Ánh Đèn Giữa Hai Đại Dương - M. Stedman

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 14 Aug 2019

Gwen đã hứa sẽ mang Lucy đến gặp cô lần nữa, nhưng đã mấy ngày rồi mà cô ấy không hề ra công viên, mặc cho Isabel chờ đợi hàng tiếng đồng hồ. Nhưng cô phải vững lòng, chỉ cần có hy vọng gặp lại con gái, dù là mỏng manh nhất. Cô phải hận Tom, vì Lucy. Vậy mà… Cô lấy bức thư ra, nhìn vết xé ở góc thư lúc cô vừa định mở. Cô đặt nó trở lại, vội chạy ra công viên, ngồi chờ, nhỡ khi…

“Anh nói cho tui biết anh muốn tui làm gì đi Tom. Anh biết là tui muốn giúp anh. Làm ơn mà, cứ biểu tui làm gì đi.” Giọng Bluey nghẹn ngào, mắt cậu rớm ướt.
“Chẳng cần làm gì nữa, Blue.” Phòng giam của Tom rất nóng, đầy mùi xà phòng diệt khuẩn lau chùi đã một giờ trước.
“Tui ước chi mình đùng có thấy cái lục lạc đó. Đáng ra tui phải ngậm miệng lại.” Cậu nắm chặt lấy song sắt. “Ông hạ sĩ từ Albany đó có tới gặp tui, hỏi tui đủ điều về anh — hỏi là anh có hay gây sự không, rồi anh có uống rượu không. Ông cũng tới gặp cả Ralph nữa. Người ta đang đồn thổi chuyện án mạng, trời đất ơi Tom. Dưới quán rượu người ta còn nói chuyện treo cổ nữa!”
Tom nhìn vào mắt cậu ta. “Vậy cậu có tin họ không?”
“Đương nhiên tui không tin. Nhưng tui tin là miệng lưỡi thế gian rất ghê gớm. Tui cũng tin có chuyện người vô tội bị kết án oan. Tới khi người ta chết rồi thì xin lỗi còn có ích gì.” Bluey như nài nỉ Tom, anh vẫn im lặng.
“Có những chuyện rất khó giải thích,” Tom đáp. “Chuyện tôi làm là có nguyên nhân.”
“Nhưng anh đã làm gì mới được chứ?”
“Tôi đã làm những chuyện phá hoại đời của người khác, giờ là lúc trả giá.”
“Họ còn nói là ông già Potts nghĩ rằng một người mà tới vợ cũng không thèm bênh vực thì hẳn đã làm chuyện gì xấu xa lắm.”
“Cảm ơn cậu. Cậu đúng là biết an ủi người ta.”
“Anh đừng buông xuôi Tom à. Anh hứa với tui đi?”
“Tôi sẽ không sao mà Blue.”
Nhưng khi tiếng bước chân Blue dần lùi xa, Tom chợt tự hỏi anh có thật sự nghĩ vậy không. Isabel vẫn chưa trả lời bức thư anh gởi, rất có thể là vì lý do tệ hại nhất. Dù sao, anh vẫn phải bám víu vào những gì anh đã hiểu về cô, về con người anh từng biết đó.

Ven thị trấn là những khu nhà nhỏ của dân thợ gỗ, kiểu nhà lợp ván tuềnh toàng, từ rách nát tới tươm tất. Chúng được dựng trên những khu đất nền nhỏ hơn nhà thường, gần trạm bơm đem nước về cho cả thị trấn. Một trong những ngôi nhà đó, Isabel biết, chính là nơi ở của Hannah Roennfeldt, là nơi Lucy bé bỏng bị giam giữ. Isabel chờ đợi Gwen xuất hiện trong vô vọng. Cùng đường, giờ đây cô đi tìm Lucy. Chỉ để xem con bé ở đâu. Chỉ để biết nó vẫn ổn. Trời đang trưa, trên đường không một bóng người, chỉ rợp màu phượng tím.
Một căn nhà nhỏ trông rất chỉn chu. Ván gỗ vừa mới sơn, bãi cỏ cắt gọn, và không như những nhà khác, căn nhà này có hàng dậu cao bao quanh, hiệu quả hơn hẳn hàng rào thông thường khi phải xua đuổi những con mắt tò mò.
Isabel đi dọc đường hẻm sau dãy nhà. Từ phía sau bờ dậu cô nghe tiếng kẽo kẹt đều đặn. Cô nhìn qua một cái lỗ nhỏ tí xíu giữa cây lá, hơi thở cô gấp gáp khi trông thấy con gái nhỏ đang đạp xe ba bánh trên lối đi. Con bé chơi một mình, gương mặt không buồn không vui, chỉ có sự tập trung dữ dội vào bàn đạp. Cô đang ở thật gần: Isabel có thể chạm tay vào con bé, ôm ấp nó, dỗ dành nó. Đột nhiên chuyện cô không thể gặp con bé trở nên quái gở — như thể cả thị trấn đã loạn trí, chỉ còn mỗi mình cô là minh mẫn.
Cô đắn đo suy nghĩ. Mỗi ngày có một chuyến tàu từ Perth đến Albany, rồi một chuyến từ Albany về Perth. Nếu cô chờ đến sát giờ tàu chạy biết đâu sẽ không ai trông thấy cô? Biết đâu người ta sẽ không kịp phát hiện ra con bé đã đi mất? Ở Perth sẽ không ai biết mẹ con cô. Rồi cô sẽ lên tàu đến Sydney. Thậm chí là Anh quốc. Một cuộc sống mới. Chuyện cô không có một xu dính túi, chưa bao giờ có tài khoản ngân hàng chẳng hề làm cô chùn bước. Cô quan sát con gái, cân nhắc bước đi tiếp theo.

Harry Garstone đập rầm rầm lên cửa nhà Graysmark. Bill ra mở cửa, sau khi nhìn qua gương xem ai lại đến giờ này.
“Ông Graysmark,” viên cảnh sát lên tiếng, gật đầu chiếu lệ.
“Chào Harry. Có chuyện gì vậy?”
“Chuyện công việc.”
“Vậy hả,” Bill đáp, chuẩn bị nghe tin xấu.
“Tôi đang tìm Roennfeldt.”
“Hannah?”
“Không. Là con gái cô ấy, Grace.”
Phải một lát Bill mới nhận ra anh ta tìm Lucy, ông nhìn tay cảnh sát, ra ý hỏi.
“Con nhỏ có ở đây không?” Garstone hỏi.
“Đương nhiên là không. Tại sao…?”
“Vì nó không ở chỗ Hannah Roennfeldt. Nó đi lạc rồi.”
“Hannah để lạc nó?”
“Hoặc bị bắt cóc. Con gái ông có nhà không?”
“Có.”
“Ông chắc không?” Garstone hỏi, giọng hơi thất vọng.
“Đương nhiên là tôi chắc chứ.”
“Hôm nay ở nhà cả ngày à?”
“Không. Mà anh nói chuyện gì vậy? Lucy đâu rồi?” Lúc này Violet đã đến đứng sau lưng Bill. “Có chuyện gì vậy?
“Tôi cần gặp con gái bà, thưa bà Graysmark,” Garstone nói, “Phiền bà gọi cô ấy ra đây”
Violet miễn cưỡng đi vào phòng Isabel. Căn phòng trống trơn. Bà chạy vội sau nhà. Isabel đang ngồi trên xích đu, nhìn vào hư vô.
“Isabel! Harry Garstone tới tìm con!”
“Anh ta muốn gì kia?”
“Mẹ nghĩ con nên ra ngoài gặp anh ta,” Violet nói, trong giọng bà có điều gì đó khiến Isabel đi theo bà ngay.
“Chào chị Sherbourne. Tôi tới đây vì chuyện của Grace Roennfeldt,” Garstone bắt đầu.
“Là chuyện gì kia?” Isabel hỏi.
“Lần cuối cùng chị thấy con nhỏ là khi nào?”
“Kể từ lúc về đây có được tới gần nữa đâu,” mẹ cô lên phản đối, trước khi tự sửa mình. “À, có tình cờ gặp trong tiệm của Mouchemore nhưng chỉ có lần đó thôi…”
“Có đúng vậy không chị Sherbourne?”
Isabel không nói gì, cha cô lên tiếng, “Đương nhiên là đúng rồi. Anh nghĩ…”
“Không phải đâu ba. Thực ra từ lần đó con có gặp con nhỏ.”
Cha mẹ cô quay lại, há hốc miệng bối rối.
“Ba ngày trước, ở ngoài công viên. Gwen Potts đem nó ra đó để gặp con.” Isabel nghĩ xem có nên nói thêm gì không. “Con không tự đi tìm nó, Gwen dẫn ra. Con thề. Lucy ở đâu rồi?”
“Đi rồi. Mất tích.”
“Từ khi nào?”
“Tôi tưởng chị có thể trả lời câu đó,” viên cảnh sát nói. “Ông Graysmark, ông có thể cho tôi kiểm tra quanh đây được không? Chỉ để chắc chắn.”
Bill vừa định lên tiếng phản đối nhưng thông tin Isabel vừa mới đưa ra khiến ông thấy lo lắng. “Nhà này không có gì để giấu cả. Anh muốn tìm đâu thì tìm.”
Viên cảnh sát vẫn nhớ mấy roi mà Bill Graysmark từng giáng cho vì tội gian lận trong bài kiểm tra toán, giờ đây anh ta ra bộ đóng mở tủ, nhìn khắp gầm giường. Anh ta vẫn còn chút lo sợ, cứ như vẫn có thể bị ông thầy hiệu trưởng cho ăn đòn. Cuối cùng anh ta trở ra trước nhà. “Cảm ơn ông. Nếu có gặp con nhỏ, ông nhớ báo lại.”
“Báo lại?” Isabel nổi giận. “Chẳng lẽ các anh chưa đi tìm hay sao? Tại sao anh không đi tìm nó?”
“Không liên quan gì đến chị, chị Sherbourne à.”
Ngay khi Garstone vừa đi khỏi, Isabel quay lại nói với Bill. “Ba, mình phải tìm nó! Liệu nó có thể đi đâu? Con phải đi…”
“Gượm đã, Izz. Để ba xem có hỏi Vernon Knuckey được gì không. Ba sẽ gọi điện cho đồn cảnh sát, xem chuyện ra sao.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 14 Aug 2019

Chương ba mươi ba

Từ lúc còn rất nhỏ, đứa trẻ sống ở đảo Janus Rock đã trải nghiệm thứ hoàn cảnh sinh tồn vô cùng khắc nghiệt. Ai mà biết liệu những ký ức về chuyến đi đầu tiên ra đảo có còn vương lại trong máu thịt nó? Ngay cả khi ký ức đó đã hoàn toàn xóa mờ, cuộc sống của nó trên đảo hải đăng, trong cái thế giới chỉ có mỗi ba người đã thấm vào máu nó. Sự gắn kết giữa con bé và hai người nuôi dưỡng nó vô cùng mạnh mẽ, không thể nghi ngờ. Con bé không biết gọi tên cảm giác mất đi hai người đó, không biết đó là nỗi đau. Nó vẫn chưa biết những từ như khao khát hay tuyệt vọng.
Nhưng nó thèm ba, thèm má đến nhức nhối, chỉ muốn gặp lại hai người. Cả ngày nó chỉ nghĩ đến ba má, mặc dù đã vào đất liền nhiều tuần. Hẳn nó đã làm gì rất quấy nên má mới khóc nhiều như vậy. Còn cái người đàn bà tóc đen, mắt đen vẫn tự nhận là mẹ nó… nói dối là rất xấu. Vì thì tại sao bà ta cứ nói dối mãi, với tất cả mọi người? Tại sao người lớn để bà ta nói dối?
Con bé biết má ở ngay Partageuse. Nó biết mấy người xấu đã mang ba đi, nhưng không biết là đi đâu. Nó đã nghe từ “cảnh sát” rất nhiều lần nhưng chỉ mơ hồ hiểu. Người ta ở ngoài đường vẫn thì thầm “Thật là chuyện động trời. Kinh khủng quá.” Hannah nói nó sẽ không bao giờ được gặp lại má nữa.
Janus thật rộng lớn, vậy mà nó biết từng ngóc ngách: Bãi Đắm Tàu, Vũng Phản Trắc, Đỉnh Gió Lộng. Muốn về nhà nó chỉ cần tìm ra ngọn hải đăng, ba hay nói vậy. Nó cũng biết là Partageuse rất nhỏ, đã nghe người ta nói vậy nhiều lần rồi.
Khi Hannah còn ở trong bếp và Gwen đã đi ra ngoài, con bé trở về phòng. Nó nhìn mình. Nó cẩn thận cài khuy giày sandal. Nó lấy một cái túi nhỏ, bỏ vào đó bức tranh vẽ hải đăng có má, có ba, có Lulu. Thêm một quả táo mà hồi sáng cô đó cho nữa, thêm cả mấy cái kẹp phơi áo nó vẫn dùng làm búp bê chơi.
Nó cẩn thận đóng cửa sau rồi tìm quanh hàng giậu sau vườn, tới khi tìm ra một lỗ hẹp chỉ vừa rộng để chui qua. Nó đã thấy má ở ngoài công viên. Nó sẽ tới đó. Nó sẽ gặp má. Rồi hai người sẽ đi tìm ba. Rồi họ sẽ đi về nhà.

Con bé bắt đầu đi lúc trời đã về chiều. Mặt trời đang dần lặn nơi góc trời và bóng cây đổ như kéo dài ra mãi.
Con bé chui sục sạo qua hàng giậu, kéo lê cái túi xách trên mặt đất khi nó đi qua những bụi cây thấp đằng sau nhà. Âm thanh ở đây thật khác so với trên Janus. Nhiều chim quá, chúng gọi nhau ríu rít. Nó cứ đi thơ thẩn, những bụi cây dày thêm và xanh hơn. Nó không sợ mấy con thằn lằn bóng da đen, đầy vẩy thoát ẩn thoát hiện dưới mấy bụi cây. Thằn lằn bóng không cắn, nó biết mà. Nhưng nó không hề biết rằng, khác với Janus, nơi đây thằn lằn bóng không phải là loài duy nhất có màu đen da trơn. Nó chưa bao giờ phải học phép phân biệt vô cùng quan trọng giữa thằn lằn có chân và không chân. Con bé chưa bao giờ nhìn thấy rắn.

