Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Image


Tác giả : Hồ Trường An


Chương 1


Hôm nay ông Nam Tảo đi lên Tân Ngãi đặt làm ba cái bài vị cho ông bà nội mình và cho bà đích mẫu của cha mình để thờ tại trung đường. Ông không ngại tốn kém, đặt làm bài vị sơn son thế vàng rực rỡ.

Nhà ông mái ngói móc, vách ván, gồm ba gian hai chái. Gian giữa, ông thờ bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Gian bên trái ông thờ cha mẹ mình. Gian bên mặt ông thờ ông bà nội và bà tổ đích mẫu. Còn chái bên trái ông đặt các hộc tủ chứa dược thảo cùng kệ sách. Chái bên mặt ông kê hai chiếc tủ kiếng bày đồ cổ ngoạn. Trước bàn thờ cha mẹ, ông bà, là bô ngựa bằng gỗ giáng hương. Nơi gian giữa ngoài bàn thờ Phật là chiếc bàn dài bằng gỗ nu nổi vân, hai bên có hai chiếc trường kỷ chạm chim, sóc, trái nho.

Bà Năm Tảo đang soạn một mâm cơm nho nhỏ để cúng cô em nhà chú dù hôm nay không phải là ngày giỗ của cô. Cô n ày từ trần cách đây mười năm. Số là cô chị bị gã sở khanh dụ dỗ đến mang bầu. Hắn hứa cưới cô và khuyên cô dưỡng thai. Ai dè chén thuốc hắn ân cần đứa cô uống, nói là thuốc dưỡng thai đó, thật sự là Càn Nguơn sắc đặc, chuyên dùng phá thai. Cô uống vào, thai ra cùng lúc với cơn băng huyết. Mất máu nhiều nên cô vong mạng. Đêm qua trong cơn chiêm bao, bà Năm thấy cô hiện hồn về mách bảo:

- Tuổi em hạp với con Ba Tây Nguyệt. Từ nay em sẽ là vong cô phù hộ cháu gặp duyên ưa phận đẹp. Còn bà đích mẫu của anh Năm là vong cô của con Hai Túy Ngọc đó.

Mười năm qua rồi, tên sở khanh kia đã trải hai đời vợ nhưng người em gái yểu mạng bạc phước của bà vẫn chưa đi đầu thai. Tía má bà người gốc Quảng Nam, còn cha mẹ ông Năm gốc Quảng Ngãi. Mâm cơm cúng phải có một món ăn ở hai tỉnh đó.

Hôm nay cô Hai Túy Ngọc mua được một mớ cá đối. Cá này kho lạt, rắc hành và chan mỡ xát hột lựu ngon phải biết! Ông Năm thích ăn bánh bèo Quảng Nam chan nước cá nục kho với ớt gừng sừng trâu. Không có cá nục, dùng cá đối thay thế cũng được. Món bánh béo quê hương của bà làm bằng bột gạo, lớn cỡ miệng chén đựng trôi nước, trắng mềm, thoa mỡ hành coi thiệt ngon. Ngoài món bánh béo ăn cặp với cá đối kho, bà còn làm thêm món bánh bèo lục tỉnh lớn cở đồng xu, trét nhưng đậu xanh và rắc tôm bằm nhuyễn. Mâm cơm cúng có thêm một canh sườn heo nấu với củ cải muối rắc ngò gai xắt nhuyễn, dĩa dưa kiệu xé tơi xào tôm thịt và tộ cá bống cát kho nước đặc sánh..

Ông Năm Tảo là một thầy lang giỏi, nhờ nghề xem mách hốt thuốc mà dư ăn đư để. Nhưng đối với người xung quanh, ông là kẻ trái đời. Vào những thập niên đầu thế kỷ, vợ không sanh con trai mà ông không nạp thiếp, nạp hầu. Chẳng những vậy, ông còn dùng những chữ huê mỹ đặt tên cho các con, và cho con học thêm chữ nho, chữ nôm, làm thơ làm phú ngoài việc học bếp núc, vá may.

Cô Hai Túy Ngọc trắng da dài tóc, nhan sắc bóng bẫy, phẩm cách cao sang. Cô Ba Túy Nguyệt nước da tuy mởn nhưng không trắng bằng chị, dung nhan mặn mòi, ăn nói có duyên.

Bà Năm Tảo nhìn bóng nắng nơi ngạch cửa, gọi hai cô con gái cưng đang xới líp huệ bên hông nhà:

- Trời sắp đúng ngọ rồi, bay liệu mà vô nhà đi!

Cô Hai vừa bước tới ảng nước điểm loáng thoáng bông cau rụng bởi trận gió đêm qua, vừa giục em gái:

- Thôi chớ. Tạm nghỉ để ăn cơm cái đã. Chiều mát, chị em mình làm tiếp.

Bà Năm bưng mâm cơm từ bếp lên chái bên trái, đặt trên bàn hột xoài bằng gỗ thao lao quang dầu bóng lộn. Bà ngó qua tấm phên mắt cáo, thấy con gái còn lảng vảng ngoài nắng, liền hét:

- Mau vô nhà nghe chưa! Bây còn làm giống gì ở ngoài vậy? Giờ đúng ngọ là giờ cực dương. Hễ cực dương thì hóa âm. Tao nói ít bây phải hiểu nhiều.

Cô Ba Túy Nguyệt lật đật xách chiếc cuốc vào nhà. Cô Hai Túy Ngọc cũng đã rửa tay chưn xong, nối ót em.

Khắp xóm lặng ngắt. Cây cỏ thiêm thiếp say nắng rực rỡ màu vàng ròng. Thỉnh thoảng có tiếng gà gáy lẻ tẻ vọng lên từ trong xóm. Đây là xóm Chuồng Gà nằm bên mặt con lộ Trần Minh Tại, ngoại ô tỉnh Vĩnh Long. Con lộ này từ dốc cầu Thiềng Đức đưa tới làng Long Thành, băng qua xóm Thiềng Đức, xóm Bánh Phồng, xóm Chuồng Gà, xóm Cầu Kè. Bắt đầu từ cuối xóm Thiềng Đức, con lộ đã xuyên vào vùng miệt vướn rợp bóng mát.

Nhà bà Năm Tảo ở đối diện với khu vườn làng nằm kế vùng tha ma mộ địa. Tuy mồ mả nơi bãi tha ma này làm bằng vôi trộn nhựa cây ô đước rất xưa, tròm trèm cả trăm năm chớ không ít, và người chết chắc đã đi đầu thai cả rồi, nhưng lúc chạng vạng tối cũng chẳn mấy ai dám băng qua con lộ trải đá xanh để qua bên kia vườn làng. Vườn làng đây là khu vườn công cộng của làng, do ban hương chức hội tề cai quản. Mấy ông đó chẳng nghĩ gì tới việc khẩn hoang, đốt lau sậy, bứt dây mây dây choại để trồng cây ăn trái. Khắp vườn mọc đầy cây đủng đỉnh, cây dầu, cây sao, cây thị, cây giá tị, bụi tre gai, cụm tầm vông, khóm nứa. Lác đác có vài cây dâu miền dưới, cây phù quân, cây cốc, cây ô môi, vài bụi chuối hột mà tụi chăn trâu thường ghé vô hái trái, cạp ăn nghe rào rạo.

Ven đường là những cây còng lớn cỡ vòng ôm, các loại chùm gởi bám đầy, thân phủ rêu xanh. Tàn cây còng tỏa bóng mát thâm u cả một khúc lộ. Trong bóng mát như chập chờn ẩn hiện bón u linh.

Sau nhà bà Năm là bên sông Long Hồ, cạnh cây da xà sống trên tám chục năm rồi. Thân cây cao vút, tàn là tỏa rộng, rễ phụ buông xuống như những con rắn lớn cỡ cườm tay. Dưới gốc cây, cà ràng cũ, ông táo, hỏa lò, nồi, ơ, trách, trả, vịm, chậu lủng, bể...bày la liệt.

Bà Năm lấy chén gạo lưng thay thế bát nhang đặt lên bàn, cắm cây nhang huyền đàn vừa mới thắp. Bà vái van:

- Ưng ai, vong hồn dì nó sống khôn thác thiêng, nghĩ tình máu mủ mà phù hộ cho hai con cháu gái của dì.

Đúng ngọ, thời khắc ma quỉ xuất hiện cho tới đầu giờ mùi tức khoảng một giờ trưa. Ai sao không biết chờ cô Hai và cô Ba đã có lần gặp ma vào lúc đúng ngọ. Cách đây ba năm, khi ông bà Năm Tào mới dọn về khu này, hai chị em sau khi dùng cơm trưa xong, vô vườn làng câu cá. Ở đây có một bàu nước trong vắt lớn cỡ hai sào đất. Giữa bàu là những khóm ông súng, lá lớn cỡ cái dĩ a bàn trải trên mặt nước. Ven bàu, chỗ nước sâm sấp là những cọm bèo cánh tròn xinh xinh. Cả hai ngồi dưới bóng cây dâu miền dưới, buông cần câu, chăm chú nhìn vào mặt ao. Ngồi mãi, không hiểu vì sao hôm ấy cà không chịu cắn câu. Thời tiết nòng nực, chung quanh hoang vằng, cô Ba Túy Nguyệt cởi áo, kéo chiếc quần lá nem rộng đáy lên tới ngực, với chiếc rổ nhảy xuống bàu để xúc cá tép. Trời đang nắng chang chang bỗng đâu một cơn gió thổ tới, xua áng mây đen che khuất mặt trời. Cơn trốt nổi lên làm kẻ trên bờ, người dưới nước cảm thấy rát mí mắt. Đến khi con trốt thoảng xa và dịu lại, thì cả hai thấy trong bàu nước có một bà già tuổi ngoài sáu mươi cũng đang xúc cÿ tép. Sự xuất hiện đột ngột của bà làm hai chị em xững vững. Cô Hai Túy Nguyệt lễ phép hỏi:

- Thưa bác, bác từ đâu tới?

Bà già nét mặt xanh xao, da dùn, tóc bạc dã dượi, cái nhìn lộ vẻ lãnh đạm, thờ ơ và đặc biệt có một nút ruồi đen, lớn bên mép. Bà nhìn kẻ trên bờ, người dưới nước, ấp úng:

- Tui hả? Tui ở đây, cạnh cái bàu này.

Câu trả lời có vè kỳ cục, bí mật. Cô Ba Túy Nguyệt hỏi nà:

- Bác tới hồi nào mà cháu không thấy? Bác xuống nước cách nào mà cháu không hay?

Bà già lãnh đạm:

- Làm sao cô thấy được! Nhưng thôi, tui không thể ở đây lâu. Mình xúc cả thôi kẻo trễ.

Bà cầm chiếc rổ xúc một cái, được ngay một con cá bông lớn, vảy ửng xanh lè, một mớ tôm càng và hai con cÿ sặt bướm. Lúc nãy nước trong bàu âm ấm vì nhốt hơi nóng suốt ba ngày nắng liên tiếp, giờ đây bỗng giá lạnh. Ham bắt cá nên cô Ba cứ xẩn bẩn bên bà. Cô cũng xúc được ba con cá lóc bằng cườm tay, bốn con cá rô mề và một mớ tép bạc cùng tôm trứng. Đôi lúc bà già xáp lại gần cô, hơi thở của bà lạnh như gió tháng chạp.

Bỗng một con chim thằng chài lông xanh bay lướt qua bên kia đám điên diển trổ bông vàng sát mé nước. Bà già bảo hai chị em:

- Tui phải đi, đã tới giờ có người kêu tui đó! Vậy tui cho mấy cô mớ cá tôm này.

Bà trút cá tôm vô giỏ cá của hai chị em. Và trong nháy mắt, bóng dáng bà đâu mất biệt. Hai chị em sững sốt nhìn nhau, da thịt mọc ốc. Cô Hai hỏi em:

- Hồi bà bước lên bờ, sao tao không nghe thấy tiếng khuấy nước, tiếng lau sậy khua động?

Cô Ba rùng mình:

- Bả biến đi thiệt lẹ. Hay là...

Cô không dám nói tiếp, hối hả bước lên bờ mặc áo vào. Bỗng cô nhìn vô giỏ cá, ré lên:

- Chị Hai! Chị coi đây nè! Trời ơi, sao lạ như vầy!

Cô Hai Túy Ngọc dán mắt vào đáy giỏ. Cá tôm đâu không thấy, chỉ có rác rến và vài cánh bèo mà thôi.

Hai chị em vội vã về nhà, thuật lại cho mẹ mình nghe. Lúc đó bà Năm Tảo đang ngồi nói chuyện với bà Chín Thẹo ở bộ ngựa giáng hương. Bà Chín Thẹo vụt hỏi:

- Có phải hai đứa bay gặp bà già có mụt ruồi bên mép không?

Hai chị em gật đầu xác nhận. Bà Chín Thẹo vỗ đùi một cái bép:

- Vậy là hai con nầy gặp ma rồi! Hồn ma bà Bảy Cúc đó! Số là hồi năm Nhâm Tuất gì đó, quan Tây Bô- na đem quân đánh chiếm thành Vĩnh Long, đội hỏa pháp vô thành. Quan tổng đốc cho đốt trại lính rồi rút lui. Tây đuổi theo. Một số quân mình vừa chống cự vừa chạy tháo thân tới rạch Nước Lạnh, bỏ mình hàng chục người. Con rạch đó ở sau vườn làng, cách bàu một đám sậy rộng cỡ hai mẫu. Trong số nghĩa quân liệt sĩ đó có ông Hai Phụng. Ổng chưa lấy vợ, nhà chỉ có một mẹ một con. Bà mẹ sau cái chết của con, đau đớn quá nên tới rạch Nước Lạnh khóc lóc than thở. Bà phải mượn rượu giải sầu. Một đêm nọ bà uống say rồi toan tới rạch khóc than với vong hồn con. Ai dè mới tới bàu nước, bà té quị, nhiễm sương mà chết. Dân trong xóm bèn chôn cất bả vẫn chưa siêu sanh, còn lẩn quẩn bên bàu.

Vụ quân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, sau đó hai cô Túy được cha thuật lại như sau: Tháng hai năm Nhâm Tuất (1862), thiếu tướng Bonard đem 11 chiếc pháo hạm lẫn tuần dương đĩnh gồm một ngàn quân đậu phía trên đồn Vĩnh Long, đổ bộ sát lũy. Thế giặc rất mạnh, trúc chẻ ngói tan. Đồn Vĩnh Tùng thất thủ. Nghĩa quân ta tử thương rất nhiều. Lãnh binh Tôn Thất Thoan, Quyền Lãnh Binh Nguyễn Thái. Chánh quản cơ Lê Đình Cửu phải dồn tất cả vào đồn Thanh Mỹ. Quân Pháp dội hỏa hổ (trái nổ để phá và đốt) vào thành. Tổng đốc Trương Văn Uyển túng thế phải đốt doanh trại, đốt kho lương rồi rút về huyện Duy Ninh, không kịp thủ tiêu kho võ khí. Lãnh binh Hồ Lực tiếp ứng mặt trận chạy sau. Một cánh quân của ông do Phó lãnh binh Ngô Thành Riêng điều động bị tản lạc vào ven rạch Nước Lạnh và bị bắn gục tại đây.

Vừa vào nhà, bà Năm Tảo bắt hai cô xức dầu cù là ngay. Tiết trời viêm nhiệt, bịnh thơi khí xảy đến biết đâu mà lường, cho nên bà phải đề phòng, không cho cả nhà uống nước mưa chứa trong lu bầu, trong mái đầm để ngoài hành ba phải uống nước trà huế pha gừng, quế.

Bà nhắc nhở:

- Con Hai ăn cơm xong nhớ khuấy bột trứng sam cho tía bây đùng. Con Ba thì nấu cho má nồi chè đậu xanh khổ tai bột bán.

Vừa từ bép đi lên, tay bưng dĩa bàn đựng rau sam luộc và chén mắm nêm giã tỏi ớt, thì bà nghe cô Ba Túy Nguyệt kêu nhỏ, giọng run rẩy, nặt tái xanh:

- Má, chị Hai coi kìa!

Bà Năm Tảo đật dĩa rau và chén mắm cạnh mâm cúng rồi cùng cô Hai bước ra hàng ba ngó về phía cây da xá. Quỉ thần thiên địa ơi! Cô em con nhà chù của bà hiện về đó chăng? Cô ta nằm vắt vẻo trên hai nhánh cây da, tóc buông xõa phất phơ trong gió, mặt xanh chành như lúc lâm chung. Cô ta ôm một đức con trai cỡ ba tuổi mập mạp xinh xắn. Đứa bé bú tay, áp đầu vào ngực mẹ.

Bỗng cô Út Thoại Huê, tên cô em nhà chú của bà Năm Tảo, ngóc đầu ngồi dậy, ngoắc bà Năm:

- Chị và hai cháu lại gần đây cho em bày tỏ câu chuyện. Tới giờ mùi hai mẹ con em phải trở về cõi âm.

Bà năm Tảo ngó hai con rồi cả ba bước lại gần gốc cây da. Nắng bên ngoài chang chang như đổ lửa, nhưng vũng bóng mát cây da sao mà rờn rợn, gây gây lạnh! Bà Năm ấp úng:

- Dì về ở luôn hay ghé chơi một chút rồi đi?

- Thân em đây vốn vô định sở, nhưng vẫn ở trong cuốc đất Vãng nầy. Chỗ nào trong đất nầy cũng là nhà của em, vì bởi nghiệp lực oan trái em không ở một chỗ lâu dài. Thằng Hai Luyện khốn nạn dụ dỗ em cho tới mang bầu. Má con nhà nó còn bày mưu lập kế phá thai khiến em phải băng huyết mà vong mạng. Trót nười năm nay cái ác quả của gia đình nó chưa chín mùi nên ác báo chưa hiện hành. Ai gieo mạ tháng ba thì tháng chạp sẽ gặt lúa. Riêng dòng họ mình tu nhơn tích đức nhiều, anh chị ăn ở hiền lương sẽ gặp nhiều sung sướng về sau. Em về thăm chị và cầu xin chị một điều: Cây da nầy hạp với vong hồn các sản phụ chết trong lúc lâm bồn và các thai nhi lỗi giờ sanh. Xin chị lập dưới gốc da một miếu nhỏ cao hai thước, ngang một thước rưỡi, dài hai thước, có hướng án bên trong, liễn đối bên ngoài. Mỗi kỳ rằm Vu Lan nhớ cúng kiếng cho các vong hồn được hưởng. Có vậy em mới theo con Ba để phù hộ cho nó.

Bà Băm Tảo suýt soa khấn vái:

- Dì nó đã dạy thì mẹ con tui xin vưng. Chỉ mong rồi đây không lâu, vong linh mẹ con dì mau được tiêu diêu siêu thoát.

Cô Út Thoại Huê bảo:

- Chị nên giữ kín chuyện này, đừng để lối xóm hay biết. Thôi, chị và các cháu vô nhà đi. Em và các bạn ở đây vui chôi chốc lát rồi sẽ về cõi u linh.

Mẹ con bà Năm ngậm ngùi quay vô nhà. Cả ba nhìn qua tấm vách, về hướng cây da. Trên ngọn cây, khắp các cành, vài chị đàn bà xỏa tóc chuyền qua chuyền lại. Còn lũ con nít thì bay lượn như chim, cười nói líu lo nhưng âm vang chỉ văng vẳng mơ hồ, lẫn trong tiếng gió xôn xao từ cánh đồng bên kia con lộ đá thổi tới.

Cô Út Thoại Huê cất tiếng hát:

- Nắng lên cho là héo hon
Cho đáng kiếp chàng phụ rẫy nghĩa xưa

Một chị đàn bà ru theo:

- Thuở xưa quả báo thời chầy
Thời nay quả báo một giây nhãn tiền...

Những lúc hát những câu trách móc đó, cơn giận làm mặt họ xanh như chàm đổ, răng nanh dài ra, mắt sáng quắc như hai cục than ngún lửa. Rồi đám trẻ nít dần dần biến mất, sau đó mới đến lượt các chị đờn bà. Sự yên tĩnh rờn rợn phủ xuống.

Ông Năm Tảo tác người roi roi. Nhờ ông dượt võ Bình Định đều đặn, cũng như chịu khó làm vườn cuốc đất mỗi khi rỗi rảnh nên thân thể cường tráng, bụng săn chắc chia làm sáu múi. Mặt ông bặm trợn nhưng hòa huỡn, cằm vuông, mày sắc. Ông lớn hơn vợ một tuổi nhưng không giữ nét trẻ trung bền dai bằng vợ. Gần tới tuổi năm mươi mà tóc bà Năm vẫn đen láng như huyền, mặt không một vết nhăn, vóc mình hơi mập, tươi mát. Thương yêu vợ nên dù vợ không có con trai, ông vẫn không chịu nạp hầu, nạp thiếp. Nhớ ơn đó, bà chiều chuộng, săn sóc ông từng chút.

Trong khi cô Ba xuống bếp lấy đường cát mỡ gà và bột huỳnh tinh khuấy trứng cá cho cha thì bà Năm Tảo thuật lại giấc chiếm bao đêm trước và vận sự các oan hồn hiển diện cho chồng nghe. Ông cứ gật đầu chấm câu, không hề ngắt lời vợ. Nghe xong câu chuyện, ông nói:

- Má nó thấy tui có lý hay không? Hồi tui tính dọn về đây ở, má nó cứ cằn nhằn tui sao chọn nhà gần chốn tha ma mộ địa. Nay má nó rõ rồi đó: đức trọng quỉ thần kinh. Tui noi gương ông bà, giữ vững khí tiết. Má nó thì giữ dạ hiền lương, lại dạy con cái hiếu thảo, tiết trinh. Vậy thì ma quỉ nào nỡ lòng khuấy phá, hãm hại mình.

Bà Năm Tảo hạ thấp giọng:

- Để rồi ông coi, gia đình ông Bang biện Huỡn sẽ trả quả!

Ông Bang biện Trần Văn Huỡn là cha của cậu Hai Luyện, nhà ở xóm Cầu Đào, gần chùa Bảy Phủ. Ông nội của ông Bang biện vốn là bạn đồng hương với ông nội ông Năm Tảo, quê làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi. Cả hai ông cùng vào Nam lập nghiệp. Nhưng trong khi ông nội ông Năm Tảo sống bằng nghề xem mạch hốt thuốc thì ông nội ông Bang biện theo tên Việt gian trần Bá lộc chuyên đánh dẹp, bắt bớ các nghĩa quân chống Pháp ở vùng Tiền Giang.

Vào năm 1862, trong trận đánh chiếm Vĩnh Long, nhờ ông nội ông bang Biện Huỡn điềm chỉ mà quân Pháp đã tiêu diệt đám nghĩa quân của Lãnh binh Hồ Lực. Để trả ơn, ông ta được Pháp cho làm tri huyện tại huyên Duy Ninh. Cha ông Bang biện Huỡn là con trai duy nhứt, thừa hưởng một gia tài khổng lồ, ruộng đất cò bay thẳng cánh, trong tủ có trên ba trăm lượng vàng. Ông Bang biện Huỡn là thứ nam, không được coi sóc nhà thừa tự và hưởng ruộng đất hương hỏa. Nhưng ông thọ hưởng được tánh gian ác của ông nội cung như quyền biến và biển lận của tía ông nên ông lập cơ nghiệp to tát chẳng mấy chốc.

Nhà ông bang biện Hưỡn ở sâu trong rạch Cầu Đào, giữa khu vườn trồng cây ăn trái. Nhà lợp ngoái lưu ly màu ngọc thạch, nền đá da qui cao tới ngực, tường đúc, nền nhà lót gạch bông, sân trước, sân sau, sân bên đều lót gạch tàu. Trong nhà bàn ghế bằng ỗ nu, gỗ cẩm lai. Bàn thờ bằng gỗ trắc khảm ốc xa cừ lóng lánh. Các gian bầy đầy đồ ngoạn khí: chậu, chóe, đôn đều bằng sứ quí giá. Đó là chưa kể hai chiếc tủ kiếng, đĩa, độc bình cổ thời Gia Tĩnh, Khương Hy, Càn Long... Đáng kể nhựt là cái lẫm lúa ba gian dài 12 thước đập vào mắt lối xóm, chứng tỏ ông là bực đại điện chủ có tới 300 mậu ruộng tốt.

Ông bà Bang biện Hưỡn tuy giàu có nhưng cư xử rất khắc bạc với tôi tớ, tá điền tá thổ. Bà cho vay ăn lời cắt cổ. Hễ con nợ túng hụt, không kịp trả tiền lời đúng hạn là bà mắng nhiếc chửi bới. Có lần bà dám nhảy lên bàn thờ ông bà của một con nợ tá điền. Ông khoái ngủ với những đờn bà có chửa mà dân sành việc gối chăn gọi là "núp gò mối đâm heo".

Cậu Hai Luyện trải qua hai đời vợ. Người vợ trước của cậu chết trong buồn rầu, thất vọng vì lấy phải người chồng bạc bẽo, ưa đào đĩ. Người vợ sau vốn là con ông tri huyện, tánh bướng bỉnh. Khi về làm dâu, mợ ta gây gổ với cha mẹ và hai cô em chồng. Hễ cậu vắng nhà lâu là mợ ó ré chửi mắng. Nếu cậu cự lại là mợ xách dao rượt cậu chạy vắt giò lên cổ. Cô Ba Cẩm Tú, em kế của cậu, có trổi giọng chảnh lỏn là mợ lập tức ghịt đầu, vả lịa lịa vô miệng. Sau đó, mợ mượn cớ về thăm nhà rồi ở luôn. Cậu qua rước, mợ chẳng những không về còn đon ren chửi xéo cha mẹ chồng.

Cô Ba Cẩm Tú chơi thân với một cô bạn học cùng lớp trường Áo Tím. Thấy cô nọ có ông thầy thuốc tốt nghiệp trường y khoa Hà nội đi hỏi, cô tìm cách rù quyến vị lang tây kia khiến cô bạn thất vọng uống á phiện trộn dấm tự tử.

Cô Tư Cẩm Lệ, con gái út của ông Bang biện, nhảy vô làm bé một ông thầy kiện ở Sài gòn rồi lấn quyền vợ lớn khiến bà kia buồn rầu mà chết. Khi nắm quyền chủ phụ trong nhà, cô đối xử với con ghẻ tàn tệ còn hơn đối với kẻ thù.

Ông Bang biện Hưỡn và ông Năm Tảo vốn là đôi bạn thơ ấu. Dù tánh khí khác nhau, nhưng cả hai vẫn giữ tình giao hảo. Lý do thứ nhứt là bởi ông Năm coi mạch hột thuốc mát tay. Lý do thứ hai cũng là lý do chánh, ông Bang biện cần có người để khoe khoang. Riêng bà Năm và hai cô Túy chưa hề đặt chưn tới nhà ông Bang biện bao giờ! Hễ vô tình đụng đầu nhau ngoài đường, hai cô Túy chỉ chào hỏi lễ phép, nói vài câu rồi đường ai nấy bước.

Cơm nước xong, ông Năm Tảo sao khử thổ hột muồng thơm, lá hắc phàn diệp, thân, cành và rễ cây mật nhãn. Bà Năm cũng không quên nấu món thang trị ho gồm bách bộ, gừng khô, bông sứ cùi phơi khô, rau tần dầy lá cho mình.

Cô Hai Túy Ngọc mở nắp thố sứ, múc bột huỳnh tinh khuấy trứng sam vào cài chén sứ nhỏ bày lên mâm rồi mời ông Năm Tảo dùng. Bên ngoài, trời vừa tắt nằng. Ông Năm vừa ăn bột, vừa lắng nghê tiếng bìm bịp vẳng ngoài bến sông. Ông bảo cô trưởng nữ:

- Tía phải qua bên xóm Lò Rèn để trị bệnh cho cô Bảy Thược, con ông Hương bộ Hành, cuối canh hai tía mới về.

Cô Hai Túy Ngọc không nói gì. Ba tiếng "Xóm Lò Rèn" như vọng một ấn tượng có một thoáng bàng hoàng. Nói là xóm Lò Rèn, nhưng ở đó chẳng có một cái lò rèn nào. Muốn rèn dao, mác, xuổng, cuốc... dân xóm Cầu Kè nầy phải bơi xuồng vào tận làng Long Thanh.

Bà Chín Thẹo kể rằng, cách đây bảy năm, có gia đình người thợ rèn gồm hai vợ chồng tuổi cở 30 và thằng con trai tuổi chừng 13. Hằng ngày, vợ thụt ống bể, chồng rèn dao mác. Đứa con trai xẩn bẩn bên cha để học nghề. Ai dè một hôm trời mưa, sét đánh chết cả ba. Chòm xóm và họ hàng những người bất hạnh đó chôn họ trong miếng đất, cạnh lò rèn. Trải qua hai mùa mưa nắng nền lò rèn mọc đầy cỏ ống, cỏ đuôi chồn, cây ké, cây vòi voi, dây choại, dây nhãn lồng. Nhưng đêm đêm, những người neo xuồng bên kia bến Lò Rèn để câu tôm thường thấy cảnh lò rèn hiện ra, đèn thắp leo lét, lửa đỏ rực. Người vợ vẫn thụt ống bể, người chồng vẫn đập búa lên thỏi sắt nung đỏ đặt trên đe, còn đứa con trai vẫn ngồi chồm hổm bên cha. Tiếng búa nện không chan chát như tiếng búa thường, nó chỉ văng vẳng mơ hồ, vọng vào cõi âm u từng loạt mong manh rời rạc. Cảnh lò rèn ma và ba chiếc bóng u lin cứ sinh hoạt như thế tới lúc gà gáy hiệp hai mới tan.

Mỗi khi nớ tới vận sự gia đình người thợ rèn, cô Hai Túy Ngọc nao nao tấc dạ. Cái chết giáng xuống thình lình biến hai vợ chồng và đứa con kia thành ba oan hồn uổng tử, tâm thần hoang mang mờ mịt. Bởi họ không biết rằng họ đã bước vào cõi chết, họ không hay xương thịt họ đã vùi trong lòng đất và đã vữa nát, hư hoại. Cho nên, nhiều đêm họ tái diễn cảnh sinh hoạt mà họ vẫn làm thuở còn sanh tiền. Có ai tụng cho họ bài chú vãng sanh và kinh cầu siêu để vong linh họ nhận biết được tình trạng của mình hầu sớm đầu thai kiếp khác!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 2

Bên nhà ông bà Bang biện Hưỡn tôi hôm đó đang chộn rộn. Chiếc đèn măng- sông thay thế chiếc đèn năm ngọn treo ở trung đường tỏa ánh sáng trắng như nước suối.

Ông Bang biện Hưỡn thả dài trên ghế xích- đu đọc quyển Đông Châu Liệt Quốc. Bà Bang biện ngồi trên bộ đi- văng chơn quỳ ăn trầu. Trước mặt bà, khay tần khảm xa cừ đựng chiếc bình vôi và chiếc chén ngâm cau khô bằng sứ nước men trắng in bông chầm đậm. Phía bộ ván cẩm lai, cô Tư Cẩm Lệ đang đạp máy may rột rột. Giữa trung đướng là bộ xa lông khảm xa cừ gồm chiếc bàn hình hột xoài, một chiếc trường kỷ và bốn cái ghế dựa. Cầu Hai Luyện ngồi trên trường kỷ đọc tờ Nam Phong tạp chí.

Bà Bang biện Hưỡn ngó về phía nhà bếp, phàn nàn:

- Cái thằng Bửu là thứ đò làm biếng nhớt thây! Trưa hôm qua nó quên bẻ cau, báo hại tối nay phải ăn trầu với cau khô ngâm nước như vầy!

Bà Bang biện đã ngoài năm mươi, vóc vạc cau lớn, thân mình phóp pháp, nước da ngâm đen. Kể ra trong bốn cái tướng đáo để của con người là nhứt lé nhì lùn, tam hô, tứ lộ thì bà chiếm hai cái chót. Răng hàm trên của bà hơi dài nên miệng ba hô, không khép kín được. Cặp mắt bà lớn, tròng trắng húng hiếp tròng đen, mu mắt nổi cộm. Nếu ai đó nhìn bà hơi chăm chú là bà vội khép kín miệng lại, mắt trở nên lim dim để không ai thấy cái lộ trao tráo của mình. Bà nhờ ăn trầu vén khéo nên răng cỏ của bà hãy còn chắc. Nói nào ngay, hồi còn trẻ bà không thuộc hạng xấu gái. Bà chỉ có tướng dữ tợn. Đồi với kẻ quyền thế giàu sang, bả lễ phép, mềm mỏng, ngọt ngào; nhưng đồi với người thấp thỏi, cái miệng đó trở nên thô lỗ, hỗn hào, rổn rảng.

Ông Bang biện hơi nhỏ người, mặt lưỡi cày, mắt láo liên rất nhanh, miệng luôn luôn nở một nụ cười cầu tài.

Hôm nay tiết trời oi bức nên bà Bang biện mặc chiếc áo túi bằng xuyến trắng, quần lụa trắng. Dù ở trong nhà, bà vẫn vàng đeo ngọc khảm những nữ trang thuộc kiểu xưa. Tai bà đeo đôi bông cẩm thạch khoét lỗ giữa đẻ nhận cập hột xoàn ba ly rưỡi. Cổ bà đeo dây chuyền vàng, miếng mề đay cẩm thạch tạc hình trái lựu nút vỏ lòi hột. Hai cườm tay bà đeo đôi neo quai chảo. Hai ngón tay trỏ bà là cặp cà rá cửu khúc liên huờn. Búi tóc bà hình trái cam hồng mật giắt chiếc trâm hình trăng khuyết nhận hột xoàn lấp lánh.

Ông Bang biện mặc bộ pyjama màu cà phê sữa sọc đen, tóc hớt ca- rê, sợ tóc cứng chĩa thằng lên trời như lông bàn chải tắm ngựa. Ông đặt tờ báo xuống bắp đùi, bảo vợ:

- Ờ tui quên nói cho bà biết, kỳ tới tui sẽ úng cử hội đồng quản hạt. Anh Huyện có hứa giúp tui. Anh Huyện đây là ông Huyện Ngô Văn Toại, anh kế của bà Bang biện. Bà không nói không rằng, miệng nhai trầu rau ráu nhưng nét mặt lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Bà vốn thích chồng mình có quyền cao tước trọng, nhưng ra ứng cử thì phải tốn kém. Vả lại anh kế của bà chỉ là một ông huyện hàm, không có thực quyền dù ông ta thuộc loại "ăn cơm bảy phủ, dạo đủ mọi nơi", quen biết nhiều chốn quyền môn.

Ngày một nhà có đám giỗ cụ bà thân mẫu của ông Bang biện Hưỡn. Thiệt ra, cụ không phải là chánh thất của cụ Cai tổng Nhiều, cha công Bang biện Hưỡn, cho nên người trưởng nam dòng đích không chịu thờ phụng cụ ở ngôi tứ đường. Phần giỗ chạp do ông Bang biện Hưỡn đảm nhiệm từ khi ông ra riêng, cưới vợ và lập nghiệp.

Cô Tư Cẩm Lệ từ khi gá nghĩa với thầy kiện Trần Hảo Hiệp thì cô đóng đô ở Sài gòn. Cô vốn son sẻ nên khi về viếng cha mẹ không có con bồng, con dắt. Cả cô Ba Cẩm Tú, từ khi kết hôn với thầy thuốc Lê Thạnh Mậu cũng không chửa nghén gì ráo. Được một cái là chồng cô Ba mở phòng mạch gần Cầu Lầu nên cô thường về thăm tía má cô.

Cậu Hai Luyện kỳ hè nấy tốt nghiệp trường Kinh lý đạt điền ngoài Hà Nội, được nhà nước cấp bằng kinh lý, đem danh giá rỡ ràng cho gia đình, cha mẹ. Bà Bang biện bằng bụng lắm. Thằng con bà sau khi đậu bằng thành chung, cứ ở nhà làm công tử bột, chơi bời thả giàn. Từ khi con vợ kế về nhà cha mẹ, cậu buồn nên mới quyết chí học thêm và đỗ đạt như vậy.

Bà Bang biện tằng hắng, bảo::

- Thằng Hai, con Tư, luôn cả con Ba bấy lâu nay xưng hô coi không ổn chút nào! Giờ đây má yêu cầu các con phải chỉnh đốn cách xưng hô. Con Tư không nên gọi anh mầy bằng anh Hai suông trơn mà phải gọi anh Hai kinh lý. Còn thằng Hai phải kêu hai đứa em mầy là cô Ba thầy thuốc, cô Tư thầy kiện. Vậy mới là trọng phép nhà.

Ông Bang biện Hưỡng ngẩng mặt, bắt bẻ vợ:

- Còn bà, bà cũng phải bỏ cách kêu thằng Hai, con Ba, con Tư chớ?

Bà Bang biện têm cho mình một miếng trầu, chậm rãi bảo:

- Từ rày, ông và tui nên kêu tụi nó bằng thằng Hai kinh lý, con Ba thầy thuốc, con Tư thầy kiện, kẻo thiên hạ chê cười nhà mình bội ơn xã hội làng nước!

Ông Bang biện Hưỡn cười cười trước cách xưng hô giỡn nhột của vợ, nhưng thấy bà lộ vẻ trang nghiêm thành khẩn lắm nên ông không dám chế giễu.

Cô Tư đang may chiếc quần đáy giữa bằng cẩm nhung đen, bảo mẹ:

- Anh Ba thầy thuốc có khuyên chị em con nói Tây y đầu hàng thì đi tìm thầy thuốc ta hoặc đi đến chùa cầu tự chớ lẽ nào tụi con chịu cảnh hiếm muộn hay sao?

Cô Tư Cẩm Lệ giống cha ở nước da mởn, giống mẹ ở vóc mình cao lớn, cái miệng hô và cặp mắt hơi lộ. Nhưng cái miệng cô hô duyên, răng cô đều đặn khít khao, cặp môi cô ửng hồng tự nhiên. Cặp mắt cô chỉ hơi lộ, tròng trắng tròng đen không lấn át nhau. Đã vậy sóng mắt cô còn ướt rượt, sáng ngời, linh hoạt. Kể ra cô đẹp trên trung bình. Tối hôm nay cô bận đồ xẩm bằng cẩm phụng trắng, áo tay cụt, quần ngắn lòi mắt cá. Tóc cô không bới như đa số phụ nữ thị thành thời đó mà cuốn tóc bánh tay rế theo kiểu mấy bà đầm, giắt lược đồi mồi phía trên tai, sống lược nạm hột trân châu. Cô đeo nữ trang nạm hột xoàn chấp chới, xức dầu thơm nực nồng nhưng không tô son dồi phấn.

Bà Bang biện thở dài, giọng than thở:

- Dòng họ tao, đàn bà đẻ sai như cá lóc, như chuột bạch. Bà nội bây và các cô bây cũng đẻ ít nhất ba trự. Vậy mà hai chị em bây sượng ngắt, không đẻ đái gì hết! Còn thằng Hai kinh lý, con vợ mầy hỗn hào, chê bai khinh khi mày, lộn nài bẻ ống về nhà cha mẹ nó. Giờ đây mầy có chức tước quan quyền, mầy nên đề phòng, không cho nó trở về leo lên địa vị bà Kinh lý. Đẻ tao nhờ thằng Ba thầy kiện lo thủ tục ly hôn cho mầy. Có vậy mầy mới rảnh chưn rảnh tay cưới con vợ khác để tao có cháu nội với người ta!

Cậu Hai buông tờ báo, ngửng đầu lên:

- Con đã chọn vợ rồi. Cổ là dân Bắc kỳ.

Ông Bang biện giựt mình, buông tờ báo, ngó thằng trưởng tử của mình trân trối. Bà Bang biện cùng cô Tư Cẩm Lệ, kẻ quên nhai trầu, người ngừng đạp máy may, sửng sốt nhìn cậu Hai Luyện lom lom. Cậu ở trần trùi trụi, chỉ bận khăn xà rông đen lộn chỉ đỏ, chỉ trắng. Vóc cậu vừa tầm, hơi mập mạp. Mặt cậu tròn, má phính, khi gặp điều không vừa ý là sưng lên chù bự. Điểm linh hoạt duy nhất trên khuôn mặt cậu là đôi mắt sáng như sao, biểu lộ sự thông minh cũng như những toan tính, lọc lừa xảo diệu.

Ba Bang biện hỏi gằn:

- Mầy nghĩ sao mà đòi cưới vợ Bắc Kỳ?

Cậu Hai Luyện:

- Bởi con thương cổ, cổ thương con. Tía cổ làm tham tá chớ bộ lôi thôi gì sao? Cổ lại có ăn học, tuy chưa đậu đíp- lôm nhưng cũng học tới năm thú ba ban trung học.

Ông Bang biện Hưỡn khuyên ngăn:

- Con đừng có dại! Bọn Bắc Kỳ vốn người dị tộc với người Việt mình. Tuy họ cũng nói tiếng giống mình nhưng cách nói của họ ráo rẻ, môi miệng. Họ nói tuy ngọt xớt nhưng cái khoa nói đánh đầu xóc óc xuất sắc lắm con ơi. Mấy cô con gái Bắc kỳ ăn mặc tuy hực hỡ mà vòng vàng, hột xoàn chẳng có bao nhiêu đâu! Gái Nam kỳ thiệt thà, ăn nói không biết làm điệu uốn éo, những cô bực trung coi vậy chớ vòng vàng chuỗi hột xuê xoang.

Cậu Hai trà lời:

- Tại ba má cứ ngó vô gia đình ông Phán giây thép rồi tưởng đâu người Bắc nào, cô gái Bắc nào cũng giống như họ.

Thuở trước, người Bắc vào Nam định cư thường thuộc thành phần nhân viên bưu điện hay các phu cạo mủ cao su. Ở Vĩnh Long có ông Giám Đốc sở Bưu điện người Bắc, nhà xéo xéo sở Trường tiền. Dân tỉnh lẻ hễ thấy ai đứng tuồi, mặc Âu phục cũng gọi là ông Phán. Bởi gặp nhiều ông Phán như vậy nên họ gọi ông là ông Phán giây thép hay ông Phán Bắc. Ông Bang biện hỏi tới:

- Mà mầy với con Bắc kỳ đó... tằng tịu với nhau rồi, phải không?

Cậu Hai lắc đầu:

- Nếu cổ và con đã hưởng thú gió trăng thì đời nào con tính chuyện đá vàng với cổ! Con nhà lành đó đa! Ba má cổ giữ cổ khít rim còn hơn ba má giữ ruộng đất, hột xoàn. Nếu ba má không chịu ra ngoài Bắc coi dâu thì con sẽ nhở cậu Huyện. Bấy lâu nay cẩu ao ước đi thăm Huế, Hà Nội mà chưa có dịp.

Bà Bang biện Hưỡn thừa biết con trai mình không thể bị gái dỗ dễ dàng bởi cậu có tới ba lớp vảy bảy lớp da. Nhưng ra tới Hà Nội để thỉnh mộ cô gái "dị tốc" mang dị tục về làm dâu thì cũng ngặt cho bà. Chi bằng bà giục hưỡn cầu mưu. Cậu Hai vốn kẻ mai huế xế quảng, phóng đãng đổi đời, lòng dơi dạ chuột, lúc mắm ruốc khi mắm nêm. Biết đâu về làm việc tỉnh nhà, cậu gặp được một ý trung nhơn khác mà quên cô Bắc kỳ nói tiếng ráo rẻ nghe lạ hoắc lỗ tai kia đi.

Bà Bang biện nói:

- Việc lý hôn của con chưa ngã ngũ ra sao. Để rồi ba má và thằng chồng con Tư thầy kiện tính gấp cho xong. Chừng đó má sẽ nhờ cậu Huyện con đứng ra làm mai, tính việc trăm năm cho con được vuông tròn.

Ông Bang biện Hưỡn chùng hửng:

- Vậy là bà đành bụng cái đám ở Hà Nội đó hay sao?

Bà Bang biện rút cục thuốc lóng, chà qua chà lại hàm răng trên, nói giọng rời rạc:

- Con cái thời nay cứng đầu cứng cổ. Vợ chồng mình đã chọn cho nó hai đám rồi, rốt cuộc keo rã hồ tan hết trọi. Bây giờ nó đành đám nào thì tui cũng ưng đám đó, để nó khỏi đổ thừa...

Ông Bang biện nói xuôi:

- Ờ, bà tính sao cho gọn thì tính!

Thiệt tình, ông không lý gì đến chuyện dâu rể. Con trai con gái ông đều biết quyền biến. Về vụ chọn vợ cho cậu Hai, vợ chồng ông tính già tính non nên ông không muốn can dự vô nữa. Điều ông đang bận tâm là ông phải làm tròng làm tréo cách nào để mua rẻ sở ruộng tám mẫu của ông Hương bộ Lạc ở vùng Phước Hậu. Điều bận tâm thứ hai của ông là làm thế nào ăn nằm với vợ Cai tuần Hạp, tá điền của ông. Chị đang có chửa bốn tháng. Ông chỉ cần ăn mằm với chị vài lần rồi sẽ trả chị ta về với chồng, để ông kiếm một mụ đờn bà có chửa khác.

Bà Bang biện quay qua cô Tư Cẩm Lệ:

- Thôi, con nên sửa soạn đi ngủ. Mai mẹ con mình dậy sớm để còn coi sóc bầy trẻ nấu nướng.

Cô Tư:

- Bọn con Lài, con Lý đã lo xong nồi thịt cá kho chung, nồi khổ qua dồn thịt bằm, nồi vịt tìm hột sen và bạch quả.

Nhân dịp đám giỗ, ông bà Bang biện Hưỡn mổ con heo để ăn mùng đại đăng khoa cậu trưởng tử. Xong xuôi họ mới dắt cậu về nhà hương hỏa mổ bò ăn khao với họ hàng bên nội của ông Bang biện Hưỡng.

Cậu Hai Luyện bảo cha mẹ:

- Ăn khao xong, con bắt tay làm việc liền. Nhà nước muốn đào con kinh từ sông Cổ Chiên băng qua làn Mỹ An và con được phái đi đo đất.

Ông Bang biện:

- Ở làng Mỹ An cũng gần, đi ghe buồm gặp nước xuôi gió thuận chừng hơn tiếng đồng hồ là tới. Vùng An Hương, Hòa Mỹ, Mỹ An thuộc về quê bà nội của con đó.

Cậu Hai lơ đãng:

- Vậy thì tốt lắm!

Rồi cậu lấy tay che miệng ngáp dã dượi, ủ ê bỏ vào buồng. Bà Bang biện quay qua cô con út:

- À quên, để má dặng thằng Bửu sáng mai bẻ cau cho má và chặt quầy dừa xiêm chồng con và anh rể con uống. Con đi tìm nó, lôi cổ nó lên đây cho má dạy việc.

Bửu là con rơi của ông Bang biện Hưỡn. Mẹ ruột chết sớm nên được bà Bang biện mang về nuôi từ thuở cậu lên tám. Người đích mẫu lòng dạ khô khan. khắc bạc kia dạy dỗ đứa trẻ bất hạnh bằng roi vọt, bạt tai, ngắt véo, chửi rủa. Bửu rất thông minh, được cha cho học tới lớp ba, thi đậu bằng sơ học, rồi phải ở nhà giúp việc trong ngoài. Cậu đã chép tuổi ấu thơ và thời mới lớn bằng nước mắt, bằng mồ hôi.

Chùng giập bã trầu, cô Tư Cẩm Lệ cùng một cậu trai khoảng 15 tuổi, từ ngăn chái dưới nhà bếp đi lên. Cậu ta ốm yếu, mắt trõm lơ, da mặt đỏ bừng vì cơn sốt, quần áo may bằng vải hột giền đen, vai áo vá một miếng lớn.

Bà Bang biện cất giọng rít róng:

- Từ hồi chiều tới giờ mầy chui lỗ nẻ nào mà biệt tăm biệt tích vậy? Hễ ăn xong ba hột cơm là mầy đánh lừa đánh đáo đi dạo xóm.

Bửu nhỏ nhẹ:

- Thưa má lớn, xế nầy con phụ với chú lực điền giở chà bắt tôm. Bởi đó con lên con nóng lạnh. Từ chiều tới giớ con nằm li bì ở vạt tre chớ đâu có đi dạo xóm.

Bà Bang biện nguýt dài:

- Mầy đùng có lẽo lự! Hễ dầm nước đang nắng thì chỉ miệt sật sừ vậy thôi. Sáng mai mầy phải dậy sớm bẻ cho tao một buồng cau xiêm, một quày dừa xiêm.

Bửu chỉ "dạ", sắc mặt mệt mỏi, ngầy ngật. Ông Bang biện liếc qua đứa con bật hạnh, can gián vợ:

- Nhìn qua mặt nó, tui cũng biết nó đang làm cữ. Thôi, bà nên châm chước cho nó nhờ. Nhà mình tôi trai tớ gái thiếu gì. Nó đang đau yếu, bà mà bắt nó leo cau leo dừa, rủi nó run tay té xuống đất thì sao!

Bà Bang biện liếc xéo chồng rồi hét:

- Đi đâu thì đi cho khuất mắt! Mà nhớ biểu thằng Đực hoặc thằng Xiêm hái cau, hái dừa thế cho mầy nghe chưa? Thừ đồ biếng nhác gì đâu á, mới đỏ đèn đã lo đi ngủ, y chang như gà vịt vậy.

Ông Bang biện Hưỡn bước tới bàn có nhiều ngăn hộc, mở một ngăn, lấy năm gói cảm mạo phát tán đưa cho Bửu, bảo:

- Kiếm nước trà uống liền một gói đi. Ngày mai, ngày một, mỗi ngày mầy nhớ uống hai gói. Uống trước bữa ăn thì thuốc mới công hiệu.

Bửu đỡ lấy gói thuốc, lí nhí cảm ơn người cha ruột rồi lủi thủi quay về buồng của mình gần kho chứa nông cụ.

Căn buồng của Bửu gồm một cái vạt tre trải chiếu đậu, một cái mùng màu cháo lòng vá vài miếng lụn vụn, một cái mềm xám cũ mèm và một cái gối ống bằng cây đẽo.

Đêm đó Bửu bị hai cữ sốt rét làm cậu mệt nhoài. Lúc nóng, cậu muốn cởi phăng hết quần áo ra mong mát mẻ được chút nào chăng. Lúc lạnh, cậu run cầm cập, hai hàm răng đánh bò cạp. Chiếc mền nỉ dày như vậy mà cậu vẫn cảm thấy như mình ăn mặc phong phanh đứng giữa buổi lập đông.

Chỉ có lúc bịnh hoạn như hôm nay, Bửu mới thấm thía hoàn cảnh mồ côi mẹ của mình. Lúc mạnh giỏi, sẵn tánh lạc quan, cậu không nhìn vào hoàn cảnh hiện tại. Cậu nghê người chú của cậu, đã xuất gia đầu Phật hiện trù trì tại chùa Long Đức, cách cầu Đào một trăm thước. thường nói rằng: "Sông có khúc, người có lúc, lại nữa sông còn có lúc đục lúc trong, nước có lúc ròng lúc lớn". Câu nói đó tuy cũ kỷ của cổ nhơn, nhưng do một chiêu cảm đặc biệt, Bửu cảm thấy nó dội sâu vào tâm khảm và niềm tin của cậu. Nhờ đó sống với người cha hờ hững, với bà mẹ ghẻ tàn nhẫn và lũ anh chị em don dòng đích hay hoạnh họe eo sèo mà cậu không buồn, không tủi thân. Cậu tin rằng kiếp trước cậu đã gây nhiều việc oan trái cho họ nên kiếp nầy những lằn roi vọt của họ quất lên mình cậu chỉ là để trả quả. Còn những lới mắng nhiếc rủa sả của họ cũng chỉ là tiếng vọng của nghiệp chướng.

Bây giờ có lẽ vào giữa canh ba. Bửu choàng tỉnh giấc sau cơn mê ngắn. Ánh trăng từ miệng kiếng gắn trên mái nhà chiếu vào căn buồng. Ngoài hè, tiếng dơi ăn ổi kêu chí chóe. Bửu gắng định tâm niệm Bạch Y Quán Thế Âm Thần chú và chú Tiêu Tai Cát Tường do pháp sư Chơn Huệ, chú của cậu, truyền dạy trước khi chìm vào cơn mê mệt li bì. Bửu không mong thần lực của kinh giúp cậu thoát ly cảnh nhọc nhằn cơ cực hiện giờ, nhưng ít ra nó cũng gõ vào nội giới cậu từng âm ba lảnh lót, xua hết bóng đêm vá nỗi sợ hãi vu vơ.

Dưới mái nhà nầy, Bửu luôn luôn có cảm tưởng mình đứng trên bờ vực thẳm. Cậu không thể lường đực những cơn giận bật chợt của bà đích mẫu. Khi bực dọc, dù bất cứ chuyện gì, do ai đi nữa, bà cũng chĩ a mũi dùi vô cậu. Từ nhỏ, cậu đã bị đối xử như hàng tôi tớ, ăn cùng bàn với tôi tớ, làm lụng như tôi tớ; đau đớn hơn nữa, cậu còn bị là bia nhận những lời hằn học, oán ghét không duyên cớ củ bà đích mẫu mình.

Cơn sốt lại nổi lên làm đầu óc Bửu lõng bõng khiến tâm trí cậu không buộc chặt vào từng tiếng niệm. Dần dà, Bửu lọt vào cơn ác mộng thật mạch lạc. Cậu thấy mình bị một mụ đàn bà mặt đầy vết thẹo, tay cầm chiếc rựa sáng loáng đuổi theo. Những vết thẹo làm những bắp thịt trên khuôn mặt mụ biến dạng, nét hung ác hiện ra lồ lộ. Miệng mụ mím chặt, hai cánh môi mỏng lét như hai sợi chỉ. Cặp mắt mụ trợn ngược, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Cậu cứ chạy nhưng cảm thấy mình nặng như đeo đá, cặp giò yếu đuối lỏng lẻo như chực rời khỏi thân thể. Trước mặt cậu bây giờ là một con sông rộng có thành cầu bắc ngang nhưng không lót ván. Cậu kinh hãi không biết xoay trở cách nào. Sau lưng cậu, tiếng hét của mụ già hung ác chen với tiếng rống gầm của ác thú. Cậu tê điếng gần ngã quỵ thì bỗng nghe một giọng nói dịu dàng: "Con hãy theo má, bò theo thành cầu để qua sông. Có má đây, con đừng sợ".

Cậu ngước lên. Trước mặt cậu là má ruột cậu, khuôn mặt buồn bã, nụ cười hiền từ. Bà mặc chiếc áo bà ba bằng lụa trắng, quần lục xiêm, bộ y phục mà khi bà chết, bà ngoại cậu đã mặc cho bà trước khi nhập quan. Bửu chỗi dậy, rán vừa bám vừa bò theo sườn cầu. Má cậu thong thả đi trước, tay xác chiếc đèn tán chai rọi sáng bức màn sương mỏng phủ mờ cảnh vật.

Bửu đã vượt qua sông. Mẹ cậu dắt cậu đi một quãng đường nổi từng đám sương cuồn cuộn làm cậu có cảm tưởng hai mẹ con đang đi trên mây. Bà bảo cậu: "Má đưa con lên núi Cô Tô đây. Rồi đây con sẽ cùng chú con tu tại chiếc am lá cất gần Điện Kín. Con sẽ đực thảnh thơi cho tới cuối đời." Rồi sương mù tan dần. Hai mẹ con bước vô một thảo am có rào trúc quanh. Chú của cậu, pháp sư Chơn Huệ, từ trong bước ra, áo nhựt bình màu dà, cổ đeo xâu chuỗi kết bằng hột hổ phách...

Tới đây Bửu bừng tỉnh giấc vì tiếng hét của bà Bang biện Hưỡn:

- Dậy đi, thứ đồ thúi thây lầy lụa! Ở trong nhà nầy, nếu không xay lúa, giã gạo, chẻ củi thì cũng quét dọn chuồng heo, chuồng gà. Tao đâu có dư cơm để nuôi thứ đồ trôi sông lạc chợ như mầy! Mau dậy uống thuốc rồi theo thằng Đực, thằng Xiêm móc mương bồi liếp!

Bửu lồm cồm ngồi dậy. Nhưng cơn váng vất như choàng một tấm màn tối sẫm và lạnh ngắt lên tâm trí cậu. Rồi côn ho xé phổi kéo tới làm Bửu mửa một đốn máu tươi. Giờ đây bà Bang biên Hưỡn mới biết sợ. Bà chạy ra ngoài một mặt gọi thằng Xiêm mời ông Năm Tảo tới chẩn mạch cho thằng con ghẻ, một mặt kêu thằng Đực vô quét dọn đống máu tươi và xức dầu hơ lửa cho Bửu.

Sau đó bà Bang biện bước lên trung đường thỏ thẻ thuật lại vận sự cho chồng nghe. Ông Bang biện nói:

- Ối, hỏa vọng trật đường rầy làm người bịnh lạc huyết đó thôi! Hái lá chó đẻ giã nhỏ, vắt nước cốt cho nó uống là nó hết bịnh liền!

Nói xong, ông sai con Lài con Lý chuẩn bị trà nước. Cà nhà xúm lại ăn sáng. Cô Ba Cẩm Tú cùng chồng lúc hừng sáng đã từ cầu Lầu qua nha cha mẹ dùng điểm tâm với cả nhà.

Khách tới sau vợ chồng cô Ba là pháp sư Chơn Huệ và ông Năm Tảo. Bà Bang biện bảo dọn món cháy cho pháp sư dùng rồi mời ông Năm mau chẩn mạch hốt thuốc cho Bửu. Bà thiệt sự run sợ cho tính mạng cậu. Cách đối xử ác độc của bà đối với cậu con ghẻ mới lớn kia thì bà con, chòm xóm đều rõ. Nhưng bà không muốn cậu chết. Trước hết bà không muốn mất một tên tớ trai giỏi dắn; sau nữa bà cũng ngại miệng lằn lưỡi mối phao vu bà giết lần mòn đứa con ghẻ bạc phước kia.

Pháp sư Chơn Huệ khoảng 40 tuồi, da dẻ hồng hào, cặp mắt sáng, cái nhìn dịu dàng và trang nghiêm. Ông tiếp chuyện vợ chồng bác sĩ Lê Thạnh Mậu nhưng thỉnh thoảng sắc mặt lại lộ vẻ nghĩ ngợi. Bác sĩ Lê Thạnh Mậu trắng trẻo, phương phi nhưng ánh mắt mệt mỏi, cái nhìn thờ ơ. Cô Ba Cẩm Tú đẹp sắc sảo, cao lớn hơn cô Tư, da tuy trắng nhưng không có vẻ mát mẻ nõn nòa bằng. Bù lại, ông trời lì xì cho cô đôi má lúm đồng tiền để cô làm duyên làm dáng với cuộc đời. Hôm nay cô Ba mặc áo dài nhung hường, quần sa- teng đen, đi dày quai nhung thêu cườm. Cổ đeo sưu bộ kim cương lập lòe bảy sắc cầu vồng. Khi tới nhà tía má ruột mình, cô vào buồng mẹ cởi áo dài, lấy trong giỏ xách chiếc áo bà ba bằng nhiễu tím than thêu bông hường ở bâu cổ, lai áo ra thay cho tiện lúc làm bếp.

Cô Ba hỏi cô Tư:

- Chùng nào dượng Tư mới về tới?

Cô Tư Cẩm Lệ:

- Từ Sài gòn về đây ít nhứt cũng ba tiếng đồng hồ nếu không kẹt bắc Mỹ Thuận. Nhưng em tin ảnh sẽ về đây trước khi bày mâm cúng.

Cô Ba kể với em:

- Nè Tư, đêm qua chị nằm thấy chiêm bao thấy mình nuốt hột trái xá lỵ, nhưng rồi từ dưới rún chị tuôn ra một luồng khói, bay lên trời tụ lại thành mây rồi tản mác đâu mất. Chẳng biết điềm gì vậy?

Cô Tư nhìn chị:

- Sao lạ vậy? Còn em thì chiêm bao thấy con rắn chui vô bụng em rồi chui ra, chín lần như vậy. Lần chót nó cắn bụng em nát tanh banh tét bét...

Bà Bang biện nói át ngay:

- Ối! Mộng triệu bá láp bá xàm! Hơi đâu bây thắc mắc cho hao tâm tổn trí! Bà con lối xóm sắp tới phụ giúp nấu nướng rồi, bây liệu mà chỉ biểu họ. Hôm qua tụi trẻ giỡ chà bắt được khá nhiều tôm càng, cá lóc, bây làm sao cho mâm cúng ê hề tươm tất thì làm! Má còn phải lo tiếp khách danh giá trong tổng, trong làng.

Ông Năm Tảo sau khi chẩn mạch cho Bửu liền bước ra trung đường, nơi ông bà Bang biện, bác sĩ Lê Thạnh Mậu, cậu Hai Luyện đang hầu chuyện pháp sư Chơn Huệ. Ông bảo:

- Tui xin nói thiệt cho ông Bang biện lo liệu. Cậu Bửu bị chứng lao sái. Lao sái mạch thường đi với Sác hoặc Sắc hoặc Tế. Chứng nầy phát ra nhiều nhiệt, tuôn mồ hồi dầm dề, ho ra máu, da thịt gầy mòn, vóc mình ốm o so lại. Riêng mạch của cậu Bửu đây đi Sác Tế mà Sắc là chứng chết. Tuy biết vậy nhưng tui cũng gắng hốt vài thang thuốc cho cậu. Biết đâu nhờ ơn Trời Phật, ông bà, mạch đi Vi Sắc thì cậu sẽ có hy vọng sống. Nhưng bịnh nầy thập tử nhất sinh, có sống thì cũng vướng bịnh nan y cho tới chết. Đối với người lớn tuổi hai lá phổi rắn chắc hơn nên bệnh lao lâu phá hư. Đằng nầy cậu Bửu mới tuổi trăng tròn, hai lá phổi còn non yếu, tui không dám chắc cậu có sống được tới sang năm!

Bác Sĩ Lê Thạnh Mậu góp ý:

- Tuy tui không rõ ngành Đông y nhưng ông Năm đây luận bịnh rất đúng. Ông Năm cứ trị bịnh cho cậu bằng thuốc bắc, tui sẽ trị bằng thuốc tây.

Nãy giờ pháp sư Chơn Huệ lặng thinh theo dõi cuộc luận bịnh của ông Năm Tảo, bây giờ mới lên tiếng:

- Cứ để cho ông Năm đây điều trị. Ông bà mình thường nói, hễ nhiều thầy thì hư bệnh. Lại nữa, anh chị lu bù công kia việc nọ, nếu để thằng cháu tui ở đây thì không ai săn sóc. Chi bằng anh chị cho người võng cháu về chùa, tui sẽ săn sóc cháu tiện hơn.

Bà Bang biện Hưỡn nói:

- Bạch thầy, thầy dạy rất phải. Vộ chồng tui xin cám ơn thầy.

Bà ngó qua chồng thấy ông cứ làm thinh, uống trà từng hớp. Bà biết ông đã khứng chịu vì chứa một thằng con nít mới lớn mắc bịnh truyền nhiễm thì cực lòng cực trí cho bà biết bao!

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Tuy tui không biết sống chết ra sao nhưng tui có thể cứu mạng nó được vì tui có rộng thì giớ. Tháng tới nữa tui đi Thất Sơn tu luyện, sẽ đem nó heo luôn. Nó rủi có chết thì có tui trợ niệm hồng danh A di đà Phật để nó nhờ tha lực của Phật mà vong linh được vãng sinh về chốn An bang Tịnh độ.

Sư vừa nói tới đây thì cô Tư Cẩm Lệ từ bếp bước lên nói nhỏ vào tai mẹ. Bà Bang biện lật đật xuống bếp. Cô xầm xì xụt xịt:

- Mới nãy con Lý thấy con chim tứ nhánh cây bằng lằng bên hè lao xuống dãy đành đạch chết liền tức khắc. Đã vậy, con Lài đi xán măng Mạnh tông gặp bụi trê bên miễu thổ thần trổ bông. Hễ tre trổ bông là tre sắp chết...

Bà Bang biện lại mắng lấp:

- Bây khéo tin chuyện bá láp! Chim sa cá lụy là chuyện thường. Còn tre trổ bông là tre già, hễ có già thì chết, có gì lạ đâu? Nhà ông ngoại bà ngoại bây thiếu gì bụi tre trổ bông mà mấy cậu bây thâu góp huê lợi dư muôn, thăng quan tiến chức, vẻ vang vô cùng. Riêng tao, tao thấy chim xa hà rầm. Vậy mà có sao đâu?

Sắc mặt bà vẫn lộ vẻ hoan hỉ như thường. Thằng con ghẻ bà đau nặng. Mấy cái điềm xấu điềm gở kia chắc chắn ứng vào cái chết sắp tới của nó, việc gì bà phải bận tâm? Cho nên bà bước lên nhà, bảo pháp sư Chơn Huệ:

- Thôi, từ rày vợ chồng tui giao luôn thằng Bửu cho thầy. Mỗi tháng tui sẽ cấp cho nó năm đồng bạc, cho chùa mười đồng. Trước khi thầy đưa nó đi Thất Sơn, tui sẽ sắm sửa cho hai chú tháu thầy không thiếu thứ chi, kể cả lộ phí. Khi nào thầy trụ được nơi ăn chốn ở chắc chắn, nhớ biên thư cho vợ chồng tui biết, đặng hằng tháng tui gửi măng- đa cho thầy.

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Tui chỉ nhờ anh chị lo thuốc men cho cháu để nó được chỏi hỏi rồi tui sẽ dẫn nó lên tu trên núi Cô Tô. Ở đó có nhiều khách đàn việt lo cho hai chú cháu tui, khỏi phiền tới anh chị. Cháu có chết cũng có các đạo hữu tụng niệm. Nếu may ra cháu sống sẽ tu hành. Dù rằng ai tu nấy chứng nhưng cả ba họ tuy không được phần huệ nhưng chắc chắn sẽ được phần phước nhờ công tu của cháu.

