Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa - Hùng Đại Mộc

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa - Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Vào đời triều đại Tống ở Trung Quốc... gia tộc họ Dương đã cống hiến hầu hết các thành viên của gia đình mình cho công cuộc bảo vệ đất nước (Trung Quốc lúc ấy đang bị đe dọa bởi sức mạnh ngoại xâm của các dân tộc Mông, Kim...)

Những tấm gương trung dũng anh hùng của gia tộc họ Dương được kể lại khá hấp dẫn trong tiểu thuyết lịch sử truyền kỳ "Dương gia tướng diễn nghĩa" rất nổi tiếng trong lịch sử văn học cổ điển Trung Quốc


Image

Tác giả : Hùng Đại Mộc

Dịch giả: Tiểu Khê.


Hồi Thứ Nhất

Vua Bắc Hán Đuổi Bỏ Trung Thần
Hô Diên Tán Kịch Liệt Báo Thù


Nói về chúa Bắc Hán là Lưu Quân nghe tin Trung Quốc bình định các trấn, bèn triệu quần thần bàn rằng:

- "Tiên quân và nhà Chu có mối thù truyền kiếp, nay vua Tống có chí không nhỏ, giờ đã dẹp yên các nước, làm sao có thể để trẫm đây xưng bá một phương". Gián nghị đại phu Hô Diên Đình xuất ban tâu rằng:

- "Thần nghe vua Tống là chúa anh võ, các nước đều đã quy hàng. Nay bệ hạ chỉ có một góc đất nhỏ, huống chi binh yếu tướng ít, làm sao có thể chống cự, chi bằng viết biểu xin nạp cống, mới tránh được họa lớn cho nhân dân và có thể bảo vệ không phải lo lắng cho đất Hà Đông nữa".

Lưu Quân do dự chưa quyết, chợt khu mật phó sứ Âu Dương Phảng tâu lên:

- "Hô Diên Đình thông mưu với Trung Quốc, mới xin bệ hạ đầu hàng. Nay Tấn Dương có địa thế nổi trội, đế vương do đây mà được nổi lên, vô sự thì lấy dân mà thủ, gặp biến thì cầm giáo mà đánh, ta có thế như vậy sao lại phải nương nhờ kẻ khác? Nay nên chém Hô Diên Đình để chính quốc pháp”.

Quân chuẩn tấu, ra lệnh lôi Hô Diên Đình chém đầu. Quốc cữu Triệu Toại vội can:

- "Lời của Hô Diên Đình là lời trung nghĩa, sao có thể là thông mưu với Trung Quốc. Nếu chúa công đem chém, vua Tống nghe được, sẽ có cớ mà đánh ta. Nếu thật sự là không dùng, chỉ nên bãi chức đuổi đi đó là cách chu toàn nghĩa vua tôi đó".

Lưu Khôn nghe theo lời đó, ra lệnh cách hết quan tước, đuổi về quê ở.

Hô Diên Đình tạ ơn lui ra, ngay hôm đó thu thập hành trang, đem gia đình đi về phía Tương Châu. Âu Dương Phảng vẫn chưa vừa ý, căm hận Hô Diên Đình, nên âm mưu giết hại, sai gia nhân là Trương Thanh, Lí Đắc đến mà nói rằng:

- "Hai ngươi dẫn vài trăm tên quân khỏe mạnh, bí mật đuổi theo đến nơi ở của Hô Diên Đình, giết hết cho ta, khi về ta sẽ trọng thưởng”.

Trương, Lí hai người lĩnh mệnh, lập tức dẫn quân đuổi theo Hô Diên Đình.

Lại nói về Hô Diên Đình và mọi người đi đến dịch quán ở Thạch Sơn thì trời đã tối, bèn tháo yên nghỉ ngơi. Đêm đó bày tiệc cùng phu nhân đối ẩm, kể lại chuyện bất hạnh đã qua. Khi gần đến canh hai, chợt nghe có tiếng ồn ào ngoài quán, lửa bốc ngút trời, có người báo là có giặc cướp đến. Hô Diên Đình hoảng sợ, kêu người nhà mau chạy. Bọn người Trương Thanh, Lí Đắc ùa vào trong quán, giết sạch già trẻ cả nhà Hô Diên Đình; cướp cả châu báu rồi đi. Lúc đó các người tùy tùng mỗi người đều lo chạy trốn, chỉ có người tiểu thiếp là Lưu Thị bế người con nhỏ chạy vào trong nhà xí, giữ được mạng sống. Tới canh tư, Lưu Thị than rằng:
- "Ai ngờ nhà ta lại gặp kiếp nạn này, khiến mẹ con ta mất cả nơi nương tựa" và khóc lớn.

Chợt có một người ở phía sau nói rằng:

- "Tiểu nương tử vì sao lại khóc?"

Dưới ánh sao đêm, Lưu Thị nước mắt đầm đìa, ngước mặt nhìn xem là ai thì người này bước gần tới trước và hỏi:

- "Nàng là con cái nhà ai, sao đến đây một mình?"

Lưu Thị khóc mà nói rằng:

- "Thiếp là kế thất của Gián nghị đại phu bổn quốc Hô Diên Đình, do quay trở về quê nhà, tới đây bị giặc đánh cướp, giết chết hết cả nhà, chỉ còn lại thiếp và con nhỏ tránh ở nơi đây, vô kế khả thi, xin quan nhân thương tình". Người này nghe xong, nổi giận mà nói rằng:

- "Ta là lãnh cấp lưỡng viện phủ Hà Đông, họ Ngô tên Vượng. Người vừa giết ân chủ của cô, chính là gia nhân của Âu Dương Phảng là Trương Thanh, Lí Đắc giả làm giặc cướp. Nàng hãy mau ẵm con mà trốn đi, nếu không sẽ khó giữ được mạng sống"... Nói xong bèn bỏ đi.

Lưu Thị đang hoảng hốt, chợt ngoài dịch quán lại có tiếng la, một bọn người lại kéo vào, thấy Lưu Thị, bèn bắt lấy đem đến gặp Mã Trung. Mã Trung nói:

- "Nàng là người ở đâu, sao ẵm con ở đây?".

Lưu Thị nói:

- "Thiếp gặp nỗi oan ức". Và đem việc cả nhà bị hại, kể lại hết cho nghe. Mã Trung nói:

- "Trong đêm lính tuần đến báo, trong dịch quán có quan triều bị cướp. Bọn ta đang muốn kéo tới để giành chia vàng bạc, thì ra lại có chuyện khổ như vậy. Nếu nàng chịu theo ta về trang trại, nuôi dưỡng đứa bé trưởng thành, để báo thù cho nàng, nàng nghĩ sao?".

Lưu Thị nói:

- "Thiếp có nỗi oán giận rất lớn, đâu tiếc tấm thân hèn này, nên nguyện theo đại vương về”.

Mã Trung lập tức dẫn Lưu Thị về sơn trại đến gần tối. Mã Trung sắp xếp xong nơi ở cho Lưu Thị, tự dẫn thủ hạ trở về trên sơn trại. Lưu Thị bí mật sai người về trong quán dịch, thu liệm thi thể của chủ nhân, chôn cất xong xuôi quyết ý chỉ muốn báo thù, nuôi dưỡng con nhỏ.

Thấm thoát thời gian trôi qua như tên bắn, đã gần bảy năm, đứa trẻ đã lớn lên. Mã Trung đặt tên cho đứa bé là phúc Lang, và đưa đi tầm sư học nghệ. Đứa trẻ này có khuôn mặt đen như màu sắt, mắt như vòng châu, dung mạo như Uất Trì Kính Đức thời Đường. Tuy là học văn, nhưng khi rảnh bèn tập binh pháp. Khi đến tuổi 14, 15 thì cưỡi ngựa, bắn cung, võ nghệ đều tinh thông, sử dụng một cây thương sắt, có tài nghệ xuất quỷ nhập thần. Mã Trung thấy sự hùng dũng như vậy, rất là yêu thích, đổi tên cho thành Mã Tán.

Một ngày kia, Tán theo Mã Trung ra ngoài trang, thấy một đám phu khiêng một tấm bia lớn đến, trên viết rằng:

- “Thượng trụ quốc Âu Dương Phảng" mấy chữ.

Mã Trung thấy bia, mặt bỗng biến sắc giận dữ. Mã Tán nói:

- "Đại nhân thấy bia đá này vì sao có vẻ không vui?"

Trung nói:

- "Nhìn thấy tên của Âu Dương Phảng, khiến ta rất là đau lòng. Người này 15 năm trước hại cả nhà của Hô Diên Đình, ta nghe nói Hô Diên Đình vẫn còn có một người con còn sống. Ta nếu gặp được cậu ấy, sẽ cùng đi báo thù này!".

Tán nổi giận nói rằng:

- "Tiếc rằng con không phải là con trai của Hô Diên Đình, nếu không, sẽ đi báo thù ngay hôm nay".

Trung nói:

- "Việc này mẹ con biết rõ hơn ta, con có thể hỏi mẹ con".

Tán về trang, vào gặp mẹ là Lưu Thị, hỏi về chuyện Âu Dương Phảng hại cả nhà Hô Diên Đình. Lưu Thị nghẹn ngào rơi lệ, khóc mà nói rằng:

- "Ta ngậm mối hận này, nay đã 15 năm. Con chính là con trai của Hô Diên Đình, người cha hiện nay chỉ là cha nuôi của con mà thôi".

Tán nghe lời này, ngã lăn ra xỉu. Mã Trung xốc vào, cứu tỉnh. Tán khóc nói rằng:

- "Hôm nay con xin bái biệt cha mẹ đi báo oán này!”.

Trung nói:

- "Hắn là quyền thần đất Hà Đông, thuộc hạ và quân sĩ rất nhiều, làm sao đến gần được, phải dùng kế sách mà thôi. Con về sau chỉ nên gọi ta là chú."
Hô Diên Tán lạy và nói:

- "Thúc Thúc có kế sách nào dạy bảo, con suốt đời không quên ơn".

Mã Trung còn đang suy nghĩ, chợt nghe báo Cảnh Trung đến thăm. Mã Trung lập tức ra nghênh đón vào trang, ngồi xuống rồi dạy Mã Tán vào gặp. Cảnh Trung hỏi:

- "Vị này là ai?"

Mã Trung đáp:

- "Nó là nghĩa tử của ta tên là Mã Tán" rồi hỏi Cảnh Trung đến có việc gì. Cảnh Trung nói:

- "Vừa rồi đánh với bọn khác, thắng được một con ngựa tốt, tên là Ô Long Mã, nay muốn đem đến Hà Đông, bán cho Âu Dương Phảng thừa tướng, trên đường đi qua trang trại của tôn huynh, đệ đặc biệt vào thăm".

Mã Trung nói:

- "Nếu hiền đệ có ngựa tốt như vậy, chi bằng bán cho con ta, vì ta trong đó có lý do".

Mã Trung nói:

- "Tôi với anh tuy kết bái, nhưng tình hơn ruột thịt, con anh tức là cháu tôi, ngựa này xem như tôi tặng vậy".

Mã Trung mừng rỡ, bèn sai dọn tiệc chiêu đãi. Trong tiệc, Mã Trung kể về việc cả nhà Hô Diên Đình bị Âu Dương Phảng mưu hại, và đứa con này là con ruột của Hô Diên Đình, đang muốn trả thù, nhưng chưa có mưu kế gì. Cảnh Trung nghe xong giận dữ nói rằng:

- "Anh chớ lo, em có một kế, có thể giết được Âu Dương Phảng".

Mã Trung nói:

- "Đệ có kế gì, huynh xin chỉ giáo”.

Cảnh Trung kêu Mã Tán tới gần nói:

- "Nay cháu đem con ngựa này vào phủ Âu Dương Phảng, nói là lễ vật xin bái kiến. Hắn được ngựa này, sẽ hỏi cháu muốn chức quan gì, cháu phải nói là không muốn làm quan, chỉ muốn nuôi ngựa cho tướng công. Hắn rất vui mừng mà thu nhận, đợi có cơ hội, nhân đó giết đi, sẽ báo được thù này".

Hô Diên Tán(tức Mã Tán) lạy chịu kế này. Ngày kế tiệc tan, Cảnh Trung cáo từ về sơn trại. Ngày sau nữa, Mã Tán lạy chào Mã Trung Lưu Thị lên ngựa khởi hành. Người sau có thơ làm chứng:

Hào nghị anh hùng đảm. khí thô,
Hiên ngưỡng nhân vật thế gian vô
Thử hành tất đinh oán năng báo,
Phương biểu nam nhi đại trượng phu.

Lại nói Hô Diên Tán rời khỏi Mã Gia Trang, theo đường đi về Hà Đông, hỏi thăm phủ Âu Dương Phảng và nhờ người vào báo rằng:

- "Trước cửa phủ có một tráng sĩ dắt một con ngựa tốt, muốn đến dâng cho tướng công . Âu Dương Phảng nghe xong, ra lệnh cho vào. Tán vào dưới thềm quỳ nói:

- "Tiểu nhân gần đây mua được ngựa hay, đặc biệt đem dâng cho tướng công, dùng làm lễ vật ra mắt".

Âu Dương Phảng nói:

- "Ngươi là người ở đâu đến?" Tán trả lời :

- "Tổ cư Mã Gia Trang, tiểu nhân họ Mã tên Tán". Âu Dương Phảng hỏi:

- "Ngựa này giá trị ra sao?" Mã Tán nói: "Nó có giá trị liên thành".

Âu Dương Phảng nghe xong nghĩ ngợi, người này chắc muốn làm quan. Khiến tả hữu hỏi. Mã Tán trả lời:

- "Tiểu nhân không muốn làm quan, chỉ muốn hầu hạ tướng công một vài năm, cũng đã là người có danh phận rồi". Âu Dương Phảng thấy Mã Tán nghi biểu kỳ đặc, lại tặng hắn ngựa tốt, bất giác vui vẻ, lập tức lưu Mã Tán làm tả hữu sai khiến. Tán hành sự suy xét kỹ càng, dần dần biết ý, nên rất được Phảng yêu quý.

Năm Khai Bảo thứ bảy vào tết Trung thu tháng tám, Âu Dương Phảng và phu nhân uống rượu ngắm trăng ở đình của hậu viên. Để thấy được cảnh đẹp đêm Trung thu, có "Thủy điệu ca đầu” của Tô Tử Chiêm làm chứng:

Minh nguyệt kĩ thời hữu? Bả tửu vấn thanh thiên. Bất tri thiên thượng cung khuyết. Kim tịch thị hà niên? Ngã dục thừa phong khứ, hữu khủng quỳnh Lầu ngọc vũ, cao xứ bất thắng hàn. Khởi vũ lộng thanh ảnh, hà xử tại nhân gian! Chuyển Chu các, Đê ỷ hộ chiếu vô miên. Bất ưng hữu hận, hà sự trường hướng biệt thời viên? Nhân hữu bi thương li hợp, nguyệt hữu âm tịnh viên khuyết, thử sự cổ nan toàn. Đán nguyệt nhân trường cửu thiên lí cộng thuyền quyên.

Âu Dương Phảng uống say, được phu nhân dìu vào thư viện, dựa vào kỉ mà ngồi. Tán đi theo vào thư viện, tự nghĩ rằng:

- "Không hạ thủ ở đây, còn đợi đến lúc nào?"

Ngay lúc rút dao ra, chợt thấy ngoài cửa sổ có người đem đèn lồng vào viện, thì ra là quản gia đến mời Phảng đi nghỉ. Tán cất dao vào vỏ than rằng:

- "Tên giặc này còn phúc đức dư lại, phải tính cách khác thôi".

Ở đây nói về Quốc cữu Triệu Toại thấy Âu Dương Phảng chuyên chính đã lâu, sợ rằng sẽ gây binh biến. Một ngày nọ, tâu với vua Bắc Hán:

- "Phảng có tội đáng phải giết, bệ hạ nếu không sớm trừ đi, thì sẽ có họa lớn đấy!”.

Và cùng với đại tướng Đinh Quý ra sức đàn hặc tội của Phảng. Lưu Quân bèn bãi chức thừa tướng của Phảng, phong cho làm Đoàn luyện sứ. Phảng xấu hổ vì phải ngang hàng với Triệu Toại, dâng sớ về quê. Hán Vương chuẩn tâu. Ngay ngày đó Phảng thu thập hành lí, dẫn người nhà rời khỏi Tấn Dương, hướng về Vận Châu mà đi. Không đến một ngày, đã về đến nhà, họ hàng thân thuộc đều đến chúc mừng, Phảng ngày nào cũng mở tiệc thết đãi.

Thấm thoát đến ngày 9 tháng 9, là ngày sinh nhật của Phảng, nên sai chuẩn bị yến tiệc, cùng vui với phu nhân. Hô Diên Tán một mình ở ngoài phòng, buồn bã không việc gì làm. Khi gần đến canh hai, bước ra ngoài đình hóng mát, chợt thấy trăng sáng vằng vặc, gió Tây vi vu Tán ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- "Vốn dĩ đến đây vì cha mẹ báo thù, nhưng lại không được toại chí, sao trời xanh lại không thấy cho ta?" Nói xong gạt nước mắt vào phòng, đặt lưng nằm xuống.

Chợt ngoài cửa sổ nổi lên một trận gió lạ. Hô Diên Tán mơ màng thấy rất nhiều người máu me đầy mình, tiến tới vây lấy Tán mà kêu rằng: "Cha mẹ ngươi bị Âu Dương Phảng làm hại, hôm nay chính là lúc có thể báo thù đó!".

Tán nghe xong, giật mình thức dậy, hóa ra là giấc mộng. Đang nghi hoặc, chợt người hầu đến kêu:

- "Mã đề hạt, tướng công có việc gọi ngài".

Hô Diên Tán giấu theo dao bén, đi tới thư viện, thấy Âu Dương Phảng ngủ ở trên giường. Âu Dương Phảng nói rằng:

- "Ta uống vài chung, còn say chưa tỉnh, ngươi hãy ở bên ta hầu hạ".

Hô Diên Tán tuân lệnh và suy nghĩ rằng:

- "Tên giặc này tới số rồi".

Gần đến canh tư, Tán bước ra bên ngoài thấy bốn bề vắng vẻ, đúng là "Nộ tự tâm thượng khởi, Ác hướng đảm biên sinh", rút dao bén từ lưng ra, hơi lạnh giá buốt, sát khí đằng đằng. Trở vào thư viện, nắm lấy Âu Dương Phảng nạt rằng:

- "Mi có biết con của Hô Diên Đình không?" Âu Dương Phảng sợ đến vỡ mật mất hồn, van xin liên hồi: .

- "Tha mạng cho ta, ta sẽ cho ngươi cả gia tài".

Nói chưa dứt lời, Tán đã đưa một dao vào cổ họng. Âu Dương Phảng đau đớn đến không lên tiếng được và hồn lìa khỏi xác. Tán giết xong Âu Dương Phảng, chạy vào nhà trong, đem phu nhân và bốn mươi mấy người nam nữ thân thuộc của Âu Dương Phảng giết sạch. Tịnh Hiên có thơ vịnh rằng:

Khí khái lăng vân đôn khả gia, hoài cốt oán tất tuyết chấn Trung Hoa. Toàn gia cảnh lục thân thâm hận, thủy tín hoàng thiên báo bất sai.

Tán giết ra ngoài đình, chỉ có một nô bộc già quỳ ở dưới thềm van xin:

- "Tha mạng thừa cho tôi".

Tán nói:

- "Không liên quan đến ngươi, mau đi thu thập vàng ngọc đem đến cho ta". Lão bộc vào phòng, đem vàng bạc châu báu chất đầy một xe để Tán đem đi. Trước khi đi Tán lấy máu viết bốn câu ở cửa:

Chí khí ngưỡng ngưỡng xạ đẩu ngưu,
Hung trung cựu hận nhất thời hưu.
Phân minh sát khước Âu Dương Phảng,
Phản tác Hà Đông thiết xỉ cừu.

Hô Diên Tán viết xong, cưỡi lên Ô Long Mã, đem theo châu báu vàng bạc, chạy suốt đêm về gặp mẹ là Lưu Thị, thưa lại việc giết bốn mươi mấy người nhà Âu Dương Phảng, lấy vàng bạc mà về. Lưu Thị mừng rỡ. Qua ngày sau tới gặp chú là Mã Trung, Trung hỏi:

- "Báo được thù chăng?”

Tán đáp:

- "Nhờ hồng phúc của thúc thúc, con đã giết sạch già trẻ cả nhà Âu Dương Phảng và trước khi rời khỏi đã viết lại bốn câu”.

Mã Trung hỏi:

- "Bốn câu đó nói gì?" Tán đọc bốn câu thơ cho nghe. Trung sợ hãi nói:

- "Nếu Hán Chủ biết được, thì nhà ta sẽ có họa diệt tộc. Con nên chóng thu thập lộ phí, thẳng tới Hạ Lan sơn nương nhờ hai vị thúc thúc là Cảnh Trung, Cảnh Lượng để tránh nạn này".

Tán tuân lệnh, ngay hôm đó bái biệt cha mẹ mà đi.
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Hai
Lý Kiến Trung Ra Sức Cứu Nghĩa Sĩ
Hô Diên Tán Mơ Thần Dạy Võ Công

Lúc này trời vào tháng mười, gió rét rát mặt, lá rụng tiêu điều. Hô Diên Tán đi được mấy ngày đường, nhìn thấy trước mặt một ngọn núi hiểm trở. Tán tự nghĩ:
- "Nơi này tất có kẻ cướp ra vào".
Lời chưa dứt, chợt sau gò núi một hồi trống vang lên, xuất hiện mấy người chặn lấy đường đi, đòi Tán đưa tiền mãi lộ. Tán nổi giận:
- "Đường của mọi người, sao các ngươi dám đòi tiền? Nếu chúng mày thắng được ngọn đao trong tay ta thì cứ lấy tiền; nếu không thì lấy đầu chúng mày để thử đao".
Tên tiêu đầu mục bừng bừng lửa giận. Cầm dao xông lên, mới giao đấu với Tán được một hiệp đã bị Tán chém chết lăn dưới núi.

Trong bọn đó, một kẻ cấp tốc chạy báo cho Cảnh Trung rằng:
- “Dưới núi có một tráng sĩ đi ngang, tiểu đầu mục đòi lấy tiền, đã bị hắn giết chết".
Cảnh Trung hoảng sợ, lập tức lên ngựa xuống xem, thấy Tán đang đánh nhau với các đầu mục, Trung nhận ra là Tán, vội nạt:
- "Cháu không được đánh nhau!". Tán ngẩng lên nhìn xem, thấy Trung vội vàng sụp lạy. Cảnh Trung dẫn Tán lên núi, sau khi vào ra mắt Cảnh Lượng. Trung mới hỏi nguyên nhân đến đây, Tán đem việc báo thù và chuyện để lại huyết thư kể lại rõ ràng,
- "Nay cha kêu con đến đây để nương nhờ nhị vị thúc thúc để tránh nạn, không biết nên lỡ giết chết thuộc hạ của chú, mong chú tha tội"
Trung nói:
- "Cháu vốn không biết thì đâu có tội”. Rồi ra lệnh bày tiệc khoản đãi. Trung nhân đó nói:
- "Chúng ta hãy tạm ở đây để xem tình hình thế nào. Cháu đã đến đây thì hãy làm đệ tam trại chủ". Tán vòng tay lạy tạ, từ đó Tán ở trong trại, đánh quan cướp phá, không đâu là không thắng.

Một ngày kia, Tán bàn với anh em Cảnh Trung:
- "Các quận gần Hà Đông lương tiền nhiều, thúc thúc cho cháu mượn quân sĩ 3000 người, cháu sẽ đi cướp Tượng Châu thì có thể dùng trong hai năm".
Trung cười nói:
- "Trấn thủ Tượng Châu là Trương Công Cẩn, người này có sức địch muôn người, nếu đi chắc sẽ bị bắt. Tán nói:
- "Cháu nếu bị mất một tên quân, sẽ chịu đền mạng". Cảnh Trung thấy Tán có chí khí như vậy, bèn cấp cho 3000 quân sĩ.

Tán lập tức nai nịt lên ngựa, kéo cờ lệnh lên, phía trên viết "Hà Đông thiết xỉ cừu" năm chữ, dẫn 3000 quân kéo đến dưới thành Tượng Châu, bao vây lấy thành, kêu lớn:
- "Đem nộp tất cả lương tiền trong kho thì sẽ lui quân, nếu không đánh vào trong thành, sẽ không còn gì cả!". Quân giữ thành báo cho Công Cẩn biết. Công Cẩn tự nghĩ:
- "Hạ Lan Sơn có tên giặc mới là Hô Diên Tán, là một anh hùng, đây tất là người này làm loạn!”.
Bên dặn dò 2000 quân sĩ
- “Đem theo cung nỏ, mai phục ở hai bên cầu treo, đợi ta dụ địch đến thì bắt lấy". Quân sĩ được lệnh, lập tức y mẹo hành sự.

Công Cẩn nai nịt lên ngựa, dẫn 500 quân ra thành nghênh địch. Hô Diên Tán cưỡi ngựa Ô Long, xông lên trước hàng quân, nạt rằng:
- "Ta đến không vì việc khác, chỉ muốn mượn 3000 lượng vàng trong kho mà thôi”.
Trương Công Cẩn nổi giận:
- "Đồ kẻ cướp, hãy mau rút lui thì tao để cho mà sống. Nếu không, tao thộp mày dâng vua, xé xác mày ra”.
Tán nổi giận, múa thương tế ngựa xông thẳng về phía Công Cẩn, Công Cẩn đưa thương đối địch. Giao chiến hơn 30 hiệp, thật như hai con mãnh hổ giao đấu, bất phân thắng bại. Công Cẩn đánh một hồi, giả thua chạy qua cầu treo, Tán tế ngựa đuổi qua cầu, chợt một hồi trống vang lên, phục binh từ hai bên ùa ra, tên bắn như mưa. Tán kinh hãi vội tế ngựa chạy về, 3000 lâu ra thuộc hạ, bị bắn chết hơn nửa. Công Cẩn cũng không đuổi theo, thu quân trở vào thành.

Ở đây nói đến việc Hô Diên Tán không dám về gặp Cảnh Trung, một mình cưỡi ngựa trốn đi theo đường nhỏ. Đến gần canh một, lại bị một bọn lâu la mai phục bắt lấy. Đúng là:
Tài thoát hổ kháng đào đắc khứ,
Hữu tào cơ tĩnh túc tượng lai
(Vừa rời hang hổ chạy ra ngoài,
Lại sụp hầm bẫy bị bắt lại)
Bọn lâu la lại trói gô Tán lại đưa lên núi gặp cha con Mã Khôn, Khôn hỏi rằng:
- "Mi là người ở đâu?”.
Tán nói:
- "Tiểu nhân là con của tướng quốc, họ Hô Diên tên Tán, do đi lộn đường bị bộ hạ đại vương bắt được xin hãy tha mạng".
Mã Khôn giận nói:
- "Gần đây nghe mày vây Tượng Châu, muốn cướp kho quan phủ, nay còn muốn giấu ta sao?”.
Lập tức hạ lệnh nhốt vào tù xa, ngay đêm đó điểm lấy hơn 200 người áp giải Hô Diên Tán tới Tượng Châu lĩnh thưởng. Lâu la được lệnh, đẩy xe tù xuống núi đi. Bọn chúng bàn với nhau:
- "Đại Vương mình và Bát trại đại vương có hiềm khích, chỉ sợ ở phía trước cướp lấy Hô Diên Tán, chúng ta sẽ ăn nói làm sao? Chi bằng xin tá túc một đêm ở phía trước, ngày mai mới đi sớm!".
Tiến đến căn nhà ở gần đó, kêu lên:
- "Xin tá túc”.
Có một người giữ cửa ra xem, thấy là một bọn cướp áp giải một cái tù xa. Người giữ cửa nói:
- "Đêm đã khuya, các ông tá túc nhưng không được làm kinh động đại vương".
Bọn lâu la đồng thanh:
- "Chúng tôi tự lo được". Bèn đẩy tù xa vào nhà sau.

Lúc này có Bát trại chủ Lý Kiến Trung, đang ở kỹ viện Tây Kinh xem hát thì bị quan bắt lấy, bỏ tù bốn năm, thì vượt ngục trốn ra, cũng đang xin tá túc ở nhà này. Dạo bước ra cổng, nghe tên giữ cửa đang lẩm bẩm to nhỏ bèn hỏi:
- "Các người đang nói chuyện gì vậy?"
Tên giữ cửa đáp:
- "Mã đại vương ở Thái Hành Sơn khiến 200 tên áp giải Hô Diên Tán nạp cho Trương Công Cẩn để lãnh thưởng". Kiến Trung nghe xong nghĩ ngợi:
- “Ta ở trong nhà lao Tây Kinh nghe đồn Tán là người anh dũng, sao lại bị bắt lấy, ta phải cứu mới được".
Lập tức xách Phác đao vào sau đình, hét lớn:
- "Kẻ nào dám bắt Tán tướng quân chớ chạy".
Bọn lâu la sợ hãi bỏ trốn sạch. Kiến Trung mở tù xa, đỡ Hô Diên Tán ra, dưới ánh sao làm lễ tương kiến. Tán nói:
- "Ông là ai lại cứu tôi, thật ân đức khó quên".
Trung nói:
- "Ta là Bát trại Lý Kiến Trung đây, đều là anh em một nhà cả". Nói rồi đưa quần áo cho Tán mặc vào.

Ngày thứ, dắt Tán về Tân Kiến trại. Có người báo cho trại chủ Liễu Hùng Ngọc biết, Liễu Hùng Ngọc kinh ngạc, lập tức ra trại nghênh tiếp, thì quả đúng như vậy. Liễu Hùng Ngọc mời vào trong trướng ngồi, hết sức vui mừng. Hỏi nguyên do được về, Kiến Trung đem chuyện vượt ngục kể lại. Hùng Ngọc nói:
- "Từ sau khi anh rời trại, thì ở đây thủ hạ đơn nhược, mỗi năm đều bị Lục trại chủ La Thanh đến đòi tiền đất, rất là tệ hại".
Lý Kiến Trung giận dữ:
- "Tên giặc này còn tới, thì ta sẽ tóm lấy nó".
Hùng Ngọc lại hỏi:
- "Còn vị này cùng đến là ai?"
Kiến Trung nói:
- "Đó là Hô Diên Tán, con trai của Tướng Quốc".
Hùng Ngọc nói:
- "Nghe danh đã lâu, nay may được gặp”. Lập tức sai tả hữu mở tiệc ăn mừng.
Khi ba người đang uống rượu, chợt được báo La Thanh dẫn theo năm, sáu trăm người ở dưới núi đòi nửa năm tiền đất. Hùng Ngọc nghe thấy, không dám hỏi gì. Tán nhìn chằm chặp Kiến Trung rồi nói:
- "Cho tôi ngựa, yên, y, giáp, tôi sẽ bắt sống La Thanh về nạp, để báo ân cứu mạng của ca ca".
Kiến Trung mừng rỡ:
- "Ta vốn biết hiền đệ có thể địch được hắn", lập tức đưa cho ngựa, yên, khôi giáp, điểm 200 tên lâu la, theo Tán nghênh địch. Tán nai nịt gọn ghẽ, từ biệt hai người, xuống núi, nạt lớn rằng:
- "La trại chủ tới có việc gì?"
Thanh nói:
- "Đến để xin Liễu trại chủ nửa năm tiền đất”.
Tán nổi giận:
- "Mày đã xưng làm anh em, thì hãy mau lui về, tránh tổn thương hòa khí. Nếu không tao sẽ bắt mày nộp lên núi". Thanh nói:
- "Đồ thất phu không biết điều, việc gì đến mày, mà đến đây gây sự?”
Nói rồi tế ngựa nâng thương, xông thẳng vào Hô Diên Tán. Tán cử thương đỡ lấy. Hai người đấu chưa tới năm hiệp, Tán vươn tay vượn, bắt sống Thanh trên mình ngựa, đuổi giết quân La Thanh tan tành, trói La Thanh dẫn lên núi gặp Lý Kiến Trung. Kiến Trung mừng rỡ, đem Thanh treo lên trụ, nói:
- "Từ từ sẽ giết tên giặc này". Rồi mở tiệc ăn mừng.

Không ngờ tàn quân La Thanh báo cho Đệ ngũ trại đại vương Trương Cát, lại điểm 200 người, nai nịt đầy đủ hò hét vang trời, đến đánh Tân Kiến trại. Lý Kiến Trung và Tán đang uống rượu, chợt nghe dưới núi chiêng trống ầm ĩ, quân vào báo Ngũ trại chủ dẫn quân đến cứu La Thanh. Tán nổi giận:
- "Để tôi đi bắt gọn ổ bọn này, để trừ tâm phúc đại họa."
Nói rồi chào Lý Kiến Trung rồi dẫn người ra trại, bày trận đối địch, nạt to hỏi rằng:
- "Tên giặc phía trước là người nào?”
Trương Cát nhận ra là Tán, cũng nạt rằng:
- "Khôn hồn thì thả La trại chủ trả cho ta, ta sẽ tha mày được sống, nếu không nghe lời, thì là mày tự chuốc họa vào thân".

Hô Diên Tán giận dữ, xách thương đâm Trương Cát. Trương Cát vác thương đón đánh, vừa được hai hiệp, bị Tán đâm cho một nhát lăn xuống ngựa. Bọn lâu la thấy chủ tướng bị giết, quăng bỏ dao kích mạnh ai nấy trốn. Tán thừa thế đuổi sấn vào trại, cướp sạch toàn bộ vàng bạc, phóng hỏa đốt sạch sơn trại rồi rút về. Kiến Trung, Hùng Ngọc thấy Hô Diên Tán lại thắng trận nữa, mừng rỡ nói:
- "Uy phong của hiền đệ, quả danh bất hư truyền".
Và lại mở tiệc uống rượu. Kiến Trung nạt lâu la đem Thanh giết, mổ tim gan làm mồi nhắm rượu. Ba người vui vẻ ăn uống, chuyện không có gì đáng nói.

Đây nói về bại quân chạy đến đầu hàng Thái Hành Sơn, gặp Mã Khôn nói cho biết việc La Thanh, Trương Cát bị giết. Mã Khôn nổi giận đùng đùng:
- "Khen cho tên thất phu này, sao rửa được hận này . Lập tức sai con trưởng là Mã Hoa lĩnh 500 quân tinh dưỡng đến đánh Tân Kiến trại. Lâu la báo với Lý Kiến Trung, Kiến Trung nói:
- "Mã Khôn thật khinh người quá đáng. Ta phải ra bắt mới được". Hô Diên Tán nói: "Không phiền huynh trưởng mệt nhọc, để tiểu tướng ngày mai dùng mẹo này, bắt hết bọn này, để rửa hận trước".
Kiến Trung nghe lời, hạ lệnh mọi người phòng thủ sơn trại nghiêm ngặt, ngày mai sẽ ra đánh. Mọi người được lệnh tự lo liệu chuẩn bị đầy đủ.