Khi con bé đến công viên, ánh nắng đang dần tắt. Nó chạy đến băng ghế nhưng không thấy má đâu. Nó kéo lê theo chiếc túi, ngồi đó, nhìn không gian trống trải chung quanh. Nó bỏ tay vào túi, lấy ra trái táo đã bị dập sau chuyến đi, rồi cắn một miếng.

Giờ này này những căn bếp ở Partageuse lại bận rộn với các bà mẹ cáu kỉnh và những đứa con đang đói. Chúng sẽ lao nhao rửa tay, rửa mặt sau một ngày đánh trận trên cây hay ở bãi biển về. Trong khi đó, cha chúng sẽ tự thưởng cho mình một chai bia lấy từ chiếc tủ mát Coolgardie, các bà mẹ thì lu bu trông chừng mấy nồi khoai luộc và món thịt hầm trong lò nướng. Nhà nhà sum họp, an vui, đầy đủ. Lại một ngày qua đi. Bóng tối tràn đến trên bầu trời từng giây, cho tới khi không còn rơi từ trên cao xuống mặt đất nữa mà bay tỏa từ dưới mặt đất lên, chiếm trọn không gian. Con người rút về tổ ấm, nhường đêm tới cho những loài sở hữu nó: dế, cú vọ, rắn rết. Một thế giới chưa đổi thay qua hàng trăm năm giờ đây thức dậy, tiếp diễn như thể ánh sáng ban ngày, con người và những thay đổi cảnh quan chỉ là ảo ảnh. Giờ đó trên đường không có ai.

Khi hạ sĩ Knuckey đến công viên, trên ghế chỉ còn chiếc túi xách và lõi quả táo với những dấu răng nhỏ, đầy kiến bu.
Khi đêm xuống những ánh đèn bắt đầu lấp ló: những chấm sáng trên nền đen, khi là chiếc đèn dầu bên cửa sổ; khi lại là bóng đèn điện từ những căn nhà mới hơn. Con đường chính ở Partageuse đã có đèn đường điện chạy dọc theo hai bên. Những vì sao lấp lánh trong đêm trong veo. Dải Ngân Hà quét một lớp nhòe sáng qua bóng tối.
Những đốm sáng giữa rừng cây đong đưa như một thứ quả cây. Người ta đã mang đèn đi tìm trong bụi cây. Không chỉ có cảnh sát mà còn có cả thợ gỗ từ các xưởng cưa của nhà Potts, cả người bên Cảng và Hải đăng. Hannah nóng ruột chờ ở nhà, như đã được căn dặn. Ba người nhà Graysmark đi dọc theo lối mòn trong rừng thấp, gọi tên đứa trẻ. Trong đêm vang lên cả “Lucy” lẫn “Grace”, mặc dù chỉ có một đứa bé bị mất tích.

Con bé giữ chặt trong tay bức tranh nó vẽ ba má và hải đăng, nhớ lại câu chuyện ba vua đi theo ngôi sao sáng để tìm Chúa Hài đồng. Nó đã nhìn thấy hải đăng Janus ở ngoài biển: cũng không xa mấy — hải đăng có bao giờ ở xa nó đâu. Nhưng mà hình như có gì đó không đúng lắm. Ánh đèn đỏ sáng lên giữa những lần đèn trắng. Nhưng nó vẫn đi theo.
Con bé đi về phía biển, nơi sóng đêm bắt đầu gầm gào và chiếm lấy bờ. Ở hải đăng nó sẽ tìm thấy ba má. Nó đi xuống doi đất dài - “Mũi” của xứ “Mũi”, nơi nhiều năm trước Isabel đã chỉ cho Tom cách nằm xuống khi ngắm khe nước phun để khỏi bị cuốn đi. Mỗi bước dẫn con bé lại gần với ngọn hải đăng, tận ngoài đại dương.
Nhưng ngọn hải đăng đó không phải là Janus. Mỗi hải đăng có đặc tính chớp khác nhau, ánh đèn đỏ cắt ngang đèn trắng của hải đăng này báo cho tàu thuyền biết rằng họ đang tới gần các bãi cạn ở cửa Cảng Partageuse, cách xa Janus Rock gần cả trăm dặm.
Gió nổi lên. Nước biển khuấy tung. Đứa bé vẫn đi. Bóng tối ngụ lại.

Từ nhà giam, Tom nghe tiếng nói bên ngoài vọng vào. “Lucy? Lucy, con có đó không?” Rồi “Grace? Con ở đâu rồi Grace?”
Một mình trong khám, Tom gọi với về phía trước đồn. “Hạ sĩ Knuckey? Hạ sĩ?”
Có tiếng chìa khóa leng keng, rồi cảnh sát Lynch xuất hiện. “Anh muốn gì hả?”
“Có chuyện gì vậy? Mấy người ở bên ngoài họ cứ gọi Lucy.”
Bob Lynch nghĩ một lúc rồi mới trả lời. Anh ta đáng được biết. Anh ta cũng chẳng làm gì được. “Con bé đi mất rồi.” “Khi nào? Đi mất sao?”
“Vài tiếng trước. Hình như là bỏ trốn.”
“Lạy Chúa tôi! Làm sao lại có chuyện như thế?”
“Không biết.”
“Giờ họ làm gì?”
“Đi kiếm nó.”
“Để tôi giúp. Tôi không thể cứ ngồi đây được.”
Vẻ mặt Lynch đã thay cho câu trả lời. “Trời đất!”
Tom nói. “Anh nghĩ tôi trốn đi đâu được nữa?”
“Nếu có tin gì tôi sẽ báo cho anh biết. Tôi chỉ làm được vậy thôi.” Rồi leng keng, viên cảnh sát lại đi mất.
Trong bóng tối, Tom nghĩ đến Lucy, con bé luôn tò mò muốn khám phá chung quanh. Không bao giờ sợ bóng tối. Có lẽ anh đã nên dạy nó biết sợ. Anh đã không thể giúp nó chuẩn bị cho cuộc sống bên ngoài Janus. Rồi anh chợt nghĩ. Isabel đang ở đâu? Trong lúc này cô ấy có thể làm được chuyện gì? Anh cầu nguyện rằng Isabel đã không làm việc gì liều lĩnh.

Ơn Chúa trời vẫn chưa sang đông. Gần nửa đêm Vernon Knuckey cảm nhận rõ hơi lạnh đang xuống. Đứa bé mặc một chiếc áo đầm vải bông và mang giày sandal. Ít ra vào tháng Giêng nó vẫn có cơ sống sót qua đêm. Nếu là tháng Tám thì đến giờ hẳn nó đã tím tái.
Lúc này mà tìm kiếm cũng chẳng có ích gì nữa. Sau năm giờ mặt trời sẽ mọc. Tốt hơn là giữ cho mọi người tỉnh táo để còn tìm khi trời đã sáng. “Dặn họ như vậy,” ông nói với Garstone khi gặp anh ta ở cuối đường. “Giờ nghỉ đã. Mọi người trở lại đồn ngay khi trời sáng, rồi sẽ bắt đầu lại.”
Đã một giờ sáng nhưng Knuckey cần đi ra ngoài cho thoáng. Ông đi theo con đường quen thuộc mà mình hay dạo mỗi tối, vẫn mang theo cây đèn, đong đua trong bóng tối theo mỗi bước ông đi.

Trong căn nhà nhỏ, Hannah cầu nguyện. “Xin Chúa giữ con bé bình an. Xin Người chở che và cứu lấy nó. Người đã từng cứu nó…” Hannah lo lắng - biết đâu Grace đã dùng hết phép may mắn của mình? Rồi cô tự an ủi. Sống sót qua một đêm ở đây cũng chưa cần đến phép màu. Chỉ cần tránh rủi ro. Hai chuyện đó khác nhau. Nhưng suy nghĩ đó ngay lập tức bị át đi bởi nỗi sợ hãi hoang mang, cấp bách hơn. Mệt rã rời, Hannah chợt nghĩ, một ý nghĩ oái oăm mà rành rọt. Có lẽ Chúa không muốn Grace ở cùng cô. Có lẽ cô có lỗi. Cô chờ đợi và cầu nguyện. Rồi cô hứa với Chúa một điều.

Có tiếng chân đá vào cửa. Đèn đã tắt hết nhưng Hannah vẫn còn tỉnh táo, cô bật dậy ra mở cửa. Trước mặt cô là hạ sĩ Knuckey, ôm Grace trong cánh tay, chân tay con bé thõng xuống.
“Ôi Chúa ơi!” Hannah lao tới ôm con bé. Mắt cô dán vào nó, không nhìn người đàn ông đứng đó, cô không nhận ra ông đang mỉm cười.
“Suýt nữa thì vấp phải nó ngoài Mũi. Con bé ngủ say quá,” ông nói. “Phải có tới chín mạng chứ không vừa.” Mặc dù Knuckey đang cười, mắt ông rớm ướt khi nhớ lại sức nặng của đứa con trai mà mình không thể cứu, hàng chục năm trước.
Hannah không nghe thấy ông cảnh sát nói gì. Cô ôm con bé, vẫn còn ngủ trên tay cô.

Đêm đó, Hannah đặt Grace nằm cạnh mình, lắng nghe mỗi nhịp thở, nhìn mỗi lần nó trở đầu hay đá chân, Con bé nằm đây, hơi ấm của nó làm cô thấy an tâm, nhưng cô cũng kịp nhận ra điều gì vừa xảy đến.
Những tiếng mưa rơi đầu tiên, nghe như tiếng sỏi lăn trên mái tôn khiến Hannah nghĩ đến ngày cưới của mình: thời đó khắp nhà dột nát và đầy những chiếc chậu hứng. Thời của tình yêu và hy vọng. Trên tất cả là hy vọng. Frank lúc nào cũng mỉm cười, lúc cũng vui vẻ mặc cho ngày hôm đó có ra sao đi nữa. Cô muốn Grace cũng như thế. Cô muốn con gái mình là một cô bé hạnh phúc. Rồi cô cầu Chúa ban can đảm và sức mạnh để làm những việc phải làm.
Khi tiếng sấm đánh thức đứa trẻ, nó mơ màng nhìn Hannah rồi dụi người vào gần cô, trước khi trở lại với những giấc mơ, để mặc người mẹ lặng lẽ khóc, nhớ lại lời hứa ban nãy.

Con nhện đen đã quay trở lại chỗ mạng nhện trong góc phòng giam. Nó cứ chạy đi chạy lại trên mớ tơ rối rắm, chuẩn bị giăng một kiểu lưới mới mà chỉ nó mới biết — vị trí sợi tơ, sức căng, tạo góc ra sao. Mỗi đêm con nhện lại bò ra để sửa tấm mạng đó, một mớ tơ bám bụi, tạo thành những cái bẫy nguy hiểm. Con nhện cứ dệt mãi cái thế giới ngẫu nhiên của nó, lúc nào cũng vá chắp, không bao giờ rời xa lưới trừ khi bị bắt đi.
Lucy an toàn. Tom thấy nhẹ cả người. Nhưng vẫn không có tin tức gì của Isabel. Không có gì cho thấy cô đã tha thứ cho anh, hoặc có thể sẽ tha thứ. Nỗi bất lực khi không thể làm gì cho Lucy giờ đây lại củng cố quyết tâm làm việc mà anh có thể làm được cho người vợ. Anh chỉ còn chút tự do đó thôi.
Nếu anh phải sống phần đời còn lại mà không có cô, anh thấy muốn buông xuôi, để mọi việc tự diễn ra. Tâm trí anh lại miên man kỷ niệm. Tiếng phục của hơi dầu cháy sáng khi anh châm que diêm. Ánh cầu vồng qua lăng kính. Hai đại dương trải quanh Janus trước mặt anh như một món quà bí mật. Nếu phải từ bỏ thế gian này, anh muốn nhớ những gì đẹp đẽ, chứ không chỉ là khổ đau. Hơi thở của Lucy, đứa bé từng tin tưởng hai người xa lạ, gắn bó với họ như huyết cầu trong tim. Rồi Isabel, Isabel ngày đó, người đã soi đường đưa anh về với cuộc đời, sau những năm dài chết chóc.
Một cơn mưa nhẹ khiến hơi nước đẫm hương rừng tràn vào phòng giam: hơi đất, mùi gỗ ướt, mùi cây mạ sửa nồng sực với những bông hoa tựa quả sồi khổng lồ phủ lông mượt. Anh chợt nhận ra rằng sẽ phải từ giã nhiều con người trong anh - đứa trẻ lên tám bơ vơ; người lính mộng mỵ giữa chốn địa ngục vô chừng; người gác đèn đã liều lĩnh mở cửa trái tim mình. Những phần đời đó lồng chứa trong anh như một bộ búp bê gỗ.
Khu rừng hát cho anh nghe: mưa rơi trên lá, nhỏ giọt xuống những vũng nước đọng, những con chim bói cá cười như người dại — mãi là thứ chuyện đùa con người không thể hiểu được. Anh cảm thấy mình hòa vào cả vẹn nguyên nối kết, thấy đã đủ. Một ngày nữa, mười năm nữa cũng không khác đi. Tạo hóa ôm lấy anh, chờ đợi anh cuối cùng sẽ trở về, để sắp đặt từng nguyên tử thành một hình hài khác.
Mưa càng lúc càng nặng hạt, ở phía xa, sấm giận gầm gừ vì bị ánh chớp bỏ lại sau lưng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 14 Aug 2019

Chương ba mươi bốn

Gia đình Addicott sống trong căn nhà sát biển, nếu thiếu đi mấy thước vuông cỏ biển thì đã chạm chân xuống nước. Ralph chăm chút cho khung gỗ và gạch xây, còn Hilda thu vén một khu vườn nho nhỏ phía sau, ngay trên nền đất cát. Nơi đó, cúc ngũ sắc và thược dược nở rực rỡ như một hàng vũ nữ chạy dọc theo lối đi ra nhà nuôi chim nhỏ. Bên trong mấy con sẻ hót ríu rít, mặc kệ lũ chim trời thảng thốt.
Mùi mứt cam bay qua cửa sổ, đón Ralph khi lão lê bước trên lối đi vào nhà, ngay hôm sau khi Lucy được tìm thấy. Khi lão bỏ mũ ra đặt ở hành lang ngoài phòng khách, Hilda chạy ra, tay vẫn cầm chiếc thìa gỗ óng ánh mứt cam như cây kẹo que. Bà đặt một ngón tay lên môi ra dấu rồi dẫn ông vào bếp. “Đang ở phòng khách!” bà thì thầm, mắt mở to. “Isabel Sherbourne! Cô ta đợi ông nãy giờ.”
Ralph lắc đầu. “Điên rồ hết cả rồi.”
Cô ta muốn gì?
“Vấn đề là ở chỗ đó. Cô ta không biết mình muốn gì.”

