Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Image

Tác giả : Hứa Trọng Lâm

Dịch giả : Mộng Bình Sơn


Hồi 1
Trụ Vương Tế Miễu Bà Nữ Oa

Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Đế Cốt là Giảng Định đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt. Bà Giảng Định cho là điềm lành, liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng. Quả nhiên vì nuốt trứng, bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết.

Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Đồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.

Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.

Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.

Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.

Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.

Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Đài suốt một thời gian mới thả về.

Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.

Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:

- Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.

Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:

- Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?

Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:

Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua

Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa

Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra

Con nào liều mạng, thì vào lưới ta

Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: "Mở lưới Thành Thang " tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.

Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.

Đến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.

Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.

Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.

Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.

Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.

Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.

Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:

1- Thành Thang

2- Thái Giáp

3- Óc Đinh

4- Thái Canh

5- Tiển Giáp

6- Ứng Kỷ

7- Thái Hậu

8- Trọng Đỉnh

9- Ngoại Nhâm

10- Hà Đản Giáp

11- Tổ Ất

12- Tổ Tân

13- Óc Giáp

14- Tổ Đinh

15- Nam Canh

16- Đương Giáp

17- Bàn Canh

18- Tiểu Tân

19- Tiểu Ất

20- Võ Đinh

21- Tổ Canh

22- Tổ Giáp

23- Lâm Tân

24- Canh Định

25- Thái Đỉnh

27- Đế Ất

28- Ân Thọ (Trụ Vương).

Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.

Vua Trụ là con thứ ba của vua Đế Ất. Vua Đế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Điển và Ân Thọ.

Nhân khi vua Đế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.

Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.

Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.

Thừa Tướng Thương Dung và quan Đại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Đế Ất:

- Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.

Đế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.

Vua Đế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.

Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.

Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.

Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Đương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.

Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.

Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.

Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:

1- Đông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).

2- Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ

3- Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)

4- Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.

Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.

Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.

Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.

Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:

- Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.

Vua Trụ hỏi:

- Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?

Thương Dung tâu:

- Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, hiện là một vị thần linh hiển lắm. Trước kia Cung Công làm phản, đụng đầu vào núi Bất Châu, đất bị nghiêng sụp, bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời. Bởi có công với đời như vậy, nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ. Nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa, mối nước được yên, dân gian khỏe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương, chẳng nên khinh dễ.

Vua Trụ nhận lời:

- Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước, sẵn dịp du ngoạn một chuyến.

Hôm sau, vua trụ truyền long giá ra đi, các quan đi theo phò tá rất đông. Ba ngàn binh kỵ mã, tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển, trước sau đông nghẹt.

Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái.

Khi đến trước đền thần Nữ Oa, vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm, và các quan đồng lạy.

Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm, những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng, những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương. Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe, rồng bay phượng lộn, đèn chưng như sao mọc, khói tỏa như mây mờ, uy nghiêm chẳng khác gì đền vua.

Trụ Vương đang say mê, thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua, vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ, hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên, hương trời sắc nước không đâu bì kịp.

Lời xưa thường nói:

- Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra.

Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng:

- Ta tuy làm vua giàu có bốn biển, nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy.

Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến, và đề một bài thơ ngay trên vách tường:

Lạnh lùng trướng phủ xõa màn loan

Bóng sắc khen ai khéo điểm trang

Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục

Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng

Hải đường sương đượm màu tươi tốt

Thược dưọc mưa nhuần bóng vẻ vang

Đem về cung điện dựa thiên nhan

Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu:

- Bà Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ. Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa, sóng trong biển lặng. Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên. Xin bệ hạ truyền lấy nước rửa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh.

Vua Trụ nói:

- Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp, đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác. Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà, và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ?

Dứt lời truyền hồi loan. Các quan không ai dám nói lời nào nữa. Về đến đền Long Đức, các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy.

Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là: Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Đế.

Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền, lên ngồi nơi chánh điện. Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ, bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ, nổi giận nói:

- Ân Thọ hôn quân! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy, không sợ luật trời. Thật đáng ghét! Trước kia vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết. Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh.

Nói rồi liền đằng vân bay vào triều, cố vật chết vua Trụ để rửa hờn. Nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại.

Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai, người anh là Ân Hồng, người em là Ân Giao, sau này đều được phong thần, nên mới có hào quang như vậy). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ. Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở, tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số, nên đằng vân trở về miễu.

Tuy nhiên, lòng vẫn căm tức không nguôi, bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút, rồi đưa tay chỉ một cái, tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa, dài hơn năm trượng. Đạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng.

Phướng này gọi là phướng chiếu yêu. Trong giây phút sa mù bao phủ, gió lộng áo ào, các yêu đều hiện đến.

Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết, chỉ chừa lại ba con yêu tại mả Huỳnh Đế và cho vào ra mắt.

Ba yêu vâng lệnh, vào quỳ lạy xưng:

- Chúng tôi là hồ ly ngàn năm, chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương.

Bà Nữ Oa nói:

- Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu, người đó là khí số do trời định. Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương điêu đứng. Đợi cho Võ vương đánh trụ thành công, ta cho chúng bay thành thần. Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh, chỉ trả thù Trụ Vương thôi.

Ba yêu vâng lệnh lui ra, đằng vân về động.

Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về, mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon, ngày ăn không được, coi ba cung sáu viện như cỏ rác, chẳng đoái hoài đến. Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa.

Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh, có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã, Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn, Bí Trọng, hai tên này thường nói nhiều điều vui tai, vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được, bèn cho đòi Bí Trọng đến.

Bí Trọng lúc này là Trung Gián Đại Phu, nghe vua đòi liền ứng hầu ngay, và tâu:

- Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần?

Trụ vương buồn bã nói:

- Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nỗi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẻ nào bằng. Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện. Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không?

Bí Trọng tâu:

- Bệ hạ giàu có bốn biển, đức sánh Thuấn, Nghiêu. Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết, có gì mà bệ hạ không toại nguyện? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẻ tuyệt sắc.

Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ, phán:

- À, thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra. Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy.

Rồi Trụ Vương trở về triều.
Last edited by tuvi on 04 Aug 2019, edited 2 times in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Phong Thần (Bảng Phong Thần) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 2
Phản nước Thương, Tô Hộ đề thơ

[scroll]Vua Trụ nghe Bí Trọng tâu mừng lắm, lập tức về cung. Sáng hôm sau lâm triều, Trụ Vương phán:

- Nay Trẫm muốn ra chỉ dụ cho bốn trấn chư hầu kén chọn mỗi trấn một trăm mỹ nữ, chẳng luận giàu sang, quí tộc, miễn là dung nhan đẹp đẽ, cốt cách dịu dàng, ăn nói khuôn phép để sung vào cung sai khiến.

Quan Tể Tướng Thương Dung quỳ tâu:

- Xưa nay, hễ vua phải đạo thì muôn dân noi gương, không cần dạy dỗ, nước vẫn yên vui, dân vẫn tùng phục. Hiện trong cung bệ hạ đã có dư ngàn cung nữ, hậu phi lại hiền đức không ai bằng, nếu bệ hạ còn kén thêm nữa, thần e rằng dân gian không phục. Thần có nghe nói, đạo làm vua nên vui cái vui của dân, nên lo cái lo của dân. Hiện nay trời đang hạn hán, bệ hạ không lo cái khổ của dân, lại chọn nữ sắc, hạ thần thấy không phải lẽ. Đời Nghiêu, Thuấn dạy thiên hạ không cần khí giới, không dùng hình pháp, khiến cho trời xuống điềm lành, sao Kiêu chiếu sáng trời, chim phụng đỗ nơi sân, cỏ chỉ mọc đầy nội, người đi lại đầy đường, chó không tiếng sủa, ngày nắng, đêm mưa, lúa trổ hai gié, ấy là điềm thạnh trị.

Trụ Vương nói:

- Ta kế vị nhà Thương mấy năm nay, tuy không được như đời Nghiêu, Thuấn, nhưng trăm họ yên vui, bốn phương quy thuận, há không phải là đời thuận sao?

Tể Tướng Thương Dung tâu:

- Nay phương Bắc đang có giặc, mọi miền dân chúng đang khốn đang khốn đốn vì nạn binh đao. Thái sư phải bỏ việc triều đình đi dẹp loạn, nếu bệ hạ lo cái lo của dân thì phải dùng người hiền, đuổi kẻ nịnh, lấy nhân đức làm đầu, tự nhiên thiên hạ thái bình, khí hòa rải khắp thiên hạ. Còn bệ hạ phải ưa nhìn tà sắc, tai ưa nghe tiếng dâm, săn thú dục vườn, vui riêng cái vui của sắc dục, tất nhiên không tránh khỏi loạn ly. Theo ý hạ thần, bệ hạ không nên tuyển mỹ nữ vào cung trong lúc này, xin bệ hạ xét lại.

Vua Trụ ngồi suy nghĩ hồi lâu, mặt buồn bã nói:

- Lời của khanh rất phải! Thôi Trẫm bãi bỏ ý định chọn mỹ nữ vào cung.

Dứt lời, Trụ Vương truyền bãi chầu.

Qua năm thứ tám, vào tiết tháng tư, bốn trấn chư hầu lớn đưa mấy trăm chư hầu nhỏ về Triều Ca để chầu nhà Thương theo thể thức hàng năm.

Bấy giờ các chư hầu đều biết Thái Sư Văn Trọng đi dẹp loạn chưa về, quyền binh trong triều do Bí Trọng, Vưu Hồn, hai tên nịnh thần ấy gần gũi vua xúi giục, muốn cho vua Trụ khỏi quở trách, ai cũng đem ít nhiều lễ vật hối lộ nơi tư dinh của hai tên gian thần ấy.

Duy có một mình Tô Hộ, làm Ký Châu Hầu, tánh tình cương trực không chịu dua mị ai, việc phải trái đều nói thẳng trước mặt, nên không đem lễ vật riêng đút lót cho Bí Trọng và Vưu Hồn.

Hai tên gian thần này đem lòng oán trách Tô Hộ, chờ dịp để trả thù.

Đến ngày mồng một là ngày lành. Trụ Vương lâm triều, các quan ứng hầu đủ mặt. Huỳnh Môn Quan vào tâu:

- Năm nay nhằm lễ chung, chư hầu lớn nhỏ đều tề tựu đến chầu bệ hạ để nghe dạy việc. Tất cả đang đứng ở ngoài chờ lệnh.

Trụ Vương hỏi Thương Dung:

- Thừa Tướng định tiếp đón chư hầu như thế nào cho tiện?

Thương Dung tâu:

- Bệ hạ chỉ cần đòi bốn trấn chư hầu lớn vào chầu để hỏi thăm dân tình mọi nơi và nếp sống ra sao thôi. Bệ hạ nên dùng lời giả ơn họ. Còn các trấn chư hầu nhỏ thì để họ đứng chầu ngoài ngọ môn cũng được.

Trụ Vương nghe theo, liền sai Huỳnh Môn Quan đòi các trấn chư hầu lớn vào đền ra mắt.

Bốn trấn chư hầu tuân lịnh, qua khỏi cửa Cửu Long, đến quỳ trước sân. Vua Trụ bước xuống ngai, đứng nơi thềm rồng phủ dụ:

- Các khanh giúp Trẫm vỗ an dân thứ, trấn ải dẹp loạn, đánh xa trị gần, có công khó nhọc như vậy Trẫm rất hài lòng.

Đông Bá Hầu Khương Hoàng Sở tâu:

- Chúng tôi đội ơn trên ban chức tổng trấn, hằng ngày ráng lo nhiệm vụ, sợ không tròn trách nhiệm bệ hạ giao phó, nếu có nhọc sức ngựa trâu đôi chút bất quá cũng chỉ mong đền bổn phận làm tôi. Nay được bệ hạ ra ơn vỗ về, thật chúng tôi vạn hạnh.

Trụ Vương rất vui mừng, truyền Thừa Tướng Thương Dung và Á Tướng Tỉ Can khiến quân dọn tiệc tại đền Hiển Thánh, đãi đằng bốn vị tổng trấn cho tử tế.

Bốn trấn chư hầu lạy tạ rồi theo Thương Dung và Tỉ Can đến dự tiệc. Trụ Vương bãi triều vào hậu cung đòi Bí Trọng và Vưu Hồn đến hỏi:

- Năm ngoái các khanh khuyên ta xuống chiếu nhờ bốn trấn chư hầu kén chọn mỹ nữ, nhưng bị Tể Tướng Thương Dung cản ngăn. Năm nay sẵn dịp bốn trấn chư hầu về đủ mặt, Trẫm có nên phán truyền lệnh ấy hay không?

Bí Trọng tâu:

- Thừa Tướng trước kia can việc kén mỹ nữ, bệ hạ đã nghe theo, bây giờ lại truyền kén nữa, tôi e các chư hầu hay được mất uy tín của bệ hạ chăng? Tôi có nghe đồn con gái Ký Châu Hầu Tô Hộ quốc sắc khuynh thành, huê nhường nguyệt thẹn, nếu bệ hạ chọn vào cung cấm chắc được toại nguyện. Vả lại đòi một người vào cung không làm cho dân chúng xôn xao, và cũng không có gì.

Vua Trụ khen:

- Khanh thật là kẻ đa mưu túc trí. Như vậy mới đủ sức giúp Trẫm trong lúc này.

Nói rồi khiến nội thị ra ngoài đòi Tô Hộ vào ra mắt.

Nội thị tuân lệnh ra đến nhà trạm truyền:

- Thiên Tử cho mời Ký Châu Hầu vào thương nghị việc nước.

Tô Hộ theo nội thị vào thẳng đến Long Đức, làm lễ tung hô rồi quỳ nghe lệnh. Trụ vương hỏi:

- Trẫm nghe khanh có một người con gái nết na dịu dàng, tánh tình thuần hậu, Trẫm muốn chọn vào hậu cung để được gần Trẫm, nếu được vậy khanh sẽ là quốc thích, ăn lộc trời, hưởng ngôi lớn, yên trấn nơi Ký Châu, danh vang bốn biển. Đời người được vinh hiển, giàu sang như vậy ai lại không thích, chẳng biết ý khanh như thế nào?

Tô Hộ nghe Trụ Vương nói mặt lạnh như tiền, tâu:

- Bệ hạ có tam cung lục viện, cung nữ hơn ngàn người thì thiếu gì kẻ mặt liễu mày hoa? Bệ hạ còn chưa thỏa mãn sao? Xin Bệ hạ chớ nghe lời kẻ dua mị nghĩ điều dục vọng. Vả lại con tôi còn thơ dại, lễ phép chưa biết gì, đức hạnh và nhan sắc đều thiếu, bệ hạ nhọc lòng tưởng đến làm chi. Xin hãy bền lòng lo việc chánh, để thiên hạ mến đức như vậy không rạng rỡ đức trị dân sao?

Vua Trụ cười lớn nói:

- Xưa nay ai cũng muốn cho con gái mình làm rạng rỡ tông môn, đáp đền hiếu thảo. Nay con gái của khanh vào làm Phi hậu sánh vai với Trẫm, còn khanh thì lên hàng Quốc thích, vinh hiển nhất đời còn gì hơn? Sao khanh không nghĩ chuyện ấy, cố chấp làm gì?

Tô Hộ đón biết do Vưu Hồn, Bí Trọng mất ăn, bày chuyện trả thù, nên giận nói lớn:

- Tôi nghe nói: Vua làm điều có đức thì muôn dân mến phục, bốn phương quy thuận, muôn dân kính vì, lộc trời trọn hưởng. Xưa Vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc dục, làm lắm điều ác, còn nhà Thương thì không màn của lợi, đức lớn ân nhiều, nên thiên hạ theo về, dựng lên đại nghiệp. Nay Bệ hạ không bắt chước tổ tông, lại noi theo gương nhà Hạ, dẫm chân lên bước đường vong quốc, hạ thần lấy làm tiếc. Hễ Hoàng đế ham sắc thì mất xã tắc, Đại phu ham sắc thì mất cơ nghiệp, thứ dân tham sắc thì lụy thân. Vua là tấm gương của bầy tôi, hễ Vua lỗi đạo thì tôi lăng loàn, lập phe tụ đảng, mối nước rối ren. Tôi chỉ sợ cơ nghiệp nhà Thương gầy dựng sáu trăm năm nay, vì bệ hạ mà sụp đổ.

Trụ Vương nghe Tô Hộ nói xúc phạm, giận đỏ mặt mắng:

- Xưa nay hễ đạo làm tôi phải gìn lòng trung nghĩa, vua cho hầu thì lật đật đến hầu chẳng dám đợi xe, Vua khiến chết chẳng dám từ chối. Nay Trẫm chỉ cần kén một đức con gái vào làm Hậu Phi mà ngươi dám buông lời chống trả, mắng nhiếc Trẫm, lại sánh Trẫm với vua kiệt là một ông vua mất nước. Có ai dám vô lễ như thế không?

Liền truyền cho nội thị bắt Tô Hộ đem đến tòa pháp ti kết tội khi quân. Nội thị tuân lệnh bắt Tô Hộ trói lại.

Vưu Hồn, Bí Trọng vội quỳ tâu:

- Tội khi quân của của Tô Hộ đáng xử phạt lắm, nhưng vì Bệ hạ nuốn kén con gái của Tô Hộ rồi lại làm tội Tô Hộ e thiên hạ không hiểu sự tình nghĩ lầm rằng Bệ hạ trọng sắc khinh hiền. Xin Bệ hạ ra ân tha tội cho Tô Hộ về nước. Tô hộ sẽ cảm đức bệ hạ, đem ái nữ dâng vào cung. Như vậy Bệ hạ sẽ tránh được tiếng thị phi, mà tỏ mình có lòng nhân nữa.

Vua Trụ nghe nói bớt giận, truyền tha tội cho Tô Hộ, bảo phải về nước, không được nấn ná ở triều ca ngày nào nữa.

Lệnh vua vừa ban xuống, nội thị liền mở trói đuổi Tô Hộ ra lập tức.

Tô Hộ trở về trạm dịch. Các tướng xúm lại nghênh tiếp, và hỏi thăm:

- Chẳng hay Thiên tử mời Chúa công vào triều bàn chuyện cơ mật gì vậy?

Tô Hộ hơi giận chưa nguôi, thốt lời mắng Trụ Vương:

- Hôn quân vô đạo chẳng tiếc sự nghiệp của tổ ông để lại, nghe lời nịnh thần buộc ta phải tiến dâng con gái để sung vào Hậu Phi. Ta đoán chắc việc này do Bí Trọng, Vưu Hồn xúi giục, muốn đem sắc đẹp mê hoặc lòng vua để tranh uy thế? Ta can vua nhưng vua không nghe, lại bảo ta nghịch mạng truyền dẫn đến pháp ti bắt tội.

Các tướng thở dài, hỏi:

- Nếu vậy Chúa công làm thế nào về được?

Tô Hộ nói:

- Hai đứa gian nịnh ấy lại tâu xin với hôn quân tha tội cho ta trở về để cải hối, và dâng ái nữ cho hôn quân. Việc này nếu Thái Sư Văn Trọng có ở triều, hai đứa gian thần ấy đâu dám lộng hành như vậy? Hôn quân đã sa vào tội lỗi, tiếc thay cơ nghiệp Thành Thang sớm tối phải tan tành.

Các tướng hỏi:

- Vậy chúa công có ý định thế nào đối với việc này?

Tô Hộ nói:

- Nếu không dâng Đắc Kỷ vào cung thế nào hôn quân cũng đem quân đánh phá nước ta, bằng dâng Đắc Kỷ vào đó sau này hôn quân thiếu đức làm hư xả tắc, thiên hạ sẽ cho ta là kẻ bất trí. Các tướng có mưu nào gở rối chăng?

Các tướng đồng nói:

- Hễ vua bất chánh thì tôi không phục, nay Thiên tử trọng sắc khinh hiền, Chúa công cũng cần gì phải tôn thờ. Cứ trở về giữ lấy nước mình an vui một cỏi.

Tô Hộ đang giận nghe mấy lời của các tướng chẳng khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, mặt giận phừng phừng nói:

- Đấng trượng phu chẳng bao giờ thèm làm lén, đi ở phân minh.

Nói rồi khiến quân đem bút mựt ra, đề bốn câu thơ trên vách tường trước cửa đền, để thiên hạ rõ ý mình không tùng phục nhà Thương nữa:

Quân loạn thần cương

Hữu bại ngũ thường

Ký Châu Tô Hộ

Vĩnh bất triều Thương

Có nghĩa là:

Vua chẳng kỷ cương

Lỗi đạo luân thường

Ký Châu Tô Hộ

Chẳng chầu nhà Thương

Sau khi đề ra bài phản thi Tô Hộ dẫn các tướng ra khỏi Triều Ca trở về nước.

Còn vua Trụ tuy nghe lời Vưu Hồn, Bí Trọng tha Tô Hộ nhưng sợ Tô Hộ trở về không chắc chịu dâng Đắc Kỹ, nên lòng vẫn buồn bực không an. Tiếp đến có Huỳnh Môn Quan vào tâu:

- Tô Hộ đề phản thi trước ngõ, hạ thần chẳng dám dấu, xin phép vào trình bệ hạ rõ.

Nói rồi trải tấm giấy trên long án. Vua Trụ xem xong nổi giận mắng:

- Trẫm thuận theo lòng người ưa dung tha những kẻ có tội không giết loài chuột, mới cho về xứ. Thế mà nó không biết xét thấy thân phận, lại đề phản thi trước đền, lăng nhục triều đình. Ta không thể bỏ qua hành động ấy được.

Liền cho lệnh đòi ba viên đại tướng là Ân Phú Bại, Triều Điển, và Lổ Hùng vào phán:

- Tô Hộ bất trung, làm phản thi đề ngoài ngọ môn nhục mạ Thiên Triều. Các khanh hãy điểm hai mươi muôn binh đi tiên phuông, Trẫm sẽ dẫn các quan theo sau hậu tập.

Lổ Hùng cuối đầu nghĩ thầm:

- Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, tánh tình ngay thẳng, chẳng biết vì sao lại có hành động như vậy. Hay kẻ nào thù oán phao vu chăng? Tội trạng còn chưa rõ ràng, nếu để nhà vua thân chinh thì Ký Châu còn gì?

Nghĩ như vậy, Lổ Hùng quỳ tâu:

- Tô Hộ có tội, cần gì Bệ hạ thân chinh cho nhọc. Nay bốn trấn chư hầu còn đó, nếu muốn bắt Tô Hộ, Bệ hạ chỉ cần sai một trong bốn chư hầu ấy đem quân vấn tội cũng đủ.

Trụ vương hỏi:

- Bốn trấn chư hầu ấy Trẫm nên sai ai đi bắt Tô Hộ?

Bí Trọng quỳ tâu:

- Ký Châu thuộc phần đất Bắc Bá Hầu điều khiển, xin Bệ hạ sai Sùng Hầu Hổ đem binh bắt Tô Hộ là phải lẽ.

Trụ Vương y lời, Lổ Hùng lại nghĩ thầm:

- Sùng Hầu hổ là người tham lam hung dữ, nếu lấy oai thiên tử đi chinh phạt, dân Ký Châu sẽ bị thảm họa không ít. Sẵn đây có Tây Bá Hầu là người nhân đức, nếu tiến cử Tây Bá Hầu thì lưỡng toàn.

Nghĩ như vậy, Lổ Hùng tâu:

- Sùng Hầu Hổ tuy làm tổng trấn cõi Bắc, nhưng ân đức chưa có bao nhiêu, nếu thay Bệ hạ đi chinh phạt e không thắng, chi bằng sai Tây Bá Hầu là Cơ Xương, lâu nay nổi tiếng nhân nghĩa, may ra không tốn tên đạn mà bắt Tô Hộ dễ hơn.

Trụ Vương ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Thôi để Trẫm sai cả hai trấn chư hầu ấy cùng hợp sức đem binh vấn tội thì tiện hơn.

Tiếp đó, Trụ Vương thảo chiếu sai nội thị truyền đạt.

Bấy giờ, bốn trấn chư hầu đang dự tiệc với Thừa tướng Thương Dung và Tỉ Can tại đền hiển Thánh, bổng có sứ đến dạy Tây và Bắc Bá Hầu nghe truyền chiếu chỉ.

Hai trấn chư hầu thấy có chiếu Thiên tử vội quỳ mọp dưới đất, Sứ thần tuyên đọc như sau:

"Trẫm nghe: Mão đội trên đầu, dép đi dưới chân, không thể làm trái ngược được. Chúa trị dân tôi thờ chúa, ấy là do đạo trời. Nay Tô Hộ chẳng biết đạo nghĩa, không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước, Trẫm vì lòng nhân tha cho về nước, nhưng lại không biết hối cải ăn năn, đề phẩn thơ có ý nghịch mạng trời, nay Trẫm ban bùa việt, cờ mao, uy quyền cho Tây và Bắc Bá Hầu thay mặt Trẫm, đem binh đến Ký Châu vấn tội. Nếu ai vì tình riêng dung tha kẻ tôi loàn sẽ bị liên can "

Thiên sứ đọc chiếu xong, hai vị tổng trấn đều lạy tạ, vâng mạng.

Đoạn Tây Bá Hầu nói với Thừa Tướng Thương Dung và ba vị tổng trấn kia:

- Tô Hộ đến chầu Thiên tử chưa vào đền ra mắt, sao trong chiếu lại nói không kể phận vua tôi, khinh lờn phép nước? Việc này chưa hiểu nguyên nhân ra sao. Vả chăng Tô Hộ là người trung nghĩa thuở nay, hằng có công với triều đình. Còn việc đề thơ ngoài ngõ phản đối thiên triều, tôi e không xác đáng. Nếu Bệ hạ nghe theo lời kẻ quấy, sai chinh phạt tôi trung, e không hợp với lòng dân. Xin Thừa Tướng và Á Tướng ngày mai vào chầu, hỏi xem tội Tô Hộ là tội gì cho biết. Nếu đáng trừng phạt thì trừng phạt, còn không đáng thì phải can vua kẻo tội nghiệp Ký Châu Hầu.

Tỉ Can nói:

- Lời Tây Bá Hầu luận rất phải. Phàm trị một người nào cũng nên nêu rõ tội trạng cho minh bạch đã.

Sùng Hầu Hổ nói:

- Dù sao lệnh thiên tữ đã ban, chúng ta không nên làm trái. Tôi chắc Tô Hộ có ý phản Thương, nếu không lẽ nào thiên tử kết tội?

Tây Bá Hầu Cơ Xương nói:

- Lời ông luận chỉ đúng theo lẽ thường. Còn ở đây Tô Hộ là người quân tử, lòng thẳng dạ ngay. Tận trung phò chúa. Một người như vậy đâu thể phản phúc một cách dễ dàng. Nếu chúng ta không dè đặt. Thiên tử đã nghe lời sàm tấu, chúng ta cứ tuân theo mệnh lệnh thiên triều, chẳng hóa ra chúng ta cùng một lũ vô dụng, không biết gì phải trái sao?

Sùng Hầu Hổ to tiếng:

- Ông nói sao lạ vậy? Không cần biết lệnh vua phải hay trái, chúng ta là tôi thần, vua sai gì chúng ta không thể không tuân. Kẻ nào trái mệnh vua tự nhiên đã mang tội khi quân rồi.

Tây Bá Hầu cười nhạt:

- Nếu vậy ông hưng binh đi trước. Tôi sẽ theo sau.

Sùng Hầu Hổ lập tức từ giã về nước. Tây Bá Hầu còn nán lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:

- Tôi sẽ về Tây kỳ cất binh theo sau.

Tiệc mãn, các trấn chư hầu ai về nước nấy.

Khi Tô Hộ về đến Ký Châu, con trai lớn là Tô Toàn Trung đem các tướng ra khỏi thành nghênh tiếp. Cha con mừng rỡ, kéo nhau vào thành. Các tướng quỳ lạy chúc mừng và hỏi:

- Chúa công vào triều thiên tử năm nay có điều gì khác lạ không?

Tô Hộ buồn bã nói:

- Nay thiên tử từ bỏ hết các việc chánh, nghe lời nịnh thần làm điều phi nghĩa, bắt ta dâng con gái vào triều làm Hậu Phi. Ta dùng lời ngay can gián. Thiên tử cho ta phản nghịch. Đang cơn giận dữ ta đề phản thi vào ngọ môn rồi bỏ về đây. Sớm tối chắc có binh chư hầu tuân lệnh hôn quân kéo đến đây vấn tội. Vậy các tướng lo chỉnh đốn binh mã, trên thành dự bị cung tên trí thủ đâu đó sẵn sàng, chờ ngày đối phó.

Các tướng tuân lệnh ngày đêm canh phòng cẩn mật.

Ngay lúc đó, Sùng Hầu Hổ về nước lập tức điểm năm vạn quân, người ngựa rộn ràng, kéo đến Ký Châu đánh Tô Hộ. Khi đến nơi Sùng Hầu Hổ truyền lệnh an dinh hạ trại xong cho các tướng nghỉ ngơi một bữa, rồi mới ra binh.

Quân thám thính trong thành hay được vào báo với Tô Hộ.

Tô Hộ hỏi:

- Chư Hầu nào hưng binh vậy?

Quân sĩ thưa:

- Thấy hiệu cờ đề Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.

Tô Hộ giận nói:

- Nếu người khác thì dùng phải trái tỏ bày được, chớ Sùng Hầu Hổ là kẻ bất chấp nhơn nghĩa, có nói cũng uổng lời thôi. Chi bằng sẵn dịp này ta xua binh đánh nó một trận cho nó thấy cái oai của ta.

Nói rồi điểm binh ra ngoài thành khiêu chiến. Các tướng theo hầu rất đông. Tô Hộ cho ngựa lướt đến trước trại Sùng Hầu Hổ, nói:

- Ta là Ký Châu Hầu muốn mời Bắc Bá Hầu ra nói chuyện.

Sùng Hầu Hổ được tin liền dàn quân bố trận, trước mặt dựng hai cây cờ thêu rồng, sau lưng có người con trai lớn là Sùng Ứng Bưu theo phò tá. Còn Sùng Hầu Hổ thì mặc giáp vàng, đầu đội kim khôi sáng chói, lưng buộc đai ngọc, tay cầm đại đao uy phong lẩm liệt. Tô Hộ thấy vậy xá Sùng Hầu Hổ một cái và nói:

- Ngài vẫn mạnh giỏi chứ? Tôi vì mặt giáp trụ trong người không được trọn lễ xin ngài miễn chấp. Chẳng biết ngài kéo binh tới Ký Châu này để làm gì?

Sùng Hầu Hổ nói:

- Ngươi đề thơ phản thiên triều, nghịch mạng thiên tử, nên thiên tử sai ta đem binh đến vấn tội.

Tô Hộ nói:

- Hễ vua bất minh tôi phải loạn. Nay thiên tử vô đạo, trọng nịnh khinh hiền, không lo việc nước lại nghĩ đến điều sắc dục, khiến kén Hậu Phi. Như thế chẳng bao lâu nhà Thương sẽ ly loạn. Còn tôi là tay chân của ngài, đem thân bảo vệ bờ cỏi, sao ngài lại không bênh vực. Nghe lời hôn quân chinh phạt làm gì?

Sùng Hầu Hổ nạt lớn:

- Ngươi là đứa phản thần, tội đáng tru lục. Nay ta vâng lệnh đem binh hỏi tội, lẽ ra ngươi phải bó tay nạp mình, còn cầm đao lên ngựa ra đây đối diện với ta sao?

Dứt lời Hầu Hổ đưa mắt nhìn sang một bên, hỏi lớn:

- Có ai dám ra bắt tên phản tặc đó cho ta không?

Phía tả có một tướng đầu đội kim khôi, mình mang giáp vàng, cỡi ngựa ô, lách ngựa đến trước nói:

- Xin Chúa công để tôi bắt nó cho.

Bên kia, Tô Toàn Trung thấy vậy vỗ ngựa tới hét lớn:

- Đừng phách lối! Ngươi là Mai Võ ta đã biết tài ngươi rồi, chớ hợm hĩnh mà mất mạng.

Mai Võ thấy Toàn Trung cản lại, mặt đỏ ngầu, hét:

- Cha con bây đã phạm tội phản nghịch còn liều lĩnh chống lại binh trời. Ta chắc chắn sẽ không tránh khỏi nạn diệt tộc đó.

Tô Toàn Trung vỗ nhựa múa kích đâm ngang hông. Mai Võ đưa búa ra đỡ. Hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp. Mai Võ bị Toàn Trung đâm một kích trúng ngay yết hầu nhào xuống ngựa.

Tô Hộ thấy con mình đã giết được tướng địch, thừa thắng gióng trống lên. Những viên dõng tướng Ký Châu là: Triệu Bính, Trần Qui Trinh đồng giục ngựa múa đao lướt tới đốc quân hãm chiến. Quân Sùng Hầu Hổ túng thế bỏ chạy, quân Ký Châu chạy theo đâm chém tơi bời.

Rượt quân giặc trên hai mươi dậm, Tô Hộ mới gióng kiểng thu quân, kéo vào thành khao thưởng tướng sĩ, và hỏi:

- Hôm nay chúng ta thắng trận đầu, thế nào Sùng Hầu Hổ cũng sẽ củng cố lực lượng báo thù. Nếu Sùng Hầu Hổ tăng cường các tướng ở các trấn áp đảo Ký Châu ta thì liệu làm sao?

Phó tướng Triệu Bình thưa:

- Việc chinh chiến thắng bại là thường. Vả lại thế chiến không phải một trận là hết. Ngày trước Chúa công đã đề phản thi bất khuất thiên thư, nay lại ra binh giết hại chư hầu, ấy là thế cỡi cọp, không thể xuống được. Theo ngu ý của tôi đã hành động phải dứt khoát, không nên lưỡng lự. Sùng Hầu Hổ vừa thua một trận binh tướng xiểng liểng, ta nên thừa cơ truy kích, đánh cho Sùng Hầu Hổ một trận nữa không còn manh giáp, tiếp đó phải giao thiệp với các trấn chư hầu, lấy nhân nghĩa đối đãi, thu những chư hầu nào có cảm tình với ta dựa thế để làm hậu viện, như vậy mới giữ được Ký Châu này.

Tô Hộ nghe nói khen:

- Ý kiến ngươi rất hay. Vậy phải thực hiện gấp phương pháp đó.

Nói rồi liền sai Toàn Trung lãnh ba ngàn binh ra mai phục nơi trấn Ngủ Cang, cách Tây môn mười dậm để chờ lịnh.

Toàn Trung vội kéo binh ra đi, Tô Hộ lại khiến Trần Qui Trinh làm Tả Chi, Triệu Bính làm Hữu Dực, còn mình lãnh đạo trung quân, đang lúc hoàng hôn cuốn cờ giấu trống người ngậm thẻ, ngựa cất lạc, kéo đi, đợi nghe tiếng súng lệnh thì ba mặt áp vào cướp trại địch.

Còn Sùng Hầu Hổ ỷ mạnh, đem quân chinh phạt xứ xa, chẳng ngờ mới ra trận đầu đã hao binh tổn tướng, lòng hổ thẹn, dẫn một số tàn quân đóng trại nghỉ ngơi, suốt đêm ngồi than thở với các tướng:

- Từ trước đến nay ta chinh chiến đã nhiều, chưa thua trận nào nhục như trận này, đã mất một tướng, lại hao binh quá sức, nay liệu làm sao?

Đại tướng Huỳnh Nguyên Tuế thưa:

- Binh gia thắng bại là chuyện thường, Chúa công chớ lấy thế mà buồn rầu. Tôi dám chắc binh của Tây Bá Hầu nay mai sẽ kéo đến đây, chừng ấy chúng ta hợp binh hai mặt đánh một trận trả thù, lấy Ký Châu rất dễ.

Sùng Hầu Hổ bày tiệc ăn uống giải khuây, rồi vào trướng an nghỉ.

Tô Hộ kéo binh tới, cho quân thám thính dọ xét địch tình, thấy trong dinh quân sĩ đều mỏi mệt ngủ say hết, liền ra lệnh đốt ba tiếng pháo, ba ngả binh xông vào một lượt đánh giết tưng bừng.

Quân Sùng Hầu Hổ loạn lên, đạp nhau mà chạy, người không kịp mặc giáp, ngựa không kịp gác yên, túa ra các cửa trại bị giáo đâm, gươm chém, chết thôi vô số.

Tô Hộ cầm thương cỡi ngựa đi lộn trong quân tìm Sùng Hầu Hổ. Còn Sùng Hầu Hổ lúc ấy đang ngủ say, nghe quân la ó vội ngồi dậy, mang giáp cầm đao, vừa lên ngựa ra khỏi cửa trại đã gặp Tô Hộ lướt tới mắng lớn:

- Hầu Hổ! Ngươi chạy đi đâu? Mau xuống ngựa chịu trói cho rồi.

Dứt lời đâm liền một giáo. Hầu Hổ thất kinh đưa đao ra đỡ, thời may có Sùng Ứng Bưu, Kim Quỳnh và Huỳnh Nguyên Tuế tiếp đến bảo vệ. Bên Tô Hộ cũng có Triệu Bình, Trần Qui Trinh vừa dùa binh đánh đến nơi, trông thấy liền chận ba tướng của Sùng Hầu Hổ lại giáp chiến.

Các tướng đánh nhầu với nhau một lúc, Kim Quỳnh bị Triệu Bình chém đầu. Sùng Hầu Hổ thất kinh không dám cự với Tô Hộ nữa, vừa đánh vừa chạy, nhờ có con là Sùng Ứng Bưu ra sức bảo vệ mới khỏi chết.

Tuy vậy thân xác Hầu Hổ chẳng khác chó nhà hoang, cá lọt lưới chạy thôi giáp mão tơi bời. Thương hại mấy vạn binh của Hầu Hổ chết như rạ, máu chảy thành sông, thây phơi như núi.

Tô Hộ đuổi theo được mười dậm rồi thu binh trở lại. Cha con Hầu Hổ chạy mãi không dám dừng chân. Tiếp đó có Huỳnh Nguyên Tuế và Tôn Tử Võ kéo một mớ tàn quân chạy theo kịp, Cha con Hầu Hổ mới vững bụng thu góp tàn binh, kiểm điểm lại thấy mười phần hao hết phân nửa.

Hầu Hổ than:

- Ta cầm binh tự bấy lâu nay chưa thua trận nào như vậy. Bởi ta khinh Ký Châu là tiểu trấn, không phòng bị nên mới lầm mưu địch. Còn Tây Bá Hầu Cơ Xương thì chắc là không tuân lệnh thiên tử, ngồi ở nhà xem thắng bại thôi. Thật là nhục! Thù này biết bao giờ mới nguôi được?

Sùng Ứng Bưu thưa:

- Quân ta mới thua, uy thế đã nhục lắm rồi. Chi bằng cứ tạm đồn binh nơi đây rồi cho người sang thôi thúc Tây Bá Hầu xem người có ý định như thế nào rồi sẽ tính.

Hầu Hổ nói:

- Con nói như vậy cũng phải. Thôi, cứ để trời sáng sẽ cho người đến Tây Bá Hầu đôn đốc.

Cha con đang đàm luận, bổng nghe tiếng quân ó vang trời, xa xa có một tướng nhỏ, đội mão vàng, giắt hai chiếc lông trĩ, mặc giáp đỏ, cỡi ngựa kim, tay cầm cây kích, mặt tròn tự trăng rằm, môi đỏ như son, bay ngựa tới nạt lớn:

- Sùng Hầu Hổ, ta vâng lệnh phụ thân ta mai phục nơi đây đợi ngươi đã lâu lắm, ngươi không không xuống ngựa bó tay còn đợi đến chừng nào nữa?

Sùng Hầu hổ thấy viên tiểu tướng ấy là Tô Toàn Trung, nổi giận mắng lớn:

- Cha con bay làm phản, Nghịch mạng triều đình, tội chết tày non, dẫu có bầm thây chúng bây đến tan nát cũng chưa đền tội. Ta vô ý nên mắc mưu, chưa phải thắng một trận mà nên công được, chúng bây chớ có vô lễ đón đường chận ngõ, ta e nay mai binh triều kéo đến đây, cha con bây dầu có cánh lên trời cũng chẳng kịp.

Tô Toàn Trung cười ngất:

- Thôi thôi, chớ nhiều lời vô ích, hãy nói chuyện với cây kích của ta đây.

Vừa nói, Toàn Trung vừa vung kích đâm tới. Bên kia Huỳnh Nguyên Tuế lướt ngựa tới cản mũi kích Toàn Trung lại bảo vệ Sùng Hầu Hổ.

Hai tướng đánh nhau chừng vài hiệp, Tôn Tử Võ giục ngựa ra múa chỉa ba đánh giúp với Huỳnh Nguyên Tuế, quyết hạ cho kỳ được Tô Toàn trung. Ai ngờ Tô Toàn trung võ nghệ siêu quần, một mình chấp hai tướng, đánh vùi như mưa Bấc. Đánh chừng hai chục hiệp, Toàn Trung ra miệng hét lên một tiếng, đâm Tôn Tử Võ một kích nhào xuống ngựa. Huỳnh Nguyên Tuế cả giận, vung thương đâm chém rất dữ, nhưng Toàn Trung không thèm đánh với Huỳnh Nguyên Tuế, lướt ngựa tới đâm Sùng Hầu Hổ.

Sùng Hầu Hổ sợ hãi lui ngựa ra sau. Sùng Ứng Bưu vội lướt tới đỡ cây kích của Toàn Trung rồi hiệp lực với Huỳnh Nguyên Tuế cự chiến. Toàn Trung lúc này đánh với ba tướng, nhưng càng đánh càng hăng, không biết mệt, múa kích như mưa bay gió táp.

Đánh được một lúc, Sùng Hầu Hổ bị Toàn Trung chém toẹt một đường đứt nửa áo giáp. Hầu Hổ mất vía quất ngựa chạy dài. Ứng Bưu lúng túng bị Toàn Trung đâm một kích nhắm cánh tay, gần nhào xuống ngựa, may nhờ có Huỳnh Nguyên Tuế bảo vệ mới chạy khỏi.

Tô Toàn Trung đắc thắng, rượt đám tàn quân của Sùng Hầu Hổ chém giết một hồi, thấy trời còn khuya chẳng dám đuổi theo, vội thâu binh về.

Khi Toàn Trung về đến chân thành, trời mới rựng sáng, vội kêu quân mở cửa vào ra mắt Tô Hộ thưa:

- Con vâng lệnh thân phụ mai phục tại Ngủ Cang, đến nữa đêm địch quân chạy đến đó, một mình con chém đứt vạt giáp của Sùng Hầu Hổ, đâm chết Tôn Tử Võ và đánh Sùng Ứng Bưu gần sa xuống ngựa, vì trời tối, sợ có điều gì sơ xuất con không dám đuổi theo, xin phụ thân miễn tội.

Tô Hộ nói:

- Con đã làm chúng nó khiếp vía rồi, như thế cũng đủ, khỏi cần truy kích nữa .
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 3
Xem Thơ Tây Bá Hầu , Tô Hộ Dâng Ðắc Kỷ

Cha con Sùng Hầu Hổ bị thương chạy riết cho đến sáng mới dám dừng lại, kiểm điểm binh mã thấy trong đám tàn quân người nào cũng bị lỗ đầu chảy máu, người thì rách áo cụt tay, không một tên quân nào còn nguyên vẹn.

Binh tướng một đoàn trở thành vô dụng. Nhìn thảm trạng ấy Hầu Hổ thấy lòng đau đớn vô cùng, ngồi than thở mãi.

Huỳnh Nguyên Tuế nói:

- Chúa công hơi đâu than thở? Việc binh thắng bại là thường. Bởi ta sơ ý nên nhằm mưu địch. Vậy Chúa công dừng binh nơi đây, viết thơ thôi thúc Tây Bá Hầu đem binh đến rửa hận. Ký Châu chẳng qua chỉ là một trấn nhỏ, dẫu hùng mạnh đến đâu cũng không chống nỗi binh của thiên triều.

Sùng Hầu Hổ nói lảm nhảm:

- Tây Bá Hầu Cơ Xương không tuân mệnh thiên tử, không chịu đem binh tiếp ứng, ấy là tội khi quân và làm nhục ta. Ta căm hận lắm. Nếu nay ta thôi thúc nó đem binh đến phạt Ký Châu chẳng khác nào ta cứu vớt tội khi quân của nó, và thể diện ta cũng tổn thương.

Mặt Sùng Hầu Hổ lúc đỏ lúc tái, lòng lúng túng chưa biết tính kế gì, thì bổng xa xa có một đoàn quân người ngựa kéo đến đông nghẹt. Hầu Hổ thất kinh vội cầm thương lên ngựa, toan tìm đường chạy.

Nhưng may thay đạo quân này không phải là quân của Ký Châu Hầu Tô Hộ. Cầm đầu là một tướng mặt đen như lọ, râu đỏ như râu tôm, chân mày bạc, con mắt ốc, đầu đội mão da thú, mình mặc giáp liên hoàn, lưng mang đai ngọc, cỡi một con thú mắt lừa tròng vàng, hai tay cầm cặp búa đồng.

Sùng Hầu Hổ thấy tướng ấy thì mừng rỡ reo to:

- A, không phải địch quân. Chính em của ta đem binh đến giúp đỡ.

Thật vậy, tướng ấy là Sùng Hắc Hổ, em ruột của Hầu Hổ, làm Chúa Tào Châu. Các tướng sĩ đều xuống ngựa làm lễ.

Hắc Hổ nói với Hầu Hổ:

- Em nghe anh thất cơ nên đem binh đến giúp, không ngờ lại gặp nhau đây, thật may lắm.

Hầu Hổ thở dài:

- Ngu huynh sơ ý lầm mưu tên phản loạn, bây giờ binh tướng lớp chết, lớp bị thương, còn đánh ai được nữa?

Sùng Hắc Hổ nói:

- Hiền huynh chớ lo. Một mình đạo binh của em đây cũng đủ sức tiêu diệt Ký Châu rồi. Vậy hiền huynh ra lệnh đồng hiệp binh trở lại thành Ký Châu rồi sẽ liệu.

Sùng Hầu Hổ ra lệnh kéo binh trở lại. Hắc Hổ có ba ngàn phi mã nên xông pha đi trước, còn binh mã hai vạn bổ xung vào đội tàn quân của Hầu Hổ kéo theo sau.

Quân thám thính về báo cho Tô Hộ hay:

- Nay có binh của Sùng Hắc Hổ ở Tào Châu kéo đến vây thành.

Tô Hộ nghe nói ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ một lúc lâu, rồi than thầm:

- Sùng Hắc Hổ võ nghệ cao cường, lại có phép tiên, nội thành không tướng nào cự lại. Nay nó kéo binh đến đây biết liệu làm sao?

Hai bên tướng sĩ đều lo lắng. Tô Toàn Trung bước ra thưa:

- Hễ binh đến thì tướng ngăn, nước tràn vào thì lấy đật chận. Một mình Hắc Hổ làm gì nên việc mà phụ thân sợ sệt như vậy?

Tô Hộ thấy con mình nông nỗi nạt lớn:

- Ngươi là đứa hậu sanh, chưa từng trải việc đời, biết gì mà nói. Ngươi tưởng ngươi anh hùng lắm sao? Hắc Hổ là người có học phép tiên, lấy đầu tướng giặc giữa vòng binh như lấy đồ trong túi. Ngươi chớ có khoe khoang mà uổng mạng.

Toàn Trung nói:

- Phụ thân khiếp sợ tài năng của chúng mà quên uy thế của quân ta. Con ra binh trận này, nếu không bắt được Sùng Hắc Hổ quyết không về đây thấy mặt phụ thân nữa.

Tô Hộ nói:

- Thằng phách lối. Ta cho mày ra trận một chuyến cho biết khôn.

Toàn Trung vội nhảy lên ngựa, kéo ba ngàn quân ra trận, kêu lớn:

- Chúng bay vào gọi Sùng Hắc Hổ ra đây cho mau.

Quân trở vào báo với Hắc Hổ:

- Có Tô Toàn Trung mời Chúa công ra nói chuyện.

Hắc Hổ nghĩ thầm:

- Mình kéo quân đến đây không phải để so tài cao thấp mà để gỡ rối việc này. Anh mình nóng nảy, đem quân đánh Tô Hộ là điều thất sách. Nếu có Tô Toàn Trung ra trận thì ta dùng lời phải trái gọi Tô Hộ ra phân giải ắt xong, cởi mở hận thù giữa anh ta với Tô Hộ rất tiện.

Hắc Hổ nghĩ rồi lên ngựa ra trước trại, thấy Toàn Trung đang múa kích mặt giận hầm hầm, thì nói lớn:

- Toàn Trung! Cháu trở về mời phụ thân của cháu ra đây cho chú nói chuyện đã.

Tô Toàn Trung còn nhỏ, chưa hiểu việc đời, lại nghe cha mình khen tài Hắc Hổ là anh hùng, nên không phục, quyết một trận đua tranh, liền lướt ngựa tới mắng lớn:

- Sùng Hắc Hổ, ngươi với ta là thù địch, còn nói chuyện tình nghĩa làm gì? Hãy lui quân về Tào Châu thì giữ được tánh mạng, bằng ở đây giao tranh ắt mất đầu.

Hắc Hổ nổi giận gầm lên một tiếng ;

- Thằng súc sanh, vô lễ!

Toàn Trung múa kích chém liền. Hắc Hổ đưa cặp búa đồng ra đỡ.

Hắc Hổ có tiếng là tay võ nghệ cao cường, lúc nhỏ lại có học được phép tiên về phái Triệt Giáo, bởi vậy lúc ra trận có mang bầu phép sau lưng, biến hóa nhiều lối lạ. Toàn Trung không rõ việc ấy, cậy mình có tài sức, múa kích như bay, quyết bắt sống cho được Hắc Hổ làm nổi tiếng anh hùng với thiên hạ chơi.

Toàn Trung đánh với Hắc Hổ năm mươi hiệp, tài múa kích của Toàn Trung quả vô địch, Hắc Hổ cầm búa đồng đỡ gạt đến toát mồ hôi, hơi thở khò khè, còn Toàn Trung vẫn hăng say không biết mệt.

Thấy vậy Hắc Hổ cũng phải khen thầm:

- Tô Hộ có thằng con xứng đáng quá. Cọp cha sanh cọp con là phải.

Nói rồi quày ngựa bỏ chạy. Toàn Trung ngỡ Hắc Hổ cự không lại, cười ngất nói:

- Nếu mình nghe lời cha mình thì mình đã lầm tên tướng dở này rồi! Có thế mà cũng khoe là dũng tướng. Dù mầy là Hắc hay Bạch Hổ mặc kệ, ta quyết bắt sống đem về lột da để thiên hạ biết danh ta.

Nói rồi giục ngựa đuổi theo rất gấp. Hắc Hổ nghe phía sau tiếng lạc ngựa của Toàn Trung đã đến gần, liền mở nút hồ lô niệm chú lâm râm, tức thì trong hồ lô bay ra một làn khói trắng tua tủa. Trong làn khói trắng ấy hiện ra một con chim ó mỏ sắt, kêu chí choé, bay đến mổ vào mắt Toàn Trung. Toàn Trung thất kinh cầm kích xoay tròn, không cho chim ó mổ mắt mình. Chim ó không xông vào được, liền mổ vào mắt ngựa. Con ngựa đau quá ré lên một tiếng nhãy lồng lên ném Toàn Trung xuống đất.

Hắc Hổ nhảy xuống ngựa, đè Toàn Trung hối quân trói lại dẫn về dinh.

Sùng Hầu Hổ nghe tin thắng trận, vội ra ngoài nghênh tiếp, Hắc Hổ nói:

- Em mới ra quân đã bắt được viên tiểu tướng đem về đó.

Hầu Hổ thấy Toàn Trung, nghiến răng trợn mắt nói:

- Đêm vừa rồi, ngươi đón đường đánh quân ta tại Ngủ Cang, ngươi anh hùng thật. Nay sao lại chịu trói, không tỏ tài anh hùng tao xem thử?

Toàn Trung đứng trợn mắt nhìn Hầu Hổ nói:

- Chúng bay dùng tà thuật bắt ta đâu gọi là anh hùng. Ta tiếc không cầm quân được lâu để bắt chúng bay nhai xương cho đả giận.

Hầu Hổ sỉ sỏ:

- Nay ngươi đã bị bắt, ngươi còn dám vô lễ sao? Cha con ngươi tội đáng tru lục, giờ đây ta chém ngươi trước đã.

Nói rồi liền hô võ sĩ dẫn Toàn Trung ra ngoài xử tử.

Hắc Hổ can:

- Hiền huynh bớt giận. Tội cha con Toàn Trung đáng chết, song cha con nó làm phản triều đình, hiền huynh được ủy thác đến đây vấn tội. Vậy bắt được tội phạm, hiền huynh phải giải về Triều Ca cho thiên tử hành hình, nếu hiền huynh tự tiện giết đi, sau nầy không khỏi tiếng khi quân. Vả lại, con gái Tô Hộ là Đắc Kỷ đang được thiên tử mơ ước, nếu sau nầy Đắc Kỷ được gần gủi thiên tử, xin tha tội cho Tô Hộ, và Tô Hộ lên hàng Quốc thích, quyền hành trong tay, muốn trả thù hiền huynh là chuyện rất dễ. Chúng ta dại gì chuốc lấy oán cừu, mà không có lợi gì cho chúng ta cả?

Sùng Hầu Hổ nghe nói như sáng con mắt lên:

- Hiền đệ định xử trí việc này ra sao?

Sùng Hắc Hổ nói:

- Cứ giam Toàn Trung lại, chờ bắt được Tô Hộ rồi sẽ giải về triều đình cho Thiên Tử xét xử. Chúng ta chỉ tuân lệnh Thánh hoàng thôi không chuốc lấy ân oán làm gì?

Sùng Hầu hổ hậm hực:

- Hiền đệ nói cũng phải. Song chúng nó làm nhục anh mấy lần nơi trận chiến, nếu không trả được thù hận ấy, anh không thể vui được.

Nói rồi truyền đem giam Toàn Trung đợi giải về Triều Ca và truyền dọn tiệc ăn mừng thắng trận.

