp đáp, một người hồi bước ra, chỉ mặt chàng:

-Triều đình chúng bay là phường du thủ du thực, năm nào cũng cậy đông làm càn, hiếp người thu của, năm nay còn cướp phá vườn thánh Tuyết Liên. Chúng ta hôm nay quyết tâm vì dân trừ hại, há sợ bè lũ chúng bay sao?

Tiêu Phong nghe loáng thoáng câu chửi, biết những người này tưởng Cung Từ Ân là chàng, hoặc một quan viên triều Thanh dưới trướng chàng.

Tuy rằng Hoắc Tư Lạp và bộ hạ của gã nói tiếng hồi nhưng người của Đại Minh Triều cư ngụ tại hồi cương từ lâu nên rất thông thạo hồi ngữ. Cung Từ Ân cũng từng sống ở vùng biên giới Mông Cổ một thời gian thành ra hồi ngữ cũng rất lưu loát.

Bộ hạ của Cung Từ Ân nghe người hồi đổ vây, ngơ ngác nhìn nhau, há hốc miệng, một vài kẻ nói:

-Cái gì? Vào khu vườn thánh hái hoa gì? Chúng ta chưa hề đến đó.

-Chuyện này đúng là vô duyên vô cớ, có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng rửa không sạch!

Cung Từ Ân giơ tay ra hiệu cho đám thuộc hạ yên lặng, ôn tồn bảo Hoắc Tư Lạp:

- Có lẽ Hoắc tộc trưởng đã hiểu lầm. Chúng tôi chưa hề đặt chân đến khu vực cấm kỵ của A Lạp Sơn Khẩu, chúng tôi chỉ mới vừa đặt chân đến Thiên Sơn tối ngày hôm nay, còn chưa kịp nghỉ ngơi, cho ngựa ăn cỏ, huống chi là đi cướp phá khu vườn có trồng bảo vật…

Hoắc Tư Lạp cười khảy ngắt lời:

- Các ngươi không cần chối! Các ngươi đả thương một đội trưởng của ta khiến cho hắn sống dở chết dở, bọn chó săn của ta cũng đánh hơi đến tận đây rồi. Người của ta nói một tên trong đám các ngươi và con bé áo hồng đã phá hoại tất cả hoa trồng trong vườn thánh!

Hoắc Tư Lạp liếc mắt trái phải, cố tìm, nhưng cô gái áo hồng đứng nấp phía sau đám thuộc hạ của Cung Từ Ân, trái tim nàng đập thình thình trong ngực như muốn nhảy bổ ra ngoài.

Hoắc Tư Lạp không tìm thấy nàng, nhưng hai con chó săn họ Hoắc mang theo đang sủa loạn lên. Rõ ràng nàng đang ở đây, họ Hoắc chỉ biết tức tối quát:

-Khôn hồn đưa con bé đó ra để ta chặt đầu nó xuống, đem về tạ tội với thánh A La!

Hoắc Tư Lạp nói xong tiến tới mấy bước.

Cung Từ Ân đương nhiên không muốn sư muội bị chết, giận thì giận nhưng thương vẫn thương, họ Cung đứng yên tại chỗ, chắn đường Hoắc Tư Lạp:

- Ầy, đây quả thật là hiểu lầm, nếu chúng tôi thất kính với bộ tộc của ngài thì chúng tôi nhất định theo về cáo lỗi. Nhưng quả tình chúng tôi chưa chạm vào một đóa Tuyết Liên nào trong khu cấm kỵ. Hay là các vị cho chúng tôi thời hạn vài ngày để chúng tôi điều tra sự tình?

- Không được! – Đám người hồi nhau nhau – Ngay bây giờ các người trao hai đứa đó ra!

Cung Từ Ân một mực lắc đầu:

- Muội muội không có ở đây, nhưng Tần nhị đương gia của chúng tôi thì có mặt ở hồi cương, để chúng tôi đi tìm nhị gia rồi mở hương đường, sau đó bảo muội muội giải thích rõ ràng câu chuyện bí ẩn này?

Binh sĩ Hồi giáo nghe Cung Từ Ân nhắc Tần Thiên Nhân, bảo Hoắc Tư Lạp:

-Thì ra chúng là người Đại Minh Triều thưa tộc trưởng.

-Chúng đã nhiều lần quyên góp lương thực cho bộ lạc của mình.

Tuy rằng biết hai bên có tình hữu nghị, song Hoắc Tư Lạp vẫn chưa vơi cơn tức giận, nghĩ tới vườn thánh trong một ngày đã bị hủy hoại thê thảm, sợ thánh A La khiển trách, họ Hoắc hừ giọng:

- Được! Nể tình bộ lạc vốn có giao tình thậm hậu với Tần Thiên Nhân, ta cho các người cơ hội quỳ xuống khấu đầu tạ lỗi, rồi trao hai bàn tay của hai đứa đó ra, mọi chuyện sẽ bỏ qua hết. Bằng không, dù các người có tháo chạy đằng trời cũng không thoát chết!

Thuộc hạ Cung Từ Ân nãy giờ bực bội lắm, vừa bị người hồi to tiếng vừa phải nghe chửi rủa, giờ lại là xỉ nhục, đã quá sức nhẫn nhịn, mặt người nào người nấy hằm hằm:

-Chúng tôi không muốn làm mất hòa khí hai bên nhưng xin các hạ đừng hiếp người quá đáng!

-Phì! – Một người hồi nhổ nước bọt, quát – Tụi bây làm lỗi thì đương nhiên phải bị khinh miệt rồi!

Người Đại Minh Triều quát lại cũng lớn không kém:

-Chúng tôi không cướp phá vườn thánh, quyết không khấu đầu!

Cung Từ Ân định lên tiếng bảo thuộc hạ im lặng, nhưng chưa nói được tiếng nào, một người thuộc hạ của chàng chỉ mặt Hoắc Tư Lạp:

-Nhà ngươi tự xưng là tộc trưởng, vậy bản lĩnh có được bao lăm, dám cùng lục gia của ta tranh tài cao thấp chăng?

Hoắc Tư Lạp nghe vậy máu nóng càng dồn lên đỉnh đầu, lập tức gầm lên, nói với bộ hạ gã:

- Được rồi, chúng bay khỏi cần động tay, đứng ngoài trông tao thu phục tên này trước, rồi mang xác con nhỏ đó và thằng khốn về treo ở Ải Gia Cốc, cho diều hâu mổ!

Hoắc Tư Lạp dứt lời, không để Cung Từ Ân nói thêm lời nào, cởi phăng chiếc áo ngoài lộ ra thân hình vạm vỡ đầy cơ bắp rắn chắc.

Họ Hoắc bắt đầu trụ bộ, dồn nội khí từ đan điền lên ngực, lan ra hai cánh tay. Đấy chính là khởi đầu của chiêu đầu tiên Tầm Hỏa Tiển của bộ pháp tự sáng tác gọi là Hỏa La Công.

Hoắc Tư Lạp nhanh chóng vận nội công xong liền phóng tới gần Cung Từ Ân, đoạn bước chân trái sang trái một bước, mình xoay chếch qua hướng phải, vung quyền từ phải sang trái ra đánh vào ngực họ Cung.

Quyền đánh ra rất nhanh như sao xẹt lao đi trong màn đêm nhưng Cung Từ Ân không hề bối rối, ra liền chiêu Song Cung Bảo Huyệt của bộ pháp La Hán Quyền để đối phó. Chân phải họ Cung bước lui một bước, đầu gối chân trái cong theo thế hổ vồ, hai tay bắt chéo vào nhau đỡ đòn quyền.

Binh!

Hoắc Tư Lạp đánh chiêu đầu bị bật trở ra phải bước lùi ba bước, biết đối thủ nội công không tệ, tức tối liên thủ chặt chẽ hai quyền tấn công vào thương bộ đối phương.

Cung Từ Ân thấy đối phương vừa đang chuyển thế tiến về phía trước, thì cấp tốc lùi ra sau tránh hai đòn, để cho đường quyền đánh vào không khí nghe vù vù.

Hoắc Tư Lạp được nhường ba chiêu, lại thi triển chiêu Thác Phen Bạch Hạc, co đầu gối trái lên thành Hạc tấn, và dang thẳng hai cánh tay ra ngang tầm vai, đoạn bỏ chân qua trái xuống lắc cổ tay xoắn một vòng từ dưới xỉa lên chụp vào cổ họng kẻ địch.

Cung Từ Ân không tránh né nữa, lần này co gối trái lên đạp xuống đất bắn tung người lên hai thước, xoay một vòng rồi dùng chân phải đá một cú kim tiêu cước vào hai bàn tay Hoắc Tư Lạp.

Bốp!

Hoắc Tư Lạp không ngờ họ Cung lại tránh được tuyệt kỹ này của mình dễ dàng như thế, lại còn bị phản đòn bằng cú đá đâm mũi bàn chân về phía trước, khiến gã nghe rêm cả hai tay.

Hai người tiếp tục qua lại hơn hai mươi mấy chiêu nữa. Quyền đối quyền, hai đôi tay đập vào nhau bật lên những tiếng vang dội. Có khi im lặng hồi lâu, có lúc nổ giòn như pháo Liên Châu không ngớt.

Hoắc Tư Lạp ra bao nhiêu đòn, Cung Từ Ân đều đối phó được cả. Đường quyền họ Cung đi nhẹ nhàng uyển chuyển hơn hẳn, tựa như cánh hoa mai phất phơ trong gió, dụng nhu chế cương, dù đòn địch thủ mạnh thế nào cũng không hề nao núng.

Hồi sau Cung Từ Ân cũng vẫn chưa mang vũ khí ra giao đấu, lại tiếp tục xuất cước. Nhưng lần này Hoắc Tư Lạp nhân lúc đưa tay trái lên gạt đỡ cước pháp của họ Cung, tay phải họ Hoắc đánh vào chân trái đối phương, đồng thời Hoắc Tư Lạp cũng tung cước trả đòn, cú đá này điểm ngay vào hạ bộ địch thủ.

Cung Từ Ân lộn người lại tránh đòn hiểm. Còn đang bực tức vì bị chơi xấu như thế thì Hoắc Tư Lạp lại xuất Thiết Tiêu cước đá vào bụng chàng.

Cung Từ Ân đưa tay trái ra đỡ cước, tay phải chặt vào ống quyển Hoắc Tư Lạp.

Họ Hoắc bị trúng quyền lập tức hạ chân xuống, nhưng vẫn không lui mà bước chân phải về phía trước lập thành đinh tấn, vung chưởng trái ra hướng ngoài, chưởng lực đi nhanh như trường phong và mạnh như núi lỡ.

Chờ Cung Từ Ân vừa lách mình qua trái tránh, Hoắc Tư Lạp đem tay phải đánh thêm một chưởng từ trong ra ngoài. Đây là chiêu thứ mười trong Hỏa La Công tên gọi là Song Chưởng Phá Đảm.

Cung Từ Ân bắt đầu nổi dóa, không nể tình nữa, tung Bàn Quang Chưởng đỡ thẳng vào đòn đối phương. Khi nãy Cung Từ Ân chưa chiêu nào sử dụng cả thảy mười hai thành công lực, nay vì điên tiết mà vận toàn thể nội lực ra.

Chỉ nghe một tiếng “bùm” thật lớn, công lực của lục đương gia Đại Minh Triều cao hơn Hoắc Tư Lạp khá nhiều làm họ Hoắc văng ngược ra sau, lảo đảo lui bảy tám bước mới gượng lại được. Hoắc Tư Lạp cảm thấy tức thở như có tảng đá ngàn cân đè lên ngực, trong bụng nhộn nhạo, cuối cùng hộc ra một búng máu tươi rồi ngả người ra sau.

Cung Từ Ân đánh bại Hoắc Tư Lạp rồi, tưởng bọn người hồi sẽ sợ mà rút về không ngờ người hồi thấy tộc trưởng bị đả thương đến ngất đi, tức giận xông tới hét lên:

-Đánh!

Cung Từ Ân không muốn xung đột, lúc nãy vạn bất đắc dĩ họ Hoắc ra tay đánh trước lại đánh toàn đòn độc nên chàng mới phải đỡ đòn. Còn đang phân vân tìm cách làm dịu tình thế thì đột nhiên hai tiếng veo véo rít lên. Hai món ám khí nhỏ bắn lẹ đến trước mắt Cung Từ Ân.

Cung Từ Ân đã đề phòng, vội ngửa người về phía sau. Hai mũi tụ tiễn lướt qua trên mặt chàng. Mũi chàng phảng phất ngửi thấy mùi tanh hôi. Hiển nhiên mũi tên có chất kịch độc.

Cung Từ Ân tức tối khi thấy bọn người hồi dùng thủ đoạn đê tiện vậy, cùng mấy chục người trong hội Đại Minh Triều lập tức dàn trận. Họ Cung không nhẫn nhịn nữa, rút tên ra bắn nghe veo véo.

Trên Thiên Sơn gió đêm nổi lên rất mạnh, như những cơn lốc hung hãn xoáy nghe vù vù. Trăng vàng ló ra khỏi đám mây, chiếu nhiều tia ngổn ngang trên các gương mặt đằng đằng sát khí. Ở cánh rừng xa xa vang vẳng tiếng quạ kêu đêm, dơi bay vùn vụt khỏi tán thông khi tiếng gươm đao nện nhau chát chúa.

Trong lúc người hồi và người của Cung Từ Ân ác đấu trong sân, một người rời đi, nhẹ nhàng cẩn trọng, mở cửa sau của căn nhà rồi khép cửa âm thầm.

Tiêu Phong nãy giờ im lặng đứng trong nhà quan sát trận đánh giữa Cung Từ Ân và Hoắc Tư Lạp, giờ thấy những người ngoài sân đang loạn chiến, định xông ra bảo vệ cho hồng y nữ tử thì không thấy nàng đâu nữa, còn đang lo lắng, tai chàng chợt nghe có tiếng cửa nhà sau mở ra và rồi tiếng chân bước vào, đóng ập cửa lại.

Cô gái áo hồng bước vào xong chỉ đứng tựa lưng vào cửa mà nhìn, không đến gần chàng.

Bất ngờ, nàng khóc. Thật to, thật nức nở. Tiếng khóc như chất chứa hàng ngàn nỗi đau buồn. Tiếng khóc vượt qua lớp vách cách chia thân phận hai người họ, làm chàng xốn xang không chịu nổi. Tiêu Phong tiến lại gần nàng.

Tiếng khóc ấm ức ngưng lại rồi tiếng nàng:

-Huynh đã nghe hết rồi đúng không? Chúng ta đi thôi!

Dứt lời nàng chạy đến đẩy cái chõng tre sang bên, Tiêu Phong thấy bên dưới nơi đặt cái chõng là một cánh cửa có cài cơ quan hình bát quái. Nàng quỳ xuống vặn cơ quan vài vòng, tức thì cửa sụp xuống, một bật thang hiện ra dẫn xuống một căn hầm tối om. Cô gái bưng đèn dìu chàng xuống hầm. Hai người im lặng đi bên nhau, Tiêu Phong muốn hỏi nàng hàng trăm câu hỏi nhưng khi quay sang lại nhận được câu nói của nàng:

-Cứ tiếp tục đi, đừng hỏi.

Cả hai đi được một đoạn nữa cửa hầm dẫn ra một vùng cỏ xanh mướt, chân Tiêu Phong dẫm lên bờ cỏ mềm mượt, ướt át sương đêm. Một cảm giác kỳ lạ chạy rùng rùng từ chân lên đầu chàng. Cơn bệnh khiến chàng choáng váng, rên lên, ngồi thụp xuống.

Cô gái cũng ngồi thụp xuống theo, đặt cây đèn đã được dập tắt lên cỏ, nhẹ nhàng sờ bàn tay mát lạnh lên trán chàng.

-Cố lên – Nàng dịu dàng bảo - Chúng ta phải đi thêm một đoạn nữa. Ở đây sẽ có người thấy chúng ta.

Nói rồi dìu chàng tiếp tục đi. Giờ nhớ lại Tiêu Phong thực cũng không biết khi đó do bị bệnh đi không nổi hay không muốn rời nàng? Có lẽ chàng muốn đi bên nàng thêm một khoảng đường nữa, để cho con đường như còn hương thơm bay mãi trong gió.

Đi thêm một quãng, cô gái dừng chân bên một con suối đang chảy róc rách, trao cho Tiêu Phong một thanh đao ngắn và mấy nén bạc. Tiêu Phong thật tình cảm động cho sự quan tâm chu đáo của nàng, mặc dù là hai người quen nhau chưa bao lâu và cũng không có gì ràng buộc thân thiết.

Chàng đưa mắt nhìn nàng lộ vẻ mang ơn. Cô gái né tránh ánh mắt của chàng, vờ nhìn mông lung về phía xa nói:

-Huynh đi theo con suối này cho tới khi gặp một thôn làng, sau đó dùng tiền này mua ngựa trở về kinh thành, còn con dao này, huynh mang theo phòng thân. Tạm biệt.

Cô gái nói rồi quay đi về hướng căn nhà. Tiêu Phong nhìn theo, trong lòng cảm khái vô cùng. Sực nhớ vẫn còn chưa biết tên nàng, Tiêu Phong không cam lòng rời đi như vậy. Chàng cũng chợt nhớ chàng đã từng nghe giang hồ đồn trong Đại Minh Triều có một cô nương rất giỏi y thuật, bèn thử gọi:

-Nữ thần y.

Quả nhiên cô gái quay lại, gương mặt yêu kiều không chút phấn son, hai má nàng ửng hồng một cách tự nhiên.

Hai người không ai nói gì với ai, chỉ nhìn nhau với ánh mắt chứa chan tiếc nuối. Lúc này cái im lặng còn nhiều ý nghĩa hơn dùng thiên ngôn vạn ngữ.

Nhưng cuộc hội ngộ nào cũng đến hồi kết thúc.

Trước khi rời đi, Tiêu Phong chần chừ một lát rồi nói:

-Nếu như chuyện này xảy ra một lần nữa… ý của ta là… nếu nàng biết được thân phận của ta, nàng có cứu ta không?

Cô gái không suy nghĩ, đáp ngay:

-Cứu! Nhất định cứu!

Nàng nói rồi lại cười, nụ cười đẹp như một đóa bồ công anh tan đi trong gió, đẹp đến nao lòng, từ đầu đến chân Tiêu Phong đều cảm thấy ấm áp lạ thường. Thốt nhiên một cơn gió thổi qua, chàng thấy cô gái run rẩy bèn cởi áo khoác đang mặc ra khoác lên người nàng. Từ khi quen biết vị đại ca này, đây không biết là lần thứ mấy nàng được chàng trìu mến, cô gái áo hồng không nén nổi, lại mỉm cười với chàng.

Cô gái đi xa rồi, Tiêu Phong vẫn còn dõi mắt trông theo.

---oo0oo---

Dương Tiêu Phong trầm ngâm nghĩ về ký ức mà quên mất thời gian, vẫn tiếp tục kể về những chuyện đã qua với cô gái áo hồng cho Tô Khất nghe. Tô Khất cũng không có ý cắt ngang câu chuyện, vẫn lắng nghe. Lúc Tiêu Phong chú ý đến thời gian, đã là nửa đêm.

-Khoảng thời gian đó sức khoẻ không tốt, suốt cả mùa đông tối nào nàng ấy cũng nấu cho ta một bát canh nóng trước khi đi ngủ. Mùi vị đó chỉ có nàng ấy mới làm được.

Tiêu Phong nói xong chậm rãi cuộn tấm tranh lại bỏ vào tay áo. Từ hôm đó chàng đã quyết với lòng, quyết không bỏ cuộc, sẽ tìm ra nàng bằng mọi giá.

Khoảng thời gian sau này hễ mỗi độ đầu xuân là chàng lại trở về Thiên Sơn, ngôi nhà tranh vẫn còn đó, cảnh vật vẫn như cũ. Chàng dõi mắt nhìn trời xanh như tìm kiếm một hình ảnh quen thuộc, một mảnh trời mà chàng nghĩ có lẽ suốt đời chẳng bao giờ gặp lại nữa. Cũng đã ba năm kể từ ngày gặp nàng.

Dương Tiêu Phong chậm rãi đứng dậy rời khỏi hoa viên của Hắc Viện. Bóng chàng mờ dần trong màn đêm, để lại Tô Khất với ánh nến chói lòa trong đêm tối.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 38: Sâm Ngọc Linh

Những tia nắng cuối cùng của ngày lặng lẽ chiếu trên mặt hồ, phản chiếu lấp lánh. Gió thổi nhẹ, lùa qua mặt nước, rung rinh linh động như tranh vẽ, làm lòng người ngơ ngẩn.

Du thuyền tấp nập trên mặt hồ, những chiếc thuyền con, buồm chèo chở các vương tôn công tử, các cô kỷ nữ ngồi tựa mạn thuyền, hoặc trong khung cửa gảy đàn, ca hát.

Tự cổ chí kim Thái Hồ của Tô Châu là nơi vui chơi lịch lãm. Nơi đây cảnh đẹp và hữu tình không kém Tây Hồ Hàng Châu nên giới hội hoa, du khách ghé qua tấp nập.

Có một chiếc thuyền đang rẽ đám lá sen nằm giữa hồ.

Một cô gái mặc áo màu lục ngồi ở đầu thuyền, đưa mắt ngắm nhìn phong cảnh chung quanh. A đầu của nàng là Linh Đan, ngồi bên cạnh. Những chiếc thuyền chung quanh nàng đầy tiếng nói cười của những vị công tử và các cô kỷ nữ.

Lục y nữ tử không thích những tiếng nói cười đó vì nó phá tan đi cái không khí nên thơ. Trong lúc này nàng thấy lạc lõng bơ vơ, cô độc. Bên bờ hồ, những cây liễu rũ bờ, những chiếc lồng đèn đủ màu đua sắc. Nhưng cảnh đẹp nầy là để dành cho ai? Nàng khẽ lắc đầu, nhìn xuống dòng nước trong xanh tư lự.

Đột nhiên, phía trước có chiếc thuyền con trôi tới, chiếc thuyền không mui. Trên thuyền chở rất nhiều hoa Kim Ngân, ánh hoàng hôn khiến cho hoa vốn có màu trắng vào buổi sáng từ từ chuyển sang vàng. Sự biến đổi màu sắc của loại hoa này làm lục y nữ tử hiếu kỳ, ngẩn ngơ mà nhìn. Lại nữa mùi hương dìu dặt lan đi trong gió.

Trên thuyền này toàn là hoa thật cây thật, cành lá xum xuê, hoa lá bài trí rất tự nhiên, trông như một bức tranh thủy mặc của danh họa vẽ nên. Người ngồi trên thuyền mặc áo màu lục, dáng vẻ phiêu diêu xuất thế, trông như nữ thần dạo chơi sóng nước. Ngụy Tượng Xu mới thấy sau lưng đã không nén nổi hứng thú. Cô nương mới đến này khiến cho ba cô gái kia hoàn toàn lu mờ. Toàn thể các nam nhân ngồi cạnh bàn của Ngụy Tượng Xu phấn khởi đứng cả dậy, một kẻ ngâm nga một đoạn thơ trong Tây Sương Ký, kết thúc bằng câu “Ôi, sao nàng không quay mặt lại?”

Kỹ nữ đó nghe tiếng ngâm thơ bèn quay đầu lại, nhoẻn nụ cười. Ngụy Tượng Xu bất giác rung động trong lòng, tự hỏi không biết cô nương này là ai đây vì trên thuyền không đề tên.

Nàng cười một cái rồi bắt đầu cất tiếng ca. Giọng ca của nàng chiếm đoạt lòng người không thua gì nhan sắc nàng.

Nàng hát dứt lời, thiên hạ vỗ tay hoan hô rồi sai gia đinh chèo ghe tới tặng thưởng, những nén bạc to có nhỏ có chất đầy mặt bàn trên chiếc thuyền. Thuyền của nàng đậu lại trước mặt Ngụy Tượng Xu.

Cuối cùng, bao nhiêu khách nhân quanh hồ đều quay mặt về phía chiếc thuyền hoa của Tầm Lan. Nàng hé môi để lộ hàm răng ngà ngọc, lại tiếp tục cất tiếng ca.

Bây giờ là mùa đông, gió hồ rất lạnh. Thế mà tiếng hát của Tầm Lan triền miên uyển chuyển, lời bài ca lại nồng ấm, khiến cho người nghe chưa uống đã say. Tầm Lan vừa hát vừa đong đưa khóe mắt, không ngớt liếc nhìn Ngụy Tượng Xu.

Trong lòng hoan hỉ vô cùng, Ngụy Tượng Xu thấy cô gái này đầu mày cuối mắt lúng liếng đong đưa với mình, bộ điệu lả lướt đầy vẻ phong tình, lời ca uyển chuyển đàn gảy du dương, thêm vào những đợt hương hoa trên thuyền nàng bay đến, y như đi vào cõi mộng trong ánh trăng lồng sóng nước, dần dần quên mất sự cảnh giác.

Tầm Lan bảo Linh Đan chèo thuyền đến cập hẳn vào bờ, rồi rót rượu mời, Ngụy Tượng Xu cạn liền ba chén. Nàng cũng ngồi trên thuyền uống một chén. Ngụy Tượng Xu tháo chiếc nhẫn ngọc bích trên tay, đưa cho Linh Đan bảo thưởng cho Tầm Lan.

Tầm Lan nhận lấy quà từ tay Linh Đan mang đến cho nàng. Ngụy Tượng Xu bảo:

-Nàng hát một bài nữa đi.

Tầm Lan cúi đầu mỉm cười, trên má lộ ra hai lúm đồng tiền vừa nhu mì vừa ranh mãnh, càng lộ vẻ phong tình khiến trái tim Ngụy Tượng Xu phải nhũn ra. Nàng nhoẻn thêm một nụ cười rồi nói:

-Tiểu nữ không muốn hát ở đây, muốn hát riêng cho ngài thôi.

Ngụy Tượng Xu cười ha hả nói:

-Được! Được!

Ngụy Tượng Xu liếc nhìn cô gái, thấy nàng thần sắc nhu mì, trong lòng rất ưng ý, bèn thầm tính chuyện đưa nàng về kinh đô. Nhưng việc này phải tuyệt đối giữa bí mật để tránh bị chủ soái của gã biết, lại sẽ không cho phép, sẽ bảo làm thế người đời sẽ dị nghị là quan quyền háo sắc, làm bại hoại thanh danh quân đoàn Chính Bạch Kỳ.

Ngụy Tượng Xu suy nghĩ tới lui một hồi không tìm ra cách nào dắt nàng theo mình được, nhưng lòng kiềm không nỗi, thôi thì cứ bảo bọn người của gã khiên kiệu nàng vào hậu viên của trường học hầu gã một đêm trước đã.

Tầm Lan vừa vào phòng đã liếc Ngụy Tượng Xu một cái, rồi lại đưa mấy ngón tay mềm mại gảy đàn. Lần này khúc điệu nhẹ nhàng thánh thót, âm hưởng vui tươi phong phú. Ngụy Tượng Xu vừa nghe tiếng dạo đàn đã gật đầu khen ngợi. Rồi giọng hát nàng cất lên. Nàng hát liên tục mấy bài, tới khi thuốc mê trên áo nàng tỏa ra đủ làm Ngụy Tượng Xu gục xuống bàn mà ngủ.

---oo0oo---

Lại nói tiếp chuyện Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình đang ở dưới giếng nước chờ ám hiệu của Tầm Lan.

Tàu Chánh Khê không đáp vì bây giờ chàng không còn nghi ngờ gì nữa về tình yêu của mình đối với vị muội muội này.

Tàu Chánh Khê hoàn toàn giữ im lặng, hồi sau mới lên tiếng, đương nhiên là không phải nói về Tầm Lan:

-Đại muội, muội có thấy lạ là Dương Tiêu Phong hắn án binh bất động không? Khu vực quanh đây không có một ai canh gác, ngoài tỉnh Hàng Châu này cũng không thấy trại lính đâu cả.

-Ừ, mấy hôm nay muội đi thám thính, không biết hắn đều động quân đoàn đi đâu mà mất biệt!

Tầm Lan vào với Ngụy Tượng Xu cũng nửa canh giờ rồi. Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình hai người ở dưới giếng chờ khá lâu thêm nữa mới nghe tiếng ca của Tầm Lan vang lên, lâu thêm nữa lại nghe nàng ca tới đoạn:

Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Táp đạp như lưu tinh

Thập bộ sát nhất nhân

Thiên lý bất lưu hành

Tầm Lan có dặn khi nàng ca bài Hiệp Khách Hành này tức là an toàn rồi.

Lâm Tố Đình cả mừng khi nghe một đoạn trong bài Hiệp Khách Hành, biết đấy là ám hiệu Tầm Lan đã thành công. Nàng không đợi Tàu Chánh Khê liền nhảy ra khỏi miệng giếng, thi triển khinh công bay đi, chân giẫm lên những luống hoa còn ướt đẫm sương đêm. Tàu Chánh Khê lật đật bám theo Lâm Tố Đình. Hai người như linh miêu, nhẹ nhàng đến bên cửa sổ của một phòng thuộc dãy Đông Phong tư thất mà quan sát.

Một bóng người đứng trong phòng vẫy tay bảo họ vào, chính là Tầm Lan. Ngụy Tượng Xu bị trúng mê hồn tán, đang gục xuống bàn rượu mà ngủ.

Hai người liền nhảy vào từ cửa sổ.

Tầm Lan đưa chìa khóa cho Tàu Chánh Khê, nhưng Lâm tố Đình giật lấy nói:

-Để cho muội, huynh mau đưa Tầm Lan cô nương rời khỏi đây, nhưng đừng về lại Tô Châu, cứ đi đâu đó một thời gian.

Đoạn quay sang Tầm Lan, Lâm Tố Đình nháy mắt bảo:

-Bây giờ cô nương đã có ngũ ca ta chiếu cố cho, không còn sợ gì nữa rồi!

Tầm Lan mỉm cười, Lâm Tố Đình cười khúc khích, lại tiếp:

-Tối hôm đó sau khi gặp cô nương ngũ ca ta nói, mỹ nhân hiếm, mỹ nhân mà lại có khí chất xuất trần càng hiếm, biết uống rượu cực hiếm, mà mỹ nữ có tửu lượng vô biên tưởng rằng không tồn tại trên đời. Lại nữa, huynh ấy bảo rằng không biết kiếp trước làm điều đại thiện đại đức gì, kiếp này mới được kết bạn với mỹ nhân xinh như cô vậy. Lời này ta nói đều là thật cả nhé, cô nương nghe qua cũng biết huynh ấy ngưỡng mộ cô đến dường nào.

Tầm Lan ửng hồng hai má, liếc nhìn Tàu Chánh Khê, ánh mắt nàng lấp lánh như biết nói biết cười. Lâm Tố Đình ngó thấy hiểu được tâm tư thiếu nữ, càng được dịp ba hoa:

-À ta quên khấy đi mất, huynh ấy còn bảo thêm là giờ huynh ấy mới biết kiếp này mình sống vì cái gì, là sống để được một lần thấy mỹ nhân như cô cười một lần, liếc mắt một phát. Nếu được như vậy huynh ấy dẫu cho xuống núi đao lên biển lửa, vào vạc dầu chịu đủ chín vạn chín ngàn lần cực hình tra tấn, cũng xin nguyện làm.

Nói đoạn liếc sang thấy cặp chân mày Tàu Chánh Khê dính chặt vào nhau tạo thành một đường thẳng, Lâm Tố Đình càng tưởng mình đúng, cười bảo:

-Thấy chưa, cô nương nhìn xem tướng mạo huynh ấy kia kìa, chắc giờ đang tự hỏi, có phải đây chính là tiên nữ lạc phàm trần không? Xuống đây dùng nhan sắc của mình cứu nhân độ thế, chứ vẻ đẹp này đâu vướng khói lửa nhân gian được? Phải vậy không ngũ ca? Hì hì.

Tàu Chánh Khê không để ý đến những lời trêu chọc của Lâm Tố Đình, trong lòng chỉ trào lên một nỗi bất an, chàng bảo:

-Đại muội đừng đùa giỡn nữa, chuyện vào địa đạo lấy sâm phải để huynh đi, còn hai người thì rời khỏi đây, chúng ta hẹn gặp ở hồi cương!

Lâm Tố Đình nói:

-Ý! Như vậy đâu có được, thiếu đà chủ là hôn phu của muội, muội phải có trách nhiệm cứu huynh ấy! Vả lại muội sẽ không cho huynh biết củ sâm đó có hình dạng thế nào đâu, huynh sẽ không tìm ra nữ thần y để nó ở nơi nào!

Tàu Chánh Khê khuyên tới lui mấy lần, Lâm Tố Đình cách mấy cũng không chịu đưa ra chìa khóa, làm trễ nãi một thời gian. Mà Tầm Lan thì biết thuốc mê hồn tán này chỉ có tác dụng khoảng chừng một hai canh giờ. Cuối cùng, Tàu Chánh Khê nói muốn cạn lời, mà Lâm Tố Đình vẫn cố chấp. Tàu Chánh Khê biết sư muội võ công rất khá, nếu không muốn nói là giỏi, không thể đoạt chìa khóa từ tay nàng được. Lại nữa nàng đã quyết như thế, với tánh bướng bỉnh của nàng, chàng biết không thể thuyết phục được, chỉ e sẽ mất thêm thời gian quý báu, không chừng còn lại đánh động đám quân binh nữa. Chàng buột lòng phải đưa Tầm Lan rời khỏi trường học.