Căn phòng khách nhỏ, ngăn nắp của lão thuyền trưởng không hề trưng những chiếc thuyền trong chai hay mô hình tàu chiến, mà chỉ có những bức tranh thánh. Hai tổng lãnh thiên thần Michael và Raphael, Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng, cùng với vô số các thiên sứ khác nhìn thẳng vào khách đến thăm, vẻ mặt nghiêm nghị bình thản từ nơi chốn vĩnh hằng.
Ly nước đặt cạnh Isabel đã gần cạn. Đôi mắt cô chăm chú nhìn vào một thiên thần tay cầm gươm và khiên đứng uy nghiêm, dưới chân là một con rắn. Hôm đó trời đầy mây, cả căn phòng tối đi, những bức tranh trông như những vũng màu vàng ánh, trôi lững lờ trong bóng tối.
Cô không để ý thấy Ralph đã bước vào. Lão nhìn cô một lúc rồi mới lên tiếng, “Bức đầu tiên đó. Bốn mươi năm trước tôi vớt một anh thủy thủ người Nga sém chết đuối, gần Sevastopol. Anh ta tặng cho tôi để cảm ơn.” Lão nói chậm rãi, thỉnh thoảng dừng lại. “Mấy bức kia thì tôi mua thời đi tàu viễn dương.” Lão bật cười. “Tôi có phải là cái anh ngoan đạo gì đâu, mà tôi cũng chẳng biết gì về tranh pháo cả. Nhưng mấy vị trong tranh cứ như muốn nói gì với mình vậy. Hilda nói là nhờ đó mà bà ấy có bầu bạn những lúc tôi đi biển.”
Lão bỏ tay vào túi rồi gật đầu nhìn bức tranh Isabel đang ngắm. “Tôi từng thổ lộ muốn rụng tai vị đó luôn cô biết không. Tổng lãnh thiên thần Michael. Gươm trong tay nhưng cũng đưa khiên lên giữa chừng. Cứ như đang phân vân điều gì đó.”
Căn phòng im lặng, gió lay khung cửa sổ gấp hơn, như giục giã Isabel. Xa về phía chân trời, sóng cuồng nộ hỗn độn và bầu trời mù đi, chờ trận mưa rào đang tới. Tâm trí cô quay về Janus - về với sự cô quạnh bao la đó, về với Tom. Cô bắt đầu khóc, thổn thức từng tiếng như lớp sóng, cuối cùng cũng đẩy cô về bến bờ quen thuộc.
Ralph ngồi xuống cạnh cô, nắm lấy tay cô. Cô khóc, lão ngồi đó, không ai nói gì trong nửa giờ đồng hồ.
Cuối cùng, Isabel mở lời, “Lucy bỏ chạy là vì cháu, bác Ralph à - nó đi tìm cháu. Nó có thể đã chết. Ôi bác Ralph, mọi thứ thật tồi tệ. Cháu không thể nói gì với ba má cả…” Lão vẫn ngồi im lặng, nắm tay cô, nhìn móng tay đã bị cắn cụt ngủn. Lão chậm rãi gật đầu, nhẹ nhàng. “Con bé còn sống. Nó đã được an toàn.”
“Cháu chỉ muốn nó được bình an, bác Ralph à. Từ lúc nó xuất hiện ở Janus, cháu chỉ muốn làm điều tốt nhất. Nó cần tụi cháu. Còn tụi cháu cần nó.” Cô dừng lại. “Cháu cần nó. Khi nó xuất hiện, tự dưng mà tới, cứ như một phép màu. Cháu biết chắc chắn con bé phải ở lại Janus. Mọi thứ rõ như ban ngày. Một em bé bị lạc cha mẹ, còn tụi cháu thì vừa mất đi một đứa con…
“Cháu rất thương nó.” Cô sụt sùi. “Ở ngoài đó… Ralph à, bác là một trong chỉ vài người biết Janus. Có thể hình dung được nơi đó. Nhưng mà chính bác cũng chưa bao giờ phải vẫy tay tiễn thuyền đi. Phải đứng trên cầu tàu và nghe tiếng máy tắt dần, nhìn nó nhỏ dần đi. Bác không biết cái cảm giác cứ vài năm lại phải tạm biệt thế giới bên ngoài. Janus có thật. Lucy có thật. Mọi thứ khác chỉ là tưởng tượng.”
“Khi tụi cháu biết chuyện Hannah Roennfeldt thì… ôi… đã quá trễ, Ralph à. Cháu không thể từ bỏ Lucy: cháu không thể làm vậy với con bé.”
Ralph ngồi đó, hơi thở chậm rãi và sâu, thi thoảng lại gật đầu. Lão cố không đặt câu hỏi hay phản bác lại lời cô. Giữ yên lặng lúc này là cách tốt nhất để giúp cô, giúp tất cả.
“Tụi cháu thật hạnh phúc. Rồi cảnh sát ra đảo - khi cháu biết việc Tom đã làm thì chẳng còn gì là an toàn nữa. Không còn nơi nào an toàn. Bên trong con người cháu cũng không. Cháu đau đớn, và giận dữ kinh khủng. Và cả sợ hãi. Chẳng còn gì nữa, từ khi cảnh sát nói cho cháu nghe về chiếc lục lạc.”
Cô nhìn lão. “Cháu đã làm gì?” Dường như cô cũng thực sự cần câu trả lời. Cô đang tìm một tấm gương, một thứ gì đó giúp cô thấy được điều mà cô không thể tự thấy.
“Thực ra tôi quan tâm hơn tới chuyện chị sẽ làm gì.”
“Cháu chẳng làm được gì nữa cả. Mọi thứ đã tiêu tan. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa.”
“Con người đó yêu chị, chị biết mà. Điều đó hẳn cũng đáng nghĩ chứ.”
“Nhưng còn Lucy thì sao? Nó là con gái cháu, Ralph à.” Cô cố tìm cách giải thích. “Bác thử tưởng tượng Hilda phải cho một đứa con đi thì sao?”
“Đây đâu phải là cho đi. Mà là trả về, Isabel à.”
“Nhưng chẳng phải Lucy được mang đến cho tụi cháu hay sao? Chẳng phải Chúa đã mang nó đến đó sao?”
“Có lẽ Người muốn chị che chở cho nó. Và chị đã làm điều đó. Có lẽ giờ đây Người muốn chị để một người khác làm việc đó.” Lão thở hắt ra. “Trời, tôi có phải là cha sở đâu. Tôi biết gì về Chúa? Nhưng tôi biết rằng có một người sắp từ bỏ tất cả - tất cả chỉ để bảo vệ chị. Chị nghĩ như vậy là đúng sao?”
“Nhưng bác đã thấy chuyện hôm qua. Bác đã thấy Lucy tội nghiệp ra sao. Nó cần cháu, bác Ralph à. Làm sao cháu giải thích với nó được? Làm sao bắt một đứa nhỏ như nó hiểu được?”
“Đôi khi cuộc đời này thật nhọc nhằn, Isabel à. Có lúc mình tưởng chừng như đã ngã quỵ. Có khi mình cứ tưởng điều tệ hại nhất đã qua, thì nó quay trở lại, gặm nhấm thêm nữa.”
“Cháu cứ tưởng cháu đã khổ đủ rồi, từ nhiều năm trước.”
“Nếu chị nghĩ rằng mọi sự lúc này thật tồi tệ, thì sẽ còn tệ hơn nếu chị không lên tiếng vì Tom. Chuyện rất nghiêm trọng, Isabel à. Lucy còn nhỏ. Nó có nhiều người muốn chăm sóc nó, cho nó một cuộc đời tốt đẹp. Tom chẳng còn ai. Tôi chưa biết ai xứng đáng được yên ổn hơn Tom Sherbourne.”
Dưới sự chứng giám của các thánh và thiên sứ, Ralph tiếp tục nói, “Chúa mới biết ở ngoài đảo hai người nghĩ gì. Nói dối chồng chất, lúc nào cũng với ý tốt. Nhưng hai người đã đi quá xa. Mọi việc chị đã làm vì Lucy lại khiến một người khác tổn thương. Lạy Chúa lòng lành, đương nhiên tôi cũng hiểu chị rất khổ tâm. Nhưng tay Spragg đó tệ hại vô cùng, sẽ không tha cho ai đâu. Tom là chồng chị. Khi sung sướng cũng như lúc đau khổ, khi bệnh tật cũng như lúc khỏe mạnh. Trừ khi chị muốn anh ấy phải ngồi tù, hay…” Ralph không thể nói cho hết câu. “Tôi nghĩ đây là cơ hội cuối cùng của chị.”

“Con đi đâu vậy?” Một giờ sau, Violet hoảng hốt khi nhìn thấy con gái mình. “Con mới về đó thôi.”
“Con đi ra ngoài má à. Con có công chuyện.”
“Nhưng trời đang mưa to lắm. Đợi tạnh mưa đã.” Bà chỉ tay về đống quần áo trên sàn nhà cạnh đó. “Má định sẽ soạn lại đồ của mấy anh. Mấy cái áo sơ mi cũ, cả mấy đôi giày: biết đâu có người dùng được. Má định sẽ đem cho nhà thờ.” Giọng bà thoáng run run. “Nếu được, con ngồi lại với má, để má soạn đồ…”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 14 Aug 2019

“Con phải đi tới đồn cảnh sát ngay bây giờ.”
“Để làm gì kia chứ?”
Isabel nhìn mẹ, trong giây lát cô gần như nói ra. Nhưng cô chỉ nói, “Con muốn gặp ông Knuckey.”
“Lát nữa con về,” Isabel nói với lại, đi dọc hành lang ra cửa trước.
Khi mở cửa, cô giật mình khi thấy bóng người đứng ngay đó, vừa dợm nhấn chuông. Người ướt nhẹp nước mưa đó là Hannah Roennfeldt. Isabel không thốt nên lời.
Ngay bậc của, Hannah nói nhanh, mắt nhìn bát hoa hồng trên bàn cạnh Isabel. Cô sợ rằng nếu nhìn thẳng vào Isabel cô sẽ đổi ý. “Tôi đến để nói một chuyện, chỉ để nói xong rồi đi. Làm ơn đừng hỏi gì cả.” Hannah nhớ lại lời hứa với Chúa chỉ vài tiếng trước đó: không thể nào nuốt lời. Cô hít một hơi sâu, như lấy đà. “Bất cứ chuyện gì cũng đã có thể-xảy ra với Grace đêm qua. Con bé rất muốn gặp cô. Ơn Chúa là người ta tìm thấy nó trước khi có chuyện.” Cô nhìn lên. “Cô có hiểu cảm giác của tôi không? Thấy đứa con mình hoài thai, đứa con mình sinh ra và cho bú mớm gọi một người khác là mẹ?” Cô liếc mắt sang bên. “Nhưng tôi phải chấp nhận điều đó, cho dù có đau đớn đến đâu chăng nữa. Tôi không thể đặt mình lên trên hạnh phúc của con bé.”
“Đứa con của tôi — Grace — sẽ không trở lại nữa. Giờ tôi đã hiểu. Sự thật là con bé có thể sống thiếu tôi, ngay cả khi tôi không thể sống thiếu nó. Tôi không thể trừng phạt nó vì những chuyện đã xảy ra. Tôi cũng không thể trừng phạt cô vì chuyện chồng cô làm.”
Isabel vừa định nói lại, nhưng Hannah đã nói át đi. Mắt vẫn dán vào mấy bông hồng, cô tiếp, “Tôi hiểu Frank tới tận đáy lòng. Có lẽ tôi đã hiểu rất ít về Grace.” Cô nhìn thẳng vào mắt Isabel. “Grace yêu cô. Có lẽ con bé thuộc về cô.” Cố lắm Hannah mới nói được những từ tiếp theo: “Nhưng tôi muốn công lý phải được thực thi. Nếu cô thề với tôi rằng việc chỉ một tay chồng cô làm — lấy tính mạng ra mà thề — thì tôi sẽ để Grace trở về.”
Không có một ý nghĩ chủ động nào chạy qua tâm trí Isabel. Cô nói như phản xạ vô thức, “Tôi thề.”
Hannah nói tiếp, “Chỉ cần cô đưa ra bằng chứng tố cáo anh ta, một khi anh ta bị tống vào tù, Grace sẽ được trở về.” Đột nhiên Hannah bật khóc. “Ôi Chúa cứu con!” Cô chạy đi.

Isabel choáng váng. Cô nghĩ đi nghĩ lại những điều vừa nghe, tự hỏi hay mình vừa tưởng tượng ra. Nhưng dấu chân ướt vẫn còn trên thềm nhà; cả những giọt nước rơi xuống thành hàng từ chiếc dù đã gấp của Hannah Roennfeldt.
Cô nhìn cánh cửa lưới mắt cáo, nhìn gần đến độ ánh chớp bên ngoài dường như bị chia thành từng ô vuông nhỏ xíu. Rồi sấm đổ đến, lay chuyển cả mái nhà.
“Má tưởng con đi ra đồn cảnh sát?” Lời nói cắt ngang suy nghĩ của Isabel, trong chốc lát cô không biết mình đang ở đâu. Cô quay lại, thấy Violet đang hỏi. “Má tưởng con đi rồi. Có chuyện gì vậy?”
“Trời sấm sét quá.”