Bên kia quân sĩ theo Toàn Trung ra trận, thấy Toàn Trung bị bắt vội vã chạy về báo với Tô Hộ:

- Công tử ra binh, rượt Sùng Hắc Hổ chạy một lúc, bị hắn dùng pháp thuật bắt sống rồi.

Tô Hộ nói:

- Ta đã biết trước rồi, thế nào nó cũng không toàn mạng được. Bởi nó ỷ tài, không nghe lời ta nên mới bị bắt đó.

Nét mặt Tô Hộ dàu dàu. Các tướng xúm lại khuyên giải, và xin ra trận để báo thù cho Toàn Trung. Tô Hộ nói:

- Không được đâu! Hắc Hổ là trang dũng tướng, lại có tà thuật hại người. Các ngươi ra đó chẳng khác gì đem trứng chọi đá. Làm một việc biết chắc không thành công thì không nên làm.

Các tướng thưa:

- Dù sao cũng đem hết sức mình chống giặc đã! Chúa công nói như vậy chẳng lẽ chịu đem Ký Châu nầy giao cho địch sao?

Tô Hộ thở dài:

- Việc nầy do ta gây nên. Nay đã lỡ, ta không muốn các ngươi là những kẻ vô tội phải gánh chịu tai ương.

Nói rồi Tô Hộ cấm các tướng không cho ra quân, chỉ truyền kiên thủ thành trì chờ lệnh.

Đêm ấy Tô Hộ ngồi một mình trước long án, ôm đầu suy nghĩ:

- Đem thân tùng phục một kẻ vô đạo là kẻ bất trí, ta không thể làm được. Còn chống lại kẻ vô đạo trong lúc cô thế, làm thiệt hại sinh mạng binh tướng ta không bằng lòng. Ôi, chỉ tại ta sanh con Đắc Kỷ có chút ít nhan sắc, khiến cho hôn quân nghe lời bọn nịnh thần mới sanh chuyện rắc rối như vậy. Bây giờ thế đã cùng, thà ta chịu hy sinh cả gia quyến còn hơn để chúng bắt đem về Triều Ca thêm nhục.

Tô Hộ định giết hết vợ con rồi tự vận cho xong. Vì vậy vào khoảng canh hai đêm ấy, Tô Hộ cầm gươm thẳng đến hậu dinh.

Lúc nầy Đắc Kỷ vẫn chưa ngủ, thấy cha mình cầm gươm vào phòng trong lúc đêm khuya, khép nép thưa:

- Thưa phụ thân, đêm khuya rồi sao phụ thân không an nghỉ, lại xách kiếm vào hậu cung?

Nét mặt vô tư và kiều diễm của Đắc Kỷ làm cho Tô Hộ động lòng. Dù Tô Hộ bực tức đến đâu cũng không thể làm cái chuyện hùm dữ ăn thịt con, huống chi Đắc Kỷ ngây thơ đẹp đẽ như vậy. Tô Hộ nỡ nào giết con cho đành. Hai hàng nước mắt Tô Hộ rưng rưng chảy. Lần đầu tiên, nước mắt kẻ khẳng khái như Tô Hộ hoen ố trước cảnh đau lòng.

Tô Hộ nói:

- Cha cũng vì sanh con ra mà mang họa đó.

Đắc Kỷ hỏi:

- Mấy hôm nay con có nghe triều đình đem binh đến vấn tội cha nhưng chẳng rõ cha đã phạm tội gì với thiên tử?

Tô Hộ bùi ngùi:

- Khí số nhà Thương đã hết, khiến Trụ Vương không lo sửa mình gìn giữ sự nghiệp, nghe lời nịnh thần đam mê sắc dục. Vừa rồi cha vào Triều Ca chầu, hôn quân buộc cha tiến dâng ái nữ, cha không tuân lệnh, nên hôn quân khiến chư hầu kéo quân tới đánh Ký Châu ta. Anh con đã bị bắt, trong thành không ai đủ sức chống lại Sùng Hắc Hổ. Sớm tối cả thành đều bị bắt. Cha tính thà liều mình trước còn hơn để chúng bắt mang nhục.

Đắc Kỷ thưa:

- Chỉ vì con mà cả nước mang khốn như vầy. Thôi để con liều mình cứu nước vậy.

Tô Hộ nói:

- Chết một mình con không cứu được gia đình và tướng sĩ đâu. Chỉ trừ việc con bằng lòng vào triều để thỏa mãn tính dục của hôn quân mà thôi.

Đắc Kỷ nói:

- Như vậy xin cha cứ tiến dâng con vào triều cũng được. Thân con đâu kể gì, miễn thân phụ khỏi tội, nước nhà được bình yên.

Tô Hộ nói:

- Hôn quân vô đạo, sớm tối cơ nghiệp không còn. Nếu đưa con vào đó không khỏi sau này mang tiếng với thiên hạ.

Cha con Tô Hộ vừa nói đến đây thì bên ngoài có tiếng trống báo nguy. Tô Hộ vội xách kiếm ra khỏi hậu cung, đã thấy quân giữ cửa hối hả chạy vào báo:

- Sùng Hắc Hổ công thành rất gấp.

Tô Hộ truyền lệnh các tướng giử chặc bốn cửa thành, dùng cây đá, tên bắn và nước sôi dội xuống không cho địch quân hãm thành.

Các tướng tuân lệnh quan phòng rất gắt. Bên ngoài Sùng Hắc Hổ cũng không có ý hãm thành, chỉ muốn cho mời Tô Hộ ra để đàm luận thôi, nhưng không thấy Tô Hộ ra buộc lòng phải truyền quân công phá. Khi thấy trên thành kháng cự, Hắc Hổ liền thu quân về trại.

Sùng Hầu Hổ thấy em mình không công thành, lại kéo binh về liền vào trướng hỏi thăm:

- Sao hiền đệ không bắt thang lên đoạt thành?

Hắc Hổ nói:

- Trong thành dự trữ tên đạn khá nhiều, nếu đoạt thành sẽ hao binh không ít. Tôi xem thành Ký Châu lương thảo không bao nhiêu, nếu cố thủ cũng chỉ trong vòng một tháng là cùng. Chúng ta cứ đóng quân nơi đây, đợi quân của Tây Bá Hầu tới sẽ tính kế, Còn Tây Bá Hầu không đến, thành Ký Châu một thời gian nữa cũng sẽ thất thủ, không cần phải đánh.

Sùng Hầu Hổ nghe nói cũng an tâm, truyền mở tiệc khao thưởng quân sĩ. Trong lúc đó Tô Hộ không biết tính lẽ nào, phần nóng lòng vì con mình là Tô Toàn Trung bị bắt, sống chết chưa được tin.

Trong lúc lo lắng thì có Trịnh Luân đi giải lương về.

Tô Hộ than:

- Tuy có thêm lương thực nhưng cũng chẳng ăn thua gì, vì thành Ký Châu này nếu không giải vây được, sớm tối quân sĩ phải chết đói hết.

Trịnh Luân vào chầu, hỏi thăm tin tức:

- Tôi nghe Chúa công phản Thương, Hầu Hổ đem binh vấn tội, tôi lo lắng bôn ba về đây. Chẳng hay Chúa công thắng bại như thế nào?

Tô Hộ buồn bã nói:

- Ta vì không phục hôn quân nên hành động như vậy. Nay Hầu Hổ tuân lệnh hôn quân đến đây vấn tội. Ký Châu ta nhỏ bé, cự sao lại binh triều. Ta tính sai sứ sang các nước chư hầu dọ xét ý tình để liên minh chống cự, như thế mới lâu dài được. Ngặc vì Toàn Trung bị Hắc Hổ bắt giử, chưa biết sai ai đi làm công chuyện ấy.

Trịnh Luân nói:

- Hầu Hổ chẳng qua là đứa bất trí, chúa công sợ gì nó? Còn các trấn chư hầu nếu nghe lời hôn quân cùng đến đây một lúc, tôi thiết tưởng chưa chắc đã lấy được Ký Châu một cách dễ dàng. Ý kiến liên minh các chư hầu để chống lại nhà Thương thì cũng phải biểu dương lực lượng chúng ta đã.

Tô Hộ nói:

- Trước kia các tướng cũng đã bàn đến kế sách ấy. Hai trận đầu ta ra binh, đánh Sùng Hầu Hổ không còn manh giáp, sau đó có Sùng Hắc Hổ đem binh đến trợ lực. Hắc Hổ học phép tiên, tài năng vô địch, trong thành không ai dám đương cự, Toàn Trung cũng vừa bị bắt sống.

Trịnh Luân nói:

- Sá gì một Hắc Hổ mà sợ? Tôi từ lâu nay đã được Chúa công hậu đãi ơn ấy chưa đền. Nay nguyện ra binh bắt Hắc Hổ, cứu công tử cho.

Tô Hộ ngạc nhiên nhìn các tướng, nói:

- Hắc Hổ có phép thuật cao cường, nội thành không ai dám ra đánh. Tướng quân có tài gì mà nói như vậy?

Trịnh Luân rút gươm giơ lên trời nói lớn:

- Nếu tôi ra trận mà không bắt được Hắc Hổ xin dâng đầu cho Chúa công để trừng trị những kẻ phách lối.

Nói rồi nhảy lên con thú mắt đỏ tròng vàng, xách cặp thiết tiên, đốt ba tiếng pháo khai thành, dẫn ba ngàn quân ra trước trại địch, gọi lớn:

- Sùng Hắc Hổ? Hãy ra cho ta bảo đây.

Quân vào báo:

- Có một tướng bên Ký Châu dẫn binh đến khiêu chiến.

Sùng Hắc Hổ đang ngồi nghị luận, nghe quân báo liền đứng dậy nói:

- Hiền huynh để em ra trận xem tướng nào dám vô lễ như vậy?

Nói rồi dẫn ba ngàn quân ra khỏi trại, thấy một tướng mắt như tròng táo, râu như rễ tre, đội mão đỏ, mặc giáp vàng, thắt đai ngọc, cũng cỡi thú như mình, liền lướt tới hỏi:

- Tướng nào đó? Tên họ là gì?

Trịnh Luân nói:

- Ta làm chức Đốc Lương, tên Trịnh Luân đây. Có phải tên ngươi là Hắc Hổ, đã bắt sống con trai chủ tướng ta chăng? Nếu biết điều hãy mau trả lại, còn cưỡng mệnh thân xác ngươi sẽ tan như bột.

Hắc Hổ nổi giận mắng:

- Thằng khốn! Đừng phách lối! Chủ mày là Tô Hộ nghịch mạng thiên triều, tội ấy đáng phanh thây. Mày là tôi thần của nó thì cũng liên can, sao chưa chịu quy hàng để bảo tồn tánh mạng, còn dám ra đây múa miệng?

Nói rồi Hắc Hổ giục thú tới, vung búa chém, Trịnh Luân đưa thiết tiên ra đỡ. Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp chưa phân thắng bại. Trịnh Luân thấy Hắc Hổ có đeo hồ lô sau lưng biết là bầu phép, thầm nghĩ:

- Đánh người phải ra tay trước mới được. Trước kia mình có học phép hớp hồn của ông Độ Ách Chơn Nhơn. Nay dùng phép ấy bắt Hắc Hổ đem về nạp cho Chúa công, để Chúa công khỏi khinh ta là vô dụng.

Nghĩ rồi, Trịnh Luân cầm thiết tiên ngoắt ra sau lưng một cái, ba ngàn binh kéo đến như một con rắn dài, người thì cầm câu móc, kẻ cầm dây xiềng, coi như một đoàn quân chuyên việc trói người.

Hắc Hổ lấy làm lạ, nghe trong lỗ mũi của Trịnh Luân có tiếng như chuông ngân, rồi hai đạo hào quang trắng toát bay ra. Hắc Hổ tối tăm mày mặt, nhào xuống đất, hai chân dãy lia lịa. Trịnh Luân truyền quân bắt Hắc Hổ trói lại. Chỉ chốc lát, Hắc Hổ tỉnh hồn coi lại thấy mình mẩy bị trói gò như một con heo sắp được chọc tiết, thất kinh nghĩ thầm:

- Thằng này có phép thuật gì kỳ lạ, bắt mình không hay biết gì hết?

Trịnh Luân gióng kiểng thu quân, dẫn Hắc Hổ vào thành.

Lúc này Tô Hộ đang ngồi trong trướng lo cho số mạng Trịnh Luân không thoát khỏi tay tà thuật của Hắc Hổ.

Bổng có quân vào báo:

- Trịnh tướng quân đã bắt được Hắc Hổ đem về, còn đứng ngoài chờ lệnh.

Tô Hộ ngạc nhiên, không rõ Trịnh Luân làm thế nào bắt được Hắc Hổ, liền đòi vào khen thưởng, và hỏi:

- Hắc Hổ là một dõng tướng, lại học được nhiều phép tiên, tướng quân làm thế nào bắt được nó?

Trịnh Luân kể lại lúc nhỏ mình có học được phép mầu do tiên gia chỉ giáo, và kể lại trận đánh với Hắc Hổ vừa rồi cho Tô Hộ nghe. Tô Hộ mừng rỡ truyền dẫn Hắc Hổ vào bệ kiến.

Quân dẫn Hắc Hổ đến. Tô Hộ liền bước xuống mở trói cho Hắc Hổ, đoạn quỳ trước mặt Hắc Hổ nói:

- Tôi cam thọ tội với thiên tử, không lấy gì đền được. Trịnh Luân không biết nên xúc phạm oai trời, xin hiền đệ rộng dung.

Hắc Hổ thấy Tô Hộ đối đãi với mình như vậy, vội xụp xuống, nói:

- Trước đây anh em ta kết nghĩa, lòng hẳn chẳng quên. Nay ngu đệ đem binh đến đây chỉ cốt gỡ rối mối thù giữa hiền huynh và Sùng ca ca tôi, chớ đâu có ý chinh phạt. Hôm trước, cháu tuổi nhỏ, cậy sức anh hùng, không chịu mời hiền huynh ra cho tiểu đệ nói chuyện, cố ý giao phong nên tiểu đệ phải bắt về cầm tạm để tiện bề đàm đạo với hiền huynh.

Tô Hộ nói:

- Nếu hiền hầu không quên nghĩa cũ, trọn tình như vậy còn gì quý hơn.

Dứt lời Tô Hộ gọi các tướng lãnh của mình ra mắt Hắc Hổ.

Hắc Hổ thấy Trịnh Luân liền kính cẩn nói:

- Trịnh tướng quân tài phép hơn tôi nhiều. Tôi phục Trịnh tướng quân trọn đời.

Bầu không khí rất hòa nhã. Tô Hộ nhường Hắc Hổ ngồi trên, hối quân đem rượu ra cùng uống.

Ấy mới là:

Ngàn chung tri kỷ, rượu còn ít

Nửa tiếng trái tai, lời quá nhiều

Bấy giờ quân của Sùng Hắc Hổ chạy về báo tin cho Sùng Hầu Hổ hay. Hầu Hổ thất kinh nói:

- Em ta phép thuật cao cường vì cớ gì mà bị bắt?

Quân sĩ thưa:

- Trong lúc đang giao chiến, chúng tôi thấy hai đạo hào quang trắng xóa từ trong lỗ mũi Trịnh tướng quân bay ra, tức thì đệ nhị chủ tướng bị sa xuống ngựa và bị quân sĩ Ký Châu bắt trói giải về thành.

Hầu Hổ nghe nói thất kinh, nghĩ thầm:

- Ôi chao, trong đời lại có phép lạ như vậy sao? Nếu Tô Hộ đã có người tài như vậy giúp sức thì binh ta cự sao lại?

Tiếp đó, Sùng Hầu Hổ cho người đi dọ thám tin tức Tây Bá Hầu.

Xảy có quân vào báo:

- Tây Bá Hầu sai sứ giả đến ngoài trại, xin vào ra mắt.

Hầu Hổ trong bụng không vui, nhưng cũng phải mời vào hội kiến.

Sứ thần của Tây Bá Hầu mặc đồ trắng, lưng thắt đai xanh, bước vào thi lễ và nói:

- Tôi là Táng Nghi Sanh, vâng lệnh Tây Bá Hầu đến ra mắt hiền hầu.

Hầu Hổ nóng lòng hỏi:

- Chúa ngươi không tuân lệnh thiên tử, chẳng chịu động binh, nay sai ngươi đến đây một mình để làm gì?

Táng Nghi Sanh thưa:

- Chúa công tôi cho việc binh đao là việc dư, bất đắt dĩ mới phải dùng đến. Nay Chúa công tôi sai đem đến cho Tô hầu một phong thơ, lấy lời hơn lẻ thiệt khuyên Tô hầu dâng con chuộc tội. Nếu Tô hầu nghe theo thì dân chúng khỏi nạn binh đao, quân sĩ khỏi lo chết chóc. Còn Tô hầu cứ khăng khăng một mực, chừng ấy sẽ đem binh vấn tội cũng chẳng muộn.

Sùng Hầu Hổ nghe nói cười lớn:

- Ta đem quân đến vây thành Ký Châu, giao phong mấy trận thế mà Tô Hộ vẫn cứng đầu ra binh đối địch, không kể mạng lệnh thiên tử nữa. Nay chúa ngươi chỉ sai ngươi đem đến một phong thơ, làm sao Tô Hộ chịu dâng con mà chuộc tội? Đó là Tây Bá Hầu đã trái mạng thiên tử, nên mới tìm cách gỡ gạc tội lỗi mà thôi. Ngươi cứ đem thư sang đó xem Tô Hộ có chịu đầu hàng không cho biết.

Táng Nghi Sanh nói:

- Chúa công tôi cho lẽ phải có sức mạnh hơn là gươm giáo.

Sùng Hầu Hổ hiu hiu tự đắc:

- Thì ngươi cứ đem thư đưa cho Tô Hộ rồi sẽ rõ.

Táng Nghi Sanh từ giã Hầu Hổ thẳng đến thành Ký Châu, kêu quân canh bảo vào báo tin.

Lúc đó Tô Hộ đang ăn uống với Hắc Hổ, bổng có quân vào báo:

- Tây Bá Hầu sai người đến trao thơ.

Tô Hộ nói:

- Tây Bá Hầu là người hiền đức, ta không nên đối xử vô lễ.

Nói rồi truyền quân khai thành tiếp sứ. Táng Nghi Sanh bước vào thủ lễ, Tô Hộ hỏi:

- Quan Đại Phu từ Tây Kỳ đến đây có việc gì chỉ giáo chăng?

Táng Nghi Sanh cung kính đáp:

- Trước đây hiền hầu có làm thơ bất phục thiên tử, nhà vua giận sai Chúa tôi đem binh chinh phạt. Nhưng Chúa tôi biết hiền hầu là người ngay thẳng, tánh khí cương trực, nên không dám ra quân, sai tôi đây dâng hiền hầu một bức tâm thư, xin hiền hầu khai phán.

Dứt lời, lấy phong thư dâng lên Tô Hộ.

Tô Hộ thấy trong thư viết như sau:

"Tây Bá Hầu Cơ Xương cúi lạy dưới trướng Ký Châu Hầu. Tôi nghe nói: Người trong một nước đều là tôi của vua. Vua ra lệnh, tôi không dám trái. Nay hiền hầu có một gái đẹp và hiền đức, Thiên tử muốn chọn vào cung, đó cũng là việc phải xưa nay, sao hiền hầu đã nghịch mệnh vua lại đề phản thi trước ngọ môn nữa. Tội đó không thể châm chước được.

Hiền hầu chỉ biết thương con mà quên nghĩa vua tôi. Hiền hầu là kẻ trung nghĩa xưa nay, tôi không nỡ ngồi nhìn thảm họa đất Ký Châu nên tạm gởi vài lời, khuyên hiền hầu đổi họa làm phước.

Nếu hiền hầu dâng con vào đền sẽ hưởng ba điều lợi:

Thứ nhất, con làm hậu phi được vua yêu dấu, cha làm Quốc trượng uy thế lẫy lừng, ăn lộc ngàn chung, vang danh bốn bể.

Thứ nhì, cõi Ký Châu gia quyến an toàn, tướng sĩ không hề bị khổ sở về binh đao.

Thứ ba, nhân dân Ký Châu không vì lòng khẳng khái của hiền hầu mà mang tai họa.

Xin hiền hầu nghĩ lại, phải biết kinh quyền để tránh tai họa. Tôi với hiền hầu cùng làm tôi nhà Thương cả, đã là tôi trong một nước thì lời hơn lẽ thiệt nói cho nhau biết là nhiệm vụ chung, xin hiền hầu đừng chấp nê, xét cho thấu đáo. Tôi đang mong hồi âm".

Tô Hộ đọc xong ngồi làm thinh và gật gù mãi.

Táng Nghi Sanh thấy vậy thưa:

- Chúa công tôi nghĩ tình đồng trào nên không nỡ đem binh lực chinh phạt, đó là một dụng ý tốt, xin hiền hầu nghĩ lại cho ý kiến gấp.

Tô Hộ trao bức thư cho Sùng Hắc Hổ xem và nói:

- Tây Bá Hầu là người hiền đức, lời nói trong thư cũng rất hòa nhã. Người đã vì ta khuyên ngăn điều hơn thiệt, ta lẽ nào không nghe theo sao?

Sùng Hắc Hổ cũng nói:

- Lời nói phải nặng hơn Thái Sơn, hiền huynh cũng nên vì nghĩa lớn bỏ những câu nệ nhỏ nhen.

Tô Hộ quay sang nói với Táng Nghi Sanh:

- Quan Đại Phu về thưa lại với Tây Bá Hầu, tôi sẽ dâng con chuộc tội. Tôi tuân theo lời nhơn nghĩa của Tây Bá Hầu chớ không phải tôi sợ binh lực của Tây Kỳ đâu.

Nói rồi truyền quân mở tiệc thết đãi Sanh Nghi nơi quán dịch.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 4
Giết giai nhân, Hồ Ly mượn lệnh


Hôm sau, Tô Hộ viết thư phúc đáp Tây Bá Hầu và tặng Nghi Sanh một số vàng bạc, nhờ Nghi Sanh về thưa lại cho rành rằng mình đã nghe lời dâng con chuộc tôi.

Nghi Sanh từ tạ ra về, Tô Hộ đưa đón hơn hai dậm đường, rồi trở về nói với Hắc Hổ:

- Chúng mình sống trên tình nghĩa. Tây Bá Hầu đã tỏ lời khuyên giải, chúng mình không lẽ không nghe theo. Thực ra trước đây tôi có chủ trương liên minh với chư hầu chống lại Trụ Vương, nhưng hiện thời ý định ấy không còn nữa.

Sùng Hầu Hổ nói:

- Nếu hiền huynh đã quyết định như vậy thì phải đưa ái nữ vào chầu Thiên Tử cho sớm để khỏi bị cản trở.

Tô Hộ liền truyền lệnh sắm sửa đưa Đắc Kỷ đến Triều Ca. Hắc Hổ nói:

- Việc của hiền huynh như vậy đã xong rồi. Tôi xin trở về thả Toàn Trung ra và bàn với ca ca tôi giải binh, đồng thời làm sớ dâng về triều để hiền huynh tiện bề dâng con chuộc tội. Hiền huynh chớ tính lui tính tới nữa mà hỏng việc.

Tô Hộ nói:

- Tôi có cảm tình với hiền đệ và nặng nghĩa với Tây Bá Hầu lẽ nào tiếc một đứa con gái hay sao? Hiền đệ cứ an lòng trở về, chúng ta còn nhiều ngày gặp gỡ.

Hai đàng chia tay trong luyến tiếc.

Hắc Hổ vừa ra khỏi thành, trở lại đại trại, quân thám thính hay được liền vào báo cho Sùng Hầu hổ hay.

Sùng Hầu Hổ lật đật mời Hắc Hổ vào hỏi:

- Vì sao em về được? Từ khi em bị bắt đến nay anh lo lắng không yên, thường ngày cho người dọ thám, nhưng không nghe tin tức gì cả.

Hắc Hổ nói:

- Tô Hộ chịu dâng con chuộc tội rồi. Chúng ta nên giải binh thôi. Em tuy bị bắt, nhưng Tô Hộ vẫn đối đải tử tế, không sao cả.

Sùng Hầu Hổ nghiến răng hỏi:

- Tô Hộ nghe lời thuyết phục của Tây Bá Hầu rồi sao? Thật đáng ghét. Nó trái lệnh Thiên Tử, nằm ở nhà không tốn một tên quân, chỉ viết một phong thư sai một tên quan quèn đem đến, thế mà được việc, còn ta hao tổn bao nhiêu xương máu mà công lao không thành. Chẳng lẽ bây giờ ta lại giải binh thì nhục nhã quá.

Sùng Hắc Hổ nói:

- Anh thật bất trí. Cùng một chư hầu lớn với người ta, anh ỷ tài đem quân chinh phạt đến nỗi hao binh tổn tướng như vậy, còn người ta chỉ viết một phong thư, không cần mất một mũi tên mà thành công. Anh không biết hổ thẹn sao? Thôi giải binh trở về, đừng nói nhiều nữa.

Sùng Hầu Hổ hậm hực nói:

- Em theo phe bọn chúng, không kể đến tình anh em nữa à?

Sùng Hắc Hổ giận dữ:

- Anh đã làm ô nhục giòng họ Sùng, từ nay em không còn muốn thấy mặt anh nữa.

Dứt lời, truyền quân thả Tô Toàn Trung. Tô Toàn Trung thấy Hắc Hổ tỏ tình như vậy rất mến phục, cúi đầu tạ ơn:

- Chú sanh cháu một lần, cháu coi ơn ấy như trời biển.

Sùng Hắc Hổ nói:

- Cháu về hối thúc phụ thân vào triều chầu vua cho sớm.

Toàn Trung đi rồi, Sùng Hắc Hổ mặt lầm lì kéo quân trở về. Còn Sùng Hầu Hổ lưỡng lự một chút, nhắm bề không xong, cũng giải binh trở lại đất Bắc, làm sớ dâng về triều tạ tội.

Toàn Trung vào thành Ký Châu ra mắt Tô Hộ.

Tô Hộ nói:

- Nay có thư Tây Bá Hầu khuyên giải, cha tính dâng em con cho thiên tử mà chuộc tội để cứu lấy giang san trăm họ. Lẽ nào tiếc một đứa con gái làm khổ nhân dân đất Ký Châu.

Toàn Trung nói:

- Giận là giận hôn quân không lo sửa đức trị dân thôi. Còn cá nhân dù phải hy sinh cũng chẳng hại gì. Nay phụ thân đã quyết định như vậy con đâu dám cãi.

Tô Hộ hỏi:

- Vậy thì con ở nhà quyền trị Ký Châu, sớm tối phải siêng năng chăm lo công việc, đừng sanh sự lôi thôi. Để cha đem em con dâng cho vua xong cha sẽ trở về.

Toàn Trung vâng lệnh. Tô Hộ trở vào hậu cung thuật rõ ý định mình cho phu nhân là Dương thị hay.

Dương thị khóc òa, nói:

- Con gái mình lâu nay chưa từng biết phép tắc triều đình, nay tiến cung biết có điều gì khổ thân không?

Tô Hộ nói:

- Phúc họa làm sao biết trước đưọc. Việc đến đâu hay đến đó, bây giờ đưa Đắc Kỷ vào chầu vua để cứu đất Ký Châu nầy khỏi nạn đao binh đã.

Dương thị khóc mãi, Tô Hộ khuyên giải suốt đêm vẫn chưa nguôi.

Hôm sau, Tô Hộ chọn ba ngàn quân kỵ mã, năm trăm gia thần sắm sửa xe loan, bảo Đắc Kỷ điểm trang lên kiệu ra đi.

Đắc Kỷ nghe dạy nước mắt như mưa, lạy mẹ và anh từ giã bịn rịn hơn nửa ngày chưa ra khỏi cửa. Thế nữ hai bên khuyên dỗ, phu nhân mới chịu rời, bước vào phòng để cho Đắc Kỷ ra đi.

Tô Toàn Trung theo đưa năm dậm mới trở lại. Tô Hộ cỡi ngựa theo sau xe loan, đàng trước trương một cây đại kỳ đề hai chữ "Quí Nhân".

Đoàn ngựa nhắm hướng Triều Ca thẳng tới, trải không biết bao nhiêu khó nhọc, lúc xuống thác, lúc leo gềnh, lặn lội mấy ngày mới đến huyện Qua Châu.

Ngày kia, đoàn người ngựa đến trạm Ân Châu thì trời tối, dịch thừa được tin liền đón tiếp rước vào trạm nghĩ ngơi. Tô Hộ bảo dịch thừa dọn thính đường cho quí nhân nghĩ.

Chẳng dám dấu ngài, trạm nầy hơn ba năm nay có yêu tinh làm lộng, ai đi đường lỡ tối cũng không dám ngủ ở thính đường mà chỉ ngủ ở đại trại thôi. Vậy xin để quí nhân ngủ nơi đại trại mới bình yên vô sự.

Tô Hộ nói:

- Người quý của thiên tử, yêu tinh nào dám phá? Sẵn đây có nhà trạm lại ngủ trong trại coi sao được?

Dịch đường không dám trái mệnh, liền hối bộ hạ quét dọn nhà thính đường, thắp hương cho tan yêu khí, dọn một căn phòng rộng để cho quý nhân ngủ.

Tô Hộ dẫn Đắc Kỷ vào phòng, có năm mươi thế nữ theo hầu hạ, năm trăm gia tướng theo canh cửa, ba ngàn binh mã đóng bên ngoài. Còn Tô Hộ thắp đèn nến ngồi trước nhà khách, nghĩ thầm:

- Chỗ này là trạm dịch, khách qua đường đi lại đông đảo, xung quanh dân chúng cư ngụ rất nhiều, thế mà bảo có yêu quái phá phách thật là chuyện lạ. Tuy nhiên ta cũng nên phòng bị là hơn.

Nghĩ như vậy, Tộ Hộ liền lấy cây roi đuôi beo để trên bàn, rồi ngồi xem sách.

Trời khuya,bên ngoài ánh sao lờ mờ, bốn bề đều yên lặng, chỉ còn một mình Tô Hộ thức mà thôi. Nghe tiếng trống trở canh xa xa vừa điểm. Tô Hộ nghi ngại trong lòng, cầm roi bước vào phòng xem chừng, thấy bọn thế nữ và tiểu thơ đều ngủ im lìm hết. Tô Hộ yên lòng, trở về ngồi xem binh thơ.

Qua một hồi lâu, Tô Hộ nghe trống trở canh hai, không thấy có động tĩnh gì cả. Tô Hộ ngồi xem sách mãi...

Trống canh ba vừa điểm, bỗng có một luồng gió lạnh toát thổi đến, ngọn nến gần muốn tắt rồi tỏ lại. Tô Hộ thấy lòng hồi hộp, toan xách roi chạy xuống phòng ngủ, thì đã nghe có tiếng la của bọn thế nữ hoảng hốt:

- Yêu quái! Yêu quái!

Tô Hộ vội xách roi cầm đèn chạy xuống, nhưng gió thổi tắt đèn, Tô Hộ phải hối quân thắp lên. Lúc xuống đến nơi thì thấy bọn thế nữ run cầm cập không nói ra tiếng.

Tô Hộ vén màn hỏi Đắc Kỷ:

- Con có thấy yêu quái gì không?

Đắc Kỷ thưa:

- Con đang chiêm bao nghe thế nữ la hoảng, còn chờ dậy thì thấy bóng đèn của phụ thân dọi vào, không thấy yêu quái gì cả.

Tô Hộ nói:

- Đội ơn trời phù hộ cho con khỏi giật mình. Thôi con nghỉ đi.

Tô Hộ trở lại nhà khách cho đến sáng. Tô Hộ có biết đâu lúc đèn tắt thì Đắc Kỷ đã bị hồ ly hớp hồn rồi nhập vào xác Đắc Kỷ trả lời với Tô Hộ. Chính hồ ly tinh đã mượn xác Đắc Kỷ báo Trụ Vương sau này mất nước.

Suốt đêm đi tuần không thấy yêu tinh gì hết. Tô Hộ mừng quá tự nhủ:

- Nếu con gái ta đêm nay có bề nào thì không khỏi mang tội với thiên tử.

Thật ra hiện Đắc Kỷ chỉ còn cái xác thôi, phần hồn đã bị yêu tinh chiếm đoạt rồi. Tô Hộ lầm yêu tinh là con mình, thật tội nghiệp.

Sáng hôm sau lên đường, đi suốt mấy ngày đêm nữa mới đến Triều Ca. Tô Hộ truyền quân đóng trại nghỉ ngơi rồi sai người vào thành dâng sớ nhờ Hoàng Phi Hổ vào tâu với Trụ Vương xin dâng con chuộc tội.

Hoàng Phi Hổ bèn cho người mời hai cha con Tô Hộ nhập thành trước, còn quân sĩ thì đóng ở ngoài thành chờ lệnh.

Vưu Hồn, Bí Trọng hay tin Tô Hộ đem con chuộc tội, lại không thấy dâng lễ vật gì với chúng, thầm nói với nhau:

- Tuy đã đem con gái vào triều, nhưng tánh vua hờn giận không chừng, một lời nói của chúng ta cũng đủ làm cho mầy mất mạng đừng tưởng thế là xong. Rồi đây mầy sẽ biết hai đứa tao lợi hại bực nào.

Bấy giờ vua Trụ đang ngự tại đền Long Đức, có kẻ hầu cận vào tâu:

- Có Bí Trọng xin vào yết kiến.

Trụ Vương cho vào. Bí Trọng vào lạy mừng và nói:

- Nay Tô Hộ đem con đến dâng để chuộc tội, hiện còn ở ngoài thành chờ lệnh.

Trụ Vương nổi giận mắng Tô Hộ:

- Đồ thất phu vô đạo. Khi trước nhờ hai khanh bảo tấu, Trẫm mới tha chết đuổi về, nó lại dám đề phản thi ngoài ngọ môn, rồi chống lại binh trời. Tội ấy làm sao dung thứ được. Sáng mai Trẫm sẽ xử tội nó trước mặt triều thần cho rõ tội khi quân.

Bí Trọng tâu:

- Pháp luật đặt ra không phải dành riêng cho ai cả mà để trị chung cho cả nước. Nay Tô Hộ khi quân như vậy, nếu không xử trị thì luật nước đâu còn?

Trụ Vương nói:

- Khanh tâu rất phải. Để ngày mai Trẫm sẽ trừng trị kẻ tôi loàn ấy cho xứng đáng.

Bí Trọng từ tạ lui ra. Hôm sau, Trụ Vương lâm triều, bá quan vào chầu đủ mặt, Hoàng Môn Quan vào tâu:

- Có Tô Hộ xin vào yết kiến, và dâng con chuộc tội.

Trụ Vương cho đòi vào. Tô Hộ mình mặc áo tù, đầu không đội mão, quì lạy trước sân, tâu:

- Kẻ tội nhân đáng chết, xin bệ hạ rộng dung.

Trụ Vương vỗ án hét:

- Tô Hộ! Ngươi đã đề phản thi trước ngọ môn, trọn đời không vào chầu Thương. Sau đó Sùng Hầu Hổ cử binh vấn tội, ngươi còn dám ra binh sát hại binh triều, nay ngươi còn vào đây làm gì.

Dứt lời, hối võ sĩ dẫn Tô Hộ đem ra pháp trường xử trảm để bêu đầu răn chúng.

Quan Thừa Tướng Thương Dung quỳ tâu:

- Tô Hộ phản Thương, tội rất nặng. Song trước kia bệ hạ vì muốn chọn Phi Hậu mà làm Tô Hộ lỗi đạo. Nay Tô Hộ đã biết ăn năn, dâng con hối lỗi, tưởng bệ hạ cũng nên rộng lòng dung tha.

Bí Trọng cũng quỳ tâu:

- Xin bệ hạ truyền đòi Đắc Kỷ vào chầu, nếu Đắc Kỷ xinh đẹp, bệ hạ dùng được thì hãy xá tội cho Tô Hộ. Còn nếu Đắc Kỷ dung nhan không đẹp ý, bệ hạ sẽ truyền giết cả hai cha con cũng được.

Trụ Vương khen phải, liền truyền Đắc Kỷ vào chầu. Đắc Kỷ được lệnh, bước tới trước ngai vàng quỳ lạy.

Vua Trụ trông thấy Đắc Kỷ tóc mai da tuyết, mắt phụng má đào, lưng nhỏ dịu dàng, mày xanh tiên tuế, ngón tay như mũi viết, da mặt tợ phù dung, trong lòng mê mẩn.

Làn môi son hé mở, đôi mắt phụng liếc rất tình tứ, Đắc Kỷ tâu:

- Tôi là con kẻ phạm tội xin vào chầu, chúc Thánh hoàng vạn tuế.

Vua Trụ vừa trông thấy dung nhan lạnh lùng, lại thêm tiếng nói thanh tao như chim hót, trong người có một cảm giác đê mê, không thể nào nói được. Ngồi chết điếng một lúc mới mở miệng truyền gọi bọn cung phi:

- Chúng bay hãy mau dẫn Tô nương nương đến lầu Thọ Tiên đợi Trẫm.

Đắc Kỷ theo bọn cung phi bước vào khuất bóng sau rèm, đôi mắt nhà vua vẫn còn say sưa.

Giây lát, Trụ Vương phán:

- Tô Hộ đã biết hối cải, dâng con chuộc tội, Trẫm xóa bỏ hết lỗi lầm. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, Trẫm gia phong cho Tô Hộ thêm chức Quốc Thích, truyền mở tiệc nơi đền Hiển Khánh ba ngày để bá quan văn võ từ chức Thừa Tướng trở xuống đều đến đó làm lễ chúc mừng Quốc Thích. Xong tiệc, các quan đưa Quốc Thích dạo khắp Triều Ca, để cho dân chúng hoan hỷ, và sau đó hai quan văn, ba quan võ đại diện Trẫm đưa Quốc Thích về nước.

Tô Hộ cúi lạy tạ ơn. Trụ Vương liền bãi triều, lui về hậu cung.

Các quan triều thần thấy Trụ Vương đam mê sắc dục như vậy có ý không bằng lòng, nhưng vì Trụ Vương bãi triều quá sớm, không thể cản ngăn, đành trở lại đền Hiển Khánh để cùng các quan dự yến chúc mừng Tô Hộ.

Vua Trụ về cung Thọ Tiên ăn uống vui vầy với Đắc Kỷ, đêm ấy loan phụng giao hòa rất tương đắc. Ý tình gắn bó như keo sơn.

Từ khi Đắc Kỷ vào cung, vua Trụ ngày thì mở tiệc ăn chơi, tối đến vui riêng trong cung cấm, bỏ phế việc triều nghi, không hề để mắt đến những lời sớ của các quan nữa. Có ai vào xin ra mắt, vua Trụ cũng không cho.

Ngày qua tháng lại như thoi đưa, thì giờ đối với kẻ si mê sắc dục chẳng khác bóng câu qua cửa sổ. Loáng mắt đã hai tháng trời, vua Trụ không một lần ngự triều, cứ ở mãi trong cung Thọ Tiên vui riêng với Đắc Kỷ. Bá quan dâng sớ chất đống cao ngập đầu, vẫn không thấy mặt rồng đâu hết. Như vậy lấy ai nghị việc?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 5
Làm Bào Lạc Trụ Vương hại tôi trung


Vua Trụ truyền đốt gươm phép xong, Đắc Kỷ lần lần tỉnh lại sắc diện trở nên xinh đẹp như thường.

Trụ Vương vuốt ve, yêu ấp suốt đêm chẳng hề nhắm mắt.

Đến khi sức khỏe Đắc Kỷ đã bình phục. Trụ Vương trở lại ăn chơi như cũ.

Bấy giờ Vân Trung Tử chưa về núi, còn ở chốn Triều Ca, thấy yêu khí bỗng nhiên từ trong cung xông lên nữa, lấy làm lạ đánh tay tính quẻ một hồi rồi gật đầu thầm nhủ:

- Ta muốn đem gươm báu trừ yêu khí, giúp cơ nghiệp Thành Thang một thời gian nữa nào ngờ số trời đã định, khó nổi đổi dời, nên khiến gươm tùng bị đốt. Như vậy nhà Thương hết vận nhà Châu ra đời, thần tiên sẽ bị nạn. Ôi đã mất công xuống trần một phen lại không làm nên việc. Tiện đây ta cũng nên viết ít chữ để lại cho người đời sau thấy.

Nghĩ rồi lấy viết đề lên bức tường đài Tư Thiên hai mươi bốn chữ như vầy:

"Yêu phong uế loạn cung đình. Thánh đức bá vương Tây thổ. Yết trí huyết nhiễm Triều Ca. Mậu ngủ trung giáp tý "

Nghĩa là: "Khí yêu quấy rối cung càn. Thánh đức bủa giăng hướng dậu. Muốn hay máu nhuộm Triều Ca. Giáp tý trong năm Mậu ngũ ".

Đề thơ xong, Vân Trung Tử lui về núi. Thiên hạ thấy đạo sĩ đề thơ xúm lại xem, nhưng không hiểu ý.

Nhiều người tự cho mình là hay chữ, vây quanh đông nức, xem mãi vẫn không tìm ra được ý thơ.

Bấy giờ có quan Thái Sư coi việc thiên văn là Đổ Nguyên Tiến ở triều về, thấy dân chúng xúm lại bên vách Đài Tư Thiên liền hỏi:

- Chuyện gì dó vậy?

Quân canh bẩm:

- Ông đạo sĩ đề thơ trên vách, nên dân chúng xúm nhau xem.

Đổ Thái Sư ngồi trên ngựa thấy hai mươi bốn chữ, ý rất xa xôi xem qua khó hiểu, liền truyền quân đem nước rửa đi, đoạn về dinh ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra đưọc dụng ý.

Qua mấy ngày chiêm nghiệm, Đổ Nguyên Tiến nghĩ thầm:

- Đây chắc là đạo sĩ dâng gươm đã đề như vậy. Theo ý đạo sĩ thì trong cung yêu khí xuất hiện. Còn ta xem thiên văn lại thấy hung tinh ứng ở cung Càn, ắt việc chẳng lành.

Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, bỏ phế công việc trong triều, sớm tối thể nào cũng xảy ra đại họa. Ta làm tôi hưởng lộc nước đã hai triều, lẽ nào trong lúc lâm nguy khoanh tay ngồi ngó, không một lời can gián sao? Ta xem văn võ trong triều ai nấy đều lo sợ, buồn bực vô cùng, sẳn dịp này ta viết một tờ sớ khuyên vua, may ra giúp ích được gì chăng?

Nghĩ như vậy, Đổ Nguyên Tiến nội đêm ấy viết sớ cho xong.

Sáng hôm sau, Đổ Nguyên Tiến đem vào đưa cho Thừa Tướng Thương Dung, và nói:

- Tôi xem thiên văn thấy hung tinh xâm phạm cung Càn, còn bệ hạ vui say tửu sắc, bỏ bê việc triều chính, họa đến chẳng xa. Tôi làm sớ này dâng lên bệ hạ, xin Thừa Tướng chuyển dùm.

Thương Dung nói:

- Thái Sư đã dâng sớ lẽ nào tôi không chuyển đạt, ngặt vì mấy hôm nay bệ hạ không lâm triều, các quan không ai được thấy mặt, chỉ có cách là tôi phải mạo hiểm vào cung cấm mà dâng mới xong.

Đổ Nguyên Tiến nói:

- Đó là bổn phận của Thừa Tướng, làm sao cho Thiên tử hối cải, chúng ta là tôi thần, dẫu có bị sấm sét, búa rìu chút ít mà xã tắc được yên thì cũng cam.

Thương Dung vội từ tạ Nguyên Tiến đi thẳng vào cung cấm. Qua khỏi chín căn đền lớn, đi ngang qua đền Long Đức, đến đền Hiển Thánh, đến Tỉ Thiện rồi đến Phấn Cung lầu.

Thương Dung ra mắt quan Phụng Ngự, nói:

- Tôi có việc cần xin vào bái yết hoàng thượng.

Quan Phụng Ngự nói:

- Thọ Tiên là cung cấm, chổ Hoàng thượng an nghỉ, các quan ngoài không vào được đâu.

Thừa Tướng Thương Dung nói:

- Ta làm Thừa Tướng há chẳng hiểu luật triều đình sao? Chẳng qua là Thiên tử không lâm triều, ta có việc cần nên phải đem thân đến đây. Ngươi mau vào tâu với Thiên tử có Thừa Tướng Thương Dung đang đứng chầu ngoài cửa.

Quan Phụng Ngự không dám cãi lời, vội vào tâu.

Trụ Vương phán:

- Thừa Tướng Thương Dung có việc gì cần thiết phải vào nội cung chầu Trẫm kìa? Tuy Thương Dung là tôi bên ngoài, nhưng phò tá nghà Thương đã ba trào, lại già cả, cho vào chầu cũng được.

Quan Phụng Ngự liền trở ra truyền đòi Thừa Tướng vào.

Thương Dung vào quỳ trước long sàng.

Trụ Vương hỏi:

- Thừa Tướng có việc gì khẩn cấp mà phải vào cung cấm chầu Trẫm?

Thương Dung tâu:

- Có Thái Sư Đổ Nguyên Tiến xem thiên văn thấy yêu khí ẩn trong cung, tai họa tới không lâu. Bởi vậy có làm sớ nhờ tôi dâng đến bệ hạ. Đổ Nguyên Tiến là tôi già, tay chân của bệ hạ không nỡ ngồi nhìn cơ nghiệp điêu tàn, xin bệ hạ xét lại, chăm lo mối nước để trăm quan được vui vẻ, dân chúng nhớ đức phụng thờ.

Nói rồi hai tay dâng sớ lên.

Trụ Vương giở ra xem, trong sớ viết đại lược như sau:

"Tôi là Đổ Nguyên Tiến, coi đài thiên văn, vì nhiệm vụ cúi trình qua Thiên tử mấy lời tâm huyết. Tôi nghe nói: nước nhà thịnh thì có điềm lành, nước nhà lâm nguy thì sanh loài yêu nghiệt. Tôi xem đài thiên văn thấy điều bất lợi, khí yêu quyện nơi đền vua, hơi ngút nơi cung cấm. Bởi bệ hạ đốt mất gươm thiêng, nên khí yêu tái hiện nơi hoàng cung, nếu khí ấy lên đến Đẩu Ngưu thì tai ương rơi vào xã tắc.

Thần trộm nghĩ: Từ ngày Tô Hộ dâng con đến nay, ngai vàng bụi đóng, mối nước buông lòng, sân chầu cỏ mọc xanh um, trước thềm rêu phong màu lục. Trăm quan hết sức mong chầu chực, việc nước không kẻ ngó ngàng. Tôi không thấy mặt rồng, chúa vẫn vui đùa tửu sắc, khác nào mây che mặt nguyệt, khói tỏa cung thềm, đàn sáo quen tai, vua tôi lạ mắt. Biết chừng nào chầu chực như xưa, thái bình như cũ.

Nay tôi chẳng từ rìu búa, không ngại dữ lành, lòng lo cho nước non, quên mình mang tội, nếu bệ hạ nghe tiếng phải, thấy điều ngay thì trăm họ rất mang ơn ".

Vua Trụ xem xong cho lời Nguyên Tiến là phải, song nhớ lại chuyện đạo sĩ Vân Trung Tử tặng gươm trừ yêu, suýt hại mạng mỹ nhân, thì nổi giận, nói:

- Sớ này cũng nói đến chuyện yêu mị chẳng khác tên đạo sĩ trước kia. Thật là chuyện rắc rối.

Liền quay qua hỏi Đắc Kỷ:

- Trong sớ, Đổ Nguyên Tiến cũng nói yêu mị trong cung là tại sao vậy?

Đắc Kỷ quỳ tâu:

- Ngày trước,Vân Trung Tử là một gã yêu đạo bày chuyện dối vua, khiến muôn dân nghe việc ấy mà loạn động, tư tuởng không an. Nay Đổ Nguyên Tiến làm chức Thái Sư tại triều mà cũng cùng một hành động dối vua như tên yêu đạo đó nữa thì dân chúng sẽ đảo huyền, lòng người xao loạn. Yêu mị ở Triều Ca chính là bè lũ mị chúa ấy, xin bệ hạ truyền chém hết những ai có ý mê hoặc như vậy mới giữ gìn xã tắc được.

Trụ Vương nghe Đắc Kỷ nói, mặt đỏ bừng, quay lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:

- Tô mỹ nhân luận rất phải. Yêu mị đó chính là bọn theo phe yêu đạo, mê hoặc lòng dân, gây mầm phản loạn. Đổ Nguyên Tiến tuy là tôi già song tội không thể dung tha.

Liền truyền lệnh chém Đổ Nguyên Tiến bêu đầu để răn chúng.

Thừa Tướng Thương Dung nghe lệnh liền quỳ xuống can:

- Đổ Nguyên Tiến là tôi ba đời, tuổi cao tác lớn, lâu nay trải mật, gìn giữ lòng son, khuông phò xã tắc, sớm lo trả ơn vua, tối lo đền xã tắc. Việc bất đắt dĩ nên phải nói, bệ hạ nỡ giết đi sao đành? Chỉ vì lời can gián của Thái Sư mà bệ hạ đem giết. Thái Sư dẫu chết cũng được tiếng trung thần, song tôi e bệ hạ không khỏi mang tiếng gièm pha, trăm quan bất bình nổi loạn. Xin bệ hạ nghĩ lại tha tội cho Thái Sư kẻo oan.

Trụ Vương nói:

- Thừa Tướng không hiểu việc này. Bởi tên yêu đạo mị dân, khi vua, buông lời huyền hoặc Thái Sư lại cũng một phe với nó, làm cho lòng dân đảo huyền, nếu không chém Thái Sư Đổ Nguyên Tiến thì không thể trấn an thiên hạ được.

Thương Dung quỳ tâu mãi, nhưng Trụ Vương nhất định không nghe, hối thúc quan thái giám đuổi Thương Dung ra ngoài và truyền chỉ chém Đổ Nguyên Tiến tức khắc.

Thương Dung nhất định không chịu ra về, Trụ Vương phải sai hai quan thái giám khiêng Thương Dung bỏ ra ngoài cửa cung rồi đóng cửa lại.

Thương Dung bất đắc dĩ phải dứng dậy lễnh mễnh trở ra, về đến nhà ngự thư thấy Đổ Nguyên Tiến râu tóc bạc phơ, đôi mắt chứa chan hy vọng, đang đợi Thương Dung

Thương Dung nhìn mặt Đổ Nguyên Tiến chua xót vô cùng.

Thì ra Đổ Nguyên Tiến bị vua truyền chém đầu răn chúng mà Nguyên Tiến vẫn chưa biết, còn hy vọng ở lời sớ của mình có thể sửa đổi được lòng vua.

Đổ Nguyên Tiến thấy Thương Dung liền hỏi lớn:

- Sao? Thừa Tướng đã dâng sớ của tôi lên Thiên tử rồi chứ?

Thương Dung buồn bã nói:

- Bệ hạ xem sớ rồi, nhưng….

Đổ Nguyên Tiến còn đang ngơ ngác thì đàng sau một tốp võ sĩ và một quan thái giám bước đến đọc tờ chiếu chỉ của Trụ Vương:

"Đổ Nguyên Tiến khi quân dối vua, lừa gạt dân chúng, tội đáng chém đầu, nay xử theo phép nước ".

Quan thái giám đọc chiếu xong, võ sĩ áp lại trói Đổ Nguyên Tiến dẫn ra pháp tràng.

Nhưng mới dẫn đến cầu Cửu Long xảy gặp một viên quan Đại Phu mặc áo rộng đỏ, trông thấy cản lại hỏi:

- Đổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ truyền chém?

Đổ Nguyên Tiến thấy quan Đại Phu ấy là Mai Bá, một kẻ trung thần xưa nay có tiếng, liền chắc lưỡi than:

- Thiên tử ham mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh, tôi làm sớ khuyên can Thiên tử lại cho tôi là đồng đảng với đạo sĩ hôm nọ, tìm lời ủy mị để dụ lòng dân làm loạn, nên truyền chém đầu tôi để răn chúng. Vua đã bảo chết, đạo làm tôi đâu dám trái, chỉ thương hại cơ nghiệp Thành Thang xây dựng bao nhiêu đời, nay vì sắc đẹp mà tiêu theo mây khói. Ôi, chắc quan Đại Phu cũng thấy như tôi, đời người chỉ là tai ương thảm họa, công danh chỉ là mây bay, đời đã vậy còn luyến tiếc gì sự sống nữa.

Mai Bá xua tay bảo đao phủ thủ hãy khoan hành quyết Nguyên Tiến, để mình đến trước mặt vua minh oan đã.

Dứt lời mai bá hối hả chạy vào đền, bỗng gặp Thừa Tướng Thương Dung mặt buồn dàu dàu, đang đứng nhìn sững về phía pháp trường, Mai Bá hỏi:

- Thừa Tướng ơi, Đổ Thái Sư bị tội gì mà bệ hạ đem giết?

Thương Dung nói:

- Thái Sư dâng sớ can vua, bệ hạ nghe lời Tô mỹ nhân bắt tội Thái Sư. Tôi hết lời can gián, nhưng bệ hạ không nghe, biết làm sao?

Mai Bá nghe nói nổi xung:

- Thừa Tướng nói sao lạ vậy? Bổn phận ông coi về chuông vạc, sửa chữa âm dương, thấy nịnh thì trừ, gặp gian thì giết, khen kẻ giỏi, tiến người hiền. Vua phải thì làm thinh, vua trái thì can gián. Nay Thiên tử nghe lời nữ sắc, giết hại tôi hiền, Thừa Tướng không dám mở lời cản ngăn, ấy là tham sống sợ chết, lánh tội tiếc thân, như vậy đâu phải bổn phận một vị Thừa Tướng?

Thương Dung buồn bã nói:

- Quan Đại Phu chớ trách tôi như vậy. Bệ hạ không nghe thì còn biết làm sao?