Thế là Lâm Tố Đình một mình đi vào địa đạo bên dước Tâm Thiền thư viện tìm sâm. May là nó vẫn ở chỗ cũ trong kho thuốc. Lâm Tố Đình thở phào một tiếng, cả mừng cất sâm vào ngực áo, nhủ bụng “chuyến này thành công một cách trót lọt rồi! Thế mà Tam ca cứ nhất định không cho mình đi! Khinh thường ta đến thế hay sao?”

Đúng là “sơ sinh chi độc bất uý hổ,” đương lúc nàng hí hửng nét mặt, gần ra khỏi cửa Tâm Thiền thư viện rồi thì có một người đi vào.

Lâm Tố Đình không ngờ tới sự việc này, vội vàng nấp mình phía sau một kệ sách.

Dương Tiêu Phong bước vào thư viện, ngồi nơi chiếc bàn đặt ở giữa gian phòng, chỗ này cách chỗ Lâm Tố Đình đang đứng khoảng chừng một chục bước chân. Lâm Tố Đình hầu như không dám thở.

Dương Tiêu Phong lấy chiếc vòng cỏ trong tay áo ra ngắm, đối với chàng những gì hồng y nữ tử đã làm cho chàng dù là một ít cũng không quên được, không hiểu tại sao lại trở thành lụy tình như vậy?

Với chàng, qua lại với nàng ca kỷ họ Hà ở kinh thành hơn ba tháng đã là một kỳ tích rồi, bởi chàng chẳng thể bên ai lâu quá mươi ngày. Người ta nói chàng đào hoa, lăng nhăng, nhưng vẫn có hàng dài các cô nương sẵn sàng chết vì chàng. Người đẹp xin chết, chàng đâu nỡ từ chối, quan điểm của chàng là yêu nhưng sẽ không có trách nhiệm, chàng không muốn bị bó buộc bởi hai từ “gia đình.”

Khang thân vương nói chàng giống như một con ngựa hoang, không muốn bị bó buộc lại một chỗ, cái chàng muốn là được tự do bay nhảy khắp nơi. Nơi nào đẹp thì sẽ dừng chân nghỉ, nghỉ chán rồi lại tìm đến một nơi đẹp hơn. Khi đã nhàm chán với tình yêu của một cô gái, chàng bắt đầu tính toán đường lui cho mình. Với những cô gái trước đây, thì chàng chẳng cần đau đầu nghĩ ngợi, chán thì chỉ cần nói một câu chia tay là xong.

Hồng y nữ tử lại khác với những cô gái chàng quen trước đó, có lẽ chính sự khác biệt của nàng đã chiếm trái tim chàng. Nàng xinh đẹp nhưng không lả lướt, lẳng lơ như những cô gái kia. Ở nàng, luôn có nét dịu dàng, trong sáng và đơn giản. Lại nữa những người con gái như nàng, khi đã yêu rồi sẽ hết lòng hết dạ với người yêu, nàng sẽ luôn chăm sóc cho người nàng yêu chu đáo. Chàng biết, vì nàng đã từng chăm sóc rất ân cần cho một kẻ không quen là chàng.

Tiêu Phong nhớ lại mùa xuân năm nay chàng cũng đã trở về lại Thiên Sơn, bước vào căn nhà tranh đứng nhìn ra ngoài khung cửa.

Phía sau cửa sổ đó là một khu vườn. Một khu vườn trống với thật nhiều hoa dại.

Nhớ năm xưa chàng cũng nằm trên chiếc chõng tre kê cạnh cửa sổ này. Lúc đó nàng bảo trên núi gió rất độc, cửa sổ được nàng đóng kín mít. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những luồng gió mỏng mảnh như sợi chỉ len lỏi vào từng khe cửa, đem theo mùi dạ lan, mùi cỏ và cả mùi đất nồng nồng sau cơn mưa vào nhà. Những lúc ấy, chàng nằm im, vươn hết thính giác ra để nghe ngóng. Từng bước chân âm thầm của lũ kiến chợt rào rạo như cát đổ trên mái nhà. Tiếng cựa quậy, tặc lưỡi của con thạch sùng nghe như tiếng cá sấu trườn trên bãi đất khô.

Năm nay cũng thế, chàng quay lại nơi đó, hàng chục thứ tiếng động khác nhau lần lượt chen vào, mỗi thứ bình thản chọn một chỗ trong tai chàng, chuyển động nhịp nhàng và hoan hỉ. Vẫn còn thiếu tiếng thở nhẹ nhàng của hồng y nữ tử khi nàng ngồi ở một góc nhà đan vòng cỏ. Cái bóng con gái mảnh dẻ, mái tóc có mùi thơm nhè nhẹ của hoa ngọc lan sẽ chầm chậm tiến lại gần chàng, rồi giọng nói êm như hơi gió cất lên: “Huynh cảm thấy thế nào, có lạnh quá không? Uống chén canh này rồi nghỉ ngơi cho sớm nhé.” Chàng sẽ mỉm cười, bưng chén canh tổ yến nấu với đường phèn lên uống.

Có một hôm nàng không mang canh yến đến cho chàng mà đem hai chén chè tôm lạnh thơm phức mùi bạc hà vào. Món chè tôm lạnh này là món ăn được làm bằng bột gạo, được chế biến bằng cách ép bột chín qua một cái vá thủng xuống thau nước lạnh, để tạo ra những giọt bột đầu to đuôi vắt nhỏ như hình con tôm, sau đó ăn với nước đường nấu với lá bạc hà, một kiểu ăn vặt có xuất xứ từ Vân Nam, mùi vị mát mát thanh thanh, vừa mềm vừa dai.

Căn bếp được xây bên hiên nhà, khi nàng mở cửa ra mùi hương khiến cánh mũi chàng động đậy. Chàng đứng im sững giữa cửa cho đến khi nàng lên tiếng chào mới giật mình như rớt từ cõi mộng du nào xuống.

Có lẽ nàng đứng nấu chè rất lâu nên chân mỏi rồi, bỏ giày khỏi chân, nàng khoả đôi gót trần trắng nõn, bắt mắt xinh đẹp bước đi.

Nàng thấy chàng cứ nhìn mình chăm chăm, liếc chàng một cú, nói:

- Huynh này, làm gì cứ nhìn muội? Xem mắt tròn chưa kìa, trông thật ngố!

Chàng không biết trả lời sao. Nàng nói rồi lại bắt đầu cười, tiếng cười khe khẽ đáng yêu.

Chàng như ngất ngây trước sắc đẹp và nụ cười đó, vẫn đứng im sững giữa cửa. Hồng y nữ tử dịu dàng hỏi:

-Huynh định không kéo ghế mời muội ngồi?

Đặt vào tay chàng chén chè, nàng lại mỉm cười. Chỉ lúc ấy chàng mới nhận ra mùi vị của hạnh phúc phảng phất trong không khí.

Mỗi ngày, chàng thường lắng nghe tiếng hát của nàng vọng từ ngoài sân khi nàng nấu ăn, và mỉm cười một mình.

Nàng hát không được hay như danh kỹ kinh thành Hà Tử Lăng, nhưng chàng không bực mà chỉ thấy vui trong lòng. Ở cạnh nàng suốt mùa đông sang đến đầu xuân, chàng hiểu những lúc nàng hát là nàng đang vui lắm.

Nắng vàng lan tỏa.

Khi thuyền hoa chầm chậm trôi ngang qua thuyền lục y nữ tử, nàng không ngồi im nữa mà cất tiếng ca, nàng hát một cách đầy cao hứng quên cả cảnh giới chung quanh. Tiếng ca nàng du dương, khi trầm khi bổng, có đoạn nghe như tiếng sóng biển vỗ nhẹ vào bờ, chuyển sang phấn khích, rồi lại buồn man mác gieo vào lòng mọi người nỗi hoài cảm mông lung.

Tàu Chánh Khê thả bộ dọc theo bờ hồ, nhỏ giọng nói:

-Hội Tây Hồ năm nay, huynh muốn mượn tiếng ca của cô nương này.

Lâm Tố Đình đang cải nam trang đi bên cạnh chàng, nàng nhướng đôi mày được kẻ rậm rạp nói:

-Được hay sao?

-Ừ. Chỉ có cô ta mới tiếp cận và lấy được đồ từ trên mình Ngụy Tượng Xu.

-Ngũ ca chắc chắn cô ấy sẽ giúp chúng ta?

Tàu Chánh Khê dừng chân lại bên một gốc cây, nói:

-Huynh không chắc, nhưng huynh sẽ cố.

-Ừ.

Lục y nữ tử hát xong thì thuyền nàng cũng cập vào bờ hồ.

Có rất nhiều nam nhân chạy đến để ngắm dung nhan của cô gái với tiếng ca mê hoặc lòng người này. Họ thi nhau gọi tên nàng:

-Tầm Lan!

-Tầm Lan cô nương!

Tầm Lan mỉm cười một cái.

Mọi người nhìn đi nhìn lại, ngắm tái ngắm hồi, càng quan sát càng mê mải, càng si càng mê. Giờ thì mới biết, cái gọi là cười một cái nghiêng thành, cười thêm phát nữa khuynh quốc, nó vốn không phải chỉ có trong truyền thuyết.

Lâm Tố Đình là con gái, đứng cạnh Tàu Chánh Khê cách đấy một quãng cũng ngẩn ngơ mà nhìn, không khỏi trầm trồ thán phục dung nhan lục y nữ tử. Ở nàng là vẻ dung dị và thuần khiết tới mức cùng cực, ắt dễ gây ra sự ngẩn ngơ bất thình lình cho bất kỳ nam nhân nào. Với hai mắt đen to tròn, ấn đường siêu nhiên thoát tục, tướng số cô gái áo màu lục này ắt phải được sống đời an nhàn, hạnh phúc. Nếu ko lấy được chồng đại gia khét tiếng, quyết chẳng phải lấy kẻ ăn xin. Thế sao lại làm “kỷ nữ du thuyền” ở Tô Châu này?

A đầu của Tầm Lan là Linh Đan dìu chủ tử đứng dậy, bước lên bờ nói với đám đông:

-Tầm Lan cô nương đã vì các vị đại gia ca một bản rồi, xin các vị nhường đường.

Nói rồi hai cô gái dợm chân định đi về hướng chiếc xe ngựa đang đậu trên cầu để về lại Lan Xuân lầu.

Chợt có nhiều tiếng nói:

-Ầy, sao kỳ vậy?

-Chúng tôi chờ gần cả ngày trời, đặt bàn uống rượu bên bờ hồ này, chỉ mong nghe được Tầm Lan cô nương ca, đợi mỏi mòn mới thấy Tầm Lan cô nương xuất hiện, chỉ ca một bản rồi rời đi là sao?

-Vậy đâu có được?

Linh Đan còn chưa kịp đáp thì vừa lúc đó có tiếng thét vang:

- Tầm Lan cô nương đến đây ca mà không chờ Hắc Hổ tại hạ đến nghe hử?

Mọi người nghe tiếng người này lật đật tản ra ngay. Một gã thanh niên vạm vỡ mặt mày hung tợn, đen đúa, trên trán có vết sẹo dài, cởi trần trùi trụi, quần đen, lộ ra tay chân toàn cơ bắp lông lá bù xù bước tới. Theo sau hắn là hai tên khác hơi ốm hơn, mặt mũi cô hồn, điệu bộ ra tuồng bọn du thử du thực.

-Không được đi - Một tên đàn em của gã nói - Tầm Lan cô nương còn chưa vì Hắc Hổ đại ca ta ca một bản, không thể đi được!

-Ầy - Linh Đan bước tới đối diện Hắc Hổ cười giả lả nói - Vị đại gia à, Tầm Lan của Lan Xuân Lầu chúng tôi có quy chế của cổ, tất cả mọi người ở Thái Hồ đều biết hết rồi mà...

-Tránh ra, con nhóc - Hắc Hổ vung tay đẩy Linh Đan một cái làm cho Linh Đan thiếu điều muốn té bật ngửa - Nếu hôm nay Tầm Lan không vì bổn đại gia ca một bản, thì đừng có hòng ta cho bỏ đi!

Tầm Lan bước tới đứng cạnh tiểu a đầu của nàng, thản nhiên nói với Hắc Hổ:

-Tầm Lan chỉ ca cho cảnh hữu tình hoặc người tri âm, đại gia kêu Tầm Lan ca thêm một bản, tiểu nữ không ca.

-Xem ra cô chưa biết sự lợi hại của ta, bây đâu!

-Tránh ra, tránh ra!

Hắc Hổ ra lệnh một cái, hai tên thuộc hạ của gã liền tiến lên vây hai bên trái phải Tầm Lan. Chúng định đưa tay chộp tay nàng thì Hắc Hổ phất tay bảo chúng dừng lại, cười thô lỗ:

- Sao nàng sợ rồi hử? Nếu biết điều ăn năn chuộc tội khiến bổn gia vui lòng thì ta sẽ nhất định cưng chiều nàng hết mực!

Nói rồi giơ tay định vuốt má nàng.

Hai tên đàn em của Hắc Hổ cũng phá lên cười thô bỉ.

Tiếng cười chưa dứt thì nhoáng cái mọi người thấy thấp thoáng chiếc bóng vụt qua vụt lại và có tiếng lốp bốp giòn giã. Hai gã côn đồ đã lãnh mấy cái tát tai như trời giáng, hai bên má chúng đỏ bừng.

Gã tên Hắc Hổ còn chưa chạm vào được Tầm Lan, nghe tiếng gió đã vội vàng lùi ra sau mấy bước tránh được đòn, mới không bị đánh tới sưng vù cả mặt mày.

Mọi người nghe tiếng gió thổi vù qua một cái nữa. Có ai đó đưa hai tay chụp lấy hai tên đàn em của Hắc Hổ ném đi. Vì hai tên này đứng gần Tầm Lan nên khi người kia lao đến đã vô tình khiến cho thân người y theo đà chạm vào người nàng, làm nàng hơi loạng choạng thoái lui một bước. Tầm Lan hơi đỏ mặt nhưng không tỏ vẻ khó chịu. Nàng bước lui lại và nhẹ nhàng đặt tay lên vai Đinh Lan. Đinh Lan cũng giữ eo nàng giúp nàng đứng vững chân hẳn rồi mới buông ra.

Hắc Hổ chưa kịp hoàn hồn, thì cảm giác như có hai tảng đá đè lên ngực, chỉ kịp kêu “Ui da.”

Lần này Hắc Hổ không tránh được, cùng với hai tên đàn em hắn té ùm xuống hồ. Mọi người phá lên cười.

-Ngươi là ai? Mau ra đây cho ta!

Hắc Hổ vừa đạp chân cho nổi lên mặt nước vừa tức tối quát.

Không có tiếng đáp.

Tầm Lan đưa mắt nhìn hướng Tàu Chánh Khê đang đứng dưới một tàn cây lớn. Chàng nhoẻn miệng cười với nàng, nhìn nàng bằng ánh mắt dịu dàng làm cho trong lòng nàng chợt hơi xao xuyến. Nàng khẽ gật đầu chào chàng.

Linh Đan nói với đám đông:

-Được rồi, được rồi, các vị tiếp tục uống nữa đi, hết chuyện rồi.

Sau đó dìu chủ tử đi tới cỗ xe ngựa đang đậu trên cầu cách đó vài chục bước chân.

Tầm Lan bước lên xe, Linh Đan định theo lên thì chợt nghe có tiếng nói:

-Xin đợi một chút, chúng tôi muốn cầu kiến Tầm Lan cô nương. Làm phiền vị tiểu muội muội này xếp đặt giúp cho?

Đợi Linh Đan quay đầu lại, Lâm Tố Đình lấy ra một thỏi vàng và thành thật khen ngợi:

- Tiếng ca của Tầm Lan cô nương quả thật rất hay, ở Giang Nam tôi chưa từng nghe ai ca hay như thế!

Nét mặt Linh Đan hơi ngỡ ngàng, nhủ bụng từ xưa đến nay chưa từng có người nào đối đải rộng rãi với một a đầu như nàng đến thế. Nàng mở to đôi mắt huyền nhìn hai vị công tử đầy vẻ cảm kích, từ cặp môi anh đào thoát ra một giọng nói trong trẻo như tiếng suối reo:

- Hai vị công tử chờ một chút!

Đoạn bước lên cỗ xe vén rèm nói gì đó, lát rồi vén rèm bước ra bảo:

-Tầm Lan cô nương bảo công ơn của vị công tử này giúp cô ấy hồi nãy, còn chưa được dịp bái tạ, xin mời hai vị lên xe.

Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình vào xe thì thấy trong xe có đặt một cái bàn nhỏ, trên bàn bày biện một bình trà và vài hộp bánh mứt. Linh Đan bỏ rèm xuống, giật cương cho ngựa chạy đi.

Xe lăn chầm chậm. Tầm Lan nhìn Tàu Chánh Khê nói:

-Xin cám ơn công tử đã giúp Tầm Lan thoát khỏi sự quấy nhiễu của tên Hắc Hổ, để Tầm Lan dùng trà thay rượu kính huynh một ly.

Giọng Tầm Lan hết sức dịu dàng, đến nỗi ngay cả Lâm Tố Đình cũng phải ghen tỵ.

Quả thật Tàu Chánh Khê rất có cảm tình với cô gái này.

Tàu Chánh Khê hồi nãy đứng khá xa Tầm Lan, giờ có dịp ngồi đối diện, thấy cô gái này nhan sắc diễm lệ, sáng lóe như tia chớp trong đêm tối, đâm rách bầu trời đêm. Lại như mặt trời xé ra mây đen tâm tối thì không khỏi có chút thần người.

Tầm Lan nói rồi chỉ thấy Lâm Tố Đình nâng tách trà lên, bèn khẽ cười:

-Xin đừng khách sáo, xin mời.

Tàu Chánh Khê bấy giờ mới định thần lại. Ba người uống cạn ba tách trà, Tầm Lan nói:

-Hồi nãy Tầm Lan nghe tiểu Linh Đan nói hai vị công tử có chuyện tìm Tầm Lan?

Tàu Chánh Khê nói:

-Tại hạ muốn mời cô nương đến hội Tây Hồ vào ngày mốt, hiến một bài ca.

Tầm Lan nói:

-Công tử, Tầm Lan hiến ca có quy chế của Tầm Lan, có lẽ công tử đã biết rồi?

Lâm Tố Đình nói:

-Nếu cô nương chấp nhận, thì tiền thưởng ngàn vàng chúng tôi không bạc đãi cô đâu.

Linh Đan đang đánh xe ngựa, quay đầu nói vọng vào trong xe:

-Thiệt không đó? Hai vị công tử nói có thật không? Một ngàn lạng vàng sẽ thuộc về Tầm Lan cô nương của chúng tôi cho một bài ca thôi sao?

Lâm Tố Đình ngồi trong xe nói vọng ra ngoài:

-Đương nhiên rồi, bộ hai người chúng tôi giống nói chơi lắm hả?

Riêng Tầm Lan không có phản ứng, ngồi đấy lặng lẽ nhìn Tàu Chánh Khê, suy nghĩ một lát rồi nói:

-Một bài ca mà được trả đến một ngàn lạng vàng, theo như Tầm Lan nghĩ... thì hội Tây Hồ này quả không đơn giản đâu.

Tàu Chánh Khê không đáp mà hỏi lại:

-Không biết cô nương có vui lòng ca hát hay không?

Ánh mắt Tầm Lan tỏ vẻ tư lự, nàng lặng thinh một lát nữa, rồi không nhịn được, bất chợt buông câu nói:

-Nhìn hai vị công tử đây ăn mặc phong độ, một người tỏ ra như một vị lãnh đạo, còn am hiểu võ công, nhưng Tầm Lan lại không biết hai vị công tử là ai, không biết một chút gì hết…

-Tại hạ Tàu Chánh Khê, ngũ đương gia của Đại Minh Triều - Tàu Chánh Khê vội ngắt lời nàng.

Đoạn chỉ tay sang Lâm Tố Đình, chàng tiếp:

-Còn đây là bát đương gia của chúng tôi, muội ấy đang cải nam trang.

Lâm Tố Đình giật mình nhìn Tàu Chánh Khê, khẽ nói:

-Ngũ ca, sao huynh nói thân phận chúng ta cho cô ấy biết?

Tàu Chánh Khê vỗ nhẹ lên tay Lâm Tố Đình dưới gầm bàn, chàng cười, phô hàm răng trắng bóng:

-Đã cầu người hẳn phải tin người chứ, đại muội muội, muội chưa từng nghe thiếu đà chủ nói câu nói bất hủ đó của Tào Tháo à?

Lâm Tố Đình nghe nhắc đến Tần Thiên Nhân, không nói gì nữa. Quả thực nàng đang rất cần sự giúp đở từ cô gái tên Tầm Lan này.

Lâm Tố Đình nhớ lại chuyện hôm bữa Tần Thiên Nhân về đến đồn Bạch Nhật, sau đó nằm mê man cả mấy ngày trời, không có dấu hiệu tỉnh lại, làm cho nàng cả mấy ngày cũng không ngừng lấy nước mắt rửa mặt. Nàng ở trong lều chứa thuốc ôm mặt khóc, cho đến khi nữ thần y đến tìm nàng nói:

-Sâm Ngọc Linh là loại nhân sâm quý hàng đầu trong các loại sâm. Nhưng loại sâm này rất khó kiếm, chỉ mọc ở độ cao hai ngàn thước. Đặc điểm bên ngoài là thân màu lục hoặc hơi tím, có hình chân vịt trên đỉnh đầu củ sâm. Công dụng của nhân sâm Ngọc Linh là cầm máu, loại bỏ chất độc khỏi cơ thể, nhanh chóng chữa lành ngoại thương lẫn nội thương, hồi phục sức khỏe, đặc biệt là dùng để tăng cường nội lực rất có hiệu quả…

Lâm Tố Đình khoác tay ngắt lời nữ thần y:

-Thôi đủ rồi, không cần diễn tả nữa, chỉ cần muội nói nó mọc ở đâu, tỉ sẽ lập tức đi tìm.

-Ở trong kho thuốc của Hắc Viện, muội nhớ còn lại một cây...

Nữ thần y chưa dứt lời, có tiếng sang sảng của ai đó vang lên:

-Không được! Đại muội muội, muội không được đi! Lần này chúng ta đương đầu với một đối thủ rất lợi hại. Lại nữa huynh nghe nói trường học bây giờ được canh gác rất nghiêm ngặt, có rất nhiều cấm vệ quân, ngoài ra còn đám cao thủ đại nội nữa, nếu muội muốn chánh diện mà đánh cướp nhân sâm, sẽ khó như lên trên trời.

Lâm Tố Đình định đáp lại lời Trương Quốc Khải thì lại có tiếng nói:

-Nếu không dùng vũ lực được, thì ta sẽ dùng mưu kế...

Thì ra người vừa xuất hiện trong lều chứa thuốc là tam đương gia và ngũ đương gia.

Trương Quốc Khải hết nhìn Lâm Tố Đình lại đánh mắt sang Tàu Chánh Khê, cau mày nói:

-Ngũ đệ, đại muội à, chuyện này không phải đùa đâu!

Lâm Tố Đình không muốn bị mất thời gian cứu chữa cho Tần Thiên Nhân, lo lắng buột miệng nói:

-Muội cũng không đùa, muội nhất định đi!

Rồi quay sang Tàu Chánh Khê, nàng nói:

-Ngũ ca, huynh nói vậy là ủng hộ cho muội rồi phải không?

-Ừ!

-Đó! Tam ca, huynh muốn cản muội trừ phi đánh thắng ngũ ca trước, và đánh gãy cả đôi chân muội luôn đi!

Rồi nàng lại quay sang hỏi Tàu Chánh Khê:

-Không biết ngũ ca có mưu kế chi có thể cho muội biết được chăng?

Tàu Chánh Khê không đáp, nhưng trong đôi mắt ánh lên một đốm sáng.

Lâm Tố Đình nóng lòng, lại nói:

-Quyết định vậy đi, có ngũ ca đi cùng với muội, tam ca, như vậy huynh đã yên tâm rồi hay chưa? Theo muội thì chuyện này không sao nữa rồi.

Trương Quốc Khải trầm ngâm một lúc mới trả lời:



-Đại muội, muội đừng hiểu lầm tam ca. Huynh không phải không muốn cho hai người đi tìm sâm để cứu thiếu đà chủ, nhưng chuyện nguy hiểm như thế, để huynh đi cho.

Lâm Tố Đình xua tay nói:

-Nhưng Tam ca, huynh đang bị thương trong mình, đại ca cũng thế, ở chỗ này ngoài muội và ngũ ca còn lành lặn thì còn ai vào đây? Nhiệm vụ trước mắt của các huynh là điều trị thương thế và giữ mình cẩn thận, vì sau này công việc của chúng ta sẽ nặng nề hơn trước rất nhiều.

Lâm Tố Đình dứt lời không để cho ai phản đối, lập tức ra khỏi lều đi chuẩn bị ngựa.

Nữ thần y biết không còn việc gì thêm, nàng cáo từ trở về lều của Tần Thiên Nhân túc trực bên chàng.

Còn lại hai người, Trương Quốc Khải nói:

-Ngũ đệ, đệ biết hiện thời Giang Nam binh sĩ trùng trùng như một đàn ruồi bu quanh đĩa mật, sao lại ủng hộ cho đại muội quay trở về đó chứ?

Tàu Chánh Khê nói:

-Chúng ta không để cô ấy đi, cô ấy sẽ không cam lòng đâu, chi bằng để đệ đi theo bảo vệ cho đại muội, bằng không, cô ấy cả đời này cũng sẽ không tha thứ cho chính mình được. Tuy chim trên trời sống trong bão tố gió mưa không ngừng, nhưng nó được vui, được tự do, còn hơn nhốt mình trong lồng tuy an toàn nhưng lại phiền muộn. Trong tình yêu cũng vậy.

Nói xong thấy Trương Quốc Khải vẫn còn chưa hiểu, Tàu Chánh Khê chỉ mỉm cười, quay người đi về phía căn lều của chàng để chuẩn bị hành trang lên đường về Hàng Châu. Đi được vài chục trượng, Tàu Chánh Khê chợt dừng lại nói:

-Đôi khi buộc phải đứng sau người mà mình yêu thương, nhìn họ mỉm cười, chứ không thể cùng song hành.

Giọng Tàu Chánh Khê khi nói câu này hết sức hiền từ. Trương Quốc Khải nghe tới đây nội tâm kích động dần dần bình tĩnh lại, không phản đối nữa.

Lại nói tiếp chuyện “du thuyền kỷ nữ…”

Sau khi Tàu Chánh Khê giới thiệu thân phận hai người, Tầm Lan rất sững sờ, lại tiếp tục lặng người một hồi lâu.

Sau đó nàng hé nở đôi môi như đóa anh đào, chậm rãi nói:

-Dương Châu thập nhật, Gia Định tam đồ, đô thành sát hịch, những chuyện này đều là những chuyện đã qua rồi, hiện nay Thanh triều thịnh thế, bang phái phục Minh có thể chống khán triều đình hay sao?

Lâm Tố Đình và Tàu Chánh Khê vẫn còn đang đau lòng về trận đánh Bình Lương, giờ lại nghe nhắc tới Dương Châu và Gia Định, lòng đã đau càng thêm khó chịu, Lâm Tố Đình suýt nữa đã rơi lệ.

Lại nói chuyện năm xưa, sau khi kinh đô Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm được, một số hoàng tộc và quan lại nhà Minh đã tìm cách di cư lánh nạn về phía nam và tập hợp lực lượng còn lại xung quanh Nam Kinh, tạo thành kinh đô thứ hai của nhà Minh, lập nên nhà Nam Minh.

Đến năm Thuận Trị thứ hai, quân Thanh do Đa Đạc lãnh đạo đã đưa quân xuống phía nam.

Sử Khả Pháp giữ chức Binh bộ Thượng thư Đông Các Đại học sĩ của nhà Nam Minh bấy giờ, đã chỉ huy quân tứ trấn của Nam Minh chống lại và thắng được một số trận.

Tuy nhiên lúc này triều đình Nam Minh lại lục đục, tướng Tả Lương Ngọc đã đưa quân từ Vũ Xương tiến đánh Nam Kinh, tướng Mã Sĩ Anh sợ hãi nên đã gọi quân tứ trấn phải từ Giang Bắc trở về đối phó.

Sử Khả Pháp hiểu rõ rằng quân Thanh đã áp sát, không nên dời Dương Châu, song bất đắc dĩ vẫn quyết định vượt Trường Giang ứng cứu.

Khi hay tin Tả Lương Ngọc đã bị đánh thua, Sử Khả Pháp lại vượt Trường Giang, song lúc này quân Thanh đã áp sát Dương Châu. Sử Khả Pháp ban hịch kêu gọi mọi người đem binh về cứu thành Dương Châu song không ai hưởng ứng.

Đa Đạc sau đó đã ra lệnh bao vây và tiến đánh Dương Châu suốt ngày đêm, quân và dân trong thành kiên quyết chống lại. Cuối cùng, Đa Đạc lệnh cho bắn pháo vào thành, tường thành sụp đổ, quân Thanh xông vào thành Dương Châu. Đa Đạc thấy quân Thanh bị thương vong quá lớn khi công thành nên đã quyết định làm cỏ toàn bộ dân trong thành, cuộc đại tàn sát kéo dài trong suốt mười ngày, sử gọi là “Dương Châu thập nhật.”

Sau khi Dương Châu thất thủ, quân Thanh đã tiến đến Nam Kinh, chính quyền Hoàng Quang Đế bị tiêu diệt. Sau đó, quân Thanh bắt toàn thể dân chúng Giang Nam phải theo phong tục Mãn Thanh như phải cạo tóc ở phía trước đầu và để bím tóc ở phía sau, ai trái lệnh sẽ bị chém, khiến nhân dân Giang Nam bất bình. Quân dân Gia Định đã chống lại quân Thanh trong ba tháng, bị quân Thanh tàn sát ba lần với hơn hai mươi ngàn người chết, sử gọi là “Gia định tam đồ.”

Nói tiếp chuyện du thuyền kỷ nữ.

Tàu Chánh Khê trả lời:

-Từ cổ chí kim, cái chuyện khôi phục thiên hạ đó, tất cả đều là do con người tạo ra.

Tầm Lan nói:

-Xin hỏi ngũ gia, tiểu nữ đến Tây Hồ ca hát xong sau đó còn làm gì nữa chăng?

Tàu Chánh Khê đưa mắt nhìn Lâm Tố Đình, nàng hiểu ý, trả lời thay cho chàng:

-Thật ra thì hội chợ ở Hàng Châu vào ngày mốt chính là một Hồng Môn Yến trên Tây Hồ.

Tầm Lan trầm ngâm một lúc, hết nhìn Tàu Chánh Khê lại nhìn sang Lâm Tố Đình, cuối cùng nhẹ giọng nói:

-Tầm Lan đã hiểu rồi, hội chợ ngày mốt tại Hàng Châu, xem bề ngoài là hưởng ngoạn mặt hồ, nhưng thực tế xung quanh là bóng đao bóng kiếm nguy cơ tứ phương.

-Đúng vậy!

Lâm Tố Đình gật đầu thẳng thắn xác nhận.

Tầm Lan không phải là một kỹ nữ bình thường, với bản tính thông minh, Tầm Lan hiểu ra Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình kỳ vọng gì ở nàng, và nàng hết lòng cảm kích vì điều đó. Song vẫn nói:

-Hân hạnh được hai vị đương gia tin cậy Tầm Lan, Tầm Lan đương nhiên cũng phải thành thật đối với hai vị...

Tầm Lan chỉ nói bấy nhiêu rồi ngưng lại, Lâm Tố Đình suốt ruột bèn lên tiếng:

-Vậy ý của cô nương là?

Tầm Lan ngập ngừng một lúc rồi kiên quyết nói:

-Tầm Lan thưởng thức lòng can đảm của nhị vị, chỉ tiếc là Tầm Lan không thể tiếp nhận.

Nàng quay mặt đi để đôi nam nữ trẻ tuổi khỏi thấy mắt mình đỏ hoe:

-Hai vị không cần phải khuyên – Và với dáng ngồi nghiêng nghiêng đó nàng tiếp - Tầm Lan đã quyết định rồi, hai vị, mời đi về.

Nói rồi bảo Linh Đan ngừng xe lại.

Lâm Tố Đình không biết nói gì thêm, đành theo Tàu Chánh Khê bước xuống xe.