Hô Diên Tán về trướng, suy nghĩ kế bắt Mã Khôn. Bất giác ngủ thiếp đi, chợt thấy một quả cầu lửa lăn vào trong trướng, trong mơ Tán đã đuổi theo ra ngoài. Đến một nơi, thấy nhà cửa toàn sơn son thếp vàng, cung điện nguy nga. Tán thẳng vào trong, thì không thấy quả cầu lửa đâu cả. Bên cạnh xuất hiện một người nói:
- "Chủ nhân chờ tướng quân đã lâu rồi!"
Tán nói:
- "Chủ nhân ngươi là ai?"
Người này nói:
- "Xin vào trong sẽ gặp".
Nói rồi dẫn Tán vào trong điện, thấy một viên mãnh tướng ngồi chễm chệ, nhìn Hô Diên Tán nói:
- "Ngươi cho rằng thiên hạ chỉ có mình ngươi là biết võ nghệ hay sao?"
Tán đáp:
- "Tiểu nhân chỉ là một dũng phu, đâu đáng gì".
Vị tướng đó nói:
- "Hãy đến giáo trường, ta có chuyện muốn nói".
Tán theo đến giáo trường vào ngồi ở đình. Tướng đó khiến tả hữu mang ngựa, yên, binh khí đến đưa cho Tán rồi nói:
- "Ngươi có võ nghệ gì, hãy đánh. cho ta xem thử".
Tán nghe lời lên ngựa, đem sở học bình sinh ra biểu diễn. Viên tướng cười nói:
- "Không có gì lạ cả".
Bèn gọi tả hữu dắt ngựa của mình đến, rồi nói với Tán:
- "Ta với ngươi đánh nhau xem ai thắng ai thua".
Tán nghĩ vừa rồi còn một đường thương pháp chưa dùng, nay đấu với ông ta xem sao. Rồi lên ngựa ra giáo trường đấu với viên tướng đó. Hai người đấu được vài hiệp, Tán múa thương sắt đâm, bị tướng kia quay ngựa Hoa Lưu lại, kẹp bắt xuống ngựa, rồi hét rằng:
- "Em ta hãy nhớ kỹ phép đánh này"
Tán giật mình tỉnh giấc, thì ra nằm mơ. Nhìn lại trên người thì thấy y giáp vẫn còn. Tán cảm thấy kỳ lạ, bèn gọi lính hầu vào hỏi:
- “Ở đây có miếu thờ thần nào không?"
Tên lính đáp:
- "Cách đây một khoảng, có một ngôi miếu cổ, bỏ hoang đã nhiều năm, không người cúng tế”.
Nghe vậy, qua ngày sau Tán đem theo tên lính hầu tìm đến ngôi miếu. Thấy tấm biển viết:
- "Đường Uất Trì Công chi Từ".
Bước vào trong điện, thấy tượng thần và người gặp trong mộng không khác. Tán nói:
- "Kỳ lạ! Đây đúng là có thần giúp ta".
Nói rồi sụp lạy bốn lạy, khấn rằng:
- "Nếu đúng Hô Diên Tán về sau làm nên, sẽ tu tạo lại miếu tự, để đền công ơn".
Lạy xong, cùng tên lính hầu về gặp Lý Kiến Trung. Trung hỏi:
- "Áo giáp này hiền đệ ở đâu được?"
Tán kể lại việc mơ đêm qua. Kiến Trung mừng rỡ:
- "Thật là thần linh tương trợ, em ta chắc sẽ được đại quý”.

Uất Trì Cung ở Châu Thiện Dương (nay là Sơn Tây - Sóc Dương), là tướng cuối đời nhà Tùy, sau hàng nhà Đường. Từng đánh bại quân Vương Thế Sung, tham gia trấn áp quân khởi nghĩa của Đậu Kiến Đức, Lưu Hác Thái, tham dự biến cố Huyền Vũ Môn, giúp Lý Thế Dân đoạt ngôi vua.

Đang lúc chuyện trò, chợt thấy báo Mã Hoa đang khiêu chiến ở ngoài. Tán chào Kiến Trung, xách thương lên ngựa, dẫn quân ra khỏi trại nghênh địch. Bên kia Mã Hoa cầm roi, trỏ mà mắng rằng:
- "Đồ cuồng nô đáng chết, mau thả La Thanh, thì ta sẽ tha cho. Nếu không, thì ta sẽ băm mi thành ngàn mảnh”. Tán cười lớn:
- "Mày cũng sẽ chết cùng với La Thanh thôi!".
Hoa giận dữ, cử thương vào đâm Hô Diên Tán.

Hô Diên Tán lui vài bước, hai bên binh khí giao nhau chưa đầy hai hiệp đã bị Tán kẹp chặt cán giáo, bắt sống rồi khiến người giải lên núi gặp Lý Kiến Trung. Bại binh của Hoa trở về báo với Mã Khôn:
- "Tiểu tướng quân bị Tán bắt sống rồi".
Khôn kinh hãi:
- "Tên giặc này thật hùng dũng".
Lập tức sai con thứ là Mã Vinh, đem theo 200 thuộc hạ dũng cảm đi cứu. Hô Diên Tán nghe quân mã Thái Hành Sơn lại đến, bèn bày sẵn trận chờ. Mã Vinh gác đao trên ngựa kêu rằng:
- "Mau đem anh ta thả ra, ta sẽ từ bi tha ngay mạng, nếu không sẽ giết mi không còn manh giáp".
Tán giận nói:
- "Đợi tao bắt mày luôn một thể".
Nói rồi múa thương xốc ngựa xông vào trận. Mã Vinh múa đao đánh lại. Cả hai đánh nhau ở sườn núi hơn 20 hiệp, bất phân thắng bại. Quẹo qua sườn núi, Hô Diên Tán cầm chắc thương thần, đợi Mã Vinh tới gần, rút Kim Tiên ra, hét "Chết này!” đập xuống lưng Mã Vinh một roi, Mã Vinh miệng thổ máu tươi bỏ chạy. Về đến trại, gặp Mã Khôn, nói Tán anh hùng khó địch.

Mã Khôn buồn bã lo lắng. Khôn có một người con gái là Mã Thị, thấy cha vẻ mặt lo buồn, bèn hỏi:
- "Phụ thân có vì sao không vui?"
Khôn đáp:
- "Huynh trưởng con bị tên giặc ở Tân Kiến trại là Hô Diên Tán bắt đi, lại đánh thương nhị ca con, cha thấy không có ai địch lại nên buồn bã không vui".
Mã Thị nói:
- "Cha không cần phiền não, để con đến bắt nó là được".
Mã Khôn nói:
- "Người này anh hùng khó địch, chỉ sợ con thắng hắn không được".
Mã Thị nói:
- "Nên dùng kỳ binh mà bắt. Trước tiên mai phục quân mạnh ở vách núi, nếu đánh không thắng, nhử vào mai phục tất sẽ vào tròng”.
Khôn nghe theo lời, cho dẫn 700 người đi đối địch.

Hô Diên Tán biết được, ra đợi trước trận. Kêu to:
- "Tướng kia mau kêu trại chủ của mi quy thuận, để tránh tiêu diệt, nếu không cả ổ nhà mi sẽ không đất chôn thây đó , Mã Thị nổi giận, múa đao tế ngựa chém tới, Hô Diên Tán cũng vỗ ngựa lại đón. Hai người đánh hơn 30 hiệp, Mã Thị vỗ ngựa chạy, Tán tế ngựa đuổi hơn một dặm, thấy sau núi thấp thoáng như có quân phục nên quay ngựa về không đuổi nữa. Hai bên thu quân. Mã Thị về gặp Mã Khôn nói:
- "Hô Diên Tán hiểu sâu binh pháp, khó mà thắng được?" Khôn nghe vậy càng buồn bã.

Chợt tiểu tốt vào báo:
- "Sau núi có một. đoàn quân mã kéo đến, không biết là ai?"
Mã Khôn nghe được liền sai người đi thám thính, thì ra là đệ nhất trại chủ Mã Trung. Mã Khôn ra trướng nghênh tiếp, Mã Trung và Lưu Thị an bài xong người ngựa, vào trại gặp nhau làm lễ tương kiến xong. Mã Khôn nói:
- "Lâu không gặp hiền đệ, từ đó đến nay sao không nghe tin tức gì cả?"
Trung nói:
- "Tôi nhớ đại ca từ lâu, hôm nay cố ý đến thăm".
Mã Khôn bảo tả hữu bày tiệc khoản đãi. Mọi người uống đến ngà ngà say, Mã Trung thấy Mã Khôn có vẻ không vui nên hỏi:
- "Anh vì sao kém vui, hay vì tiểu đệ đến làm anh không vui?"

Khôn nói:
- "Hiền đệ nói vậy là sai rồi! Anh em ta giống như ngươi một nhà, sao lại có ý như vậy được? Chỉ tại đệ bát trại có tên mới đến là Hô Diên Tán, mỗi lần đều gây với các trại khác. Gần đây bắt đi con lớn của ta, không người cứu được, vì thế mà lo buồn".
Trung nghe xong, liền nói:
- "Nếu là việc này, anh không nên phiền não, tiểu đệ sẽ ra sức cứu giúp”.
Khôn nói:
- "Tên này là một kẻ địch đáng gờm, không nên xem thường”.
Trung nói:
- "Đệ tự có cách làm cho nó đầu hàng". Nói xong liền chào Mã Khôn cùng Lưu Thị dắt theo thủ hạ của mình xuống núi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Ba
Kim Đầu Nương Thao Trường Đấu Võ
Cao Hoài Đức Đại Chiến Lộ Châu

Nói đến Mã Trung, Lưu Thị quả nhiên thấy Hô Diên Tán toàn thân nai nịt từ trong lũy xông ra, hét to:
- "Những tên giặc giết không hết kia, còn muốn đến đây đánh nhau sao?"
Lưu Thị vỗ ngựa tiến lên trước, nhận ra rõ ràng, cũng nạt to:
- "Phúc Lang không được vô lễ".
Tán nghe tiếng, ngẩng đầu lên, nhìn thấy là mẫu thân, liền quăng giáo xuống ngựa, lạy phục bên đường mà thưa:
- "Bất hiếu nhi đắc tội, sao mẹ lại ở nơi này?"
Lưu Thị nói:
- "Con đứng lên, tới gặp thúc thúc đi".
Tán theo mẹ, vào trong quân. Sau khi ra mắt Mã Trung. Trung nói:
- "Nghe nói mi ở trại Cảnh Trung mà, ai biết lại đánh nhau ở đây , Mã Khôn là anh em kết nghĩa của ta, mi hãy đến mà chịu tội đi".
Tán nói:
- "Hôm trước con bắt con trưởng của ông ta trên núi, lại đánh Mã Vinh bị thương, nếu đi gặp ông ấy, e rằng khó thoát tai họa".
Trung nói:
- "Có ta ở đây con đừng ngại".
Tán vâng lời, theo Mã Trung về trại gặp Mã Khôn. Trung nói:
- "Tiểu nhi không biết tôn huynh, mạo phạm gây tội nặng, nay mong tha thứ”.

Mã Khôn kinh ngạc hỏi nguyên do. Trung đem chuyện của Tán kể lại rõ ràng. Khôn than rằng:
- "Không uổng là con trai của Tướng Quốc!"
Tán sụp lạy nói:
- "Tiểu điệt mắt phàm không biết bá bá, nay nhờ nâng đỡ, hãy tha lỗi trước của cháu".
Khôn nói:
- "Cháu vốn không biết, sao có thể trách được”.
Lập tức truyền bày yến tiệc chúc mừng. Khôn gọi bọn Mã Vinh... đến ra mắt. Vinh thấy Tán có sắc hổ thẹn. Tán nói:
- "Mạo phạm ca ca, ngàn vạn lần xin xá tội".
Vinh cũng đáp lễ. Hôm đó, trong trại náo nhiệt vui vẻ, mọi người đều uống say. Có thơ làm chứng:

Hào kiệt tương phùng bất ngẫu thiên,
Nhất thời hội tụ nghĩa toàn kiên
Vị giao phú tá trung triều chủ,
Tiên hữu uy thanh chấn Thái Nguyên.
Mã Khôn quay sang nói với Trung rằng:
- "Ta có một việc muốn nói, không biết hiền đệ chịu nghe không?"
Trung đứng dậy nói:
- "Lệnh của anh, làm sao dám trái".
Mã Khôn nói:
- "Tiểu nữ Kim Đầu Nương tướng mạo tuy xấu xí, nhưng giỏi võ, nếu không chê, xin cùng cháu Tán kết nghĩa trăm năm".
Trung vòng tay cảm tạ:
- "Huynh nếu thương tình, hậu đức khó quên".
Khôn lập tức cho người báo cho Kim Đầu Nương biết, Kim Đầu Nương cười nói:
- "Gả cho hắn cũng được, chỉ không biết Hô Diên Tán võ nghệ thế nào? Ngày trước giao phong, chưa phân thắng bại. Nay xin cùng tỉ thí, nếu thắng ta được thì ta ưng thuận".
Tiểu tốt ra báo cho Mã Khôn biết. Mã Khôn nói:
- "Tiểu nữ có thói quen từ nhỏ khó bỏ, muốn tỉ võ với Hô Diên tướng quân, cũng là điều tốt”.
Trung liền kêu Tán tỉ thí với Mã Thị. Tán vâng lời, nai nịt lên ngựa ra giáo trường. Mã Thị cũng nai nịt mà ra, hai người quyết đấu ở giữa giáo trường.

Mã Trung, Lưu Thị, Mã Khôn đứng ở cửa trại xem, thấy hai người tay múa binh khí, giao đấu trên 20 hiệp, chưa phân thắng thua. Mã Thị nghĩ thầm, thương pháp của Tán rất thành thục, nay hãy thử tiễn pháp của hắn xem sao, nghĩ rồi bèn gò ngựa quay về phía đài mà chạy. Tán nghĩ:
- "Đây chắc muốn dùng tên dọa ta, đợi đuổi theo xem nàng ta làm gì".

Nghĩ rồi cũng tế ngựa đuổi theo. Mã Thị đợi cho đến gần, đặt tên kéo cung, bắn một lúc ba mũi, đều bị Tán né được. Tán nói:
- "Tưởng ta không biết bắn tên sao?”.
Quay đầu ngựa dụ Mã Thị đuổi theo, cầm cung trong tay, đặt tên và bắn ra, ghim ngay vào chỏm mũ của Mã Thị. Mọi người đều hò reo khen ngợi. Mã Trung chạy ra giữa trận, kêu rằng:
- "Người một nhà, không được đánh nhau”.
Hai người liền xuống ngựa, vào trong trướng. Khôn cười nói:
- "Tán tướng quân võ nghệ thật giỏi không?"
Mã Thị cúi đầu không nói. Khôn biết ý đã chịu, lập tức ra lệnh đốt hương lập thề, đem Mã Thị gả cho Hô Diên Tán. Tán lạy cha mẹ, cảm tạ Mã Khôn. Ngày đó mọi người đều vui vẻ rồi tan.

Ngày thứ, Tán vào gặp Khôi nói:
- "Tiểu tế về sơn trại gặp Lý Kiến Trung, sẽ đưa tiểu tướng quân về”.
Khôn mừng rỡ, liền sai người tiễn Tán lên đường. Tán về gặp Lý, Liễu hai người, kể lại chuyện gặp cha mẹ và việc kết hôn. Kiến mừng rỡ:
- "Việc này đều không phải là ngẫu nhiên".
Tán nói:
- "Ngày trước bắt được Mã Hoa, nay phải thả ra".
Kiến Trung nói:
- "Giờ đã là người một nhà, sao mà còn chuyện hại nhau nữa”.
Liền khiến người ra sau trại mời Mã Hoa lên. Mã Hoa sợ bị mưu hại, sợ đến tim đập tay run, toát mồ hôi đầm đìa. Lý Kiến Trung nói:
- "Nay có chuyện vui muốn báo, ngươi đừng nghi sợ".
Rồi đem chuyện Tán và em gái Hoa thành thân đoàn tụ kể lại từ đầu đến cuối. Hoa chuyển lo thành mừng nói:
- "Nếu như thế, cũng xin mời các vị qua tiểu trại mà gặp gỡ , Kiến Trung nói:
- "Mời tướng quân về trước, ta dặn dò thủ hạ xong sẽ tới sau. Mã Hoa bèn từ biệt Kiến Trung rồi về.

Lúc ấy Liễu Hùng Ngọc không muốn đi, Kiến Trung nói:
- "Nếu không đi tất sẽ gây ra sự nghi ngờ, nay nên gặp nhau, để giải mối thù thuở trước”.
Ngay hôm đó liền cùng với Tán và mọi người đến Thái Hành Sơn, kêu người báo với Mã Khôn. Khôn lập tức ra trại nghênh đón. Sau khi vào trướng mọi người làm lễ tương kiến, Kiến Trung nói:
- "Nay tình như huynh đệ, gặp hoạn nạn phải cứu nhau, đừng nên khiến cho tranh nhau nữa, làm tổn hòa khí”. Khôn mừng rỡ, mời Mã Trung, Lưu Thị ra chào. Trung nói:
- "Tiểu nhi may được hiền huynh cứu giúp, ân đức khó quên".
Lý Kiến Trung nói:
- "Tán tướng quân không phải là người tầm thường, ngày sau tất được đại quý”.
Khôn liền ra lệnh bày tiệc rượu ăn mừng. Ngày đó các hào kiệt theo ngôi thứ mà ngồi, vui vẻ, uống đến say mềm.

Rượu đến nửa chừng, chợt nghe báo:
- "Dưới núi có hơn 5000 quân mới kéo đến, không rõ là ai?"
Tán nói:
- "Mới được yên ổn, lại có chuyện đánh nhau”.
Và muốn điểm người ngựa đi nghênh địch. Mã Khôn nói:
- "Để ta tự đi xem sao".
Lập tức dẫn 2000 người xuống núi xem, thì ra là U Châu Gia Luật hoàng đế điện tiền danh tướng Hàn Diên Thọ. Khôn hỏi rằng:
- "Tướng quân đến có việc chi?"
Hàn Diên Thọ nói:
- "Gia Luật hoàng đế đã chết, nay Tiêu thái hậu lên ngôi nắm quyền, ta phụng lệnh chỉ, đến mời tướng quân về nước, cùng phò chúa mới".
Khôn nói:
- "Nếu đã phụng lệnh chỉ, tôi đâu dám không về nước. Xin tướng quân hãy cùng vào tương kiến với các huynh đệ tôi trong sơn trại, rồi ta thương nghị".
Diên Thọ nghe theo, để người ngựa đóng ở dưới núi, rồi cùng Khôn lên sơn trại. Khôn kêu mọi người đến ra mắt xong, mở tiệc khoản đãi Diên Thọ. Trong tiệc, Khôi nói với Tán và mọi người:
- " Ta do Gia Luật hoàng đế vô đạo, nên ẩn vào Thái Hành Sơn, nay đã 15 năm rồi! Nay nghe trong nước đã lập Tiêu thái hậu làm chúa, có chỉ đến đòi . Trong trại nay có khoảng 7000 người ngựa, để lại 2000 để con cùng con gái ta trấn thủ, ta dẫn 5000 đem Hoa, Vinh hai người về nước, nếu có chiếu thư đến triệu, thì ngươi mới đi".
Tán vâng lời. Ngày thứ Khôn từ biệt mọi người cùng Diên Thọ rời Thái Hành Sơn. Bọn Mã Trung theo tiễn hơn năm dặm mới tạm biệt. Cha con Khôn mang theo người ngựa đi đến U châu. Trên đường không có gì đáng nói.
Bây giờ nói về Hô Diên Tán cùng mọi người quay về đến trại, bắt đầu chiêu binh mãi mã, đợi được triều đình chiêu an.

Tháng ba năm Khai Bảo thứ chín, Tống Thái Tổ nghe Lưu Quân ngày đêm thao luyện binh mã, bèn cùng bọn Triệu Phổ thương nghị kế sách chinh phạt. Phổ tâu:
"Chưa có cơ hội để đánh, xin bệ hạ để sau hãy bàn”. Vua Tống ý chưa quyết, thì gặp lúc Quy Đức tiết độ sứ Cao Hoài Đức vào tâu việc, và nói:
- "Hà Đông văn võ không hòa, bệ hạ nên thừa cơ hội mà đánh lấy".
Và lại có Khu mật sứ là Phan Nhân Mĩ ra sức tâu xin vua thân chinh. Tống Thái Tổ bèn hạ chiếu, phong Phan Nhân Mĩ làm giám quân, Cao Hoài Đức làm tiên phong, thống lĩnh 10 vạn tinh binh, ngay hôm đó rời Biện Kinh hướng về Lộ Châu thẳng tiến. Tin tức truyền vào Tấn Dương. Lưu Quân hoảng hốt, lập tức triệu văn võ vào thương nghị. Triệu Toại tâu:
- "Xin chúa công chớ lo, mấy năm nay quân Tống liên tiếp chinh chiến, quân sĩ oán giận. Để thần dẫn theo một lữ người, ra Lộ Châu nghênh địch".
Lưu Quân chuẩn tấu, phong Toại làm Hành quân đô bộ thử, Lưu Hùng, Huỳnh Tuấn làm chánh, phó Tiên Phong, điểm binh 5 vạn, ra chặn quân Tống Triệu Toại được lệnh, ngay hôm đó dẫn quân đến Lộ Châu địa giới hạ trại và sai người do thám động tĩnh của quân Tống. Quân do thám về hồi báo:
- "Quân Tống đóng trại cách lộ châu 20 dặm, cờ trống liên tiếp, thanh thế rất thịnh".
Triệu Toại được báo, ngày hôm sau dẫn Lưu Hùng, Huỳnh Tuấn và quân sĩ hướng về Lộ Châu mà tiến. Tiên phong quân Tống là Cao Hoài Đức đã dàn sẵn trận thế, hai quân đối lũy. Cao Hoài Đức cầm ngang ngọn giáo cưỡi ngựa đứng trước trận. Trận của Bắc Hán Triệu Toại tế ngựa ra, tay cầm cương đao, lớn tiếng mắng:
- "Tống tướng không biết thời vụ, sao dám xâm phạm biên giới!".
Cao Hoài Đức nổi giận, nâng thương tế ngựa xông vào Triệu Toại, Toại múa đao đón đánh, hai quân giao nhau, đánh được hai mươi hiệp, không phân thắng thua. Hán tiên phong Lưu Hùng thấy Triệu Toại không thắng dược Tống tướng, múa phương thiên kích xuất trận trợ chiến. Tống tướng là Cao Hoài Lượng trợn mắt giận dữ, múa trúc tiết cương tiên đón địch. Lưu Hùng đánh chưa được vài hiệp, bị Hoài Lượng đánh vỡ đầu mà chết. Triệu Toại thấy vậy liền quay ngựa bỏ chạy, Cao Hoài Đức vỗ ngựa đuổi theo. Phan Nhân Mĩ liền xua hậu quân, thừa thế đuổi giết. Quân Bắc Hán đại bại, bị chết vô số. Cao Hoài Đức, Hoài Lượng đuổi theo hơn 20 dặm mới quay về.

Triệu Toại thua to một trận, chạy vào Dịch Châu đóng quân, cùng bọn Huỳnh Tuấn bàn:
- "Quân Tống dũng mãnh, nên sai người về Tấn Dương cầu cứu, mới giữ được thành này".
Tuấn nói:
- "Không nên chậm trễ, nếu đợi lúc quân Tống vây thành thì khó lòng!". Toại lập tức cho người ngày đêm đi gấp về Hà Đông, tâu với Lưu Quân.

Lưu Quân nói:
- "Triệu Toại vừa ra quân đã bại trận, ai có thể xuất quân tiếp ứng”. Đinh Quý tâu rằng:
- "Chuyến này nếu là tướng khác đều không địch được quân Tống, chúa công nên triệu Sơn Hậu Dương Lệnh Công phát quân đến cứu, mới có thể lui được quân Tống”. Lưu Quân theo lời đó, liền sai Trịnh Thiêm Thọ làm sứ giả, mang chiếu chỉ và tê vàng ngọc đến San Hậu ra mắt.
Dương Lệnh Công đưa ra chiếu thư:
Bắc Hán Chủ Lưu Quân chiếu rằng: Gần đây bởi Trung Quốc xâm phạm cảnh giới, đã lệnh Triệu Toại suất binh cự địch. Trận chiến ở Lộ Châu, bị thua phải chạy đến Dịch thành. Nay Cô có thư báo cho biết, thật sự là gấp như lửa đốt lông mày. Lệnh công đóng trọng binh ở San Hậu, chí tồn trung nghĩa, nên gánh nạn nước nhà. Ngày nhận chiếu thư, nên lập tức phát binh đến cứu đừng phụ sự trông đợi của Cô gia.

Dương Nghiệp được thư, cùng chư tướng bàn luận:
- "Năm trước Châu chúa xuống Hà Đông, cha con ta đã đánh thắng quân họ, đủ để chấn uy danh. Nay quân Tống lại đến. Hán Chủ lại xuống chiếu đến triệu, cũng nên cứu ứng".
Nói chưa dứt lời, Thất Lang thưa rằng:
- ”Trung Quốc binh mã rất mạnh, đại nhân lần này đừng ra quân vội, đợi quân Tống sắp vây Hà Đông, mới cứu cũng chưa muộn".
Vương Quý nói:
- "Tiểu tướng quân nói sai rồi!. "Quân mệnh triệu, bắt sĩ giá nhi hành". Lời xưa nói cứu binh như cứu hỏa, nếu đợi quân Tống tới sát thành thì sẽ thành thế quyên quyên, cực nhọc vô ích. Giờ chính nên ra quân cứu giúp, để bày tỏ lòng trung với nước"..
Dương Nghiệp theo lời này, bèn lệnh con trưởng Uyên Bình giữ ưng Châu, tự mình cùng Vương Quý dẫn quân tới Tấn Dương, vào bệ kiến Lưu Quân, ra mắt xong, Lưu Quân dùng lễ khách mà tiếp đãi, tặng thưởng lại rất hậu, Nghiệp bái tạ mà lui.

Ngày thứ, Lưu Quân thiết yến ở trung điện, khoản đãi Dương Nghiệp. Dương Nghiệp tâu rằng: "Bệ hạ triệu thần để lui giặc nay chưa giải được mối lo cho chủ, sao dám dùng tiệc". Quân nói: "Uy vọng của khanh, mã đáo thành công, lo gì không diệt được kẻ thù? Cứ uống vài chén, ngày mai xuất quân vẫn chưa muộn". Nghiệp lạy tuân mệnh. Ngày hôm đó, Lưu Quân thân tứ Nghiệp kim chi, Vua tôi cùng vui vẻ rồi tan.

Ngày tiếp theo, Nghiệp vào gặp Lưu Quân tạ yến và thỉnh chỉ xuất binh. Quân nói:
- "Hôm nay khanh có thể dẫn quân đi trước, nếu lui được quân Tống, Quả nhân sẽ gia phong tước cao cho khanh”. Nghiệp ngay hôm đó ra khỏi triều, dẫn tinh binh tới Dịch Châu hạ trại.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Tư
Giảng Hòa Nghị Dương Nghiệp Lui Binh
Đón Loan Giá Hào Kiệt Trổ Tài

Thám mã báo về trong quân Tống, Thái Tổ nói:
- "Năm trước trẫm theo Thế Tông xuống Hà Đông, chưa được gì phải quây về. Nay người đó lại đến cứu ứng, nên lui quân để tránh mũi quân tinh nhuệ này".
Phan Nhân Mĩ tâu rằng:
- "Quân của Dương Gia tuy hùng mạnh, nhưng thống thuộc bất nhất. Thần và chủ tướng sẽ dùng kỳ binh để thắng, xin thánh thượng chớ lo".
Tống Thái Tổ nghe theo, xuống lệnh xuất binh. Phan Nhân Mĩ cùng Cao Hoài Đức, Đảng Tiến, Dương Quang Mĩ,... Hoài Đức nói:
- "Võ nghệ của Dương Nghiệp, nổi tiếng khắp Hà Đông. Ngày mai giao phong, có thể sai Tiêu Hoa đánh trận đầu, Triệu Nghi đánh trận thứ hai, Ta và em ta Hoài Lượng đánh trận thứ ba. Ông đem đại quân tiếp ứng cứ thế dùng thế đánh lâu dài hay hơn là dùng kỳ binh vậy". Nhân Mĩ mừng rỡ, lập tức phân phối làm theo.

Bình minh hôm sau, sau ba hồi trống, Tiêu Hoa dẫn quân tiến lên trước vừa lúc gặp quân mã của Dương Nghiệp. Hai quân đối địch, Tiêu Hoa tế ngựa cầm thương, cao giọng nói:
- "Bắc tướng hãy mau sớm hàng, để tránh việc bị giết, nếu không đại quân tiến đến, san Hà Đông thành bình địa". Nghiệp múa đao tế ngựa, phi ra trước trận, quát mắng:
- "Đồ thất phu sinh sự, chết đến nơi mà còn dám lên giọng sao!".
Nói rồi bèn múa đao vỗ ngựa sấn vào chém Tiêu Hoa. Hoa múa thương nghênh địch, hai ngựa giao nhau, chưa được vài hiệp, bị Dương Nghiệp chém một nhát chết lăn xuống ngựa. Tống binh thua to bỏ chạy. Nghiệp vẫy hai bên tả hữu cùng xông lên. Trong trận quân Tống mở ra, thì Triệu Nghi ra ngựa múa búa xông đến cùng Dương Nghiệp giao phong. Đấu hơn 20 hiệp, Triệu Nghi cũng bì Dương Nghiệp cho một đao, cả người lẫn ngựa xả ra làm bốn, tàn binh bị chém chết vô số. Cao Hoài Đức nghe báo kinh hãi, gấp rút cùng Hoài Lượng dẫn Mã binh một vạn kéo ra địch. Thích Châu Triệu Toại thấy cứu binh đến cũng mở cửa thành kéo ra tiếp ứng. Dương Nghiệp xông thẳng vào trong quân Tống chém giết. Hoài Đức vội múa giáo đón đánh. Hai ngựa giao nhau, đánh hơn 50 hiệp, bất phân thắng bại. Dương Nghiệp quay ngựa chạy về.

Hoài Đức tế ngựa đuổi theo, chợt Dương Diên Chiêu xộc đến từ bên cạnh, chém Hoài Đức rớt xuống ngựa, may nhờ Hoài Lượng lăn xả vào đánh, cứu được Hoài Đức về trận nhà. Vương Quý thúc quân chém giết. Quân Tống bị chết vô số.

Hoài Đức dẫn quân về gặp Phan Nhân Mĩ, kể lại Dương Nghiệp anh hùng, liền chém hai viên đại tướng. Nhân Mĩ nói:
- "Để gặp thánh thượng thương nghị, trù định kế sách đánh Dương Nghiệp".
Phan Nhân Mĩ vào tâu với Thái Tổ:
- "Vương sư đã thua một trận, Quân của Dương Gia ta khó địch lại". Thái Tổ than rằng:
- "Không lẽ ý trời không cho Trẫm bình định Hà Đông ư?”
Liền cùng chư tướng thương nghị việc ban sư. Dương Quang Mĩ tâu:
- "Quân của Dương Nghiệp đã hợp lại với Triệu Toại, thanh thế rất lớn. Nay nếu rút quân về, giả như quân địch đuổi theo, quân ta thấy khí thế của quân Bắc, sẽ không đánh mà thua, như vậy sẽ nhục với nước khác vậy kế sách hiện nay, có thể sai người cùng giảng hòa với Dương Nghiệp, sau đó mới rút quân, mới không lo mặt sau nữa!". Tống Thái Tổ hỏi:
- "Ai có thể làm sứ giả để đi?”

Dương Quang Mĩ nói:
- "Thần tình nguyện phụng chiếu đi chuyến này".
Thái Tổ ưng chuẩn, liền sai quan văn thảo chiếu để Quang Mĩ đem đến Dịch Châu, gặp Dương Nghiệp nói về chuyện giảng hòa. Nghiệp cười nói:
- “Chúa người dẹp yên các nước, cũng từng có kẻ đến giảng hòa ư?”
Dương Quang Mĩ lớn tiếng nói:
- "Chúa ta anh võ kế thừa đại thống, ân uy đều đủ với các nước, gần đây đánh kẻ nghịch mệnh, như Thái Sơn đè trứng mỏng, kẻ uốn gối xưng thần người nhiều vô số. Nay xa giá Hà Đông, thành công chỉ tính từng ngày. Nếu không vì tránh cho sinh linh gan óc lầy đất, lại nữa vì tướng quân danh vọng rất to, không muốn gây tổn thương. Huống chi Trung Quốc mưu thần, dũng tướng, quân mạnh vẫn chưa điều động. Nếu được tin chưa hạ được Hà Đông, Xa giá vẫn ở đây, nổi giận kéo đến, Tấn Dương của ông giữ được vô sự ư? Tướng quân lại giữ được danh tiếng không?"

Dương Nghiệp bị Dương Quang Mĩ thuyết cho một hồi, không lời đáp trả. Vương Quý nói rằng:
- "Cơ hội khó được, tướng quân có thể ưng theo đề nghị này, nếu như khích nộ Trung Quốc không có lợi cho Hà Đông”.
Nghiệp liền trả lời sứ giả:
- "Xin hãy về tâu cùng vua Tống, ta xin rút quân trở về".
Dương Quang Mĩ cáo từ lui ra, rồi vào trại khác, gặp Triệu Toại nói cho biết việc giảng hòa. Toại vui mừng nói:
- "Trung Quốc cũng là chúa của ta, nếu đã có ý hòa hảo, thì ai dám không theo".
Dương Quang Mĩ từ biệt Toại về gặp Thái Tổ, tâu rõ việc giảng hòa. Thái Tổ mừng rỡ, liền hạ chiếu ban sư. Lúc đó trong quân lương thảo cũng vừa hết, khi nghe lệnh ai nấy vui mừng khôn xiết.

Ngày thứ, Xa giá từ Lộ Châu rút về, đi đến Thái Hành Sơn đóng quân lại. Có tiểu tốt vào vào trong trại báo rằng: Tống Thái Tổ xuống Hà Đông bất lợi mà rút về. Hô Diên Tán mừng quá, thương nghị với Lý Kiến Trung:
- "Ta và đất Hà Đông có mối thù sâu nặng. Nay nên xuống núi chặn lại xa giá, cầu xin ban cho 3000 bộ áo giáp, 3000 bộ cung nỏ, để cho quân ta dùng để diễn tập. Đợi xa giá lần tới xuống Hà Đông, sẽ xin làm tiên phong, lập công trạng với triều đình, như thế không hay hơn là làm cướp sao?".

Cảnh Trung nghe theo, lập tức giao 5000 người ngựa. Tán nai nịt đầy đủ dẫn quân mã xuống núi bày ra thế trận, cản lấy đường đi. Thám mã báo vào trong dinh Tống rằng:
- "Phía trước có bọn giặc cản trở đường đi".
Tiên phong phó tướng Phan Chiêu Lượng vỗ ngựa ra hỏi:
- "Kẻ nào dám cản xa giá?"
Hô Diên Tán trả lời:
- "Cản xa giá không vì việc khác, chỉ xin để lại áo giáp 3000 bộ, cung nỏ 3000 cái, để tiểu tướng diễn tập trong trại. Đợi thánh chúa trở xuống Hà Đông, nguyện xin làm tiên phong để phá nước thù”.

Phan Chiêu Lượng nổi giận mắng rằng:
- "Trung Nguyên bao nhiêu anh hùng, dùng tên thảo khấu vô danh như mi làm gì được? Mau quay về, thì ta cho sống, nếu không thì bắt mi nạp dâng".
Tán nói:
- "Thắng được ngọn thương trong tay ta, mới cho xa giá đi qua".
Chiêu Lượng tức giận, vác giáo tế ngựa, xông vào chém Hô Diên Tán, Tán cử thương nghênh chiến, hai ngựa giao đấu được hai hiệp, bị Tán rút cương tiên đập một nhát, chết lăn xuống ngựa. Tiền quân phi báo với trung quân, Dương Diên Hán đề đao ra ngựa đến đánh. Hô Diên Tán lui lại vài bước, để Diên Hán xắn vào, được vài hiệp, bị Tán bắt sống trên ngựa, khiến thủ hạ giải vào trong trại.