Mai Bá quay lại nạt bọn đao phủ thủ:

- Hãy khoan khai đao, đợi ta và Thừa Tướng vào cung xin tội cho Thái Sư đã.

Nói rồi nắm tay Thương Dung dắt đến cung Thọ Tiên, vào thẳng Phấn lầu, quỳ mọp dưới đất.

Quan thái giám trông thấy vào tâu:

- Có quan Thừa Tướng và quan Đại Phu Mai Bá xin vào yết kiến.

Trụ Vương nổi giận nói:

- Như quan Thừa Tướng già nua, đã ba đời phò chúa thì vào được còn Mai Bá sao dám đương nhiên vào đây.

Liền dạy cho Thương Dung vào, và đuổi Mai Bá đi. Mai Bá nhất định không chịu, khiến cho thái giám không thể nào đuổi được. Thừa dịp Thương Dung vào chầu, Mai Bá cũng theo quỳ một bên.

Trụ Vương trông thấy hỏi:

- Mai Bá, ta không truyền đòi ngươi vào, sao ngươi vào đây?

Mai Bá tâu:

- Lâm triều là nhiệm vụ của bệ hạ, chầu chực để nghe dạy việc là phận làm tôi.

Trụ Vương mắng:

- Ngươi không hiểu luật triều đình, vào cung cấm là phạm tội sao?

Mai Bá tâu:

- Hạ thần đã hiểu, nhưng hạ thần là tôi của bệ hạ. Làm tôi phải đến chầu vua, nếu không biết vua ở đâu mà chầu thì hạ thần còn biết làm tôi với ai? Nếu bệ hạ ngự triều xét việc thì hạ thần không phạm tội vào cung cấm.

Trụ Vương thấy Mai Bá nói dằng dai bực mình hỏi:

- Ngươi vào đây có việc gì?

Mai Bá tâu:

- Xin quỳ nghe lời chỉ giáo của bệ hạ.

Trụ Vương nói:

- Ta không có việc gì cần đến ngươi cả. Hãy ra ngoài mau.

Mai Bá nói:

- Nếu bệ hạ không có việc gì sai khiến thì hạ thần xin hỏi bệ hạ Đổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ đem giết?

Trụ Vương nói:

- Đổ Nguyên Tiến đồng mưu với yêu đạo, đặt chuyện làm cho lòng dân rối loạn, không phân biệt chánh tà. Một vị đại thần đáng lẽ lo trấn an bá tánh thì lại gây hoang mang trong triều, Trẫm hành hình là đáng lắm, tại sao không tội.

Mai Bá nói lớn:

- Tôi nghe các bậc minh quân ngày xưa trị dân theo khuôn phép, nghe lời phải của trung thần, hằng ngày ngự triều lo việc, quên cả ăn ngủ, như thế mới gây được cơ nghiệp, giữ vững được mối nước. Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, sáu tháng không ngự biết gì đến chánh lệnh, thế mà có người dâng sớ can gián lại bị bệ hạ chém đầu răn chúng, thì hạ thần thiết nghĩ không biết bệ hạ răn như thế nào? Vua cũng như một tòa nhà, tôi trung như rường cột. Nếu bệ hạ chặt bỏ hết rường cột thì tòa nhà làm sao đứng vững. Xin bệ hạ xét lại, tha tội cho Đổ Thái Sư để khỏi làm phật ý trăm quan, và thiên hạ trông thấy cảm đức.

Vua Trụ bị Mai Bá nói một hồi bực mình hét:

- Nghịch thần! Đã trái lệnh vào cung còn lắm miệng, già mồm. Tội ngươi thông đồng với Nguyên Tiến đáng xử trãm, song Trẫm nghĩ ngươi là tôi có công, nên truyền cách chức Đại phu, không dùng ngươi nữa.

Mai Bá ré lên:

- Hôn quân, ngươi nghe lời Đắc Kỷ bỏ đạo vua tôi. Nay bệ hạ chém đầu Đổ Nguyên Tiến chẳng khác nào chém đầu tất cả bá tánh nơi Triều Ca này. Tôi bị cách chức không hại gì, công danh như mây khói, tôi không màng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang gây dựng mấy đời vì hôn quân hám sắc mà đổ nát. Bởi Thái Sư Văn trọng mắc dẹp loạn Bắc phương nên hôn quân mới vứt bỏ lề luật, u ám như vậy. Mai Bá này chết xuống suối vàng vẫn còn xấu hổ không dám nhìn thấy mặt tiên quân.

Trụ Vương bị Mai Bá mắng giận lắm, truyền võ sĩ bắt Mai Bá đem ra pháp trường lấy dùi đồng đập cho nát đầu để làm gương.

Đắc Kỷ quỳ tâu:

- Xin bệ hạ tạm hoãn lại đạ.

Trụ Vương hỏi:

- Loạn thần mắng vua như thế, mỹ nhân còn can gián làm gì?

Đắc Kỷ tâu:

- Làm tôi mà đứng trước đền trợn mắt, nhíu mày, dùng lời lẽ sỉ mắng vua như vậy thì dù có đập nát đầu cũng chưa đền tội được. Xin bệ hạ truyền cầm tù Mai Bá một đôi ngày để thần thiếp chế ra một dụng cụ hành hình, làm cho những kẻ nghịch thần trông thấy khiếp vía thì sau này mới trấn áp được những kẻ ngông cuồng như Mai Bá.

Vua Trụ hỏi:

- Mỹ nhân định chế ra dụng cụ gì?

Đắc Kỷ tâu:

- Vật ấy gọi là Bào Lạc, hình thù như cây cột đồng, bề cao 29 thước, bề tròn 8 thước, có khoét ba cái miệng đựng lửa than. Cột đồng ấy đúc bằng đồng lọc. Lúc muốn hành hình một tội nhân thì quạt lửa cho cột đồng đỏ lên, rồi trói tội nhân lại dí vào đấy, tức thì xương thịt tội nhân cháy thành tro trong nháy mắt. Thần thiềp nghĩ rằng không dùng hình phạt như vậy thì không sao trừ được những kẻ già mồm miệng, những tôi thần phản nghịch mắng vua, không kể pháp luật.

Trụ Vương khen:

- Lối trừng phạt của mỹ nhân quả xứng đáng. Vậy mỹ nhân vẽ kiểu để truyền quân sĩ làm Bào Lạc cho gấp.

Nói rồi truyền dẫn Mai Bá đem nhốt ở thiên lao, chờ ngày hành tội.

Thương Dung thấy Vua Trụ nghe lời Đắc Kỷ làm Bào Lạc hại tôi trung để ở trước cung Thọ Tiên thì nghĩ thầm:

- Nay nước nhà gần mất, vua nghe lời của yêu mị không kể gì đến tình vua tôi nữa. Ta những tưởng có thể khuyên can để cải hóa Cửu Trùng, ngờ đâu càng ngày vua càng thiếu đức, nếu ta còn góp mặt ở triều đình thì cũng chì làm bù nhìn cho hôn quân, chẳng ích gì cho dân chúng nữa. Chẳng thà lánh mặt đi là hơn.

Nghĩ rồi vào tâu với Vua Trụ:

- Nay thiên hạ thái bình, nước nhà thạnh trị, tôi tuổi tác đã già, lẩm cẩm không giúp ích được việc gì cho bệ hạ nữa, nếu cứ mãi ở địa vị cao sang mà không tròn trách vụ, e mắc tội với triều thần, vậy xin được phép đem nắm xương tàn về thôn dã, cởi áo mão gửi lại, nhường cho kẻ tài ba. Hạ thần làm tôi đã ba trào, tài hèn đức mọn, không bị quở trách cũng là ơn lắm rồi.

Vua Trụ nói:

- Khanh tuy tuổi đã cao, nhưng sức còn mạnh, lẽ nào bỏ Trẫm mà về quê hưởng thú thanh nhàn.

Thương Dung nói:

- Bệ hạ cho thần cáo hưu về xứ, nếu còn sống được ngày nào cũng ước mong được thấy mặt trời Nghiêu, ơn đức ấy còn gì hơn.

Trụ Vương nói:

- Khanh là tôi có công mấy đời với nghiệp đế chưa hề bị lầm lỗi điều gì. Nay ý khanh đã quyết, Trẫm đâu dám làm phật ý.

Liền sai hai vị thái giám dùng lễ vật đưa Thương Dung về quê, truyền quan sở tại phải ân cần thăm viếng Thương Dung luôn để tỏ tình tôi chúa.

Bấy giờ các quan nghe tin Thừa Tướng Thương Dung trả chức về hưu đều mến tiếc.

Có người cho Thương Dung hèn nhát, gặp lúc quốc gia nguy vong không đem thân cứu nước, trốn tránh nhiệm vụ, tìm lẽ sống riêng.

Có kẻ cho hành động Thương Dung là một hành động phản đối Trụ Vương, mong cho Trụ Vương thấy đó mà hồi tỉnh lại. Tuy vậy, không ai dám nói ra.

Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Điển và các vị thân vương đồng họp nhau làm tiệc nơi Trường Đình để tiễn hành.

Tỉ can hỏi Thương Dung:

- Hôm nay Thừa Tướng hồi hương, chúng tôi ai cũng bùi ngùi cảm mến. Đã ba trào vua, Thừa Tướng là người đứng đầu trong nước, giúp chúa trị dân, nay nỡ nào đành bỏ cơ nghiệp Thành Thang, bỏ cả bạn hữu đồng triều, lánh mặt về quê hưởng riêng một thú?

Thương Dung rươm rướm nước mắt nói:

- Xin các vị vương thân chớ chê trách. Tôi dẫu phải nghiền xương đền nợ nước cũng không dám từ nan. Ngặt nay chúa thượng nghe lời Đắc Kỷ chế hình Bào Lạc hại trung thần. Một hình phạt rất dã man tàn nhẫn, tôi không thể can gián nổi. Nghĩ mình tài hèn trí mọn, không xứng ngồi ghế Thừa Tướng trong lúc này, nên cởi áo từ quan ước mong có một kẻ nào đủ tài đức, cứu vãn được cảnh tai ương này, lên thế tôi cầm quyền chính, giác ngộ thánh hoàng, thì cơ nghiệp Thành Thang mới có cơ bền vững, bằng không nước nhà ly loạn không lâu. Tôi từ chức là vì lẽ đó, chớ đâu dám trốn tránh nhiệm vụ, nuôi dưỡng tấm thân yếu hèn nầy làm gì. Hôm nay các ngài làm tiệc tiễn hành, nhưng chẳng may nước nhà vẫn không thoát khỏi cơn khói lửa thì những ly rượu nầy vẫn là những ly rượu hẹn ngày tái ngộ trong phút lâm chung, xin các ngài hiểu lòng tôi như vậy.

Nói rồi tay bưng rượu, miệng ngâm bài thơ:

Cảm nghĩa đưa nhau rượu một chung

Trrường đình giả bạn tủi khôn cùng

Nghoảnh đầu trông lại thành hai kiếp

Về ruộng cầu mong vững chính trùng

Nhật đỏ không tiêu danh Hạ, Kiệt

Lòng son khó nhuộm máu Long, Phùng

Tỏ lời lệ nhỏ hòa chun rượu

Mong thuở về trào viếng bạn trung

Ai nấy nghe mấy vần thơ của Thương Dung cũng rơi lệ.

Thương Dung lên ngựa, các quan đưa đón hơn mười dậm mới trở về.

Trong lúc đó Vua Trụ vẫn chìm ngập trong tửu sắc, khồng hề nghĩ đến việc nước nhà.

Cách ít hôm, thợ làm Bào Lạc đã xong, Vua Trụ mừng lắm, hỏi Đắc Kỷ:

- Bào Lạc đã làm rồi, mỹ nhân định liệu thế nào?

Đắc Kỷ truyền đem Bào Lạc đến xem.

Quân sĩ tuân lệnh đẩy Bào Lạc đến trước cửa cung.

Trụ Vương và Đắc Kỷ bước ra xem thấy một cột đồng cao lớn, dưới có bánh xe, đẩy đi rất dễ.

Đắc Kỷ soát lại một hồi rồi khen:

- Thợ làm rất đúng cách. Trụ đồng nầy nếu đốt lửa thì sức nóng phi thường, không tưởng tượng nổi.

Trụ Vương nói:

- Để ngày mai Trẫm đem ra thí nghiệm đốt Mai Bá tại triều cho quần thần thấy kinh hoàng vỡ mật.

Đắc Kỷ nói:

- Bệ hạ đủ can đảm làm như vậy thì bọn nghịch thần mới khiếp uy.

Trụ Vương nói:

- Mỹ nhân chế ra được báu vật trị đời, công của mỹ nhân rất lớn.

Sáng hôm sau, tuy trong mình mỏi như giần, Trụ Vương vẫn gượng dậy sớm ra trước triều, truyền đánh ba hồi trống triệu tập quần thần lại.

Triều thần đã hơn nửa năm không thấy mặt vua, nay được thiết triều ai nấy mừng rỡ, vội vã ứng hầu đủ mặt.

Sau khi triều bái xong. Vua Trụ không xem sớ, cũng không xét việc gì khác, chỉ truyền quân đẩy Bào Lạc ra trước sân rồng.

Hoàng Phi Hổ thấy trụ đồng cao chất ngất, không hiểu là vật gì, để dùng làm gì. Còn các quan hình như cũng không ai hiễu, đưa mắt nhìn nhau không dám nói gì.

Vua Trụ truyền lệnh dẫn Mai Bá ra, đồng thời đốt từng lửa, quạt cho ống đồng thật đỏ, hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, trông thật ghê hồn.

Quân vào ngục dẫn Mai Bá ra đến ngọ môn.

Các quan thấy Mai Bá đầu bù tóc rối, không đội mảo, không mặc áo, mình mẩy dơ bẩn vì đã bị giam vào ngục hơn một tuần rồi.

Mai Bá đến trước sân rồng, quỳ nói:

- Tôi là Mai Bá cúi đầu ra mắt bệ hạ.

Vua Trụ chỉ Bào Lạc, gọi Mai Bá nói:

- Thằng khốn nạn! Ngươi biết vật gì đó không?

Mai Bá nhìn không biết vật gì kỳ lạ, liền tâu:

- Hạ thần không hiểu vật đó để làm gì cả.

Trụ Vương nói:

- Bởi ngươi già hàm, vào cung lớn tiếng chửi vua, nên Trẫm chế ra vật ấy để đốt ngươi cho tan xương nát thịt, làm gương cho những kẻ bất trung, phản nghịch đó.

Mai Bá nghe nói nổi giận, mắng lớn:

- Hôn quân vô đạo! Ta làm quan Đại Phu đã ba trào, công nghiệp đến bực nào mà phải chịu hành hình như vậy? Ta coi cái chết như lông hồng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang một phút bị đứa hôn quân làm đổ nát. Ta chết không nỡ nhìn thấy các tiên vương dưới suối vàng.

Vua Trụ giận dữ, truyền quân dùng lòi tói cột hết tay chân Mai Bá dí vào Bào Lạc. Tội nghiệp! Mai Bá chỉ kịp ré lên một tiếng, xương thịt cháy khét lẹt, phút chốc thành tro. Một tấm lòng trung, một thân đầy nghĩa khí, chỉ một phút chốc không còn gì hết.

Người sau xem chuyện nầy có làm thơ than:

Xương thịt tuy là hóa bụi tro

Lòng son vì nước giữ bo bo

Sống vì nghĩa chúa lo ngay thẳng

Chết giữ danh thơm chẳng đắn đo

Lửa đốt hồn linh chầu tiên đế

Tiếng khen sử sách vẫn không mờ

Hỡi ai đầu bẹo trên cờ trắng

Có nhớ lời trung nước dặn dò

Đốt Mai Bá trước sân chầu, Trụ Vương cố ý làm cho triều thần khủng khiếp, không dám can gián vua nữa. Nhưng sự thực, trước mặt Trụ Vương ai trông thấy cũng chán nãn không muốn can gián làm gì. Người nào mặt cũng lầm lầm lì lì không nói.

Họ không sợ chết, không dám can vua, nhưng vì họ thấy can cũng vô ích, thà từ quan lui về đồng ruộng còn hơn. Do đó chẳng ai nói một lời, cứ đưa mắt nhìn nhau thôi.

Vua Trụ không hề hiểu tâm trạng của triều thần lúc ấy, tưởng các quan ai cũng sợ cách trừng phạt của mình, nên trong lòng lấy làm đắc ý.

Vua truyền bãi chầu về cung, các quan lặng lẽ lui gót, chỉ còn lại các vì Vương nghẹn ngào trong đau đớn.

Tỷ Can nói với Hoàng Phi Hổ:

- Trong lúc Bắc phiên nổi loạn, Thái Sư Văn Trọng bận đi dẹp giặc xa, không ngờ ở nhà thiên tử đắm say tửu sắc nghe lời Đắc Kỷ chế hình Bào Lạc giết tôi trung. Nếu tiếng đồn đến tai chư hầu chẳng biết thiên hạ sẽ đảo huyền đến bực nào. Chúng ta hưởng lộc triều đình đã mấy trào, chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó tai ương thân họa sắp đến?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Bệ hạ đốt Mai Bá không phải chỉ đốt một tôi trung mà đốt cả cơ nghiệp Thành Thang đấy. Lời xưa có nói: Vua bất minh tôi ắt loạn. Mối nước không thể nào gìn giữ được nữa. Chúng ta ngồi đây cũng không biết chết sống ngày nào, đừng nói là Mai Bá.

Các vị thân vương đều nhìn nhau thở dài, nhưng không ai có kế sách gì cả, đều gạt lệ trở về tư dinh.

Còn Vua Trụ, sau khi đốt Mai Bá xong, hăm hở trở về cung Thọ Tiên, có Đắc Kỷ bước ra nghênh tiếp.

Trụ Vương bước xuống long xa, nắm tay Đắc Kỷ khen:

- Mỹ nhân bày ra Bào Lạc thật hay lắm. Bữa nay Trẫm đem Mai Bá ra đốt giữa sân triều, các quan đều kinh tâm táng đỡm, không ai dám thò đầu ra nói lời nào. Thật Bào Lạc là vật báu trị dân, yên nhà lợi nước. Từ rày sắp tới Trẫm không còn kẻ hỗn láo, buông lời nhục mạ Trẫm nữa.

Đắc Kỷ nói:

- Những kẻ khi quân nếu không dùng đến cực hình ghê gớm thì trị sao nổi. Thần thiếp còn nhiều cách khác chưa dùng đến.

- Mỹ nhân có cách gì hay cứ cho Trẫm biết, đừng ngại gì cả.

Đắc Kỷ nói:

- Bệ hạ cứ an lòng. Lúc nào bệ hạ cần đến, thắn thiếp xin dâng kế.

Trụ Vương vuốt ve Đắc Kỷ khen:

- Trẫm được mỹ nhân bên cạnh thì lo gì trị nước không xong.

Khen rồi tuyền nội thị bày yến tiệc đãi Đắc Kỷ, tán thưởng tài năng của mỹ nhân.

Bấy giờ, tiếng tơ vọng trúc vang rền, bàn tiệc không thiếu gì món ngon vật lạ, Vua Trụ vừa ăn vừa xem Đắc Kỷ múa hát, tâm hồn như bay bổng trên chín từng mây, không còn biết gì là khuya sớm nữa. Cho đến lúc trống đã trở canh ba mà tiếng nhạc còn réo rắc vang một góc trời.

Đêm ấy Khương hoàng hậu không ngủ được, nghe tiếng nhạc vang vầy, liền hỏi mấy cung nữ:

- Trống đã trở canh ba, sao còn tiếng nhạc ở đâu náo nhiệt như thế?

Cung nữ thưa:

- Đó là tiếng đàn bên cung Thọ Tiên. Chúa thượng cùng Tô mỹ nhân vui chơi đó.

Khương hoàng hậu than:

- Lúc này ta có nghe tin hoàng thượng nghe lời Tô Đắc Kỷ chế hình Bào Lạc đốt Mai Bá giữa triều. Mai Bá là một tôi trung, phò vua đã ba đời, sao nỡ hành hình thảm thiết như vậy? Thế là hoàng thượng bị con khốn kiếp này khuynh đảo tinh thần, không còn phân định được phải trái nữa. Ta làm hoàng hậu chưởng quản tam cung lục viện lẽ đâu thấy việc trái mắt mà không nói tới.

Nói rồi truyền cung nữ đẩy xe, xách đèn đến cung Thọ Tiên.

Lúc này Trụ Vương đang uống rượu với Đắc Kỷ, có Huỳnh Môn quan vào tâu:

- Khương hoàng hậu đến trước cửa cung xin vào ra mắt.

Trụ Vương đang say rượu, lại thức khuya, hai con mắt lim dim lè nhè nói với Đắc Kỷ.

- Có Chánh cung đến, mỹ nhân nên ra thủ lễ rước Chánh cung vào.

Đắc Kỷ tuân lệnh bước ra trưóc cửa nghiêng mình uốn gối quỳ xuống tiếp đón.

Khương hoàng hậu truyền đỡ Đắc Kỷ dậy.

Đắc Kỷ dắt Khương hoàng hậu vào cung, đồng yết kiến Trụ Vương.

Trụ Vương truyền dành chổ cho Khương hoàng hậu ngồi và tiếp tục bày tiệc đãi Khương hoàng hậu.

Khương hoàng hậu ngồi một bên Vua Trụ, trong lúc đó Đắc Kỷ lễ mễ đứng hầu trông rất phải phép.

Vua Trụ đẹp lòng nói với Khương hoàng hậu:

- Ái hậu sang đây chung vui, Trẫm mừng lắm.

Liền truyền Đắc Kỷ đờn ca múa hát để cho hoàng hậu xem.

Đắc Kỷ tuân lệnh vua, vừa múa vừa ca, thân hình yểu điệu, xiêm y lả lướt chẳng khác gì Hằng Nga múa khúc Nghê Thường trên Nguyệt điện, tiếng hát lại thanh tao như tiếng chim đầu Xuân.

Vua Trụ mê ly quên cả trời đất.

Còn Khương hoàng hậu mặt dàu dàu, ngồi nhìn xuống đất, không uống rượu, cũng không thưởng thức nhạc khúc của Đắc Kỷ đang trình diển trước mắt.

Trụ Vương trông thấy không hài lòng, hỏi:

- Hậu ơi! Ngày tháng như thoi đưa, đời người chẳng khác bóng câu qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã trở về già, không ăn chơi cho thỏa chí bình sanh thì còn gì thú vị nữa. Như giọng ca tiếng hát của Tô mỹ nhân đây, dù Hằng Nga trên cung trăng cũng không sánh kịp, sao Hậu không uống rượu nghe đàn, lại buồn rầu như vậy.

Khương hoàng hậu vội bước xuống quỳ tâu:

- Thần thiếp lòng không vui, dù có tiên xuống phàm múa hát cũng không làm khuây được.

Trụ Vương lè nhè:

- Thì Tô mỹ nương có thua gì tiên nữ chốn bồng lai? Hậu không biết thưởng thức cái hay cái lạ đó?

Khương hoàng hậu nói:

- Đắc Kỷ múa hát có gì gọi là báu lạ đâu?

Trụ Vương hỏi:

- Như vậy thì thế nào mới gọi là báu lạ?

Khương hoàng hậu nói:

- Thần thiếp nghe nói hễ vua có đạo đức thì khinh của quí mà trọng đức lành, đuổi tôi gian, xa sắc dục. Đó mới chính là cái báu lạ của nhà vua.

Trụ Vương cười ha hả, nói:

- Trẫm làm vua, giàu sang bốn biển, muốn hưởng thú gì không có, dẫu trong trời đất, báu lạ nào Trẫm lại không có quyền hưởng đến?

Khương hoàng hậu nói:

- Trời chỉ có những báu lạ là mặt nhật, mặt nguyệt và các vì tinh tú. Đất chỉ có những báu lạ là năm thứ thóc, năm thứ giống trái. Nước chỉ có báu lạ là tôi ngay, tướng giỏi. Nhà chỉ có báu lạ là con cháu thảo hiền. Những báu lạ như vậy bệ hạ không tìm hưởng, lại chọn ca, lựa múa, nghe lời dua nịnh, giết tôi ngay, gần gũi sắc dục, đó không phải là báu lạ mà chính là thứ làm mất nước, xin bệ hạ bỏ đi dừng tiếc. Bớt rượu, xa tửu sắc, chăm lo chính sự, sửa nết răn mình, thì họa may trời xuống phúc, thiên hạ thái bình, bốn biển yên vui.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 6
Bí Trọng bày mưu phế Khương Hậu


Khương Hoàng Hậu nói dứt lời lên xe trở về cung.

Vua Trụ đang say nghe những lời nói của Khương Hậu chẳng khác nào như những gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt, cơn giận dữ nổi lên, mắng lớn:

- Đồ khốn nạn, không biết điều. Trẫm tưởng tình sai mỹ nhân múa hát cho nghe, đã không màng tới còn làm ra mặt dạy đời. Khổ vì nó ở địa vị chánh cung, do tiên quân lựa chọn, nếu không ta sai lấy dùi đồng đập cho nát óc mới hả giận.

Vua Trụ nói lảm nhảm, đôi mắt lim dim, ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.

Đến canh tư, Trụ Vương mới giật mình tỉnh rượu thấy trong mình không được khoan khoái, nhớ lại những lời của Khương Hoàng Hậu vừa rồi thì lửa giận còn đang trong lòng, liền gọi Đắc Kỷ bảo:

- Mỹ nhân ơi, Chánh cung vô lễ, lòng Trẫm chưa nguôi, vậy mỹ nhân múa hát một hồi nữa để Trẫm làm khuây.

Đắc Kỷ quỳ tâu:

- Từ rày sắp lên thần thiếp không dám múa hát nữa.

Trụ Vương hỏi:

- Vì sao mỹ nhân lại nói thế?

Đắc Kỷ tâu:

- Hoàng Hậu quở trách việc ca hát là hư nhà hại nước, thần thiếp xét lời ấy cũng có lý. Thần thiếp thân phận tôi đòi, vào chầu bệ hạ, được bệ hạ yêu dấu gần gũi một phút không rời. Nếu trái lệnh Hoàng hậu, một là phải bị đuổi ra khỏi cung cấm không còn được thấy mặt bệ hạ nữa, hai là Hoàng Hậu lấy cớ nói thần thiếp quyến rũ bệ hạ bỏ bê việc nước, kết tội thần thiếp thì thần thiếp lấy gì mà che chở nổi?

Đắc Kỷ nói dứt lời, đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng xuống má, mặt mày ủ ê, trông rất khổ nảo.

Vua Trụ thấy thế càng giận Khương Hoàng Hậu hơn, nói:

- Mỹ nhân cứ ca hát cho Trẫm giải khuây. Con khốn nạn ấy chẳng đếm xỉa tới làm gì. Để mai Trẫm sẽ phế nó xuống, lập mỹ nhân lên làm Hoàng Hậu. Trẫm uy quyền tuyệt đỉnh, muốn làm gì chẳng được?

Đắc Kỷ giả cách hoan hỉ, múa hát tưng bừng, suốt đêm không nghỉ.

Ngày kia nhằm ngày mồng một, các cung phi đều phải vào chầu Hoàng Hậu theo lệ thường.

Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi đến trước.

Hoàng Hậu và hai Quý Phi đang ngồi tâm sự thì có cung nga vào báo:

- Có Tô Đắc Kỷ đứng hầu ngoài cửa.

Khương Hoàng Hậu cho vào.

Đắc Kỷ khép nép vào đến nơi, thấy Khương Hoàng Hậu ngồi giữa, Hoàng Quý Phi và Dương Quý Phi ngồi hai bên vội sụp lạy ra mắt.

Khương Hoàng Hậu truyền cung phi đỡ dậy, Đắc Kỷ đứng hầu một bên trông rất là phải lễ.

Dương Quý Phi đến trước mặt hỏi:

- Tô mỹ nhân là người nầy có phải không?

Khương Hoàng Hậu đáp:

- Phải. Nàng nầy chính là Tô Đắc Kỷ, con gái Tô Hầu ở Ký Châu.

Dứt lời, Khương Hoàng Hậu quay trở lại quở Đắc Kỷ:

- Thiên tử ở cung Thọ Tiên, ngày đêm đắm mê tửu sắc, phế việc triều đình, sao ngươi không có một lời can gián, cứ ngày đêm đờn ca múa hát, làm cho rối lòng thiên tử, đến nỗi thiên tử không tưởng đến việc phải quấy, nghe lời nịnh, giết tôi ngay, bỏ phép Thành Thang, làm suy mối nước. Những việc ấy là tại ngươi cả. Nếu ngươi không chừa thói cũ, chẳng tuân lệnh trên. Ta sẽ lấy phép công mà trị đó.

Đắc Kỷ giận đỏ mặt, nhưng buộc thế phải làm thinh, cúi đầu không nói nửa lời.

Tan buổi chầu, Đắc Kỷ trở về ngồi một mình than thở.

Người cung nga hầu cận là Cổn Quyên trông thấy thế, bước đến hỏi:

- Nương Nương vào chầu Hoàng Hậu có việc gì không vui?

Đắc Kỷ nghiến răng:

- Ta là Hậu Phi, được bệ hạ yêu dấu, mà Khương Hoàng Hậu ỷ quyền Chánh Cung mắng nhiếc ta trước mặt hai vị Quý Phi, xấu hổ không thể tả. Oán này biết bao giờ mới trả được?

Cổn Quyên nói:

- Bệ hạ đã hứa cho Nương Nương lên làm Hoàng Hậu thì lo gì oán ấy không trả xong?

Đắc Kỷ nói:

- Tuy bệ hạ yêu ta mà hứa như vậy, chớ phế một Hoàng Hậu không phải là dễ. Triều thần sẽ ngăn cản, thiên hạ sẽ dèm siểm. Hơn nữa, Chánh Hậu còn sờ sờ ra đó. Bệ hạ làm sao xô xuống được mà đưa ta lên chiếc ghế uy quyền ấy? Muốn được việc phải tìm cách giết Chánh Cung đi thì mới xong. Ngươi có mưu nào hay không?

Cổn Quyên nói:

- Tôi là phận đàn bà con gái, tính kế sao được? Nếu Nương Nương muốn mưu việc lớn thì nên cậy một vị đại thần bày mưu mới tiện.

Đắc Kỷ hỏi:

- Vị đại thần nào dám vào đây? Vả lại, ta xem phần các quan trong triều đều chống đối bệ hạ, nếu ta mời tới e lậu tiếng chăng.

Cổn Quyên nói:

- Tôi có biết quan cận thần Bí Trọng được vua yêu dùng và cũng rất ham tiền của địa vị. ngày mai nhân lúc bệ hạ đi dạo vườn, Nương Nương cho mời Bí Trọng đến đây tôi sẽ cậy Bí Trọng bày một kế mà hại Hoàng Hậu. Xong việc, Nương Nương nhớ bảo tâu với Thánh Hoàng cho Bí Trọng thăng chức thì thế nào Bí Trọng cũng thỏa lòng.

Đắc Kỷ nói:

- Việc này ta cậy vào ngươi. Nhớ đừng để lộ chuyện nguy hiểm đấy.

Cổn Quyên nửa nói đùa nửa nói thật:

- Địa vị của Nương Nương hiện giờ muốn gì chẳng được, huống hồ hại một Hoàng Hậu. Xin cứ để tôi lo cho.

Đắc Kỷ nói:

- Ta chỉ sợ Bí Trọng không chịu giúp.

Cổn Quyên nói:

- Danh giá là miếng mồi sai khiến muôn người. Chỉ sợ Nương Nương không cần đến thôi, chứ nếu sai khiến thì ai chẳng tuân.

Hôm sau trời nóng, Đắc Kỷ rủ Trụ Vương ra dạo ngoài vườn hoa. Cổn Quyên thừa dịp sai nữ tỳ mời Bí Trọng đến cung, lén đưa cho Bí Trọng một bức mật thư và nói:

- Thư nầy do Tô Nương Nương gởi. Quan Đại Phu phải coi một mình đừng tiết lộ cho ai biết. Nếu việc thành công thì tước quyền không nhỏ. Phải mau mau tính kế, đừng để trễ.

Bí Trọng nhận mật thư, trở về dinh mở ra xem, thấy Đắc Kỷ nhờ tìm kế giết Khương Hoàng Hậu.

Bí Trọng nghĩ thầm:

- Khương Hoàng Hậu là con gái của Khương Hoàn Sở, mà Khương Hoàn Sở đang trấn tại Đông Lổ, binh rồng tướng mạnh vô địch khắp chư hầu. Đã vậy, Khương Hoàn Sở có đứa con trai là Khương Văn Hoán tài năng xuất chúng, cầm đầu tướng lãnh dư ngàn người, nếu ta hại không được e chết cả họ. Vả lại Khương Hoàng Hậu ở với thiên tử đã sanh được hai vị Hoàng Tử, thế lực trong ngoài như vậy thực khó lòng trừ được. Tốt hơn hết ta không nên động đến nguy hiểm.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Bí Trọng thấy cũng không xong. Đắc Kỷ là cục cưng của vua Trụ, nếu không lập kế hại Khương Hoàng Hậu, làm phật lòng Đắc Kỷ, thì trong lúc vua say rượu, hoặc đang lúc ấp yêu, Đắc Kỷ tâu ra tâu vào, mạng mình chắc chết....

Tới lui khó nghĩ, ngồi đứng không yên, Bí Trọng tính cả ngày vẫn không tìm ra được mưu kế nào thích đáng. Bỗng có tên gia nhân khổ người vạm vỡ, mình cao một trượng, lưng nách như voi vừa đi tới. người tên Khương Hoàn, trước kia ở tại Đông Lổ, nghèo khổ được Bí Trọng đem về sai khiến bấy lâu nay.

Vừa thấy Khương Hoàn, Bí Trọng nẫy sanh ra một kế, vội gọi Khương Hoàn đến hỏi:

- Khương Hoàn, ngươi đi đâu vậy?

Khương Hoàn thưa:

- Tôi thấy vắng đại quan nơi thính đường nên đi tìm. Xin đại quan tha lỗi.

Bí Trọng nói:

- Ngươi có lòng với ta như vậy là điều tốt, tội lỗi gì đâu. Ngươi ở với ta được bao nhiêu lâu rồi?

Khương Hoàn nói:

- Đã năm năm, tôi từ Đông Lổ sang đây sống nhờ đại quan. Trước kia tôi nghèo khổ quá, ngày nay được no ấm như vầy, tôi tưởng ơn của đại quan không biết ngày nào tôi trả nổi.

Bí Trọng nói:

- Ta nuôi ngươi lâu nay là có ý dùng vào việc lớn. Nay việc lớn đã đến, chẳng biết ngươi có vì ta mà hết lòng không?

Khương Hoàn thưa:

- Tôi mang ơn đại quan, dù tan xương nát thịt tôi vẫn không dám từ nan. Nếu đại quan có việc gì cần đến kẻ ngu muội này thì xin cứ chỉ bảo.

Bí Trọng nói:

- Việc này hệ trọng lắm. Nếu ngươi làm được chẳng những lộc lớn quyền cao mà ngươi có thể tiến thân nữa. Nhưng nếu ngươi để lậu ra cho người ngoài biết được thì chúng ta chết cả lũ.

Khương Hoàn nói:

- Xin đại quan tin vào lòng trung thành của tiểu nhân là đủ.

Bí Trọng liền dặn nhỏ Khương Hoàn hồi lâu rồi trao mật kế. Khương Hoàn tuân lệnh ra đi.

Bí Trọng lại thảo một mật thư, nói rõ kế của mình, lén trao cho Cổn Quyên trình lên cho Đắc Kỷ biết.

Đắc Kỷ xem thư mừng lắm, đinh ninh chuyến này nhất định hại Khương Hoàng Hậu như chơi.

Ngày kia nhân lúc Trụ Vương đang vui, Đắc Kỷ liền tâu:

- Bệ hạ vì quá quyến luyến thần thiếp không ngự triều. Thần thiếp e bỏ lâu ngày các quan sanh dị tâm. Vậy ngày mai bệ hạ nên bỏ chút ít thì giờ ra đàm luận quốc sự.

Trụ Vương khen:

- Mỹ nhân có ý lo đến xã tắc. Đàn bà như vậy thật là ít có, dẫu những Phi Hậu hiền đức tới đâu cũng không sánh kịp. Thôi để ngày mai Trẫm lâm trào họp bàn với các quan cho mỹ nhân đẹp dạ.

Trụ Vương có ngờ đâu đó là mưu mô của Bí Trọng đã thông đồng với Đắc Kỷ.

Sáng hôm sau Đắc Kỷ lại hối thúc Trụ Vương lâm triều.

Trụ Vương truyền nổi trống đền để triệu tập các quan đến hầu cho đủ mặt.

Các quan ai nấy đều lạ lùng, không hiểu tại sao đã mấy tháng trời đắm mê tửu sắc, ở mãi trong cung, bỏ phế triều chính, nay Trụ Vương bỗng nhiên đổi khác.

Mọi người đều sửa soạn triều bái chúc mừng.

Vua Trụ từ trong cung Thọ Tiên ngồi long xa đi ra, hai bên có tả hữu hộ giá. Khi đến Phấn Cung, đèn thắp sáng lòa, mùi hương ngào ngạt. Xẩy có một người cao lớn, ẩn mình trong xó, đầu bịt khăn ngang, tay cầm gươm báu, nhảy ra hét lớn:

- Hôn quân đắm mê tửu sắc, ta vâng lệnh Hoàng Hậu đến giết hôn quân, đem sự nghiệp Thành Thang về cho chúa ta sửa trị.

Nói rồi lướt tới đâm đùa. Các quan bảo giá liền cản lại giật gươm, bắt trói người ấy tức khắc.

Vua Trụ giận lắm, truyền dẫn tên thích khách ra trước triều vấn tội.

Các quan tung hô xong, Trụ Vương gọi Hoàng Phi Hổ và Tỉ Can đến trước đền, nói:

- Hôm nay Trẫm lâm triều có chuyện lạ lùng lắm.

Tỉ Can hỏi:

- Bệ hạ có việc gì vậy?

Trụ Vương nói:

- Lúc ta ra đền, vừa đến Phấn Cung, có một người trong xó tối nhảy ra chém Trẫm. Tuy đã bắt được nó rồi, nhưng việc này rất trọng đại, cần phải tra xét kỹ càng để hiểu rõ ngọn nghành hành động phản loạn ấy.

Hoàng Phi Hổ thất kinh, hỏi các quan:

- Đêm hôm rồi vị nào tuần đền mà để gian tế lén vào cung được?

Quan Tổng Binh Lê Hùng quỳ thưa:

- Tôi tuần cả đêm không thấy ai hết. Chắc là vào lối canh năm nó trà trộn với quan trào vào lầu Phấn Cung để xuẩn nghịch đấy.

Hoàng Phi Hổ truyền dẫn tên thích khách ra.

Trụ Vương nói:

- Ai muốn thay mặt Trẫm tra xét vụ này?

Bí Trọng liền bước tới quỳ tâu:

- Hạ thần xin lãnh việc này cho.

Đó chính là âm mưu của Bí Trọng lập ra trước.

Tên thích khách là Khương Hoàn, gia nhân của Bí Trọng sai khiến.

Bí Trọng làm quan gián nghị, lẽ ra không có quyền tham dự vào việc tra xét gian nhân, nhưng vì Bí Trọng sợ để người khác tra xét, đánh đập, Khương Hoàn khai toạc ra thì mang họa.

Trụ Vương nhận lời.

Bí Trọng dẫn Khương Hoàn ra trước Ngọ Môn, không tra hỏi, đánh đập gì hết mà Khương Hoàn vẫn khai đủ điều.

Bí Trọng vội vào trước bệ, quì tâu:

- Hạ thần đã tra hỏi gian nhân xong. Việc rất quan trọng.

Các quan ai nấy đều lắng tai nghe.

Trụ Vương hỏi:

- Đứa hung phạm nghe lời ai sai khiến mà hành động như vậy?

Bí Trọng gật gù tâu:

- Việc này hạ thần chẳng dám tâu.

Trụ Vương hét:

- Ngươi đã lãnh mệnh tra hỏi gian nhân, sao lại ú ớ như vậy?

Bí Trọng nói:

- Nếu bệ hạ tha tội cho hạ thần, hạ thần mới dám thuật lại lời của gian nhân đã cung khai.

Trụ Vương nói:

- Ngươi cứ khai sự thật, giữa đây có đầy đũ mặt văn võ bá quan xét xử.

Bí Trọng tâu:

- Thích khách họ Khương tên Hoàn là gia tướng của Đông Bá Hầu Khương Hoàng Sở. Nó vâng lệnh Khương Hoàng Hậu làm chuyện thí quân để Khương Hoàng Sở có dịp cướp ngôi. Nay bệ hạ phước lớn tày trời nên gian nhân mới bị bắt.

Trụ Vương nghe tâu vổ án hét như sấm:

- Khương Hậu là người hôn phối của Trẫm mà làm điều phản nghịch như vậy thì còn đạo lý gì nữa. Nếu trong cung đã sinh tệ thì họa tới bên mình. Giặc bên ngoài còn đề phòng được chớ giặc trong thành làm sao giữ được? Trẫm giao việc này cho Tây Cung Hoàng Quí Phi tra hỏi Khương Hậu cho rõ ràng rồi tâu lại cho Trẫm biết.

Dứt lời Trụ Vương đứng dậy về cung tức khắc, không hỏi han gì đến các việc khác đang chờ mệnh vua.

Các quan hôm ấy vào triều bệ kiến đã sắp xếp rất nhiều công việc để tâu trình, nhưng gặp việc bất thường như vậy ai nấy đều bàn tán xôn xao quanh vụ thí quân, và cũng không nói đến việc riêng của mỗi người nữa.

Quan Đại Phu Dương Nhậm nói với Hoàng Phi Hổ:

- Khương Hoàng Hậu lâu nay có tiếng đoan chính và hiền lành, trị trong cung rất phải phép, chưa chắc đã làm chuyện như vậy. Tôi nghi trong cung có kẻ bày mưu để hại Hoàng Hậu chăng? Nếu chúng ta bỏ về hết, gian nhân có dịp lộng hành thì oan cho Hoàng Hậu lắm. Vậy chúng ta ở lại đây, đợi tin Tây Cung Hoàng Quí Phi tra xét ra sao đã rồi sẽ liệu.

Các quan nghe theo, họp nhau nơi đền Cửu Giao chờ tin tức.

Bây giờ Khương Hậu đang ngồi trong cung, xẩy thấy quan Phụng Ngự cầm chiếu vua đem vào. Khương Hậu vội quỳ nghe đọc chiếu như sau:

"Hoàng Hậu ví thiên tử như đất sánh với trời, làm mẹ chung cả thiên hạ, mà chẳng lo đức chánh cho tròn. Lẽ ra phải coi sóc việc trong cung, giữ gìn giềng mối, để tiếng tốt về sau. Thế mà lại nuôi trai mạnh là Khương Hoàn, khiến núp trong Phấn Cung đón đường giết Trẫm. May mà mạng Trẫm chưa tuyệt nên mới bắt được gian nhân. Sau tra trước đền, gian nhân thú nhận rằng Khương Hậu tư thông với cha là Khương Hoàng Sở toan cướp ngôi vua. Như thế đạo tam cang không tròn. Trẫm đã truyền bắt Khương Hoàng Hậu giải đến Tây Cung, nhờ Thứ Phi tra hỏi. Vậy Thứ Phi cứ chiếu theo công luận chớ nên vị tình.

Nay sắc "

Khương Hoàng Hậu nghe đọc chiếu xong khóc rống lên, nói:

- Ôi chao! Tại sao có việc lạ lùng? Ta xưa nay ở trong cung lo bề đức hạnh, tránh điều lỗi, sợ tiếng chẳng lành. Chẳng biết thằng giặc nào sanh sự, đổ tiếng xấu cho ta như vậy? Nay thiên tử không xét, lại giải đến Tây Cung, thân ta còn gì nhục nhã hơn. Mất còn không kể, chỉ uổng tiếng làm người không trọn nghĩa nhân.

Hoàng Hậu tuy khóc nức nở, song phải theo quan Phụng Ngự đến Tây Cung.

Hoàng Quí Phi tiếp chỉ, xem xong để trên án.

Khương Hoàng Hậu quì nói:

- Lâu nay tôi sửa trị trong cung việc gì cũng ngay thẳng, lấy nhân đức làm gương. Nay chẳng biết việc dữ do đâu xảy đến, bệ hạ không xét lại nhất quyết đổ lỗi cho tôi. Xin Quí Phi xét lại kẻo oan tình.

Hoàng Quí Phi nói:

- Trong chiếu, thiên tử đề quyết Hoàng Hậu sai Khương Hoàn thí vua, đoạt giang sơn cho Khương Hoàng Sở. Vua lại có ý dứt tình hôn phối, bỏ nghĩa cang thường. Nếu việc này như vậy, tội đáng tru di.

Khương Hoàng Hậu nói:

- Xin Quí Phi xét lại. Cha tôi cầm đầu hai trăm trấn chư hầu nhỏ, thân làm Quốc Trượng, chức đến Tam Công, con gái làm Chánh Cung, cháu ngoại làm Thái Tử, sau bệ hạ muôn tuổi có phải con tôi lên nối ngôi không? Hễ con nối nghiệp thì tôi làm Thái Hậu, cha tôi thêm vinh hiển. Lẽ đâu cha tôi mưu phản để hai trăm chư hầu kéo binh tới vấn tội, để tiếng xấu thiên thu. Tôi dẫu đàn bà cũng không đến đổi ngu muội làm chuyện thí quân vô lý như vậy. Nếu Quí Phi đem lời này nói đến tai thiên tử, may ra thiên tử thấu đáo lý tình, tôi được giải oan, thì ơn của Quí Phi không nhỏ.

Hoàng Quí Phi còn đang băn khoăn thì chiếu đã đến giục.

Hoàng Quí Phi liền lên kiệu đến cung Thọ tiên.

Vua Trụ hỏi:

- Con khốn đó đã chịu tội chưa?

Hoàng Quí Phi tâu:

- Tôi tuân lệnh tra hỏi rất nghiêm, Khương Hoàng Hậu quả là kẻ vô tội. Tôi chắc trong triều có gian tế, hành động như vậy để vu oan giá họa cho Hoàng Hậu đó.

Trụ Vương hỏi:

- Ái khanh lấy bằng chứng gì mà luận như vậy?

Hoàng Quý Phi tâu:

- Tôi xét Khương Hoàng Hậu là người hôn phối của bệ hạ đã lâu ngày, lại sanh được Đông Cung. Nếu sau bệ hạ chầu trời, tự nhiên Hoàng Hậu sẽ lên ngôi Thái Hậu, ức gì đâu mà lại gây họa dữ? Còn như Đông bá Hầu thân làm Quốc Trượng trị hai trăm trấn chư hầu, bỏ chức mình lên làm vua, còn Hoàng Hậu bỏ chức mình lên làm Công Chúa? Điều ấy dù đứa ngu cũng chưa làm, huống hồ cha con Khương Hoàng Sở là kẻ ngay vua thảo chúa? Xin bệ hạ xét lại lý tình, nghĩ công ơn và đạo đức của Chánh Cung đã mười mấy năm theo hầu bệ hạ mà tha tội cho Chánh Cung thì ơn ấy rất trọng.

Vua Trụ nghe nói ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:

- Lời của Quý Phi phân tách rất rành rẽ, tình lý thấu đáo. Đây chắc Hoàng Hậu bị hàm oan, nhưng rõ nguyên nhân do đâu.

Đắc Kỷ bước tới, chúm chím cười, Trụ Vương hỏi:

- Mỹ nhân cười gì vậy?

Đắc Kỷ tâu:

- Hoàng Quý Phi đã bị Chánh Cung dùng tình cảm lung lạc sự thật rồi. Xưa nay kẻ làm dữ bao giờ cũng sắp đặt lý lẽ để chống đối. Chớ căn cứ vào lý lẽ mà tin theo hành động. Lý lẽ chỉ có giá trị đối với người ngay thẳng mà không có nghĩa gì đối với kẽ tham lam. Nay tội ác đã vỡ lở ra rồi, dù là kẽ ba đầu sáu tay cũng không ai chịu mình là tội phạm. Hành động thí quân tang chứng đã rành rành. Khương Hoàn là tay chân của Khương Hoàng Sở, ai cũng biết, thì Hoàng Hậu còn chối vào đâu nữa. Vả lại trong tam cung lục viện, Khương Hoàn không chỉ ai, lại đề quyết Hoàng Hậu thì sao gọi Hoàng Hậu là vô tội được?

Vua Trụ ngồi trầm tư:

- Tình lý thật khó minh.

Đắc Kỷ nói:

- Trong đời không ai chịu mình là kẻ có tội. Nếu muốn tỏ rõ sự thật bệ hạ chỉ cần đem cực hình ra tra khảo tự nhiên biết hết.

Hoàng Quý Phi nói:

- Tô mỹ nhân nói sai rồi. Hoàng Hậu án với vua là mẹ thiên hạ. Từ Tam Hoàng, Ngũ Đế đến nay, hễ Chánh Cung có tội hình chỉ được phép lưu đày, hoặc biếm sang lãnh cung, chớ không được tra tấn, chém giết.

Đắt Kỷ nói:

- Xưa khác, nay khác. Luật hình là để sửa trị muôn người, không vì sang mà không chịu tội, cũng không vì hàn mà phải cực hình. Nếu luật chỉ đặt ra để trừng trị riêng kẻ thiếu uy quyền thì còn gì lẽ công bình? Xin bệ hạ cứ xuống lệnh khoét Hoàng Hậu một con mắt. Con mắt là mộng của trái tim, Hoàng Hậu sợ đau tất phải khai thiệt.

Vua Trụ nói:

- Ta bỏ điều luật tiên quân trừng trị Chánh Cung như vậy, các triều thần dị nghị chăng?

Đắc Kỷ nói:

- Triều thần sẽ cho bệ hạ là một minh quân, không thiên vị. Dù vợ con có tội vẫn xét trị ngay thẳng.

Vua Trụ khen phải, liền truyền chỉ thi hành.

Hoàng Quý Phi thấy lệnh vua độc ác như vậy chết điếng, đứng nhìn một lúc rồi lên kiệu ra về.

Bấy giờ Khương Hoàng Hậu còn ở tại Tây Cung, đợi lời xin tội của Hoàng Quý Phi.

Hoàng Quý Phi về đến thấy Khương Hậu thì khóc oà, nói:

- Hoàng Nương ơi! Tôi có lòng tâu xin cho Hoàng Nương khỏi tội, bệ hạ sắp nghe theo, nhưng Đắc Kỹ ghen hờn, thù oán, bày bệ hạ khảo tra, khoét một con mắt của Hoàng Nương để Hoàng Nương nhận tội. Bệ Hạ không tưởng tình chăn gối, đã nghe theo lời con ác phụ đó. Bây giờ biết làm sao? Hay Hoàng Nương chịu tội đỡ để bảo vệ thân xác rồi sau sẽ liệu.

Khương Hoàng Hậu vừa khóc vừa nói:

- Cám ơn em có lòng thương chị, song chị cũng là người có học, lẽ nào tiếc sinh mạng mình mà chịu tiếng nhơ. Chị đã không có hành động giết chồng, phản vua, thì chịu đỡ làm sao được. Nếu vua không thương chị thì thì chị chịu tan xương nát thịt mà thôi. Dầu phải chết để bảo tồn danh tiết chị cũng vui, huống hồ khoét một mắt.

Hoàng Quý Phi nói:

- Tôi xem Đắc Kỷ tàn nhẫn lắm, thế tất bày nhiều việc ác nữa. Bệ Hạ là đấng chí tôn, thân xác chúng ta không dám tiếc, chỉ cần chúng ta làm sao bảo vệ được tiếng thơm muôn đời, không phản vua, hại nước là được rồi.

Hoàng Hậu và Quý Phi còn đang than thở thì đã có chiếu vua đến giục, bảo Hoàng Hậu phải khoét một mắt.

Quý Phi quá đau lòng, lại một lần nữa khuyên Hoàng Hậu:

- Hay chị chịu đỡ cho qua cơn sóng gió rồi sẽ tính. Nếu để khoét mắt thì còn chi tính mạng?

Khương Hoàng Hậu nói:

- Thà chết cũng đành, tôi không thể chịu tội vô cớ được.

Quang Phụng Ngự nhiều lần thúc hối, cực chẳng đã Quý Phi mới tuân lệnh khoét một mắt của Khương Hoàng Hậu để trong chậu vàng đem về dâng cho vua. Máu chảy lai láng. Hoàng Hậu ngã lăn xuống đất bất tỉnh.

Có thơ than:

Khoét mắt đau lòng kẽ trung lương

Đắm sắc quên tình, nịch quân vương

Ngàn năm oán hận đời còn nhớ

Số kiếp phôi pha mảnh má hường

Hoàng Quý Phi động lòng khóc tức tưởi, theo chân viên quan Ngự phụng đến cung Thọ Tiên để yết kiến vua Trụ.

Vua Trụ thấy mặt Hoàng Quý Phi liền hỏi:

- Con khốn nạn ấy bị khoét mắt đã thú nhận tội lỗi rồi chứ?

Hoàng Quý Phi quỳ tâu:

- Khương Hậu không có lòng bất nghì, quyết không chịu tội oan. Tôi ép chịu đỡ, Khương Hậu cũng không nghe, thà chịu chết chớ không chịu tiếng nhơ. Tôi phải tuân lệnh bệ hạ khoét mắt đến dâng, thật đau đớn khi nhìn vào chậu này.

Trụ Vương nhìn vào trong chậu vàng có để con mắt đầy máu tươi, lòng bất nhẫn, nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ ăn năn hối hận, nhưng đã muộn, liền day qua trách Đắc Kỷ:

- Trẫm nghe lời mỹ nhân khoét con mắt của Hoàng Hậu, té ra vẫn không tra ra án. Nếu Hoàng Hậu vô tội mà bị hành hình như vậy các quan trách Trẫm thì Trẫm biết phải trả lời làm sao?