Trước khi Linh Đan giật cương cho ngựa chạy đi, Tàu Chánh Khê nói vọng vào khung cửa sổ của cỗ xe ngựa:

-Phách bạch trà, chén ngũ thể, lưu tử hà, dĩa mã não. Tầm Lan là con cháu của Hán thất, hy vọng là cô nương suy nghĩ kỹ lại, chiều mai tại hạ lại đến Lan Xuân lầu tìm cô nương, cáo từ.

Xe ngựa chạy đi, Tầm Lan hé rèm nhìn lại, thấy chàng thanh niên đầy hào khí như vậy, trong lòng cảm động vô cùng, nhưng thật đáng tiếc… nàng buông một tiếng thở dài.

Lâm Tố Đình đứng nhìn theo chiếc xe dần biến mất trong đêm tối, hai giọt nước mắt rơi xuống môi nàng:

-Vậy làm sao đây, ngũ ca? Chúng ta phải làm sao bây giờ?

-Không sao - Tàu Chánh Khê hất đầu bảo Lâm Tố Đình đi về hướng nhà trọ của hai người - Lúc nãy huynh nói ngày mai huynh lại đến tìm, cô ta không phản đối, nghĩa là ngày mai mới đưa ra quyết định. Nhỡ mà ngày mai cô ấy vẫn không chịu, huynh sẽ có cách khác để thuyết phục. Muội đừng quá lo, bằng mọi giá huynh nhất định mang được nhân sâm về cho muội.

Đoạn đường vắng vẻ chỉ in bóng hai người họ. Lâm Tố Đình gạt lệ trên má, đi theo Tàu Chánh Khê.

Hai người trầm mặc theo những ý nghĩ riêng của mình.

Khi sắp về đến ngõ quẹo để vào một khách điếm, Tàu Chánh Khê quay sang thấy nét mặt Lâm Tố Đình vẫn thẫn thờ, chân vẫn bước thẳng không có dấu hiệu dừng lại nên nhẹ giọng nhắc:

-Cua đi muội.

Lâm Tố Đình còn đang lo lắng về chuyện củ sâm, nghe nói vậy thì quay sang nhìn chàng, chau mày gắt:

-Cua gì chứ? Muội không có thì giờ giỡn với huynh đâu đấy, vả lại trời đang khuya như thế có ai trên đường đâu mà cua?

-Trời ạ! - Tàu Chánh Khê ngẩn mặt lên nhìn trời, lắc đầu - Huynh bảo là cua qua đường đi.

-Ồ.

Lâm Tố Đình bẽn lẽn cúi đầu, rồi sực nhớ tới một chuyện nàng hỏi:

-Ngũ ca này, hồi nãy huynh nói nào là phách bạch trà, rồi chén dĩa gì đó, nghĩa là gì vậy?

Tàu Chánh Khê bình thản đáp:

-Thật ra không có ý nghĩa gì đâu, chẳng qua là huynh muốn nói đến thuật dùng trà của cô ta thôi.

-Dụng cụ dùng trà?

-Ừ, huynh theo thất đệ học cách chọn trà và pha trà bấy lâu, nếu huynh không có nhìn lầm, những thứ trên bàn lúc nãy đều là đồ trong nội cung triều Minh.

Lâm Tố Đình cúi thấp đầu lắng nghe, một lúc mới nói:

-Hèn gì lúc nãy cô ta mời trà, muội thấy huynh sững người vậy, muội còn tưởng huynh đang thưởng thức dung mạo cô ta chứ.

Tàu Chánh Khê vội lắc đầu:

-Đương nhiên không phải!

Lâm Tố Đình không để ý vẻ mặt khó chịu của sư huynh, nàng vừa vỗ vỗ trán vừa nói:

-Nếu nói vầy thì… Ừ, đúng ha, giờ nghĩ lại, khí chất và ngôn ngữ lẫn cử chỉ của Tầm Lan cô nương đó, thì chắc chắn phải là con nhà đài các ha. Không những vậy, cô ta có thể còn là con cháu của đại nhân vật triều Minh nữa.

Tàu Chánh Khê giữ im lặng, Lâm Tố Đình tiếp:

-Hèn gì huynh rất thẳng thắn với cô ta.

Rồi nàng cởi nón xuống ôm trong tay, tay kia sửa lại mái tóc, nói:

-Nhưng nếu cô ta có bối cảnh này, sao lại không chịu giúp cho mình?

Không nghe tiếng đáp, nàng chợt ngẩng lên hỏi:

- Sao huynh không nói gì hết vậy, sao cứ nhìn muội trân trân thế?

Tàu Chánh Khê dời mắt sang hướng khác:

-Có lẽ cô ấy nhất thời đang ái ngại, cần thời gian suy nghĩ.

Lâm Tố Đình nghe nói bỗng thấy lo lắng, thậm chí có phần hoảng sợ. Nàng nghĩ tới cảnh ngày mai Tầm Lan không chịu giúp cho hai người bọn nàng, nghĩ đến bệnh tình của Tần Thiên Nhân, nàng lại muốn khóc.

Lâm Tố Đình cố gắng kìm chế tâm trạng, nén không cho nước mắt chảy ra, nàng nói:

-Lúc ở hồi cương huynh nói có mưu kế, thì ra là tìm cô nương này?

---oo0oo---

Chiều ngày hôm sau Tàu Chánh Khê đến Lan Xuân lầu tìm Tầm Lan.

Tầm Lan mời chàng vào phòng nàng, rót rượu ra ly, đoạn bảo Linh Đan ra chờ ngoài cửa phòng.

Đợi cho Linh Đan đi khuất rồi Tầm Lan mới nói:

-Ngũ gia nói phải, tiểu nữ là một người Hán, đương nhiên phải đồng lòng với những việc mà Đại Minh Triều của các vị làm, nhưng tiểu nữ nhận thấy thế lực của triều đình nếu đem so với bang hội phục Minh, xin nói một cách khó nghe, thật là một trời một vực, chênh lệch quá xa, nếu không muốn so như là đem trứng chọi với đá, châu chấu đá xe vậy.

Tàu Chánh Khê uống một ly rượu, Tầm Lan lại rót thêm cho chàng. Chàng uống thêm ly nữa, gật đầu thật thà nói:

-Về điểm này tại hạ đã hiểu rồi, cho nên chúng tôi không dám đụng độ với triều đình.

Tầm Lan hỏi:

-Nếu vậy bang hội có năng lực gì đối khán triều đình đây?

Lời nàng, nhẹ như hơi thở, song khiến cho Tàu Chánh Khê không trả lời được.

Tầm Lan đặt bình rượu xuống bàn, đứng lên hướng ra phía cửa. Nàng nói:

-Đời người rất ngắn ngủi, đã biết không làm được, rất khó giành thắng lợi thì việc gì phải đi mạo hiểm như vậy?

Khung cảnh trong phòng có phần tịch mịch. Một lúc, nàng lại hỏi thêm:

-Ngũ gia, dựa vào võ nghệ của ngài, nếu muốn vạch đường lập lên một cơ nghiệp có lẽ sẽ không khó, tại sao ngài lại chọn làm kẻ thù của triều đình, đã biết không làm được còn ráng làm?

-Bởi vì trong mình của tại hạ đang chảy dòng máu của người Hán, phải nghĩ đến nhân nghĩa, mắt nhìn thấy sự đau khổ của người Hán, chuyện nước nhà, tại hạ không nhẫn tâm làm ngơ được, cho nên phải tận hết khả năng làm chuyện đáng làm.

Tầm Lan chợt thấy tim mình nhói lên, vội nói:

-Nhưng thế sự không tùy ý người, để tiểu nữ dẫn ngũ gia đến một nơi này.

Linh Đan lại làm phu xe chở hai người đến một thôn làng, dừng ngựa ở cổng vào thôn, dưới hai hàng tre.

Tầm Lan vén rèm nhìn ra. Tàu Chánh Khê cũng nhìn ra ngoài khung cửa, ngờ người hỏi:

-Ở chỗ này chỉ là một tiểu thôn, không biết cô nương dẫn tại hạ tới đây để xem những gì?

Tầm Lan không trả lời mà phản vấn:

-Phải rồi, nơi này nhìn xem bề ngoài tuy là một tiểu thôn rất phổ thông, nhưng mời ngũ gia để ý xem cho kỹ. Ngài có thấy gì đặc biệt chăng?

Tàu Chánh Khê lắng tai nghe tiếng cười đùa của bọn trẻ. Chàng thoáng nhíu mày nói:

-Hình như thôn này chỉ có phụ nữ và trẻ con, vậy đàn ông họ ở đâu?

Tầm Lan mở to đôi mắt kiều diễm, bảo:

-Đàn ông con trai trong thôn này, đều như những thanh niên nhiệt huyết như ngũ gia nói, bọn họ vì phản kháng triều đình, vì nước vì nhà trong thiên hạ, tất cả đều đã hy sinh hết rồi. Tất cả chuyện này đều do tiểu nữ tận mắt ngó thấy, không có cách gì giúp được, tuy tiểu nữ cũng là con cháu của nhà Minh, nhưng tiểu nữ cũng muốn xem mọi người sống trong một cuộc đời không có đau thương.

Từ trước tới nay chưa bao giờ có người nào nói với chàng những lời này, Tàu Chánh Khê chợt thấy tim mình run rẩy, vội cúi xuống nhưng lại ngẩng lên ngay, nhận ra ánh mắt đau khổ của cô kỹ nử.

Nàng chỉ mới mười chín hai mươi tuổi, nhưng xem ra đã rất dày dặn.

Tầm Lan chậm rãi nói tiếp:

-Ngũ gia nói rất đúng, vì nước vì dân, nhân nghĩa chí thượng, nhưng hy sinh bản thân mình vì đại nghĩa để rồi dẫn đến cảnh con mất cha vợ mất chồng, thì tiểu nữ lại không muốn như thế đâu. Các vị đại hiệp anh hùng như ngũ gia. Sau cùng có thể làm được đại sự gì, chuyện sau này không ai có thể đoán trước được, là thành công hay không, song trước mắt, chỉ có thương tàn, tan nhà, mất người, thật làm cho người ta đau lòng xót xa. Cho nên, tiểu nữ không muốn tiễn đưa anh hùng lên con đường không hẹn ngày về.

“Thì ra là như vậy,” Tàu Chánh Khê nghe nàng nói nhủ bụng, “hèn gì mà cô gái này một mực từ chối không muốn giúp cho mình.”

Tầm Lan nói thêm:

-Những anh hùng như các huynh chỉ vì giang sơn xã tắc cứ không ngừng tiến tới mãi, nhưng kết quả ra sao? Chẳng qua là thêm thương tâm, sau cùng kết quả cũng là thất bại, đã bao năm rồi?

Chợt nàng nhận thấy giọng nói mình quá xẵng, liền hơi dịu lại:

-Xin thứ lỗi nếu tiểu nữ đã xúc phạm tới ngài.

Rồi nàng khẽ đọc:

-Dõi mắt trông xa ngóng tin chồng

Lòng buồn đau dạ nỗi niềm mong

Chàng đi bỏ thiếp ngồi lẻ bóng

Hình hài quen thuộc hoá hư không

Tàu Chánh Khê vẫn ngồi nguyên trên ghế, buồn bã đưa mắt nhìn theo những người phụ nữ đang tất bật lo công việc hằng ngày mà đáng lẽ là do nam nhân làm, như là cưa gỗ, lợp lại mái nhà... Nỗi lòng chàng lúc đó rất khó tả, vừa chua chát, vừa đau khổ, nhưng lại có cả niềm hãnh diện, một bầu nhiệt quyết không ngừng chảy trong người chàng khi chàng nghĩ tới những gì bang hội đã làm trong những năm tháng vừa qua. Chàng nói:

-Tầm Lan cô nương, đời người tuy rằng cay đắng, nhưng mà không phải là vô ý nghĩa, nếu sự hy sinh có thể đem lại phúc lợi, thì đều có giá trị.

Chàng dừng lại một chút rồi nói rành rọt từng chữ:

-Nước mắt có thể làm cho người ta đau lòng, nhưng cũng có thể làm cho người ta kích động, phấn chấn, chúng ta khôi phục thiên hạ Hán thất là để lấy lại sự tôn nghiêm của chúng ta!

Câu cuối cùng của chàng:

-Cho nên cho dù có hy sinh đổ máu, chúng ta tự biết chúng ta đã cố gắng, như vậy thì dù thất bại, cũng rất chính đáng!

Tàu Chánh Khê nói rồi quay sang nhìn khuôn mặt mỹ lệ của Tầm Lan với ánh mắt nhìn mình đau đáu. Bắt gặp cái nhìn khác thường đó, chàng vội lia mắt đi.

Chưa bao giờ chàng thấy một nữ nhân nhìn mình như vậy.

Đương nhiên chàng đoán biết có một điều gì đó xảy ra lần đầu tiên trong đời mình, nhưng chàng liền gạt ngay ý nghĩ đó đi.

Mỹ nhân và mỹ tửu

Thiên hạ đệ nhất đại hưởng thụ


Trăng sáng, sao thưa. Có hai chiếc bóng đen đi dưới ánh trăng bàng bạc hướng tới dãy nhà trọ Đông Phong của Hắc Viện. Họ đi qua nửa khoảnh sân rộng, đến giếng Tụ Nguyệt, không khỏi chạnh lòng, nơi này vốn là nhà của họ. Xung quanh giếng vẫn còn trồng rất nhiều hoa Thổ Hoàng Liên. Khắp vườn yên ắng tĩnh mịch, không một bóng người, không một âm thanh. Dưới ánh trăng, khu vườn hoa trông càng mỹ lệ, vàng rực rỡ, chẳng khác gì Bồng Lai Tiên Cảnh. Hương hoa thơm ngát khiến người ta ngây ngất.

Hai người này thận trọng thâm nhập vào hoa viên tĩnh lặng như không có sự cảnh giới này, đương nhiên không phải để ngắm hoa, mà hướng tới một căn phòng của dãy nhà trọ Đông Phong. Đột nhiên vang lên một tiếng kẹt, rồi cửa hậu Bắc Sơn mở ra, một chiếc kiệu được khiên vào.

Hai bóng đen, vốn là Lâm Tố Đình và Tàu Chánh Khê, lập tức nhảy vút lên, đáp xuống giữa giếng nước dang hai tay hai chân ra bấu vào thành giếng như hai con sao biển.

Giếng nước hẹp, vô tình hai người kề sát vào nhau, mặt đối mặt, mùi hương thiếu nữ thoáng xông vào mũi gợi cho Tàu Chánh Khê bồi hồi nhớ lại hai năm trước ở hậu hoa viên này cũng đã gặp nàng dưới hình dạng hắc y kiếm sĩ, bị nàng trêu đùa đe doạ khiến chàng liều gan ôm chặt lấy nàng. Lúc ấy thân mình nàng rất mềm mại và cũng tỏa ra mùi thơm thoang thoảng giống tựa hôm nay. Không biết Lâm Tố Đình có cùng hồi tưởng đó chăng mà trên mặt nàng hơi ửng đỏ như sắc hoa đào mùa xuân trông lại càng diễm lệ. Để khoả lấp nỗi ngượng ngùng, nàng nói lảng sang chuyện khác:

-Không ngờ cô ấy chịu giúp cho huynh?

Lâm Tố Đình nói rất nhỏ, sợ tiếng nàng vọng ra từ giếng nước sẽ bị phát hiện:

-Muội xem chừng cô ấy có cảm tình với huynh rồi nha. Mà hình như huynh cũng vậy nữa. Muội đây nhìn huynh và cô ấy, khi ánh mắt hai người nhìn nhau tràn đầy tình ý. Muội tuy ngốc nghếch nhưng cũng biết đó là tiếng sét ái tình, vừa gặp đã phải lòng nhau!

Tàu Chánh Khê lặng thinh không nói, Lâm Tố Đình lại mở miệng:

-Này, phải vậy không ngũ ca? Muội nói có đúng không?

Không có tiếng đáp, nàng mở to đôi mắt kiều diễm:

-Huynh làm sao thế?

Rồi nàng bĩu môi không nói gì nữa.

Tự dưng Lâm Tố Đình có cảm giác rằng trong lòng chàng có nỗi bí ẩn nào đó nhưng không muốn thổ lộ với ai. Nàng định lên tiếng hỏi chàng thì nhận thấy tiếng chân mấy người khiên kiệu càng lúc càng nhỏ dần, nghĩa là họ sắp đưa Tầm Lan vào với Ngụy Tượng Xu. Nàng nghĩ tới cảnh Tầm Lan đánh cắp được chìa khóa, trao cho nàng mở cửa địa đạo, rồi nàng lấy được nhân sâm mang về cho Tần Thiên Nhân, Lâm Tố Đình cũng không buồn thắc mắc về Tàu Chánh Khê nữa.

Nhắc lại hồi chiều Tầm Lan xuất hiện trên Tây Hồ Hàng Châu dùng tiếng ca mê hoặc Ngụy Tượng Xu…

….Cũng như mọi hôm từ khi Dương Tiêu Phong đặt chân đến Hàng Châu, cứ hễ mặt trời ngả bóng trên mặt hồ là cửa chính của trường học mở ra. Nhưng hôm nay bước ra từ cửa đó ngoài Tiêu Phong lại có thêm hai bóng người nữa.

Dương Tiêu Phong đi dạo mát một hồi tiếp tục rẽ sang hướng bờ hồ, theo quán tính mà lang thang du ngoạn, lát hồi dừng chân trên cầu Tây Lâm, hướng mắt xuống dòng nước đang trôi lững lờ. Tô Khất và Ngụy Tượng Xu cũng theo lên cầu.

Ngụy Tượng Xu quay sang Tô Khất khẽ nói:

-Xem mồi Phủ Viễn tướng quân đi dạo đấy nhưng có phải đang thăm dò dân tình Giang Nam hay chăng thưa Tô phó tướng?

Vì đang là mùa đông nên trời tối rất nhanh, mới đó mà trăng đã lên khá cao rồi.

Tây hồ về đêm trăng soi óng ánh, hàng vạn vì sao chiếu lấp lánh phảng phất trên mặt hồ. Ở một góc cạnh nào đó trông Tây hồ từa tựa như một chiếc gương dát bạc.

Tô Khất định mở miệng thì đột nhiên nghe thấy ở đâu có tiếng sáo trúc du dương, từ xa đến gần, hóa ra là tiếng sáo từ một chiếc thuyền con phát ra, trôi dưới gầm cầu Tây Lâm rồi lại xa dần, sau đó lại có một đợt sáo trúc khác tiến đến. Tiếng nhạc triền miên uyển chuyển khiến người nghe không khỏi động lòng.

Hai chiếc thuyền này dẫn thêm một loạt những chiếc thuyền khác đến. Ngoài tiếng sáo trúc còn có tiếng đàn tì bà, đàn cầm, và tiếng ngâm thơ vang lên, rõ nhất là bài “Ẩm hồ thượng sơ tình hậu vũ:”

Thủy quang liễm diễm tình phương hảo

Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ

Dục bá Tây Hồ tỉ Tây Tử

Đạm tran nồng mật tổn tương nghi

Một cô gái ngồi ở mạn thuyền đang vừa dùng những ngón tay thon dài chảy tóc vừa ngâm bài thơ miêu tả vẻ đẹp của Tây Thi này. Không hiểu vì sao sau khi Tây Thi qua đời, người ta đã dùng Tây hồ để tưởng nhớ nét đẹp của nàng. Vì vậy mà Tây hồ thường được gọi là Tây Tử hồ.

Ngụy Tượng Xu trông thấy gái đẹp nhiều như một đàn bướm trên mặt hồ, không khỏi trố mắt lên nhìn.

Lúc này có rất nhiều các nam nhân cũng kéo nhau đứng hai bên bờ hồ, trên cầu Tây Lâm, cầu Đoạn, và cầu Trường.

Nhóm người Ngụy Tượng Xu cải trang thành thường dân nên không ai phát hiện ra họ là những viên quan triều Thanh, Ngụy Tượng Xu quay sang một gã công tử mặc áo lụa xanh da trời, cười hỏi:

-Xin hỏi vị huynh đài này, hôm nay là ngày chi mà trên hồ tụ tập nhiều mỹ nữ đến thế?

Người kia đáp gì đấy. Ngụy Tượng Xu nghe qua mà nét mặt phấn khởi lắm. Hồi sau công tử áo xanh đi rồi, Ngụy Tượng Xu mới quay lại thì thấy Tô Khất và Dương Tiêu Phong đã đi sang bên kia bờ hồ. Ngụy Tượng Xu lật đật chạy theo, bắt kịp và nói khẽ:

-Phủ Viễn tướng quân, phó tướng quân à, nô tài vừa hỏi, biết được rằng hằng năm vào đêm này bọn danh kỹ trong thành Hàng Châu, Tô Châu, Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang tụ tập ở Tây Hồ để thi xem ai là hoa quốc trạng nguyên, lại còn bảng nhãn, thám hoa gì nữa đó.

Tô Khất nói:

-Vậy à?

Rồi quay sang Tiêu Phong, Tô Khất vừa cười vừa mắng:

- Cái tụi môi son má phấn này, chúng dám đem chuyện thi tuyển nhân tài của quốc gia ra để làm trò đùa đó thưa tướng quân? Thật là quá đáng mà!

Ngụy Tượng Xu thấy mặt Tô Khất đã nở nụ cười, nhưng Dương Tiêu Phong lại không, Ngụy Tượng Xu bèn bước tới gần Dương Tiêu Phong khẽ nói:

-Nghe nói Tây Hồ Tam Mỹ đều đến đây cả đó tướng quân.

Dương Tiêu Phong bấy giờ mới lên tiếng:

-Tây Hồ Tam Mỹ là gì?

Ngụy Tượng Xu đáp:

-Nô tài có hỏi, dân bản xứ nói rằng đó là ba ca kỹ nổi danh nhất Giang Nam. Dọc đường ai cũng bàn tán, đoán xem năm nay cô nào sẽ là hoa quốc trạng nguyên.

Tô Khất mỉm cười nói:

-Chà, trạng nguyên của quốc gia thì do hoàng thượng đương kim chấm, còn trạng nguyên của hoa quốc thì do ai chấm đây? Chẳng lẽ có một vị hoa quốc hoàng đến hay sao?

Ngụy Tượng Xu nói:

-Nghe nói mỗi ca kỹ sẽ ngồi trên một chiếc thuyền, nhưng ba cô nương nổi danh nhất thì ngồi trên thuyền có kết hoa, trên thuyền đó bày hết tất cả đồ kim ngân châu báu của khách tặng cho, xem thử thuyền hoa của ai nhiều đồ quý trọng nhất là cô đó được thưởng nhiều nhất. Sau đó các vị phong lưu danh sĩ đất Hàng Châu sẽ quyết định thứ bậc.

Tô Khất bật cười ha hả. Ngụy Tượng Xu tiếp:

-Họ sắp bắt đầu rồi đó thưa hai vị đại nhân, đợi trời tối thêm một chút nữa thì thuyền hoa của ba cô nương đẹp nhất Giang Nam sẽ tới, đèn đuốc sáng trưng, khi đó sẽ tuyển hoa khôi. Hay là chúng ta tìm một chỗ trong tửu lầu đằng kia ngồi xem?

Dương Tiêu Phong nhìn theo tay Ngụy Tượng Xu chỉ, lắc đầu, quay mình đi ngược về hướng Hắc Viện. Ngụy Tượng Xu nét mặt tiu nghỉu như mèo bị cắt đuôi, bỗng tươi tỉnh lên khi nghe tiếng Tiêu Phong vọng lại:

-Nếu hai người có nhã hứng thì cứ tới đó xem.

Dương Tiêu Phong và Tô Khất đi rồi, Ngụy Tượng Xu chọn một chiếc bàn của một tửu lầu xây xát bờ hồ, gọi một bàn rượu thịt để vừa ăn uống vừa ngắm mỹ nữ.

Lúc này khắp mặt hồ vang tiếng ca nhạc, đèn lồng thắp sáng trưng, cảnh phù hoa không bút nào tả xiết. Trên mặt nước có khoảng bốn năm chục chiếc thuyền bơi qua lượn lại, thuyền nào cũng treo đầy màn sa và lồng đèn. Ngụy Tượng Xu nhìn kỹ, thấy đèn lồng đều có thêu truyện đời xưa, nào là Dương Quý phi và Đường Huyền Tông, nào là Triệu Phi Yến và Hán Thành Đế... Những cô kỹ nữ cầm vải lụa nhảy múa trong thuyền, bóng họ in lên vách thuyền trông thật đẹp mắt, như tiên nữ hạ phàm trần. Ngụy Tượng Xu âm thầm khen ngợi dân phương nam biết sống phong lưu, phương bắc không thể nào bì được.

Trên mặt hồ thuyền qua lại như thoi đưa, hai bên bờ hồ cũng đông kín các nam nhân, nào là hào khách tầm hương, nào là văn nhân hiếu sự. Mọi người thi nhau chỉ trỏ, bàn luận, bình phẩm cách trang trí thuyền tinh tế, thô thiển thế nào.

Đột nhiên kèn trống vang lên, tiếng hát ca đàn sáo trên thuyền đều dừng bặt. Một loạt pháo bông được bắn lên, soi sáng bầu trời rồi từ từ rụng xuống mặt hồ.

Bắn hết pháo bông rồi đàn sáo lại vang lên. Những chiếc thuyền không hẹn mà đồng thời kéo rèm lên, trong mỗi thuyền đều có một cô nương trang điểm cực kỳ diễm lệ. Lập tức hai bên bờ hồ nổi lên những tiếng vỗ tay hoan hô vang dội.

Ngụy Tượng Xu vừa uống rượu vừa thưởng hoa, mắt ngắm các du thuyền từ từ trôi trên mặt hồ, bóng các cô gái lướt qua lướt lại, cảm giác chẳng khác gì dạo chốn thiên đường, mỹ nữ rất đông không sao nhìn xuể.

Trong nhà Ngụy Tượng Xu có rất nhiều thê thiếp, y cũng từng gần gũi không biết bao nhiêu người đẹp ở kinh đô, nhưng lúc này dưới ánh đèn, trên mặt nước, trong tiếng mái chèo, trong hương son phấn lại có một sắc thái khác hẳn, bất giác trong lòng cảm thấy lâng lâng như say rượu.

Hồi sau thuyền của Tây Hồ Tam Mỹ xuất hiện. Ba chiếc thuyền này lại càng đặc biệt. Chiếc đầu tiên trang hoàng như một chiếc thuyền đi hái sen trên hồ, xung quanh kết toàn lồng đèn dạng hoa sen, bông hồng ngó trắng lá xanh, thì ra cô ca kỹ trên chiếc thuyền hoa này tên là Đặng Liên Hoa.

Chiếc thuyền thứ hai lại kết hình hai con bướm to lớn dạo chơi vườn hoa, giữa hai con bướm treo một băng vải lụa viết bốn chữ lớn “uyên ương hồ điệp.” Danh kỹ trên chiếc thuyền này tên là Trang Anh Đài.

Chiếc thứ ba trang hoàng như kiểu cung Quảng Hàn, quanh thuyền dùng giấy và vải kết đủ phụ tùng trên cung trăng như thiềm thừ, ngọc thố, hoa quế, ngô cương. Ca kỹ trên thuyền hoa này tên là Bạch Tố Nga, mặc trang phục màu trắng, tay phe phẩy quạt, trang điểm như Hằng Nga trên cung Quảng.

Ngụy Tượng Xu nhìn kỹ từng cô, tán thưởng một hồi thì chợt có chiếc thuyền hoa thứ tư đến. Khách nhân rất ngạc nhiên khi gặp được vị khách rất khó mời này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 39: Duy nữ tử dữ tiểu nhân (1)

Dương Tiêu Phong còn đang miên man nghĩ ngợi thì bọn đầy tớ bưng mâm thức ăn đẩy cửa thư viện bước vào.

Lâm Tố Đình từ hồi chiều tới giờ chưa kịp ăn gì, vừa ngửi được mùi thức ăn là bụng sôi lên. Nàng không nhịn được, đánh liều ló đầu ra khỏi kệ sách nhìn, thấy trên bàn đã đặt sẵn một chén đậu hũ hầm với yến sào, một đĩa thịt dê xào tỏi ớt, một đĩa mì gà xào măng, một tô thịt gà nấu cháo trắng, đều là những món thường ngày nàng thích ăn nhất. Ngoài ra còn có mấy món phụ nữa, vừa nhìn thấy nước bọt nàng đã tuôn cuồn cuộn như nước Hoàng Hà.

Tiêu Phong cất chiếc vòng vào tay áo, đợi bọn đầy tớ bày các món ăn lên bàn xong cả rồi mới lạnh giọng nói:

-Còn không mau ra đây?

Lâm Tố Đình nghe gọi giật nẩy mình, tim muốn nhảy vọt ra ngoài, nhưng nàng không chắc y đã phát hiện ra nàng nên thụt đầu vào đứng yên phía sau kệ sách.

Lại nghe:

-Các hạ nếu đã đến đây thì hãy ra gặp mặt. Tới nhà chủ mà không xuất đầu lộ diện, không chào hỏi một tiếng thì quả là thất lễ.

Lần này Lâm Tố Đình biết người mà y đang nói chuyện chính là nàng rồi, Lâm Tố Đình nhanh chóng lấy lại vẻ bình thản bước ra từ phía sau kệ sách, tiến lại gần cúi chào, mỉm cười thưa:

-Diệp Tố Tố đến từ Đại Hồng Lâu xin thỉnh an đại nhân.

Mái tóc dài sóng sánh như thác hằng ngày của nàng tối nay được nàng búi lên, làm cho khuôn mặt vốn đẹp như hoa càng lộ rõ. Mắt đẹp và trong như nước hồ thu, chiếc cổ cao, làn da sáng bóng như ngọc, trắng trẻo và mềm mại, làm cho bất kỳ nam nhân nào khi nhìn thấy cũng cảm thấy xao xuyến, không thể không nhìn nàng say đắm.

Thế nhưng Tiêu Phong không có phản ứng, vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng không biểu lộ tình cảm nào như trước, cũng không nhìn nàng lấy một cái mà chỉ thản nhiên nói:

-Đã bảo đêm nay không cần gọi người đến hầu bổn quan.

Sau đó hướng phía nàng bảo:

-Ngồi đi.

Lại thêm lời:

-Nếu đói cứ tự nhiên.

Nói rồi Phủ Viễn tướng quân từ tốn rót rượu ra ly.

Lâm Tố Đình dạ một tiếng, sau đó ngồi xuống bên cạnh Dương Tiêu Phong, định bụng chỉ ăn uống nhỏ nhẹ như một con mèo nhỏ, nhưng cơn đói khiến nàng không kìm chế được, múa may đôi đũa.

Mới đầu nàng còn e ngại, chỉ cầm bát cháo lên mút từng muỗng ăn chậm rãi nhưng sau đó thấy vẫn còn đói nên lại ăn thêm đĩa thịt dê xào, rồi tiếp tục xộc đũa vào đĩa gà xào măng.

Trong khi các cô nương liễu yếu đào tơ thường hay ăn như gà mổ thóc vậy thì Lâm Tố Đình có thể gọi là hậu duệ nhà họ Trư.

Lâm Tố Đình phát hiện không chỉ có bọn đầy tớ nhìn lén nàng, ngay cả Dương Tiêu Phong cũng liếc nàng một cái, dường như tò mò vì sao người có thân hình mình hạc xương mai như nàng lại có khẩu vị tốt như vậy?

Lâm Tố Đình bắt gặp tia nhìn của Tiêu Phong, vờ cúi đầu xấu hổ, nàng thu đũa lại gác lên miệng chén nói:

-Thật là ngại, tiểu nữ xuất thân là con nhà nghèo khó, vốn phải làm việc cực nhọc từ nhỏ nên ăn rất nhiều.

Dứt lời nghĩ rằng y chắc sẽ khinh thường xuất thân của nàng ghê lắm nhưng không ngờ Dương Tiêu Phong cũng gật đầu nói:

-Không sao, bản quan là người luyện tập võ công, nên ta hiểu người vận động nhiều thì càng phải ăn nhiều hơn, để nạp lại năng lượng. Hơn nữa ở ngoài sa trường bản quan và binh lính của ta cũng ăn không ít, để nhỡ chết đi không làm con ma đói.

Nói rồi dời mấy đĩa thức ăn lại gần nàng hơn.

Lâm Tố Đình như không tin vào tai nàng. Có đến một lúc lâu nàng nhìn sững người đang ngồi cạnh, không dời mắt đi đâu được. Nàng thấy khuôn mặt y tuấn tú, góc cạnh rõ ràng, tính cách lại cũng rất giãn dị, đối tốt với người khác, không đáng sợ như lời đồn đại làm cho cảm xúc khẩn trương trong lòng nàng cũng dần giảm xuống.

Lâm Tố Đình sững sờ một hồi, nhịn không được mỉm cười một cái, lại tiếp tục bưng chén lên ăn, vừa ăn vừa thầm so sánh y với Tần Thiên Nhân. Lâm Tố Đình thấy hai người nam nhân này đều sở hửu thân hình cao lớn, chiều cao cũng xấp xỉ bằng nhau, nghĩa là cao hơn nàng tận một cái đầu. Hai người đều có đôi vai rộng, thân mình được bọc trong lớp áo nỉ dày cộm nhưng không che được các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, như có một sức mạnh kinh người. Lại nữa ngũ quan của Dương Tiêu Phong so với Tần Thiên Nhân cũng rất giống nhau, mày kiếm mắt sáng, mũi cao ráo, làn da rắn rỏi, nói chung họ Dương cũng là một nam tử rất cuốn hút...