Bà Bang biện Hưỡn nhai trầu rau ráu, mặt ngời sắc hân hoan. Bà thứa biết mình có độc căn, khó mà phát huệ. Vả lại bà cần phước chớ đâu lý gì tới cái thứ huệ bá láp tầm phào kia!

Sau đó, một mặt bà Bang biện sai cú Bảy lực điền cùng thằng Xiêm võng Bửu đến chùa; một mặt bà sai con Lài chọn mùng mền, chiếu gối mới toanh cùng bốn bộ quần áo cũng mới đem qua chùa cho Bửu. Bà còn cắt đặt thằng Đực mỗi ngày đem thuốc men và mọi thứ cần dùng khác cho bịnh nhơn.

Trong khi ở nhà ông Bang biện Hưỡn đang tưng bừng khách khứa đến dự tiệc thì ở bên chùa Long Đức, pháp sư tụng kinh Cầu An để cầu lành bịnh cho cháu. Uống hết hai thang thuốc do ông Năm Tảo hốt, Bửu bớt nóng, đổ mồ hôi và ngủ một giấc êm đềm sảng khoái. Pháp sư Chơn Huệ nhủ thầm: "Từ rày thằng này sẽ phải nương nhờ cửa Phật để tránh roi vọt của nghiệp quả!"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 3

Pháp sư Chơn Huệ rước Bửu về chùa cũng có nguyên nhơn dựa vào con mộng giữa canh ba của sư. Trong cơn chiêm bao đó, sự thấy mình đi sâu vào xóm Bánh Phồng giữa vùng lau sậy bát ngát, đến một ngôi mộ đắp đất nằm giữa hai mương nước loáng thoáng những cánh béo tai lá tròn tròn. Một người đàn bà mặc áo bà ba trắng, quần vài xiêm đen ngồi bên mộ dưới cây phù dung trổ bôn trắng. Nười đàn bà bảo:

- Bạch thầy, chắc thầy chưa quên tui. Tui là cô Hai Kim quê ở xóm Bánh Phồng nầy. Bởi tui bạc phước, mới lớn đã bị anh của thầy là ông Bang biện Hưỡn cưỡng bức cho tới mang thai. Sau đó bà Bang biện cho tui về ở chung với bà ngoài Cầu Đào. Thời gian đó thầy đi vân du miệt Nam non Bảy núi, tầm sư học đạo nên thầy chưa gặp mặt tui lần nào. Trong bốn năm trời, tui bị bà lớn đối xử hà khắc thái thậm, chịu chửa mắng, đánh đập như cơm bửa. Sau đó, ông Bang biện còn mua sở ruộng mười mẫu ở Hòa Mỹ. tui được bà lớn cho phép đến đó cất nhà trông coi trâu lúa cùng các tá thổ tá điền. Ai dè năm năm sau tui bị chứng huyết trắng. Không được thuốc thang điều trị châu đáo nên tôi chịu ốm o mòn mỏi nhắm mắt lìa đời, bỏ thằng con dại cút côi cho bà má lớn nó hành hạ. Ngày mai thầy tới nhà ông Bang biện xin cho con trai tui theo hầu thầy, bởi giữa thầy và nó có mối túc duyên trải qua bốn kiếp. Cả hai nếu không làm cha con thì cũng làm chú cháu, thầy trò. Thầy an lòng, đừng sợ bà Bang biện tứ chối vì đã tới lúc giữa bà Bang biện và con trai tui trả hết ác nghiệp oan oan tương báo, con tui sẽ theo thầy thoát vòng tục lụy.

Đúng như lời cô Hai Kim dặn, pháp sư đến nhà anh chị mình gặp lúc Bửu đang lên cơn bịnh mê man và đang lúc bà Bang biện Hưỡn muốn trút của nợ cho sư.

Tối hôm đó, pháp sư Chơn Huệ tụng cho cháu chầu kinh Dược sư rồi mới ngồi tọa thiền. Sáng hôm sau, Bửu đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Pháp sư Chơn Huệ mừng lắm, sai chú tiểu Như Pháp nấu cháo thiệt lỏng trộn với sữa hộp cho cháu ăn.

Xong xuôi, đợi khi Bửu ngủ, pháp sư Chơn Huệ cuốc bộ vào nhà ông Năm Tảo. Ông đang phơi khô cá tra, khô cá sặt trong sân nắng. Bên thềm nhà, con mèo mun nằm sưởi nắng, cặp mắt trong veo màu ve chai chong về phía sư.

Thấy có khách đến viếng, mà lại là một bực cao tăng, ông Năm Tảo đứng dậy chắp tay xá xá, miệng niệm hồng danh "Nam mô a di đà Phật" rồi mời pháp sư vào nhà. Bà Năm Tảo từ bếp lên, rối rít:

- Bạch thầy tới chơi. Chiều nay xin thầy ở đây dùng bữa cơm chay với tụi con.

Phÿp sư Chơn Huệ bảo:

- Mô Phật, mỗi ngày tôi chỉ dùng một bữa ngọ traii mà thôi. Hôm nay tui đến dùng trà với ông Nhăm và có việc cần tham vấn cùng ông đây.

Ông Năm Tảo mời pháp sư ngồi ở ghế trường kỳ, Bà Năm niêm nở:

- Trá thì lúc nào nhà cũng có, nhưng hôm qua có một bà ở miết An Hữu lặn lội tới đây biếu cho tía sắp nhỏ bốn lượng trà ngon gọi là thưởng tái đoán bịnh, trị bịnh của ổng.

Bà quày quả xuống bếp sai cô Hai súc bình và chén, cô Ba nhúm lữa nấu nước, mà phải là nước mưa trong chiếc mái đầm tích trữ từ hối năm ngoái.

Trong khi chờ trà, pháp sư hỏi ông Năm Tảo:

- Ông nhắm coi thằng Bửu có thể hết bịnh không?

Ông Năm trầm ngâm:

- Thưa thầy, tui chẳng biết có phải phước chủ may thầy hay không! Hồi sáng hôm qua, tui bắt mạch cậu Bửu thì thấy mạch đi sắc tế, tướng chết hiện ra. Vậy mà sáng nay thì mạch lại đi vi sác, có cơ may sống được. Nhưng cậu dứt được bịnh lao hay không thì tui không dám nói trước.

Khi bà Năm bưng khay trà lên, ông Năm Tảo lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Ông e dè nói:

- Căn bịnh của cậu Bửu thì lạ lắm thầy ôi! Tui nói ra đây không phải là muốn gieo hoang mang cho thầy, chớ bịnh của cậu lúc quỉ lúc ma, lúc chường lúc ẩn, tui không biết sao mà đoán! Lúc mới vô buồng cẩu, tui thấy quanh giường cẩu có nhiều kẻ mặt xanh nanh bạc, có cả một mụ già mặt đầy vết rỗ vết thẹo gớm ghiếc. Tụi nó chập chờn ẩn hiện. Khi thấy tui bước vô thì biến mất. Lúc đó cậu Bửu nằm mê man. Tui bắt mạch thì thấy trong sáu bộ mạch của cẩu, không mạch nào phát hiện. Tui biết cẩu bị ma dựa nên đọc kinh trừ tà. Chừng giáp bã trầu, mạch bắt đầu máy động ở quan bộ nhưng không hiện rõ phù, trầm, trì, sác. Tui bèn đọc tiếp 105 biến Tiêu tai cát tường và 105 biến Phật mẫu chuẩn đề thần chú. Đó rồi mạch lao sái hiện ra, nhưng đó là mạch của kẻ sắp chết. Vậy mà từ khi về chùa, mạch cẩu lại thay đổi. Thuốc thang do tui hốt đâu có hể hiệu nghiệm mau như vậy được! Vậy xin thầy gắng chờ năm mười bữa hoặc nửa tháng coi bịnh cẩu sẽ xoay chiều đổi hướng tốt đẹp hơn chăng!

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Những điều ông thấy, tui không lấy làm lạ đâu! Những bóng quỉ mặt xanh nang bạc cùng mụ quỉ mẫu mặt thẹo kia chỉ là những vong hồn bao kiếp trước về báo oán cháu tui. Giớ đây, cháu tui đực vong linh má nó phù trợ, lũ ma quỉ kia khuấy phá lần chót cho sạch oan nghiệp để sau nầy nó hưởng phước quả tròn trận. Tui tin rằng khi nó theo tui lên tu trên núi Cô Tô thì nó sẽ dứt bịnh.

Bà Năm Tảo ngó về phía bếp nói vọng xuống:

- Tụi bây mau đem bánh trái ra đây. Tụi bây làm gì lúc thúc ở trỏng mà không ra chào hầy?

Hai cô Túy từ bếp bưng mâm mận, xoài, đu đủ lẫn khóm xét miếng, một dĩa bánh phục linh, ba chén sương sa hột lựu. Hai cô chấp tay cúi chào pháp sư rồi xuống bếp nấu thêm nước châm trà.

Bà Năm Tảo lấy ba lượng bột huỳnh tinh, một lượng đường phèn, trao cho sư, ân cần bảo:

- Gọi là chút phẩm vật cho cậu Bửu. Thầy dặn chú Như Pháp khuấy bột trong hoặc bột trứng cá cho cẩu ăn. Khuấy bọt trứng cá thì đẹp mắt nhưng ăn lâu tiêu hơn khuấy trong. Bột huỳnh tinh Mỹ Khê xứ Quảng phải khuấy đường cát trắng, đừng khuấy với đường thẻ hoặc đường cát mỡ gà mà kém màu gương vẻ ngọc.

Ông Năm Tảo trách vợ:

- Má hai con Túy lôi thôi quá! Sao không tặng thầy một ít quế Trà Bồng xứ Quảng để thầy mài ra uống lỡ khi đau bụng.

Bà Năm Tảo liền vào trong mở thùng kẽm lấy quế ở ngăn trên. Thùng kẽm có hai ngăn, ngăn nầy cách ngăn dưới bằng một phên tre, bên dưới đổ đầy mật ong. Chỉ có hương mật ong mới có thể xua tan ẩm mốc và giữ quế lâu dài.

Trước khi từ giã ra về, pháp sư Chơn Huệ tặng ông bà Năm Tảo bốn đạo bùa trừ tà chép Lăng Nghiệm thần chú bằng chữ Bắc Phạn trên giấy mỏng. Giấy chép được xếp thành một miếng hình vuông, bề dài một tấc, bề ngang ba phân, bề dày một phân. Cô Hai Túy Ngọc đã may sẵn bốn đãy gấm để đựng bùa, mỗi người trong nhà giữ một đãy. Ông Năm Tảo dặn:

- Tuy là mỗi người giữ một đạo thần chú, nhưng mẹ nó và các con không nên cất giữ trong chốn buồng the là chỗ uế trược. Nên đặt bốn túi gấm ở chỗ bàn Phật thì hơn.

Nhìn bóng nắng rút khỏi nửa giàn mướp trên vạt đất giáp sân trước, bà Năm giục hai con:

- Mau nấu cơm đi. Ba bây ăn cơm sớm để còn đi Cái Sơn Lớn cho kịp con nước.

Cô Hai xách nồi đồng đi đong gạo. Nhà nầy phải nấu ba lon một nhúm, cơm ăn không hết thì sẽ rang váo lúc sáng mai cho ông Năm Tảo ăn chắc bụng. Cô Ba xách rổ ra vườn hái một trái mướp hương, một mớ rau bồ ngót, rau giên gai, đọt mồng tơi để nấu canh tép bạc giã nhuyễn. Cô cũng đã ướp sẵn mớ cá chạch với tiêu, tỏi, nước mắm trong cái tộ sành thô nặng. Ông Năm rất ưa món cá chạch kho nghệ, mà phải do tay cô Ba kho ông mới bằng bụng. Kho loại cá nầy là phải giữ nguyên mùi sông rạch thấm vào sớ cá. Đó là mùi bùn, mùi cỏ năng, cỏ lác, cỏ song chằng. Mà ai nói cá chạch ăn độc? Xôi ơi, cá chạch ăn bọt nước để sống thì độc sao được! Mà thịt cá dẫu có độc, cô chỉ dằn vào tộ cá một chút đọt gừng xát chỉ là bao nhiêu độc khí cũng bay ráo trọi, bao nhiêu độc chất cũng bị hóa giải tuốt luốt!

Đang lúc hai chị em làm bếp thì bên cửa hông vườn có tiếng gọi giựt ngược:

- Con Hai, con Ba đâu mở cổng ráo cho chị Út bây qua ngoạn cảnh một chút coi nào!

Cô Hai Túy Ngọc nhìn qua cô Ba Túy Nguyệt cười chúm chím. Rồi! Tại họa đùng đùng tới rồi! Đúng như bà Năm Tảo hay phàn nàn: Nhắc vàng nhắc bạc thì khó thấy, chớ nhắc cô gái già Út Ngan kia là có ngay! Út Ngan chê cái tên Ngan không êm tai, không văn huê đài các nên tự xưng là Út Ngọc An. Út Ngọc An không xấu. Cái hại của cô ta là tưởng mình đẹp nên õng ẹo quá trớn, làm dáng làm điệu thả giàn. Cô ta lại có cái lưỡi đôi chiều thiệt nguy hiểm. Hễ gặp hai đàng thù nghịch nhau, cô đâm bị thóc chọc bị gạo, khen đàng nầy chê đàng kia, dùng lời khích bác cho mối thù hai bên càng thêm sâu đậm. Tuy nhiên, bà Năm Tảo lẫn hai chị em cô Túy đều thích cách nói chuyện pha lửng của cô ta dù họ công kích cái miệng độc địa và cái lưỡi đêu xảo của cô. Thực tâm, cô Út Ngọc An không hiểm độc, cô ta nói xấu chỉ vỉ nhu cầu mua vui một cách bịnh hoạn mà thôi.

Cô Hai cời đống than đỏ rực trong chiếc cà ràng đỏ để có cơm cháy dưới đáy nồi. Xong xả, cô qua hông vườn, mở cửa cho cô Út Ngọc An bước vào. Cô thấy cặp mắt cô Hai ướt sũng nước mắt vì khói bếp, liền cất giọng eo éo:

Hai tay nưng vạt áo dài,
Chặm lên con mắt, chặm hoài không khô.

Cô Hai Túy Ngọc hỏi:

- Chị nấu cơm xong chưa mà coi bộ rảnh rang quá vậy?

Cô Út liếc xéo cô bạn hàng xóm:

- Ông già tao với anh Ba đi ăn giỗ ở Lộc Hòa. Vợ chồng anh Hai thi xuống Cá Mau làm mắm từ hai tháng nay. Nhà chỉ còn hai má con. Hôm qua tao mua được mớ cá mục chở từ biển Ba Động về kho chan bún. Nấu cơm làm chi cho mắc công!

Hôm nay Út Ngọc An mặc quần cẩm quất trắng, áo bà ba bằng hàng bombay màu cà phê sữa. Về nữ trang, cô đeo chiếc cẩm thạch huyết ở tay mặt, cẩm thạch xanh hoa lý ở tay trái. Tai cô đeo bông chạm tỉ mỉ, ngón tay đeo chiếc cà rá nhận cẩm thạch hột vuông.

Út Ngọc An nói:

- Cha chả, hôm nay trời nổi gió, nắng thì trong mà gió thì lồng lộng. Thời tiết kỳ cục! Tụi mình vô bếp đi. Hễ thời tiết tráo trở thì gió máy độc địa lắm, bịnh như chơi!

Cô Hai thừa biết cô Út muốn vô bếp để dòm hành coi chiều nay cả nhà ăn cơm với những món gì. Tuy ghét cái tật tò mò tọc mạch của cô Út nhưng cô vẫn đưa cô Út vào bếp. Cô gái già đảo mắt qua những nồi, những soong thức ăn đang nấu trên mẻ than đỏ rực, phê bình:

- Cá chạch xứ nầy tuy mập nhưng không ngon bằng cá chạch ở sông Vàm Cỏ. Năm ngoái tao đi thăm dì Tám tao ở kinh Bà Bèo ăn cá chạch đã đời. Kinh Bà Bèo chảy qua quận Cai Lậy cũng là nhánh của sông Vàm Cỏ Tây đó đa! À, sao tụi bây kho cá đối mà không chiên? Con nầy quê quá. Nhà tao thích ăn cá nục, cá thu kho hơn.

Cô Hai nhìn em. Cô Ba Túy Nguyệt có vẻ bực mình, sắc mặt lợt lạt, nguýt cô Út một cái bén ngót. Cô Hai êm ái giải thích:

- Cá thu, cá nục lâu lâu nới có bán ở chợ cá tỉnh mình. Bởi vì xứ nầy xa biển, phương tiện giao thông từ biển Ba Động tới tỉnh mình chưa được dồi dào, cho nên muốn có cá biển kho nấu thiệt là khó. Mấy ai được như nhà chị!

Cô Út Ngọc An hãnh diện:

- Vậy mà nhà tao có cá biển ăn hoài hoài. Đời nào tao thèm ăn chả cá thác lác chiên. Tao làm chả bằng cá thu.

Cô Ba cự nự:

- Sao chị dại quá vậy? Thịt cá thác lác dẻo hơn, ngọt béo thần sầu. Cá thu mà đem làm chả thì thua cá thác lác một trăm cây số. Đành rằng cá thác lác nhiều xương, nhưng nếu mình khéo lóc thịt đem quết chả thì sẽ ngon gấp mười lần thịt lý ngư trong ao Dao Trì trên thương giới.

Thấy tình thế giữa cô Út và em mình có mòi găng, cô Hai kéo cô Út ra ngoài, bảo:

- Trong bếp hơi than nóng bức, chi bằng chị em mình ra bến sông ngồi chơi cho thảnh thơi tâm trí.

Cô Út đành bước theo cô Hai ra bến sông. Nơi đó, bên mé nước có những cây gừa buông rễ lồng thòng xuống mặt nước. Giờ nầy, nước dòn lênh láng đầy sông, xẻo. Màu nước nâu đục in vòm trời xanh trong, lơ thơ vài cụm mây trắng. Cả hai ngồi xuống chiếc băng cây đặt dưới tàn cây mãng cầu xiêm, sát bên mé nước. Cô Út chợt thấy một sợi óc vướng trên cổ áo bà ba của cô Hai, bảo:

- Con nhỏ nầy chưa chi đã rụng tóc rồi. Mầy mà tới tuổi ba mươi coi chừng cái đầu sói sọi như đầu mấy con quạ tháng bảy cho coi!

Cô nhặt sợi tóc thổi vèo ra phía sông. Cô Hai Túy Ngọc hoảng hốt:

- Í, đừng chị ơi! Không nên đâu!

Cô Út Ngọc An tròn mắt:

- Sao không nên?

Sợi tóc bay ra khỏi đám lục bình hoa tím, rớt trên những lớp sóng lăn tăn rồi trôi ngược phía vàm sông. Cô Hai bảo:

- Bác Chín gái nói với má em rằng, ở dưới đáy biển, đáy sông có loài thũy tộc nhiều phép thần thông. Loài nầy ưa tìm cách lên cõi trần để gian dâm với phụ nữ. Hễ cô nào bị tụi nó tư thông thì mang bịnh ốm o gầy mòn cho tới chết.

Cô Út cắt lời:

- Ai lại không biết đó là bịnh mắc đàng dưới!

- Bởi vậy con gái bắt đầu trổ mã thì đừng nên tắm ở sông rạch, cũng đùng giặt quần áo của mình ở khe rạch, sông ngòi, ao bàu, hay vũng... Nếu có giặt thì giặt trong thau chậu rồi đổ nước trên đất. Cũng không nên vứt tóc, móng tay, đờm, máu kinh nguyệt dưới nước. Có vậy mới khỏi mắc bịnh đằng dưới.

Út Ngọc An ngơ ngẩn:

- Hại không! Tao lại quên cái chuyện mầy vừa nói chớ. Thiệt tao bậy quá chừng chừng!

Bỗng bên kia bờ rào, giọng bà Chín Thẹo rổn rảng vọng sang:

- Con Út đâu? Mau về nhà hâm cá. dọn bún cho tao ăn. Chèn đét ơi, ai coi nó bận quần trắng mà dám đứng gần mé nước chớ! Thánh thần ơi, con gái người ta có ý có tứ, con gái tui thì u mê bạch tuột, không kiêng không cữ, chẳng biết dữ lành!

Cô Út Ngọc An đứng dậy phủi đít, bảo cô Hai Túy Ngọc:

- Bà già tao đang nổi máu sân rồi đó. Thôi, tao xin kiếu.

Bà Chín Thẹo mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen, tóc bới ba vòng một nọn. Khuôn mặt bà lúc giận coi thiệt đanh đá, Bà liếc xéo cô Hai Túy Ngọc, làm như có ai rù quyến con bà ra chỗ trống trải vậy.

Khi cô Út về bên kia khuôn viên bà Chín thì cô Hai khép cổng hông rồi lững thững vào nhà. Trời đả nhá nhem tối. Cô Ba thắp đèn rồi dọn cơm. Trong bữa cơm cô Hai thuật lại cho mẹ nghe vận sự cô Út thổi tóc cô xuống sông, việc cô Út mặc quần trắng đứng bên mé nước.

Bà Năm Tảo bảo:

- Có kiêng có cữ thì việc dữ hóa lành. Đất nước mình mới khẩn huâng lập ấp mấy trăn năm nay nên có đủ thứ yêu tinh, ma quỉ, tà quái. Làm gái xinh tốt càng phải giữ kỹ hơn. Bây mặc quần áo trắng đứng bên mé nước thì bọn Giang long, Hà bá, Thủy quan, Thủy quái thấy đít, ngực, hông, nách bây ráo trọi, tránh sao "họ" khỏi động lòng dâm dục, phựt ngọn lửa tình. Cho nên có đi xuồng, đi ghe, đi dạo trên bờ sông nhớ bận quần áo màu sậm, nhứt là nên bận đồ đen cho chắc ăn, vì màu đen có hể che mắt "họ".

Ong Năm Tảo thêm vô:

- Tụi con gái chớ nên soi kiếng chải đầu ban đêm. Bởi mặt kiếng lánh như mặc nước lúc lặng sóng nên "họ" thường ẩn trong mặt kiếng ban đêm vì ban đêm thuộc giờ âm, giờ của cõi âm, giờ của dưới nước lên trần tác oai tác quái.

Cô Ba ngứa miệng:

- Thưa tía, tía nói vậy sao phải! Bọn đào hát đêm nào mà chẳng soi kiếng để tô son trét phấn?

Bà Năm nguýt cô con gái ương ngạnh:

- Nói bậy nói bạ mà cũng ưa chó chét! Mầy quên rằng tổ nghiệp hát bội có oai lục thường che chở cho đào hÿt hay sao?

Trong bữa cơm dù có cá chạch kho nghệ, món canh rau mướp hương, món cà đối kho còn dư hôm qua, món chả cá phác lác chiên dầm nước mắm tỏi, nhưng ông Năm chỉ ăn có hai lưng chén cơm rồi gác đũa trên miệng chén, cháp tay xá xá tạ ơn người làm ra hột gạo. Bà Năm ân cần:

- Ông nên ăn thêm ba hột nữa kẻo đêm dài thức khuya đói bụng.

Ông Năm Tảo cười:

- Tối nay tui xuống Cái Sơn ngủ đêm, gia chủ thế nào cũng dọn ăn khuya, không vịt thì gà, bà sao khéo lo!

Ông sửa soạn hành lý chất trên chiếc tam bản để chéo ra sông. Cổ chiên cho kịp con nước suôi. Mảnh trăng thượng tuần méo xẹo méo xọ đã hiện ra ở phương đông. Bà Năm Tảo hối hai cô con gái tắm rửa rồi đốt nhang cúng nước trên bàn thờ Phật. Bà bước ra nơi hàng rào ngăn khuôn viên nhà bà và mảnh đất có cây da xà. Bà sẽ trồng cây xương rồng và cây độc trụ ở vòng rào ngoài, cây dâu tằm ăn ở vòng rào trong. Bà tin rằng xương rồng và dâu tằm ăn có thể trừ ma tróc quỉ như ông bà mình thường nói. Tuy cô Út Thoại Huê là vong cô của cô Ba Túy Nguyệt nhưng cây da xà là nơi trú ngụ của bao âm hồn thì nó thuộc về cõi âm. Bà không muốn cuộc đất của mình thông thương giao tiếp với cõi huyền bí đầy hung hiểm dọa dẵm ấy. Hai vòng hàng rào sẽ dựng nên cái biên giới giữa hai cõi âm dương. Nếu vong hồn nào rắn mắt toan qua khuôn viên bà để quấy phá, sẽ bị hai vòng hàng rào kia ngăn cản.

Sáng hôm qua, bà Năm Tảo đã chuộc cái bùa bát quái vẽ bằng sơn đỏ trên miếng kiếng hình bát giác để treo trên khung cửa chánh. Vẫn chưa an lòng, bà còn treo những khúc xương rồng. Bà sẽ trồng thêm cây khuynh diệp bên cổng, đám ngũ trảo trong sân dù ông Năm đã trồng ngũ diệp ở vạt đất trồng dược thảo. Loại cây cỏ có lá thơm kia chẳng những làm thông khí quản mà còn ngăn cản loài phong tinh vào khuấy phá.

Tối hôm đó, mãi tới đầu canh hai, ánh trăng mói soi khắp thềm sân. Cô Ba Túy Nguyệt tắm bằng nước nấu với lá từ bi, lá ổi, lá ngải diệp. Còn cô Hai Túy Ngọc thì đã tắm bằng xà bông sả và gội đầu bằng nước bồ kết từ hối chiều. Cô thắp nhang cúng nước trên bàn phật, lấy bùa trừ tà đeo và cổ. Vận sự cô Út Ngọc An thổi sợi tóc cô bay xuống sông cứ làm cho cô bào xào xao xuyến. Trời nực, cô ngồi bên cửa sổ ngó mông. Còn cô Ba thì vừa đặt lưng xuống giường là ngủ được ngay.

Đấu đêm, bóng nguyệt quới tỏa hương ngào ngạt. Những cụm lài ven tường cũng thoảng hương. Phải đợi tới canh ba, bông dạ lý mới bắt đầu dậy hương, trong khi nồng độ hương nguyệt quới loãng dần. Nguyệt quới và lài dẫu có thành tinh đi nữa cũng không đủ oai lực hiện lúc ban đêm. Duy mấy cây dạ lý từ bày năm sắp lên, đêm đêm hóa thành hình người đi dạo dưới trăng. Đó là những gì bà Chín Thẹo cam doan rằng mình đã mắt thấy tai nghe. Nhưng thiệt tình, hai cô Túy nghe thì nghe chớ làm sao tin nổi cái miệng ưa thêu dệt, đặt chuyện của bà. Vậy mà canh năm hôm nọ, hai cô gánh mắm và dưa gang từ Cầu Dài về nhà. Vừa khi tới cổng rào thì đã hừng sáng. Cả hai chợt thấy một cô gái cỡ mười bảy mười tám tuổi đứng phía trong bờ rào của khuôn viên ông bà Năm Tảo. Vốn tánh mau mắn, cô Ba Tuy Nguyệt chào trước:

- Chào cô. Cô ở đâu tới dây? Cửa ngõ khóa mà sao cô vô được?

- Cô gái ú ớ:

- Tôi... tôi đi xem mạch hốt thuốc. Tôi mới từ trong nhà bước ra...

Anh sáng lờ mờ của thời khắc bóng đêm sắp lui làm hai chị em không nhìn rõ mặt cô gái lạ, nhưng dáng dấp cô thiệt mảnh mai yểu điệu, chiếc áo màu xanh cẩm thạch của cô sự nức mùi hương dạ lý. Cô ta đi vào vùng tối lờ mờ của khu vườn rồi biến mất.

Khi cả hai vào nhà, cô Hai Túy Ngọc hỏi tía má mình:

- Mới hừng sáng mả đã có người tới coi mạch hốt thuốc rồi sao, tía?

Ông Nam Tảo chừng hửng:

- Ủa, ai đâu? Hồi canh năm má bây thức dậy lo nấu xôi, còn tía thì ngủ nướng mãi tới khi bây về chớ có ai tới đâu?

Cô ba thuật lại vận sự hai chị em vừa chứng kiến. Bà Năm không biết giải thích cánh nào, liền chạy lại bờ rào ngóng về phía nhà bà Chín Thẹo, gọi:

- Chị Chín! Chị qua tui ăn lót lòng. Tui có chuyện muốn thưa với chị.

Bà Chín Thẹo tại mân điểm tâm ờ nhà ông Năm Tảo sáng hôm đó, giải thích sự xuất hiện của cô gái bên bụi dạ lý như sau:

- Có phải con nhỏ đó xõa tóc không? Đờn bà con gái xứ mình hễ bận áo dài là bới tóc đàng hoàng chớ đâu để tóc ngang lưng như vậy! Cô gái đó không phải là" người ta" đâu! Cổ là con tinh của cây dạ lý, cũng áo màu cẩm thạch, cũng tóc xõa ngang lưng như vậy. Hàng rào nhà tao cũng có mấy khóm dạ lý già như hàng rào bên đây vậy.

Hai cô con gái tái mặt. Bà Chín trấn an:

- Tinh cây dạ lý hiền lắm. Tụi nó sợ loài người, không dám hãm hại phá phách gì đâu! Tinh loài ngải diệp thì ưa giả gái đẹp để chài bợm háo sắc. Còn loại cây lớn như cây da, cây mù u, cây sao, cây dầu, cây dương... sống từ 50 năm sắp lên đều hành tinh cả. Tụi tinh đó không chọc ghẹo phá phách ai, nhưng loài người cũng đừng chọc tụi nó, đừng đẽo thân hoặc tước vỏ, chặt nhánh, tỉa ngọn; đừng phóng uế dưới gốc nó mà mang họa.

Cuộc đất miền đồng bằng sông Cửu khẩn hoang chưa đến 500 năm. Mật độ dân chúng ở miệt vườn còn thấp. Hễ người sống thưa thớt thì nhưng kẻ cõi âm sẽ tác nghiệt lộng hành. Trời Phật ở xa, ma quỉ ở gần. Cố giữ cho khỏi đụng chạm tới chúng cũng đã mệt cầm canh rồi, có mấy ai đủ phép thần thông mà tróc quỉ, trừ ma, tấn công tà thần, áp đảo yêu quái?

Cô Hai Túy Ngọc có một nội lực vững vàng. Cô là một Phật tử thuần thành, nắm vững hai vấn đề từ bi và trí tuệ. Đới với cô, bọn tà thần, ma quỉ, yêu quái dầu có thần thông thế mấy cũng vẫn là những chúng sinh không tìm được hạnh phúc nên phải tắc oai, lộng hành cho hả cơn tức của mình. Hễ người sống biết giữ tâm chí, giữ lòng thanh tịnh thì không có âm binh, ma quỉ nào dám dựa, nhập, ốp vô mình được! Vẫn biết chúng tàn ác và rắn mắt, nhưng người sống phải mở lòng từ bi để đọc thần chú vãng sinh cho chúng, phải tụng kinh Phương đẳng Đại thừa chú nguyện cho chúng sớm giác ngộ, sớm siêu sanh. Với ý nguyện ấy, mỗi đêm cô thắp nhang tụng đọc bảy biến Đại bi thần chú trước khi ngủ. Nhưng từ bốn hôm rồi vì có kinh nguyệt nên cô không dám thắp nhang, cúng nước và tụng chú. Hôm nay mình mẩy sạch sẽ, nhưng cô cảm thấy còn bải hoải ngầy ngật nên tạm gác đọc thần chú qua một bên. Ngài mai nhất định cô sẽ tụng kinh Địa Tạng, hồi hướng cho những kẻ còn kẹt ở địa ngục và cầu cho dì Út Thoại Huê của cô mở lượng từ bi, tha thứ tên sở khanh Hai Luyện kia. Cô muốn nhắc nhở với vong linh người dì u mê kia rằng, chắc kiếp trước dì đã gây oan trái cho cậu Hai Luyện nên kiếp nầy cậu đòi nợ. Thôi thì dì nên chấm dứt vòng vay trả ở kiếp nầy để kiếp sao khỏi sa vào vòng oan oan tương báo.

Bỗng một cụm mây lớn vắt ngang qua mặt trăng làm cảnh vật tối sầm. Con trốt nổi lên. Cơn váng vất ùa tới làm cô Hai phải trở vào giường. Trống đã điểm canh ba. Khắp nơi lặng ngắt. Thỉnh thoảng có tiếng ếch nhái, tiếng nhóc nhen, tiếng vạt sành nổi lên ở bàu nước cuối vườn. Cô Hai Túy Ngọc chìm sâu vào cơn mê.

Cô thấy hai người đờn ông, một mặc loại vải dệt bông nổi như da sấu. Người mặc áo láng lẩy ẵm cô Út Ngọc An trên tay. Cô nằm mê man nhưn chết. Còn người mặc áo vải dệt bông nổi cầm sợi tóc trên tay ngắm nghía rồi nhìn cô Hai nheo mắt cười duyên. Người mặc áo láng lẩy nói:

- Thôi mầy, tụi mình nên về thủy phủ thì hơn.

Người mặc áo bông nổi chỉ cô Hai Túy Ngọc, bảo:

- Tao muốn bắt con nhỏ đó, nó xinh tốt như tiên nga. Lại nữa, tao giữ sợi tóc nó trong tay tức là tao đã cầm chắc cái bổn mạng nó rồi. Tao mà không bắt nó về làm vợ thì uổng lắm!

Người mặc áo láng lẩy can gián:

- Không được đâu! Con nầy có căn lành, có phước đức nên bổn mạng vững vàng. Lại nữa, tía má nó gây nhiều nhơn tốt, mầy không rớ tới nó được đâu!

Người mặc áo bông nổi xốc tới tính ôm cô Hai. Nhưng tay hắn vừa chạm tới mình cô là hắn la hoảng lên như chạm phải gai nhọn lửa nóng:

- Con nầy có đeo đạo bùa ghi thàn chú kinh Lăng Nghiêm!

- Tao đã nói mà mầy không nghe. Dẫu nó không đeo đạo bùa thiêng đi nữa, mầy cũng không rờ tới nó được đâu! Thôi, về thủy phủ với tao cho rồi.

Cả hai bỏ đi. Cô Hai Túy Ngọc chạy theo la lớn:

- Mấy người bồng chị Út Ngọc An đi đâu? Sao mấy người làm ngang bắt con gái người ta đi vậy?

Cô xông tới, giành cô Út Ngọc An lại. Cả hai trì kéo nhau. Tên mặc quần áo dệt bông nổi nhào vào xô cô té một cái đụi để tên kia bồng cô Út chạy mất.

Tới đây cô Hai Túy Ngọc tỉnh dậy. Nhà ngoài có tiếng xôn xao. Cô Ba Túy Nguyệt từ ngoài chạy vào, gọi chị:

- Nguy rồi chị ơi! Chị Út con bác Chín bỗng dưng kếu đau bụng rồi năm mê man. Chị em mình mau theo má qua nhà bác Chín coi sao. liệu có giúp được gì chăng!

Cô Hai Túy Ngọc liền chổi dậy rửa mặt xúc miệng, xức dầu cù là ở màng tang, mặc thêm chiếc áo bà ba ngoài áo túi rồi cùng mẹ và em đóng kín cửa nẻo bước qua nhà bà Chín Thẹo.

Ở đây đèm đuốc sáng rực, chòm xóm tụ họp nhộn nhịp. Ba mẹ con bà Năm Tảo tức tốc vô buồng cô Út. Cô nằm trùm mềm tới cổ, sắc mặt lợt lạt, mắt nhắm nghiền. Thỉnh thoảng cô cong người ngồi dậy, mắt mở trao tráo nhưng không nhìn ai. Cô rên: - Chu choa ơi! Đau bụng quá trời quá đất! Ai cứu tui với! Sao mấy người giữ tui ở đây, không để tui theo chồng tui!

Bà Chín Thẹo mếu máo kể với bà Năm Tảo:

- Con Út tui đang ngủ bỗng hét lên tỉnh dậy kêu đau bụng. Ông nhà tui cắt xương rồng, mài với nước mưa cho nó uống mà vẫn không bớt, cứ nằm thiêm thiếp lúc tỉnh lúc mê.

Bà Năm Tảo chắc lưỡi:

- Hại quá! Ông nhà tui đi Cái Sơn Lớm chữa bịnh, tui biết liệu sao đây! Nè Ba, con lẹ chơn chạy về nhà lấy khúc quế Trà Bồng để má mài với nước mưa cho chị Út con uống. Đang lúc cấp bách như vầy, để tui trổ tài châm cứu cho cháu, biết đâu phước chủ may thầy mà cháu khỏi bịnh chăng!

Cô Ba Túy Nguyệt trở về nhà lấy quế. Bà Năm Tảo hối gia chủ xắt cho bà hai miếng gừng và đốt một cây nhang để bà đặt gừng lên huyệt và châm nhang vào huyệt. Khi cô Ba đem quế qua thì cô Hai mài quế để đổ vào miệng bệnh nhơn. Mặt cô Út trở nên hồng hào, mồ hôi lạnh hết ra nhưng cô không tỉnh táo. Cô đảo mắt nhìn mọi người, cười ỏn ẻn rồi hát:

Con chim trả, ai vay ai trả?
Bụi cây sưng, ai vả mà sưng?
Đây người dưng, đó cũng người dưng.
Cớ sao giọt thảm rưng rưng ướt tròng?

Bà Chín Thẹo lay vai con gái, khóc tức tưởi:

- Út, má đây con, tỉnh lại đi con.

Cô Út nguýt mẹ:

- Ai là con của bà? Tui đây là con của bà Chúa khúc sông Bà Lại. Chồng tui ở phủ dưới đáy Cô Chiên, gần miệt vàm. Nhà chồng tui tường lót bằng kiếng soi mặt sáng trưng, mái lợp ngói lưu ly xanh biếc, trước nhà có hai cây bông đá một trắng một hường, cây nào cũng thiệt đẹp!

Bà Chín Thẹo khóc ngất, nhưng bà không hề xác nhận con gái mình mắc đàng dưới. Bà Năm Tảo an ủi:

- Chiều mai ông nhà tui về. Để rồi chị em bà con mình sẽ hiệp sức lo chạy chữa cho cháu. Chạy thuốc không hết thì chạy bùa, chạy ngải, cúng vái...
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 4

Xế hôm sau, ông Năm Tảo về tới nhà, được bà vợ thuật lại bịnh tình cô Út Ngọc An nên ông liền qua nhà ông bà Chín Thẹo. Lúc đó cô Út đang nói xàm, hát hò inh ỏi:

Tay tui che dù đầm, tay kia cầm quả banh
Chơn tui bước lên chùa, cửa chánh không vô.

Ông Năm Tảo bắt mạch cho cô Út. Rõ ràng là quỉ mạch chẳn sai, trong sáu bộ mạch, chẳn có mạch nào hiện ra. Ông liền bảo gia chủ:

- Cháu Út không có ịnh chi hết. Đây là ma dựa, quỉ áp đó thôi. Anh chị nên hỏi ý kiến pháp sư Chơn Huệ. Sư có nhiều bạn đồng tu ở miệt Năm non Bảy núi. Họ tu theo Mật Tông có thể trục quỉ trừ tà. Phép ma rốt cuộc sao qua phép Phật!

Rồi ông ngận ngùi ra về. Ăn cơm tối xong, ông lên chùa Long Đức. Bệnh Bửu thuyên giảm rất mau. Bây giờ cẩu đã chỏi hỏi ngồi ăn bột huỳnh tinh. Ông đợi cậu ăn xong rồi bắt mạch. Sau đó, ông bảo pháp sư Chơn Huệ:

- Lạ dữ, bệnh của cậu Bửu nầy lui thật mau, triệu chứng lao cũng không rõ rệt nũa.

Pháp sư Chơn Huệ chắp tay niệm Phạt rồi bảo người thầy thuốc thân thiết:

- Nghiệp dữ của cháu đã dứt, và cũng nhờ má cháu phò hộ nên dù bịnh quỉ bịnh ma, bịnh trầm kha, bịnh nguy cấp cũng phải dứt. Điều đó thiệt tình tui không lấy làm lạ chút nào hết.

Ông bà Bang biện Hưỡn sau khi làm đám giỗ cho bà mẹ ruột, liền giao nhà cho ông bà Năm Đặng tức em gái và em rể của bà Bang biện, để cùng cậu Hai, cô Ba, cô Tư đi về ngôi nhà đường của dòng họ ông mở tiệc khao cho cậu Hai Kinh lý. Bà Bang biện cho mổ một con bò và hai con heo, làm tiệc đãi ăn suốt bốn ngày ròng rã. Sau đó họ cùng về Cầu Đào. Tại đây có bác sĩ Lê Mạnh Mậu và trang sư Trần Hảo Hiệp vừa đánh cờ vừa chờ rước vợ về nhà. Trạng sư Hiệp tuổi ngoài ba mươi, hơi thấp người, thịt da săn chắc, mặt mũi khôi ngô, nụ cười có lúm đồng tiền. Hôm nay ông mặc áo sơ mi trắng sọc nâu lợt, quấn tây bằng vải tít- so màu ngà, áo vét cùng thứ vải với quần, cổ thắt cà- vạt vàng kẻ vạch nâu. Còn bác sĩ Mậu mặc quần ga- bạc- đin màu cà phê sữa, áo bằng vải ba- tít trắng, không thắt ca- vạt hoặc nơ bướm già ráo trọi.

Ông bà Bang biện Hưỡn hớn hở chào hỏi hai thằng rể và hối bày trẻ mang gà vịt, bánh trái vào trong bếp.

Cô Tư Cẩm Lệ vừa thất chồng là đổi sắc mặt vui tươi thanh thản thành bộ mắt chù ụ tối như đêm ba mươi. Cô bảo:

- Tui đã nói với mình, tui sẽ ở đây chơi với tía má tui năm bữa nửa tháng, luôn tiện nhờ ông Năm Tảo coi mạch hốt thuốc. Mình rước tôi về làm chi?

Trạng sư Trần Hảo Hiệp gãi đầu, mặt khổ sở:

- Anh xuống Vĩnh Long thăm mình, mai anh về sớm.

Cô Ba Cẩm Tú bảo em rể:

- Tui xin cung hỉ dượng Tư. Con em tui có triệu chứng ốm nghén rồi đó.

Trạng sư Hiệp hỏi vợ:

- Có thiệt vậy không mình?

Cô Tư Cẩm Lệ:

- Ờ, thầy thuốc bắc ở chợ lách chẩn mạch nói em có thai được hai thÿng rồi. Em cũng tin chắc em có thai, cứ tính theo kinh nguệt thì đủ rõ. Bà đồng cốt ở Cầu Kè còn nói kỳ này em sinh con trai, rồi quen dạ đẻ tới chín lần.

Bác sỉ Lê Thạnh Mậu bảo:

- Chừng đó sẽ hay. Miễn sao kỳ tới dì sanh cho dượng Tư một thái tử cho dượng mừng. Vợ trước của dưỡng chỉ sanh hai cô công chúa mà thôi, nên dưỡng đang đợi cậu trưởng nam đặng nối dõi tông đường.

Bà Bang biện Hưỡn khuyên con trai và rể rửa mặt cho mát, rồi giục hai cô con gái bắt hai con cá bông nấu cháo với giò heo.

Cô Ba Cẩm Tú khi vào bếp, bảo em:

- Tối nay anh Hai sẽ rước thầy Mười Khói đến đoán điềm giải mộng. Em nên o bế nồi chè trứng gà nấu với trà và đường đen đi.

Cô Tư Cẩm Lệ bảo:

- Mấy hôm nay ăn tiệc nhiều phát ngán ngược, cho nên má mớ sai chị em mình nấu cháo gà giò heo. Nghe tới trứng gà là em nhợn rồi, thôi để em nấu nồi che thưng vậy.

Hai chị em cùng hai con tớ gái lúi húi làm bếp. Trời đã xế bóng. Ngoài mé rạch xa, tiếng chim bìm bịp kêu văng vẳng. Bên thửa ruộng loáng nước, có tiếng cô thợ cầy hò:

Cây độc không trái,
Gái độc không con,
Lấy chàng đã chín năm tròn,
Ai dè phận thiếp còn son sẻ hoài
Một mai chồng vợ lìa đời
Cậy ai cúng giỗ, cậy ai nối dòng.

Cô Ba Cẩm Tú bảo:

- Nè Tư, coi vậy mà em có phước hơn chị. Nếu em không có con đi nữa thì cũng có lũ con ghẻ đó chi!

Cô Tư trề môi:

- Con ghẻ sao bằng con ruột? Em biết hai con quỉ cái đó không bao giờ ưa em, nếu không nói rằng tụi nó thù em tận xương tủy. Thấy bản mặt tụi nó mà em ứ gan, con lớn con nhỏ đều giống hệt con gái mẹ tụi nó.

Cô Ba dịu giọng:

- Em đừng hà khắc với tụi nó mà mang tiếng mẹ ghẻ ác độc. Tụi nó cũng đã mười bốn mười lăm rồi, em phải nới tay cho tụi nó mới được.

Cô Tư rùn vai:

- Chị chưa đút đầu vô cảnh mẹ ghẻ con chồng nên chị chẳng biết gì ráo trọi! Hai đứa con ghẻ của em giống con gái mẹ tụi nó, lầm lì, cứng đầu cứng cổ, sâu hiểm khôn lường...

Cô Ba nhẹ nhàng:

- Nếu chị không lầm, vợ trước của dựng Tư địu dàng mềm mỏng lắm.

Cô Tư Cẩm Lệ xí một tiếng dài:

- Ở xa ngó qua tưởng là Bồ tát, tới chừng lại gần thì quỉ La sát không sai.

Trong khi cô Tư chặt giò heo thành từng khúc, cô Ba đơm bốn chiếc đĩa quả tử nào xoài, đu đủ, mãng cầu, mận, chuối cau, bánh ích, bánh in, bánh đậu xanh... để đặt trên cổ bồng mỗi bàn thờ.

Cô Tư Cẩm Lệ kể lể:

- Mụ ta muốn hại em nên em phải trở cờ lật ngược đòn phép của mụ - Tới đây cô ngập ngừng - Mà thôi, mụ cũng đã nhắm mắt lìa đời rồi, em không muốn nhắc lại chuyện cũ làm chi.

Khi con lý đi mua bún tươi về thì con Lài đã làm xong hai con cá bông lớn. Cô Tư cẩm Lệ bắt đầu nấu cháo trong khi cô Ba sắp bún ra đĩa và xắt rau ghém trước khi làm món tương chấm. Có mặt hai con tớ gái, hai cô không dám bàn chuyện gia đạo nữa.

Ở nhà trên, bà Bang biện Hưỡn vừa têm trầu vừa suy nghĩ. Mới hồi sáng, khi ghe bà vừa chèo ra khỏi vòm sông thì một con cá úc từ dưới nước phóng lên khoang ghe dãy đành đạch rồi nằm ngửa phơi cái bụng trắng nõn. Cậu Hai Luyện săm soi con cá bạc phước kia rồi nói gọn: "Nó chết rồi". Chim sa cá lặn nói lên vẻ đẹp của các mỹ nhơn nước Tàu, còn chim sa cá lụy đây báo điềm xui xẻo cho gia đình bà, chẳng biết ứng vào ai? Ờ ờ, chắc là nó ứng vào thằng con ghẻ bà. Nó bệnh lao vào tuổi mới lớn, chắc chắn Ngọc Hoàng sẽ giũ sổ nó trong vòng hai năm sau.

Ngay lúc đó thằng Đực từ bên chùa Long Đức về. Nó thưa với ông bà Bang biện Hưỡn:

- Thưa ông bà, bịnh cậu Bửu mười phấn giảm hết chín rưỡi. Con nghe ông thầy Năm nói chứng lao sái của cẩu cũng chỉ mập mờ.

Thầy thuốc Tây Lê Thạnh Mậu cười khì:

- Tui không tin. Bịnh lao là bịnh nan y, làm sao mà bịnh nhơn bình phục mau lẹ dường ấy. Họa chăng là bịnh gì đó mà ông Năm lầm là bịnh lao chăng?

Cậu Hai Luyện bảo:

- Ai biết đâu! Tui chỉ thấy bây giờ nó chỏi hỏi, ăn cơm lìm lịm.

Bà Bang biện Hưỡn têm trầu thiệt kỹ. Đó là động tÿc để bà che giấu cơn bối rối của mình. Chu choa ơi, nếu thằng Bửu không chết thì cái điềm tre già trổ bông nọ cùng cá lụy chim sa kia ứng vào bổn mạng của ai trong vòng chồng con bà? Lại nữa, lúc Bửu đang cơn bịnh ngặt, bà liền giao cậu ta cho phÿp sư Chơn Huệ, kể như bà đã thí một con chốt mà chẳng hốt được con xe nào trong ván cờ tướng. Vậy là bà mất một cách oan uổng tên tớ trai để sai vặt. Lam sao bà đòi Bửu lại được đây? Ừ, thôi thì bà đành mặt trơ trán bóng, mặt chai mày đá để bắt lại đứa con ghẻ siêng năng giỏi dán, mặc lời ong tiếng ve, kệ sấm sét búa rìu dư luận. Bà tin chắc em chồng bà cũng phải nể nang uy lực của chồng con bà mà nhượng bộ.

Khi cả nhà ăn cơm xong thì bóng trăng mập nõn nà treo trên cành lá của cây mít tố nữ. Vợ chồng cô Ba Cẩm Tú chưa về vội. Còn cô Tư Cẩm Lệ đốc thúc con Lài con Lý chuẩn bị trà nước, hễ thầy đoán điềm giải mộng tới thì phải múc chè ra chén và châm trà vào bình. Hai cô Cẩm cùng đi rửa mặt, chải tóc cho có vẻ sáng mát tươi tỉnh đôi chút.

Thầy Mười Khói tuổi trên sáu mươi, nhưng mặt chưa nhăn nhiều, khuôn mặt hí hửng như mặt hề, mắt hấp háy, nụ cười rộng toàng hoạc. Hễ mỗi khi thầy cười thì đuôi mắt thầy bẻ cúp xuống coi thiệt tức cười.

Chè và trà bánh dọn lên. Cậu Hai Luyện đốt đèn măng- sông thay thế cây đèn huê kỳ đật giữa trung đường. Sau màn che bánh, đờn ông cùng thầy Mười Khói chia nhau ngồi trên hai chiếc trường kỷ đặt hai bên chiếc bàn dài. Bà Bang biện cùng hai cô con gái ngồi trên chiếc đi- văng chơn quỳ đặt bên trái trung đường.

Ông Bang biện Huỡn vô đề sốt dẽo:

- Chẳng dấu gì thầy Mười, lóng rày gia cảnh tui có nhiều điềm lạ. Trước hết là cây tre ở sau nhà trổ bông.

Thầy Mười Khói ngon lành:

- Trẻ già thì trổ bông để chết, chẳng có điềm gì ráo đối với gia đình tu nhơn tích đức. Còn đối với gia đình thường thường, hễ ai trồng cây tre đó thì người đó gặp xui xẻo, có khi tánh mạng lâm nguy.

Bà Bang biện Hưỡn vui mừng:

- A di đà Phật. Cây tre đó do má chồng tui trồng đó đa. Nhưng bà đã ngủm từ tám chín năm nay rồi. Còn chim sa cá lụy thì ứng vô điềm gì đây?

Thầy Mười Khói gãi đầu ra chiều suy nghĩ lung lắm:

- Đó là điềm tang tóc. Hễ chim sa, cá lụy vào giờ nào thì người trong gia đình mang tuổi cùng tên với giờ đó sẽ vong mạng.

Cả nhà đều buồn rầu lo lắng. Thầy Mười Khói an ủi:

- Ông bà nên nhờ thầy chùa cô vãi tụng kinh Cầu An và kinh Dược Sư rồi tới ngày rằm ngày vía đức Địa Tạng Vương Bố Tát nên mua chim cá về phóng sanh thì tai nạn dầu lớn cách mấy cũng nhẹ bớt đi nhiều.

Bà Bang biện thành khẩn:

- Cám ơn thầy có lời khuyên bảo. Vợ chồng tui sẽ làm đúng lời thầy chỉ dạy.

Cô Ba Cẩm Tủ đợi cho cuộc đoán điềm lắng dịu và thoảng lui, liền rời khỏi bộ divan chơn quỳ, bước tới sau lưng chồng, nói với thầy Mười Khói:

- Thưa thầy, tui có giấc chim bao lạ lắm. Tui thấy mình nuốt hột trái xá lị, nhưng từ rún tôi xịt ra luồng khói mỏng. Khói bay lên trời tụ lại thành mây. Rồi con trốt nổi lên, đánh giạt cho mây rời rã. Chẳng biết điềm gì đây?

Thầy Mười Khói hớp một ngụm trà Liên Tâm, có vẽ lưỡng lự:

- Cái hột tượng trưng cho dòng giống. Giống trái xá lỵ tức là giống trái lê, bởi vì người Bắc kêu trái xá lỵ là trái lê. Giống họ lê chui vô bụng cô rồi thì cũng rã rời như khói như mây. Kỳ đậu thai tới. thai nhì vừa tượng hình thì cũng không có dịp chào đời sau chín tháng mười ngày.

Cô Ba Cẩm Tú xụ mặt, trở về bộ divan chơn quỳ, không nói không rằng. Cô Tư Cẩm Lệ vẫn ngồi tên divan, cất tiếng rổn rảng hỏi thầy Mười Khói về giấc mộng con rắn chui vô bụng cô rồi chui ra tới chín lần, lần sau nó cắn bụng cô cho tới nát bấy. Thầy bảo:

- Đây là thai quỉ, thai yêu. Cô coi chừng con ranh con lộn khuấy phá cô đó. Hễ tới chín lần là nó hại cô cho tới mạng vong.

Bà Bang biện Hưỡn hứ một tiếng bất bình rồi tuột xuống divan, hằn học liếc xéo thầy Mười trước khi phủi đít, ngoe ngoảy bỏ vô nhà trong.

Khi ba mẹ con bà Bang biện Hưỡn vừa vô nhà trong thì con LÝ bưng lên hiệp trà sâm cho cả ba giải lao. Cô Ba Cẩm Tú cằn nhằn mẹ:

- Mà nóng nảy quá, chưa chi làm hư bột hư đường ráo trọi. Mộng điềm xấu như vậy thì mình nên nhờ thầy Mười Khói chỉ cách cúng vái để hóa giải bớt điềm hung tướng ác, cớ sao má vùng vằng bỏ vô nhà ra cái điều hờn lẫy như vậy?

Bà Bang biện liếc xéo con gái:

- Thằng cha đó có cái miệng nói xàm, bây tin thằng chả có ngày bán lúa giống! Mai, tao sẽ sai thằng Đực thỉnh thầy Bảy Lục và cô bóng Mười Hai về đây cúng trừ họa căn.

Cô Bà và cô Tư không nói gì thêm. Sau đó, gần tới nửa đêm, thầy Mười Khói từ giả ra về. Cô Ba Cẩm Tú cũng theo chồng về nhà riêng ở bên cầu Lầu. Cậu Hai Luyện liền hạ đèn măng- sông xuống, đố đèn huê kỳ lên rồi mới xả hơi đèn măng- sông để tắt. Cô Tư Cẩm Lệ mời chồng đi rửa ráy mình mẩy và súc miệng. Cô còn mở tủ cẩm lai lấy chiếc gối nhiều màu cánh sen thêu bông mẫu đơn trắng bày lên chiếc giường của cô để chốc nữa chồng co kê đầu.

Bà Bang biện Hưỡn khi về buồng riêng, bảo chồng:

- Nghe nói thằng Bửu giờ đây đã mạnh rồi, ông liệu cách nào bắt nó về đây. Tui nuôi nó, tui mến nó. Để nó ở chùa ăn chay lạt, sống kham khổ, tui không đành lòng.

Ông Bang biện e dè:

- Hồi nào bà nói vời thầy Chơn Huệ giao đứt thằng Bửu cho thầy, bây giờ bà còn mặt mũi nào đòi nó lại?

Bà Bang biện háy chồng:

- Được rồi tôi sẽ nghĩ ra kế bắt nó về hủ hỉ với vợ chồng mình. Chuyện nầy là chuyện của tui, không mắc mớ gì tới ông, ông chớ bàn ra làm chi.

Ông Bang biện cười:

- Ừ, bà làm sao cho vuông tròn thì thôi tui hơi sức đâu nghĩ tời mầy chuyện lặt vặt đó. Tôi đã làm trành làm tréo mua được tám mẫu đất của anh Hương bộ Lạc tại Phước Hậu, giá chỉ có bốn ngàn đồng. Khi chồng tiền, làm giấy tờ xong, tui sẽ đi đóng bách phần đất. Hễ xong vụ cắt đất, tôi mới rành tâm rảnh trí lo ứng cử hội đồng quản hạt.

Vụ đất cát kể như xong, nhưng vụ ứng cử hội đồng ông thấy sao bấp bênh. Mấy tay ứng cử viên khác nếu không có bà con trong soái phủ Nam Kỳ thì cũng có bạn bè lẫn tay trong tay ngoài với những thế lực lớn như ông Chánh tham biện tỉnh nhà, ông phủ nầy, ông đốc phủ nọ... Chuyên lo kế iếp của ông là nhờ Cai tuần Xướng, kẻ nha trảo tâm phúc của ông, làm sao cho ông có dịp ân ái với cô vợ chửa của Cai tuần Hạp. Ông chỉ thích ăn nằm với đàn bà chửa từ ba tháng tới năm tháng. Cái thai lớn vừa phải thì ông ham nhưng cái bụng bự chang bang của đàn bà mang bầu từ bảy tháng sắp lên thì ông không hứng thú chút nào.

Khi trống vừa điểm canh ba thì khắp nhà yên lặng gắt. Thỉnh thoảng có tiếng các kè ở chiếc miễu nhỏ cuối xóm vọng sang. Cô Tư Cẩm Lệ bắt đầu đay nghiến chồng:

- Tui không về nhà đâu! Bà già cứ trấn ngự nơi đó làm tui không dám ho lớn. Chừng nào bả trở về Thủ Dầu Một thì tui mới dám xách va- li về nhà.

Luật sư Trần Hảo Hiệp than:

- Em ở lì đây lâu quá, đồ khỏi bà già nghi em giận bả.

Cô Tư cười khẩy:

- Bả nghi trúng đó, mình à. Ối, cứ để bả nghĩ sao cũng được. Mình là thầy kiện, giỏi khoa cãi lý biện hộ, mình liệu lời nói với bả cách nào để trong ấm ngoài êm thì nói. Em bây giờ chán đời quá, ở đây hủ hỉ với tía má em được lúc nào hay lúc nấy. Lại nữa, hai đứa con ghẻ coi bộ muốn chống đối trả treo với em rồi đó.

Luật sư Hiệp cười:

- Làm gì có chuyện đó! Tụi nó trước sau vễn yêu kính mình như má ruột tụi nó.

Cô Tư Cẩm Lệ rùn vai:

- Mình nói thì mình tin. Hai con đó... trời biển lắm. Mình phải để tui uốn nắn kẻo có ngày vợ chồng mình nuôi thứ cháu ngoại không cha.

Hai vợ chồng cùng trèo lên giường. Cô Tư Cẩm Lệ mãi tới đồng hồ Oét- minh- tơ gõ hai tiếng mà vẩn không sao đỗ giấc nồi. Lời giải mộng của thầy Mười Khói cứ ám ảnh cô hoài. Bốn bề yên tĩnh. Ngoài hè, tiếng côn trùng sôi lên từng chặp. Thỉnh thoảng có tiếng dế gáy sương. Trên vách ván quét vôi trộn a dao màu trứng sáo, con thằn lằn chắc lưỡi từng loạt ngắn, dội sâu và cái thăm thẳm của đêm khuya.

Cô Tư Cẩm Lệ bỗng cảm thấy đầu nặng. Cơn váng vất làm cô thấy chung quanh tối đen. Ánh đèn chong như lùi xa vào tận đáy vựa thẳm nào. Bổng có tiếng chì chiết:

- Con giựt chồng người! Con sát nhơn!

Trước mặt cô hiện ra một người đờn bà mặc quần áo trắng, óc xõa dã dượi. Bà ta ốm nhom như con khô cá hố, da dẻ xanh chành, ánh mắt long lên sòng sọc. Người đờn bà nghiến răng:

- Con kia! Mầy biết tao là ai không?

Cô Tư Cẩm Lệ thều thào:

- Chị Tư Thục!

Người đờn bà gằn từng tiếng:

- Phải, tao là Tư Thục, người phối của thầy kiện Trần Hảo Hiệp đây! Mầy lấy chồng khính của tao, làm cho chồng tao lợt lạt với tao. Sau đó mầy còn hại tao tới chết oan chết ức.

Cô Tư Cẩm Lệ ngồi bẹp xuống lạy cô Tư Thục lia lịa:

- Lạy chị Tư, bởi vì em biết chị Tư ếm em nên em phải ra tay trước. Giờ đây, chị đến đòi mạng em, em xin chị nghĩ chút tình cũ hồi chị em mình còn chung sống hòa hiệp thuận thảo mà buông tha cho em nhờ. Bởi chị dồn em vô ngõ bí nên em lỡ tay hại chị.

Hồn cô Tư Thục bảo:

- Thiệt tình tao có nhờ thầy pháp thư ếm cho mầy lìa xa chồng tao. Đó cũng chỉ là việc bảo vệ hạnh phúc của bất cứ người đờn bà nào bị san sẻ tình chồng vợ. Tao cho mấy biết, mầy đừng mong ăn đời ở kiếp với chồng tao. Rồi đây mầy sẽ bị kẻ khác giựt chồng. Đó chỉ là cái hoa báo, còn quả báo thì ly kỳ rùng rợn lắm, có vậy thiên hạ bá tánh mới lấy cái gương tối độc phụ nhơn tâm ra để soi rọi đêm ngày. Hoa báo trổ trước, quả báo tượng hình sau... nghe chưa con sát nhơn?

Cô Tư Cẩm Lệ giựt mình dậy trống vừa điểm canh tư. Bên ngoài, ánh trăng tái ngắt lòn qua khe cửa lá sách. Chim heo kêu eng éc sau vườn nhà. Cô lăn qua nửa vòng, nằm nghiêng về phía trái lắng nghe tiếng tim đập mạnh trong lồng ngực. Một ý thức sáng lòa trong đầu óc cô: mình phải gồng mình đối phó với những diễn biến trầm trọng trong những ngày sắp tới.

Các đây ba năm, giữa lúc hai bà vợ lớn vở nhỏ ông thầy kiện Trần Hảo Hiệp cồng chung dưới một mái nhà ở Đa Kao Đấy Hộ ra vẻ thuận thảo lắm thì một hôm con Đương, đứa ở gái của cô Tư Thục tiết lộ với cô Tư Cẩm Lệ:

- Nè cô Tư, em nói ra đây để cô đề phòng. Bà lớn ((chỉ cô Tư Thục) hay về Phú Nhuận để lập bàn trù ẻo ông chủ và cô.

Nguyên cô Tư Thục là con ông bà Huyện Tịnh ở Phú Nhuận. Cô Thư Thục vốn hiền lành khờ khạo, hễ gặp chuyện gì trục trặc cũng về nhà tía má cô vấn kế. Con Đường tuy là tớ gái thân tín của cô Tư Thục nhưng nó bị cô Tư Cẩm Lệ bỏ tiền ra mua chuộc để thuê nó dò la cô chủ đã từng hết lòng tin cậy nó. Thế rồi nhờ con Đương, cô Tư Cẩm Lệ móc nối Chín Đáng, mụ nấu bếp của ông bà Huyện Tịnh để dò biết rằng bà Huyện Tịnh đã đến quận lỵ Tịnh Biên tỉnh Châu Đốc nhờ tên Thổ Sơn Eng lập cách trù ếm luật sư Hiệp và cô. Mụ không biết mục đích của cuộc trù ếm đó, chỉ biết rằng bà Huyện Tịnh mang vế hai cái hình nhơn bằng sáp. một đờn ông và một đờn bà. Bà cho hai cái hình nhơn đó đâu lưng với nhau, đặt trên bàn thờ ở căn buồng gần kho chứa nông cụ. Mỗi ngày bà vào căn buồng đó, thắp đèn nhang, đọc thần chú Miên rồi kêu tên Trần Hảo Hiệp và Tư Cẩm Lệ bảy lần. Mỗi khi rời phòng, bà đều khóa cửa cẩn thận.

Thiệt tình khi nghe Chín Đáng báo cáo, cô Tư Cẩm Lệ hoang mang sợ sệt lắm. Hèn chi trọn tháng rồi, thầy kiện tỏ ra bẳn gắt với cô và hễ đi làm về là chỉ quấn quít với vợ cái con cột của ổng. Mà hễ một khi ngủ trong buồng co là thầy lại bị chứng xây xẩm, có khi rên la vì nhức đầu. Do đó cả hai không thể ân ái được.

Cô Tư Cẩm Lệ nhứt định phải trả đũa. Cô lựa lời bảo chồng và cô Tư Thục:

- Má em bị chứng ban trắng, nhà lại neo người. Xin anh chị cho em về Vĩnh Long săn sóc má em một thời gian. Chừng nào bả chỏi hỏi, em sẽ về đây.

Khi về tới Cầu Đào, cô Tư Cẩm Lệ khóc kể việc trù ếm vơi bà Bang biện và cô Ba Cẩm Tú. Bà Bang biện bàn tận gốc ý nghĩ của mình:

- Giờ đây con Tư Thục trù ếm cho thằng thầy kiện và mầy xa lìa nhau. Nhưng mầy nên nhớ con Tư Thục không vừa đâu. Cứ coi tướng mạo của cỏn, tao biết đây là thừ đờn bà khẩu Phật tâm xà, sâu hiểm khó lường. Một khi nó trù cho duyên tình giữa mầy và thằng thầy kiện keo rã hồ tan rồi thì nó có ngại ngùng gí mà không thư ếm cho mầy vong mạng để báo thù cái chuyện mầy lấy chồng khính của nó. Tốt hơn, mầy phải ra tay trước để tránh hiểm họa về sau. Tiên hạ thủ vi cường, ông bà mình thường dạy như vậy, chẳng sai chút nào!

