Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi Thứ Chín: Chuỗi Châu (Phần 1)

Nước trên mái ngói men theo rãnh chảy thành dòng, nhỏ giọt tí tách.

Đường phố được cơn mưa rửa sạch như lau như ly, mày cửa hiệu lúc trước đóng cửa giờ lần lượt mở cửa bán hàng trở lại, người đi đường cũng đông dần lên.

Khương Trầm Ngư cụp ô, đi vào khu chợ.

Khu chợ nằm ở góc Đông Bắc Lô Loan này là khu buôn bán nổi tiếng, thương nhân đến từ bốn nước đã biến nơi này trở nên phồn hoa náo nhiệt, ngoài phố Hoa Tân thuộc về Hách Dịch nàng đi qua lúc nãy, còn có ba con phố song song chạy theo hướng Nam Bắc, mà trong đó con phố nằm ngoài cùng về hướng Đông chính là phố Vân Tường.

So với Hoa Tân có đủ loại hàng hóa, sầm uất nhộn nhịp, phố Vân Tường lại nổi danh nhờ sự phong nhã, đắt đỏ, hàng hóa bán ra đa phần là đồ cổ thư pháp, châu báu dược phẩm…

Vì thế, cho dù trong bốn phố, nó vắng vẻ nhất, nhưng trên đường toàn là hương xa bảo mã, các khách nhân đều ăn mặc sang trọng.

“Đến hiệu Sái gia trên phố Vân Tường, mua ba cân Mê Điệt hương”. Đây là lời phụ thân dặn nàng trong lá thư mật.

Cũng có nghĩa là hiệu Sái gia tọa lạc trên con phố này là một quân cờ ngầm mà Khương Trọng cài vào Trình quốc. Khương Trầm Ngư nhìn khu phố trước mặt, không kìm được khâm phục sự suy tính sâu xa, chu toàn trong thuật gián điệp của phụ thân. Ai cũng biết, nơi ẩn náu tốt nhất chính là phố chợ, nơi nhiều người qua lại cũng là nơi tin tức nhanh nhạy nhất, vì thế, khi thiết lập điểm tập hợp tin tình báo, người ta thường đặt địa điểm ở chợ. Nhưng, người ta lại quên mất một điều rất quan trọng – tin tức dân gian là tin tức thiếu chuẩn xác nhất.

Đúng như cái gọi là những lời đồn đại, tam sao thất bản, một sự việc truyền qua miệng nhiều người, ắt sẽ bị thêm mắm dặm muối, thậm chí hoàn toàn ngược lại với ý nghĩa ban đầu, cho nên, tin tức có được từ trà quán tửu lâu quá ư hỗn độn, cũng quá chậm trễ. Nhưng hiệu Sái gia thì khác, giá cả hàng hóa ở đây đắt đỏ, chuyên phục vụ các nhà hào phú, hàng hóa bán ra lại là phấn son hương liệu, trang sức châu ngọc mà nữ quyền quý tộc không thể thiếu được. Quần thể thích buôn chuyện thị phi của người khác, có quan hệ mật thiết với đương sự nhưng lại đứng ngơài sự việc này là nguồn tin đáng tin cậy, an toàn nhất trong việc thu thập tin tức của cửa hiệu. Mà điều quan trọng nhất là nơi đây mới là nơi nàng – một sứ thần đến từ Bích quốc đến cũng không khiến ai nghi ngờ.

Khương Trầm Ngư cất bước đi về phía hiệu Sái gia cách đó hơn mười trượng.

Cửa hiệu mở rộng, bên chiếc quầy cao hơn nửa người, một người có vẻ là chưởng quầy đang nói chuyện cùng một bà lão.

Trong tay bà lão còn bế một đứa bé, đứa bé khóc oa oa, bà lão vội vàng vừa đung đưa vừa dỗ cháu. Trước một giá hàng trong góc, hai người bán hàng đang chào mời một quý phu nhân xem đồ trang sức, quý phu nhân đó lấy từng chiếc vòng trong hộp ra, đeo lên cổ tay, rồi lại lắc đầu, bỏ xuống, lại đeo chiếc khác lên.

Khương Trầm Ngư càng lúc càng lại gần, có thể nhìn rõ hoa văn trên những chiếc vòng kia, còn chục bước nữa, chín bước, tám bước…

Quý phu nhân cầm một chiếc vòng Bạch Ngọc Thanh Điền lên, từ từ đeo vào tay, chất ngọc trong suốt khiến cổ tay nàng ta trông càng thêm thon thả mềm mại.

Còn cách bảy bước, sáu bước, năm bước…

Bà lão vừa dỗ đứa trẻ, vừa quay đầu sang nói với chưởng quầy: “Không hiểu vì sao hai ngày nay cháu tôi cứ quấy khóc suốt”.

Chưởng quầy an ủi: “Trẻ con ấy mà, khóc một tí mới tốt”.

Còn cách bốn bước.

Người bán hàng nói: “Phu nhân, mua chiếc vòng này nhé, chiếc này rẻ…”.

Còn cách ba bước.

Cửa hiệu đã gần trong gang tấc, Khương Trầm Ngư đột nhiên xoay người, bước vào cửa hiệu bên cạnh.

Lập tức có người bán hàng chạy tới chào hỏi: “Cô nương muốn mua đàn ạ? Mời qua bên này…”.

Bên cạnh cửa hiệu Sái gia là một hiệu bán đàn.

Khương Trầm Ngư đến trước một cây Lôi Ngã cầm, trầm ngâm không nói.

Người bán hàng liến thoắng: “Cô nương… đúng là có con mắt tinh tường, chiếc đàn này là bảo bối trấn điếm (là món đồ quan trọng có giá trị nhất, đặc sắc nhất của cửa tiệm) của tiệm chúng tôi, do đại sư chế tác đàn Lôi Văn làm ra lúc sinh thời, cô nương xem thân đàn được làm bằng loại gỗ thông thượng hạng nhất…”.

Những lời của hắn cứ lao xao bên tai biến thành phông nền, mà phía trên phông nền ấy thứ nổi bật nhất lại là – Không ổn hiệu Sái gia có gì đó không ổn!

Là bà, lại không biết cháu mình bị rớt một chiếc giày...

Là một quý phu nhân, lại có một đôi tay có vết chai...

Là một người bán hàng, lại hoàn toàn không có kỹ năng chào mời…

Tất cả, tất cả đều không ổn.

Những chi tiết không hợp logic này ngầm cho thấy một điềm báo nào đó, vì thế, trong giây phút cuối cùng, nàng đã quay đầu, bước vào một cửa hiệu khác.

“Không phải tự khen chứ âm sắc của cây đàn này dù không phải là tuyệt thế vô song, cũng có thể xếp hàng thứ hai…”. Gã bán hàng của hiệu đàn vẫn đang thao thao bất tuyệt.

Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu nói: “Ta muốn thử đàn”.

Gã bán hàng sững người rồi vội vàng nói: “Được được, không có vấn đề gì, cô nương, mời ngồi bên này”.

Khương Trầm Ngư ngồi xuống trước một chiếc bàn bằng ngọc, từ góc nhìn của nàng, vừa hay có thể quan sát tình hình phía bên kia đường: Bên ngoài mấy cửa hiệu bán chữ, tranh, có mấy người bán kẹo rong; cách vài bước, còn có hai tên ăn mày đang lười biếng tựa tường sưởi nắng.

Nàng càng lúc càng khẳng định suy đoán của mình.

Khách nhân trên con phố này ai lại đi mua loại kẹo rẻ tiền đó...? Sao lại để cho ăn mày sưởi nắng ở đây..? Hơn nữa, vừa tạnh mưa xong, đường vẫn còn ướt, ăn mày chỉ là những người nghèo túng, chứ không phải là đồ ngọc, sao hoàn toàn không bận tâm đến chuyện đường ướt mà thản nhiên ngồi đó?

Mọi điều trên chỉ dẫn đến một kết luận: Cửa hiệu Sái gia có chuyện rồi.

Vì thế, cứ điểm ban đầu nay đã trở thành cái bẫy. Vậy thì, người đối phương muốn bắt là một mình nàng hay là tất cả gian tế nước địch ẩn náu ở Trình quốc?

Cho dù là thế nào, vừa nãy chỉ cần nàng bước vào cửa thì chắc chắn sẽ bị tóm gọn. Còn như có bắt nhầm người hay không, phải trải qua dùng hình thẩm vấn mới có thể phán đoán được.

Nghĩ đến khả năng này, sống lưng nàng bất giác ớn lạnh.

Lúc này gã bán hàng lấy đàn ra, đặt lên bàn, ân cần nói: “Dây đàn đã được bôi dầu, cũng đã cân chỉnh, cô nương cứ an tâm thử đàn nhé”.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, giơ tay, tiếng nhạc đột ngột nổi lên, nàng đàn khúc “Hoạch lân” .

Lân hề lân hề, hợp nhân trọng nghĩa, xuất hiện đúng thời.

Bước đi đúng mực, xoay mình đúng mực, tiếng tựa nhạc khí.

Nó đi tới đâu phải chọn rõ ràng rồi mới đến, nhân đức là ở chỗ cỏ tươi chẳng xéo, côn trùng sống chẳng giẫm.

Ở chẳng cùng bầy, đi không cù bạn.

Chẳng lọt cạm bẫy, lưới thưa lồng lộng mà không vướng vào.

Lân hề một sừng năm móng, khi nó kêu lên, hội tụ càn khôn. Nay xuất hiện không đúng thời, ăn sắt sinh vàng, uổng thay cho sự phi thường của nó…

Tiếng đàn tao nhã uyển chuyển, giữa âm điệu du dương, trầm bổng đan xen, nỗi bi phẫn như sóng vỗ ào ào, nỗi thê lương tựa tiếng thở dài khe khẽ, nhịp nhịp thương tâm, tiếng tiếng khắc cốt, nhưng từ đầu đến cuối lại tràn đầy hàm ý từ bi.

Tương truyền vào thời Lỗ Ai công, có người bắt được một con kỳ lân, nhưng làm nó bị thương. Sau khi Khổng Tử nhìn thấy, cảm thấy đau lòng, không kìm được lệ ướt vạt áo.

Khúc nhạc này chia làm sáu đoạn, Khương Trầm Ngư chỉ đàn đoạn đầu tiên “Thương thời Lân hề”, nhưng cũng đủ khiến người trong hiệu chú ý, người đi đường dừng chân. Khi nàng dừng tay, một tràng vỗ tay từ hậu sảnh vang lên.

Nàng quay đầu 1ại, chỉ thấy rèm gấm tầng tầng, không thấy người sau rèm.

Tiếng vỗ tay ngừng, một tiểu đồng vén rèm đi ra, tuổi chừng mười ba, mười bốn, gương mặt tròn trĩnh, không cười mà như cười, nhìn giống như một con búp bê đất, cực kỳ dễ thương.

Chỉ thấy hắn bước nhanh đến trước bàn, dừng lại nói: “Công tử nhà ta nói cô nương chơi đàn rất hay, cái gì mà ‘vời vợi chừ, như Hoa Sơn’…”.

Sau rèm có người ho, còn có một giọng nói rít lên: “Thái Sơn! Là Thái Sơn ấy! Đồ đầu heo!”.

Tiểu đồng vội vàng sửa: “Đúng rồi, là ‘Vời vợi chừ như Thái Sơn’ cái gì ‘Mênh mông chừ như… như… như…”.

Giọng nói the thé đó lại kêu lên: “Giang Hà (Tức Trường Giang và Hoàng Hà )!”.

“A đúng rồi, mênh mông chừ như Giang Hà, tóm lại là hay nhất trên trời dưới đất… Cho nên, để cảm tạ khúc nhạc này của cô nương, công tử nhà ta xin cô nương nhất định phải nhận cây đàn này!”.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, đăm đăm nhìn tấm rèm buông rủ đó, hỏi: “Công tử nhà ngươi là ai?”.

“Cái này… cô nương cứ nhận là được, danh tính không cần bận tâm”.

Tiểu đồng nói với gã bán hàng: “Bọc cây đàn này lại, rồi sai người mang đến nhà cô nương này”.

Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nói: “Đợi đã, bèo nước gặp nhau, không dám nhận món quà quý giá như thế này”. Cây đàn này ít nhất cũng phải nghìn lượng bạc, không biết thân phận của người tặng đàn, sao nàng dám nhận bừa?

Nhưng tiểu đồng đó vẫn lắc đầu nói:

“Cung tử nhà ta nói ngài tặng cô nương đàn chỉ là muốn cảm tạ khúc nhạc nàng vừa đàn ban nãy, hơn nữa, cũng chỉ người có cầm nghệ xuất chúng như cô nương mới xứng với cây đàn này”.

Khương Trầm Ngư vẫn định chối từ, sau rèm chợt có tiếng động, tiếng bước chân xa dần, dường như đối phương đã rời khỏi đó.

Tiểu đồng nhe răng cười, nói: “Công tử nhà ta đi rồi, ta cũng phải đi đây. Cô nương đừng từ chối nữa, tuy nói là cái gì nước gặp nhau, nhưng có duyên tất sẽ gặp lại. Cáo từ”. Nói đoạn quay người nhảy chân sáo chạy đi.

Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cỗ xe ngựa có nóc xe màu xanh sậm nhanh chóng rẽ ngoặt ở góc phố rồi biến mất.

Gã bán hàng bên cạnh nói: “Vậy để tiểu nhân bọc đàn lại cho cô nương, không biết phủ đệ của cô nương ở đâu? Tiểu nhân sai người đem đàn tới”.

Khương Trầm Ngư hỏi: “Ngươi có biết người tặng đàn là ai không?”.

“Chỉ biết là một công tử nhà giàu, đến sớm hơn cô nương một chút, đang ngồi xem đàn trong hậu sảnh, không ngờ chẳng mua gì cho mình nhưng lại mua đàn tặng cho cô nương”.

Gã bán hàng vừa nói vừa cười ám muội, “Nhưng, cầm nghệ của cô nương đúng là tuyệt thế vô song, vị công tử đó tặng đàn cảm tạ tri âm, cũng coi là một câu chuyện đẹp”.

Khương Trầm Ngư nhất thời im lặng. Nàng đàn khúc này vốn chỉ muốn thăm dò cửa hiệu sát vách có phản ứng thế nào, xem xem những quân cờ ngầm của phụ thân bị quét sạch một mẻ, hay là vẫn còn cá lọt lưới, có lẽ sau khi nghe tiếng đàn của nàng, họ sẽ đoán được nàng đã đến, sẽ nghĩ cách truyền tin.

Mà nay, chưa do thám được động tĩnh của láng giềng, ngược lại tự dưng lại nhận được cây đàn này, đúng là “cố ý trồng hoa hoa chẳng nở, vô tình cắm liễu liễu xanh um”.

Lại nhìn cửa hiệu Sái gia vẫn không có động tĩnh xem ra hôm nay sẽ chẳng thăm dò được gì, nàng cũng không thể ở đây quá lâu để tránh để lộ thân phận, nàng bèn cho gã bán hàng địa chỉ của dịch trạm, còn mình đi bộ về.

Không ngờ vừa về đến dịch trạm, đã nhìn thấy cỗ xe ngựa có mái xe màu xanh sẫm trước sân.

Nàng vội hỏi: “Đây là xe ngựa của ai?”.

Lý Khánh đáp: “A, cô nương ra ngoài hai ngày nên không biết, đây là xe ngựa của sứ thần Yên quốc”.

“Sứ thần Yên quốc đến rồi sao? Là ai vậy?”.

“Nói ra thật khó tin, Yên vương đích thân đến”.

Khương Trầm Ngư khựng lại, kinh ngạc hỏi: “Cái gì ... Yên vương...?”.

“Đúng thế, ai mà ngờ được chứ. Lần này, Trình vương quả là hãnh diện, Nghi vương và Yên vương đã đến cả…”. Lý Khánh than.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn cỗ xe ngựa nhìn có vẻ bình thường đó, trong lòng cảm thấy vừa căng thẳng vừa bất an. Trong các quân chủ của bốn nước hiện nay, Chiêu Doãn tuổi trẻ nhất, thời gian lên ngôi cũng ngắn nhất, bên ngoài bình luận y, phần lớn là lông cánh chưa đủ, bị thần tử khống chế, năm nay y đột nhiên trừ sạch Tiết gia, đích thân nắm quyền, bình luận chuyển thành kiên nhẫn cố chấp, lòng dạ sâu xa .... bình luận về Nghi vương là tốt nhất, phóng khoáng thân dân, hài hước phong nhã, đã chấp chính sáu năm, trong nước không có chuyện lớn phát sinh, cũng không có điều gì thất đức... Minh Cung tuổi tác cao nhất, khi còn tráng niên ít lời vô sỉ, lật lọng là chuyện cơm bữa, hơn nữa hiếu chiến ham công, bị các nước xung quanh coi thường, nhưng con dân Trình quốc lại có một sự sùng bái thâm căn cố đế, thậm chí có thể nói là mù quáng điên cuồng đối với lão, tóm lại, Minh Cung là một quốc quân tương đối phức tạp…

Thế nhưng nếu nói đến người thực sự có phong độ đế vương thì đó chính là Yên vương Chương Hoa.

Cả đời Chương Hoa có thể nói là xuôi chèo mát mái, do quốc mẫu chính thống sinh ra (Chương Hoa là con đích của hoàng hậu), vừa ra đời đã được thụ phong thái tử, bình an đến lúc mười bảy tuổi, lão Yên vương đột nhiên nhìn thấu hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, vì thế thuận lợi truyền ngôi cho con trai duy nhất. Mà Yên vương lại có một vị hảo thừa tướng một lòng trung thành, phò tá y đến năm hai mươi tuổi, mọi việc thành thục, trong nước không ẩn họa ngầm, bên ngoài chẳng mối âu lo, lão thừa tướng mới từ quan cáo lão, vân du thiên hạ. Mà con người Chương Hoa cũng đúng như lời y tự thuật: “Duy có Hách Dịch rực rỡ sáng chói rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt, mới có thể sánh với ta”.

Yên quốc được y thống trị, binh tức mã cường, nước giàu dân mạnh, sức mạnh tổng hợp có thể coi là đứng đầu bốn nước, y chấp chính sáu năm, cất nhắc người tài không thiên vị đảng phái, cho gánh vác nghiệp lớn, để họ dốc hết kỳ tài. Nghe theo lẽ phải, tế thế an dân, công ích hiển hách.

Nếu muốn nói y có uy vọng thế nào, có một việc có thể chứng minh.

Tội tử hình của Yên quốc phải qua ba lần tấu, thẩm, phê mới có thể thi hành.

Vào năm Hoa Trinh thứ tư, trong cả nước người bị khép vào tội chết tổng cộng có bốn mươi chín người. Vừa hay trùng dịp năm mới, Chương Hoa hạ lệnh cho bốn mươi chín người này về nhà đón Tết cùng gia đình, qua mùa thu năm sau trở về thụ hình, kết quả tất cả bốn mươi chín người đều trở về đúng ngày, không ai bỏ trốn.

Việc này truyền đến ba nước còn lại, ai cũng kinh ngạc.

Sau Tết, Chiêu Doãn lập tức phái Tiết Thái đi sứ Yên quốc, cũng vì thế dệt nên giai thoại Chương Hoa tặng tuyệt thế mỹ ngọc “Băng Ly” cho Tiết Thái.

Còn nay, vị đế vương nổi danh này cũng đến Trình quốc? – Hơn nữa, vừa nãy còn tặng nàng một cây đàn.

Cho dù Khương Trầm Ngư có trầm ổn, trấn tĩnh thế nào đi nữa, trái tim vẫn không chịu nghe lời mà đập điên cuồng, khi cất tiếng, giọng nói gấp gáp hẳn lên: “Yên vương bây giờ ở đâu?”

“Yên vương cũng ở đây, nhưng vừa nãy trong cung có người mời ngài đi rồi”.

Lời vừa dứt, một người từ trong nhà chạy ra, bù lu bù loa kêu lên: “Làm cái gì thế, ta mới chợp mắt một lúc, tất cả đều bỏ ta mà đi hết cả? Ta…”.

Đang gào dở chừng, ngẩng đầu thấy Khương Trầm Ngư, kinh ngạc lắp bắp: “A, cô nương… đánh đàn”.

Người này không phải ai khác mà chính là tiểu đồng vừa tặng đàn cho nàng. Khương Trầm Ngư cũng sững sờ nhìn hắn, cảm thấy miệng hắn mấp máy, dường như lại nói gì đó, nhưng âm thanh bỗng trở nên mơ hồ, người hắn cũng từ một mà hóa thành mấy người, trời đất bắt đầu quay cuồng, tầm nhìn tối sầm lại. Nàng chỉ kịp nói một tiếng “ta” liền ngất lịm đi.

Trời đất tối đen.

Cơ thể giống như đang bị thiêu đốt trên ngọn lửa cháy rừng rực, xương cốt và tứ chi đều đau nhức khôn tả, rõ ràng trước mắt tối sầm, nhưng có thể loáng thoáng nghe thấy những giọng nói đứt quãng:

“Ôi con gái thứ ba của hữu tướng Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư… vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung…”.

“Khi còn nhỏ Trầm Ngư rất sợ đau… bây giờ, xin công tử hãy xỏ lỗ tai cho ta, coi như là quà mừng Trầm Ngư xin công tử…”.

“Trẫm muốn nàng, cùng Phan Phương, Giang Vãn Y đi Trình quốc…”.

“Đừng cho rằng làm nũng là ta có thể tha thứ cho muội…”.

“Ngu thị, hãy liên thủ với ta”. “Trẫm là đế vương…”.

Rất nhiều giọng nói đan xen với nhau, hỗn loạn, lặp lại không ngừng, giống như một sợi dây thừng quấn lấy nàng, sau đó từ từ thít chặt, rất đau, đau đến mức nàng không nói được, thậm chí không thở được.

“Tiểu thư của Khương gia?”. Một giọng nói mềm mại như nước, nhẹ nhàng như gió đã vang lên như thế.

“Sắc trời không còn sớm, Anh đưa tiểu thư về phủ”.

“Tiểu thư hẹn Anh đến đây, ắt là có chuyện, đã có chuyện, là ai hẹn có can hệ gì sao?”.

“Là Anh hành sự đường đột, vội vã truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư”.

“Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”. “Tiểu thư…”.

Đừng, đừng, nàng không muốn nghe tiếp, đừng gọi nữa… “Ngu thị…”.

“Tiểu Ngu…”.

Hai giọng nói khác xen vào, Khương Trầm Ngư điên cuồng giãy giụa, bỗng nàng run lẩy bầy, mở choàng mắt. Thoạt đầu trước mắt vẫn tối đen, sau dần dần sáng tỏ, đập vào mắt nàng là một gương mặt mi thanh mục tú mang thần sắc thương xót âu lo quen thuộc mà ấm áp. Thế nên, một tiếng gọi tự nhiên bật ra: “Sư huynh…”.

Giang Vãn Y mỉm cười với nàng, giọng nói ấm áp như ánh mặt trời: “A Ngu, muội tỉnh rồi?”.

“Sư huynh, muội làm sao vậy?”.

“Muội bị bệnh. Nhưng đừng sợ, sẽ mau khỏi thôi”. Gương mặt hắn rất dịu dàng, nụ cười vô cùng điềm tĩnh, tựa như chỉ cần có hắn ở đây, nàng không cần sợ hãi bất cứ nỗi đau nào.

Khương Trầm Ngư có được lời đảm bảo, liền nhắm mắt thiếp đi, và lần này, cơn ác mộng đã biến mất.

Khi nàng tỉnh lại lần nữa, ánh nắng ngập tràn, Giang Vãn Y đã không còn ở bên giường, chỉ có Hoài Cẩn mừng rỡ đặt chiếc hộp trong tay xuống, chạy qua hỏi:

“Tiểu thư, tiểu thư tỉnh rồi? Tiểu thư thấy đỡ hơn chưa?”.

Khương Trầm Ngư ôm chăn, từ từ ngồi dậy, “Đầu ta vẫn còn đau lắm”.

“Tiểu thư mới hạ sốt, đầu vẫn còn hơi nặng, hầu gia đã kê đơn thuốc, bây giờ đang sắc, một lát nữa là xong”. Hoài Cẩn lấy gối kê sau lưng nàng.

“Sư huynh đâu?”.

“Tiểu thư bệnh liền ba ngày, mấy ngày nay hầu gia đều túc trực chăm sóc tiểu thư, không được nghỉ ngơi tử tế, vừa nãy trong cung có người đến gọi ngài đi rồi”.

Khương Trầm Ngư áy náy, mình quả nhiên gây phiền phức rồi. Rõ ràng biết trách nhiệm mỗi người phải gánh vác đều không nhẹ nhàng, đặc biệt là Giang Vãn Y, là đại phu nên bận rộn, vất vả nhất, vậy mà nàng lại ngã bệnh đúng lúc này, gây thêm rắc rối cho hắn. Lúc đó nhảy xuống hồ chỉ vì cao hứng nhất thời, bây giờ hại mình không nói, còn liên lụy đến người khác.

Hoài Cẩn thấy nàng không vui, cũng tự đoán được vài phần, vội chuyển chủ đề khác: “Nhưng tiểu thư thật là có thể diện, nghe nói tiểu thư bệnh, số lễ vật này giống như thóc đổ vào kho, không ngừng cuồn cuộn đổ tới!”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, quả nhiên ở góc tường, trên bàn ghế bên ngoài chất đầy hộp quà.

Hoài Cẩn cười nói:

“Trong đó dĩ nhiên lễ vật của Nghi vương bệ hạ là nhiều nhất, hầu gia nói chỉ riêng sơ lễ vật Nghi vương tặng đã đủ mở một hiệu thuốc nhỏ rồi. Ba vị hoàng tử của Trình quốc cũng tặng toàn đồ bổ trân quý. Nhưng, kỳ lạ nhất là Yên vương cũng tặng lễ vật, nhưng lễ vật của ngài không giống người khác, tiểu thư xem xem?”. Nói đoạn lấy ra một chiếc hộp nhỏ, mở ra cho nàng xem.

Trong chiếc hộp nhỏ có mấy tờ giấy. Khương Trầm Ngư cầm lên xem, hóa ra là một khúc phổ, trang đầu tiên viết ba chữ “Phổ Am Chú”, phía dưới còn viết một hàng chữ nhỏ: ‘Thuốc chữa được bệnh, nhạc chữa được tâm. Trong ngoài thấu triệt, tịnh không tì viết”.

Nét chữ nguệch ngà nguệch ngoạc, tựa như người mới học viết, hơn nữa vết mực còn ướt, xem ra mới viết chưa lâu, chữ Tâm hơi nhòe, chữ “Vết” cũng viết nhầm thành chữ “Viết”.

Khương Trầm Ngư bất giác nhoẻn cười: “Là tiểu đồng của Yên vương đưa tới đúng không?”.

“Chính là cái người nói chuyện với tiểu thư lúc tiểu thư ngất xỉu hắn tên là Như Ý. Bên cạnh Yên vương có hai tiểu công công, một là hắn, ngoài ra còn một người tên là Cát Tường”.

Không cần nói, chữ trên khúc phổ này chắc chắn là do tên Như Ý học hành bát nháo đó viết. Vị Yên vương này thật thú vị tặng đàn tặng khúc đều không tự mình lộ diện, chỉ sai một tên hề đứng ra làm mất thể hiện, thật không biết là cố ý hay là quá dung túng.

Cười xong, Khương Trầm Ngư lại nhìn những chiếc hộp chất đầy căn phòng, hỏi: “Ngoài ra còn có ai tặng lễ vật nữa?”.

“Thượng vàng hạ cám đều có cả, quan viên của Trình quốc, sứ thần cùng đến với chúng ta…”.

“Em có mở ra xem từng món quà không?”.

Hoài Cẩn lấy ra một cuốn số nhỏ, trình lên trước mặt nàng: “Em đã ghi danh sách lễ vật và tên người tặng ở hết trong này”.

Khương Trầm Ngư không kìm được gật đầu hài lòng, ban đầu chọn mang theo Hoài Cẩn mà không phải Ác Du cũng chính vì Hoài Cẩn làm việc chu đáo cẩn thận, rất nhiều việc không cần nàng dặn dò, đều tự giác làm tốt. Nàng cầm lấy cuốn sổ, chậm rãi giở ra xem, ánh mắt lướt qua từng hàng tên tuổi, trong lòng trầm ngâm.

Nghi vương tặng quà, nàng không bất ngờ, Di Phi tặng quà nàng cũng không bất ngờ, nhưng Hàm Kỳ tặng quà thì có hơi khiên cưỡng, nàng chẳng qua cũng chỉ là một sứ giả của Bích quốc, cho dù có chút địa vị, nhưng cũng không quan trọng đến mức khiến tất cả mọi người đều lũ lượt tặng lễ vật.

Tại sao Hàm Kỳ lại tặng thuốc cho nàng? Là để cảm tạ nàng hôm ở bến cảng đã đi theo hắn mà không theo Di Phi? Nàng nghĩ không ra.

Còn như Lân Tố thì lại càng khiên cưỡng, nàng và Hàm Kỳ còn có chút giao tiết, nhưng nàng chẳng hề có quan hệ gì với vị đại hoàng tử này, tại sao y cũng tặng lễ vật cho nàng?

Ngoài ra còn có một số quan viên của Trình quốc, họ thấy các vị điện hạ bệ hạ đều tặng, cho nên cũng bắt chước? Hay là còn có nguyên nhân nào khác?

Khương Trầm Ngư vừa nghĩ vừa xem, ánh mắt bỗng dừng lại ở một cái tên.

Nàng trầm ngâm giây lát, quay đầu hỏi: “Sư huynh có nói bệnh của ta bao giờ khỏi không?”.

“À, hầu gia chỉ nói để tiểu thư tĩnh dưỡng cẩn thận, không nói gì khác. Tiểu thư có chỗ nào khó chịu sao?”.

“Ừm”. Trầm Ngư gật đầu.

Hoài Cẩn ngẩn người: “Hả?”. Nhưng rõ ràng trong khí sắc tiểu thư đã tốt hơn rất nhiều mà…

“Bệnh của ta không phải dăm bữa nửa tháng là khỏi được, nếu lại có lễ vật gửi tới thì cứ nhận hết”.

Khương Trầm Ngư đọc cuốn sổ, thuận miệng hỏi: “Công chúa Trình quốc cũng tặng quà à…”.

Hoài Cẩn che miệng cười, “Tiểu thư, tiểu thư không biết à?”.

“Biết cái gì?”.

Lễ vật của Di Thù công chúa do công chúa đích thân đem đến đó. Không chỉ như thế, công chúa hiện đang ở đây, bây giờ đang nói chuyện với Phan tướng quân trong hậu hoa viên”.

Bờ mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng không hề ngạc nhiên vì Di Thù động lòng sau khi nghe câu chuyện của Phan Phương, chỉ có điều, nàng không ngờ vị công chúa này lại đến nhanh như thế, thẳng thắn như thế.

Mà trong hậu hoa viên cách đó tầng tầng tường viện, Di Thù đang trò chuyện với Phan Phương dưới tán cây ngọc lan.

“Nghe nói ta rất giống vong thê của tướng quân?”.

Sự thực chứng minh, Di Thù còn thẳng thắn hơn Khương Trầm Ngư nghĩ, khi nàng ta hỏi câu này, trên gương mặt không hề có vẻ gì là thẹn thùng, hoa ngọc lan bừng nở sau lưng nàng ta, càng tôn lên vẻ đẹp diễm lệ say đắm lòng người.

Phan Phương chăm chú nhìn Di Thù, ánh mắt hơi tối.

Di Thù cười tươi như một đóa hoa: “Cho nên, trong bữa tiệc đêm đó, tướng quân mới rơi lệ trước mặt mọi người?”.

Phan Phương lại nhìn nàng ta chằm chằm hồi lâu mới chậm rãi mở miệng, nói:

“Phụ thân của A Tần và phụ thân ta là chiến hữu, nàng mồ côi mẹ từ nhỏ, phụ thân cũng không quá nghiêm khắc, khi còn nhỏ nàng rất nghịch ngợm, trèo cây nghịch nước, chơi đùa đánh nhau, không khác nam nhi là bao”.

Di Thù ngưng cười, nghiêm túc lắng nghe.

“Vì thế, làn da của nàng rám nắng, phía sau tai trái còn có một vết sẹo nhỏ do bị đá cứa, chỗ đó cũng không mọc được tóc”.

Di Thù vô thức đưa tay sờ phía sau tai trái.

“Phía dưới mắt trái của nàng có một nốt ruồi nhỏ. Hơi nhỏ thường bị chúng ta chê cười, nói là nốt ruồi lệ, nhưng trong ấn tượng của ta, nàng chưa bao giờ khóc. Cho dù khi Tần bá phụ chết nơi sa trường, cho dù năm ta mười ba tuổi đi tòng quân buộc phải rời xa nàng, cho dù người chồng trước của nàng bị bệnh qua đời, nàng cũng chưa từng nhỏ một giọt lệ nào”.

Di Thù lộ vẻ áy náy, dường như cũng ý thức được rằng, so bì với một người đã chết, đặc biệt là so bì với người đã chết mà đối phương yêu sâu sắc, thì thật là không phải, liền lập tức ngại ngùng nói: “Xin lỗi, là Thù thất lễ.”

Phan Phương vẫn không tỏ cảm xúc, chỉ có vẻ thâm trầm, một vẻ thâm trầm mà ai cũng không hiểu rõ được, lời nói cũng vẫn rất ôn hòa

“Ta kể với công chúa những điều này, không phải là muốn chứng minh hai người khác nhau thế nào”.

Di Thù thoáng ngạc nhiên ngẩng đầu.

Phan Phương nhìn nàng ta, nói tiếp: “Sự thực thì giây phút nhìn thấy công chúa, ta rất vui”.

“Vui...?”

“Đúng thế”, Phan Phương thu lại ánh nhìn, quay sang cây ngọc lan bên cạnh, sự thâm trầm không cảm xúc dần dần nhạt đi biến thành một nụ cười như gió thoảng

“Bởi vì, tuy A Tần đã mất, nhưng thế gian này còn có một số thứ, một số thứ vô cùng tươi đẹp khiến ta nhớ đến nàng, khi nhìn những thứ đó nàng dường như vẫn còn trên nhân thế, chưa hề đi xa, cũng chưa hề bị lãng quên, cho nên ta rất vui. Cho nên cảm ơn nàng, công chúa”.

Biểu tình của Di Thù lại thay đổi, cuối cùng, nàng quay đầu cao giọng nói: “Người đâu, đem thương của ta qua đây”.

Lập tức có thị vệ bưng một cây trường thương rất đẹp, toàn thân trắng toát, duy chỉ có đầu thương gắn một túm ngù đỏ đỏ chói mắt đỏ rực rỡ, thân thương cao bằng hai người, mà Di Thù một tay nắm lấy, nhẹ nhàng vung lên múa một cách đẹp mắt, toàn bộ động tác như nước chảy mây trôi, dứt khoát mạnh mẽ.

Khương Trầm Ngư được Hoài Cẩn dìu đến hậu hoa viên, đã nhìn thấy cảnh tượng như thế này: Chỉ nghe Di Thù nói:

“Nước ta xưa nay sùng võ, từ lâu đã nghe nói tướng quân võ nghệ siêu quần, giỏi dùng trường thương, mười sáu tuổi đánh bại đại tướng quân Nghi quốc Nhan Hoài, mười chín tuổi thụ phong Khinh xa tướng quân, mà nay lại vừa đánh bại Đệ nhất danh tướng tứ quốc Tiết Hoài. Cho nên, Thù bất tài, muốn lĩnh giáo vài chiêu với tướng quân”.

Phan Phương như định từ chối, Di Thù lại tiếp: “Tướng quân cũng là kẻ học võ, nên lấy võ đạo kính ta, không cần nói những lời như thân thể ngàn vàng, không dám mạo phạm”.

Phan Phương lại im lặng.

Khương Trầm Ngư đứng một bên, khép chặt áo khoác, trong lòng không rõ là vui hay buồn. Di Thù khiêu chiến Phan Phương, thắng nàng ta, Trình quốc mất thể diện, thua nàng ta, e là công chúa tâm cao khí ngạo y cũng không coi Phan Phương ra gì, nhưng để không thắng cũng không thua, thực sự rất khó. Đương nhiên Phan Phương võ nghệ cao thâm, nhưng nghe nói Di Thù cũng không yếu đuối, cho dù là Hàm Kỳ cũng chưa chắc là đối thủ của muội muội. Trận đấu này… không biết là họa hay là phúc đây…

Đúng lúc này, một giọng nói đột ngột vang lên: “Ta cá công chúa thắng!”.

Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn, thấy hai thiếu niên từ xa bước tới, tướng mạo giống hệt nhau, một người mặc áo lam, một người mặc áo đỏ, trong đó một người là Như Ý, vậy người kia chính là Cát Tường.

Hai thiếu niên nhìn thấy nàng, áo lam cười ngọt như mật: “Ngu cô nương bệnh đã đỡ chưa? Có thể ra ngoài rồi à? Hôm đó cô nương tự nhiên ngất xỉu, hại ta sợ gần chết”.

Khương Trầm Ngư nhún mình bái tạ: “Thiếp thân thất lễ, khiến công công kinh sợ. Đúng rồi, đa tạ khúc phổ của Yên vương bệ hạ, bao giờ khỏe hơn, ta sẽ đích thân tới tạ ơn”.

Như Ý áo lam vội vàng xua tay: “Không cần đâu, công tử nói tặng cô nương đàn và bản nhạc đều chỉ là tặng những thứ đó cho chủ nhân thích hợp nhất của chúng mà thôi. Nếu như thực sự phải cảm tạ, thì hãy cảm tạ ông trời đã sinh ra cô nương như chung… cái gì mà tú ấy”.

Cát Tường áo đỏ lộ vẻ xấu hổ, gắt lên: “Chung linh dục tú (Đất thiêng hun đúc ra nhân tài.) đồ ngốc! Không biết thì đừng nói, đừng có dùng thành ngữ bốn chữ, ngươi không biết thế nào là giấu dốt à?”.

“Ngươi quản ta? Ta cứ thích nói thành ngữ đấy! Đến thánh thượng còn không quản ta…”.

“Đó là do ngài tuyệt vọng với ngươi rồi, có biết không?”.

Hai người cãi qua cãi lại, khiến Phan Phương và Di Thù đứng một bên cũng thấy bối rối, vốn là một cảnh tượng kích động khiến người ta căng thẳng nghiêm trang, lại bị quấy đảo không còn chút không khí căng thẳng nào nữa.

Di Thù đành ho một tiếng, lại nâng trường thương lên nói: “Mong tướng quân thành toàn”.

Phan Phương im lặng một hồi rồi mới đáp: “Đao kiếm không có mắt, công chúa cẩn thận. Có chỗ nào đắc tội, mong được lượng thứ”.

Di Thù cả mừng, biết y nhận lời, vội vàng sai tùy tùng mang thương đến cho y. Hai thương đối đầu, sát khí bao trùm, đến Cát Tường, Như Ý cũng ngừng đấu khẩu, cùng quay đầu lại.

Như Ý bước lên, khẽ giật giật tay áo Khương Trầm Ngư nói: “Ngu cô nương chúng ta tránh ra phía sau một chút đi, cẩn thận kẻo bị thương”.

Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại quan tâm nàng như thế, trong lòng ấm áp, vội vàng lùi về phía sau, những thị vệ khác cũng lần lượt lùi, chừa khoảng trống đủ cho hai người tỉ thí.

Di Thù nói “Đắc tội rồi”, ngù đỏ như rắn nhảy lên đâm thẳng vào tim Phan Phương.

Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, vì thế chỉ cảm thấy trước mặt một màn hỗn loạn, thân thương trắng toát, tua ngù màu đỏ cùng với y phục Di Thù mặc kết thành ba dải màu, tầng tầng vây quanh Phan Phương, dần dần nuốt trọn.

Bên cạnh, Như Ý nghênh ngang bình luận:

“Ở, thương pháp của công chúa Trình quốc quả nhiên xuất sắc, chiêu Linh Xà Xuất Động này rõ ràng là Trình vương đích thân truyền thụ, điêu luyện nhuần nhuyễn… A, thương này hiểm quá! Tuy nói thương pháp của Trình quốc nổi tiếng là nhanh, đánh vào chỗ không phòng bị, mấu chốt là giành được tiên cơ, nhưng hai quân giao tranh, thời cơ là then chốt nhất, chỉ tấn công nhanh thế này, ngược lại thành lỗ mãng… Nhìn kìa, tránh được rồi? Ầy so với tốc độ của công chúa, Phan tướng quân thật là chậm, có điều lúc này lấy tĩnh chế động đúng là kế hay…”.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên hỏi: “Tiểu công công biết võ?”.

Như Ý còn chưa kịp trả lời, Cát Tường đã cười phì, nói: “Hắn đích thực biết võ công, đáng tiếc là chỉ biết nhìn rồi bình luận, chứ để hắn đích thân lên đài, tuyệt đối không làm ăn được gì đâu”.

Như Ý mặt đỏ lựng, hừ một tiếng nói:

“Thế thì đã làm sao? Ta thân thể cao quý, còn cần tự mình động thủ sao? Huống hồ, thực khách chỉ cần sành ăn là được rồi, đâu cần tự mình xuống bếp… A! Phan tướng quân nguy hiểm!”.

Khi hắn la lên nguy hiểm, trường thương Di Thù linh động đâm vào hai mắt Phan Phương bằng một tốc độ cực kỳ nhanh, mà Phan Phương đang ở giữa không trung, không thể tránh, cũng không thể trốn, nhìn thương sắp đâm vào mắt, nhưng đúng giây cuối lại chệch đi, chỉ nghe một tiếng động khẽ, đầu thương đâm vào cánh tay trái của y.

Đồng thời, y đáp xuống đất, lùi lại ba bước.

Khương Trầm Ngư trong lòng lo lắng – thua rồi!

Trên sân hai người bất động, ngoài sân im lặng như tờ.

Như Ý trợn mắt, lộ vẻ không hiểu được.

Còn Di Thù giữ nguyên động tác đâm, một lúc sau, cánh tay nhấc lên, thu hồi trường thương, nhưng thân thương và mũi thương gãy rời, đầu thương vẫn cắm trên tay Phan Phương.

Nàng ta nhìn cây thương gãy của mình, tựa như si ngốc, cuối cùng ngẩng đầu nhìn Phan Phương, mãi không nói gì.

Phan Phương cười nhạt: “Ta thua rồi”.

Vẻ mặt Di Thù lại biến đổi, có vẻ vô cùng cổ quái, sau chót cúi đầu, thong thả nói: “Đã nhường…”, ngừng lại một lát, nói thêm một câu: “Đa tạ”, lại ngừng lại như nghĩ ngợi gì đó, ngẩng đầu lên nói: “Vết thương của tướng quân…”.

Phan Phương không để tâm, đáp: “Vãn Y trở về sẽ tự biết xử lý”.

Di Thù gật đầu, vứt cây thương cho thị vệ bên cạnh: “Chúng ta đi”. Cứ như vậy đi không còn một ai.

Nàng ta vừa đi, Khương Trầm Ngư vội vàng chạy tới, hỏi: “Tướng quân, vết thương của ngài…”.

Phan Phương giữ tay nàng lại, im lặng lắc đầu, trong mắt lóe lên một tia dị sắc. Khương Trầm Ngư hiểu ý, dịu dàng nói: “Cho dù thế nào phải về phòng cầm máu đã”. Nàng lập tức sai người dìu y về phòng.

Về tới phòng, nàng cho người xung quanh lui ra hết, đích thân lấy hòm thuốc, đang nghĩ phải làm – thế nào nhổ đầu thương ra, chỉ thấy cơ bắp trên cánh tay Phan Phương đột ngột gồng lên, sau đó đầu thương tự nhiên trồi lên, rơi cạch trên mặt bàn.

Khương Trầm Ngư vội vã cầm máu băng bó cho y, hỏi: “Tướng quân cố ý thua công chúa?”.

Phan Phương lạnh nhạt “ừ” một tiếng.

“Tại sao?”.

Ánh mắt Phan Phương rơi trên mũi thương đó.

Khương Trầm Ngư cầm mũi thương lên quan sát kỹ lưỡng, Phan Phương giải thích: “Thuật luyện sắt của Trình quốc đứng đầu bốn nước, cây thương Di Thù sử dụng lại là tinh phẩm ngàn cây mới có một”.

Lúc trước đứng xa nhìn chỉ coi đó là một cây thương bình thường, mà nay cầm trong tay mới biết còn có huyền cơ. Đầu thương sắc nhọn đã đành, bên trong còn giấu bảy mũi móc câu, ngoài ra còn có rãnh trũng. Tinh xảo như thế nhưng đặt trong tay lại nhẹ bẫng, thật là khiến người ta thán phục.

Khương Trầm Ngư nói: “Cho nên tướng quân mới cố ý thua, chịu một thương của công chúa để giữ lại mũi thương này?”.

Phan Phương lắc đầu. Thấy nàng không hiểu, bèn giải thích: “Ta giữ lại mũi thương là cố ý, nhưng chịu một thương của công chúa là bất đắc dĩ”.

“Hả?”.

“Bởi vì, ta muốn cứu nàng ấy”.

“Cái gì? Sở dĩ Phan Phương thua là vì hắn muốn cứu Di Thù?”.

Cùng lúc đó, trong một căn phòng khác của dịch trạm, kết luận tương tự cũng được nói ra từ miệng một người khác.

Trong căn phòng bố trí đơn giản nhưng cực kỳ thoải mái, nam tử mặc áo tím mỉm cười: “Không sai, chính là để cứu người”.

Như Ý bĩu môi: “Sao có thể thế được? Khi đó rõ ràng thần nhìn thấy hắn không thể trốn được…”.

“Trước đó, có phải Di Thù đã dùng chiêu Phi Long Quy Hải, còn Phan Phương dùng thương chặn lại, mượn lực thuận thế bay lên?”.

Như Ý cả kinh: “Không phải thánh thượng không có mặt ở đó sao? Làm sao người biết được?”

Cát Tương được thể xen vào: “Phì, trên đời có chuyện gì mà thánh thượng không biết?”.

Người áo tím chỉ cười cười: “Phan Phương ở giữa không trung, không sức chống đỡ, toàn thân sơ hở, vốn là thời cơ tuyệt vời, nhưng phải biết rằng, không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng lách khỏi ngọn thương của Di Thù, đặc biệt là chiêu Phi Long Quy Hải tinh diệu như thế, chiêu đó muốn thi triển, hẳn phải dùng ít nhất tám thành công lực, hơn nữa đã đâm là phải trúng, nếu không nội lực sẽ phản lại làm bản thân bị thương. Di Thù dùng chiêu này, vốn tưởng đã giành chắc phần thắng, không ngờ Phan Phương lại dễ dàng hóa giải. Nàng ta thấy Phan Phương bay lên, không nỡ bỏ qua thời cơ tốt, vì thế gấp rút tấn công, không màng đến nội lực phản lại, thương đi nửa chừng, nếu phía trước không có chỗ dụng lực sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Phan Phương vì không muốn nàng ta bị thương, bèn dùng cánh tay đỡ lấy một thương đây cũng là nguyên nhân vì sao mũi thương gãy rời”.

Như Ý vò đầu, nói: “Ra là thế sao…”.

Cát Tương cốc vào đầu hắn: “Cái gì là như thế sao? Lời thánh thượng nói, ngươi còn dám hoài nghi, đúng là ngày càng không biết phép tắc!”.

Người áo tím cười ha ha: “Ngươi theo ta gần hai năm rồi, học văn không thành, học võ cũng chỉ hời hợt, nên nghiêm túc xét lại bản thân”.

Như Ý cúi đầu, đáp: “Mới chưa đến hai năm đã mong nô tài tiến bộ vượt bậc, cũng quá nghiêm khắc, nô tài không phải là Tiết Thái của Bích quốc… Ai da!”. Nói đến đây, bị Cát Tương nhéo một cái đau điếng.

Nụ cười trên gương mặt người áo tím biến mất, dõi trông bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Tiết Thái…”.

Nơi chân trời, ráng chiều như gấm, thế nhưng nó cách phàm trần tục thế quá xa, xa không thể với tới được.

Mà dưới ráng chiều xa thẳm ấy, Khương Trầm Ngư nói: “Trong lòng công chúa cũng rất rõ là tướng quân cứu nàng ta, cho nên vẻ mặt mới kỳ quái như vậy?”.

Phan Phương “ừm” một tiếng, “Có điều, ta còn có một chuyện không hiểu”. “Xin tướng quân cứ nói”.

Phan Phương chỉ mũi thương đó, nói; “Thương này chế tạo tinh xảo không cần nhắc đến, nhưng chất liệu của nó là loại sắt hiếm tám màu thượng đẳng, tuy nhẹ nhưng cực kỳ cứng. Nhưng theo ta biết trong khắp Trình quốc, không nơi nào có loại sắt này”.

“Ý của tướng quân là loại sắt này mua từ nước khác về?”.

Phan Phương gật đầu: “Trình quốc nước nhỏ đất cằn, khoáng sản không nhiều, nhưng họ lại có vũ khí mạnh nhất, hơn nữa số lượng dồi dào, chất lượng tuyệt đỉnh, vượt xa các nước khác. Thế là vì sao? Là ai bán sắt cho bọn họ?”.

Đáp án đầu tiên mà Khương Trầm Ngư nghĩ tới chính là: “Nghi vương?”.

Phan Phương lắc đầu: “Nghi quốc cũng không có loại sắt này”.

Khương Trầm Ngư nhíu mày.

Sắc mặt Phan Phương nghiêm nghị, nén thấp giọng nói: “Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực kỳ ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.

Lòng Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuối cùng ý thức được sự nghiêm trọng của sự việc – Sắt tiến cống của Bích quốc biến thành vũ khí của công chúa Trình quốc, là biếu tặng? Hay là mua bán? Là ai có quyền đem tặng và mua bán?

Chỉ một mũi thương nhỏ nhoi, đột nhiên trở nên nặng tựa ngàn cân. Trong vụ giao dịch này, thứ bán đi chỉ là sắt hay là… đất nước?

“Tiểu thư, tiểu thư bảo em lưu ý tên Mê Điệp đó, hôm nay hắn lại tặng thuốc nữa”. Trong phòng ngủ, Hoài Cẩn cầm một trang danh sách quà tặng mới đến bên Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư cầm lấy tờ danh sách.

Hôm qua, khi nàng nhìn thấy một người tên “Mê Điệp” trong danh sách liền cảm thấy có gì đó bất thường, nên bảo Hoài Cẩn phàm có người nào đến tặng lễ thì cứ thu nhận, quả nhiên không ngoài dự đoán, hôm nay người đó lại tặng thuốc. Cứ như thế, đối phương liên tục tặng hai mươi chín loại thuốc trong vòng ba ngày.

Hai mươi chín… nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất có liên hệ đến con số này chỉ có ngày sinh của Trình vương – hai mươi chín tháng sáu.

Khương Trầm Ngư đặt mấy tờ danh sách cạnh nhau để đối chiếu hai mươi chín loại thuốc đó không phải là loại thuốc quý báu gì, phần lớn là thuốc thanh nhiệt tiêu viêm, bổ gân cốt, nhưng nếu như bỏ đuôi bỏ đầu một số trong đó, thì sẽ biến thành: Cúc (cứ) Oa, nhất điểm (điểm) hồng, trạch tả (tiết), lộc (lộ) giác sương, đâu linh (lân), tố (tố) hinh hoa, tỏa (sở) dương, ngũ vị (vi) tử, kim (cẩn) kiều mạch, phòng (phòng) phong, nhẫn đông (đông), hậu (hầu) bổ, thác bàn (phán) cân, ngư (ngư) tinh thảo, thục (tốc) địa, đương quy (quy) (Dùng tên các loại thuốc để viết mật mã, tên các loại thuốc gồm ba chữ, truyền thông điệp có chữ phát âm tương tự chữ ở giữa.).

“Cứ điểm tiết lộ, Lân Tố sở vi. Cẩn phòng Đông hầu, phán Ngư tốc quy”.

(Cứ điểm bị bại lộ, là do Lân Tố làm. Cẩn thận đề phòng Đông Bích hầu, mong Trầm Ngư mau quay về.)

Tay Khương Trầm Ngư khẽ run rẩy, một tờ giấy trong số đó rơi khỏi tay, liệng vòng rớt xuống mặt đất. Ánh mắt nàng dừng lại trên trang giấy dưới chân, mãi không thốt nên lời.

Nếu như nói, việc bọn mai phục trong cửa hiệu Sái gia là thủ hạ của Lân Tố đã đủ khiến người ta kinh ngạc, vậy thì câu thứ hai càng khiến nàng lạnh buốt đến tận tâm can.

Phụ thân bảo nàng… đề phòng Giang Vãn Y.

Giang Vãn Y.

Chính là người mỉm cười nói với nàng đừng sợ hãi khi nàng chìm trong cơn ác mộng, chính người trên danh nghĩa là sư huynh của nàng, chính là người mà nàng hao phí tâm sức tìm cách cứu…

Tại sao lại là hắn?

Nàng nhặt tờ danh sách lên, đọc đi đọc lại mấy lần, những mong tìm ra ý tứ thứ hai để bác bỏ kết quả này, thế nhưng, bút tích trước mắt vô cùng rõ ràng mà tàn nhẫn nhắc nhở nàng, những việc đã phát sinh trong mấy ngày nay: Ngày mùng một tháng sáu, Tây cung, Giang Vãn Y bị phát hiện đêm khuya xuất hiện trong tẩm cung của La quý phi;

Ngày mùng hai tháng sáu, khi Di Phi thẩm tra Giang Vãn Y và La phi, Lân Tố bất ngờ xuất hiện;

Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi nói với nàng đêm đó Giang Vãn Y gặp một người khác ở Tây cung, mà cùng ngày, nàng phát hiện cứ điểm của phụ thân bị tiêu diệt.

Bây giờ, ngày mùng bảy tháng sáu, phụ thân sai người báo cho nàng, phải đề phòng Giang Vãn Y…

Tại sao? Tại sao?

Lẽ nào người Giang Vãn Y gặp đêm đó là Lân Tố..? Hắn đã tiết lộ thân phận của nàng cho Lân Tố..? Vì thế Lân Tố bắt đầu triệt để điều tra kinh đô, tróc nã những quân cờ ngầm của Khương gia, lại đặt cạm bẫy đợi nàng chui đầu vào rọ... Thế nhưng chẳng phải nàng và Giang Vãn Y chung thuyền sao? Bán đứng nàng có lợi gì cho Giang Vãn Y? Tại sao phụ thân không nói rõ một chút? Tại sao trước mắt trùng trùng mây mù, không những không rõ ràng, ngược lại càng lúc càng mơ hồ?

Khương Trầm Ngư bắt đầu hồi tưởng hết thảy sự việc liên quan đến vị sư huynh trên danh nghĩa này: Hắn là con trai độc nhất của Giang Hoài, ba năm trước vì tranh chấp với phụ thân, bỏ nhà ra đi, lưu lạc nhân gian, trong ba năm, cứu người vô số, được dân chúng phong làm thần y. Sau đó, hắn đột nhiên quay về, trở thành môn khách của công tử, việc đầu tiên sau khi về kinh thành là trị bệnh cho Hy Hòa phu nhân. Hắn có y thuật tinh thâm, chữa đâu khỏi đó, vì thế Hy Hòa phu nhân mau chóng lành bệnh, Chiêu Doãn vô cùng vui mừng, lại tra ra Giang gia và Diệp gia là thân thích, cho nên để Hy Hòa phu nhân và hắn nhận tổ quy tông, phong thưởng tước hầu, lại phái đi sứ Trình quốc, chữa bệnh cho Trình vương.

Không sai, đó chính là lai lịch của Giang Vãn Y.

Là sư muội đồng hành, có quan hệ mật thiết với hắn, nàng còn thấy được nhiều hơn: Hắn tính tình ôn hòa, cực kỳ quan tâm người dưới, không hề kiêu ngạo.

Hắn cẩn thận chu đáo, luôn toàn tâm toàn lực quên ăn quên ngủ chữa bệnh cho người khác.

Hắn còn có một trái tim vô cùng dịu dàng, vô cùng từ bi, ôm hoài bão tế thế cứu người, không phân sang hèn, coi mọi người bệnh như nhau…

Một người như thế, một người như thế… nếu tất cả đều là giả tạo…

Thật là đáng sợ.

Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, muốn kiềm chế bản thân giữ bình tĩnh, nhưng ngón tay nàng run mãi run mãi, không sao dừng lại được.

Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng hoảng loạn, từ từ nghĩ, chắc chắn, chắc chắn có thứ gì bị bỏ qua hoặc quên mất, bình tĩnh nào, nghĩ kỹ xem, có thể làm được, nhất định có thể…

Nàng nhắm mắt, hít thở thật sâu, hít vào thở ra mười lần mới mở mắt. Hoài Cẩn lo lắng nhìn nàng, “Tiểu thư, tiểu thư không sao chứ?”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư đậu trên tay Hoài Cẩn: “Trên cổ tay ngươi buộc cái gì đó?”.

Hoài Cẩn sững ra, giơ tay lên: “Tiểu thư nói sợi dây đỏ này à? Là năm ngoái em theo phu nhân đến Định Quốc tự lễ Phật xin được đấy”.

“Có thể tháo ra cho ta xem không?”.

Hoài Cẩn lập tức cởi sợi dây đỏ đó ra, Khương Trầm Ngư cầm lấy, tỉ mỉ xem xét, mấy sợi chỉ bện xoắn, xỏ qua ba hạt châu trắng một hạt châu đỏ, bện rất tinh xảo. Đôi mắt nàng từ đậm sang nhạt, lại từ nhạt sang đậm. Cứ thế sau một thời gian dài, nàng bỗng kêu lên thất thanh, trong mắt như có một ngọn lửa bùng lên, sáng rỡ lạ thường:

“Hóa ra là thế!”.

“Tiểu thư! Cái gì là thế”.

Khương Trầm Ngư đứng dậy, vì kích động nên bước mấy bước về phía trước, lẩm bẩm: “Hóa ra là thế, thật sự là như thế sao?”.

“Tiểu thư?”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt sợi dây đỏ, hôm nay là ngày mùng bảy tháng sáu, còn hai mươi hai ngày là đến sinh nhật Trình vương. Mệnh lệnh của Chiêu Doãn là đánh cắp bí mật và cưới được công chúa. Nhưng bây giờ xem ra tình huống rõ ràng trở nên phức tạp hơn rất nhiều..
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi Thứ Chín: Chuỗi Châu (Phần 2)

Khương Trầm Ngư hạ rèm mi, còn hai mươi hai ngày… Ngoài cửa có người gõ cửa.

Hoài Cẩn mở cửa ra, thấy Lý Khánh khom mình bẩm: “Ngu cô nương, có thiếp mời gửi tới”.

Hoài Cẩn tò mò hỏi: “Ấy, trong cung lại thiết yến à?”.

Lý Khánh đáp: “Đúng là mời dự yến, nhưng không phải trong cung, mà là…”.

Lão còn chưa nói hết, Khương Trầm Ngư đã quay lại mỉm cười, tiếp lời với một vẻ điềm tĩnh như đã đoán trước được, nói: “Mà là Di Thù công chúa, đúng không?”.

Hoài Cẩn nhận thiếp mời, chỗ lạc khoản, trên trang giấy màu hồng đào quả nhiên viết hai chữ “Di Thù”.

Di Thù mời hai người là nàng và Phan Phương.

Vì được Trình vương bội phần sủng ái, cho nên vị công chúa này cũng có phủ đệ riêng như mấy vị ca ca, chỉ có điều, khi xe ngựa dừng lại ở cuối con ngõ nhỏ, phu xe nói trước mặt là phủ công chúa, Khương Trầm Ngư vẫn hơi ngạc nhiên một chút.

Một con ngõ rất bình thường, ngoài sạch sẽ và yên tĩnh hơn những con ngõ bình thường khác thì không có điểm nào đặc biệt cả.

Hai cánh cửa phủ sơn son, mép cửa còn bong sơn, vòng đồng sáng loáng.

Một lão già lưng gù dáng dấp như quản gia đang đứng trước bậc thềm khom lưng chờ đợi, thấy họ tới cũng không nhiều lời, hành lễ xong liền quay lưng lại dẫn đường.

Bước qua cánh cửa là một bức tường vẽ tranh màu, không phải là long phượng hoa cỏ thường thấy mà là hình Nữ Oa và Phục Hy đầu người thân rắn.

Qua thềm chắn gió, lọt vào tầm mắt là một khu vườn rộng rãi, sáng sủa, mấy gian nhà tre thấp thoáng giữa rừng sâu hồ biếc, hoa dại không biết tên nở đầy trước cửa, khiến người ta như lạc vào chốn nông gia, phong vị đồng quê dạt dào.

Tuy đều là những kiến trúc độc đáo, nhưng Di Thù và Di Phi không giống nhau, Di Phi ở một phủ đệ không làm người khác kinh ngạc không chịu thôi, còn Di Thù rõ ràng kín đáo, giản dị hơn nhiều.

Lão quản gia không dẫn họ vào trong nhà mà đi đến rừng trúc sau nhà, từ xa đã nghe thấy tiếng giao đấu và tiếng cổ cầm. Sau khi đi vòng qua căn nhà liền thấy trên khoảng đất trống ở hậu viện có bày mấy chiếc bàn ghế, một thiếu nữ ăn vận như tì nữ đang gảy đàn, cách đó vài trượng, hai người đang tỉ võ, một người dùng trường thương, một người dùng trường đao.

Không cần nói, người dùng thương chính là Di Thù, còn người dùng đao lại là Hàm Kỳ.

Hai người họ nếu nói là đang tỉ võ, chẳng thà nói là biểu diễn thì đúng hơn. Thương tới đao đi, mang theo tiết tấu tao nhã, hợp thành một thể với tiếng đàn, ánh trăng chiếu rọi lên hai người, trùm lên họ một màn ngân quang bàng bạc, phối hợp với binh khí vút lên xé gió, đánh rất đẹp mắt. Cho dù Khương Trầm Ngư không hiểu võ công, cũng cảm thấy cảnh tượng đẹp mắt, trong lòng khoan khoái. Nhất thời cao hứng, không kìm được bước đến vỗ vào vai người chơi đàn, ra dấu tay với nàng ta.

Thiếu nữ chơi đàn hiểu ý, im lặng đứng dậy nhường chỗ. Mà nàng ta vừa mới rời tay, Khương Trầm Ngư đã thay nàng ta đàn tiếp.

Dây rung, âm khởi, gió động.

Trong sân đao thương càng nhanh hơn, hồng bào áo đỏ tung bay phấp phới, phóng khoáng như nước chảy mây trôi.

Phan Phương im lặng chăm chú nhìn chiêu thức của hai người, bỗng mặt biến sắc, gần như trong cùng một giây, trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không trung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.

Khương Trầm Ngư vội dừng tay đứng dậy, nói gấp: “A Ngu nhất thời vui quá hóa vô lễ, đàn quả khích động, tội đáng muôn chết!”. Nói đoạn định quỳ xuống, nhưng bị Di Thù giơ tay ngăn lại.

Di Thù cười nói: “Là ta võ nghệ không bằng người, bị đánh rớt binh khí, may mà thương bay về phía bên kia, không làm các ngươi bị thương”.

Khương Trầm Ngư áy náy nhìn Hàm Kỳ, thấy hắn im lặng ngẩn nhìn trường đao trong tay, sau đó ngẩng đầu nhìn nàng.

Những tin đồn tai tiếng nhỏ nhen có thù tất báo liên quan đến người này bỗng dội lên trong đầu, sắc mặt Khương Trầm Ngư trở nên hơi nhợt nhạt, nhưng không ngờ Hàm Kỳ không hề giận dữ, chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi đàn khá lắm”.

Di Thù xùy một tiếng, nhếch môi hỏi: “Nhị hoàng huynh bắt đầu hiểu những chuyện phong hoa tuyết nguyệt này từ lúc nào vậy? Ngu cô nương đàn thế nào, huynh có nghe ra không?”.

Hàm Kỳ không thèm đếm xỉa đến lời châm chọc của nàng ta, dán mắt nhìn Trầm Ngư, hỏi: “Ngươi khỏi bệnh chưa?”.

Khương Trầm Ngư còn chưa kịp đáp lời, Di Thù lại cười ha ha: “Nhị hoàng huynh quan tâm người ta, luôn lo lắng cho bệnh của người ta”.

Khương Trầm Ngư nghe ra trong lời như có ẩn ý, có một cảm giác rất vi diệu, không kìm được khẽ chau mày. May mà Di Thù không lằng nhằng ở chủ đề này lâu, nói: “Thực ra vừa nãy ta và nhị hoàng huynh chỉ khởi động, chờ hai vị tới”.

Khương Trầm Ngư tỏ vẻ không hiểu.

Di Thù nói: “Nhị hoàng huynh nghe kể chuyện ta tỉ võ với Phan tướng quân xong, trong lòng ngứa ngáy không thôi, cũng muốn tỉ thí với tướng quân một phen”. Nói đoạn cười tươi roi rói.

Khương Trầm Ngư không khỏi nhớ tới Tần nương.

Trong ký ức của nàng, Tần nương chỉ có lúc kể chuyện mới tươi cười rạng rỡ, thần thái vui tươi, mà sau khi tiếng phách vang lên, câu chuyện kết thúc, vẻ mặt nàng lập tức ủ dột. Cho dù là đối diện với lời cầu thân của Phan Phương, giọng nói cũng vẫn nặng nề, không động thanh sắc.

Còn Di Thù lại khác. Di Thù hay cười hay nói, vẻ mặt không có một giây nào tĩnh lặng, mày liễu giương lên, khóe môi khép mở, trăm ngàn tư thế, hết mực phong tình.

Thực ra họ rất khác nhau.

Khi đã hiểu rõ điểm này, trong lòng Trầm Ngư khe khẽ thở dài, quay sang nhìn Phan Phương, Phan Phương đang đối mặt với Hàm Kỳ, Hàm Kỳ tuy đã hết sức kìm chế, nhưng đáy mắt vẫn lộ vẻ hưng phấn khó mà giấu giếm, kích động vì sắp được tỉ võ với một đối thủ như Phan Phương. Xem ra, vị hoàng tử này quả nhiên là một người cuồng võ.

Im lặng đối mặt một lúc, Hàm Kỳ giơ một tay lên, trầm giọng nói: “Mời chỉ giáo”.

Di Thù chạy đi nhổ cây trường thương cắm trên đất lên, ném về phía Phan Phương: “Phan tướng quân, dùng cây thương của ta đi!”.

Trước tình thế đó, Phan Phương đành giơ tay, đón lấy cây thương kia. Như vậy, y không đấu cũng phải đấu.

Khương Trầm Ngư nhìn y, lại nhìn Di Thù, trong mắt lóe lên một tia dị sắc nhưng không nói gì, chủ động lui lại vài bước, tránh đến lúc thí làm mình bị thương.

So với sự trấn tĩnh của nàng, Di Thù rõ ràng cực kỳ kích động, hét lớn: “Đem trống lên!”.

Hai tên thị vệ lập tức bê một chiếc trống da trâu cao bằng thân người tới, Di Thù đích thân cầm dùi, dùi thứ nhất gõ xuống, tựa như sấm rền; dùi thứ hai gõ xuống, mưa lớn sầm sập. Cùng với tiết tấu càng lúc càng nhanh, bầu không khí phấn khích ngút trời cũng đột nhiên như cuồng phong bạo vũ quét qua toàn bộ hậu viện.

Mà trong tiếng trống phấn khích đó, Hàm Kỳ vung đao.

Ngân quang như chớp, chỉ lóe lên một cái, lưỡi đao lạnh buốt đã tới trước mắt Phan Phương.

Phan Phương buộc phải lùi lại một bước, giơ thương đở đao. Y còn chưa đứng vững, đao thứ hai đã gấp rút đuổi tới.

“Hảo đao pháp!”, Di Thù hô to, đánh trống càng hăng hơn.

Khương Trầm Ngư đứng cách đó rất xa, nhìn cuộc tỉ võ đối với người hiểu võ mà nói là trăm năm mới gặp một lần này, trái tim từ từ chùng xuống.

Một giọng nói từ sâu thẳm trong nội tâm vang lên: “Ngăn lại đi…”.

Một giọng nói khác lập tức phản bác: “Không được”.

“Sẽ xảy ra chuyện, ngươi biết mà…”. “Đợi thêm chút nữa”.

“Không thể đợi được nữa, đến khi xảy ra chuyện thật thì tất cả đã muộn rồi!”.

“Không, đợi thêm chút nữa!”.

Hai giọng nói này càng nói càng nhanh, càng nói càng cuống, mà tiếng trống cũng càng lúc càng gấp, từng tiếng từng tiếng như gõ vào tim nàng. Khương Trầm Ngư không kìm được kêu lên một tiếng, đến bản thân cũng không hiểu nó nghĩa là gì, chính lúc đó, một đạo hàn quang từ xa bắn tới, ting một tiếng, không thiên không lệch, va đúng cán thương của Phan Phương, tay Phan Phương hơi run run, đầu thương đi lệch, sượt qua bên tai Hàm Kỳ.

Hai người lập tức dừng lại, một tia máu nhỏ trào ra trên má phải Hàm Kỳ, chảy rịn xuống dưới.

Phan Phương lập tức vứt trường thương, quỳ gối: “Tại hạ nhất thời bất cẩn, ngộ thương điện hạ, xin điện hạ thứ tội!”.

Sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn đưa tay sờ mặt mình, nhìn thấy máu trên tay xong, mắt càng thêm u tối.

Di Thù đã ngừng gõ trống, quay người nhìn về một hướng, sắc mặt cũng không dễ coi, lạnh lùng nói: “Ta nói là ai, dám ngang nhiên can thiệp lúc nhị hoàng huynh và Phan tướng quân tỉ võ…”.

Một giọng cười nói: “Nếu như vừa nãy ta không ra tay, e rằng bây giờ nhị ca đã ngã lăn ra rồi. Muội nói xem, rốt cuộc ta có nên ra tay không?”.

Trên thế gian này có vô số điệu cười, nhưng chỉ có một điệu cười có thể thối tha, giảo hoạt, khiến người ta giận dữ đến mức hận không thể xông tới đá cho gã máy cước thật mạnh.

Đó chính là – điệu cười của Di Phi.

Khương Trầm Ngư quay đầu, quả nhiên Di Phi đã tới.

Ánh mắt Di Phi lướt qua nàng, ý cười càng đậm, bước chân không dừng, đi qua cúi người nhặt một chiếc nhẫn trên mặt đất lên, thổi bụi đất bám trên bề mặt, đeo lại vào ngón tay. Hóa ra, thứ đánh chệch trường thương của Phan Phương ban nãy chính là chiếc nhẫn của gã.

Khương Trầm Ngư trong lòng cả kinh. Tuy đã biết vị tam hoàng tử này không phải là hạng vô dụng, nhưng cho dù là tình báo của phụ thân cung cấp hay là trong tin tức lưu truyền của Trình quốc, đều nghe nói vị tam hoàng tử này không biết võ công. Thế nhưng, lúc này gã chỉ dùng một chiếc nhẫn đã có thể khiến hai người đang giao chiến kịch liệt dừng tay, công lực của gã thật là đáng s ợ!

Bây giờ gã không hề che giấu bí mật này là vì mục đích gì?

Phía bên kia, Di Thù sầm mặt nói: “Tam hoàng huynh có ý gì? Lẽ nào Phan tướng quân định hại nhị hoàng huynh?”.