“Ít ra Lucy sẽ không sợ,” Isabel bắt gặp suy nghĩ đó khi tia chớp sáng xé rách bầu trời. Từ lúc nó còn ẵm ngửa, Tom đã dạy con bé phải tôn trọng nhưng không sợ hãi sức mạnh của tự nhiên - sấm chớp đánh lên tòa tháp hải đăng, hai đại dương xô đẩy quanh đảo. Cô nghĩ đến sự kính trọng mà Lucy dành cho buồng đèn: nó biết là không được chạm vào các thiết bị, không sờ vào kính. Cô nhớ lại đứa bé trong vòng tay Tom, mãi vẫy chào và cười thích thú từ vọng đài khi cô đang phơi áo quần trên mặt đất. “Ngày xửa ngày xưa có một hải đăng…” Bao nhiêu câu chuyện của Lucy đã bắt đầu như thế? “Rồi trời bão. Gió thổi ào ào, người gác đèn giữ cho đèn sáng, Lucy cũng giúp một tay. Trời rất tối nhưng người gác đèn không sợ vì đã có ánh đèn nhiệm màu.”
Gương mặt đau khổ của Lucy quay về trong tâm trí Isabel. Cô sẽ có được con bé, để giữ nó bình an và hạnh phúc, quên hết tất cả. Cô sẽ được yêu thương nó, được nâng niu và nhìn thấy nó lớn lên… Trong vài năm tới cô tiên răng sẽ mang đi đám răng sữa, trả lại ba đồng xu, rồi Lucy sẽ cao dần lên rồi hai má con sẽ nói chuyện về cả thế gian và rồi…
Cô sẽ có được con bé. Chỉ cần… Cô gập người trên giường, thổn thức, “Tôi muốn con tôi. Lucy ơi, má không chịu được nữa rồi.”
Hannah đã tuyên bố. Ralph đã nài nỉ. Cô sẽ phá lời thề, phản bội Tom như anh đã phản bội cô. Những ngả rẽ quay cuồng như vòng đu quay, lộn nhào và xô vào nhau, kéo cô theo, lúc thì về hướng này, khi lại sang hướng kia. Cô nhớ lại những lời nói đó. Nhưng giọng nói duy nhất vắng đi là Tom. Con người đứng giữa cô và Lucy. Giữa Lucy và người mẹ của nó.
Không thể kiềm lại được nữa, cô lê về phía tủ, lấy lá thư ra. Isabel chầm chậm mở phong thư.

Isabel yêu thương,
Tôi mong mình sẽ không sao, sẽ mạnh mẽ. Tôi biết ba má sẽ chăm lo cho mình. Hạ sĩ Knuckey đã có lòng cho tôi viết thư gởi mình, nhưng ông ấy sẽ đọc thư trước khi mình đọc. Tôi ước gì ta có thể mặt đối mặt mà nói chuyện.
Tôi không biết liệu tôi còn được nói chuyện với mình nữa không. Lúc nào ta cũng tưởng rằng sẽ còn có cơ hội nói ra điều cần nói, để mà sửa sai. Nhưng không phải lúc nào cũng thế.
Tôi không thể cứ sống như thế… Tôi không thể đối diện với chính mình. Những đau đớn mà tôi đã gây ra cho mình tôi không bao giờ có thể nói xin lỗi cho đủ.
Ai cũng có vận ở đời, nếu vận tồi là vậy, thì tôi vẫn thấy mừng. Đáng ra tôi phải chết từ nhiều năm trước. Được gặp mình, khi tôi tưởng đã hết thật rồi, rồi được mình thương yêu, nếu có sống thêm một trăm năm nữa tôi cũng không thể mong gì hơn thế. Tôi đã yêu thương mình bằng hết khả năng yêu thương của tôi, có lẽ cũng chẳng đáng là bao. Mình thật tuyệt vời, mình đáng gặp một người xứng đáng hơn tôi.
Mình đang giận dữ, đang đau đớn, chẳng thấy nghĩa lý gì nữa, tôi biết. Nếu mình quyết định sẽ quay đi, tôi sẽ không bao giờ nghĩ mình đã sai.
Có lẽ suy cho cùng, mỗi người đâu chỉ tính bằng tội lỗi lớn nhất trong đời. Tôi chỉ có thể cầu chúa, và xin mình, tha thứ cho những đau đớn mà tôi đã gây ra. Và tôi cảm ơn mình, vì mỗi ngày ta đã có nhau.
Mình có quyết định ra sao đi nữa, tôi sẽ chấp nhận. Tôi sẽ luôn tôn trọng sự lựa chọn của mình.
Mãi là người chồng thương yêu của mình.
Tom

Isabel lần đầu ngón tay lên bức thư, cứ như đó là một bức tranh. Cô lần theo những nét nghiêng đều đặn, những nét vòng thanh tú — cứ như làm vậy sẽ khiến cô hiểu được những từ viết trên đó. Cô mường tượng ra những ngón tay thon dài của Tom cầm cây viết chì, lướt qua mặt giấy. Cô cứ lần đi lần lại trên chữ “Tom”, từ đó vừa xa lạ vừa quen thuộc. Cô nghĩ đến trò chơi hai người vẫn chơi, cô lấy ngón tay viết chữ lên tấm lưng trần của anh để anh đoán, rồi anh cũng sẽ làm vậy với cô. Nhưng ký ức đó nhanh chóng bị giằng co bởi ký ức thân thuộc của con bé. Làn da mềm mại của nó. Cô lại tưởng tượng ra bàn tay của Tom, lần này đang viết thư cho Hannah. Như một quả lắc, tâm trí cô cứ lui tới, giữa căm hận và hối tiếc, giữa người đàn ông và đứa bé.
Cô nhấc tay lên khỏi tờ giấy, đọc lại bức thư, lần này cố hiểu cho được những từ ngữ trên giấy, nghe chính giọng Tom đọc lên. Cô đọc đi đọc lại, thấy như mình bị xé làm đôi, cho tới khi, cuối cùng, run rẩy thổn thức, cô quyết định sẽ làm gì.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 15 Aug 2019

Chương ba mươi lăm

Ở xứ Mũi, mỗi khi trời mưa, những đám mây như trút nước đổ ào xuống, cả thị trấn ướt đến tận xương cốt. Cũng chính những trận mưa đó, qua hàng thiên niên kỷ đã mang đến những cánh rừng mọc trên thứ đất mùn xa xưa. Trời tối sầm và nhiệt độ tụt xuống. Mặt đường đất bị xẻ rãnh, nếu có lũ quét thì không thể chạy xe hơi nổi. Mấy con sông như cũng thức dậy khi nghe thấy mùi đại dương đã bao lâu chia cắt.
Thị trấn trở nên im lặng. Vài con ngựa ít ỏi cuối cùng đứng buồn bã trước xe kéo, nước mưa nhỏ từ miếng da che mắt bắn xuống mấy chiếc xe hơi, dạo này đã nhiều hơn xe ngựa. Người ta đứng dưới những mái hiên lớn của các hàng quán dọc theo đường chính, vòng tay co ro, nhăn nhó chịu thua thời tiết. Ở sân sau trường học mấy trò quấy đang giẫm chân nghịch vũng nước mưa. Những người đàn bà mệt mỏi, nhìn áo quần phơi ngoài dây vẫn chưa lấy vào được. Mấy con mèo len lỏi qua những cánh cửa gần nhất, miệng meo meo khinh khỉnh. Nước xối xuống tấm bia kỷ niệm tử sĩ, những dòng chữ vàng trên đó giờ đã phai. Nước bắn trên mái nhà thờ qua miệng máng xối hình kỳ dị, đổ xuống ngôi mộ mới của Frank Roennfeldt. Cơn mưa biến đổi cả người còn sống lẫn kẻ đã chết, không hề phân biệt.

“Lucy sẽ không thấy sợ hãi.” Tom cũng nghĩ như vậy. Anh nhớ lại cảm xúc trong lồng ngực, chút run rẩy kinh ngạc khi nhìn nó ngắm sấm chớp mà cười thành tiếng. “Ba ơi, làm nó nổ cái nữa đi ba!” con bé reo lên, chờ tiếng sấm đổ đến.
“Khỉ thật!” Vernon Knuckey thốt lên. “Lại mưa dột nữa rồi.” Trận mưa đổ xuống từ ngọn đồi phía trên đồn cảnh sát không chỉ là chút “mưa dột”. Nước tràn vào từ phía sau, vốn thấp hơn phía trước tòa nhà. Chỉ trong vài giờ, phòng giam của Tom đã ngập đến tấc rưỡi, nước từ trên đổ xuống, từ dưới dâng lên. Con nhện đã bỏ mặc tấm lưới chăng dở, tìm chỗ ẩn náu an toàn.
Knuckey xuất hiện, chìa khóa cầm trong tay. “Hôm nay đúng là ngày may mắn của anh, Sherbourne à.”
Tom không hiểu lời ông cảnh sát.
“Mỗi khi mưa nhiều như vậy, trần nhà ở góc này rất dễ sập. Perth lúc nào cũng nói là sẽ sửa nhưng rồi chỉ đưa xuống một đứa để bôi trét ít bột và keo dán lên cho có. Nhưng mà nếu tội phạm bỏ trốn trước phiên xử thì kiểu gì họ cũng làm cho ra chuyện. Nên anh ra trước một lúc đã. Chờ nước rút.” Ông cảnh sát để chìa khóa trong ổ mà không vặn. “Anh sẽ không làm trò gì chứ?”
Tom nhìn ông cảnh sát, thành thật mà không nói gì.
“Thôi được rồi. Anh ra đi.”
Tom đi theo Knuckey đến văn phòng phía trước. Ông cảnh sát móc còng tay Tom vào một chiếc ống nước bị hở. “Trời cứ vậy thì mình sẽ tha hồ ế ẩm,” ông nói với Harry Garstone. Knuckey bật cười ra điều dí dỏm. “Mo McCackie mà kể vào!” 1
1 Mo McCackie (1891-1954): Nghệ sĩ hài nổi tiếng người Australia
Không có tiếng động nào khác trừ tiếng mưa, rầm rập trút xuống, biến mọi bề mặt thành trống, thành chũm chọe. Gió đã trốn đi, ngoài trời mọi thứ bất động chỉ có mỗi nước là chảy tràn. Garstone cầm cây lau và mớ giẻ, bắt đầu dọn dẹp lau chùi bên trong đồn.
Tom nhìn đường phố qua cửa sổ, mường tượng quanh cảnh từ vọng đài Janus ngay bây giờ: người gác đèn hẳn thấy như mình đang ở trong đám mây, không khí như đảo ngược. Anh nhìn kim di chuyển quanh mặt đồng hồ, cứ như hết thảy thời gian vẫn còn đó.
Anh giật mình. Một bóng người nhỏ đang tiến về phía đồn. Không áo mưa, không dù che, hai tay khoanh lại, cúi về trước như dựa vào cơn mưa. Anh nhận ra dáng ai ngay. Lát sau Isabel mở cửa bước vào. Cô nhìn thẳng tới quầy thủ tục nơi Harry Garstone đang cởi trần, loay hoay vét khô vũng nước.
“Tôi…” Isabel mở lời.
Garstone quay lại xem ai đang nói.
“Tôi cần gặp hạ sĩ Knuckey…”
Viên cảnh sát bối rối, mình trần, tay cầm giẻ lau, ngượng chín mặt. Anh ta thoáng liếc về phía Tom. Isabel nhìn theo, há hốc.
Tom giật mình đứng dậy nhưng không thể đi xa khỏi bức tường. Anh với tay về phía cô. Isabel nhìn anh, bàng hoàng.
“Izzy! Izzy mình ơi!” Anh giằng chiếc còng, vươn cánh tay ra, đầu ngón tay duỗi căng. Cô đứng đó, hoảng sợ, hối hận và tủi nhục, không dám cử động. Đột nhiên nỗi sợ hãi chiếm lấy cô, cô quay lưng dợm đi ra.
Hình bóng Isabel như làm cho cả cơ thể Tom hồi sinh. Thoáng thấy cô chuẩn bị biến mất, anh không thể chịu nổi. Anh kéo mạnh tay, lần này mạnh đến nỗi bứt đoạn ống ra khỏi tường, nước bắn lên cao.
“Tom!” Isabel bật khóc khi anh ôm cô trong tay, “Ôi Tom!” Cô vẫn run cả người, mặc cho anh ôm ghì chặt. “Em phải nói cho họ biết. Em phải…”
“Suỵt, Izz, suỵt, rồi sẽ ổn mà, mình à. Không sao cả.”
Hạ sĩ Knuckey bước ra khỏi phòng. “Garstone, chuyện quái quỷ gì…” Ông dừng lại khi thấy Isabel trong tay Tom, cả hai ướt đẫm nước từ đường ống tràn.
“Ông Knuckey, không đúng… chuyện không đúng!” Isabel hét lên. “Frank Roennfeldt đã chết khi chiếc thuyền dạt vào. Giữ Lucy lại là ý của tôi. Tôi ép anh ấy không được báo cáo. Là lỗi của tôi.”
Tom ôm chặt lấy cô, hôn lên đầu cô. “Shh, Izzy. Cứ để yên đi.” Anh đẩy cô ra, giữ chặt vai cô, khuỵu gối rồi nhìn thẳng vào mắt cô. “Không sao mà mình. Đừng nói gì nữa.” Knuckey chậm rãi lắc đầu.
Garstone đã kịp mặc lại chiếc áo chẽn, tay vuốt vội tóc cho xong. “Bắt cổ luôn hả sếp?”
“Bớt ngớ ngẩn đi một lần có được không hả. Lo mà sửa ống nước không ngập hết giờ!” Knuckey quay nhìn hai người, họ nhìn nhau chăm chú, sự yên lặng cũng là một thứ tiếng nói. “Còn hai người này, giờ thì theo tôi.”