Khi Lâm Tố Đình buông đũa thì bình rượu của Dương Tiêu Phong cũng cạn. Tiêu Phong nhìn bọn đầy tớ dọn dẹp mấy đĩa đồ ăn, nói:

-Diệp cô nương đã có mặt trong đêm nay rồi, chi bằng hát một bài cho bản quan nghe?

Lâm Tố Đình thấy người này có ý muốn giữ nàng lại, không vội đuổi nàng ra về, thì mỉm cười trong lòng. Nàng thưa vâng, Dương Tiêu Phong bảo một tên đầy tớ lấy cây đàn treo trong thư viện đem lại. Lát sau Lâm Tố Đình ngồi cạnh Tiêu Phong ôm đàn tỳ bà, những ngón tay thon dài nhẹ nhàng vuốt khẽ dây đàn. Âm thanh dìu dặt vang lên. Mỹ nhân cất tiếng hát bài Thiếu Niên Du của Chu Mỹ Thành.

Dương Tiêu Phong cũng bảo người mang thêm rượu vào.

Người uống rượu người gảy đàn. Cả hai đeo đuổi ý nghĩ riêng tư trong đầu.

Lâm Tố Đình bấy lâu cứ tự hào nàng diện mạo khuynh thành khuynh nước, ai trót nhìn thấy một lần cũng phải đem lòng thương yêu. Lại càng cho là mình đã nghĩ đúng khi nàng hát xong một bản nhạc, Dương Tiêu Phong lại bảo nàng tiếp tục hát thêm một bài, rồi lại thêm một bài nữa. Trong Hắc Viện ngoài Cửu Dương nổi tiếng thổi tiêu rất tuyệt thì tiếng đàn nàng đánh ra cũng hay không kém, làm não nuột tim can người nghe.

Lâm Tố Đình ôm đàn ngân nga, hết hát hò rồi đọc thơ Tỳ Bà Hành. Bài thơ dài trên sáu trăm chữ do Bạch Cư Dị viết. Thế mà một võ quan như Dương Tiêu Phong vẫn nhẫn nại ngồi nghe. Lời thơ diễn tả cuộc đời trôi nổi truân chuyên của những nàng ca kỹ thanh lâu. Đến câu thơ cuối cùng Lâm Tố Đình mỉm cười nhìn gương mặt như đang ngà ngà say của Dương Tiêu Phong, lúc này đã uống cạn hết bốn bình rượu. Nàng cả mừng nhủ bụng nếu như y say rồi gục ngủ, nàng có thể thản nhiên ra về được rồi.

Lâm Tố Đình quay ra ngoài cửa thư viện nói lớn:

-Lấy thêm rượu vào đây.

Rồi lại ôm đàn tiếp tục ca, được nửa bài một tên đầy tớ bưng rượu vào đặt lên bàn rồi rời đi. Lâm Tố Đình buông đàn xuống để dựa vào chân ghế, định rót rượu vào ly cho Dương Tiêu Phong thì nghe nói:

-Nàng còn chưa cho ta biết tên, lẽ nào muốn chuốt cho ta say rồi ra về?

Lâm Tố Đình nghe nói thế khẽ giật mình, hai tay hơi run, làm cho rượu trong bình sóng sánh nhưng vẫn cứ nghĩ người này đã say rồi nên nói:

-Lúc nãy tiểu nữ đã giới thiệu tên mình cho đại nhân nghe, chắc ngài đã say nên không nhớ, tiểu nữ họ Diệp tên Tố Tố, người trong Đại Hồng Lâu quen gọi là Tố Nhi.

-Diệp Tố Nhi, cái tên rất hay, nhưng tiếc một điều... đó không phải tên nàng.

Khi Dương Tiêu Phong nói câu này giọng rất nhẹ, ấy vậy mà cũng làm cho Lâm Tố Đình mất cả hồn vía, tưởng đâu sấm nổ đùng đùng bên tai. Bụng giật thon thót, nàng thầm nghĩ “cái tên này là do mình bịa ra, lẽ nào... trong Đại Hồng Lâu có một Diệp Tố Tố thật hay sao?”

Cảm giác của Lâm Tố Đình bấy giờ không khác chi kiến bò trên chảo rang, còn chưa biết trả lời thế nào nàng lại nghe Dương Tiêu Phong chậm rãi đọc:

-Liên trung hoa cánh hảo. Vân lý ảnh trường đoạn…

Máu chảy rần rần trong cơ thể Lâm Tố Đình, với sức nóng như lửa đốt khi nàng chợt hiểu câu nói vừa rồi của y.

Và nàng thầm than khổ khi ngó thấy Dương Tiêu Phong dán mắt vào hình vẽ một cô gái trẻ treo ở một bức tường trong thư viện. Thân hình cô mảnh mai như măng tre, khuôn mặt giống khuôn mặt của một con mèo con, tay thì cầm một đóa sen, đôi bàn chân nhỏ nhắn. Tiêu Phong nói xong không lên tiếng nữa, mắt như đóng đinh vào bức tranh.

Dựa vào truyền thuyết, đến đời Nam Đường, hậu chủ Lý Dục, sau khi vợ trước là Nga hậu chết, buồn bã vô cùng, các phi tần tìm mọi cách để ông ta vui lòng. Cung nữ Yểu Nương dùng vải quấn chân, khi nhảy múa, trọng tâm không vững, người lắc lư như cây dương liễu trước gió. Lý hậu chủ sai thợ khéo dùng vàng chế tác thành đài Kim liên cao sáu thước, lệnh cho cung nữ lên đài mà nhảy múa, cái tên “tam thốn kim liên” từ đó mà có. Thơ đời Đường có câu “Liên trung hoa cánh hảo, Vân lý ảnh trường đoạn” nghĩa là “Trong sen cánh hoa thắm, Trong mây ảnh chập chờn” chính là miêu tả họ.

Về sau con gái nhà khuê các đua nhau mà học, dần dần tục bó chân cứ thế được truyền mãi. Việc bó chân trở thành phong tục gắn bó chặt chẽ với giáo dục đạo đức truyền thống của phụ nữ. Đến đời Tống, Lý học hưng thịnh, đề xướng “khắc kỷ phục lễ”, yêu cầu phụ nữ “tam tòng tứ đức,” ở trong khuê các, tuân theo quy tắc. Sau khi bó chân, phụ nữ không thể có sức của cái chân bình thường để đi, đồng thời mất khả năng chạy nhảy, chỉ có thể “đợi ở trong phòng.” Bó chân chính là một thủ đoạn rất hay để trói buộc nữ giới.

Lại nói đến Lâm Tố Đình khi này biết Dương Tiêu Phong đang ngầm ám chỉ "gót huệ" của nàng. Lâm Tố Đình từ bé đã được phụ thân cho đi học võ công, nên nàng không theo tục bó chân mà người khác quan niệm, cho rằng việc bị bó chân này sẽ khiến các cô gái đi không vững vàng, giống như những cành sen đong đưa trong gió.

Các cô kỹ nữ thì lại khác, người nào người nấy bàn chân bó nhỏ xíu, làm bước đi của họ uyển chuyển như lướt trên mặt nước, từ đó làm tăng thêm độ quyến rũ của họ.

Khi này một tên lính vào nói gì đó bên tai Dương Tiêu Phong. Sau khi tên lính đi rồi, còn lại hai người trong thư viện, Tiêu Phong nhìn Lâm Tố Đình gật gù bảo:

-Thì ra Tầm Lan cũng do các người phái vào đây. Nếu bản quan đoán không lầm cô nương đây là người Đại Minh Triều?

Ngừng lại một chút, Tiêu Phong nở nụ cười, sau đó tiếp lời:

-Bang hội các người lúc nào cũng làm việc lấp ló như thế này sao? Không dám đánh trực diện, thật không phải nam tử Hán một chút nào cả...

Chưa dứt lời đã nghe Lâm Tố Đình hừ mũi đáp:

-Tên cẩu quan ngươi nói chơi sao? Bổn cô nương là phụ nữ, đương nhiên không phải nam tử Hán rồi!

Khi Lâm Tố Đình nói câu này vẻ yếu đuối khi nãy hoàn toàn biến mất, thay vào đó ánh mắt đẹp nhưng đầy căm phẫn đang long lên sòng sọc. Tiêu Phong nghe nàng đáp vậy hơi khựng lại một chút, trong lòng có hơi buồn cười vì chính câu nói của mình.

Lâm Tố Đình thừa lúc Dương Tiêu Phong không biết nói gì, chỉ ngồi ngây ra như phỗng thì đứng bật dậy nhấc cây đàn tỳ bà tách ra làm hai, tia sáng lấp lánh bên trong cây đàn chiếu ra.

Lâm Tố Đình rút thanh gươm cất sẵn trong đàn xoay một vòng lấy thế, kích kiếm ra chiêu Kim Hoán Chưởng, nhắm ngay lòng ngực Tiêu Phong. Nàng biết địch nhân là một cao thủ không nhất cũng nhì trong võ lâm, tuyệt kỹ Cửu Ẩn Phi hoàn đao của y nàng nghe nói rất lợi hại, thật là ngàn năm trước không có, ngàn năm sau cũng không. Nàng lại biết mình thế cô sức mỏng nên dốc toàn công lực tốc chiến tốc thắng. Lưỡi gươm lóe sáng như sao chổi đâm thẳng, hướng vào tối nhược huyệt, chỗ huyệt quan trọng nhất và hiểm nhất nếu bị trúng.

Trước lúc vạch ra ý định đi đánh cắp nhân sâm, nàng đã quyết tâm liều cả mạng, một đi không trở về nữa. Nàng biết Giang Nam đã thành ổ giặc, hiểm nguy trùng trùng nhưng vẫn mặc kệ, tự nhủ nếu lần này không thành công thì thành nhân thôi! Tất cả cũng vì Tần Thiên Nhân, vì một chữ yêu.

Dương Tiêu Phong ngồi nghe tiếng gió đi thẳng tới mặt mình, lại thấy kiếm quang chói sáng, đường kiếm đi hung hiểm ác liệt thì bỗng giật mình vì địch thủ là một nữ nhân nhưng võ công không tệ.

Đứng trước mũi kiếm tinh vi và phi thường của cô gái này, Tiêu Phong quyết định không lấy mạnh chọi mạnh, nhanh nhẹn vung cánh tay trái tạt từ trái sang phải xuất chiêu Thôi Sơn Lộng Tiền, chủ yếu là gạt đường kiếm để bảo vệ ngực, sau đó điểm chân xuống sàn nhà nhảy vọt ra khỏi ghế.

Lâm Tố Đình đâm không trúng địch thủ, buộc phải thu kiếm về nhưng được nửa đoạn thì tức tốc xoay cổ tay chĩa chuôi kiếm ra phía trước. Chuôi kiếm rỗng, có lỗ thông giống như ống sáo, bên trong chứa ba cây trâm cài được làm bằng vàng rồng.

Vèo vèo vèo! Nàng lắc nhẹ chuôi kiếm, ba cây trâm bay vùn vụt về phía Dương Tiêu Phong, khi đó đang đứng cách nàng khoảng độ ba thước. Cây trâm thứ nhất bay bổng lên vun vút tấn công huyệt thần đình Tiêu Phong, hai cây trâm còn lại ngấm ngầm công kích vùng hạ bộ chàng.

Dương Tiêu Phong hừ lạnh một tiếng, vốn là một cao thủ chuyên sử ám khí, nên vừa thoáng thấy địch thủ xoay đuôi kiếm là đã biết rõ đối phương định làm gì, Tiêu Phong tức thì thi triển Thăng Thiên Cước, hạ mã tấn, chân phải bước lui và rùng mình trong tư thế ngồi xuống, tránh ám khí thứ nhất. Ngay sau đó lại chụm đôi chân bật lên như lò xo, bay đá ngang, né cặp trâm cài còn lại.

Khi đáp xuống đất Tiêu Phong nghe tiếng gió rít vù vù, chưa kịp nhìn thấy gì lại phải nheo mắt lại để tránh ánh kim loại làm chói mắt chàng từ hai phía. Càng kinh ngạc khi phát giác Lâm Tố Đình đã tách cây kiếm ra thành hai thanh kiếm mỏng tự khi nào. Tay phải và trái xuất chiêu cùng một lúc, đánh tới tấp. Kiếm quang xẹt qua xẹt lại, tả hữu trên dưới trước sau như bão táp mưa sa.

-Tên cẩu quan, tiếp chiêu!

Lâm Tố Đình hét lên, tuy nàng chưa mục kích tuyệt kỹ phi đao của Tiêu Phong lần nào nhưng có nghe danh, vội vã múa tít hai cây kiếm trong tay, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, quyết không để kẻ địch rảnh tay phóng phi đao.

Với chiều cao và hai cánh tay dài ngoằng của y, nàng hiểu nếu nàng giữ đúng cự ly mà đánh thì chưa đánh đã biết kết quả rồi, chỉ còn cách phải áp sát mà đánh mới được. Nhưng áp sát từ chính diện là chuyện không dễ dàng.

Phi đao là binh khí dùng để đánh từ xa, nên Tiêu Phong cũng biết nếu để kẻ địch áp sát vào mình thì sẽ không dễ dàng điều khiển đường bay của phi đao được, bèn thủ kính như bưng, khiến cho Lâm Tố Đình đánh đấm một hồi vẫn cứ chập chờn vờn quanh, không thể lừa thế nhập nội được.

Sang chiêu thứ ba mươi lăm thì Lâm Tố Đình vừa đánh vừa lo, nhất là chỉ với một mình họ Dương nàng đã đánh đấm trối chết rồi, nếu như mà bọn binh lính tràn vào trong thư viện này, nàng khó mà thoát khỏi được, trong bụng lo ngay ngáy. Nhưng may cho nàng là bấy lâu Tiêu Phong chỉ quen một mình lâm chiến, rất ít khi gọi người trợ giúp.

Lâm Tố Đình đánh một hồi cảm giác mệt dần, nhất là lại đang nóng lòng khi nghĩ đến vết thương của Tần Thiên Nhân, nàng biết nàng không thể chần chờ thêm nữa.

Một lần nữa Lâm Tố Đình dồn hết nội công vào hai thanh gươm và tung chiêu Kim Long Thủ. Hai thanh kiếm ngắn bỗng dài ra gấp ba, hóa thành hai thanh trường đao.

Kim Long Thủ pháp còn có tên gọi khác là Hợp Bàn Chưởng, một cách luyện sức mạnh của bàn tay, có thể làm mỏng thanh sắt và làm tan cả khối đá cứng rắng bằng cách xoa đầu bó đũa. Môn đồ Thiếu Lâm tập tuần tự, xoa nhẹ đầu đũa tre cho tới nát bấy rồi chuyển qua xoa đầu đũa sắt, cho đến khi đũa sắt mỏng đi và dài ra thì xem như thành công.

Lần này tới phiên Dương Tiêu Phong bị hai cây trường đao đàn áp liên miên, tay chân luống cuống cả lên, tình trạng hết sức khốn đốn. Thật ra thì lúc nãy chàng chỉ đùa chơi với cô gái này thôi, chưa dùng hết công lực ra, không ngờ cô gái này cũng có bản lĩnh đến vậy, đỡ được đến vài chục chiêu. Lại nữa hôm giao chiến với Tần Thiên Nhân thì chính chàng cũng tổn thương rất nặng, lại thêm đấm đá với tên Quỷ Kinh Hồn khiến cho nội thương tiếp tục bộc phát, chân khí suy giảm.

Tiêu Phong quyết định chấm dứt trò mèo vờn chuột này, không còn tránh né loạn xạ nữa mà bắt đầu vung tay đánh trả.

Lần đánh thật này của địch thủ, Lâm Tố Đình liên tiếp gặp nguy hiểm, chỉ mong sao đánh cho đối phương lui dần về phía cánh cửa thư viện, rồi tìm cách đánh cho y dạt ra là lập tức có thể bỏ chạy. Nào ngờ chiêu thức của đối phương liên miên bất tận, đã lọt vào vòng chiến thì đừng hòng rời khỏi. Lâm Tố Đình âm thầm kêu khổ, chỉ còn cách nghiến răng chống đỡ.

Tới chiêu thứ bốn mươi hai Lâm Tố Đình bị đánh lùi khá xa cánh cửa thư viện, nàng bí quá, đang đánh bỗng nảy ra một ý bèn lớn tiếng hô:

-Ngũ ca mau tới giúp muội!

Tiêu Phong nghe nói vậy khẽ quay đầu nhìn ra cửa, tưởng có Tàu Chánh Khê đến tương trợ, Lâm Tố Đình thừa dịp địch thủ đang phân tâm liền dùng một trong hai cây trường đao phóng tới.

Tiêu Phong lập tức nghiêng mình né tránh, cây đao vụt sạt qua bên trái, cách cổ chàng chưa đầy một phân, thật là nguy hiểm.

Tiêu Phong tránh được binh khí, cau mày nhìn Lâm Tố Đình, giọng có hơi bất mãn:

-Lại cứ như vậy nữa, xem chừng Đại Minh Triều ngoài thiếu đà chủ của các người toàn là những kẻ đầu trộm đuôi cướp, chuyên đánh lén lút!

Câu này khiến Lâm Tố Đình tức sôi. Máu chảy rần rần trong người, Lâm Tố Đình vội quát lên đáp trả:

-Ngươi nói trật rồi! Tên cẩu quan! Trong Tôn Tử binh pháp có nói phương thức này không phải là đánh lén mà là đánh đột xuất, đánh bất ngờ, xuất kỳ bất ý, bộ ngươi không có ăn học hả?

Hai lần trong cùng một ngày Tiêu Phong bị hỏi hai câu hỏi khiến chàng ngớ ra, không sao đối đáp lại được. Điều này ngoài trừ Ngao Bái ra ít có người nào làm được. Trong một thoáng Tiêu Phong chợt nhận thấy cô gái này không những xinh đẹp mà còn khá thú vị, không nhịn được bật cười một tiếng.

Lâm Tố Đình nói rồi lại phát tiếp chiêu tấn công.

Lần này Tiêu Phong vận khí công ra bộ Ngũ Hình Quyền. Triển khai chiêu thứ nhất bằng cách dùng đôi tay từ hai bên chập lại xuất Thôi Sơn Tả Chỉ, chụp lấy mũi đao của Lâm Tố Đình trong hai lòng bàn tay. Lâm Tố Đình kêu “á!” một tiếng, mắt trợn tròn khi thấy binh khí nàng sắp bị tướt đi. Quyền pháp của bộ Ngũ Hình này biến hóa cực kỳ tinh diệu, tuy không thể công kích thân thể của đối phương nhưng có thể đoạt được binh khí.

Thừa thế xông lên, Tiêu Phong xuất tiếp chiêu thứ nhì của Ngũ Hình Quyền. Một tay cầm lưỡi trường đao đảo xuống đất trong khi tay kia tống ức thẳng tới trước xuất Độc Môn Thần Chưởng.

Bị cướp mất đi binh khí, trên mặt Lâm Tố Đình bắt đầu lộ vẻ hoang mang. Nàng nghiêng người ra phía sau nhường chưởng pháp đánh qua khỏi cổ. Tiêu Phong đánh không trúng, liền xuất chiêu thứ ba là Phương Dực Bạt Hổ, chân phải tiến xà tấn, chỏ trái thúc tới. Lâm Tố Đình đang ở thế hạ phong, lại tiếp tục thối lui chân phải, hạ mã tấn, tiếp tục tránh cú đòn chỏ mạnh như núi này.

Dương Tiêu Phong lại chống thanh trường đao xuống đất, dụng làm điểm tựa để triển khai cước pháp, chiêu thứ tư trong bộ Ngũ Hình Quyền, dùng lòng bàn chân phải hất vòng qua trái rồi đạp gót ngang tới bàn long. Lâm Tố Đình lại chúi mình tới trước né cú đá ở vùng bụng trong gang tấc.

Lúc Lâm Tố Đình tránh Đảo Ngoặc Cước, cây nhân sâm trong áo nàng ló ra, Tiêu Phong huơ tay giật lấy được củ sâm.

Lâm Tố Đình kêu “không!” một tiếng, ngay sau đó không màng hộ thủ thân thể nữa, cứ buông thõng hai tay.

Tiêu Phong cũng dừng lại không đánh tiếp nữa, thu quyền cước lại sau đó cũng ném trường đao xuống sàn, thái độ kỳ lạ của cô gái này đối với củ sâm khiến chàng không khỏi thắc mắc, xem chừng như nàng quan trọng củ sâm này còn hơn cả tánh mạng nàng.

-Thì ra cô nương vào đây để lấy cắp vật này?

Trong khi Tiêu Phong đang cầm củ sâm đưa lên trước mặt để xem thì Lâm Tố Đình bước lại chìa tay ra nói:

-Đánh cắp cái gì, nó chính là của ta đó! Mau đưa đây!

Nàng hỏi xin lại sâm mà như ra lệnh, giọng lạnh băng như tuyết trên Thiên Sơn.

-Mau đưa sâm cho ta!

Nhớ đến mấy chiêu “tiểu nhân” của cô gái này, Tiêu Phong lắc đầu:

-Cô nương tưởng bản quan là ai? Đồ ở trong tay ta nói mang đi là có thể mang đi sao, nhìn phản ứng cô như vậy, củ sâm này không phải của cô nương!

Nói rồi xoay mình định đi ra ngoài thư viện.

Lâm Tố Đình nhìn thấy củ sâm bị lấy đi từ trong tay nàng, mà nàng lại phải khổ cực trăm bề mới có được nó. Tuy biết mình địch không nổi, nhưng cũng không cam lòng rút lui ngay, nàng bèn bọc hậu Tiêu Phong, dang tay chắn đường chàng lại nói:

-Nhà ngươi nói ai ăn cắp đây? Bổn cô nương đường đường chính chính đến đây… mượn chút thuốc thang của học xá thôi mà.

“Còn thế nữa ư,” Tiêu Phong buồn cười quá nhưng vẫn làm mặt tỉnh hỏi:

-Mượn? Thế thì chủ nhân đã đồng ý hay chưa?

“Chủ nhân?” Lâm Tố Đình nghĩ thầm “nhà ngươi mà là chủ nhân cái quỷ gì! Hắc Viện vốn là của thất ca ta, đồ của huynh ấy là đồ của ta, đúng là tên quan chó mi muốn làm khó dễ bản cô nương ta...”

Lâm Tố Đình rủa thầm xong nói:

-Hoàng thượng có muôn ngàn kỳ trân dị thảo trong viện thái y, cần quái chi kho thuốc nho nhỏ này? Còn những kẻ thường dân như chúng tôi lại khác, rất cần nguyên liệu để cứu các hộ dân nghèo. Ở một trại trẻ mồ côi ngoại tỉnh này đang có rất nhiều trẻ em lâm bệnh, nên đêm nay dân nữ chỉ muốn mượn một ít thuốc, mang về chữa trị cho họ, vậy mà hoàng đế cũng không cho, vậy còn là hiền tử chí tôn ư?

Lâm Tố Đình thay đổi cách xưng hô, từ “ta ngươi” đến “dân nữ” rồi “đại nhân” rất nhanh, làm cho Tiêu Phong cảm giác có hơi chóng mặt một chút. Trước mặt quay mòng mòng, Tiêu Phong lại nghe Lâm Tố Đình thêm lời:

-Thế mà dân nữ còn tưởng Phủ Viễn đại nhân ngài là một kẻ hào phóng lắm, nổi tiếng là người rộng rãi khắp cả kinh thành, vung tiền như rác. Mà thôi, có hỏi mượn cũng vô ích. Bây giờ dân nữ đã trót sa lưới. Ừ, thì là dân nữ tự nhận mình bản thân kém cỏi, đi ăn trộm bị bắt quả tang đó, đại nhân ngài muốn chém muốn giết, cứ việc tự nhiên!

Tiêu Phong vốn từ xưa không làm hại bọn đàn bà con gái, nghe nàng nói thách như thế chỉ đứng yên đấy, cũng không bảo binh sĩ tới vây bắt người. Lâm Tố Đình nói:

-Tại sao đại nhân cứ nhìn dân nữ mà không chịu ra tay vậy?

-Vì bản quan muốn nhìn cho kỹ, để coi có phải cô nương thách ta không dám giết cô không?

-Dân nữ biết rõ đại nhân không nỡ lòng đâu.

-Cô nương dựa vào đâu mà tin tưởng vậy?

-Nhãn thần của đại nhân đã báo cho dân nữ biết.

Tiêu Phong nghe đến đây không giữ nỗi bình tĩnh nữa, trố mắt hỏi:

-Đúng là chuyện lạ thiên hạ, cặp mắt mà cũng biết nói hay sao?

-Cặp mắt của người ta thì không, nhưng cặp mắt đại nhân thì biết.

-Ha ha! - Tiêu Phong cười lớn - Hôm nay bản quan mới rõ, nữ nhân của Đại Minh Triều toàn là những người như thế nào.

-Là người ra sao?

Tiêu Phong ngưng một lúc, chợt nhớ tới một người, rồi nhẹ giọng đáp:

-Thì toàn là những người rất biết ăn nói, biết cách lấy lòng người ta.

Tiêu Phong dứt lời bỗng cảm giác nhớ hồng y nữ tử đến quai quắc, trầm mặc hít sâu vào một cái, không ngờ Lâm Tố Đình đột nhiên đánh lén một chiêu.

Lần này Tiêu Phong mãi lo nghĩ tới cô gái áo hồng nên không kịp phòng bị, vội co người lại nhưng cũng trúng đòn vào vai. Chàng vừa đau vừa tự trách, loạng choạng một bước, thở dài kêu lên:

-Nữ nhân quả là nữ nhân, thật là quỉ kế đa đoan!

Nhưng trong tay chàng vẫn còn nắm chặt củ sâm.

Lần này Lâm Tố Đình nhập nội được rồi, nhưng đã chẳng còn binh khí gì nữa, vạn bất đắc dĩ phải dùng Thiếu Lâm Đường Quyền để tấn công.

Dương Tiêu Phong thấy cô gái này đứng còn chưa tới cằm mình, lại yếu hơn, nên trông thấy quyền chiêu của nàng thì cười một tiếng, đợi nàng xuất đòn tay thì không tránh né gì cả, chỉ hơi nghiêng mình rồi cũng ra đòn tay vung quyền đánh tới.

Chiêu số giống nhau, nhưng công lực phân biệt cao thấp rõ ràng. Hai quyền vừa chạm nhau, Lâm Tố Đình tức thì cảm thấy cánh tay của mình tê dại hẳn đi, đau không chịu nổi, chân bước loạng choạng, xiêu sang bên trái suýt nữa té nhào. Tình thế thật là bức bách.

Ở ngoài thư viện có một nhân ảnh thấy nàng gặp nguy hiểm bèn vụt nhảy đến cạnh Lâm Tố Đình, đưa tay trái dìu đỡ, còn tay phải chĩa mũi đao về phía Dương Tiêu Phong, đề phòng Tiêu Phong tấn công tiếp.

Lâm Tố Đình thấy cứu nhân đột nhiên xuất hiện, mừng thầm trong lòng, biết vị sư huynh túc trí đa mưu này ở đây thì chắc chắn nàng không bị thiệt thòi nữa.

Tiêu Phong tấn công tiếp thật.

Lâm Tố Đình cả mừng thấy sư huynh đã ra mặt, kêu lên:

-Cứu muội với ngũ ca!

Lúc đòn quyền của Tiêu Phong phóng tới ngay giữa ngực Tàu Chánh Khê, Tàu Chánh Khê hô lớn “Tránh ra!” rồi đưa thanh đại đao lên đón tiếp chiêu của Tiêu Phong.

Lâm Tố Đình vâng lời sư huynh bèn nhảy lùi ra, trốn sau lưng Tàu Chánh Khê.

Tiêu Phong thấy cô gái này có người giúp cũng không nói năng gì, cứ nhắm vào Tàu Chánh Khê mà xuất chiêu như gió, tấn công mười mấy chiêu liên tiếp.

Tàu Chánh Khê thấy đối phương bản lãnh cao cường, bèn cẩn thận hơn Lâm Tố Đình. Lại nữa thân hình chàng cũng thấp hơn Tiêu Phong nên tập trung tấn công vào hạ bàn. Vũ khí của họ Tàu là một thanh đại đao, trên lưng còn đeo thêm một sợi dây sắt dài khoảng một cánh tay, nối liền với một tiểu chùy, trọng lượng khoảng gần hai ký, gọi là Lưu Tinh chùy. Tàu Chánh Khê dụng đơn đao và Lưu Tinh chùy này liên tục đánh vào chân địch thủ.

Dương Tiêu Phong vận công lực hút lấy thanh trường đao mà khi nãy ném đi, nắm chặt trong tay phải liên tục đánh trả.

Tàu Chánh Khê khéo léo điều khiển sợi dây xích lắc người ném chùy, tấn công như bay, nhanh như lưu tinh, trong mềm có cứng, đây chính là những yếu quyết khi luyện chùy.

Tàu Chánh Khê vừa đánh vừa hô lớn:

-Đại muội! Mau đi chốt cửa thư viện, đừng để người khác vào thêm.

Ở ngoài thư viện thật ra bọn binh lính đã tới đầy sẵn rồi, chỉ là chưa ló mặt thôi, chúng thấy chủ soái càng đánh càng hung mãnh, lại nữa Tiêu Phong chưa hạ lệnh cho chúng đến tương trợ nên chưa vào.

Lâm Tố Đình lập tức chạy đi chốt cửa lại, nàng dĩ nhiên cũng không muốn phe mình sẽ lâm cảnh lưỡng đầu thụ địch, khi bọn binh lính tràn vào sẽ gặp kẻ thù cả hai phía, nội công ngoại kích. Thầm cầu cho phe nàng hạ được tên “cẩu quan” này, để một là lấy lại được củ sâm, hai là dùng hắn uy hiếp bọn lính để nàng và sư huynh chạy đi.

Mới ban đầu Tiêu Phong thấy những chiêu đánh của Tàu Chánh Khê rất là hung hiểm, nhưng mặt mày vẫn đầy sắc thái tự tin. Cây trường đao trong tay Tiêu Phong rất cương mãnh, múa lên gió lộng vù vù.

Chốc lát mà hai người đã qua lại ba chục chiêu. Lâm Tố Đình đứng bên ngoài vòng chiến quan sát hai chiếc bóng múa máy, lúc hợp lúc chia.

Trong một lần Tiêu Phong xuất ra một thế đao đánh tới bụng Tàu Chánh Khê, họ Tàu không biết đây chỉ là hư chiêu, bèn đưa cặp binh khí một chặn giữa bụng, một vung ra ngoài phản kích. Không ngờ cương đao của Tiêu Phong thì chém tiếp, nhưng lại biến chiêu giữa chừng, từ dưới đánh ngược lên, điểm vào giữa mặt.



-Cẩn thận ngũ ca!

Lâm Tố Đình kêu lên. Tàu Chánh Khê tuy được “nhắc tuồng” song không sao đỡ kịp, lập tức nhào ngửa ra sau. Họ Tàu thi triển thân pháp Trường Thành Kiều né được chiêu này, nhưng đã bất ngờ đến toát mồ hôi lạnh đầy người. Đánh thêm mấy chiêu nữa, Tàu Chánh Khê cảm thấy Lộ Thần xếp người này vào chiếc ghế cửu ngũ chi tôn quả tình không sai, họ Tàu biết mình không sao địch nổi, bất giác lo lắng trong lòng. Mà chàng lo cho mình thì ít, lo cho Lâm Tố Đình và nhân sâm thì nhiều.

Lát sau Tiêu Phong đang đánh thì cặp chân mày nhíu chặt, không rõ là đang đau, vết thương hôm bữa lại tái phát hay là đang rất tập trung? Một tay Tiêu Phong cầm đao vừa ra đòn, tay không cầm đao vừa hộ thân, rắp tâm bảo vệ các huyệt đạo.

Đánh thêm vài chục chiêu nữa, Tiêu Phong cảm giác mệt phờ thật. Chàng đang trọng thương, lại mới chiến đấu với Lâm Tố Đình, giờ lại thêm Tàu Chánh Khê nhảy vào công kích nên chiêu thức mới không còn nhuần nhuyễn. Trong khi đó Tàu Chánh Khê biến chiêu chớp nhoáng. Hai người lại đánh thêm mười mấy chiêu nữa.

Tàu Chánh Khê nghe Trương Quốc Khải bảo Dương Tiêu Phong bị Tần Thiên Nhân đánh cho bị thương, nên họ Tàu hiểu nếu cả hai đấu nhau hồi lâu, tình thế của mình sẽ càng lúc càng sáng sủa. Tuy nhiên đối phương phòng thủ khá nghiêm ngặt thành ra nhất thời Tàu Chánh Khê không hạ thủ được.