“Quả thực Phan tướng quân vô tâm…”, Di Phi thản nhiên cười, “Chỉ có điều, lỗi lầm vô tâm mới là đáng sợ nhất… phải không nhị ca?”.

Hàm Kỳ vẫn đứng yên không nhúc nhích, tựa như không hề nghe thấy gã nói gì.

Di Phi lại lần nữa cúi người, nhặt trường thương lên, cầm bằng hai tay, đưa đến trước mặt Phan Phương: “Vừa nãy sự tình khẩn cấp, tự tiện xen vào cuộc tỉ thí của hai vị, mong tướng quân không trách”.

Phan Phương nhìn gã chăm chú, giơ tay nhận thương: “Đa tạ tam hoàng tử”.

Di Thù bực bội hỏi: “Huynh không mời mà đến là có chuyện gì?”.

“Sao? Bây giờ muội muội trở nên quan trọng, thân phận cao quý, oai phong, đến phủ công chúa ta cũng không được đến sao?”. Di Phi châm chọc, khiến Di Thù mặt trắng bệch, giậm chân nói:

“Ai nói với huynh như thế! Muội, muội… không thèm để ý huynh nữa…”, nói đoạn quay đầu bỏ đi, để lại một đám người đối mặt nhìn nhau.

Di Phi cũng không để tâm, đến trước bọn Khương Trầm Ngư cười nói:

“Vừa nãy ta có ghé qua nhà bếp, đồ ăn chuẩn bị gần xong rồi, chúng ta đừng ở đây nữa, vào trong nhà dùng bữa thôi. Không phải ta nói chứ, phủ công chúa cái gì cũng rách nát, duy chỉ có đầu bếp là thượng đẳng”.

Gã hớn hở phơi phới, đổi khách thành chủ, mời mọi người bắt đầu yến tiệc.

Mà người hầu trong phủ hình như cũng không cảm thấy có gì không thỏa đáng, ngoan ngoãn nghe theo, đem mỹ tửu sơn hào hải vị, hết món này đến món khác lên. Tuy không khí quái dị, nhưng đúng như Di Phi nói, tài nghệ của đầu bếp thực sự xuất sắc, đặc biệt là món Ngũ Hầu Chinh, vào miệng là tan ra, tươi ngon đến mức dường như muốn nuốt luôn cả lưỡi. Khương Trầm Ngư ăn mấy miếng liền.

Vừa mới buông đũa, liền cảm thấy một cái nhìn bỏng rát, nàng quay đầu lại nhìn, Di Phi đang cười híp mắt nhìn nàng, nói: “Ngu cô nương khẩu vị không tồi, có thể thấy bệnh đã gần khỏi rồi”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt: “Vẫn phải đa tạ thuốc của tam điện hạ”.

“Nếu nàng thích món Ngũ Hầu Chinh này, lát nữa còn món Phượng Xuyên Mẫu Đơn cũng rất có tiếng, có thể thử xem sao”. Vừa nói thức ăn liền bưng lên, Di Phi tự mình múc một bát, bê tới trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư vội vã đứng dậy nhận bát, Di Phi bỗng bấm vào hai ngón tay nàng, mắt lóe sáng kỳ dị, nửa cười nửa không.

Khương Trầm Ngư vô thức muốn rút tay ra, nhưng lực độ trên ngón tay nhìn có vẻ nhẹ nhàng, nhưng lại cực kỳ mạnh mẽ, cho dù nàng dùng lực thế nào vẫn không hề nhúc nhích, đang lúc giằng co, một tay Di Phi bỗng nhẹ nhàng xoay lại, biến ra một đóa mẫu đơn, cài lên mái tóc nàng rồi mới thu tay, lùi lại mấy bước, ngắm kỹ rồi nói: “Danh hoa mỹ nhân, đúng là cùng nhau khoe sắc”.

Khương Trầm Ngư nhất thời không biết làm thế nào, nhìn xung quanh, Phan Phương, Hàm Kỳ và đám nô bộc có mặt đều đang nhìn nàng, chỉ có Phan Phương lộ vẻ kinh ngạc, Hàm Kỳ lại nhíu mày trầm tư, còn những kẻ khác không hề có chút biểu cảm nào.

Một buổi dạ yến lớn như thế lại yên tĩnh đến mức đáng sợ.

Nàng cắn môi, đứng im hồi lâu mới gượng gạo giơ tay, gỡ đóa mẫu đơn đó xuống. Mẫu đơn trong tay như còn ngậm sương, cũng không biết Di Phi tìm ở đâu ra, màu sắc cực kỳ tươi thắm, dưới ánh đèn, đỏ như máu tươi.

Bàn tay nàng từ từ xiết chặt, cánh hoa bị bóp nát trong lòng bàn tay, sau đó nàng ném mạnh một cái, trúng mặt Di Phi.

Không thèm xem mọi người phản ứng thế nào, Khương Trầm Ngư lập tức quay người rảo bước, khi đi ngang qua chỗ Phan Phương, chưa kịp mở miệng, Phan Phương đã chủ động đứng dậy đi theo.

Hai người cứ thế bỏ lại đám người sau lưng mà ra về. Dọc đường gặp mấy nô bộc, họ chỉ mải làm việc của mình, không hề ngăn cản.

Sau khi nhảy lên xe ngựa, Khương Trầm Ngư cuống quýt kêu: “Đến hoàng cung! Không, về dịch trạm! Không, vẫn nên đến hoàng cung… đợi đã…”, lời nói hoảng loạn, nàng tự biết mình thất thố, thở dài thườn thượt xong liền đưa tay bưng mặt.

Phan Phương trước sau vẫn im lặng nhìn nàng, bỗng ấn nhẹ lên mu bàn tay nàng: “Bình tĩnh”.

Vốn Khương Trầm Ngư đang cứng đờ người, bị y vỗ một cái, toàn thân run bắn, hơn nữa càng lúc càng run mạnh hơn, cuối cùng nàng buông tay xuống, ngước mắt lên đăm đăm nhìn y nói:

“Phan tướng quân, chúng ta trốn mau”.

Phan Phương kinh ngạc.

Khương Trầm Ngư tóm chặt lấy tay y, nói gấp: “Chúng ta mau về dịch trạm, phái người đến hoàng cung thông báo cho sư huynh tập hợp ở bến cảng… Ôi không, không kịp nữa rồi!

“Chúng ta đến thẳng hoàng cung, đón sư huynh rồi đi, ngay lập tức! Ngay bây giờ!”.

Phan Phương trầm giọng hỏi: “Sao vậy? Trầm Ngư? Xảy ra chuyện gì?”.

Hết thảy nỗi sợ hãi thấp thỏm của Khương Trầm Ngư ngưng kết trong khoảnh khắc, sau đó nàng lộ vẻ hoang mang, ánh mắt nàng không có tiêu cự, dừng trên thành xe, thì thầm:

“Canh hai đêm nay, Ngũ hầu khởi loạn, nếu chúng ta không muốn bị cuốn vào trong đó, chỉ có cách trốn…”.

Vừa nói đến đây, xe ngựa đang chạy đột ngột dừng lại, tuấn mã lồng lên, hí lên những tiếng chói tai.

Khương Trầm Ngư vội vã vén rèm, nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài xong, sắc mặt tái mét: “Hỏng rồi, đã muộn rồi…”.

Phan Phương nhìn theo nàng, thấy cách đó ba mươi trượng, mấy ngàn binh sĩ đứng sừng sững ở đầu con phố.

Gió thổi qua, lá quân kỳ tung bay, trên lá cờ màu hoa hạnh thêu đồ đằng chín con rắn, một chữ lớn thêu bằng chỉ đỏ như máu nổi bần bật: “Tố”.

Vị tướng quân thân mang ngân tỏa khôi giáp, chừng ba chục tuổi quất ngựa đi tới trước xe, trầm giọng quát: “Xuống xe”.

Khương Trầm Ngư cắn răng, quả quyết mở toang cửa xe, nhìn hắn nói: “Đây là xe của sứ thần Bích quốc, tướng quân đường đột ngăn cản là vì cớ gì?”.

Nam tử đó mặt không cảm xúc, nói: “Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích”.

“Sư huynh ta mất tích?”. Nàng sững sờ, lập tức hỏi lại: “Vậy tướng quân phải đến dịch quán tìm, sao lại cản đường chúng ta?”.

Nam tử kia lộ điệu cười châm biếm, cực kỳ lạnh lùng thâm hiểm nói: “Hơn nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư và Phan Phương gần như đồng thanh kêu lên, đồng thời cùng nhìn thấy vẻ kinh ngạc sợ hãi trên gương mặt đối phương.

Bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn…

Là bó tay chịu trói hay là gắng sức phản kháng? Trong giây lát, vô số ý nghĩ xuất hiện trong đầu Khương Trầm Ngư, vẫn còn chưa quyết định, chỉ nghe gió rít bên tai, Phan Phương ra tay nhanh như chớp, một tay bóp cổ tên tướng quân kia, lôi hắn từ trên ngựa vào trong xe.

Tên tướng quân đó kêu lên kinh hãi, ngay lập tức, Phan Phương điểm huyệt hắn, chỉ thấy hắn mặt mày sợ hãi, đỏ dựng lên, nhưng không nói được đến nửa l ời .

Hành động nhanh như điện xẹt, vừa bất ngờ vừa nhanh nhạy, vì thế, khi đội quân đứng chờ phía xa kia phản ứng lại, Phan Phương đã rút đao, kề vào cổ tướng quân nọ, lạnh lùng ra lệnh: “Các ngươi nhúc nhích, hắn chết”.

Mấy tên dẫn đầu còn lại chần chừ nhìn nhau.

Không đợi chúng chọn lựa, Phan Phương lệnh cho phu xe: “Quay đầu, về phủ công chúa”.

Phu xe sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu, vội vàng kéo dây cương, quay đầu xe. Ngựa vừa khua vó chạy, quân đội đã đuổi theo sau. Phan Phương đâm vào mông ngựa, tuấn mã bị đau, hí lên một tiếng rồi chạy như điên.

Thế nhưng, tốc độ xe ngựa không bì được với đơn kỵ (Một người cưỡi một ngựa.), thấy khoảng cách càng lúc càng bị thu hẹp, tuy đối phương nhất thời sợ ném chuột vỡ bình, không dám bắn tên, nhưng cứ tiếp tục thế này sớm muộn gì cũng bị bao vây bắt sống. Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây, hô lên: “Sư Tẩu!”.

Ám vệ từ dưới gầm xe nhô lên nửa người, tay trái vung lên, chỉ nghe một tiếng bịch, một vật nào đó rơi xuống đất nổ tung, khói vàng lan ra, che khuất tầm nhìn của đối phương.

Phan Phương chớp thời cơ quyết đoán vứt tên tướng quân đã bị điểm huyệt sang một bên, ôm Trầm Ngư nhảy qua cửa sổ, nhờ sự che giấu của màn khói mù mịt lăn dưới đất một vòng, rồi nhảy lên mái nhà bên cạnh đường, lại nhảy thêm mấy cái, trốn sau một mái nhà.

Xe ngựa vẫn lao về phía trước với tốc độ điên cuồng, khói dần tản đi, thiết kỵ tiếp tục truy đuổi. Cứ thế kẻ trước người sau chạy qua con phố dài.

Khương Trầm Ngư nấp trên mái nhà, nhìn thấy hết thảy, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Không phải là sợ hãi nhưng hoang mang lạ lùng.

“Tiếp theo đi đâu?”. Phan Phương quay đầu khẽ hỏi, sau đó rút cánh tay đang ôm eo nàng lại.

Đi đâu?

Phủ công chúa tuy có Di Phi, nhưng bây giờ gã và Lân Tố như lửa với nước, hơn nữa, vừa nãy Di Phi để mặc nàng bỏ đi không ngăn cản, cho thấy muốn nàng tự nghĩ cách.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư hơi sầm xuống, mau chóng đưa ra quyết định: “Đến phố Hoa Tân”. Đi tìm Hách Dịch.

Phố Hoa Tân thuộc phạm vi thế lực của Nghi quốc, Hách Dịch xét cả về công lẫn về tư, đều sẽ không thấy chết không cứu, hơn nữa nơi đó là phố chợ, cũng dễ dàng ẩn náu.

Phan Phương gật đầu, nói: “Mạo phạm rồi”, lại lần nữa ôm nàng, nhảy khỏi mái nhà không một tiếng động, chạy thẳng về hướng phố Hoa Tân.

Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Sư Tẩu?”.

Một giọng nói đáp lại: “Chủ nhân, có thuộc hạ”.

Rất tốt, hắn cũng đi theo. Khương Trầm Ngư bấy giờ mới an tâm, sau đó bắt đầu sắp xếp trong đầu một lần nữa tất cả các sự kiện. Đúng lúc đó, Phan Phương hỏi: “Làm sao nàng biết xảy ra chuyện? Là Di Phi ám hiệu cho nàng?”.

“Đúng.” Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, nói: “Phan tướng quân, khi ngài và Hàm Kỳ tỉ võ, tiếng trống đó… rất cổ quái đúng không?”.

Phan Phương im lặng giây lát mới gật đầu: “Ừ. Tiếng trống có sát khí”.

Quả nhiên là thế…

Khương Trầm Ngư biết rõ tính cách Phan Phương, một cuộc tỉ võ cần thận trọng như thế tất phải nương tay vài phần, nhưng vừa nãy nếu không phải Di Phi xen vào, một thương đó có khả năng sẽ đâm trúng tim Hàm Kỳ, nghĩ đi nghĩ lại, chắc chắn là do tiếng trống kia giở trò, đến một người không hiểu võ công như nàng đứng bên nghe còn cảm thấy tim đập thình thịch, kích động vô cớ, huống hồ là Phan Phương thân trong trận chiến?

Như thế vấn đề là: Di Thù gõ trống là vô tình hay là cố ý?

Khương Trầm Ngư nheo mắt, căn bản không cần nghĩ cũng biết là cố ý!

Vị công chúa này nhìn có vẻ phóng khoáng hào sảng, không có chút thẹn thùng yểu điệu của tiểu nữ nhi, nhất cử nhất động đều chiếm thiện cảm của người khác. Nhưng, nếu nghĩ kỹ, từng hành động lại cực kỳ đáng sợ, có dụng ý sâu xa.

Đầu tiên, nàng ta lấy danh nghĩa tặng thuốc đến dịch trạm thăm Trầm Ngư, mục đích là tỉ võ với Phan Phương. Khi đó chỉ nói là một kẻ cuồng võ, nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ nàng ta muốn thăm dò võ công của Phan Phương rốt cuộc ra sao, có đủ để giết Hàm Kỳ hay không.

Còn Phan Phương quả nhiên không phụ kỳ vọng, võ công vượt xa nàng ta, vì thế nàng ta mời họ đến phủ công chúa dự yến, sắp xếp Phan Phương tỉ võ với Hàm Kỳ.

Khương Trầm Ngư cảm thấy mình giống như một người mò mẫm tìm đường trong hầm tối quá lâu, cuối cùng đã nhìn thấy chút ánh sáng phía trước, vội vã mải miết suy nghĩ.

Trường thương trong tay Di Thù bay khỏi tay, vạch một đường cong trong không tung rồi cắm phập xuống đất, thân thương không ngừng rung rung.

Đây là điểm nghi vấn thứ nhất.

Khi đó, nàng thấy Hàm Kỳ và Di Thù đánh rất đẹp mắt, không kìm chế được tiến lên đích thân gảy đàn, nhưng tiếng đàn của nàng tuyệt đối không có sát khí, vì thế cũng không thể kích thích Hàm Kỳ hạ độc chiêu với Di Thù. Thế nhưng Di Thù đột nhiên bại trận, nàng ta đương nhiên không phải thua thực sự, mà là cố ý thua ca ca, để tiện ra mặt mời Phan Phương tỉ thí với Hàm Kỳ.

Nhìn từ một góc độ khác, nàng ta cố ý đấu với Hàm Kỳ một trận, dụng ý có lẽ là làm tiêu hao một phần sức lực của Hàm Kỳ, để hắn dễ dàng thua Phan Phương.

Cũng có nghĩa là nàng ta sắp đặt nhiều chuyện như thế, mục đích chỉ có một – giết Hàm Kỳ!

Mà sau khi Di Phi dùng nhẫn đánh chệch ngọn thương của Phan Phương, “sắc mặt Hàm Kỳ vô cùng, vô cùng khó coi, hắn giơ tay sờ lên mặt, thấy máu dính ở tay xong, ánh mắt càng tối sầm”.

Cùng là người học võ, Phan Phương nghe ra trong tiếng trống có sát khí, Hàm Kỳ sao có thể không nhận ra? Vì thế vẻ mặt của hắn mới trở nên u tối, thâm hiểm như thế. Khi đó còn cho rằng hắn giận dữ vì thua cuộc, bây giờ nghĩ lại, lúc ấy có lẽ là hắn phát hiện hóa ra muội muội muốn dồn mình vào chỗ chết.

Di Thù sắc mặt nhợt nhạt, giậm chân nói: “Ai nói với huynh những lời này!

Muội, muội… muội không thèm để ý đến huynh nữa!”.

Đây là điểm nghi vấn thứ hai!

Thân là chủ nhân, khi khách chưa đi mình đã đi trước, về tình về lý đều cực kỳ thất lễ. Hơn nữa Di Thù xưa nay phóng khoáng đại độ, sao lại có thể vì một câu châm biếm vặt vãnh của Di Phi mà nổi giận, dỗi hờn như thế? Có thể thấy, nổi giận chỉ là cái cớ, nguyên nhân thực sự chính là biết kế hoạch của mình thất bại, cho nên gấp rút rút lui, bày bố trận thế khác.

Lại liên hệ đến ám hiệu Ngũ Hầu Chinh, Phượng Xuyên Mẫu Đơn của Di Phi trong bữa tiệc, cùng với việc thiết kỵ của Lân Tố xuất hiện nhanh chóng một sự thực nổi lên vô cùng rõ ràng trong bóng tối – Di Thù và Lân Tố là đồng bọn!

Phan Phương sắc mặt trang nghiêm, nén giọng xuống thật khẽ, nói:

“Loại sắt này chỉ có Quyển Nhĩ sơn ở Hồng Diệp Hương trong Bích quốc mới có, vì số lượng cực ít nên vô cùng quý hiếm, chỉ dùng để tiến cống, cấm mua bán trong dân gian”.

Không sai, thực ra khi Di Thù để lại mũi thương chế tạo bằng loại sắt hiếm đó, Khương Trầm Ngư đã nghĩ tới một khả năng: Sắt tiến cống không cho phép tự ý mua bán, hễ bị phát hiện sẽ là tội chết. Vì thế, cho dù có người tự mình tặng hoặc bán sắt cho Di Thù, Di Thù cũng tuyệt đối không ngang nhiên công khai phô diễn như thế. Như vậy, chỉ có một cách giải thích: Sắt này là Chiêu Doãn cấp cho nàng ta.

Chỉ có hoàng đế tự mình tặng sắt tiến cống cho người khác mới là chuyện hợp tình hợp lý.

Hôm đó Di Thù tỉ võ với Phan Phương, đánh gãy mũi thương, nhìn có vẻ vô tâm kỳ thực là hữu ý, nàng ta rõ ràng ngầm ra hiệu với họ: Nàng ta và Chiêu Doãn có một mối liên hệ đặc biệt nào đó.

Nhưng hai người bình sinh chưa từng gặp mặt sẽ có quan hệ gì?

Sau khi Khương Trầm Ngư nhìn thấy đội quân của Lân Tố nàng đã có đáp án: Hoàng tử mà Chiêu Doãn thực sự ủng hộ chính là Lân Tố. Vì thế, y mới tặng sắt quý cho Lân Tố. Nhưng Lân Tố không biết võ công, không có hứng thú với binh khí, cho nên tặng lại Di Thù.

Như thế, một sự việc khác cũng có được đáp án: Cứ điểm của phụ thân bị lục soát.

Là bà, nhưng không biết cháu mình rơi mất một chiếc giày, Là một quý phu nhân, nhưng có một đôi tay có vết chai, Là một người bán hàng, nhưng hoàn toàn không có kỹ năng chào mời, Ngoài mấy cửa hiệu thư họa, có hàng bán kẹo rong, cách đó mấy bước, còn có hai tên ăn mày lười biếng dựa tường sưởi nắng. Đủ mọi sơ hở hôm đó kỳ thực không phải là sơ hở thực sự rõ ràng là Lân Tố ra ám hiệu cho nàng, cứ điểm đã lộ, mau mau rời đi.

Cũng tức là Lân Tố và Chiêu Doãn âm thầm thông đồng, hai bên đạt được một hiệp định nào đó, Chiêu Doãn giúp y lên ngôi, còn y chiếu cố sứ thần Bích quốc trong phạm vi quyền hạn của mình.

Cho nên, khi họ bị ngăn cản bên ngoài hoàng cung, không được vào gặp Giang Vãn Y, xe ngựa của Lân Tố xuất hiện, không những không cản trở mà còn dẫn họ vào cung;

Cho nên, khi nàng đến cửa hiệu Sái gia, Lân Tố đã sắp xếp xong xuôi, bề ngoài như giăng bẫy bắt gián điệp, kỳ thực báo cho nàng mau rút đi, vì cứ điểm này đã bị các hoàng tử khác biết, vô cùng không an toàn;

Cho nên, khi nàng đổ bệnh, Lân Tố không những tự mình tặng thuốc, còn sai các quan viên khác cũng tặng thuốc theo, để tiện cho Khương Trọng báo tin cho nàng…

Từng hạt châu kỳ lạ nghĩ mãi không ra lúc trước bây giờ đều được xâu chuỗi lại với nhau.

“Yên tâm đi, ta biết bước tiếp theo phải làm thế nào”.

Khi Giang Vãn Y nói câu này, tuy vẻ mặt còn hơi do dự nhưng ánh mắt vô cùng kiên định. Điều này làm nàng hơi kinh ngạc trong lòng một chút. Liệu có phải là mình đã nhiều chuyện không? Có lẽ, Giang Vãn Y đã tính toán ổn thỏa mỗi bước đi để đạt được một tình trạng nào đó, nhưng lại bị mình xen vào phá hoại?

Không sai, khi ấy nàng đã cảnh giác, chỉ là có lẽ sự việc vẫn chưa hoàn toàn phơi bày, có lẽ trong tiềm thức nàng không chịu tin, dù sau này phụ thân sai người mượn cớ tặng thuốc cảnh cáo nàng “đề phòng Vãn Y”, nàng vẫn không thể tưởng tượng: Tất cả mọi chuyện đều là Giang Vãn Y đứng sau thúc đẩy.

Hắn mới là quân cờ ngầm thực sự của Chiêu Doãn!

“Huynh cảm thấy mình quay lại là sai lầm sao?”.

Giang Vãn Y lắc đầu, “Không liên quan đến đúng hay sai, thị hay phi. Mà là ta phát hiện, có lúc cho dù ta chỉ đơn thuần muốn cứu một người, nhưng cuối cùng lại biến thành một sự việc vô cùng phức tạp”.

Ngày hôm đó nghe xong lời này chỉ cảm thấy bùi ngùi khôn xiết, vì tấm tình si chắc chắn không có hy vọng không có tương lai của hắn với Hy Hòa. Bây giờ ngẫm lại, rõ ràng có ý khác. Đáng tiếc, khi ấy bản thân lại hoàn toàn không liên tưởng đến phương diện đó.

Ai có thể ngờ được, một nam tử thoát tục như thế, tựa như gió thổi lướt qua cũng sẽ làm hắn vấy bẩn, lại chính là then chốt của cuộc tranh đua dục vọng quyền lực này?

Bản thân nàng tuy là gián điệp do hoàng đế chỉ định, nhưng trên thực tế, Chiêu Doãn không hoàn toàn tín nhiệm nàng, vì thế y không hề nhắc nửa lời chuyện về Lân Tố. Thế nhưng Giang Vãn Y thì khác, hắn là người duy nhất trong ba người biết được nội tình. Cho nên, ngày mùng một tháng sáu, Di Thù mượn danh nghĩa chữa bệnh cho phụ vương để giữ hắn lại trong cung.

Mà đêm đó, hắn lại đến chỗ ở của La quý phi, bí mật mưu sự.

Trong Tây cung, người đợi hắn không phải là La Tử, cũng không phải là Lân Tố, mà là Di Thù!

Bởi vì các hoàng tử đều có phủ đệ của riêng mình, ở lại trong cung sẽ gây ra dị nghị, nhưng công chúa thì khác, là con gái được sủng ái nhất của Trình vương, trong cung có nơi ở riêng của nàng ta, nhưng để tránh tai mắt, nàng ta lại chọn Tây cung làm nơi gặp mặt. Như thế, cho dù sự tình bại lộ, cũng có thể đổ tội cho La Tử.

Không may là đêm đó Trình vương đột nhiên tỉnh giấc truyền gọi người, cho nên cung nhân tìm mãi tìm mãi, liền tìm tới Tây cung.

Khi ấy đúng lúc gặp mặt Giang Vãn Y, nên Di Thù đương nhiên kinh sợ thất sắc, đành đổ tội cho La Tử, hẳn là nàng ta dùng cách ép buộc hoặc là dụ dỗ nào đó để khống chế La Tử.

Cho nên, kết quả cuối cùng là, cung nhân tiến vào Tây cung, nhìn thấy cảnh tượng Giang Vãn Y và La Tử áo quần xộc xệch…

Đợi đã!

Trong đầu lóe một tia sáng, lại một hạt châu nổi lên mặt nước: La quý phi nghẹn nào nói: “Ba tấc dưới thắt lưng của Ngọc Quan có một vết sẹo hình bán nguyệt, to bằng cái móng tay!”.

“Nếu ta nhớ không nhầm, La phi từng là a hoàn bên cạnh sư huynh ta?”.

Thuở nhỏ giúp Giang Vãn y thay áo tắm rửa, đã từng thấy cũng không phải là chuyện lạ.

La quý phi nghe xong lắc đầu: “Vết sẹo đó mới có, trước đó… chưa, chưa từng có…”.

Nếu đúng như lời La Tử nói, vết sẹo đó mới có… cũng có nghĩa là, đêm đó ở Tây cung, Giang Vãn Y thực sự bị người ta dùng móng tay cấu bị thương… Vậy là do ai?

Một tia u ám lướt qua đáy mắt Giang Vãn Y, tựa như nhớ lại điều gì, hắn cười lạnh lùng: “Mỹ nhân nàng ta còn chưa đủ tư cách, ngược lại bản lĩnh họa thủy…”. Nói đến đây, đột nhiên im lặng, thần sắc trở nên phức tạp.

A! Là Di Thù!

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy trái tim đang nhảy nhót điên cuồng trong lồng ngực, tiếng nói của Giang Vãn Y dường như vẫn vang vọng bên tai nàng: “Họa thủy – họa thủy”.

Liên tưởng tới dáng vẻ của Di Thù, vẻ mặt gợi tình, đầy vẻ phong lưu của nàng ta, bộ dạng cau mày, giận dỗi của nàng ta đối với mấy ca ca… đều có một vẻ mờ ám khó nói. Lẽ nào… lẽ nào…

Mỹ nhân yên chi mã nổi danh khắp bốn nước này thực ra là một dâm phụ phóng đãng?

Và nàng ta thấy Giang Vãn Y phong cốt như ngọc, nên thử khêu gợi hắn, cho nên kéo áo, cấu cào làm hắn bị thương?

Điều này cũng giải thích tại sao khi cung nhân tìm đến Tây cung, nàng ta hoàn toàn không kịp bố trí lý do và cảnh tượng hợp lý hơn để giải thích tất cả những thứ hỗn loạn đó, đành vội vã đẩy La Tử ra thế mạng…

Thì ra là như thế! Thì ra là như thế!

Ngày mùng một tháng sáu, Di Thù giữ Giang Vãn Y qua đêm ở hoàng cung, hẹn hắn gặp mặt tại Tây cung, vốn để bàn chuyện Chiêu Doãn và Lân Tố, nhưng sau đó dục niệm khó kìm, ép hắn ngã xuống, đúng lúc đó, Trình vương tỉnh giấc, truyền gọi Giang Vãn Y, cung nhân tìm đến Tây cung, Di Thù hoảng loạn, đẩy La quý phi ra gánh tội, còn mình thì trốn đi.

Sau đó, nàng ta vội vàng đi tìm Lân Tỗ, thế là vào sáng sớm ngày mùng hai tháng sáu, Lân Tố đi xe ngựa vội vã đến hoàng cung, đưa bọn Khương Trầm Ngư đang bị thị vệ ngăn cản trước cửa cung cùng vào, nhìn bề ngoài thì là giám sát thẩm vấn, thực ra là quấy nhiễu, ngăn cản Di Phi tìm ra gốc rễ sự việc.

Khương Trầm Ngư dùng thuốc dịch dung, đổi trắng thay đen, lật đổ chứng cứ của La Tử, đưa Giang Vãn Y đi. Di Phi nhìn ra sơ hở, trong lòng hoài nghi, dứt khoát thuận nước đẩy thuyền, để họ rời khỏi hoàng cung, lại tìm cách khác tiếp tục điều tra.

Ngày mùng ba tháng sáu, Di Phi đoán ra người Giang Vãn Y gặp đêm đó là ca ca của mình, nhưng lại không thể chắc chắn, vì thế hẹn gặp Khương Trầm Ngư, yêu cầu nàng liên thủ, muốn mượn cơ hội lôi kéo Bích quốc.

Cùng ngày, cứ điểm của Khương Trọng không biết vì cớ gì bị Trình quốc phát hiện, Lân Tố biết tin xong cố ý sắp xếp lộ ra mấy sơ hở, ra ám hiệu cho người liên lạc của Bích quốc đi khỏi đó còn Khương Trầm Ngư không phụ kỳ vọng, nhìn ra sơ hở liền quay sang đi vào cửa hiệu bán đàn.

Khi về đến dịch trạm, Khương Trầm Ngư đổ bệnh, Lân Tố xúi giục bách quan hùa theo tặng thuốc.

Ngày mùng sáu tháng sáu, Di Thù đến tìm Phan Phương tỉ võ thua rồi để lại mũi thương, ám chỉ nàng ta là người được Bích quốc ủng hộ.

Ngày mùng bảy tháng sáu, Khương Trọng dùng tên các loại thảo dược báo cho Khương Trầm Ngư phải đề phòng Giang Vãn Y. Còn Di Thù cũng mời họ đến phủ công chúa, muốn mượn đao của Phan Phương giết Hàm Kỳ, không ngờ lại bị Di Phi ngăn cản.

Trên đây chính là toàn bộ quá trình sự việc xảy ra trong mấy ngày qua.

Dây chuyền sắp xâu chuỗi thành một vòng hoàn chỉnh.

Có điều còn vài điểm nghi vấn: Khi tới dáng điệu của Di Phi ung dung bình tĩnh rõ ràng trong lòng đã nắm chắc mọi việc hơn nữa còn báo cho Khương Trầm Ngữ biết tin “Ngũ Hầu sẽ làm loạn vào canh hai”, so với Di Thù và Lân Tố có Trình vương sủng ái, Bích quốc chống lưng, gã rốt cuộc nắm được thứ gì mới có thể không hề sợ hãi như thế?

“Nửa canh giờ trước, trong cung truyền tin Giang Vãn Y mất tích. Hơn nữa, hắn còn dẫn theo hoàng thượng cùng biến mất”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư có phần chắc chắn, nếu như nàng đoán không sai, sở dĩ Di Phi bình tĩnh như vậy, chỉ có thể vì một nguyên nhân: Đó là gã đã khống chế Trình vương và Giang Vãn Y. Cũng tức là, gã nhân lúc Di Thù toàn tâm toàn lực mưu sát Hàm Kỳ, đột nhập vào trong cung, bí mật đưa Trình vương và Giang Vãn Y đi, sau đó lại ngang nhiên xuất hiện trong phủ công chúa.

Di Thù thấy gã xuất hiện, biết sự tình bại lộ, sau cơn thất sắc cả kinh liền lập tức mượn cớ rời đi, liên lạc với Lân Tố, vì thế phát hiện Trình vương và Giang Vãn Y đều biến mất, trong lúc bất đắc dĩ, đành phái người đi bắt nàng và Phan Phương, hòng khống chế Bích quốc. Chẳng ngờ họ lại trốn thoát theo các bước như vậy, bước tiếp theo chính là phát binh sớm hơn dự định.

Đến đây, sợi dây chuyền gồm ba viên bạch châu một viên hồng châu, kết nối tinh xảo, ăn khớp nhịp nhàng đã hoàn toàn thành hình trong đầu Khương Trầm Ngư, có thể thấy cảnh tượng huyết quang nổi lên tứ phía, các hạt châu không chịu nhường nhau, va đập vỡ vụn. Nàng không kìm được nhắm chặt mắt lại.

Mà đúng lúc này, Phan Phương hít vào một hơi.

Khương Trầm Ngư ở trong lòng y ngẩng đầu lên, liền thấy cách đó khoảng trăm trượng chính là phố Hoa Tân. Nhưng, giờ này phút này, mặt phố đã bị phong tỏa bởi đội quân đông nghìn nghịt.

Trái tim nàng liền chìm xuống – Hóa ra, Hách Dịch cũng không thể may mắn thoát được.

Một tảng đá to rơi xuống, làm nổi lên sóng lớn kinh trời, con sóng ấy ngày càng lan rộng, cho đến khi kéo tất cả những người ở đây vào trong nó, không ai tránh được, không thể trốn thoát…

Mình đã rơi sâu vào trong lốc xoáy, nếu như không tự cứu mình, tất sẽ bị vạ lây.

Nhưng tự cứu mình như thế nào?

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, còn chưa định đoạt, Phan Phương đã đặt nàng xuống, thì thào: “Ta vào trong xem tình hình ra sao”.

Khương Trầm Ngư kinh sợ, đang định ngăn cản, đã thấy y lướt đi như ánh chớp, mau chóng biến mất trong màn đêm đen. Nàng cảm thấy có gì đó không ổn, cho dù nói thế nào, Phan Phương tuy võ công cao cường, nhưng là một viên tướng quân quen đường đường chính chính giao chiến với người khác, việc lén lút thám thính này hẳn không giỏi bằng Sư Tẩu, nhưng y đã đi rồi, không gọi lại được, đành như vậy thôi.

Đứng ở bên góc khuất cạnh một cửa hiệu, ở đây chất đống vô số hòm rương, nàng núp sau một chiếc hòm, chăm chú nhìn phía xa, lại ngó nghiêng tình hình xung quanh một lượt, xem ra cũng không an toàn lắm, bèn khẽ gọi: “Sư Tẩu?”.

“Chủ nhân, có thuộc hạ”. Chỉ nghe thấy tiếng mà không thấy người.

“Đợi lát nữa nếu như xảy ra đánh nhau, nơi này cũng rất nguy hiểm, ngươi có biết cách ẩn náu nào tốt không?”. Thân là ám vệ, hắn hẳn đã từng được huấn luyện về những trường hợp nguy hiểm như thế này?

Sư Tẩu im lặng suốt một thời gian rất dài.

Khương Trầm Ngư không nhịn được, sốt ruột truy vấn: “Sao? Không có ư?”.

“Có.” Ngừng lại một lát, trong giọng nói ẩn chứa rất nhiều áy náy, “Nhưng…

không hợp với chủ nhân”.

“Bởi vì ta không biết võ công?”.

“Tỉ như…”, Sư Tẩu ấp a ấp úng, “ẩn náu trong hố phân nhà xí”.

Khương Trầm Ngư liền thấy toát mồ hôi, phương pháp này đúng là rất tốt, nhưng cũng quá…

Sư Tẩu nói khẽ: “Để hoàn thành nhiệm vụ và giữ mạng sống, có rất nhiều phương pháp người thường khó mà chịu đựng nổi…”.

Khương Trầm Ngư nghĩ đến trên thế giới này còn có rất nhiều người giống như Sư Tẩu, từ khi sinh ra họ đã bị bí mật chọn lựa, đưa về ám bộ, chịu đủ mọi huấn luyện nghiêm khắc và tàn khốc, rất nhiều đứa trẻ không thể chịu đựng được đã chết yểu, số người có thể thực sự “học thành nghề”, trờ thành một ám vệ không đến một phần mười. Cái gọi là học thành nghề mới là khởi đầu của một số mệnh thực sự bi thảm, theo chủ nhân như hình với bóng, phục tùng mọi mệnh lệnh lúc nguy cấp còn phải lấy thân giúp chủ nhân đỡ đao cả kiếm… Tóm lại, họ sống một cách hoàn toàn không có cái tôi không hề có tôn nghiêm.

Đôi mắt nàng hơi ươn ướt, nhưng cũng hiểu rõ bây giờ không phải là lúc cảm động đồng tình, vì thế vội lau đi hơi nước nơi khóe mắt, nở nụ cười nói: “Ta có cách rồi!”.

“Dạ?”.

“Hố phân nhà xí dĩ nhiên là tốt, nhưng có một nơi khác cũng có có hiệu quả tốt tương tự”.

“Xin chủ nhân nói rõ”.

Rõ ràng biết đối phương rất có khả năng không nhìn thấy, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn chớp mắt vẻ tinh nghịch, “Ao hồ”.

Trong đêm tối, sự tĩnh mịch bao trùm, rất lâu sau, mới có một giọng nói rất khẽ rất khẽ “ừ” một tiếng.

“Nối ống thân lau với nhau, người có thể trốn dưới nước, dùng ống lau để thở.” Giọng điệu Khương Trầm Ngư thay đổi, lại nói: “Có điều cách này chỉ là nhất thời, không giữ được lâu. Nhưng theo ta thấy, cuộc nổi loạn trong đêm nay chắc chắn sẽ phân thắng bại, chúng ta chỉ cần ở một đêm dưới đầm nước, đợi trận chiến có kết quả sẽ định đoạt bước tiếp theo”.

Nàng càng nghĩ càng cảm thấy cách này không tồi, hơn nữa cũng lờ mờ nhớ không xa có một đầm nước, ngày hôm đó nàng còn vứt hạt châu hoa tai có độc xuống đó. Việc không thể chậm trễ, nên mau chóng rời đi.

Khương Trầm Ngư rút một cây trâm ra, vạch lên hòm gỗ bốn chữ “Trầm Ngư Lạc Nhạn”, sau đó vẽ mấy dòng nước, phía dưới có một con cá, lại vẽ thêm một cây lau. Lát nữa Phan Phương quay về nhìn thấy, với trí tuệ của y đương nhiên sẽ dễ dàng đoán ra, “Trầm Ngư” là một từ hai nghĩa, ý chỉ nàng trốn dưới nước.

Làm xong tất cả những việc này, nàng gài lại trâm len đầu, đứng dậy định đi, nhưng đột nhiên nhìn thấy Sư Tẩu.

Đúng là vô cùng vô cùng đột nhiên nhìn thấy.

Trước mắt hoa lên, Sư Tẩu hiện ra giữa không trung, lao ra từ trong bóng tối.

Nàng còn không kịp kinh ngạc đã bị hắn ôm lấy, lăn một vòng, cùng lúc đó, mấy tiếng gió rít xé tai bay qua đỉnh đầu, nhìn kỹ, hóa ra là ba lưỡi phi đao!

Khương Trầm Ngư lập tức quay đầu, phía trước có bốn người không biết đến từ lúc nào, chúng mặc trang phục màu đen, che mặt bằng khăn đen, không giống quan binh thông thường.

Sát thủ!

Ngay tức khắc nàng rút ra kết luận này.

Nhưng, sát thủ do ai phái đến? Tại sao lại phải dồn nàng vào chỗ chết?

Khi nàng vẫn còn đang kinh ngạc hoảng hốt, Sư Tẩu đã phi thân, lao vào giao đấu với bọn chúng. Một tên áo đen trong đó nhân lúc ba tên còn lại bao vây Sư Tẩu, lao về phía nàng.

Sư Tẩu ba mặt chống địch, không thể lo được cho nàng, đành hét lên: “Chạy!”.

Khương Trầm Ngư lập tức quay người bỏ chạy, thế nhưng, nàng chỉ là một nữ tử yếu ớt không biết võ công, làm sao nhanh hơn tên áo đen được? Mới chạy được vài bước, dưới chân đã lảo đảo, ngã nhào xuống đất. Cùng lúc đó, tên áo đen cũng giơ tay tóm lấy cổ áo nàng, đang định cúi xuống, trước ngực bỗng lạnh toát, hắn cúi đầu, đã thấy một lưỡi chủy thủ cắm ngập tim, mà cán của lưỡi chủy thủ đó nằm trong tay Khương Trầm Ngư.

Hóa ra nàng tự biết mình không thể chạy thoát, nên cố ý giả vờ ngã, sau đó rút thanh chủy thủ giấu bên mình, lại thêm tên áo đen biết nàng không biết võ, sơ ý không phòng bị, liền bị nàng một nhát đâm trúng.

Nhưng rõ ràng người bị đâm là tên áo đen, nhưng vẻ mặt của Khương Trầm Ngư còn sợ hãi hơn cả hắn, sắc mặt trắng bệch ra, hai tay run lẩy bẩy, muốn nhổ lưỡi chủy thủ đó ra nhưng không sao đủ sức.

May mà lúc này Sư Tẩu đã tìm được cơ hội thoát khỏi ba tên kia, lao tới đạp tên áo đen kia ra, thuận tay rút lưỡi chủy thủ găm trên ngực hắn, máu tươi phun lên như suối, có mấy giọt bắn lên mặt Khương Trầm Ngư, nàng trợn mắt trừng trừng toàn thân cứng đờ.

Sư Tẩu biết đây là lần đầu tiên trong đời nàng giết người, thân tâm đều chịu đựng một nỗi chấn động tột độ, nhất thời không biết phải an ủi thế nào, lại thấy ánh mắt nàng lóe lên, tỉnh táo trở lại, hét: “Cẩn thận!”.

Phập.

Trường kiếm đâm toạc áo, lưng hắn đã bị thương.

Sư Tẩu cắn răng, quay người gạt lưỡi kiếm thứ hai, vừa quấn lấy ba tên áo đen, không cho chúng có cơ hội đến gần Khương Trầm Ngư, vừa hô: “Chạy!”.

Khương Trầm Ngư loạng choạng bò dậy, sấp ngửa chạy về phía trước, chạy được mấy bước lại dừng lại, quay người ngóng nhìn.

Sư Tẩu càng cuống hơn, hét: “Chạy đi”.

Khương Trầm Ngư nhếch khẽ môi, lộ nụ cười cứng ngắc rồi nói: “Không phải ta không muốn chạy, mà là… chân ta mềm nhũn, chạy không nổi…”.

Sư Tẩu trong lòng run lên, hoàn toàn không biết phải làm thế nào, mắt nhìn thấy ba tên kia chiêu chiêu hiểm hóc, đao đao chí mạng, xem ra chúng tuyệt đối không chừa đường sống cho hai người. Như thế, hắn cũng chỉ còn cách liều mạng chống đỡ, kéo dài được lúc nào hay lúc ấy. Vết thương trên lưng rách toác, máu tuôn không ngừng, trong tình hình này, hắn còn có thể chống đỡ bao lâu?

Nếu hắn thua, nữ tử đứng không xa ân cần quan sát đó chắc chắn sẽ chết.

Vừa nghĩ tới đây, lồng ngực trào dâng một cảm giác ấm nóng, động tác càng nhanh nhẹn, hiểm độc hơn, tay trái xoay một cái, tóm chặt cổ tay của một tên sát thủ, rồi “rắc” một tiếng, chớp mắt đã bẻ gãy xương tay của đối phương.

Khương Trầm Ngư im lặng đứng một bên, nhìn trận chiến sống còn liều mạng này, vô cùng hối hận vì sao mình không học võ. Nếu nàng biết võ công thì tốt rồi, ít nhất lúc quan trọng như thế này có thể hữu dụng một chút, không phải như bây giờ chỉ có thể đứng một bên trơ mắt nhìn, không làm được gì, còn liên lụy đến người khác.

Thông minh trí tuệ đầy đầu, nhưng giờ khắc này đây lại không có chỗ dùng.

Nếu như là quan binh, nàng còn có thể thử đàm phán với đối phương, ngã giá thương lượng, bởi vì thân phận nàng đặc biệt, lại giỏi thuyết khách, chắc chắn có thể hóa nguy thành an; thế nhưng, kẻ đến lại là sát thủ, rõ ràng muốn lấy mạng nàng. Rốt cuộc là ai? Là ai muốn giết nàng? Vì nguyên nhân gì mà phải giết nàng?

Thật không thể hiểu được…

Từ khi nào mình lại quan trọng đến mức trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong thịt của người nào đó, chỉ hận không trừ đi được?

“Rắc rắc!”.

Chân phải Sư Tẩu trúng một đạp, hắn ngã quỵ xuống đất, phát ra âm thanh xương gãy giòn giã.

Sau đó lại “phập” một tiếng, trường kiếm đâm thẳng vào vai trái hắn, máu tươi ộc ra xối xả, nhỏ xuống đất, nhức mắt kinh tâm.

Khương Trầm Ngư bất giác nắm chặt hai tay, mở to mắt nhìn cảnh tượng này – nhìn thuộc hạ của mình bị ba tên sát thủ dùng thủ đoạn tàn nhẫn nhất đồ sát như thế nào.

Cái chết của tên sát thủ kia dường như kích thích bọn chúng, bọn chúng không chỉ muốn lấy tính mạng của người khác mà còn cố ý lăng nhục, từng chút từng chút bẻ gãy tứ chi đối thủ. Võ công của Sư Tẩu tuy không tệ, nhưng hai tay khó địch sáu tay, chẳng bao lâu sau, toàn thân hắn đẫm máu, nhiều chỗ bị thương.

Phan tướng quân… Khương Trầm Ngư tuyệt vọng kêu gào trong lòng, ngươi mau quay về đi… Ông trời ơi, ai đó mau đến giúp nàng với! Cứu Sư Tẩu với. Mười lăm năm nay, lần đầu tiên nàng cảm thấy thân cô thế cô như thế này, tuyệt vọng như thế này. Có một người liều mạng vì nàng ngay trước mắt, còn nàng chỉ có thể trơ mắt ra nhìn!

“Khậc”, lại một tiếng xương gãy. Hai chân Sư Tẩu đã bị phế rồi, hắn quỳ dưới đất, rõ ràng đã không thể đứng dậy nổi, nhưng vẫn ưỡn thẳng lưng, điên cuồng huơ thanh chủy thủ hoàng đế ban cho Khương Trầm Ngư, không để đối phương có cơ hội rời khỏi đó.

Màn đêm nặng nề. Gió lạnh như dao.

Trong con ngõ nhỏ vắng lặng lại diễn ra màn địa ngục nhân gian tột cùng thảm khốc…

Hắn không nhìn thấy gì, máu tươi nhuộm đỏ tầm mắt, động tác cũng hoàn toàn biến thành sự giết chóc bản năng, đâm tiếp đâm nữa, hoàn toàn mặc kệ những bộ phận khác trên cơ thể đang chịu sự tấn công còn nghiêm trọng hơn.

Chỉ có một giọng nói, từng tiếng từng tiếng vang bên tai: “Sống tiếp!”. “Sống tiếp!”.

“Sư Tẩu, phải sống tiếp!”.

Hắn phải tiếp tục sống! Mà tiền đề của việc sống tiếp chính là – đảm bảo người nói với hắn câu đó cũng còn sống!

Đối diện với sự tấn công mạnh mẽ, liều mạng như thế của hắn, ba tên áo đen nhất thời cũng bó tay, không thoát thân được, đành dùng chiêu thức càng ác độc hơn giày vò hắn, thế nên đao quang sáng lóa, một cánh tay của Sư Tẩu rơi khỏi cơ thể lại một đao, một chân cũng lăn xuống mặt đất…

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, đầu lưỡi nếm phải vị tanh mằn mặn, thầm nói với chính mình hết lần này đến lần khác bằng một giọng nói gần như tê dại: Ta thấy rồi. Ta đều thấy hết rồi… Ta sẽ ghi nhớ thảm cảnh máu thịt bầy nhầy, tứ chi đứt gãy này, ta sẽ ghi nhớ giọng nói tuyệt vọng, bi thảm, nhục nhã thảm khốc này, ta phải ghi nhớ tất cả mọi thứ, sau đó nếu lần này may mắn không chết, ta phải báo thù! Ta nhất định phải báo thù!

Khi một tên sát thủ áo đen dùng móc câu sắt đâm trúng mắt trái của Sư Tẩu, mà Sư Tẩu đã không còn sức để kêu lên, chỉ có thể phát ra tiếng rên rỉ mơ hồ từ trong cổ họng, Khương Trầm Ngư không thể nhìn tiếp được nữa, xông đến nắm chặt cán của móc sắt, thảm thiết kêu: “Một trăm vạn lượng! Ta mua tính mạng của hắn, một trăm vạn lượng!”.

Bọn sát thủ dừng lại, đưa mắt nhìn nhau, vì chúng bịt mặt nên không nhìn được vẻ mặt của chúng.

Khương Trầm Ngư gằn giọng: “Mặc kệ người thuê các ngươi là ai, cái hắn cần chẳng qua chỉ là mạng của ta. Mạng của ta cho các ngươi, các ngươi giữ lại mạng của hắn. Hắn chỉ là một tên vô danh tiểu tốt, ta dùng một trăm vạn lượng đổi lấy một mạng của hắn, một trăm vạn lượng này đủ cho ba người các ngươi sống cả đời! Cầu xin các ngươi…”.

Sư Tẩu trên mặt đất bắt đầu giãy giụa, dùng một cánh tay còn lại bấu lấy gấu váy nàng, sức giật giật. Thế nhưng, Khương Trầm Ngư không để ý đến hắn, chỉ chăm chăm nhìn bọn sát thủ, lạnh lùng nói: “Thế nào? Các ngươi giết người chẳng phải vì tiền sao. Một trăm vạn lượng! Tính mạng của một phế nhân”.

Kẻ trông có vẻ là thủ lĩnh cuối cùng mở miệng nói: “Ngươi đưa tiền cho bọn ta thế nào?”.

Khương Trầm Ngư lập tức lấy một miếng ngọc từ trong cổ áo ra, gỡ xuống đưa ra: “Các ngươi cầm miếng ngọc này đến Bích quốc tìm Vũ lâm quân kỵ đô úy Khương Hiếu Thành, y sẽ giao tiền cho các ngươi”.

Sát thủ cầm ngọc rồi lại nhìn nhau…

Khương Trầm Ngư vội nói: “Ta không cần phải lừa các ngươi. Hơn nữa, chỉ riêng miếng ngọc này đã có thể bán được không ít tiền. Các ngươi hẳn cũng biết giá trị của nó”.

Sát thủ trầm ngâm một lúc mới gật đầu: “Được”.

“Tuy ta không hiểu các ngươi, nhưng nghe nói mỗi nghề đều có quy định riêng, các ngươi nhận tiền của ta phải đảm bảo giữ lời, sau khi ta chết, lập tức đưa hắn tới y quán”.

“Được.”

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, quay người, nhắm mắt nói: “Như thế…

các ngươi hãy lấy mạng ta đi”.

Nghe nói người sắp chết sẽ nhìn thấy cảnh tượng mình muốn thấy nhất.

Nàng thoáng nghĩ, vậy thì ta sẽ nhìn thấy gì?

Tại sao không nhìn thấy gì cả? Những người vẫn hằng nhớ nhung, mãi không thể quên đó, tại sao không đến cáo biệt?

Tiếng gió ào ào lướt qua bên tai, tiếp theo là một tiếng kêu thảm thiết, có người ngã xuống.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên mở choàng mắt, liền thấy một đạo hồng quang bay sát qua tóc của nàng, cùng lúc đó, một cỗ xe ngựa xuất hiện trong tầm mắt, phu xe một tay giữ dây cương, một tay còn lại vung lên, hồng quang lại lần nữa bay tới, đâm thẳng vào cổ một tên áo đen, đến kêu hắn cũng không kịp kêu, đầu đã lìa khỏi cổ, lăn lông lốc trên mặt đất.

Tên sát thủ còn lại thấy tình thế không ổn, đang định quay người bỏ chạy, hồng quang quấn lấy thắt lưng hắn, nhấc bổng cả người hắn ném lên không trung, rồi đập mạnh xuống mái nhà, chỉ nghe một tràng ầm ầm long trời lở đất, ngói lợp vỡ tan thành từng mảnh, căn nhà sụp mái, còn người đó rơi vào giữa nhà không rõ sống chết.

Mà lúc này, xe ngựa đã phi đến trước mặt, phu xe dùng dây thừng đỏ cuốn Sư Tẩu trên mặt đất lên, lại ôm Khương Trầm Ngư, nhét nàng vào trong thùng xe, nói một tiếng: “Đi!”.

Xe ngựa tiếp tục phóng về phía trước, ngoài ba thi thể trên mặt đất và một căn nhà đổ nát, dường như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Sự tình phát sinh quá đột ngột cũng quá mau chóng, vì thế, khi Khương Trầm Ngư nằm trên tấm thảm mềm mại trong xe ngựa, vẫn không thể hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Bốn tên sát thủ đó võ công đều khá cao, Sư Tẩu và chúng giao tranh hồi lâu mà không địch nổi, còn phu xe này lại chỉ trong giây lát đã có thể giải quyết gọn ghẽ ba tên: Người này có võ công đáng sợ đến nhường nào?

Hắn là ai?

Không đợi Khương Trầm Ngư nghĩ kỹ, tiếng rên rỉ đã kéo nàng trở lại trong xe, nàng cúi đầu, thấy Sư Tẩu toàn thân chi chít vết thương, nàng không còn để ý đến điều gì khác, vội vàng kiểm tra vết thương cho hắn.

May mà dọc đường cải trang làm dược nữ, ít nhiều đã học được một ít y thuật từ Giang Vãn Y, có thể băng bó vết thương.

Vì thế, nhìn thấy Sư Tẩu không ngừng chảy máu, bước đầu tiên cần làm là lập tức cầm máu.

Nàng vội vàng lấy một số thuốc từ trong người ra, cảm tạ trời đất, may mà có mang theo thuốc cầm máu, đáng tiếc bên người không có băng gạc, đành nhấc váy lên, xé vải ra băng bó cầm máu. Nhưng, vết thương của Sư Tẩu thực sự rất nặng, đặc biệt là chỗ tay và chân bị chặt đứt, vải vừa mới băng lại đã ngay tức khắc thấm đẫm máu, thuốc bôi lên cũng lập tức bị trôi đi, không sao cầm máu nổi…

Đang rầu rĩ vì không biết phải làm thế nào, hai ngón tay vươn tới, nhanh như chớp điểm mấy cái vào chỗ bị thương, máu lập tức chảy chậm lại.

Khương Trầm Ngư mừng rỡ, vội vàng nhân đó bôi thuốc lên, cẩn thận băng lại. Đợi đến khi làm xong mọi việc, nàng mới rảnh rỗi quay đầu lại, cảm ơn người vừa ra tay đó: “Đa…”.

Chữ “tạ” biến mất.

Cỗ xe ngựa vẫn phi như bay về phía trước, tiếng vó ngựa rầm rập, bánh xe lộc cộc, còn có tiếng vang rất lớn khi thiết kỵ đi qua. Thế nhưng, cỗ xe này dường như đang lao đi trong một không gian khác, cho dù bên ngoài xảy ra chuyện gì, cảnh tượng trong xe vẫn như ngưng lại.

Cho dù đèn xe rung rung lắc lắc;

Cho dù ánh sáng chiếu trên mặt người đó mờ mờ tỏ tỏ;

Cho dù một trận gió thổi tới, vén tung rèm xe, đem theo hơi lạnh ban đêm, Thế nhưng, tất cả những thứ đó đều đã không còn bất cứ ý nghĩa nào đối với Khương Trầm Ngư.

Đêm nay là đêm nao.

Vạn nước ngàn non, chân trời gang tấc, lại khiến người này xuất hiện trong giờ phút này.

Bỗng nhiên nước mắt Khương Trầm Ngư lăn xuống.

Trước đó, khi gặp sát thủ, nàng không hề khóc;

Lần đầu tiên trong đời giết người, nàng sợ muốn chết nhưng cũng không khóc;

Nhìn thấy Sư Tẩu bị những tên sát thủ đó tra tấn, giày vò từng chút từng chút một, nàng đau khổ không thể chịu nổi, nhưng cũng không khóc;

Thế mà bây giờ, khi tai qua nạn khỏi, khi nàng ngồi trong cỗ xe ngựa êm ái dễ chịu, bị ánh đèn như thủy tinh chiếu vào, lại chạm phải đôi mắt thanh u, trong vắt, thấu suốt như nước thu đó, nước mắt đã bất ngờ lăn xuống.

Đại Thiên thế giới, chúng sinh đông đúc, luôn có một người sẽ là tử huyệt.

Khi đối diện với chàng, không có cái gọi là lý trí, không có cái gọi là lý lẽ thông thường, không có cái gọi là hết thảy hết thảy những thứ khác, chỉ còn lại phản ứng tình cảm chân thực nhất.

Dịu dàng nhất cũng diễm lệ nhất.

Kiên cường nhất cũng yếu mềm nhất.

Trong ánh đèn loang lổ, người đó ngồi lặng lẽ, từ đầu đến cuối đều giữ một vẻ trầm lặng như thế, nhìn nàng bị vứt vào thùng xe một cách lếch thếch, nhìn nàng lo lắng khó xử, nhìn nàng xé váy làm băng gạc, nhìn nàng cởi áo, chạm vào da thịt một người đàn ông khác, nhìn nàng chân tay vụng về lóng ngóng không biết làm sao để xử lý cơ thể đầy vết thương trước mắt…

Chàng nhìn thấy mọi dáng vẻ chân thực của nàng…

Nghĩ đến điểm này, Khương Trầm Ngư vừa thẹn thùng vừa cuống quýt vừa lo sợ lại vừa xấu hổ, còn thấp thoáng một chút vui mừng, một chút bi thương, bao nhiêu cảm xúc đan xen với nhau, khiến nàng hoảng loạn vô cớ.

Nàng cụp mắt, nhìn chiếc váy bị xé rách của mình, đôi chân để trần lộ ra ngoài, nàng vội vàng rụt lại, dùng váy che đi.

Một chiếc áo khoác dường như vẫn còn mang hơi ấm của đối phương, nhẹ nhàng choàng lên vai nàng.

Nàng nắm chặt chiếc áo khoác đó, lại ngẩng đầu lên nhìn, nước mắt vẫn tuôn không ngừng.

Thế nên, người ấy lại đưa cho nàng chiếc khăn tay.

Cảnh tượng quen thuộc biết mấy, dường như khung cảnh rất lâu trước đây lại hiện ra trước mắt…

Ngày đó, trong hoàng cung, trên nền tuyết, chàng cũng lấy khăn tay ra, dùng tuyết làm ướt khăn, lau máu trên mặt nàng.

Mà phút giây này, cũng là một chiếc khăn trắng sạch sẽ, không có một chút hoa văn, cực kỳ nhã nhặn được đưa đến trước mặt nàng.

Nam tử đưa khăn có ánh mắt dịu dàng.

Mắt Khương Trầm Ngư càng đỏ hơn, một giọng nói vang lên trong lòng: Đừng khóc, đừng khóc, ta không thể khóc nữa, mất mặt quá, Trầm Ngư, mất mặt quá… Thế nhưng, không hiểu tại sao nàng không kìm được nước mắt, nước mắt cứ thế rơi xuống! Tại sao giơ tay lau, lau hoài lau mãi, mà nước mắt rơi càng nhanh hơn?

Làm thế nào đây? Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?

Một tiếng gọi tựa như đã đè nén suốt ngàn năm, trắc trở bao lâu, nhưng cuối cùng vẫn đến bên bờ môi: “Công… tử…”.

Đêm nay là đêm nao?

Đêm nay là đêm nao?

Vạn nước ngàn non, chân trời gang tấc, là vận mệnh đáng sợ nhường nào khiến chàng xuất hiện trước mặt ta?

Công tử… của ta
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười : Bách hợp

Sắc đêm sâu thẳm.

Thân xe rung nhẹ, Cơ Anh nhìn nàng rất lâu, cuối cùng khẽ than một tiếng, lại gần đích thân lau nước mắt cho nàng.

Khương Trầm Ngư không nhúc nhích.

Khăn trắng thấm nước mắt, mau chóng sũng nước, Cơ Anh lau nước mắt cho nàng từng chút từng chút một, động tác nhẹ nhàng, thần tình chăm chú, giống như đang lau một thứ đồ gốm quý giá.

Thế là nước mắt của nàng đã ngưng lại một cách thần kỳ. Cơ Anh mỉm cười với nàng.

Khương Trầm Ngư khép chặt áo khoác, vì không thể chịu nổi mà cụp mắt nhìn xuống, lại vì không nỡ lỡ mất cơ hội được nhìn vào mắt chàng mà ép mình ngước mắt lên, cứ cúi xuống ngước lên như thế, lặp đi lặp lại, xuân thủy đã loạn, làm thế nào để bình ổn lại?

May mà lúc đó, trong cơn hôn mê, Sư Tẩu vì đau đớn nên phát ra những tiếng rên rỉ mơ hồ. Khương Trầm Ngư nghiêm mặt, mọi thứ vốn đã biến mất bỗng trở lại trong ý thức của nàng, bấy giờ nàng mới nhớ ra mình đang ở đâu, đã xảy ra những chuyện gì.

Nàng giơ tay vén rèm cửa sổ, phát hiện bên ngoài là một ngõ nhỏ rất vắng vẻ, hơn nữa càng đi càng hẹp, không biết thông tới nơi nào, không kìm được hỏi: “Bây giờ chúng ta đang đi đâu?”.

Cơ Anh liếc về phía Sư Tẩu, “Đến nơi có thể cứu hắn”.

Khương Trầm Ngư trong lòng an tâm, nỗi nghi hoặc lại nổi lên trong đầu: Tại sao công tử lại xuất hiện ở Trình quốc vào lúc này? Tại sao suốt dọc đường xe ngựa đều thông qua thuận lợi, không bị quân Trình ngăn cản? Một chuỗi sự việc xảy ra trong mấy ngày nay có liên quan đến chàng hay không, nếu có liên quan thì quan hệ lớn đến đâu? Rất muốn hỏi, nhưng… không hỏi được.

Đối diện Cơ Anh, nàng biến thành một kẻ nhút nhát yếu đuối, có một số chuyện kỳ thực nàng đã lờ mờ biết được, nhưng không có dũng khí đối diện, chỉ có thể lừa mình dối người trốn tránh.

Trên áo choàng còn sót lại mùi hương Phật thủ cam thoang thoảng, nàng nghĩ: Ta thật ngốc… ta là một kẻ ngốc. Bởi vì chỉ là ngồi cùng xe thế này, đã có thể khiến ta mãn nguyện đến mức bằng lòng từ bỏ tất cả – bao gồm cả chính bản thân ta.

Xe ngựa chợt dừng lại, phu xe khẽ nói: “Công tử, đến rồi”.

Cơ Anh “ừm” một tiếng, đưa tay mở cửa, bước ra ngoài, sau đó quay lại đỡ nàng. Khương Trầm Ngư mím môi, trong lòng không khỏi thất vọng, nàng nguyện từ bỏ tất cả, chỉ mong được ngồi cùng xe với chàng, nhưng cơ hội như thế cũng ngắn ngủi đến đáng thương.

Nàng run run vịn vào tay Cơ Anh, bước xuống xe.

Trước mắt là một cánh cửa màu đỏ nhỏ bé, có lẽ là cửa sau của một nhà nào đó.

Phu xe lên trước gõ cửa, không lâu sau, cánh cửa cọt kẹt mở ra.

Cơ Anh dẫn Khương Trầm Ngư đi vào trong, bấy giờ nàng mới phát hiện, phu xe thân thủ bất phàm kia hóa ra là Chu Long, còn người ra cửa đón thì nàng không biết.

Theo người mở cửa không quen biết đó đi vòng vèo hết rẽ lại quặt một chặng đường rất dài, nàng bước vào một căn phòng nhỏ. Ánh sáng trong phòng rất tối, ánh đèn duy nhất tỏa ra từ một chiếc ghế đặt giữa nhà, trên ghế có đặt một ngọn đèn ngoài ra không có thứ chiếu sáng nào khác.

Hơn nữa, giữa lối vào và chiếc ghế còn đặt ba tấm bình phong hình chữ phẩm, có thể lờ mờ thấy có người sau hai tấm bình phong kia, nhưng trong cảnh tối tăm như thế, nàng không nhìn rõ là những ai.

Cơ Anh dẫn Khương Trầm Ngư đến ngồi sau một tấm bình phong. Khương Trầm Ngư trải qua tôi luyện mấy tháng nay, đã học được cách bình tĩnh đối mặt với biến cố, vì thế tuy lòng đầy nghi hoặc nhưng không hỏi nửa lời, im lặng ngồi trên ghế.

Sau đó, đèn tắt phụt.

Trong bóng tối, một giọng nói chậm rãi vang lên, mang theo ba phần trêu chọc, ba phần tùy ý, ba phần cười đùa: “Chi bằng chúng ta bốc thăm”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư chấn động. A! Nàng nghe ra rồi, đó là giọng của Hách Dịch!

Lại một giọng khác cười ha hả, nói: “Đã lâu không gặp, ngài vẫn du hí nhân gian như thế”.

Giọng nói này rất lạ lẫm, hơi khàn, nhưng không khó nghe, còn mang theo vẻ quý phái bẩm sinh, xem ra là một người quen ra lệnh cho kẻ khác.

Hách Dịch tiếp lời: “Sao bì được với ngài? Nếu thế nhân biết được mục đích thực sự khi tới Trình quốc lần này của ngài, e rằng đều hộc máu”.

“Ni hay lắm, nói hay lắm. Nhiều nhất ta cũng chỉ là ham vui chút thôi, tuy không phải chuyện hay ho gì, nhưng so với người nào đó bị truy sát đến nỗi chỉ có thể ướt như chuột lột trốn lên thuyền địch, thì vẫn còn tốt hơn nhiều”.

“Ai da, ta gặp nguy hiểm mà không hoảng loạn, hóa nguy thành an, vừa khéo chứng tỏ ta trí tuệ hơn người phúc lớn mệnh lớn, bách tính biết được sẽ càng yêu quý và kính trọng ta hơn. Nhưng người nào đó vứt bỏ con dân đi sang nước khác, mượn danh chúc thọ làm chuyện không thể cho ai biết, điều đó mới thực sự khiến bách tính thất vọng, thất vọng quá…”.

Khương Trầm Ngư đã lờ mờ đoán được người kia có thể là Yên vương Chương Hoa, y và Hách Dịch đúng là kỳ phùng địch thủ bình thường tán dương đối thủ, hễ gặp mặt là châm chọc gay gắt, đấu khẩu không thôi. Có điều, nhìn từ một góc độ khác hai vị quân vương này có mối giao tình rất thân thiết, đến đối phương xảy ra chuyện gì đều biết rõ như lòng bàn tay, còn có thể tùy ý trêu chọc vui đùa.

So ra thì…

Ánh mắt nàng không kìm được lướt qua Cơ Anh ngồi bên cạnh ánh sáng lờ mờ phác họa hình bóng chàng, sống mũi chàng thẳng tắp, đường nét môi miệng rõ ràng, mày mắt tỏ tường như vẽ, chàng đẹp như thế…

Nhưng lại cô đơn… như thế…

Chàng có biết nói đùa với người khác không? Chàng có bị trêu chọc không?

Chàng có bị đùa cợt không? Có lẽ đã từng có, vị tỉ tỉ từng đặt quân cờ vào bánh đậu xanh khiến chàng gãy hai chiếc răng, đáng tiếc năm năm trước đã xuất giá; và nữ tử tặng chàng chiếc bản chỉ khiến chàng quý trọng vô cùng, cũng đau khổ vô cùng đó, nhưng tất cả đều đã là quá khứ rồi…

Công tử… công tử… công tử… của nàng…

Mắt Khương Trầm Ngư lại rơm rớm, vội vàng quay mặt đi chớp mắt cho khô, không để mình thất thố lần nữa. Mà đúng lúc đó Cơ Anh nói: “Chúng ta bàn việc chính đi”.

Tiếng đấu khẩu bên ngoài lập tức dừng lại, sau một hồi im lặng, Hách Dịch cười nói: “Xem này, ta và ngài bận ôn chuyện xưa, để Kỳ Úc hầu lẻ loi, ngài ấy ghen rồi”.

Đáp lại y là tiếng cười phóng khoáng, không chút kiêng dè của Chương Hoa.

Khương Trầm Ngư cau mày, truyện cười này không buồn cười chút nào, rõ ràng có ý châm chích Cơ Anh, Hách Dịch muốn làm gì? Nàng hơi giận dữ, không nhịn được quay đầu lo lắng nhìn sang Cơ Anh, nhưng sắc mặt Cơ Anh vẫn như lúc trước, không hề có vẻ giận dữ, vẫn rất bình tĩnh nói:

“Trong vòng mười năm, năm cảng Quảng Độ, Hán Khẩu, Bân Dương, Hàn Cừ, La Châu đều mở hoàn toàn, cho phép Nghi quốc thiết lập Thị Bạc ti , tất cả thuế suất giao dịch đều giảm bảy phần (Thị Bạc ti là cơ quan chuyên quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu ở các hải cảng thời cổ ở Trung Quốc, tương đương với hải quan hiện nay )”.

Tiếng cười của Hách Dịch biến mất.

Sau đó, đến lượt Cơ Anh khẽ cười: “Điều kiện này có phù hợp với tâm tư của Nghi vương bệ hạ hơn điều kiện mỗi năm nhượng lãi ba nghìn vạn lượng mà Trình quốc tam hoàng tử đề ra hay không?”.

Khương Trầm Ngư hơi kinh ngạc, Di Phi và Hách Dịch quả nhiên âm thầm giao thiệp, xem Di Phi dùng món lời ba nghìn vạn lượng mỗiăm để đổi lấy sự ủng hộ của Nghi quốc, cho nên Lân Tố mới gấp rút phái quân phong tỏa phố Hoa Tân.

Hách Dịch trầm ngâm rất lâu, mới lạnh nhạt đáp: “Tâm tư của ta thế nào, ngài làm sao đoán được?”.

Khóe môi Cơ Anh khẽ nhếch lên, từ góc nhìn của Khương Trầm Ngư, có thể thấy ánh sáng rực rỡ trong đôi mắt chàng, đó là sự tự tin và ung dung khi nắm chắc phần thắng: “Ta không cần biết tâm tư của bệ hạ, chỉ là ra giá mà thôi”.

“Từ lúc nào ngài không chỉ là dạ đế (Ông vua trong bóng tối, túc là người thao túng thực sự chính trị của một nước.) của Bích quốc, mà đến Trình quốc này cũng có thể làm chủ vậy?”.

Khương Trầm Ngư lại cau mày lần nữa – Câu này quá là châm chọc! Nếu truyền ra ngoài, chưa nói thiên hạ chắc chắn sẽ đại loạn, Chiêu Doãn cũng tuyệt đối không bỏ qua. Tại sao Hách Dịch lại phải hại công tử như thế? Trong lòng vì thế lại thêm phần giận dữ.

Cơ Anh đáp lại bằng giọng điệu lạnh nhạt hơn cả Hách Dịch: “Từ khi Trình vương trở thành khách của ta”.

Lời vừa thốt ra, trong nhà vang lên tiếng thở hắt, còn Khương Trầm Ngư kinh ngạc đến mức suýt chút nữa đứng bật dậy – Minh Cung không phải bị Di Phi đưa đi rồi sao? Sao lại rơi vào tay công tử? Chẳng lẽ là… Chẳng lẽ là…

Một đáp án từ từ trỗi lên khỏi mặt nước…

Chủ nhân thực sự của Giang Vãn Y không phải là Chiêu Doãn, mà là…

Cơ Anh.

