Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình Sơn

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình Sơn

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Image

Tác giả : Mộng Bình Sơn

Dịc giả : Nguyễn Đỗ Mục


Lời nói đầu _ Thế hệ nhà Hoàng Phủ


Hoàng Phủ Kính , vợ là Doãn vương phi.
Sinh được:
1. Hoàng Phủ Trưởng Hoa. Sau vua Nguyên Thành Tôn lập làm hoàng hậu.
2. Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Sau kết duyên cùng Mạnh Lệ Quân, Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc.
o0o
Hoàng Phủ Thiếu Hoa, vợ là Mạnh Lệ Quân
Tô Ánh Tuyết
Lưu Yến Ngọc
Sinh được năm trai
1. Hoàng Phủ Triệu Câu - con Mạnh Lệ Quân
2. Hoàng Phủ Triệu Phượng - con Mạnh Lệ Quân
3. Hoàng Phủ Triệu Lân - con Lưu Yến Ngọc
4. Hoàng Phủ Triệu Tường - con Tô Ánh Tuyết
5. Hoàng Phủ Triệu Thụy- con Tô Ánh Tuyết
Và hai gái:
1. Hoàng Phủ Phi Giao - con Mạnh Lệ Quân
2. Hoàng Phủ Phi Loan - con Tô Ánh Tuyết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi thứ nhất
Nguyên Thành Tôn truyền ngôi cho thái tử
Hoàng Phủ Kính cáo lão về nhà

Vua Thành Tôn nhà Nguyên lên ngôi làm vua, thiên hạ thái bình, quan tả thừa tướng là Lương Giám tạ thế, con là Lương Trấn Lân thăng chức long đồ các.Con Doãn Thượng Khanh là Doãn Chí thi đỗ đã lâu, bây giờ đang lĩnh chức tri phủ Giang Lăng. Vệ Hoán cáo lão hồi hưu, Vệ Võng Bưu về nhà để phụng dưỡng. Hùng Hiệu có người con gái là nàng Bội Ngọc được lập làm Thái Tử Nguyên Phi, còn hai con trai là Hùng Khởi Phụng (là con Từ thị ) và Hùng Khởi Thần (là con Vệ Dũng Nga ). Hùng Hiệu tự sỉ mình là một nhà con tướng, mới cho hai con trai đều theo học nghề văn. Hùng Khởi Phượng đến năm mười tám tuổi, thi đỗ trạnh nguyên, sau kết duyên với con gái Lương Trấn Lân là Cẩm Hà.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng có con cái đề huề:
Con trai trưởng là Triệu Câu, con thứ hai là Triệu Phượng, đều là con Mạnh Lệ Quân.
Con trai thứ ba là Triệu Lân con Lưu Yến Ngọc,
Tô Ánh Tuyết kỳ thủy sinh con gái, sau sinh luôn hai cậu con trai đặt tên là Triệu Tường và Triệu Thụy,
Còn con gái thì trưởng nữ là Phi Loan con Tô Ánh Tuyết, thứ nữ là Phi Giao con Mạnh Lệ Quân, Lưu Yến Ngọc không có con gái.
Một nhà sum họp, vui vẻ muôn phần. Tô đại nương có một người con nuôi, sau đi tri huyện, Tô đại nương theo đi. Giang Tam tẩu tạ thế đã lâu, con trai là Giang Tiến Hỷ đổi tên Giang Vinh Quý, làm đến chức tổng binh, vợ là tỳ nữ Vinh Lan sau được phong làm lục phẩm an nhân, sinh được hai trai một gái, vợ chồng huởng phúc tại Nhạn Môn Quan. Mạnh Sĩ Nguyên cáo lão về hưu trí, con là Mạnh Gia Linh thì vẫn làm quan tại triều. Con trai trưởng Mạnh Gia Linh cũng thi đỗ, làm đến chức hộ bộ lang trung, lấy con gái Văn thượng thư.
Lại nói chuyện bà hoàng thái hậu là mẹ vua Thành Tôn bấy giờ đã băng hà. Vua Thành Tôn mỏi mệt đem hết triều chính giao phó cho các quan đại thần; văn ban có quan thừa tướng là Lương Trấn Lân, võ ban có Hùng Hiệu là họ quốc thích. Trên hàng văn võ thì có Trung Hiếu Vương Hoàng Phủ Thiếu Hoa, trong nước vẫn được yên lặng.
Một hôm vua Thành Tôn lui triều, vào Chiêu Dương cung. Bấy giờ có thái tử và nguyên phi đứng hầu, vua Thành Tôn vui lòng bảo Trưởng Hoa hoàng hậu:
- Trẫm đã gần tứ tuần, làm vua trong bấy nhiêu lâu, đã thấy mỏi mệt, nay được trông thấy con hiền dâu thảo này trẫm rất lấy làm hả lòng. Chi bằng trẫm truyền ngôi cho thái tử rồi hằng ngày cùng hoàng hậu vui chơi, để di hưởng tuổi già, há chẳng hay lắm ru.
Trưởng Hoa hoàng hậu can rằng:
- Thái tử hãy còn thơ ấu, chưa nên phó thác ngôi trời. Gián hoặc có sơ xuất điều gì thì lại thêm lo cho bệ hạ.
Thái tử nghe nói liền quì xuống tâu:
- Muôn tâu phụ hoàng! Phụ hoàng sức yếu, cần phải di dưỡng, nhưng vì con hãy còn ngây dại, đương sao nổi cái ngôi chí tôn. Xin phụ hoàng hãy rủ lòng thương mà dạy bảo cho con nên người, bấy giờ sẽ truyền ngôi thì thật là một mối hạnh phúc chung cho thiên hạ thần dân vậy.
Tâu xong, hai hàng nước mắt ròng ròng, rồi phủ phục xuống đất. Vua Thành Tôn đỡ dậy, cười bảo:
- Sao con nghĩ lẩn thẩn thế! Sau này cha tạ thế rồi mà con tức vị ở Bạch Hổ điện, sao bằng ngày nay con tức vị ở Kim Loan điện là có hiếu hơn. Ý cha đã quyết, con không nên nói. Huống chi năm nay con mười sáu tuổi, lên ngôi làm vua thì so với năm cha lên ngôi, lại còn hơn một tuổi vậy.
Ngày hôm sau, vua Thành Tôn ngự triều, phán hỏi các quan triều thần rằng:
- Trẫm lên ngôi vua trong hai mươi năm nay, may nhờ có các ngươi tả phù hữu bật, trong nước mới được thái bình vô sư như thế này. Ngày nay trẫm thiết nghĩ buộc thân vào chức trách nam diện (tức là ngôi thiên tử ngoảnh mặt về phương Nam ), chi bằng truyền ngôi cho thái tử mà làm một vị thượng hoàng là được an nhàn sung sướng hơn. Dẫu là bậc trung tài, nhưng có các quan giúp đỡ, chắc cũng không hề chi, vậy quan Khâm Thiên giám nên chọn ngày lành tháng tốt, đễ trẫm truyền ngôi cho thái tử.
Quốc trượng là Hoàng Phủ Kính nghe nói, quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thái tử dẫu rằng nhân hiếu, nhưng tuổi còn ấu thơ sợ chưa đương nổi ngôi trời, bệ ha hãy cố đợi khi mười năm nữa, rồi sẽ nên nói đến việc truyền ngôi vậy.
Hai quan đại thần họ Mạnh và họ Vệ cũng quì xuống mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ ha! Việc ấy thần đẳng thiết tưởng ngày nay không nên nói vội. Lời quốc trượng vừa tâu, thật là chí phải, xin nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ.
Vua Thành Tôn cười mà phán rằng:
- Trẫm lên ngôi vua từ năm mười lăm, trải bao những sự ưu tư phiền lự, khiến cho trẫm ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc. Trẫm thết nghĩ ngồi trên chín bệ mà ngày đêm khó nhọc, chi bằng ngao du bốn bể, thân lại được thanh nhàn. Người ta ở đời, vinh hoa phú quý mà làm chi, chỉ cầu sao cho được hưởng phúc thanh nhàn là hơn vậy. Khi trẫm mới lên ngôi vua, hãy còn ngây dại, dùng lầm phải những kẻ gian thần, trong nước sinh ra giặc giã mất mấy năm trời. Sau may nhờ có Mạnh Lệ Quân là vợ quốc cữu đây, gia công giúp đỡ, bốn phương mới được yên lặng.
Ngày nay, văn có Lương tiên sinh, võ có Hoàng Phủ quốc trượng và Bình Giang Vương lại có quốc cựu là văn võ toàn tài, cùng giúp thái tử thì chắc không đến nỗi sai lầm như trẫm thủa xưa vậy. Vậy ý trẫm đã quyết, các ngươi không nên can.
Vua Thành Tôn giáng chỉ cho toà Khâm Thiên giám chọn ngày làm lễ truyền ngôi. Bình Giang Vương là Hùng Hiệu về thuật chuyện cho vợ là Vệ Dũng Nga nghe. Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Sao phu quân không biết can thánh thượng, thái tử năm nay hãy còn trẻ tuổi, chưa có thể phó thác được. Vả con gái ta cũng đang độ ngây dại, bây giờ làm thái tử nguyên phi, ta còn đi lại trông nom giúp, chứ nếu một mai lên làm hoàng hậu thì chỉ những ngày nguyên đán hoặc khánh kiết nào, bấy giờ ta mới gặp mặt con. Chẳng những mẹ con xa cách nhau mà ta lại còn lo cho đứa con gái ta chưa thuộc nghi lễ. Âu là sáng mai tôi phải bàn với Mạnh vương phi ( tức là Mạnh Lệ Quân) cùng vào tâu hoàng hậu, để hoàng hậu khuyên can thánh thượng.
Hùng Hiệu nói:
- Nếu phu nhân cùng Mạnh vương phi vào tâu thì nên bảo các quan triều thần hãy hoãn việc chọn ngày.
Vệ Dũng Nga vương phi tức khắc đội mũ mặc áo, truyền nữ tỳ sắp kiệu đi sang vương phủ, đem việc trong triều thuật lại với Mạnh Lệ Quân nghe và bảo rằng:
- Chị định rủ em cùng vào cung tâu với hoàng hậu, để hoàng hậu khuyên can thánh thượng.
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Bây giờ tâu sợ không kịp! Vì thánh thượng có chí muốn nghỉ ngơi đã lâu. dẫu ta vào tâu. Dẫu ta vào tâu, quyết rằng thánh thượng cũng chẳng nghe nào!
Lưu Yến Ngọc hỏi:
- Sao chị lại biết là thánh thượng không nghe?
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Số là thuở xưa em thường vào túc trực ở trong nội đình, vẫn thấy thánh thượng phàn nàn rằng:
- “Làm ông vua dẫu có tôn quý thật, nhưng một ngày xem xét muôn việc, cũng khó nhọc lắm thay, không bằng làm một người thư sinh đi ngao du sơn thủy, nay ngắm bạch vân phi, mai vui hoàng hạc, lại còn được an nhàn sung sướng hơn. Bao giờ trẫm trúc gánh nặng sơn hà này tức là ngày trẫm đươọc lên ngôi tiên giới đó”.
Câu ấy, thánh thượng thường nói đến luôn, thế là thánh thượng vẫn có chí không muốn làm thiên tử đã lâu vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi thở dài:
- Có thật thế ! Làm vua khó nhọc hơn người thường!
Lưu Yến Ngọc bảo bảo Vệ Dũng Nga vương phi:
- Cô nương đã về đây, nếu không tiến cung thì hãy ở chơi mấy hôm đã.
Đêm hôm ấy, Vệ Dũng Nga ngủ ở Linh Phượng cung. Sáng hôm sau, Vệ Dũng Nga ngủ tỉnh dậy, đang đứng trước giá gương để chải đầu, bỗng thấy Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc bước vào, cười tủm tỉm và bảo rằng:
- Cô nương đã dậy rồi, hai chúng tôi đến hơi chậm.
Vệ Dũng Nga vương phi và Mạnh Lệ Quân vương phi đều nói:
- Sao hai phu nhân dậy sớm thế? Tôi chắc hôm qua không ngủ thì phải!
Các nữ tỳ pha trà uống. Bỗng thấy rèm lay động, có hai vị quận chúa (con gái vương tước thì gọi là quận chúa,) chạy vào. Mạnh Lệ Quân cười nói rằng:
- Chỉ vì có cô nương mà thành ra hôm nay ta dậy hơi trễ.
Vệ Dũng Nga vương phi cười mà bảo hai quận chúa rằng:
- Các cháu nghe đó! Thân mẫu cháu không nhận là mình lười, lại đổ lỗi cho ta.
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Chỉ vì đêm qua nói chuyện thâu canh, thành ra hôm nay không dậy được sớm.
Tô Ánh Tuyết cười mà bảo rằng:
- Bây giờ mới giờ thìn, không trễ đâu! Chỉ vì Lưu phu nhân muốn trêu ghẹo cô nương, nên dặn em hôm nay dậy sớm, và dắt hai cháu vào đây để bày một trò đùa, không ngờ cô nương lại dậy sớm như thế.
Mạnh Lệ Quân vương phi cười mà hỏi rằng:
- Định đùa thế nào?
Phi Giao quận chúa nói:
- Lưu mẫu định mài mực rồi vẽ hề lên mặt cô nương, nhưng cô nương vốn hiểu võ nghệ, chỉ sợ khi tỉnh dậy lại nổi giận mà giở võ ra, vậy phải đem hai cháu đến để cứu đỡ.
Vệ Dũng Nga vương phi cười bảo:
- May mà tôi dậy sớm, chứ nếu còn không thì hai toán địch binh này, tôi đương sao nổi!
Mạnh Lệ Quân vương phi cả cười:
- Chỉ sợ cô nương giở võ ra thì dẫu tất cả chúng ta đây cũng không địch nổi huống chi là hai con.
Phi Giao quận chúa nói:
- Nhưng cô nương trông thấy chúng con thì tất cũng không nỡ đánh nhau vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi cười mà bảo rằng:
- Nếu vậy thì hai cháu hiểu lòng ta lắm!
Khi điểm trang xong, cùng sang Võ thái cung thăm bà Thái vương phi (tức là Doãng phu nhân, vợ Hoàng Phủ Kính ). Thái vương phi tủm tỉm cười mà hỏi Phi Giao quận chúa rằng:
- Tập tranh “Bách mỹ” của cháu vẽ để đâu, sao không đem ra cho cô nương xem.
Phi Giao quận chúa nói:
- Tập tranh vẽ của cháu không được đẹp lắm!
Lưu Yến Ngọc cười mà nói đùa rằng:
- Cô nương chỉ hiểu phép đấu gươm múa giáo, chứ có biết xem tranh vẽ bao giờ!
Vệ Dũng Nga vương phi cười mà đáp rằng:
- Ai lại có con mắt tinh đời như Lưu phu nhân! Kén chồng chọn ngay được một vị vương tước. Sau này tôi sẽ vì phu nhân treo một cái chiêu bài để đi xem tướng giúp thiên hạ.
Lưu Yến Ngọc nói:
- Sao cô nương lại nói như thế?
Vương thái phi nói:
- Không hề chi! Những chuyện về trước, ta đây thường vẫn ôn lại cho đàn cháu nghe.
Nói xong, truyền tỳ nữ đi lấy tập “Bách mỹ” để Vệ Dũng Nga vương phi xem. Bỗng thấy các vị công tử từ ngoài kéo vào, người thì chào tổ mẫu, kẻ thì chào cô nương. Thái vương phi gọi đến đứng chung quanh, khác nào như cây quỳnh cành dao bày ở bên cạnh.
Vệ Dũng Nga vương phi khen ngợi:
- Phúc đức quá! Lan Huệ một nhà sum họp, vui vẻ biết là dường nào!
Thái vương phi thở dài rồi than rằng:
- Tuy vậy mà ta vẫn kém vui, vì ta vẫn nhớ con gái ( trở Trưởng Hoa hoàng hậu) ta lắm. Mẹ con xa cách, ban ngày nghĩ đến còn khuây khỏa đi được, chứ đêm nằm thì lại luống những mơ màng trong giấc chiêm bao. Đủ biết rằng phú quý hoàng gia, vẫn không bằng sum họp vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi cũng thở dài mà than rằng:
- Con đây cũng buồn về nỗi ấy. Có một mụn con gái được lập làm thái tử nguyên phi, nhưng hãy còn ngây dại, chỉ sợ một mai thái tử lên ngôi đại bảo thì ba nghìn cung tần mỹ nữ, lòng thiên tử lại thêm say đắm, tình âu yếm, vị tất đã được đằm thắm như xưa.
Mạnh Lệ Quân vương phi cười mà đáp rằng:
- Cô nương khéo lo xa quá, khi nào...
Nói chưa dứt lời thì nữ tỳ đem tập tranh “Bách mỹ” đến, ngoài có bọc một bao gấm. Vệ Dũng Nga vương phi mở xem một lượt rồi khen rằng:
- Đậm đà nét bút càng nhìn càng tươi, cháu vẽ có khi lại sắc sảo hơn thân mẫu xưa mấy phần đó!
Trưởng công tử là Triệu Câu chạy đến gần xem, rồi nói:
- Em không nên vẽ Võ Tắc Thiên làm chi! Võ Tắc Thiên là một người dâm đãng. Vả lại là tội nhân đời nhà Đường.
Phi Giao quận chúa nói:
- Sao thân huynh lại nói như thế. Em thế nghĩ nhà Đường nếu không nhờ có bà Võ Tắc Thiên chuyên quyền độc đáo, cứ hèn mạt như vua Cao Tôn và Trung Tôn cả thì giang sơn chia xé đã lâu. Bà Võ Tắc Thiên tiếm vị lên làm vua, dẫu có đa sát thật, nhưng biết cách dùng người, dùng tài khiến việc đáng là một bậc minh chủ đời bấy giờ, các vua đời Đường về sau nàyphỏng có ai sánh kịp hay không? Vả trong khoảng hai mươi năm trời ấy, nếu cứ để cho Trung Tôn làm vua thì con Vi hậu kia đã lộng quyền như Già hậu thuở xưa vậy. Bà Võ Tắc Thiên thật là “Thiên cổ kỳ nhân” chứ không nên bảo là “Hôn quân dâm hậu” được. Em có một bài thơ vịnh Võ Tắc Thiên, nay xin viết để tổ mẫu cùng cô nương và ba vị mẫu thân đây cùng xem.
Phi Loan quận chúa cười mà bảo rằng:
- Bài thơ ấy để ở trang thứ ba trong tập tranh vẽ.
Nói xong liền rút ra cho mọi người xem.
“Nữ chủ ngự triều cương,
Oai danh dậy bốn phương.
Hô hàn đành khép nép
Cao ly phải chịu nhường.
Trong tay cầm quyền chính,
Ai kẻ dám khinh thường.
Nghiêm phòng việc nội sủng,
Sai khiến bọn Trương Lang.
Pháp luật quên tình ái,
Quan chức chọn trung lương.
Tri hiền khen quốc lão,
Đọc hịch tiếc Tân vương.
Đức tốt không tỳ vết,
Tài cao đủ chế cường.
Âu vàng giữ trọn vẹn,
Nghìn năm một nữ hoàng.”
Mọi người xem thơ đều nức nở khen ngợi:
- Bài thơ này ý tứ thật mới lạ. Quả nhiên các vì thiên tử đời nhà Đường đều phải thua một người đàn bà.
Chỉ có Triệu Câu tỏ ý không bằng lòng mà rằng:
- Thân muội chớ nói càn! Làm người con gái phải nghĩ đến “công, ngôn, dung, hạnh”. Võ Tắc Thiên là một đứa dâm đãng, trong hai mươi năm trời tiếm vị, giết hại con cháu nhà Đường hơn bốn trăm người. Gây tội đại ác như thế, sao hiền muội gọi là “Thiên cổ kỳ nhân”. Nếu người ngoài nghe thấy những câu thơ ấy thì lời nghị luận còn ra thế nào.
Phi Giao quận chúa cười mà đáp rằng:
- Ăn nhai nói nghĩ! Phàm việc gì cũng vậy, có kinh tất phải có quyền. Giả sử vua Cao Tôn là bậc minh chủ thì khi nào Võ Tắc Thiên lại sinh tài như thế. Bà chỉ sợ giang sơn đổ nát, nên phải ra tay để bảo thủ lấy thiên hạ, chứ còn những sự tình nhỏ nhặt thì chẳng kể chi.
Triệu Câu nổi giận mà nói với Mạnh Lệ Quân vương phi rằng:
- Thân mẫu ơi! Chết nỗi con nhà khuê các cớ sao lại có câu nói ấy! Mạnh Lệ Quân vương phi mắng Phi Giao quận chúa rằng:
- Con còn ngây dại, chỉ hay nói càn, từ sau cấm không được nói như thế nữa!
Lưu Yến Ngọc cười và nói:
- Người ta có câu nói rằng “Đọc sách gạt nước mắt, lo thay cho cổ nhân”. Anh em nhà ngươi can chi lại tranh luận phải trái cho Võ Tắc Thiên , thật là một câu chuyện đáng buồn cười.
Tô Ánh Tuyết cũng cười mà bảo rằng:
- Trưởng công tử là người cổ trực, mà quận chúa hãy còn tính trẻ, vậy nên mới sinh ra cãi nhau.
Thái vương phi bảo Triệu Câu rằng:
- Thôi, các cháu đi về phòng đọc sách đi, không được cãi nhau nữa!
Bấy giờ các vị công tử lui ra, hai vị quận chúa cũng ai về phòng nấy. Khi Phi Giao quận chúa về đến trong phòng, hầm hầm nổi giận mà nói một mình rằng:
- Ta căm tức thay cho thân huynh ta, luận lý không minh, lại cứ già mồm cãi. Đối trước mặt cô nương và thân mẫu ta chỉ giảng đạo đức hoài. Thân huynh ta xưa nay vẫn có lòng khinh rẻ ta, ta làm sao nhịn cho được! Cơm nặng áo dầy, chẳng qua cũng của cha mẹ, mà ta đây há phải là con thứ xuất (con vợ lẽ. ) hay sao! Nghĩ càng căm tức thay! Ta đây không được ngôi hoàng hậu thì thôi, chừ nếu ta được làm hoàng hậu thì quyết không trọng tư tình như Võ Tắc Thiên đâu.
Lại nói chuyện vua Thành Tôn ra ngự Kim Loan điện, làm lễ truyền ngôi cho thái tử. Hôm ấy trên điện cắm cờ kết hoa, trần thiết một cách trọng thể. Khi làm lễ truyền ngôi thì vua Thành Tôn cầm hộp đựng ngọc tỷ, ngoài có bọc gấm trao cho thái tử là vua Anh Tôn. Vua Anh tôn nhận lấy, đặt lên long án, rồi sụp xuống lạy ta thượng hoàng ( tức vua Thành Tôn ).
Thượng hoàng đỡ dậy mà bảo rằng:
- Ta chúc cho nhà vua con cháu phồn thịnh để giữ lấy giang sơn cơ nghiệp mà khiến cho quốc thái dân an.
Vua Anh Tôn đáp lại rằng:
- Con xin chúc thượng hoàng hưởng phúc vô vô cùng, thọ bằng trời đất, để cho con là kẻ ngây dại bất tài này được nhờ ơn huấn dụ mà cai trị thần dân.
Bấy giờ văn võ bách quan đều quì xuống lạy, trước mừng thượng hoàng sau mừng tân quân, ai nấy cùng tung hô vạn tuế. Khi triều bái xong, thượng hoàng truyền chỉ cho các quan đại thần rằng:
- Các ngươi đã hết lòng trung thành giúp ta trong bấy nhiêu năm, công ấy kể sao cho xiết. Ngày nay ta mỏi mệt cần phải thoái vị, tân quân lên ngôi, hãy còn thơ ấu, nhờ các ngươi gia công mà tả phù hữu bật cho thì danh tiếng của các ngươi sau này sẽ được lưu truyền sử sách. Chỉ buồn một nỗi ta thoái vị về ở nam nội, không được hàng ngày hội diện với các ngươi.
Các quan đại thần nghe nói đều cảm kích mà ứa nước mắt khóc, quì xuống tâu:
- Muôn tâu thượng hoàng! Thần đẳng tài hèn sức mọn, chịu ơn triều đình hai mươi năm trời, tình khuyển mã chưa biết lấy chi báo đáp, ngày nay thượng hoàng lại truyền chỉ cho như thế thần đẳng dám chẳng hết lòng. Chỉ vì thiên tử còn đang độ thanh niên, vậy trong triều đình nếu có việc gì hệ trọng thì xin hoàng thượng cũng nên lưu tâm chỉ bảo.
Thượng hoàng gật đầu, rồi lại gọi tân quân mà phán bảo:
- Các quan đại thần đều là những bậc trung lương cả. Hễ có khuyên can điều gì nhà vua phải nghe theo, chớ nghe lời sàm nịnh mà khinh rẻ các quan đại thần thì thiên hạ mới thái bình được.
Bỗng thấy Võ Hiếu Vương là Hoàng Phủ Kính quì xuống tâu:
- Muôn tâu thượng hoàng. Nhà lão thần đội ơn triều đình đã mấy đời nay, tình khuyển mã chưa chút báo đền. Nay tuổi ngoại lục tuần, chẳng những tinh thần giảm kém, mà gân sức lại suy yếu, cũng chỉ bởi khi còn trẻ tuổi, đánh đông dẹp bắc, nhiều lần bị thương. Lão thần này sở dĩ chưa dám cáo từ là vì nghĩ đến thâm ân, bội phần cảm kích. Nay thượng hoàng đã trở về nam nội thì lão thần cũng xin lui về quê nhà để trông coi phần mộ tổ tiên vậy. Tân quân lên ngôi, đã có các quan đại thần họ Lương, họ Doãn, họ Mạnh và họ Hùng cùng gia công phù tá. Vả con trai lão thần là Hoàng Phủ Thiếu Hoa xin ở lại để một lòng giúp nước, thiết tưởng tân quân cũng chẳng lo ngại nỗi chi.
Tâu xong, sụp lại dập đầu. Thượng hoàng nghe lời tâu, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán:
Ngày nay quốc trượng cáo bệnh xin về thì sao cho tiện! Ta sở dĩ dám nhường ngôi cho tân quân là vì trông cậy có các bậc hoàng thân nguyên tể, nay quốc trượng lại cáo trước thì tân quân há chẳng kém phần trông cậy lắm ru! Vả quốc trượng cáo về thì trong nội cung cũng có chút thương tâm, ta không thể nào mà chuẩn tấu được.
Hoàng Phủ Kính tâu rằng:
- Muông tâu thượng hoàng! Lão thần vốn là võ tướng, ngày nay thiên hạ thái bình, không có giặc giã chi mà phải dụng võ. Vả lão thần gân sức đã suy yếu cũng không thể triều bái được, xin thượng hoàng cho lão thần về hưu. Còn con gái lão thần ở trong nội cung đã được mông ân vũ lộ, an hưởng phú quý, vợ chồng lão thần cũng chẳng cần lo ngại nỗi gì, cúi xin thượng hoàng rộng thương mà chuẩn tấu cho.
Thượng hoàng nge lời tâu, thở dài than rằng:
- Quốc trượng đã quyết chí như vậy thì ta còn biết nói như thế nào! Thôi thì ta cũng chuẩn tấu cho quốc trượng được về nghỉ, nhưng còn các quan đại thần, ta đem tân quân mà giao phó cho, cấm không ai cáo từ cả.
Lại nói chuyện trong cung Chiêu Dương treo đèn kết hoa trần thiết một cách trọng thể. Thái hậu (Trưởng Hoa ) và hoàng hậu (Bội Ngọc ) cùng những phi tần ở các cung các viện đều đến họp cả tại đấy, chỉ đợi thượng hoàng và tân quân đến thì mở tiệc khánh hạ. trong khi ngự tiệc, thượng hoàng cười mà bảo thái hậu rằng:
- Ta làm vua trong hai mươi năm, chưa được cái chi lạc thú, ngày nay làm thượng hoàng mới biết mình là tôn quý vậy.
Bấy giờ các cung nữ dâng rượu, hai vị công chúa là Gia Tường công chúa và Hưng Bình công chúa ứng hầu. Thượng hoàng bỗng nói đùa với thái hậu rằng:
- Ta có một việc này muốn bàn với thái hậu. Nguyên Gia Tường công chúa con bà Ôn phi đây diện mạo đoan trang, tính hạnh thuần thục, mà trưởng điệt nhi (cháu gọi bằng cô ) của thái hậu năm nay đã mười bảy tuổi, ta định kén làm phò mã, thái hậu nghĩ thế nào?
Thái hậu nghe nói, ngẫm nghĩ hồi lâu nói rằng:
- Nhà thiếp đã mấy đời chịu ơn triều đình, vinh hiển đến thế là cùng cực, nếu ngày nay điệt nhi thiếp lại làm phò mã thì e rằng phận hèn phúc bạc, con tạo lại có lòng ghen ghét chăng?
Thượng hoàng chưa kịp trả lời thì bà Ôn phi bỗng quì xuống mà tâu rằng:
- Thượng hoàng đã ban ơn mà kén con trai Trung Hiếu vương làm phò mã cho Gia Tường công chúa. Công chúa dẫu là con tôi, nhưng cũng là kim chi ngọc diệp của hoàng gia, xin thái hậu chớ lấy làm hiềm.
Thượng hoàng cười mà bảo vua Anh Tôn rằng:
- Sáng mai ra triều đường, con sẽ thương nghị việc ấy.
Bấy giờ thượng hoàng và thái hậu đã khởi giá về nam nội. Khi tới nam nội, thượng hoàng lại truyền mở tiệc. Trong khi ngự tiệc, thượng hoàng cười nói vẻ, chỉ có thái hậu ra ý buồn rầu, thỉnh thoảng lại thở dài. Thượng hoàng thấy vậy, mới dừng chén rượu mà hỏi rằng:
- Ngày nay thái tử lên ngôi đại bảo, đáng lẽ thái hậu lấy làm mừng rỡ mới phải, cớ sao lại có ý không vui, hay là còn có sự gì chưa hài lòng thì nên nói cho biết.
Thái hậu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Nào phải thiếp có sự gì chưa hài lòng đâu! Chỉ vì hôm qua thiếp xem sử, thấy chép chuyện các vua đời trước cũng nhiều nhà vì sự truyền ngôi cho con, rồi sau gặp nghịch tử hãn hậu, để đến nổi giang sơn đổ nát. Nay thượng hoàng truyền ngôi cho tân quân, nên bắt hàng ngày phải vào triều kiến để nghe lời giáo huấn, cớ sao lại định mười ngày mới triều kiến một lần, khiến cho xa cách cha mẹ, thế thì còn vui nỗi gì, không bằng những kẻ thường dân, lại còn đước cốt nhục một nhà sum họp vậy.
Thái hậu nói xong, lại ứa hai hàng nước mắt xuống. Thương hoàng cả cười mà bảo rằng:
- Sao thái hậu lại lẩn thẩn như thế? Thái hậu chỉ nghĩ sự cốt nhục sum họp một nhà, không biết rằng người ta ở đời, khác nào như một giấc mộng, trăm năm cũng phải có ngày phân ly. Từ xưa có ai làm hoàng đế nghìn năm bao giờ, chi bằng ngày nay ta truyền cho con làm hoàng đế, rồi đây trong bảy dăm nữa thái hậu sẽ có cháu ẳm chơi. Bấy giờ ta đi ngao du sơn thủy, may ra tìm được chân tiên, học phép trường sinh, sau ta sẽ lên làm ngọc hoàng thượng đế. Khi đã làm ngọc hoàng thượng đế thì trên thiên cung biết bao nhiêu là tiên cơ, chỉ sợ thái hậu trông thấy, lại sinh lòng ghen tuông mà thôi...
Ta còn nhớ câu chuyện Mạnh Lệ Quân ngày nào, khiến cho thái hậu nổi tình nữ tướng quân lên mà tra khảo ta ở trong cung mãi, nghĩ đã nực cười. Thái hậu nên hiểu rằng vinh hoa phú quý cũng có khi cùng tận, thử ngẫm xem trong mười bảy bộ sử các vua đời trước, ngày nay có còn ai không?
Lại nói chuyện vua Anh Tôn ra ngự triều, truyền tuyên đọc tờ chiếu cho các quan nghe. Tờ chiếu như sau:
“Thừa thiên hưng vận, hoàng đế chiếu rằng:
Trẫm tài hèn đức bạc, tuổi còng ấu thơ, phụng mệnh phụ hoàng lên ngôi đại bảo, tôn phụ hoàng làm thượng hoàng, mẫu hậu làm thái hậu, về ở nam nội. Hoàng đệ là Hán vương, Chu vương và Triệu vương cùng ở hầu thượng hoàng; Gia Tường công chúa và Hưng Bình công chúa thì cùng ở hầu thái hậu, còn trẫm đây cứ mười ngày một lần vào triều kiến.
Trẫm gia phong cho Võ Hiến vương là Hoàng Phủ Kính làm Kinh vương, Trung Hiếu vương là Hoàng Phủ Thiếu Hoa làm Tương vương, vợ là Mạnh Lệ Quân làm Trung Tĩnh chính phi, cùng với Lưu thị và Tô thị đều được thực ấp. Người con trưởng cho được lập tước và phong phò mã, người con thứ hai phong là thiên hộ tướng quân; người con thứ ba làm trung thư; con thứ tư làm cung phụng và con thứ năm làm chủ sự. Tương vương kiêm cả việc trong tư các và lục bộ.
Lương Trấn Lân thăng Bảo Hòa điện đại học sĩ kiêm binh bộ và Hộ bộ. Mạnh Gia Linh thăng Long đồ các đại học sĩ kiêm Lại bộ và Công bộ; Doãn Thượng Khanh thăng Văn Uyên các đại học sĩ kiêm Lễ bộ và Hình bộ; Bình Giang vương Hùng Hiệu và vợ là Vệ Dũng Nga vương phi đều được thực ấp. Con trưởng là Hùng Khởi Phượng làm Lễ bộ thị lang, con thứ là Hùng Khởi Thần làm Kỵ đô úy.
Lập nguyên phi là Hùng thị làm hoàng hậu, Ôn phi và Mai phi đều phong làm thái phi. Các quan văn võ đều được gia phong một cấp. Phóng thích cung nữ ba nghìn người. Những thuế tích khiếm (thuế còn thiếu lâu năm tích lũy lại.) của nhân gian đều miễn tha cho cả. Lại ban yến cho các quan triều thần.”
Các quan triều thần đều tung hô vạn tuế. Khi bái mạng xong, cùng nhau dự yến, rất là vui vẻ. Ngày giờ thấm thoát đã gần được ba tháng, vợ chồng Hoàng Phủ Kính sửa soạn sắp nhề quê nhà, Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Ba người con dâu cần phải về hầu hạ cha mẹ. Chỉ có Triệu Câu là phò mã không thể về được, còn bao nhiêu con cái, xin cho theo tất cả.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Hà tất phải như thế, chỉ đứa cháu nhỏ theo về là đủ, còn vợ chồng con đều ở tại đây.
Mạnh Lệ Quân nói:
- Con xin theo về, để cho hai chị Tô phu nhân và Lưu phu nhân ở đây.
Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc đồng thanh mà rằng:
- Chị không nên về, vì chị cần phải ở đây, một là để trông nom quốc chính, hai là để dạy bảo các con. Còn chúng em đây không có tài năng gì thì xin về hầu hạ cha mẹ ở quê nhà là phải!
Hoàng Phủ Kíng nghe nói ,liền gật đầu mà rằng:
- Đã như vậy thì để các cháu ở đây, còn hai con theo ta về quê nhà.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa vâng mệnh. Hôm ấy vương phủ sửa soạn các đồ hành trang. Chỉ có bà thái vương phi ra ý buồn rầu, ứa nước mắt khóc:
- Từ khi Trưởng Hoa lập làm hoàng hậu, đã hai mươi năm nay không về đến nhà, dẫu thỉnh thoảng có lễ khánh hạ, mẹ con cũng được gặp mặt nhau, nhưng sao bằng một nhà sum họp là vui vẻ hơn. Ngày nay ta trở về quê nhà thì biết bao giờ cho lại được gặp mặt con gái.
Cha con Hoàng Phủ Kính đều khuyên giải:
- Người ta ở đời, bi hoan tán tụ, chẳng qua cũng có số mạng cả. Huống chi nhà ta nhà ta bấy lâu đoàn viên sum họp, mông ân vũ lộ, tưởng cũng đã nhiều. Ngày nay dẫu cáo lão trở về quê nhà, nhưng sắc thư vẫn thường tới nơi thăm hỏi. Con làm hoàng hậu như thế, chẳng hơn gả chồng cho một viên quan chức nào mà phải theo chồng đi cung chức thì mẹ con cũng chẳng bao giờ được sum họp một nhà vậy.
Thái vương phi nghe lời không nói câu nào, chỉ lấy tay gạt nước mắt.Vệ Dũng Nga vương phi cùng Doãn Thượng Khanh phu nhân và Mạnh Gia Linh phu nhân đều đến vương phủ để tiễn biệt, náo nhiệt lạ thường. Đến ngày hai mươi bốn tháng ba, thái vương phi vào cung để từ giã thái hậu, Tô Yến Tuyết và Lưu Yến Ngọc cũng theo vào. Thái hậu gạt nước mắt mà nói với thái vương phi rằng:
- Thân mẫu ơi! Ngày nay thân mẫu bỏ con mà về quê nhà, biết bao giờ con lại được trông thấy thân mẫu.
Thái vương phi nghe nói lại càng đau lòng đứt ruột, thổn thức hồi lâu rồi nói:
- Con được lập làm hoàng hậu trong hai mươi năm trời nay, mẹ luống những lo âu, chỉ sợ lòng yêu dấu của quân vương có ngày phai nhạt. Ngày nay con được làm thái hậu, thế là toàn phúc, còn mẹ đây về nơi đất cũ, di dưỡng tuổi già, ơn vũ lộ tưởng cũng đã đằm thắm lắm thay, con chớ lấy làm phiền não. Vả thân phụ con gởi lời khuyên con trên giúp đức nhân từ của thượng hoàng, dưới thể lòng hiếu kính của thiên tử, đối với hoàng thân quốc thích, phải lấy lễ mà tiếp đãi, Hùng Hiệu cần phải giữ ở lại để lo phụ chính, còn Hoàng Phủ Thiếu Hoa thì chỉ trong mấy năm nữa cũng sẽ cho cáo quan trở về nhà, thế là bảo toàn được vinh dự cho nhà ta vậy. Danh tiếng của con lưu truyền sử sách thì cha mẹ lấy làm vui lòng.
Thái vương phi nói xong, thái hậu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi gọi Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc mà bảo:
- Hai em khéo vì ta mà hầu hạ cha mẹ. Khi nào cha mẹ có nghĩ ngợi đến ta thì xin hai em tìm lời khuyên giải. Thế mới biết sinh con gái thật là vô ích, công cù lao cúc dục của cha mẹ cũng uổng phí mà thôi.
Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc đồng thanh tâu:
- Thái hậu cứ yên lòng chờ đến kỳ “tiên thu đại khánh” này, thái vương phi sẽ lại vào yết kiến thái hậu. Vả nhà ta được tôn quý như thế này đều nhờ ơn thái hậu, cho biết rằng “dương danh hiển thân” (Nêu cao danh mình và khiến cha mẹ cũng được vinh hiển.) tức là đại hiếu, mà “thần hôn định tỉnh” (Sớm hôm thăm hỏi, nói tới bổn phận người con quan tâm tới cha mẹ) chẳng qua là một điều hiếu nhỏ mà thôi.
Bỗng thấy nội giám quì xuống tâu:
- Muôn tâu thái hậu! Có hoàng hậu xin vào triều kiến.
Thái hậu mừng nói rằng:
- Nếu vậy hay, nhân tiện tiếp kiến ngoại tổ mẫu và hai vị cữu mẫu một thể.
Nói xong liền truyền chỉ cho vào. Hùng hậu rón rén bước vào, gót sen yểu điệu, mình liễu thước tha, quì xuống dâng lời chúc thái hậu.
Thái vương phi cùng Tô Lưu hai phu nhân đều đứng dậy làm lễ triều kiến hoàng hậu. Hùng hậu chối từ không dám nhận. Thái hậu truyền cung nữ bày tiệc. Lưu Yến Ngọc nhìn nét mặt Hùng hậu thấy có vẻ hối ám, biết là sắp có đại nạn; lại liếc mắt nhìn thái hậu thì thấy chỗ ấn đường cũng hôn hác, nghĩ thầm: Ta trông Phi Giao quận chúa có tướng làm hoàng hậu, mai sau tất phải ứng nghiệm, vì không hiểu cớ sao mà ngày nay ta trông tướng Hùng hậu dẫu không đến nỗi chết, nhưng sẽ có đại nạn trong mười năm thì cũng chẳng khác gì là chết vậy.
Thái hậu lại truyền gọi Ôn phi và Mai phi ra để tiếp kiến thái vương phi. Chuyện trò hồi lâu, thái vương phi đứng dậy cáo từ, thái hậu nắm lấy áo mà bảo rằng:
- Thân mẫu ơi! Thân mẫu nỡ lòng nào bỏ con đây mà đi, biết năm tháng ngày nào cho con lại được sum vầy dưới gối. Ngày nay con cùng cha mẹ từ biệt, con thật như dao cắt trong lòng.
Thái vương phi cũng ôm lấy thái hậu mà khóc, hai mẹ con không thể nào chia ly cho đang. Các cung nữ thấy bóng chiều đã ngã về tây, mới quì xuống tâu với thái hậu:
- Muôn tâu thái hậu, trời đã gần tối.
Thái hậu gạt nước mắt mà đứng dậy, bảo thái vương phi:
- Thân mẫu ơi! Thân mẫu đừng khóc làm chi nữa, cũng cầm bằn như con đã chết trận từ ngày đi đánh Phiên rồi! Giọt máu đẻ rơi, từ nay thân mẫu chớ nghĩ đến con vậy.
Thái vương phi và Tô Lưu hai vị phu nhân cáo từ lui ra.
Khi thái vương phi đi khỏi, thái hậu lại vật mình than khóc. Ôn phi và Mai phi hết sức khuyên giải mãi, bấy giờ mới nguôi.
Lại nói chuyện nhà Hoàng Phủ trong mấy hôm ấy, nào sửa soạn các đồ hành lý, nào tiếp đãi các quan triều thần đến tiễn biệt, huyên náo lạ thường. Hoàn Phủ Kính dặn bảo các con rằng:
- Các con nên một lòng trung thành mà báo đáp triều đình, tức là có hiếu với cha mẹ đó. Vì cha mẹ chịu ơn vua lộc nước trong bốn mươi năm nay cáo lão trở về điền lý, chỉ cốt trông cậy ở các con.
Thái vương phi cũng nói:
- Những lời nghiêm huấn, các con nên phải ghi lòng.
Vệ Dũng Nga vương phi nói với Hoàng Phủ Kính rằng:
- Tôi có một điều tâm phúc muốn giải bày, chẳng biết người có thuận cho được hay không?
Hoàng Phủ Kính nói:
- Có việc gì vương phi cứ nói, khi nào mà vợ chồng ta lại không thuận theo.
Vệ Dũng Nga vương phi cười mà nói rằng:
- Tôi không dám xin gì cả, chỉ muốn xin Phi Loan quận chúa cho Hùng Khởi Thần.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói, mừng rỡ mà bảo rằng:
- Em có ý ấy đã lâu, chỉ sợ chị không bằng lòng, vậy nên vẫn không dám ngỏ ý, nay chị lại nói ra trước thì hai thân tôi đây khi nào chẳng vui lòng, chỉ sợ Phi Loan người xấu tài hèn, không đáng sánh đôi cùng lệnh lang mà thôi.
Vợ chồng Hoàng Phủ Kính đều mừng rỡ mà nói:
- Thân thượng gia thân, còn gì hay bằng! Các con bất tất phải khiêm tốn quá.
Tô Ánh Tuyết đứng dậy nói với Vệ Dũng Nga vương phi:
- Em xin đa tạ, chị đã có lòng đoái thương đến thì cũng là một điều may cho con Phi Loan.
Mạnh Lệ Quân vương phi cười mà bảo Tô Ánh Tuyết:
- Tôi thấy người ta vì vợ mà phải bái tạ bà mẹ vợ, chớ chưa thấy ai vì con rể mà phải bái tạ bà thân gia bao giờ.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa cũng cười mà bảo rằng:
- Đó cũng là nhờ có công giáo hóa của Bảo Hòa công chúa (Mạnh Lệ Quân được mẹ vua Thành Tôn nhận làm con nuôi, đặt tên là Bảo Hòa công chúa) vậy.
Mọi người nghe nói đều cười rầm lên. Vệ Dũng Nga vương phi cũng cười mà bảo rằng;
- Đây là tôi hãy xin ngỏ lời cầu thân. Trước tạ phụ mẫu (trỏ vợ chồng Hoàng Phủ Kính. ), sau tạ thân ông và các thân mẫu, rồi ngày mai tôi sẽ bảo phu quân tôi đến tạ thay con trai.
Lưu Yến Ngọc cười mà bảo rằng:
- Như thế sao được. Chưa dùng môi nhân nói trước, đã vội vàng làm lễ diện kiến.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Phi Loan năm nay đã mười sáu tuổi, nếu định gả cho con trai Bình Giang vương (tức Hùng Hiệu ) thì chỉ trong một vài năm, tất phải làm lễ thành hôn, vậy Tô phu nhân nên cho ở lại kinh địa mới tiện.
Mọi người nghe nói, chưa kịp trả lời thế nào thì Tô Ánh Tuyết nói:
- Đã có Mạnh vương phi, can chi phải bảo con ở lại.
Thái vương phi gật đầu, nói với Mạnh Lệ Quân rằng:
- Con trai lớn cần phải lấy vợ, con gái lớn cần phải gả chồng đó là lẽ thường. Bây giờ ta để Phi Loan lại đây cho được tiện việc.
Mạnh Lệ Quân vương phi cười rồi nói:
- Tiện thì tiện thật, nhưng nếu vậy há chẳng lợi cho Tô phu nhân lắm ru! Vì sau này bàn đến của hồi môn thì chị không phải lo chi cả.
Lưu Yến Ngọc nói:
Của hồi môn tất phải trọng hậu, chẳng biết sau này định những vật gì, nhưng ngày nay nên hỏi hỏi sẵn chị Tô phu nhân xem sao, chẳng lẽ chị nghiễm nhiên làm một bà mẹ vợ mà lại không phải chịu sự tôn thiệt.
Mọi người cùng nhau cả cười, ngoảnh lại nhìn đã không thấy Phi Loan quận chúa đâu cả. Thái vương phi cười mà bảo rằng:
- Cháu tôi thẹn mà chạy mất rồi! Bây giờ chúng ta nói vừa vừa chứ, hãy để sáng mai Bình Giang vương sang cầu thân, bấy giờ sẽ cùng nhau uống một tiệc rượu mừng thật say vậy. Con phải nhớ thế nào cũng đòi lấy mấy trăm lạng bạc, để biện một tiệc rượu ở đây.
Vệ Dũng Nga vương phi mừng rỡ nói:
- Tất phải như thế, con xin tuân lời thân mẫu. Còn của hồi môn, con không dám cầu những đồ kỳ trân dị bảo gì, chỉ xin lấy tập tranh “Bách mỹ” để sau này giữ làm của quý cho con cháu.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa cười mà bảo rằng:
- Một nhà vương phủ hoàng thân, nếu không nghìn khoảnh lương điền thì tất cũng có muôn chung thực ấp, để cho con cháu, sao lại muốn dùng đến tập tranh vẽ ấy.
Vệ Dũng Nga vương phi cười, nói:
- Đã đành rằng có, nhưng sao bằng nét bút thiên nhiên ấy là cái của vô giá ở trên đời.
Mọi người đều chuyện trò hồi lâu, rồi đều đứng dậy tan về. Mạnh Lệ Quân vương phi về đến trong phòng, đóng cửa phòng nằm nghĩ, bỗng thấy Lưu Yến Ngọc đẩy cửa bước vào, vén màn đứng ở bên cạnh giường, tủm tỉm cười mà nói rằng:
- Chị vậy, em muốn thưa một câu chuyện.
Mạnh Lệ Quân vương phi lấy làm ngạc nhiên, mặc áo đứng dậy, rồi hỏi:
- Chẳng hay việc gì, xin chị cứ nói.
Lưu Yến Ngọc liền ngồi xuống đấy, rồi khẽ nói rằng:
- Ngày hôm nay em vào cung triều kiến hoàng hậu, được biết hoàng hậu thật là người thuần thục, nhưng tính khí lại nhu nhược quá. Vả em nhìn tướng mạo có vẻ hắc ám, tất thế nào cũng sẽ có đại nạn trong mười năm trời. Còn Phi Giao quận chúa thì em thấy có tướng “hồng quang hiển hiện” chỉ trong nửa năm nữa, sẽ được hỷ tinh giáng lâm. Mà tin mừng này không phải tầm thường đâu, tất đến chiếm ngôi hoàng hậu, sau này nữ chủ cầm quyền mà có sát khí uy nghiêm vậy. Chúng em trở về quê nhà đã đành, còn chị ở đây, trong một hai năm nữa khó lòng mà tránh khỏi tai vạ. Đó là hiện tướng rõ ràng, em hơi biết như vậy nên em xin nói. Chị có đại tài thì xin chị nhớ mà đề phòng trước. Đến như việc nhà Vệ cô nương, cũng khó tránh khỏi ách vận, cơ trời huyền bí, dẫu sao cũng bởi sự tiền định tự nhiên.
Mạnh Lệ Quân vương phi giật mình kinh sợ mà hỏi rằng:
- Chị thử tính xem có thể cầu cúng cho qua tai nạn ấy được không?
Lưu Yến Ngọc lắc đầu mà bảo rằng:
- Không thể được! Phàm tướng mạo người ta, quan hệ với vận mệnh, hễ vận mệnh không hay thì trên nét mặt sẽ hiện có cái vết hắc ám. Cái vết ấy đã hiện thì tai nạn sắp tới nơi, chỉ trong năm năm là tất có ứng nghiệm vậy. Em thấy tướng mạo bọn ta hắc ám đã gần một năm nay, hôm nay trông thấy tướng mạo thái hậu và hoàng hậu, mới biết không phải là vận mệnh riêng của một người nào. Triều đình ngày nay đang trông cậy về tài xử đoán của chị, chị cũng nên phải gìn vàng giữ ngọc, chớ có lo nghĩ quá.
Mạnh Lệ Quân vương phi thở dài mà than:
- Nếu vậy thì cũng đành nhờ trời mà thôi. Nhưng chị xem tướng con Phi Giao có giống như Võ Tắc Thiên thuở xưa hay không?
Lưu Yến Ngọc nói:
- Phi Giao quận chúa có tướng mạo uy nghiêm, ai trông thấy cũng phải sợ, không chỉ bằng Võ Tắc Thiên mà thôi đâu.
Hai người trò chuyện thâu canh, rồi đều về phòng yên nghỉ. Sáng hôm sau, Bình Giang vương là Hùng Hiệu đến cầu thân, xin cho Hùng Khởi Thần kết duyên với Phi Loan quận chúa. Nhà Hoàng Phủ đều bằng lòng cả.
Đến hôm vợ chồng Hoàng Phủ Kính khởi hành, vua Anh Tôn truyền chỉ bày một tiệc rượu ở phía ngoài thành cho ba vị thân vương ra tiễn. Trong khi tiễn biệt Mạnh Lệ Quân nước mắt ròng ròng, Phi Loan quận chúa cũng nắm lấy bà sinh mẫu là Tô Ánh Tuyết mà khóc. Tô Ánh Tuyết khẽ dặn Phi Loan quận chúa rằng:
- Con ở lại đây, phải chăm chỉ hầu hạ cha mẹ, đối với anh em chị em trong nhà lại nên lấy tình thân ái mà cư xử, chớ vì sự hờn dỗi nhỏ nhặt, đã vội sinh lòng ghét bỏ lẫn nhau. Sang năm con về nhà chồng, nên kính mến cha mẹ chồng và một lòng thờ chồng cho phải đạo, để được nên người hiền phụ, khỏi phụ công giáo huấn của cha mẹ trong bấy lâu nay.
Một nhà Hoàng Phủ ai nấy đều ứa nước mắt mà thương ly tích biệt, chỉ có Phi Giao quận chúa là không hề có ý buồn rầu. Vợ chồng Hoàng Phủ Kính lên xe, ba vị thân vương cùng văn võ bách quan đều đi tiễn đông lắm. Khi đến bờ sông, vợ chồng Hoàng Phủ Kính từ giã các quan rồi xuống thuyền. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân cùng Vệ Dũng Nga vương phi lại theo xuống dưới thuyền để bái biệt, còn văn võ bách quan đều đứng ở trên bờ sông, đợi cho đến khi thuyền quay mũi.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa dặn Tô Án Tuyết và Lưu Yến Ngọc rằng:
- Hai phu nhân về nhà, trên thờ cha mẹ, dưới khuyên dạy con, nên phải một lòng chăm chỉ. Công việc trong nhà giao phó cho Lã Xương chưởng quản. Lã Xương là nghĩa tử của Lã Trung tánh nết thực thà, lại có tài năng, đối với hắn cũng nên có lòng kính trọng.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại nói với vợ chồng Hoàng Phủ Kính rằng:
- Cha mẹ nên giữ gìn thân thể, sang năm đến kỳ “Vạn thọ” của thượng hoàng, con sẽ xin cáo quan về để phụng dưỡng cha mẹ.
Nói xong lại cùng Mạnh Lệ Quân và Vệ Dũng Nga đồng bái biệt rồi bước lên bờ. Thuyền quay mũi đi, các quan triều thần còn đứng đấy chưa về, bỗng thấy quan Lương thừa tướng ở trong thành lật đật cưỡi ngựa chạy đến, không hiểu vì cớ gì.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi thứ hai
Triệu câu phò mã lo biến loan.
Phi Giao Hoàng hậu được sách phong.(1)