Phan Nhân Mĩ nghe con mình Chiêu Lượng bị Tán giết đang lo buồn, chợt Đảng Tiến vào nói:
- "Phía trước có quân giặc cản đường, sát thương quan quân rất nhiều, ông gối cao nằm kỹ được sao? Nếu chúa thượng biết được làm sao trả lời?"
Phan Nhân Mĩ nói:
- "Tôi đang suy nghĩ, nhưng chưa có mẹo nào cả".
Tiến nói:
- "Để tôi dẫn quân ra đánh".
Nhân Mĩ nói:
- "Thái Uý nếu chịu ra sức, là may mắn cho triều đình". Đảng Tiến lập tức nai nịt lên ngựa, phi ra trước trận rằng:
- "Đồ thất phu gây sự, sao ngăn xa giá ở đây muốn tìm chết sao?".
Tán nói:
- "Tiểu tướng phi kích giá, chỉ là muốn tận trung với thượng bang vậy! Chuyện áo giáp, cung nỏ là chuyện nhỏ. Sao lại tiếc mà không cho, để phải động can qua?”

Đảng Tiến nổi giận múa đao xông vào Hô Diên Tán. Hô Diên Tán cử thương nghênh địch, hai người đấu hơn mười hiệp, bất phân thắng bại. Tán giả thua, chạy vào bổn trận. Đảng Tiến tế ngựa đuổi theo, đưa đao chém thẳng vào đầu. Tán quay người né qua, bắt lấy cán thương, dùng sức kéo một cái, lôi té xuống ngựa. Bọn lâu la đồng loạt xông lên trói lại. Tán ra lệnh giải lên núi. Trong quân Tống, Cao Hoài Đức nghe tin này, thất kinh nói:
- "Nơi này sao lại có dũng tướng như vậy?"
Lập tức phi ngựa xuất trận, giao chiến với Tán, hai người đấu hơn 50 hiệp, không phân thắng thua.

Kỵ hiệu tâu với Thái Tổ. Thái Tổ thân dẫn quân ra trước trận thấy hai viên hổ tướng đánh nhau không ngừng. Thái Tổ lệnh Dương Quang Mĩ dụ chỉ. Dương Quang Mĩ phi ngựa ra trước trận nói:
- "Hai vị tướng quân dừng tay, thánh thượng có chỉ đến!". Cao Hoài Đức liền giựt cương quay ngựa, Hô Diên Tán cũng lui lại đứng ở dưới cờ.

Dương Quang Mĩ nói:
- "Tướng quân cản trở thánh giá có nghị luận gì?"
Tán nói:
- "Nghe Trung Quốc đánh Hà Đông bất lợi thu quân về, tiểu tướng muốn mượn y giáp 3000 bộ, cung nỏ 3000 cái, lưu ở trong trại, chiêu mộ tráng sĩ tập luyện. Đợi chúa thượng xuống Hà Đông lần sau sẽ xin sung làm tiên phong, để phá cường địch. Đó là chí nguyện, chứ nào dám có ý khác".
Quang Mĩ nghe xong nói:
- "Tướng quân xin hãy chờ, ta tâu với chúa thượng sẽ quyết".
Rồi lập tức vào trong quân gặp Thái Tổ, tâu rõ nguyên nhân quân phía trước cản đường. Thái Tổ nói:
- "Trẫm đường đường Trung Quốc lại tiếc 3000 bộ y giáp cung nỏ ư? Nếu người này có thể lập công, tước lộc sẽ không thiếu vậy".
Rồi liền ra lệnh quân chính Ty chọn 3000 bộ giáp tinh tế, 3000 cây cung nỏ cứng chắc, giao Quang Mĩ đưa cho Hô Diên Tán. Quang Mĩ lĩnh chỉ, ra trước trận sai quân hiệu khiêng áo giáp, cung nỏ vào trong quân Hô Diên Tán.

Tán mừng rỡ, lạy tạ thụ mệnh, dẫn nhân mã trở về trại, nói rõ với Lý Kiến Trung. Kiến Trung nói:
- "Nếu thánh chỉ chuẩn tứ y giáp cung nỏ, thì nên đưa trả tướng bị bắt, tự ta đến trước thánh giá tạ ơn thỉnh tội". Hô Diên Tán nghe theo lời, mời Dương Diên Hán, Đảng Tiến ra trướng tương kiến. Hô Diên Tán nói:
- "Vừa rồi mạo phạm tướng quân, xin hãy tha thứ”.
Đảng Tiến nói:
- "Đó là do bọn ta không hiểu thấu ý của dũng sĩ, nên bị bắt, tự thấy hổ thẹn, sao trách ngài được?".
Tán sai mở tiệc khoản đãi, Kiến Trung lệnh thủ hạ lấy ra 20 lượng vàng, nói với Hô Diên Tán:
- "Vừa rồi xúc phạm hai vị, đây xem như món quà tạ tội, xin dẫn tiểu đệ đến trước thánh giá, gặp mặt chúa thượng một lần, sống chết không quên".

Đảng Tiến nói:
- "Nếu nhận lễ của dũng sĩ, còn mặt mũi nào gặp thiên tử đây?"
Kiên quyết không lấy. Lại dẫn Kiến Trung, Hô Diên Tán tới trước xa giá bái kiến Thái Tổ, sau khi tung hô, Đảng Tiến tâu rõ ý nguyện của Hô Diên Tán, và nói:
- "Cả hai người đều muốn tận trung với bệ hạ, xin bệ hạ hãy ban thưởng".
Thái Tổ nói:
- "Cáo mệnh của trẫm không theo trong quân, nay quyền phong Lý Kiến Trung làm Bảo Khang Quân Đoàn Luyện Sứ, Hô Diên Tán làm Đoàn Luyện Phó Sứ. Sau khi trẫm về Biện Kinh, lập tức sai sứ tuyên triệu".
Kiến Trung và Hô Diên Tán tạ ân xong, trở về sơn trại chờ đợi.
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Năm
Tống Thái Tổ Di Chúc Việc Cuối
Phan Nhân Mĩ Kế Đuổi Anh Hùng

Nói về Tống Thái Tổ về tới kinh sư, dọc đường cảm nhiễm phong hàn, nên phải dưỡng bệnh trong cung, đã lâu không lâm triều. Kéo dài cho đến mùa đông tháng mười, bệnh càng trầm trọng, do tuân theo di mệnh lâm chung của mẫu hậu nên triệu em là Tấn Vương Quang Nghĩa vào hầu, dặn dò việc sau:
- "Trẫm thấy ngươi tướng rồng bước đi như cọp, ngày sau tất là thái bình thiên tử. Cháu ngươi là Đức Chiêu, nên đối xử tốt với nó. Và có ba việc trẫm chưa làm được, ngươi nên cố gắng làm tiếp. Việc thứ nhất, Hà Đông là đất gần biên giới, không thể không lấy. Việc thứ hai, Thái Hành Sơn Hô Diên Tán, nên triệu đến mà dùng. Việc thứ ba, cha con Dương Nghiệp, trẫm rất là yêu, nên chiêu mộ về làm tướng. Ta thấy nước địch có Triệu Toại có thể giao hảo với người này, và dụ hắn đến hàng, còn cha con nhà họ Dương có thể dùng phú quý của Trung Quốc để dụ, nên xây Vô Nịnh Phủ ở bên hồ Kim Thủy để cho ở, rồi cho người thông tin tức với nhà Sơn Hậu, tất không có gì trở ngại. Còn nữa, trẫm lúc trung niên ở Ngũ Đài Sơn từng hứa tiêu nhưng do quốc gia nhiều việc, vẫn chưa làm được. Ngươi nên tranh thủ lúc triều đình vô sự, thay trẫm mà trả lễ. Những việc này phải nhớ kỹ chớ quên".

Quang Nghĩa lạy mà chịu mệnh. Thái Tổ lại gọi con là Đức Chiêu tới:
- "Làm vua không dễ, nay truyền ngôi cho hoàng thúc con, đã là thay sự cực nhọc cho con đó. Nay ban cho con kim giản một thanh, ở triều nếu có thần tử nào bất chính, thì con được phép trị tội".
Đức Chiêu nói:
- "Lệnh của phụ hoàng, con đâu dám quên”.
Thái Tổ dặn dò xong, nhìn Tấn Vương mà kêu to:
- "Ngươi hãy cẩn thận làm cho tốt!”. Xong thì băng hà, trị vì 17 năm, thọ 50 tuổi. Người sau có thơ vịnh rằng:

Cảnh cảnh Trần Kiều kiến đế tinh,
Hoàng khai Tống vận tế quang minh.
Can qua chỉ xứ lang yên diệt,
Sĩ mã khu lai vũ trụ thanh.
(Rỡ rỡ Trần Kiều gặp sao đế,
Mở ra triều Tống rỡ ràng thay.
Can qua dứt chốn sài lang hết,
Binh mã dẹp yên cảnh thái hòa.)
Vào lúc canh tư, Tống hậu vào gặp Tấn Vương, sửng sốt kêu nhiều lần:
- "Mạng sống của mẹ con tôi, đều nằm trong tay bệ hạ!"
Tấn Vương khóc mà nói:
- "Em xin bảo đảm phú quý, chị đừng lo".
Ngày thứ, Tấn Vương Quang Nghĩa tức vị, đổi niên hiệu, tức là Thái Tôn hoàng đế. Sau khi quần thần triều hạ xong, tôn Tống hậu làm Khai Bảo hoàng hậu, dời đến Tây Cung. Rồi hạ lệnh đại xá thiên hạ.

Lúc mới lên ngôi, Thái Tôn rất để ý các tướng soái. Các tướng phù Sảo Khanh, Mã Toàn Nghĩa... của triều trước đều đã mất. Một ngày kia Thái Tôn nói với quần thần:
- "Hà Đông, Liêu, Hạ đều là nước địch của ta, tiên đế lúc sắp băng hà, dặn dò trẫm về việc của hai danh tướng Thái Hành Sơn là Lý Kiến Trung, Hô Diên Tán, nay trẫm phải hạ chiếu triệu vào".
Dương Quang Mĩ tâu rằng:
- "Bọn Lý Kiến Trung, tiên đế đã từng phong thụ, chính nên tuyên triệu nhập triều, bổ nhiệm làm Soái, bệ hạ nếu đánh Hà Đông thì bọn họ tất có thể lập được công”.
Thế Tông theo lời tâu, ngay hôm đó sai Cao Quỳnh làm sứ, tới Thái Hành Sơn triệu bọn Lý Kiến Trung. Cao Quỳnh lãnh mạng, đem chiếu chỉ tới Thái Hành Sơn tuyên đọc:
“Trẫm mới kế vị, chú ý tướng soái. Nay Hà Đông chưa thu được, việc chinh chiến còn phải cảnh giác. Nay đặc biệt chiêu mộ các anh hùng để cùng bàn việc xuất chinh. Gần đây có Thái Hành Sơn Lý Kiến Trung, Hô Diên Tán cung mã tinh thông, võ nghệ siêu quần, quân sĩ tinh nhuệ, không dưới vài ngàn người. Trẫm theo di mệnh của tiên đế, đã từng thụ phong nhưng chưa ban cáo mệnh. Nay đặc biệt sai cận thần Cao Quỳnh mang chiếu đến tuyên, ngày các khanh nghe mệnh, hãy lập tức vào chầu, đừng phụ lòng trẫm.”
Bọn Lý Kiến Trung được chiếu, lạy thụ mệnh, mời Cao Quỳnh vào trướng làm lễ tương kiến. Quỳnh nói:
- "Chúa thượng nghe danh nhị vị tướng quân, sai hạ quan đến hối thúc vào chầu. Vậy hai ông nên theo chiếu mà làm".
Kiến Trung nói:
- "Đã có lệnh vua, đâu dám kháng chỉ. Chỉ khó là nơi đây chỉ cách Hà Đông một dãy đất, nếu tướng, quân, ngựa đều vào đầu nơi cửa khuyết, kẻ địch sẽ thừa cơ đến đánh trại ta. Nay để Hô Diên Tán theo chiếu vào chầu thánh thượng, ta lưu lại ở đây, đợi đến khi thánh giá xuống Hà Đông, sẽ theo mà đánh giặc ngài thấy thế nào?" Quỳnh nghe theo lời này.

Ngày thứ, cùng Hô Diên Tán với Mã Thị và 2000 thuộc hạ, từ biệt Kiến Trung rời khỏi Thái Hành Sơn, thấm thoát đã tới Biện Kinh. Sau khi Cao Quỳnh dẫn Tán vào triều kiến Thái Tôn xong, tâu rõ nguyên nhân Lý Kiến Trung lưu lại ở trại. Thái Tôn tuyên Tán vào lên điện, thấy hình dạng khôi vĩ, uy phong lẫm lẫm, hết sức khen ngợi. Tán vừa muốn lui, Quỳnh lại tâu rằng:
- "Tướng mới vừa đến, bệ hạ nên cho phủ đệ mà ở, để biểu rõ hi vọng sự quy thuận của hiền tài".
Thái Tôn mới hỏi quần thần:
- "Gần thành có chỗ tráng lệ nào không, sửa sang lại để Tán vào ở “.

Phan Nhân Mĩ bước ra tâu:
- "Thần được biết Đông Quách Môn của Biện Kinh có một tòa vương phủ, nguyên là Long Mãnh trại, chỉ có nơi đó là rộng rãi, nay có 1000 tráng binh canh giữ, nơi này thật số có thể ở được".
Vua chuẩn tấu, liền hạ chỉ cho Hô Diên Tán ở nơi vương phủ đó. Tán được chỉ. Ngày thứ, dẫn thuộc hạ và Mã Thị đi ra Đông Quách Môn, đi đến nơi vương phủ, hóa ra là một ngôi nhà nát, hai nhà lớn đã đổ sụp, nhà giữa thì xiêu vẹo, sân đầy cỏ dại, góc nhà có rất nhiều mạng nhện giăng, hoàn toàn chưa được sửa sang, chỉ có 500 quân giữ, đều là những kẻ ốm yếu già nua. Tán rất không vui, mặt buồn bã. Mã Thị cố gắng khuyên rằng:
- "Tướng quân bớt giận, đây chẳng qua chỉ là nơi ở tạm thời, đợi thánh thượng đi đánh Hà Đông, chúng ta sẽ rời khỏi nơi này mà!"
Tán nghe theo, ra lệnh quân hiệu quét dọn, sắp xếp mà ở. Ngày thứ, hạ lệnh thuộc hạ không được quên việc quân, mỗi ngày đều phải ra giáo trường thao luyện.

Đây nói về Phan Nhân Mĩ sai người do thám động tĩnh của Tán, và được báo là:
- "Từ khi Hô Diên Tán tới phủ của mình, không vì sự hoang tàn mà phật ý, chỉ ngày đêm chỉnh đốn nhung ngũ; hiệu lệnh thuộc hạ nghiêm minh, tất cả đều không dám tự ý vào thành nhiễu loạn bá tánh".
Nhân Mĩ nghe báo, tự nghĩ kẻ này về sau tất được làm quan to, phải nghĩ kế để đuổi đi, bèn thương nghị với kẻ tâm phúc là Lưu Vượng. Vượng nói:
- "Việc này không khó, hắn nay mới đến, chưa được chức cao, ba ngày sau phải đến tham kiến đại nhân. Đợi cho đến khi hắn đến, ta kiếm cớ hành hạ hắn, hắn bị làm nhục tất sẽ trốn đi, ta đâu cần phải đuổi!".
Nhân Mĩ mừng rỡ nói:
- "Thật là diệu kế!", liền dặn dò tả hữu để sẵn hình cụ mà chờ.

Ngày thứ tư, có người báo Hô Diên Tán vào phủ xin gặp Nhân Mĩ lệnh cho vào, Hô Diên Tán vào bệ quỳ lạy nói:
- "Tiểu tướng nhờ khu sứ nâng đỡ, nay được vào triều, nay nguyện tận trung dưới cửa khuyết, để báo đáp đại ân tri ngộ của tiên đế”.
Nhân Mĩ im lặng hồi lâu, rồi nói:
- "Ngươi có biết pháp lệ do tiên vương để lại chăng?”
Tán đáp:
- "Tiểu tướng mới đến, nên chưa được rõ".
Nhân Mĩ nói:
- "Tiên hoàng thệ thư, phàm gặp bọn cướp được chiêu hàng xuống núi, đều phải chịu 100 roi ra oai, để ngăn về sau, nay ngươi cũng phải như thế?”. Tán nghe xong, giật mình chưa đáp. Nhân Mĩ liền nạt thủ hạ y phép thi hành. Tả hữu được lệnh, đem Hô Diên Tán vật ra trước thềm đánh 100 roi thật mạnh. Đáng thương Hô Diên Tán bị đánh đến thịt nát da nứt, máu tuôn dầm dề, kẻ khác nhìn thấy đều không ngăn được nước mắt. Nhân Mĩ sai người hầu khiêng ra ngoài.

Hô Diên Tán về đến phủ, Mã Thị đỡ lấy, thấy dung nhan đổi sắc, bước đi loạng choạng, hoảng sợ hỏi nguyên do. Tán kể lại việc bị đánh ra oai. Mã Thị nói:
- "Nếu tiên đế có pháp lệ này, thì cũng phải chịu, tướng quân chỉ nên nhẫn nại."
Nói xong, hâm nóng rượu đưa Tán uống. Chưa uống cạn ly, chợt thét to một tiếng, ngã vật ra đất. Mã Thị thất kinh, bàng hoàng run rẩy, tìm mọi cách để cứu mà không tỉnh, bèn òa khóc mà nói:
- "Vợ chồng ta vốn muốn tận trung với triều đình, ai ngờ tự nạp mạng sống".
Chợt bên cạnh có một người lính già nói:
- "Đây hẳn là khi tướng quân bị đánh trượng thì trên trượng đã được bôi thuốc độc, thấm vào da thịt, gặp rượu nóng bèn phát tác, nên mới ngất đi như thế. Để tôi đem linh dược mà giải, là lập tức tỉnh ngay".
Mã Thị nói:
"Nếu có thuốc hay, xin hãy chữa trị, sẽ có ngày báo ơn này". Người lính già lấy thuốc viên, hòa chế rồi cho uống.

Hô Diên Tán ngấm thuốc, từ từ tỉnh lại, mọi người đều mừng rỡ. Tán hỏi người lính già:
- "Thuốc này sao lại hiệu nghiệm như vậy?"
Người lính già nói:
- "Kẻ này từng bị kẻ thù hạ độc thủ, bị đánh mà chết, may nhờ phương ngoại đạo nhân cứu tỉnh, do đó được truyền bài thuốc này”.
Tán dùng trăm lượng vàng hậu tạ, người lính già không nhận mà nói:
- "Tướng quân phải ở chỗ này, rõ ràng là bị đương triều Phan Nhân Mĩ hãm hại, vừa rồi bị độc trượng chắc cũng là mưu kế của hắn. Ngài nếu không đi gấp e rằng sớm muộn cũng khó bảo toàn được mạng sống!"
Tán nghe xong nổi giận nói:
- "Quyền thần đương quốc, ta làm sao có chỗ lập thân".
Liền hạ lệnh toàn bộ thuộc hạ thu thập hành lí, ngay đêm đó cùng Mã Thị chạy về Thái Hành Sơn.

Tảng sáng đã tới bên ngoài trại, tiểu tốt báo với Lý Kiến Trung. Kiến Trung không tin, ra trại xem thử, quả nhiên là Tán. Liền cùng vào trong trại hỏi lý do quay về. Tán đem việc bị đánh, nói lại một lượt. Lý Kiến Trung nổi giận nói:
- "Tên giặc này chắc do em giết con hắn, nên bày mưu này để trả thù. Nay hãy giữ ở đây, đợi thánh giá lại xuống Hà Đông, thì bắt tên thất phu này, xé xác ra ngàn mảnh".
Tán vâng theo. Kiến Trung sai người bày tiệc rượu giải buồn.

Chợt nghe báo dưới núi có một toán người ngựa kéo đến, không biết là ai. Lý Kiến Trung lập tức dẫn quân ra trại nghênh đón, thì ra là bọn Cảnh Trung. Cảnh Lượng. Lý Kiến Trung mừng rỡ:
- "Vừa muốn đến mời hiền huynh, không ngờ nay tự đến, thật đúng ý tôi".
Liền mời vào trong trướng chào hỏi, theo thứ tự ngồi uống rượu. Giữa tiệc Cảnh Trung hỏi:
- "Gần đây nghe hiền diệt được tuyên vào triều, hôm nay sao lại ở đây?"
Kiến Trung đáp:
- "Một lời khó nói hết chuyện, Tán từng theo sứ giả vào chầu, muốn tận trung với triều đình, không ngờ gian thần Phan Nhân Mĩ ôm oán hận cũ, nhiều lần lập mưu hãm hại Tán".
Và đem chuyện trước kia kể lại một lượt. Cảnh Trung nghe xong nổi giận:
- "Hiền đệ có trong tay bao nhiêu nhân mã?"
Kiến Trung nói:
- "Khoảng hơn 8000 người".
Trung nói:
- "Mượn ta 2000 người để ta cùng cháu Tán đi vây thành Hoài Châu, ép dâng tấu lên tâu rõ lòng gian của Phan Nhân Mĩ, để rửa oan cho cháu ta".

Kiến Trung vâng lời, ngay hôm đó giao 2000 nhân mã cho bọn Cảnh Trung, Hô Diên Tán, kéo đến phủ thành Hoài Châu vây chặt lấy thành. Tiếng chiêng trống dưới thành vang vọng trong ngoài, dân trong thành ai cũng kinh hãi. Quan Tri Châu là Trương Đình Thần biết được, lại lên thành quan sát. Xa xa trông thấy bọn Cảnh Trung đang diễu võ dương oai, la hét dưới thành. Đình Thần hỏi rằng:
- "Các ngươi kéo đến vây lấy thành trì là có ý gì?” ,
Cảnh Trung nói:
“Chúng tôi đến không phải để cướp, mà vì rửa nỗi oan không rõ cho cháu tôi thôi".
Đình Thần không hiểu lý do, liền hỏi muốn giải nỗi oan.

Trung nói:
- "Ngày trước, Thái Hành Sơn Hô Diên Tán chịu sự tuyên triệu của triều đình, đến cửa khuyết chầu vua, bị nịnh thần là Phan Nhân Mĩ hãm hại, lại giả lập tổ chế, đánh cho 100 roi ra oai, muốn lấy cả tính mạng, nên chỉ có thể bỏ trốn về sơn trại để bảo vệ mình. Nay triều đình không rõ lý do, mà buộc Tán có tội bỏ trốn. Nên hôm nay cố tình đem quân đến vây thành, yêu cầu đại nhân tâu rõ việc này, trừ bỏ nịnh thần, chúng tôi đều nguyện đi theo Trung Quốc vậy”.
Đình Thần dụ nói:
- "Nếu có việc này, bọn ngươi hãy tạm lui, đừng kinh động bá tánh. Ta sẽ lập tức tấu rõ triều đình, rồi sẽ được triều đình tuyên dụ, người thấy thế nào?"
Cảnh Trung liền hạ lệnh quân mà rút lui, cách thành 20 dặm hạ trại.
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Sáu
Phan Nhân Mĩ Phụng Chiếu Tuyên Triệu
Hô Diên Tán Đơn Thân Cứu Chúa

Nói về Trương Đình Thần về tới trong phủ, liền viết tấu chương, sai người ngày đêm về kinh, dâng lên Thái Tôn:
Thần Trương Đình Thần tâu rằng: Gần đây có Thái Hành Sơn Hô Diên Tán phụng chiếu nhập triều, nhưng vì Phan Nhân Mĩ luôn bày mưu hãm hại, hắn căm phẫn nên trốn về. Nay bệ hạ mới lên nối ngôi, chú ý biên tướng, vả lại Tán một hào kiệt, chưa hiểu được tài năng, liền bị đại thần hãm hại, đuổi đến nơi xa, đó không phải là ý bệ hạ muốn gần người hiền, dùng người tài vậy. Nay nên đem Phan Nhân Mĩ thể cứu đích thực, mà hạ chiếu tuyên triệu lần nữa, khiến Tán vui vẻ mà tùng sự, việc ở biên thùy, có thể thành trong nay mai, đó thật là may mắn cho cho nước nhà vậy.
Thái Tôn xem tấu xong, nổi giận mà rằng:
- "Phan Nhân Mĩ sao được tự ý sát phạt, trục đuổi trung lương ư?”
Lập tức hạ lệnh Hữu Khu Mật Dương Quang Mĩ tra xét việc này. Quang Mĩ được lệnh, khiến người mời Phan Nhân Mĩ đến phủ mà nói rằng
- "Chúa công muốn hỏi tôn ông về việc đuổi Hô Diên Tán, ông có lời gì nói không?”.
Nhân Mĩ nói:
- "Việc này là do hạ quan làm, nay mong khu sứ giúp đỡ, sẽ báo ơn đức này".
Dương Quang Mĩ nói:
- "Lệnh của chúa thượng, sao có thể bênh ông được, nay ông nên cùng tôi vào điện tấu, tôi tự có cách giúp ông”. Nhân Mĩ tạ ơn, lập tức theo Dương Quang Mĩ vào gặp Thái Tôn. Vua hỏi rằng:
- "Khanh truy cứu việc của Phan Nhân Mĩ, đúng là như vậy hay không? Quang Mĩ tâu rằng:
- "Thần thụ mệnh tra hỏi nguyên nhân Hô Diên Tán trở về núi, thật không liên quan gì nhiều đến Phan Nhân Mĩ. Nay Nhân Mĩ biết tội, theo thần vào để trần tình, mong bệ hạ rộng lượng".

Thái Tôn nghe tâu, triệu Phan Nhân Mĩ tới trước điện mà hỏi rằng:
- "Hô Diên Tán là Tán mà tiên đế luôn mong nhớ, nên trẫm mới cho tuyên vào triều, để bộc lộ tài năng, ngươi vì sao lại đuổi đi?"
Phan Nhân Mĩ tâu rằng:
- “Thần thấy Hô Diên Tán vào chầu, hắn trong lòng thường cảm thấy bất mãn, muốn trở về đã lâu, chứ không phải là do thần đuổi đi. Nay nguyện phụng chiếu về núi, tuyên triệu vào chầu, cùng thần đối chất rõ ràng. Nếu đúng như lời Hô Diên Tán nói, thì cam chịu tru diệt dưới búa rìu, vạn tử bất từ”.
Thái Tôn im lặng không đáp. Bát Vương tâu:
- "Bệ hạ nay lưu tâm đến tướng soái, Nhân Mĩ tuy có tội, nhưng nên chuẩn theo thỉnh cầu, triệu về lần nữa. Nếu Hô Diên Tán vẫn vâng chiếu về chầu thì có thể tha cho cả hai tội”.
Thái Tôn nghe lời, liền hạ chiếu để Phan Nhân Mĩ đến triệu Hô Diên Tán.

Nhân Mĩ lĩnh chỉ, ngay hôm đó ra khỏi kinh, đi đến Thái Hành Sơn, khiến người lên núi báo. Hô Diên Tán nói:
- "Ta bị tên giặc này hạ độc thủ suýt nữa mất mạng, hận không báo được. Nay nhân dịp này mà giết đi để trả thù này, tha hắn không được".
Kiến Trung nói:
- "Không được, bọn ta đang muốn lập công với trại đình, sao có thể vì chuyện nhỏ mà hại việc lớn , chi bằng phụng thừa thánh chỉ, để tránh được tội bỏ trốn".
Tán vâng lời, liền cùng Kiến Trung ra trại nghênh tiếp. Phan Nhân Mĩ tiến vào trướng tuyên đọc chiếu thư:

"Trẫm buổi đầu lập quốc, lần đầu triệu khanh, muốn được trọng dụng kịp thời. Sao mới vào triều chưa được một tháng lại tự ý bỏ đi, quay về chốn cũ? Khanh vốn có tài văn võ, chính nên thứ trung hiến kế, sao lại chịu mai một hoài bão, tự cam che khuất sao? Nay tiếp tục cho sứ đến, khanh nên lập tức vào chầu, để chuộc tội bỏ trốn ngày trước. Nay chiếu cho biết vậy."

Kiến Trung lạy nhận xong, mời Nhân Mĩ vào ngồi giữa. Hai người bái tạ rằng:
- "Phiền nhọc khu sứ phụng chiếu đến đây, không đón tiếp từ xa, kính mong tha tội".
Nhân Mĩ thấy Tán hơi có sắc thẹn, nên đáp rằng:
- "Hạ quan mạo phạm tướng quân, tự rất hối hận. Nay thánh chỉ lại đến tuyên triệu, nên lập tức vào chầu, để đáp lại mong mỏi của hoàng thượng".
Kiến Trung mừng rỡ. Lập tức sai bày yến tiệc để khoản đãi sứ giả triều đình, lưu lại trong trại một đêm. Ngày thứ, Nhân Mĩ hối Hô Diên Tán xuống núi. Tán thương nghị với Kiến Trung. Kiến Trung nói:
- "Nhân Mĩ là đại thần đương triều, nay lĩnh thánh chỉ đến triệu, thì nên theo mà đi mà về kinh, nên bỏ oán cũ đi". Tán vâng theo, liền sửa soạn y giáp, yên, ngựa. Cùng Mã Thị theo Phan Nhân Mĩ xuống núi. Lý Kiến Trung đưa ra đến đường lớn mới từ biệt, tự đi rút nhân mã của Cảnh Trung về. Chuyện không cần nói nhiều.

Chỉ nói về Hô Diên Tán vào đến kinh sư, triều kiến Thái Tôn, dập đầu thỉnh tội bỏ trốn. Thái Tôn nói:
- "Trẫm vì khanh chưa lập kỳ công, hãy tạm lưu trong Hoàng thành cư trú, chờ lúc xuống Hà Đông, sẽ trọng dụng đến khanh".
Tán tạ ơn rồi lui ra. Thái Tôn tuyên Bát Vương vào nói:
"Trẫm thấy Tán là tướng mới, chưa thấy võ nghệ ra sao, nay muốn thử xem sao, người có cách gì không?’

Bát Vương tâu rằng:
- "Bệ hạ muốn xem võ nghệ của Tán, chuyện này rất dễ, nên bắt chước chuyện Du Khoa Viên của triều trước thì sẽ thấy được tài năng của hắn".
Thái Tôn nói:
- "Kẻ sĩ như Đơn Hùng Tín, trong quân còn có thể có, chứ người bằng tiểu Tần Vương, thì e là khó được người như vậy".
Bát Vương nói:
- "Thần xin giả làm tiểu Tần Vương, sai Hô Diên Tán làm Uất Trì Kính Đức, còn Đơn Hùng Tín thì phiền bệ hạ giáng chỉ chọn ra trong trăm vạn quân vậy".
Vua chuẩn tâu, nên lệnh quần thần chọn trong các tướng súy người có thể giả làm Đơn Hùng Tín. Phan Nhân Mĩ vẫn ôm lòng độc hãm, bèn nảy ra một kế hãm hại, xuất ban tâu rằng:
- "Con rễ thần là Dương Diên Hán cung mã thuần thục, đáng sung vào vai này".
Thái Tôn chuẩn tâu, lập tức hạ lệnh truyền trong quân. Diên Hán thụ mệnh xong suy nghĩ:
- "Đây chắc Nhạc phụ có lòng muốn hại Tán, nên mới cử ta sung chức này để báo thù cho con mình đây. Ngày trước ta bị Tán bắt, lại chịu ơn không giết, sắp đi lại tặng hoàng kim, hôm nay nếu ta không cứu hắn thì tức là người mất nghĩa”. Liền vào phủ Bát Vương, kể cho nghe chuyện này.

Bát Vương kinh ngạc nói:
- "Ngươi không nói ra thì cơ hồ lộng giả thành chân rồi. Ngươi hãy lui, ta tự có phương lược"
Diên Hán cáo từ lui ra. Bát Vương vào tâu với Thái Tôn:
- “ Thánh chĩ của bệ hạ, chọn hai tướng soái, lấy Dương Diên Hán đóng vai Đơn Hùng Tín. Thần cho Hán là thù nhân của Tán, nên sợ sẽ có bất trắc, và sẽ tổn hại đến đại thể của triều đình. Nay nên chọn một người trong các thiên tướng, giả dụ có xảy ra bị thương tích nhẹ, cũng không dẫn đến hiềm khích”.
Vua nhận thấy đúng. Liền hạ lệnh cho quần thần chọn lại một người trong các thiên tì tướng hiệu. Cao Hoài Đức tâu:
- "Giáo luyện sứ Hứa Hoài Ân võ nghệ tinh thông, có thể sung chức này".
Vua chuẩn tấu, liền lệnh Hoài Ân ngày mai đợi lệnh ở giáo trường. Quần thần phụng mệnh mà lui.
Ngày thứ, trong giáo trường dựng tinh kỳ bốn phía, quân ngũ chỉnh tề. Đao thương tuốt trần, khôi giáp sáng bóng. Một lát sau, Thái Tôn thánh giá ngự đến. Văn võ bá quan phủ phục nghênh đón, theo ban mà đứng. Chỉ nghe trống nhạc vang trời, pháo nổ ầm đất. Thái Tôn tuyên Bát Vương, Hô Diên Tán, Hứa Hoài Ân ba người vào trong quân và nói:
- “Trẫm vốn mình thử võ nghệ của khanh để cho trong quân tin phục, mỗi người phải chú ý cẩn thận, đừng gây thương tích cho nhau”. Bát Vương mỗi người đều thụ mệnh. Thái Tôn ban cho Hô Diên Tán một thanh Kim Tiên, ban cho Hứa Hoài Ân một cây Đàn Thương, ban cho Bát Vương Hoạch cung vũ tiễn. Ba người lạy nhận rồi ra ngoài trướng. Bát Vương cưỡi một con tuấn mã cao lớn vung roi chạy vòng tròn. Hứa Hoài Ân tế ngựa múa thương đuổi theo, lớn tiếng kêu rằng:
- "Tiểu Tần Vương chớ chạy".
Bát Vương lấy cung ra, giương cung đặt tên nhắm chuẩn Hứa Hoài Ân mà bắn. Hứa Hoài Ân nhanh mắt né qua, nâng thương đuổi gấp, Bát Vương bắn tiếp một mũi, lại bị Hoài Ân tránh được. Quân sĩ trong thao trường ai nấy đều ngạc nhiên. Hô Diên Tán thấy Hứa Hoài Ân khí thế dần dần ép gần, lập tức tế sản mã nâng roi, y hệt như Kính Đức thật vậy. Đuổi ớ phía sau, thét to: "Truy tướng chậm lại, có Hô Diên Tán tới cứu giá đây".
Hứa Hoài Ân thấy Tán đuổi đến gần, muốn hiển lộ tài nghệ bình sinh, bắt lấy đem dâng nạp, liền giật ngựa quay về địch với Hô Diên Tán. Tán vung roi vỗ ngựa xông vào đánh với Hoài Ân. Hai người đấu với nhau ở giáo trường hơn 20 hiệp, bất phân thắng bại. Tán ngẫm nghĩ:
- "Ta nếu bắt hắn ở đây, không thấy được uy phong của ta, đợi dụ đến trước ngự tiền mới tính".
Liền tế ngựa giả thua, vòng theo giáo trường mà chạy. Hoài Ân giận nói:
- "không bắt tên giặc này, sao bày tỏ được lòng ta”.
Tế ngựa đuổi gấp. Gần đến trước ngự tiền, Tán quay người lại, giơ Kim Tiên đánh Hoài Ân rớt xuống ngựa. Bọn Phan Nhân Mĩ thấy vậy, ai nấy đều thất sắc. Lúc này Bát Vương quay ngựa về gặp Thái Tôn. Thái Tôn vui mừng nói:
- "Không uổng là sở tri của tiên đế, Tán quả thật là tướng quân"
liền ban cho vàng ròng 100 lượng, tuấn mã một con, lệnh cho đến ở Thiên Quốc Tự. Tán tạ ân lui ra, vua tôi đều tan cả.