Vô số cảnh tượng ào lên trong đầu theo đáp án đó.

Hy Hòa đột nhiên nôn ra máu, thái y bó tay, thần y dân gian được tiến cử vào cung, tiến cử Giang Vãn Y làm đại sứ đi Trình quốc…

Những sự kiện rõ ràng nàng tận mắt chứng kiến, địch thân trải qua, tại sao đến lúc này mới nhớ lại?

Khương Trầm Ngư run rẩy nhìn Cơ Anh, trong bóng tối, chiếc áo trắng của Cơ Anh tỏa ra thứ ánh sáng dìu dịu, nhìn tựa như một khách nhân siêu phàm thoát tục, không thuộc về chốn nhân gian, mà nàng thực sự quá thích chàng… thích đến mức, tất cả trí tuệ đều ngưng trệ khi đối diện người này.

Rõ ràng rất dễ dàng nghĩ ra, nhưng lại luôn không hề nghĩ đến phương diện này…

Khóe môi bỗng nhếch lên chua xót, khó phân rõ là buồn hay vui.

Cơ Anh xuất hiện ở đây tuyệt đối không phải là ngẫu nhiên, liên hệ với mỗi sự kiện xảy ra trong mấy ngày gần đây lại thêm chàng đã khống chế Minh Cung, từ đó có thể thấy, nhất định chàng sẽ làm một việc lớn ở Trình quốc. Vậy thì, dụng ý của chàng rốt cuộc là gì? Thôn tính Trình quốc? Không thể nào. Nổi loạn có thể có hiệu quả nhất thời, nhưng muốn thay đổi triều đại lại không phải trong một đêm có được ngọc tỉ hoàng vị là đủ. Cứ coi như đêm nay chàng dùng kỳ thuật thuận lợi đoạt cung, nhưng ngày mai sự tình truyền ra ngoài, dân Trình quốc làm sao có thể ngậm bồ hòn làm ngọt? Đến lúc đó, bá vương ác nơi dựng cờ nổi lên, lá cờ vệ quốc cứu chúa sẽ đường hoàng chính danh biết bao… Không không không, chuyện tốn công vô ích như thế, Cơ Anh chắc chắn sẽ không làm…

Vậy thì… dựng lên cơn rối?

Tim nàng run lên, tựa như có một luồng ánh sáng xuyên qua đêm tối, chiếu sáng tất cả cảnh tượng rối rắm, quanh co đó.

Khi bên này nàng đang đốn ngộ, bên kia Hách Dịch sau một hồi lâu im lặng, cuối cùng lên tiếng: “Quả nhiên… là ngài”.

Câu này của y vô cùng hàm hồ, ý nghĩa sâu xa.

Còn Cơ Anh dường như hiểu ý, cười nhạt: “Tại sao không thể là ta?”.

“Ta vẫn luôn thắc mắc, Chiêu Doãn tuổi trẻ cuồng ngạo, dã tâm bừng bừng, lại thêm vừa mới bình định nội loạn, đang lúc hùng tâm tối thịnh, đến ta ngẫu nhiên ngang qua Bích quốc còn suýt bị ám sát một phen, sao có thể làm ngơ trước miếng thịt béo bở như Trình quốc, chỉ phái một hầu gia không có căn cơ và một tên tướng quân xuất thân đồ tể tùy tiện đi một chuyến, quả nhiên còn có một quân cờ ngầm”.

Hách Dịch nói đến đây, khẽ thở dài một tiếng, “Ta vốn cho rằng quân cờ ngầm đó là Ngu cô nương, vì nàng ấy quá thông minh cũng quá thần bí”.

Nghe thấy y nhắc đến mình, Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, không biết vì sao, mặt đỏ bừng lên.

“Hơn nữa, nhìn từ mặt nào cũng đều là như thế: Giang Vãn Y bị giam hãm trong Trình cung, là nàng ấy đến cứu; Trình tam vương t gửi thiếp, nhưng chỉ mời mình nàng ấy, là sư muội của Giang Vãn Y, nàng ấy không thông hiểu y thuật, là một dược nữ, chúng nhân lại đều nghe theo mệnh lệnh của nàng ấy, là một sứ thần, nàng ấy lại có hai tên ám vệ hạng nhất. Địa vị của nàng ấy chắc chắn vô cùng cao quý cũng vô cùng quan trọng”.

Mặt Khương Trầm Ngư càng đỏ lựng, nhưng không phải là thẹn thùng mà là xấu hổ.

Nàng rốt cuộc vẫn quá non nớt.

Còn cho rằng mình đã suy tính chu toàn, cho rằng tất cả đều nắm chắc trong tay, ai ngờ người khác nhìn vào, chỗ nào cũng có sơ hở… Mà phái một kẻ đâu đâu cũng sơ hở như mình đến Trình quốc e rằng mới là mục đích thật sự của Chiêu Doãn, hoặc là của Cơ Anh?

Như thế, sự chú ý của mọi người đều tập trung lên nàng, mà sơ suất bỏ qua những thứ ẩn chứa ở nơi sâu xa hơn.

Tay của Khương Trầm Ngư âm thầm xiết chặt lại trong tay áo, vốn là buồn vui khó phân, lúc này lại chuyển thành buồn bã. Buồn cho sự nông cạn, tự cho là thông minh của mình, và cả sự vô tình của người thao túng đằng sau.

Trên góc phố ban nãy, nếu không phải là Cơ Anh đến kịp, một đao đó chém xuống, nàng đã thực sự thành một oan hồn.

Bây giờ nhớ lại, vẫn thấy không rét mà run.

Người đẩy nàng vào cảnh ngộ này, cho dù vì mục đích gì, đều có một điểm không can nghi ngờ – Trong lòng người ấy, Khương Trầm Ngư nàng không quan trọng bằng một trận loạn của địch quốc.

Cho nên… nếu, nếu quyết định này không phải là Chiêu Doãn mà là Cơ Anh đưa ra, nàng sao mà chịu đựng nổi?

Khương Trầm Ngư cúi đầu, ngón tay run lẩy bẩy không ngừng, mũi như bị thứ gì đó bịt kín, không thể hít thở được nữa.

Nàng nghĩ mình sắp ngất đi rồi, sắp ngất đi đến nơi rồi, khó chịu quá, khó chịu quá, khó chịu làm sao…

Một cánh tay bỗng đưa tới, đè chặt lên tay nàng qua làn áo.

Kể cũng lạ, tay nàng lập tức ngừng run một cách thần kỳ.

Khương Trầm Ngư ngước mắt lên, thuận theo cánh tay đó nhìn lên, trong ánh sáng mờ mờ, ánh mắt Cơ Anh sáng như sao, soi rọi nàng, chiếu vào nàng, kiên định, thân thiết, ấm áp.

Thế là làn không khí đã biến mất lại tràn vào khoang mũi, tươi mới, trong lành, lại… cứu mạng nàng.

Nàng đột nhiên lấy hết dũng khí, giơ tay kia ra, hai bàn tay áp vào nhau, nhẹ nhàng mà chân thực, nắm chặt tay Cơ Anh trong tay nàng.

Thực ra, đây là lần đầu tiên nàng và Cơ Anh tiếp xúc da thịt.

Nàng từng ôm chàng, ôm chàng thật chặt một cách không hề kiêng dè, một cách tuyệt vọng, giống như người sắp chết đuối ôm lấy khúc gỗ nổi.

Nhưng cảm giác lần đó lạnh lẽo tột độ. Nàng còn nhớ như in mình lạnh biết bao.

Nhưng lần này lại cực kỳ ấm áp.

Ấm áp vô cùng.

Nàng nắm chặt tay chàng, cảm giác ấm áp từ bàn tay chàng cuồn cuộn, không ngừng chảy tới, sau đó, bản thân cũng ấm dần lên.

Công tử… công tử ơi, chàng có biết không, chỉ riêng nỗi đau khổ to lớn khi hoài nghi chàng cũng đủ để giết chết ta!

Cho nên, ta không hoài nghi chàng!

Tuyệt đối không!

Hách Dịch tiếp tục phân tích: “Nhưng, ở nàng ấy lại có rất nhiều điểm không rõ ràng, bí ẩn quá nhiều, cho nên sau này người đầu tiên ta loại bỏ chính là nàng ấy. Có lẽ đối với rất nhiều người mà nói, xem sự tình phải xem toàn cục, nhưng đối với ta mà nói, ta chỉ chú trọng nhìn người. Nhìn con người Ngu cô nương, ta có thể khẳng định, có lẽ nàng ấy có liên quan đến một số sự việc nào đó, nhưng tuyệt đối không phải là vấn đề then chốt của Trình quốc”.

Nói đến đây, trong giọng nói của Hách Dịch lại thêm vài phần cười đùa, vì thế nghe có vẻ nhẹ nhõm hơn một chút

“Bởi vì nàng ấy quá lương thiện. Một người vì không muốn hy sinh người cùng đi trên thuyền, thà phá hoại kế hoạch của quân vương mình mà tha cho hoàng đế của nước khác, dù có thông minh đến đâu, đối với kẻ cầm quyền mà nói cũng tuyệt đối không đáng tin. Hôm nay nàng ấy vì cứu tính mệnh của hơn hai trăm người mà kháng chỉ, ngày mai vì cứu tính mệnh của hai ngàn người, hai vạn người sẽ lại lần nữa phản bội. Cho nên, không phải là Ngu cô nương”.

Cơ Anh im lặng lắng nghe, để mặc Khương Trầm Ngư nắm tay mình, không nói nửa lời.

Còn Chương Hoa bỗng dưng khẽ bật cười, thong thả nói:

“Lại thêm một điểm, ngón đàn của nàng ấy hay tuyệt. Một người có thể đàn ra tiếng đàn khoáng đạt, linh diệu, đầy lòng thương xót như thế không thể thao túng được chính trị tanh máu, bẩn thỉu và đen tối”.

Khương Trầm Ngư lại lần nữa nóng bừng mặt.

Hách Dịch tiếp lời:

“Cho nên, ta nghĩ, nếu không phải là Ngu cô nương, vậy ai mới là sứ thần thực sự của Bích quốc? Một người cả ngày chỉ biết uống rượu, không nói với người bên cạnh quá ba câu như Phan Phương chăng? Hay là người có y thuật cao minh, tính tình hòa nhã như Giang Vãn Y ...Ta thấy ai cũng không giống. Vốn cho rằng đều không phải là hai người bọn họ, nhưng bây giờ nghĩ lại, lại chính là hai người đó”.

Giọng nói đột nhiên ngưng bặt, ngữ điệu chuyển thành cảm khái:

“Hóa ra hai người đó đều là môn khách của ngài, bề ngoài là phụng chỉ Chiêu Doãn xuất hành, kỳ thực, người thực sự giao nhiệm vụ cho họ chính là ngài… Cơ Anh ơi là Cơ Anh, ngài bày mưu tính kế từng bước cẩn thận chu toàn như thế, thật khiến người ta phải thán phục…”.

Trước lời nửa châm chọc nửa khen ngợi đó, Cơ Anh vẫn không hề có vẻ đắc ý, đôi đồng tử đen thăm thẳm, sâu không thấy đáy.

Hách Dịch than: “Nhân tài như ngài, thủ đoạn như ngài, dưới gầm trời căn bản không có chuyện gì là ngài không làm được, hơn nữa, điều kiện ngài đưa ra cũng thực sự hấp dẫn, ta vốn không có lý do để chối từ. Đáng tiếc là…”.

“Đáng tiếc điều gì?”

Trong bóng tối, lời Hách Dịch nói buột ra chậm rãi lạ thường, từng tiếng từng tiếng đều mang ý cười cợt, lại như kim châm vào tai: “Chỉ đáng tiếc, ta đố kỵ”.

Trong mắt Khương Trầm Ngư lóe lên một nét cười, nếu không phải bầu không khí xung quanh quá nghiêm trang, mà tâm tình của nàng cũng quá rối bời, rất có khả năng nàng sẽ bật cười thành tiếng – Vị Duyệt đế này lại tùy hứng làm càn khiến người ta bất ngờ…

Hách Dịch tấm tắc nói: “Ta thực sự quá đố kỵ, mà hễ ta đã đố kỵ thì sẽ không tính toán điều kiện bên nào tốt hơn, lợi nhuận bên nào cao hơn nữa. Càng huống hồ cho dù là thương nhân cũng phải giữ chữ tín. Ta đã đồng ý với Di Phi trước, bây giờ đối phương không hề hủy hiệp ước, không có lý nào ta lại rút lời cả. Cho nên, xin lỗi Kỳ Úc hầu. Để ngài đi vô ích một chuyến rồi”.

Giọng nói tựa như châu ngọc trượt trên gấm vóc, trơn tru thanh thoát, có thể thấy khi nói những lời này, biểu tình trên gương mặt Hách Dịch sinh động đến thế nào, tuy có giận vì y cố ý đối đầu với Cơ Anh, nhưng tâm trạng của Khương Trầm Ngư bỗng nhiên cũng nhẹ nhõm đi rất nhiều.

Thời khắc nghiêm trang mọi chân tướng đều được hé lộ này dường như cũng trở nên không còn tăm tối bởi hành động bất ngờ và thái độ vui đùa tùy ý của người này.

Duyệt đế… chữ Duyệt này quả thực vô cùng tuyệt diệu… Cơ Anh tiếp tục im lặng.

Chương Hoa ho mấy tiếng rồi mới nói:

“Nói như thế, ta cũng có lập trường để đố kỵ. Vì ta từng nói thiên hạ này duy chỉ có Hách Dịch mới có thể sánh với ta, nay đến Hách Dịch cũng bắt đầu đố kỵ người nào đó, chuyến đi Trình quốc này quả nhiên là thu hoạch dồi dào”.

Hách Dịch cười nói: “Này, ngài không cần cái gì cũng học đòi ta, được không?”.

“Nói bậy, ta học đòi theo ngài bao giờ?”.

“Còn chối không phải? Năm đó ta khen Hầu Nhi tửu của Việt Lĩnh là ngon nhất, ngài liền sai người vượt vạn nước ngàn non đến đó bắt khỉ về ủ rượu cho ngài…”.

“Ngài còn không biết ngại mà kể ra? Ta vì bắt khỉ mà tốn hao tâm sức, còn phải lén lút sai người đi, giấu giếm tai mắt của thái phó và các vị đại thần, ai ngờ bắt được về rồi căn bản không thể ủ rượu!”

“Bọn khỉ ở trong núi mới có thể ủ rượu, ngài bắt đem về trong cung, ngày ngày sai người trông giữ chúng, chúng sợ chết đi được, ủ rượu được mới là lạ!”.

Hai người cứ người một câu ta một câu tranh cãi như thế.

Trong lòng Khương Trầm Ngư hiểu rõ hai người này cố ý chuyển chủ đề để làm khó Cơ Anh, khiến chàng tính muôn ngàn kế, lại thất bại ở bước then chốt nhất. Thực ra, cách làm như thế không phải là không đáng sợ.

Nếu là người khác, đến bước này sẽ thành cờ chết. Vậy thì… bước tiếp theo công tử sẽ đi như thế nào?

Cơ Anh hít một hơi, mở miệng, không hề cao giọng nhưng trong chớp mắt át hết giọng nói của họ: “Tại sao Yên vương không thử nghe điều kiện của ta trước đã?”.

Chương Hoa ngừng đấu khẩu với Hách Dịch, cười ha ha nói:

“Điều kiện? Ta thấy không cần đâu. Cho dù ngươi đem cả Trình quốc tặng ta, ta cũng không có hứng thú. Đại Yên ta đất rộng người đông, đầy đủ sản vật, binh cường mã tráng, có khả năng tự cung tự cấp. Chỉ một hòn đảo cô lẻ ngăn sông cách biển, đất đai cằn cỗi, lại còn đám bạo dân hung đồ chưa được khai hóa, lấy thì có ích gì?”.

Khương Trầm Ngư trong lòng chấn động – Hay, hay, hay… cho Yên vương!

Câu nói này ngông cuồng làm sao!

Cũng hào sảng làm sao!

Lúc nhỏ, Tất sư gia từng nói tỉ muội nàng trong giờ học: Chỉ có người trong nhà không có thứ gì mới đi tham lam đồ trong nhà người khác. Nếu như trong nhà mình cần gì có nấy, hưởng thụ không hết, cái gì cũng tốt hơn nhà người khác, vậy còn cần gì phải đi cướp đồ của người khác?

Nhìn xuyên suốt lịch sử, Yên quốc có niên đại lâu dài nhất, cũng thái bình nhất. Tuy là nước lớn nhưng không hề chủ động xuất chiến, chỉ có khi nước khác đánh Yên quốc, Yên quốc mới phản kích mạnh mẽ. Mà trong bốn nước, phong hóa của Yên quốc là khai sáng nhất, dùng lễ đối đãi với khách, đối xử bình đẳng. Lấy chuyện hỏi đường làm ví dụ, Tất sư gia từng kể một câu chuyện cười như thế này: Một người lạc đường nên đi hỏi đường.

Một người rút đao, nói: Đánh thắng ta, sẽ nói cho ngươi biết.

Người này là người Trình quốc.

Một người cười hớn hở, nói: Đưa tiền cho ta, ta sẽ nói cho ngươi biết…

Người này là người Nghi quốc.

Một người cúi đầu cực kỳ lễ độ, xin lỗi vì mình không biết đường, nhưng quay người lại đi đến chỗ đó.

Người này là người Bích quốc.

Một người không những chỉ đường tường tận cho ngươi, mà còn đích thân dẫn ngươi đến nơi đó.

Người này là người Yên quốc.

Cuối cùng Tất sư gia cảm khái nói:

“Người Trình quốc thô bỉ mà hiếu võ; người Nghi quốc tinh ranh mà gian giảo; người Bích quốc bề ngoài nhìn văn nhã nhưng thực ra lạnh lùng, chỉ có người Yên quốc hào sảng nhiệt thành, dễ chung sống nhất”.

Tuy sư gia chỉ là lấy ví dụ điển hình, cũng không thể khái quát hoàn toàn, nhưng ở một mức độ nào đó có thể nói rõ được bản chất của bốn nước.

Mà nay, tận tai nghe thấy quân vương của cường quốc bao la đó dùng ngữ khí nhẹ như gió thoảng ấy nói ra những lời “trên trời dưới đất duy ngã độc tôn” đó, trong phút chốc, trong lòng nàng rúng động, hào tình trỗi dậy.

Đây mới thực sự là lớn mạnh! Không tham, vì có hết.

Không tư lợi, vì tự cường.

So ra, Trình quốc cũng thế, Bích quốc cũng thế, đều sống quá ư, quá ư mệt mỏi.

Tận đáy lòng Khương Trầm Ngư không kìm được thở dài một tiếng.

Sau đó liền nghe thấy Cơ Anh nói bằng thanh âm mềm mại như nước, sáng trong như tuyết của chàng: “Nếu như điều kiện của ta không phải là một quốc gia thì sao?”.

Chương Hoa lơ đãng cười nói: “Không phải là quốc gia? Vậy là cái gì?”

Cơ Anh chậm rãi nói: “Ồ, thứ khác, ví dụ như… vật sống nào đó?”. Tiếng cười của Chương Hoa biến mất.

Ánh mắt Cơ Anh thoắt biến đổi, nhìn ra ngoài cửa: “Ngươi còn đợi gì nữa?”. Cánh cửa nhỏ cọt kẹt mở ra, luồng ánh sáng chiếu vào, xuất hiện cùng với nó là một người.

Trong tay người đó bưng một chiếc hộp, chậm rãi tiến vào trong, ánh trăng vẽ viền thân hình của hắn, tạo thành một hình thù gầy gò nhỏ bé.

Có chiếc ghế bị đổ nhào xuống đất, có người kinh ngạc hít hơi, có người a lên một tiếng liền bị người khác nhanh chóng bịt chặt miệng… Cơ hồ trong khoảnh khắc hỗn loạn đó, giọng nói của Chương Hoa chần chừ vang lên, không còn bình tĩnh như trước nữa.

“Tiết… Thái?”.

Khương Trầm Ngư lặng người trong giây lát, sau đó, trong lòng trào dâng nỗi thương xót khôn cùng.

Ký ức trỗi dậy khi nàng rơi xuống nước hôn mê trùng với người thực xuất hiện lúc này, đan xen với nhau, đối lập rõ nét: Thiếu niên đứng trong sảnh cao hơn một chút so với lần nàng gặp hắn trong phủ Kỳ Úc hầu trước lúc vào cung, càng lộ rõ vẻ gầy gò, hắn mặc một chiếc áo gai màu nâu nhạt, mái tóc dùng dây thừng gai cột lỏng buông sau lưng. Đường nét gương mặt tuy không thay đổi là bao nhưng đã không còn vẻ rạng rỡ như châu như ngọc năm nào.

Tiết Thái…

Vì một ước nguyện riêng tư của nàng mà viên minh châu này buộc phải lưu lại nhân gian.

Bây giờ, bụi mờ che phủ, mài mòn mũi nhọn, giấu kín vẻ rạng ngời.

Nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư áy náy vô cùng, vô thức xiết chặt tay Cơ Anh, Cơ Anh nhìn nàng tựa như suy tư điều gì.

Mà trong phòng, Tiết Thái đã đi đến trước bình phong của Chương Hoa, vén áo khuỵu gối quỳ xuống: “Bích quốc Tiết Thái bái kiến Yên vương bệ hạ”.

Sau bình phong, Chương Hoa mãi không nói gì.

Lại có một giọng nói khác hừ một tiếng: “Hóa ra ngươi chính là Tiết Thái, trước đây ta nghe nói, còn tưởng là nhân vật ghê gớm thế nào, không ngờ hôm nay gặp mặt, thật là thất vọng làm sao…”.

“Như Ý câm mồm!”. Cát Tương quát.

“Vì sao ta phải câm mồm? Ta nói có gì sai đâu! Ngươi nhìn mà xem, hắn khô đét quắt queo, gầy như bộ xương khô, cái gì mà minh châu ngọc lộ, cái gì mà chi lan ngọc thụ, cái gì mà ngọc thụ quỳnh chi, cái gì mà ngọc dung hoa mạo, cái gì mà quỳnh lâm ngọc chất, cái gì mà lương kim mỹ ngọc… Phì, rõ ràng xách dép cũng không với tới!”.

Cát Tương tắc lưỡi nói: “Chậc! Như Ý lần đầu tiên ngươi nói thành ngữ không sai tí nào, còn nói một lèo mấy câu…”.

“Hừ, ta nhớ hết chứ! Bình thường bệ hạ khen hắn thế nào, ta đều nhớ hết!”.

Như Ý nói đoạn vòng qua bình phong đến trước mặt Tiết Thái, từ trên cao nhìn xuống, vênh càm liếc Tiết Thái, vẻ mặt đầy khinh bỉ lẫn thách thức.

Ngược lại Tiết Thái rất bình tĩnh nhìn trả hắn.

Như Ý hừ mũi, nói: “Sao nào? Ta nói ngươi không phục sao?”.

Tiết Thái đến lông mày cũng không buồn động đậy, từ bờ môi nhợt nhạt chỉ buột ra hai tiếng: “Đồ lùn!”.

Như Ý lập tức như bị sét đánh trúng, nhảy dựng lên: “Hả? Ngươi nói gì? Đồ, đồ, đồ lùn? Ngươi dám gọi ta là đồ, đồ, đồ lùn? Rõ, rõ, rõ ràng ngươi còn lùn hơn ta...a...a...a...a…”.

Nói rồi nổi giận lôi đình.

Sau bình phong, Cát Tương phì một tiếng, không nhịn được bật cười ha hả.

Chương Hoa bỗng ho một tiếng.

Thanh âm rất khẽ, nhưng Cát Tương lập tức bịt miệng, không dám cười tiếp. Sau đó, Chương Hoa nói: “Như Ý, lui xuống”.

Như Ý bĩu môi, quay về với vẻ không cam tâm tình nguyện, miệng vẫn còn lầm bầm:

“Cái gì chứ, tại sao một kẻ còn lùn hơn ta lại dám ngang ngược cười nhạo chiều cao của ta, đáng ghét…”.

Trong phòng im lặng một lúc.

Khi Chương Hoa lên tiếng, ý cười nhàn nhạt trong giọng nói đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là sự trang nghiêm: “Băng Ly”.

Hai chữ vừa thốt ra, không chỉ là Tiết Thái đang quỳ trong sảnh, đến Khương Trầm Ngư đang ngồi trên ghế cũng vì thế mà chấn động tâm can – Từng có bao nhiêu tài hoa kinh người, phong lưu tuyệt thế vì hai chữ này mà nổi lên? Vì hai chữ này mà thịnh? Lại vì hai chữ này mà cuối cùng hóa thành gông cùm nặng nề…

Nàng không làm được nghĩ. Tiết Thái bây giờ đang nghĩ gì?

Khi hắn mặc y phục thô lậu, dùng thân phận nô bộc quỳ gối trước mặt Yên vương từng tán thưởng hắn, tôn sùng hắn, ân sủng hắn năm nào, trong lòng sẽ nghĩ những gì? Là đau buồn? Hay là tủi nhục? Là cắn chặt răng làm ra vẻ kiên cường? Hay là gì khác?

Cảnh tượng như thế, nếu đổi lại là mình thì sẽ làm thế nào?

Thật là buồn… trong tình cảnh này, cảnh ngộ của một người khác lại khiến nàng đau lòng đến thế.

Công tử… Chàng…

Quá… tàn nhẫn.

Tại sao lại để Tiết Thái bước ra đối diện với Yên vương như thế? Đến một chút thương hại cũng không cho hắn? Tại sao phải đập vỡ vụn sự cao ngạo trong hắn? Cho dù chàng cũng vì muốn tốt cho hắn, nhưng…

Đau đớn quá…

Nỗi đau đớn máu tươi lầy đất như thế đến người đứng bên nhìn là nàng cũng không chịu nổi, huống hồ là một đứa trẻ?

Một đứa trẻ năm nay mới chỉ lên bảy?

Mắt nàng lại một lần nữa rưng rưng.

So với sự lo lắng của Khương Trầm Ngư, Tiết Thái hiển nhiên bình tĩnh hơn nhiều, hắn chỉ khẽ ngước mắt lên, nhìn thẳng vào bình phong, đáp: “Có”.

Chương Hoa nói: “Băng Ly, nếu ta cho ngươi năm đó được chín điểm, ngươi cho rằng ngươi bây giờ được mấy điểm?”.

Khương Trầm Ngư cau mày, câu này của Yên vương đầy ẩn ý.

Lại nghe thấy Tiết Thái hỏi vặn lại: “Năm đó tại sao bệ hạ cho thần chín điểm?”.

“Ngươi thiếu niên tài cao, trời phú dị bẩm, văn nhã phong lưu ngôn hành lễ độ, điều ấy được ba điểm, ngươi dung mạo xuất chúng, tú mỹ tuyệt luân, áo gấm thịnh sức, vừa ý vui mắt, điều ấy được ba điểm, ngươi không chút sợ sệt, nói cười vui vẻ, có sự ung dung và cao ngạo mà người cùng trang lứa không sao bì kịp, điều ấy được ba điểm”.

Tiết Thái bỗng bật cười, gương mặt nhỏ bé nhợt nhạt, đôi mắt đen láy, thoạt nhìn giống như một đầm mực chết im lìm, mà nay thoắt cười, lại giống như vết mực loang ra, từ từ lan rộng, chầm chậm uốn lượn, tạo nên đường viền cực kỳ linh động.

“Hóa ra là như thế. Bây giờ thần tài hoa khuất tận, nghi dung đã mất, ngạo cốt chẳng còn, chín điểm năm xưa đều mất cả. Cho nên, đối với bệ hạ mà nói, thần chẳng đáng một xu không chút giá trị, đúng không?”.

Chương Hoa không đáp, chỉ có Như Ý lạnh giọng nói: “Đương nhiên là thế”.

Tiết Thái tiếp tục cười: “Cho nên, bệ hạ hẳn là không chịu đem Trình quốc đổi lấy thần đúng không?”.

Như Ý nhảy dựng lên, giậm chân nói: “Nằm mơ nằm mơ nằm mơ! Thử nghĩ cũng biết là chuyện không thể nào! Này, ta nói sao ngươi lại mặt dày thế, làm gì có người nào tự chào bán mình chứ…”.

Hắn còn chưa dứt lời, lông mày Tiết Thái đã nhướng lên, thong thả nói: “Thế nhưng, tại sao bệ hạ lại cho rằng vật sống mà chủ nhân của thần nói là… thần?”.

Như Ý ngạc nhiên, sững ra: “Ngươi nói gì?”.

Tiết Thái đứng dậy, đi lên phía trước mấy bước, bưng chiếc hộp vẫn luôn ôm trong tay lên cao quá đầu, cung kính nói:

“Chủ nhân nhà thần nguyện dùng vật trong hộp này đổi lấy một lời hứa của Yên vương bệ hạ”.

Như Ý phẫn nộ chạy ra, nhận lấy chiếc hộp, lại trừng mắt lườm hắn mấy cái, “Ngươi đừng có mà giỡn mặt ta, trong hộp đựng cái gì? Ta xem trước đã…”, vừa nói vừa mở nắp hộp ra.

Từ góc nhìn của Khương Trầm Ngư vừa hay không nhìn thấy đồ vật trong hộp, chỉ có thể nhìn thấy vẻ mặt của Như Ý trong chốc lát trở nên kinh ngạc tột độ, rồi lại chuyển sang mừng rỡ như điên, bưng chiếc hộp về phía sau bình phong, nói:

“Thánh thượng người xem! Trời ạ, đúng thật rồi! A a a a a, hóa ra đúng là thật!”.

Khương Trầm Ngư không kìm nổi đưa ánh mắt tò mò quay sang nhìn Cơ Anh, cảm nhận được ánh mắt nghi hoặc của nàng, Cơ Anh mỉm cười nhưng không hề giải thích.

Vì thế nàng chỉ có thể tiếp tục im lặng, quan sát sự tình biến đổi.

Sau bình phong của Yên vương vọng ra những tiếng thảo luận rì rì rầm rầm, nhưng nghiêng tai lắng nghe, cũng chỉ có thể thoáng nắm bắt được vài từ đại loại như “độc nhất vô nhị”, tuyệt đối là “bảo vật hiếm có”, “ái chà chà, đúng là tìm được”…

Liên tưởng đến lời Hách Dịch nói trước đó, xem ra sở dĩ Yên vương đến Trình quốc là để tìm một thứ, mà thứ này bị Cơ Anh tìm thấy trước, bây giờ do Tiết Thái trình lên, được coi là điều kiện đàm phán.

Khương Trầm Ngư còn đang suy đoán, Chương Hoa thở dài thườn thượt, thấp giọng nói: “Được rồi”.

Cơ Anh cười, hỏi: “Yên vương bệ hạ đồng ý?”.
“Ừ”.

Tuy chỉ là một tiếng hết sức giản đơn, nhưng Khương Trầm Ngư lại cảm nhận được bàn tay Cơ Anh run nhẹ, sau đó chàng thả tay ra. Hóa ra, dù có nắm chắc phần thắng đến đâu, chung quy cũng vẫn căng thẳng.

Công tử cũng có lúc căng thẳng.

Không biết vì sao, phát hiện này khiến nàng cảm thấy vui vui. Bởi vì, Cơ Anh mà người ngoài thấy hoàn mỹ biết bao, nhưng chỉ có nàng từng nhìn thấy dáng vẻ này của chàng.

Hai năm trước, nàng nhìn thấy chàng đau khổ, thế là lần đó nàng đã yêu chàng.

Hai năm sau, nàng nhìn thấy chàng căng thẳng, thế là lại yêu thêm một lần nữa.

Rất muốn dùng mắt để bắt giữ một chàng mà những người khác không nhìn thấy, rồi khắc thật sâu trong ký ức, giống như một bức họa vẽ bằng mực đen, từng bức từng bức một, đóng thành tập sách.

Cho dù không có kết cục, nhưng khi năm tháng trôi qua, khi nàng đã già, lần giở trong sâu thẳm của ký ức, mở từng trang từng trang của cuốn sách đó ra đọc, chẳng phải là một chuyện rất hạnh phúc, rất rất hạnh phúc hay sao?

Muốn khắc ghi từng chút từng chút một.

Cho dù có nghi kỵ, có đau khổ, có oán hận, có lạnh lẽo xa cách, cũng không nỡ lãng quên.

Cơ Anh đối với nàng chính là một sự tồn tại như thế.

Khương Trầm Ngư cúi đầu, không kìm được khẽ nắm tay chàng chặt hơn một chút nữa.

Cơ Anh nói: “Bệ hạ còn chưa nghe ta muốn đòi ngài hứa điều gì”.

Chương Hoa nói: “Ta đồng ý với ngài không nhúng tay vào nội loạn của Trình quốc, hoàn toàn, triệt để làm người ngoài cuộc, chẳng lẽ vẫn còn chưa đủ”.

Cơ Anh lại cười, nói: “Chưa đủ”.

Giọng nói của chàng thấp hơn người thường một chút, khác với chất giọng khàn khàn của Chương Hoa, giọng chàng trong êm, tựa như cơn gió mát lành, viên ngọc tinh khiết, sợi tơ mềm mại, mang theo một vẻ dịu dàng mềm mỏng khó tả thành lời nhưng từng tiếng thốt ra lại chắc nịch như chém đinh chặt sắt, không cho phép chối từ.

Vì thế, khi chàng mỉm cười nhìn như lơ đãng nói hai tiếng “Chưa đủ”, Khương Trầm Ngư lại cảm thấy bầu không khí trong phòng bỗng chốc biến đổi.

Không khí vốn không đến mức đối chọi căng thẳng vì hai chữ này mà bỗng nhiên trở nên nghiêm trọng.

Chương Hoa quả nhiên không vui, “Trẫm không thích cò kè mặc cả”.

“Rất vinh hạnh, về điểm này tại hạ cũng giống bệ hạ cũng không thích cò kè mặc cả, rất không thích”. Cơ Anh thản nhiên nói.

Đáp lại chàng lại ba tiếng cười khan ha ha ha của Hách Dịch.

Cơ Anh không đếm xỉa đến sự chế nhạo của Hách Dịch, tiếp tục nói:

“Thực ra điều kiện của tại hạ rất đơn giản, chỉ là xin hai vị ban chỉ lên tiếng ủng hộ một người mà thôi. Cũng không khác khoanh tay đứng nhìn là bao, chỉ là động chút da miệng thôi”.

Giọng nói của Chương Hoa càng lúc càng trầm: “Sở dĩ trẫm đồng ý với ngài không phải thực sự vì món lễ vật ngài tặng này”.

“Tại hạ biết”. Cơ Anh cười nói: “Lễ bạc cỏn con, chỉ đổi lấy một nụ cười của Yên vương”.

“Sở dĩ ta đồng ý với ngài là vì ba nguyên nhân. Một là, lần này ta xuất hành bí mật, mà ngài lại có thể điều tra ra mục đích thật sự của ta, cho thấy ngài đã cài tai mắt bên cạnh ta, hơn nữa, còn là tai mắt hết sức quan trọng”.

Chương Hoa nói đến đây, ngừng lại một lát, còn Như Ý kêu lên theo trực giác: “Không phải thần!”.

Chương Hoa hừ khẽ.

Như Ý trợn mắt, xua tay nói: “Không phải thần đâu không phải thần, thực sự không phải thần!”.

Chương Hoa sa sầm mặt, khẽ quát: “Im miệng”.

Như Ý vội vàng dùng hai tay bịt chặt miệng mình, mở to đôi mắt lớn đen lay láy, cực kỳ thành khẩn lắc đầu nguầy nguậy, biểu thị mình không nói nữa.

Ánh mắt Chương Hoa dịu đi mấy phần, tiếp tục nói:

“Về tai mắt kia là ai, hiện tại ta không muốn truy cứu; nguyên nhân thứ hai, ta tốn công tốn sức tìm thứ này mười năm mà không có kết quả, trong thời gian ấy tốn mất bao nhiêu nhân lực tài lực mà ngài có thể đi trước ta một bước, tìm được vật này, trong lòng ta bội phục”.

Cơ Anh đáp: “Tại hạ chỉ là nhằm đúng cơ hội”.

“Vận may cũng là một loại thực lực. Cho nên, trực giác mách bảo ta, tốt nhất không nên trở thành kẻ địch của ngài. Mà điểm thứ ba cũng là điểm quan trọng nhất – Không thể không nói ngài đã chọn được người tặng quà tốt nhất”.

Chương Hoa nói đến đây, cười khổ, rầu rĩ nói: “Ngài biết rõ, ta không nhẫn tâm khước từ yêu cầu của Tiết Thái. Càng huống hồ… là một Tiểu, Tiết, Thái bây giờ”.

Khương Trầm Ngư mím môi, dù những lời này người khác nghe rất mờ ám, nhưng nàng lại cảm thấy mình có thể hiểu được Yên vương. Bởi vì, nàng và y có chung cảm nhận Tiết Thái gầy gò, vinh quang chẳng còn của bây giờ thực sự khiến người ta buồn bã. Buồn bã đến mức nếu như từ chối yêu cầu của hắn, chính là một tội lỗi tày trời.

Mà Chương Hoa rõ ràng còn thích hắn hơn cả nàng.

Tiết Thái vẫn đứng nguyên tại chỗ, rũ tay cúi đầu, đứng tư thế của một nô bộc thực sự, mớ tóc mái rũ rượi rủ xuống che lấp đôi mắt hắn, vì thế nhìn không rõ biểu cảm trên gương mặt hắn lúc này. Không biết người trong cuộc như hắn nghe thấy những lời ruột gan như thế, sẽ có cảm giác gì?

Cơ Anh nhìn hắn một cái, trong đáy mắt lại lần nữa bộc lộ thần sắc trầm tư, sau đó bỗng hỏi: “Tiểu Thái, ngươi có bằng lòng đi theo Yên vương không?”.

Tiết Thái đứng im rất lâu, mới chầm chậm ngẩng đầu lên, hai mắt càng lúc càng tối sầm.

Cơ Anh nói: “Chỉ cần ngươi bằng lòng, ta sẽ để ngươi đi”.

Tuy chàng nói câu này hết sức nhẹ nhàng, nhưng trong lòng Khương Trầm Ngư bỗng run lên – Tiết Thái không giống những nô lệ khác, hắn là quân cờ mà Chiêu Doãn cố ý sắp đặt cho công tử để kìm chế cả hai bên. Nếu Cơ Anh đối với hắn quá tốt, sẽ dẫn đến sự nghi kỵ của Chiêu Doãn, càng huống hồ là thả người? Chương Hoa yêu thích Tiết Thái như thế, lại thêm Tiết Thái tài hoa đầy mình, ngày sau ắt thành nghiệp lớn, mà một khi hắn được phong hầu bái tướng ở Yên quốc, chẳng khác nào cho Chiêu Doãn một cái tát trước mặt bàn dân thiên hạ, ngộ nhỡ hắn độc ác hơn một chút, phản công Bích quốc, cho dù ai thắng ai thua, một trận kiếp nạn là khó tránh khỏi.

Tại sao công tử lại đưa ra quyết định thà đắc tội với đế vương vẫn thả hổ về rừng như thế? Tại sao?

Chính trong lúc nàng liên tiếp kinh ngạc, hồi hộp, phỏng đoán Tiết Thái mở miệng, đáp một cách rõ ràng: “Không”.

Lời vừa thốt ra, mọi việc đã định.

Cơ Anh còn chưa nói gì, Chương Hoa đã truy vấn: “Tại sao?”.

Tiết Thái quay về hướng bình phong, nhướng mày cười nói: “Bởi vì bên bệ hạ có tên lùn mà thần rất ghét!”.

“Cái gì!…”. Không hề bất ngờ, Như Ý lại lần nữa giận dữ đùng đùng, “Thánh thượng, hắn hắn hắn hắn cố ý! Hắn cố ý lấy thần ra làm cái cớ, thần thần thần thần rõ ràng cao hơn hắn…”.

Khương Trầm Ngư bất giác nhoẻn miệng cười, Tiết Thái tìm được cái cớ thật là dễ thương, ai cũng biết là cái cớ, nhưng không ai có thể phản bác được.

“Hơn nữa”, sau nụ cười, sắc mặt Tiết Thái nghiêm lại, hắn nói: “Đối với nô bộc mà nói, một vị chủ nhân lật lọng khó hầu hạ hơn một vị chủ nhân ít ban ân sủng nhiều”.

Giọng Chương Hoa trầm xuống: “Ngươi nói gì?”.

“Đầu tiên, chủ nhân của thần hỏi: Bệ hạ đồng ý không? Bệ hạ chỉ đáp một tiếng ừ. Cũng có nghĩa là, bệ hạ đã tỏ ý rõ ràng sẽ đồng ý với bất cứ yêu cầu nào của chủ nhân nhà thần. Thế nhưng, sau đó nghe thấy yêu cầu của chủ nhân nhà thần không chỉ là đứng ngoài cuộc, còn phải lên tiếng ủng hộ người nào đó, bệ hạ bắt đầu do dự, chần chừ, thậm chí nói năng vòng vo…”.

Tiết Thái nói đến đây, lại cười cười, “Thấy ít hiểu nhiều. Tuy chủ nhân nhà thần có chút được voi đòi tiên, nhưng vua không nói chơi, so sánh hai bên, bỏ ai theo ai, dễ dàng đưa ra đáp án, đúng không?”.

Những lời hắn vừa nói cực kỳ to gan, cũng cực kỳ nham hiểm. Cho dù thế nào, đối phương là Yên vương, đế vương của Yên quốc đứng đầu bốn nước. Còn hắn lại chỉ trích Yên vương không giữ chữ tín ngay trước mặt y.

Quả nhiên, Như Ý lập tức quát tháo: “Tiết Thái to gan. Dám sỉ nhục thánh thượng nhà ta như thế! Mạo phạm thiên uy đáng tội chết! Người đâu, bắt hắn cho ta!”.

Trong gian phòng im lặng như tờ, không có ai nói năng, cũng không có ai nhúc nhích.

Như Ý càng cao giọng: “Người đâu…”.

Vẫn là im lặng bao trùm.

Như Ý giậm chân, quay sang Chương Hoa, ấm ức nói: “Thánh thượng”.

Đáp lại hắn là sự trầm ngâm cau mày của Chương Hoa và trong đôi mắt khép hờ ấy, một tia tình cảm thoáng lướt qua, dường như là – đau khổ?

Trong lòng Như Ý chấn động ghê gớm, trong khoảnh khắc hắn bỗng hiểu ra một số chuyện – Thánh thượng của hắn có một thứ tình cảm vô cùng lạ thường đối với Tiết Thái, bởi thế, cho dù Tiết Thái nói gì, làm gì ngài, ngài đều không thể giận dữ với Tiết Thái.

Hiểu rõ điểm này, nỗi xúc động và tức giận của hắn bỗng chốc bay biến đâu mất, hắn trở nên mệt mỏi tột cùng, không muốn nói thêm gì nữa.

Thế nên, hắn lùi ra phía sau một bước, cúi đầu thật thấp.

Cát Tương lặng lẽ xích gần hắn thêm vài bước, rồi im lặng vỗ vỗ lên vai hắn.

Sau một sự im lặng kéo dài, Chương Hoa giơ tay lên, day day ấn đường, rồi cười khẽ, vừa cười vừa thở dài, nói: “Hay, hay cho Kỳ Úc hầu”. Y không khen Tiết Thái can đảm hơn người, nhưng lại khen Cơ Anh, không khí không những không nhẹ nhõm hơn, ngược lại còn kỳ dị hơn mấy phần.

Cơ Anh vẫn không tỏ biểu tình gì như cũ.

“Nói đi, ngài muốn ta lên tiếng ủng hộ ai?”.

“Từ từ đã…”, lần này là Hách Dịch lên tiếng ngăn cản.

Chỉ nghe Hách Dịch cười nói:

“Kỳ Úc hầu quả nhiên cao siêu không những bày mưu tính kế hùng tài đại lược, đến hàng nô thuật cũng hơn người mộc, tên Tiểu Băng Ly cậy tài ngạo thế thiên hạ đều biết này bị ngài thuần dưỡng thành phục tùng ngoan ngoãn, đến tự do cũng chịu từ bỏ, còn giúp ngài cắn lại ân nhân của mình một miếng, thú vị, rất thú vị”.

Tuy y nói năng rất cay nghiệt, nhưng đúng là sự thực.

Ngày ấy nếu không có Yên vương viết thư cho Chiêu Doãn, chắc chắn không cứu nổi Tiết Thái. Màay, Tiết Thái không những không nhớ tới ân tình của Chương Hoa, ngược lại còn giúp Cơ Anh ép y, xem ra Chương Hoa đúng là rất chạnh lòng.

Cơ Anh còn chưa lên tiếng, Tiết Thái đã lạnh nhạt đáp:

“Ơn cứu mạng, suốt đời không quên. Nhưng bây giờ sự việc liên can đến xã tắc, quan hệ đến lợi ích của cả bốn nước, quan hệ đến an nguy của bách tính thiên hạ, Tiết Thái không dám lấy tình riêng cá nhân mà bẻ cong đại thế của thiên hạ, cũng như vậy Nghi vương bệ hạ có thể cười nhạo thần, nhưng không thể cười nhạo thời sự”.

Hách Dịch sững người một lúc, cười lạnh lùng nói: “Hay, hay cho một Tiểu Tiết Thái lo nghĩ cho thiên hạ. Đúng là khá có phong cốt của chủ nhân ngươi, chuyện xấu xa gì đều quàng vào hai chữ ‘xã tắc’ như vậy sẽ có vẻ đại nghĩa lẫm liệt lắm thay”.

Tiết Thái không kiêu ngạo cũng chẳng nịnh bợ, tiếp tục nói:

“Hai vị bệ hạ đã chịu đến nơi này, cho thấy hai vị đã có chuẩn bị tâm lý đàm phán với bên thần, bên thần đưa ra điều kiện, các vị đắn đo suy nghĩ, còn cười nhạo bên thần giả dối xấu xa. Thử hỏi, trước khi cuộc nổi loạn này bộc phát, hai vị đã làm những gì? Một vị lấy danh nghĩa chúc thọ làm chuyện riêng tư nào đó; một vị lại giao dịch ngầm với Trình tam hoàng tử. Hai vị rõ ràng đều đã thấy trước được sẽ có cuộc đại loạn này, một người khoanh tay đứng nhìn, một người té nước theo mưa. Kẻ khoanh tay đứng nhìn không phải không trọng lợi ích, mà là lợi ích không lớn, nên không thèm đếm xỉa; đều là cháy nhà hôi của, sao kẻ té nước theo mưa còn cần nói đến những lời như thương nhân phải giữ chữ tín? Rốt cuộc là ai giả dối hơn?”.

Hắn nói một tràng dài không hề ngừng nghỉ, trôi chảy vô cùng, câu nào câu nấy đều chắc nịch.

Nhất thời trong phòng im phăng phắc, không ai nói gì.

Khương Trầm Ngư không khỏi nghĩ, chẳng trách năm đó Chiêu Doãn phái Tiết Thái đi sứ Yên quốc, vốn cho rằng hắn chẳng qua chỉ là người nhỏ mà tinh ranh, nay mới biết tài hùng biện của hắn đúng là bậc nhất. Nhưng bây giờ đúng vào thời khắc then chốt này, hắn lại hiên ngang uốn lưỡi khẩu chiến với song hùng, từ ngữ có nhiều chỗ mạo phạm, lẽ nào không sợ hai vị hoàng đế thực sự nổi giận, đòi trị tội hắn? Hắn có chỗ dựa thế nào? Lại có mục đích gì? Tại sao phải giúp Bích quốc tranh giành lợi ích? Tại sao phải nghe theo lời của Cơ Anh?

“Đã đều là lợi ích, vậy thì không có gì là không thể mang ra đàm phán. Yên vương tuy không thèm đếm xỉa đến tiểu quốc hoang đảo, nhưng không muốn biết thuật luyện sắt, rèn sắt bí mật của Trình quốc hay sao? Yên quốc sở dĩ trở thành nước lớn nước mạnh, ngoài nhân tài đông đúc ra, còn bởi vì khiêm nhường tiếp thu tinh hoa, sở trường của người khác, có thể tự cường tự cấp, nhưng tuyệt đối không phải là bảo thủ kiêu căng; còn thương nhân của Nghi quốc sở dĩ có thể đi khắp thiên hạ, nơi nào có ánh nắng chiếu đến là nơi đó có cửa hiệu của Nghi quốc, lẽ nào không phải là tranh đoạt từng ly từng tí quyền lợi mà có được hay sao? Bây giờ ngài từ bỏ giảm thuế bảy phần, ngày sau, ngài có lẽ sẽ từ bỏ nhiều thứ hơn. Xây đầm tích nước, liên tục nghìn ngày, đê vỡ núi lở, thiệt hại nghìn dặm. Nghi vương bệ hạ thực sự không để tâm sao?”.

Tiết Thái nói đến đây, bỗng dưng trầm ngâm, biểu cảm trên khuôn mặt biến đổi liên tục, một lúc sau mới ngước mắt lên nói:

“Loạn tranh ngôi báu của Trình quốc lần này đối với ba bên chúng ta mà nói, chẳng qua chỉ là trong ý nghĩ, nhưng đối với con dân Trình quốc mà nói, rất có khả năng lại là xẻ đàn tan nghé, nước mất nhà tan… Uy nghiêm đế vương không phải nằm ở một lời diệt thiên hạ, mà là một lời cứu chúng sinh”.

Khương Trầm Ngư ngẫm thật kỹ câu cuối cùng, không khỏi có chút ngây dại.

Đúng vậy, đối với đế vương mà nói muốn giết một người thực sự quá dễ dàng, bọn họ chỉ cần nói một câu là có thể quyết định sự sống chết của người khác, tru di cửu tộc người đó. Thế nhưng uy nghiêm như thế là lớn lao mạnh mẽ, nhưng cũng là đáng sợ. So với hủy diệt, dân chúng kính ngưỡng sự khoan dung hơn.

Hôm nay, giây phút này, trong gian ám thất này, kết quả đàm phán của họ sẽ trực tiếp dẫn đến tương lai của Trình quốc. Họ vô tình một chút, đế đô liền xảy ra một trận mưa máu; họ nhân từ một chút là trời quang mây tạnh.

Thời khắc then chốt như thế này, quả thực cần vứt bỏ hoàn toàn ân oán sở thích, tư niệm cá nhân mới có thể đưa ra được lựa chọn đúng đắn nhất – Tiết Thái không sai.

Khương Trầm Ngư đưa mắt sang nhìn Cơ Anh – Công tử cũng không hề sai. Sau khi rút ra kết luận này, trái tim nàng bỗng chốc bình tĩnh trở lại, tâm trạng lo lắng, bất an, nghi hoặc ban đầu đã biến mất như mây khói.

Còn Hách Dịch rõ ràng đã bị những lời này thuyết phục, trầm ngâm hồi lâu, y nói: “Các ngươi muốn làm thế nào?”.

“Rất đơn giản”, lần này, cuối cùng đã đến lượt Cơ Anh lên tiếng, “Dao sắc chặt đay rối”.

“Chặt thế nào?”.

“Ba nước hợp lực, mau chóng phù trợ một vị vương tôn của Trình quốc trở thành Trình vương kế nhiệm, xử chết phản đảng, bình định nội loạn”. Ngữ điệu của Cơ Anh không hề nhanh hơn, vẫn ung dung, thong thả như bình thường, thế nhưng, cùng với câu nói ấy, bầu không khí trong phòng đã nghiêm nghị và trang trọng thêm vài phần.

Chương Hoa hỏi: “Ngài muốn phù trợ ai?”.

Hách Dịch khẽ hừ, nói: “Chắc chắn không phải là Di Phi, nếu không ngài đâu cần hao tốn tâm sức như thế”.

Chương Hoa thong thả nói: “Di Phi đúng là một kẻ không hề tầm thường, bề ngoài nhìn nhìn hoang tàng không có cương kỷ, nhưng lòng ôm tráng chí đáng tiếc, hắn quá thông minh, cũng quá bướng bỉnh. Với thực lực của hắn, vốn không cần giả điên giả ngốc, nhưng hắn lại một mực làm như vậy, có lẽ là có sở thích một mình một phách. Người như thế có thể làm danh sĩ giỏi nhất, nhưng tuyệt đối không thể làm đế vương. Đế vương phải biết từ bỏ, từ bỏ một phần đặc trưng của chính mình. Không trung dung (Trung dung chính là một tư tưởng chủ đạo của Nho gia, yêu cầu mọi điều phải giữ ở mức cân bằng, không thái quá cũng không bất cập) , sẽ không thành khuôn mẫu được. Cho nên, nếu để hắn lên làm Trình vương, tương lai con dân Trình quốc thế nào, khó mà tưởng tuợng”.

Hách Dịch nói: “Hàm Kỳ càng không được! Với tính cách hiếu chiến của hắn, sau khi lên làm Trình vương, đương nhiên sẽ lại là một Minh Cung thứ hai, đến lúc liên tục khai chiến chẳng phải sẽ gây thêm phiền phức cho chúng ta sao?”.

Chương Hoa nói: “Không sai, Hàm Kỳ tuyệt đối không được.”

Hách Dịch nói: “Vậy chỉ còn lại Lân Tố. Hắn tuy ngu muội nhu nhược một chút, lại thêm sức khỏe không tốt, sau khi lên ngôi, tuy vô ích đối với chúng dân, nhưng cũng không đến nổi biến thành tai họa. Cũng được, chọn hắn đi! Chúng ta cũng an tâm một chút, sống thái bình được mười năm”.

Cơ Anh cười mỉm, bỗng xen lời: “Không”.

Lời vừa thốt ra, lại khiến người người kinh ngạc.

Hách Dịch cố nén cơn giận, nói: “Ngài rốt cuộc muốn làm thế nào?”.

“Tuyệt đối không thể chọn Lân Tố”.

“Tại sao?”. Hách Dịch và Chương Hoa đồng thanh hỏi.

“Vì hắn sắp chết rồi”. Giọng nói trong trẻo buông trong không khí, tựa như một tiếng sấm chấn động trời long đất lở.

Nhưng người nói câu này lại không phải là Cơ Anh.

Chỉ nghe một tràng tiếng động lạch cạch từ chiếc ghế đặt giữa trung tâm căn phòng truyền tới, ngọn đèn từ từ được nâng lên. Thực ra, không phải đèn được nâng lên, mà là chiếc ghế được nâng cao, đồng thời đèn trên ghế cũng càng lúc càng cao, phạm vi chiếu sáng lớn dần, trong phòng cũng càng sáng hơn.

Hóa ra, chỗ đặt chiếc ghế là một cơ quan được thiết kế tinh xảo, lúc này để lộ ra một trụ tròn đường kính ba thước, trên trụ tròn có một cánh cửa, mà câu nói vừa rồi phát ra từ sau cánh cửa này.

Khương Trầm Ngư không thể ngờ rằng, trong phòng còn có một người khác, hơn nữa người này luôn nấp phía dưới chiếc ghế.

Cơ Anh thong thả nói: “Không sai, người mà ta mời hai vị bệ hạ lên tiếng ủng hộ trở thành Trình vương chính là – Ngươi còn không đi ra?”.

Một tiếng “két két” vang lên, cánh cửa trên trụ tròn đã mở ra.

Một người chầm chậm bước ra.

Mái tóc đen huyền không gió mà bay, phủ trên người như một tấm lụa, nàng ta đưa tay nhẹ nhàng vén tóc, để lộ một khuôn mặt thanh khiết. Đó là một vẻ đẹp đen bụi trần cũng tự thẹn không bằng.

Lần này, đến lượt Khương Trầm Ngư lên tiếng, phá vỡ sự im lặng: “Di… Thù công chúa?”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười một : Hồng trần náo nhiệt (Phần 1)

“Chủ nhân! Vương phủ bị bao vây rồi, bảy nghìn thiết giáp quân đã bị diệt sạch không còn một mống!”.

“Chủ nhân, Phong Nhiêu hầu và Cấm quân thống lĩnh Vương Ngũ đều phản bội rồi, bây giờ đang chĩa giáo về phía chúng ta!”.

“Chủ nhân, thám tử chúng ta phái đi đều bị giết sạch rồi, Tố kỳ quân chặt đầu họ treo ngoài doanh trại thị uy, chúng ta phải làm sao?”.

“Chủ nhân! Trốn đi!”.

“Chủ nhân, trốn đi!”.

“Chủ nhân…”.

Di Phi cảm thấy mình như đang nằm mơ, vì tầm nhìn trở nên mơ hồ, những gương mặt của thuộc hạ đều chỉ còn lại những đường viền mơ mơ hồ hồ, khuôn miệng họ đóng đóng mở mở, mỗi chữ phát ra đều rất rõ ràng, nhưng không có cách nào hiểu được họ nói gì.

Gã im lặng ngồi trên thuyền hoa.

Đây là nơi gã thích nhất – gã không thích đất liền, gã thích nước.

Khi còn nhỏ gã cảm thấy rất lạ lùng, tại sao nước nhẹ như vậy lại có thể đẩy được gỗ nổi lên, còn con người rơi xuống nước, vốn sẽ bị chìm xuống, nhưng có người lại biết bơi… Gã bị hấp dẫn bởi những sự vật thần kỳ của thế giới tự nhiên, nghiên cứu đến quên ăn quên ngủ, muốn tìm cách hiểu rõ.

Mẫu thân của gã là một phi tử bình thường, hoàng đế thi thoảng qua đêm ở chỗ bà, không đặc biệt sủng ái, nhưng cũng không quá lạnh nhạt. Phụ hoàng thấy gã nhìn hồ nước đến ngẩn người, thấy rất không vui. Mỗi lần như thế, mẫu thân liền khuyên gã luyện võ.

Mẫu thân nói: “Nếu con luyện võ giỏi, phụ hoàng con sẽ thích con”.

Thế nhưng, tại sao gã phải cần nam nhân trong mắt chỉ có tranh đoạt, giết chóc đó ưa thích? Cùng là nhìn một con chim, gã sẽ quan tâm tại sao con chim đó lại có thể bay, mà nam nhân đó lại quan tâm làm sao có thể dùng đao giết chết con chim đó một cách nhanh nhất.

Căn bản không phải là người cùng một thế giới, không có điểm chung, cũng sẽ không có gì luyến tiếc…

Thế nên, gã đắm chìm trong thế giới của mình, sống rất giản đơn, cũng rất vui vẻ. Mẫu thân rất thương gã, tuy cũng từng hy vọng gã chịu khó luyện võ, giành được sự yêu mến của hoàng đế, nhưng chung quy vẫn không cưỡng ép gã. Bà xuất thân thương gia, nhà mẹ đẻ không có tư cách vào cung thăm nom, chỉ có thể gửi chút đồ vào dịp Tết mỗi năm, có lúc thạch lựu của Giang Bắc, có lúc là bánh quả hồng của Tây Đảo,… bà rất thích những đồ ăn vặt này, nhưng lại sợ bị người khác chê cười, lần nào cũng ăn một cách lén lút.

Nhờ mẫu thân, gã bắt đầu thích những đồ ăn vặt địa phương đủ mùi đủ vị đó, mà thứ gã thích nhất trong số đó chính là tranh đường.

Bởi vì tranh đường chỉ có thể gửi vào cung vào mùa đông, nếu để lâu một chút sẽ bị cứng hoặc chảy ra. Cho nên, mỗi lần chỉ cần mở tay nải ra thấy bên trong có tranh đường, việc đầu tiên gã và mẫu thân làm là trốn trong một căn phòng nhỏ, tránh khỏi tầm nhìn của người khác, chỉ có hai mẹ con chia nhau một miếng tranh đường… Những tháng ngày ấy đối với một đứa trẻ mà nói hiển nhiên là rất vui vẻ, rất vui vẻ…

Cho đến một ngày…

Ngày đó, quân Trình thất bại ê chề rút từ biên cương Yên quốc về đến đế đô, phụ hoàng vì thế mà nổi giận lôi đình, mà đêm đó, ngài vô tình đi ngang qua nơi ở của mẫu thân, nghe thấy mẫu thân đang hát.

Thực ra mẫu thân luôn là một người biết thích nghi với hoàn cảnh, những ngày hoàng đế không đến lâm hạnh, bà thường thêu hoa, hát ca, nghe nói năm đó phụ hoàng vì nghe thấy bà hát trên phố, cho nên mới chọn bà vào cung.

Hát có lẽ cũng không sai, sai ở chỗ bà hát quá vui vẻ, mà ca từ lại là: “Chim yến (Chim Yến trùng với chữ Yên trong Yên quốc) phương nam hỡi, khi quay về mi có mang tin tức của chàng chăng?”.

Phụ hoàng đang giận dữ vì thua trận, lại thêm nghe thấy chữ “Yến”, lập tức không nén được giận xông vào, rút cây roi bên hông ra đánh mẫu thân.

Mẫu thân kêu lên thất thanh, khiến gã đang ngồi khắc con thuyền nhỏ trong gian phòng sát vách giật mình, vội vã mở cửa ra, liền nhìn thấy cảnh phụ hoàng đang dùng roi điên cuồng đánh mẫu thân.

Mẫu thân lăn lộn không ngừng dưới mặt đất, rên rỉ đau đớn nhưng không dám cầu xin.

Gã bị cảnh tượng ấy làm cho sợ hãi, mãi một lúc sau mới phản ứng lại là nên ngăn cản, thế nên gã nhào tới muốn ngăn làn roi của phụ hoàng lại, nhưng chiếc roi đó lại vút qua đôi tay gã, quất mạnh vào lưng gã.

Sức mạnh, tốc độ và cảm giác đau đớn đó đến bây giờ có thể gã vẫn còn nhớ như in.

Gã bị đánh ngã lăn ra đất, va mạnh vào người mẫu thân.

Phụ hoàng quay đầu nhìn thấy căn phòng chất đầy gỗ, càng giận dữ hơn: “Khắc khắc khắc, ngươi nhìn xem ngươi đã sinh ra cái giống quỷ gì, ngoài ngây người chỉ biết khắc gỗ, vô dụng hết chỗ nói, đứa nào cũng thế! Nếu ta có một đứa con giỏi giang, hôm nay đâu đến nỗi thất bại thế này!”.

Phụ hoàng giận dữ đùng đùng bước vào căn phòng đó, châm lửa đốt. Ánh lửa bốc cao rừng rực, phụ hoàng phất tay áo bỏ đi.

Gã sững sờ nhìn ánh lửa tuyệt đẹp nhảy múa, nhìn những khúc gỗ bị cắn xé vô tình trong ánh lửa, cảm thấy cả thế giới của mình cũng bị thiêu đốt từng chút từng chút một.

Thế nhưng, điều tồi tệ hơn là tiếng rên rỉ của mẫu thân trong lòng gã đã im bặt.

Gã đờ đẫn cúi đầu, nhìn thấy một nữ tử yếu đuối không còn hơi thở và nửa miếng tranh đường rơi trên mặt đất, đó là thân một con phượng hoàng, đầu phượng hoàng đã bị vỡ nát, đôi cánh nhuốm máu. Hai cảnh ấy đối chọi với nhau, khiến gã động phách kinh tâm…

Di Phi nhớ đến đây, mệt mỏi nhắm mắt lại.

Đó là chuyện xảy ra khi gã lên chín, bao nhiêu năm đã trôi qua, chưa có một ngày nào quên. Từ đó, gã thường xuyên mơ một giấc mơ, mơ thấy mẫu thân đang bay trên mặt nước, gã ở trên bờ gọi bà, nhưng bà lắc đầu không chịu lại gần.

Bà nói bà rất sợ đất liền, vì mặt đất vừa lạnh vừa cứng, khi roi quất xuống, thậm chí bà không có nơi nào để tránh. Nhưng nước thì khác, nếu như có roi đánh bà nữa, bà có thể lặn xuống dưới nước, như thế roi không thể đánh vào bà được.

Hết lần này đến lần khác gã mơ thấy bà, hết lần này đến lần khác đau đớn cầu xin, lại hết lần này đến lần khác bị chối từ.

Giấc mơ đó trở đi trở lại, gã nghĩ chắc chắn gã đã bị nguyền rủa, bởi vì gã chỉ mải chìm đắm trong thế giới của mình, cho nên, mới để mẫu thân thất vọng và đau lòng đến thế.

Năm mười tám tuổi, theo tổ huấn, gã có thể dọn ra khỏi cung, thế là gã chọn một mảnh đất ven hồ có một cây cổ thụ ngàn năm. Gã xây nhà trên cây, neo thuyền dưới nước, ra vào đều dùng ngựa xe, cố gắng hết sức không để hai chân của mình chạm xuống đất.

“Chủ nhân! Tiếp theo phải làm thế nào? Mau quyết định đi!”.

“Chủ nhân…”. “Chủ nhân…”.

Những tiếng kêu sốt ruột đó không ngừng vang lên.

Di Phi bỗng nhếch khóe miệng, khẽ cười một tiếng: “Giấc mộng lớn này…

cuối cùng cũng tỉnh rồi…”.

“Chủ nhân, người nói gì vậy”. Sơn Thủy, Tùng Trúc, Cầm Tửu đều vây quanh gã.

Ánh mắt gã chầm chậm lướt qua gương mặt bọn họ, ba người này là tùy tùng của gã, là bảo tiêu của gã, cũng là bạn thân của gã. Chỉ có họ mới biết đêm đêm gã đều bị ác mộng vây khốn, biết nguyên nhân gã miệt mài luyện võ, càng biết được vì cái gì mà gã trăm mưu ngàn kế muốn làm hoàng đế.

Nếu như năm đó gã chịu luyện võ, có lẽ sẽ ngăn được đòn roi của phụ hoàng và mẫu thân cũng không chết.

Thứ gã ghét nhất chính là đất liền, vậy thì, biến toàn bộ đất liền thành của mình, nếu là của mình rồi, khi nằm mộng, gã có thể giơ hai tay ra, nói với mẫu thân:

“Mẹ, mẹ có thể lên bờ rồi. Tất cả đất liền đều là của con, tất cả mọi người đều nghe theo mệnh lệnh của con, tất cả mọi người đều không đánh lại con, không còn roi có thể đánh mẹ, mẹ cũng không cần trốn trong phòng tối ăn đồ nữa, mẹ có thể quay về rồi”.

Ánh mắt Di Phi tối dần, chợt lóe sáng, rồi tất cả biến thành tịch liêu. Con xin lỗi mẹ, hình như con… thất bại rồi.

Cho nên, mẹ không thể quay về được… con xin lỗi.

Gã bỗng đứng dậy, đi ra phía ngoài khoang thuyền, tiện tay gỡ một miếng ngọc bội xuống, cắt đứt dây thừng, sau đó lại đạp một cái, tấm ván đột nhiên nứt toác, nước ào ào tràn vào.

Cầm Tửu cả kinh, kêu: “Chủ nhân, người định?”.

Di Phi quay đầu, khoanh tay cười với ba người: “Là anh hùng, đường cùng mạt lộ, duy chỉ có phá phủ trầm chu, phá sạch đường lùi quyết sống mái một phen thôi”.

Sơn Thủy và Tùng Trúc đưa mắt nhìn nhau.

Câu sau của Di Phi lại du dương lọt vào tai bọn họ:

“Có điều rất đáng tiếc, từ xưa đến nay ta không phải là anh hùng, cho nên, ta phải trốn. Các người có bằng lòng theo một kẻ đường cùng ngõ cụt như ta lưu lạc chân trời không?”.

Ba người cơ hồ không hề do dự quỳ sụp xuống, đồng thanh đáp: “Chúng thuộc hạ nguyện đồng sinh cộng tử với chủ nhân!”.

“Rất tốt”. Di Phi phất tay áo, ngẩng đầu nhìn bầu trời, đã qua giờ Tí, một vầng trăng khuyết treo lơ lửng phía chân trời, lạnh lẽo thê lương vô hạn, đối lập với nó là ánh lửa sáng như ban ngày và tiếng giao chiến sục sôi bên ngoài tường cao của vương phủ.

Gã chăm chú nhìn ánh lửa nhảy nhót, tựa như ánh lửa trong ký ức tuổi thơ, nói rành rọt từng tiếng từng tiếng: “Khi ta chín tuổi, phụ hoàng dùng lửa thiêu thứ ta yêu quý nhất, mười năm sau, tiện nhân kia dùng lửa thiêu hoàng vị gần như đã là của ta… Không sao, Di Phi ta thề tại đây, mười năm sau, khi ta đặt chân lên đất Trình quốc, món nợ mà các ngươi nợ ta sẽ phải trả lại gấp mười, hai mươi lần, thậm chí gấp trăm lần!”.

Gã cởi áo khoác, lao xuống hồ trước tiên. Bọn Cầm Tửu cũng lần lượt nhảy theo.

Nước hồ lạnh như băng ào tới ước nhìn tưởng như rất nhẹ rất mềm, nhưng lúc này lại ép chặt trên từng bộ phận của cơ thể. Khi Di Phi men theo mật đạo dưới đáy hồ vội vàng trốn thoát không khỏi nghĩ đến một vấn đề thực ra không hề quan trọng cũng không chút liên quan: Ngày hôm đó, khi Ngu thị nhảy xuống nước tìm bông tai, liệu có chung cảm giác này không?

Trăng treo giữa trời, gió lạnh ù ù, mười dặm phố biến thành địa ngục.

Trung lang tướng Vân Địch đứng trên lầu cao, nhìn chiến trường phía dưới, sắc mặt đanh lạnh.

Họ đã dùng ba nghìn thiết giáp quân để mai phục Hàm Kỳ, tám mươi viên tùy tùng của Hàm Kỳ bị vây giết, chỉ còn lại chín người, mười người này bị đại quân bao vây, rành rành là cá nằm trên thớt, thế nhưng, hai canh giờ trôi qua, Tố kỳ quân hết người này đến người khác ngã xuống, còn mười người vẫn sừng sững không đổ (Mười người gồm chín tùy tùng và cả Hàm Kỳ)

Đặc biệt là Hàm Kỳ, vẫn là áo giáp đỏ tươi như máu, trường đao lạnh sắc như nước, khi lưỡi đao vung lên hạ xuống, tất có người ngã xuống.

Cái danh Hồng Dực quả không phải hư truyền.

“Tướng quân, đánh mãi không thắng, phải làm sao?”. Quân sư lại gần Vân Địch, thấp giọng nói.

Vân Địch nhìn chằm chằm vào thân hình thấp bé mà tráng kiện đó, hồi lâu, làn môi mỏng khẽ hé, nói hai chữ: “Bắn tên”.

Tuy không thể bắt sống cũng hơi đáng tiếc, nhưng hắn đã không còn đủ nhẫn nại tiếp tục theo chiến đấu với gã chiến ma (Hàm Kỳ) tưởng chừng như không biết mệt mỏi đó.

Tay phải đang định chém xuống, lại có một giọng nói từ phía sau gấp gáp vang lên: “Dừng tay!”.

Vân Địch quay người, thấy thị vệ hai bên đều cúi người khấu lạy, người kia khoác áo lông, sắc mặt ửng đỏ đầy bệnh tật, vẻ mặt vừa giận dữ vừa lo lắng.

Không phải ai khác, đó chính là Lân Tố.

Vân Địch lập tức cúi người hành lễ: “Thuộc hạ tham kiến đại hoàng tử”.

Lân Tố tung cước, đá hắn ngã lăn ra, quát lớn: “Ai cho phép các ngươi bắn tên?”.