Quan Lương thừa tướng ở trong thành cưỡi ngựa ra đến bờ sông trông thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa, vội vàng xuống ngựa rồi nói:
-Tôi dở bận chút việc trong nội các, thành ra không kịp bái biệt lão vương. Khi hai cung giá hồi, bà thái hậu bỗng hôn mê hồi lâu, quan thái y tâu rằng “Lục mạch hư nhược, khó chữa lắm”. Bởi vậy thánh thượng sai tôi ra đây mời Mạnh vương phi vào ngay để bắt mạch, xin vương phi tức khắc khởi hành.
Mạnh Lệ Quân vương phi lên ngựa ra roi phóng thẳng một mạch vào thành. Vua Anh Tôn và Hùng hậu ở trong cung mong đợi Mạnh Lệ Quân không biết dường nào, sai nội giám ra cửa trông ngóng. Các quan thái y cũng đều túc trực tại đấy, không ai dám về. Đợi đến giờ thân, mới có tin báo là Mạnh Lệ Quân đã về tới nơi. Vua Anh Tôn mừng rỡ bội phần, tức khắc truyền chỉ miễn lễ triều kiến cho Mạnh Lệ Quân, và ban cho một chiếc ngọc câu mã, để Mạnh Lệ Quân cưỡi mà đi thẳng vào nam nội thăm bệnh thái hậu.
Khi nào tới nơi, trông thấy vua Anh Tôn và Hùng hậu đều đứng cạnh giường thái hậu, nước mắt ròng ròng. Vua Anh Tôn cứ ôm lấy thái hậu mà gọi, gọi hồi lâu cũng không thấy trả lời. Mạnh Lệ Quân giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào, nhưng cố trấn tỉnh tinh thần, để quì xuống bắt mạch. May sao chứng bệnh không nguy lắm, chẳng qua chỉ vì khí uất, thành ra cấm khẩu.
Mạnh Lệ Quân vương phi mới tâu vua Anh Tông và Hùng hậu rằng:
- Xin thánh thượng và hoàng hậu cứ yên lòng, bệnh chứng không nguy lắm.
Nói xong, liền phụng kê một đơn thuốc. Vua Anh Tôn truyền một mặt sắc thuốc để thái hậu uống, và một mặt tâu trình để thượng hoàng biết. Thượng hoàng nghe lời tâu liền truyền cho Mạnh Lệ Quân phải ở luôn tại trong cung để nghe bệnh, còn thánh thượng và hoàng hậu cũng phải đến để trông nom.
Mạnh Lệ Quân ở đấy trông nom thuốc thang, thấm thoát thành ra đã đầy hơn một tháng trời chưa về tới nhà. Bấy giờ thái hậu bệnh thể hơi bớt, đã ngồi dậy được, trong Tam cung lục viện đều lấy làm vui mừng. Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy Mạnh Lệ Quân không về thì ngày nào cũng chực ngày cửa cung, để hỏi thăm tin tức của Thái hậu ra sao, nhưng vẫn không dò la được đích thực, kẻ thì nói bệnh thế đã hơi bớt, kẻ thì nói bây giờ lại nguy kịch hơn.
Từ khi Mạnh Lệ Quân vắng nhà, các con trong nhà sinh ra hiềm khích lẫn nhau, Triệu Câu vốn là người chính trực xưa nay, chỉ hay giảng đạo đức luôn mồm, không hợp tính với Phi Giao quận chúa. Còn Phi Giao quận chúa thì không chịu ngồi yên ở trong phòng mấy khi. Khi thì đánh đu ở ngoài vườn, khi thì bơi thuyền dưới ao, khi thì trèo lên kim tiền để bắn chơi, khi thì đem ngọc tiêu ra tập thổi, lại có khi lập ra khúc hát để dạy các tỳ nữ múa hát, v.v...Các tỳ nữ hễ đứa nào hơi trái ý một chút thì Phi Giao quận chúa dùng ngay cái thế lực “bà chúa mây” để ra oai, mà đã đánh ai thật đánh cho kỳ chết. Nói tóm lại Phi Giao quận chúa là một người võ tướng chứ không có chút gì là liễu bồ yếu đuối vậy. Phi Giao quận chúa xưa nay vẫn bị cha mẹ nghiêm cấm, không dám ra ngoài qui củ, bấy giờ gặp dịp cha mẹ đều vắng nhà cả, mới tha hồ mà tung hoành. Trong một tháng trời ấy, không hề bước sang đến cung Hoàng Phủ Thiếu Hoa ở, chỉ suốt ngày hành hạ các nữ tỳ. Triệu Câu đã nhiều lần can ngăn mà Phi Giao quận chúa không nghe lại lấy làm giận. Một hôm Phi Giao quận chúa vào chỗ giá sách, thấy có cái hộp, ngoài bọc lần gấm, liền mở ra xem thì cái hộp ấy khóa chặt. Phi Giao quận chúa nghĩ thầm:
“Quái lạ! không biết cái gì ở trong này. Làm thế nào được chìa khóa mà mở ra xem thì hay nhỉ.”
Bấy giờ có một nữ tỳ tên gọi là Hoa Nô đứng cạnh. Hoa nô rất lanh lợi, Phi Giao quận chúa vẫn có lòng yêu nói, mà nó lại hay tâng công. Khi nó trông thấy Phi Giao quận chúa ngắm nghía cái hộp, ra ý muốn mở xem thì nó liền nghĩ ra kế mà thưa rằng:
- Quận chúa muốn xem thì con đi lấy chùm chìa khóa, thử mở xem có cái nào vừa chăng.
Nói xong, chạy đi lấy chùm chìa khóa, ướm hết cái nọ đến cái kia, bỗng gặp một cái mở vừa cái hộp. Khi mở hộp ra xem thì trong có hai quyển binh thư. Phi Giao quận chúa mừng rỡ mà rằng:
- À! Cái này là binh thư của thân phụ ta từng đọc thuở xưa đây! Thân phụ ta thường nói những khoa học bí diệu này không nên để cho con cháu xem, vì sợ con cháu hiểu được pháp thuật, không theo chính đạo, lại sinh sự hung cường chăng. Từ bấy đến nay, ta vẫn không biết thân phụ ta giấu ở chỗ nào, ngày nay tình cờ lại bắt gặp thật là may mắn lắm. Trong hai quyển này có đủ các phép hô phong hoán vũ, chỉ đọc hết hai quyển, đủ làm một danh tướng “Bách chiến bách thắng” vậy.
Nói xong, liền cất lấy hai quyển binh thư ấy, lại khóa hộp để nguyên như cũ, rồi đem hai quyển binh thư về phòng mình châm đèn ngồi xem. Phi Giao quận chúa vốn là người thông minh lạ thường, xem luôn trong ba đêm, bao nhiêu pháp thuật nhớ thuộc lòng cả. Phi Giao quận chúa có tám tên nữ tỳ theo hầu, đều bắt học múa gươm đấu giáo. Hễ đứa nào nghe lời dạy mà không hiểu thì Phi Giao quận chúa lại nổi giận đánh đập một cách rất khổ sở.
Phi Loan quận chúa thấy vậy, liền khuyên bảo rằng:
- Em không nên nóng nảy như thế. Chúng ta là phận nữ lưu, nên học các việc nữ công thêu thùa nấu nướng là phải. Còn việc văn chương thi phú và kiếm kích cung đao, há phải là việc nữ lưu, sao em lại cứ hàng ngày học tập những nghề ấy. Nếu cha mẹ biết, chắc cha mẹ không được vui lòng. Vả ngày nào em cũng đánh đập các nữ tỳ, như thế thì sao hợp với tư cách một người khuê các vậy.
Phi Loan quận chúa nói xong thì Phi Giao quận chúa tức thì hầm hầm nổi giận, mặt đỏ bừng bừng, rồi quắc mắt lên mà rằng:
- Chị nói thật buồn cười! Từ khi tổ phụ và tổ mẫu trở về quê nhà, trong lòng em luống những buồn rầu tưởng nhớ, vậy phải nghĩ cách để tiêu khiển, nhưng cũng chưa hề có phạm đến “khuê trung nữ huấn” (Những lời răn dạy các cô gái phòng khuê) bao giờ. Chị bảo rằng binh pháp không phải việc nữ lưu, thế thì cô nương nhà ta (trỏ Vệ Dũng Nga nữ tướng, con nuôi của Thái vương phi Doãn thị) khi trước sao lại đem thân ra chiến trận? Nếu không có nhờ cô nương thì thân phụ ta khi nào đã chóng thành đại công. Tẩy thị phu nhân và Bình Dương công chúa thuở xưa đều là những tay vũ dũng có tiếng, sao không thấy ai dị nghị điều chi vậy. Chị cũng khéo học đòi như lối anh em, chỉ “chi hồ dã giả” luôn mồm, rồi đồng lòng mà khinh rẻ em, em không thể nhịn được. Chị và anh đã coi em không ra gì thì nay em không có chị em anh em nào với ai nữa.
Phi Loan quận chúa cười mà bảo rằng:
- Sao em lại nói như thế! Tình chị em như tay chân, không bao giờ chị lại không quý em vậy. Em nghe hoặc chẳng nghe tùy ý, khi nào chị dám đồn lòng với anh mà khinh rẻ em.
Hai người nhũ mẫu cũng đồng thanh mà khuyên giải, bấy giờ Phi Giao quận chúa mới nín lặng, không nói câu gì. Bỗng thấy tỳ nữ vào báo rằng:
- Dạ dám bẩm hai quận chúa! Vương gia đã về, sai tôi vào gọi.
Phi Loan quận chúa và Phi Giao quận chúa mới cùng nhau tới Linh Phượng cung để bái yết Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Khi vào tới nơi, hai chị em đồng thanh mà rằng:
- Thân phụ ơi! Chẳng hay thái hậu đã thuyên bệnh chưa?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Nghe như bệnh thế cũng có phần thuyên giảm, nhưng vì cung cấm nghiêm mật, vẫn chưa được tin đích thực. Mẹ con đã một tháng nay không về, công việc trong nhà không có ai chủ trương biết làm thế nào?
Phi Giao quận chúa nghĩ thầm: “Ta ở nhà chỉ bị anh chị nay nói điều này mai nói điều khác rất là khó chịu, chi bằng ta xin vào thăm thái hậu để nói lót với thân mẫu, kẻo khi thân mẫu ta về, anh chị ta lại thi nhau mà mách”. Phi Giao quận chúa nghĩ vậy, mới tươi cười mà nói với Hoàng Phủ Thiếu Hoa rằng:
- Không hiểu duyên cớ làm sao mà thân mẫu con lại ở trong cung bấy lâu ngày như thế! Hay là sáng mai thân phụ cho con vào cung thăm thái hậu, để con nói với thân mẫu con hãy tạm về nhà mấy hôm, hoặc có được chăng?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa gật đầu mà rằng:
- Ừ! Con nghĩ cũng phải! Từ khi thái hậu bị bệnh, thánh thượng chưa ra ngự triều lần nào, chẳng hỏi chi đến quốc chính cả. Lương thừa tướng và Mạnh thừa tướng phải thay quyền xử đoán, chỉ e người ngoài dị nghị, vẫn lấy làm lo sợ. Còn ta và Bình Giang vương đang bận về việc biên phòng. Con muốn tiến cung thăm thái hậu thì ngày mai nên dậy sớm mà đi.
Phi Giao quận chúa thấy cha thuận cho đi, mừng rỡ không biết dường nào. Sáng hôm sau, Phi Giao quận chúa dậy sớm, trang điểm rất lịch sự. Hoa cài lượt giắt, trong như một mỹ nữ trong bức họa đồ, thật là có vẻ nghiêng nước nghiêng thành vậy. Khi trang điểm xong, Phi Giao quận chúa vào nói với anh chị rồi bước ra lên xe, có các nữ tỳ theo hầu đi thẳng vào cung. Nội giám trông thấy, chạy vào tâu trước với thái hậu. Bấy giờ vua Anh Tôn và Hùng hậu đang vào vấn an, còn Mạnh Lệ Quân vương phi cùng Ôn phi và Mai phi thì đi ra cung khác. Thái hậu nghe báo có điệt nữ vào thăm mừng rỡ mà phán rằng:
- Hay lắm! Ta đang mong có thân thích vào để nói chuyện cho vui, lại được điệt nữ vào thì còn gì bằng.
Phi Giao quận chúa rón rén bước vào, trước làm lễ triều kiến thái hậu, sau làm lễ triều kiến vua Anh Tôn và Hùng hậu. Mặt tươi như hoa, da trắng như ngọc, dịu dàng mình liễu, thỏ thẻ tiếng oanh, thái hậu trông thấy rất lấy làm vui vẻ. Vua Anh Tôn liếc nhìn quận chúa rồi kinh ngạc mà nghĩ thầm rằng:
- Trẫm không ngờ Phi Giao quận chúa lại xinh đẹp đến như thế! Chẳng những trong tam cung lục viện không ai sánh kịp, mà so với nhan sắc của cữu mẫu khi xưa, cũng lại có phần hơn. Thiên hạ chẳng thiếu gì mỹ nữ, nhưng người này thật là tuyệt sắc trê đời! Trẫm vẫn tưởng nhan sắc Hùng hậu đã là xinh đẹp thay, nào biết đâu rằng hãy còn kém Phi Giao quận chúa.
Bấy giờ Hùng hậu dắt tay Phi Giao quận chúa ngồi ở bên cạnh thái hậu. Vua Anh Tôn bất đắc dĩ phải cáo từ thái hậu rồi lui ra. Chẳng qua tiền duyên túc đế chi đây, cho nên vua Anh Tôn trông thấy Phi Giao quâậ chúa lần đầu, mà đã hồn xiêu phách lạc vậy.
Thái hậu bảo Phi Giao quận chúa rằng:
- Điệt nữ ơi! Ta cách biệt con trong sáu năm trời nay, ngày nay ta bỗng được gặp mặt lấy làm vui mừng lắm. Nhan sắc con so với thuở nhỏ thật đã xinh đẹp hơn bội phần.
Nói chưa dứt lời thì Mạnh Lệ Quân vương phi đến, trông thấy Phi Giao quận chúa liền hỏi rằng:
- Con vào bao giờ thế!
Phi Giao quận chúa chưa kịp trả lời thì thái hậu cười mà bảo Mạnh Lệ Quân:
- Ngày thánh thoi đưa, chẳng bao lâu mà điệt nữ đã trưởng thành, trông chẳng khác gì vẻ mỹ lệ của em năm xưa vậy.
Hùng hậu cũng cười mà nói rằng:
- Cứ như ý con thiển nghĩ thì nhan sắc biểu muội ngày nay lại có phần sắc sảo hơn cữu mẫu thuở trước.
Các cung nữ pha trà uống, thái hậu hỏi thăm việc nhà, Mạnh Lệ Quân cũng hỏi. Phi Giao quận chúa ứng đối đều được trôi chảy mà rất có lễ phép. Thái hậu truyền bày tiệc cho Mạnh Lệ Quân và Phi Giao quận chúa cùng ngồi. Tiệc xong, Mạnh Lệ Quân cáo từ thái hậu xin trở về nhà.
Hùng hậu vội vàng tâu với thái hậu rằng:
- Muông tâu thái hậu! Biểu muội đã vào tới đây, con muốn lưu lại ở trong cung chơi bời mấy hôm, trước là để thái hậu vui lòng, sau là để con được tỏ tình thân ái xin thái hậu chuẩn cho.
Thái hậu đang yêu mến Phi Giao quận chúa, không muốn cho về, nghe lời tâu Hùng hậu, liền vui lòng mà chuẩn tấu ngay. Mạnh Lệ Quân không dám chối từ, mới bảo Phi Giao quận chúa ở lại trong cung, rồi cáo từ lui về. Khi về tới vương phủ, Phi Loan quận chúa cùng Triệu Câu, Triệu Lân mừng rỡ ra đón, lại vừa gặp Hoàng Phủ Thiếu Hoa ở trong triều ra, Mạnh Lệ Quân mới thuật chuyện thuốc thang trong một tháng trời cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe.
Mạnh Lệ Quân vương phi lại nói:
- Ngày nay thái hậu mới đi lại trong cung được, trông thấy Phi Giao vào, mừng rỡ không biết dường nào. Vậy hoàng hậu xin tạm giữ Phi Giao ở lại trong cung để được vui lòng thái hậu.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói chưa kịp trả lời thì Triệu Câu liền nói:
- Thân mẫu ơi! Con thiết tưởng thân mẫu không nên đễ Phi Giao ở lại trong cung, vì ngày nay thánh thượng đang độ thanh niên, hành ngày vào vấn an thái hậu, há chẳng bất tiện lắm ru! Ta cũng nên lo về sự hiềm nghi ấy. Vả con gái cần phải nghiêm cấm tại chốn thâm khuê, chớ nên cho tự do như thế.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói gật đầu, Mạnh Lệ Quân vương phi cười mà bảo rằng:
- Con nói như thế cũng phải lắ. Nhưng ngặt vì thái hậu và hoàng hậu cứ ân cần bảo mãi, chẳng lẽ ta lại chối từ. Vả thái hậu đang trong khi có bệnh, chỉ muốn được người thân thích để chuyện trò, vậy để vài hôm nữa rồi ta sẽ cho người đón nó về.
Phi Loan quận chúa vẫn định mách cho Mạnh Lệ Quân biết tình hình Phi Giao quận chúa hành hung ở nhà, nhưng thấy Triệu Câu đã nói như thế, cho nên lại không nói nữa, đợi khi cha mẹ vắng cả mới đem việc Phi Giao quận chúa tập trận ở trong vường hoa và đánh đập các nữ tỳ nói cho Triệu Câu và Triệu Lân cùng nghe. Triệu Câu nghe nói thở dài mà than rằng:
- Con bé ấy nhiều khi nó nói năng không có khuê phạm nào nữa, thế mà cha mẹ cứ nuông chiều, không lâý làm nghĩ. Đáng lẽ phải nghiêm cấm ở trong gia đình mới phải, ngày nay cho nó vào trong cung, ta chỉ e đó là khởi đầu mối họa vậy. Ngày trước nó bàn việc Võ Tắc Thiên, ta đủ hiểu tâm tính nó.
Triệu Lân cười mà bảo rằng:
- Người ta ở đời, muôn việc chẳng qua cũng bởi trời cả, hà tất ta phải lo xa quá. Vua Thái Tôn há chẳng phải là bậc minh chủ mà không xét đoán được Võ tài nhân ( tức là Võ Tắc Thiên ), Lý Thuần Phong xem hiện tượng đã biết trước là đã có cái tai vạ ấy. Phi Giao không phải là đứa tầm thường, tôi thiết tưởng còn các quan triều thần, cũng hiếm có mặt nào đáng sánh đôi với nó.
Triệu Câu nói:
- Em biết xem tướng à?
Triệu Lân cười mà đáp rằng:
- Em chẳng nói dấu gì anh, nguyên trước Lưu mẫu dạy em cách xem tướng thì em cũng hơi hiểu được một vài.
Mấy anh em trò chuyện hồi lâu rồi ai về phòng nấy. Cách mấy hôm sau, Mạnh Lệ Quân vương phi vào cung, định đem Phi Giao quận chúa về, không ngờ xảy ra có một việc lạ thường. Vua Anh Tôn từ khi trông thấy Phi Giao quận chúa thì bỗng thành ra tương tư, đêm mơ ngày tưởng, chẳng thiết gì ăn uống chi cả. Suốt ngày chỉ âu sầu ngẫm ngĩ, không nói không rằng. Các cung tần mỹ nữ không hề hỏi han đến ai nữa. Mỗi sáng sớm vào vấn an mà gặp mặt Phi Giao quận chúa thì ruột tầm chín khúc, lại bối rối vò tơ.
Một hôm, vua Anh Tôn định vào cung thăm thượng hoàng, bỗng gặp Phi Giao quận chúa. Phi Giao quận chúa liền quì xuống đất, rồi thỏ thẻ tiếng oanh mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thần thiếp là Hoàng Phủ Phi Giao xin kính chúc thánh thượng vạn tuế!
Vua Anh Tôn tười cười mà cầm lấy tay, Phi Giao quận chúa chối từ không dám rồi vừa nói vừa lùi. Khi vua Anh Tôn vào triều kiến thượng hoàng và thái hậu thì thượng hoàng và thái hậu cho ngồi, truyền cung nữ pha trà uống. Thượng hoàng cười mà bảo vua Anh Tôn rằng:
- Phi Giao đánh cờ cũng cao lắm, chẳng khác gì Mạnh Lệ Quân thuở xưa. Sắc ấy tài này, thật là một tay tuyệt phẩm.
Thượng hoàng lại bảo thái hậu rằng:
- Khen cho nhà Hoàng Phủ, trai anh hùng gái thuyền quyên, bao nhiêu tinh túy ở núi sông, tưởng chừng như chung đúc cả vào một nhà ấy.
Thái hậu nghe nói cũng tủm tỉm cười. Vua Anh Tôn tâu với thái hậu rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Có phải cữu mẫu con mộng thấy xích giao mà sinh biểu muội con đó không?
Thái hậu nói:
- Phải! Cữu mẫu con khi trước mộng thấy con xích giao hóa làm con rồng rồi bay lên trời, bởi vậy mới đặt tên là Phi Giao.
Nói xong, liền ngoảnh nhìn Phi Giao quận chúa thì thấy quận chúa mặt tươi như hoa. Thái hậu ngẫm nghĩ khen thầm. Vua Anh Tôn chú ý nhìn Phi Giao quận chúa không hề chớp mắt.
Bỗng thấy nội giám quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng và thái hậu! Có hoàng hậu vào vấn an.
Thượng hoàng truyền cho vào, Hùng hậu rón rén bước vào, làm lễ vấn an rồi đứng ở bên cạnh giường. Phi Giao quận chúa cũng làm lễ triều kiến Hùng hậu. Hùng hậu đỡ dậy, rồi cười mà bảo rằng:
- Chị miễn lễ cho em.
Thượng hoàng cũng cười mà bảo vua Anh Tôn rằng:
- Chúng ta lui ra, để nhường cho bọn nữ lưu nói chuyện.
Nói xong, liền đứng dậy lui ra. Vua anh Tôn cũng lui theo ra, đưa thượng hoàng về cung, rồi vào ngồi tại Bảo Hòa điện. Nội giám dâng ngự thiện, vua Anh Tôn lấy tay gạt đi không ăn. Một mình ngẫm nghĩ, luống những âu sầu, chỉ thỏ dài mà không nói câu gì cả. Trong nội giám có một người tên gọi Mã Thuận, nguyên là đứa gian hiểm. Mã Thuận trông thấy vua Anh Tôn có vẻ âu sầu, liền quì xuống mà tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Ngày nay thái hậu đã bình phục như thường, đánh lẽ bệ hạ nên lấy làm mừng rỡ mới phải, cớ sao lại có sắc không vui mà bỏ cả ngự thiện. Hay là có điều gì chưa vừa ý thì bệ hạ chỉ thị cho kẻ hạ thần được biết.
Vua Anh Tôn ngoảnh nhìn bốn mặt vắng vẻ không ai, mới thở dài mà bảo Mã Thuận rằng:
- Nhà ngươi ở trong cung, hẳn đã biết tính trẫm. Trong mấy hôm nay trẫm có một việc đau lòng, nhà ngươi có biết không?
Mã Thuận tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Hay là hoàng hậu chậm chưa có hoàng tử?
Vua Anh Tôn nói:
- Không phải!
Mã Thuận lại tâu rằng:
- Hay là tại quốc chính bề bộn,bệ hạ phải khó nhọc về việc xử đoán.
Vua Anh Tôn nói:
- Quốc chính bề bộn đã có Lương thừa tướng, Mạnh thừa tướng và Hoàng Phủ quốc cữu xử đoán, trẫm có khó nhọc gì.
Mã Thuận lại tâu rằng:
- Thế thì kẻ hạ thần đoán ra rồi, chắc là tại trong sáu cung biết bao nhiêu là mỹ nữ, mà xe dê ít khi được dạo chơi.
Vua Anh Tôn lại thở dài mà phán rằng:
- Cũng không phải! Chánh cung hoàng hậu vốn là người hiền thục, vẫn thuờng khuyên trẫm đi dạo chơi các cung.
Mã Thuận lạy rập đầu mà tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Vậy thì xin bệ hạ chỉ thị cho kẻ hạ thần được biết.
Bấy giờ vua Anh Tôn lại thở dài một tiếng mà rằng:
- Trẫm kết duyên cùng hoàng hậu từ năm mười lăm tuổi, bấy lâu vẫn một lòng thân ái. Trẫm tưởng nhan sắc của hoàng hậu đã vào bậc tuyệt vời, cho nên không hề nghĩ ngợi đến ai nữa. Ngờ đâu mới rồi trẫm trông thấy Phi Giao quận chúa, thật là một bậc đắm nguyệt ngây hoa, chim sa cá lặn. Chẳng những trong sáu cung không ai sánh kịp, mà trẫm thiết tưởng thần tiên trên trời cũng đến mỹ lệ như thế là cùng. Bởi vậy trẫm sinh tình luyến ái mà thành ra tơ lòng bối rối khó gỡ đó.
Mã Thuận quì xuống mà tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Nếu vậy thì quận chúa vào cung, phong làm quí phi, thiết tưởng cũng là một bậc tông quý chứ sao!
Vua Anh Tôn lắc đầu mà rằng:
- Không được! Quý phi cũng chẳng khác gì cung tần, nay phong Phi Giao quận chúa làm quý phi tất thái hậu không bằng lòng. Vả trẫm biết nói vì lẽ gì mà nạp vào cung cho được, bởi vậy trẫm còn ngần ngại chưa dám ngỏ ý. Mã Thuận ơi! Nhà ngươi nghĩ kế gì để thành toàn được việc này thì trẫm sẽ trọng thưởng và thăng quan tiến chức cho, trẫm quyết không sai lời vậy.
Mã Thuận nghe lời chỉ phán, liền cúi đầu mà ngẫm nghĩ hồi lâu, hớn hở tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Bây giờ bệ hạ muốn nạp Phi Giao quận chúa vào cung thì chỉ có một cách để cho hoàng hậu tâu trình thượng hoàng và thái hậu, nói là vì cớ chậm đường sinh nở, muốn tuyển thêm hiền phi vào cung. Danh phận dẫu chia ra đích thứ khác nhau, nhưng nghi tiết cũng xin theo như một, thế thì tất thái hậu bằng lòng, mà Tương vương cùng Mạnh vương phi cũng không thể nói sao được nữa.
Vua Anh Tôn nói:
- Kế ấy dẫu diệu, nhưng bây giờ ai nói với hoàng hậu cho được. Hoàng hậu vốn là người hiền thục, trẫm chắc rằng nếu có ai nói thì thế nào hoàng hậu cũng ưng thuận ngay.
Mã Thuận tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Kẻ hạ thần xin nói mà chắc rằng mười phần cũng êm được đến chín phần.
Nói xong lạy tạ vua Anh Tôn rồi đi sang Chiêu Dương cung để bái yết Hùng hậu. Bấy giờ Hùng hậu đang ngồi xem quyển kinh Thi, thấy trong sách chép chuyện đời Chu Văn vương có bà hậu phi hiền thục, không hề ghen tuông, cho nên được lắm con nhiều cháu, Hùng hậu rát lâấ làm kính phục và lại có ý ước ao. Bỗng thấy cung nữ quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Có nội giám Mã Thuận xin vào bái yết.
Hùng hậu truyền cho vào. Khi Mã Thuận vào tới nơi, Hùng hậu hỏi rằng:
- Mã Thuận! Nhà ngươi đến có việc chi đó? Bây giờ thánh thượng ngự ở cung nào, đã dùng ngự thiện chưa?
Mã Thuận sụp lại mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Trong mấy ngày nay thánh thượng có ý không vui. Ngự thiện dâng lên, ngài không hề động đến. Kẻ hạ thần thấy vậy có lời khuyên giải thì ngài than thở phàn nàn về nỗi trong sáu cung hiếm muộn, chưa được hoàng nam. Ngài muốn giáng chỉ trong thiên hạ, tuyển thêm mỹ nữ vào cung, nhưng lại sợ trái ý hoàng hậu. Vì thế kẻ hạ thần xin tâu riêng để hoàng hậu biết. Kẻ hạ thần thiết nghĩ ngày nay tuyển mỹ nữ vào cung thì sóng tình lai láng, bể ái đầy vơi, hoàng hậu cũng thêm bề khó xử.
Hùng hậu nói:
- Nhà ngươi nói dẫu phải, nhưng bây giờ biết dùng kế gì?
Mã Thuận lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu, kẻ hạ thần này không dám nói.
Hùng hậu hỏi:
- Cớ sao nhà ngươi lại không dám nói.
Mã Thuận tâu rằng:
Muôn tâu hoàng hậu! Kẻ hạ thần một lòng trung thành vì hoàng hậu nghĩ kế, nhưng tâu kế này chỉ sợ hoàng hậu lại bắt tội kẻ hạ thần mà thôi.
Hùng hậu nói:
- Mã Thuận! Nhà ngươi cứ nói, ta quyết không bắt tội.
Mã Thuận lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Trừ khi Phi Giao quận chúa vào cung, lệnh bà thái hậu trông thấy, cũng vui lòng mà chóng được khang kiện. Thái hậu yêu Phi Giao quận chúa chẳng khác gì các vị công chúa, lại thường khen tài mạo của quận chúa có phần sắc sảo hơn hoàng hậu. Vậy chi bằng hoàng hậu xin tuyển Phi Giao quận chúa vào cung một là được lòng thượng hoàng và thái hậu, hai là việc ấy thành ra tự ý hoàng hậu khởi xướng ra, ba là tình liên lạc của họ Hùng và họ Hoàng Phủ sau này lại càng thêm bền chắt. Chắc rằng Phi Giao quận chúa phải suy nghĩ mà không dám quên ơn của hoàng hậu. Kẻ hạ thần liều chết tâu bày việc ấy, xin hoàng hậu nên quyết đoán mà thi hành.
Hoàng hậu mừng rỡ mà phán rằng:
- Nhà ngươi nói rất phải! Nhưng chẳng lẽ ta lại dám tâu thái hậu xin lập Phi Giao quận chúa là quý phi hay sao?
Mã Thuận tâu rằng:
- Khó chi điều ấy! Đời trước cũng có khi lập tả hoàng hậu và hữu hoàng hậu, lại viện lệ ấy mà tâu xin thái hậu thì chẳng những thái hậu được vui lòng mà khắp các thần dân trong bốn bể, ai cũng phải ca tụng hiền đức của hoàng hậu vậy.
Hùng hậu nghe nói gật đầu mà rằng:
- Ừ ! Để sáng mai ta sẽ tâu với thượng hoàng và thái hậu.
Sáng hôm sau, Hùng hậu vào Võ Thái cung triều kiến thái hậu, gặp bấy giờ Phi Giao quận chúa đi sang cung khác, Hùng hậu liền tâu với thái hậu rằng:
- Muôn tâu thái hậu con được đẹp duyên cùng thánh thượng đã bốn năm nay mà chưa thấy sinh hạ hoàng nam, trong lòng con thật lấy làm áy náy. Nay con muốn tuyển thêm mỹ nữ vào cung thì thánh thượng lại không ưng thuận, vậy ý con trộm nghĩ có một việc này muốn xin thái hậu rủ lòng thương mà thành toàn cho.
Thái hậu khen rằng:
- Con thật là một người hiền đức! Con định xin việc gì? Nếu con muốn bắt chước như là hậu phi nhà Chu thuở xưa thì ta há lại chẳng mong có cảnh ngậm kẹo bỡn cháu hay sao! Con cứ nói cho ta nghe.
Hùng hậu tâu rằng:
- Con không muốn điều gì, chỉ muốn xin đem biểu muội vào cung để theo lệ như Nga Hoàng và Nữ Anh (là hai con gái của vua Nghiêu, cùng gả cho vua Thuấn ) thuở xưa mà cùng thờ một vị minh chủ vậy.
Thái hậu nói:
- Như thế sao được! Từ xưa đến nay chưa thấy có lập hai hoàng hậu bao giờ. Vả năm nay con còn trẻ tuổi, trong sáu cung cũng chẳng thiếu chi người, có lẻ nào lại không sinh nở hay sao, hà tất con phải vội vàng như thế.
Hùng hậu nói:
- Con cũng biết rằng đang độ xuân xanh, đã lo chi hiếm đường sinh nở. Nhưng sang năm đến kỳ “Vạn thọ” của thượng hoàng, nếu có sinh được hoàng nam thì cũng là một sự may cho thiên hạ thần dân vậy. Vả đời trước cũng có khi lập tả hoàng hậu và hữu hoàng hậu, xin thái hậu thành toàn cho.
Thái hậu nghe nói ngẫm nghĩ hồi lậu, rồi phán rằng:
- Con biết nghĩ như thế, thật là một người hiền đức ít có! Nhưng chỉ sợ các quan đại thần lại cố can ngăn thì việc này khó thi hành được. Phi Giao quận chúa dẫu nhan sắc vẫn xinh đẹp, nhưng ta trông nó có vẻ uy nghiêm khác với mọi người. Nó lại là chỗ tình cốt nhục với ta, nếu sau này có điều gì, ta càng thêm khó xử. Con nên nghĩ đi nghĩ lại cho kỹ, chớ vội vàng mà sinh hối hận về sau.
Hùng hậu nói:
- Muôn tâu thái hậu! Xin thái hậu cứ yên lòng, con quyết không hối hận.
Hùng hậu cáo từ về cung để định làm biểu tâu thượng hoàng. Thái hậu nghĩ thầm: “Từ khi Phi Giao vào tới đây, thiên tử liếc trông, vẫn có ý thầm yêu trộm nhớ, hoàng hậu biết tình, cho nên thừa cơ mà tâu xin như vậy. Việc này ta khó nghĩ quá, không biết nên làm thế nào. Đã đành rằng điệt nữ ta đẹp duyên với thiên tử là tôn quý thật, nhưng bao giờ cũng phận thứ phòng. Nếu theo như lời hoàng hậu xin mà lập hai hoàng hậu, lại e rối loạn cương thường. Vả nghĩa tỷ (tức Vệ Dũng Nga ) ta có ơn to với ta, nay đã lập con gái lên làm hoàng hậu thì nỡ nào lại khiến cho có sự ngang trái. Thôi, âu là ta phải đem việc này bàn với thượng hoàng.” Thái hậu đang ngẫm nghĩ thì bỗng thấy thượng hoàng đến, lại có cả Ôn phi và Mai phi đi theo. Thượng hoàng tươi cười mà bảo với thái hậu rằng:
- Thái hậu ngày nay đã được bình phục như thường, ta lấy làm mừng lắm.
Nói xong liền cầm lấy tay thái hậu rồi ngồi xuống sập rồng. Ôn phi và Mai phi cũng ngồi ở bên cạnh. Cung nũ dâng trà uống. Thái hậu hỏi:
- Phi Giao quận chúa đâu?
Mai phi nói:
- Đang đánh đầu hồ với Gia Tường công chúa.
Thái hậu mới thuật hết những lời hùng hậu tâu xin cho thượng hoàng nghe. Thượng hoàng nghe nói, mừng rỡ mà phán rằng:
- Nếu vậy thì hoàng hậu thật là một người hiền thục đáng khen! Cổ lai mới có một! Chẳng qua cũng bởi phúc đức của liệt thánh tiền triều để lại, mà ngày nay trong cung có được một bà hoàng hậu chẳng kém gì phong hóa của hậu phi đời Chu Văn vương. Thái hậu ơi! Ta nói câu này, thái hậu hãy tha lỗi cho ta, chứ thái hậu cũng còn kém một vài phần vậy. Xem như việc Mạnh Lệ Quân thuở trước, thái hậu đã vội ghép cho ta tội tư tà. Máu ghen đâu có lạ đời, khiến cho ta khi nào nghĩ đến, trong lòng vẫn còn áy náy.
Thái hậu nghe lời cả cười mà không nói câu gì. Ôn phi cũng cười rồi tâu với thượng hoàng rằng:
- Mạnh Lệ Quân nguyên là quốc cữu phu nhân, nếu ngày ấy thượng hoàng có lòng tư tà thì quân đạo sao giữ được chính, bởi vậy mà thái hậu phải can gián, không muốn để cho thượng hoàng mang tiếng về sau. Giả sử có lòng ghen thì bọn chúng tôi hầu hạ trong hai mươi năm trời, sao được đội ơn đằm thắm vậy.
Mai phi cũng cười mà tâu rằng:
- Thượng hoàng thật là hay nhớ chuyện cũ, nhưng bọn chúng tôi nếu không được thái hậu rộng ơn che trùm thì trong chốn cung vi, sao được cảnh tượng êm đềm như thế này?
Thượng hoàng cả cười mà phán rằng:
- Khéo thay! Thái hậu lại được hai người rả phù hữu bật thì tài nào mà không khiến cho ta phải bó tay nghe lệnh vậy.
Thái hậu cũng cười mà rằng:
- Câu chuyện mua vui ấy thư phàn sẽ nói, bây giờ hãy sin thượng hoàng đem việc Phi Giao quận chúa mà hỏi ý quốc cựu và Bình Giang Vương xem sao.
Thượng hoàng phán rằng:
- Việc ấy rất dễ! Điệt nữ hiện đang chưa hứa gả, có lẽ nào lại chối từ. ngày nay hãy cho người đưa Phi Giao quận chúa về, rồi sau sẽ giáng chỉ hỏi ý quốc cữu.
Một hôm vua Anh Tôn ra ngự triều, có chiếu chỉ của thượng hoàng tuyên cáo việc lập Phi Giao quận chúa làm hoàng hậu. Các quan văn võ trong triều đều ngẩn mặt nhìn nhau, không ai dám nói câu gì. Hoàng Phủ Thiếu Hoa vội quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Con gái kẻ hạ thần tuổi còn ngây dại dung công ngôn hạnh còn nhiều điều khuyết liệt, có đâu đã xứng đáng với địa vị chí tôn. Vả lập hai hoàng hậu thì thiết tưởng xưa nay không có lệ ấy. Huống chi một nhà kẻ hạ thần, mông ơn vũ lộ, tưởng đã đầm thắm quá thịnh, kẻ hạ thần tự nghĩ vẫn lấy làm làm sợ. Thế thì chẳng những lập làm hoàng hậu, giả sử phong làm quý phi, kẻ hạ thần cũng không dám vâng mệnh. Cúi xin bệ hạ rộng ơn mà tâu lại với thượng hoàng cho, để bảo toàn phúc trạch cho một nhà kẻ hạ thần vậy.
Tâu xong phủ phục ở trước sân rồng. Bấy giờ bọn Mạnh Gia Linh, Lương Trấn Lân và Doãn Thượng Khanh đồng thanh mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thần đẳng thiết tưởng việc ấy rất không nên, vì cổ lai chưa thấy có lệ lập hai hoàng hậu bao giờ.
Vua Anh Tôn phán rằng:
- Việc này là tự ý hoàng hậu tâu xin, rồi thượng hoàng và thái hậu ưng chuẩn, quyết định thi hành, trẫm cũng đã cố can mà không được.
Mạnh Gia Linh tâu rằng:
- Thượng hoàng và thái hậu giáng chỉ phong cho Hoàng Phủ Phi Giao làm quý phi thì còn khả dĩ, chứ quyết không nên lập hai hoàng hậu.
Doãn Thượng Khanh tâu rằng:
- Bệ hạ nghĩ tình thân của thái hậu và công to của Tương vương thì không nên lập Phi Giao quận chúa làm hoàng hậu, nghĩa là để bảo toàn phúc trạch cho nhả Hoàng phủ vậy.
Vua Anh Tôn không bằng lòng mà phán rằng:
- Việc này không phải tự ý trẫm. Nếu các ngươi không cho là phả thì nên cùng nhau làm một bản tấu để dâng thượng hoàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi thứ hai
Triệu câu phò mã lo biến loan.
Phi Giao Hoàng hậu được sách phong.(2)

Vua Anh Tôn nói chưa dứt lời thì bỗng thấy có một viên triều thần chạy ra quì tâu. Viên triều thần ấy cũng về dòng tôn thất, họ Đồ Man tên Hưng Phục, hiện đang làm chức ngự sử, vốn tính quỷ quyệt, vẫn muốn cầu làm chức đại thần, nhưng bọn Lương thừa tướng ghét là người mưu tiến hiếu lợi, vậy nên không chịu thăng thiên cho. Đồ Man Hưng Phục lĩnh chức ngự sử trong mười mấy năm trời nhưng không hề dám khai khẩu tâu một việc gì cả. Bởi hắn thấy vua Thành Tôn khi trước tin dùng bọn Lương thừa tướng, dẫu có sàm báng cũng không có ích gì. Nay thấy vua Anh Tôn có ý không bằng lòng. Vả hắn lại thông giao với bọn nội giám là Mã Thuận hơi biết câu chuyện trong cung, vậy mới quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! kẻ hạ thần là Đồ Man Hưng Phục lĩnh chức giám sát ngự sử, xin cúi đầu để thánh thượng xét. Thượng hoàng đã giáng chỉ như vậy mà triều thần lại không vâng mệnh nghĩa là thế nào. Lập hai hoàng hậu dẫu có trái lẽ thật, nhưng chánh cung hoàng hậu ngày nay vốn là một bậc hiền đức đáng kính phục. Đạo thần tử nên phải để tiếng tốt cho vua, nay lập hai hoàng hậu thì nghìn năm về sau chánh cung hoàng hậu vẫn được tiếng thơm như bà hậu phi đời Chu. Các quan triều thần không thể tất ý tốt ấy mà lại câu nệ, cố giữ lệ thường, cũng đáng nực cười vậy. Xin bệ hạ cứ truyền cho lễ bộ quan phụng chỉ thi hành.
Lương Trấn Lân nghe lời tâu, nổi giận mà rằng:
- Đồ Man Hưng Phục! Nhà ngươi định làm cho thánh thượng để tiếng bát chính về sau hay sao! Có lẽ nào lại lập hai hoàng hậu?
Đồ Man Hưng Phục cười mà đáp rằng:
- Lương thừa tướng! Ngài câu nệ quá! Việc này chẳng những chánh cung hoàng hậu nổi tiếng là người hiền thục mà thôi, cả đến thánh thượng cũng được danh thơm muôn thuở, vì phong hóa ở chốn cung vi, đáng làm khuôn phép cho đời sau. Sao ngài lại bảo rằng bất chính?
Doãn Thượng Khanh nghe nói cũng nổi giận mà rằng:
- Đồ Man Hưng Phục! Nhà ngươi chớ đem những cách xảo ngôn mà làm mê hoặc thánh thượng. Việc này không phải tự ý thượng hoàng, chẳng qua vì chánh cung hoàng hậu yêu mến Phi Giao quận chúa mà tâu xin như thế. Thượng hoàng không nỡ trái ý, cho nên giáng chỉ để hỏi các quan triều thần, còn việc nên thi hành hay không thì tuỳ ý các quan đại thần xét đoán. Chúng ta là phận thần tử, nên phải một lòng trung trực, lấy lễ pháp mà khuyên ngăn, cớ sao nhà ngươi lại dùng cách ô mị gian hiểm như thế.
Doãn Thượng Khanh lại quì xuống tâu vua Anh Tôn rằng:
- Xin thánh thượng truất bỏ kẻ tiểu nhân ấy đi, khiến cho triều đình được trong sạch.
Đồ Man Hưng Phục nói:
- Doãn thừa tướng ơi! Tôi dẫu ngu hèn cũng là chi phái trong hoàng tộc, mà trước mặt thánh thượng đây, sao ngài dám chỉ trích nói càn.
Đồ Man Hưng Phục cũng quì xuống tâu với vua Anh Tôn:
- Doan thừa tướng muốn mua danh trung trực mà để tiếng xấu cho hai cung, tức là tội đại nghịch bất đạo. Kẻ hạ thần thiết tưởng nhà họ Doãn mấy đời chịu ơn triều đình mà nay dám khi mạn thánh thượng như thế. Trên trái lệnh thượng hoàng và thái hậu, dưới ẩn đức hiền thục của chánh cung, ngày nay thánh thượng không truất bỏ Doãn thừa tướng thì quốc pháp chẳng còn ra thế nào.
Vua Anh Tôn dẫu ngoài miệng không nói, nhưng mặt rồng cũng hơi có ý không vui. Bỗng thấy ngự sử là Nguyễn Long Quang quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Lời tâu của Lương thừa tướng thật là trung trực, xin bệ hạ nên để tai nghe. Nhưng kẻ hạ thần thiết tưởng việc này cũng tốt cho nhà Hoàng Phủ, từng chịu ơn triều đình rất to, dẫu dâng con gái vào làm cung phi, cũng là đáng lễ. Có vì cớ thân tình với thái hậu thì nghi tiết long trọng, chứ không nên để ngang hàng với chánh cung. Kẻ hạ thần tâu như thế thì không đến nỗi trái lệnh thượng hoàng xin bệ hạ lượng xét phê chuẩn.
Vua Anh Tôn nghe lời tau, cúi đầu ngẫm nghĩ. Đồ Man Hưng Phục lại thừa cơ mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Việc này đã khó quyết định thì xin bệ hạ phán hỏi Hùng quốc trượng, rồi theo ý quốc trượng mà thi hành.
Vua Anh Tôn gật đầu, truyền chỉ gọi Hùng quốc trượng. Hùng quốc trượng vâng mệnh bước ra, vua Anh Tôn có có hổ thẹn mà phán rằng:
- Việc này thực là thượng hoàng theo lời tâu xin của hoàng hậu, nay các quan triều đình cứ cố tình can ngăn, khiến cho trẫm không biết quyết đoán thế nào, vậy xin hỏi ý quốc trượng.
Hùng Hiệu nghe lời chỉ phán liền quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thượng hoàng và thái hậu đã giánh chỉ thì kẻ hạ thần dám chẳng tuân theo. Vả đời xưa Nga Hòang Nữ Anh hai người cùng thờ một vị minh chủ, phỏng có hề chi. Huống chi kẻ hạ thần cùng nhà Hoàng Phủ, tình thân như thể tay chân thì dẫu lập hai hoàng hậu, tất cũng không tranh cạnh chút nào. Còn các quan đại thần can ngăn việc này, cũng vì một lòng trung thành vì vua vì nước, Đồ Man Hưng Phục há nên đem lời sàm báng mà chỉ trích các bậc nguyên huân. Kẻ hạ thần xin chúc thánh thượng vạn tuế!
Vua Anh Tôn mừng rỡ mà phán rằng:
- Quốc trượng thật là bậc hiền phụ, cho nên sinh được hoàng hậu cũng có đức hiền thục ấy. Thôi việc này các quan đại thần bất tất phải tâu bày nữa, mà Đồ Man Hưng Phục trẫm cũng tha lỗi cho.
Vua Anh Tôn lại truyền chỉ cho Khâm Thiên giám chọn ngày để lập Phi Giao quận chúa làm hoàng hậu. Khi bãi triều lui ra, các quan đại thần đều có ý không bằng lòng, nhất là Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại càng âu sầu buồn bã, cầm lấy tay Hùng Hiệu, rồi oán trách rằng:
- Sao hiền huynh lại tâu như thế, khiến cho ngu đệ không còn biết nói thế nào.
Hùng Hiệu khuyên giải mà rằng:
- Hiền đệ ơi! Bọn nhi nữ trẻ tuổi còn có lòng yêu mến lẫn nhau, huống chi giao tình của hai ta, bấy lâu thân mật, không nên vì việc này mà tranh biện ở chốn triều đường. Chi bằng ta thừa ý thánh thượng mà thành toàn việc này, để khiến cho trong ngoài khỏi thêm dị nghị.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nín lặng. Khi về tới vương phủ, thuật chuyện cho Mạnh Lệ Quân nghe và bảo rằng:
- Nhà ta phúc trạch quá thịnh, ta thường lấy làm lo. Không ngờ ngày nay lại thêm một sự hiển quý. Thánh ân to như trời bể, tình khuyển mã thật khó nỗi báo đền.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại bảo Phi Giao quận chúa rằng:
- Đó chẳng qua cũng là duyên số của con, nhưng chắc chắn hoàng hậu đã có lòng tử tế như thế thì con cũng phải nên học đức hiền thục của cô nương (tức Trưởng Hoa ) con, để giữ cho trọn danh thơm muôn thuở vậy.
Phi Giao quận chúa nghe nói, nét mặt đỏ bừng, cúi đầu ngẫm nghĩ, luống những mừng thầm:
“Ngày nay quả nhiên thân này được gần gũi quân vương. Bấy lâu nay ta vẫn hâm mộ danh tiếng Võ Tắc Thiên, ngờ đâu bây giờ cờ đã đến tay vậy”. Mạnh Lệ Quân cũng ngẩn người ra mà nghĩ thầm:
“ Nếu như vậy thì tướng pháp của Lưu phu nhân thật là thần diệu. Con gái ta vốn tính cương cường vị tất theo được đức hiền thục như thái hậu”.
Mạnh Lệ Quân vương phi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói với Hoàng Phủ Thiếu Hoa rằng:
- Phu quân ơi! Sau khi tôi vào cung đem Phi Giao ra, không thấy thái hậu tỏ ý chi cả, thế thì việc này không biết có phải tự ý thượng hoàng và thái hậu hay không?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Việc này nguyên tự ý hoàng hậu, thái hậu không muốn để cho Phi Giao phải làm thứ cung, vậy nên mới tâu xin lập hai hoàng hậu.
Triệu Câu nói:
- Nếu thân phụ nhất định từ chối thì tất thánh thượng cũng phải bãi nghị.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Các quan đại thần cố tình can ngăn, mà thánh thượng còn không nghe, thế thì bảo ta từ chối làm sao cho được.
Triệu Câu nói:
- Kính trình hai thân! Không phải con đây dám cả gan nói bậy đâu. Thân phụ tài kiêm văn võ, thân mẫu học quán thiện nhân, há lại không biết rằng tự cổ đến nay, những họ ngoại thích mà phúc trạch quá thịnh, có mấy nhà được an toàn đâu. Nhà ta đây, cô làm thái hậu, cháu làm phò mã, ba đơì phong vương, thật là cổ lai ít có. Thân phụ chịu ơn triều đình to lắm, chưa có thể thoát vị được, cớ sao lại còn tiến con gái vào làm cung phi. Tiến lam cung phà còn không nên, huống chi lại lập hai hoàng hậu thì thật là một sự dị kỳ quá. Con thiết tưởng thân phụ nghĩ lầm, chứ quyết không nên tiến em con vào cung vậy.
Mạnh Lệ Quân nghe nói bảo Triệu Câu rằng:
- Triệu Câu con ơi! Người ta ở đời, dẫu từ miếng ăn hớp uống, cũng có tiền định, huống chi là việc nhân duyên. Thôi, việc đã xảy ra dường này, thân phụ con cũng không thể nói sao cho được.
Khi Phi Giao quận chúa lui ra, Mạnh Lệ Quân lại bảo Triệu Câu rằng:
- Con bất tất phải lo phiền và oán trách cha mẹ. Muôn sự chẳng qua cũng bởi tại trời. Hôm trước Lưu mẫu lâm hành, đã từng bảo ta là Phi Giao sau này sẽ làm hoàng hậu, xem thế thì số mệnh quả nhiên đã có tiền định, con chớ nên lấy làm lạ.
Triệu Câu đem việc Phi Giao quận chúa tinh nghịch trong một tháng trời những thế nào thuật hết cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe.
Mạnh Lệ Quân vương phi bảo rằng:
- Bây giờ nói cũng vô ích, chi bằng ta nên tùy cơ ứng biến.
Bấy giờ tới bữa ăn cơm. Khi ăn xong Triẹu Câu và Triệu Lân cùng nhau sanh Thụy Chi hiên nói chuyện. Triệu Lân nói:
- Anh chớ lo phiền! Lòng trời đã định, sức người không thể trái lại được. Giả sử nước nhà xó sự gì bất hạnh thì hai anh em ta đành phải tận trung báo quốc chứ sao. Ngày nay anh cũng chớ nên nóng nảy mà vội nói làm chi, khiến cho người ngoài thêm nghị luận.
Hai anh em Triệu Câu đang chuyện trò cùng nhau thì bỗng thấy có chiếu chỉ của thượng hoàng ban đến, lập Phi Giao quận chúa làm hoàng hậu.
Vua Anh Tôn phụng mệnh thượng hoàng và thái hậu sách lập Hùng hậu làm tả hoàng hậu, còn Phi Giao quận chúa làm hữu hoàng hậu.
Phi Giao hoàng hậu vào đến trong cung, một lòng nhu thuận, đối với kẻ dưới, lại có lượng khoan dung, và thưởng tứ rất phong hậu. Mọi người trong cung ai cũng ca tụng đức tính Phi Giao hoàng hậu rất vui vẻ dễ dàng, không như Hùng hậu ít nói ít cười. Phi Giao hoàng hậu đối với Hùng hậu lại càng một lòng tôn kính, biết giữ lễ phép , không dám đi cùng xe và ngồi cùng chiếu bao giờ. Thượng hoàng và thái hậu thấy vậy cũng được vui lòng.
Vua Anh Tôn từ khi được Phi Giao hoàng hậu vào cung, tình đằm thắm ấy kể sao cho xiết. Cách ba hôm sau, Vệ Dũng Nga vương phi và Mạnh Lệ Quân vương phi cùng vào cung để chúc mừng hai hoàng hậu. Hai người trông thấy Phi Giao hoàng hậu biết giữ lễ phép, cũng đều mừng lòng tự nghĩ hai hoàng hậu sau này cư xử với nhau, chắc được thủy chung như nhất. Hai người lại vào nam nội triều kiến thái hậu.
Vệ Dũng Nga tâu rằng:
- Muôn tâu thái hậu!Thần thiếp đã lâu không vào triều kiến, vẫn có lòng khát vọng, ngặt vì cung vi là nơi cấm địa, nên không dám sổ sàng. Mới đây trộm nghe ngọc thể khang cường, mừng rỡ xiết bao, thật là hạnh phúc cho nước. Còn như việc lập hai hoàng hậu thì trên nhờ ơn che trùm của thái hậu, dưới nhờ tình thân mật của Tương vương, con gái thần thiếp cũng được bội phần vinh dự vậy.
Thái hậu nói:
- Sao chị lại nói như thế! Năm xưa tôi tôi là thân mẫu tôi khi ở tù xa, nếu không có chịu cứu cho thì còn đâu đến ngày nay. Vả lại chị chiêu tập binh mã, đi cứu được thân phụ tôi về triều, ơn ấy kể sao cho xiết. Về sau chị kết duyên với một vị vương tước, tôi vào chốn hoàng cung dẫu rằng xa cách hai nơi, nhưng vẫn coi nhau như một. Vì nghĩa nặng ơn sâu ấy mà tôi xin lập lệnh ái làm hoàng hậu để cho được thêm thân. May sao lệnh ái lại có đức hiền thục, không hề ghen tuông, thượng hoàng và tôi lấy làm mừng rỡ. Khi Phi Giao vào đây, lệnh ái trông thấy, đem lòng quyến luyến, mới tâu thượng hoàng xin lập hai hoàng hậu, để muốn theo đòi như Nga Hoàng và Nữ Anh thuở xưa. Tôi cũng đã khuyên lệnh ái nên nghĩ cho kỹ, nhưng lệnh ái một lòng cố xin. Vậy hai hoàng hậu đã có tình yêu mến thì chị cũng chớ nghĩ ngợi chi điều ấy.
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Tiện nữ Phi Giao bỗn phận liễu bồ, dung công ngôn hạnh còn nhiều điều khuyết điểm, dẫu cho vào hàng cung phi cũng chưa xứng đáng, huống chi nay lại ngự ngôi Chiêu dương. Tôi thiết tưởng Hùng quốc trượng không nên ưng thuận chỉ lập hai hoàng hậu mà khiến cho vợ chồng nhà tôi phải mang tiếng với đời.
Vệ Dũng Nga vương phi cười mà đáp rằng:
- Có bề chi điều đó! Con gái tôi cũng tức là con gái vương phi, hà tất lại phảii phân biệt. Vả thái hậu là bậc “Mẫu nghi thiên hạ” mà Tương vương là hàng quốc cữu, chẳng lẽ lại phong Phi Giao làm quý phi, thế thì tiện nữ xin tâu như vậy thật đã trọn cả đôi đường vậy.
Thái hậu truyền cung nữ bày tiệc, mời hai vị vương phi cùng ngồi lại cho hai hoàng hậu ngồi hầu. Phi Giao hoàng hậu chối từ, nhất định không dám ngồi ngang Hùng hậu. Vệ Dũng Nga cười mà bảo rằng:
- Cứ ngồi là phải! Có thế mới tỏ tình yêu mến lẫn nhau. Hai chị em cùng ngôi hoàng hậu thật là ít có!
Phi Giao hoàng hậu bảo cung nữ để dịch ghế ra một bên, mới dám vào ngồi. Cung nữ rót rượu. Vừa uống được ba tuần rượu thì có nội giám vào tâu với Phi Giao hoàng hậu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Thánh giá ngự đến Khôn Phúc cung, xin mời hoàng hậu về nghênh tiếp.
Hùng hậu liền bảo rằng:
- Thôi, em nên cáo từ đứng dậy rồi về nghênh tiếp thánh thượng.
Phi Giao hoàng hậu cáo từ đứng dậy, mặc hoa hớn hở, mày liễu nỡ nang, vội vàng lui về Khôn Phúc cung để nghênh tiếp thánh giá. Khi Phi Giao hoàng hậu lui ra, Vệ Dũng Nga đưa mắt nhìn theo, thấy vẻ khuynh thành ấy, trong lòng cũng lấy làm ngẫm nghĩ. Tiệc xong, Hùng hậu lại mời Vệ Dũng Nga về cung để hai mẹ con nói chuyện riêng. Hùng hậu liền đem những lời Mã Thuận nói hết đầu đuôi cho thân mẫu nghe. Vệ Dũng Nga nghe nói, biết là thánh thượng đã mật mưu với Mã Thuận, nhưng không nói gì, cùng Mạnh Lệ Quân đều ra về.
Khi về tới nhà, Vệ Dũng Nga thuật chuyện trong cung cho Hùng Hiệu nghe và bảo rằng:
- Hai hoàng hậu ngày nay cư xử với nhau rất tử tế, nhưng tôi liếc nhìn Phi Giao hoàng hậu thì nhan sắc xinh đẹp, đã nên một bậc nghiêng nước nghiênh thành. Phu quân ơi! Tôi dám chắc rằng ơn vũ lộ của cửu trùng đối với tân hoàng hậu sẽ bội phần âu yếm. Chi bằng ta bảo con gái ta nhường ngôi Chiêu dương đi, hà tất phải lập tả hoàng hậu và hữu hoàng hậu. Có như vậy thì may ra nhà ta mới bảo toàn được phúc trạch, mà con gái ta cũng lưu đước tiếng thơm hiền thục về mai sau.
Hùng Hiệu chưa kịp trả lời thì Hùng Khởi Phụng đứng dậy mà thưa rằng:
- Thân mẫu ơi! Chỉ có thượng hoàng nhường truyền ngôi cho thánh thượng được, chứ hoàng hậu mà nhưởng ngop6i Chiêu Dương thì thật con chưa hề nghe nói bao giờ. Con thiết tưởng cái gì còn có thể nhường được, đến như danh vị thì quyết không nên nhường. Nếu em con nhường ngôi Chiêu Dương thì tự xử vào ngôi vị nào, há chẳng để làm trò cười cho thiên hạ.
Hùng Hiệu nghe nói, liền gật đầu mà bảo rằng:
- Con nói rất phải! Nhưng ta cùng nhà Hoàng Phủ là chỗ bạn chí thân, Phi Giao há lại không nghĩ đến tình cũ. Huống chi chính sự trong nước đã có các quan triều thần xử đoán, ta không dự chi đến tất cũng chẳng lo cái họa ngoại thích về sau. Con gái ta đã được làm hoàng hậu thì số mệnh chẳng qua bởi trời, can chi ta phải bàn đi tính lại vậy.
Lại nói chuyện Phi Giao hoàng hậu ở trong cung đối với Hùng hậu thân mật nhau như chị em ruột. Bởi vậy công việc trong cung, Hùng hậu đều uỷ thác cho Phi Giao hoàng hậu cả. Tên nội giám Mã Thuận lại hết sức xu nịnh, hắn vẫn giao thông với Đồ Man Hưng Phục, hễ trong cung có chuyện gì lạ, đều mật báo cho nhau biết. Đồ Man Hưng Phục đệ bản tâu dâng vua Anh Tôn nói nhà Hoàng Phủ có hai hoàng hậu thì thật là thiên hạ ít có! Kẻ hạ thần thiết tưởng triều đình nên đặc cách gia phong “Cửu Tích” cho Tương Vương để khiến được long trọng như một bậc thiên tử mới phải. Phi Giao hoàng hậu thấy vậy, liền viết một bản tâu thượng hoàng torng bản tâu đại khái nói:
-“ Đồ Man Hưng Phục làm chức ngự sử, thiết tưởng không nên tâu việc này. Vả thân phụ thần thiếp có tài đức gì mà gia phong “Cửu Tích”, Đồ Man Hưng Phục tâu xin như thế há không phải có lòng phản nghịch hay sao. Việc này chẳng qua là bởi thần thiếp mông ân quá hậu, vậy nên khiến người ngoài nghi cho thân phụ thần thiếp đó thôi. Nay xin thượng hoàng và thái hậu biếm truất thần thiếp, đem giam vào lãnh cung thì trên mới khỏi phụ ơn to của triều đình, dưới mới bảo toàn được vinh dự cho nhà thần thiếp vậy.
Thượng hoàng thấy bản tâu, mừng rỡ khen ngợi mà rằng:
- Thật đáng mừng cho nhà Đại Nguyên ta! Đời nào cũng có một bà hoàng hậu hiền thục, mà người sau lại có phần hiền thục hơn người trước vậy.
Bấy giờ thái hậu và vua Anh Tôn đều ở trong nam nội, thượng hoàng mới đem bản tấu ấy trao cho thái hậu xem rồi cười mà bảo rằng:
- Thái hậu ơi! Thái hậu hãy thử đọc bản tâu này mà xem. Lệnh điệt nữ hãy còn trẻ tuổi mà sao có được đại kiến thức như thế!
Thái hậu xem xong liền hỏi vua Anh Tôn rằng:
- Việc này con nghĩ thế nào?
Vua Anh Tôn tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng và thái hậu! Cứ như ý con thiển nghĩ thì cữu phụ con công to đức trọng, dẫu gia phong “Cửu Tích” cũng là xứng đáng. Con muốn phê chuẩn lời tâu của Đồ Man Hưng Phục. Xin thượng hoàng và thái hậu giáng chỉ cho Phi Giao hoàng hậu biết là việc này không can ngại chi cả.
Thượng hoàng nghe nói gật đầu, đã toan giáng chỉ cho Phi Giao hoàng hậu thì thái hậu gạt đi mà rằng:
- Thượng hoàng không nên giáng chỉ chi vội, để thiếp xin giải tỏ đôi lời. Nhà thiếp mông ơn vũ lộ, ba đời phong vương tước, một nhà hai hoàng hậu, sự vinh hiển đã quá thịnh. Thiếp thấy các họ ngoại thích như họ Mã và họ Đặng thuở xưa, không mấy nhà được an toàn. Em thiếp làm quan với triều đình, dẫu rằng một lòng trung thành, nhưng con cái trong nhà thì giữ sao cho được mọi người đều hiền hòa tất cả. Gián hoặc kẻ nào trái phép thì thật là điếm nhục gia thanh. Khi ấy nếu triều đình vị tư tình mà khoan túng, há chẳng để một trò cười cho thiên hạ thần dân hay sao. Thượng hoàng ơi! Em thiếp có công gì hãy nên gia phong, chứ vì cớ ngoại thích mà gia phong thì sao cho phải. Thân phụ thiếp thuở xưa tận trung báo quốc, nay đã già yếu, nỡ nào mà để phải lo phiền. Vả nhà thiếp nếu bị tai họa thì thiếp đây cũng không thể yên lòng cho được. Thiếp nghe Đồ Man Hưng Phục là đứa gian hiẻm, em thiếp vẫn khinh bỉ hắn, vậy nên hắn đem lòng ghen ghét, chỉ vì thấy triều đình tin dùng, không dám buông lời sàm báng, mà cố ý dâng bản tâu này để muốn khiến cho nhà thiếp đeo tiếng bất quỹ (nghĩa là trái phép, không giữ đạo làm tôi. ) vậy. Thượng hoàng ơi! Từ xưa đến nay, các bậc phong thần gia phong “Cửu tích” mấy người còn đứng ở trong triều. Ngày nay trước hết nên cho em thiếp cáo quan về nghỉ, sau chém Đồ Man Hưng Phục về tội gian nịnh, để khiến thần dân khỏi có lòng nghi ngờ. Lại xin thượng hoàng đem những lời tâu của thiếp ban bố cho thiên hạ biết thì thiếp được đội ơn vô cùng vậy.
Thượng hoàng nghe nói lắc đầu mà rằng:
- Sao thái hậu lại quá lo như thế! Quốc trượng là một bậc trung thành, danh tiếng khắp trong bốn biển, còn quốc cữu thì trải thờ hai triều, hết lòng chăm chỉ, tưởng nên cùng hưởng lộc trời. Nay dẫu “Cửu Tích” gia phong, cũng không lấy chi làm quá đáng. Đồ Man Hưng Phục tâu xin, há phải là lòng gian nịnh, hà tất ta lại chém hắn. Còn như việc cho Tương Vương về nghỉ thì khó lắm, vì quốc chính bề bộn, nếu hiền thần bỏ chức thì con ta biết trông cậy vào ai.
Vua Anh Tôn nghe lời thượng hoàng chỉ phán liền nói:
- Thượng hoàng dạy chí phải con xin vâng mệnh.
Thái hậu không bằng lòng mà mắng vua Anh Tôn:
- Con đã biết phụ mệnh phải tuân phụng thì cũng nên biết mẫu mệnh chớ coi thường. Câu nói của ta là có quan hệ đến nước nhà, sao con lại cứ vô tình mà trái ý ta, nghĩ thật đáng cười. Ta chỉ lo cho con sau này khó lòng tránh khỏi được hai chữ “hôn quân” vậy.
Thái hậu nói xong, nét mặt lại hầm hầm nổi giận. Vua Anh Tôn giật mình kinh sợ, vội vàng quì xuống mà tâu rằng:
- Muôn tâu thái hậu! Xin mẫu hậu thứ cho con, con cam chịu tội bất hiếu, từ nay không dám trái ý mẫu hậu nữa.
Thượng hoàng cũng khuyên giải rằng:
- Làm con phải theo ý cha mẹ. Tuy vậy, Đồ Man Hưng Phục quyết không nên chém, vì hắn là một người chi phái trong hoàng tộc, phường tiểu nhân vẫn hay xu nịnh, thái hậu bất tất phải nghi ngờ.
Thái hậu không biết nói thế nào, mới đứng dậy về cung. Vua Anh Tôn đưa thái hậu về cung rồi lại sang nói chuyện với Phi Giao hoàng hậu. Phi Giao hoàng hậu mừng thầm:
“Thượng hoàng đã trúng kế của ta, nhưng thái hậu muốn chém Đồ Man Hưng Phục thì hình như hơi hiểu sự tình. Ngày nay dẫu thân phụ ta cáo quan về nghỉ, không ở trong triều, nhưng ta còn phải e sợ thái hậu ở trong cung vậy.”
Phi Giao hoàng hậu nghĩ vậy, liền thỏ thẻ tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thái hậu thật là bậc thánh minh. Người dạy câu nào, cũng hợp lý với thần thiếp lắm. Nhưng thần thiếp thiết nghĩ thân phụ thần thiếp dẫu cáo quan về nghỉ thiên hạ vị tất đã nghi ngờ, chỉ có một cách là đem thần thiếp giam vào lãnh cung, may ra mới tạ tội với thiên hạ được vậy.
Nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, rồi lại quì xuống mà tâu rằng:
- Bệ hạ ơi! Các bậc thánh quân phần nhiều vẫn phải dứt tình nhi nữ. Thần thiếp chịu ơn bệ hạ, dẫu một ngày cũng nên nghĩa, vậy xin nguyện cầu cho bệ hạ được hưởng phúc muôn năm.
Phi Giao hoàng hậu nói chưa dứt lời thì vua Anh Tôn vội vàng nâng đỡ mà bảo rằng:
- Ái khanh ơi! Ái khanh đừng nói những câu như thế. Ân tình của trẫm đối với ái khanh torng hai tháng trời nay thật là sông khô đá mòn, cũng không phai được. Vả ái khanh là một người hiền thục, thượng hoàng và thái hậu đều phải ngợi khen. Bây giờ tự nhiên vô cố đem biếm truất ái khanh thì khiến cho trẫm đeo tiếng hôn quân mãi mãi. huống chi trẫm từ khi trông thấy ái khanh, trộm nhớ thầm yêu, đem mơ ngày tưởng, nếu không có Mã Thuận bày mưu lập kế thì làm sao đem được ái khanh vào cung. Từ khi vào cung, cầm sắc hòa hợp, hết thảy mọi người ai cũng mến phục. Ngày nay tự nhiên vô cố Đồ Man Hưng Phục dám càn rỡ mà dâng bản tâu này, khiến cho thái hậu phải lo nghĩ. Ái khanh ơi! từ nay ái khanh chớ nói những câu như thế. Trẫm cùng ái khanh ngày đêm sum họp, mà tình đằm thắm vẫn hình như chưa đủ, còn phải cùng nhau thề nguyện câu: “Như chim liền cánh, như cây liền cành”, muôn đời nghìn kiếp, không bao giờ xa nhau vậy.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói lại thỏ thẻ mà tâu rằng:
- Ngày nay thần thiếp nghe lời chỉ phán, ơn vũ lộ tưởng đã dồi dào, nhưng sợ lâu ngày thì lòng kia biến đổi, bây giờ hoặc vì điều này tiếng nọ mà bể ái lại có khi đầy khi vơi. Thần thiếp nghĩ vậy, có nên đêm ngày lo phiền, chỉ muốn bệ hạ dứt tình, còn hơn đeo đẳng.
Phi Giao hoàng hậu tâu xong, lại nắm lấy vạt áo vua Anh Tôn mà nức nở khóc. Tiếng kiều ti tỉ, dẫu gan sắc đá, cũng phải chuyển dời. Vua Anh Tôn lấy áo long bào chùi nước mắt cho Phi Giao hoàng hậu rồi khuyên giải mà rằng:
- Ái khanh nói thế thì trẫm biết làm thế nào cho giãi tỏ được tấm lòng. Âu là truyền nội giám bày hương án ra đây để trẫm cùng ái khanh ăn thề vậy.
Nói xong truyền chỉ cho nội giám sửa soạn hương án. Vua Anh Tôn cầm tay Phi Giao hoàng hậu rồi cùng sụp lại thiên địa để làm lễ phát thệ, xin đời đời kiếp kiếp cùng sum họp với nhau dẫu rằng đất lỡ trời long cũng không bao giờ biến đổi. Khi khấn xong các cung nữ đỡ vua Anh Tôn và Phi Giao hoàng hậu đứng dậy, Phi Giao hoàng hậu lại lạy tạ vua Anh Tôn mà rằng:
- Thần thiếp xin bái tạ ơn trời bể của thánh thượng, từ nay thần thiếp nằm ở trong cung , sẽ được ngủ yên giấc vậy. Nhưng muốn cho công tư vẹn cả đôi đường thì sáng ngày mai xin thánh thượng tức khắc giáng chỉ cho thân phụ thần thiếp được các quan về quê nhà, để bảo toàn lấy vinh dự một vị vương tước.
Vua Anh Tôn lấy tay đỡ dậy mà phán rằng:
- Việc ấy trẫm xin theo ý hoàng hậu.
Bấy giờ nội giám đã bày tiệc ngọc. Phi Giao hoàng hậu có tự chế ra một khúc “Dao lâu”, luyện tập mười hai tên cung nữ, múa hát rất khéo. Phi Giao hoàng hậu lúc đầu còn ngồi gõ nhịp cho các cung nữ múa hát. Sau lại tự mình đứng dậy múa theo cách “Phi tiến”. trông càng dịu dàng uyển chuyển lạ thường. Vua Anh Tôn vui vẻ tươi cười, tấm tăc ngợi khen mà rằng:
- Như thế mới thật là diệu võ! Cách múa này, dẫu nàng Triệu Phi Yến thuở xưa cũng không thể nào mà theo cho kịp.
Bấy giờ tình luyến ái của vua Anh Tôn đối với Phi Giao hoàng hậu thật rất thân mật. Vua Anh Tôn đứng dậy rót một chén rượu thưởng cho Phi Giao hoàng hậu mà bảo rằng:
- Ái khanh ơi! Trẫm thưởng cho ái khanh một chén rượu. Ái khanh thật là người vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, lại đủ mọi tài, không biết trẫm đây tu từ kiếp nào mà được cùng với ái khanh sum họp một nhà vậy.
Sáng hôm sau, vua Anh Tôn ban một tờ chiếu chỉ ra chốn triều đường, các quan đại thần đều xúm lại xem. Trong tờ chiếu chỉ nói thái hậu tỏ ý muốn cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa về hưu dưỡng. Hoàng Phủ Thiếu Hoa thấy vậy mừng rỡ xiết bao, vì xưa nay vẫn có lòng muốn cáo về nhà mà chưa dám nói.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa về đến vương phủ, nói với Mạnh Lệ Quân rằng:
- May quá! Nếu con gái ta không dâng một bản tâu thì có lẽ ta bị đứa tiểu nhân kia dùng kế ly gián mà hại ta đó.Nay thái hậu lại giáng chỉ như thế thì thật là một nhà ta được hai hoàng hậu hiền thục khác người. Người ta ở đời, vinh hoa phú quý chẳng qua cũng là sự thường, chỉ có trung thần hiền hậu là cổ kim hiếm có vậy. Ngày nay ta cáo quan về nghỉ, trên phụng dưỡng hai thân, dưới dạy bảo con cái, một nhà sum họp, cùng nhau hưởng thụ cái phúc thanh nhàn.
Mạnh Lệ Quân vương phi nghe nói, mừng lòng mà đáp:
- Con Phi Giao biết lo trước tính sau như vậy, tôi cũng được yên lòng, tất nó không có thói ghen tuông mà để đến nỗi điếm nhục gia thanh. Đã lâu nay tôi vẫn có ý định về thăm nhà, nay phu quân được cáo quan về hưu thì tôi muốn tiện dịp trở về Vân Nam để thăm hai thân tôi vậy.
Hai người đang chuyện trò cùng nhau thì anh em Triệu Câu vào. Triệu Câu nói:
- Thân phụ ơi! Ngày nay thân phụ cáo quan về nghỉ đã đành, nhưng không chém Đồ Man Hưng Phục thì sau này khó lòng tránh khỏi tai vạ. Sáng mai thân phụ nên tiến cử Bình Giang vương thay chức thân phụ để chưởng quản binh quyền, còn quốc chính thì đã có Lương thừa tướng cùng Doãn thừa tướng, cũng chẳng lo ngại chi.
Bỗng thấy Bình Giang vương Hùng Hiệu và Mạnh Gia Linh thượng thư vào. Hoàng Phủ Thiếu Hoa hỏi rằng:
- Chẳng hay hai hiền huynh tới đây hôm nay có chỉ giáo việc chi không?
Mạnh Gia Linh nói:
- Nào có việc chi lạ đâu, chỉ vì Đồ Man Hưng Phục dám càn rỡ dâng bản tâu ấy mà khiến cho Bình Giang vương đây tức giận vô cùng. Bình Giang vương rủ tôi cùng tới đây nói với hiền đệ, định đến sáng mai thì dâng biểu tâu thánh thượng xin chém Đồ Man Hưng Phục, mà hiền đệ thì cứ ở lại, để cùng nhau một lòng giúp nước, chớ nên cáo về quê nhà.
Mạnh Gia Linh nói chưa dứt lời thì Hùng Hiệu nói:
- Hiền đệ ơi! Hiền đệ là bật anh hùng, taìkiêm văn võ, cớ sao ngày nay vì một bản tâu của đứa tiểu nhân, đã vội muốn cáo quan về nơi rừng núi. Hiền đệ cáo về, một là trúng kế gian hiểm của đứa tiểu nhân, hai là khiến cho thánh thượng thiệt mất một tay phò tá. Thôi thôi, hiền đệ chớ nên cáo về, để sáng mai ta sẽ tâu với thánh thượng xin chém đứa nịnh thần ấy.
Mạnh Gia Linh cũng nói:
- Chúng ta tài sơ học thiển, các việc quốc chính này nay phần nhiều nhờ tay hiền đệ, hiền đệ chớ nên cáo về.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Hai hiền huynh dạy quá lời, ngu đệ có tài đức gì. Trong hai mươi năm trời nay, cơm nặng áo dầy của triều đình, thật là quá lạm. Quân ân khác nào trời biển, phận khuyển mã vẫn chưa chút báo đền. Dẫu lời dị nghị không quản thị phi, nhưng ta cũng chẳng nên tham quyền cố vị. Huống chi từ khi hai thân tôi về quê nhà, giấc mộng năm canh, lòng tưởng vọng bồi hồi khôn xiết, đã đành rằng có đàn cháu sum vầy dưới gối, nhưng đạo làm con cũng nên nhớ đức sinh thành. Vả nhà Hoàng Phủ tôi, đội ơn triều đình, mấy đời đều phong vương tước, vinh quý tưởng đã quá thịnh. Nay một nhà tôi lại có hai hoàng hậu, thế thì tôi e con tạo cũng phải ghét ghen. Hai hiền huynh nên để cho tôi cáo về thì vinh quý ấy mới bảo toàn được.Hai hiền huynh nên biết rằng từ xưa đến nay, các nhà ngoại thích quá thịnh, phỏng có mấy nhà được an toàn.
Hùng Hiệu nghe nói gật đầu mà rằng:
- Nếu vậy thì sáng mai tôi cũng sẽ dâng một bản tâu xin từ quan, rồi cùng hiền đệ về chốn điền lý là hơn cả.
Mạnh Lệ Quân vương phi cười mà bảo rằng:
- Bình Giang vương! Sao lại ví như vợ chồng nhà tôi. Phu quân tôi là thân đệ thái hậu, là thân phụ hữu hoàng hậu, nay nhân có lời dị nghị, từ chức xin về là phải. Còn như Bình Giang vương trên không cao đường, dưới lại có lịnh ái làm tả hoàng hậu. Vả đang giữ chức cấm vệ, cớ sao lại nghĩ như thế. Huống chi nước nhà thái bình đã lâu, võ tướng thật hiếm tay giỏi, nếu ngày nay Bình Giang vương cáo về thì thánh thượng biết trông cậy vào ai.
Mạnh Gia Linh cũng nói:
- Em tôi nói phải đó! Lão quốc trượng chớ nên từ chức. Còn tôi đây vẫn muốn từ chức đã lâu, nhưng thân phụ tôi nhiều lần gửi thư đến, chỉ khuyên tôi nên hết lòng báo đáp triều đình, bất tất phải vì cớ cha già mà từ chức. Tuy vậy mà dưới gối hai thân tôi chỉ có một đứa cháu gái thì lòng tôi sao yên. Hôm trước nội nhân tôi đã bàn định muốn trở về quê nhà, chi bằng ngày nay tôi cũng xin về nghỉ tạm một năm vậy.
Hùng Hiệu cười mà nói rằng:
- Ừ các người ai cũng nên cáo về cả, chỉ có một mình tôi không nên cáo về.
Mạnh Lệ Quân vương phi cũng cười mà nói với Hoàng Phủ Thiếu Hoa rằng:
- Cảnh ngộ mỗi người một khác, không thể giống nhau được. Nay thân huynh tôi đã muốn cáo về thì tôi cung xin cùng về Vân Nam một thể, hoặc một năm hay nửa năm rồi tôi sẽ quay sang Hồ Quảng, phu quân nghĩ thế nào?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Hễ Mạnh thượng thư được cáo về thì phu nhân theo về để thăm hai thân cũng hay. Nhưng còn Phi Loan thì làm thế nào?
Hùng Hiệu nói:
- Mạnh vương phi về Vân Nam thì còn điệt nữ cứ giao cho nhà tôi cũng được.
Hùng Hiệu nói chưa dứt lời thì Mạnh Gia Linh cả cười mà nói đùa rằng:
- Bình Giang vương thật khéo thu xếp! Định đem con dâu về nuôi, để sau này cho được giản tiện.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân cũng đều cả cười, Hùng Hiệu lại cười mà bảo rằng:
- Tôi nói thực thà, lấy lòng thành lo tính giúp anh em, không ngờ Mạnh thượng thư lại đem dạ nhỏ nhen mà nghi cho tôi vậy. Nhưng bây giờ tôi mới nghĩ ra, hoặc giả ông môi nhân chỉ sợ về sau này thiệt mát món tiền hoa hồng tạ lễ chăng!
Nói xong, mấy người lại cùng nhau cả cười.
Khi Hùng Hiệu và Mạnh Gia Linh về rồi, Hoàng Phủ Thiếu Hoa viết một bản tâu nói cha mẹ già yếu, vẫn muốn từ chức đã lâu, nay nhân có lời thái hậu, vậy xin triều đình rộng ơn mà cho cáo về, để giữ trọn ơn vũ lộ. Mạnh Lệ Quân cũng phụ thêm vào một bản tâu xin về Vân Nam để thăm hai thân. Lại xin thiên tử định ngôi Chiêu dương, phong Phi Giao làm quý phi, chứ không nên để có hai hoàng hậu.
Sáng hôm sau, Hoàng Phủ Thiếu Hoa vừa đem bản tâu vào dâng triều đình thì có Vệ Dũng Nga vương phi đến, Mạnh Lệ Quân vương phi vội vàng đón vào, pha trà mời uống, rồi hỏi:
- Chẳng hay có việc chi mà hôm nay chị quá bộ đến chơi sớm như thế này?
Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Tôi nghe nói Tương Vương dâng biểu từ chức rồi toàn gia cùng về quê nhà, lòng tôi lấy làm áy náy, vậy phải sang đây để bàn xem thế nào. Vợ chồng tôi cũng muốn cáo quan vể nghỉ đây.
Mạnh Lệ Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp rằng:
- Bình Giang vương là tay hùng tài võ lược, triều đình ngày nay chính đang trông cậy, không thể từ chức được. Vả hai hoàng hậu còn đang độ trẻ dại, chắc đâu không có lúc bất hòa, nhờ có chị ở đây để điều đình cho thì mới yên việc được. Em dẫu xin về điền lý, chỉ sợ tả hoàng hậu tính khí nhu nhược, mà hữu hoàng hậu lại giở thói cương cường chăng. Đã đành rằng Nga Hoàng, Nữ Anh hai người ngày nay coi nhau như một, nhưng chị cũng nên đề phòng trước mới được. Em đây vì lời dị nghị, lại nhân có thái hậu quá lo mà muốn cho cáo về thì em quyết không nên ở lại.
Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Nỗi khỗ tâm của em, chị đã hiểu thấu, mà chị đây cũng không phải có tham gì cái ngôi vương hầu. Từ khi con gái được lập làm hoàng hậu, lại càng thêm lo nghĩ. Dẫu trên nhờ có ơn che trùm của thái hậu nhưng việc đời họa phúc bất thường, nào biết thế nào. Chị vẫn muốn bảo Bình Giang vương cáo về đã lâu, nhưng lại không muốn phải xa cách con gái. Vả thái hậu dẫu tôn quý mà đối với chị vẫn coi như tình chị em. Gần gụi cùng nhau, lại có Tương Vương và em, ngày nay bỗng bỏ về tất cả, lòng chị đây kể sao xiết nỗi bồi hồi. Huống chi việc hôn sự của Hùng Khởi Thần chưa xong, mà nay tiểu thư lại theo về thì biết thu xếp làm sao cho ổn.
Chuyện trò hồi lâu thì Hoàng Phủ Thiếu Hoa ở trong triều ra, Vệ Dũng Nga và Mạnh Lệ Quân đón mà hỏi rằng:
- Thế nào, việc dâng biểu xin cáo có được không?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Thánh thượng xem xong bản tâu thì tức khắc truyền chém Đồ Man Hưng Phục, tôi nghĩ lại thương tình mà xin tha cho. Tôi tâu xin cáo về để phụng dưỡng hai thân, nhưng cố tâu hai ba lần thánh thượng mới ưng chuẩn cho được nghỉ tạm một năm. Lại truyền phải làm lễ thành hôn cho Triệu Câu kết duyên với Gia Tường công chúa, để khiến thái hậu được vui lòng. Quốc chính giao cho Lương thừa tướng , còn binh quyền thì giao cho Bình Giang vương.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi thứ ba
Ơn cúc dục khôn đền ơn tấc cỏ
Lòng nghĩa hiệp coi rẻ nghìn vàng (1)