Tủi nhục. Hannah ngỡ ngàng nhận ra mình thấy tủi nhục, nhiều hơn là giận dữ khi Hạ sĩ Knuckey ghé thăm, mang theo tin tức mới nhất về Isabel Sherbourne. Mặt cô đỏ bừng khi nhớ đến chuyến viếng thăm Isabel chỉ một ngày trước đó, và cả sự thỏa thuận tưởng đã xong xuôi.
“Khi nào? Cô ta khai khi nào?” cô hỏi.
“Hôm qua.”
“Mấy giờ?”
Câu hỏi làm Knuckey ngạc nhiên. Mấy giờ thì có liên quan gì? “Khoảng năm giờ chiều.”
“Vậy là sau khi…” Giọng cô tắt dần đi.
“Sau gì kia?”
Hannah càng đỏ mặt, thấy nhục nhã rằng Isabel đã từ chối sự hy sinh của cô, và thấy ghê tởm vì bị lừa dối. “Không có gì cả.”
“Tôi tưởng cô muốn biết chuyện này.”
“Đương nhiên. Đương nhiên rồi…” Cô cố không tập trung vào ông cảnh sát, mà cố nhìn vào tấm kính cửa sổ. Cần phải lau chùi. Cả căn nhà phải được dọn dẹp: đã mấy tuần rồi cô không hề đụng tới. Hannah nghĩ đến những việc nhà quen thuộc, những thứ khiến cô thấy an toàn, cho đến khi bình tĩnh lại. “Vậy… giờ cô ta ở đâu?”
“Cô ta được bảo lãnh tại ngoại, đang ở nhà cha mẹ.” Hannah bứt chỗ móng tay bị xước. “Rồi sẽ ra sao?”
“Cô ta sẽ bị xử chung với chồng.”
“Cô ta nói dối, từ đầu đến cuối… Cô ta làm tôi tưởng…” Cô lắc đầu, lạc vào một suy nghĩ khác.
Knuckey thở hắt ra. “Chuyện rất tệ. Isabel là người tử tế, trước khi ra Janus. Sống ngoài đó chẳng tốt chút nào cho cô ấy. Mà có lẽ cũng chẳng tốt cho ai cả. Suy cho cùng thì Sherbourne có việc đó vì Trimble Docherty tự sát.” Hannah không chắc phải hỏi câu tiếp theo ra sao. “Họ sẽ phải ngồi tù bao lâu?”
Knuckey nhìn cô. “Cả cuộc đời còn lại.”
“Chung thân?”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 15 Aug 2019

“Tôi không nói chuyện ở tù. Hai người sẽ không bao giờ thấy tự do nữa. Họ sẽ không bao giờ quên được chuyện đã xảy ra.”
“Tôi cũng thế, thưa hạ sĩ.”
Knuckey ngẫm ngợi, quyết định sẽ thử xem. “Chị nghe tôi, được Huy chương Chữ thập không phải là chuyện đơn giản. Chưa nói tới hai lần Huy chương Chữ thập, chỉ cho người cứu được nhiều đồng đội mà không quản ngại hy sinh thân mình. Tom Sherbourne là người tử tế, tôi thấy vậy. Tôi có thể nói anh ấy là người tốt, chị Roennfeldt à. Isabel cũng là người tử tế. Ba lần bị sảy thai ở ngoài đó, không có ai giúp đỡ. Trải qua những chuyện như vậy thì khó mà sáng suốt được.”
Hannah nhìn ông ta, hai bàn tay nằm yên, chờ đợi xem ông ta sẽ nói gì.
“Một người như Tom mà rơi vào cảnh đó thì thật đáng tiếc. Chưa nói đến người vợ.”
“Ông muốn nói gì kia?”
“Những điều tôi sắp nói ra vài năm nữa chị cũng sẽ nghĩ đến. Nhưng đợi tới lúc đó thì đã quá muộn.”
Hannah hơi quay đầu lại, cứ như để hiểu rõ hơn ý của ông cảnh sát.
“Tôi chỉ muốn hỏi chị, thực chị có muốn như vậy không? Ra tòa xét xử? Rồi tù tội? Con gái chị đã trở về. Biết đâu cũng còn cách khác…”
“Cách khác?”
“Spragg hẳn sẽ không mặn mà gì nữa khi không còn chuyện án mạng. Miễn vụ việc vẫn thuộc thẩm quyền Partageuse tôi cũng có thể can thiệp chút ít. Biết đâu thuyết phục được đại tá Hasluck nói vào cho một câu với bên phía Cục Hải đăng. Nếu chị cũng có thể nói đỡ cho anh… Để mà giảm án…”
Gương mặt Hannah lại đỏ bừng lên, cô đột ngột đứng thẳng dậy. Những lời lẽ nung nấu hàng tuần, hàng năm, những lời lẽ mà chính Hannah cũng không biết là đã có sẵn trong cô, bật tuôn ra. “Tôi chán lắm rồi! Tôi chán bị các người đá qua đá lại, cuộc đời của tôi mà ai muốn phá cũng xong. Ông chẳng biết gì về tôi cả, hạ sĩ Knuckey à! Ai cho ông vào nhà tôi nói chuyện như vậy? Ai cho ông nói những lời khốn nạn đó!”
“Tôi không có ý…”
“Để tôi nói hết đã! Tôi đã ngán ngẩm lắm rồi, ông hiểu không?” Lúc này Hannah đã hét thành tiếng. “Không ai được bắt tôi phải sống ra sao nữa! Đầu tiên là cha tôi nói cho tôi nghe phải lấy ai, rồi thì cả thị trấn xông vào hiếp đáp Frank như một đám mọi rợ. Rồi Gwen cố thuyết phục tôi trả Grace lại cho Isabel Graysmark, và tôi đã đồng ý - Tôi đồng ý, ông biết không! Đừng sốc vậy: không phải chuyện gì ở đây ông cũng biết cả!
“Rồi hóa ra là cô ta nói dối với tôi! Ai cho ông hả? Ai cho ông cái quyền nói với tôi, đề nghị tôi phải đặt người khác lên trên mình, lại một lần nữa!” Cô đứng thẳng người dậy. “Bước ra khỏi nhà tôi! Ngay! Đi ngay! Trước khi tôi…” cô cầm lên thứ ở gần nhất - bình cắm hoa bằng thủy tinh, “ném cái này vào mặt ông!”
Knuckey đứng dậy không kịp, chiếc bình hoa xẹt ngang qua vai ông rồi va xuống ván chân tường, vỡ thành vô số mảnh sắc.
Hannah dừng lại, không chắc mình có tưởng tượng việc vừa làm. Cô nhìn ông, chờ đợi.
Knuckey đứng im. Gió đung đưa màn cửa. Một con ruồi xanh bị mắc vào lưới bẫy. Mảnh bình hoa cuối cùng rơi tiếng choang buồn tẻ xuống đất.
Im lặng một hồi lâu, Knuckey lên tiếng, “Cô thấy đỡ hơn không?”
Miệng Hannah vẫn còn mở. Trong đời cô chưa bao giờ tấn công ai. Hiếm khi nào chửi thề. Và chắc chắn là chưa bao giờ hành xử như vậy với một sĩ quan cảnh sát.
“Nhiêu đó không hề gì.”
Hannah nhìn xuống sàn nhà. “Tôi xin lỗi ông.”
Người cảnh sát cúi xuống nhặt những mảnh thủy tinh lớn, đặt lên bàn. “Lỡ con nhỏ đạp trúng.”
“Nó đang ở ngoài bờ sông với cha tôi,” Hannah lẩm bẩm. Cô quơ tay mơ hồ về phía đám thủy tinh vỡ, nói thêm, “Thường tôi không…” nhưng câu nói bị bỏ lửng.
“Cô khổ lắm rồi. Tôi biết. Cũng may là cô ném vào tôi chứ không phải Hạ sĩ Spragg.” Knuckey thoáng mỉm cười.
“Tôi không nên nói như vậy.”
“Ai cũng có lúc vậy mà. Nhiều người còn khổ hơn cô. Không phải lúc nào mình cũng kiểm soát được việc mình làm. Nếu vậy thì tôi thất nghiệp mất.” Ông nhặt mũ lên. “Thôi tôi đi đây. Để cô suy nghĩ. Nhưng mà thời gian còn ít lắm. Một khi thẩm phán tới đây rồi quyết định chuyển họ về Albany thì tôi sẽ không thể làm gì được.”
Knuckey bước qua của, ngoài trời rực nắng, mặt trời như đang thiêu đốt mấy đám mây cuối cùng ở đằng đông.

Hannah đi lấy chổi và hốt rác, cô làm mà không nghĩ gì cả. Cô gom mấy mảnh bình vỡ, cẩn thận kiểm tra xem còn mảnh nào sót không. Cô mang vào bếp và đổ ra giấy báo cũ, gói lại cẩn thận rồi mới bỏ vào thùng rác bên ngoài. Cô nghĩ đến câu chuyện về Abraham và Isaac. Chúa đã thử thách Abraham đến tận cùng, để xem ông ta có chịu dâng hiến thứ quý giá nhất trên thế gian cho Người. Chỉ khi lưỡi dao đã kề cổ đứa con, Chúa mới chỉ ra vật sinh tế khác. 1 Cô vẫn còn đứa con gái.
1 câu chuyện trong Kinh thánh: Vâng lệnh Thiên chúa, Abraham mang con trai là Isaac ra làm sinh tế. Khi dao đã kề cổ Isaac thiên sứ hiện ra và nói rằng Chúa chỉ muốn thử thách đức tin của Abraham. Sau đó Abraham giết một con chiên (cừu) đực ở gần đó để thế vào -ND
Cô vừa định đi vào nhà thì chợt trông thấy bụi cây tầm bóp, rồi nhớ đến cái ngày tồi tệ sau khi Grace trở về, lúc đó con bé cứ chui vào giữa bụi cây. Cô khuỵu gối xuống cổ và khóc nấc, miên man nhớ lại cuộc trò chuyện với Frank. “Nhưng làm sao? Làm sao việc gì mình cũng bỏ qua được?” cô từng hỏi anh. “Mình cứ gặp nạn nhưng lúc nào cũng vui vẻ. Làm sao vậy hả mình?”
“Tôi lựa chọn mà,” anh nói. “Tôi có thể ngồi đó ủ rũ về quá khứ, ghét bỏ người ta vì những chuyện đã xảy ra, như cha tôi từng làm. Hoặc tôi có thể tha thứ và quên đi.”
“Nhưng đâu có dễ gì.”
Anh mỉm cười, nụ cười của Frank không lẫn vào đâu được. “Nhưng mình ơi, đỡ nhọc hơn nhiều chứ. Ta chỉ phải tha thứ có một lần. Muốn ghét ai, ta phải ghét suốt ngày, ghét hàng ngày. Cứ phải nhớ mãi những việc tồi tệ.” Anh bật cười, giả vờ lau mồ hôi trên chân mày. “Nếu vậy tôi phải viết ra một danh sách thật dài, dài lắm, rồi phải nhớ ghét mỗi người bao nhiêu cho đủ. Ghét như vậy cũng mất công kỹ lưỡng lắm: đúng kiểu dân Đức chính cống! Không,” giọng anh trở nên tỉnh táo, “lúc nào ta cũng có sự lựa chọn mình à. Ai cũng có.”
Giờ đây cô nằm úp trên cỏ, cảm thấy nắng như muốn làm mình lả đi. Mệt mỏi, cô nằm đó, mơ hồ thấy mấy con ong và nghe mùi hoa bồ công anh bên cạnh, tay chạm vào hoa chân dê nảy lên giữa đám cỏ um tùm, rồi thiếp đi.

Tom như còn cảm giác thấy làn da ướt nước mưa của Isabel, mặc dù bây giờ trong khám đã rút hết nước, áo quần anh cũng đã khô và cuộc tái ngộ với Isabel tối hôm qua giờ chỉ còn là ký ức. Anh vừa mong nó có thật, vừa mong đó chỉ là ảo ảnh. Nếu có thật, Izzy đã quay lại với anh, như anh từng cầu nguyện. Nếu là ảo ảnh, cô ấy vẫn tránh xa được tù tội. Vừa nhẹ lòng vừa lo lắng, anh tự hỏi liệu có còn được ôm cô trong tay nữa không.

Trong phòng ngủ, Violet Graysmark đang khóc. “Ôi Bill. Tôi không biết phải nghĩ sao, phải làm gì. Con gái mình có thể phải đi tù. Tội nghiệp quá.”
“Tụi mình sẽ vượt qua được mà. Con nhỏ cũng sẽ vượt qua được.” Ông không kể lại câu chuyện với Vernon Knuckey. Không muốn bà mừng vội. Nhưng biết đâu, vẫn còn một tia hy vọng.

Isabel ngồi một mình dưới cây phượng tím. Cô vẫn thương nhớ Lucy như ban đầu: một nỗi đau không có nơi chốn, không có cách chữa lành. Bỏ đi gánh nặng của lời nói dối cũng có nghĩa là từ bỏ giấc mơ. Nỗi đau trên gương mặt mẹ cô, trong đôi mắt cha cô, vẻ khổ sở của Lucy, hình ảnh Tom bị còng tay: cô cố xua đi một loạt những hình ảnh, rồi tưởng tượng ra nhà tù sẽ ra sao. Cuối cùng cô thấy sức mình cạn kiệt. Cô không còn chống chọi được nữa. Cuộc đời cô chỉ còn là những mảnh vỡ, không thể hàn gắn. Tâm trí cô như gục ngã dưới sức nặng đó, rơi xuống một cái giếng sâu, đen tối, nơi tủi nhục, mất mát và sợ hãi khiến cô chìm sâu.

Septimus và cháu gái đứng ở bờ sông, ngắm tàu thuyền. “Để ông kể cho con nghe ai chèo thuyền giỏi: Hannah đó. Khi đó mẹ còn nhỏ. Mẹ con cái gì cũng giỏi. Thông minh sáng dạ lắm. Lúc nào cũng ở bên ông, như con đây.” Ông xoa đầu con bé, “Con là Grace, là của để dành của ông!”
“Không, con là Lucy!” con bé khăng khăng.
“Lúc mới sinh ra con tên là Grace.”
“Nhưng con muốn là Lucy.”
Ông nhìn con bé, chăm chú ngắm nó. “Thôi giờ mình tính vậy đi, giống như đi làm ăn, chia đều vậy, ông sẽ gọi con là Lucy-Grace. Được không?”