Bà dắt cô Tư Cẩm Lệ đi Tịnh Biên, tìm tới nhà vợ chồng người Miên chuyên về thư ếm, chồng tên Thạch Lợn, vợ tên Cà Nựng. Chồng làm nghề nắn đồ gốm, vợ thì sáng sáng gánh bún nước lèo ra bán ngoài chợ.

Khi cô Tư Cẩm Lệ trở về Sài gòn thì cô Tư Thục đã bị lớn bụng. Đúng như lời cam đoan của Thạch Lọn, trong bụng cô Tư Thục đã có miếng da trâu dày cụi. Thạch Lọn làm phép cho miếng da trâu ấy nhỏ cỡ hột bụi, đem gắn vô tờ giấy trắng, bỏ bao thơ gởi cho bà Nguyễn Trinh Thục. Khi cô Tư Thục nhận được lá thơ, khui phong bì, hột bụi đó bay trong không khí quanh quẩn theo cô. Khi cô hả miềng là nó chạy tọt vô miệng cô để xuống tận bao tử cô, bắt đầu nở ra, lấy lại tầm vóc cũ. Suốt bốn ngày cô Tư Thục đau đớn vì miếng da trâu kia. Cô mửa ra từng lọn máu, đi cầu cũng ra máu. Máu cứ theo miệng và hậu môn thoát ra ngoài, vắt khô sinh lực cô. Đến ngày thứ năm, cô Tư Thục trút linh hồn. Phép thư của Thạch Lọn đã giúp cô Tư Cẩm Lệ trừ được tình địch và đưa cô lên địa vị chủ phụ gia đình luật sư Trần Hảo Hiệp. Ông ta có hứa nếu cô sanh cho ông một cậu quí tử thì sẽ làm hôn thú với cô, nâng cô lên hàng chánh thất.

Cô Tư Cẩm Lệ đôi lúc thấp thỏm không an. Cái chuyện "tiên hạ thủ vi cường" đó có thê đi quá xa. Chắc gì cô Tư Thục có ý hại cô cho tới tuyệt mạng? Cho nên cô đâm ra sợ hai đứa con ghẻ. Tụi nó có khuôn mặt giống hệt cô Tư Thục. Ngày nào tụi nó còn chàng ràng trước mặt cô, cô còn bị ám ảnh bởi người chết, có cảm tưởng người chết hiện hồn về đòi mạng. Lại nữa, chúng có vẻ hỗn xược, lì lợm, lúc nào cũng như sẵn sàng ứng chiến với cô. Bởi đó cô phải
đày đọa, xéo xắt chúng một cách ồn ào, để lương tâm bị những bận rộn huyên náo kia không có thời giờ cắn rứt cô, để bóng ma cô Tư Thục không có cơ hội ám ảnh cô.

Cô Tư Cẩm Lệ duỗi chơn tay, thở từng đợt dài. Tuy tâm trí cô bị dày vò bởi giấc chiêm bao vừa rồi nhưng vẫn dễ ngủ, chỉ một lát sau cô đã bắt đầu ngáy se sẽ.
Trong cơn chiêm bao hứ hai, cô thấy mình cùng cô Ba Cẩm Tú đứng trước cây da xà ở xóm Chuồng Gà. Lúc bầy giờ trăng sáng trải khắp bãi đất trống ven sông. Sông gợn sóng bạc sóng vàng lấp loáng. Bên kia sông, lò rèn đốt đèn leo lét và lửa trui sắt cháy đỏ rực trong lò. Dưới bến sông bên này bãi đất, xuồng câu tôm đốt đèn tán chai, chấm lửa vàng khè cỡ hột đậu phọng. Hai chị em cô Cẩm đứng trên dấu cầu nhủi. Cô Ba Cẩm Tú bảo em:

Khuya quá rồi, vạy mà gia đình người thợ rèn bên kia sông cũng còn làm việc.

Cô Tư Cẩm Lệ chợt giật mình bảo chị:

- Ừ, khuya quá rồi, sao chị em mình còn thơ thẩn ở đây?

Bỗng trong tàn cây da, có tiếng lanh lảnh vọng ra:

- Hai con kia, bây toa rập với hàng anh sở khanh khốn kiếp của bây gạt tao uống thuốc phá thai làm tao phải vong mạng. Sát nhơn thì giả tử. Nhưng tao không làm bay chết đâu! Bây phải sống không ra sống, chết không ra chết, khổ sở khốn nạn nhiều phen tao mới đã nư cho...

Từ trên cây da, một bóng trắng tuột xuống. Đó là một người đờn bà bận đồ trắng, tóc bỏ xõa, dáng ẻo lả. Y thị tiến về phía hai cô Cẩm, mắt trợn trắng xác, miệng mím chặt. Cô Tư Cẩm Lệ toan kéo chị mình chạy trốn nhưng chơn cẳng cô như bị chôn cứng, hai cánh tay tê liệt. Hồn ma hét:

- Tía mà bây là quân cường hào ác bá. Anh em bây là phường lang tâm cẩu hạnh. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt. Bây có chạy xa bay cao cũng khó mà tránh được!

Y thi xốc lại ghịt tóc hai chị em. Cô Tư Cẩm Lệ la bài hải, lọt ra khỏi cơn ác mộng. Thầy kiện Trần Hảo Hiệp ôm chặt lấy vợ, ân cần han hỏi:

- Cưng nằm chiêm bao thấy chuyện gì mà khóc lóc la hét om sòm dữ vậy? Coi kìa, mình mẩy em lạnh ngắt như ướp nước đá.

Cô Tư Cẩm Lệ còn run lẩy bẩy. Tuy nhiên cô nói trớ:

- Ối, chiêm bao bị tầm ruồng, hơi đâu em nhắc lại.

Ánh ban mai trắng đục lòn qua khe cửa lá sách. Luật sư Hiệp buông vợ ra, vươn vai ngáp rồi bảo:

- Dùng điểm tâm xong, anh sửa soạn về Sài gòn.

Cô Tư Cẩm Lệ soạn khăn mặt, xà bông, bàn chải chà răng, phấn đánh răng cho chồng làm thủ tục buổi sáng. Riêng cô, cô chải sơ mái tóc, thay chiếc áo túi cụt tay vải ba- tít trắng bằng chiếc áo bà ba lụa tím rồi xuống bếp.

Tại căn bếp bà Bang biện Hưỡn đang trông coi con Lài con Lý sửa soạn bữa điểm tâm. Cô sai con Lài:

- Lài, sẵn nước sôi, mầy pha cho tao ly cacao sữa uống chơi. Nhớ chế sữa hộp ít ít thôi.

Bà Bang biện đang hấp bánh ướt nhưn tôm khô. Trên chiếc chỏa lò lớn, cháo bồi đang sôi trong chiếc trả lớn bằng đất mỏng. Bả bảo cong ái:

- Món cháo bồi nầy má nấu bằng bột báng chớ không bằng bột gạo nàng hương. Tôm, thịt, cá bông, môn ngọt cắt khúc, đủ hết...

Cô Tư Cẩm Lệ hỏi:

- Bữa điểm tâm thịnh soạn như vầy, chắc là nhà có khách?

Bà Bang biện:

- Có ai đâu lạ, Chỉ có chồng của mầy. À, mới hồi tảng sáng con Ba có sai con ở qua đây biếu má một thố cá chái kho mẳn để dành ăn với bún. Nó có nhắn lát nữa nó qua Hạnh Huê Đường bổ thang thuốc bắc cho má chồng nó, sẵn dịp nó ghé đây ăn lót lòng luôn.

Cô Tư không nói gì. Cô uống từng ngụm sữa pha cacao, lòng bàng hoàng về lời đoán mộng của thầy Mười Khói và hai giấc chiêm bao vừa qua. Trước mặt mẹ, cô không dám để lộ cái lo sợ của mình ra. Chùng nào chồng cô rời khỏi nơi đây, cô sẽ tỏ rõ mọi sự cho mẹ hay để đối phó.

Qua tấm vách mắt cáo của căn bếp, mọi người nhìn ra có thể thấy xẻo dừa nước đang ngập nước lai láng. Ven bờ xẻo, cây khế trổ rực rỡ hoa tím. Giáp mé nước, bầy vịt xiêm đang lặn ngụp tìm mồi. Tại sàn nước, thằng Đực đang chùi rửa bộ đồ trà bằng xơ dừa và tro mặn. Còn thằng Xiêm đang cho mấy con gà sao, gà lôi ăn lúa...

Bà Bang biện Hưỡn nói vọng ra:

- Xiêm! Đực! Lát nữa tụi bây xẹt qua chùa Long Đức bạch với thầy Chơn Huệ rằng giờ đây cậu Bửu đã mạnh giỏi trở lại, xin thầy cho cậu về nhà, vì cậu Hai Kinh Lý tụi bây đang nhớ thương cậu Bửu, không đành lòng xa cẩu. Bây cứ tom hết quần áo cậu Bửu đem về đây cho tao.

Cô Tư Cẩm Lệ xững vững bảo mẹ:

- Má làm gì kỳ vậy? Má không sợ thầy phiền sao?

Ba Bang Biện Hưỡng:

- Mầy nói niếc! Thầy là kẻ tu hành. Thầy mà phiền tao thì làm sao thầy tu hành tinh tấn cho đặng? Tao già rồi, hai thứ tóc trên đầu rồi, đừng có dạy khôn tao, vô ích lắm!

Vừa lúc đó cô Ba Cẩm Tú từ nhà trên bước xuống, tay cầm dù, tay ôm bóp đầm da láng. Cô mặc chiếc áo bằng lụa tầm màu nguyện bạch thêu bông cúc tím lớn cỡ đồng xu. Cô bảo mẹ:

- Con đã bổ thuốc rồi. Con tới đây cho kịp ăn sáng.

Rồi cô quay qua bảo cô Tư Cẩm Lệ:

- Em ra ngoài hè, chị có chút việc muốn bàn với em.

Khi hai chị em cùng đi song song dưới hàng cây phù quân, sa bô chê, cô Ba Cẩm Tú bảo:

- Em ơi, đem qua chị nằm chiêm bao thấy hai chị em mình trong đêm trăng đứng ở đầu cầu nhủi, gần cây da xà. Lúc đó con Út Thoại Huê từ cây da xà tuột xuống đòi mạng. Rồi nó xốc lại ghịt tóc hai chị em mình.

Cô Tư Cẩm Lệ tái mặt, nắm chặt tay chị:

- Đêm qua em cũng nằm mộng như vậy. Trong chiêm bao, em còn thấy cái lò rèn bên kia sông. Lúc đó chị có nói câu: "khuya quá rồi, vậy mà gia đình người thợ rèn hãy còn làm việc".

Cô Ba Cẩm Tú thảng thốt:

- Đúng vậy, chị có nói câu ấy. Còn em, em nói: "Ừ, khuya quá rồi, sao chị em mình còn thơ thẩn ở đây?"

Hai chị em nhìn nhau, có cảm tường sắp bị đưa lên máy chém. Té ra cả hai cùng nằm chiêm bao chung, cùng gặp gỡ nhau trong cõi ác mộng.

Cô Ba Cẩm Tú ngồi phệt xuống gốc cây phù quân, nước mắt tuôn như suối. Cô rên rỉ:

- Chị sợ lắm em ơi! Làm sao bây giờ đây?

Cô Tư Cẩm Lệ ngồi gần bên chị:

- Phải tỏ bày tự sự cho má hay. Hồn oan dẫu có muốn khuấy phá mình, nếu gặp thầy pháp cao tay ấn thì cũng không làm trò trống gì được.

Cô Tư Cẩm Lệ thuật lại giấc chiêm bao ban đầu cho chị mình nghe. Cô buồn thảm:

- Tình cảnh em còn khó khăn gấp đôi ba tình cảnh chị nữa. Em có tới hai oan hồn đòi mạng.

Hai chị em cùng lau nước mắt trở vô bếp. Bà Bang biện Hưỡn quét cặp mắt tò mò khắp mình mẩy hai cô con gái cưng, quở:

- Bây làm giống gì mà như bàn bạc hội kín vậy? Thôi, lên nhà trên dùng điểm tâm với cả nhà.

Bàn ăn hình hột xoài bằng ỗ cẩm lai, mặt nạm đá hoa cương trắng bóng, có trải nắp bàn bằng vải trắng thêu đục lỗ. Giữa bàn là chiếc thố lớn đựng cháo bồi, kế bên là hai dĩa bàn hình hột xoài đựng bánh ướt tôm khô. Lại còn thêm một dĩa bàn thiệt lớn đựng trứng gà chiên ốp la.

Mọi người vừa ngồi vào bàn thì con Lý đem bình cà phê và bánh mì lên. Mọi người bắt đầu dùng cháo trước hết, sau đó mới qua bánh ướt. Bà Bang Biện Hưỡn bảo chồng:

- Tui đã bắt thằng Bửu về được rồi. Ai dè thầy Chơn Huệ không làm khó dễ gì hết. Thôi vậy cũng mừng.

Cả nhà không ai nói gì thêm. Sau cùng thầy kiện Trần Hảo Hiệp hỏi mẹ vợ:

- Sao cậu Bửu không ra ăn sáng luôn?

Bà Bang Biện:

- Kệ nó, để nó ăn chung với tụi thằng Xiêm, thằng Đực cũng được mà.

Và như chợt nhớ ra, bà dặn chồng:

- Kỳ góp lúa vừa rồi, thằng Cai tuần Ích, thằng Thường xuyên Học trộn nhiều trấu vô lúa. Kỳ tới ông phải bắt tụi nó giê lúa vô vịm nước, hễ thấy còn trấu nổi lên là ông phải bắt tụi nó giê lại cho thiệt sạch. Ông cứ ỷ y với tụi tá điền tá thổ, có ngày bị tụi nó bán đứng chớ không chơi đâu!

Cậu Hai Luyện hỏi mẹ:

- Chốc nữa má có đi chợ không?

Bà Bang biện nhìn cậu Hai:

- Không. Má đi ra Cầu Dài để đòi nợ. Con vợ thằng Năm Kình cứ hẹn lữa mà chưa trả tiền lời. Không lẽ hăm he nó hoài hay sao. Phen nầy má xiết đồ đạc cho nó tởn.

Rồi bà hỏi cậu con trai cưng:

- Mà con hỏi chi vậy?

Cậu Hai trả lời:

- Hôm nào má đi chợ, con sẽ đưa má tới nhà bà Huyện Huỳnh Kim Lầu coi cặp bông tai nhận hột xoàn. Con không ránh giá trị của ngọc nên không dám thương lượng giá cả với bả.

Bà Bang biện Hưỡn:

- Má bằng lòng mua hột xoàn cho con, nhưng nếu con muốn dùng đôi bông để cưới vợ thì má có sẵn một đôi hột ba ly rưỡi. Còn hột cỡ năm ly sắp lên thì con nên để làm của hộ thân.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 5

Bửu trở lại kiếp tôi đòi như cũ. Trong mấy ngày đầu, bà Bang biện Hữu còn nới tay với cậu con trai đáng thương kia, tức là chỉ xay lúa, giã gạo mà thôi. Sau đó bà trở về tật cũ, bắt cậu bồi líp, móc,ương, tát nước vào ruộng. Hễ gặp chuyện bực bội, bà trút giận vào cậu, roi vọt, tát vả thường đi song song với lời mắng chửi.

Pháp sư Chơn Huệ sửa soạn đi núi Cô Tô,. Trước khi đi, sư cho chú tiểu Như Pháp tìm đến Bửu trấn an:

- Thầy dạy tui khuyên em nên ẩn nhẫn một hoặc hai tháng. Cái ác quả em cần phải trả cho sạch. Chừng đó, sư điệt của thầy là cô Thiệt Nguyện sẽ giúp em đi theo thầy.

Trước khi đi về miền năm non bảy núi, pháp sư Chơn Huệ có đến thăm ông bà Chín Thẹo và lập đàn tràng cầu đảo đức Dược Sư Ly Quang Như Lai p hù hộ cho cô Út Ngọc An khỏi bịnh. Sư khuyên ông bà Chín thọ trì bát quan trai giới, cúng đường các tỳ kheo, sư tụng bốn chín biến kinh Bổn Nguyện Công Đức, đốt bốn mươi chín ngọc đèn trước bảy bức hình tượng đức Như Lai va khuyên gia chủ mua chim, cá về phóng sanh.

Nói về cô Út Ngọc An, từ hôm lỡ bận quần trắng đi dạo dọc mé sông với cô Hai Túy Ngọc thì đâu chừng một giờ sau cô cảm thấy chóng mặt và bợn dạ. Chiều hôm đó, cô bỏ cơm nước, vào phòng nằm thiêm thiếp. Cô có cảm tưởng có chất gì nhớt nhớt bao quanh mình cô và một mùi tanh tưởi phảng phất trong phòng.

Trong cơn choáng váng ngầy ngật, cô thoáng nghe có tiếng xì xào:

- Con đó để dành cho tao.

- Ừ, xáp đại vô đi.

Cô Út bỗng thấy ngọc đèn dầu chong trên bàn gần cửa sổ tắt phụt rồi có tiếng chân khua tình thịch ở ngoài hè. Cô la lớn:

- Ăn trộm! Có ăn trộm bớ bà con!

Bà Chín Thẹo cầm thếp đèn huê kỳ bước vô, hỏi gặng:

- Út con, cả nhà còn thức, ăn trộm nào dám vô! Con có đói bụng không? Má nấu cháo cá, ngon lắm!

Nghe nói tiếng "cá", cô Út Ngọc An bỗng bợn dạ muốn mửa. Bây giờ khô lân chả phụng hay nem bát trân cũng không làm sao giúp cô quên mùi tanh tưởi khi nãy, cho nên cô lắc đầu từ chối.

Bà Chín Thẹo bước ra khỏi buồng thì chừng nửa tiếng đồng hồ sau cô Út bỗng nghe có tiếng thở phì phò như tiếng thở của trâu bò. Mở mắt tra, cô thấy một bóng đen to lớn đứng an ngữ ngọn đèn dầu dừa. Cô toan mở miệng la thì bóng đen thổi một luồng hơi lạnh ngắt và tanh tưởi vào mặt cô, mình mẫy hắn lầy lụa những nhớt trơn ướt. Cô cảm thấy khúc cây cứng xoáy vào hạ bộ, làm cô đau đớn chết giấc liền.

Từ đó thần thức cô Út thường chìm trong tình trạng nủa mê nửa tỉnh. Đôi lúc cô tỉnh dậy, cảm thấy bụng mình đau đớn như bị ai banh xé. Và khi cơn đau dịu đi nhờ những chén thuốc do ông Năm cắt cho, cô lại cảm thấy mình mẩy, tóc tai mình như bị bôi keo, và chất keo đó tuy khô vẫn tanh mùi nhớt cá, nhớt lươn. Không chịu nổi cảm giÿc nhờm gớm, cô vào buồng tắm xối nước. Mới xối một gáo, lớp keo gặp nước biến thành nhớt rớt nhễ nhại từng vũng trắng như nước cơm loãng. Do đó cô phải gội đầu thiệt kỹ bằng nước bồ kết và nước cốt trái chánh, phải tắm bằng xà bông sả, lượt thứ nhì bằng xà bông cô Ba ngáy mùi bông sứ. Cô phải chà răng súc miệng, ngậm kẹo bạc hà, xức sầu bông lài để báng mùi tanh lúc nào cũng phưởng phất quanh cô, chập chờn trong ảo giác cô.

Cô Út Ngọc An sợ nhứt khi mặt trời vừa lặn. Đó là lúc bóng đen trở về ôm ấp cưỡng bức cô. Cho nên cô ngỏ ý với mẹ, mời hai cô em bạn dì tới kê giường ngủ chung trong buồng cô. Mấy đêm đầu, không việc gì xảy ra. Cô Út mừng khấp khởi. Nhưng tới tối thứ bảy, trong lúc Kim Huê và Kim Liên – hai cô em bạn dì của cô – đang chuyện trò tào lao vớ vẩn thì cô Út nằm im trên giường, thần trí lơ mơ dật dờ dật dưỡng. Bỗng cô thấy ngọn đèn chong tr ên bàn bị án ngữ. Hơi thở lạnh ngắt và tanh tười của kẻ vô hình phà tới làm miệng lưỡi cô tê liệt. Hắn xốc lại ôm cô. Cô dùng hết sức bình sanh vật lộn với nó. Một tiếng rầm vang lên. Cô té rớt xuống giường. Kim Huệ và Kim Liên vội lay gọi:

- Chị Út! Mau tỉnh dậy chị!

Cô Út Ngọc An mở mắt thầy mình nằm sóng sượt trên nền nhà lót gạch tàu. Cô bàng hoàng nói:

- Có bóng đen vô đây. Nó xáp lại cưỡng bức tao. Lại nó nữa!...

Kim Liên cười:

- Có ai đâu! Tụi em tuy nói chuyện khào với nhau nhưng mắt không rời khỏi giường chị. Bỗng khi khổng khi không chị dãy đành đạch như cá mắc cạn rồi rớt xuống chơn giường.

- Rõ ràng nó vừa vô đây. Nó hôi tanh như dính nhớt cá. Mùi tanh giờ đây còn lảng vảng khắp buồng nầy.

Kim Huệ lắc đầu:

- Không có ai vô hết. Mà em cũng chẳng ngửi thấy mùi tanh nào. À, mùi hương nguyệt quới ở ngoài cửa sổ thoảng vào thì có.

Lúc đó cô Út Ngọc An mới biết rằng chỉ có mình cô cảm ứng được "người đàng dưới" chốn thủy cung. Hắn lên đây cốt cưỡng dâm cô nên cô mới thấy được hắn, mới ngửi được mùi tanh tưởi trên thân thể hắn. Chỉ có cô do nghiệp thức chiêm cảm nặng nề từ thuở tiền kiếp xa xăm nào dội lại nên mới bị hắn đeo đuổi khuấy phá. Người nhà thuật lại cơn mê sảng, khi thì cô nói cô theo chồng về nhà dưới đáy sông nầy, khi thì ở thủy cung nọ. Trước nhà có cây san hô hường, cây san hô trắng. Trong cơn hôn mê, cô còn tả nhiều giống cá đủ màu đẹp đẽ như chim đậu trên các nhánh san hô, nhưng thường thì chi tiết nầy tương phản chi tiết nọ. Khi tỉnh trí, cô không nhớ chi tiết nào hết. Mọi hình ảnh trong những giấc hôn mê như gió chuồi qua vùng ký ức nhão nhừ mệt mỏi của cô để rồi mất hút trong cõi hư vô đen đặc.

Ông bà Chín Thẹo chạy tới chạy lui lo mời thầy pháp, thầy bùa tìm cách trục con quỉ đàng dưới cho cô. Bụng cô Út Ngọc An càng lúc càng nở lớn như người bị chứng chai gan, như đờn bà mang bầu. Nhưng ông Năm Tảo không cho đó là triệu chứng ốm nghén. Cô chợt nhớ tới dì Mười Hai của cô, tức là người em út của bà Chín Thẹo. Bà bị một kẻ dị loại khuấy phá. Chẳng biết nó là âm binh hay cô hồn nhưng nó đã làm cho bà Mười Hai điên cuồng. Đêm đêm tắt đèn là bà thấy nó vào cưỡng dâm. Bà ăn đèn sáp, uống nước cống, nước đường mương. Bụng bà cũng chương lên, và sau chín tháng mười ngày bà đẻ ra một cục máu. Theo lời bà mười Hai kể, kẻ đó dầu không rõ mặt mủi nhưng lông lá khét nghẹt, hơi thở hôi hám. Người cho đó là xà niên, khỉ đột đội lốt; kẻ bảo là cọp mun, heo gấm thành tinh. Nhưng lời cắt nghĩa nghe không xuôi chút nào. Ở đây là vùng châu thổ, xa cách núi rừng thì làm sao có những loài dã thú thành tinh ấy. Buồng bà Mười Hai dù có gài chặt cửa nẻo, thắp nhang, dán đủ thứ bùa ếm quỉ trừ tà, nhưng cứ cách đêm là loài dị tộc lại theo bóng tối vào buồng. Bà Mười Hai cứ hết chửa đẻ hết cục máu nầy sang cục máu khác, hình vóc càng ngày càng hao gầy, mặt mày thỏn mỏn, da dẻ xanh chành. Cả nhà rước thầy trấn ếm riết nên hơn một năm nay, kẻ dị loại lâu lâu mới đến viếng bà một lần, nhưng không biết tới chừng nào hắn mới chịu phép rút lui hẳn.

Cô Hai Túy Ngọc và cô Ba Túy Nguyệt thường lui tới thăm nom cô Út Ngọc An và an ủi bà Chín Thẹo. Đối với cô Hai, cô Út vẫn là bạn lối xóm thân hiết nhứt dù cả hai trái tánh nhau. Cô Út hời hợt, bốc đồng, hay thẻo lẻo; còn cô Hai thì thâm trầm, kín đáo, nhu mì. Cô Ba thì tuy khắc khẩu với cô Út nhưng không vì lẽ đó mà cô để bụng thù hằn, ghét bỏ cô Út. Dưới mắt cô Ba, cô Út được cha mẹ nuông chiều quen thói nên ưa nhõng nhẽo, ỏn ẻn nhưng không có tâm địa làm hại ai. Cô nghĩ thần: "Chị Út không rõ kiếp trước có tội gì mà số mạng đẩy đưa chỉ tới bước đường cùng như vậy. Như bà Mười Hai vốn hỗn hào, dữ tợn, biến lũ cháu ở nhờ của mình thành tôi mọi không công, hùn hạp mở động đĩ, dụ dỗ gái sa cơ bước vào chốn bán phấn buôn hương thì mới đáng bị trừng phạt, chớ như chị Út đây, cảnh ế muộn lỡ thời cũng đủ làm chỉ đau khổ rồi. Bị vụ nầy, chắc chỉ chết mòn chết mỏi!"

Lật bật mà đã tới tháng sáu âm lịch, mùa mưa đang độ vào sâu. Cây diệp tây đầu xóm đơm bông đỏ rực như cây đuốc lửa khổng lồ. Hôm đó ông Năm Tảo bơi xuồng vào Long Thanh đẻ coi mạch hốt thuốc cho con trai người bạn thân, bà Năm Tảo đang chao mắm và gài dưa mắm ở nhà sau, còn hai cô Túy nấu cơm kho cá rong bếp. Bỗng có tiếng con chó Vện sủa ngoài ngõ. Nhìn qua mắt cáo, hai cô thấy thấp thoáng dưới khung cây bông giấy uốn vòm cung ngoài cửa ngõ một người đờn bà mặc áo màu xanh da trời. Cô Ba vội rửa tay rồi bương bả ra cổng. Một người đờn bà tuổi cở ba mươi, dung nghi đề đạm, mặt mày sáng rỡ, vóc mình thanh cảnh, tay che dù đâm, tay xách chiếc va- li da láng. Chị ta hỏi:

- Thưa cô, đây có phải là nhà thầy Năm Tảo hay không?

Cô Ba Túy Nguyệt gật đầu:

- Dạ đúng vậy. Đây là nhà tía của em.

Người đàn bà tự giới thiệu:

- Tui đây là đồ đệ của huề thượng Chơn Tánh, sư huynh thầy Chơn Huệ. Tui tu theo giới ưu bà di, tức là cận sư nữ, chớ không thọ giới sa di nữ, pháp danh là Thiệt Nguyện. Su thúc Chơn Huệ tui có gửi thơ lên Tri Tôn nhắn tui về đây trị bịnh chô con gái một khách đàn việt. Ngặt vì chùa Long Đức toàn là sư sãi nên sư thúc tui gửi tui lại đây ở một thời gian.

Cô Ba Túy Nguyệt bãi buôi:

- Thưa cô, ba má em đã chuẩn bị phòng ốc cho cô rồi. Cÿch đây vài bữa, thầy Chơn Huệ có tới đây gởi gấm cô cho ba má em.

Cô Ba mở chửa cho cô Thiệt Nguyện vào nhà. Nghe có khách, bà Năm Tảo bương bả gài hũ mắm chót. Còn cô Hai Túy Ngọc nhắc nồi cơm xuống, đặt ấm nước lên bếp rồi bước ra trung đường chào khách. Cô Thiệt Nguyện ngỏ ý xin ra nhà sau để chào bà Năm. Vừa thấy cô, bà Năm niềm nở:

- Mời cô Hai rửa mặt, nghỉ ngơi rồi dùng cơm trứa với mẹ con tui. Tui cũng ăn chay nửa tháng với cô cho có bạn.

Cô Thiệt Nguyện mở va- ly lấy ra keo mứt ổi và gói kẹo sầu riêng bụ tổ chảng gọi là làm quà biếu gia chủ. Cô cũng tặng cho mỗi cô Túy một xấp lụa cẩm trắng, một thứ tơ lụa nổi tiếng ở Châu Đốc. Cô bảo mẹ con bà Năm Tảo:

- Đã không biết thì thôi, chớ biết nhau thì đôi đàng nên coi nhau như họ hàng. Cháu xin kêu ông bà gia chủ bằng chú Năm thím Năm, còn gội hai cô Túy bằng em cho thân mật.

Bà Năm cảm động:

- Cháu có tấm thạnh tình ấy, thím rất bằng bụng. Thôi, cháu đi rử mặt cho mát. Thím phải đi tắm bằng xà bông sả cho báng hết mùi mắm đồng rồi sẽ hàn huyên. Thầy Chơn Huệ đã làm lệ vu qui y cho hai con em cháu đây. Con lớn có pháp danh là Thiệt Hạnh, con nhỏ là Thiệt Niệm. Tụi nó là sư muội của cháu đó.

Tổ dòng tu Mật Tông của huề thượng Chơn Tánh và pháp sư Chơn Huệ là Nguyện Hương trưởng lão. Dòng tu sẽ truyền theo các hệ lấy pháp danh từ câu kệ "Nguyện Giải Như Lai Chơn Thiệt Nghĩa". Những danh tăng và bổn đạo có pháp danh khởi đầu bằng chữ Chơn tức là thuộc vào đời thứ năm. Cô Thiệt Nuyện tuy không phải là sư nữ nhưng thấy của cô là ông Chơn nên cô được pháp danh khởi đầu bằng Thiệt. Hai cô Túy chỉ là Phật tử thuần thành nhưng vì giốc lòng làm công quả cho chùa, dẫu cam go gian khổ cũng không hế quản ngại nêm sư thương mến, ban cho hai cô pháp danh khởi đầu bằng chữ Thiệt.

Khi ba mẹ con bà Năm Tảo dùng cơm với cô Thiệt Nguyện xong thì ông Năm Tảo vừa về tới. Để làm vui lòng khách, hai cô Túy cũng ăn chay. Ngoài món tào hũ, đậu đũa, đậu ve, khổ qua, bí đao kho với tương hột, bà Năm còn làm thêm món đặc biệt là xác đậu hũ xào với gía, rau càng cua, gói bánh tráng nhúng nước, rau sống chấm nước tương giã tỏi ớt. Nhưng mâm cơm dành cho ông Năm Tảo thì có một tô cá mè vinh nấu ngót với cà chua và rau cần, một dĩa cá chi, muối chiên giòn.

Cô Thiệt Nguyện nói với ông chủ nhà:

- Sư thúc cháu mai mốt sẽ đi Tri Tôn tìm đường lên núi Cô Tô tu hành. Cháu ở đây tụng kinh Dược Sư cho cô Út Ngọc An tới khi nào cổ tai qua nận khỏi mới thôi. Vả lại cháu cũng có vài công chuyện riêng cần giải quyết cho xong.

Ông Năm Tảo nói:

- Việc đó chú cũng được thầy Chơn Huệ cho biết rồi. Thím Năm cháu đang may hai bộ cà sa, hai bộ nhựt bình cho thầy, còn chú thì đang soạn hai giỏ thuốc để thẩy đem theo phòng thân.

Bà Năm Tảo mời cô Thiện Nguyện nghỉ trưa. Bà nhứt định nấu nồi bánh trôi nước trước để đãi khách, sau nữa đãi hai cô Kim Liên, Kim Huệ vì trưa hai cô qua đây phụ giúp may quần áo cho pháp sư Chơn Huệ. Vào thập niên 30, máy may không được thạnh hành nên dân vùng quê hoặc vùng nửa chợ nửa quê đều may bằng tay. Bà Năm và hai cô kim có mũi chi khít khao đều đặn cũng như hai cô Túy, nhưng hai cô Túy phải lo làm tương chao cho chùa. Hai cô còn xay lúa giã gạo, chẻ củi chuẩn bị cho kỳ rằm tới.

Ăn cơm xong, ông Năm tảo xẩn bẩn bên vợ ở trong bếp. Ông thì thầm:

- Bữa đi An Hương chẩn bịnh, tui có ghé qua Hòa Mỹ để thăm cô Mười Hai. Cổ tuy bớt bịnh nhưng tầm hần hoảng hốt lắm. Cổ cứ than không hiểu sao hễ nghe chó sủa chó tru là cổ rùng mình mọc óc... Chồng cổ rủ tụi nhậu rượu đế cá khoai với mấy ông bạn lối xóm. Cũng dịp nầy, tôi nghe dồn nhiều gia đình ven sông có con gái mắc bịnh đằng dưới...

Bà Năm Tảo mơ màng hình dung lại con sôn Cổ Chiên, từ nhánh Tiền Giang chẻ ra, chảy qua tỉnh Vĩnh Long. Sông rộng minh mông, sóng bủa lao xao. Hễ gặp ngày gió lộng, sóng gối đầu lượng cao cỡ luống khoai luống đậu, ầm ầm như thét như gào. Bên hữu ngạn sông là phố Vĩnh Long, rồi Cầu Dài, cái Sơn Bé, Cái Sơn Lớn, An Hương,, Hòa Mỹ, Mỹ An. Bên tả ngạn là cù lao An Thành, cù Lao Minh... Ven cù lao chỉ có rặt cây bàn, một loại cây trầm thủy mà có người gọi là cây thủy liễu mọc trên các bãi lài. Ven bãi lài không có nhà cửa chi hết. Phải đi sâu hai chục thước mới gặp vùng đất cao, có làng mạc, thôn xóm, vườn ruộng, rảy bái. Còn ven sông thì vườn cây nối với đồng ruộng, thôn xóm càng lúc càng đông. Người ta xây lò gạch, lò rèn, xưởng mộc, trại đóng hòm, trại đóng xuồng, vựa mắm, vựa củi... Dân bên hữu ngạn trù mật nhìn qua vùng tả ngạn quạnh hiu bằng sự thèm thuồng lẫn kinh sợ.

Nơi các bãi lầy của cù lao có nhiều ốc gạo và bến mập tròn, thịt ngọt suốt từ tháng ba cho tới tháng chín. Hến cồn, ốc gạo cồn nổi tiếng khắp vùng Tiền giang, nhứt là ở Tân Phong, ở các bãi lầy Phú Đa và Phú Phụng. Nhưng ở đó lầu lâu xuất hiện một vài con sấu. Đêm đêm chỉ có các ghe thương hồ loại ớn cỡ ghe chài đi biển mới dám cắm sào gần các bãi hẩm và họ thường nghe tiếng sấu rống thâu đêm như tiếng trâu bò. Sấu không thích ra biển, mà lọi lên nguồn thì quá xa, các bãi hẩm ở các cù lao nằm giữa sông là nơi thích hợp chủa chúng. Trâu tắm trong nước bùn ở các bãi hẩm để trờ thành mồi ngon cho chúng. Người ta đồn nới đó có con sấu mũi đỏ thành tinh biến thành cô gái mặc áo đỏ đứng chàng ràng gần chỗ bầy tâu thả ăn cỏ trên gò gần bãi hẩm. Lũ trâu thấy màu đỏ, hăng máu chạy bổ tới. Co gái liến lùi về phía mé nước, lũ trâu nhào theo lầm mồi ngon cho bầy con cháu của con sấu thành tinh kia. Vài người đi mót củi bần, đi mò ốc hến bị sấu ăn thịt trở thành oan hồn uổng tử không đi đầu thai được, phải quanh quẩn chầu chựa sấu để sấu sai khiến. Muốn đi đầu thai, họ phải tìm kẻ thế mạng, tức là dụ dỗ người khác cho sấu ăn thịt.

Về sau, ông Chánh tham biện Pháp cho lính tuần giang cỡi tàu xà lan, tàu xà lúp mang súng đi săn sấu ráo riết, trước là trứ hại cho dân, sau là lột da sấu bán cho các xưởng làm bóp phơi, bóp đầm. Sau khi lũ sấu rời bỏ cù lao An Thành và cù lao Hinh, dân cù lao mới dám mò về mồ ốc ở các bãi lài, trong lòng các con rạch chảy len lỏi chằng chịt khắp cù lao. Vậy nhưng đâu đã hết! Sấu đi mà vong hồn đâu có chịu đi theo! Những oan hồn đó cứ quanh quẩn ở chỗ tử nạn kiếm người chết thế hầu đi đầu thai. Từ ma sấu họ biến thành ma da, dụ người mò ốc ra sông cái, xúi khiến cho bị vọp bẻ, chết chìm trong sóng nước. Vào những này lộng gió, những người từ hữu ngạn bơi xuồng ba lá qua tả ngạn thường bị sóng lưỡi búa nhận chìm. Sóng nầy không giống như sóng gối đầu, không di chuyển từng lượn nối tiếp nhau, mà chỉ trồi lên hụp xuống ở một chỗ. Vô phước ghe thuyền nào lạc vào chổ sóng có sóng lưỡi búa là bị nhận chìm ngay. Lũ ma da thường dùng loại sóng nầy để tìm người thế chưn cho mình.

Con sông Cổ Chiên là con sông âm hồn từ bao đời. Vào triều vua Tây Sơn, vong hồn càng thêm đông. Đó là các vong hồn của lũ giặc cướp Xiêm La từ cửa biển dùng chiến thuyền vào sông cướp phá dân chúng sống nời vùng cù lao, bị quân triều đình đánh bại. Tử thi của giặc và của quân Tây Sơn trôi dạt dờ trên sông nước, rã dần và nắm xương vô định chìm sâu nơi đáy sông. Vong hồn của những người nầy vì u uất hay vì u minh vọng động, không biết mình đã chết nên đêm đêm, vào những lúc trời quang mây tạnh, cuộc thủy chiến lại tái diễn trên sông, tiếng chiêng trống thúc quân vang lên văng vẳng hòa với tiếng hò hét mơ hồ trong gió. Một vài vong hồn nghĩa quân đạp đồng lên đòi dân địa phương cất miếu thờ cúng; đổi lại, họ thường phò hộ dân chúng trong việc trồng tỉa, chài lưới. Vong hồn lũ cướp thì không biết nói tiếng Việt nên không thể đạp đồng. Chúng tranh ăn với vong hồn nghĩa quân. Cho nên vào những đêm đông gió bão bùng, hai bên lại đánh nhau... Vong hồn lũ cướp cũng nương theo bọn "đàng dưới" cững dâm các cô xử nữ, làm cho các cô điên dại, ốm o gầy mòn cho tời chết. Vong hồn các cô gái đáng thương này bị dụ dỗ, bắt buộc theo phù tá những kẻ "đàng dưới", xúi giục các cô gái khác đổ nước giặt quần áo lót xuống sông ngòi, ao rạch hoặc để móng tay, tóc rớt xuống nước khiến bọn ma quỉ kia có cơ hội lân la đấn gần.

Năm ngoái, có ông Đạo Chuối từ vùng Tân Châu vân du qua cù lao An Thành. Sở dĩ ông mang danh ấy vì ông không ăn cơm như mọi người mà chỉ an chuối và uống nước lã để sống. Ông ta trạc tuồi lục tuần, mặt mày tươi nhuận hồng hào, mắt sáng như sao, tóc rậm và dài bới một cái bí bo bự chèm bẹp sau ót. Tuy để tóc nhưng ông mặc áo nhựt bình màu dà hoặc màu khói nhang. Ông tự xưng là giáo dân của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, khi đi ngang thấy yêu khí bốc lên ngùn ngụt dái theo mé cù lao An Thành nên ông muốn lập đàn giải oan giải thác cho các cô hồn phưởng phất trên sông nước. Hiện giờ ông cư ngụ tại am Tịnh Liên của ông Hương Cả Hành, gần ngôi đình, bên kia chiếc cầu cột gỗ căm xe lót ván.

Bà Năm Tảo thường bơi tam bản qua cù lao An Thành để đến nhà ông Hương cả Hành mua đinh hương. Từ khi cất am tu hành, ông ta dọn bốn công đất để trồng đinh hương bán cho các tiệm thuốc bắc. Bà Năm ngoài chuyện mua đinh hương còn thích món mắm cá cơm và cá linh do bà Hương cả cùng lũ con dâu làm để bỏ mối cho các tay bán lẻ bên chợ tỉnh. Bởi lui tới nhà ông Hương cả Hành thương xuyên nên bà được họ đối đoãi thân mật. Và cũng nhờ ông Năm Tảo mát tay coi mạch hốt thuốc nên gia đình ông Hương cả coi ông Năm như thần sư, coi thuốc ông Năm hốt như thánh dược. Hai gia đình qua lại giao hảo như thân thích. Hễ nhà ông Hương có giỗ chạp là bà Năm qua phụ giúp hai ngày từ hôm giỗ tiên cho tới sau bữa giỗ chánh mới về nhà.

Qua sự quen biết đó, bà Năm Tảo được yết kiến ông Đạo Chuối. Mỗi ngày, ông chèo xuồng đi ven cồn bãi hoặc vào các rạch, các ngòi đốt bùa rải tro để ếm những kẻ "đàng dưới" hoặc vong hồn những người chết đuối chết chìm. Có lần, trong một cuộc chuyện trò với bà Năm và bà Hương cả, ông thuật lại một vận sự như sau:

- Như bà con rõ đó, ở vùng nầy có bãi Tiên. Hễ vào đêm rằm tháng giêng thường có các tiên nữ trên trời xuống tắm. Nhưng mấy lúc gần đây, mấy cô gái chết vì bịnh mắc đàng dưới quá đông, vong hồn họ lang thang dọc theo các cồn các bãi, yêu khí quá thạnh nên các tiên nữ đâu thèm đến bãi để tắm như xưa. Vậy mà có hai gã trai trẻ ương ngạnh, vào kỳ rằm ngươn tiêu vừa tối bơi xuồng chơi trăng ở bãi Tiên. Tới canh ba, trăng treo vành vạch trên đỉnh ngọ, cả hai vừa bơi tắm vừa cười hát om sòm. Chừng giập bã trầu, nơi khóm lau rậm ven bãi, một bầy con gái tuôn ra, cởi hết quần áo để cùng tắm với hai anh chàng nọ. Họ xưng là tiên nữ theo hầu đức Diêu Trì Kim Mẫu ở Tây Huê Cung. Hai chàng nọ nghe qua mừng húm, bơi lội với họ đã đời rồi còn lựa hai cô đẹp nhất ra ân ái. Sáng hôm sau, dân đi mò ốc gạo bắt gặp hai chàng lõa lồ năm phơi trên bãi biển liền tri hô lên. Thấy ngực cả hai còn ấm, họ xúm lại hơ lửa xoa bóp rồi đưa về xóm. Tại đây, may nhờ có ông thầy thuốc nam cạy miệng đổ thuốc, châm huyệt với củ ngải nên cả hai đã hồi tỉnh sau khi ọc ra một đống nhớt sền sệt như keo và mấy con cá chốt, cá thòi lòi, cá rói còn nguyên xương thịt.

Chiều hôm đó, bà Chín Thẹo mời cô Thiệt Nguyện qua dùng cơm chay với gia đình bà. Sau đó cô đi tắm gội, chà răng súc miệng, mặc áo tràng và bắt đầu tụng kinh Bổn Nguyện Công Đức Dược Sư cho đúng bảy biến. Cô tụng từ đầu canh một cho tới cuối canh ba, khi bóng trăng mười hai nằm tận chót đỉnh vòm trời mới chịu trở về nhà ông bà Năm Tảo.

Đêm hôm đó cô Út Ngọc An không thấy gì lạ xảy ra nên cô ngủ một giấc thiệt êm đềm óng chuốt. Trước đó bốn hôm, pháp sư Chơn Huệ cũng đã tụng kinh nầy cho cô mỗi tối bảy biến. Kẻ đàng dưới kia vẫn tới cưỡng dâm cô nhưng lần đó khá ngắn so với thời gian trước. Cô hy vọng bắt đầu từ tối thứ năm nầy, nhờ tấm lòng thành của gia đình cô cùng tha lực của Phật, bịnh quỉ ám của cô sẽ bớt dần.

Cho tới hôm chót, sau khi cô Thiện Nguyện tụng xong biến thứ bảy, cô Út Ngọc An thấy tâm thần nhẹ nhàng, châu thân thơ thới, máu huyết lưu thông sảng khoái. Cô cảm thấy mắc tiểu nên tìm chiếc bô nhôm để tiểu tiện. Từ cửa mình cô. nhớt tuôn ra từng đợt trắng như lòng trắng trứng gà. Chất nhớt tuôn bao nhiêu thì cái bụng bự thè lè của cô xẹp xuống bấy nhiêu, cho tới lúc bụng cô thon nhỏ như chầu xưa mới thôi. Đêm đó cô Út Ngọc An nằm chiêm bao thấy mình đứng giữa một hang động được thắp sáng bởi những dĩa dầu mù u, ánh đèn vàng vọt và ảm đạm. Bỗng có kẻ mặt mày bặm trợn và hung ác sông tới ôm cô thì có tiếng đá nứt và nóc hang vỡ tung ra. Ánh nằng từ phương đông tràn tới làm vỡ tan hang động. Nước cũng ùa vào, nâng cô lên cao từ đáy lên tới mặt đất. Kẻ hung ác kia toan đuổi theo cô nhưng những tia sáng mặt trời biến thành những lưỡi kiếm đâm tới khiến kẻ đó phải nhảy xuống nước lặn mất.

Từ đó cô Út Ngọc An hết bịnh, nhưng cô lợm giọng khi ngửi mùi cá thịt và cô xin mẹ cho trường trai. Cô sanh lòng mộ đạo, cứ quanh quẩn theo cô Thiệt Nguyện. Người cậu sư nữ kia chưa về vùng năm non bảy núi. Cô bảo ông bà Năm Tảo:

- Cháu phải ở đây thời gian để chữa bịnh cho các cô gái mắc đàng dưới. Cháu sẽ qua gặp ông Đạo Chuối ở am Tịnh Liên bên cù lao An Thành, hiệp sức với ổng để trục bọn tà mà yêu quái, đuổi chúng về chốn thủy cung.

Ông Năm Tảo bảo:

- Khi nào về xóm nầy, cháu cứ tới nhà chú thím. Nhà chú thím rộng rãi, cháu muốn ở bao lâu cũng được.

Bà Năm Tảo niềm nở:

- Cháu đem công sức ra cứu nhơn độ thế, chú thím rất quí mến cháu. Cứ coi nhà nầy như nhà của cháu, đừng ngại gì hết.

Cô Thiệt Nguyện đi đi về về cù lao An Thành và xóm Chuồng Gà. Pháp sư Chơn Huệ sửa soạn đi núi Cô Tô. Trước khi đi, sư có ghé nhà ông bà Năm để căn dặn cô vài điều cần thiết.

Mội khi từ An Thành về xóm Chuồng Gà, cô Thiệt Nguyện đều được gia đình ông bà Năm Tảo và ông bà Chín Thẹo tiếp đãi rất thân tình, ấm áp. Cô Út Ngọc An và hai cô Túy thường xẩn bẩn theo cô để tâm tình. Trong những dịp như vậy, co thường bảo hai cô Túy đem tập thờ của họ cho cô thưởng thức. Thơ của hai chị em thuộc loại thất ngôn bát cú, không cổ lắm, đọc nghe xuôi tai vậy thôi. Lời lẽ họ tuy đoan trang mực thước, ngôn từ bóng bẩy nhưng không có vẻ nghệ sĩ, khác hẳn với thơ bà Trần Ngọc Lầu hiện cư ngụ ở căn phố trong dãy nhà gần nhà việc Long Châu, mặt quay ra bến sông Long Hồ. Cô Thiệt Nguyện nghiên cứu từng câu thơ của hai cô Túy rồi bảo:

- - Chị không rành về nghệ thuật thơ phú. Cứ theo lời lẽ cẩn tác, nề nếp trong thơ em Ngọc, chị đoán sau nầy em sẽ lấy chồng giàu sang nhưng lớn tuổi hơn em khá nhiều. Còn lời thơ của em Nguyệt biểu tỏ tánh ý, tinh nghịch ngấm ngầm. Em sẽ lấy chồng khá, đồng trang lứa với em nhưng không quí hiển bằng chồng em Ngọc.

Cô Ba Túy Nuyệt nhõng nhẽo:

- Tụi em tâm sự với chị khá nhiều, nhưng bấy lâu nay chị chẳng cho tụi em biết chút gì về đoạn đời của chị trước khi chị lên núi học phép tu Mật Tông.

Mặt cô Thiệt Nguyện đổi ra buồn bã. Cô Hai Túy Ngọc vói tay đánh nhẹ vào vai em, mắng:

- Con quỉ nầy khéo chòi mói tọc mạch đi. Em muốn biết gốc gác, tiểu sử chị Thiệt Nguyện để làm giống gì?

Cô Thiệt Nguyện cười buồn:

- - Thì em Ba ỷ lại chỗ tụi mình là sư tỉ sư muội cùng chung một sư tổ nên mới kỳ kèo như vậy chớ có gì lạ đâu! Chị vốn là con gái út của ông Hội đồng Võ Trọng Quyền làn An Hương đây. Tên thiệt của chị là Võ Thị Tố Mai. Hồi chị 12 tuổi đực cha mẹ cho lên Sài Gòn học trường Áo Tím. Người bạn gái thân thiết nhất của chị là con Ba Cẩm Tú, con gái ông bà Bang biện Hưỡn. Chị coi nó như em ruột. Ba má chị giao du thân mật với ông bà Cai tổng lê Phước Hải ở làng Tân Ngãi nên hứa gả chị cho trưởng nam của họ là cậu Lê Thạnh Mậu. Cẩu ra ngoài Há Nội học trường thuốc, khi trở về Sai Gòn thì bị con Ba Cẩm Tú rù quến, hồi hôn với chị. Chị đau khổ tuyệt vọng, mua á phiện trộn dấm thanh toan tự vận nhưng bị mấy mụ chị kịp thời phát giác. Từ đó họ canh giữ chị từng chút nhưng ý định trốn lánh nợ đời lúc nào cũng ám ảnh chị. Một sáng nọ, sau khi ăn điểm tâm, chị bắt gặp chai thuốc xức vết thương teinture d'iode. Chị nghĩ, hễ uống vô chắc bao tử sẽ cháy xém nên chị hòa thuốc vô to trà ực một hơi. May phước cho chị là nhờ chị mới ăn cơm chiên, chất Iode gặp tinh bột bị hóa giải ngay. Tuy nhiên sau khi ực tô trà kia, chị lại... sợ chết nên la hoảng lên. Cả nhà đưa chị nhà thương tỉnh súc ruột. Qua hai cơn tự tử hụt, chị không còn can đảm để tự tử lần thứ ba. Chị xin phép ba má chị cho chị theo người cậu họ là huề thương Chơn Tánh tu trên núi Trà lơn vùng Năm Non Bảy Núi.

Cô Ba Túy Nguyệt nói:

- Vậy mà thiên hạ đồn rùm rằng chị tự tử bằng á phiện trộn giấm thanh.

Cô Thiệt Nguyện lắc đầu:

- Uống thứ oan nghiệt đó họa có thuốc tiên thuốc thánh mới cứu nổi! Nhắc lại chuyện sau khi lên núi, chị toan cắt tóc xuất gia thì huề thương bảo rằng chị không thể nào trở thành sư nữ được vì lòng trần của chị chưa dứt, chị còn nhiều món nợ đời ràng buộc. Do đó mà chị thọ giới ưu bà di mà thôi. Giờ đây chỉ trở về cuộc đất Vãng nầy không phải là để đòi lại chồng và để báo oán kẻ đã làm cho chị bầm dập đau đớn. Chị về đây cốt cứu nhơn độ thế, gây ruộng phước nhơn lành cho mình. Còn con bạn cũ của chị sớm muộn gì rồi nó cũng bị ác quả hiện hành. Đó là chuyện của nó. Đáng lẽ cái ác quả đó chưa tới với nó trong kiếp nầy đâu, ngặt chỗ toàn thể gia đình nó đều ăn ở bất nhơn ác đức, cái công nghiệp của họ và của nó giúp cho cơ duyên hiện hành kia mau chín muồi.

Hai cô Túy không nói không rằng. Họ tự hỏi về sắc, cô Thiệt Nguyện vượt xa cô Ba Cẩm Tú khá nhiều. Vậy mà sao cô bị cô Ba giựt được chồng? Cô Thiệt Nguyện vóc dáng thanh cảnh, dung mạo đoan trang, phẩm cách cao sang quý phái. Vậy mà cô bị cô Ba lấn lướt bởi vẻ lẳng lơ, điệu bộ õng ẹo, giọng nói nhõng nhẽo điệu đà. Có lẽ ông thầy thuốc tây Lê Thạnh Mậu chuộng thứ gái nồng nàn khêu gợi hơn mẫu phụ nữ đức hạnh chăng?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 6

Bà Bang biện Hưỡng và hai cô Cẩm sử soạn đi lên Ti Tôn để chuộc bùa ngải, trấn ếm những oan hồn sắp theo báo mẹ con bà. Ông bang biện Hưỡn và cậu Hai Kinh lý Luyện thở phào một cái thơ thới nhẹ nhàng. Ông Bang biện thì lo thủ tục giấy tờ để mua rẻ miếng đất của ông Hương bộ Lạc và tìm cách đem mụ vợ chửa của Cai tuần Hạp về tổ quỉ để "núp gò mối đâm heo".

Vào sáng hôm nọ, ông Bang biện Huỡn hẹn với ông Hương Bộ Lạc ra sở trước bạ để ký giấy bán đất và ghi sổ hộ điền tên chủ nhơn mới miếng đất. Sau đó, ông bang biện Hưỡn đóng bách phân cho miếng đất sở hữu mới của mình. Nhìn ông Hương bộ Lạc nước mắt doanh tròng. ông Bang biện giả nhơn giả nghĩa:

- Xin anh Hương bộ hạc chớ buồn. Tui dầu có kẹt tiền, giúp anh mua miếng đất đó kể cũng quá sức tui rồi! Anh chị còn khỏe mạnh, các cháu đã lớn khôn, người còn thì của còn.

Rồi ông ỡm ờ:

- Tui nghe nói chồng cô Ba Tính đau ốm sao đó mà nhắm mắt xuôi tay quá sớm, để cho cổ cù bơ cù bất trong cảnh góa bụa như vậy anh?

Cô Ba Tính là em kế ông Hương bộ Lạc, lấy chồng người Triều Châu có hai mẫu đất trồng rẫy. Tháng vừa rồi, anh ta bị mụn bạc đầu trên mặt, không gặp thầy gặp thuốc giỏi nên phải chết tức tưởi, để lại người vợ trẻ mang thai ba tháng và hai đứa con trai tuổi chưa lên mười. Ông bang biện Hưỡn nghe vậy ưa lắm, tìm cách "núp gò mối đâm heo" với cô ta, nhưng tánh ông kỳ quặc, ông thích thông dông với thứ đàn bà chửa nhưng chồng còn sống hơn. Đờn bà góa có chửa không kích thích ông nhiều bằng. Theo ông, còn gì thích cho bằng vừa tráng men đứa hài nhi vừa cặm một cặp sừng cong vút lên đầu thăng tía bạc phước của ông:

- Mầy liệu lời mà nói với Cai tuần Hạp. Nếu nó bằng lòng thì tao sẽ thưởng cho con vợ nó chiếc kiềng chạm bằng vàng nặng một lượng, lại để cho nó tiếp tục làm mướn hai dãy ruộng như cũ. Còn bằng không thì sau mùa gặt, nó hãy giở chòi, tuốt mùng bỏ vô thúng rồi vợ chồng cùng xuống ghe đền xứ khác mướn ruộng làm ăn.

Hơm qua ông Bang biện Hưỡn đả ăn nằm với thím Bảy Bảnh. Y thị bị cậu Hai Luyện đem tiến bạc và cái mã hào huê dủa dân tỉnh thành ra dụ dỗ. Thiệt tình cậu khác tính cha ở chỗ rất sợ ăn nằm với đờn bà chửa. Cậu ưa phá trinh con gái hơn. Cậu chỉ giống tánh cha thích ăn nằm với đàn bà có chồng. Thím Bảy trắng trẻo, mình dây, cặp giò dài, cặp mông tròn hoay, bộ ngực cao và săn chắc, cặp mắt thiệt lẳng, cặp môi thiệt tươi. Uổng cho thím lấy nhắm ông chồng thiệt thà, chỉ biết lo làm ăn, lo cưng vợ mà không biết đua đòi cách sống hào huê.

Cậu Hai Luyện gặp thím như mèo gặp mỡ, như rồng gặp nây, chinh phục thím tuy khó khăn nhưng rồi nước chảy hoài thì đá cũng hao mòn. Không phải thím sợ chồng hành hung, mà thím chỉ ngại việc tằng tịu của thím đổ vể ra thì bà Bang biện Hưỡn sẽ lấy đất lại, không cho chồng thím làm tá điền nữa. Năm ngoái, chú Bảy Bảnh bỏ nghề làm ruộng mướn ở An Hương, về cất chòi ơ Cái Sơn Bé, mở quán bán trà huế và hàng xén như gạo củi, than, dầu lửa, nước mắm, kim chỉ kẹo bánh... Cạu Hai Luyện đi chùa Sơn Thắng để ve vãn các cô đi chùa dưng hương ngầy rằm, tình cờ gặp chỗ dung thân mới của vợ chồng người t á điền cũ. Nhờ ở trong quán tối ngày nên da dẻ thím Bả hồng hào. Tuy thím mặc quần áo vải bô, hai bàn chơn to phè nhưng cậu đã thấy trong cái đẹp thiên chơn ấy một ngọn lửa kích dục hào hứng. Cậu tìm cách ve vãn, hứa cho thím một chiếc vòng cẩm thạch và một sợi dây chuyền vàng. Chiếc vòng tặng chỉ là chiếc vòng mã não tuy xanh lặt lìa nhưng ửng ánh vàng nghệ. Còn sợi dây chuyền tặng bằng vàng tám, miếng mề đay hình trái tim nhỏ xíu chớ không phải là sợi dây chuyền bằng vàng mưới, miếng mề đay lớn cỡ đồng xu lá bài in hình chữ phước như thím hằng ao ước.

Tuy nhiên, người đàn bà quê mùa kia một khi đã sa chơn vào chuyện phong tình nguyệt trái rồi thì đâm ra ghiền cái mùi đờn ông thị thành. Chồng thím dù có tinh lựa như sói cọp nhưng vẫn là kẻ quê mùa, không rành chuyện gối chăn. Khi cậu Hai Luyện ngỏ ý đưa thím cho cha cậu hú hí một đêm thì thím làm mặt giận. Ông Bang biện tuổi tuy năm mười mà da mặc chưa dùn, thân vóc còn dẻo, tóc chỉ điểm vài sợi hoa râm. Vả lại mặt mày ông cũng khá khôi ngô. Đã lỡ hư thì thím cho hư luôn. Khi ông Bang biện nhét vào tay ghím chiếc cà rá cẩm thạch cắt hình hột dưa thì thím chịu tiếp ông ở cái tổ quỉ của cậu Hai bên cầu Kinh Cụt..

Sau khi hú hí đã đời với thím Bảy Hành, hai cha con theo đuổi mục đích riêng. Cậu Hai Luyện chuẩn bị đi Mỹ An để đo đất và cậu đã sai thằng tớ trai tâm phúc tên Yêm dò la kiếm gái trinh, mặt xinh đẹp để cậu dụ dỗ. Còn ông Bang biện Hưỡn thì muốn mua bộ divan bằng gỗ cảm lai đã giồi bóng lộn. Bộ divan đó mà đặt trong cái tổ quỉ của thằng con trời biển của ông, để ông đưa vợ Cai tuần Hạp lên nằm và "núp gò mối đâm heo" thì thập phần khoái lạc! May mắn thay, chủ bộ divan là thầy giáo Lạc. Thầy đang gặp nhiều sự bối rối trong gia đình: mẹ thầy bị xơ gan phải nằm nhà thương ba tháng, vợ thầy sanh đôi, đứa em gái bị úp hụi... Ông Bang biện Hưỡn liền làm trành làm tréo mua rẻ món danh mộc kia.

Khi mấy người lực điền thân tín đật chiếc divan vào trong tổ quỉ thì ông Bang biện Hưỡn leo lên nằm ngủ trưa. Vì tiết tiết viêm nhiệt, ông không trải chiếu, chỉ kê chiếc gối lên đầu rồi mình trần, nằm lăn trên mặt gỗ bóng loáng để nghe cái mát rượi từ mặt gỗ thấm vào châu thân. Căn nhà đã đóng kín cửa, chìm trong bóng mờ xóm nhạt. Thần trí ông lún dần vào cơn nửa thức nửa ngủ, nhưng ông vẫn nghe rõ tiếng gà gáy trong xóm gáy te te, tiếng chó sủa ăng ẳng... Tay chân ông bỗng nặng chĩu như dán xuống mặt gỗ, như bị từng tảng đá nặng đè lên. Máu huyết ông dần dà như biến thành keo đặc sệt, khó thể lưu thông. Tâm trí ông chìm vào từng giấc ngủ lụn vụn, nhưng khi tan giấc, ông vẫn không thể mở mắt để thoát khỏi trạng thái lơ mờ nặng nề kia. Vía ông lúc đó bình bồng trôi dạt vào một vùng lầy lụa nhì nhằng như trong chiếc lưới ướt nước. Ông thét thật lớn, nhưng tiếng thét chỉ dội vào vào thần trí mỏi mệt của ông chớ không thể vọng ra cõi ngoài. Một tia sáng vắt qua óc ông: Hay là mình bị mộc đè? Ông già bà cả ở thôn quê thường bảo rằng thứ cây đóng ván giương nếu có con vật gì nằm chết trên đó thường gây cho người nằm ngủ chứng mộc đè. Kẻ nào xẻ gỡ quan tài làm bộ ván ngủ là vô tình nuôi vong hồn cho bộ ván ấy. Loại gỗ của những cây sống trên nửa thề kỷ, đã thành tinh thành yêu, cũng gây tình trạng mộc đè như gỗ đóng quan tài hay gỗ có vật chết trên đó.

Khi ông Bang biện Huỡn nghĩ tới đây thì một khuôn mặt già, da nhăn nheo, mốc mốc như vỏ cây lâu đời đóng men, tóc trắng như bún tàu, áp kề khuôn mặt ông. Bà già le cái lưỡi đỏ lòm, hả họng tác hoác la lờn:

- Thằng ôn dịch! Sao mầy mua thân tao về đây để cha con bay rước pbụ nữ về hành lạc? Tao nói cho mầy biết, tao là con tinh cây cẩm lai. Số tao phải tới một trăm năm mới mãn, ai dè thằng Tây kiểm lâm đốn tao, cưa từng đoạn xẻ gỗ đóng tủ, đóng đi- quăng. Tao chết tức tưởi, hồn phách không tan nên nương theo khúc gốc là khúc xẻ ra đóng đi- quăng nầy. Bây mà làm ô uế thân tao, tao sẽ vặn họng hai tía con cho tới trặc ổ mới đã nư tao!

Tới đây ông Bang biện Hưỡn tỉnh giấc mộng giữa ngày, mồ hôi tháo ra như tắm. Suốt khoảng ngày còn lại hôm đó, ông cứ bần thần suy nghĩ. Theo như lời thầy giáo Lạc kể lại thì thầy đã mua bộ divan này hối hai năm trước. Thầy kê nó trong pòng đọc sách và không có hiện tượng gì xảy ra. Giờ đây, ông chỉ mới đặt lưng trên divan có một lần mà đã gặp thần cây về hăm dọa. Hay là mình chỉ chiêm bao quàng xiên? Chi bằng đợi thằng quí tử về, để nó nằm vài keo thì sẽ rõ hư thực!

Cuối tuần, cậu Hai Luyện từ Mỹ An quá giang ghe lúa về nhà. Bà Bang biện Hưỡn và hai cô Cẩm vẫn chưa về tới. Nhà chỉ có ông bà Năm Đặng trông coi mọi việc. Ông bang Biện Hưỡn ngỏ ý với bà Năm Đặng:

- Thằng Hai về nghỉ cuối tuần, đì nên làm bữa ăn đặc biệt đặng ối nay tía con tui cụng ly với dượng Năm.

Bà Năm iền xách giỏ đi chợ mua thịt cá, tôm cua. Cậu Hai Luyện một khi về thành phố như rồng gặp mây, lân gặp pháo. Cậu đến thăm các có gái chịu chơi trong tỉnh trước khi về nhà dùng cơm trưa với cha và dì dượng. Sau đó, cậu lơn tơn thả bộ ra tiệm may của cô Bảy Cẩm Thạch ở hông nhà lồng chợ. Cô nầy vốn là nhơn tình cũ của cậu, từ khi hóa chồng cứ thậm thụt ăn nằm với cậu hoài.