Lúc này là vào ngày mùng 1 tháng 2 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc nguyên niên, Thái Tôn coi triều xong, hạ chỉ đến Thái miếu hành hương. Lúc ấy các quan đều đứng trước khởi cư bia để chờ thánh giá đi ra. Nếu không có tấm bia này, tức là làm cản trở ngự giá. Chợt có người báo cho Hô Diên Tán biết:
- "Hôm nay Thái Tôn ngự giá dâng hương, các quan đều ở trong đứng trước khởi cư bia, tướng quân sao không làm vậy?"
Tán nghe báo, đang không biết nguyên do, đang tính mặc quan phục để nghênh hầu, vừa lúc thánh giá đi đến. Người làm ngự tiền lại vừa đúng là Phan Nhân Mĩ, bèn hỏi:
- “Ai cản loan giá”. Quân hầu báo:
- "Tướng mới hàng Hô Diên Tán".
Nhân Mĩ nổi giận nói:
- " Các quan đều đứng ở khởi cư bia, người sao lại được phạm vào lệ của triều đình”. Hô kỵ uý áp ra pháp trường chém. Kị úy được lệnh, liền trói Tán lại dẫn đi. Lúc đó các quan không ai dám can. Cho đến khi Thái Tôn dâng hương trở về. Bát Vương cũng trên đường về phủ, đi qua pháp trường, thấy có rất nhiều lính vệ vây lấy một phạm nhân bị trói. Bát Vương liền hỏi:
- "Hôm nay là ngày tốt, thánh thượng hành hương, sao lại chém người?"
Quân hầu báo:
- "Lúc sáng thánh giá vừa qua, tướng mới quy thuận là Hô Diên Tán không kịp tránh, bị tội xung mã, nay sắp xử trảm “.

Bát Vương nghe xong, hoảng hồn nói:
- "Suýt nữa thì mất đi một trụ cột nước nhà".
Lập tức sai người cởi trói, đem Tán về phủ, hỏi nguyên nhân việc xung giá. Tán khóc nói: "Thần mới xuống núi, không hiểu phép nước, vừa gặp thánh giá xuất hành, chưa đứng ở khởi cư bia, đắc phải tội chết. Nếu không phải điện hạ tới cứu thì mạng trong gang tấc rồi".
Bát Vương phẫn nộ ngẫm nghĩ:
- "Chưa đứng vào khởi cư bia, đó là tiểu tiết, sao lại khép vào tội chết vậy? Đây tất là mưu kế hãm hại của bọn gian nịnh".
Do đó để Tán ở trong phủ. Vào cung triều kiến Thái Tôn, tâu rõ chuyện này. Thái Tôn nói:
- "Trẫm vốn không biết, nay phải ban chiếu ân xá".
Bát Vương tâu:
- "Nay bệ hạ ở sâu trong cung cấm, dù có gì oan ức, cũng không nói lên được. Nay nên giáng chiếu ưu đãi, đưa cho để hắn được yên tâm. Vua chuẩn tâu, ngay hôm đó hạ thánh chỉ, đưa cho Bát Vương, để Tán theo đó mà làm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Bảy
Vua Bắc Hán Xin Giữ Hà Đông
Hô Diên Tán Cầu Bắt Tướng Giặc

Bát vương lĩnh chỉ trở về phủ, gặp Tán chúc mừng rằng:
- "Nay tôi xin được cho ông một đạo chiếu chỉ của triều đình, chỉ cần giữ pháp lệnh, là đảm bảo không lo nữa".
Tán bái tạ mà lui. Không ngờ Mã Thị nghe thấy phu quân bị tội phải chém, sợ bắt cả gia đình, nên cùng thuộc hạ bí mật trốn về sơn trại mất. Tán tự nhiên không còn người thân, than thở không ngớt. Chỉ đành lưu lại ở trong chùa.

Khi mới về đến Hà Đông Lưu Quân nghe được tin Thái Tôn mới lên ngôi, chiêu hàng Thái Hành Sơn Hô Diên Tán làm tướng, liền tập họp văn võ lại thương nghĩ rằng:
- "Ngày Trung Quốc Tống Thái Tổ còn, xem nước ta như địch quốc. Nay nước họ mới lập Thái Tôn, mối lo của đất Hà Đông ta lại tránh được sao?"
Đinh Quý tâu rằng:
- “Năm trước, do triệu Dương Lệnh Công giải mối vây ở Dịch Châu, giảng hòa mà về. Nay quân sĩ tích trữ lực lượng, binh giáp tinh nhuệ, bệ hạ có thể gối cao không lo nữa. Những nỗi tệ gần đây, phần nhiều do chuẩn bị không kĩ khiến quân địch tiến vào nhanh chóng. Nay nên hạ lệnh cho các nơi ở biên quan, đề phòng cẩn mật, không được để quân Tống xâm nhập dễ dàng, đặc biệt là kế giữ lâu dài. Ta nhân địch cực nhọc, quân hao tốn vô công, tự nhiên sẽ không dám nhòm ngó Hà Đông nữa". Lưu Quân nghe theo lời tâu này, lập tức hạ lệnh thông báo cho các nơi biên quan. Còn ở thành Tấn Dương thì xây lũy cao hào sâu mà chờ.

Tin tức truyền vào Biện Kinh., Thái Tôn hội quần thần lại bàn kế sách đánh Hà Đông. Dương Quang Mĩ tâu rằng:
- "Hà Đông đã chuẩn bị đầy đủ, chắc chắn, chưa thể sơ xuất đánh được. Bệ hạ nếu thật sự muốn mưu lấy nên thừa kẻ địch có sơ hở, sau đó mới tiến quân, thì mới quyết định được thành công".
Thái Tôn trầm ngâm chưa quyết. Tào Bân tâu rằng:
- "Với sự tinh nhuệ của binh giáp nước ta, thì một cô lũy ở Thái Nguyên, ta có thể lấy dễ như trở bàn tay, còn phải nghi ngờ hay sao?"
Vua nghe lời Bân, ý đã quyết. Phong Phan Nhân Mĩ làm Bắc Lộ đô chiêu thảo sứ, Cao Hoài Đức làm chánh tiên phong, Hô Diên Tán làm phó tiên phong, Bát Vương làm giám quân, thống lĩnh 10 vạn tinh binh, ngay hôm đó ngự giá thân chinh.

Chỉ mệnh vừa xuống, bọn Phan Nhân Mĩ lui triều, đến giáo trường điểm binh mã. Thuộc hạ của Hô Diên Tán, đều là những người già yếu. Cao Hoài Đức vào nói:
- "Chức vụ tiên phong không nhẹ, gặp núi mở đường. Gặp nước bắt cầu. Nay để Tán thống lĩnh toàn những quân già yếu, sẽ làm lỡ việc lớn của triều đình, sẽ chiêu thảo tội thì ai là người gánh vác?"
Phan Nhân Mĩ im lặng, rồi nói:
- "Vậy quân già yếu, nên giao cho ai?" Cao Hoài Đức nói: "Đã nói là già yếu thì đều là những người không dùng được, nếu đem xung trận thì giết giặc, chắc là không thể. Nên để số quân này phân bố cho các tướng theo ngự giá thống lĩnh, tiền quân nên tuyển người tinh dũng, đều chia để tiểu tướng và Hô Diên Tán thống lĩnh". Nhân Mĩ không còn cách nào, chỉ còn cách nghe theo.

Hôm sau, Nhân Mĩ vào thỉnh ngự giá khởi hành. Thái Tôn đem việc nước giao cho Thái tử Thiếu Bảo Triệu Phổ xử lý và dùng Quách Tiến làm Thái Nguyên Thạch Lĩnh quan đô bộ thử, để cắt sự tiếp ứng của Yến Kế. Sau khi cắt đặt xong, ngay hôm đó xa giá rời khỏi Biện Lương, thẳng tiến theo hướng Hà Đông. Chỉ thấy tinh kỳ phấp phới, kiếm kích trùng trùng.

Một ngày nọ, quân đến địa giới Hoài Châu. Chợt thám tử báo vào trong đội đi đầu:
- "Phía trước có phục binh cản đường, không rõ là ai?"
Hô Diên Tán nghe được vội dẫn quân lên trước nhìn xem, thì ra là Kiến Trung, Cảnh Trung, Cảnh Lượng, Liễu Hùng Ngọc, Kim Đầu Mã Thị. Tán cắp thương xuống ngựa, đứng ở bên đường:
- "Ca ca vì sao không giữ sơn trại? Đến đây làm gì?”.
Kiến Trung nói:
- "Ngày trước Mã Thị về trại, báo cho biết em phạm tội bị chém. Chúng ta ôm hận đã lâu, nay nghe ngự giá đến đánh Hà Đông, nên đem quân đến cản lấy đường đi, muốn bắt kẻ đã hại em để báo thù”.
Sau khi nghe xong, liền kể chuyện nhờ ơn Bát điện hạ giải cứu. Lời chưa dứt, Cao Hoài Đức dẫn một cánh quân kéo tới, biết là huynh đệ của Tán, liền nói:
- "Nếu gặp nhau ở đây việc phi ngẫu nhiên. Sao không tâu với thiên tử, cùng đánh Hà Đông, để lấy phú quý?”
Lý Kiến Trung nói:
- "Đó là chí nguyện của chúng tôi, nay tình nguyện đi trước".
Cao Hoài Đức lập tức chuyển tấu Thái Tôn ngự tiền:
- "Nay có huynh đệ của Tán gồm tám viên mãnh tướng, nguyện theo bệ hạ đánh giặc".
Thái Tôn mừng rỡ phán:
- "Lần này chắc sẽ lấy được Hà Đông!".
Lập tức tuyên thụ bọn Kiến Trung, tám người vào chức Đoàn Luyện Sứ, chờ bình định Hà Đông về triều, lĩnh thụ cáo mệnh. Bọn Kiến Trung tạ ơn lui ra. Có thơ làm chứng:

Thánh chúa long phi trọng tuấn lương,
Anh hùng vân tập khởi tầm thường.
Can qua trực chỉ phong thanh khiếu,
Quản thủ Hà Đông hiến vực cương.
(Thánh chúa lên ngôi trọng hiền tài,
Anh hùng theo đến thiếu gì ai.
Giáo gươm thẳng tiến mưa gào thét,
Chiếm giữ Hà Đông mở cõi ngoài).
Hôm sau, đại quân tới hạ trại ở Thiên Tĩnh quan. Tướng giữ quan là Thiết thương Thiệu Toại, có sức địch với muôn người, nghe thấy quân Tống kéo đến, bèn thương nghị việc nghênh địch cùng bộ tướng là Vương Văn. Vương Văn nói:
- "Quân Tống thanh thế lớn, khó mà giao phong. Tướng quân chỉ nên cố thủ, cho người đến Tấn Dương cầu cứu. Đợi khi viện binh đến nơi, trước sau xuất kích, mới có thể thắng được".
Toại nói:
- "Ngày trước Lưu Chủ có lệnh, không được để địch quân vào dễ dàng, nay chính là khi thừa lúc chúng mệt mỏi, chỉ một trận là phá được, sao lại phải cứu binh?"
liền dẫn quân xuất quan nghênh địch. Hai bên dàn trận. Tống tiên phong Hô Diên Tán vác giáo tế ngựa, phi ra trước trận nói:
- "Bắc tướng vì sao không hàng đi? Mà tự chuốc lấy họa diệt vong .
Toại nói:
- "Mi nên sớm lui đi, vẫn chưa muộn đấy. Nếu không chúng mày sẽ không còn manh giáp mà quay về đấy".
Tán giận dữ, múa thương đâm Thiệu Toại. Thiệu Toại múa đao đỡ lấy. Hai ngựa giao nhau, hai tướng đánh hơn 30 hiệp, bất phân thắng bại. Tán muốn bắt sống Thiệu Toại, nên giả thua chạy về trận nhà. Toại không tha, vỗ ngựa đuổi theo. Tán nhìn thấy đuổi đến gần quay ngựa lại thét to một tiếng, bắt sống Toại ngay trên lưng ngựa. Người sau có bài thơ khen:

Binh mã về nam khí thế hùng,
Tướng quân chí ở lập kỳ công.
Tinh kỳ triển ngoại phong vân biến,
Định tướng thân vong khuynh khắc trung.
Cánh quân khác, Cao Hoài Đức thấy Tán đã thắng được tướng giặc, liền thúc quân xông vào, quân Bắc đại bại, người chết vô số. Vương Văn không dám nghênh địch, cưỡi ngựa đi đầu Lục Lượng Phương. Quân Tống đánh xong Thiên Tĩnh quan. Thái Tôn đón quân trong quan, Tán trói Thiệu Toại đem dâng. Thái Tôn nói:
- "Để tên nghịch thần cũng vô ích".
Lệnh cho tả hữu lôi ra chém, bêu đầu làm hiệu lệnh.

Ngày thứ, quân đến Dịch Châu. Tướng giữ thành là Viên Hi Liệt nghe quân Tống đã đến, thương nghị với phó tướng Ngô Xương rằng:
- "Tống binh tinh nhuệ, Hô Diên Tán lại là hổ tướng trên đời, nếu giao phong khó bảo đảm sẽ thắng. Nên chỉ nên cố thủ, giữ quân lại là được Ngô Xương nói:
- "Dịch Châu thành cao, hào sâu, quân sĩ tinh dũng, việc đánh hay thủ đều không mất được. Để mạt tướng đem sở học bình sinh, ra lui quân Tống, nếu như không thắng thủ vẫn chưa muộn".
Hi Liệt nghe theo, cấp cho 5000 quân.

Ngô Xương nai nịt đầy đủ, mở cửa Đông bày thế trận. Bên kia thì Tống tiên phong Hô Diên Tán vác thương tế ngựa, đứng dưới cờ ở cửa trận. Ngô Xương nói:
- "Chúa ta là Hán Vương tự giữ một phương, vì sao cứ xâm phạm mãi?"
Tán nói:
- "Thái Tôn ta lấy quân nhân nghĩa mà quét sạch lục hợp, chỉ có Hà Đông là chưa hạ. Các người nay như cá nằm trên thớt, chết trong nay mai, sao không hàng còn chờ gì nữa?"

Ngô Xương nổi giận, múa đao tế ngựa đến chém. Hô Diên Tán khua thương nghênh địch. Hai ngựa vừa kề quân Tống dũng cảm xông lên. Quân Bắc tự rối loạn trước. Ngô Xương thế lực không địch nổi, quay ngựa chạy về hướng trận nhà, Tán thừa thế đuổi theo. Xương thấy quân Tán hùng dũng, không dám vào thành, dẫn quân vòng theo sông Phần chạy mất. Tán giết đến say máu, tế ngựa đuổi theo, kêu to:
- "Tướng quân đừng chạy!”
Xương nhìn lại thấy Tán đuổi gấp, gác đao, giương cung bắn ra một mũi, bị Tán tránh được. Ngô Xương hoảng hốt cắm đầu chạy về phía trước. Bỗng cả người lẫn ngựa rơi xuống đầm lầy. Thuộc hạ của Tán lên trước bắt lấy, còn quân hàng hơn 2000 người. Tán đem Ngô Xương giải vào gặp Thái Tôn. Thái Tôn lệnh lôi ra chém, và hạ lệnh đánh thành gấp.

Bại tốt của Xương chạy vào trong thành, báo với Hi Liệt, Hi Liệt thất kinh nói:
- "Không theo lời ta, quả nhiên bị bại trận, làm sao lui kình địch đây?”.
Nói chưa xong thì phu nhân là Trương Thị, vốn là con gái của Trương Công Cẩn ở Tượng Châu, dung mạo cực xấu, người ta gọi là Quỷ diện phu nhân, nhưng rất giỏi võ nghệ, vạn người khó đến gần, nghe được lời than của chồng, tiến lên trước nói:
- "Tướng quân đừng sợ, thiếp có kế lui giặc".
Hi Liệt nói:
- "Trong thành thế như lửa đốt, phu nhân có diệu kế gì ?"
Trương Thị nói:
- "Tống binh thế lớn phải dùng trí để đánh bại. Chàng ngày mai dẫn quân xuất chiến, giả thua dẫn địch vào trong rừng, thiếp sẽ mai phục sẵn xạ kị ở đó. Bốn phía bắn ra, chắc chắn thắng được".
Hi Liệt nghe mẹo này, sắp đặt đâu vào đấy.

Ngày thứ, đem 6000 quân tinh nhuệ ra thành nghênh địch. Hai trận bày ra, Tống tướng Hô Diên Tán ra ngựa quát to:
- "Bại tướng sao chưa đem dâng thành trì, mà còn dám ra đánh”.
Hi Liệt nói:
- "Hôm nay bắt ngươi để trả thù cho Ngô Xương".
Nói dứt lời, giơ búa xông thẳng vào trận quân Tống, Tán vỗ ngựa múa thương đánh trả. Quân sĩ hai bên reo hò, hai người đấu trên 20 hiệp, Hi Liệt quay ngựa bèn chạy. Tán thúc bộ tướng Tổ Hưng thừa thế đuổi theo. Gần đến khu rừng, Hi Liệt nổ pháo hiệu, tiếng vang dội núi sông. Phục quân của Trương Thị đổ ra, ngàn mũi tên đồng loạt bắn ra. Quân Tống bị chết và bị thương vô số.

Tán biết trúng kế, quay ngựa gấp chạy về, vừa gặp Trương Thị cản đường. Hai ngựa giao nhau, chưa đầy hai hiệp, bị Trương Thị đâm một nhát trúng vai trái, Tán nhịn đau phá vây mà chạy. Tổ Hưng và bọn thuộc hạ theo sau giết tới. Hỉ Liệt quay ngựa đuổi theo, chém Hưng một búa chết lăn xuống ngựa, quân Tống thua to. Hi Liệt và Trương Thị hợp quân truy kích, thắng được một trận, liền thu quân vào thành.
Tán về đến trong quân, căm hận Trương Thị nhất thương chi thù, nói với Mã Thị rằng:
- "Trận đánh hôm nay không thu được lợi , lại mất đi đại tướng là Tổ Hưng, thuộc hạ tử thương quá nửa".
Mã Thị nói:
- "Là ai xuất chiến mà có thể thắng chúng ta?"
Tán nói:
- "Hi Liệt không đáng lo, nhưng vợ hắn là Trương Thị thương pháp không thua chúng ta, lại có mưu trí. Nếu cố chết mà giữ thì Dịch Châu khó lòng đánh gấp được".
Mã Thị nói:
- "Đó không đáng lo. Kế mai phục của họ chỉ dùng được một phen, thiếp cũng sẽ dùng mẹo để lấy thành này".
Tán nói:
- "Nàng có kế gì?"
Mã Thị nói:
- "Hãy cho các trại dừng lại, chỉ nói là do bị quân địch đâm trọng thương vai trái, không thể ra đánh. Họ nghe được tin này, tất bê trễ việc phòng thủ. Và lệnh cho những tên lính già yếu bãi việc binh, ngày thì đem ngựa tắm ở sông Phần Dương, làm như vẻ muốn lui quân. Thiếp và chàng đem quân phục ở gò cao phía Đông thành, chờ cho họ xuất binh. Hẹn với Cao tướng quân ra đánh trước, chúng ta sẽ thừa cơ lẻn vào trong thành, thì Dịch Châu trở tay là lấy được!”.
Tán mừng rỡ:
- "Mẹo này đủ rửa hận của ta!". Lập tức bí mật hạ lệnh, các trại án binh không ra.
Quả nhiên, sau vài ngày thám mã báo với Hi Liệt, Hi Liệt mời Trương Thị đến bàn. Trương Thị nói:
- "Ngày trước tên thất phu bị thiếp đâm cho một thương, quân Tống nếu mất người này, lòng quân tất bê trễ. Nên thừa cơ mà đánh, xuất binh ngăn cản, quân Tống tất sẽ phá được”.
Hi Liệt nói:
- "Tuyệt".
Lập tức điểm 7000 tinh binh, giương cờ gióng trống, ra cửa Nam đánh. Quân Tống không đánh mà chạy. Hi Liệt tưởng là kế mình sẽ được, xua quân giết thẳng vào trong lũy. Cao Hoài Đức xông ra cản lại giao phong, hai ngựa giao nhau. Hậu quân báo quân Tống đã đánh thẳng vào Đông môn. Hi Liệt thất kinh, lập tức quay ngựa chạy về. Vừa gặp Hô Diên Tán chạy đến, quát to:
- "Tướng giặc chớ chạy".
Hi Liệt không dám ham đánh, phá vây mà chạy. Tán tế ngựa đuổi theo. Không đến nửa dặm, đuổi kịp đến gần, giơ kim tiên đánh một roi chết lăn xuống ngựa, quân sĩ hàng hết. Có thơ làm chứng:

Tinh binh bắc hạ thế như long,
Khẳng khái anh hùng kỉ trận trung.
Địch quốc vị bình tâm kích liệt,
Đoạt cờ trảm tướng hiển uy phong.
Lúc ấy, Trương Thị giết ra thành Đông, gặp Mã Thị đánh giết một trận, chỉ dư lại hơn trăm quân kị, chạy về Tượng Châu. Cao Hoài Đức hợp binh, đánh lấy Dịch Châu. Tán sai người báo với Thái Tôn. Thái Tôn mừng rỡ, hạ lệnh xa giá vào thành đóng quân.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Tám
Kiến Trung Bàn Lấy Tiếp Thiên Quan
Liêu Chúa Xuất Binh Cứu Tấn Dương

Ngày hôm sau, đại quân tiến đến Tiếp Thiên quan. Tướng giữ quan Lục Lượng Phương liền cùng bàn với Vương Văn rằng:
- "Quân Tống tiến nhanh mà tới, có cách nào lui không?"
Văn nói:
- "Cửa quan hiểm trở, nên cố thủ, chờ quân Tống hết lương thì dễ dàng phá được".

Lượng Phương nghe lời này, án binh không ra. Tống tiên phong Hô Diên Tán đánh ở dưới ải, hạ lệnh cho thuộc hạ đánh gấp. Trên ải đồ gỗ, đá, bắn cung tên xuống, quân sĩ không thể tiến gần. Tán vô kế khả thi, bàn với Kiến Trung rằng:
- "Lục Lượng Phương kiên thủ ải này, có cách nào lấy không?”
Kiến Trung nói:
- "Địa thế ải hiểm trở khó có thể hạ được. Nếu như đánh gấp, chỉ là tổn tướng quân sĩ vô ích, kế duy nhất hiện nay, chỉ có thể giải vây mà chờ, đợi có cơ hội mới thừa thế lấy được, sau đó tiến quân mới không phí quân công vậy". Tán trầm ngâm hồi lâu, lui vào trong quân. Qua thêm vài ngày, Tán sai người do thám tin tức cửa ải, được báo rằng:
- "Ải thủ rất kiên cố, nhân mã không thể đến gần". Tán nghe thấy càng thêm lo lắng.

Chợt nghe báo:
- "Ngoài trại có một người lính già muốn gặp tướng quân”.
Tán lệnh kêu vào. Người lính già tiến vào trước trướng nói rằng:
- "Nghe tướng quân đánh cửa ải này không hạ được nên đặc đến dâng kế, để giúp tướng quân lập công lớn".
Tán ngạc nhiên nói:
- "Ngươi có mẹo gì lấy cửa quan này. Nếu được sẽ bảo tấu thiên tử, ngươi sẽ không mất phần phú quý đâu”.
Người lính già đáp:
- "Cửa ải này địa thế rất cao, nên gọi Tiếp Thiên quan, Tướng giữ quan là Lục Lượng Phương, chẳng qua là một dũng phu, cũng dễ tiến công thôi. Nhưng bên trong có Vương Văn phù trợ, người này mưu trí sâu rộng, rất giỏi dùng quân, nếu như cố thủ không ra, thì quân của tướng quân có vây một năm thì cũng chỉ vậy thôi. Tướng quân không biết sau ải có một con đường nhỏ, mặc dù là khúc khuỷu nhưng thật sự là đường riêng qua cửa ải này, trên đường có Tam Trấn quan, do Lý Thái Công giữ. Nếu tướng quân sai người đến hỏi mượn đường này mà đi qua, thẳng đến phía Bắc Hà Đông, sẽ không có gì trở ngại".
Tán nghe xong mừng rỡ nói:
- "Đó là trời sai người đến giúp ta, cũng là hồng phúc của hoàng thượng vậy". Liền đưa người lính già vào ở trong danh, đợi ngày thành công sẽ tâu vua khen thưởng.

Người lính già nói:
- "Tiểu khả không muốn thăng thưởng".
Nói rồi từ biệt mà đi ra. Ngoài doanh quân vào báo:
- "Vừa rồi người lính già đi ra ngoài, đột nhiên biến mất, chỉ để lại một cơn gió mát".
Tán càng kinh ngạc, lập tức quỳ lạy giữa trời tạ ơn.

Hôm sau, sai Liễu Hùng Ngọc đem 5000 quân, tới cửa ải Lý Thái Công xin mượn đường. Liễu Hùng Ngọc dẫn quân theo con đường nhỏ sau núi thẳng đến cửa ải, sai người vào thông báo. Tướng giữ ải là Lý Thái Công tên là Vinh, có hai người con trai, con trưởng tên Lý Tín, con thứ tên Lý Kiệt, cả hai đều giỏi võ nghệ. Thái Công nghe nói quân Tống đã vây lấy Tiếp Thiên quan, nên cũng thủ nghiêm ngặt đất này. Chợt nghe báo:
- "Tống tướng sai người đến gặp Thái Công".
Thái Công lệnh người gọi và hỏi. Tên lính đến nói:
- "Trung Quốc quân đến Tiếp Thiên quan, trong ải thủ giữ rất kiên cố, quân Trung Quốc chưa thể đánh hạ, nghe nói ở đây có đường qua Hà Đông được, nên đến xin Thái Công cho mượn đường. Nếu được thành công, triều đình sẽ phong thưởng lớn cho".

Thái Công nghe xong cười nói:
- "Nơi này vốn là đất yết hầu của Hà Đông, nay ải phía trước cùng ta liên kết thanh thế, cùng ngăn quân Tống. Nếu cho các ngươi tiến binh, tức là cắt thịt dâng người, tự chuốc thất bại. Ta không giết ngươi, mau về báo với chủ tướng, nếu có giỏi thì sớm đến đây mà giao phong”.
Sai nhân nghe vậy hoảng sợ chạy về, báo với Liễu Hùng Ngọc, nói lại nguyên do việc không được nhận lời. Hùng Ngọc nổi giận, dẫn quân đến dưới ải khiêu chiến. Chợt nghe trên ải nổi một tiếng trống. Thì ra Lý Tín dẫn 500 quân khỏe mạnh ào xuống cửa ải. Hùng Ngọc lui lại không kịp, bị Tín đâm chết tươi trước ải, giết quân Tống một hồi mới quay về.

Thuộc hạ của Hùng Ngọc chạy về báo với Hô Diên Tán. Tán thất kinh nói:
- "Mưu việc không thành, còn mất đại tướng, nếu để địch quân hai nơi hợp quân đến đánh, làm sao chống cự”. Lập tức cùng Kiến Trung thương nghị kế khác. Kiến Trung nói.
- "Việc này có thể làm được? Thừa lúc cửa ải phía trước không dám xuất quân, có thể nhờ Cao tướng quân đánh, Còn chúng ta dẫn quân đi lấy cửa ải đó, nếu lấy được, thì cửa ải trước cũng có thể hạ được". Tán theo kế này, lập tức sai người báo cho Cao Hoài Đức xuất quân, còn mình cùng với Kiến Trung thì kéo quân đến dưới ải khiêu chiến.

Thủ quân báo vào trong trướng, Lý Thái Công cùng hai con thương nghị rằng:
- "Quân Tống đến đánh, có cách nào lui không?”.
Lý Tín nói:
- "Họ đông ta ít, khó dùng sức địch lại, có thể sai người đến hẹn với Tiếp Thiên quan, để họ đến giúp thì mới có thể bàn chuyện đánh".
Thái Công nghe lời, sai người lập tức đến Tiếp Thiên quan báo. Lục Lượng Phương cùng Vương Văn bàn rằng:
- "Quân Tống qua không được cửa ải này, từ đường phía sau công kích, nếu như chỗ kia không giữ được thì cửa ải của ta cũng gặp nguy! Ông nên dẫn quân nhanh chóng đến cứu”.
Vương Văn nói:
- "Tướng quân nói chí phải, tiểu tướng lập tức làm ngay"
Liền dẫn theo 3000 tinh binh, kéo đến Tam Trấn quan tương trợ. Lý Thái Công được Vương Văn tới giúp, hết sức mừng rỡ, bèn cùng bàn cách nghênh địch. Vương Văn nói:
- "Đất này bằng phẳng, chỉ nên đánh nhanh, ngài hãy giữ cửa ải này, để ta và lệnh lang hợp binh phá giặc". Thái Công nghe theo.

Qua một đêm. Ngày thứ, Vương Văn và Lý Tín mở cửa ải xuất chiến. Tống tướng Hô Diên Tán cũng dàn bày thế trận, ngồi trên ngựa chỉ Vương Văn mắng rằng:
- "Tướng bại trận kia, sao không dâng ải đầu hàng, mà lại đến tìm cái chết ư!”.
Vương Văn cười mà nói rằng:
- "Quân Tống nếu biết điều rút lui thì không bị nhục, còn không hôm nay sẽ giết ngươi không còn manh giáp".
Nói xong, tế ngựa múa phương thiên kích đến đánh Hô Diên Tán, Tán giơ thương đón đánh. Hai bên giao phong, chưa được vài hiệp, Vương Văn giả thua bỏ chạy. Tán từ lâu đã biết Vương Văn rất giỏi dùng quân, nên muốn bắt sống, liền tế ngựa đuổi theo. Chợt một tiếng pháo nổ vang, bên trái cửa ải có một cánh quân xông ra, thì ra là Lý Tín, giơ thương đánh từ mặt sau quân Tán giết tới. Tán nổi giận, vỗ ngựa đuổi gấp về trước, múa thương, đánh Vương Văn rớt xuống ngựa, quân sĩ ùa vào bắt trói lại. Tán quay ngựa lại đánh với Lý Tín. Tín thấy Vương Văn bị bắt đi, hoảng hốt run rẩy, không dám đánh lâu, vội thu quân chạy vào trong ải. Tán cũng quay ngựa về trại.
Quân hiệu giải Vương Văn vào gặp. Tán thân ra ngoài trướng, dùng tay cởi trói, mời vào trong ngồi mà rồi tạ rằng:
- "Vừa rồi mạo phạm các hạ, mong lượng thứ cho".
Văn nói:
- "Tiểu nhân là tướng bị bắt, sống chết đều do tướng quân, vì sao lại ân cần đối xử như vậy?”
Tán nói:
- "Tiểu tướng vốn xuất thân từ đất Hà Đông, nay quy mệnh thiên triều, chỉ biết hết lòng thôi. Ngài nay có đảm lược như vậy, sao lại chịu khuất nơi hẻo lánh này, để ngọc sáng rơi vào nơi tăm tối. Chi bằng hãy cùng thờ Tống chúa, để lập kỳ công, lưu danh oanh liệt với hậu thế?"
Vương Văn bị Tán thuyết cho một hồi, trầm ngâm hồi lâu, rồi nói:
- "Chim khôn chọn cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Văn hổ thẹn không phải là tôi hiền, nay xin về dưới trướng của tướng quân, ngày đêm nghe sai khiến".
Tán mừng rỡ, và hỏi kế sách đánh ải. Văn nói:
- "Việc nên tùy cơ ứng biến, nay Lý Tín thấy tôi bị bắt, tất tử thủ không ra, tướng quân sẽ không thể làm gì. Chi bằng trước tiên hãy lấy Tiếp Thiên quan, sau mới đến đánh nơi này, thì có khó chi? Nay hãy nhờ Lý tướng quân lĩnh tráng binh mai phục dưới cửa ải trước, tiểu nhân nhân đêm nay, đánh ra ngoài trận của tướng quân, Lượng Phương tất xuất quân tiếp ứng, tướng quân dẫn quân theo tôi mà vào, thì cửa ải sẽ phá được vậy!".
Tán nói:
- “Mẹo này tuyệt diệu, nhưng không được để lộ tin tức"
Rồi lập tức bố trí xong xuôi. Tán dẫn quân tới Tiếp Thiên quan đánh trước. Lục Lượng Phương nghe quân Tống quay trở lại, nghĩ rằng chắc cửa ải sau khó tiến, nay quay lại đánh nơi này, liền hạ lệnh mọi người phòng giữ nghiêm mật.
Vào khoảng canh hai, Tán cho quân sĩ thắp đuốc lên, reo hò nổ pháo, dốc sức đánh vào, trên ải dùng tên, đả đánh lại. Chợt ở góc Đông Bắc, Vương Văn dẫn quân phá vòng vây mà vào, quân Tống rối loạn. Vương Văn chém giết thẳng tới cửa ải, kêu to:
- "Tống tướng chiến bại, trên ải hãy ra quân tiếp ứng".
Quân giữ ải nghe ra là tiếng của Vương Văn, liền báo với Lượng Phương. Lượng Phương liền dẫn quân mở ải ra tiếp ứng. Chợt từ bên cạnh ải Hô Diên Tán dẫn quân xốc tới, cắt Bắc quân ra làm hai khúc, Vương Văn thừa cơ quay đánh ập lại. Lượng Phương biết là có biến, liền quay ngựa bỏ chạy, bị Tán đâm một thương lăn xuống ngựa. Phục binh của Lý Kiến Trung đồng loạt kéo ra, ập vào trong ải. Bắc quân hết đường tiến lui, đều cởi giáp hàng cả. Rạng sáng, các tướng họp lại, Tán hết sức mừng rỡ, nói với Vương Văn:
- "Cửa ải hùng vĩ này, nếu không nhờ mẹo hay như túc hạ, thì thủ một năm cũng không thể phá được".
Vương Văn nói:
- "May mắn thành công, đâu đáng kể gì".
Tán sai báo tiệp cho Thái Tôn. Thái Tôn liền xa giá đến Tiếp Thiên quan, chuẩn bị đánh vào dãy đất Hà Đông vậy. Quân do thám báo về Tam Trấn quan, Lý Thái Công thất kinh nói:
- "Quân Tống thật là thần binh" liền dẫn hai con bỏ ải trốn về đất Hà Đông.

Ở đây nói đến trấn thủ Tượng Châu Trương Công Cẩn, nghe biết quân Tống đã lấy Tiếp Thiên quan, cả ngày đều hoảng hốt, không biết phải làm sao. Nha tướng là Lưu Bính nói:
- "Quân pháp nói: tính toán kĩ thì thắng, tính toán không kĩ thì không thắng. Huống hồ là không tính ư! Nay quân Tống thế như núi cao, tiến nhanh mà đến. Cửa ải kiên cố phía trước đã bị phá, thì huống chi là thành Tượng Châu thấp nhỏ này, quân khỏe mạnh có thể trèo tường mà lên, nay quân ta số lượng hạn chế, làm sao cự địch, chi bằng hãy hàng, để cứu nguy cho sinh linh".
Công Cẩn nghe lời này, liền sai Lưu Bính tới quân Tống xin hàng. Hô Diên Tán tâu với Thái Tôn. Thái Tôn nói:
- "Không đánh mà hàng, là kẻ biết thời thế vậy có thể cho hàng".