Thời giời thấm thoát đã đến ngày mồng một tháng mười, hôm ấy mới là ngày cử hành đại lễ để phong Triệu Câu làm phò mã. Phò mã Triệu Câu trước bái tạ Thượng hoàng và Thái hậu, sau bái tạ Ôn phi và Mai phi. Hết thảy mọi người trong cung ai trông thấy Triệu Câu cũng đều khen ngợi rằng:
- Dung mạo Triệu Câu thật giống Mạnh Lệ Quân như đúc:
Thái hậu vui cười, nghoảnh lại bảo Ôn phi rằng:
- Bà Ôn phi ơi! Bà xem cháu tôi có xứng đôi với Gia Tường công chúa đó không?
Ôn phi quì mà tâu rằng:
- Muôn tâu Thái hậu! Thần thiếp xin cúi đầu bái tạ thâm ân của thái hậu đã rũ lòng thương Gia Tường công chúa mà kén phò mã cho. Phò mã nay văn tià võ lược, quả đã đáng mặt con nhà, Gia Tường công chúa được đẹp duyên với phò mã, thật là may mắn lắm thay. Cứ lấy dung mạo bề ngoài mà nói thì Gia Tường công chúa cũng không thể nào theo kịp.
Phò mã Triệu Câu sụp lại rồi xin lời huấn dụ. Thái hậu nói:
- Gia Tường công chúa vốn là người tính nết hiền thục thì cháu nên phải một lòng kính yêu. Còn Gia Tường công chúa kia đối với cha mẹ chồng, cũng nên phải giữ trọn đạo làm con dâu, chớ có cậy mình là kim chi ngọc diệp mà thất kính.
Thái hậu lại truyền nội giám đưa phò mã Triệu Câu vào bái yết tả hoàng hậu. Khi Triệu Câu vào tả cung thì Hùng hậu truyền miễn lễ, vì se mình, không thể ra tiếp kiến được. Triệu Câu lại lui ra sang hữu cung thì thấy rèm châu đã rũ, các cung nữ đứng sắp hàng hai bên, hình như có ý đợi Triệu Câu phò mã vào bái yết . Phò mã Triệu Câu thấy vậy có ý không bằng lòng, vì Phi Giao hoàng hậu là em, cớ sao lại bắt anh vào lạy. Triệu Câu bất đắc dĩ cũng phải sụp lạy mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Kẻ hạ thần là phò mã Triệu Câu vào bái yết.
Bỗng nghe phía trong rèm có tiếng oanh thỏ thẻ phán rằng:
- Triệu Câu thân huynh ơi! Em cách xa thân huynh mấy tháng nay vẫn lấy làm mong mỏi. Chắc ngày nay học nghiệp của thân huynh đã cao hơn trước. Trước kia thân huynh chỉ lo em tính nết cương cường, khó giữ trọn được nữ công và phụ đức. Ngày nay em đội ơn thánh thượng, được hầu hạ thượng hoàng và thái hậu, em tưởng cũng chưa có điều gì đã đến nỗi điếm nhục gia thanh, chẳng hay từ nay trở đi, thân huynh còn phải lo thay cho em nữa không? Xin thân huynh chỉ bảo cho biết.
Phò mã Triệu Câu lại tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Mấy lời kẻ hạ thần khuyên can thuở trước là muốn giữ cho trọn chức phận làm anh. Hoàng hậu cảm lời nói của kẻ hạ thần mà tu sửa thánh đức được trước sau như một thì chẳng những là hạnh phúc cho nước nhà, lại là hạnh phúc cho cả hoàng hậu nữa. Nếu hoàng hậu chỉ tạm dẹp vẻ uy nghiêm, giả bộ tu sức lể pháp thì mối lo của kẻ hạ thần cũng chưa lấy chi làm quá đáng vậy.
Phi Giao hoàng hậu nghe lời tâu, mặt đỏ bừng bừng, cau đôi mày liễu lại, rồi cười nhạt một tiếng mà phán rằng:
- Em xin tuân lời dạy. Nhưng thân huynh nên biết rằng muôn việc chẳng qua bởi trời, thí dụ như một mẹ sinh ra hai anh em ruột, nào ngờ đâu ngày nay em ngồi trên sập rồng để cho anh phải cúi đầu sụp lạy bao giờ. Thế mới biết người ta chống nhau với trời sao được. Thôi, ngày nay là ngày cát kỳ, thân huynh hãy lui ra.
Mã Thuận đứng phía ngoài, liền nói:
- Thôi, phò mã lui ra, hoàng hậu bước vào rồi!
Triệu Câu hầm hầm tức giận mà lui ra. Khi đến cửa cung, nội giám dắt một con ngựa ngựa ngọc câu mã, yên gấm tua vàng, nói với Triệu Câu rằng:
- Dạ dám bẩm phò mã! Thượng hoàng sai tôi dắt con ngựa này ra để phò mã cưỡi về phủ.
Phò mã Triệu Câu về đến trong phủ, đã thấy đuốc hoa trăm ngọn, sáng như sao sa, đỉnh trầm hương bay, nhà vàng đỏ ối, mấy tên nội giám đến báo trước là Gia Tường công chúa đã sắp tới, có ba vị hoàng thân đi hộ tống. Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe báo, vội vàng cùng các con ra đón. Bấy giờ Gia Tường công chúa đi một chiếc loan giá, cung nga thái nữ vây kín chung quanh. Kiệu hoa ghé đến trước thềm, rồi Doãn Thượng Khanh phu nhân cùng Nguyễn Long quang phu nhân vén màn mời công chúa xuống kiệu. Phò mã Triệu Câu mình mặc áo long bào, cùng Gia Tường công chúa đốt hương làm lễ tham bái thiên địa lại cùng giao bái, rồi cùng dắt nhau vào động phòng. Hai bà phu nhân đưa công chúa vào trong phòng tháo mũ cởi áo cho công chúa, bấy giờ mới lui ra.
Lại nói chuyện Đồ Man Hưng Phục nguyên là một đứa đại gian hùng. Gia tư giàu kể hàng trăm vạn, chỉ mong có một sự thăng quan tiến chức mà thôi. Nay làm ngự sử đã lâu năm mà chưa được thăng, vẫn đem lòng oán giận Lương thừa tướng và Doãn thừa tướng. Đồ Man Hưng Phục thấy nội giám Mã Thuận là người đắc sủng ở trong cung, mới lấy vàng ngọc giao kết với Mã Thuận để phàm trong hai cung có tin tức gì thì Mã Thuận lại thông báo cho Đồ Man Hưng Phục được tường. Đồ Man Hưng Phục dò biết Phi Giao hoàng hậu tính tình cương cường , vẫn lấy Mã Thuận làm tâm phúc, hơi tỏ ý còn e nệ có phụ huynh. Bởi vậy Đồ Man Hưng Phục tâu xin gia phong “Cửu Tích” cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa, tức là kế ly gián để khiến cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa phải về hưu đó.
Đồ Man Hưng Phục sinh được hai con trai; con trưởng tên gọi là Định Quốc, con thứ tên gọi là An Quốc. Hai con đều giỏi võ nghệ, lại đang dự chức trong bộ ngự lâm. Nhà sẵn có của cải, mới quảng giao cùng các thân sĩ hào hiệp. Bấy giờ chỉ có Lương Trấn Lân vốn biết Đồ Man Hưng Phục là đứa gian hùng, vẫn dặn Hoàng Phủ Thiếu Hoa không nên cho hai con hắn vào nơi cấm vệ, lại dùng hắn làm chức ngự sử, để hễ hắn tâu bậy thì tìm cách trị tội mà trừ bỏ đi. Đồ Man Hưng Phục thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Lương thừa tướng vẫn được triều đình tin dùng, cho nên phải nín lặng hơi tiếng trong bấy nhiêu năm, không dám nói câu gì cả. Bấy giờ giao thông được với Mã Thuận, dò biết ý vua Anh Tôn, mới dám ngang nhiên mà diện triết các quan đại thần như thế. Sau Đồ Man Hưng Phục thấy Phi Giao hoàng hậu không muốn cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa đứng tại trong triều, liền theo ý mà xin gia phong “Cửu Tích” , không ngờ thái hậu thánh minh, dẫu thuận cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa về hưu, nhưng lại truyền chỉ chém đưá gian nịnh. Đồ Man Hưng Phục vừa mừng vừa lo. Mừng là mừng Hoàng Phủ Thiếu Hoa đã về hưu không còn phải e sợ; lo là lo về nỗi suýt nữa thì uổng tính mệnh, may nhờ có thượng hoàng rộng ơn mà khoan xá cho, mới được cung chức như xưa. Người vợ chính thức của Đồ Man Hưng Phục tạ thế đã lâu, bây giờ chỉ có hai người thiếp; một người tên gọi Ngô Ngọc Phong; một người tên gọi là Mã Mị Nương. Mã Mị Nương nhân là họ Mã mới xin nhận làm con gái nuôi của Mã Thuận, để đi lại cho thêm thân mật. Đồ Man Hưng Phục là đứa bất lương có ý muốn chuyên quyền, chỉ ngày đêm bày mưu lập kế, muốn bỏ Lương thừa tướng và Doãn thừa tướng. Đồ Man Hưng Phục đem lời sàm báng nói với Phi Giao hoàng hậu, khiến cho Phi Giao hoàng hậu đối với Lương Doãn có ý không bằng lòng.
Lại nói chuyện Gia Tường công chúa cách mấy hôm sau đang cùng Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa nói chuyện ở Linh Phượng cung thì bỗng thấy phò mã Triệu Câu vén rèm bưóc vào mà bảo rằng:
- Có tin nhà ở Hồ Quảng đến, nói tổ mẫu bị cảm từ ngày mười sáu đến hai mươi sáu mà bệnh chưa khỏi, nên Tô mẫu và Lưu mẫu sai người phi báo cho ta biết.
Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa đều giật mình kinh sợ cùng nhau sang Võ Thái cung để hỏi Mạnh Lệ Quân. Bấy giờ Mạnh Lệ Quân vương phi đang ngồi một mình nức nở khóc thầm, trông thấy Vệ Dũng Nga vương phi vào vội vàng đứng dậy mà bảo rằng:
- Em xin chào chị! Chẳng hay chị đã biết tin nhà chưa?
Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Đã! Chẳng hay người nhà có nói bệnh nặng nhẹ thế nào không? Và trong thư hai phu nhân nói thế nào?
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Cứ lời trong thư nói thì bệnh tình hơi nặng.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa vội vàng viết một bản tâu gọi viên đường quan là Cao Vinh Phúc bảo đem vào giao cho nội giám Lã Phúc đệ dâng thiên tử, còn mình thì sửa soạn đồ hành lý để sắp trở về quê nhà. Phi Loan quận chúa nắm lấy áo Mạnh Lệ Quân rồi nức nở khóc rằng:
- Thân mẫu ơi! Xin thân mẫu thế nào cũng cho con về, tổ mẫu bệnh nguy, con muốn được trông mặt, thân mẫu nỡ lòng nào mà bỏ con ở lại đây.
Mạnh Lệ Quân ôm lấy Phi Loan quận chúa rồi khóc mà bảo rằng:
- Phi Loan con ơi! Con chớ nên oán trách cha mẹ. Cha mẹ há muốn để ba anh em con ở lại hay sao! Chỉ vì đường thuỷ chậm trễ, mà đườngbộ thì núi rừng hiểm trở, các con không thể chịu được sự dầu dãi nắng mưa, vậy cha mẹ bất đắc dĩ phải gởi các con ở với cô mẫu, các con chớ nên phàn nàn. Nhờ trời, tổ mẫu được bình phục như thường, sau này ta sẽ cho đón các con về nhà cũng được. Con nên biết rằng lòng mẹ đau như dao cắt, nếu con không nghe lời mẹ thì sao cho phải. Con vốn là một người hiếu thuận, vậy thì chấp kính cũng phải có khi tòng quyền.
Vệ Dũng Nga vương phi cũng gạt nước mắt mà bảo Phi Loan quận chúa rằng:
- Ta cùng con, bề ngoài dẫu là mẹ chồng con dâu, nhưng tổ mẫu con khi xưa coi ta như con đẻ, không bao giờ ta dám quên ơn. Chỉ hiềm một nỗi phu quân ta còn vướng mình ở chốn triều đường, thành ra ta được về thăm tổ mẫu. Nay xảy gặp sự khó khăn này thì con nên tạm ở tại nhà ta, để cho cha mẹ trở lại quê nhà, chớ nên khóc lóc mà làm đau lòng cha mẹ vậy. Phi Loan con ơi! Ta cũng coi con như con đẻ, hà tất con phải e nệ nổi gì. Con cứ yên lòng sang năm ta cũng trở về nhà, bấy giờ sẽ đưa con về một thể.
Nói dứt lời thì Gia Tường chánh cung đến, Mạnh Lệ Quân vương phi liền thuận chuyện đầu đuôi cho công chúa nghe. Gia Tường công chúa nói:
- Nếu vậy thì hai thân nên tức khắc trở về quê nhà, chớ có chậm trễ. Còn việc tâu với thái hậu, con thiết tưởng không nên, vì thái hậu nghe biết tin này thì sự phiền não kể sao cho xiết. Cứ như ý con thiết nghĩ, chỉ nên nói là vương gia bị bệnh, xin cáo về nhà nửa năm để chữa thuốc, bất tất tâu rõ làm chi.
Sáng hôm sau, nội giám là Lã Phúc phụng mệnh thượng hoàng đến để truyền chỉ cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa biết rằng:
- Thái vương phi bị bệnh, mà Tương Vương tâu xin cáo về nuôi mẹ thật đáng thương. Vậy cho do dịch ( là đi đến cung trạm nào, sẽ được phép bắt lính trạm phải đuổi theo hầu) lên đường ngay hôm nay, hễ Thái vương phi khỏi bệnh thì sang đầu năm sau, sẽ cùng tiến kinh một thể.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân lạy tạ thánh ân. Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại căn dặn riêng Lã Phúc rằng:
- Hễ thái hậu có hỏi đến thì nhà ngươi cứ tâu là ta có bệnh, vậy phải cáo về ít lâu để chữa thuốc, chớ nên tâu rõ sự thực, sợ thái hậu lo phiền chăng. Nhà ngươi cũng đừng nói cho hữu hoàng hậu ( tức Phi Giao) biết, chỉ nên khuyên hữu hoàng hậu giữ lấy đức hiền hòa, để bảo toàn danh dự cho nhà Hoàng Phủ.
Lã Phúc nói:
- Xin vương gia và vương phi cứ yên tâm. Chỉ cầu sao cho Thái vương phi chóng được bình phục như thường thì phò mã ở đây mới khỏi ái náy lo ngại vậy.
Lã Phúc cáo từ lui ra. Bấy giờ có Doãn Thượng Khanh và Mạnh Gia Linh đến hỏi thăm, Hoàng Phủ Thiếu Hoa vội vàng ra nghiênh tiếp. Doãn Thượng Khanh và Mạnh Gia Linh thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa âu sầu buồn bã, đều kiếm lời khuyên giải. Người nhà Hoàng Phủ đã sắp sẵn ngựa xe, để Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Mạnh Lệ Quân ra đi. Phi Loan quận chúa nắm lấy vạt áo mà khóc rằng:
- Cha mẹ ơi! Cha mẹ nỡ lòng nào mà bỏ con ở lại đây.
Nói xong, lại nức nở khóc hoài, Hoàng Phủ Thiếu Hoa bất đắc dĩ phải nổi giận quát mắng, rồi dứt áo ra đi. Gia Tường công chúa và Vệ Dũng Nga phải ôm lấy Phi Loan quận chúa mà dắt vào trong nhà. Hoàng Phủ Thiếu Hoa đi ra khỏi cửa thành được độ nửa dặm thì bỗng nghe phía sau có người cưỡi ngựa đuổi theo mà gọi rằng:
- Hoàng Phủ hiền đệ ơi! Hãy thư thả chờ ngu huynh với!
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghoảnh lại, trông thấy Hùng Hiệu vội vàng xuống xe mà bảo rằng:
- Hiền huynh ơi! Thân mẫu em bị bệnh rất nguy, lòng em thật đau như dao cắt, chỉ sợ chậm trễ, cho nên không kịp đến cáo từ với hiền huynh. Em đã nhờ gia tỷ nói hộ, cớ sao hiền huynh lại còn vội vàng đuổi theo.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nhìn về phía sau, còn thấy có toán quân sắp tới mới hỏi Hùng Hiệu rằng:
- Còn toán quân nào đi theo sau thế kia?
Hùng Hiệu nói:
- Có thượng hoàng và thánh thượng ra tiễn đó!
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói tức khắc truyền gia tướng báo Mạnh Lệ Quân xuống xe để cùng nhau cung nghênh thánh giá. Khi thượng hoàng và vua Anh Tôn tới nơi, Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Mạnh Lệ Quân đều sụp lạy mà tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng và thánh thượng! Xin xá tử tội cho kẻ hạ thần.
Thượng hoàng xuống kiệu, rồi đỡ Hoàng Phủ Thiếu Hoa dậy mà bảo rằng:
- Hoàng Phủ quốc cữu ơi! Ngày nay ta không thể lưu quốc cữu ở lại được. Nhưng vua tôi cùng nhau trong hai mươi năm trời, thật là nghĩa nặng ân sâu, quốc cữu chớ nên vui thú lâm tuyền mà không đoái nghĩ đến triều đình vậy. Thiên tử ngày nay dẫu rằng nhân hiếu, nhưng vốn là người nhu nhược, ta chỉ trông có quốc cữu phù tá cho.. Một tay Bình Giang vương không thể coi sóc được cả quốc chính. Mấy lời gắn bó, xin quốc cữu ghi lòng, qua đầu năm sau, thế nào cũng lại tiến kinh giúp thiên tử.
Nói xong truyền nội giám lấy rượu, rót ba chén rượu tiễn Hoàng Phủ Thiếu Hoa, lại rót ba chén rượu ban cho Mạnh Lệ Quân. Mạnh Lệ Quân lạy tạ. Vua Anh Tôn cũng rót mấy chén rượu để tiễn Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân, lại thay lời Phi Giao hoàng hậu chúc cho hai thân thượng lộ được bình an.
Thượng hoàng lại cầm lấy tay Hoàng Phủ Thiếu Hoa mà dặn rằng:
- Quốc cữu ơi! Tình vua tôi cùng nhau, khác nào như tay chân, khi vui có nhau, khi buồn có nhau. Ngày nay quốc cữu về thăm hai thân, ta không dám ngăn trở, nhưng xin quốc cữu chớ quên mấy lời tống biệt hôm nay. Bây giờ ta lại lui về, để cho quốc cữu đi, kẻo đang việc vội.
Nói xong truyền nội giám quay kiệu về thành. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân từ đấy theo đường thẳng dong chẳng quản dầm sương dãi gió. Một ngày một đêm đi được ba trăm dặm. Mạnh Lệ Quân mặt hoa cũng tiều tụy khác thường, dẫu rằng từ năm trẻ thơ, đã từng quen sự phong trần lưu lạc nhưng bấy lâu an hưởng phú quý, mà ngày nay bỗng gặp nỗi vất vả này thì trong lòng cũng không khỏi xót thương. Tuy vậy mà hai vợ chồng vẫn phải cố gượng ăn uống để giữ lấy sức khỏe. Đi trong nửa tháng mới tới Hồ Quảng, không kịp sai người báo trước, tức khắc thay ngựa để về cho mau. Khi về gần tới vương phủ, đã trông thấy một lá cờ trắng cắm ở trước cửa, gia tướng tấp nập, ai nấy đều đội khăn trắng. Hoàng Phủ Thiếu Hoa ngất người ngã xuống, người nhà vội vàng vực vào, lấy nước gừng cứu chữa. Mạnh Lệ Quân tới nơi trông thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa nằm lăn ra đấy, gọi mãi chưa tỉnh, mới ứa hai hàng nước mắt, rồi bảo nữ tỳ đem thuốc “An hồn định phách” đổ cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa.
Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc bấy giờ đang mặc đồ tang ở trong nhà chạy ra, trông thấy Mạnh Lệ Quân đều òa lên khóc, Mạnh Lệ Quân vẫy tay bảo nín khóc, rồi hết sức đổ thuốc để cứu chữa cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa. Bỗng thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa miệng chảy giãi trắng, lại thổ ra huyết, Mạnh Lệ Quân cùng Tô, Lưu hai phu nhân đều run sợ không biết dường nào, chỉ xùm lại nắm lấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa rồi liền thanh mà gọi. Gọi trong hồi lâu, mới thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa thở dài một tiếng và hơi cựa quậy, lại ứa nước mắt khóc rồi nói:
- Thân mẫu ơi!...
Mạnh Lệ Quân cho uống mấy viên thuốc nữa thì bấy giờ mới hoàn hồn mà nói rõ được. Hoàng Phủ Thiếu Hoa đứng dậy, không kịp hỏi Tô, Lưu hai phu nhân, liền đi thẳng đến trước linh sàn thờ Thái vương phi mà vật mình lăn khóc, Mạnh Lệ Quân cũng quì khóc ở trước linh sàng.
Tô, Lưu hai phu nhân kiếm lời khuyên can Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân để khiến cho đừng quá thương khóc. Tô, Lưu hai phu nhân nói:
- Phu quân và chị chớ nên khóc nữa. Lão vương gia ngày nay cũng đang đau yếu, hằng ngày chỉ mong đợi phu quân và chị. Nay phu quân và chị nên thay đổi đồ tang phục rồi vào chào lão vương gia, để cho vương gia được vui lòng.
Bấy giờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân đều thay áo bận đồ tang phục, cùng nhau bước vào nhà trong để lạy chào lão vương gia (tức Hoàng Phủ Kính). Hai gia tướng cuốn rèm châu lên, Hoàng Phủ Kính đang ngồi ở trên giường, trông thấy Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân bước vào, mừng rỡ xiết bao, nhưng lại thương xót thay cho Thái vương phi đã từ trần, khiến mình luống một thân vò võ. Hoàng Phủ Kính nửa mừng nửa thương, chưa biết nói câu gì thì Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân đã sụp xuống lạy, rồi khóc mà thưa rằng:
- Thưa thân phụ! Đứa con bất hiếu này ngày nay được trông thấy thân phụ thật lấy làm mừng. Nhưng nghĩ đến sự thân mẫu con từ trần mà chúng con không được đứng bên trong khi khâm liệm thì tội thâm trọng ấy để đâu cho hết. Nay chúng con cúi xin thân phụ bảo dưỡng quý thể, khiến cho chúng con được hầu hạ ở bên cạnh mình mà hàng năm dâng chén rượu thọ vậy.
Hoàng Phủ Kính gạt tay mà bảo rằng:
- Các con chớ lấy làm phiền não. Từ cổ đến nay, anh hùng hào kiệt ai là người không chết. Người ta sống lão chẳng qua trong một trăm năm, rồi trước sau cũng có một lần. Ngày nay các con đã về đây, ta lấy làm vui vẻ lắm, nhưng ta nói để các con biết: Nhà ta đây một nhà hai hoàng hậu, mấy đời đều phing vương, thế thì phúc trạch quá thịnh, cũng là một điều đáng lo. Sau này dẫu hết tang phục, con cũng đừng làm quan nữa, nên ở nhà mà vui thú điền viên, dạy bảo con cái, chớ có mong tưởng những sự cao xa. Các con nên biết rằng thân mẫu con chính vì nhớ con gái mà thành bệnh. Có con gả chồng xa, cũng đã khổ thay, huống chi tiến vào hoàng cung thì thật chẳng còn bao giờ được gặp mặt. Trưởng tôn là phò mã Triệu Câu nên khuyên nó phải tận trung báo quốc. Cái gương ngoại thích như họ Mã và họ Đặng thuở xưa, nghĩ cũng hối hận.Một đời ta không có điều gì ân hận, chỉ hiềm về nỗi quốc ân chưa chút báo đền. Ơn triều đình to như trời bể, con cháu tất phải ghi lòng. Ta sở dĩ còn lưu lại đến ngày nay là đợi các về đây đó. Các con đã về thế là ta được yên lòng.
Nói xong truyền cho người nhà sắp xếp sẵn nước hương thang để tắm rửa. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân đều ôm lấy mà khóc rằng:
- Thân phụ ơi! Thân phụ đợi con, cho con xin theo đi.
Hoàng Phủ lại cười mà bảo rằng:
- Các con chớ như thế! Số mệnh bởi trời, không ai có thể thay được. Thôi các con buông ta ra. Một đời ta thật không có tội lỗi gì. Kìa kìa, quan quân đã tới đón ta đó.
Mạnh Lệ Quân bất đắc dĩ cũng phải gạt nước mắt mà khuyên Hoàng Phủ Thiếu Hoa rằng:
- Thôi, giờ đăng tiên của lão vương gia đã đến, phu quân cũng chớ nên ngăn trở.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa buông tay ra, người nhà đem nước hương thang đến. Mạnh Lệ Quân Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc đều lui ra cả. Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng mấy người con xúm lại tắm rửa cho Hoàng Phủ Kính. Khi tắm rửa xong Hoàng Phủ Kính lại mũ áo chỉnh tề, đốt hương viết tờ biểu, viết thành ba bản, một bản dâng thượng hoàng, một bản dâng thái hậu và một bản dâng vua Anh Tôn.
Hoàng Phủ Kính cầm ba bản tâu giao cho Hoàng Phủ Thiếu Hoa, rồi lại gọi ba người con dâu đến mà dặn bảo rằng:
- Mạnh Lệ Quân con ơi! Nhà ta đây nhờ con mà giãi được nỗi oan khổ. Con lại phù tá triều đình, làm nên nhiều công trạng. Cái tài cao tiết lạ của con, chẳng những trong bọn nữ nhi không ai sánh kịp, mà xem ngay trong bọn tu mi, cũng hiếm người được như con vậy. Dẫu năm xưa con có nhẫn tâm mà kháng nghị cùng ta ở chốn triều đường, nhưng sau này con làm dâu hai mươi năm, giữ được đức hiền hòa, cũng đủ chuộc lại lỗi trước. Còn Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc thì cái trinh tâm khổ tiết của hai con thật đã đáng khen. Hai con cũng một lòng hiếu kính cùng cha mẹ chồng, lại biết chiều chồng. Trong nửa năm trời nay, theo vợ chồng ta về quê nhà, hầu hạ thuốc thang, thức khuya dậy sớm, đàn bà mà được như hai con, tưởng cũng là hiếm có lắm thay.
Hoàng Phủ Kính lại dặn Hoàng Phủ Thiếu Hoa rằng:
- Thiếu Hoa con ơi! Con được ba người vợ hiền như thế, tưởng đã thỏa lòng, sau này cũng chớ nên nạp sủng làm chi nữa.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa khóc mà thưa rằng:
- Con xin vâng lời thân phụ!
Hoàng Phủ Kính cầm tay cháu bé mà dặn bảo rằng:
- Các cháu ơi! Chẳng hay các cháu có biết là đêm nay ông sẽ từ trần không?
Nói xong lại hỏi:
- Bây giờ là bao giờ?
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Bây giờ mới là canh một.
Hoàng Phủ Kính nói:
- Nếu cậy còn sớm, ta hãy nằm nghĩ một chút.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa bưng chén sâm thang mời uống, Hoàng Phủ Kính cười mà gạt đi không uống. Hoàng Phủ Thiếu Hoa và ba vợ đứng ở cạnh giường. Nữ tỳ vào bẩm rằng:
- Các đồ khâm kiệm đã sửa soạn đủ cả rồi, xin mời vương gia và vương phi ra coi lại.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa xua tay không trả lời. Mạnh Lệ Quân bảo Tô, Lưu hai phu nhân rằng:
- Chúng tôi mới về, không thể rời bên thân phụ, vậy thì hai chị nên ra coi.
Bấy giờ Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc bất đắc dĩ phải ra trông nom liệu lý các đồ khâm liệm. Thân bằng cố hữu cùng các quan liêu đến hỏi thăm rất đông, Hoàng Phủ Thiếu Hoa không tiếp ai cả chỉ đứng luôn ở bên cạnh giường Hoàng Phủ Kính mà nước mắt đầm đìa. Mạnh Lệ Quân thì dạ đau như cắt, người nhà bưng nước trà đến, cũng không hề nhấp môi. Mãi đến cuối canh ba, Hoàng Phủ Kính bỗng ngồi dậy rồi chắp tay mà bảo rằng:
- Bây giờ đã tới giơ rồi, các con cháu ở lại ta về chầu trời!
Nói xong, liền hai tay buông xuôi mà nằm xuống giường hai mắt thiu thiu nhắm lại. Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng ba vị phu nhân và con cái họ hàng đều xúm quanh lại mà khóc. Hoàng Phủ Thiếu Hoa thì trong suốt bảy ngày, không ăn uống một tí gì, mặt mũi âu sầu, thân thể gầy võ. Ba phu nhân hết sức khuyên giải, bấy giờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa mới chịu nhấp một lưng cháo, cả ngày chỉ kêu gào khóc lóc đến nỗi khan cả tiếng mà chẳng nói ra hơi. đến ngày cất đám Hoàng Phủ Kính, nghi tiết cũng theo cách giản dị, không bày vẽ những sự phiền văn. Hoàng Phủ Thiếu Hoa chẳng hỏi chi đến việc nhà, sai người làm nhà tại bên phần mộ mà ở để được gần gũi cha mẹ. Mạnh Lệ Quân tự nghĩ mình chưa được trọn đạo làm dâu, cũng xin theo Hoàng Phủ Thiếu Hoa ra ở mộ. Tô, Lưu hai phu nhân còn phải trông nom việc nhà, nhưng việc gì cũng tất bẩm mệnh Mạnh Lệ Quân rồi mới thi hành. Mấy tờ biểu tâu giao cho Lã Phúc đem về để dâng triều đình.
Phi Giao hoàng hậu từ khi vào cung một lòng kính thuận, Hùng hậu qua tin, giao hết quyền chính trong cung cho. Phi Giao hoàng hậu lại có tài, bao nhiêu công việc trong cung, chỉ trong chớp mắt là xử đoán xong ngay. Hùng hậu vốn tính ưa tĩnh, chỉ thích ngâm thơ đọc sử, nhờ có Phi Giao hoàng hậu xử đoán hộ thì lại lấy làm vui lòng. Phi Giao hoàng hậu lúc đầu xử đoán việc gì cũng tâu qua Hùng hậu rồi mới thi hành, dẫu Hùng hậu cũng không ra tới nơi, nhưng lễ nghi vẫn giữ như trước, không ngờ từ khi Hoàng Phủ Thiếu Hoa và Mạnh Lệ Quân về quê nhà rồi thì Phi Giao hoàng hậu không bẩm mệnh Hùng hậu nữa. Nơi tả cung kia, chẳng những vua Anh Tôn không hề giáng lâm, mà Phi Giao hoàng hậu thoái thác không bước chân đến bao giờ. Tả cung ngắt như tờ, mà hữu cung thì âm nhạc ríu rít, ngày đêm vui vẻ, các cung nữ đều lấy việc ấy làm căm tức, thường tâu với Hùng hậu.
Hùng hậu nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi phán rằng:
- Các con nói có lẽ phải. Nhưng quyền chính trong cung bấy lâu nay vẫn giao phó cho hữu hoàng hậu, chẳng lẽ ngày nay ta biết nói thế nào.
Trong bọn cung nữ có một người tên gọi: Dương Nguyệt Anh nói:
- Muôn tâu tả hoàng hậu! Có khó chi việc ấy! Xin hoàng hậu cứ bảo hữu hoàng hậu: “Bấy lâu chị để phiền lụy cho em, lòng chị thật lấy làm áy náy không yên, vậy ngày nay hai chị em ta lại nên cùng nhau xử đoán”, như thế thì thiết tưởng hữu hoàng hậu cũng không thể trái lời được.
Lại có một người tên gọi là Trương Xảo Nhi cũng nói:
- Muôn tâu ta hoàng hậu! Xin hoàng hậu cứ đòi lại quyền chính, chớ có ngại phiền, về sau đã có chúng con xin tận tâm giúp đỡ.
Hùng hậu nghe nói gật đầu. Qua ngày hôm sau, truyền sắp kiệu đi sang hữu cung, các nội giám và cung nữ đều lấy làm mừng rỡ. Khi sang tới nơi thì Phi Giao hoàng hậu đã hiểu ý, vội vàng chạy ra nghênh tiếp. Phi Giao hoàng hậu nói:
- Muôn tâu chánh cung hoàng hậu! Bấy lâu nay thần thiếp chưa kịp sang bái yết, mà nay ngọc giá lại tới đây, thế là thần thiếp đắc tội nhiều lắm vậy.
Nói xong, truyền cung nữ đỡ Hùng hậu xuống kiệu, rồi mời vào trong cung. Phi Giao hoàng hậu nhường Hùng hậu đi trưóoc mà đi theo sau. Khi vào trong cung, mời Hùng hậu ngồi trên, lại sụp lạy hai lạy, làm lễ triều kiến. Hùng hậu vội vàng đỡ dậy mà bảo rằng:
- Hiền muội ơi! Chẳng hay thiên tử độ này bận gì mà đã nửa tháng nay không tới tả cung, vì thế chị phải sang đây để muốn vấn an cùng thiên tử.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói, cau mày mà đáp rằng:
- Muông tâu hoàng hậu! Chẳng lẽ hoàng hậu lại chưa biết hay sao! Từ khi thân phụ thần thiếp trở về quê nhà, quốc chính bề bộn, Lương thừa tướng và Doãn thừa tướng không thể trông nom hết, thánh thượng phải tuân thủ phê án, có khi cả ngày không kịp ngự thiện. Đã đành rằng: “Nhất nhật vạn cơ ( là một ngày muôn việc) làm thiên tử ai cũng như thế, nhưng thánh thượng vốn người yếu đuối, vậy phải tĩnh dưỡng ở nơi thiên điện, mà tả cung và hữu cung đều chẳng hỏi chi. Nếu hoàng hậu có lòng tưởng nhớ long nhan thì sau không sai người thỉnh đến. Thần thiếp độ này cũng tưởng nhớ tổ phụ và tổ mẫu mà chẳng thiết ăn uống chi, nay nhân gặp hoàng hậu quá bộ tới đây, xin mời hoàng hậu ở lại ngự thiện, cho thần thiếp được hầu chuyện.
Nói xong, truyền chỉ cho nội giám sửa soạn ngự thiện. Phi Giao hoàng hậu nói năng ngọt ngào, làm cho Hùng hậu cũng phải tươi cười vui vẻ. Các cung nữ theo hầu đều đưa mắt giục Hùng hậu nói đến việc đòi lại quyền chính. Hùng hậu bất đắc dĩ mới nói:
- Hiền muội ơi! Hôm nay chị tới đây, một là định vấn an cùng thánh thượng; hai là bấy lâu nay chị giao phó hết công việc cho em, mà chị an hưởng thanh nhàn thì thiết tưởng sao cho phải lẽ. Vậy lòng chị áy náy mà lại muốn cùng em cùng xử đoán công việc trong cung.
Phi Giao hoàng hậu nghe lời nói, liền cười nhạt mấy tiếng, rồi nói:
- Nếu vậy thì lạ thật! Quả nhiên đúng như lời thánh thượng đã nói. Thánh thượng bảo với thần thiếp rằng:
“ Nên giao lại quyền chính đi là hơn, kẻo tất có kẻ buông lời sàm báng mà hoàng hậu lại sinh lòng nghi kỵ.” Thần thiếp trộm thấy hoàng hậu tính vốn nhân từ, lại ưa tĩnh mịch cho nên mới không quả công lao, mà thức khuya dậy sớm để đỡ chút khó nhọc cho hoàng hậu, khác nào như đạo thần tử đối với quân thượng vậy. Không ngờ hoàng hậu ngày nay lại có câu nói ấy. Hoàng hậu nguyên là người có lòng khoan thứ, vậy thần thiếp xin cứ thẳng mà giải bày. Bây giờ như thế này thì thần thiếp đối với thánh thượng, không biết nói thế nào cho được. Việc này tất có kẻ sàm báng, nó tâu với hoàng hậu, vu cho thần thiếp có lòng phản bạn mà vì hoàng hậu bày mưu lập kế đó thôi. Hoàng hậu ơi! Thần thiếp cùng hoàng hậu, há phải là người ở đâu. Hai nhà từ trước đến nay, vẫn thân ái liên kết như một, cũng tưởng rằng chị em cùng thờ một vị minh chủ, bắt chước như Nga Hoàng và Nữ Anh thuở xưa. Nếu thần thiếp còng chút lương tâm, khi nào lại dám khuynh phúc hoàng hậu. Ai ngờ có kẻ tiểu nhân buông lời sàm báng, ngày nay dẫu rằng trăm miệng, cũng khó giãi tỏ được oan tình. Thôi thì thần thiếp xin đập đầu mà chết ở trước mặt hoàng hậu, trước là tạ ơn của thái hậu, sau là tại lòng trung ái của thánh thượng đã biết trưóc mà chỉ bảo cho.
Phi Giao hoàng hậu vừa nói vừa ứa hai hàng nước mắt xuống, lại đứng dậy tháo bỏ các đồ châu ngọc trang sức ra, khiến cho Hùng hậu không còn hồn vía nào nữa, vội vàng ôm lấy Phi Giao hoàng hậu mà can ngăn. Hùng hậu nói:
- Hiền muội ơi! Chị có lòng nào mà nghi ngại em đâu, xin em chớ đem việc này mà tâu với thánh thượng. Từ nay trở đi, hai chị em ta một lòng hòa hiếu, cùng thờ thánh quân. Hiền muội bất tất lại nói đến sự trả lại quyền chính nữa!
Phi Giao hoàng hậu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lấy tay gạt nước mắt mà đáp rằng:
- Nếu hoàng hậu muốn xóa việc hôm nay, không muốn cho thần thiếp nói đến thì hoàng hậu nên phải nói rõ căn nguyên xem ai là người bày mưu lập kế mà muốn khiến cho hai chị em ta phải ly gián vậy.
Hùng hậu tính khí nhu nhược, lại thấy Phi Giao hoàng hậu nước mắt đầm đìa , chỉ sợ Phi Giao hoàng hậu lại nói đến tai thái hậu và thánh thượng thì mình không khỏi mang tiếng là người ghen tuông chăng, nên bất đắc dĩ mà phài nói tên hai người cung nữ là Dương Nguyệt Anh và Trương Xảo Nhi. Phi Giao hoàng hậu nghe nói , liền quay đầu lại mà hỏi rằng:
- Trực nhật quan đâu?
Trực nhật quan quì tâu:
- Muôn tâu hữu hoàng hậu! Kẻ hạ thần là trực nhật quan tên gọi là Uông Kim đây!
Phi Giao hoàng hậu nói :
- Nhà ngươi đem hai đứa Dương Nguyệt Anh và Trương Xảo Nhi mà căng xác nó ra, đánh cho bốn chục roi đòn, rồi sau sẽ tâu thánh thượng trảm thủ chúng nó.
Trực nhựt quan tuân lệnh, tức khắc cùng nội giám lôi Dương Nguyệt Anh và .Trương Xảo Nhi ra căn nọc giữa sân, rồi đánh. Bấy giờ hai tên cung nữ ấy kêu khóc ầm ĩ, thật là đào hoen quoẹn má liễu tan tác mày.
Dương Nguyệt Anh khóc mà kêu rằng:
- Chánh cung hoàng hậu ơi! Tiện tỳ chúng tôi vì lòng trung mà trần thuyết, cớ sao hôm nay hoàng hậu lại nói với Hoàng Phủ nương nương để hại mạnh tiện tỳ này. Còn Hoàng Phủ nương nương xin người mở lượng hải hà mà khoan thứ cho hai tiện tỳ chúng tôi. Chúng tôi xin cầu nguyện cho nương nương chóng sinh quý tử.
Trương Xảo Nhi cười mà bảo Dương Nguyệt Anh rằng:
- Chị Dương Nguyệt Anh ơi! Chị sợ đau lắm hay sao! Trước sau chẳng qua cũng một lần chết! Ta chỉ tiếc thay cho bà tả hoàng hậu, thật là một người si ngốc vậy.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói, càng thêm tức giận lại thét đánh luôn, Hùng hậu vốn tính nhân từ, từ khi vào cung chưa trông thấy những sự đánh đập như thế bao giờ. Nay thấy hai tên cung nữ bị đánh, máu dây thịt nát thì cũng có lòng thương xót mà không dám nói ra. Khi đánh đủ bốn chục roi, nội giám lôi hai tên cung nữ ra khỏi rồi, Phi Giao hoàng hậu mới tươi cười mà nói với Hùng hậu rằng:
- Muôn tâu chánh cung hoàng hậu! Những đứa gian ác này quyết không nên dung thứ, vì chúng hay dùng kế ly gián, để làm cho chị em cốt nhục người ta nghi ngờ nhau. Ngày nay nếu không trừng trị một cách rất nghiêm thì về sau chúng lại còn bày ra lắm điều này tiếng nọ. Nếu hoàng hậu nghi cho thần thiếp có lòng nào thì chẳng thà thiếp xin chịu tội với hoàng hậu.
Nói xong, liền quì ở trước mặt Hùng hậu mà tâu rằng:
- Thần thiếp xin cam chịu tội rất nặng.
Hùng hậu bấy giờ luống cuống không biết làm thế nào, mới cúi xuống lấy hai tay đỡ Phi Giao hoàng hậu dậy mà bảo rằng:
- Hiền muội ơi! Chị đã biết lỗi rồi, thôi em đứng dậy. Từ đây trở đi, hai chị em ta sẽ coi nhau như một, không còn có điều gì nghi ngờ. Dẫu chị có sai lầm, em cũng nên chu toàn cho chị.
Phi Giao hoàng hậu tức khắc truyền gọi hai người cung nữ người tên gọi Bàng Nguyệt tố và một người tên gọi là Lý Hoa Quyên. Bàng Nguyệt Tố và Lý Hoa Quyên cùng nhau vào yết kiến. Phi Giao hoàng hậu trỏ mà nói với Hùng hậu rằng:
- Muôn tâu chánh cung hoàng hậu! Con Bàng Nguyệt Tố và con Lý Hoa Quyên này vốn người cẩn thận, xin hoàng hậu cho thay vào hai tên cung nữ kia.
Phi Giao hoàng hậu lại dặn Bàng Nguyệt Tố và Lý Hoa Quyên rằng:
- Hai con phải một lòng cẩn thận, hầu hạ chánh cung hoàng hậu đây, cũng như khi ở trước mặt ta vậy. Nếu hai con dám lười biếng hỗn hào, ta sẽ lấy đầu đi đó.
Hai tên cung nữ lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Hai tiện tỳ chúng tôi xin tuân lệnh.
Nói xong liền đến đứng ở bên cạnh Hùng hậu. Phi Giao hoàng hậu lại truyền bảo các cung nữ và các nội giám rằng:
- Việc Dương Nguyệt Anh và Trương Xảo Nhi bị trọng phạt vừa rồi, các ngươi đều được mắt trông thấy đó. Dẫu chánh cung hoàng hậu đây là người nhân từ, nhưng các ngươi cũng nên phải một lòng cẩn thận, chớ có đem lời sàm báng mà ly gián hai cung. Hễ đứa nào trái lệnh thì ta sẽ tâu thái hậu lấy đầu đi, quyết không khi nào khoan thứ được.
Các cung nữ cùng các nội giám đồng thanh mà tâu rằng:
- Xin tuân lệnh!
Phi Giao hoàng hậu lại đổi sắc mặt rồi tươi cười mà nói với Hùng hậu rằng:
- Những đứa tiểu nhân này, chúng thường hay đặt điều bịa chuyện. Chẳng những chốn hoàng cung này như thế, dẫu các nhà sĩ thứ mà vợ chồng sinh ghen tuông, chị em dâu bất hòa, anh em ruột bất mục, hoặc là đích thứ tranh cạnh nhau, cũng đều bởi những đứa tiểu nhân xúc xiểm. Nếu ta không nghiêm trị trước thì chúng cứ dần dà mỗi khi nói một câu, chẳng những thần thiếp đắc tội mà thánh đức của chánh cung hoàng hậu cũng khó lòng giữ trọn thủy chung vậy.
Hùng hậu nghe nói, có ý hổ thẹn , rồi đáp rằng:
- Từ nay chị xin vâng lời.
Bấy giờ các nội giám dã bày ngự thiện. Phi Giao hoàng hậu mời Hùng hậu ngồi vào dự tiệc. Trong khi ngự tiệc, Phi Giao hoàng hậu tiếp đãi rất cung kính. Tiệc xong, Hùng hậu truyền sắp kiệu về cung. Phi Giao hoàng hậu lại đứng dậy tiễn ra đến tận cửa ngoài. Khi Hùng hậu về tới cung, một mình ngẫm nghĩ có vẻ buồn rầu. Bàng Nguyệt Tố và Lý Hoa Quyên theo hầu bên cạnh thấy vậy, mới tìm lời khuyên giải rằng:
- Muông tau hoàng hậu! Xin hoàng hậu chớ nên nghĩ ngợi làm gì. Hoàng Phủ nương nương tính khí cương cường, ngày trước có một tên tiểu nội giám là Lý Vĩnh Phúc sảy tay đánh vỡ chén ngọc, Hoàng Phủ nương nương tức thì nổi giận , rồi truyền đánh bốn mươi ngự côn. Tên tiểu nội giám ấy là một đứa cận thần thân yêu của thánh thượng, thế mà thánh thượng chỉ đành ngồi nhìn, chứ không dám nói ra, lại phải dùng lời ngọt ngào mà khuyên giải, đợi khi Hoàng Phủ nương nguôi cơn tức giận, bấy giờ thánh thượng mới yên lòng. Hoàng Phủ nương nương thờ người trên đãi kẻ dưới thật rất ân cần chu đáo, nhưng hễ ai trái ý một chút thì tính nóng nảy, nghĩ lại đáng ghê! Từ nay hoàng hậu cứ việc hưởng phúc thanh nhàn, thế là yên thân vậy.
Hùng hậu thở dài mà than rằng:
- Ta vào cung bốn năm nay, Dương Nguyệt Anh và Trương Xảo Nhi vốn là người tâm phúc của ta, ta chưa hề có nói nặng đến chúng bao giờ, không ngờ ngày nay chúng lại bị trọng phạt như thế. Ta ngẫm nghĩ việc này thật là ta làm hại hai tên cung nữ ấy vậy.
Hùng hậu nói xong, ngồi tựa xuống ghế, chẳng buồn tháo mũ cởi áo nữa, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Bàng Nguyệt Tố và Lý Hoa Quyên thấy vậy liền mật báo cho Phi Giao hoàng hậu biết. Phi Giao hoàng hậu nghe được tin ấy, cau mày nghĩ kế mà rằng:
- Khen cho Hùng hậu! Giỏi cho Hùng hậu! nếu vậy được, người ta không chọc hổ, thì hổ khi nào lại hại người! Nếu nhà ngươi đã có lòng oán giận, rồi sẽ biết tay Phi Giao hoàng hậu này. Ta chắc rằng nhà ngươi chẳng bao giờ được sắc sảo bằng ta vậy. Phen này ta quyết làm cho công lao họ Hùng trong bấy lâu phải một sớm tiêu ma.
Phi Giao hoàng hậu đang hầm hè tức giận thì bỗng nghe báo có thánh giá đến, liền tức khắc đứng dậy ra đón, cứ để đầu tóc bơ phờ, không hề trang điểm. Khi trông thấy vua Anh Tôn tới nói, vội vàng tháo bỏ các đồ trâm nhị rồi phủ phục xuống đất mà tâu rằng:
- Muông tâu bệ hạ! Thần thiếp xin chịu tội rất nặng.
Vua Anh Tôn nói:
- Có việc chi? Ái khanh cứ nói rõ cho trẫm biết.
Phi Giao hoàng hậu nức hở khóc, gục đầu bên cạnh vua Anh Tôn, làm ra bộ hốt hoảng sợ hãi mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thật là một việc không may! Vừa rồi thần thiếp vô tình mà thành ra đắc tội với chánh cung hoàng hậu!
Phi Giao hoàng hậu thuật hết đầu đuôi việc Hùng hậu đòi lại quyền chính v.v... Lại nói:
- Thần thiếp đã biết điều xin lỗi, không ngờ chánh cung hoàng hậu lại nổi cơn tức giận mà sỉ mắng thần thiếp chớ nên cậy yêu, kẻo có ngày lại phải vào lãnh cung khổ sở. Hoàng hậu nói là binh quyền đang ở trong tay quốc trượng ngày nay, nếu quốc trượng định diệt Nguyên triều thì thật dễ như trở bàn tay vậy. Trời ơi! Để cho hoàng hậu nói đến câu ấy thì quả là tội tại thần thiếp, xin bệ hạ đem giam thần thiếp vào lãnh cung, khiến cho chánh cung hoàng hậu khỏi phải nghi ngờ, mà giang sơn Nguyên triều ta, cũng sẽ được vững bền yên ổn.
Nói xong lấy tay đẩy xe vua Anh Tôn, cố xin quay đi, đừng vào hữu cung nữa. Vua Anh Tôn nghe nói nổi giận ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán rằng:
- Lạ thật! Nếu vậy thì lạ thật! Hùng hậu đã thất đức như thế, trẫm quyết không khi nào còn tới tả cung. Ái khanh chớ lo ngại, can chi mà sợ Hùng quốc trượng! Sáng mai trẫm sẽ cách chức đi, xem hắn còn đâu là binh quyền.
Phi Giao hoàng hậu tâu rằng:
- Thánh thượng chớ nên như thế. Hùng hậu nguyên là chánh cung, hầu hạ thánh thượng đã lâu ngày, nếu thánh thượng xử như thế thì thành ra lỗi tại thần thiếp không biết khiêm nhượng. Thần thiếp vẫn một lòng trung thành không ngờ đắc tội với hoàng hậu. Ngày nay thánh thượng quá giận mà không đến tả cung thì tội thần thiếp bao giờ chuộc được, chi bằng thần thiếp xin đập đầu chết ở trước mặt thánh thượng là hơn.
Vua Anh Tôn bất đắc dĩ phải theo lời đi sang tả cung, nhưng trong lòng buồn bã, kể sao cho xiết. Khi vua Anh Tôn quay xe đi rồi, Phi Giao hoàng hậu trở vào trong cung, truyền đóng cửa cung lại, cấm trong ba ngày, không ai được tâu báo việc gì. Lại phái hai tên nội giám tức khắc sang tả cung để dò la tin tức vua Anh Tôn và Hùng hậu. Phi Giao hoàng hậu dặn hai tên nội giám rằng:
- Hễ thánh thượng và Hùng hậu nói năng cử động những thế nào, hai người phải phi báo cho ta biết. Nếu bỏ sót một điều gì thì ta tức thì xử trảm. Ta chỉ cho bảo mẫu và tên cung nữ chực hầu ở đây mà thôi. Khi nào thánh giá giáng lâm thì bay cứ nói là ta hiện đang dưỡng bệnh, không thể nghênh tiếp được.
Vua Anh Tôn nghe tin Phi Giao hoàng hậu bị bệnh, trong lòng lo sợ, liền truyền đi triệu thái y quan để vào cung thăm bệnh cho Phi Giao hoàng hậu. Mã Thuận quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Hoàng Phủ nương nương tính khí nóng nảy, nay đã hạ lệnh cấm không đươc triệu thầy thuốc, vậy xin thánh thượng chớ nên cố cưỡng, lại càng thêm hại, chi bằng chiều ý Hoàng Phủ nương nương mà truyền chỉ cho hai tên cung nữ Dương Nguyệt Anh và Trương Xảo Nhi đươc tứ tử đi là hơn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi thứ ba
Ơn cúc dục khôn đền ơn tấc cỏ
Lòng nghĩa hiệp coi rẻ nghìn vàng (2)

Vua Anh Tôn nghe lời, truyền “Tứ tử” (ban cho chết) hai tên cung nữ ấy. Đến ngày thứ ba, Phi Giao hoàng hậu lại vào vấn an thánh thượng và thái hậu. Nguyên là vua Anh tôn đã đem việc ấy tâu với thái hậu, thái hậu cũng có lòng nghi ngờ Hùng hậu nhưng chưa nói ra. Đến khi Phi Giao hoàng hậu vào vấn an lại tự nhận tội mình, mà nhất mực tôn quý Hùng hậu. Bởi vậy thái hậu càng cho là thực, mà mặt ngoài ai cũng ca tụng đức hiền thục của Phi Giao hoàng hậu. Các quan trong triều, lại còn có những phường cầu cạnh, đều theo ý thái hậu mà nghị luận là Hùng hậu có lòng ghen tuông. Hùng Hiệu đứng trong triều nghe được tin ấy, rất lấy làm buồn bã. Một hôm, Hùng Hiệu ở trong triều về, thuật chuyện cho phu nhân là Vệ Dũng Nga nghe. Vệ Dũng Nga nín lặng chưa nói câu gì thì con trai là Hùng Khởi Phượng cau mày mà thưa rằng:
- Dám thưa thân phụ và thân mẫu! Việc này chưa chắc đã thật như thế. Em con xưa nay vốn là người thuận tục, có lẽ nào tự nhiên lại biến ra tính cương cường. Con e rằng có đứa gian nhân bịa chuyện nói phao, mà thượng hoàng và thái hậu không xét chân tình, đó thật là một mối họa cho nhà ta vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi thở dài mà than rằng:
- Thế này mới thật là làm ơn nên oán! Việc đã xãy ra như vậy, biết nói thế nào. Thôi thì ta chỉ trông cậy về phúc đức của nhà ta đó mà thôi.
Hùng Hiệu cười mà bảo rằng:
- Có khó chi việc này. Ta bảo con gái ta nhường ngôi hoàng hậu đi cho rồi, à ta đây cũng cáo quan xin về, vợ chồng cùng nhau hưởng thú thanh nhàn ở chốn điền viên, thế là yên việc. Vương hầu phú quý, sao bằng sơn trung tể tướng ( thuở xưa có ông ẩn sĩ Đào Hoằng Cảnh người đời bấy giờ vẫn gọi là quan tể tướng ở trong núi) là được an lạc hơn.
Bỗng thấy nữ tỳ vào báo rằng:
- Có quan Tần học sĩ vào yết kiến.
Hùng Khởi Phượng nghe nói, vội vàng ra nghênh tiếp. Tần học sĩ tươi cười mà bảo rằng:
- Hôm nay tiết thu mát mẻ, tôi muốn mời niên huynh đi du ngoạn một chút. Độ này chúng ta cứ phải tu thư ở trong sử quán mãi, cũng nên có lúc giải trí.
Hùng Khởi Phượng vâng lời ra đi. Mỗi người cưỡi một con ngựa, đi dạo xem phong cảnh. Nguyên Tần học sĩ tên gọi Sĩ Thăng, tên tự là Lãng Vân. Người ở Tiểu Đường. Tức là một ông bảng nhãn đỗ đồng khoa với Hùng Khởi Phượng. Tấn Sĩ Thăng có tính hào hoa, đam mê phong nguyệt. Hôm ấy rủ Hùng Khởi Phượng đến Xuân Vân viện, rồi cho gia tướng vàotrước báo cho mụ chủ. Mụ chủ tất tả chạy ra, theo sau đó có bốn ả mày ngài, đón mời Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phượng vào trong nhà. Mụ lại vuốt ve bốn ả mày ngài rồi trỏ từng người mà trình với Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phượng rằng:
- Ả này tên gọi là Hoa Trung Cẩm; ả này tên gọi là Nguyệt Hạ Giao; ả này tên gọi Châu Liêm Tú; ả này tên gọi Bách Hoa Khôi.
Bấy giờ bốn ả đứng xùm chung quanh, ngọc nói hoa cười, mỗi người một vẻ. Bốn ả cùng liếc mắt nhì trộm Hùng Khởi Phượng mả nghĩ thầm rằng: Con mắt chúng ta được ngắm đàn ông tưởng cũng đã nhiều, nhưng chưa thấy ai đẹp như người này! Cứ như dung mạo người này thì chẳng những nam tử không ai bằng, mà dẫu đến trong bọn nữ lưu cũng khó có người đã sánh kịp vậy.
Bấy giờ bốn ả đua nhau mà hiếm cuộc vui.Câu chuyện pháo ran, vẻ cười hoa nờ. Một lúc, người nhà bày tiệc, tay tiên chuốc rượu, chén quỳnh đầy vơi, Tần Sĩ Thăng rượu đã ngà ngà say, truyền ca một khúc để nghe thử. Bốn ả vâng mệnh, hai người đàn hai người hát, Tần Sĩ Thăng gật gù khen rằng:
- Hay! Được đó!
Hùng Khởi Phượng chỉ ngồi tủm tỉm cươì, không nói câu gì, Tần Sĩ Thăng cả cười mà bảo rằng:
- Niên huynh ơi! Hoa nô thật đủ mọi tài, đem nay niên huynh cùng đệ hãy ngủ chơi tại đây đến sáng mai sẽ về.
Hùng Khởi Phượng nói:
- Niên huynh có lòng yêu mà lưu lại, đáng lẽ đệ phải vâng lời, nhưng hai thân đệ ở nhà, vẫn lấy việc “hiệp tà” làm nghiêm giới, vậy đệ cũng không dám trái lệnh.
Nói xong, đứng dậy cáo từ. Tần Sĩ Thăng vội nắm lấy áo mà bảo rằng:
- Sao niên huynh lại sơ tình với đệ như thế! Nếu không ngủ đây thì cũng hãy ngồi chơi thư thả, khi nào hứng tận sẽ về.
Mụ chủ hỏi dò các gia tướng, biết là Hùng quốc cữu, lại càng hết sức phụng thừa, khẻ bảo thầm mấy ả mày ngài kia cố tình mà vồn vã một cách rất đặc biệt, Hùng Khởi Phượng bất đắc dĩ lại phải ngồi vào chiếu rượu. Bỗng nghe văng vẳng có tiếng khóc, Hùng Khởi Phượng hỏi:
-Quái lạ! Tiếng ai khóc mả thảm thiết như thế?
Bách Hoa Khôi nói:
- Số là tháng trước, chủ nhân tôi mới mua được một người con gái quê ở Vân Nam, họ Hạng tên là Hoa Tu. Nàng không chịu theo vào khuôn phép, chủ nhân tôi đã dánh đập mấy lần, ba ngày nay không cho ăn uống chi cả. Nàng chỉ lăm le tìm dao chực đâm cổ mà chết. Chủ nhân tôi sai chúng tôi đến khuyên dỗ thì trăm phương nghìn kế, nàng cũng không nghe, lại nhiếc mắng chúng tôi là đồ bất lương vậy.
Tần Sĩ Thăng hỏi:
- Nàng nói những thế nào?
Bách Hoa Khôi đáp rằng:
- Nàng nói: “Đàn bà con gái chỉ quí về trinh tiết, nếu không giữ được trinh tiết thì đáng kể làm người. Tô đây hổ phận con nhà trâm anh, không thể đem thân làm nghề lá gió cành chim, sớm đào tối mận như ai được. Cái kiếp cười gượng này thật giết người không dao, làm cho đổ quán xiêu đình, thân nghìn vàng để ô danh má hồng. Huống chi dẫu sao cũng ở tay người, một cười nghìn lạng, chẳng qua chỉ cách làm giàu cho chủ, đến khi hương rơi phấn rụng, nào ai là kẻ tiếc lục tham hồng. Bấy giờ đầu bạc má nheo, con chẳng có, chồng cũng không, lại còn một nỗi xót xa là đeo thêm bệnh phong lưu thì dẫu than tÂy tử, mà người trông thấy, cũng phải nghoảnh lại làm thinh vậy”. Hai vị quý nhân ơi! M61y câu nàng nói, thật chẳng câu nào bỏ đi, khiến cho tiện thiếp nghe lời, khônác nào như người vầm chậu nước mà dội vào mình, giấc mê mộng bỗng thình lình sực tỉnh.
Nỗi riêng lưỡng lự tàn canh
Chim lồng khôn nhẽ cất mình bay cao!
Bách Hoa Khôi nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, Hùng Khởi Phượng không mà rằng:
- Quái lạ! Chẳng hay người thế nào mà có những lời nghị luận cao kỳ như thế. Thử gọi nàng ra đây xem nào.
Hoa Trung Cẩm nói:
- Trong hai thánh nay nàng không chịu dời đi đâu một bước, bây giờ gọi vị tất đã ra.
Hùng Khởi Phượng đứng dậy mà bảo Tần Sĩ Thăng rằng:
- Niên huynh cùng đệ cùng đến xem sao.
Tần Sĩ Thăng đang đùa với Nguyệt Hạ Giao, đã toan không đi, nhưng chiều ý Hùng Khởi Phượng, cũng phải đứng dậy, Bách Hoa Khôi nói:
- Để tiện thiếp xin dẫn đường.
Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phượng theo Bách Hoa Khôi cùng đến tây lâu, quả nhiên thấy một người con gái ngồi ở trong phòng, đầu bù tóc rối, đang nức nở khóc. Dẫu biết có người đến mà vẫn không đứng dậy, tiếng kiều thổn thức, giọt lệ chứa chan, trông thật thương tình. Hùng Khởi Phượng chú ý mà nhìn, rồi nghĩ thầm rằng:
- Người con gái này quả là bậc ngọc nói hoa cười, chim sa cá lặn... Ta vẫn tưởng phu nhân ta đã vào hàng tuyệt sắc, ai ngờ so với người này hãy còn kém xa. Xinh đẹp thật! Người này xinh đẹp thật! Hạt châu lã chã lại càng xinh đẹp bội phần, trông như một bó hoa lê có điểm mấy giọt mưa xuân vậy.
Hùng Khởi Phượng ngồi ngây người ra đấy mà nghĩ. Bách Hoa Khôi bảo nàng Hạng Hoa Tu rằng:
- Đây là Tần học sĩ và Hùng quốc cữu, nghe tiếng chị mà đến xem mặt đó.
Nàng Hạng Hoa Tu xua tay mà đáp rằng:
- Chị Bách Hoa Khôi ơi! Em vẫn nói là em không tiếp ai cả, sao chị lại còn mời các người đến?
Bách Hoa Khôi:
- Hai vị quý nhân đây chẳng qua chỉ muốn đến hỏi chuyện chị đó mà thôi.
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Người ta ai mất tiền hoài đến đây! Đã bước chân vào đây, ai cũng là khách cầu vui mua cười cả. Em tiếp mà làm gì!
Tần Sĩ Thăng cười mà bảo rằng:
- Con yêu quái này, dám nói những câu khinh người! Đã đành rằng ai cũng bước chân vào đây, cũng đều như thế, nhưng chắc đâu lại chẳng có người không như thế hay sao! Nàng hãy lại đây tiếp kiến vị quốc cữu này, hoặc giả duyên trời xui khiến mà người rủ lòng cứu vớt nàng, chẳng cũng hay lắm ru.
Nàng Hạng Hoa Tu nghe nói, ngẩng đầu nhìn hai người, rồi lại gạt nước mắt mà tâu:
- Vương hầu công khanh mà làm gì, nếu không có lòng hào hiệp thì dẫu tiếp kiến cũng vô ích!
Hùng Khởi Phụng cười mà bảo rằng:
- Sao nàng dám khinh trong bọn vương hầu công khanh không có tay hào hiệp. Bây giờ nàng muốn thế nào thì nàng cứ nói, tôi và ông Tần học sĩ đây họa may sẽ làm được một tay hào hiệp mà cứu vớt cho nàng chăng!
Nàng Hạng Hoa Tu nghe nói, mới đứng dậy sửa áo, khẽ rón rén đến gần trước mặt hai ngườicúi chào mà thưa rằng:
- Hai vị quý nhân đã có lòng đoái thương đến tiện thiếp, vậy tiện thiếp xin giải bày nguyên do: Thân phụ thiếp khi trước làm quan tri phủ Thanh Châu, phải bồi khoản tiền lương hơn mười vạn, thành ra gia sản đều bị tịch ký cả. Sau thân phụ cùng thân mẫu thiếp phút bỗng tạ thế, chỉ sót lại có một thân thiếp, phải nương tựa ở nhà cữu mẫu. Ai ngờ cữu mẫu chẳng chút lương tâm, đem thiếp bán vào chốn yên hoa này, nghe đâu thân giá được tám trăm lạng. Khi thiếp tới đây, mới biết nông nỗi, sống cũng dở mà chết cũng dở. Chủ nhân thiếp vẫn tưởng là một món buôn có lợi, ai ngờ vốn nhà khó thu lại được, thế thì của đau con xót, cái tay tàn nhẫn, thiếp đây cũng chẳng dám trách chi. Thiếp đến đây đã gần ba tháng, hàng ngày chỉ cầm hơi một vài lưng cháo, há còn biết sống là vui. Hai vị quý nhân ơi! Nếu thiếp liều mình chết đi thì cái nợ tiền kiếp của chủ nhân thiếp đời nào trả hết, bởi vậy thiếp ngần ngừ khó quyết, còn mong có tay hào hiệp nào chịu đem nghìn vàng mà chuộc cho thiếp thì cái ơn ngậm vòng kết cỏ ấy, sau này thiếp cắt tóc đi tu, xin đêm ngày cầu nguyện để báo đền đôi chút vậy.
Nàng Hạng Hoa Tu nói xong, hai hàng nước mắt lại chảy xuống đầm đầm... Tần Sĩ Thăng cả cười mà bảo rằng:
- Lạ thay cho nàng! Nàng muốn người ta bỏ nghìn vàng đê chuộc nàng, trừ phi những nhà vương hầu thì mấy người có nghìn vàng mà dám bỏ. Hiện nay Hùng quốc cữu đây có thể bỏ tiền giúp nàng được, nàng không biết cầu, lại dám khinh nhà vương hầu không có tay hào hiệp.
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Không phải thiếp dám khinh các nhà vương hầu, chỉ vì nếu các nhà vương hầu đã bỏ tiền ra mà chuộc cho thiếp thì tất lại bắt thiếp dự vào trong màn ngoài trướng. Thế thì hoa mọc dưới bùn, còn có thể bất nhiễm được, chứ giấm chua lại tội bằng ba lửa hồng. Bể ái đầy vơi, hà tất còn mua lấy cơn phiền não. Vả thân phụ thiếp làm quan thuở xưa giữ được một niềm thanh bạch, nỡ nào mà để cho phải tủi nhục ở dưới suối vàng.
Tần Sĩ Thăng cười mà bảo rằng:
- Nghe lời nàng nói, nghĩ cũng buồn cười. Nàng đã bước chân vào chốn thanh lâu này, hồ dễ ai lại còn cùng nàng đẹp duyên cầm sắt.
Hùng Khởi Phụng bảo Tần Sĩ Thăng rằng:
- Người ba đấng của vạn loài, nếu vậy thì để đệ sẽ nói chuyện với nàng.
Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phụng đều ngồi xuống ghế. Nguyệt Hạ Giao nét mặt tươi cười, tay bưng chén trà mời uống. Hai người cầm chén lấy chén trà uống. Hùng Khởi Phụng bảo nàng Hạng Hoa Tu rằng:
- Nàng đã quyết chí như vậy thì sau này nàng chớ nên hối hận, để tôi sẽ bảo người đem món tiền ấy trả lại mụ chủ đây.
Nói xong, liền quay lại bảo tên tiểu đồng rằng:
- Mày ra nói với mụ chủ, rồi về nhà lấy một nghìn lạng bạc đến đây cho ta.
Tên tiểu đồn vâng lệnh đi ngay. Bách Hoa Khôi nói:
- Nếu vậy thật hay! Chị Hạng Hoa Tu đã sắp được lên tiên vậy. Bây giờ việc đã thành toàn, xin mời hai quý nhân lại về nhà khách, rồi chị Hạng Hoa Tu nên điểm trang sạch sẽ để ra lạy tạ quốc cữu đi.
Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phụng quay ra nhà khách. Bấy giờ trong nhà khách lại bày tiệc hoa, dẫu không dị phẩm kỳ trân, nhưng cũng gia hào mỹ vị. Bốn người ca nữ lại tây tiên nâng chén rượu đào, rồi cùng nhau chuốc rượu. Cung đàn êm ái, giọng hát nỉ non, thật là miệt mài trong cuộc truy hoan vậy. Tần Sĩ Thăng vui cười, lại trỏ Hùng Khởi Phụng mà rằng:
- Cuộc vui hôm nay là nhờ ơn huệ của Hùng quốc cữu!
Tiệc hoa đang nhiệt náo thì người nhà của Hùng Khởi Phụng đã đem một nghìn lạng bạc đến, cả thảy mười phong. Hùng Khởi Phụng gọi mụ chủ vào bảo rằng:
- Khi trước mụ mua nàng Hạng Hoa Tu, thân giá tám trăm lạng bạc, nay ta cứ nguyên ngân phát hoàn, nhưng thứ bạc khố ngân này so với thứ dụng ngân của mụ, còn cao hơn quá trăm lạng bạc nữa, thế thì tất mụ đã được vừa lòng. Còn hai trăm lạng này, mụ giao cho nàng, về sau xuất gia hay là tại gia, tùy nàng tự chủ. Mụ phải tiếp đãi nàng cho tử tế, nếu còn tham tâm mà ức hiếp nàng, ta sẽ nghiêm trị.
Mụ chủ cúi đầu lạy ta, lại gọi nàng Hạng Hoa Tu bảo đến tạ ơn Hùng Khởi Phụng. Bấy giờ nàng Hạng Hoa Tu đã trang điểm một cách nhã đạm, lững thửng bước vào. Tần Sĩ Thăng và Hùng Khởi Phụng lại chú ý mà nhìn thì quả nhiên là một bậc Vu Sơn thần nữ vậy. Khi ấy nàng không âu sầu như trước, hai má đỏ hồng hồng, trông lại càng kiều diễm. Nàng cúi đầu mà thưa rằng:
- Dám thưa quốc cữu! Ngày nay tiện thiếp được đội ơn to của quốc cữu đã bỏ nghìn vàng mà cứu vớt cho tiện thiếp ra khỏi lò lửa này, từ đây trở đi, tiện thiếp mới biết các nhà vương hầu cũng có tay đại hào hiệp, không dám khinh thường vậy.
Nói xong sụp xuống đất lạy, Hùng Khởi Phụng vội vàng đỡ dậy mà bao rằng:
- Có sá chi vậy ấy mà nàng phải thâm tạ. Thôi, từ đây nàng nên nghĩ tìm lấy chỗ nương thân.
Nàng Hạng Hoa Tu lại quì xuống mà thưa rằng:
- Dám thưa quốc cữu! Tiện thiếp này, cha mẹ tạ thế cả, chỉ có một thân một mình. Ngày nay quốc cữu đã bỏ nghìn vàng cứu cho tiện thiếp ra, nhưng bốn bể không nhà, thân này nào biết về đâu cho được. Vậy tiện thiếp xin cam tâm đem thân làm nô tỳ ở phủ quốc cữu, để gọi chút báo đền ơn to ấy.
Hùng Khởi Phụng chưa kịp trả lời thì Tần Sĩ Thăng cả cười mà bảo rằng:
- Nếu vậy thì câu nói lúc nãy đã khác nhau rồi! Vừa đây, nàng khăng khăng một mực khinh rẻ các bậc vương hầu, tình nguyện cắt tóc đi tu, ngày nay trông thấy nghìn vàng, đã vội đổi thay chủ ý.
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Dám thưa quan Tần học sĩ! Ngài dạy thế là lầm. Lúc nãy khác, bây giờ khác, khi nào lại giống nhau được!
Hùng Khởi Phụng nói:
- Không phải là tôi có ý gì mà giúp nàng đâu. Tôi thấy nàng là người thanh trinh, vậy nghĩ thương tình, bỏ tiền ra giúp, nay nàng lại về với tôi thì trái với lòng tôi muốn giúp nàng. Vả nhà tôi xưa nay gia pháp rất nghiêm, thân phụ tôi đã làm đến vương tước mà cũng không có thị thiếp, thân mẫu tôi càng nghiêm khắc hơn. Nếu tôi đem nàng về thì tất hai thân tôi không bằng lòng. Tôi bị quở mắng đã đành, nhưng lại thêm dở dang cho nàng vậy.
Hùng Khởi Phụng nói xong, truyền đem hai mươi lạng bạc chi tiền rượu cho mụ chủ, rồi đứng dậy ra về. Tần Sĩ Thăng nắm lại mà bảo rằng:
- Niên huynh đã bỏ nghìn vàng ra cứu nàng, nay nàng đang độ tuổi xanh, nỡ nào mà để cho phải xuất gia đầu Phật. Đệ thiết tưởng niên hi cũng nên nghe lời nàng mà cứu nàng cho trọn.
Hùng Khởi Phụng nói:
- Nếu vậy thì niên huynh nên đem nàng về nhà, tôi nghe lệnh tẩu là người hiền thục, dẫu vườn có thêm hoa, chắc cũng không thị phi gì vậy.
Tần Sĩ Thăng nói:
- Có lẽ nào lại như thế! Nàng là người của niên huynh, khi nào đệ dám đoạt ái. Huống chi nàng chỉ yêu mến người hào hiệp, mà đệ nay là một kẻ hàn sĩ, dẫu trong nhà không nạn sư tử, nhưng cành hoa kia hồ dễ đem cắm cây này!
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Tiẹn thiếp chỉ muốn được quý nhân hứa cho một lời thì dẫu phải chờ đợi trong tám năm hoặc mười năm, tiện thiếp cũng không quản, khi nào ngài bẩm với cao đường, có thể cho tiện thiếp về được sẽ hay.
Hùng Khởi Phụng cúi đầu ngẫm nghĩ, chưa kịp trả lời thì Tần Sĩ Thăng nói:
- Nàng Hạng Hoa Tu đã quyết chí như thế thì Tần Sĩ Thăng này dẫu không phải là tay hào hiệp, nhưng cũng chẳng đến nỗi máu lạnh như ai, vậy xin hãy tạm đem nàng về lưu trú tại nhà tôi, ở riêng một chốn tiểu lậu, đợi khi nào niên huynh bẩm với cao đường rồi, bấy giờ sẽ đón ngọc nhân về nơi kim ốc.
Mọi người nghe nói đều khen là diệu kế. Hùng Khởi Phụng cũng xin cảm tạ lòng quý báu ấy, lại bảo nàng Hạng Hoa Tu rằng:
- Quan Tần học sĩ đây vốn tính hiền hậu, vậy nàng cứ về đấy đợi tôi trong nửa năm hoặc một năm, nếu không được tin tôi thì đã có Tần học sĩ đây, nàng cũng không ngại. Tôi xin nói thực nàng chớ hiểu lầm.
Nàng Hạng Hoa Tu liền quì xuống lạy tạ, khóc mà nói với Hùng Khởi Phụng rằng:
- Tôi muốn xin quý nhân một vật làm kỷ niệm.
Hùng Khởi Phụng ngần ngừ không chịu cho, Tần Sĩ Thăng đứng gần đấy, liền cởi viên ngọc đeo lưng của Hùng Khởi Phụng mà đưa cho nàng Hạng Hoa Tu. Nàng cầm lấy xem thì tức là một viên “Song long bảo châu”, ánh sáng lóng lánh. Hùng Khởi Phụng toan đòi lại, nàng Hạng Hoa Tu đã giắt ngay vào trong mình, rồi cúi đầu lạy tạ. Lại quay lại lạy ta Tần Sĩ Thăng. Tần Sĩ Thăng hớn hở mà bảo rằng:
- Nếu vậy hay! Bây giờ nàng đã chịu lạy tôi rồi đó.
Bấy giờ mụ chủ và các ca nữ cùng tiễn Hùng Khởi Phụng ra cửa. Hùng Khởi Phụng từ biệt Tần Sĩ Thăng rồi lên ngựa về thành. Tần Sĩ Thăng tức khắc truyền người sắp kiệu để đưa nàng Hạng Hoa Tu về. Mụ chủ giả cách khóc lóc mà thương tiếc nàng. Nàng Bách Hoa Khôi năm lấy vạt áo thổn thức mà bảo rằng:
- Hiền muội ơi! Ngày nay thật là ngày đăng tiên của em đó. Thương thay cho chị đây, bao giờ lại được sum họp cùng em. Sau này em về ở phủ quốc cữu, cũng chớ nên quên những lời đồng tâm với nhau trong mấy tháng trời vậy.
Nàng Hạng Hoa Tu ứa nước mắt mà đáp rằng:
- Chị Bách Hoa Khôi ơi! Trong mấy tháng trời nay chị có lòng tử tế mà chu toàn cho em, ơn ấy bao giờ quên được. Sau này còn mong có ngày gặp gỡ cùng nhau.
Trong khi tiễn biệt, ai nấy đều nước mắt sụt sùi. Tần Sĩ Thăng về trước, liền đem sự thể đầu đuôi thuật chuyện cho vợ là Trương phu nhân nghe. Trương phu nhân mừng rỡ, vội sai nữ tỳ ra đón nàng Hạng Hoa Tu vào. Khi nàng Hạng Hoa Tu bước vào. Trương phu nhân trông thấy vẻ ngọc nét hoa, cũng phải ngây người ra mà nhìn, lấy làm kinh ngạc. Nàng Hạng Hoa Tu liền sụp xuống đất lạy chào, Trương phu nhân vội vàng đỡ dậy mà bảo rằng:
- Tấm nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần nà, chẳng hay Hùng quốc cữu khéo tu từ kiếp nào mà gặp gỡ duyên may ấy! Xin mời nàng ngồi!
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Có lão gia và phu nhân, khi nào tiện tỳ nào dám ngồi.
Tần Sĩ Thăng cười mà bảo rằng:
- Để tôi lui ra cho nàng ngồi nói chuyện. Nàng Hạng Hoa Tu ơi! Nội nhân tôi đây cũng là một tay nữ sĩ, tính ham xem sách lắm, nàng ngồi nói chuyện với nội nhân tôi tôi cho vui. Nhà tôi vốn nho môn thanh bạch, ăn uống không được xa hoa như các bậc vương hầu, nhưng nàng cũng nên nhẫn nại ít lâu để chờ đợi Hùng quốc cữu.
Tần Sĩ Thăng vừa nói vừa đứng dậy lui ra. Trương phu nhân kéo tay nàng Hạng Hoa Tu mời ngồi. Nữ tỳ pha trà uống, rồi bẩm với Trương phu nhân rằng:
- Dám bẩm phu nhân! Phu nhân truyền cho nàng Hạng Hoa Tu ngủ tại chỗ nào, để chúng tôi sửa soạn!
Trương phu nhân truyền chọn chốn tây lâu, để cho nàng Hạng Hoa Tu ở. Các nữ tỳ vâng mệnh, tức khắc đem màn trướng gối nệm lên chốn tây lâu mà kê giường nằm. Nàng Hạng Hoa Tu cảm tạ Trương phu nhân mà rằng:
- Chúng tôi chút thân lưu lạc, hổ phận tôi đòi, nhờ lão gia đây nói với Hùng quốc cữu mà cứu vớt cho. Nay lại gặp phu nhân có lòng tử tế, kẻ hèn mọn này được chỗ nương thân.
Trương phu nhân nói:
- Nàng dạy quá lời! Nàng có mắt tinh đời mà biết được Hùng quốc cữu, vì Hùng quốc cữu còn sợ lệnh cao đường mà chưa dám đem nàng về. Phu quân tôi đây chẳng qua cũng là “Thành nhân chi mỹ” ( giúp nên sự tốt của người) mà khiến nàng phải tạm nương náu ở đây, lại thêm một sự buồn rầu cho nàng vậy.
Nàng Hạng Hoa Tu nghĩ thầm: “Phu nhân nói năng thật là khôn ngoan rất mực! Cứ xem nhan sắc thì phu nhân chẳng qua cũng thường bậc trung, nhưng đức hiền thục, quả đã hơn người vậy.” Trương phu nhân đưa nàng Hạng Hoa Tu lên chốn tây lâu, rồi hai người lại cùng ngồi nói chuyện. Nàng Hạng Hoa Tu khóc lóc mà kể hết nông nỗi trong mười năm trời cho phu nhân nghe. Từ khi cha nàng làm tri phủ Thanh Châu như thế nào, phải bồi khoản lương tiền những thế nào, cho đến khi người chết của hết, cửa nhà sa sút, nàng phải nương tựa ở cữu mẫu mà bị bán mình vào chốn yên hoa.
Nàng Hạng Hoa Tu nói:
- Phu nhân ơi! Thương hại cho thân tôi mới lên mười tuổi, đã lưu lạc vào nhà hồng lâu Khi tôi mới đến dấy, thật ngơ ngẩn chưa biết thế nào, học hát học đàn còn lấy chi làm vui thích. Mụ chủ coi tôi như mỏ vàng của mụ, mà trong bọn chị em hồng phấn đều phải nhường là bậc hoa khôi. Không ngờ năm tôi mười ba tuổi, mụ chủ đem tôi ép khách, tôi quyết chí không theo thì mụ đánh đập khổ sở, thấm thoát lại ba năm nữa cho đến ngày nay. Một hôm mụ đánh lừa tôi, giả cách thương xót tôi là con nhà trâm anh, muốn đem tôi gởi vào nhà chùa, để mụ giữ lấy chút âm đức. Tôi cũng nghĩ như vậy, ai ngờ mụ lòng lang dạ thú kia lại đem tôi bán vào Xuân Vân viện. Khi tôi vào tới đấy, chủ nhân tức khắc dùng cách nghiêm hình. Thương xót cho thân tôi, thịt nát máu dây, trăm phần đau đớn. Tôi phải nói chủ nhân khất lại ít ngày, để may ra có ai thương đến mà chuộc tôi chăng. Nhờ có chị Bách Hoa Khôi ở đấy cũng kêu van giúp, chủ nhân mới nghe. Phu nhân ơi! Vương tôn quý khách bước chân đến đấy, nào ai là người tiếc ngọc thương hoa. Ngờ đâu oan nghiệt đã qua, cho nên lòng trời xui khiến, có Hùng quốc cữu đến. Lại được lão gia đây nói giúp mà chút thân bèo bọt có chỗ nương nhờ. Nay gặp phu nhân lại là một đức Quan Âm hiện thân, xin phu nhân rộng lượng mà dạy bảo cho. Trong nghề mũi chỉ đường kim, tôi đã hơi am hiểu; vậy về việc may vá nếu phu nhân dùng đến, tôi cũng giúp được một vài.
Nói xong, quì xuống đất mà thưa rằng:
- Phu nhân ơi! Ngày nay tôi không gặp được phu nhân thì đành phải cắt tóc đi tu, đem thân nương nhờ bóng từ bi. Đó là câu tâm phúc của kẻ hèn mọn này, xin thực tình mà giải tỏ cùng phu nhân vậy.
Trương phu nhân nghe nói động lòng thương xót, cũng ứa hai hàng nước mắt xuống, và lấy tay đỡ nàng Hạng Hoa Tu dậy mà bảo rằng:
- Cảnh ngộ của nàng, nói ra càng thêm não lòng tôi nghe đã được hiểu hết. Nàng cứ yên tâm ở đây, cùng tôi kết làm chị em bạn. Nhà tôi dẫu thanh bạch, nhưng chưa đến nỗi phải lo sự ấm no. Nàng ở đây chờ đợi nửa năm hoặc một năm, hễ quốc cữu không đón nàng về thì tôi sẽ sang tận nơi mà mà nói giúp cao đường cùng phu nhân nhà quốc cữu, thế nào cũng yên việc. Duy có một điều này tôi xin nói thực: số là phu quân tôi vốn tính phong lưu, hay ham những đường hoa nguyệt. Đã đành rằng đối với quốc cữu thì tình bằng hữu là trọng, nhưng chỉ sợ trong khi quá chén, khó lòng giữ được chu toàn. Thế thì nàng nên ở biệt tại chốn tây lầu này, rồi hàng ngày tôi sang đây trò chuyện. Tôi thấy nàng là người trinh bạch, vậy phải nói thực, xin nàng nhớ lời.
Nàng Hạng Hoa Tu cúi đầu lạy tạ mà thưa rằng:
- Đạ tạ những lời huấn dụ của phu nhân, nếu vậy thì phu nhân thật là một người đại nhân đức.
Trương phu nhân đỡ dậy rồi cười mà bảo rằng:
- Hai ta đã kết giao với nhau thì nên phải thực tình, nhưng tôi mới được biết nàng, mà nói như thế: “giao thiển nhi ngôn thâm” ( mới kết giao mà nói những câu tâm phúc) vậy. Còn một điều này nữa tôi cũng xin nói:
- Tên nàng là hai chữ “Hoa Tu”, nhưng hoa nở rồi có lúc hoa rụng, khác nào cái gương bạc mệnh của khách hồng nhan. Đàn bà con gái, chỉ quý về có một điều giữ được danh tiết. Tấm lòng trinh bạch của nàng ví như là một viên ngọc trong giá trắng ngần, vậy nàng nên đổi tên làm hai chữ “Nhọc Thanh” thì mới quả là danh thực tương xứng vậy.
Nàng Hạng Hoa Tu mừng rỡ, liền cúi đầu lạy tạ. Trương phu nhân mà rằng:
- Đa tạ phu nhân đã đem hai chữ “Ngọc Thanh” ra mà đặt tên cho kẻ hèn mọn này. Tiện thiếp ngày nay chẳng những vượt khỏi nơi khổ hải, lại được bước chân vào chốn thiên đường. Phu nhân ơi! Hạng Ngọc Thanh này biết đời kiếp nào mà báo đáp được ơn trời bể ấy.
Hai người chuyện trò cùng nhau, đã gần hết canh ba, bấy giờ Trương phu nhân mới cáo từ lui ra, bảo một đứa nữ tỳ tên gọi Thúy Liễu ngủ tại đấy để hầu hạ nàng Hạng Ngọc Thanh. Nàng Hạng Ngọc Thanh thơ dài mà than rằng:
- Sao thế gian có người đại hiền như thế này! Tài trí khôn ngoan, tính nết lại trung hậu, Hạng Ngọc Thanh này phúc bạc, chẳng biết có được sum họp cùng một bậc đại hiền này hay không?
Nói xong, cởi áo ngoài đi nằm, , con nữ tỳ Thúy Liễu thì nằm ở một cái phản thấp. Bấy giờ nàng Hạng Ngọc Thanh vui lòng hả dạ, lại ngẫm nghĩ đến những việc ban ngày: “Ta chưa biết được cao đường nhà Hùng quốc cữu nghiêm khắc những thế nào, và chính thất phu nhân ra làm sao, giả sử ta chờ đợi trong tám năm hoặc mười năm mà việc không đâu thì há chẳng uổng phí một đời xuân xanh lắm ru!” Nàng Hạng Ngọc Thanh nghĩ quanh nghĩ quẩn, rồi lòng lại nhủ lòng rằng: “Hạng Ngọc Thanh ơi! Ngày nay chắc nàng đã được mãn nguyện còn áy náy chi nữa! Lúc đầu nàng có ngờ đâu là lại có tay hào hiệp chịu bỏ nghìn vàng ra để cứu vớt cho nàng. Nay gặp Hùng quốc cữu, lại gặp một vị phu nhân từ thiện này thì thân nàng khác nào như một người đã được đăng tiên, sao nàng lại còn tham cầu phú quý. Giả sử sau khi tám năm hoặc mười năm, Hùng quốc cữu có thất ước mà nàng phải cắt tóc đi tu nữa thì trước là sám hối tội ác của mình, sau là báo đền ân nghĩa của Hùng quốc cữu, há chẳng hay lắm ru!”
Bấy giờ chủ ý nàng Hạng Ngọc Thanh đã quyết định, mới nằm thiu thiu mà ngủ thiếp đi.
Lại nói chuyện Trương phu nhân về đến trong phòng, Tần Sĩ Thăng tươi cười mà đứng dậy đón, rồi bảo rằng:
- Phu nhân ơi! Phu nhân chuyện trò vui vẻ, không còn nghĩ thương đến kẻ ngồi một mình vò võ ở trong chốn phòng không mà chờ đợi thâu canh này. Bây giờ đã quá canh ba rồi, chẳng mấy lúc nữa là trời sáng. Thế nào, nàng Hạng Hoa Tu nói những chuyện gì, nàng đã từng trải được bao nhiêu vương tôn quý khách rồi hay là hoa thơm vẫn còn phong nhụy vậy.
Trương phu nhân ngồi xuống ghế, nghiêm sắc mặt mà thuật chuyện cho nghe và bảo rằng:
- Phu quân chớ nên khinh bỉ người con gái ấy! Người con gái ấy thật là một bậc kiên trinh tiết liệt, chẳng những trong bọn nữ lưu không ai sánh kịp, mà dẫu đến các bậc tu mi nam tử cũng hồ dễ đã được mấy người.
Trương phu nhân lại nói cho Tần Sĩ Thăng biết rằng đã đổi tên nàng Hạng Hoa Tu ra làm Hạng Ngọc Thanh. Tần Sĩ Thăng cười mà bảo rằng:
- Phu nhân cũng khéo đa tình mà lo thay cho nàng lắm nhỉ! Chắc rằng trong mười năm nữa, nàng có một lòng thủ tiết được với Hùng quốc cữu hay không? Huống chi mười năm nữa thì nàng hai mươi sáu tuổi, bấy giờ bóng thiều quang đã quá chiều xuân, Hùng quốc cữu vị tất đã còn có lòng yêu mến. Phu nhân ơi! Phu nhân chớ vội khen, tôi thiết nghĩ thủ tiết trong mười năm trời, cũng là một việc rất khó khăn vậy.
Tần Sĩ Thăng nói xong thì Trương phu nhân sầm nét mặt lại bảo rằng:
- Phu quân chớ nên nói những lời khinh bạc như thế. Sao phu quân không nhớ câu chuyện thuở xưa: Lương Hồng cử án vẫn vui cùng Mạnh Quang Tề; Tề vương khởi nghiệp cũng nhờ về Vô Diệm; duyên số người ta chẳng qua bởi trời, nhan sắc mà làm gì! Huống chi Hùng quốc cữu là người quân tử, khi nào lại vì cớ nhan sắc suy kém mà thay đổi tấm lòng vàng đá hay sao!
Tần Sĩ Thăng nghe nói cả cười mà rằng:
- Phu nhân ơi! Tôi nói đùa đó mà thôi, cớ sao phu nhân lại có ý giận. Phu nhân năm nay dẫu lớn tuổi, nhưng so với các cô thiếu nữ, hồ dễ đã kém vẻ xuân. Huống chi tôi cùng phu nhân là vợ chồng kết phát với nhau, dẫu cung tử tức có muộn màng, nhưng hai chữ “Tiểu tinh” tôi đây cũng chưa hề dám nghĩ đến. Thôi thì phu nhân cứ đi nghỉ, mặc chuyện nhà người ta,can chi mà bàn.
Sáng hôm sau, con tỳ nữ Thuý Liễu vào, tay cầm một trăm lạng bạc, trao cho Trương phu nhân mà bẩm rằng:
- Bẩm phu nhân! Nàng Hạng Ngọc Thanh bảo con đem món tiền này để nhờ phu nhân mua hộ cho mấy bộ áo vải thường và các thứ đồ dùng v.v...
Tần Sĩ Thăng cười mà bảo rằng:
- Nàng định sắm sửa lịch sự để nay mai sắp về phủ quốc cữu đó chăng, chứ áo mặc thường thì hà tất phải mua cho lắm.
Trương phu nhân nói:
- Đây là nàng định mua ác mặc thường đó thôi, chứ nếu sau này vê phể quốc cữu, lo gì chẳng có năm bảy bộ áo rất lịch sự đưa đến. Ta nhận món tiền này mà sắm sửa cho nàng còn thừa bao nhiêu thì để rồi nàng may áo mùa rét .
Từ đó nàng Hạng Ngọc Thanh cứ yên ở lại nhà Tần Sĩ Thăng. Lại nói về Hùng Khởi Phụng về phủ, vào yết kiến cha mẹ, bẩm rõ về việc thương tình nàng Hạng Hoa Tu, đã đem nghìn vàng chuộc cho nàng ra, mà gởi tại nhà Tần Sĩ Thăng, để Tần Sĩ Thăng thu xếp cho nàng sau này đi xuất gia đầu phật. Vợ chồng Hùng Hiệu nghe nói gật đầu, Hùng Khởi Phụng lại cáo từ lui vào nhà trong thăm vợ là nàng Lương Cẩm Hà. Bấy giờ Lương phu nhân vẫn ngồi nghiễm nhiên không ngồi cựa cậy, hình như không trông thấy Hùng Khởi Phụng đến.. Hùng Khởi Phụng khẽ vỗ vào vai, rồi cười mà hỏi rằng:
- Sao phu nhân lại ngồi một mình vò võ như thế, không cùng biểu muội ngâm thơ vịnh phú cho đỡ buồn.
Hùng Khởi Phụng vừa nói vừa cầm tay Lương phu nhân, rồi ngồi ở bên cạnh, Lương phu nhân cười nhạt mà bảo rằng:
- Lạ thật! Việc này lạ thật! Nghìn vàng mua một trận cười. Tôi đây là đàn bà con gái, chỉ được phép ngồi ở trong phòng, còn tha hồ cho thiên hạ sung sướng.
Lương phu nhân vừa nói vừa có ý giận, mặt đỏ bừng bừng, đứng dậy đi chỗ khác. Hùng Khởi Phượng ngồi ngay người ra mà rằng:
- Phu nhân ơi! Phu nhân thấy tôi bỏ nghìn vàng mua một người mỹ nữ mà có ý ghen đó chăng. Tôi hãy xin hỏi phu nhân: nếu là người đắm nguyệt say hoa thì đêm nay khi nào tôi lại còn về đây, tất tôi đã ngủ tại Xuân Vân viện. Dẫu ngày mai tôi về thì hai thân tôi cũng cho là đi chơi phiếm một đêm, đã lấy chi làm tội nặng. Vả vừa rồi hai thân tôi không hề nói gì, mà bây giờ tôi vào đây, phu nhân lại nói lôi thôi như thế, thật là người không biết nghĩ. Nực cười thay cho đứa bất hiền này, tiếng đàn êm ái trong sáu năm trời, ai ngờ vì việc này mà thành ra ngang cung vậy.
Lương phu nhân nghe nói lại càng căm tức, cau mày nghiến răng mà rằng:
- Tôi đẹp duyên cùng phu quân trong sáu năm trời, nào tam tòng tứ đức, tôi đã có điều gì trái phép, mà nay phu quân nỡ mở miệng nó tôi là đứa bất hiền! Thôi bây giờ phu quân cứ đi mua một con kỹ nữ mà lập riêng vũ trụ giang sơn, còn tôi vẫn là đứa bất hiền, tôi há lại không biết hay sao! Nực cười thay phu quân sai người về nói dối hai thân như thế mà hai thân cũng tưởng thật! Chao ôi! Một con kỹ nữ mà bảo là con nhà lương gia! Một con kỹ nữ mà bảo là tình nguyện xuất gia đầu Phật! Có phải quả nhiên là kế lừa dối để đem nghìn vàng mà mua một con kỹ nữ đó chăng? Phun quân muốn mua kỹ nữ thì mặc phu quân, cớ sao lại buộc tôi cái tiếng ghen ghét. Trời ơi! Hà tất phu quân phải nhiếc mắng tôi là kẻ bất hiền, ân tình phu quân cùng tôi trong sáu năm trời, ngày nay cũng liều như ngọn nước thủy triều chảy xuôi vậy. Phu quân đã mắng nhiếc tôi là đứa bất hiền thì bây giờ phu quân cùng tôi lên nhà trên để bẩm xem hai thân phán đoán ra làm sao? Tôi đây có phạm tội gì trong lệ “Thất xuất” chăng?
Lương phu nhân nói xong, nước mắt ràn rụa chảy xuống như mưa. Hùng Khởi Phụng lại càng giận lắm mà rằng:
- Đàn bà chỉ một cái ghen tức là có tội! Bảo rằng bất hiền, lại còn oan hay sao! Dám đem bụng dạ nhỏ nhen của đàn bà mà lường cái lòng quang minh chính đại của người quân tử thì phỏng có đáng ghét hay không?
Hùng Khởi Phụng vừa nói vừa vùng vằng đứng dậy quay đi. Lương phu nhân liền nắm lấy áo, khóc òa lên mà rằng:
- Không! Không đi được! Phu quân cứ phải cùng lên nhà trên với tôi!
Bấy giờ Hùng Khởi Phụng hầm hầm nổi giận, quên không nhớ là Lương phu nhân đang có thai, mới lấy tay giẫy mạnh một cái mà bảo rằng:
-Đứa bất hiền này đã làm cho ta đau lòng, lại còn muốn làm cho hai thân ta thêm phiền não, mới hả dạ hay sao!
Nói xong, tức khắc đi sang thư phòng. Lương phu nhân nặng nề yếu đuối, bị Hùng Khởi Phụng giẫy ngã lăn xuống đất. Các nữ tỳ vội vàng xúm lại đỡ Lương phu nhân ngồi lên trên ghế, bỗng thấy nét mặt tái mét, chỉ nức nở khóc mà không nói câu gì. Các nữ tỳ sợ hãi, bảo nhau chạy lên nhà trên báo với vợ chồng Hùng Hiệu.
Khi Vệ Dũng Nga vương phi bước vào thì Phi Loan quận chúa đang ngồi bên cạnh Lương phu nhân mà nỉ non khuyên giải. Phi Loan quận chúa thấy Vệ Dũng Nga vương phi đến, vội vàng đứng dậy chào. Lương phu nhân có ý hổ thẹn, đang nằm gượng dậy mà nói với Vệ vương phi rằng:
- Vừa rồi con có vấp chân, nhưng chưa hề ngã, nữ tỳ thấy vậy vội vàng lên báo, để khiến cho vương phi kinh sợ mà tới đây, thật là lỗi tại con vậy.
Vệ vương phi dặn bảo các nữ tỳ phải trông nom cẩn thận, rồi cùng Phi Loan quận chúa quay ra. Vệ vương phi vừa đi vừa hỏi Phi Loan quận chúa rằng:
- Điệt nữ ơi! Con đến trước ta, vậy con có biết vì duyên cớ chi mà xảy ra việc này hay không? Phi Loan quận chúa nói:
- Điệt nữ chưa ngủ, có mụ Thôi mẫu vẫn hầu bên biểu tẩu (trỏ Lương phu nhân) con đến thuật chuyện cho con nghe rằng: Vì việc đem nghìn vàng mua một con kỹ nữ, nuôi giấu ở ngoài mà hai vợ chồng cãi nhau.
Biểu huynh con nổi giận, mắng biểu tẩu con là đứa bất hiền. Biểu tẩu con nắm lấy áo, định kéo kên nhà để mách cô mẫu. Biểu huynh con lại nhiếc mắng là đứa bất hiền kia đã phạm tội ghen tương là một điều trong “thất xuất”, nay lại còng muốn làm kinh động hai thân hay sao! Biểu huynh con nói thế, rồi giẫy một cái mà quay đi, biểu tẩu con nặng nề yếu đuối cho nên ngã lăn xuống đấy. Việc này thì biểu huynh và biểu tẩu đều có lỗi cả. Con thiết tưởng cô mẫu bất tất phải hỏi đến, chỉ nên gọi riêng biểu huynh con mà khuyên bảo từ rày chớ có như thế nữa, kẻo để lo sợ cho hai thân.
Vệ Dũng Nga vương phi nghe nói, vui vẻ mà bảo rằng:
- Con nói chí phải! Biểu huynh con thật nóng nảy quá, không nhớ vợ đang hoài thai. Còn con dâu ta xưa nay vốn tính hiền hòa, không biết cớ sao ngày nay lại xảy ra chuyện ghen tuông ấy. Âu là ta cũng phải nghoảnh mặt làm ngơ, để cho người ngoài khỏi sanh lời dị nghị. Điệt nữ ơi! Ta nhờ con sáng sớm ngày mai, lại vào mà liệu lời khuyên giải, khiến biểu tẩu con biết rằng biểu huynh con vốn tính nóng nảy, chứ xưa nay vẫn là người đứng đắn, không hề đắm nguyệt say hoa.
Vệ Dũng Nga vương phi lại tủm tỉm cười mà rằng:
- Điệt nữ ơi! Ta lạ cho tính của Hùng Khởi Thần thì nó lại không giống anh nó chút nào. Nết na hòa nhã, nói năng dịu dàng, sau này vợ chồng con cùng nhau sum họp một nhà, chắc được muôn phần vui vẻ.
Vệ Dũng Nga vương phi nói xong, về phòng yên nghỉ, Phi Loan quận chúa cũng trở về phòng mình. Khi về tới phòng Phi Loan quận chúa cứ trằn trọc mãi không ngủ được, chỉ thở ngắn than dài mà oán trách cha mẹ. Phi Loan quận chúa nói:
- Cha mẹ ơi! Cha mẹ nỡ lòng nào mà bỏ con ở nhà cô mẫu này, khiến thân con khác nào như chiếc én lạc đàn nương náu ở trước mái nhà người ta. Con dâu chẳng ra con dâu, mà con gái cũng chẳng ra con gái, thật là dở dở dang dang vậy. Lại còn nỗi tỏ mẫu ta ở tại quê nhà, chẳng biết đã được bình phục hay chưa? Đoái trông mây bạc, lòng thêm nỗi bồi hồi. Cha mẹ ơi! Chẳng biết thân con sau này rồi ra thế nào! Cứ như lời chị Lương Cẩm Hà nói thì anh Hùng Khởi Phượng là người tính khí cương cường, vợ đang có thai, bụng to vượt ngực, mà nỡ đang tay giẫy ngã, còn ân ái nỗi gì! Vừa rồi cô mẫu ta sơ lo nhị lang (Hùng Khởi Thần) cũng như thế, cho nên tìm lời nói giải, nhưng ta xem nhị lang thì phong độ còn kém anh. Nhu nhược như thể đàn bà, so với tính ta, lại ngang trái khác nhau, sau này cũng khó giữ được duyên ưa phận đẹp.
Phi Loan quận chúa ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi nằm thiêm thiếp ngủ. Bỗng thấy mình đứng ở trên một ngọn núi cao, nhìn quanh bốn mặt, lặng ngắt như tờ, chỉ có các giống rắn rết kéo đến, mùi tanh hôi khó chịu. Phi Loan quận chúa đang luống cuống không biết làm thế nào thì bỗng thấy người anh là Triệu Câu một tay cầm thanh bảo kiếm, một tay nắm con xích giao rồi gọi:
- Phi Loan em ơi! Em chớ kinh sợ, anh đã bắt được con yêu quái ấy rồi! Cha mẹ và cô mẫu đều được cứu cả, anh em chị em cũng chẳng phải lo ngại nỗi gì.
Phi Loan quận chúa nghe nói, cúi nhìn con xích giao. Con xích giao ấy hai mắt sáng quắc, trông thấy Phi Loan quận chúa thì ngẩng đầu lên, rớt rãi chảy ra, gió tanh xông mũi. Phi Loan quận chúa kinh hồn mất vía, kêu to một tiếng, rồi sực tỉnh dậy, mồ hôi toát ra đầm đầm, bây giờ mới biết là mơ màng trong giấc chiêm bao vậy.
Lại nói chuyện Đồ Man Hưng Phục vẫn giao thông với Mã Thuận để bày mưu lập kế mà hại Doãn Thượng Khanh và cha con Hùng Hiệu. Một hôm, Mã Thuận đến nói với Đồ Man Hưng Phục rằng:
- Các quan đại thần trong triều, ai cũng cậy thế quan Doãn thừa tướng mà khinh chúng tôi là nội giám. Nhưng không biết rằng nội giám này mà một mai đắc thế thì dẫu uy quyền của quan thừa tướng cũng chẳng vững gì!
Đồ Man Hưng Phục cười mà bảo rằng:
- Chẳng qua tôn ông cũng hiền lành, chứ tôi xem như bọn Quyền Xương và Uông Kim, ai là người không xu phụng, quan Doãn thừa tướng có tiếng người nghiêm trực, mà trông thấy bọn họ, cũng phải chào hỏi tươi cười. Bình Giang vương thì lại càng quá lắm nữa!
Mã Thuận nghe nói, nổi giận mà rằng:
- Cũng là một bọn nội giám hầu cận thiên tử mà chúng lại kẻ trọng người khinh. Đồ Man tiên sinh ơi! Tiên sinh có nghĩ kế chi mà khiến cho tôi khỏi được cái tức này hay không?
Đồ Man Hưng Phục nói:
- Không thể làm gì được! Một người là phụ huynh tả hoàng hậu, một người là cữu tổ hữu hoàng hậu, thế thì tôi đây còn dám nói gì, mà dẫu có nói cũng không nổi. Ngày trước tôi tâu xin lập hữu hoàng hậu, suýt nữa đã bị bọn họ hại đến tính mệnh tôi, bây giờ tôi xin chịu thôi, không dám bàn việc chi nữa.
Mã Thuận nghe nói, đập bàn mà kêu rằng:
Nếu vậy đành để cho bọn họ khinh mình hay sao?
Đồ Man Hưng Phục nói:
- Cũng có cách làm được, nhưng chỉ sợ tôn ông không dám làm.
Mã Thuận mừng mà hỏi rằng:
- Thế nào! cứ nói! thử xem tôi có dám là hay không?
Đồ Man Hưng Phục nói:
- Tôn ông ơi! Vừa rồi có bản tâu ở Cao Ly gởi đến. Số là vua Cao Ly tạ thế, con hãy còn bé, vợ vua Cao Ly là nàng Nam Kim lên làm vua. Nam Kim nữ chủ sợ văn võ triều thần có lòng ly phản, muốn xin thiên triều ta phái cho mấy trọng thần đến để phong vương. Nam Kim nữ chủ thực lòng xin nội thuộc. Trong mấy hôm nay, triều đình đang bàn chưa biết phái ông nào đi. Bây giờ tôn ông nên tâu hữu hoàng hậu phái Doãn Thượng Khanh đi, rồi lại viết riêng một phong thư mật báo cho Nam Kim nữ chủ bảo giữ hắn ở lại Cao Ly để giúp việc chính trị.
Mã Thuận nghe nói, mừng rỡ mà rằng:
- Quả nhiên là một kế rất diệu! Nhưng chỉ hiềm về nỗi Doãn Thượng Khanh năm nay già yếu, mà lại là chỗ thân thích với thái hậu và hữu hoàng hậu, vị tất triều đình đã chịu để cho đi xa.
Đồ Man Hưng Phục cười mà đáp rằng:
- Tôi đã biết trưóc là tôn ông không thể làm nổi. Nhưng còn một kế này nữa.
Nói xong, liền ghé vào tai Mã Thuận mà bảo kế.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ tư
Doãn thượng khanh phụng mệnh đi sứ
Hùng khởi Phụng mắc kế bị giam (1)