Vừa thấy cậu, cô ré lên rủa:

- Mắc dịch mắc gió thằng cha đoản hầu nầy! Từ cả tháng nay, thằng chả chui rúc ở lỗ nẻ nào mà biệt tăm biệt dạng vậy cà? Hôm nay thằng chả tới đây, chắc gió bào sắp thổi tới thành phố nầy chớ chẳng không!

Cậu Hai Luyện bãi buôi:

- Mạnh giỏi, em Bảy! Bấy lâu nay qua bận việc nhà nước nên lột lạt tình em, chớ thiệt ra lòng dạ qua trước sao sau vậy!

Cô Bảy hôm nay bận bộ đồ xẩm bằng lục cẩm châu, lai áo lai quần thêu bông bằng chỉ ngũ sắc. Tóc cô đánh bím con rít rồi bới thành cái bánh tiêu bự chèm bẹp sau ót. Cô đeo sưu bộ cẩm thạch xanh lặt lia gồm đôi vòng tay, đôi bông tai, xâu chuổi hột, cà rá, trâm giắt búi tóc. Tên thiệt của cô là Bảy Thành nhưng vì cô ưa đeo cẩm thạch nên mới có tên Bảy Cẩm Thạch như vậy. Tiệm cô chuyên may y phục phụ nữ lẫn áo đầm cho mấy đứa con gái nhỏ.

Cô Bảy Cẩm Thạch chúm chím miệng cười, long lanh sóng mắt, lẳng sao mà lẳng nhức nhối, ác ôn! Cô trề môi:

- Anh là chúa xạo, lòng dạ quanh co khúc mắc, ai mà dò đặng lòng anh! Anh thắm chỗ nào, phai chỗ nào, lợt lạt lúc nào sao em biết đặng! Lâu lâu em phải xóc miểng sành của anh, anh mới động tâm tới đây.

Cô buông chiếc kéo xuống bàn cắt, xếp khúc lụa màu xanh da trời bỏ vô hộc tủ rồi rót trà mời cậu Hai Luyện. Cậu vào đề ngay:

- Xế nay em có rảnh không?

Cô Bảy lắc đầu liếc vế hai cô thợ may:

- Em phải coi tiệm chiều tối mới rảnh.

Cậu Hai Luyện kèo nài:

- Em không thu xếp để có đôi chút thời giờ sống cho... đôi ta hay sao? Đi xa, anh nhớ thành phố này có một, nhớ em tới mười, tới trăm lận!

Cô Bảy Cẩm Thạch thò bàn tay trắng trẻo mịn màng vả vô miệng tình nhơn một cái chách, rủa:

- Đồ xạo! Đồ yêu lồi! Đờn bà con gái bị cái miệng tía dốc của anh mà có ngày chửa hoang đẻ lạnh chớ không chơi! Để em lên lầu dặn con em kế vài việc rồi sẽ đi chơi với anh.

Cô Thám Thiệt, em kế cô Bảy Cẩm Thạch, đang nằm đọc báo. Cô được bạn bè gọi là cô Tám Cẩm Vân vì chẳng những cô thích đeo cẩm thạch mà còn ưa bận áo dài bằng cẩm vân màu tím than khi đi ra ngoài mua sắm. Cô Tám cũng là gái chịu chơi nhưng ưa cặp xách với ông Tây như quan chánh tham biện, quan cò- mi, ông chủ đề- bô nước đá nước ngọt, ông biện lý. Vừa thấy chị mặt mày hớn hở, cô hỏi liền:

- Thằng kép mắc dịch nào đến thỉnh chị đó?

Cô Bảy Cẩm Thạch cười:

- Quan Kinh lý Luyện chớ ai!

Cô Cẩm Vân xí dài một tiếng:

- Quan (hoan) đàng chi địa đó mà! Thằng cha đó keo kiệt rít róng, đi chơi với nó mật thì giờ, rồi nằm ngữa cho nó chơi càng uổng công uổng sức. Cái tướng mặt của nó lóng rày coi hắc ám lắm đa chị. Thứ môi tro mặt bùn là tướng tàn mạt, phi bần ắc yểu.

Cô Bảy Cẩm Thạch nguýt dài, mắng em:

- Con đĩ hổ mang nầy hễ mở miệng là phun nọc độc tùm lum! Ảnh có cầm vuông tai Phật, yểu mạng sao được!

Cô trút bô áo xẩm bằng lụa cẩm châu, mặc áo dài gấm màu dưa cải, quần sa- teng tuyết nhung đen, dặn em:

- Rán xách đít xuống từng trệt trông coi tiệm giùm tao.

Cả hai cùng bước xuống lầu. Cô Tám lạnh lùng chào cậu Hai Kinh lý Luyện rồi kéo ghế bên bàn ắt để ngồi đọc báo. Cô Bảy Cẩm Thạch cùng cậu bước ra ngoài để đi ăn cơm trưa ở chiếc quán gần chợ cá.

Cô Bảy thỉnh thoảng nhìn lên tình nhơn. Quả thiệt mặt cậu sậm như bùn, môi cậu xám như tro. Cô không rành tướng số, nhưng cô nghĩ rằng sắc diện u ám dường ấy là triệu chứng của một thể chất đang hồi bịnh hoạn.

Sau chẩu cơm chiên căn cặp với gà rô- ti, cả hai cùng leo lên xe kéo về cái tổ quỉ của cậu ở cầu Kinh Cụt. Ở đây bàn ghế ván giường được thằng Xiêm quét dọn từ sáng sớm.

Sau hai hiệp mây giăng mù mịt mưa rớt dầm dề, cô Bảy Cẩm Thạch vụt cảm thấy bào xào xao xuyến với một cảm giác khó hiều. Cô vụt chổi dậy mặc quần áo và bảo tình nhơn:

- Không hiểu tại sao em hồi họp quá, chắc ở tiệm có chuyện gì xảy ra. Thôi để em về. Tối nếu anh rảnh, tới tìm em.

Cậu Hai Luyện vẫn nằm dài thây trên chiếc divan cẩm lai. Cậu thấm mệt vì hai keo ân ái nên chỉ muốn nằm một mình ở đây đánh một giấc trưa, không có con đờn bà nào lằng nhằng vương vấn bên cạnh cậu. Cậu liền nói đẩy đưa:

- Ừ, nếu em cảm thấy bất an thì cứ về.

Mí mặt cậu nặng chĩu. Con lười biếng bạc nhược làm thể xác cậu mềm nhũn. Cô Bảy Cẩm Thạch liếc qua cậu, kín đáo trề môi nguýt háy rồi mở bóp lấy hộp phấn hồng tô lên má, lấy thỏi son thoa cặp môi. Khi cô tang điểm xong thì cậu Hai Luyện đã ngáy lảnh lót. Xời ơi, đờn ông gì mà... thiếu tế nhị. Nó chơi mình xong là lăn kình ra ngủ, không biết ve vuốt mình, không biết ngọt bùi gì ráo! Nó coi mình như con điếm, một món đồ chơi không bằng. Chiều nay mà nó xách đít tới tiệm may, tui sẽ đạp đít nó đuổi ra cửa rồi hốt gạo muối vãi vô nó như đuổi phong long, đuổi tà.

Cô Bảy Cẩm Thạch vùng vằng mở cửa bước ra ngoài, cuộc bộ một khúc đường mới tìm được xe lôi để về nhà.

Trong tổ quỉ, cậu Hai luyện chìm trong giấc ngủ nặng như chì. Tay chơn cậu như đóng đinh vào mặt gỗ. ngực cậu nặng chĩu nhưng cận vẫn ý thức được cậu đang bị mộc đè, chỉ cần có người khua động bên tai là cậu sẽ ra khỏi cơn nửa mê nửa tỉnh đó. Bồng một khuôn mặt đờn bà già nua xấu xí nhăn nheo gớm ghiếc áp gần mặt cậu. Mụ hét:

- Quân dâm dục dắt gái về đây xỏ lỗ làm dơ nhớp thân tao. Tao sẽ vả cho mày trẹo quai hàm.

Cậu Hai Luyện hét lên và tỉnh dậy, nghe đau buốt cả hàm. Cậu bước lại kiếng soi mặt thì thấy một bên cằm mình sưng vù và đỏ ửng, nhưng may miệng cậu không méo và quai hòm không trẹo.

Tuy vậy cậu Hai Luyện chưa tin hẳn mình bị mộc đè, bởi cậu nhiễm Tây Học. luôn nghĩ rằng mình không nên tin dị đoan. Cậu tỉm khăn lau sửa soạn đi tắm, đánh răng, chải đầu. Nhìn vào gương, cậu thấy mặt mình sáng láng, cặp mắt linh hoạt, nụ cười láng ánh men rực rỡ. Ngặt một nỗi vết sưng đang từ màu đỏ ửng chuyển sang màu đỏ bầm pha chút tím tím nên cậu mở chai dầu phong ra thoa lên vết bầm. Cậu diện quần áo mới, quần vải kaki trắng, áo bành tô cũng bằng kaki trắng tra nút hổ phách, giày tây da vàng. Sau đó cậu đóng cửa tổ quỉ, khóa cẩn thận rồi ngoắc xe kéo đến tiệm cô Bảy Cẩm Thạch. Lúc đó cô Tám Cẩm Vân đang coi tiệm. Vừa thấy cậu Hai Luyện, mặt cô ta chù ụ liền. Cậu Hai dả lả:

- Nè em Tám, chẳng hay em Bảy đâu rồi?

Cô Tám Cẩm Vân dấm dẳn:

- Anh đưa mụ chị tui đi ngao du sơn thủy đâu không biết, rồi đành đoạn để mụ về nhà một mình, mặt mày đỏ rần vì lên cơn sốt. Bây giờ mụ nằm trùm mền nắm trên lầu. Tui có sai con ở rước thầy y tá ở dãy phố trên Cầu lộ, chích cho mủ hai mũi thuốc, vậy mà cơn nóng sốt chưa chịu hạ xuống.

Cậu Hai Luyện năn nỉ:

- Cho anh lên thăm chị Bảy em một chút.

Cô Tá, Cẩm Vân nguýt cậu Hai một cái dài sộc rồi cắm cúi đơm nút kết khuy. Cậu Hai Luyện xững vững bước lên lầu, lòng ngổn ngang những cảm nghĩ khó chịu. Cái divan cẩm lai gieo vào ý nghĩ cậu những ám ảnh lờ mờ trên suốt đường từ tổ quỉ đến đây, bỗng dưng làm cậu cảm thấy tay chơn mình lạnh ngắt vì sợ hãi.

Cô Bảy Cầm Thạch đang nằm thiêm thiếp trên giường, chiếc mền nỉ đỏ kéo tới cổ. Cậu Hai Luyện rón rén bước lại giường, đặt tay lên trán cô. Chà chà, bịnh này không nhẹ đâu! Cơn sốt đang lên cao nên mặt mũi y thị đỏ như say rượu. Cô Bảy Cẩm Thạch mở mắt ra, mệt nhọc bảo:

- Em vừa ngủ một giấc ngắn. Trong chiêm bao em thấy một mụ già cùng hung cực ác đến hăm he em rằng: "Mầy và thằng quỉ dâm cục kia dám lên thân tao bày chuyện gió trăng, tao sẽ hành cho mầy bị huyết trắng hoặc sa tử cung cho đã tức". Khi tỉnh dậy, em ớn lạnh khắp mình mẩy, sẵn cảm gió say nắng, em phát bịnh rồi anh ạ.

Cậu Hai Kinh Lý nói át:

- Hồi sáng trời mưa, giờ nắng lên chói chan, cho nên khí độc từ đất xông lên nghi ngút. Ai mà sẵn nhược chất liễu bồ như em dễ bị cảm cúm lắm! Hễ lúc đau ốm, người ta thường nằm mê man, gặp toàn ác mộng. Hơi đâu mà em thắc mắc cho mệt!

Miệng cậu tuy nói cứng, nhưng lòng cậu đã bắt đầu dao động. Cậu quanh quẩn bên cô Bảy thêm một chặp nữa rồi mới kiếu từ ra về. Cậu nghĩ mình phải thú thiệt cùng cha, bán cái divan ác ôn đó đi.

Ra khỏi tiệm may, cậu Hai luyện thấy trời uôi uôi nắng nên thả bộ rề rề về nhà. Khi tới nơi sở Công Chánh, cậu gặp chiếc xe hơi Renault chạy chầm chậm về phía ngược chiều. Chiếc xe bỗng ngừng lại bên lề đường, một người đàn ông tuổi cỡ ngoài ba mươi mặc Âu phục bước xuống
gọi:

- Cậu Luyện đó hả? Anh Ba đây!

Cậu Hai Luyện mừng rỡ:

- Ủa, anh Ba! Anh lên đây hồi nào?

- Hồi sáng, anh có qua thăm chú thím Bang biện ở Cầu Đào.

Nguyên ngưởi đàn ông nầy vốn là chồng của người chị con nhà bác của cậu Luyện. Ông ta tên là Nguyễn Văn Khải, gốc người quẫn Tam Bình. Cha của ông trước kia làm Biện cho thầy Cai tổng Nhung. Sau đó, gia đình thầy biện Nguyễn Văn Khảo đem gia đình về ở gần xóm Khương Hữu Phụng. Nghe nói giữa cậu Khải và cô Minh Ngọc, trưởng nữ của thầy Cai tổng Nhung có tư ước tư tình với nhau. Vộ chồng thầy Cai tổng chê gia đình chú Biện Khảo thấp thỏi hơn mình nên tìm cách chặt đứt mối tình giữa con gái cưng và anh học trò nghèo tên Khải. Thầy hách dịch bảo chú Biện:

- Mầy muốn làm suôi với tao thì gắng mà làm giàu, gắng chạy chọt quan trên để làm thầy bang. Tao không thích suôi của tao được thiên hạ kêu bằng chú biện trơn lu. Thầy cai tổng phải làm suôi với thầy bang biện mới xứng!

Cô Minh Ngọc thất vọng quá, mua á phiện trộn giấm thanh tự tử, sau khi gửi bức thư tuyệt nạng cho tình quân. Cậu Khải đau khổ muốn phát điên, bỏ nhà đi lang thang một dạo. Sau đó cậu được ngưới bác ruột có cửa tiệm bán đèn măng- sông, dàn hát máy và dĩa hát ở Sài gòn nuôi ăn học thành tài, lần hồi lên tới tri huyện. Sáu năm trước, ông Khải kết hôn với cô Ba Kim Chưởng, con gái ông Cai tổng Chất. Ông nầy là anh một cha khác mẹ với ông Bang biện Hưỡn. Tuy nhiên cuộc hôn nhơn đó không đem lại hạnh phúc cho đôi bên. Cô Ba ít lầu sau từ trần vì bịnh lao. Tứ đó ông Huyện Khải không nghĩ tới việc tục huyền nữa. Hiện giờ ông được bổ về làm việc ở huyện Tiểu Cần thuộc tỉnh Trà Vinh.

Cậu Hai Luyện mừng rỡ:

- Nè anh Ba, chốc nữa anh có về nhà tía em không? Hay là anh về thẳng Tiểu Cần?

Ông Huyện Khải trả lời:

- Sáng mốt anh mới về Tiểu Cần. Anh lên Vĩnh Long để lo vài ba việc. Chú Bang biện giữ anh ở Cầu Đào chớ không cho anh ở chỗ nào khác.

Cậu Hai nói xuôi:

- Thôi để em về Cầu Đào trước. Lÿt nữa anh em mình mặc sức cụng ly và hàn huyên với nhau.

Quanh mâm cơm chiều hôm đó, cậu Hai Luyện thuật cho cha và ông huyện Khải nghe quái trạng về chiếc divan cẩm lai. Ông Bang biện Hưỡn cũng kể cho con và cháu rể nghe giấc chiêm bao vào hôm ông ngủ trưa lần đầu tiên trên chiếc divan ấy. Ông Huyện Khải khuyên:

- Vậy thì nên đốt cái divan đó đi, để cho tinh linh cây cẩm lai được siêu sanh.

Ông Bang biện Hưỡn lắc đầu:

- Cháu đừng nghĩ vậy. Để rồi chú tìm cách bán rẻ cho kẻ thích xài bàn ghế xưa.

Ông Huyện Khải chỉ cười cười không nói gì thêm. Sau cùng, ông tỏ thiệt với cha con ông Bang biện Hưỡn:

- Cháu lên đây cũng có chút việc. Số là người em bà con nhà chú của cháu mấy năm gần đây được bác sĩ cho biết nó có triệu chứng bị bịnh cùi. Tía má nó sợ nó bị nhà nước bắt vô trại cùi ở cù lao Rồng gần chợ Mỹ Tho. Cháu có nghe ông Năm Tảo ở gần đây là tay thần y, biết đâu nhờ ổng điều trị mà bịnh nan y được thuyên giảm chăng!

Cậu Hai Luyện chắc lưỡi:

- Coi bộ khó đó đa! Bịnh lao, bịnh cùi là bịnh ngặt. Đông y Tây y đều bó tay, anh quên rồi sao?

Ông Huyện Khải chẩm rãi:

- Biết vậy, nhưng bịnh nó chưa phát tác, vậy thì mình cũng nên hy vọng chút ít chớ. Vả lại ngành Đông y đôi khi đôi khi cũng trị được bịnh lao, bịnh cùi vậy. Bộ em chưa coi tuồng hát bội Kim Thạch kỳ duyên của nhà chí sĩ Bùi Hữu Nghĩa hay sao? Chàng Kim Ngọc được ông thầy thuốc Thạch Đạo Toàn trị dứt bịnh cùi để sau nầy đi đánh giặc lập công, được vua phong vương tước đó. Em nên nhớ cụ Bùi Hữu Nghĩa thông hiểu y lý cũng như nho y Nguyễn Đình Chiểu vậy.

Ông Bang biện Hưỡn đề nghị:

- Ừ, cứ cho người em nhà chú của cháu đến đây trị cầu may. Phải kiếm nhà cho y ta ở vì bịnh cùi phải được điều trị qua năm nầy tháng nọ, chớ không phải chỉ trị một vài ngày đâu.

Ông Huyện Khải tán thành:

- Lời chú bàn rất hiệp ý cháu. Nhưng làm sao kiếm nhà choa thằng em cháu ở đây?

Ông Bang biện có vẽ suy nghĩ:

- Ở xóm Chuồng Gà có túp nhà lá của bà Bảy Lực bỏ hoang từ một năm nay. Bả dời ra Cầu Dài để mở vựa mắm. Để rồi chú tính cho cháu.

Nói tới đây, ông Bang biện thầm tính trong bụng, sau khi sửa chữa túp nhà lá cho người em con nhà chú của ông Huyện Khải, ông sẽ gạ gẫm đương sự bán tống chiếc divan ác ôn kia đi.

Cơm nước xong, chị bếp lo nấu cháo gà và ché thưng để các tay binh xập xám và xoa mạt chược ăn giải lao lúc khuya. Ông Bang biện Hưỡn hỏi cháu rể:

- Tối nay có mấy tay chơi tới đây chơi bài, cháu có quen tiếng ồn ào không?

Ông Huyện Khải cười gượng. Cậu Hai Kinh lý thấy vậy hiểu ý ông anh rể họ của mình, bèn đề nghị với cha:

- Nếu anh Huyện sợ ồn ào, con sẽ đưa ảnh lên tổ quỉ của cha con mình tên cầu Kinh Cụt. Ở đó yên tĩnh lắm, chỉ sợ anh Huyện gán cái divan ma quỉ vả cái bãi tha ma mộ địa trước cửa đó thôi.

Ông Huyện Khải tươi nét mặt:

- Anh không sợ đâu. Cổ nhân có câu: "đức trọng quỉ thần kinh", em hãy đưa anh tới đó ngủ đêm. Ma quỉ anh không sợ, chỉ sợ tiếng ồn.

Ông Bang biện Hưỡn vui vẻ:

- Được vậy thì tốt lắm! Chú cũng nghĩ rằng tử sanh hữu mạng. Gần nghĩa địa thiếu gì nhà cất san sát. Để chú sai thằng Xiêm đem mùng mền chiếu gối mới thay lớp cũ. Nó sẽ ở đó hủ hỉ với cháu và thằng tài xế. Trước ba người đàn ông nặng bóng vía thì ma nào dám lộng, quỉ nào dám phá?

Ông Huyện Khải ngon lành:

- Ngủ một mình tại đó, cháu cũng chẳng sợ!

Ông Bang biện cười:

- Cứ để thằng Xiêm ở đó phục dịch cháu. Ở đó có nước tắm, có nước mưa để pha trà, pha cà phê.

Vậy là đêm đó ông huyện Khải ngủ ở cầu Kinh Cụt. Ông đành nằm trên chiếc divan cẩm lai. Còn thằng Xiêm và anh tài xế thì ngủ trân giường đồng. Thằng Xiêm xợ bị tía con ông Bang biện Hưỡn trách mắng nên cuốn gối nệm và drap bày trên giường đồng, thay thế bằng chiếc gối rơm và cái chiếu đậu.

Ông Huyện Khải bằng lòng chỗ ngủ đơn giản. Trời nực, được nằm trên mặt cẩm lai bóng láng, ông cảm hấy mát mẻ dễ chịu như nằm trên mặt đá hoa cương. Bên hông nhà, dòng nước từ con kinh Công- xi heo đổ ra kinh Huỳnh Tá rì rào. Thằng Xiêm và anh tài xế rủ nhau ra trước nhà xem đèn ma từ các ngôi mộ bốc ra phất phơ rồi tản mạn trước gió. Thằng Xiêm bảo:

- Coi vậy chớ đèn ma hiền lắm, chẳng hại ai hết.

Con chó ở cuối xóm phía sau đình Tân Giai thỉnh thoảng sủa ăng ẳng. Một chị thương hồ khi chèo ghe qua bến nước sau nhà, cất giọng hò:

Con cá đối nằm trên cối đá
Con cò lửa đứng trước của ló
Ghét anh lòng dạ quanh co
Ngặt em còn tưởng giọng hò dễ thương

Ủa lạ, mấy câu hát nầy hôm nay sao lại trổi lên? Ông Huyện Khải nhớ lại hồi mười tám năm trước, cô Minh Ngọc mỗi khi nằm trên võng để ru thằng cháu kêu bằng dì đi ngủ cũng thường ru bằng mấy câu hát đó. Giờ đây thịt cô đã rã tan, nhưng xương cô còn vùi sâu dưới nắm mộ cẩn đá lục lăng trong cuộc đất hương hỏa của dòng họ cô. Ông cứ mỗi năm đến đó đặt lên một bó bông sen trắng, thắp một nén nhang để tưởng niệm người yêu cũ. Ông bà Cai tổng Nhung đã lần lượt qua đời hồi bảy năm trước. Con trưởng ông là thầy Hương quản Gấm vẫn còn ở chăm nom ngôi nhà thừa tự, bề sinh sống cũng khá vững vàng.

Ông Huyện Khải lẩm nhẩm đọc lại bức thư tuyệt mạng của cô Minh Ngọc mà ông đã thuộc làu từ mười tám năm qua. Ông khe khẽ ngâm lại hai câu thơ trong bức thư nầy::

Tái sanh bướm lại gặp hoa
Thề xưa hẹm cũ ai mà dám quên!

Ôi, trời đất mênh mông, nẻo u minh xa lắc, càn khôn vũ trụ tối mờ, làm sao ông dám tin tưởng sẽ có ngày tái ngộ với người yêu?

Khi trống điểm canh ba, thần trí ông Huyện Khải mới chìm dần vào giấc ngủ. Bỗng dưng ông thấy mình đứng giữa căn nhà lợp lá cũ của tía má ông hồi mười tám năm về trước. Nhà đó đã bị giỡ từ lâu, mười công đất cũ của chú Biện Khảo cũng đã bán mất. Một bà già mặt mũi nhăn heo dữ tợn đến gần ông. Ông chợt lùi lại vì ánh hung quang từ cặp mắt bà ta làm dạ ông bồn chồn. Bà già liền trấn an:

- Quan huyện chớ sợ! Tui là con tinh già của cây cẩm lai trên rừng Xuân Lộc. Thân tui bị đốn, bị cưa xẻ làm bàn, làm tủ, làm bộ "đi- quăng" chân quỳ mà quan huyện đang nắm đó. Bởi khúc làm "đi- quăng" nầy là khúc gốc nên hồn tui cứ theo bộ "di- quăng" hoài hoài. Ai là kẻ tu nhân tích đức, ai là người quân tử hiền nhơn, ai là bực trinh liệt tiết tháo mà nằm trên "đi- quăng" thì hồn tui sớm được đấu thai vào cảnh giới tốt. Ngặt là bọn cường hào ác bá như tên Bang biện Hưỡn, phường tham dâm háo sắc như thằng con hắn cứ đem gái về hành lạc trên mình tui thì làm sao hồn tui sớm đi đầu thai cho được! Nay gặp được người làm quan thanh liêm như quan đây, tui mới hiện hồn trong giấc chiêm bao của quan để thổ lộ vài điều. Xin quan bỏ tiền ra mua chiếc "đi- quăng" rồi đặt vào nhà người em con nhà chú đang mắc bịnh cùi của quan. Ông ta tuy mang bệnh nan y nhưng là kẻ minh tâm kiến tánh, biết trọng Phật kính tăng. Có vậy tui sẽ phò hộ ổng để bịnh ngặt có cơ hội chữa lành. Mà tui cũng có cơ hội rời cõi trần gian uế trược nầy để thác sanh vào cõi trời Tứ Thiên Vương làm cây quỳnh trổ bông ngũ sắc cho chư tiên cúng Phật.

Vía ông Huyện Khải bảo:

- Nếu bà có lòng chỉ dạy như vậy thì lẽ nào tôi chẳng vưng lời!

Hồn con tinh cây cẩm lai lại nói thêm:

- Luôn tiện đây, tui báo cho quan rõ: Hồn tôi đêm nay sẽ đưa vía quan tới nơi cư ngụ cũ để chỉ cho quan thấy ở góc nhà cũ, tức là trong bụi cây mua hoa tím, chủ đất bốn đời trước có chôn một hũ vàng ngọc. Quan hãy tìm cách mua lại đất cũ và moi hũ lên, lấy cặp vòng cẩm thạch trong hũ làm sính lễ cưới vợ.

Ông huyện Khải lắc đầu:

- Nếu tôi đào được hũ châu báu đó thì tôi phải tìm con cháu chủ cũ đặng giao trả lại, lẽ nào tôi hưởng của phi nghĩa cho đành!

Bà già cười:

- Tui biết cái tâm quang minh chính đại của quan lắm, nhưng xin quan yên lòng! Bởi người chủ cũ là thứ cường hào ác bá, tánh bòn tro đãi trấu, rút rỉa của cải dân lành để sắm vàng ngọc, cho nên khi họ chết đi thì con cháu tứ tán mai một dần dần. Đôi vàng ngọc cũng là của tổ tiên quan bị họ tròng tréo để mua rẻ. Giờ đôi vòng đó trở lại tay quan là theo lẽ Hiệp Phố hườn châu chớ có gì lạ! Còn các món vàng ngọc châu báu khác thì quan muốn cho ai tùy ý!

Ông Huyện Khải lại hỏi:

- Bà biết nơi nào để tôi chọn người phối ngẫu không?

Bà già cười thiệt tươi:

- Sáng mai đây quan sẽ rõ người đó là ai. Vốn là hậu thân của cố nhơn quan, tức là cô Trịnh Thị Minh Ngọc đầu thai chớ không ai xa lạ đâu!

Bà già biến mất. Ông Huyện Khải giựt mình thức giấc thì trời đã sáng trắng. Ngoài đường có tiếng bạn hàng bán rau cải, cá mắm, bánh trái lui tới rộn ràng. Thằng Xiêm ân cần:

- Mời quan lớn rửa mặt rồi về nhà ông Bang biện dùng điểm tâm.

Ông Huyện Khải:

- Vậy chớ cậu Hai Kinh lý có còn ở Cầu Đào hay đi Mỹ An rồi?

Thằng Xiêm lễ phép:

- Thưa quan lớn, cậu Hai con chiều tối mới đi ghe buồm về Mỹ An. Sáng nay cậu con đi thăm người quen rồi sẽ về dùng cơm trưa với quan lớn và cả nhà.

Ông Huyện Khải bước ra nhà sau thì thấy có thau nước đặt trên cái chạc ba chân dưới gốc cây kế. Gần đó có chiếc sào tre vắt chiếc khăn lông trắng tinh. Bên cạnh, trên chiếc băng xi- măng, anh tài xế đã đặt sẵn cái hộp đựng đồ cạo râu, dầu thơm, bàn chải chà răng, phấn đánh răng hiệu Kool, gương lược...

Sau khi làm xong thủ tục buổi sáng, ông HuyệnKhải cầm hai tờ giấy một đồng đưa cho người tài xế, dặn:

- Em cầm tiền ăn sáng và ăn cơm trưa. Trước hết, hãy đưa tôi và cháu Xiêm đây về Cầu Đào rồi hẵng đi tiệm nước. Ăn điểm tâm xong, nhớ trở lại Cầu Đào nghe!

Tại nhà ông Bang biện Hưỡn, sau khi cùng tía con ông ngồi và bàn điểm tâm, ông Huyện Khải dặn:

- Sáng nay nếu có rảnh, chú đưa cháu đến nhà ông Năm Tảo, luôn tiện chú dắt cháu tới nhà bà Bảy Lược để thuê nhà và sửa sang cho tươm tất.

Ông Bang biện rót cà phê vào tách ông Huyện Khải:

- Nhà đó ở khít bên cạnh nhà anh chị Năm Tảo, cách cái hàng rào bằng cây trà tươi. Chuyện thuê nhà cũng dễ thôi vì bà Bảy Lược hiện giờ dời về xóm Cầu Dài, gần chùa Bà thờ đức Thiên Hậu mà dân vùng nầy gọi là chùa Minh Hương. Sở dĩ nhà đó không ai thuê vì xóm Chuồng Gà có nhiều mồ mả, thiên hạ ngại cư ngụ ở vùng lảng vảng bóng âm hồn.

Bữa điểm tâm thịnh soạn với món bánh canh bột gạo nấu tôm cua, món xôi lục xưởng, cà phê, trà... Sau đó ông Bang biện Hưỡn rủ ông Huyện Khải đến nhà bà Bảy Lược trước khi đến nhà ông Năm Tảo. Cuộc ngã giá cũng dễ dàng. Bà Bảy Lực cần hai chục đồng để tu bổ mái lợp lá xé, vÿch ván, làm cỏ sân trước và hai bên hè. Ông Huyện Khải móc bóp lấy hai tấm giấy hai chục đồng in hình con công đưa ông Bang biện và ông đến xóm Chuồng Gà để viếng ông bà Năm Tảo.

May mắn làm sao, sáng hôm đó ông Năm Tảo có nhà. Ông đang o bế mấy chậu cây kiểng và hòn non bộ trong sân. Còn bà thì đang bày cối để giã gạo bên hè. Thấy khách sang tới, bà Năm Tảo tạm dẹp chày cối vào nhà sau, òn ông Năm thì mời khách bước vào trung đường uống trà.

Ông Bang biện Hưỡn liền nói ngay mục đích chánh cuộc thăm viếng của chú cháu ông. Ông Năm Tảo lắng tai chăm chú nghe, rồi quay vào trong gọi:

- Con Hai đâu? Mau pha trà đem ra đây để chào bác Bang biện cùng quan lớn.

Bên trong có tiếng dạ thiệt ngọt ngào thanh tao. Ông Năm Tảo trầm ngâm:

- Quả thiệt là bịnh nan y đó. Tuy nhiên tui cũng cần xem mạch, xem sắc diện bịnh nhơn mới biết được phải dùng y phương nào, trị liệu nào. Còn ngôi nhà chị Bảy Lược cũng chẳn hư hao gì nhiều vì chị Bảy mới dọn về Cầu Dài chừng một năm thôi. Lát nữa tui sẽ đưa quan lớn tới viếng coi cái mặt tiền và khu đất chung quanh.

Ông Huyện Khải lộ vẻ buồn:

- Chẳng dấu gì bác Năm, thằng em tui là dân ăn học, có tương lai hứa hẹn vì nó đậu bằng bác vật canh nông ở bên Tây. Nay nó vướng bịnh ngặt thì kể như cuộc đời nó gãy đổ ráo trọi. Mong bác tìm tòi sách vở tham cứu cách trị liệu để cứu vớt nó.

Ông Năm Tảo trầm ngâm:

- Thì mình cứ hết sức mình. Trị lành bịnh hay không vẫn so sức trời. Nhưng ông bà mình cũng có khuyên đôi khi nhơn định thắng thiên mạng như thường.

Cô Hai Túy Ngọc bưng trà ra. Vì khách sang tới nhà nên cô vâng lời mẹ, mặc áo dài, mang giày nhung và chọn bộ ấm chén Vương Khải trân ngoạn để đãi trà. Cô dạn dĩ, đi đứng khoan thai. Vừa tới bộ trường kỷ mà khách đang ngồi đàm đạo với cha cô, cô cất tiếng chào:

- Kính chào quan lớn! Thưa bác Bang biện tới chơi.

Vừa khi cô Hai đặt khay trà trên chiếc bàn dài bằng cẩm lai giữa hai chiếc trừng kỷ thì ông Huyện Khải ngó cô lom lom, mặt trắng bệch bạc. Trời ơi, có phải cô Trịnh thị Minh Ngọc hiện hồn về đó chăng? Rõ ràng đây là chiếc áo dài bằng lụa bạch Duy Xuyên mà cô Minh Ngọc thường mặc đi chợ. Chu choa ơi, đây là giọng nói, khuôn mặt, dáng đi, điệu đứng của cô Minh Ngọc không sai một nét. Cô Hai Túy Ngọc khi đó cũng nhìn lại ông. Mặt cô xanh dờn, cô lảo đảo gắng gựng dựa lưng vào thân cột gỗ căm- xe để khỏi ngã. Co ôm ngực như chết điếng. Bỗng như do một động lực vô hình xui khiến, cô thều thào:

- Anh Khải! Anh Nguyễn Văn Khải đó phải không?

Cũng bị sức vô hình đẩy tới, ông Huyện Khải đứng dậy bước tới cô, kêu lớn::

- Em Minh Ngọc! Có phải em hay không?

Cô Hai Túy Ngọc la lớn:

- Phải, em là Minh Ngọc, Trịnh thị Minh Ngọc con của thầy Cai tổng Trịnh Văn Nhung ở Tam Bình đây!

Rồi cô xỉu nằm dài. Dù đang ở thời đại nam nũ thọ thọ bất thân nhưng ông Huyện Khải quên tị hiềm, đỡ cô lại bộ ngựa bằng gỗ giáng hương. Bà Năm Tảo và cô Ba Tây Nguyệt ở trong nhà túa ra xức dầu. giựt tóc mai, kêuu cô lai tỉnh. Ông Huyện Khải đứng nhìn, nước mắt như mưa.

Khi hồi tỉnh, cô Hai Túy Ngọc chắp tay thưa:

- Thưa bác Bang biện, thưa tía má, hôm nay vừa thấy mặt ông Huyện đây, con vụt nhớ lại tiền kiếp của con. So là kiếp trước hai đứa tụi con có tư ước với nhau, nhưng duyên nợ không thành nên con tự vận. Trước khi cầm chén thuốc phiện trộn giấm thanh đưa lên miệng, con có cầu Phật trời cho con đầu thai kiếp sau được kết duyên với người tình xưa. Cũng bởi ba má kiếp trước của con bức ngặt con phải lấy thằng chồng dại vì nó là con ông tri phủ Tam Bình nên con quẫn trí lánh nợ đời đó thôi.

Nghe thuật lại mọi sự xảy ra hồi mười tám năm về trước, mọi người đều xửng sốt. Ông Huyện Khải hỏi:

- Em còn nhớ hai câu thơ em viết trong bức thư tuyệt mạng gởi cho anh không?

- Cô Hai Túy Ngọc có vẻ suy nghĩ:

- Anh thử nhắc câu đầu, rồi em sẽ tiếp câu kế:

Ông Huyện Khải đọc:

- Tái sanh bướm lại gặp hoa...

Cô Hai Túy Ngọc tươi cười:

- Thôi em nhớ rồi! Thề xưa, hẹn cũ ai mà dám quên... Có phải vậy không anh?

Ông Huyên Khải mủi lòng quá, nắm tay cô Hai Túy Ngọc và cùng khóc với cô. Trừ ông Bang biện Hưỡn ra, ai cũng giọt vắn giọt dài theo cặp tình nhơn qua suốt hai kiếp được tái hội với nhau.

Ông Huyện Khải nói::

- Ai dè trong cõi minh mông, có ngày anh lại được gặp em, nhưng anh đã già rồi!

Ông Năm Tảo bảo:

- Thưa quan lớn, trông quan lớn chỉ cỡ 30 là cùng.

Ông Huyện Khải thú thật:

- Tôi đã ba mươi tám tuổi rồi!

Cô Hai Túy Ngọc lau nước mắt:

- Anh đừng nói vậy. Dù anh ruổi tới 60 và xấu xí như ông tiên Lý Thiết Quày trong hàng bát tiên đi nữa, em cũng nguyện nâng khăn sửa túi cho anh.

Ông Năm Tảo tán thành:

- Con gái tui phân rất chí lý. Xin quan lớn chớ ngại.

Bà Năm Tảo tiếp lời:

- Chỉ sợ quan lớn chê nhà vợ chồng tui nghèo hèn nên không cưới con gái tui thôi.

Ông Huyện Khải khẳng khái bảo::

- Dù phải từ quan để được cưới con gái ông bà tôi cũng không nề hà. Xin đừng tị hiềm vè giai cấp thấp cao. Cũng tại ba cái giai cấp mà suốt mười tám năm qua tôi tốn bao nhiêu là nước mắt, còn em Ngọc phải chịu vùi dập qua hai kiếp luân hồi!

Lại hỏi về tuổi tác ông bà Năm Tảo, ông Huyện vui vẻ bảo:

- Vậy là ông đây lớn hơn tui 6 tuổi, bà lớn hơn 5 tuổi. Dù sao tui cũng là phận rể, xin kêu ông bà bằng tía má cho phải đạo.

Bà Năm Tảo mau mắn:

- Chùng nào con gái tui trở thành vợ quan lớn sẽ hay. Giờ đây, xin mời ông Bang biện và quan lớn ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với vợ chồng tui để đánh dấu ngày tái hiệp này.

Bà quay qua cô Hai Túy Ngọc:

- Con ở hầu chuyện quan lớn cùng bác Bang biện và tía con, để má và em con nấu nướng cũng được.

Bà cùng cô Ba Túy Nguyệt xuống bếp. Bà sai cô Ba qua nhà chị Tám Khéo mua tôm càng, còn bà bắc nước làm vịt.

Ở tại trung đường, ông Huyện Khải yêu cầu ông Bang biện Hưỡn và ông Năm Tảo:

- Xin các bậc tiền bối giữ kín vụ nầy. Nếu mình tiết lộ ra thì thiên hạ bu lại hỏi tới hỏi lui, lôi thôi phiền phức lắm! Mình cứ bị kẻ tò mò quấy nhiễu hoài thì làm ăn gì được!

Ông Bang biện Hưỡn tán thành:

- Cháu nói phải đó.

Co Hai Túy Ngọc cùng ông Huyện Khải nhắc những chuyện quen thân ở Tam Bình ngày trước, nhắc về gia cảnh ông bà Cai tổng Nhung. Cô Hai tỏ ra ngậm ngùi lắm. Ông Huyện Khải hỏi:

- Em muốn về thăm lại xóm cũ làng xưa không?

Cô Hai Túy Ngọc bảo:

- Để làm chi hả anh? Tía má kiếp trước của em đã mãn phần rồi. Về nhắc chuyện cũ, những người bà con kiếp trước chưa chắc tin, mà nếu họ tin thì chuyện sẽ đổ bể ra, gây ồn ào. Chắc họ hàng cũ chẳng ai muốn nhắc lại chuyện tự vận của em hồi kiếp trước để thiên hạ mai mỉa ông bà Cai tổng Nhung đâu!

Thừa lúc ông Bang biện Hưỡn ra hè đi tiểu, ông Huyện Khải nói nhỏ với ông Năm Tảo:

- Thưa ba, con không muốn cậy chú Bang biện làm mai. Để con cậy vợ chồng thầy giáo cũ của con ở Tam Bình làm mai tốt hơn vì họ biết tu nhơn tích đức. Con cũng mời hai bác con đứng vai chủ hôn cho tiện.

Khi thấy ông Bang biện trở vào, ông Huyện Khải vụt xoay qua chuyện khác. Vừa lúc đó bà Năm Tảo bước ra trung đường mời khách dùng bữa. Ông Huyện yêu cầu bà Năm cùng hai cô Túy ngồi chung bàn vì đây là bữa ăn đặc biệt. Bà Năm và hai cô Túy đành chiều lòng ông.

Trong bữa ăn, ông Huyện Khải nhận thấy hai cô mỗi người một vẻ. Hai chị em gợi nên cái đẹp của bông bụp và bóng lồng đèn, không bông nào trội hơn bông nào. Cả hai như chim hoàng oanh và chim bạch yến, không chim nào kém chim nào...
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 7

Cô Thiệt Nguyện buông chiếc lược sừng trâu xuống chiếc bàn hình hột xoài, bảo cô Hai Túy Ngọc:

- Khuôn mặt em đúng là có hồng quang phát hiện. Em có tướng sang bẩm sinh. Trời sanh em ra để em làm mạng phụ phu nhơn đó.

Cô Hai Túy Ngọc nhìn lom lom bóng mình trong kiến. Tóc cô chải bảy ba, đen bóng như huyền giồi, mặt cô ửng hồng và sáng rỡ, môi cô mọng thắm, mắt ngời ngợi sóng thu. Hôm nay cô Thiệt Nguyện dạy cô bới đầu lèo, cái búi tóc hình bánh tiêu được bao lưới giắt trâm nhấp nháy.

Cách đây ba ngày, ông Huyện Khải cậy hai bác của mình là ông bà Hai Trưởng đứng chủ hôn và vợ chồng thầy giÿo Thiệt làm mai đi coi mắt cô Hai Túy Ngọc. Bà Chín Thẹo và cô Thiệt Nguyện lãnh phần lo trà rượu tiệc tùng. Đàng trai đưa cho đàng gái hai trăm đồng lo lễ cưới. Sình lễ gồm đôi vòng cẩm thạch xanh nước lý mà ông Huyện Khải đào được ở nền nhà cũ, một đôi bông hột xoàn cỡ năm ly rưỡi, một chiếc kiềng vàng nặng một lượng, một chiếc trâm cẩn sáu hột xoàn hai ly, một chiếc cà rá nhận hột ngọc lựu. Ngoài ra ông còn tặng cô dâu xấp gấm đỏ, xấp nhiễu xanh da trời để may áo cặp, một xấp cẩm nhung trắng để may quần.

Cô Ba Túy Nguyệt được chị mình tặng những món nữ trang do ông bà Năm Tảo sắm cho gồm chiếc vòng vàng chạm bát bửu, sợi dây chuyền có miếng mề đay cẩm thạch tạc hình tượng Quan Âm. Cô rất mừng cho chị mình lấy được chồng sang.

Bà Bang biện Huỡn cùng hai cô con gái đi Tịnh Biên về, mặt mày cả ba đều hớn hở. Thạch Eng và Cà Nựng đã dắt bà đến thầy của họ là Lâm Xâu để chuộc bùa, chuộc niệc đeo cổ hầu chống lại sự báo oán của các oan hồn. Kỳ về nầy, bà mua nào là lụa cẩm châu, lãnh tân châu, mắm thái, khô sặt, mắm cá trèn để dùng và biếu xén những nơi quen biết.

Ông Huyện Khải cậy ông Năm Tảo sắm bàn ghế khi túp nhà lá gần bên đã sử chữa xong. Ông cũng bỏ tiền ra mua chiếc divan cẩm lai đặt ngăn bên chái túp nhà. Sau đó ông mới chở ông Bác vật Cảnh, người em họ nhà chú của ông về dưỡng bịnh.

Ông Năm Tảo có qua chẩn mạch, hốt thuốc cho người đờn ông bất hạnh kia để ngăn bịnh cùi chậm phát tác và làm giảm đau. Ông khuyên đương sự:

- Bịnh chửa khỏi hay không chi do thấy thuốc có một, nhưng do số trời, do nghiệp quả tới mười.. Ông Bác vật nên tụng thêm kinh Phổ Môn và kinh Dược sư Lưu ly quang để nhờ tha lực của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát cùng đức Dược Sư độ trì.

Bác vật Cảnh làm thinh, không nói gì.. Ông Năm Tảo đi thăm thú khắp vườn sao ngõ ngoài, chỗ ẳn cư mới của Bác vật Cảnh. Đâu đó được làm cỏ và quét tước sạch sẽ. Buồng ngủ có tủ áo nạm kiếng hình hột xoài, divan cẩm lai. Phòng khách có bảy bàn tròn và ghế bằng dây mây bện rất mỹ thuất. Bên chái là tủ kính đựng đầy sách báo và những món ngoạn khí bằng sành, sứ, gỗ quang dầu bóng lộn. Ông Năm Tảo mở gói giấy lấy hai tấm rèm màn bằng vải do cô Ba Túy Nguyệt may và thêu đục lỗ, bảo ông Bác vật căng ở hai bên xửa sổ. Ông cũng không quên mở cần xé, lôi ra nào ấm nhôm, hỏa lò, than cần đước, bộ đồ trà... và bảo:

- Ông chỉ phải sắc thuốc, pha trà, còn cơm nước thì ngày ba bữa, con gái tui sẽ đem qua cho ông dùng:

Khi tiễn ông Năm Tảo ra ngõ, Bác vật Cảnh buồn rầu bảo:

- Ông Năm thiệt chu đáo trong việc sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho tôi. Ơn ông không biết bao giời tôi mới trả nổi đây! - Và ông nhấn mạnh - Tôi không phải là kẻ duy tâm nên không tin tưởng Trời Phật, song tôi vẫn hằng tâm niệm giữ tròn nhân lễ nghĩa trí tin. Mắc bịnh ngặt nghèo nầy, tôi chỉ tin tưởng vào thuốc thang mà thôi.

Cô Thiệt Nguyện vẫn đi doọc theo cồn bãi nắm trong lòng sông Cô Chiên để chửa bịnh mắc đàng dưới cho phụ nữ. Cô lập đàn tràng cầu nguyện cho các oan hồn mà thân thể đã chìm sâu đáy nước. Cô cũng ếm bùa ngăn bọn thủy quái lộng hành, phá phách bá tánh cư ngụ ven sông.

Cậu Hai Kinh lý Luyện vẫn tiếp tục đo đất ở Mỹ An, Hòa Mỹ, An Hương. Cậu đang nhắm vào cô Ba Hưởng, con gái chú Thường xuyên Hiếu ở Hòa Mỹ và cô Hai Thiều, con gái Hương nhứt Điều ở An Hương.

Cô Ba Cẩm Tú ốm nghén được ba tháng. Chồng cô khám thai cho cô và bảo rắng cái thai bình thường. Vì cẩn trọng, sợ lỡ trợt té mà sảo thai nên cô bắt chồng dời phòng ngủ vốn lở lầu trên xuống từng trệt cho chắc ăn.

Cô Tư Cẩm Lệ theo chồng về Sài gòn sau khi từ Tịnh Biên về Vĩnh Long một tuần. Vô cậy có bùa niệc trấn ếm nên vẫn giữ thói xéo xắt và hành hạ con ghẻ. Cô tìm cách lên đất Hộ, tỉm mả cô Tư Thục, đem bốn cọc tre vó vẽ bùa cắm lút cán ở đầu, chân và hai bên hông mộ. Cái thai cô lật bật đã được bốn tháng. Cô ăn được ngủ được. Trong giấc chiêm bao, cô không hế thấy cô Tư Thực hiện hồn về đòi mạng nữa.

Còn ông Bang biện Hưỡn đã được Cai tuần Xướng dàn xếp để ăn nằm với vợ Cai tuần Hạp. Ngặt vì bịnh cúm làm ông tối tăm mày mặt mãi nên ông chưa đưa vợ Cai tuần đến tổ quỉ của mình ở cầu Kinh Cụt mà thôi.

Chú Cai tuần Hạp làm mướn hai dãu ruộng của ông Bang biện Hưỡn, mỗi năm phải đóng cho chủ điền 300 giạ lúa, năm nào được mùa thì còn dư 150 giạ. Cách đây ba năm, vì bà Chín Én, mẹ vợ của chú đau nặng, nên vợ chồng chú phải bán rẻ 50 giạ lúa lấy tiền lo thuốc thang. Nhưng thuốc thang không qua số mạng. Khi bà Chín Én chết đi, chú phải bán thêm 50 dạ lúa nữa để làm ma chay cho nhạc mẫu. Tới chùng đóng thuế thân thì chú chới với vì số lúa còn dư không đủ cho hai vợi chồng và bốn đứa con sống trọn năm. Bởi đó, vợ chú phải đem thân ở đợ cho gia đình ông Bang biện để trừ số lúa vay của họ.

Hôm nay Cai tuần Xướng có dịp đi Cái Sơn Bé, ghé qua nhà Cai tuần Hạp. Nhà chú ở cuối xóm, cách xa con liên tỉnh lộ cỡ 500 thước, cạnh một dòng rạch nhỏ iền cây dừa nước rậm rạp. Nhà vách lợp lá xé, mái lợp lá chầm gồm một gian và một chái. Cái chái sát gần bên ao đầy điên điển trổ hoa vàng. Rạch dừa nước thì ở phía trước, cách hàng rào bông bụp khoảng năm thước. Song song với dòng rạch là con đường đắp đát. Nhà nằm giữa bốn công đất nhỏ có trồng vài bụi chuối, vài cây ổi, dăm cây khế. Trong nhà, ngoài bàn thờ bằng gỗ thao lao, còn có bộ ngựa gỗ tạp, chiếc bàn dài bằng gỗ mù u và bốn chiếc ghế đẩu mỗi bên.

Cai tuần Hạp tuổi cỡ ba mươi ngoài, đen đúa, mặt mũi hiền lành, ở trần trùi trụi, bận quần xà lỏn đen đã phai màu. Còn vợ Cai tuần Hạp tuổi gần ba mươi, dung nghi nghiêm chỉnh, nước da khá mởn, ngặt vì đang chửa nên mặt mũi chao vao. Trong nhà lúc đó còn có một người đờn bà trạc tuổi thím Cai nhưng mặt mũi sáng sủa, nước da trắng trẻo. Cai tuần Hạp bảo Cai tuần Xướng:

- Ne anh Bảy, chắc anh cũng biết cô Thiệt Nguyện đây thường qua bên Cồn trị bịnh mắc đàng dưới cho đờn bà đất Vãng mình.

Cai tuần Xướng gật đầu khen:

- Có, tui có nghe. Làm phước thì để đức cho con cháu.

Cô Thiệt Nguyện mỉa mai:

- Còn a tòng theo bọn cường hào bác ác bá để xúi phụ nữ đi vô đường quấy thì để cái già cho con cháu đây?

Cai tuần Xướng trâng tráo:

- Ối, việc đời mà cô! Ai cũng có cái chỗ kẹt! Như tui đây là kẻ ăn cơm chúa nên tui phải múc tối ngày. Đâu có ai muốn làm chuyện quấy để cho miệng đời dèm siểm!

Cô Thiệt Nguyện làm thinh, mặt mày chầm dầm. Thấy mình ngồi hoài coi trơ quá nên Cai tuần Xướng đứng dậy kiếu từ. Trước khi bước ra khỏi nhà, hắn hăm he chú Cai tuấn Hạp:

- Thầy Bang biện nhắc chú mày nhớ hai dãy ruộng, mầy cư xử sao cho vuông tròn thì xử. Tao như thiên lôi, thầy sai đánh đâu tao đánh đó. Tội lỗi gì đối với Trời Phật nhơn quả, tao không có chịu trách nhiệm đa!

Khi tên thiên lôi kia đã đi khuất mắt, thím Cai tuần Hạp từ trong buồn bước ra, mặt mày bùng thụng bùng thiu:

- Cái thứ đi dụ dỗ đàn bà đó đời nào tui thèm tiếp! Nếu nó còn ở đây cù cưa cù nhầy nói chuyện nhơn nghĩa bao đồng, tui sẽ lấy chổi tẩm cứt gà quét nó ra ngoài sân cho mang xấu!

Cô Thiệt Nguyện cười hòa nhả:

- Thiệt tình chị giận cũng phải, nhưng nếu chị sanh sự vời nó thì mọi chuyện hư hết! Bây giờ, chị cứ hẹn tuần sau tiếp thằng già dê tại đây. Mốt, anh chị hãy gố gắng dọn dẹp hết bàn ghế đồ đạc chở qua nhà ông Năm Tảo, rồi hai bữa sau xuống tàu đi Bạc Liêu. Xứ đó ruộng nhiều, nhơn công ít. Nếu anh chị chí thú làm ăn thì dẫu không giàu cũng có của ăn của để.

Cô lấy một tờ giấy 20 đồng và một tờ 5 đồng:

- Ông bà Năm Tảo chịu mua bàn ghế của anh chị và nhờ tui đưa chị 20 đồng để hộ thân, còn đây là 5 đồng của tui tặng anh chị làm lộ phí.

Cai tuần Hạp xúc động;

- Mấy thứ bán ghế gỗ tạp đấy giá đáng là bao mà ông bà Năm Tảo cho tụi tui tới 20 đồng.. Hôm qua, tui cũng đã bán hết lúa trong bồ được 30 đồng.

Cô Thiệt Nguyện đưa phong thơ cho Cai tuần Hạp, bảo:

- Ôi, bước đầu, tiền càng nhiều càng tốt chớ sao! Anh chị còn phải lo cất chòi ở yên đợi tới mùa gặt. Chừng đó anh chị có thể kiếm chác thêm trước khi mướn ruộng. Hãy đưa bức thư nầy cho người anh bạn dì tui là anh Hương hòa Hiệp, ảnh sẽ chỉ dẫn anh chị đường đi nước bước. Ở xứ đó lo gì chết đói! Cá tôm có sẵn trong rạch sông, ao bàu: lúa mót cũng đủ nuôi sống cả nhà anh chị nửa năm.

Vợ Cai tuần Hạp ứa nước mắt:

- Ơn cô lớn quá, vợ chồng tui biết lấy gì đền đáp dây!

Chị chấp tay toan xá cô Thiệt Nguyện nhưng cô xua tay:

- Chị đừng làm vậy khiến tui tổn thọ! Nếu chị nghĩ rằng từ đây về sau không có dịp nào trả ơn tui thì trên đường đời, hễ gặp người hoan nạn, xin anh chị cứu giúp họ, đó cũng là cách trả cho tui đó.

Vợ chồng xúc động khóc rấm rứt. Số là cÿch đây một tuần, có Thiệt Nguyện có dịp đi xuống Cÿi Sơn chữa bịnh mắc đàng dưới cho con gái ông Hương kiểm Lợi, nghe được vận sự về cô Út Thoại Huê bèn tìm xuống Cái Sơn Lớn để thăm má cô Út. Khi cô đem bó nhang huyền đàn tới mả cô Út hì gặp một chị đàn bà ngồi trước mộ cô Út vừa khấn vái vừa khóc lóc. Chị đờn bà đó chính lá vợ Cai tuần Hạp. Sau khi biết khúc nôi nguồn ngọc, cô khẳng khái hứa giúp đỡ cho vợ chồng Cai tuần Hạp. Cứ cách hai ngày, cô đến viếng thăm gia đình anh ta để bàn bạc.

Vậy là mọi việc đã trù tính xong xuôi. Cai tuần Hạp dù có tha thiết chốn chôn nhau cắt rún mấy đi nữa, cũng phải tìm chốn dung thân mới, trước hết là để tránh điều sỉ nhục, hai là lìa kiếp làm ruộng mướn chịu sự bóc lột suốt đời cha qua đới con.

Trước khi ra về, cô Thiệt Nguyện nhờ vợ chồng Cai tuần Hạp đưa mình ra thăm mộ cô Út Thoại Huê lần chót. Mưa cuối mùa dù có thưa hơn mưa ngâu tháng bảy, nhưng vẫn làm cho đám cỏ tranh trên mộ thêm rậm thêm cao, vẫn làm đám dây choại, dây bìm, dây săn thêm dài... Cô Thiệt Nguyện đánh diêm châm nén nhang bạch đàn thơm ngát cắm trước mộ, khấn vái:

- Cô Út ôi, cô là nạn nhân của ba anh em cậu Hai Luyện, còn tui là nạn nhân của cô Ba Cẩm Tú. Tui sống mà mang sầu chuốc não cũng như cô chết mà ngậm oán nuốt hờn. Song nếu cô hiểu rằng oán chớ cưu mang còn ân phải tìm cách báo đáp thì nên sớm giác ngộ để vong linh được siêu sanh...

Đang khấn vái, cô bỗng cảm thấy tối tăm mặt mũi như bị một tấm màn đen thẳm và lạnh ngắt trùm kín. Trong cơn váng vất, cô thấy một người đờn bà mặt mày tiều tụy xanh xao đến trước mặt mình, nghiến răng:

- Sát nhân thì giả tử, đó là lẽ thừng của luật nhơn quả trả vay, đó là chuyện đương nhiên của tội phước báo ứng! Giờ đây là ban ngày, khí dương đang thạnh, tui sẽ nương theo cô mà thanh toán mối cừu hận đây!

Vía cô Thiệt Nguện hỏi:

- Thưa cô cô là ai?

Người đàn bà dằn từng tiếng:

- Tui là Út Thoại Huê. Cám ơn cô đã tới đây hai lần đốt nhang cho ấm vong linh tui. Nhưng xin cô đừng can thiệp vô chuyện của tui. Cô tu hành, cô lấy ơn báo oán, nhưng đó là chuyện của cô, còn báo cừu rửa hận là chuyện củ tui. Lát nữa đây cô sẽ rõ!

Tới đây cô Thiệt Nguyện vụt tỉnh. Trời đã quá ngọ, cô kiếu từ vợ chồng Cai tuần Hạp để đi bộ về chùa Sơn Thắng nằm giữa Cái Sơn Lớn và Cái Sơn Bé, cách bến Bắc Cỗ Chiên năm trăm thước. Chùa đang làm lễ cúng hạ nguơn nên dập dìu thiện nam tín nữ. Khi cô men theo con đường đất rải ngói vụn từ liên tỉnh lộ đưa vào sát chùa thì thấy cô Ba Cẩm Tú đang đứng hóng gió bên gốc dừa tam qua, nên cô đưa tay vẫy.

Số la hôm nay cô Ba Cẩm Tú bưng quả bánh nướng gồm bánh gai, bánh con duông, bánh hạnh nhơn đi dâng hươn g lạy Phật rồi ở chùa làm công quả. Cô đi chùa cầu Phật Quan Âm phù hộ cho cô sanh con trai để chồng cô mừng. Sau khi dùng bữa ngọ trưa xong, khách hành hương lục tục ra về. Cô còn đợi chồng đến rước nên cô đứng dựa gốc dưa, trước là hứng gió, sau là nhìn ra con lộ coi xe chồng cô tới hay chưa. Vừa lúc cô Thiệt Nguyện trờ tới đưa tay vẫy vẫy nhưng cô chỉ thấy cô Út Thoại Huê, tay cầm roi cá đuối hươi lên sẵn sàng đánh cô. Trời ơi, làm sao cô lầm được! Rõ ràng là cô Út Thoại Huê, mặt trẹt có nút ruồi duyên bên mép, mặc chiếc áo bà ba bằng lụa cẩm cúc màu vàng, chiếc áo mà cô mặc hôm uống chén thuốc phá thai sắc bằng cỏ càn ngươn! Kinh tâm táng đởm, cô Ba Cẩm Tú chạy trối chết vào sân chùa, miệng la bài hải. Thình lình cô trượt té vì miếng vỏ dưa gang ai vừa liệng trên lối đi...

Cô Thiệt Nguyện chạy lại đỡ cô lên:

- Sao em bỏ chạy vậy? Chị có làm gì em đâu?

Cô Ba Cẩm Tú vụt mở mắt:

- Ủa, chị là... Sao mới đây em thấy con Út Thoại Huê đến đây lấy roi cá đuối đánh em?

Bầy giờ cô Thiệt Nguyện mới hiểu lời nói của cô Út Thoại Huê: "Lát nữa đây cô sẽ rõ". Cô vừa an ủi vừa đỡ cô Ba Cẩm Tú dậy thì thấy máu loang đỏ ối từ đũng chiếc quần sa teng tuyết nhung trắng của cô Ba. Vừa lúc đó thì bác sĩ Lê Thanh Mậu lái xe tới, nhưng cô Ba đã chết giấc khi thấy máu tuôn ướt quần mình.

Cô Ba Cẩm Tú cầm được máu vì gần chùa có bà xẩm chuyên nghề châm cứu nhưng về nhà, bụng cô cứ đau âm ỉ. Cũng hôm đó, cô đang nằm nghỉ trong phòng thì bên ngoài trời nổi cơn mưa lớn, sấm sét rầm rĩ. Bỗng một cú sét đánh quát vào trung đường, tiếp theo là tiếng nổ thiệt lớn khiến tai cô muốn điếc, đầu óc thiếu điều rạn nứt. Sau đó con Hiệu, đứa tớ gái, từ ngoài chạy vào báo cáo:

- Thưa bà, cái trang thờ bùa bị sét đánh bể tan nát hết rồi!

Cô Ba Cẩm Tú rụng rời. Gói bùa gồm những củ ngải trong vuông lụa đỏ có vẽ hình và chữ ngoằn ngoèo bằng kim nhũ lóng lánh cô vừa thỉnh từ Tịnh Biên về được đặt trong một chiếc trang thờ, nời đó bóng đèn trứng vịt được tháp sáng cả ngày lẫn đêm.

Khi cô Ba bước ra trung đường thì chiếc trang đã bị đánh rớt xuống bàn thờ ông bà, mấy mảnh ván bằng gỗ thùng thông đè sập bức họa truyền thần tía má chồng cô, làm kiếng bể tung tóe. Gói bùa bọc lụa đã cháy, bốc mùi khét nghẹt. Cô dập tắt lửa, kinh hoảng thấy chẳng những lớp lụa bên ngoài cháy thành tro mà mấy củ ngải bên trong cũng đã thành than đen!

Tuần lễ sau, cô Ba Cẩm Tú đau bụng kinh khủng, Bác sĩ Lê Thạnh Mậu vội đưa cô vô nhà thưng tỉnh, hiệp cùng bác sĩ trực tháo máu ứ đọng trong tử cung cô. Và đau khổ cho ông biết bao, cái thai cũng theo máu ra ngoài! Cô phải nằm nhà thương mất một tuần. Chồng cô không dám tiết lộ chuyện sẩy thai cho cô biết.

Khi về nhà, bác sĩ Lê Thạnh Mậu lực lúc cô tỉnh táo minh mẫn, mới nói hệt tự sự cho cô nghe. Cô khóc rấm rứt:

- Mình tuy chưa nói, em cũng đoán ra sự việc rồi, từ lúc sét đánh sập trang thờ bùa.

Từ đó cô sầu não, ăn không ngon ngủ không yên. Rồi cô nghi cô Thiệt Nguyện dùng bùa phép đội lốt đội hình cô Út Thoại Huê để nhát cô. Chẳng cần phải chạy trợt té, nội cơn sợ khủng hiếp cũng đủ làm cô hư thai rồi! Cô tự hứa mình phải trở lại Tịnh Biên để chuộc bùa đậu thai, luôn tiện chuộc luôn bùa ếm cô Thiệt Nguyện cho cô nọ phải chết thảm thiết.

Ba Bang biện Hưỡn được con gái báo tin sẩy thai, song bà không khiếp sợ lậu. Bà nghĩ rằng Thạch Eng tuy già tay ấn nhưng chưa phải thứ xuất chúng. Bà phải đem hai cô con gái cưng xuống Tịnh Biên thêm lần nữa vì bà nghe tiếng phù thủy Kim Ba ở gần bến chợ có tài làm đá hóa ra vàng, biết điều khiển âm binh giết kẻ thù ở xa, các cả ngàn cây số. Cho nên bà vẫn tạo ác nghiệp đều đều, vẫn hành hạ tôi tớ và thằng con riêng của chồng, vẫn đánh chửi con nợ, vẫn xéo xắt với tá điền tá thổ.

Một hôm bà Bang biện Hưỡn gọi Cai tuần Xướng tới truyền lịnh:

- Nè Tuần, con vợ thằng Hai Hoạch ở gần đến Văn Thánh nợ tao bốn chục đồng từ hồi đầu năm tới giờ chưa trả. Mày rình coi nhà nó có món chi đực giá thì cho tao hay, để tao tới xiết mang về, chừng nào nó trả cà vốn lẫn lời, tao mới cho chuộc.

Cai tuần Xướng ra công rình rập nhà Hai Hoạch nhưng suốt tuần bà Bang biện vẫn chưa thấy hắn báo cáo. Sáng hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lầu qua Cầu Đào thăm tía má mình. Bà Bang biện bày bánh khoai lang chiên ăn cặp với rau sống chấm nước mắm giấm ớt. Cô Ba bảo mẹ:

- Con qua đây hỏi má định coi chừng nào má con mình đi Tịnh Biên?

- Con nên viết thư cho con Tư, rủ nó cùng đi. Cái bùa của thằng Thạch Eng coi bộ hơi yếu, phải đổi bùa khác cho chắc ăn.

Giữa lúc đó Cai tuần Xướng mặt mày hí hửng từ ngoài cửa ngõ bước vào, chấp tay xá xá má con bà Bang biện Hưỡn, Bà quở:

- Hổm rày mầy chui ngõ ngách nào mà biệt tăm biệt dạng vậy? Nhờ mầy có chút việc mà mầy đánh lừa đánh đảo lánh mặt tao thì còn nước non gì?