Tán lĩnh chỉ. Ngày thứ quân mã tới dưới thành Tượng Châu. Công Cẩn mở cửa nghênh đón. Thái Tôn xa giá vào trong thành, an ủi bá tánh, lệnh cho tiên phong Hô Diên Tán, Cao Hoài Đức hợp binh tiến công Hà Đông. Bọn Tán nhận mệnh, kéo quân đi. Chuyện không có gì đáng nói.
Tin tức truyền đến Tấn Dương, Lưu Quân nghe thấy, gấp rút triệu tập văn võ đến thương nghị. Đinh Quý tâu rằng:
- "Quân Tống từ xa đến, lương thảo tốn kém, nên không thể ở lâu được! Bệ hạ một mặt sai người đến nơi Tiêu thái hậu của Đại Liêu, xin xuất binh chặn đường vận lương của quân Tống, một mặt tập hợp binh mã, để cố thủ”. Lưu Quân nghe lời bàn, sai người mang thư đến Đại Liêu cầu cứu, một mặt sắp đặt các quân, chuẩn bị khí giới nghiêm ngặt mà chờ.
Ở đây nói đến sứ thần mang thư tới Đại Liêu vào gặp Tiêu thái hậu, tâu rõ việc cầu cứu. Thái hậu cùng thương nghị với các văn võ, tả thừa tướng Tiêu Thiên Hữu tâu:
- "Đất Hà Đông ở biên giới với Liêu, thật là một nước môi răng, xin bệ hạ hãy phát binh cứu ứng".
Thái hậu chuẩn tấu lập tức hạ lệnh cho Nam phủ tể tướng Gia Luật Sa làm đô thống, Dực vương Địch Liệt làm giám quân, dẫn hai vạn quân đi cứu. Gia Luật Sa lĩnh chỉ liền kéo quân cùng sứ thần ra khỏi đất Liêu, tới Bạch Mã Lĩnh hạ trại. Quân do thám báo về Tượng Châu. Thái Tôn nghe thấy Liêu chúa xuất binh để cứu viện Tấn Dương, nổi giận nói:
- "Hà Đông nghịch mạng, thật đáng hỏi tội. Bắc Phiên sao dám giúp quân nghịch!".
Hạ lệnh chư tướng đánh quân Liêu trước, công Tấn Dương sau.

Các tướng được lệnh. Hô Diên Tán bàn với Cao Hoài Đức, Quách Tiến rằng:
- "Quân Liêu ô hợp mà đến, các ông có mẹo gì không phá không?"
Quách Tiến nói:
- "Quan quý ở thanh thế, khiến quân địch không rảnh mà lập mưu, đó chính là cách đánh thắng vậy. Nay nghe nói quân Liêu đóng ở Bạch Mã Lĩnh, cách nơi này 40 dặm, có núi sông cản đường đến của quân Liêu, tiểu tướng xin dẫn quân vượt sông mà đánh, các ông dẫn quân tiếp ứng phía sau, thì chắc chắn phá giặc được!"
Tán nói:
- "Lời của ông rất đúng”. Liền sắp đặt kỹ càng.

Quách Tiến dẫn quân đi trước. Liêu tướng Gia Luật Sa bàn với Địch Liệt:
- "Quân Tống muốn đánh nhanh thắng nhanh, khi mới đến khí thế tất rất hăng. Tôi với ông cách sông mà bày trận, đợi quân họ vượt nửa sông, sẽ xua quân đánh thì có thể bắt được tướng giặc vậy”.
Địch Liệt nói:
- "Chưa chắc, nếu để quân giặc vượt sông trước, quân ta thấy khí thế của họ, sẽ hoảng sợ. Nay nên giành thế chủ động qua sông thì mới có thể thành công”.
Nói rồi lập tức dẫn quân vượt sông mà đón đánh.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Chín
Quách Tiến Đại Phá Gia Luật Sa
Lưu Quân Xuống Chiếu Vời Dương Nghiệp

Đây nói về Địch Liệt không nghe lời khuyên của Gia Luật Sa, dẫn quân vượt sông. Quân chưa đến bờ, chợt hướng chính đông chiêng trống khua vang, tiếng reo ầm trời, chính là Quách Tiến xua quân đến đánh. Địch Liệt triển khai quân mã, hai bên đối trận. Quách Tiến múa đao tế ngựa mắng lớn:
- "Bọn giặc chờ chết Bắc triều kia, còn dám đến để tìm cái chết sao!"
Địch Liệt cũng mắng trả:
- "Trung Quốc người đánh nhau mấy năm, lòng tham không chán, nên ta xuất quân đến giúp. Nếu sớm lui quân, thì tha cho khỏi cái chết trước mắt".
Quách Tiến xua quân xông vào Địch Liệt múa đao đón đánh, hai ngựa giao nhau, đánh hơn 20 hiệp. Chợt bên trái sông một cánh quân đổ ra, chính là Hô Diên Tán, xốc thương tế ngựa, tung hoành giữa trận đánh giết. Địch Liệt giận dữ, ra sức địch lại hai tướng. Ở bên kia lũy, Gia Luật Sa thấy Địch Liệt thế nguy; gấp rút xua quân qua sông cứu. Bên trận Nam ở phía phải cánh quân của Cao Hoài Đức lại kéo đến. Hai bên hỗn chiến tên bắn như mưa. Quách Tiến liều chết xông lên. Địch Liệt sức đánh không lại, phá vây mà chạy. Quách Tiến đuổi kịp, khua đao chém một nhát, Liệt chết lăn xuống sông. Đáng thương thay anh hùng đất bắc, hóa thành xuân mộng.

Lúc này quân Tống tiến nhanh, quân Bắc thua to, người bị giết trên sông nhiều vô số, thây chất thành núi, nước sông không chảy nổi. Gia Luật Sa dẫn bại quân nhắm theo đường nhỏ mà trốn, Hô Diên Tán, Cao Hoài Đức xua quân đuổi theo. Gia Luật Sa đang lúc nguy ngập, chợt sau núi một cánh quan kéo ra, nhìn xem là thì đó là Liêu tướng Gia Luật Tà Chẩn. Thì ra Tiêu thái hậu sợ tiền quân có sơ suất gì chăng, nên sai Gia Luật Tà Chẩn đóng quân sau núi, đề phòng bất trắc. Vừa đúng lúc gặp Gia Luật Sa thua trận chạy đến. Gia Luật Tà Chẩn liền chỉnh đốn lại quân cố chết đánh lui quân Tống, cứu được bọn Gia Luật Sa thoát đi. Bọn Cao Hoài Đức hợp quân lại một chỗ, báo tiệp với Thái Tôn. Thái Tôn mừng rỡ, liền xuống lệnh đánh lấy Tấn Dương.

Trong thành Lưu Quân nghe quân Liêu thua to bỏ chạy, hết sức hoảng hốt, liền triệu tập quần thần thương nghị. Hữu thừa tướng Quách Hữu Nghị tâu rằng:
- "Quân Tống thế mạnh, ta khó mà địch, chi bằng dâng biểu xưng thần, một là có thể tránh được họa, hai là cứu được trăm họ trong thành".
Lưu Quân im lặng. Trung úy Tống Tề Khưu tâu rằng:
- "Hà Đông thành bền, hào sâu, quan tinh dũng không dưới số 10 vạn, nếu dựa thành mà đánh thì thắng thua cũng chưa biết chắc. Sao lại phải uốn gối thờ người khác. Thần xin cử một tướng, đủ để phá giặc".

Lưu Quân hỏi rằng:
- "Khanh đề cử ai?"
Tề Khưu nói:
-"Người này mấy đời đều ở U Châu, họ Mã tên Phong, vào thời Hoàng Sào làm loạn, nghe danh tiếng của người này, không dám kéo quân vào Châu. ông ta sử một cây thiết quản thương, danh tiếng ngang hàng với Vương Ngạn Chương. Nay bỏ nghề võ theo học đạo, ẩn cư trên Tung Sơn, người này tuy già, nhưng vẫn dùng được. Bệ hạ nếu giáng chiếu triệu phong làm soái, dẫn quân để lui quân Tống, tất thu công lao vẹn toàn vậy".
Lưu Quân nói:
- "Ai có thể mang chiếu đi?"
Có Quyển Liêm tướng quân Từ Trọng tâu:
- "Thần xin mang chiếu đi triệu”.
Quân liền xuống lệnh, sai Trọng mang chỉ đến triệu.

Đến trước núi, xa xa nhìn thấy một cái am tranh. Đi vào cửa am, thấy bên trong có một người, thân cao tám thước, mặt đen râu bạc đang toạ trên sập đá xem kinh.

Trọng bước tới trước vái rằng:
- "Đây có phải là nơi ở của Mã tướng quân?"
Người này đứng lên hỏi:
- "Các hạ từ đâu mà tới?"
Trọng đáp:
- "Tiểu nhân phụng mệnh của Hán chúa, mang chiếu đến tuyên Mã đạo sĩ xuống núi, để lui quân Tống".
Người này nói:
- "Bần đạo chính là Mã phong, nhưng tôi nay tuổi đã già, không so với lúc xưa được! Nay đã phụng chiếu chỉ, không dám không vâng mạng”.
Do đó gọi tiểu đồng bày hương án, sau khi bái nhận chiếu chỉ, mời Trọng vào trong am chia ngôi chủ khách mà ngồi. Rồi hỏi rằng:
- "Vua Tống cử binh Bắc chinh, ai làm chánh tướng?"
Trọng trả lời:
- "Tướng quân đánh trận của Tống rất nhiều, duy chỉ có tiên phong là Hô Diên Tán anh hùng vô địch, gần đây đến lấy các ải, các châu, đều là công của người này. Nay có Tống Trung úy không đủ sức để cản quân Tống, nên sai hạ quan mang chiếu đến tuyên, mong ngài phụng chỉ xuống núi, để đáp lại lòng mong mỏi của chúa chúng tôi".
Mã Phong cười nói:
- "Bần đạo gân cốt già yếu, râu tóc đều đã bạc phơ, tuổi gần 90, không thể so với ngày xưa nữa. Vả lại việc cung mã bỏ bê đã lâu, sao đảm nhận được trọng trách này? Nay có San Hậu Dương Lệnh Công nắm quân ở ứng Châu, sao không đề cử để lui giặc, mà lại đến triệu tôi? Ông nên nhanh chóng về phúc đáp mệnh vua, đừng để lỡ việc quan".
Từ Trọng nghe những lời này, không dám ép nữa, chỉ có cách từ biệt mà, trở về gặp vua bắc Hán, đem lời Mã Phong tâu lại.

Lưu Quân nghe Mã Phong không chịu nghe mệnh, buồn bã không vui, lại cùng quần thần bàn kế lui giặc. Đinh Quý tâu:
- “Thời thế như vậy, Bệ hạ chỉ còn cách triệu Sơn Hậu Dương Lệnh Công một lần nữa cứu nạn cho nước nhà". Lưu Quân nói:
- "Dương gia nhiều lần xuất quân cứu ta. Năm xưa giao ước ở Dịch Châu, cùng quân Tống giảng hòa mà lui về, rất mang ân đức của Trung Quốc. Quả nhân nghi là có ý thông mưu, nên không muốn triệu lần nữa".
Quý nói:
- "Bệ hạ dùng nhân nghĩa đãi người, cha con Dương gia thật có lòng trung nghĩa, sao có thể phụ nước nhà được?" Lưu Quân chuẩn tâu, lại sai sứ mang sắc mệnh, đến San Hậu Dương Lệnh Công, tuyên đọc chiếu thư rằng:

Cô giữ Tấn Dương, chỉ có một thành này. Tuy không có đức độ như Thang, Võ, thường ngưỡng mộ tiếng làm việc lớn. Từ Châu Thế Tôn hận thù không dứt, nhiều lần đem quân đến đánh. Nay vua Tống nối ngôi, lại đem tinh binh đến vây dưới thành. Trăm họ chịu cảnh chết chóc, thành quách nguy như trứng vỡ. Duy cha con khanh trung thành giúp sức. Ngày chiếu thư đến, lập tức dẫn quân về chầu, để bảo vệ nước nhà, ngày được thành công, tất ban thưởng nhiều ân điển, nay chiếu cho khanh biết.

Dương Lệnh Công nhận chiếu, bàn với Vương Quý rằng:
- “Quân Tống nhiều lần xâm phạm Hà Đông, nếu không cứu ứng, tất sẽ bị tội kháng chỉ, còn nếu xuất quân thì lần trước đã cùng quân Tống nghị hòa, sao có thể thất tín. Ông có cách gì không?"
Vương Quý nói :
- “Tướng quân là trọng thần đất Hà Đông, chúa thượng nay có nạn thì ta phải cứu, sao lại chấp tiểu tín mà do dự?”. Dương Lệnh Công nghe lời này, liền để Vương Quý giữ Ứng Châu, còn bản thân thì dẫn bảy người con trai và ba vạn tinh binh đi cứu Hà Đông. Có thơ làm chứng:

Vạn mã nam lai thế khí hùng,
Tinh kỳ lấp lánh tế trường không.
Toàn bằng quốc sĩ cầm lòng sách,
Nhất định phong cương khuynh khắc trung.
Thám mã báo vào trong quân Tống, chủ soái Phan Nhân Mĩ triệu tập chư tướng nghị chiến. Cao Hoài Đức nói:
- "Dương Lệnh Công thật sự là kình địch, từ triều vua Châu Thế Tôn, mỗi lần gặp hắn đối địch, đều không thu được lợi. Nay lại cử binh đến nữa, ta phải bàn tính kỹ càng kế hoạch tác chiến, không thể khinh suất mà đánh."
Hô Diên Tán nói:
- "Tiểu tướng cũng được nghe nói cha con Dương gia thiên hạ vô địch, tôi xin dẫn bộ thuộc chặn đường đánh một trận trước, để xem khí thế của họ ra sao?"
Phan Nhân Mĩ theo lời bàn, lệnh Tán đi trước. Tán được lệnh, dẫn 8000 quân mã đi.

Đây nói về Dương Lệnh Công dẫn quân đến Ngõa Long Ba hạ trại. Thám mã báo rằng:
- "Quân Tống ở 10 dặm phía trước cản đường".
Lệnh Công cười nói:
- "Quân giặc không biết quân thế, tự đến chuốc thất bại.”.
Hỏi trong quân ai dám đánh trước. Chưa dứt lời, con thứ 5 là Dương Diên Đức bước ra nói:
- "Con bất tài xin ra đánh trước".
Lệnh Công thuận cho, cấp tinh binh 5000. Diên Đức nai nịt gọn ghẽ, dẫn quân hò reo tiến lên. Hai bên dàn trận, Diên Đức vác búa vỗ ngựa phi ra cao giọng:
- “Tống tướng còn không lui mau, hay muốn tìm đến cái chết!".
Tán nổi giận nói:
- "Vô danh tiểu tướng, hôm nay đừng chạy".
Rồi múa thương tế ngựa tới đâm Diên Đức, Diên Đức múa búa nghênh địch. Hai ngựa giao nhau, hai tướng đánh hơn 40 hiệp, bất phân thắng bại. Tán ngồi trên ngựa nghĩ:
- "Người ta nói cha con họ Dương anh hùng, quả thật không ngoa".
Hai người còn muốn đánh nữa, nhưng ngựa đã mệt. Diên Đức nói:
- "Sức ngựa đã mỏi, ngày mai gặp hãy đánh tiếp". Hai bên Nam-bắc đều tự thu quân về trại.

Diên Đức về gặp Lệnh Công, báo rằng:
- "Tống tướng đánh với con hơn 40 hiệp, chưa phân thắng bại".
Lệnh Công nói:
- "Gần đây nghe nói phía quân Tống có Hô Diên Tán, võ nghệ tinh nhuệ, hay chính là người này. Ngày mai để ta đích thân đánh".
Rồi hạ lệnh tiến binh, cách trại Tống vài dặm hạ trại.

Dương Thất lang muốn lập công đầu, bí mật dẫn quân bản bộ 3000 người, lén ra khỏi trại, đến cướp trại quân Tống. Vừa lúc Phan Nhân Mĩ đang cùng bọn Quách Tiến, Cao Hoài Đức đang ở trong quân bàn luận binh pháp, đột nhiên đèn vỡ lửa tắt. Nhân Mĩ nói:
- "Chẳng lẽ Dương gia cho quân đến cướp trại, ông trời báo điềm trước cho ta biết".
Liền hạ lệnh các quân chuẩn bị đặt nhiều cung nỏ, để tránh bị bất ngờ, không thể xuất quân nhiễu động. Bọn Cao Hoài Đức doanh ai nấy giữ, tuân lệnh xếp đặt mai phục. Dương Thất lang nghĩ rằng quân Tống không phòng bị, dẫn bộ hạ reo hò xông vào. Chợt sau trại, vang lên tiếng “bang”, quân phục vạn nỏ đồng loạt bắn ra, tên như mưa bay, quân Bắc bị bắn chết vô số. Thất lang vội quay ngựa chạy. Cao Hoài Đức, Quách Tiến hai ngựa xông ra, truy sát năm dặm mới quay về. Quân của Thất lang bị chết hơn một nửa.

Lệnh Công biết được, giận dữ nói:
- "Không theo quân lệnh, để mất bao nhiêu quân mã, theo phép đáng chém".
Liền lệnh quân chính Ty giải Thất lang ra chém đầu răn chúng. Quân lệnh vừa xuống, nha tướng Trương Văn bẩm rằng:
- "Thất tướng quân tuy có tội, nhưng cũng vì nước mà thôi. Lỡ lầm gây ra hao tổn, tình lí có thể tha thứ, xin Lệnh Công xá cho".
Dương Lệnh Công nói:
- "Cha con tuy chí thân, đâu dám trái lệnh, cần phải chém".
Các tướng ra sức can ngăn. Lệnh Công mới dần nguôi giận, liền khiến quân chính lột áo thả ra, đè trước trướng đánh 40 roi, máu thịt dầm dề, người xem đều sởn gai ốc. Thất lang bò vào tạ tội rồi lui. Lệnh Công nói với các tướng:
- "Quân ta mới đến chưa thể đánh ngay cần phải nghỉ sức vài ngày, chờ cơ hội mới đánh, không ai được trái lệnh”.

Các tướng nhận lệnh, ai giữ trại nấy không ra.
Đây nói đến nguyên soái quân Tống Phan Nhân Mĩ nghe tin binh mã Dương gia đã đến, muốn rút vây nghênh chiến. Nam-bắc đối lũy lập trại, cự nhau liên tiếp mấy chục ngày, không ai xuất quân. Nhân Mĩ sai quân đi do thám những động tĩnh của quân Bắc, được báo là:
- "Quân mã Dương gia ai nấy binh khí nghiêm chỉnh, dường như muốn đại chiến với quân ta".
Nhân Mĩ nghe báo, liền hạ lệnh chủ tướng các trại chia nhau xuất chiến. Cao Hoài Đức ở cánh trái, Hô Diên Tán ở cánh phải, Quách Tiến thì cứu ứng trước sau. Sắp đặt xong xuôi các tướng đều chuẩn bị nghênh địch.
Bình minh hôm sau, ba hồi trống vang lên. Ở Nam trận, Phan Nhân Mĩ vỗ ngựa ra trước. Thượng thủ là Cao Hoài Đức, hạ thủ là Hô Diên Tán, ba con ngựa dàn hàng ngang chữ nhất. Ở trận bên kia, Dương Nghiệp cũng dẫn quân xuất chiến, mão vàng giáp bạc, bạch mã hồng bào, bên trái là Diên Đức, bên phải là Diên Chiêu, cha con quân tướng uy phong lẫm liệt. Nhân Mĩ đứng dưới cờ thầm khen, rồi vỗ ngựa ra hỏi:
- "Hà Đông là nước nghịch mệnh, nên ta đến hỏi tội. Vì sao ông mấy lần xuất binh mà cứu?"
Lệnh Công lớn tiếng:
- "Chúa ngươi đã chiếm hữu Trung Quốc, còn chưa biết đủ, suốt mấy năm nay dẫn quân viễn chinh khó tránh tiếng là quân tham, huống chi năm xưa đã giảng hòa rút lui, máu ăn thề còn chưa nguội, đã đến xâm phạm nữa, liền bởi làm sao? Hà Đông với ta là nước răng môi. Ta chịu ân sâu với Lưu Chủ, nên đến cứu viện. Hãy mau rút quân, để giữ nối giao hảo xưa. Nếu thốt nửa câu "Không”, ta sẽ xua quân Thái Nguyên, giết mi không còn manh giáp, tới lúc đó ân hận đã muộn vậy!"
Nhân Mĩ nghe xong nổi giận, quay hỏi ai dám đánh trước, bắt tên thất phu này. Chưa dứt lời, bên đây Hô Diên Tán nâng thương ra ngựa, hướng về Dương Nghiệp đâm tới. Bên kia, Dương Diên Chiêu vỗ ngựa lên trước cản lại đánh giết. Đánh đến hơn 70 hiệp, bất phân thắng bại. Chợt bên quân Tống khua chiêng thu quân. thì ra Thái Tôn thấy cha con nhà họ Dương đều là anh hùng hào kiệt, trong lòng chỉ muốn chiêu dụ, do đó khua chiêng thu quân, để chờ dùng mẹo dụ hàng, lúc đó việc đánh Hà Đông sẽ không khó mà hạ được.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười
Bát Vương Vào Hiến Kế Phản Gián
Quang Mỹ Đi Sứ Khuyên Dương Nghiệp

Đây nói đêm đó Thái Tôn trở về doanh trại, chỉ là buồn bã không vui vô kế khả thi. Duy có Bát Vương biết ý nên vào tâu rằng:
- "Bệ hạ buồn bã không vui, chẳng qua là không có kế để chiêu hàng cha con Dương gia đúng không?"
Thái Tôn giật mình hỏi:
- "Vậy nay người có diệu kế gì?”.
Bát Vương dập đầu tâu:
- "Theo ngu kiến của thần, chỉ có cách sai người đến Hà Đông dùng kế phản gián, để cho cha con họ Dương về hàng”.
Thái Tôn mừng rỡ nói:
- "Mẹo này tuy hay, chỉ là không người thi hành”.
Bát Vương nói:
- " Chuyện này phải là Dương Quang Mĩ đi thì mọi sự đều vẹn toàn".
Lúc này Dương Quang Mĩ đang ở bên cạnh, liền xuất ban tâu rằng:
- "Thần bất tài xin đi”. Thái Tôn vui mừng đi ngày hôm đó cấp cho ngàn lượng vàng ròng, ngàn tấm gấm vóc, và hàng hóa trân bảo, để đến Hà Đông.

Quang Mĩ ban đêm đến nhà Triệu Toại. Ở đây nói về Triệu Toại là được Lưu Chúa sủng ái nhất, lời của Triệu Toại, Quân đều nghe theo. Dương Quang Mĩ đến nơi, trước tiên đút lót cho tả hữu, dẫn vào gặp Triệu Toại, tặng cho hắn vàng lụa gấm vóc. Triệu Toại vốn là tên tiểu nhân, tham được của nhiều, nên vô cùng mừng rỡ, hỏi Quang Mĩ rằng:
- “Đại nhân là đại thần thiên triệu, sao lại tặng quà cho kẻ già nơi hẻo lánh này, có lời dạy gì, xin nguyện nghe theo”.
Quang Mĩ nói:
- "Chúa của tôi vốn biết đại nhân được Lưu Chủ sủng hạnh, không lời nào là không nghe, nên mới sai Quang Mĩ bày tỏ thành ý rằng: Hà Đông và Trung Nguyên vốn không có thù lớn, nay hưng binh đến, chẳng qua là muốn đến để giải thích. Ngặt nổi có cha con Dương Nghiệp vô cùng dũng cảm, chuyên diễu binh oai, khiến cho hai nước hào hão không thành. Nếu như hắn đánh mà bất lợi, thì sẽ họa lây cho Hà Đông, nếu hắn mà đánh thắng thì nắm quân trong tay tất sẽ kiêu ngạo, Lưu Chúa tất cũng sẽ thêm sủng hạnh, lúc đó ơn tri ngộ đối với đại nhân tất sẽ suy giảm đi vậy! Chúa của tôi vì thế xin đại nhân nói một lời, dâng sớ với Lưu Chủ, thì hắn tất phải thu quân mà về. Lúc đó sẽ cùng đại nhân định hòa nghị, khiến Hà Đông và Trung Quốc vĩnh viễn trở thành hai nước anh em, thì sự sủng ái của đại nhân sẽ càng thêm nhiều không để người khác thay thế. Mong đại nhân suy nghĩ".

Triệu Toại đã nhận của Mĩ rất nhiều lễ vật, lại nghe Mĩ thuyết cho những lời này. Toại có lòng ganh ghét hiền tài và muốn cướp công, nói:
- "Đại nhân yên tâm, Triệu Toại này tự có cách thu xếp, để loại trừ cha con Dương Nghiệp".
Rồi khoản đãi Quang Mĩ, sau đó lén tiễn về. Triệu Toại suy nghĩ:
- "Lấy của người Tống bao nhiêu lễ vật, nếu không trừ Dương Nghiệp, ngày sau hắn thành công, lại để hắn được đắc ý nữa, như vậy không phải mất mặt với người Tống sao?"
Vì thế đem số vàng bạc đó ngày đêm tung tin thất thiệt, nói Dương Nghiệp đã nhận vàng ngọc của người Tống, ước hạn làm phản để giúp quân Tống, cùng diệt Hà Đông, đợi lúc thành công, bèn cùng Tống triều chia đất này. Lời này nhất thời lan truyền, và lại bí mật thông tin kêu người Tống không được giao chiến, chỉ cần nán thêm nửa tháng mươi ngày, tất sẽ thành công.
Thái Tôn nghe được tin này mừng rỡ, hỏi Quang Mĩ rằng:
- "Việc này có tin được không?"
Quang Mĩ nói:
- "Thần thấy Triệu Toại là tên tiểu nhân, chỉ biết ăn lộc, ưa sủng, vả lại đố kị Dương Nghiệp, việc này có thể tin mà không cần nghi ngờ gì. Bệ hạ chỉ cần truyền dụ cho các trại, chỉ thủ chớ đánh, để Toại từ đó có thể làm được việc Ly gián phụ tử Dương gia. Chờ hắn có sơ hở, sau đó thần xin dùng vài lời chiêu dụ, đưa quân mã Sơn Hậu vào vòng của ta"
Thái Tôn vỗ tay khen ngợi. Liền hạ lệnh hiểu dự trong quân:
- "Các nơi chỉ được giữ vững, đừng có giao chiến, nếu kẻ địch có đến khiêu chiến, thì cũng kệ nó".
Lệnh này đã xuống, các trại quả nhiên giữ vững không ra.
Lưu chủ thấy do dự như vậy, mỗi ngày chỉ thúc Dương Nghiệp xuất trận. Dương Nghiệp phụng lệnh bố trí quân, chờ sáng ra đánh, nhưng ngặt nổi bên trại quân Tống cứ giữ không ra. Dương Nghiệp vô kế khả thi. Và ở Hà Đông lại đồn ầm lên là Lệnh Công được vàng ngọc của nhà Tống, chỉ muốn làm phản. Dương Nghiệp càng thêm hoang mang, mỗi ngày đều đốc quân đến đánh, quân Tống không thèm đếm xỉa, nên mỗi ngày chỉ tay không trở về.

Triệu Toại ngay trong đêm vào gặp Lưu Quân, nói rằng Dương Nghiệp nhận vàng ngọc của người Tống, muốn dẫn quân hàng giặc. Quân thất kinh nói:
- "Quốc Cửu làm sao biết được?"
Toại nói:
- "Việc này thần biết đã lâu. Năm xưa vòng vây ở Dịch Châu , Dương Nghiệp đưa quân đến cứu, tự mình cùng người Tống hòa mà về. Thần vì lúc đó là lúc quốc gia cần phải dùng người, nên chưa dám tâu. Nay cứ chần chừ không tiến, chỉ cùng quân Tống quan sát lẫn nhau, lòng phản đã lộ ra, trong ngoài đều biết, lời đồn khắp nơi, bá tánh hoang mang, chứ không phải chỉ riêng một mình thần biết mà thôi".
Lưu Quân tin lời này, nên hỏi Triệu Toại cách bắt Dương Nghiệp. Toại nói:
- "Bệ hạ phải giáng sắc tuyên hắn về nước nghị sự, trước đó mai phục sẵn giáp sĩ dưới điện, đợi hắn đến dơ đao làm hiệu, xô ra bắt lấy, chỉ cần hơn 20 người là có thể thành sự”.

Ngày thứ, Lưu Khôn khiến sứ mang chỉ đến Bắc doanh tuyên triệu Dương Nghiệp vào đến trước điện, bái kiến xong, Lưu Quân rút đao đeo bên mình quăng xuống thềm. Phục binh hai bên nghe tiếng đao rơi, đồng loạt xông ra, bắt Dương Nghiệp trói lại. Dương Nghiệp không hiểu tại sao, thất kinh nói:
- "Thần vô tội, Bệ hạ vì cớ gì bắt tôi?"
Lưu Quân mắng rằng:
- "Mi cùng quân Tống thông mưu làm phản, còn nói là vô tội sao?" Hạ lệnh lôi ra chém.
Tống Tề Khưu can ngăn hết sức rồi:
- "Cha con Dương Nghiệp trung cẩn với chủ, sao lại làm phản được? Bệ hạ đừng nghe lời đồn mà lỡ việc lớn".
Quân nói:
- "Hắn có ba điều làm phản, chứ đâu phải là lời đồn vô căn cứ. Lâu ngày không chịu xuất quân, đó là điều phản thứ nhất. Không sai người thông báo xuất binh, điều phản thứ hai. Năm xưa tự ý giảng hòa mà về, là điều thứ ba. Có ba tội làm phản như vậy, khó mà dung tha".
Đinh Quý tấu rằng:
- "Ngày nay quân Tống sắp kéo đến, đợi khi đó nếu ta đánh mà không thắng, chém cũng chưa muộn". Lưu Quân y tấu, tạm tha, lệnh phải lui quân Tống.

Lệnh Công im lặng lui ra. Về đến trong quân nói với các con rằng:
- "Đây tất người Tống dùng cách hối lộ, khiến ly gián Hán chủ với cha con ta. Vừa rồi, nếu không phải Tống thừa tướng ra sức tâu, suýt nữa không giữ được mạng sống. Nay hạ lệnh ta phải giết lui quân Tống, mới miễn tội chết của ta, nếu không vẫn phải xử tội. Nhưng ngặt nổi quân giặc không ra, làm sao lui được đây?”
Diên Đức bẩm rằng:
- "Đại nhân không cần lo lắng, nếu Hán chủ tin lời sàm mà đuổi cha con ta, thì ta kéo quân mã về lại Ứng Châu, đợi quân Tống phá vỡ Hà Đông, lúc đó nhớ đến cha con ta, hối hận đã muộn vậy”.
Lệnh Công nói:
- "Ta nay vốn muốn tận trung với nước, nếu đã xuất quân đến cứu, sao có chuyện trở lui. Bọn các ngươi ngày mai chỉ cần xuất chiến, rồi thương nghị tiếp".
Diên Đức nén giận mà lui cùng bộ tướng bí mật bàn luận có ý muốn đầu hàng thiên triều. Ngày thứ, hai anh em Diên Tự, Diên Lăng ra trận thách đánh, trong doanh Tống không một người nào ra địch. Trời tối, bọn Diên Tự chỉ đành lui về.

Thái Tôn nghe tin Lưu Quân muốn chém Dương Nghiệp, do đó cũng cùng các mưu thần thương nghị kế chiêu hàng. Dương Quang Mĩ tâu:
- "Bệ hạ chính nên thừa cơ hội này mà dụ Dương gia về hàng".
Thái Tôn nói:
- "Trẫm đang khổ vì chưa có mẹo nào cả".
Quang Mĩ nói:
- "Thần có một kế, không tới nửa tháng, đất Hà Đông lấy dễ như trở bàn tay, khiến cha con Dương gia về với triều đình ta".
Thái Tôn mừng rỡ hỏi:
- "Khanh có diệu kế gì?"
Dương Quang Mĩ bước tới trước, ghé vào tai Thái Tôn nói mấy câu. "Cứ thế, cứ thế”. Thái Tôn mừng rỡ nói:
- "Việc này phi khanh thì không ai làm được".

Quang Mĩ vui vẻ lãnh mệnh mang chỉ tới trại Dương Nghiệp, sai người vào báo với Dương Nghiệp. Dương Nghiệp nói:
- "Năm nào cũng bởi người này đến nghị hòa, ta hậu đãi mà về, dẫn đến Hán chủ nghi kị, này lại đến đây, tất làm thuyết khách".
Trước tiên lệnh cho 20 tên lính khỏe mạnh phục ở ngoài trướng, và dặn rằng:
- "Nghe ta nạt lớn thì xô ra bắt".
Sau khi bố trí xong, lát sau Quang Mĩ hiên ngang đi vào, Dương Nghiệp ngồi chễm chệ trong trướng không nhúc nhích, hai bên thất tử đứng dàn ngay ngắn. Nghiệp hỏi Quang Mĩ rằng:
- "Ngươi đến có việc gì?"
Quang Mĩ nói:
- "Cố ý đến đây khuyên tướng quân quy thuận Trung Quốc".
Nghiệp nổi giận, nạt to một tiếng, dưới trướng chạy vào 20 người, lập tức trói gô Dương Quang Mĩ lại sai đem ra chém. Diên Tự nói:
- "Đại nhân xin ngưng cơn giận, để nghe xem hắn nói gì, nếu có gì sai, sau đó chém cũng được ,
Nghiệp nói:
- "Mi thử nói xem, nếu nói không thông, xin mời thử đao".
Quang Mĩ không có vẻ gì sợ hãi, lớn tiếng nói rằng:
- "Tôi nghe chim khôn chọn cây mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay tướng quân đến cứu Hà Đông, vốn muốn ra sức tận trung, nay sự nghi ngờ ngày càng tăng, không cách nào bày tỏ lòng mình, việc tất thất bại. Tống chúa tôi tiếng nhân đức đồn xa, các trấn đều phục, chỉ có Hà Đông là chưa hạ được, nhưng có yên ổn được lâu không? Bỏ tối tìm sáng, cổ nhân đều làm, mong minh công suy xét cho".
Nghiệp nghe xong, im lặng hồi lâu. Rồi mới nói:
- "Ta không giết ngươi, tha cho ngươi về, mau cho dũng tướng đến đánh".
Quang Mĩ không sợ cũng không vội mà lui ra ngoài trướng, cố ý rũ áo, để rớt một bức mật thư ở trong quân rồi về. Tả hữu nhặt được, bị Diên Đức tiếp lấy, mở ra xem, thì ra là một tấm họa đồ có vẽ nào Vô ninh phủ, lầu sơ trang, đình nghỉ ngựa, thánh chỉ phường, bên trong viết:
- "Nơi giành để tiếp đãi Dương gia phụ tử", vô cùng đẹp đẽ. Diên Đức đem tấm đó cùng với Thất lang xem kỹ, Thất lang nói:
- "Đừng nói để chúng ta ở, chỉ cần được thấy một lần, cũng cam lòng”.
Diên Lăng nói:
- "Hãy đừng để lộ thông tin, xem tình thế Hán chủ ra sao, nếu đối xử không tốt với cha con ta, thì sẽ phản mà hàng Nam triều”.
Cả bọn giấu nhẹm, không để cho Lệnh Công biết.