“Không thể bắt sống, mất bao thời giờ, quân ta càng lúc càng ít, cho nên…”, còn chưa dứt lời, lại bị một cước nữa. Vì Lân Tố đá quá mạnh, không kìm được ho húng hắng, vừa ho vừa nói: “Hắn là đệ đệ của bản vương, là đệ đệ ruột đó…

Ngươi… nếu các ngươi giết hắn, ta sẽ chém đầu các ngươi!”

“Nhưng công chúa có lệnh…”.

“Các ngươi nghe công chúa hay là nghe ta?”. Chúng tướng sĩ nhất thời im lặng.

Lân Tố chầm chậm thở ra, đi đến bên cửa sổ, nhìn khung cảnh chém giết phía dưới, không chịu được nhắm mắt lại, quay đầu nói:

“Các ngươi phái người nói với hắn, chỉ cần hắn chịu quy thuận, không những không phải lo về tính mạng, còn có thể tiếp tục làm vương gia, hơn nữa…”.

Lời còn chưa nói hết, một cung tiễn thủ đứng bên một cửa sổ khác đã bắn tên, chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên lao đi như sao băng, không thiên không lệch, nhắm trúng yết hầu của Hàm Kỳ, Hàm Kỳ kêu lên một tiếng thảm thiết, từ trên ngựa ngã lăn ra đất.

Lân Tố trợn mắt trừng trừng, con ngựa của Hàm Kỳ bị kinh sợ, giẫm lên cơ thể Hàm Kỳ, trong nháy mắt máu thịt bầy nhầy máu tươi tung tóe, cảnh tượng hết sức ghê rợn. Lân Tố đờ đẫn hồi lâu mới tỉnh lại, nhìn chằm chằm cung tiễn thủ kia:

“Ngươi… giết hắn?”.

Cung tiễn thủ vứt cây cung trong tay đi, quỳ sụp xuống: “Thuộc hạ là nghĩ cho điện hạ”.

Lân Tố bước nhanh lên phía trước, kéo cổ áo hắn, gằn giọng: “Ngươi, giết hắn!”.

Cung tiễn thủ đó không hề hoảng loạn, nhắc lại lần nữa: “Thuộc hạ vì điện hạ!”.

“Ngươi ngươi ngươi…”. Lân Tố nổi giận, rút thanh đao giắt bên người, nhằm người kia mà chém xuống, một đôi tay đột nhiên xuất hiện, nhẹ nhàng giữ y lại. Y không biết võ công, vì thế chỉ cảm thấy bả vai đau buốt, đại đao rơi keng xuống đất.

Lân Tố quay đầu lại, người cản y chính là Vân Địch.

“Vân Địch ngươi làm gì vậy?”.

Vân Địch lạnh nhạt đáp: “Điện hạ vất vả một đêm, nên quay về nghỉ ngơi rồi”.

“Cái gì?”. Lân Tố kinh ngạc.

Vân Địch cao giọng: “Hiện tại trong thành đại loạn, điện hạ thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không nên bị tổn hại mới phải. Người đâu, đưa điện hạ về cung!”.

“Đợi đã! Vân Địch, ngươi – ngươi – ngươi dám làm thế với ta”.

Vân Địch cười mỉm, nhưng trong nụ cười ẩn chứa sự lạnh lẽo tàn khốc: “Công chúa đang ở trong cung đợi điện hạ, có gì muốn nói, điện hạ có thể nói với người”.

Nói đoạn khoát tay, mấy tên binh sĩ tiến lên, xốc Lân Tố kéo đi, suốt dọc đường chỉ nghe thấy tiếng kêu kinh ngạc, tiếng chửi mắng và tiếng ho không ngừng của y.

Quân sư cau mày hỏi: “Như thế có được không? Nói gì đi nữa, hắn cũng là hoàng tử, hiện giờ cũng là hoàng tử duy nhất đắc tội với hắn…”.

Vân Địch nhướng mày, “Quân sư sao thông minh một đời, hồ đồ nhất thời vậy, ngươi cho rằng, ở Trình quốc hiện nay, là ai làm chủ?”.

“Đương nhiên là công chúa, nhưng công chúa cũng chỉ là một nữ nhi…”.

Vân Địch cười lạnh: “Nữ nhi sao? Nữ nhi không thể gánh được chữ ‘vương’

sao?”.

Quân sư “a” một tiếng, như người tỉnh mộng, kinh ngạc bịt miệng lại.

Vân Địch nhìn thấy phía dưới, chín người vì Hàm Kỳ đã chết mà như rắn mất đầu, từng tên từng tên bị bắn chết, thong thả nói:

“Mười năm mài một kiếm, sương đao nay đã thành. Công chúa, giờ đây nàng thắng lợi, phải chăng đã được giải thoát một chút rồi?”.

Dưới ánh trăng, vẻ mặt hắn bỗng trở nên ảm đạm, thương tiếc khôn tả, bi thương khôn tả.

“Mười năm… mười năm…”.

Lân Tố bị quân đội của mình bán đứng, cưỡng ép vương cung với danh nghĩa là bảo vệ mà kỳ thực là giam lỏng, đang chăm chú nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, thì thào.

Có cung nữ bưng lên mỹ tửu điểm tâm, đặt trên bàn cạnh rồi lại nhẹ nhàng nhón bước lui ra.

Y nhìn bình rượu có điêu khắc hình lưỡng xà tranh trong đáy mắt diễn ra một loạt thay đổi, có sợ hãi, có ngờ, có phẫn nộ, nhưng cuối cùng lắng đọng thành thương cảm.

Y từ từ đưa tay về phía bình rượu đó, ngón tay không ngừng run rẩy, chần chừ do dự, rõ ràng là một khoảng cách rất ngắn, nhưng mất thời gian nửa tuần nhang mới chạm tới bình rượu.

Thân bình khẽ nghiêng, mỹ tửu màu hổ phách mang theo hương thơm nồng được rót vào chén.

Y chăm chú nhìn chất lỏng trong chén, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc, cuối cùng y thở dài thườn thượt, nói: “Bỏ đi. Vua muốn thần chết, thần không thể không chết…”.

Nói rồi, như lấy hết dũng khí, uống một hơi cạn chén rượu đó… Chén rượu sau khi hoàn thành sứ mệnh của mình rơi cạch xuống đất, rơi mà không vỡ, thuận thế lăn mấy vòng, lăn đến bên chân một người.

Người đó nhẹ nhàng đi vào, chiếc váy dài thướt tha như nước quét trên mặt đất, bước chân của nàng khẽ khàng như hoa rơi.

Lân Tố tựa bên bàn, mơ mơ hồ hồ nhìn nàng, gương mặt nàng mông lung mông lung, có chút rõ ràng, lại có chút nhòe nhoẹt như thành một bức họa khác: Mười năm trước, khi thiếu nữ ấy từ ngoài cửa bước vào, cũng như thế này.

Từng bước từng bước, chậm rãi như thế.

Khi nàng cách y chỉ còn một bước, bỗng nhào tới ôm chặt lấy y, òa lên nức nở, nói: “Đại hoàng huynh! Đại hoàng huynh…”.

Mà lần này, người đó dừng cách y ba bước, không lại gần nữa, chỉ im lặng nhìn y, không nói nửa lời.

Thế nên y cười, cất tiếng: “Tất cả đều đúng như ước nguyện của muội phải không?”.

Người đó vẫn nhìn y, không nói.

Y cười càng lúc càng lớn, y vừa cười vừa ho: “Muội giết Hàm Kỳ, cũng giết Di Phi, đến cả phụ hoàng cũng trong tay muội, muốn sống muốn chết, chẳng qua cũng chỉ là một câu nói của muội. Tâm nguyện của muội đã thành hiện thực cả rồi? Bây giờ muội đến giết ta đúng không? Ôi không, ta quên mất, muội đã ban rượu độc cho ta, vậy thì, muội đến để nhìn ta chết phải không?”.

Người đó cụp mắt, lát sau, mới khẽ nói: “Di Phi trốn thoát rồi”.

“Sao cơ ... Vậy thật là đáng tiếc… Nhưng không sao, một hoàng tử thất thế, cùng đường mạt lộ, sao có thể thoát khỏi sự truy đuổi của một người quyền bính trong tay, lòng dân hướng về như muội? Bắt hắn cũng chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi”.

“Đại hoàng huynh…”, người đó lên tiếng, cuối cùng đã bước qua khoảng cách ba bước cuối cùng, đến trước mặt y, sau đó từ từ ngồi xuống, ngả đầu trên đầu gối y.

Khi đầu nàng ngả lên đầu gối y, cùng lúc ấy, cơ thể vốn lạnh băng trở nên ấm áp hơn vì cảm nhận được nhiệt độ của đối phương, Lân Tố không kìm được bi ai nghĩ: Y rốt cuộc không thể nào ghét được người này, cho dù bị lợi dụng, bị phản bội, thậm chí bây giờ bị hạ độc, y đều không thể oán ghét người này. Đầu nàng ngả trên đùi y, một nơi đã chết trong tim bỗng giãy giụa sống trở lại.

“Di Thù… Di Thù… Di Thù ơi…”

Y chầm chậm đưa tay ra, chạm lên mái tóc nàng. Nàng có một mái tóc dài cực kỳ mềm mượt như tơ lụa mát lạnh, hệt như mười năm về trước.

“Muội xử trí phụ hoàng thế nào?”.

“Muội chặt đứt hai chân hai tay ông ta, móc mắt, cắt tai, cắt lưỡi ném vào ống sành, làm con người lợn”. Giọng nói của nàng rất khẽ rất dịu dàng, khi nói chuyện này, thậm chí còn không hề có chút lên giọng nào.

“Ta có thể cầu xin muội một việc không?”.

“Huynh muốn muội giết ông ta? Để ông ta mau chóng kết thúc đau khổ?”.

Di Thù cười ha ha, “Không thể được, huynh biết mà, tuyệt đối không thể”.

Lân Tố nhắm mắt lại.

Di Thù ngẩng đầu, ngước nhìn gương mặt y, khẽ nói: “Huynh thương ông ta? Đến bây giờ huynh vẫn thương ông ta?”.

Giọng Lân Tố dịu đi: “Rốt cuộc ông ấy vẫn là phụ thân của chúng ta”.

“Có phụ thân như ông ta sao...?”. Di Thù bỗng trở nên kích động, tóm áo y, rít lên:

“Hãy nghĩ xem ông ta đã làm những gì ... Đã làm những gì đối với muội! Dã tâm bành trướng vọng tưởng thôn tính Yên quốc cũng đã đành, thực lực không bằng người ta, thua là chuyện bình thường, nhưng ông ta lại trút giận lên người bên cạnh, thế nên ông ta dùng roi đánh chết mẹ của Di Phi... mẫu thân của chúng ta cũng vì nói sai một câu mà bị đẩy vào lãnh cung, u uất mà chết; còn muội!

Còn muội!”. Tay nàng túm áo mình, run rẩy, nước mắt ào ra như suối: “Cái gì mà con gái được Trình vương sủng ái nhất, cái gì mà Di Thù công chúa dưới một người trên vạn người ở Trình quốc, những chuyện vẻ vang tột cùng mà người khác thấy đó, thực ra là tấm vải che đậy tội lỗi của ông ta! Ông ta… ông ta…!!”.

Lân Tố bỗng mở to mắt, nhìn chằm chằm muội muội cùng một mẹ sinh ra với y, hai giọt nước mắt trào khỏi vành mắt, lăn xuống theo gò má.

Trong khoảnh khắc, dường như quay trở lại mười năm trước đứa trẻ đó tột cùng hoảng sợ, nhục nhã, đau đớn không thiết sống lao vào ôm y, nức nở gào khóc, gào lên từng tiếng từng tiếng: “Đại hoàng huynh, đại hoàng huynh, muội phải làm sao? Muội phải làm sao?…”.

Gia đình đế vương, lắm chuyện xấu xa.

Mà họ chẳng qua là bất hạnh hơn người khác, có một người cha không bằng loài cầm thú.

Di Thù gạt lệ, gằn giọng nói:

“Cho nên, những gì phải chịu bây giờ đều là đáng đời ông ta. Muội sẽ không để ông ta được chết nhanh chóng đâu, muội phải để ông ta sống, sống hết ngày này qua ngày khác, một ngày còn sống là một ngày chịu thêm giày vò”.

Lân Tố lại lần nữa nhắm mắt lại. Y cảm thấy rất mệt mỏi.

Y thật sự rất mệt. Cơ thể không còn chút sức lực, trong lòng cũng trăm ngàn vết thủng lỗ chỗ. Thật sự không muốn bận tâm đến bất cứ thứ gì nữa, cứ thế thiếp đi.

Nhưng, Di Thù lại giơ tay ôm lấy y, tựa đầu vào lồng ngực y, thì thầm:

“Đại hoàng huynh… huynh hận muội ư.... Đại hoàng huynh, đừng hận muội được không? Người muội thích nhất là huynh, chỉ có huynh mới có thể khiến muội tạm thời quên đi tất cả bất hạnh, chỉ có huynh mới toàn tâm toàn ý ủng hộ muội mà không đòi hỏi bất cứ thứ gì, muội thích đại hoàng huynh nhất nhất nhất…”.

Lân Tố cười cay đắng: “Chẳng phải muội cũng thích Hàm Kỳ nhất sao?”.

Sắc mặt Di Thù thoắt biến đổi.

“Những lời như thế, muội đều nói với Hàm Kỳ và Di Phi rồi, đúng không?”. Di Thù ngẩng đầu, mặt không biểu cảm nhìn y.

Lân Tố không mở mắt, chỉ lạnh nhạt nói: “Nếu không, với sự vũ dũng nhường ấy của Hàm Kỳ, sự tinh ranh nhường ấy của Di Phi, sao có thể đều bại trong tay muội chứ?”.

“Đại hoàng huynh đang nói gì, muội nghe không hiểu”.

“Di Thù, ta biết muội bất hạnh, ta thực sự biết. Cho nên, muội oán hận, muội muốn báo thù, đều là chuyện nên làm. Thế nhưng, muội vì báo thù, mà để bản thân rơi vào vòng xoáy càng đáng sợ hơn, càng nhơ bẩn hơn. Chuyện này thực sự đáng sao?”.

Ánh mắt Di Thù trở nên sắc lẻm: “Hóa ra… huynh biết?”.

“Mỗi lần muội gặp một nam nhân có thể giúp muội là đều tìm cách lợi dụng triệt để, mà lần nào muội cũng dùng cơ thể của mình để trao đổi. Tướng lĩnh, chư hầu, thậm chí đến sứ thần nước khác, tỉ như Giang Vãn Y, muội cũng không bỏ qua”.

“Huynh đang nói muội là dâm phụ đúng không?”. Vẻ mặt Di Thù lạnh đi mấy phần, cười gằn nói:

“Huynh có tư cách gì mà chỉ trích muội chứ? Lẽ nào huynh không lợi dụng muội? Rặt một phường lang sói, huynh…”.

“Không, ta chỉ cảm thấy bi ai…”, Lân Tố nhẹ nhàng ngắt lời nàng, “Những chuyện liên quan đến muội, thực ra ta đều biết, chỉ là không nói ra mà thôi. Bởi vì, mỗi một lần, mỗi một lần, đều chỉ khiến ta đau lòng. Phụ hoàng rốt cuộc đã hủy hoại muội đến thế nào, không những khiến muội sinh lòng oán hận, mà còn biến thành méo mó thế này. Di Thù, tại sao muội lại biến thành méo mó thế này?”.

Di Thù ngậm miệng, không nói nữa.

Lân Tố cuối cùng mở mắt ra, nhìn nàng bằng ánh mắt sâu thẳm, nói từng tiếng: “Di Thù, nếu thời gian có thể quay ngược lại mười năm trước, ta nhất định sẽ đi cứu muội, nhất định sẽ đi…”.

Di Thù im lặng hồi lâu, chầm chậm đứng lên, từ trên cao nhìn xuống y, khẽ nói: “Nhưng thời gian không thể quay ngược lại”.

Trong nháy mắt, gương mặt Lân Tố xám ngoét một màu chết chóc.

Di Thù quay người, mái tóc và chiếc váy đều bị gió thổi tung, nàng bước đi theo tiết tấu giống như lúc đến, từng bước từng bước rời đi.

Thân thể Lân Tố chầm chậm đổ xuống, hai dòng máu chảy ra từ mũi y, rỏ xuống chiếc áo trắng của y.

Chân trời đã hé những tia nắng ban mai đầu tiên. Khương Trầm Ngư lại một đêm mất ngủ.

Nàng ngồi trực cả đêm bên giường của Sư Tẩu.

Đêm qua, từ khi Di Thù công chúa xuất hiện đến cuối cùng khi công tử và Yên vương, Nghi vương thỏa thuận xong, nàng và Sư Tẩu liền được sắp xếp ở trong một gian phòng của khu nhà này.

Có lẽ đối với Lô Loan mà nói, đây cũng là nơi duy nhất an toàn.

Sau đó Giang Vãn Y và Phan Phương cũng xuất hiện, đêm đó sau khi đi khởi một lát Phan Phương đã liên lạc được với người của Cơ Anh, sau đó y đưa Giang Vãn Y cùng tới đây.

Giang Vãn Y băng bó lại vết thương cho Sư Tẩu, tuy chân tay bị chặt đứt không thể nối liền, nhưng ít nhất không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.

Khương Trầm Ngư bây giờ mới hơi an tâm, tựa bên giường mà ngủ thiếp đi.

Nhưng bên ngoài lại vọng tới đủ mọi loại âm thanh, nàng nghe không rõ, nhưng thực sự tồn tại, lại thêm ở nơi lạ lẫm, trên chiếc giường lạ lẫm, chiếc chăn mới mang theo một cảm giác thô nháp, cọ xát trên da, khó chịu đến mức khiến người ta bồn chồn.

Vì thế, khi đồng hồ cát chảy đến vạch giờ Dần, nàng không chịu nổi nữa, đứng dậy chải đầu qua loa, đẩy cửa, khoác áo đi ra ngoài.

Bên ngoài sương giăng dày đặc.

Mọi thứ trong màn sương đều mờ mờ mịt mịt, mông lung như mộng cảnh.

Trong sân, ven chân tường trồng rất nhiều hoa, giữa bụi hoa thấp thoáng một bóng người.

Nàng đến gần thì nhận ra, hóa ra là Tiết Thái. Lẽ nào hắn cũng cả đêm không ngủ?

Chỉ thấy Tiết Thái ngồi xổm trước một cây hoa rất đặc biệt, sắc hoa đỏ như máu, cánh hoa nhỏ dài khum khum như móng rồng, Trầm Ngư chưa từng nhìn thấy bao giờ, không kìm được tò mò hỏi: “Đây là hoa gì?”.

Tiết Thái nghe thấy giọng nói, quay đầu lại nhìn nàng một cái rồi mới đáp: “Mạn Châu Sa Hoa”.

A, đây chính là hoa Bỉ Ngạn được nhắc đến trong ‘Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh’ sao?”.

Khương Trầm Ngư cũng ngồi xuống, vừa ngắm vừa nói: “Hoa Bỉ Ngạn, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa và lá chẳng bao giờ gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định sống chết. Đúng là một loại hoa đau thương…”.

“Phật nói bờ bên kia (Bỉ Ngạn), không sống không chết, không khổ không sầu, không muốn không cầu – Đã là như thế, sao còn bi ai?”. Tiết Thái khẽ nhếch khóe môi, có vẻ không đồng ý.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn, bật cười.

Tiết Thái lạnh nhạt nói: “Ngươi cười cái gì?”.

“Ta đang nghĩ thực ra chúng ta rất có duyên phận, chẳng phải sao? Thân ở dị quốc xa xôi ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau”.

“Có lẽ người thực sự có duyên với ngươi là người khác mà không phải là ta?”.

Khương Trầm Ngư cau mày, đứa trẻ này đúng là không đáng yêu chút nào, nàng tìm hắn gợi chuyện cũ, hắn lại chuyên chọc ngoáy vào nỗi đau của nàng.

Thấy nàng thần sắc ủ rũ, Tiết Thái bỏ vẻ châm chích lạnh lùng, ánh mắt lướt qua gian phòng khách mà nàng vừa mới bước ra kia:

“Người đó đã chết chưa?”

“Ngươi nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu, thần sắc lại rầu rĩ thêm mấy phần

“Tuy không chết, nhưng mà… đến khi hắn tỉnh lại, ta thật sự không biết phải đối diện với hắn như thế nào”.

“Con kiến còn ham sống, huống hồ con người. Cho dù thế nào, sống được vẫn tốt hơn là chết”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn hắn, chậm rãi nói: “Đối với ngươi cũng như thế phải không?”.

Tiết Thái lại cười lạnh lùng, ánh mắt lóe sáng không ngừng, cuối cùng nghiêng đầu, liếc nàng nói:

“Chẳng phải ngươi rất thương hại ta sao?”.

Khương Trầm Ngư sững sờ.

“Đừng chối, mỗi lần ngươi nhìn thấy ta, trong ánh mắt đều ngập tràn sự thương xót, để lộ biểu cảm từ bi như Bồ Tát, lần trong hoàng cung Bích quốc và cả đêm qua cũng thế”.

Khương Trầm Ngư nói: “Đêm qua tối như thế, ngươi cũng có thể nhìn thấy biểu cảm của ta?”

“Là ta biết”. Tiết Thái hơi ngẩng đầu, ánh mắt đảo một vòng trên bầu trời, rồi lại rớt xuống gương mặt nàng

“Thế nhưng, ta cảm thấy so với một người vì không còn gì để mất, cho nên cũng không sợ hãi thứ gì như ta, người nào đó càng đáng thương hơn, càng nên cảm thấy đau buồn cho bản thân mình”.

“Người nào đó mà ngươi nói là ta?”. “Nếu không còn ai vào đây?”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy hứng thú, cười hỏi: “Sao ta lại đáng thương?”.

“Thiên kim của tể tướng, lá ngọc cành vàng, nhưng không thể gả được cho người mình yêu, vì lợi ích gia tộc mà buộc phải tiến cung, từ bỏ đứng đầu quần phi, phải chạy đến đảo quốc xa xôi ngàn dặm làm gián điệp, dọc đường nguy hiểm trùng trùng, phiền phức liên miên, đêm qua còn suýt mất cả cái mạng nhỏ. Ngươi nói xem, lẽ nào ngươi không đáng thương?”.

Khương Trầm Ngư nghe ra hắn có ẩn ý, lập tức ngưng cười, nghiêm mặt nói: “Ngươi biết đêm qua ai phái sát thủ truy sát ta?”.

Tiết Thái chớp chớp mắt, “Ngươi đoán xem”.

Cùng là chớp mắt, khi Hách Dịch chớp mắt luôn mang theo vẻ dịu dàng, Di Phi lại có vẻ giảo hoạt đặc thù, nhưng ở Tiết Thái lại biến thành sự linh hoạt và thanh tú khó tả thành lời có chút xấu tính, lại có chút trẻ con.

Là ai đi chăng nữa cũng không thể nổi giận với một đứa trẻ như thế, hơn nữa còn là một đứa trẻ xinh đẹp đến vậy, đáng thương đến vậy.

Khương Trầm Ngư cũng không thể, vì thế nàng chỉ có thể nói: “Ta đoán không ra”.

“Vậy thì ta sẽ tốt bụng dẫn ngươi đi xem nhé”. Tiết Thái quay người dẫn đường, “Đi theo ta”.

Khương Trầm Ngư đành đi theo. Đi vòng vèo quanh co hơi lâu, nhìn thấy một cổng vòm, Tiết Thái không đi thẳng qua cửa, mà đi sang bức tường thấp bên cạnh, dưới chân tường có chất mấy tảng đá, hắn giẫm lên trên, sau đó vẫy tay gọi nàng.

Tuy cảm thấy hành động này có hơi thất thố, nhưng không nén nổi tò mò, Khương Trầm Ngư cũng giẫm lên tảng đá, nhòm qua bên kia tường, vừa nhìn một cái, liền thở hắt ra một hơi lạnh.

Bên kia tường là một cái sân.

Trong sân không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là trên chiếc bàn đá bày la liệt sơn hào hải vị, sơn hào hải vị cũng không có gì đặc biệt, thứ đặc biệt chính là hai người ngồi bên bàn.

Một người áo xống xênh xang, như tiên trong núi; một người mày mắt thanh tú như hoa trong nước.

Không phải ai khác, chính là Cơ Anh và… Di Thù.

Hai người bọn họ tại sao lại ở cùng nhau? Hơn nữa còn vào lúc này?

Tiết Thái giật giật tay áo nàng, ra hiệu giữ im lặng. Khương Trầm Ngư cho dù có một bụng nghi hoặc cũng chỉ có thể kìm nén, im lặng quan sát.

Chỉ thấy Di Thù tự tay múc một bát canh, đưa đến trước mặt Cơ Anh, ngọt ngào cười nói: “Đây là canh Kim Phong Ngọc Lộ nổi tiếng nhất nước ta, đều dùng sương trên hoa buổi sớm, cùng với bảy bảy bốn mươi chín nguyên liệu quý hiếm nấu thành, ngọt mà không ngấy, tan liền trong miệng, lưỡi răng thơm lừng, dư vị đậm sâu. Hơn nữa, tốt nhất nên ăn vào buổi sáng, có thể giữ cho tinh thần sảng khoái cả ngày. Ngài nếm thử xem?”.

Cơ Anh đưa tay nhận lấy, lịch sự nhã nhặn đáp: “Đã nghe danh từ lâu, vậy thì Anh không khách sáo nữa”. Nói đoạn cầm thìa nếm một ngụm.

Di Thù hỏi: “Thế nào?”

Cơ Anh mỉm cười: “Công chúa nấu thật khéo”.

Di Thù “ha” một tiếng, vuốt tóc nói: “Sao ngài biết là ta nấu?”.

Cơ Anh buông bát canh xuống, “Công chúa muốn đáp tạ ta, đương nhiên sẽ dùng món quà quý trọng nhất, canh Kim Phong Ngọc Lộ lại là bí mật của hoàng thất Trình quốc, người khác xưa nay không có phúc được hưởng, huống hồ còn là canh do công chúa đích thân nấu”.

Di Thù che miệng cười: “Từ lâu đã nghe nói tài ăn nói của công tử thiên hạ vô song, khi sắc bén thì như dao sắc, khi vi diệu lại như thổi khói giữa sương, mà khi dịu dàng, càng say đắm lòng người hơn cả gió xuân…”.

Cơ Anh cười nhạt.

Di Thù bỗng dựa sát chàng thêm, giọng nói buông thật khẽ thật ngọt ngào: “Thế nhưng, sở dĩ ta nấu món canh này cho công tử, thực ra còn có ý tứ khác nữa…”.

Cơ Anh nhướng mày.

“Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số”

(Hai câu trong bài từ “Thước kiều tiên” của Tần Quán, bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo...Gió vàng móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi) . Di Thù vừa thân mật nói vừa khẽ chọc ngón tay lên ngực Cơ Anh.

Đầu óc Khương Trầm Ngư lập tức trở nên trống rỗng.

Nàng làm sao có thể ngờ rằng mình sẽ nhìn thấy cảnh tượng này, chẳng trách khi Tiết Thái chớp mắt, lộ rõ vẻ cổ quái xấu xa. Hắn cố ý! Hắn biết ở đây sẽ diễn ra màn kịch như thế nào, cũng biết màn kịch này làm tổn thương nàng nhất, cho nên cố ý dẫn nàng đến!

Quá… quá… thật quá đáng…

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, định quay người bỏ đi, liền bị Tiết Thái giữ chặt lại, nàng trợn mắt gườm Tiết Thái, Tiết Thái lắc đầu với nàng, ánh mắt bảo nàng đừng nóng vội.

Khương Trầm Ngư vừa giận vừa tức, lại sợ gây ra tiếng động khiến đối phương phát giác, đành tiếp tục đứng xem. Trong lòng như bị thứ gì đó lăn qua, vì không thể vỡ hẳn ra, cho nên dính với nhau nhơm nhớp.

Mà bên kia, Cơ Anh không hề đẩy Di Thù ra, chỉ nhìn xuống vạt áo của mình theo ngón tay nàng ta, một lát sau mới nhướng mày, cười hỏi: “Công chúa đã biết câu này, đương nhiên cũng nên biết một câu khác”.

“Một câu khác gì?”.

“Nhân các hữu ngẫu, Tề đại, phi ngô ngẫu dã”(Câu này xuất xứ từ điển cố: Thời Xuân Thu, Tề Hy Công muốn gả con gái của mình cho thái tử Hốt của nước Trịnh, nhưng thái tử Hốt từ chối nói: “Mỗi người đều có đối tượng của mình, nước Tề là nước lớn, không phải là đối tượng của ta”. Về sau thành ngữ “Tề đại phi ngẫu” dùng để từ chối hôn nhân vì đối tượng quá cao, không với tới được.).

Di Thù giận dỗi nói: “Hóa ra công tử chê người ta, ta không chịu, ta không chịu…”, nói rồi, giơ nắm tay trắng trẻo lên khẽ đập lên người chàng.

Cơ Anh nắm lấy tay Di Thù, thở dài nói: “Ngày mai công chúa sẽ là quân vương Trình quốc, e là không còn thời gian mà hờn giận như thế nữa”.

Di Thù ngưng cười, nhìn chàng chằm chằm, ánh mắt thâm trầm, “Công tử…thực sự không cần ta báo đáp?”.

Cơ Anh nghiêm mặt đáp: “Những điều công chúa báo đáp ta đã viết đủ nhiều trên quốc thư rồi”.

Di Thù cắn môi, hạ giọng nói: “Chàng… không thích ta sao?”.

“Ta rất thích công chúa”, Cơ Anh nói, từ nắm tay đổi thành dắt tay nàng ta, “giống như thích một đứa trẻ kiên cường đứng dậy bước tiếp trong gian khó, mất mát rất nhiều, từ bỏ rất nhiều, phản bội rất nhiều, nhưng trước sau vẫn không hối hận”.

Di Thù im lặng, rất lâu sau mới chầm chậm rút tay khỏi tay chàng, đồng thời cũng tách ra khỏi chàng. Khương Trầm Ngư xem đến đây, tảng đá nặng trịch trong lồng ngực mới miễn cưỡng hạ xuống và một cảm giác rất vi diệu theo đó dâng trào.

Trước đó, khi Di Thù khêu gợi Cơ Anh, nàng chỉ cảm thấy giận dữ, nhưng nhìn thấy Di Thù bị Cơ Anh cự tuyệt xong, sự giận dữ đó liền chuyển thành cảm khái – Công tử khi từ chối người khác vẫn luôn dịu dàng như thế.

Dịu dàng đến mức khiến người ta đau lòng.

Di Thù quay người lại, chăm chú nhìn ánh mặt trời mỏng manh xuyên qua màn sương trắng, chậm rãi nói:

“Ta cũng thích công tử. Bởi vì, công tử là nam nhân duy nhất giúp ta, nhưng không hề nhân cơ hội lợi dụng ta, cho dù ta thực sự cam tâm tình nguyện”.

Cơ Anh dịu dàng đáp: “Công chúa sắp là Trình vương, chỉ cần nàng muốn, không có nam nhân nào có thể lợi dụng nàng”.

Di Thù buồn bã mỉm cười: “Kéo một nam nhân lên giường thì dễ, nhưng muốn đuổi họ xuống thì quá khó”.

Cơ Anh im lặng một hồi, mới nói: “Nàng là Trình vương”.

Vì bốn chữ này, đôi mắt Di Thù lại lần nữa tỏa sáng, nhắc lại một lần thật chậm, thật chậm: “Ta – là – Trình – vương”.

Di Thù hít một hơi thật sâu, cao giọng nói:

“Không sai! Công tử nói đúng, từ ngày hôm nay trở đi, ở Trình quốc, ta chính là người đứng trên vạn người, không ở dưới ai, không ai có thể tùy ý trêu đùa sự tôn nghiêm của ta, nắm giữ vận mệnh của ta! Ta là Trình vương”.

Cơ Anh mỉm cười với Di Thù. Nụ cười đó còn ấm áp hơn cả ánh dương.

Ánh mắt Di Thù trầm xuống, lại nhìn chàng chằm chằm hồi lâu, rồi nhướng mày nói:

“Công tử thực sự không muốn ta báo đáp công tử trên giường?”.

Khóe mắt Cơ Anh run run.

Thế là Di Thù bắt đầu cười ha ha:

“Đùa công tử thôi, công tử chính là Liễu Hạ Huệ chính nhân quân tử của ta (Liễu Hạ Huệ: Tên thật là Triển Cầm, tự là Quý, người đất Liễu Hạ, nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là chính nhân quân tử )...! Được rồi, ta lại giới thiệu với công tử mấy món ăn nữa nhé..? Qua thôn này, sẽ không còn quán này nữa đâu (ý nói bỏ qua cơ hội sẽ không còn lần sau ) , sau này sẽ không còn cơ hội bắt quân vương Trình quốc xuống bếp vì ngài đâu…”.

Nói đoạn, cầm chiếc thìa lên bắt đầu xúc những món ăn khác.

Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, nhẹ nhõm thở nhẹ một hơi.

Tiết Thái lập tức quay đầu lại, nhìn nàng bằng đôi mắt đen lay láy, lạnh lùng nói: “Tật xấu của ngươi lại bắt đầu rồi đấy”.

“Hả?”. Thế là có ý gì?

“Sự thương hại của ngươi lại bắt đầu dâng trào phải không? Ngươi rất thương hại ả công chúa kia sao?”.

“Cô ta bị phụ vương mình… lại nhập nhèm với mấy vị ca ca, kỳ thực rất đáng thương…”.

“Xem kìa, lại bắt đầu diễn vai Bồ Tát rồi”, Tiết Thái tặc lưỡi nói.

Khương Trầm Ngư không khỏi xấu hổ, hỏi: “Tại sao ngươi lại cười ta? Lẽ nào ta không thể thương hại cô ta?”.

“Đương nhiên không thể”. Tiết Thái nghiêm mặt, ánh mắt trở nên vừa thâm trầm vừa lạnh lùng

“Bởi vì, kẻ sai sát thủ giết ngươi chính là vị công chúa Trình quốc đáng thương đáng được đồng tình này”.

Sét đánh giữa trời quang, đánh thẳng vào trái tim Khương Trầm Ngư như thế.

Giả sơn, bàn đá, sơn hào hải vị… hết thảy trước mắt bỗng nhòa đi, chỉ còn lại áo trắng tóc đen của công tử là rõ ràng biết mấy.

Là Di Thù sai người giết nàng?

Là Di Thù sai người giết nàng?

Phút giây này, điều Khương Trầm Ngư nghĩ không phải là tại sao Di Thù phải sai người giết nàng, mà là – Di Thù muốn giết nàng, công tử lại giúp Di Thù!

Công tử biết rõ!

Đến Tiết Thái cũng biết, làm sao công tử có thể không hay?

Chàng biết, chàng biết, chàng biết!

Mà chàng, bây giờ, đang nhàn nhã ngồi bên bàn, dịu dàng nhìn Di Thù, nói chuyện với ả, mỉm cười với ả.

Thậm chí chàng còn giúp ả trở thành nữ đế của Trình quốc!

Làm sao nàng chịu nổi...?

Những chữ này lờ mờ nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, trong nháy mắt, lệ sa từng hàng, không rõ nguyên nhân, không có lý do, đáng sợ mà chua xót.

“Ta… thực sự là kẻ không quan trọng đến vậy…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm, muốn cười nhưng không sao cười nổi.

Đúng lúc đó, một tên thị vệ vội vã bước vào, ghé tai Di Thù nói gì đó, Di Thù gật đầu, quay người cười nói: “Ta phải đi rồi”.

Cơ Anh đứng dậy, đáp: “Nội loạn mới yên, công chúa đương nhiên có nhiều việc cần xử lý, là Anh đã quấy rầy. Công chúa cứ tự nhiên”.

Di Thù nhìn chàng đăm đăm, “Đại ân không lời nào cảm tạ hết được”.

Cơ Anh không nói gì thêm nữa, chỉ chắp tay hành lễ.

Di Thù theo sau tên thị vệ kia rảo bước rời đi.

Cơ Anh bấy giờ mới chầm chậm ngồi xuống chiếc đôn đá, khẽ thở dài, nói: “Các ngươi có thể ra được rồi”.

Tiết Thái kéo tay Khương Trầm Ngư, nàng vẫn bàng hoàng, đờ đẫn theo hắn bước qua cửa vòm.

Ánh mắt Cơ Anh tựa như một cơn gió mát lướt qua mặt hồ đậu lại trên gương mặt nàng.

Khuôn mặt của Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết.

Cơ Anh nhìn Tiết Thái thoáng vẻ trách móc, cất tiếng: “Khương tiểu thư…”.

Khương Trầm Ngư đột ngột ngắt lời chàng: “Tại sao Di Thù muốn giết tiểu nữ?”.

Làn môi Cơ Anh run run giây lát, nhưng chàng không trả lời.

Tiết Thái đáp thay chàng: “Rất đơn giản. Bởi vì nữ nhân đó không chịu được nữ nhân khác được yêu thích hơn mình mà thôi”.

Khương Trầm Ngư không nhìn hắn, chỉ dán mắt vào Cơ Anh, khẽ hỏi: “Là như thế sao?”.

Tiết Thái lại trả lời thay: “Ngươi có biết, nửa tháng nay, nữ nhân nổi bật nhất ở Trình quốc là ai không?”.

Không đợi Khương Trầm Ngư trả lời, hắn tự nói tiếp: “Là ngươi, chính là ngươi. A Ngu cô nương. Ngươi là sư muội của Đông Bích hầu, ngươi xin hắn cái gì liền được cái nấy, ngươi cứu tính mệnh của Nghi vương, khiến Nghi vương thần hồn điên đảo vì ngươi; ngươi còn chỉ dùng một khúc nhạc mà khiến Yên vương cảm phục, vì thế có được danh cầm và cầm phổ tuyệt thế... ngươi bị hôn mê, quan viên khắp triều lũ lượt tặng quà... một đêm ngươi không về, Nghi vương đích thân đến vương phủ đòi người... không chỉ như thế, ngươi còn khiến ba vị hoàng tử hoặc nhiều hoặc ít đều đối xử với ngươi khác người bình thường… Mà những nam nhân này đều là người mà Di Thù lợi dụng, hoặc là có ý đồ muốn lợi dụng, ngươi cảm thấy cô ta không có lý do gì để giết ngươi sao?”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười một : Hồng trần náo nhiệt (Phần 2)

Khương Trầm Ngư vẫn đứng bất động, trên gương mặt không chút biểu cảm, nhưng rèm mi nhướn dần lên, để lộ đôi đồng tử bên trong, sâu thẳm như ngọc đen huyền

“Đó… đều không phải là lỗi của ta”.

Nụ cười của Tiết Thái vì câu nói này mà biến mất trong nháy mắt.

Khương Trầm Ngư nhìn thẳng Cơ Anh, nói từng chữ rành rọt:

“Đây không phải là lỗi của ta… Không phải! Không phải là lỗi của ta!”.

Nàng bỗng giơ tay, gạt đám bát đĩa trên mặt bàn xuống đất, loảng xoảng loảng xoảng, hết thảy đều vỡ vụn. Đến bát canh Kim Phong Ngọc Lộ đó cũng chảy lênh láng ra đất.

Tiết Thái chưa bao giờ thấy nàng kích động như thế, không khỏi biến sắc, có chút bất ngờ, cũng có chút chấn động.

Ánh mắt Trầm Ngư sắc lẹm như một lưỡi dao, nhìn mọi thứ ngổn ngang trên mặt đất, cười nhạt, nói:

“Thật nực cười... Lý do này... Vì lý do này, sai sát thủ đến lấy mạng ta, khiến ta suýt chút nữa chết nơi đất khách, không thể gặp lại người thân, còn hại Sư Tẩu tàn phế suốt đời, vĩnh viễn mất đi một cánh tay, một con mắt và đôi chân, thật nực cười! Thật nực cười!”.

“Trầm Ngư”. Cơ Anh khẽ gọi một tiếng.

Cả người Khương Trầm Ngư run bắn, sau đó bình tĩnh trở lại. Nhưng đôi mắt trở nên bi thương khôn xiết. Nàng chăm chú nhìn chàng, dùng giọng nói còn nhạt hơn gió thoảng hỏi:

“Công tử, tại sao ngài giúp ả?… Tại sao?”.

Tại sao phải giúp Di Thù.

Thực ra, vấn đề này đêm qua Cơ Anh đã nói rồi.

Khi chiếc ghế nhô cao, Di Thù từ trong cơ quan bước ra, Nghi vương và Yên vương đều ngạc nhiên, mà chính lúc đó, Cơ Anh lên tiếng, nói ra câu then chốt nhất:

“Ta xin các vị lên tiếng ủng hộ công chúa xưng đế vì ba lý do”.

“Thứ nhất loạn ở Trình quốc, đối với ba nước không phải là may mắn, mà là tai họa. Cuộc hỗn chiến bốn nước mười năm về trước đã mang lại tổn thất vô cùng to lớn cho các nước, mười năm nay, chúng ta nghỉ ngơi an dưỡng, khó khăn lắm mới có chút khởi sắc, hiện giờ nên là một giai đoạn chấn hưng tiếp tục đi lên, đối với các nước mà nói, đều yên tĩnh không nên động.
Nghi vương bệ hạ, nếu Trình quốc cứ chiến loạn mãi thế này, con dân của ngài sẽ tiếp tục buôn bán làm sao? Phải biết rằng, trong thời gian chiến loạn, chỉ có một thứ có thể hái ra tiền, đó chính là vũ khí. Nhưng vô cùng không may là vũ khí không phải là sở trường của Nghi quốc, mà là sở trường của Trình quốc. Đối với vương bệ hạ, một khi Trình loạn bắt đầu, bách tính tha phương cầu thực, tất sẽ ồ ạt di dời, đến lúc đó, nạn dân đàn bà trẻ con người già kẻ tàn tật hết thảy đều chạy đến Yên quốc, đuổi đi thì thất đức, giữ lại thì sinh hậu họa, đối với ngài mà nói, cũng là một phiền phức to lớn, đúng không?”.

“Thứ hai, Trình quốc hiện tại, ai là người lòng quân hướng về...? Hàm Kỳ...?

Không sai, y là danh tướng. Nhưng đồng thời y cũng là một hoàng tử cao ngạo, tính tình nóng vội bạo ngược, người sùng bái nhiều, nhưng người bất mãn y còn nhiều hơn. Y cay nghiệt thiếu đức, lại tự cho là mình giỏi, không coi những tướng sĩ xuất thân nghèo hèn ra gì, vì thế, quân đội của y tuy quân kỷ nghiêm minh, nhưng cũng bị người ta căm ghét.
Còn Di Phi... Y là một kẻ thông minh, đáng tiếc có chút mưu lược nhưng không có tài năng của đại tướng quân... Lân Tố... Đối với đất nước sùng võ như Trình quốc mà nói, y hoàn toàn là một kẻ bỏ đi! Cho nên, ai là người lòng quân hướng về? Đáp án chỉ có một – công chúa.

Công chúa xuất thân cao quý, lễ hiền đãi sĩ, binh không phân quý tiện, đối xử công bằng, hơn nữa, văn tài võ học thứ nào cũng là cao thủ. Có thể nói, ở Trình quốc, nàng là độc nhất vô nhị”.

“Thứ ba, Trình quốc hiện giờ, ai là người lòng dân hướng về?

Mọi người đều biết, người Trình vương sủng ái là công chúa, người bách quan thần phục là công chúa, người con dân yêu mến là công chúa. Là công chúa, chứ không phải các huynh trưởng của nàng”.

Khi Cơ Anh nói xong, căn phòng chìm trong im lặng.

Rất lâu sau, Hách Dịch mới lên tiếng phá vỡ sự yên tĩnh:

“Những gì ngài nói đều rất lọt tai, nhưng chớ có quên, Di Thù xưng đế, có một khiếm khuyết lớn nhất, mà khiếm khuyết này đủ để xóa tan hết thảy ưu điểm của nàng”.

Chương Hoa tiếp lời: “Bởi vì nàng là nữ nhi”.

Hách Dịch nói: “Không sai. Nữ nhi xưng đế, không có tiền lệ. Cứ coi như ngài có thể thuyết phục hai người bọn ta, nhưng làm thế nào để thuyết phục thiên hạ?”.

Cơ Anh khẽ cười: “Nữ nhi xưng đế, không có tiên lệ. Vậy giải thích thế nào về truyền thuyết Nữ Oa tạo người...? Tại sao lại có thuyết Cung Công thị và Nữ Oa tranh ngôi đế...? Tại sao lại có truyền thuyết Nữ Oa vá trời?”.

“Đó là truyền thuyết”.

“Không sai, đó là truyền thuyết”. Cơ Anh trầm giọng nói:

“Thế nhưng ai có thể nói, bây giờ không thể lại dựng lên một truyền thuyết nữa? Nếu một nữ tử là huyết mạch hoàng tộc duy nhất còn sót lại, năng lực tài hoa đều cao hơn người khác, tại sao nàng không thể xưng đế? Điều quan trọng nhất là có được sự ủng hộ của ba vị quân chủ, sao nàng không thể xưng đế được đây? Chớ quên rằng, ba vị bệ hạ mới là chủ tể của thiên hạ hiện nay”.

Căn phòng lại lần nữa chìm trong sự im lặng.

Hồi lâu Hách Dịch và Chương Hoa đều không nói gì, rõ ràng là đang đấu tranh tâm lý hết sức phức tạp.

Lúc này, nếu không thể thúc đẩy, rất có thể thuyền lội ngược dòng, sẽ không tiến mà lùi.

Thế là Cơ Anh thở dài, khẽ nói: “Công chúa, hãy nói cho hai vị bệ hạ, tại sao nàng buộc phải xưng đế?”.

Di Thù trước sau vẫn giữ nụ cười mỉm, nửa lời không nói, sau khi nghe thấy câu này, liền đi về trước mấy bước. Mấy tên thị vệ bước vào, khiêng tấm bình phong trước mặt Nghi vương và Yên vương đi, sau đó lui ra, đóng kín toàn bộ cửa ra vào, cửa sổ.

Trong phòng vẫn chỉ có một ngọn đèn cô lẻ, bóng sáng loang lổ chiếu sáng cả phòng. Mà trong quầng sáng đó, người sáng rõ nhất chính là Di Thù, nàng ta tắm mình trong ánh sáng vàng vọt, đưa tay ra, nhẹ nhàng cởi thắt lưng, trút bỏ chiếc áo khoác ngoài.

Hách Dịch và Chương Hoa đều biến sắc.

Điều khiến họ kinh ngạc không phải là hành vi to gan dám cởi áo trước mặt mọi người của Di Thù, mà là sau khi nàng ta trút xiêm y, trên bờ vai và bầu ngực để trần đều chi chít những vết sẹo.

Tròn có, méo có, dài có, ngắn có, sâu có, nông có, từng đường từng vết giống như những con côn trùng bò lổm ngổm trên người nàng ta, lại thêm nước da trắng nõn nà, cho nên trông càng chấn động.

Hách Dịch đứng lên trước tiên, kinh ngạc hỏi: “Là ai làm?”.

Di Thù mặt lạnh lùng, đáp: “Phụ vương”.

“Cái gì...? Trình vương”, bấy giờ, đến Chương Hoa cũng không ngồi yên nổi nữa.

Như Ý sửng sốt kêu lên: “Công chúa không phải là con gái được sủng ái nhất của ông ta sao?”.

Di Thù nhếch mép cười nhạt: “Không sai, chính là ta. Hơn nữa, những vết sẹo này đều là bằng chứng cho sự sủng ái của ông ta với ta”.

Hách Dịch và Chương Hoa nhìn nhau, thần sắc phức tạp.

Cơ Anh nói: “Con người Minh Cung không bằng loài cầm thú, đến con gái ruột của mình cũng không tha, công chúa đã bị hắn lăng nhục từ năm bảy tuổi đến tận bây giờ, không thể nào tỏ bày với người ngoài. Chư vị, cho dù không vì thời cuộc chỉnh sự, đối với một cô gái yếu đuối như thế này, hai vị thân là nam tử, lẽ nào sẽ khoanh tay bàng quan?”.

Khi ấy Khương Trầm Ngư đứng ở một bên, quan sát từ đầu đến cuối, trong lòng rúng động, không lời nào tả xiết.

Không thể không nói, chiêu này thực sự quá tuyệt diệu. Đặc biệt là trước đó Di Thù luôn ẩn nấp, khi nàng ta xuất hiện, việc đầu tiên nàng ta làm chính là thoát y. Hai tầng kích thích thị giác và tư duy, khiến bầu không khí trong phòng hoàn toàn biến đổi. Nàng dường như có thể cảm thấy một thứ gọi là “thương xót” bắt đầu lan tỏa ra xung quanh, một nữ nhân như nàng nhìn thấy đã như vậy, huống hồ là những nam nhân này, những nam nhân nắm trọng quyền trong tay, có khả năng tối thượng, vì thế cũng luôn có ý thức trên mình gánh vác sứ mệnh và trách nhiệm.

Ánh đèn chiếu trên người Di Thù, đôi mắt cụp xuống, tư thế yểu điệu của nàng ta đều làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ của nàng ta, mà nàng ta càng đẹp, những vết sẹo trên cơ thể lại càng rõ ràng, lại càng đáng thương.

Khương Trầm Ngư không nghĩ ra được, còn có thứ gì có thể chống đỡ được sức mạnh to của vẻ đẹp và sự yếu đuối này cộng sinh ra.

Và kết quả cũng đúng như suy đoán, Chương Hoa và Hách Dịch sau một hồi lâu chấn động, cuối cùng đã đồng ý với yêu cầu của Cơ Anh – dùng thế lực ba nước, phù trợ Di Thù xưng đế.

Không sai, đó chính là toàn bộ quá trình sự việc đã xảy ra trong căn phòng nhỏ tối hôm qua. Cơ Anh lợi dụng vốn liếng nguyên thủy nhất của một nữ nhân, lay động hai vị đế vương, giành được thắng lợi.

Thế nhưng, tất cả thực sự như những lời chàng nói tối qua sao?

Khương Trầm Ngư nhìn nam tử quan trọng nhất đời mình, nhắc lại câu hỏi lần nữa bằng một giọng nói tuyệt vọng, bi ai khôn xiết:

“Công tử, tại sao công tử phải giúp ả…?”.

Cơ Anh im lặng, Tiết Thái nhìn Khương Trầm Ngư rồi lại nhìn chàng, tiến lên phía trước một bước định nói, Cơ Anh lắc đầu với hắn, Tiết Thái lại lùi xuống.

Bấy giờ Cơ Anh mới ngước mắt, nhìn trả Khương Trầm Ngư, giọng nói nhẹ nhàng: “Trầm Ngư”.

Đây là lần thứ hai chàng trực tiếp gọi tên nàng mà không giống như trước đó, luôn chỉ là “tiểu thư”.

Khương Trầm Ngư không kìm được đau đớn nghĩ, công tử thật giảo hoạt, rõ làng biết nàng không có sức kháng cự với cách gọi này, cho nên luôn sử dụng trong những thời khắc then chốt như bây giờ để nàng không thể giận dữ, không thể tức tối, không thể oán hận. Quá giảo hoạt, công tử quá giảo hoạt…

Thế nhưng, tại sao rành rành biết là công tử giảo hoạt như thế, nhưng chỉ cần nghe thấy chàng dùng giọng điệu dịu dàng đó nói ra hai từ này, tất cả những cảm xúc tiêu cực đều tan chảy, đều biến mất như mây khói, không thể kiên cường tiếp được?

Tình yêu hèn mọn đến vậy, thật khiến lòng tự tôn của nàng khó mà chấp nhận nổi.

Thế nhưng cho dù khó chịu như thế, vẫn không nỡ từ bỏ.

Khương Trầm Ngư bất giác hít sâu một hơi rồi lại thở ra, sau đó nhìn Cơ Anh, thấp giọng nói: “Tiểu nữ đang nghe”.

Cơ Anh đứng dậy, từ từ đi đến trước mặt nàng, khoảng cách giữa hai người gần trong gang tấc. Chàng giữ khoảng cách gần như vậy, hơi cúi đầu xuống, nhìn nàng, nói hai từ: “Năm năm”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người.

Cho ta thời gian năm năm, cho Di Thù thời gian năm năm, cũng cho bản thân thời gian năm năm. Nếu như nàng thực sự phẫn nộ, oán hận, vậy thì, hãy dùng thời gian năm năm để mưu tính đòn phản kích của nàng đi”.

Khương Trầm Ngư mở to mắt, lúc này, nàng hoàn toàn bị chấn động.

Cơ Anh đưa tay ra, khẽ nắm lấy tay nàng, cùng với bàn tay trở nên ấm áp, trái tim dường như cũng ấm lên Khương Trầm Ngư không làm được hỏi: “Ý của công tử là?”.

“Di Thù người này, tuy phận mỏng duyên ôi, gặp phải cảnh bất hạnh mà những người bình thường không thể nào tưởng tượng nổi, từ một mặt nào đó mà nói, nàng ta quả thực đáng thương, nhưng từ một mặt khác, nàng ta lòng dạ sâu xa, thâm hiểm buông thả, để đạt được mục đích mà không từ thủ đoạn không thêm kiêng dè bất cứ đạo đức pháp luật nào. Nàng ta không hề nợ nần gì ta, cho nên xét về lợi ích của Bích quốc nâng đỡ nàng ta xưng đế là lựa chọn tốt nhất của ta; nhưng nàng ta lại thực sự có thâm thù đại hận với nàng, nàng muốn báo thù cũng không có gì đáng trách”.

Khương Trầm Ngư vẫn nhìn chàng không chớp mắt.

Cơ Anh nhìn dáng vẻ này của nàng, đành nói rõ ràng hơn một chút: “Nói thế này đi, sở dĩ ta chọn lựa nàng ta làm Trình vương, ngoài ba nguyên nhân lớn đã nói tối qua, còn có một lý do lớn nhất: Nàng ta là nữ nhân”.

Khương Trầm Ngư khẽ nghiêng đầu.

“Nữ nhân xưng đế, trách nhiệm cần gánh vác càng nặng nề hơn, dĩ nhiên, độ khó cũng càng lớn hơn, nếu có thể thái bình không xảy ra chuyện gì, đó là vạn hạnh, nhưng, một khi xảy ra chút sai sót, đủ để nghìn người bàn tán, vạn người phỉ nhổ. Trình quốc tuy là cô đảo giữa biển, đất đai nghèo nàn, vật chất thiếu thốn, nhưng họ có kỹ thuật hạng nhất, mà những thứ bảo bối có thể quyết định thắng bại trong thời chiến loạn cũng có thể tạo được lợi nhuận vô cùng lớn trong thời bình mới là thứ thánh thượng thực sự muốn có được. Cho nên, nếu ta đoán không nhầm, năm năm, năm năm nữa, đợi đến khi Bích quốc chuẩn bị chu toàn, thánh thượng tất sẽ khai đao với Trình quốc, mà đến khi đó, đối với chúng ta mà nói, còn có lý do nào tiện lợi hơn lý do nữ tử chấp chính?”.

Cơ Anh nói đến đây, cười cười, nụ cười vô cùng phức tạp, rất khó nói rõ rốt cuộc chàng nhìn nhận và xử lý sự việc này với tâm trạng nào, duy nhất có một điều rõ ràng là đó tuyệt đối không phải vui vẻ

“Hơn nữa, có quá nhiều, quá nhiều điều có thể chỉ trích và thóa mạ nữ nhân này…”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình tựa như cụm bèo trôi dạt trên mặt nước, vì không thể chìm xuống, cũng không thể lên bờ, cho nên vô cùng bấp bênh. Thực ra nàng không phải không biết đạo lý bên trong, kinh qua nhiều ngày rèn rũa như vậy, nàng không còn đơn thuần cho rằng chính trị có thể trong sạch, phía dưới bất kỳ ngọn cờ huy hoàng “trừ bạo giúp yếu” nào, khó có thể ghi chép được hết những hành vi xấu xa dơ bẩn. Thế nhưng, lờ mờ đoán được và thực sự nghe thấy lại là hai việc khác nhau hoàn toàn.

Lúc biết người phái sát thủ truy sát mình, người hại Sư Tẩu thê thảm đến thế chính là Di Thù, nàng rất phẫn nộ, nhưng bây giờ nghe Cơ Anh nói rõ nguyên nhân thực sự chàng giúp Di Thù, nàng cũng không vui nổi. Nàng không biết mình buồn vì điều gì, có lẽ là vì Di Thù, có lẽ là vì Cơ Anh, càng có lẽ là vì chính mình.

Tại sao đời người lại không thể sống đơn thuần một chút?

Tại sao phải tính tính toán toán, không đối xử thật lòng với ai như vậy?

Giống như Cơ Anh lúc này, chàng nắm tay nàng, vô cùng thành khẩn giải thích mọi chuyện với nàng, có lẽ nguyên nhân lớn nhất không phải vì chàng thích nàng, thương xót nàng, mà là vì họ đứng trên cùng một chiến tuyến.

Vậy thì, có phải nếu một ngày nào đó, khi nàng và chàng không cùng chiến tuyến, công tử sẽ dùng toàn bộ trí tuệ của chàng, trí tuệ khiến nàng vừa sùng bái vừa cảm thấy sợ hãi đó để đối phó nàng hay không?

Khương Trầm Ngư không biết, thực sự đến ngày đó, mình có thể dũng cảm đối mặt hay không.

“Trầm Ngư”. Lần thứ ba, Cơ Anh gọi tên nàng, “Nàng là cô nương thông minh nhất mà ta từng gặp, cho nên, nàng hoàn toàn biết mình nên làm gì, chẳng phải sao?”.

“Tiểu nữ là đồ ngốc…”. Khương Trầm Ngư lý nhí.

Cơ Anh mỉm cười, nắm tay nàng chặt hơn một chút: “Nàng chỉ là quá lương thiện. Rất nhiều chuyện, thực ra nàng biết phải làm thế nào, nhưng nàng không nhẫn tâm”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt, “Cho nên, người như tiểu nữ có phải chắc chắn sẽ không thể sinh tồn trong cái vòng luẩn quẩn này không?”.

Cơ Anh trầm ngâm giây lát, lắc đầu nói: “Không đâu”.

Khương Trầm Ngư nở một nụ cười thê lương: “Đến bây giờ công tử vẫn muốn an ủi tiểu nữ ư?”.

“Điều ta nói là sự thực”.

Cơ Anh chăm chú nhìn nàng, nói với vẻ vô cùng nghiêm túc:

“Trầm Ngư, nàng mềm lòng, dễ bị cảm động bởi một số chuyện, lại hay giúp đỡ người khác, đây đều là ưu điểm của nàng. Nhưng những ưu điểm này tuy rất mềm mỏng nhưng tuyệt đối không yếu đuối”.

Khương Trầm Ngư lặng thinh lắng nghe.

Sự thông minh của nàng không phải ở chỗ nhìn nhận sự việc sâu sắc hơn, lý giải sự việc thấu triệt hơn người khác, mà là ở chỗ nàng cực kỳ biết giữ chừng mực. Nàng có trực giác kinh người bẩm sinh về phương diện này, khi không thể tranh đoạt sẽ tuyệt đối không tranh, nhưng một khi đã tranh, có thể lên tới Cửu Trùng Thiên. Cho nên, ta tin rằng, chỉ cần nàng hạ quyết tâm đối phó với ai, nhất định có thể tìm được cách chu toàn nhất, không liên lụy đến người vô tội, không tổn thương đến gốc rễ, không vứt bỏ nguyên tắc; mà nàng một khi quyết tâm giúp đỡ ai thì cũng mạnh mẽ và đáng tin cậy như thế. Trầm Ngư, đây là ưu điểm của nàng”.

Cơ Anh nói đến đây, nheo mắt cười, “Ưu điểm này là độc nhất vô nhị, đã khiến cho ta cực kỳ hâm mộ. Bởi vì, ta phải học rất nhiều năm mới có thể nắm được chừng mực, còn nàng bẩm sinh đã có”.

Giọng Khương Trầm Ngư bắt đầu run rẩy: “Công tử…”.

“Cho nên, bây giờ điều duy nhất ta có thể khuyên nàng, chỉ có hai chữ – chờ đợi”.

Sương trắng lờ mờ quẩn quanh sau lưng chàng, đôi mắt Cơ Anh sáng bừng, tựa như ánh dưới pha lê, có thể chiếu rọi nhân gian.

Thế là trái tim của Khương Trầm Ngư đã hoàn toàn tan chảy, không còn băn khoăn, không còn kìm nén nữa, nàng rơi lệ, nói:

“Tiểu nữ từng thề…”.

Cơ Anh nắm chặt tay nàng, không hề buông lơi.

“Tiểu nữ từng thề… khi những tên sát thủ đó dùng thủ đoạn tàn nhẫn giày vò Sư Tẩu, tiểu nữ đã từng thề với bản thân – Ta phải ghi nhớ cảnh tượng máu thịt bầy nhầy tứ chi đứt đoạn đó ta phải ghi nhớ giọng nói tuyệt vọng, đau đớn, nhục nhã, thảm thiết đó của Sư Tẩu, ta phải ghi nhớ tất cả mọi thứ, sau đó, nếu như ta may mắn không chết, ta phải báo thù! Ta nhất định phải báo thù!”.

Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, nói chắc nịch như chém đinh chặt sắt:

“Tiểu nữ không thể tha thứ cho Di Thù, cho dù ả đã từng đáng thương… đến đâu, hiện giờ ả quan trọng với thiên hạ đến đâu! Tiểu nữ càng không thể tha thứ, khi ả muốn giết tiểu nữ vì một lý do hết sức nực cười và hoang đường! Cho nên, tiểu nữ tuyệt đối không tha thứ!”.

Cơ Anh nhìn nàng dịu dàng, tiếp lời nàng, nói: “Vậy thì, hãy bắt đầu suy nghĩ thật kỹ, làm thế nào mới có thể báo thù một cách hiệu quả nhất, nhanh nhất, mà lại không liên lụy đến người vô tội nhất!”.

Khương Trầm Ngư ngước rèm mi ướt đẫm, nghẹn ngào nói: “Có phải tiểu nữ rất bướng bỉnh không?”.

“Nàng có quyền bướng bỉnh – sau khi tính mạng của nàng bị uy hiếp đến thế”.

Dường như có một thứ gì đó tan ra trong mắt Cơ Anh, khiến chàng trở nên dịu dàng hơn, đồng thời cũng trở nên đau thương một cách lạ lùng, “Kỳ thực, ta có chút ngưỡng mộ nàng”.

“Tại sao?”

“Bởi vì, đợi đến khi nàng đến được vị trí của ta, nàng sẽ phát hiện…”,

Cơ Anh buông tay nàng, quay người, ngẩng đầu nhìn bầu trời phía xa, hững hờ nói:

“Bướng bỉnh, thứ này thực sự quá xa xỉ, xa xỉ đến mức căn bản không thể có được, cũng không được phép có”.

Ngọn gió sớm thổi phe phất chiếc áo bào trắng của chàng, mái tóc đen của chàng vẫn tung bay phía sau lưng, rơi vào tầm mắt Trầm Ngư lại hóa thành nỗi tịch liêu, tựa như bất cứ lúc nào chàng cũng có thể tan vào trong màn sương, không còn tồn tại nữa.

Nàng bỗng cảm thấy một mong ước cháy bỏng bỗng trào dâng khắp toàn thân – Nàng muốn ôm chặt, ôm thật chặt lấy công tử, để xác thực chàng thực sự tồn tại, sẽ không biến mất, chàng thực sự thuộc về mình, triệt để hoàn toàn thuộc về mình. Tựa như một người đi trong sa mạc khát khao nước, khát khao đến mức liều mạng, gấp gáp, sốt ruột, không thể khống chế được!

Thế là Khương Trầm Ngư đột nhiên tiến lên phía trước ôm lấy cánh tay của chàng.

Cơ Anh hơi ngạc nhiên, quay đầu lại, ánh mắt hai người giao nhau giữa không trung, khoảnh khắc đó, chàng dường như biết nàng muốn nói gì: “Đợi! Thế nhưng, khát vọng đó quá mãnh liệt, đến nỗi cho dù Cơ Anh định ngăn cản, nhưng nàng vẫn nói mà không tính đến hậu quả:

“Tiểu nữ ngưỡng mộ công tử.” Nét mặt Cơ Anh đột nhiên trở nên vô cùng vô cùng cổ quái vì đan xen quá nhiều cảm xúc, khó mà hiểu hết được.

Tiết Thái lộ vẻ bối rối hiếm có, lặng lẽ quay người, dường như muốn bỏ đi, nhưng rón ra rón rén bước được mấy bước rồi lại dừng lại, quay đầu tiếp tục quan sát.

Khương Trầm Ngư căn bản không đoái hoài đến sự tồn tại của người bên cạnh, lấy dũng khí nói hết tất cả: “Tiểu nữ ngưỡng mộ công tử. Giống như một đứa trẻ sợ hãi bóng tối ngưỡng mộ tia nắng bình minh đầu tiên; giống như một kiếm khách ngưỡng mộ thanh danh kiếm tuyệt thế; giống như một nông phu vất vả ba mùa, ngưỡng mộ mùa thu hoạch bội thu; giống như một thiếu nữ mới lớn ngưỡng mộ hộp phấn đầu tiên trong đời, giống như một người thợ trồng hoa kinh qua sương gió, ngưỡng mộ một đóa hoa hé nở, giống như một chủ nhân cô đơn ngưỡng mộ cố nhân quay về… Tiểu nữ dùng tất cả tình cảm tốt đẹp nhất, ấm áp nhất, khao khát nhất trên thế gian này để ngưỡng mộ công tử”.

Cơ Anh lẳng lặng nghe xong, nhìn nàng chăm chú hồi lâu, sau cùng mới chậm rãi nói: “Đa tạ”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, cảm thấy dũng khí và nhiệt tình của mình đã theo những lời thổ lộ đó dần dần nguội lạnh và tan biến, một khi đã bình tĩnh lại, nỗi hối hận liền dâng tràn. Nhất là hai tiếng “đa tạ” của Cơ Anh chẳng khác nào một đạo thánh chỉ, dịu dàng nhưng triệt để tuyên bố lần bày tỏ này đã thất bại.

Ban nãy tại sao lại bồng bột nói những lời này ra mà không nghĩ đến hậu quả?

Rõ ràng biết sẽ không có bất cứ kết quả, bất cứ khả năng nào.

Một câu “đa tạ” đã là câu trả lời tốt nhất mà nàng có thể có được.

Nhưng, nàng đã nói ra rồi.

Vậy thì, đã nói rồi thì không được hối hận.

Phải ôm trong lòng giác ngộ rằng ngày mai ta sẽ chết, cho nên, hôm nay không được phép để lại bất cứ tiếc nuối nào, không được phép kiêng dè bất cứ kỵ húy nào, sau đó, tuyệt đối không hối hận.

Khương Trầm Ngư gắng gượng kìm nén nỗi buồn, ép bản thân ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào Cơ Anh, nhếch môi mỉm cười: “Cho nên, vì công tử có sự ngưỡng mộ tươi đẹp và ấm áp đến thế, xin công tử đừng cảm thấy cô độc nữa. Công tử là người tốt đẹp nhất trên thế gian này. Tốt đẹp nhất, tốt đẹp nhất, tốt đẹp nhất”. Nàng nói liền ba lần từ tốt đẹp nhất, tiếng sau nhỏ hơn tiếng trước, nhưng tiếng sau kiên định hơ tiếng trước.

Gương mặt luôn bình tĩnh, hiếm khi biến đổi của Cơ Anh bỗng nhiên như bị thứ gì đập nát, để lộ một loạt cảm xúc bi thương, cảm động, tự trách… Đang xúc động, cơ thể chàng đột nhiên chấn động, chàng giơ tay ôm ngực, cúi gập xuống.

Khương Trầm Ngư giật mình vì biến cố đột ngột này, vội vàng đỡ lấy chàng: “Công tử? Công tử làm sao vậy?”.

Cơ Anh túm chặt vạt áo của mình, sắc mặt trắng bệch như giấy, mồ hôi túa ra như mưa, hơi thở gấp gáp, tựa như không thở nổi, đồng tử cũng bắt đầu mờ đục.

Khương Trầm Ngư kinh hãi kêu lên:

“Công tử! Công tử làm sao vậy? Công tử đừng dọa ta! Lẽ nào! Lẽ nào bát canh đó có độc?”

Phản ứng đầu tiên của nàng chính là Di Thù đã hạ độc! Đang định quay người đi tìm Di Thù, Tiết Thái đã bước đến, hắn đẩy nàng ra, đưa tay móc ra một chiếc bình nhỏ trong áo Cơ Anh, nhấc nút bình ra, chẳng đếm bao nhiêu viên mà dốc hết vào miệng chàng.

Cơ Anh uống thuốc xong, hơi thở đã đều hơn, nhưng mặt vẫn xám ngắt, đau đớn không nói nổi nên lời, chỉ có thể mệt mỏi nhìn Tiết Thái một cái. Tiết Thái hiểu ý gật đầu: “Thuộc hạ đi tìm hầu gia ngay!”. Nói rồi vội vã chạy đi.

Không bao lâu sau, Giang Vãn Y lập tức xuất hiện, sau lưng còn dẫn theo hai tên thị vệ. Khương Trầm Ngư còn chưa kịp hỏi hắn bất cứ câu nào, hắn đã ra lệnh cho thị vệ khiêng Cơ Anh vào trong phòng rồi đuổi tất cả mọi người ra, đóng chặt cửa phòng.

Khương Trầm Ngư túm chặt Tiết Thái chất vấn: “Rốt cuộc là chuyện gì? Công tử bị làm sao?”.

Tiết Thái trả lời không thể ngắn gọn hơn: “Bị bệnh”.

Trái tim Khương Trầm Ngư vì thế mà chùng xuống: “Bệnh gì? Bắt đầu từ lúc nào? Công tử bệnh bao lâu rồi?”.

Tiết Thái trầm ngâm giây lát, lắc đầu đáp: “Ta không biết”.

“Ngươi cả ngày ở bên cạnh công tử, sao lại không biết?”.

Có lẽ giọng nàng quá lo lắng, nên Tiết Thái tỏ ra mất kiên nhẫn, hất tay nàng ra, lạnh lùng nói:

“Ta đâu phải là đại phu, làm sao biết được? Hơn nữa, bệnh của ngài đã có từ trước khi ta theo ngài. Chẳng qua là luôn giấu giếm, không để bất cứ ai hay biết thôi…”.

Sau đó hắn còn nói những gì, Khương Trầm Ngư hoàn toàn không nghe rõ, đầu óc nàng trống rỗng, đã không còn nghe thấy, nhìn thấy gì nữa, chỉ có một việc bồng bềnh trong đầu nàng, vô cùng rõ rệt…

Công tử…

Vẫn luôn vẫn luôn bị bệnh.

Mà nàng vẫn luôn vẫn luôn không mảy may hay biết.

Khương Trầm Ngư không biết mình đã đứng ngoài phòng bao lâu, sương mù dày đặc giăng kín, ánh dương trong mong đợi vẫn không ló rạng, hôm nay là một ngày cực kỳ âm u.

Gió se lạnh, trước đó không ngờ sẽ ra ngoài lâu như thế, thế nên lúc đi nàng chỉ khoác một tấm áo đơn mỏng manh, nàng khép chặt vạt áo, cảm thấy hai chân tê cứng, tay chân lạnh cóng.

Tiết Thái nhìn nàng một cái, vào một gian phòng khác lấy một chiếc áo khoác ra, vứt lên người nàng.

Lúc Khương Trầm Ngư còn sửng sốt, hắn đã quay mặt đi, giả bộ như không xảy ra chuyện gì, nói: “Đây là áo khoác của công tử, cho ngươi hưởng lợi đấy”.