Cai tuần Xướng gãi đầu:

- Xin bà chớ phán như vậy mà tội nghiệp tui. Tui ra sức rình rập nhà Hai Hoạch, biết được nó có giàn máy hát và một chồng dĩa. Tối nào vợ chồng nó cũng mở máy hát cho người trong nhà và lối xóm cùng nghe.

Ba Bang biện Hữn mừng rỡ, gọi thằng Xiêm, thằng Đực sắp đặt kế hoạch để tối nay cùng ào vô nhà Hai Hoạch xiết nợ, Bà không quên thửng Cai tuấn Xướng hai nải chuối sữa, một trái mảng cầu xiêm và dặn y ta ngầy mai rình nhá thím Bảy Ớt ở Cầu Dài vì thím còn thiếu bà ba chục đồng mà cả bốn tháng nay chưa trả tiền lời chớ nói gì tiền vốn.

- Thưa bà, thưa cô Ba, hỗng phả đêm nào anh Hai Hoạch cũng cho chạy dĩa hát máy đâu! Nghe nói mốt đây ảnh làm đám giỗ cho ông nhạc, ảnh sẽ chạy dĩa hát trong hai bữa giỗ tiên lẫn giỗ chánh cho xôm tụ, chừng đó bà tới xiết mới chắc ăn.

Vậy là hôm giỗ chánh tại nhà Hai Hoạch, thừa lúc gia chủ cho chạy dĩa hát thì bà Bang biện Hưỡn cùng thằng Xiêm, thằng Đực xông vào. Trong khi bọn đờn ông kẻ ôm chồng dĩa, người ôm giàn hát máy thì bà cất tiếng rổn rảng, chửi:

- Mồ tổ cha tụi bay, thiếu nợ tao cả năm không trả còn bày đặt làm đám giỗ rình rang! Tao nói cho bây biết, mốt bây không đem 40 đồng bạc vốn, bốn đồng bạc lời tới nhà tao thì giàn hát máy nầy và chồng dĩa kia thuộc về tao luôn!

Bà bước tới mâm cúng trên bàn thờ, cầm bát nhang còn cháy đỏ liệng ra ngoài sân rồi hét bọn tùy tùng ra về.

Riêng cô Tư Cẩm Lệ, vừa được thơ chị mình, liền sắm sửa quà cáp chờ chồng lái xe đưa mình ra bến tàu Nguyễn Văn Kiệu (Sau gọi là bến Bạch Đằng) để cô đáp tàu thủy đi Vĩnh Long. Cái thai cô được năm tháng nên bụng cô đã đội áo, ngó lum lúp như cái gò mả đã lạn. Cô đem về nhà cha mẹ mình toàn những món ngon đương mùa, nào là cá chái kho sẵn đựng trong thố sành, náo sầu riêng, măng cụt, lôm chôm, bòn bon...

Tối hôm đó, thừa lúc ông Bang biện Hưỡn và bác sĩ lê Thạnh Mậu đi nhậu, bà Bang biện dặn con Lài nấu cho mẹ con bà nồi cháo thập cẩm và pha thêm một bình trà thiệt ngon. Ba mẹ con trải chiếu bông trên bộ divan cẩm lai rồi bày gói thêu ra vừa nằm vừa trò chuyện.

Cô Tư Cẩm Lệ trách mẹ:

- Má có thấy thầy Mười Khôi đoán điềm giải mộng hay thần sầu không? Vậy mà bữa hổm má tỏ ra giận ghét thẩy!

Cô Ba Cẩm Lệ sực nhớ:

- À quên, con có nghe thầy Mười Khói quen nhiều tay thầy bùa, thầy lỗ ban ở Long Xuyên, vậy má nên đật một mâm nhậu nho nhỏ để đãi thầy, luôn tiện nhờ thầy chỉ đường đi nước bước để má con mình tìm thầy giải nạn trừ hung.

Ba Bang biện nói xuôi:

- Lời con nói nhằm lẽ lắm! Thiệt tình bữa hổm má có hơi nóng!

Bà kêu con Lý,, đưa nó hai đồng bạc, dặn nó sáng mai mua bốn ký tôm càng thiệt ngon để dọn mâm rượu, phần thì trộn gỏi, phần làm chả huế, còn thì làm món tôm bún. Bà cũng dặn nó mời thầy Mười Khói xế mai đến Cầu Đào dể nhậu nhẹt với chồng bà.

Sau khi con Lý trở xuống bếp, cô Tư Cẩm Lệ lo lắng bảo mẹ và chị:

- Con cũng báo cho má với chị Ba hay, cái trang bùa của con bị sét đánh tan tành hết trọi.

Hỏi ra thì cái trang thờ bùa của cô Tư chịu chung số phận với cái trang thờ bùa của cô Ba cùng một ngày một giờ. Mặt mày ba mẹ con tái mét vì sợ. Cô Tư bồi thâm một tin khủng khiếp nữa:

- Chưa hết đâu má! Sau đó ba hôm, hai đứ con ghẻ của don đi viếng mả mẹ tụi nó, thấy sét đánh cách nào không biết mà ngôi mộ vẫn còn y nguyên, duy bốn cây cọc vẽ bùa bị bạt tung lên, nằm ngổn ngang quanh mộ.

Bà Bang biện Hưỡn chết lặng một giây, song bà trấn tĩnh liền:

- Còn nước còn tát, khuyên con chớ quá kinh hãi mà động tới cái thai. Đẻ má xuất tiền cho sư dô Trí Năng ở am Thường Tịnh làm chay và cầu siêu sanh cho con vợ trước của chồng con, để nó siêu sanh nơi an bang tịnh độ, khỏi theo quanh quẩn mà báo oán con hoài!

Thiệt tình bà Bang biện nói liều để an ủi hai cô con gái, nhưng nói xong bà chợt thấy mình cao kiến. Tuy mẹ con bà không rành kinh kệ nhưng cả ba đều có nghe đâu đó sự linh ứng của việc lập trai đàn cầu siêu. Cô Ba Cẩm Tú cũng an ủi em:

- Má nói phải đó Tư à! Chị nghe nói vong linh người chết được thân nhơn lập đàn chay cầu siêu, thừng hiện hồn về cảm tạ trước khi được sanh vào nơi giàu sang phú quí.

Hôm sau thầy Mười Khói xáchh dù đến Cầu Đào dự tiệc. Vì có cậu Hai Luyện về nghỉ cuối tuần nên bà Bang biện cho làm thêm con vịt cà cuống để nấu cháo. Tới lúc thực khách ngà ngà, bà Bang biện Hưỡn mới đem ý định của mình ra bày tỏ. Thầy Mười Khói cười, nói:

- Ở chợ Ba Si làng phước Thạnh, tỉnh Trà Vinh có thầy Năm vốn là một địa tiên chuyên làm thuốc cứu nhơn độ thế, làm bùa đối trị bùa ếm để giải nguy cho bá tánh. Chẳng ai biết gốc gác thầy ở đâu, nhưng thầy về chợ Ba Si hồi năm Mậu Dần, không có mang theo gia đình, bạn hữu gì ráo! Thầy xưng là thầy Năm Lê Thái Sanh, tu theo pháp Mật Tông, tuy ăn chay nhưng chỉ ăn rau cỏ và trái cây chớ không dùng ngũ cốc. Thầy thường tỏ ra cho những thân chủ hết lòng giúp đỡ thẩy biết rằng thầy của thẩy là đức Đông Hoa đế quân, thường hiện xuống núi Tà Lơn vào mỗi kỳ rằm nguyên tiêu, dạy thẩy tu theo phép hút lấy thần khí mùa xuân và của cỏ cây, trước là làm cho mình mạnh khỏe, trẻ mãi không già, sau là để làm tiên đơn thánh dược giúp đỡ người khác...

Ông Bang biện hỏi:

- Còn bùa đối trị bùa ếm thì thẩy học ai?

- Cũng do đưa Đông Hoa đế quân dạy chớ ai vô đó! Cái sứ mạng cứa nhơn độ thế của thầy Năm là 24 năm. Sang năm Ất Dậu, gặp lúc thế gian chịu cảnh nắng lửa mưa dầu, thầy sẽ qui tiên, giao sứ mạng cho người khác.

Cô Tư Cẩm Lệ mừng lắm, bảo mẹ:

- Nếu vậy thì hay lắm. Trà Vinh gần tỉnh mình, chồng con có cô em con nhà chú ở chợ Ba Si, tiện chỗ cho ba má con mình tá túc vì nhà của cổ mát mẻ rộng rãi lắm.

Bà Bang biện Hưỡn liền tặng thầy Minh Khói một con gà mái dầu, một cân lạp xưởng, một cân mì xạ, một chụa quít đường. Bà sai hai cô con gai làm bốn ngăn quả đựng bánh hấp như bánh bò bông, bánh thuẩn, bánh bột lọc, bánh qui, bánh da lợn để con Lý đem tới am Thường Tịnh. Kèm với bốn ngăn quả bánh, bà giao cho sư cô Trí Năng năm chục đồng bạc để làm chay đàn cầu siêu cho cô Tư Thục, cố thê của thầy kiện Trần Hảo Hiệp.

Ông Bang biện Hưỡn thấy mình phong phú sức khỏe, dào dạt sóng tình, hực hừng lửa dục, bèn kêu Cai tuần Xướng:

- Mầy phải giao hẹn với vợ chồng thằng Cai tuần Hạp cho chắc. Tao không muốn tụi nó trì hưỡn chuyện đó. Cái bụng cỏn chỉ chừng một thàng nữa là bự chang bang như cái chảo úp thì... hư bột hư đường ráo trọi! Mầy nói với tụi nó là tao muốn gặp con vợ nó tối mai.

Cai tuần Xướng liền tới nhà Cai tuần Hạp. Nhà cửa đóng im lìm. Ngoài hàng ba, là rụng ngổn ngang. Lúc đó trời đã xế trưa, ánh nắng vàng vọt nhuộm buồn cảnh vật chung quanh. Một con mèo muôn nằm gần áng nước, thấy có người lạ liền chậm rãi bước về phía hàng rào xương rồng rồi chui qua lộ hổng ra ngoài. Cai tuần Xướng lớn tiếng gọi:

- Có ai ờ nhà không?

Trong nhà có tiếng đờn bà vọng ra:

- Anh Bảy đó hỏa? Cửa không gài, mời anh vô.

Cai tuần Xướng đẩy cửa bước vào. Nhà trống trớn, chỉ còn trơ chiếc chõng tre trải chiếu đậu. Một thép dầu mù u đặt ở đầu giường. Vợ Cai tuần Hạp mặc bộ đồ trắng ngồi bên mép chõng, tóc tai dã dượi, bảo:

- Đồ đạc trong nhà đã bán hết để chồng tui lấy tiền đóng thuế thân. Ảnh đem sắp nhỏ về viếng thăm bà dì của ảnh ở Lộc Hòa, nhà chỉ còn có mình tui. Vậy anh nên về nói với ông Bang biện Hưỡn tối nay ổng tới đậy tiện hơn. Tôi cũng đã giặt sẵn chiếu mùng đợi ổng.

Cai tuần Xướng tán thành:

- Tối nay có trăng, tiện lắm.

Rồi anh ta hỏi cho có chuyện:

- Thím có đau ốm gì không? Sao lại nằm dã dượi một mình trong căn nhà đóng cửa tối mờ như vậy?

Vợ Cai tuần Hạp cười gượng:

- Tui có đau ốm chi đâu! Bởi vì thai hành nên tui cứ sật sừ sật sưỡng vậy mà! Tui cũng mới vừa uống thang thuốc dưỡng thai do ông Năm Tảo hốt nên cũng thầy đỡ.

Rồi chị ta giục:

- Thôi, anh kíp về báo tin cho ông Bang biện mừng. Tui vừa sắm cục xà bông sả, sẽ tắm gội cho da thịt thơm tho, để... tiếp ổng.

Giọng người đàn bà vừa lẳng lơ vừa se sắt làm Cai tuần Xướng rợn cả người, nhưng biết chị ta bằng lòng tiếp ông Bang biện Hưỡn là anh ta đủ mừng rồi.
Xế đó, ông Bang biện Hưỡn sai con Lý, con Lài dọn ông một tiệc tượu nhỏ để ông cùng Cai tuần Xướng cụng ly. Ông cao hứng bảo tên nha trảo tâm phúc:

- Xong cái vụ vợ thằng Cai tuần Hạp, mầy nên bắt tay lo vụ em gái anh Hương bộ Lại cho tao.

Ông đặt vào tay Cai tuần Xướng một phong bao:

- Mầy cứ ăn nhậu cho đã đời đi. Còn tao, tao chỉ có thể nhậu sương sương thôi. Tối nay nếu say li bì thì còn làm ăn giống gì được! Tao tặng mầy hai chục bạc này để uống trà.

Ông lôi chai rượu thuốc ngâm xác con chim bìm bịp phơi khô ra nhâm nhi. Đó là rượu tráng dương mà Cai tuần Xướng bổ cho ông hồi Tết vừa rồi. Trong tủ buýp- phê của ông cũng đã có hủ rượu ngâm cắc kè bông, một thứ rượu dương khác.

Sau bữa tiệc, Cai tuần Xướng say hoắc cần câu, phải vịn vai thằng Đực để về nhà. Còn ông Bang biện Hưỡn đánh một giấc thiệt đã. Khi ông thức dậy thì trời đã chạng vạng. Mâm cơm chiều cọn lên, ông ăn thiệt ngon miệng vì có món canh cá khoai nấu ngót mà ông rất ưa. Xong xuôi ông đi tắm, cạo râu, xịt dầu thơm và mặc bộ đồ bà ba bằng lục soạn trắng.

Tay xách đèn tán chai, ông chậm rãi đến nhà Cai tuần Hạp. Lúc đó vầng trăng mười ba khá tròn, rải ánh sáng khắp nơi. Vùng ngoại ô tỉnh lỵ dập dìu người đi chơi trăng. Ông Bang biện Hưỡn đi sâu hướng xóm Đình Khao, bước qua cầu sát lót ván, rẽ vô vùng thôn ổ tận rạp cây dâu miền dưới, bụi tre gai, khóm tầm vông.

Đây rồi! Nhà Cai tuần Hạp đây rồi! Mái lá lợp nhô khỏi chòm cây đen thẳm, bên kia lối đi đắp đất lươn song song với dòng rạch lấp loáng ánh trăng. Cửa ngõ không gài, ông đẩy cánh cửa bước vào lối đi ngắn và hẹp viền những cây kim quát trổ bông thơm ngát để bước vào vuông sân ngổn ngang là vàng. Mái hiên tối mờ mờ, nhưng có ánh đèn chong le lói qua mắt cáo. Ông Bang biện Hưỡn tằng hắng:

- Có ai trong nhà không?

Tiếng đờn bà lảnh lót vọng ra:

- Ông Bang biện đó phải không? Cửa không có gài chốt, mời ông vô kẻo lạnh.

Một trận gió lốc nổi lên, lá vàng bay thốc. Ông Bang biện đẩy cửa vô. Vợ Cai tuần Hạp nhõng nhẽo:

- Sao trể vậy? chờ ông xốn xang tấc dạ vậy đó!

Ông Bang biện cười mơn:

- Qua đây cũng trông đứng trông ngồi, mong trời mau tối...

Ông ồm chầm lấy chị ta, vuốt ve cái bụng chửa lùm lùm của chị, hun hít. Mà ủa lạn, sao mình mẩy chị ta lạnh ngắt. Ông hỏi:

- Sao mình mẩy em như ướp nước đá vậy?

Vợ Cai tuần Hạp háy ông bằng cặp mắt có đuôi:

- Thì em phải tắm rửa sạch sẽ để tiếp ông. Ngặt vì lóng rầy em yếu trong người, gặp nước lạnh về chiều nên da thịt mới như vậy. Ông úm em một đỗi thì em ấm lại liền!

Ông tiếp tục hun hít, ấp ủ người đàn bà. Quả nhiên da thịt chị ấm lại dần. Nhưng khi ông muốn bóc hết lớp quần áo che thân chị thì chị đề nghị:

- Ngoài sau vườn em có một cây rơm, chỗ đó quanh năm suốt tháng chẳng ai lai vãng. Đêm nay có trăng, tụi mình ra đó gẫm có thú vị hơn không?

Ông Bang biện Hưỡn khoái quá, gật gù khen ngợi:

- Thiệt qua không ngờ em... cao kiến như vầy, hiểu chuyện phong lưu tao nhã lắm. Vậy thì mình cùng đi!

Cả hai sóng bước ra ngoài nhà sau. Quả thiệt có cây rơm bên cạnh cái ao. Ven ao là cây gừa, Đom đóm bám vào từng chiếc là, ánh sáng chớp tắt liên hồi. Trăng bây giờ lên cao, thu nhỏ lại, sáng như phiến gương làu làu nước thủy. Quanh ao tiếng vạt sành kêu râm ran. Chốc chốc có tiếng cá ăn móng.

Ông Bang biện Hưỡn bước cạnh người đờn bà, chốc chốc lại quay qua nhìn chị cười mơn. Bỗng ông lạnh mình. Ô hay! Người đàn bà đi cạnh ông rõ ràng là cô Út Thoại Huê. Ông buốt miệng kêu: "Trời ơi!" rồi đưa tay dụi mắt. À thì ra ông nhìn lầm, vợ Cai tuần Hạp chớ không ai khác. Người đờn bà gặng ông:

- Ủa, sao ông kêu trời vậy?

Ông Bang biện Hưỡn nói lảng:

- Không, có gì đâu! Tại qua thấy em đẹp nên buột miệng vậy mà!

Vợ Cai tuần nhìn ông đăm đăm như thôi miên:

- Thiệt không đó? Hay ông tưởng em là cô nào khác?

Ông Bang biện cười dã lã:

- Thôi mà em, em nói chi chuyện tầm phào cho mất vui!

Người đờn bà khi tới gốc cây rơm, nằm dài ra, giọng ỏn ẻn thẽo thợt:

- Mình ơi, em đây nè. Mình có chiên xào, kho nấu em cách nào, em cũng vui lòng hết.

Chị lột hết quần áo ông, ôm sát vào người chị rồi bất ngờ siết thiệt chặt làm ngực ông muốn vỡ vụn. Chị ta cười hăng hắc, sắc lạnh như từng gáo nước dội lên mặt, lên sống lưng ông. Ông Bang biện sững sờ nhìn chị. Trời ơi, rõ ràng là Út Thoại Huê đây mà! Quả nhiên người đờn bà the thé:

- Con quỉ dâm dục, con quỉ súc sanh từng làm nhơ các thai phụ để họ phải chịu nhục nhã vì ô danh xủ tiết! Cả nhà Cai tuần Hạp đã vì mầy mà lìa quê lìa quán, đem thân cầu thực xứ người! Bọn họ đi Bạc Liêu từ hai hôm rồi, tao phải giả dạng chị vợ để răn dạy mầy!

Nói tới đây, cô Út Thoại Huê thổi một làn hơi lạnh buốt lên mặt ông bang biện Hưỡn khiến ông lịm đi.

Sáng hôm sau, mấy người đờn bà hái rau dại trong xóm phát giác ông Bang biện Hưỡn nằm im lìm bên mộ cô Út Thoại Huê, liền tri hô lên. Mấy lực điền xúm lại, lấy chiếu đắp lên thân thể trần truồng của ông, rồi hơ lửa cạo gió, xức dầu... Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, ông bắt đầu thở thoi thóp.

Sau khi hỏi han gốc tích, họ đưa ông Bang biện Hưỡn ra bến sông Cổ Chiên, dùng xuồng đưa ông về bến chùa Bảy Phủ và võng ông về Cầu Đào. Sau đó ông bị á khẩu, câm luôn.. Ông còn bị bán thân bất toại, nằm ngồi một chỗ. Khi mắc tiêu tiểu, ông phải lết tới cầu xí một cách khó nhọc.

Bà Bang biện Hưỡn khi đi chợ Ba Xi chuộc bùa về chẳng những không vui mà còn thấy chồng bịnh hoạn như vầy thì vừa rầu vừa lo. Thầy Năm Lê Thái Sanh vừa khi diện kiến mẹ con bà, đã bảo:

- Trị bịnh là chuyện nhỏ, còn trị được cái ác nghiệt hay không là một chuyện tỉ như hột muối thả xuống dông, nước sông làm sao mặn cho được! Tui coi qua sắc diện bà và hai cô đây từ ấn đường đã có vệt đen ửng ra rồi! Đây là ác quả hiện hành, ác báo phát tác. Bà và hai cô nên tụng kinh niệm Phật cho siêng, làm việc bố thí cho nhiều thì họa may mới cạy gỡ được phần nào móng vuốt của ác quả ác báo đó.

Bà Bang biện dù lo dù rầu bởi lời nói của thầy Năm Lê Thái Sanh nhưng vẫn không ngưng việc bòn tro đãi trấu, hành hạ xéo xắt kẻ dưới tay mình. Hễ việc làm ăn không trôi chảy, bà kiếm chuyện đánh chửi Bửu, coi việc nuôi cậu trong nhà là nuôi kẻ đem oan nghiệt và xui xẻo cho mình.

Một hôm, cô Tư Cẩm Lệ từ Sài gòn hớt hơ hớt hải báo tin:

- Nguy rồi má ơi, sáng hôm qua con đốt nhang trang thờ bùa thì thấy gián cắn lá bùa lam nham. Làm sao đây má?

Ha mẹ con ngồi lo rầu không biết gỡ rối cách nào thì tới xế chiều, cô Ba Cẩm Tú tay che dù, tay xách bóp từ Cầu Lầu qua thăm. Cô vừa khóc vừa thuật:

- Hổm rày, tối tối con nghe chuột kêu chít chít ở mấy bàn thờ nên mừng thầm vì nghĩ đó là điềm hên. Ai mà dè sáng nay con ở của con chưng bông, cúng nước trên trang thờ thì thấy gói bùa bị chuột cắn nát ráo trọi rồi!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 8

Cứ mỗi ngày cô Ba Túy Nguyệt đem cơm cho Bác vật Cảnh. Lúc đầu bà Năm Tảo sợ con mình vì tiếp xúc với kẻ phong hủi lâu ngầy chầy tháng sẽ bị lây bịnh ngặt nghèo kia, nhưng ông Năm Tảo khuyên:

- Sanh lão bịnh tử đều có số mạng cả, má nó chớ lo. Con Ba nhà mình đem cơm cho ông Bác vật chớ có tiếp xúc kề cận với ổng đâu mà má nó sợ lây bịnh.

Cô Ba Túy Nguyệt cũng trấn an mẹ:

- Thưa má, con mang cơm nước cho ổng con chỉ đứng đàng xa nói chuyện chớ không chà lết, quết xảm lên bộ ván gõ của ổng, con cũng không uống nước, ăn bánh ổng mời thì làm sao lây bịnh được. Ăn uống xong, ổng tự tay rửa gào- mên, phơi cho ráo để bữa sau con tời lấy đem về.

Vậy là ngày ba bữa, dù nắng hay mưa, cô Ba cũng đem cơm qua túp nhà lá nơi ông Bác vật Cảnh thuê. Tuy nhiên bà Năm tự nhủ để hưỡn hưỡn bà sẽ xúi ông Bác vật Cảnh thuê một đứa trẻ trong xóm lo việc đem cơm nước cho ông.

Lần đầu chạm mặt ông Bác vật Cảnh, cô Ba Túy Nguyệt bàng hoàng khôn tả. Trừ làn da đỏ thén vì bịnh, đường nét trên khuôn mặt ông thiệt khôi vĩ: Mũi dọc dừa, cầm vuông, trán đứng thẳng vách thành, cặp môi đầy đặn và rõ nét.. Chèn ơi, mặt gì mà thanh tú từng nét một! Đã vậy, vóc mình ông còn cân đối. Hôm đó ông mặc quần đùi, sơ- mi màu cháo lòng có vá vài mảnh để tiện việc vun xới líp huệ bên hè và mấy khóm bông tang, bông ngọc trâm trong sân. Cả hai chào nhau. Cô gái nhỏ nhẹ thưa:

- Thưa ông bác vật, ba má em sai em đem cơm qua đây. Từ rày về sau, hễ ông muốn ăn món chi xin cho em biết trước một ngày để em đi chợ mua sắm rồi nấu nướng cho ông ăn sốt dẽo.

Ông Bác vật trả lời:

- Để rồi đêm đêm, tôi nằm gác tay lên trán coi mình thèm ăn món chi, sẽ nói cho cô biết.

Cô Ba Túy Nguyệt đặt gào- mêm xuống bàn, lôi tùng ngăn ra để bày lên mâm. Bốn ngăn, trừ một ngăn đựng đầy cơm gạo nanh chồn trắng như bông bưởi và thơm ngào ngạt, ba ngăn kia gồm món canh rau cao kỷ nấu thịt, món sườn nướng thơm điếc mũi, món lòng gà xào thuốc vừa sắc cùng hai trái xoài cát làm món tráng miệng.

Bác vật Cảnh xoa tay, trầm trồ:

- Cơm sốt canh nóng, chỉ ăn bằng mắt thôi tôi cũng đã biết ngon dở ra sao rồi. Ai làm bếp vậy cô?

Cô Ba rụt rè:

- Thường thị chị Hai em cùng em làm bếp, nhưng hôm nay chỉ theo má em đi vô ngọn rạch CÁ Trê thăm người quen nên em làm bếp mình em. Mong ông không chê món dở mà chiếu cố cho em mừng.

Co rót thuốc vào chiếc tô sành, rồi bày trên chiếc dĩa sứ trái táo tàu và trái cà na tẩm đường. Xong xuôi, cô xin phép ra về. Ông Bác vật Cảnh vừa ăn cơm vừa hình dung lại nhân diện vóc dáng sô gái. Chu choa ơi, cô nầy là gái giữa chợ nửa quê mà sao có tướng sang dường ấy! Khuôn mặt trái xoan, sóng mũi giọt mật, vàng trán cao, mắt xếch thuộc loại phụng nhỡn sáng long lanh, cặp môi trái tim ửng màu san hô, hàn răng ngọc trai dều đặn trắng bóng, mái tóc óng ả như mua nhuộm huyền giồi! Đã vậy vóc mình cổ còn cao ráo, yểu điệu. Khi bước đi, tay cổ đánh đàng xa dịu nhiễu. Giọng cổ còn ấm áp lảnh lót, phát âm ráo rẻ ra người ăn học. Phải chi mình không mang bịnh nan y, mình sẽ cưới cổ, cất nhà lầu hai từng cho cổ ở mới xứng đáng cái huê dung nguyệt mạo của cô.

Trưa hôm đó, cứ nghĩ tới cô Ba Túy Nguyệt, rồi nghĩ tới hoàn cảnh cay nghiệt của mình, Bác vật Cảnh thêm thao thức, không tài nào ngủ trưa được. Theo trí lan man, ông nghĩ hết chuyện nọ qua chuyện kia. Gia đình ông thanh bạch, tuy không theo đạo nào nhưng thường tu nhơn tích đức, thờ cúng ông bà. Ông thì nhiễm Tây học, tin khoa học chớ không tin một đấng tạo hóa nào. Sống trong buổi giao thời, nhận thấy nước nhà không được khai hóa mở mang nên ông tích cực tham gia vào các hội phước thiện, hội chống mù chữ, hội chống hủ tục, hội khuyến nông cùng các hoạt động nâng cao dân trí. Vậy mà từ khi vướng bịnh nghiệt nầy, ông đành bỏ dở hết mọi hoạt động, cam sống ẩn dật nơi thôn ổ tịch mịch.

Bên ngoài trời xáng một trận mưa, lúc đầu tầm tã rồi sau cứ rỉ rả dai nhách. Mưa điệu nầy, làm sao ông ra ngoài sân để o bế bông kiểng và chăm bón vạt đất trồng rau cho được! Bởi đó ông đốt rề- sô nấu nước, pha cho mình một bình trà. Uống trà xong, ông lấy quyển Đường thi ra ngâm rồi thử dịch ra tiếng Việt. Bên ngoài, thỉnh thoảng gió lùa vào bụi tre kêu rào rào hoặc khua mấy nhánh bằng lăng, nhánh trúc bách diệp phần phật. Sau đó ông bỏ vào giường nằm gác tay lên trán, mắt lim dim.

Bóng chiều xám tro kéo về. Mưa vẫn chưa ngớt. Ngoài mé ruộng sâm sấp nước, ngoài ao bàu lũng vũng, tiếng ếch nhái, nhóc nhen, chàng hiu, bồ tọt cưa kêu nềnh oang buôn sao mà buồn thúi ruột! Ông bèn chổi dậy đi rửa mấy ngăn gào- mên và súc ấm. Xong, ông đem phơi trên vì tre cho ráo nước.

Bỗng ngoài sân có tiếng lăng líu:

- Xin thưa, có ông Bác vật trong nhà hay không?

Bác vật Cảnh đi thắp đèn và nói vang ra:

- Tôi ở trong nhà đây. Trời mưa ướt át, tôi có dám ra ngoài sân, ngoài hè, ngoài vườn đâu!

Cô Ba Túy Nguyệt đem hai gào- mên kháÿc đựng cơm và thức ăn qua. Chiều nay cô đổ bánh xèo. Món cơm nóng ăn với tôm kho tàu là đề ăn dặm thêm kẻo đêm dài ông sẽ đói bụng. Cô lôi giỏ lấy bánh xèo và rau sống bọc trong lá chuối để bày ra mâm. Cô mở nút chai đựng nước mắm giấm ớt rót ra chén nhỏ để ông chấm bánh xèo.

Bác vật Cảnh than:

- Trời chiều mưa gió, nằm đọc sách hoài nên tinh thần tôi trì trệ lắm. Sẵn bánh xèo nóng hổi bù thổi bù ăn nầy, ăn xong chắc tinh thần tôi sẽ phấn chấn được chút nào chăng!

Cô Ba chắc lưỡi:

- Chết chưa! Nằm mà đọc sách hoài thì đầu óc tránh sao khỏi loõng bõng, tinh thần làm sao khỏi sa sút đây! Ông Bác vật nên tìm kinh kệ mà đọc có hơn không?

Bác vậy Cảnh cười cười::

- Ý gì cô khuyên tôi như vậy?

Cô Ba sắp mấy trái mận xanh, đỏ vào dĩa, nhoẻn nụ cười ranh mảnh:

- Thưa, em có ý gì đâu. Ông thử đọc vài phẩm kinh Đại Thừa thử coi có hạp với nhu cầu tâm linh của ông hay không! Nếu hạp thì đọc tiếp, còn không thì ông cứ đọc sách khác để mở mang trí thức.

Bác vật Cảnh ỡm ờ:

- Được rồi, tôi sẽ đọc kinh Phật cho cô vui.

Cô Ba nghiêm ngay sắc mặt, thái độ lạnh lùng nên Bác vật Cảnh không nói gì thêm. Cô chồng những ngăn gào- mên, xỏ vào tay xách, còn chiếc ấm đất thì cô bỏ vào giỏ mây. Bên ngoài mưa đã tạnh, trời nạm đầy sao đêm lấp lánh. Bóng trăng tròn vành vạnh đã ló dạng ở phương đông. Bác vật Cảnh bảo:

- Chắc cô không rõ, tôi đã có lần thưa với bác Năm rằng tôi vốn không duy tâm nên không tin đấng tạo hóa. Theo tôi, tôn giáo chỉ lập ra những lý thuyết khiến con người cần an. thiếu ý chí tiến thân.

Cô Ba Túy Nguyệt lắc đầu:

- Đó chỉ là thành kiến. Nếu ông đọc kinh Phật, ông sẽ có những suy nghĩ khác.

Và cô vẫn giữ vẻ lạnh lùng:

- Thôi, xin chào ông. Đêm nay ông có suy nghĩ muốn ăn món chi thì sáng mai cho em biết.

Cô bước ra ngoài, men theo lối nhỏ băng qua khoảng đất trống mọc đầy cỏ đuôi chồn, cây ké, cây mua, cỏ mực để tiến vè phía hàng rào ngăn đôi khuôn viên nhà cô và ngôi nhà thuê này, mở cửa rào bước vào khuôn viên nhà mình.

Hôm nay cả nhà ăn cơm trễ phải chờ cô Thiệt Nguyện đi An Hữu về. Cũng như thường lệ, bàn ăn được cọn hai mâm. Mâm mặn dành cho cả nhà, mâm chay dọn riêng cho cô Thiệt Nguyện. Món bánh xèo chay được đúc nhưn bằng giá, nấm mối, đậu hũ chiên... Hôm nay lại có ông Đạo Chuối đến viếng, và cũng như thường lệ ông chỉ ăn chuối chớ không ăn cơm. Bởi đó, bà Năm Tảo đãi ông bằng chuối cau vàng óng, ngọt và thơm. Ngoài ra ông Năm Tảo còn pha cho ông một bình trà Ô Long thiệt ngon.

Trong lúc dùng bữa, bà Năm Tảo mang ý định thuê trẻ mang cơm cho ông Bác vật Cảnh ra tỏ với cả nhà. Cô Ba Túy Nguyệt lộ vẻ bất bình, bảo mẹ:

- Má nghĩ coi, nếu má sợ con lây bịnh rồi đi mướn một thằng nhỏ đem cơm cho ông Bác vật thì té ra mình ỷ có tiền đưa nó vào chỗ hiểm nghèo hay sao? Gia đình mình là Phật tử thuần thành, con đâu thể để má làm như vậy được. Vả lại con vốn dè dặt kỹ lưỡng, gẫm chẳng hại chi. Còn bọn con nít lòng dạ hời hợt, ăn chưa no lo chưa tới, khó mà gìn giữ kỹ, không sớm thì chầy tụi nó cũng bị lây bịnh.

Cô Hai Túy Ngọc biểu đồng tình:

- Em con nói phải đó má. Thôi, để con với nó thay phiên nhau đem cơm cho ổng. Ông ta kể vai vế và thứ tự họ hàng là em chồng của con đó, chớ có phải người dưng nước lã đâu!

Cô Thiệt Nguyện ngăn cản:

- Em lãnh phần đem cơm cho ổng sao tiện. Thôi để cho con Ba cũng được.

Cô Hai cười:

- Tiện hay không tiện là chuyện thị phi. Mình hơi nào để tâm tới miệng lằn lưỡi mối cho mệt! Cứ làm theo lương tâm, theo lẽ phải. Hễ đức trọng thì quỷ thần kinh.

Bà Năm Tảo làm thinh, không dám chêm vào một tiếng bàn ra nào nữa. Cơm nước xong, cả nhà ra trung đường hầu chuyện ông Đạo Chuối.

Ông Đạo than phiền:

- Tui vừa đi An Hương về. Bịnh tình bà Mười Hai có mòi tái phát. Tui có dán mấy đạo bùa ở cửa buồng bả, vậy mà đêm đêm yêu quái cứ chui vô buồng cưỡng dâm bả. Tui biết ngay là con yêu nầy bản lĩnh cao cường trong khi tui còn non tay ấn. Chồng bả cho tui hay bả lại lớn bụng thêm một lần nữa. Ồng khóc lóc xin tui cứu mạng bả, cho nên ngày mai tui phải đi đò máy về Châu Đốc tìm sư huynh tui là ông Đạo Xiêm để xin vài lá bùa. Sư huynh tui có học luyện bùa ngải và trừ tà tận bên Xiêm.

Bà Năm Tảo thở dài bảo chồng:

- Ông coi đó, nếu vợ chồng bà Mười Hai từ trước biết tu nhơn tích đức thì đâu phải lãnh cái ác bào như vầy Thừ khi ị yêu mà tà quái quấy nhiễu, bả đã phải bỏ thành thị để về An Hương, vậy mà có thoát đâu!

Cô Thiệt Nguyện kể thêm:

- Thưa thím, cháu đi An Hương, nghe đâu xóm bên cạnh đình kể rằng trước đây bà Mười Hai lâu lâu từ chợ Vãng về các làng quê lân cận dụ dỗ gái quê ra thành, trước hết bắt họ làm đầy tớ, sau đó bà mua sắm quần hàng áo lụa cùng son phấn vòng vàng cho họ, bắt họ tiếp khách. Ăn quen theo kiểu đó, bà dụ dỗ gái chú Thường xuyên Lê Văn Hai ở An Hương khiến chú tức giận, vốn mang bịnh lao nặng nên chú hộc máu tươi ra mà chết. Con trai chú sau đó bỏ nhà ra đi, thề sẽ trả thù. Ít lâu sau, hắn lảng vảng ở xóm Lò Tương ngoài chợ Vãng là nơi bả mở động điếm. Hắn tò tí với chị bếp bả, bỏ bùa vô thức ăn của bả sao đó nên bả phát điên. Chồng con bả đưa bả về An Hương tịnh dưỡng. Sau đó công việc làm ăn thất bại, họ đành bán nhà, bán động đĩ ở xóm Lò Tương về xóm cạnh đình làng An Hương. Càng lúc cơn điên của bà Mười Hai càng nặng, bà thường đổ hô có yêu quái đêm đêm vô buồng cưỡng dâm bà, nhưng chồng con bà thì nghĩ rằng bả điên chớ có yêu quái gì đâu!

Ông Đạo Chuối nhấn mạnh từng tiếng:

- Bà điên trước, sau đó yêu quái thừa lúc tâm thần bà dao động, nhập vô quấy phá. Tiếc rằng tui chưa dò dẫm được tung tích con yêu đó mà thôi!

Cô Thiệt Nguyện bảo:

- Dạo sau nầy hễ nghe chó sủa là bả hoảng kinh hồn vía, tay chân run lẩy bẩy, sống lưng bả đổ mồ hôi lạnh ngắt. Con chó nào sủa dai thì bả lăn đùng ra chết giấc.

Mưa lại kéo về. Câu chuyện xoay qua đề tài khác. Bà Năm Tảo lau bộ ván cẩm lai, trải chiếu bông, bày mền nỉ, gối ống để dọn chỗ ngủ cho ông Đạo Chuối. Sau đó ai nấy rút về buồng riêng. Bà Năm Tảo dặn hai cô con gái:

- Con Hai con Ba hãy đi ngủ sớm để đầu canh năm thức dậy bắt nước làm gà nấu cháo. Bay cũng đừng quên nấu cháo chay cho chị Thiệt Nguyện bây dùng. Nhà có sẵn nấm rơm, mì căn, tào hũ ky, đủ bộ vận hết...

Mưa bên ngoài không ngớt, hễ trận nầy vừa tạnh là đám khác kéo về. Sau đó mưa cứ tuôn rỉ rả, trùn dế bên nhà tỉ tê từng loạt. Cô Ba Túy Nguyệt thay bộ quần áo rộng rồi vào giường, buông mùng xuống. Ngọn đèn chong vẫn cháy sáng mà cô không buồn vặn nhỏ. Thời tiết mát lạnh làm giấc ngủ mau tới.

Bỗng dưng cố Ba thấy mình đang đứng dưới mái hiên túp nhà lá mà Bác vật Cảnh vừa thuê. Cô đang đứng gần lu nước có chiếc gáo dừa gác trên miệng lu. Kế lu nước la khóm trang trổ bông đỏ như ráng chiều hè. Bỗng một người đàn bà mặc chiếc áo dài trắng, có khoát khăn san the trắng, dáng đi thướt tha yểu điệu tới gần bên cô. Tửng ai té ra cô Út Thoại Huê. Cô Ba Túy Nguyệt hoảng kinh toan chạy trốn thì cô Út trấn an liền:

- Cháu đừng sợ. Dì tuy là hồn ma bóng quế nhưng là vong cô của cháu, thường theo phù hộ cháu chớ có làm hại cháu bao giờ. Nè, hôm nay dì hiện hồn vào giấc chiêm bao của cháu để báo cho cháu một điều: ông bác vật Cảnh là người có duyên nợ với cháu đó. Cháu phải gắng mà săn sóc ổng.

Cô Ba Túy Nguyệt thắc mắc:

- Thưa dì, ổng đang mắc bệnh nan y, lẽ nào ba má cháu chịu gả cháu cho ổng?

Hồn cô Út cười:

- Việc đời biết ra sao mà lường! Rồi đây cháu sẽ rõ, thiên cơ bất khả lậu, cháu ôi!! Dì chỉ muốn biết một điều: cháu có tình ý gì với ổng không?

Cô Ba Túy Nguyệt mắc cỡ:

- Dì hỏi trớ trêu quá, nhưng cháu cũng xin thưa cháu kính mến ổng vì ổng là người ăn học, có dự phần vào xã hội tân tiến. Cháu lại còn thương xót ai hoài cho thân phận ổng vì bịnh ngặt nghèo mà phải bỏ hết công việc, chí hướng để về chui rúc nơi thôn ổ quạnh hiu như xóm Chuồng Gà nầy.

Hồn cô Út:

- Cháu là kẻ có lòng. Nội việc cháu không muốn mướn kẻ khác đem cơm nước cho ổng đã có thể gieo nhơn lành cho cháu rồi. Vậy cháu hãy săn sóc ổng cho chu đáo, và nhứt là phải thuyết phục ổng trọng Phật kính tăng, có vậy mới ngó lại cháu.

Nói xong cô Út Thoại Huê biến mất. Cũng vừa lúc đó, cô Ba Túy Nguyệt thức giấc. Nằm ôn lại giấc chiêm bao, lòng cô ngổn ngang trăm mối. Câu của cô Út: "Việc đời biết ra sao mà lường" lại đập vào tâm trí cô. Nếu vậy Bác vật Cảnh sẽ có ngày hết bịnh? Nhưng hết bịnh bằng cách nào đây? Họa chăng nhờ phép lạ. Săn sóc ông, cô Ba không quản ngại. Cô chỉ ngại mình không thể cảm hóa ổng tin tưởng đạo Phật, trau giồi phương tiện tâm linh!

Thiệt tình, tù khi Bác vật Cảnh dọn về đây, cô Ba Túy Nguyệt không hề có cảm tình gì đặc biệt với ông ta. Không phải tại cô chê ông vướng bịnh ngặt. Cô chỉ nhận thấy giữa ông ta và cô, mỗi người có một thế giới khác, một xã hội khác, một hoàn cảnh khác nên tâm tính, ý chí, tình cảm phải khác nhau. Nhưng từ sáng hôm nay, giáp mặt ông, nói chuyện với ông, cô cảm thấy lòng mình bâng khoâng khó tả. Lúc đầu cô cho rằng tại vì ông ta gợi ở cô lòng trắc ẩn, nhưng giờ đây cô mang máng thấy rằng, sau tấm lòng trắc ẩn kia còn có một tình cảm khác nữa. Thôi thì cô đành phó mặc cho nghiệp quả đẩy đưa, chớ làm sao cô lường được diễn biến sắp tới! Quý hồ là cô giữ được tấm lòng trong sạch, ý chi kiên trinh và nương theo Tam Bảo mà sống đời khiêm tốn nhưng sáng danh Phật tử. Có được như vậy thì dù tai ương hoạn nạn bủa giăng, cô vẫn bình tâm trả quả, gây dựng nghiệp tốt, tấm lòng tự tại sẽ lần lược sáng lòa như gương báu.

Cô Ba Túy Nguyệt nối lại giấc ngủ cho tới lúc chùa xóm bên gióng trống dóng chuông làm lễ công phu. Cô cùng mẹ và chị nấu nước pha trà rồi cho vào chai lít. Bà Năm Tảo lấy hai nải chuối sứ, chai lít đựng nước trà và hai bộ quần áo vải xiêm vừa giặt sạch bỏ vào bao cà ròn, một loại bao đươn bằng lá bàng. Đây là hành lý của ông Đạo Chuối.

Vào lúc bà Năm và hai cô con gái đốt đèn làm việc trong bếp thì ông Đạo Chuối cùng ông Năm Tảo thức dậy. Uống xong tuần trà, ông Năm hối ông đạo đi ra bến tàu. Chiều hôm trước, ông đã mua giấy tàu để sáng nay ông đạo đi Châu Đốc.

Từ xóm Chuồng Gà muốn đi tới bến tàu phải đi bộ ra giốc cầu Thiềng Đức, ở đó có xe kéo, xe lôi, xe xích lô để qua bên kia khu chợ và đi một mạch tới bến tàu. Vừa lúc đó, ông Chín Thẹo và cô Út Ngọc An từ bên kia hàng rào bước qua. Ông Chín Thẹo nói với ông Đạo Chuối:

- Má bầy trẻ có thuê hai chiếc xe lôi để cùng đưa ông đạo ra bến tàu. Giờ nầy chưa xe nào có mặt ở giốc cầu Thiêng Đức đâu!

Cô Út Ngọc tha thiết:

- Bạch ông Đạo, nếu nhờ tha lực của thập phương chư Phật cùng tài tróc quỉ trừ yêu của ông mà dì Mười Hai con hết bịnh thì con sẽ thuyết phục dì con qui y Tam Bảo và noi gương ông cùng chị Thiệt Nguyện để cứu nhơn độ thế.

Ông Đạo Chuối mở đãy bằng vải nâu, lấy ra ba quyển kinh đưa cho cô Ba Túy Nguyệt:

- Tặng cháu ba quyền kinh nầy, biết đâu sẽ có ích lợi cho cháu.


X
X X

Sáng hôm đó, khi đem liễn cháo gà cho Bác vật Cảnh, cô Ba mang theo ba quyển bửu kinh mà ông Đạo Chuối vừa tặng cô đưa cho ông Bác vật. Cô chờ đợi phản ứng của ông. Ông cầm quyển kinh Viên Giác lên lật vài trang, mặt không hề đổi sắc.

Chiều hôm sau, khi cô Ba xách cơm canh qua thì bắc gạp Bác vật Cảnh đang chăm chú xem kinh Lăng Nghiêm. Vừa thấy cô, ông xếp sách lại. Cô vừa bày thức ăn ra mâm, vừa hỏi:

- Quyển kinh ông đang xem đó, ông thấy ra sao?

Bác vật Cảnh trả lời:

- Ngay từ hai phần đầu, tôi đã bị quyển sách này lôi cuốn. Đẻ tôi đọc xong, sẽ cho cô biết sau. Bây giờ, tôi có thể nói với cô điều nầy: Triết thuyết nhà Phật không phải là tà thuyết mà là để giúp chúng sanh giải phóng tâm thức. Lâu nay tôi đã lầm tưởng, thiệt bậy quá xá!

Từ đó tới suốt nửa tháng sau, Bác vật Cảnh ngoài thú làm vườn, thường đọc kinh và tư duy. Ông có nhờ ông Năm Tảo mua cho ông bức tượng A Di Đà Tam Tôn và tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đêm đêm ông tụng kinh Dược sư, nhưng đó là chuyện về sau.

Sau khi tìm gặp ông Đạo Xiêm ở Tân Châu, ông Đạo Chuối đem bùa trừ tà tróc yêu về đất Vãng. Ông Chín Thẹo sắm sửa ghe rồi cùng ông Đạo Chuối, cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An đi An Hưng để trị bịnh cho bà Mười Hai.

Ông bà Mười Hai ở tong ngôi nhà lợp ngói âm dưng, vách vÿn bổ kho cách ngôi đình làng một con rạch nhỏ, có chiếu cầu khỉ bằng tre bắc ngang. Xung quanh nhà là ngôi vườn thập cẩm trồng nào chuối, ổi, mận, nho cam, xoài, chanh, bưởi...

Thấy khách chợ Vãng đến, ông Mười Hai mừng lắm, sai trưởng nam là cậu Hai Thanh dọn hai căn buồng, một dành cho ông Đạo Chuối và ông Chín Thẹo, một dành cho cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An. Ông cũng sai con gái là cô Ba Hồng bắt con vịt cà cuống nấu cháo, cùng dọn cơm chay cho cô Thiệt Nguyện và cô út.

Ông Chín Thẹo hỏi người em cột chèo:

- Dì Mười Hai có đỡ chút nào chăng vậy dượng?

Ông Mười Hai buồn rầu:

- Từ mười bữa nay, má sắp nhỏ lại trở bịnh, cứ hô bị quái vật hãm hiếp rồi hát lý tối ngày. Cả nhà phải giữ bả kẻo bả uống nước bùn sình mà bả cho rằng ngon còn hơn cam lộ của Phật bà.

Bà Mười Hai nghe có khách tới liền từ trong buồng bước ra. Đó là người đờn bà tuổi ngoài bốm mươi, da dẻ xanh chành, mình vóc gầy mòn khô héo, tóc rụng xơ xác. Vừa thấy mặt ông Đạo Chuối là bà ré lên chửi:

- Tiên nhơn tổ đường cái quân tả đạo bàng môn nầy! Tao bị nó hành mà mầy còn dắt phường đầu trâu mặt ngựa tới đây quấy rầy không cho tao tịnh dưỡng phải không?

Bà xốc lại ông Đạo Chuối toan hành hung, nhưng cậu Hai Thanh hiệp sức cùng ông Mười Hai và ông Chín Thẹo xúm lại cản ngăn và dùng lời dịu ngọt an ủi bà. Bà ngoe ngoảy bỏ vô buồng, miệng hát:

- Tay thiếp ôm chiếc gối vuông, mắt thiếp tuôn giọt ngọc. Buồng vắng chàng rồi, bụi mốc nhện giăng...

Ông Mười Hai nói với ông Đạo Chuối:

- Vợ tui từ khi điên về đây tịnh dưỡng, úng thuốc bắc do thầy Năm Trợ gần đây hốt như uống nước lã! Tối hôm đó, bả bèn chạy ra ngoài giữa cơn mưa lâm râm. Cả nhà xách đèn tán chai đi kiếm, thì thấy bả ngồi trên mả con chó bẹc- giê của ông Cai tổng Huyền...

Ông Chín Thẹo chận lại hỏi:

- Chó chết mà cũng có mả nữa sao?

Ông Mười Hai vừa vấn thuốc rê vừa đáp, vẻ mặt đăm chiêu:

- Số là ông Cai tổng Huyền có cậu trưởng nam tên là Hai Biểu. Củ được cha cho qua Tây học, đậu bằng tú tải rồi trở về nước. Cẩu về vườn sống đời công tử. Sau khi ông bà Cai tổng lần lượt qua đời, cẩu bán nhà, bán vườn, bán ruộng lên Lèo lập nghiệp rồi cưới vợ ở luôn bên đó. Nhà ông Cai tổng trước đó bị thợ mộc ếm bùa Lỗ Ban nên ai ở cũng mần ăn thất bại cho tới tán gia bại sản mới thôi. Cho nên nhà đó bị bỏ hoang. Hồi còn ở đây, cậu Hai Biểu có nuôi một con chó tây, cưng nó lắm, cho nó ăn toàn thịt bò, thịt heo. Khi nó chết, cẩu chôn nó sau vườn, bốn bên mả có tấn đá ong.

Cậu Hai Thanh tiếp lời cha:

- Má cháu hôm đó trong cơn điên, đến ngồi trên mả con chó. Sau khi được đưa về nhà, mỗi lần bả nghe chó sủa là bà nổi da gà, tay chân lạnh ngắt. Rồi từ đó đêm đêm, bả đổ hô là có kẻ vô buồng hãm hiếp bả.

Ông Đạo Chuối ngồi im. Vận sự về bà Mười Hai, ông đã nghe nhiều rồi. Ông hỏi ông Mười Hai lập đàn để ông làm phép trấn quỉ trừ ma. Cô Thiệt Nguyện thì lập bàn thờ, bày tranh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai rồi treo phấn lụa năm màu và đốt 49 ngọn đèn để tụng kinh Dược Sư.

Ông Đạo Chuối treo tấm lụa đỏ vẽ hình bát quái bằng kim nhũ lóng lánh ở đàn tràng rồi vừa đốt mười đạo bùa thả mười phương vừa đọc thần chú. Đọc xong, ông bước xuống đàn tràng thì cô Thiệt Nguyện cũng vừa tụng xong 49 biến Dược Sư Lưu Ly Quang Dà La Ni. Cả hai tạm ngưng công việc, ngồi uống trà giải lao ở trung đường với gia chủ.

Cậu Hai Thanh và cô Ba Hồng cúng đường hai nải chuối lá. Thứ chuối nầy tuy vỏ có nhiều sớ nhưng thịt thì khá ngon, ngọt hơn chuối sứ, chỉ không thơm bằng chuối cau mà thôi.

Sau đó cô Ba Hồng dọn cơm chay cho cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An, ngồi bồi tiếp hai cô một chốc rồi mới xin phép dọn tiệc thịt vịt cho ông Chín Thẹo và cả nhà.

Hôm sau, cô Thiệt Nguyện bắt đầu tụng nguyên bộ kinh Dược Sư, còn ông Đạo Chuối lên đàn tràng tiếp tục trấn ếm yêu ma quỉ quái. Sau khi mọi việc xong xuôi, cô Thiệt Nguyện tụng hết bộ kinh và ông Đạo Chuối đã cuốn lá bùa bát quái bỏ vào đãy gấm, tất cả chủ khách đều tụ lại ở trung đường đàm đạo. Ông Đạo Chuối bảo:

- Tui đã biết tung tích con quỉ quấy nhiễu bà Mười Hai rồi. Tui chỉ có thể trấn áp con quỉ đó, còn việc chữa bịnh điên của bả, phải nhờ tha lực của đức Dược Sư cùng thập vị đại tướng Dược Xoa vậy.

Đem đó bà Mười Hai vẫn nói nhảm, lúc khóc lúc cười làm cả nhà không ai ngủ nổi. Ông Mười Hai bảo ông Đạo Chuối:

- Lạ chưa, hổm rày cơn điên của bả hơi bớt thì bữa nay lại có mòi tăng thêm.

Ông đạo trấn an:

- Cơn mưa trước khi tạnh tuôn ào ào hơn lúc mới rớt hột, xin gia chủ an tâm:

Canh năm vừa mãn, cô Út Ngọc An, cô Thiệt Nguyện cùng cô Ba Hồng thức dậy xuống bếp nấu cơm nếp và chuẩn bị bữa điểm tâm thì bà Mười Hai từ trong buồng bước ra, miệng hát:

- Đêm khuya tim lụn dầu hao,
Chồng tui say rượu, anh vào chi đây?

Rồi bà khóc sướt mướt:

- Lại "nó" nữa! Nó cứ theo bóng tối đêm về để chui vô buồng hãm hiếp tao. Tao già rồi, thịt da dai nhách mà nó không tha! Chèn ơi, mình mẩy nó đấy lông lá khét nghẹt làm tao muốn nghẹt thở, bụng tao bào xào muốn mửa thốc mật xanh mật vàng! Phen nầy chắc tao tự vận chết cho mát thân!

Ông Đạo Chuối đem bùa dán ở cửa buồng và trên bốn vách buồng. Tất cả gồm năm đạo bùa. Đêm hốm đó, trong phòng bà Mười Hai có tiếng hét lẫn tiếng ạch đụi. Bà la chói lói:

- Nó đó, nó hãm hiếp tui lại còn cắn tui nữa... Cứu tui bớ bà con! Cứu tui bớ lối xóm!

Ông Đạo Chuối chỗi dậy hô lớn:

- Mau thắp đuốc lên! Đêm nay tui bứng con yêu tinh ra khỏi cuộc đất nầy!

Cậu Hai Thanh vội thắp đèn măng- sông treo giã nhà. Cậu cũng thắp cho ông Chín Thẹo, ông mười Hai, ông Đạo Chuối và cho cậu mỗi người một cây đuốc. Cả bốn cùng vào buồng bà Mười Hai thì thấy bà nằm lõa lồ trên giường, bất tỉnh hôn mê. Ông mười Hai kéo tấm mềm nỉ xám trùm cho vợ. Còn ông Đạo Chuối cầm đuốc rọi cửa buồng và bốn tấm vách thì thấy đạo bùa bị lột tróc hết, xác bùa bị xé tả tơi nằm trên nên gạch.

Cậu Hai Thanh chắc lưỡi:

- Con yêu nầy phép thuật cao cường thiết! Bùa của ông đạo đây chẳng nhằm nhò gì đối với nó!

Ông Đạo Chuối moi chiếc kiếng trong tay nải ra. Đây là một phiến gưng tròn đường kính cỡ một tấc, sau lưng có dán đạo bùa vẽ chữ Phạn. Ông bảo:

- Cháu đừng tưởng năm đạo bùa không hiệu nghiệm Con yêu kia trước đây vô buồng nầy khi rút lui không để lại dấu vết, nhưng năm đạo bùa nầy đã làm cho dấu chơn nó tỏ lộ. Phải có cái kiếng chiếu yêu này mới thấy dấu chơn để theo về sáo huyệt của nó.

Ông khuyên mọi người thủ sẵn xà beng, cuốc, búa và cây tre vó nhọn. Ông đốt đèn cầy rồi áp gần kiếng chiếu yêu. Lùng ánh sáng phản chiếu soi rõ dấu chân chó từ cửa buồng ra tới ngoài hè. Mọi người cùng theo ông dò dấu chân chó, vượt qua hàng rào tre bao quanh khuôn viên, qua hai mương nước nhỏ, qua chiếc cầu khỉ, đến khuôn viên ông Cai tổng Huyền và dừng lại bên mộ con chó bẹc- giê của cậu Hai Biểu. Ông Đạo Chuối reo lên:

- Đây rồi, sào huyệt của con yêu tinh đây rồi!

Ông dán đạo bùa lên tấm mộ bia con chó, đoạn sai mọi người dùng xà beng nạy những phiến đá ong tấn hai bên và đào mộ lên. Gần hai tiếng đồng hồ sau, chiếc hòm gỗ huỳnh đàn bày ra.

Ông Đạo Chuối vẽ bùa Lỗ Ban trên nắm hòm rồi vỗ tay một cái, nóc hòm văng ra xa, bày thi thể con chó. Thịt nó không hư vữa hôi thúi, chỉ rụng một ít lông mà thôi. Nó nằm thở hoi hóp, bụng phập phồng. Ông Đạo Chuối lại đọc thần chú, rồi cầm cây tre vót nhọn, dùng hết sức bình sanh đâm vào ngực con chó. Nó quằn quại lên tru một tiếng dài. Máu từ ngực nó tuôn ra đỏ ối nhưng không có mùi tanh của máu mà là mùi dầu lửa bốc nống nặc. Màu đỏ trong phút chốc biến thành màu xanh như chàm rồi ngả thành màu đen như hắc in. Ông Đạo Chuối lấy dao moi bụng chó thì chỉ thấy tóc cuộn từng lọn từng chàm chớ chẳng có ruột gan chi hết. Ông liền đưa cây đuốc vô vũng máu yêu tinh, máu mà bén lửa còn hơn xăng, cháy phùng lên. Mùi dầu hắc trộn mùi tóc cháy khét nghẹt. Đợi xác con yêu tinh thành tro, ông mới bảo cậu Hai Thanh lấp mộ lại, rồi ông quay qua ông mười Hai:

- Thôi, xin mừng ông. Bà Mười Hai sẽ không bị con yêu tinh quấy rầy nữa.

Rồi ông dặn cô Thiệt Nguyện:

- Ngày mai tui về chợ Vãng với ông Chín và cô Út, còn cô cứ ở đây tụng thêm cho đúng 98 biến kinh Dược Sư rồi hẵng về.

xxx

Khi về tới chợ Vãng, ông Đạo Chuối dùng đò ngang từ bến Dinh ông Chánh qua bên kia cù lao An Thành. Còn ông Chín Thẹo và cô Út Ngọc An về xóm Chuồng Gà. Lối xóm bu lại nhà ông bà Chín Thẹo để nghe hai cha con ông Chín kể rạch ròi tự sự. Có người còn hiếu kỳ chèo ghe, bơi xuống tới An Hương để ngó tận mắt bà Mười Hai và mả con chó quỷ.. Dân xóm nghe chuyện, kéo qua An Thành viếng Tịnh Liên am, nơi ông Đạo Chuối cư ngụ. Họ cúng đường am rất hậu rồi hùn tiền may hai tấm áo nhựt bình và hai chiếc quần vải cho ông Đạo Chuối.

Bà Năm Tảo và hai cô con gái càng giốc lòng ăn chay niệm Phật. Chừng hai tuần lễ sau, cô Thiệt Nguyện trở về xóm Chuồng Gà báo tin:

- Thưa chú thím Năm, thưa ông bà Chín, giờ đây bà Mười Hai hết điên rồi. Bà hứa sẽ tìm những cô gái mà bà dụ dỗ làm nghề buôn hương bán phấn để giúp đỡ họ hoàn lương và tìm chỗ xứng đối vừa lứa gả họ. Dù có phải tốn ba phần tư gai sản, bà cũng không nề hà.

Bà Chín Thẹo và cô Út Ngọc An chỉ biết chấp tay niệm Phật, không nói không rằng. Riêng cô Ba Túy Nguyệt trong dịp đem cơm nước cho Bác vật Cảnh hôm đó, thuật lại vận sự bà Mười Hai cho ông nghe. Cô nhấn mạnh:

- Tha lực của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khó mà lường được. Ông cứ trì chí tụng kinh Dược Sư sẽ thấy ứng nghiệm.

Bác vật Cảnh thành thật:

- Sự hiểu biết của nhơn loại về khoa học nào có nhằm nhò chi với sự hiểu biết của Phật. Cám ơn cô đã đem kinh lại cho tôi đọc. Lúc đầu vì chiều theo ý cô, vì tò mò nữa, nên tôi rờ tới kinh Lăng Nghiêm. Nhưng có lẽ tôi có túc duyên với Phật pháp hay sao đó mà chỉ mới đọc hai phần đầu là tôi say mê, trí óc thân nhiếp Phật pháp không mấy khó khăn. Thiệt cô là một thiện tri thức của tôi vậy!

Cô Ba Túy Nguyệt cười:

- Kiến thức của em về Phật pháp nào có bao nhiêu! So với chị Thiệt Nguyện, ba em và với các Phật tử thần thành thường làm công quả cho chùa Long Đức, em chỉ là con đom đóm sánh với ngọn đèn. Giờ đây, nghe ông luận về kinh kệ, em chợt thấy lợi căn của ông thù thắng là dường nào. Rồi đây biết đâu ông sẽ trở thành bực đa văn. Với cái biện tài vô ngại kia, ông sẽ đi đây đó giảng kinh cho các Phật tử nghe, làm lợi cho biết bao kẻ thành tâm cầu đạo.

Trước khi ra về, cô Ba hứa:

- Để em lên chùa Long Đức thỉnh kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho ông xem. Trong quyển đó có phẩm Phổ Môn nói về công đức của đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông nên tụng phẩm nầy để cầu xin đức đại từ đại bi đem nước cam lộ gội rửa trần cấu cho thân tâm ông được khinh an và lành mạnh.

Chiều hôm đó, cô Ba đem cơm cho Bác vật Cảnh, không quên mang theo quyển kinh Pháo Hoa.

Tối hôm đó, sau khi cơm nước xong, Bác vật Cảnh đi tắm rồi pha trà cúng Phật. Trời đêm tạnh ráo. Vầng trăng bạc đã lên khỏi ngọn xoài ở cuối vườn. Ông cuốn lớp chiếu trải trên divan cẩm lai để nằm chơi cho mát, dè đâu ông ngủ hồi nào không hay.

Trong cơn chiêm bao, Bác vật Cảnh thấy một mụ già mặt mũi xấu xí đứng bên giường. Ông hỏi:

- Bà ở đâu tới đây? Cửa nẻo đã gài chặt, sao bà vô đây được?

Bà già cười thân thiện:

- Tui ở trong nhà này chớ đâu! Cho ông rõ, tui vốn là con tinh cây cảm lai mà thiên hạ xé gỗ đóng chiếc đi- quăng ông đang nằm đó. Hiềm vì trước đây ông mê cái văn minh duy vật mà báng bổ trời thần, thóa mạ Phật pháp nên mang ác nghiệp. Nay ông biết quy y Tam Bảo, tu dưỡng thân tâm thì rồi đây, nhờ tha lực của Phật, ông sẽ thoát khỏi bịnh ngặt mà sánh duyên cùng trang thục nữ để rồi cả hai trợ tu cho nhau, ăn cơm có canh, tu hành có bạn là vây đó!

Nói xong bà già xốc lại, xô Bác vật Cảnh té chúi nhủi. Vừa lúc đó ông cũng giật mình tỉnh giấc. Bên tai ông, trống canh vừa điểm ba tiếng. Ông liền chỗi dậy mặc áo tràng tử tế, chà răng súc miệng sạch sẽ, đốt nhang trên bàn thờ Phật và bắt đầu tụng kinh Pháp Hoa từ phẩm đầu cho tới phẩm chót.

Vừa dứt quyển kinh thì bên ngoài trời đã sáng trắng. Cô Ba Túy Nguyệt đem các món điểm tâm qua. Cô bày bánh canh bột gạo và bánh tầm bì ra mâm trong khi Bác vật Cảnh nấu nước sôi để pha cà phê. Ông bảo:

- Từ canh ba tôi tụng kinh Pháp Hoa cho tới sáng trắng, chắc cô lạ lắm?

Cô Ba Túy Nguyệt cười thiệt tươi, sóng mắt ướt rượt nhưng cái nhìn thật nồng ấm. Cô bảo:

- Đối với ai thì em lấy làm lạ, chớ đối với ông, em biết cơ duyên cầu đạo của ông tới lúc chín mùi rồi!

Bác vật Cảnh nhìn sững cô gái. Đây có phải là trang thục nữ mà bà già trong chiêm bao đã tiên đoán ông sẽ cưới làm vợ chăng?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 9

Ông Huyện Khải, trong thời gian chờ đợi ngày đám cưới, thường từ Tiểu Cần lên thăm cô Hai Túy Ngọc và ông Bác vật Cảnh. Cùng đi với ông có Đốc học Hạnh, vốn là anh em chú bác của người vợ trước ông, cũng là cháu kêu ông Bang biện Hưỡn bằng chú. Thiệt ra, ông Cai tổng Chất, tía cô Ba Kim Chưởng (vợ trước ông Huyện Khải) và ông Chánh bái Chơn, tía ông Đốc học Hạnh, đều là anh một cha khác mẹ với ông Bang biện Hưỡn. Ông nội của họ là phường mãi quốc cầu vinh, tía và chú họ đều là cường hào ác bá, anh em con nhà chú nhà bác họ nếu không là thứ đâm heo thuốc chó thì cũng là phường giá áo túi cơm.