Lại nói chuyện Hùng hậu về cung, bỗng thấy thánh giá giáng lâm, dẫu phiền não mặc lòng, cũng phải gượng cười gượng nói, ai ngờ một đêm vui giả mà long thai bỗng báo tin mừng. Ngặt vì có pháp thuật của Phi Giao hoàng hậu làm cho Hùng hậu suốt ngày lẩn thẩn, hay nói nhảm một mình, có lúc lại ngồi khóc hu huynh. Thân thể mỗi ngày một gầy võ, chỉ còn da bọc xương. Phi Giao hoàng hậu cứ cách một hôm lại đến ân cần thăm hỏi, trông thấy Hùng hậu như thế, biết là pháp thuật của mình đã ứng nghiệm, nhưng vẫn giả cách buồn rầu mà tâu với vua Anh Tôn rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Cứ như bệnh tình của chánh cung hoàng hậu thì cũng hơi nặng, xin bệ hạ cho triệu thái y quan vào để chẩn mạch. Thần thiếp thiết nghĩ có lẽ là vì long thai mà nên bệnh chăng.
Vua Anh Tôn gạt tay mà phán rằng:
- Trẫm e vị tất đã thật bệnh, can chi phải triệu đến thái y qua. Bây giờ trẫm chán con người ấy lắm rồi, từ nay trở đi, xin ái khanh chớ nhắc đến nưa.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói mừng thầm, lại vào nam nội thuật rõ sự tình để thái hậu biết và tâu rằng:
- Muông tâu thái hậu! Cứ như thế thì bệnh cũng lạ lắm, xin thánh mẫu cho triệu thái y quan vào, và truyền bảo Vệ vương phi vào ở trong cung để đêm ngày trông nom thuốc thang cho, khiến thần thiếp cũng được yên tâm vậy.
Phi Giao hoàng hậu vừa tâu vừa ứa hai hàng nước mắt xuống. Thái hậu tưởng là thực tình, mới phán bảo rằng:
- Việc đó chẳng qua bởi năm sung tháng hạn, con bất tất phải lo ngại. Vả con vốn là người hiền thục xưa nay, ai lại không biết. Bây giờ không cần hải truyền bảo Vệ vương phi vào cung vội, hãy cho triệu thái y quan vào xem mạch rồi kê đơn thuốc mà tâu với thiên tử.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói biết là thái hậu đã trúng cơ mưu của mình, trong lòng mừng thầm, nhưng ngoài mặt vẫn làm ra bộ âu sầu mà tâu với thái hậu rằng:
- Muôn tâu thái hậu! Con đối với chánh cung hoàng hậu đã thực lòng quý mến, chỉ sợ Vệ vương phi lại nghe người ngoài dèm pha mà nghi con có dị tâm chăng. Nếu không có việc hai tên nữ tỳ Dương nguyệt Anh vàTrương Xảo Nhi kia thì con không lo ngại. Ngày nay chánh cung hoàng hậu xảy ra sự gì, con tránh sao cho khỏi mang tiếng là người vong ơn bội nghĩa.
Khi Phi Giao hoàng hậu đang nói thì có Gia Tường công chúa đến, thái hậu cho ngồi hầu một đên, cho nên những lời Phi Giao hoàng hậu tâu bày đều nghe rõ cả. Sau Gia Tường công chúa vào thăm bà Ôn phi, mới thuật chuyện mà ngợi khen Phi Giao hoàng hậu. Đến khi về phủ phò mã, lại thuật chuyện cho Triệu Câu nghe, Triệu Câu cười nhạt không nói câu gì.
Lại nói chuyện Phi Giao hoàng hậu đang ngồi ở trong cung, bỗng thấy nội giám Mã Thuận bước vào ra ý buồn rầu, rồi quì xuống đất mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Ngày nay Hùng hậu ngọc thể khiêm an, thái y quan vào xem mạch, nói vì cớ uất ức thành bệnh. Thế mà cha con Bình Giang vương ở trong triều đường lại nói năng càn dỡ. Chúng nói: “Hễ tả hoàng hậu có mệnh hệ nào thì...”
Phi Giao hoàng hậu hỏi:
- Thì ...thế nào?
Mã Thuận tâu rằng:
- Trăm lạy lệnh bà! Kẻ hạ thần không dám tâu.
Phi Giao hoàng hậu nói:
- Ta xá tội cho nhà ngươi, nhà ngươi cứ tâu.
Mã Thuận cúi lạy dập đầu rồi nói:
- Chúng nói hữu hoàng hậu phải thường mệnh. Sau chúng lại còn nói nhiều điều thậm tệ nữa.
Phi Giao hoàng hậu hỏi:
- Nó còn nói ta những thế nào?
Mã Thuận lại lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Trăm lạy lệnh bà! Chúng nói là lệnh bà làm mê hoặc thánh thượng, bề ngoại giả cách tôn kính tả hoàng hậu, mà bề trong thì dùng mưu gian để mua chuộc lấy cái tiếng hiền thục ở trong sáu cung. Chúng lại bảo là ngày nay triều đình có hai thánh thượng. Còn nhiều điều nói ra không tiện, chỉ xin lệnh bà từ nay nên phải lưu tâm một chút.
Phi Giao hoàng hậu cau mày nghiến răng, vùng vằng đứng dậy, đạp bàn mà nguyền rủa rằng:
- Hay cho Hùng Hiệu! Nhà ngươi dám cậy quyền ỷ thế mà coi thường ta, mối thù này thề tất phải báo. Ta chỉ nghĩ lời hai thân dặn bảo, cho nên không nỡ lòng nào, ai ngờ hắn lại dám nói năng càn dỡ như thế!
Phi Giao hoàng hậu vừa nói vừa ngồi xuống ghế cúi đầu ngẫm nghĩ, chưa biết dùng kế gì để hại họ Hùng, Mã Thuận lại tâu rằng:
- Muôn tâu lệnh bà! Lệnh bà chớ có nổi giận mà khiến cho người ta biết được ý mình, chỉ nên cứ cười nói như thường mới được. Hễ thánh giá giáng lâm thì lệnh bà cố tâu cho con Hùng Hiệu là Hùng Khởi Phụng phải đi sứ Cao Ly. Lại còn quan thừa tướng là Doãn Thượng Khanh cũng hay bè đảng ủng hộ cho Hùng Hiệu lắm. Hùng Hiệu dám cậy thế hành hung, cũng là nhờ có uy quyền của quan Doãn thừa tướng. Nguyên ngày nay Cao Ly nữ chủ là nàng Hạng Nam Kim dâng biểu cầu nội thuộc mà xin phái mấy viên đại thần sang để phong vương. Thánh thượng chưa biết phái ai, nếu lệnh bà bảo tấu thì tất thánh thượng phải nghe lời, dẫu thái hậu cũng không thể ngăn trở được.
Mã Thuận vừa lui ra khỏi thì có thánh giá đến. Phi Giao hoàng hậu vội vàng chạy ra quì xuống nghênh tiếp. Vua Anh Tôn nét mặt tươi cười, lấy tay đỡ dậy rồi cùng vào ngồi ở trong cung. Phi Giao hoàng hậu tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thái y quan vào xem mạch nói bệnh tình của chánh cung nương nương không phải vì long thai chẳng biết có tin được hay không?
Vua Anh Tôn cả cười mà phán rằng:
- Ái khanh chớ lo ngại! Cần chi cái việc nhỏ mọn ấy mà ngày nào cũng nghĩ đến. Bây giờ trẫm có một việc đang muốn bàn với ái khanh. Nguyên là vua Cao Ly tạ thế, con hãy còn bé, mới lên sáu tuổi. Vợ là nàng Nam Kim lên làm nữ chủ, dâng biểu cầu nội thuộc, muốn xin mấy vị văn thần sang phong, cho trọng sư thể. Trẫm nghĩ cưa chọn được ai. Vừa rồi, Mã Thuận có tâu với trẫm rằng trong triều ngày nay chỉ có Doãn Thượng Khanh là người tài năng luyện đạt, đã trải thờ ba triều, hiện đang làm thừa tướng, nhưng chỉ e năm nay đã bảy mươi tuổi, mà lặn lội sang đến Cao Ly, tưởng cũng khó khăn lắm thay!
Phi Giao hoàng hậu nghe nói mừng thầm mà tâu rằng:
- Đã đành rằng chánh sứ thì có quan Doãn thừa tướng rồi, nhưng phó sứ đã chọn được ai chưa?
Vua Anh Tôn nói:
- Phó sứ chưa chọn được ai cả.
Phi Giao hoàng hậu liền tâu rằng:
- Quan bộ thị lang là Hùng Khởi Phụng tài kiêm văn võ, lại là một vị hoàng thân. Nếu được Hùng Khởi Phụng làm phó sứ thì cái mưu nội thuộc của Cao Ly nữ chủ kia, chắc phải thành công vậy.
Phi Giao hoàng hậu nói chưa dứt lời thì vua Anh Tôn đã tấm tắc khen phải mà rằng:
- Áci khanh bảo cử, quả được lương tài! Thế mà trẫm vẫn chưa nghĩ đến.
Nói xong, tức khắc ban chiếu thư xuống, sai Doãn Thượng Khanh và Hùng Khởi Phụng đi sứ Cao Ly. Hôm ấy cha con Hùng Hiệu ở trong triều về. Vệ vương phi nghe tin con Hùng Khởi Phụng phải đi sứ Cao Ly, ngồi ngẩn người ra. Hùng Hiệu gọi Hùng Khởi Phụng đến mà bảo rằng:
- Hùng Khởi Phụng con ơi! Cha con ta đội ơn triều đình, mũ cao áo rộng, trơng mấy mươi năm trời nay, chưa biết lấy chi mà báo đáp. Ngày nay có việc di làm phó sứ sang Cao Ly này, chính là dịp khiến cho con được “Tận trung báo quốc” đó, Doãn thừa tướng năm nay tuổi già, con đi với người, nên phải trông nom cẩn thận, bởi vì Nam Kim nữ chủ dẫu muốn nội thuộc, nhưng ta sợ người Cao Ly vị tất đã một lòng trung thành. Hoặc thần hạ không thuận theo, hoặc nữ chủ lại có ý hối chăng. Vậy con đến đấy, nên liệu thế mà làm, cốt sao cho người Cao Ly phải kính phục. “Dương danh hiển thân” tức là đại hiếu, con nghĩ sao cho khỏi thẹn là phường vá áo túi cơm vậy.
Hùng Hiệu nói xong Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Mấy lời cha dặn con, thật đã hết điều, ta không cần phải dặn thêm nữa. Nhưng đên nay con nên vào trong phòng mà ân cần từ biệt cùng vợ con, để sáng mai ra đi.
Hùng Khởi Phụng nói:
- Xin thân mẫu chớ nhắc đến đứa bất hiền ấy, con không muốn nhìn mặt nó nữa. Còn những lời huấn dụ, con xin ghi lòng tạc dạ, quyết không dám để di nhục đến hai thân.
Hùng Khởi Phụng lui ra, Hùng Hiệu mới hỏi duyên cớ làm sao. Vệ Dũng Nga vương phi phải kể hết đầu đuôi cho Hùng Hiệu nghe. Hùng Hiệu nghe xong tủm tỉm cười mà nói rằng:
- Nếu vậy thì con dâu ta thật là vô lễ! Không biết rằng con ta há phải như ai mà dám nói năng càn rỡ đến thế. Con ta đi chuyến này cũng chẳng lâu gì, chỉ trong nửa năm, sẽ lại về tới nơi. Tài trai nên có khí khái, ta chớ cưỡng bách nó phải chịu khuất phục một người đàn bà. Xem ngay như tôi cùng phu nhân thuở xưa, nói về võ công thì phu nhân đã nên một tay nữ tướng. Hai ta cùng làm tả hữu tiên phong mà bao giờ tôi cũng không bằng phu nhân. Thế mà từ khi triều đình giáng chỉ cho được cùng nhau đẹp duyên cầm sắt, cung đàn êm ái, trong hai mươi năm trời tưởng như một ngày.
Hùng Hiệu nghoảnh lại bảo Phi Loan quận chúa rằng:
- Điệt nữ ơi! Chỉ vì thế mà ta không bao giờ bàn đến sự thêm phòng, chứ nếu vương phi mà ra ý khắc nghiệt thì ta là kẻ vũ phu, vị tất đã chịu bó tay ở trong khuôn phép vậy.
Hùng Hiệu nói xong, lại nhoẻn mép cười. Vệ Dũng Nga vương phi cùng Phi Loan quận chúa cũng đều cười cả. Phi Loan quận chúa cáo từ lui ra, rồi vào trong phòng thuật chuyện cho Lương phu nhân nghe. Lương phu nhân nghe nói hạt châu lã chã khôn cầm, có ý hối hận, muốn nói mà không biết nói thế nào, nghĩ thầm:
- “Ai ngờ ngày nay phu quân ta lại phải đi sứ Cao Ly, khiến cho ta vì việc ấy mà không được cùng phu quân ta từ biệt”. Lương phu nhân thở ngắn than dài trong hồi lâu, rồi gọi người nhà vào sửa soạn các đồ hành trang cho Hùng Khởi Phụng. Bỗng nghe báo có quan thừa tướng Lương Trấn Lân đến. Cha con Hùng Hiệu vội vàng ra nghênh tiếp. Gia tướng pha trà uống. Lương Trấn Lân nói với Hùng Hiệu rằng:
- Thân ông ơi! Không biết cớ sao mà thánh thượng lại phê chuẩn cho Doãn thừa tướng đi sứ Cao Ly? Doãn thừa tướng là một bậc lão thần, trải thờ ba triều, tôi thiết tưởng không nên để cho đi như thế. Tôi đang dưỡng bệnh ở nhà, nghe được tin này, thật lấy làm căm tức.
Lương Trấn Lân vừa nói vừa hầm hầm nổi giận. Hùng Hiệu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp rằng:
- Khi thánh chỉ ban ra, Nguyễn trung đô đã cố sức can ngăn, nộp lại chiếu thư, xin chọn một vị đại thần khác. Một lúc lại có thánh chỉ ra truyền bảo Nuyễn trung đô rằng: “Nguyễn công cậy thế là lão thần, nhiều lần khinh nhờn quốc pháp. Thượng hoàng đã giao triều chính cho trẫm, cớ sao Nguyễn công lại dám coi thường. Vả việc đi sứ Cao Ly này rất hệ trọng. Một là truyền bá đức uy, hai là thâu lấy cương thổ, cớ sao lại còn ngăn trở. Triều đình cần nhất phải co pháp luật, nêú mà trái phép, trẫm đây khó lòng khoan thứ được”. Đạo thánh chỉ ấy mọi người đều biết phỏng tôi còn dám nói gì. Vả con tôi hiện sung chức phó sứ thì tôi lại càng không dám nói nữa.
Lương Trấn Lân nghe lời Hùng Hiệu nói, lại càng căm tức, hầm hầm đứng dậy ra ngay, đi thẳng đến phủ Doãn thừa tướng, không đợi cho người nhà truyền báo, đã xuống kiệu bước vào. Doãn Thượng Khanh vội vàng ra đón, cười mà nói rằng:
- Kính chào Lương thái sư!
Lương Trấn Lân nói:
- Tôi nghe tin quan thừa tướng sắp phải đi xa, vậy nên tới đây định hỏi xem tôn ý nghĩ ra sao mà lại không hề từ chối một câu nào vậy?
Doãn Thượng Khanh cười mà đáp rằng:
- Đạo làm thần tử, hễ vua sai chết, cũng phải liều chết, huống chi là đem việc ích quốc lợi dân mà sai kẻ lão thần này, khi nào kẻ lão thần này dám từ chối.
Doãn Thượng Khanh nói chưa dứt lời thì nghe báo có phò mã Triệu Câu đến. Phò mã Triệu Câu cúi chào mà nói với Doãn Thượng Khanh rằng:
- Dám thưa cữu tổ! Thái hậu sai tôi đến nói với cữu tổ rằng: Việc đi sứ Cao Ly này là một việ quan trọng của nước nhà, không dám lấy ý riêng mà ngăn cản, chỉ xin dặn người phải gìn vàng giữ ngọc trong khi đường sá xa xôi thiên sơn vạn thủy vậy. Cữu tổ đi Cao Ly rồi thì triều đình sẽ triệu biểu thúc vào làm quan kinh, để khi cữu tổ về, được có con cái sum vầy dưới gối .
Doãn Thượng Khanh cả cươì mà rằng:
- Quái lạ! Lão thần đây phụng mệnh đi sứ, sang phong vương cho nước Cao Ly, cũng là việc thường, không hiểu cớ sao mà thái hậu lấy làm lo nghĩ. Phò mã về tâu với thái hậu, nói Doãn Thượng Khanh này giả sử có như To Vũ bị giam hãm ở bên nước Phiên nữa thì cũng quyết không bao giờ chịu cam lòng phản chủ như ai.
Bấy giờ Doãn Thượng Khanh ngồi trên chiếc xe nệm bông, hai bên che hai chiếc quạt vả, uy phong lẫm liệt, trông như một vị thành hoàng, còn quan phó sứ là Hùng Khởi Phượng thì hãy còng trẻ, dung mạo đường hoàng, hai bên tả hữu có năm trăm quân ngự lâm đi theo. Lại có Trương Long và Triệu Hổ là hai tay võ tướng, dũng lực hơn người, cùng đi hộ vệ.
Nam Kim nữ chủ nghe báo, mới giáng chỉ rằng:
- Ngày nay có sứ thần ở thiên triều đến, các quan văn võ triều thần đều phải ra đón.
Các quan triều thần vâng mệnh, cùng nhau ra nghênh tiếp. Doãn Thượng Khanh cùng Hùng Khởi Phượng mỗi người tay cầm một cờ tiết mao đi thẳng vào chốn triều đường. Khi vào tới nơi, trông thấy đuốc hoa sáng rực, đỉnh trầm hương bay, giữa treo một cánh rèm châu, hai bên phía ngoài có các cung nữ đứng thị lập.
Doãn Thượng Khanh chờ mãi không thấy Nam Kim nữ chủ ra tiếp chiếu, mới hỏi rằng:
- Từ xưa tới nay, các vua nước Cao Ly này vẫn một lòng thủ lễ với thiên triều, cớ sao ngày nay có sứ thần ở thiên triều sang phong vương, mà nữ chủ ngươi lại không ra tiếp chiếu?
Các quan văn võ triều thần đều khúm núm mà đáp lại rằng:
- Nữ chủ tôi sở dĩ không ra tiếp chiếu, là vì hổ phận liễu bồ, sợ ra không tiện, hai là còn đang có tang, không thể thay thay mặc cát phục được.
Doãn Thượng Khanh nói:
- Nữ chủ dẫu hổ phận liễu bồ, nhưng lễ phong vương là một lễ rất quan trọng, không thể trốn không ra tiếp chiếu được. Cứ theo lệ thì xưa nay các nước phụ dung cáo tang mà có sứ thần ở thiên triều đến thì nước nào cũng phải đổi mặc cát phục để ra tiếp kiến. Vả nữ chủ các ngươi sinh trưởng trong Trung Hoa thì Đại Nguyên ta tức là tổ quốc của nữ chúa ngươi đó. Cớ sao lại dám khinh thường, hay là tưởng lưỡi gươm của kẻ sứ thần này không sắc đó chăng.
Nam Kim nữ chúa nghe nói, truyền cuốn rèm châu lên, rồi gót sen đủng đỉnh bước ra. Nữ chủ bấy giờ dẫu ngoài bốn mươi tuổi, nhưng phong tư chẳng kém chi một người thiếu nữ hãy còn đang xuân. Khi ra tới nơi, Nam Kim nữ chủ quì xuống làm lễ tiếp chiếu, chúc câu vạn tuế. Các quan văn võ triều thần, cũng đều phủ phục để nghe lời sứ thần tuyên chiếu.
Nam Kim nữ chủ nghe xong, cúi đầu lạy tạ. Các cung nữ xúm lại đỡ Nam Kim nữ chủ dậy, đứng ở trước thềm vàng, Nam Kim nữ chủ giơ tay tiếp lấy thánh chỉ rồi mời Doãn Thượng Khanh ngồi để lạy tạ và nói rằng:
- Chẳng mấy khi tướng công tới đây, khiến cho thiếp được thừa tiếp tôn nhân, thật thấy làm vinh hạnh lắm. Thiếp xin cúi đầu lạy tạ và tuân theo lời chỉ giáo của tướng công.
Doãn Thượng Khanh tỏ ra ý khiêm tốn mà đáp rằng:
- Tôi chỉ xin nương nương cố giữ cho trọn điều tín nghĩa.
Nam Kim nữ chủ lại mời Hùng Khởi Phụng ngồi để lạy tạ. Ai ngờ hai người ấy nguyên có phong lưu nghiệt trái từ trước, bấy giờ bỗng cùng nhau gặp gỡ, khiến cho mặt nhìn mặt thêm ngây.
Nam Kim nữ chủ nghĩ thầm: “Mắt này được nhìn đàn ông, tưởng cũng đã nhiều, nhưng chưa thấy ai đẹp như Hùng quốc cữu. Trời ơi! Mối tương tư này có lẽ thêm hại cho ta!”
Nam Kim nữ chủ nghĩ vậy, mới định thần mà nói rằng:
- Chẳng mấy khi quốc cữu lại di giá đến tiểu bang này, thiếp xin cúi đầu bái tạ.
Hùng Khởi Phụng đứng dậy chối từ mà rằng:
- Nương nương làm chủ trong một nước mà lại quá ư khiếm tốn như thế, có đâu tôi dám thụ lễ.
Nam Kim nữ chủ mời ngồi xuống ghế, rồi lui vào phía trong, lại bỏ rèm châu xuống, ngồi ở trong rèm ngắm nhìn Hùng Khởi Phụng mà nghĩ thầm rằng: “ Không ngờ thế gian lại có người đẹp đến thế này! Khuôn khổ người này thật giống Hoàng Phủ Thiếu Hoa năm xưa như đúc! Tơ tình vương víu, khiến cho lòng ta luống những bồi hồi.”
Nam Kim nữ chủ đang ngẫm nghĩ thì có nội giám quì tâu rằng:
- Muôn tâu lệnh bà! Hai sứ thần thiên triều đã ngồi vào ngự yến, xin lệnh bà ban rượu mời.
Nam Kim nữ chủ truyền đem chén ngọc rót rượu rồi sai cung nữ bưng ra. Hai tên cung nữ bưng hai chén rượu ra quì xuống dâng mà thưa rằng:
-Cúi chào hai vị sứ thần! Nữ chủ tôi sai đem hai chén rượu này ra để kính mời.
Doãn Thượng Khanh và Hùng Khởi Phượng đều cầm lấy chén rượu mà tỏ lời cảm tạ. Khi tiệc xong, hai vị sứ thần lui ra nhà công quán để yên nghỉ. Trong nhà công quán cũng trần thiết một cách long trọng, lại có bốn người mỹ nữ đứng hầu. Doãn Thượng Khanh nói:
- Đây ta có các gia tướng theo hầu, không cần phải dùng đến mỹ nữ.
Bốn người mỹ nữ đều cúi đầu lui ra, liếc mắt trông trộm Hùng Khởi Phụng, đều lấy làm khen ngợi mà nghĩ thầm rằng: “Sao thiên triều lại có người nam tử dung mạo tuyệt vời như thế!”
Lại nói chuyện Nam Kim nữ chủ lui vào trong cung, tháo mũ cởi áo, ngồi tựa xuống ghế mà thở ngắn than dài, không nói câu gì ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lòng lại nhủ lòng rằng: “ Bây giờ ta biết dùng kế chi mà lưu Hùng Khởi Phụng ở lại đây được?”
Nam Kim nữ chủ nghĩ quanh nghĩ quẩn, lại nói một mình rằng:
- À, Cứ như lời trong chiếu thư của vua thiên triều nói thì hai vị sứ thần này đều là tay học rộng tài cao, vậy sáng mai ta cho triệu riêng Hùng Khởi Phụng vào cung để giảng sách cho ta nghe.
Sáng hôm sau Nam Kim nữ chủ truyền cho nội giám bày một tiệc ngọc yến ở trong điện thái cực, rồi sai triệu Hùng Khởi Phượng vào. Khi Hùng Khởi Phụng vào tới nơi, Nam Kim nữ chủ mừng rỡ xiết bao, truyền cuốn rèm châu lên, đứng dậy ra đón, miệng tủm tỉm cười mà bảo Hùng Khởi Phụng rằng:
- Hùng quốc cữu xin miễn lễ! Mời người ngồi cho.
Hùng Khởi Phụng ngồi xuống ghế, cung nữ dâng trà uống. Hùng Khởi Phụng nói:
- Chẳng hay nương triệu tôi vào đây có việc chi?
Nam Kim nữ chủ nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Tôi sinh trưởng ở trong Trung Hoa, chẳng may xấu số, phải lưu lạc đến cõi xa xôi mọi rợ này, dẫu được làm hoàng hậu thật, nhưng cái mặt hoa da ngọc này há chẳng uổng phụ lắm ru! Tuồng gì là giống hôi tanh, thân nghìn vàng để ô danh má hồng! Cha mẹ tôi năm xưa cũng có mông ân vua Cao Ly được sang đây thăm tôi, nhưng vì không quen phong thổ lại phải trở về, bỏ một thân tôi ở đây. Mỗi khi tôi nghĩ đến quê cha đất tổ, trông đàn nhạn bay, luống nhỏ hai hàng nước mắt. Thấm thoát hơn hai mươi năm trời nay, tôi vẫn một lòng tận trung báo quốc, khiến cho nước Cao Ly phải hàng năm cống hiến thiên triều. Giả sử đem tôi mà so sánh với bà Chiêu Quân đời Hán (xem trong bộ tiểu thuyết song phượng kỳ duyên) thì công lao của tôi, lại còn có phần hơn vậy. Không ngờ ngày nay vua Cao Ly băng hà, thế tử hãy còn trẻ dại, mới lên sáu tuổi. Vì thế tôi phải tạm quyền ngôi vua, mà dâng biểu xin thiên triều cho mấy vị sứ thần tài cao học rộng sang phong vương, để trấn áp thần dân ở Cao Ly này. May sao duyên trời dung dủi mà quốc cữu lại cùng Doãn tướngcông phụng mệnh tới đây. Vậy hai ngài hãy nên tạm lưu ở đất man hoang nàytrong vài ba năm, tôi sẽ giao cả triều chính cho quan Doãn tướng công, còn quốc cữu thì cứ ở trong cung với tôi, tự khắc trong ngoài đều phải nhiếp phục.
Nam Kim nữ chủ vừa nói vừa tủm tỉm cười, hai mắt đưa tình, nhìn Hùng Khởi Phụng. Hùng Khởi Phụng nghiêm sắc mặt mà đáp rằng:
- Nương nương nghĩ thế là lầm! Tôi phụng mệnh thiên triều tới dây, cốt để giúp cho nước Cao Ly được yên tĩnh. Chỉ trong một vài tháng, hễ thần dân thiếp phục rồi thì chúng tôi phải vể phúc mệnh với thiên triều. Và Doãn tướng công là một bậc lão thần ở thiên triều, khi nào lại chịu làm tôi hạ quốc.
Nam Kim nữ chủ lại cười mà bảo rằng:
- Quan Doãn tướng công không thể lưu lại được, nhưng còn quốc cữu thì đang tuổi thanh xuân, cao đường ở nhà đều khoẻ mạnh cả, dẫu quốc cữu ở đây tám năm hoặc mười năm sẽ về cũng được chứ sao!
Hùng Khởi Phụng nghe nói, không bằng lòng mà đáp rằng:
- Nương nương không nên nghĩ như thế! Tôi đây là một nhà quốc thích ở bên thiên triều, khi nào lại chịu, làm tôi nước Cao Ly, dẫu nương nương muốn nói thế nào thì tôi đây cũng không dám vâng lệnh.
Nam Kim nữ chủ truyền đem chén ngọc ra để rót rượu mời Hùng Khởi Phượng. Nam Kim nữ chủ nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Thiếp không dám có ý gì đâu, xin quốc cữu bớt giận làm lành mà uống chén rượu này. Hôm nay chỉ biết uống rượu cho thật say, còn việc ngày mai để đến ngày mai sẽ bàn.
Uống rượu được ba tuần thì có các ca nữ đến, người gảy đàn kẻ múa hát, thật là một cuộc vui hiếm có vậy. Nam Kim nữ chủ cầm chén rượu mời Hùng Khởi Phụng mà rằng:
- Khúc hát này là một khúc: “Dương Xuân” của thiếp đây tự chế ra đó. Nay đang mùa đông mà diễn khúc hát này để hiến quốc cữu, xin quốc cữu hãy gượng uống thêm mấy chén rượu.
Hùng Khởi Phụng nói:
- Đa tạ lòng quý báu của nương nương, khiến tôi đã được nghe giai âm, lại được xem vũ điệu. Bây giờ tôi say lắm rồi, tửu lực không thể chịu nổi, vậy xin cáo từ.
Nam Kim nữ chủ giữ lại mà bảo rằng:
- Quốc cữu hãy thư thả một chút. Số là tôi mới lập được một đình đài ở trong Xuân viện, mà chưa có biển đề chi cả. Chẳng mấy khi quốc cữu sang tới đây, mời quốc cữu đi dạo chơi, rồi phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.
Nói xong, ngoảnh lại truyền bảo cung nữ rằng:
- Các con sắp đốt đèn lồng để ta cùng quốc cữu ra ngự chơi chốn Xuân viên đây!
Các cung nữ vâng mệnh,sửa soạn đồ hành nghi: nào là tàn vàng quạt vả, nào túi trầm lư hương, trông rất nghiêm chỉnh. Nam Kim nữ chủ ngồi trên một loan xa, Hùng Khởi Phụng cưỡi con ngựa hoa thông mã, cùng đi dạo xem phong cảnh ở trong Xuân viện. Nam Kim nữ chủ bảo Hùng Khởi Phụng:
- Hùng quốc cữu ơi! Tôi ngồi xe, quốc cữu cưỡi ngựa thì hai ta khó đi đôi mà nói chuyện cùng nhau được, chi bằng quận chúa cùng sang ngồi xe với tôi cho tiện nói chuyện.
Nam Kim nữ chủ vừa nói vừa có ý hổ thẹn, nét mặt đỏ hồng, Hùng Khởi Phụng cau mày mà đáp rằng:
- Nương nương vốn sinh trưởng bên nước Trung Hoa là một nước có lể nghĩa cớ sao lại nói những câu hoang đường như thế. Nương nương phải nghĩ mình là chủ thần dân trong một nước, càng nên nghiêm trang đứng đắn, chớ bắt chước những thói tư tà.
Nói xong, vẫn ngồi trên mình ngựa, từ từ đi theo sau xe. Bây giờ dẫu tiết đông tiêu sái, nhưng thanh tùng hồng mai trông cũng nhiều cảnh ưa nhìn. Khi đến một nơi lâu đài kia, nội giám quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu lệnh bà! Đây là Vọng tiên đài! Trèo lên trên đài có thể nhìn quanh bốn mặt, trông thấy cả sông Áp Lạc Giang vậy.
Nam Kim nữ chủ truyền dừng xe lại, rồi thủng thỉnh bước xuống, đi thẳng vào Vọng tiên đài. Hùng Khởi Phụng bất đắc dĩ cũng phải xuống ngựa theo vào. Khi lên đến trên đài,, nhìn quanh bốn mặt quả nhiên là một nơi danh thắng, núi xanh cao ngất, nước biết lượn vòng, càng nhìn càng thấy vẻ đẹp. Hùng Khởi Phụng nghĩ thầm: “Nước Cao Ly này tình thế cũng hiểm yếu lắm, thảo nào mà từ đời Tần, Hán cho cí Đường, Tống đã mấy lần quân Trung Hoa sang đánh đều bị thua trận. Ngaỳ nay ta đã nhân dịp tới đây, cũng nên khuyên Nam Kim nữ chủ đầu hàng, để cho yên bờ cõi. Chỉ hiềm một nỗi nữ chúa lại có lòng tư tà mà buông lời hoa nguyệt, vậy ta biết nói sao cho nữ chủ khỏi mếch lòng”. Hùng Khởi Phụng đang cúi đầu ngẫm nghĩ thì Nam Kim nữ chủ nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Quốc cữu hãy nhìn về cửa sổ phía nam này mà xem, đứng một chỗ này có thể trông khắp được bảy mươi hai đảo.
Hùng Khởi Phụng chạy lại gần cửa sổ phía nam, nhìn ra mặt bể, quả nhiên trông thấy bảy mươi hai đảo, vây bọc lấy chung quanh nước Cao Ly. Hùng Khởi Phụng nghĩ thầm: “Một nơi hiểm yếu như thế này, dẫu trăm vạn hùng binh đến cũng không làm chi nổi. Chẳng biết hồi bốn năm trước, cữu phụ ta đem binh tới đây, dùng mưu kế chi mà khiến cho các nước man di phải khiếp phục!” Nam Kim nữ chủ cầm chén trà mời Hùng Khởi Phụng uống, miệng cười tủm tỉm mà bảo rằng:
- Đây là một thứ Dương Tiên trà ở Trung Hoa đem đến, mời quốc cữu xơi.
Hùng Khởi Phụng đỡ lấy chén trà, nét mặt nghiêm trang, lại càng thêm có vẻ đẹp. Nam Kim nữ chủ lại hỏi:
- Quốc cữu năm nay bao nhiêu tuổi?
Hùng Khởi Phượng:
- Năm nay tôi hai mươi bốn tuổi.
Nam Kim nữ chủ gật đầu nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Nếu vậy thì năm quốc cữu còn để chỏm đang đi học, bấy giờ tôi đã hai mươi tuổi, giả sử tôi gặp quốc cữu thì tôi sẽ ẵm đi chơi, hoặc là mua đồ chơi cho quốc cữu. Ai ngờ thời giờ thấm thoát, chỉ trong chớp mắt, mà ngày nay quốc cữu đã trưởng thành, trở nên một người mỹ trượng phu. Quốc cữu ơi! Thật là duyên trời dun rủi, khiến cho tôi được cùng quốc cữu phỉ nguyện trăm năm.
Hùng Khởi Phượng nghe nói, giả cách như người không hiểu mà đáp rằng:
- Nương nương định bảo tôi đề biển chỗ nào thì xin nương nương cho di giá đến chỗ ấy.
Bấy giờ Nam Kim nữ chủ lại lên xe đi, Hùng Khởi Phụng cưỡi ngựa theo sau. Đi đến một nơi đình đài, chung quanh kể có nhìn gốc mai, lại có hai cây bách đứng ở hai bên, phía sau trồng toàn một thức trúc xanh, bóng râm che mát, còn phía trong đình đài thì sự hoa mỹ không biết thế nào mà kể cho cùng! Nội giám quì xuống tâu rằng:
-- Muôn tâu lệnh bà! Đây đã tới nơi đình đài tân tạo đó, xin lệnh bà vào ngự. Đình đài này hiện nay chưa đặt tên.
Nam Kim nữ chủ xuống xe, mời Hùng quốc cữu vào, truyền đem văn phòng tứ bảo và thứ giấy Cao Ly ra để xin chữ Hùng Khởi Phụng. Nội giám vâng mệnh, đem đủ nghiên bút giấy mực ra bày ở trên long án. Nam Kim nữ chủ nói với Hùng Khởi Phụng rằng:
- Hùng quốc cữu ơi! Quốc cữu học rộng tài cao xin vì tôi mà đặt tên cho đình đài tân tạo này. Chỗ này là chỗ để khi nào tôi giao quốc chính cho thế tử rồi thì về ở đây mà đi dưỡng tính tình.
Hùng Khởi Phụng ngắm ngía chung quanh, rồi cầm bút viết mấy chữ mà nói rằng:
- Tôi thiết nghĩ nương nương cố giữ sao cho trọn lòng kiên trinh vàng đá. Song the chiếc bóng, chỉ nên cùng mai hoa hay là tùng bách kết bạn đồng tâm. Vậy tôi xin đặt tên đình đài này gọi là “Tam hữu đồng tâm đài”.
Nam Kim nữ chủ có ý hổ thẹn, mặt đỏ bừng bừng, nhưng cũng mỉm cười mà tỏ lời cảm tạ. Lại nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Người ta đang độ tuổi xuân mà gặp được bạn tri kỷ, biết yêu hương tiếc ngọc, để cùng nhau đẹp duyên cầm sắt thì giảu đồng tâm buộc chặt, tưởng không bao giờ còn nỡ phụ lời thề. Hiềm vì một nỗi hồng nhan bạc mệnh, rồng vàng lại thường phải tắm nước ao tù. Ngu đần mấy mặt ngẩn ngơ, chúng còn biết tình là cái chi chi nữa. Quốc cữu ơi! Người ta ở đời, công danh phú qúy, muôn vật toàn là già cả, có chăng chỉ một chữ tình!
Nam Kim nữ chủ nói dứt lời thì Hùng Khởi Phụng cười nhạt mà đáp rằng:
- Tô phụng mệnh thiên triều sang tới đây, trước là để viếng tang quốc vương, sau là để gia phong cho nữ chủ, vậy tôi chỉ biết lễ nghĩa là trọng, xin nương nương chớ nói đến chữ tình. Nương nương ở ngôi vương phi trong hai mươi năm trời nay, ân tình đối với quốc vương thuở xưa, thiết tưởng ngày nay chưa có thể quên được. Cao Ly đây nguyên là một nước lễ nghĩa, mà nương nương lại là một người Trung Hoa, xin nương nương phải nên tự trọng. Vả tôi cùng nương nương vốn không quen biết, cũng không thân thích chi cả, chỉ vì sứ mệnh mà gặp gỡ nhau, rồi đây kẻ bắc người nam, nghìn dặm cách xa, can chi nương nương lại nói đến chữ tình cho không hợp cảnh. Tôi khuyên nương nương nên một lòng thủ tiết, để hưởng lấy phúc thanh nhàn.
Nam Kim nữ chủ thẹn quá, thành ra có ý tức giận, nhưng cố nén cơn tức giận mà nói:
- Xin lĩnh giáo! Thiếp xin lĩnh giáo!
Nam Kim nữ chủ lại nói:
- Hùng quốc cữu ơi! Nghe lời quốc cữu nói, khiến cho tôi hối hận vô cùng, tiếc rằng bây giờ tôi mới được gặp. Thôi thì hôm nay tôi hãy xin cùng quốc cữu uống rượu vui, để kết làm bạn tri giao vậy.
Nói xong, truyền bày một tiệc rượu ở Đồng Tâm đình, mời Hùng Khởi Phụng. Trong khi uống rượu, Nam Kim nữ chủ dùng hết cách phong tình để trêu ghẹo Hùng Khởi Phụng, Hùng Khởi Phụng cứ nghiêm nét mặt mà ngồi, không hề ngẩn nhìn. Nam Kim nữ chủ nghĩ được một kế, mới cười mà bảo Hùng Khởi Phụng rằng:
- Hùng quốc cữu ơi! Mấy câu tôi nói vừa rồi là nói đùa đó thôi, xin quốc cữu chớ lấy làm nghĩ. Chẳng qua vì tôi quý mến tài năng của quốc cữu, mà muốn cùng quốc cữu trò chuyện trong ít lâu đó thôi. Nhưng sẫu sao cũng gọi là duyên, hôm nay nhân tiệc rượu ở Đồng Tâm đình này mà khiến cho tôi được trộm nghe lời cao luận.
Nói xong, truyền gọi cho bọn ngoại sủng vào mà phán rằng:
- Chẳng mấy khi có Hùng quốc cữu ở thiên triều tới đây, các ngươi phải quì dâng quốc cữu, mỗi người ba chén rượu. Hễ quốc cữu không uống thì ta đây cứ trách phạt các ngươi đó.
Bọn ngoại sủng vâng mệnh, lần lượt nhau mà mời rượu. Một người trước nhất mặt phấn môi son, tóc mây mườn mượt, trông như người cung nữ, hai tay bưng chén ngọc bôi, quì xuống mà tâu nói với Hùng Khởi Phụng rằng:
- Dám bẩm quốc cữu! Chúng tôi vâng mệnh nữ chủ tôi, xin kính dâng quốc cữu một tuần rượu.
Hùng Khởi Phụng mỉm cười mà bảo rằng:
- Các ngươi cứ mời nữ chủ uống, ta đây xin tự rót mà uống lấy, không cần các người phải mời.
Nói xong, liền rót một chén thật lớn, uống thẳng một hơi. Nam Kim nữ chủ kinh ngạc mà rằng:
- Hùng quốc cữu tửu lượng ghê lắm thay. Tôi đây chỉ uống được năm bảy chén mà thôi.
Nói xong, lại truyền cho bọn ngoại sủng rằng:
- Các ngươi lấy chén lớn mời quốc cữu, còn ta đây dùng chén nhỏ để ngồi tiếp rượu hầu quốc cữu cho vui.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ tư
Doãn thượng khanh phụng mệnh đi sứ
Hùng khởi Phụng mắc kế bị giam (2)

Bấy giờ mọi người xúm lại mời Hùng Khởi Phụng. Hùng Khởi Phượng một lúc uống kể hàng nghìn chén rượu mà mặt vẫn không thấy đỏ, cứ nghiễm nhiên ngồi, không hề nói nhảm chút nào. Nam Kim nữ chủ đứng dậy lên xe về cung, truyền cho bọn ngoại sủng cắt bốn người ở lại để hầu hạ Hùng Khởi Phụng. Nam Kim nữ chủ lại tủm tỉm cười mà bảo Hùng Khởi Phụng rằng:
- Hùng quốc cữu ơi! Đêm nay quốc cữu ngủ tại Đồng Tâm đình này thì nghĩa đồng tâm là thế nào, tưởng cũng nên phải nghĩ đến.
Nói xong, quay xe về thẳng, để Hùng Khởi Phụng ngủ tại đấy. Hùng Khởi Phụng buồn rầu mà nghĩ thầm rằng: “Ta phụng mệnh đi sứ, ngờ đâu lại xảy ra việc này! Bây giờ ta bị khốn tại chỗ này, quan Doãn thừa tướng ở ngoài, tất người phải nóng lòng sốt ruột. Người lại đoán ta là phường niên hiếu, ham mê tửu sắc thành ra đắm đuối không về”.
Lại nói chuyện quan chánh sứ là Doãn Thượng Khanh ở ngoài công quán, nóng lòng sốt ruột, không hiểu cớ sao trời đã tối sẫm mà Hùng Khởi Phụng vẫn không thấy về. Doãn Thượng Khanh nghĩ thầm: “Hùng quốc cữu năm nay hãy còn trẻ tuổi, huyết khí chưa định, có lẽ vì ham mê tửu sắc mà vui chén quá say chăng. Nhưng quốc cữu xưa nay tính hạnh đứng đắn, khi nào lại đến nỗi như thế.” Doãn Thượng Khanh nghĩ vậy, mới gọi Phiên quan mà hỏi rằng:
- Cớ sao hôm nay nữ chủ ngươi lại triệu riêng một mình Hùng quốc cữu vào cung, mà đến bây giờ vẫn chưa thấy ra về.
Phiên quan nói:
- Cung cấm là nơi nghiêm mật, chúng tôi ở ngoài, nào được biết. Hoặc giả Hùng quốc cữu cùng nữ chủ tôi có thân tình gì chăng!
Doãn Thượng Khanh nổi giận mà mắng rằng:
- Các ngươi chỉ nói càn! Nếu vậy ta phải tức khắc vào yết kiến nữ chủ để hỏi xem cớ sao lại giữ Hùng quốc cữu ngủ đêm tại trong cung?
Nói xong, truyền gọi Trương Long và Triệu Hổ sắp xe để vào triều. Bỗng thấy nội giám ra truyền chỉ rằng:
- Dám bẩm tướng công! Nữ chủ tôi thấy Hùng quốc cữu học rộng tài cao, vậy lưu ở trong cung, để cùng nữ chủ tôi tu bổ lại bộ quốc sử của nước Cao Ly. Việc này trong độ vài ba năm mới xong, chúng tôi phụng mệnh nữ chủ tôi sai ra lấy các thứ y phục cần dùng mang vào cho quốc cữu.
Doãn Thượng Khanh nghe nói lại càng tức giận, quát tháo ầm lên mà rằng:
- Đứa nào dám lấy y phục của quốc cữu! Bay về kêu với nữ chủ bay tới đây mà lấy! Nếu định tu bổ quốc sử thì can chi phải giam hãm trong cung? Nữ chủ bay sao dám nói càn, hay là định u cấm sứ thần thiên triều đó chăng!
Nội giám cười mà nói rằng:
-Doãn tướng công ơi! Bay giờ nữ chủ tôi không có ở trong triều, tướng công vào cũng vô ích, xin tướng công để đến sáng ngày mai hãy vào.
Trương Long cũng nói:
- Nếu vậy thì xin tướng công đành để đến sáng mai.
Bấy giờ các Phiên quan đã bày tiệc rượu, sơn hào hải vị, dị phẩm kỳ trân không biết thế nào mà nói cho xiết. Lại có quan thừa tướng Cao Ly cùng các triều thần đến dự tiệc. Quan thừa tướng Cao Ly cầm chén rượu mời Doãn Thượng Khanh mà nói rằng:
- Chúng tôi phụng mệnh nữ chủ tôi ra hầu rượu tướng công. Xin tướng công cứ yên lòng, sáng mai vào triều, cùng nữ chủ tôi bàn việc quốc chính, đem tài kinh bang tế thế mà giúp cho nước chúng tôi. Đợi đến tiết nguyên đán tới nơi này, các đảo lại triều, sẽ cùng tiễn tướng công về nước.
Doãn Thượng Khanh bất đắc dĩ cũng phải nguôi cơn tức giận, rồi nói:
- Lão phu phụng mạng thiên triều sang đây, là muốn giữ tình bang giao được hòa hiếu. Nhưng nữ chủ ngươi lưu Hùng quốc cữu ở trong cung để tu bổ quốc sử, việc ấy thật là một việc vo lý. Nếu định tu bổ quốc sử thì sao không cho lão phu cũng dự vào một tay, trước là tránh những lời thị phi, sau là khiến hai nước khỏi sinh lòng nghi hoặc vậy.
Quan thừa tướng Cao Ly nói:
- Nữ chủ tôi vốn là người thông thái rộng xem các sách, hay khảo cứu những việc cổ sơ, cho nên muốn lưu Hùng quốc cữu ở luôn tại trong cung để tiện khi cò điều gì muốn hỏi.
Sáng hôm sau, Doãn Thượng Khanh dậy sớm, chỉnh tề mũ áo, định đi vào triều thì bỗng nghe báo có Thuận Thiên vương đến yết kiến. Thuận Thiên vương bước vào, cúi chào mà thưa rằng:
- Kính chào Doãn tướng công! Tôi ngưỡng mộ đại danh của tướng công đã lâu, nay tướng công lại phụng mệnh thiên triều sang tới đây, chẳng những may riêng cho phần tôi, lại là một cái may chung cho cả nước tôi vậy. Xin mời tướng công ngồi, cho chúng tôi được lạy mừng.
Doãn Thượng Khanh cũng từ tạ rồi đáp lễ lại và hỏi rằng:
- Chẳng hay đại vương có phải quốc thích đó không?
Thuận Thiên vương nói:
- Tôi cùng quốc vương tôi trước là anh em ruột. Ngày nay rôi phụng mệnh nữ chủ tôi đến đây thương thuyết với tướng công. Xin mời tướng công ngồi. Tôi đây là một kẻ vũ phu, rất vụng về khoa ngôn ngữ, chỉ xin thật thà nói thẳng mà thôi.
Doãn Thượng Khanh đáp rằng:
- Vâng! Mời đại vương ngồi. Có điều gì tôi xin lĩnh giáo.
Thuận Thiên vương cả cười rồi kéo ghế lui xuống một chút. Tả hữu pha trà uống. Doãn Thượng Khanh lại hỏi rằng:
- Chẳng hay có việc gì, xin đại vương cứ dạy.[/scroll]