Tàu Chánh Khê liên tục tung đòn. Đao sau nhanh hơn đao trước. Chùy sau gấp hơn chùy trước. Sử dụng sắp hết ba mươi chiêu thức của bộ Mê Tông La Hán Hình Đường mà vẫn chưa làm gì được đối phương.

Tiêu Phong khi này bắt đầu dụng đến ám khí, tay không cầm đao cho vào áo rút kim tiêu, càng phóng càng nhanh. Nhưng tốc độ của ám khí đi không được nhanh như lúc không bị thương nên Tàu Chánh Khê vừa đỡ phi tiêu này vừa né phi tiêu kia không hề gì.

Lại nữa Tàu Chánh Khê có sức lực dồi dào. Chỉ cần chờ Tiêu Phong thấm mệt và chậm tay lại một chút nữa là có thể đả bại được rồi. Lâm Tố Đình vẫn còn đứng xem trận ác đấu. Nàng thầm nghĩ: “Đúng rồi đó ngũ ca, đánh không lại hắn thì cứ kéo dài thời gian, tên cẩu quan đang trọng thương, khí lực đương nhiên không bằng ca, đánh lâu một hồi dĩ nhiên kém thế.”

Thêm một chốc nữa trôi đi, phi tiêu trong mình Tiêu Phong đã sử dụng hết, những vẫn giữ cho tâm trí không loạn. Tay trái không cầm đao của Tiêu Phong đánh vờ một chưởng, chân trái đá vờ một cước phát hai hư chiêu thẳng ra trước.

Tàu Chánh Khê đợi chưởng đánh tới nơi, quay sợi xích toan quấn lấy cổ tay địch thủ. Ngờ đâu Tiêu Phong vội rút tay trái về, chân cũng đã chuyển sang bộ vị khác. Đôi mắt của Tàu Chánh Khê trợn tròn, không dè địch thủ thu quyền nhanh gọn vậy. Tiêu Phong thấy địch trúng kế hiểm liền xoay thanh đao đang cầm trong tay phải chém vào cổ tay cũng đang cầm đao của Tàu Chánh Khê, cứa một đường khá sâu. Thừa lúc Tàu Chánh Khê đang bất ngờ, Tiêu Phong dùng tay trái tung tả quyền đánh mạnh vào ngực.

Binh! Tàu Chánh Khê thụt lui ba bước, làm rơi cả chùy lẫn đao, thở hỗn hễn trước khi nói:

-Chiêu pháp cao minh!

Dương Tiêu Phong nghe khen thì gật đầu cảm tạ.

Tàu Chánh Khê lại như Lâm Tố Đình vừa rồi tay không bay vào nhập nội. Tiếp tục ra đòn. Lần này họ Tàu thay đổi chiêu thức, triển khai một trong những tuyệt học của Thiếu Lâm, khua chân đạp theo bát quái chạy vù vù xung quanh Tiêu Phong. Đó chính là một trong các tuyệt kỹ thành danh của Võ Thánh, gọi là Đạt Ma Phi Thân Thuật. Tuyệt học thứ hai là Thiên Thủ Thiên Nhãn quyền Võ Thánh dạy cho Tần Thiên Nhân, tuyệt học còn lại là Vô Ảnh Song Phi Cước, Võ Thánh chưa dạy ai bao giờ.

Đạt Ma Phi Thân Thuật còn có tên khác là Đạt Ma Độ Giang, Đạt Ma Độ Thủy hoặc là Thủy Thượng Phi. Vốn là ngón đòn khinh công phi hành trên không trung. Để luyện tập phép thuật này thì môn đồ phải dùng một sợi dây giăng ngang mặt nước rồi bước từng bước, càng ngày càng nhanh cho tới khi nhắm mắt mà có thể chạy một hơi. Sợi dây theo trình tự hóa dần từ to đến nhỏ. Mới ban đầu có thể dùng sợi dây thừng, sau nhiều năm thuần thục thì đổi thành sợi chỉ. Đến giai đoạn cuối thì sợi chỉ được vứt đi và cao thủ Thủy Thượng Phi có thể đằng vân giá vũ vi vu như chim én.

Tàu Chánh Khê thi triển khinh công chạy quanh người Dương Tiêu Phong, lúc chạy sang trái lúc chạy sang phải, gấp rút xoay chuyển để lừa thế, cố tìm chỗ sơ hở mà phát chiêu.

Tiêu Phong quay tới quay lui, thấy đối phương trước mắt nhưng định phát chưởng thì đối phương đã biến đâu mất rồi. Tiêu Phong quay ra phía sau lưng thì Tàu Chánh Khê đã vụt sang chỗ khác. Tiêu Phong cứ thế mà quay mấy chục vòng, dù võ nghệ cao cường cỡ nào cũng phải luống cuống đầu váng mắt hoa. Còn nếu chàng không chịu quay theo thì sẽ bị Tàu Chánh Khê thoi đòn vào chỗ yếu.

Tàu Chánh Khê mới chạy được hai chục vòng, Tiêu Phong đã biết ngay đấu pháp này lợi hại. Tàu Chánh Khê chạy thêm năm vòng nữa trước khi phóng Kim Sản Chỉ, chiêu này phối hợp rất ăn ý với Đạt Ma Phi Thân Thuật, họ Tàu xuất đòn đánh vào mặt Dương Tiêu Phong.

Chiêu này Tàu Chánh Khê đã tập dợt thành thuộc trong suốt chục năm trời rồi, luyện chỉ lực, dùng ngũ chỉ xỉa vào đất đá cho tới khi bộ pháp càng ngày càng thông thạo. Tàu Chánh Khê xuất đòn. Tiêu Phong quay mặt tránh né thì Tàu Chánh Khê lại thu tả chưởng về, phát ra chiêu thứ hai, nhanh tới mức độ hoàn toàn không cần suy nghĩ.

Tiêu Phong hết cách, chực thấy chiêu nào thì đỡ chiêu đó. Lúc đầu còn giữ được thế quân bình nhưng kéo dài thì không thể phản đòn nhanh bằng đối phương. Nếu cứ xoay chuyển theo tình hình này thì chắc chắn sẽ rơi vào thế hạ phong.

Tàu Chánh Khê đang đà trên cơ bỗng chùn bước khi loáng thoáng thấy Tiêu Phong cho tay vô áo chuẩn bị lấy ra phi đao. Tàu Chánh Khê biết Tiêu Phong bị mình dồn vào ngõ cụt nên quyết xuất tuyệt kỹ, liền gấp rút tóm lấy hai cổ tay của kẻ địch, giữ chặt lấy, không cho Tiêu Phong xuất tuyệt học Cửu Ẩn Phi Hoàn Đao. Tiêu Phong cố sức giằng co để rút tay ra.

Tàu Chánh Khê mau mắn vận quyền thi triển Nhất Chỉ Kim Cương Pháp, chiêu này gần giống như Nhất Chỉ Thiền nhưng Nhất Chỉ Thiền thiên về âm công. Còn Nhất Chỉ Kim Cương Pháp thì thiên về dương cương, không đả thương kẻ địch từ xa mà dùng để điểm huyệt đạo của địch ở phương diện gần kề. Phương pháp này luyện tập bằng cách dùng ngón trỏ xỉa vào thân cây cho đến khi rách da chảy máu. Bởi vì dùng ngón tay đâm vào vật cứng cho nên chiêu pháp mới gọi là luyện dương cương.

Tàu Chánh Khê vuốt hai cánh tay của Tiêu Phong từ cổ tay lên tới vai, chuẩn bị phong huyệt Kiên Tỉnh, chỗ cao nhất của phần vai Tiêu Phong thì rầm một tiếng.

Cánh cửa thư viện bị phá vỡ, Tô Khất cùng một toán lính xông vào. Lâm Tố Đình lập tức lùi ra khỏi cửa, nhảy đến đứng sau lưng Tàu Chánh Khê. Tàu Chánh Khê giật nảy mình quay nhìn Tô Khất và đám lính, Dương Tiêu Phong thừa lúc này giằng tay thoát khỏi tình cảnh bị khống chế.

Tàu Chánh Khê than thầm trong bụng khi quay lại thấy Tiêu Phong tay rút phi đao, nhưng theo ra cùng với chín cây đao là chiếc vòng cỏ.

Chiếc vòng tròn nhỏ rơi bộp xuống đất, lăn đến dưới chân Lâm Tố Đình. Tiêu Phong thấy vậy không màng đánh đấm gì nữa, thu hồi chiêu thức lại, cúi xuống định nhặt vòng lên.

Tàu Chánh Khê không ngờ cứu tinh của mình lại là chiếc vòng bé xíu này, bằng không suýt chút nữa đã trở thành bia cho người ta ném dao rồi.

Đương nhiên Tiêu Phong chẳng thể tranh đoạt với Lâm Tố Đình được. Chiếc vòng rớt ngay trước mặt nàng, có tài thánh chàng mới tranh với nàng nổi. Tiêu Phong còn chưa kịp sờ vào chiếc vòng, Lâm Tố Đình đã co chân đá tung chiếc vòng cho nó bay lên rồi đưa tay bắt lấy.

Tàu Chánh Khê cũng đã bình tĩnh trở lại, phóng tới đứng cạnh Lâm Tố Đình.

Lâm Tố Đình thấy Dương Tiêu Phong quan trọng chiếc vòng cỏ này nên khi có nó trong tay vội nói:

-Ngươi muốn lấy lại nó đúng không?

Lần này cục diện hoàn toàn thay đổi. Mặt Tiêu Phong biến sắc, không trả lời.

-Chúng ta lấy vật đổi vật, thế nào? Đồng ý không?

Tiêu Phong vẫn không đáp, Lâm Tố Đình lại tiếp:

- Ngươi đưa sâm cho ta ngay đi! Bằng không ta hủy nó!

Lâm Tố Đình vừa nói vừa rút hai cọng cỏ cho rời ra khỏi chiếc vòng, buông cho rơi lả tả xuống đất.

Tiêu Phong chợt cảm thấy lòng mình như có một mũi tên đâm vào.

Lâm Tố Đình thấy người này khẩn trương chiếc vòng cỏ này, mà hắn lại là một viên quan nhất phẩm, tiền bạc đầy kho, lại quý một chiếc vòng không có giá trị như thế, đoán chắc là vật kỷ niệm chi đấy, nàng thấy cũng hơi bất nhẫn nhưng nàng vội gạt ý nghĩ đó đi.

-Thế nào? Tên cẩu quan - Lâm Tố Đình gằng giọng - Là do ngươi đã nhẫn tâm trước, không đưa sâm cho ta cứu người, đừng trách bổn cô nương vô tình!

Tiêu Phong không dám chần chừ, vội lấy củ sâm cất trong mình ném về phía Tàu Chánh Khê.

Lâm Tố Đình vẫn nắm chặt chiếc vòng trong tay, hất đầu bảo sư huynh theo nàng đi về phía cánh cửa thư viện.

Tiêu Phong bảo binh lính:

-Để họ đi!

Tô Khất và toán lính lập tức tản ra nhường đường.

Lâm Tố Đình trước khi phi thân đi khỏi cổng Tinh Thái, còn quay đầu lại nháy mắt với Tiêu Phong, cười nói:

-Đỡ được các chiêu thức của ta, coi như hảo hán rồi. Tha mạng cho ngươi đó!

Nói xong ném trả chiếc vòng vào trong sân trường rồi cùng Tàu Chánh Khê tẩu thoát. Tàu Chánh Khê khua chân chạy theo Lâm Tố Đình, trong lòng không khỏi buồn cười khi nghe sư muội thốt ra câu đó, thầm nhủ Dương Tiêu Phong là một trong những các nhân vật hàng đầu võ lâm, dĩ nhiên võ nghệ tinh diệu hơn người. Còn nàng? Lại là ai đây?

Lâm Tố Đình và Tàu Chánh Khê giục cặp tuấn mã chạy ra khỏi địa phận Hàng Châu. Bấy giờ là nửa đêm, họ cưỡi ngựa chạy được hơn một dặm, bèn nhìn sao Bắc Đẩu phía chân trời để phân biệt phương hướng. Hai người lo Dương Tiêu Phong sẽ cho binh sĩ rượt theo, nên phi ngựa suốt đêm không ngừng nghỉ.

Chạy được thêm vài canh giờ nữa, Lâm Tố Đình phi ngựa phía trước, cách Tàu Chánh Khê một quãng, nàng bỗng kéo cương cho ngựa dừng lại, chờ Tàu Chánh Khê tới nói:

-Ngũ ca, tay của huynh đang bị thương, huynh cũng đã bôn ba đường xá xa xôi, từ Sơn Tây về Giang Nam, rồi giờ lại phải ra tây bắc, chắc huynh cũng đã mệt. Lại nữa hình như tuấn mã của chúng ta cũng sắp kiệt sức rồi, muội thấy phía trước có ngôi miếu hoang, chúng ta có thể nghĩ lại đấy một đêm rồi sáng mai đến Hồ Bắc đổi ngựa khác?

Quả thật trong người Tàu Chánh Khê rất mệt mỏi, từ khi đi hành thích Khang Hi đến nay chưa được nghỉ ngày nào, nghe âm điệu đầy vẻ dịu dàng, liền đáp:

-Ừ, chúng ta tạm thời nghỉ lại đây sáng mai lên đường tiếp.

Trời lạnh nên hai người dẫn luôn cặp ngựa vào căn miếu. Tàu Chánh Khê chọn một chỗ tương đối sạch sẽ, đặt binh khí xuống. Quay sang không thấy Lâm Tố Đình bên cạnh liền hô lên:

-Đại muội đang ở đâu?

-Muội thấy phía sau có cái lu, muốn đi lấy nước.

-Huynh đi với muội.

Hai người im lặng đứng bên nhau, khoảng cách vừa đủ để chàng ngửi được mùi hương phụ nữ trên cơ thể nàng, thoáng qua. Chàng thấy khó mà tập trung làm việc gì được, lén đưa mắt nhìn nàng, thầm tán thưởng cốt cách phi phàm của nàng, dung nhan thanh lịch, đôi mắt chói rọi như vầng đông vừa nhô ra khỏi đám mây, đôi môi tươi tắn như hoa sen vừa vươn lên khỏi mặt nước.

Bỗng dưng Lâm Tố Đình cũng cùng lúc quay sang, Tàu Chánh Khê bắt gặp đôi đồng tử long lanh cười với chàng. Nhìn nụ cười rung động lòng người đó, chàng thốt nhiên cảm giác mùa xuân tràng ngập khắp nơi, bốn bề cỏ hoa lãng đãng dao động. Bao mệt mỏi hoàn toàn tiêu tan hết.

Nàng dịu hiền, đứng bên cạnh chàng. Hình ảnh một thiên thần nở nụ cười đã làm trái tim chàng xao xuyến. Cũng chẳng biết từ khi nào chàng đã bắt đầu thầm thương trộm nhớ. Dường như là những buổi chiều hai người cùng đi thả diều, tắm mưa, tình yêu trong chàng cứ lớn dần. Mỗi lần được ở cạnh nàng chàng rất hạnh phúc, nàng là cả thế giới của chàng. Mỗi lúc nàng buồn phiền chàng đều ở bên cạnh động viên an ủi, luôn là bờ vai cho nàng dựa vào mỗi khi gặp khó khăn. Hai người có một tình bạn đẹp hơn mười mấy năm. Tuổi thơ của chàng trôi qua êm đềm cùng với những ký ức đẹp về nàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 39: Duy nữ tử dữ tiểu nhân (2)

Sau khi hai bình hồ lô đã được chứa đầy nước, hai người trở vào trong miếu, Lâm Tố Đình ngồi xuống cạnh Tàu Chánh Khê, ôm thanh kiếm trước ngực, lim dim đôi mắt. Tàu Chánh Khê cũng ngồi khoanh tay nhắt mắt lại.

Hồi lâu sau chàng không thể ngủ được, quay nhìn nàng, liền bị đôi mắt mở to long lanh làm giật thót mình. Tàu Chánh Khê cười xòa:

-Đại muội, cả đêm không chịu ngủ, nhìn huynh làm cái gì? Muốn dọa cho huynh sợ chết đi à?

Lâm Tố Đình nghe câu bông đùa mà không cười, giọng buồn buồn, nàng nói:

-Ngũ ca, muội hỏi huynh một vấn đề, mong huynh trả lời thật lòng với muội.

-Muội hỏi đi.

-Nếu như huynh là thiếu đà chủ, huynh sẽ... chọn muội, hay là chọn nữ thần y?

Lâm Tố Đình nói xong, đôi mắt đen như làn sóng nước ngưng đọng, nhìn Tàu Chánh Khê.

Tàu Chánh Khê đột ngột cảm giác tim đau nhói như tan vỡ, muốn vòng tay ôm lấy nàng, nhưng cuối cùng chàng chỉ lắp bắp:

-À, à… chuyện này…

Lâm Tố Đình sốt ruột, lại lên tiếng:

-Xin huynh thành thật trả lời cho muội biết.

Tàu Chánh Khê cố nén tình cảm, giọng trở nên mạch lạc hơn:

-Đại muội à, muội là một cô gái rất bản lĩnh, lại tốt bụng, trọng tình trọng nghĩa giữ lời hứa, còn nữ thần y vừa thông minh vừa dịu dàng…

-Muội hiểu rồi - Lâm Tố Đình cắt lời Tàu Chánh Khê - Nữ thần y thông thái, học cao hiểu rộng, muội ấy với thiếu đà chủ mới xứng đôi nhất.

Giọng Lâm Tố Đình khi nói câu này đẫm nước mắt, nàng nói rồi quay mặt đi.

Lòng Tàu Chánh Khê tràn ngập niềm thương vô bờ bến, chàng im lặng lựa lời một chút rồi nói:

-Đại muội à, có khi nào muội từng nghĩ, trong lúc thiếu đà chủ khó khăn nhất, thì có muội, nếu không có muội huynh ấy không thể thoát khỏi hai trận mai phục đó, cũng không thể khỏe lại nhờ nhân sâm mà muội sắp sửa mang về này?

Lâm Tố Đình chợt quay lại, nhìn sâu vào mắt sư huynh. Tàu Chánh Khê tiếp:

-Thiếu đà chủ không phải người vong ân, cho nên huynh nghĩ trong lòng huynh ấy chắc chắn có muội.

Lời này khiến Lâm Tố Đình chợt thấy lòng mình run lên, cảm động nói:

-Muội không tốt như ngũ ca nghĩ đâu, lúc thiếu đà chủ gặp nạn, cần người bên cạnh ủng hộ, muội chỉ là tình cờ có mặt đứng bên cạnh giúp huynh ấy. Người thiếu đà chủ thương yêu chính là nữ thần y, chính miệng huynh ấy nói như vậy với muội đó, “tình đầu luôn khiến mình khó quên nhất,” không nghĩ cũng biết vị trí của muội ấy trong lòng thiếu đà chủ là như thế nào.

-Nhưng còn muội - Tàu Chánh Khê nói - Lẽ nào muội nghĩ bản thân mình không có chút vị trí nào trong lòng thiếu đà chủ sao?

Hỏi rồi không đợi câu trả lời, chàng tiếp:

-Đại muội, muội thật không phải một cô nương bình thường, muội không hề thua kém một đấng tu mi nào, một cô nương hành hiệp trượng nghĩa, thấy chuyện bất bình rút đao tương trợ, thật khiến người ta khâm phục.

Lâm Tố Đình lắc đầu:

-Nhưng mà đó không phải là tâm nguyện của muội. Muội chỉ đơn giản muốn làm một người vợ hiền, hằng ngày có thể nấu cơm, giặt đồ, may áo cho huynh ấy.

Tàu Chánh Khê mở miệng định nói gì đó, nhưng Lâm Tố Đình nhìn thẳng vào sư huynh nhận xét:

-Ngũ ca, hình như huynh có phần mệt rồi đó, muội cũng buồn ngủ rồi, thôi chúng ta hãy nhắm mắt lại, cố ngủ một giấc cho khỏe, ngày mai trời vừa sáng chúng ta lại tiếp tục lên đường.

Tàu Chánh Khê gật đầu, nhưng ngay sau khi Lâm Tố Đình nhắm mắt lại bật dậy nói:

-Muội không đợi được nữa, muội phải đi ngay!

Dứt lời nhanh nhẹn tháo dây cương, phóng lên lưng ngựa giục ngựa chạy đi. Tàu Chánh Khê ngồi lặng, không hiểu sao nữ nhân này chợt thay đổi đột ngột như vậy, đang bảo phải ngủ một giấc để lấy sức dưỡng thần, bỗng trở thành gấp gáp đến thế. Quả là không ai có thể giải thích được nỗi lòng của một nữ nhân.

-Nè! Nè! - Chàng phóng lên ngựa đuổi theo nàng - Đại muội, đại muội! Chờ huynh với!

Con ngựa chạy khỏi ngôi miếu hoang khoảng chừng nửa dặm, vừa đói vừa kiệt sức nên tự ý dừng lại hất Lâm Tố Đình rơi xuống đất.

Tàu Chánh Khê ở phía sau thấy thế kinh hãi vô cùng, tức khắc đạp chân lên bàn đạp ngựa lấy trớn phi thân tới đó, chàng thấy hai mắt nàng đỏ ửng lên. Lâm Tố Đình ngồi dưới đất, buông tay để thanh kiếm rơi xuống bên cạnh nàng, gào to:

-Tại sao lại như vậy? Tại sao lại như vậy chứ?

Tàu Chánh Khê quỳ xuống đối diện Lâm Tố Đình, hỏi vồn:

-Đại muội, muội có bị thương không?

Không nghe câu trả lời, chàng lại hỏi:

-Muội sao hả? Trả lời huynh đi.

Lâm Tố Đình không màng một bên chân bị thương, chợt oà lên khóc tức tưởi:

-Tại sao họ có thể yêu nhau được! Có phải trong lòng huynh ấy từ trước tới nay không hề có muội không? Tại sao đến bây giờ mới chịu nói ra chứ? Nữ thần y cũng vậy nữa, không nói cho muội hay, muội ấy vốn biết muội yêu huynh ấy sâu đậm đến dường nào…

Tiếng khóc của nàng vang cả khu rừng tre hoang vu và im ắng, khiến dạ Tàu Chánh Khê xốn xang như kim châm lửa đốt, muốn nói mà chẳng thốt nên lời.

Một lúc lâu, khi nàng đã vơi bớt cơn sầu thảm, chàng mới dịu dàng nói:

-Muội đừng trách nữ thần y và thiếu đà chủ, tình yêu vốn không có lỗi...

Lâm Tố Đình nước mắt đầm đìa, nghẹn ngào bảo:

-Muội biết, nhưng muội sợ lắm, muội sợ phải nhìn thấy cảnh huynh ấy đối tốt với nữ thần y, muội sợ khi trở về rồi, huynh ấy khỏe lại, sẽ thành hôn, tới khi đó muội không còn hy vọng gì nữa.

-Chuyện đó còn chưa biết được, theo như huynh biết hai người họ còn chưa chọn ngày, biết đâu muội còn cơ hội, muội là một người tốt. Đại muội, muội đừng khóc nữa.

Lâm Tố Đình vẫn không ngừng thút thít, trái lại còn ôm mặt khóc to hơn. Tàu Chánh Khê cuống quýt nói:

-Thôi được, để huynh trả lời câu hỏi khi nãy của muội, nếu là huynh, huynh sẽ chọn muội, thật đó!

Tiếng khóc của Lâm Tố Đình ngưng bặt, ngẩn lên nhìn chàng. Tàu Chánh Khê biết mình không cẩn thận để lộ tình cảm ra ngoài, càng không muốn là một kẻ thừa nước đục thả câu, vội thêm lời:

-Ý của huynh là, huynh muốn nói là... tuy Tố Đình rất tinh nghịch, Tố Đình không biết nói chuyện dịu dàng, muội không thích viết văn, làm thơ, nhưng muội rất cá tính, có nguyên tắc, là người độc nhất vô nhị, là người tốt nhất, huynh nói thật đó...

Lòng Tàu Chánh Khê đang rối như một nắm tơ vò nên cách xưng hô cũng rối tung rối mù cả lên.

Lâm Tố Đình mỉm cười:

-Đa tạ huynh ngũ ca, lúc nào cũng ủng hộ cho muội, lo lắng cho muội.

Rồi nàng đứng lên:

-Huynh nói rất đúng, Lâm Tố Đình là Lâm Tố Đình, không cần phải thay đổi vì bất cứ ai, cũng không cần phải đem ra so sánh với bất cứ ai!

Tàu Chánh Khê nhặt thanh kiếm nàng lên, chàng cũng đứng dậy mau mắn gật đầu:

-Đúng vậy! Đại muội mà huynh quen biết, trong số những người huynh gặp, muội là cô gái xuất sắc nhất, dũng cảm nhất, quen biết muội, thật không uổng phí cuộc đời này.

Lâm Tố Đình cảm kích nhìn chàng, run giọng nói:

- Ngũ ca! Muội đây cũng vô cùng vinh hạnh. Trong thâm tâm, muội từ lâu đã coi ca như người anh ruột của mình. Ngũ ca, Lâm Tố Đình có một người anh như huynh, cũng thấy mình không uổng kiếp này, muội có thể bảo đảm, sẽ xem huynh là người thân tốt nhất của mình.

Tàu Chánh Khê nghe lời này biết chàng không còn cơ hội gì nữa, cái bóng của Tần Thiên Nhân quá lớn. Chàng vừa đưa trả nàng thanh kiếm, vừa gượng cười bảo:

-Vậy được rồi, như vậy là tốt rồi...

---oo0oo---

Hai người hết lên cao lại xuống thấp, rẽ trái rẽ phải gần trọn một đêm, sắp sáng thì người ngựa đều mệt mỏi rã rời, riêng Lâm Tố Đình nét mặt tím tái, Tàu Chánh Khê lên tiếng đề nghị:

- Nghỉ một lát đi!

Lâm Tố Đình gật đầu đồng ý nhưng khi nhìn quanh chỉ thấy khu rừng tre um tùm, nàng nói:

- Chúng ta cố tìm được nhà cửa rồi yên tâm mà ngủ cho ngon.

-Ừ.

Hai người đi chẳng bao lâu nữa, đột nhiên thấy phía trước có khoảng trống. Mặt trời của một ngày mới bắt đầu ló dạng, cảnh tượng đẹp đẽ không sao tả được. Đỉnh núi tuyết phủ như một phiến bạch ngọc đâm thẳng lên trời, dưới chân núi là một dãy mấy chục căn nhà.

Hai người giục ngựa chạy ra khỏi khu rừng, cả mừng khi thấy một thôn làng với nhà cửa san sát nhau. Họ lắng tai nghe lại không có chút âm thanh nào, trời đông gió lạnh, khiến cho quang cảnh thêm rùng rợn, hai người đều bị không khí tịch mịch làm cho khiếp đảm, thở cũng không dám thở mạnh.

Hóa ra nơi này là một thôn làng bỏ hoang, đến gần mới thấy tất cả đều đổ nát cũ kỹ, tìm mãi mới được một gian hoàn chỉnh nhưng rất bé, toàn bộ căn nhà chỉ có một phòng duy nhất.

Một lát sau Tàu Chánh Khê mới xuống ngựa đi trước vào nhà.

Chiều hôm đó Tàu Chánh Khê đi ra hồ Động Đình lấy nước và cắt một mớ cỏ mang về cho cặp ngựa. Về tới nhà thấy Lâm Tố Đình té xỉu trên sàn đất, chàng cả kinh vội chạy đến bế nàng lên, đặt tay lên trán thấy người nàng hâm hấp sốt như bị cảm. Chàng vội vã đặt thân thể mềm oặt của nàng lên giường. Lâm Tố Đình có hé mắt ra một cái, cảm thấy đầu óc lùng bùng, choáng váng. Buổi chiều lịm dần trong giấc ngủ lơ mơ của nàng, âm vang vọng lại là tiếng sóng rì rào của hồ Động Đình đang dâng nước lũ.

Tàu Chánh Khê hết sức lo lắng khi thấy bệnh của Lâm Tố Đình càng lúc càng nặng thêm, tới chiều ngày hôm sau nàng vẫn còn nằm mê man với cơn sốt. Ðúng là nàng và cả chàng nữa đều chủ quan, tưởng rằng nàng chỉ bị cảm xoàng mà thôi, uống thuốc cảm họ mang theo trong túi hành lý vào là sẽ khỏi ngay. Nhưng không ngờ bệnh tình Lâm Tố Đình trở nặng với những cơn sốt rồi lạnh nối tiếp nhau. Mỗi lần sốt, Lâm Tố Đình nửa tỉnh nửa mơ kêu tên một người, mặt mày nàng đỏ bừng như một người uống rượu say. Còn khi lạnh nàng run lập cập đắp hai ba cái mền dày vẫn không thấm. Mỗi lần nghe nàng mê sảng, kêu thét, Tàu Chánh Khê càng thêm hoảng hốt.

Độ canh hai Lâm Tố Đình gặp ác mộng bèn giật mình tỉnh giấc, tưởng nàng đang phải ở một mình. Đang muốn khóc chợt nhìn thấy người quen, vừa vui mừng vừa thương tâm, nàng chỉ gọi được một tiếng “ngũ ca” rồi nhịn không nổi, hai dòng lệ đã lăn xuống má.

Năm xưa cả thân phụ lẫn sư thái đều dịu dàng, đối với nàng cưng chiều hết mực. Nàng đi lại giang hồ, trước nay đều ở thế thượng phong, chưa bao giờ lép vế trước ai. Về sau chính thức gia nhập Đại Minh Triều, thì bang hội người đông thế mạnh, nàng lại được các sư huynh quí mến. Gần hai mươi năm nay, nàng có thể gọi là giang hồ kiêu nữ, không gì là không đạt được, không gì là không thuận lợi. Phen này là khổ sở nhất trong đời nàng. Bị vị hôn phu từ chối hôn ước khi hôn lễ của hai người sắp được cử hành, bị cô bạn thân thiết nhất mà nàng xem như tỉ muội cướp người yêu, chân nàng lại bị thương, thêm vào cơn bạo bệnh nên cứ tủi thân đau lòng, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong đêm sâu hoang vắng, nàng bỗng thấy người mình nóng như lửa đốt, mơ hồ kêu gọi:

-Nước… Nước, tôi muốn uống nước…

Liền có người lo lắng cho nàng.

Sáng hôm sau bệnh càng nặng hơn. Nàng muốn gắng gượng ngồi dậy, nhưng mới ngồi lên đã thấy đầu đau như cắt, chỉ còn cách nằm lại xuống giường. Tàu Chánh Khê lại ra ngoài. Nàng nằm trên giường nhìn ra cửa sổ thấy mặt trời lên tới đỉnh núi, Lâm Tố Đình nghĩ bụng “lại thêm một ngày muội không thể mang sâm về cho huynh...” Nghĩ chuyện khi mang sâm về được rồi Tần Thiên Nhân không còn nữa, không được gặp chàng lần cuối, nàng đau lòng ngất xỉu ngay lập tức.

Không biết đã hôn mê thêm bao lâu, Lâm Tố Đình bỗng nghe tiếng nói:

-May quá! Muội đã hạ sốt rồi!

Nàng từ từ mở mắt ra, nhìn thấy Tàu Chánh Khê đang ngồi trên chiếc ghế bên giường với chén thuốc trên tay. Nàng cũng nghe mồ hôi vã ra, đồng thời cũng cảm thấy dễ chịu.

Tàu Chánh Khê nhẹ nhàng đở nàng ngồi dậy uống thuốc.

Bấy giờ ngoài trời hãy còn tối đen như mực.

Tàu Chánh Khê mệt mỏi quá sức lực nên không kiềm chế được ngáp một cái thật dài. Lâm Tố Đình uống thuốc xong trả chén lại cho chàng, áy náy nói:

-Ngũ ca, thật là làm phiền huynh.

Tàu Chánh Khê cười, Lâm Tố Đình giục chàng đi ngủ. Thấy chàng lắc đầu bảo phải canh chừng cơn sốt của nàng, Lâm Tố Đình xúc động, rưng rưng nước mắt bảo:

- Nhưng không lẽ huynh cứ thức suốt đêm mà lo sao?

- Muội cứ ngủ đi, huynh ngồi cạnh bên giường đây cho tới khi nào buồn ngủ sẽ đi ngủ.

Lâm Tố Đình ngồi lên:

- Muội cũng không buồn ngủ mấy, muội chỉ có mệt thôi, như vừa bơi qua một con sông lớn, suýt chết đuối vậy.

Tàu Chánh Khê cười:


- Muội ngủ đi cho có sức, để còn có thể sớm lên đường về tổng đà, gặp người muốn gặp, bằng không tối nào cũng ngủ mê, không ngừng gọi tên người ta.

Lâm Tố Đình đỏ mặc, thoáng chút bối rối nhưng sau đó nàng cười ranh mãnh:

- Gọi tên ai chứ, nếu có ngủ mê, gọi tên ai, muội sẽ gọi tên ngũ ca thôi.

Tàu Chánh Khê nghe trong lòng cay đắng, thầm nhủ “ta làm gì được diễm phúc hiện ra trong giấc mơ của nàng.”