Tuy nhiên cây đắng vẫn trổ trái ngọt. Ông Đốc học Hạnh từ nhỏ vốn bịnh hoạn èo uột nên bà mẹ ông liền ký bán ông cho gia đình người chị con nhà cô của bà. Nhờ sống trong gia đình hiền đức lẫn đạo hạnh của di họ mà ông nhiễm được hai đức tánh cao quý đó. Ông càng lớn càng bất mãn cách ăn ở khắc bạc của thân tọc mình đối với kẻ nghèo hèn cô thế nên ông ít đi lại với họ. Nội trong vòng bà con, ông chỉ thấy cô Ba Kim Chưởng là hiền lành thùy mị nên ông có bụng thường yêu nể vì. Sau đó cô Ba sánh duyên với ông Huyện Khải, ông cũng thường giao thiệp với người em rể họ của mình. Nhận thấy ông Huyện thanh liêm, khiêm tốn, cách ăn nói mềm mỏng nên ông mến thương ông Huyện còn hơn em ruột. Từ khi cô Ba Kim Chưởng qua đời, ông Huyện Khải và ông Đốc học Hạnh vẫn giữ tình em rể anh vợ như cũ.

Ông Đốc học Hạnh hóa vợ hồi hai mươi lăm tuổi. Năm nay ông đã bốn mươi. Cậu con trai độc nhất của ông năm nay mười tám tuổi, đã đậu bằng tú tài bán phần và hiện học tại trường Chasseloup Laubat ở Sài gòn để chuẩn bị thi tú tài toàn phần.

Mỗi khi ông Huyện Khải đi thăm gia đình hôn thê của ông đều có ông Đốc học Hạnh tháp tùng theo.

Cô Út Ngọc An từ khi hết bịnh đàng dưới cũng thường lui tới nhà ông Năm Tảo. Ai dè cô lọt vào mắt xanh ông Đốc học Hạnh. Năm nay cô đã ba mươi hai tuổi, coi như lỡ thời. Còn ông thì tuổi đã bốn mươi mốt. Song ông còn tươi, còn trẻ nhờ năng vận động. Cô thì về sau nầy nhờ bầu tâm cảnh sáng làu làu nên mặt mày cô rạng rỡ, vóc vạc uyển chuyển. Thiệt tình, thuở chưa bị nạn, cô không xấu gái. Hiềm vì lòng cô không an ổn, tánh cô đầy sân hận nên mặt cô dữ dằn u ám. Giờ thì cô sống thảnh thơi tự tại nên mặt cô trở nên hiền hậu dịu dàng, thần sắc cô sáng như gương nga đêm rằm.

Khi nghe ông Đốc học Hạnh muốn cưới cô Út Ngọc An thì cả nhà ông Năm Tảo mừng rỡ lắm. Bà Chín Thẹo cũng mừng, nhưng lại lo vì bà nghĩ rằng con gái mình lòng dạ thưa thớt, sợ cô không rành lễ nghi phong cách để làm vợ một bực tân học.

Bà Năm Tảo trấn an:

- Con Út thông minh lắm. Khi nó về với ông Đốc học rồi thì nó sẽ thích ứng với ổng, chị Chín chớ lo! Vả lại chắc chắn ổng sẽ chỉ vẽ cho nó cách ăn ở của dân tỉnh thành tân tiến.

Cô Hai Túy Ngọc cười chúm chím:

- Bác Chín chưa biết đâu! Chị Út con giờ đây yểu điệu mỹ miều chớ đâu phải như chầu xưa. Ông Đốc học cưới chỉ về, cưng chỉ không hết chớ lý đâu xét nét để chê đè chỉ xuống!

Ông bà Bang biện Hưỡn được tin đó, tỏ ra bất mãn lắm. Bà vỏ vảnh cái miệng nói với chồng:

- Thằng cháu ông có thể cưới hạng đờn bà có tiền của, có ăn học. Ai dè y ta lại mê say đứa con gái hạ tiện, lỡ thời đó. Gia tộc ông có lẽ hết thời hay sao rồi nên mới có người rước thứ cùng đinh mạt hạng đó về!

Ông Huyện Khải và ông Đốc Hạnh cứ mỗi tháng hai lần, lui tới xóm Chuồng Gà thăm vị hôn thê. Vì ông Chánh bái Chơn đã qua đời, mà ông Đốc Hạnh trên không có anh chị đứng làm chủ hôn nên ông phải nhờ dì dượng họ của mình. Dù sao hai ông bà nầy cũng đã nuôi dưỡng ông lúc ông còn thơ dại. Ông cũng cậy vợ chồng người bác của ông Huyện Khải đứng làm mai nhơn. Lễ hỏi được tổ chức trong vòng thân mật.. Ông Đốc Hạnh có mời ông bà Bang biện Hưỡn, ông bà Bác sĩ lê Thạnh Mậu và cậu Hai Kinh lý Luyện, nhưng họ kẻ kiếm cớ nầy, người kiếm cớ nọ, không đi.

Đàng trai đi sính lễ gồm một đôi bông hột xoàn năm ly, một cặp vòng chạm phụng giao đầu, một cây kiềng vàng chạm nặng cỡ một lượng, một chiếc cà rá hột xoàn, một sợi dây chuyền nạm tám hột xoàn, mỗi hột cỡ ba ly, một cặp cà rá vàng chạm cửu khúc liên hườn. Nữ trang có kiểu xưa, có kiểu kim thời.

Bà Chín Thẹo hôm đám hỏi mời đủ mặt họ hàng bên bà lẫn bên ông trong lãnh thổ tỉnh nhà. Xong xuôi, bà may sẵn cho cô dâu tương lai nột cái áo dài gầm đại hồng hoa bạc hình mặt nguyệt, mốt áo dài nhiễu màu đọt chuối, một áo dài lụa mỏng trắng. Ba chiếc áo đó để hôm đám cưới, cô dâu sẽ mặc áo cặp ba.

Bà Bang biện Hưỡn bảo cậu Hai Luyện:

- Ông anh con nhà bác con không chịu kiếm phấn giồi mặt cho bà con họ hàng đâu! Nó kiếm máu hòe, bùn, cứt, để trây trét lên mặt cả dòng cả họ nhà mình đó đa con!

Cũng vậy, từ hôm ông Huyên Khải đi coi mát cô Hai Túy Ngọc, bà Bang biện Hữn tỏ ra lợt lạt với ông. Riết rồi khi ông tới viếng Cầu Đào, bà Bang biện bẹo hình cho ông thấy rồi quày quả vào trong buồng để mặc ông chồng bán thân bất toại nằm trên ghế trường kỷ tiếp khách.

Ông Huyện Khải than thở với ông Đốc Hạnh.

- Thím Bang biện có vẻ ghét bỏ tụi mình lắm, anh Đốc à. Cho nên từ rày sắp tới, tui hết dám tới Cầu Đào.

Ông Đốc Hạnh hít một tiếng bất bình:

- Cầu cho bả ghét! Cái thứ bả càng lui tới thân mật với mình, càng làm mình bận rộn thêm!

Cậu Hai Luyện cũng bắt chước tía má mình, tỏ vẻ lợt lạt với ông Huyện Khải và ông Đốc Hạnh. Không hiểu cậu vì lo việc hay vì lười biếng mà cứ ở miết Mỹ An. Nếu có rảnh thì cậu đi An Hương, đi Hòa Mỹ. Bà Bang biện Hưỡn bao phen nhắn nhe cậu về thăm nhà mà cậu chỉ hứa hẹn cầm chừng. Thì ra cậu vừa chài bẩy được hai cô thôn nữ. Cô thứ nhứt là Ba Hửng, con gái chú Thường Xuyên Hiếu, ỡ Hòa Mỹ. Cô thứ hai là Hai Thiều, con chú Hương nhứt Điêu ỡ An Hương. Khéo làm sao hai cô cùng có thai một lượt. Dì ruột cô Ba Hưởng là bà Tư Nghệ, một hôm đi Mỹ An tìm tới cậu Hai báo tin.

- Cậu ôi,, cậu dụ con cháu tui cách nào không biết mà giờ đây nó mang bầu rồi!

Cậu Hai Luyện trợn mắt:

- Bà chớ nói xàm! Cháu của bà lấy ai mang bầu rồi bà đổ hô tui dụ dỗ! Cô cháu bà là hạng người nào mà tui phải tò tí với cổ? Bà liệu hồn đi khuất mắt tui cho sớm, nếu bà còn lảng vảng ở đây tui sẽ sai thầy Hương quản Mít còng đầu bà với cô cháu gái bà đem ra nhà việc đóng trăn cho mang nhục! Tui là quan Kinh lý, ai cho phép bà kêu tui bằng cậu?

Bà Tư Nghệ đành nuốt hận ra về. Cô Ba Hưởng buồn tủi nhục nhã liền bỏ làng xóm đi lên chợ Vãng sanh con. Sau đó cô gặp chú Chệt Woòng Coóng bán tiệm chạp phô ở Cầu Lầu. Y ta chịu cưới cô và nhận con cô làm con. Nhưng đó là chuyện về sau.

Riêng cô Hai Thiều, khi nghe đồn cậu Hai Luyện dùng oai quyền để chối phắt việc làm tác tệ của mình với cô Ba Hưởng thì đành chịu nhịn, không dám tìm tới cậu. Cô uống lọ xạ chồn hương để phá thai và bị băng huyết dầm dề. Khi ra khỏi nhà thương, tóc cô rụng nhiều. Cô đành tìm đến Sơn Thắng thí phát quy y. Nhưng đó cũng là chuyện về sau.

Chuyện bây giờ là công việc cậu Hai Kinh lý Luyện đo đất để đào con rạch Mỹ An. Dài theo phần đất của ông Hương sư Chiêm cũng bị lọt vào trong vùng đất bị đào. Cậu Hai Khiết, trưởng nam ông Hương sư Chiêm một hôm bưng mâm trà, bánh và rượu đến nhà trọ cậu Hai Luyện, khúm núm thưa:

- - Bẩm quan Kinh lý, đây là phẩm vật của tía tui kính lên quan để quan dùng lấy thảo. Tía tui là ông Hương sư Chiêm.

Cậu Hai Luyện cười::

- Tui có nghe ông Hương sư hiếu khách lắm nên cũng tính sẽ có ngày đến viếng ổng. Dè đâu ổng lại sai chú tới đây tặng phẩm vật để mở đầu cuộc giao hảo. Vậy khi về nhà, chú nhớ chuyển lời cám ơn của tui nghe!

Cậu Hai Khiết dạ dạ. Còn cậu Hai Luyện giở tấm vải hồng điều đậy trên mâm quà tặng thì thấy hai chai rượu cỏ- nhác, một họp trái vải, một hộp bánh bích qui, hai hộp trà Thiết quan âm, một chục trái cam tàu và một phong bao giấy hồng. Cậu liền hỏi cậu Hai Khiết:

- Cái gì vậy chú.

Cậu Hai Khiết thưa:

- Bẩm quan Kinh lý, tía tui nhờ quan đo đất lấn qua ranh cuộc đất chú Xã Miễn và cuộc đất thầy Hương hào Liệt để đào kinh. Có vậy phần đất của tía tui mới giữ nguyên vẹn. Nếu được vậy, tía con tui đội ơn quan Kinh lý vô cùng. Sau vụ nầy, tía tui sẽ đền ơn thêm cho quan lớn.

Cậu Hai Luyện cười hề hề:

- Được rồi, để tui tính. Chú cũng nên thưa với ổng, chiều mai tối sẽ đến nhà ổng bàn bạc thêm.

Tối hôm đó, cậu Hai Luyện cứ loay hoay với tấm địa đồ. Cậu dùng biết chì đỏ vạch lấn qua phần đất của Xã Miễn và Hương hào Liệt để đào kinh và quyết định chiều mai sẽ đến nhà Hương sư Chiêm, kèo nài ông ta đưa thêm hai lượng nữa.

Mãi tới đầu canh ba, công việc xong, cậu trở về buồng và lên giường. Cậu thở dài khoan khoái. Thấy chưa! Nhờ phá được trinh cô Ba Hưởng và cô Hai Thiều mà tiền bạc tự dưng tới cậu. Hèn chi tụi phú thương Huê Kiều rất chuộng phá trinh con gái để được ăn nên làm ra.

Đến giữa canh ba, cậu Hai Luyện mới ngủ được. Trong chiêm bao, cậu thấy một người đờn ông da đen như da người Chà và, mặt đầy mụn, miệng rộng, răng lởm chởm. Y ta mặc bộ đồ xám nổi vảy như vảy cá sấu. Y ta bảo:

- Kính chào quan Kinh lý. Tui là thần Hắc Giao đại vương nằm trong cuộc đất nầy. Đầu tui ló gần tới ranh giữa đất của Xã Miễn và của Hương sư Chiêm. Nếu quan lớn cho đào kinh y theo bản đồ đã vạch thì đầu tui không bị đứt, tui sẽ yên lòng tu niệm để chừng năm mươi năm sau, tui thoát kiếp con sấu vảy đen mà biến thành con xích long bay về Nam Hải. Nếu quan lớn ăn tiền hối lộ, đào kinh lấn qua phần đất Xã Miễn thì đầu tui bị đứt còn đâu mà kể! Xin quan Kinh lý giữ đức hiếu sanh, đứng để tui bị tán mạng bởi mấy lượng vàng do ông Hương sư Chiêm lo lót. Khi tui tu thành chánh quả rồi, sẽ có ngày tui tìm được cách trả ơn quan lớn.

Vía cậu Hai Luyện hỏi:

- Đào kinh là việc của tui, mắc mớ gì tới ông? Có phải ông ăn hối lộ đồ cúng của Xã Miễn rồi cản trở tui đó chăng?

Người đàn ông bảo:

- Đó là cuộc đất theo thế Hắc Giáo Vọng Hải, có nghĩa là con sấu đen ngóng ra biển. Tuy là đất, nhưng nó là cái thịt xương, cái thể chất của một vị thần như tui. Quan lớn khi đào kinh phá hỏng nó tức là giết một sanh mạng vậy.

Tới đây cậu Hai Luyện giựt mình tỉnh đạy. Cậu bần thần suy nghĩ:

- Mình mà giết thần sấu đen trong khi đào kinh tức là giết một kẻ không thù không oán với mình. Nhưng bất quá đó cũng chỉ là thứ quỉ thứ ma, chẳng phải tiên thánh gì đó. Mình đã lỡ nhận quà biếu và hai nén vàng của ông Hương sư Chiêm rồi, không lẽ trả lại. gày mai mình tới nhà ông hương sư Chiêm, kèo nái ổng đưa thêm sáu lượng nữa. Nếu ổng thuận thì mình cho đào qua phần đất Xã Miễn.

Nghĩ vậy cậu an lòng ngủ tiếp.

Sáng hôm sau, cậu Hai Luyện sai bạn chèo ghe trương buồm đưa mình về chợ tỉnh. Ông Bang biện Hưỡn tuy nói được nhưng giọng ú ớ, cổ họng như bị trám nghẹt, cho nên khi nói ông phải gồng cổ hét lớn, vậy mà tiếng nói cũng không vang lộng được bao nhiêu. Ông vẫn nằm trong lòng ghế bành có thành dựa kê chiếc gối, mặt ông mệt mỏi, mắt ông trõm lơ.

Bà Bang biện Hưỡn vừa thấy mặt cậu trưởng nam, quở:

- Con dựa vô chuyện nhà nước, đi hoang đàng chi địa suốt cả tháng nay, giờ mới mò về nhà. Tía con giờ thành phế nhân rồi, việc nhà con không chịu coi sóc thì bỏ cho ai đây? Nhà mình có tiền có ruộng, nếu con chăm chỉ mần ăn thì có thể sống dư dả ngỏa nguê suốt đời. Má chỉ muốn con từ chức để ở nhà hú hí với tía má và trông coi mọi việc trong ngoài. Con lớn rồi, cứ chạy theo mấy con lành thuộc phường hạ lưu hạ tiện thì còn non nước gì?

Hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ bến Xầu Lộ qua chi. Trời mưa sùi sụt. Khu vườn chung quanh ướt loi ngoi lóp ngóp. Hàng chuối bên hông nhà đâm ra nhiều chồi chuối con. Mấy bụi tre mạnh tông ở cuối vườn, mụt măng trỉ tua tủa. Cô Ba Cẩm Tú nhìn hàng câu đu đủ trồng trên vồng đất cao gần sát hàng rào tre, nói:

- Mưa hoài mưa hủy, không khéo mấy cây đu đủ úng thủy thúi gốc cho mà coi.

- Cậu Hai Luyện bảo mẹ:

- Con về đây trước là thăm bệnh tình tía con, sau nữa là để nhờ thầy Mười Khói tìm thầy ếm trấn mấy vong hồn đất đai trước khi cho đào kinh. Má biết đó, hễ mình đào mương, đào ao, đào kinh là thế nào cũng phạm tới mạch thổ địa, mạch sấu, mạch kỳ đà nằm trong đất. Bởi vậy con phải nhờ thầy pháp ếm trấn trước cho chắc ăn.

Bà Bang khen ngợi:

- Con cẩn thận như vậy là tốt. Má đợ con về đây cũng là để bàn việc đó. Con nói ra má mới yên bụng. Để má lo việc nầy cho.

Bà sai con Lý giết con gà mái dầu làm thịt để dọn cơm, sai con Lài pha trà, pha cà phê và dọn mâm bánh nếp nhưn thịt để ba mẹ con bà điểm tâm.

Sau đó, cậu Hai Luyện xin phép mẹ ra chợ mua sắm. Đợi thằng con trai đi ra tới ngõ, bà Bang biện Hữn mới cằn nhằn cô Ba Cẩm Tú:

- Tao nghe đồn lúc rày vợ chồng mầy tới thứ bãy nào cũng đắt nhau vô dinh quan Chánh tham biện để nhảy đầm.

Cô Ba Cẩm Tú cười mơn:

- Con đi với ảnh, chớ có đi mình ên đâu mà má lo! Nếu ảnh không rủ rê thì con đời nào dám vô mấy chỗ đó.

Ba Bang biện nguýt:

- Tao còn nghe mày ưa lui tới con mèo quan Chánh tham biện là con Ba Thuận và con mèo của quan Cò mi là con Năm Định nữa. Trời ôi, thấy mặt hai con chơi bời đó tao muốn thượng thổ hạ tả rồi chớ huống hố nói năng giao thiệp vời tụi nó! Nghe nói quan Chánh tham biện và quan Cò mi thân nhau, mượn vợ đổi vợ với nhau hà rầm. Chồng mầy mà bày đặt giao thiệp với hạng Phiên tặc Phiên tướng đó, có ngày nhiễm thói hư tật xấu của họ cho mà coi.

Cô Ba Cẩm Tú cười hăng hắc:

- Má thiệt! Chồng con có sạn trong đầu có sỏi trong óc, đời nào ảnh làm chuyện dại dột như vậy! Má cứ lo bao đồng nên má hao tâm tổn trí, ăn ngủ không ngon là vây đó.

Bà ngó chăm bẳm con gái:

- Thời buồi nây đờn bà thiệt khó hiểu! Không chịu lấy chồng cùng gióng họ, dám cặp xách với tụi ngoại bang dị chủng. Như quan Chánh tham biện kia râu rìa, mắt ốc bươu, miệng cá chẽm, mũi mỏ két, lưng lớn như tấm đi- quăng, tướng tá ô dề cục nịch, vậy mà có đứa nhà vô lấy cho được! Chắc là nó mê tiền tham dâm chớ gì?

Cô Ba Cẩm Tú đỏ mặt ú ớ toan nói điều gì nhưng lại thôi. Bà Bang biện Hữn sai thằng Xiêm, thằng Đực đi đòi nợ. Thằng Xiêm ra Cầu Dài, đến nhà chị Tám Thiệt; còn thằng Đực thì quẹo qua dãy phố Khương Hữu Phụng để tới nhà thím Bảy Định. Bà nói vói:

- Bây dặn cái quân trây nợ đó, tháng nầy mà tụi nó không trả lời trả vốn cho tao là tao cào nóc nhà, đạp nàm thờ tụi nó đó!

Bà kêu Bửu lại dặn:

- Mầy đến nhà thầy Mười Khói, nói với thẩy tối nay tới đây có việc cần. Đi xong rồi về liền để giã cho tao hai cối gạo, đừng có đi một chút lút một ngày mà chết với tao.

Bỗng có người phát thơ đến ngoài cổng, gọi ơi ới. Cô Ba Cẩm Tú lật đật chạy ra. Người phát thơ chìa bức thơ ra:

- Thưa cô Ba, đây là thơ từ Sài gòn về.

Cô Ba Cẩm Tú nói "cám ơn" rồi bắt lỗi liền:

- Chú Năm à, sao chú thưa thớt vậy? Giờ tui là vợ ông quan thầy thuốc rồi, chớ có còn son giá gì nữa đâu mà chú kêu tôi bằng cô Ba hoài vậy?

Cô nguýt dài rồi ngoe ngoảy vào nhà, bảo mẹ:

- Có thơ con Tư gửi về.

Bà Bang biện Hưỡn bảo:

- Con đọc cho má nghe đi. Không chừng nó đập bầu rồi viết thơ báo tin chớ gì!

Cô Ba Cẩm Tú xé phong bì, moi thơ ra đọc:

Sài gòn, ngày...

Kính thưa tía má,

Trước hết con xin vấn an tía có bớt bịnh hay không? Còn má có được xuôi chèo mát mái trong việc làm ăn sanh lợi hay không?
Tới nay con cũng chưa đạp bầu. Không chừng con mắc chứng chửa trâu, nên con có đến nhà lũ bạn xin mỗi đứa một nhúm gạo về nấu cháo ăn cho mau đẻ. Hễ con đập bầu xong thì con sẽ nhờ chồng đánh gây thép về cho tía má mừng.

Sở dĩ con biên thơ này cốt là báo cho tía má rõ: thằng chồng khốn nạn của con lóng rày ưa chà lết ở nhà tía má vợ trước của nó. Con cho người dò la biết rằng, em con nhà chú của mụ Tư Thục là con Hai Tố Trinh mấy tháng nay từ Cái Răng lên nhà hai bác nó là ông bà Huyện Tịnh ở trọ để học làm bánh và thêu đan. Nghe đâu con nọ đã có bằng thành chung, lại có bóng sắc. Đằng ông bà Huyện Tịnh muốn câu thằng chồng oan gia của con nên bắt con nọ nhởn nha quần hàng áo lụa, tô son trét phấn để chưng bươm bướm trước mặt thằng chồng trâu tria rắn rít của con.

Giờ đây con mang bầu, vóc mình lệch lạc, sắc mặt chao vao, tướng đi ột ệt, chuyện vợ chồng chẳng những không nồng mặn như xưa mà thằng khốn khiếp đó còn sanh sự với con luôn. Thế nào mà bà Huyện Tịnh chẳng nói vô nói ra. Chưa hết đâu! Hễ má chồng con có dịp về Sài gòn là ở miết bên bà Huyện Tịnh, tình nghĩa đôi bên ra vẻ mặn nồng lắm. Bấy lâu nay, cái bà mẹ chồng ó đâm đó đời nào chịu xuống Vĩnh Long thăm tía má? Càng nghĩ chừng nào, con càng buồn tủi, càng run sợ chừng nấy. Biết đâu họ đang toa rập nhau hất con ra? Bấy lâu nay con muốn theo lẽ thường: đờn bà hễ sanh con đầu lòng thì phải về nhà cha mẹ ruột. Song con cứ nơm nớp lo sợ hễ con mà rời nhà rồi thì khó mà bồng con trở về lắm. Vậy má có kế chi giúp con với. Giờ đây con bồi rồi, không biết tính toán lo liệu ra sao!

Cuối thơ con chúc tía má, anh Hai, chị Ba, anh Ba được an khương.

Kính thư

Tư Cẩm Lệ


Cô Ba Cẩm Tú sượng trân khi nghe mẹ mình xóc xỉa bon Tây tà. Thiệt ra cô không ngoại tình tư ước với quan Chánh tham biện Jean Delarue. Cô hiện đang dan díu với tên Thierre Lemur, chủ đè bô rượu Tây, nước ngọt, la- de, nước đá trong tỉnh. Qua vài lần gặp gỡ và nhảy nhót với hắn nơi các buổi dạ hội trong dinh quan Chánh tham biện, cô bị tên Pháp kiều nầy dụ dỗ vào con đường quấy. Lúc đầu cô chê hắn là thứ ngoại bang dị chủng, tròng mắt xám như mắt đui, thân to lớn dềnh dàng thô kệch. Vậy má hắn tán tỉnh cô ngọt ngào du dương quá, cọ quẹt cô sành điệu quá nên cô động tình. Một phần cô buồn vì đường chửa nghén của cô kể như đứt tuyệt sau lần xảo thai kia, một phần chồng cô lợt lạt với cô về chuyện hương lửa, và một phần lớn do oan nghiệt đẩy đưa nên cô muốn tìm cách giải trí.

Giữa lúc cô Ba Cẩm Tú lén lút cắm sừng lên đầu chồng; giữa lúc cô Ba Cẩm Lệ phập phồng lo sợ mình bị chồng bỏ; giữa lúc nhà ông Bang biện Hưỡn lung lay nền móng thì gia đình ông Năm Tảo sống hòa thuận, được lân lý thương mến, các đạo hữu tin cậy tới lui. Vì hốt thuốc coi mạch mát tay nên ông Năm Tảo có nhiều thân chủ, tiền của vô nườm nượp, quà cáp biếu xén đến ông dập dìu.

Lật bật mà sắp tới rằm tháng bảy. Cô Hai Túy Ngọc bơi xuồng ra chợ mua đường, đậu, nếp, bột nếp, bột gạo ê hề đem về làm xôi bánh. Bà Năm Tảo mở gói đừng cát trắng, bảo cô trưởng nữ:

- Mình gói bánh ếch, đúc bánh bò chẳng cần đường cát trắng làm chi. Bánh ếch ngon nhờ dẻo, bánh bò ngon nhờ xốp, con dùng đừng thẻ cũng đủ rồi. Nhưng má đã thủ sẵn đường om thơm hơn. Cái om đất đựng đường má treo trên giàn bếp.

Cô Ba Túy Nguyệt nhắc nhở

- Còn phải chuẩn bị làm gà làm vịt để làm mâm cỗ cúng cô hồn các đẳng nữa. Ông bà mình thường nói: Trời Phật ở xa, quỉ ma ở gần. Câu đó coi vậy chớ lẩm rẩm mà đúng y chang.

Bà Năm Tảo liếc xéo cô thứ nữ:

- Ngày rằm tháng bảy, Diêm Vương xá tội vong nhơn, tất nhiên mình cũng phải cúng cô hồn các đẳng. Nhưng mình là Phật tử thuần thành mà giết gà giết vịt để cúng sao phải! Cúng họ bằng cháo trắng đựng trong các bồ đài mo cau là được rồi!

Bên bà Chín Thẹo thì làm bánh cúng rằm đơn giản hơn. Bà đặt chị Bảy Thia làm một chục bánh bò đường đỏ, một chục bánh bò bông nõn nà để cúng đường cho chùa Long Đức. Còn bà đợi trước rằm một ngày sẽ nấu một nồi chè đậu cùng một trả xôi nghệ để cúng đất đai viên trạch.

Bởi rảnh rang, cố Út Ngọc An cùng hai cô Kim Liên và Kim Huệ, em bạn dì của cô, qua bên bà Năm Tảo làm giúp. Từ sàng nước thoáng gió cho tới căn bếp rực hồng ánh lửa, kẻ đãi đậu xanh cho sạch vỏ, người vút nếp cho hột nếp trong ngọc trắng ngà, người khác nạo dừa vắt lấy nước cốt, người khác nữa nhồi bột gạo cho mịn và nhồi nếp cho dẻo. Tiếng cưới nói vui vẻ, lạc quan...

Giữa lúc các cô khác đía dốc, lòng cô Bà Túy Nguyệt mang trăm mối ngổn ngang. Lóng rày, Bác vật Cảnh không được vui, sắc mặt luôn luôn đăm chiêu, nụ cười gượng gạo. Hai cánh tay, mu bàn tay ông thường dán thuốc dán. Có thể là bịnh cùi đang phát tác, cho nên da thịt ông lở lói chăng? Mà đáng sợ thay, da mặt ông trở thành dầy và sần sùi như vỏ trái cam sành, lại còn đỏ ửng như vỏ trái chuối cau lửa. Mái tóc ông thưa thớt, đôi mày rậm và sắc như nét mực Long Tể cũng rụng bớt đi nhiều.

Thật tình cô Ba Túy Nguyệt chẳng mấy tin tưởng lời báo mộng của dì Út Thoại Huê cô về cuộc chung thân mai sau của mình. Biết đâu hồn ma tiên đoán lầm lạc. Bịnh tình Bác vật Cảnh chẳng những không bớt mà còn có mòi phát tác mạnh. Những thang thuốc do ông Năm Tảo sắc, Bác vật Cảnh uống như uống nước lã. Còn vàng lá mà ông mài ra uống cũng không làm căn bịnh chai lì. Cái trớn lao tới của bịnh sao mà mau lẹ khủng khiếp. Không khéo trong tương lai không mấy xa, các ngón tay ngón chơn của ông rụng từng lóng chớ không chơi!

Có đêm trăng tròn cô Bà mở cửa rào qua bên khuôn viên ông để coi ông có đọc hay tụng kinh không. Nhưng vừa tới bên hè, cô chợt nghe tiếng ông rên rỉ thống thiết. Ông nói một mình:

- Trời ôi, tui sống không được mà chết cũng không được! Sao mà bịnh hành tui quá quắt, thiệt khó kham khó nhẫn!

Trong giây phút đó, cô Ba Túy Nguyệt không dám đường đột gõ cửa vào thăm. Cô đứng chết lặng bên hè nhà, mà ướt đẫm nước mắt. Nơi tấm lòng trắc ẩn của cô, tình yêu đang mọc nảy mầm mà cô không hay. Cô không biết mình đã yêu Bác vật Cảnh mà chỉ nghĩ rằng mình tiếc cho một nhân vật lỗi lạc, có chí hướng mà bị vướng bịnh oan nghiệt.

Hôm nay là ba mươi tháng bảy âm lịch. Mấy khóm bông tang đỏ, trang trắng, trang hường trổ thôi ê hề, từng chùm lún phún như pháo bông. Và dễ thường chưa, cây diệp tơ bên hông nhà cũng đơm bông đỏ rực. Rồi mắc mớ chi không biết, lũ chim rẻ quạt, chim chèo bẻo cùng bay về xẻo lá dừa nước kế nhà hót thôi véo von! Bông trổ thạnh như vầy, chuyên về huyên náo như vậy, có phải đây là điềm đất phước trổ bông, đất lành chim đậu đó chăng? Bỗng cô Ba thoáng bàng hoàng bởi ý nghĩ: Trước khi mưa tạnh thường trút mạnh. Bịn ổng trước khi rút lui, phải hành thân hoại thể ổng cho đã nư? Ừ, biết đâu đó! Không lẽ một người nhơn đức, biết tin theo Phật pháp như ổng lại đoản mạng hỏi căn bịnh gớm ghiếc ấy?

Nghĩ tới đây, cô Ba Túy Nguyệt lau gào- mên múc canh, đơm cơm, đồ kho, đò xào váo bốn ngăn. Cô cũng không quên đặt ấm thuốc vào chiếc giỏ mây, rồi tay xách giỏ, tay xác gào- mên, cô xâm xâm đi về phía cổng rào. Cửa lúc nào cũng mở sẵn. Cô men theo con đường rải vỏ hến bên hè nhà Bác vật Cảnh. Coi kìa, con chim khách đậu trên cành cậy bông công chúa hót lăng líu một tràng dài. Vách trái của căn nhà chỉ cách cô chừng năm thước. Sát bên hè là đống cây vụn mà ông Nam Tảo chưa bê về nhà bửa hôm làm củi chụm. Bỗng, cô Túy Nguyệt rụng tời. Từ trong đống cây, một con rắn dài cỡ một sải tay bò ra, mình lớn cỡ cườm tay cô, vảy nó màu nâu chạy một vạch bạc lấp lánh và một vạch vàng rực rỡ như vàng diệp.

Người và rắn nhìn nhau. Côi như bị thôi miên, đứng tê liệt như trời trồng. Còn rắn chong cặp mắt hung cữ dò xét. Nhưng sau đó, nó chui vào đống cây vụn kia. Một chặp sau sô Ba mới hoàn hồn. Cô bước vào mái hiên, gọi:

- Thưa Bác vật, có em đem cơm qua đây

Bác vật Cảnh giọng yếu ớt:

- Tui đã dậy rồi, đang chờ cô đây.

Cô Ba Túy Nguyệt đặt gào- mên và chiếc giỏ mây xuống bàn, dịu dàng hỏi:

- Chẳng hay ông có được khỏe không?

Bác vật Cảnh sắc mặt sật sừ, uể oải bảo:

- Nhờ ông Năm cho uống thuốc an thần nên tui đỡ đau, nhưng thuốc đó làm tui bễ nghễ trong người, tay chơn bải hoải.

Cô Ba Túy Nguyệt bày cơm canh ra mâm, rót thuốc ra tô như thường lệ. Nhìn vẻ mặt ủ ê của ông, cô chạnh lòng, bảo:

- Để em nấu nước pha trà cho ông uống cho tỉnh người.

Cô xách chiếc ấm nhôm ra hiên mú c nước mưa rồi đốt rề- sô nấu nước. Cô bỏ trà vô ấm, soạn khay chén và bảo:

- Ở trong đống cây vụn bên hè có con rắn, ông chớ nên ra đó đi tiểu. Để em về nhà lấy rượu hùng hoàng phun vô đống cây cho con rắn bỏ đi.

Bác vật Cảnh uể oải ăn cơm như ăn sỏi sạn. Hơn lúc nào hết, ông bi quan tuyệt vọng. Bịnh này khi thì hành đau nhức, khi thì hành ngứa ngáy. Lúc ngứa, ông lấy khăn lông quấn quanh gậy hơ lên lủa than cho nóng rồi áp vô chổ ngứa. Nhưng lúc đau, ông phải nhờ thuốc an thần. Thuốc nầy làm ông dịu được cơn đau đôi chút thì lại làm tinh thần ông mệt mỏi, nỗi bi quan vọt lên cao. Những lúc đó ông chỉ đọc thần chú Dược Sư Quán Đảnh chớ không thể tụng kinh tràng giang đại hải được.

Cô Ba Túy Nguyệt ra về, bảo cha:

- Có con rắn trong đống cây vụn bên nhà ông Bác vật Cảnh, xin cha cho con rượu hùng hoàng để con phun vô đống cây đuổi rằn đi.

Ông Năm Tảo lật đật đi lấy hũ rượu. Cô Ba liền bưng hũ bương bả qua bên khôn viên nhà Bÿc vật Cảnh. Cô bước lại đống cây, hớp từng ngụm rượu phun đều khắp. Chưa yên tâm, cô còn phun rượu chung quanh nhà. Mùi rượu nồng ngát bay tới chỗ Bác vật Cảnh uống trà. Ông than:

- Công ơn cô săn sóc tui như vậy, nếu tui không hết bịnh mà chết đi thì tui chỉ nguyện kiếp sau đầu thai trả ơn cô.

Cô Ba Túy Nguyệt chỉ cười, nhưng cặp mắt cô sáng mọng nước mắt. Cô không thèm lau, chỉ cuối xuống thu dọn bàn ăn rồi te tái đi một mạch ra khỏi nhà, không cất tiếng giả từ ông như mọi khi.

Khi cô Ba đi rồi. Bác vật Cảnh nhìn theo, nước mắt chảy ròng ròng. Lúc ươn yếu trong người, ông nhạy cảm hẳn lên, lòng mếm đi. Ông liền đánh răng súc miệng để sửa soạn nghi thức tụng kinh Dước Sư. Bên ngoài, trang sáng vằng vặc. Dưới sông, ghe thương hồ qua lại, tiếng đối đáp văng vẳng.

Khi ông tụng kinh xong, trăng đã tuột khỏi đỉnh ngọ, tà tà ngả về tây. Ông liền tắt đèn đi ngủ. Song chén trà ông uống hồi chiều khá mạnh, khiến ông trằn trọc mãi. Không lẽ cứ nằm lăn trở trên giường, ông liền chỗi dậy thắp nén nhang ngọc quế trên bàn Phật và thắp ngọn đèn huê kỳ để đọc lại quyển kinh Viên Giác. Vào thời khắc nầy, tư bề yên lặng. Ngoài kia trăng sáng mênh mông. Tiếng mõ ở điếm canh chốc chốc nổi lên văng vẳng. Tiếng dơi ăn trái chín kêu chóe bên vườn.

Càng đọc kinh, Bác vật Cảnh càng sanh hứng, quên đi cơn đau âm ỉ ở thể xác. Con đường tu của các bậc Bồ tát trong kinh mở cho tâm ông biết bao cánh cửa để ông nhìn thấp thoáng vô số góc cạnh của chân giác ngộ. Thần trí ông lăng tăng. Ông tạm xếp kinh lại, tìm cái ấm nhom đem ra hiên múc nước. Giây phút nầy mà uống một tách cà phê thì ngon phải biết! Ngoài hiên gió từng đợt thổi qua, cuốn thốc một mớ là vàng rồi hất vào hiên Ánh đèn huê kỳ từ trong hắt ra chỗ lu nước mưa. Và trời đất quỉ thần ơi, dưới chơn lu, một con rắn vảy nâu có vạch hoàng kim và vạch ngân bạch đang nghểnh cổ nhìn ông. Và không để ông phản ứng, nó phóng tới, cắn vào trên mắt cá chơn ông làm ông đau điếng. Niềm kinh hoàng làm miệng lưỡi ông tê liệt. Cơn xây xẩm làm ông suýt ngất đi. Ông cố gượng lê vào divan và ngã người trên đó, thần trí chìm dần vào cơn hôm mê dầy đặc. Bỗng một bà già hiện ra, mặt mày tuy vẫn xấu xí nhưng không hung ác. Bà ta cười:

- Cung hỉ ông Bác vật. ừ đây ông sẽ lần hồi lành bịnh, cũng tỉ như cây khô trổ bông, rau héo gặp mưa vậy.

Vía Bác vật Cảnh bảo:

- Tui bị rắn cắn, chắc phải chết, lành bịnh mà chi?

Bà già vẫn tươi cười:

- Trong sách Đông y có viết rằng nọc độc của loại rằn Kim Ngân Hoa Xà có thể trị được bịnh cùi. Bởi trước kia tuy ông có phỉ báng Trời Phật, nhưng ông biết làm việc thiện, biết tụng kinh sấm hối, giốc lòng tin tưởng Trời Phật nên các đại tướng Dược Xoa động tâm, sai con rắn Kim Ngân nầy cắn ông. Nọc rắn bắt đầu phát tác để tiêu diệt các mầm mống phung hủi trong thân ông. Sáng mai rồi ông sẽ rõ:

Bác vật Cảnh chỉ biết chấp tay niệm Phật.

- Trong mấy tuần nay, ông bị bịnh hành dữ dội. Bịnh cùi đâu có phát mau dữ vậy. Đây chỉ là cái quả báo hiện hành gấp rút để ông mau trả hết oan gia nghiệp chướng đó thôi. Lại nữa, mới nãy đây rắn cắn ông, chưa chi mà ông đã xây xẩm hôn mê. Đó là do tui dùng phép mọn để ông bất tỉnh nhơn sự, không thể kêu cứu. Nếu ông tri hô kêu cứu, ông Năm Tảo cũng là tay giỏi trị rắn cắn, sẽ dùng thuốc hóa giải hết nọc rắn thì làm sao có thứ dĩ độc trị độc để tiêu hủy mầm mống bịnh cùi kia được!

Vía Bác vật Cảnh liền quỳ xuống tạ ơn bà già.

Bà già xua tay ngăn cản, rồi bảo:

- Thấy ông là kẻ hiền lương nên tui giốc lòng phù hộ ông. Việc tui làm thấu đến đức Quán Thế Âm Bồ Tát nên lát nữa đây, tui sẽ thác sanh làm cây hoa quỳnh ở từng trời Tứ Thiên Vương, mười năm trổ bông ngũ sắc một lần cho chư tiên cúng Phật. Vậy tui xin từ giả ông. Bắt đầu từ đây, bộ đi- quăng ông nằm sẽ chỉ thứ gỗ tầm thường, vô tri vô giác.

Bà già biến mất và Bác vật Cảnh cũng vừa tỉnh giấc chiêm bao. Trời bên ngoài đã sáng lờ mờ. Ông chợt thấy niềm sảng khoái thấm nhuần châu thân nên vào nhà tắm, tắm để tẩy đi mồ hôi nhớp nháp. Xong ông trở về phòng khách vừa hút thuốc vừa đọc báo và chờ cô Ba Túy Nguyệt đem điểm tâm qua.

Chùng giập bã trầu, Cô Ba Túy Nguyệt đến, theo sau là cô Hai Túy Ngọc xách một cái giỏ lớn.

Cô Hai bảo:

- Xế hôm qua, em tui đã mua đủ thứ cần dùng cho chú, vậy mà chiếu qua nó quên đem.

Cô lôi ra nào là đường, cà phê, xà bông đá để giặt quần áo, xà bông thơm để rửa mặt, hai gói trà tàu, hai bánh thuốc rê, xấp giấy quyến vấn thuốc, hai tờ nhật báo, hai tờ nguyệt san... Cô ân cần hỏi han:

- Chú khỏe không? Đêm qua ngủ có ngon không?

Bác vật Cảnh đáp:

- Thưa chị, dù đêm qua ngủ ít nhưng tui an giấc và cảm thấy dễ chịu lắm.

Cô Hai Túy Ngọc sắp làm vợ ông Huyện Khải. Kể vai vế, cô đứng vào hàng chị ông Bác vật Cảnh. Đây là lần thứ hai cô qua thăm ông. Cô dịu dàng bảo:

- Chú cần chi, muốn ăn món gì cứ nói con em tui biết. Ngày mốt, anh Huyện cùng ông Đốc Hạnh sẽ tới chơi, để dự lễ cúng rầm Vu Lan.

Cô Ba đặt mâm điểm tâm xuống bàn, so đũa, ân cần mời:

- Mời ông dùng điểm tâm cho nóng.

Mâm cháo sáng thật tươm tất. Cháu trắng nấu bằng gạo nàng hương thơm phức. Hai trứng vịt muối xẻ đôi bày trên chiếc dĩa màu trứng sáo. Một dĩa nhỏ đựng dưa mắm trộn tỏi ớt. Một dĩa cá lóc muối mặn và chiên vàng. Một tô thịt nạc dăm và cá lóc kho chung, nước kho đặc quánh sặc mùi tiêu hành Một dĩa bắp chuối luộc trộn dấm ớt.

Cô Hai nhìn từ trong ra ngoài, khen:

- Ở đây từ trong ra ngoài đều ngăn nắp đẹp đẽ, chỉ thiếu mấy chậu bông cho vui mắt. Để tui mua tặng chú cặp chậu bông ngọc nữ.

Cô quay qua em:

- Em ở đây hàn huyên với chú Bác vật, chị có việc phải ra ngoài Cầu Dài.

Và cô kiếu từ. Đợi chị mình đi khuất, cô Ba mới nhìn sững người đàn ông tân học, bảo:

- Lạ dữ không, da mặt ông coi bộ bớt đỏ...

Bác vật Cảnh úp úp mở mở:

- Tui sẽ hết bịnh. Để rồi cô coi.

Cô Ba cười:

- Dĩ nhiên rồi. Em tin chắc như vậy.

Cô Ba nghiêm sắc mặt:

- Đêm hôm qua, em nằm chiêm bao thấy ông cùng em ngồi nói chuyện dưới mái lá nầy. Tư dưng ông biến mất. Chỗ của ông ngồi là một nhánh cây nhỏ trồng trong chậu. Một cơn gió hắt vào một làn sương mát, cây bỗng nãy lộc non, lá mới và trổ bông rườm ra lắm.

Bác vật Cảnh nhìn sâu vào mắt cô gái:

- Cô chiêm bao thấy cây khô trổ bông thì chuyện vui ứng vào cô chớ sao lại ứng vào tui?

Cô Ba đỏ mặt, ấp úng:

- Nhưng bấy lâu nay em tụng kinh Phổ Môn để cầu ông được lành bịnh. Cứ theo mộng triệu mà suy thì điềm hên phải ứng vào ông mới phải.

Rồi không nói gì thêm, cô thu xếp gào- mên bỏ vào tay xách, bỏ ấm đất vô giỏ mây rồi kiếu từ.

- Em phải đi chợ mua sắm lặt vạt.

Khi cô đi rồi, Bác vật Cảnh vẫn tiếp tục dùng điểm tâm. Hôm nay cô Ba mặc áo nhiễu màu tím than, càng làm tôn sắc da trắng trẻo, hồng hào của cô lên bội phần. Khi cô mắc cỡ, sượng sùng, má cô càng hồng tươi thắm đượm, càng rạo rực lộng lẫy. Tim ông bỗng đập mạnh, miệng ông cười bâng khuâng...

Bên ông Năm Tảo, lễ cúng rằm được tổ chức thiệt lớn. Bà Năm ngoài chè bánh còn làm một mâm cỗ chay thịnh soạn. Cô Ba bưng qua Bác vật Cảnh một mâm chay vĩ vèo nào là chả giò, mắm thái, cà ri chay để ăn với bún, bánh tráng, rau sống. Mâm chè bánh gồm các loại bánh luộc như bánh ú, bánh dừa, bánh qui; chè đậu trắng, xôi nhuộm nước cốt lá cẩm màu tím tươi, xôi vị mau nâu mã não thơm mùi ngũ vị hương ngào ngạt.

Ông Huyện Khải tháp tùng ông bà Năm Tảo, cô Thiệt Nguyện, hai cô Túy đi chùa Long Đức và chùa Sơn Thắng. Kỳ rằm này bà Năm Tảo, ngoài mười ngăn quả đựng mười thứ bánh, còn cúng đường mỗi chùa năm chục đồng, rất hậu hĩ.

Tiền cơm, tiền tiêu xài dành cho Bác vật Cảnh được người bác ông và ông Huyện Khải cung cấp đều đặn. Và cũng đều đặn ngày ba lần, cô Ba Túy Nguyệt đem cơm nước cho ông. Mỗi lần như vậy cô đều ngồi nán chừng nửa tiếng đồng hồ để trò chuyện. Bác vật Cảnh vẫn trì tụng kinh Pháp Hoa và kinh Dược Sư đều đều. Chừng nửa tháng sau, cô Ba chăm chăm nhìn ông, bảo:

- Lạ quá đi, da mặt ông sáng mịn hơn bao giờ!

Ông đưa tay xoa xoa lên má mình. Quả vậy, áp dưới lòng bàn tay, da mặt ông láng như da trẻ thơ. Khi cô Ba ra về, ông soi gương và thấy lớp xù xì trên mặt không còn nữa. Đôi mày lưa thưa của ông đã mọc rậm lại. Những vết lở lói ở tay ở cẳng đã khô mặt dần.

Rồi đến một hôm, ông nấu lá thạch xương bồ đề tắm thì thấy mình đã hoàn toàn bình thường. Tóc ông rập rạp xanh tốt trở lại, những vết lở lói biến mất không để lại vết thẹo nào.

Chiều hôm đó ông Năm Tảo sau khi xem mạch cho Bác vật Cảnh, bảo:

- Bấy lâu theo dõi bịnh trạng ông, thấy bịnh lần lượt rút lui. Nay tóc, mày ông đã mọc rậm trở lại, chứng tỏ ông đã hoàn toàn bình phục. Vậy ông hãy lên Sài gòn khám bịnh coi có đúng như lời tui nói hay không.

Tới lúc đó Bác vật Cảnh mới thuật tỉ mỉ cho ông Năm nghe những lần con tinh cẩm lai báo mộng, lần con Kim Ngân Hoa Xà cắn ông. Ông Năm chỉ biết chắp tay niệm Phật.

Sau cùng, Bác vật Cảnh bảo:

- Thưa ông Năm, tiện đây tui cũng xin thưa với ông. Ông là danh y, đoán bịnh khó mà trật được. Như vậy là tui đã lành bịnh rồi, không còn hồ nghi gì nữa. Trong thời gian về đây dưỡng bịnh, tui được cô Ba săn sóc, an ủi. Cổ lại còn khuyên tui tham khảo kinh điển và trì tụng kinh kệ. Ơn cổ lớn biết chừng nào! Tấm lòng cổ đối với tui tận tụy tha thiết biết mấy! Cô vừa đẹp vừa hiền, lại có tấm lòng vàng, nên tui muốn cưới cổ để đáp đền ơn cổ. Xin ông nhận lời tui, cho tui được làm rể ông.

Ông Năm Tảo ngần ngại:

- Ông lành bịnh thì tui mừng, nhưng về việc cầu hôn thì xin ông suy nghĩ lại.

Bác vật Cảnh tha thiết:

- Đực làm rể người hiền đức như ông, được làm chồng cô gái ngọc diện băng tâm như cô Ba, thì đó là tam sanh hữu hạnh cho tui vậy!

Ông Năm Tảo chau mày:

- Tui biết tánh ý con gái tui nhiều. Nếu vì mang ơn nó mà ông đòi cưới nó thì nó không ưng đâu!

Nghe vậy Bác vật Cảnh cười xòa:

- Đó là cách nói thôi, chớ thiệt tình tui đã thương thầm nhớ trộm cổ từ những ngày được gần gũi và trò chuyện với cô kia...
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 10

Bác sĩ Lê Thạnh Mậu tiễn Hai Dần, người anh bạn dì của mình ra cửa, bảo:

- Phải bố trí các nào để bắt quả tang đôi gian phu dâm phụ kia, có trưởng tòa làm biên bản. Có vậy tôi mới lôi cổ con vợ khốn nạn của tui ra tòa xin ly dị.

Từ hơn tháng nay, bác sĩ Lê Thạnh Mậu nghe đồn vợ mình tư tình với tên Thierry Lemur, giám đốc đề- bô nước ngọt, la- de và rượu tây kiêm đề- bô nước đá. Ông nhờ Hai Dần làm thám tử dò la xem tin đồn có đích xác hay không. Ông tặng quà cáp, tiền bạc cho đương sự rất hậu hĩ. Hai Dần vốn bảnh trai, lanh lợi, quyền biến. Anh ta đã cặp xách được với cô Sáu Bạch Huệ, người chứa chấp và dắt mối cho cặp trai gái ngoại tình kia.

Thierry Lemur đã có vợ, một người đờn bà Pháp, cho nên y ta không thể dắt cô Ba Cẩm Tú về nhà hú hí được. Cô Ba Cẩm Tú sực nhớ tới cô Sáu Bạch Huệ vốn thiếu nợ cô một món tiền lớn, chạy tiền lời trả cô cũng hụt hơi huống chi trả vốn. Cô Ba bèn đề nghị nếu cô Sáu chịu cho cô mượn nhà để cô hú hí với Thierry Lemur thì số tiền nợ lẫn lời kể như bỏ. Trước hết, cô Ba Cẩm Tú xé giấy nợ cũ, làm giấy nợ mới, coi như cô Sáu đã trả cho cô phân nửa. Phân nửa còn lại, cô Ba hứa sẽ tha luôn nếu cô Sáu làm y theo lời cô.

Nhưng xui cho cô Ba Cẩm Tú. Ở đời, tiếng gọi của trái tim vẫn thường làm cho con người lung lay thay đổi lập trường và đạo đức. VaÛ lại cô Ba chưa hề làm ơn cho cô Sáu Bạch Huệ, nếu không nói là trước kia đã bóc lột cô Sáu qua lối cho vay cắt cổ. Hai Dần biết được điều đó nên cứ dùng lời súc siểm, túc ráy cô Sáu. Vậy là cô Sáu bằng lòng nhận hai trăm năm chục đồng của bác sĩ Mậu để gài bẩy và bêu xấu cô Ba Cẩm Tú cùng tên Pháp kiều Thierry Lemur kia. Hai Dần nói:

- Xong vụ nầy, em trích ra một trăm đồng trả dứt nợ cô Ba Cẩm Tú, còn một trăm năm chục đồng thì để dành làm vốn mở tiệm cơm tây với anh.

Nhận tiền rồi, cô Sáu Bạch Huệ cùng Hai Dần bố trí giăng lưới, đặt bẫy rình rập chờ đón đôi gian phu dâm phụ. Cái xui xẻo, vận rủi ro thường không mấy khi đi một mình có phải! Quan Chánh tham biện chơi thân với bác sĩ Lê Thạnh Mậu và không ưa Thierry Lemur. Chắc chằn việc điếm nhục nầy có đổ bể ra, quan cũng sẽ không bao che kẻ đồng hương đồng chủng với mình.

Khi Hai Dần đi rồi, bác sĩ Mậu vào giường làm một giấc trưa cho khỏe. Hôm nay ông đóng cửa phòng mạch và nghỉ cuối năm như thường lệ. Từ sáng sớm cô Ba Cẩm Tú đã lấy cớ đến nhà Agnès Thuận và Isabell Định, hai ả chơi bời nổi tiếng trong tỉnh, để tìm, cách mua đi bán lại vài món nữ trang. Ông cũng không thèm hỏi lui hỏi tới công việc củ a vợ nữa. Tình vợ chồng giữa ông và cô Ba trở nên lợt lạt vì từ khi bị sảo thai, cô Ba Cẩm Tú xuống sắc thấy rõ. Mình mẩy cô tuy không ốm o nhưng bắt đầu khô khan. Dung nhan cô lợt lạt nên cô đánh phấn dày cui, trang điểm lòe loẹt, đeo nữ trang rườm rà, phúc sức choáng lộn. Tuy hết yêu vợ nhưng ông vẫn ghen vì tự ái bị xúc phạm. Và để làm cho lợi gan, ông muốn bứng vợ ra khỏi nhà, làm cho lớn chuyện để bên vợ phải ê mặt với dân trong tỉnh. Thanh danh ông có trầy trụa chút đỉnh mà nhằm nhò chi! Cả hai chưa có con với nhau thì lẽ nào ông cần phải nới tay cho con vợ lăng loàn kia!

Cốt nhứt là mình phải bình tĩnh, giả đò mắt đui tai điếc ở lớp đầu. Khi chim đã sa lưới, cá đã vô nò, trong rọ, trong ó thì mình sẽ thẳng tay. Tuy nghĩ vậy nhưng lòng ông sôi sục sục. Ông không thể nằm đây để nghiền ngẫm cơn hờn ghen đang nung nấu tâm can ông. Ông liền chổi dậy gọi chị ở pha cho ông một tách cà phê, còn ông thì đi tắm, chải đầu thiệt láng, xịt dầu thơm nực nồng và ăn mặc thiệt bảnh bao. Ông dùng cà phê xong liền lái xe chạy rong thành phố. Trời buổi xế nắng uôi uôi. Gió tạt vào xe làm ông cảm thấy nguôi dịu sự ray rứt đôi chút. Bây giờ ông mới cảm thấy đói vì hồi trưa nầy mảng lo bàn bạc gài bẫy vợ với Hai Dần, ông chỉ căn chấm chút bụng như no vì suy tính nọ kia. Ông sực nhớ tới quán bà Bảy Thông cất ở giữa khoảng chợ cá và Bungalow, sàn quán gie ra sông. Bà Bảy có món chả giò, bì bún, bì cuốn, gỏi cuốn, nem nướng, chạo, bánh cống ngon tuyệt vời. Tuy nhiên hôm nay là ngày rằm, quán bà sẽ bán đồ chay. Nhưng đồ chay của bà cũng nổi tiếng hàng đầu trong tỉnh.

Bác sĩ Mậu cho xe đậu trước dãy khách sạn gần bên chợ hàng bông, ngoắc đứa nhỏ đứng sớ rớ gần đó, nhét vào tay nó năm xu, dặn cho coi chừng xe cho ông. Xong, ông vượt qua đường, qua khu bán nước ngọt, chè tới quán bà Bảy Thông. Quán lúc nào cũng đông khách. Ông chọn chiếc bàn đặt sâu bên trong, gần cửa sổ để ngó xéo xéo ra sông Cổ Chiên và vùng cù lao An Thành. Bỗng ông ngập ngừng chùn bước. Người đàn bà ngồi cạnh chiếc bàn ông chọn chẳng ai xa lạ mà chính là cô Võ thị Tố Mai pháp danh Thiệt Nguyện, người yêu cũ của ông.

Hôm nay cô Thiệt Nguyện vẫn như thường lệ mặc chiếc áo dài trắng, quần trắng. Nhưng áo dài bằng lụa cẩm nhung, còn quần thì bằng cẩm quất. Tai cô đeo đôi bông nhận hột trân châu, cổ cô đeo giây chuyền vàng có miếng mề đay cẩm thạch tạc tượng Quan Âm. Cô không son phấn, không tỉa chơn mày, nhưng da mặt cô trắng hồng, môi cô mọng thắm, mày cô thanh thanh.

Bác sĩ Lê Thạnh Mậu nghĩ thầm: "Mèn ơi, sau sáu năm xa cách, cổ còn giưa y nét trẻ trung. Hôm gặp lại ở chùa Sơn Thắng, vì mảng lo bịnh trạng con vợ mình nên không có dịp quan sát cổ. Màu trắng của y phục làm cô kiều diễm thanh cao bội phần. Đây là vẻ đẹp thiên chơn. Son phấn hực hỡ, nũ tang hòa nhoáng chỉ tổ làm hư hoại bóng sắc đi".

Thiệt tình bởi trước kia ông hành xử quấy với cô Thiệt Nguyện nên gặp lại ông hơi ngường ngượng. Tuy nhiên vì quen giao thiệp, lại thêm tánh tự tin bặt thiệp nên ông ré lên liền:

- Tố Mai, mạnh giỏi hả em?

Cô Thiệt Nguyện vẫn giữ sắc điềm đạm:

- Em vẫn mạnh. Còn anh?

Bác sĩ Mậu hơi cau mày nhưng vẫn giữ vẻ tươi cười:

- Ờ thì cũng mạnh, nhưng hồi này anh có mấy việc không vui nên ít đi đâu.

Ông kéo ghế ngồi vào bàn rồi hỏi:

- Em cho phép anh ngồi với em không?

Cô Thiệt Nguyện cười:

- Thiệt ra em đợi mua đồ chay đem về nhà chớ không phải ngồi ăn ở đây. Đồ chay lấy xong, em về liền.

Bác sĩ Mậu nhìn cô trân trối:

- Nghe nói dạo này em ở đàng nhà ông Năm Tảo, phải không? Anh muốn tới đó thăm em, em nhắm coi có tiện không?

Cô Thiệt Nguyện vẫn cười:

- Anh phải hỏi con Ba Cẩm Tứ, chớ sao lại hỏi em? Mà anh tới thăm em làm chi? Anh không sợ kẹt cho đôi bên hay sao?

Bác sĩ Mậu ngẫm nghĩ:

- Ờ, kẹt thiệt đó chớ. Nhưng mà... chu choa ơi, lóng rày sao em đẹp quá! Em làm anh nhớ huở nào anh còn học trường Petrus Ký, còn em học trường Áo Tím.

Cô Thiệt Nguyện chỉ cười:

- Thì đó là hồi xưa. Xưa khác, nay khác. Hoàn cảnh của anh và của em thay đổi nhiều rồi.

Bác sĩ Mậu bỗng xúc động:

- Tại anh ráo trọi! Nhưng trong thâm tâm anh nếu quá khứ là giấc mơ thì anh xin giữ những giấc mơ đẹp.

Cô Thiệt Nguyện lắc đầu:

- Cám ơn anh. Nhưng mà quá khứ không phải là giấc mơ. Tuy nhiên nếu nó quả là giấn mơ thì trong đó cũng có nhiêu cơn ác mộng mà em đã trải qua.

- Tại anh hết. Nhưng để ảnh thu xếp. Mốt đây anh sẽ đến xóm Chuồng Gà thăm em.

Cô Thiệt Nguyện xua tay:

- Thôi anh ạ. Em có phiền trách anh đâu! Việc gì cũng đều do nghiệp lực đưa đẩy. Đừng có léo hánh tới em mà sanh nhiều tiếng thị phi.

Bác sĩ Mậu buồn so. Bà Bảy Thông đem năm ngăn gào- mên đựng thức ăn lại cho cô Thiệt Nguyện kèm theo tiền thối. Cô cám ơn bà chủ quán rồi chào bác sĩ Mậu.

- Anh ở lại, em về.

Cô uyển chuyển xách gào- mên bước ra cửa, xuyên qua khu nước ngọt, đồ ngọt, bước ra lề đường ngoắc chiếc xe lôi về xóm Chuồng Gà.

Bác sĩ Mậu kêu một ly nước dừa xiêm, một tô bún chả giò, ba cuốn bì. Ông cảm thấy tim mình đập theo nhịp điệu lạ lẫm. Ngoài cửa sổ, con sông Cổ Chiên trải rộng tầm nhìn từ vàm sông. Bên kia là cù lao An Thành với hàng cây xanh tươi. Một chiếc ghe giương buồm trắng lướt qua. Sông gợn sóng bạc lấp lánh dưới ánh nắng bắt đầu rạng rỡ. Màn mây mỏng che bầu trời bắt đầu tan rã vì cơn gió lao xao thổi mạnh, trả lại màu xanh lam ngọc ửng sáng.

Riêng cô Thiệt Nguyện trên đường về, cảm thấy tâm hồn mình lay động khiến cô quên phứt mình đang là một ưu bà di. Trái tim cô ấm áp với niềm rung động xưa cũ. Ôi, đây là cảm giác 0trong những lúc cô nép mình trong vòng tay anh chàng Mậu năm nào. Tới bây giờ cô vẫn yêu anh ta, một người tuy thông minh nhưng tâm địa tầm thường, không chí hướng cao cả, không có đời sống tâm linh như cô hàng mong mỏi. Nhưng cô biết làm sao hơn! Cô yêu đương sự qua một mối đam mê oan nghiệt, theo một nghiệp lực tai ác đẩy đưa. Cho tới bây giờ mà ảnh còn nói tới mộng nầy mơ nọ khi tuổi đã quá nửa chừng xuân. Hồi tám năm trước, cái miệng xạo đía những mộng đó đã làm tui mê man đắm đuối. Khi bị ảnh lộng nài bẻ ống từ hôn, tui chỉ nghĩ tới tựn tử để chạy trốn đớn đau nhục nhã...

Hôm nay là ngày rắm Trung Thu. Kỳ rằm này, gia đình ông Năm Tảo làm tiệc thưởng trăng thiệt lớn. Một phần bởi ông Nam Tảo làm ăn phát đạt, nhưng phần lớn là tại ông sắp có hai chàng rể chẳng những thuộc hàng tân học mà còn đứng vào giai cấp thượng lưu trong xã hội. Các thân chủ của ông Năm biếu xén ông nhiều hộp bánh trung thu thựng hạng, cho nên bà Năm chia bớt cho ông bà Chín Thẹo và ông Mười Thiệp ăn lấy thảo.

Bà Năm Tảo sử soạn hai mâm tiệc. Mâm mặn dành cho ông Năm, ông Đốc Hạnh, ông Huyện Khải, ông Bác vật Cảnh và hai cô Túy. Còn mâm chay dành cho cô Thiệt Nguyện cô Út Ngọc An và bà.

Khi cô Thiệt Nguyện về tới nhà thì cô Hai Túy Ngọc đã quét dọn trung đường và sắp đặt bàn ăn. Chén sứ, dĩa sứ, đũa mun được bày ra.

Vừa thấy cô Thiệt Nguyện, bà Năm Tảo cười:

- Không dè năm nay cháu ăn Tết Trung Thu với chú thím và hai con Túy.

Cô Thiệt Nguyện bày năm ngăn gào- mên, bảo:

- Cháu thấy quán bà Bảy Thông có món mắm thái chay, món kiểm và món mắm chưng chay nên cháu mua về để hai thím cháu mình cùng em Út Ngọc An ăn cho vui.

Bà Năm mừng rỡ:

- Thím có nấu kiểm, nhưng không có làm hai món mắm chay kia.

Bà quay qua dặn cô Hai Túy Ngọc:

- Con có nấu nước thạch xương bồ phải không, nhớ nấu thêm cho má và chị Thiệt Nguyện nữa.

Hai cô Túy đã gội đầu bằng nước bồ kết, nhưng phải đợi nấu nướng xong họ mới tắm rửa. Trong căn bếp oi bức ánh lửa nầy, mồ hôi của họ cứ rịn mãi dưới lớp y phục bằng vải xiêm.

Tuần rồi, đám hỏi cô Ba Túy Nguyệt được cử hành trong vòng thân mật. Đàng trai đưa sính lễ gồm những món nữ trang y như những món ông Huyện Khải đi hỏi cô Túy Ngọc, chỉ thiếu đôi vòng ngọc thạch. Bù lại, ông bác vật Cảnh tặng cô Ba Túy Nguyệt một chiếc cẩm thạch huyết đỏ như trái cà chua giồi mắt bóng lộn, một chiếc nhẫn vàng nạm ngọc kim sa nâu đỏ lấp lánh những hột vàng.

Cô Ba Túy Nguyệt soạn bộ ấm chén Vương Khải trân ngoạn để quí ông uống trà Xuân Long Tỉnh. Riêng phần các bà, cô lôi trong tủ ra cái bình tích bằng sành lớn cỡ nửa vòng ôm vẽ hình con đại cẩm kê cùng tám cái chén cũng bằng sành vẽ các món bát bửu để các bà uống trà thường hiệu Con Cua Xanh cho khỏi mất ngủ.
Bà Năm Tảo dặn hai cô con gái:

- Mấy cái khạp chứa nước mưa năm ngoái để dành pha trà, sắc thuốc, chưng yến thì cái chót dành để pha trà cho dem rằm Trung thu nầy đó đa. Bây xếp than Cần đước vô hỏa lò sẵn, hễ khách vừa ngồi vào bàn là má con nình châm lửa đốt than nấu nước liền.