Đắc Kỷ nói:

- Thần thiếp tưởng Chánh Cung có bụng hại chồng phản chúa. Nay việc đã lỡ như vậy rồi, nếu không làm cho Chánh Cung chịu tội thì tội ác sẽ dồn lên bệ hạ hết. Hơn nữa, Đông Bá Hầu đang trấn một cõi, binh hùng tướng mạnh, nếy hay được chuyện này tất đem binh vấn tội bệ hạ, báo oán cho con, bệ hạ liệu làm sao?

Trụ Vương nghe nói toát mồ hôi, hỏi:

- Bởi ta nghe lời mỹ nhân mới sanh chuyện như vậy. Bây giờ ta biết liệu làm sao?

Đắc Kỷ nói:

- Việc đã lỡ rồi. Bây giờ phải làm thế nào cho Khương Hoàng Hậu nhận tội thì mới che mắt được các quan, và Đông bá Hầu khỏi viện cớ để cử binh.

Trụ Vương bấy giờ như bị dồn vào tường, lòng bối rối, không biết phải tính sao, tới lui đều bất tiện, ngồi làm thinh giây lâu mới mở lời hỏi Đắc kỷ:

- Mỹ nhân có cách nào làm cho Khương Hoàng Hậu chịu tội không?

Đắc Kỷ nói:

- Bệ hạ cứ truyền cho Hoàng Quý Phi tra khảo đến mức, thế nào khương Hoàng hậu cũng không chịu đau nổi, buộc lòng phải nhận tội.

Trụ Vương hỏi:

- Mỹ nhân định tra khảo cách nào?

Đắc Kỷ nói:

- Dùng bàn ủi đồng thật nóng, ủi vào hai bàn tay, hơi nóng cháy ruột gan, lẽ nào không chịu tội?

Trụ Vương nói:

- Theo lời Hoàng Quý Phi thì Khương hậu đã chịu hàm oan, ta khoét một mắt đã là tàn nhẫn lắm rồi, nỡ nào còn dùng lửa đốt hai bàn tay nữa?

Đắc Kỷ nói:

- Việc đã đến nước nầy chẳng khác nào cỡi cọp, nhảy xuống sẽ bị cọp ăn mất. Thà để Khương Hoàng Hậu chịu oan còn hơn bệ hạ mắc tội với chư hầu và các quan văn võ.

Trụ Vương cực chẳng đã phải truyền chỉ làm y như lời Đắc Kỷ.

Hoàng Quý Phi nghe nói hồn vía lên mây, vội vả trở về cung, thấy Khương Hậu máu me dầm dề, còn nằm rên rỉ dưới đất, trông rất thảm thiết.

Hoàng Quý Phi nói:

- Chị ơi! Chuyến này chắc chết. Vua nghe lời Đắc Kỷ bày chuyện tàn nhẫn. Chẳng biết kiếp trước chị mang tội gì mà kiếp nầy mắc phải tai ương như vậy.

Vừa nói vừa đỡ Khương Hậu dậy. Sau một hồi đau đớn, Hoàng Quý Phi lại khuyên:

- Thôi chị đánh liều chịu đỡ để bảo tồn tánh mạng. Tôi thấy bệ hạ quá nuông chìu Đắc Kỷ không kể đến tình vợ chồng rồi. Nếu chị không nhận tội, bệ hạ sẽ truyền nướng bàn ủi đỏ dí vào hai bàn tay chị. Hình phạt thảm khốc như vậy làm sao chị chịu nổi.

Khương Hậu khóc lóc nói:

- Số phần chị đã như vậy thì liều một thác cho xong. Thôi em làm chứng cho lòng chị, chị đành nhắm mắt, cắt đứt dây oan nghiệt.

Nói vừa dứt lời thì có quan Phụng ngự đem bàn ủi đến và truyền lệnh:

- Vâng chỉ bệ hạ, nếu khương Hoàng Hậu không chịu tội thì đốt hết hai bàn tay.

Khương Hậu lòng sắc đá, chẳng thà chết chớ không chịu nhơ danh, liền đưa hai bàn tay ra hứng lấy cực hình.

Quan Phụng ngự để hai bàn ủi nóng lên, thịt cháy xèo xèo, khét lẹt, mấy ngón tay cong quắp lại, các gân guốc cháy khô.

Khương Hậu hét lên một tiếng rồi chết giấc.

Người sau có làm thơ than:

Bàn ủi đỏ lòm ngọn lửa than

Hai tay như sắt, dạ như vàng

Thương cho bảy lá gan trinh tiết

Dẫu nạn mười năm chữa hết oan

Hoàng Quý Phi không dám mở mắt nhìn, bụm mặt khóc như mưa.

Thấy Khương Hoàng hậu chết giấc, Hoàng Quý Phi khiến quan Phụng ngự thôi tra khảo rồi lên xe đến cung thọ Tiên tâu với Trụ vương:

- Khương Hoàng hậu bị hành hình hai bận, chết giấc hai lần, vẫn nhất thiết không nhận hàm oan. Tôi chắc trong cung có gian thần bày mưu hại Khương Hậu đó. Nay bệ hạ đối xử với Chánh Cung quá tàn nhẫn trong lúc Chánh Cung vô tội, tôi e sẽ xảy ra việc chẳng lành.

Vua Trụ thất kinh, nói:

- Việc này trẫm lỡ nghe lời mỹ nhân, bây giờ biết làm sao?

Đắc Kỷ lại quỳ tâu:

- Bệ hạ chớ lo, Khương Hoàn còn đó, xin bệ hạ cho Hổ Oai tướng Triệu Điền, Triệu Lôi dẫn Khương Hoàn đến cung Tây đối nại trước mặt giai nhân mình, Khương Hậu không còn chối cãi vào đâu nữa.

Trụ Vương khen:

- Mỹ nhân nói phải.

Liền truyền lệnh làm y kế ấy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 7
Họ Phương cõng chúa phản Triều Ca

Hoàng Quí Phi về đến Tây Cung thì Triều Điền, Triều Lôi cũng dẫn Khương Hoàn đến quỳ dưới đất.

Hoàng Quý Phi trông thấy thở dài, nói với Khương Hậu:

- Nương Nương ơi, bệ hạ lại truyền dẫn thằng oan nghiệt đến đây để đối nại. Thật là mưu của Đắc Kỷ hết. Song việc này em chẳng thấy ngại gì. Em sẽ có cách làm cho đứa gian manh khai ra kẻ bày mưu, để bệ hạ rõ chuyện trắng đen.

Thật ra Hoàng Quý Phi đã có dự mưu, muốn dùng hình phạt tra tấn Khương Hoàn để tìm hiểu sự thật.

Khương Hậu trông thấy gần đó có một gã tráng hán tay chân bị trói chặc, thân hình cao lớn, mặt mũi hung ác liền mắng lớn:

- Thằng khốn kiếp! Mày nghe lời ai làm điều quấy lại đổ tội cho ta. Tàn ác như vậy, trời nào để mày sống.

Khương Hoàn nói lanh lãnh:

- Tôi là kẽ gia nhân của Hoàng Hậu trước kia. Hoàng Hậu quên rồi sao? Hoàng Hậu muốn thí vua đem cơ nghiệp Thành Thang cho Đông Bá Hầu sửa trị, nên sai tôi làm việc ấy. Nay việc không thành, tôi bị bắt, cứ sự thực khai ngay. Hoàng Hậu bảo tôi phải nói làm sao bây giờ?

Hoàng Quý Phi nổi giận mắng Khương Hoàn:

- Phản thần! Mày làm cho Hoàng Hậu thân thể ra nông nổi nầy mà không chút gì ăn năn hối hận sao? Nếu mày không nói rõ kẻ nào sai biểu mày thì ta quyết đánh mày cho đến chết.

Lúc bấy giờ An Giao và Ân Hồng là hai vị Hoàng Tử con ruột của Khương Hoàng Hậu đang đánh cờ ở Đông Cung, bỗng có thái giám Dương Dung chạy vào gọi lớn:

- Hai vị Hoàng Tử, hãy thôi đánh cờ đã. Có việc trọng đại xảy đến.

Ân Giao, Ân Hồng tánh còn con nít, ham chơi, không thèm để ý tới lời nói của thái giám.

Thái giám Dương Dung la lớn:

- Không biết đứa phản tặc nào đã âm mưu thích khách bệ hạ rồi đổ tội cho Chánh Cung, khiến Bệ Hạ hành hình Chánh Cung một cách thảm thiết.

Ân Giao đứng phắt dậy, hỏi vội:

- Mẫu Hoàng ta bị hành hình như thế nào?

Dương Dung nói:

- Bệ hạ đã khoét mắt còn đốt cả hai tay, cố tình tra khảo nhưng Chánh Cung vì oan tình quyết chẳng chịu tội.

Ân Hồng nói:

- Phụ Hoàng ta lại nỡ nào đối xử với Mẫu Hậu ta như thế. Đây chắc có kẻ phản nghịch xúi Phụ Hoàng ta bỏ đạo cang thường.

Ân Giao hỏi:

- Mẫu Hoàng ta hiện giờ ở đâu?

Dương Dung nói:

- Hiện đang cùng với đứa gian nghịch đối chất nơi Tây Cung.

Ân Giao kêu lên một tiếng, cùng với Ân Hồng chạy vội đến Tây Cung. Vừa bước vào thấy Khương Hậu máu chảy dầm dề, nằm thở hổn hển. Cả hai vị Thái Tử đều ôm chầm lấy Hoàng Hậu khóc rống lên.

Ân Giao mếu máo:

- Vì sao Mẫu Hậu lại ra nông nỗi nầy. Dù Mẫu Hậu có phạm tội gì đi nữa cũng không thể chịu trừng phạt như vậy.

Khương Hậu thấy hai con mình, khóc tức tưởi:

- Con ơi! Cha con mê sắc, không kể đến nghĩa vợ chồng, nghe lời Đắc Kỷ khoét mắt và đốt hai tay mẹ cháy như vầy. Khương Hoàn, kẻ phản nghịch đang ở trước mặt các con kia, nó đã âm mưu với bọn ác tâm, thí quân rồi khai cho mẹ chủ mưu. Mẹ thà chết chớ không chịu tiếng nhơ. Hai con phải trả cho mẹ thù nầy, ấy là các con đền ơn mẹ sanh thành dưỡng dục.

Nói đến đây Khương Hậu rú lên một tiếng rồi tắt thở, có lẽ giờ phút đó Khương Hậu bị kích động quá không còn chịu nổi.

Ân Giao thấy mẹ mình chết thảm, đau lòng quá, nhẩy xổ đến trước cửa cung, giật một thanh gươm chém Khương Hoàn một nhát đứt thành hai đoạn. Máu tuôn như suối. Tuy vậy Ân Giao vẫn chưa hã giận, cầm gươm chạy ra cửa, nói lớn:

- Ta phải giết chết Đắc Kỷ để rửa hận cho Mẫu Hoàng ta.

Ân Giao xách gươm chạy như tên bắn.

Triều Đìền, Triều Lôi thấy Ân Giao giết Khương Hoàn lại xách gươm đến cung Thọ Tiên, liền chạy về phi báo.

Hoàng Quý Phi thấy thế thất kinh, than:

- Ấu nhi, chưa thạo việc đời, e rằng sẽ mang họa.

Liền khiến Ân Hồng chạy theo gọi Ân Giao lại.

Ân Hồng không dám cãi lệnh Dương Quý Phi, vội chạy theo gọi:

- Hoàng Huynh! Hãy mau trở lại để Nương Nương dạy việc.

Ân Giao cực chẳng đã phải quay trở lại, mặt hằm hằm sát khí.

Hoàng Quý Phi nói:

- Điện Hạ nóng nảy quá! Tại sao lại chém Khương Hoàn. Nó là đứa oan nghiệt, làm cho Hoàng Hậu bị hành hình. Nhưng cũng chính nhờ nó mà ta có thể rửa oan cho Hoàng Hậu. Ta đã có cách tra hỏi, nay Điện Hạ giết mất Khương Hoàn rồi còn ai để khai ra sự thật nữa? Ta định đốt tay nó, để nó chịu không nổi mà khai ra đứa chủ mưu.

Bấy giờ Ân Giao mới thấy việc nóng nảy của mình là tai hại.

Hoàng Quý Phi lại nói:

- Điện Hạ còn xách gươm vào cung giết Đắc Kỷ nữa. Đắc Kỷ đang gần gũi với Bệ Hạ, nếu Điện Hạ cầm gươm vào đó, Bệ Hạ nghe theo lời đứa gian nịnh, kết tội Điện Hạ muốn giết vua thì Điện Hạ lấy lý nào mà gỡ được? Ta chắc Triều Điền, Triều Lôi, hai đứa ấy đã về cung Thọ Tiên đặt điều tâu dối rồi.

Ân Giao ăn năn nhưng việc đã muộn, lòng nóng như lửa đốt mà không biết phải làm cách nào cho nguôi cơn bực tức được.

Quả thật, lời dự đoán của Hoàng Quý Phi không sai. Triều Điền, Triều Lôi về đến cung Thọ Tiên, thở hổn hển vào tâu với Trụ Vương:

- Điện Hạ đã giết chết Khương Hoàn còn xách gươm chạy vào cung, không biết ý định thế nào?

Vua Trụ giận lắm, hét:

- Tội phản nghịch của Khương Hậu chưa tra xét xong, còn dám xách gươm vào hại cha. Tội ấy không dung được.

Nói rồi liền trao gươm Long Phụng cho hai tướng, truyền chém đầu Ân Giao, Ân Hồng đem về nạp.

Hai tướng vâng lệnh đến Tây Cung.

Bọn thể nữ trông thấy vội vào báo với Hoàng Quí Phi:

- Bệ Hạ trao gươm Long Phụng cho hai tướng Triều Lôi, Triều Điền bảo đi tìm hai vị Hoàng Tử giết.

Hoàng Quí Phi nghe nói mặt xám ngắt, nghĩ thầm:

- Đã hại vợ lại giết con thì còn đạo đức gì nữa. Con là nguồn huyết mạch, sao nỡ cắt bỏ cho đành? Nếu ta không liều lĩnh thì không thể cứu hai vị HoàngTử phen nầy.

Liền chạy vọt ra trước cửa cung, đón hai tướng lại hỏi:

- Sao bây loạn phép, dám xông vào cung cấm?

Hai tướng thưa:

- Chúng tôi vâng lệnh Bệ Hạ đi tìm hai vị Thái Tử hạ sát đem đầu về nạp.

Hoàng Quí Phi hét lớn:

- Loạn thần! Chớ xảo ngôn, lúc nãy các ngươi ở đây đã thấy hai vị Thái Tử ra khỏi Tây Cung rồi, tại sao các ngươi còn đến đây tìm? Rõ ràng là các ngươi mượn lệnh Thiên Tử đột nhập vào cung cấm để trêu chọc các cung phi. May phước chúng bây có gươm Vua, nếu không ta chém đầu hết.

Triều Điền, Triều Lôi nghe nói thất sắc, vội cúi mặt chạy thẳng qua Đông Cung, không dám nói lời nào nữa.

Hai tướng đi rồi, Hoàng Quí Phi vào gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:

- Hôn quân quyết giết hết vợ con. Nay Quốc Mẫu đã chết, hai vị Điện Hạ cũng khó sống được, phải liệu cách mà trốn đi.

Ân Giao hỏi:

- Phụ Hoàng còn có hành động nào nữa?

Hoàng Quí Phi chỉ ra cửa cung nói:

- Bệ Hạ vừa sai hai tướng họ Triều cầm gươm Long Phụng đến tìm giết hai vị Điện Hạ đấy. Vậy hãy sang tạm chổ Dương Quí Phi lánh mặt một thời gian, đợi các quan can gián xem sao.

Hai vị Hoàng Tử khóc òa nói:

- Phụ Hoàng không nghĩ đến tình vợ con nữa, chúng con còn biết nương cậy vào đâu. Hoàng nương thương chúng con bảo bọc, ơn ấy rất trọng.

Hoàng Quí Phi nói:

- Hãy lo lánh mặt kẻo trễ thì họa đến chẳng kịp nữa. Ơn nghĩa nhị vị xin đừng nói đến.

Ân Giao nói:

- Nay Mẫu Hoàng bị chết thảm thiết như vậy, xin Hoàng nương tìm cách khâm liệm dùm, kẻo tội nghiệp quá!

Hoàng Quí Phi nói:

- Việc đó tôi đang lo. Hai vị Điện Hạ cứ tin lòng tôi là đủ.

Ân Giao, Ân Hồng lạy tạ rồi trốn qua cung Hình Khánh.

Vừa đến nơi đã thấy Dương Quí Phi đang đứng trước cửa cung ngóng chờ tin tức của Khương Hoàng Hậu.

Ân Giao trông thấy khóc rống lên.

Dương Quí Phi thất kinh hỏi:

- Hai vị Điện Hạ có việc gì vậy? Chẳng hay tin tức của Mẫu Hậu thế nào?

Ân Giao thưa:

- Phụ Hoàng tôi nghe lời Đắc Kỷ dùng cực hình tra tấn khoét mắt và đốt tay Mẫu Hoàng tôi. Mẫu Hoàng tôi chết rồi. Nay Phụ Hoàng lại trao gươm rồng, truyền hai tướng họ Triều tìm giết anh em tôi nữa. Xin Dương nương nương thương tình cứu mạng.

Dương Quí Phi nghe nước mắt tràn trề nói:

- Thật là tàn nhẫn! Thôi, hai vị Điện Hạ hãy mau vào cung trốn đỡ rồi sẽ liệu.

Ân Giao, Ân Hồng liền vào trong tìm chổ kín ẩn thân.

Còn Dương Quí Phi thì đứng canh chừng ngoài cửa, phòng anh em họ Triều đến lục soát.

Quả nhiên, Triều Điền, Triều Lôi lục soát bên Đông Cung không tìm thấy Ân Giao, Ân Hồng liền xách gươm thẳng đến cung Hình Khánh.

Gặp lúc Dương Quí Phi đứng ngoài cửa cung, trông thấy liền truyền các quan thái giám bắt hai tướng họ Triều trói lại, và nói:

- Chỗ này là cung cấm, sao chúng bây dám đến xông vào, vô kỷ cương như vậy? Ta tru di tam tộc đó.

Anh em họ Triều mất vía, run rẩy nói:

- Chúng tôi tuân lệnh Bệ Hạ đến tìm bắt hai vị Điện Hạ. Vì có gươm lệnh trong mình nên không dám làm lễ, xin Quí Phi chỉ dùm hai vị Điện Hạ cho chúng tôi.

Dương Quí Phi hét:

- Đừng nói bậy! Điện Hạ ở nơi Đông Cung, còn cung Hình Khánh là cung riêng của ta, chúng bây đến đây lớ quớ ta chém đầu lập tức. May mà có gươm lệnh, nếu không hai đứa bây đã mất đầu rồi.

Hai tướng túng thế phải quay về.

Dương Quí Phi liền vào cung gọi Ân Giao, Ân Hồng nói:

- Chỗ nầy tai mắt rất đông, hai vị Điện Hạ ở lâu không tiện, hãy đến đền Cữ Gian vào ra mắt Vi Tử, Cơ Tử, Tỉ Can, Tử Điền, Hoàng Phi Hổ, may ra những vị đại thần ấy có thể tâu với vua xin tội cho nhị vị.

Hai anh em Ân Giao lạy tạ ra đi.

Dương Quí Phi ngồi một mình buồn bã nghĩ thầm:

- Khương Hoàng Hậu là vị hôn phối của vua, còn hai Điện Hạ là dòng máu của vua, thế mà vua còn nghe theo lời của Đắc Kỷ dứt bỏ tình nghĩa, cắt lìa ruột thịt, huống chi ta là cung ba, phận bọt bèo, lại không có con cái gì hết, sớm muộn không khỏi bị Đắc Kỷ làm nhục. Hơn nữa nếu Trụ Vương hay chuyện dấu hai vị Hoàng Tử trong cung thì tội ấy không thể trốn lánh vào đâu, chi bằng tính trước cho yên.

Nghĩ như vậy, Dương Quí Phi than khóc nữa ngày rồi vào hậu cung thắt cổ tự vận.

Quan Thái Giám biết được, vội vào báo với Trụ Vương.

Trụ Vương không rõ Dương Quí Phi buồn vì việc gì mà tự sát như vậy, liền truyền tẩn liệm, quàn nơi Bạch Hổ.

Bấy giờ, Hoàng Quí Phi cũng vào cung Thọ Tiên khóc lóc, tâu:

- Khương Hậu bị hành hình chịu không nổi đã chết rồi. Trước khi chết, Khương Hậu có trối trăn rằng: "Tôi thờ Bệ Hạ đã mười mấy năm chẳng hề phạm lỗi, không chút ghen tương. Chẳng biết gian nhân nào đã bày điều vu oan giá họa để Bệ Hạ ra hình phạt như vậy. Thần chết không bằng thú vật, tiếng nhơ không biển nào rửa cho hết. Sau khi tôi chết, xin Bệ Hạ để xác tôi nơi đền Bạch Hổ cho các quan luận tội minh oan". Đó là mấy lời Khương Hậu cậy tôi tâu lại với Bệ Hạ. Hiện giờ xác Khương Hậu vẫn còn ở Tây Cung, xin Bệ Hạ nghĩ tình nguyên phối cho phép tẩn liệm để khỏi tiếng thị phi.

Vua Trụ truyền làm theo lời của Hoàng Quí Phi.

Hoàng Quí Phi lạy tạ, rồi về cung lo việc tẩn liệm thi hài của Khương Hậu rất trọng thể.

Trong lúc đó hai tướng Triều Điền, Triều Lôi từ cung Hình Khánh trở về tâu lại với Trụ Vương:

- Chúng tôi tới Đông Cung tìm khắp nơi vẫn không thấy hai vị Điện Hạ.

Vua Trụ hỏi:

- Hay là chúng tới Tây Cung thăm Khương Hậu?

Hai tướng tâu:

- Không có bên Tây Cung, cũng không có nơi cung Hình Khánh.

Vua Trụ nói:

- Không có trong ba cung tức chúng đã trốn ra đền lớn, thông tư với triều thần, âm mưu khởi loạn chăng. Phải bắt giết cho được.

Hai tướng tuân lệnh, một lần nữa vác gươm rồng ra đi.

Bấy giờ Ân Giao, Ân Hồng đã thoát ra được trước đền lớn, thấy bá quan còn hội đủ mặt để chờ tin Hoàng Hậu.

Hai vị Hoàng Tử khóc lên.

Hoàng Phi Hổ lật đật nghênh đón, hỏi:

- Vì cớ vì hai vị Điện Hạ kinh hãi như vậy?

Ân Giao nói:

- Võ Thành Vương ơi! Hãy cứu mệnh chúng tôi với. Mẫu Hậu không có lòng phản nghịch mà Phụ Vương tôi nghe lời Đắc Kỷ chẳng xét oan tình, ra lệnh khoét mắt, rồi đốt cháy cả hai bàn tay, khiến Mẫu Hậu phải bỏ mình. Chúng tôi thấy Khương Hoàn đứa phản nghịch thí vua có mặt trong Tây Cung để đối chứng, nổi giận chém đi, Phụ Vương tôi lại sai hai tướng họ Triều, trao gươm rồng, tìm giết. Thật không còn tình nghĩa gì nữa. Xin các quan tìm cách cứu vãn tình thế, minh oan cho Mẫu Hậu, cứu mạng anh em chúng tôi trong cơn nước lửa này.

Ân Giao, Ân Hồng kể lể một hồi, lại khóc lớn lên. Các quan thấy cảnh ấy cũng phải động lòng. Có một người đề nghị:

- Chúng ta hưởng lộc nước, mũ cao áo dài, ngồi chễm chệ thế này, lẽ nào nước nhà đảo lộn lại ngồi ngó. Vậy thì nổi trống đền lên, mời Bệ Hạ lâm triều để tra xét phân minh vụ án nầy, trước minh oan cho Quốc Mẫu, sau truy tầm đứa gian nghịch trừ loạn.

Các quan còn phân vân chưa biết phải làm gì thì có một người hét lên một tiếng như sấm:

- Thiên Tử đắm say tửu sắc, giết vợ hại con, bày Bào Lạc đốt tôi trung. Tình vua tôi đã tổn thương, tình gia đình đã đổ vỡ, mối nước không thể giữ nổi nữa đâu. Chi bằng chúng ta tính chuyện khác cho rồi.

Một người khác lại ứng tiếng phụ họa:

- Phải rồi! Chim khôn chọn cây hiền mà đậu, tôi hiền chọn chúa mà thờ. Nay vua giết vợ hại con, nhơn nghĩa không còn, cương thường đảo lộn. Một ông vua như vậy chúng ta cứ khom lưng tôn thờ, đã mang tiếng xấu hổ, lại không ích gì cho quốc gia. Còn cứ nhìn nhau khóc lóc như đàn bà lại là hèn hạ. Theo ý tôi, nên đồng lòng phế hôn quân xuống, tôn vua khác lên ngôi. Như vậy mới bảo vệ xã tắc được.

Các quan xem lại thì người ấy là Phương Bật và Phương Tướng, hai anh em ruột đang làm chức Triều Điển tướng quân.

Hoàng Phi Hổ nghe nói nạt lớn:

- Hai ngươi là quan nhỏ, sao dám loạn ngôn như vậy? Bao nhiêu cận thần đây không đủ trí để định đoạt à? Các ngươi tội đáng chết. Không trốn đi còn đứng đó đợi bị bắt hay sao?

Phương Bật và Phương Tướng cúi đầu lui ra ngôi vị mình. Tuy nhiên hai người cũng ngầm hiểu ý của Hoàng Phi Hổ muốn gì rồi.

Hoàng Phi Hổ thấy việc nước sanh nhiều tai biến, lòng dân rời rã, triều thần không còn cách gì đứng vững, buồn bã than với các quan đại thần. Những vị trung thần tuổi trẻ, nghiến răng trợn mắt, hậm hực vô cùng.

Còn các bậc lão thành có công xây dựng lâu nay, mang nhiều tình cảm, không có ý định thay trật đổi ngôi, chỉ căm hận kẻ đã gây ra thảm họa.

Quan cận thần Dương Nhậm, một lão quan lớn tuổi thở dài nói:

- Vua bị mờ ám, giết vợ hại con, không kể đến tình tôi chúa, nhất định bên trong có kẻ gian nịnh âm mưu làm loạn. Một lũ chúng ta bây giờ chỉ làm trò cười cho chúng, và một ngày nào đó, tánh mạng chúng ta cũng không khỏi chết.

Hoàng Phi Hổ nói:

- Lời của Dương Đại Phu nói rất phải. Song chúng ta làm tôi Thành Thang đã ba đời, bề nào cũng phải khuyên vua bỏ lỗi sửa mình.

Tỉ Can, Vi Tử Khải, và Vi Tử Điểu nhớ đến cơ nghiệp của tiền nhân, khóc sụt sùi không dứt.

Phương Bật và Phương Tướng thấy tình trạng không giải quyết đến đâu liền hô lớn:

- Vua Trụ lỗi đạo lắm, giết vợ, hại con, bỏ cương thường, nay chúng tôi đưa hai vị Điện Hạ đến Đông Lổ viện binh trừ hôn quân và tôn Đông Cung lên làm vua thay thế Vua Trụ kế nghiệp Thành Thang.

Nói rồi hai anh em họ Phương cõng Ân Giao, Ân Hồng chạy ra khỏi triều, rời Triều Ca, nhắm Đông Lổ chạy riết.

Ân Giao, Ân Hồng nhờ anh em Phuơng Bật, Phương Tướng mà thoát đại nạn.

Người sau có thơ tặng anh em họ Phương:

Anh em Phương Bật thật anh tài

Cõng Chúa ra ngoài chẳng sợ ai

Nghĩa khí khuyên đừng chê lổ mãng

Đem thân làm ngựa, chúng kinh oai

Các quan thấy Phương Bật, Phương Tướng làm phản, hết thảy đều kinh tâm. Chỉ riêng Hoàng Phi Hổ làm như không biết, và cũng không để ý đến.

Tỉ Can là chú của Vua Trụ, bước đến hỏi nhỏ Hoàng Phi Hổ:

- Anh em họ Phương ra mặt phản loạn giữa triều, sao Võ Thành Vương để yên như vậy?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Tôi tiếc nội trào không ai bằng anh em họ Phương cả. Chúng nó tuy lỗ mãng song còn biết thương Quốc Mẫu thác oan, lo hai vị Thái Tử bị hại. Vì chức nhỏ, không được phép can gián, nên trong tình thế nguy cấp không biết làm thế nào, phải liều thân cõng hai vị Thái Tử chạy đỡ. Chúng cũng biết, một khi triều đình đem quân đuổi bắt thì tánh mạng chẳng còn. Chúng ta cũng nên thương tình hơn là chấp trách.

Các quan chưa kịp đàm luận thì đã nghe tiếng chân người chạy rần rần. Xem lại là Triều Điền và Triều Lôi cầm gươm lệnh chạy đến giữa đền, hỏi:

- Có hai vị Điện Hạ đến đây chăng?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Hai vị Điện Hạ vừa đến đây khóc lóc. Anh em họ Phương động lòng cõng chạy trốn rồi. Họ vừ thoát ra cửa Nam thành, hai ông có lệnh vua sai thì hãy đuổi theo bắt về trị tội.

Triều Điền và Triều Lôi nghe Phương Bật và Phương Tướng làm phản đều thất kinh, không dám đuổi theo. Bởi vì Phương Bật mình cao mười sáu thước, còn Phương Tướng mình cao mười bốn thước, cả hai sức mạnh như voi, hung dữ như cọp, nếu hai tướng họ Triều đuổi theo anh em họ Phương nổi giận đá cho mấy đá là toi mạng.

Thật ra Hoàng Phi Hổ thấy anh em họ Điền không có lương tâm, quyết lòng giết hai vị Thái Tử nên cố nói gạt, để chúng đuổi theo anh em họ Phương, ăn đòn một trận cho bỏ ghét, nhưng Triều Điền và Triều Lôi đã lượng sức mình, nói xuôi:

- Hai vị Điện Hạ đã trốn thì thôi. Để tôi về tâu lại với Thiên Tử.

Nói rồi về cung Thọ Tiên tâu:

- Phương Bật, Phương Tướng làm phản, cõng hai vị Điện Hạ chạy sang Đông Lổ rồi.

Trụ Vương nổi giận hét:

- Hai ngươi phải đuổi theo bắt chúng nó cho mau.

Triều Điền tâu:

- Anh em họ Phương vũ dũng phi thường, chúng tôi bắt sao được. Xin Bệ Hạ giáng chỉ sai Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ mới được.

Trụ Vương liền viết chiếu đưa ra. Triều Điền cầm chiếu vua đến giữa đại điện truyền rằng:

- Hoàng Phi Hổ phải lãnh gươm lệnh đuổi theo bắt anh em họ Phương và lấy thủ cấp Ân Giao, Ân Hồng về phục chỉ.

Hoàng Phi Hổ cười rằng:

- Tôi biết rồi, Triều Điền muốn giao gánh cho ta đó.

Liền lãnh gươm và chiếu của vua trở về dinh.

Các tướng Hoàng Minh, Châu Kỳ, Long Hoàn, Ngô Khiêm xin theo phò tá, Hoàng Phi Hổ nói:

- Các em theo làm gì. Ta đi rồi trở về ngay.

Liền lên lưng trâu ngũ sắc, lướt ra cửa thành như gió. Con trâu này chạy nhanh hơn ngựa, một ngày đi tám trăm dậm.

Bấy giờ anh em Phương Bật cõng hai vị Điện Hạ chạy bộ một ngày thảng thốt chỉ mới ba chục dậm đường. Kể ra như vậy anh em họ Phương cũng đã có sức khỏe vô địch rồi. Thấy đã mệt mỏi, hai người để Ân Giao, Ân Hồng xuống nghỉ chân.

Ân Giao, Ân Hồng nói:

- Ơn hai vị tướng quân biết ngày nào chúng tôi mới trả được?

Phương Bật nói:

- Anh em tôi thấy Bệ Hạ vô đạo, giết vợ hại con, lòng không đành ngó hai vị Điện Hạ chết oan nên liều mình cõng chạy. Thế nào cũng gặp nguy hiểm. Một là triều đình đem quân đuổi bắt, hai là không biết chỗ nào nương dựa.

Trong lúc đang bàn bạc, bỗng thấy Hoàng Phi Hổ cỡi trâu năm sắc chạy tới, Phương Bật thất kinh, nói với hai vị Điện Hạ:

- Nguy rồi! Chúng tôi biết không tránh khỏi đại họa. Thiên Tử sai Võ Thành Vương theo bắt chúng ta kia, biết liệu làm sao?

Phương Tướng nói:

- Võ Thành Vương là người nhân đức, không đến nỗi dã tâm, xin nhị vị Điện Hạ lấy lời hơn lẽ thiệt phân giải, thế nào người cũng không sát hại.

Còn đang bàn bạc thì Hoàng Phi Hổ đã tới.

Ân Giao vội quỳ xuống đất hỏi:

- Có phải Võ Thành Vương theo bắt chúng tôi chăng?

Hoàng Phi Hổ thấy vậy thất kinh, xuống trâu, quỳ đáp lễ và nói:

- Tội tôi muôn thác, xin Điện Hạ đứng dậy, đừng làm như thế.

Ân Giao nói:

- Võ Thành Vương đến đây có việc gì?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Tôi vâng lệnh Thiên Tử đem gươm Long Phụng đi bắt hai vị Điện Hạ lấy thủ cấp về dâng, nhưng tôi không nỡ, xin hai vị Điện Hạ dạy cho tôi biết làm thế nào để khỏi tội?

Ân Giao nói:

- Võ Thành Vương không thấy Mẫu hậu chết thảm thiết sao? Chúng tôi là con, máu huyết Thành Thang, thế mà Phụ hoàng tôi lại nhẫn tâm giết hại, đó là tại Đắc Kỷ xui nên. Nếu Võ Thành Vương để chúng tôi sống, tìm cách giết Đắc Kỷ để báo thù cho Mẫu hậu thì ân ấy quyết không quên.

Hoàng Phi Hổ nói:

- Tôi há lại không biết điều ấy hay sao? Ngặt vì có lệnh vua, nếu tha hai vị Điện Hạ thì mang tội dối vua, còn tuân lệnh thì chẳng khác nào hùa với kẻ gian ác làm bậy. Cả hai đường đều khó xử, tôi còn đang lưỡng lự.

Ân Giao nói:

- Nếu thế tôi đã có cách. Võ Thành Vương tuân lệnh vua đến đây chẳng thể về không, vậy thì xin lấy thủ cấp tôi đem về nạp, còn Ân Hồng em tôi còn thơ bé lắm, xin để cho nó sống tị nạn nơi khác đặng ngày sau khôn lớn báo thù cho mẹ tôi. Nếu được vậy, tôi dù thác cũng chẳng dám quên ơn.

Dứt lời liền tiếp lấy gươm Long phụng toan tự cắt lấy thủ cấp mình.

Ân Hồng vội chạy đến giựt gươm nói:

- Không nên! Anh là Đông Cung Thái Tử, thừa kế sự nghiệp tổ tông. Em còn thơ dại không làm gì nên việc, để em chết thay anh mới phải.

Rồi quay sang nói với Hoàng Phi Hổ:

- Xin Võ Thành Vương đem đầu tôi về nạp, tha cho anh tôi trốn sang Đông Lổ hay Tây kỳ viện binh báo oán. Tôi chết cũng không dám tiếc.

Ân Giao ôm Ân Hồng nói:

- Không được! Em còn nhỏ tuổi, tội gì phải mang tai họa như vậy? Tuổi em là tuổi phải được hưởng những gì hạnh phúc, sống trong yêu thương. Nay Mẫu hoàng đã mất, tình gia đình không còn, anh lại để em chết thay anh sao đành?

Hai anh em dành nhau thanh gươm để được chết.

Phương Bật và Phương Tướng thấy thảm cảnh khóc oà la lớn:

- Ôi! Thật là đứt ruột!

Hoàng Phi Hổ đứng trân một lúc rồi nói:

- Thôi, hai tướng chớ khóc lóc làm gì, hai vị Điện Hạ cũng không cần tranh nhau cái chết nữa. Chuyện này chỉ có năm người trong chúng ta biết mà thôi, xin chớ để lộ ra ngoài mà mang họa. Thà tôi chịu tội dối vua còn hơn mang tiếng độc ác. Bây giờ Phương Bật hãy đưa Đông Cung qua Đông Lổ cho Khương Hoàng Sở, còn Phương Tướng thì đưa nhị Điện Hạ qua Nam Đô cho Ngạt Sùng Võ. Đến nơi hai người nói với hai trấn chư hầu ấy biết là ta tha hai vị Điện Hạ giữa đường, nhờ hai trấn chư hầu ấy đem binh về Triều Ca dẹp nịnh. Chừng đó mọi việc đã có ta.

Phương Bật nói:

- Hai anh em tôi nóng nảy lại bất trí, thấy việc trái ý thì làm, không suy nghĩ trước. Nay đến đây trong túi không có một đồng, còn Đông Lổ và Nam Đô là hai nơi vòi vọi, nếu đi bộ phải mất mấy ngày đường, cơm gạo đâu mà ăn? Nhịn đói đi sao nổi?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Việc nầy ta cũng không tính trước, nên cũng không có đem tiền theo.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Hoàng Phi Hổ lấy chiếc ấn đeo trong mình trao cho hai tướng và nói:

- Ấn nầy bằng vàng, có thể bán lấy tiền mua thức ăn được. Hai ngươi lấy mà dùng.

Hai tướng cúi lạy tạ ơn, và thấy rõ lòng nhân đạo của Hoàng Phi Hổ thật bao la.

Hoàng Phi Hổ lại dặn hai vị Thái Tử:

- Xin hai Điện Hạ cứ yên tâm đi tới chỗ. Lần nầy tôi mang tội dối vua một chuyến không sao.

Dứt lời, Hoàng Phi Hổ lên lưng trâu ngũ sắc trở về triều thì trời đã sẩm tối. Bá quan còn đang đứng chực nơi Ngọ Môn để đón tin tức. Thấy Hoàng Phi Hổ về, Tỉ Can hỏi:

- Công việc ra thế nào?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Hai tướng cao giò chạy mau quá, tôi theo không kịp, trời tối nên phải về phục mệnh.

Các quan nghe nói, ai cũng mừng thầm.

Võ Thành Vương vào cung tâu với Vua Trụ:

- Tôi vâng lệnh theo hơn bảy mươi dậm đường, đến một ngả ba hỏi thăm kẻ đi đường, họ đều nói không thấy. Tôi không biết ngõ nào tìm nữa, phải trở về tâu lại với Bệ Hạ hay.

Trụ Vương nói:

- Chúng nó chạy thoát thì thôi. Khanh cứ về an nghỉ, sáng mai Trẫm sẽ lâm triều đàm luận.

Võ Thành Vương lui ra khỏi cung.

Đắc Kỷ thấy không bắt được Ân Giao, Ân Hồng lòng lo lắng, tâu với Vua Trụ:

- Bệ Hạ chớ xem nhẹ việc này. Ân Giao, Ân Hồng là cháu ngoại của Đông Bá Hầu Khương Hoàng Sở, nếu hai vị Điện Hạ về đến Đông Lổ thế nào cũng sanh biến. Chi bằng sai hai tướng Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn ba ngàn quân cấp tốc đuổi theo bắt lại. Như vậy mới khỏi sợ sanh ra hậu họa.

Trụ Vương khen phải, liền đòi hai tướng ấy đến. Truyền chỉ đem ba ngàn binh mã, bất luận ngày đêm phải theo cho kịp để bắt cho được hai vị Thái Tử.

Hai tướng tuân lệnh lạy tạ lui ra, thẳng đến dinh Hoàng Phi Hổ để lãnh binh mã.

Bấy giờ Hoàng Phi Hổ vừa trở về dinh, đang ngồi buồn lo phải trái, nghĩ đến cảnh loạn ly của thiên hạ không sao tránh khỏi. Xảy nghe quân báo:

- Có hai tướng Lôi Khai và Ân Phá Bại đến hầu.

Hoàng Phi Hổ truyền cho vào. Hai tướng vào làm lễ xong, Hoàng Phi Hổ hỏi:

- Nơi đại điện vừa gặp mặt, việc gì lại đến đây?

Hai tướng thưa:

- Bệ Hạ truyền chỉ dạy hai chúng tôi lãnh ba ngàn binh đuổi theo bắt hai vị Điện Hạ đem về trị tội, và anh em Phương Bật đem về gia hình. Xin Nguyên Soái cho chúng tôi lãnh binh kẻo trễ.

Hoàng Phi Hổ nghĩ thầm:

- Nếu hai tướng nầy đem binh đuổi theo bắt được hai vị Điện Hạ thì té ra ta có công tha cũng như không.

Liền nói với hai tướng:

- Bây giờ đang đêm, quân binh lộn xộn, khó điểm được. Vậy đợi đến canh năm ta phát cho.

Vì Hoàng Phi Hổ nguyên là Nguyên Soái coi việc quân binh, còn Ân Phá Bại và Lôi Khai là tướng, đâu dám trái lệnh. Hai người đành trở về dinh, đợi qua canh năm mới khởi hành được.

Hoàng Phi Hổ đưa hai tướng ra ngoài trở vào nói với Châu Kỷ:

- Ngày mai, lúc canh năm, ngươi lựa loại ngựa què, lính bệnh, đủ ba ngàn cấp cho hai tướng Lôi khai và Ân Phá Bại, cốt làm cho chúng không đuổi theo kịp hai vị Điện Hạ.

Rạng ngày hai tướng đến lãnh binh mã thì Châu Kỷ đã lựa đủ số người ngựa theo ý định cấp cho. Hai tướng thấy toàn thứ binh lao mã liệt trong lòng không vui, nhưng không dám nói.

Đoàn quân kéo nhau ra khỏi Triều Ca rất mệt nhọc. Trong đó cũng có lộn một ít ngựa khỏe và những tên quân bệnh nhẹ, nhưng người mạnh phải chờ người yếu, ngựa khỏe phải chờ ngựa mệt, nên hàng ngủ so đo, lểnh mểnh suốt buổi vẫn chưa đi được mấy dậm đường.

Bấy giờ Phương Bật và Phương Tướng phò hai vị Hoàng Tử đi đã hai ngày đến một vùng xa xôi hẻo lánh, tiền bạc trong túi không có, nhà cửa lại lưa thưa, không nơi tạm trú. Tuy có kim quyết của Hoàng Phi Hổ tặng nhưng nơi nầy là vùng thôn dã, vàng ngọc không thể bán được, đành nhịn đói mà đi.

Đến ngã ba lộ, Phương Bật nói với Phương Tướng:

- Chúng ta phò hai vị Điện Hạ đến đây cũng đã thoát nạn rồi. Vậy hai ta để hai vị Điện Hạ đi trước, chúng ta tìm chổ bán chiếc Kim Quyết kiếm tiền rồi sẽ theo sau.

Hai tướng bàn định xong liền tỏ ý với Ân Giao, Ân Hồng.

Ân Giao, Ân Hồng thuận tình, mỗi người đi mỗi hướng. Ân Hồng qua Nam Đô, Ân Giao qua Đông Lổ. Còn Phương Bật và Phương Tướng sau khi bán vàng xong sẽ chia nhau theo phò.

Sắp đặt xong, ai nấy chia tay, mỗi người đi một ngã.

Ân Hồng nước mắt không ráo, thương anh nhớ mẹ, tủi phận khôn cùng. Con vua cháu chúa, chưa từng đi bộ, nay mới đi mấy dậm đường đã thấy mỏi chân, đói lòng. Ân Hồng rẽ vào một xóm, thấy nhà kia đang ăn uống cơm hẩm canh rau, liền bước vào xin ăn.

- Tôi đi lỡ đường, xin cho tôi ăn với.

Gia đình người nông phu thấy tướng mạo Ân Hồng khôi ngô, ăn mặc sang trọng, vội dọn cơm lên ghế mời dùng bữa. Ân Hồng ăn xong nói:

- Ơn nầy biết ngày nào tôi mới trả được?

Mấy người trong nhà hỏi thăm:

- Quí khách là ai? Từ đâu đến mà lỡ đường?

Ân Hồng nói:

- Ta tên Ân Hồng, con Vua Trụ, định sang Nam Đô ra mắt Ngạt Sùng Võ.

Cả gia đình người nông phu nghe thất kinh, vội sụp lạy và nói:

- Chúng tôi xác phàm mắt tục, không biết Điện Hạ nên thất lễ, xin Điện Hạ dung thứ.

Ân Hồng hỏi:

- Đây phải là đường qua Nam Đô không?

Người chủ đáp:

- Phải. Cứ đường nầy đi thẳng chừng lối ba mươi dặm đường nữa thì tới. Nếu không dùng ngựa. Điện Hạ phải đi mất chừng một ngày.

Ân Hồng từ giã, nhắm hướng ấy thẳng tới. Tuy nhiên chỉ đi chừng vài dặm, chân đã mỏi mê, không sao bước nổi nữa, lại gặp khoảng đồng trống, không có nhà cửa, phần thì trời tối, biết nơi nào tạm trú?

Ân Hồng nhìn thấy đàng trước, xa xa trong cụm rừng có cái miễu lớn, chắc có thể nghỉ chân được, liền ráng sức lần đến.

Trước miễu có một tấn biển đề ba chữ: Miễu Huỳnh Đế.

Ân Hồng vào trong quỳ lạy, vái:

- Hiên Viên Huỳnh Đế là vua Thánh chế ra lễ, nhạc, áo xiêm, đứng vào hàng Ngũ Đế. Tôi là Ân Hồng, cháu vua Thành Thang đời thứ ba mươi mốt, vì cha tôi là Trụ Vương nghe lời dua nịnh, giết vợ hại con, nên tôi phải đi tỵ nạn, lỡ đường xin ngụ một đêm, xin nhờ ơn vua Thánh che chở. Nếu ngày sau tôi lập nên nghiệp đế, tôi sẽ đúc tượng vàng, trùng tu miếu võ để đền ơn.

Vái xong, vì quá mỏi mệt Ân Hồng nằm xuống ngủ mê.

Còn Ân Giao đi tới được hơn bốn mưoi dặm đường xảy thấy một cái dinh, trên đề ba chữ "Thái Sư Phủ ".

Ân Giao nghĩ thầm:

- Đây là dinh quan vào xin ngủ nhờ tiện lắm.

Liền bước đến cổng gọi lớn:

- Có ai giữ cửa chăng?

Ân Giao gọi luôn mấy tiếng vẫn không thấy ai trả lời, liền đi thẳng vào trong.

Bỗng nghe có tiếng ngâm thơ văng vẳng:

Quỉ vào cung cầm án con trời

Khiến người ngay hóa lửa trơi

Hổ phận tôi già về ruộng rẫy

Biết sao can gián một đôi lời

Ân Giao lắng tai nghe hết bài thơ, rồi cất tiếng hỏi:

- Có ai trong dinh không?

Trong dinh có tiếng hỏi vọng ra văng vẳng:

- Ai đó? Trời tối quá không thấy rõ ràng.

Ân Giao nói:

- Tôi là kẻ xa lạ, đi viếng bà con, lỡ đường trời tối, xin vào đây ngủ tạm một đêm, sáng mai dời gót.

Giọng nói trong dinh lại vọng ra:

- Tiếng nói người nào giống tiếng nói của người ở Triều Ca?

Ân Giao vội đáp:

- Phải. Tôi là người ở Triều Ca đến đây.

Trong dinh hỏi:

- Ở gần thành vua không?

Ân Giao đáp:

- Gần lắm.

Vừa dứt tiếng thì bên trong cánh cửa mở, một ông già bước ra mời Ân Giao:

- Hãy vào đây cho lão hỏi thăm chút việc.

Ân Giao thoáng thấy đã biết ngay là cựu Thừa Tướng Thương Dung, nhưng Thương Dung vì quá già cả, con mắt đã yếu không trông rõ trong bóng tối lờ mờ được.

Ân Giao xá một cái và nói:

- Tôi xin chào Thừa Tướng đây.

Bây giờ Thương Dung mới nhận ra là Ân Giao, vội vã sụp lạy nói:

- Điện Hạ đến đây mà tôi không hay để nghênh đón, tội tôi rất nặng xin Điện Hạ dung thứ.

Ân Giao nói:

- Xin quan Thừa Tướng chớ câu chấp như vậy.

Thương Dung nói:

- Điện Hạ đi một mình đến chổ quạnh hiu như thế nầy chắc là trong triều có việc gì hệ trọng. Hãy nói cho lão phu biết.

Ân Giao lau nước mắt, thuật lại mọi việc vừa xảy ra ở triều đình. Thương Dung dậm chân kêu trời nói:

- Không ngờ Thiên Tử đến nỗi nầy. Tam cang, ngũ thường đều đổ nát, mối nước ngữa nghiêng, tôi tuy ở trong rừng mà lo việc triều nội, nơm nớp trong lòng, ăn ngủ không yên. Nay cớ sự đến thế nầy, Hoàng Hậu bị chết oan, hai vị Điện Hạ bị lưu lạc, các quan triều không ai dám mở miệng can ngăn, thế thì còn gì xã tắc. Thôi Điện Hạ hãy an lòng, để tôi liều mạng già về Triều Ca viết sớ can vua lần nữa xem sao.

Nói rồi đưa Ân Giao vào trong bày tiệc thết đãi.

Lúc này Ân Phá Bại và Lôi Khai dẫn đám quân lao mã liệt đi trọn ngày không nghỉ, nhưng chỉ được vài chục dặm đường. Qua ngày thứ nhì đi càng chậm hơn, đến ngày thứ ba đi chậm hơn nữa. Lần hồi mới đến ngã ba lộ, chỗ hai vị Thái Tử chia tay.

Lôi Khai thấy tình thế bi đát, nói với Ân Phá Bại:

- Chúng ta nên tuyển lựa một số binh mạnh, chia làm hai tốp kéo qua Đông Lổ, còn một tốp tôi dẫn đến Nam Đô cho kịp ngày giờ. Nếu cứ dẫn cả lũ lão nhược như vầy biết chừng nào mới theo kịp?

Ân Phá Bại nói:

- Võ Thành Vương đã cấp cho chúng ta ba ngàn quân, nếu đuổi bớt về e rằng người giận chúng ta chăng?

Lôi Khai nói:

- Không cần đuổi về. Cứ cho những quân lính tàn tật, bệnh hoạn đóng lại ở đây, chờ chúng ta trở lại sẽ đưa họ về triều.

Ân Phá Bại cho ý kiến ấy rất hay, liền tuyển một số người ngựa khả dĩ dùng được, còn bao nhiêu cho đóng đồn an nghỉ nơi ngã ba đường, cấm không được đi đâu hết.

Lôi Khai lại nói:

- Nếu anh về trước thì đợi tôi nơi đây, còn tôi về trước cũng sẽ đợi anh nơi đây. Chúng ta dùng ngả ba nầy làm chỗ hò hẹn.

Kế hoạch xếp đặt xong, hai tướng lựa được hơn hai trăm người ngựa, chia làm hai tốp kéo đi. Còn bao nhiêu quân lính bệnh hoạn được phép nghỉ ngơi, mừng không thể tả.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 8
Thương Thừa Tướng liều mình gián chúa


Nói về Lôi Khai dẫn năm mươi binh mã kéo qua ngả Nam Đô, đi như giông gió.

Trời tối, Lôi Khai truyền quân lấy lương thực ra ăn rồi đi suốt đêm, không cho nghỉ.

Chẳng ngờ vừa đi hết canh một, đến một khoảng đồng trống mênh mông thì ngựa mỏi mệt, quân sĩ buồn ngủ bước không nổi, kẻ nhào xuống ngựa, người mở mắt không ra.

Lôi Khai nghĩ thầm:

- Ta đi đây mục đích theo đuổi hai vị Thái Tử đâu phải việc bôn ba chiến trận. Nếu dọc đường trời tối ta cứ thúc quân đi riết, không thấy hai vị Thái Tử có phải uổng công không. Chi bằng tìm chỗ nghỉ chân lại nơi đây, đợi sáng rõ mặt sẽ đi tiện hơn.

Nghĩ như vậy liền truyền quân tìm một xóm nhà nào để nghỉ chân.

Quân sĩ mừng rỡ trưng lồng đèn lên sáng rực, thấy xa xa trong cụm rừng tòng có một ngôi miễu lớn, liền báo cho Lôi Khai.

Lôi Khai truyền vào miếu ngủ đỡ, đến sáng sẽ tiếp tục lên đường.

Quân sĩ ồ ạt kéo đến miếu đường, ỷ là quân triều đình nên không cần dè đặt gì cả.

Miếu hoang vắng lạnh lâu ngày, nay có đông người làm quang cảnh tưng bừng sống lại. Một số quân sĩ hâm hở vào trước tìm chổ ngủ, khi đến trước điện thờ bỗng thấy một người vóc nhỏ đang nằm dưới án ngủ khì, xem kỷ lại thì đúng là Ân Hồng đệ nhị Thái Tử.

Quân sĩ vội vã báo với Lôi Khai.

Lôi Khai mừng rỡ chạy vào nghĩ thầm:

- May lắm, nếu ta cho quân đi suốt đêm nay thì không gặp rồi. Số trời đã định như vậy, chạy trốn sao nổi.

Liền gọi lớn:

- Điện Hạ ơi! Điện Hạ ơi!

Ân Hồng đang ngủ ngon, nghe kêu giật mình thức dậy, thấy đèn đuốc trong miếu sáng choang, người ngựa đông đặc, biết có chuyện chẳng lành liền hỏi Lôi Khai:

- Lôi tướng quân đi đâu đó?

Lôi Khai thưa:

- Tôi vâng lệnh Thiên Tử đi rước Điện Hạ về trào. Nay có các quan can gián, không sao mà sợ.