Trong áo khoác quả nhiên còn mang theo mùi hương Phật Thủ Cam quen thuộc, Khương Trầm Ngư cầm nó trên tay, nhớ đến chủ nhân của chiếc áo không biết đang chịu giày vò đến nhường nào trong căn phòng kia, nỗi xót xa không kìm được dâng trào trong tim.

Rất hoang mang, rất sốt ruột, rất lo lắng, rất bi thương… dường như hết thảy cảm xúc tiêu cực trên thế gian đều đè lên thân thể nàng, đau đớn đến gần như tê dại.

Mà chính vào lúc đó, cửa phòng cọt kẹt mở ra, Giang Vãn Y bước ra ngoài, dặn dò hai tên thị vệ vài câu, đang định quay người đi vào, Khương Trầm Ngư không nhẫn nhịn được nữa, chạy lên trước hỏi:

“Công tử bị làm sao? Công tử làm sao vậy? Rốt cuộc chàng bị làm sao?”.

Giang Vãn Y do dự một lát, thận trọng đáp: “Ngài đỡ hơn rồi, muội đừng quá lo lắng…”.

“Rốt cuộc công tử mắc bệnh gì? Tại sao lại đột ngột thành như thế? Công tử bệnh bao lâu rồi? Nghiêm trọng không? Trong chiếc bình nhỏ kia là thuốc phải không? Tại sao uống thuốc rồi mà vẫn không đỡ”.

Nàng càng nói càng sốt ruột, cuối cùng dường như càng nói càng loạn

“Thật sự không liên quan đến Di Thù sao? Có phải có người hạ độc chàng không? Có người muốn uy hiếp chàng phải không? Là hoàng thượng…”.

Giang Vãn Y lập tức ngắt lời nàng: “Thục phi nương nương!”.

Khương Trầm Ngư cả kinh, cách gọi này tựa như một chiếc chùy nặng, nện thật mạnh vào trái tim nàng, đồng thời cũng nện bay hết mọi cảm xúc của nàng.

Nàng co rúm lại, lộ vẻ đau đớn.

Sự áy náy thoáng lóe lên trong mắt Giang Vãn Y, hắn quay người định vào phòng, tay áo lại bị giữ chặt. Hắn bất đắc dĩ quay đầu lại, nhìn thấy ánh mắt e dè của Khương Trầm Ngư, ánh mắt ấy mềm yếu đến khó tả, nhưng lại như vô số sợi tơ, đủ để bó chặt bất cứ người nào.

Khương Trầm Ngư cứ nhìn hắn một cách khổ sở đáng thương như thế, túm tay áo hắn, ngón tay không ngừng run lật bật, nói bằng một thanh âm rất khẽ rất khẽ:

“Hãy… hãy nói cho muội đi…”, ngừng lại một lát, lại gọi: “Sư huynh… cầu xin huynh”.

Sắc mặt Giang Vãn Y hơi biến đổi, không thể cự tuyệt được nữa. Bởi vì nước mắt của Khương Trầm Ngư đã lăn xuống.

Những giọt lệ to tròn, đọng lại trên bờ mi như dùng mực đen vẽ phác, sau đó mau chóng lăn xuống, khiến đôi mắt nàng càng sâu thêm, đen thêm, làn da nàng càng nhợt nhạt thêm. Hai thứ tương phản, càng nổi bật vẻ đẹp yếu đuối đến kinh người.

“Sư huynh, xin hãy nói cho muội, muội thực sự, thực sự rất lo lắng, cầu xin huynh, cầu xin huynh đấy, sư huynh…”.

Nàng khóc không thành tiếng.

Mặt Giang Vãn Y hết trắng lại xanh, hết xanh lại trắng, cuối cùng thở dài, thấp giọng than: “Công tử mắc bệnh tim”.

“Bệnh tim?”. Khương Trầm Ngư trợn trừng mắt.

Giang Vãn Y ừ một tiếng, “Di truyền bẩm sinh. Mẫu thân của ngài cũng bị bệnh này mà qua đời”.

Khương Trầm Ngư nghĩ đến những chuyện về Cơ Anh mà nàng được nghe trong thọ yến của phụ thân hai năm về trước, mẫu thân chàng đã qua đời trong dịp ấy, lẽ nào bây giờ lại đến lượt công tử?

“Vậy công tử?”.

Giang Vãn Y cụp mắt, thần sắc ủ rũ, Khương Trầm Ngư vội vã nắm tay hắn, cuống quýt gọi: “Sư huynh”.

Giang Vãn Y ngần ngừ mãi, cuối cùng mới trả lời:

“Công tử mắc bệnh đã lâu, lại thêm mệt mỏi tích tụ, lao lực quá độ, khí huyết ngưng trệ, hỏa tâm thiêu đốt, đã không thể trị tận gốc, bây giờ điều duy nhất có thể làm là ôn dương bổ khí, lấy tả phù chính…”.

“Muội nghe không hiểu…”. Khương Trầm Ngư thì thầm, “Sư huynh, những lời huynh nói, muội đều không hiểu…”.

Trong mắt Giang Vãn Y lộ vẻ đau thương, chậm rãi nói: “Có nghĩa là nếu công tử có thể không quan tâm đến bất cứ ngoại sự nào, chỉ tĩnh tâm điều dưỡng, có lẽ còn có thể có năm năm tuổi thọ”.

“Còn nếu không thể?”.

“Cùng lắm chỉ một năm”.

Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy một sức mạnh to lớn ập tới, sau đó, hung hăng xé toạc nàng từ đầu đến chân.

Nàng chớp mắt, ngã ra đằng sau, Tiết Thái bên cạnh bất giác đưa tay đỡ, kết quả là hắn cũng ngã lăn ra đất.

Giang Vãn Y vội vàng bước lên sờ mũi nàng, liền thở phào nói với Tiết Thái: “Nàng ấy chỉ là kinh hãi quá độ, bị ngất thôi”.

Tiết Thái nằm dưới người Khương Trầm Ngư, nghiến răng nói: “Mau nhấc nàng ta ra khỏi người ta! Trông thì gầy mà nặng quá, ta sắp bị đè chết rồi”.

Giang Vãn Y sai thị vệ đỡ nàng về phòng, khi quay lại phòng Cơ Anh, đã thấy Cơ Anh đang ngồi tựa trên giường, tuy sắc mặt còn xám xịt, nhưng mắt đã sáng trong trở lại.

“Tại sao công tử không ngủ một lát?”.

Cơ Anh nhìn hắn, khẽ thở dài: “Ngươi không nên cho nàng ấy biết”.

Giang Vãn Y cười khổ: “Thuộc hạ biết”.

Ngừng một lát, lại nói: “Nhưng, khi nàng ấy dùng ánh mắt đó nhìn thuộc hạ, gọi thuộc hạ là sư huynh, thuộc hạ không có cách nào từ chối nàng ấy, khước từ bất cứ yêu cầu nào của nàng ấy… Xin lỗi…”.

Cơ Anh cúi xuống nhìn lồng ngực của mình, hỏi sang chuyện khác: “Ta thực sự chỉ còn có thế sống năm năm nữa?”.

Giang Vãn Y xòe tay bất lực: “Như thế đòi hỏi công tử phải tịnh tâm tu dưỡng…”.

“Vậy thì coi như có năm năm đi”. Cơ Anh mỉm cười, “Một nghìn tám trăm hai mươi lăm ngày, có thể làm được rất nhiều chuyện”.

Giang Vãn Y nổi giận: “Công tử!”.

Cơ Anh giơ tay ra, ngăn hắn nói tiếp:

“Ta biết, Vãn Y, những gì ngươi muốn nói, ta đều biết cả, cơ thể của mình thế nào, ta là người rõ nhất. Ta quá rõ, đúng thế, tất cả những chuyện này, ta đều quá rõ…”. Nói đến sau cùng, giọng càng lúc càng nhỏ đi, cơ hồ không nghe thấy.

Giang Vãn Y đi tới, đặt một chiếc bình vào tay chàng:

“Đây là loại thuốc Hộ Tâm Hoàn tốt nhất mà thuộc hạ có thể chế ra, có thể giải cơn đau đớn nhất thời khi ngài phát bệnh. Nhưng loại thuốc này không thể chữa bệnh tận gốc… Nghe thuộc hạ một câu, công tử, núi xanh còn đó (Một vế của câu thành ngữ “núi xanh còn đó, không sợ thiếu củi đốt”.)…”.

Cơ Anh nhìn chằm chằm chiếc bình thủy tinh trong suốt đó ánh mắt lúc sáng lúc tối, “Thế nhưng, mười trượng hồng trần, đời này của ta, ngày tháng ngắn ngủi mà vướng bận… lại quá nhiều…”.

Là bao nhiêu năm trước, trong cơn mưa xuân gặp người thiếu nữ ánh mắt sáng trong đó, mái tóc nàng ướt đẫm, những giọt nước như châu như ngọc từng giọt từng giọt lăn xuống, nàng ngước mắt nhoẻn cười, kiều diễm hơn hoa; Là bao nhiêu năm trước, chàng ân cần chăm sóc bên giường mẫu thân, nhìn bà hơi thở thoi thóp, sinh mệnh mất dần, đau đớn không nói nên lời, mà trước khi lâm chung, những lời bà nói với chàng tựa như dao nhọn cắt đứt gân cốt, tựa như máu thịt lần nữa được nhào nặn lại, trong nháy mắt, trời long đất lở, vạn kiếp bất phục;

Là bao nhiêu năm trước, quỳ trước linh vị, đồng hồ cát chảy, trăng đêm lặn mất, cuối cùng đã đưa ra một quyết định bướng bỉnh, không e ngại bất cứ điều gì nữa, dù từ bỏ bất cứ điều gì, cũng phải đi tìm người đó, từ đây rời xa nơi này, sẽ không quay về nữa;

Là bao nhiêu năm trước, khoảnh khắc đẩy cửa, bị ánh lửa rừng rực chiếu sáng chói mắt, trong ánh lửa, phụ thân tuổi già sức yếu bước ra khỏi đám đông, quỳ xuống lạy chàng;

Là bao nhiêu năm trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng ám thất, chiếu sáng gương mặt cuồng điên của người ấy, gào thét với chàng – Chàng nợ ta, chàng nợ ta, đời này kiếp này chàng đều nợ ta!

Là bao nhiêu năm trước, một trận tuyết lớn phủ kín vạn vật, thương hải tang điền, từ đây không còn thứ gì gọi là thiên đường nhân gian, Lại là bao nhiêu năm trước, nhìn thấy một cây hoa lê trong tuyết loáng thoáng ẩn hiện, như cách một đời, nhưng cuối cùng lại từng bước từng bước tới gần?

Mười trượng hồng trần.

Cuộc đời này của chàng, có được quá nhiều, mất đi quá nhiều, mắc nợ cũng quá nhiều quá nhiều.

“Vãn Y, hãy giúp ta”. Cơ Anh nói: “Hãy cho ta năm năm. Ta không tham lam, năm năm là đủ rồi…”.

Đôi mắt Giang Vãn Y bỗng chốc trở nên trĩu nặng.

Ngày hai mươi chín tháng sáu năm Đồ Bích thứ tư, trong buổi thọ yến, Trình vương Minh Cung hạ chỉ truyền ngồi cho Di Thù công chúa, Yên vương Chương Hoa và Nghi vương Hách Dịch cùng lên đế đài, đội mũ miện cho công chúa, vinh quang không gì sánh bằng. Ngày hôm sau, đoàn sứ thần Bích quốc lên thuyền về nước.

Lịch sử bốn nước từ đó bước sang chương mới.

“Ngu cô nương, đã thu đọn xong đồ đạc, có thể khởi hành rồi”. Lý Khánh đến bẩm báo với Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư gật đầu, nhìn xung quanh phòng, những gì cần thu dọn đều đã thu dọn xong, chỉ còn lại cây đàn Yên vương tặng là chưa cất vào hòm, nàng nghĩ một lát rồi ôm đàn đi ra.

Nàng đã về ở tại dịch quán được mười ngày, trong mười ngày này, bề ngoài nhìn như mọi thứ vẫn như lúc đầu, cùng Lý Khánh phụ trách chuyện ăn mặc đi lại ở của các sứ thần, nhưng trong lòng nàng rất rõ, bản thân nàng đang tuyệt vọng đến nhường nào.

Một canh giờ nữa là sẽ xuất phát quay về Bích quốc. Vốn là một chuyện rất vui vẻ cũng vì tin dữ của Cơ Anh mà trở nên chẳng còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa.

Có lúc, nàng không kìm được nghĩ, trong Đại Thiên thế giới này, ngày tháng thấm thoắt thoi đưa, nhưng nếu không có người ấy, thì với nàng, đâu còn ý nghĩa gì? Bao lâu nay, mỗi quyết định của nàng, mỗi cố gắng kiên trì của nàng, chẳng phải đều vì muốn lại gần Cơ Anh thêm một chút, thêm một chút nữa sao?

Khi mục tiêu ấy biến mất, nàng biết đi đâu về đâu?

Cho dù ý chí sa sút như vậy, nhưng khi sự việc bày ra trước mắt nàng lại không thể bỏ mặc, cho nên, nàng vẫn ngày ngày cùng Lý Khánh bàn bạc những việc phải làm trong chuyến trở về, nghe đám trù nương oán thán càm ràm, tiếp xúc với người liên lạc của phụ thân, đáp ứng những yêu cầu như bổ sung tiền bạc, nhân lực của bọn họ.

Sau đó, tranh thủ nhiều thời gian hơn nữa để ở bên công tử.

Công tử thực ra là một người rất bận rộn, trong khoảng thời gian này, nàng phát hiện và chứng thực sự thực này.

Chàng vĩnh viễn không đọc hết được tấu sớ, không ra hết nổi các quyết nghị, các môn khách của chàng hết nhóm này đến nhóm khác, đưa ra đủ loại yêu cầu, còn chàng lại không có lúc nào là không tỏ vẻ ung dung. Ngữ điệu chưa bao giờ gấp gáp nụ cười chưa bao giờ biến mất, thế nhưng, những phiền phức, bất ngờ, thỉnh cầu đó đều được giải quyết gọn gàng trong một cái gật đầu, một cái nhướng mày của chàng.

Khi Cơ Anh xử lý những chuyện đó đều ngầm cho phép Trầm Ngư ở bên cạnh. Nàng biết, công tử cố ý dạy nàng một số đạo lý xử sự, cho nên cũng chuyên tâm học hỏi. Mà ở bên cạnh công tử còn có cả Tiết Thái.

Tiết Thái rất kiệm lời nhưng chỉ cần mở miệng đều có thể khiến người ta tức đến nghẹn họng. Có lúc, nàng cảm thấy hắn vẫn là tiểu thần đồng kiêu ngạo, tài năng nổi trội như trước, nhưng khi hắn không lên tiếng, cụp mắt xuống lại hiện rõ vẻ trầm mặc, mang theo nỗi bi thương khó mà giải tỏa. Mỗi lần như thế, nàng sẽ quên hết mọi lời lẽ vô lễ của hắn đối với mình, sau đó càng lúc càng yêu quý hắn hơn.

Một đứa trẻ như thế, cũng khó trách Yên vương coi trọng hắn. Khi Khương Trầm Ngư đến nơi ở của Yên vương, không kìm được nghĩ về chuyện này.

Mà chính vào lúc này, một người từ trong phòng Yên vương bước ra, hai người mặt đối mặt, cả hai bên đều sững sờ.

Di Thù!

Khương Trầm Ngư không ngờ lại đụng phải nàng ta ở chỗ Yên vương, đặc biệt là giờ đây.

Nàng ta đã trở thành nữ vương của Trình quốc. Nhưng nhìn cách ăn vận trang điểm của nàng ta vẫn cực kỳ tùy hứng, phía sau cũng không có tùy tùng.

Nàng ta đến một mình sao?

Di Thù im lặng dò xét nàng, Khương Trầm Ngư mím môi, lùi ra sau một bước, ôm đàn hành nửa lễ: “A Ngu bái kiến Trình vương bệ hạ”.

Di Thù nhếch môi cười, “Ngu cô nương đa lễ rồi. Cô nương đến tìm Yên vương bệ hạ? Ngài đang ở bên trong… Có điều trước khi vào có thể nói với cô nương đôi lời không?”.

Điều này cũng là điều Khương Trầm Ngư muốn, nàng muốn nghe xem rốt cuộc người này còn có gì để nói với nàng.

Nàng liền lập tức theo Di Thù rẽ sang một góc, bước đến dưới gỗc liễu trong hậu viện.

Gió thổi cành liễu đung đưa, mặt hồ xao động, sóng nước lăn tăn.

Di Thù chăm chú nhìn những gợn sóng đó, như ngây như ngốc, cứ lặng lẽ nhìn mãi như thế, đến khi Khương Trầm Ngư buộc phải lên tiếng nhắc nhở: “Bệ hạ?”.

Ánh mắt Di Thù run rẩy, tĩnh trí trở lại, khi nhìn sang nàng, trong đó thấp thoáng nét cười, sau đó, nàng ta lấy một chiếc hộp từ tay áo ra, đưa đến trước mặt nàng.

Khương Trầm Ngư cầm lấy, mở nắp hộp, một mùi thơm kỳ lạ xộc vào mũi, bên trong đựng đầy dược cao, màu sắc đen tuyền, sáng loáng dị thường.

“Đây là Nha Ngọc”, Di Thù giải thích, “có thể nối xương liền gân trị thương, là một trong các mật bảo của nước ta”.

Khương Trầm Ngư gật đầu nói: “Một đất nước nổi danh nhờ giết chóc, phương pháp trị thương đương nhiên cũng phải cao minh”.

Nàng nói không hề khách khí, tuyệt nhiên không có ý cảm tạ, vì thế đáy mắt Di Thù lóe lên một tia không vui nhưng rất mau đã ẩn đi, cười nói:

“Trước đây không biết thân phận của nương nương, đã đắc tội nhiều”.

Khi Di Thù bật ra hai chữ nương nương, Khương Trầm Ngư biết ngay thân phận của mình đã bại lộ, tuy không biết là ai tiết lộ, và làm sao lại tiết lộ, nhưng chuyện đó đã không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng rõ ràng Di Thù dùng hai chữ này ám thị nàng, cảnh cáo nàng, giả vờ làm hòa.

Khương Trầm Ngư cười khẩy trong lòng: Trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng thế?

Di Thù tươi cười nói “May mà vẫn không gây ra lỗi lầm lớn, cho nên, nương nương nhận quà của ta, sẽ không giận ta nữa, được không?”.

“Không gây ra lỗi lầm lớn”.

Khương Trầm Ngư nhắc lại một lần nữa rất chậm, rất chậm, “Một cánh tay, một con mắt và hai cái chân, đối với bệ hạ mà nói, hoàn toàn không là gì sao?”.

Gương mặt tươi cười của Di Thù không thay đổi, nhưng ánh mắt lại trở nên sâu xa, thong thả nói:

“Đương nhiên không là gì. Có lẽ nói ra sẽ hơi tàn khốc, nhưng, chắc chắn nương nương chưa từng giết người phải không?”.

Khương Trầm Ngư nhớ đến tên thích khách chết dưới lưỡi chủy thủ của mình.

“Nếu nương nương đã từng giết người, hơn nữa từng giết rất nhiều rất nhiều người thì sẽ biết muốn đối phó ai, muốn ai chết ai khiến ta không vui thì phải làm cho hắn đau khổ hơn ta – Những điều này điều biến thành một chuyện vô cùng đơn giản và dễ dàng”.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Ta khiến bệ hạ không vui?”.

Di Thù mím môi, cười cười tự giễu mình: “Thực ra ta rất hổ thẹn, nhưng nếu như có thể làm lại, ta vẫn làm như thế. Ta nói rồi, khi nương nương trải qua một số chuyện rất tăm tối, đạo đức với luân lý đối với nương nương mà nói sẽ hoàn toàn không có tí tác dụng nào. Tì nữ chải đầu cho ta, làm gãy một sợi tóc đen, ta liền không hề thương xót và cho nó một cái bạt tai; cung nhân đánh cờ với ta, ăn của ta một quân cờ, ta liền có thể chém rơi đầu hắn… Cho nên, một nữ nhân xấu xí lại trở thành lý do khiến ta bị một nam nhân nào đó cự tuyệt trên giường, vậy thì muốn thị chết chẳng phải sẽ trở nên không khó lý giải lắm sao?”.

“Tại sao bệ hạ có thể thẳng thắn nói ra những chuyện này?”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy hơi khó hiểu. Thực ra, Di Thù có thể phủ nhận, càng không cần chủ động nhắc tới, nhưng ả lại hẹn nàng, nói những lời gan ruột này, là vì cái gì?

Di Thù vuốt tóc, cười đầy vẻ phong tình: “Làm thì đã làm rồi, có gì mà không thể thẳng thắn chứ? Càng huống hồ, bây giờ chẳng phải bức tường ngăn cách giữa chúng ta lúc đó đã biến mất rồi sao? Nương nương không phải là sư muội của Đông Bích hầu, mà là phi tử của Bích vương… Vậy thì, y mượn nương nương làm lý do cự tuyệt ta, rõ ràng chỉ là kiếm cớ mà thôi. Lý do để đố kỵ đã không còn, ta bắt đầu phát hiện, ta rất thích nương nương. Nói trắng ra, nương nương có thân phận vương phi cao quý lại đích thân đến Trình quốc, đúng là cực kỳ to gan, lại cực kỳ tiêu sái. Thậm chí ta cảm thấy chúng ta có thể trở thành bạn tốt, nương nương thấy sao?”.

Khương Trầm Ngư im lặng nhìn nàng ta.

Di Thù hữu nghị chìa tay với nàng.

Khương Trầm Ngư nhìn tay nàng ta, sau đó, đóng nắp hộp Nha Ngọc, đưa trả lại.

Di Thù lộ biểu cảm kinh ngạc bất ngờ.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, rất bình tĩnh nói. “Không. Chúng ta không thể trở thành bạn tốt, vĩnh viễn không thể. Đa tạ thuốc của bệ hạ, nhưng, ta nghĩ, ảnh sĩ của ta đã không thể dùng được nữa rồi”. Nói đoạn, quay người bỏ đi.

Di Thù ngẩn người cầm chiếc hộp thuốc đó, vứt đi cũng không phải, giữ lại cũng không xong, lập tức giận dữ quát:

“Khương Trầm Ngư, ngươi đừng có rượu mời không uống uống rượu phạt, ngươi tưởng ta thực sự vì thân phận của ngươi mới sợ ngươi, nên đến xin lỗi ngươi, cầu hòa với ngươi chắc? Một kẻ lớn lên trong nhung lụa, thuận buồm xuôi gió như ngươi có tư cách gì để khinh thường ta, cười nhạo ta? Nếu phụ thân của ngươi cũng là một kẻ cầm thú đội lốt người, nếu mẫu thân của ngươi nhu nhược vô năng đến bản thân cũng không bảo vệ được càng không nói đến bảo vệ ngươi, nếu các ca ca của ngươi đối tốt với ngươi chỉ vì muốn làm hoàng đế, nếu ngươi đã trải qua hết thảy những chuyện ta đã trải qua, ta không tin ngươi còn có thể thanh cao, bận tâm đến chuyện sống chết của một tên hạ nhân, miệng đầy nhân nghĩa đạo đức như thế…”.

Khương Trầm Ngư đột ngột quay đầu, đăm đăm nhìn nàng ta, trầm giọng nói: “Ta từ chối ngươi, không phải vì khinh bỉ, vì cười nhạo, càng không phải vì coi thường”.

Di Thù sững người trong giây lát.

Khương Trầm Ngư nói: “Ta chỉ đơn thuần không thích ngươi mà thôi”. Nói rồi tiếp tục đi về phía trước, lần này không hề ngừng bước quay đầu.

Công tử nói nàng cần phải chờ đợi.

Công tử nói nàng có thể bướng bỉnh.

Nàng thực lực không đủ, không báo được thù. Được, nàng chờ.

Thế nhưng, chờ đợi không có nghĩa là quên đi, không có nghĩa là thỏa hiệp, một hộp Nha Ngọc không đổi được cả cuộc đời sau này của Sư Tẩu. Nàng không chấp nhận sự hòa giải kiểu này. Cũng không chấp nhận trở thành bạn bè với loại người này.

Mẫu thân từng nói không được dễ dàng ghét bỏ người khác, vì khi làm tổn thương đối phương, đồng thời bản thân cũng sẽ trở nên hẹp hòi.

Mẫu thân nói làm người phải khoan dung.

Nhưng, tại sao không thể ghét bỏ? Tại sao nhất định phải tha thứ? Nàng không phải người xuất gia, cũng chẳng phải Bồ Tát, nàng chỉ là một người bình thường.

Cho nên, nàng lựa chọn căm ghét Di Thù, tuyệt đối không tha thứ!

Khương Trầm Ngư ôm đàn về trước cửa phòng Yên vương, vừa hay Như Ý đẩy cửa bước ra, nhìn thấy nàng, kinh ngạc mà vui vẻ kêu lên:

“Ngu cô nương? Cô nương đến cầu kiến thánh thượng nhà ta sao? Ta đi thông báo ngay…”.

Khương Trầm Ngư ngăn hắn nói: “Không cần đâu. Ta đứng bên ngoài nói mấy câu là được rồi”.

Như Ý ngoẹo đầu, ánh mắt rớt xuống cây đàn Lôi Ngã: “Tại sao Ngu cô nương lại ôm đàn đến? A! Lẽ nào đặc biệt đến chơi đàn để cáo biệt chúng ta?”.

Khương Trầm Ngư cười mỉm: “Đúng thế”.

“Hay quá! Ta đi lấy cho cô nương cái ghế!”.

Như Ý nói rồi vội vã chạy vào trong, không lâu sau, cùng Cát Tường khiêng một bộ bàn ghế ra. Khương Trầm Ngư đặt đàn lên bàn, ngồi xuống, nghĩ một lát, rồi gẩy khúc “Cao Sơn Lưu Thủy”.

Ngón tay lướt, dây đàn rung, thanh âm tuôn trào.

Núi trang nghiêm, nước trong lành, gió phe phẩy, tình chớm dâng, đều lần lượt ngân lên dưới ngón tay nàng.

Núi cao sừng sững, nước chảy dạt dào, mây mù chờn vờn, âm luật mênh mang. Cảnh sinh từ đàn, nổi lên cùng nhạc, một khúc đàn dứt, khiến người chẳng biết đêm nay là đêm nao.

Như Ý hơi há miệng, hơi lâu không thể cử động, đến khi hắn sực tỉnh, nhận ra tiếng đàn đã ngừng, liền phát hiện bàn ghế trước trống không, nào có bóng dáng Khương Trầm Ngư? Chỉ có cây đàn Lôi Ngã đó vẫn đặt trên bàn như cũ .

“Hả? Ngu cô nương đâu? Ngu cô nương! Ngu cô nương!”.

Hắn đang định đuổi theo, Chương Hoa đã nói vọng từ trong phòng ra: “Đừng gọi nữa, nàng ấy đi rồi”.

“Nhưng Ngu cô nương quên mang đàn theo!”.

“Nàng ấy không quên”.

“Hả?”.

Chương Hoa thở dài, khẽ nói: “Lần này nàng ấy đến đây là để trả lại ta cây đàn này mà thôi”.

Như Ý trợn tròn mắt, nghĩ mãi không hiểu.

Mà bây giờ Khương Trầm Ngư đã về đến dịch sở của Bích quốc.

Mới vừa bước vào sân, đã nghe thấy một câu: “Thật giảo hoạt”.

Nàng quay lại, thấy Tiết Thái đang ngồi bên Mạn Châu Sa Hoa, xung quanh không còn ai khác. Nàng không khỏi nhướng mày:

“Ngươi đang nói với ta?”.

“Ngoài ngươi ra, còn ai khác nữa?”. Tiết Thái mím môi cười lạnh lùng, lại nói lần nữa:

“Thật giảo hoạt”.

“Ta không hiểu ý của ngươi”.

Tiết Thái vứt hoa xuống, đứng dậy, nhìn thẳng nàng: “Tại sao ngươi lại trả đàn cho Yên vương?”.

“Thất phu vô tội, nhưng thân giấu ngọc mới là mang tội”(Ý của câu này là bảo vật sẽ dẫn đến tai họa ).

Thân là vương phi của Bích quốc, ta sao có thể lén nhận đàn của Yên vương, chuyện truyền ra ngoài, sẽ khiến người đời dị nghị”.

“E rằng không chỉ như thế?”. Tiết Thái tiến đến gần nàng thêm một bước, ánh mắt sâu thẳm.

“Vậy ngươi nghĩ ta còn dụng ý gì?”

“Lùi để tiến. Hôm nay ngươi trả ngài một cây đàn, ngày mai nếu ngươi hỏi xin ngài thứ khác, ngài sẽ không thể từ chối”.

Tiết Thái chớp chớp mắt, “Nước cờ tuyệt điệu này, ta không tin ngươi không nghĩ tới”.

Khương Trầm Ngư đảo mắt, cũng cười nói: “Tùy ngươi nói thế nào cũng được”.

“Cho nên ta mới nói ngươi giảo hoạt mà!”.

“Như nhau như nhau”. Hai người vừa nói vừa sóng vai bước tiếp.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ, hỏi: “Hôm đó rốt cuộc ngươi dâng Yên vương lễ vật gì? Tại sao ngài nhìn thấy lễ vật lại chấn động đến thế?”.

Tiết Thái cau mày: “Ngươi muốn biết?”.

“Ừ”. Thấy hắn sắp chớp mắt, Khương Trầm Ngư vội nói: “Ngươi đừng bảo ta đoán! Nếu ngươi không nói cho ta biết, ta sẽ hỏi thẳng công tử. Ta nghĩ, công tử nhất định sẽ nói với ta”.

Ánh sáng trong mắt Tiết Thái vụt tắt, hừ một tiếng, khẽ nói: “Hồng nhan họa thủy”.

Khương Trầm Ngư vờ như không nghe thấy.

Thế là Tiết Thái đành trả lời: “Thứ ta dâng lên ngài là một loại bươm bướm, tên là Vũ Thủy điệp”.

“Bươm bướm?”. Không thể không nói, đáp án này quá sức bất ngờ.

“Yên vương thích bươm bướm, đủ loại đủ kiểu bươm bướm. Mà loại Vũ Thủy điệp này có thể nói là loài bướm đẹp nhất quý hiếm nhất trên đời, đúng như tên gọi của nó, nó sinh sống bên dòng nước, thích ẩm ướt, chỉ có trong lãnh thổ Trình quốc mà hễ rời khỏi nơi sinh trưởng là chết ngay. Yên vương tốn bao nhiêu năm, nhưng mỗi lần vất vả bắt được, khi đưa đến tay ngài, bươm bướm đều chết cả. Cho nên lần này ngài đích thân đến Trình quốc bắt bướm”.

“Quả thực không thể tưởng tượng”.

“Thực ra ta cảm thấy không có gì kỳ quái, thân là một đế vương, áp lực quá nặng nề, trách nhiệm quá lớn lao, nếu không tìm chút thú vui để ký thác và phát tiết một chút, rất dễ quỵ ngã. Cho nên, đối với Yên vương mà nói, ngài mê mẩn những con bướm tuyệt mỹ; đối với thần tử của Yên vương mà nói, quân vương anh minh của họ có một thú vui nhỏ tao nhã chẳng ảnh hưởng đến ai. Đôi bên đều vui vẻ”.

“Đợi đã, ngươi nói loài bướm đó hễ rời khỏi nơi sinh trưởng là chết, nhưng ngươi dâng con bướm còn sống cho Yên vương?”. Khương Trầm Ngư nắm được then chốt của vấn đề.

Tiết Thái gật đầu: “Không sai”.

“Làm thế nào vậy?”.

“Rất đơn giản, đem tặng cả nước đó là được”.

Tiết Thái nói đến đây, nhếch miệng khinh bỉ nói:

“Cho nên mới nói những kẻ mà Yên vương phái đi trước đây đều là bọn ngốc, chỉ biết bắt bướm nhét vào ống trúc mang đi dâng vua. Hết con này đến con khác chết, tìm đủ nguyên nhân, cho rằng thức ăn không đúng, khí hậu không thích hợp… Ngốc chết đi được”.

Khương Trầm Ngư bỗng thấy buồn.

Vốn tưởng Tiết Thái gặp biến cố lớn tính tình thay đổi, kết quả thay đổi thì có thay đổi, chỉ có điều, hắn trở nên càng cay nghiệt hơn.

Hai người đang nói chuyện, Lý Khánh nhìn thấy họ qua cửa sổ hoa sảnh, lập tức chạy ra, nén thấp giọng nói:

“A Ngu cô nương, Nghi vương bệ hạ chờ cô nương ở trong rất lâu rồi”.

Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên, vội vàng bỏ lại Tiết Thái đi vào hoa sảnh, thấy Hách Dịch ngồi trong sảnh, vừa uống trà vừa nói cười cùng thị nữ dâng trà, thấy nàng tới, chàng đặt tách trà xuống, đứng dậy mỉm cười.

Khương Trầm Ngư ra hiệu thị nữ đó lui ra.

Ánh mắt Hách Dịch lưu luyến theo bóng thị nữ đó hồi lâu mới thu lại, tiếc nuối nói:

“Trà của Tiểu Tinh pha rất ngon, đáng tiếc quá, e rằng đây cũng là lần cuối cùng ta được uống trà nàng ấy pha”.

Khương Trầm Ngư cười nói: “Nếu bệ hạ thích, sau này có thể năng đến Bích quốc. Ta nhất định sẽ cắt đặt nàng ta pha trà cho bệ hạ”.

“Được, nàng hứa rồi nhé”. Hai người nhìn nhau cười, cười rồi lại cười, nhưng Hách Dịch không cười nổi nữa.

Chàng ngừng cười, ánh mắt sâu thẳm nhìn nàng chăm chú, chậm rãi nói: “Ta xin lỗi Thục phi nương nương vì sự đường đột trước đây của ta”.

Hàng mi Khương Trầm Ngư run run, “Cuối cùng bệ hạ đã biết rồi…”.

“Đúng thế. Biết rồi…”, giọng nói của Hách Dịch nhẹ nhàng khó tả, nhưng lọt vào tai nàng liền trở nên vô cùng nặng nề, “Biết quá muộn. Đúng không?”.

Đến đây, còn có thể nói gì? Khương Trầm Ngư đành đáp: “Xin…”

Hách Dịch giơ ngón tay lên, khẽ lắc lắc:

“Nàng không cần nói xin lỗi, nàng căn bản không nợ ta thứ gì… Tất cả… đều là ta… là ta chỉ nghĩ đến cảm xúc của bản thân, cưỡng ép người khác. Người nên xin lỗi… là ta”.

Khương Trầm Ngư đăm đăm nhìn chàng, mỉm cười dịu giọng nói:

“Bệ hạ cũng không cần xin lỗi. Bởi vì… bệ hạ đã cho một nữ tử như tiện thiếp sự tán thưởng lớn nhất, ta thực sự rất cảm kích ngài”.

Ánh mắt Hách Dịch từ nhạt chuyển dần sang đậm.

Khương Trầm Ngư tiếp tục nói:

“Kỳ thực, lần này ta xuất cung cũng là bất đắc dĩ. Ta thường nghĩ chắc chắn là vì ta không tốt, cho nên mới không thể hạnh phúc như những nữ tử đã gả chồng khác. Khi ta làm tất cả những chuyện mà trong mắt người khác có thể coi là không thể tưởng tượng nổi đó, sẽ cảm thấy khó nén nổi bi thương. Thế nhưng, may mà ta gặp được bệ hạ. Thứ bệ hạ cho ta là thứ ấm áp nhất đẹp đẽ nhất thế gian. Một người có thể được một người khác yêu mến, đối với người ấy mà nói, đó là một sự khẳng định to lớn biết bao. Cho nên ta phải đa tạ bệ hạ”.

“Tiểu Ngu…”.

“Bệ hạ, ta là Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư”.

Hách Dịch vẫn cố chấp: “Tiểu Ngu”.

Khương Trầm Ngư trầm ngâm một lúc, không kiên trì nữa: “Được, Tiểu Ngu”.

“Giữa chúng ta từng có một giao ước”.

“Đúng thế, chúng ta có giao ước”.

“Bây giờ, đã đến lúc thực hiện giao ước đó rồi”. Hách Dịch vừa nói vừa lấy từ trong tay áo ra một vật, đó là ba cây pháo hoa dài bằng ngón tay, vô cùng tinh xảo.

“Đây là Lam Diễm (pháo hoa) cực phẩm tiến cống năm nay, tổng cộng có sáu cây, vốn định dùng vào dịp quốc khánh. Bây giờ ta giao ba cây này cho nàng. Một cây pháo hoa tượng trưng cho một nguyện vọng ta nợ nàng. Ngày nào đó, nếu nàng nhớ ra muốn yêu cầu gì, hãy đem nó đến bất cứ cửa hiệu nào của Nghi quốc, ta sẽ biết”.

Ba cây pháo hoa nhỏ xíu nhẹ bẫng, nhưng vì có một lời hứa như thế mà trở nên nặng tựa ngàn cân.

Khương Trầm Ngư lặng lẽ đưa hai tay nhận lấy, khi ngước mắt lên, mắt đã hoe đỏ. “Ta có thể dùng bây giờ không?”.

Hách Dịch trợn mắt vì bất ngờ.

Khương Trầm Ngư lấy cây thứ nhất, đặt vào lòng bàn tay chàng, khẽ nói: “Nguyện vọng đầu tiên của ta, hy vọng bệ hạ khỏe mạnh”. Bởi vì, khỏe mạnh thực sự là điều rất quan trọng, rất quan trọng. Mà công tử của nàng đã không còn khỏe mạnh nữa.

Khương Trầm Ngư lấy cây thứ hai, đặt vào lòng bàn tay chàng, khẽ nói:

“Nguyện vọng thứ hai của ta, hy vọng bệ hạ không đau buồn, ít nhất, không buồn vì Tiểu Ngu. Nếu như bệ hạ gặp phải chuyện gì buồn, hãy nhớ đến cách xa vạn nước nghìn non, có một người hy vọng bệ hạ vui vẻ, vậy thì, hãy thử nở một nụ cười. Ngài là Duyệt đế, mà muốn làm dân vui, trước tiên, phải làm mình vui trước đã”.

Đời này của nàng chung quy sẽ phụ người này. Hách Dịch đến quá muộn… Giống như nàng xuất hiện quá muộn đối với công tử. Đem lòng ấy so với lòng này, nàng không nhẫn tâm làm tổn thương Hách Dịch, giống như không nhẫn tâm làm tổn thương chính mình.

Hách Dịch nhìn nàng, nhìn nàng đăm đăm, không hề chớp mắt, tựa như thời gian được chăm chú ngắm nhìn nàng rất ngắn mỗi lần chớp mắt, sẽ khiến thời gian này ngắn đi.

Đau lòng nhất là thời khắc ly biệt.

Nhất là trong thời khắc như thế, Khương Trầm Ngư dùng ba lời hứa của chàng, chỉ mong chàng được hạnh phúc.

“Nguyện vọng thứ ba của ta…”.

Nhìn thấy nàng sắp lấy cây pháo hoa cuối cùng đặt vào tay mình, Hách Dịch vội vàng nắm lấy tay nàng, trầm giọng nói: “Cây cuối cùng này… hãy giữ lại cho mình”.

Khương Trầm Ngư mím môi cười nói: “Ta vẫn chưa nói ngài đã ngăn, sao có thể biết nguyện vọng này không phải là dành cho ta?”.

Hách Dịch sững người, buông tay.

“Nguyện vọng thứ ba của ta chính là hy vọng bệ hạ có thể cùng ta bắn ba cây pháo hoa này ngay bây giờ. Bởi vì, lễ mừng quốc khánh của Nghi quốc, chắc chắn ta không thể chứng kiến, cho nên, hãy để cho ta được tận mắt ngắm nhìn pháo hoa Lam Diễm nơi danh thiên hạ này ở đây”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với chàng, “Yêu cầu này có được không?”.

Đôi mắt Hách Dịch loang loáng nước, mãi sau, mỉm cười đáp lời nàng: “Được”.

Lam Diễm nở rộ.

Giữa ban ngày mà vẫn vô cùng rực rỡ.

Dưới bầu trời pháo hoa, sứ xa của Bích quốc đã chỉnh đốn xong, bánh xe lăn trên đá xanh, đội ngũ dài dằng dặc chậm rãi tiến về phía bến cảng.

Khương Trầm Ngư nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ, tầng không xanh thẳm như thế, pháo hoa đẹp đẽ như thế.

Tiết Thái bên cạnh ngó đầu nhìn, sau cùng dán mắt nhìn nàng hồi lâu, biểu cảm kỳ quái.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Tại sao ngươi lại nhìn ta như thế?”.

“Ngươi có biết ba lời hứa của Nghi vương có nghĩa là gì không?”.

“Có nghĩa là gì?”.

“Nghĩa là chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể tùy ý có được muôn vàn tiền bạc;

chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể dùng vàng ném người đến tê cả tay, chỉ cần ngươi thích, ngươi có thể ngày ngày gan rồng dạ phượng hưởng hết tất cả những thứ có thể dùng tiền hưởng thụ được…”.

Khương Trầm Ngư nghe đến đây, cười phì một tiếng: “Bị ngươi nói như thế, giống như chỉ còn lại tiền thôi”.

“Vốn là tiền mà. Bỏ qua một đại thần tài như thế, đồ ngốc”.

Khương Trầm Ngư cười cười, cụp mắt xuống, sau cùng khẽ nói: “Ta không phải không biết sự quan trọng của tiền bạc, ta cũng không thanh cao đến mức nói ta không cần tiền, chỉ có điều…”

Tiết Thái nghiêng tai lắng nghe.

“Người này thích ta. Tiểu Thái”.

Giọng nói của nàng rất khẽ rất khẽ, ánh mắt rất đỗi dịu dàng, nàng nói bằng một thứ tình cảm xuất phát từ gan ruột

“Không tính toán thân phận, không để ý được mất, đơn thuần chỉ vì ta là ta mà thích ta như thế. Cho nên, khi đối diện với sự yêu mến ấy, ta không có cách nào nghĩ đến những chuyện như đường lùi với lợi ích… Điều duy nhất ta có thể làm chính là làm hết khả năng để duy trì sự thuần túy của nó”.

Đôi mắt Tiết Thái đen và sâu thăm thẳm.

Mặt Khương Trầm Ngư hơi đỏ lên, “Đến khi ngươi lớn ngươi sẽ biết, có thể được người ta thích là chuyện khó khăn biết bao nhiêu…”.

Vẻ mặt Tiết Thái thoắt biến đổi, cuối cùng hừ một tiếng, quay mặt đi.

Xe đi được nửa canh giờ đến bến cảng. Xa xa, nước biển xanh ngăn ngắt và bầu trời xanh vời vợi chiếu rọi lẫn nhau, mặt trời nhô lên đằng Đông, ráng đỏ nhuộm một vùng chân trời lại gần hơn chút nữa, có tiếng hải âu kêu lảnh lót, đám thuyền viên căng buồm, một cơn gió nổi, lá cờ gấm bay phần phật.

Mùa hạ thật là tươi đẹp.

Lại là một ngày thời tiết tốt, nắng vàng rực rỡ.

Thế nhưng thọ mệnh của công tử cũng ngắn đi một ngày.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn mặt nước bị ánh dương phản chiếu thành ngũ sắc lấp loáng, không khỏi nghĩ. Nếu như, nếu như tình yêu của ta có thể khiến công tử khỏe hơn, vậy thì, ta sẽ càng yêu, càng yêu chàng hơn; nếu như, nếu như ta không yêu công tử, mà có thể khiến bệnh tình của chàng tốt lên, vậy thì ta thà từ bỏ mối tình này.

Thần Phật ơi, hãy tha thứ cho phút giây yếu đuối này của con.

Yếu đuối đến mức muốn dùng sự cân nhắc hão huyền này để mong cầu một kết quả.

Bởi vì, con thực sự, thực sự, thực sự, quá bất lực. Cũng thực sự, thực sự bi thương.

Cho dù thế nào, xin nhất định, nhất định phải phù hộ công tử, để chàng khỏe lại, khỏe lại…

Anh quân tử hoa, triêu bạch ngọ hông mộ tử, tận phương hoa diệc bất quá quán tuyệt nhất tịch.

Ngu mỹ nhân thảo, xuân thanh hạ lục thu hoàng, sổ trung trinh tốt nan đắc duyên kết tam quý.

(Hoa anh (đào) quân tử, sáng trắng trưa đỏ chiều tím, phô hết hương thơm cũng chẳng quá một đêm Cỏ Ngu Mỹ Nhân, xuân xanh hạ biếc thu vàng, mấy bận trung trinh khó có thể duyên kết ba mùa)

Đầu thuyền, tiếng từ và vang lên…

Thuyền rời bến cảng, đi về hướng Trình quốc.

Hết Tập 1
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Tập II

Image


Giới thiệu

Yêu đơn phương là “tốt đẹp”. Nhưng “hai lòng cùng ưa” mới là “hạnh phúc”.

Chỉ có tình yêu thực sự, mới là hạnh phúc.

Hạnh phúc là khi bạn cô độc, có người đi bên bạn... khi bạn đau buồn, có người an ủi bạn... khi bạn bỏ đi, có người nhớ đến bạn... khi bạn bận rộn, có người đợi chờ bạn...

Mà những thứ này, Cơ Anh đều không thể cho Trầm Ngư.

Cơ Anh mang đến cho Trầm Ngư một thế giới rộng lớn khác, để Trầm Ngư học được cách kiên cường, thậm chí có thể nói không có Cơ Anh, Trầm Ngư đã hóa phượng hoàng niết bàn, nhưng... một người đàn ông như thế, vĩnh viễn chỉ là đóa tuyết liên trên đỉnh núi cao, có thể ngắm từ xa mà không thể chơi đùa, có thể ngưỡng mộ mà không thể sở hữu. Cho nên, đó không phải là hạnh phúc.

Còn hạnh phúc như ý của Trầm Ngư muốn phải là được ở bên người nàng yêu, người đó cũng yêu nàng, quan tâm đến nàng, phàm chuyện gì cũng đều nhớ đến nàng, có thể giúp đỡ nàng...

Điều quan trọng nhất là, khi ở bên người ấy, lúc nàng vui sẽ nhiều hơn lúc nàng buồn. Sau cùng, tình yêu là dùng để hưởng thụ chứ không phải để nếm trải cay đắng.

Chẳng phải câu trả lời này đã có rồi sao?

Họa quốc gồm 2 tập, là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của Thập Tứ Khuyết, với bối cảnh cổ trang, đấu trí tranh giành quyền lực, kịch tính và hấp dẫn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Bộ thứ tư : Ngọc vỡ...

Hồi thứ mười hai : Hồi thành (Phần 1)

Ngày hai mươi tư, tháng sáu, năm Đông Bích thứ tư.

Trăng treo giữa trời, cung đăng sáng rực.

Trong Gia Ninh cung vô cùng náo nhiệt. Phóng tầm mắt nhìn ra bốn phía, đèn đỏ rượu xanh, ca vũ thái bình. Toàn bộ phi tử mỹ nhân của hậu cung đều tập trung trong một sảnh đường để tham gia thọ yến lần thứ mười chín của Khương quý nhân – Khương Họa Nguyệt.

Trên ghế chủ thượng, Chiêu Doãn mỉm cười thể hiện rõ tâm trạng vui vẻ hơn ngày thường, thậm chí còn tự tay gắp thức ăn cho người được chúc thọ, khiến Khương Họa Nguyệt vốn bị lạnh nhạt hơn nửa năm nay mừng khôn xiết, cảm động đến mức mắt đỏ rưng rưng.

Rượu quá nửa tuần, Điền Cửu bỗng xuất hiện, thì thầm mấy câu gì đó bên tai đại thái giám La Hoành, khiến sắc mặt ông ta đột ngột biến đổi, vội vàng tiến lên mật tấu với Chiêu Doãn. Khương Họa Nguyệt thấy vậy, trái tim nàng chùng xuống, một dự cảm không lành trỗi dậy, nhưng Chiêu Doãn vẫn yên vị trên ghế, vẻ mặt bình tĩnh, không vui cũng chẳng giận, La Hoành vẫn nói gì đó, rõ ràng ông ta đang rất lo lắng. Cuối cùng, Chiêu Doãn giơ một tay lên, ra hiệu cho La Hoành lui ra, ông ta vội nói:

“Nhưng hoàng thượng…”.

Chiêu Doãn lại xua xua tay. La Hoành lập tức khom lưng lui ra.

Khương Họa Nguyệt không kìm được hỏi: “Hoàng thượng, có chuyện gì sao?”.

Chiêu Doãn rời mắt khỏi đám ca múa phía trước, y cười với nàng: “Không có chuyện gì. Tối nay, không gì quan trọng bằng sinh nhật của ái phi”.

Lúc này, trái tim đang treo lơ lửng của Khương Họa Nguyệt mới rơi phịch xuống, nàng thở phào, ngọt ngào nói: “Hoàng thượng đối với thần thiếp thật tốt…”, vừa thì thầm nàng vừa ngả người về phía y. Chiêu Doãn cũng không cự tuyệt, y đưa tay ôm lấy nàng, cùng dựa vào ghế rồng xem ca múa. Ân sủng rõ ràng như thế, khiến đám phi tử ngồi đấy không khỏi bặm môi nghiến răng, trong lòng thầm chua xót, không hiểu tại sao chỉ trong một đêm mà Khương quý nhân lại bắt đầu được sủng ái. Những kẻ hiếu sự càng không nhịn được nghĩ, tại sao cảnh tượng như thế này mà Hy Hòa phu nhân và Cơ quy tần không có mặt cơ chứ, nếu hai người bọn họ cũng có mặt, thì Khương Họa Nguyệt đâu thể một mình chiếm hết vinh quang như vậy được. Nhưng hai người đó, một người nói ngọc thể bất an, còn một người ba ngày trước đã đến Định Quốc tự bái Phật vẫn chưa về, mãi đến lúc thọ yến kết thúc cũng chẳng thấy bóng dáng.

Tiệc tàn, Chiêu Doãn đương nhiên cũng ở lại trong Gia Ninh cung, nhưng vào giờ Dần một khắc, y đột nhiên tỉnh giấc, không làm kinh động đến Khương Họa Nguyệt. Đang say giấc nồng bên cạnh, khoác áo bước ra khỏi phòng.

Bên ngoài tĩnh mịch yên ắng, đám cung nhân đều bị đuối đi ngủ cả thị vệ gác đêm nhận được mệnh lệnh từ trước, nhìn thấy y, cũng chỉ cúi người hành lễ, không phát ra tiếng động nào.

Điền Cửu giống như ma trơi trong đêm trăng, lặng lẽ đứng đợi y trong gió, trên tay cầm một chiếc áo khoác, thấy y bước ra khỏi cửa cung liền tức tốc chạy tới, khoác áo lên mình y.

Chiêu Doãn vừa đi vừa hỏi: “Người đâu?”.

“Đều đợi ở Bách Ngôn đường”.

“Để các ngươi đợi lâu rồi”.

“Làm nô tài, đợi chủ tử là chuyện đương nhiên. Hơn nữa, chủ tử vì nhận lời Thục phi nương nương mới không thể đi khỏi được thuộc hạ biết ạ”.

Chiêu Doãn cười nhạt, vẻ mặt không nhìn ra là vui mừng hay châm biếm, cứ cao sâu không thể nắm bắt như thể, y đến thẳng ngự thư phòng, sau đó rẽ qua cửa ngách, tiến vào một gian mật thất.

Mật thất không có cửa sổ, nhưng lại được bài trí cực kỳ trang nhã, gồm một chiếc bàn ngọc đài, bên cạnh là tám chiếc ghế tựa êm, trên mỗi chiếc ghế đều có một người đang ngồi đợi, tuy mỗi người một vẻ, nhưng đều là những nam tử tài hoa, người lớn tuổi nhất cũng không quá ba mươi, mà người nhỏ tuổi nhất lại chưa đến hai mươi. Cửa mở, tám người lũ lượt đứng dậy khấu đầu bái kiến.

Chiêu Doãn xua tay, rảo bước đến ngồi xuống bên bàn, nói: “Nói đi. Rốt cuộc là chuyện gì?”.

Người mặc chiếc áo dài màu xanh ngọc lam, mặt vuông chữ điền, đường nékhuôn mặt tuy rất bình thường nhưng đôi mắt sáng và tinh nhanh đến bức người vừa nghe Chiêu Doãn nói xong liền đứng dậy sang sảng tấu:

“Hoàng thượng chúng thuộc hạ vừa nhận được tin mật mới nhất: Năm ngày tới người đăng cơ trong buổi thọ yến của Trình vương không phải là đại hoàng tử Lân Tố, mà là đế nữ Di Thù. Tất cả đều do một tay Kỳ Úc hầu tác thành”.

Chiêu Doãn hơi chau mày, không nói gì.

Người mặc áo tím, mặt chuột tai dơi, dáng vẻ cay nghiệt, giọng cao hơn người đầu tiên đứng lên thưa:

“Trước đây thuộc hạ đã cảm thấy việc Kỳ Úc hầu tự mình đến Trình Quốc. Là chuyện vô cùng không ổn. Sau khi hắn đến đó, quả nhiên phóng túng làm càn, thay đổi càn khôn, phá hoại toàn bộ kế hoạch mà chúng ta đã dày công suy tính bao năm!”.

Một thiếu niên áo xanh lục chừng mười tám mười chín tuổi lạnh nhạt nói: “bây giờ thư thế này, thực ra cũng không có gì không tốt”.

“Thế nào gọi là không có gì không tốt..?”.

Giọng của người áo tím đột nhiên trở nên gay gắt, quay người thiếu niên áo xanh lục, nói:

“Đừng quên tâm nguyện ban đầu của chúng ta là gì..! Đâu phải chỉ mở thêm vài bến cảng, thu thêm ít tiền thuế, kiếm thêm ít bạc đâu! Theo ta thấy, nếu mục đích ban đầu không đạt được, thì có nghĩa là có tổn thất. Mà có tổn thất chính là vô cùng không tố”.

Người mặc áo lam gật đầu tán đồng:

“Không sai. Di Thù. Xưng đế, bề ngoài thân thiện với nước ta, nào là mở bến cảng rồi ưu đãi thuế má; nhưng lại hoàn toàn khác so với kế hoạch lúc đầu của chúng ta. Chúng ta căn bản không cần tiền tài kỹ thuật bí mật, cái chúng ta cần là ba nước hỗn loạn, để chúng ta tọa sơn quan hổ đấu làm ngư ông đắc lợi, là lấy chiến tranh để nuôi đất nước, là xưng hùng bốn bể! Đến nay, Kỳ Úc hầu làm vậy chẳng phải là " khoái đao trảm loạn ma " mau chóng triệt tiêu tình trạng hỗn loạn vốn có (* Câu thành ngữ mang ý nghĩa là giải quyết đứt khoát, giải quyết nhanh gọn, giống như lút nhanh đao chém đứt mớ đay rối vậy) ... cứ thế này hai nước Yên, Nghi theo đà sẽ chiếm lợi thế, thế lực đất nước tất sẽ thịnh vượng, mà Trình quốc cũng có thời gian nghỉ ngơi hưu dưỡng”.

Một nam tử áo xám chậm rãi mở miệng nói: “Đừng quên, nữ nhân xưng đế, là mối họa lớn”.

Thiếu niên áo xanh lục xen lời một cách thản nhiên:

“Xin nhắc các vị nhớ cho một điểm – Đừng bao giờ coi thường nữ nhân”.

Hắn nhếch khóe môi, cười cười: “Đừng coi thường Di Thù Hơn nữa, nàng ta chỉ dựa vào bản thân đã có thể khiến Kỳ Úc hầu giơ tay viện trợ. Thử hỏi, đổi lại có mấy người trong các vị ngồi đây có thể làm được điều này?”.

Người áo tím cười lạnh:

“Cho nên ta mới nói hành động này có vấn đề về tình về lý, Kỳ úc hầu đều không nên phù trợ Di Thù, nhưng hắn lại giúp nàng ta. Còn nữa, hắn đã tự ý quyết định mà không hề bẩm báo với thánh thượng. Rốt cuộc hắn có ý gì?”.

Lời vừa thốt ra khắp phòng im bặt.

Trong bầu không khí im lìm dị thường đó, Chiêu Doãn tiện tay nhấc một chiếc bút lông trên bàn lên nghịch chơi, mọi người đổ dồn ánh mắt vào y, đợi chờ thái độ của y, nhưng y vẫn không tỏ vẻ gì khác, chỉ khẽ nheo mắt, nói:

“Nói tiếp đi, chớ dừng lại”.

Vậy nên người áo tím đành tiếp tục nói:

“Hoàng thượng, thuộc hạ tuyệt đối không có thành kiến với Kỳ Úc hầu. Những việc hắn làm vì hoàng thượng mấy năm nay cũng thực sự là tận tâm tận lực. Nhưng, chính vì biểu hiện trước đây của hắn quá tốt cho nên hắn ngày càng được ngài coi trọng, quyền lực ngài trao cho hắn cũng ngày càng lớn. Bốn nước quanh đây, thiên hạ ai chẳng biết Kỳ Úc hầu đứng đầu quần thần Bích quốc; còn muôn dân bách tính Bích quốc thì ai chẳng tôn sùng hắn như thần như thánh chứ. Tuy hắn không nắm quân quyền, nhưng mấy đại danh tướng hiện nay có người không do hắn đề bạt tiến củ; tuy hắn không can thiệp đến quan văn, nhưng hai kỳ thi đều do hắn cầm trịch… Trong lúc không ai hay biết hắn đã có vô số môn nhân; trong lúc không ai h biết, hắn đã ban ơn đầy nội; và cũng chính trong cái lúc không ai hay biết ấy… hắn đã trở thành một kẻ vô cùng có thế lực”.

Khóe mắt Chiêu Doãn giật giật mấy cái, nhưng y vẫn im lặng.

Người áo tím hít sâu một hơi, thở dài nói:

“Hoàng thượng, lịch sử đã minh chứng thần tử mà có quyền thế quá lớn danh vọng quá cao, tất sẽ dẫn đến làm phản. Khi một người bị đẩy đến một độ cao nào đó, cho dù bản chất của hắn đơn thuần đến đâu, lý tưởng của hắn tầm thường đến đâu, thì cũng đều không thể chống nổi hai chữ ‘thời thế’.
Nhớ Hán Cao Tổ Lưu Bang năm xưa chẳng qua chỉ là một tên đình trưởng nhỏ bé, còn bị cha mắng là “vô lại”, ai có thể nghĩ ngày sau ngài lại thống nhất Trung Nguyên, thậm chí đánh bại chiến thần Hạng Vũ? Trần Thắng Ngô Quảng vốn là bần nông nhưng có thể khiến thiên hạ Đại Tần diệt vong; Tống Thái Tố Triệu Khuông Dẫn cũng chỉ từ một cấm vệ quân thăng một lèo lên thành Ngự tiền Đô kiểm hiệu, cuối cùng khoác hoàng bào đoạt được Hậu Chu… Hoàng thượng, những chuyện như vậy trong sử sách chúng ta nghe còn ít sao?”.

“Chú ý đến ngôn từ của ngươi”.

Nam tử áo xám lạnh lùng nói: “Hạng Vũ tự kiêu, Tần vương ngu tối, Chu chủ vô năng, há có thể đem ra so sánh với hoàng thượng của chúng ta?”.

“Được, không nhắc chuyện cổ nhân. Vậy đơn cử Hộ quốc đại tướng Tiết Hoài mới đây, năm đó đối với tiên đế cũng là lòng son dạ sắt, lên núi đao xuống biển lửa; đối với đương kim thánh thượng lại càng tận tâm phù trợ, toàn lực bảo vệ. Kết quả thì thế nào? Lẽ nào chúng ta còn cần một Tiết Hoài thứ hai..?”.

Nói đoạn ánh mắt người áo tím sắc như dao lia qua gương mặt của từng người, vẻ mặt mỗi người một khác.

Thiếu niên áo xanh lục trầm ngâm hơi lâu, ngẩng lên quay lại nhìn người áo tím nói:

“Ngươi nói nhiều như thế, nhưng ta chỉ muốn biết – Từ trước đến giờ Kỳ Úc hầu đã làm sai điều gì?”.

“Hắn chưa được cho phép đã lén lút đến Trình quốc, là tội thứ nhất; hắn không màng đến nguyện vọng ban đầu của hoàng thượng, bình định Trình loạn, đó là tội thứ hai; hắn phù trợ một tân vương khôn ngoan, đó là tội thứ ba. Dựa vào ba tội danh này đủ khép hắn vào tội chết cả trăm lần”.

Nói đến đây, trong mắt người áo tím bỗng lóe lên một ánh nhìn thô tục, hắn cười lạnh nói:

“Nếu ba tội danh này chưa đủ, ta còn có thể chỉ ra nhiều hơn nữa, còn chưa kể hắn và Thục phi quá thân mật. Theo tin mật thám, từ khi hắn gặp Thục phi đến giờ, hai người dính nhau như hình với bóng”.

Sắc mặt của thiếu niên áo xanh lục hơi nhợt nhạt cuối cùng lặng im.

Tự nghìn xưa, đế vương kỵ nhất chuyện thần tử đám dòm ngó đồ của mình, hơn nữa, trên danh nghĩa Khương Thục phi đáng lẽ vốn là thê tử của Kỳ Úc hầu, nhưng giữa đường bị một đạo thánh chỉ của hoàng đế cưỡng ép cướp đi. Trong tình huống này, dụng ý của hoàng thượng hẳn đã rất rõ ràng, là thần tử thì càng phải tránh né mới phải, nhưng Kỳ Úc hầu vẫn không né tránh. Thật không biết là hắn quá ngay thẳng không kiêng dè; hay là cố ý thị uy với hoàng thượng?

Thấy mọi người trầm mặc, người áo tím quay sang, khom người nói với Chiêu Doãn: “Hoàng thượng, thuộc hạ và Kỳ Úc hầu không hề có tư thù, nói ra nhưng lời công kích này thần cũng không cố ý đối đầu với hầu gia. Chúng thần chỉ là mưu sĩ của hoàng thượng, chức trách của chúng thần là vì hoàng thượng mà suy nghĩ sao cho đế thuật chu toàn, phòng trừ hậu họa về sau. Mà sau khi thương thảo, kết quả chúng ta có được chính là quyền thế của Kỳ Úc hầu quá lớn, lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến đế vị. Nên, vệc trước mắt là phải làm cho hắn suy yếu đi. Nếu để hắn tiếp tục lớn mạnh, thì e rằng đến lúc muốn kìm chế hắn cũng không kịp. Hơn nữa, hoàng thượng chỉ sùng ái mình hầu gia, trước mắt tuy không xảy ra mối hiểm họa lớn nào nhưng sau này khó tránh dẫn đến sự bất mãn của quân thần. Trời cao giáng mưa, phải chú ý ban đều, nếu chỉ luôn ban cho một chỗ thì mảnh đất đó phì nhiêu, còn chỗ khác sẽ thiếu nước nên cằn khô. Xin hoàng thượng suy xét cho kỹ”.

Chiêu Doãn vừa chăm chú lại vừa lơ đễnh kẹp cán bút, dùng ngón tay cái khẽ đẩy, chiếc bút xoay xoay như bay. Giữa các ngón tay, y cứ lặp đi lặp lại như vậy hết lần này đến lần khác.

Người áo tím và áo lam đối mắt nhìn nhau, người áo lam lên tiếng:

“Thuộc hạ biết hoàng thượng yêu quý hầu gia, hầu gia đích thực là nhân tài trăm năm mới có, chúng thuộc hạ tuyệt đối không có ý ‘đại nhân tài thì không phải là kẻ thánh thượng có thể chế ngự’. Khi nuôi hổ, nếu ta cho ăn một cách mù quáng thì không thể khiến con hổ thực sự biết nghe lời, cách huấn luyện tốt nhất là đan xen giữa việc lúc nào nên thưởng thịt, lúc nào cần phạt roi. Hoàng thượng đã cho con hổ hầu gia này ăn quá nhiều thịt, bây giờ là lúc nên phạt vài roi, để hắn nhớ ai mới là chủ nhân của hắn. Như thế, sau này hắn mới không dám hành sự mà không thông báo”.

Người áo tím lại bổ sung thêm:

“Cũng có nghĩa là, thực ra phù trợ ai xưng đế không quan trọng, quan trọng là trước khi hành sự hắn phải xin ý chỉ của hoàng thượng. Chỉ khi hoàng thượng đồng ý, hắn mới được phép thực hiện. Nếu hoàng thượng không đồng ý, hắn tuyệt đối không được làm!”.

“Cạch” một tiếng, chiếc bút trượt khỏi tay Chiêu Doãn rớt xuống chiếc bàn dài, lăn lông lốc đến tận cuối bàn.

Vừa khéo lăn qua mặt tám vị mưu sĩ ngồi ở đó.

Ánh mắt tám người lóe sáng, đối với tình huống này rất khó để nói rõ hành động vừa rồi của hoàng thượng là vô tình hay cố ý, trong lòng ai nấy đều thầm cân nhắc.

Sau đó bọn họ lại nghe thấy một tiếng thở dài nhẹ nhàng thoát ra từ hai cánh môi cong cong mềm mỏng nhưng ưu mỹ khó tả đó, thánh thượng của bọn họ, cuối cùng đã thu ánh mắt chiếu trên chiếc bút về, nhìn thẳng vào mọi ngươi, chậm rãi mở miệng:

“Một lần cuối cùng”.

Tám người quay sang nhìn nhau.

Chiêu Doãn đứng dậy, dửng dưng lặp lại một lần nữa như đang ra lệnh với bọn họ, lại như đang tự nói vơi chính mình: “Một lần cuối cùng”... Nói đoạn, rũ áo bỏ đi để lại tám người đang trố mắt nhìn nhau, không hiểu ra sao.

Đợi khi Chiêu Doãn bước ra khỏi Bách Ngôn đường, lại qua một lúc lâu, mới có một giọng nói e dè cất lên phá vỡ sự im lặng:

“Hoàng thượng nói một lần cuối cùng, là… ý gì?”.

Thiếu niên áo xanh lục lạnh lùng nói: “Ta nghĩ, hoàng thượng muốn nói, đây là lần cuối cùng người dung túng Kỳ Úc hầu mà không truy cứu”.

Người áo lam nhíu mày: “Cũng có nghĩa là…”.

Người áo tím tiếp lời: “Cũng có nghĩa là, lần sau Kỳ Úc hầu tái phạm cũng là lúc hắn bị hủy diệt”.

Trong nhà, một cây nến bỗng cháy xèo xèo bùng lên hoa nến, khiến ánh sáng hắt ra sáng bừng trong khoảnh khắc, cũng khiến cho bức hoành phi “Bách Ngôn đường” bằng gỗ mun treo phía trước sảnh hiện rõ vẻ kỳ dị.

Mà khi đó, Chiêu Doãn đã đi ra hành lang dài bên ngoài thư phòng, ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng hạ huyền (là trăng sau ngày rằm) treo trên bầu trời, một chú quạ vừa bay vụt qua, rớt lại hai tiếng kêu “quạ quạ”.

Điền Cửu theo sát phía sau y, nghe thấy vậy bèn búng ngón tay, chú quạ đen đó kêu lên thảm thiết, rồi từ trên tầng không rơi xuống, cách chân Chiêu Doãn đúng nửa thước.

“Tiểu nhân sẽ đi xử lý”. Điền Cửu nhanh như tên chạy lên phía trước định nhặt con quạ, nhưng Chiêu Đoãn bình thản giẫm lên mình con quạ, đi tiếp. Điền Cửu hơi sững lại, hắn ngước mắt thăm dò thái độ của chủ tử, dưới ánh trăng gương mặt xanh xao hơn bình thường đó bởi không cười nên càng có vẻ cao thâm khó đoán.

“Hoàng thượng?”. Hắn cẩn thận dè dặt mở miệng.

Dưới đêm trăng, ngũ quan Chiêu Doãn được nhuộm ánh bạc nhàn nhạt, đôi mắt đen thẫm, ngoài vẻ tuấn mỹ và tà mỵ ra, lại phô bày một vẻ u sầu khó tả thành lời.

Y cứ ngẩng đầu như thế ngước nhìn vầng trăng trên bầu trời trầm lặng đứng hồi lâu, rồi mới nói sáu chữ:

“Trẫm muốn thăm Hy Hòa”.

Bảo Hoa.

Hai chữ đại tự viết bằng Điệp thể (Một thể chữ thư pháp tạo hình xòe sang hai bên như cánh bướm), khắc trên tấm hoành bằng ngọc phi thúy bốn góc còn khảm thêm một viên dạ châu lớn bằng mắt rồng, tô điểm cho cánh cửa cao bằng gỗ tử đàn và bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng ở phía dưới.

Theo cầu thang đi lên, sau bảy tầng hành lang quanh co là tòa nhà tường bằng lưu ly, sân bằng thủy tinh. Dù đêm đã khuya, nhưng đèn đuốc vẫn sáng trưng, loáng thoáng tiếng tơ tiếng trúc từ đại sảnh vẳng ra, nghe không chân thực chút nào. Chiêu Doãn không đi sang phía đó, mà men theo con đường nhỏ của Bích lâm rẽ ngoặt sang một góc, rồi đi vào hậu viện. So với sự huyên náo ồn ào của tiền viện, hậu viện lại lặng ngắt như tờ.

Hai cung nhân ngồi cạnh bậc thềm ở cuối hành lang đang thì thầm to nhỏ, thấy y xuất hiện đều giật thót kinh sợ, toan khom mình hành lễ thì y đã vén bức rèm voan trắng đi vào trong.

Ánh trăng hắt qua song cửa sổ đang mở, soi rõ căn phòng tối mịch.

Trong ánh trăng tĩnh mịch ấy, một nữ nhân đắp chăn nằm trên giường, mái tóc đen dài giống như thác nước buông xõa bên gối, nàng nhắm mắt, hơi thở đều đều. Chiêu Doãn nhẹ bước qua đó. ánh trăng rớt trên mặt Hy Hòa, rèm mi và chiếc mũi cao của nàng hắt xuống chiếc bóng lờ mờ, ngũ quan trong lúc say ngủ nhìn bình tĩnh mà hiền hòa.

Chiêu Doãn ngồi xuống cạnh giường, nhìn nàng hồi lâu, trong đáy mắt y dường như có thứ gì đó mở ra biến thành sâu thẳm và mềm yếu. Y giơ ngón tay cẩn thận dè chừng khẽ vuốt ve bờ môi nàng.

Thế là Hy Hòa nhếch khóe môi nhoẻn cười.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, rồi cũng cười theo nàng.

“Đừng làm ồn…”. Hy Hòa hơi nghiêng nghiêng đầu nũng nịu.

Chiêu Doãn cúi người xuống hôn nàng, Hy Hòa vừa cười vừa vô ý xua tay, lý nhí nói:

“Đừng làm ồn nữa… Tiểu Hồng”.

Động tác của Chiêu Doãn bỗng nhiên sững lại.

Ánh trăng như lụa.

Làn da của mỹ nhân đưới lớp lụa trắng ngần, ngũ quan sáng rõ đẹp đẽ. Đặc biệt giờ khắc này, nụ cười càng tươi rói, cho dù vẫn đang trong mộng chưa tỉnh, nhưng đầu mày khóe mắt đều hàm chứa vẻ quyến rũ khôn tả, dấy lên sự phong lưu vô tận, đẹp đến khuynh quốc khuynh thành.