[scroll]Thuận Thiên vương đáp rằng:
- Nào có phải việc chi đâu. Nguyên là viếc thế tử mà tôi phải đến đây để cầu khẩn tướng công. Năm nay thế tử đã lên sáu tuổi, cần phải học vỡ lòng, lại gặp có Hùng quốc cữu tới đây, vậy nữ chủ tôi muốn lưu quốc cữu ở trong cung để dạy thế tử. Vả bộ quốc sử của nước Cao Ly tôi, mất mát nhiều chỗ, nếu muốn tu bổ lại, cần phải nhờ đến bậc đại nho. Nay dám phiền tướng công chủ trương việc ấy cho, để cùng các quan Hàn lâm nước tôi tu bổ quốc sử. Trong tòa Hàn Lâm cũng có nhiều sách vở, có thể đủ tài liệu mà nghiên cứu được. Bây giờ hãy xin dâng một nghìn lạng vàng để làm sính lễ, còn các tướng sĩ theo hầu, nước tôi xin cấp lương bổng một cách rất phong hậu.
Thuận Thiên vương nói xong, bỗng thấy mặt ngoài bưng lễ vật vào, Doãn Thượng Khanh từ chối mà rằng:
- Lão phu phụng mệnh thiên triều sang tới đây, cốt để giúp việc quốc chính. Tu bổ quốc sử cũng tức là một việc trong quốc chính, lão phu xin tuân mệnh, hà tất phải dùng đến lễ vật làm chi. Ngày nay lão phu hãy xin gởi vào trong kho, khi nào về nước sẽ bái lĩnh. Chỉ có Hùng quốc cữu vốn là một người tính khí khảng khái, nếu muốn giữ luôn tại trong cung, tất quốc cữu không chịu nào nên phải cho ra ở ngoài, mới có thể yên việc được.
Thuận Thiên vương nói:
- Tướng công bất tất phải lo ngại! Vừa rồi tôi có vào yết kiến Hùng quốc cữu thì thấy Hùng quốc cữu diện mạo khôi ngô, uy phong lẫm liệt, thật là một vì sao Văn xương ở trên trời giáng hạ trần thế. Vả nghe những lời nghị luận của quốc cữu, lỗi lạc hơn người, thế thì quốc cữu chẳng những là một bậc lương tá của thiên triều, lại là một ngôi phúc tinh cho tiểu bang chúng tôi vậy. Ngày nay tôi xin nói thật để cho tướng công biết, tướng công chớ có từ chối, anh hùng nên phải tùy cơ.
Nói xong, đứng dậy cáo từ lui ra. Doãn Thượng Khanh nghe nói, có ý nghi ngờ, nghĩ thầm: “Người này nói nhiều câu kỳ dị, chắc rằng ở trong chắc có ẩn tình, nhưng hắn lấy lễ nghĩa mà nói với ta thì ta cũng không nỡ cự tuyệt”. Doãn Thượng Khanh nghĩ vậy, liền gọi Trương Long và Triệu Hổ vào mà bảo rằng:
- Khi trước Bình Giang vương có nói chuyện cho ta biết rằng hai tướng quân sức khỏe một mình địch nổi muôn người, nay ta khuyên hai tướng quân cố làm nên công nghiệp như Ban Siêu thuở xưa, một là không phụ lòng Bình Giang vương, hai là về sau sẽ được tử ấm thê phong, nổi tiếng là một bậc anh hùng hào kiệt. Ta xem ý Nam Kim nữ chủ thì hình như muốn u cấm Hùng quốc cữu, chưa biết bao giờ mới cho về. Hai tướng quân nên nghĩ ơn triều đình, mà khuyên bảo quân sĩ, trên dưới một lòng, phòng khi xảy ra cớ sự gì thì ta phải hợp lực đồng tâm, để cùng nhau giữ lấy quốc thể. Ngày nay ta muốn cùng tướng sĩ uống máu ăn thề cho tỏ lòng sống chết có nhau vậy.
Nói xong, liền cởi áo bào ra, chích máu cánh tay rỏ xuống chén rượu. Trương Long Triệu Hổ thấy vậy liền hội họp các quân sĩ mà giải tỏ chân tình, đem lời Doãn Thượng Khanh nói, thuật lại cho quân sĩ nghe. Các quân sĩ nghe nói đều quì xuống khóc rằng:
- Chúng tôi nguyện một lòng vâng lời thái sư mà tận trung báo quốc.
Bấy giờ Trương Long và Triệu Hổ cùng các tướng sĩ đều chích máu phát thệ. Bỗng có mấy tên gia đinh cũng chạy ra quì xuống mà bẩm rằng:
- Dám bẩm thái sư! Chúng con dẫu tôi tớ phận hèn, cũng dám xin một lòng phát thệ.
Doãn Thượng Khanh thấy mấy tướng sĩ đều một lòng lấy làm mừng rỡ, lại dặn Trương Long và Triệu Hổ thỉnh thoảng phải luyện tập quân sĩ để phòng có việc. Mỗi khi Nam Kim nữ chủ sai nội giám đem nhân sâm và các thứ mỹ vị ra ban chi Doãn Thượng Khanh thì Doãn Thượng Khanh lại hỏi thăm Hùng Khởi Phụng.
Lại nói chuyện tòa Hàn lâm ở nước Cao Ly có một tên riêng gọi là Tu Văn quán. Một viên đứng đầu trong Tu Văn quán cũng gọi là chủ bút, đem các bạn đồng liêu đến bái yết Doãn Thượng Khanh, lễ mạo rất cung kính. Doãn Thượng Khanh mời ngồi, rồi pha trà uống, rồi ngắm nhìn các viên trong tòa Hàm lâm thì thấy viên nào cũng mặt mũi nhăn nhó kỳ hình quái trạng, không biết thế nào mà nói cho xiết. Bấy giờ bàn đến việc tu bổ quốc sử. Doãn Thượng Khanh hỏi về các kinh điển của nước Cao Ly trước, kẻ thì ngây ngô, cứ ngẩn mặt ra mà nhìn, kẻ thì khoe khoang, nói nhiều những câu hoang đường vô cứ, cũng có kẻ hơi am hiểu văn lý, trả lời được một đôi câu. Doãn Thượng Khanh chỉ bảo trước sau, chia ra từng tiết đoạn, mọi người nghe nói, ai nấy đều kinh sợ mà tán phục là một bậc thiên tài. Chúng tự biết mình học thiển tài sơ, nay được gặp Doãn Thượng Khanh, thì lấy làm mừng rỡ.
Bỗng thấy một tên gia binh đến gần quì xuống khẽ bẩm với Doãn Thượng Khanh rằng:
- Con là Tô Thành có một việc riêng muốn bẩm bạch.
Doãn Thượng Khanh vẫn biết Tô Thành là một người cẩn thận xưa nay, nay thấy mật bẩm như vậy, mới ngoảnh đầu lại bảo tả hữu lui ra, để cho Tô Thành nói. Tô Thành đến gần mà khẽ bẩm rằng:
- Từ khi Hùng quốc cữu vào cung, tôi vẫn hàng ngày đến chỗ cửa cung, dò la nội giám. Trong bọn nội giám có một người tuổi già tên gọi là Trương Thuận Nguyên người Trung Hoa, khi trước theo Nam Kim nữ chủ sang tới đây sung vào hàng túc trực, nhưng nữ chủ không tin dùng. Đến nay đã hơn hai mươi năm, vẫn bần cùng khổ sở. Tôi cũng tặng cho hắn bốn tấm lụa và một trăm lạng bạc, lại xin nhận hắn làm nghĩa phụ thì hắn mừng rỡ bội phần, đãi tôi rất tử tế. Có khi vui chuyện, hắn nói cho tôi được biết rằng Nam Kim nữ chủ rất có lòng yêu mến Hùng quốc cữu.
Nói đến đây thì Tô Thành lại rỉ tai bẩm nhỏ hồi lâu rồi lại nói:
- Hôm đầu Nam Kim nữ chủ để Hùng quốc cữu ngủ tại “Tam hữu đồng tâm đình” cho bốn người ngoại sủng vào hầu đến nửa đêm đều phải lui ra cả. Hôm sau lại cho bốn tên cung nữ vào thì quốc cữu cứ thắp đèn ngồi suốt sáng, nữ chủ không thể làm thế nào được. Độ này mới chịu để cho quốc cữu ngủ yên một mình. Tôi đã hỏi dò đường lối trong cung, định đêm hôm nay lẻn vào chỗ ở quốc cữu thử xem quang cảnh ra làm sao.
Doãn Thượng Khanh nói:
- Chết nỗi! Trong cung bao nhiêu quân canh thủ, vào thế nào nổi, không khéo mà bị chúng bắt được thì để tiếng xấu cho người Trung Hoa.
Tô Thành nói:
- Không hề chi! Chúng tôi đã có phép riêng. Xin thái sư ngồi đợi, chỉ độ quá canh ba, tôi sẽ đem được tin về.
Doãn Thượng Khanh gật đầu cho đi, rồi đêm hôm ấy ngồi đợi tin Tô Thành.
Lại nói chuyện Tô Thành thắt lưng gọn ghẽ, lấy vải cuốn chân thật chặt. Lại phủ khăn trùm đầu, chỉ hở có hai con mắt. Canh ba đêm hôm ấy, lẻn đến cửa cung treò qua tường vào. Khi vào tới nơi, trời tối như mực, chẳng có đèn đóm chi cả, chỉ văng vẳng nghe ở trên lầu cao có tiếng người khóc. Tô Thành cứ theo lời dặn của Trương Thuận hôm trước mà tìm đường lối, lần mò cho đến một nơi đình đài, khẽ đánh đá lửa lên soi, thấy có biển vàng đề năm chữ: “Tam hữu đồng tâm đình” Tô Thành chạy đến bên cửa, cố sức đẩy mạnh một cái, hai cánh cửa bật ra, trông phía trong có thắp ngọn đèn sáng rõ, mà Hùng Khởi Phụng đang ngồi xem sách ở bên cạnh cây đèn, vì cánh cửa ghép ván hai lần, cho nên đứng ngoài cửa không trông thấy ánh đèn sáng. Hùng Khởi Phụng thấy động vội vàng đứng dậy, Tô Thành chạy thẳng vào tới nơi rồi quì xuống đất mà bẩm rằng:
- Dám bẩm quốc cữu! Tôi là Tô Thành đây!
Hùng Khởi Phụng giật mình kinh sợ, ngắm nhìn thật kỹ, vội vàng đỡ dậy, và mừng rỡ bảo rằng:
- Ô hay! Tô Thành này! Nhà ngươi làm thế nào mà vào được đây, hay là ta chiêm bao đó chăng! Tô Thành gạt tay mà rằng:
- Xin quốc cữu chớ nói to tiếng.
Nói xong, liền rỉ tai mật bẩm mấy câu, lại đem phong thư của Doãn Thượng Khanh đệ trình cùng Hùng Khởi Phụng. Hùng Khởi Phụng mở ra xem, trong thư có mấy lời như sau:
- “Đã mắc vào vòng , không nên nóng nảy, chỉ cốt bền lòng gắn chí là hơn. Ta quyết chí thì không ai lay động nổi. Nên tùy cơ mà đợi thời, mới là tri sĩ. Thư này gửi ngày bính tý”.
Hùng Khởi Phụng xem xong, lẩm nhẩm gật đầu mà khẽ nói rằng:
- Quan thái sư nói chí phải! Nhưng từ khi ta bị khốn ở đây, lòng ta căm tức kể sao cho xiết! Tô Thành ơi! Ngày nay nhà ngươi vào đây, thật là một việc mạo hiểm, vì chốn cung cấm này canh thủ rất cẩn mật, chẳng hay cớ sao nhà ngươi vào tới đây, lại không ai biết cả, thế thì cũng là có trời giúp mà thôi.
Tô Thành cười mà đáp rằng:
- Không phải trời giúp, mà là tôi đốt thứ muộn hương, cho nên chúng đều ngủ say cả. Khi tôi mới vào khỏi cửa cung, nghe thấy ở trên lầu cao có tiếng khóc văng vẳng, tôi tưởng là quốc cữu bị giam tại đấy, nhưng lại không phải.
Hùng Khởi Phụng cũng cười mà bảo rằng:
-Thuở xưa vua Văn Vương bị giam bảy năm, ông Tô Vũ bị giam mười chín năm, Hoàng Phủ Kính vương bị giam ở nước Phiên ba năm, bấy giờ ngoại tổ ta (tức Vệ Hoán, cha Vệ Dũng Nga) cũng bị giam tại đây. Ta nay bị giam dẫu không khổ sở như các bậc tiền nhân, nhưng mưa Sở gió Tần, khiến cho ta càng thêm chua xót, biết làm thế nào?
Tô Thành nói:
- Quốc cữu muốn dặn bảo những gì, xin truyền phán mau kẻo muộn hương cháy hết thì e chúng lại tỉnh dậy chăng!
Hùng Khởi Phượng nói:
- Nhà ngươi ra nói với thái sư bất tất phải lo ngại, ta dẫu không giỏi võ nghệ, nhưng chõ này cũng không dùng đến sự chiến tranh. Thái sư yên lòng mà tu bổ quốc sử, càng thêm biết được địa dư nước Cao Ly. Ta đây cố giữ một lòng đoan trang, quyết không bao giờ chịu mắc vào cạm bẫy. Nếu có việc gì cấp bách thì nhà ngươi cứ ủy thác cho Trương Thuận. Hắn nguyên là người Trung Hoa, vẫn nhớ nước cũ, ta đã hứa với hắn là sau này cho theo về nước, hắn rất lấy làm mừng lòng. Đó là lời tâm phúc ta nói với nhà ngươi, nhà ngươi nên đợi thời, chớ thường hay vào đây mà lỡ có sự nguy hiểm. Còn chỗ cánh cửa long bật, nên chữa cho ngay ngắn, kẻo chúng sinh nghi.
Tô Thành đứng dậy chữa lại cánh cửa cho được ngay ngắn rồi cáo từ mà rằng:
-Trăm lạy quốc cữu! quốc cữu nên gìn vàng giữ ngọc, kẻo bọn gia đinh chúng tôi thật đã nát ruột héo gan. Không ngờ bây giờ được nhìn mặt quốc cữu đây, tôi mới yên lòng vậy.
Bấy giờ Tô Thành thuật lại đầu đuôi việc cùng nhau uống máu ăn thề cho Hùng Khởi Phụng nghe, Hùng Khởi Phụng nghe nói mừng rỡ mà rằng:
- Nếu vậy thì Doãn thái sư thật là bậc lão thành trì trọng. Tướng sĩ có một lòng mới không lo ngại. Ta đây ở trong cung cũng sẽ được yên tâm vậy.
Tô Thành vội vàng lui ra, Hùng Khởi Phụng đứng dậy đóng cửa, rồi ngẫm nghĩ mừng thầm, lại đi nằm nghĩ. Sáng hôm sau, mặt trời đã cao hơn một trượng, bấy giờ bọn nội giám mới thức dậy, ai nấy đều kinh hãi, không hiểu cớ sao mà bỗng lăn ra ngủ một giấc say. Chúng sợ Nam Kim nữ chủ tới nơi, lại vội vàng đi sửa soạn các công việc. Hùng Khởi Phượng cũng giả cách giật mình tỉnh dậy, rồi khoác áo mà rằng:
- Quái lạ! Sao hôm nay ta ngủ trưa quá như thế này.
Mọi người không ai trả lời thế nào, rồi lại cùng nhau pha trà mời Hùng Khởi Phụng và dâng các đồ thực phẩm. Hùng Khởi Phụng đứng dậy nhìn xung quanh thì quả nhiên là một nơi đình đài rất hoa mỹ tráng lệ. Một tòa nhà bạc, bốn mặt rèm châu, gấm trải căn tường, thảm rồng giải đất, sự xa xỉ không biết thế nào mà nói cho xiết! Hùng Khởi Phụng nghĩ thầm: “Không ngờ một nữ chủ ở nước Cao Ly này mà cách tự phụng lại lịch sự hơn vua Trung Hoa. Cứ lấy dung nhan mà nói thì Nam Kim nữ chủ cũng là bậc nghiêng nuớc nghiêng thành. Năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn phong vận ưa nhìn, đủ biết thuở còn xuân xanh, tất phải chim sa cá lặn. Thảo nào khi nàng mạo nhận làm cữu mẫu (trỏ Mạnh Lệ Quân), suýt nữa khiến cho Hoàng Phủ Tương Vương phải mờ mắt mà nhận lầm. Ta nghe lời nữ chủ phàn nàn với ta hôm trước về sự gặp gỡ trái duyên, nghĩ cũng thương tình: “Ðem thân trong Ngọc trắng ngà, sánh đôi cùng kẻ vai u thịt bắp, cho hay trăng già khéo độc địa lắm vậy.”
Hùng Khởi Phụng lại nghĩ thầm: “Ta cùng phu nhân ta ở nhà, vợ chồng lấy nhau trong sáu năm trời, cầm sắt hòa hợp, không hề có một lời to tiếng. Ai ngờ chỉ vì một việc nhỏ mọn mà dám càn dỡ nói liều, đàn bà như thế, sao gọi là hiền phụ được. Ta là bậc tu mi nam tử, chẳng lẽ lại chịu bó tay như ai. Bấy giờ ta nóng tính quá,giẫy ngã phu nhân, chẳng biết sự thai sản có hề chi không. Tuy vậy ta cũng không nên vội trách. Phu nhân ta bụng dạ đàn bà, nghe thấy ta bỏ nghìn vàng mua một nguời kỹ nữ, đem gởi một nơi thì tài nào chẳng sinh lòng ghen tuông. Vì lòng ghen tuông mà thành ra nói liều, lại gặp ta nóng tính, đến nỗi mất hòa khí. Bây giờ nghi lại, thật hối muôn vàn. Hùng Khởi Phụng lại sực nhớ đến nàng Hạng Hoa Tu mà nghĩ thầm rằng: như nàng Hạng Hoa Tu kia cũng là hồng nhan đệ nhất. Ta đây không phải thảo mộc, há dễ vô tình. Chỉ vì ta vâng mệnh hai thân, vấy nữ sắc làm giới. Con nguời vưu vật ( nguời con gái tuyệt sắc ai cung phải mê, ví nhu loài yêu quái) ta chớ nên gần. Hùng Khởi Phụng tưởng tượng đến quang cảnh khi nàng Hạng Hoa Tu than khóc với mình, lại ngẫm nghĩ khen thầm cái dung nhan xinh đẹp của nàng, thật ít nguời sánh kịp. Dẫu Phi Giao hoàng hậu là tay tuyệt sắc, nhung hai làn thu thủy, vị tất đã minh mị bằng nàng Hạng Hoa Tu. Con người như thế mà ta nỡ dứt tình thì ta cũng là kẻ nhẫn tâm vậy. Chẳng biết lời ước mười năm, nàng có giữ trọn được hay không? Lại chẳng biết phu nhân ta có lượng cả bao dung hay không?
Một mối tơ tình, luống khiến Hùng Khởi Phụng trăm phần phiền não. Hùng Khởi Phụng đang ngẫm nghĩ buồn rầu bỗng lại thở dài mấy tiếng rồi lẩm bẩm mà nói một mình rằng:
-Ô hay! Hùng Khởi Phụng ơi! Hùng Khởi Phụng ơi! Cha mẹ vợ con sao ngươi không nghĩ, mà ngươi lại nghĩ đến nàng Hạng Hoa Tu? Như thế trách nào mà vợ ngươi không phải sinh lòng ghen ghét! Thôi, thôi! Giả sử nàng Hạng Hoa Tu có một lòng thủ ước, ta cũng nên từ tạ, chớ có rước sầu mua não mà khiến cho ruột tằm bối rối vò tơ.
Bỗng thấy nội giám đem dâng mấy chiếc áo cừu mà bẩm rằng:
- Dám bẩm quốc cữu! Nữ chủ tôi thấy đem qua trời nổi gió bấc, sợ quốc cữu bị lạnh, vậy sai chúng tôi đem mấy chiếc áo hồ cừu này vào dâng quốc cữu.
Hùng Khởi Phụng cười mà bảo rằng:
- Ða tạ lòng tử tế của nữ chủ ngươi, nhưng ta đây lạnh ở trong tâm can, chứ không lạnh ở ngoài thân thể, dẫu khí tiết không bằng Hán Tô Vũ, cũng chưa phải dùng đến áo cừu. Các ngươi cứ đem về trả nữ chủ, nói áo cừu này đẹp thật, nhưng ta đây không dùng đến.
Nội giám nói:
- Hùng quốc cữu ơi! mấy chiếc áo cừu này, toàn là những đồ quý báu trong nội khố, giá đáng nghìn vàng mọt chiếc, quốc cữu mà mặc áo cừu này thì phẩm giá con người cũng tôn thêm lên vậy.
Hùng Khởi Phụng nổi giận quát mắng, mấy tên nội giám sợ hãi đem áo cừu ra, bấy giờ Hùng Khởi Phụng mới ngồi xuống ghế. Bỗng nghe báo có Thuận Thiên vương xin vào yết kiến. Hùng Khởi Phụng vội vàng nghênh tiếp. Thuận Thiên vương bước vào, nét mặt tươi cười mà nói với Hùng Khởi Phụng rằng:
- Tôi mắc bận mãi hôm nay mới vào bái yết quốc cữu được, thật là đáng tội.
Thuận Thiên vương vừa nói vừa sụp xuống lạy chào. Hùng Khởi Phụng vội vàng đỡ dậy mà đáp lễ lại, mới ngồi xuống ghế. Thuận Thiên vương ngẩn người ra nhìn Hùng Khởi Phụng không hề chớp mắt rồi khen rằng:
- Tôi trông quốc cữu tướng mạo đường hoàng, uy phong lẫm liệt, càng nhìn càng có vẻ đẹp, chẳng những nước tôi không ai sánh kịp, mà tôi thiết tưởng bên thiên triều cũng ít người được bằng vậy.
Hùng Khởi Phụng đáp rằng:
-Ngài dạy quá lời! Tôi phận hèn tài mọn, phụng mệnh thiên triều sang tới đây để tuyên dương đức hóa, không ngờ lại đem thân sang làm một kẻ tội tù. Tôi nực cười cho nữ chủ và các quan triều thần ở Cao Ly này thật toàn là những phường ngu muội. Tôi xin hỏi đại vương, như nữ chủ lưu tôi lại trong cung này là nghĩa thế nào, không sợ năm trăm quân thiên triều theo tôi sang đây, chúng lấy làm sĩ tiếu. Đại vương thử nghĩ mà coi: Từ đời ông Cơ Tử (Cơ Tử là anh em khác mẹ với vua Trụ nhà Ân. Thấy vua Trụ bạo ngược, nhiều kẻ trung thần bị giết. Cơ Tử đem theo một số người, bỏ sang nước Triều Tiên [Cao Ly]) thụ phong, khai sáng nước Cao Ly này vẫn lấy lễ nghĩa liêm sĩ làm trọng, nay nữ chủ làm càn như thế, chẳng những mua cười cho người trong nước, một mai đến tai thiên triều mà đem quân sang hỏi tội thì bấy giờ hối lại, phỏng có kịp không? Đại vương là một chi tộc trong hoàng phái, nỡ nào ngồi nhìn mà không ra tay cứu vớt cho nước nhà. Còn tôi đây dẫu sau cũng xin thủ tiết một lòng, tha hồ cho nữ chủ muốn dùng cách gì thì dùng, quyết không chịu vàng phai đá nát.
Hùng Khởi Phụng ơi! Xin quốc cữu bớt giận làm lành mà nghe tôi nói một lời. Cao Ly tôi là một nước nhỏ, khi nào dám trái mệnh thiên triều. Ngày nay nhân được quốc cữu tới đây, nữ chủ tôi muốn lưu lại trong cung, để cùng nhau đàm luận triều chính, quốc cữu không xét rõ, lại ngờ là có nhị tâm, thì thật rất oan cho nữ chủ tôi vậy. Năm nay thế tử nước tôi đã lên sáu tuổi, cần học vỡ lòng, vậy nữ chủ tôi sai tôi tới đây để bẩm bạch với quốc cữu muốn mời quốc cữu vỡ lòng cho thế tử, rồi qua đầu xuân sau, các đảo lại triều, sẽ cùng tiễn quốc cữu về nước.
Thuận Thiên vương vừa nói vừa tủm tỉm cười. Hùng Khởi Phụng lại hầm hầm nổi giận, đứng dậy mà hỏi rằng:
- Nữ chủ muốn lưu tôi lại để dạy thế tử phải không?
Thuận Thiên vương nói:
- Bẩm vâng!
Hùng Khởi Phụng nói:
- Đại vương ơi! Xin đại vương về tâu với nữ chủ, nói tôi đây dạ sắt gan vàng, dẫu nữ chủ dùng trăm phương nghìn kế gì, cũng không thể lay chuyển được. Từ khi tôi mới bước chân sang đất Cao Ly này thì lòng tôi đã bỏ cái chết ra ngoài vậy. Bây giờ không phải nói chi nữa, chỉ xin nữ chủ tha cho tôi ra khỏi chốn Xuân viên này, để hàng ngày được cùng Doãn thái sư cùng sum họp thì dẫu bắt tôi ở lại đây mấy năm, tôi cũng cam lòng.
Hùng Khởi Phụng nói xong thì Thuận Thiên vương lại tủm tỉm cười mà bảo rằng:
- Hùng quốc cữu ơi! Người ta có thức thời vụ mới gọi là tuấn kiệt. Nữ chủ tôi dẫu là đàn bà, nhưng rất có thao lược, quyết không bao giờ chịu theo ý quốc cữu nào. Đã đành rằng quốc cữu liều không sợ chết, nhưng phụng mệnh thiên triều tới đây, chưa được việc gì, mà đã khiến cho hai nước bất hòa thì sao tránh khỏi được tội “phụng sứ vô trạng”. Huống chi quốc cữu chết ở trong cung cấm, dẫu có một lòng trong sạch, nào ai là kẻ xét tình. Làm thân nam tử, vì việc ám muội mà chết thì tôi cũng tiếc cho quốc cữu vậy. Vả quan Doãn tướng công năm nay tuổi già, nếu quốc cữu bất hạnh làm sao thì tướng công khó lòng được an nhiên mà nước. Bấy giờ thiên triều tất cử binh sang đánh, tình hiếu hòa của hai nước trong mấy mươi năm trời, một sớm thành không, thế thì quốc cữu liều mình mà chết chẳng nên chút giá trị nào cả. Tôi là người Cao Ly, nói năng bộc trực, nửa vì quốc cữu, nửa vì nước tôi. Chi bằng quốc cữu vâng lời nữ chủ, tạm nhận chức tây tân ( tức ông thầy dạy học) này, rồi sau sẽ tùy cơ ứng biến, chắc cũng có ngày vén mây trông thấy mặt trời. Nếu quốc cữu thuận nghe lời tôi thì hôm nào thư thả, tôi xin cùng quốc cữu giải bày tâm sự. Có lẽ chỉ trong một năm, quốc cữu sẽ về nước được, mà cũng là hạnh phúc cho thần dân nước Cao Ly chúng tôi. Vừa rồi, tôi có vào yết kiến quan Doãn tướng công thì người nghe tôi nói cũng không hề nổi giận. Hiện đã nhận chức tu bổ quốc sử, và sai người mang biểu về dâng thiên triều. Tôi chắc thiên triều xem bản tâu ấy, cũng không khi nào có sự trở ngại.
Hùng Khởi Phụng nghe lời, nín lặng không nói câu gì. Thuận Thiên vương lại hỏi:
- Thế nào? Ngài có bằng lòng như thế không?
Hùng Khởi Phụng nói:
- Đại vương đã dạy, tôi xin vâng lời. Nhưng đại vương nên tâu với nữ chủ rằng: - đã cử tôi làm chức tay tân mà lại giam hãm tôi như thế này thì còn ra nghĩa lý chi nữa. Vậy nên để cho tôi được tự do đi ngao du trong nước. Ra vào hầu hạ, đã có nội giám, cấm không cho cung nữ đến quấy nhiễu tôi. Tính tôi ưa tĩnh, khi thế tử đến học, cũng không cho cung nữ đưa đến. Nếu trái lời tôi nói thì tôi xin từ chức tây tân.
Thuận Thiên vương cả cười mà đáp rằng:
- Nếu vậy hay! Quốc cữu thật là một ông mô phạm tiên sinh! Việc này tôi xin tuân mệnh, nhưng tôi có mấy lời tâm phúc ngõ cùng quốc cữu: Trong khi quốc cữu dạy bảo thế tử nên phải lưu ý một chút.
Nói xong, cáo từ lui ra. Lại vào tâu với Nam Kim nữ chủ rằng:
- Muôn tâu nữ chủ! Kẻ hạ thần phụng mệnh đến nói với Hùng quốc cữu. Lúc đầu quốc cữu cố chấp không chịu nhận lời về sau kẻ hạ thần hết sức khuyên nhủ, bấy giờ quốc cữu mới chịu nhận. Vậy nữ chủ nên truyền chọn ngày lành tháng tốt để cho thế tử đi học vỡ lòng.
Nam Kim nữ chủ nghe nói mừng lòng, nghĩ thầm: “Ngày nay ta hãy dùng cách giữ chàng ở lại, rồi dần dà sẽ liệu kế sau”. Bây giờ Nam Kim nữ chủ trọng thưởng cho Thuận Thiên vương và truyền chỉ cho Khâm Thiên giám tức khắc chọn ngày lành tháng tốt làm lễ vỡ lòng cho thế tử.
Lại nói chuyện trong triều nhà Nguyên, từ khi hai quan sứ thần đi sang Cao Ly rồi, chính sự khác trước hết cả. Đồ Man Hưng Phục thăng chức binh bộ thượng thư, hai con trai đều làm tổng trấn ngự lâm quân. Chúng ỷ thế nội giám Mã Thuận mà làm càn, Mã Thuận thì ngày đêm hết sức ô mị Phi Giao hoàng hậu, để mưu hại Lương thừa tướng. Một hôm, vua Anh Tôn tiếp được tờ biểu cáo tang của vợ chồng Hoàng Phủ Thiếu Hoa gửi đến, động lòng thương xót. Thượng hoàng ở nam nội cũng thương khóc một vị hiền thần. Thái hậu lại càng đau xót không biết dường nào, suốt ngày cứ vật mình lăn khóc, Phi Giao hoàng hậu nghe được tin ấy mừng thầm mà nói một mình rằng:
- Nếu vậy hay! Cha mẹ ta có tang, không tới đây được thì chính sự trong triều sẽ về một tay ta quyết đoán.
Phi Giao hoàng hậu mặt ngoài cũng giả cách bi ai khóc lóc, mấy hôm không vào nam nội vấn an. Vua Anh Tôn giao cho Lễ bộ quan bàn việc tuất điển. Lễ bộ quan tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Kính vương nguyên là thân phụ thái hậu, lại là tổ phụ hữu hoàng hậu (Phi Giao) thì tuất điển phải đặc cách gia tăng.
Phi Giao hoàng hậu thấy tờ tâu cố ý can ngăn mà nói với vua Anh Tôn rằng:
- Bệ hạ nên truyền phán cho Lễ bộ quan cứ chiếu lệ thân phụ thái hậu mà định tuất điển, còn tôi đây là người thế nào mà dám viện lệ dự bàn đến việc ấy. Vả theo lệ thường thì trong cung chỉ có một hoàng hậu, nay tôi được phong làm hữu hoàng hậu, là quá lạm rồi. Dẫu sao cũng phận thứ phi quyết không nên việt lễ. Nếu như lời lễ bộ quan nói thì chẳng những trái với lòng khiêm tốn của tôi mà e rằng tổ phụ và tổ mẫu tôi ở dưới suối vàng, cũng không muốn vì tôi mà chia cái vinh quốc thích vậy.
Phi Giao hoàng hậu nói xong, nét mặt rầu rĩ, rồi thở dài một tiếng, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Vua Anh Tôn thấy vậy vội vàng đỡ dậy mà khuyên giải rằng:
- Ái khanh ơi! Ái khanh chớ lấy làm phiền muộn. Hiện nay Hùng hậu đang bị bệnh, chưa biết sống chết thế nào. nếu Hùng hậu tạ thế thì ngôi chánh cung hoàng hậu kia không phải là ái khanh thì là ai...
Lại nói chuyện phò mã Triệu Câu nghe tin tổ phụ và tổ mẫu tạ thế , tức khắc dâng biểu về chịu tang. Thượng hoàng bất đắc dĩ cũng phải chuẩn tấu. Phi Loan quận chúa ngẫm nghĩ đứt từng khúc ruột. Bình Giang vương Hùng Hiệu thấy vậy, càng động lòng xót thương. Vệ Dũng Nga vương phi khóc lóc mà than rằng:
- Nghĩa phụ và nghĩa mẫu ta bấy lâu vẫn coi ta như con đẻ, ai ngờ đến lúc tạ thế mà ta không được đứng bên trong khi khâm liệm thì lòng này bao quản xót xa! Lương Cẩm Hà phu nhân thấy Phi Loan quận chúa thương khóc cũng tìm lời khuyên giải, còn Hùng Khởi Thần thì ra vào nâng đỡ hai thân. Hùng Hiệu nói với Vệ Dũng Nga vương phi rằng:
- Ngày nay phò mã Triệu Câu cáo về chịu tang, chi bằng ta cho Hùng Khởi Thần cùng đi luôn thể. Trước là viếng tang sau là về thăm quê nhà vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi nghe nói gạt nước mắt mà vâng lời. Hùng Khởi Thần vội vàng bẩm rằng:
- Dám bẩm hai thân! Việc viếng tang, sai một tên người nhà đem lễ vật đi cũng được, hà tất phải bắt con đi. Vả anh Hùng Khởi Phụng con đi vắng thì con đi sao tiện, lấy ai làm người hầu hạ hai thân. Huống chi con đang đi học, cũng không khỏi sao nhãng.
Hùng Khởi Thần nói chưa dứt lời thì Hùng Hiệu liền nổi giận mắng rằng:
- Ta sai đi viếng tang mà con dam trái lời hay sao! Con nên biết rằng Hoàng Phủ Tương Vương là bạn chí thân với ta, tức là nhạc phục của con đó. Bấy lâu ta xa cửa lìa nhà liều chết cố sống đem thân ra nơi chiến trường để giúp bạn, mà bạn ta cũng coi ta như tay chân, một lòng sống chết có nhau. Ngày nay bạn ta có tang, vợ chồng ta không thể đi được, mới phải sai con, cớ sao con lại từ chối.
Hùng Khởi Thần run sợ quỳ xuống mà thưa rằng:
- Con xin vâng mệnh! Con xin vâng mệnh!
Hùng Khởi Thần nói chưa dứt lời thì bỗng thấy gia tướng vào bẩm rằng:
- Bẩm lão gia! Có phò mã Triệu Câu xin vào yết kiến.
Vợ chồng Hùng Hiệu đứng dậy nghênh tiếp. Phò mã Triệu Câu nét mặt buồn rầu thưa rằng:
- Dám thưa cô phụ và cô mẫu! Sáng mai thì điệt nhi về chịu tang, xin cô phụ phải lưu ý việc quốc chính. Thái hậu quá bi thương ,ai là người khuyên giải. Còn Phi Giao độ này đã có ý lộng quyền, Đồ Man Hưng Phục giao thông với Mã Thuận mà ngày đêm làm mê hoặc thánh thượng, hai con trai hắn lại ra sức luyện tập quân mã, điệt nhi chắc sau này chúng tất làm càn. Điệt nhi đã mật bẩm với Lương thừa tướng, nhưng ngài chỉ một lòng tận trung mà không biết tùy cơ ứng biến, khó tránh khỏi tai vạ về sau. Hôm nay điệt nhi về quê nhà, chảng hay em Phi Loan có muốn nhắn câu gì chăng?
Vệ Dũng Nga vương phi mời phò mã Triệu Câu ngồi, rồi sai gọi Phi Loan quận chúa. Bây giờ Phi Loan quận chúa đã mặc đồ tang phục, trông thấy anh liền khóc òa lên, Triệu Câu cũng khóc. Hùng Hiệu khuyên giải mà rằng:
- hiền điệt ơi! Con chớ lo phiền, cứ để em con ở đây, không ngại chi cả. Con về chịu tang nên mau mau mà lại tới đây.
Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Điệt nhi về chuyến này, chớ tới đây vội, nên hãy ở nhà mà chờ tin tức xem sao. Nhà ta đây khó lòng tránh khỏi tai vạ, bấy giờ điệt nhi sẽ đem thân báo quốc về sau. Hùng Khởi Thần theo viếng tang, ta xin gởi lại đấy để giữ lấy dòng dõi họ Hùng, chớ khiến trở về kinh địa; còn như Hùng Khởi Phượng đi sứ, cũng vị tất đã được về nào.
Vệ Dũng Nga vương phi vừa nói vừa ứa hai hàng nước mắt xuống. Hùng Khởi Thần liền ôm lấy mà khóc rằng:
- Thân mẫu ơi! Thân mẫu nỡ lòng nào dứt tình bắt con phải đi nơi khác. Con há phải là phường tham sống, khi nào hịu rời bỏ hai thân. Thôi thì sống chết cố mệnh, con xin ở luôn dưới gối cha mẹ vậy.
Nói xong, hai tay cứ ôm chặt lấy mà nức nở khóc lóc. Tình cảnh ấy, khiến người trông thấy, dẫu gan sắt đá cũng phải xót thương. Vệ Dũng Nga vương phi đứng ngẫn người ra, không nỡ buông lời sỉ mắng.
Hùng Hiệu liền nổi giận mà rằng:
- Hùng Hiệu này, không ngờ lại sinh phải đứa con bất hiếu. Chẳng thà liều một mũi gươm, cho khỏi bị tay đứa quyền gian kia vậy.
Nói xong, tức khắc rút thanh bảo kiếm. Phò mã Triệu Câu quì xuống mà can rằng:
- Cô phụ ơi! Biểu đệ con hãy còn trẻ dại, xin cô phụ hãy dung thứ cho một phen.
Vệ Dũng Nga vương phi cũng nói:
- Vệ Dũng Nga vương phi cũng nói:
- Thôi, lần này là lần đầu, hãy tha thứ cho nó. Ta đã sửa soạn đồ tư trang, con nên mau mau khởi hành.
Hùng Hiệu buông thanh kiếm xuống, vẫn còn hầm hầm tức giận mà quay trở ra. Phò mã Triệu Câu cũng xin cáo từ.
Phi Loan quận chúa nói ra không tiện, chỉ gạt nước mắt khóc thầm. Vệ Dũng Nga vương phi đem tập tranh “bách mỹ” trao cho Hùng Khởi Thần mà bảo rằng:
- Đây là tập tranh của cô mẫu đưa cho, con nên giữ gìn luôn ở cạnh mình, chớ để thất lạc. Còn một hạt minh châu này, khi trước thân phụ con ra trận lấy được, đem dâng thiên tử, thiên tử lại ban cho thân phụ con. Về sau thân phụ con dùng làm đồ sính lễ để cưới ta đó, ngày nay ta bỏ vào trong cái túi nhỏ, để con đeo ở cạnh mình.
Hùng Khởi Thần vừa khóc vừa vâng lời dặn bảo.
Lại nói chuyện phò mã Triệu Câu về phủ, từ biệt cùng em là Triệu Lân. Triệu Câu nói:
- Hôm nay anh đã được thánh thượng phê chuẩn, sáng mai sẽ khởi hành. Nhưng anh xem thần sắc thái hậu độ này suy kém, không được lanh lợi như xưa, các thái y quan bốc thuốc, đều chẳng thấy công hiệu. Hôm trước anh đã tâu rõ với thượng hoàng là em có am hiểu y lý, vậy em nên vào cung trông nom việc thuốc thang. Lại còn một việc, em vốn tính ôn hòa, hoặc thừa cơ mà tâu bày bệnh tình của chánh cung hoàng hậu thực giả thế nào. Em xem hễ có long thai thì nên dùng cách mà bảo toàn cho được vô sự. Việc ấy chẳng những báo đáp triều đình, mà lại có thể bảo toàn được cho cha mẹ. Gia Tường công chúa vốn là người hiền đức, có thể tin cậy được, gặp việc gì khó khăn cũng nên báo cho công chúa biết.
Triệu Lân nghe nói gạt nước mắt mà nói:
- Thân huynh ơi! Em cũng lo cho nhà Hoàng Phủ ta lắm, không biết có bảo toàn được thủy chung hay không?
Hai anh em đàm luận cùng nhau hồi lâu, phò mã Triệu Câu lại trở vào trong phòng. Gia Tường công chúa đứng dậy đón, rồi cùng nhau ngồi nói chuyện. Tính trước bàn sau, than dài thở ngắn, hai vợ chồng đều nhỏ nước mắt khóc. Gia Tường công chúa truyền các nữ tỳ lui ra, rồi khẽ bảo phò mã Triệu Câu rằng:
- Hôm trước nội giám Quyền Xương thuật chuyện cho tôi nghe rằng: Phi Giao hoàng hậu tâu thánh thượng nói ba vị thân vương ở nam nội được thượng hoàng và thái hậu tin yêu làm nhiều điều trái phép, vậy thánh thượng nên nghĩ cách mà chia phong cho mỗi người đi một chỗ, cho được yên việc trong cung. Bà Ôn phi và Mai phi cũng xin cho đi theo con, để khỏi đem những lời sàm báng mà tâu với thái hậu. Thánh thượng nghe lời tâu, dẫu ngần ngừ chưa phán bảo thế nào, nhưng tiô chắc rằng ba vị thân vương tất không được ở nam nội nữa.
Phò mã Triệu Câu nghe nói mừng mà bảo rằng:
- Nếu vậy thì hay! Tôi đây sẽ có kế, nhưng bây giờ nói ra không tiện. Công chúa ơi! công chúa nên đề phòng cẩn mật chớ lộ hình tích cho ai biết, trước là khiến thượng hoàng và thái hậu được yên lòng, sau là hộ vệ cho Hùng hậu ở trong cung được an toàn vô sự. Còn ngoài ra đất lở trời nghiêng đã có Triệu Câu này. Ngày nay xin dặn một điều thiết yếu là nên tâu cho em tôi là Triệu Lân vào làm y quan, để trông nom việc thuốc thang co thái hậu và Hùng hậu thì họa may long thai của Hùng hậu mới khỏi bị hại vậy. Tôi chỉ nhờ công chúa một việc ấy, còn việc tôi đi chuyến này đường sá xa xôi, công chúa bất tất phải lo ngại.
Gia Tường công chúa nức nở khóc mà đáp:
- Phò mã ơi! Xin phò mã thay tôi dâng lời thăm hỏi hai thân, chỉ vì quốc thể mà tôi không thể cùng đi được. Phò mã nên khuyên hai thân chớ quá nghĩ, Phi Giao hoàng hậu lộng quyền như thế, nếu Mạnh vương phi ta tới đây thì có lẽ cũng bớt được một vài.
Hai vợ chồng đàm luận cùng nhau cho đến sáng. Sáng hôm sau, phò mã Triệu Câu khởi hành về chịu tang tổ phụ và tổ mẫu. Hùng Khởi Thần cũng theo về viếng tang luôn thể. Còn Triệu Lân thì được vào làm thái y quan.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ năm ( 1 )
Thượng Hoàng nhẹ bước cầu tiên cảnh
Thái hậu ra tay cứu Trung thần

Lại nói chuyện Triệu Lân từ khi phò mã Triệu Câu đi rồi, giả cách cung kính chịu lòn cúi nội giám Mã Thuận và nhà Đồ Man Hưng Phục, vì thế hai đứa gian quyền kia không có lòng nghi kỵ, vẫn cho được tự do ra vào trong cung. Một hôm, Triệu Lân viết một bản tâu nhờ bảo mẫu đệ trình Phi Giao hoàng hậu. Phi Giao hoàng hậu nghe nói là bản tâu của Triệu Lân đã có ý nghi, liền mở ra xem. Bản tâu như sau này:
“Ngự tiền đô úy là Triệu Lân xin có lời tâu bày để hữu hoàng hậu xét đoán: Nguyên các thái y quan xem mạch Hùng hậu, phần nhiều nói là có long thai. Nếu quả có long thai thực thì sau này tất bất lợi cho hữu cung. Chi bằng nhân lúc thai hình còn nhỏ này, thần đệ giả cách dâng thuốc “bảo thai” kỳ thực thì cứ dùng thuốc “sấu thai”dần dà mỗi ngày một chén, làm cho thai hình tiêu thước mà không thể kết quả được. Việc này là một việc bí mật chẳng lẽ bàn với các thái y quan, vậy xin tâu cho thần đệ vào trông nom thuốc thang, rồi thần đệ sẽ tùy cơ ứng biến.
“Có thế mới bảo toàn được ngôi hoàng hậu, mà thần đệ cũng được chia vinh. Thần đệ thiển nghĩ như vậy, còn nên chăng thế nào, xin lượng trên xét đoán.”
Phi Giao hoàng hậu xem xong mừng mà phán rằng:
- Nếu vậy thì rất hay! Quốc cữu Triệu Lân thật là một người có mưu lược, lại biết nghĩ tình chị em ruột thịt với ta. Kỳ thay, cùng trong cốt nhục một mẹ sinh ra, mà anh Triệu Câu coi ta như thù hằn. Từ khi ta vào cung tới nay, gần một năm tròn, anh ta vẫn có ý khinh bỉ và vô lễ với ta vậy. Ta nói thật cho mà biết! Chứ sau này hễ quyền chính về tay ta thì anh ta cũng khó lòng mà toàn được tính mệnh. Nay Triệu Lân xin vào trông nom việc thuốc thang, âu là để ta tâu cho.
Nói xong, tức khắc sai người vào nam nội tâu với thượng hoàng và thái hậu, còn mình thì vào cung tâu với vua Anh Tôn rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Em ruột thần thiếp là Triệu Lân cũng có am hiểu y lý, vì thuở nhỏ vẫn theo thân mẫu thần thiếp học tập nghề thuốc, cho nên mạch lý rất tinh thông. Thần thiếp đã viết bản tâu xin thái hậu cho Triệu Lân vào cung trông nom việc thuốc thang, chẳng hay thánh thượng có phê chuẩn cho không?
Vua Anh Tôn nghe nói gật đầu, rồi tấm tắc khen ngợi:
- Ái khanh thật là một người hiền đức! Lúc nào cũng ân cần lo nghĩ đến tả hoàng hậu, mà chẳng biết bụng dạ tả hoàng hậu có được như bụng ái khanh hay không?
Phi Giao hoàng hậu nói:
- Thần thiếp xin nguyện có trời trất lòng này quyết không bao giờ biến đổi.
Nói xong, liền ngoảnh mặt lại bảo nội giám Mã Thuận rằng:
- Nhà ngươi mau mau truyền trời quốc cữu Triệu Lân vào cung để xem mạch cho tả hoàng hậu.
Mã Thuận vâng mệnh, tức khắc đi ngay. Bấy giờ vua Anh Tôn cũng đi vào nam nội. hồi lâu, nội giám vào tâu, có quốc cữu Triệu Lân đã ứng hầu tại ngoài cửa cung. Phi Giao hoàng hậu truyền cho vào, Triêụ Lân bước vào, sụp lạy ở phía ngoài rèm mà tâu rằng:
Thần đệ là Triệu Lân đã vào bái yết.
Phi Giao hoàng hậu bằng lòng truyền cung nữ bắc ghế cho ngồi và ban trà uống. Phi Giao hoàng hậu hỏi rằng:
- Bệnh thể của thái hậu và tả hoàng hậu thế nào, em đã xem qua rồi phải không?
Triệu Lân tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Thái hậu vì bi thương quá độ mà thành bệnh, nhưng không hề chi, chỉ điều dưỡng trong ít lâu, tự khắc sẽ khỏi. Còn như tả hoàng hậu thì thần đệ hiện đã có kê một đơn thuốc đệ trình thượng hoàng và thái hậu xem.
Triệu Lân lại giả cách đem đơn thuốc đệ trình Phi Giao hoàng hậu. Khi Phi Giao hoàng hậu mở xem thì trong đơn viết như sau:
“Thần đệ là Triệu Lân cẩn tấu. Cứ như mạch lý của tả hoàng hậu thì quả nhiên là có long thai. Nếu sau này sinh được hoàng nam, tất bất lợi cho hữu hoàng hậu. Hữu hoàng hậu đã bất lợi thì nguồn lộc của nhà Hoàng Phủ ta khó lòng mà bảo toàn được. nay thần đệ xin cho uống bài sấu thai ẩm khiến ngày một hao mòn, không kết thành thai hình vậy.”
Phi Giao hoàng hậu mừng rỡ mà phán rằng:
- Nếu vậy thì em thật là am hiểu y lý mà biết nghĩ đến tình chị em ruột thịt cùng nhau. Trưởng huynh nhà ta lại kém em xa lắm. Ngày nay ta cố tâu cho em được vào cung trông nom việc thuốc thang, nhưng chỉ sợ tả hoàng hậu không chịu uống thuốc.
Triệu Lân mật tâu rằng:
- Muông tâu hoàng hậu! Bảo mẫu vốn là một người tâm phúc có thể tin cậy được. Sao hoàng hậu không sai sang để trông nom, nhưng kỳ thực thì để đề phòng tả hoàng hậu, và khiến cho Bình Giang vương cũng không có lòng nghi ngờ vậy.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói rất lấy làm mừng lòng mà khen:
- Em quả là người có mưu lược.
Nói xong, truyền nội giám truyền đem các đồ châu bảo vàng ngọc ra ban thưởng cho Triệu Lân và dặn:
- Việc này ta ủy thác cho em, em nên phải hết lòng. Mã Thuận là người tâm phúc của ta, bất cứ việc gì em cũng nên bàn với hắn.
Triệu Lân vâng mệnh lui ra, về qua phủ phò mã, sai người vào nói với Gia Tường công chúa rằng:
- Có gia thư ở quê nhà ở tới, xin đệ trình để công chúa xem.
Cung nữ nhận thư đem vào, Gia Tường công chúa kinh sợ không biết việc gì, liền mở ra xem. Bức thư như sau:
“ Tôi là Triệu Lân xin nói để công chúa biết rằng tả hoàng hậu thật có long thai, chỉ vì đam trệ, cho nên thần trí không minh mà sinh ra hoảng hốt. Tôi đã tâu với hữu hoàng hậu xin cho uống bài “sấu thai ẩm” để haị long thai, nhưng kỳ thực thì dùng bài “bảo thai hóa đam” sẽ giữ được an toàn vô sự. Công chúa nên tâu rõ với thái hậu cùng hiệp lực để bảo vệ cho long thai, chớ có cùng hữu hoàng hậu tranh hành, mà nước nhà lại gây ra nhiều việc biến loạn”.
Gia Tường công chúa xem thư nửa mừng nửa lo. Xem xong, tra bức thư vào trong tay áo, truyền sắp xe vào bái yết thái hậu. Khi vào tới nơi Gia Tường công chúa làm lễ vấn an, rồi lại tâu với thái hậu rằng:
- Vừa rồi con có tiếp được gia thư tới nơi, vậy xin đệ trình để thái hậu rõ.
Nói xong, liền cầm bức thư dâng thái hậu. Thái hậu xem thư trước còn không hiểu, sau mới nghĩ ra thì nổi giận:
- Ta không ngờ Phi Giao lại độc ác đến như thế. Nếu vậy thì ta còn mặt mũi nào mà trông thấy Vệ vương phi nữa. Ta nhịn thế nào được! Cung nữ đâu, mau mau triệu Phi Giao hoàng hậu đến đây cho ta hỏi.
Gia Tường công chúa quì xuống mật tâu với thái hậu:
- Muôn tâu mẫu hậu! Xin mẫu hậu chớ nóng nảy. Việc này bại lộ, tất khó lòng bảo toàn được long thai. Vả nói ra bây giờ thì hữu hoàng hậu tất không chịu nhận lỗi, cũng không lấy lẽ gì mà biếm truất hữu hoàng hậu cho được. Chi bằng mẫu hậu hãy giả cách không biết, rồi tùy cơ ứng biến để bảo toàn cho tả hoàng hậu. Huống chi việc này là một việc trọng yếu, có quan hệ đến nước nhà, nay Mạnh vương phi lại không ở đây, cho nên việc cũng hơi khó. Xin mẫu hậu hãy nén lòng nghĩ kỹ, chớ khiến phong thanh bại lộ mà gây thành một vại tày trời.
Thái hậu nghe lời tâu, nín lặng không nói câu gì, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi phán:
- Người ta ở đời muôn việc chẳng qua cũng bởi số mệnh. Nhà Hoàng Phủ ta mấy đời trung hiếu, ai ngờ ngày nay lại sinh xuất ra một đứa nữ nhi tai quái như thế này. Nay bảo mẫu đang thừa trực tại trong cung, con nên gọi mụ đến mà mật bảo mụ phải giả làm hộ vệ long thai cho tả hoàng hậu.
Gia Tường công chúa nói:
- Con đã nghĩ được một kế. Bảo mẫu vốn có tài khéo bẻ bão, con giả cách đau bão, rồi triệu mụ đến, bấy giờ sẽ liệu cách mà nhủ bảo mụ, xin mẫu hậu chớ lo ngại.
Thái hậu gật đầu, cũng cố nén cơn tức giận. Gia Tường công chúa cáo từ lui ra, giả cách đau bão, sai người triệu bảo mẫu đến. Khi bảo mẫu đến, Gia Tường công chúa đuổi hết mọi người chung quanh, rồi hai tay ôm lấy bảo mẫu khóc mà bảo rằng:
- Mụ bảo mẫu ơi! Mụ nên phát khởi từ tâm mà cứu lấy hoàng hậu và hoàng tử.
Nói xong, thuật hết đầu đuôi cho bảo mẫu nghe. Bảo mẫu nghe nói giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào, hồi lâu mới định thần mà nói với Gia Tường công chúa rằng:
- Trời ơi! Tôi không ngờ đến thế, nhưng tôi cũng hơi biết đã lâu mà không dám nói ra.
Bấy giờ bảo mẫu lại thuật chuyện Phi Giao hoàng hậu khi ở trong cung phù phép nguyền rủa Hùng hậu cho Gia Tường công chúa nghe và nói:
- Gia Tường công chúa ơi! Công chúa giao việc ấy, tôi thiết nghĩ khó bảo toàn được, vậy không dám nhận lời.
Gia Tường công chúa nói:
- Bảo mẫu ơi! Xưa nay mụ vốn là một người trung thành, cớ sao việc này mụ lại từ chối. Số là ta chỉ nhờ mụ có một việc cứ ngày ngày mụ đem thuốc cho Hùng hậu uống, và mụ trông nom săn sóc, đề phòng hai đứa Bàng Nguyệt Tố và Lý Hoa Quyên. Còn ngoài ra chẳng có hình tích gì, như thế thì Phi Giao hoàng hậu cũng quyết không nghi ngờ chi vậy. Bảo mẫu ơi! Hùng hậu không bảo toàn được long thai thì nhà Hoàng Phủ cũng khó lòng mà tránh khỏi tai vạ, mà công lao của bảo mẫu đối với nhà Hoàng Phủ từ xưa đến nay cũng uổng phí mà thôi.
Bảo mẫu cáo từ lui ra, về tâu với Phi Giao hoàng hậu, chỉ nói là việc bẻ bão, cho nên Phi Giao hoàng hậu cũng không ngờ. Ngày hôm sau, Võ anh điện đại học sĩ thân vương là Thiếp Mộc Nhĩ và các quan trong họ tôn thất đều dâng biểu nói ba vị thân vương nên cho thụ phong đi ở nơi khác, thượng hoàng xem biểu, liền trao cho vua Anh Tôn. Vua Anh Tôn phê rằng:
“Ba vị thân vương cần phải hầu hạ ở dưới gối thượng hoàng và thái hậu, không thể đi xa được, vậy việc này hãy đợi trong một vài năm nữa sẽ bàn”
Bấy giờ Đồ Man Hưng Phục đã phụng mật chỉ của Phi Giao hoàng hậu, đem các đồ châu báu lễ đút lót cho thân vương Thiếp Mộc Nhĩ, lại đem vàng bạc tống cho cho các quan trong họ tôn thất. Vậy nên khi chúng thấy lời phê của vua Anh Tôn thì tức khắc họp nau hơn một trăm người tôn thất, kéo nhau đến cửa ngọ môn, khóc mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Việc này là một việc trọng yếu có quan hệ đến nước nhà, vì các vị thân vương không nên ở lâu năm tại trong nội. Vậy xin thánh thượng phê chuẩn cho ba vị thân vương được thụ phong đi nơi khác. Còn hai bà Ôn phi và Mai phi cũng đều cho đi theo con.
Lương thừa tướng thấy vậy cố tâu xin hãy thư thả đến qua năm. Thiếp Mộc Nhĩ nói:
- Lương thừa tướng thật nhiều điều ngang ngạnh, làm bại hoại cả pháp luật hoàng gia.
Lương thừa tướng nổi giận tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Hán vương và Triệu vương hiện đã trưởng thành, thụ còn có lý, chứ Chu vương mới mười một tuổi thì kẻ hạ thần thiết nghĩ chưa nên cho đi.
Bấy giờ mọi người trong tôn thất đồng thanh mà tâu rằng:
- Lương Trấn Lân vào hùa với ba vị thân vương, không biết trên đầu có ai.
Vua Anh Tôn bất đắc dĩ mới phê rằng:
- Hán vương và Triệu vương theo như lời tâu, Chu vương còn nhỏ, nên để ở lại hầu hạ thượng hoàng và thái hậu, đợi khi trưởng thành, bấy giờ sẽ cho đi thụ phong. Còn Ôn phi và Mai phi cho đi theo con. Lại truyền bộ hộ quan trích tiền côn khố ra ban cấp.
Các tôn thất nghe lời thánh chỉ, đều lấy làm vui mừng tung hô vạn tuế. Từ khi Hán vương và Triệu vương đi khỏi rồi, thượng hoàng có ý buồn rầu, bà thái hậu cũng quá nghĩ mà thành bệnh, thường vẫn thở ngắn than dài, không được vui lòng vậy. Một hôm Bình Giang vương Hùng Hiệu điểm duyệt mười vạn quân ngự lâm, thấy thiếu mất năm trăm quân binh kỵ. Hùng Hiệu truyền hỏi thì Quân chính quan bẩm rằng:
- Dám bẩm lão gia! Tháng trước quan tả quân đô đốc là Đồ Man Định Quốc đến viếng lấy năm trăm quân đem vào cấm vệ.
Hùng Hiệu nghe nói nổi giận mà rằng:
- Sao dám tự tiện điểm lấy cấm binh mà không bẩm mệnh ta!
Quân chính quan nói:
- Dám bẩm lão gia! Vì bấy giờ lão gia đang nghỉ giả hạn, cho nên chưa kịp bẩm bạch.
Hùng Hiệu truyền đòi Đồ Man Định Quốc đến. Khi Đồ Man Định Quốc vào tới nơi, Hùng Hiệu quát mắng:
-Nhà ngươi nên tự biết tội mình mà quì xuống mới phải.
Đồ Man Định Quốc nói:
- Tiểu tướng này vô tội. Vả đang mặc quân phục, không có phép được quì.
Hùng Hiệu lại càng tức giận, nét mặt hầm hầm mà mắng rằng:
- Nếu vậy nhà ngươi to gan thật! Dám tự tiện điểm lấy cấm binh mà không bẩm mệnh ta, bây giờ nhà ngươi còn chưa biết là đại tội hay sao?
Nói xong, đập bàn quát to lên:
- Tội này đã đáng chém đầu chưa? Nhà ngươi thật không coi quốc pháp ra gì cả.
Đồ Man Định Quốc cũng nổi giận mà cãi lại:
- Lão gia chém thế nào được tôi! Tôi phụng mệnh thánh thượng điểm lấy cấm binh cào canh giữ trong cung, chẳng lẽ hiệu lệnh của lão gia, lại to hơn thánh thượng hay sao! Nay lão gia mắng tôi tức là tội tiết mạn thánh thượng đó.
Hùng Hiệu nghe nói lại càng tức giận bội phần, liền đứng dậy rút thanh bảo kiếm, đập bàn quát:
- Quân sĩ đâu! Trói cổ nó đem ra chém đầu cho ta.
Quân sĩ vâng mệnh, đem Đồ Man Định Quốc ra để sắp hành hình. Bỗng thấy một tên nội giám phi ngựa chạy đến mà quát to lên rằng:
- Khoan đã! Có thánh chỉ ban đến.
Hùng Hiệu chưa kịp chém Đồ Man Định Quốc, nghe nói có thánh chỉ, tức khắc quì xuống để nghênh tiếp. Nội giám truyên đọc thánh chỉ như sau này:
-“Trẫm có truyền chỉ cho Đồ Man Định Quốc điểm lấy năm trăm quân cấm binh, đem vào canh giữ ở trong cung, bấy giờ quốc trượng đang nghỉ giả hạn, vậy nên trẫm chưa tuyên dụ. Việc này không phải Đồ Man Định Quốc dám khinh thường quốc pháp, xin quốc trượng lượng tình mà tha thứ cho. Khâm tai.”
Hùng Hiệu lạy tạ thánh chỉ, rồi đứng dậy nói với nội giám:
- Ngự lâm quân nguyên để canh phòng đại nội, xưa nay chưa hề có điểm quân đem vào trong cung bao giờ, thánh thượng quá tin lời gian nịnh mà làm việc ấy. Nay dẫu có thánh chỉ ban đến truyền tha tử tội cho Đồ Man Định Quốc, nhưng còn tội hắn dám buông lời hỗn láo, chống cự với ta, cũng không phải là tội nhỏ. Thế thì ta tha cho tội chết, mà còn tội sống tất phải nghiêm trị mới được.
Nói xong, liền ngồi xuống ghế, truyền đánh cho Đồ Man Định Quốc bốn mươi côn và cách bỏ tên đi. Đánh xong, Hùng Hiệu trở về vương phủ, nét mặt vẫn còn hầm hầm tức giận, thuật chuyện đầu đuôi cho Vệ vương phi nghe. Vệ vương phi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Phu quân ơi! Tôi chỉ sợ gây ra thu oán, nhưng việc đã xảy ra dường này thì xin phu quân phải nhẫn nại mới xong, chờ vợ chồng Tương vương tới đây, bấy giờ sẽ tùy cơ ứng biến.
Hùng Hiệu nói:
- Tôi không thể nhịn được. Thôi thì tôi cũng liều mình để báo đáp triều đình. Việc này thượng hoàng và thái hậu không hiểu tình, âu là sáng mai tôi phải vào tâu rõ. Vợ chồng Tương vương còn thủ tang ba năm, chẳng lẽ cứ ngồi đây mà để cho bọn quyền gian làm mê hoặc thánh thượng.
Nói xong, tức khắc vào trong thư phòng, đốt hương viết bản tâu: trước tâu việc Đồ Man Hưng Phục giao thông với Mã Thuận, sau tâu việc Đồ Man Định Quốc dám trái phép đem cấm binh vào cung. Khi viết bản tâu xong, Hùng Hiệu dại thở dài mà than rằng:
- Triều chính đã không ở tay ta, mà binh quyền lại dần đã về tay những phường xiểm nịnh. Nay ta ngồi nhìn bọn quyền gian làm loạn, chi bằng liều một thân ta để báo đáp triều đình.
Sáng sớm hôm sau, Hùng Hiệu đem bản tâu vào dâng vua Anh Tôn, vua Anh Tôn không thi hành, chỉ sai nội giám truyền miệng rằng:
- Quốc trượng cứ yên lòng, trăm việc hãy trông vào trẫm. Việc điểm lấy cấm binh là lỗi tại trẫm, nhưng chưa đến nỗi biến loạn nào. Nay hãy xá tội cho Đồ Man Định Quốc được nguyên chức cũ, mà đổi sang làm cửu môn đề đốc.
Vệ Dũng Nga vương phi nghe nói thở dài mà than rằng:
- Nếu vậy thì thật là hỏng việc! Nay Đồ Man Định Quốc không bị trách phạt mà lại được thăng chức. Vả làm cửu môn đề đốc thì không thuộc quyền vương phủ càng chóng sinh ra biến loạn.
Lại nói chuyện thượng hoàng ở nam nội ngày đêm buồn rầu. Một hôm gặp tiết Nguyên đán, vua Anh Tôn vào triều kiến. Khi vua Anh Tôn lui về rồi, thượng hoàng ngồi nghĩ lại càng thêm buồn rầu, phần vì nhớ Hán vương và Triệu vương, phần thì nhớ Ôn phi và Mai phi. Vừa ngày nào sum họp một nhà, kẻ cười người nói, mà ngày nay chiếc thân vò võ biết cùng ai kể lể ngày xưa. Thượng hoàng nghĩ vậy mới thở dài than rằng:
- Năm trước thái hậu khuyên ta chớ nên truyền ngôi cho con, ngày nay ta nghĩ mới lấy làm hối. Thái hậu bị bệnh đã hai tháng nay mà thuốc thang chẳng có ai săn sóc. Hai vị thân vương đều phải thụ phong đi nơi khác, mà Ôn phi và Mai phi cũng phải đi theo con. Chỉ còn một đứa con nhỏ ở lại thì ngày đêm luống những ngẩn ngơ nhớ mẹ, khiến ta trông thấy càng thêm nỗi xót thương. Con ta lên nối ngôi, cũng bởi là bậc trung tài, cho nên một vị thiên tử đường đường mà phải bó tay chịu quyền hữu hoàng hậu. Chẳng lẽ bây giờ ta lại lập người khác. Thái hậu nguyên là một người có công với ta, từ khi vào cung đến giờ, vẫn một lòng hiếu thảo, nếu ngày nay ta lập Hán vương hoặc Triệu vương thì tất thái hậu không được yên lòng.
Thượng hoàng nói xong lại cúi đầu ngẫm nghĩ, bỗng cười một tiếng mà rằng:
- Ta truyền ngôi cho con là muốn để hưởng lấy phúc thanh nhàn, thế thì ngày nay ta chỉ nên đoạn tuyệt trần duyên mà đi tu là hơn cả. Ta nghe nói trên núi Ngũ Đài sơn có các vị cao tăng đắc đạo, âu là ta tìm tới đó, để tu luyện lấy phép trường sinh. Nhưng còn phiền về nỗi ta xưa nay vẫn ở trong cung, ngoài ra chẳng biết đường đi lối lại nào cả, chiếc thân vò võ, làm thế nào mà lần mò cho tới Ngũ Đài sơn được. Vả mỗi khi ra ngự lại có văn võ hộ vệ, biết dùng kế gì mà lẻn đi.
Thượng hoàng đang nghĩ quanh nghĩ quẫn, chưa quyết định bề nào thì bỗng thấy nội giám Quyền Xương quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng! Người là một bậc chí tôn vô thượng, chẳng hay cớ sao ngày nay kẻ hạ thần trộm thấy long nhan cũng có vẻ không vui?
Thượng hoàng thở dài mà than rằng:
- Quyền Xương! Nhà ngươi là người tâm phúc của ta mà sao nhà ngươi lại không biết bụng ta vậy. Nhưng ngày nay chí ta đã quyết, chẳng hay khi ta vắng mặt rồi thì nhà ngươi tự xử ra thế nào?
Quyền Xương nghe nói sợ toát mồ hôi ra, lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng! Chẳng hay cớ sao thượng hoàng lại nói câu ấy. Nay thượng hoàng dẫu có tuổi, mà dung nhan trông vẫn quắc thước, kẻ hạ thần thiết tưởng ngày xuân, xuân hãy còn dài.
Thượng hoàng lại cười mà phán rằng:
- Người ra dẫu thọ, chẳng qua trăm tuổi, rát lại cũng không tránh khỏi sự chết. Ngày nay ra làm thế nào mà tránh sự chết cho được.
Quyền Xương lại lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Khi thượng hoàng trăm tuổi, giả sử thân khuyển mã này còn sống thì cũng quyết xin bíu long giá mà đi theo.
Thượng hoàng nói:
- Quyền Xương! Nhà ngươi muốn bỏ sống mà theo ta chết thì chi bằng tránh sự chết mà theo ta sống là hơn, nhưng chẳng hay nhà ngươi có liều bỏ thân gia được không? Ta đây chán đời đã lâu, vẫn muốn tìm nơi thanh tĩnh, nghe nói trên núi Ngũ Đài sơn có nhiều cao tăng, vậy định lẻn đi một vài năm để tu luyện lấy phép trường sinh, rồi sau sẽ trở về cung, nhà ngươi có theo ta cùng đi có được không?
Quyền Xương nghe nói, lại lạy mà tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng! Nếu thượng hoàng đi tu, kẻ hạ thần cũng quyết lòng xin theo, nhưng chỉ sợ tu hành khổ hạnh, nâu sòng lam lũ, dưa muối lần hồi, thượng hoàng chịu sao cho nổi. Lại còn một nỗi rất khó chịu nữa là thất tình lục dục đều phải nghiêm giới thì quả tu mới giữ được trọn. Còn một việc này xưa nay thánh thượng vẫn không dám nói ra, ngày nay cũng xin tâu bày để thượng hoàng soi xét. Số là trong họ tôn thất, bây giờ bè đảng rất nhiều. Hữu hoàng hậu chỉ biết chuyên quyền mà quá tin lời những kẻ gian nịnh, hay dùng vàng bạc giao thông với các quan triều thần để làm điều trái phép, thế mà thánh thượng nào có thấu tình, kẻ hạ thần chỉ mong sao cho vợ chồng Tương vương tới đây, họa may việc này mới an toàn vô sự được.
Thượng hoàng cười mà bảo rằng:
- Nhà ngươi chắc chi đến việc ấy nữa, từ xưa các vua sáng nghiệp, hồ dễ mấy người truyền được vạn niên, chẳng qua muôn việc bởi trời, lòng ta đây đã quyết lánh ra ngoài vòng trần tục. Ta muốn lẻn đi mà không cho ai biết, vậy nhà ngươi nên vì ta mà nghĩ kế mau mau.
Quyền Xương lại tâu rằng:
- Muôn tâu thượng hoàng! Kẻ hạ thần nghĩ được một kế: Đến ngày nguyên tiêu này mở hội hoa đăng, kẻ đi người lại rất đông, hôm ấy thượng hoàng vi phục (mặc áo như người thường để cho không ai biết mình) cùng kẻ hạ thần lẻn đi thì quyết không ai biết, nhưng việc này phải phát xuất, tất thiên hạ lấy làm kinh dị, vậy thượng hoàng nên để một tờ thánh dụ lại, nói rõ việc đi tu hành trước là để yên lòng thái hậu và thánh thượng, sau là khiến thiên hạ thần dân khỏi phải nghi ngờ vậy.
Quyền Xương nói chưa dứt lời thì thượng hoàng đã vỗ đùi mà khen ngợi rằng:
- Hay lắm! Hay lắm! Kế ấy thật là thần diệu! Nhưng nhà ngươi nên cẩn thận, cứ sửa soạn đồ hành lý mà chớ tiết lộ cho ai biết.
Quyền Xương tâu rằng:
- Các đồ hành lý kẻ hạ thần xin sửa soạn sẵn ở nhà, bất tất phải lấy ở trong cung. Việc ấy đã có kẻ hạ thần, xin thượng hoàng chớ lo ngại.
Thượng hoàng gật đầu khen phải. Đến ngày nguyên tiêu thượng hoàng truyền mở hội hoa đăng. Thần dân mừng rỡ, kéo nhau đi xem hội. Vua Anh Tôn và Phi Giao hoàng hậu cũng có ý vui, chỉ có thái hậu không ra thưởng hoa đăng, thượng hoàng mới vào cung thăm thái hậu. Khi vào tới nơi, thấy thái hậu âu sầu buồn bã, liền cầm lấy tay mà an ủi rằng:
- Hôm nay có cuộc vui sao thái hậu lại không ra ngự thưởng? Thái hậu ơi! Thái hậu vốn là một bậc nữ trượng phu, vậy cũng nên đạt lý, chớ quá thương cha mẹ, không biết gìn vàng giữ ngọc, để thay ta mà lo vác việc ở trong cung. Con ta hãy còn ít tuổi, lên nối ngôi vua, cũng cần phải có thái hậu trông nom giúp. Vả ngày nay Hán vương và Triệu vương đi cả, Ôn phi và Mai phi đều đi theo. Trong cung vắng vẻ thái hậu cũng nên cố gượng tươi cười, để khiến cho ta được vui lòng vậy
Thượng hoàng nói xong, lại cười ha hả. Thái hậu nghĩ thầm: “Không hiểu cớ sao hôm nay thượng hoàng lại nói mấy câu kỳ dị như thế”. Ngẫm nghĩ hồi lâu, mới nói với thượng hoàng rằng:
- Thượng hoàng ơi! Thượng hoàng chớ thấy thiếp đau yếu mà có ý lo phiền. Thiếp sở dĩ không thưởng hoa đăng là vì có tang hai thân thiếp, chứ không phải thiếp quá ư bi thương vậy. Hán vương và Triệu vương dẫu ít tuổi, nhưng có Ôn phi cùng Mai phi đi theo thì cũng chẳng ngại gì. Hôm nay thượng hoàng đi thưởng cuộc hoa đăng, nên mau mau trở về, thiếp sẽ truyền nội giám đặt tiệc ở trong cung để đợi thượng hoàng đó.
Thượng hoàng mỉm cười mà bảo rằng:
- Đa tạ thịnh tình của thái hậu, nhưng đợi khi nào thái hậu thật được khỏe mạnh, bấy giờ ta sẽ cùng nhau uống rượu vui.
Bỗng thấy nội giám quì tâu, xin rước thượng hoàng ngự xem hội hoa đăng. Thượng hoàng đã đứng dậy, lại có ý ngần ngại mà bảo thái hậu rằng:
- Tôi đi! Thái hậu ở trong cung nên gìn vàng giữ ngọc nhé.
Thái hậu cũng đứng dậy tiễn mà đáp rằng:
- Thượng hoàng nên mau mau trở về, kẻo khiến thiếp mong đợi.
Thái hậu nói xong, thượng hoàng ngoảnh lại hỏi Hưng Bình công chúa rằng:
- Chu vương đâu?
Hưng Bình công chúa nói:
- Hiện tứ đệ đã ở Ngũ Phượng lầu để cùng hoàng huynh hậu giá thượng hoàng tại đó.
Thái hậu tiễn ra đến cửa cung, rồi trở vào ngồi một mình nghĩ quanh nghĩ quẩn, nghĩ thầm: “Quái lạ, mấy câu thượng hoàng nói vừa rồi, hình như có ý từ biệt ta vậy. Nào là dặn dò các công việc, lại cầm lấy tay ta, nước mắt chạy quanh, khiến ta ngẫm nghĩ, luống những đau lòng đứt ruột. Hay là tam điệt (trỏ Triệu Lân) xem mạch cho ta, tâu với thượng hoàng là ta bệnh nặng, cho nên thượng hoàng mới ân cần mà khuyên giải ta như thế. Thượng hoàng ơi! Ta cũng đa tạ lòng tử tế của thượng hoàng, nhưng nghĩ đến chín chữ cù lao thì không thể nào nguôi cho được. Nhà ta hiện nay dẫu rằng vinh quý, nhưng tai vạ chưa biết ngày nào. Ta vẫn tưởng Phi Giao hiền thục giống mẹ, cho nên mới tuyển vào cung, ai ngờ lại sinh ra lộng quyền, làm nhiều điều trái phép. Giả sử Hùng hậu có sự bất trắc, ta còn mặt mũi nào trông thấy Vệ vương phi. Nếu không có lời Gia Tường công chúa tâu thì Phi Giao kia ta chỉ đưa một lưỡi gươm cho rãnh chuyện. Chẳng lẽ ta đường đường là ngôi thái hậu, mà lại chịu để một con yêu quái làm nhiễm loạn chốn cung vi”.
Thái hậu ngồi đợi mãi cho đến hết canh ba, không thấy thượng hoàng về, mới sai nội giám sang cung thượng hoàng hỏi. Hồi lâu, bỗng thấy nội giám về hoảng hốt tâu:
- Muôn tâu thái hậu! Thật là một việc rất lạ!
Thái hậu liền kinh ngạc mà hỏi rằng:
- Việc chi thế hở con? Mau mau nói cho ta nghe.
Nội giám tâu:
- Muôn tâu thái hậu! Không thấy thượng hoàng đâu cả.
Thái hậu nghe nói, nét mặt tái mét, đứng dậy hỏi:
-Ô hay! Tại sao lại không thấy thượng hoàng đâu cả?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ năm
Thượng Hoàng nhẹ bước cầu tiên cảnh
Thái hậu ra tay cứu Trung thần (2)