Ân Hồng nói:

- Ngươi chớ nhiều lời. Ngươi tuân lệnh Phụ Hoàng đem binh theo bắt ta. Ta không sợ chết đâu. Tai nạn nầy dĩ nhiên ta không tránh khỏi.

Lôi Khai nói:

- Nếu Điện Hạ đã biết, xin cùng tôi trở về phục lệnh Thiên Tử kẻo tôi phạm tội với Điện Hạ.

Ân Hồng nói:

- Ta đi mỏi chân, bây giờ trở về không nổi.

Lôi Khai nói:

- Có ngựa tốt, xin Điện Hạ dùng.

Ân Hồng nói:

- Được, nếu có ngựa tốt thì dâng đây cho ta.

Thấy Thái Tử không chống đối, Lôi Khai mừng quá truyền quân đem ngựa đến dâng.

Ân Hồng đành theo đoàn quân của Lôi Khai trở về ngã ba đường để chờ Ân Phá Bại.

Lúc đó, Ân Phá Bại đi về ngã Đông Lổ, hai người tới trấn Phong Lôi, rồi đi tiếp một hồi nữa đến dinh cựu Thừa Tướng Thương Dung.

Ân Phá Bại nghĩ thầm:

- Thừa Tướng Thương Dung trước kia là quan thầy của ta, nay về quê hưu trí, tiện đường ta cũng nên ghé thăm để tỏ tình thuở nọ.

Nghĩ rồi truyền quân đình lại trước dinh, một mình thẳng vào nội điện.

Khi vào đến nơi gặp lúc Thừa Tướng Thương Dung và Ân Giao đang ăn uống.

Ân Phá Bại bái dài nói:

- May mắn gặp được Đông Cung ở đây. Tôi vâng lệnh Thiên Tử đi thỉnh Đông Cung về trào.

Thừa Tướng Thương Dung thấy Ân Phá Bại liền nói:

- Tướng quân đến đây tốt lắm. Ta nghĩ lại trong triều hơn bốn trăm văn quan võ tướng mà không tìm cách nào can gián Bệ Hạ, để xảy ra chuyện như thế nầy thật đáng trách.

Còn Ân Giao trông thấy Ân Phá Bại đã hiễu rõ sự tình, mặt biến sắc nói:

- Tướng quân đem binh theo bắt tôi đem về cho Phụ Hoàng tôi xử trị. Điều đó tôi biết rồi. Dù chết tôi cũng chẳng trở về mang nhục.

Thừa Tướng Thương Dung nói:

- Điện Hạ chớ ngại. Đã có lệnh vua, xin mời Điện Hạ cứ trở về, tôi nguyện theo Điện Hạ trở về triều can vua. Nếu không được tôi xin liều chết.

Nói rồi liền gọi gia nhân thắng ngựa, theo Ân Giao về trào.

Ân Phá Bại sợ về một lượt sẽ bị quở về tội mang tiếng vị tình. Xin để Đông Cung theo tôi về trước, còn Thừa Tướng thong thả đi sau.

Thương Dung nói:

- Cũng được. Tướng quân phò Đông Cung về trước. Ta theo sau lập tức.

Ân Giao nghe nói lưỡng lự, không muốn cùng Ân Phá Bại ra đi. Thương Dung hiễu ý, liền gọi Ân Phá Bại dặn:

- Ta gởi Điện Hạ cho Tướng quân. Tướng quân chớ ham chút công danh mà làm việc lỗi đạo.

Ân Phá Bại nói:

- Tôi đâu dám thất lễ vua tôi. Xin Thừa Tướng đừng ngại.

Báy giờ Ân Giao mới thuận tình theo Ân Phá Bại ra đi.

Ân Giao lại nghĩ thầm:

- Ta dù chết cũng không sao, miễn em ta thoát thân được để sau nầy báo thù cho Mẫu Hậu là quí rồi.

Nghĩ như vậy nên gượng gạo làm khuây.

Đi một lúc đến ngã ba đường, bỗng thấy Lôi Khai ra rước vào, nói:

- Mừng Điện Hạ trở về.

Ân Giao không thèm để ý, xuống ngựa vào chổ trung quân thấy Ân Hồng ngồi đó, thất kinh nhãy vội xuống ngựa đến ôm em khóc lớn:

- Anh ngỡ em được may mắn hơn anh, không ngờ trời bắt chúng ta phải gặp cảnh như vầy. Nay anh em ta trở về trào còn mong gì sống sót để báo thù cho Mẫu Hậu.

Ân Hồng cũng ôm anh sụt sùi đau đớn.

Ba ngàn binh sĩ ai thấy cũng thương tâm, nước mắt chảy dầm dề.

Người sau có thơ than:

Dám trách trời già không xét suy

Người ngay mắc nạn chẳng phò trì

Viện binh ý định đi hai ngả

Tai nạn rủi ro bắt một kỳ

Oán mẹ thế nầy sao trả được?

Thân con dường ấy kể còn chi?

Ai ai xem thấy đều rơi lụy

Buồn bã bên đường tiếng tử qui

Hai Tướng mừng được xong việc, liền kiệu hai vị Hoàng Tử lên ngựa theo quân về trào.

Hoàng Phi Hổ từ khi phát một mớ binh đau mã liệt cho hai tướng ngỡ là hai tưóng không sao theo kịp hai vị Hoàng Tử, nên an tâm ngồi toan tính chuyện khác, xảy nghe quân báo:

- Lôi Khai và Ân Phá Bại đã bắt được hai vị Điện Hạ giải về Triều Ca.

Hoàng Phi Hổ giận dữ mắng thầm:

- Đồ thất phu. Tham danh vọng không biết gì phải trái. Nếu để giòng giống Thành Thang bị tuyệt thì còn gì? Ta phải làm cho chúng mày biết mặt.

Liền sai Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm đi mời các quan triều thần đến nhóm họp nghị sự.

Bốn tướng vâng mệnh đi liền.

Lúc Hoàng Phi Hổ vào đền thì thấy bá quan văn võ đã hội đủ mặt.

Hoàng Phi Hổ nói:

- Nay Ân Phá Bại và Lôi Khai đã bắt được hai vị Điện Hạ về đây. Tôi bổn phận là võ quan, không dám dự vào việc can vua, xin các quan liệu định.

Kế đó, Ân Giao và Ân Hồng được hai tướng dẫn vào.

Vừa trông thấy các triều thần, Ân Giao sụt sùi nói:

- Tôi lên ngôi Đông Cung đã mấy năm, không làm điều gì trái, nay trong cung xảy ra chuyện biến, khiến con xa mẹ, cha chẳng nghĩ tình con. Thảm trạng như vầy, nếu các quan không can thiệp thì tôi còn biết nhờ vào đâu?

Các quan đều thở dài. Vi Tử Khải nói:

- Không hề gì. Hiện các quan làm sớ tâu việc nầy rất nhiều, tôi chắc Bệ Hạ không lẽ nào hại tánh mạng hai vị Điện Hạ đâu.

Lúc đó Ân Phá Bại và Lôi Khai vào cung Thọ Tiên tâu với Trụ Vương:

- Chúng tôi tuân lệnh Bệ Hạ đem quân truy nã bắt được Đông Cung nhị vị Điện Hạ đem về trước đền.

Trụ Vương nói:

- Hai Khanh đã bắt được hai đứa nghịch tử ấy thì chém quách cho rồi, còn vào tâu với Trẫm làm gì?

Ân Phá Bại tâu:

- Tôi chưa có chiếu của Bệ Hạ nên không dám ra tay.

Vua Trụ truyền viết hai chữ "Hành Hình" rồi trao cho Ân Phá Bại và nói:

- Khanh chém đầu chôn xác hai đứa nghịch tử ấy rồi vào đây báo cho Trẫm biết.

Hai tướng lạy tạ, cầm lệnh "Hành Hình" bước ra. Đến cửa đền gặp Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Phi Hổ trông thấy hai tướng cầm lệnh "Hành Hình" thất kinh cản lại, hỏi:

- Hai vị Tướng quân vừa tuân lệnh bắt hai vị Điện Hạ đem về đây, nay còn lệnh gì nữa đó?

Hai Tướng giơ lệnh hành hình của Vua Trụ ra.

Triệu Khải từ đàng sau bước tới, giật tấm giấy có viết hai chữ "Hành Hình" xé nát, và nói:

- Hôn quân vô đạo đã giết vợ hại con, hai ngươi không can gián còn giúp cho hôn quân làm dữ như vậy. Đông Cung tội gì mà đem chém, Nhị Điện Hạ tội gì mà hành hình? Chúng ta vào đền nổi trống mời Bệ Hạ ra cản ngăn mới được.

Hai Tướng thấy các quan có cảm tình với hai vị Điện Hạ không kể mệnh vua, xé mất chiếu chỉ, đành đứng trơ trơ như pho tượng gỗ.

Hoàng Phi Hổ sai bốn tướng của mình canh giữ hai vị Điện Hạ kẻo hai viên nịnh tướng làm ẩu.

Bấy giờ hai viên quan Phụng Ngự đã bắt trói hai vị Điện Hạ rồi, song chiếu chỉ "Hành Hình" bị xé, chưa dám ra tay, cứ đứng nhìn nhau sợ sệt.

Các quan họp mặt, nổi trống đền rất gấp.

Vua Trụ đang ở trong cung Thọ Tiên nghe trống đền inh ỏi, liền khiến một quan Phụng Ngự ra xem.

Viên quan ấy vào tâu:

- Văn võ nội trào đồng họp mặt, thỉnh Bệ Hạ lâm triều.

Vua Trụ nói với Đắc Kỷ:

- Chắc không có gì lạ. Trẫm đoán triều thần muốn ngăn cản Trẫm giết hai đứa con phản nghịch ấy. Bây giờ phải làm sao?

Đắc Kỷ tâu:

- Bệ Hạ truyền chém hai vị Điện Hạ trước rồi mai sẽ lâm triều nghị việc là yên chuyện.

Vua Trụ y lời, thảo chiếu triệu quan Phụng ngự đem ra trước đại điện tuyên đọc cho bá quan nghe:

- Chiếu rằng:

"Làm tôi trái mệnh vua là tôi bất trung, làm con trái ý cha là con bất hiếu. Đó là lẽ xưa nay không thể đổi khác. Nay Ân Giao, Ân Hồng không tuân phép nước, cầm gươm chém Khương Hoàn để hủy diệt nhân chứng, lại dám tiến vào cung vua toan hành thích Phụ Vương. Hai tội ấy tày trời, đã bất trung lại bất hiếu. Nay bắt được hai đứa ấy rồi, Trẫm truyền chiếu luật hình xử trãm. Còn việc nước thì ngày mai Trẫm sẽ lâm triều đàm luận.

Nay sắc "

Các quan nghe chiếu không còn biết làm sao để cứu cái chết oan ức của hai vị thế tử.

Lúc bấy giờ có ông Xích Tinh Tử ở động Vân Tiêu, núi Hoa Sơn và ông Quản Thanh Tử ở động Đào Nguyên, núi Cửu Tiêu đang đi dạo trên vừng mây, bỗng có hai luồng hào quang của Ân Giao và Ân Hồng xông lên cản lại.

Xích Tinh Tử và Quảng Thành Tử đều là hai vị tu luyện hơn một ngàn năm trăm năm, vì phạm tội sát sanh, nên ông Nguyên Thỉ không dạy nữa, đuổi ra khỏi sư môn.

Thấy hai đạo hào quang ấy, Quảng Thành Tử nói với Xích Tinh Tử:

- Nay số nhà Thương đã hết, nhà Châu sắp ra đời. Hai người bị trói kia đều nên vị tướng. Chúng mình thuộc đạo tâm, chẳng lẽ không giúp đời. Vậy thì hiền huynh cứu một người, tôi cứu một người đem về núi, dạy thông phép tắc, mai sau nhà Châu dấy nghiệp, chúng ta cho xuống núi làm tướng cho Tử Nha. Như vậy một công mà được hai việc.

Xích Tinh Tử nói:

- Lời đạo huynh nói rất phải. Chúng ta mau nổi gió to, đưa hai người ấy về núi kẻo trễ.

Đàm luận xong, hai vị tiên làm phép, một trận gió to nổi lên, cát bay đá chạy, mù mịt cả đất trời.

Các quân đao phủ đang chực khai đao giết Ân Giao, Ân Hồng đều thất kinh, bụm mặt chạy trốn.

Chừng tan trận gió, thấy hai vị Điện Hạ biến đi đâu mất, ai nấy đều kinh ngạc, tìm kiếm khắp nơi vẫn không thấy đâu cả.

Các vị triều thần đang cùng nhau bàn bạc, bỗng nghe bên ngoài có tiếng la hoảng.

Hoàng Phi Hổ và Tỉ Can bước ra hỏi:

- Chuyện vì vậy?

Châu Kỷ chạy vào báo:

- Lạ lùng lắm! Vừa rồi có một trận gió lớn thổi hai vị Điện Hạ bay mất.

Bá quan, nghe nói nữa mình nữa kinh ngạc:

- Trời không dứt mối Thành Thang, đất không nỡ diệt người oan ức.

Ân Phá Bại thấy việc lạ, vội chạy vào báo cho Vua Trụ hay.

Người sau có làm thơ:

Gió tiên một trận nực mùi hương

Mù mịt bụi bay chẳng thấy đường

Tiên tử ra tay che tánh mạng

Tả đao che mặt bỏ gươm trường

Hoài công ngàn dậm tìm Nam,Bắc

Uổng tiếng trong phòng cắt thịt xương

Mới biết hưng vong trời đã định

Nhà Châu vua Võ dứt triều Thương

Vua Trụ hay tin sửng sốt, nhưng nghĩ hoài không ra duyên cớ.

Còn Thương Dung tới Triều Ca nghe thiên hạ đàm luận việc hai Điện Hạ bị gió thổi bay mất, kinh hãi, lật đật đi thẳng vào trong.

Các quan ra nghênh tiếp, chào cựu Thừa Tướng mới về.

Thương Dung nói:

- Tôi là kẻ bất tài không kham việc nước, phải về quê nhường chức lại cho quí vị. Nay nghe vua lỗi đạo, giết vợ hại con, tại sao quí vị không có ai can gián?

Hoàng Phi Hổ nói:

- Thiên Tử cứ ở mãi trong cung không ra ngoài điện, có việc gì thì truyền chỉ mà thôi. Vua tôi không gần nhau được, cách nhau không bao xa mà biệt muôn trùng. Khi Ân Phá Bại và Lôi Khai bắt được hai vị Điện Hạ rồi, chúng tôi cùng nhóm họp ở đây can gián, nhưng Bệ Hạ một mực hạ chỉ truyền đem chém, và hẹn ngày mai mới lâm triều. Quan ngoài không dám vào trong, biết làm sao để tỏ lời ngay với Chúa.

Giữa lúc đó có Ân Phá Bại vừa ở nội cung ra.

Thương Dung đón lại hỏi:

- Hai vị Điện Hạ bị gió thổi mất. Tôi mừng cho Tướng quân lập được công lớn, nay mai chắc được phong vương và chia đất đấy.

Ân Phá Bại đỏ mặt nói:

- Đó là tại lệnh vua truyền, tôi đâu dám vị tình. Thừa Tướng quở tôi oan lắm.

Thương Dung nói với các quan:

- Nay tôi về đây cố tình can gián, liều chết vì giang sơn. Vậy nhờ các vị nổi trống đền để thỉnh Bệ Hạ ra điện.

Các quan vội nổi trống chuông một lần nữa.

Vua Trụ đang buồn rầu về việc giết hụt hai vị Hoàng Tử, bỗng nghe chuông trống ngoài điện đánh liên hồi, nổi giận ngự ra đền.

Bá quan trong triều bái xong, Vua Trụ hỏi:

- Các Khanh tâu việc chi?

Thương Dung dập đầu quì trước sân chầu.

Vua Trụ thấy một người mặc quần áo trắng, không phải quan triều, liền hỏi:

- Ai quì đó?

Thương Dung tâu:

- Tôi là Thương Dung đang yết kiến Bệ Hạ.

Vua Trụ sững sốt hỏi:

- Khanh đã trở về quê quán sao còn trở lại kinh đô? Trẫm không có chiếu đòi, sao Khanh lại dám ra điện? Khanh không biết phép nước sao?

Thương Dung bò lần đến bệ, vừa khóc vừa nói:

- Trước kia tôi làm Thừa Tướng chưa trả được ơn vua, lòng vẫn ngậm ngùi, mong có ngày đem thân trâu ngựa nầy báo đáp. Nay thấy Bệ Hạ đắm mê tửu sắc, giết hại con, gần kẻ nịnh, hại tôi trung, như vậy xã tắc sẽ đi đến chỗ lầm than, cơ nghiệp chẳng bao lâu nữa sẽ đổ nát. Hạ thần chẳng ngại rìu búa, dâng sớ can ngăn, xin Bệ Hạ nhận lấy lời ngay cho an xã tắc.

Thương Dung tâu rồi dâng sớ. Tỉ Can lấy trải lên bàn.

Trụ Vương thấy trong sớ như vầy:

"Tôi là Thương Dung cúi tâu việc chánh. Xưa Bệ Hạ mới lên ngôi, cần kiệm nghĩa nhân, siêng năng việc chánh, kính chư hầu, yêu văn võ, thương dân tiếc của, vui hưởng thái bình, mưa thuận gió hòa, xa trong gần mến, chẳng kém gì vua Nghiêu vua Thuấn đời xxưa. Nay Bệ Hạ bỏ việc triều đình, nghe lời dua nịnh, đắm say Đắc Kỷ, giết Hoàng Hậu, chém Đông Cung, lại quá hơn vua Kiệt nhà Hạ nữa.

Hạ thần liều chết, đem loạn ra an, xin Bệ Hạ truyền Đắc Kỷ phải thắt cổ để rửa hờn cho Hoàng Hậu, phá Bào Lạc để thỏa ý tôi trung, giết đứa nịnh để khỏi hư xã tắc. Như vậy thì nước mới an, dân mới mạnh, ngai vàng mới bền vững. Hạ thần dẫu chết cũng an lòng ".

Vua Trụ xem qua giận lắm, xé nát tờ biểu, hét lên:

- Lão tặc, dám khi quân đến thế à?

Liền truyền tả hữu bắt Thương Dung đem ra pháp trường lấy trái đấm đập cho nát đầu tức khắc.

Tả hửu áp tới, Thương Dung đứng dậy nạt lớn:

- Tôi phò nhà Thương ba đời, tiên vương đã phó thác Bệ Hạ cho ta, ta có quyền đổi loạn ra trị. Ai dám bắt ta.

Nói rồi điểm mặt Vua Trụ mắng lớn:

- Hôn quân vô đạo, mê Đắc Kỷ hành hình Chánh Cung là lỗi đạo phu thê, nghe lời dua nịnh hại hai con là lỗi tình phụ tử, làm Bào Lạc hại tôi trung là bỏ đạo quân thần. Trung cang đổ nát, không sợ đất trời, không sợ tiếng nghĩa nhân nguyền rủa, không tiếc cơ nghiệp của tiên vương, mai sau chết đi còn mặt mũi nào mà thấy mặt tiên đế?

Vua Trụ mặt phừng phừng, hối võ sĩ:

- Kéo đầu lão tặc ra đập chết cho mau.

Thương Dung nạt bọn võ sĩ:

- Ta không sợ chết. Ta làm tôi vua Đế Ất mà không cứu nổi giang sơn, chết cũng xấu hổ với tiên quân.

Nói rồi đập đầu vào cột tự vận. Thương hại cho Thương dung già bảy chục tuổi mà vẫn không thoát khỏi cái chết đáng thương.

Người sau có thơ khen:

Cỡi ngựa về trào gián Trụ Vương

Liều mình dưới bệ đáng trung lương

Mắng vua chi xa gần đao búa

Nạt chúa bao nài nát thịt xương

Lửa đỏ, gan vàng đâu có sợ?

Lòng son, mang bạc nghĩ mà thương

Lời ngay chẳng được vua ưng thuận

Thà chết nghìn thu để tấm gương

Các quan thấy Thương Dung đập đầu chết đều nhìn mặt nhau than thở.

Trụ Vương hơi giận chưa nguôi, truyền lệnh vứt thây Thương Dung ngoài đồng không cho chôn cất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 9
Tiếng sấm sanh dị nhân

Triệu Khải thấy quân đem thây Thương Dung đi bỏ ngoài đồng nổi giận ra nói lớn:

- Tôi không thể phụ ơn vua trước, nên quyết chết giữa đền để tạ tội với tiên quân.

Nói rồi chỉ vào mặt Trụ Vương mắng:

- Hôn quân, nghe ta hài tội đây: Giết Thừa Tướng, hại quan trung, chư hầu sẽ không còn kính trọng. Mê Đắc Kỷ giết vợ bỏ con, cơ nghiệp không còn. Làm vua mà không tròn bổn phận làm vua, tam cang ngũ thường đổ nát, như thế còn ai kính phục.

Trụ Vương nổi giận đỏ mặt hét:

- Đồ thất phu, không còn biết giữ đạo vua tôi là gì nữa. Tả hữu đâu, đem Bào Lạc đốt nó đi cho khuất mắt ta.

Triệu Khải nói:

- Ta chết đi không hại gì, vì tên vua ngu muội sẽ được tiếng trung thần, còn hôn quân mất nước sẽ bị nghìn đời sỉ vả, tiếng xấu thiên thu.

Triệu Khải nói một hồi thì lửa Bào Lạc đã đỏ, quân sĩ bắt Triệu Khải trói lại, lột hết áo mão, xiềng vào Bào Lạc. Phút chốc thịt xương Triệu Khải tan thành tro bụi. Triều thần ai nấy đều thương xót, thở vắn than dài.

Trụ Vương truyền bãi trào về cung, Đắc Kỷ ra nghênh tiếp, Vua Trụ nói:

- Bữa nay Thương Dung đập đầu tự tử, Triệu Khải bị ta dùng Bào Lạc đốt thành than. Tuy vậy, ta xem lối hành hình ấy chúng nó không ghê, vậy Khanh tính kế nào trị bọn triều thần mới được.

Đắc Kỷ tâu:

- Xin Bệ Hạ yên tâm, thần thiếp suy tính một hôm sẽ có cách.

Trụ Vương nói:

- Nay mỹ nhân đã làm Hoàng Hậu, không còn ai vô lễ với mỹ nhân nữa, chỉ sợ Khương Hoàng Sở ở Đông Lỗ cử binh về đánh, trong lúc Thái Sư Văn Trọng chưa về, biết ai chống cự?

Đắc Kỷ tâu:

- Thần thiếp là phận đàn bà, mưu trí không bao nhiêu, xin Bệ Hạ đòi Bí Trọng vào hỏi xem có mưu gì hay không?

Trụ Vương khen:

- Ái khanh nói rất phải.

Liền đòi Bí Trọng ứng hầu, và nói:

- Trẫm đang lo Khương Hoàng Sở cử binh làm phản, báo cừu cho Khương Hậu, Khanh có kế gì hay để ngăn ngừa mũi giặc ấy hay không?

Bí Trọng quì tâu:

- Khương Hậu đã mất, hai vị HoàngTử bị gió thổi bay mất, Thương Dung đập đầu tự vận, Triệu Khải bị Bào Lạc ra tro, các quan văn võ thế nào cũng oán trách Bệ Hạ, và nhắm vào lực lượng Khương Hoàng Sở có thể báo thù được. Mũi giặc ấy tất không tránh khỏi. Nay Bệ Hạ nên xuống chiếu, triệu bốn Trấn chư hầu về chầu, chém đầu hết. Như vậy, tám trăm Trấn chư hầu nhỏ sẽ không ai làm chủ chẳng khác rắn không đầu, cọp thiếu vây, dù chúng có muốn làm phản cũng không được. Đó là Bệ Hạ biết lo xa.

Vua Trụ khen:

- Khanh thật là kẻ mưu cao trí rộng. Tô Hoàng Hậu tiến cử không lầm.

Bí Trọng cúi lạy ra về. Trụ Vương liền viết chiếu sai sứ giả đi bốn Trấn. Bốn vị sứ thần tuân lệnh ra đi...

Vị sứ thần đến Tây Kỳ thấy phong tục rất tốt, cảnh vật hiền hòa, từ dân chúng đến các quan đều một lòng yêu nước, tuân theo lề luật quốc gia, không gian tham, không trộm cắp, không một tiếng gây gỗ ngoài chợ.

Sứ thần khen:

- Nghe đồn ông Bá Cơ nhân đức, trị nước ôn hòa, quả nhiên đúng như thuở Thuấn Nghiêu, lời đồn ấy không sai.

Bấy giờ, Tây Bá Cơ Xương đang lâm triều nghị việc với các quan văn võ, bỗng nghe có tin báo:

- Thiên sứ xin vào yết kiến.

Tây Bá liền dẫn bá quan văn võ ra khỏi thành nghênh tiếp.

Sứ thần bước vào trước điện, truyền đặt bàn hương án, và đọc chiếu như sau:

"Biển Bắc dậy loạn, thiên hạ đảo huyền, các quan triều thần đều hết phương hết kế. Trẫm lấy làm lo lắm nên ban chiếu triệu bốn Trấn chư hầu về Triều Ca cùng Trẫm bàn việc binh đao. Nếu được chiếu nầy, Tây Bá hãy đến cho mau, kẻo Trẫm trông đợi. Như dẹp xong giặc, Trẫm sẽ chia đất phong thêm. Trẫm không quên lời, Khanh chớ trễ bước".

Tây Bá lạy rồi truyền dọn yến đải sứ và sáng hôm sau sắm lễ vật đưa Thiên sứ lên đường.

Tây Bá nói với Thiên sứ:

- Xin ngài về trước báo tin với Thiên tử hay tôi sắp xếp xong sẽ về Triều Ca liền để kịp họp mặt cùng bốn Trấn.

Sứ thần lên ngựa ra đi.

Tây Bá trở vào kêu Táng Nghi Sanh dặn:

- Ta đi khỏi thì việc trong giao cho quan Đại phu, việc ngoài giao cho Nam Cung Hoắt và Tân Giáp.

Nói rồi cho đòi Bá Áp Khảo đến dạy rằng:

- Hôm qua Thiên tử đem chiếu đòi cha, cha có bói thử một quẻ thấy chuyến đi này dữ nhiều lành ít. Dẫu không đến chết cũng bị tù nạn bảy năm. Con ở Tây Kỳ phải noi theo lề luật, không nên đổi phép nước, cứ theo đường lối cũ mà làm. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải yêu thương, muốn làm việc gì phải tính cho kỹ lưỡng. Dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ có hành hạ khắt khe, đợi bảy năm nữa mãn hạn cha sẽ về, chớ nên thăm viếng.

Bá Áp Khảo quì thưa:

- Tâu phụ vương. nếu phụ vương bị bảy năm tai nạn vậy để con đi thế cho.

Tây Bá nói:

- Mỗi người đều có một số mạng do do trời đất an bài, trốn tránh sao được. Con cứ ở nhà làm đúng như theo lời giáo huấn của cha là giữ được hiếu đạo rồi.

Tây Bá vào cung thăm mẹ là bà Thái khuông, thưa rành các việc.

Thái Khương nói:

- Vừa rồi mẹ có gieo quẻ thấy con bị nạn bảy năm, con có biết không?

Tây Bá nói:

- Thiên tử có lệnh đòi con, con vừa gieo quẻ cũng thấy như vậy. Nay mọi việc con đã sắp xếp xong, giao cho triều thần quản lãnh, còn Bá Áp Khảo thay con thế ngôi, con vào thưa cho mẹ rõ, mai sáng con lên đường vào Triều Ca.

Bà Thái Khương căn dặn:

- Con đến Triều Ca phải giữ mình, coi bản thân là trọng.

Tây Bá lạy tạ, nói:

- Con tuân lời mẹ.

Nói rồi từ giả Nguyên Phi Thái Cơ.

(Tây Bá có bốn cái * và hai mươi bốn người vợ, sinh được chín mươi chín người con. Con trai lớn là Bá Áp Khảo, con thứ là Cơ Phát, sau lên ngôi Thiên tử gọi là Võ Vương).

Bữa sau Tây Bá sắm sửa ra đi đem năm mươi binh mạnh.

Thế tử Bá Áp Khảo cùng quần thần là Táng Nghi Sanh, Nam Cung Hoát, Mao Công Toại, Châu Công Đán, Thiệu Công Thích, Tất Công, Vinh Công, Tân Giáp, Tân Miễng, đến trường đình dọn tiệc tiễn hành.

Tây Bá uống rượu với các quan và nói:

- Hôm nay ta cùng các quan cách biệt, nhưng bảy năm nữa vua tôi sẽ trùng phùng.

Tây Bá dặn đi dặn lại, Bá Áp Khảo:

- Anh em con nên hòa thuận để cha khỏi nhọc lòng lo.

Các quan đều quyến luyến không nỡ rời. Giờ tiễn hành kéo dài hơn nửa buổi.

Tây Bá lên ngựa đi bảy mươi dặm thì mới đến núi Kỳ Sơn. Lần hồi đi hơn ba mươi dặm nữa mới thấy núi Yên Sơn trước mặt.

Bấy giờ trời đã gần tối, Tây Bá truyền quân dừng lại và nói:

- Trời sắp có mưa to, chúng bay hãy coi có khoản rừng rậm hoặc nhà ai gần đây núp mưa đã.

Quân lính nghe nói ngạc nhiên thì thầm:

- Trời không có chút mây, nắng chang chang như lửa, mưa sao đuợc!

Thế rồi chỉ chốc lát, mây kéo nghịt trời. Tây Bá hối quân sĩ vào rừng rậm cho mau.

Vừa chạy tới cụm rừng đã thấy trời trút nước xuống như thác đổ hơn nửa giờ vẫn chưa tạnh.

Tây Bá lại nói với quân sĩ:

- Hãy ngồi xít vào kẻo có sấm lớn.

Quân sĩ vội nép mình vào trong, xảy nghe một tiếng sấm như xé không gian, như núi lở đất long, làm ai nấy kinh hãi

Trời dứt mưa, quân sĩ uể oải lên đường. Tây Bá ướt cả áo giáp ngồi trên ngựa, nói:

- Sấm lớn quá chắc có tướng tinh ra đời. Chúng bay đi tìm đi tìm tướng tinh xem thử.

Quân sĩ đưa mắt nhìn nhau cười thầm:

- Tướng tinh là ai? Biết đâu mà tìm?

Tuy vậy quân sĩ không dám trái lệnh, phân nhau bốn hướng đi lang thang làm ra bộ tìm kiếm để dạo cảnh luôn.

Bỗng nghe bên gò mả có tiếng con nít khóc oa oa. Quân sĩ xúm lại, thấy một đứa trẻ sơ sinh ai bỏ rơi ở đó. Chúng bàn với nhau:

- Có khi tướng tinh là đứa bé bỏ rơi nầy chăng?

Bèn bồng đứa bé đến trao cho Tây Bá.

Tây Bá thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, mừng lắm, nói với quân sĩ:

- Ta đã có chín mươi chín đứa con, nay nuôi thằng nhỏ nầy nữa cho đủ một trăm. Tướng mạng nó ngày sau quí lắm. Bây giờ bồng nó vào xóm mướn người nuôi dưỡng, đợi bảy năm nữa ta sẽ rước về.

Tây Bá cùng đoàn quân tìm đến một thôn xóm, bỗng gặp một vị đạo sĩ, tay cầm gậy bước ra cản đường nói:

- Xin chào Chúa công.

Tây Bá liền xuốg ngựa đáp lễ và hỏi:

- Đạo sư ở động nào, đến đây có việc gì?

Đạo sĩ nói:

- Tôi ở động Ngọc Trụ, thuộc núi Chung Nam tên là Vân Trung Tử, vì nghe sấm có biết có vì tướng ra đời nên đến đây tìm.

Tây Bá truyền đem hài nhi ra cho Đạo sĩ xem.

Vân Trung Tử liền bồng xem một hồi rồi nói:

- Tướng tinh đợi đến lúc nầy mới chịu ra mắt.

Rồi nói với Tây Bá:

- Để tôi mang nó về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa công trở lại tôi sẽ giao trả.

Tây Bá nói:

- Đạo sư muốn như thế cũng được. Song tôi muốn đặt cho nó một cái tên, để sau này tôi dễ dàng gặp lại nó.

Vân Trung Tử nói:

- Do tiếng sấm đó mà sinh ra nó, vậy đặt tên nó là Lôi Chấn Tử cho tiện.

Tây Bá khen phải, trao đứa bé cho Vân Trung Tử. Vân Trung Tử từ giã, bồng Lôi Chấn Tử về động.

Còn Tây Bá đi khỏi năm ải qua sông Huỳnh Hà, thẳng đến Triều Ca, vào trạm Kim Đình đã thấy ba Trấn chư hầu cùng nhau ngồi uống rượu.

Trông thấy. Tây Bá mọi người đều mừng rỡ đón chào, Khương Hoàng Sở hỏi:

- Tây Bá Hầu sao đến trễ vậy?

Tây Bá nói:

- Đường xa quá, tôi lật đật mà vẫn đến sau.

Kế quân dọn tiệc, bốn vị chư hầu ngối lại uống rượu cho đến tối.

Tây Bá nói:

- Chẵng biết có việc chi quan trọng lắm, nên Thiên Tử cho đòi chúng ta, chớ như giặc Bắc thì đã có Võ Thành Vương thừa sức cán đáng, xếp đặt trong triều thì có Tỉ Can tài ba lỗi lạc, chúng ta về đây chẳng biết việc gì?

Ba trấn chư hầu kia cũng không ai định được duyên cớ, cứ ngồi uống rượu mãi.

Bấy giờ rượu đã ngà ngà say, Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ lâu nay nghe tiếng Sùng Hầu Hổ bóc lột của dân, tham nhũng nhiều việc, nên ngứa họng nói:

- Này, Bắc Bá Hầu tôi muốn nói với ngài một lời, chẳng biết ngài có giận tôi không?

Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ cười lớn:

- Có chuyện gì thì cứ nói ra nghe. Chúng ta cùng là chức hầu cả, chỗ thân tình còn e ngại gì!

Ngạt Sùng Võ nói:

- Nếu thế thì còn gì thân mật bằng. Tôi nghe ông có nhiều tăm tiếng không tốt, mất thể diện đại thần! Ông bóc lột của dân, chia với Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên dua mị. Việc ấy có hay không?

Sùng Hầu Hổ đỏ mặt, nói:

- Ai nói với ông như vậy!

Ngạt Sùng Võ cười lớn:

- Đó là tiếng đồn, cần gì phải có chứng cớ. Tôi nghe ông lúc làm lầu Trích Tinh đã lấy của nhà giàu, bắt nhà nghèo nai lưng gánh chịu, thật mất lẽ công bình. Lời xưa nói: chứa lành được phước, chứa dữ gặp họa. Tôi với ông là chỗ thân tình, không lẽ cứ để ông mang tiếng xấu ấy mãi sao. Ông nên sửa chữa hành động của mình để chuộc lại tiếng xấu ấy.

Sùng Hầu Hổ ỷ thế Vưu Hồn, Bí Trọng nên tánh tình ngang ngạnh, khi đã chạm tự ái rồi không còn kể gì phải trái nữa, trợn mắt nhìn Ngạt Sùng Võ hét lớn:

- Khốn nạn! Mày dám tìm lời bêu xấu ta truớc mặt chư hầu à?

Nói rồi xô ghế đứng đậy cung tay toan đánh Ngạt Sùng Võ.

Tây Bá vội xua tay can:

- Nam Bá Hầu lấy lời phải khuyên nhủ, sao ông lại làm dữ như vậy. Giữa tiệc có chúng tôi, lẽ nào chúng tôi để ông đánh Nam Bá Hầu. Nếu ông có lỗi thì ăn năn, bằng không thì cũng nên thanh minh, rồi bỏ qua, nối lại tình giao hảo với nhau không tốt hơn sao?

Sùng Hầu Hổ muốn đánh Ngạt Sùng Võ, nhưng thấy Tây Bá Hầu can ngăn, đành rút tay về, toan ngồi xuống, chẳng ngờ Ngạt Sùng Võ đã lẹ tay hơn, đánh ngay vào mặt Sùng Hầu Hổ một cái đau thấu xuơng.

Sùng Hầu Hổ không còn nhịn được nữa, xốc tới ôm Ngạt Sùng Võ vật xuống. Hai người bám sát nhau.

Khương Hoàng Sở vội chen vào giữa vẹt hai người ra, nói lớn:

- Đại thần mà đánh lộn với nhau thì còn gì thể thống nữa! Bắc Bá Hầu ơi đêm đã khuya, nên đi nghỉ là hơn.

Sùng Hầu Hổ nuốt hận đi ngủ.

Có thơ rằng:

Uống rượu bày lời nói thấp cao

Tôi gian toan kế hại anh hào

Loạn ly từ đấy tràn thiên hạ

Dân ở Triều Ca mấy vạn hao.

Sùng Hầu Hổ đi ngủ, chỉ còn ba vị chư hầu ba trấn ngồi nói chuyện suốt đêm.

Có một tên quân hầu thấy vậy lén ngâm nhỏ một câu:

Nửa đêm rượu cúc vui canh lụn

Tảng sáng máu hường nhuốm chợ mai.

Vì đêm khuya, giọng ngâm rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng.

Tây Bá Hầu bỗng hỏi lớn:

- Ai vừa ngâm câu thơ đó hãy ra đây ta bảo.

Mấy tên quân hầu đều đến quì trước mặt không ai dám nhận cả.

Tây Bá Hầu nói:

- Ta vừa nghe rõ ràng, chúng bay chối sao được. Nếu không có đứa nào thú nhận ta truyền chém hết.

Bọn quân hầu thất kinh, chỉ vào một tên quân đàng trước nói:

- Tai họa xảy ra thế nầy là tại tên Dao Phước đó.

Tây Bá liền hỏi tên quân gọi là Dao phước:

- Vì đâu mà ngươi lại ngâm hai câu thơ ấy. Hãy nói thiệt, ta trọng thưởng.

Dao Phước thưa:

- Việc nầy rất trọng đại và bí mật. Tôi là đứa bộ hạ của quan nội giám nên mới rõ. Sở dĩ Khương Hoàng Hậu thác oan, hai vị Hoàng Tử bị gió thổi bay mất vì Thiên tử đam mê mỹ sắc, không nghe lời can gián của tôi trung, chế hình Bào Lạc hại tôi hiền, do đó Thiên tử sợ chư hầu dấy binh nổi loạn, nên nghe lời kẻ dua nịnh gạt các ngài về đây để chém đầu. Tôi thấy các ngài là những đại thần không nỡ giấu nên mới tiết lộ điều đó.

Khương Hoàng Sở nghe nói hỏi:

- Khương Hậu phạm tội gì mà bị hành hình đến chết?

Dao Phước kể lại mọi việc vừa xảy ra trong cung cấm và ngoài triều thần trong giai đoạn vừa rồi.

Khương Hoàng Sở nghe xong ngã lăn ra chết giấc. Tây Bá thương hại, vội đỡ dậy.

Khương Hoàng Sở quá đau đớn, nói:

- Con tôi bị khoét mắt, đốt tay, thật là một cực hình chưa bao giờ có đối với một vị Hoàng Hậu.

Tây Bá khuyên:

- Người chết rồi không sống đậy được nữa. Hiền hầu có than khóc cũng chỉ làm cho kẻ khác tủi lòng. Để mai, chúng ta đồng viết sớ vào triều can gián, may ra Bệ hạ hồi tâm sửa mình, lo việc chánh.

Khương Hoàng Sở nói:

- Trước đây các vị trung thần như Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá chỉ vì can vua mà bỏ mình. Nay các ngài vì tôi dự vào việc này e không khỏi họa. Thôi, cứ để mình tôi dâng sớ mà thôi.

Tây Bá Hầu nói:

- Hiền hầu dâng lên một sớ, còn chúng tôi đứng chung một sớ. Tất cả đều có lời can vua mới phải đạo làm tôi trong lúc quốc biến gia vong này.

Khương Hoàng Sở vừa khóc vừa ngồi lại viết sớ.

Bấy giờ Vưu Hồn, Bí Trọng thấy các trấn chư hầu đã về đủ mặt liền vào cung báo cho Trụ Vương hay.

Trụ Vương mừng lắm hỏi Bí Trọng:

- Trẫm phải làm sao bây giờ?

Bí Trọng tâu:

- Ngày mai bốn chư hầu thế nào cũng dâng sớ can gián, xin Bệ hạ đừng xem đến làm gì, cứ việc truyền đem chém đầu hết.

Vua Trụ nhận lời, sáng hôm sau, Trụ Vương lâm triều Huỳnh Môn quan vào báo:

- Bốn trấn chư hầu được lệnh bệ hạ xin vào ra mắt.

Vua Trụ cho vào. Bốn chư hầu lạy chúc mừng xong, Khương Hoàng Sở dâng lá sớ lên.

Tỉ Can tiếp lấy trải trước long sàng.

Vua Trụ không thèm xem, hỏi Khương Hoàng Sở:

- Khanh đã biết tội chưa?

Khương Hoàng Sở tâu:

- Tôi trấn Đông Lỗ, bình an một cõi, noi theo lề luật nào có tội gì. Bệ hạ mê sắc, nghe lời nịnh thần không kể đến nghĩa vợ chồng, khoét mắt, đốt tay Hoàng Hậu hành hình một cách ghê gớm như vậy đâu phải luật Thành Thang. Đã vậy còn ra lệnh chém hai vị Điện Hạ, làm Bào Lạc đốt tôi trung. Tôi đội ơn tiên đế không kể mạng sống, liều mình dâng sớ khuyên can. Xin Bệ hạ bỏ tà quy chánh, giết kẻ nịnh thần, xa rời mỹ sắc lo việc trị dân sửa đức thì người sống cũng mang ơn, mà người chết cũng cam tâm nhắm mắt.

Trụ Vương nổi giận mắng lớn:

- Lão tặc! Ngươi dám thông đồng với con gái mưu giết Trẫm soán đoạt ngôi trời. Tội ấy lớn bằng non, không lo chịu tội còn tìm lời mắng Trẫm. Võ sĩ đâu, hãy bắt tên phản tặc nầy đem phân thây mau.

Võ sĩ áp lại lột hết áo rnão.

Khương Hoàng Sở mắng vãi vào mặt Trụ Vương không dứt.

Ba trấn chư hầu đều quì xuống tâu:

- Khương Hoàng Sở lòng ngay phò chúa, chẳng có hành động thí quân, xin Bệ Hạ xem sớ của chúng tôi rồi xét lại.

Vua Trụ quyết tình giết hết bốn Trấn chư hầu nên không thèm coi sớ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 10
Tây Bá bị giam thành Dũ Lý


Ba vị Tổng trấn chư hầu thấy vua chẳng xem sớ, cứ việc truyền chém Khương Hoàng Sở, vội vã quì tâu:

- Chúa là đầu não, bầy tôi như kẻ tay chân. Bệ không xét lẽ phải trái, chém trung thần như chém kẻ thù nghịch, chúng tôi e trăm họ không phục mà sanh biến chăng? Xin Bệ hạ xét lại.

Tỉ Can liền trải tờ sớ ra trước mặt Trụ Vương. Trụ Vương cực chẳng đã phải xem.

Tờ sớ viết:

"Chúng tôi đâng sớ là Ngạt Sùng Võ, Cơ Xương, Sùng Hầu Hổ, cúi đầu trước bệ, cúi xin Bệ hạ nhận lời ngay.

Lời xưa ví: Vua Thánh trị thiên hạ chăm lo việc nước, gần người hiền, xa kẻ dữ chẳng chuộng lâu đài, không ham tửu sắc.

Vua Thuấn, Vua Nghiêu nhờ noi đức ấy mà thiên hạ thái bình.

Đến nay Bệ Hạ nối ngôi, chưa từng làm việc chính, lại chuộng sắc, gần gian tà, trong thì giết vợ hại con, ngoài làm Bào Lạc hại tôi trung.

Vợ con và tôi thần đều là người gần gũi Bệ hạ, coi như tay chân Bệ Hạ, bệ hạ nỡ chặt bỏ đi tất nhiên Bệ hạ phải suy yếu,

Mối nước mỗi ngày một lầm than. Kẻ nịnh xúi Bệ Hạ làm những việc đó tức là đã dụng tâm đưa Bệ Hạ vào con đường bệnh hoạn để chúng một ngày kia thu đoạt giang san. Mong bệ hạ tỉnh ngộ, tự sửa mình, xa rời tửu sắc, giết Đắt Kỷ, chém đầu Bí Trọng, Vưu Hồn, để mắt khỏi thấy loài dâm dục, tai khỏi nghe tiếng sàm tấu nịnh thần. Được vậy giang sơn sẽ vững bền mãi mãi,

Chúng tôi liều mình nói thẳng, xin Bệ Hạ xét lại."

Vua Trụ xem xong tờ sớ nổi giận xé nát, ném luống đất hét lớn:

- Quả là một lũ gian thần, đùa theo đảng nghịch. Võ sĩ đâu, đem chém đầu hết cho Trẫm.

Trong bốn trấn chư hầu nầy có Sùng Hầu Hổ lâu nay có dính líu với Bí Trọng, Vưu Hồn về việc tham nhũng nên không lẽ để

Sùng Hầu Hổ cùng chết trong đám ấy, cho nên Vưu Hồn, Bí Trọng vội quì tâu:

- Bốn Trấn đều xúc phạm đến uy trời, lẽ ra không được hưởng ân huệ. Tuy nhiên, chúng tôi xét thấy Sùng Hầu Hổ mặc dầu đứng chung trong sớ, chứ thật tình không có ý khi quân. Bằng chứng là trước đây, Sùng Hầu Hổ đã trải lòng ngay giúp nước, cất lầu Trích Tiên, lập cung Thọ Tiên, công đức cao dày, khó nhọc biết bao. Nay chỉ vì nói xuôi theo các trấn mà phạm tội chết, nghĩ cũng oan tình, xin Bệ Hạ xét lại từng người để tha cho Sùng Hầu Hổ. Nếu trắng đen không phân biệt, ngọc đá đều đem đốt một lần kẻ có công cũng như người có tội, chẳng hóa ra Bệ Hạ bất minh sao? Xin Bệ Hạ tha chết cho Sùng Hầu Hổ để đoái công chuộc tội sau này.

Trụ Vương nói:

- Cứ theo lời hai khanh tâu thì Sùng Hầu Hổ là kẻ có công với triều đình. Vậy tha chết cho Sùng Hầu Hổ, còn ba trấn kia khi mệnh trẫm, truyền xử hình lập tức.

Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử Vi Tử Khải, Vi tử Điền Bá Di và Thúc Tề đều quì xuống một lượt

Tỉ Can thay mặt tâu:

- Khương Hoàng Sở trấn bên Đông Lỗ công trận rất nhiều, nếu bắt tội thí quân thật là oan ức, vì không có bằng cớ nào cả. Còn Cơ Xương dạ thẳng lòng ngay, một lòng thờ chúa, nhân đức trải khắp miền, ai ai cũng đều cảm mến. Đến như Ngạt Sùng Võ thân trải đao binh biết bao trận vào sanh ra tử để bảo vệ nhà Thương, một cõi phương Nam bình yên lạc nghiệp. Ba người đều có công lớn với triều đình như vậy xin Bệ Hạ ra ơn tha chết để thiên hạ khỏi dị nghị là Bệ Hạ bất minh.

Trụ Vương nói:

- Khương Hoàng Sở làm phản, Cơ Xương và Ngạt Sùng Võ đều phạm tội mắng vua, hai tội ấy không tha được. Các ngươi chớ can gián nữa.

Hoàng Phi Hổ tâu:

- Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đều nổi danh một cõi, không phạm tội gì. Còn Cơ Xương là bậc quân tử hiền lành mà bị giết như vậy. Tôi e thiên hạ không phục. Vả lại, xứ Bắc giặc giã chưa yên, nay Bệ Hạ giết các vị Tổng Trấn chư hầu ba phía nữa, thiên hạ nổi loạn. Đông, Tây, Nam, Bắc đều có giặc, biết làm cách nào dẹp được. Chư hầu bốn Trấn cũng hơn mấy mươi vạn, không phải chuyện thường.

Trụ Vương nghe Hoàng Phi Hổ phân tách điều lợi hại, lại thấy nhiều vị Đại thần can gián, lòng cũng sợ, vội phán:

- Trẫm nghe tiếng Cơ Xương hiền đức, sao lại nghe theo đường dữ làm gì. Lẽ ra xử tội liên can, song Trẫm vị tình các quan nên tha chết. Còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ quả là đáng nghịch, tội chết không thể bỏ được. Các quan chớ can gián nhiều lời.

Quan Đại phu Dao Cách và Dương Nhậm quì tâu:

- Bốn trấn đều bị một tội mà Bệ hạ tha Cơ Xương và Sùng Hầu Hổ, còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ lại không tha sao phải lẽ. Xét Khương Hoàng Sở cũng như Cơ Xương, xưa nay không có gì thất đức, trị dân phải phép, phò chúa một lòng. Còn tội thí vua chẳng qua là chuyện huyền hoặc, không đủ bằng cớ kết tội được. Ngạt Sùng Võ thì dùng lời thẳng can vua. Lời xưa có nói: Vua sáng thì tôi nói thẳng. Lấy lời thẳng mà can trước mặt vua là tôi ngay. Đã được tiếng tôi ngay mà bị giết sao phải. Xin Bệ Hạ nghĩ lại dung tha cả bốn Trấn chư hầu như thế mới phải tình tôi chúa, vui vẻ trời Nghiêu.

Vua Trụ giận, vỗ án nói lớn:

- Ngạt Sùng Võ mắng vua, Khương Hoàng Sở thí chúa, không chém đầu làm gương thì còn ai tuân phép nước. Trẫm còn thấy kẻ nào xin tội cho hai người ấy tức là kẻ ấy đã hùa theo đảng dữ, phải tội liên can.

Thấy vua Trụ giận dữ, chẳng ai dám tâu dai. Vua Trụ truyền đem Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ ra hành hình lóc thịt.

Võ sĩ tuân lệnh bắt Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đóng đinh lên cột, rồi lóc thịt gia hình.

Người sau có thơ điếu:

Một dòng Hoàng Sở thảy trung lương

Vua Trụ ham dâm giết thảm thương

Cả họ thác oan trời cũng xót

Hôn quân vô đạo mất nhà Thương

Sau đó Trụ Vương truyền bãi chầu. Tây Bá lạy tạ ơn các quan đã cứu mình và khóc:

- Khương Hoàng Sở vô tội thác oan, Ngạt Sùng Võ can vua bị chém, tôi sợ hai cõi Đông và Nam sanh loạn.

Các quan lau nước mắt nói:

- Bây giờ chúng ta lo việc mai táng thi hài hai vị chư hầu rồi sau sẽ tính.

Bọn gia tướng của Đông Bá và Nam Bá thấy chúa mình bị hại đều trốn về hết.

Tỉ Can vào đền tâu với vua Trụ:

- Xin Bệ Hạ cho chôn cất hai thây của hai vị chư hầu, và thả Cơ Xương về nước.

Vua Trụ nhận lời. Bí Trọng hay được việc ấy vào tâu:

- Cơ Xương ngoài mặt hiền lành, song trong lòng gian, trải chuốt ngọt lời nói để gạt các quan. Nếu tha về thế nào va cũng xui con Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán và con Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận khởi binh làm loạn để báo cừu, ấy là thả cọp về rừng, cho rong về biển.

Trụ Vương nói:

- Trước triều Trẫm đã tuyên bố tha chết cho Cơ Xương rồi, các quan ai cũng biết. Nay lấy lý do gì mà bắt giết.

Bí Trọng nói:

- Tôi đã tính sẵn một kế, có thể trừ được Cơ Xương.

Trụ Vương hỏi:

- Cớ gì vậy?

Bí Trọng nói:

- Ngày mai thế nào Cơ Xương cũng đến lạy ngoài ngõ mà về, vì các quan thế nào cũng thân hành đưa đón. Tôi sẽ đến trường đình dọ dẩm, nếu cơ xương thật lòng trung nghĩa thì thôi, bằng tỏ ra bất mãn thì Bệ hạ truyền bắt lại, giết quách cho rồi để khỏi sanh hậu họa.

Vua Trụ khen phải, ngầm sai Bí Trọng, Vưu Hồn, lợi dụng cuộc đưa đón dò xét ý tứ của Tây Bá Hầu.

Bấy giờ Tỉ Can sau khi vào chầu vua Trụ, lén qua quán dịch thăm Tây Bá và nói:

- Tôi vào hậu cung xin phép Thiên Tử chôn cất thi thể Đông và Nam Bá Hầu, nhân tiện tôi có xin cho hiền hầu về nước.

Tây Bá Hầu nói:

- Cám ơn Thừa Tướng thương tình đạy bảo, biết bao giờ tôi mới đền bồi được ơn ấy.

Tỉ Can nắm tay Tây Bá nói nhỏ:

- Triều đình đã loạn, Thiên tử bị mê hoặc, khi không giết hại đại thần, điềm ấy chẳng lành đâu. Ngày mai hiền hầu lạy ngoài ngõ rồi về nước cho mau, nếu nấn ná bọn nịnh thần tìm lời dua mị, nói ra vào e bất tiện.

Tây Bá Hầu nói:

- Cảm tình Thừa Tướng dạy bảo tôi đâu dám chẳng tuân.

Sáng hôm sau, Tây Bá đến trước cửa ngọ môn, nhắm về phía ngai lạy xong, đến trường đình, thấy mấy vị đại thần đang chờ đãi tiệc. Các quan mời Tây Bá ngồi lại, rót rượu và nói:

- Nay hiền hầu về nước, chúng tôi xin dâng một tiệc mọn để thưa gởi mấy lời.

Tây Bá khiêm tốn:

- Nếu có việc gì cần xin các ngài chỉ dạy.