Hannah tỉnh dậy khi có bóng người trước mặt. Cô mở mắt ra, Grace đang đứng cách đó vài bước, nhìn cô chăm chú. Hannah ngồi dậy, vuốt tóc, hơi choáng.
“Ông nói rồi mà, mẹ biết ngay,” Septimus bật cười. Grace thoáng mỉm cười.
Hannah bắt đầu đứng dậy nhưng Septimus đã kịp nói, “Không, cứ ngồi đó. Còn Công Chúa của ông, con ra ngồi trên cỏ, kể cho mẹ Hannah nghe chuyện mình đi coi tàu thuyền. Con thấy bao nhiêu cái?”
Con bé ngập ngừng.
“Cố nhớ thử, lúc nãy con xòe tay đếm đó?”
Con bé đưa hay bàn tay ra. “Sáu,” nó nói, xòe hết một bàn tay và đưa ba ngón ở tay kia, rồi xếp hai ngón lại.
Septimus nói, “Giờ ông vô trong bếp lấy nước ngọt cho con. Con ngồi đó, kể cho mẹ nghe chuyện con hải âu tham lam ăn con cá lớn khi nãy đi.”
Grace ngồi trên cỏ, chỉ cách Hannah có vài bước. Mái tóc vàng óng ánh trong nắng. Hannah lưỡng lự: cô muốn kể lại cho cha nghe chuyện hạ sĩ Knuckey vừa ghé thăm, muốn xin ông lời khuyên. Nhưng Grace chưa bao giờ có vẻ muốn nói, muốn chơi đùa như hôm nay, Hannah không thể bỏ lỡ khoảnh khắc này. Như thói quen, cô so sánh đứa bé đang ngồi trước mặt với ký ức về đứa con nhỏ, cố nhớ lại đứa con đã mất. Cô dừng lại. “Lúc nào ta cũng có sự lựa chọn.” Những lời nói đó vang lên trong tâm trí cô.
“Mình làm dây chuyền hoa cúc nhé?” cô hỏi.
“Cây chuyền hoa cúc là gì?”
Hannah mỉm cười. “Dây chuyền. Đây, để mẹ kết cho con một cái vương miện,” cô nói rồi bắt đầu ngắt bông bồ công anh gần đó.
Khi Hannan chỉ cho Grace cách lấy móng tay xẻ dọc cuống hoa, rồi móc cuống hoa kế tiếp vào, cô nhìn bàn tay của con bé, nhìn cách nó cử động. Không phải là bàn tay của một em bé. Mà là bàn tay của một bé gái cô sẽ phải làm quen từ đầu. “Lúc nào ta cũng có sự lựa chọn.” Cô thấy lồng ngực nhẹ bâng, như vừa thở một hơi rất sâu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 15 Aug 2019

Chương ba mươi sáu

Khi mặt trời chỉ còn lơ lửng trên chân trời, Tom đứng đợi ở cầu tàu Partageuse. Anh thấy Hannah chậm rãi đi tới. Lần cuối cùng anh thấy cô là sáu tháng trước đó. Giờ đây cô như người khác hẳn: gương mặt đầy đặn hơn, thư thái hơn. Cuối cùng cô lên tiếng, giọng bình tĩnh. “Là chuyện gì?”
“Tôi muốn nói lời xin lỗi. Và cảm ơn. Vì việc chị đã làm.”
“Tôi không muốn nhận lời cảm ơn của anh,” cô nói.
“Nếu không có chị nói đỡ thì tôi đã phải ngồi tù lâu hơn ba tháng ở Bunbury.” Tom khó nhọc nói mấy chữ cuối cùng: tiếng nào cũng trĩu nặng sự tủi hổ. “Cả án treo của Isabel nữa, nhờ chị là chính, luật sư của tôi có nói vậy.”
Hannah nhìn ra xa. “Cô ta có ở tù cũng chẳng có ích gì. Nếu anh ở tù nhiều năm cũng vậy. Có thay đổi được gì.”
“Tuy vậy, hẳn cũng rất khó với chị.”
“Lần đầu tiên tôi gặp anh là vì anh tự đến cứu tôi. Khi đó tôi là người hoàn toàn xa lạ, cũng không nợ gì tôi cả. Chuyện đó cũng đáng chứ. Tôi cũng biết nếu anh không tìm thấy con bé thì nó cũng không sống nổi. Tôi cố ghi nhớ chuyện đó.” Cô dừng lại. “Tôi không tha thứ cho anh, cho cả vợ anh nữa. Hai người đã nói dối… Nhưng tôi sẽ không để quá khứ níu kéo mình. Chuyện của Frank cũng là vì người ta làm vậy.” Cô dừng lại, vặn chiếc nhẫn cưới trên ngón tay một lúc. “Oái oăm thật, bởi nếu Frank còn sống, anh ấy hẳn là người đầu tiên muốn tha thứ cho hai người. Anh ấy sẽ là người đầu tiên nói đỡ cho anh. Đỡ cho những người đã phạm sai lầm.”
“Đó là cách duy nhất tôi có thể làm Frank tự hào: cư xử theo cách của anh ấy, nếu anh ấy còn sống.” Cô nhìn anh, mắt rớm ướt. “Tôi yêu anh ấy.”
Cả hai im lặng, nhìn ra phía mặt nước. Cuối cùng, Tom lên tiếng. “Những năm tháng mà chị đã không thể có được với Lucy — chúng tôi không bao giờ trả lại được. Con bé thật tuyệt vời.” vẻ mặt Hannah khiến anh nói thêm ngay, “Chúng tôi sẽ không bao giờ lại gần nó nữa, tôi hứa với chị.”
Những lời tiếp theo như nghẹn trong cổ anh, anh cố một lần nữa. “Tôi không có quyền đòi hỏi gì cả. Nhưng nếu một ngày… khi con bé đã lớn… nếu nó nhớ đến và hỏi về chúng tôi, nếu có thể, xin chị hãy nói rằng chúng tôi rất yêu nó. Ngay cả khi chúng tôi không có quyền đó.”
Hannah đứng im, suy nghĩ.
“Sinh nhật con bé là ngày mười tám tháng Hai. Anh không hề biết chuyện đó, đúng không?”
“Vâng” Giọng Tom lạc đi.
“Khi sinh ra con bé bị nhau quấn cổ tới hai vòng. Frank… Frank thường hát ru nó ngủ. Anh thấy chưa? Có những chuyện tôi biết về nó mà anh không hề hay.”
“Vâng,” Tom gật đầu.
“Anh có tội. Cả vợ anh nữa. Đương nhiên rồi. Tôi không tha thứ.” Cô nhìn thẳng vào mắt anh. “Tôi đã từng sợ là con bé sẽ không bao giờ yêu tôi.”
“Con trẻ chỉ biết có yêu thương.”
Cô nhìn một chiếc xuồng bập bềnh gần cầu tàu theo mỗi đợt sóng, cau mày trước ý nghĩ vừa tới. “Quanh đây không ai nhắc chuyện cũ — chuyện vì sao mà Frank và Grace phải lên chiếc xuồng đó. Không một ai lên tiếng xin lỗi. Ngay cả cha tôi cũng không muốn nói chuyện đó. Ít ra anh đã xin lỗi. Đã trả giá việc anh làm với Frank.”
Một lúc sau, cô hỏi, “Giờ anh sống ở đâu?”
“Ở Albany. Ralph Addicott giúp tôi tìm việc ở cảng dưới đó khi tôi ra tù, ba tháng trước. Được gần vợ tôi. Bác sĩ nói cô ấy phải được nghỉ ngơi hoàn toàn. Hiện giờ cô ấy vẫn ở nhà an dưỡng, để được chăm sóc chu đáo.” Anh hắng giọng. “Thôi tôi để chị đi. Tôi mong cuộc đời rồi sẽ tốt đẹp cho chị và cho Lu… cho Grace.”
“Chào anh,” Hannah nói, quay bước ra về trên cầu tàu.
Ánh nắng chiều tàn nhuộm vàng lá cây bạch đàn khi Hannah đi tới nhà cha để đón con gái.
“Chú heo con ở nhà chơi…” Septimus vừa đọc câu đồng dao vừa lúc lắc ngón chân của cháu gái đang ngồi trong lòng mình. Hai ông cháu ngồi chơi ở ngoài hiên. “A nhìn ai về đó, Lucy-Grace.”
“A mẹ! Mẹ đi đâu về đó?”
Hannah bất ngờ nhìn thấy nơi con bé nụ cười của Frank, đôi mắt anh, cả mái tóc vàng. “Một ngày nào đó mẹ sẽ kể cho con nghe, cưng à,” cô nói, khẽ hôn nó. “Giờ mình đi về nhà nhé?”
“Ngày mai mình tới chơi với ông ngoại nữa được không mẹ?
Septimus bật cười. “Con muốn tới chơi với ông lúc nào cũng được, công chúa của ông. Bất kỳ lúc nào con thích.” Bác sĩ Sumpton đã nói đúng — qua thời gian, đứa bé dần quen với cuộc sống mới, mà có lẽ đúng hơn là cuộc sống trước đó. Hannah đưa hai tay, chờ con bé leo từ ông ngoại qua. Cha cô mỉm cười. “Đúng rồi, nhóc con. Đúng rồi.”
“Đi nào con, đi về thôi.”
“Con muốn đi bộ.”
Hannah để con bé xuống, nó nắm tay cô, đi qua cổng rồi xuống đường. Hannah đi thật chậm để Lucy-Grace theo kịp. “Con thấy con chim bói cá đó không?” cô hỏi. “Nhìn nó như đang cười vậy, đúng không?”
Đứa bé không để ý nhìn, cho tới khi con chim bật cười một tràng như súng nổ lúc hai mẹ con lại gần. Nó ngơ ngẩn đứng lại, ngắm con chim mà trước đây nó chưa bao giờ tới gần như vậy. Con chim lại bật ra thêm một tràng rổn rảng nữa.
“Nó cười đó con. Chắc nó thích con,” Hannah nói. “Hoặc chắc là trời sắp mưa. Chim bói cá hay cười mỗi khi trời sắp mưa. Con có bắt chước tiếng nó được không? Như vầy nè,” rồi cô bật ra một tràng, khá giống với tiếng chim, mà mẹ cô đã dạy cho hàng chục năm trước. “Lucy-Grace làm thử xem có giống không.”
Con bé không bắt chước được tiếng kêu rối rắm đó. “Để con làm hải âu,” nó nói rồi bật ra tiếng kêu loài chim mà nó biết rất rõ. Con bé bắt chước y như thật, tiếng kêu the thé, khàn khàn inh tai. “Mẹ làm thử đi,” nó nói, Hannah thủ mấy lần, bật cười vì chẳng giống gì cả.
“Vậy con phải chỉ cho mẹ cưng à,” cô nói. Hai mẹ con đi tiếp.

Trên cầu tàu Tom nghĩ về lần đầu tiên anh thấy Partageuse. Và lần cuối cùng. Giữa hai lần đó Fitzgerald và Knuckey tìm cách gỡ tội cho anh, đánh đổi từng cáo buộc, gạt đi từng lời buộc tội của Spragg. Ông luật sư đã rất lưu loát khi chứng minh rằng cáo buộc bắt cóc trẻ em là không có căn cứ, do đó những cáo buộc liên quan cũng vậy. Tom thừa nhận các cáo buộc liên quan đến chuyên môn, được xử ở Partageuse chứ không phải Albany. Như vậy cũng vẫn có thể đưa tới án nặng, nếu không có Hannah lên tiếng nói đỡ cho anh, đề nghị cho anh được khoan hồng. Nhà tù Bunbury nằm giữa Partageuse và Perth, không đến nỗi khắc nghiệt như nhà tù ở Fremantle hay Albany.

Khi mặt trời đã tan vào nước biển, Tom thấy bứt rứt, nhớ một thói quen cũ. Đã xa Janus hàng tháng nhưng cứ tới giờ này hai chân anh vẫn còn muốn leo hàng trăm bậc thang để châm đèn. Nhưng thay vào đó anh lại ngồi ở cuối cầu tàu, ngắm những con hải âu cuối cùng trên mặt nước lấp lánh.
Anh nghĩ về cái thế giới vẫn tiếp tục mà không có anh, những câu chuyện vẫn mở ra, mặc cho anh chứng kiến hay không. Lucy giờ này có lẽ đã lên giường. Anh mường tượng gương mặt con bé, ngây thơ trong giấc ngủ. Anh tự hỏi không biết bây giờ con bé trông ra sao, không biết nó có nằm mơ về Janus, có nhớ ngọn hải đăng không. Anh cũng nghĩ đến Isabel, giờ đang nằm trên chiếc giường sắt nhỏ bé ở nhà an dưỡng, thổn thức nhớ thương con gái, nhớ thương một quãng đời cũ.
Thời gian sẽ mang cô ấy trở lại. Anh đã hứa vậy với cô. Và với cả chính mình. Rồi cô ấy sẽ hồi phục.
Một tiếng nữa chuyến tàu đi Albany sẽ khởi hành. Anh đợi trời tối rồi đi bộ vào thành phố, ra ga tàu.