Y cứ giữ tư thế cúi lưng như thế một lúc lâu mới chầm chậm ngồi thẳng dậy. Lại lần nữa nhìn Hy Hòa đang nằm trên giường, ánh mắt đầy băng giá.

Hy Hòa dường như ý thức được điều gì, rèm mi rung rung, nàng ta đã tỉnh lại. Thấy y, nàng ta có chút ngạc nhiên lại có chút hoang mang: “ Hoàng thượng "

Lời còn chưa dứt Chiêu Doãn đã giang tay, ôm nàng ta thật chặt vào trong lòng.

Hy Hòa vô thức giãy ra, Chiêu Doãn khẽ thả lỏng, nhưng vẫn không buông tay ra. Hy Hòa không giãy nữa mà lười biếng hỏi:

“Đêm nay không phải là thọ yến của Khương quý nhân sao? Hoàng Thượng không ở chỗ quý nhân, mà đến chỗ thiếp làm gì..?”.

“Trẫm nhớ nàng”.

“Hả..?”. Hy Hòa nhướng mày, nếu nói là kinh ngạc chẳng thà nói là châm biếm còn hơn.

Chiêu Doãn lại vùi đầu vào hõm cổ nàng ta, hít sâu một hơi, lầm rầm như thể nói mơ: “Hy Hòa… Hy Hòa… Hy Hòa của trẫm…”.

Làn môi của Hy Hòa khẽ mấp máy dường như muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra.

Nàng có biết lần đầu tiên trẫm thấy nàng là khi nào không?”.

Hy Hòa nhếch miệng: “Lẽ nào không phải cái ngày các cung nữ mới tiến cung đến bái kiến Tiết hoàng hậu sao?”.

Chiêu Doãn lắc đầu: “Không phải. Trước đó trẫm đã thấy nàng rồi, biết nàng rồi”.

Ánh mắt Hy Hòa lóe lên một tia dị sắc, vẻ mặt đột ngột cảnh giác mấy phần.

“Đó là tháng ba tiết xuân còn lạnh, nàng ăn mặc rất phong phanh, mũi và bàn tay đều đỏ lên vì giá lạnh ngồi giặt quần áo bên hồ, sau đó nàng lại lấy từ phía sau ra một bình rượu, uống vài ngụm rồi tiếp tục giặt…”.

Chiêu Doãn nói đến đây thì thả tay ra, tách mình ra khỏi nàng ta, thấy vẻ mặt Hy Hòa hoang mang, y lại cười cười, đưa tay vuốt mái tóc nàng bằng một thái độ dịu dàng vô song, nói:

“Khi đó, nàng quá chú tâm giặt quần áo, hoàn toàn không biết ta vẫn luôn ngồi trong xe ngựa ngắm nàng ở bên đường, bắt đầu từ khi đó, ta đã tự nhủ nhất định phải có được nàng”.

Gương mặt Hy Hòa bắt đầu biểu lộ vẻ chán ghét.

Còn Chiêu Doãn lại không hề giận dữ trước vẻ mặt của nàng, ngược lại còn cười: “Nàng có biết tại sao không?”.

Hy Hòa không đáp.

Ánh mắt Chiêu Doãn xuyên qua vai nàng nhìn về phía xa, lạnh nhạt nói:

“Từ khi trẫm biết ghi nhớ đến nay, cảnh tượng nhìn thấy nhiều nhất chính là hình ảnh mẹ đang giặt quần áo. Bà xuất thân hèn kém, phụ vương nhất thời hứng khởi lâm hạnh bà, cuối cùng quên bà.
Những cung nữ như bà đối với bà vừa đố kỵ lại vừa mỉa mai, lũ lượt giậu đổ bìm leo, thường xuyên sai bà đi làm những công việc khổ cực nhất mệt mỏi nhất...Bản tính bà yếu đuối, hết thảy đều phục tùng, mọi người ném quần áo cho bà, bà đều ngoan ngoãn đi giặt. Trời lạnh giá rét, đôi bàn tay bà sưng vù như chiếc bánh bao, nứt toác vô số vết một giọt nước thấm vào mà đau thấu tận tim gan, để giảm bớt đau đớn bà phải đến trù phòng ăn trộm rượu…”.

Hy Hòa nhìn y chằm chằm, lần này nàng ta hoàn toàn sững sờ.

Từ khi nàng ta vào cung đến nay, hưởng hết ân sủng, có thể nói là người ở bên Chiêu Doãn nhiều nhất trong hậu cung, nhưng đây là lần đầu tiên nghe thấy Chiêu Doãn kể lại những chuyện thời thơ ấu của mình.

Bóng trăng che phủ, khuôn mặt Chiêu Doãn vì thế mà không rõ, chỉ có đôi mắt vừa sâu thẳm lại vừa sáng rỡ, từ khi giấu đi nụ cười gian tà thường ngày lại để lộ một vẻ bi thương khôn tả.

“Bà uống rượu vào thì trở nên vui vẻ, vừa ca hát vừa giặt quần áo, bà không xinh đẹp nhưng hát rất hay. Mỗi khi ta nghe thấy tiếng hát của bà, ta cũng sẽ quên đi bao nhiêu bất hạnh mà mẹ con ta đã trải qua. Thế nhưng, vì mất quá nhiều rượu nên đám đầu bếp phát hiện ra, bọn họ chửi mắng bà bằng những lời khó nghe nhất thế gian, dùng đồ đạc ném bà, bà kéo ta chạy trốn thục mạng, ta không biết những đứa trẻ đồng trang lứa bên ngoài cung sống ra sao, nhưng có lẽ, ta của khi đó cũng chẳng khác thằng nhỏ ăn mày đầu đường xó chợ là bao nhiêu”.

Hy Hòa thấp giọng nói: “Chẳng trách Hoàng Thượng thích Cơ Hốt đến thế…”.

Chiêu Doãn đảo mắt, nhìn thẳng vào mắt nàng.

Cơ Hốt hát rất hay, không phải vậy sao?”.

Chiêu Doãn nhếch môi khẽ cười, lắc đầu nói: “Không… không, không liên quan đến chuyện đó… Cơ, Cơ Hốt nàng ta… không giống. Nàng ta khác các nàng…”.

Hy Hòa hừ lạnh một tiếng, lộ vẻ không đồng ý.

Chiêu Doãn nắm chặt tay nàng, tiếp tục nói: “Mùa đông năm ta lên chín tuổi đó, có một sáng, mẹ đi giặt quần áo, còn ta ở trong phòng đợi bà, đợi mãi đợi mãi, đợi đến khi trời tối mịt cũng không thấy bà về. Thế là ta ra ngoài tìm, mới phát hiện ra bà bị ngất bên hồ, một nửa thân mình chìm trong nước lạnh giá. Ta nắm tay bà, ra sức lắc, ra sức gọi, nhưng lắc gọi thế nào bà cũng không tỉnh lại. Ta cảm thấy sợ hãi vô cùng, sợ bà cứ như thế mà chết, bỏ ta mà đi. Thỉnh thoảng có cung nữ thái giám đi qua, ta cầu xin họ giúp đỡ, nhưng không ai giúp ta, không một ai. Cuối cùng không còn cách nào khác, ta phải về nhà kiếm một tấm ván gỗ và dây thừng, đẩy mẹ ta lên tấm ván gỗ, rồi lấy dây thừng buộc bà lại cho chắc, kéo từng chút từng chút một về nhà. Khoảng cách từ bờ hồ đến căn nhà nhỏ tổng cộng năm trăm bước chân, ta kéo mất ba tiếng đồng hồ. Không có trăng sáng, chỉ có ánh đèn lù mù hắt từ phía xa xa lại ta vừa kéo vừa run rẩy, đến khóc cũng không thể khóc lên nổi”.

“Bà ấy chết rồi ư..?”.

Chiêu Đoãn chăm chú nhìn sâu vào đôi mắt Hy Hòa, im lặng một lúc lâu, mới trả lời nàng: “Nếu như nàng nói ngay lúc đó, thì bà ấy chưa chết”.

Hy Hòa mím môi: “Vậy… sau đó sao?”.

“Bà ấy nằm liệt giường suốt mười ngày trời mới ra đi”.

Hy Hòa “à” một tiếng rồi không nói gì nữa.

“Mười ngày đó không một ai đến thăm bà ấy... đương nhiên, cũng không có ai đến thăm ta. Vầng thái dương nhô cao từng chút từng chút một, rồi lại lặn xuống từng chút từng chút một, chiếc bóng cũng từng chút từng chút một di chuyển men theo khe cửa, rất chậm rất chậm. Ta nhìn những chiếc bóng đó trong cơn mờ mịt nghĩ rằng tại sao ta lại gặp phải sơ mệnh như thế ...ta là một hoàng tử cơ mà, có thân phận cao quý nhất trên đời, tại sao lại có một tuổi thơ như thế? Tại sao thái tử Thuyên bọn họ có thể muốn gì được nấy, áo gấm cơm ngọc, còn ta đến đưa mẹ mình về nhà cũng không có ai giơ tay ra giúp? Tại sao những phi tử khác bị bệnh là có ngự y đến hầu hạ, còn mẹ ta lại ngắc ngoải hơi tàn trên giường suốt mười ngày, không một ai đến hỏi thăm một câu...? Thế gian này sao lại bất công đến vậy...?
Tại sao phải đối xử với ta và bà ấy như thế...? Ta… ta…”. Chiêu Doãn từ từ nắm chặt tay, giọng nói trong chốc lát trở nên thật nặng nề:

“Ta không cam tâm!”.

Hy Hòa im lặng nhìn y với biểu cảm phức tạp, mãi sau mới nói:

“Tại sao hoàng thượng phải nói cho thiếp những chuyện này?”.

“Tại…sao… ư..?”. Chiêu Doãn chậm rãi nhắc lại một lần nữa ba chữ đó, bỗng nụ cười u uất đen tối lại xuắt hiện.

Trong lòng Hy Hòa thoáng lo sợ, mỗi khi Chiêu Doãn cười như vậy nghĩa là có người sắp gặp xui xẻo.

Quả nhiên, câu sau của Chiêu Doãn chính là: “Vài năm sau đó ta biết được tại sao ta lại phải gánh chịu tất cả cảnh ngộ trớ trêu đó, biết được nguyên nhân thực sự vì sao ta phải sống khổ sở như thế, mà nguyên nhân đó thực ra lại vô cùng giản đơn, chỉ có hai chữ – nàng muốn biết không...?”.

Y đột nhiên kéo cánh tay nàng, khiến cả người nàng bị lôi lại gần, sau đó nhả từng chữ một trong khoảng cảch gần như gang tấc: “Cơ… Anh”.

Hy Hòa run rẩy từng cơn.

“Cơ Anh...! Là Cơ Anh khiến tuổi thơ của ta bất hạnh như vậy... là Cơ Anh đã cướp đi cuộc đời hạnh phúc đáng nhẽ ta sẽ có...! Cho nên, khi ta biết tất cả đầu mối tội lỗi này đều bắt nguồn từ hắn... việc đầu tiên ta làm là sai người giám sát hắn, xem xem con cưng thực sự của ông trời kia sống cuộc đời vinh hoa phú quý khác biệt hoàn toàn với ta như thế nào!”.

Chiêu Doãn nói đến đây, mắt bỗng lộ ra vẻ mơ màng, y nhìn nàng đăm đắm, ánh mắt lần nữa lại trở nên bi thương vô tận: sáu đó, ta… nhìn thấy nàng. Ta nhìn thấy nàng rồi, à không, trẫm nhìn thấy nàng, Hy Hòa. Ngày hôm đó, trẫm đã nhìn thấy nàng”.

Vành mắt Hy Hòa đột nhiên đỏ hoe, khàn giọng nói: “Sao Cơ Anh lại có thể có lỗi với hoàng thượng được?”.

Chiêu Doãn không trả lời câu hỏi của nàng nói thẳng toẹt:

“Nàng khi đó đã là tình nhân của Cơ Anh, hơn nữa, khi giặt quần áo nàng lại dùng cách giống như mẹ ta uống rượu để xua lạnh… Khoảnh khắc đó trẫm cảm thấy vận mệnh bỉ ổi làm sao, cũng đáng thương làm sao. Nó cướp đi của trẫm một người, rồi trả lại cho trẫm một người. Cho nên, mấy ngày sau, trẫm tuyên triệu Cơ Tịch vào cung, nói với lão thất phu đó, trẫm muốn tình nhân của con trai lão”.

Hy Hòa thở hắt ra một hơi lạnh run rẩy hỏi: “Cho nên, ngày hai mươi chín tháng ba, trong rừng hạnh, Cơ Anh…”.

“Ngày hai mươi chín tháng ba, Cơ Anh viết thư hẹn nàng đợi hắn trong rừng hạnh nhưng mãi mà hắn chẳng xuất hiện ... Nàng đợi mãi mà không thấy hắn đến, khi tức giận quay về nhà thì phát hiện cha nàng đã bán nàng cho người khác vì thua bạc. Ngày hôm sau thì nàng vào cung…”.

Cả người Hy Lạp bắt đầu run rẩy dữ dội: “Là hoàng thượng sắp đặt… tất cả những việc đó đều do người sắp đặt?”.

Chiêu Doãn dán mắt nhìn nàng ta, không hề chớp mắt: “Đúng”

Hy Hòa không chút nghĩ ngợi vung tay, chiêu Doãn không né tránh, “bốp” một tiếng, trên gương mặt y lằn năm vết ngón tay.

“Người! Người… người”. Hy Hòa chân trần nhảy xuống giường, tức giận đến mức gằn như không thở nổi, ôm ngực nói:

“Tại sao hoàng thượng phải làm như thế...? Tại sao phải chia cắt ta và Cơ Anh... Tại sao.... Chàng rốt cuộc đã cướp của hoàng thượng thứ gì...? Không phải chàng là đại công thần phò trợ hoàng thượng lên ngôi hay sao... Không phải chàng là thần tử mà hoàng thượng tín nhiệm nhất hay sao... Chàng…”.

Chiêu Doãn lạnh lùng ngắt lời nàng ta: “Nàng nghĩ xem, hắn vì cái gì mới phò tá trẫm thành tân đế...?”.

Hy Hòa sững người.

“Nàng nghĩ xem, vì cái gì mà Cơ gia không giúp thái tử Thuyên thế lực mạnh nhất, không giúp Tấn vương vốn có danh vọng, không giúp Hoằng vương tài trí hơn người, lại chỉ giúp một kẻ không quyền không thế, xuất thân hàn vi, không chút sở trường như ta...?”.

Mỗi câu hỏi thốt ra, y lại bước gần Hy Hòa một bước, Hy Hòa bị dồn ép, lùi đến góc tường, cuối cùng không còn chỗ lùi nữa nàng ta thất thanh kêu lên, ngồi thụp xuống đất.

Chiêu Doãn từ trên cao nhìn xuống nàng ta như thế, ánh mắt sắc nhọn lạnh lẽo như kiếm như băng, giống như hết thảy mũi nhọn sắc bén trên đời này: Chính là vì hắn nợ ta ... Hy Hòa... Tiểu Hồng của nàng đã thực sự nợ ta quá nhiều... quá nhiều cho nên, ngay cả đến nàng cho ta thì hắn vẫn nợ ta, còn lâu hắn mới trả đủ, mãi mãi không trả đủ”.

Là bao nhiêu năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng gian phòng tối tăm, chiếu sáng một người đỏ mặt ...đỏ mày , soi tỏ y đang điên cuồng gào thét ... Nợ ta.... nợ ta... cả đời này kiếp này hắn đều nợ ta!

Đầu Cơ Anh vã mồ hôi lạnh, chàng tỉnh dậy.

Tim chàng bỗng nhói đau dữ dội, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể xé rách lồng ngực chui ra cơ thể lại hoàn toàn bất động, giống như đang chìm trong đầm lầy, không thể nào cựa quậy nổi.

Chàng há to miệng, hít vào thở ra thật sâu, nhưng vẫn không cảm nhận được sức mạnh của không khí, chỉ cảm thấy bản thân sắp đứt hơi đến nơi.

Chính lúc này có người kéo màn sang một bên, rồi một bàn tay ôm chặt lấy cánh tay chàng, một bàn tay khác cầm bình thuốc lạnh ngắt áp lên môi chàng, chất lỏng đắng ngắt rót xuống, không khí dường như cũng theo đó mà tràn vào khoang mũi, cảm giác ngạt thở biến mất trong tích tắc, lúc này chàng mới có thể thả lỏng người.

Đập vào mắt chàng là khuôn mặt nhỏ nhắn đang mặt chau mày nhíu của Tiết Thái: “Ngài bị bóng đè rồi”.

Cơ Anh thở hổn hền, ánh mắt có chút bải hoải vì cơn đau vừa mới qua đi.

Tiết Thái cắt bình thuốc, đột nhiên lại quay người, hỏi một câu: Tiểu Hồng là ai?”.

“Hử...?”. Cơ Anh hơi sững sờ... Tiết Thái nhìn chàng: “Ban nãy ngài vừa gọi cái tên này”.

Cơ Anh liếc nhìn xuống, không tỏ thái độ gì, Tiết Thái lại nói: “Đựợc rồi, không cần nói đâu”.

Nói đoạn, hắn tiếp tục bước về phía trước. Khi hắn vén bức màn chắn gió Cơ Anh lên tiếng:

“Đại Thiên thế giới (là thuật ngữ phật giáo, thường được hiểu với nghĩa là một thế giới có phạm vi rất rộng lớn) , chúng sinh muôn vàn, có thể nói cái tên là đặc chất bẩm sinh. Khi tất cả mọi người cùng dùng một cái tên giống nhau để gọi người thì cái tên đó đã trở thành tượng trưng cho ngươi.... Nhưng, luôn có một người vô cùng đặc biệt với ngươi, vì thế cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi”.

Nói đến đây, chàng dừng lại một lát, khóe môi khẽ nhếch lên, nở một nụ cười nhàn nhạt: “Tiểu Hồng chính là cái tên đặc biệt đó của ta ” .

Tiết Thái im lặng nhìn chàng, ánh mắt sáng lấp lánh.

Hàng lông mày Cơ Anh chau lại, kế đó lại duỗi ra, dáng điệu mang theo một chút xấu hổ hiếm gặp, càng lúc càng dịu dàng hơn:

“Cách xưng hô này có phải rất cổ quái không?”.

“Không cổ quái!”. Tiết Thái đáp: “Ngài vốn dĩ thích màu đỏ”.

Lần này đến lượt Cơ Anh ngạc nhiên: “Sao ngươi biết...?”.

Người đời đều biết Kỳ Úc hầu thích màu trắng, đến thánh thượng cũng ban thưởng cho chàng Bạch Trạch.

“Trong thọ yến của hữu tướng năm đó, ta hỏi xin ngài chiếc bản chỉ, ngài nhất định không cho. Mà chiếc bản chỉ đó màu đỏ”.

Nụ cười của Cơ Anh nhạt dần, gương mặt trong khoảnh khắc đã nhuốm màu bi thương.

Nơi sâu thẳm của nàng nhĩ bỗng khẽ rung lên, phảng phất như có âm thanh từ phương xa vọng lại, xa xôi như cách cả một đời.

Giọng nói đó nói: “Ta gọi chàng là gì nhỉ ... Ta ... sẽ không gọi chàng là công tử, như thế nghe xa cách quá... cũng không thể gọi chàng là Cơ Anh, như thế nghe binh thường quá.... càng không thể gọi chàng là Cơ lang, như thế nghe khoa trương quá… ta muốn dùng một cái tên khác tất cả mọi người trên thế gian này để gọi chàng, như thế mới chứng minh được, tới chàng, ta cũng khác với tất cả mọi người trên thế gian này. Đối với chàng, ta khác với mọi người, đúng không...? Tiểu Hồng…của ta”.

“A ha, lông mày của chàng chau lại kìa, khóe mắt cũng nheo lại, chàng không thích cái tên này sao... Tại sao thế...?

Chàng không thích màu đỏ à? Nhưng mà, màu đỏ là màu ta thích nhất. Thích nhất nhất đấy. Ta dùng mầu sắc mà ta thích nhất nhất, để gọi chàng – người mà ta thích nhất nhất, nghĩ như thế, chàng sẽ chấp nhận được phải không? Tiểu Hồng… của ta”.

“Ta không biết thích một người là cảm giác như thế nào. Nhưng mỗi lần gặp được chàng, trong lòng ta rất ấm áp. Mỗi lần không gặp được chàng, chỉ cần nhớ đến chàng, là cảm thấy lạnh lẽo biết bao. Quá trình tỉa cây, hái hoa, rao bán vốn khô khan và kéo dài, thế nhưng nghĩ đến dáng hình của chàng, nghĩ đến những lời chàng đã nói với ta và cả những lời chàng sắp nói, thời gian đã trôi nhanh hơn, vụt cái đã qua. Thần kỳ biết bao, tại sao trong sinh mệnh con người, lại xuất hiện kỳ tích nhường này? Rõ ràng không có gì thay đổi nhưng chỉ vì có thêm một người, từ đây ánh dương mỗi ngày đều mới mẻ, không khí mỗi ngày đều thơm hương, những người xa lạ ta gặp đều trở nên thân thiết và dễ nhìn hơn… Chàng có phải tiên nhân trong truyền thuyết, đến để thi triển phép thuật mầu nhiệm với ta hay không? Mà sao lại khiến ta trở nên vui vẻ và hạnh phúc thế này. Tiểu Hồng… của ta”.

“Ta thực sự vui vì chàng xuất thân quý tộc, gia thể hiển hách. Ấy, dường như chàng hơi ngạc nhiên, chàng không vui sao? Hãy nghe ta nói hết đi mà. Ta cảm kích biết bao vì ông trời đã thiên vị cho chàng như thế, khiến chàng vừa ra đời đã có được một thứ tốt đẹp nhất thế gian – được các văn sĩ xuất chúng dậy dỗ, được rèn giũa và hun đúc bởi nền văn hóa thượng lưu tao nhã, giúp chàng có được học thức uyên bác, tầm nhìn sâu rộng, khiêm nhường cung kính văn nhã độ lượng, chiếm được vị trí cao mà những kẻ phàm phu tục tử vì thiếu điều kiện nên cả đời cũng không thể đuổi kịp. Xuất thân của chàng đã tạo thành chàng của hiện tại, cho nên, bây giờ ta mới có thể gặp được chàng tót vời như thế này, cho nên ta rất vui. Tiểu Hồng… của ta”

“Tiểu Hồng… của ta”.

“Tiểu Hồng… của ta”.

Giọng nói đó xoay tròn, quẩn quanh, lặp lại. Hết lần này đến lần khác, từng từ từng chữ rõ ràng đến thế, mà biểu cảm trên gương mặt của người nói khi đó lúc nhíu mày lúc nhoẻn cười lúc nhướn mi lúc chớp mắt, vẫn rõ ràng như thế.

Thế gian này, đau đớn nhất chính là hai chữ “đặc biệt”.

Khi ngươi gặp một người đặc biệt, khi những gì người đó nói với ngươi, làm cho ngươi đều hoàn toàn khác những người bình thường khác, thì chắc chắn nàng đã trở thành khắc cốt ghi tâm của người Đặc biệt là, khi đó, năm đó, còn thơ ngây biết mấy.

Cơ Anh trầm ngâm trong giây lát, khoác áo xuống giường, đẩy cửa ra, bên ngoài đêm lạnh như nước.

“Ánh trăng này chiếu xuống Trình quốc, cũng chiếu xuống Bình quốc”.

Đối diện với câu nói chẳng đầu chẳng cuối của chàng, Tiết Thái không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ lạnh nhạt tiếp lời:

“Nhưng dưới ánh trăng của Bích quốc, mới có thứ mà chủ nhân nhớ nhung”.

Cơ Anh nghe xong, thái độ lại càng trầm xuống hơn, một lúc sau chàng mới quay người, nhìn thẳn vào mắt Tiết Thái nói:

“Có thứ của ta. Phải chăng có thứ của ngươi?”.

Tiết Thái cụp mắt, thấp giọng nói: “Nô tài không có thứ gì để nhớ nhung”.

Cơ Anh nhìn hắn đăm đăm một lúc, rồi lần nữa ngẩng đầu nhìn vầng trăng hạ huyền trên bầu trời, thầm thì:

“Không có cũng tốt. Bởi vì một khi có rồi là không thể cắt đứt nổi. Giống như ta giờ phút này, lại… muốn về nhà đến thế”.

Chàng ngừng lại một lát, nhắc lại: “Ta muốn về nhà Tiểu Thái”.

Ánh mắt Tiết Thái lóe lên mấy cái, rồi cũng chìm vào tịch liêu.

Ngày mùng một tháng tám.

Trăng đêm như móc câu, ánh sáng mờ tối.

Ánh trăng chiếu xuyên qua khung cửa sổ bằng vải lụa, lọt vào trong khoang thuyền, soi lên Khương Trầm Ngư đang lấy tay làm gối, mơ màng ngủ ngục trên đống sách vở bừa bãi cuốn mở cuốn gập trên bàn.

Một cuốn sách y thuật bị cánh tay nàng chạm phải, rơi từ trên bàn xuống, khi chạm đất phát ra tiếng “bộp”. Nàng bỗng choàng tỉnh giấc, dụi dụi mắt rồi khẽ gọi:

“Hoài Cẩn?”.

Trong phòng vẫn im lặng như tờ, không có ai trả lời.
Last edited by tuvi on 11 Jul 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười hai : Hồi thành (Phần 2)

Nàng nhìn đồng hồ cát đặt trên bàn, vừa mới qua giờ Sửu lúc nửa đêm canh ba như thế này, Hoài Cẩn không thể ra ngoài, lẽ nào ngủ say quá, cho nên không nghe thấy nàng gọi?

Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi vào gian phòng sau chiếc bình phong, nhìn thấy Hoài Cẩn đang ngồi trên sàn bên cạnh giường, tựa vào đầu giường không hề nhúc nhích. Nàng không kìm được bật cười:

“Sao lại ngồi ngủ thế... Hoài Cần, mau tỉnh dậy, lên giường ngủ đi chứ…”. Ngón tay mới chạm vào bả vai cả người Hoài Cẩn đã đổ ập xuống đất.

Khương Trầm Ngư kinh sợ, còn chưa kịp gọi, cánh tay đã bị tóm chặt, kế đó trên cổ cũng có cảm giác lạnh 1ẽo, hai cánh tay đã bị bẻ quặt ra sau lưng, không thể cựa quậy được.

Đồng thời, một giọng nói vô cùng quen thuộc vang lên sát bên tai nàng: “Ngu thị, đã lâu không gặp…”.

Trái tim Khương Trầm Ngư trùng xuống – Là Di Phi.

Ánh đèn trên thư án phía xa chiếu hắt vào khoảng sau lưng nàng, phác họa nên gương mặt của kẻ đang uy hiếp nàng, lông mày dài đến tóc mai, mắt tựa hoa đào, khi cười thấy một bên khóe miệng nhếch lên, lộ rõ vẻ tà mị và cay nghiệt, không phải ai khác, chính là tam hoàng tử Di Phi đã nhảy xuống nước tháo chạy khi nội loạn Trình quốc xảy ra.

Không ngờ gã lại ở trên thuyền của Bích quốc!

Càng không ngờ gã lại ở trên thuyền của mình tiến vào lãnh thổ Bích Quốc!

Gã muốn làm gì?

“Sao... Ngạc nhiên lắm phải không?”. Di Phi cười hì hì: “Di Thù giăng thiên la địa võng trong đất Trình quốc để bắt ta, nhưng không ngờ ta sớm đã chuồn lên quan thuyền của các nàng xuất cảnh từ lâu. Nàng không muốn biết ta lên thuyền bằng cách nào sao?”

Khương Trầm Ngư cố gắng hết sức để trấn tĩnh bản thân, đáp lại lời gã:

“Ta chỉ thấy lạ là vì ngươi mai phục trên thuyền lâu như thế tại sao trong đêm cuối cùng, khi đã sắp thành công ngươi lại xuất hiện trước mặt ta?”.

Di Phi cười “ha ha”, cúi đầu xuống sát gần mặt nàng, giọng nói trầm thấp và mềm mỏng, tựa như thủ thỉ với tình nhân: Khương Trầm Ngư bị kích động đến mức giãy giụa vùng vẫy theo bản năng, Di Phi lập tức gia tăng lực độ, giữ chặt nàng, trầm giọng quát:

“Đừng nhúc nhích! Ta không muốn. thực sự làm nàng đau”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tầm nhìn bắt đầu mơ hờ, nàng vội vàng chớp mắt để dằn lệ xuống.

“Đúng rồi, như thế mới đúng, ngoan nào, chớ phản kháng. Nếu không, không chỉ nàng mà đến tì nữ của nàng, còn có tên ám vệ nửa sống nửa chết ở gian bên cạnh, e là cũng không giữ được tính mạng đâu”. Di Phi vừa nói vừa đưa tay ra rờ rẫm gương mặt nàng, ánh mắt lóe sáng, nói:

“Ta đã nói một dược nữ quên sao có thể có được tài hoa khí độ như nàng? Chỉ là ta đoán vô số khả năng, nhưng lại không ngờ rằng, hóa ra nàng lại là hoàng phi của Bích quốc... Tên tiểu tử Chiêu Doãn đó đúng là không biết thương hoa tiếc ngọc, lại phái nữ nhân của mình đi vào chỗ ra sống vào chết, xem ra hắn thực sự chẳng quan tâm đến nàng chút nào. Đã không quan tâm đến nàng, ban đầu sao còn phải cướp nàng khỏi tay Cơ Anh chứ...?”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, xem ra Di Phi ẩn mình trên thuyền mấy ngày nay, đã điều tra rõ hết thảy mọi điều về nàng. Mà giờ này phút này, bị gã khống chế, bị gã khinh mạn, gã dùng những lời cợt nhả nói ra quá khứ mà nàng không muốn nhớ lại, nếu nói không kích động, không đau đớn, hay không phẫn nộ thì đều là giả dối tất. Nhưng nếu tỏ ra nửa phần đau khổ, thì chẳng phải sẽ thỏa mãn tâm nguyện của tên tiểu nhân này hay sao.

Khương Trầm Ngư đã quyết ý, tuyệt đối không để Di Phi toại nguyện, vì thế nàng mở to mắt nhìn thẳng đối phương, trên gương mặt trắng bệch không để lộ bất cứ cảm xúc nào.

Thấy dáng vẻ của nàng, Di Phi lại cười nhạt, thân mật nói: “Thật mạnh mẽ làm sao… có điều, nàng như vậy, thực sự khiến người ta thích đó…”. Nói đoạn, gã hôn lên gò má nàng, làn môi nhẹ nhàng di chuyển, từng chút từng chút một, chậm rãi mà dâm đãng tiến lại gần.

Thấy môi gã sắp di chuyển đến môi nàng, cuối cùng Khương Trầm Ngư đành mở miệng: “Ngươi đã có điều muốn cầu xin ta, vậy thì không được bỡn cợt ta ” .

Di Phi dừng lại, nheo mắt nói: “Cái gì?”.

Khương Trầm Ngư tiếp tục nhìn chằm chằm về phía trước, bình thản nói dằn từng từ một:

“Nếu không, nỗi sỉ nhục mà ta phải chịu ngày hôm nay ngày mai ngươi chắc chắn phải trả lại gấp mười gấp trăm lần. Đừng quên đây là Bích quốc. Mà Bích quốc là địa bàn của Khương gia ta”.

Di Phi nheo mắt nhìn nàng một lúc lâu, cuối cung gã buông tay ra.

Khương Trầm Ngư vội quay người lùi ra sau may bước, nàng tựa vào vách thuyền, cảnh giác nhìn gã. Hai người cứ mặt đối mặt nhìn nhau rất lâu rất lâu như thế, Di Phi đột nhiên lại đưa tay ra một cách vô cùng lịch thiệp, làm tư thế. mời:

“Thục phi nương nương, mời ngồi”.

Khương Trầm Ngư lại nhìn gã vài cái, rồi mới kéo một chiếc ghế bên cạnh và ngồi xuống. Trong ống tay áo, có thể cảm thấy một cách rõ ràng tay nàng đang không ngừng run lẩy bẩy. Nàng bỗng cảm thấy vừa có chút chán nản vừa có chút tức giận, làm thân con gái dù cho có thông minh như thế nào, nhưng khi đối diện với kẻ bỉ ổi như thế này, cũng hoàn toàn thất thế.

Di Phi ngó nàng, thong thả nói: Nhìn điệu bộ của nương nương như là hận không giết được ta vậy”.

“Không, ta không muốn giết ngươi”.

Khương Trầm Ngư cố ý ra vẻ lạnh lùng nói: “Ta chỉ muốn tìm mười bảy, mười tám người tới, làm lại một lần nữa việc mà ngươi vừa làm với ta lên người ngươi”.

“Hả..? Vậy thì ta được hưởng thụ quá rồi…”. Lời của Di Phi còn chưa dứt, Khương Trầm Ngư đã bổ sung:

“Tên nào tên ấy mập mạp mũm mĩm trên hai trăm cân, mười năm không tắm rửa, vừa lăn lộn trong bùn, miệng nhai tỏi và cá sống…”.

Lông mày Di Phi dựng lên thành một đường cong kỳ dị, gã nhìn nàng, ánh mắt nửa cười nửa không sáng lên.

“Đúng rồi, còn phải toàn là đàn ông”.

Nói xong, nàng cũng tự thấy không chịu nổi, liền bật cười thành tiếng. Còn Di Phi lại không cười, chăm chú nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: Nếu nàng có thể thỏa mãn ước nguyện của ta, để nàng trút giận như vậy, cũng đâu có gì đáng ngại”.

Khương Trầm Ngư sững người một lát. Trong ánh sáng vàng mờ tối, Di Phi đứng bên cạnh bức màn dầy và nặng, vận áo vải gai màu xám như một tên tùy tùng bình thường của Bích quốc, không còn dáng vẻ phong lưu khoa trương khi trước. Mà vứt bỏ cái vẻ bề ngoài cuồng vọng cợt nhả này, thì gã chẳng qua cũng chỉ là một thiếu niên mười chín tuổi gầy gò mà thôi.

Ánh sáng hắt từ sau lưng gã tới, vạch ra một đường gầy guộc.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, khẽ giọng than: “Ngươi lên nhầm thuyền và cũng cầu xin nhầm người rồi”.

“Câu này nghĩa là sao?”.

“Đáng nhẽ ngươi không nên lên thuyền của Bích quốc. Nếu ngươi lên thuyền của Yên quốc, có thể mượn nghìn quân... Nếu ngươi lên thuyền Nghi quốc có thể vay nghìn vàng... nhưng ngươi lại lên thuyền Bích quốc, thì chẳng có gì cả. Đó là điều thứ nhất.

Phụ thân ta hữu tướng, nhưng trong tay không nắm thực quyền... ta tuy là đế phi, nhưng không được sủng ái. Ngươi không đi cầu người khác, lại đến cầu một kẻ không quyền không thế là ta. Đó là điều thứ hai.

Vậy nên tâm nguyện của ngươi sao có thể thỏa mãn?”.

Di Phi chăm chú nhìn nàng, rất lâu sau mới nở nụ cười nhàn nhạt gã cũng kéo một chiếc ghế rồi lười nhác ngồi xuống, thong thả nói:

“Nương nương thực sự biết ta muốn cầu xin thứ gì sao?”.

“Hoàng vị...?”.

Dường như Di Phi nghe thấy câu chuyện hài nực cười nhất trên đời, gã bật cười ha hả. Khương Trầm Ngư không khỏi cau mày – Cười như vậy không sợ người ngoài nghe thấy sao? Xem ra không chỉ mình gã, mà ba tên thị vệ võ nghệ cao cường của gã cũng cùng lên thuyền, lúc này đang canh gác ngoài cửa, thế nên gã mới dám không kiêng nể gì như vậy.

Di Phi vừa cười vừa nói: “Nương nương ơi là nương nương, uống cho nàng thông minh băng tuyết, lại nhìn nhầm tiểu vương ta. Thứ tiểu vương ta muốn không phải là hoàng vị, không những không phải là hoàng vị, ngược lại ta lại muốn lấy hoàng vị làm quà để cầu kiến một người”.

Trong đầu Khương Trầm Ngư đột nhiên vỡ òa ra một đáp án, mà Di Phi rất nhanh đã nói ra đáp án đó:

“Ta muốn nhờ nương nương dẫn mối, để ta gặp Chiêu Doãn một lần”.

Cát chảy như nước, tia khúc xạ từ chiếc đồng hồ cát ánh lên gương mặt hai người, mờ mờ tỏ tỏ. Trong phòng ngủ, bầu không khí tĩnh mịch, dường như đến tiếng hít thở cũng nhỏ đến mức không thể nghe thấy.

Rõ ràng chỉ trong khoảnh khắc điều cấm kỵ đã được sáng tỏ nhưng khi xác nhận lại chẳng thể nào khẳng định. Kéo một sợi tóc mà làm lay động đến toàn thân, trong lòng Khương Trầm Ngư tự vấn: Chuyện này nên hay không nên giúp... có thể hay không thể giúp?

Tại sao Di Phi muốn tìm Chiêu Doãn, nguyên nhân quá đơn giản: Gã chỉ có thể tìm Chiêu Doãn.

Từ khi Hách Dịch và Chương Hoa ủng hộ Di Thù lên ngôi, liên minh bốn nước đã được thiết lập.Như thế muốn thuyết phục Hách Dịch và Chương Hoa thay đổi phe phái, rõ ràng cực kỳ khó khăn. Có thể coi là mắt xích yếu nhất trong phe đồng minh chính là Bích quốc, nước duy nhất quốc chủ không tự mình đến Trình quốc. Muốn phá hoại mối liên minh này, thì phải bắt đầu xuống tay từ đây.

Hơn nữa, so với Hách Dịch và Chương Hoa, Chiêu Doãn hiển nhiên dễ dàng bị thuyết phục hơn nhiều. Bởi vì…

“Nương nương đang nghĩ. .. tại sao...? Tại sao ta lại không tìm Nghi vương giàu nứt đố đổ vách không tìm Yên vương hùng tài thao lược, mà lại chỉ đi tìm Bích vương nền móng còn yếu...?”

Di Phi giơ một bàn tay lên khẽ vuốt lông mày bên trái của mình, trong nụ cười lại tràn đáy sự châm biếm: “Đương nhiên là vì… so với hai vị hoàng đế kia, Bích vương tham lam hơn hẳn”.

Tham lam.

Không sai, chính là từ này.

Nhớ lại vị quân vương thiếu niên luôn cười híp mắt nhưng nụ cười không toát lên từ đáy mắt đó, Khương Trầm Ngư bất giác thấy ớn lạnh.

“Từ năm ngóai, Bích vương đã âm thầm liên hệ với đại ca của ta, nói sẽ giúp huynh ấy xưng đế và tặng kèm các đồ vật quý hiếm như sắt bát sắc. Chẳng ngờ tên ca ca bất tài của ta lại đem kế hoạch nói cho Di Thù”.

Khương Trầm Ngư nhớ đến đầu ngọn thương bị Phan Phương đánh gãy.

“Đại ca ta vẫn luôn tưởng rằng Di Thù thực lòng muốn giúp huynh ấy, cho nên cái gì cũng dựa vào ả, kết quả lại bị Di Thù lợi dụng, cùng với Kỳ Úc hầu tài trí giỏi giang đó của ả mưu tính cướp thế lực, đoạt ngai vàng của huynh ấy. Nếu như ta đoán không nhầm, hành động lần này của Kỳ Úc hầu, Bích vương không được báo trước”.

Trái tim Khương Trầm Ngư từ từ chìm xuống: Kỳ thực nàng cũng lờ mờ đoán được khả năng này, nhưng thấy Cơ Anh trước sau vẫn có sẵn chủ kiến như không có chuyện gì xảy ra, nên cũng tạm gác lo lắng, nhưng bây giờ lại bị Di Phi cố ý khơi ra, bỗng cảm thấy áp lực nặng nề ập đến.

Di Phi chớp mắt:

“Cho nên, nương nương cảm thấy còn có người nào có thể dễ dàng gây chuyện hơn vị đế vương đang Phẫn nộ này? Và có người nào có thể dễ dàng thuyết phục hơn vị đế vương tham lam này?”.

Khương Trầm Ngư mặt mày trắng bệch, trầm giọng nói: “Nhưng ngươi đựa vào cái gì mà cho rằng ta sẽ giúp ngươi?”.

Di Phi không trả lời ngay, gã thu lại nụ cười, chăm chú nhìn nàng với vẻ buồn bã.

Khương Trầm Ngư tiếp tục:

“Như ngươi nói lúc trước, Kỳ Úc hầu là ý trung nhân của ta, tại sao ta phải giúp ngươi để khiến hoàng thượng vì chuyện Trình quốc đột ngột đổi chủ mà trút giận lên người trong lòng ta?”.

Đồng tử trong mắt Di Phi bắt đầu co lại, rất lâu sau gã mới nói: “Những lời như vậy mà nàng cũng dám nói ra…”.

“Có gì mà ta không dám?”.

Khương Trầm Ngư nhìn gã chằm chằm, cười lạnh:

“Ngươi cho rằng vì cái gì mà ta không chịu ngoan ngoãn làm hoàng phi, mà lại làm một mưu sĩ có thể bị hi sinh bất cứ lúc nào? Ngươi cho rằng vì cái gì mà ta phải dùng tấm thân nhi nữ yếu đuối này bất chấp lành ít dữ nhiều nhảy vào vòng xoay chính trị? Ngươi cho rằng vì cái gì mà lúc này ta phải chịu sự đối đãi vô lễ khinh bạc như thế này của ngươi ở nơi đây?”.

Di Phi nheo mắt, nén giọng xuống cực thấp cực chậm, dường như từng chữ từng chữ đều lọt qua từng kẽ răng:

“Là vì Cơ Anh?”.

Khương Trầm Ngư không hề do dự đáp:

“Đúng thế! Cho nên, ta sẽ không dẫn mối giúp ngươi, ta sẽ không làm bất cứ chuyện gì tốn hại đến Cơ Anh! Hãy nghe cho rõ, ta, tuyệt đối, không làm”.

Ánh mắt Di Phi liếc nhìn Hoài Cẩn nằm dưới đất.

Khương Trầm Ngư lập tức bổ sung thêm:

“Dù cho ngươi có dùng tính mạng của thị nữ thân cận và ám vệ của ta để uy hiếp ta cũng vô dụng. Bọn họ nếu chết vì ta, ta cũng lắm cũng sẽ lấy mạng đền cho họ, nhưng chuyện không thể làm, ta vĩnh viễn sẽ không làm”.

Nét mặt Di Phi trở nên cổ quái, vì quá phức tạp mà khó có thể hiểu được, gã dán mắt nhìn nàng, rất lâu sau vẫn không nói năng gì.

Trong bóng sáng, thiếu nữ ngồi trên ghế mày mắt như tranh vẽ, hàng mi đen rợp, ánh mắt sáng trong, khóe miệng mím chặt yếu đuối mà kiên cường, giọng như một viên dạ minh châu phát sáng lấp lánh.

Đồng tử trong mắt Di Phi từ nhạt chuyển sang đậm, cuối cùng gã khẽ thở dài một tiếng: “Nàng tên là Khương Trầm Ngư, là Trầm Ngư trong “trầm ngư lạc nhạn’?”.

“Chẳng phải ngươi đã biết rồi sao?”.

“Nàng chào đời vào giờ Thìn ba khắc ngày Bính Sửu tháng Canh Tí, năm nay mới mười lăm tuổi”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy câu hỏi của gã rất kỳ quặc, không khỏi có ý đề phòng: “Rốt cuộc ngươi muốn nói gì?”.

Di Phi lấy tay vuốt mày, hơi hơi cúi đầu, cười rung cả vai, vừa cười vừa lắc đầu than rằng: “Nhân sinh như một ván cờ, quả nhiên không sai chút nào. Mùa xuân năm ngoái, ta từng gặp cha nàng ở Tân Châu, Cầm Tửu hiến kế cho ta hãy xin cưới con gái của ông ta, lúc đó ta cao ngạo, không chịu đồng ý, sớm biết người sẽ gặp là nàng…”. Nói đến đây, giọng gã thấp dần, thấp đến mức không nghe thấy gì nữa.

Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng như phát sốt, một mặt cố nhiên là nàng không ngờ giữa mình và Di Phi có một mối liên quan sâu xa đến vậy, một mặt bị chấn động vì sự thực phụ thân nàng và Di Phi từng ngầm qua lại với nhau. Nghĩ lại thái độ của phụ thân từ khi nàng đi sứ đến nay, rõ ràng thân là thần tử của Bích quốc, nhưng lại không theo hoàng thượng phù chính Lân Tố, cũng không theo Cơ Anh giúp đỡ Di Thù, sao lại có thể đặt mình ngoài cuộc không hề đếm xỉa như vậy chứ. Ngẫm lại, chẳng lẽ Phụ thân chọn tam hoàng tử Di Phi sao...? Mà trước đây Di Phi không chỉ âm thầm giành được sự ủng hộ của Nghi quốc, mà cũng đã thỏa thuận được điều kiện nào đó với phụ thân nàng rồi chăng?

Hết câu hỏi này đến câu hỏi khác bật ra trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy đáng sợ, nàng nắm chặt tay lại, cảm giác có một nỗi bất an trào dâng trong lòng – Vận mệnh lớn mạnh như thế, phức tạp như thế, khiến người ta kinh hãi như thế…

Khương Trầm Ngư cụp mi, cắt giọng nói pha lẫn chút mỏi mệt: “Cho nên, sở dĩ ngươi có thể thuận lợi ẩn nấp trên thuyền của chúng ta, đều là nhờ phụ thân ta âm thầm giúp đỡ”.

“Ha ha”. Di Phi chỉ cười, nhưng nụ cười đó không nghi ngờ gì nữa đã xác minh tất cả.

“Cho nên, ngươi điều tra thân phận thực sự của ta, trong đêm khuya khoắt đến tìm ta, bảo ta đưa ngươi đến gặp Chiêu Doãn, vì đoán chắc rằng ta sẽ không thể chối từ?”.

“Ha ha”.

“Nếu như ta từ chối, việc phụ thân ta và ngươi ngầm liên hệ với nhau sẽ bị phơi bày hoàng thượng biết được chắc chắn sẽ nổi giận, đến lúc đó Khương gia chúng ta sẽ là Tiết gia thứ hai?”.

Khương Trầm Ngư túm chặt ống tay áo của mình, chất lụa mềm mại biến dạng trở nên nhàu nhĩ dưới ngón tay nàng:

“Phụ thân ta xưa nay hành sự luôn luôn thận trọng, nhưng lại để lại nhược điểm lớn như thế này cho ngươi… Xem ra, đây không chỉ là ý của ngươi, mà cũng là ý của ông ấy chăng?”.

Lần này, Di Phi không cười nữa. Gã im lặng nhìn nàng, ánh mắt dìu dịu mang lẫn chút xót thương.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư đờ đẫn rớt xuống đất, ván nền bằng gỗ cây dữu (Họ cây cam, quýt ) bóng loáng bị bóng râm che phủ, giống như cuộc đời của nàng, rõ ràng mong mỏi ánh sáng đến tột độ nhưng lại đủ thứ níu kéo, kìm chân, không thể giải thoát.

Phụ thân của nàng nhìn tưởng nhu nhược, ngu tối vô năng.

Nhưng một người vô năng thực sự sao có thể trở thành hữu tướng của Bích quốc suốt bảy năm? Trong quãng thời gian đó trải qua một loạt sóng gió... tiên đế băng hà... thái tử chết trận... Chiêu Doãn đoạt ngôi... Tiết gia diệt môn, nhìn qua tưởng như không hề làm gì, nhưng trước sau luôn không yên ổn.

Một người vô năng sao có thể bí mật huấn luyện nhiều ám vệ đến thế, ngấm ngầm bố trí thế lực đến tận các nước khác?

Phụ thân của nàng kỳ thực lợi hại hơn những gì nàng thấy, nàng biết và nàng tưởng tượng.

Lợi hại đến mức lúc này phải dùng một người ngoài để ép nàng đưa ra lựa chọn.

Hễ nghĩ đến điểm này, trái tim nàng lại đau đến mức không thể kìm nén nổi.

Việc làm của phụ thân không nghi ngờ gì nữa là muốn đối đầu với Cơ gia, cho nên, ông đang ép nàng, ép nàng vứt bỏ công tử, toàn tâm toàn ý bảo vệ gia tộc.

“Ngày này…”. Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói u uất: “Quả nhiên đến rồi…”.

Ta sợ công tử lấy ta, không biết là họa hay là phúc. Nỗi lo từ rất lâu về trước đó, theo thời gian đã lắng kết thành lời nguyền, biến thành kiếp nạn khắc cốt ghi tâm đã đến ngay trước mắt rồi?

Bởi vì ta là con gái của Khương gia.

Nàng họ Khương, tên gọi Khương Trầm Ngư.

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ, ta sẽ hi sinh công tử, lựa chọn nhà mẹ đẻ.

Một lời thành sấm truyền.

Vận mệnh.

Vận mệnh lớn mạnh, phức tạp và khiến người ta sợ hãi như thế.

Vầng thái dương từ trên mặt biển xé tầng mây nhô lên, bình minh đến trong nháy mắt, rực rỡ chói lòa.

Khương Trầm Ngư đứng ở mũi thuyền, chăm chú ngắn bình minh như một ngọn lửa đỏ, ánh sáng trong đôi mắt như ánh nắng sớm.

“Tiểu thư, về phòng nhé”. Hoài Cẩn nói.

Khương Trầm Ngư mở miệng, giọng nàng mơ mơ hồ hồ như nói mơ:

“Ta từng không hiểu tại sao phu tử nói trong mệnh của ta thiếu ngọc, sẽ thành thương tổn lớn. Ta ngỡ liên quan đến bát tự, đến ngũ hành. Nhưng ngọc không phải kim loại không phải đá, thiếu hay không thiếu thì có quan hệ gì? Không ngờ… thật không ngờ…”.

Tiểu thư…”.

“Hoài Cẩn, rõ ràng ta đã có em và Ác Du, tại sao vẫn còn vô duyên với ngọc...?

“Tiểu thư…”.

“Rõ ràng không phải tin số mệnh. Nhưng, e rằng ta thực sự bị nguyền rủa cũng không chừng”.

“Tiểu thư…”. Bộ dạng của Hoài Cần như chực khóc đến nơi.

Khương Trầm Ngư quay người, nhìn thẳng vào nàng ta, bỗng mỉm cười, sau đó lại nhẹ nhàng nắm chặt tay nàng ta nói:

“Cho dù thế nào, ta đã có ba mươi sáu ngày này. Ta phải… cảm tạ ba mươi sáu ngày này. Trong ba mươi sáu ngày này, ta rất vui. Thực sự, thực sự rất vui”.

“Tiểu thư…”.

Khương Trầm Ngư quay người nhìn biển lớn xán lạn không chớp mắt, rành rọt nói: “Hoài Cẩn, em nhìn xem, ánh dương đẹp làm sao”.

Ánh dương đẹp làm sao.

Thế nhưng, lần này nó không mang đến những ngày tháng hi vọng. Mà sẽ mang tới sự hủy điệt thiêu đốt hết thảy.

Một tia sét rạch ngang bầu trời, những đám mây đen kịt đột ngột rách toang, hắt ra một ha sáng màu đỏ đậm, ngay sau đó trời đổ mưa như trút nước.

KhươngTrầm Ngư vén rèm ngẩng đầu nhìn ra xa, Hoài Cẩn phía sau nói: “Bầu trời trên biển thật là kỳ lạ, ban sớm còn nắng hừng chiếu rọi, bây giờ đã mưa tới tấp rồi”.

Bờ sông phía xa xa có một người áo xanh ô đỏ đứng xúm lại, trông cực kỳ bắt mắt. Khương Trầm Ngư liếc nhìn họ một cái rồi quay người lấy quyển trục trên bàn, Hoài Cẩn vội vàng tiến lên phía trước giúp nàng giở quyền trục ra, bên trong là một bức địa đồ của Bích quốc.

Hoài Cẩn nhìn tấm địa đồ một cách đò xét, nói: “Chúng ta sắp đến Hồi thành rồi. Thành chủ của Hồi thành bây giờ là Vệ Ngọc Hành”.

“Vệ Ngọc Hành?”.

Hoài Cẩn che miệng cười nói:

“Tiểu thư không nhớ sao? Hắn là võ trạng nguyên gây chấn động đế đô năm năm về trước đó. ‘Há đâu cam chịu khuất quyền thế, Kết tóc se tơ chẳng chia lìa’, chính là nói đến hắn”.

Khương Trầm Ngư “à” một tiếng bỗng nhiên nhớ ra.

Năm năm trước, Vệ Ngọc Hành mười tám tuổi tài hoa đương thịnh, giành được ngôi võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu. Khi cùng văn trạng nguyên triều kiến thiên tử, bá quan văn võ đều kinh ngạc: Hắn mặc áo tim, mũ cao giáp bạc, mắt phượng thân rồng, nổi bật đến mức khiến cho toàn bộ đám thư sinh văn nhược xung quanh đều thất sắc lu mờ.

Năm đó trong ngự hoa viên, nụ ngọc hoa quỳnh đều bung cánh nở, cảnh sắc tươi sáng như tuyết, nhưng lại không sánh được với nụ cười của hắn.

Con gái độc nhất của tả tướng gia Tuyên Lưu vừa gặp hắn đã đem 1òng ngưỡng mộ. Tả tướng liền khẩn cầu tiên đế với hắn làm con rể. Ai ngờ trước Cầm Dương điện, Vệ Ngọc Hành lại khước từ, nguyên nhân chỉ có năm chữ – đã có vợ Đỗ Quyên.

Tuyên Lưu si mê hắn, nguyện lấy thân phận thiên kim tiểu thư tôn quý để hai gái chung một chồng, nhưng ngày hôm sau, khi Vệ Ngọc Hành dìu người vợ kết tóc se tơ của hắn là Đỗ Quyên tấn kiến thánh thượng, tất cả mọi người nhìn nữ nhân đó thì không thốt lên nổi nửa lời.

Bởi vì…

Nàng ta là một người mù.

Hoàng đế Hành Xu than rằng: “Bạn lúc nghèo hèn chẳng thể quên, vợ lúc tao khang không thể phụ. Thôi, thôi, thôi”.

Ba tiếng “thôi” này đã cắt đứt hoàn toàn si niệm của thiên kim tả tướng, trở thành một giai thoại tình chồng vợ lúc nghèo hèn còn bền vững hơn vàng đá. Nhưng cũng vì thế mà để lại mầm họa khiến Vệ Ngọc Hành thất ý chốn quan trường sau này. Trong cuộc tranh ngôi giữa thái tử Thuyên và Chiêu Doãn, tả tướng tìm được một cái cớ để ép hắn rời đế đô, từ đó về sau, Vệ Ngọc Hành không còn quay lại đế đô được nữa.

Không thể không thừa nhận, càng là những nhân vật đình đám, muốn nổi danh thiên hạ thì không thể thiếu được hai chữ “địa lợi”. Bởi vì thế, Vệ Ngọc Hành rời khỏi đế đô tuy anh tài vẫn còn đó, nghĩa dũng vẫn y nguyên, nhưng không thể nào làm được chuyện lớn. Lâu dần, mọi người quên mất còn có một người như vậy… Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây không khỏi có chút nuối tiếc, mong sự tiếc nuối của nàng, thuyền đã vào gần đến bờ, từ từ cập bến.

Trên bờ sông, theo tiếng hô hiệu lệnh, tiếng nhạc đón khách của Hồi thành vang lên, thật khác với những địa phương khác, trong thứ nhạc này tràn ngập màu sắc trang nghiêm và thê lương.

Một người đứng ra khỏi hàng, nhìn con thuyền cập bến đất mẹ, liền bước lên phía trước một bước, ôm quyền thi lễ nói:

“Vệ Ngọc Hành của Hồi thành cung nghênh chư vị đại sứ”.

Màn mưa mờ mịt, ô đỏ xoay tròn, nam tư dưới ô ngẩng đầu lên, nhướng mày, giống như có một luồng ánh sáng rớt xuống khuôn mặt hắn, trong nháy mắt trở thành vĩnh hằng.

Mưa lớn vẫn rơi rào rào, xung quanh tứ phía, chim chóc im bặt.

Áo tím giáp bạc, độc nhất vô nhị.

Thời gian năm năm, mấy độ xuân thu, hoạn lộ mờ mịt tiền đồ tối tăm, nhưng không hề làm phong độ của hắn giảm đi phân lượng nào.

Hắn cầm một chiếc ô đỏ tắm trong mưa rào, thái độ lãnh đạm giống như một vị khách đứng ngoài cuộc.

Giây lát sau, một tiếng cười khe khẽ thong thả cất lên, Cơ Anh bước ra phía trước, đáp lễ:

“Đã làm Ngọc Công vất vả rồi”.

Mấy chữ này giống như một chiếc khóa thần kỳ, trong khoảnh khắc sự yên ắng được hóa giải, sự ngượng ngùng tiêu tan, thần trí của tất cả mọi người cũng quay trở lại.

Cơ Anh giới thiệu bọn Giang Vãn Y và Phan Phương với Vệ Ngọc Hành, mọi người bắt đầu lục tục xuống thuyền, theo sau đội ngũ đón khách tiến về phía dịch quán.

Mưa tuôn xối xả, đường trong thành lầy lội cực kỳ khó đi bánh xe thỉnh thoảng lại lọt xuống bùn, qua mấy hồi trắc trở, khi đến dịch quán, chân người nào người nấy bê bết toàn bùn là bùn.

Hoài Cẩn không kìm được than khẽ: “Xem ra mấy năm nay Ngọc Công quả nhiên đã sa sút nhiều…”.

Khương Trầm Ngư nhíu mày: “Nói thế nghĩa là sao?”.

“Tiểu thư nhìn kiến trúc trong thành mà xem, phần lớn đều là nhà cửa xây dựng hơn mười năm, cũ kỹ đến mức không tả nổi. Đường đi lại lầy lội khó đi như thế có thể thấy về phương diện kiến thiết, không phải không làm, mà là không có tiền để làm”.

“Sao em biết số tiền đó không phải đã bị hắn tham ô? Theo ta biết, mỗi năm quốc khố đều cấp tiền trợ giúp xây dựng cho các thành”.

Hoài Cẩn lắc đầu đáp:

“Không đâu! Ngọc Công tuyệt đối không tham ô! Một người,chính trực thà đắc tội với tả tương chứ tuyệt đối không vứt bỏ người vợ mù của mình không thể làm cái chuyện bẩn thỉu như tham ô được!”.

Khương Trầm Ngư thấy vẻ nghiêm tức hiếm thấy của Hoài Cẩn, bèn cười cười không nói tiếp nữa, mà theo đám người đi vào trong dịch quán. Dịch quán chẳng qua chỉ là một dãy nhà ngói, tương đối cũ kỹ, may mà được quét dọn rất sạch sẽ, trong sân còn trống rất nhiều loại cây cỏ, xanh tốt um tùm, tắm mưa mà nở, khiến khung cảnh trở nên rạng rỡ hơn hẳn.

Khi Khương Trầm Ngư đi qua một hàng cây trong đó, nàng khẽ “ồ” một tiếng.

Giang Vãn Y ngoái đầu lại hỏi: “Sao thế?”.

“Lán cánh cúc”.

Lời vừa thốt ra, không chỉ Giang Vãn Y mà cả đám Cơ Anh và Tiết Thái phía trước cũng lần lượt quay đầu lại.

Lan cánh cúc là một loài quý hiếm trong họ nhà lan, vì cánh hoa giống cánh hoa cúc nên có tên gọi như vậy. Cây hoa trong sân lúc này màu sắc càng thuần túy cánh hoa nở bung, nở hơn hai mươi cánh, cực kỳ hiếm thấy, đã quý lại còn hiếm hơn!

Giang Vãn Y không kìm được hơi quỳ xuống ve vuốt một chiếc lá hoa, trong mắt tràn ngập sự kinh ngạc, than: “Loài hoa này xưa nay đều nở vào hết cuối đông đầu xuân, mà bây giờ đang là mùa hạ…”.

“Không chỉ như thế”. Khương Trầm Ngư giơ tay ra chỉ: “Nhìn xem, bên kia còn có hoa súng”.

Trong đầm phía không xa, mấy bông súng tím nở rộ, màu sắc rực rỡ, cực kỳ diễm lệ, nhụy vàng óng ả, từ nhụy đến cánh sắc tím càng lúc càng đậm, cuối cùng chuyển hẳn thành tím biếc.

Lan cánh cúc, hoa súng, bình thường có thể gặp được một trong số chúng đã là may mắn, lúc này lại có thể thấy ở cùng một nơi, hơn nữa lại còn mọc trước căn nhà ngói xấu xí này, chẳng phải sẽ khiến những người đi đường có nằm mơ cũng không ngờ rằng, cách họ một bức tường lại là nỗi nối tiếc cả đời sao.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Thợ làm vườn ở đây là ai?”.

Vệ Ngọc Hành quay người lại, lạnh nhạt đáp: Hoa cỏ chốn này đều do một tay nội tử trống”.

Một tràng xuýt xoa vang lên, ai cũng biết thê tử của hắn là một người mù, nhưng nàng ta lại có thể trồng được loại hoa hiếm cớ mà ơi thợ giỏi phải sầu não vì không trồng nổi, sao có thể không khiến người ta sững sờ kinh ngạc?

“vậy phu nhân bây giờ ở đâu? Có thể cho phép ta bái kiến được không?”.

Khương Trầm Ngư giải thích: “Là như thế này, sắp đến ngày sinh nhật của gia mẫu, người rất yêu hoa lan, nếu có thể học được cách trồng loài hoa này…”.

Hai hàng lông mày Vệ Ngọc Hành hơi nhíu lại một chút, hắn thấp giọng đáp: “Bệnh nằm trên giường, không hẹn gặp khách”

“Vậy à”. Khương Trầm Ngư khó giấu vẻ thất vọng, đành lùi ra sau mấy bước, hòa lẫn vào trong đám người.

Ánh mắt Cơ Anh dừng lại trên người nàng một lát rồi quay người bước tiếp, đoàn người lại chầm chậm bước vào nhà.

Tiệc trong nhà đã được bày biện sẵn, mọi người lần lượt ngồi vào bàn, theo lệ Khương Trầm Ngư vẫn ngồi bên cạnh Giang Vãn Y, Giang Vãn Y thấy nàng cúi đầu chau mày ra chiều buồn bã không vui, bèn nghiêng người qua thì thầm: Ta tìm cơ hội khám bệnh cho Vệ phu nhân, rồi sẽ đưa muội đi cùng”.

Khương Trầm Ngư nghe xong liền ngẩng đầu mỉm cười.

Bên kia, Vệ Ngọc Hành rót đầy chén rượu, nâng chén mời Cơ Anh: “Hầu gia đường xa quay về, Ngọc Hành thay mặt các sơn thành chốn biên cương mời hầu gia một chén”.

“Ngọc Công, mời”.

Cơ Anh đáp lễ, uống cạn chén rượu, hai hàng lông mày khẽ động, khẽ tới mức gần như không thấy được nhưng trong nháy mắt sắc mặt lại bình thường tươi cười nói:

“Cách biệt mấy năm, cây hải đường mà Ngọc Công, đích thân trồng trong Hàn Du viện năm đó đã cao hơn hai trượng rồi”

Gương mặt vốn thừa nghiêm trang, thiếu thoải mái của Vệ Ngọc Hành vì câu nói đó mà tươi tỉnh lên ít nhiều, ngậm ngùi nói:

“Vốn dĩ lúc mua là một cây bệnh, tất cả mọi người đều nói nó không sống nổi”.

“Ta vẫn nhớ vì cái cây này mà Ngôn Ông đánh cược với ngươi…”.

“Ha ha! Ngôn Duệ là đệ nhất trí giả đời nay, học rộng hiểu nhiều, kiến thức phi phàm, những sự vật mà ông ta đã nhận định không bao giờ sai. Đáng tiếc, ông ta thật không thể nào ngờ…”.

“Ông ta không thể nào ngờ rằng, không chỉ có một vị võ trạng nguyên yêu hoa như tính mạng, mà vị võ trạng nguyên này còn có một vị thê tử tinh thông trồng hoa. Được sự chuyên tâm chăm chút của hai người, cây hải đường đó đã sống được”.

“Đúng thế…”.

Vệ Ngọc Hành nói, mắt nhìn ra xa, hắn vốn dĩ dung mạo anh tuấn phi phàm, lúc này hàng lông mày giãn ra, ánh mắt dịu dàng, hơi tươi cười, trông lại càng phong độ ung dung:

“Ngôn Ông thua cược, ở nhà hạ quan nửa năm đem hết sáng tác lúc bình sinh của ông ta khắc vào thẻ tre. Lúc rời kinh, tất cả mọi thứ đều vứt bỏ, duy chỉ có sổ sách này là hạ quan không nỡ vứt, đành thuê một chiếc xe trâu thồ đi, vì thế mà chậm tới Hồi thành mất mười ngày… Nội tử đến nay vẫn . Còn giữ những cuốn thẻ tre này, ngày ngày sờ để đọc”.

Cơ Anh nhíu mày nói: “Nếu là ta, rề rà hơn mười tháng ta cũng phải mang theo, số thẻ tre Ông Lão tự tay khắc, e là trong thiên hạ chỉ có một bộ này… Hai năm trước, sau khi ông ta gác bút viễn du, tất cả mọi người đều mất liên lạc với ông ta, cũng không có tác phẩm mới nào ra đời, thật là khiến vô số người mỏi mắt trông ngóng, luyến tiếc thở dài”.

“Gác bút?”. Vệ Ngọc Hành kinh ngạc.

“Ừ”.

“Tại sao?”.

Cơ Anh im lặng một lát, mới cúi nhìn, đáp: “Nghe nói có liên quan đến đệ tử của ông ta là Diệp Nhiễm, nhưng nguyên do thực sự trong đó lại không thể nào biết được”.

Nghe đến cái tên Diệp Nhiễm, Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên. Điệp Nhiễm chính là phụ thân của Hy Hòa phu nhân, tuy là đồ đệ của Ngôn Duệ, nhưng lại là kẻ bất tài nhất, suốt ngày say sưa túy lúy, mơ màng sống qua ngày. Đối với tên đồ đệ này, Ngôn Duệ hẳn cũng kỳ chán ghét, sao lại vì hắn mà gác bút? Thật ngoài sức tưởng tượng…

Vệ Ngọc Hành lại không hề kinh ngạc, chỉ lầm rầm nói một câu: “Diệp Nhiễm… ông ta khỏe không?”.

“Diệp Công…”, giọng Cơ Anh trở nên trầm thấp: “Đã về cõi tiên năm ngoái rồi”.

Ánh mắt Vệ Ngọc Hành thoáng chốc trở nên mịt mờ, im lặng một lúc lâu mới trấn tĩnh trở lại, nói: “Cũng tốt”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư hết đỗi tò mò, chỉ mong hai người đó nói chuyện nhiều thêm một chút, ai ngờ Vệ Ngọc Hành lại không nói cặn kẽ, chỉ vẫy tay dặn dò người hầu bưng đồ ăn lên.

Đồ ăn bưng lên rất đơn giản, gồm hai món chay hai món mặn, các sứ thần đi đường đã quen được tiếp đãi ê hề rượu thịt nay nhìn thấy bàn tiệc tổng cộng có bốn món chính, không khỏi có chút kinh ngạc – Hồi thành thực sự đã nghèo nàn đến mức này sao?

Vệ Ngọc Hành lại chẳng hề mảy may xấu hổ, rất bình tĩnh nói: “Đây đều là những món nội tử cẩn thận tuyển chọn, hầu gia nếm thử xem có vừa miệng hay không?”.

“Được”.

Cơ Anh cầm đũa. Mọi người thấy vậy cũng lần lượt động đũa, đúng là không ăn thì không biết thế nào, nhưng vừa đưa vào miệng là khiến người ta giật mình. Những món ăn nhìn thì bình thường, nhưng vào miệng thì thơm lừng, ngon không tả xiết.

Vệ Ngọc Hành giới thiệu:

“Món măng tre hun khói này làm từ loại măng xanh như ngọc bích của núi Tảo Xuân nổi tiếng nhất bản thành. Cách chế biến không khó, vào tiết khai xuân hàng năm lên núi hái măng, sau bưởi trưa thì dùng khói lửa hun, rồi đào hố chôn, đến mùa hạ mới đào lên nấu lại lần nữa mới có thể giữ nguyên hương vị, giòn bùi thơm ngon”.

Cơ Anh khen ngợi: “Ngon”.

“Món thứ hai là Ngư Hương Gia Long, cách chế biến tương đối phức tạp, cà tím rửa sạch, khía hai bên rồi xiên vào xiên tre, đem ngâm trong một loại nước điều chế đặc biệt, một khắc sau lấy ra phơi khô, lăn qua bột chiên giòn, rồi chiên dầu đến khi quả cà được định hình thì vớt ra, đợi dầu sôi trở lại, lại bỏ vào chiên sơ một lần nữa đến khi ngoài giòn trong mềm thì rút bỏ chiếc xiên tre. Cuối cùng còn phải điều chế loại nước ướp cá (là một loại gia vị chuyên để ướp cá của Trung Quốc.) trộn hạt điều rồi rưới nước sốt lên quả cà. Lúc này mới được coi là thực sự hoàn thành”.

Cơ Anh cười nói: “Xem ra Ngọc Công không chỉ thích hoa, mà còn nghiên cứu khá kỹ về ẩm thực”.

“Hai món còn lại là cá hấp, canh rau thập cẩm Uyên Ương, tiểu quan không cần phải nói thêm tránh bị chê cười”. Lần này Vệ Ngọc Hành giải thích xong xuôi, trong chốc lát mọi người đã thay đổi hẳn cách nhìn về hắn, những món ăn tưởng chừng như sơ sài thô lậu, lập tức trở thành những sơn hào hải vị hiếm có. Cá thịt ngày nào cũng ăn, nhưng những món mỹ vị đẳng cấp này, cũng giống như các loài kỳ hoa dị thảo bên ngoài, đều trân quý hiếm gặp. Trong một lúc tiếng khen ngợi tấm tắc nổi lên rào rào, mọi người ngon miệng nên ăn rất hào hứng.

Trong lòng Khương Trầm Ngư lại hiểu rất rõ rằng, vị Ngọc Công này rõ ràng là “đùng sự đặc biệt mới mẻ để giành phần thắng”.

Hắn làm như thế không ngoài hai lý đo, nếu không phải cố ý làm theo sở thích của Cơ Anh để lấy lòng thượng cấp; thì là đã thực sự cùng đường bí lối, không hề dư dả, nên chỉ có thể đánh vào mùi vị của thức ăn. Hơn nữa mọi người ở trên thuyền chòng chành lắc lư suốt một tháng, không được ăn hoa quả rau xanh tươi ngon, nên càng thấy những món ăn như thế này ngon miệng hơn.

Theo nàng thấy, khả năng thứ hai cao hơn khả năng thứ nhất.

Vừa nghĩ đến đây, nàng không kìm được thở dài – Nếu năm đó hắn không từ chối hôn ước, thì bây giờ e rằng thành tựu còn hơn cả Phan Phương. Rồi nàng liếc mắt nhìn hoa cỏ bên ngoài cùng những món ăn bày trên bàn, nàng lại cảm thấy, cưới được người vợ như thế, người chồng còn mong gì hơn?