Vi Tử nói:

- Tuy Chúa thượng vô đạo, làm mích lòng chư hầu, song hiền hầu nên tưởng tình tiên đế cho trọn đạo vua tôi, chớ đem dạ đổi dời thì chúng tôi rất cám ơn, và muôn dân đều may mắn.

Tây Bá bái, và nói:

- Tôi mang ơn Thiên tử tha tội, là nhờ được quí vị hết lòng bảo vệ, ơn ấy không bao giờ quên được. Tôi nguyện suốt đời không sanh sự.

Các quan cảm mến vô cùng, thi nhau chuốc rượu, Tây Bá uống cả trăm chung.

Kế đó có Vưu Hồn, Bí Trọng bước vào. Các quan thấy vậy không bằng lòng, lui dần về hết.

Tây Bá nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:

- Tôi hèn mọn không ra chi, nhọc lòng hai ông đưa đón.

Bí Trọng, Vưu Hồn nói:

- Hôm nav hai tôi bận chút việc nên đến trễ, xin hiền hầu miễn chấp.

Tây Bá thuở nay không gần bọn nịnh, không để ý đề phòng, thấy Vưu Hồn, Bí Trọng làm ra vẻ cúm núm, ngỡ là họ thiệt tình nên đối xử rất tự nhiên.

Vưu Hồn hỏi:

- Tôi nghe hiền hầu có tài bói toán biết được chuyện vị lai chẳng biết có thật linh nghiệm không?

Tây Bá nói:

- Máy âm dương rất đúng, quẻ bói không thể sai được. Tuy vậy người nào bị tai họa mà ăn ở phúc đức thì tai họa cũng qua. Do đó nhiều lúc quẻ không linh là tại duyên cớ ấy.

Bí Trọng hỏi:

- Khí số Bệ hạ, hiền hầu có bói giùm chưa?

Bấy giờ Tây Bá rượu đã xoàng xoàng, nên quên hai thằng nịnh đang kiếm chuyện, nghe hỏi tới việc Thiên Tử liền nhăn mặt thở ra, than:

- Khí số Bệ hạ xấu lắm, sợ chỉ truyền được một đời này thôi. Cuối cùng bị tai nạn khủng khiếp. Đã vậy Thiên Tử lại làm nhiều việc thất đức, thời gian suy vi đến càng chóng hơn nữa. Mình phận tôi con, không dám nói nhiều.

Nói rồi lau nước mắt. Bí Trọng hỏi:

- Hung tai của Bệ hạ ứng vào năm nào?

T'ây Bá nói:

- Không ngoài hai mươi tám năm, tức là năm Mậu ngũ ngày Giáp tý.

Vưu Hồn, Bí Trọng giả vờ than thở và ép rượu Tây Bá uống mãi.

Qua một lúc, Bí Trọng và Vưu Hồn hỏi:

- Hiền hầu xem giùm quẻ hai ta xem thân phận thế nào?

Tây Bá gieo quẻ ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói:

- Quẻ ứng lạ lắm!

Vưu Hồn cười và hỏi:

- Số hai đứa tôi chết về nghiệp gì mà lạ lắm vậy?

Tây Bá nói:

- Người đời có nhiều cách chết, hoặc bị các chứng bệnh, hoặc bị nước, lửa, hoặc bị gươm đao,... Nhưng hai ông không chết vào các trường hợp thường tình như vậy mà chết vì tuyết sa bị chôn trong giá lạnh.

Bí Trọng cười:

- Có lẽ chúng tội thuộc mạng thủy, nên chết chôn dưới tuyết cho mát thân.

Nói rồi rót rượu mời Tây Bá uống nữa. Vưu Hồn hỏi:

- Chắc hiền hầu cũng đã xem số cho hiền hầu rồi chứ?

Tây Bá nói:

- Tôi có xem rồi. Về sau tôi già yếu, mang bệnh mà chết.

Vưu Hồn, Bí Trọng làm bộ mừng, nói:

- Hiền hầu bởi có đức lớn, nên phước thọ song toàn. Cha chả, hai tôi vì mê chuyện vãn nên trễ việc nhà, vậy xin giã từ, chúc hiền hầu vinh qui trị nước.

Hai người nói rồi lên ngựa trở về dinh, vào thẳng hậu cung yết kiến vua Trụ.

Vua Trụ hỏi:

- Cơ Xương có oán trách ta thế nào không?

Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:

- Cơ Xương chẳng những oán trách mà còn mắng khéo vua, tội ấy không thể tha được.

Trụ Vương nổi giận hét:

- Đồ thất phu, ta đã tha chết cho về nước chẳng biết ơn lại còn ám nhục trẫm. Hai khanh thuật lại lời nói của nó cho Trẫm nghe.

Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:

- Cơ Xương nói đã coi quẻ cho Bệ hạ thấy chỉ truyền được một đời nầy thôi. Đã vậy Bệ hạ sẽ chết rất thảm thiết.

Trụ Vương tái mặt vì giận:

- Sao các ngươi không hỏi thử số nó chết vì nghiệp gì?

Bí Trọng tâu:

- Hai tôi có hỏi việc ấy, Cơ Xương nói là số lão đến già mang bệnh chết. Chúng tôi nghĩ rằng Cơ Xương dùng lời ma mị gạt gẫm mọi người, và dùng quẻ bói để mắng khéo bệ hạ đó thôi. Thực ra tánh mạng của Cơ Xương hiện ở trong tay Bệ hạ, Bệ hạ muốn giết lúc nào chẳng được, sao dám bảo chết già.

Trụ Vương hỏi:

- Theo ý hai khanh có nên giết Cơ Xương trong lúc nầy chăng?

Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:

- Cơ Xương dùng quẻ dịch đối thể mị dân, chửi rủa Bệ hạ đã có hai tôi làm chứng thì đủ bằng cớ để giết Cơ Xương rồi. Xin bệ hạ trừ đi.

Trụ Vương liền sai đòi Triều Điền vào, truyền lệnh theo bắt Cơ Xương về chém. Triều Điền tuân lệnh ra đi.

Lúc nầy Tây Bá nói lỡ lời, biết thế nào cũng mang họa liền truyền gia tướng chạy cho mau để lánh nạn. Tây Bá vừa chạy vừa nghĩ:

- Mình có cái nạn bảy năm, lẽ nào bình yên về nước được?

Ngoảnh đầu lại, thấy một tướng cỡi ngựa đuổi theo như bay.

Tây Bá nói:

- Thôi rồi! Tai nạn đến nơi rồi.

Triều Điền kêu lớn:

- Tây Bá Hầu, Bệ hạ có lệnh mời Tây Bá Hầu trở lại đã.

Tây Bá Hầu nói:

- Tướng quân ơi tôi đã biết trước rồi.

Liền day lại nói với bọn gia tướng:

- Chúng bay về thưa với Bá Áp Khảo phải giữ gìn phép nước, thảo thuận với anh em, trên kính dưới nhường, không nên dời đổi. Đợi bảy năm ta mãn hạn sẽ vinh qui.

Bọn gia tướng đều khóc lóc chia tay, còn Tây Bá theo Triều Điền trở lại.

Có thơ rằng:

Trường đình thù tạc giả quan viên

Quá chén bầy lời chẳng cữ kiêng

Dũ Lý bảy năm làm sách Diệc

Ouẻ linh rành rẽ để lưu truyền

Quân tuần của Hoàng Phi Hổ thấy Tây Bá bị Triều Điền kêu lại lật đật chạy về báo với Hoàng Phi Hổ.

Hoảng Phi Hổ thất kinh, nghĩ thầm:

- Lẽ nào Tây Bá ra đi còn trở lại đây. Có khi hai thằng nịnh kiếrn chuyện cáo gian hại Tây Bá chăng?

Tức thì Hoàng Phi Hổ sai Châu Kỷ mời các quan nhóm họp trước điện.

Các quan văn võ vừa tựu đến thì Tây Bá cũng vừa vào. Hoàng Phi Hổ hỏi Tây Bá:

- Hiền Hầu đã về nước, sao còn lưu lại đây?

Tây Bá nói:

- Không biết việc gì mà có lệnh Bệ hạ đòi trở lại.

Triều Điền sau khi bắt Tây Bá lại rồi lập tức vào hậu cung tâu với vua Trụ. Vua Trụ giận nói:

- Hãy dẫn nó vào đây cho mau!

Tây Bá được nội thị dẫn vào quì trước long sàn, tâu:

- Tôi mang ơn bệ hạ tha tội cho về nước, chẳng biết có việc gì bệ hạ chưa cho đi?

Trụ Vương mắng:

- Đồ thất phu! Trẫm đã cho vinh qui sao không biết nhận, lại còn mắng trẫm.

Tây Bá tâu:

- Tôi dầu ngu muội thế nào trên cũng biết trời, dưới cũng biết đất, giữa cũng biết vua, biết có cha sanh, biết có thầy dạy. Trăm đạo ấy tôi đâu có dám lỗi đạo.

Trụ Vương nói:

- Ngươi chớ điêu ngoa chối lỗi, rõ ràng ngươi dùng việc bói toán, lợi dụng việc thần thánh châm biếm và nhục mạ trẫm lắm lời. Tội ấy không phải gọi là khi quân sao?

Tây Bá tâu:

- Quẻ Tiên thiên do Phục Hy chế ra luận theo Bát quái đồ hình, bói việc dữ lành trong thiên hạ. Tôi học theo phép ấy suy ra các việc, đâu dám đặt điều châm biếm ai. Xin Bệ hạ chớ nghi oan.

Vưa Trụ nói:

- Ngươi thử bói một quẻ xem việc nước và vận mệnh thế nào?

- Việc ấy tôi đã coi quẻ rồi, thấy không tốt, nên tôi có nói với Bí Trọng, Vưu Hồn. Tôi chỉ nói không tốt mà thôi, không hề phạm đến Bệ hạ.

Vua Trụ đứng dậy nói lớn:

- Ngươi chê ta chết một cách thảm thiết, còn ngươi thì lại chết già, như vậy không phải là nhục mạ ta sao? Ngươi quả là đứa lừa đảo, muốn làm cho lòng dân loạn động. Ta sẽ làm cho quẻ của ngươi ứng không linh, để thiên hạ khỏi tin lời nói nhảm của ngươi nữa.

Dứt lời, truyền đao phủ quân đem Tây Bá ra chém tức thì.

Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nói lớn:

- Không nên chém Cơ Xương.

Vua Trụ nhìn ra thấy Hoàng Phi Hổ và bảy vị Đại thần đồng vào đều quì lạy, tâu:

- Xin Bệ hạ tha cho Cơ Xương về nước, bởi vì quẻ Diệc do Phục Hy đặt ra, không phải Cơ Xương đặt điều dối gạt đâu. Cơ Xương xem bói nói thẳng tỏ ra người quân tử, thấy sao nói vậy, không dua mị. Bệ hạ nào chém người ngay?

Trụ Vương nói:

- Cơ Xương dựa vào quẻ bói, khi quân, mắng chúa, làm cho lòng dân xao động. Như thế không đáng tội à?

- Nếu lời nói thẳng bi vua chém đầu thì có lẽ từ rày về sau hỏi ai còn dám nói thẳng nữa. Xin bệ hạ xét lại hoàn cảnh khó khăn của Cơ Xương.

Trụ Vương lắc đầu:

- Cơ Xương gian trá, dựa vào quẻ để nói xấu trẫm, tội ấy không tha được.

Tỉ Can tâu:

- Chúng tôi không phải vì Cơ Xương mà vì đại sự quốc gia. Cơ Xương là người hiền, có đức hạnh, các chư hầu đều kính phục. Nếu Bệ hạ bảo Cơ Xương bày chuyện bói mắng vua thì Bệ hạ truyền Cơ Xương bói một quẻ, nếu quẻ đúng là Cơ Xương ngay thật, còn nếu quẻ không đúng thì Bệ hạ bắt tội Cơ Xương dối vua.

Vua Trụ thấy nhiều vị Đại thần can gián, cực chẳng đã nghe lời truyền Cơ Xương bói thử một quẻ:

- Trong trào có việc gì sẽ xảy ra gần nhất ngươi thử bói xem?

Cơ Xương tuân lời rũ quẻ, rồi nói:

- Xin bệ hạ thỉnh vi thần chủ ra nhà kẻo trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu.

Vua Trụ hỏi:

- Ngươi đoán chắc giờ nào?

Tây Bá tâu:

- Đúng giờ Ngọ trưa mai lửa bốc cháy.

Vua Trụ nói:

- Vậy thì ta giam đỡ ngươi một đêm, đợi đến trưa mai ta sẽ xét xử.

Các quan đồng lui ra ngoài. Tây Bá cũng đi theo, nói:

- Nhờ các ngài tâu xin tôi mới khỏi chết, ơn ấy ngàn ngày khó quên.

Hoàng Phi Hổ nói:

- Hiền hầu ơi! Chúng tôi còn lo lắng chưa yên. Không biết ngày mai, may rủi thế nào.

Tây Bá nói:

- Quẻ ứng không thể sai được. Cứ đợi trưa mai sẽ rõ.

Vua Trụ truyền đòi Bí Trọng vào nội cung hỏi:

- Nếu trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu thì sao?

Bí Trong nói:

- Bệ hạ truyền cho quan giữ nhà Thái miếu ngàv mai cấm không được thắp hương, lại phải canh phòng cho cẩn mật, thì lửa đâu mà cháy được.

Vua Trụ khen phải, truyền lịnh xong xuôi trở vào cung với Đắt Kỷ.

Ngày hôm sau, Hoàng Phi Hổ và mấy vị Đai thần đều nhóm nhau trước phủ. Đến giờ Ngọ không thấy lửa cháy, ai nấy đều lo cho Tây Bá hết thời. Bỗng một tiếng sấm nổ vang trời, quan giữ nhà Thái miếu vội chạy vào báo:

- Tiếng sét vừa rồi làm cho nhà Thái miếu bốc lửa rồi cháy dữ.

Ai nấy đều thất kinh. Tỉ Can than:

- Lửa cháy nhà Thái miếu là điềm chẳng lành. Sợ cơ nghiệp Thành Thang không còn.

Các quan đều dẫn quân đến cứu chữa. Ngọn lửa cất cao ngùn ngụt.

Khói lửa mù mịt che không thấy mặt trời.

Lủa dậy rần rần trông lòa con mắt.

Một luồng gió thổi, rèm châu cột ngọc ra tro.

Mấy mảnh tàn bay ngói tan thành đống.

Người sau có thơ:

Quẻ linh Tây Bá lậu hiên cơ

Lửa dậy ngày mai dám định giờ

Sự nghiệp Thành Thang gần hóa bụi

Hưng vong loáng mắt đám tro mờ

Bấy giờ Trụ Vương đang ngự tại đền Long Đức, đang ngóng tin, xảy có quan Phụng Ngự vào tâu:

- Quả thật đúng giờ Ngọ, lửa dậy cháy nhà Thái miếu rồi.

Trụ Vương thất kinh hét:

- Ta đã truyền canh phòng cẩn thận tại sao còn để lửa cháy?

Quan Phụng Ngự tâu:

- Tiếng sét hóa lửa, đốt cháy đền thờ chớ không phải lửa vô ý.

Trụ Vương toát mồ hôi, ngồi trên long sàng chết điếng. Vưu Hồn le lưỡi, Bí Trọng lắc đầu, đồng la hoảng:

- Cơ Xương là ông Thánh sống!

Vua Trụ tỉnh lại, hỏi:

- Quẻ linh như vậy, hai khanh nghĩ sao?

Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:

- Cơ Xương tài tình như vậy, nếu cho về nước ngày sau khó lòng lắm.

Trụ Vương hỏi:

- Nhưng giết Cơ Xương không khỏi triều thần dị nghị dân chúng nhôn nhao.

- Cơ Xương thì phải cầm lại nơi Triều Ca như vậy mới khỏi lo điều dữ.

Trụ Vương nói:

- Chỉ có cách đó mới vẹn toàn được. Triều thần không dị nghị, trăm họ không xôn xao.

Giữa lúc đó có các vị triều thần kéo vào, quì dưới trướng để tấu trình :

- Quẻ bói của Cơ Xương rất linh nghiệm, xin Bệ hạ truyền chỉ tha cho Cơ Xương về nước.

Trụ Vương nói:

- Cơ Xương bói hay, trẫm dung cho khỏi chết mà thôi. Nay phải cầm nơi Dũ Lý đợi yên việc nước sẽ cho về.

Các quan lạy tạ ơn, đồng ra ngoài ngõ.

Tỉ Can nói với Tây Bá:

- Nay chúng tôi xin tội cho hiền hầu, Bệ hạ đã nhận lời, song dạy hiền hầu phải ở nơi thành Dũ Lý đặng chờ thuở vinh qui, chưa cho về gấp.

Tây Bá nói:

- Nay Bệ hạ đã tha tánh mạng, ơn lớn bằng trời, lại đày ở nơi Dũ Lý mà chờ, tôi mang ơn rất lớn, dâu dám cãi lệnh.

Hoàng Phi Hổ nói:

- Hiền hầu rán ở lại đây chừng một tháng, chúng tôi sẽ tìm dịp tâu xin cho hiền hầu về nước.

Tây Bá nhắm chỗ vua ngự lạy mấy lạy, cảm ơn các quan triều rồi theo quan Khâm Sai đến thành Dũ Lý.

Mấy ông lão ở thành ấy đều mang bầu rượu, quì trước cửa đón rước Tây Bá và nói:

- Chúng tôi xin chúc mừng vị Thánh. Nay có vị Thánh đến đây chúng tôi còn gì hân hạnh bằng.

Tiếng chúc vang trời người xem đông như kiến. Tây Bá vào thành, quan Khâm Sai khen phục, và từ giã ra về.

Tây Bá bị cầm chân ở đó chứ không phải tù tội gì, vì vậy vẫn được tự đo đi lại trong thành. Dân trong thành đều mến đức.

Nhân lúc thanh thản, Tây Bá dùng Bát quái chế ra 64 quẻ linh, mỗi quẻ chia ra làm 6 hào, thành 84 hào.

Thì giờ Tây Bá dùng vào việc nghiên cứu, viết sách nên ngày tháng tợ thoi đưa, không giận hờn, không oán trách ai cả.

Người sau có thơ tặng:

Tù túng bảy năm thành Dũ Lý

Điểm trang một tập quẻ thiên tiên

Dạy đời nuôn việc đều hung kiết

Để tiếng nghìn thu bậc thánh hiền
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 11
Na Tra xuất hiện ải Trần Đường


Ngày kia, Hoàng Phi Hổ nghe tin con trai Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán lên ngôi Đông Bá Hầu đem bốn mươi vạn binh mã làm phản đánh ải Du Hồn.

Lại nghe con trai Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận thế chức Nam Bá Hầu cũng dẫn binh mã năm mươi vạn, đến phá ải Tam So dể báo thù cha.

Hai tổng trấn nầy khuyên dụ bốn trăm chư hầu theo làm phản.

Hoàng Phi Hổ than:

- Thiên hạ đã loạn hết nửa phần rồi. Ôi, từ đây thế cuộc sinh nhiều rắc rối. Hai cõi can qua biết bao giờ cho yên giặc?

Nói rồi ban cờ lệnh, truyền hai ải thủ thành, đợi cho địch quân phá không nổi kéo quân về, chớ không cho xuất quân đối địch.

Đây nói về ông Thái Ất ở động Kim Quang, thuộc núi Cát Nguyên là một vị tiên đã sống trên một ngàn rưỡi năm, vì phạm luật sát sinh, nên thầy của ông là Nguyên Thỉ đóng cửa không chịu giảng kinh nữa.

(Ấy bởi luật Thiên Đình muốn dùng các tiên phạm tội sát sanh ra giúp Khương Tử Nha, chém tướng phong thần cho đủ chức, sau khi nhà Châu diệt nhà Thương xong, đem lại thái bình cho muôn dân, chừng ấy ông Nguyên Thỉ mới giảng kinh và các tiên phạm luật mới được phép tu lại ).

Hôm ấy ông Thái Ất đang ngồi trong động bỗng thấy Bạch Hạc đồng tử đến nói:

- Ngài Nguyên Thỉ dạy rằng: Chẳng bao lâu sẽ sai Khương Thượng ra đời, vậy ông phải cho Linh Châu Tử xuống đầu thai kẻo trễ.

Thái Ất thấy có lệnh thầy mình ban xuống liền cúi đầu đón nhận:

- Việc ấy ta đã biết rồi.

Bạch Hạc đồng tử liền giã từ ra về.

Bây giờ tại ải Trần Đường, quan Tổng Binh ải này là Lý Tịnh vốn học trò của ông Độ Ách ở núi Côn Lôn, khi còn nhỏ có đi tu, sau bị đuổi về ra phò vua Trụ. Vợ Lý Tịnh là Ân phu nhân sanh được hai con, hình dung tuấn tú. Con lớn tên Kim Tra, con nhỏ tên Mộc Tra. Đến nay, Ân phu nhân lại mang thai nữa, nhưng lần nầy rất lạ, thai nghén đã ba năm rưỡi mà chưa khai hoa nở nhụy.

Lý Tịnh buồn bã, than:

- Thai nghén khác thường như vậy chắc là loại quái thai, nếu không sanh ra yêu cũng sanh ra quỉ.

Ân phu nhân cũng sợ, nhưng không biết làm sao.

Đêm kia, Ân phu nhân đang nằm ngủ trong phòng thấy một vị đạo sĩ đầu chừa hai vá tay cầm gậy, râu dài đuộc bước đến.

Ân phu nhân nạt lớn:

- Thầy là ai? Không biết phép, dám vào phòng riêng của ta?

Đạo sĩ nói:

- Phu nhân mau lãnh con quí.

Ân phu nhân chưa kịp trả lời, đã thấy Đạo sĩ tay cầm vật gì không biết, ném ngay giữa bụng mình, làm cho phu nhân giật mình thức dậy mồ hôi ướt đầm mình.

Phu nhân gọi chồng thuật lại câu chuyện vừa chiêm bao. Lý Tịnh còn đang suy nghĩ thì phu nhân đã chuyển bụng, rên la rất dữ.

Lý Tịnh nghĩ thầm:

- Đây chắc là một vị tướng đầu thai, nhưng chẳng biết tướng hiền hay tướng dữ đây.

Xảy thấy thế nữ vào thưa:

- Phu nhân đẻ ra một quái thai.

Lý Tịnh nghe nói thất kinh, xách gươm vào phòng, nghe mùi thơm ngào ngạt. Đến bên giường phu nhân thì chỉ thấy một cái bọc lớn bằng cái bánh xe. Lý Tịnh cầm gươm chém rách cái bọc ấy tức thì bên trong một đứa bé nhảy ra, mình chiếu hào quang, mặt như dồi phấn, tay cầm Càn khôn quyện, lưng buộc Hỗn thiên lăng. (Ấy là Linh Châu Tử đầu thai, sau đi tiên phuông cho Khương Thượng, nên buộc mình dây đỏ, tay cầm vòng vàng. Hai vật ấy là bửu bối của Thái Ất chơn nhơn cho).

Lý Tịnh thấy thằng nhỏ chạy giáp vòng, biết không phải yêu quái liền bắt lại, bồng lên giường, đưa cho phu nhân.

Vợ chồng trầm trồ, cưng như trứng mỏng.

Hôm sau, các quan hay tin đồng đến chúc mừng.

Tiếp đó, có một vị đạo sĩ đến trước ải xin vào ra mắt.

Lý Tịnh trước kia là người tu hành, nên không dám xem thường các Đạo sư, liền ra rước vào.

Lý Tịnh hỏi:

- Chẳng hay đạo sư ở núi nào?

Đạo sĩ nói:

- Ta là Thái Ất ở động Kim Quang, núi Càn Nguyên, nghe Tướng quân sanh con quí nên đến chúc mừng. Vậy cho ta xem thử.

Lý Tịnh truyền thế nữ bồng đứa bé ra ngoài. Thái Ất bồng đứa bé vào lòng xem xét và hỏi:

- Sanh vào giờ nào vậy?

Lý Tịnh đáp:

- Đúng vào giờ Sửu.

Thái Ất nói:

- Không tốt.

Lý Tịnh nói:

- Khó nuôi lắm hay sao?

Thái Ất nói:

- Sanh nhằm giờ ấy thì phạm sát sinh. Nó giết hơn một ngàn bảy trăm mạng. Nhưng Tướng quân đặt tên nó là gì?

Lý Tịnh nói:

- Tôi chưa đặt tên.

Thái Ất nói:

- Để tôi đặt tên cho nó,và sau nầy nó theo tôi làm đệ tử được không?

Lý Tịnh nói:

- Được đạo sư thương tình như vậy còn gì quí hơn.

Thái Ất hỏi:

- Tướng quân được mấy vị Công tử?

Lý Tịnh đáp:

- Tôi có ba đứa con trai. Thằng lớn tên Kim Tra đi học với Văn Thù ở núi Ngũ Long. Thằng thứ hai là Mộc Tra đi học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung. Còn thằng thứ ba đó, nếu Đạo sư muốn thu dùng làm đệ tử xin cứ đặt tên.

Thái Ất nói:

- Ta đặt nó là Na Tra, cũng lấy chữ hai đứa lớn.

Lý Tịnh cảm tạ, rồi truyền dọn cơm chay thết đãi.

Thái Ất nói:

- Ta có việc gấp, xin kiếu về.

Lý Tịnh thân đưa ra khỏi phủ.

Ngày kia, Lý Tịnh nghe hai Trấn nổi loạn, vội củng cố binh lực để giữ ải mình. Nhất là nơi núi Giả Mã, chỗ địa đầu, Lý Tịnh cố đóng quân thật nhiều để ngăn ngừa mũi giặc.

Thời gian trôi rất nhanh, thấm thoát đã bảy năm trôi qua...

Na Tra mau lớn phi thường, mình cao sáu thước, vai rộng dềnh dàng. Mới bảy tuổi mà nghịch không thể tả nổi.

Lý Tịnh vì nghe tin Khương Văn Hoàn khởi binh đánh ải Du Hồn nên ngày đêm lo luyện tập binh mã để phòng, không rảnh để dạy dỗ Na Tra. Na Tra được thế không còn kiêng nể ai.

Một hôm, nhân trời nóng nực, Na Tra vào thưa với mẹ:

- Xin cho con ra ngoài chơi hóng mát.

Ân phu nhân vốn cưng con, không nỡ làm phật lòng, liền bảo:

- Con muốn ra ngoài thì đi một chút rồi về, kẻo cha con hỏi không có nhà sẽ rày la đó.

Na Tra nói:

- Thưa mẹ, con biết mà.

Ân phu nhân khiến một tên gia bộc đi theo. Na Tra ra ngoài, đi chưa đầy hai dặm đã thấy đổ mồ hôi, ráng đi đến một rặng dương liễu đụt nắng. Bên hàng dương liễu lại có một giòng sông lớn, ghềnh đá cheo leo, nước trong leo lẻo.

Na Tra nói:

- Hay lắm! Trời đang nóng nực lại gặp dòng sông, không tắm cho mát thì còn gì thú vị?

Tên gia nô nói:

- Không nên. Công tử tắm ở đâv rủi gặp Tướng công điểm binh về trông thấy thì nguy, chi bằng trở về là hơn.

Na Tra nói:

- Không sao đâu! Ta tắm cho mát dẫu gia gia ta trông thấy, lại cấm ngăn à?

Nói rồi cổi hết quần áo, lội xuống sông, ngồi trên một bực đá, dỡn nước.

Dỡn nước chán rồi, Na Tra lại cởi dây lưng đỏ ra giặt, làm cho mặt sông nước loang màu hồng, cả sông nổi sóng.

Sông Củu Loan chảy vào biển Đông Hải nên lúc ấy vua Long Vương biển Đông là Ngao Quảng, đang ngự nơi cung Thủy Tinh thình lình thấy đền đài rung rinh cả, liền hỏi quần thần:

- Việc gì mà cung điện rung rinh như vậy?

Triều thần không ai hiểu việc gì cả. Ngao Quảng liền truyền quỉ Dọa Xoa là Lý Lương lên mé biển tuần hành xem thử vật chi.

Lý Lương tuân lệnh vác búa đến mé biển thấy vàm sông Cửu Loan sóng bủa rập rềnh, liền theo dòng sông thẳng đến.

Khi đến nơi, thấy một thằng nhỏ đang ngồi trên ghềnh đá, cởi dây lưng ra giặt. Lý Lương trồi đầu lên hét lớn:

- Thằng nhỏ kia. Mày giặt cái gì mà làm cho nước sông đỏ rực, đền đài của Long Vương rung chuyển như vậy?

Na Tra trông thấy quỉ Dọa Xoa, cười lớn:

- Cha chả. Mầy ở đâu đến đây làm phách vậy? Lâu đài mầy chỗ nào? Tao giặt dây lưng can hệ gì đến mầy?

Lý Lương nói:

- Tao bắt mầy đem về nạp cho Long Vương hỏi tội.

Vừa nói, Lý Lương vừa xách búa chém sả vào Na Tra.

Na Tra thấy quỉ Dạ Xoa làm dữ liền rút càn khôn quyện liệng đùa. Lý Lương nát óc chết tươi.

Na Tra cười lớn:

- Thằng chó chết báo hại cho dơ càn khôn quyện của ta.

Nói rồi lại đem xuống sông rửa.

Thảm hại, những lâu đài thành quách của Long Vương bị báu vật ấy làm rung chuyển, đổ nghiêng chẳng khác một trận bão trên đất liền.

Ngao Quảng thất kinh hỏi triều thần:

- Lý Lương đi chưa về, không biết cái gì càng ngày càng làm cho lâu đài rúng động dữ vậy?

Xảy có bọn thủy quân chạy về báo:

- Trên bờ sông có một đứa bé giặt dây lưng đỏ. Lý tướng quân đã bị thằng nhỏ đó giết chết rồi.

Ngao Quảng thất kinh la lớn:

- Thủy thần Dạ Xoa là tướng trời phong, ai dám giết?

Bèn truyền quân sắm sửa khí giới theo mình đến đó xem thử.

Bỗng có Thải Tử Ngao Bính bước ra tâu:

- Phụ vương định đem quân đánh ai vậy?

Ngao Quảng thuật lại chuyện đứa bé vừa giết Dạ Xoa cho Thái Tử nghe. Ngao Bính nói:

- Việc nhỏ mọn như vậy phụ vương đi làm gì. Để con đến đó bắt nó đem về đây cho phụ vương tra hỏi cũng được.

Ngao Bính nói rồi xách kích, cỡi thú ra đi. Đến vàm sông quả thấy nước tuôn cuồn cuộn, sóng bổ ầm ầm.

Bấy giờ Na Tra đang mải mê đứng xem sóng bủa. Thình lình thấy một con thú từ dưới nước nhảy vọt lên, trên lưng có một chàng trai tay cầm kích, mình mặc giáp, miệng kêu lớn:

- Thằng nhỏ kia. Có phải mầy vừa giết chết tướng Dạ Xoa của tao không?

Na Tra nói:

- Tao giết nó chớ còn ai nữa.

Ngao Bính hỏi:

- Mầy là thằng con nít ở đâu lại hung hăng như vậy?

Na Tra đáp:

- Tao là Lý Na Tra, con ông Lý Tịnh, hiện làm Tổng Trấn nầy.

Ngao Bính nói:

- Con ông gì mặc kệ mầy. Mày giết tướng trời tất phải đền tội.

Na Tra nói:

- Thằng phách lối. Tao đang tắm nơi đây, đâu phải là một khúc gỗ trôi sông mà nó vác búa đến bửa vào người tao? Tao đánh nó chết lại tội vạ gì?

Ngao Bính nói:

- Tao bắt mầy đem vào Thủy điện rồi mầy muốn nói gì thì nói.

Na Tra trợn mắt:

- Thủy điện là đâu? Mầy là thằng nào?

Ngao Bính nói:

- Tao là Ngao Bính, con của Ngao Quảng, Đông Hải Long Vương.

Na Tra cười:

- A, nói vậy thì bay là loài rồng ở dưới nước. Nhưng đừng làm phách, hễ chọc đến tao, tao lột da cả cha mầy nữa chứ không phải chỉ một mình mầy thôi đâu.

Ngao Bính tức giận quá, cầm kích lướt tới đâm đùa. Na Tra sợ hãi, quăng Hỗn thiên lăng ra trói. Ngao Bính té xuống lưng thú, rồi nhảy xổ đến đạp chân vào cổ, lấy Càn khôn quyện đập đầu chết tốt biện nguyên hình một con rồng nhỏ.

Na Tra nói:

- Để tao rút lấy gân mầy đem về cho cha tao buộc giáp chơi, nghe nói gân rồng chắc lắm.

Nói rồi làm y như vậy. Xong mặc quần áo lại, trở về ải.

Tên gia nô nãy giờ chứng kiến cuộc tàn sát, mặt không còn chút máu, không dám đi gần Na Tra, cứ lểnh mểnh theo sau cách một khoảng.

Phu nhân thấy Na Tra về, liền hỏi:

- Con đi chơi đâu đến nửa ngày mới về?

Na Tra thưa:

- Con mải mê ngắm cảnh đẹp nên về trễ.

Nói rồi đi thẳng ra sau vườn.

Bấy giờ, đoàn thủy quân theo Ngao Bính thấy Ngao Bính bị đánh chết lật đật trở về báo với Ngao Quảng.

Ngao Quảng thất kinh, la lớn:

- Con ta là một vị thần làm mưa, sao nó dám giết đi. Vả ta với Lý Tịnh trước kia kết tình bằng hữu, sao va lại để con đánh chết Ngao Thái Tử, rút lấy gân? Việc nầy chẳng những một hận thù mà còn là một nhục nhã nữa.

Nói rồi liền hóa ra một vị tú tài thẳng đến dinh Lý Tịnh.

Bấy giờ Lý Tinh mới điểm quân về, nghe quân báo:

- Có Ngao Quảng xin vào yết kiến.

Lý Tịnh mừng rỡ, vì lâu ngày xa cách, nên lật đật ra rước vào.

Ngao Quảng mặt phừng phừng, nói vói Lý Tịnh:

- Tôi đến đây không còn tình nghĩa gì nữa!

Lý Tịnh ngạc nhiên hỏi:

- Anh em lâu ngày xa cách, được gặp nhau là vui lắm, sao hiền huynh buông lời như vậy?

Ngao Quảng nói:

- Tình nghĩa gì nữa mà anh em. Anh để con anh đánh chết tướng Dạ Xoa của tôi, lại giết con trai tôi rút gân đem về. Con cái hung dữ như vậy anh còn bênh nó à?

Lý Tịnh ngạc nhiên đáp:

- Anh lầm rồi, Tôi chỉ có ba đứa con. Hai đứa lớn đi học chỉ còn thằng nhỏ bảy tuổi không hề ra khỏi cửa, lẽ nào có xảy ra chuyện như vậy!

Ngao Quảng nói:

- Chính là thằng Na Tra, con trai nhỏ của anh. Nó có xưng tên xưng họ rõ ràng, chối làm sao được.

Lý Tịnh nói:

- Thằng Na Tra mới có bảy tuổi mà đánh ai được? Tuy vóc nó lớn thật, song còn nhỏ lắm! Thôi anh chớ giận, để tôi gọi nó ra đây cho anh nhìn mặt.

Lý Tịnh nói dứt lời, để Ngao Quảng ngồi đó, ra hậu phòng gọi vợ hỏi:

- Thằng Na Tra đâu?

Ân phu nhân không rõ chuyện gì, thấy nét mặt chồng có điều quan trọng, liền hỏi:

- Ai ở đằng trước vậy?

Lý Tịnh nói:

- Có Ngao Quảng, bạn của ta đến thăm và trách ta để con giết chết vị Thái Tử, con trai của ông ấy. Ta thiết tưởng rằng con trai ta là Na Tra mới có bảy tuổi, chưa từng ra khỏi cửa, có đâu sanh chuyện với ai, chắc Ngao Quảng lầm, nên ta gọi Na Tra ra cho Ngao Quảng thấy mặt.

Ân phu nhân nghe nói lòng nghi ngại, đứng suy nghĩ, Lý Tịnh hỏi:

- Na Tra ở đâu?

Ân phu nhân đáp:

- Nó chơi đâu ngoài vườn hoa.

Lý Tịnh liền Chạy tuốt ra sau vườn, thấy Na Tra đang thơ thẩn ở đó.

Lý Tịnh hỏi:

- Na Tra con làm gì đó?

Na Tra nói:

- Có mấy sợi gân rồng con mới tìm được, định ôm phơi khô để cha dùng làm dây cột giáp, thứ nầy tốt lắm.

Lý Tình sững sờ, hỏi:

- Gân rồng ở đâu vậy?

Na Tra kể lại chuyện đi tắm sông giết chết thái tử long vương.

Lý Tịnh đứng chết điếng. Giây lâu mới mở miệng mắng:

- Mầy là đồ oan gia nghiệp báo, Ngao Quảng làm chức Đông Hải Long Vương trước kia là bạn với tao, sao mầy giết con trai người ta rút lấy gân đem về phơi. Nay bác mầy đến đòi thường mạng, mầy tính sao bây giờ?

Na Tra nói:

- Thưa cha, con không biết cha nó là bạn với cha nên lầm lỡ. Vả lại không biết thì chẳng có tội gì, cha đừng lo, gân rồng còn đó, chưa cắt đứt sợi nào, để con lấy đem trả cho lão là yên chuyện.

Na Tra bèn đến trước mặt Ngao Quảng xá một cái và nói:

- Chào bác. Cháu vì không biết nên lầm lỡ xúc phạm đến đại huynh. Nay gân của đại huynh còn nguyên, chưa đứt khúc nào, xin trả lại bác, mong bác tha lỗi.

Ngao Quảng thấy nắm gân rồng càng đau xót dạ, nhớ đến con, liền ngó sang nói với Lý Tịnh:

- Chú sanh con dữ như vậy mà còn đổ lỗi cho tôi xét lầm. Nay tôi không còn tình nghĩa gì hết, quyết đến trước mặt Thượng đế đầu cáo, thử chú tránh khỏi vạ nầy không?

Ngao Quảng nói rồi bước ra ngoài đi thẳng. Lý Tịnh ngồi chết điếng, không nói nên lời. Qua một lúc, Lý Tịnh bỗng khóc oà!

Ân phu nhân bước ra hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Lý Tịnh nói:

- Con dại cái mang đó là lẽ thường xưa nay. Chúng ta sanh đặng con dữ, không tránh khỏi tai nạn. Ngao Quảng đến trước cửa trời đầu cáo, vợ chồng chúng ta không thể nào toàn thân.

Nói rồi khóc nữa, phu nhân an ủi:

- Công việc chưa biết thế nào, sao Tướng quân vội bi quan?

Lý Tịnh nói:

- Phu nhân không rõ. Lẽ trời không thể tránh được. Tôi trước kia tu luyện không thành, song đã biết được mọi huyền cơ vũ trụ. Trên thượng giới có cả một triều đình. Thượng Đế có các vì tiên, phật cai quản chia làm hai nghành Xiển Giáo và Triệt giáo. Luật lệ, phép tắc điều định theo lề lối phân minh.

Ân phu nhân nghe chồng giải thích thất kinh, nói với Na Tra:

- Tao có công cưu mang mầy hơn ba năm, mầy không đền đáp lại gây ra tai họa làm hại đến mẹ cha như vậy thật bất hiếu.

Na Tra thấv mẹ mình than vãn, liền quì thưa:

- Nay con không lẽ giấu mẹ cha, con không phải người phàm tục mà chính là học trò của ông Thái Ất ở động Kim Quang. Con có hai món báu vật không ai đánh lại. Để con về động thuật lại việc cho thầy con. Nếu Ngao Quảng có làm gì bất quá mạng thế mạng thôi. Quyết không để liên lụy đến mẹ cha.

Nói rồi hốt một nắm đất vãi lên trời, độn vào đất ấy mà bay đi mất.

Vợ chồng Lý Tịnh trông thấy cũng thất kinh, biết con mình là một bậc tướng tài, Thượng Đế sai xuống đầu thai. Tuy vậy công lý không thể nào trốn tránh được. Giết người vô cớ phải chịu tội mà thôi.

Na Tra độn thổ về đến động Kim Quang. Thái Ất cho đồng tử đòi vào hỏi.

Na Tra đem mọi việc thuật lại một hồi nhờ thầy cứu mạng.

Thái ất nói:

- Ngao Bính số mạng chỉ đến đó thôi. Ngao Quảng là một vị thần mưa lẽ nào không biết, chuyện gì phải đi kiện?

Liền dặn nhỏ Na Tra bảo phải làm y kế rồi họa bùa trên lưng Na Tra, khiến Na Tra đến cửa trời đón đường Ngao Quảng.

Na Tra lạy tạ lui ra, đằng vân thẳng đến cửa trời đứng trước đền Bửu Đức đợi Long Vương.

Bởi có bùa ẩn thân nên không ai thấy được. Bấy giờ Ngao Quảng mới lểnh mểnh đến, Na Tra trông thấy nổi xung, xách Càn khôn quyện nhắm trên lưng Ngao Quảng đánh xuống. Ngao Quảng bị đánh lén không đề phòng được, té nhào dưới đất. Na Tra lập tức đạp một chân lên lưng, một chân đạp vào cổ, không cho Ngao Quảng ngóc dậy.

Ngao Quảng la ré om sòm nhưng lúc nầy còn sớm đền Bửu Đức chưa mở cửa, không một ai can thiệp.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 12
Thạch Cơ bị lửa thiêu hiện hình cục đá


Thương hại cho Ngao Quảng bị Na Tra đạp lên lưng không ngóc đầu dậy nổi, liếc mắt nhìn thấy Na Tra, Ngao Quảng nổi giận mắng lớn:

- Thằng súc sanh vô lễ, mày là đứa nào mà dám giết Dọa Xoa, tướng trời phong, rút gân Ngao Bính là thần làm mưa, lại dám đè đầu ta là một vị chúa Đông Hải, quần áo lem nhem, không kể gì đến luật trời. Tao kiện đến Ngọc Hoàng, giết cả dòng họ mày cũng chưa hả giận.

Na Tra nghe Ngao Quảng rủa mắng mình, muốn đập một Càn Khôn Quyện cho chết phứt, ngặt không dám trái lời thầy dặn, nên cứ đạp lên cổ, mắng lại:

- Mày xưng là Đông Hải Long Vương, nhưng đối với tao không kể mày vào đâu cả. Mày biết tao là ai không? Tao là Linh Châu Tử, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn, vâng lệnh ông Nguyên Thỉ xuống đầu thai giúp nhà Châu diệt vua Trụ. Tao đi tắm, đâu có chọc ghẹo gì đến mầy mà mày sai bọn bộ hạ vác búa đến bửa. Tao giết chết hai đứa ấy cũng chẳng có tội bao nhiêu, việc gì mày đi kiện Ngọc Hoàng. Nếu mày không bỏ ý định ấy thì tao đánh mày đến chết.

Ngao Quảng ỷ mình là kẽ đang nắm giữ trọng trách, quyền hành do trời ban, nên thách:

- Mầy giỏi cứ đánh tao thử?

Na Tra nói:

- Mày bảo tao đánh thì tao đánh cho mày biết tay.

Nói rồi cầm cú thoi lia lịa.

Ngao Quảng thấy Na Tra làm hỗn, nhưng mắc kẹt không sao dậy được, đành nằm la hoảng.

Na Tra nói:

- Da mày dày lắm, tao đánh mầy bất quá như đấm lưng thôi, ăn nhằm gì. Lời xưa nói: Cọp sợ rút gân, rồng sợ gỡ vẩy. Để tao lấy phép đó trị mầy.

Nói rồi xé vạt áo Ngao Quảng lên, vén hông bên tả lên, gỡ lối bốn năm chục cái vảy làm cho Ngao Quảng đau đớn đến thấu xương. Ngao Quảng thất kinh, lớn tiếng van xin tha mạng.

Na Tra nói:

- Mầy muốn chết thì đừng thưa kiện nữa, hãy theo ta về ải Trần Đường, bằng cãi lại ta đập một Càn Khôn Quyện chết tức thì.

Ngao Quảng đang lúc thất thế, và biết Na Tra là Linh Châu Tử đầu thai, được ông Nguyên Thỉ là chúa tể các vì tiên bảo vệ, nếu lôi thôi nó đánh chết, rồi kiếm chuyện nói dối với Ngọc Hoàng, ta ắt thiệt mạng.

Nghĩ như vậy, Ngao Quảng thuận lời, theo Na Tra về ải.

Na Tra bước xuống, Ngao Quảng liền ngồi dậy. Na Tra nói:

- Rồng thì hay biến hóa. Muốn lớn thì nằm chật cả bầu trời, muốn nhỏ thì trốn trong hột cải cũng vừa. Tao e mầy biến mất không biết đâu mà kiếm, vậy thì hóa ra con rắn nhỏ đặng ta bỏ vào túi mang về dinh cho tiện.

Ngao Quảng khó chối từ, phải hóa ra con rắn nhỏ.

Na Tra bỏ vào túi áo rồi đằng vân về ải Trần Đường.

Quân sĩ trên ải thấy Na Tra trở về, cho báo với Lý Tịnh:

- Đệ tam công tử đã trở về trước ải.

Lý Tịnh nghe tin chẳng vui, truyền quân dẫn vào.

Na Tra thấy cha mình mặt châu mày nhăn nhíu, tỏ sắc thái buồn bã vội bước đến tạ lổi.

Lý Tịnh hỏi:

- Mày đi đâu về đây?

Na Tra thưa:.

- Con đến cửa trời đón bác, xin bác nên bãi việc kiện thưa. Bác đã bằng lòng, và con đã rước bác về đây.

Lý Tịnh cười cay đắng:

- Mày đâu phải thần thánh mà đến được cửa trời. Con nói dối cha mẹ như vậy thật là đứa con ngỗ nghịch.

Na Tra thưa:

- Xin cha đừng nóng giận. Việc này có bác làm chứng ạ!

Lý Tịnh càng giận hơn:

- Mày còn nói dối nữa? Bác mầy ở đâu?

Na Tra thưa:

- Bác ở trong túi con đây nè. Liền trút con rắn lục trong túi áo ra.

Ngao Quảng tức thì hiện nguyên hình lại.

Lý Tịnh thất sắc, lật đật cúi mình xin lỗi Ngao Quảng và hỏi:

- Vì sao hiền huynh lại ra nông nỗi?

Ngao Quảng giận quá thuật lại câu chuyện Na Tra đến trước cửa đền làm hỗn, và đưa bụng cho Lý Tịnh xem, rồi nói:

- Anh sanh nhằm loài quái thai, Để tôi hội đủ tứ hải Long Vương đến cửa trời đầu tố xem anh có trốn khỏi tội không?

Nói rồi nổi cơn gió lớn, bay vụt ra khỏi ải Trần Đường biến mất.

Lý Tịnh giậm đất kêu trời nói:

- Chuyện nầy rất quan hệ, biết tính làm sao? Đã giết con người ta còn đánh người ta trọng thương. Ngao Quảng là vị Long Vương, vâng lệnh Ngọc Hoàng trấn Đông Hải, đâu phải nhỏ.

Na Tra quì lạy thưa:

- Xin cha mẹ yên tâm. Thầy con nói rằng con vâng lệnh Ngọc Hư đầu thai giúp chúa, dẫu đánh chết Long Vương bốn biển cũng chẳng có tội gì. Nếu có điều chi thầy con chịu hết.

Lý Tịnh là người đã tu tiên, thông hiểu thiên cơ, thấy Na Tra đến được cửa trời biết quyền lực Na Tra không phải nhỏ. Tuy nhiên, ỷ vào quyền lực tác hại mọi người là điều cấm kỵ, dù cho thầy các vị tiên cũng không thoát khỏi tội lỗi.

Ân phu nhân vốn thương con thấy Na Tra đứng nói vòng vo sợ Lý Tịnh nổi xung đánh cho một trận, nên nháy Na Tra và nói:

- Mầy là con bất hiếu, theo báo hại mẹ cha, đi cho khuất mắt còn đứng đó làm gì?

Na Tra vâng lời mẹ bước ra phía sau hoa viên không dám nói lời nào nữa.

Thấy mình làm phiền đến cha mẹ, Na Tra có ý buồn, một mình thẩn thơ mãi. Bỗng ngó thấy một cái lầu cao trong khu vườn coi bộ mát mẻ lắm, Na Tra nghĩ thầm:

- Thuở nay ta chưa dạo lên lầu ấy, nay sẵn địp buồn lòng trèo lên đó giải khuây.

Nghĩ rồi liền mở cửa vườn, trèo lên vọng đài. Bốn bề mát mẻ, gió thổi hây hây, xa xa trông phong cảnh rất đẹp.

Na Tra thầm nhủ:

- Nếu mình biết chỗ này mát mẻ, lâu nay lên đây hóng gió cũng vui.

Ngó quanh quất một hồi, Na Tra nhát thấy trên tường vọng đài có treo một cây cung lớn chạm ba chữ Càn Khôn Cung, lại có ba mũi tên khắc ba chữ Chấn Thiên Tiễn.

Na Tra thầm nghĩ:

- Thày mình có nói ngày sau mình sẽ làm chức tiên phuông, thu giang sơn Vua Trụ. Vậy thì nay có sẵn Cung tên, tập luyện cho nhuần nhã để ngày sau dùng đến.

Liền lấy cung, lấp tên, kéo thẳng cánh nhắm bắn qua hướng Tây Nam. Bỗng nghe một tiếng nổ vang trời, hình như tiếng sấm, hào quang chói mắt, oai khí ghê mình. Na Tra hoảng hồn, không dám bắn nữa.

(Nguyên cung tên ấy là của Hoàng Đế trước kia dùng đánh với Xí Vưu. Dư ba mũi tên thần lưu truyền lại đến đời sau, lâu lắm rồi, không ai kéo cung thần ấy nổi, nên dùng làm vật báu để tại ải Trần Đường ).

Bây giờ nói về câu chuyện xảy ra tại núi Khô Lâu, động Bạch Cốt có bà chủ là Thạch Cơ nương nương. Hôm ấy học trò của Thạch Cơ là Bích Vân đồng tử, xách giỏ hoa đi hái thuốc, thơ thẩn ở chân đồi, thình lình bị một mũi tên bay vào đến găm trúng cổ họng chết tươi. Người học trò thứ hai là Thê Vân đồng nhi vừa đi đến thấy vậy vội chạy về báo với Thạch Cơ rằng:

- Thưa sư phụ, chẳng biết sao Bích Vân đang đi hái thuốc bỗng bị tên chết.

Thạch Cơ nương nương nổi giận, nói:

- Kẻ nào cả gan dám bắn lén học trò của ta vậy?

Liền theo chân Thể Vân đến nơi, thấy trên mũi tên có khắc hai chữ "chấn thiên", lòng hậm hực, nói:

- Chấn thiên là báu tiễn để tại ải Trần Đường, người giữ ải nầy là Lý Tịnh. Nếu Lý Tịnh không bắn thì còn ai vào? Trước đây Lý Tịnh tu hành không được, nhờ ta nói giùm với Độ Ách chơn nhơn cho về hưởng công danh nay được làm quan trấn ải, đã chẳng báo ơn ta còn bắn học trò ta đến chết. Ta quyết bắt Lý Tịnh đem về động trị tội.

Liền truyền Thể Vân giữ động, một mình cỡi Thanh Loan đến ải Trần Đường.

Khi đến nơi, Thạch Cơ nương nương đứng trên không kêu lớn:

- Lý Tịnh, ra đây ta bảo.

Lý Tịnh nghe kêu không rõ tiếng ai, liền chạy ra xem thử, thấy trên cao màu vàng muôn trượng, sắc đỏ một vần, nhìn rõ là Thạch Cơ đang cỡi con Loan xanh, liền cúi đầu làm lễ, và thưa:

- Tôi không hay nương nương đến nên tiếp đón chậm trễ, xin nương nương tha thứ.

Thach Cơ nổi giận hét:

- Ngươi là đứa vong ân, khéo chuốc ngọt lời nói.

Liền lấy cái khăn choàng gọi là Bát Quái Vân quang quăng xuống truyền Huỳnh Kim lực sĩ lấy khăn phép vấn vào mình Lý Tịnh bắt đem về động tức thì.

Huỳnh Kim lực sĩ tuân lệnh.

Thạch Cơ cỡi Loan về động.

Chẳng bao lâu, Huỳnh Cân lực sĩ đã dẫn Lý Tịnh đến nơi giao nạp.

Thạch Cơ ngồi giữa động, truyền đem Lý Tịnh vào, nạt lớn:

- Ngươi tu hành không thành nhờ ai mà được hưởng vinh hoa phú quí. Ngươi đã không trả ơn còn gây thù oán. Ta đến bắt ngươi, ngươi làm bộ như là người vô tội là ý làm sao?

Lý Tịnh nghe Thạch Cơ nói không hiểu gì cả, chẳng khác người đang lạc vào cõi mê, liền cúi đầu thưa:

- Nương nương dạy điều gì, kẻ hèn nầy thực không hiểu!

Thạch Cơ nghiến răng nói:

- Ngươi trả ơn ta bằng cách bắn chết Bích Vân, đứa học trò của ta phải không? Ngươi đừng giả bộ ngây ngô.

Lý Tịnh nói:

- Tôi ở mãi tận ải Trần Đường không đi đâu hết, suốt ngày đêm lo luyện tập binh mã, làm sao bắn chết Bích Vân đồng tử. Xin nương nương xét lại kẻo oan tình.

Thạch Cơ nói:

- Chính ngươi dùng tên Chấn Thiên bắn từ ải Trần Đường đến đây, tang chứng đã rõ ràng, tại sao còn chối?

Lý Tịnh nói:

- Xin cho tôi xem mũi tên ấy thử.

Thạch Cơ truyền đem mũi tên ấy đến, và nói:

- Tên nầy là báu vật của ải Trần Đường, nếu ngươi không bắn thì làm sao tên bay đến đây?