Vài tuần sau trong khu vườn của nhà an dưỡng ở Albany, Tom ngồi ở một đầu băng ghế sắt, Isabel ngồi ở đầu kia. Đám cúc hồng đã nở xong, bắt đầu rũ cánh và lốm đốm nâu. Ốc sên đã bắt đầu ăn lá cây thạch thảo, mấy cánh hoa bị gió vo lại thổi về phía nam.
“Ít ra giờ mình cũng bắt đầu có da thịt lại rồi, Tom à. Hồi đó trông mình yếu quá. Giờ mình có ổn không?” Giọng Isabel lo lắng, nhưng có gì đó xa cách.
“Đừng lo cho tôi. Giờ phải lo cho mình.” Anh ngắm con dế đang đậu trên tay ghế, bắt đầu lên tiếng râm ran. “Họ nói mình muốn ra viện khi nào cũng được Izz à.”
Cô cúi đầu, vén tóc ra sau tai. “Đi đâu nữa giờ, mình biết mà. Chuyện đã qua rồi, không cách gì thay đổi nữa… những chuyện mà ta đã trải qua,” cô nói. Tom nhìn cô chăm chú, nhưng cô không nhìn lại anh, mà chỉ thì thầm, “Hơn nữa, có còn gì đâu?”
“Là sao mình?”
“Chẳng còn gì cả. Cuộc đời của hai ta có còn gì nữa?”
“Ừ giờ ta không thể quay trở lại Hải đăng nữa. Nếu ý mình là vậy.”
Isabel thở dài. “Ý em không phải vậy, Tom à.” Cô bứt một đoạn cây kim ngân ở trên tường phía sau, rồi ngắm nó. Cô xé vụn một chiếc lá, rồi thêm lá nữa, mấy mảnh lá li ti rơi xuống váy áo cô như một thứ hoa văn. “Bị mất Lucy, cứ như là bị mất tay chân. Giá mà em có thể nói thành lời.”
“Lời nói có nghĩa lý gì.” Anh với tay nắm tay cô, nhưng cô rụt lại.
“Hãy nói với em là mình vẫn thấy như xưa,” cô nói.
“Nói vậy thì có ích gì hả Izz?”
Cô dồn mấy mẩu lá thành một đống nhỏ ngay ngắn. “Mình còn không hiểu em nói gì, phải không Tom?”
Anh nhướng mày, chật vật. Cô nhìn ra xa phía đám mây trắng bồng bềnh như sắp muốn che mặt trời. “Mình rất khó hiểu. Đôi khi sống với mình cũng cô đơn như sống một mình.”
Anh im lặng, rồi nói. “Mình muốn tôi nói gì bây giờ hả Izz?”
“Em muốn ta được hạnh phúc. Cả ba chúng ta. Lucy chạm đến tim mình. Khiến mình mở lòng, thật kỳ diệu.” Cả hai im lặng một lúc lâu rồi, vẻ mặt cô thay đổi khi nhớ đến một chuyện khác. “Vậy mà, suốt hai năm, em chẳng hề biết mình đã làm gì. Mỗi khi mình chạm vào em, mỗi khi… em chẳng hề hay biết mình đang giấu em.”
“Tôi cố kể với mình, Izz à. Nhưng mình không để tôi nói.”
Cô đứng bật dậy, đám vụn lá rơi vèo xuống cỏ. “Em muốn làm mình đau đớn, Tom à, như mình đã khiến em phải đau đớn vậy. Mình có hiểu không? Em muốn trả thù. Mình không nói gì tới chuyện đó sao?”
“Tôi biết mà, mình à. Tôi biết. Nhưng chuyện đã qua rồi.”
“Vậy là, mình tha thứ cho em, chỉ vậy thôi sao? Như chẳng có chuyện gì cả?”
“Thì còn gì nữa đâu? Mình là vợ tôi mà Isabel.”
“Ý mình là mình luôn bên em…”
“Ý tôi là tôi đã hứa đi trọn đời với mình. Tôi vẫn muốn vậy, Izz à. Khó khăn lắm tôi mới học được rằng muốn có tương lai thì ta phải biết từ bỏ chuyện muốn thay đổi quá khứ.”
Cô quay đi, bứt thêm đoạn dây kim ngân trên tường. “Rồi ta sẽ làm gì? Sẽ sống ra sao? Em không thể cứ nhìn mình và hận mình vì những chuyện mình đã làm. Em thấy tủi nhục lắm.”
“Mình không làm vậy cũng được mà.”
“Đã tan tành hết rồi. Không thể nào sửa được nữa.” Tom đặt lên lên tay cô. “Ta đã sửa hết sức mình rồi. Ta chỉ có thể làm tới đó. Ta phải sống với thực tại.”
Cô thơ thẩn đi trên lối đi cạnh bãi cỏ, để Tom ngồi trên ghế. Đi một vòng quanh bãi cỏ, cô trở lại. “Em không thể quay lại Partageuse. Em không còn thuộc về nơi đó nữa.” Cô lắc đầu, nhìn mây trôi. “Giờ đây em không biết mình thuộc về nơi nào nữa.”
Tom đứng dậy, đặt tay lên cánh tay cô. “Mình ở cùng tôi, Izz à. Không cần biết là ở đâu.”
“Vẫn đúng vậy sao Tom?”
Cô vẫn cầm dây kim ngân, lơ đãng vuốt ve mặt lá. Tom ngắt đám hoa mượt mà trên đó. “Hồi còn nhỏ tôi vẫn hay ăn hoa này. Mình có vậy không?”
“Thật sao?”
Anh cắn đài hoa, hút giọt mật từ đế hoa. “Chỉ ngọt một giây thôi. Nhưng cũng đáng lắm.” Anh ngắt thêm một bông nữa, đặt lên môi cô.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 15 Aug 2019

Chương ba mươi bảy

Hopetoun, Ngày 28 tháng Tám năm 1950

Ngày nay Hopetoun chẳng còn gì nhiều, trừ cây cầu tàu dài vẫn như đang thì thầm nhắc lại thời hoàng kim khi thị trấn vẫn còn là cảng vận chuyển cho các bãi vàng. Cảng đã đóng cửa từ năm 1936, chỉ vài năm sau khi Tom và Isabel dọn đến. Anh trai Cecil của Tom chỉ thọ hơn người cha có vài tuổi. Khi Cecil mất, tiền thừa kế đủ để mua một trang trại nhỏ ở rìa thị trấn. Cơ ngơi của Tom và Isabel tính theo tiêu chuẩn ở thị trấn thuộc loại nhỏ, nhưng vẫn chạy dọc theo bờ biển vài dặm. Ngôi nhà nằm trên sườn núi mép đất liền, nhìn xuống bãi biển dài. Họ sống một cuộc đời yên tĩnh. Thi thoảng có vào thị trấn. Trang trại thì thuê người phụ giúp.
Hopetoun nằm trong vịnh ngang, cách Partageuse gần bốn trăm dặm về phía đông, đủ xa để họ không dễ tình cờ gặp người quen xứ Mũi, nhưng đủ gần để hàng năm cha mẹ Isabel ghé thăm mỗi dịp Giáng Sinh, cho đến những năm tận cuối đời. Ralph thi thoảng vẫn thư từ qua lại - chỉ vài dòng thăm hỏi, ngắn gọn, không màu mè nhưng tận đáy lòng. Sau khi Hilda qua đời thì gia đình con gái dọn vào ở chung với Ralph, chăm sóc cho lão rất chu đáo nhưng đến giờ lão cũng đã yếu đi nhiều. Khi Bluey cưới Kitty Kelly, Tom và Isabel gởi quà nhưng không đến dự. Cả hai chưa bao giờ về lại Partageuse.
Hai mươi năm trôi qua như dòng nước sông yên tĩnh chảy giữa miền quê, lòng sông ngày một sâu thêm.

Đồng hồ đổ chuông. Gần đến giờ lên đường. Ngày nay, đường sá đã được tráng nhựa, từ nhà ra thị trấn chỉ cần lái xe một quãng ngắn. Không như lúc họ mới đến. Tom thắt cà vạt, thấy một người lạ tóc bạc đang nhìn mình. Trong chớp mắt anh nhận ra mình trong gương. Giờ đây bộ complet trở nên rộng thùng thình với anh, cổ áo không còn bó sát như trước nữa.
Bên ngoài cửa sổ sóng vẫn cuộn trào, vỡ tan thành muôn vàn bọt trắng rơi xuống biển xa. Đại dương không hề in dấu thời gian, mặc cho năm tháng trôi đi. Âm thanh duy nhất vang lên là tiếng gió tháng Tám lồng lộn.
Tom đặt phong thư vào chiếc rương bằng gỗ long não, kính cẩn đóng lại. Rồi đây những thứ trong rương sẽ mất hết ý nghĩa, như thứ ngôn ngữ trong chiến hào đã bị lãng quên, chỉ còn thuộc về một khoảng thời gian xưa cũ. Năm tháng tẩy mòn ý nghĩa mọi thứ, cho đến khi chỉ còn quá khứ trắng lạnh như xương, không cảm xúc, không ý nghĩa.

Bệnh ung thư đã làm xong việc từ hàng tháng trước, giờ đây chỉ còn gặm nhấm từng ngày của Isabel. Không còn gì khác để làm, chỉ chờ đợi. Anh đã ngồi bên giường cô, nắm tay cô hàng tuần. “Mình nhớ cái máy hát không?” anh hỏi, hay “Không biết bà Mewett sau này ra sao nhỉ?” Cô mơ hồ mỉm cười. Đôi khi, cô cố sức nói được, “Đừng quên tỉa cây nghe mình?” Hay, “Mình kể chuyện em nghe đi Tom. Kể chuyện gì kết thúc có hậu ấy,” rồi anh sẽ vuốt má cô mà thì thầm, “Ngày xửa ngày xưa có một cô bé tên là Isabel, tính tình nóng nảy nhất vùng…” Khi kể câu chuyện, anh nhìn những những đốm nắng trên tay cô, để ý thấy khuỷu ngón tay hơi sưng lên còn chiếc nhẫn giờ đây đã lỏng lẻo giữa hai đốt tay.
Gần đến lúc đi, cô không thể tự uống nước, Tom nhúng khăn ướt để cô ngậm, thoa kem mỡ cừu lên môi cô cho đỡ khô nứt. Anh vuốt tóc cô, giờ đây đã bạc nhiều, thắt thành bím dày sau lưng. Anh nhìn lồng ngực gầy gò của Isabel nhô lên hạ xuống, cũng thấp thỏm như khi Lucy vừa đến Janus: mỗi hơi thở là một cuộc vật lộn, một chiến thắng.
“Mình có hối hận là đã gặp em không hả Tom?”
“Tôi sinh ra là để gặp mình, Izz à. Tôi nghĩ vậy đó,” anh nói rồi hôn lên má cô.
Đôi môi anh nhớ lại nụ hôn đầu tiên hàng chục năm trước, trên bãi biển lộng gió trong buổi hoàng hôn: người con gái liều lĩnh, không biết sợ hãi, chỉ nghe theo trái tim mình. Anh nhớ tình yêu mà cô dành cho Lucy, lập tức, dữ dội và không hề nghi ngại — thứ tình yêu sẽ được đền đáp cả cuộc đời, nếu đời rẽ một ngã khác.
Anh đã cố thể hiện tình yêu của mình với Isabel, trong từng cử chỉ ba mươi năm qua. Nhưng giờ đây ngày tháng cạn kiệt. Không còn đủ thời gian nữa, anh thấy gấp gáp. “Izz,” anh nói, ngập ngừng. “Mình có muốn hỏi tôi điều gì không? Bất cứ điều gì mà mình muốn tôi nói ra? Gì cũng được. Tôi không giỏi nói năng nhưng nếu mình muốn gì, tôi hứa tôi sẽ cố mà trả lời.”
Isabel cố mỉm cười. “Chắc là mình nghĩ kỹ lắm rồi hả Tom.” Cô khẽ gật đầu, rồi vỗ nhẹ lên tay anh.
Anh nhìn ánh mắt cô. “Hoặc là cuối cùng tôi cũng thấy sẵn sàng để nói…”
Giọng cô yếu ớt. “Không sao cả. Giờ em không cần gì nữa.”
Tom vuốt tóc cô, nhìn vào mắt cô một hồi lâu. Anh tựa trán mình lên trán cô, cứ ở vậy, yên lặng cho tới khi hơi thở cô thay đổi, rời rạc đi.
“Em không muốn bỏ mình mà đi,” cô nói, nắm chặt tay anh. “Em sợ lắm mình à. Sợ lắm. Nếu Chúa không tha thứ cho em thì sao?”
“Chúa đã tha thứ cho mình từ nhiều năm trước. Giờ đã đến lúc mình phải tha thứ cho chính mình.”
“Còn lá thư?” cô lo lắng hỏi. “Mình sẽ giữ gìn lá thư chứ?”
“Tôi sẽ giữ, Izz à. Tôi sẽ giữ cẩn thận.” Gió lay cửa sổ, như hàng chục năm trước trên Janus.
“Em sẽ không tạm biệt mình, lỡ Chúa có nghe thấy mà nghĩ rằng em muốn đi.” Cô nắm chặt tay anh. Sau đó, cô không thể nói gì nữa. Thi thoảng cô mở mắt, trong mắt cô sáng lên, thứ ánh sáng mỗi lúc một rõ khi hơi thở trở nên nông và nhọc hơn, như thể cô vừa được tiết lộ một bí mật rồi đột nhiên hiểu ra điều gì đó.
Và rồi, trong buổi tối cuối cùng đó, khi vầng trăng khuyết lẫn vào mây gió, nhịp thở của Isabel thay đổi, sự thay đổi mà Tom biết quá rõ. Cô tuột khỏi tay anh.
Mặc dù nhà có điện, Tom ngồi đó chỉ với ánh đèn dầu soi mặt người vợ: ánh đèn mềm mại biết bao, thứ ánh sáng từ ngọn lửa trần. Cũng hiền hậu hơn. Anh ngồi bên cô cả đêm hôm đó, đợi trời sáng rồi mới gọi điện cho bác sĩ, làm cái việc canh gác, như những ngày xưa cũ.
Tom đi bộ trên lối nhỏ, anh ngắt lấy một nụ hồng vàng từ bụi hồng mà Isabel trồng lúc hai người vừa dọn đến. Mùi hoa chưa nở đá nồng, làm anh nhớ đến gần hai mươi năm trước, hình ảnh cô quỳ gối bên bồn hoa vừa xới, hai tay vun đất quanh bụi cây non. “Cuối cùng ta cũng có được vườn hồng, Tom nhỉ”, cô nói. Đó là lần đầu tiên anh thấy cô cười kể từ khi rời Partageuse. Hình ảnh đó đọng mãi trong anh, như một tấm ảnh kỷ niệm.
Sau đám tang là tiệc trà tưởng niệm nhỏ ở sảnh nhà thờ. Tom nán lại cho phải phép lịch sự. Nhưng anh ước gì người ta thực sự biết người vừa nằm xuống là ai: Isabel mà anh gặp trên cầu tàu, đầy sức sống, liều lĩnh, tinh nghịch. Nửa bầu trời còn lại của anh.