Nội giám tâu:
- Muôn tâu thái hậu! Kẻ hạ thần nghe thấy mọi người trong cung đều nhao nhao nghị luận, nói thượng hoàng vi phục cùng nội giám Quyền Xương đi xem hội hoa đăng, đến bây giờ chưa về cung. Hiện nay đuổi hết người xem ra ngoài, bốn phía cửa thành đều đóng kín cả. Hùng quốc trượng đã đem cấm binh đi nghênh giá mà chưa tìm thấy đâu.
Nội giám tâu dứt lời thì thái hậu đã lạnh ngắt cả người, mồ hôi toát ra như tắm. Người vừa yếu khỏi, lại bỗng gặp sự kinh khủng, cho nên ngất đi mà lăn ra. Các cung nữ xúm lại gọi. Gọi trong hồi lâu vẫn không thấy trả lời. Các cung nữ vội vàng đem nước gừng đổ cho thái hậu và một mặt phi báo vua Anh Tôn. Khi đổ nước gừng vào thì thái hậu mới dần dần hồi tỉnh, lại nức nở khóc, các cung nữ đều xúm lại khuyên giải. Một lúc, vua Anh Tôn đến, cũng quì ở bên cạnh khóc mà tâu rằng:
- Mẫu hậu ơi! Xin mẫu hậu chớ phiền lòng. Để con xin hết sức dò tìm, phụ hoàng con chắc cũng đi dạo chơi quanh đây, chẳng bao lâu rồi sẽ về cung thôi.
Thái hậu vừa khóc vừa xua tay mà bảo vua Anh Tôn rằng:
- Thượng hoàng không về nữa đâu, con chớ mơ tưởng hão.
Nói xong, liền đem những lời thượng hoàng dặn bảo khi trước mà thuật cho vua Anh Tôn nghe. Vua Anh Tôn nghe nói đứt từng khúc ruột, lại tìm lời khuyên giải, khóc mà nói với thái hậu:
- Mẫu hậu chớ nghi ngờ, con dám chắc không bao giờ có việc ấy. Xin mẫu hậu hãy cứ tịnh dưỡng, để con vời trăm quan vào hội nghị.
Nói xong, vội vàng vực thái hậu lên nằm trên giường, rồi truyền chỉ gọi Phi Giao hoàng hậu vào hầu hạ. Phi Giao hoàng hậu tới nơi trông thấy vua Anh Tôn, liền cúi đầu hô vạn tuế mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Chẳng hay thượng hoàng đã về cung chưa? Thần thiếp nghe nói thái hậu đã bình phục như thường, không biết vì cớ chi mà xảy ra việc này?
Vua Anh Tôn xua tay mà bảo rằng:
- Ái khanh ở đây hầu hạ thái hậu, để trẫm ra triều đường cùng trăm quan hội nghị, xem thượng hoàng đã đi đâu mà chưa thấy về.
Phi Giao hoàng hậu nghe nói cười nhạt mà rằng:
- Ngày nay bệ hạ cùng trăm quan hội nghị, chẳng lẽ lại lại yết bảng để tìm thượng hoàng hay sao! Thượng hoàng không về tất có ẩn tình. Thuở xưa vua Văn Đế đời Tùy nhân khi nổi giận, cưỡi ngựa đi chơi, đã toan không về, may nhờ có mấy người cận thần khuyên can, bấy giờ mới hồi tâm trở lại. Vậy bệ hạ nên hãy đợi xem sao, chứ tuyên bá việc này ra mà khiến cho thiên hạ thêm điều dị nghị.
Bỗng thấy nội giám quì xuống tâu với vua Anh Tôn rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Các quan văn võ đã họp đông cả, xin rước bệ hạ ra ngự triều.
Vua Anh Tôn tức khắc ra chốn triều đường, mấy viên lão thần quì xuống khóc mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Việc này thật là một việc biến dị lạ thường. Kẻ hạ thần thiết tưởng trăm quan còn mặt mũi nào đứng ở triều đường nữa. Ngày nay xin bệ hạ trách phạt thần đẳng trước, rồi sau bệ hạ cũng nên giáng chỉ mà cam nhận tội lỗi về việc này.
Mấy viên lão thần tâu xong thì các hàng văn võ đều quì cả xuống. Vua Anh Tôn khóc mà phán:
- Việc này không phải lỗi tại các ngươi, chỉ bởi tội bất hiếu của trẫm đó. Nếu tìm không thấy thượng hoàng thì trẫm đây cũng chẳng thiết sống làm chi. Nhưng bay giờ không biết giáng chỉ thế nào, nhờ các ngươi bàn định giúp trẫm.
Vua Anh Tôn phán xong, bỗng thấy một vị đại thần quì xuống mà tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Kẻ hạ thần là Lại bộ thương thư tên gọi là Hoàng Kỷ, xin cúi tâu thánh thượng xét đoán: Nguyên thượng hoàng chán việc đời đã lâu, bởi vậy mới lui về nam nội. Hoặc giả có lòng mộ đạo, cho nên tạm lánh vào nơi rừng núi để tìm thú thanh tu. Kẻ hạ thần trộm nghĩ ngày nay chỉ nên tuyên bá là thượng hoàng tịnh dưỡng ở trong cung, khiến cho thiên hạ muôn dân khỏi nghi ngờ mà sinh lời dị nghị vậy.
Hoàng Kỷ vừa tâu dứt lời thì Lương thừa tướng bỗng khóc mà tâu rằng:
- Hoàng Kỷ tâu lầm! Thượng hoàng ta thuở trước làm vua trong hai mươi năm, công đức sánh bằng trời bể, khắp ngoài bốn cõi ai là người không ca tụng thánh quân. Vậy việc này kẻ hạ thần thiết nghĩ bất tất phải kiêng kỵ mà không dám nói ra, bệ hạ chỉ nên giáng chỉ cho quốc dân, tự trách lỗi mình, trước là tỏ đức cao thượng của thượng hoàng, sau là giải lòng ái luyến của bệ hạ đối với thượng hoàng vậy.
Lương thừa tướng vừa tâu xong, bỗng thấy Tề vương là một người trong tôn thất cũng vội quì xuống mà tâu rằng:
- Nếu giáng chỉ như thế thì bệ hạ còn ra thể thống nào nữa. Thiên hạ không biết, tất nghi là bệ hạ không khéo thờ phụng thượng hoàng, để đến nỗi thượng hoàng thất ý bỏ đi. Huống chi từ xưa đến nay,chưa thấy đời nào xảy ra một việc quái lạ như thế bao giờ. Nếu việc này tuyên bá ra thì chẳng những thần dân trong nước dị nghị mà thôi, dẫu các giống rợ mọi ở phương xa nghe thấy chuyện này, cũng phải lấy làm chê cười vậy. Bệ hạ chỉ nên giấu kín việc này, bất tất phải đi tìm cho thêm huyên náo.
Quan Nguyễn trung đô quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! đạo làm con phải tận hiếu, ngày nay nếu không đi tìm thượng hoàng thì chẳng những bệ hạ không được yên lòng, mà các quan triều thần tự nghĩ cũng chẳng ra thể nào. Kẻ hạ thần thiết tưởng bệ hạ nên phái các viên lão thần, mỗi người đi một phương, dò khắp các danh lam thắng cảnh. Mà đi đến đâu cấm không được nhũng nhiễu, như thế thì tất có ngày đón được thượng hoàng về cung.
Vua Anh Tôn ngẫm nghĩ gật đầu. Bỗng thấy nội giám Uông Kim tay cầm tờ long liên đệ dâng, tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thượng hoàng đi chuyến này có lẽ không về, vì người có viết một bài thơ để lại. Thái hậu xem xong, truyền kẻ hạ thần đệ trình ngự lãm.
Vua Anh Tôn mở xem thì là một bài thơ thất ngôn nói về sự chán đời mà đi tu hành.
" Hơn bốn mươi năm giấc mộng nồng,
Nghĩ mình thêm thẹn với ngôi rồng.
Vẫn chưa ân trạch đầm muôn họ,
Luống những ưu cần dối một lòng.
Bay bổng sá chi thân dã hạc,
Nỗi riêng bao quản chốn thâm cung.
Còn nhiều hưởng phúc về sau nhỉ,
Mây bạc xa trông cách mấy trùng.
Vua Anh Tôn xem xong, trao cho các quan triều thần xem. Các quan triều thần ai nầy đều động lòng thương xót, chỉ có ba cha con Đồ Man Hưng Phục ngẫm nghĩ mừng thầm, mừng rằng thượng hoàng bỏ đi không về thì chúng càng dễ bề làm bậy.
Lương thừa tướng lại quì xuống tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Đã đành rằng thượng hoàng quyết định đi tu hành, nhưng kẻ hạ thần thiết tưởng cũng nên phải phái người đi dò tim bốn phương, có thể mới trọn vẹn được đạo thần tử đối với quân phụ. Thượng hoàng sở dĩ chán đời, cũng vì bệ hạ không khéo phụng thờ mà xui nên có sự buồn bực. Hán vương và Triêu vương bắt đi thụ phong, để hai bà Ôn phi và Mai phi phải đi theo con. Trong cung chỉ có thái hậu, lại đang đau yếu. Bọn thị ngự dẫu không thiếu người, nhưng cần phải có kẻ biết tiên thừa chí (là kẻ làm con khéo đón ý cha mẹ mà chiều chuộng hầu hạ). Bệ hạ không lượng tình ấy, khiến cho thượng hoàng tức giận bỏ đi. Bệ hạ làm vua trong một nước mà không khéo chiều chuộng thượng hoàng thì không biết sau này thiên hạ bảo bệ hạ là một ông vua thế nào vậy.
Vua Anh Tôn bãi triều vào cung, Phi Giao hoàng hậu cố làm ra ý không vui, vua Anh Tôn hết sức tìm lời khuyên giải sau phải truyền chỉ nói là có bệnh, không ra ngự triều cứ, cứ hàng ngày ở luôn trong cung với Phi Giao hoàng hậu, cũng chẳng vào thượng cung thăm thái hậu nữa.. Bấy giờ vua Anh Tôn không ra ngự triều, bao nhiêu bản tâu phải đệ vào hữu cung, thành ra quyền chính đều do tay Phi Giao hoàng hậu. Đồ Man Hưng Phục vào làm thừa tướng, nội giám Mã Thuận thế lực rất to, hắn thù nhau với Uông Kim, liền đánh chết tại cửa cung, rồi nói đổ là Uông Kim trúng phong mà chết. Chúng kết đảng làm bậy, Thái hậu ở trong cung chẳng biết tí gì. Trong bọn nội giám, chỉ có Lăng Mậu nguyên là người cũ, hắn giả cách xu nịnh Mã Thuận, nhưng thấy việc gì lạ lại vào cung mật tâu để thái hậu nghe.
Một hôm, thái hậu ngồi ở trong cung nhân lúc vắng người, mới thở dài mà than rằng:
- Thiên hạ còn ai khổ hơn ta nữa không! Một mình vò võ trong cung, con cái chẳng nhìn đến! Ta nghĩ từ khi ta được phong làm hoàng hậu đến nay, thượng hoàng vẫn riêng lòng âu yếm, Ôn phi và Mai phi cũng đều có ý kính trọng ta. Ngày nay thượng hoàng bỗng bỏ ra đi, ta trông thấy hai đứa con nhỏ ( Trỏ Chu vương và Hưng Bình công chúa) khóc lóc thương cha nhớ mẹ, ta càng thêm nỗi đau lòng. Thôi thì một thác cho rồi, chẳng nên thiết sống làm chi nữa!
Thái hậu nghĩ vậy, đã toan liều mình tự tử, nhưng lại thở dài mà than rằng:
- Khoan đã! Ta còn nhớ những lời thượng hoàng dặn bảo ta trong khi ra đi. Nếu ngày nay ta chết rồi, thiên tử nhu nhược, đến nỗi mất thiên hạ thì ta đây há chẳng phải là một người đại tội ở Nguyên triều này hay sao!
Thái hậu lại gạt thầm giọt lệ, rồi thở dài mà than rằng:
- Con ta khi trước cùng Hùng hậu cũng không phải là không biết hiếu thuận, chỉ tại có con Phi Giao vào cung mà gây nên nỗi đau đớn này. Con Phi Giao từ khi cha mẹ nó xa vắng càng thêm lộng quyền, làm nhiều điều trái phép. Cứ như lời Gia Tường công chúa nói thì nó lại độc ác hơn Ly Cơ thuở xưa. Ta lo cho nhà Hoàng Phủ ta, khó lòng mà bảo toàn được danh dự.
Thái hậu nghĩ quanh nghĩ quẩn, nét mặt có ý buồn rầu. Gia Tường công chúa trông thấy, mới tìm lời khuyên giải mà rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Xin mẫu hậu chớ quá nghĩ. Ngày hôm qua, Triệu Lân thuật cho con biết việc tòa Khâm Thiên giám đã tâu với thiên tử, nói cứ xem tượng yêu tinh hiện hình thì trong cung tất có kẻ nội phản. Vậy nay thiên tử đang truyền tra xét trong sáu cung đó.
Thái hậu than rằng:
- Yêu tinh hiện hình, quả có ứng nghiệm, nhưng chỉ sợ tra xét không ra được mà thôi.
Thái hậu nói chưa dứt lời thì bỗng thấy nội giám Lăng Mậu hoảng hốt quì xuống mà tâu rằng:
- Muôn tâu thái hậu! Thật là một việc không may!
Thái hậu cùng Gia Tường công chúa đều kinh ngạc hỏi:
- Việc chi vậy? Nhà ngươi mau mau nói cho ta nghe.
Lăng Mậu đứng thở một lúc mới tâu:
- Hữu hoàng hậu điểm lấy cấm binh đem vào trong cung ngày đêm luyện tập, thiên tử quá tin chẳng nghĩ chi đến chuyện làm gương cho thiên hạ noi theo. Lương thừa tướng thấy vậy bày tâu mọi lẽ thì thiên tử có ý hổ thẹn lại vừa tức giận rồi gạt nước mắt mà phán rằng “Tội trẫm như thế còn nói chi nữa! Nay một mặt y lời tâu, sai quan đi các tỉnh tìm thượng hoàng, và một mặt tâu với thái hậu xin nhường ngôi cho Hán vương hoặc Triệu vương để trẫm cũng bỏ đi mà cố tìm cho thấy thượng hoàng thì trẫm mới được hả dạ vậy? Các triều thần nghe lời chỉ phán, đều lấy làm kinh sợ mà phủ phục cả xuống.
Bấy giờ Tề vương tâu rằng:
- “Bệ hạ vốn là một ông vua nhân hiếu, xưa nay chưa có điều gì bất đức, mà sao Lương Trấn Lân dám tâu càn như vậy, dám xin triều đình phải nghiêm trị tội “Tiết mạn thánh thượng” ấy.”
Đồ Man Hưng Phục lại tâu rằng:
- “Lương Trấn Lân thật là tội đại bất kính. Cứ xem bài thơ của thượng hoàng để lại thì không có câu nào là không bằng lòng với thánh thượng cả, thế mà Lương Trấn Lân dám bày lời cưỡng lý, để tuyên bá tội bất hiếu của bệ hạ, và trái với ý cao thượng của thượng hoàng. Vậy xin triều đình nghiêm trị tội “Đại bất kính” ấy để răn bảo kẻ khác”. May nhờ có quan Nguyễn trung đô tâu can rằng:
- “Lương Trấn Lân vốn tính trung thực, không biết kiêng kỵ. Cũng vì bi thương quá mà mạo tội nói liều. Tuy vậy bệ hạ cũng không nên trách phạt một bậc lão thần, chỉ nên tự trách phạt mình, ngày đêm tu tỉnh, để đợi nghe tin tức của thượng hoàng. Lại nên tìm lời khuyên can, cho được yên lòng thái hậu, còn việc triều chính, điều gì nên cải thì cải, để khỏi phụ lòng thượng hoàng đã truyền ngôi cho, thế là toàn hiều đạo vậy”. Thiên tử nghe nói lẩm nhẩm gật đầu, rồi truyền sai quan đi bốn phương để dò la tin tức. Khi tan triều rồi, nhân dân lao nhao nghị luận về việc thượng hoàng chán đời bỏ đi tu. Chúng lại tiếc thay cho Quyền Xương đang được sung sướng mà sao cũng liều thân, chẳng thiết chi đến nhà cửa. Mỗi người bàn một cách, mà vẫn không ai hiểu rõ duyên cớ ra sao. Thiên tử âu sầu buồn bã, ứa hai hàng lệ, lại lui vào hữu cung. Phi Giao hoàng hậu đón hỏi đầu đuôi câu chuyện thì thiên tử thuật lời tâu của Lương thừa tướng cho nghe và lại hỏi rằng:
- Ái khanh nghĩ như thế thì trẫm còn mặt mũi nào mà ở lại ngôi vua nữa!.
Phi Giao hoàng hậu vừa nghe nói, liền hầm hầm nổi giận cau đôi lông mày lại, quắc hai con mặ lên mà hỏi rằng:
- Đã như thế thì bệ hạ xử ra thế nào?
Thiên tử lại thuật cho nghe những lời tự trách lỗi của mình và muốn nhường ngôi vua, v. v...
Phi Giao hoàng hậu bỗng cười nhạt mấy tiếng mà rằng:
- “Bệ hạ đã nhu nhược vô quyền thì còn nói làm gì nữa. Tội đại bất kính như thế mà không đem chém đầu đi, lại còn tự trách lỗi mình và muốn nhường ngôi cho người khác. Lương Trấn Lân kia! Hắn cậy mình là bậc lão thần, mà dám nói năng càn dỡ, ta nên giết một người để cho nghìn người phải sợ, nếu không thì quốc pháp còn ra thể nào!” Phi Giao hoàng hậu căm hờn muôn phần, kêu gầm lên rằng: “Thế này thì tức chết mà thôi”, làm cho thiên tử hoảng hốt sợ hãi, lại phải tìm lời khuyê giải khiến được yên lòng.
Vừa rồi kẻ hạ thần vào tả cung, bỗng thấy giường ghế lổng chổng, các cung nữ huyên náo lạ thường mà không thấy Hùng hậu và bảo mẫu đâu cả. Hỏi ra mới biết rằng tòa Khâm Thiên giám tâu thiên tử cho đi tra xét trong hai cung thì hữu cung không tìm thấy gì, mà tả cung lại thấy dưới long sàng có nhiều bùa dấu, viết tên thiên tử và tên Phi Giao hoàng hậu. Bấy giờ thiên tử nổi giận, nhất là Phi Giao hoàng hậu lại càng căm tức bội phần, nói rằng:
- “Không ngờ Hùng hậu ở trong cung, dám dùng bùa dấu để nguyền rủa thánh thượng. Việc này tất có ngoại thần lập mưu giao thông cùng các cung nữ”. Nói xong tức khắc bắt con Bàng Nguyệt Tố và con Lý hoa Quyên ra tra hỏi. Hai tên cung nữ ấy thú nhận là mưu khế tự Bình Giang vương Hùng Hiệu giao thông với nội giám Uông Kim. Bấy giờ Phi Giao hoàng hậu nổi giận, sỉ mắng Hùng vương và Hùng hậu mà rằng:
- “Thế này thì thiên đạo thật là chí công, lập tâm hại người, thành ra hại mình trước!”
Muôn tâu thái hậu! Thái hậu thử nghĩ xem Phi Giao hoàng hậu như thế, có phải là một tay đại quỷ quyệt hay không! Bấy giờ Phi Giao hoàng hậu rút ngay thanh bảo kiếm ra, chém chết hai tên cung nữ, lại cưỡng bách thiên tử phải truyền chỉ tức khắc tịch phong nhà Hùng vương và nã bắt toàn gia để trị tội. Muôn tâu thái hậu! Không ngờ Hùng vương có ba trăm gia binh, chúng cãi là chủ nhân vẫn một lòng trung thành, cớ sao thiên tử lại nghe lời sàm báng mà trị tội. Chúng tuốt gươm ra để giữ lấy vợ chồng Hùng vương, không cho các tướng vào bắt. Sau Mã Thuận tâu với Phi Giao hoàng hậu, tức khắc sai hai con của Đồ Man Hưng Phục là Đồ Man Định Quốc và Đồ Man An Quốc đem quân đến hễ kẻ nào kháng cự thì cho phép chém giết mà vaà bắt lấy vợ chồng Hùng vương. Bấy giờ ba trăm gia binh khóc lóc tan chạy, toàn gia Hùng vương đã phải giam vào ngục rồi. Thiên tử quá tin lời Phi Giao hoàng hậu, cho là Hùng vương có lòng phản quốc, định toàn gia tru lục. Còn Hùng hậu thì cứ giam vào lãnh cung, thử xem bệnh điên rồ kia thực giả thế nào. Lương thừa tướng thấy vậy định vào tâu can thì cửa cung đóng chặt mà không cho vào. Muôn tâu thái hậu! Lương thừa tướng vốn là người trung trực và nóng nảy. Trong khi tức giận, liền sụp lạy ở trước cửa cung mà than rằng:
- “Ta làm thừa tướng, chỉ chịu ngồi nhìn trong nước biến loạn không thể can ngăn được, thế thì trên phụ lòng ủy thác của thượng hoàng, dưới phụ lòng ngưỡng vọng của quốc dân, phỏng còn mặt mũi nào đứng tại chốn triều đường nữa!” Nói xong, đập đầu ở cửa cung mà chết.
Phi Giao hoàng hậu truyền chỉ đem thi thể đi chôn, lại vu cho Lương thừa tướng là đồng mưu với đảng phản nghịch. Muôn tâu thái hậu! Phen này thật là trời nghiêng đất lở, xin thái hậu nghĩ kế mau mau.
Thái hậu nghe nói, ngồi ngẩn người ra. Gia Tường công chúa cũng ứa nước mắt khóc mà bảo Lăng Mậu rằng:
- Lăng Mậu! Nhà ngươi lại đi dò la xem có tin tức gì lạ nữa không? Mau mau về báo.
Khi Lăng Mậu đi khỏi rồi, Gia Tường công chúa gạt nước mắtmà tâu với thái hậu rằng:
- Muôn tâu thái hậu! Mậu hậu chớ quá nghĩ. Ngày nay xin thái hậu hãy đến khuyên bảo Phi Giao hoàng hậu xá tội cho Hùng vương, rồi sau sẽ liệu kế.
Thái hậu thở dài mà than rằng:
- Ta nghĩ càng thêm hổ thẹn, chẳng còn mặt mũi nào! Sinh phải đứa con ngu ngốc như thế, để đến nổi lòai yêu quái dám lộng quyền. Bây giờ cũng không còn kế gì, âu là ta hãy đến hữu cung mà xem hình dáng con yêu quái ấy ra thế nào.
Nói xong, truyền sắp loan xa đi sang hữu cung. Nội giám vào tâu trước với vua Anh Tôn. Vua Anh Tôn biết là thái hậu vì việc Hùng hậu mà đến, mới cùng Phi Giao hoàng hậu ra nghênh tiếp, mời thái hậu vào ngồi trong cung. Thái hậu nét mặt âu sầu, vua Anh Tôn và Phi Giao hoàng hậu đều sụp xuống lạy mà tâu rằng:
- Muôn tâu mẫu thậu! Thần nhi nhân bệnh, chưa kịp vào vấn an mẫu hậu, nay mẫu hậu tới đây, thần nhi thật đắc tội.
Thái hậu nói:
- Ta đến đây trước là thăm bệnh các con, sau là ta nghe một việc lạ, vậy phải thân hành đến để hỏi huyện.
Vua Anh Tôn nói:
-Muôn tâu mẫu hậu! Chẳng hay việc gì, sao mẫu hậu không truyền gọi con đến mà phán hỏi.
Thái hậu nói:
- Ta nghe tả cung có phát ra việc bùa dấu, con đã giam Hùng hậu vào lãnh cung và nã tróc toàn gia Hùng vương để giam ngục. Những việc kinh thiên động địa như thế, mà sao con không tâu cho mẹ nghe.
Vua Anh Tôn liền cúi đầu mà thưa rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Không phải thần nhi dám giấu mẫu hậu, chỉ vì đảng võ hắn nhiều lắm, cho nên thần nhi chưa dám tâu trình.
Thái hậu thở dài mà than rằng:
- Con nói rất phải! Không những các quan triều thần là đảng võ họ Hùng, có khi ta đây cũng tức là đảng võ họ Hùng đó, vậy nên con phải giấu.
Vua Anh Tôn run sợ lại quì xuống mà tâu rằng:
- Mẫu hậu dạy như thế thì thần nhi còn biết nói thế nào!
Thái hậu nổi giận mà rằng:
- Ta mới hỏi thử có một câu mà con đã không biết nói thế nào, vậy thì sao con dám truất ngôi hoàng hậu, giết kẻ công thần, mà dám không bẩm mệnh ta. Ta hỏi con: Con cho việc ấy là việc triều đình quân quốc, ta đây không được quyền can thiệp đến phải không? Dẫu nhà thường dân thì làm con cũng phải bẩm mệnh cha mẹ, huống chi là hoàng gia. Có lẽ nào Hùng hậu kia đang làm mẫu nghi trong sáu năm nay, tội ác chưa rõ ra làm sao, mà đã vội đem bỏ vào lãnh cung giam cấm. Thôi, thôi! Nào ai là người lập kế giao thông? Nào ai là người đem bùa dấu vào yếm tại đấy? Con bắt cả ra đây, để ta tra xét xem đầu đuôi thế nào, rồi sẽ bá cáo thiên hạ thần dân đều biết.
Phi Giao hoàng hậu không đợi cho vua Anh Tôn kịp trrả lời, liền khép vạt áo quì xuống mà tâu rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Nguyên trước con có sai hai tên cung nữ sang hầu chánh cung hoàng hậu, con vẫn khuyên bảo chúng nó phải chăm chỉ phục dịch, cấm không được đem lời sàm báng mà làm cho hai cung thất hòa. Không ngờ hai tên cung nữ ấy lại táng tận lương tâm, dám giao thông với bọn gian tà, đem bùa dấu vào trong cung yếm. Chúng nguyền rủa con thì còn có thể tha thứ được, chứ ai lại dám cả gan mà nguyền rủa thiên tử. Bấy giờ con nghĩ quá giận, đã trót rút gươm chém chết hai tên cunội giámnữ ấy. Muôn tâu mẫu hậu! Hai tên cung nữ ấy lại có thú nhận là mưu này tự nội giám Uông Kim. Thảo nào Uông Kim hôm trước bỗng nhiên ngộ cảm mà chết, thế mới biết lòng trời không dung kẻ gian. Ngày nay dẫu chúng chết cả rồi, không lấy ai làm chứng cớ, nhưng tội phản nghịch ấy thật đã rành rành.
Phi Giao hoàng hậu tâu xong thì thái hậu cười nhạt mấy tiếng mà phán rằng:
- Không đủ chứng cứ mà ghép tội cho người ta thì dẫu đối với thường dân cũng không nên, huống chi đối với một bà chánh cung hoàng hậu! Hai tên cung nữ kia, tự ngươi sai sang, chẳng lẽ chúng lại phản chủ mà vào đảng với tả cung vậy. Xem thế có phải quả là mưu gian thuở xưa của Triệu Cao trỏ hươu làm ngựa đó không? Hứa hậu thuở xưa bị oan cũng vì kế ấy. Ta nực cười thay cho con ta làm vua mà không biết xét đoán, để đến nỗi bị dối lừa. Sao con không nghĩ tình ân ái vợ chồng trong sáu năm trời nay! Sao con không nghĩ khi trước tự ai tâu xin lập hữu hoàng hậu! Huống chi chánh cung hoàng hậu vốn là người hiền thục, ngày nay lại đang có thai, con nỡ lòng nào! Vả vợ chồng Hùng vương vốn có ơn to với nhà Hoàng Phủ ta, ta và thân mẫu ta thuở xưa nhờ tay Vệ vương phi mà sống. Hùng vương lại tận trung báo quốc trong bấy nhiêu năm trời không một tội lỗi gì, thật là trụ đá vững vàng của triều đình đó. Dẫu có tội lỗi cũng nên phải xét đoán cho minh, cớ sao lại nã tróc tức thì mà định ngày mai xử tử? Vậy thì con tránh sao cho khỏi tiếng hôn quân! Việc khác ta không nói làm chi vội, ngày nay ta chỉ xin xon hãy xá tội cho nhà họ Hùng. Nếu không thì con phải đem Uông Kim và hai tên cung nữ ra đây đối chứng cho ta coi!
Thái hậu vừa nói vừa hầm hầm nổi giận. Phi Giao hoàng hậu cười nhạt tâu:
-Muôn tâu mẫu hậu! Chẳng hay mẫu hậu trỏ ai là Triệu Cao, ai là kẻ bày mưu hại Hứa hậu? Từ khi con vào cung đến nay, chưa hề dám thất lễ với chánh cung hoàng hậu bao giờ. Con vẫn ngày đêm chăm chỉ, thay chánh cung mà trông nom các việc ở trong cung. Con đối đãi chánh cung hoàng hậu thật đã hết đạo thần thiếp. Chánh cung hoàng hậu nghe lời sàm báng có ý nghi con, con vẫn tưởng lâu ngày rồi cũng nguôi lòng. Ai ngờ lại lấy làm thâm thù mà dùng đến cách bùa dấu. Nguyền rủa con chẳng kể làm chi, nhưng nguyền rủa thiên tử thì thật là đáng tội. Hai tên cung nữ kia thông mưu hại chủ, giết chết cũng chẳng còn thương. Còn như cách con đối đãi với chánh cung hoàng hậu như thế nào thiết tưởng mẫu hậu đã thường trông thấy. Chẳng qua chỉ vì chánh cung hoàng hậu còn trẻ tuổi, chưa có định kiến. Mà tội vợ chồng Hùng vương dẫu bị toàn gia tru lục, cũng chẳng có oan! Thiên tử cũng nghĩ là bậc công thần, định bắt bỏ ngục rồi sẽ tâu trình mẫu hậu. Nhưng đến khi bắt thì hắn là đảng phản nghịch, cho nên gia binh mới dám tuốt gươm mà kháng cự với quan khâm sai. Muôn tâu mẫu hậu! Việc này bỏ đi làm sao cho được! một nhà thường dân dám kháng cư triều đình, tội còn gia đẳng, huống chi thân làm quốc trượng, chức trọng phiên vương, giả sử có biến cố nào thì nguy cho xã tắc. Vả đường đường thánh chỉ mà dám coi thường thì sao đáng làm gương cho triều thần vậy. Mẫu hậu bảo rằng Hùng vương có công lao với nước, con thiết tưởng triều đình báo đền cũng quá hậu lắm tay! Cha được phong vương, hai trai đều làm quan to, con gái lập làm chánh cung hoàng hậu. Toàn gia phú quý, nỡ nào còn mưu phản triều đình. May mà thiên tử có hồng phúc, khiến cho bùa dấu không ứng nghiệm. Một tội phản nghịch như thế, mẫu hậu còn bênh vực làm chi. Nay mẫu hậu xét đoán không minh, chỉ biết ơn riêng mà không nghĩ đến phép công việc nước, cưỡng lời trái lý, vì họ Hùng mà sỉ mắng thiên tử, còn chẳng ra thể thống nào.
Phi Giao hoàng hậu nói xong thì đứng phắt dậy mà quay mặt đi, làm cho thái hậu căm tức không biết dường nào. Thái hậu lại lôi đình nổi giận, rồi đập bàn quát mắng:
- Phi Giao kia! Mày không biết mình lại còn dám nói càn! Mày khinh miệt chánh cung hoàng hậu mà lộng quyền làm bậy, dám mượn uy thiên tử, chực giết oan kẻ công thần. Mày dùng Mã Thuận làm kẻ phúc tâm, để giao thông với bọn tôn thất, trong ngoài ai cũng biết cả. Ta nghĩ tình cô cháu mà ẩn nhẫn cho mày trong bấy nhiêu lâu. Ai ngờ mày mỗi ngày một tệ, mày dẫn dụ con ta làm điều thất đức.. Việc gì cũng mặc, nhưng ngày nay mày phải tha Hùng hậu và không giết nhà họ Hùng. Ta nhắm mắt đi thì thôi, chứ còn ta đây thì mày chớ nên làm bậy quá. Dẫu làm vua một nước thì cũng phải biết vâng lời mẹ cha. Phi Giao kia! Mày chớ hiểu lầm! Ta đây cũng là một tay nữ tướng, thế mà trong hai mươi năm nay ta ở trong cung, không hề trái lễ một tý gì. Mày chớ thấy ta nhân từ mà dám hỗn láo!
Thái hậu càng nói, lại càng căm tức muôn phần. Vua Anh Tôn run sợ quì ở trước mặt thái hậu mà tâu rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Xin mẫu hậu bớt giận, con xin giáng chỉ xá tội cho nhà họ Hùng.
Thái hậu nói:
- Thả cả Hùng hậu nữa! Nếu không thì đem cả Phi Giao giam vào lãnh cung.
Phi Giao hoàng hậu cười nhạt:
- Mẫu hậu định giam con đó chăng! Vị tất đã giam nổi! Mẫu hậu ơi! Mẫu hậu có biết tự ai lập con làm hữu hoàng hậu, có phải tự thượng hoàng giáng chiếu cho khắp thần dân trong mười ba tỉnh đều biết đó không? Ngày nay mẫu hậu muốn biếm truất con sao cho được, nếu muốn biếm truất con tất phải đợi có lệnh thượng hoàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ năm
Thượng Hoàng nhẹ bước cầu tiên cảnh
Thái hậu ra tay cứu Trung thần (3)

Thái hậu quát to:
- Thượng hoàng giáng chiếu lập mày làm hữu hoàng hậu, thế thì tả hoàng hậu khi trước, dễ có khi không phải tự thượng hoàng giáng chiếu lập lên hay sao!
Phi Giao hoàng hậu nói:
-Hùng hậu phạm tội phản nghịch, quyết không thể tha được, ngày nay phiếm truất vào lãnh cung, còn là khoan thứ đó. Đến như con đây, có tội lỗi gì mà mẫu hậu muốn phiếm truất.
Thái hậu nghe lời, cau mày nghiến răng mà rằng:
- Mày cãi là mày không có tội lỗi, nhưng mày thử tự nghĩ thân mày xem bao nhiêu tội: Mày làm mê hoặc thiên tử mà dung túng bọn quyền gian; không nghe lời trung ngôn, để đến nỗi một bậc lão thần phải dập đầu mà tự tử. Mày dùng Mã Thuận giao thông với bọn tôn thất, làm nhiều việc càn rỡ lạ thường. Mày chỉ biết cậy thế hành hung, còn giang sơn này dẫu về tay ai, mày cũng chẳng quản vậy.
Thái hậu nói chưa dứt lời thì Phi Giao hoàng hậu hầm hầm nổi giận:
- Con có cậy thế hành hung, khiến giang sơn này về tay bọn nội thất, há chẳng còn hơn mẫu hậu binh vực họ Hùng sỉ mắng thiên tử, muốn đem giang sơn này trao cho bọn ngoại thích, hay sao!
Thái hậu nghe nói, lại càng căm tức bội phần, không thể nào nhịn cho được, mới quát to:
- Thôi, thôi! Thế này thì còn nói chi nữa! Âu là ngày nay ta quyết vì nhà Hoàng Phủ ta mà trừ tai vạ này.
Thái hậu vừa nói, vừa rút thanh bảo kiếm treo ở trên tường, rồi xông đến trước mặt Phi Giao hoàng hậu mà giơ lên chém. Vua Anh Tôn trông thấy, chẳng còn hồn vía nào nữa, vội vàng lấy Phi Giao hoàng hậu và khóc mà tâu với thái hậu rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Muôn điều lầm lỗi, con xin chịu cả. Nếu mẫu hậu giết hữu cung thì xin mẫu hậu giết con trước.
Các nội giám và cung nữ cũng đều run sợ, quì xuống mà đồng thanh tâu rằng:
- Muôn tâu thái hậu! Hữu hoàng hậu còn trẻ tuổi, có trót dại nói quá xúc phạm đến thái hậu, xin thái hậu cũng vì thánh thượng mà tha thứ một phen.
Vua Anh Tôn cũng khóc mà tâu rằng:
- Nếu mẫu hậu không xá tội cho hữu cung thì xin mẫu hậu giết cả con luôn thể, để trị tội bất hiếu của con.
Thái hậu nín lặng không nói câu gì, chỉ thở dài một tiếng, ném thanh bảo kiếm mà ngồi xuống ghế. Các cung nữ xúm lại đỡ Phi Giao hoàng hậu dậy. Bấy giờ Phi Giao hoàng hậu khiếp đảm kinh hồn, nét mặt tái mét, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, bất đắc dĩ cũng phải quì ở bên cạnh vua Anh Tôn mà phủ phục xuống đất. Vua Anh Tôn vừa lạy vừa tâu rằng:
- Muôn tâu mẫu hậu! Xin mẫu hậu bớt giận mà khoan thứ cho chúng con được đổi lỗi từ đây. Con đã khẩu truyền cho nội giám tức khắc tha tả hoàng hậu rồi. Con xin cam chịu tội bất hiếu.
Vua Anh Tôn vừa tâu vừa phủ phục xuống đất mà khóc. Thái hậu thở dài một tiếng rồi phán:
- Phi Giao! Thân phụ con vốn là người trung hiếu, thân mẫu con cũng hiền thục lạ thường. Trong anh em chị em chẳng có ai ngỗ nghịch cả, mà sinh ra con có tính gian hiểm lắm thay. Nếu vậy là một tai vạ cho nhà cho nước, con nên phải đởi lỗi mới được.
Nói xong, lại ngoảnh lại bảo vua Anh Tôn rằng:
- Từ nay tả hoàng hậu theo sang ở cung ta, trước là ta trông nom bệnh trạng cho, sau là để tránh khỏi những lời sàm báng. Chờ khi tả hoàng hậu hạ sinh hoàng nam, bấy giờ sẽ hay.
Nói xong, tức khắc đứng dậy về cung.
Lại nói chuyện đến việc nã tróc nhà họ Hùng. Nguyên ngày hôm ấy, Hùng Hiệu tiếp được gia thư của Hùng Khởi Thần gửi đến, báo tin nhà Hoàng Phủ được bình an cả. Hoàng Phủ Tương vương và Mạnh vương phi thì làm nhà ra ở tại bên mộ hai thân, còn Lương phu nhân cùng Lưu phu nhân thì phải trông nom mọi việc ở trong vương phủ. Nếu triều đình không xảy ra sự biến cố gì thì con và biểu huynh (trỏ Triệu Câu) đến thu này sẽ trở về kinh địa. Vợ chồng Hùng Hiệu đang xem thư thì bỗng thấy phía ngoài nào động có một tì nữ chạy vào khóc mà bẩm rằng:
- Dám bẩm lão gia, không biết việc gì mà mặt ngoài có quan quân kéo đến, đang bắt trói các gia đinh. Sắp vào tới đây, nói là phụng mệnh thánh thượng.
Vợ chồng Hùng Hiệu nghe báo, đã hơi hiểu việc, tức khắc truyền gọi Lương Cẩm Hà phu nhân và Phi Loan quận chúa để cùng ra tiếp chiếu. Hùng Hiệu lại dặn người nhà cấm không được khóc lóc.
Khi ra đến Ngân An điện thì thấy khâm sai quan là Tề vương đứng giữa, còn nội giám Mã Thuận đứng một bên, nét mặt hớn hở. Hùng Hiệu quì xuống đất. Tề vương mở chiếu chỉ ra đọc. Tờ chiếu như sau:
“Thừa thiên hưng vận, hoàng đế chiếu rằng:
Làm tôi thờ vua, tất phải tận trung, làm con thờ cha tất phải tận hiếu, còn vợ thờ chồng, cũng tất phải một lòng kính thuận mới nên. Nay tả cung Hùng hậu bỗng đem lòng oán vọng hoàng gia, qua nghe lời những bọn tiểu nhân, làm nhiều điều trái phép. Thế mà Bình Giang vương Hùng Hiệu và vợ là Vệ thị không biết khuyên bảo con gái, lại còn xui giục làm càn, giao thông với bọn nội giám Uông Kim, mật bảo hai tên cung nữ đem bùa dấu yểm chôn ở dưới long sàng, đã ba tháng nay vậy. May mà đạo trời công chính, không dung kẻ gian, bỗng thấy tòa Khâm Thiên giám tâu rằng có yêu tinh hiển hiện, phải tra xét trong nội cung, bấy giờ mưu gian mới bại lộ.
Than ôi làm kẻ thần tử, dám nguyền rủa quân thượng thì tội ác ấy thật không sao có thể khoan tha. Hùng hậu kia nghĩ tình ân ái trong sáu năm, tha tội chết cho, hãy đem vào lãnh cung; còn vợ chồng Hùng Hiệu chịu ơn vua lộc nước đã hai mươi năm nay mà không biết tận trung báo quốc thì chết cũng đáng tội. Vậy trẫm sai Tề vương Hiển Khánh phụng mệnh đòi lại ấn kiếm nguyên soái. Lại tịch biên gia sản, và tróc nã toàn gia giao cho Tam pháp tư kết án trị tội. Khâm tai!”
Hùng Hiệu nghe xong sụp lạy, đứng dậy nộp trả ấn kiếm, rồi thở dài mà than rằng:
- Hùng Hiệu này cô phụ hoàng ân, dẫu chết cũng đáng, chỉ tiếc rằng lại mang tiếng phản nghịch thì thật là một sự di hận vô cùng vậy.
Mã Thuận bĩu môi, truyền cho quân sĩ lột bỏ mũ áo của Hùng Hiệu và xích tay lại. Bỗng thấy Vệ vương phi cùng Lương phu nhân và Phi Loan quận chúa thủng thỉnh đi đến. Tề vương trông thấy, có ý không nỡ, mới truyền bảo quân sĩ rằng:
- Bọn vương phi kia, bất tất phải dùng đến xiềng xích.
Vệ Dũng Nga vương phi mỉm cười mà bảo rằng:
-Nói làm chi thế! Đã là kẻ phạm tọi thì dẫu xiềng xích cũng chẳng ngại chi, xin người cứ chiếu theo quốc pháp.
Mã Thuận nói:
- Vệ vương phi biết phép như thế là phải, còn Phi Loan quận chúa thì hữu hoàng hậu đã khẩu truyền cho được miễn giam chỉ đưa vào trong phủ phò mã, rồi cùng Hùng Khởi Thần ly hôn, đợi khi Hoàng Phủ Tương vương hết tang, bấy giờ sẽ gả cho người khác.
Mã Thuận nói chưa dứt lời thì Phi Loan quận chúa thẹn đỏ mặt lên, cau mày mà rằng:
- Phi Loan này đã ở nhà họ Hùng thì ngày nay cũng xin theo họ Hùng vào trong ngục luôn thể, không dám tuân chỉ về phủ phò mã làm chi. Nhà ngươi tâu giúp với hữu hoàng hậu rằng ta đây không mặt mũi nào mà xin từ hôn một lần nữa.
Phi Loan quận chúa nói xong hai hàng nước mắt chảy xuống đầm đầm. Bỗng thấy gia binh ở ngoài cửa kéo đến, vây kín bốn mặt. Chúng reo ầm lên rằng:
- Thánh thượng không minh, lại nghi cho Hùng vương là kẻ phản nghịch, vậy chúng ta nên liều chết mà giữ lấy chủ nhân, cấm không cho ai được động đến.
Nói xong, cùng tuốt gươm ra, rồi cầm ở tay. Tề vương run sợ, vội vàng nắm tay Hùng Hiệu mà kêu rằng:
- Quốc trượng ơi! Xin quốc trượng bảo toàn tính mệnh cho tôi. Tôi chỉ phụng mệnh thánh thượng, bất đắc dĩ mà phải tới đây, chứ thực tôi không có lòng nào dám hãm hại quốc trượng vậy.
Nội giám Mã Thuận trông thấy gia binh toàn thị những tay hùng dũng, cũng kinh hồn khiếp đảm, mới nhân lúc Tề vương còn đang giải quyết mọi lẽ, liền lẻn ra cửa ngoài, lên ngựa về phi báo. Hùng Hiệu truyền bảo các gia binh rằng:
- Các ngươi còn ngu dại làm thế không được, sao lại dám cả gan mà kháng cự với triều đình. Đạo làm thần tử, phải vâng lời quân thượng, dẫu bắt mình chết mình cũng không dám chối từ. Nay triều đình đã giáng chỉ bắt ta, các ngươi chớ nên kháng cự.
Các gia đinh đều nói:
- Dám bẩm vương gia! Chúng con đội ơn vương gia đã lâu năm, trộm thấy vương gia thật là một người tận trung báo quốc. Ngày nay không biết tự ai sàm báng, mà thánh thượng lại nghi cho vương gia là kẻ phản nghịch. Cứ theo lời trong chiếu thư nói thì vương gia vào ngục chuyến này, khó lòng mong được toàn sinh, vậy ba trăm chúng con đây định liều chết giữ lấy vương gia, rồi theo vương gia cùng vào tâu thánh thượng xét nỗi oan tình mà giáng chỉ tha tội cho vương gia vậy.
Chúng nó xong liền quanh cả lại mà giữ lấy Hùng Hiệu, Hùng Hiệu nổi giận mắng giận rằng:
- Các ngươi làm bậy, khiến cho tấm lòng trung thành cùa Hùng Hiệu này vì các ngươi mà không giải tỏ ra được. Các ngươi không nghe lời ta thì chẳng còn ra thể nào!
Hùng Hiệu vừa nói vừa hầm hầm căm tức, lấy một thanh gươm toan đâm cổ tự tự. Tề vương luống cuống không biết làm thế nào, ngoảnh lại trông thấy Vệ Dũng Nga vương phi, liền kêu rầm lên mà bảo rằng:
- Vệ vương phi ơi! Ngày nay quốc trượng tự vẫn thì tôi biết phúc tấu thế nào cho được.
Vệ Dũng Nga vương phi chạy lại, giật lấy thanh gươm rồi quát mắng gia binh:
- Ngày nay triều đình giáng chỉ bắt vợ chồng ta bỏ ngục, không phải đã xử tử ngay đâu, cũng còn tra xét, nếu thật oan khuất, sẽ được khoan tha. Nay cứ theo như ý các ngươi làm thì thành ra các ngươi lại buộc cho vợ chồng ta vào tội phản nghịch đó. Các ngươi nên mau mau giải tán đi, kẻo ta cũng không thể tha các ngươi được.
Các gia binh nghe nói đều khóc oà lên mà rằng:
- Dám bẩm vương gia và vương phi! Chúng con chịu ơn cơm nặng áo dầy trong bấy nhiêu lâu, ngày nay vương gia và vương phi vào ngục thì chúng con xin tình nguyện cùng nhau theo chết.
Nói xong, liền bỏ cả gươm xuống. Tề vương thấy vậy cũng phải khen ngợi rằng:
- Quốc trượng đối với quân sĩ thật có lòng nhân từ, khiến cho chúng phải cảm phục như vậy thì khi nào nỡ phụ ơn triều đình. Nội giám Mã Thuận, thật đã vu oan cho kẻ trung thần. Ngày nay việc xảy ra dường này, khó cứu lại cho được, âu là tôi phải tâu với thánh thượng để giải oan cho quốc trượng mới xong.
Tề vương nói chưa dứt lời thì bỗng thấy mặt ngoài có ba trăm cấm binh kéo đến, vây kín cả chung quanh phủ. Đồ Man Định Quốc và Đồ Man An Quốc ngang nhiên bước vào, mở chiếu thư tuyên đọc. Tờ chiếu như sau:
“Thừa thiên hưng vận, hoàng đế chiếu rằng:
Hùng Hiệu phạm tội phản nghịch, đáng lẽ phải xử tử ngay, nhưng trẫm nghĩ thương là kẻ công thần, cho nên còn bắt giam để tra xét, không ngờ có chí phản nghịch đã lâu, vậy mới dám kháng nghịch thánh chỉ. Nay chuẩn bắt toàn gia Hùng Hiệu đem ra hành hình. Chỉ ban đặc ân cho vợ chồng Hùng Hiệu được toàn thi thể, đó cũng là lòng khoan thứ của trẫm vậy.
Còn bọn gia binh thì phải chém hết, để trị tội kháng cự triều đình. Khâm tai!”
Vợ chồng Hùng Hiệu nghe chiếu, nét mặt vẫn cứ nghiễm nhiên như thường. Hùng Hiệu lại nói với Tề vương rằng:
- Gia binh tôi quá ư ngu xuẩn, chúng xót thương vì chủ mà không biết thế nào là trái phép triều đình. Tôi thiết tưởng thánh thượng cũng nên rộng ơn mà khoan tha cho, chỉ trị tội một mình nhà tôi là đủ.
Vệ Dũng Nga vương phi cũng thở dài mà nói với Tề vương rằng:
- Con dâu tôi là Lương Cẩm Hà nên để theo tôi cùng chết, còn Phi Loan quận chúa thì chưa làm lễ thành hôn, chiếu luật chưa có thể trị tội được. Vậy nên tha cho quận chúa lại trở về nhà Hoàng Phủ.
Phi Loan quận chúa nghe lời liền nói với Vệ Dũng Nga vương phi rằng:
- Cô mẫu ơi! Lòng con đây quyết không bao giờ thay đổi dẫu sống hay chết cũng xin theo cô mẫu, để tỏ rằng nhà Hoàng Phủ con cũng chưa đến nỗi táng tâm.
Phi Loan quận chúa nói đến sự đau lòng ấy, lại vật mình lăn khóc. Vệ Dũng Nga vương phi không thể cầm nước mắt cho được, vội đỡ Phi Loan quận chúa dậy mà bảo rằng:
- Phi Loan quận chúa thật là một người hiền nữ, quả không phụ lòng tương tri của ta trong nửa năm trời nay.
Đồ Man Định Quốc truyền cho quân sĩ cứ theo phép công mà xích tay vợ chồng Hùng Hiệu, lại xích tay cả Phi Loan quận chúa và Lương Cẩm Hà phu nhân. Hùng Hiệu bấy giờ trong lòng chua xót, không thể nhịn được, mới phải nói với Đồ Man Định Quốc rằng:
- Đồ Man đại tướng quân ơi! Bọn nữ lưu kia không nên bắt chúng phải lột áo, cứ xích tay không cũng được.
Đồ Man Định Quốc nghe nói cả cười mà rằng:
- Bây giờ quốc trượng mới biết tôi là đại tướng quân! Quốc trượng vẫn tưởng rằng mặt trời cứ đứng ngọ mãi, ai ngờ cũng có lúc phải xế về tây. Quốc trượng ơi! Hôm trước quốc trượng đừng ra oai mà quát chém tôi thì làm chi đến nỗi khổ sở cho lắm.
Nói xong, truyền quân sĩ mau mau lột áo. Vệ Dũng Nga vương phi thấy vậy, trong lòng căm tức, liền quát một tiếng mà rằng:
- Anh em nhà ngươi chớ có cậy thế làm càn! Nhà ngươi muốn lột áo, ra sẽ làm cho ngươi biết tay họ Hùng này!
Nói xong, quay mình trở lại, giật tung xiềng xích ra, rồi bước rảo mấy bước, hai tay nắm lấy hai anh em Đồ Man Định Quốc mà quát to lên rằng:
- Trước sau ta cũng một chết mà thôi, chi bằng ta giết hai đứa gian tặc này để đền ơn thánh thượng!
Quan quân bấy giờ đều kinh sợ thất sắc. Tề vương vội vàng van lạy mà rằng:
- Trăm lạy vương phi! Xin vương phi tha cho hai tướng quân thì tôi được đội ơn vạn bội. Dẫu không lột áo, cũng chẳng hề chi. Việc này thật Đồ Man tướng quân có lỗi vậy.
Hùng Hiệu cũng khuyên bảo Vệ Dũng Nga vương phi rằng:
- Phu nhân ơi! Những đứa gian tặc rồi sau này nó cũng không tránh khỏi lưới trời. Nếu phu nhân giết nó thì tội kháng cự triều đình, ta đây khó lòng mà tránh khỏi. Cái tai vạ của nhà ta, tôi và phu nhân đều đã biết trước. Thôi thì chết cũng cam lòng, chỉ tiếc một điều rằng ta không biết nghe lời Hoàng Phủ Tương vương khuyên ta hôm xưa, để đến nỗi lại mang tiếng phản nghịch vậy.
Bấy giờ Vệ vương phi mới buông Đồ Man Định Quốc và Đồ Man An Quốc ra. Hai người đứng dậy, truyền quân sĩ cứ để nguyên áo mà trói lại. Tịch biên hết tài sản trong vương phủ. Khi tịch biên xong, Tề vương toan trở về phúc chỉ thì bỗng lại có thánh chỉ đến. Mọi người đều quì cả xuống để nghe. Nội giám mở tờ chiếu ra tuyên đọc. Chiếu rằng:
“Bình Giang vương Hùng Hiệu tội ác rõ rệt, đáng lẽ phải xử quyết ngay, nhưng hai tên cung nữ thú nhận mưu gian ấy trong khi trẫm nổi giận thì chúng khiếp sợ mà chết. Còn kẻ đồng đảng là nội giám Uông Kim kia cũng bị trúng phong mà chết từ trước rồi. Vì cớ ấy thái hậu cho là chưa đủ chứng cứ, nên phải xét xử lại. Vậy trẫm hãy ân xá cho một nhà Hùng Hiệu được khỏi tội chết, tạm giam vào ngục, đợi khi pháp tư thẩm định rồi, bấy giờ sẽ thỉnh chỉ thái hậu mà nghị án. Hoàng Phủ Phi Loan không muốn ly hôn, xin theo họ Hùng vào ngục cũng cho được tùy ý. Khâm tai.”
Khi tuyên đọc chiếu thư xong, ai nấy đều tung hô vạn tuế. Tề vương truyền giải cả vào ngục, rồi về cung phúc chỉ. Khi Tề vương về khỏi rồi, nội giám Lăng Mậu nói với Hùng Hiệu rằng:
- Dám bẩm quốc trượng! Chẳng hay quốc trượng có biết việc quan Lương thừa tướng không?
Hùng Hiệu kinh ngạc mà hỏi rằng:
- Việc gì vậy?
Nội giám Lăng Mậu khẽ thầm gạt nước mắt, thuật hết đầu đuôi việc Lương thừa tướng tự tử cho nghe. Vợ chồng Hùng Hiệu chẳng còn hồn vía nào. Lương Cẩm Hà phu nhân nghe tin thân phụ tạ thế thì vật mình than khóc. Hùng Hiệu cũng khóc mà rằng:
- Lương thừa tướng ơi! Thừa tướng vì họ Hùng ta mà đập đầu tự tử. Đã đành rằng sáu mươi tuổi đầu thì chết cũng đáng đời, nhưng thật để một mối thương tâm cho Hùng Hiệu này. Bao giờ còn được trông thấy một người trung quân vị quốc như thế! Còn như Hùng Hiệu này, khởi quân từ chốn thảo mao, trải thờ hai triều, phú quý đến thế này là cùng cực. Thế mà sống chẳng ích gì cho nước, chết lại mang tiếng bất trung, còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa! Chi bằng ta cũng tâu xin thánh thượng tứ tử để được theo Lương thừa tướng cùng xuống suối vàng cho rồi.
Hùng Hiệu nói xong, lại vật mình lăn khóc. Đồ Man Định Quốc và Đồ Man An Quốc liền giục mau mau giải vào trong ngục. Hùng vương phủ đệ đều bị niêm phong cả, thuở trước lừng lẫy kể sao cho xiết, mà bây giờ cú kêu quạ đậu lạnh ngắt như tờ. Nhân dân trong nước ai cũng than thở mà thương Hùng Hiệu là người trung lương, từ khi chưởng quản binh quyền hơn hai mươi năm trời, không hề dung túng quân sĩ làm điều nhũng nhiễu như Lưu Tiệp thuở trước. Vẫn tưởng danh thơm ấy sử xanh ghi chép, ai ngờ hóa công cũng ghen ghét với kẻ trung lương.
Lại nói chuyện thi thể Lương Trấn Lân thừa tướng khi đưa về tướng phủ, hai mắt vẫn mở trừng trừng, lại hình như có giọt lệ nhỏ sa vậy. Mảnh đẩu vỡ toát, máu chảy đầm đìa, Lương Trấn Lân phu nhân chẳng quản chi cả, cứ ngồi ôm lấy mà khóc. Các nữ tỳ đều xúm lại khuyên giải rằng:
- Ngày nay hai vị công tử đều về quê nhà, ở đây chỉ trông cậy có mình phu nhân, xin phu nhân chớ lo nghĩ quá mà thành bệnh thì lấy ai là người trông coi các việc vậy.
Lương Trấn Lân phu nhân nghe nói mới lau nước mắt mà đứng dậy, bỗng mặt ngoài truyền báo có quan thừa tướng Nguyễn Long Quang đến. Khi Nguyễn Long Quang vào tới nơi, Lương Trấn Lân phu nhân quì xuống mà thưa rằng:
- Nguyễn tướng công ơi! Phu quân tôi chẳng may gặp phải tai nạn này, hai con tôi đều ở quê nhà tất cả, vậy công việc ngày nay, chờ tướng công trông nom giúp cho, còn thân già này xin cam lòng chịu theo phu quân tôi về nơi chín suối.
Nói xong, liền dập đầu sụp lạy. Nguyễn Long Quang nghe nói trong lòng đau xót lạ thường, cũng khóc mà đáp lễ lại, rồi bảo nữ tỳ đỡ Lương phu nhân dậy để nói chuyện, Lương phu nhân vâng lời đứng dậy. Nguyễn Long Quang nói:
- Lão phu nhân ơi! Lúc này không phải là lúc nên chết. Tôi chỉ tiếc thay cho Lương thừa tướng liều mình như thế mà không bổ ích gì cho nước nhà. Bây giờ còn nói chi được nữa. Nhưng tổ chim đã đổ, khi nào còn có trứng lành, phu nhân cũng đừng viết thư gọi các công tử tới đây làm chi. Ngày nay tiện nhi cáo quan trở về quê nhà, may còn chưa đi, để tôi bảo nó phù linh cữu quan Lương thừa tướng đây và đưa phu nhân về quê một thể. Các việc trong nhà đã có tiện nhi trông nom giúp. Phu nhân chớ nên liều mình mà lại di họa cho hai vị công tử nhà ta. Mấy lời Lương thừa tướng đây tâu bày hôm trước, Phi Giao hoàng hậu còn căm tức chưa nguôi. Phu nhân muốn bảo toàn tôn tự họ Lương thì xin đừng nói những lời oán vọng, kẻo đến tai Phi Giao hoàng hậu lại gây nên một vạ to. Vừa rồi thái hậu có quở trách thánh thượng và Phi Giao hoàng hậu. Bấy giờ Phi Giao hoàng hậu dẫu không dám nói, nhưng trong lòng căm tức bội phần. Mã Thuận đang ở trong cung, cũng khiếp sợ mà phải cáo ốm. Tuy vậy chưa lấy chi làm chắc, chẳng qua chỉ tạm yên ít ngày thôi. Phu nhân chớ ở lâu tại đây, nên kíp sửa soạn khởi hành, họa may thánh thượng có nghĩ lại mà giáng chỉ thương đến bậc lão thần chăng.
Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe báo có thánh chỉ đến. Lương Trấn Lân phu nhân vừa khó vừa ra nghênh tiếp thánh chỉ. Nội giám Lã Xương mở tờ chiếu thư ra tuyên đọc. Chiếu rằng:
"Nội các văn uyên điện đại học sĩ là Lương Trấn Lân, trải thờ ba triều, xưa nay vẫn giữ một lòng trung trực, chỉ vì tính vốn nóng nảy, không được ôn hòa, trẫm nghĩ thương là bậc lão thần, cho nên thường hay khoan thứ. Mới rồi, bỗng giao thông với đảng phản nghịch, dám tâu bậy nói càn, trẫm cũng rộng ơn mà không trách chi cả. Ai ngờ Lương Trấn Lân tự biết tội ác của mình, khó lòng tránh khỏi lưới thép, bởi vậy mới đập đầu tại cửa cung mà chết, để mua lấy tiếng trung trực và đổ cho trẫm là một vị hôn quân. Than ôi! Chết thật đáng thương, nhưng lòng cũng quỷ quyệt, chiếu luật nên phải nghiêm trị, bắt vợ con ra hành tội, để làm gương cho người sau. Tuy vậy, trẫm xét công giúp nước đã lâu,, vậy phải giáng chỉ ân xá, vẫn cho được tặng thụy như lệ, truyền Lễ bộ quan tuân hành. Khâm tai!”
Lại nói chuyện Nguyễn Long Quang phu nhân là bà Vương thị, sinh được một người con trai tên gọi Nguyễn Thụy đã ba mươi sáu tuổi. Nguyễn Thụy lấy con gái Lưu Khuê Quang, chưa có con trai, chỉ sinh được hai gái: Một người tên gọi Phương Xuân, mới mười lăm tuổi, và một người tên gọi Thiều Xuân, mới mười ba tuổi, lại còn một người con trai thứ xuất tên gọi Quan Kha. Nguyễn Thụy đỗ sớm, làm quan đến trấn quản đạo, đủ lệ sáu năm được về kinh dẫn kiến. Bấy giờ đem Lưu phu nhân và con cái tiến kinh,. liền cáo nghỉ nửa năm, để về quê hương thăm phần mộ. Trong nhà đang đoàn viên sum họp vui vẻ lạ thường. Bỗng thấy Nguyễn Long Quang ở ngoài bước vào, hai mắt đầm đìa giọt lệ. Mọi người thấy vậy đều đứng cả dậy. Nguyễn Long Quang gạt nước mắt gọi Nguyễn Thụy đến thuật chuyện cho nghe và bảo rằng:
- Cứ như công việc trong triều ngày nay thì ta cũng nên liều mình tự tử là phải! Chỉ vì Lương thừa tướng đã chết mà ta lại chết thì giang sơn này biết trông cậy vào ai. Bởi vậy ta muốn theo gương quý báu của Địch Nhân Kiệt thuở xưa mà nương náu đứng ở trong triều đường, để sau này sẽ tùy cơ ứng biến.
Nói xong, lại thuật hết đầu đuôi mọi việc trong triều cho cả nhà nghe, ai nấy đều lấy làm kinh ngạc. Nguyễn Long Quang phu nhân nghe nói cũng ứa hai hàng nước mắt mà khóc thương. Nguyễn Thụy nói:
- Thân phụ ơi! Thân phụ đã quyết định như vậy, con xin vâng lời. Nhưng ngày nay con đi thì yên lòng làm sao cho được, chẳng may xảy gặp việc gian hiểm, thành ra con không được gần gũi dưới gối hai thân.
Nguyễn Long Quang phu nhân bảo rằng:
- Con cứ yên lòng. Thân phụ con không phải là người nóng nảy như Lương thừa tướng, tâm cơ kín đáo, chắc không khi nào đến nỗi bị hại vì bọn quyền gian. Con cứ vâng lời trông nom giúp tang sự cho Lương phu nhân, và trở về Vân Nam thăm mộ phần tổ tiên một thể. Thân phụ con chịu ơn triều đình quá hậu, thế tất phải ở đây, còn con nên mau mau trở về quê nhà, cũng là một kế hay cho ta vậy.
Nói xong, lại gọi người con dâu là Lưu phu nhân (vợ Nguyễn Thụy) đến mà dặn bảo rằng:
- Con nên sửa soạn đồ hành lý để sắp sửa troơ về quê nhà, ta còn phải sang giúp bà Lương thừa tướng.
Nguyễn Long Quang phu nhân đứng dậy lên kiệu đi sang Lương phủ, trông nom việc khâm liệm cho quan Lương thừa tướng.
Lại nói chuyện khi Lương Trấn Lân thừa tướng mới chết, chỉ có Nguyễn Long Quang và Hoàng Phủ Triệu Lân cùng vài ba người bạn thân đến viếng thăm mà thôi. Sau chúng thấy thái hậu có sai người phúng viếng và giáng chỉ uỷ dụ, bấy giờ mới lại kéo nhau đến thăm hỏi, náo nhiệt lạ thường. Trong tờ chiếu chỉ của thái hậu có nói rằng:
“Ta rất lấy làm thương xót cho nhà ngươi thật đã không may gặp lúc thiên tử chưa tỉnh ngộ. Đức trung trực của nhà ngươi, so với Long Bàng và Chu Vân thuở xưa chẳng khác gì nhau. Một vị hiền thần như thế ta rất cảm phục. Vậy nay ta xin lập miếu thờ và tế lễ một tuần, còn hai con đều được cho gia thăng. Chờ khi mãn tang, bấy giờ lại được tiến kinh cung chức. Vợ con Lương Trấn Lân, nếu xảy ra sự gì thì ta sẽ trách hữu hoàng hậu mà trị tội.”
Vua Anh Tôn cũng sai quan đem vang bạc ra ban cho và cắt người hộ tang. Vì thế các quan triều thần cùng các hoàng thân quốc thích lại đều đến phúng viếng. Người nào đem tiền bạc đến thì Lương phu nhân nhất định không chịu nhận của ai.
Nguyễn Long Quang phu nhân thấy vậy cũng ngẫm nghĩ khen thầm. Sửa soạn trong nửa tháng, rồi định đưa linh cữu quan Lương Trấn Lân thừa tướng theo đường thủy về Vân Nam. Hôm ấy, Nguyễn Long Quang phu nhân và hai vợ chồng Nguyễn Thụy cùng hai cô con gái cùng đi hộ tang một thể. Chiếc thuyền để linh cữu Lương Trấn Lân thừa tướng thì có hai vợ chồng Nguyễn Thụy và hai bà lão phu nhân cùng hai cô bé gái cũng đi theo. Còn bọn nô ty lại đi riêng một chiếc thuyền khác. Các quan văn võ đi hộ tống, lại có riêng một chiếc thuyền, trống rong cờ mở, rất là náo nhiệt. Thuyền đi qua tỉnh nào thì địa phương quan ở đấy lập trạm ra để tế lễ, rồi thuyền cứ thẳng đường lần về Vân Nam. Về tới Vân Nam, hai cậu công tử con quan Lương thừa tướng đứng đón tại bên sông, vì Nguyễn Thụy đã sai người thông báo từ trước. Khi đến bến, hai cậu Lương công tử trông thấy linh cữu Lương thừa tướng ruột đau như cắt, liền vật mình lăn khóc. Các quan văn võ đi hộ tống đều xúm lại khuyên giải. Hai công tử lạy tạ Nguyễn Thụy và lạy tạ các quan văn võ, rồi xuống thuyền yết kiến thân mẫu. Lương phu nhân trông thấy Lương Anh và Lương Tuấn (tức hai vị công tử), liền ôm lấy mà khóc òa lên. Lương Anh và Lương Tuấn cũng quì xuống khóc. Cả thủy thủ thấy vậy ai nấy đều giọt lệ chứa chan. Nguyễn Long Quang phu nhân ở dưới thuyền bước lên, gạt nước mắt mà khuyên giải hai cậu Lương công tử. Lương phu nhân thuật chuyện đầu đuôi cho hai công tử nghe, hai công tử nghe nói, đứt từng khúc ruột, lại sụp lạy Nguyễn Long Quang phu nhân, để tạ công phu nhân đã hết lòng giúp đỡ. Nguyễn Thụy nói với Lương phu nhân rằng:
- Bẩm phu nhân! Bây giờ về tới đây, công việc trong nhà đã có hai công tử, tôi xin cùng thân mẫu tôi trở về thăm quê nhà trong ít ngày, hôm nào thư thả, sẽ sang hầu chuyện.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ sáu
Triều Lân tận Trung phò ấu chúa
Ngọc Thanh vị nghĩa báo tình nhân(1)