Lý Tinh xem thấy thất kinh, nói lớn:

- Cha chả, cung Càn Khôn, tên Chấn Thiên là báu vật của vua Huỳnh Đế từ xưa lưu lại, để trấn ải Trần Đường, từ xưa đến nay không ai kéo nổi cung ấy. Nay chẳng biết vì đâu tai bay vạ gởi đến với tôi như vậy. Xin nương nương cho tôi về ải tra xét kẻ bắn tên, nếu tôi không tra ra xin đến đây chịu chết.

Thạch Cơ nói:

- Thôi được ta cho ngươi về tra xét, nếu việc này không giải quyết cho xong thì sẽ kiện đến thầy ngươi đấy.

Lý Tinh từ giã Thạch Cơ cầm tên, độn thổ về ải.

Ân phu nhân từ khi thấy chồng bị bắt đem lên trời, không hiểu chuyện gì, than khóc suốt buổi, nay thấy Lý Tịnh trở về lòng mừng khấp khởi, hỏi:

- Chẳng hay phu quân vì sao lại bị bắt đem lên trời như vậy? Thiếp không rõ nguyên nhân, run sợ quá.

Lý Tịnh thở dài, nói:

- Phu nhân ơi, ta làm quan đã hai mươi lăm năm nay không xảy ra điều gì đáng tiếc. Đến nay thời suy, nên xui khiến lắm tai nạn. Vừa rồi chẳng biết kẻ nào đã dùng hai vật báu Càn Khôn Cung và Chấn Thiên Tiễn, bắn chết người học trò của bà Thạch Cơ ở động Bạch Cốt. Bà ấy bắt ta đòi thường mạng.

Ân phu nhân nói:

- Hai báu vật ấy để trên vọng đài, từ xưa nay không một ai bắn nổi, nay trong ải cũng chẳng có tướng nào mạnh, lẽ đâu dùng được?

Lý Tịnh nói:

- Ta nghi thằng Na Tra tinh nghịch, đã dùng tên thần sát hại.

Ân phu nhân nói:

- Thằng Na Tra mới có bảy tuổi lẽ nào có đủ sức mạnh dùng thần tiễn?

Lý Tinh nói:

- Phu nhân không biết chứ Na Tra là một tướng trời đầu thai làm con mình, tuổi nhỏ nhưng tài cao, sức mạnh vô địch. Chính nó đã dùng sức mạnh đánh cả Đông Hải Long Vương vừa rồi, phu nhân không thấy sao?

Ân phu nhân thở dài:

- Chuyện kia chưa dứt, chuyện nọ đã dây. Chưa chắc thằng Na Tra đã gây nên chuyện này.

Lý Tịnh ngồi nghĩ một lúc, rồi khiến quân đòi Na Tra đến.

Quân vào tìm Na Tra suốt buổi mới gặp.

Na Tra đến trước mặt Lý Tịnh vòng tay thưa:

- Cha có việc gì sai bảo con?

Lý Tịnh nói:

- Thầy con đã dặn con sau nầy giúp nước phò vua đồ binh bố trận, vậy nay sẵn dịp thong thả, Sao con không tập cầm cung cỡi ngựa?

Na Tra nói:

- Việc ấy cha không dạy con cũng phải lo. Vừa rồi con lên chơi viễn vọng đài thấy đó để cung tên, con bắn chơi một mũi mà khói đen mù mịt, hào quang chói sáng ngời nghe tiếng sấm vang tai, mũi tên đâu mất?

Lý Tịnh nghe nói ngồi chết điếng. Giây lâu mới thốt lên:

- Mầy là thằng nghiệp báo. Việc giết chết Thái Tử Long Vương còn đó chưa gỡ xong, nay lại chọc giận đến Thạch Cơ, việc càng trói thêm nữa!

Ân phu nhân ngồi nhìn sững.

Na Tra không hiểu gì liền hỏi:

- Chẳng hay có chuyện gì mà song thân kinh hãi như vậy?

Lý Tinh nói:

- Mày dùng tên thần bắn chết học trò của Thạch Cơ, bà ấy vừa bắt tao đến động Bạch Cốt buộc phải thường mạng. Mầy tính lẽ nào thì tính.

Na Tra nói:

- Bạch Cốt là động nào? Học trò bà Thạch Cơ đi đâu mà bị tên vậy? Nếu có thì đó là chuyện rủi ro, do số mạng chứ con đâu cố ý hại người!

Lý Tịnh nói:

- Nhưng tên ấy là tên thần, ai cũng biết báu vật của ải Trần Đường còn chối cãi vào đâu?

Na Tra nói:

- Xin cha dẫn con đến đó con sẽ đối nại trước mặt bà Thạch Cơ cho. Không liên hệ gì đến cha mẹ cả. Con làm con chịu thôi.

Lý Tinh nói:

- Ừ nếu mầy có giỏi thì đến gặp Thạch Cơ nương nương tạ tội.

Na Tra vâng lời. Hai cha con cùng nhau độn thổ đến núi Khô Lâu động Bạch Cốt.

Lý Tịnh bảo Na Tra đứng ngoài chờ còn mình thẳng vô trong yết kiến Thạch Cơ nương nương.

Thạch Cơ nương nương thấy Lý Tinh đến liền hỏi:

- Sao? Ngươi đã tra ra người bắn tên chưa?

Lý Tịnh thưa:

- Kẻ gây chuyện chính là Na Tra, con trai của tôi đó. Nó là đứa con bất hiếu, tuy nhiên, con dại cái mang, tôi không thể tránh khỏi tội.

Thạch Cơ nói:

- Ngươi có dẫn nó đến đây không?

Lý Tịnh thưa:

- Có, tôi dẫn nó theo để xin lỗi nương nương. Hiện nó còn đứng trước động chờ lệnh.

Thạch Cơ nói:

- Ngươi sanh con dữ không dạy được. Thôi để ta trừng trị nó cho.

Nói rồi liền sai Thể Vân đồng tử ra ngoài gọi Na Tra vào.

Na Tra thấy có người ra gọi mình biết Thạch Cơ sai khiến, liền nghĩ thầm:

- Đây là ổ hang của chúng, nếu ta chẳng ra tay trước để lọt vào sào huyệt của nó thì khó mà đối phó sau nầy.

Nghĩ rồi liền ném Càn Khôn Quyện lên đánh Thể Vân. Thể Vân thờ ơ không đề phòng, bị Càn Khôn Quyện đánh trúng té nhào xuống đất, thở hoi hóp.

Thạch Cơ nương nương ở trong động, nghe tiếng Thể Vân la lên biết ngay Na Tra đã sanh sự với học trò mình, mặt giận hầm hầm, xách gươm chạy ra hét lớn:

- Thằng quỷ dữ, mày dám đánh học trò của ta nữa à?

Na Tra mặt lầm lì thấy Thạch Cơ cầm gươm chạy ra liền thâu Càn Khôn Quyện, rồi ném tới đánh Thạch Cơ nữa.

Thạch Cơ biết đó bửu bối của Thái Ất chơn nhơn, lợi hại lắm vội vã đưa tay ra bắt lấy và nói:

- Thái Ất dạy học trò ăn cướp đây mà.

Na Tra thấy Càn Khôn Quyện bị mất thất kinh, quăng luôn sợi dây lưng bảy thước là Hỗn Thiên Lăng lên định trói Thạch Cơ, chẳng ngờ Thạch Cơ đưa tay áo rộng lên hứng, Hỗn Thiên Lăng riu ríu chun vào tay áo.

Thạch Cơ liền kêu Na Tra nói:

- Hãy đem hết các phép của thày mầy quăng ra hết đi.

Na Tra chỉ còn mình không, hết làm mặt dữ, vội co giò bỏ chạy.

Thạch Cơ gọi Lý Tịnh nói:

- Ngươi là người vô tội, ta cho về nghỉ ngơi. Còn thằng con của ngươi ta sẽ bắt để trị tội.

Nói rồi đuổi theo Na Tra như mẹ rượt con, chẳng khác mây bay gió thổi.

Na Tra chạy đã giỏi mà Thạch Cơ rượt theo cũng không chậm. Hai người cút bắt một hồi đã đến trước động của Thái Ất chơn nhơn.

Na Tra quen thuộc đường ngõ nên chạy tọt vào trong đóng cửa lại.

Thái Ất thấy Na Tra chạy vội về, mặt mày hơ hải, liền hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Na Tra thuật lại mọi việc, mình bắn tên thần rủi trúng học trò của Thạch Cơ nương nương, bị bà ta thu hết phép màu và còn đuổi theo bắt nữa.

Thái Ất nói:

- Mầy gây ra lắm chuyện bực mình. Việc Đông Hải Long Vương dàn xếp chưa xong đã đến chuyện Thạch Cơ nữa

Na Tra năn nỉ:

- Con đâu cố tình bắn chết học trò của Thạch Cơ, tên thần bay lạc, chắc là số mạng của học trò bà ấy...

Thái Ất nói:

- Thôi được, hãy ra sau vườn, để ta đối phó với mụ ấy.

Thái Ất bước ra đứng dựa ngoài hiên, thấy Thạch Cơ mặt giận hàm hầm, cầm gươm xông vào động, cử chỉ rất hung dữ.

Thái Ất cười lớn, hỏi:

- Nương nương đến đây có việc gì mà bộ dạng khó coi như thế?

Thạch Cơ xá Thái Ất một cái, và nói:

- Lão huynh dạy học trò không kỹ càng, phép tắc gì hết.

Thái Ất hỏi:

- Học trò tôi làm điều gì phạm đến nương nương?

Thạch Cơ nói:

- Nó đã dùng tên thần bắn chết học trò tôi là Bích Vân, sau đó lại dùng Càn Khôn Quyện đánh Thể Vân đến ngất ngư, tôi ra can thiệp, nó ỷ có phép của đạo huynh, đánh luôn đến tôi nữa. Nếu đạo huynh muốn tình chúng ta không sứt mẻ thì hãy bảo nó ra đây cho tôi trị tội.

Thái Ất nói:

- Na Tra có mặt trong động, gọi nó ra không khó khăn gì. Song nó là người của cung Ngọc Hư, vâng lệnh Giáo Chủ xuống đầu thai giúp Chúa. Nếu nương nương muốn trừng trị hắn thì hãy đến nói với Giáo Chủ, chừng nào Giáo Chủ dạy ta giao nó cho nương nương thì ta giao liền. Ta không phải tư vị.

Thạch Cơ cười lớn:

- Lão huynh đừng mượn uy của Giáo Chủ dọa dẫm đàn bà. Lão huynh thả học trò ra giết người, phá phách kẻ khác, công lý dù là kẻ quyền uy cũng không thể trốn tránh được. Sát nhân phải đền mạng, đừng đem Giáo Chủ ra dọa tôi.

Thái Ất nói:

- Đạo nào cũng vậy người dưới phải tôn trọng kẻ trên, nương nương đã là kẻ tu hành lẽ nào không rõ lề luật?

Thạch Cơ nói:

- Tuy cùng là đạo nhưng tôi ở khác ngành, lẽ nào chịu tùng phục Giáo chủ của Đạo huynh?

Thái Ất chơn nhơn cười lớn:

- Nương nương ý muốn nói người Triệt giáo không tuân tệnh Xiển giáo chứ gì? Theo tôi nghĩ, Xiển Giáo hay Triệt Giáo cũng chịu dưới sự điều khiển của Ngọc Hoàng, không nên có ý ấy. Nương nương cũng biết lúc nầy số trời đã định, tam giáo phải đồng ghi bảng phong thần cho đủ số. Giáo chủ ta truyền cho chư tiên các động phải sai đệ tử xuống trần giúp nhà Châu, Na Tra cũng vâng lệnh đầu thai, sau làm tiên phuông cho Khương Thượng. Dầu nó lầm lỗi bắn trúng học trò của nương nương thì cũng tại số trời, không phải cố ý sát nhân mà bắt đền mạng. Xét như nương nương đã là kẻ tu niệm, tránh điều lo lắng thì cũng chẳng nên mua cừu chuốc oán làm chi cho lỗi phép đạo?

Thạch Cơ nổi giận nói:

- Tam giáo, đạo nào cũng trọng sao lại có ý chê Triệt Giáo của tôi?

Thái Ất nói:

- Đạo tuy là một, song có thấp cao, chánh tà phải phân biệt.

Thạch Cơ không còn nhịn được nữa, chém Thái Ất một gươm.

Thái Ất vội né sang một bên tránh, rồi chạy thẳng vào động, rút gươm báu và đãy phép, quì lạy về hướng Đông, vái:

- Ngày nay cực chẳng đã phải phạm tội sát sanh, đệ tử không đám giấu thầy, xin chịu tội trước.

Vái lạy rồi, Thái Ất ra trước động, điểm mặt Thạch Cơ nói:

- Ngươi còn non nớt lắm, sao chẳng lo tu niệm lại muốn đua tranh, muốn đến cửa lành làm dữ?

Thạch Cơ không nhịn, vung gươm chém đùa. Thái Ất đỡ ra và nói:

- Ngươi là cục đá nhờ âm dương soi sáng, nhật nguyệt thắm nhuần, tuy hóa hình ngàn năm, nhưng chưa đắc quả. Nay số trời đã đến nên khiến ngươi đem chút tài mọn của tà đạo chống với chánh đạo, ta e uổng công tu luyện ngàn năm, không được thành tiên lại trở thành đá.

Thạch Cơ nương nương nghe Thái Ất đem gốc tích mình châm biếm lại càng giận hơn, đôi mày dựng ngược, hai mắt tròn xoe, múa kiếm chém Thái Ất không ngớt.

Thái Ất đưa gươm đối địch. Đánh nhau được mười hiệp, sức gái không sánh nổi tài trai, Thạch Cơ ra tay trước, liền ném khăn Bát Quái lên, chiếu hào quang sáng chói.

Thái Ất cười lớn:

- Phép tà cự sao lại chánh?

Liền đưa tay chỉ chiếc khăn Bát quái, miệng niệm lâm râm, tức thì khăn Bát quái sa xuống đất.

Thạch Cơ thấy phép mình không hại nổi Thái Ất tức giận múa kiếm như bay, màu trắng tủa ra phủ một vùng.

Thái Ất nói:

- Ngươi đã cố tình không hối cải, quyết làm dữ với ta, lẽ nào ta dung thứ.

Nói rồi bước tránh sang một bên, lấy Cửu Long Thần hóa trạo vụt lên. Bửu bối nầy có hình một chiếc nơm úp cá.

Thạch Cơ thấy chiếc nơm phép thất kinh bỏ chạy, nhưng không sao tránh khỏi chiếc nơm úp nhằm đầu, Thạch Cơ bị chui vào đấy.

Na Tra thấy thày mình dùng phép úp Thạch Cơ mà đốt, vội chạy ra lớn tiếng nói:

- Phải chi lúc nãy mình được chiếc nơm ấy thì khỏi mất công thầy mình phải ra tay.

Thái Ất ngó ngoái lại thấy Na Tra, nghĩ thầm:

- Thằng quỷ nầy ý muốn chiếm nơm phép của ta. Nhưng nếu cho nó ngay bây giờ thì gây họa không ít, chi bằng để lúc nó theo Khương Tử Nha làm tướng, ta sẽ cho nó cũng chẳng muộn.

Nghĩ rồi liền gọi Na Tra bảo ;

- Na Tra, nay bốn vị Long Lương vâng lệnh Ngọc Hoàng đang bắt tội thân phụ ngươi dưới ải, ngươi hãy trở về cho mau.

Na Tra nghe nói khóc lớn:

- Xin thầy ra ơn cứu con một phen. Con làm lỗi gây tội cho cha mẹ thật lòng con hối hận vô cùng.

Thái Ất thấy Na Tra khóc than lạy lục, liền kề miệng dặn nhỏ vài câu, bảo làm y kế ấy mới cứu được cha mẹ khỏi tội.

Na Tra tuân lệnh, độn thổ trở về ải Trần Đường.

Còn Thạch Cơ bị chín con rồng lửa trong chiếc nơm thần vấn vít chặc cứng, hơi nóng phừng phừng, khói tỏa mù mịt.

Thương thay! Uổng công mấy ngàn năm tu luyện! Thạch Cơ bị hiện nguyên hình thành một cục đá xanh. Cũng bởi tại lửa trong tâm không dằn được nên mới bị lửa bên ngoài đốt ra tro.

Cục đá xanh tan. Thái Ất thấy Càn Khôn Quyện và Khổn Thiên Lăng không cháy, liền thâu hai vật báu ấy đem cất.

Na Tra độn thổ trở về đến ải Trần Đường có quân vào báo cho Lý Tịnh hay. Bấy giờ vợ chồng Lý Tịnh đều bị trói còn bốn vị Long Vương là Ngao Quảng, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, Ngao Khâm đều ngồi trước mặt, bàn cách xử án.

Khi nghe quân báo có Na Tra về, bốn vị Long Vương đều nghiến răng giận dữ. Na Tra vào ải, thấy cha mẹ bị trói, hét lớn:

- Sao quí vị làm ngang như vậy? Kẻ nào làm không phải kẻ ấy chịu tội thôi. Tôi đã đánh chết Lý Lương và Ngao Bính thì một mình tôi thế mạng, không việc gì bắt trói song thân tôi?

Bốn vị Long Vương đều nhìn Na Tra. Ngao Quảng nói:

- Ngươi giết người, gây nhiều việc đại ác, lại bỏ trốn, không biết xấu còn nói chuyện hiếu đạo!

Na Tra nói:

- Giết người đền mạng. Nay tôi bằng lòng mổ ruột, lóc thịt, chặt xương của tôi ra để đền tội với song thân, trả ơn sanh thành. Quí vị không được làm phiền đến song thân tôi nữa. Nếu quí vị bằng lòng như vậy thì tôi thi hành, bằng không, tôi cùng quí vị đến cửa trời, yết kiến Ngọc Hoàng, nhờ phân xử phải trái.

- Như vậy mới là con có hiếu. Ngươi làm được vậy ta cũng khen ngươi đấy.

Nói rồi mở trói cho vợ chồng Lý Tịnh.

Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt tay trái, lóc hết thịt, rồi mổ bụng lòi ruột cả đùm. Chỉ chốc lát hồn lìa xác.

Thương ôi, máu me lai láng, xương thịt tan tành, lòng thảo dạ ngay, hồn bay phách lạc.

Người sau có thơ điếu Na Tra:

Mình làm mình chịu dám nài bao

Để họa song thân dạ nỡ nào

Lóc thịt quyết đền ơn nhũ bộ

Liều thân đành trả nghĩa cù lao

Lòng bền như đá lăn không núng

Máu chảy như vòi thác chẳng nao

Riêng thẹn phận hèn coi mạng lớn

Nghĩ càng hổ mặt với anh hào

Bốn vị Long Vương thấy Na Tra chết rồi không còn lý nào làm khó Lý Tịnh nữa, đồng lui về hết.

Vợ chồng Lý Tịnh tẩn liệm hài cốt của Na Tra đem chôn, lòng buồn khôn khuây.

Nguyên Na Tra là trái Châu Linh, không hồn phách, bởi đầu thai nên mới có hồn. Nay hồn Na Tra theo gió phất phơ trở về động.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 13
Na Tra nhờ thầy cứu nhập xác bông sen


Hồn Na Tra phưởng phất bay về núi Càn Nguyên, Kim Hà đồng tử trông thấy vào thưa với Thái Ất:

- Không hiễu anh tôi vì sao hồn phách dật dờ bay về đây.

Thái Ất đã biết trước việc ấy, liền ra trước động nói với Na Tra:

- Chốn nầy không phải chỗ ngươi nương thân. Hãy về mách bảo với mẹ ngươi đến ải Túy Bình, cách ải Trần Đường bốn mươi dặm lập một cái miếu cho ngươi ở. Ngươi hưởng được ba năm hương lửa tự nhiên trở lại hình người. Ngày sau cứu nước phò vua, danh vang bốn biển. Hãy nghe lời ta chớ chậm trễ.

Na Tra nghe lời thầy dạy, liền trở về ải Trần Đường, nhân lúc canh khuya vào phòng ứng mộng.

Đêm ấy, Ân phu nhân đang ngủ, bỗng thấy Na Tra đứng trước mặt kêu nói:

- Thưa mẹ, con là Na Tra, vì chết oan uổng nên vong hồn không siêu thoát, vậy xin mẹ lập miễu tại núi Túy Bình, để con nhờ hương khói siêu rỗi linh hồn. Nếu được vậy ơn đức mẹ tày trời, con mang ơn tợ biển.

Ân phu nhân thức dậy, thương nhớ Na Tra, khóc mãi không thôi.

Lý Tịnh thấy vậy hỏi đuyên cớ. Phu nhân thuật lại câu chuyện trong mộng vừa rồi.

Lý Tịnh nói:

- Bởi phu nhân lòng thương con nên sanh ra chiêm bao mộng mị như vậy. Đừng khóc lóc nữa.

Ân phu nhân làm thinh, không dám cãi.

Đêm sau, Ân phu nhân lại nằm mộng, và cũng thấy Na Tra kêu nói như vậy nữa. Rồi bảy đêm liền, không đêm nào không thấy Na Tra. Ân phu nhân sợ Lý Tịnh, không dám nói lại.

Còn Na Tra thấy mẹ mình bỏ qua, không kể lời mình, tức giận nói:

- Con năn nỉ với mẹ đã mấy đêm liền, nếu mẹ không thương tưởng đến con, lập miễu cho con ở, con sẽ phá nhà cho mẹ coi.

Na Tra lúc sống tánh hung hăng, lúc chết chắc cũng không vừa.

Phu nhân sợ hãi không dám bỏ qua nữa, lén sai người lên núi Túy Bình cất miễu, chạm cốt Na Tra bằng gỗ, như người sống. Chỉ trong mười bữa hoàn thành.

Na Tra từ lúc ấy linh thiêng, tiếng đồn dậy núi. Dân chúng bảo gì được nấy, trăm việc trăm thành. Vì hiển thánh như vậy nên bá tánh tự động góp tiền góp của, sửa sang miễu Na Tra rực rỡ, ngày ngày thường cúng tế, đêm đêm không ngớt hương đèn.

Bấy giờ Lý Tịnh nghe tin Đậu Dung trấn ải Du Hồn cự không lại Khương Văn Hoàn, nên ngày đêm lo luyện tập binh mã ở núi Giả Mã để phòng giữ ải mình.

Ngày kia, Lý Tịnh kéo binh đi ngang qua núi Túy Bình, thấy thiên hạ dâng hương đông như hội liền hỏi quân sĩ:

- Thiên hạ đi đâu đông như vậy?

Quân lính thăm dò một lúc rồi trở về báo:

- Núi nầy có một cái miễu, trong miếu có vị thần linh lắm, hễ cầu phước thì được phước, cầu may thì được may, thiên hạ được khắp chốn, ai nấy lũ lượt đến đó dâng hương, lúc nào cũng đông như ngày hội.

Lý Tịnh hỏi:

- Ông thần đó thiên hạ gọi là thần gì?

Quân lính thưa:

- Họ gọi là Thần Na Tra.

Lý Tịnh nghe nói nỗi giận truyền quân đóng binh lại, rồi một mình cỡi ngựa lên núi xem thử.

Khách dâng hương thấy Lý Tịnh lên núi đều tránh đường cho Lý Tịnh để Lý Tịnh đến nơi, thấy có một cái miễu thắp nhang khói tỏa mịt mù, trước cửa có treo một tẩm biển đề bốn chữ lớn: "Na Tra hành cung ".

Bước vào trong, Lý Tịnh thấy trên bàn, một cốt tượng bằng gỗ, tạc hình giống Na Tra như lúc sống, hai bên lại có hai tên quỉ sứ đứng hầu, trông có vẻ oai nghi lắm.

Lý Tịnh lấy roi chỉ vào mặt Na Tra hét:

- Nghịch tử! Lúc sống mày báo mẹ báo cha, lúc chết lại làm quỉ gạt gẫm dân chúng, khuấy rối thiên hạ.

Mắng rồi vung roi đập nát pho tượng, nổi lửa đốt miễu cháy tan tành. Lại nói với đân chúng hành hương:

- Nó không phải thần thánh gì đâu, đừng cúng tế nữa. Nó là đứa con ngỗ nghịch, gạt gẫm đồng bào đấy.

Khách dâng hương thất kinh, tản ra về hết, vì ai cũng sợ Na Tra linh hiển, lụy đến thân mình.

Người sau có thơ rằng:

Binh mả ngang cảnh Túy Bình

Gặp dân dua cúng miễu anh linh

Roi đưa vun vút thần tan rã

Chân đá đùng đùng quỷ hãi kinh.

Lửa đốt miếu thiêng, trời đỏ mặt

Khói un cây cỏ núi đen mình

Vì hờn một chút gây nên chuyện

Khiến nổi cha con dứt nghĩa tình

Lý Tịnh kéo binh trở về đến ải Trần Đường bố trí canh đâu đó xong xuôi, vào hậu đường nói với Ân phu nhân:

- Nghịch tử đã chết thì thôi, bày chuyện lập đền lập miếu thờ cúng làm gì cho sanh chuyện.

Ân phu nhân thuở nay vốn nể chồng không dám nói. Cực chẳng đã phải thở than:

- Dù sao nó cũng là con mình mang nặng đẻ đau. Nay nó liều chết để khỏi lụy đến mẹ cha cũng là chuyện hiếu. Tôi nằm rnộng thấy nó về gọi mãi, xin lập miễu để vong hồn nó an hưởng, lẽ nào nỡ bỏ qua.

Lý Tịnh nói:

- Lập mấy miễu cũng được, chuyện đó không ăn nhằm gì. Nhưng báo hại, dân chúng rủ nhau đến đó cúng tế dập dìu làm náo động cả một vùng Túy Bình, thật là điều bất tiện.

Ân phu nhân nói:

- Cúng tế là do lòng ngưỡng mộ của chúng dân, có can gì đến tướng quân.

Lý Tịnh thở dài:

- Sao lại không. Tôi thuở nay không ưa hối lộ với Vưu Hồn, Bí Trọng, chúng thường để ý bươi móc những sơ hở của tôi để sàm tấu. Nếu hai thằng nịnh ấy biết được việc nầy tất chúng tâu với Thiên tử, vu cho tôi tội mị đân. Như vậy mang tiếng với triều đình. Nay tôi đập pho tượng đốt miễu rồi, không để cho dân chúng tụ họp cúng tế nữa.

Ân phu nhân nghe nói buồn thiu, nhưng không dám cãi.

Bấy giờ, Na Tra đi chơi vắng, không có ở miễu, lúc trở về thấy miễu cháy tan hoang, tượng thần bể nát, hai tên quỷ sử khóc mếu máo, chạy ra nghênh đón.

Na Tra hỏi:

- Vì cớ sao miễu cháy tan tành như vậy?

Quỉ sứ thưa:

- Lý Tổng binh kéo quân đi ngang qua núi, chẳng biết vì sao lại đốt miễu, đập phá tan tành.

Na Tra nỗi giận nói:

- Xương thịt ta đã trả lại rồi, còn tình nghĩa cha con gì nữa. Nỡ nào đập tượng, đốt miễu, ta biết nương dựa vào đâu. Việc này ta phải trở về núi thưa lại với thầy ta kẻo oan ức quá.

Bấy giờ hồn Na Tra đã hưởng được nửa năm hương khói, nên có vẻ cứng cáp lắm rồi. Khi Na Tra bay về tới động, Kim Hà đồng tử trông thấy vội dắt vào yết kiến. Thái Ất hỏi:

- Sao ngươi không ở miễu, trở về động làm gì?

Na Tra thưa:

- Cha tôi kéo binh đến đập phá tượng cốt, đốt miễu tan tành, đệ tử không có chỗ nương thân nên phải về đây xin sư phụ chỉ dạy.

Thái Ất nghĩ thầm:.

- Việc này lỗi tại Lý Tịnh. Là tình cha con, việc gì lại khắc bạc đến thế. Nếu không nhờ hương lửa cho thành hình thì làm sao ra đời phò vua giúp nước? Vả lại lúc này Khương Tử Nha cũng gần ra mặt, mà Na Tra hiện hình chưa kịp thì biết làm sao tính chuyện chiến chinh? Thế nầy ta phải dùng cách khác cứu nó mới xong.

Nghĩ rồi liền truyền Kim Hà đồng tử đi hái hai cái bông sen và ba chiếc lá sen nguyên cọng.

Kim Hà đồng tử tuân lệnh hái bông lẫn sen đem về. Thái Ất bẻ ra làm ba trăm sáu mươi khúc (cọng sen), sắp cọng sen làm xương, lấy bông sen làm thit, đắp ba lá sen làm da, rồi để hột thuốc kim đơn vào giữa.

Sắp đặt xong xuôi, Thái Ất niệm chú, thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen, hét lớn lên một tiếng:

- Hãy hoàn hồn nhập xác.

Bỗng nghe có tiếng ư, rồi một xác người ngồi dậy, mặt tợ dồi phấn, môi thể thoa son, hai con mắt sáng ngời, mình cao mười sáu thước, hình hài tuy cao lớn, nhưng không khác gì Na Tra trước kia mấy.

Thái Ất nói:

- Lý Tịnh đánh cốt đốt miễu là chuyện khắt khe, tuy nhiên đệ tử chớ lấy đó mà hận lòng.

Na Tra tánh hung hăng, nghĩ đến hành động Lý Tịnh đối xử với mình không sao dằn lòng được, nói lớn:

- Thân xác con đã trả lại cho cha mẹ con rồi, tình cha con không còn gì nữa, Thưa thầy hận cừu nầy không trả không thể an lòng được.

Thái Ất bảo:

- Thôi chuyện đã qua đừng nhắc đến làm gì. Hãy theo thầy ra vườn luyện tập võ nghệ.

Na Tra theo Thái Ất ra vườn. Thái Ất giao cho Na Tra một cây giáo dài, lưỡi có uốn khúc như lưỡi con rắn liu điu đỏ lòm như lửa gọi là Hỏa Tiên thương.

Na Tra rất thông minh chỉ học qua một lượt đã thuộc hết các phép. Thái Ất nói:

- Phép đánh giáo của con đã tinh thông, vậy thầy cho con thêm một bánh xe gió và một bánh xe lửa làm chân thế ngựa.

Nói rồi truyền mấy câu chú. Lại giao một túi da beo, có đựng các phép báu như: Càn Khôn Quyện, Hổn Thiên Lăng, và một cục Kim Chuyên.

Giao xong các báu vật, Thái Ất lại bảo:

- Thầy cho con xuống ải Trần Đường ra mắt vợ chồng Lý Tịnh để cởi mở hận lòng.

Na Tra cầm giáo lên xe trở về ải Trần Đường.

Thật ra đối với Lý Tịnh, Na Tra có cái hận trong lòng, nếu không cởi mở, Na Tra sẽ trở thành độc dữ hơn, vì vậy Thái Ất cũng muốn cho hận thù ấy kết toán.

Na Tra nghĩ mình đã lóc thịt xương trả lại công sanh thành nên không còn là con của Lý Tịnh nữa, vì vậy khi đến ải Trần Đường, Na Tra đứng ngoài thành gọi lớn:

- Quân bay vào bảo Lý Tịnh ra ta nói chuyện.

Quân sĩ thấy Na Tra cầm giáo dài, mặt mày giận dữ, lại kêu tên Lý Tịnh mà nói như vậy thất kinh vào báo:

- Có đệ tam công tử trở về mời gia gia ra ngoài thành nói chuyện.

Lý Tịnh nạt:

- Bây chớ nói xàm. Đời nào chết đi còn sống lại được!

Lý Tịnh nói vừa dứt tiếng đã có tên quân khác vào thưa:

- Xin chủ tướng ra mau kẻo công tử xông vào không ngăn kịp.

Lý Tịnh nói:

- Việc nầy rất lạ. Na Tra đã chết lẽ đâu còn trở lại hình người. Đây chắc vong hồn nó hiện quỉ về phá rối chăng?

Nói rồi cầm kích lên ngựa ra trước ải, quả thấy Na Tra cao lớn hơn xưa, đang đứng trên hai bánh xe, tay chàng ngang ngọn giáo.

Lý Tịnh thất kinh hỏi:

- Nghịch tử! Khi sống làm yêu, lúc chết hiện quỉ, trở về đòi nợ hay sao?

Na Tra nói:

- Ta với ngươi không còn tình cha con gì nữa. Xác thịt ta đã trả lại công sanh thành rồi. Bây giờ ta với ngươi chỉ là hai kẻ thù. Tại sao ngươi đập tan cốt tượng, đốt miễu của ta. Thù nãy chưa trả ta quyết không đạp đất đội trời.

Vừa nói Na Tra vừa xông tới, dùng giáo dài đâm Lý Tịnh.

Lý Tịnh nổi giận cầm kích đỡ ra rồi chém lại. Hai đàng đánh nhau được hai mươi hiệp, chẳng ngờ Na Tra sức mạnh phi thường, càng đánh càng hăng, còn Lý Tịnh mồ hôi ướt giáp, hơi thở khò khè, tay chân run rẩy, liệu thế đánh không lại phải quày ngựa chạy dài.

Na Tra gọi lớn:

- Chạy đi đâư cho khỏi? Phen nầy ta quyết giết chết được ngươi mới nghe!

Vừa nói vừa rượt theo.

Lý Tịnh hoảng hốt độn thổ tức thì.

Na Tra cười lớn nói:

- Đối với thế gian thì độn thổ là phép lạ còn đối với tiên gia, độn thổ là chuyện tầm thường, làm sao trốn được?

Nói rồi đạp hai bánh xe Phong Hỏa nghe gió dậy lửa hừng đi theo như mây bay gió táp.

Lý Tịnh chết điếng không biết liệu cách nào, than:

- Ta không ngờ sanh con lại tạo cho mình một nghiệp báo?

Giữa lúc đó bỗng có một người đi tới, miệng ca mấy câu:

Trăng chiếu lên khe nước bích

Gió đưa dựa cánh hoa dào

Ngàn dặm non xanh trải khắp

Một vầng mây bạc bay cao

Lý Tịnh thoáng thấy một tên đạo đồng, mình mặc áo tràng, đầu đội mũ đảnh. Nhìn kỹ thì đó là Mộc Tra, con trai của Lý Tịnh, học trò của ông Phổ Hiền ở động Bạch Hạc.

Lý Tịnh thấy Mộc Tra, lòng bớt sợ gọi lớn:

- Con ơi, cứu cha với.

Mộc Tra thưa:

- Cha đừng sợ, có con đến đây.

Bấy giờ Na Tra đã rượt theo kịp, thấy Lý Tịnh đang nói chuyện với tên Đạo đồng, liền xốc đến làm dữ, Mộc Tra cản lại nạt lớn:

- Nghịch tử! Mầy dám làm chuyện vô đạo, rượt đánh cha, trời đất nào dung cho mày. Hãy xin lỗi thì ta dung thứ.

Na Tra hỏi:

- Mầy là ai mà phách lối như vậy?

Mộc Tra nói:

- Té ra mầy chưa biết tao sao? Ta là Mộc Tra, anh ruột của mầy mà. Lâu nay chưa lần nào gặp nhau nên mầy không biết cũng phải.

Na Tra nói:

- Anh Mộc Tra, anh chưa biết câu chuyện nầy. Để tôi nói lại cho anh nghe.

Đoạn Na Tra kể lại các việc vừa xảy ra và nói:

- Tình cha con đã hết thì thù hận phải trả cho rành.

- Dù sao thiên hạ cũng nói mầy là con của Lý gia gia. Nếu mày hành động như vậy thì mang tiếng con nhà vô giáo dục.

Na Tra nói:

- Nhưng cha làm quấy tất nhiên con không thể kính vì.

Mộc Tra nói:

- Lẽ thường xưa nay, cha mẹ không làm quấy bao giờ.

Na Tra nói:

- Xương thịt đã trả lại rồi, không còn cha con gì nữa.

Mộc Tra giận quá, mắng lớn:

- Mày quả là đứa nghịch tử, không để làm chi.

Nói rồi chém Na Tra một gươm. Na Tra vung giáo đỡ, và nói:

- Tôi với anh không thù oán gì. Hãy tránh ra để tôi trả mối thù cùng Lý Tịnh.

Mộc Tra hét:

- Đừng nói bậy. Hãy ngửa cổ chịu chết cho rồi.

Na Ta không nhịn, cầm giáo dài đâm Mộc Tra. Mộc Tra đỡ ra rồi rượt đánh. Hai anh em đánh với nhau lối ba mươi hiệp, Na Tra nóng lòng trả thù Lý Tịnh, sợ Lý Tịnh trốn mất, nên tính giải quyết với Mộc Tra cho sớm, liền lấy cục Kim Chuyên ném lên. Bửu bối nầy có hình như cái bánh ú, rơi nhằm lưng Mộc Tra làm cho Mộc Tra chống không lại, nhào lăn xuống đất.

Na Tra nói:

- Mầy muốn thế mạng cho Lý Tịnh đấy.

Nói rồi bỏ Mộc Tra nằm đấy, múa giáo đâm Lý Tịnh, Lý Tịnh sợ hãi cong lưng chạy riết.

Na Tra vừa cười vừa nói:

- Dù ngươi có chạy đến góc bể đầu non nào ta cũng quyết lấy thủ cấp cho được để trả thù việc đập cốt, đốt miễu ngày trước.

Lý Tịnh nghe Na Tra nói lại càng hoảng sợ, chạy trốn chẳng khác con chim bị ná, con cá vừa thoát lưới.

Đàng sau, Na Tra đạp xe phong hỏa đuổi theo rất gấp.

Lý Tịnh than dài:

- Mình đầu thai lỡ kiếp, đi tu tiên không thành, trở về với công danh thì lại bị loài quỉ dữ vương nghiệp báo. Nhục nhã quá sống cũng chẳng làm chi, thà chết cho mát ruột.

Than rồi muốn dùng gươm đâm họng tự vận. Bỗng nghe có tiếng gọi:

- Lý Tướng quân chớ chạy, có bần đạo đến đây.

Lý Tịnh dừng chân, nghe người ấy ngâm bốn câu thơ:

Ngoài nội ngọn dông đưa liễu

Trong ao mặt nước trôi hoa

Hỏi thử: Non xanh phải động

Đáp rằng: mây hạc là nhà

Người vừa ngâm bốn câu thơ là một đạo nhân, hiệu Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn thầy của Mộc Tra đó.

Văn Thù tay cầm phủ phất từ từ đi tới bảo Lý Tịnh:

- Tướng quân hãy vào động nghỉ, để ta xử trị với nó cho.

Lý Tịnh thấy Văn Thù Thiên Tôn, vội cầu cứu:

- Xin Đạo sư ra ơn cứu tôi với.

Vừa nói vừa chạy tọt vào động.

Na Tra mặt hầm hầm, tay cầm giáo dài chân đạp hai bánh xe vừa đến nơi, không thấy Lý Tịnh đâu, chỉ thấy một ông đạo sĩ đầu chừa hai vá, mình mặc áo nịt một dây đang đứng bên bàn thạch, liền hỏi:

- Ông đạo có thấy một vị tướng vừa chạy qua đây không?

Văn Thù nói:

- Lý Tổng binh đã chạy vào động Vân Tiêu rồi, ngươi hỏi làm gì?

Na Tra nói:

- Đạo sư chưa rõ, người ấy chính là thù nhân của tôi đấy.

Văn Thù cười lớn:

- Con mà gọi cha mẹ là thù nhân à?

Na Tra trợn mắt nói:

- Tại sao ông biết? Tôi đã lóc hết xương thịt trả lại rồi, còn cha con gì nữa?

Văn Thù nói:

- Lóc thịt xương chỉ mới là thể xác, còn tinh thần thì sao?

Na Tra hỏi:

- Tinh thần là cái gì?

Vản Thù đáp:

- Tinh thần là mối liên hệ giữa tình thương, là cái đạo của con người đối với con người.

Na Tra nóng lòng gắt:

- Tôi không muốn nghe những lời ấy. Nếu ông muốn yên ổn thì giao cừu nhân cho tôi, còn không tôi đâm ông ba giáo.

Văn Thù cười gằn:

- Mầy là giống gì mà phách lối như vậy? Đừng khoác lác lỗ miệng mà hại đến thân.

Na Tra không biết Văn Thù là bậc Đạo sư có địa vị khá cao, nên hùng hổ nói:

- Ta là Na Tra, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn. Nếu người còn không biết điều, trẻ nít không giữ lễ.

Văn Thù nói:

- Ta không nghe Thái Ất có học trò là Na Tra. Mầy ngông cuồng như vậy ắt mang khốn. Ta sẽ bắt treo ngược lên không, đánh đòn ba trăm gậy.

Na Tra tánh ương ngạnh đã quen, không kể đến ai, liền vung giáo đâm Văn Thù.

Văn Thù giả thua bỏ chạy, Na Tra đắc ý đuổi theo, Văn Thù lấy Độn Long Thung (dây nọc cột rồng) trong túi quăng lên tức thì bốn bề nổi gió, tám hướng mịt mù, bụi đất tối trời. Na Tra mù mịt, không còn biết đâu là đâu nữa, mê man một lúc.

Khi tỉnh dậy thì thấy mình bị trói vào ba cái khoen bằng vàng, hai cái khoen niềng hai bắp vế, một cái khoen niềng ở cổ, buộc cứng vào một cái nọc.

Văn Thù mắng lớn:

- Mày quen thói ngang tàng, gặp ta, ta trị cho một bữa.

Nói rồi khiến Kim Tra đem gậy ra đánh Na Tra một chập. Na Tra bị trói trong cột, đau quá toát mồ hôi mặt đổ lửa, mũi ra hơi nóng.

Đánh được vài trăm gậy, Văn Thù khiến Kim Tra thôi đánh, bỏ vào trong động.

Na Tra ngồi một mình tức bực khó chịu, đã không trả thù Lý Tịnh được, lại bị ông đạo sĩ nầy hành hình, rêm mình rêm mẩy.

(Nguyên vì Thái Ất chơn nhơn biết Na Tra tánh hung hăng nên gạt Na Tra đến động Vân Tiêu, nhờ tay Vân Thù trừng trị cho chừa tánh lỗ mãng ).

Bởi vậy, trong lúc Na Tra đang hậm hực, mặt nhăn mằy nhó, ngồi ủ rũ nơi chiếc cột thì Thái Ất đi ngang qua.

Na Tra trông thấy vội kêu cứu.

Thái Ất không thèm ngó lại, cứ đi thẳng vào động.

Văn Thù mở cửa ra tiếp vừa cười vừa nói:

- Anh để học trò nghinh ngang quá, làm tôi nhọc công dạy dỗ.

Thái Ất nói:

- Tôi biết tánh nó hung lắm nên mượn tay anh răn dạy một lần.

Văn Thù liền khiến Kim Tra ra mở trói cho Na Tra.

Kim Tra tuân lệnh ra mở trói, và nói:

- Thầy dạy ngươi vào ra mắt.

Na Tra nói:

- Ta không ngờ thầy ta lại sợ cái lão sói đầu nầy, nếu biết trước ta không sanh sự với lão làm gì?

Kim Tra nói:

- Ngươi phải bỏ tánh hung hăng, nếu không thầy ta còn trừng trị nhiều cách khác nữa.

Na Tra lườm mặt:

- Đã có thầy ta trong đó ta còn sợ gì lão sói.

Kim Tra dẫn Na Tra vào trong.

Na Tra thấy Văn Thù ngồi bên tả, Thái Ất ngồi bên hữu. Hai người có vẻ thân mật như anh em.

Thái Ất bảo Na Tra:

- Hãy ra mắt Bá Bá của mầy đi.

Na Tra không dám cãi lời, liền quỳ xuống ra mắt Văn Thù.

Thái Ất lại gọi Lý Tịnh ra.

Lý Tịnh bước đến lạy mừng hai vị Đạo sư.

Thái Ất nói:

- Về sau, cha con phải thuận hòa, cha đừng khắc khe với con, con chớ vô lễ với cha nữa, được như vậy mới tốt đẹp.

Lý Tịnh tuân lời, lạy tạ lui ra. Na Tra vẻ mặt không vui, đôi mắt chứa đầy uất khí.

Thái Ất thấy vậy mỉm cười nói với Lý Tịnh:

- Thôi! Lý Tướng quân trở về ải an nghỉ.

Lý Tịnh cáo từ ra khỏi động, Na Tra đưa mắt nhìn theo với cử chỉ hậm hực.

Thái Ất nói:

- Ta bảo ngươi từ nay một lòng hòa thuận để giữ đạo làm người, tại sao ngươi không tuân?

Na Tra thưa:

- Không trả thù được, lòng đệ tử không an.

Thái Ất biết tánh Na Tra hung dữ, khó nguôi được liền bảo:

- Hãy trở về giữ động, để ta chơi với bác mày vài ván cờ rồi sẽ về sau.

Na Tra nghe nói mừng quýnh, vội cúi lạy, ra khỏi động Vân Tiêu, đạp hai bánh xe phong hỏa, đuổi theo Lý Tịnh tức khắc.

Lý Tịnh đang độn thổ trở về ải bỗng nghe có tiếng Na Tra gọi lớn:

- Lý Tịnh, trốn đi đâu cho khỏi, có ta theo lấy đầu ngươi, trả thù đây!

Lý Tịnh ngó ngoái lại thấy Na Tra trợn mắt đuổi theo gần kịp, kinh hãi, nghĩ thầm:

- Ông Thái Ất dạy học trò dữ đã không ráng dạy nó còn ngầm khiến nó theo hại ta nữa. Mới bảo ta trở về, lại sai học trò theo đánh. Ngoài mặt giả nhân giả nghĩa, trong lòng chứa đựng gươm đao. Thầy bất nhân, trò làm sao không thất đức?

Vừa nói, Lý Tịnh vừa chạy trối chết, Na Tra cứ đuổi theo mãi, Lý Tịnh không biết làm sao trốn thoát.

Trong cơn bối rối, bỗng thấy một đạo sĩ đứng dựa lưng bên cội tòng, hỏi:

- Phải Lý Tịnh chạy đó không?

Lý Tịnh đáp:

- Chính tôi là Lý Tịnh đây.

Đạo sĩ nói:

- Việc gì mà chạy? Cứ bình tĩnh đi cho khoẻ.

Lý Tịnh nói:

- Na Tra rượt theo quyết giết tôi, xin đạo sĩ làm ơn cứu mạng.

Đạo sĩ nói:

- Không hề gì đâu. Cứ núp sau lưng ta đây, nó không dám làm gì mà sợ.

Lý Tịnh vâng lời chạy đến núp sau lưng đạo sĩ, thở hào hển.

Na Tra rượt đến thấy vậy nhủ thầm:

- Tại sao mấy lão nầy cứ theo bênh vực cừu nhân của ta mãi. Chẳng lẽ lần này bị đòn nữa?

Liền xông đến bắt Lý Tịnh.

Đạo sĩ cản lại hỏi:

- Vì cớ gì ngươi đuổi theo Lý Tịnh?

Na Tra kể lại câu chuyện thù hận của mình, đạo sĩ nói:

- Nơi núi Cửu Long ngươi đã bằng lòng thảo thuận với cha mẹ anh em, sao bây giờ ngươi không tôn trọng lời hứa?

Na Tra nói:

- Thầy tôi dạy bảo, tôi không dám không tuân, thật ra hận thù không thể quên được.

Đạo sĩ nói với Lý Tịnh:

- Thằng nhỏ phách lối. Nó đã cố ăn thua với ngươi, ngươi sợ gì không đánh với nó ít hiệp cho nó kinh hoàng?

Lý Tịnh nói:

- Nó đã mạnh và hung hăng lắm, tôi đánh không lại.

Đạo sĩ liền thổi vào mặt Lý Tịnh một hơi rồi đánh sau lưng một phát, nói:

- Cứ đánh nó đi, bề nào đã có ta đây! Đừng sợ.

Lý Tịnh tuân lệnh cầm kích xông ra, Na Tra được dịp báo thù, mừng quýnh, cầm giáo dài đâm tới. Hai cha con đánh nhau một lúc, ước có hơn năm mươi hiệp. Na Tra đánh không lại, mệt thở khò khè, mồ hôi nhỏ giọt, mắt lòa đom đóm, nghĩ thầm:

- Trước đây lão thua mình, sao bây giờ lão mạnh dữ vậy? Hay lão nhờ đạo sĩ thổi một hơi, đập một cái sau lưng chăng? Chi bằng ta đuổi đạo sĩ này đi chỗ khác, rồi mới giết Lý Tịnh sau.

Nghĩ như vậy, Na Tra thôi đánh với Lý Tịnh, tiến đến truớc mặt đạo sĩ, xuất kỳ bất ý đâm một giáo. Chẳng ngờ đạo sĩ lanh lẹ phi thường, hả mồm phun ra một cái bông sen, cản mũi giáo của Na Tra lại.

Đạo sĩ nói:

- Thằng quỉ! Mầy đánh với Lý Tịnh sao lại trở giáo đâm tao? Tao với mầy có thù oán gì đâu?

Na Tra nói:

- Lý Tịnh trước kia đánh với tôi thua liểng xiểng, bởi ông thổi một hơi, vỗ sau lưng một cái, làm tôi đánh không lại. Tôi thù ông lắm.

Đạo sĩ cười lớn:

- Thằng con nít ăn nói hồ đồ. Mầy thử đâm tao một giáo nữa xem sao?

Na Tra vốn hung hăng, lỗ mãng đã quen, đâu còn kể gì, nghe đạo sĩ nói nổi xung, nhảy tới đâm thêm một giáo nữa.

Đạo sĩ nhảy trái sang một bên, rũ tay áo một cái, tức thì môt luồng hào quang tung ra sáng chói nửa lừng. Hào quang hiện ra một cái tháp chụp Na Tra nhốt vào trong ấy. Ấy là đạo sĩ dùng Lung Linh Tháp, bắt Na Tra trị tội.

Đạo sĩ đưa tay vỗ vào tháp một cái, Na Tra thấy bốn bề lửa dậy phừng phừng, nóng như muốn tiêu cả xương thịt.

Na Tra kêu lớn:

- Xin tha tội tôi lần thứ nhất.

Đạo sĩ cười khúc khích hỏi:

- Mầy đã chịu nhìn cha mầy chưa?

Na Tra nói:

- Ông ơi! Tôi xin tuân lời. Xin thả tôi ra.

Đạo sĩ nói:

- Ngươi đã có ý tốt, ta tha ngươi đó.

Nói rồi niệm chú, tháp Lung Linh tự động giở lên. Na Tra mừng quá nhảy ra, xem lại quần áo không cháy chút nào, nghĩ:

- Lạ lùng chưa! Nóng như cháy thịt, mà quần áo vẫn nguyên vẹn là thế nào?

Đạo sĩ nói:

- Ngươi đã chịu nhìn cha sao không cúi lạy ra mắt?

Na Tra có ý giục giặc. Đạo sĩ cầm tháp giơ lên, Na Tra hoảng hồn cúi lạy đỡ, chứ thực lòng không phục.

Đạo sĩ thấy vậy, bảo:

- Ngươi đã lạy sao không xin lỗi?

Na Tra đứng nhăn mặt làm thinh. Đạo sĩ nói:

- Nếu ngươi không gọi Lý Tịnh bằng cha và xin lỗi, ta đốt.

Na Tra sợ quá, phải cúi mình, nói:

- Xin cha tha lỗi, từ nay con không dám ngỗ nghịch với cha.

Tuy ngoài miệng nói vậy, song trong lòng Na Tra vẫn nghi lão nầy không lẽ theo mãi Lý Tịnh, bắt ta gọi bằng cha? Ta chịu đỡ cho qua cơn nguy, rồi sẽ bắt Lý Tịnh trả thù.

Chẳng ngờ Đạo sĩ biết rõ ý định của Na Tra, liền bảo Lý Tịnh.

- Ngươi quỳ xuống đây ta truyền phép nầy cho. Nếu thằng con đó còn trở lòng, ngươi dùng phép nầy đốt xác.

Na Tra không còn dám hung hăng nữa, nghĩ đến phép lạ giật mình.

Đạo sĩ nói:

- Từ nay con thảo cha lành, sau cũng tôi hiền, chúa thánh, đổ đồng làm quan một triều, đừng có chấp nhau nữa. Chuyện cũ bỏ qua, mưu đồ việc sắp tới.

Na Tra thấy Đạo sĩ trao phép báu cho Lý Tịnh phải chịu phép, cúi đầu từ giã lui về động.

Lý Tịnh quì lạy thưa:

- Nhờ thầy ra ơn cứu mạng, xin thầy cho biết quí danh để đệ tử có dịp đền ơn.

Đạo sĩ nói:

- Ta là Nhiên Đăng ở núi Linh Tựu, động Nguyên Giác. Ngươi vốn tu hành chưa được, phải hưởng việc giàu sang. Nay vua Trụ bất nhân, cơ nghiệp Thành Thang sắp mất. Ngươi hãy từ quan về núi ẩn thân, lánh họa, đợi vua Võ nhà Châu ra đời ngươi sẽ theo phò, gắng sức lập công, hưởng công danh phú quí.

Lý Tịnh vâng lời, từ tạ. Nội ngày hôm ấy trở về ải Trần Đường, làm sớ xin từ chức Tổng binh, dẫn vợ con lên non ẩn tích.

(Việc này do Thái Ất cậy Nhiên Đăng đến đó trị Na Tra, làm cho Na Tra bỏ oán bỏ thù với Lý Tịnh, cha con hòa thuận nhau. Sau này Lý Tịnh cũng đi tu thành chánh quả và được trời phong chức Thác Tháp Thiên Vương).
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 14
Khương Thượng về trần cưới vợ


Nói về tại núi Côn Lôn, cung Ngọc Hư, có ông Nguyên Thỉ làm Giáo chủ Xiển Giáo, có mười hai người đệ tử đều là tiên phạm luật sát sanh, nên bị đọa, ngày sau phải xuống trần để gánh chịu tai nạn.

Bởi cớ ấy nên ông Nguyên Thỉ không dạy nữa, đóng cửa động không giảng kinh.