Tuy nhiên vẫn bình thản lắc đầu, kèm theo nụ cười nhỏ.

Mẩu đối thoại rời rạc giữa hai người giúp Lâm Tố Đình bớt cô độc. Nàng rất sợ khi đau ốm phải nằm một mình và đối diện với một khoảng không im lặng. Ngoài trời mưa mỗi lúc một lớn hơn, hồ Động Đình của tỉnh Hồ Bắc quẫy mình dữ dội theo từng cơn gió giật và căn nhà cũng rung lên từng hồi.

-Không biết khi về lại tổng đà rồi huynh ấy sẽ nói gì với muội nhỉ?

Lâm Tố Đình nói rất khẽ như nói với chính nàng.

Tàu Chánh Khê nghe vậy làm thinh, kinh nghiệm cho biết rằng không nên đi sâu vào vấn đề này.

Do đó chàng ngồi yên, lắng nghe tiếng mưa rơi, gõ nhịp đều đặn như một bài ca bất tận trong đêm. Ít ra chàng cũng còn có khoảng thời gian ở Cam Túc, kỷ niệm gặt hái được ở nơi đó không ít, nơi đó có nàng bên cạnh...

- Ngày mai muội muốn ăn cơm hay tiếp tục ăn cháo đây? - Chàng chợt lên tiếng hỏi.

-Ngũ ca... - Lâm Tố Đình nói.

Tự dưng nàng nhớ đến Tần Thiên Nhân nấu ăn rất ngon, những lúc rảnh rỗi hay gói cảo chỉ cho nữ thần y và nàng ăn.

Trong túi hành lý mà họ mang theo còn đủ gạo và bắp khô cho những mười ngày có hơn. Lâm Tố Đình le lưỡi tiếp:

-...Muội rất sợ cháo.

- Nhưng đau thì làm sao ăn cơm được, huynh sẽ lại nấu cháo cho muội ăn.

Dứt lời thấy Lâm Tố Đình lắc đầu, chàng tiếp:

- Không được, người bị cảm phải ăn nóng mới khỏi và khỏe người.

Dĩ nhiên đối với sự lo lắng nhiệt tình của chàng, nàng hiểu là không nên cãi.

Lâm Tố Đình mỉm cười, đầu óc bồng bềnh trôi như những đám mây, nàng lại thiếp đi với niềm vui hạnh phúc.

Ngày hôm sau nữa, cơn bệnh của Lâm Tố Đình hết hẳn đi, hai người định là sẽ tiếp tục lên đường nhưng trời tiếp tục đỗ mưa. Đến nửa đêm gió thổi ào ào qua các vòm cây và làm căn nhà rung lên từng hồi. Một cơn mưa to như muốn nhận chìm ngôi nhà bé nhỏ trong màn nước.

Tàu Chánh Khê chốt chặt cửa sổ cho gió đừng cuốn bật ra và mưa đừng tạt vào nhà. Chàng nghe tiếng sóng của hồ Động Đình quật vào bờ đá thật dữ dội. Rất may, căn nhà bỏ hoang này tuy nhỏ nhưng được xây rất kiêng cố, nếu không, gặp mưa gió như thế này, không thể nào đứng vững được.

Tàu Chánh Khê biết không thể ngủ được nên bật đèn, ngồi tựa lưng vào vách nhà ngắm Lâm Tố Đình đang yên giấc. Nàng nằm trên giường, kéo mền trùm kín hơn nửa thân người, hơi thở nàng đều đặng, bình yên như một đứa trẻ. Trong đầu Tàu Chánh Khê suy nghĩ đến Tần Thiên Nhân, quả thực Tần Thiên Nhân giấu tình cảm của mình kín quá, đến Cửu Dương là sư đệ ruột thịt cũng chẳng biết được.

Mưa lớn quá, tiếng nước chảy ào ào, và những giọt mưa nặng đánh rào rào trên mái nhà. Căn nhà nhỏ bé tràn ngập hơi lạnh.

Tàu Chánh Khê ngồi thở dài từng chặp. Mưa đêm bao giờ cũng buồn, đặc biệt là đêm đông. Chàng lắng nghe tiếng sóng đánh ì ầm vào bờ đá bên hông nhà. Tiếng sóng nghe dữ dội và đầy đe dọa. Thỉnh thoảng ngôi nhà rung lên vì gió lớn thổi qua. Tàu Chánh Khê sợ một trận bão đi qua đây và giữ chân họ lại, nghĩ tới Tần Thiên Nhân đang nằm mê man trên giường bệnh ở tây bắc...

---oo0oo---

Do Lâm Tố Đình bị bệnh đột ngột nên cuộc hành trình về lại tổng đà trễ nãi gần mất một tuần.

May là cuối cùng nàng cũng khỏi hẳn và cơn bão cũng chấm dứt, nhưng vì Lâm Tố Đình còn yếu và chân còn đang bị thương, nên hai người lại cưỡi chung một con ngựa. Mặc dù Tàu Chánh Khê giữ ý không ngồi sát vào nàng nhưng do ngựa phi dằn xóc, thỉnh thoảng lưng nàng cũng chạm vào người chàng. Hơi thở chàng nồng ấm phà vào tai tạo cảm giác nửa thẹn thuồng nửa thích thú dễ chịu.

Hai người cuối cùng cũng đến vùng sa mạc bao la và yên tĩnh. Vượt qua thảm cát vàng này là tới nơi cần tới, xa xa đã thấy những lá cờ trắng với chữ Chu màu đỏ bay phất phới.

Hai người tiến vào doanh trại.

Trong khi Tàu Chánh Khê đi tìm mọi người thì Lâm Tố Đình vào lều của Tần Thiên Nhân tìm chàng. Việc đầu tiên nàng làm khi về đến tổng đà là đến thăm chàng. Tần Thiên Nhân vẫn nằm bất động trên giường.

- Huynh ơi.... - Lâm tố Đình vừa gọi khẽ, vừa lay chàng.

Nhưng nàng giật mình vì bàn tay chạm phải một thân thể lạnh băng. Nàng hoảng sợ kêu lên:

- Người đâu!

Một thành viên Đại Minh Triều nghe gọi lo lắng chạy vào, Lâm Tố Đình nói:

-Mau mau, nhờ huynh đài đi gọi nữ thần y!

-Dạ!

Người này ra khỏi lều, vừa lúc đó Tần Thiên Nhân cựa mình, mở mắt ra một cách chậm chạp, hình ảnh của Lâm Tố Đình thật mơ hồ trước mặt chàng.

Lát sau Tàu Chánh Khê dẫn theo một đám những người lãnh đạo bang hội bước vào lều. Nữ thần y cũng theo vào, thấy Lâm Tố Đình trở về, nữ thần y vui mừng vụt đến hỏi:

- Tỉ đã về, đã lấy được sâm rồi à?

Lâm Tố Đình không trả lời, thay vào đó, nàng lấy củ sâm cất trong túi hành lý đang đeo trên vai ra đưa cho nữ thần y, sau đó Lâm Tố Đình nói với Tần Thiên Nhân:

-Huynh cố lên, muội đã tìm được sâm rồi đây!

Tần Thiên Nhân khẽ mỉm cười nhưng không trả lời được. Cổ họng khô đắng, chàng lại thiếp đi....

Mọi người nghe Tàu Chánh Khê kể lại kế hoạch đột nhập vào trường học tìm sâm, tới đoạn Lâm Tố Đình dùng mưu lấy được sâm Linh Ngọc từ trên mình Dương Tiêu Phong, ai cũng khen một câu. Tàu Chánh Khê bật ngón tay cái lên nói:

-Không ngờ muội ấy rất có cách đối phó tên cẩu quan.

Lâm Tố Đình đứng thẳng người lên, vuốt lại mái tóc, cười nói:

-Huynh đã tin tưởng muội rồi chưa Tam ca? Muội đã nói không việc gì là muội không làm được mà...

-Khục khục… - Khẩu Tâm không để nàng nói hết lời, đột nhiên xeng vào. Chàng kho khan một tiếng, vờ nói rất khẽ nhưng đủ để mọi người nghe được - Đó gọi là... duy nữ tử dữ tiểu nhân vi nan dưỡng dã… khục.

-Đúng là muội tiểu nhân đó - Lâm Tố Đình vênh mặt lên nói - Nhưng lần này nếu các huynh không có một cô em gái khó nuôi giúp đỡ cho, thì người bị thương nằm mê man trên giường không phải chỉ có một người.

Trương Quốc Khải không theo kịp mọi người, còn đang thắc mắc câu nói của Khẩu Tâm, quay sang Trần Tử Sang hỏi:

-Xin hỏi Trần đại anh hùng, không biết đại đương gia nói câu đó nghĩa là gì?

- Khà khà - Trần Tử Sang cười nói - Câu đó có nghĩa như vầy. Đại đương gia ám chỉ bọn đàn bà con gái và loài tiểu nhân đê hèn, cả hai thật khó nuôi dạy, gần họ thì khinh nhờn, xa thì oán thán. Cho nên trong mắt thánh nhân chỉ có hai loại người là quân tử và tiểu nhân. Đàn bà được xếp cùng loại với tiểu nhân vì họ làm vướng chân quân tử.

-Ồ! Ra là vậy, ha ha!

Lâm Tố Đình nghe mọi người trêu mình mà không tức giận, nhủ bụng, chỉ cần Tần Thiên Nhân được sống, nàng làm gì cũng không màng. Nàng thấy mọi người cười nói vui vẻ, cũng nhoẻn miệng cười theo.

Tàu Chánh Khê từ khi về tới tổng đà không khi nào rời mắt khỏi Lâm Tố Đình. Chàng vốn lo cho nàng, giờ thấy Lâm Tố Đình đứng giữa mọi người, mặt tươi rói như hoa, không còn chút dấu vết nào của cơn đau buồn tối hôm kia, vô cùng kiều diễm, giống như một bông hoa đang độ nở tươi nhất.

Nhưng có ai biết trong lòng nàng buồn như thế nào? Nhất là khi nàng liếc nhìn phía góc lều, Lâm Tố Đình thấy nữ thần y đang ngồi bên giường nắm chặt lấy tay Tần Thiên Nhân. Nhìn thấy những gì nàng không thích nhìn thấy, hai người kia như hình với bóng, nhưng nếu không ở chung với họ, nàng sẽ không được gặp người mà nàng yêu thích. Lâm Tố Đình nén tiếng thở dài. Có đôi khi nàng thấy mình như một thằng hề, mặt ngoài vĩnh viễn là cười, không ai để ý giọt lệ trong tim của mình.

Lâm Tố Đình chua chát nghĩ rồi tự dưng nhớ lại tượng gỗ “thằng hề rơi lệ” của Cửu Dương. Đó là lần Cửu Dương và nàng ngồi uống rượu trên cầu, chàng ngồi nghe nàng buồn bã kể lể nỗi lòng, ngẫu hứng bèn khắc một hình nộm gỗ mà chàng lấy ý tưởng từ một bức họa của một tiệm đồ cổ của người tây phương ở Tây An. Thấy nàng có vẻ thích, nên Cửu Dương đã tặng cho nàng. Đó là sau khi nàng nhìn thấy Tần thiên Nhân và nữ thần y đứng tình tự bên hồ. Sáng ngày hôm sau Cửu Dương ra đi.

---oo0oo---

Tàu Chánh Khê về tới tổng đà chưa được bao lâu đã lãnh nhiệm vụ dẫn binh sĩ đi tuần tra doanh trại. Hằng ngày vào khoảng giữa trưa, chàng đứng trên một đồi cát lớn, từ đây có thể nhìn thấy cả một vùng sa mạc mênh mông giáp ranh với vùng thảo nguyên xanh thẳm. Gió thổi lồng lộng làm tà áo chàng bay phấp phới. Có hôm chàng đang đứng gác, chợt nghe tiếng gọi.

Tàu Chánh Khê quay lại, nhận ra Lâm Tố Đình, bèn dịu giọng bảo:

-Đại muội, muội còn đang yếu trong mình, ra đây làm gì? Hãy mau trở về trại lính nghỉ ngơi.

Lâm Tố Đình lắc đầu, Tàu Chánh Khê nhận biết nàng không được vui, đặt tay lên vai nàng, ngoài ra chàng không nói gì.

Lâm Tố Đình đứng im lặng bên cạnh sư huynh thật lâu, chờ chàng lên tiếng hỏi vì sao buồn là có dịp trải bày nỗi lòng. Nhưng chàng cứ mãi im lặng, nàng bèn thở dài lên tiếng:

- Muội không biết phải làm gì đây? Thú thật, nếu không gặp huynh ấy muội lại thấy an bình hơn. Vì gặp lại huynh ấy, muội có cảm giác như toàn bộ quá khứ bày ra trước mắt. Tình cảnh cũ sống lại mãnh liệt trong muội, nhất là khi nhìn ánh mắt nữ thần y nhìn huynh ấy, và muội không còn có thể giả câm giả điếc được nữa. Ðiều đó làm muội cảm thấy lẻ loi, buồn bã, không biết xử trí cách nào. Trước kia muội luôn hy vọng ngày nào cũng gặp huynh ấy, còn bây giờ cái bóng huynh ấy cứ xuất hiện nhưng bên cạnh luôn là nữ thần y, nên muội lại không dám gặp. Muội khổ quá!

Lâm Tố Đình nói rồi nhớ lại hôm trước khi nàng lãnh nhiệm vụ đi lấy sâm, đến bên giường bệnh thăm chàng thì nghe Tần Thiên Nhân trong cơn mơ mơ màng màng không ngừng gọi “Tây Hồ, Tây Hồ…” Trong lúc thập tử nhất sinh chàng chỉ nhớ đến cô ta mà nàng buồn vô tận, chuyện sống bên nhau chắc mãi chỉ là trong mộng mà thôi.

Khi này một trong những đội trưởng của hội dẫn theo một toán binh sĩ đến thay ca trực, Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình bước xuống đồi cát để trở về doanh trại. Lâm Tố Đình không muốn về đó, nên hỏi:

-Ngũ ca, huynh có rãnh không, đi dạo với muội một hồi?

Dứt lời nàng tự nhiên nghĩ đến Ngọc Phong, cũng lâu lắm rồi nàng không đến đó chơi.

Ngọc Phong là ngọn núi nhỏ cách trại lính chừng vài ba dặm, núi nhìn càng gần càng đẹp, trắng như tuyết lại còn sáng lấp lánh, toàn khối thuần khiết tuyệt không tì vết. Thợ ngọc chỉ tìm được một thỏi ngọc nhỏ là đủ sống sung sướng suốt đời, thế mà ở nơi Đại Minh Triều đóng quân lại có nguyên một ngọn núi bằng bạch ngọc thế này.

Tàu Chánh Khê sẵn tiện cũng chẳng có việc gì để làm, gật đầu nói:

-Huynh cũng thích ngắm cảnh chiều tà ở nơi biên cương này.

Lâm Tố Đình nghe thế chợt đề nghị:

- Nếu vậy sao huynh không đi cùng muội, tới Ngọc Phong ngắm cảnh, uống vài ly rượu?

Tàu Chánh Khê biết nàng muốn dùng rượu giải sầu, tán thành ngay:

- Tại sao lại không chứ?

Họ cùng nhau đi lấy hai thẩu rượu và một cái bát rồi đến Ngọc Phong. Hai người đứng dưới chân núi ngẩng đầu nhìn lên, đều thấy lòng thanh thản nhẹ nhõm, mọi lo âu biến hết. Họ đều thầm phục sự kỳ lạ của tạo hóa.

Lâm Tố Đình buông mình ngồi phịch xuống đất, Tàu Chánh Khê cũng ngồi cạnh nàng. Chàng không quen uống rượu bằng bát, ngửa đầu tu một ngụm rượu, thoáng nhăn mặt, hạ thẩu rượu xuống rồi dùng tay áo quệt qua miệng nói:

-Rượu không ngon lắm. Hình như vừa mới cất nên rượu hơi chua.

Lâm Tố Đình cũng rót rượu ra cái bát uống một ngụm lớn, gật đầu:

-Đúng là rượu hơi chua, quả thật vùng quan ải này khó kiếm được nơi có rượu ngon như của Tiểu Tường cất.

Tuy nói vậy nhưng thực tình rượu ngon hay không cũng chẳng có gì quan trọng lắm, Lâm Tố Đình thầm nghĩ, trong giờ phút này chỉ cần có người uống với mình là đủ. Nàng cũng đã từng nghĩ cứ yêu chân thành thì sẽ được đáp lại, nhưng… nàng sai rồi.

Lâm Tố Đình lại tiếp tục uống nữa, hết chén này đến chén kia, thoáng mắt thẩu rượu của nàng đã vơi đi quá nửa.

Nàng tiếp tục nâng chén lên, liếc sang thấy Tàu Chánh Khê không uống rượu cùng nàng, Lâm Tố Đình nói:

- Ngũ ca không thích cung rượu người khác à?

Tàu Chánh Khê lắc đầu, đoạn đặt thẩu rượu xuống đất, chàng nằm ngã người ra sau gối đầu lên tay.

- Muội cũng không thích người khác cung rượu mình - Lâm Tố Đình nói.

Ngay sau đó tiếp:

- Cũng rất không thích đi uống rượu với người khác mà người ta chỉ nhìn mà không uống.

Tàu Chánh Khê cười nói:

- Hình như tất cả những người mê uống rượu thường có một thói xấu là muốn những người cùng uống đều say trước mình?

Lâm Tố Đình nhìn sang nói:

- Có vẻ như ngũ ca rất thông hiểu tính cách của những người thích uống rượu nhỉ?

Tàu Chánh Khê không chút ngần ngừ đáp:

- Bởi vì huynh cũng là một trong số đó. Chỉ là tửu lượng không bằng thất đệ thôi.

Lâm Tố Đình lắc đầu:

- Muội thấy huynh…

Chưa nói hết câu, nàng rót cho mình ly rượu khác uống xong mới nói:

-Không có vẻ giống như một con sâu rượu như thất ca.

Tàu Chánh Khê biết nàng đang nói khích mình, thản nhiên cười.

Hai người trầm mặc theo những ý nghĩ riêng của mình.

-Thôi được rồi -Tàu Chánh Khê trầm ngâm hồi lâu chợt thở dài - Bấy nhiêu đó đã đủ, chúng ta nên trở về, trời đêm ở nơi này gió rất lớn.

Nhưng Lâm Tố Đình không chịu ngưng lại, uống một hơi hết bát rượu, đấy là bát rượu cuối cùng, khà một tiếng như một tay sành sỏi rồi nói:

-Nếu như huynh không có nhã hứng thì đưa thẩu rượu đó sang đây, muội uống luôn phần cho.

-Muội định làm gì?- Tàu Chánh Khê nói - Định tự chuốc cho mình say ư?

Lâm Tố Đình thẳng thắn xác nhận:

- Quả thật muội đang có ý đó. Nhưng làm muội say chẳng phải việc dễ dàng đâu!

Tàu Chánh Khê nghe lời này, thấy nàng thật đáng thương, khẽ lắc đầu nói:

- Say rồi có thể quên được chuyện buồn hôm nay, sáng mai tỉnh dậy vẫn là buồn.

Lâm Tố Đình nghe rõ lời này nhưng vẫn mặc kệ, nàng bưng thẩu rượu của chàng lên, rót ra và uống thêm chén nữa, chàng lại lắc đầu.

Bấy giờ mặt trời đã ẩn phía sau núi Ngọc Phong, tứ bề gió bắt đầu thổi mạnh, nhiệt độ xuống rất mau.

Nhưng Lâm Tố Đình không để ý đến điều này.

Tàu Chánh Khê đi tìm những nhành cây khô mang về đốt lửa trại lên sưởi ấm.

Hai người ngồi bên đống lửa tới khi trăng mới nhú rồi gác núi.

Trên bờ cỏ, cả hai im lặng bên nhau. Phía trên cao, vầng trăng phả ánh sáng mỏng manh không màu xuống ngọn núi Ngọc Phong và khoảng đất trống đầy gió.

Không biết đang canh hai hay đã hết canh ba? Nhưng chắc đã khuya lắm. Tàu Chánh Khê thấy lửa sắp tàn, đi tìm thêm mấy cành cây khô rụng quanh chân núi.

Trở lại thấy Lâm Tố Đình cầm thẩu rượu của chàng lên nhưng không còn giọt nào. Tuy vậy nàng vẫn nâng chén lên ghé vào môi. Nàng ngồi không vững nữa, té ngửa ra đất. Xoảng một tiếng, cái bát vỡ ra làm hai mảnh.

Tàu Chánh Khê thảy bó củi vào đống lửa, đở nàng ngồi lên nói:

- Đó thấy chưa, muội đã say rồi.

Lâm Tố Đình bỗng cười khanh khách, tựa đầu vào vai chàng hỏi:

- Gì chứ, không thích người ta say rượu sao? Nam nhân thường thích nữ nhân say rượu, khi đó họ dễ dàng thực hiện ý định của mình.

Nói rồi nàng quàng tay ôm lấy cổ chàng, tiếp:

-Muội không muốn về nhà! Không muốn về nữa!

Chàng cũng dang tay ôm nàng vào lòng.

Tối đó nàng ở lại Ngọc Phong với Tàu Chánh Khê.

Khi tỉnh lại, Lâm Tố Đình thấy mình nằm trong một hang động. Y phục trên người nàng vẫn nguyên vẹn, cả giày cũng không bị cởi ra.

Tàu Chánh Khê ngồi bên cạnh nàng như khi nàng bị sốt nằm mê mang trong căn nhà hoang ở Hồ Bắc.

Lâm Tố Đình nằm trong hang động của chân núi Ngọc Phong, bên ngoài, ánh mặt trời xuyên qua khe đá chênh chếch. Nàng đưa mắt nhìn Tàu Chánh Khê, chàng đã thức dậy từ sớm, nàng cất giọng buồn buồn:

- Tối qua muội say rượu, đã nói những lời không nên nói, đúng không?

Tàu Chánh Khê không trả lời, chỉ nói:

- Thì đã sao? Bất cứ ai đều có lúc say rượu. Huống chi hôm qua tâm tình muội không được tốt.

Lâm Tố Đình ngồi lên, đỏ mặt. Nàng cúi thấp đầu, một lúc mới hỏi:

- Sau khi say rượu, muội đã nói những gì?

Tàu Chánh Khê đáp:

- Muội nói không muốn trở về doanh trại nữa.

- Còn gì nữa?

Tàu Chánh Khê không trả lời mà phản vấn:

- Muội cho rằng mình nói gì nào?

Dứt lời tự nhiên chàng nhớ Cam Túc, thèm khát được sống lại những ngày ở đó. Chàng thực sự bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của Cam Túc. Dù khung cảnh rất đơn sơ, chỉ là những con đò nhỏ, những chiếc cọc tre, nhưng lại khiến con người ta thổn thức và xuyến xao. Nhưng quan trọng nhất, có lẽ, vì nơi đó chỉ có hai người.

Chàng thích nhìn nàng ngây thơ đùa giỡn, không muốn thấy nàng suốt ngày nhớ nhung sầu khổ.

Và tự dưng chàng cảm thấy lòng mình nao nao, muốn giãi bày lòng mình trước người con gái này. Nhưng tại sao lại không nói nên lời được? Cũng không biết chính xác vì sao yêu nàng, vì dung mạo nàng rất đẹp, nàng tính tình hào phóng, khí phách y hệt mình, cũng thích nhúng tay vào chuyện của thiên hạ, thấy việc bất bình quyết không chịu làm ngơ?

-Chuyện gì? - Lâm Tố Đình thấy Tàu Chánh Khê đang đối đáp mạch lạc bỗng lặng thinh, cười hỏi - Khờ rồi sao, sao không nói chuyện, cứ ngó người ta vậy?

Tàu Chánh Khê không nói gì, lấy trong áo một gói vải màu nâu ra đưa nàng, gói vải nhỏ đủ để nàng nắm gọn trong lòng bàn tay. Lâm Tố Đình mở ra.

-Thằng hề này?

-Tặng cho muội.

Lâm Tố Đình xúc động nhìn món quà nhỏ trong tay mình. Hình gỗ thằng hề này, khá giống nhưng không đẹp bằng cái Cửu Dương đã khắc cho nàng. Nhưng hình gỗ đó đã bị hủy, lúc nàng đánh nhau với hai tên Quỷ Kinh Hồn đã rơi ra và bị bọn chúng dẫm nát.

Tàu Chánh Khê thêm lời:

-Huynh đây không có hoa tay như thất đệ, không biết khắc hình gỗ, nên nhờ người ta giúp cho.

-Sao khi không tặng quà cho muội?

Tàu Chánh Khê không biết trả lời thế nào, thoáng im lặng rồi nói:

-Huynh muốn nói với muội, nước mắt của thằng hề chỉ là trang sức, nụ cười của nó mới hợp với muội.

Lâm Tố Đình lại cúi thấp đầu, một lúc sau nói:

-Ngũ ca, huynh thật tốt, đúng là chỉ có huynh hiểu muội nhất. Nếu như huynh ấy là huynh thì tốt biết bao.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Thanh Triều Ngoại Sử (Gồm 3 Bộ) - THH

Postby tuvi » 13 Aug 2019

Chương 40: Giang sơn và mỹ nhân

Lâm Tố Đình chọn một bải đất trống cách doanh trại chừng nửa dặm, làm võ đường ôn luyện võ công cho các tân thành viên của Đại Minh Triều ở Hồi Cương. Hằng ngày vào buổi sáng, nàng lại đến lều Tần Thiên Nhân nghe chàng và các tiền bối thao lược mưu kế Minh triều phục quốc, chiều xuống lại cùng Tàu Chánh Khê ra bãi đất này giúp các tân thành viên tập dượt bộ pháp. Từ khi Tần Thiên Nhân khỏe lại, công việc bề bộn, không khi nào rảnh rỗi nên nàng không có dịp hàn huyên với chàng. Cho nên thật tình mà nói, nàng đến lều chàng vào mỗi buổi sáng chỉ để nhìn chàng thôi.

Chiều hôm nay Lâm Tố Đình giúp các thành viên tập dượt một trong tam pháp của nam Thiếu Lâm.

Lâm Tố Đình đứng đối diện hàng ngũ quân đội của nàng, giảng diễn:

-Bộ pháp có ba bộ mười hai môn gọi là tam tấn. Ba bộ gồm thượng bộ, trung bộ và hạ bộ. Thượng bộ tấn chia làm ba môn, ba môn đó là lập tấn, hạc tấn và độc hành vũ tấn.

Một trăm tân thành viên xếp thành năm hàng, chăm chú tập trung, người nào người nấy im thinh thít.

-Nói đến trung bộ tấn - Lâm Tố Đình nói - Thường gồm có năm môn, đó là trung bình tấn, chảo mã tấn, đinh tấn, xà tự tấn và âm dương tấn. Hạ bộ tấn gồm có bốn môn, là hạ mã tấn, qui tấn, tọa tấn và ngọa tấn…

Tàu Chánh Khê chắp tay sau lưng im lặng đi qua đi lại quan sát, chàng có nhiệm vụ theo dõi thế tấn và thủ của các hội viên, nếu thấy có điều chi sai sót thì liền nhắc nhở họ khắc phục.

Lâm Tố Đình không ngừng giảng giải, nàng vừa nói vừa thực hành. Các thành viên nhìn cách nàng thủ và tấn, cố nhớ thật rõ mọi đường thế.

-Để tập xà tự tấn -Lâm Tố Đình nói - Điểm đầu tiên là đứng lập tấn, xoay ngang, chân phải bước qua khỏi chân trái, như thế này, rồi hai chân tréo nhau. Còn âm dương tấn thì tấn như bộ Đinh nhưng mặt không hướng thẳng về mũi bàn chân trước mà nhìn ngang, như thế này.

Lâm Tố Đình ngưng một hồi, chờ các hội viên thực hành cho thật nhuần nhuyễn hai thế tấn đó xong rồi mới tiếp:

-Chảo mã tấn tức là đứng lập tấn. Bàn chân phải mở ngang bằng này. Bàn chân trái bước tới trước. Khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng vai rồi gập hai đầu gối xuống, cao bằng Trung bình tấn. Chân trước nhón lên…

Mọi người lại nhìn theo thế chân nàng và làm theo.

-Đúng rồi, là như thế, tốt lắm!

Lâm Tố Đình khen một thành viên bận y phục màu đen sọc trắng đứng hướng bên phải nàng.

Đúng lúc này Khẩu Tâm, Vạn Văn Thông, Trần Tử Sang, Lạc Thiết Môn, Nhất Đình Phong, Hồ Quảng Đông và người đội trưởng đội năm tên là Cao Lí Vệ đi tới. Bảy người nhìn nhau, gật gù hài lòng khi thấy Lâm Tố Đình hướng dẫn các thế tấn vô cùng cặn kẽ.

Vạn Văn Thông nhớ lại lúc cô gái áo đỏ xuất hiện ở rừng Bình Lương, sau khi nàng ra tay cứu Tần Thiên Nhân, đã cởi khăn che mặt xuống, hóa ra là Lâm Tố Đình. Trong lòng tán thưởng, Vạn Văn Thông quay sang mấy người kia, cười khà khà nói:

-Cô bé họ Lâm đó, nghe Tàu ngũ gia bảo lúc ở học xá đã tay đôi đánh nhau với Dương Tiêu Phong và đoạt được nhân sâm đấy nhé.

Lạc Thiết Môn gật đầu:

-Con gái của Lâm Vĩ tiên sinh ấy mà, vừa gan dạ vừa tỉ mỉ, đơn thương độc mã làm được việc này, thật khiến cho người ta thán phục.

Mọi người gật đầu nói phải.

Khi này Trương Quốc Khải và Tần Thiên Nhân cũng đồng thời xuất hiện.

Lạc Thiết Môn chờ Trương Quốc Khải và Tần Thiên Nhân tới gần, sau khi hành lễ chào thiếu đà chủ liền nói:

-Ầy! Tam gia, sao lại để thiếu đà chủ ra ngoài này? Thiếu đà chủ mới vừa khôi phục lại sức khỏe, mà ở ngoài này gió lại rất lớn.

Tần Thiên Nhân cũng cúi chào các vị trưởng bối, mỉm cười đáp:

-Các vị tiền bối, đa tạ các vị đã quan tâm, lúc các vị đến thăm xin thứ lỗi cho vãn bối không ngồi dậy thi lễ được. Mấy hôm nay vết thương đã khá nhiều rồi.

Trương Quốc Khải cũng nói:

- Đúng rồi đó, mấy ngày nay vết thương của thiếu đà chủ đã đỡ nhiều, phải nằm suốt ngày nên chán ngán phát sinh buồn bã. Vãn bối mới đưa huynh ấy đi dạo quanh trại lính một chút.

Cao Lí Vệ gia nhập bang hội lâu năm, thế mà trước khi Tần Thiên Nhân tới Hồi Cương thì họ Cao chưa diện kiến dung mạo “thần quyền nam hiệp” bao giờ, bước lên phía trước nói:

- Phen này tại hạ được gặp gỡ quần hùng của hội, được kiến diện thiếu đà chủ xưa nay ngưỡng mộ, được trùng phùng với Trương lão đệ không gặp nhiều năm, đều là chuyện đáng mừng. Ước gì được bái kiến thêm “Gia Cát tái lai” nữa thì đúng là đại khoái trong đời.

Tần Thiên Nhân cũng chưa gặp Lí Vệ lần nào, nói:

- Cao vị anh hùng, hiếm khi đến tổng đà Giang Nam, bây giờ gặp huynh ở đây rồi, nhất định phải phiền huynh dạy dỗ tiểu đệ nhiều hơn.

Lí Vệ trợn mắt lên nói:

- Bản lãnh thiếu đà chủ còn hơn ta nhiều, ngài cần gì ta dạy dỗ? Nhưng nghe nói Gia Cát tái lai là sư đệ ngài uống rượu rất khá, sau này nhất định phải giới thiệu cho ta quen biết, ta và Cửu Dương tiên sinh phải tỉ đấu một phen, xem tửu lượng ai lợi hại hơn?

Khẩu Tâm nghe nhắc tới “Gia Cát tái lai,” mỉm cười đáp:

- Ha ha! Chuyện này thì Cao anh hùng nhất định phải chịu hạ phong rồi!

Mọi người cũng cười xòa, gì chứ tài uống rượu thì Cửu Dương là nhất, trong hội không ai sáng bằng được.

Mọi người cũng nhớ tới nét mặt luôn luôn lúc nào cũng đầy vẻ ôn hòa của Cửu Dương, sự hiện diện của Cửu Dương khi nào cũng thế, có cái gì đó làm người ta an lòng.

Nhắc tới Cửu Dương mọi người nhớ đến Lữ gia, không biết Cửu Dương đã nhận được tin hay chưa?

Đột nhiên Trương Quốc Khải thu nụ cười lại, giận dữ nói:

-Thật không ngờ được tổng đà ở Giang Nam lại thất thủ dễ dàng như vậy!

Tần Thiên Nhân vừa mới khôi phục lại sức khỏe, nghe nói chuyện Lữ gia cũng buồn không kém.