Vài ngày sau, Lưu Quân sai người đốc chiến, nhưng lại không cấp lương thảo và đồ khao quân. Lệnh Công càng rối, cùng các con thương nghị việc chia quân xuất chiến. Diên Lăng bẩm rằng:
- "Không phải chúng con không chịu hết lòng, đã nhiều ngày trong quân lương thảo không đủ, mọi người đều mất ý chí chiến đấu, nếu sai xuất quân, tất tự rối loạn, sao có thể thắng địch? Chi bằng rút về Ứng Châu, rồi mới bàn kế sau, cha thấy thế nào?"
Nghiệp nói:
- "Các người nếu làm như vậy, thì còn mặt mũi nào nhìn các trượng phu trong thiên hạ đây?"
Diên Đức nói:
- "Đại nhân nếu không suy xét, quân sĩ cũng muốn biến loạn đó!"
Nghiệp nghe chúng bàn tán xôn xao, lại bị Lưu Quân nhiều lần trách tội, chỉ còn cách hạ lệnh đem quân mã trong đêm lui về Ứng Châu.

Tin tức báo về trại Tống, Thái Tôn biết được, lập tức triệu quần thần đến thương nghị. Dương Quang Mĩ nói:
- "Nên lệnh chư tướng hãy hoãn việc đánh Hà Đông, trước tiên hãy định kế khiến cha con Dương gia hàng đã, thì không lo không hạ được Hà Đông. Nay nhân lúc quân mã của ông ta đã lui, có thể bắn tin đồn tới Ứng Châu, nói rằng chúa Bắc Hán cho rằng Dương gia phụ tử có tội đưa quân tự ý bỏ trốn, nên muốn kết minh nhờ Đại Liêu xuất binh chinh phạt. Họ nghe được tin này, trong lòng sẽ sợ hãi. Lúc đó, bệ hạ cho người đến thuyết phục thì việc sẽ thành vậy”.
Thái Tôn nghe theo lập tức hạ lệnh trong quân tung tin đồn, truyền vào Sơn Hậu, chuyện không có gì phải kể.

Đây nói đến Dương Lệnh Công cả đêm về tới trong trấn được vài ngày nghe tin này, quân sĩ hoang mang, thuộc hạ chia rẽ. Lệnh Công nằm ngồi không có cách, mặt mày buồn bã. Phu nhân là Xa thị hỏi rằng:
- "Từ khi Lệnh Công từ Tấn Dương về đây, vì sao ngày đêm buồn bã?"
Lệnh Công thở dài không ngớt, bèn đem việc Hán chủ kết tội kể lại. Phu nhân nói:
- "Có bàn qua với các con chưa?”
Lệnh Công nói:
- "Đa số khuyên ta đầu hàng, nhưng chỉ e đó không phải là kế lâu dài".
Phu nhân nói:
- "Nếu thiên triều hậu đãi cha con ông, quy thuận cũng là kế lâu dài, đâu cần phải lo lắng như vậy!"
Lệnh Công nói:
- "Chính vì không biết sẽ đối đãi với ta ra sao, nếu đối xử với ta không bằng vua Hán, lại mang tiếng là bất trung, lúc này tiến thoái lưỡng nan đó".
Lệnh Công nói xong, đi vào trong quân.

Lúc đó Ngũ Long Diên Đức vào hỏi mẹ là:
- "Việc không phải ngẫu nhiên, cha con có tài vương tá, có võ dẹp loạn, sao mà không hậu đãi khi quy hàng được”. Nói xong liền lấy bức họa đồ nhặt được của người Tống trải ra, cùng mẹ xem. Diên Đức chỉ từng cái một nói rõ ràng. Lúc này có hai em gái đứng bên, lớn gọi là Bát Nương, tuổi vừa 15; nhỏ gọi là Cửu muội, tuổi vừa 13, nghe nói giàu sang như vậy, ra sức nói mẹ khuyên cha quy thuận thiên triều. Mẹ nói:
- "Chúng mày khoan hãy nói, để có cơ hội ta sẽ khuyên cho”.

Hôm sau, cùng Lệnh Công ngồi đối diện uống rượu, rượu đến ngà say. Phu nhân hỏi.
- "Thiếp nghe trong quân ngày đêm lo lắng việc Đại Liêu xuất quân, việc này thật đáng lo ngại. Lệnh Công vì thế rơi vào thế tiến thoái quyết, nay thời gian dễ qua, tuổi ngày càng già, nếu mà chưa lập được công danh thì thật là đáng tiếc. Chi bằng theo lời các con, bỏ Hà Đông mà quy thuận thiên triều, trên toại được chí bình sinh, dưới lập nên danh vàng đá, không hay hơn là mai một nơi cùng cốc, để ngàn năm cũng là một võ phu ư?”.
Lệnh Công nghe xong, mừng rỡ nói: "Lời của phu nhân rất đúng, ngày mai ta sẽ cùng các tướng thương nghị việc quy hàng”.

Lệnh Công suy nghĩ suốt đêm, hôm sau ra giữa quân, triệu tập chư tướng bàn nghị kế quy thuận Trung Quốc. Nha tướng Vương Quý nói:
- "Việc này của Dương Lệnh Công không phải là chuyện nhỏ. Nên ta phải tự trọng thì người mới trọng ta. Trước tiên phải sai người báo với Tống chúa, đợi sai đại thần, dũng tướng mang sắc thư đến. Sau đó mới quy thuận, mới toàn mĩ vậy".
Lệnh Công nghe theo, sai bộ tướng Trương Văn tới nơi quân Tống, vào gặp Thái Tôn, tâu rõ việc Lệnh Công sẽ quy thuận thiên triều.

Thái Tôn do đó tập hợp văn võ lại hỏi:
- "Lệnh Công muốn đến quy hàng, phải đối xử ra sao?”
Bát Vương tâu:
- "Nếu cha con Dương gia có hành động này, bệ hạ không thể dùng cách đối đãi như kẻ tầm thường, phải từ trong hai ban văn võ chọn ra hai người mang chiếu đến thông báo cho biết, như vậy họ tất sẽ hết lòng quy thuận, không còn nghi ngờ".
Thái Tôn hỏi ai có thể đi, lời hỏi chưa dứt, Dương Quang Mĩ tâu rằng:
- "Văn thần Ngưu Tư Tiến ngôn từ trong trẻo, võ thần Hô Diên Tán anh khí khẳng khái, nếu hai người này đi, việc tất vẹn toàn”.
Thái Tôn chuẩn tấu lập tức hạ chiếu sai hai người mang hậu lễ đến Ứng Châu, vào gặp Lệnh Công, tuyên đọc chiếu thư rằng:

Trẫm nay nước nhà đang lúc nhiều việc, khó được nhân tài. Vì vậy khi mới tức vị, chú ý biên tướng. Nay Sơn Hậu Ứng Châu Dương Lệnh Công phụ tử, văn có thể hưng bang, võ có thể định loạn, mà phải chịu khuất nơi xa xôi, ở vào đất nhàn tản, Trẫm thật tiếc vậy. Vả lại Hà Đông sắp mất ở trước mắt, ngươi sẽ về đâu? Nay đặc khiến hai quan văn võ thân tín mang sắc mệnh đến, cho biết ý của trẫm. Phụ tử người nếu thật có chí sâu sắc, đầu hàng Trung Quốc, trẫm sẽ ủy cho trọng trách để con cháu được hưởng sự giàu sang vô cùng, mà Dương Lệnh Công cũng được cao danh vàng đá, vậy không sung sướng suốt đời sao! Nên nay có chiếu cho khanh, để cho khanh được biết.

Dương Lệnh Công được chiếu, bái thọ mệnh xong, liền mời Ngưu Tư Tiến và Hô Diên Tán vào trong trướng, chia chủ khách mà ngồi. Ngưu Tư Tiến nói:
- "Chúa thượng muốn Dương Lệnh Công dốc lòng quy mệnh, đặc khiến hai người chúng tôi đến nơi này, gặp mặt để định ước. Vả lại, mọi người trông các ngài đến như nắng hạn mong trời mưa vậy, xin đừng nghi ngờ”.
Lệnh Công nói:
- "Kẻ hèn giữ nơi hẻo lánh, trên không tận trung được với Hán chủ, dưới không lập được công với triều đình, thật là xấu hổ với thiên hạ”.

Hô Diên Tán nói:
- "Dương Lệnh Công nói sai rồi, ngài có văn võ toàn tài, hiệu trung với nước, chí cũng cần lao, chỉ là ngay lúc nịnh thần của Lưu Quân nắm việc không muốn cha con Dương Lệnh Công lập được kỳ công, mới khiến cho tới lui chìm nổi, mà có ý hàng thiên triều. Đó thật là ý trời, khiến các ngài lập được danh tiếng vẻ vang với triều ta, đâu phải là ngẫu nhiên vậy!".
Dương Lệnh Công thấy hai người ăn nói trơn tru, hợp lí, càng thêm kính phục, liền khiến tả hữu mở tiệc khoản đãi mọi người đều vui vẻ uống say mới tan.

Hôm sau, Dương Lệnh Công vào cùng phu nhân thương nghị việc quy hàng. Phu nhân nói:
- "Lệnh Công nếu đã có ý quy thuận thiên triều, hà tất bàn nữa".
Vì thế xin để hai người được sai đến về phục mệnh trước, rồi lệnh cho các con điều động tập hợp quân mã biên phòng, thu gom vàng bạc trong nhà, chuẩn bị khởi hành. Đời sau có thơ khen:

Sơn xuyên chung tố bất đồ nhiên, Chí sử anh hùng sản Thái Nguyên.
Phụ tử tùng giao quy đại Tống,
Khiết Đan cung thủ định tam biên.
(Núi sông un đúc chẳng uổng công,
Thái Nguyên đua nở khắp anh hùng.
Cha con cùng đến theo triều Tống,
Khiết Đan quy thuận an biên cương)
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười Một
Tiểu Thanh Cảm Mộng Lấy Thái Nguyên
Thái Tôn Hạ Nghị Chinh Đại Liêu

Đây nói về Ngưu Tư Tiến và Hô Diên Tán về tâu với Thái Tôn:
- "Dương gia phụ tử sẽ thống lĩnh chúng theo sau tới hàng ngay".
Thái Tôn nói với Bát Vương:
- "Nếu Dương Nghiệp đến, thì khanh hãy dẫn quần thần đứng ở giữa đường mà đón".
Bát Vương lĩnh chỉ, ngay hôm đó dẫn các quan tới Bạch Mã Dịch đợi. Chợt nghe báo phía trước Bắc tinh kỳ rộp trời, bụi bay mờ mịt, chắc là quân mã của Dương gia đến. Bát Vương nghe được, dẫn các quan ra ngoài dịch trạm xem. Một lát sau, thám tử về báo cho quân Dương Lệnh Công, cho biết quan viên Trung Quốc ở trạm phía trước chờ đón. Lệnh Công liền xuống ngựa tiến lên trước, thấy hai bên bá quan mũ áo đứng chờ, trong cửa thì trống gióng vang chào đón. Bát Vương lên trước thi lễ nói:
- “Phụng mệnh chúa công là vua Tống, vì Dương Lệnh Công đường xa mệt nhọc, nên sai các quan đón ở giữa đường".
Lệnh Công mới đến, chưa biết là ai, nên hơi có vẻ kiêu căng. Hô Diên Tán e rằng thất lễ, liền đến gần nói nhỏ với Dương Lệnh Công:
- "Đây là cháu ruột của vua Tống, tức Kim Giản Bát Vương đó".
Lệnh Công thất kinh, bèn quỳ sụp xuống bên đường. Bát Vương vội đỡ dậy, cùng Lệnh Công vào trong dịch xá, sớm đã sắp đặt tiệc rượu, các quan đều mời mọc uống rượu rất ân cần, quân mã Dương gia đóng ở ngoài trạm, ngủ qua một đêm.

Hôm sau, Bát Vương cùng Dương Lệnh Công sánh vai cùng đi, đến trại Tống. Cận thần tâu với Thái Tôn. Thái Tôn xuống lệnh mời vào. Bát Vương dẫn Lệnh Công tới triều kiến, lạy phục ở ngoài trướng, dập đầu thỉnh tội. Thái Tôn an ủi hồi lâu, phong cho Dương Nghiệp chức Biên trấn Đoàn Luyện Sứ, thống lĩnh các thuộc hạ cũ, chờ ban sư về kinh, sẽ bàn việc thăng thưởng. Nghiệp thụ mệnh rồi lui, rồi dẫn quân mã đóng ở thành Nam, án binh bất xuất.

Thái Tôn hạ lệnh cho chư tướng, mau tiến gấp đến đánh Hà Đông. Lúc này Lưu Quân nghe báo Ứng Châu đã làm phản, Dương Nghiệp quy thuận thiên triều, sợ đến kinh hồn lạc phách, bỏ cả ăn uống. Tống Tề Khưu cùng bọn Đinh Quý chỉ còn cách phòng thủ nghiêm ngặt. Quân Tống liền đánh mấy ngày mà không hạ được. Phan Nhân Mĩ chia các tướng thay phiên vây đánh thành. Tiếng chiêng trống vang vọng trong ngoài. Trên thành tên, đá bay xuống như mưa. Đinh Quý liều chết chống giặc, vào gặp Lưu Quân, xin mượn binh của Đại Liêu để cứu quốc nạn. Lưu Quân chuẩn tấu, sai người ngày đêm đi đến Đại Liêu cầu cứu, chuyện không có gì đáng nói.

Đây nói về Thái Tôn, do vây Thái Nguyên đã lâu mà chưa hạ được, vào ngày 3 tháng 2 đích thân tới trước trận đốc chiến. Cao Hoài Đức, Hô Diên Tán... chia nhau đánh vào các cửa. Thành quách đều sụp, bị giết rất nhiều. Thái Tôn thủ chiếu dụ Hán chủ ra hàng. Sứ giả đến dưới thành, quân giữ thành không cho vào. Thái Tôn giận dữ, cùng các tướng hộ vệ tiến đến dưới thành, bày trận ở trước. Quân Nam-Bắc thi nhau bắn tên cắm trên thành như lông nhím. Đêm xuống, Thái Tôn nghỉ ở trong doanh, dựa kỉ mà nằm, chợt nghe báo rằng:
- "Có phu nhân tới!”
Thái Tôn mở mắt nhìn xem, thấy 30, 40 tên lực sĩ, khiêng một cỗ kiệu đến. Lát sau, có một phụ nữ từ trong kiệu bước ra, lấy một tấm thiệp trắng, đưa đến cho Thái Tôn. Thái Tôn hỏi rằng:
- "Khanh là ai?"
Người phụ nữ đáp:
- "Thiếp là Hà Đông tiểu thánh, nay đến gặp chúa thượng để dâng một mẹo nhỏ". Thái Tôn nhìn thấy trên giấy viết tám chữ:
- "Nhâm Quý chi binh, có thể phá được Thái Nguyên".
Thái Tôn xem xong, nhìn lại, thì người phụ nữ chợt biến mất. Tỉnh lại thì ra là một giấc mơ, lúc này trời gần canh năm. Thái Tôn triệu gấp Bát Vương, Dương Quang Mĩ vào doanh kể lại giấc mơ. Dương Quang Mĩ nói:
- "Nhâm Quý thuộc hướng Bắc, không lẽ kêu bệ hạ từ cửa Bắc đánh thì phá được Thái Nguyên". Thái Tôn nghe ra, hôm sau hạ lệnh chủ tướng đánh gấp ở cửa Bắc.

Lúc này Hán chủ ngoại viện thì chưa đến, đường vận lương lại tắt, trong thành sợ hãi. Đêm trước lại mơ thấy rồng vàng từ cửa Bắc theo nước mà vào, thành quách đều sụp đổ, giật mình tỉnh lại càng sợ. Rạng sáng chợt nghe báo vua Tống giáng thủ chiếu, sai người đến dưới thành dụ hàng, sẽ đảm bảo phú quý suốt đời. Lưu Quân thấy tình thế nguy hiểm, lại thấy giấc mơ này, triệu gấp quân thần bàn rằng:
- "Cha con ta ở Tấn Dương hơn 20 năm, sao nở để trăm họ gặp tai họa. Nếu không lập tức hàng, e rằng có thảm họa diệt thành, ta sao an lòng? Chi bằng đầu hàng để an bá tánh".
Quần thần nghe xong, ai cũng rơi lệ. Có người lại báo:
- "Quốc cửu Triệu Toại đã mở cửa bắc thành dẫn quân Tống vào thành rồi”.
Lưu Quân òa khóc đi vào trong cung.

Phan Nhân Mĩ xông vào thành trước, sai người truyền chỉ cho Hán chủ:
- "Vua Tống khoan nhân đại lượng, và không có ý làm hại".
Quân lúc bấy giờ mới yên tâm, bèn sai Lý Huân mang ấn dụ, sổ sách và biểu xin hàng. Thái Tôn xuống chiếu đồng ý. Xa giá vào thành cửa Bắc, thiết yến tấu nhạc cùng các quan ở trên thành ăn uống. Hán chủ dẫn quan thuộc, áo tang mũ sa, quỳ đợi tội dưới đài. Thái Tôn ban cho áo da đai ngọc, cho phép lên đài. Hán chủ khấu đầu tạ tội. Thái Tôn nói:
"Trẫm an dân tới đây, sao làm hại ngươi được, hãy yên tâm đừng lo".
Hán chủ tạ ơn xong, mời xa giá vào trong phủ, Thái Nguyên. Trăm họ bày nhang đèn hương hoa nghênh đón. Thái Tôn thăng đường ngồi xong. Các quan Bắc Hán đều lạy xin hàng dưới thềm.

Thái Tôn phong cho Lưu Quân làm Kiểm hiệu Thái sư hậu vệ thượng tướng quân, Bàng thành quận công, vẫn giữ Hà Đông. Từ Bắc Hán Lưu Sùng xưng đế ở Thái Nguyên vào niên hiệu quảng Thuận nguyên niên đời Hậu Châu Thái Tổ, thống lĩnh 12 châu, đến Lưu Quân truyền được 4 đời 29 năm, đến đây hàng Tống. Cộng được 10 châu, 40 huyện, 135.220 hộ, đến đây Hà Đông được bình định. Tịnh Hiên có thơ:

Đầu hàng địch quốc đởm sinh hàn,
Thánh chúa khu tùy giá lưỡng xan
Tổng vi điệu dân phi háo chiến,
Mã tiền bất tín thị Trương Kham.
(Đầu hàng nước địch gan lạnh hàn,
Xe ngựa vua theo giá ngự loan.
Thương dân muốn dứt ngay chinh chiến,
Đầu ngựa đâu ngờ kẻ dối gian).
Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ tư, Thái Tôn xuống lệnh ban sư. Phan Nhân Mĩ tâu rằng:
- "Đất Hà Đông khống chế U Châu, Khiết Đan lâu nay vẫn là tai họa ở biên cương. Nay xa giá bệ hạ nơi đây, quân sĩ thì ra sức, sao không thừa cái thế chẻ tre này mà bình định Liêu Đông, thành cái công nghiệp ngàn năm trong một lúc vậy, Lời chưa dứt, Dương Quang Mĩ tâu rằng:
- "Hà Đông mới định, quân sĩ lăn xả mũi tên hòn đạn đã lâu vả lại lương hưởng không đủ, bệ hạ nên hồi giá, từ định tiến đánh".

Lúc ấy mọi người bàn tán xôn xao, Thái Tôn chưa quyết đi vào hành cung triệu Bát Vương, Quách Tiến, Cao Hoài Đức bọn chiến tướng vào bàn việc này. Trước đây khi vây Thái Nguyên, chúng quân hoặc không biết Thái Tôn ở đấy, trong quân bèn bàn muốn lập Bát Vương, Bát Vương không chịu. Nên sau khi Thái Nguyên đã định, Thái Tôn nghe việc này nên cố ý để lâu không thưởng. Bát Vương nói:
- "Bình định Thái Nguyên rồi vẫn chưa thưởng cho tướng soái, nay lại sắp phải đi đánh Đại Liêu, quân sĩ không kham. Chi bằng theo lời bàn của Dương Quang Mĩ, ban sư hồi kinh, đó là thượng sách vậy”,
Thái Tôn giận nói:
- "Đời người được thiên hạ, thì tự làm lấy” .
Cao Hoài Đức nói:
- "Lời bàn của Phan Chiêu Thảo, muốn xây dựng đại kế cho biên phòng, từ nơi này đến U Châu, chỉ một khoảng đường ngắn; nếu được thành công, thì ngày được thái bình sẽ không xa vậy. Mong bệ hạ theo lời nghị bàn này". Thái Tôn ý đã quyết. Hôm sau hạ lệnh, lấy Lễ Bộ Lang Trung Lưu Bảo Huân làm Tri Thái Nguyên phủ sự. Xa giá rời Thái Nguyên, tiếp tục phạt Liêu. Chia chủ tướng và quân của Dương gia, hướng về U Châu mà tiến. Lúc này vào mùa Xuân, chỉ thấy:

Sơn đào ủng miên, ngạn liễu thi kim. Thời văn thôn tửu xuất ly hương, mỗi kiến tường hoa viền lộ thổ. Ty tiên y y, xuyên hồng hạnh chi phương lâm; Xung mã trì trì, tư dã kiều chi lục thủy. Tùy giá tâm vong hiềm lộ viễn Tùng chinh ý cấp hận hành trì.

Đại quân dọc đường không có gì nói, ngày nọ đến Dịch Châu hạ trại. Phan Nhân Mĩ sai người vào thành hạ chiến thư. Người giữ Dịch Châu là thích sử triều Liêu Lưu Vũ, nghe báo quân Tống đến, đang cùng nha tướng Quách Hưng bàn kế đánh, thủ. Chợt được báo quân Tống sai người đến hạ chiến thư. Lưu Vũ nhận thư, quay lại hỏi Quách Hưng rằng:
- "Ý ông thấy thế nào?”
Hưng nói:
- "Theo tiểu nhân thấy quân Tống gần đây bình định Hà Đông, thừa thế thắng mà đến, sao cự lại được? Chi bằng sai người đến trong quân Tống, xem xét động tĩnh của họ rồi dâng thành đầu hàng, có thể giữ được toàn vẹn vậy”, Lưu Vũ nói:
- "Chuyến này phi ông đi không được".
Quách Hưng khẳng khái nhận lệnh đi đến Tống doanh, thấy Hoài Đức ngồi ngay ngắn trong doanh, Hưng trong lòng sợ hãi. Vừa vào trướng, Hoài Đức hỏi:
- "Đại quân đến nơi, người đến gặp ta, có lời cao luận gì?”.
Hưng nói:
- "Thiên binh như sấm sét, kẻ chống lại, đều nát như cám. Nay chúa công đặc sai tiểu nhân đến xin hàng, để cứu cả thành sinh linh".
Hoài Đức mừng rỡ, liền dẫn đi gặp Phan Chiêu Thảo Sứ, nói rõ nguyên do. Phan Nhân Mĩ nói:
- "Ngươi đã đầu hàng, thì nên lệnh vào ngày mai mở thành nghênh tiếp xa giá". Quách Hưng bái từ mà về. Hôm sau, cùng Lưu Vũ mở thành ra hàng, nghênh tiếp xa giá Thái Tôn vào đóng trong phủ. Thu được gồm hai vạn quân, 15 vạn lương thảo, 600 con tuấn mã. Thái Tôn phong Lưu Vũ quan chức như cũ, hạ lệnh tiến đến Trác Châu.

Người giữ Trác Châu là Liêu phán quan Lưu Hậu Đức đã biết quân Tống đã hạ Dịch Châu, triệu bộ hạ vào thương nghị việc bố trí. Chiêm Đình Khuê nói:
- "Vua Tống Nhân minh Anh võ, có kế hoạch muốn thống nhất đất nước, không bằng mở thành đầu hàng, để mưu phú quý"
Hậu Đức nghe lời, liền sai người đến trong trại Tống xin hàng. Nhân Mĩ được báo, hôm sau hộ vệ xa giá tiến vào trong trại. Hậu Đức lạy ở dưới thềm thỉnh tội, Thái Tôn an ủi hồi lâu. Lúc ấy quân mã của Thái Tôn ra quân hơn 20 ngày, bình định được hai châu. Người sau có thơ khen:

Can qua nhất chỉ nhập Liêu phong,
Địch tướng khai thành tiết sứ thông.
Thánh chúa uy phong thiên lí viễn,
Lê dân tranh ứng đạo đồ trung.
(Giáo gươm tiến thẳng đất Liêu phong,
Tướng địch mở thành sứ tiết thông.
Uy phong thánh chúa xa muôn dặm,
Dân đen tranh đón giữa đường mừng).
Tin tức truyền vào U Châu, Tiêu thái hậu thất kinh, gấp triệu văn võ vào thương nghị. Tả tướng Tiêu Thiên Hữu xuất ban tâu rằng:
- "Bệ hạ không cần lo sợ, thần cử hai người, có thể địch được quân Tống”.
Tiêu thái hậu hỏi rằng:
- "Khanh đề cử người nào?"
Thiên Hữu tâu:
- "Đại tướng Gia Luật Hề Đệ và Gia Luật Sa, trí dũng đầy đủ nếu sai đem quân nghênh địch, tất có thể thành công". Tiêu thái hậu chuẩn tâu, liền lệnh cho Gia Luật Hưu Ca làm giám quân, Gia Luật Hề Đệ và Gia Luật Sa làm chánh phó tiên phong, thống lĩnh năm vạn tinh binh ra đánh. Bọn Hưu Ca nhận lệnh, dẫn quân rời thành, Nam-Bắc doanh trại cờ trống liên tiếp, quân thế rất oai phong. Thám mã báo về trong quân cho Phan Chiêu Thảo, Phan Nhân Mĩ triệu tập chư tướng vào bàn cách đánh. Hô Diên Tán nói:
- "Để tiểu tướng đánh thử trước một trận, để làm nhụt uy phong của quân Liêu . Nhân Mĩ thuận theo, cấp cho 8000 quân. Cao Hoài Đức nói:
- "Tiểu tướng cùng đi tương trợ, để cùng lập công”. Nhân Mĩ cũng cấp cho 8000 quân: Tán và Hoài Đức đều dẫn quân đi. Việc sắp xếp coi như xong.

Hôm sau, sau ba hồi trống, bày trận dưới U Châu thành Quân Tống hướng về Bắc, quân Liêu đón mặt về Nam. Liêu tướng Gia Luật Hề Đệ nai nịt đầy đủ, tế ngựa ra trước. Tống tướng Hô Diên Tán vác thương kìm ngựa, đứng ở dưới cửa cờ quát hỏi:
- "Ngươi đến là ai?"
Gia Luật Hề Đệ nổi giận nói:
- "Tiêu thái hậu giá hạ đại tướng Gia Luật Hề Đệ là ta đây".
Tán mắng rằng:
- "Tên mọi Liêu thất phu kia, dám đến đánh nhau sao?"
Nói xong tế ngựa giơ thương tới đâm Hề Đệ. Hề Đệ múa búa nghênh chiến. Hai bên gầm thét, đánh nhau được vài hiệp, bất phân thắng bại. Phiên tướng là Gia Luật Sa bay ngựa ra, hai người cùng đánh Hô Diên Tán. Hô Diên Tán cố sức đánh với hai tướng. Chợt bên trận Tống tiếng chiêng vang lừng, Cao Hoài Đức tế ngựa lên trước, múa thương đỡ lấy Gia Luật Sa giao phong. Bốn người quần nhau, bụi bay mù mịt. Hai quân Nam-Bắc dùng cung tên bắn lẫn nhau, từ sáng sớm đánh đến trưa, chưa phân thắng bại, cả hai bên đều bị thương. Hô Diên Tán quát to:
- "Sức ngựa đã mỏi, ngày mai đánh tiếp" và mỗi bên tự thu quân về trại .
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười Hai
Cao Hoài Đức Đại Chiến Tại U Châu
Tống Thái Tôn Ban Sư Về Biện Kinh

Nói về Cao Hoài Đức và Hô Diên Tán về tới trong trong trại, báo lạ là Liêu tướng anh dũng, chưa phân thắng bại. Phan Nhân Mĩ nói:
- "Gia Luật Sa là kiêu tướng của Liêu, các ngươi phải cẩn thận khi đánh".
Bọn Tán lui ra. Phan Nhân Mĩ vào tâu với Thái Tôn rằng:
- "Quân Liêu rất tinh nhuệ, trận chiến hôm nay e rằng khó thắng, thần rất lo lắng".
Thái Tôn nói:
- "Trẫm phải đích thân đến nơi chiến trận, cùng phiên tướng quyết một trận thư hùng".
Bát Vương tâu rằng:
- "Bệ hạ tự nên bảo trọng, tự có chư tướng ra sức, không nên tự đi vào nơi tên đá vậy”
Thái Tôn không nghe. Hôm sau, bỗng xuống lệnh đốc chư tướng đến đánh.

Đây nói về Gia Luật Hưu Ca đang cùng các tướng bàn kế đánh quân Tống, chợt thám mã về báo:
- "Tống binh dốc cả trại mà đến, muốn cùng nguyên soái quyết một trận sống chết".
Hưu Ca nghe tâu báo, quay sang nói với Gia Luật Sa rằng:
- "Đại tướng Gia Luật Học Cổ đang trấn thủ đất Yên, chẹt ngay phía sau quân Tống, có thể lệnh cho ông ta xuất quân đánh tập hậu quân Tống. Ta cùng chư tướng thì dàn quân ở Cao Lương Hà".
Quân Bắc vừa triển khai trận thế thì thấy quân Tống kéo đến đông như kiến cỏ. Tiên phong Hô Diên Tán phi ngựa ra trận, quát to:
- "Phiên tướng hãy chọn người dũng mãnh ra đánh với ta”.
Chưa dứt tiếng, trong Bắc trận, Gia Luật Sa vác đao đến đánh, cao giọng quát rằng:
- "Tống tướng mau lui, để tránh bị bắt".
Hô Diên Tán múa thương đâm thẳng vào Gia Luật Sa. Gia Luật Sa đưa đao đón đánh, hai ngựa giao nhau, đánh hơn 36 hiệp, bất phân thắng bại. Bắc tướng Gia Luật Hề Đệ bay ngựa múa búa từ bên cạnh đánh vào. Cao Hoài Đức tế ngựa đón đánh. Chiêng trống vang lừng, cờ bay phất phới. Bốn tướng đang đánh hăng thì chợt phía sau trận quân Tống pháo nổ vang trời. Với khí thế long trời lở biển, Liêu tướng Gia Luật Học Cổ hô quân xông tới. Quân Tống đang ngơ ngác chưa biết là cánh quân nào đột nhiên xuất hiện, tự rối thế trận, đội ngũ không tề chỉnh.
Gia Luật Hưu Ca từ trên tướng đài nhìn thấy thế trận quân Tống đã động, liền phái một cánh quân xông thẳng vào. Thái Tôn gấp hạ lệnh chư tướng hộ giá. Phan Nhân Mĩ nghe được tin này, tế ngựa liều chết đến đánh, vừa gặp quân của Gia Luật Hưu Ca kéo đến, hai ngựa giao nhau chỉ một hiệp, đã chém Nhân Mĩ rớt xuống ngựa. Quách Tiến nhìn thấy vội bay ngựa ra, cứu về.

Lúc này cách trại đã xa, chư tướng lại đang gặp địch thủ, chưa đánh hạ được, nay nghe Thái Tôn gặp nạn, liền bỏ chạy về để cứu Thái Tôn một ngựa giết ra vòng vây, chạy trốn về hướng đê sông Phần Dương, bị hai bộ tướng của Gia Luật Hưu Ca là Ngột Hoàn Nô, Ngột Lí Hề thừa thế đuổi theo. Ở Nam doanh, Dương Nghiệp nhìn thấy, nói với các con rằng:
- "Chúa thượng gặp nạn, sao không đi cứu?"
Dương Diên Chiêu bay ngựa ra trước, quát to:
- "Mọi Liêu chớ chạy!"
Ngột Hoàn Nô nổi giận múa đao chém liền. Diên Chiêu múa thương nghênh địch. Đánh chưa đầy hai hiệp, bị Diên Chiêu đâm một nhát ngay ngực, chết lăn xuống ngựa. Giết tan quân đuổi theo, Diên Chiêu thấy Thái Tôn đứng ở trên đê, liền hỏi:
- "Con ngựa của bệ hạ ở đâu?"
Thái Tôn nói:
- "Bị loạn tiền bắn trọng thương, không cưỡi được nữa".
Diên Chiêu nói:
- "Hãy dùng ngựa của thần, thần sẽ đi bộ mà đánh ra ngoài".
Thái Tôn e rằng Diên Chiêu không ngựa sẽ khó thắng, liền nói:
- "Khanh phải có ngựa để đánh, ta cưỡi xe lừa đi được rồi".
Diên Chiêu nói:
- "Quân địch kéo đến đông lắm! Bệ hạ mau lên ngựa thà họ giết được thần, xin đừng lưu luyến".
Đang lúc nguy cấp, vừa lúc Thất lang đánh giết vào tới, thấy Diên Chiêu liền nói:
- "Quân ta chiến trận đã loạn, ca ca sao không mau bảo vệ chúa thượng chạy đi".
Diên Chiêu nói: "Ngươi hãy cùng bệ hạ cưỡi chung một ngựa, ta đi trước đánh ra".

Thất lang lập tức đỡ Thái Tôn lên ngựa. Diên Chiêu gầm lên như sấm, đột phá khỏi trùng vây, lại bị Ngột Lí Hề dẫn quân cản đường. Diên Chiêu nghiến răng ngắm chuẩn Ngột Lí Hề, phóng thương đâm một nhát, vừa đúng ngay yết hầu mà chết. Vòng qua trại phía Tây, quân Bắc tên đá như mưa. Diên Chiêu phá không được trùng vây, may gặp Dương Nghiệp, Cao Hoài Đức, Hô Diên Tán ba tướng chém giết xông vào tới, cứu được Thái Tôn ra, chạy về Định Châu. Trận này có thể thấy được sự dũng cảm của Dương Diên Chiêu. Đời sau có thơ khen:

Trảm kiên nhập trận cứu quân vương,
Địch tương tranh nghênh chí diệt vong.
Vị nhập trung triều tiên kiến tích,
Tướng quân danh vọng chí kim hương. (Cả gan vào trận cứu vua ta,
Tướng địch đẩy đưa chết hằng hà.
Chưa tới triều đình đà dựng nghiệp,
Tướng quân tên tuổi vẫn sáng lòa).
Phan Nhân Mĩ thu thập tàn quân, chỉ thấy thi thể chồng chất, máu chảy đầy nơi. Quân Tống bị giết tám, chín vạn, ngựa giáp, khí giới bị mất vô số. Thế là các châu Dịch, Trác... lại thuộc về nhà Liêu. Gia Luật Hưu Ca thu được toàn thắng, liền thu quân về U Châu, chuyện không có gì đáng nói.

Đây nói về đến Thái Tôn chạy về Định Châu, các tướng lần lượt về tới, bọn Bát Vương vào trước bái yết, vua nói:
- "Hôm nay nếu không có cha con Dương Nghiệp ra sức, Trẫm khó giữ được mạng sống".
Bát Vương nói:
- "Bệ hạ có bách linh tương trợ, quân giặc sao mà hại được. Từ nay cần phải bảo trọng mình rồng, không nên tự mạo hiểm vậy, nếu chư tướng nhất thời không kịp cứu ứng, thì ai giúp được bệ hạ đây?"
Thái Tôn gật đầu ưng thuận. Rồi triệu Dương Nghiệp vào trong trướng, thưởng cho gấm vóc 20 cây, vàng ròng 40 lượng, rồi nói rằng:
- "Nay tạm ban cái này cho khanh, xem như lễ vật làm tin. Chờ đến ngày ban sư, mới báo công sau". Dương Nghiệp lạy thụ mệnh rồi lui.