Vị phu nhân Đỗ Quyên đó thực sự có chỗ hơn người…

Bữa tiệc tẩy trần đã kết thúc trong bầu không khí vui vẻ và an lành, đám người hầu của Vệ phủ đang định dẫn mọi người đến phòng dành cho khách để nghỉ ngơi, Giang Vãn Y khẽ kéo tay áo của Khương Trầm Ngư, nói với Vệ Ngọc Hành:

“Tại hạ cũng hiểu sơ sơ y thuật, nếu như không chê, liệu có thể khám cho tôn phu nhân hay không?”.

Vệ Ngọc Hành sững ra một lát, mới nói:

“Y thuật của hầu gia tuyệt đỉnh thiên hạ, Ngọc Hành cũng đã nghe tiếng, chỉ có điều nội tử tuy bệnh đã lâu, nhưng cũng không có gì đáng ngại, không dám phiền đến kim thể của hầu gia…”.

Khương Trầm Ngư thầm kinh ngạc: Phải biết rằng Giang Vãn Y nay đã mang thân phận tôn quý khác xưa, tuy bản thân hắn không muốn làm phách ra vẻ, nhưng muốn được hắn đích thân chẩn bị phải xếp vào hàng vương hầu khanh tướng mới được. Chỉ là phu nhân của một chủ thành nhỏ nơi biên ải, nếu không phải là cơ duyên tình cờ, thì sao có thể mời được hắn, chẳng ngờ một kẻ xưa nay vốn yêu vợ như Vệ Ngọc Hành lại chẳng buồn nghĩ ngợi mà đã từ chối chuyện tốt từ trên trời rơi xuống này. Hiển nhiên Giang Vãn Y còn sửng sốt hơn cả nàng, hắn nói với vẻ không hiểu:

“Không phiền, là ta tiện thể mà thôi…”.

“Vẫn xin được đa tạ mỹ ý của hầu gia, thực sự không cần đâu…”

lúc này, một bà lão mặc áo xám chạc ngũ tuần rảo bước đi tới vừa đi vừa nói: “Bên đó là Đông Bích hầu Giang đại nhân”.

Vệ Ngọc Hành nhìn thay bà lão, sắc mặt hơi biến đổi: “Dì Mai, sao dì tới đây?”.

Bà lão được gọi là dì Mai đó vội vã đến trước mặt GiangVãn Y, thi lễ nói: phu nhân nhà ta mời Giang đại nhân”.

Giang Vãn Y nhíu mày: “phu nhân nhà bà?”.

Vệ Ngọc Hành cười khổ đáp: “Chính là nội tử”.

“Giáng đại nhân, mời đi bên này”. Dì Mai khom người làm tư thế mời.

Giang Vãn Y nhìn Vệ Ngọc Hành Vệ Ngọc Hành lộ vẻ bất đắc dĩ, cuối cùng lui một bước nhỏ, thế là Giang Vãn Y đưa mắt ra hiệu với Khương Trầm Ngư, xách hòm thuốc đứng dậy.

Khương Trầm Ngư theo hắn ra khỏi phòng khách, trong lòng lại càng đong đầy mối nghi hoặc. Vệ Ngọc Hành mấy lần từ chối rõ ràng là không muốn Giang Vãn Y thăm bệnh cho phu nhân, chẳng ngờ Đỗ Quyên lại tự mình sai người hầu đến mời.

Thú vị.

Xem ra, đêm nay ở lại Hồi Thành còn có thể chứng kiến được rất nhiều chuyện hay ho đây…
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười ba : Cờ đêm (Phần 1)

Đi một mạch về phía Tây xuyên qua một dãy tường bao, con đường nhỏ vốn được lát đá đã được sửa thành lát gỗ, hai bên còn có tay vịn, dưới ván rỗng không, đi lên đó phát ra âm thanh lộc cộc.

Cách một quãng nhất định, ở chỗ tiếp nối của mỗi nhịp tay vịn còn treo một ngọn đèn sáng, những chiếc đèn đó phía dưới là nến, phía trên là tinh dầu, loại dầu đó không biết làm từ gì mà đốt lên lại tỏa ra thứ mùi thơm thoang thoảng.

Bấy giờ mưa đêm lất phất, hương thơm thấm phổi, cảnh trí càng làm người ta thư thái, phòng ốc tuy không xảo mỹ lệ, nhưng mỗi cây mỗi hoa, mỗi rèm mỗi ghế, mỗi chi tiết đều chất chứa tâm tư ở trong đó.

Phía cuối hành lang gỗ là hai gian phòng nhỏ.

Từ xa Khương Trầm Ngư đã nghe thấy tiếng động lách cách rất có quy luật, đến gần thì hóa ra là một nữ tử đang ngồi đệt vải.

Cửa phòng mở rộng, nữ tử đó đang ngồi trước khung cửi quay lưng lại với khách, chiếc áo bằng vải gai màu xanh nhạt, mái tóc dài đen nhánh buông xõa mềm mại trên áo tựa dòng nước chảy, tựa luồng ánh sáng, rõ ràng là khung cảnh “tĩnh” nhưng lại có cảm giác “động” vô cùng vi diệu.

Chỉ nhìn bóng dáng ấy, KhươngTrầm Ngư liền khẳng định: Không nghi ngờ gì nữa đó chính là Đỗ Quyên.

Trong những lời đồn đại đều nói Đỗ Quyên là người xấu xí không phải là một mỹ nhân. Nhưng nữ tử xuất thân bần hàn lại thêm đôi mắt mù lòa này lại có thể khiến một nam nhân như Vệ Ngọc Hành dám vì nàng ta mà chối từ thiên kim tướng gia, vứt bỏ tiền đồ, ắt phải có điểm đặc biệt.

Mà điểm đặc biệt này có lẽ bắt nguồn từ sự tồn tại yên tĩnh mà linh động của Đỗ Quyên.

Rõ ràng hai bàn tay và đôi chân của nàng ta đều đang thực hiện động tác dệt vải trên khung cửi nhưng nhìn lại có vẻ trầm tĩnh rõ ràng có vẻ rất trầm tĩnh nhưng lại khiến người ta cảm thấy mọi điểm trên cơ thể nàng như đang nói chuyện, như đang biểu đạt điều gì.

Vẻ vừa mâu thuẫn vừa hài hòa đó dường như tập trung trên người nàng ta một cách rất tự nhiên.

Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, từ nhỏ tới lớn nàng đã gặp nhiều nữ tử, dung mạo tuyệt mỹ như Hy Hòa, hiền thục mẫn tuệ như Tiết Mính, yểu điệu khéo leo như tỉ tỉ, yêu mị như Di Thù… nhưng người như Đỗ Quyên, thì quả thực đây là lần đầu tiên nàng gặp.

Nàng đang nghĩ thì tiếng khung cửi ngừng lại, nữ tử đó thong thả đứng dậy, quay người lại, khom lưng thi lễ: “Dân nữ Đỗ Quyên bái kiến hầu gia”.

Giang Vãn Y vội đáp: “Xin phu nhân mau đứng dậy”.

Dưới ánh đèn gương mặt Đỗ Quyên vô cùng gầy gò, mày nhạt môi mỏng, hai mắt đờ đẫn, không có chút thần sắc nào. So với sự linh hoạt của bóng lưng, khuôn mặt không chút lanh lợi này rõ ràng tầm thường biết bao. Lẽ nào ban đầu Tuyên Lưu đau lòng tuyệt vọng là vì thân là thiên kim tướng phủ dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn, nhưng cuối cùng lại thua một cô gái mù, mà còn là một cô gái mù xấu xí.

Đỗ Quyên nói: “Dì Mai, dọn chỗ. Cũng lấy cho cô nương này một chiếc ghế đ i “.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Sao phu nhân biết còn có ta nữa?”. Nàng đã cố ý nhẹ bước, tại sao Đỗ Quyên vẫn có thể biết còn một người thứ ba đang ở đây? Hơn nữa, còn nói toạc ra là một “cô nương”?

Đỗ Quyên nhếch môi cười cười: “Ngày nào ta cũng đi trên hành lang gỗ trước cửa hơn chục lần, bốn năm qua mỗi một âm thanh trên ván gỗ ta đều khắc sâu trong tim. Đến bao nhiêu người, là người như thế nào, cao hay thấp, béo hay gầy, ta đều có thể phân biệt đến bảy, tám phần. Nếu như ta đoán không nhầm, cô nương là một mỹ nhân thân hình yểu điệu, cử chỉ đoan trang. Bởi vì, bước chân của cô nương rất khẽ, rất ổn định, rất ngay ngắn, khi bước đi váy áo không phát ra tiếng loạt xoạt rõ ràng đã được đạy dỗ cực kỳ tốt”.

Khương Trầm Ngư chỉ còn nước thán phục. Đỗ Quyên lại tiếp: Không chỉ như thế, ta còn đoán được cô nương cũng có thân phận cao quý. Bởi theo lý mà nói, nếu người đi cùng hầu gia là người hầu trợ thủ hoặc là đồ đệ thì sẽ phải đi sau ngài. Nhưng cô nương và hầu gia lại sánh vai mà đến, từ đó có thể thấy được địa vị của cô nương chắc không dưới hầu gia, cho nên ta mới sai dì Mai dọn thêm một chỗ ngồi”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư cả kinh, bấy giờ mới ý thức được vừa nãy mình không chú ý, đúng là đã đi ngang hàng với Giang Vãn Y.

Tuy là người mù nhưng khả năng nhận biết lại còn tinh chuẩn hơn cả người mắt sang, vị Đỗ Quyên phu nhân này quả nhiên không phải người bình thường.

Trong lòng nàng bội phục, vội nói: “Phu nhân quá khen rồi, tiểu nữ đâu phải quý nhân gì chẳng qua chỉ là sư muội của Đông Bích Hầu mà thôi, vì từ nhỏ đã được chiều chuộng cho nên thiếu lễ phép, dám đi ngang hàng với huynh ấy. Phu nhân mau mời ngồi, nghe nói phu nhân bệnh đã lâu ngày, sư huynh tiểu nữ đang muốn khám bệnh cho phu nhân.

Đỗ Quyên cười nói: “Cũng được. Xin đa tạ hầu gia”.

Giang Vãn Y đặt hòm thuốc xuống, Khương Trầm Ngư đứng bên hỗ trợ một cách thành thục, lấy chiếc đệm mềm đặt dưới cổ tay Đỗ Quyên, chuẩn bị xong Giang Vãn Y ngồi xuống ghế, bắt mạch cho Đỗ Quyên một lúc, nét mặt vốn dĩ căng thẳng chăm chú giãn ra, khẽ cười nói: “Phu nhân hơi suy nhược nhưng cũng không phải là bệnh nặng, chịu khó nghỉ ngơi an dưỡng nhiều hơn thì sẽ không thành vấn đề”.

Khương Trầm Ngư hơi bất ngờ, nàng cứ tưởng. Vệ Ngọc Hành không cho họ khám bệnh là vì bệnh của vợ hắn có ẩn tình gì, ai ngờ lại không có gì nguy hại. Lẽ nào nàng đã cả nghĩ chăng?

Nàng nghe thấy Đỗ Quyên nói: “Vậy thì tốt. Dân nữ vốn dĩ không mắc bệnh nặng, chỉ vì khí hậu Hồi thành 魠ướt nhiều gió, tuy đã đến đây nhiều năm nhưng vẫn không thể thích nghi được nên thường xuyên mệt mỏi. Có điều, bản tính của đân nữ không chịu nhàn rỗi, một ngày không chăm hoa cắt cỏ là cảm thấy thiếu thiếu gì đó, ngủ không yên…”.

Khương Trầm Ngư than: “Tài trồng hoa của phu nhân quả thật hiếm có…”.

Đỗ Quyên lập tức quay mặt về phía nàng, đôi đồng tử không có thần sắc cũng nhìn nàng không chớp, cơ hồ mang theo vài phần mong chờ nhiệt thành, nói: “Cô nương thích những bông hoa đó sao?”.

“Vâng, vô cùng thích. Đặc biệt là cây lan cánh cúc đó… không giấu gì phu nhân, gia mẫu thích nhất là loài hoa lan này, trong nhà cũng trồng rất nhiều, nhưng loài lan cánh cúc trong truyền thuyết đó lại luôn là nỗi tiếc nuối trong lòng người đã tìm rất nhiều năm, nghĩ đủ cách nhưng không thể kiếm được. Vì thế, lúc nãy nhìn thấy loài hoa lan đó trong sân, tiểu nữ còn không dám tin vào mắt mình, không ngờ trên đời lại có người trồng được loài kỳ hoa hiếm có đó, hơn nữa, còn là một cây hoa hoàn mỹ đến vậy…”.

Lời của nàng còn chưa dứt, Đỗ Quyên đã nắm lấy tay nàng nói: “Vậy tặng cho cô nương đi!”.

“Hả?”.

Đỗ Quyên nhận ra sự thất thố của mình, liền thu tay lại, cười nói: “Danh hoa tặng mỹ nhân. Có thể nuôi dạy nên một cô con gái như cô nương, lệnh đương hẳn cũng là một nữ tử tuyệt vời, vậy thì, bồn hoa lan cánh cúc đó tặng cho bà ấy cũng coi như là danh kiếm gặp anh hùng, tôn thêm vẻ sáng rỡ cho nhau”.

“Không không không, sao có thể làm thế được”. Khương Trầm Ngự không ngờ vị Đỗ Quyên phu nhân này lại hào sảng đến vậy, cũng không ngờ nàng ta lại đem loài hoa trân quý nhất thiên hạ này tặng cho người khách lần đầu gặp mặt, tuy trong lòng nàng rất muốn, nhưng vẫn phải chối từ: “Quân tử không đoạt thứ người khác yêu thích, phu nhân đã tốn biết bao tâm huyết tinh lực cho bồn hoa đó, sao tiêu nữ có thể vô duyên vô cớ nhận lễ hậu đến vậy của phu nhân? Tuyệt đối không thể…”.

Đỗ Quyên lại giơ tay nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng. Nàng ta dùng đôi bàn tay đầy vết chai do lao động nhiều năm của mình vuốt ve đôi bàn tay da dẻ trơn láng tựa ngọc, khẽ thổi là rách của Khương Trầm Ngư, trên mặt hiện lên vẻ cảm khái: “Lễ hậu hay bạc chẳng qua chỉ là do mắt nhìn của người ngoài. Không biết vì sao, vừa nghe thấy tiếng của cô nương là ta đã thấy thích cô nương, luôn cảm thấy có duyên với cô nương, cho nên, đối với ta mà nói, tặng món quà như thế nào cho người mình thấy có duyên đều không phải là lễ hậu. Nếu như cô nương cố chấp không nhận chẳng phải là đã coi thường ta, cho rằng thân phận ta thấp hèn, không xứng tặng quà cho cô nương sao?”.

Khương Trầm Ngư thấy những lời này quá nghiêm trọng, không khỏi có chút hoảng hốt, lúc này Giang Vãn Y mới đứng ra giải vây, nói: “Sư muội, muội nhận đi. Nếu cảm thấy áy náy trong lòng thì hãy tìm một món quà để tặng lại phu nhân là được rồi”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm cười khổ câu này nói nghe thật nhẹ nhàng, nhưng trong thời gian ngắn nàng đi đâu để tìm được quà tặng đáp lễ đây? Hơn nữa, món quà có giá trị ngang với loài hoa vừa quý hiếm vừa mỏng manh đó đâu dễ tìm thế chứ.

Đỗ Quyên vỗ nhà nhẹ vào mu bàn tay nàng, dịu dàng nói: “Hầu gia nói không sai, thực ra bây giờ cô nương có thể giúp ta làm một việc”.

Khương Trầm Ngư vội nói: “Xin phu nhân sai bảo”.

Đỗ Quyên nhẹ nhàng gọi dì Mai, dì Mai ý quay người bước vào trong nhà, không lâu sau bưng ra một thứ. Khương Trầm Ngư nheo mắt nhìn, thì ra là một bàn cờ.

Dì Mai đặt bàn cờ trên bàn, Đỗ Quyên nói: “Ngoài trồng hoa và dệt vải, thực ra ta còn rất thích đánh cờ. Nhưng vì mắt kém nên khi đánh cờ thường chậm hơn người bình thường rất nhiều, vì thế Ngọc Hành cảm thấy thiếu kiên nhẫn khi chơi cờ cùng ta. Mà đám người hầu trong phủ đều không biết chơi cờ người ngoài thì ta không tiện gặp, kể từ khi đến Hồi thành, đã bốn năm ta chưa hề chơi cờ. Nếu cô nương thực sự muốn cảm tạ ta đã tặng cô nương bồn hoa đó, vậy thì cô nương có thể cùng ta chơi một ván không? Ta nghe đám người hầu nói, cô nương là người chơi cờ giỏi nhất trong đoàn sứ thần, cũng từng thắng cả Nghi vương”.

Khương Trầm Ngư xấu hổ, quả nhiên con người ta không nên quá phô trương, ban đầu nàng vì cứu Hách Dịch mà cố ý đánh cờ suốt đêm với chàng trên thuyền, chẳng ngờ lại lưu truyền đến tận tai của phu nhân thành chủ Hồi thành.

Nhưng đánh cờ cũng chẳng phải là việc khó ,khăn gì, người ta đã chịu tặng hoa, thì chút yêu cầu mọn nay sao có thể thoái thác?

“Thế thì tiểu nữ xin được múa rìu qua mắt thợ vậy”.

Khương Trầm Ngư ngồi xuống đối diện bàn cờ. Đỗ Quyên quay sang nói với Giang Vãn Y. “Hầu gia có mệt không? Nếu hầu gia cảm thấy mệt, xin mời về phòng nghỉ ngơi trước. Bởi dân nữ đánh cờ rất chậm, tuy chỉ một ván thôi, nhưng không chừng đến sáng cũng chưa đánh xong đâu”.

Giang Vãn Y vẫn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã cười đáp: “Sư huynh không biết gì về kỹ nghệ nếu ở lại đây, đối với huynh ấy quả là sự giày vò”.

Giang Vãn Y ngại ngùng cười nói: “Từ nhở ngu độn, gặp phải những chuyện phải động não tính toán là cảm thấy đau đầu, Cho nên, xin lượng thứ ta không thể phụng bồi”.

“Vậy cũng được. Dì Mai, tiễn hầu gia về”.

Dì Mai tiễn Giang Vãn Y đi rồi, Khương Trầm Ngư nhìn bàn cờ, lại nhìn những quân cờ trong chiếc bát, đang nghĩ xem phải đánh cờ với một người mù như thế nào thì Đỗ Quyên lên tiếng: “Mắt ta bất tiện, nên phiền cô nương giúp ta đặt quân cờ”.

“Phu nhân nói gì vậy, đó là điều nên làm mà”

“Vậy nếu không ngại, để ta đi trước được chứ?”.

“Đương nhiên là được”.

“Được vậy nước đầu tiên chính là…”. Đỗ Quyên hít sâu một hơi, chậm rãi nói: “Thiên Nguyên”.

Khương Trầm bất giác kinh ngạc.

Giang Vãn Y cùng với dì Mai ra khỏi Tây viện, một trận gió to đột nhiên thổi tới, chiếc ô giấy trong tay bỗng gẫy hai nan, trong phút chốc mưa xối xả rút xuống, chỉ nháy mắt đã làm ưới đẫm áo quần.

“Mưa to quá”. Hắn than.

“Đúng vậy”. Dì Mai đứng đằng sau khe khẽ nói: “Trận mưa tối nay, không tạnh được đâu…”.

Giang Vãn Y nghe giọng điệu lạ lùng của dì Mai, vô thức quay đầu lại nhìn, đúng lúc một tia chớp xé rạch màn đêm, khiến gương mặt bà ta trở nên xanh tối, đường nét vốn hiền lành cũng bị bóng tối làm méo mó biến dạng.

“Ngươi…”. Giang Vãn Y không thể nói hết câu, gáy đột nhiên bị đánh mạnh, hắn liền ngất lăn ra đất.

Tiếng bước chân gấp gáp, từ trái qua phải lại từ phải qua trái, cứ như thế lặp đi lặp lại mấy lần, nhỏ nhẹ rời rạc.

Lông mày Cơ Anh khẽ động, đôi mắt đang nhìn vào trang sách ngước lên, nhìn nơi phát ra tiếng động rồi khẽ than: “Ngươi làm ồn quá, Tiểu Thái”.

Bấy giờ kẻ gây ra tiếng ồn – Tiết Thái mới dừng bước, hắn quay người lại, gương mặt đầy cảnh giác nói: “Có vấn đề”.

“Có vấn đề gì?”. Cơ Anh đưa tay lật một trang sách.

So với vẻ thản nhiên của chàng, Tiết Thái lại lộ rõ vẻ nôn nóng sốt ruột lạ thường: “Nếu tiểu nhân biết là vấn đề gì thì nó đã không còn là vấn đề nữa rồi”. Dứt lời hắn đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, gió mưa bên ngoài bỗng chốc rào rào thổi vào làm những trang giấy trên mặt bàn bay tứ tung.

“Ngài ngửi xem!”.

“Ngửi cái gì?”.

“Ngài không cảm thấy mùi hoa này quá nồng sao?”.

Cơ Anh không nhịn được, giơ một tay lên khẽ day day lông mày: “Ta không biết hóa ra ngươi còn ghét cả hoa”.

Tiết Thái hừ một tiếng.

“Khác với ngươi, ta thích hoa”. Cơ Anh quả quyết gập cuốn sách lại, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, nhìn ra nhưng cụm hoa vẫn nở trong mưa đêm, ánh mắt dịu dàng: “Ta cảm thấy hoa là một sinh vật vô cùng kỳ diệu. Ban đầu chúng chỉ là những mầm lá bình thường, không có chút đặc điểm nào, cũng không chút thu hút, nhưng một khi bừng nở thì sẽ đẹp đẽ vô ngần, phô rõ sự khác biệt của nó; hơn nữa vẻ đẹp đó lại mau chóng tàn lụi, đó vốn là một điều tiếc nuối nhưng đó kết nên quả ngọt, thứ quan trọng và có giá trị cao hơn…”. Nói đến đây, chàng dừng lại một lát, ánh mắt sâu thăm thẳm tựa mặt hồ tối phủ đầy sương mù trong đêm trăng, khiến người ta không thể nhìn rõ biểu cảm thực sự…

Một lát sau Cơ Anh nhẹ nhàng đóng cửa sổ lại, thấp giọng nói: “Có điều ngươi nói đúng, hoa ở nơi này… thực sự có mùi hơi nồng”.

Ánh mắt Tiết Thái bỗng sáng bừng lên, khẽ hừ nói: “Thật sao? Không ngờ gan của Vệ Ngọc Hành lại to đến vậy”.

“Chắc gì đã là hắn”. Cơ Anh quay lại bàn, dùng ngón tay trỏ gõ nhẹ vào mép bàn, cúi đầu trầm ngâm.

Tiết Thái chớp chớp nhìn chàng bằng đôi mắt to của hắn.

Cơ Anh nghiêng đầu, nhìn thấy vẻ mặt sốt ruột này của hắn, không nhịn được phì cười: “Ngươi đoán xem khi một người lâm vào tình cảnh khó khăn thì sẽ làm thế nào?”.

“Phán đoán xem tình cảnh khó khăn trước mặt rốt cuộc là gì và làm thế nào để thoát ra được”.

“Vậy thì, theo ngươi tỉnh cảnh khó khăn hiện nay là gì?” “Nơi này lạ lùng, không nên ở lâu”. “Lạ lùng như thế nào?”.

Tiết Thái giơ ba ngón tay lên: “Thứ nhất, không thấy thủ vệ của chúng ta đâu, những kẻ canh gác ở bên ngoài sân, căn bản đều lạ mặt; thứ hai, tuy bây giờ đã về đêm nhưng vẫn chưa đến giờ Tuất, về lý mà nói vẫn chưa phải là giờ đi ngủ, nhưng ngoài nơi này của chúng ta những phòng khác đều tối như hũ nút không có ánh đèn; thứ ba, đang đêm mưa gió tầm tã sẽ có rất nhiều âm thanh chúng ta không thể nghe thấy, giữa những hương hoa quá nòng sẽ có rất nhiều thứ chúng ta không thể ngửi được”.

“Ví dụ như?”

“Ví dụ như…”. Tiết Thái bỗng giơ tay trái lên, ống tay áo tụt xuống; hắn xoay lòng bàn tay lại, phía trên có một vệt máu nhàn nhạt. Hắn giải thích: “Tiểu nhân vô ý dính phải khi mở cửa sổ lúc nãy”.

Đồng tử Cơ Anh co lại: “Nếu như ban nãy bên ngoài có một trận chém giết, thì dù mưa to hơn gấp mười lần ta cũng không thể không nghe thấy”.

Tiết Thái cười: “Không sai. Võ công của ngài tuy không thể coi là thượng thừa, nhưng tiểu nhân tin rằng nếu có người động thủ với ngài ở bên ngoài cửa sổ, ngài vẫn có thể cảm nhận được”.

Câu nói này nửa khen nửa không, nửa chê nửa không, Cơ Anh chỉ cười khổ Tiết Thái liền chuyển chủ đề, tiếp tục nói: “Cho nên, tiểu nhân không nói đó là chuyện vừa mới xảy ra”.

Cơ Anh không tỏ thái độ gì.

Tiết Thái tiếp tục phân tích: “Cũng có nghĩa là cho đù đã xảy ra một trận chém giết ở đây cung là phát sinh trước lúc chúng ta đến. Có lẽ vì trận mưa lớn này, cho nên sát thủ không kịp dọn dẹp ổn thỏa, nên đã để vệt máu còn dây lại trên khung cửa”.

Cơ Anh nghe tới đây, nhướng mày nói: “Về căn bản ta đồng ý với phân tích của ngươi, có điều, ta lại có cách nhìn khác về vết máu”.

“Ồ”.

Cơ Anh quay người lại, hướng ra khung cửa sổ, ánh mắt hơi chùng xuống, giọng nói trong phút chốc cũng trở nên chậm và nhỏ lại: “Ta cảm thấy, vệt máu đó không phải sơ suất để lại mà là có người cố ý”.

“Cố ý?” Tiết Thái mở to mắt: “Tại sao?”.

Cơ Anh lấy một tờ giấy trên bàn, trải phẳng ra, mỉm cười chậm rãi nói bốn chữ: “Là để cảnh báo”.

Mưa gió sầm sập đập vào tấm rèm cửa sổ kêu lạch cạch.

Nước đun trên bếp lò đã sôi lục bục, đẩy nắp ấm nảy lên, nhưng hai người ngồi đánh cờ bên cạnh lò hình như hoàn toàn không nghe thấy gì không ai thèm để ý. Hơi nước trắng mờ từ từ bao phủ, khuôn mặt Khương Trầm Ngư chìm trong màn hơi mờ, giống như một pho tượng tạc bằng ngọc.

Nàng cầm một quân cờ, nhưng mãi không nhúc nhích.

Nắp ấm dần dần không nảy lên nữa.

Trong phòng yên ắng vô cùng. Chỉ có tiếng hít thở của hai người nhè nhẹ nhàn nhạt, cực kỳ bình tĩnh.

Một khoảng thời gian dài cứ trôi qua như thế, cuối cùng Khương Trầm Ngư đã cử động, chầm chậm, từng chút từng chút ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn vào Đỗ Quyên phía đối diện. Đỗ Quyên dường như cảm nhận được ánh nhìn của nàng, giãn đôi mày ra, cười nhạt nói: “Cô nương đã nghĩ được nước sau đi thế nào chưa?”.

Khương Trầm Ngư “ừm” một tiếng.

“Vậy tại sao cô nương không đi?”.

Khương Trầm Ngư nhìn nàng ta chằm chằm, một lát sau nàng lắc lắc đầu: “Tiểu nữ không dám”.

Đỗ Quyên lại cười, trong nụ cười có một thứ gì đó đang từ từ lắng kết lại: “Ô, tại sao không dám? Nói ra ta nghe nào. Cô nương sợ thua ư?”.

Khương Trầm Ngư xoa xoa quân cờ, chậm rãi nói: “Nước đầu tiên phu nhân đi là Thiên Nguyên, tiểu nữ là thất kinh. Vì rất ít người khai cuộc như thế, thông thường kỳ thủ dám khai cuộc bằng nước Thiên Nguyên phải có lá gan tày trời, nếu không phải có kỳ nghệ cực cao. Cho nên, tiểu nữ không dám lơ là, cẩn thận từng chút một, nhưng đánh một chặp lại phát hiện ra…”.

Đỗ Quyên mỉm cười tiếp lời nàng: “Lại phát hiện ra kỳ nghệ của ta chẳng qua cũng chỉ như thế mà thôi, có lẽ còn chẳng bằng kỳ thủ hạng ba, đúng không?”.

Khương Trầm Ngư thừa nhận bằng sự im lặng.

“Như thế chẳng phải cô nương không cần phải sợ hãi nữa sao? Bởi ván cờ này cô nương đã chắc thắng rồi”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, hạ giọng nói: “Phu nhân kỳ nghệ bình thường, tại sao lại muốn hẹn ta đánh cờ?”.

Đỗ Quyên che miệng cười: “Lẽ nào cô nương chưa từng nghe thấy càng kỳ nghệ bình thường lại càng khao khát tìm người chơi cờ?”.

“Nếu như là người khác, có lẽ là như thế, nhưng là phu nhân”. Khương Trầm Ngư do dự một lát, lại tiếp: “Trước khi ngồi đây, khi nhìn thấy những khóm hoa mà phu nhân trồng đó, tiểu nữ đã nghĩ nếu không phải người thông minh tột đỉnh, cao ngạo mạnh mẽ tột đỉnh, thì sẽ không thể trồng được”.

Đỗ Quyên đáp qua loa: “Cô nương nói thông minh cũng được nhưng chỉ là trồng hoa mà thôi, đâu có thể nói là cao ngạo với mạnh mẽ?”.

Sở dĩ tiểu nữ nói như vậy là chỉ việc phu nhân biết sở trường của mình và biết cách phô diễn sở trường này cho người khác biết, bản chất của hành vi này chính là biểu hiện của sự cao ngạo, mạnh mẽ. Lượng thứ cho tiểu nữ nói thẳng, đôi mắt của phu nhân bị hỏng, nếu đổi lại là người thường, thì tính cách có thể sẽ trở nên hướng nội hoặc thu mình hoặc sợ sệt, dù có dũng cảm đối mặt với cuộc sống, cũng sẽ trở nên tương đối an phận thủ thường. Nhưng phu nhân lại khác, tài trồng hoa cũng phải thách thức ở mức độ khó nhất, hơn nữa còn có thể xếp vào hàng đệ nhất thiên hạ. Nhìn từ phương diện này có thể thấy phu nhân là người hễ quyết định làm việc gì thì nhất định sẽ làm tốt nhất. Mà người có tính cách như phu nhân, tiểu nữ không tin nếu phu nhân thực sự thích cờ lại không chơi cờ giỏi được”.

Nụ cười trên khuôn mặt Đỗ Quyên vụt tắt, nàng ta cụp mắt không trả lời.

Khương Trầm Ngư đặt quân cờ trong tay vào lại chiếc bát, nhân tiện lật nhưng quân cờ khác: “Hơn nữa, bộ cờ này cũng thực sự hơi quá mới. Tiểu nữ tin rằng số lần nó được dùng tuyệt đối không quá ba lần”.

Khóe môi Đỗ Quyên kéo ra thành một đường cong, nửa cười nửa không nói: “Cô nương đoán đúng rồi. Thêm lần này nữa là hai lần ta sử dụng bàn cờ này”.

“Vậy còn lần trước?”. Khương Trầm Ngư kéo dài giọng ra đầy hàm ý. Đỗ Quyên quả nhiên nói tiếp: “Sáng nay, ta sai người ra chợ mua bộ cờ này, sau khi mở hộp, liền mời người đến dạy ta quy tắc cơ bản”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư bỗng thấy kinh hoàng – Đây là lần thứ hai nàng ta đánh cờ! Vốn nàng chỉ cảm thấy kỳ nghệ người này thường thường, nhưng khi biết được chân tướng mọi việc trở nên hoàn toàn khác, nàng tự hỏi, đổi lại là mình, liệu có thể chơi được vậy ngay trong lần thứ hai hay không, đáp án là không thể. Còn Đỗ Quyên đã làm được, xem ra sự thông tuệ của nàng ta vượt xa mình…

Trong lòng nàng chấn động, vì thế giọng nói hơi run run: “Tại sao phu nhân phải học chơi cờ?”.

Đỗ Quyên đáp lại nhanh chóng: “Bởi vì ta nghe nói cô nương biết chơi cờ”.

Khương Trầm Ngư càng không hiểu: “Tại sao tiểu nữ biết chơi cờ phu nhân lại phải học”.

Gương mặt Đỗ Quyên lộ một vẻ vô cùng phức tạp, im lặng một lúc lâu mới ngẩng đầu nhìn thẳng về phía Khương Trầm Ngư, chậm rãi nói bằng một giọng nói rất nghiêm trang: “Bởi vì ta rất muốn mượn cơ hội này để quen biết cô nương. Khương Trầm Ngư, ta muốn quen biết ngươi… đã… rất lâu rất lâu rồi”.

Khương Trầm Ngư hoàn toàn ngây người ra.

“Cảnh báo? Ai muốn cảnh báo chúng ta? Tại sao phải cảnh báo”. Tiết Thái hỏi dồn.

Cơ Anh không trả lời, chàng vừa cầm chiếc bút lông lên bắt đầu viết như múa trên tờ giấy viết ư, vừa hỏi vặn lại: “Lại kiểm tra ngươi, bây giờ đích xác là chúng ta đang gặp nguy hiểm, vậy theo ngươi chúng ta nên làm thế nào?”.

“Phân tích điểm mạnh yếu của bản thân, để tìm cách tự bảo vệ mình”.

“Thế thì, điểm mạnh nhất của chúng ta là gì?”.

Mắt Tiết Thái sáng lóe lên mấy cái: “Đại tướng quân Phan Phương”.

Cơ Anh cười cười.

Tiết Thái quay người nói: “Bây giờ tiểu nhân đi tìm tướng quân! Có tướng quân và Chu Long ở đây, cho dù có mười bảy mười tám thích khách cũng không sợ!”.

Cơ Anh không ngăn cản mà chỉ hờ hững nhìn hắn lao ra ngoài, nhưng ngón tay Tiết Thái vừa chạm vào tay nắm cửa liền đột ngột dừng lại: “Không đúng!”.

Cơ Anh nhướng mày.

“Không đúng…”. Bàn tay Tiết Thái bắt đầu run rẩy, khi quay người trở lại vẻ mặt hắn đã thoáng kinh sợ mất bình tĩnh: “Với chúng ta thì chiếc ô bảo vệ mạnh nhất chính là Phan Phương. Nếu chúng ta có thể nghĩ tới, thì hà cớ gì địch nhân không thể nghĩ tới? Vì thế nếu có người muốn đối phó với chúng ta, bước đầu tiên chính là loại bỏ Phan Phương, chặt đứt cánh tay của chúng ta. Nếu bây giờ thuộc hạ đi tìm Phán phương, e rằng sẽ rơi vào cảnh khốn đốn hơn nữa”.

Nụ cười nơi khóe môi Cơ Anh lại sâu thêm một phần, cho đến lúc này trong đáy mắt mới lộ vẻ tán thưởng.

“Cho nên, bây giờ tìm Phan Phương cũng vô ích, có lẽ chính hắn cũng khó bảo toàn. Vậy nên tìm ai đây? Lẽ nào là… Giang Vãn Y?”.

Cơ Anh vẫn không tỏ thái độ gì, im lặng nhìn Tiết Thái.

Tiết Thái ngẫm nghĩ một lúc, lại lắc đầu: “Hắn cũng không được Y thuật của hắn cao siêu thiên hạ đều biết. Địch nhân cũng không thể để hắn ở lại bên cạnh chúng ta… Chẳng trách mụ vợ của Vệ Ngọc Hành vừa ăn cơm xong đã cấp tốc gọi hắn đi hóa ra là như thế!”

Cơ Anh không khỏi mỉm cười: “Mụ vợ? Ngươi dùng từ càng ngày càng thô tục rồi đấy”

Tiết Thái lườm chàng một cái: “Thô tục thì đã làm sao? Bây giờ tiểu nhân đã là kẻ hạ liện, dùng từ văn vẻ để làm gì? Dẫu sao cũng không thể đỗ trạng nguyên”.

Cơ Anh bắt đầu day lông mày đầy vẻ bất lực. Tiết Thái trừng mắt nhìn hàng: “Mụ vợ! Mụ vợ!”.

“Được rồi được rồi. Mụ vợ”. Cơ Anh lấy tay ra hiệu hắn nói tiếp.

Bấy giờ Tiết Thái mới hài lòng, ngẩng đầu lên tiếp: “Thuộc hạ cảm thấy Vệ Ngọc Hành có vấn đề. Nhớ năm đó, hắn đỗ trạng nguyên vẻ vang biết bao nhiêu, nhưng vì cự tuyệt một nữ nhân dám mặt dày mày dᮠđòi cưới hắn mà bị tả tướng ghi nhận trong lòng, đẩy đến cái xứ rách nát chim chẳng buồn ỉa này…”.

Khi Cơ Anh nghe đến bốn chữ “chim chẳng buồn ỉa”, khóe mắt lại hơi giật giật. Nhưng Tiết Thái căn bản chẳng buồn để ý đến phản ứng của chàng, vẫn thao thao bất tuyệt: “Đại trượng phu sao có thể cam tâm thu mình ở chốn này, suốt ngày xử lý những việc vặt vãnh như nhà đông bị ăn trộm mất con gà, nhà tây bị thiếu con chó? Nam nhi hảo hán là phải chinh chiến sa trường giết giặc lập uy, giáp sắt giáo dài, thiên binh vạn mã, chặt đầu giặc, tắm máu thù, bảo vệ lê dân bách tính, giữ gìn xã tắc non sông…”.

Cơ Anh khẽ than: “Nếu ngươi nói gọn hơn một chút, ta sẽ cho ngươi điểm cao hơn”.

Tiết Thái bước nhanh đến cạnh chàng: “Vậy thì chính là bốn chữ: Khuất tài , Đố kỵ (Có tài năng mà không phát huy được)”.

“Đố kỵ ai?”.

“Đố ky với ngài”. Tiết Thái tiến đến trước mặt chàng, hạ thấp giọng, nhưng lại nở nụ cười có vài phần ác ý: “Cho nên, hắn đặt bẫy để hại ngài. Chủ nhân của ta ạ ” .

“Ngươi là ai?”.

Ánh lửa trong chiếc bếp lò nhảy nhót bập bùng mờ mờ tỏ tỏ chiếu lên mày mắt của hai người ngồi đối diện nhau. Nước trong ấm sắp bốc hơi cạn hết, bắt đầu phun khói ra ngoài.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên không chớp mắt: Ban đầu chỉ cảm thấy nữ tử này tương mạo bình thường nhưng có phong thái đẹp, bây giờ nhìn kỹ bất chợt lại thấy có cảm giác quen thuộc như đã từng quen biết. Đôi mắt này, cái mũi, cái miệng này dường như đã từng gặp ở đâu đó.

Uổng cho nàng xưa nay luôn tự phụ về trí nhớ của bản thân chỉ can là sách đã đọc qua, lời từng nghe qua, người từng gặp qua là tuyệt đối không quen. Nhưng bây giờ càng nhìn vị Đỗ Quyên phu nhân này nàng càng thấy quen mắt, nhưng không tài nào nhớ ra nổi.

“Ngươi là ai?”.

Khương Trầm Ngư nén giọng hỏi lại một lần nữa. Chuyến này nàng hành động cơ mật, dẫu cho về sau số người biết thân phận thực sự của nàng càng ngày càng nhiều nhưng phu nhân của một thành chủ cỏn con nơi biên ải cũng biết được, thì thật sự quá đáng ngờ. Hơn nữa, vị thành chủ phu nhân này xem ra không chỉ biết “một chút”. May từ rất lâu rất lâu” của nàng ta có ý gì?

Hết nghi ngờ này đến nghi ngờ khác nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, rõ ràng là một đêm mưa rào lạnh lẽo, nhưng sau lưng nàng mồ hôi chảy ròng ròng ưới đẫm.

Biểu cảm của Đỗ Quyên so với nàng cũng không nhẹ nhõm là bao nhiêu, khóe miệng nàng ta nở một nụ cười có ba phần ngậm ngùi ba phần chần chừ ba phần cô độc và một phần đau thương không thể nói rõ, chậm rãi nói:

“Ta...? Không phải người trong thiên hạ đều biết ta là ai sao? Một kẻ mù tốt số được gả cho võ trạng nguyên, một người vợ mù vô đức hại chồng đến nỗi uất ức bất đắc chí, một nữ nhân được rất nhiều người hâm mộ cũng bị rất nhiều người ghen ghét”.

Khương Trầm Ngư hỏi thẳng: “Tại sao ngươi biết ta?”.

“Ta không chỉ biết ngươi, mà còn biết cha mẹ ngươi, ca ca, tỉ tỉ của ngươi…”.

Đỗ Quyên lại cười, ngũ quan nàng ta bình thường, nhưng khi cười lại có phần thanh tú, mũi hơi chun lại, hai lúm đồng tiền bên khóe miệng như ẩn như hiện. Khương Trầm Ngư “a” một tiếng đứng bật dậy, giơ một ngón tay run rẩy chỉ vào mặt nàng ta, kêu lên thất thanh:

“Ngươi, ngươi, ngươi là…”.

Đỗ Quyên hơi ngẩng mặt lên, tiện cho nàng nhìn rõ hơn:

“Ngươi nhận ra rồi, đúng không?”.

Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn nàng ngồi phịch xuống chiếc ghế, sững sờ nhìn gương mặt nàng ta, không thốt nổi nửa lời.

“Nếu như chỉ là đố kỵ, vậy như ngươi nói lá gan của Vệ Ngọc Hành quá lớn rồi”. Im lặng một lúc rất lâu, cuối cùng Cơ Anh mới mở miệng nói vậy.

Tiết Thái nghe xong liền bĩu môi cười: “Đã đến nước này rồi, ngài còn phải tự lừa mình dối người làm gì?”.

Cây bút trong tay Cơ Anh dừng lại, mực rở giọt trên trang giấy đang bắt đầu nhòe đi, giống như sắc đêm ngoài kia, tối tăm mà ẩm ướt. Trong mắt chàng bỗng dấy lên bao nỗi đau thương.

Tiết Thái vừa lạnh lùng nhìn chàng vừa nói:

“Chuyến đi đến Trình quốc lần này của hầu gia tiến hành bí mật, lúc sắp về lại đổi ứng cử viên làm Trình vương, khi đó thuộc hạ đã cảm thấy có điểm không ổn. Giờ ngài vừa bước chân lên địa bàn Bích quốc đã bị người ta dòm ngó, theo tình hình trước mắt xem ra đối phương đã giăng bẫy đợi ngài nhảy xuống từ lâu rồi. Vậy ai là người có thể biết hôm nay chúng ta sẽ đến Hồi thành sớm nhất? Ai là người có quyền lực để ra lệnh cho Vệ Ngọc Hành? Hiện tại, ở Bích quốc ai có thể xuống tay với ngài, dám xuống tay với ngài?”.

Cơ Anh nhíu mày, nói: “Đừng nói nữa”.

Tiết Thái vẫn không ngừng, nói càng lúc càng nhanh: “Săn được thỏ rồi thì giết thịt chó săn. Gia tộc lớn mạnh ở Bích quốc không chỉ là một mình Tiết gia…”.

“Ta nói, đủ rồi!”. Cơ Anh quát lên một tiếng rồi nhận ra mình đã thất thố, sững sờ một lúc.

Tiết Thái nhìn chàng với vẻ thông cảm.

Cơ Anh day day lông mày, lắc đầu nói: “Không đâu… Không đâu. Y sẽ không làm vậy đâu”.

“Năm đó, gia gia ta cũng cho rằng y sẽ không làm vậy”.

Sự thông cảm trong mắt Tiết Thái nhạt dần, thay vào đó là một sự lạnh lùng như băng giá nghìn năm. Cơ Anh ngẩng đầu lên, rồi lại im lặng đến thất thần, mới lẩm bẩm:

“Không đâu. Ta và tổ phụ của ngươi khác nhau, chúng ta… khác nhau”.

Thấy chàng khẳng định như vậy, Tiết Thái bất giác nảy sinh nghi ngờ.

Cơ Anh hít sâu vào một hơi, đưa bút viết tiếp, vừa viết vừa nói:

“Bây giờ tranh luận những thứ này chẳng có ý nghĩa gì chân tướng sự tình thế nào, đợi sau rồi hãy nói. Trước tiên, ngươi hãy đưa giúp ta phong thư này”.

“Với tình hình hiện tại, chúng ta còn có thể ra ngoài sao?”.

Cơ Anh gấp lá thư đã viết xong lại, bỏ vào phong bì, rồi đưa đến trước mặt Tiết Thái, chỉ nhìn thấy trên lá thư có hình Bạch Trạch, nét bút vẫn rất đẹp, không hề rối loạn, viết tên một người – Vệ Ngọc Hành.

Khương Trầm Ngư cảm thấy mình như rơi xuống vách đá cheo leo, vì mất trọng lực mà choáng váng không thể nhúc nhích, không thể suy nghĩ, thậm chí không thể hít thở.

Một giọng nói vang lên từ đáy lòng: Đừng nghĩ, Trầm Ngư, đừng nghĩ nữa. Sẽ đau, sẽ rất đau rất đau đấy. Nhưng lại một giọng nói khác đều đều, không cảm xúc, rành mạch đến lạ thường vang lên bên tai:

“Ngươi nghĩ ra rồi, đúng không? Họ đều nói trong những đứa con của Khương gia, ngươi là người xuất sắc nhất, thông minh như ngươi, đương nhiên sẽ nghĩ ra”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng trào lệ, bàn tay nàng nắm chặt, buông lỏng, rồi lại nắm chặt, nhưng vẫn không thể ngăn được sự run rẩy phát ra từ linh hồn mình.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn vô cùng bình tĩnh: “Lệnh đường thích hoa lan của ta không?”.

Nước mắt rõ ràng đã dâng lên trong mắt, nhưng vẫn ngần ngừ chưa rớt xuống, Khương Trầm Ngư giữ tư thế hơi cúi đầu cứng nhắc đáp: “Rất thích. Nhưng số hoa đó đến nhà ta đều không sống qua nổi mùạ đông năm đó”.

Đỗ Quyên nói: “Điều đó là tất nhiên”.

“Mẫu thân mới biết bao thợ trồng hoa đến đều không ăn thua. Bà cử tưởng là vì bà không có duyên trồng loại hoa này, bây giờ mới biết…”.

Đỗ Quyên thay nàng nói tiếp: “Bây giờ mới biết, sự thực là ta đã chôn độc vào dưới đất trồng hoa. Nếu như hoa của nhà ngươi không chết, thì ta đâu có gì để tiếp tục gửi hoa tới?”.

Mắt Khương Trầm Ngư đỏ hơn: “Mẫu thân luôn muốn có lan cánh cúc”.

“Cho nên ta trồng nó bao nhiêu năm nay, cuối cùng đã thành công. Ngươi có thể mang về cho lão nhân gia”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt Đỗ Quyên: “Ta còn có thể quay về sao?”.

Đỗ Quyên nhếch môi cười: “Nếu không, ngươi tưởng vì sao ngươi ở đây?”.

“Ngươi không có bệnh, nhưng lại sai dì Mai mời Giang Vãn Y khám bệnh cho ngươi, là vì ngươi biết chắc ta nhìn thấy số hoa lan đó sẽ muốn gặp người trồng hoa, mà ta là sư muội của Giang Vãn Y, huynh ấy đi ta đương nhiên cũng đi theo. Sau đó, ngươi lại cố ý đòi ta chơi cờ cùng ngươi, là muốn giữ chân ta ở đây, ta đã ở đây rồi, cũng có nghĩa là…”.

Khương Trầm Ngư nói đến đây liền nghẹn ngào: “Những nơi khác đều không an toàn, đúng không?”.

Đỗ Quyên khen ngợi: “Quả nhiên ngươi rất thông minh. Không chỉ thông minh, nghe nói ngươi còn là một mỹ nhân. Vừa thông minh vừa xinh đẹp lại vừa có phúc. Ta ngưỡng mộ ngươi biết bao”.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, cuối cùng bật ra câu hỏi then chốt nhất: “Vệ Ngọc Hành định làm gì Kỳ Úc hầu?”.

Đỗ Quyên nhướng mày, chậm rãi hỏi ngược lại: “Ngươi nói xem?”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy một tiếng lớn, chói tai, chát chúa, hơn nữa không thể bịt tai, không thể trốn tránh, vì đó là tiếng động phát ra từ bên trong cơ thể nàng.

Đó là tiếng trái tim vỡ nát.

“Thuộc hạ không tin Vệ Ngọc Hành sẽ đến vào lúc như thế này”. Tiết Thái không cầm mà nhìn chằm chằm phong thư đó.

Cơ Anh nhướng mày: “Tại sao ngươi không thử xem”.

“Không cần thử cũng biết, chẳng phải rõ ràng lắm sao? Hắn bố trí thiên la địa võng để chuẩn bị giết ngài, sao có thể tự mình đến trước mặt ngài trong thời khắc mấu chốt này, để cho ngài có cơ hội xoay chuyển tình thế?”.

Cơ Anh vẫn kiên trì: “Ngươi cứ đưa đi rồi sẽ biết”.

Tiết Thái hồ nghi nhìn chàng, cuối cùng nhận lấy phong thư, mở cửa bước ra.
Last edited by tuvi on 11 Jul 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười ba : Cờ đêm (Phần 2)

Cơ Anh nhìn hắn bước ra ngoài, không biết hắn nói những gì với thủ vệ. Thủ vệ lùi lại một bước thả cho hắn đi, sau đó, bóng dáng nhở bé đó liền biến mất bên ngoài bức tường bao không nhìn thấy đâu nữa. Cơ Anh chớp mắt, đồng tử sâu thăm thẳm như đang nghĩ ngợi điều gì, lại như chẳng nghĩ gì.

Cuối cùng, chàng từ từ đứng dậy, xốc lại áo, chắp tay đi đến trước cửa sở, đẩy cửa sổ nhìn ra màn mưa mù thê lương mờ mịt bên ngoài, mở miệng thì thầm: “Vẫn… không muốn tỉnh… giấc mộng lớn này”.

Bỗng một ngọn lửa bùng, trong chớp mắt đốt cháy màn đêm.

Ánh sáng màu đỏ tràn vào cửa sổ mà không hề báo trước, tiếp sau nó âm thanh ồn ào vang lên bên ngoài tường bao ở phía xa, loáng thoáng nghe thấy có một người hét lên:

“Cháy rồi…”.

Trái tim của Khương Trầm Ngư bỗng thít chặt lại, cơ thể bật dậy theo bản năng, lao đến bên cửa sổ.

Đẩy cửa sổ ra, chỉ thấy phía Đông đã đỏ rực một góc trời, khói đen cuồn cuộn, vô số tiếng kêu tiếng hét vang lên, rõ ràng cảnh tượng hỗn loạn đến cực điểm, nhưng vì ngăn cách bởi một bức tường mà phân thành hai thế giới.

Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Công tử…”.

Đông viện là nơi ở của Cơ Anh.

Bàn tay nàng bất chợt bấu chặt vào mép cừa sổ, nàng túm váy trèo qua cửa sổ chứ chẳng buồn đi lối cửa ra vào, một đôi bàn tay to bè thô ráp bỗng tóm chặt lấy eo nàng, ném nàng trở lại ghế. Nàng còn đang giãy giụa, người đó đưa ngón tay nhanh như chớp điểm vào mấy huyệt đạo của nàng, cơ thể nàng lập tức không thể nhúc nhích.

Người đó chính là dì Mai.

Dì Mai thu tay lại, cung kính nói: “Đắc tội rồi, tam tiểu thư”.

Đỗ Quyên đứng bên cạnh lạnh nhạt nói: “Nếu không muốn bị thương Khương tam tiểu thư nên ngoan ngoãn nghe lời thì hơn”.

“Sao ngươi dám làm thế này! Sao ngươi lại dám làm thế này! Ngươi, ngươi…”.

Khương Trầm Ngư tức đến nỗi thở hổn hển, trong đáy mắt tràn ngập nỗi tuyệt vọng: “Cơ Anh chính là rường cột quốc gia, ngươi giết ngài là muốn đầy Bích quốc vào chỗ nào đây?”.

Đỗ Quyên nghe thấy lạnh lùng cười nhạt: “Năm đó mọi người đều cảm thấy Tiết Hoài chính là gốc rễ của nước nhà”.

Tiết Hoài phản quốc, trừ bỏ là chính nghĩa. Nhưng Cơ Anh không phải... Ngươi giết ngài ắt sẽ có vô số tử sĩ báo thù cho ngài, những môn sinh đó của ngài sao có thể chịu để yên...? Hà cớ gì ngươi phải gánh tội danh đại nghịch thiên hạ?”.

Đỗ Quyên phá lên cười ha hả: “Thật kỳ lạ, giết Cơ Anh rõ ràng là người khác, ta có tội danh gì mà phải gánh?”.

Khương Trầm Ngư sững sờ.

Đỗ Quyên lười biếng nhíu mày, nhìn chòng chọc vào hướng đối diện – phía nàng bằng cặp mắt vô hồn, không chút ánh sáng, rất nhẹ nhàng, từ tốn nói:

“Lẽ nào không phải là tam hoàng từ của Trình quốc, Di Phi bí mật đàm phán với Kỳ Úc hầu không thành, cho nên thẹn quá hóa giận, lật mặt trong phút chốc, cuối cùng cả hai cùng lưỡng bại câu thương sao?”.

Trước đó Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình đang vỡ nát, đau đến mức không thế hít thở, nhưng nghe câu nói này xong, trái tim nàng không đau nữa, bởi vì đã hoàn toàn không còn trái tim nữa rồi.

Khi ánh lửa bùng lên, Tiết Thái vẫn chưa đi đến tòa nhà chính, màn mưa đêm trong sân bị luồng ánh sáng đỏ chiếu vào trong nháy mắt trở nên rực rỡ, hắn lập tức quay đầu, liền nhìn thấy phía Đông viện ngọn lửa rừng rực bùng lên giống như một chiếc miệng lớn nuốt trọn toàn bộ khu nhà.

Phản ứng đầu hên của hắn chính là chạy về, nhưng chân trái vừa nhấc liền dừng lại đột ngột, sau đó thì đứng im không nhúc nhích giống như ngây như ngốc nhìn chằm chặp vào ngọn lửa càng cháy càng lớn đó.

Bên cạnh, vô số người cuống quýt chạy qua, lẫn trong đó là một giọng nói quen thuộc: “Có chuyện gì thế..?”.

Hóa ra là giọng của Vệ Ngọc Hành.

Vệ Ngọc Hành mặt đầy sửng sốt nhìn ngọn lửa lớn bùng lên ở Đông viện, hắn nhấc gấu áo, bước nhanh về phía trước nói: “Lệnh xuống, mau dập lửa, lấy nước cứu người!”.

Tiết Thải không nhúc nhích, im lặng nhìn chằm chằm vào hắn, hắn đi đến bên cạnh tường bao, nhấc thùng nước mà đám người hầu mang tới, hắt vào phía trong sân. Vì hắn dáng cao như ngọc, lại mặc áo tím, cho nên nổi bần bật, cực kỳ bắt mắt glữa đám đông lúc nhúc.

Tiết Thái không kìm được nghĩ: Quá chân thật… Cảnh tượng trước mắt quá chân thật. Giống như một vở kịch đã được diễn tập vô số lần, đạo cụ, diễn viên, thiên thời, địa lợi, đầy đủ tất cả.

“Thành chủ, ngọn lửa này lạ quá!”.

Một người hầu thét lên:

“Theo lý mà nói, mưa to như thế này, lừa không thể cháy mới đúng, nhưng ngọn lửa này không những không tắt mà còn càng bùng to hơn! Thành chủ, ngài nhìn mà xem bao nhiêu nước hắt vào đều vô ích…”.

“Câm mồm!”.

Vệ Ngọc Hành một tay đẩy gã người hầu ra, tiếp tục đón thùng nước trong tay người khác hắt thật mạnh vào trong. Ai ngờ lửa gặp nước lại càng bốc mạnh hơn, còn liếm ngược trở lại suýt nữa thì cháy lan đến chính bản thân hắn.

“Thành chủ cẩn thận!”. Đám người hầu hoảng loạn.

Vệ Ngọc Hành cắn răng, dứt khoát nhấc một thùng nước dội lên người, rồi lại dùng chiếc áo khoác sũng nước bịt mũi, chẳng nói chẳng rằng xông thẳng vào trong đám lửa.

Tất cả mọi người kinh ngạc thất sắc kêu gào: “Thành chủ! Thành chủ…”.

Tiết Thái lạnh lùng đứng bên cạnh nhìn, vẫn không thốt một lời, thò tay vào tay áo, móc lá thư mà Cơ Anh sai hắn chuyển tới Vệ Ngọc Hành ra, chầm chậm mở…

Mưa rơi rào rào, nhanh chóng thấm ưới trang giấy.

Phong thư mở ra, trắng muốt như tuyết, không chút ố bẩn, không có vết mực… Đó là một trang giấy trắng.

Nước mát rót vào trong ấm nước đã bị lửa đun đỏ rực, bốc lên một làn khói trắng. Dì Mat rót nước trong ấm vào chén, sau cùng bưng chén đến trước mặt Khương Trầm Ngư:

“Tam tiểu thư, uống trà”.

Khương Trầm Ngư mím môi không mở miệng.

Đỗ Quyên ở bên cạnh nói:

“Ta khuyên ngươi ít nhiều cũng nên uống một ngụm, mưa to thế này, hương hoa nồng nặc, ngươi hít vào trong người một số thứ không nên hít, ta lại không muốn làm tổn thương đến ngươi”.

“Ngươi hạ độc bọn ta..?”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy một giọng nói khàn đặc, sau đó mới phát hiện ra đó chính là giọng của mình.

Đỗ Quyên lắc lắc đầu: “Giang Vãn Y là thần y, sao ta có thể múa rìu qua mắt thợ. Có điều có những thứ, ngay đến cả đại phu cũng không có cách gì phòng được”.

“Ngươi đã làm gì?”.

“Ngươi uống xong chén nước này, ta sẽ nói cho ngươi biết”.

Dì Mai lại bưng chén nước kề sát môi Khương Trầm Ngư, mắt nàng đỏ vằn lên, cuối cùng đành há miệng. Dì Mai thuận thế dốc cả chén nước vào miệng nàng.

“Đúng rồi, như thế mới ngoan”.

Đỗ Quyên cũng không úp úp mở mở, thẳng thắn giải thích:

“Trên thế gian này có rất nhiều thứ vốn không độc, nhưng kết hợp với nhau lại có thể biến thành không an toàn. Trong bữa tiệc tối, ngoại trừ trong thức ăn ở bàn của ngươi và Giang Vãn Y là không bỏ một loại hương liệu tên là “Ngọc Lộ”, còn những người khác đều ít nhiều nếm phải nó, đặc biệt là Kỳ úc hầu ăn nhiều nhất”.

Mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch, rất vất vả mới nói nên lời: Có Ngọc Lộ, sẽ có Kim Phong, đúng không?”.

“Rất thông minh. Cái gọi là Kim Phong thực ra chính là mùi hương tỏa ra từ phần rễ của hoa súng”.

Đỗ Quyên nhướng mày nói: “Kim Phong Ngọc Lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số. Kỳ úc hầu ăn Ngọc Lộ vào, lại ngửi mùi Kim Phong, e rằng muốn bỏ nhân gian mà đi…”.

Kim Phong Ngọc Lộ hễ tương phùng.

Có lúc bi ai đến cùng cực, lại muốn bật cười.

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên, nước mắt lại trào ra khỏi tròng mắt theo nụ cười mỉm đó, lặng lẽ rơi xuống.

Đây là lần thứ hai nàng nghe thấy câu nói liên quan đến Cơ Anh này, lần đầu tiên là ở Trình quốc, khi Di Thù mê hoặc Cơ Anh. Công tử và câu nói này thật có duyên… thật có duyên… thật có duyên…

Đầu óc nàng đã hoàn toàn đánh mất sự nhanh nhạy cơ trí thường ngày, nên đành nhắc đi nhắc lại phán đoán vô cớ này hết lần này đến lần khác.

Nàng ngồi đấy nhìn ngọn đèn, nghe tiếng người, liên tưởng đến nam tử áo trắng phấp phới đó, lại nhìn kỹ nữ nhân mỉm cười gần ngay trong gang tấc này, chỉ cảm thấy tất cả của tất cả đều không chân thực.

Không chân thực biết bao.

“Hãy giết ta đi!”. Khương Trầm Ngư nói khẽ bằng một giọng điệu bình tĩnh đến chết chóc.

Nụ cười trên gương mặt Đỗ Quyên nhạt dần! vẻ mặt phức tạp im lặng rất lâu, rồi mới trả lời: “Ngươi biết điều này là không thể”.

“Hãy giết ta đi”. Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu rồi lại chậm rãi thở ra, nói ra hai hếng cuối cùng: “Tỉ tỉ”.

Giấy trắng.

Tiết Thái bất động hồi lâu.

Mưa tầm tã thấm ướt trang giấy trắng, nó không còn cứng cáp nữa mà mềm oặt rũ xuống.

“Thật… là… làm bộ làm tịch…”. Tiết Thái khẽ lầm bầm. Rõ ràng trước đó vẫn viết chữ, sau cùng lại đưa cho hắn một tờ giấy trắng, đúng là nếu luận về giả vờ giả vịt, làm bộ làm tịch, thì trên đời này chẳng ai bì được với Cơ Anh.

Nhân lúc tứ phía hỗn loạn, Tiết Thái vo tròn tờ giấy bỏ vào trong tay áo, vuốt nước mưa trên mặt, quay người đi lẫn vào trong màn mưa, không lâu sau thì biến mất giữa biển người.

Mà cùng lúc đó trong Tây viện, hai người ngồi im lặng đối diện nhau, không ai chịu lên tiếng trước.

Bỗng một người vội vã mở cửa chạy vào, hoảng hốt nói: “Phu nhân phu nhân, không hay rồi không hay rồi!”.

Đỗ Quyên khẽ cau mày: “Chuyện gì”.

“Đông viện bị cháy, thành chủ đã tự mình xông vào biển lửa cứu người”.

Đỗ Quyên “hừ” một tiếng: “Biết ngay là y sẽ làm thế. Dì Mai, dì đi xem, dì biết phải làm thế nào rồi chứ?”.

“Vâng”. Dì Mai cùng với người đó mau chóng rời đi. Cứ thế, trong căn phòng chỉ còn lại hai người: Khương Trầm Ngư và Đỗ Quyên. Đỗ Quyên xoắn một món tóc, cười rất tươi:

“Từ lúc nào muội biết đến sự tồn tại của ta?”.

“Mười tuổi”.

“Làm sao biết được?”.

Trên gương mặt Đỗ Quyên thoáng chút mỉa mai: “Chuyện xấu xa như thế, lệnh tôn không thể nói thẳng cho muội nghe được, đặc biệt có cả… vị Khương Họa Nguyệt kia”.

Đáy mắt Khương Trầm Ngư nổi lên chút mơ hồ – Đúng thế, rốt cuộc làm sao mà nàng biết được? Thực ra, chẳng phải là luôn không hay biết gì sao?

Tuy những dấu vết đó tản mát trong nhưng mảnh ký ức, nhưng nàng thực sự chưa từng sắp xếp và phân tích chúng. Chỉ là loáng thoáng biết rằng, phụ thân có bí mật, mà bí mật đó ông không chỉ giấu ba huynh muội nàng, giấu mẫu thân, mà còn giấu tất cả mọi người…

Mùng một Tết năm nàng lên mười.

Quản gia mang đến một bồn hoa lan, nói là không biết ai đã đặt ở ngoài cửa, nhìn đẹp mắt, lại nhớ ra phu nhân yêu hoa, cho nên mới bưng vào dâng lên. Đương nhiên là mậu thân rất vui vẻ, cảm thấy trời ban báu vật, coi đó là điềm lành. Nhưng đêm đó khi chuyển bồn cho cây hoa, lại đào được một vật tư trong bọc đất, đó là một hòn vô cùng bình thường, phía trên vẽ hai con mắt.

Mẫu thân nhìn thấy tấm tắc kêu lạ, nhưng khi đưa cho phụ thân xem, phụ thân bất ngờ biến sắc.

Đêm đó, đèn trong thư phòng sáng cả đêm, rất nhiều ám vệ ra ra vào vào, bóng dáng phụ thân hắt trên giấy dán cửa sổ đi đi lại lại. Trực giác mách bảo với Khương Trầm Ngư rằng, có chuyện gì đó đã xảy ra. Nhưng phụ thân vẫn luôn thần thần bí bí như thế, vì vậy nên nàng cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.

Từ đó về sau, mùng một Tết năm nào bên ngoài cửa phủ cũng xuất hiện một bồn hoa lan, mà người tặng hoa mãi vẫn không lộ diện. Nhắc đến chuyện này, dĩ nhiên mẫu thân nàng chỉ coi đó là một giai thoại, còn thái độ của phụ thân mỗi lần như vậy đều có gì đó gượng gạo.

Chắc chắn ông biết người tặng hoa là ai.

Hơn nữa, ông còn không định nói cho mẫu thân biết đáp án.

Vì thế, Khương Họa Nguyệt còn nói đùa, không chừng phụ thân có tình nhân ở bên ngơài, nên mùng một Tết mỗi năm vị tiều thiếp đó đều sốt sắng tặng quà cho đại nương. Khương Hiếu Thành tỏ vẻ đồng ý với kết luận này. Nhưng Khương Trầm Ngư lại không cho rằng như vậy. Bởi vì, một nam nhân giống như phụ thân nàng, nếu thực lòng muốn nạp thiếp bên ngoài, thì người thiếp đó tuyệt đối sẽ không có cơ hội xuất hiện trước mặt mẫu thân nàng với bất cứ hình thức hay cách thức nào; chứ đừng nói là sau lần đầu tặng quà bị phụ thân biết được, còn có lần thứ hai.

Về sau, khi bắt đầu học y thuật với Giang Vãn Y, lúc tra cứu tư liệu nàng vô tình phát hiện ra sự kỳ lạ của các thành phần dược liệu có mùi rất thơm mà Khương Họa Nguyệt uống, bao gồm hạt cải đầu và hoa cà tím. Theo “Bản thảo cương mục”, hạt cải dầu sắc cùng với sinh địa, bạch thược, đương quy và xuyên khung, uống vào sẽ có tác dụng triệt sản. Cũng tức là sẽ dẫn đến chứng vô sinh. Mà hoa cà tím cũng là thuốc tránh thai.

Tại sao trong phương thuốc chữa chứng vô sinh của Họa Nguyệt, lại có vị thuốc dẫn đến chứng không thể đậu thai?

Phát hiện điểm kỳ lạ này, Khương Trầm Ngư còn chưa kịp tiếp tục tra cứu kỹ hơn thì đã gặp chuyện ở Hồi thành.

Hôm nay, khi nhìn thấy hoa lan trong dịch trạm, trong tâm trí nàng hơi xao động nhưng vẫn chưa liên hệ ba sự kiện với nhau. Nhưng khi Đỗ Quyên nắm tay nàng, nói tặng hoa cho nàng, thì nàng đã bắt đầu lờ mờ cảm thấy có gì đó không đúng. Đến khi đánh cờ, phát hiện nụ cười thẹn thùng của Đỗ Quyên rất quen thuộc vì nàng ta giống mẫu thân của mình đến ba phần thì phong ấn lâu ngày cuối cung đã ầm ầm sụp đổ, ào ào lao ra, đó chính là lời nguyền rủa đối với vận mệnh, sự mỉa mai đối với gia tộc…

Nếu như, Đỗ Quyên chính là người tặng hoa đó;

Nếu như, Đỗ Quyên và phụ thân luôn ngầm liên hệ, vậy thì đó là mối quan hệ như thế nào mới có thể khiến phụ thân ngầm cho phép nàng ta tặng hoa cho mẫu thân hàng năm? Mới tiết lộ tin tức cơ mật Di Phi cũng ở trên thuyền đi sứ cho nàng ta? Và phải là tình cảm như thế nào thì mới khiến cho nàng ta tặng hoa cho phu nhân của hữu tướng hàng năm? Khiến nàng ta khi nhắc đến mẫu thân, lại đầy vẻ khao khát và tình cảm?

Một khả năng nào đó nổi lên trong đầu nàng…

“Tỉ tỉ”.

Khương Trầm Ngư thốt ra hai tiếng ấy bằng tâm trạng tuyệt vọng nhất cùng phong thái bình tĩnh nhất. Trong âm điệu có ba phần thăm dò bảy phần cầu nguyện. Đáng tiếc, kết cuộc cuối cùng là…

Đỗ Quyên không hề phủ nhận. Tại sao…

Tại sao lại để suy nghĩ hoang đường nhất này của nàng trở thành sự thực?

Tại sao lại để nàng biết trước đáp án, rồi lại đi đoán lý do... Giống như giờ này phút này, khi biết rõ thân phận thực sự của Đỗ Quyên rồi, cảm giác nghi hoặc mơ hồ trong đầu Khương Trầm Ngư đã biến thành một lưỡi dao cứng như thép, mỗi câu hỏi đều là một vết thương: Tại sao Đỗ Quyên lại là tỉ tỉ của nàng?

Tại sao tỉ tỉ của nàng lại bị mù?

Tại sao phụ thân chưa bao giờ nhận đứa con gái này?

Tại sao nàng ta lại được gả cho Vệ Ngọc Hành, giờ lại ngồi bày ván cờ ở đây?

Nàng ta muốn gì... Hay là, phụ thân… muốn gì?

Từng lý do trong đó, Khương Trầm Ngư không phải không thể nghĩ ra, mà là không dám. Nàng không dám nghĩ.

Nàng chỉ có thể sững sờ ngây ngốc nhìn Đỗ Quyên gần trong gang tấc, bờ môi run rẩy, ánh mắt lấp lánh lệ, một từ cũng không thốt nên nổi.

Nàng câm lặng, còn Đỗ Quyên lại lên tiếng: “Buồn sao Trầm Ngư...?”.

Khương Trầm Ngư không lắc nổi đầu. “Đau lòng sao... Trầm Ngư?”.

Khương Trầm Ngư không nén nổi lòng.

Đỗ Quyên cười nhạt, giọng nói mảnh như tơ, tưng chút từng chút đan vào nhau, mềm mại khẽ khàng, nhưng rất chắc nịch:

“Phát hiện mình vô duyên vô cớ có thêm một tỉ tỉ; phát hiện người trong lòng mình tính mạng như chỉ mành treo chuông; phát hiện một âm mưu tày trời thực ra đã bắt đầu được giăng bẫy, chuẩn bị, nung nấu từ rất nhiều năm trước; phát hiện cái thế giới mà ngươi tưởng rằng hạnh phúc, vui vẻ sung sướng thực ra là giả… phát hiện ra tất cả, ngươi có muốn khóc không?”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, không chịu trả lời.

Đỗ Quyên liền tự mình nói tiếp:

“Nhưng so với kẻ không biết gì, hưởng phú quý trong mộng là ngươi, ta mới là kẻ có tư cách nhất, có lý do nhất để khóc chứ. Bởi vì, ta là kẻ bị hy sinh, bị vứt bỏ, bị tước đoạt quyền được hạnh phúc rồi lại phải cam tâm tình nguyện để cho người khác lợi dụng…”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói mềm mỏng: “Ta… có thể không nghe được không? Ta… không muốn nghe”.