Hai ngày sau đám tang, Tom ngồi một mình trong căn nhà giờ đây trống trải và yên ắng. Bên ngoài bụi tốc lên, dấu hiệu có xe vừa tới. Chắc là người giúp việc bên trang trại. Nhưng khi chiếc xe tới gần, anh nhìn lần nữa. Chiếc xe loại đắt tiền, mới cứng, mang biển số Perth.
Chiếc xe dừng lại gần nhà, Tom bước ra trước cửa.
Một người phụ nữ bước ra khỏi xe, vuốt mái tóc vàng rồi vấn chặt sau gáy. Cô nhìn quanh, chậm rãi đi lên phía hiên nhà, nơi Tom đang đứng.
“Chào cô,” anh lên tiếng, “cô bị lạc sao?”
“Cháu mong là không lạc,” người phụ nữ đáp.
“Tôi giúp gì được?”
“Cháu tìm nhà ông bà Sherbourne.”
“Cô tìm thấy rồi đó. Tôi là Tom Sherbourne.” Anh đợi cô gái giải thích.
“Vậy thì cháu không lạc rồi.” Cô gượng cười.
“Tôi xin lỗi,” Tom nói, “tuần vừa rồi lu bu quá. Tôi có quên gì chăng? Một cuộc hẹn trước?”
“Không, cháu không có hẹn trước. Nhưng cháu đến để gặp bác. Và…” cô ngập ngừng, “bác gái. Cháu nghe nói bác ấy ốm nặng.”
Tom thấy bối rối, cô nói tiếp, “Tên cháu là Lucy-Grace Rutherford. Hồi con gái là Roennfeldt…” Cô mỉm cười lần nữa. “Cháu là Lucy.”
Anh nhìn cô sửng sốt. “Lulu? Lulu bé nhỏ,” anh nói, cứ như là tự nói với mình. Anh vẫn đứng tại chỗ.
Người phụ nữ đỏ mặt. “Cháu không biết phải gọi bác là gì… và cả bác gái.” Đột nhiên một suy nghĩ chợt nảy đến, cô hỏi, “Cháu mong bác ấy không phiền. Cháu mong là cháu không phiền hai bác.”
“Bà ấy đã rất trông cô đến.”
“Gượm đã. Cháu còn mang theo cái này nữa,” cô nói, rồi quay trở ra xe. Cô mở của trước, mang ra một cái nôi xách tay, gương mặt cô vừa dịu dàng vừa hãnh diện. “Đây là Christopher, con trai cháu. Ba tháng tuổi.” Đứa bé quấn chăn trông y hệt như Lucy lúc còn nhỏ, Tom thấy nhói lòng. “Nếu còn, Izzy hẳn rất muốn gặp thằng bé. Chuyện cô tới thăm đây hẳn làm bà ấy rất vui.”
“Ôi. Cháu rất tiếc… Bác gái… khi nào…?” Cô bỏ lỡ câu hỏi.
“Một tuần rồi. Đám tang hôm thứ Hai.”
“Cháu không biết. Nếu bác muốn cháu sẽ ra về…”
Anh nhìn đứa bé một hồi lâu, rồi ngẩng lên, thoáng mỉm cười xao xuyến. “Vào nhà đi.”
Tom mang ra khay, ấm và tách trà, Lucy-Grace ngồi nhìn ra đại dương, đứa bé nằm bên cạnh trong nôi.
“Phải bắt đầu từ đâu hả bác?” cô hỏi.
“Hay cứ ngồi yên một lúc đã?” Tom đáp. “Để cho quen.” Anh thở dài. “Lucy bé bỏng. Sau ngần đó năm.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Ánh Ðèn Giữa Hai Ðại Dương - M. Stedman

Postby bevanng » 15 Aug 2019

Cả hai ngồi đó trong im lặng, uống trà, nghe tiếng gió gào từ đại dương, thi thoảng lại kéo dạt đám mây đủ để một vạt nắng chiếu qua cửa sổ, đổ xuống nền nhà. Lucy nghe mùi căn nhà: mùi gỗ cũ, mùi khói lò sưởi, và mùi nước đánh bóng. Cô không dám nhìn thẳng vào mắt Tom, cứ nhìn quanh. Tranh thánh Michael; một lọ hoa hồng vàng. Tấm ảnh cưới của Tom và Isabel, cả hai tươi trẻ, tràn đầy hy vọng. Trên kệ có sách hàng hải, hải đăng, âm nhạc, có những cuốn rất lớn chẳng hạn như cuốn Thiên văn đồ Brown, lớn đến nỗi phải đặt nằm ngang. Trong góc nhà có một cây dương cầm, mấy tờ chép nhạc chồng lên đó.
“Làm sao mà cô biết?” Cuối cùng Tom hỏi. “Chuyện Isabel bị ốm?”
“Mẹ cháu nói. Khi bác viết thư cho Ralph Addicot kể chuyện, Ralph có đến gặp mẹ cháu.”
“Ở Partageuse?”
“Giờ mẹ cháu đã dọn về đó. Khi cháu năm tuổi thì hai mẹ con dọn đến Perth, muốn làm lại từ đầu. Mẹ chỉ dọn về Partageuse khi cháu vào Không Quân Nữ năm 1944. Sau đó mẹ dọn về với dì Gwen ở Bermondsey, chỗ ông ngoại để lại. Sau chiến tranh cháu ở hẳn lại Perth.”
“Còn chồng cô?”
Cô cười tươi. “Tên là Henry! Gặp nhau hồi còn ở Không Quân… Anh ấy rất dễ thương. Chúng cháu kết hôn hồi năm ngoái. Cháu rất may mắn.” Cô nhìn ra mặt nước phía xa, rồi nói, “Cháu vẫn thường nghĩ về hai bác, nhiều năm qua. Không biết hai bác ra sao. Nhưng cho tới khi…”cô dừng lại, “cho tới khi cháu sinh Christopher thì cháu mới thực sự hiểu: tại sao hai người làm như vậy. Và tại sao mẹ không thể tha thứ cho hai người. Vì con cháu có thể làm bất cứ việc gì. Không cần suy nghĩ.”
Cô vuốt lại mặt váy. “Cháu vẫn nhớ vài chuyện. Hoặc ít ra cháu nghĩ vậy… như những giấc mơ rời rạc: ngọn đèn, đương nhiên rồi; tháp hải đăng, rồi cả cái ban công quanh nó… gọi là gì nhỉ?”
“Vọng đài.”
“Cháu nhớ ngồi trên vai bác. Chơi dương cầm với bác gái. Một bài hát gì đó kể chuyện chim gì đó trên cây, rồi cả lúc tạm biệt bác…”
“Rồi mọi thứ lẫn lộn và cháu không nhớ gì nhiều. Chỉ còn cuộc sống mới ở Perth, và trường lớp. Nhưng mà nhiều nhất, cháu nhớ gió, sóng và đại dương: cứ như đã ăn vào máu thịt. Mẹ cháu không thích nước. Chẳng bao giờ đi bơi cả.” Cô nhìn đứa bé. “Cháu không thể đến sớm hơn. Cháu phải đợi mẹ… ừm… cho phép.”
Ngắm cô Tom thấy thấp thoáng nét mặt của cô bé ngày nào. Nhưng thật khó liên kết giữa người phụ nữ ngồi đây và cô bé đó. Và ban đầu anh cũng chật vật tìm lại lại con người cũ bên trong mình, người đã từng yêu thương Lucy hết mực. Vậy mà. Vậy mà người cha trẻ tuổi đó vẫn còn đó, còn đâu đó, trong giây lát, rõ ràng như tiếng chuông đổ, anh nghe thấy giọng con bé lảnh lót. “Ba ơi! Ba ơi bồng Lulu đi!”
“Bà ấy có để lại cái này cho cô,” anh nói, rồi đi đến chiếc rương gỗ long não. Anh mở rương lấy ra lá thư, đưa cho Lucy-Grace. Cô cầm lá thư một lúc rồi mới mở ra.

Lucy thương yêu của má,
Thật lâu phải không con. Thật là lâu quá. Má đã hứa sẽ đi xa con, và má đã giữ lời, mặc dù vô cùng khó khăn.
Giờ má đã đi rồi, nên con mới đọc lá thư này. Má thấy an ủi lắm vì con đã tới tìm ba má. Má chưa bao giờ hết hy vọng là một ngày con sẽ tới.
Trong cái rương cùng với lá thư còn có mấy thứ đồ hồi con còn rất nhỏ: áo con mặc lúc rửa tội, cái chăn vàng, vài bức tranh con vẽ khi còn nhỏ. Rồi cả mấy thứ má làm cho con sau đó, mấy thứ đồ vải. Má giữ cho con - kỷ niệm phần đời đã mất. Để nếu mà con có muốn tìm lại.
Giờ con đã lớn khôn. Má mong đời con gặp nhiều may mắn. Má hy vọng con có thể tha thứ cho má đã giữ con lại. Rồi để con đi.
Nhớ rằng lúc nào má cũng thương con.
Má thương yêu của con


Những chiếc khăn mùi soa thêu tay xinh xắn, mấy đôi giày bằng len móc, cả chiếc mũ bằng vải satin: mọi thứ được gấp lại cẩn thận trong rương, cất kỹ dưới những món đồ thơ ấu của chính Isabel. Tom không hề biết là Isabel giữ lại những thứ đó. Những mảnh vỡ của một thời. Của một đời. Cuối cùng, Lucy-Grace mở cuộn giấy có cột ruy-băng. Bản đồ Janus, do chính tay Isabel trang trí từ ngày xa xưa: Bãi Đắm Tàu, Vũng Phản Trắc… vết mực vẫn còn tươi sáng. Tom thấy nhói lòng khi nhớ đến cái ngày cô đưa tấm bản đồ cho anh, khi đó anh chỉ thấy sợ vì đã vi phạm quy định. Đột nhiên anh thấy trào dâng tình yêu với Isabel, cả nỗi đau mất cô.
Lucy-Grace đọc bản đồ, một giọt nước mắt lăn xuống gò má cô, Tom đưa cho cô chiếc khăn mùi soa của anh đã được gấp cẩn thận. Cô lau mắt, nghĩ ngợi, rồi cuối cùng nói, “Cháu chưa bao giờ được cảm ơn hai bác. Nói với bác và với cả… má, đã cứu con, đã chăm sóc cho con… Con còn nhỏ quá… rồi sau đó thì đã muộn.”
“Con không phải cảm ơn ba má.”
“Con còn sống là nhờ có ba má.”
Đứa bé òa khóc, Lucy cuối xuống ôm nó. “Shh, shh, cưng à. Con không sao mà. Con không sao, thỏ con à.” Cô đung đưa đưa đứa bé một lúc, nó nín khóc. Cô quay nhìn Tom. “Ba thử bồng nó xem?”
Anh ngập ngừng. “Ba không quen, đã lâu rồi.”
“Thôi mà,” cô nói rồi đặt đứa bé vào tay anh.
“Nhìn con này,” anh nói, mỉm cười, “Giống y mẹ con ngày xưa vậy, phải không hả? Cái mũi này, mắt xanh này.” Đứa bé chăm chú nhìn Tom, những cảm xúc xa xưa lại tràn về. “Ôi Izzy hẳn đã rất muốn gặp con.” Một giọt nước dãi lấp lánh bên khóe môi đứa bé, Tom nhìn dải cầu vồng nơi đó khi nắng chiếu lên. “Nếu còn, chắc Izzy cũng thương con lắm,” anh nói, rồi nghẹn ngào.
Lucy-Grace nhìn đồng hồ. “Con phải đi đây. Tối nay con ở Ravensthorpe. Không muốn lái xe lúc trời tối — lỡ mà đâm trúng kangaroo.”
“Đúng rồi.” Tom gật đầu về phía chiếc rương gỗ long não. “Để ba giúp con bỏ nó vào xe? Nếu mà… nếu mà con muốn đem đi. Ba cũng hiểu nếu con không muốn lấy.”
“Con không muốn lấy,” cô nói, vẻ mặt Tom chùng xuống, cô mỉm cười, “bởi vì như vậy hai mẹ con con sẽ còn có cớ mà quay lại. Con sẽ ghé lại sớm.”

Mặt trời chỉ còn là ánh bạc lấp lánh trên ngọn sóng khi Tom thả người xuống chiếc ghế gỗ dài ở ngoài hiên. Bên cạnh anh, trên ghế của Isabel là những chiếc gối tựa chính tay cô làm, có thêu mấy ngôi sao và mặt trăng lưỡi liềm. Gió vừa lặng, mấy đám mây bùng lên màu cam sẫm phía chân trời. Một tia sáng chiếu qua hoàng hôn: hải đăng Hopetoun. Ngày nay hải đăng đều đã tự động hóa — không còn người gác đèn kể từ khi cảng chính đóng cửa. Anh nghĩ về Janus, về ngọn đèn anh chăm chút bao lâu xưa, mỗi tia sáng của nó vẫn còn dạo chơi đâu đó trong bóng tối xa xôi bên rìa vạn vật.
Cánh tay anh vẫn còn nhớ sức nặng đứa con trai của Lucy, rồi cảm giác đó gợi mở ký ức của cơ thể, trở về lúc anh ôm Lucy, và trước đó nữa là ôm đứa con trai chỉ trong thoáng chốc. Nếu nó sống sót thì bao nhiêu cuộc đời nữa đã khác đi. Anh hít sâu, suy nghĩ một lúc, rồi thở dài. Nghĩ vậy chẳng có ích gì. Một khi đã bắt đầu nghĩ theo hướng đó, dường như không bao giờ có hồi kết. Anh đã sống cuộc đời đó. Đã yêu người đàn bà đó. Không ai khác đã đi, hoặc sẽ đi theo con đường đó trên thế gian này, anh thấy cũng yên lòng. Anh vẫn còn thương nhớ Isabel đến cồn cào: nụ cười của cô, làn da của cô. Những giọt nước mắt mà anh đã nuốt lại trước mặt Lucy giờ đây chảy dài trên mặt.
Anh nhìn sang bên, mặt trăng tròn đang lên trên bầu trời như giữ thăng bằng với mặt trời đã gần tàn ở phía chân trời đối diện. Mỗi sự kết thúc lại là một khởi đầu khác. Christopher bé bỏng đã được sinh ra trong một thế giới mà ngày trước Tom không thể nào hình dung được. Có lẽ nó sẽ không phải thấy chiến tranh? Lucy-Grace cũng vậy, đã thuộc về một tương lai mà Tom chỉ có thể ước đoán. Nếu Lucy yêu con trai chỉ bằng một nửa tình yêu Isabel dành cho cô, đứa bé sẽ được hạnh phúc.
Vẫn còn nhiều ngày phía trước. Và anh biết rằng mỗi người trong cõi đi về cứ đổi thay theo từng ngày, theo từng mối nhân duyên trong đời. Những vết sẹo cũng chỉ là một thứ ký ức khác. Isabel là một phần của anh, dù cô có ở đâu nữa, cũng như cuộc chiến, và ánh đèn hải đăng, và cả đại dương. Rồi ngày tháng sẽ xóa nhòa cuộc đời họ, cỏ sẽ phủ xanh những ngôi mộ, đến khi câu chuyện của họ chỉ là một tấm bia không người thăm viếng.
Anh nhìn đại dương đang đầu hàng trước đêm tối, biết rằng rồi ngọn đèn sẽ lại hiện ra.

Lời cảm ơn
Cuốn sách được ra đời với rất nhiều “bà đỡ”. Có quá nhiều người đá giúp tôi mang nó đến với cuộc đời, nếu kể tên từng người một tôi sẽ phải viết một cuốn nữa thì mới đủ. Tôi hy vọng mình đã cảm ơn từng người trong suốt cuộc hành trình, nhưng một lần nữa tôi muốn ghi nhận công lao đó ở đây. Đóng góp của mỗi người đều độc đáo và vô giá: có người ở một thời điểm cụ thể; có người trong suốt một thời gian dài và có người 'là trong suốt cả cuộc đời.
Cảm ơn mọi người đã giúp tôi kể câu chuyện này. Tôi quả thực rất may mắn.



(Hết)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 63 guests