Bát Vương tâu:
- "Đường vận lương không kịp, quân sĩ suy sụp, xin bệ hạ hãy ban sư về kinh, để thỏa lòng trông ngóng của thần dân".
Thái Tôn nghe theo lời này, ngay hôm đó hạ chiếu ban sư, để Phan Nhân Mĩ làm tiền đội. Dương Nghiệp đi ở giữa, còn các tướng còn lại cùng quân bản bộ thì theo sau hộ giá. Chỉ lệnh hạ xuống, chủ tướng chuẩn bị rời dịch, hướng Biện Lương mà đi. Có thơ làm chứng:

Trạch quốc giang sơn nhập chiến đồ,
Sinh dân hà kề lạc tiều tô.
Bàng quân mạc thoại phong công hầu ấn,
Nhất tướng công thành vạn cốt khô.
(Đất nước ngàn thu gặp chiến tranh,
Dân đen lưu lạc sống sao đành.
Ví chàng nói tới công danh lớn,
Hãy nhớ xương khô chết ngập thành).
Đại quân trên đường không có gì đáng nói, ngày nọ về đến Biện Lương, văn võ quần thần vào triều kiến xong. Thái Tôn nói:
- "Trẫm bị nhục ở đất U Châu, thường ghi nhớ trong lòng để báo thù, nay các ngươi mỗi người hãy trình báo ý kiến, vì trẫm mà suy tính kĩ".
Tư đồ Triệu Phổ cùng Tham tri chính sự là bọn Đậu Xưng, Quách Chí tâu:
- "Bệ hạ có giáp binh tinh nhuệ, phủ khố giàu có lo gì giặc ác không trừ được ư? Nhưng vì quân sĩ vây thành Thái Nguyên quá lâu, vết thương chưa lành, xin hãy đợi đến lúc trời mát ngựa béo, tích trữ lực lượng, lúc đó mới bàn việc đánh lấy cũng chưa muộn vậy. Thái Tôn theo lời bàn này, hạ lệnh mở tiệc đãi các tướng sĩ đi đánh Thái Nguyên ở Sùng Nguyên điện. Ngày đó vua tôi vui vẻ rồi tan.

Hôm sau giáng sắc, phong Dương Nghiệp làm thứ sử Đại Châu kiêm binh mã nguyên soái, từ con trưởng trở xuống đều phong làm Đại Châu Đoàn Luyện Sứ, phủ đệ đặt ở bên Kim Thủy Hà là Vô Ninh trạch, ban thưởng rất hậu. Quần thần tâu rằng, Dương Nghiệp chưa lập được công lớn ban phong quá hậu. Vua nói:
- "Trẫm lấy tín nghĩa đãi người, làm sao có thể thất tín với thần hạ". Và vẫn hạ chiếu. Dương Nghiệp liền dâng biểu xin từ chức của các con, biểu viết:

Thần Dương Nghiệp dập đầu lạy tâu: Nay gặp thánh minh ở trên, vạn vật đồng xuân. Thần sinh trưởng nơi biên thùy hẻo lánh, bản tính thô suất, văn không thể giúp nước, võ không thể dẹp loạn. Nhờ ơn tái tạo và đức cao rộng của bệ hạ ban cho phủ đệ bên Kim Thủy Hà, chịu sắc mệnh làm quan ở Đại châu. Ân nghĩa to như vậy, khiến thần dù tan xương nát thân, cũng chưa báo đáp được muôn một. Ngày đêm sợ hãi, chỉ luôn nghĩ cách đền đáp. Các con ngu muội của thần, chưa lập được chút công nào với triều đình, mà đều được phong làm Đoàn Luyện Sứ. Ơn trên đã ban, trong ngoài đều kinh ngạc, thần nào dám nhận lấy! Xin bệ hạ vì sự thưởng phạt mà suy xét, thu lại cáo mệnh của các con thần, khiến thần khỏi phải mang tội lạm nhận, để có thể hết lòng. Nếu được bằng vậy, thật là sự may mắn cho hạ thần vậy.

Thái Tôn xem biểu, giáng chỉ chuẩn theo lời xin, Dương Nghiệp tạ ơn lui ra. Lúc này chiến tranh tạm dứt, khói lửa tạm yên. Thái Tôn ngày ngày cùng quần thần bàn luận cách trị nước ở trong cung, sắp xếp tướng soái nơi Phiên trấn, hoặc thăng hoặc đổi, đều phù hợp cả.

Nay nói về Gia Luật Hưu Ca từ khi thắng quân Tống trở về thì hơi có vẻ kiêu ngạo tự phụ, Tiêu thái hậu rất là coi trọng. Gặp lúc Tiêu làm thiết yến đãi các quan văn võ, Gia Luật Hưu Ca tâu rằng:
- "Ngày trước nhờ hồng phúc bệ hạ, ra quân chặn quân Tống, thần nhờ chư tướng liều chết, giết tan quân địch. Nay thần muốn nhân lúc Trung Quốc sau khi thua chạy, lòng người sợ hãi, xin lĩnh tinh binh thẳng đánh Biện Lương, để trả cái nhục vây U Châu, xin bệ hạ chuẩn theo lời xin của thần” .

Tiêu thái hậu nói:
- "Lời khanh nói, thật có lòng trung vậy. Nhưng chỉ e Trung Quốc người đông, ngựa khỏe, chưa thể vào lấy được”. Yên vương Hàn Khuông Tự tâu:
- "Thần nguyện cùng Gia Luật Sa tướng quân xuất binh phạt Tống, lựa thế mà tiến, ắt có thành tích".
Tiêu thái hậu y tấu, giáng chỉ phong cho làm giám quân, Gia Luật Hưu Ca làm cứu ứng, Gia Luật Sa làm tiên phong, dẫn 10 vạn tinh binh phạt Tống. Bọn Khuông Tự lĩnh mệnh, ngay hôm đó dẫn quân rời U Châu, hướng Toại thành mà tiến phát. Lúc bấy giờ trời vào tháng chín, chỉ thấy:

Hàn phong lạc diệp thu dung đạm,
Hồng nhạn thanh bi lữ tư trung.
(Gió lạnh lá rơi cảnh thu nhạt,
Tiếng nhạn thê lương khách dặm dài).
Liêu binh đi được vài ngày, đến cách Toại thành phía Tây Bắc 50 dặm hạ trại. Người giữ Toại thành là Tống tướng Lưu Đình Hàn, nghe báo quân Liêu kéo đến, cùng bàn với bọn phó tướng là Hoắc Sản Tiến, Lý Hán Quỳnh rằng:
- "Người Liêu nhân chúa thượng thua trận rút về, thừa nhuệ khí đó nên kéo đến vây thành, có cách nào đánh lui”. Hoặc Sản Tiến nói:
- "Nếu đánh với họ, thì thắng thua còn chưa biết, nay nên dùng ngụy kế, dựng cờ hàng, dụ họ vào rồi bắt lấy, chỉ một trận là thành công vậy”.
Đình Hàn nói:
- "Mẹo này tuy hay, nhưng e rằng họ sẽ nghi ngờ, nếu ngày nay không nhận cho ta hàng thì sao?"
Hàn Quỳnh nói:
- "Trước tiên hãy đem lương thảo đến nạp, họ thấy sự chân thành của ta, tất sẽ cho hàng".

Đình Hàn mừng rỡ, lập tức sai người vào Yên doanh dâng lương thảo xin hàng. Hàn Khuông Tự nói:
- "Chủ người đến hàng, lấy gì làm tin?" Sai nhân nói:
- "Trước xin dâng tiền lương để nguyên soái thống quân hưởng mà dùng, sau đó sẽ dẫn chúng nạp thành". Khuông Tự tin mà cho hàng. Gia Luật Hưu Ca bẩm rằng:
- "Khí thế quân Tống không phải là yếu, nay chưa giao phong mà đã xin hàng, tất đây là kế để dụ ta, Nguyên soái nên chỉnh quân mà chờ, đừng tin lời này”.
Khuông Tự nói:
- "Hắn dâng lương hưởng cho ta, sao mà giả được”. Rồi không nghe lời can của Hưu Ca. Hôm sau, dẫn quân đến dưới thành, Đình Hàn được sai nhân về báo, lập tức chỉnh đốn quân mã, lệnh cho Hoặc Sản Tiến dẫn một vạn kị binh, phục ở cửa đông thành, đợi sau khi quân Liêu vào thành, xông ra chém giết. Sản Tiến dẫn quân làm theo. Lại gọi Lý Hán Quỳnh lĩnh 1 vạn bộ binh, phục ở cửa Tây thành, quân địch nếu đến, thả điếu kiều xuống, thừa thế bắt lấy. Hàn Quỳnh cũng dẫn quân làm theo. Đình Hàn sắp đặt xong, tự dẫn quân mạnh, bí mật ra cửa nam, để có gì cứu ứng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười Ba
Lý Hán Quỳnh Trí Thắng Tướng Giặc
Dương Lệnh Công Đại Phá Quân Liêu

Đây nói về Hàn Khuông Tự sai người đi do thám tình hình, được báo về rằng:
- "Người Tống mở toang cửa Tây, và không có bất kỳ người nào lai vãng. Khuông Tự không tin, tự dẫn khinh binh đến xem, trước tiên tiến qua hào thành, thấy điếu kiều trang điểm đầy đủ. Yên hộ kị úy Lưu Hùng Võ bẩm rằng:
- "Nguyên soái không nên khinh địch mà vào, vừa rồi tôi nhìn thấy trong thành hình như có quân mai phục, nếu không lui nhanh, sẽ mắc phải mẹo mất".
Khuông Tự chợt tỉnh nói:
- "Lời ngươi rất đúng".
Lập tức hạ lệnh hậu quân lui dần, chợt bên đập thành nổ vang tiếng pháo, như trời long đất lỡ. Lý Hán Quỳnh dẫn quân Tống rút đập hào lên, dẫn đầu xông ra. Hàn Khuông Tự thất kinh, quay ngựa bỏ chạy. Hàn Quỳnh đề đao đuổi đến, tướng Liêu là Lưu Hùng Võ cố chết nghênh địch, hai ngựa giao nhau, đánh chưa được vài hiệp, bị Hán Quỳnh một đao chém chết lăn xuống ngựa. Quân Tống xông lên, quân Liêu thua to, dẫm đạp lên nhau, người chết vô số. Gia Luật Sa bay ngựa đến, bảo vệ Khuông Tự mở đường máu chạy về trại cũ. Hoắc Sản Tiến dẫn kị binh xông pha mà đánh vào, vừa đụng ngay Gia Luật Sa liền giao phong. Gia Luật Sa thấy quân Tống thế mạnh, không dám đánh lâu, cố chết cùng Khuông Tự phá vây chạy về Dịch Châu. Sản Tiến xua quân truy kích, quân Liêu nhổ trại trốn chạy, đồ quân nhu, khí giới vứt lại hết. Lưu Đình Hàn từ thành nam vòng qua, cùng bọn Sản Tiến hợp quân đuổi theo, may mà Gia Luật Hưu Ca giữ trung quân cố chết đánh lại. Đình Hàn mới thu quân về thành.

Gia Luật Hưu Ca dẫn tàn quân về gặp Khuông Tự, nói quân Tống đông quá. Nhất thời chưa có kế gì, nên về gấp U Châu, rồi thương nghị. Khuông Tự sợ hãi bối rối, chỉ đành dẫn quân về tâu Tiêu hậu. Tiêu hậu nghe được nguyên do bại trận mất tướng, triệu Gia Luật Hưu Ca vào gấp và hỏi rằng.
- "Ra quân chưa gặp giặc, làm sao dẫn đến thảm bại?”
Hưu Ca bèn tâu lại việc quân Tống dùng gian kế dụ. Tiêu hậu nói:
- "Ngươi ở trong quân, sao không can ngay?”
Hưu Ca nói:
- "Thần đã từng khuyên, nhưng Khuông Tự cho rằng lời thần suy đoán là quá, mới dẫn đến lầm gian kế”.
Tiêu hậu giận dữ, hạ chỉ chém Hàn Khuông Tự để chính quốc pháp. Bọn Gia Luật Sa ra sức can rằng:
- "Tội của Khuông Tự, vốn không thể tha, nhưng hãy niệm vì hắn là tôi thần của tiên đế, xin bệ hạ xá cho".
Hậu hơi nguôi giận, nhưng cách hết quan chức, giáng làm dân thường. Rồi hạ lệnh phong Gia Luật Hưu Ca làm chủ soái, Gia Luật Tà Chẩn làm giám quân, lại lĩnh 10 vạn tinh binh phạt Tống báo thù. Chỉ lệnh xuống xong bọn Hưu Ca lập tức xuất sư.

Thám mã báo về Toại thành, Lưu Đình Hàn tập hợp chư tướng bàn rằng:
- "Quân Liêu ồ ạt kéo đến, muốn tử chiến với bọn ta, nay chỉ nên cố thủ một mặt sai người báo với triều đình, đợi cứu binh tới rồi mới bàn chuyện ra đánh, tất phá quân Liêu dễ như nhổ cỏ vậy".
Mọi người tuân lệnh, chia ra các cửa mà giữ, án binh bất xuất.

Lúc ấy tại Biện Kinh đã nhận được tâu báo từ biên thùy:
- "Gần đây Tống Liêu đánh nhau, quân Tống thắng to" Vua tôi còn đang nghị luận, chợt nghe tâu:
- "Liêu binh lại phạm Toại thành, nay xin phát binh tương trợ".
Thái Tôn nghe tâu, hỏi quần thần rằng:
- "Toại thành vốn là yết hầu đất U, Yên, Liêu binh tiến đánh, tất muốn tranh lấy bằng được. Nếu như Toại thành có sơ suất gì thì Dịch, Lộ hai châu cũng không thể giữ, ai có thể dẫn quân đi cứu?"
Dương Quang Mĩ tâu:
- "Dương Nghiệp phụ tử thường muốn lập công để báo ơn bệ hạ, nếu ủy cho nhiệm vụ này, tất phá được Liêu!". Thái Tôn theo lời bàn, liền phong Dương Nghiệp làm U Châu binh mã sứ, dẫn năm vạn quân, tới cứu Toại thành. Nghiệp được lệnh, vui vẻ mà đi, lệnh con trưởng Dương Uyên Bình giám lĩnh các quân còn lại, tự mình dẫn Diên Đức, Diên Chiêu, ngay hôm đó rời khỏi Biện Kinh, hướng Toại thành tiến phát. Tới Xích Cương hạ trại, cách Toại thành không xa, sai người vào trong thành báo trước. Lưu Đình Hàn nghe biết là Dương Nghiệp tới cứu, mừng rỡ, triệu chủ tướng để bàn rằng:
- "Dương Nghiệp là hổ tướng trên đời, Liêu binh không phải là địch thủ. Các ngươi phải sửa soạn khí giới, quân nhu chờ đón”.
Bọn Sản Tiến chia ra chuẩn bị, chuyện không có gì đáng nói.

Nói về cha con Dương Nghiệp dẫn quân, mở bày trận thế trên một đồng bằng rộng rãi, bằng phẳng, chợt thấy một cánh quân, tinh kỳ rợp trời, bụi bay mù mịt kéo đến. Dương Nghiệp xuất trận nhìn xem, thấy một viên đại tướng mặt đen môi xanh, tai to mắt lớn, chính là Gia Luật Sa vậy. Sa gác đao kìm ngựa hỏi:
- "Tướng kia là ai? Báo lên tên họ?"
Dương Nghiệp cười nói:
- "Nghịch tặc gây sự, sống trộm nơi hẻo lánh. Hôm nay mi phải chết chắc, còn dám hỏi đại danh của ta ư?”.
Gia Luật Sa quay lại hỏi trong quân:
- "Ai dám đánh trước, nhụt nhuệ khí quân Tống?"
Chưa dứt lời, kị tướng Lưu Hắc Đạt ứng tiếng mà ra, bay ngựa múa đao đến chém Dương Nghiệp. Dương Nghiệp vừa muốn đánh thì Ngũ lang Diên Đức bay ngựa ra, giơ búa đỡ lấy giao phong. Hai bên hò hét, hai tướng đánh vùi, vừa mới đánh đến hiệp thứ bảy, Diên Đức giả bộ sơ hở, quay ngựa vòng theo trận mà chạy. Hắc Đạt muốn lập công đầu, vỗ ngựa đuổi theo, vừa kịp đuôi ngựa. Diên Đức giơ búa, quay ngựa chém xuống một nhát, Hắc Đạt cả đầu lẫn mũ, chết lăn xuống ngựa. Phiên tướng Gia Luật Thắng bay ngựa đề đao muốn đánh báo thù. Dương Diên Chiêu múa thương đón đánh, hai ngựa giao nhau, xoắn thành một khối. Diên Chiêu phóng thương đâm một nhát, Gia Luật Thắng té rớt khỏi yên ngựa, máu đẫm thấm bụi đất. Đúng là:

Trận thượng phiên quan phanh sinh mạng,
Chinh trường Tống tướng hiển uy phong.
(Trong trận quan giặc liều mạng sống,
Chiến trường tướng Tống lộ uy phong).
Dương Nghiệp thấy hai con thắng trận, xua hậu quân xông vào Bắc trận. Gia Luật Sa múa đao ra sức đánh, nhưng không cự nổi, phi ngựa nhắm hướng trung quân mà trốn chạy. Dương Nghiệp một mình tả xung hữu đột, như vào chỗ không người, quân phiên rối loạn, người chết vô số. Lưu Đình Hàn mở cửa phía Tây, dẫn quân xông ra. Gia Luật Tà Chẩn nhổ trại chạy về Ngõa Kiều quan, Đình Hàn cùng dung hợp binh truy kích, chém giết quân phiên thi thể chồng chất, máu chảy thành sông, thu được quân nhu y giáp rất nhiều.

Dương Nghiệp được toàn thắng, đóng quân ở phía Nam Toại thành, rồi bàn với các tướng rằng:
- "Liêu tướng chạy vào Ngõa Kiều quan, ta nên thừa sức nhuệ khí này giết trọn ổ quân phiên”.
Lưu Đình Hàn nói:
- "Gia Luật Hưu Ca là tướng có trí dũng, nay đã trốn xa, nguyên soái nên tạm đóng quân nơi Toại thành, chờ cơ hội mà tiến".
Dương Nghiệp nói:
- "Binh quý ở khí thế, khiến quân địch không kịp bàn mưu, đó là cách giành chiến thắng vậy. Các ông chớ lo, chỉ nên tiến quân".
Chư tướng được lệnh, thẳng tiến tới Ngõa Kiều quan, giương cờ gióng trống, bày trận ở mé Đông Nam Hắc Thủy, quân thế cực thịnh.

Lúc ấy bọn Gia Luật Hưu Ca nghe quân Tống tiến nhanh mà tới, cùng bọn Gia Luật Tà Chẩn bàn rằng:
- "Dương gia phụ tử thật là kình địch, giết quân tướng ta như đâm dưa cắt cỏ vậy, không người ngăn nổi nay tới vây ải Ngõa Kiều quan, ta chỉ nên thủ, không thể xuất chiến, đợi lương thực bọn hắn sắp cạn thì ta mới ra đánh, có thể rửa được mối nhục trước vậy".
Gia Luật Tà Chẩn theo lời bàn, hạ lệnh chủ tướng hiệp lực liên thủ quan khẩu án binh bất xuất. Quân Tống thừa thế tiến đánh, trên ải tên, đá như mưa, không ai có thể đến gần, chỉ có cách vây từ xa mà thôi. Liền đánh mười mấy ngày mà không thể thành công. Dương Nghiệp thân dẫn vài chục quân kị xuất quan, xem coi địa thế. Nhìn xa thấy một dãy đất gần bên trái, đều mọc đầy cỏ, chính là nơi Liêu tướng cất giữ lương thảo, bên phải thì thông với Hắc Thủy, phiên binh đều lập trại trên bờ. Dương Nghiệp xem xét một hồi, và trong quân mời Lưu Đình Hàn tới bàn rằng:
- "Quân giặc tử thủ không ra, có ý chờ cho ta lương thực cạn rồi mới đánh đây. Nay nhân ban đêm gió Bắc thổi mạnh, thời tiết đông lạnh, bên trái ải thảo mộc khô héo, nếu ta dùng kế hỏa công, có thể phá được ải này”.
Đình Hàn này nói:
- "Lời của Dương Lệnh Công, giống với suy nghĩ của tiểu tướng, chỉ e rằng Gia Luật Hưu Ca biết mẹo ta mà phá". Nghiệp nói:
- "Ta khắc có mẹo giải quyết".
Liền lệnh cho quân sĩ bắt một hương lão đến hỏi rằng:
- "Bên trái ải của Ngõa Kiều quan có đường nhỏ nào để vào không?”.
Hương lão đáp:
- Chỉ có một con đường đốn củi, nhân mã không đi được, chỉ do nay quân Liêu dùng gỗ đá lấp mất chỗ này, khó mà qua được”.
Lệnh Công nghe xong, ban cơm rượu cho hương lão rồi cho lui. Rồi kêu Diên Đức vào nói:
- "Mi hãy dẫn 5000 bộ quân, cởi bỏ nhung trang, bí mật lén qua đường nhỏ, mỗi người mang theo mồi lửa, đợi lúc giao chiến, dễ hành động".
Diên Đức lĩnh kế rồi đi. Lại gọi Diên Chiêu vào nói:
- "Mi dẫn quân kị 5000, thừa lúc hoàng hôn vượt qua Hắc Thủy, địch quân tất xuất quân tập kích giữa sông mi hãy quay lại lên bờ sông mà chạy, ta sẽ quân tiếp ứng".
Diên Chiêu cũng lĩnh kế mà đi. Dương Nghiệp lại nói với Đình Hàn:
- "Ông cùng Hoắc Sản Tiến dẫn quân bản bộ đợi khi con ta rút chạy, thì dọc theo bờ mà tiếp chiến. Quân địch nếu thấy phía sau ải lửa cháy, tất sẽ hoảng loạn, ta sẽ thu được toàn thắng”.
Đình Hàn nghe theo mà làm. Dương Nghiệp sắp đặt xong, tự dẫn trung quân lên trên cao mà quan sát.

Nói về Gia Luật Tà Chẩn thấy quân Tống đánh không hạ được cửa ải, bèn cùng chư tướng uống rượu đàm luận, rồi sai người do thám tình hình quân Tống. Được báo là:
- "Quân Tống sắp vượt Hắc Thủy lén đánh Yên thành:".
Gia Luật Tà Chẩn cười nói:
- "Nghe nói Dương Nghiệp giỏi dùng binh, nay chỉ là hư danh thôi".
Liền khiến Gia Luật Cao lĩnh 5000 tinh binh, cách bờ mà giữ, chờ cho qua đến nửa sông thì đổ ra đánh, thì có thể phá được cánh quân này. Gia Luật Cao dẫn quân đi. Lại sai Gia Luật Sa, Hàn Xiêm dẫn 1 vạn bộ binh, đi đánh trại Tống. Sắp xếp xong, tự mình cùng bọn Gia Luật Hưu Ca chỉnh đốn quân để tiếp ứng. Trời gần hoàng hôn, Dương Diên Chiêu dẫn quân thẳng qua Hắc Thủy, mỗi người tự mang túi đất từ hạ lưu mà vượt sông. Chưa qua được nửa sông, Gia Luật Cao dẫn tinh binh thừa thế xông tới, quân mã của Diên Chiêu liền quay lại chạy trở lại bờ nam. Liêu tướng đã vượt qua sông, cùng Diên Chiêu giao phong. Diên Chiêu vừa đánh vừa chạy. Chợt có tiếng pháo nổ vang, hai bên bờ cung nỏ bắn như mưa, Lưu Đình Hàn dẫn quân xông pha mà vào, vừa đúng gặp Gia Luật Cao giao phong. Gia Luật Sa và Hàn Xiêm dẫn quân đánh trại Tống, tiếng reo như sấm, ập vào. Bộ binh của Dương Diên Đức đã vượt qua con đường nhỏ, nghe thấy phía trước chiêng trống vang lừng, biết là có đánh nhau, liền lệnh thuộc hạ đốt mồi lửa. Gặp lúc gió đêm thổi mạnh, lửa bén lên cháy đùng đùng, nhất thời đỏ rực cả bầu trời, các quân phiên giữ lương đều bỏ trốn sạch. Gia Luật Cao thấy phía sau ải lửa cháy, vội quay lại chạy theo đường cũ, bị Đình Hàn đuổi kịp, cho một đao nhào xuống nước. Sau khi Gia Luật Sa biết là trúng kế, liền dẫn quân đến cứu bị bọn Dương Diên Chiêu, Lưu Đình Hàn hợp binh truy kích, quân Liêu thua to, ai nấy quẳng giáo, cởi giáp mà trốn. Dương Diên Đức dẫn quân từ cửa sau ải đánh vào, Gia Luật Hưu Ca bảo vệ Gia Luật Tà Chẩn mở đường máu chạy về Kế Châu, quân Tống liền thừa thế đoạt được ải Ngõa Kiều. Trời chưa sáng khói lửa mới tắt, quân phiên bị giết chết vô số.

Bình minh hôm sau,, chư tướng ai nấy vào báo công. Dương Nghiệp nói:
- "Nay nên thừa thế chẻ tre, chỉ cố thêm vài nhịp, tiến quân như vũ bão, thì có thể tới vây Yên thành".
Đình Hàn nói:
- "Dương Lệnh Công thắng trận tiếng tăm lừng lẫy. Liêu tướng đều đã vỡ mật, chỉ là nay lương hưởng không đủ, nên chưa thể vào sâu trong đất giặc”.
Lệnh Công nghe lời này, liền đóng quân ở Ngõa Kiều quan.

Còn Gia Luật Tà Chẩn bị thua một trận, vô cùng phẫn nộ, cùng chúng tướng chỉnh đốn quân muốn đến quyết một tử chiến. Gia Luật Hưu Ca nói:
- "Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, nguyên soái không nên xấu hổ. Có thể tâu với chúa thượng, cho viện binh đến cứu ứng thì quân Tống mới phá được".
Gia Luật Tà Chẩn nghe lời này, lập tức sai người về tâu với Tiêu hậu. Tiêu hậu nghe chuyện bại trận nhiều lần, thất kinh nói:
- "Bên quân Tống là ai cầm quân mà có thể thắng đến như vậy?”
Quân sĩ tâu rằng:
- "Đó là Hà Đông Sơn Hậu Dương Lệnh Công”.
Tiêu hậu nói:
- "Từ lâu nghe tiếng lão già này là "Dương vô địch", thật danh bất hư truyền vậy".
Liền sai đại tướng Gia Luật Hề Đệ dẫn 5 vạn quân đi cứu. Gia Luật Hề Đệ được chỉ, ngay hôm đó dẫn quân rời U Châu.
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười Bốn
Khao Tướng Sĩ Triệu Phổ Từ Quan
Yến Quân Thần Tống Kỳ Làm Thơ

Thám mã báo vào trong quân Dương Nghiệp, Nghiệp liền cùng bàn với chư tướng rằng:
- "Nay quân Liêu lại ra, hãy khoan đánh. Đợi ta báo tiệp với triều đình, chờ lương hưởng đầy đủ, thì bình định Yên, U, sau đó ban sư. Bọn Đình Hàn nghe theo. Nghiệp lập tức sai Đoàn Luyện Sứ Thái Nhạc về tâu Thái Tôn. Thái Tôn nghe tin liên tiếp thắng quân Liêu và đại quân đang thẳng tiến Yên, U, trong lòng mừng rỡ, vì thế hỏi thăm tin tức đất Liêu thế nào.
Nhạc tâu:
- "Liêu tướng không chịu được nhục này, nay lại dẫn binh trở lại để đánh. Dương chủ tướng nay đóng quân ở ải Ngõa Kiều, gần đây do lương thực không đủ, chưa dám tiến quân, nên sai thần về chầu tâu rõ".
Thái Tôn cùng quần thần thương nghị, muốn thân chinh đại Liêu. Khu mật sứ Trương Tề Hiền dâng sớ tâu rằng;

Thánh nhân cử sự, hễ động là phải vẹn toàn, bách chiến bách thắng. Nếu cẩn thận như vậy thì nhung địch không đủ để đánh, Yên, Kế không đủ để lấy. Từ xưa, những khó khăn nơi biên giới, không phải đều do Nhung địch gây ra, mà đa số là do các quan nơi biên ải làm loạn mà gây ra. Nếu các quan nơi biên giới có thể vỗ yên mọi người, đắp lũy cao hào sâu, tích trữ lực lượng, tạo được sự yên vui, khiến bản thân an nhàn mà quân địch cũng quy thuận, thường nghe nói chọn quân không bằng chọn tướng, giao việc không bằng giao người. Nếu được như thế thì nơi biên cương được an ổn mà nhân dân Hà Bắc cũng được nghỉ ngơi vậy. Thần lại nghe:
- Người giữ bốn phương phải lấy thiên hạ làm trung tâm, chứ đâu chỉ tranh vài thước đất nhỏ, thừa thế của nhung địch mà thôi. Tự cổ, thánh nhân đều trước lo gốc, sau mới lo ngọn, yên bên trong để nuôi bên ngoài. Từ xưa đều biết ngũ đế tam vương, không ai là không lo cho gốc rễ trước cả Đạo Nghiên, Thuấn không có gì khác, đều rộng ơn ban đến dân trong thiên hạ vậy. Người ban ơn phải làm sao? Là ở trong an mà được lợi vậy. Dân mà an lợi thì Nhung Địch sẽ sửa áo mà đến".

Sớ dâng lên, Thái Tôn hỏi bọn cận thần là Triệu Phổ, Điền Tích, Vương Vũ Xưng. Triệu Phổ tâu:
- "Lời trần của Tề Hiền, làm việc gấp trước mắt".

Xin bệ hạ chiêu hoàn quân của Dương Nghiệp, sắc tướng soái nghiêm chỉnh chuẩn bị việc biên ải, thì Yên, U không trở thành mối lo của Trung Quốc vậy. Thái Tôn nghe theo, ngày hôm đó xuống chiếu, sai sứ triệu quân đi phạt Liêu về, chuyện không có gì đáng nói.

Nay nói về Dương Nghiệp trong ải, được thánh chỉ đến nơi, cùng chư tướng bàn rằng:
- "Triều đình nay đã có lệnh ban sư, thì các tướng hãy chia trước, sau mà đi về, để phòng quân bắc truy tập".
Diên Đức nói:
- "Cái khó được nhất, đó là cơ hội. Đại nhân thắng liên tiếp giặc Liêu, chỉ thêm mươi ngày lộ trình, là có thể thắng đến lật đổ U Kế, lấy đất này mà về, trên báo hậu ân tri ngộ của triều đình, không phải là tốt sao?"
Nghiệp nói:
- "Ta cũng có chí như thế, ngặt nổi lệnh vua đã ban xuống, nếu không lui quân, lại mang tội kháng chỉ dù lập được chút công, cũng không bù đắp được vậy".
Diên Đức không dám nói nữa. Hôm sau, lệnh bọn Lưu Đình Hàn cố thủ Toại thành, tự mình thì dẫn quân rời khỏi Ngõa Kiều quan, theo đường Biện Kinh mà về. Tịnh Hiên đọc đến đây có thơ vịnh:

Công tại thùy thành chiếu tức hành,
Khâm sai cơ hội cảnh nan bằng
Trần gia cốc khẩu trung cần niệm,
Thiên cổ lệnh nhân hận bất bình.
(Công sắp nên rồi chiếu xuống ngay,
Than ôi cơ hội khó như vầy.
Họ Trần vẫn giữ lòng trung nghĩa,
Ngàn thuở xui ai oán hận thay).
Dương Nghiệp về tới kinh đô, triều kiến Thái Tôn. Thái Tôn vỗ về, ban khen rất hậu và ra lệnh thiết yến khao thưởng tướng sĩ chinh Liêu, quân thần tận vui mà tan.

Hôm sau, Triệu Phổ xin từ chức thừa tướng. Vua nói:
- "Trẫm cùng với khanh là tri ngộ lúc áo vải, triều đình nhờ khanh phò trợ, sao lại từ chức mà đi?"
Phổ nói:
- "Thần nay đã già, không thể lo được nhiều việc, xin bệ hạ xót thương thân già khô héo của thần, chuẩn cho từ bỏ chính sự, thì sống chết thần cũng khắc cốt ghi tâm".
Thái Tôn thấy đã quyết ý như vậy, bèn chuẩn lời thỉnh cầu, bãi Phổ làm Võ thắng quân tiết độ sứ. Phổ lạy thụ mệnh, ngay hôm đó lạy từ mà đi. Vua ban tiệc ở điện Trường Xuân để tiễn. Rượu ngà say, vua đứng giữa tiệc nói với Phổ rằng:
- "Chuyến này chỉ là để toại chí của khanh, nếu gặp có chuyện gấp cần thương nghị, ngày khanh nghe được mệnh, phải lập tức theo sứ mà về nhé, đừng phụ lòng trẫm vậy". Phổ rời tiệc lĩnh mệnh. Vua có ý rất quyến luyến, thân làm thơ để tặng:

Trung cần vương thất triển hoằng mô,
Chính sự triều đường lại binh phù.
Giải chức tạm thù khanh sở chí,
Hưu giáo nhất niệm viễn hoàng đô.
(Trung cần đế nghiệp mở cơ đồ,
Giúp rập triều đình một lòng lo.
Bãi chức để đền mơ ước cũ,
Xin cho nhớ mãi chốn vương đô).
Phổ cầm bài thơ khóc than:
- "Bệ hạ ban thơ cho thần, thần xin luôn luôn mang bên mình, chết sẽ cùng mang theo thần xuống suối vàng".
Thái Tôn nghe lời này, cũng rất xúc động. Vua tôi chia tay. Triệu Phổ đến trung thư sảnh từ biệt liêu thuộc là bọn Tống Kỳ và kể lại ân điển của vua, vô cùng cảm kích. Kỳ nói:
- "Chúa công đối với ngài rất là yêu mến, và có tình quyến luyến, chuyến này tất không lâu sẽ triệu về vậy".
Phổ lấy ra ngự thi khóc mà nói rằng:
- "Những năm còn lại của thân này, không có gì báo đáp được ơn trên nữa, chỉ đành nguyện kiếp sau làm thân khuyển mã mà báo đáp vậy”.
Kỳ an ủi một hồi, tiễn ra ngoài. Phổ theo đường mà đến Võ Thắng. Chuyện không có gì đáng nói.

Ngày nọ, Thái Tôn thiết triều, quần thần triều kiến. Vua nói với tể tướng rằng:
- "Phổ có công với nước, ngày trước cùng trẫm đi dạo xin bái biệt, không muốn cực nhọc làm việc nữa, nên chọn nơi đất tốt mà về ở, do đó an thơ để bày tỏ lòng trẫm. Phổ cảm kích mà khóc, khiến trẫm cũng vì thế mà rơi lệ”. Tống Kỳ tâu:
- "Hôm qua, Phổ tới trung thư sảnh nói với thần về ân điển của bệ hạ, và nói nguyện kiếp sau sẽ làm thân khuyển mã để báo đền. Hôm nay, lại nghe bệ hạ nói lại, có thể nói cả hai đều vẹn toàn vậy”.
Vua gật đầu, rồi phong Tống Kỳ, Lý Phảng làm Tri bình chương sự, Lý Mộc, Lữ Mông Chánh, Lý Chí làm Tham tri chính sự. Trương Tề Hiền, Vương Cái làm Đồng kiểm sứ khu mật viện sự, Khấu Chuẩn làm Khu Mật trực học sĩ. Bọn Kỳ lạy thụ mệnh mà lui.