Hai Cô Túy lo xem xét những măm trái cây và các dĩa bánh sắp sẵn trên chiếc bàn dài đặt trước tủ chè. Măm chất đầy bánh trung thu, mâm chất đầy cam tàu, quít núm, hồng tươi, bôm, nho, xá lỵ. Dĩa cốc, ổi dầm cam thảo. Dĩa đựng đầy thơm tây xè từng miếng dài. Dĩa sâu lòng đựng đu đủ xắt từng miếng vuông, hễ khách ăn tiệc xong là ướp nhưng phiến đá lụn vụn để khách tráng miệng. Ba chiếc dĩa được đậy lòng bàn để tránh ruồi.

Cả hai cùng đi tắm bằng nước thạch xương bồ. Xong, cô Hai mặc chiếc áo bà ba hàng lụa màu nguyệt bạch, chiếc quần đáy giữa bằng cẩm tự. Còn cô Ba mặc chiếc áo bà ba bằng cẩm châu trắng, quần xá xị đen. Hai cô chải đầu thiệt láng, xức dầu bông lài thiệt thơm, giắt chiếc trâm nạm hình trăng khuyết cẩn hột xoàn tấm nhấp nhánh. Cô Hai đeo sợi dây chuyền vàng, mề đay cũng bằng vàng chạm hình chữ Phước. Cô Ba đeo chiếc kiềng trơn. Họ cũng đeo bông đầm bằng vàng, vòng vàng, cà rá cẩm thạch cắt hình hột dưa.

Cô Thiệt Nguyện tám gội xong, mặc quấn vải xiêm đen, áo nhựt bình màu khói nhang. Bà Năm Tảo thì mặc bộ đồ bằng xuyến đen xâu chuổi hột vàng, đôi bông mù u vàng và đôi neo quai chảo cũng bằng vàng. Riêng ông Năm từ sáng sớm đã mặc bộ quần áo bằng lụa lèo cho ra vẻ phong lưu. Đoán chừng khách sắp đến, ông rửa mặt cho tươi tỉnh và chải tóc cho láng, không một sợi nào bung ra.

Vừa tắt nắng, xe ông Huyện Khải tới. Tháp tùng có ông Đốc học Hạnh, không kể anh tài xế. Nghe tiếng xe đậu trước cửa ngõ nhà ông Năm Tảo, Bác vật Cảnh vội xỏ chơn vào đôi xăng- đan, đi về cửa rào ngăn đôi hai khu công viên để qua nhà ông Năm. Lúc đó, cô Út Ngọc An cũng từ bên nhà mình bức qua. Cô mặc áo bà ba bằng vải ba tít trắng thêu bông cúc tím, quần sa- teng tuyết nhung đen.

Ông Huyên Khải mặc âu phục bằng tít- so màu ngà, thắt cà- vạt đỏ sọc đen, đi giày da vàng. Ông Đốc học Hạnh mặc áo bành tô bằng vải xi- mi- li trắng, quần đồng thứ vải. Điểm nổ bậc trên áo là bộ nút bằng đồng chù bóng nhả ánh vàng diệp lóng lánh. Vì là ngày đậc biệt, ông Năm Tảo ân cần mời anh tài xế cùng chung tiệc thưởng trăng.

Mâm mặn ê hề món phổ thông: cháo gà và gỏi gà trộn rau răm, thịt vịt nấu cà ri ăn với bún, tôm nướng trộn gỏi bồn bồn, chim vỏ vẻ, chim ốc cao rô ti với nước dừa xiêm, cá đuối xào với cải rổ tưới tương hột. Mâm chay ngoài những món cô Thiệt Nguyện mua ở quán bà Bảy Thông, còn có chả giò chay ăn với bún và rau sống, món tàu hủ chiên kho với đậu ve, đậu đũa.

Lúc mọi người dùng tráng miệng với trái cây, vừng trăng rằm đã leo lên ngọn cây sa kê ở hướng đông,, cao cỡ ba sào rồi. Tuy nhiên chưa tắt hẳn. Một chút ánh tà dương bạc nhược còn nấn nuối ở phương tây tô lên nền trời màu xám biếc như thiếc lạnh.

Ông Năm Tảo đốt đèn măng- sông, treo ở trung đường. Bây giờ mọi người đờn ông đã ra ngoài trung đường. Còn đờn bà thì lo rửa chén và nấu nước pha trà. Đời cho trăng dãi sáng sân thềm, các bà các cô xong xuôi mọi việc trong bếp, ông Huyện Khải mới bảo người yêu:

- Sẵn đêm rằm Trung thu, cả nhà đoàn viên, em hãy đem tập thơ ra cho qua đọc cùng để tía má và anh chị em đây thửng thức.

Cô Hai Túy Ngọc trở về buồng lấy tập thơ đưa cho ông Huyện Khải. Đọc tới bài Đêm trăng thôn dã, ông kêu lên::

- Trời đất ơi, đây đúng là bài cô Trịnh Thị Minh Ngọc đã làm hồi 18 năm về trước, chỉ khác có cái tựa mà thôi! Tựa thuở trước là Đêm rằm mông đẹp,

Và ông cất giọng ngâm:

Trăng nõn nà treo trên mái đình
Ngày mùa rơm lúa ngát thâu canh
Sáng khung cử ngõ, in phên liếp
Vàng lối vườn sau, loáng lá cành
Phiến trắng cũ soi tình tuổi dại
Vầng trong nay rực mộng ngày xanh
Sân ngoài trải chiếu nằm đâu mặt
Em chị hàn huyên chuyện chúng mình.

Ông sai anh tài xế ra xe lấy tập thơ của cô Trịnh Thị Minh Ngọc để so sánh với tập thơ của Tần Thị Túy Ngọc. Thế rồi mọi người cùng chuyền nhau đọc qua hai tập thơ. Hai tập đều có một tuồng chữ viết bằng mực tím. Dấu khoanh, dấu móc, nét bung xuống đá lên y chang như nhau. Bác vật Cảnh lặng cả người, mới rõ rằng cái tàng thức của mỗi cá nhơn kỳ diệu biết bao, nhiệm mầu biết mấy! Ông Huyện Khải cảm xúc quá, cổ họng tắt nghẹn không đọc được nữa. Cô Hai Túy Ngọc cũng xúc động lắm nhưng chỉ rươm rướm nước mắt chớ không khóc sướt mướt như hôm tái ngộ lần đầu với người yêu.

Ông Đốc học Hạnh an ủi ông Huyện Khải:

- Hết ly tới hiệp, đó là điều đÿng mừng. Vậy qua xin các em hãy vui lên. Tình duyên càng lận đận thì cuộc tái hiệp mới càng hạnh phước ê hề.

Bà Năm Tảo tán thành:

- Lời ông Đốc phân r ất phải. Vậy để tui châm trà bày bánh để mọi người cùng ăn bánh thửng trăng, sau đó ai muốn tức cảnh mần thơ tui không dám cản đâu nghen!

Mọi người vỗ tay cười inh ỏi. Bây giờ bóng trăng rằm vắt vẻo lưng chừng trời màu xanh nước biển, giữa muôn sao nhấp nháy. Trùn dế ngoài vườn kêu râm ran. Hàng bụi bông lài bát ngát đưa hương. Ngoài đường cái, thiên hạ đi chơi trăng, tiếng cười nói văng vẳng đưa tới bàn tiệc.

Trong giây phút nầy, cô Thiệt Nguyện nghĩ rất nhiều về bác sĩ Lê Thạnh Mậu cùng buổi hội ngộ vào hồi xế. Trí tưởng của cô trôi xa vào cái thuở đầu mùa yêu đương, vào thời kỳ say đắm cũ. Cô cứ để cho phút hồi tưởng lôi kéo cô chạy sa đà vào những chặng đời say đắm hoan lạc có, khổ đau tuyệt vọng cũng có. Cô quên phứt đi hoàn cảnh của một cận sư nữ hiện tại. Tất cả những gì đè nén từ đáy sâu khảm cô vụt chổi dậy, lay động cô, réo gọi cô trở về cô Võ Thị Tố Mai của năm xửa năm xưa...

x
x x

Cô Tư Cẩm Lệ sanh được đứa con trai tại nhà bảo sanh ở Bà Chiểu. Luật sư Trần Hảo Hiệp đánh dây thép cho ông bà Bang biện Hưỡn báo tin. BÀ liền mướn xe lô- ca- xông đi cho mau lên Sài gòn để thăm con gái. Vừa gặp mẹ, cô Tư Cẩm Lệ bảo:

- Đứa nhỏ chào đời hành hạ con đau đớn khủng khiếp. Con sanh nhau chằng mà bà mụ không biết, sau cùng nhờ thầy thuốc gỡ nhau thì đứa nhỏ mới chui ra.

Rồi cô dặn mẹ:

- Trong thời gian má ở đây hủ hỉ với con, xin má đừng ở nhà chồng con để khỏi gai mắt. Lóng rày hai đứa con ghẻ của con coi bộ lộng quyền!

Bởi đó bà Bang biện Hưỡn phải ở nhơ nhà ông Tư Khánh, người em con nhà chú của bà tại Phú Nhuận. Mỗi khi vào nhà bảo sanh thăm con gái, bà cũng thường gặp mặt chàng rể, nhưng Luật sư Hiệp có vẻ xa cách với bà và không có vẻ săn đón con, dù đứa trẻ nặng tới ba ký lô, mặt mũi sáng sủa lắm.

Tuần lễ sau, bà Bang biện Hưỡn đi đò máy về Vĩnh Long. Trong lòng buồn bực, bà linh cảm cô thứ nữa của mình rồi đây sẽ gặp nhiều trục trặc trong cuộc sống lứa đôi. Trước khi từ giã con, bà dặn dò:

- Con đã sanh cho chồng con một chút trai để nối dõi tông đường nhà nó rồi, con nên làm trành làm tréo cách nào để nó chịu làm hôn thú với con, và nhứt là phải làm khai sanh cho đứa nhỏ.

Cô Tư Cẩm Lệ xụ mặt:

- Coi bộ khó rồi đa má! Bà mẹ chồng con coi ngày sanh thằng nhỏ, nói rằng nó chào đời phạm giờ độc nên bà cản không cho làm khai sanh liền. Bà nói hãy chờ nó tới giáp tuổi tôi mới có thể làm khai sanh sụt một tuổi để tránh xui. Đứa nhỏ chưa được thằng khốn nạn đó nhìn là con, thì cái thân con đây cũng khó mà được chính thức làm vợ nó trên mặt pháp lý.

Về tới nhà, gặp cảnh ông chồng tàn phế cứ ngồi lì một chỗ ngủ từng giấc lụn vụn, bà Bang biện Hữn rầu thúi ruột. Cậu Hai Luyện đã đến nhà ông Hương sư Chiêm ăn tiệc và nhận thêm phân nửa số vàng mà cậu đòi, hễ khi đào kinh xong thì ông Hương sư sẽ trả dứt vạt số vàng còn lại. Sau đó, thầy Mười Khói được thỉnh đến để trấn ếm quỉ ma khắp dải đất đào kinh, nhứt là để trấn ếm Hắc Giao đại vương.

Đang lúc bà Bang biện Hưỡn rầu về chuyện cô Ba Cẩm Tú tuyệt đường sanh nở, về chuyện cô Tư Cẩm Lệ bị chồng lạnh nhạt, và nhứt là về chuyện ông chồng bán thân bất toại, thì một sáng kia cậu Hai Luyện ngồi ghe lườn từ Mỹ An về thăm nhà. Dữ ác! Nửa tháng nay chẳng hiểu thằng con trai ương ngạnh của bà mê sa con lủng nào mà ở miết chốn quê mùa hẻo lánh kia, quên ông cha bịnh tật, quên bà mẹ thất thẻo đợi chờ! Bà quở:

- Quỉ ơi, con còn nhớ nhà để về thăm, chắc là Phật Di Lạc sắp đản sanh rồi đó!

Cậu Hai báo tin:

- Con dọ hỏi người quen biết ỡ Mỹ An mới hay rằng Xã Miễn vì thất mấy vụ kiện hồi năm ngoái, lại mần ăn lụi xụi nên muốn bán sở đất giáp với con kinh mà con đang cho đào. Má thử xúng Mỹ An coi ra sao, rồi về bàn với ba mua rẻ sở đất cho con đứng tên.

Nghe chuyện lợi lộc, bà Bang biện bớt cơn bất bình, kêu con Lý làm bữa cơm thịnh soạn cho thằng con mình ăn. Đêm hôm đó, hai mẹ con bà Bang biện bàn bạc cho tới giữa canh ba mới đi ngủ. Cậu cũng cho mẹ biết rằng cuộc đào kinh đã khởi đầu từ mười hôm trước.

Sáng hôm sau, cậu Hai Luyện và mẹ ngồi ghe lườn, trương bườm xuôi một mạch đến Mỹ An. Thầy Cai Nhậm vừa thấy cậu liền báo cáo:

- Bẩm quan kinh lý, hôm qua dân phu đào khúc kinh từ đầu cuộc đất Xã Miễn cho tới cuộc đất thầy Hương Hào Liệt thì thấy máu từ trong mạch tuôn ra đỏ ối.

Cậu Hai Luyện lật đật tới chỗ đào thì thấy nước đỏ lênh láng trộn với bùn trở thành màu nâu đỏ như đất miệt Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đấp. Cậu cười ngất, giải thích:

- Máu gì đâu! Đây là chất sắt trong đất đó thôi. Biết đâu hồi tạo thiên lập địa, vùng Mỹ An nầy là vùng đất đỏ.

Nhưng khi nhìn những nhát xuổng, nhát cuốc cắm vô đất để vỡ đất, làm tuôn trào chất nước đỏ như son, bốc lên mùi tanh tưởi, cậu cũng bắt đầu rùng mình mọc ốc. Bỗng dưng mây từ đâu kéo về giăng kín bầu trời thành một màu xám xịt. Rồi cơn mưa như thác trút xuống. Dông cuốn vùn vụt, gió thổi ào ào. Lẫn trong tiếng gió có tiếng gầm thét, tiếng than khóc. Mọi người tạm gác công việc bỏ về nhà.

Mưa như cầm tĩn đổ từ xế cho tới chiếu tối. Thím giÿo Thạnh, vợ người chủ nhà, dọn cơm mời mẹ con bà Bang biện Hưỡn dùng và khuyên bà hôm sau sẽ đến nhà ông Xã Miễn cũng không muộn.

Sau khi cơm nước xong xuôi, cạu Hai Luyện cảm thấy ớn lạnh, trong người bễ nghễ. Bà Bang biện khuyên con uống gói thuốc Cảm mạo Phát tán để ngừa cảm. Uống thuốc xong, cậu liền vào giường, vì con sốt bắt đầu phát tác. Cậu lấy làm bực mình vì ở ngoài trung đường, vợ chồng thầy giáo Thạnh cứ bàn ngang tán dọc, kể tới kể lui với bà Bang biện Hưỡn về chuyện máu trào trong khúc kinh đào. Thím giáo cứ niệm Phật liền liền, còn bà Bang biện thì kêu trời luôn miệng...

Rồi cậu Hai Luyện thiếp đi. Trong giấc chiêm bao cậu thấy một người đờn ông đen đúa, đầu đã cụt, tay trái cầm cái thủ cấp của mình, tay mặt cầm cây gậy. Thủ cấp trợn mắt hét lớn:

- Quân tham lam khốn nạn! Mầy đành đoạn ăn tám lượng vàng để làm tao thiệt mạng! Mầy hãy chong mắt ra coi tao trả thù!

Tay mặt người cụt đầu cầm gậy phang vào hai đầu gối cậu Hai Luyện làm cậu đau điếng. Cậu giựt mình thức giấc thì thấy hai đầu gối mình bầm tím và sưng vù. Mưa gió hai ngày liên tiếp bủa giăng mịt mù. Cậu bèn giao việc điều khiển công cuộc đào kinh cho hầy Cai nhậm và thầy Cai Ích. Đầu gối hành cậu đau quá thể nhưng cậu không dám thuật lại giấc chiêm bao cho mẹ nghe. Cậu sai thằng Yêm đi Hòa Mỹ rước thầy thuốc tàu Trương Gia Minh để bó thuốc lên hai chỗ sưng kia.

Hôm sau bà Bang biện Hưỡn nhờ thím giáo Thạnh đưa bà tới nhà ông Xả Miễn để bà điều đình mua đứt miếng đất, nhưng chậm quá rồi. Xã Miễn đã tìm được người bán nên bà đành bẽ bàng uể oải trở về Cầu Đào.

Về tới nhà, bà Bang biện Hưỡn đâm vực bội, nóng nảy, oán ghét vu vơ. Bà cần phải xéo xắt, hành hạ, chửi bới ai đó để thần kinh bà bớt căng thẳng. Do đó mà lũ tôi tớ và Bửu trở thành nạn nhân của bà.

Tối hôm nọ, cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lâu qua thăm, mang theo hai con cá chái. Cô bảo mẹ:

- Con vừa mua được hai con cá chái thiệt tươi nầy để tía má kho mắm chan bún ăn chơi. Sau nửa con muốn hỏi thăm anh Hai con có bớt đau đồi gối chưa?

Bà Bang biện tức tối:

- Từ hôm tao về tới nay có được tin tức gì của nó đâu! Cho nên chiều hôm qua, tao sai thằng Xiêm chèo tam bản xuống Mỹ An hỏi thăm rồi.

Rồi ba ngó cô trưởng nữ, gườm gườm:

- Mầy cứ đánh đôi đánh đọ với hai con chơi bời húi thây lầy lụa Ba Thuận và Năm Định mà bỏ bề chuyện nhà đi! Tao nghe nói thằng chồng mầy ưa chà lết nhà anh Năm Tảo. Ngoài mấy đứa con ảnh còn có mấy con lủng bà con, làng xóm tới lui nữa. Mầy liệu hồn mà giữ chồng. Con Bảy Tố Mai, con anh Hội đồng Quyền, cũng thường đi đi về về nhà anh Năm hoài. Biết đâu nó chẳng bày mưu sâu kế độc để chiếm lại thằng chồng mầy!

Cô Ba Cẩm Tú chỉ nói ba tiếng "Má kỳ ghê!" rồi cười lỏn lẻn. A di đà Phật, thì ra bà già tui chưa hay biết gì về việc ngoại tình của tui! Sau đó cô đến nhà mát để vấn an cha vì lúc sau nầy hễ gặp đêm oi bức, ông Bang biện thường ra đó ngủ. Bà Bang biện

sắp vào giỏ con gái một chục quít đường và một chục cam hồng mật, một chai mật ong. Bà dặn cong gái:

- Tối tối nhớ vắt cam trộn với mật ong cho chồng mầy giải lao. Cái thân mầy giờ đây sượng ngắt không thể chửa đẻ gì nữa thì mấy phải rán chiều chuộng o bế chồng cho nhiều mới được, kẻo không nó sẽ cho mầy ăn cơm nguội, uống nước lã, nằm ngủ chèo queo sau bếp!

Cô Ba Cẩm Tú cười:

- Má cứ tưởng tượng chuyện dữ không hè!

Bên ngoài gió từng cơn khua cành cây lắc cắc. Cô Ban Cẩm Tú kiếu ừ ra về vì cô sự mưa xáng một đám lớn và kéo dài tới khuya thì kẹt cho cô.

Khi cô Ba Cẩm Tú đi rồi, bà Bang biện bảo thằng con ghẻ:

- Bửa đâu rồi? Mau lấy chiếc dĩa quả từ trên bàn thờ bà nội mầy xuống lau chùi cho thiệt sạch rồi đơm năm thứ trài để cúng nghe chưa?

- Bửu "dạ" một tiếng, bước lại bàn thờ lấy chiếc dĩa quả tử lớn cỡ chiếc mâm đã đặt sẵn trên cổ bồng. Bỗng một tiếng "cảng" vang lên. Cậu lõ mắt nhìn xúng đất, lòng bàng hoàng khủng khiếp. Thôi rồi, cậu lỡ chạm vào chiếc khay đựng mấy chung trà nên cả khay và chung rớt xuống đất. Khay bằng cây thì không sao hết, nhưng sáu cái chung đã bể nát.

Nghe tiếng rơi vỡ, bà Bang biện chong mắt hướng về chỗ Bửu. Thấy miểng chung văng tung tóe, bà hét lớn:

- Thôi rồi, bộ chung quí của tui bị thằng chết đâm chết chém chết cháy chết chìm nầy làm bể nát rồi! Trời ơi là trời! Trời cao đất dày có thấu không hử trời!...

Bà rút chổi lông gà, dùng cán chổi quất tới tấp vào Bửu, làm cổ, mặt, cánh tay cậu bật máu. Bà vừa đánh vừa hét:

- Tao giết mầy chết, cho mầy theo con đĩ mẹ mầy.

Bửu vừa khóc vừa lạy van, nhưng bà Bang biện xót của, đời nào chịu tha. Bỗng bên tai cậu có tiếng văng vẳng:

- Chạy ra ngoài vườn đi, kẻo không bả sẽ đánh con chết.

Bên ngoài mưa bắt đầu tầm tã. Bửa đau đớn rát bỏng khắp thân thể, không còn biết tính sao hơn nên cứ lao ra ngoài hàng ba, rồi chạy vòng ra sau vườn. Bà Bang biện Hưỡn bỏ guốc đuổi theo. Khi Bửu biến mất trong man đêm dày đặc, bà thở hồng hộc quay trở về. Bỗng bà cảm thấy đau thốn nơi bàn chân. Ngó xuống,, trời đất ôi, một cây đinh ở tấm ván cũ lòi lên đâm thấu trong gót chân bà. Bà hét lên. Tối tớ chạy ra dìu bà vô nhà, nhổ cây đinh ra. Bà vừa khóc vừa nguyền rủa Bửu và kêu thằng Xiêm, thằng Đực xách đèn tán chai đi kiếm Bửu về cho bà trị tội. Con lý nặn máu bầm ở vết đâm cho bà, tồi giã nhỏ lá lưỡi cọp đắp lên. Đêm ấy bà Bang biện Hưỡn đau nhức ở gót chân không tài nào ngủ được. Bà hết chửi Bửu lại xoay qua chửi chồng và thóa mạ luôn vong hồn cô Hai Kim, mẹ ruột của Bửu.

Nói về Bửu, sau khi lao vào màn đêm đen đặc dưới cơn mưa tầm tã thì chẳng thấy đường sá đâu. Bỗng cậu thấy một người đờn bà cầm đèn tán chai nói khe khẽ vừa đủ cho cậu:

- Hãy theo má, đừng sợ!

Biết hồn ma của mẹ, Bửu liền lẽo đẽo theo sau. Người đàn bà cưa cậu ta ra cửa vườn sau, tận con đường đắp đất lượn song song cái rạch Cầu Đào. Mưa vẫn tuôn hoài tuôn hủy, tuy không rầm rồ như thác đỗ nữa, nhưng vẫn còn nặng hột. Giờ nầy mới khoảng đầu canh hai, nhưng nhà nhà đã đóng cửa, ánh đèn lù mù lọt qua mắt cáo. Khi cả hai ra tới con đường Lê Minh Thiệp thì điện bị cúp, hàng cột đèn tối thui. Hồn ma cô Hai Kim bảo con:

- Má đưa con tới một nơi ngủ đỡ đêm nay. Sáng sớm mai sẽ đưa con qua bên cùa lao An Thành, tìm đến Tịnh Liên am để gặp ông Đạo Chuối.. Ổng sẽ đích thân đưa con đi Châu Đốc, rồi tìm đường lên núi Cô Tô trong dãy Thất Sơn gặp chú Chơn Huệ con.

Hồn cô Hai Kim xách đền đi trước, cách Bửu năm thước. Dù cậu muốn đi mau để được giÿp mặt mẹ nhưng không tài nào tới gần được. Hễ cậu đi mau, bóng ma đi mau; cậu đi chậm, bóng ma đi chậm. Ánh đèn ma lù mù trong màn mưa cũng đủ cho cậu thấy dáng đi thong dong uyển chuyển của mẹ. Qua chùa Bảy Phủ, quẹo qua cầu Thiềng Đức, cả hai đã qua bên kia thành phố, cô Hai Kim rẽ về phía Cầu Lầu bắt qua kinh Huỳnh Tá nối liền với rạch Cá Trê. Từ Cầu lầu, cả hai theo quốc lộ nối liền hai tỉnh Vĩnh Long- Trà Vinh đến khúc quẹo Long hồ tức là vào vùng ngoai ô miền quê trù mật.

Vong hồn cô Hai Kim sụt sịt bảo:

- Con ôi, như má đã nói, kiếp trước má con ta đã gây việc oan trái cho má lớn con cùng ba con. Má đã trả hết nợ vay trước khi nhắm mắt lìa đời, điều đó chẳng nói làm chi. Nhưng về phần con, con cũng đã trả hết nợ khi má lớn con đưa con về chùa Long Đức. Ngặt vì bả tham lam tìm bắt con lại, để tròng trở lại cai con cái ách tôi đòi nô lệ. Đó là bả vay thêm nợ oan khiên ở con. Nhưng mà con ôi, má không muốn kiếp sau con đòi nợ bả nữa. Con người không bao giờ đòi nợ đủ, mà vì tham lam họ cứ gây thêm cảnh oan oan tương báo từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con đừng tham luyến cõi trần uế trực nầy, hãy theo chú Chơn Huệ của con tu hành để thoát khỏi vòng quả báo luân hồi, vay trả trả vay nghe con!

Tới một cái lò rèn đang đỏ rực ánh lửa, cô Hai Kim bảo Bửu:

- Con cứ đến đó xin ngủ qua đêm. Đầu canh tư má sẽ đến tìm con và bơi xuồng chở con qua cù lao An Thành.

Căn lò rèn nầy đít giáp với khu vườn quay qua quốc lộ, mặt tiền hướng ra dòng Long hồ. Bên kia sông, xóm Chuồng Gà chìm trong màu mưa lất phất.

Vào giờ nầy mà cả nhà người thợ rèn vẫn cắm cúi làm việc. Bà vợ thụt ống bể, người chồng rèn và đập sắt chí chát. Còn đứa bé trai cỡ mười tuổi xẩn bẩn bên cha để học nghề. Chị vợ nước da trắng trẻo, mặc chiếc áo túi màu hường lợt, quần vải ú đen. Người chồng chỉ mặt chiếc quần đùi, ở trần trùng trục. Cả hai cỡ ba mươi tuổi ngoài, mặt mũi hiền hậu.

Khi nghe Bửu xin được ngủ nhờ qua đêm, người đàn ông bảo đứa con trai:

- Con đưa chú đây vô buồng, biểu chú cởi hết quần áo để má con hơ cho mau khô.

Đứa bé dạ rồi đưa Bửu vào chiếc buồng gói chỉ có chiếc giường tre, một chiếp nóp bày lên trên. Nó vặn lu ngọn đèn mù u chong đầu giường, đưa cho Bửu chiếc khăn, bảo:

- Anh cởi hết quấn áo ướt, lau khô mình rồi chui vô nóp ngủ đi, để má em hơ quần áo anh cho mau khô.

Nửu làm theo lời thằng bé, nhưng khi nằm trong nóp ấm áp, những vết roi hành hạ cậu đau nhức khiến cậu không cầm được tiếng rên rỉ. Bên ngoài lò rèn, tiếng người đàn ông có vẻ hoảng hốt:

- Chết chưa, quần áo sao dính máu vầy nè!

Tiếng người vợ::

- Chắc cậu em bị đánh đòn rách da tét thịt chớ gì! Tội nghiệp quá! Thôi đẻ tui giặt quần áo nầy cho sạch, còn ba nó ra vườn sau hái là lưỡi cọp giã nát và mấy trái lình lịch đem ngâm nước cho nứt vỏ lấy hột. Hai thứ nầy đem trộn, hòa với nước miếng thằng con mình để đắp lên vết thương thì sẽ hết nhức và mau lành.

Người chồng gật đầu làm theo. Cỡ chừng nhai dập bã trầu có tiếng chày khua vào cối đá lụp cụp lạc cạc, rồi đứa nhỏ bưng thếp đèn theo cha nó vào buồng. Người đờn ông ngọt ngào bảo Bửu:

- Cậu chui ra khỏi nóp để tui xức thuốc cho.

Bửu cảm động ứa nước mắt:

- Ơn ông bà và cậu em, biết chừng nào tui trả được đây!

Cậu chui ra khỏi nóp, phơi thân thể lõa ồ đầy vết rướm máu chằng chịt. Người đàn ông gọi vói ra ngoài, bảo vợ lấy khăn lông và thau nước ấm để ông ta rử sạch máu vết thương.

Sau khi các viết thương được rửa ráy và xức thuốc, Bửu buồn ngủ rũ ra. Lúc đó người vợ ở ngoài réo đứa nhỏ:

- Ty ơi, mau ra lấy áo quần cho chú đây mặc, má vừa hơ khô rồi.

Sau khi mặc quần áo xong, Bửu ngủ một giấc óng chuốt và thanh thản. Bỗng có tiếng gọi bên tai:

- Bửu! dậy đi con!

Bửu giật mình tỉnh giấc. Trời vẫn chưa sáng. Nhìn kỹ lại, cậu thấy mình nằm ngủ dưới gốc mù u. Lò rèn, buồng ngủ biến đâu mất. Cơn mưa đã tạnh. Bên phương tây, vầng trăng hạ huyền treo lơ lững giữa muôn sao nhấp nháy trên nền trời màu xa cừ lạnh lẽo.

Bửu chợt thấy mẹ đứng gần bến nước, tay vẫn cầm chiếc đèn chai. Cô Hai Kim gọi:

- Con mau xuống xuồng để má đưa con qua bên cù lao An Thành. Tới khi gà gáy hiệp nhì là má không thể nấn ná ở cõi dương gian được nữa.

Bửu tiến lại bến nước, thấy chiếc xuồng buộc vào câu nhủi bằng sợi lòi tói sắt. Cậu hỏi mẹ khi bước xuống xuồng:

- Lò rèn đâu rồi? Sao con nằm ngủ dưới gốc mù u?

Cô Hai Kim đặt chiếc đèn tán chai xuống giữa khoang xuồng, trả lời:

- Cái lò rèn mà con qua đêm chỉ là cảnh ma đó thôi. Hồi mười năm trước, vợ chồng người thợ rèn và đứa con bị sét đánh thiệt mạng, xác chôn ở nền lò rèn cũ. Trải bao năm, họ đâu nghĩ rằng họ đã qua đời nên đêm đêm cứ hiện lên tái diễn cảnh sanh hoạt cũ. Tội nghiệp quá! Vậy khi về am chú con, con nên tụng cho họ 77 biến kinh Địa Tạng và 77 biến kinh Cầu Siêu thì vong hồn họ mới siêu sanh.

Cô đọc tên tuổi và năm sanh của cả ba, rồi dặn:

- Khi tới Tịnh Liên am, con nên ghi tên tuổi và năm sanh của họ vào giấy để khỏi quên. Đó cũng gọi là báo đáp ơn họ vậy.

Xuồng lướt vo vo trên dòng sông hiện lờ mờ dưới ánh trăng tà. Bửu thử rờ những vết thương thì không thấy đau nữa. Cô Hai Kim bảo:

- Bấy lâu nay má không muốn đi đầu thai để ở lại giúp con thoát khỏi tay bà đích mẫu độc dữ. Nhưng má không thể can thiệp vào luật nhơn quả. Má đau lòng để con trả hết ác nghiệp, chỉ phù hộ con đủ sức nhẫn nhục thôi. Nay thì niềm mong mỏi của má đã thỏa. Má có thể đi đầu thai được rồi. Đây là đêm chót má con ta gặp nhau.

Bửu khóc thút thít, cô Hai Kim cũng khóc nhưng tay không ngừng bơi xuồng. Vượt qua sông, cô Hai Kim cho xuồng rẽ vào con rạch nhỏ. Qua ba doi đất là tới một ngôi nhà lợp ngói cất gần mé rạch. Cô Hai Kim bảo Bửu:

- Tới Tịnh Liên am rồi đó con. Thôi con cứ lên gõ cửa am. Mọi việc má đã sắp sẵn rồi. Má là hồn ma, không thể vào am được vì có thần hộ pháp canh giữ am. Hồn mà chỉ có thể đến cành già lam nghe kinh mà thôi.

Khi Bửu bước lên bờ thì hình bóng cô Hai Kim đã tan trong ánh trăng bàng bạc. Cậu ngó lại chiếc xuồng thì thấy đó chỉ là mảnh ván nhỏ nổi dật dờ trên mặt nước. Cậu gạt nước mắt, đếm am gõ cửa. Tiếng đờn ông vọng ra:

- Cháu Bửu đó hả?

Bửu dạ một tiếng. Cửa am liền mở rộng. Am chủ mời cậu vào, chánh diện thắp đèn nến sáng lờ mờ. Am chủ chỉ một người đờn ông mặc áo nhựt bình màu dà và một cô gái mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen, bảo:

- Đây là ông Đạo Chuối. Hồn ma má cháu kỳ rằm Vu Lan vừa qua báo mộng, yêu cầu ông Đạo đêm nay đưa cháu đến bến tàu để lối bốn giờ sáng đáp tàu đi Châu Đốc. Còn đây là cô Thiệt Nguyện, kẻ đã lập đàn giải oan cho má cháu.

Đèn măng- sông được thắp sáng.. Ông Hương cả Hành tức am chủ, cầm xấp bạc trao cho ông Đạo Chuối:

- Khi tới Châu Đốc, ông Đạo nên sắm sửa cho cháu Bửu quần áo và các thức cần dùng trước khi qua Thất Sơn để lên núi Cô Tô.

Ông Đạo Chuối từ giã am chủ, giục Bửu đi theo ông, men theo con đường đắp đất ra tận bến đò. Trăng trên trời vẫn sáng quạnh hiu. Bến đò tối lờ mờ. Ông Đạo vác tay nải lên lưng, bảo Bửu ngồi vào thúng. Thúng tuy nhỏ nhưng khi cậu ngồi vào thì nó lớn rộng ra. Ông Đạo đặt thúng xuống nước thổi một hơi dài. Thúng lướt vo vo trên mặt nước. Bửu hé mắt nhìn thì thấy ông Đạo đứng trên cây gậy trúc, lướt song song với chiếc thúng, đè sóng để vượt qua sông rộng mênh mông.

Khi qua sông, ông Đạo Chuối giải thích:

- Đây là thứ bùa Lỗ Bang của người tu theo pháp môn Mật Tông do ông Đạo Lập và ông Thợ Đức ở vùng Hậu Giang truyền lại cho ta. Còn bùa Lỗ Bang của thợ mộc chỉ để trị những kẻ bị hóc xương cá, giúp đờn bà chửa qua chứng đẻ ngược hoặc để ếm đối nhà cửa lặt vặt thôi. Giớ thì cháu theo ta đến bến tàu. Cháu phải rời khỏi đất nầy càng sớm càng tốt. Và cháu cũng phải nhớ ơn cô Thiệt Nguyện. Nhờ cô tụng kinh Kim Quang Minh và nhiều thần chú Mật Tông mà má cháu mới hiện hồn được để giúp cháu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 11

Từ hai tháng qua, cậu Hai Luyện thường nằm chiêm bao thấy thần Hắc Giao đại vương hiện hồn về đòi mạng nên cậu ăn ngủ không ngon, tâm thần hoảng hốt. Đêm đêm cậu không dám tắt đèn. Riết rồi cậu xuống tinh thần thê thảm, phải xin tạm nghỉ việc về Cầu Đào dưỡng bệnh.

Suốt một tuần bị hành nhức vì vết đâm của đinh nhọn, bà Bang biện Hưỡn càng tỏ ra bực bội nóng nảy, chửi rủa tôi tớ ra rả suốt ngày. Bà bắt Cai tuần Xướng, thằng Xiêm, thằng Đực, thằng Yêm đi dọ tung tích của Bửu để bắt cậu đem về cho bà trị tội. Họ còn phải đi đòi nợ giùm bà, nếu được thì bà chẳng thèm thưởng công, bằng nếu không được còn bị bà nhiếc móc, óc eo, chửi bới.

Rồi một sáng hôm nọ, ngủ dậy bà cảm thấy xương sống mình cứng đơ không thể chổi dậy nổi. Bà cứ nằm lì trên giường, bảo con Lý mời bà Năm Đặng tới. Bà cầm tay em, dặn:

- Dì coi sóc việc nhà giùm tui. Hôm nay tui đau đớn khắp mình mẩy, đầu nhức như búa bổ. Dì mời ông Năm Tảo tới chẩn mạch hốt thuốc cho tui.

Nhưng hôm đó ông Năm Tảo đi Vũng Liêm thăm người bạn thân. Ông Bang biện Hưỡn không nói được, lấy giấy viết: "Bà lôi thôi quá, kêu thằng rể đốc - tờ tới điều trị cho bà có hơn không!". Nghiệt thay, hôm đó bác sĩ Lê Thạng Mậu cũng đã đi An Hương thăm tía má mình. Tới trưa thì bà Bang biện đái ra máu, bất tỉnh nhơn sự. Mỗi lúc lên cơn, lưng bà ểnh lên, răng cắn chặt vào nhau, miệng méo xẹo, tay chơn co giật. Cô Ba Cẳm Tú từ Câu Lâu qua thăm, thấy vậy biết mẹ mình bị phong đòn gánh nên vội hối thằng Xiêm, thằng Đực võng bà ra đường lộ đá, kêu xe lôi đưa bà đi nhà thương.

Suốt bảy tiếng đồng hồ, bà Bang biện vật vã với con bịnh. Trong hôn mê, bà thấy mình đứng giữa căn hầm chứa nước đá. Từng khối băng dài cỡ sải tay và lớn cỡ vòng ôm tiết ra hơi lạnh nghi ngút. Bà cố sức bình sanh tìm cách thoát khỏi căn hầm kia để tới chỗ ấm áp. Chung quanh bà lởn vởn những hình ma bóng quế. Tiếng than van nổi lên từng chặp. Bỗng một kẻ hơ hải chạy đến báo tin: "Mấy người hãy theo tui tới đàng kia, chẳng những có nắng ấm mà còn có cơm canh sốt dẻo nữa". Theo sóng người lôi cuốn, bà Bang biện Hưỡn chạy tới một tòa nhà thắp đèn sáng trưng. Nhưng khi cả bọn vừa bước vào nhà thì cánh cửa bằng sắt khép chặt lại. Một cảnh tựng khủng khiếp bày ra. Lửa cháy khắp nơi. Lửa đốt cột đồng, lửa nung giường sắt, lửa hầm trong lò gạch... Mỗi nơi đều có tội nhân chịu hành hình bởi lũ quỉ đầu trâu mặt ngựa. Kẻ bị leo cột đồng cháy đỏ, người nằm dài triên giường sắt nung lửa, kẻ khác bị hầm trong lò, kẻ khác nửa bị nuốt than nóng..., mùi thịt da bị cháy bốc lên khét nghẹt.

Hôm an táng bà Bang biện Hưỡn, bác sĩ Lê Thạnh Mậu bảo luật sư Trần Hảo Hiệp:

- Bà nhạc tụi mình đạp đinh, vậy mà con vợ tui không nói gì với tui để tui khuyên bả chích ngừa phong đòn gánh. Thứ đinh rỉ sét là ổ vi trùng của căn bịnh tán mạng kia!

Mặt luật sư Trần Hảo Hiệp lạnh tanh như cái cối đá, không nói không rằng.

Bà Bang biện Hưỡn chết đi, cảnh nhà trở nên rối loạn. Tôi tớ không có người điều khiển sanh ra biếng nhác. Cậu Hai Luyện liền mới ông bà Năm Đặng về ở chung. Ý là hai ông bà không con nhưng vẫn âm mưu ăn chặn ăn xén, ăn cắp ăn trộm của anh rể mình làm của riêng. Cậu Hai Luyện tuy tham lam của người, lại không quen thói bòn tro đãi trấu nhưng lòng dạ thưa thớt, không làm sao bắt được việc làm tác tệ của dì dựng mình. Còn cô Ba Cẩm Tú thì say mê chuyện tò tí với tên Pháp kiều nên ít khi về thăm nhà.

Cô Tư Cẩm Lệ sau khi dự lễ an táng mẹ xong, cùng chồng trở về Sài gòn. Chị * báo tin:

- Hôm qua em nhỏ ấm đầu, ho khóc suốt đêm. Bà Phán (chỉ má chồng cô) có đứa em bÿc sĩ. Em được chích thuốc nên bây giờ mới ngủ được.

Cô Tư vội vào buồng thăm con. Đứa bé say ngủ, nét mặt thanh thản. Cô đặt tay vào trán con thấy mát rượi, yên lòng đi tắm gội.. Nhưng sao đứa nhỏ ngủ say quá, tới chiều tối vẫn chưa thức. Cô vào buồng thăm con lần nữa, rờ tay vào trán con thì thấy lạnh ngắt. Cô đặt tay lên ngực nó thì không thấy phập phồng. Thánh thần thiên địa ơi, đứa hài nhi tắt thở tự bao giờ!

Sau cái chết của con, cô Tư Cẩm Lệ như kẻ mất hồn. Cậu Hai Luyện thương tình xin phép thầy kiện Trần Hảo Hiệp đưa em gái mình về Cầu Đào dưỡng sức. Cô Tư lúc đó không còn thiết gì nữa. Trong căn nhà của chồng, giữa lúc tình chăn gối lạt lẽo, còn có kỷ niệm và bóng ma đứa nhỏ lảng vảng nên cô muốn đi xa, về nhà cha mẹ để lấy lại sự thăng bằng của não cân, để cứu vãn tinh thần đang độ xuống dốc. Bởi đó cô nghe lời anh, đáp tàu thủy về Vĩnh Long. Tuy nhiên khi về Cầu Đào được một tuần lễ, cô bỗng linh cảm rằng lần ra khỏi nhà chồng đó cũng là lần cô bước ra khỏi cuộc đời luật sư Tràn Hảo Hiệp. Và càng nghĩ sâu cô càng nhận ra rằng cô đã ra khỏi cuộc đời chồng trước khi sanh con, từ khi có sự hiện diện của cô Hai Tố Trinh ở nhà bà Huyện Tịnh.

Riêng cô Ba Cẩm Tú thừ thuở còn là nữ sinh trường Áo Rím, cô đã mê hát bóng, cải lương. Tuy nhiên chưa cô bao giờ nghĩ là mình có thể ăn nằm với một tên Tây tà ngoại chủng. Loại kép vóc voạc vừa tầm, mắt xanh như ve chai còn có thể được cô ưa chuộng, đằng nầy mắt tên Thierry Lemur kia xám xịt, thân mình hộ pháp, tướng tá ô đề, lọt ra khỏi vòng mơ mộng hoài bảo của cô xa lơ xa lắc. Vậy mà không hiểu do oan nghiệt gì xui khiến để cô sa ngã vào vòng tay nó, để nó vầy vọc tấm thân cô. Và chu choa ơi, nó vầy vọc cô khéo quá, tuyệt vời quá nên cô đâm ra say mê nó, phó mặc cho thanh danh vùi chôn xuống bùn, thây kệ cho tiết hạnh lấm lem giữa bụi.

Sáng hôm sau, sau khi đi chợ về, Cô Ba Cẩm Tú thay đồ mát bằng lụa soạn trắng, nằm trên ghế xích đu buồn dàu dàu và nhớ tên Pháp tặc kia thất thẻo. Đang lúc cô Ba nghĩ ngợi lan man thì cô Sáu Bạch Huệ tới chơi. Chèn ơi, bộ con nầy trúng số độc đắc hay sao mà nó ăn diện choáng lộn nhức mắt: nào áo rằn ri xanh đỏ, nào vòng vàng chuỗi hột rườm rà, nào son phấn diêm dúa... Cô Ba Cẩm Tú quở:

- Có tin tức gì về thằng mọi rợ phiên tặc đó không? Sao cả tuần nay mầy không cho tao biết ất giáp gì hết vậy?

Cô Sáu Bạch Huệ ỏn ẻn:

- Cả tuần nay không có tin, giờ có tin nên em tới cho chị hay nè, vậy chị có vừa bụng chăng? Không lẽ em xách đít tới đây để bàn với chị chuyện đạo giáo, đạo đức? – Rồi cô Sáu nheo mắt nhìn cô Ba – Đang nhớ thằng dâm tặc đó phải không? Mặt mũi chị sao mà ủ dột như trời chuyển mưa! Vui lên chị! Sáng hôm nay tên Thierry có sai anh loong toong tới nhà em cho biết xế nay cỡ 2 giờ hắn rảnh, muốn gặp chị ở nhà. Chẳng hay chị có rảnh không?

Cô Ba Cẩm Tú nguýt:

- Tao... tự do như gió như mây. Dẫu có bận việc thế mấy, nhưng một khi cao hứng, tao cũng gác việc qua một bên.

Rồi cô mở bóp đầm lấy ra hai tờ giấy năm đồng cưa cho cô Sáu Bạch Huệ, dặn:

- Nhớ làm bữa ăn dậm cho nó.

Khi cô Sáu Bạch Huệ ra về, cô Ba Cẩm Tú hối con Xinh, đứa tớ gái của cô, nấu cơm để cô ăn cho sớm. Rồi đó, sau bữa ăn trưa, cô đi tắm bằng thứ xà bông đặc chế bằng mật ong trước khi trang điểm.

Còn cô Sáu Bạch Huệ bưng bả về tới nhà đã thấy Hai Dần ngồi chờ. Cô trách móc:

- Anh thiệt là... ương ngạnh, không chịu nghe lời em! Trong thời gian mụ Ba Cẩm Tú léo hánh tới đây, anh cứ chừng mặt tò tí công khai với em, đố sao mủ khỏi nghi nan chuyện âm mưu đưa mụ vào bẫy của tụi mình!

Hai Dần cười mơn:

- Nhớ em thắt thẻo tim đỏ gan vàng nên qua mạo mụi tới đây, mong em xá tội cho qua nhờ. Qua chỉ mong xế nay là buổi chót mủ tới đây bày trò tư thông với tên Pháp tặc rậm râu kia!

Cô Sáu cười:

- Em cũng mong vậy. Thôi, anh về nói cho ông thầy thuốc Mậu rõ tự sự và dặn ổng cỡ hai giờ trưa nay nhớ dắt ông trưởng tòa cùng mấy chú mã tà tới quán nước trước hẻm nhà em nghe chưa! Hể em cho thằng ở của em ra mời là họ phải tới lập tức đặng tông cửa buồng bắt quả tang tụi nó.

Cô Sáu Bạch Huệ cùng tình nhơn kéo nhau ra quán ăn bánh mì. Xong xuôi, Hai Dần cỡi xe đạp đi tìm bác sĩ Lê Thạnh Mậu, còn cô Sáu đi mua sắm bánh trái, la ve, nước ngọt...

Lối 1 giờ trưa, cô Ba Cẩm Tú đến nhà cô Sÿu bạch bạch Huệ. Nhìn mâm bánh trái ê hề bày bàn ăn, cô Ba quở:

- Chèn ơi,, mâm bánh ăn dặm sao mà ê hề như vậy? Thằng Thierry và tao ăn sao hết!! Hay là mầy dùng để cúng cô hồn?

Cô Sáu háy thiệt lẳng:

- Nó với chị ăn không hết thì để cho em và mấy tay đánh xá ỏ, đánh tứ sắc ăn ké.

Cô Ba ngoe ngoảy bỏ vào buồng dành cho cô. Nơi đây nệm drap trắng tinh, thoảng mùi long não. Cô cởi áo dài máng lên móc rồi vào giừng nằm nghỉ. Cô tính nằm chơi, ai dè ngủ hồi nào không hay. Bỗng một chiếc cằm lám nhám gốc râu chạm vào đôi má mịn màng của cô, rồi cặp môi ấm áp đè lên cặp môi cô. Cô mở mắt ra thì thấy Thierry đang nằm bên cô, thân thể không mảnh vải che. Cô siết chặt tấm thân hắn, làm bội hỏi:

- Ai? Ai vậy?

Tên Pháp kiều rên rỉ:

- Kiếm được dịp tốt để đến đây khó quá! Anh nhớ em lắm!

Hắn hun hít cô, rồi cả hai nhẩn nha vuốt ve nhau cho đến lúc tên gian phu không chịu nổi lửa dục nữa, bắt đầu giao hoan với cô. Cô nhắm nghiền mắt hửng ứng, quên phứt đi tấm vách có một lỗ nhỏ để cặp mắt cô Sáu Bạch Huệ theo dõi, chờ lúc họ mê man nhục dục sẽ ra tay.

Khi cô vẫy tay ra hiệu thì năm người đàn ông tiến tới cửa buồng trong khi cặp trai gái ngoại tình đang ái ân nồng đượm, quên luôn trời đất, quên cả thời gian. Rầm! Một tiếng đạp long trời đất vang lên. Bác sĩ Lê Thạnh Mậu, Trưởng Tòa Hiệp, Hai Dần và hai người lính mã tà ào vào. Thieery vừa ngóc đầu dậy thì Hai Dần nhảy tới đánh vào ngực, vào hạ bộ hắn chết giấc. Bác sĩ Mậy chụp lấy tóc cô Ba Cẩm Tú ghịt xuống, tay kia vả vào mặt cô làm cô là chói lói. Rồi bản năng sinh tồn trổi dậy, cô ba cắn mạnh vào tay chồng, hai tay bóp ghịt cục thịt giữa hai đùi chồng làm ông ngã ra trợn trắng. Cô Ba hằn học ngó cô Sáu Bạch Huệ, nghiến răng hỏi:

- Có phải mầy gài bẫy tao không, hả Sáu?

Cô Sáu đỏ tía tai gục đầu không nói được lời nào.. Cô Ba Cẩm Tú mặc quần áo vào, vẽ mặt kiêu hãnh và lạnh như tiền. Nhìn chồng nằm thở dốc, mặt trắng bệch bạc, cô khinh bỉ phun nước miếng vô mặt ông, chửi:

- Đồ khốn nạn! Có vợ mà không biết o bế tưng tiu, để cho nó cắm sừng lên đầu mà không biết nhục!

Hai viên mã tà còng tay cô và tìm cách cứu tỉnh tên Thierry Lemur. Trưởng tòa Hiệp tiếp tục làm biên bản. Nhục quá hóa liều và đâm ra trơ, cô Ba Cẩm Tú chửi chồng tắt bếp, không từ nan một ngôn từ tục tĩu, lỗ mãng nào.

Từ bót mã tà bước theo anh mình bảo lãnh ra về, cô Ba Cẩm Tú đực chồng cho phép về nhà lấy quần áo và tư tang để về Cầu Đào. Còn bác sĩ Lê Thạnh Mậu tuy đắc thằng vẻ vang như ý, nhưng trong bữa ăn chiều ông cảm thấy rõ ràng sự đắng cay chua chát, cuốn sạch hết kỷ niệm đẹp sau năm năm chung sống với cô vợ. Ông ta ăn cơm như ăn sỏi sạn, húp canh như húp thuốc bắc.

Đêm hôm đó bác sĩ Lê Thạnh Mậu vào giường rất sớm. nhưng mãi tới canh tư ông mối ngủ được. Sáng hôm sau ông dậy trễ, sai con Xinh mua cho ông một tô hoành thánh và ly cà phê sữa. Điểm tâm xong, ông chải đầu láng, diện sơ- mi cụt tay bàng vải ba- tít màu trứng sáo, quần vải ga- bạc- din xanh đậm, thắt nơ bướm ở cổ và mang giày tây đen đánh xi- ra bóng loáng. Nhìn bóng mình trong kiếng, ông thầm nghĩ: "Đờn ông bốn mươi tuổi vẫn còn làm lại cuộc đời một ách ngon lành, huống chi mình mới băm ba tuổi!"

Từ khi vợ chồng bác sĩ lê Thạnh Mậu gặp cảnh đồng sàng dị mộng thì nhà cửa ông như bao bọc một làn không khí lạnh lẽo. Cô Ba Cẩm Tú săn sóc nhà cửa lấy lệ nên bàn ghế không được lau chùi kỹ lưỡng, đồ đạt bày biện thiếu mỹ thuật, kém ngăn nắp; ngoài sân, các chậu cây kiểng không được tỉa lá, bông trồng trong bồn thiếu nước héo queo, và ngoài xa nữa, hàng rào cây trà tươi không được cắt bàng. Ông phải tiến hành cuộc li dị với cô Ba Cẩm Tú càng mau càng tốt, càng sớm càng thuận lợi cho ông. Rồi ông sẽ tìm một cô gái nết na, có học thức về làm vợ, để ngôi nhà nầy có người chủ phụ coi sóc trong ngoài.

Suy nghĩ miên mang đưa ông về người đẹp năm xưa có cái tên Võ Thị Tố Mai, người thiếu nữ đã cho ông tình yêu đầu đời mà vì yêu ngôn quỉ kế của cô Ba Cẩm Tú đã khiến ông hồi hôn đưng sự, làm đương sự lao đao suốt năm măm trời! Ờ! tại sao hôm nay ông không đến xóm Chuồng Gà tìm cô, coi cô có nhà ông Năm Tảo hay không? Nếu cô bằng lòng kết hôn cùng ông thì ông sẽ có cơ hội săn sóc yêu thưng cô, để ông chuộc lỗi lầm thuở trước. Mường tượng tới khuôn mặt bầu bĩnh của cô với đôi mắt lá râm, đôi mày vòng nguyệt, sống mũi dọc dừa, cặp môi thanh tú mà tim ông đập khoan khoái. Ôi cặp mắt cô tuy không lớn nhưng cái nhìn bao la vòi vọi. Sắc mặt cô tươi sáng thấm nhuần vẻ hiền hậu dịu dàng. Năm năm qua mà cô vẫn giữ được nét trẻ trung trên khuôn mặt và vóc mình thanh cảnh tươi mát.

Bác sĩ Lê Thạnh Mậu ra tiệm Hảo Xướng mua một hộp trà Ô Long, hai phong bánh in hiệu Huê Phong, hai chai rượu chát hiệu con bò, một kí nho tươi rồi lái xe tới nhà ông bà Năm Tảo. May phước, hôm đó hai ông bà và cô Thiệt Nguyện đều có ở nhà.

Bác sĩ Mậu ngập ngừng bảo ông Năm Tảo:

- Hôm nay tui tới đây trước thăm ông bà, sau có chút việc muốn bày tỏ cùng với cô Bảy Tố Mai, vốn là vợ chưa cưới cũ của tôi. Gia đạo tui đang rối rắm, tui với vợ tui sắp ra tòa li dị nên tui muốn cùng em Bảy tính chuyện chung thân về sau.

Ông Năm Tảo cho gọi cô Thiệt Nguyện đang lúc thúc ở nhà sau. Chỉ chừng dập bã trầu, cô bưng khay trà ra chào khách. Cô cũng vừa rửa mặt cho tươi tỉnh. Hôm nay cô mặc chiếc áo xuyến trắng bó eo, chiếc quần đáy giữa bằng lãnh trơn, tóc chải láng, cái bí bo được bọc lưới. Cô cũng đeo một xâu chuỗi ngọc trai,, đôi bông tai cẩm thạch và giắt chiếc trâm kết hột cẩm thạch lớn cỡ trái trứng cá trên búi tóc.

Cô Thiệt Nguyện vui vẻ bắt chuyện với khách, không cay đắng, không bợ ngợ. Dung quang cô sáng rỡ như trăng rằm, nụ cười cô nở tộng bày hàm răng đều đặn và khít khao, sóng mặt cô ướt rượt. Tuy nhiên, mắt cô sáng mà dịu hiền, nụ cười cô điềm đạm đoan trang, sóng mắt cô chỉ có vẻ âu yếm mà không lẳng lơ. Ông Năm Tảo bảo:

- Quan thầy thuốc hôm nay tới đây có chút việc muốn nói với cháu, vậy để chú ra ngoài vườn o bế mấy cây cau xiêm vừa trồng để cho cả hai đàm đạo thoải mái.

Rồi ông ngó qua bác sĩ Mậu:

- Quan thầy thuốc đã tới chơi, xin ở lại dùng cơm trưa với vợ chồng tui và cháu Thiệt Nguyện đây.

Biết rằng câu chuyện mình sắp bàn với người yêu cũ còn dài nên bác sĩ Mậu nhận lời và chắp tay cảm ơn ông Năm. Sau khi ông năm đi khỏi, ông nhìn trân trối cô Thiệt Nguyện, ngập ngừng:

- Qua đến đây không ngoài mục đích kể hết gia đạo của qua cho em rõ. Nếu em không còn hờn qua, và nếu em còn yêu thương qua như chầu xưa thì qua sẽ cưới em sau khi ra tòa xé hôn thú với con vợ cũ.

Cô Thiệt Nguyện kinh hoảng:

- Anh muốn thôi vợ để cưới em hả? Sao lại có chuyện ác đức vậy?

Bác Sĩ Lê Thạnh Mậu liền kể khúc nôi vụ vợ ngoại tình và vụ bắt ghen quả tang cho cô Thiệt Nguyện nghe. Cô lặng yên nghe với ánh mắt cảm thông, chia sẻ. Nhưng khi thấy ông nước mắt đoanh tròng thì cô cũng khóc theo. Biết cô Thiện Nguyện vẫn còn yêu thương mình, bác sĩ Mậu mũi lòng khóc nhiều hơn. Nước mắt làm ông quên mối hờn ghen con vợ lăng loàn cũ, khiến ông phấn khởi khi nghĩ tới việc làm lại cuộc đời trong những ngày sắp tới.

Cô Thiệt Nguyện thở dài:

- Việc tác tệ xảy ra như vậy anh thử nghĩ lại mà coi, con Ba Cẩm Tú có lỗi đã đành, mà anh cũng có lỗi nữa. Anh đã lợt lạt lửa hương với nó, anh đã dắt nó vào chốn ăn chơi để nó tiếp xúc với phồn tham dâm háo sắc. Nay đôi bên không còn thương yêu nhau nữa thì xa nhau cũng là giải pháp hay. Còn việc anh muốn cầu hôn em, xin hãy đợi công việc li dị giữa anh và con Ba dứt khoát đã.

Cô đứng dậy xin phép ông vào trong. Ông Năm Tảo từ vườn bước vào với trái đu đủ hườm chín trên tay. Ông đặt trái lên dĩa quả tử rồi gọi thêm bình trà mới để ông ngồi tiếp chuyện bác sĩ Lê Thạnh Mậu.

Bà Năm Tảo bước ra, mời khách:

- Bây giờ cũng đã trưa trờ trưa trật rồi, xin mời quan thầy thuốc dùng cơm.

Mâm cơm dọn trên chiếc bàn tròn ở phòng ăn, giáp với căn bếp. Trên bàn chỉ bày có ba chiếc chén và ba đôi đũa. Bác sĩ Mậu và ông Năm Tảo vừa ngồi vào mâm thì bác vật Cảnh cũng vửa tới. Qua ông Năm, hai đàng bắt tay chào nhau. Bác sĩ Mậu hỏi:

- Sao không mời cô ra đây ăn luôn thể?

Bà Năm Tảo vui vẻ:

- Tui và cháu Thiệt Nguyện ăn chay. Hai con Túy ăn ở dưới bếp cho thoải mái. Thôi kệ tụi nó!

Mâm cơm tươm tất. Một tô canh chua cá lóc nấu bông súng. Một dĩa gỏi ngó sen trộn tôm thịt rắc rau răm xắt nhuyễn. Một dĩa sườn nướng thơm phức. Một dĩa cá bống tượng chưng kim châm nấm mèo.

Dưới nhà bếp, cô Thiệt Nguyện thuật lại chuyện gia đạo bác sĩ Mậu cho hai cô Túy nghe. Rồi cô than thở:

- Hồi đó khi chị lên Tri Tôn toan cắt tóc quy y thì sư phụ chị không cho, bảo rằng mai sau nếu tánh sân hận của chị được tiêu trừ thì tình chủng của chị vẫn còn nguyên gốc rễ. Bởi đó nên huề thượng chỉ cho chị thọ giới cận sư nữ. Lời phán dạy ấy nay sắp thành sự thật. Chị mắc nợ bác sĩ Mậu về cuộc vợ chồng. Oan gia nghiệp chướng trong sáu năm qua đã trả dứt, nhưng vòng tình nghĩa ái ân trong tương lai không mấy xa xôi sẽ hủy hết năm năm tu hành của chị.

Cô Hai Túy Ngọc:

- Ai nói với chị khi lấy chồng rồi sẽ không có pháp môn nào để tu? Còn có pháp môn Tịnh Độ vốn dành cho mọi thiện nam tín nữ vì nó dễ tu, chỉ cần niệm hồng danh đức A Di Đà Phật cho tới nhứt tâm bắt loạn là đủ.

Cô Thiệt Nguyện thở dài:

- Đường tu vốn lắt léo, đâu có dễ như em tưởng. Trong một triệu người, họa may mới có một người niệm nhứt tâm bất loạn!

x
x x

Năm tháng chưa dài xa lâu lắc gì mà bao nhiêu biến cố bi thảm cứ dồn dập xảy tới gia đình ông Bang biện Hưỡn. Ông Bang biện bị bán thân bất toại. BÀ Bang biện đã chết vì phong đòn gánh. Cô Ba Cẩm Tú bị chồng xua ra khỏi nhà vì tội ngoại tình và đang chờ ra tòa để nhận án ly hôn. Cô Tư Cẩm Lệ thì buồn vì mất đứa con đầu lòng khi còn trứng nước.

Sau khi về Cầu Đào chừng hai tuần, cô Tư nhận được thư của chồng cho biết ông đã bán nhà và dọn về ở chung với ông bà Huyện Tịnh. Ông nhắn cô nên lấy những đồ đạc mà cô chưa mang về Cầu Đào. Nhưng khi cô lên Phú Nhuận thì luật sư Trần Hảo Hiệp lánh mặt, chỉ có bà Huyện Tịnh tiếp cô mà thôi. Bà Huyện cho biết luật sư Hiệp đã kết hôn vơi cô Hai Tố Trinh. Bà còn giả nhơn giả nghĩa khuyên cô nên kiếm chồng khác làm ăn. Sau cùng bà lôi hai chiếc va ly ra, bảo:

- Đây là quần áo của cháu. Riêng hộp nữ trang thì cháu đã mang theo khi về Cầu Đào rồi.

Cô Tư Cẩm Lệ vì tức tối, nói nhiều câu hằn học vô lễ với bà Huyện Tịnh nên bà hét lên:

- Cô là thứ đàn bà vô giáo dục. Cô tức giận rể tui rồi giở giọng hàng tôm hàng cá với tui sao được! Tui đuổi cô ra ngoài cho cô coi!

Bà liệng hai cái va- ly ra ngoài rồi thét đầy tớ tống cô ra khỏi cổng.

Cậu Hai Luyện thấy tình cảnh hai cô em như vậy thì cứ rầy rà luôn, đưa đến cãi cọ nhưng rồi cậu lại tha thứ, cưu mang họ. Sau vụ ly dị, cô Ba Cẩm Tú được cô Agnès Thuận giới thiệu với quan chánh tham biện Tây mới đổi về, còn Isabell Định thì tiến cử cô Tư Cẩm Lệ với gã biện lý Tây tên Jean Beauregard. Hai chị em chẳng khác nào người mang dép đi trên con đường bùn sình, lúc đầu còn thận trọng bước sợ dính bùn, nhưng khi đã dính bùn rồi thì họ đi càn, mặc kệ sình bùn bao nhiêu lớp cũng không thèm đếm xỉa nữa.

Một tối nọ, sau khi nằm trò chuyện với cô Ba Cẩm Tú trên chiếc divan bằng gỗ giáng hương, cô Tư Cẩm Lệ thiếp ngủ. Bỗng cô thấy cô Tư Thục từ ngoài bước vào, điểm mặt cô, mắng:

- Đứa con ranh của mầy mới chết, nó đợi mầy dan díu với bất cứ thằng đàn ông nào là nó chui vô bụng mầy thành bào thai, đúng chín lần rồi mới đoạt mạng mầy, nghe chưa con sát nhơn!

Cô Tư Cẩm Lệ giận quá hóa khùng, trả treo lại:

- Chị đừng có nói đỏng! Tui sẽ tìm thầy bùa, thầy pháp cao tay ấn để nhốt đứa con ranh con lộn đó trong tĩn rồi đem chôn trong hầm chứa máu chó và phân heo, nói cho chị biết!

Cô Tư Thục vả vào mặt cô Tư Cẩm Lệ:

- Đừng có nói điên! Chừng mười năm nữa rồi mầy sẽ rõ!

Rồi cô xô cô Tư Cẩm Lệ té nhủi. Cô Tư la lên một tiếng, giựt mình tỉnh dậy. Cô Ba sau khi nghe em thuật lại giấc chiêm bao, trầm ngâm:

- Còn nước còn tát! Thế gian này thiếu gì thầy pháp, thầy bùa giỏi.

Từ khi cặp xách với ngoại kiều, hai cô có tiền nhiều nhưng vì nghe lời anh nên hai cô không dọn ra riêng. Họ xuất tiền sửa sang vườn tược, kho lẫm.

Từ khi có hai cô cháu gái về coi sóc việc nhà, bà Năm Đặng không dám ăn xén ăn bớt lộ liễu nữa. Bà nịnh bợ hai cô cháu, chỉ họ cách nịch ái những gã đàn ông đi lại với hai cô:

- Muốn cho đàn ông say sưa mê đắm mình, hai cháu nên để dì đi mua cá bông, ca lóc nuôi trong vịm đựng nước pha máu kinh nguyệt của hai cháu. Rồi hai cháu dùng thứ cá đó làm món ăn cho tụi nó thì tụi nó sẽ càng mê hai cháu hơn nữa.