[scroll]Một hôm Mạnh Sĩ Nguyên và Hàn phu nhân, hai vợ chồng già đang ngồi nói chuyện. Các cháu trai và các cháu gái đứng xúm xít cả xung quanh. Bỗng thấy Mạnh Gia Linh hốt hoảng chạy vào mà thưa rằng:
- Dám thưa hai thân! Việc này là một việc không hay!
Vợ chồng Mạnh Sĩ Nguyên vội vàng hỏi:
-Mạnh Gia Linh vừa khóc vừa thuật hết đầu đuôi mọi việc trong triều cho Mạnh Sĩ Nguyên nghe. Mạnh Sỉ Nguyên nói Lương Trấn Lân thừa tướng đập đầu tự tử, Bình Giang vương Hùng Hiệu bị giam, ngồi ngẫn người ra mà nghĩ, không nói câu gì. Hàn phu nhân hai hàng nước mắt khóc mà rằng:
- Ai ngờ tai biến đến như thế! Nếu vậy thì vợ chồng Hoàng Phủ Tương vương nghĩ uất mà chết mất thôi. Thượng hoàng bỏ đi không thấy về, Thái hậu ở trong cung thì hiện nay vẫn đang bị bệnh. Thế mà thiên tử quá ư nhu nhược chẳng biết tý gì. Tôi e giang sơn này không khéo có ngày về tay người khác vậy.
Hàn phu nhân nói xong, liền ngoảnh lại bảo Mạnh Gia Linh rằng:
- Mạnh Gia Linh con ơi! Bây giờ không biết nghĩ thế nào cho được. Ta thiết tưởng con nên mau mau trở về kinh địa, để cùng Nguyễn Long Quang tướng công đồng tâm hiệp lực mà giúp triều đình, đợi khi Hoàng Phủ Tương vương mãn tang tiến kinh thì may ra bảo toàn được vô sự.
Mạnh Sĩ Nguyên nghe nói lẩm nhẩm gật đầu, rồi bảo Mạnh Gia Linh rằng:
- Thân mẫu con nghĩ phải, con nên vâng lời. Cha con ta chịu ơn triều đình trong bốn mươi năm nay, chưa biết lấy chi báo đáp, Lương thừa tướng vì nước tự tử, tiếng thơm ghi để nghìn thu. Nguyễn tướng công thì một lòng chính trực đứng ở trong triều. Doãn tướng công cũng muôn dặm xa xôi đang đi sứ ở ngoại quốc. Thế mà ta đây cứ điềm nhiên vui thú tự nghĩ sao cho an tâm. Vậy con phải vâng lời thân mẫu con mà tiến kinh, chớ nên ngần ngại.
Mạnh Gia Linh nói:
- Song thân ơi! Con đi đã đành, nhưng dưới gối song thân lấy ai hầu hạ. Trưởng tử con hiện đang đi sang Hồ Quảng, còn thứ tử con thì đầu xanh tuổi trẻ, nào đã biết gì. Thế thì ngày nay đi sao cho an tâm, hai thân nên trù tính đến điều ấy.
Mạnh Sĩ Nguyên chưa kịp trả lời thì Hàn phu nhân liền nói:
- Mạnh Gia Linh con ơi! Con nên nghĩ ơn sâu của triều đình trong mấy năm trời nay, ngày nay gặp cơn nguy hiểm, con nỡ lòng nào mà ngoảnh mặt làm thinh. Vả con là thân thích với Phi Giao hoàng hậu thì con có dâng lời can gián, tất cũng không lo ngại gì. Cha mẹ năm nay dẫu gần bảy mươi tuổi đầu nhưng nhờ trời vẫn được tráng kiện như thường, vậy con nên mau mau đi ngay, không phải phiền về nỗi cha mẹ già yếu.
Vợ Mạnh Gia Linh là Phương thị phu nhân cũng khuyên chồng mà rằng:
- Phung quân ơi! Phu quân nên mau mau trở về kinh địa, rồi tùy cơ ứng biến, tâu xin xá tội cho họ Hùng. May ra thánh thượng có hồi tâm lại chăng, nếu không thì dẫu phu quân vì việc ấy mà bị tội, thiết tưởng cũng nên cam lòng.
Mạnh Gia Linh lại nói với hai thân rằng:
- Dám thưa hai thân! Thượng hoàng là bậc thánh minh, thái hậu có tài võ đoán, thế mà cũng đành chịu bó tay. Thượng hoàng giận quá bỏ đi, thái hậu quá nghĩ thành bệnh. Lại còn các quan triều thần như Lương thừa tướng, Doãn thừa tướng Hùng vương và Nguyễn công cũng đều là bậc anh hùng hào kiệt, thế mà kẻ thì bị chết, người thì bị giam, huống chi một thân con về chốn triều đình, chắc chắc đã làm nên công trạng gì vậy.
Mạnh Gia Linh chưa nói dứt lời thì Hàn phu nhân nổi giận mà rằng:
- Mạnh Gia Linh con ơi! Không ngờ con dám cưỡng lời cha mẹ. con thử nghĩ nhà ta đây chịu ơn triều đình trong mấy mươi năm, mũ cáo áo rộng, chức trọng quyền tôn, vinh quý đến thế này là cùng cực. Huống chi Phi Giao hoàng hậu lại là sanh nữ ta, một may xảy có sự gì, chắc hẳn phải tru di đến hai họ. Sao con không nghĩ chữ: “Trung quân ái quốc”, mà lại bắt chước như con chim non mến tổ, không nỡ rời thì còn ra thế nào! Mạnh Gia Linh con ơi! Nếu ngày nay con không chịu vâng lời ta trở về kinh địa thì ta cũng liều nhịn đói để mà chết đi cho rồi!
Mạnh Gia Linh nói:
- Con xin vâng lời! Con xin vâng lời!
Nói xong, liền định đến ngày rằm tháng ấy thì sửa soạn tiến kinh. Khi Mạnh Gia Linh vào trong phòng, Phương thị phu nhân ứa hai hàng nước mắt, rồi khuyên giải:
- Phu quân ơi! Phu quân phải tùy cơ ứng biến, theo như Nguyễn Long Quang tướng công, chớ có liều chết mà chẳng bổ ích gì cho thánh thượng. Hai thân ta bảo phu quân đi là muốn phu quân nhẫn nại cho được nên việc, vậy phu quân không nên bắt chước tính nóng nảy của Lương thừa tướng vừa rồi.
Mạnh Gia Linh lẩm nhẩm gật đầu, rồi thở dài một tiếng, Mạnh Đức thấy vậy liền nói:
- Dám thưa thân phụ! Ngày nay thân phụ tiến kinh, một mình vò võ, muôn dặm xa xôi, mà con ở nhà thì lòng con sao đành. Xin thân phụ cho con theo đi, còn việc hầu hạ tổ phụ và tổ mẩu con thì chẳng bao lâu trưởng huynh con cũng về tới đây vậy.
Mạnh Gia Linh nói:
- Con không nên đi! Ta để con ở nhà là có hai lẽ: Một là hầu hạ tổ phụ và tổ mẫu, hai là ta đi chuyến này, khó lòng bảo toàn tính mệnh. Anh con dẫu không liên lụy nữa thì bấy giờ cũng phải phù linh cữu ta về. Cái tin đau đớn ấy sau này con nên phải giấu tổ phụ và tổ mẫu, chớ để người biết mà người lại thêm lòng hối hận.
Sáng sớm hôm sau, người nhà báo có con quan Nguyễn Long Quang tướng công là Nguyễn Thụy đến. Mạnh Gia Linh vội vàng ra nghênh tiếp, rồi truyền người nhà pha trà mời uống. Khi uống trà xong, Nguyễn Thụy nói:
- Tôi xin vào bái yết Mạnh lão gia.
Mạnh Gia Linh từ tạ, liền sai người vào mời Mạnh Sĩ Nguyên. Một lúc Mạnh Sĩ Nguyên ở nhà trong chống gậy bước ra, có Mạnh Đức theo sau. Nguyễn Thụy trông thấy, vội vàng đứng dậy lạy chào. Mạnh Sĩ nguyên đỡ dậy, rồi mời ngồi nói chuyện, Nguyễn Thụy thuật chuyện trong triều cho Mạnh Sĩ Nguyên nghe.
Mạnh Sĩ Nguyên thở dài mà than rằng:
- Ngày nay tôi già yếu, không thể theo lệnh đường mà duy trì việc nước được. Vậy tôi đã định cho tiện nhi tiến kinh để tuù lệnh đường sai khiến, gọi là chút lòng trung ái của kẻ lão thần này.
Nguyễn Thụy nghe lời, mừng rỡ mà nói với Mạnh Gia Linh rằng:
- Nếy vậy thì lão gia là môt bậc trung thần, hết lòng vì nước! Những nơi than lửa như thế mà lại sai hiền huynh về. Thân phụ tôi một mình cô độc, khác nào một cây khó chống nổi nhà, nếu thêm được hiền huynh về, cùng nhau hiệp lực đồng tâm thì thế tất phải nên việc.
Bấy giờ Nguyễn Thụy lại thuật chuyện Phi Giao hoàng hậu kết liên thông với Mã Thuận cùng Đồ Man Hưng Phục để làm nhiều sự càn dỡ v.v... Nguyễn Thụy vừa nói vừa nhìn Mạnh Đức mà nghĩ thầm rằng: “Giả sử trưởng nữ ta đẹp duyên với cậu công tử này thì thật tốt đôi vừa lứa. Chỉ vì họ Mạnh đây là một nhà thế phiệt, vậy ta khó dám ngỏ lời, âu là ta thử dò ý xem sao mới được.” Chuyện trò hồi lâu, Mạnh Sĩ Nguyên bỗng đứng dậy nói:
- Tôi nay già yếu, không thể ngồi lâu được, xin thất lễ lui vào nhà trong. Hôm nay Nguyễn tiên sinh hãy ở chơi lại đây, rồi vào thư phòng xơi cơm, để cho tiện nhi được hầu chuyện.
Nguyễn Thụy vâng lời. Mạnh Sĩ Nguyên đứng dậy lui vào nhà trong. Cha con Mạnh Gia Linh mời Nguyễn Thụy vào thư phòng nói chuyện. Nguyễn Thụy nói:
- Cha con tôi đi xa lâu ngày, những con em các bạn thân ở nhà, thành ra không ai biết cả. Ngày nay tôi về đây, đang muốn nhờ hiền huynh kén chọn hộ cho một cậu rể, không ngờ hiền huynh lại sắp tiến kinh, thế thì việc này lại không biết trông cậy vào ai.
Mạnh Gia Linh:
- Hiền huynh có mấy lệnh lang và lệnh ái?
Nguyễn Thụy nói:
- Tôi được hai tiện nữ: Trưởng nữ mười lăm tuổi và thứ nữ mười ba tuổi, đều chưa đính hôn với ai. Còn một đứa con trai thứ xuất mới lên sáu tuổi. Tiện nữ dẫu chưa nói đến bậc công ngôn dung hạnh, nhưng nội nhân tôi ngày đêm khuyên nhủ vẫn giữ được thói băng tuyết, lại có theo đòi đôi chút bút nghiên. Chẳng hay trong gia hương ta có người nào đáng gả không? Xin hiền huynh chỉ bảo giúp.
Mạnh Gia Linh trỏ Mạnh Đức rồi cười mà bảo rằng:
- Như tiện nhi đây có thể cho vào bậc đồng sàng được không?
Nguyễn Thụy nói:
- Hiền huynh đây là một bậc hoàng thân, có đâu tiểu đệ dám với cao như vậy?
Mạnh Gia Linh nghiêm sắc mặt mà đáp rằng:
- Sao hiền huynh lại nói như thế! Thân phụ tôi cùng lệnh đường là anh em đồng triều trong bốn mươi năm, còn tiểu đệ đây bất tài, cùng hiền huynh cũng là tình thế nghị. Nay hiền huynh nói câu ấy thì thật khinh cha con tôi như phường thị khoái (là những kẻ ăn gian nói dối ở chợ) vậy.
Nguyễn Thụy nghe nói mừng lòng liền đứng dậy chắp tay mà rằng:
- Nếu hiền huynh ưng thuận như vậy thì tiện nữ thật có phận nhờ.
Mạnh Gia Linh vội vàng đáp lễ lại, rồi ngoảnh lại bảo Mạnh Đức rằng:
- Con quì xuống mà bái yết nhạc phụ đi!
Mạnh Đức từ từ bước đến trước mặt Nguyễn Thụy rồi sụp lạy mấy lạy mà rằng:
- Dám thưa nhạc phụ! Tiện tế xin lạy chào nhạc phụ!
Nguyễn Thụy mừng rỡ, đỡ dậy mà bảo rằng:
- Hiền tế ơi! Tôi vốn nhà hàn tiện, được lệnh đường đây có lòng yêu mến, lại đính ước Châu Trần thì thật vẻ vang cho nhà tôi quá lắm, mong rằng hiền tế cũng chớ thấy hàn tiện mà chê cười vậy.
Mạnh Gia Linh lại cười mà đáp rằng:
- Hiền huynh khiêm tốn thái quá! Tiện nhi được dự ngôi đông sàng như thế, chính là cái phúc cho nhà tôi.
Người nhà dọn tiệc, hai người cùng ngồi vào uống rượu, lại cho cả Mạnh Đức ngồi hầu. Khi uống rượu xong, Nguyễn Thụy lại cáo từ lui về. Về đến nhà nét mặt vẫn còn vui mừng hớn hở, Nguyễn Long Quang phu nhân ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Có việc chi mà con vui mừng thế? Hùng vương được xá tội hay là thượng hoàng đã hồi loan đó chăng? Con nên thuật chuyện cho ta được biết.
Nguyễn Thụy lại mỉm cười mà thưa rằng:
- Thân mẫu ơi! thượng hoàng đã về đâu, mà Hùng vương cũng chưa được tha. Ngày nay con vui mừng là mừng về nỗi đã chọn được một người giai tế.
Nguyễn Thụy nói xong, lại thuật chuyện đầu đuôi cho thân mẫu nghe, Nguyễn Long Quang phu nhân mừng rỡ mà rằng:
- Họ Mạnh nối đời là một nhà hiển loạn. Vả lại vốn dòng thi thư, con Phương Xuân nhà ta được về làm dâu nhà ấy thì đáng mừng cho ta biết là dường nào! Ta chỉ cầu nguyện cho Mạnh Gia Linh tiến kinh lần này được an toàn vô sự.
Bấy giờ cả nhà đều chuyện trò vui vẻ. Thiều Xuân tiểu thư cũng cười mà mừng cho chị là Phương Xuân tiểu thư. Nguyễn Thụy nhờ một người bạn đồng niên là Bách Quản sang làm mối để xin làm lễ kết thân.
Đến hôm Mạnh Gia Linh tiến kinh lại có đem theo một cái quan tài, nói thác là muốn phòng khi nhiễm bệnh, sợ ở kinh địa không mua được quan tài tốt chăng. Đó là một sự đáng nực cười.
Lại nói chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh ở nhà Tần Sĩ Thăng. Tần Sĩ Thăng phu nhân đối đãi rất tử tế. Một hôm, Tần Sĩ Thăng ở trong triều về, thuật chuyện quốc cữu là Hùng Khởi Phụng phải phụng mệnh đi sứ nước Cao Ly. Nàng Hạng Ngọc Thanh nghe nói trong lòng phiền não, nghĩ thầm: “Ta xót thương cho Hùng quốc cữu, phong lưu niên thiếu, xưa nay chưa bước chân đi đâu bao giờ, mà ngày nay phải dãi gió dầm sương, xa xôi muôn dặm. Thư sinh thể cách, chịu sao nổi những sự đắng cay. Thôi chẳng qua cũng là số mệnh của ta chẳng ra gì! Từ khi gặp Hùng quốc cữu có lòng hào hiệp mà cứu vớt, ta vẫn tưởng được chỗ nương tựa tấm thân. Ai ngờ thân thế long đong, Hùng quốc cữu lại phải gửi ta ở nhà Tần học sĩ này. Hùng quốc cữu hẹn ta chờ đợi trong mười năm thì thiết tưởng ở đây cũng không tiện. Dẫu phu nhân có lòng biệt đải, nhưng tính phong nguyệt của Tần học sĩ, mỗi khi gặp mặt, ta vẫn phải cúi đầu. Bể sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm dễ đo cho cùng. Bây giờ muốn đi chẳng biết đi đâu, mà ở đây lâu ngày thì cũng khó yên thân cho được!” Nàng Hạng Ngọc Thanh tính quẩn lo quanh, ruột đau như cắt, dẫu không dám khóc ra tiếng, nhưng vẫn gạt thầm giọt châu. Tần Sĩ Thăng phu nhân thấy nàng mặt ủ mày chau, mới tìm lời khuyên giải mà rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nàng cứ yên lòng mà ở đay chờ đợi, tôi chắc chẳng bao lâu Hùng quốc cữu cũng sẽ về tới nơi.
Một hôm, Tần Sĩ Thăng phu nhân đang ngồi nói chuyện với nàng Hạng Ngọc Thanh, bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp thì Tần Sĩ Thăng ở ngoài bước vào, nét mặt có ý hoảng hốt, rồi ngồi ngẩn người ra mà rằng:
- Không may! Thật là một sự không may! Ai ngờ tai vạ tự trời rơi xuống vậy!
Tần Sĩ Thăng phu nhân kinh ngạc mà hỏi rằng:
- Việc chi thế?
Nàng Hạng Ngọc Thanh cũng đứng dậy khép nép mà thưa rằng:
- Tôi xin cúi chào quan Tần học sĩ.
Tần Sĩ Thăng liền nói:
- Xin miễn lễ! Tôi có chút việc muốn ngỏ cùng nàng. Chẳng hay nàng có biết chuyện nhà Hùng vương hay không?
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Việc chi thế? Xin đại nhân chỉ bảo cho biết.
Tần Sĩ Thăng nín lặng hồi lâu, rồi thuật rõ đầu đuôi việc nhà Hùng vương bị nạn cho hai người nghe. Tần Sĩ Thăng phu nhân nghe nói, sợ tái mét mặt đi. Nàng Hạng Ngọc Thanh cũng đứng ngẩn người ra, không biết nói thế nào. Tần Sĩ Thăng dậm chân thở dài mà rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Việc chung thân của nàng, bây giờ làm ra thế nào? Để nàng ở đây thì sợ liên lụy, mà không để nàng ở thì nàng biết đi đâu. Nàng nên lo tính mau mau, kẻo tai vạ đến nơi đó.
Tần Sĩ Thăng lại bảo phu nhân rằng:
- Phu nhân nên bàn giúp nàng, để tôi còn phải ra ngoài nghe nóng tin tức.
Nói xong, tức khắc lui ra. Tần Sĩ Thăng phu nhân thở dài mà bảo nàng Hạng Ngọc Thanh rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Bây giờ nàng nghĩ thế nào, nên nó rõ cho tôi được biết.
Nàng Hạng Ngọc Thanh hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, rồi vừa khóc vừa nói:
- Phu nhân ơi! Số mệnh tôi chẳng ra gì, còn kể chi nữa, nhưng chỉ lo liên lụy đến phu nhân. Cứ như lời quan Tần học sĩ vừa nói thì nếu chúng biết tôi ở đây, tất buộc cho người tội “Oa tang phản nghịch”, khó lòng mà an toàn được. Phu nhân ơi! Chi bằng tôi tự ra mà thú nhận đi. Một là nhà phu nhân đây tránh khỏi tai vạ; hai là tôi cũng nhân đấy mà được trông thấy Hùng vương, họa may vương phi thương lòng tôi thành mà cho được đêm ngày hầu hạ chăng. Phu nhân ơi! Trong số tội danh, thế nào chúng cũng ghi tên tôi làm tiểu thiếp của Hùng quốc cữu, thế là trọn ước trăm năm. Còn ơn sâu của phu nhân thì kiếp sau tôi xim làm trâu ngựa để báo đền vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói xong, lại nức nở khóc hoài. Tần Sĩ Thăng phu nhân ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo nàng rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nàng nói chí phải! Nhưng tôi còn một điều này muốn ngỏ cùng nàng: Số là nàng đến ở nhà tôi đây đã gần nửa năm, phu quân tôi vẫn có lòng trộm yêu thầm nhớ, chỉ ngại vì danh phận bạn hữu mà không dám nói ra. Từ khi Hùng quốc cữu đi sứ Cao Ly, phu quân tôi thường bàn riêng với tôi rằng: “Hùng quốc cữu đã bằng lòng tặng nàng Hạng Ngọc Thanh cho tôi đó!” Tôi nghe nói vẫn phải khuyên can. Ngày nay chỉ e sợ mắc tai vạ mà sinh ý khác chăng, vậy hãy để tôi về phòng, thử dò hỏi tâm sự của phu quân tôi xem thế nào sau ta sẽ liệu.
Nàng Hạng Ngọc Thanh gạt nước mắt rồi cảm tạ mà rằng:
- Ngày nay tôi chỉ trông cậy ở phu nhân đó!
Tần Sĩ Thăng phu nhân gật đầu lui ra, trở về phòng ngồi, sai người mời Tần Sĩ Thăng vào. Tần Sĩ Thăng nói:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh nghĩ thế nào? Ngày nay không khéo thì tai vạ đến nhà ta đó.
Phu nhân nói:
-Nàng chẳng biết nghĩ thế nào cả. Nàng chỉ nói rằng đã đem thân vào nhà họ Tần thì sống chết cũng chỉ nhờ họ Tần chủ trương cho mà thôi.
Tần Sĩ Thăng nghe nói, nét mặt hớn hở mà hỏi lại rằng:
-Phu nhân ơi! Thật nàng Hạng Ngọc Thanh nói thế phải không?
Tần Sĩ Thăng phu nhân nói:
- Khi nào tôi lại nói dối. Chẳng hay phu quân nghĩ thế nào?
Tần Sĩ Thăng cười mà đáp rằng:
- Phu nhân ơi! Nàng Hạng Ngọc Thanh đã nói như thế, việc này tùy lòng phu nhân. Nếu phu nhân rộng lượng hải hà thì cho nàng làm thiếp, người ngoài chẳng mấy kẻ đã hiểu đầu đuôi. Nàng cùng phu nhân xưa nay vẫn ý hợp tâm đầu, dẫu có sum họp một nhà, chắc cũng không điều kia tiếng nọ. Vả lại Hùng quốc cữu thường nói muốn tặng nàng cho tôi, sau này quốc cữu về đây tất cũng lấy việc này làm vui lòng vậy. Có như thế thì một là nhà ta đây tránh khỏi ta vạ; hai là nàng cũng được chỗ nương thân; ba là phu nhân vẫn định nạp tiểu tinh đã lâu, thế thì nay sẵn của nhà, lại còn phải tìm đâu hơn nữa. Một việc này có thể trọn vẹn được cả ba điều ấy, nhưng nên chăng thế nào thì còn quyền ở trong tay phu nhân.
Nói xong, liền ghé xuống ngồi ở bên cạnh phu nhân mà tỏ tình luyến ái. Tần Sĩ Thăng phu nhân nghe nói, trong lòng tức giận, nhưng vẫn giả cách tươi cười, rồi lẩm nhẩm gật đầu mà rằng:
- Nếu vậy rất hay! Phu quân hợp ý tôi lắm. Tôi cùng nàng Hạng Ngọc Thanh, chị em vẫn cùng nhau tương đắc, khi nào lại còn ghen tuông. Tôi chỉ lo nàng mà bỏ đi thì thật buồn cho tôi quá, nay phu quân nghĩ như vậy, lòng tôi bao xiết vui mừng. Âu là tôi bảo nàng Hạng Ngọc Thanh sửa soạn sắp làm tân nhân. Mà còn cái phòng phía tây kia, tôi sẽ truyền cho người quét dọn để làm nơi hoa chúc.
Tần Sĩ Thăng nghe nói, liền chắp tay đứng dậy vái mà thưa rằng:
- Đa tạ lượng hải hà của phu nhân, thật không bao giờ tôi dám quên ơn.
Tần Sĩ Thăng phu nhân nín lặng, chẳng nói câu gì, chỉ tủm tỉm cười. Tần Sĩ Thăng không biết là giả, suốt đêm luống những năn nỉ mà kể lể tâm tình. Sáng hôm sau, Tần Sĩ Thăng phu nhân dậy sớm, chưa kịp chỉnh trang thì Tần Sĩ Thăng lại giục đến việc ấy. Tần Sĩ Thăng phu nhân nói:
- Phu quân chớ nóng nảy. Nàng đã ở trong nhà mình thì lo gì chẳng nên việc. Bây giờ phu quân hãy chọn xem hôm nào tốt ngày.
Tần Sĩ Thăng cười mà rằng:
- Phu nhân nói chí phải! Ta phải chọn ngày trước rồi sau sẽ thỉnh môi nhân.
Nói xong, gọi nữ tỳ lấy quyển lịch ra xem. Xem xong, lại nói:
- Ngày hai mươi bảy tháng ba này là ngày thượng cát cho việc hôn nhân giá thú, tức là chỉ còn vài ba ngày nữa thôi.
Tần Sĩ Thăng phu nhân cười bảo:
- Chóng thế thì thật lợi cho phu quân!
Tần Sĩ Thăng cũng cười đáp:
- Phu nhân chớ ngăn trở việc này, tôi xin quì gối xuống mà lạy tạ phu nhân trước.
Tần Sĩ Thăng phu nhân đỡ dậy rồi cười mà bảo:
- Nếu vậy thì phu quân ngồi trong phòng này, để tôi sang nói chuyện với nàng. Đợi tôi về đây, bấy giờ phu quân hãy đi, phu quân chớ theo sang làm chi cho phiền.
Tần Sĩ Thăng nói:
- Vâng! Vâng! Tôi xin ngồi đây!
Tần Sĩ Thăng phu nhân sẽ dặn hai con nữ tỳ phải chực luôn tại trong phòng, không được đi đâu, rồi thủng thỉnh bước sang tây lầu để cùng nàng Hạng Ngọc Thanh nói chuyện. Nàng Hạng Ngọc Thanh đứng dậy chào rồi nói:
- Phu nhân ơi! Chẳng hay quan Tần học sĩ dạy thế nào?
Tần Sĩ Thăng phu nhân xua tay bảo nói nhỏ, rồi ngồi xuống ghế, có ý buồn rầu mà rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Chủ ý của nàng, có lẽ không thể chậm được. Cứ như theo kế nàng nghĩ thì giữ được trong sạch danh giá, nhưng nàng đi chuyến này, khó lòng cho được sinh toàn. Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Tôi nỡ lòng mà để nàng tự nhiên vô cố phải dẫn thân đến chỗ chết. Tôi không ngờ rằng phu quân tôi lại bất nghĩa đến như thế!...
Tần Sĩ Thăng phu nhân nói đến sự thương tâm ấy, hai hàng nước mắt lại lã chã tuôn rơi. Nàng Hạng Ngọc Thanh nghe nói, liền quì xuống đất, rồi lại nức nở mà thưa rằng:
-Phu nhân ơi! Xin phu nhân đừng nghĩ chi đến tôi nữa. Tôi đội ơn sâu của phu nhân, vẫn tưởng có ngày báo đáp, ai ngờ hai chữ “bạc mệnh” cứ khư khư buộc mãi lấy người hồng nhan. Tôi đi chuyến này, vị tất đã được trùng phùng, vậy phu nhân nên giữ ngọc gìn vàng, tôi xin chúc cho phu nhân chóng sinh quý tử.
Tần Sĩ Thăng phu nhân khóc mà bảo rằng:
- Phu quân tôi lòng lang dạ thú đã lâu, tôi nói ra càng thêm hổ thẹn. Tôi để nàng đi thế này, dẫu là vì nàng, mà thực cũng là vì nhà tôi đó. Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Sau này nàng được gặp Hùng vương, cũng chớ nói chi đến chuyện ấy, một là giữ cho toàn nghĩa của vợ chồng tôi, hai là nàng cũng được tiết sạch giá trong vậy. Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nơi ngục thất nhiều bề khổ sở, tôi nghĩ bao nhiêu lại thương nàng bấy nhiêu. Đường đi tất nàng cũng không thuộc, để tôi sẽ cho một tên người nhà dẫn lối giúp nàng. Y phục tư trang, nàng hãy để đây, khi vào ngục thất rồi, sau tôi sẽ sai người đưa đến.
Tần Sĩ Thăng phu nhân lại khẽ bảo nàng rằng:
- Hôm nay tôi đặt một tiệc rượu, đổ cho phu quân tôi thật say, rồi sang canh ba, tôi sẽ tới đay đưa nàng đi trốn.
Nàng Hạng Ngọc Thanh khóc mà thưa rằng:
- Đã đành tôi trốn thoát được, nhưng đến khi quan Tần học sĩ tỉnh rượu, tất thế nào cũng quở trách phu nhân, chi bằng để tôi vô bẩm rõ với người, nếu người không cho thì tôi xin liều mình tự tử.
Tần Sĩ Thăng phu nhân xua tay mà bảo rằng:
- Không nên! Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nếu nàng nói rõ, tất phu quân cũng không dám cưỡng bách, nhưng tôi thường thấy phu quân tôi vẫn nói: “Hiện nay họ tôn thất có Đồ Man Hưng Phục quyền thế lừng lẫy, mà hắn lại hiếu sắc, nếu ta đem nàng Hạng Ngọc Thanh dâng hắn thì chẳng bao lâu sẽ được quan to, chỉ vì nghĩa bạn bè cho nên không nỡ. Nay nàng Hạng Ngọc Thanh thuận về với ta, cũng là theo lời Hùng quốc cữu chứ sao!” Tôi thiết tưởng nếu nàng nói ra mà phu quân tôi đem nàng dâng cho Đồ Man Hưng Phục thì chẳng những nàng chết không được trong sạch, mà lại ai là kẻ giải oan cho nàng. Chi bằng nàng cứ tự ra thú nhận là hơn. Khi nàng đi khỏi rồi thì tôi không phải e sợ chi cả.
Nàng Hạng Ngọc Thanh lạy tạ mà rằng:
- Phu nhân thật là cao kiến, tôi đây nông nổi không nghĩ tới điều ấy.
Tần Sĩ Thăng phu nhân đứng dậy lui ra, truyền cho người nhà sửa soạn bày tiệc để buổi chiều hôm ấy hai vợ chồng cùng nhau uống rượu vui. Khi ăn cơm sáng xong, Tần Sĩ Thăng phu nhân lại vội vàng sai mấy đứa nữ tỳ dọn dẹo tân phòng. Trong phòng trần thiết một cách rất lịch sự: Màn hoa giường chạm, nệm gấm gối thêu, đỉnh trầm khói bay, giá gương bóng lộn, thật là một nơi nhà vàng để sắp sửa tiếp đón con người ngọc vậy. Tần Sĩ Thăng mừng rỡ xiết bao, liền chắp tay vái mà nói với phu nhân rằng:
- Phu nhân vì tôi mà không quản sự tổn phí, tôi nghĩ càng thêm áy náy.
Tần Sĩ Thăng phu nhân cười mà bảo rằng:
- Chẳng qua việc cũng việc nhà, lo là thâm tạ! Chỉ xin phu quân chớ nên có mới nới cũ mà thôi.
Tần Sĩ Thăng cũng cười mà đáp rằng:
- Tôi đây há phải là người vong ân bội nghiã hay sao! Việc kết duyên với nàng Hạng Ngọc Thanh này, chẳng qua là bởi lượng hải hà của phu nhân, nếu phu nhân không hài lòng thì khi nào tôi dám nói đến. Thủy chung việc này đều trông ơn ở phu nhân, thật muôn đời nghìn kiếp, không bao giờ tôi dám quên ơn sâu ấy.
Tần Sĩ Thăng phu nhân cười mà bảo rằng:
- Đừng nói lôi thôi nữa! Chiều tối hôm nay tôi sẽ đặt một tiệc rượu để mừng phu quân về sự mới nạp tiểu tinh. Tôi chúc cho phu quân qua năm sau này sẽ được hát bài thơ “Chung tư” (là 1 bài thơ nói về sự lắm con) vậy.
Tần Sĩ Thăng nói:
- Sao phu nhân lại xa xỉ quá thế! Tôi đây cũng nên có chén rượu nhạt để tạ môi nhân.
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, thấm thoát trời đã gần tối, các nữ tỳ bày tiệc ở trong phòng, hai vợ chồng Tần Sĩ Thăng cùng ngồi uống rượu. Phu nhân vốn là người uống được rượu, chỉ vì thấy Tần Sĩ Thăng động uống rượu vào thì lả lơi trớt nhã, không được nghiêm trang, cho nên từ đó phu nhân chừa không uống một giọt rượu nào cả. Ngày nay vì nàng Hạng Ngọc Thanh mà lại phải rót chén rượu đầy để mời Tần Sĩ Thăng uống.
Tần Sĩ Thăng nói:
- Lạ lắm thay! Tôi không ngờ tửu lượng của phu nhân cũng ghê gớm như thế! Tôi cùng phu nhân kết duyên trong bấy nhiêu năm, chưa hề thấy phu nhân uống một chén rượu, chẳng hay cớ sao hôm nay phu nhân lại vui chén uống nhiều? Xin phu nhân ngỏ ý cho tôi được biết.
Tần Sĩ Thăng phu nhân cười mà đáp rằng:
- Lại còn cớ chi mà lại Chỉ vì cớ ngày mai có mừng tân nhân! Chút thân bồ liễu, chưa biết sau này thế nào, nay muốn cùng phu nhân uống một tiệc rượu thật say, để tỏ lòng hèn mọn này quả không tý gì là ghen tuông vậy.
Tần Sĩ Thăng nghe nói, lại khanh khách cười mà rằng:
-À! Thế ra phu nhân nghĩ như vậy! Nhưng phu nhân cứ yên lòng, tôi đã là người có cầm quyển sách. Vả cũng lạm dự một chiếu trong tòa Hàn Lâm, vậy “Tao khang chi thê bất khả hạ đường (nghĩa là người vợ hàn vi không nên bỏ), khi nào tôi lại quên cho được. Tôi xin phạt phu nhân mười chén rượu về tội dám nghi oan cho tôi.
Nói xong, lại lè nhè mà rằng:
- Phạt! Phạt nên phạt... Tần Sĩ Thăng phu nhân cười, rồi ngoảnh lại bảo nữ tỳ rằng:
- Quan Tần học sĩ đây đã định phạt ta thì con đi lấy một cái chén thật lớn ra đây để ta kính tạ lại.
Bấy giờ phu nhân cứ chén tạc chén thù mãi, làm cho Tần Sĩ Thăng say quá, không thể uống được, đã hai ba lần gọi cơm. Phu nhân lại tủm tỉm cười, rót một chén rượu lớn thật đầy rồi nói với Tần Sĩ Thăng rằng:
- Phu quân ơi! Nếu phu quân quyết không phụ tôi thì xin phu quân uống cạn chén này!
Bấy giờ Tần Sĩ Thăng đã say mèn cả người, chỉ chực ngã xuống, nhưng nghe câu nói ấy, bất đắc dĩ lại phải uống cạn chén đầy. Uống xong liền ngã lăn ra đấy, phu nhân và các nữ tỳ phải vực lên trên giường. Cởi mũ áo giày cho Tần Sĩ Thăng, rồi để nằm đấy. Phu nhân truyền các nữ tỳ cất dọn bàn ăn đi và đuổi người nhà ra ngoài hết cả, khóa chặt cửa lại.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ sáu
Triều Lân tận Trung phò ấu chúa
Ngọc Thanh vị nghĩa báo tình nhân (2)

Tần Sĩ Thăng phu nhân gọi một tên lão bộc họ Từ đến mà bảo rằng:
- Nhà ngươi mau mau đưa nàng Hạng Ngọc Thanh tới cửa Tam Pháp, rồi nhà ngươi đợi đấy, chờ xem tin tức thế nào sẽ về báo cho ta biết.
Tên lão xương đầu họ Từ vâng dạ, rồi theo Tần Sĩ Thăng phu nhân đi sang tây lầu. Nàng Hạng Ngọc Thanh gạt nước mắt mà hỏi rằng:
- Phu nhân ơi! Chẳng hay quan Tần học sĩ đã say rượu ngủ yên chưa? Tôi nghe bây giờ trống điểm canh tư rồi.
Tần Sĩ Thăng phu nhân nói:
- Bây giờ đi thì vừa, nếu để đến trời sáng không tiện.
Nàng Hạng Ngọc Thanh sụp xuống lạy tạ. Tần Sĩ Thăng phu nhân cầm lấy tay dặn dò mấy câu, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Phu nhân nói:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Hai ta tương biệt chưa biết bao giờ mới lại trùng phùng, vậy tôi xin chúc cho nàng được những sự tốt lành vui vẻ. Đóa hoa khi nở khi rụng, người ta tất phải có lúc biệt ly. Hai ta sum họp trong nửa năm nay, thật coi nhau như chị em ruột thịt, ngày nay tôi khôn cầm giọt lệ để tiễn chân nàng. Nàng nên gắn chí bền lòng, chớ thấy khó khăn mà biến đổi. Tôi đây kính lòng trinh bạch của nàng, cho nên mong nàng giữ được tiết sạch giá trong vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Mấy lời vàng ngọc tôi xin tạc dạ, quyết không bao giờ dám để phụ lòng phu nhân.
Hai người nhìn nhau cùng khóc, dùng dằng chưa nỡ rời tay, thì tên lão bộc dứng ngoài đã lên tiếng giục giã. Tần Sĩ Thăng phu nhân đưa nàng ra khỏi mái tường, rồi tên lão xương đầu kia tay xách lồng đèn nhỏ, dẫn đường cho nàng đi. Khi nàng đi xa rồi, Tần Sĩ Thăng phu nhân mới quay vào trong phòng, ngồi ngẩn người ra mà nghĩ. Nghĩ thầm:
- Hôm nay thật là nàng Hạng Ngọc Thanh tự dẫn thân đến chỗ chết, mà ta đã đi đưa đám nàng về đây!
Phu nhân càng nghĩ bao nhiêu, lại càng căm tức thay cho phu quân một người bất nghĩa. Phu nhân đang ngồi ngẫm nghĩ thì bỗng nghe tiếng Tần Sĩ Thăng trong màn gọi mà hỏi rằng:
- Phu nhân! Sao phu nhân hôm nay dậy sớm thế này?
Tần Sĩ Thăng vừa nói vừa trở dậy, vén màn bước ra, trông thấy phu nhân nét mặt hầm hầm, đôi lông mày cau lại, có ý tức giận. Tần Sĩ Thăng chẳng còn hồn vía nào nữa, liền hỏi:
- Phu nhân ơi! Chẳng hay có việc chi mà phu nhân lại ra ý tức giận như thế?
Phu nhân thấy Tần Sĩ Thăng hỏi, tức khắc đứng dậy túm lấy vạt áo, rồi nói:
- Hay cho phu quân! Bây giờ tôi mới biết là phu quân lừa tôi. Phu quân mau mau theo tôi vào triều, việc này tôi phải tâu thánh thượng mới được!
Nói xong, liền khóc òa, rồi đập đầu dậm chân, làm rất ghê gớm! Bấy giờ Tần Sĩ Thăng kinh sợ, vội hỏi:
- Quái lạ! Sự tình đầu đuôi thế nào? Phu nhân nói cho tôi nghe. Tôi có điều gì dám lừa dối phu nhân đâu, sao tự nhiên vô cớ phu nhân lại đặt để ra như vậy.
Tần Sĩ Thăng phu nhân cứ nổi tam bành lên rồi nói:
- Phu quân lại còn chối đó, phải không! Đêm qua phu quân ngủ rồi, nàng Hạng Ngọc Thanh có thuật chuyện cho tôi nghe, số là ngày trước phu quân đã hứa với nàng rằng nếu Hùng quốc cữu không lấy thì phu quân lấy nàng làm chánh thất rồi sắc phong sẽ xin cho nàng, còn tôi thì đuổi về quê nhà. Ngày nay nàng nhất định đòi lấy sắc phong, nếu không được sắc phong thì nàng quyết không thuận. Nàng lại nói đã cam chịu khổ trong nửa năm trời, để chờ Hùng quốc cữu cho được phú quý, bây giờ đã được phú quý thì quyết cũng không chịu làm bạn với một ông quan thanh đạm như ai. Nàng nói nhiều câu khiến cho tôi phải tức mà chết. Trời ơi! Ai ngờ phu quân lại lòng lang dạ thú, định lừa dối tôi như thế! Phu quân vì tính hiếu sắc mà đem một người mỹ nữ về, bắt tôi phải cung cấp như thờ bà mẹ chồng trong nửa năm nay. Ngày nay lại trang thần lộng quỷ, giả cách nói là sợ tai vạ, để nghiễm nhiên được hưởng phú quý phong lưu, mà tình phụ tôi là một người vợ đã kết tóc cùng nhau từ thuở còn nhỏ. Tôi vẫn tưởng phu quân là một người biết trọng trinh tiết! Tôi vẫn tưởng phu quân là một người đã dự ngôi trong tòa Hàn Lâm, tất phải biết trọng phẩm giá! Không ngờ phu quân lại táng lương tâm mà định bỏcon vợ tào khang này! Phu quân không nhớ những lúc hàn vi, từ khi tôi mới bước chân về nhà này, dậy sớm thức khuya, bữa rau bữa cháo, thế mà tôi vẫn thắt lưng buộc bụng, cố lần hồi cho phu quân được yên thân mà chăm việc sách đèn. Cũng mong rằng mai sau phú quý phụ vinh, một giải đồng tâm, cùng nhau gắn bó cho đến khi đầu bạc. Ai ngờ ngày nay phu quân mới được hiển đạt đã toan vợ nọ vợ kia. Tôi hỏi phu quân: đã đành tôi chưa có con là phạm một trong điều lệ “Thất xuất”, nhưng phu quân há lại không biết rằng một người vợ đã từng chịu tang cha mẹ chồng thì không bao giờ đáng kể vào lệ ấy được! Một tay tôi đã từng lo lắng công to việc lớn cho nhà phu quân, trong đạo làm dâu và làm vợ, thật tôi không hề trễ biếng chút nào. Tôi đã vì cớ hiếm muộn, khuyên phu quân mua thiếp thì phu quân lại nói là không muốn chia lòng riênt tây, đợi khi tôi bốn mươi tuổi rồi mà chưa sinh nở gì, bấy giờ vườn sẽ thêm hoa, cũng chẳng lấy chi làm muộn. Ngày nay tôi mới biết toàn là những câu lừa dối, thế mà tôi cứ mơ màng trong giấc chiêm bao.
Phu nhân vừa nói vừa khóc, khóc đến nỗi vạt áo bào của Tần Sĩ Thăng cũng ướt dầm. Tần Sĩ Thăng muốn cãi lại mà cãi không kịp miệng. Lại thấy phu nhân dọa tâu thánh thượng thì cũng lo thêm tội vào mình, bất đắc dĩ phải tìm lời ngọt ngào để khuyên giải cho yên chuyện. Bấy giờ Tần Sĩ Thăng đỡ phu nhân dậy, rồi thay bộ áo ướt cho phu nhân, và nói:
- Phu nhân ơi! Không biết tự ai bịa ra câu chuyện này. Tôi biết thế này thì thật cát vàng tôi cũng không đem nàng Hạng Ngọc Thanh về. Chẳng qua tôi lầm mà mến nhan sắc của nàng, để khiến cho phu nhân tức giận, nhưng còn câu bảo rằng tôi muốn bỏ phu nhân mà lấy nàng làm chính thất thì quả tôi không nói bao giờ. Nàng Hạng Ngọc Thanh khéo vu oan cho tôi, chứ tôi đây khi nào dám như thế. Xin phu nhân bớt giận, hãy nghe tôi nói một lời: Tôi cùng phu nhân lấy nhau từ khi hãy còn bần tiện, cho đến ngày nay, thật vẫn thủy chung một lòng kính yêu. Tôi đã biết cầm quyển sách vào tay, há phải là phường quên ơn bội nghĩa. Nếu phu nhân không tin lời tôi nói thì xin gọi nàng Hạng Ngọc Thanh ra đây để đối chất cùng tôi.
Phu nhân lại nổi giận mà bảo Tần Sĩ Thăng rằng:
- Tôi còn chứa ở nhà này làm gì nữa! Tôi đuổi nó bước rồi. từ nay tôi cũng đâm liều chẳng cần giữ thể diện chi cả. Bây giờ phu nhân phải theo tôi đến cửa Ngọ Môn, để tôi được giải oan.
Phu nhân nói xong lại túm áo Tần Sĩ Thăng mà rằng:
- Việc này thế nào tôi cũng phải tâu thánh thượng!
Tần Sĩ Thăng nghe nói, mặt tái mét đi, ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Phu nhân ơi! Phu nhân hại tôi rồi. Nàng Hạng Ngọc Thanh bị đuổi,. chắc nàng tức giận mà đầu đơn kiện tôi, bấy giờ tôi mang tiếng là kẻ cưỡng bách một người trong đảng phản nghịch để làm tiểu thiếp, còn ra thế nào.
Tần Sĩ Thăng vừa nói vừa giậm chân mà phàn nàn rằng:
- Việc này thật là phu nhân hung ác quá, không định hại tôi mà thành ra hại tôi. Tôi vẫn tưởng nhờ lượng hải hà của phu nhân cho được một nhà sum họp, trước là khiến nàng lo chỗ nương tựa, sau là nhà ta tránh khỏi tai ương. Bây giờ xảy ra cớ sự này, thật tôi không còn mặt mũi nào mà trông thấy ai nữa! Phu nhân hại tôi...
Tần Sĩ Thăng nói xong, lại khóc òa lên mà rằng:
- Trời ơi! Chẳng qua vhỉ vì tôi ham sắc, đến nỗi thế này!
Bấy giờ Tần Sĩ Thăng nằm lăn ra giường, vừa khóc vừa nói:
- Tôi đành nằm đây mà đợi thánh chỉ đến bắt.
Phu nhân cứ mặc, không đến khuyên giải, lại đứng dậy trang điểm, truyền các nữ tỳ thu xếp đồ đạc trong nhà và nấu cơm ăn. Phu nhân nói:
- Ta nên ăn cơm cho no, kẻo chẳng bao lâu có thánh chỉ đến bắt.
Khi người nhà dọn cơm, phu nhân kéo Tần Sĩ Thăng dậy, bắt phải cùng ăn cơm vào bảo rằng:
- Tôi cùng phu quân vĩnh quyết là ngày hôm nay!
Tần Sĩ Thăng không chịu dậy, xua tay mà bảo rằng:
- Thôi phu nhân đừng ân cần hão nữa! Phu nhân nỡ lòng nào mà hại danh giá của tôi. Bây giờ tôi mới biết phu nhân là một hiền nội trợ... Tôi chết đã vậy, nhưng xót thương thay cho phu nhân sau này song le chiếc bóng, họ hàng vắng vẻ biết lấy ai mà nương tựa sớm khuya. Phu nhân tức giận trong một thời, mà khiến cho hai họ Tần và Trương này phải bại hoại danh giá.
Tần Sĩ Thăng vừa nói vừa khóc, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, rồi nằm thi thủi ngủ. Phu nhân nghĩ cũng thương tình, nhưng định để cho chàng hãy ngủ một giấc, liệu chừng nàng Hạng Ngọc Thanh đã vào Tam pháp rồi, bấy giờ sẽ hay. Phu nhân vẫn giả cách hầm hầm nổi giận, cứ đập bàn đập ghế mà mắng Tần Sĩ Thăng là kẻ bạc tình.
Lại nói chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh đêm hôm ấy lủi thủi đi theo tên lão bộc, vừa đi vừa khóc. Tên lão bộc nói:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nàng nên rảo bước đi mau kẻo trời sáng rõ thì nhiều điều không tiện. Khi đi tới đấy, hễ thấy xe ngựa các quan tiến triều, cứ kêu to lên, tự khắc quan phải hỏi.
Nàng Hạng Ngọc Thanh gật đầu, tay gạt nước mắt. Khi đi đến Ngọ Môn, trông thấy trước cửa thành cao lớn, có một dãy ngựa xe. Chỗ nọ mấy toán thị vệm mũ mao lông gà; chỗ kia mấy vị triều thần, đai vàng hốt bạc. Ông thì hình dung cổ quái, ông thì mặt mũi khôi ngô. Người đến dẫu đông, nhưng có vẻ rất nghiêm trang, ai nấy ngậm tăm, bốn mặt im phăng phắc. Bấy giờ nàng Hạng Ngọc Thanh nghĩ lại ghê sợ ngẫn người ra. Tên lão bộc lại giục nàng mà rằng:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nàng cứ sấn đến mà kêu, kẻo chậm một nhátt, trống gióng chuông hồi thì các quan vào triều hết. Tôi xin đứng chực ngoài này để đơi nghe tin nàng. Nói xong, tức khắc đứng nép tại một bên cửa cấm. Nàng Hạng Ngọc Thanh run sợ, hai chân luống cuống, mồ hôi toát dầm. Sau nàng bỗng nổi giận mà nghĩ thầm rằng: Hạng Ngọc Thanh ơi! Hạng Ngọc Thanh ơi! Cớ chi hôm nay ngươi lại biến tâm mà rụt rè không dám bước bạo. Nếu ngươi đổi ý, lại chẳng uổng phụ tấm lòng hào hiệp của Hùng quốc cữu lắm ru. Nàng Hạng Ngọc Thanh nghĩ vậy, liền cau mày nghiến răng bước rảo mấy bước, tiến thẳng vào trước cửa thành. Quân thị vệ hai bên quát to lên mà rằng:
- Con mụ nào thế kia, dám cả gan tiến vào cửa cấm!
Chúng vừa quát mắng thì bỗng có một cỗ xe đi đến. Người ngồi trên xe tức là một vị tôn thất Tề vương. Bấy giờ nàng Hạng Ngọc Thanh gót sen rón rén quì ở ngang đường mà bẩm rằng:
- Tiện nữ nay có một việc muốn xin đại vương rủ lòng thương mà soi xét cho.
Các quân thị vệ đều tuốt gươm ra, quát to lên rằng:
- Quái lạ! Con mụ nào dám cả gan ngăn trở loan nghi như thế! Nhà ngươi muốn kêu việc gì thì đã có các nha môn, đức đại vương đây khi nào lại xét đến những việc tầm thường nhỏ nhặt.
Nàng Hạng Ngọc Thanh vừa khóc vừa nói:
- Vương hầu tể tướng có trách nhiệm thay quyền thánh thượng soi xét dân tình, tôi thiết tưởng việc gì lại không đáng tội. Huống chi tiện nữ đây lại là phản nghịch trọng tội, muốn nhờ đại vương tâu với thánh thượng cho tiện nữ được tự thú mà xin vào nhà giam.
Các quân thị vệ đều xua đuổi đi ra chỗ khác:
Nhà ngươi chớ ngăn trở loan nghi mà để đi lụy đến chúng ta.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nghe nói, liền đứng dậy mà rằng:
- Đại vương đã không xét cho thì tôi cũng chẳng tiếc chi cái thân sống thừa này nữa.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói xong, thò tau vào tay áo, rút một lưỡi dao con ra, toan liều mình tự tử. Các quân thị vệ thấy vậy, vội vàng giật lấy lưỡi dao thì nàng Hạng Ngọc Thanh lăn ra đấy mà khóc. Tề vương truyền dừng xe lại và bảo các thị vệ rằng:
- Các ngươi gọi người con gái ấy đến đây để ta hỏi xem việc chi.
Thị vệ vâng mệnh gọi nàng Hạng Ngọc Thanh lại. Nàng Hạng Ngọc Thanh mừng rỡ, liền gạt nước mắt, rồi theo thị vệ đến gần trước xe, phủ phục xuống đất, không dám ngẩng đầu lên. Tề vương ngẩng nhìn, chỉ thấy hình dung yểu điệu, chứ không hiểu nét mặt xấu đẹp thế nào, mới cất to tiếng mà mắng rằng:
- Nhà ngươi là một người con gái, có việc chi oan uổng, sao không làm giấy kêu các nha môn, mà dám cả gan ngăn đón xe ta. Lại toan liều mình rút dao tự tử, thế thì không thể tha tội được.
Nói xong, truyền thị vệ bắt giải ra pháp ti để nghị tội. Quân sĩ vâng lệnh, trăm miệng dạ ran, kẻ kéo người lôi, bắt nàng đem đi giải nạp. Nàng Hạng Ngọc Thanh lại kêu rầm lên mà rằng:
- Xin đại vương hãy cho tiện nữ được nói một lời dẫu xây chín bậc phù đồ, cũng không phúc bằng.
Tề vương nghe lời, lại truyền bảo các thị vệ rằng:
- Khoan đã! Nếu vậy thì hãy cho được nói một lời, để ta xem oan uổng những thế nào.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Tôi không có sự gì oan uổng, chỉ vì Hùng vương ngày nay bị tội sắp phải toàn gia tru lục, tiện nữ đây tức là một người tiểu thiếp chưa cưới của trưởng tử Hùng vương tên gọi Hùng Khởi Phượng. Từ khi cùng nhau đính ước vẫn để ở riêng một chỗ tại chốn hương thôn, vậy nên ngày nay tôi mới biết tin, thiết nghĩ không dám trốn tránh lưới trời, tự xin vào nhà giam chứ không hề có phạm tội chi cả.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói xong, nức nở khóc hoài. Tề vương nghĩ thầm:
- Nếu vậy thì đáng khen cho lòng trung nghĩa của Hùng vương cảm hóa được biết bao nhiêu kẻ! Nào ba trăm gia binh xin liều mình theo chết, nào một người tiểu thiếp chưa cưới cũng tự thú nhận chịu giam. Thế thì ta chắc Hùng vương quyết không có lòng phản nghịch. Tề vương nghĩ vậy, liền nói:
-Để ta tâu thánh thượng, có lẽ thánh thượng cũng ban đặc ân mà khoan xá cho nhà ngươi. Nhưng chẳng hay nhà ngươi tên họ là gì, mau mau nói rõ cho ta biết.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Nguyên tôi là họ Hạng, tên là Ngọc Thanh.
Tề vương gật đầu mà rằng:
- Ngọc khiết băng thanh, hợp mà làm một, nàng thật không hổ thẹn với tên nàng vậy.
Khi vào tới triều đường, Tề vương nói chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh cho các quan triều thần nghe. Đồ Man Hưng Phục mỉm cười mà nói với tề vương rằng:
- Việc một người nữ tử, há phải là việc quan trọng, hà tất lại trần tấu.
Nói chưa dứt lời bỗng thấy nội giám Lã Xương ở trong cung ra truyền chỉ cho bãi triều.
Tề vương bất đắc dĩ phải thuật chuyện đầu đuôi việc nàng Hạng Ngọc Thanh cho Lã Xương nghe. Lã Xương nghe nói, cũng khen ngợi mà rằng:
- Nếu vậy để tôi xin thay đại vương mà tâu thánh thượng.
Lại nói chuyện Phi Giao hoàng hậu ở trong cung, từ khi bị thái hậu quở trách, uy phong giảm bớt đi một vài. Nét mặt lúc nào cũng rầu rĩ, lược không muốn chải, gương chẳng buồn soi, có lúc lại hầm hầm nổi giận, nằm ở trên long sàng mà nức nở khóc. Vua Anh Tôn thấy vậy, phiền não vô cùng, cả ngày chỉ quấn quýt cạnh mình Phi Giao hoàng hậu. Lúc thì thổi ống ngọc địch, vui chuyện mua cười; lúc thì mượn chén kim chi, làm phương giải muộn. Vì thế đã lâu không ra ngự triều. Phi Giao hoàng hậu nghĩ thầm: “Bây giờ ta chỉ ước gì cho thái hậu ốm nằm ở trong cung không dậy được thì ta chẳng còn phải e sợ người nào. Dẫu cha mẹ ta tới đây, ta cũng không ngại. Ta chỉ cốt làm sao cho quyền chính về một tay ta, bấy giờ họ Hùng kia ta quyết phải tru lục. Nhưng trước hết ta hãy nên thi ân mua chuộc lấy lòng người.
Phi Giao hoàng hậu nghĩ vậy, mới tăng lương cho các quân hộ vệ, phong Đồ Man Định Quốc và Đồ Man An Quốc là tả, hữu long võ tướng quân, để coi giữ ở trong cấm viện, lại tuyển trong các cung nữ, chọn riêng lấy ba mươi sáu người toàn là những người nhan sắc nghiêng thành nghiêng nước, chia ra làm ba mươi sáu cung, mỗi cung lại tuyển mười hai tên vũ nữ, y phục đều một sắc. Trong ngự viện có lập một toà đại điện gọi là Vạn Thọ điện, mỗi khi thiên tử và hoàng hậu ngự ra chơi đấy thì các cung phi phải đem vũ nữ ra múa hát, thật là cuộc vui hiếm có vậy. Vua Anh Tôn say đắm về các cung phi, chẳng thiết chi đến quốc chính, Phi Giao hoàng hậu tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Bệ hạ chớ lo nghĩ chi đến quốc chính cho thêm nhọc lòng, đã có thần thiếp xin vất vả lo tất cả.
Vua Anh Tôn vốn lười biếng, nay lại đam mê tửu sắc, chỉ muốn làm một vị quân chủ ở trong đội Đào hoa (tức là mỹ nhân), bởi vậy nghe lời Phi Giao hoàng hậu tâu thì vui lòng mà ưng thuận ngay. Từ đó bao nhiêu bản tâu, quyền xét đoán đều ở một tay Phi Giao hoàng hậu cả.
Lại nói chuyện Hùng hậu từ khi được thái hậu đem về cung, thuốc thang tẩm bổ thì tinh thần dần dần phục hồi, không đến nỗi mặt xanh người võ như xưa, mà ai hỏi câu gì đã biết trả lời, không phải là người ngây dại nữa. Còn thái hậu nghĩ vừa tức giận lại vừa hổ thẹn, bệnh trạng mỗi ngày một nặng, nằm liệt ở trên long sàng. Bấy giờ Gia Tường công chúa sắp đến kỳ lâm sản, mà long thai của Hùng hậu cũng đã gần tới tuần khai hoa. Triệu Lân chỉ sợ Phi Giao hoàng hậu biết chuyện, mới giả cách viết đơn thuốc đưa cho nội giám Lăng Mậu cầm vào dâng thái hậu. Thái hậu mở ra xem thì thấy mấy hàng như sau này:
“Kỵ đô úy kiêm chức thái y là Hoàng Phủ Triệu Lân xin cúi tâu để thái hậu xét. Kẻ hạ thần xem mạch tả cung hoàng hậu thì long thai vô ngại, sắp tới tuần khai hoa. Nếu nay sinh hạ hoàng nam, tất thế nào hữu hoàng hậu cũng hỏi đến. Ngày nay thánh thượng đam mê tửu sắc, quyền về hữu cung, mà thái hậu ngọc thể chưa an, biết lấy ai làm bảo hộ. Vậy kẻ hạ thần thiết nghĩ: Hễ khi Hùng hậu lâm sản, chớ có truyền gọi uẩn bà, chỉ nên dùng bảo mẫu đem hoàng tử đặt nằm tại trong giỏ thuốc, rồi một mặt truyền gọi kẻ hạ thần vào xem mạch thái hậu, để kẻ hạ thần đưa ra giao cho Gia Tường công chúa. Nếu sợ hoàng tử khóc thì xin đệm bông xung quanh và lấy đường bỏ vào miệng, tự khắc hoàng tử nín khóc. Việc này xin thái hậu nhẫn nại mà giữ kín cho, kẻo tuyên tiết ra thì chẳng những hoàng tử không bảo an, mà kẻ hạ thần cùng cha mẹ kẻ hạ thần đều khó toàn được tính mệnh.
“Khí số dẫu gặp tai ách, nhưng ta khéo lựa chiều bổ cứu, may ra cũng hồi được thiên tâm, tất có một ngày kia thượng hoàng về nước, thiên tử chuyển lòng, chỉ thương xót riêng cho nhà Hoàng Phủ xiết bao nỗi thảm sầu vậy. Kẻ hạ thần tận trung báo quốc ở một việc này, còn mưu kế khác thì bây giờ chưa có thể thi hành được. Khi nào Hùng hậu lâm sản rồi, kẻ hạ thần xin dâng một tể thuốc “An thần định phách” sẽ giữ được sức khỏe như thường. Bấy giờ thái hậu truyền chỉ báo với thiên tử là Hùng hậu sing được một cục máu, cũng không cho về tả cung nữa, cử ở đây để hầu hạ thái hậu mằ thôi. Kẻ hạ thần nghĩ đã kỹ lắm, xin thái hậu lưu bảng tâu này, để khi thượng hoàng về cung, biết cho cha con kẻ hạ thần không phải là phường bất trung hại nước. Cẩn tấu”.
Thái hậu xem xong, lẩm nhẩm gật đầu mà nghĩ thầm rằng:
- Ừ! Cái kế này cũng vạn toàn thật! Thái hậu lại mật bảo cho bảo mẫu biết, bảo mẫu cũng khen ngợi lấy làm diệu kế. Từ đó trong cung đã sửa soạn sẵn, chỉ đợi đến ngày hoàng tử giáng sinh. vừa gặp tiết đoan ngọ ngày năm tháng năm, Hùng hậu bỗng ứa nước mắt khóc, bảo bảo mẫu rằng:
- Hôm nay ta thấy trong lòng quặn đau, ngồi không yên mà ngủ cũng không được. Mụ nên xoa đỡ cho ta.
Bảo mẫu biết là Hùng hậu sắp lâm sản, tâu với thái hậu. Thái hậu giả cách truyền chỉ là nhân vì có bệnh lâu ngày, mọi người trong cung hết sức chăm chỉ hầu hạ, vậy đặt một tiệc rượu để thưởng công. Các cung nữ và các nội giám ai nấy đều vui mừng uống rượu, say mê chẳng biết chi cả. Trong cung đang vui mừng tiết đoan ngọ thì bỗng đâu trên không mây kéo tối rầm, một tiếng sấm vang, trời đổ mưa như trút. Bấy giờ tiệc xong, chén đĩa ngổn ngang, các cung nữ và các nội giám mỗi người đi ẩn núp một nơi. Vừa lúc ấy Hùng hậu ở trong cung đã sinh hoàng tử, nhưng đau đớn quá độ, hai tên cung nữ vực lên giường, liền ngủ thiếp đi. Bảo mẫu đã sắp sẵn một cái giỏ, trong đệm bông nõn, đặt hoàng tử nằm vào đấy, bỏ đường vào miệng, rồi lấy một vài vị thuốc giải rắr ở trên. Bảo mẫu báo cho thái hậu biết, thái hậu gưọng dậy trong mặt hoàng tử, ruột đau như cắt, ứa hai hàng nước mắt khóc mà than rằng:
- Trời ơi! Một đứa hài nhi mới lọt lòng mẹ, đã tội tình gì mà gặp bước gian nan này. Thương xót thay! Một bà hoàng hậu hạ sinh hoàng tử, mà không bằng một nhà thường dân lại còn kẻ thăm người mừng. Ta trông tướng mạo đứa hài nhi này, thật đáng một vị thái bình thiên tử, thế mà không biết cớ sao xấu duyên hẩm phận mới oe tiếng khóc đã phải ly biệt mẫu thân.
Thái hậu nghoảnh lại bảo bảo mẫu rằng:
- Mụ đưa cái vạt áo của Hùng hậu ra đây để ta đề một bài thơ, đến khi thượng hoàng về cung, hoặc giả ta có tạ thế rồi thì đem hoàng tử và bài thơ này ra để trình nghiệm.
Các cung nữ đem bút mực đến, thái hậu đề một bài thơ:

“Nước nhà gặp lúc biến
Số mệnh cũng lạ thường
Đặt nằm trong giỏ thuốc
Ngẫm nghĩ càng thêm thương
Giang san lời khấn nguyện
Cốt nhục mối tình vương
Báo phục cơ trời định
Công tội hẳn tương đương”
Đề xong, hai hàng nước mắt ròng ròng, càng nghĩ càng thêm đau ruột. Các cung nữ xúm lại khuyên giải, còn bảo mẫu thì xách giỏ thuốc đem ra. Bấy giờ Triệu Lân đứng trực ở ngoài, khi trông thấy bảo mẫu, liền hiểu ý ngay, đỡ lấy giỏ thuốc đem đi, không cần phải hỏi han lôi thôi chi cả. Khi ấy trời vẫn sấm chớp ầm ầm, mưa như đổ nước, Triệu Lân ướt đầm từ đầu đến cuối, nhưng chỉ mừng thầm rằng may sao trong cung không gặp một ai.
Đi được một quãng, bỗng gặp mấy viên nội giám. Chúng thấy lạ liền hỏi. Triệu Lân cười mà đáp rằng:
- Tôi phụng mệnh thái hậu định chế một tễ thuốc bổ vào giờ ngọ hôm nay, đang chế chưa xong. Lại được tin Gia Tường công chúa lâm sản, cho nên thái hậu bảo tôi phải tức khắc ra về, và đem giỏ thuốc này về để chế cho xong, đến mai dâng cho thái hậu.
Trong bọn có một tên tiểu nội giám cười mà nói rằng:
- Giỏ thuốc này, tôi xin mang hầu quốc cữu.
Triệu Lân nói:
- Thôi được, để tôi mang lấy!
Chúng đều quay đi, Triệu Lân lại cắm đầu rảo bước. Vừa đi vừa sợ, chi lo hoàng tử oe tiếng khóc mà lỡ gặp ai thì thật là nguy hiểm đến tính mệnh. Khi ra tới cửa cung, bỗng thấy một cái kiệu chung quanh có áo tơi che kín. Quân sĩ cầm giáo đi hầu hai bên. Trong kiệu có một vị đậi tướng quân, trông mặt đã ngà ngà say rượu. Triệu Lân chẳng còn hồn vía nào cả, cứ liều đánh bạo, tay xách giỏ thuốc, miệng gọi:
- Đồ Man tướng quân ơi!
Đồ Man Định Quốc trông thấy, vội vàng đứng lại hỏi:
- Trời đang mưa to, quốc cữu đi đâu mà vội thế?
Triệu Lân nói:
Xin tướng quân sai người tới Ngọ Môn gọi giúp mấy tên người nhà tôi đem kiệu tới đây đón. Trong giỏ này có tể thuốc của thái hậu, đang chế chưa xong, nhân có việc cần, nên phải đem về để chế nốt.
Đồ Man Định Quốc nói:
- Tôi sẵn có kiệu đi mưa này, xin nhường để quốc cữu về phủ.
Triệu Lân nói:
- Nếu vậy thì còn gì hơn nữa, xin đa tạ tướng quân.
Đồ Man Định Quốc vào dinh, rồi nhường kiệu cho Triệu Lân đi, lại mời Triệu Lân vào dinh thay đổi mũ áo, Triệu Lân nói:
- Thôi bất tất! Đa tạ thịnh tình của tướng quân, hôm nào thư thả, xin đến bái yết.
Triệu Lân lên kiệu đi ngay. Sau Đồ Man Định Quốc cưỡi ngựa về nhà, đem việc gặp Triệu Lân vừa rồi thuật cho thân phụ là Đồ Man Hưng Phục nghe.
Đồ Man Hưng Phục nói:
- Định Quốc con ơi! Trong triều ta hôm nay có một việc này: Cao Ly nữ chủ là nàng Hạng Nam Kim dâng biểu xin lưu Hùng Khởi Phượng ở lại để dạy ngôi thế tử, và Doãn Thượng Khanh ở lại để tu bổ quốc sử Cao Ly. Ta nghe lấy làm mừng. Nhưng việc này các quan đại thần còn can gián, không thuận theo lời Nam Kim, ta lại cần phải nói với Mã Thuận, để nhờ hắn tâu Phi Giao hoàng hậu cho hai người ấy lưu tại Cao Ly trong mấy năm. Còn việc hôm nay con gặp Triệu Lân, sao con không xem trong giỏ thuốc, ta chỉ e rằng Hùng hậu sinh hoàng tử mà đặt nằm ở trong giỏ thuốc chăng. Nếu không thì cớ chi lại dãi gió dầm mưa mà đi vội như thế.
Đồ Man Định Quốc nói:
- Thân phụ chớ nên đa nghi. Triệu Lân vốn tính ôn hòa, ra vào trong cung, vẫn cùng con thân mật, không giống như cha con họ Hùng kiêu ngạo lạ thường. Cha con họ Hùng hễ trông thấy con là gọi tên xách mé, chứ Triệu Lân thì bao giờ trông thấy cũng chắp tay vái chào, mà một điều “tướng quân”; hai điều “tướng quân”. Cười nói ngọt ngào, không bao giờ dám lên mặt hoàng thân quốc cữu. Vả hắn là em ruột Phi Giao hoàng hậu, khi nào lại vì Hùng hậu mà làm những việc nguy nan.
Bỗng nghe báo có nội giám Mã Thuận đến. Đồ Man Hưng Phục vội vàng ra nghênh tiếp, Mã Thuận nói:
- Quan thừa tướng đã biết việc nàng Hạng Ngọc Thanh tự xin vào nhà giam chưa? Hôm nay đã giam nàng vào ngục thất rồi. Chỉ sợ để lâu không đem chém gia quyến họ Hùng thì hoặc giả lại sinh biến cố.
Hai người đang ngồi nói chuyện thì có Đồ Man An Quốc vào. Bấy giờ Đồ Man Hưng Phục lại nói với Mã Thuận rằng:
- Ngày nay sứ thần Cao Ly sắp về, chẳng biết chủ ý Phi Giao hoàng hậu nghĩ thế nào.
Mã Thuận cười mà bảo rằng:
- Hữu cung hoàng hậu đã tâu thánh thượng là Hùng Khởi Phượng con nhà phản nghịch, chớ nên lưu lại Cao Ly mà lại gây vạ về sau. Nhưng nay không nên nói rõ ra vội, hãy tạm phê chuẩn cho hắn cùng Doãn Thượng Khanh ở Cao Ly trong ba năm, như thế thì thật “Nhất cữ lưỡng đắc” vậy.
Cha con Đồ Man Hưng Phục mừng rỡ mà rằng:
- Nếu thế thì còn gì vui sướng cho bằng.
Lại nói chuyện quân thị vệ giải nàng Hạng Ngọc Thanh vào ngục thất, gọi thủ ngục quan mà bảo rằng:
- Có một người con gái trong đảng phản nghịch tên gọi Hạng Ngọc Thanh tự nguyện và nhà giam. Tề vương truyền cho giam chung ở chỗ Hùng vương, và cấm thủ ngục quan không được tàn ngược, vì nàng là một người con gái tiết nghĩa song toàn vậy.
Thủ ngục quan vâng lệnh, nàng Hạng Ngọc Thanh theo thủ ngục quan vào trong ngục. Tối tăm lạnh lẽo, âm khí nặng nề, bốn mặt xa nghe ti tỉ tiếng khóc, thật là một nơi hắc ám địa ngục vậy. Nàng Hạng Ngọc Thanh trong lòng ngẫm nghĩ, xiết bao những nỗi thảm sầu. Thủ ngục quan bảo nàng Hạng Ngọc Thanh rằng:
- Nàng đã vào đây, nên phải biết quý lệ trong ngục thất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ sáu
Triều Lân tận Trung phò ấu chúa
Ngọc Thanh vị nghĩa báo tình nhân (3)