Nhắc lại chuyện Lâm Tố Đình và Tàu Chánh Khê sau khi trở về từ Hàng Châu, Tàu Chánh Khê bảo:

-Triều đình đã niêm phong trường học Hắc Viện, đồng thời cũng cho quân đội tàn phá Thanh Tịnh Tự và Thiếu Lâm Tự.

Mọi người hỏi về tình hình Lữ gia, Lâm Tố Đình lấy khăn ra lau mắt rồi kể:

-Khi Lữ đại công tử bị bắt giữ ở Hắc Viện, Lữ Lưu Lương tiên sinh đang ở chùa Thiếu Lâm Toàn Châu Phúc Kiến, không hề hay tin...

Lâm Tố Đình nói quân đội Chính Bạch Kỳ biết bộ chỉ huy của bang hội đặt trong Hắc Viện nên ra lệnh bao vây Hắc Viện trước, bắt giam Lữ Nghị Trung, sau đó quân binh bắn pháo, phóng hỏa đốt pháp đường Thanh Tịnh Tự, rồi truy quét đến Thiếu Lâm Tự tìm bắt Lữ Lưu Lương.

Ngày hôm sau, theo lệnh của Phủ Viễn tướng quân, chỉ huy quân binh đóng ở Đăng Phong là lữ trưởng Bạch Mi đạo nhân, cho quân lính đem dầu vào Thiếu Lâm Tự rưới đốt toàn bộ. Bạch Mi đạo nhân là người sáng tạo ra môn phái Bạch Mi quyền vào thời kỳ đầu triều nhà Thanh. Lửa cháy đến hai ngày hai đêm, những điện Thiên Vương, Đại Hùng, Khẩn Na La, Lục Tổ, Diêm Vương, Long Vương, Tàng kinh các, các nhà ăn, nhà kho, thiền đường đông tây, phòng Ngự tọa, lầu chuông trống... đều thành tro bụi. Tự viện điêu tàn, tăng chúng chỉ còn khoảng hai mươi người thoát chết. Chùa Thiếu Lâm Phúc Kiến vốn được xây vào thời triều nhà Tùy, có lịch sử lâu đời, được xem như một bảo vật phương nam bị thiêu hủy toàn bộ, gây tang thương kinh hoàng.

Hồ Quảng Đông nghe Tàu Chánh Khê và Lâm Tố Đình nói tới đây, không tránh khỏi đau lòng rơi lệ. Họ Hồ là bạn lâu năm của Lữ Lưu Lương. Tàu Chánh Khê nhìn Hồ Quảng Đông nói:

-Vãn bối nghe người ta bảo sau khi Lưu Lương tiên sinh bị bắt đi, mới có hai ngày đã lâm bệnh thương hàn và qua đời trong ngục thất.

Khẩu Tâm là phương trượng chùa Thanh Tịnh, nhiều lần cùng Lữ Lưu Lương thuyết giảng kinh Phật cho các tu sĩ phương nam, lắc đầu nói:

-Chỉ là bệnh thương hàn, sao có thể nặng như vậy được chứ?

-Đúng đó - Lâm Tố Đình nói đến đây nàng khóc thút thít - Muội nghe người ta đồn tiên sinh như là ăn lầm đồ vậy. Có lẽ trong người ông có chất độc?

Vạn Văn Thông thương cảm cho Lữ gia một nhà trăm mấy mạng, quát mắng:

-Dương Tiêu Phong, cái tên cẩu quan! Ngoài miệng thì toàn là kêu “chiêu hiền nạp sĩ nhân nghĩa hơn người,” té ra là một kẻ bỉ ổi, chỉ có vàng ngọc bên ngoài còn bên trong chỉ toàn rơm rác!

Nhất Đình Phong rất mến tài hai anh em nhà họ Lữ, giờ mãi mãi không còn gặp được Lữ Nghị Trung nữa, thở dài nói:

-Tên đó thật là nham hiểm độc ác, có nhiều quỉ kế, mở miệng ra là nói cái gì “địa bất phân Nam Bắc, nhân bất phân quý tiện,” cái gì là “trị họp Mãn Hán Mông Hồi, tán thành thất tộc,” toàn là giả dối mà thôi!

Trong khi mọi người đang bất bình thì tự nhiên Tần Thiên Nhân nói:

-Theo vãn bối thì hắn không hạ sát tiên sinh đâu.

Tần Thiên Nhân khi nói câu này trong đầu nhớ lại lần gặp Dương Tiêu Phong ở Bình Lương, không hiểu vì sao tin người này là một nhân vật thủ lĩnh võ lâm, rất trọng chữ tín, sẽ không làm những chuyện mờ ám như hạ độc giết người như thế.

Mọi người nghe Tần Thiên Nhân nói vậy không khỏi ngạc nhiên, Trương Quốc Khải nói:

-Thiếu đà chủ huynh vừa mới nói gì? Không phải đệ đây đã nghe lầm chứ?

Tần Thiên Nhân biết tam đệ không hiểu được ý mình, bèn nói:

-Vãn bối tin Dương Tiêu Phong đã có ý muốn thuyết phục tiên sinh quy hàng triều đình, còn tiên sinh, có lẽ đã chọn chén thuốc đó trước rồi.

Trương Quốc Khải mơ hồ hỏi lại:

-Đệ vẫn chưa hiểu, tại sao tên cẩu quan lại muốn thuyết phục tiên sinh chứ? Tại sao tiên sinh chọn cái chết? Còn dòng họ Lữ gia? Cái chết của họ, nếu không là oan uổng thì giải thích thế nào đây?

Tần Thiên Nhân nói:

-Cái này gọi là “cải tạo kẻ không mang lòng thần phục,” theo như con người của Dương Tiêu Phong, hắn nhất định là đã muốn giao du với tiên sinh, vì tiên sinh là một người có tài có đức, tuy là bề ngoài nhìn xem như là không ít lợi gì cho đại cuộc, nhưng nếu làm được đều đó, thì giữa triều đình và giới sĩ lâm, có thể nói là đôi bên dung hòa.

Mọi người nghe Tần Thiên Nhân nói thế có phần đồng tình, Trần Tử Sang nói:

-Cho nên tiên sinh mới chọn cái chết để đả kích tinh thần sĩ lâm, muốn họ tiếp tục làm phản triều đình Mãn Châu?

Vạn Văn Thông nói:

-Nói như thiếu đà chủ, thì việc Lữ gia bị tru di cửu tộc là có căn cứ rồi. Sau khi tiên sinh qua đời, kế hoạch thuyết phục quy hàng đã không thành, sợ giới tri thức nổi dậy, nên triều đình đã mang cả gia đình dòng họ Lữ, một trăm mấy mạng người, chém đầu tịch biên để răng trăm họ?

Tần Thiên Nhân gật đầu.

Hồ Quảng Đông trong lòng nhớ đến bạn hiền, đau buồn không tả được, thở dài nói:

-Thời gian qua thật mau, nhớ năm xưa cả hai đứa chúng tôi cùng lớn lên, đi học chung với nhau, ngồi chung một bàn, ăn chung một mâm, chỉ thoáng mắt... tiên sinh đã có vợ, có con, và chỉ thoáng mắt, đã tạ thế nằm trong lòng đất rồi…

Rồi Hồ Quản Đông nhẩm đọc bài thơ của Lữ Lưu Lương viết, rất được giới sĩ lâm ở phương nam tán thưởng. Nội dung bài thơ nói về những nghĩa sĩ không khuy phục triều đình nhà Thanh, bắt đầu bằng câu “Hối lai tảo bất tán Thanh Sơn,” kết thúc bằng hai câu:

Nhất sự vô thành không thụ khứ

Tiêu nhân tùy vấng đối ấn nang!

Lại nói tiếp chuyện võ đường. Khi này trời đã tối.

Tần Thiên Nhân chờ cho mọi người đi về trại lính cả rồi, tiến lại gần Lâm Tố Đình, chàng đang có chuyện muốn nhờ nàng.

Lâm Tố Đình đang dọn dẹp võ đường, còn chưa thấy Tần Thiên Nhân. Mồ hôi rịn ra từng giọt trên trán nàng, nàng cắn môi, tay ôm một mớ binh khí nào đao nào kiếm, quay lưng về phía chàng. Tần Thiên Nhân nhìn thấy mái tóc mềm của nàng thả trên lưng áo như một dòng suối đen huyền, óng ả. Cơn gió đã đằm thắm trở lại, nhưng âm thanh rít qua khe đá nghe như một âm điệu thì thầm vang nhẹ, đôi khi như một tiếng thở dài.

Tần Thiên Nhân lặng lẽ nhìn nàng, không biết mở lời thế nào? Thú thực từ khi từ chối tình cảm nàng chàng rất ngại phải đối diện nàng. Rất ái ngại khi nghe nàng hỏi câu hỏi đó, vì mỗi lần nàng hỏi, chàng đều không biết trả lời ra sao? Vì sao chàng yêu thích nữ thần y, thứ tình yêu đó cứ đến nhẹ nhàng, tự nhiên mà chàng không hề hay biết.

Chàng thừa nhận trái tim mình có đôi lần thổn thức vì nàng. Chàng cũng là con người, cũng là đàn ông, cũng biết yêu thương và nghẹn lòng trước một cô gái si tình đến vậy. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở đó. Nó mãi mãi là không đủ để tạo nên một cái kết khác đi.

Với nàng, chàng trân trọng vì sự gan dạ, tài giỏi hơn người và những gì mà nàng đã làm cho chàng, cho bang hội. Còn với nữ thần y, chàng cứ muốn làm người đàn ông yêu thương che chở cho nàng ấy, nàng ấy dường như quá yếu đuối và mong manh.

Tần Thiên Nhân rất cảm động mỗi khi Lâm Tố Đình tốt với chàng, nàng đối với chàng như đối với một vị vua, vì nàng tôn sùng và ngưỡng mộ chàng vô cùng. Nhưng chàng chỉ là người đàn ông nặng câu thề với người con gái khác, vì thế đừng mong đợi gì nơi chàng dù chỉ là chút tình vương vãi.

Chàng nhớ có lần Lâm Tố Đình hỏi:

-Có phải muội đã sai khi yêu huynh không?

Khi đó chàng trả lời:

-Ở đời, có những thứ tình cảm không thể kết luận đúng hay sai, chỉ đơn giản, lỗi của nó là không đúng thời điểm.

Tần Thiên Nhân định lên tiếng gọi thì Lâm Tố Đình quay mặt lại, không ngờ chàng đến tìm mình, thoáng một chút bất ngờ rồi cười nói:

-Thiếu đà chủ huynh khỏe chứ? Huynh đã tỉnh lại mấy hôm nay mà không có dịp được chuyện vãn với huynh. Hình như là huynh... đã có nhiều chuyện thay đổi?

Lâm Tố Đình ý nói biết chàng đã chọn ngày thành hôn với nữ thần y.

Tần Thiên Nhân im lặng, Lâm Tố Đình nói:

- Muội đã biết cả rồi.

- Thật không biết nói thế nào cảm ơn muội. Hôm đó, nhờ sự giúp đỡ của muội, bằng không chẳng biết rồi chuyện đến đâu. Chắc chắn quân đoàn của Ngụy Tượng Xu không buông tha cho chúng tôi một cách dễ dàng đâu.

Lâm Tố Đình lại cười, đôi mắt to và đẹp nhìn thẳng Tần Thiên Nhân, làm chàng có hơi rung động. Lâm Tố Đình nói, một câu chẳng ăn nhập gì đến những gì Tần Thiên Nhân mới vừa bảo nàng:

- Không ngờ trong thời gian muội cùng ngũ ca đến Cam Túc cứu Hoàng Hạ, vỏn vẹn chỉ có mấy tháng, mà mọi sự lại thay đổi nhiều như vậy. Thật đúng y câu “một ngày trong núi, nhân gian đã ngàn năm.” Huynh đã sắp làm chồng của người ta. À! Chắc là huynh và nữ thần y hồi hộp lắm?

Tần Thiên Nhân nghe vậy càng ão não, không biết rồi sẽ mở lời nhờ vả nàng thế nào đây, bèn nói:

- Thế còn muội? Huynh hy vọng muội vẫn vui vẻ chứ?

Lâm Tố Đình tiếp tục cười, nụ cười thật ngọt:

- Thì cũng vẫn vậy, cuộc sống chẳng là của riêng tư, chỉ biết có bang hội thôi. Lúc ở Cam Túc, cũng đâu có ai đâu tâm sự? Trở về đây, nghe được rất nhiều sự việc đã khác đi. Không giấu gì huynh, muội thấy hơi lạc lõng, cô đơn, hơi buồn buồn. Cảm thấy có một chút gì tiếc rẻ, vì chỉ còn thiếu một chút thời gian nữa thôi muội đã có một tấm chồng rồi. Nhưng cũng được, duyên số không có, chỉ đành phải đứng sang một bên mà thôi.

Lâm Tố Đình dứt lời, bắt gặp cặp mắt đờ đẫn vô hồn của Tần Thiên Nhân vẫn nhìn ra trước mặt, nhưng dường như không nghe nàng nói gì. Chàng đứng ngay đối diện nàng nhưng lại cách xa nàng quá. Đối với nàng chàng bao giờ cũng thế, chẳng bao giờ bận tâm lời nàng, cảm nhận của nàng, nhưng tại vì sao nàng lại bất chấp tất cả yêu chàng đến vậy? Có lẽ là vì chàng là một người tử tế, với bất kỳ ai. Chàng có giọng nói trầm và ấm, bàn tay ấm áp và biết làm gì cho tim nàng xao xuyến, dù là vô tình. Chàng có những cử chỉ làm cho tim nàng điêu đứng. Chàng hành động như nàng là cô em gái nhỏ bé bỏng. Nàng rất yêu điều đó ở chàng. Đôi vai chàng rộng và chắc, ấm áp và mát mẻ, nàng ước gì được tựa vào đôi vai đó mà ngủ. Vậy là đủ rồi. Từ khi phát hiện ra tình cảm của chàng và nữ thần y, nàng đã không dám mơ gì khác thêm.

Lâm Tố Đình thở dài, hỏi:

-À, mà thôi đi, không nhắc chuyện cũ nữa, không biết chứ đêm nay huynh đến tìm muội có việc chi?

Tần Thiên Nhân sực nhớ vì sao tới tìm nàng, im lặng một thoáng rồi nói gì đó. Lâm Tố Đình nghe xong hỏi lại:

-Huynh đã suy nghĩ kỹ rồi sao? Có thể sẽ không sao đâu, nơi này an toàn như thế, không ai hay biết được đâu.

Tần Thiên Nhân nghe Lâm Tố Đình an ủi vậy khẽ gật đầu cảm thán, nhưng không hiểu sao, trong lòng chàng vẫn lại trào lên một nỗi lo lắng. Có thật hạnh phúc ngọt ngào kia sẽ đến với chàng không?

Tần Thiên Nhân chợt thấy lòng mình đau thắt, thở dài nói:

-Huynh quả thật muốn cuộc sống sau này của chúng tôi sẽ yên vui, trước hết là phải đưa nàng ấy tới một nơi an bình hơn. Nhưng nếu nói cho nàng ấy hay nhất định sẽ không bằng lòng đâu. Mà huynh thấy rằng mình không thể đánh cược với số mạng được, huynh linh cảm chuyện rất xấu đang chập chờn quanh đây, nên chỉ muốn bảo vệ cho nàng ấy mà thôi.

Lâm Tố Đình định nói gì đó, tuy nhiên Tần Thiên Nhân không để nàng mở miệng, liền nói thêm:

-Muội cũng biết rồi đó, huynh là người trong giang hồ, lại đang là một khâm phạm của triều đình, nếu theo huynh, nhất định nàng ấy phải chịu nhiều vất vả. Mà huynh lại không thể vứt bỏ tất cả để làm lại cuộc đời khác với nàng ấy được. Huynh và gia đình huynh nợ của Trường Bình công chúa, không thể làm gì khác hơn được. Chi bằng đợi cho mai này đánh được đám người ngoại tộc đó ra quan ngoại, rồi hai đứa chúng tôi tương phùng với nhau.

Dứt lời chàng nhớ đến Cửu Nạn sư thái, không biết tình hình bà hiện giờ ra sao? Nghĩ tới chuyện không may có thể xảy ra cho bà, đột nhiên lòng bàn tay của chàng toát ra mồ hôi lấm tấm.

Lâm Tố Đình ngưng thần nhìn chàng, hiển nhiên đã hiểu thấu được tâm sự của chàng, dịu giọng nói:

- Được rồi, muội hứa sẽ giúp cho huynh. Huynh đừng lo lắng. Chỉ cần hai người mai này được ở bên nhau, cho dù một phút hiểu lầm cũng không sao cả!

Khuyên xong, nàng nói:

-Muội thật tình hâm mộ muội ấy, từ nhỏ tới lớn cái gì cũng được huynh lo cho, nghĩ cho. Còn muội, không đáng cho huynh bận tâm một chút nào hết đâu.

-Không phải thế đâu - Tần Thiên Nhân nói - Muội đây am hiểu võ công, lại cứng rắng hơn người, bản lĩnh hơn người, cho nên huynh mới an tâm nhiều hơn, nhưng nếu muội muốn ra đi huynh thật tình ủng hộ việc làm đó.

-Muội sẽ không bao giờ rời đi - Lâm Tố Đình nói bằng giọng quả quyết - Muội ở lại đây với huynh, với mọi người!


Tần Thiên Nhân xúc động nhìn Lâm Tố Đình, nhưng nàng đã nhìn sang hướng khác, đôi mắt đen láy của nàng như tan vào trong màng đêm đen kịt.

Những ngày sau đó là những ngày vui vẻ. Lâm Tố Đình như biến thành một con người khác hẳn. Môi nàng đã hồng lại càng hồng, như bắp chuối nõn, thường xuyên điểm những nụ cười bâng quơ và mãn nguyện. Ðôi mắt ướt rượt và lấp loáng như mặt suối những đêm trăng, che giấu đằng sau nó những khát khao e ấp và cháy bỏng. Nữ thần y cảm thấy rất lạ, nhưng cũng vui cho Lâm Tố Đình, nghĩ rằng Lâm Tố Đình chắc đã “bước qua” được mối tình thuở nào rồi.

Và trong một chiều lang thang vô định, Nữ thần y bắt gặp Lâm Tố Đình đang ngồi lẻ loi âm thầm trên đồi cát vắng, dáng điệu thẫn thờ như không hề nghe thấy tiếng chân ai.

Nhìn bóng chiều tây bắc đang chập choạng xuống dần trên đỉnh đồi, Nữ thần y đứng dưới đồi cát, khẽ gọi:

-Lâm tỉ tỉ.

Lâm Tố Đình không nghe thấy, Nữ thần y định bắt tay làm loa để gọi, chợt thấy một nam nhân đến ngồi bên Lâm Tố Đình. Hai người họ nắm tay nhau, nhìn vào mắt nhau.

Nữ thần y hoàn toàn bất ngờ, đứng sững một lúc rồi quay mình đi như chạy, nàng ngước mắt nhìn trời. Còn nhớ ngày nàng còn là một cô bé, mỗi khi khóc đều nhìn lên trời, Cửu Dương bảo nàng như thế, nước mắt sẽ không lăn ra.

Lần gặp nhau hai cõi lòng thương nhớ

Kỷ niệm xưa giờ tan vỡ đâu còn

Giữ gì đây bao lời hứa sắc son

Mòn mong mỏi như mài hòn đá cuội

Một mình đi một mình về lầm lũi

Người nói rằng chẳng còn nữa yêu thương

Ừ thì ta là ga nhỏ bên đường

Đưa người đến bên bến bờ người đợi

Đối với ta ngày xưa cao vời vợi

Người đi rồi chới với giữa trùng khơi

Nữ thần y đau lòng đến nỗi bước đi mà không để ý, va vào Trương Quốc Khải đang đi hướng ngược lại.

Trương Quốc Khải nhanh nhẹn đưa tay ra đở lấy nàng nói:

-Muội muội, có sao không? Ầy! Cũng tại huynh đây bất cẩn quá, đi đường mà mắt để ở đâu đâu, va trúng vào muội! Muội có bị thương không?

Trương Quốc Khải vừa nói vừa nhìn vào đôi mắt của Nữ thần y, đôi mắt sao buồn lạ lùng và hình như đang ứa ra hai giọt nước mắt trong suốt. Nhưng nàng biết chàng đang nhìn mình nên vội bỏ đi.

- Muội giận huynh à? - Trương Quốc Khải hỏi với theo.

- Đâu có - Nữ thần y đáp.

Trong buổi cơm chiều đó Trương Quốc Khải cứ thỉnh thoảng liếc nhìn Tần Thiên Nhân, nhưng không phát hiện ra điều gì đã xảy ra với hai người họ. Trương Quốc Khải thấy Tần Thiên Nhân vẫn nói chuyện bình thường với Khẩu Tâm và các trưởng bối, không để ra tâm trạng gì. Không hiểu sao hồi chiều Nữ thần y lại khóc. À, hình như là Tần Thiên Nhân và Lâm Tố Đình, cử chỉ hai người họ trao nhau có thân mật một chút. Trương Quốc Khải khẽ nhíu mày.

Tuy rằng những món ăn tây bắc rất lạ miệng và ngon, nhưng Trương Quốc Khải cũng chẳng ăn được miếng nào, đầu óc lùng bùng những hình ảnh u buồn của Nữ thần y. Bây giờ sư muội đang làm gì? Nàng không ở đây dùng bữa với mọi người. Có thể nàng ở trong lều ôm chiếc gối dài ngủ một giấc tuyệt đẹp, quên tất cả chuyện xảy ra trên đời. Nữ nhân thường dễ quên, đừng mong nàng ấy giữ lại trong đầu một chuyện buồn nào đó. Bây giờ có lẽ nàng đang mơ một giấc mơ kỳ ảo nào rồi.

Tối hôm đó trời đổ cơn mưa, Trương Quốc Khải giam mình trong lều dùng một hòn đá chuốt lưỡi kiếm. Như thường lệ, mỗi tối sau khi kết thúc ca trực đêm chàng bèn mang thanh Phục y kiếm ra chuốt cho thật bén. Trương Quốc Khải ngồi trong lều nhìn chiếc bóng mình in lên vách lều. Đằng sau lớp vải này là màng mưa mù đục, tự dưng chàng nhớ trường học Hắc Viện, Tây hồ Hàng Châu, mùa giông bão những ngọn sóng bạc đầu xô vào bờ đá, gió thổi vút qua các đỉnh cây liễu. Giờ này chắc nơi đó không còn sôi nổi nữa. Từ khi triều đình mang binh tới vây trường học, nghe nói đường xá Giang Nam vào ban đêm thường hay giới nghiêm. Chàng khẽ thở dài, xung quanh chàng không gian giá buốt và rười rượi buồn.

- Tam ca... tam ca ơi....

Tiếng gọi quen thuộc làm Trương Quốc Khải giật mình. Chàng đặt hòn đá và kiếm xuống. Nữ thần y gọi xong hiện ra ở cửa lều trong chiếc áo mưa bằng rơm màu vàng, trùm kín từ đầu đến chân, chỉ còn ló ra gương mặt trắng hồng.

- Mưa gió thế này muội đi đâu đây? - Trương Quốc Khải hỏi.

- Muội có chuyện này muốn tìm hỏi ca.

-Muội vào đi.

Nữ thần y bước vào, chiếc áo mưa của nàng tuy dày nhưng nàng vẫn thấy lạnh, nàng với tay khép tấm rèm lại, những giọt nước lạnh buốt tới tấp bắn vào mặt làm nàng vuốt không kịp, thêm với cái lạnh từ trong lòng nổi lên, tan vào da thịt làm nàng muốn run.

-Dạo này... - Nàng ngồi xuống thảm, ngập ngừng hỏi Trương Quốc Khải - Huynh cảm thấy… thiếu đà chủ thế nào?

-Bình thường, một ngày như mọi ngày.

Trương Quốc Khải nói, cố giữ giọng bình thản nhất, vì hơn ai hết chính chàng cũng biết chuyện quan hệ giữa Tần Thiên Nhân và Lâm Tố Đình dạo gần đây không "bình thường" chút nào. Vừa rồi trước khi nàng tới tìm chàng, chàng cũng tự dối lòng, giờ chàng trả lời sư muội một cách miễn cưỡng. Nghĩ tới những linh cảm của mình, nếu là đúng, chàng thấy buồn cho nàng làm sao.

Nữ thần y có vẻ không tin lời chàng, lại nói:

-Muội có cảm giác huynh ấy dường như đã thay đổi rồi...Tam ca, thường ngày huynh là người bên cạnh huynh ấy nhiều nhất, huynh nói xem có phải muội đã quá nhạy cảm chăng?

-Tình yêu thì cần gì phải hỏi - Trương Quốc Khải cười - Giữa hai người khi yêu sẽ hiểu khi nhìn vào mắt nhau chứ.

- Nhưng muội không phải là một người thông minh. Có khi nói thẳng, muội cũng chưa hiểu nữa là nói bằng mắt.

Trương Quốc Khải không biết đáp lời Nữ thần y ra sao. Chàng với tay rót hai tách trà, vẫn giữ vẻ mặt bình thản để trấn an nàng, trái lại là Nữ thần y khổ sở ngồi thừ người trong lòng chiếc thảm màu xám được dệt bằng tay. Căn lều vắng chỉ có hai người họ, trong cơn mưa như cũng buồn lây với cái buồn của nàng.

-Muội nói cho huynh nghe thử, sao muội lại nghĩ huynh ấy thay đổi rồi? - Trương Quốc Khải ngồi nhìn nàng hồi lâu chợt lên tiếng.

Nữ thần y suy nghĩ, nàng cũng không biết bắt đầu thế nào, có lẻ dấu hiệu gần đây nhất là lần nàng không rung chuông đã vào lều Tần Thiên Nhân. Ở phía trước rèm những căn lều đều có gắn một cái chuông, nàng thấy nhưng nghĩ không cần thiết nên cứ vén rèm bước vào.

-Có cái chuông để làm gì? Không biết phép tắc lịch sự hay sao? Từ nay đừng tùy tiện vào lều nam nhân!

Nữ thần y ngơ ngác nhìn Tần Thiên Nhân, mặt nàng tái mét. Nàng đứng ở giữa lều, chưa kịp mở miệng nói điều gì thì chàng đã quát tiếp:

-Còn không đi ra!

Khi đó Nữ thần y nhìn Tần Thiên Nhân, cái nhìn đầy kinh sợ. Chàng đối với nàng từ nhỏ tới lớn tình cảm lắm cơ, nàng tính nói gì đó, nhưng nàng chẳng biết nói gì cả, nước mắt cứ thế tuôn trào, đôi môi đỏ mím chặt. Nhìn khuôn mặt ấy, cả mùi hương nhẹ nhàng phảng phất từ người Nữ thần y do cự ly quá gần, đã có một phút, tim Tần Thiên Nhân loạn nhịp, cảm giác có khi mình đã sai không? Tự thắc mắc có nên dừng lại? Chàng muốn kéo dài khoảnh khắc này, muốn đứng đây bên nàng, vì chỉ trong một chốc nữa thôi, nàng sẽ quay đi.

Hai người cứ đứng yên như thế, phải cho tới khi nữ thần y nâng vạt áo lên lau nước mắt và bỏ chạy đi, Tần Thiên Nhân mới bừng tỉnh, trấn tĩnh rằng mình phải làm như vậy.

Nữ thần Y kể cho Trương Quốc Khải nghe chuyện này, rồi nói thêm:

-Muội bỏ đi mà huynh ấy không theo dỗ dành lấy một lời, có lẽ huynh ấy đã hết thương muội rồi!

Nàng dừng lại một lúc, cắn chặt môi kìm tiếng nấc, sau đó nói tiếp:

-Kể từ buổi tối hôm đó, hôm sau huynh ấy hình như cố tình tránh mặt muội, những ngày sau nữa cũng vậy.

Trương Quốc Khải ngồi nghe nàng nói và uống gần cạn bình trà, không biết phải làm gì để giúp nàng đây, tự nhủ lòng những chuyện tình cảm này thường thật rắc rối.

Nữ thần y ngồi dưới ánh đèn cầy leo lét, trong bóng đêm làm cho nước da của nàng càng trắng hơn. Mái tóc dài thả xuống vai. Trương Quốc Khải tự nhiên nhớ tới mấy câu thơ Cửu Dương sáng tác, Nghị Chánh thường hay đem ra ngâm nga, trêu ghẹo bọn đàn bà con gái. Bài thơ nói về những sợi tóc rớt xuống đời làm sóng lênh đênh:

“Dáng gầy nhỏ thó tựa sương mai

Bồng bềnh cuộn tóc phũ bờ vai…”

Nhìn mái tóc của Nữ thần y, tâm hồn Trương Quốc Khải tự dưng như cũng trôi lênh đênh như một dải mây trời.

Trương Quốc Khải lại nghĩ tới những gì chàng thấy giữa Tần Thiên Nhân và Lâm Tố Đình trong bữa cơm chiều nay. Hai muội muội của chàng, mỗi người đẹp một vẻ, nhưng Trương Quốc Khải chợt nhận ra cái đẹp của Lâm Tố Đình sắc sảo, lộ ra như một trái táo chín trong cành lá, nó đập vào mắt người ta nhưng không để lại ấn tượng sâu đậm nào. Trong khi đó Nữ thần y đẹp một cách kín đáo, thùy mị, khiến người ta càng nhìn càng ngây ngất như uống được một loại trà có đậm. Trương Quốc Khải nghĩ tới đây không khỏi giật mình, bàng hoàng.... Chàng có nhiều tưởng tượng quá không? Chàng vội nâng tách trà lên uống, trấn tỉnh lại.

Ngày hôm sau Nữ thần y lấy hết can đảm đi tìm Tần Thiên Nhân, không thấy chàng trong trại lính, tìm mãi mới thấy chàng đang đi dạo với Lâm Tố Đình trên một đồi cát.

Nữ thần y thấy hai người họ tình tứ nắm tay nhau, trong lòng nàng đau thắt lại, hoàn toàn trái ngược với Lâm Tố Đình là đôi mắt lấp lánh, nụ cười ngọt ngào mãn nguyện.

Lâm Tố Đình ngước nhìn lên trời nói:

- Nơi đây đẹp quá, chỉ tiếc có quá nhiều gió.

Lâm Tố Đình vừa nói vừa cười, đưa những ngón tay thon dài lồng vào mái tóc rối bời của nàng.

Lúc này trời sụp nắng, đại mạc mênh mông sắp được phủ lên một màu xám đen, và cơn gió đông thổi lên làm cho Nữ thần y rùng mình.

Lại nghe tiếng Tần Thiên Nhân vang lên:

- Muội có mái tóc đẹp lắm Tố Đình ạ.

Nữ thần y nghe Tần Thiên Nhân khen Lâm Tố Đình. Chàng đắm đuối nhìn những sợi tóc của Lâm Tố Đình tung bay trước mặt. Lâm Tố Đình vẫn còn lấy tay giữ mái tóc và cảm thấy hơi thở nóng hổi của chàng phả vào mặt nàng.

Từ từ, Nữ thần y thấy Tần Thiên Nhân nâng bàn tay của mình lên, nhấc lấy chiếc cằm xinh xắn của Lâm Tố Đình, ngón cái nhè nhẹ phớt qua đôi môi đương khẽ run rẩy kia.

Sức nóng từ ngón tay chàng làm môi nàng như bỏng cháy, Lâm Tố Đình nhắm mắt lại, rèm mi bị gió thổi phớt qua làm cho khẽ lay động. Trời chiều tây bắc một màu đỏ rực, Lâm Tố Đình đứng giữa bầu trời ấy đẹp như một nữ thần. Tần Thiên Nhân dưới ánh hoàng hôn vòng tay ôm lấy Lâm Tố Đình, đôi môi nóng bỏng của chàng hôn lên chiếc miệng nhỏ nhắn ngọt ngào của Lâm Tố Đình. Được chàng ôm gắt gao như thế, Lâm Tố Đình cảm giác vòng eo nàng như muốn gãy đoạn. Chàng hôn thật sâu như thế, khiến cho hô hấp của nàng khó khăn đến suýt thở không thông. Thế giới quanh nàng bỗng trở nên xoay tròn, với vô số ngôi sao lóe hiện trước mắt.

Trong nụ hôn và vòng tay nồng nhiệt của chàng đó, Lâm Tố Đình cảm giác cuộc sống của mình mới tươi đẹp làm sao, phi thường làm sao. Chỉ mong sao cho vở kịch này là hiện thực.

Nữ thần y chết lặng!

Sau hồi lâu hai người kia cũng rời nhau ra. Nữ thần y không hiểu sao mình vẫn còn đủ bản lĩnh đứng đấy, thấy họ đắm đuối nhìn nhau cười. Tần Thiên Nhân có nụ cười đôn hậu, nồng ấm, vốn dành riêng cho nàng, giờ nụ cười đó dành cho Lâm Tố Đình!