Lụi hụi mà đã tới đám cưới của cô Hai Túy Ngọc. Đám cưới của cô Út Ngọc An và của cô Ba Túy Nguyệt cũng diễn tiến tốt đẹp. Cô Hai và cô Út cùng theo chồng về Tiểu Cần, trong khi đó Bác vật Cảnh vì còn nghỉ dững sức cho nên cô Ba Túy Nguyệt không buồn vì phải xa nhà.

Việc ly dị của bác sĩ Lê Thạnh Mậu và cô Ba Cẩm Tú kết thúc tốt đẹp. Cô được tòa bắt chồng cô cấp dưỡng mỗi tháng bốn chục đồng, trong khi số tiền lương của một thầy giáo lớp nhứt chỉ được sáu chục đồng.

Đám cưới của cô Thiệt Nguyện tổ chức long trọng nhứt. Gia đình cô vốn giàu có lớn ở An Hương. Hai người chị của cô lấy chồng giàu, bốn người anh của cô cũng nên danh phận, cậu em kế cô thì đang học dược bên Pháp. Cũng như cô Út Ngọc An, lấy chồng rồi cô vẫn ăn chay, nhưng khác với cô Út ưa ăn mặc lòe loẹt, Cô Thiệt Nguyện luôn ăn mặc nhã đạm, không son phấn, không tỉa chơn mày hay chải đầu phùng theo kiểu chín lượn mười mồng của thời trung thập niên 30.

Dù sao hai cô Cẩm cũng còn chút an ủi là tuy mất danh giá nhưng họ kiếm được nhiều tiền. Tiền do tình nhân cung cấp, tiền do họ chạy áp phe. Họ quyết lòng nịch ái hai tên ngoại kiều mà họ đang dan díu. Món cá lóc do bà Năm Đặng nuôi được họ chiên vàng rồi phết bơ Bretel vẫn là món lạ miệng được tên Chánh tham biện Henri và tên Biện lý Jean chiếu cố tận tình.

Nhưng mà, cô Ba Cẩm Tú mỗi khi soi kiếng để tô son dồi phấn chợt thấy mặt mũi mình càng lúc càng chao vao. Coi kìa, lững quyền cô nhô cao, ánh mắt cô lộ vẻ mệt mỏi, nụ cười cô không sao giấu được vẻ chua chát. Cũng vậy, cô Tư Cẩm Lệ nhận thấy vóc mình cô lệch lạc, khô khan; dung nhan cô mờ ố, thần sắc cô lu câm. Ái tình của hai kẻ Pháp kiều đối với họ cũng chẳng nồng đượm gì hơn. Trước sau, tụi nó chỉ coi họ là món đồ chơi chứ không hề đặt họ lên vị trí người tình, nói gì là hạng già nhơn nghĩa non vợ chồng! Trong khi đó, tại tỉnh thấp thoÿng mấy cô chơi bời mới đầy đủ màu xinh vẻ lịch cùng các món phong lưu.

Phần cậu Hai Luyện, từ khi về Cầu Đào, cậu thường đến tiệm cô Bảy Cẩm Thạch để tái diễn cuộc dán díu với cô. Chẳng hiểu do duyên nợ gì ràng buộc mà cô Bảy vẫn còn say mê cậu. Cô Tám Cẩm Vân thường lựa lời khuyên chị:

- Như chị em mình đây sa lầy trong nghiệp dâm đã là cái tội rồi, còn thằng cha Luyện bủn xỉn nổi tiếng bạc tình kia vốn xuất thân từ một gia đình ác đức, gây nghiệp xấu từ ba bốn đời nay, chị mà cứ cặp xách với hắn hoài, đố khỏi ngày cháy vạ lây.

Cô Bảy mắng em:

- Con đĩ mãng xà nầy ngày tối cứ rình dịp để cắn mổ anh Kinh lý Luyện hoài! Chắc kiếp trước ảnh có gây việc oan trái đảo điên chi đó với mầy nên kiếp nầy mầy mới thù ghét ảnh thái thậm như vậy!

Cô Bảy cứ xách đít đến tổ quỉ của cậu Hai Luyện đều đều. Cô dùng đủ ngón nghề để chiều chuộng cậu, cốt làm cho cậu say tình, cảm nghĩa mà cưới cô. Nhưng nghiệt thay, cậu Hai Luyện là mẫu người chỉ tìm được hứng khởi khi tốn công tốn sức để được ăn nằm với cô nào đó. Giao hoan với hạng gái dễ dãi như cô Bảy Cẩm Thạch làm sao cậu hào hứng cho được! Cậu lại nghĩ tới thím Bảy Bảnh. Ái ân với đàn bà có chồng bất hạnh kia, điêu đó làm cậu như được dấn thân vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị. Do đó mà thằng Yêm cứ phải làm môi giới đưa thím Bảy Bảnh lên tổ quỉ của cậu ở cầu Kinh Cụt. Nhưng nếu cậu Hai tạm hài lòng vui thú với vợ người ở tổ quỉ thì tai họa đâu tới nỗi giáng xuống đầu cậu như một cú sét. Một hôm cậu ngỏ ý với thím Bảy Bảnh:

- Tui ăn nằm với mình ở đây tuy có sướng thiệt, nhưng tui vẫn ao ước ân ái với mình tại nhà mình kìa!

Thím Bảy Bảnh ngạc nhiên:

- Sao lạ vậy? Đường bằng phẳng mà mình không chịu đi, lại chọn đường đầy dẫy chông gai hầm hố làm chi không biết!

Cậu Hai Luyện cười trơ trẽn:

- Tánh tui kỳ lạ lắm! Hễ gặp chuyện dễ ột tui không nhớ dai. Phải giặp chuyện khó khăn, đòi hỏi lao tâm tổn trí, phải đem mưu mẹo ra đối phó thì tui mới nhớ đời đời. Mình có thiệt bụng yêu thương tui thì nên dàn xếp các nào để tui được hú hí với mình trên cái giường của mình thì tui mới có hứng.

Nói xong, cậu giúi vào tay tình nhơn một xáp lụa cẩm phụng trắng. Thìm Bảy Bính nhìn cậu thở dài. Thím chỉ nghĩ cậu hơi khật khùng chứ làm sao rõ được tâm trạng bất lương phức tạp của cậu!

Thế rồi thím Bảy Bảnh và thằng Yêm cố công dàn xếp để đưa cậu Hai Luyện về nhà vợ chồng thím ở Cái Sơn. Ở đời, ai mà lấy thúng úp voi được! Cây kim giấu trong bọc cũng có ngày lòi ra! Dân chúng ở xóm Đình Khao, dài theo ngọn rạch Cái Sơn Bé bắt đầu xì xào bàn tán, nói tỏi nói hành mụ đờn bà lẳng lơ trắc nết kia..

Chú Bảy Bảnh vốn ngu độn và chập chạp, lại cả tin vợ nhà, cho nên ai nói bóng gió về thím Bảy chú cũng không hiểu được. Anh ruột chú là chú Sáu Tốt hét vô mặt chú, vạch bày cho chú biết việc làm tác tệ của vợ chú, nhưng chú vẫn không tin. Tuy nhiên, một đêm nọ trong lúc đầu gối tay ấp với vợ, chú nhẹ nhàng bảo:

- Người ta nói với tui rằng mình đang tò tí với cậu Hai Luyện!

Thím Bảy liền ré lên chửi:

- Mồ tổ cha quân đặt điều! Tiên nhơn tổ đường thứ ăn môn ngứa miệng! Mình phải chỉ cho tui biết đứa nào dám bêu xấu tui để tui tròng quần máu hòe lên đầu nó! Còn mình, sao mình để người ta nói xấu vợ mình mà mình im re, không dám bửa đầu họ? Thiệt tình bởi tui nghiệp dày đức mỏng cho nên mới lấy nhằm thằng chồng ngu si đần độn như vầy!

Rồi thím bù lu bù loa, làm trận làm thượng đủ trò, khóc lóc quằng quại thảm thê, báo hại chú Bảy Bảnh phải gãy lưỡi tốn nước miếng năn nỉ thím, thím mới chịu bỏ qua.

Riêng cô Bảy Cẩm Thạch vì ở ngoài chợ tỉnh nên không nghe tiếng đồn ở làng Cái Sơn Bé. Lâu lâu cậu Hai Luyện ghé thăm, rủ cô tới tổ quỉ của cậu thì cô nhận lời, chấp nhận hoàn cảnh làm tình nhơn tạm bợ của cậu chớ không dám đèo bòng hoàn cảnh sáng sủa hơn.

Hôm đó đang lúc cô Bảy kho tô cá bống kèo trong bếp thì cô Tám Cẩm Vân đi chợ về, miệng véo von như con chim chèo bẻo:

- Mèn ơi, hồi nãy em xẹt lại tịm Đồng Hính ăn mì, gặp tên Kinh lý ninh Hai Luyện ở đó. Lóng rày sắc diện hắn u ám xanh xao như mặt đờn bà bị huyết trắng, chỗ ấn đừng hắn có một bớt đen. Thứ nầy không bao lâu nữa sẽ gặp tai ương, nếu không tán nạng thì cũng sút càng gãy gọng chớ không chơi!

Co Tám Cẩm Thạch tối hôm trước vừa ở tổ quỉ hú hí với cậu Hai Luyện thâu đêm suốt sáng, giờ mệt mỏi nên cô nổi quạu. Cô trợn mắt nhìn em, mắng:

- Con đĩ tinh ma yêu quái, con đĩ khỉ cái mắc kinh phong! Mầy nên lo cho thân mày, chớ việc gì mà mầy cứ xét nét rồi trù ẻo toàn chuyện dữ cho cẩu vậy? Coi chừng mắc khẩu nghiệp đa!

Nói về chú Sáu tốt, bởi thằng em chú dại dột ngu đần nên chú tức ấm ách, không biết cách nào trừ khử cặp gian phu dâm phụ cho đã nư chú. Đã vậy, nhà chú chỉ cách tiệm hàng xén của chú Bảy Bảnh một cái hàng rào tre xịch xạc, có dây bìm bìm leo kín lớp tre đan; mỗi ngày gặp lúc vắng khách, thím Bảy Bảnh từ tiệm chõ miệng qua chửi xỏ chửi xiên xoáy vào tâm não chú, làm chú nhức rêm cả mình mẩy, tức ngực lói hông.

Một bữa nọ, chú nằm chơi trên chiếc chõng tre rồi ngủ quên hồi nào không hay. Bỗng có tiếng thanh tao của một người đờn bà:

- Xin đại vương chớ ngại, bùa ém dù sao cũng phải bứng cho xong. Chú Sáu đây cũng là một tay giỏi bùa ém.

Tiếp theo đó, một người đờn bà nhan sắc xinh lịch, dáng dấp yểu điệu xăm xăm đi về phía chú. Y thị dắt một người đàn ông mặc áo đen, hai tay ôm cần cổ đẫm máu. Người đờn ông nói:

- Tui là thần Hắc Giao đại vương, nằm trong cuộc đất của Xã Miễn ở Mỹ An, giáp ranh với đất của Hương sư Chiêm. Khi quan Kinh lý Luyện đo đất đào kinh, có nhận của hối lộ của Hương sư Chiêm, đào lấn qua đất Xã Miễn nên thế đất Hắc Giao vọng hải bị phá hỏng, tui bị đứt đầu. Tui muốn báo thù, ngặt vì trước đó nó mướn thầy Mười Khói ở Cần Đào trấn ém tui nên thần lực tui bị giảm hết bảy phần mười. Nay tui đến đây nhờ chú giúp tui rửa thù. Đêm mốt đây, chú hãy rủ em chú đi Long Hồ câu tôm. Thế nào con đờn bà đó cũng rước tên dâm dật kia về nhà hú hí. Thừa lúc nửa đêm chú cùng về với chú Bảy, hiệp với thầy Hương quản Dần, mấy chú cai tuần, mấy chú thường xuyên ào vào nhà hô hoán lên ăn trộm, bớ người ta ăn trộm! Thế nào mụ em dâu chú cũng mở cửa sau cho nó thoát ra. Chừng đó có một người rình sẵn, y ta cứ lấy gậy mà đập vô cẳng nó. Nó té quỵ rồi, chừng đó chú muốn xử sự sao đó tùy ý.

Người đờn bà nói:

- Còn tui là Út Thoại Huê, em con nhà chú của bà Năm Tảo. Tui bị thằng khốn nạn đó dụ dỗ tới mang bầu, gạt tui uống thuốc phá thai để băng huyết mà vong mạng. Nay tui sẽ nhơn cơ hội này mà báo thù rử hận. Nó bị đập vào cẳng đâu có gì làm trượng, nhưng đây là lúc báo hiện hành, nó sẽ lãnh đủ thứ rùng rợn lắm, để rồi chú coi!

Chú Sáu Tốt gật đầu, bảo Hắc Giao đại vương:

- Sau vụ nầy, tui sẽ xuống mỹ An nhổ hết bùa ếm cho ông.

Thế là thím Bảy Bỉnh sáng hôm sau được chồng cho biết:

- Xế mai mình nấu cơm cho sớm, ăn uống xong tui sẽ theo anh Sáu bơi xuồng vô sông Long Hồ câu tôm, sáng mốt mới về.

Thím Bảy Bảnh nghe nói, mừng rơn trong bụng. Thím cho người nhắn thằng Yêm tới, dặn đêm sau hãy đưa cậu Hai Luyện tới thím. Xong, thím đi chợ mua một con mắm lóc và một ký tôm càng thiệt tươi. Xế hôm sau, thím nấu cơm và chưng mắm lóc để dọn bữa cho chồng. Còn tôm càng, mớ thì thím lăn bột chiên, mới thì trộn gỏi bồn bồn. Xong, thím cất lên giàn bếp. Đến khi chồng thím theo chú Sáu Tối đi rồi, thím mới bày hai món kia lên bàn, lấy thêm chai rượu thuốc trong tủ thờ ra.
Trời tối mịt, cậu Hai Luyện mới cỡi xe đạp chạy tới. Thím đóng chặt cửa ngõ rồi mới cậu uống rượu cho giãn gân cốt và ấp áp huyết mạch. Trong khi cậu ăn nhậu thì thím đi tắm rồi xức dầu bông lài trên tó. Khi thím tươi mát bước lại châm rượu thì cậu đã ngà ngà say. Thím liền bưng mâm xuống bếp rồi bước tới tình nhơn ỏn ẻn:

- Nhớ mình em muốn ngật người ngật mẩy. Vậy mà chẳng biết mình co nhớ em không đây? Hay là mê man tàng tịch con lủng nào rồi?

Cạu Hai Luyện cười, hun tình nương chùn chụt:

- Có con lủng nào ngoài con lủng ưa xức dầu bông lài này?

Hai người cười giỡn nói trây thêm một chập nữa rồi mới cùng nhau vô buồng. Quần thảo hiệp đầu xong thì trống mới điểm canh một. Thím Bảy muốn cậu ra về, Cậu nói:

- Ái ân chưa toại dạ phỉ lòng, lẽ đâu qua về gấp! Để qua cưng mình thêm một keo nữa, đợi tới đầu canh tư rồi qua về Cầu Đào cũng không muộn. Mà mình sao có vẻ bất an vậy?

Thím Bảy Bảnh nhõng nhẽo:

- Không hiểu sao bụng dạ em cứ bào xào hoài, khó chịu quá!

Cậu Hai Luyện cười khì:

- Em cứ giở cái mửng đó hoài.. Thôi, lại đây để qua cưng.

Cậu kéo thím lại gần vuốt ve. Rồi cả hai vùi dập nhau tưng bừng. Bỗng ngoài cổng có tiếng la hét. Ánh đuốc đỏ rực như đám cháy. Tiếng động cổng ngõ ầm ầm. Thím Bảy hoang kinh bảo tình nhơn:

- Chết cha! Có chuyện gì rồi! Mình nên bận quần áo le lẹ rồi chui ngã sau, đi về hướng chuồng heo ông bà Bảy Võng cho mau!

Cả hai vừa run lập cập vừa mặc quần áo. Có tiếng chú Bảy Bảnh gọi cửa ngoài hàng ba:

- Mình ơi, mau mở cửa! Có ăn trộm rình nhà!

Thím Bảy Bảnh mở cửa sau cho cậu Hai Luyện đào thoát xong, liền bưng thếp đèn ra nhà trước, mắng vãi chồng:

- Đồ khùng! Ăn trộm ở đâu mà nói ẩu nói càn! Tui còn thức đơm khuy kết nút chiếc áo dài của tui trong buồng đây mà, có thấy động tịnh gì đâu!

Thím mở cửa. Bọn người tràn vào. Thím tiếp tục mắng như tát nước:

- Mấy người túc ráy chồng tui điều gì mà chưa tới nửa đêm nó lộn trở về ăn nói quàng xiên? Bộ mấy người điên rồi sao?

Chú Sáu Tốt sau khi cầm đuốc rọi khắp nhà trên nhà dưới, buồng trong buồng ngoài, liền chỉ chiếc xe đạp, hỏi:

- Chiếc xe đạp nầy của ai vậy?

Thím Bảy lanh trí, nói lẻo nói lụ ngay:

- Của cậu Kinh lý đó đa. Hồi chiều cẩu tới đây mua hộp diêm quẹt gởi xe lại để đi bộ vô ngọn rạch. Sáng mai cẩu sẽ ghé lại đây lấy xe để về Cầu Đào.

Mọi người tản mát rút lui. Thím Bảy Bảnh chửi chồng tắt bếp thêm một chặp nữa rồi mới chịu ngủ.

Nói về cậu Hai Luyện chui ra ngã sau để nương theo ánh trăng hạ huyền đi về hướng chuồng heo của ông bà Bảy Võng. Vừa tới ngã ba đường đất thì có tiếng hét:

- Ăn trộm! Ăn trộm đó bà con ơi!

Một người trờ tới dùng gậy quất tới tấp vào chơn cậu làm cậu sụm xuống. Cậu toan la lên nhưng một cú đấm như trời giáng tống vào quai hàm khiến cậu chết giấc!

Sáng hôm sau, những người đi chợ sớm thấy cậu nằm gục bên đống phân heo, thở thoi thóp, mắt nhắm nghiền. Họ xúm lại hơ lửa cho cậu, cởi quần áo dính cứt heo của cậu đem gột sạch rồi đưa cậu về Cầu Đào. Hai cô Cẩm hỏi han nguồn cơn thì cậu chỉ nói mình té rào chứ không nói gì thêm.

Vết thương từ hai đầu gối cậu trở xuống tuy được rửa ráy sạch sẽ nhưng ba hôm sau vẫn sưng phồng khủng khiếp làm cậu đau nhức dữ tợn. Túng thế, hai cô Cẩm phải chở cậu đi nhà thường. Cậu bị chứng gangrène, phải cưa hết hai chơn. Bác sĩ Lê Thạnh Mậu biết tin, vô nhà thương thăm cậu. Ông trách hai cô Cẩm:

- Sau tai nạn, đáng lẽ em và dì Tư phải đưa anh Hai vô nhà thương liền thì đâu đến nỗi!

Cô Tư khóc ngất:

- Tụi em có khuyên ảnh nên đi nhà thương nhưng ảnh không chịu, nói rằng không hề gì.

Riêng cậu Hai Luyện lúc chụp thuốc mê trên bàn giải phẩu thì thấy cô Út Thoại Huê hiện về. Cô chỉ mặt cậu, hét:

- Quân sở khanh khốn kiếp! Giờ đây mầy đã thành phế nhơn thì hồn tao mới hết uất ức, có thể đi đầu thai được. Nhưng hai con em mầy còn đó, tao phải theo trù ẻo cho tụi nó điêu đứng thì tao mới bằng bụng!

Tin dữ bay tới tiệm cô Bảy Cẩm Thạch. Cô khóc rống lên thảm thiết. Cô Tám Cẩm Vân cũng chạnh lòng, hỏi:

- Chị có định đi thăm cậu Hai Kinh lý không?

Cô Bảy tức tưởi:

- Không. Nếu chị thấy thân thể tàn phế của cẩu, thì hình ảnh hào hoa phong nhã của cẩu trong tâm tưởng chị sẽ bị bôi xóa hết.

Cô Tám khuyên:

- Bấy lâu nay cẩu cứ chàng ràng bên chị nên chị không chịu lấy chồng. Vậy từ giờ trở đi, chị nên tính phần chị đi chớ. Chị có cơ sở làm ăn, lại còn trẻ đẹp, nếu chị tằng hắng một tiếng thì thiếu gì người tới cầu hôn chị!

Cô Bảy không nói không rằng, vịn vai em khóc thêm một hồi nữa.

Còn thím Bảy Bảnh chẳng hiểu túc ráy chồng cách nào mà hai tháng sau, hai vợ chồng dọn về Mỹ An. Chồng trồng khoai mỡ, khoai từ, khoai sọ, khoai tím, vợ mở tiệm bán hàng xén.

Ông Bang biện Hưỡn từ khi được tin con bị cưa hai cẳng thì ông chết điếng. Đêm đó ông cứ lục đục hoài trong buồng. Sáng hôm sau thằng Xiêm bưng thau nước ấm cho ông rửa mặt thì thấy ông nằm gục trên bàn kê gần cửa sổ, cánh tay mặt ông buông xuôi, máu từ cườm tay rót đọng vũng trên nền gạch bông. Ông đã tự tử chết bằng cách lấy dao cạo cắt đứt mạch máu ở cườm tay.

Từ nhà thương về, nghe tin sét đánh ấy, cậu Hai Luyện khóc như mưa. Lần đầu tiên cậu chấp tay niệm Phật và ôm chầm lấy hai cô em gái. Cả ba gục đầu cùng khóc với nhau, họ bám chặt vào vai nhau....
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bãi Gió Cồn Trăng - Hồ Trường An

Postby tuvi » 12 Jul 2019

Chương 12

Thời gian vẫn dằng dặc tiếp nối. Máy tạo hóa luôn cần mẫn xoay vần. Lớp sóng phế hưng cứ tái diễn không ngừng nghỉ. Thăm thoắt mà tám năm trời trôi qua.

Ông Năm Tảo vẫn tiếp tục nghề xem mạch hốt thuốc. Bà Năm Tảo ngoài việc nội trợ, thương viếng thăm hai cô con gái và hai chàng rể để có dịp hủ hỉ với lũ cháu ngoại. Ông Chín Thẹo qua đời. Bà Chín Thẹo tuy có buồn đôi chút nhưng rất hãnh diện vì lũ con trai mình ăn nên làm ra, còn cô con gái út của bà được làm vợ một bực ăn học, trở nên ngươi đàn bà trung lưu có tư cách. Bà Mười Thiệp và ông bà Mười Hai cất am bên bờ rạch Tân Giai tu hành, ra công giúp đỡ người trong làng, trong xóm.

Cô Út Ngọc An sanh cho chồng một trai hai gái. Cô càng sanh đẻ, máu huyết càng thay đổi, càng lồ lộ vẻ tươi mát nuột nà. Ông Đốc học Hạnh xoay qua viết biên khảo về kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Cô Hai Túy Ngọc sanh cho chồng ba cậu con trai. Vóc vó cô vẫn thanh cảnh, thần thái cô vẫn giữa vẻ xán lạn tươi tỉnh. Ông Huyện Khải vẫn trẻ trung và dẻo dai. Ông giữ vẹn nếp thanh liêm cho nên lương bổng ông không đủ trang trải những nghi thức hào nhoáng cần thiết. Mấy năm sau này, song song với việc làm quan, hễ rảnh rang là ông viết tiểu thuyết loại nghiêng về giải trí, rất ăn khách, riết rồi cô Hai Túy Nguyệt coi sóc luôn việc xuất bản sách cho chồng. Ông bác vật Cảnh dắt vợ lên Sài gòn cư ngụ, lập trường tư thục Kiến Thiết, chủ trương tờ Khuyến Nông nguyệt báo nhắm mục đích khuyến khích nông nghiệp và cổ võ việc canh tân nếp sống mới cho dân quê. Cô Ba Túy Nguyệt sanh cho chồng một trai hai gái. Cô được người chồng cô truyền dạy các món môn bánh xưa, nghệ thuật thêu xưa. Rồi cô còn được dì phước Marie vốn là chị con nhà bác bên chồng dạy các Ôn thêu đan kiểu Tây và các món bánh nay. Sau đó cô mở nữ công học hiệu để dạy các lương gia nữ tử các món nữ công phụ xảo. Cô cũng xin bà Mười Thiệp cho hai cô Kim Liên và Kim Huệ lên Sài gòn theo học trường cô để rồi sau này hai cô trở thành giáo sư nữ công trẻ tuổi, được hai thầy giáo lớp nhứt tiểu học Cầu Kho cầu hôn.

Cô Thiệt Nguyện từ khi làm vợ bác sĩ Lê Thạnh Mậu rồi thì được chồng cưng như trứng mỏng. Cô tận tụy săn sóc chồng, coi sóc mọi việc trong nhà châu đáo. Hễ có thời giờ rảnh rang là cô đi săn sóc trẻ em mồ côi, đi làm công quả cho chùa, lo việc đúc tượng in kinh. Cô sanh cho chồng hai cô con gái xinh như mộng, đẹp như tranh.

Hai cô Agnès Thuận và Isabelle Định thỉnh thoảng có về thăm cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ. Họ đã đứng tuổi, tuy chưa phấn lạt hương phai nhưng họ sớm lo liệu trước. Cô Agnès Thuận làm vợ kế một thương gia Huê Kiều ở Tân An, đối xử với lũ con chồng tử tế nên chiếm được cảm tình của họ. Còn cô Isabelle Định lấy thầy giáo góa vợ dạy lớp nhứt cở Gò Đen. Cô sanh cho chồng một cậu con trai xinh đẹp.

Hai Dần cưới cô Sáu Bạch Huệ, cọn về chợ Phú Quới cách chợ tỉnh sáu cây số. Cô sanh cho chồng cặp hổ bôn hổ bịch kháu khỉnh.

Đã liếc qua gia đạo kẻ hiền lương hoặc bình thường, thì chúng ta nên ghé mắt nhìn qua gia đạo những kẻ vì vô minh mà gây ác nghiệp... cho công bình.

Cậu Hai Luyện tuy trở thành phế nhơn nhưng không vì vậy mà trách trời oán đất và giận ghét người đời. Hồi tưởng lại bao chặng đời dĩ vảng, cùng ngắm nhìn thói tham lam tán ác của gia đình mình, cậu giựt mình kính sợ cho lẽ thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cho nên cậu ăn năn lung lắm. Cậu tìm kiếm cô Ba Hưởng, giúp đỡ đứa con rơi của cậu ăn học. Cậu cũng tìm cô Hai Thiều, cất am cho cô ở gần nhà tía má cô để cô có kẻ săn sóc. Cậu ăn chay trường, làm nhiều công quả và Phật sự cho các chùa chiền. Cậu cộng tác với cô Thiệt Nuyện giúp đỡ trẻ mồ côi, đóng góp tiền cho trường mù, cho nhà thương cùi ở cù lao Rồng, Mỹ Tho. Đều đều cậu tụng kinh cầu siêu cho vong linh cha mẹ sớm thác sanh vào cõi An bang Tịnh độ.

Hơn lúc nào hết, ba anh em cậu Hai Luyện sát cánh nương tựa nhau sau bao tai biến. Trong năm đầu chịu tàn phế, cậu Hai Luyện có cho người dò la tin tức Bửu. Mãi tới ba năm sau cậu mới nhận được tin tức về người em cùng cha khác mẹ kia. Bửu tu hành trên núi Cô Tô, dưới mái hảo am của pháp sư Chơn Huệ, bên Điện kín, pháp danh Thiệt Tánh. Trong thư viết cho cậu Hai, sư Thiệt Tánh cho biết năm tới sư sẽ đi Anh Quốc để diễn thuyết tại các cơ sở và các trung tâm Phật giáo cùng với Paul Carlson, một ký giả người Anh rất am tường Phật pháp.

Cậu Hai Luyện bảo hai cô Cẩm:

- Dòng họ mình chỉ có ba người đáng kể. Đó là pháp sư Chơn Huệ, anh Đốc học Hạnh và sư Thiệt Tánh.

Cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ nhìn nhau dửng dưng. Thiệt tình hai cô cũng sợ quả báo, nhưng không vì lẽ đó mà họ thích chuyện tu tâm dưỡng tính, bởi nghiệp tham dục của họ còn nặng lắm. Tuy thương yêu anh mình, sát cánh với đương sự để chống chỏi với hoạn nạn tai ương, nhưng làm sao họ bỏ được chuyện làm giàu cùng thú vui nhục dục! Năm nay cô Ba Cẩm Tú đã ba mươi lăm tuổi, còn cô Tư Cẩm Lệ đã ba mươi bốn. Cô Ba chuyền từ tay ông Chánh tham biện Leblond qua ông Cò mi Carrière khi ông Chánh tham biện về Pháp. Còn cô Tư ăn ở với ông Biện lý Beauregard được bốn đứa con, đứa nào cũng chưa đầy ba tuổi là vong mạng.

Mỗi khi cấn thai, cô đi xin bùa phép trừ tà ếm quỉ để đứa con trong bụng cô không phải là con ranh, nhưng làm sao cô cải được cái ác nghiệp hiện hành! Khi đứa con thứ hai chết đi, trước khi chôn, cô thử lấy mực đỏ vẽ một vết nhỏ cỡ hột đậu ở háng nó. Đứa con thứ ba vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã có vết son đó. Rồi khi đứa con thứ ba từ trần, cô vẽ thêm một chữ thập nhỏ bằng mực đen trên mông nó. Thế là đứa con thứ tư chẳng những mang vết son ở háng mà còn mang chữ thập đen trên mông. Rõ ràng đây là đứa con ranh đầu thai qua năm kiếp.

Đau đớn vì trải qua năm lần chửa đẻ con ranh con lộn nên lần có chửa thứ sáu, cô Tư Cẩm Lệ đi phá thai trong căn nhà một mụ xẩm già có nhà đâu đít với trường học Huê kiều, giáp với miễu Quốc công. Mụ dùng chiếc đũa sắt bọc dây thun ở đầu, bôi lên đầu một chút dầu cho trơn rồi thọc sâu vào tử cung cô. Dây thun quấn vào bào thai vừa tượng hình trong bụng mẹ, bị rút ra khỏi cơ thể của mẹ nó. Cuộc phá thai không quá đau đớn như cô tưởng. Cô thầm mong rằng từ đây về sau, bởi trận phá thai kia cô sẽ bặt luôn đường chửa đẻ. Nhưng hai ngày sau, trong cơn chiêm bao cô thấy Cô Tư Thục hiện về, mắng:

- Đồ khốn nạn! Mầy tưởng đâu phá thai là hết chuyện sao! Thai nhi dù có chết đi thì cũng kể như mầy đã sanh lần thứ sáu rồi vậy. Còn thêm ba lần sanh nữa là đủ chín lần, đứa con ranh con lộn kia sẽ vật mầy chết tươi. Khi nó vừa ra đời là mầy sẽ bị băng huyết sối xả, đố ai cứu được!!

Cô Tư Cẩm Lệ sầu não lắm, thường cùng chị thì thầm than thở rồi khóc sụt sùi. Cậu Hai Luyện khuyên dứt cô em út:

- Nấu mầy sợ sanh đẻ thì cữ kiêng việc chung chạ với chồng. Mầy đã gây ác nghiệp thì chi bằng lo tụng kinh sám hối, dứt chuyện tham dục, bình tĩnh mà trả quả. Có lý đâu mầy cứ huê kia nguyệt nọ hà rầm, lo chạy áp phe chơn không bén đất. Mầy cũng đã trải qua hai tên bạn chăn gối, thôi thì dứt hết nợ phong tình nguyệt trái đi cho khỏe thân...

Và cậu quay qua trách cô Ba Cẩm Tú:

- Còn em, em đã dùng đủ mưu đen chước đỏ đẻ kiếm được người chồng thuộc hạng thượng lưu trong xã hội, vậy mà em không chịu giữ vững hạnh phúc, để rồi giờ trở thành thứ vợ ngày vợ bữa cho bọn ngoại kiều! Em cứ coi cặp chơn cụt của anh đây mà hành xử sao cho khỏi vướng vào vòng tai kia họa nọ.

Cô Ba khóc lóc:

- Ai cũng muốn đẹp mặt nở mày chớ ai có muốn làm bia cho miệng đời chê cười sỉ nhục đâu! Bởi em dại dột, nên giờ có muốn kiếm một ông chồng tử tế cũng như mò kim đáy biển mà thôi!

Cô Tư Cẩm Lệ tuy đồng ý với anh mình, nhưng cô đang độ trẻ trung sung sức, lẽ nào cô chịu cảnh cám treo để heo nhịn đói cho được! Bởi đó phá thai chưa trót năm mà cô đã có chửa lần thứ bảy. Cô sợ quá, thỉnh kinh Từ Bi Thũy Sám và Lưng Hoàng Sám Pháp về tụng ra rả.

Một sáng kia, cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ, kẻ từ nhà ông Cò mi, người từ nhà ông Biện lý, không hẹn mà cùng về Câu Đào để thăm anh. Bà Năm Đặng dọn lên bàn bữa đểm tâm ê hề, nào bánh canh giò heo, nào bánh đúc tôm khô, nào cà phê sữa, nào khoai luộc, bắp luộc.

Giũa lúc đó, một tăng sĩ mặt mũi thanh tú, dáng dấp oai nghi, từ ngoài cửa thung dung bước vào. Ba anh em chưng hửng, ngờ ngợ là ai rồi. Tăng sĩ chiếu cặp mắt sáng như sao nhìn họ, sang sảng bảo:

- Chắc anh chị không nhận ra em. Bửu đây mà. Bây giờ em là Đại đức Thiệt Tánh rồi.

Cậu Hai Luyện cảm động:

- Mừng thầy về thăm nhà sau tám năm tầm sư học đạo.

Cô Ba Cẩm Tú cảm xúc quá, vừa khóc vừa bệu bạo:

- Thầy ôi, gia đình mình tai nạn cứ tới dập dồn. Thầy về đây thăm nhà và ở chơi được bao lâu?

Sư Thiệt Tánh nén xúc động:

- Em ở chơi được hai tháng. Anh ký giả Paul Carlson hiện đang ở bên Tịnh Liên am với ông Đạo Chuối. Tuần tới ổng sẽ cùng em lên Sài gòn để lo giấy tờ và mua vé tàu qua Hồng Kông, từ đó mới đáp tàu đi Luân Đôn.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng giọt vắn giọt dài nhưng cô nén được ngọn trào lòng sớm hơn anh và chị mình. Cô xuống bếp đốc thúc con Lài, con Lý dọn mâm chay cho Bửu. Ông bà Năm Đặng và tôi tớ trong nhà cùng kéo ra chào sư Thiệt Tánh, mừng mừng tủi tủi dạt dào.

Sư Thiệt Tánh nói:

- Em sẽ lập đàn cầu siêu cho ba, má lớn, má ruột của em cùng là những kẻ quen biết có bài vị đặt tại Tịnh Liên am.

Đêm đó, quanh bàn tròn, bốn anh em kể lể đủ mọi chuyện tai biên trong gia đình. Cô tư Cẩm Lệ than thở:

- Thầy ôi, cứ theo cái vèo nầy, tui đẻ thêm ba đứa nữa thì còn gi tánh mạng tui? Xin thầy nghĩ tình chị em, cứu vớt tui với!

Sư Thiệt Tánh nhìn anh chị mình thong thả và êm ái bảo:

- Em về đây biết được anh chị có ý định cải ác tùng thiện thì điều đó còn quí hơn là cảnh nhà con đàn cháu đống, tiền của dư muôn. Em sẻ giúp anh và hai chị thoát khỏi tai họa rình rập để an lòng qui y Tam Bảo. Vậy anh Hai cần cầu siêu thêm những ai, xin biên tên cho em. Người sống nào cần ban bùa tặng niệc, xin cũng cho em biết luôn.

Khi tiễn sư Thiệt Hạnh ra ngủ ở nhà thủy tạ và cắt đặt thằng Đực túc trực để lo cho sự xong, cậu Hai Luyện về buồn riêng, chong đèn ngồi nhìn bóng mình in trên vách. Ngoài song cửa sổ đêm mùa hè oi bức và đen như nhuộm mực. Trên nền trời, sao sáng hiện như rải gạo rắc tấm. Đêm ngoại ô chưa tới giữa canh hai mà bắt đầu yên lặng. Bên hàng xóm có tiếng xay lúa rào rào. Ngoài xa nữa là tiếng giã gạo cắc cum. Ngoài ra không có tiếng nào khác, họa chăng là tiếng dế rỉ rả khóc sương.

Rồi vầng trăng hạ huyền méo xẹo như miệng con cá lưỡi trâu hiện lên phía trên mấy ngọn cau hòn dừa lửa, in trên nền trời chàm đậm. Ngọn đèn lạnh ở trong này, bóng tà nguyệt ngoài kia làm cho tâm trí cậu Hai Luyện bát ngát bao cảm khái về cuộc đồi dâu bể, về thế sự mị thường.

Khi Sáu Tốt gở các lá bùa trấn ếm xong, thần Hắc Giao đại vương vào buổi chiều hôm sau, nổi cơn lốc lớn, xoáy một vực không khí lớn cỡ cái gò đất kéo từ vàm rạch tạt qua nhà ông Hương sư Chiêm, cuốn hết nóc nhà, rui kèo. Con lốc kéo dài 3 phút, cũng đủ cho lối xóm thấy trên thinh không, chỗ con lốc đương lộng hành, một con sấu đen bay lượn, miệng há tác hoác, đuôi vùng vẫy đùng đùng như sấm nổ. Khi con lốc ngưng thì ngôi nhà hương hỏa một căn hai chái của ông Hương sư Chiêm sụp đỗ tan hoang, còn ông bị cây đè nằm chết nhăn răng.

Riêng thầy Mười Khói, một đêm nọ thầy nằm chiêm bao thấy một con quỉ cụt đầu, một tay bưng thủ cấp, một tay chỉ vào mặt thầy hét lớn:

- Mầy dùng bùa trấn ếm tao. Để rồi mầy coi, con cháu tao sẽ báo thù thay cho tao!

Tỉnh dậy thầy kinh sợ lắm, lền cùng đứa con chèo ghe lườn từ sông Long Hồ ra sông Cổ Chiên để đi Mỹ An. Thầy tính phen nầy sẽ dùng thứ bùa mạnh hơn để trấn ếm thần sấu đen kia. Khi ghe gần đến An Hương thì thầy thấy có khúc cây vỏ xủ xì xám mốc nổi lập lờ bên hông ghe. Thầy liền ngưng chèo, thò tay toan vớt. Ai dè đó là con sấu. Nó lẹ như chớp, quãy đuôi há miệng táp cụt hai bàn tay thầy. Máu ra quá nhiều nên giữa đường, thầy trút linh hồn.

Chú Bảy Bảnh từ khi thiên cư về Mỹ An thì được sự chiều chuộng ngọt bùi. Năm sau chú bị bịnh bạo, được vợ săn sóc châu đáo cho tới ngày từ trần. Thím Bảy có lên Cầu Đào thăm cậu Hai Luyện, yêu cầu cậu nối lại duyên xưa nhưng cậu dùng lời trong kinh kệ để cảm hóa thím, được thím nghe lời, tìm đến am Huệ Tịnh làm kẻ trợ tu cho sư cô Diệu Trí.

Cô Ba Hưởng từ khi lấy chồng khách trú thì được chồng cưng lắm. Cô sanh cho chồng hai trai ba gái. Còn thằng con đầu lòng của cô, cũng là con cậu Hai Luyện, vẫn được tía ghẻ nó coi như trưởng nam. Anh chàng khách trú về sau thấy cậu Hai thành tâm cải hối nên cho đứa nhỏ tới lui với cậu, làm cho cậu được an ủi nhiều. Thịnh, tên đứa nhỏ, tỏ ra hiếu hạnh với cha ruột lẫn cha nuôi, nên lối xóm khen ngợi lắm.

Hai đứa con ông Mười Hai là cậu Hai Thanh và cô Ba Hồng về sau ăn nên làm ra, có gia đình hạnh phúc. Cả hai vâng lời mẹ, tìm kiếm những cô gái trước kia bị bà Mười Hai dụ dỗ làm nghề buôn hương bán phấn, giúp họ làm lại cuộc đời. Đó cũng là cách báo hiếu để ác nghiệp của đấng sinh thành ra họ mỗi ngày một mỏng, và phúc quả của họ càng lúc càng tròn đầy.

Cai tuần Xướng, thằng Yêm, thằng Xiêm, thằng Đực, con Lý, con Lài vẫn ở với cậu Hai, được cậu trả công xứng đáng. Vợ Cai tuần Xướng qua đời, anh xin cưới con Lài. Thằng Đực thì cưới con Lý. Thằng Yêm và thằng Xiêm vì mê cậu Hai thuyết pháp nên xin cùng tu với cậu, không chịu cưới vợ để bận bịu tấm thân.

Ông bà Năm Đặng từ khi thấy cậu Hai bị tai nạn thì lòng tràn ngập thương xót. Rồi khi thấy cậu Hai tu hành tinh tấn, họ noi gương thằng Xiêm, thằng Đực, sanh lòng mộ đạo nên không chịu nuôi thứ cá bằng máu kinh nguyệt cho hai cô Cẩm nữa. Họ cũng không ăn cắp tiền bạc của cháu mình mà còn để dành, giúp đỡ người cùng khó.

Còn hai chị em cô Bảy Cẩm Thạch thì sao? Dù có thương cậu Hai Luyện cách mấy, cô Bảy vẫn không thể vì đó mà hy sinh làm vợ hay làm người tình cậu được. Cho nên năm sau cô kết hôn với thầy thông ngôn Lương Phùng Xuân hóa vợ mà không con. Cô sanh cho thầy một con trai kháu khỉnh. Niềm vui duyên mới cùng tấm tình chơn thật của chồng đã giúp cô bứng hết gốc rể kỷ niệm những ngày tò tí với cậu Hai. Còn cô Tám Cẩm Vân thì làm bé ông Quận Dần.

Ngồi ôn qua bao nhiêu chuyện của những người trong tỉnh lỵ nầy, cậu Hai nhớ lại thầy kiện Trần Hảo Hiệp. Thầy ta đã tái hôn với cô Hai Tú Trinh, đã cho hai cô gái lớn xuất dương du học bên Pháp, nhưng cô Hai cứ son sẻ hoài, không chịu đẻ cho thầy một cậu con trai để nối dõi tôn đường. Nghe nói cô Hai hiền quá hóa ra trơ, không biết thủ đoạn nào để nịch ái chồng nên thầy mèo mỡ tùm lum.

Riêng vợ chồng Cai tuần Hạp đi tha phương cầu thực ở Bạc Liêu vậy mà nhờ đất lạ đãi người dưng, họ thoát khỏi cảnh eo nghèo ót ngọt, lìa phận tá điền tá thổ để làm chủ tám chục mẫu đất. Cai tuần Hạp dùng tiền mua chức gương thân. Chị vợ khéo tay làm thêm đủ thứ mắm, thứ khô để đếm cho các ghe thương hồ nên kiếm được khá tiền. Họ vẫn còn nhớ ơn cô Thiệt Nguyện nên thường viết thơ hỏi thăm cô. Hôm được tin cô sanh con trai, họ lặn lội về Vĩnh Long để dự tiệc ăn mừng. Họ còn mừng cho mẹ con cô Thiệt Nguyện chiếc khánh vàng và cho riêng đứa nhỏ chiếc lắc vàng cỡ nửa lượng để khi lớn sẽ đeo.

Cái thành tâm tu hành của cậu Hai Luyện lẩm rẩm vậy mà chinh phục được nhiều người. Cô Bảy Cẩm Thạch và cô Tám Cẩm Vân thường đến thăm cậu, hỏi ý kiến cậu lúc hai cô gặp chuyện trặc trẹo nan giải. Cô Thiệt Nguyện cũng thường đàm đạo với cậu trong những công việc trùng tu chùa am trong vùng hay đúc chuông, tạc tượng, in kinh.

x
x x

Sư Thiệt Tánh có đưa ký giả Paul Carlson lại thăm anh mình. Anh ta độ bốn mươi ngoài, mặt mũi khôi ngô hiền hậu, thái độ điềm đạm, cử chỉ thong dong. Paul nói được tiếng Pháp nên có thể đàm đạo với cậu Hai Luyện về Phật pháp, về đất nước Hậu Giang, về vùng Năm Non Bảy Núi, và nhứt là về các ông đạo gốc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương hay gốc Hòa Hảo tu theo Mật Tông.

Paul Carlson bảo:

- Con sông Vàm Cỏ ở miền đông và con sông Cửu Long chảy qua miền tây xứ Nam kỳ là hai con sông thiêng. Nhánh Vòm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây chảy tới đâu thì đạo Cao Đài lưu hành tơi đó. Rất đỗi một con kinh ráp vào nhánh Vàm Cỏ Tây là kinh Bà Bèo khi đâm qua vùng Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho mà cũng có giáo dân Cao Đài cư ngụ. Còn sông Cửu Long bắt nguồn từ dãy Tuyết Sơn thuộc Tây Tạng nên hai bên lưu vực nó có biết bao tu sĩ tu theo Mật Tông. Khi sông chảy qua Miến Điện, Lào Cao Miên, khí thiêng mang từ nguồn không phát tác, không hiện hành. Phải đợi khi nó chảy qua vùng Năm Non Bảy Núi, khí thiêng nó mới hiện hành bành trướng. Tôi tu ở Tây Tạng bốn năm, thầy tôi là một vị lạt ma áo đỏ. Khi ông viên tịch có dặn tôi đi hành đạo theo sông Cửu Long về vùng Thất Sơn và sẽ gặp người điểm đạo cho tôi. Từ nguồn men theo sông ra cửa biển, tôi tốn mất mười năm để rồi sau hết gặp pháp sư Chơn Huệ. Ông là vị thầy thứ hai của tôi, truyền ấn chứng và pháp môn cho tôi. Tôi có pháp danh là Thiệt pháp.

Sư Thiệt Tánh nói với cậu Hai Luyện:

- Gần ngày rằm tháng bảy, em sẽ cho lập đàn tràng ở Tịnh Liên Am để cầu siêu cho người chết và cầu an cho người sống. Xin anh Hai hiệp cùng cô Thiệt Nguyện lo giùm cho.

Sư đi viếng mộ cô Hai Kim. Trước đây bốn năm. cậu Hai Luyện đã bốc mộ và cải táng cô trong cuộc đất của dòng họ cậu. Sư thắp nhang cho mộ mẹ, mộ cha và mộ bà đích mẫu, nước mắt đoanh tròng, nhớ lại tuổi thơ mà nếu chép lại chắc phải dùng nước mắt pha mực mới nói hết tinh ý. Sư cũng đi viếng bà con họ hàng, dùng chánh pháp để khuyên họ ăn hiền ở lành. Sau đó sư cùng ký giả Paul Carlson đi Sài gòn lo giấy tờ.

Khi trở về Vĩnh Long, sư Thiệt Tánh bảo anh mình lập một bàn hương án chưng ngũ hoa ngũ quả và thắp đèn bảy ngọn. Sư cũng bảo hai cô Cẩm tắm rửa sạch sẽ, tụng cho xong hai bộ kinh Lương Hoàng Sám và Từ Bi Thủy Sám cùng chú tâm phát nguyện.

Cô Ba Cẩm Tú khấn vái:

- Lạy thập phương chư Phật. Xin phù hộ cho con thành tâm mến đạo, chí thành tìm về ánh đạo vàng. Con sẽ đem tiền của giúp đỡ kẻ cô thế, lo làm Phật sự, săn sóc anh con cho tới ngày anh nhắm mắt từ biệt cõi đời.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng nguyện:

- Lạy thập phương chư Phật, lạy chư Bồ tát, lạy chư hiền thánh tăng, cho con đủ sức kham nhẫn trả ác quả. Xin Đức Quan Thế Âm Bồ tát ban cho con tấm lòng vô úy, con sẽ tu tại gia.

Hôm sau nữa, sư Thiệt Tánh đặt lên hương án tấm kiếng mà sư đã chú nguyện 108 biến Chuẩn Đề Phật Mẫu Đà La Ni bên cạnh hai chén nước mưa. Sư thắp nhang rồi bảo hai chị em mình quì trước bàn thờ. Sư đọc thần chú Mật Tông một hồi rồi bảo mỗi người bưng một chén nước uống cạn.

Cô Ba Cẩm Tú sau đó cảm thấy ruột gan mình như được gọt rửa Những tham dục trong cuộc sống dật lạc như lắng xuống dần. Cùng với ý hướng hoàn lương đang manh nha, chén nước như giúp có thần lực làm lại cuộc đới sau mọi đổ vỡ. Ngày xưa khi còn học ở trường Áo Tím, cô cũng đã từng suy nghĩ về huyền hoại một con phụng hoàng tái sanh từ tro than của hài cốt nó. bây giờ, nhờ tha lực của thần chú Mật Tông, cô cảm thấy mình sẵn sàng làm theo thiên lương với niềm phấn khởi kỳ diệu. Thì đó, hai hôm sau, cò mi Maurice Carrière cho cô biết hắn sẽ đổi lên Hà Tiên. Vậy mà cô vẫn dửng dưng khi thấy hắn không rủ cô theo, không cảm thấy hờn giận tủi thân trước thói ăn ở bạc bẽo của hắn.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng vậy. Chén nước đã làm ngọn lửa thân xác cô tắt rụi. Cô chợt thấy hơn lúc nào hết. cuộc sống thế tục đầy bon chen sao mà vô nghĩa quá. Đồng thời sự hướng thượng bừng sáng mạnh mẽ trong cõi tâm linh cô. Tuần lễ sau, cô cảm thấy đau bụng. Từ cửa mình cô, huyết từng cục, từng lọng thoát ra làm cái bụng chửa bảy tháng của cô xẹp hẳn đi. Lấy làm lạ, cô hỏi sư Thiệt Tánh.

- Bộ thầy trộn thuốc phá thai trong chén nước hay sao? Bây giờ cái thai hóa huyết chui ra, vậy kể như tui đã sanh lần thứ bảy rồi.

Sư Thiệt Tánh mĩm cười:

- Làm gì có chuyện sát nhơn đó! Thai của chị là quái thai. Em đã đọc thần chú khuyến dứt nó thoát khỏi vòng oan oan tương báo. Em chỉ hỏi gặng nó, nếu nó bằng lòng làm con chị thì để cho chị sanh nó bình thường và nuôi nó tới ngày khôn lớn. Còn nếu nó không chịu thì nên hóa huyết mà chui ra ngoài và vĩnh viễn không theo chị báo oán nữa. Việc hóa huyết là do nó chọn lựa đó thôi.

Lật bật mà ngày rằm đã tới. Cô Thiệt Nguyện, ông Đốc Hạnh, sư cô Diệu Trí, hiệp với ông Hương cả Hành lập đàn tràng, tổ chức lễ Vu Lan trọng thể tại Tịnh Liên am. Vợ chồng ông Đốc Hạnh, vợ chồng ông Huyện Khải từ Tiểu Cần sang, vợ chồng ông Bác vật Cảnh từ Sài gòn về. Bác sĩ Lê Thạnh Mẫu bỏ ra một số tiền lớn để nhà trù dọn tiệc chay đãi thiện nam tín nữ đến dưng hương. Các bà các cô bận rộn lo việc bánh trái, cỗ bàn túi bụi.

Chiều ngày mười bốn là lễ tụng kinh Vu Lan và kinh Địa Tạng. Tối đến là lễ huê đang. Thiện nam tín nữ đi dưng hương thả xuống rạch quanh am những búp đèn hoa sen. Sáng ngày rằm, lễ phóng sanh chim cá, lễ tụng kinh cầu an và kinh cầu siêu bắt đầu. Sau đó là lễ thí thực. Dùng cơm trưa xong, các Phật tử dự buổi thuyết pháp do sư Thiệt Tánh đảm nhiệm.

Tới ba giờ chiều, mọi lễ lạc chấm dứt. Các Phật tử lần lượt ra về. Sư Thiệt Tánh mời anh và hai chị em mình ở lại am đêm nay để xem chuyện lạ.

Khoảng 5 giở chiều, trai tráng thu dọn đàn tràng xong xuôi, ai về nhà nấy. Các bà các cô rửa chén dĩa nồi niêu và lau chùi căn bếp xong cũng rút lui hết. Cô Ba Cẩm Tú nấu một nồi cháo chay để mọi người giải lao. Trong am giờ đây chỉ còn ông bà Hương cả Hành, ông Đạo Chuối, sự Thiệt Pháp, sự Thiệt Tánh cùng anh em cậu Hai Luyện. Sư Thiệt Tánh lại đặt bàn hương án ở giữa am, bày hương đăng trà quả. Sau đó sư bước vào trung đường bảo mọi người:

- Hôm nay tôi sẽ cùng sư Thiệt Pháp triệu thỉnh những vong hồn có bài vị thờ tại am về đây luận việc tội phước báo ứng cùng việc nhơn quả trả vay. Xin quí vị chớ có kinh hãi khi thấy điều lạ.

Rồi đó sư Thiệt Pháp và sư Thiệt Tánh bắt đầu làm lễ chiêu hồn, triệu thỉnh âm binh. Trên nền trời màu xanh nước biển, trăng tròn và sáng vàng vặc. Trong khuôn viên của am, bốn bề quạnh quẽ, tàn cây, khóm chuối tô những khối bóng bí mật trong biển trăng. Gió lúc đầu reo từng đợt phơi phới. Nhưng rồi câu thần chú, lời kinh, tiếng hú đầy âm vang rờn tợn làm cho ánh trăng trở nên lạnh lẽo, tiếng gió hóa ra thê thiết và cảnh vật chung quanh như huyền ảo và rờn rợn bóng âm hồn...
Khi cuộc chiêu hồn chấm dứt, nhị vị pháp sư trở về bàn tròn với mọi người. Ông Đạo Chuối tắt ngọn đèn măng- sông trong chánh điện, rồi cùng mọi người chong mắt ngó ra sân, chỗ đạt bàn hương án.

Một trận gió tanh nồng mùi máu thổi tới, một người mặc áo đen cụt đầu, tay xách thủ cấp mình, hổn hển nói:

- Tôi là thần Hắc Giao đại vương. Bởi ông Kinh lý Luyện tham vàng nên tôi bị cụt đầu. Nay nhờ nhị vị pháp sư cầu siêu nên tôi sẽ được đầu thai làm con Nam Hải Long Vương.

Ông ta ráp đầu vào cổ rồi biến đi. Một người đàn bòa mặc áo trắng, mặt mày xanh chành, theo gió hiện đến, bảo:

- Tui là Đỗ thị Thoại Huê, vì uống lầm thuốc phá thai của ba người con ông Bang biện Hưỡn mà vong mạng. Nhờ pháp sư Thiệt Tánh khuyên dứt nên tui dẹp bỏ oán thù, sẽ theo đức Thiên Hậu chùa Minh Hương cứu nhơn độ thế để mai sau thác sanh vào cảnh giới tốt lành.

Hình bóng chị mờ dần để thay vào là một người đờn bà trạc ba mươi tuổi, dáng dấp yêu kiều. Bà ta thở khò khè một cách khó nhọc:

- Tui tên Nguyễn Trinh Thục, con gái ông Huyện Tịnh ở Phú Nhuận. Chồng tôi là thầy kiện Trần Hảo Hiệp. Bởi con vợ bé của chồng tui là con Tư Cẩm Lệ ghen ngược, mướn Thạch Lọn thu da trâu vô bụng tui nên tui chết tức tưởi. Suốt tám năm nay tui a tòng với đứa ma ranh báo oán nó. May nhờ có nhị vị pháp sư soi rõ, tui mới vỡ lẽ rằng hồi kiếp trước tui đã ác độc dùng bột tì sương đầu độc con Tư nên kiếp này nó hại mạng tui để báo thù. Vậy để chấm dứt chuyện oan oan tương báo, tui xin tìm nẻo đầu thai, chớ làm oan hồn thì thường chịu đói khát, lãnh lẽo.

Hồn cô Tư Thục vừa biến mất thì gió lốc nổi lên, một áng sương như khói đặc thoảng qua mang theo tiếng khóc tỉ tê. Rồi khi sương tan thì một cặp vợ chồng trung niên hiện ra. Ông chồng nói:

- Tui là Bang biện Vương Văn Hưỡn, vợ tui là Trịnh Thị Thiệt. Bởi vợ chồng tui ăn ở ác đức nên bị sa địa ngục, chịu khổ hình qua một tiểu kiếp rồi mới đi đầu thai được. May nhờ có thằng con trưởng tui cải tà qui chánh, thường tụng kinh Vu Lam và kinh Địa Tạng cho cha mẹ nó. Lại nữa thằng con út tôi xuất gia, thường tụng thần chú Mật Tông cho vợ chồng tui nên nghiệp ác của tụi tui tiêu bớt khá nhiều. Tụi tui chỉ phải chịu khổ hình chừng 5 năm nữa rồi sẽ được đầu thai.

Ông bà Bang biện Hưỡn biến mất. Trăng sáng vằng vặc bỗng chiếu xuống sân một luồng như dải lụa bạch. Một người đàn bà mặc áo trắng, sắc diện phúc hậu đoan trang hiện ra, kể lể:

- Tui là Phùng thị Kim, nàng hầu ông Bang biện Hưỡn và là mẹ của pháp sư Thiệt Tánh. Sau khi phù hộ con tui lên núi Cô Tô tu hành, đáng lẽ tui được đầu thai vào gia đình lương thiện, nhưng đức Cứu Thiên Huyền Nữ cảm thương thói nhẫn nhục của tui, cho tui làm thị nữ hầu hạ ngài để rồi kiếp sau tôi sẽ thác sanh vào quốc độ tốt lành hơn cõi uế độ hồng trần nầy.

Luồng sáng mờ dần để từ bóng tối bước ra một người đàn ông mặt thỏn, râu ngạnh trê. Đương sự khai:

- Tui tên Bùi Văn Khói tức Mười Khói, chuyên làm bùa chú. Bởi tôi ếm trấn Hắc Giao Đại Vương nên ổng sai con sấu ở sông Cổ Chiên táp cụt tay tui khiến tui mất máu chết. Hồn tui không thể đi đầu thai được mà phải luẩn quẩn theo phò con sấu đó. May nhờ nhị vị pháp sư lập đàn giải oan nên đêm nay tui sẽ tới quán cháo lú của Mạnh Bà bên cầu Nại Hà ăn cháo xong mới đi đầu thai.

Thầy Mười Khói vừa biên mất thì một luồng gió tanh tưởi thổi đến. Mặt trăng bị cụm mây đen án ngữ nên cảnh vật tối sầm lại. Khi cụm mây trôi đi thì một người mập mạp, mình mây ướt sũng hiện ra, nói:

- Tui là con cá nược đực thành tinh, thường gây chứng bịnh mắc đàng dưới cho các bà các cô bên lưu vực sông Bà Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên, trong đó có cô Út Ngọc An nữa. Vì ông bà Chín thỉnh ông Đạo Chuối và cô Thiệt Nguyện tụng kinh Dược Sư nên tui bị các tướng Dược Xoa đánh đuổi rồi bị Nam Hải Long Vương đánh chết, hồn sa vào địa ngục A Tì.. May nhờ tui đã từng cứu vớt ông Đạo Chuối và sư Thiệt Tánh hồi kiếp trước khỏi chết chìm trên sông nước nên họ tụng kinh cho tui thường xuyên. Giờ tui đã thoát khỏi địa ngục A Tỳ chỉ còn ở ngục phanh thây chừng mười năm nữa sẽ được đi đầu thai.

Hồn con thủy quái biến đi thì một người đàn ông ở trần, tay và ngực đầy lông lá khét nghẹt hiện đến, buồn rầu nói:

- Tui là con chó ngao thành tinh, đêm đêm lén vô phòng cưỡng dâm bà Bành Thị Mười Hai, nhưng rồi bị ông Đạo Chuối đào mả khiến tui phải chết luôn. Hồn tui bị đọa địa ngục phân dơ, đàm nhớt tanh hôi. May nhờ được nghe kinh nên tui đã thoát khỏi địa ngục, sẽ đầu thai làm chó nhà nghèo hai kiếp, kiếp thứ ba làm chó nhà giàu cho sung sướng tấm thân.

Gió càng lúc càng mạnh, cuốn lá vàng trên sân lào xào, xua tan mùi hôi hám, tánh tưởi của các thú vật thành tinh kia đi. Trăng đã ngả về tây, sáng long lanh ánh nước. Rồi một cụm tường vân đẹp như ren thêu ôm quanh mặt trăng. Một mùi hương lạ sực nức khắp khuôn viên am. Một mỹ nhân áo trắng vàng đeo ngọc khảm chấp chới, hương xông xạ ướp ngạt ngào, tay cầm bình ngọc xanh hiện ra:

- Tui trước kia là con tinh cây cẩm lai, có làm một vài việc thiện nên tui được thác sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương làm cây quỳnh trổ bông ngũ sắc cho chư tiên cúng Phật. Giờ, tui hiện về đây để chúc mừng các con ông Bang biện Hưỡn đã quyết tâm phá mê trừ khổ.

Mỹ nhơn kê miệng vào bình ngọc uống một ngụm nước rồi phun thành một áng sương thơm mát càng lúc càng tỏa rộng. Khi sương tan thì đương sự cũng biến mất. Trên không trung văng vẳng tiếng nói trong trẻo và vang lộng như chuông ngân:

- Ngày mai các huê kiểng trong khuôn viên này sẽ thạnh phóng, báo hiệu Phật pháp nơi vùng đất Vãng được lưu hành xa rộng dài lâu.

Khi tiếng nói im thì pháp sư Thiệt Tánh hỏi vọng ra:

- Còn ai nữa không? Xin mời ra hội kiến!

Một giọng nói non ớt trổi lên:

- Có tui đây!

Một đứa nhỏ cỡ bốn, năm tuổi hiện ra, nhìn về phía cô Tư Cẩm Lệ:

- Có một kiếp nọ tui là con cô Tư đây. Tía tui vừa chết, cổ tái giá với một tên hào phú kia. Ga này không thích vợ có con riêng nên cô Tư trấn nước cho tui chết. Bởi đó nên tui theo báo oán cổ hoài. Giờ đây, cô Tư đã quyết tâm cải tà qui chánh nên tui cởi bỏ oán hận, hóa huyết chui ra, kết thúc mối thù truyền kiếp cho xong.

Nói xong đứa trẻ vói tay cười khanh khách rồi biến mất. Lúc đó gà trong xóm bắt đầu lác đát gáy hiệp nhứt. Trên trời sao sáng vẫn nhấp nháy. Mặt trăng sáng quạnh hiu treo lơ lửng ở phương tây. Mùi bông lài vẫn thơm sực nức bên thềm.

Bỗng một cặp vợ chồng tuổi trạc ba mươi ngoài, dắt một đứa nhỏ cỡ mười tuổi, mặt mày tươi rói. Người chồng bảo:

- Tụi tui là gia đình người thợ rèn ở gần Cầu Lầu bị sét đánh chết. Bởi tui có làm chút ơn với sư Thiệt Tánh nên sư thường giải kinh Thập Nhị Nhơn Duyên cho tụi tui nghe, giờ tụi tui sắp thác sanh lên cung trời Đao Lợi để hưởng ngũ dục cùng dân quốc độ ấy.

Gió lốc nổi lên, cả ba biến mất. Trời trong trăng tỏ hơn bao giờ hết. Sư Thiệt Tánh dẹp bàn hương án, khiêng vào trong. Ba anh em cậu Hai Luyện chắp tay niệm Phật không ngớt. Cô Tư Cẩm Lệ nước mắt ràn rụa bảo sư Thiệt Tánh:

- Bạch đại đức, gia đình mình gặp bao tai biến mà cuối cùng còn có thể nương theo đạo pháp chính là nhờ đại đức vậy. Chị em tui từ đây sẽ vững lòng tu hành và làm kẻ trợ tu cho anh Hai.

Sư Thiệt Tánh chỉ chắp tay niệm Phật. Ông Đạo Chuối bảo:

- Dưới nhãn quan người đời thì gia đình ông Bang biện Hữu suy sụp, ba người con dòng chánh xuống dốc thảm thê. Nhưng qua cặp mắt giác ngộ, chưa chắc có gia đình nào hơn gia đình ông kể từ đây.

Ông Hương cả Hành tiếp lời:

- Cô Thiệt Nguyện thì từ đạo trở về đời, côn hai cô Cẩm đây từ đời trở về đạo. Thiện tai! Thiện tai!

Trời sáng trắng bên ngoài. Nắng bắt đầu lên. Bỗng sư Thiệt Pháp chỉ ra sân:

- Quí ông quí bà xem kìa!

Bồn hoa giữa sân gồm bông cúc, sao nhái, nở ngài, móng tay, huệ lan tưng bừng nở. Bên thềm những khóm ngọc đơm trắng hoa thơm ngát. Ngoài xa, các cây sứ cùi, cây dành dành trổ bông trắng, bằng lăng trổ hoa tím, ô môi hoa hường, điệp tây hoa đỏ. Và kìa những khóm trang đỏ, trang hường, trang vàng, trang trắng trồng giáp mé vườn cũng trổ bông ê hề. Nơi vòm cổng, màu vàng bông huỳnh anh chói rực giữa màu trắng và đỏ của giàn bông giấy. Ông Hương cả Hành theo chân ông Đạo Chuối và nhị vị pháp sư bước ra sân, tới mấy gốc quỳnh trồng trong chậu thì thấy mỗi cây đã trổ bảy búp lớn cỡ bụm tay. Ông Đạo Chuối niệm Phật rồi bảo:

- Đây là nhờ thần lực của tinh linh cây quỳnh trên cõi trời Tứ Thiên Vương vậy.

Hết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,148
Posts: 95587
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong


Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 39 guests