Nàng Hạng Ngọc Thanh hiểu ý thò tay vào trong mình lấy ra hai gói bạc vụn trao cho thủ ngục quan. Thủ ngục quan chê ít mà rằng:
- Người ta ở đời ai làm nghề gì, ăn về nghề ấy. Bọn thủ ngục chúng tôi cả thảy mấy mươi người, mà nàng cho hai gói bạc này, còn chia nhau làm sao cho đủ. Nếu không có lệnh Tề vương thì nàng vào đây sẽ phải chịu trăm đường cực khổ. Nàng nên biết rằng hai cánh cửa ngục thất này ai muốn vượt qua, có lý cũng cần phải có tiền. Trung hiếu tiết nghĩa mà làm gì, chúng tôi đây chỉ biết tiền tài là trọng.
Nàng Hạng Ngọc Thanh không biết làm thế nào, bất đắc dĩ phải tháo cành thoa cài trên đầu trao cho bọn ngục tốt. Bấy giờ bọn ngục tốt mới cười ha hả, lại đưa nàng Hạng Ngọc Thanh đi. Đi đến mấy gian nhà thấp lụp xụp, trong có tiếng người đang ti tỉ than khóc, lại có tiếng một cụ già thở dài. Bọn ngục tốt mở cửa, rồi một người bước vào trước, báo cho Hùng vương biết.
Lại nói chuyện Hùng vương ở trong ngục, đang ngồi than thở một mình:
- Hùng Hiệu này đã từng oanh liệt trăm trận nơi chiến trường, ai ngờ ngày nay thui thủi ngồi đây, ba thước cùm lim, mấy làm xiềng sắt, những loài gian nịnh, lại đắc chí mà đem lời mai mỉa. Nếu không được Nguyễn tướng công tâu với thái hậu cho thì thật hồn đã về nơi chín suối. Đồ Man An Quốc là con đứa lão gian,, lại dùng thủ đoạn tàn ngược mà đối với ba trăm gia binh, khiến chúng đã chết đói mất hơn trăm kẻ. Trời ơi! Đó là tội của Hùng Hiệu này đã làm hại bao nhiêu nghĩa sĩ. Ta chỉ cầu trời một chết để rửa cái tội của ta. Tôi chết đã đành, nhưng ta làm di lụy đến hai người thiếu nữ. Một người là con dâu trưởng ta, hiện đang hoài thai, sắp đến kỳ lâm sản, một người là con dâu chưa cưới (trỏ Phi Loan quận chúa), cũng tình nguyện xin chết theo ta. Ước gì thánh thượng rộng ơn mà tha hai người ấy thì ta dẫu chết cũng được hả lòng.
Hùng Hiệu đang than thở thì Vệ Dũng Nga vương phi bỗng chạy đến mà bảo rằng:
- Phu quân ơi! Con dâu trưởng ta đang kêu đau bụng, hình như trở dạ đẻ, bây giờ gọi đâu cho được uẩn bà và lấy ai là người nấu cho lưng cháo. Hay là ta bảo thủ ngục quan nói với Nguyễn tướng công cho. Ngày nay phục dịch dẫu có Phi Loan, nhưng đêm ngày luống những lo phiền, người đã gầy còm chỉ còn một nửa, phỏng có cực không! Phi Giao mày hỡi mày! Mày giết vợ chồng ta đã đành, nhưng sao mày lại không thương đến Phi Giao là tình chị em ruột thịt. Nghĩ cũng nực cười, tôi không ngờ nhà Hoàng Phủ mà bây giờ lại sinh ra như thế!
Hùng Hiệu cũng thở dài mà than:
- Thôi nói làm chi nữa, chẳng qua tội ác tự mình. Nhưng bây giờ nghĩ sao cho có uẩn và, hay là ra gọi ngục tốt vào mà hỏi.
Vừa toan gọi ngục tốt thì bỗng thấy cửa mở sáng bừng, nàng Hạng Ngọc Thanh bước vào, sụp xuống đất lạy. Vợ chồng Hùng Hiệu đều kinh ngạc mà hỏi rằng:
- Nàng là người ở đâu? Họ tên là gì?
Nàng Hạng Ngọc Thanh ứa nước mắt khóc rồi nói:
- Tên tôi là Hạng Ngọc Thanh thuở bé lưu lạc vào nơi hoa liễu, nhưng tôi quyết chí liều chết không chịu, mụ chủ dùng hết cách tàn ngược mà đối với tôi, may gặp Hùng quốc cữu cò lòng hào hiệp, bỏ nghìn vàng mà chuộc tôi ra, đem gởi tại nhà quan Tần học sĩ. Hùng quốc cữu rộng lượng bảo tôi đi lấy người khác, nhưng tôi đã chịu ơn sâu ấy thì thân này xin quyết một lòng. Tôi muốn đến hầu hạ đã lâu, nhưng sợ Hùng quốc cữu phu nhân nổi giận, cho nên trong nửa năm trời nay vẫn nương náu ở với Tần học sĩ phu nhân. Đến khi nghe Hùng quốc cữu đi sứ Cao Ly lại nghe tin lão gia bị nạn, tôi trộm nghĩ ơn sâu khó báo, đành liều thân này với giải lụa đào. Sau Tần học sĩ phu nhân khuyên tôi nên tự nguyện vào nhà giam, một là được bái kiến vương gia và vương phi; hai là thân danh lưỡng toàn, may ra Hùng quốc cữu phu nhân mở lượng hải hà mà thương cho thì ơn sâu mới có ngày báo đáp được. Vì thế tôi liều mình đến trước Ngọ Môn, nay được bái kiến vương gia và vương phi, thật là vén mây trông tỏ mặt trời vậy.
Hai vợ chồng Hùng Hiệu lẩm nhẩm gật đầu, rồi lại thở dài mà than rằng:
- Nàng nên tính kỹ, kẻo bước chân vào đây chưa biết bao giờ được ra, lại lo sau này tới chốn pháp trường thì uổng phí một đời xuân xanh của nàng vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh cười mà đáp rằng:
- Ý tôi đã quyết, xin vương gia và vương phi chớ lo ngại. Tôi đến đây là để cầu chết, chứ không cầu sống. Kiếp này đã không được gặp thì xin theo Hùng quốc cữu phu nhân cùng quyết một lòng tử sinh.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói xong lại nức nở khóc, khiến cho vợ chồng Hùng Hiệu là gan anh hùng cũng phải giọt lệ nhủ sa. Hùng Hiệu nói với Vệ Dũng Nga vương phi rằng:
- Nàng đã quyết một lòng thì phu nhân cho nàng vào yết kiến Lương Cẩm Hà.
Vệ Dũng Nga vương phi ngẫm nghĩ một chút rồi nói:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nàng đã quyết một lòng thì ta xin đem chân tình mà nói với nàng.
Nói xong, liền thuật rõ đầu đuôi câu chuyện Lương Cẩm Hà khi trước vì việc nàng mà nổi ghen cho nàng nghe, và lại bảo rằng:
- Huống chi ngày nay phu nhân đang sắp lâm sản mà nghe tin nàng đến thì chưa biết máu ghen rồi ra thế nào. Chi bằng nàng hãy hàm hồ nói là người nhà Nguyễn tướng công sai vào hầu hạ, đợi khi nào phu nhân mẹ tròn con vuông rồi, bấy giờ sẽ thuật rõ đầu đuôi.
Hùng Hiệu gật đầu mà rằng:
- Ừ! Nói cũng có lẽ! Nhưng con dâu ta vốn tính hiền thảo, há không biết trọng tiết nghĩa hay sao. Sau này ta chắc hai người phải cùng nhau tâm đầu ý hợp. Tiết nghĩa của nàng Hạng Ngọc Thanh này thật là ít có, thế thì ta cũng nên coi nàng như Phi Loan quận chúa vậy.
Vệ Dũng Nga đưa nàng vào yết kiến Lương Cẩm Hà phu nhân. Bấy giờ Lưong Cẩm Hà phu nhân đang kêu đau bụng, khúm núm không ngồi ngay được, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Phi Loan quận chúa cũng run sợ mà mồ hôi toát đầm, miệng gọi:
Cô mẫu ơi, mau mau tới đây!
Vệ Dũng Nga vương phi vội vàng chạy đến thì tã lót không có, luống cuống chẳng biết làm thế nào. Nàng Hạng Ngọc Thanh trông thấy, liền chạy ngay đến, đỡ lấy Lương Cẩm Hà. Lại một mắt cởi áo lụa trong mình ra để làm lót đỡ. Lương Cẩm Hà đau quá bõng nghe tiếng trẻ con oe khóc, nàng Hạng Ngọc Thanh tay cầm cái áo lụa đỡ đón ngay lấy, rồi nói:
- Vương phi ơi! Mừng rỡ xiết bao, đã sinh hạ một công tử đây, thật giống Hùng quốc cữu như đúc!
Phi Loan quận chúa không dám đến gần. Vệ vương phi thì vực con dâu lên giường nằm nghỉ. Bấy giờ nước nóng không có, nệm đắp thì không, nàng Hạng Ngọc Thanh mới trao tiểu công tử cho Vệ Dũng Nga vương phi ẵm, rồi nói:
- Xin vương phi hãy ẵm cháu, để tôi ra nhờ ngục tốt mua mấy thứ cần dùng.
Nói xong, liền mở khăn gói lấy tiền, rồi gót sen thoăn thoắt chạy ra gọi ngục tốt, nhờ mua các thứ. Thế lực đồng tiền cũng thật mạnh, hồi lâu đem vào chẳng thiếu thứ gì. Vệ Dũng Nga vương phi khẽ rỉ tai thuật chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh cho Phi Loan quận chúa nghe. Phi Loan quận chúa nói:
- Nếu vậy thì thật là người ít co Tôi xin trọng đãi nàng như hàng chị em.
Nàng Hạng Ngọc Thanh lại đem mấy chiếc áo quần khâu can lại để làm tã lót. Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan cũng xúm vào khâu. Nàng Hạng Ngọc Thanh nấu nước tắm rửa cho tiểu công tử, rồi lấy lót quấn, trao cho Lương Cẩm Hà phu nhân ẵm. Lại đi bắc nồi cháo, lui cui nhóm bếp, nét mặt phù dung, than bụi lọ lem. Nàng dẫu thông minh, nhưng việc bếp núc chưa từng mó tay đến, thành ra cúi đầu thổi lửa, mồ hôi tầm tả mà lửa không cháy, sau đến Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa cũng đến thổi giúp. Ba người đang luống cuống thì có Phạm lão bà đến.Nguyên Phạm lão bà là mẹ một tên ngục tốt thấy con về nhà nói chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh xinh đẹp lạ thường, mới định vào để xem mặt. Không ngờ khi vào tới nơi thì nàng Hạng Ngọc Thanh đang mặt mũi nhọ bẩn, trông như ma lem. Phạm lão bà bạt cười ma bảo rằng:
- Nàng thật là người không quen nấu bếp, để tôi làm giúp cho.
Nói xong, liền vén tay áo mà đun bếp hộ, bấy giờ lửa mới cháy đều. Phạm lão bà vừa đun bếp vừa tỉ tê hỏi chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh. Nàng ứa hai hàng nước mắt, kể lể lai lịch cho nghe. Phạm lão bà lại khẽ bảo nàng Hạng Ngọc Thanh rằng:
- Nàng đã biết phu nhân tính nết thế nào mà nay cam lòng hầu hạ, nữa một mai không thể ở được thì há chẳng uổng công khó nhọc lắm ru.
Phạm lão bà nói đến đây thì cháo vừa nấu chín. Nàng Hạng Ngọc Thanh bưng cháo đến cạnh giường Lương Cẩm Hà phu nhân nằm. Bấy giờ phu nhân hai mắt đang nhắm, nét mặt âu sầu, thân thể gầy còm, đầu bù tóc rối. Nàng Hạng Ngọc Thanh trông thấy cũng phải động lòng thương. Phi Loan quận chúa khẽ bảo Lương Cẩm Hà rằng:
- Hiền tẩu ơi! Hiền tẩu hãy gương ăn lưng cháo!
Lương Cẩm Hà thở dài mà than rằng:
- Ở đây lấy đâu ra cháo. Thôi cô nương chớ nên làm phiền lòng vương phi.
Phi Loan quận chúa nói:
- Cháo đã nấu được rồi đây!
Nàng Hạng Ngọc Thanh đưa bát cháo lại, rồi khẽ nói:
- Phu nhân ơi! Xin phu nhân cố gượng mà xơi lưng cháo.
Lương Cẩm Hà phu nhân cầm lấy bát cháo, ăn vào đến đâu tỉnh người đến đấy. Ăn xong tinh thần hồi phục, mới ngoảnh nhìn nàng Hạng Ngọc Thanh mà hỏi rằng:
- Nàng là người ở đâu mà lại bưng cháo đến cho tôi ăn thế này?
Phi Loan quận chúa nói:
- Nàng là người nhà quan Nguyễn tướng công cho vào để phục dịch giúp ta đó.
Lương Cẩm Hà phu nhân nói:
- Quan Nguyễn tướng công có lòng tử tế quá! Khi trước đã cho vợ con giúp thân mẫu tôi đưa linh cữu thân phụ tôi về quê nhà, ơn sâu ấy chưa biết bao giờ tôi đã đền bồi cho được. Ngày nay tôi lâm sản, lại còn cho người đến hầu hạ, thế thì lòng “Cứu lai tuất hoạn” (là giúp người trong khi có tai vạ và thương kẻ hoạn nạn) thật không mấy người bằng. Nhưng người này bảo là nữ tỳ nhà quan Nguyễn tướng công thì vị tất đã phải, vì tôi không trông ra vẻ nữ tỳ. Vả Nguyễn tướng công phu nhân trở về quê nhà, mà tướng công lại không tiểu thiếp thì làm chi có nữ tỳ. Nàng là người ở đâu? Xin cứ nói thực cho tôi được biết.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Ngưyên tôi đến ở nhà quan Nguyễn tướng công đã lâu, tướng công tôi vẫn coi tôi như con gái, nay nghe tin phu nhân lâm sản, vậy tướng công sai tôi tới đây để hầu hạ sớm khuya.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói dứt lời thì bỗng thấy Vệ Dũng Nga vương phi bước vào mà bảo Lương Cẩm Hà phu nhân rằng:
- Vương gia nghe tin sinh hạ tiểu công tử, rất lấy làm mừng, đang định cầu ân xá cho đứa hài nhi ấy, còn một mình dẫu chết cũng xin cam lòng. Người ta ở đời, cũng thông bĩ thái cũng là lẽ thường, con chớ lấy làm nghĩ. Vả có nàng Hạng Ngọc Thanh đây sớm khuya làm bạn thì con cũng được yên lòng.
Vệ vương phi lại bảo nàng Hạng Ngọc Thanh rằng:
- Nàng cùng Phi Loan quận chúa ngủ chung một giường, còn ta và phu nhân thì cùng nằm với tiểu công tử. Bây giờ Phạm lão bà về rồi, nàng nên dọn dẹp chỗ bếp núc cho cẩn thận.
Nàng Hạng Ngọc Thanh vâng lời. Bấy giờ ngục tốt đưa cơm vào, Vệ vương phi bảo nàng Hạng Ngọc Thanh cùng ngồi vào bàn để ăn. Nàng Hạng Ngọc Thanh chối từ không dám ngồi. Phi Loan quận chúa nói:
- Nàng không ví như người khác được, vương phi đã cho ngồi thì nàng chớ nên khiêm tốn quá.
Nàng Hạng Ngọc Thanh bất đắc dĩ mới rón rén ghé ngồi xuống ghế. Mấy bát cơm vàng, vài ngọn rau héo, nàng cố gượng nuốt vào cổ họng, mà nuốt không trôi, lại phải thổ ra. Vệ Dũng Nga vương phi thấy vậy, trong lòng áy náy, liền nói:
- Chúng ta số phận không ra gì, phải chịu cực khổ đã đànhm nàng ở đâu cũng đến mà chia sự cực khổ. Bữa no bữa đói, chúng ta chỉ cầm hơi cho qua ngày, nay nàng mới ăn vào, chắc chưa được quen vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh tươi cười mà đáp rằng:
- Con vẫn có bệnh ăn vào hay thổ, ngày nay chứng ấy bỗng tái phát, chứ không phải vì cơm rau mà ăn không được ngon miệng.
Nàng Hạng Ngọc Thanh bấm bụng mà cố gượng ăn một bát. Khi Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa ăn xong, nàng Hạng Ngọc Thanh dọn dẹp bát dĩa thì trời vừa tối. Tối đến, một ngọn đèn xanh, thỉnh thoảng nghe mấy tiếng trống canh điểm, có thủ ngục quan vào ngục để soát tù. Bấy giờ Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa đều ngủ yên cả, tiểu công tử khóc, Lương Cẩm Hà phu nhân ru con rồi lại thở dài than rằng:
- Nín, nín đi con ơi! Con đừng khóc nữa! Chẳng qua con cũng xấu số mà đầu thai lúc này! Trong tám năm trời nay, tổ phụ và tổ mẫu chỉ ngày đêm mong có cháu ẵm, ai ngờ ngày nay luống thêm một tên trong sổ tù tội.
Phu nhân nói đến sự thương tâm ấy, lại nức nở khóc hoài. Nàng Hạng Ngọc Thanh trở dậy, tìm lời khuyên giải Lương Cẩm Hà phu nhân, và ẵm lấy tiểu công tử đem ra chỗ đèn sáng xem thì đầu và mặt đều bị muỗi đốt, toàn những lấm tấm đỏ, thảo nào mà ngủ không yên giấc. Nàng Hạng Ngọc Thanh đưa tiểu công tử cho phu nhân xem, phu nhân lại khóc òa lên một tiếng. Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa giật mình tỉnh dậy, chạy lại hỏi han duyên cớ rồi cùng nhau thương khóc. Nàng Hạng Ngọc Thanh ẵm tiểu công tử, Phi Loan quận chúa đi hâm cháo và nấu nước. Vệ Dũng Nga vương phi lại ra bên ngoài thuật chuyện muỗi đốt tiểu công tử cho Hùng vương nghe. Hùng vương ngẩn người ra hồi lâu rồi thở dài mà than rằng:
- Thuơng xót thay cho một đứa hài nhi vừa mới lọt lòng mẹ đã phải chịu những sự cực khổ tại nơi ngục thất. Hùng Hiệu này từ khi còn ở quê nhà, vẫn có lòng trọng nghĩa khinh tài và chu cấp cho những người cùng khốn; sau lại vì tình bạn hữu mà không quản xa cửa lìa nhà. Đến khi làm quốc thích được phong hầu, dẫu rằng phúc quý vinh hoa, cũng không hề dám xa xỉ hoạc là những sự tàn bạo. Ai ngờ trời già độc địa lại khiến cho đứa hài nhi đến nỗi phải chịu khổ hình. Trời ơi! Đem thân bách chiến làm một kẻ tội tù, ngày xưa chỉ biết tướng quân là quý là tôn, ngày nay mới biết quyền thế của mấy chú ngục tốt vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi cũng thở ngắn than dài. Bên trong thì Phi Loan quận chúa luống những âu sầu buồn bã, chỉ có nàng Hạng Ngọc Thanh là vẫn vui vẻ như không, vừa ẵm tiểu công tử vừa xua muỗi, suốt đêm không ngủ. Dần dần đứa hài nhi đã sởn sơ. Lương Cẩm Hà phu nhân đã gượng dậy đi lại được. Bấy giờ Lương Cẩm Hà phu nhân ẵm lấy tiểu công tử mà bảo nàng Hạng Ngọc Thanh rằng:
- Bây giờ Vệ vương phi và Phi Loan quận chúa đều sang phòng ngoài cả, nàng hãy ngồi cuống đây mà nói chuyện cùng tôi. Nàng vì mẹ con tôi đến nỗi mặt hoa ủ dột, biết bao giờ cho tôi trả được nghĩa nàng. Quan Nguyễn tướng công có lòng tử tế quá, ơn sâu ấy thiết tưởng ngậm vành kết cỏ cũng khó báo đền.
Lương Cẩm Hà phu nhân nói xong, lại thổn thức khóc hoài. Nàng Hạng Ngọc Thanh lấy lời ngọt ngào mà khuyên giải rằng:
- Phu nhân ơi! Phu nhân chớ rước não mua phiền, thân nghìn vàng nên phải giữ gìn cẩn thận. Bởi vì tiểu công tử mới sinh, cần có sữa bú, nếu phu nhân phiền não mà mất sữa đi, bấy giờ làm thế nào. Phu nhân nên phải giữ gìn cẩn thận, hoặc giả triều đình giáng chỉ ân xá, mà được cùng nhau sum họp một nhà thì ngày xuân, xuân hãy còn dài.
Lương Cẩm Hà phu nhân khóc mà đáp:
-Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Nỗi thương tâm của tôi không thể nói cho nàng biết được. Nhà phu quân tôi chẳng may gặp tai nạn này, thân phụ tôi phải đập đầu ở trước cửa cung mà chết, nếu không nhờ có Nguyễn tướng công giúp đỡ thì thân mẫu tôi khó lỏng đã về được đến quê nhà. Từ khi thân mẫu tôi về quê nhà đến bây giờ, tôi chưa được tin tức hay dở thế nào, càng nghĩ càng thêm đau ruột. Phu quân tôi đi sứ, xa xôi muôn dặm, khiến cho mộng hồn tôi luống những năm canh vơ vẩn, lại thêm hôi về sự bất hòa thuở xưa.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Chẳng hay vì việc gì mà phu nhân và quốc cữu lại có sự bất hòa?
Lương Cẩm Hà phu nhân khóc lóc mà kể sự ghen tuông năm trước cho nàng Hạng Ngọc Thanh nghe, và bảo rằng:
- Bấy giờ thật tại tôi nông nổi chưa xét rõ lòng phu quân tôi.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Cư như vậy thì phu nhân nổi giận là phải. Nàng Hạng Hoa Tu thật có một tội to. Hùng quốc cữu đã đem nghìn vàng mà chuộc cho nàng thì nàng nên xả tấm thân xin làm nô tỳ để hầu hạ phu nhân và quốc cữu, cớ sao lại nghiễm nhiên ở nhà Tần học sĩ, há chẳng đáng cười lắm ru! Hoặc giả cái chí “Tòng lương” (nghĩa là gài giang hồ mà tu chí theo nghề làm ăn lương thiện) của nàng, vị tất đã thực.
Lương Cẩm Hà phu nhân thở dài mà than rằng:
- Không phải lỗi tại nàng, chẳng qua chỉ tại tôi không minh. Vợ chồng lấy nhau trong tám năm tròi, cầm sắt can chi bỗng sinh ra lời kia tiếng nọ. Việc ấy tôi rất hối hận, vẫn định viết thư bảo nàng cứ vững lòng chờ đợi, hoặc giả triều đình ân xá, nàng được kết duyên cùng phu quân tôi thì tôi đây cũng chuộc được một phần tội lỗi vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh nghe nói, nét mặt tươi cười mà thưa rằng:
- Phu nhân ơi! Phu nhân thật là đại hiền đại đức đã rủ lòng thương đến nàng Hạng Hoa Tu. Nhưng ngặt vì nàng Hạng Hoa Tu là phường ty tiện, chỉ đáng hầu hạ phu nhân và tiểu công tử, có đâu dám dự vào hàng trong trướng dưới màn. Phu nhân ơi! Phu nhân muốn viết thư bảo nàng, ai ngờ nàng tứ là kẻ hèn mọn này. Phu nhân ơi! Chính thực tôi ở nhà Tần học sĩ tới đây vậy.
Nói xong, liền quì xuống đất, kể lể đầu đuôi cho Lương Cẩm Hà phu nhân nghe. Lương Cẩm Hà phu nhân nghe nói vừa sợ vừa mừng, ngập ngừng không biết nói sao cho được, một tay ăm tẵểu công tử một tay ôm lấy nàng Hạng Ngọc Thanh mà rằng:
- Thế ra nàng là Hạng Hoa Tu tự nguyện vào nhà giam đó! Trong bọn quần thoa mà có được người tiết nghĩa kỳ nữ như thế thì thật khiến tôi phải hổ thẹn. Thôi, thôi! Nàng chớ gọi tôi là phu nhân, từ đây hai ta chỉ nên ngọi nhau bằng chị em mà thôi.
Lương Cẩm Hà phu nhân đứng dậy, đặt tiểu công tử xuống giường rồi sụp lạy nàng Hạng Ngọc Thanh mà thưa rằng:
- Hiền muội ơi! Xin cảm tạ lòng tiết nghĩa của hiền muội. Nếu không nhờ có hiền muội săn sóc trông nom cho trong bấy nhiêu ngày thì tính mệnh hai mẹ con tôi khó lòng đã còn đến ngày hôm nay vậy.
Nàng Hạng Ngọc Thanh chẳng còn hồn vía nào nữa, vội vàng đỡ dậy mà thưa rằng:
- Chết nỗi! Sao phu nhân lại xử như thế thì há chẳng khiến cho Hạng Ngọc Thanh này phải tổn thọ mất ru!
Vệ Dũng Nga vương phi và Phi Loan quận chúa bước vào thấy vậy, cũng biết ngay là Lương Cẩm Hà phu nhân đã hiểu chuyện nàng Hạng Ngọc Thanh. Lương Cẩm Hà phu nhân nói với Vệ Dũng Nga vương phi rằng:
- Hai mẹ con tôi chịu ơn nàng Hạng Ngọc Thanh đây to lắm, chưa biết lấy gì mà báo đáp cho được, vậy ngày nay ở trong ngục thất này, xin lấy thân tình mà gọi nhau bằng chị em.
Vệ Dũng Nga vương phi nghe nói có ý vui mừng mà rằng:
- Nếu vậy thì con và nàng Hạng Ngọc Thanh đây, hai người đều là bậc thế gian hiếm có! Con thì đức hạnh hiền hòa, nàng Hạng Ngọc Thanh thì tiết nghĩa trọn vẹn, chỉ xót thương cho nhà họ Hùng ta không may xảy ra sự tai biến này, khiến hai người đều phải chịu phần cực khổ.
Nàng Hạng Ngọc Thanh chối từ không dám, chỉ xin nhận làm nữ tỳ để để hầu hạ tiểu công tử mà thôi. Nàng Hạng Ngọc Thanh nói:
- Vương phi và phu nhân dạy như thế thì tỳ tử này không được yên lòng.
Phi Loan quận chúa thấy nàng Hạng Ngọc Thanh chân tâm chối từ, mới ngoảnh lại bảo Lương Cẩm Hà phu nhân rằng:
- Tiết nghĩa của nàng Hạng Ngọc Thanh thất ít người theo kịp. Nếu cách xưng hô ngang hàng như thế thì tôi e người ngoài lại chê nàng Hạng Ngọc Thanh là có ý vị danh. Vậy từ nay hiền tẩu nên gọi nàng là Hạng nương mà nàng thì cứ nên gọi hiền tẩu là phu nhân, mới được lưỡng tiện.
Nàng Hạng Ngọc Thanh lạy dập đầu mà rằng:
- Đó chính là lòng sở nguyện của tử tỳ vậy.
Vệ Dũng Nga vương phi nói:
- Nàng Hạng Ngọc Thanh ơi! Từ nay nàng chớ nên tự xưng là tỳ tử. Bởi vì ở đây đều những người cốt nhục trong một nhà, chứ người ngoài không ai được vào tới. Nàng được vào là nhờ có quan Nguyễn tướng công hết sức chu toàn, nói nàng tức là gia quyến đảng phản nghịch, nên mới cho giam lẫn cùng bọn chúng ta vậy. Chẳng qua lòng trời còn tựa, con dâu ta đến kỳ lâm sản thì gặp có nàng vào, khiến được mẹ tròn con vuông, còn là nhờ công săn sóc trông nom của nàng đó.
Lại nói chuyện quan thừa tướng Mạnh Gia Linh đi gấp trong hai tháng về đến Bắc Kinh, tức khắc vào thẳng phủ phò mã. Triệu Lân nghe báo, vội vàng ra đón, sụp lạy mà hỏi thăm tin tức quê nhà. Khi uống trà Mạnh Gia Linh hỏi đến tình hình tả cung Hùng hậu. Triệu Lân nghĩ thầm: “Việc này khó nghĩ quá, chẳng biết có nên nói không? Nói ra mà tiết lộ thì di lụy đến nhiều người lắm. Chi bằng ta đợi cho thân mẫu ta tới đây, bây giờ sẽ giải tỏ đầu đuôi”. Triệu Lân nghĩ vậy liền nói:
- Cữu phụ ơi! Tả cung hoàng hậu trước kia có phát ra chứng điên rồ thật, sau phải theo thái hậu vào ở nam nội, bây giờ chữa thuốc hiện đã gần yên. Chỉ phiền một nỗi bệnh trạng của thái hậu mỗi ngày một nặng, hơn một năm nay, lúc tỉnh lúc mê chữa mãi chưa khỏi. Thánh thượng thì nửa năm nay không vào triều kiến thái hậu. Tháng trước gặp ngày “Thiên thu thọ tiết” Tề vương cùng Nguyễn tướng công khóc lóc tâu can mà thánh thượng cũng không hề giáng lâm. Phi Giao hoàng hậu chuyên quyền, giết hại những người trung trực, hễ ai bảo tấu xin tha cho Hùng bá phụ thì tức khắc trị tội, hoặc cách chức, hoặc xử tử, không tha người nào. Phi Giao hoàng hậu ban chiếu rằng khi nào thượng hoàng về cung, bấy giờ sẽ xá tội cho họ Hùng. May mà thái hậu tiên kiến, có giáng chỉ rằng hễ Hùng Hiệu chết ở trong ngục thì tức khắc biếm Phi Giao hoàng hậu vào lãnh cung. Vì thế Đồ Man Hưng Phục không dám tàn ngược quá, tính mệnh họ Hùng còn được dai dẳng đến ngày nay. Tôi nghe nói vừa rồi Lương Cẩm Hà phu nhân mới sinh được một tiểu công tử. Lại có một người kỳ nữ Hạng Ngọc Thanh nhận là tiểu thiếp của Hùng quốc cữu, tự nguyện vào nhà giam. Phi Loan quận chúa cũng cố xin vào ngục thất, chứ không chịu tiếng ly hôn cùng họ Hùng vậy.
Mạnh Gia Linh khen ngợi mà rằng:
- Hùng vương thật là một người tận trung vị quốc, không ngờ ngày nay bỗng mắc phải tai nạn này! Ta tới đây bây giờ cũng không còn chủ ý gì, chỉ đành liều một chết ở trước mặt thánh thượng. Đêm nay ta ngủ tại đây, rồi sẽ viết bản tâu để sáng mai vào tâu triều đình.
Mạnh Gia Linh đang nói chuyện thì bỗng thấy hai người nhũ mẫu ẵm hai đứa hài nhi đến trước mặt bẩm mà bẩm rằng:
- Dám bẩm lão gia! Đây là hai con của công chúa tôi mới sinh, cho ra chào lão gia đó!
Mạnh Gia Linh cúi đầu nhìn hai đứa bé. Một đứa con trai thì diện mạo đường hoàng, và một đứa con gái thì nhan sắc kiều mỹ, rất lấy làm khen ngợi, rồi bỗng ngạc nhiên mà hỏi Triệu Lân rằng:
- Quái lạ! Không biết cớ sao đứa con trai này không giống mặt cha, mà lại giống thượng hoàng như đúc. Hiền sanh thủ nhìn xem. Này này Nghiêu my Thuấn mục (lông mày như vua Nghiêu, mắt như vua Thuấn) quả nhiên là chân tướng đế vương, chẳng lẽ lẽ cháu ngoại lại giống ông ngoại hay sao. Hiền sanh ơi! Việc này ta lấy làm nghi ngờ lắm.
Triệu Lân nghĩ thầm: “Việc này ta khó lòng mà giấu cữu phụ cho được”. Nghĩ vậy mới truyền bảo hai người nhũ mẫu rằng:
- Các ngươi vào nhà trong nói với công chúa bảo người nhà sửa soạn làm cơm.
Triệu Lân lại nói:
- Các ngươi để công tử lại đây, còn tiểu thư thì ẵm vào.
Mọi người vâng lời đi cả vào nhà trong. Triệu Lân ẵm hoàng tử đứng dậy, một tay cài chặt cửa lại, rồi quay vào nói với Mạnh Gia Linh rằng:
- Cữu phụ ơi! Cữu phụ đã có lòng nghi ngờ vậy con xin nói thực: đứa con trai này tức là hoàng tử đó!
Mạnh Gia Linh mừng rỡ mà hỏi rằng:
- Đầu đuôi thế nào, nói cho ta được rõ.
Triệu Lân mới thuật rõ lai lịch việc bỏ hoàng tử vào giỏ thuốc đem ra cho Mạnh Gia Linh nghe và nói rằng:
- Việc này trong ngoài không ai biết cả, chỉ nói là Gia Tường công chúa đẻ sinh đôi. Thái hậu đã mệnh danh cho hoàng tử là “Dục An”. Tháng trước Gia Tường công chúa có ẵm hoàng tử vào cung, hoàng tử ngắm nhìn Hùng hậu không hề chớp mắt, rồi bỗng oà khóc, khóc mãi không nín, khiến cho công chúa kinh sợ vô cùng, phải tâu với thái hậu xin ẵm ra, từ đấy không dám đem hoàng tử vào cung nữa.
Triệu Lân nói xong, Mạnh Gia Linh rất lấy làm kinh ngạc, rồi cầm tay Triệu Lân mà bảo rằng:
- Hiền sanh mới ngần này tuổi đầu mà đã lập được công “Bổ thiên cứu nhật”, chẳng những bảo toàn cho nước, mà nhà họ Mạnh và nhà Hoàng Phủ sau này cũng nhờ hiền sanh mà không đến nỗi tổn hoại thanh danh. Thôi, thôi! Hiền sanh ngồi lên đây để cho ta lạy tạ!
Nói xong, liền sụp xuống đất lạy. Triệu Lân kinh hoảng vội vàng đỡ dậy mà thưa:
- Chết nỗi! Xin cữu phụ tha cho, kẻo tiện sanh tổn thọ mất! Nhà Hoàng Phủ tiện sanh sinh ra con Phi Giao, thật là khởi đầu mối họa làm hại cho nước, nay tiện sanh dẫu cứu được hoàng tử, cũng chưa lấy gì làm công, chỉ xin một lòng tận trung để mong rằng sau này không đến nỗi diệt tộc vậy.
Mạnh Gia Linh ngồi viết bản tâu, vừa viết vừa thở dài. Khi viết bản tâu xong, lại ứa hai hàng nước mắt, rồi quẳng bút xuống bàn, đứng dậy mũ áo chỉnh tề, ngồi đợi đến sáng.
Mờ sáng hôm sau, Triệu Lân bước vào, Mạnh Gia Linh bảo rằng:
- Hiền sanh ơi! Ta tự quê nhà tới đây, thật đã quyết liều một chết, bởi vậy có đem theo một cỗ quan tài. Hôm nay vào tâu, lành dữ thế nào sẽ biết. Giả sử thánh thượng tứ tử hoặc trảm thủ thì hiền sanh nên bỏ ta vào quan tài ấy, lột hết triều phục, chỉ mặc một cái áo mỏng mà thôi. Sống không can gián được quân thượng, chết mặc mũ áo, cũng thêm nhục đến tổ tôn. Khi tiện nhi có đến đây để phù linh cữu về thì hiền sanh nên dặn phải dấu cao đường, chớ khiến cho lòng già lại sinh đau xót.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hậu Tái Sanh Duyên(Hậu Tình Sử Mạnh Lệ Quân) - Mộng Bình

Postby tuvi » 05 Aug 2019

Hồi thứ Bảy
Thiếu Hoa bỏ đi tìm Thượng Hoàng
Lệ Quân lập kế cứu Hùng Hiệu (1)

Lại nói chuyện vua Anh Tôn muốn vào nam nội triều kiến thái hậu. Phi Giao hoàng hậu nói:
- Muôn tâu bệ hạ! Không ngờ ngày nay thái hậu biến tâm, chỉ đợi bệ hạ đến thì hại bệ hạ rồi tha Hùng quốc trượng và lập vua mới.
Vua Anh Tôn trong lòng nghi hoặc, vì thế mới cáo bệnh không dám đến triều kiến thái hậu lần nào mà mọi việc triều chính giao cho một tay Phi Giao hoàng hậu tất cả. Suốt ngày chỉ nay ngự cung này, mai ngự cung khác, nghe đàn uống rượu, cùng bọn cung nga đùa bỡn mua vui. Phi Giao hoàng hậu lại gia thăng Đồ Man Hưng Phục và giao cho hai cha con hắn được quản lĩnh binh quyền, để nghiêm sát những trong cung ngoài thành, nhất là cung thái hậu, hễ có cử động việc gì phải tức khắc phi báo cho Phi Giao hoàng hậu biết.
Phi Giao hoàng hậu bảo bọn Mã Thuận rằng:
- Ngày nay các ngươi phải hết lòng, nếu ai trễ biến thì chớ trách ta tệ bạc. Gia Tường công chúa thì cấm không cho được vào cung,vua cho công chúa có ý muốn xui giục thái hậu phế thánh thượng mà lập bào đệ Hán vương lên làm thiên tử.
Một hôm, Phi Giao hoàng hậu ngồi trong cung, Mã Thuận đem các bản tâu vào trình. Phi Giao hoàng hậu đưa hai con mắt phượng nhìn khắp một lượt, rồi giơ tay búp măng sẽ cầm bút ngọc, phê phó mọi lẽ, giao cho đình thần, thật là một bậc “Nữ trung vương” vậy. Sau cùng lại có một bản tâu của cả mười ba tỉnh, nói nhân dân thấy thượng hoàng bỏ đi, có lòng oán giận, xin thánh thượng trù tính mau mau, nếu không thì trong nước tất có ngày biến loạn.
Phi Giao hoàng hậu xem xong, nghĩ thầm: “Dân tức là gốc của nước. Nếu lòng dân oán giận thì gốc nước tất phải lung lay, một mai gây việc binh đao, thân này khó lòng mà tránh khỏi tai vạ, thế thì ngày nay ta phải nghĩ cách an dân, mới giữ vững được ngôi “chí tôn” này”. Phi Giao hoàng hậu cau đôi lông mày lại, ngẫm nghĩ hồi lâu, không nói câu gì. Bỗng lại thấy Mã Thuận ở đâu lật đật chạy đến, tay cầm bản tâu quì dâng mà rằng:
- Muôn tâu lệnh bà, có quan Mạnh Gia Linh thừa tướng vừa hết hạn nghỉ, nay đã tiến kinh, xin vào bệ kiến, hiện còn chực tại ngoài Ngọ Môn, cho kẻ hạ thần đem bản tâu này vào trước để đợi lượng trên phán chỉ.
Phi Giao hoàng hậu phán rằng:
- Nếu vậy thì rất hay! Ta vẫn hiềm một nỗi thiếu người thân thuộc tay chân, may sao được cữu phụ ta đến. Cữu phụ ta thuở xưa vốn yêu mến ta, ta có thể đem ngoại sự mà ủy thác cho cữu phụ ta được.
Mã Thuận vội vàng quì xuống tâu rằng:
-Muôn tâu lệnh bà! Kẻ hạ thần trông thấy nét mặt quan Mạnh thừa tướng nghiêm nghị lạ thường. Mà nghe đâu người ở quê nhà tới đây, có đem theo một cỗ quan tài. Như thế thì tất có tình ý chi đây, xin lệnh bà xem bản tâu trước, sau sẽ liệu định.
Phi Giao hoàng hậu gật đầu, liền mở bản tâu ra xem. Bản tâu như sau này:
“Vân Uyên điện đại học sĩ kiêm Hộ Bộ thượng thư Mạnh Gia Linh xin cúi tâu để hoàng hậu lượng xét:
Kẻ hạ thần giả hạn về nghỉ trong một năm nay, không ngờ trong nước sinh ra lắm sư biến cố: Thượng hoàng bỏ đi, tả hậu điện dại, trung dũng như Bình Giang vương mà nhà bị giam, chính trực như Lương thừa tướng mà một thân chịu chết. Trên thì thái hậu phiền muộn dưới thì nhân dân oán giận, bởi vậy mà sinh ra nhiều tai dị như thủy lạo, đại hạn và cướp giặc v.v...
Ngoại nghị huyên truyền, đều đổ lỗi cho hoàng hậu, vì hôm trước thái hậu ban lời quở trách mà hoàng hậu dám vô phép chống cãi lại, từ đó bỏ cả lễ thần hôn không vào triều kiến lần nào. Cương thường đảo ngược thì muôn dân còn trông cậy vào đâu. Thiên tử bất hiếu, hoàng hậu bất đức, tội ác đã rõ rành rành. Trách nào nước nhà chẳng sinh ra nhiều việc. Họa hoạn sau này kẻ hạ thần không nỡ nói hết. Kẻ hạ thần thiết nghĩ hoàng hậu thuở nhỏ ở chốn khuê phòng vẫn có tiếng là người thục nữ; lúc lớn vào nơi cung cấm, cũng nổi danh là bậc hiền phi. Cớ sao tin dùng bọn nội giám Mã Thuận mà khinh rẻ các bậc lão thần. Hoàng hậu sai Đồ Man An Quốc và Đồ Man Định Quốc luyện tập cấm binh ở trong nội thì định chống cự với ai? Một vị lão thần, bắt phải đi sứ, quốc thể còn ra thế nào, thật khiến cho nước ngoài chê cười , tất có ngày sinh ra biến loạn.
Ngày nay chỉ có một kế: Thiên tử và hoàng hậu phải vào triều kiến thái hậu mà tạ tội đi. Lại đón Hùng hậu về chánh cung và tha cho gia quyến họ Hùng. Triệu Doãn thừa tướng ở Cao Ly về. Ban chiếu thư cho thiên hạ, tự hối các điều tội ác của mình. Như thế thì thượng hoàng tất về mà thiên tử cùng hoàng hậu mới được an toàn vậy. Kẻ hạ thần cũng biết chắc rằng hễ kẻ hạ thần nói ra thì sẽ có tai vạ, nhưng hổ mình là ngôi tể phụ lại lạm dự vào hàng quốc thích hoàng thân, vậy nên dẫu chết cũng cam, không dám ngoảnh mặt làm thinh, hiện khi kẻ hạ thần tự quê nhà tới đây, đã đem theo một cỗ quan tài, để đợi lệnh hoàng hậu đó.”
Phi Giao hoàng hậu xem xong, nghiến răng mà quát to lên rằng:
- Quái lạ! Ta vẫn tưởng là cữu phụ ta tới đây thì có thể giúp ta được một tay để chỉnh đốn triều đình, ai ngờ chưa đế nơi, đã dám dâng bản tâu nói càn, chê trách thánh thượng là kẻ bất hiếu, và bảo ta bất đức. Thế này thì ta nhịn làm sao cho được! Mạnh Gia Linh! Mạnh Gia Linh! Nhà ngươi chớ cậy là cữu phụ ta. Ta nói thật cho mà biết, chứ dẫu thân phụ cà thân mẫu ta tới đây, ta cũng không nể.
Nói xong, ngoảnh lại gọi Mã Thuận mà bảo rằng:
- Nhà ngươi ra lột mũ áo Mạnh Gia Linh, rồi tức khắc tống giam vào ngục thất.
Mã Thuận vâng lệnh vội vàng quay ra. Phi Giao hoàng hậu cúi đầu ngẫm nghĩ, bỗng gọi lại mà bảo rằng:
- Mã Thuận! Khoan đã! Hãy để ta ra tiếp kiến, xem hắn nói thế nào.
Nói xong, truyền triệu Mạnh Gia Linh vào. Mạnh Gia Linh tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Kẻ hạ thần mông ân về nghỉ, cũng muốn ở quê nhà để phụng dưỡng hai thân. Nhưng xa nghe chính sự trong triều, luống khiến cho lòng già đau đớn. Kẻ hạ thần bất đắc dĩ mà phải vào đây diện tấu. Nếu hoàng hậu không nghe lời thì xin giáng chỉ nghiêm trị. Kẻ hạ thần dẫu chết cũng còn hơn sống thừa vậy.
Phi Giao hoàng hậu nghe lời, bỗng biến nét mặt rồi cười nhạt mà bảo rằng:
- Cữu phụ ơi! Trong lòng tôi thật cay đắng muôn vàn. Tôi vẫn tưởng là được cữu phụ tới đây để giải oan cho tôi, ai ngờ cữu phụ lại quá nghe lời kẻ khác sàm báng mà đem lòng oán trách. Cữu phụ ơi! Từ khi tôi vào cung, vẫm một lòng tôn kính Hùng hậu, không ngờ đến khi hai thân tôi trở về quê nhà thì Hùng hậu bỗng biến tâm, tin lời cung nữ mà lập mưu hiểm độc, may nhờ có Tư Thiên giám tâu trình, mới xét ra được. Việc ấy chứng cứ rõ ràng, thế mà thái hậu bất công, cố ý binh vực Hùng hậu, toan tuốt gươm chém bỏ tôi đi. Cữu phụ ơi! Không bao giờ có sự lạ như bây giờ: Thái hậu nỡ lòng muốn phế thánh thượng! vì thế thánh thượng không dám đến triều kiến thái hậu. Cữu phụ ơi! Nếu thái hậu phế thánh thượng mà lập Hán vương hoặc Triệu vương thì còn ra thế nào. Cũng vì thế cho nên tôi phải tạm cầm quyền chính, kẻo thánh thượng nhu nhược, không chế nổi đình thần, mà Hán vương và Triệu vương có ý nom dòm chăng. Tôi đem cấm binh vào cung nội là để đề phòng thái hậu, chắc đâu thái hậu sinh lòng hại con. Tôi xem trong khi thái hậu tuốt gươm thì quả không còn tý gì là tình mẹ con nữa. Tôi đây trách nhiệm phải bảo vệ thánh thượng, nếu tôi không cầm quyền chính thì giang sơn này nay đã thuộc về tay ai. Cữu phụ trách tôi trọng dụng bọn tôn thất, nhưng cữu phụ nên biết rằng: muốn cho gốc vững tất phải nâng cành. Triều thần quá nửa là đảng cuả Hùng Hiệu, nếu hắn biết hết sức bảo hộ thánh thượng thì hắn tức là trung thần. Còn nội giám Mã Thuận chẳng qua sai khiến việc thường, có đâu lại được can dự đến triều chính. Cữu phụ quá tin những lời đồn phiếm, mà không hiểu rõ chân tình, cứ một mức buộc tội cho tơi, nói lắm câu thật buồn cười quá. Cữu phụ ơi! Sự thế tôi ngày nay thật là cưỡi hổ, không thể xuống được. Nếu cữu phụ muốn bắt tôi theo như lời tâu của cữu phụ thì xin đợi đến ngày thượng hoàng về. Ngày nay tìm khắp trong mười tỉnh mà không biết tông tích thượng hoàng ở đâu. May sao lại gặp cữu phụ tới đây, dám xin nhờ cữu phụ đi tìm thượng hoàng vậy.
Mạnh Gia Linh tâu rằng:
- Kẻ hạ thần dẫu được thờ thượng hoàng trong hai mươi năm trời, nhưng âm dung tiếu mạo, thật không được tường cho lắm, tất phải người nào xưa nay vẫn hầu cận, mới có thể không lầm. Huống chi thượng hoàng đã bỏ ngôi mà đi thì tất mộ đạo tu hành, cải dạng nâu sòng, kẻ hạ thần cũng khó nhận cho được. Nội giám Mã Thuận thuở nhỏ vẫn hầu cận ở bên mình thượng hoàng, xin hoàng hậu sai hắn đi thì mới được việc.
Mã Thuận đang luống cuống kinh sợ thì bỗng thấy Phi Giao hoàng hậu tỏ ý không bằng lòng, phán:
- Trong bản tâu của cữu phụ chỉ trích những tội lỗi của tôi, tôi không hề trách giận. Cữu phụ nói nên đi tìm thượng hoàng, nay tôi theo lời mà nhờ cữu phụ việc ấy, cữu phụ lại chối từ sợ khó, thế thì cữu phụ đem quan tài tới đây, chẳng qua chỉ là mua danh, để muốn cưỡng bách thánh thượng phải theo lời mình đó.
Phi Giao hoàng hậu nói khích như vậy khiến cho Mạnh Gia Linh phải nhận lời xin đi. Phi Giao hoàng hậu mừng lắm, liền cầm bút ngọc mà phê cho Mạnh Gia Linh được quyền đi kiểm soát các danh lam thắng tích trong mười ba tỉnh để tìm thượng hoàng. Phi Giao hoàng hậu gọi nội giám đem rượu đến, rồi rót ba chén rượu đầy, mời Mạnh Gia Linh uống mà bảo rằng:
-Cữu phụ ơi! Tôi mời cữu phụ hết lòng mà tìm thượng hoàng. Hễ được thượng hoàng về đây thì tôi xin tạ Hùng hậu, tha Bình Giang vương và trả lại quyền chính. Ai phải ai trái, bấy giờ sẽ được rõ ràng.
Mạnh Gia Linh ra đi, Phi Giao hoàng hậu quay vào trong cung, cười nhạt mấy tiếng mà rằng:
- Mã Thuận ơi! Ta sai Mạnh Gia Linh đi tìm thượng hoàng, nhà ngươi có hiểu là ý thế nào không?
Mã Thuận lạy dập đầu mà tâu rằng:
- Muôn tâu lệnh bà! Kẻ hạ thần ngu muội, không hiểu được ý kiến cao minh.
Phi Giao hoàng hậu phán rằng:
- Quân dân các tỉnh ngày nay vì lòng quý mến thượng hoàng mà sinh ra oán giận, vậy ta sai quan đi tìm thượng hoàng, khiến cho chúng khó lường được cái chủ ý của ta. Vả Mạnh Gia Linh dâng biểu nói càn, ta giết thì mang tiếng ác, chi bằng sai hắn đi làm việc ấy, chắc rằng phương trời thăm thẳm, đã biết bao giờ tìm được thượng hoàng mà về. Hắn phải đi xa trước là khỏi ngăn trở việc ta, sau là đảng Hùng Hiệu không giao thông với hắn được.
Phi Giao hoàng hậu nói chưa dứt lời thì Mã Thuận đã vội vàng sụp lay mà tâu rằng:
- Muôn tâu hoàng hậu! Hoàng hậu nghĩ vậy, thật là diệu kế.
Lại nói chuyện phò mã Triệu Câu và Hùng Khởi Thần về tới quê nhà. Phò mã Triệu Câu thay áo chịu tang, Hùng Khởi Thần thì làm lễ viếng. Hoàng Phủ Thiếu Hoa hỏi Triệu Câu rằng:
- Từ khi ta cùng thân mẫu con trở về quê nhà, công việc trong cung, không hiểu một tý gì, chỉ nghe những lời truyền ngôn, vị tất đã đích thực. Chẳng hay Hùng hậu vì cớ chi mà thành ra bệnh điên dại, con nên thuật rỏ cho ta nghe.
Triệu Câu nghe nói, có ý buồn rầu, rồi thuật hết đầu đuôi mọi việc trong cung cho cha mẹ nghe, và nói:
- Ngày nay cô phụ và cô mẫu (trỏ vợ chồng Hùng Hiệu) con phiền muộn không biết dường nào, chỉ lo tất có ngày sinh ra tai vạ, bởi vậy mới cho anh Hùng Khởi Thần theo con về đây, cũng là cầu lánh nạn đó. Con về quê nhà lần này là muốn đem thân ra ngoài, để chiêu tập quân mã mà đợi đến ngày báo quốc. Con Phi Giao tất làm cho Nguyên triều đổ nát, con đây xin hết sức đem lại giang sơn.
Phò mã Triệu Câu nói chưa dứt lời Hoàng Phủ Thiếu Hoa thở dài mấy tiếng mà than rằng:
-Nhà Hoàng Phủ ta đời đời một lòng trung thành với nước, ai ngờ ngày nay lại bỗng sinh ra đứa nghiệt nữ này. Ta còn mặt mũi nào mà trông thấy ân huynh ta nữa.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa lại bảo Mạnh Lệ Quân rằng:
- Bây giờ phu nhân nghĩ thế nào? Chẳng lẽ cứ ngồi nhìn! Tôi còn phải thủ hiếu ở đây đẻ giữ phần mộ hai thân, vậy phu nhân nên tiến kinh mà khuyên bảo con gái.
Mạnh Lệ Quân nín lặng, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Phu quân ơi! Đành hãy thư thả mấy ngày để tôi còn phải thu xếp các công việc. Ngày nay nhân có Hùng Khởi Thần tới đây thì để chàng ở nhà rèn tập sự học hành cho các con nhỏ. Còn Triệu Câu phải đi chiêu tập quân mã, để phòng khi có sự động binh. Phu quân ơi! Phu quân chớ nên nóng nảy, cứ như lời Lưu phu nhân nói thì giang sơn này còn rối loạn trong mười năm. Tôi tiến kinh bây giờ cũng vô ích, nhưng chẳng lẽ ngồi nhìn, cho nên phải đi vậy.
Mọi người ngồi vào ăn cơm. Cơm xong, Mạnh Lệ Quân bảo đưa Hùng Khởi Thần sang tây phòng nằm nghỉ. Sáng hôm sau, mãi không thấy Hùng Khởi Thần dậy, Mạnh Lệ Quân vội vàng ra tây phòng thì thấy màn vẫn chưa cuốn. Mạnh Lệ Quân vén màn rồi khẽ cất tiếng gọi. Hùng Khởi Thần thở dài một tiếng mà thưa rằng:
- Không biết tại sao hôm nay con nhức đầu và nóng sốt quá, không thể dậy được.
Mạnh Lệ Quân bắt mạch rồi bảo rằng:
- Hiền sanh ơi! Con nay chẳng qua là bệnh thương hàn, nhưng vì ưu tư quá độ nữa. Bệnh thương hàn có thể chữa khỏi được, nhưng còn sự ưu tư thì con nên phải tự giải bày cho khuây. Hai thân con cho con về ở đây là muốn để giữ lấy dòng dõi mai sau, vậy con chớ nên nghĩ ngợi mà khiến cho thêm bệnh.
Bỗng thấy người nhà vào báo rằng:
- Dám bẩm vương gia và vương phi! Hán vương có phái người đến triệu phò mã.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe báo, liền giục phò mã Triệu Câu đi. Triệu Câu cáo từ cha mẹ, lại vào cáo từ Hùng Khởi Thần và dặn phải cố gìn vàng giữ ngọc, để khiến cho được chóng khỏi. Bấy giờ Mạnh Lệ Quân đã điều chế dược phẩm, đem hòa với nước trà cho Hùng Khởi Thần uống. Lại bắt một đứa tiểu đồng phải hầu luôn ở bên cạnh. Hai vợ chồng Hoàng Phủ Thiếu Hoa ngày đêm khuyên giải. Tô phu nhân cũng thỉnh thoảng đến để trông nom. Hùng Khởi Thần thấy nhà Hoàng Phủ quí trọng mình như thế, rất lấy làm nể nang, cũng cố gượng làm khuây, thành ra bệnh đã dần dần khỏi. Qua ngày nguyên tiêu ít lâu, bỗng nghe báo có phò mã Triệu Câu về. Phò mã Triệu Câu nét mặt hoảng hốt, khi trông thấy cha mẹ, chưa kịp lạy chào, liền thò tay trong mình, lấy ra một phong thư, đệ trình mà thưa rằng:
- Thân phụ và thân mẫu ơi! Đêm nguyên tiêu vừa rồi, thượng hoàng đi xem cuộc hoa đăng rồi bỗng bỏ đi mất, vậy cô phụ (trỏ Hùng Hiệu) phải cho người phi báo.
vợ chồng Hoàng Phủ Thiếu Hoa nghe nói, giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào. Hồi lâu, tinh thần lại trấn định, mới mở thư ra xem, bức thư như sau:
“Tôi là Hùng Hiệu xin có đôi lời kính trình để Hoàng Phủ vương gia biết chuyện: Đêm nguyên tiêu vừa rồi, thượng hoàng ra xem cuộc hoa đăng, rồi bỗng bỏ đi, nội giám Quyền Xương cũng đi theo. Quan dân nghị luận phân vân, không hiểu duyên cớ làm sao cả.
Sau hỏi ra mới biết rằng từ khi Triệu vương và Hán vương đi thụ phong, hai bà Ôn phi và Mai phi cũng theo đi, còn thái hậu thì ốm mãi không khỏi, cho nên thượng hoàng buồn bực, mới phẫn chí mà bỏ đi tu. Hiện nay quan quân rối loạn, vương phi nên mau mau tiến kinh, để tìm lời khuyên bảo Phi Giao hoàng hậu, nếu không thì cương thưòng đảo ngược mất. Tôi đây là kẻ vũ phu vô học, dẫu chết cũng không ích gì.
Hùng Hiệu thủ thư”
Hoàng Phủ Thiếu Hoa xem xong bức thư, dẫm chân vật mình, kêu trời kêu đất. Mạnh Lệ Quân cũng sợ tái mặt đi. Cả nhà đang hoảng hốt lo phiền thì Lưu Yến Ngọc nói:
- Bây giờ biết làm thế nào? Âu là Mạnh vương phi nên mau mau tiến kinh, kẻo ngày nay thái hậu ở trong cung thật khóc hết nước mắt.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa nói:
- Bây giờ không còn kế gì cho được! Chi bằng ta liều mình đi tìm thượng hoàng. Dẫu tang cha mẹ chưa trọn ba năm, nhưng ơn triều đình trong bấy nhiêu lần, thiết tưởng cũng cần phải báo đáp. Ta đi chuyến này, hễ tìm thấy thượng hoàng, ta sẽ trở về, nếu không thì thân này đành liều với mũi gươm bạc, để tỏ lòng báo quốc vậy.
Đệ ngũ công tử là Triệu Thụy bấy giờ hãy còn nhỏ tuổi, bỗng nắm lấy áo Hoàng Phủ Thiếu Hoa rồi khóc mà thưa:
- Thân phụ ơi! Thân phụ đi tìm thượng hoàng, xin cho con đi theo, để con được hàng ngày gần gụi thân phụ.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa khóc mà bảo rằng:
- Con ơi! Đường sá xa xôi, con còn bé nhỏ, đi làm sao cho được. Vả cha đi chuyến này, tất phải thay hình đổi dạng, mà cũng chưa biết đi về phương nào. Trải qua vạn thủy thiên sơn, thì đem con trẻ đi làm sao cho tiện.
Triệu thụy cứ lăn khóc đòi đi, Mạnh Lệ Quân nói:
- Phu quân ơi! Con trẻ dẫu dại, nhưng đã biết hiếu, chi bằng phu quân cho con đi theo. Vả xem ý trong bức thư này quả nhiên con Phi Giao hành hung, mà cứ theo lời Lưu phu nhân nói thì tai vạ của nhà ta mai sau chưa biết thế nào. Thế thì bớt được người nào là may người ấy, vậy phu quân nên cho con đi theo, rồi khi đến Vân Nam, sẽ gởi gia huynh tôi để cho nó học tập, có lẽ nào lại thiên ái mà giữ con.
Hoàng Phủ Thiếu Hoa ra lạy trước mộ hai thân và khóc rằng:
- Thân phụ cùng thân mẫu ơi! Đứa con bất hiếu này, ngày nay vì việc nước mà không thể thủ hiếu ở đây trông nom phần mộ cho trọn tong ba năm được, vậy xin hai thân phù hộ, khiến con tìm thấy thượng hoàng.
Triệu Thụy bấy giờ cũng cải dạng làm một đứa đạo đồng. Có tên người nhà là Trương Văn đi theo, đem các đồ hành lý và vàng bạc. Phò mã Triệu Câu cầm tay em, rồi ứa nước mắt khóc. Mạnh Lệ Quân và Lưu Yến Ngọc cũng ôm lấy mà khóc và bảo rằng:
- Con ơi! Con đi theo thân phụ, nên phải cẩn thận. Hễ khi tới Vân Nam thì con sẽ lưu tại ngoại gia mà cố chí học hành.
Triệu Thụy cũng quì xuống đất khóc mà thưa rằng:
- Nàng Đề Oanh thuở xưa, mới lên chín tuổi mà đã biết dâng thư cứu cha, huống chi con là nam tử, chẳng lẽ lại không biết tận hiếu hay sao! Ngày nay con đi theo thân phụ con, dẫu đường sá xa xôi, nhưng chưa lấy chi làm khổ sở lắm. Con không kịp cáo từ thân mẫu (trỏ Tô Ánh Tuyết) con ở nhà, tức là có tội. Xin nói giúp cho. Hễ thân phụ con tìm thấy thượng hoàng, bấy giờ sẽ được một nhà sum họp, bằng không mà con đi mất nữa thì xin cũng coi con như hòn máu đẻ rơi vậy.
Triệu Câu nghe đến câu thương tâm ấy, liền ôm lấy em mà khóc òa lên, và bảo rằng:
- Thôi em cứ yên lòng mà đi theo thân phụ. Bên trời góc bể, em nên gìn vàng giữ ngọc. Còn Tô mẫu ở nhà, nếu có nhớ em, anh đây sẽ tìm lời khuyên giải.
Hùng Khởi Thần cũng khóc mà đi tiễn. Bấy giờ Hoàng Phủ Thiếu Hoa cùng Triệu Thụy dứt áo ra đi, khiến cho cả nhà xót xa thương khóc. Khi đi khỏi rồi, Triệu Câu và Hùng Khởi Thần cùng về phủ trước, Mạnh Lệ Quân và mọi người thu xếp về sau. Phò mã Triệu Câu thuật chuyện cho Tô Ánh Tuyết nghe. Tô Ánh Tuyết rất lấy làm vui lòng. Triệu Phượng và Triệu Tường nghe nói đệ ngũ công tử đi theo thân phụ, đếu oán trách Triệu Câu mà rằng:
- Sao trưởng huynh không cho người gọi chúng em, khiến chúng em được tiễn biệt thân phụ và ngũ đệ. Trưởng huynh ơi! Thân phụ đi chuyến này, biết bao giờ chúng em lại gặp mặt. Bây giờ chắc đi chưa xa mấy nỗi, âu là để cho chúng em cùng theo đi.
Phò mã Triệu Câu nói:
- Các em chớ nghĩ như thế! Thân phụ muốn đền ơn triều đình, nên quyết chí đi tìm thượng hoàng là phải, còn anh đây và tam đệ (trỏ Triệu Lân) thì đã xin liều mình tận trung báo quốc, chắc sau này cũng không ở nhà. Tai vạ tày trời, chưa biết ngày nào, vậy các em nên ở nhà chăm việc học hành trước là để hầu hạ sớm khuyên cho ba vị thân mẫu vui lòng, sau là để giữ lấy dòng dõi nhà Hoàng Phủ ta đó!
Sáng hôm sau, Hán vương cho người đến triệu phò mã Triệu Câu. Triệu Câu biết là vì việc thượng hoàng, mới nói với Mạnh Lệ Quân, rồi tức khắc đi ngay. Khi vào tới nơi, Hán vương trông thấy, liền nắm lấy tay đưa vào yết kiến bà thái phi (mẹ Hán vương). Bà thái phi đang ngồi ở trên giường, trông thấy phò mã Triệu Câu vào, vội vàng đứng dậy mời ngồi và bảo rằng:
- Phò mã ơi! Có một chuyện rất lạ lùng! Tôi nghe đồn đêm nguyên tiêu vừa rồi thượng hoàng ra xem cuộc hoa đăng, rồi bỗng bỏ đi mất, chẳng hay có đích thực như thế không? Xin phò mã nói cho tôi được biết.
Phò mã Triệu Câu nghe nói, ứa hai hàng nước mắt khóc mà thưa rằng:
- Việc thượng hoàng bỏ đi, hiện có phong thư của Hùng vương mới gởi tới đây, xin đệ trình để thái phi xem cho rõ chuyện.
Nói xong, liền cầm phong thư đệ trình. Bà thái phi cầm xem, rồi kêu lên một tiếng mà ngã lăn ra, tay chân lạnh giá như đồng, nét mặt tái mét. Hán vương và phò mã chẳng còn hồn vía nào nữa, liền gọi các cung nữ đến, cùng nhau vực bà thái phi lên trên giường, và đem nước gừng cứu chữa. Hồi lâu, bà thái phi mở mắt nhìn, thở dài một tiếng rồi khóc mà than rằng:
- Thượng hoàng ơi! Chẳng hay vì cớ gì mà thượng hoàng lại bỏ nước mà đi! Bây giờ đất rộng trời cao, còn biết đâu mà tìm cho được! Thái hậu thì bệnh lâu chưa khỏi, thánh thượng thì nhu nhược, chính sự chẳng ra thế nào. Ngày nay thượng hoàng bỏ đi chắc nước nhà khó lòng đã giữ cho khỏi rối loạn.
Hán vương cũng khóc rằng:
- Phụ hoàng ơi! Phụ hoàng nỡ lòng nào bỏ con mà đi! Giả sử con còn ở lại nam nội thì quyết không khi nào để đến nỗi như thế này.
Phò mã Triệu Câu nói với bà thái phi rằng:
- Xin thái phi nín khóc, cho kẻ hạ thần được trần thuyết mấy lời. Kẻ hạ thần thiết nghĩ sự thế ngày nay, không phải chỉ khóc mà khóc thể yên được.
Bà thái phi gạt nước mắt, bảo các cung nữ đỡ ngồi dậy. Phò mã Triệu Câu nói:
- Hiện nay cha con Đồ Man Hưng Phục ngoài mặt giả cánh giúp đỡ Phi Giao hoàng hậu, nhưng mặt trong có ý phản nghịch, vẫn liên kết bè đảng, chiêu tập quân mã, tất có ngày nó phải chiếm đoạt ngôi trời. Vậy nay đại vương nên tâu với triều đình rằng ở đây có nhiều giặc bể, xin chiêu tập thêm quân mã, để giữ cho được yên dân. Đại vương nên xuất của kho mộ quân, rồi giao cho kẻ hạ thần luyện tập. Hễ Đồ Man Hưng Phục nổi loạn thì ta sẽ cất quân về mà thu phục giang sơn. Có như thế thì thái hậu mới được an toàn, mà thượng hoàng nghe tin, tất cũng vui lòng mà về nước.
Hán vương nghe nói, khen ngợi mà rằng:
- Nếu vậy thì là mà mưu kế rất diệu! Việc nước sau này trông cậy ở tay phò mã đó!
Bà thái phi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Việc này ta phải bàn với Hoàng Phủ Tương vương mới được. Mạnh vương phi tài trí kiêm toàn, ít người sánh kịp, ta chắc thế nào cũng sẽ trù tính được việc này.
Phò mã Triệu Câu vừa khóc vừa thuật chuyện Hoàng Phủ Thiếu Hoa cải dạng đi tìm thượng hoàng cho bà thái phi nghe. Bà thái phi và Hán vương nghe nói, đều khen ngợi Hoàng Phủ Thiếu Hoa là một trung thần. Phò mã Triệu Câu cáo từ lui ra. Khi về tới phủ, trông thấy Mạnh vương phi và hai bà Tô, Lưu phu nhân đều ngồi ngẩn người ra, phò mã Triệu Câu kinh ngạc mà vội hỏi rằng:
Lưu Yến Ngọc nói:
- Ngày nay mở cái hộp vàng ra xem thì hai quyển binh thư không biết ai lấy trộm mất. Sau hỏi đứa nữ tỳ, mới biết là hồi năm trước, con Phi Giao có mở xem, mà không biết đã cất vào chưa. Vì thế mà vương phi buồn rầu, đến giờ vẫn chưa xơi cơm sáng.
Phò mã cười mà đáp rằng:
- Lo chi điều ấy mà lo! Từ xưa đén giờ kẻ tà không bao giờ thắng được người chính vậy.
Mạnh Lệ Quân lại thở dài mà than rằng:
- Triệu Câu con ơi! Con nói dẫu phải, nhưng con Phi Giao hành hung, ta tiến kinh chuyến này, có thể khuyen bảo được thì khuyên bảo, bằng không thì ta tâu với thái hậu mà truất đi hoặc giết đi, cũng chẳng tiếc chi. Nay nó lại thông hiểu các phép ho phong hoán vũ, khó lòng mà trị nổi, biết làm thế nào.
Mạnh Lệ Quân nói xong, lại vật mình lăn khóc. Phò mã Triệu Câu khuyên giải mà rằng:
- Muôn việc chẳng qua tại trời, xin thân mẫu chớ có lo phiền. hôm nay có dặn con bảo thân mẫu đến, để thái phi muốn giải bày mọi chuyện.
Triệu Câu lại thuật rõ đầu đuôi cho Mạnh Lệ Quân biết việc Hán vương định dâng biểu tâu triều đình, xin chiêu thêm quân mã v.v... Lưu Yến Ngọc gạt nước mắt mà nói với Mạnh Lệ Quân rằng:
- Ngày nay việc nước trông cậy ở trong tay vương phi. Một thân coi trọng hơn mấy vạn quân, xin vương phi phải giữ ngọc gìn vàng, chớ nên phiền muộn quá!
Sáng hôm sau, Mạnh Lệ Quân sang yết kiến bà thái phi. Thái phi giữ ở trò chuyện trong mấy hôm rồi mới về phủ. Phò mã Triệu Câu thì tán gia tài để chiêu tập quân mã, hàng ngày luyện tập ở phủ Hán vương. Công việc trong nhà đã có hai phu nhân Tô và Lưu trông nom thu xếp. Hùng Khởi Thần thì rèn tập cho con nhỏ học hành. Mạnh Lệ Quân truyền bảo đâu đấy, chỉ còn đợi chọn ngày để tiến kinh. Bỗng có Mạnh Khôi (con Mạnh Gia Linh) đến viếng tang. Mạnh Khôi nghe tin Hoàng Phủ Thiếu Hoa bỏ đi tìm thượng hoàng, mới thở dài mà than rằng:
- Thân phụ tôi ở nhà nghe biết việc này, tất thế nào cũng cũng thu xếp tiến inh. Vậy con làm lễ viếng tang xong, cô mẫu cho con xin cáo từ về ngay mới được.
Mạnh Lệ Quân vương phi nói:
- Không đi đâu mà vội! Hàng mấy năm nay cháu mới gặp cô, âu là hãy ở đây mấy hôm để ta hỏi chuyện.
Nói chưa dứt lời thì có Tô Ánh Tuyết và Lưu Yến Ngọc bước vào. Mạnh Khôi quì xuống lạy chào, hai phu nhân đỡ dậy mời ngồi, rồi ân cần hỏi han trò chuyện. Bấy giờ Triệu Câu vẫn ở trong phủ Háng vương để luyện tập quân mã, có khi hàng tháng mới về một lần. Khi về tới nhà, trông thấy Mạnh Khôi liền giữ ở lại, không cho về vội, chẳng ngờ ngày tháng thoi đưa, thấm thoát đã đến cuối xuân vậy. Một hôm Triệu Câu về nói với Mạnh Lệ Quân rằng:
- Con nghe tin đồn Hùng hậu đem bùa dấu chôn ở trong cung, mà toàn gia họ Hùng đều phải trị tội, việc ấy chưa biết có được đích thực hay không.
Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe báo có người nhà Hùng vương là Chu Thống xin vào yết kiến Mạnh vương phi cùng phò mã. Cả nhà nghe báo, đều lấy làm kinh ngạc, chưa biết việc lành dữ thế nào. Phò mã Triệu Câu nói:
- Ta cho gọi vào đây, tự khắc sẽ hiểu.
Nói xong, truyền người nhà cho Chu Thống vào. Nguyên Chu Thống là một người quản gia trong phủ Hùng vương. Khi Chu Thống vào tới nơi, trông thấy Mạnh Lệ Quân và phò mã Triệu Câu, liền quì xuống mà kêu:
- Trăm lạy vương phi! Trăm lạy phò mã! Mau mau cứu lấy toàn gia tính mệnh cho chủ nhân tôi.
Mạnh Lệ Quân kinh ngạc hỏi:
- Chủ nhân nhà ngươi có việc gì, mau mau nói cho ta nghe.
Chu Thống vừa khóc vừa kể lể đầu đuôi mọi việc Hùng hậu bị truất. Hùng vương bị giam và Lương Trấn Lân thừa tướng đập đầu chết ở cửa cung cho Mạnh Lệ Quân nghe. Cả nhà nghe nói, ai nấy đều ngẩn người, kinh hồn tán đởm. Bỗng thấy Mạnh Lệ Quân miệng phun máu ra, rồi nga lăn xuống đấy. Cả nhà xúm lại gọi. Nhưng may mà người vẫn tỉnh, mới xua tay khẽ bảo rằng:
- Không can chi!
Bấy giờ hai phu nhân đỡ Mạnh Lệ Quân dậy, đưa nước sâm thang cho uống. Hồi lâu, tinh thần mới dần dần trấn tĩnh. Bỗng thấy người nhà ở mặt ngoài hoảng hốt chạy vào, không biết là việc gì. Hai phu nhân đón hỏi thì chúng bẩm rằng:
- Dám bẩm hai phu nhân! Hùng công tử đang ngồi ở thư hiên, tiếp được tin nhà, bỗng ngất người ngã ra, Mạnh công tử sai chúng tôi về lấy nước sâm thang để đem cứu chữa.
Hai phu nhân sợ hãi, vội vàng chạy sang chốn thư hiên thì Mạnh Khôi đang cứu chữa cho Hùng Khởi Thần. Hồi lâu, Hùng Khởi Thần hơi tỉnh, mới nức nở khóc mà kêu rằng:
- Hai thân ơi!...
Hai phu nhân xúm lại khuyên giải mà rằng:
- Hiền sanh ơi! Hiền sanh phải vững lòng, chứ khóc thương lắm cũng không ích gì cho nước vậy. Sự tai biến này Hùng vương đã nghĩ đến từ trước, cho nên mới bảo hiền sanh về đây. Hiền sănh hay xem như phu quân ta thuở trước, trải bao gian khổ, mà vẫn một lòng sắt đá, chẳng chút chuyển dời.
Tô Ánh Tuyết bấy giờ dạ đau như cắt, phần thương nghĩa huynh là Lương Trấn Lân; phần nhớ con gái là Phi Loan quận chúa, ruột tằm bối rối, nỗi niềm càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Mạnh Lệ Quân vẫn còn thổ huyết, bảo Triệu Câu rằng:
- Triệu Câu con ơi! Con chớ lo sợ, ta vẫn có chứng “cấp huyết”. chỉ mấy ngày sẽ khỏi, chẳng có hề chi. Nhưng ta còn hiềm về một điều Hùng Khởi Thần ở đây, hoặc khi triều đình giáng chỉ mà tróc nã thì làm thế nào? Chi bằng cho chàng sang Vân Nam, thay họ đổi tên mà tạm trú ở ngoại gia, chờ đến khi họ Hùng được ân xá rồi, bấy giờ sẽ xuất đầu lộ diện.
Phò mã Triệu Câu và hai phu nhân nghe nói, đều lấy làm diệu kế. Tô Ánh Tuyết thở dài mà rằng:
- Con Phi Loan bây giờ tất cũng đang ở trong ngục thất.
Lưu Yến Ngọc nói:
- Khi nào đến nỗi thế! Chị em ruột thịt, chẳng lẽ lại nỡ lòng hại nhau.
Phò mã Triệu Câu nói:
- Con Phi Giao dẫu không nỡ lòng giam vào ngục thất, nhưng tôi chắc con Phi Loan tình nguyện xin theo họ Hùng thì thành ra cũng phải vào ngục thất vậy.
Cả nhà bàn tính hồi lâu, rồi mời Mạnh Khôi vào, bảo đưa Hùng Khởi Thần về Vân Nam. Mạnh Khôi nói:
- Tôi vẫn muốn trở về quê nhà, nay Hùng công tử đã được khỏe mạnh thì xin cho theo tôi xuống thuyền trở về Vân Nam một thể.
Mạnh Lệ Quân lại bảo hai phu nhân rằng:
- Việc này chớ chậm trễ, nên sửa soạn cho Hùng Khởi Thần đi ngay.
Nói xong, sai người mời Hùng Khởi Thần vào. Mạnh Lệ Quân gượng ngồi mà bảo Hùng Khởi Thần rằng:
- Hiền sanh ơi! Việc tai nạn này xảy ra, thật là lỗi tự ta trước, nhưng sự thể đã như thế này, cũng không thể làm sao cho được.. Có biết bảo thân mới là người minh triết, ngày nay hiền sanh nên theo Mạnh Khôi hãy tạm lánh mình về Vân Nam.
Hùng Khởi Thần nghe nói, giọt lệ chứa chan mà rằng:
- Tôi được đội ơn ba vị cữu mẫu bảo toàn cho, thật lấy làm cảm tạ lắm. Nhưng lòng tôi bây giờ đau như dao cắt, một nhà chết cả thì thân này xòn sống để làm gì! Huống chi tai nạn ngày nay so với tai nạn năm xưa lại còn hơn nhiều. Năm xưa thì vu oan giá họa chỉ có một mình họ Lưu, mà bấy giờ vua thánh tôi hiền, còn đang thời thịnh. Hễ oan kia giải tỏ tự khắc hắc bạch phân minh. Vả cữu phụ tôi là bậc đại tài, chứ ngu hèn như tôi thì cầm bằng sống mà chết già, chẳng thà tiến kinh đầu thú đi, để được theo hầu cha mẹ ở trong ngục thất. Cữu mẫu ơi! Cái thân sống thừa này, còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 112 guests