Thế mà chàng bảo nàng rằng mối tình đầu là một trong những cuộc tình để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng mỗi một con người! Sự đặc biệt của nó chính là bởi những rung động đầu đời, những cảm xúc khó diễn tả.

Thế mà chàng bảo một người đàn ông sẽ khó có thể quên được tình đầu của họ. Với một người đàn ông, tình đầu có ý nghĩa cực kỳ sâu sắc đến mức khó quên!

---oo0oo---

Ở tây bắc vào mùa đông mỗi tối trời lại mưa, đến gần sáng thì tạnh, sau đó lại chuyển sang khô khan và giá buốt. Trương Quốc Khải đang ngủ bỗng giật mình choàng tỉnh, bắt gặp bóng ai đi qua lại trước cửa lều mình, vội che dù đi ra ngoài xem thử.

Ðôi mắt mệt mỏi của Nữ thần y như đỏ hơn và nhìn vào đó Trương Quốc Khải thấy như nàng đã khóc nhiều. Vẻ mặt buồn bã của nàng khiến chàng lấy làm ngạc nhiên nhưng không biết nguyên do tại sao. Trương Quốc Khải hỏi một câu thăm dò:

- Làm sao rồi, hai người… chuyện gì đã xảy ra?

Mặc cho những giọt nước mưa bắn vào mặt vào tóc, Nữ thần y lắc đầu không nói gì. Trương Quốc Khải phát hiện nàng cũng không khoác áo mưa, hốt hoảng vươn dù ra che cho nàng và nói:

- Trời đã khuya lại mưa to mà muội đi đâu ra ngoài này vậy? Nếu đến tìm huynh sao không vào?

- Muội không phải đang tìm tam ca đâu, ở trong lều.... ngạt thở lắm, muội ra ngoài đây cho dễ thở.

- Nhưng mà ngoài này trời đang mưa, gió lạnh buốt như thế này, muội sẽ ướt và lâm bệnh. Vào trong đây đi.

Khó khăn lắm chàng mới thuyết phục được nàng vào trong lều chàng, lấy khăn giúp nàng lau khô. Nhưng sau đó nàng chỉ ngồi đó, mặt cúi gằm, không nói gì. Trương Quốc Khải nhìn sư muội một cách xót xa và hỏi:

-Muội đã thấy những gì?

-Muội đã thấy cả rồi! - Nữ thần y thổn thức.

Nàng chỉ nói bấy nhiêu, sau đó im lặng ngồi như một bức tượng, mái tóc ướt xõa xuống vai. Gương mặt của nàng nhòa nhạt ánh đèn và buồn đến xót xa.

Đầu nóng bừng bừng, Trương Quốc Khải không chịu nỗi tiếng khóc rưng rức của nàng, vội nắm lấy tay nàng, kéo nàng đứng dậy nói:

-Đi với huynh!

-Tam ca, ca định đưa muội đi đâu?

-Đi với huynh! Đến hỏi thiếu đà chủ có thương yêu muội không?

Nữ thần y sợ phải nhìn nhận sự thật, vùng vẫy thoát ra, lắc đầu nói:

-Tam ca! Huynh đừng đi!

Nhưng Trương Quốc Khải không buông tay nàng ra, kéo theo nàng xông vào trong lều của Tần Thiên Nhân khi này đang thay áo chuẩn bị đi ngủ. Bên ngoài sấm sét rầm rầm.

Nữ thần y đứng nấp sau lưng Trương Quốc Khải.

-Thiếu đà chủ! - Trương Quốc Khải vừa vào đã chỉ mặt Tần Thiên Nhân nói ngay - Rốt cuộc là huynh yêu Lâm Tố Đình, hay là Nữ thần y đây?

Trương Quốc Khải dứt lời nhìn Tần Thiên Nhân với cặp mắt khó hiểu, có bao điều thắc mắc về sự biến đổi bất thình lình của Tần Thiên Nhân, nên giờ đánh liều lên tiếng tìm hiểu cái thứ tình cảm bùng lên nhanh chóng với Lâm Tố Đình.

Tần Thiên Nhân khoác áo vào lại, không đáp.

Nữ thần y kéo vạt áo Trương Quốc Khải, bảo chàng đừng quấy rầy Tần Thiên Nhân nữa. Trương Quốc Khải không chịu đi ra, nói một hơi:

- Muội kéo huynh làm gì? Muội là một người tốt, Lâm Tố Đình cũng rất tốt, huynh không thể để người khác hiếp đáp hai muội được!

Nữ thần y rối rít nói:

- Không có đâu, huynh ấy có hiếp đáp gì ai đâu?

Nhưng Trương Quốc Khải là người thẳng thắn, hễ là chuyện gì chưa minh bạch thì chẳng chịu thôi, bèn nhìn Tần Thiên Nhân nói:

- Thế thì tại sao mấy hôm gần đây đệ lại thấy huynh thân mật Lâm Tố Đình vậy, có phải cô ấy gan dạ hơn, giỏi võ công hơn là huynh lập tức thay lòng đổi dạ?

Tần Thiên Nhân cột lại sợi dây thắt lưng, vẫn giữ im lặng. Trương Quốc Khải quát lên:

-Thiếu đà chủ! Huynh nói đi, rốt cuộc là huynh đang yêu thích người nào đây?

- Tam đệ! - Tần Thiên Nhân xẵng giọng - Đây không phải là chuyện của đệ! Đêm đã khuya đệ tới đây la hét làm gì? Huynh yêu thích ai là quyền của huynh!

Nữ thần y thấy chuyện cũng đã rồi, đã vào tới đây, thôi thì hỏi cho ra nhẽ, nàng giương đôi mắt sóng sánh nước nhìn Tần Thiên Nhân nói:

-Có đúng không? Tam ca huynh ấy nói có đúng không, vì tỉ ấy xả thân cứu giúp nên huynh chọn tỉ ấy?

Tần Thiên Nhân không nhìn thẳng Nữ thần y, qua khóe mắt chàng thấy nàng đứng trong bóng đêm, gương mặt của nàng đẹp rực rỡ làm chàng bồi hồi như vừa nhấp một hớp rượu mạnh, song vẫn gật đầu nói:

-Đúng là sự việc này đã giúp hai người chúng tôi rút ngắn khoảng cách lại.

Khi này Lâm Tố Đình bước vào đứng cạnh bên Tần Thiên Nhân.

Tần Thiên Nhân vẫn không chịu nhìn Nữ thần y lấy một cái, chỉ nhìn Lâm Tố Đình, nói thêm:

-Tổng đà ở Hàng Châu tan rã, huynh đây thật thấy hổ thẹn, nếu không phải vì Tố Đình, huynh thật tình không thể nào phấn chấn trở lại được.

-Thế là... huynh đã thay lòng sao?

-Thật sự ra thì chuyện không chỉ mới xảy ra đây thôi…

Tần Thiên Nhân nhắc lại hôm chàng từ chối chiếc áo của Lâm Tố Đình đã đan tặng cho chàng:

-Sau những lời huynh nói hôm đó, cô ấy luôn giữ một nụ cười trên môi, mặc dù huynh biết đó là một nụ cười gượng gạo. Cô ấy đủ lịch sự để nói với muội những lời nhẹ nhàng sau khi biết chuyện giữa hai chúng ta. Lúc đó huynh càng nhận ra rằng, chính tình yêu lớn lao mà cô ấy dành cho huynh khiến cô ấy có thể giữ thái độ hòa nhã đến thế. Và huynh thấy mình thật hạnh phúc khi được cô ấy yêu.

Nữ thần y đứng nghe chàng nói, bồi hồi nhớ lại có lần nàng và Lâm Tố Đình đứng bên bờ Tây hồ, Lâm Tố Đình bảo đã phát hiện chuyện tình cảm giữa nàng với Tần Thiên Nhân rồi. Lâm Tố Đình khi đó không giận mà còn dịu dàng bảo “muội à, tỉ không hận muội, cũng sẽ không bao giờ nhạt với muội đâu…”

-Huynh thừa nhận - Tần Thiên Nhân nói với Nữ thần y - Mối tình đầu với muội là kí ức, là quá khứ không thể nào xóa nhòa trong huynh. Nhưng tình yêu với Tố Đình chính là tương lai và hạnh phúc của cuộc đời huynh. Mà muốn sống tốt thì người ta cần hướng về phía trước. Lại nữa, yêu Tố Đình, huynh không phải đánh mất mình.

Nữ thần y nghe chàng nói một tràng, cuối cùng cũng lờ mờ hiểu được tại sao chàng từ bỏ mình, tự trách mình sao mà vô dụng quá. Chàng bảo chàng có bang hội, có các vị huynh đệ, có trách nhiệm của một người làm thống lĩnh, có những chí tang bồng của một người nam nhi. Còn nàng, nàng mơ những điều bình dị lắm. Bởi thế nếu bên nàng, có thể những ước vọng của cuộc đời chàng cũng sẽ nhẹ tênh đi…

Mà Lâm Tố Đình thì không muốn chàng từ bỏ những điều đó vì mình.

Nữ thần y thầm so sánh bản thân nàng với Lâm Tố Đình, thấy nàng chỉ là cô gái khao khát bữa cơm tối trong căn nhà nhỏ, có vợ, có chồng, có những tiếng cười trẻ thơ. Còn Lâm Tố Đình trực tiếp tiếp tay những khao khát của chàng. Vì thế mà có lẽ chàng sợ rằng bên nàng, hoặc là nàng phải gồng mình lên cho xứng với tầm mà chàng muốn có, hoặc là chàng hạ mình xuống cho đáng với mơ ước nhỏ bé của riêng nàng.

Mặc cho những giọt nước mắt cứ lăn trào nóng hổi trên má Nữ thần y, Tần Thiên Nhân càng thêm ca tụng Lâm Tố Đình, khiến Nữ thần y tin rằng nàng chẳng là gì trong mắt chàng cả, nàng nghẹn ngào không nói thêm được một lời nào nữa.


Trương Quốc Khải đứng cạnh đó nhìn Nữ thần y đặt hai bàn tay lên ngực cố kìm tiếng nấc nghẹn ngào, dáng vẻ như đang ôm trái tim đầy vết chém, nàng đau khổ tột độ. Trương Quốc Khải tự nhiên thấy thương nàng ghê gớm, thương nàng đã trao lầm tất cả cho kẻ không xứng đáng.

Nữ thần y không tin vào tai và mắt nàng, không biết đối đáp sao, cũng không còn sức lực bỏ đi, mãi một lúc mới lắp bắp:

-Thiên Nhân... huynh đừng rời bỏ muội... muội mất huynh rồi, còn có thể sống nữa sao?

Lâm Tố Đình nói:

-Muội muội, đừng cố chấp nữa, hãy chấp nhận đi.

-Không! Muội không chấp nhận đâu! - Nữ thần y gào lên, nhưng tiếng sấm sét vang đùng ngoài kia át hẳn tiếng của nàng.

Nữ thần y đưa tay lau nước mắt, nhìn Tần Thiên Nhân nói:

-Thiên Nhân, đừng lừa gạt chính mình! Huynh gạt được người khác, chớ không gạt được muội đâu, thần thái huynh đã nói với muội quá rõ rồi! Muội thấy rất rõ, người huynh yêu chính là muội mà, muội không cố chấp, mà kẻ đó chính là huynh!

Nữ thần y vừa nói vừa tiến lại gần Tần Thiên Nhân, nhưng Lâm Tố Đình đã bước ra ngăn lại. Lâm Tố Đình nói giọng chắc nịch, nhìn chàng nóng bỏng:

- Cô không nghe hiểu được huynh ấy đang nói gì à? Cô nhức đầu hả, hay là ngu ngốc đây?

Nữ thần y lắc đầu quầy quậy:

- Muội không bị bệnh, cũng không bị khờ! Thiên Nhân, huynh có phải là bậc tu mi nam tử không?

Nữ thần y gằn giọng hỏi, tuy là trời đang đông mà không khí trong lều như phát nóng bừng bừng.

-Tại sao huynh lại làm vậy? - Nữ thần y tiếp - Tại sao huynh không dám thừa nhận tình yêu giữa hai đứa chúng mình nữa? Huynh yêu muội mà, bộ không phải vậy sao? Đã bao lần huynh bảo cả đời chỉ yêu muội thôi? Bộ không phải vậy sao? Huynh không dối gạt được muội đâu! Nhìn muội đi, Thiên Nhân, tại sao huynh lại đi tự dầy vò hai chúng ta cho khổ?

Nước mắt chỉ chực rơi xuống, nàng lại nói thêm:

-Nhìn muội đi, hay là huynh không dám nhìn muội? Tối này đứng trước mặt muội, huynh dám nói là huynh không còn yêu muội nữa không? Chỉ cần huynh nói là không còn nữa, muội sẽ bỏ đi ngay, cả đời này không làm phiền huynh nữa đâu.

Giọng Nữ thần y có phần nghèn nghẹn. Lâm Tố Đình không để cho Tần Thiên Nhân quay sang nhìn Nữ thần y. Lâm Tố Đình đứng cao hơn Nữ thần y nửa cái đầu, vội đứng thẳng người thêm lên như có ý muốn che muội muội lại.

-Ðừng nói gì hết - Lâm Tố Đình cướp lời - Thiếu đà chủ, huynh đã nói như thế là quá đủ rồi!

-Thế nào? - Nữ thần y lại lên tiếng - Rõ ràng là huynh không dám phủ nhận tình cảm dành cho muội!

Tuy nàng nói cứng là vậy, nhưng trong lòng nàng vẫn không dám chắc chàng không nhìn vì còn tình cảm với mình. Tâm trí mù mờ như cơn bão cát ở ngoài đại mạc, Nữ thần y tự hỏi hay là bản thân nàng đã làm sai điều gì chăng? Nên mới khiến chàng chán ghét đến độ không muốn nhìn thấy mặt nàng?

Tần Thiên Nhân không thừa nhận cũng không phủ nhận.

Hai mắt đỏ quạnh, toàn thân run run, Nữ thần y nói như vang cầu:

- Thiên Nhân, cũng xin huynh đừng có lẩn tránh câu hỏi của muội nữa! Muội chưa từng yêu ai ngoài huynh. Ngay khi biết tình yêu là gì, muội biết là muội huynh yêu rồi. Thiên Nhân, huynh không biết muội đã yêu huynh nhiều đến thế nào đâu. Huynh cũng từng bảo đã yêu muội lắm mà, phải không? Huynh nói đi, sao huynh cứ mãi im lặng, có phải không?

- Nhưng đó là tình yêu tội lỗi!

Cuối cùng Tần Thiên Nhân cũng lên tiếng.

- Yêu muội có tội à?

-Đương nhiên là phải rồi - Lâm Tố Đình vung tay một cái đẩy Nữ thần y ra, mặt trở nên nghiêm nghị - Yêu cô có tội với gia đình tôi, có tội với cha huynh ấy!

Nữ thần y bước lui một bước loạng choạng như sắp té xuống, nước mắt nàng vã ra ướt má, nàng nói:

- Có tội muội cũng không màng! Việc gì cũng không màng hết. Muội… Muội chỉ cần huynh! Muội không màng đến tất cả những gì trên thế gian nầy, không màng đến trới đến đất! Muội chỉ cần huynh thôi!

Lâm Tố Đình thở hắt ra:

- Thật ra thì… phải nói thế nào cho cô hiểu nhỉ? Người huynh ấy cưới phải là một người giúp cho huynh ấy tạo dựng được sự nghiệp.

Lâm Tố Đình ngừng lại một chút rồi tiếp:

-Thật ra cũng đơn giản lắm. Tôi đây sở hữu năng khiếu hơn người, tinh thông võ học, có thể giúp huynh ấy trong việc hồi phục lại giang sang đại Minh. Còn cô, ngay cả một chiêu thức võ công tầm thường nhất cũng không biết. Vả lại, đến lúc mà đại công cáo thành rồi, bang hội đánh đuổi được bọn người Mãn ra quan ải thì huynh ấy có thể sẽ trở thành một vị vua, hối thống thiên hạ. Khi đó huynh ấy rất cần một hoàng hậu có tài cán để làm một trợ thủ đắt lực, sau này vinh hoa phú quý hưởng bất tận. Thử hỏi dưới bầu trời xanh có ai dám không kính, ai dám không nể?

-Tỉ đang nói dối – Nữ Thần Y đáp gọn, cố chấp và kiên định - Thật tế huynh ấy không phải hạng người tham phú quý vinh hoa như tỉ đã nói đâu!

Dứt lời nàng lại nhớ lời chàng đã từng bảo, lúc xưa chàng hay nói với nàng rằng, chọn người để gắn bó suốt cuộc đời, không phải chọn theo lời người khác mai mối, không phải chọn cái thiên hạ nhìn vào cảm thấy hay và đúng, mà là bản thân ta cảm thấy hợp...

-Tôi đã phân tích hết sức chi tiết rồi, nếu cô cứ một mực ngoan cố không chịu nhìn nhận thì tôi cũng đành vô phương.

-Muội quyết không tin! Muội còn nhớ rõ ràng lắm, muội nhớ những gì huynh ấy đã từng nói với muội, huynh ấy nói cái huynh ấy muốn đeo đuổi chính là một mối tình chân chính bất hủ, chứ không phải bất kỳ loại nhan sắc nào, hạng võ công gì, hay là tài nghệ chi đâu.

-Đó chẳng qua là chuyện dĩ vãng rồi.

Lâm Tố Đình cười khẩy một cái.

-Dĩ vãng? - Nữ thần y nói - Chỉ với hai từ “dĩ vãng” là có thể xóa bỏ cảm giác và kỉ niệm hết à? Đành lòng quên những gì của lúc trước được sao? Nãy giờ huynh ấy vẫn không thể nói không còn yêu muội nữa. Chỉ cần huynh ấy nói cho muội biết là đã quên rồi, hoặc là không còn yêu muội nữa thì muội sẽ đi ngay. Bằng không… Huynh có thể quên được hết tất cả tình nghĩa lúc xưa sao?

-Huynh ấy không quên, nhưng cho dù nhớ thì sao? Cảnh vật như cũ, con người đã thay đổi rồi. Bởi thế mà cô hãy nên đối diện hiện thực đi, đừng miễn cưỡng yêu cầu chi nữa.

Lâm Tố Đình dứt lời, Nữ thần y lại lắc đầu.

-Muội muội à…

Lâm Tố Đình đặt tay lên vai Nữ thần y. Nàng cũng đổi lại cách xưng hô, giọng cũng mềm hơn, nàng nói:

- Trên con đường vận mệnh có sai lầm. Lẽ ra lúc đầu huynh ấy không nên gần gũi muội, xong cũng vì thế mà giờ đây ba đứa chúng ta phải đi trên con đường chật hẹp, làm cho bản thân gò bó, không tìm được lối thoát. Nhưng nếu một trong ba đứa chúng mình cảm thông một chút, quản đại một chút, đứng sang một bên nhường đường thì cả ba người mình không cần phải làm khổ nhau nữa.

Nữ thần y nghe Lâm Tố Đình bảo vậy trong lòng nghĩ nhưng cả hai chúng tôi đã trải qua biết bao khó khăn, phải vượt qua biết bao sóng gió. Hồi còn nhỏ, chàng đã hứa sẽ đợi nàng trưởng thành. Chàng sẽ nắm tay nàng, hai người cùng chung tấn thoái, có nghèo khổ đến đâu cũng không chê không chán. Không lẽ bây giờ chàng định nói rằng tất cả chuyện đó đều là giả dối? Chàng nỡ lòng xóa bỏ, nỡ lòng bôi nhòa kỉ niệm thuở thiếu thời giữa hai chúng ta sao?

Nàng nghĩ tới đây nhìn Tần Thiên Nhân:

-Những lời huynh hứa với muội huynh đã quên hết cả rồi sao?

-Một lời hứa đáng giá bao nhiêu? Để huynh cho người vào ngân khố lấy vàng bạc mang đến đây trả cho muội?

Tần Thiên Nhân cất tiếng chế nhạo, miệng lưỡi lạnh băng tựa như một nhát đao xẻ toạt trái tim mới đây thôi vẫn còn đang xao xuyến của nàng.

Bốp! Nữ thần y lao đến giáng lên má trái của Tần Thiên Nhân một bạt tay! Lòng bàn tay của nàng rát bỏng, cơn giận khiến giọng nói của nàng vỡ đi:

-Huynh nhất định phải làm vậy hay sao? Sỉ nhục muội huynh cảm thấy rất thú vị à? Tuần trước lúc còn trọng thương, trên giường bệnh huynh cầm tay muội huynh đã xúc động thế nào, huynh tưởng muội không cảm nhận được chắc? Muội không còn là một tiểu nha đầu ngây ngô nữa, huynh không cần gạt muội làm gì! Muội có thể nhận ra được huynh vẫn còn yêu muội, tới tận bây giờ huynh vẫn chưa hề yêu ai khác, người huynh yêu chỉ có duy nhất mình muội mà thôi!

Tần Thiên Nhân lạnh lùng đứng đấy, hệt như vừa rồi người bị đánh không phải là chàng vậy.

Tần Thiên Nhân nói:

- Có lẽ muội rất thất vọng về huynh đúng không?

Chàng vừa hỏi vừa lấy “mộc mỹ nhân” cất trong áo ra bảo:

-Tượng gỗ này, chắc huynh không có diễm phúc nhận rồi. Huynh mong muội tìm được người phù hợp để nhận nó.

Nữ thần y nhìn bức tượng gỗ giống nàng như khuôn đúc, nước mắt lại rơi xuống, nàng không đưa tay nhận lấy mà bưng mặt khóc.

Tần Thiên Nhân chờ lâu không thấy nàng nhận lại “mộc mỹ nhân” thì vung tay ném vào lò sưởi đặt ở góc lều.

Cú ném như giọt nước tràn li, không thể hốt lại được.

Nữ thần y nghẹn ngào, thoái lui, rồi quay mình vụt chạy ra khỏi lều. Tần Thiên Nhân cũng như mọc rễ tại chỗ, toàn thân không nhích động.

Nữ thần y vẫn như một mũi tên lao đi thẳng.

Trương Quốc Khải sững sờ:

- Thế…thế..thế nầy là thế nào? Thiếu đà chủ… huynh...

Tần Thiên Nhân vẫn đứng như trời trồng. Trương Quốc Khải định tiếp tục nói gì đó nhưng sau khi nhìn thấy ánh mắt lạnh lùng của Tần Thiên Nhân, Trương Quốc Khải liền từ bỏ những ý nghĩ trong đầu mình.

Trương Quốc Khải hừ mũi một cái rồi cũng bỏ đi. Thoáng một cái nữ thần y và Trương Quốc Khải đã mất hút vào trong màn đêm.

Tần Thiên Nhân đưa đôi mắt u buồn nhìn theo hướng cửa lều.

Còn lại hai người, Lâm Tố Đình gọi khẽ:

-Huynh à.

Tần Thiên Nhân như bừng tỉnh, vội lao tới cho tay vào đống lửa lấy hình gỗ ra.

Lâm Tố Đình thấy chàng bị bỏng, cũng lao theo hốt hoảng gọi:

-Huynh à!

Sau đó nàng dùng tay hất hình gỗ đã bị cháy xém một góc xuống đất.

- Ðừng chạm vào!

Tần Thiên Nhân nói như thét, đồng thời nhanh như chớp nhặt hình gỗ lên, rồi ngồi xà bệt xuống hai tay bó gối, đầu chôn trong hai tay.

Lâm Tố Đình đứng chết trân!

Tần Thiên Nhân mãi một lúc mới ngẩn đầu lên, tay vẫn nắm chặt mộc mỹ nhân, đáp:

- Xin lỗi muội, khi nãy huynh đã to tiếng với muội. Thoạt đầu huynh bị mai phục ở Sơn Tây, nếu không nhờ muội xuất hiện kịp thời... lại nữa khi huynh trọng thương ở Bình Lương, nếu không nhờ muội cứu từ ngàn dặm xa xôi đưa về nơi này dưỡng thương, thì cái mạng này đã mất lâu rồi. Giờ lại nhờ muội đóng giả vở kịch này. Huynh dù tan xương nát thịt cũng không sao đền đáp được, nhưng… Thôi, ân đức này kiếp sau huynh sẽ tìm cách báo đền.

Lâm Tố Đình ngồi xuống cạnh chàng, tự cười mỉa mai nói:

- Muội biết rồi, trong lòng huynh đã có một mỹ nhân hiền thục khác, nên mới xem muội không đáng đồng xu.

Lời nói nhẹ nhàng nhưng lòng nặng trĩu.

Tần Thiên Nhân quay sang nhìn Lâm Tố Đình, trong lòng ái ngại mà không sao chối được. Dù sao kiếp này chàng vẫn mãi không quên mối tình đối với Nữ thần y được. Tướng mạo Lâm Tố Đình không kém gì Nữ thần y cả, nhưng đã là mối chân tình thì không sao giải thích. Nghe nàng nói vậy, chàng thật sự không biết phải đáp sao.

Căn lều tẻ nhạt vì người nào cũng im lặng, hồi sau Lâm Tố Đình lại lên tiếng:

- Huynh đã một lòng với muội ấy, dĩ nhiên muội ấy phải hơn muội gấp mười. Nhưng muội biết trong lòng huynh cũng có muội mà, huynh có thể một lần, thành thật trả lời muội được không?

Tần Thiên Nhân quay sang nhìn nàng. Lâm Tố Đình mỉm cười với chàng, nhưng nụ cười của nàng chàng thấy lồng lộng từng giọt nước mắt.

Tần Thiên Nhân nói:

-Huynh luôn luôn lúc nào cũng rất bận tâm tới muội, cho dù xảy ra chuyện gì, ba đứa chúng ta vẫn là bạn thân.

Lâm Tố Đình khẽ lắc đầu:

-Muội biết, muội chỉ muốn hỏi huynh, trong lòng huynh ngoài yêu Nữ thần y cũng yêu thích muội mà, đúng không?

-Cái đó có quan trọng sao?

-Đối với muội quan trọng lắm, huynh có biết lần đầu tiên huynh tặng quà cho muội là món gì không, huynh có biết khi đó huynh mặc áo gì không?

Rồi không để chàng trả lời, nàng nói thêm, giọng mơ màng:

-Muội nhớ hôm đó huynh khoác áo màu nâu, bên trong áo màu trắng, quần đen, huynh tặng cho muội “long đầu,” mỗi một việc của huynh muội đều nhớ thật rõ ràng. Bởi vì lần đầu tiên gặp huynh, khi đó muội còn nhỏ lắm nhưng đã yêu thích huynh rồi.

Tần Thiên Nhân ngạc nhiên trước hồi tưởng bất chợt của Lâm Tố Đình. Quen biết với nàng bao năm, chàng biết nàng rất hời hợt, không phải con người sống nội tâm. Tại sao hôm nay lại nhắc đến điều đó?

Tần Thiên Nhân loáng thoáng nhớ lại hình như mùa xuân năm đó chàng leo lên cái giàn gỗ của tiệm thuốc bắc Hổ Nguyên giành lấy long đầu, tục lệ nam nhân chưa lập gia đình tranh nhau giành long đầu ở miền Nam là để cầu hôn thê, khi đó Tần Thiên Nhân mười ba mười bốn tuổi, sau khi chàng lấy được long đầu rồi không suy nghĩ gì nhiều, không thấy Nữ thần y ở đó nên tặng luôn cho Lâm Tố Đình.

-Tiếc là… - Lâm Tố Đình tiếp - Tình cảm của huynh lại không dành cho muội, hai đứa chúng ta cũng ít có cơ hội bên nhau như huynh và Nữ thần y đã từng. Muội không có cửa, nên muội chịu thua, lẽ ra sau đêm đó huynh bảo không yêu thích muội, muội đã không còn ảo tưởng với huynh nữa. Nhưng mà, lần trước muội mang nhân sâm về đây, huynh mở mắt ra cười với muội, muội biết huynh có cảm giác với muội mà. Nếu huynh không yêu thích muội, muội vẫn cam lòng, nhưng nếu như mà muội không cam lòng, thật ra là muội thua cho một con người, hay là thua cho thời gian?

Tần Thiên Nhân không trả lời, tự nhiên chàng nhớ lại hôm Nữ thần y lần đầu tiên thú nhận tình yêu với chàng. Một vài giờ trước đó chàng lén bỏ vào trong thùng thuốc của nàng một lá thư, tỏ rõ nỗi lòng chàng. Sau đó như thường lệ theo các vị huynh đệ ra võ đường tập luyện võ nghệ.

Khi Nữ thần y theo Bảo Chi Lâm đi khám bệnh xong quay trở về, đoạn hai người đi ngang luyện võ đường, nàng đã dúi vào tay chàng một tờ giấy dùng để kê thuốc rồi bước nhanh đi. Chàng sung sướng, lén rời khỏi võ đường mở thơ ra đọc. Trang giấy nhỏ đầy chữ của nàng, những dòng chữ xinh xắn reo múa trước mắt chàng, giấy thơm và chữ cũng thơm. Nữ thần y trả lời thư Tần Thiên Nhân bằng những ý nghĩ e dè nhưng chàng hiểu rằng nàng đã yêu chàng.

Tần Thiên Nhân đọc bức thư hai ba lần mà không thấy chán, muốn thuộc luôn từng chữ, từng câu nàng đã viết, và sung sướng lịm người nhìn thấy làn cây xanh biếc vươn cao trong một bầu trời rực rỡ ánh nắng.

Lại có lần hai người lại gặp nhau trên cầu Tây Lâm, Tần Thiên Nhân nghe trái tim mình đập loạn như muốn vỡ tung cả lồng ngực. Yêu nàng quá đỗi, chàng chỉ dám hôn lên mái tóc, hít lấy mùi hương hoa lan dịu dàng và nhìn Nữ thần y đỏ mặt mắc cỡ ngượng ngùng giấu đi. Tần Thiên Nhân không dám ôm lấy nàng, dù họ đứng sát bên nhau, dù bờ vai nàng gầy, dáng đứng nghiêng hẳn như sắp rơi vào vòng tay chàng. Cả hai người đều hiểu rằng tình yêu đã chín.

Tần Thiên Nhân bỗng thở hắt, nói bên tai Nữ thần y:

-Đợi đến chừng nào muội mới đồng ý để huynh công khai với Lâm Tố Đình chuyện giữa hai ta?

Nữ thần y cười, đôi mắt chớp nhanh trong cái cúi đầu ngượng ngùng. Khi nào cũng vậy, nàng lúc nào cũng sợ khiến người này buồn, người kia không vui, không bao giờ biết đấu tranh cho hạnh phúc của riêng mình.

Tần Thiên Nhân nắm lấy cả hai bàn tay Nữ thần y ấp trong hai bàn tay mình, bóp chặt khiến nàng nhăn mặt đau đớn. Tần Thiên Nhân nói nhanh:

- Huynh không chờ được nữa, ngay bây giờ đây huynh đưa muội đi cầu sư thái làm chủ cho hôn sự giữa hai ta, sau đó từ hôn Lâm Tố Đình!

Nữ thần y hoảng hốt rụt bàn tay về, nhưng bàn tay còn lại bị chàng giữ chặt. Tần Thiên Nhân nghe nàng thở mạnh hơn và quay mặt. Chàng bỗng can đảm choàng tay qua ôm lấy vai nàng kéo về phía chàng....

Lại nói tiếp chuyện Tần Thiên Nhân và Lâm Tố Đình trong căn lều.

Tần Thiên Nhân nhớ tới đây, liền nhìn Lâm Tố Đình đáp:

-Huynh đã từng chọn ngày và quyết định đám cưới với Tây Hồ, vì huynh yêu thích nàng ấy. Từ lúc đầu huynh đã yêu nàng ấy, mãi mãi vẫn không thay đổi.

-Nhưng nếu muội quen huynh trước, và có nhiều cơ hội cũng như thời gian bên huynh? Chúng ta có thể nào không?

Tần Thiên Nhân im lặng một lát rồi nói với Lâm Tố Đình:

-Huynh nhớ mùa xuân hôm đó muội mặc bộ quần áo màu vàng hoa cúc, cổ choàng khăn màu xanh dương, vai khoác thêm áo cũng màu xanh dương.

Gương mặt như bừng sáng lên trong bóng đêm, Lâm Tố Đình mỉm cười nói:

-Huynh nhớ được! Thì ra huynh nhớ được! Trong thâm tâm huynh có muội. Tuy là chỉ có một chút ít, nhưng trong thâm tâm huynh có muội!

Tần Thiên Nhân cũng mỉm cười.

Lâm Tố Đình hỏi tiếp:

-Nhưng huynh chưa trả lời muội, nếu như không có Nữ thần y, hai ta quen biết nhau trước, hai đứa chúng mình có thể nào không?

-Chuyện tình cảm, sao lại không thể nào?

-Cho dù huynh nói thật hay là giả dối muội cũng mừng lắm rồi.

- Đại muội à, muội là một người tốt, muội nhất định sẽ được hạnh phúc.

Lâm Tố Đình nghe vậy khẽ gật đầu, đoạn nàng nói thêm:

-Trước khi chúng ta kết thúc màn kịch này, huynh… có thể ôm muội lần nữa không?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94167
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 27 guests