Năm đó, đổi niên hiệu thành Ung Hy nguyên niên. Mùa đông tháng 10, Thái Tôn nhớ đến Hoa sơn ẩn sĩ Trần Đoàn. Đoàn là người Chiến Nguyên - Bác Châu, cử nhân đời Đường Trường Hưng thi tiến sĩ không đỗ, liền bỏ ý làm quan, lấy việc dạo chơi sông nước làm vui, luyện phép hô hấp, tịch cốc mỗi ngày chỉ uống vài ly mà thôi. Trải qua hơn 20 năm, ẩn ở Hoa sơn Vân Đài quán. Mỗi lần ngủ, hơn trăm ngày không dậy nên người ta có câu tục ngữ:
- "Ngủ nhiều 3000 năm, ngủ ít 800 năm”.
Trước kia, khi cưỡi lừa qua cầu Thiên Tân, nghe nói Thái Tổ khắc phục Biện Kinh, liền cười lớn đến nỗi té xuống lừa mà nói rằng:
- "Thiên hạ từ nay được thái bình vậy!"
Nay Thái Tôn sai sứ triệu đến kinh thành, Trần Đoàn được chiếu, theo sứ vào triều kiến, Thái Tôn tiếp đón rất nồng hậu, nói với các quan tể tướng rằng: "Đoàn chỉ lo thân mình, không lo việc đời, thật là kẻ sĩ nơi phương ngoại vậy”. Liền sai trung sứ đưa Trần Đoàn đến trung thư sảnh, bọn Tống Kỳ tiếp đón ân cần, ngồi ung dung mà hỏi rằng:
- “Tiên sinh học được đạo Huyền mộc tu dưỡng, có thể dạy cho người khác được không?”
Đoàn cười nói:
- "Tiểu đạo là người sơn dã, vô dụng với đời, cũng không biết việc luyện đơn của thần tiên, lí hô hấp dưỡng sinh, nên không có thuật gì có thể truyền. Giả như là có thể bay lên trời giữa ban ngày, thì đối với đời lại có ích gì? Nay chúa thượng dung nhan tú dị, có nghi biểu của người trời, hiểu sâu kim cổ, giỏi việc trị loạn, thật là hữu đạo nhân thánh chi chúa vậy. Vậy nên phải vua tôi hiệp tâm đồng đức, lập nên thời kỳ thịnh trị hưng hóa, siêng năng tu luyện cũng không ngoài cách ấy".
Kỳ khâm phục lời đó hết mực. Ngày thứ đúng lời của Trần Đoàn tâu rõ với vua Thái Tôn hạ chiếu phong làm Hy Di tiên sinh, đích thân viết bốn chữ "Hoa sơn thạch thất" để tặng, rồi tiễn về Hoa sơn. Đoàn sụp lạy thụ mệnh, ngay hôm đó từ biệt vua mà ra, tự về Hoa sơn. Chuyện không có gì đáng nói.

Đây nói đến Thái Tôn do biên cảnh yên bình, nên cùng thần dân hưởng sự thịnh trị của thái bình, do đó hạ chiếu ban cho bá tánh ở kinh sư được uống rượu ba ngày. Chiếu viết rằng:

Nay nhà vua ban ân cho phép tụ hội uống rượu, cùng vui với mọi người, để biểu việc thăng bình chi thịnh vậy, khế ức thiệu chi khoan tâm. Các triều trước đến nay, việc này đã lâu vì gặp khi nhiều việc, nên không làm theo lệ cũ. Nay bốn biển yên bình, trăm dân khang thái, việc tế trời vào mùa Đông đã xong. Khánh trạch quân hành, nên thích hợp cho mọi người nghỉ ngơi để cùng vui, có thể tụ hội uống rượu ba ngày.

Chiếu chỉ hạ xuống, sĩ dân ở kinh sư ai cũng vui mừng. Tới ngày đó, Thái Tôn đích thân cùng ngồi quần thần lên lầu Đan Phượng, cùng xem sự vui vẻ của sĩ dân. Từ trước lầu đến Chu Tước Môn, bày âm nhạc, làm sơn xa, sân khấu qua lại. Từ Ngự uyển tới các huyện ở Khai Phong cũng như các quán, dàn nhạc bày ở trên đường. Âm nhạc cùng tấu, người xem đầy thành, phú quý không gì so được. Đời sau có thơ kể rằng:

Phong hỏa yên tiêu trấn tiết an, Quân thần tác lạc dạ thâm lan.
U Liêu vị hạ Trung Nguyên hoạn,
Vong khước đương niên bảo trị nan.
Lúc ấy là năm thứ hai niên hiệu Ung Hy tháng 2 mùa xuân vậy. Ngày thứ, Thái Tôn đãi tiệc quần thần ở hậu uyển, triệu tể tướng cận thần vào ban rượu thưởng hoa, nói rằng: "Khí xuân ấm áp, phẩm vật sinh sôi, bốn phương vô sự trẫm lấy cái vui của thiên hạ làm vui, nên mới đãi yến quần thần, ngắm hoa làm thơ phú”. Lời ngọc vừa ban, có một người tâu rằng:
- "Tiểu thần bất tài, nguyện thừa mệnh làm thơ" thì ra đó là bình chương sự Tống Kỳ, nói rồi trải giấy hoa tiên, cầm bút làm một bài thơ thất ngôn bát cú mà dâng lên. Thơ rằng.

Thánh chúa phi long tục mỹ thuần
Càn khôn tổng thị nhất ban xuân
Tứ phương phong trạch bị hưu giáo,
Vạn quốc hoài lai mộ chí nhân.
Hạo hạo Thuấn ân bang tận đái,
Nguy nguy Thang Huệ sĩ giai thân.
Vi thần hữu quý vô năng bổ,
Cổ vũ thăng bình mục hoa tân.
(Thánh chúa lên ngôi phong tục thuần,
Đất trời gom lại một mùa xuân.
Bốn phương mưa móc thôi ly loạn,
Muôn cõi theo về với bậc nhân.
Rạng rỡ ơn trời như một chốn,
Vời cao khắp chốn mọi tôi thần.
Tôi thần thẹn chẳng công gì giúp,
Ca ngợi thanh bình phúc vạn phần).
Thái Tôn xem thơ này vui mừng, lệnh lấy chén ngọc ban rượu.
Lý Phảng cũng dâng một bài thơ:
Đãi ban thượng thánh nghĩ lưu sơ,
Dung thú chiêu nhiên đắc ý phu.
Bào noãn tứ phương hàm đệ định,
Cung thủ bách tính tự vô Ngu.
Ngưỡng phong tham cống lai man mạch,
Bị trạch khu ca phất đạo đồ.
Tế ngộ thái bình hà dĩ báo,
Phụng Lân vi thụy hữu trân phù.
(Ân ban động tới cõi muôn dân,
Ngôi rồng đã rõ có thánh nhân.
Vận thánh đến càng thêm rộng mở,
Điềm lành dồn dập biết bao lần.
Thấm nhuần bờ cõi mong vòi vọi,
Nơi đâu cũng đến chịu tôi thần.
Đời thịnh dâng thêm lời tán tụng,
Mãi mãi vẫn còn ngọc với xuân).

Tham tri chính sự Lữ Mông Chính cũng dâng một bài thơ:

Ân phu hỷ động vạn phương dân,
Ngự cập long phi tế thánh nhân.
Thánh trị cập tướng hưu vận khải,
Gia tường nhật toại hảo âm tần.
Quân chiếm hữu vực giai hoài đức,
Nhất thị vô bang bất tê thần.
Thịnh thế nguyện canh nho quán tụng,
Đức âm vinh đối ngọc trì xuân.
(Được ân thánh chúa dâng bài vịnh,
Rõ ràng phô diễn vừa ý thay.
Bốn phương ấm áp yên bờ cõi,
Đầu cầu Ngu Thuấn trị yên bầy
Kìa bọn man di còn sợ khiếp,
Non sông vững đá suốt đời này.
Gặp thuở thái bình sao báo đáp,
Điềm lành đang tiến hiện nơi đây).

Vua xem xong ba bài thơ, nói rằng:
- "Thơ của Tống Bình Chương, từ ngữ khoan hòa, là thái bình khí tượng vậy. Thơ Lý Phảng thanh lệ khả ái, thơ Lữ Mông Chính phẩm cách thanh cao, trung cần độ lượng, đều có thể làm theo phép. Nhưng trẫm thấy Tống Bình Chương có khí phách tuyệt luân, khác hẳn với hai người còn lại".
Do đó lệnh trung quan, đem thơ của ba người khắc ở đình thưởng hoa, để ghi lại sự thịnh vượng khi quân thần cùng vui vẻ với nhau. Trung quan phụng mệnh mà làm.

Thái Tôn lại bảo:
- "Nước nhà giờ tuy tạm yên, nhưng việc võ cũng không thể bỏ bê. Liêu Kế chưa bình định, trẫm đều ngày đêm lo lắng. Nay các văn võ và chư vương trên tiệc, mỗi người hãy thi cưỡi ngựa, bắn tên, để so võ nghệ".
Tống Kỳ nói:
- "Bệ hạ thật là biết lo xa, đó là phúc của xã tắc vậy.
Vua liền lệnh quân hiệu dựng bia bắn tên ở khoảng đất trống nơi hậu viên, lấy trăm bước làm giới hạn. Quan võ chia làm hai đội, chư vương mặc áo đỏ, tướng soái mặc áo xanh. Chiếu chỉ đã hạ, ai nấy mang cung cứng tên dài, lên yên kềm ngựa chờ lệnh. Vua truyền lệnh nói:
- "Nếu có người bắn trúng hồng tâm thì thưởng cho tuấn mã cẩm bào, người nào bắn không trúng, thì giáng ra phiên trấn điều dụng”.

Lời chưa nói dứt, trong đội áo đỏ một người tế ngựa cầm cung mà ra, mọi người nhìn xem, thì ra là Tần vương Đình Mĩ, vỗ ngựa, giương cung, đặt tên, ngắm kĩ hồng tâm bắn một mũi, trúng ngay vào giữa, người xem ai cũng khen thầm. Đình Mĩ bắn trúng hồng tâm, liền nhảy xuống ngựa, tới trước Thái Tôn thỉnh mệnh.

Thái Tôn mừng nói:
- "Cháu ta có tài xuyên dương, thật có thể ngự võ” liền thưởng áo, ngựa. Đình Mĩ tạ ơn lui ra. Chợt trong ban áo xanh có một tướng chạy ra nói:
- "Tiểu tướng xin thử bắn một mũi"
Nhìn xem là ai, thì ra là đại tướng Tào Bân. Bân phi ngựa giương cung, đặt tên lên dây, bắn một phát trúng ngay hồng tâm, người xem đều reo hò khen ngợi. Tào Bân cũng xuống ngựa, lạy phục trước ngự tiền. Thái Tôn vỗ về khen ngợi, ban cho áo ngựa mà lui. Ngày đó vua tôi vui vẻ mà về.

Bọn Tần vương tra khỏi hậu uyển, đi qua trước cửa phủ Sở vương Nguyên Tá. Nguyên Tá - con trưởng của vua, lúc nhỏ rất thông minh, tướng mạo lại giống vua, nên vua rất yêu. Sau mắc bệnh cuồng, gần đây vẫn chưa khỏi bệnh, nghe tiếng nhạc truyền vào trong nhà, Vương hỏi tả hữu rằng:
- "Là ai ban đêm qua trước cửa phủ, mà âm nhạc la ầm ĩ vọng vào vậy?”.
Tả hữu nói:
- "Hôm nay thánh thượng đãi yến chư vương và quần thần ở hậu uyển, mọi người thi bắn làm vui. Vừa rồi Tần vương bắn thắng, được thưởng ngựa, áo bào mà về, chính là tiếng âm nhạc vừa truyền vào khi họ đi qua cửa phủ”. Nguyên Tá nổi giận:
- "Người khác đều được đãi yến và thưởng, chỉ có ta không có mặt, có phải bỏ rơi ta không".
Nên tức giận uống rượu, đến đêm khuya phóng hỏa đốt cung thất. Trong thành hoảng sợ, quan quân nhất thời không dập tắt được. Đáng tiếc cột khắc kèo chạm, tú các quỳnh lâu đều hóa thành tro. Ngày thứ, Thái Tôn biết việc này, hạ chiếu phế Nguyên Tá làm thứ dân, đày đến an trí ở Quân Châu. Chỉ lệnh đã xuống, Nguyên Tá hối hận không kịp, đành đem người nhà đi đến Quân Châu.
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Dương Gia Tướng Diễn Nghĩa Hùng Đại Mộc

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi Thứ Mười Lăm
Tào Bân Bộ Binh Đánh Đại Liêu
Hoài Đức Tử Trận Ải Kỳ Câu

Đây nói về bọn Gia Luật Hưu Ca thấy quân Tống đã lui muốn báo cái nhục ở Toại thành, nhưng chưa có cơ hội, luôn sai người vào Biện Kinh do thám, về báo rằng Trung Quốc ngày ngày thưởng ngoạn làm vui, vua tôi uống rượu... Hưu Ca nghe được tin này, vào tâu với Tiêu thái hậu rằng:
- "Thần vì ra quân chưa thu được lợi, dẫn đến mang tội chiến bại, thật đáng muôn chết. Vả lại thần đang giữ chức ở Nhung Ngũ, gần đây nghe vua tôi Trung Quốc suốt ngày nhàn hạ vui chơi, không coi quốc chính. Nay xin dẫn quân thẳng đánh Biện Kinh, để định cương giới, để báo cái nhục ngày trước”.
Hậu nghe tấu liền nói:
- "Khanh mấy năm nay xuất quân đều không thu được lợi mà về, thiên hạ nhà Tống chưa thể lấy ngay lập tức được phải bàn kĩ mới nên tiến lấy".
Gia Luật Sa tâu rằng:
- "Cái khó được nhất là cơ hội, cái mất dễ nhất là thời gian, nay chính nên thừa khi họ không phòng bị, chỉ một trận là có thể thành công. Tiêu thái hậu thấy các quan đều có ý như vậy, liền hạ chỉ phong Gia Luật Hưu Ca làm giám quân, Gia Luật Sa làm tiên phong, các tướng sĩ còn lại, nghe theo lệnh điều động. Hưu Ca được chỉ, ngay hôm đó từ biệt Tiêu thái hậu dẫn 10 vạn tinh binh, từ Sóc, Vân các châu mà tiến đánh.

Tin tức truyền vào Biện Kinh, Thái Tông nghe tin, nổi giận nói:
- "Tên giặc nô xấu xa sống buông thả nơi biên giới thích gây hấn, trẫm phải thân chinh mới được. Do đó hạ chiếu cho mọi người biết.
Bọn Tống Kỳ tâu rằng:
- "Bọn Liêu xâm phạm biên cương, tướng soái ta rất đông, đâu cần bệ hạ đích thân mạo hiểm nơi mũi tên hòn đạn, làm tổn uy phong. Chỉ cần sai đại tướng đi đánh cũng đủ rồi".
Vua ý chưa quyết. Trương Tề Hiền cũng ra sức can rằng:
- "Nếu khiến xa giá đi nữa, tất khiến bá tánh cực khổ, mong bệ hạ suy nghĩ".
Vua chuẩn tấu liền phong Tào Bân làm U Châu đạo hành doanh tiền mã bộ quân thủy lục đô bộ xứ, và bọn Chiêu Thảo sứ Phan Nhân Mĩ, Hô Diên Tán, Cao Hoài Đức làm phó, dẫn quân 15 vạn, chinh thảo Đại Liêu.

Bọn Tào Bân nhận mệnh, phân khiến chư tướng, ngay hôm đó vào từ biệt Thái Tôn. Thái Tông nói rằng:
- "Phan Nhân Mĩ nên dẫn quân tới Vân Châu, Sóc Châu trước, còn các khanh thì với thanh thế của 10 vạn quân, thẳng đánh U Châu, và nên thận trọng tiến từ từ, không nên tham lợi. Họ nghe đại quân ta tới, tất dẫn quân để cứu Phạm Dương, không rảnh tới cứu Sơn Hậu vậy".
Bọn Bân thụ mệnh ra đi.

Đại quân rời khỏi Biện Kinh. Phan Nhân Mĩ, Dương Nghiệp, Cao Hoài Đức dẫn ba vạn quân nhắm Hoàn Châu tiến phát; Tào Bân, Hô Diên Tán nhằm Tân Thành tiến phát. Lúc này đang là cuối mùa xuân, chỉ thấy:

Lộ thượng tàn hoa tùy mã túc,
Trung Nguyên phi nhứ điểm xuân san.
(Trên đường lá rụng theo chân ngựa,
Tơ rơi từng đoá xuân Trung Nguyên).

Quân Tào Bân đến cách Tân Thành 50 dặm hạ trại. Liêu tướng giữ Tân Thành là Hà Tư nghe tin quân Tống kéo đến, liền lên ngựa ra thành nghênh địch. Hai bên dàn trận, Tào Bân khôi giáp chỉnh tề, tinh thần hăng hái, đứng ở dưới cửa cờ, nói với Liêu tướng rằng:
- "Chúa ta nhân minh anh võ, nhất thống thiên hạ, sao không mau hàng, để được phú quý”.
Hà Tư giận nói:
- "Mi vô cớ dẫn quân vào nước ta, nếu thắng được ngọn đao trong tay ta, thì ta đầu hàng".
Tào Bân hỏi chư tướng rằng:
- "Ai dám ra bắt tên giặc này cho ta?"
Liền có một tướng ứng tiếng mà ra, chính là Hô Diên Tán, múa thương tế ngựa vào đâm Hà Tư. Hà Tư cũng vỗ ngựa múa đao đón đánh. Hai bên reo hò, hai tướng đánh hơn 30 hiệp. Hà Tư đuối sức liền quay ngựa bỏ chạy. Hô Diên Tán hăng hái đuổi theo, đâm một nhát vào lưng, Tư chết lăn xuống ngựa, quân Liêu đều bỏ trốn. Tào Bân liền xua hậu quân, thừa thế lấy được Tân Thành.
Hôm sau, kéo quân tiến đến Phi Hồ lãnh. Tướng giữ là Lữ Hành Đức biết quân Tống đã đến, liền cùng thương nghị với bọn Chiêu an sứ Đại Bàng Dực rằng:
- "Quân Tống thế to, khó có thể nghênh địch, chi bằng giải giáp quy hàng, để tránh khổ cho quân sĩ".
Bọn Bàng Dực nói:
- "Quân Tống từ xa đến, tất sẽ mệt mỏi, chính là lúc ta phá được, sao lại nghĩ đến việc uốn gối hàng”.
Nói rồi dẫn quân ra nghênh địch. Từ xa thấy quân Tống kéo đến đầy chất cả núi, Bàng Dực liền lệnh quân sĩ giữ vững thế trận, rồi vỗ ngựa ra trước, mắng lớn rằng:
- "Bọn tham lam kia, vào sâu nước ta thì ta sẽ giết các ngươi không còn manh giáp".
Trong trận, Hô Diên Tán vác giáo ra trận. Đại Bàng Dực múa búa đón đánh. Hai ngựa giao nhau, đánh hơn 50 hiệp. Tán liền bỏ giả thua bỏ chạy vào trong trận. Bàng Dực tế ngựa đuổi theo, Tán lạnh lùng nhìn chờ cho khi đến gần, quát to một tiếng, Bàng Dực không kịp trở tay, bị Tán bắt sống trên ngựa. Quân Tống ập vào, quân giặc đầu hàng vô số. Tào Bân đem Bàng Dực chém ở dưới thành để làm hiệu lệnh.
Hôm sau, Lữ Hành Đức dâng ải xin hàng. Quân Tống lại xuống Phi Hồ lãnh, thẳng tiến đến vây Linh Khưu. Liêu tướng giữ Linh Khưu là Hồ Đạt dẫn quân nghênh chiến. Tống tướng Hô Diên Tán tế ngựa ra mắng rằng:
- "Tướng kia, mau xuống ngựa quy hàng, ta tha chết cho, nếu không hãy nhìn những tướng hôm trước, làm gương!".
Đạt giận nói:
- "Đồ thất phu ngông cuồng, để tao bắt mày nạp cho chúa ta".
Liền múa đao xông thẳng vào trận quân Tống. Hô Diên Tán múa thương đánh lại. Hai tướng đánh hơn trăm hiệp, bất phân thắng bại.

Tán nghĩ thầm:
- "Tên giặc này sức mạnh hơn người, phải dùng mẹo mới thắng được.
Liền quay ngựa vòng theo trận mà chạy. Hồ Đạt vỗ ngựa đuổi theo, chuyển qua đông lũy, Tán đặt ngang trường thương, rút kim tiên ra, chờ ngựa tướng địch vừa tới. Hô Diên Tán trợn mắt giơ roi, đánh vào đầu "Bốp" một tiếng, Hồ Đạt tiêu đời, chết dưới ngọn roi.

Tào Bân xua quân đánh giết, quân địch thua to, Bân thừa thế lấy luôn Linh Khưu, thu được hàng quân 5000 người, trâu, ngựa, quân nhu vô số. Tào Bân nói với Tán:
- "Các trận gần đây, tướng quân lập rất nhiều công, ta thật không sánh bằng”.
Tán nói:
- "Đó đều là do nguyên soái diệu toán, tiểu tướng nào có công gì?”.
Bân rất phục và sai người báo tiệp với Thái Tôn. Thái Tông thất kinh:
- "Hắn sao lại có thể tiến quân nhanh vậy được”.
Liền sai sứ đem chỉ tới Linh Khưu, lệnh Bân đợi quân của Nhân Mĩ đến, rồi cùng tiến binh, mới có thể thắng giặc được. Tào Bân được chỉ, đang trầm ngâm chợt nghe báo:
- "Đại quân của Phan Chiêu Thảo đã ra khỏi Hùng Châu, nên cấp tốc đến cùng hội quân với nguyên soái. Bân mừng rỡ liền sai kị quân nghênh đợi.

Vài ngày sau, Nhân Mĩ đến Linh Khưu, vào gặp Tào Bân, cho biết đã thắng được các châu Hoàn, Sóc...., hàng được bọn Thích sử Triệu Sản Chương, Tiết độ phó sứ Triệu Hy Hiền... mười mấy người. Bân nói:
- "Đó đều do công của Phan Chiêu Thảo mà được vậy. Nay chúa thượng có chỉ, đợi đến đủ thì xuất phát, chúng ta nên chỉnh đốn quân rồi tiến".
Nhân Mĩ theo lời, lập tức dẫn quân hướng theo Trác Châu mà đi.

Đây nói về bọn Gia Luật Hưu Ca đóng quân ở Vân Châu, nghe được quân Tống đã tiến đến Trác Châu, liền hạ lệnh cho các quân tiến gấp, đến phía Nam thành Trác Châu hạ trại, cách trại Tống chỉ năm dặm đường. Hưu Ca triệu Gia Luật Sa và nói: "Quân Tống vào sâu trong đất ta, thế tất lặn lội đường xa. Ngươi dẫn hai vạn quân mã đóng ở thành phía Nam, đóng cửa mà thủ. Chờ cho quân địch mỏi mệt, xuất quân khỏe mà đánh lấy".

Gia Luật Sa y lệnh làm. Hưu Ca lại nói với Hoa Thắng:
- "Người hãy dẫn một vạn bộ binh, đóng ở noi hiểm yếu ở Linh Khưu, mai phục trong rừng, để chận đường tiếp lương của quân Tống".
Hoa Thắng lĩnh mẹo mà làm. Hưu Ca sắp đặt xong, vào đêm liền sai khinh kỵ lẽn vào trại Tống quấy phá, vào ban ngày thì dùng quân tinh nhuệ để phô trương thanh thế.

Lúc ấy, Tào Bân đốc chư tướng đến dưới thành thách đánh, quân Liêu án doanh bất xuất. Quân Tống thấy quân Liêu tinh nhuệ, không dám khinh suất tiến đánh, vào đêm thì lại luôn lo lắng. Liên tục như vậy suốt mười mấy ngày, trong quân lương hưởng gần hết. Sai người do thám, thì được báo:
- "Gần đây lương thảo nhiều lần bị quan Liêu cướp không thể mang đến đây được".
Tào Bân thất kinh, cùng bàn với bọn Phan Nhân Mĩ rằng:
- “ Chúng ta vào sâu trong đất giặc, nếu không có lương thực mà để quân Liêu biết được, ra quân đón đánh thì là ta tự chuốc lấy thất bại đó. Chi bằng rút vây lui về Hùng Châu, đợi khi quân lương đầy đủ, mới tiến đánh".

Nhân Mĩ tán thành lời này, liền hạ lệnh đem quân mã lui về Hùng Châu, sai người vào Biện Kinh tâu báo, xin viện lương thảo. Thái Tông nghe tấu, thất kinh nói:
- "Sao lại có chuyện giặc ở trước mặt, lại lui quân để xin viện quân lương? Thật là thất sách vậy!".
Liền gấp sai sứ ngăn lại bọn Tào Bân, lệnh phải dẫn quân theo Bạch Câu Hà mà tiến. Sứ giả lĩnh mệnh, tức tốc tới Hùng Châu gặp Bân, truyền bảo sắc mệnh. Bọn Bân nghe mệnh, cùng chư tướng thương nghị việc tiến quân. Nhân Mĩ nói:
- "Thế giặc đang mạnh, ta lại không thuộc địa lý, không bằng hãy ở Hùng Châu mà đợi đó chính là thượng sách vậy!".

Cao Hoài Đức nói:
- "Nếu ở đây không đi, khiến quân địch biết được ta hết lương, thừa thế đến đánh, thì ra sẽ bất lợi. Chi bằng ta ra tay trước tiến đánh, hoặc có thể thắng được".
Bân thấy mọi người bàn tán xôn xao, bất đắc dĩ hạ lệnh quân sĩ mang theo lương thực mà tiến. Đến gần Trác Châu, Gia Luật Hưu Ca nghe quân Tống lại đến, sai người báo cho bọn Gia Luật Sa thừa cơ mà xuất binh. Lại sai Gia Luật Na dẫn bộ binh 1 vạn, mai phục trong rừng đợi địch. Hưu Ca sắp đặt xong, tự mình cùng Gia Luật Hề Đệ dẫn quân mạnh ra Kỳ Câu quan nghênh địch.
Gần đến giữa trưa, quân Tống đã đi một ngày một đêm, lại gặp lúc tháng hè, người ngựa đều đã khát, lại gặp quân mã Gia Luật Hưu Ca đồng loạt dàn ra, uy thế cực mạnh, quân Tống hơi có vẻ hoảng sợ. Nam tướng Cao Hoài Đức ra ngựa trước tiên, mắng lớn:
- "Liêu tướng mau hàng, ta tha chết cho!"
Gia Luật Hề Đệ nổi giận, bay ngựa múa búa, tới chém Cao Hoài Đức. Cao Hoài Đức vác thương đến đánh, hai ngựa giao nhau, đánh vừa được năm hồi, Hề Đệ quay ngựa bỏ chạy, Hoài Đức vỗ ngựa đuổi theo. Tào Bân xua trung quân tiến lên, Gia Luật Hưu Ca đón lấy giao phong, vừa đánh vừa chạy.
Quân Tống đã vào quan khẩu, chợt trong rừng một tiếng pháo nổ vang, phục quân của Gia Luật Na xô ra, cắt quân Tống làm hai khúc. Tào Bân thất kinh, quay ngựa chạy trở về. Quân Phiên vạn nỏ cùng bắn, con ngựa mà Bân cưỡi bị trúng tên mà ngã. Đang lúc nguy cấp, Hô Diên Tán bay ngựa xông tới, kêu to: "Chủ tướng hãy theo tôi xông ra". Tán đi trước, Bân theo sau, cố chết đánh ra khỏi vòng vây. Lúc này quân của Gia Luật Sa ập vào sau trận của Phan Nhân Mĩ đem quân Nhân Mĩ vây ở giữa. Cao Hoài Lượng cố chết đánh mà không lui giặc được.

Tán bảo vệ Bân chạy về tận nhà, thấy phía Nam sát khí ngút trời, liền nói với Bân rằng:
- "Đó tất là quân Tống bị vây, để tôi đến đó mà cứu".
Liền quay ngựa mà tiến, vừa gặp Phan Nhân Mĩ mũ rớt đâu mất bơ phờ chạy đến. Tán giết tan quân đuổi theo, bảo vệ Nhân Mĩ về. Hoài Lượng cùng Gia Luật Sa đại chiến, sau lưng lại không có quân mã tiếp ứng, bị Gia Luật Sa đuổi đến quan khẩu, một đao chém chết. Bên đây Cao Hoài Đức xông vào vây đến cứu. Gia Luật Hưu Ca xua quân Liêu đuổi theo đánh. Hoài Đức giáp, áo đều nhuộm đầy máu, quân đi theo đều bị giết sạch. Bộ binh của Gia Luật Sa đều lại kéo đến, tên bắn như châu chấu. Hoài Đức vai bị trúng tên, rút ra máu phọt lai láng rồi lại đánh tiếp, tay chém quân phiên vài chục tên, thấy thế nguy dần ép gần, liệu không thể lui được liền nghĩ thầm: "Ta là đại tướng của Trung Quốc, không thể để quân địch làm nhục" nghĩ rồi liền tự vẫn chết trên lưng ngựa. Đáng thương Cao Hoài Đức huynh đệ hai người, bị chết vì nạn.

Tịnh Hiên đọc đến đây có thơ than:
Huyết chiến đương niên báo chủ trung,
Trảm kiên nhập trận kỉ thiên trùng.
Anh hùng công tích kim hà tại,
Hồi thủ trầm ngâm tịch chiếu trung.
(Năm xưa huyết chiến tỏ lòng trung,
Chém gan xông trận mấy muôn trùng.
Công tích anh hùng nay đâu tá?
Quay đầu im ắng bóng tà rung).

Sau khi anh em họ Cao tử trận, bọn Gia Luật Hưu Ca hợp binh làm một, thừa thế truy đuổi. Lại gặp lúc mưa hè xối xả. Quân Tống hàng ngũ tán loạn. Hô Diên Tán bảo vệ Tào Bân, Phan Nhân Mĩ chạy đến Mã Hà, nghe hậu quân báo:
- "Anh em Cao Hoài Đức hai người đều chết ở trong trận rồi".
Bọn Bân đều vô cùng thương cảm. Chợt nghe pháo nổ vang trời, truy binh của Gia Luật Hưu Ca lại đuổi đến. Tào Bân không dám ngưng lại suốt đêm vượt sông mà chạy. Liêu binh đuổi kịp đến, quân Tống bị giết và chết chìm vô số. Bọn Hưu Ca thấy quân Tống đã vượt sông mà chạy, cũng thu quân về trại. Hôm sau, trên sông thây nổi đầy lên, khiến nước sông cũng không chảy được khôi giáp, quân nhu vứt lại dưới Kỳ Câu quan, chất đống như núi.

Bọn Tào Bân lui giữ Tân Thành, kiểm điểm lại quân số, thấy bị bắt mất hơn 6 vạn người, liền sai người về Biện Kinh, dâng biểu thỉnh tội. Thái Tông nghe tấu thất kinh nói:
- "Đó chính là lỗi suy nghĩ không chu đáo của quả nhân vậy".
Liền hạ chiếu sai sứ truyền bọn Tào Bân ban sư. Sứ thần lĩnh chỉ tới Tân Thành tuyên triệu.

Bọn Tào Bân được chỉ, sai phó tướng là Chu Tín thủ Tân Thành, tự mình dẫn đại quân về Biện Kinh, triều kiến Thái Tông lạy phục dưới thềm. Thái Tông an ủi nói:
- "Không biết địa thế, trúng phải mẹo của giặc, các khanh về sau nên lấy đó làm bài học".
Bân tạ ơn lui ra. Vua hạ chiếu lệnh Hô Diên Tán ra đóng Đình Châu, Điền Trọng tiến ra đóng Linh Khưu, để phòng quân Liêu kéo vào. Bọn Tán lĩnh mệnh mà đi, chuyện không có gì đáng nói.

Tào Bân từ khi xuất sư, không lập được công, buồn bã không vui, do đó dâng biểu xin từ bỏ binh quyền. Thái Tông chuẩn tấu, liền giáng Bân làm Thích sử Phòng Châu. Lại truy niệm công của Cao Hoài Đức, nên phong cho hai em của Đức là Cao Lân, Cao Phương chức Đoàn Luyện Sứ Đại Châu. Tào Bân đã thụ mệnh ngay hôm đó đi đến Phòng Châu. Từ đó đóng cửa đọc sách, không tiếp bất cứ người nào.

Ở đây nói đến Gia Luật Hưu Ca đại thắng quân Tống liền sai người báo tiệp với Tiêu hậu và xin cử binh nam hạ. Tiêu hậu được báo mừng rỡ, liền sai sứ mang chỉ đến Trác Châu, ngăn cản mà rằng:
"Nên đợi mùa thu trời mát, ngựa béo, sau đó mới tiến binh". Hưu Ca được chỉ liền án binh bất động. Biên cương báo về kinh sư, cho biết quân Liêu đã lưu lại ở Vân Châu, sẽ sắp mang quân tiến đánh. Thái Tông được báo, cùng quần thần thương nghị cách chống cự.
Bát Vương tâu rằng:
- "Quân Liêu thế rất hung hãn, bệ hạ chỉ cần sắc lệnh biên tướng chỉnh sửa khí giới, tùy cơ mà đánh khiến quân địch mệt mỏi mà lui thì nạn ở biên cương tự dập tắt vậy".
Thái Tông nghe theo, liền hạ chiếu truyền dụ cho các tướng soái nơi biên ải, chuyện không có gì đáng kể.

Một ngày, Thái Tông tọa triều trên điện, cùng thị thần nói rằng:
- "Ngày tiên đế còn sống, có lập một hương nguyện ở Ngũ Đài Sơn mà chưa trả được. Trước lúc băng hà, dặn trẫm đích thân đến trả. Nay nhân lúc việc nước nhàn rỗi, nên chuẩn bị xa giá một chuyến, các khanh hãy thay trẫm chuẩn bị".
Lời ngọc thốt ra, Khấu Chuẩn bước ra tâu:
- "Mặc dù tiên đế có mệnh như vậy, nhưng nay việc gốc thì nên gấp còn việc ngọn thì nên hoãn. Gần đây Trung Quốc đánh nhau với quân Liêu, suốt năm binh mã không ngừng nghỉ, vả lại Ngũ Đài Sơn lại là biên giới với Liêu, bọn Gia Luật Hưu Ca đang đóng trọng binh tại các châu Vân, Sóc... Nếu như bệ hạ xa giá mà đi quân địch dò biết, đem quân đến cản người ta, lúc ấy ai giúp bệ hạ được đây? Chẳng thà hoãn lại vài năm, đợi lúc biên cương yên bình, cũng là chưa muộn, lúc này quyết không nên đi vậy".
Thái Tông im lặng không nói. Phan Nhân Mĩ lại tâu:
- "Thần cử một người theo bệ hạ đi tuyệt đối không xảy ra sai sót".
Thái Tông hỏi rằng cử ai. Phan Nhân Mĩ nói:
- "Trưởng tử của Đại Châu Thích sử Dương Nghiệp là Dương Uyên Bình, người này văn võ song toàn, kẻ địch đều sợ, nếu bảo vệ xa giá mà đi thì sẽ vững như thái sơn".
Thái Tông vui mừng, liền hạ chiếu phong Dương Uyên Bình làm hộ giá đại tướng quân, mang cấm quân 2 vạn đi đến Ngũ Đài Sơn. Uyên Bình được chỉ, liền chuẩn bị nhung ngũ đợi hầu. Vài ngày sau, Thái Tông xa giá rời Biện Kinh, ba quân hướng theo Thái Nguyên tiến phát. Lúc ấy đang là mùa thu, chỉ thấy:

Lạc diệp tiêu tiêu phong tợ lãnh,
Nhạn thanh bi thiết khách tinh cô.
(Lá rụng tơi bời gió lạnh thay,
Nhạn kêu bi thiết một thân ai).
Last edited by tuvi on 05 Aug 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,226
Posts: 95995
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 43 guests