Hơn nữa Thượng đế đã có lệnh truyền mười hai vị tiên phạm tội ấy xuống trần, làm tôi nhà Châu. Và, cả hai giáo phái: Xiển giáo và Triệt giáo, số người tu hành phạm tội gom có hơn ba trăm sáu mươi lăm người, đều được biên tên vào bảng Phong Thần để đủ số cho Trời sai khiến.

Bảng Phong Thần nầy chia ra làm tám bộ.

Bốn bộ trên là: Bộ Lôi, Bô Hoa, Bộ Ôn, Bộ Đẩu.

Bốn bộ dưới là: Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sao, Thần Núi.

Nhân khi Trụ Vương mất nước vua Võ ra đời, ông Nguyên Thỉ được Thượng đế ủy nhiệm phong thần, xét ông hiền, ông dữ, ngôi cao, ngôi thấp mà định đoạt.

Nguyên Thỉ định cho học trò mình là Tử Nha xuống làm tướng, vì vậy ông sai Bạch Hạc đồng tử đi đòi Tử Nha (Khương Thượng) đến dạy việc.

Bạch Hạc đồng tử tuân lệnh đến đòi. Tử Nha ứng hầu lập tức.

Đợi Tử Nha làm lễ xong xuôi. Nguyên Thỉ truyền:

- Ngươi lên núi nầy được mấy năm?

Tử Nha thưa:

- Đệ tử tu hồi hai mươi ba tuổi đến năm nầy đã được bảy mươi hai rồi.

Nguyên Thỉ nói:

- Số ngươi thành tiên chưa được, còn vương vấn công danh. Nay Thành Thang ra hết vận Tây Châu ra đời vậy ngươi phải thay mặt ta xuống trần ra công giúp nước. Sống làm tướng, chết làm thần, như vậy công tu luyện của ngươi mấy mươi năm trời không uổng. Còn chỗ này không phải là chổ ngươi ở được lâu.

Tử Nha năn nỉ:

- Đệ tử cố bỏ nhà lên núi. Dốc lòng lánh tục tìm tiên bốn chục năm dư nguyện bỏ đời theo đạo. Vẫn biết tu hành là khổ, muốn thành chánh quả không phải một sớm một chiều, nhưng đệ tử đã theo thầy học lâu nay, xin thầy làm ơn cứu rỗi, nỡ nào đuổi đệ tử trở lại phàm trần.

Nguyên Thỉ nói:

- Vẫn biết ý muốn ngươi như vậy, song số phần ngươi không được toại nguyện, ta biết làm sao? Thần tiên đều một cõi như nhau, ngươi chớ tị hiềm việc ấy.

Tử Nha năn nỉ:

- Xin sư phụ thương con, tìm cách cho con được lánh cõi trần này.

Nam Cực tiên ông khuyên:

- Số ngươi đã không thành tiên đạo mà lại từ bỏ công danh thì hai đàng đều hỏng. Chi bằng xuống giúp thế gian, sau được phong thần rồi sẽ lên non giữ đạo mới yên.

Tử Nha không còn biết nói sao hơn, đành sửa soạn ra đi, và hỏi Nguyên Thỉ:

- Nay đệ tử vâng lời về chốn phàm trần, chẳng hay việc sắp đến ra thế nào, xin thầy chỉ giáo.

Nguyên Thỉ nói:

- Ta có tám câu kệ, chỉ rõ trọn đời ngươi. Ngươi hãy nhớ lấy.

Nói rồi ngâm rằng:

Mười năm chịu túng áo còn bâu

Gượng gạo mua vui chớ chác sầu

Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận

Chờ xe vương giả rước về lầu

Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc

Chín chục dư ba buộc ấn hầu

Mậu ngũ chư hầu trăm trấn phục

Phong Thần chín tám bốn xuân thu

Nguyên Thỉ ngâm kệ rồi nói:

- Tuy bây giờ ngươi xuống đời, nhưng ngày sau cũng về núi.

Tử Nha lạy thầy giã bạn, ra khỏi cung Ngọc Hư.

Nam Cực tiên ông theo đưa ít dặm, đến núi Kỳ Lân dặn Tử Nha:

- Mấy lời thầy đã dạy hiền hữu chớ bôn chôn. Ngày nay xa cách, nhưng có lúc gặp nhau. Xin tạm biệt.

Tử Nha lạy tạ, cáo từ Nam Cực tiên ông rồi một mình thơ thẩn, nghĩ thầm:

- Mình bỏ nhà lên núi tu tiên đã lâu, nay không còn mẹ cha, con cháu, bà con, họ hàng cũng chẳng còn ai, biết trú ngụ vào đâu. Mình xuống trần chẳng khác chim lìa rừng cá xa vực, lẻ loi, cô độc.

Suy đi nghĩ lại, Tử Nha sực nhớ đến một người anh em bạn ở Triều Ca, trước kia thường lui tới tên Tống Dị Nhân. Nhưng chẳng biết mấy mươi năm qua, người ấy còn hay mất. Thế sự có đổi dời chăng? Nhưng nếu không đến với Dị Nhân thì biết trú ngụ vào đâu?

Tữ Nha đành nhắm hướng Triều Ca lần đến tìm người xưa cảnh cũ.

Đến nơi thấy nhà cửa Tống Dị Nhân vẫn như thường, tường rêu lóm đóm, khung cửa trang viện màu hồng tuy có vẻ phai nhạt hơn trước, song không khác mấy. Tử Nha bước đến gọi gia nhân, nói:

- Có viên ngoại ở nhà không?

Gia nhân hỏi:

- Ông là ai xin cho biết tên họ để chúng tôi tiện bề thưa lại.

Tử Nha nói:

- Ngươi vào thưa với Tống viên ngoại có ta là Khương Tử Nha đến viếng.

Tống Dị Nhân đang tính sổ, nghe có Khương Tử Nha đến thăm, hồi tưởng lại tình bạn thuở xưa, liền buông viết bước ra nghênh tiếp mời vào đối diện dùng trà.

Dị Nhân hỏi:

- Vì sao mấv chục năm biền biệt đã không lui tới, lại chẳng có thư từ. Tôi trông hiền hữu đến mỏi mắt. Ngày nay hiền hữu ở đâu, đến thăm tôi hay nhân tiện việc gì ghé chơi?

Tử Nha nói:

- Từ thuở quen nhau dạo ấy, tôi bỏ nhà lên núi tu tiên. Chẳng may số kiếp tôi không thành nên trở về đây nối lại tri kỷ.

Dị Nhân nói:

- Hiền hữu bây giờ ăn chay hay ăn mặn, cho tôi biết để sai trẻ dọn cơm.

Tử Nha nói:

- Đã mang tiếng tu hành, đâu dám dùng rượu thịt?

Dị Nhân nói:

- Lâu ngày gặp nhau, tình tri kỷ không có rượu sao tìm thấy thú vị. Vả lại rượu là đồ chay, các vị tiền bối gọi là Quỳnh tương, sao hiền hữu không dùng?

Tử Nha hỏi:

- Hiền huynh đã có lòng đoái tưởng, tiểu đệ đâu đám từ chối.

Dị Nhân hỏi:

- Hiền hữu đi tu được bao lâu?

Tử Nha nói:

- Đã bốn mươi năm.

Dị Nhân chắc lưỡi:

- Bốn mươi năm ẩn thân trên núi, kể cũng lâu quá rồi, chẳng biết hiền hữu đã học được phép tắc gì chưa?

Tử Nha nói:

- Nếu không học được phép tiên thì ở núi làm gì!

Dị Nhân hỏi:

- Phép tiên thế nào xin nói cho tôi rõ.

Tử Nha nói:

- Gánh nước tưới cây, chụm lửa nấu thuốc.

Dị Nhân tức cười:

- Tiên tìm tiên học phép mà lại gánh nước, chụm lửa, thì ở thế gian lại không có chuyện gánh nước, chụm lửa hay sao? Đó là cái nghiệp làm đầy tớ, đâu phải làm tiên?

Tử Nha thấy Dị Nhân không thông đạo lý, nên chẳng giải thích làm gì, chỉ cười nửa miệng.

Dị Nhân nói tiếp:

- Tôi với hiền hữu trước kia là bạn nay tình ấy chưa phai, vậy hiền hữu ở đây với tôi chung hưởng giàu sang, không phải gánh nước chụm lửa như lúc tu tiên nữa, hiền hữu bằng lòng chứ?

Tử Nha thấy Dị Nhân thật tình lòng cũng được an ủi phần nào nói:

- Hiền huynh đã có lòng tưởng đến, tiểu đệ lẽ nào dám trái.

Dị Nhân nói:

- Trong đời không gì bất hạnh bằng không con nối hậu. Tôi sẽ lo việc vợ con cho hiền hữu, để dòng họ Khương khỏi mai một.

Tử Nha khoát tay nói:

- Tuổi đã chừng này, anh đừng tính chuyện ấy.

Hai người chuyện vãn cho đến nửa đêm mới đi nghỉ.

Ngày hôm sau Dị Nhân cỡi lừa, lén sang nhả họ Mã lo việc hỏi vợ cho Tử Nha.

Khi đến trang viện. Mã viên ngoại hay tin mừng rỡ ra rước vào trà nước. Mã viên ngoại nói:

- Lâu lắm mới gặp anh. Lâu nay anh làm gì bên ấy mà không sang chơi?

Dị Nhân nói:

- Bấy lâu mắt lo kế sinh nhai, không thì giờ rảnh nếu không vì chút việc quan hệ chắc cũng chưa ghé thăm anh được.

Mã viên ngoại hỏi.

- Cha chả! Việc gì mà quan hệ vậy?

Di Nhân nói:

- Tôi tính đến trước thăm anh, sau làm mai ái nữ cho một người tử tế...

Mã viên ngoại ngắt lời:

- Người nào cậy anh vậy. Chỗ anh em cứ nói thiệt tình đừng ngại gì cả.

Dị Nhân nói:

- Không ai xa lạ. Người nầy chính là bạn thân của tôi lúc truớc, quê ở Hứa Châu,. thuộc Đông Hải, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng. Thật là đấng anh hùng thời nay.

Mã viên ngoại nói:

- Tôi với ông là chỗ thâm tình, con tôi chẳng khác con ông, ông đã định trước, tôi chẳng lẽ không vâng.

Tống Dị Nhân được lời liền lấy bốn nén bạc trao cho Mã viên ngoại làm lễ cầu hôn.

Mã viên ngoại nhận lãnh rồi hối gia đinh dọn tiệc đãi đằng rất hoan hỉ.

Tiệc mãn, Dị Nhân từ tạ ra về.

Bấy giờ Tử Nha ở nhà một mình thấy Dị Nhân đi vắng suốt ngày không về, lòng ái ngại, hỏi bọn gia đinh:

- Viên ngoại đi đâu suốt ngày vậy?

Bọn gia đinh thưa:

- Gia gia chúng tôi ra đi từ sáng sớm, chắc đi đòi nợ đâu xa.

Tử Nha còn đang hoài nghi thì có bóng người từ ngoài ngõ bước vào, Tử Nha chạy ra thấy Dị Nhân đã về, mừng rỡ hỏi:

- Anh đi đâu suốt ngày, tôi tìm mãi không thấy?

Dị Nhân nói:

- Mừng cho hiền đệ đấy!

Tử Nha ngạc nhiên, hỏi:

- Tôi có việc gì đâu mà mừng?

Dị Nhân bảo gia đinh dắt lừa vào chuồng, rồi theo Tử Nha vào sảnh đường nói:

- Tôi đi tìm vợ cho hiền đệ. Duyên thắm đã đượm rồi. Quả thật nợ ba sinh nên tình giai ngẫu.

Tử Nha mỉm cười hỏi:

- Anh đến nói con gái ai vậy?

Dị Nhân tỏ bày Mã Hồng. Cô nầy tài sắc vẹn toàn, nết na có tiếng.

Tử Nha nói:

- Nay tôi tuổi đã già, ngoài bảy mươi, biết người ta có chịu không?

Dị Nhân nói:

- Sao lại không chịu. Nhà họ Mã đã nhận tiền sính lễ rồi. Vả lại con gái nhà họ Mã tuy còn trinh, nhưng tuổi hơn sáu mươi, sánh với hiền đệ xứng đôi lắm. Có lẽ trời dành riêng cho hiền đệ đấy.

Nói rồi truyền gia đinh dọn tiệc ăn mừng, hai anh em bạn vui cười không ngớt. Hôm sau, Dị Nhân chọn ngày lành, sắm sanh lễ vật, bảo Tử Nha đi cưới vợ.

Tử Nha nói:

- Anh đã thương tình, cố lòng bao bọc thì anh muốn thế nào tôi cũng nghe theo.

Dị Nhân bảo vợ sửa soạn đâu đó đàng hoàng, dọn phòng huê chúc để Tử Nha cùng cô gái họ Mã đẹp duyên.

Ngày cưới vợ của Tử Nha cũng rất rộn rịp, trai già đi cưới nàng tóc bạc. Nếu đời loài người là một trăm năm thì đôi vợ chồng nầy còn hưởng dư hai mươi năm tình ái cũng không phải ngắn ngủi gì?

Đời sau có thơ nói về Tử Nha có vợ muộn:

Tu chẳng thành tiên tiếc Tử Nha

Về trần cưới vợ cũng vui nhà

Sáu mươi tám tuổi, cành dâu xế

Bảv chục dư hai chú rể già

Xem đuốc hàm râu e táp lửa

Soi gương mái tóc tợ sương sa

Lá lay Nguyệt Lão xe tơ muộn

Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa!

Tử Nha tuy cưới vợ mặc lòng, song lòng hoài vọng núi non xưa cũ, quen kiếp tu hành, nên việc ái ân không nồng thắm. Mã thị không rõ tánh chồng, ngỡ anh chàng vô dụng, không phải khách đa tình.

Ngày kia, Mã thị hỏi chồng:

- Lang quân định ở như thế này mãi sao?.

Tử Nha hỏi:

- Hiền thê nghĩ gì mà hỏi tôi như vậy?

Mã thị nói:

- Tôi thường nghe nói: Dầu anh em ruột mà ở chung nhau lâu ngày không lo sinh kế thì cũng mất lòng nhau, không thể hòa thuận nhau được. Lang quân đối với Tống huynh chỉ là tình bằng hữu, sao không lo tính chuyện làm ăn, cứ ăn nhờ ở đụt với Tống huynh mãi coi sao được.

Tử Nha nói:

- Hiền thê nói cũng phải. Song tôi từ nhỏ đến lớn lo việc tu hành không biết nghề nghiệp gì cả. Nay phải mưu kế thì biết tính thế nào.

Mã thị nói:

- Phải tìm cách sanh nhai mới được. Trước kia phu quân không có gia đình chưa vợ con, thì việc ấy chưa cần, nay đã thành gia thất, chuyện trăm năm đâu phải nhỏ.

Tử Nha suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Lúc nhỏ tôi có biết đan gàu giai, chẵng biết ngày nay có thể dùng sinh sống được không?

Mã thị nói:

- Đó cũng là một nghề sanh sống. Đã là nghề nghiệp thì dầu lớn dầu nhỏ cũng có thể kiếm ra tiền. Vả lại sau vườn nhiều tre phu quân có thể dùng tre này đan gàu giai đem xuống chợ bán, vợ chồng giả ăn cũng đủ.

Tử Nha nghe lời Mã thị đan một gánh gàu giai, gánh xuống chợ Triều Ca, ngồi từ sớm mai đến chiều vẫn không thấy ai hỏi đến. Tử Nha sợ trời tối, gánh gàu chạy riết về nhà.

Con đường xa hơn ba mươi lăm dặm, Tử Nha đi về ngót bảy chục dặm, bụng đói như cào chân mỏi rũ rượi, không có một đồng xu trong túi để vào quán uống nước.

Về đến nhà, sắc mặt Tử Nha đượm buồn. Mã thị thấy chồng gánh gàu về không mất cái nào, lòng không đẹp, hỏi:

- Không bán được cái nào sao?

Tử Nha nỗi xung càn nhằn với vợ:

- Mụ bất nhân tâm, cứ để tôi ở không cho rảnh, bày chuyện buôn bán thêm phiền. Từ sáng đến chiều tôi ngồi giữa chợ không ai hỏi đến tên, báo hại tôi sưng vai, mỏi gối mà chẳng ích gì.

Mã thị háy chồng:

- Gàu giai là vật dụng cần thiết của mọi người, tại sao không ai mua. Buôn bán đã không xong lại trở về mắng vợ.

Hai vợ chồng tiếng lại, la ó vang nhà. Tử Nha đứng vuốt râu. Mã thị ngồi trề miệng, hai người không ai nhịn ai.

Tống Dị Nhân nghe được vội bước ra hỏi:

- Việc gì mà vợ chồng gây gỗ nhau vậy?

Tử Nha thuật lại mọi điều, Dị Nhân lắc đầu nói:

- Thôi, hiền đệ không cần tính chuyện bán buôn nữa. Dẩu có mười miệng ăn đi nữa tôi cũng nuôi hết. Hãy dẹp bỏ bất bình vợ chồng thuận hòa nhau mới vui.

Mã thị nói:

- Vẫn biết lòng anh chị đối với vợ chồng chúng tôi tốt như vậy, song chúng tôi đã thành vợ chồng dĩ nhiên phải lập nghiệp, không thể sống nhờ vả mãi cho đến trọn đời.

Dị Nhân nói:

- Nếu muốn làm ăn thì thiếu gì chuyện, cần chi phải bán gàu giai? Trong vựa tôi có sẵn lúa mì, thiếm xoay bột cho chú đem đi bán.

Mã thị nghe lời xúc lúa đem ra xay bột, phơi thật khô. Tử Nha lại gánh xuống chợ Triều Ca bán.

Tử Nha ngồi suốt ngày vẫn không có người nào hỏi đến. Tử Nha nghĩ thầm:

- Hay là ta không miệng lưỡi, mời mọc khách hàng như những kẻ khác, nên họ chê?

Nghĩ như vậy. Tử Nha thấy ai đi qua cũng mời mua hàng.

Mặc dù Tử Nha đã mời đến khan giọng, gánh bột vẫn còn nguyên.

Tử Nha ngồi một hồi lâu thấy trời đã về chiều, vội cất gánh lên vai trở về kẻo tối.

Tử Nha vừa bước đi một quảng không xa lắm, bỗng có người gọi lại mua:

- Ông già bán bột, hãy để tôi mua.

Tử Nha mừng quá, đoán chừng mình gặp may bạn hàng chiều. Nào ngờ người ấy chỉ mua có một đồng tiền, thế mà cũng làm Tử Nha mất công gánh lên để xuống.

Mặc dù vậy Tử Nha cũng không phiền, vì có bán hơn về không, Tử Nha lay hoay múc bột trong gánh gói lại trao cho khách hàng, bỗng đàng sau có tiếng vó ngựa chạy đến rầm rập. Tử Nha thất kinh quay lại thì thấy một con ngựa chạy đến, trên lưng có một vị quan lại, hình như đang đi việc gì khẩn cấp.

Hai thúng bột của Tử Nha bị con ngựa ấy vướng vào vó mang đi, đổ rải rác cùng đường.

Tử Nha la lên chói lói con ngựa vẫn không dừng lại.

Tiếc của quí, Tử Nha chạy theo, bột dính đầy cả quần áo mốc xếnh.

Người mua bột thấy vậy bỏ đi, không mua nữa.

Tử Nha biết ngựa của nhà quan, không thể bắt đền được, đành nhặt thúng gánh không, lểnh mểnh trở về mặt buồn như ma đói.

Mã thị thấy chổng quảy gánh không về, mặt hớn hở, ngỡ chồng bán đắt, bước ra tận ngoài sân đón rước.

Tử Nha ném gánh xuống đất mắng vợ:

- Mụ bày chuyện không xong!

Mã thị cười mơn:

- À, hôm nay chẵc là bán đắt nên lên mặt với tôi chứ gì.

Tử Nha nói:

- Không thâu được đồng điếu nào. Suốt buổi không ai hỏi đến, lúc ra về bị ngựa máng đổ hết cả gióng gánh giữa đường. Từ chợ Triều Ca về đây đói quá đi không nổi.

Mã thị mặt nhăn lại:

- Thiệt tốt phước! Già đầu mà làm gì cũng chẳng nên trò, chỉ biết ăn thôi. Quả đời tôi gặp nghiệp báo.

Tử Nha bị vợ mắng, giận quá toan bước tới nắm đầu đánh cho một trận. Nhưng không may, Mã thị cũng chẳng vừa, Tử Nha vừa bước đến đã bị mụ nắm râu chặt cứng. Hai vợ chồng té nằm một đống.

Dị Nhân và Tôn thị bước ra can:

- Một gánh bột giá đáng là bao nhiêu, vợ chồng đối xử với nhau như vậy sao phải!

Tôn thị đỡ Mã thị dậy, còn Dị Nhân dắt Tử Nha vào thư phòng nói nhỏ:

- Hiền đệ chớ nên nóng giận như vậy. Nghĩa vợ chồng ấm lạnh có nhau.

Tử Nha nói:

- Thân trai vô dụng, chừng này tuổi mà không làm nên việc nhỏ mọn như vậy để vợ mắng tôi thấy hổ thẹn quá.

Dị Nhân nói:

- Hoa nở có mùa, người nên có vận. Lúc chưa gặp vận thì đủ có tài giỏi đến đâu cũng chẳng làm gì nên. Hiền đệ hiện giờ tuy nghèo khó, nhưng lúc gặp thời cũng vinh hoa phú quý như ai. Hiền đệ đừng nản lòng. Tôi có nhiều phương tiện giúp đỡ hiền đệ được.

Tử Nha nói:

- Được anh đùm bọc, ơn ấy không biết lúc nào mới trả nổi.

Di Nhân nói:

- Vợ chồng hiền đệ dẫu ở không suốt đời cũng chẳng hại gì. Nhà tôi đủ nuôi tất cả. Song để làm vui lòng hiền đệ, tôi sẽ giúp hiền đệ việc nầy, chắc chắn không sợ thất bại.

Tử Nha hỏi:

- Anh định việc gì vậy?

Dị Nhân nói:

- Tôi có ba mươi lăm cái quán bán rượu tại chợ Triều Ca. Để tôi mời các chủ quán đến đây chơi cho biết mặt hiền đệ rồi bảo họ nhường quán cho hiền đệ bán mỗi quán một ngày. Cứ luân phiên như vậy mà làm. Việc này họ đã tổ chức sẵn sàng nhân công trong mỗi quán đều có sẳn, hiền đệ chỉ đến đó thu tiền thôi.

Tử Nha nói:

- Nếu thế tôi nhờ ơn anh nhiều quá!

Hôm sau, Dị nhân mời các chủ quán đến để bày tỏ sự tình.

Ai nấy đều bằng lòng, định ngày mai khởi sự nhường cho Tử Nha bán tại quán họ Trương là chỗ đông khách nhất, vì quán này ở ngay tại ngã ba đường, chỗ nhiều người qua lại. Đã vậy ngày nào quân lính ở Triều Ca đi tập cũng vào quán ấy ăn uống.

Chủ quán họ Trương truyền cho bọn giúp việc trong quán theo thường lệ làm thịt heo, thịt dê, dọn bày đặc biệt, để Tử Nha có cơ hội đắt hàng.

Rượu thịt ê hề, Tử Nha đứng làm chủ quán thu tiền, ai nấy cũng đinh ninh Tử Nha sẽ thu lợi một ngày gấp bội. Nào ngờ hôm ấy trời mưa xối xả, Hoàng Phi Hổ ra lệnh quân binh nghỉ tập, còn bộ hành lo đụt mưa chẳng ai vào quán cả.

Đợi cho đến chiều tối, trời vẫn còn mưa lai rai, đồ ăn nguội hết. Tử Nha sợ thiêu thối, nên bảo những người làm công trong quán đem ra ăn, còn lại cho những người làm công ở quán khác.

Thấy thời vận không thông Tử Nha mặt buồn ủ rũ. Đến tối trở về nhà. Dị nhân hỏi:

- Hôm nay hiền đệ thu được bao nhiêu tiền?

Tử Nha nói:

- Trời mưa, quân binh không đi tập, bộ hành không một người vào quán. Đồ ăn thiu hết, tôi phải cho những người làm công thanh toán cho xong. Đã không có lời lại bị lỗ vốn.

Dị Nhân tươi cười nói:

- Hiền đệ chớ lo, bởi chưa đến thời nên mới khiến xui như vậy.Ngày mai tôi sẽ sai bọn gia đinh đi mua cho hiền đệ một số heo, dê để hiền đệ đem ra chợ bán lấy lời. Những con vật sống nếu bán không được thì đem về chờ ngày khác không lỗ đâu mà sợ.

Tử Nha tuy tuân lời, song đã thất bại nhiều phen, lòng không tin việc gì có thể thành công được.

Bấy giờ Trụ vương càng mê say Đắt Kỷ hơn trước, làm lắm điều lỗi đạo vua tôi, trăm họ thán oán. Đã vậy trời lại sanh tai biến nơi Triều Ca nửa năm không được một giọt mưa, Trụ vương nghe lời Bí Trọng, Vưu Hồn bày chuyện đảo võ, cấm sát sanh yết thị khắp nơi, cấm dân chúng không được làm thịt súc vật trong ngày ấy.

Tử Nha không hề hay biết, hôm ấy đem heo dê, ra chợ. Vừa ló mặt đến đã bị bọn lính tuần nạt lớn:

- Lão già nầy trái lệnh cấm, hãy bắt trói lão giải về triều.

Tử Nha thất kinh chưa biết làm sao đã thấy một bọn lính tay cầm giáo mác, đuổi đến, làm Tử Nha phải bỏ cả heo dê thoát thân.

Tuy Tử Nha trốn được, nhưng bầy heo, dê bị lính triều bắt hết, chỉ còn mình không chạy về nói với Di Nhân:

- Thôi thôi, công việc chẳng ra sao, tôi làm phiền anh quá sức.

Dị Nhân thấy Tử Nha mặt mày tái ngắt, bộ tịch xụi lơ, liền hỏi:

- Có việc gì chẳng lành xẩy ra vậy?

Tử Nha kể lại đầu đuôi câu chuyện, Di Nhân cười lớn:

- Đã không kiếm được tiền, thôi thì cứ lấy rượu giải khuây, đợi chừng nào thuận tiện sẽ tính chuyện buôn bán.

Dứt lời truyền gia đinh bưng rượu thịt lên, mời Tử Nha cùng ngồi ăn uống với mình, chuyện trò rất thân mật.

Thấy Tử Nha không vui vì ám ảnh những việc vừa rồi, Dị Nhân sai gia đinh đem rượu thịt ra vườn hoa để Tử Nha cùng mình vừa ngắm cảnh, vừa uống rượu cho tiêu sầu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Phong Thần (Truyện Tiên Hiệp) - Hứa Trọng Lâm

Postby tuvi » 04 Aug 2019

Hồi 15
Tử Nha đốt quỉ hóa Tỳ Bà


Tử Nha theo Dị Nhơn ra dạo vườn hoa xem thấy phong cảnh rất đẹp. Tường cao vòi vọi, vườn rộng thênh thênh, bên tả một khóm dương xanh, tỏa tản mát rượi, bên hữu có mấy cụm tòng lá xanh dờn. Chính giữa có lầu ngoạn cảnh, trồng đủ màu hoa lạ, phía trước là một cái ao sen, cá lội lăn tăng. Tử Nha xem một hồi thấy, cách khung nhà hóng gió và ao cá còn một khoảng đất trống, liền nói:

- Chỗ nầy rất tốt, sao anh không xây cất một ngôi lầu?

Dị Nhân hỏi:

- Cất lầu làm gì?

Tử Nha nói:

- Theo địa lý thì nơi đây có khí tụ rất nhiều, Nếu cất năm căn nhà lớn thì sẽ có ba mươi sáu người làm quan. Tôi có biết về địa lý nên tỏ bày với anh để đền ơn.

Dị Nhân hỏi:

- Hiền đệ thạo về địa lý thì đó cũng là một nghề sinh sống đấy. Nhưng tôi không giấu gì hiền đệ, chỗ nầy đã nhiều lần tôi dựng lên gian nhà, và sau đó bị cháy liền. Tôi chắc đó là lửa ma, không thể nào làm được, nên tôi đành bỏ qua, chừa đất trống vậy.

Tử Nha nói:

- Để tôi chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo tiệc để đãi đằng thợ thầy, còn phần lửa ma để mặc em ếm cho. Nhất định nó không làm gì nổi.

Dị Nhân nói:

- Hiền đệ cũng biết khoa ếm tà trừ ma nữa à?

Tử Nha nói:

- Việc đó tôi rành lắm, anh đừng ngại.

Dị Nhân vui vẻ nói:

- Nếu vậy tôi cho thợ thầy làm ngay. Ý tôi muốn đã lâu nhưng không sao thực hiện được.

Mấy hôm sau, Dị Nhân đi kêu thợ, trong nhà sẵn cây cối nên dựng lên chẳng mấy chốc.

Tử Nha núp trong nhà mát để theo dõi sự tình.

Nửa đêm hôm ấy bỗng nghe gió thổi ào ào, cát bụi bay mịt mù, trong hơi gió có hiện ra năm con yêu mặt xanh, mặt trắng, mặt đỏ, mặt vàng, mặt đen.

Tử Nha vội bỏ tóc xõa cầm gươm chỉ mặt hét lớn:

- Năm con yêu không sa xuống còn đợi chừng nào?

Nói vừa dứt, Tử Nha bắt ấn, tức thì một tiếng sấm vang lên, năm con yêu sa xuống một lúc, quỳ trước mặt Tử Nha năn nỉ:

- Chúng tôi không ngờ có tiên ông đến đây, xin lấy lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.

Tử Nha nói:

- Bây quen thói hành hung, đốt nhà người ta mấy lượt. Nay có ta đến đây để chúng bay sống làm chi?

Nói rồi cầm gươm đến chém. Năm con yêu thất kinh khóc than:

- Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, tiên ông nỡ nào dứt bỏ cho đành, chúng tôi nguyện từ nay về sau chẳng dám làm càn.

Tử Nha nói:

- Thôi, ta cũng tha cho chúng bây một lần làm phước. Chúng bay không được ở đây nữa phải đi núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến, ta sẽ phong Thần.

Năm yêu cúi lạy rồi hóa gió bay mất.

Bấy giờ Mã thị và Tôn thị đang rình xem Tử Nha trừ yêu, ếm quỉ, nhưng không thấy yêu quỉ đâu cả, chỉ thấy Tử Nha đứng xõa tóc, cầm gươm một mình như một người điên.

Mã thị nói với Tôn thị:

- Chị coi ông lão điên kìa. Một mình đứng láp nháp mãi.

Nói rồi, xốc tới nắm áo Tử Nha kéo lại, hỏi:

- Ông làm gì vậy?

Tử Nha đáp:

- Đàn bà mà biết gì? Tôi đang trừ ma ếm quỉ.

Mã thị cười lớn:

- Khéo kiếm chuyện lừa phỉnh. Làm những chuyện tầm thường chưa nên, lại còn muốn làm thầy thiên hạ.

Tử Nha nói:

- Coi bói, coi quẻ, trừ ma ếm quỉ là sở trường của tôi.

Mã thị nói:

- Sao không lấy đó làm nghề sinh nhai?

Tử Nha nói:

- Nếu tôi có một căn phố tại chợ thì có thể lập ra một phòng xem bói, xem tướng được.

Mã thị không tin:

- Tôi chỉ sợ ông nói bậy không đúng, người ta nhổ răng, đập đồ nghề, xé sách thì xấu.

Vợ chồng đang tranh luận thì Dị Nhân bước ra hỏi:

- Mấy lần trước hễ gió lớn như vậy tức thì nhà bị cháy, nhưng lần nầy lửa ma không thấy phá phách nữa.

Tử Nha nói:

- Năm con yêu nổi gió đến đốt phá, chúng gặp tôi không dám hung hăng. Tôi bắt chúng rời khỏi vùng đất nầy, từ nay không được phá phách nữa.

Di Nhân mừng rỡ nói:

- Nhờ phép của hiền đệ, từ nay tôi có thể dựng căn lầu lên được. Hiền đệ có tài như vậy thật không uổng công tu luyện hơn bốn mươi năm.

Tôn thị nói với chồng:

- Hiền thúc vừa than không có một căn phố tại chợ để mở phòng coi bói. Vậy nhà mình có phố nhiều, cũng nên nhường cho hiền thúc một căn.

Dị Nhân nói:

- Muốn việc ấy thì chẳng khó gì. Nhà tôi có bảy tám mươi căn phố tại chợ Triều Ca. Tôi cho hiền đệ một căn muốn dùng làm việc gì cũng được.

Dứt lời sai gia đinh đến chợ Triều ca dọn dẹp một căn phố chỗ đông người nhất, giao cho Tứ Nha sử dụng.

Tử Nha mừng rỡ, chọn ngày tốt mở phòng coi bói. Ngày đêm ở luôn nơi chỗ làm việc.

Từ hôm ấy, người qua đường đều thấy một phòng coi bói bày biện rất lịch sự. Trước cửa dẫn một đôi liễn đỏ chót, đề rằng.

Đã thông cao thấp trăm điều thiệt

Chẳng nói tầm thường nửa tiếng sai

Đôi liễn kế bên trong viết rằng:

Miệng nói như ghi, biết khắp nhân gian lành dữ

Mắt xem tợ kiếng, soi cùng thiên hạ thạnh suy

Dựa nơi bàn ngồi lại có đôi liễn đề rằng:

Tay áo đựng càn khôn

Cái bầu thâu nhật nguyệt

Tuy vậy ngót ba tháng trời, không một người khách nào vào hàng xem quẻ cả.

Tử Nha ngồi buồn, ngày nào cũng ngáp dài ngủ gật.

Mã thị cằn nhằn:

- Bỡi ông xem bói không hay nên người ta không đến!

- Chưa có một người nào vào xem thì làm sao biết thầy hay hay dỡ? Chẳng qua thời vận tôi chưa đến, nên khiến làm ăn không xong.

Mã thị lườm chồng:

- Mấy người bất tài đều đổ thừa thời vận. Tôi chẳng biết ông đến bao nhiêu tuổi nữa mới tới thời. Trên đầu tóc đã bạc phơ mà chẳng làm gì nên hình cả.

Tử Nha đành nhịn vợ, không biết phải giải thích làm sao hơn.

Ngày kia, có một ông tiều đi ngang qua, tên Lưu Càng, để gánh củi ngoài sân, bước vào vỗ bàn nói lớn:

- Chào thầy.

Tử Nha đang gục mặt trên bàn ngủ, bỗng giật mình mở mắt, thấy một người cao lớn phi thường, hai con mắt lồ lộ, tướng mạo hung hăng.

Tử Nha hỏi:

- Anh đi bói quẻ hay xem số?

Lưu Càng không đáp hỏi lại:

- Thầy tên họ là gì?

Tử Nha nói:

- Tôi họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha biệt hiệu Phi Hùng.

Lưu Càng hỏi:

- Đôi liễn thầy viết trên cột đây có ý gì xin thầy cắt nghĩa cho tôi nghe thử?

Tử Nha hỏi:

- Ba câu liễn của tôi ông muốn hỏi câu liễn nào?

Lưu Càng chỉ tay vào câu liễn gần nhất, hỏi:

- Tay áo đựng càn khôn, cái bầu thâu nhật nguyệt là nghĩa gì vậy?

Tử Nha giải thích:

- Tay áo đựng càn khôn là biết cả những việc đã qua và sắp tới. Cái bầu thâu nhật nguyệt là biết phép tiên, sống hoài không chết.

Lưu Càng nói:

- Thầy khoe biết cả những việc đã qua và chưa tới, vậy tôi xin bói một quẻ, hễ trúng thì tôi thưởng thầy hai chục đồng tiền, còn trật thì tôi sẽ tặng thầy vài đấm, bảo dọn đồ về xứ, không cho ở chợ Triều Ca nầy lừa phỉnh thiên hạ.

Tử Nha thở dài nghĩ thầm:

- Mấy tháng trời không gặp một khách hàng nay lại có thằng tướng dữ nầy vào phá đám, nếu coi không trúng chắc nguy với nó chớ chẳng chơi.

Nghĩ rồi, Tử Nha hỏi Lưu Càng:

- Ông muốn xem việc gì cứ nói.

Lưu Càng nói:

- Tôi là người tiều phu đi bán củi. Vậy ông chỉ cho tôi nên đi ngả nào, bán củi được bao nhiêu tiền.

Tử Nha gieo quẻ xong, viết bốn câu như vầy:

Đi qua bên phía Nam

Gặp ông già cội liễu

Bán được một trăm hai chục đồng

Bốn bánh lót lòng vài chén rượu

Lưu Càng cãi lại:

- Thầy bói quẻ nầy chắc không trúng rồi. Tôi đi bán củi đã mấy mươi năm, không ai cho uống rượu bao giờ.

Tử Nha nói:

- Cớ đi thử rồi sẽ biết.

Lưu Càng nghe theo lời, gánh củi nhắm phía Nam đi thẳng.

Đi một lúc xa xa, bỗng gặp một ông già đang đứng dưới một gốc dương liễu gọi lại, bảo:

- Hãy đem củi đây ta mua.

Lưu Càng khen thầm:

- Quẻ linh thật.

Ông già hỏi:

- Gánh củi ông bán chắc giá bao nhiêu?

Lưu Càng cố ý thử quẻ, liền nói:

- Nhất định một trăm đồng, không đòi lên xuống gì cả.

Ông già nói

- Gánh củi nặng và khô tốt lắm. Tôi không trả thiếu làm gì, hãy gánh vào nhà tôi đưa tiền cho.

Lưu Càng mừng thầm, gánh củi vào nhà ông lão.

Tánh Lưu Càng lại thích sạch sẽ, nên trước khi chất củi vào nhà chứa, quét dọn rất tươm tất.

Ông lão bước ra thấy sạch sẽ, khen:

- Hôm nay lũ trẻ ở nhà quét dọn vừa mắt lắm.

Lưu Càng nói:

- Thưa ông, ông lầm rồi, chính tôi mới quét dọn giùm cho ông đó.

Ông già rất hài lòng, khen:

- Bữa nay là ngày cưới vợ cho con trai tôi. Tôi mua được củi tốt lại gặp người tử tế như ông thật ít có.

Nói rồi ông lão vào nhà trong sai một tên gia đinh đem ra cho Lưu Càng một dĩa bánh và một chai rượu nhỏ, nói:

- Viên ngoại bảo ông ăn bánh lót lòng rồi sẽ về.

Lưu Càng khen:

- Ông thầy bói họ Khương quả thần thánh. Để ta rót rượu xem có y như vậy không?

Quả nhiên, ve rượu chỉ rót vừa hai chén thì cạn.

Lưu Càng ăn uống xong, thấy ông lão buớc ra, liền nói:

- Tôi cảm ơn viên ngoại nhiều lắm.

Ông lão liền trao cho Lưu Càng hai gói tiền, một gói lớn, một gói nhỏ, và nói:

- Đây là một trăm tiền củi. Còn đây là hai mươi đồng tiền thưởng riêng, vì hôm nay gặp ngày hỉ sự, ông cầm lấy uống rượu cho vui.

Lưu Càng mừng rỡ, vội từ tạ ra về, vừa đi vừa nghĩ:

- Nay đất Triều Ca có thần tiên ra mặt, chẳng biết thế gian có gì đổi mới chăng?

Nghĩ rồi xăm xăm trở lại chợ, để trả tiền coi bói.

Trong lúc đó, từ sáng sớm, nhiều người thấy Lưu Càng hăm đánh Tử Nha,sợ Tử Nha sẽ mang họa với con người cộc cằn ấy

Vì vậy, khi Lưu Càng đi rồi, có nhiều người vào nói với Tử Nha:

- Lưu Càng là quân hoang, khét tiếng ở chợ Triều Ca nầy, không nên đánh cuộc với nó. Liệu bề quẻ không linh thì trốn mất cho xong.

Tử Nha nói:

- Tôi làm thầy có sách vở đâu phải chuyện phỉnh phờ. Cứ chờ xem thì biết.

Mọi người thấy Tử Nha già cả cũng thương, đợi Lưu Càng trở về nếu có xảy ra bề nào sẽ can gián giùm.

Được một lúc thấy Lưu Càng từ đầu phố chạy bon bon về, vào thẳng cửa hàng Tử Nha.

Tử Nha hỏi:

- Sao? Quẻ có linh không?

Lưu Càng nói lớn:

- Tôi phục thầy là ông Thánh sống rồi. Quẻ đúng y ngay, không sai một chút nào. Thầy về ở chợ Triều Ca nầy thì thiên hạ rất may mắn, lánh dữ, tìm lành.

Tử Nha nói:

- Quẻ đúng thì phải trao tiền cho tôi chứ.

Lưu Càng nói:

- Tôi hứa thưởng ông hai chục đồng tiền, trong túi tôi có sẵn, tôi không gạt ông đâu. Nhưng chậm rãi, để tôi làm việc nầy đã.

Lưu Càng đứng trước thềm, giây phút thấy một người mặc áo vải mang đai da, chạy như tên bắn.

Lưu Càng liền đuổi theo níu lại.

Người ấy trợn mắt nói:

- Anh kéo tôi làm gì?

Lưu Càng nói:

- Phố nầy có ông thầy coi bói rất thần tình. Mời anh ghé vào xem một quẻ, bỏ qua uổng lắm.

Người kia trố mắt nhìn Lưu Càng lấy làm lạ, nói:

- Coi bói hay không mặc tôi, tại sao anh bắt buộc tôi?

Lưu Càng nói:

- Chỉ thầy bói giỏi, mách thuốc hay là việc làm ơn, tôi đâu phải ác ý với anh mà anh phàn nàn.

Người kia lắc đầu:

- Nhưng tôi không muốn xem.

Lưu Càng giật mạnh vạt áo:

- Tại sao lại không xem. Thầy bói nầy hay lắm.

Người kia mở to đôi mắt nhìn Lưu Càng, thấy Lưu Càng tợn mạnh khỏe lòng cũng sợ, nhưng ỷ mình là công sai của triều đình, nên lên tiếng gắt:

- Tôi không xem thì anh làm gì tôi chớ?

Lưu Càng nghiến răng nói:

- Nếu anh không coi, tôi nhận nước anh rồi tôi cùng chết luôn.

Vừa nói, Lưu Càng vừa lôi người công sai ra bể nước.

Mọi người biết Lưu Càng tuy là gã tiều phu, nhưng có tánh bướng bỉnh, hễ nói là làm, nên xúm nhau khuyên người công sai.

Người công sai cằn nhằn:

- Tôi không có chuyện gì, coi bói làm sao được?

Lưu Càng nói coi đi. Hễ không đúng tôi trả tiền cho, còn quẻ đúng anh phải mua rượu cho tôi uống.

Người công sai thấy Lưu Càng ngang ngạnh quá, túng phải theo vào phòng coi bói.

Người công sai nói với Tử Nha:

- Tôi là công sai của triều đình, đi ngang đây không có việc gì để xin quẻ, bởi anh em ép nên phải vào nhờ thầy một chút.

Tử Nha hỏi:

- Anh muốn nhờ việc chi?

Người công sai nói:

- Tôi nhờ thầy bói một quẻ xem tôi đi thâu tiền được bao nhiêu?

Tử Nha gieo quẻ rồi viết ra bốn câu như vầy:

Quẻ Cấn, thâu không vẹn

Tiền lương chúng còn hẹn

Nếu chẳng đợi chờ lâu

Một trăm lẻ ba nén

Người công sai hỏi:

- Tiền quẻ bao nhiêu?

Lưu Càng không đợi Tử Nha nói, xen vào:

- Quẻ nầy linh lắm không phải giá thường. Cứ mỗi quẻ phải trả năm chỉ bạc.

Người công sai lườm mắt ngó Lưu Càng nói:

- Anh không phải làm thầy sao lại ra giá?

Lưu Càng nói:

- Anh đừng lo đắt. Nếu quẻ không đúng tôi trả bạc lại cho.

Người công sai sợ ở lâu trễ việc quan, liền móc túi lấy năm chỉ bạc trao rồi lật đật dời gót.

Lưu Càng cũng từ giã ra đi, Tử Nha nói:

- Cám ơn anh rất lớn.

Lưu Càng nhe răng cười:

- Có gì đâu. Tôi đền ơn thầy đó.

Nói rồi quảy đòn gánh lên vai, bôn bả vào núi,

Dân chúng thấy Lưu Càng níu kéo viên công sai xúm nhau xem đông nghẹt. Chừng rõ được câu chuyện, ai nấy thấp thỏm đợi người công sai trở về xem quẻ bói có linh không.

Chẳng bao lâu, người công sai trở về, ghé vào phố Tử Nha khen:

- Tuy tốn năm chỉ bạc, nhưng quẻ linh đáng giá ngàn vàng. Thầy quả thật là tiên. Tôi thu đúng một trăm lẻ ba nén.

Từ ấy Tử Nha nổi tiếng, nội Triều Ca kéo đến xem bói rất đông, cứ mỗi lần xem năm chỉ bạc.

Mã thị thấy chồng làm được nhiều tiền, trọng chồng quá sức.

Phòng xem bói Tử Nha đông nườm nượp, được nửa năm thì các khách xa cũng tìm đến.

Bây giờ, nói về ngoài cửa Nam, tại mã Huỳnh Đế, có con Ngọc Thạch Tỳ bà, trước kia là bạn với Đắt Kỷ, lâu ngày xa cách, nên tìm đến Triều Ca thăm Đắt Kỷ.

Đắt Kỷ mừng lắm, tiếp đón rất ân cần ngày đêm ở trong cung vui đùa không ngớt. Tuy vậy, Ngọc Thạch Tỳ bà vốn là loài yêu quái tánh ăn thịt người đã quen, không thể nhịn lâu được. Cứ mỗi đêm, Ngọc Thạch Tỳ bà lại hiện nguyên hình yêu, bắt bọn cung nữ trong cung ăn thịt, bỏ xương tại mé Thái Hồ cả đống.

Hôm nọ, Ngọc Thạch Tỳ bà từ giã Đắt Kỷ tàng hình trở về động. Khi băng ngang đến trước phố Tử Nha, thấy thiên hạ vào ra rất đông, cười nói xôn xao, ai cũng đồn thầy xem bói tài tình lắm.

Tỳ bà nghĩ thầm:

- Khéo kiếm chuyện lừa gạt dân gian. Bói quẻ có gì mà linh như vậy. Để ta giả hình người vào coi thử xem cho biết.

Nghĩ rồi liền hóa ra một thiếu nữ, mặc tang phục, bước vào gọi Tử Nha nói:

- Xin thầy làm ơn bói giùm tôi một quẻ.

Mọi người nhìn lại thấy một thiếu nữ sang trọng và xinh đẹp phi thường, liền tránh ra chừa lối cho nàng vào.

Tử Nha thoáng thấy khí yêu hiện trên nét mặt người đàn bà, mỉm cười thầm nhủ:

- Loài yêu nghiệt, dám đến trước mặt ta mà chọc tức. Nếu ta gặp yêu mà không trừ đi thì đâu phải kẻ có bản lãnh cao cường?

Nghĩ rồi liền nói với khách hàng mình:

- Xin các ngài tránh ra để tôi xem cho người đàn bà nầy trước, kẻo nam nữ đứng gần nhau lâu bất tiện.

Khách hàng nghe theo lời, chừa chỗ cho Tỳ bà tiến đến trước bàn.

Tử Nha nói với Tỳ bà tinh:

- Cô đưa bàn tay tôi xem thử.

Tỳ bà tinh hỏi:

- Thầy chuyên coi bói mà cũng biết xem tướng nữa sao?

Tử Nha nói:

- Nghề gì tôi cũng biết. Trường hợp của cô đặc biệt hơn, nên phải coi tướng trước rồi coi bói sau nói mới đúng được.

Tỳ bà tinh không ngờ Tử Nha đã rõ chân tướng mình liền mỉm cười xòe bàn tay ra đưa trước mặt.

Tử Nha nắm lấy cổ tay ấn vào bộ mạch, dùng phép âm không cho yêu quái biến hình. Tỳ bà tinh vẫn không hiểu, tưởng Tử Nha muốn chọc ghẹo mình, vội nói:

- Thầy xem không nói gì lại nắm cườm tay tôi mãi như vậy?

Khách hàng ngồi xung quanh thấy Tử Nha có cử chỉ bất lịch sự ấy, liền la lớn:

- Ông thầy đã già mà còn hiện quỉ, nắm tay con gái làm chuyện trêu đàm. Nếu có một quan chức đi ngang đây trông thấy thì tội không nhỏ.

Tử Nha thấy mọi người nhao nhao, liền thanh minh:

- Nó không phải đàn bà con gái đâu. Nó là giống yêu tinh giả hình vào quấy rối.

Không ai tin lời nói của Tử Nha, người nầy nhìn mặt người kia với vẻ bất bình.

Tử Nha không để ý đến cử chỉ phản đối của mọi người cứ nắm chặt lấy cổ tay của Tỳ bà tinh, không cho biến xác. Qua một lúc, Tử Nha thấy không có vật gì có thể giết được yêu quái trừ nghiên mực để trên bàn, liền thò tay lấy nghiên mực đập mạnh vào đầu Tỳ bà tinh.

Tỳ bà tinh ré lên một tiếng, máu chảy đỏ ối. Tuy vậy, Tỳ bà tinh vẫn còn mạnh, giãy dụa lung tung, mà không sao biến đi được.

Thiên hạ trông thấy Tử Nha đánh người đàn bà đổ máu, đều ra mặt phẫn nộ.

- Lão thầy bói quái gở, đã chọc ghẹo đàn bà con gái lại còn giở trò hung hăng. Chúng ta đi báo với quan địa phương.

Một số người nắm giữ Tử Nha lại, còn một số đi trình quan.

Tử Nha vẫn nắm chặt tay Tỳ bà tinh không thả.

Vừa lúc ấy có Tỉ Can cỡi ngựa đi qua đấy, thấy dân chúng xôn xao liền hỏi:

- Thiên hạ làm gì đông vậy?

Mọi người đồng hô lớn:

- Kéo cổ Tử Nha ra đây cho quan Thừa Tưởng xử.

Tỉ Can không rõ việc gì, hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Dân chúng thưa:

- Có lão thầy bói tên Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay con gái đàn bà. Cô ả không chịu, lão thầy bói lại làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.

Tỉ Cang nghe nói nổi xung, truyền bắt Tử Nha dẫn đến.

Tử Nha bị lôi ra trước mặt Tỉ Cang, nhưng ông ta vẫn không chịu thả tay Tỳ bà tinh ra.

Tỉ Can trông thấy tận mắt, lớn tiếng mắng Tử Nha:

- Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao lại không biết xét mình, làm chi chuyện xấu xa như vậy?

Tử Nha quỳ thưa:

- Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua? Dẫu có lì lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Quả thật người nầy là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều Ca khí yêu quá lộng, e không trừ thì sớm tối nước nhà không yên. Tôi dẫu là dân, đã ăn ngọn rau tấc đất của Thánh Hoàng chẳng lẽ bỏ qua, không trừ quỷ dữ. Xin Thừa Tướng xét lại.

Tỉ Cang nhìn người đàn bà đang nằm mê man như chết, hỏi:

- Người đàn bà ấy bị ngươi đánh đã chí tử, ngươi còn tiếc gì còn nắm tay?

Tử Nha thưa:

- Không, nó làm bộ yếu đó. Nếu tôi thả tay nó biến mất còn đâu bằng cớ? Thừa Tướng dầu không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.

Tỉ Cang suy nghĩ hồi lâu nói:

- Việc nầy ta không thể nào xét xử được. Để ta vào Triều tâu với Thiên tử đã.

Nói rồi liền khiến quan sở tại dẫn Tử Nha đến trước đền, còn mình cỡi ngựa về thẳng hoàng cung, vào ra mắt Trụ vương tâu mọi việc.

Trụ vương ngỡ ngàng, không hiễu cớ sự ra sao, Đắt Kỷ đã rõ ngọn ngành, nghiến răng thầm trách:

- Khổ quá. Em đi về sao lại không về cho đến nơi, ghé vào xem bói làm gì cho chúng đánh. Việc này chị phải báo thù cho em mới được.

Nghĩ rồi liền tâu với Trụ vương:

- Việc ấy nghe mơ hồ quá. Xin Bệ hạ truyền Tử Nha vào bệ kiến mới rõ được.

Trụ vương nghe lời liền truyền dẫn Tử Nha vào.

Tử Nha kéo thây Tì bà cùng với mình vào quì trước bệ.

Trụ vương hỏi:

- Nhà ngươi là ai đó?

Tử Nha tâu:

- Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép thần tiên nên rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nay giả hình vào quấy rối, nên tôi bắt nó để đền ơn Bệ hạ.

Trụ vương nói:

- Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi bảo là yêu quái.

Tử Nha nói:

- Con mắt người thường không thể phân biệt được. Nếu Bệ hạ muốn thấy tận mắt xin cho phép tôi dùng lửa đốt nó. Nó sẽ hiện nguyên hình cho bệ hạ xem.

Trụ vương y tấu, truyền quân đem củi lửa đến chất lên nghi ngút trước sân chầu.

Tử Nha liền họa bùa trên xoáy Tỳ bà tinh, lôi quăng nó vào lửa.

Lạ thay, lửa đốt đến hai giờ đồng hồ mà xác con yêu vẫn còn nguyên không hề bị cháy. Quân sĩ lấy làm lạ, triều thần ngơ ngác.

Vua Trụ nói với Tỉ Cang:

- Đốt không cháy thì nó quả thật là yêu quái rồi?

Tỉ Cang tâu:

- Đúng vậy. Song không biết nó là giống gì thành yêu.

Trụ vương phán:

- Ngươi xuống dưới sân chầu hỏi Khương Thượng xem yêu nầy là giống gì vậy?

Tỉ Cang vâng lệnh đến hỏi Tử Nha.

Tử Nha nói:

- Nếu muốn bắt nó hiện nguyên hình cũng chẳng khó gì.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 104 guests