Trong thoáng chốc, mặt Đỗ Quyên sầm lại, nghiến răng nói: “Ngươi dựa vào cái gì mà có thể không nghe? Đây là vận mệnh của ta cũng là vận mệnh của Khương gia, ngươi, Khương Trầm Ngư, dựa vào cái gì mà không nghe?”.

Câu nói này giống như một cái bạt tai, đập mạnh vào mặt .Khương Trầm Ngư cả người nàng chao đảo, im lặng trở lại.

Thế là chuyện cũ thối nát trong chớp mắt đã làm vết sẹo vỡ toác chất dịch tanh tưởi màu đen tràn ra khắp nơi, mưa rơi sấm giật bên ngoài cửa sổ, rõ ràng là mùa hạ tháng tám oi bức, nhưng đêm nay lại lạnh đến thấu linh hồn.

Ngày hai mươi tư tháng sáu của mười tám năm về trước, trong nhà của hữu tướng Khương Trọng, Khương phu nhân sau cơn giày vò đau đớn suốt ba ngày trời, cuối cùng đã sinh hạ một cô con gái, nhưng Khương Trọng còn chưa kịp được hưởng niềm vui có con gái cưng đã phát hiện đứa bé này bị mù bẩm sinh.

Sau khi cửa phòng sinh đóng im ỉm suốt một canh giờ, Khương Trọng mới mở cửa bước ra, tuyên bố với bên ngoài con gái vừa chào đời đặt tên là Họa Nguyệt.

“Thừa tướng phu nhân mong đợi đứa trẻ này đã lâu, nếu biết đứa trẻ mình hoài thai sụốt mười tháng trời, đau đớn ròng rã ba ngày mới sinh hạ lại là một đứa bé mù, thì hẳn sẽ đau lòng biết bao nhiêu. Sinh con khó khăn, cơ thể suy nhược khí tức yếu ớt, nếu tiếp tục bị kích thích, e là bà sẽ không chịu được cú sốc này mà qua đời. Cho nên, người vốn cực kỳ yêu vợ như thừa tướng đại nhân đã mua chuộc đám người hầu, bà đỡ có mặt hôm đó, đem đổi lấy một bé gái khỏe mạnh. Đứa bé mù bị đem cho một đôi vợ chồng câm điếc trong một thôn hẻo lánh nuôi. Còn đứa bé khỏe mạnh kia được giữ lại trong phủ, trở thành đại tiểu thư ngồi mát ăn bát vàng”.

Giọng điệu của Đỗ Quyên rất bình tĩnh, thậm chí không hề có chút lên xuống nào, nhưng sự mỉa mai tràn ngập gương mặt:

“Thừa Tướng đại nhân yêu vợ ông ta làm sao, vì sự an nguy của vợ mà đến đứa con ruột cũng chẳng cần, thật khiến người ta xúc động. Tình yêu vĩ đại quá… chậc chậc châc… ngươi không cảm động ư? Trầm Ngư? Hơi thở của người sao lại gấp gáp như thế... Ngươi đang khóc sao...Thực ra ngươi đâu có gì phải khóc... Ta nghe nói không những người khỏe mạnh mà còn rất xinh đẹp, không những xinh đẹp mà còn rất thông minh, không những thông minh, quan trọng nhất là ngươi còn rất hiếu thuận. Thứ họ muốn chính là một đứa con gái như ngươi đấy. Ngươi là đứa con phù hợp với tất cả mọi điều kiện của Khương gia, cho nên, ngươi không bị đánh tráo, ngươi đâu cần phải khóc”.

Một tia chớp xé trời, soi rõ gương mặt trắng xanh lạnh lùng và méo mó của Đỗ Quyên. Nàng ta vừa cười tự trào như thế, vừa tiếp tục chậm rãi nói với giọng như nước không gợn sóng:

“Thuở nhỏ, cha và mẹ nói với ta, trong núi có một nàng tiên hoa, người có duyên nếu có gặp được nàng, cầu ước điều gì cũng sẽ thành sự thực. Cho nên, rõ ràng ta không nhìn thấy gì, nhưng ngày nào cũng chạy vào trong núi, ta luôn hy vọng có thể gặp được nàng tiên hoa ấy cầu xin nàng chữa lành đôi mắt cho ta, chữa lành đôi tai cho cha, chữa lành cổ họng cho mẹ, để cả nhà chúng ta được khỏe mạnh, giống như những người bình thường khác. Ta cứ tìm mãi tìm mãi mà không thấy nàng tiên hoa, nhưng lại học Được rất nhiều thứ, ví như có một số loài hoa phải trồng bằng những cách đặc biệt, có những loài hoa nhìn có vẻ an toàn nhưng thực ra là loài kịch độc. Ta học từng chút từng chút một, sờ mó từng chút từng chút một, cuối cùng, năm mười ba tuổi, chậu hoa lan lớn nhất ta trồng đã bắt đầu nở hoa. Cha mẹ bàn sẽ đem nó tặng cho vị đại ân nhân của họ, ta rất không nỡ nhưng họ vẫn đem đi. Tết đến, họ đi mấy chục dặm đường núi để tặng hoa, rồi lại đi mấy chục dặm đường núi để quay về, tâm trạng rất vui vẻ hào hứng, cảm thấy mình đã báo đáp được vị đại ân nhân đó. Nhưng ngày hôm sau, khi ta còn chưa tỉnh ngủ, đã ngửi thấy mùi máu tanh vấy khắp mọi nơi… Ngươi đang nín thở sao? Ngươi cũng đoán được chuyện gì rồi chứ? Không sai, bồn hoa đó đã gây ra đại họa, vì ta đã vẽ một đôi mắt trên hòn đá rồi vùi vào trong đất để cầu nguyện với thần hoa. Nhưng kẻ có tật giật mình nào đó lại tưởng đó là sự uy hiếp, nên cả quyết sai bọn ám vệ, cha và mẹ ta…”.

Nói đến đây, Đỗ Quyên ngừng lại một lát, giọng nói trở nên xa xôi: “Bị giết chết…”.

Đêm đó, đèn trong thư phòng phụ thân sáng cả đêm.

Đêm đó, ám vệ ra ra vào vào.

Đêm đó, Khương Trầm Ngư đã linh cảm được chuyện gì đó đang xảy ra. Chỉ là nàng không thể ngờ rằng, năm năm sau nàng có thể biết được chân tướng, hơn nữa, tận mắt nhìn thấy người bị hại của đêm đó trần thuật chuyện xưa trước mặt mình.

“Họ là những người rất chân chất, ngày nào cũng dậy từ lúc gà gáy, cày cuốc dệt vải, đợi mùa thu hoạch, lấy ít ngũ cốc, rau dưa đi chợ đổi lấy thịt. Người vợ có lần bị sốt, để khám bệnh nên phải mượn vay ít tiền của nhà thợ săn, nhưng không thể trả được. Lúc ấy, đại ân nhân lại tặng cho họ một cô con gái, còn cho họ một thỏi bạc mười lượng. Họ trả được nợ, mua đủ thuốc chữa được bệnh cho người vợ. Họ cảm thấy cuộc đời mình bắt đầu có được hạnh phúc từ khi ấy, họ vô cùng cảm kích vị đại ân nhân ấy, cho nên thành tâm dưỡng dục đứa con gái bị mù lòa, không chút máu mủ kia, gắp miếng thịt duy nhất trên bàn ăn vào bát đứa bé, dùng chút vải bông mới còn lại may quần áo cho nó... họ không biết chữ, nhưng lại biết dạy dỗ đứa trẻ làm người phải lương thiện, phải khoan dung, phải biết cảm ơn, cứ như thế ngày qua ngày đã nuôi đứa bé khôn lớn. Bọn họ nghe nói phu nhân của đại ân nhân thích hoa lan, bèn đem hoa lan mà con gái trồng được đi tặng…”.

Đôi mắt của Đỗ Quyên không chớp lấy một cái, hai đồng tử to tròn, không chút ánh sáng lại lạ lùng đến nhường ấy:

“Điều mỉa mai nhất là họ thậm chí còn chẳng biết đại ân nhân thực sự là ai, cứ một mực cho rằng đó chỉ là một người làm nào đó trong tướng phủ”.

Nước mắt Khương Trầm Ngư lăn xuống lã chã.

Có lúc mềm mại cũng là một thanh đao, không đánh mà thắng.

Đặc biệt là dùng thái độ như không có gì xảy ra, dùng giọng nói bình tĩnh nhất để thuật lại sự thực tàn nhẫn nhất.

Đến nàng nghe còn thấy xé nát tâm can như vậy, thật không dám tưởng tượng Đỗ Quyên năm mười ba tuổi phải đối diện với bi kịch máu tươi đầm đìa đó như thế nào.

“Sau đấy, vị thừa tướng tài giỏi đó xuất hiện, nói với đứa bé gái rằng nó vốn là con gái của ông ta, nói ông ta vì bất đắc dĩ thế nào mới phải vứt bỏ nó, nói bao năm nay ông ta luôn hối hận, nói tuy rằng ông ta không thể cho nó đanh phận thiên kim tướng phủ, nhưng nguyện chăm sóc cho cuộc sống từ đây về sau của nó… Ông ta nói rất khéo léo, cảm động, tình sâu như biển. Đứa con gái nhỏ vừa nghe vừa khóc, cuối cùng khóc mệt đến nỗi ngủ thiếp đi, khi nó thức dậy, phát hiện thừa tướng đại nhân đã thức cạnh bên giường của nó suốt một ngày một đêm. Đứa con gái nhỏ xúc động trước tình yêu của người cha vĩ đại liền ôm chặt ông ta, gào lên một tiếng – phụ thân”.

Bảo nàng phản ứng thế nào? Và có thể phản ứng thế nào? Đỗ Quyên nói đến đây bèn bật cười ha hả: “Vòng vèo mười ba năm, cuối cùng cốt nhục đã nhận nhau, cảm động làm sao. Đáng thương thay cho tiếng gọi “phụ thân” đó của ta, đáng thương thay cho song thân dưỡng dục ta, thi thể trên bùn đất vẫn còn chưa lạnh, vong linh trên trời của họ phải mở to mắt mà nhìn con gái mà mình vất vả nuôi nấng dạy dỗ ngã vào vòng tay của hung thủ, nối mối thiên luân”.

Khương Trầm Ngư tiếp tục khóc, nước mắt giống như trào thẳng ra từ hai hốc mắt, nức nở không hề kiềm chế. Rõ ràng đã đoán ra được: Sở dĩ phụ thân phải đánh tráo trưởng nữ, dụng ý thực sự chưa chắc đã là sợ mẫu thân đau lòng, mà là nếu như trưởng nữ bị mù thì sẽ không thể gả cho đế vương vào cung làm phi, cho nên đổi lại là một bé gái xinh đẹp, sẽ thuận lợi đưa nó tiến cung. Cũng rành rành nghe ra rằng: Sở dĩ Đỗ Quyên gọi ông ta một tiếng “phụ thân”, cũng không phải cảm động vì cha con tương phùng, mà là nén cơn hận để mưu đồ báo thù. Trong bi kịch này, hai người đều diễn kịch, ta lừa ngươi gạt, khiến hai chữ “tình thân” mình đầy thương tích như thế.

Bảo nàng phản ứng thế nào? Và có thể phản ứng thế nào?

Tiếng cười của Đỗ Quyên dần ngừng lại, rồi lại nói với ngữ điệu như nước lặng không gợn sóng: “Thừa tướng nhận lại con gái, bắt đầu đốc tâm dạy dỗ nó. Con gái thông minh đến không ngờ, học gì cũng rất nhanh. Ba tháng sau, thừa tướng gả con gái cho người ta. Thừa tướng nói, người đó nghi đung tuấn mỹ, uy vũ phi phàm. Thừa tướng nói, người đó võ nghệ siêu quần, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn. Thừa tướng nói, người đó thành thực dịu dàng, sẽ đối tốt với nó… Ông ta nói rất nhiều rất nhiều, sau cùng con gái nói:

“Phụ thân, con sẽ lấy. Nếu cha muốn con lấy, con sẽ lấy”. Cứ thế, nó lấy chồng, hai tháng sau, người đó thi đỗ võ trạng nguyên, nhất thời vui sướng phấn chấn, quả nhiên tiền đồ vô lượng”.

Thương thay cho Khương Trầm Ngư nghe đến đây, đến thở dài cũng không dám – Vốn cho rằng phụ thân hạ lệnh giết đôi vợ chồng câm điếc, giữ lại cái mạng của con gái, coi như là còn niệm chút tình thân, nhưng bây giờ ngẫm ra lại là vì năm đó nhìn trúng Vệ Ngọc Hành vẫn còn ở thuở hàn vi, vì muốn lôi kéo hắn nên mau mau chóng chóng gả con gái của mình cho hắn. Còn Vệ Ngọc Hành sở dĩ có thể đỗ võ trạng nguyên, e là cũng có sự giúp đỡ ngấm ngầm của phụ thân.

“Đáng tiếc người tính không bằng trời tính. Thừa tướng những tưởng mình có thêm một cánh tay, nhưng chẳng ngờ vẻ đẹp trời sinh của con rể lại bị con gái của tả tướng gia nhìn trúng. Thừa tướng sao chịu để con vịt đã dâng đến tận miệng còn bị người khác cướp mất một nửa? Vì thế, chỉ thị cho con rể không đồng ý.... Như thế đã đắc tội với tả tướng, con rể bị biếm chức, ông ta cũng không thể lộ điện bảo vệ, mà chỉ nói với con rể và con gái rằng, trước tiên cứ đến biên thành đợi vài năm, thời cơ chín muồi, ắt sẽ vinh quang quay về. Đỗ Quyên vuốt ve mái tóc đài của mình, bỗng ngậm ngùi nói: “Chờ liền bốn mùa xuân thu”.

Bốn năm.

Phải quyết tâm như thế nào mới có thể khiến một người thân thể yếu ớt không thể sống lâu ở nơi ẩm ướt, mạo hiểm tính mệnh cư trú tại Hồi thành suốt bốn năm trời?

Và phải có dã tâm thế nào mới có thể khiến nàng ta nén nhịn nỗi ấm ức oán hận âm thầm che giấu tài năng?

Rõ ràng là cùng dòng máu, thậm chí là cùng có trí tuệ thông minh như nhau, nhưng chỉ vì nàng ta bị mù, dáng vẻ không đủ xinh đẹp, là đã mất đi tư cách có được hạnh phúc…

Nàng tự hỏi, nếu đổi lại là mình, sẽ phải làm thế nào?

Khương Trầm Ngư không dám nói mình sẽ không oán hận, càng không dám nói mình sẽ không báo thù. Vì thế, đối diện với Đỗ Quyên nhìn tưởng như bình thản nhưng từng câu từng chữ thốt ra đều bức người trước mặt, nàng chỉ có thể khóc.

Buồn nỗi buồn của nàng ta. Đau nỗi đau của nàng ta.

Chuyện xấu của gia tộc là như thế.

Khương Họa Nguyệt tiến cung, bản thân nàng tiến cung và Đỗ Quyên không tiến cung. Họ thực ra đều giống nhau.

“Ta rất muốn nhìn ngươi…”.

Đỗ Quyên khẽ nói: “Những chuyện có liên quan đến ngươi ta đã được nghe suốt năm năm nay, biết càng nhiều lại càng tò mò. Đến nay cuối cùng ta đã đợi được cơ hội gặp ngươi, nhưng cũng là cơ hội… hại ngươi”.

Khương Trầm Ngư đột nhiên lóe lên một tia hy vọng, chẳng kịp nghĩ ngợi liền đi vòng qua chiếc bàn, lập tức quỳ xuống dưới chân Đỗ Quyên, nắm chặt tay của nàng ta, đau đớn cầu xin: Tha cho công tử, có được không?”.

Rèm mi của Đỗ Quyên run run.

“Tỉ tỉ, tỉ tỉ, cầu xin tỉ đó! Tha cho công tử, muội cầu xin tỉ”. Nàng bắt đầu dập đầu.

Đỗ Quyên không ngăn nàng chỉ thấp giọng than: “Tại sao người thông minh như ngươi lại hỏi một câu ngu xuẩn như thế?”.

“Muội không hỏi, muội cầu xin! Tỉ tỉ…”.

Khương Trầm Ngư giữ chặt hai tay nàng ta, tóm rất chặt rất chặt, giống như đùng toàn bộ sức lực của cả cuộc đời: Muội không còn cách nào khác. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là muội biết tỉ có thể làm được. Tỉ tỉ, tỉ tỉ…”.

Đỗ Quyên lạnh nhạt nói:

“Nếu ngươi cho rằng ta vì chống đối thừa tướng, cho nên muốn giết hại Cơ Anh, sau đó đổ cho Di Phi kẻ mà phụ thân đại nhân ngầm phù trợ, phá hoại kế hoạch của ông ta thì ngươi sai rồi”.

Khương Trầm Ngư cứng đờ người.

“Ngươi còn không hiểu sao?”. Đỗ Quyên nhẹ nhàng nắm tay nàng, trong động tác hàm chứa biết bao thương xót: “Người muốn giết Cơ Anh chính là hoàng thượng…”.

Mắt Khương Trầm Ngư trong chốc lát mở lớn đến cực đại.

“Còn phụ thân chẳng qua chỉ góp tay thuận nước đẩy thuyền, làm động tác cuối cùng mà thôi…”.

Tiếng cuối cùng thong thả kết thúc, trong căn phòng im lặng như tờ. Chỉ có mưa bên ngoài cửa sổ, rào rào rào rào, ngọn lửa ở Đông viện phía xa chiếu đỏ cả bầu trời.

Cung đăng sáng rực như ban ngày.

“Hoàng thượng giá…”, chữ “đáo” còn chưa phát ra khỏi miệng, thái giám phụ trách thông báo đã bị đôi hài màu vàng nhạt đá ngã lăn ra đất, thiên từ thiếu niên rảo bước vào trong, đằng sau, một hàng thị vệ nơm nớp lo lắng đi theo, đến cửa thì đừng lại. Chỉ có đại thái giám La Hoành kéo tấm thân núc ních theo sát phía sau, đi vào phòng mé bên của ngự thư Phòng, còn chưa đóng cửa lại đã nghe thấy chủ tử cười lạnh một tiếng, trầm giọng nói:

“Các ngươi giỏi quá, to gan quá, phải không? Làm giỏi quá, đúng không?”.

Trong Bách Ngôn đường, ánh nến nhảy nhót, tám người bên bàn, mỗi người một vẻ mặt.

Chiêu Doãn vứt phịch tờ mật báo trong tay xuống bàn, cuốn sách nhỏ vạch một đường cong dài, bay ra tứ phía.

Uy nghi thiên tử nhất thời khiến mọi người kinh sợ. Trong chốc lát, giữa căn phòng im ặng chỉ có hếng hít thở vang lên. Hồi lâu sau, người áo tím ngồi cuối cùng chầm chậm đứng dậy, lặng lẽ lượm từng trang giấy lại, xếp ngay ngắn rồi cung kính đặt lại lên bàn.

Chiêu Doãn phẩy tay áo, quyển mật báo lại lần nữa rới xuống đất.

Người áo tím không dám ho he, lại lần nữa khom lưng nhặt quyển sách lên, đặt lại vị trí ban đầu.

Chiêu Doãn phẩy tay áo lần thứ hai, quyển mật báo va vào trán của người áo tím, ngươi áo tím van giữ tư thế khom lưng, mặc cho những trang giấy rơi vào mặt mình, từng trang từng trang rớt xuống đất.

“Nhặt đi”. Khóe miệng Chiêu Doãn kéo thành một nụ cười nhưng ánh mắt vẫn lạnh như băng: “Nhặt tiếp cho trẫm xem!”.

Trong nháy mắt, bầu không khí trong căn phòng lạnh lẽo như một hầm băng, bảy người còn lại ai cũng cúi gằm, lo lắng vạn phần.

Người áo tím quỳ sụp, không dám nói gì, chỉ phủ phục trên mặt đất, đáng vẻ cực kỳ nghe lời. Nhưng Chiêu Doãn nhìn thấy lại càng tức thêm, cười lạnh nói:

“Sao không nói gì? Câm rồi à? Trẫm nuôi các ngươi bao nhiêu năm, các ngươi báo đáp trẫm như thế này à? Hả? Dám không đếm xỉa đến ý chỉ của trẫm tự lộng hành à? Các ngươi đang ép trẫm phải không? Các ngươi dám ép trẫm phải không?”.

Nói đến đây giận quá bèn giơ chân đạp vào lưng người áo tím, người áo tím rên rỉ một tiếng trong cổ họng, mồ hôi lạnh trên trán trong chốc lát tứa ra như tắm.

La Hoành đứng bên cạnh không kìm được lên tiếng khuyên nhủ: “Hoàng thượng, bây giờ hoàng thượng nổi giận cũng không giải quyết được gì, chi bằng mau chóng nghĩ cách nên bổ cứu như thế nào…”.

Chiêu Doãn sầm sì nói: “Bổ cứu... Không sai, phải bổ cứu cẩn thận. Ta không cần biết tám người các ngươi dùng cách gì, lập tức dừng kế hoạch ám sát. Nếu Cơ Anh mất một sợi lông tơ thì tám người các ngươi sẽ phải bồi táng cho hắn!”.

Lúc này, không chỉ người áo tím, mà cả bảy người kia đều nhìn nhau, rồi đồng loạt rũ áo quỳ xuống.

Chiêu Doãn nhướng mày, gằn giọng quát: “Thế nào? Các ngươi thị uy với trẫm phải không?”.

Thiếu niên áo xanh lục quỳ ở hàng đầu ngẩng đầu lên, vẻ mặt nghiêm trang, chậm rãi đáp: “Xin hoàng thượng bớt giận, nghe chúng thần giải thích”.

Được ngươi giải thích, trẫm sẽ nghe xem, là lý do cao siêu gì mà khiến các ngươi dám làm chuyện gan to tày trời, đại nghịch bất đạo này”. Chiêu Doãn vén áo bào, ngồi xuống ghế.

Mọi người thấy tình thế đã dịu đi, bấy giờ mới thở phào một hơi, toàn bộ đều mong ngóng nhìn thiếu niên áo xanh lục, thiếu niên áo xanh lục hít vào một hơi thật sâu, rồi móc ra một quyển sổ từ trong tay áo đưa cho La Hoành, La Hoành giơ tay đón lấy trình cho Chiêu Doãn xem. Chiêu Doãn vốn chỉ hờ hững lật giở, nhưng khi đọc nội đung bên trong thì mặt đột nhiên biến sắc.

Thiếu niên áo xanh lục bấy giờ mới chậm rãi giải thích:

“Đây là so sánh thu chi của quốc khố năm nay và năm Gia Bình thứ hai mươi bảy. Tiên đế trong thời gian tại vị, bình định Giang Lý, Yển Sơn, đất đai thu về, khiến đân số nước ta vượt ngưỡng bảy mươi triệu người, khi đó số bạc trong quốc khố là hai trăm mười triệu lạng. Đến nay xem lại, dân số không hề tăng thêm, chiến sự không phát sinh, nhưng hiện nay quốc khố chỉ còn lại tám triệu lạng. Vậy tiền đi đâu?”.

Mấy câu ngắn ngủi, giống như một tia sét giữa trời quang vang vọng rất lâu trong gian mật thất.

Chiêu Doãn đường như thực sự bị sét đánh trúng, để lộ vẻ mặt đầy mâu thuẫn.

Thiếu niên áo xanh lục lại rút từ trong tay áo ra một cuốn sổ khác giơ cao quá đầu.

Chiêu Doãn liếc y một cái, lạnh nhạt nói: “Trẫm không đọc có gì cứ nói ra đi “.

Thiếu niên áo xanh lục mở cuốn sổ ra, đọc to:

“Đồ Bích năm thứ nhất, cửu khanh bãi miễn thất khanh, các thần tử mới đều xuất thân từ hai tộc Cơ, Tiết; Đồ Bích năm thứ hai, đô úy tướng quân thay đổi, thăng cấp cho ba mươi bảy người, đều là môn sinh của Kỳ Úc hầu; Đồ Bích năm thứ ba, Cơ thị phụng chỉ xây dựng đê điều, chi phí tốn kém một khoản lớn; Đồ Bích năm thứ tư, chiến dịch phạt Tiết, Cơ tộc lại một tay sắp xếp… Tiền của quốc khố, đều vì những khoản chi này khoản chi kia mà ‘vô tình’ trở nên trống rỗng”.

Người áo tím dập đầu xuống đất, mặt mày đẫm lệ, nói:

“Hoàng thượng! Tiết thị lộng quyền làm phản, nhưng tịch thu gia sản cũng không quá ba triệu lạng bạc... còn Cơ thị nhìn tưởng như kín đáo, kỳ thực mới là tham ô vơ vét, loạn chính họa quốc! Chúng nắm quyền mới chưa đầy bốn năm đã thành như vậy nếu để lâu ngày, thì sẽ thế nào? Loài độc trùng này không trừ bỏ, xương tủy của Bích quốc sẽ bị gặm nhấm hết!”.

Chiêu Doãn lim dim đôi mắt phượng hẹp dài, lạnh lùng nói: “Các ngươi nói Cơ Anh tham ô ư...?”.

Người áo tím tâu:

“Cơ Anh không tham ô, không có nghĩa là cả Cơ gia không tham ô... Cơ gia tham nhũng lớn đã thành đại họa. Nhưng chỉ cần Cơ Anh còn Cơ gia tuyệt đối không thể bị lung lay, cho nên, muốn trừ bỏ Cơ gia, thì phải trừ bỏ Cơ Anh trước tiên!”.

Người mặc áo màu lam bỗng xen lời vào:

“Bản thân Cơ Anh cũng chưa chắc đã thanh bạch! Nhìn đồ hắn ăn mặc tiêu xài đều là hàng thượng phẩm. Nghe nói, hắn may một chiếc áo bào, phải cần tới bảy mươi hai thợ dệt, mất ba tháng ròng rã để thêu hoa ở vạt áo, cổ áo, nhìn thì không có gì đặc biệt mà kỳ thực càn khôn vô tận. Còn một món hắn ăn, cho dù là món đạm bạc bình thường nhất, cũng cần tới mấy chục loại dược liệu trân quý…”.

“Đủ rồi!”. Chiêu Doãn sầm mặt.

Người áo lam lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng lại.

Thiếu niên áo xanh lục nói:

“Nói những điều này cũng chẳng ích gì. Việc cần làm trước mắt là làm thế nào để bổ sung quốc khố..? Mùa hạ sắp đến gần, nếu lúc đó lũ lụt tám triệu lượng có thể chống đỡ không? Năm nay hạn hán hoành hành, nếu mất mùa thì quốc khố cứu tế ra sao...? Khi sự tồn tại của một gia tộc đã làm nguy hại đến kinh tế dân sinh, vậy tại sao không thể triệt trừ nó...Quốc gia quan trọng hay là thần tử yêu quý quan trọng... Hoàng thượng, đối diện với những con số kinh tâm động phách này, xin người suy xét cho kỹ!”. Nói đoạn, cúi đầu sát đất, dập đầu thật mạnh ba cái.

Bảy người còn lại đồng thanh hô vang: “Cúi mong hoàng thượng suy xét cho kỹ!”.

Đối diện với các mưu sĩ nhất loạt quỳ xuống đất, ánh mắt Chiêu Doãn lộ vẻ tịch liêu. Y ngồi giữa quần thần mà giống như đang chìm đắm trong thế giới của riêng mình, không cười, không nói, không nhúc nhích.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười bốn : Quyết biệt (Phần 1)

Bởi vì ta là con gái của Khương Gia…

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ ta sẽ hy sinh công tứ chọn nhà mẹ đẻ…

Một lời thành sấm truyền.

Rất lâu rất lâu rồi… trong một khoảng thời gian rất dài, Khương Trầm Ngư cảm thấy nàng đắm chìm trong một mộng cảnh hư ảo nào đó do chính nàng dệt nên. Trong giấc mộng này, nàng mang theo khát vọng nhỏ nhoi, ngóng trông một tia hy vọng cuối cùng.

Hy vọng có thể trở thành bằng hữu của Cơ Anh. Cho đù không phải là tình nhân, cho đù không liên quan đến ái tình, nhưng là chiến hữu, là đối tác, là người rất thân thiết.

Vì thế nàng tranh đấu, nàng cầu xin, nàng không chấp nhận số phận.

Nàng – Khương Trầm Ngư xưa nay chưa từng cam tâm. Xin làm mưu sĩ cũng được, mà đi sứ Trình quốc cũng xong, dưới cái vẻ ngoài tưởng như nguy hiểm mà muôn phần đặc sắc đó chẳng qua chỉ là sự chống đối vận mệnh của nàng mà thôi.

Nhưng nay, hai câu nói của Đỗ Quyên đã tuyên bố sự chống đối này của nàng biến thành một câu chuyện cười thực thụ.

Phụ thân…

Phụ thân…

Rốt cuộc cha đang nghĩ gì?

Hoặc nói cách khác, cha đang mưu toan gì? Kế hoạch của cha phải chăng đã bắt đầu từ nhiều năm trước? Bây giờ chính là thời điểm cha ra tay sao?

Ngấm ngầm giúp đỡ Di Phi trốn khỏi Trình quốc là bước quan trọng nhất trong kế hoạch ám sát Cơ Anh của cha sao?

Phụ thân… muốn… giết… Cơ Anh… Sáu chữ này đau thấu tâm can.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên cách mình chỉ một bước, nghĩ đến thân phận thực sự của nữ tử này, nghĩ đến tất cả cảnh ngộ mà nàng ta đã gặp phải, lại nghĩ đến Họa Nguyệt trong cung, lại nghĩ đến bản thân phút này, nước mắt từ từ ngưng lại, thay vào đó là một tràng cười lớn vang lên.

Cười đau khổ. Cười nhạt. Cười lạnh. Cười tự trào. Cười như điên dại.

Nàng nhắm mắt lại, cười điên cuồng. Tiếng thét chói tai xé toang lồng ngực, tuôn trào bùng nổ.

Khương Trầm Ngư chưa bao giờ biết rằng hóa ra mình còn có thể gào lớn đến thế, nhưng cho dù dùng lực như thế nào, dường như vẫn không đủ, không đủ, vĩnh viễn không đủ!

Đỗ Quyên bị giật mình vì tiếng thét của nàng, nàng ta co rúm người lại, cuối cùng chau mày: “Trầm Ngư”.

Trầm Ngư không hề e ngại vẫn một mực hét, như thể phải xả hết thảy nỗi ấm ức trong đời, như thể loạn trí.

Đỗ Quyên bình tĩnh trở lại, lạnh nhạt nói:

“Gào đi. Ngươi cứ thả sức mà gào đi. Năm đó ta cũng muốn kêu gào, nhưng cho dù là cơ hội kêu gào ấm ức ông trời cũng chẳng ban cho ta. Chỉ một điềm này thôi, ngươi cũng may mắn hơn ta rất nhiều Khương Trầm Ngư, dù cho ngươi có thừa nhận hay không, ngươi vẫn là đứa con may mắn nhất của Khương gia. Ngươi có biết tại sao Khương Họa Nguyệt không thể hoài thai không?”.

Nghe nàng ta đột ngột nhắc đến Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư run rẩy một lúc tiếng thét đau đớn trong nháy mắt đã nhỏ đi chỉ còn tiếng nghẹn ngào thốn thức của loài động vật bị thương còn sót lại trong cổ họng. Bởi vì Khương gia chỉ cần một hoàng hậu, mà Khương Trọng… chọn ngươi”.

Khương Trầm Ngư liền ngẩng đầu lên, khàn giọng hỏi: “Tỉ nói gì?”.

Nụ cười trên môi Đỗ Quyên trở nên có phần ác ý: “Ta nói còn chưa đủ rõ ràng sao? Trầm Ngư, ngay từ khi bắt đầu, Khương gia đã chọn ngươi – đứa con xuất sắc nhất, được yêu thích nhất của bọn họ, tiếp nối dòng máu của hoàng tộc, trở thành cánh tay đắc lực nhất, mạnh mẽ nhất của họ, thao túng Bích quốc. Cho nên, ngươi đã được chọn lựa để vào cung, Họa Nguyệt chỉ là một viên đá lót đường mà thôi”.

Cả người Khương Trầm Ngư run lên dữ dội. Chân tướng sự việc ào ào lộ diện, thậm chí còn chẳng cho nàng mảy may cơ hội nghỉ lấy hơi. Vốn cứ tưởng rằng là trời long đất lở, mà chưa từng nghĩ rằng còn có thể đau đớn hơn, thương tâm hơn, tuyệt vọng hơn nữa.

“Tình cảm của ngươi và Khương Họa Nguyệt rất thắm thiết phải không?

Ngươi được ban cho quyền tự do vào cung thăm nàng ta phải không? Mỗi lần ngươi vào cung thăm tỉ tỉ, người nhà có phải đều rất ủng hộ không? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao dân gian lại lưu truyền câu nói, con gái út của Khương gia đẹp như tiên nữ, nghiêng nước nghiêng thành’ sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao canh thiếp của Kỳ Úc hầu lại vô duyên vô cớ bốc cháy sao..? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao hoàng thượng lại đột nhiên muốn ngươi vào cung sao? Hơn nữa còn để cho ngươi vừa vào cung đã đứng đầu quần phi...?”.

Khương Trầm Ngư cuơng quýt hỏi: “Ý tỉ là tất cả đều vì… phụ thân?”.

Đỗ Quyên nhướng nhướng mày, vẻ mặt lại càng lộ vẻ giễu cợt:

“Ngươi biết theo truyền thống một hoàng hậu cần có những điều kiện gì không..? Phải xuất thân danh giá, nghi dung đoan trang, khí độ cao vời, tự nhiên hào phóng. Cho nên, ngươi được nuôi dạy khôn lớn theo tất cả những phẩm chất mà một hoàng hậu cần có, ngươi thử nghĩ mà xem, từ nhỏ đến lớn mọi người đều yêu cầu với ngươi nghiêm khắc nhất phải không? Phu tử dạy dỗ ngươi dụng tâm nhất phải không?”.

Nàng ta vừa nhắc tới, Khương Trầm Ngư liền nhớ ra, thuở nhỏ quả thực là như vậy. Bình thường, ca ca luôn quên làm bài tập, phu tử cũng không trách phạt, tỉ tỉ không làm tốt, phu tử cũng không soi mói. Chỉ có nàng, nếu có sơ suất, là sẽ bị dạy dỗ một cách rất tỉ mỉ kiên nhẫn, bị chỉnh đốn rất nghiêm khắc. Khi đó, chỉ nghĩ là phu tử cố ý bắt chẹt mình, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng nội tình lại ẩn chứa chuyện sâu xa như thế?

Ngươi cũng rất giỏi, đã trưởng thành đúng theo mong muốn của Khương Trọng. Từ sau khi ngươi mười ba tuổi, thiên hạ đều biết con gái út của hữu tướng, mỹ mạo còn hơn cả tỉ tỉ tài đức song toàn, được mệnh danh là Bích quốc đệ nhất mỹ nhân”.

Lời đồn chốn phố chợ phần nhiều là thổi phồng, vì thế nàng tuy đã nghe thấy những tin đồn đó, nhưng chưa từng để tâm. Nhưng phản ứng của Hoàng Kim Bà, phản ứng của Chiêu Loan, rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của những tin đồn đó cũng ngấm ngầm thừa nhận địa vị của nàng. Lúc này lại nghe Đỗ Quyên vạch rõ huyền cơ, cảm giác thật là… giống như một sự chế giễu trắng trợn.

“Để che giấu chờ thời, Khương gia luôn dùng thuật trung dung tức là với bất cứ việc gì cũng không tỏ ra xuất chúng, không phạm sai lầm, không lập công lao. Cho nên, khi ngươi vừa tới tuổi cập kê, để dập tắt ý muốn của những người muốn cầu thân với ngươi, Khương Trọng đã cố ý tung tin hứa gả ngươi cho Cơ Anh. Nhưng sau lưng lại âm thầm khẩn trương khai triển các khâu then chốt, lót sẵn đường, đốt canh thiếp, lại lợi dụng lòng đố kỵ của Hy Hòa phu nhân đối với ngươi, sự phòng bị của Chiêu Doãn đối với Cơ Anh, để ngươi thuận lợi vào cung, ngồi vững trên cái ngai Thục phi”.

“Lòng đố kỵ...?”. Chân tướng giống như một tấm lưới lớn bị chìm dưới đầm lầy nhiều năm, khi nổi lên, loang lổ rách nát, tả tơi tàn tạ, lại vừa sắc lẹm, từng sợi từng sợi làm người ta bị thương.

Đỗ Quyên cười ha ha, vuốt ve mái tóc dài, than khẽ: “Quả nhiên, đến chuyện quan trọng nhất Khương Trọng cũng giấu ngươi, không cho ngươi biết. Ngươi nghĩ Hy Hòa phu nhân vào cung như thế nào? Ngươi nghĩ nàng ta vốn dĩ là ai...?”.

“Nàng ta vốn dĩ là ai...?”. Câu hỏi này vừa bật ra, Khương Trầm Ngư liền âm thầm phòng bị, nhưng khi Đỗ Quyên thong thả chậm rãi nói ra đáp án, nàng còn phải hứng chịu sự đả kích và nỗi tồn thương lớn hơn.

“Nàng ta vốn dĩ là tình nhân của Cơ Anh. Nàng ta mới là vị hôn thê thực sự của Cơ Anh !”.

Ngày đó, nam tử ấy vuốt. Ve chiếc bản chỉ, mỉm cười lắc đầu, nói không được, không thể nhường cho người khác;

Ngày đó, nam tử ấy ôm hòn giả sơn nôn ọe, toan vứt chiếc bản chỉ đó đi, nhưng cuối cùng lại không nhẫn tâm;

Bộ dạng tiều tụy của chàng, nàng từng nhìn thấy rõ ràng;

Còn nỗi lòng sâu kín của chàng, nàng lại chưa từng hiểu rõ.

Hóa ra, tất cả sự thất thố đó, tất cả sự ấm ức đó, tất cả nỗi khổ đau đó, đều vì con người ấy, mỹ nhân tuyệt sắc một thân bạch y quỳ giữa trời băng đất tuyết ấy, sủng phi của hoàng đế diễm lệ nhất cung đình, nổi bật giữa trần thế ấy, nữ tử thực sự cùng Cơ Anh thề nguyền sánh đôi mà phải chia lìa đó.

… Hy Hòa.

Khương Trầm Ngư nhớ tới Hy Hòa, nhớ tới điệu bộ mặt không cảm xúc quỳ bên ngoài cửa cung ngày hôm đó của nàng ta, nhớ đến Cơ Anh của ngày hôm đó vội vã chạy đến, đi lướt qua nàng ta, mắt không hề nhìn xuống;

Nhớ đến Hy Hòa triệu nàng vào cung đánh đàn, nàng im lặng đàn, Hy Hòa lặng lẽ nghe, sau đó, lệ sa đầm đầm;

Nàng nhớ đến Hy Hòa nôn ra máu, nhớ đến Cơ Anh cấp tốc dẫn theo Giang Vãn Y vào cung trị bệnh…

Những cảnh tượng đó nàng tận mắt chứng kiến, nhưng trong khoảnh khắc này, nàng mới thực sự hiểu rõ chân tướng sự việc.

Hóa ra…Người công tử thích là nàng ta…

“Sao có thể..?”.

Khương Trầm Ngư lẩm bẩm: “Sao có thể… nếu như công tử thích Hy Hòa, sao có thể để nàng ta vào cung thành phi tử của hoàng đế?”.

“Ai mà biết được”.

Đỗ Quyên tỏ vẻ không tán thành nói:

” Thứ hoàng đế muốn, kẻ làm thần tử có thể không dâng lên sao? Nhưng cặp đôi này cũng thật thú vị quá đi, thường xuyên gặp mặt, lại có thể vờ như không liên quan đến nhau, nếu không phải đám mật thám của Khương Trọng có bản lĩnh, khơi ra được, thì đâu có ai biết Hy Hòa phu nhân của triều ta hóa ra từng tằng tịu với Kỳ Úc hầu”.

“Hy Hòa… Hy Hòa…”.

Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm cái tên này, trong lòng trào đâng một thứ tình cảm vô cùng phức tạp. Nói không ghen tị là giả dối, vì dù gì vị công tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ chính vì sự tồn tại của nữ tử này mà không thể thích một nữ tử nào khác; nhưng dường như không phải là rất oán hận, bởi Hy Hòa cũng chẳng thể ở bên Cơ Anh, phần nhiều nàng thấy bi thương, một nỗi bi thương rối bời.

Bởi vì, công tử khổ biết mấy…Khổ biết mấy…

Con người ôn hòa như thế, phải yêu sâu sắc đến nhường nào mới có thể uống cạn chén này đến chén khác trên bàn tiệc, buổn bã thất thố..? Một Kỳ úc hầu phải nhẫn nhịn đau khổ đến nhường nào mới có thể giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh thường ngày khi gặp người cũ giữa hoàng cung?

Khương Trầm Ngư nàng còn có thể mở miệng nói một tiếng “Ta ngưỡng mộ công tử” với Cơ Anh, còn công tử, đến một tiếng gọi âu yếm cũng không dám gọi nữa.

Hy Hòa phải đố kỵ biết mấy mới có thể không muốn nhìn thấy cảnh chàng lấy người khác?

Giữa chàng và nàng ta, rốt cuộc là yêu hận đan xen đến đâu không thể nào biết rõ, nhưng có một điềm rất rõ ràng rằng: Đó là thế giới chỉ thuộc về riêng hai người Hy Hòa và công tử, Khương Trầm Ngư, nàng không thể nào chen vào.

Từ khi bắt đầu, nàng đã thua cuộc.

Tiên nhân trong mây nào đâu thấy?

Đã rõ nhân duyên chẳng đúng người.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn tiếp tục vang lên:

“Cho nên, Cơ Anh không lấy ngươi, Hy Hòa cũng không để hắn lấy ngươi, hoàng đế lại càng không. Hoàng đế vì không muốn Cơ gia trở thành Khương gia thứ hai, nên không thể để hai nhà Cơ – Khương liên hôn, muốn phá đám hôn sự này thì phải dùng một sự long trọng hơn để áp chế nó, lại thêm các mưu sĩ thúc giục bên cạnh, ngươi, Khương Trầm Ngư, đã từng bước từng bước trở thành Thục phi của hoàng đế, theo kế hoạch của Khương Trọng, mở cánh cửa đi đến ngai vị hậu đúng như ước nguyện của ông ta”.

Khương Trầm Ngư vô thức lắc đầu, lỗ tai trên tai trái như bị một ngọn lửa vô hình đốt cháy, khiến nàng đau đến bỏng rát, nó chứng kiến nàng đã từng khắc cốt ghi tâm như thế nào. Mỗi lần sờ lên đó nàng đều không kìm được nghĩ, nhất định là vì mình không đủ tốt, còn khiếm khuyết ở điểm nào để cho nên, mới không thể khiến người ấy thích. Sau đó nàng nghĩ mình phải thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn nữa cố gắng hết sức có thể để gần chàng thêm chút nữa.

Giờ ngẫm lại, những suy tư ấy chẳng khác gì một cái bạt tai, vả vào mặt nàng một cú bỏng rát.

“Ngươi biết tại sao đêm nay ta phải giữ ngươi ở đây không? Bởi vì ngươi thân đáng giá vạn lượng hoàng kim, vốn liếng của Khương Trọng đều đặt cả vào ngươi, cho nên, ngươi tuyệt đối không thể xảy ra bất cứ sơ sảy nào. Hơn nữa, giữ ngươi ở đây còn có một dụng ý, chính là để ngươi mở to mắt ra nhìn rõ tất cả mọi việc”.

Đỗ Quyên nói đến đây, ngữ điệu bỗng trở nên chậm rãi, thấp giọng thì thào như nói mơ: “Giấc mộng này, ngươi đã mơ suốt mười lăm năm, cũng nên tỉnh rồi”.

Khương Trầm Ngư không đáp lại.

Thực tế, chưa đợi nàng phản ứng lại, đã có một giọng nói thay nàng lên tiếng:

“Không sai, giấc mộng này đúng là nên tỉnh rồi. Nhưng, người phải tỉnh không phải là nàng ấy, mà là ngươi”.

“Hoàng thượng thánh minh!”.

Cùng với câu cung giá đồng thanh của tám vị mưu sĩ, Chiêu Doãn thả bước từ từ đi ra khỏi Bách Ngôn đường. Vừa đến cửa thư phòng, một trận gió ùa tới thổi chiếc trường bào và mái tóc dài của y tung bay về phía sau, y đưa tay lên giữ lại, qua kẽ tay mặt trăng cong như móc câu, không sáng cho lắm, trên bầu trời chẳng có một vì sao.

Y ngẩng đầu, cứ nhìn chăm chăm như thế, ánh sáng lấp loáng, còn y đứng trong bóng tối, một vùng hư ảo.

Phía sau, La Hoành khom lưng, nói: “Hoàng thượng, chúng ta…”.

Chiêu Doãn thả bàn tay đang giữ mái tóc xuống, ánh mắt bỗng dưng lạnh căm, khóe môi từ từ nhếch lên, kéo một đường cong mỏng mảnh thành một nụ cười cực kỳ lạnh lẽo nói: nói ngươi đã dám hại chết thần tử trẫm yêu quý nhất, thì phải có ý thức trả giá. Bạch Trạch lìa đời thể nào cũng cần có chút đồ bồi táng chứ?”.

“Vâng”. La Hoành chợt hiểu ra, lại cúi người lùi lại mà không phát ra tiếng động nào.

Đêm đó, Hàn lâm bát trí (tám vị quân sư) chết đột ngột tại nhà Hung thủ không rõ danh tính. Trở thành vụ án còn bỏ ngỏ của đế đô.

Ở một nơi rõ ràng chỉ có hai người, nhưng lại xuất hiện tiếng nói của người thứ ba, khiến Đỗ Quyên trong chốc lát kinh sợ hoảng hốt, vừa định nhảy lên thì cánh tay đau nhói, tiếp theo là mấy huyệt đạo bị điểm trúng, không thể nhúc nhích được nữa.

“Ai...? Là ai...?”.

Đỗ Quyên vội hét lên: “Dì Mai! Dì Mai ”.

Hét được hai câu, giọng nói đó đã lười biếng cất lên:

“Đừng gọi nữa, dì Mai công phu mèo cào của ngươi bây giờ không chừng đã ngủ trong xó xỉnh nào rồi, ngủ rất say, có lẽ không thể đến cứu chủ được nữa “.

“Ngươi… ngươi…”. Sau giây phút thất thố ngắn ngủi, Đỗ Quyên mau chóng lấy lại bình tĩnh, chau mày đoán, hỏi:

” Ngươi là Tiết Thái?”.

Phía sau lưng nàng ta, một thiếu niên chậm rãi bước ra, ánh đèn dịu dàng chiếu lên thân hình mảnh khảnh của hắn, đôi mắt bờ mi đen láy, không phải ai khác, chính là – Tiết Thái.

Tiết Thái cười cười: Không hổ là chị ruột của Khương Thục phi”.

Đỗ Quyên “hừ” một tiếng:

“Giờ này có thể âm thầm lẻn vào chỗ ở của ta, hơn nữa giọng nói còn non nớt như thế, ngữ khí lại ngạo mạn như thế, thì chỉ có thể là kẻ bị đày xuống làm nô lệ nhưng không hề giác ngộ – Băng Ly công tử”.

Đối diện với sự châm chích này, Tiết Thái chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Nói hay lắm”.

“Với võ công của ngươi thì không thể đến được đây mà không làm kinh động đến ba tầng ám vệ bên ngoài. Nói đi, người đến cùng với ngươi, điểm huyệt đạo của ta là ai...?”.

Đỗ Quyên nói đến đây, đầu lông mày nhíu chặt: “Trừ phi là Phan đại tướng quân cũng đến?”.

Một thân hình cao lớn xuất hiện trong phòng mà không có lấy một dấu hiệu báo trước tia sét, tựa gió lốc. Người đó bước nhanh đến trước mặt Khương Trầm Ngư, giải huyệt đạo cho nàng, Khương Trầm Ngư mắt nhòe nhoẹt nước ngẩng lên nhìn y, trăm ngàn cảm xúc rối ren, vừa tủi thân vừa chua xót, không kìm được khẽ gọi một tiếng:

“Phan tướng quân…”.

Người đó chính là Phan Phương.

Đỗ Quyên có được đáp án im lặng một hồi, hai hàng lông mày cong cong như lá liễu nhướng lên, hướng về Khương Trầm Ngư nói:

“Từ lâu đã nghe muội muội thông tuệ, hóa ra trình độ diễn kịch cũng vào hàng thượng thừa. Cố ý hét toáng lên, để át tiếng động khi bọn họ lại gần, khiến ta không hay không biết, lại còn một lòng nghĩ ngươi đáng thương… Chậc chậc chậc, đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Khương Trầm Ngư… ngươi quả nhiên… rất lợi hại… “.

Khương Trầm Ngư vịn vào tay Phan Phương, sắc mặt trắng bệch, không thừa nhận mà cũng chẳng phủ nhận.

Đỗ Quyên lại nói:

“Được rồi, dù sao ta cũng không mong mọi chuyện có thể thuận lợi. Có thử thách mới có lạc thú… Hai vị đại nhân không đi cứu vị chủ tử siêu phàm của các ngươi, lại đến chỗ của ta, thiết nghĩ tuyệt đối không phải vì muộn nghe chuyện nhà của tỉ muội ta. Vậy thì để ta đoán nhé…”.

Tiết Thái ngắt lời nàng ta: “Không cần đoán, chúng ta đến đây là để bắt ngươi!”.

Gương mặt Đỗ Quyên như bị kim đâm, nụ cười ngay lập tức tắt ngấm.

Còn Tiết Thái lại cười:

“Ngươi muốn khoe mẽ sự thông minh của ngươi, cho nên chuyện gì cũng phải suy đoán một lượt, để người khác phải kinh ngạc, phải đau khổ, ngươi mới thấy vui. Ban nãy ngươi vừa giày vò Thục phi nương nương ...giày vò đã chưa... Đáng tiếc thay, ta sẽ không cho ngươi cơ hội này”.

Đỗ Quyên chẳng nói chẳng rằng, sắc mặt cực kỳ khó coi.

Bắt giặc phải bắt tướng trước. Bây giờ, phiền thành chủ phu nhân đi cùng chúng ta một chuyến”.

“Đi đâu...?”

Đỗ Quyên cười hiểm độc:

“Đông viện à? Ta khuyên các vị đừng tốn công phí sức nữa. Loại Thiên Hỏa Thần Du mà ta cố ý sai người mua về từ Trình quốc đó, chỉ cần đốt lên các loại nước bình thường đều không thể dập tắt nổi, nó có thể đun sôi một bể nước chỉ trong thời gian một khắc. Ngọn lửa ở Đông viện cháy lâu như thế, e rằng Kỳ Úc hầu của các ngươi đã sớm hóa thành tro rồi”.

Tiết Thái thong thả nói: “Ai bảo bọn ta muốn đưa ngươi đến Đông viện?”. Đỗ Quyên sững người ra một lát.

“Đề ra: Giáp muốn giết Ất, sau đó giá họa cho Bính. Nhưng đột nhiên Bính mất tích, hay nói cách khác, Bính chưa từng xuất hiện… thì phải làm sao?”.

Đỗ Quyên bỗng nhiên biến sắc: “Ngươi…”.

“Nếu hoàng thượng Di Phi không hề vào đất của Bích quốc, mà lại xuất hiện trong yến tiệc của Yên vương ở ngàn dặm xa xôi, xin hỏi làm thế nào thành chủ phu nhân và phu quân của phu nhân gánh được tội danh không bảo vệ được Kỳ Úc hầu, để ngài chết trong phủ đệ của các ngươi?”.

Mặt Đỗ Quyên từ trắng chuyển sang đỏ, lại từ đỏ biến thành xanh, cắn môi nói: “Lẽ nào các ngươi… Không thể! Tuyệt đối không thể”.

“Cái gì không thể...? Là Di Phi không thể trốn khỏi cạm bẫy phu nhân giăng ra, hay là hắn không thể có mặt ở Yên quốc xa xôi..?”.

Ngữ điệu của Tiết Thái bỗng nhiên chậm lại: “Hay là việc ám sát Cơ Anh chẳng qua chỉ là một màn kịch hay mà phu nhân và tôn phu diễn cùng với nhau?”.

Đùng đùng, tiếng sấm bên ngoài cửa sổ vang lên ầm ầm.

Trong nhà im lặng như tờ.

Chỉ có Khương Trầm Ngư kinh ngạc nhìn Tiết Thái, rồi suy tư lại rối bời quay sang nhìn Đỗ Quyên, nhất thời không đoán ra nổi sự thật bên trong. Trong lúc nàng còn đang mờ mịt, Đỗ Quyên bật cười, đầu lông mày đang chau cũng giãn ra, khóe môi cong lên, vẻ mặt vốn dĩ thâm trầm trong chốc lát cũng trở nên hiền hòa khôn xiết, giống như vừa khôi phục lại khoảnh khắc lần đầu Khương Trầm Ngư gặp nàng ta – tĩnh lặng tao nhã như nước, linh hoạt thanh tú như ánh sáng.

Quả nhiên không gì có thể lừa được Băng Ly công tử…”.

Nàng ta vỗ tay.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

Tiết Thái quay đầu nhìn nàng, trong ánh mắt mang theo một chút thương cảm, cuối cùng quay mặt đi nói:

“Ta mệt rồi, không muốn nói”.

“Vẫn nên để ta nói cho nàng”.

Phan Phương vẫn đứng bên cạnh nàng, y cất giọng:

“Sau khi chúng ta đến dịch sở, cũng là lúc nàng cùng Đông Bích hầu đến chỗ này, Vệ thành chủ thẳng thắn giải thích tất cả mọi duyên cớ với hầu gia, sau khi suy nghĩ hầu gia quyết định án binh bất động. Vệ phu nhân là Gia Cát trong đám nữ nhân, một mặt vừa lập kế hỏa thiêu để đối phó Khương Trọng, một mặt sai người lén đào một đường hầm bí mật phía dưới nhà ở Đông viện, lại nhân lúc Vệ thành chủ dập lửa, để cho y xông vào biển lửa đưa hầu gia thoát ra ngoài theo đường hầm”.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên: “Cũng có nghĩa là…”.

Đỗ Quyên tiếp lời: “Ta đợi đã năm năm, cuối cùng đã đợi được cơ hội báo thù cho cha mẹ!”.

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run rầy mãi không thôi, nàng nghĩ đến chân tướng.

Đỗ Quyên lạnh lùng cười nói: “Khương Trọng cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để lật đổ Cơ gia, nhưng bản thân ông ta không thể đích thân ra mặt, cho nên mới giao trọng trách này cho người ông ta tín nhiệm nhất, cũng là người có dòng máu thân thiết nhất với mình, con gái lớn của ông ta – chính là ta: Còn ta, điều binh khiển tướng dưới sự chỉ đạo của ông ta, đặt mai phục, mua dầu thiên hỏa, tìm một kẻ thế thân, ngồi đợi ngư ông đắc lợi. Ông ta tưởng rằng như thế là tuyệt đối kín kẽ, ha ha”.

Phan Phương nói: “Phu nhân thấu hiểu đại nghĩa, sau khi thương lượng với thành chủ, quyết định trở giáo giúp đỡ hầu gia. Cho nên đã diễn vở kịch lửa cháy đêm mưa, bây giờ có lẽ hầu gia cũng đã đến được nơi an toàn rồi”.

Đỗ Quyên bĩu môi: “Thấu hiểu đại nghĩa cái gì, ta chính là vì báo thù! Ta muốn Khương Trọng toi đời, đó mới là mục đích!”.

Khương Trầm Ngư nghe xong câu này, trong lòng trỗi dậy trăm ngàn cảm xúc. Không, nàng nghĩ, mình không buồn, nghe xong những điều này mình không hề buồn một chút nào, bởi vì mình đã tê liệt rồi, thực sự tê liệt hoàn toàn rồi…

Phan Phương nói tiếp: “Mà việc cơ mật này, vì thận trọng thành chủ chỉ nói cho ta, đến Tiết Thái cũng bị giấu giếm”.

Tiết Thái cao ngạo nói: “Hừ, không nói thì không nói. Tưởng ta thèm chắc? Cơ Anh vốn định dẫn ta cùng chạy trốn trong biển lửa, chẳng ngờ lại bị ta phát hiện ra huyền cơ trong mùi hương hoa, cho nên ngài lập tức thay đổi kế hoạch, mượn cớ đưa thư để tách ta ra, còn giả vờ giả vịt viết một trang giấy trắng để ta đưa cho Vệ Ngọc Hành”.

Thật hiếm khi Phan Phương mới đề lộ vẻ tươi cười: “Hầu gia nghĩ cho sự an toàn của ngươi”.

“Ngài đang thử ta mà thôi”.

Tiết Thái hứ một tiếng: Tưởng một tờ giấy trắng là làm ta bó tay hết cách à? Ngài sai ta đi tìm Vệ Ngọc Hành, ta lại không tìm, mà hơn nữa lúc ấy Vệ Ngọc Hành cũng xông vào trong đám cháy rồi. Ta liền đi tìm Phan tướng quân, bụng nghĩ nếu Vệ Ngọc Hành có đi đời nhà ma, thì phải bắt mụ vợ của hắn đã rồi hẵng nói, chẳng ngờ lại biết được chân tướng sự việc ở chỗ Phan tướng quân”.

“Bây giờ, mật thám của Khương Trọng hẳn đã nhận được tin tức giả là kế hoạch thực hiện thuận lợi, chắc chắn sẽ lơi lỏng. Nhân cơ hội này ta đưa công tử bí mật về kinh gặp thánh thượng, vạch rõ từng tội trạng của ông ta, Khương Trọng sẽ không thể trốn thoát”.

Có lẽ là vì sợ làm Khương Trầm Ngư kích động, khi nói những câu này, Phan Phương không nhìn vào mặt nàng:

“Câu kết nước địch, ám sát trọng thần, hai tội danh này gộp thành tội chết”.

Đỗ Quyên nói: “Sở dĩ ta giữ ngươi ở đây, ngoài việc sợ ngươi nhất thời xúc động nghĩ cách cứu Cơ Anh rồi làm hỏng kế hoạch của chúng ta, thì nguyên nhân lớn nhất chính là để Khương Trọng an tâm, quân cờ quan trọng của ông ta phải được bình an vô sự”.

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt đáp: “E là để phòng bất trắc giữ cho mình đường lùi mà thôi?”.

Nàng nằm trong tay Đỗ Quyên, cho dù phụ thân biết được kế hoạch của bọn họ, thì cũng ném chuột sợ vỡ bình quý, nên sẽ dè chừng.

Quả nhiên, Đỗ Quyên nghe thế liền bật cười: “Ngươi muốn nghĩ như thế, thì tùy ngươi”.

“Vậy…” Khương Trầm Ngư bỗng nhiên cũng cười cười trong nụ cười hàm chứa một nỗi xót xa khó tả thành lời:

“Các ngươi định xử trí ta thế nào đây?”.

Bọn Đỗ Quyên nghe xong đều đứng đờ cả người.

“Tỉ tỉ, chẳng nhẽ tỉ không biết, nếu phụ thân sa cơ thì cả Khương gia chúng ta còn có thể sống sao?”.

“Ta chỉ đối phó một mình Khương Trọng, ta đã cầu xin Kỳ Úc hầu một lời đảm bảo, cái chết của Khương Trọng sẽ không làm liên lụy đến người khác”.

Đỗ Quyên nói một cách từ tốn: “Dẫu cho ngươi không tin ta, cũng nên tin… công tử của ngươi chứ?”.

Khương Trầm Ngư cười buồn bã: Công tử… của nàng.

Ha ha.

Giấc mộng lớn này, bây giờ cũng không thể không tỉnh rồi…

Công tử chưa bao giờ thuộc về nàng, không những không thuộc về nàng, mà còn là kẻ thù định mệnh của nàng. Cho đù là vì nguyên nhân gì, hình thức gì và kết cục gì.

Nghĩ đến ban đầu chỉ mong được sánh vai cùng chàng, mà nay mộng tan, hóa ra đến làm người xa lạ cũng không thể.

Tạm biệt.

Công tử, tạm biệt.

Khoảnh khắc này, ta, Khương Trầm Ngư, quyết biệt với chàng.

Rút cục cả đời này, không còn mặt mũi nào mà gặp, lo lắng thấp thỏm, không nỡ gặp…

Mãi mãi không gặp lại chàng.

Ngoài cửa sổ mưa vẫn rơi rào rào, mang đến cho người ta ảo giác rằng đêm nay sẽ kéo dài vô cùng vô tận, ánh sáng sẽ không đến, mưa gió sẽ không ngừng, mà hết thảy những chuyện vui sướng, những điều tốt đẹp, những thứ ấm áp, sẽ kết thúc từ đây.

Chính là: Đoạn trường chính hẳn đêm nay.

Tương tư một tấc tro tày mười phân.

Tiếp theo Tiết Thái và Đỗ Quyên còn nói gì đó nữa nhưng Khương Trầm Ngư chẳng nghe lọt vào tai một chữ nào. Nước mắt đã chảy cạn cùng câu chuyện thân thế mà Đỗ Quyên kể ban nãy, còn giờ phút này, cho dù đau 1òng hơn, nhưng nàng lại không rơi một giọt lệ nào.

Chỉ có tê dại, một sự tê dại sâu hun hút, giống như tơ bọc lấy cơ thể và trái tim của nàng, nàng nghĩ, như thế cũng tốt, bởi vì bọc kín rồi sẽ không còn bị thương, dẫu cho bên trong có thối nát đến đâu, máu chảy thành mủ đến thế nào đi nữa.

Lúc này, một tiếng bước chân gấp gáp từ xa đến gần, ngay sau đó cửa bị đập mạnh: “Phu nhân, không xong rồi! Phu nhân!”.

Đỗ Quyên cất cao giọng hỏi: “Chuyện gì?”.

Người ngoài cửa đáp: “Phu nhân, lửa đã tàn rồi. Nhưng, nhưng không những Kỳ Úc hầu, mà đến thành chủ cũng không thấy đâu nữa”.

Đỗ Quyên cả kinh: “Cái gì”.

Phan Phương lập tức giải huyệt đạo cho nàng ta, rồi dìu nàng ta đi ra mở cửa, bên ngoài là một người hầu trong Vệ phủ.

Đỗ Quyên hít sâu một hơi, trầm giọng nói: “Hít thở sâu, nói cho ta nghe”.

“Vâng, vâng”.

Người đó quỳ xuống, run rẩy nói:

“Là như thế này, ở bên này chúng thuộc hạ thấy ngọn lửa bốc cao không làm sao dập tắt được, cuối cùng một trù nương nghĩ ra cách dùng bột mì ướt ném vào, cuối cùng cũng dập được lửa. Nhưng tìm trong đó suốt một lúc lâu mà không thấy Kỳ Úc hầu và thành chủ đâu…”.

Đỗ Quyên trầm ngâm một lúc, nói: “Ta biết rồi. Ngươi cứ về trước đi; ta sẽ tới ngay”.

“Vâng!”. Người đó báo tin xong liền vội vã rời đi.

Phan Phương hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

“Thời gian dập lửa sớm hơn so với dự tính, có lẽ là Vệ Ngọc Hành chưa kịp đưa hầu gia quay về”.

Đỗ Quyên nhíu mày, nói: “Thận trọng trăm điều vẫn có sai sót, cứ tưởng trận hỏa hoạn này sẽ kéo dài tới tận giờ Mão mới ngừng”.

Tiết Thái bỗng phì cười một tiếng.

“Người cười gì?”.

“Không có gì, ta chợt nghĩ, trù nương của quý phủ thật là lợi hại. Nhưng thật khổ cho thành chủ đại nhân, nếu hắn tiễn công tử xong rồi quay về, không biết chừng lửa ở bên ngoài đã tắt, mở cánh cửa ngầm bên trong đường hầm nhảy vọt ra ngoài… chậc chậc…”.

Tiết Thái còn chưa nói tiếp. Đỗ Quyên đã giậm chân nói:

“Mất bò mới lo làm chuồng, bây giờ chúng ta đi sơ tán người bên đó, tuyệt đối không để người khác phát hiện ra đường hầm”.

Việc không thể chậm trễ, lập tức hành động.

Tiết Thái liếc Khương Trầm Ngư đang đứng im không nhúc nhích như một con rối gỗ, nói: Này, ngươi có đi được không?”.

Phan Phương nói: “Ta đỡ nàng”. Lời vừa mới dứt, Khương Trầm Ngư đột nhiên cử động.

Việc đầu tiên nàng làm chính là rút khăn tay lau khô nước mắt, sau đó gạt tay Phan Phương ra, lảo đảo đứng dậy, hít thật sâu, đứng thật vững, ưỡn thẳng sống lưng rồi bước qua bậu cửa.

Tuy nàng chẳng nói lấy một lời, nhưng đã dùng hành động để trả lời. Ánh mắt Tiết Thái nhìn nàng trong chốc lát bỗng sâu thẳm, tựa như thương xót, tựa như tìm tòi, lại như nỗi bi ai như có như không…

Đi qua hành lang gỗ dài hun hút, xuyên qua cánh cửa lớn, mùi khét cháy trong gió càng lúc càng nồng nặc. Khương Trầm Ngư nhìn thấy một khoảng đất trống đen trắng đan xen, màu đen là những cây gỗ cháy, màu trắng là bột mì, về cơ bản là cháy rụi chẳng còn thứ gì, những đoạn tường đứt gãy còn sót lại cũng đồ la liệt, cao không quá thắt lưng, vì thế chỉ nhìn qua là có thể thấy quả thực không có ai trong đó cả.

Ngược lại xung quanh có một đám đông bao vây, mồm năm miệng mười, bàn tán xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Nhìn thấy Đỗ Quyên đến, lập tức im lặng. Điều đó cho thấy địa vị của vị phu nhân này trong phủ.

Đỗ Quyên còn chưa mở míệng, Tiết Thái đã xông vào giữa bãi đổ nát, đi một vòng, rồi trở về trước mặt Đỗ Quyên, một tay nắm chặt lấy tay áo nàng ta, giọng gấp gáp hỏi:

“Sao, sao đến xương cốt cũng không có hả? Chủ nhân đâu? Chủ nhân đâu?”.

Đỗ Quyên sững người ra một lát, rồi thấy tay Tiết Thái luồn vào ống tay áo của nàng ta, viết lên lòng bàn tay nàng ta một chữ “khóc”.

Nàng ta lập tức phản ứng lại ngay, làn môi run rẩy, thất thanh khóc lớn.

Nàng ta vừa khóc đám người dưới lại càng hoảng loạn, lũ lượt khuyên nhủ an ủi.

Tiết Thái lại viết thêm một chữ “ngất”.

Đỗ Quyên lập tức khó thở, ngã nhào ra phía sau. Không ngoài dự liệu, đã được Phan Phương đứng bên đỡ lấy.

“Phu nhân, phu nhân? phu nhân làm sao thế? Phu nhân…”. Mọi người nháo nhác hỗn loạn.

Tiết Thái cao giọng quát: “Các ngươi còn chờ gì nữa? Còn không mau đi mời đại phu?”.

Lập tức có một nhóm người quay lưng chạy đi, Tiết Thái dặn dò những người còn lại:

“Các ngươi, xuống nấu canh gừng, mọi người ở đây đều ướt như chuột lột nửa đêm nay, đừng đề tất cả đổ bệnh ra đó. Các ngươi, đi truyền lệnh khóa cửa thành lại, trận hỏa hoạn này rất kỳ lạ, hiện tại lại vô cớ mất tích một số người, trước khi điều tra rõ chân tướng sự việc, không cho phép bất cứ người nào ra khỏi thành! Còn các ngươi nữa, đừng có đứng ngây ra đó, phải làm gì thì đi làm đi, đợi đại phu đến, thì mau chóng đi mời đại phu khám bệnh cho phu nhân…”.

Hắn tuy là người ngoài tuổi còn nhỏ, nhưng lại là một nhân vật lớn được nhắc đến thường xuyên khắp đầu đường cuối ngõ ở Bích quốc. Lần này hắn đặt chân lên Hồi thành, mọi người đã được diện kiến người thực, đương nhiên cũng bàn luận về hắn từ lâu, nên tất cả đều nhận ra hắn. Vì thế lúc này hắn từ khách đổi thành chủ ra lệnh, mọi người đều cảm thấy không có gì là không thỏa đáng, lần lượt làm theo lời hắn, không lâu sau đã tản đi hết.

Tiết Thái hạ lệnh cho người còn lại cuối cùng đi khóa cửa Đông viện lại, không cho người khác vào trong, sau đó dẫn theo một đám người đưa Đỗ Quyên giả vờ ngất về Tây viện.

Còn Phan Phương lại nhân lúc đám đông hoảng loạn khiêng Đỗ Quyên về phòng, chớp mắt một cái bóng dáng đã biến mất.

Khương Trầm Ngư thu trọn tất cả sự việc trong tầm mắt, trong lòng rõ hơn bao giờ hết: Tiết Thái lợi dụng cơ hội Đỗ Quyên ngất xỉu, điều toàn bộ đám người lộn xộn đi chỗ khác, lại sai Phan Phương ở lại chỗ bí mật đợi Vệ Ngọc Hành quay về, như thế, cho dù phụ thân có nghi ngờ, muốn sai ám vệ đến điều tra thì cũng không thể làm được.

Diệu kế…

Khương Trầm Ngư dán mắt nhìn vào bóng lưng Tiết Thái, y phục và mái tóc của hắn đều ướt sũng nước mưa, đính bết trên thân hình gầy guộc của hắn, rõ ràng chỉ là một đứa trẻ chưa đến tám tuổi, nhưng lại có trí tuệ như thế, thật không thể biết được, có phải là trời muốn diệt Khương gia, gặp một Cơ Anh chưa đủ, còn phải gặp thêm một Tiết Thái nữa hay không.

Phụ thân ơi, dẫu cho người tính toán chu toàn, nhưng sinh chẳng gặp thời thì vẫn là sinh chẳng gặp thời, yên có Chương Hoa, Nghi có Hách Dịch, mà Bích đã có Tiết Thái, chính là trời Bích quốc không thể là thiên hạ của người được…

Sai lầm trong phút chốc của năm đó, giữ lại hắn để kiềm chế Cơ Anh, kết quả hắn lại trở thành cánh tay mạnh nhất của Cơ Anh.

Ý trời...! Ý trời...! Ý trời…

Nhưng ý trời cũng có lúc không hoàn toàn giúp đỡ một phía.

Chuyện phát sinh một canh giờ sau đó đã chứng minh rất rõ điều này.

Khi sáu vị đại phu bị mời ra khỏi phòng vì không thể chuẩn đoán bệnh chứng và kê đơn cho thành chủ phu nhân, thì Tiết Thái luôn lặng lẽ trầm ngâm đứng cạnh cửa sổ đã không thể nhẫn nại thêm được nữa, quay người lại hỏi Đỗ Quyên:

“Tại sao Vệ Ngọc Hành vẫn chưa quay về?”.

Đỗ Quyên cũng mặt mày ưu tư:

“Không biết… Ta đã bàn với chàng, đưa hầu gia ra khỏi cửa, chàng phải lập tức quay về. Tính thời gian, nửa canh giờ trước đáng lẽ chàng đã phải trở về rồi. Lẽ nào có việc gì khiến chàng chậm trễ?”.

“Lúc này mà còn có gì khiến hắn chậm trễ, tức là kế hoạch đã thất bại”.

Tiết Thái cắn môi nói: “Ngoài ngươi và Vệ Ngọc Hành ra, còn có ai biết chuyện đường hầm không? Có người tiết lộ…”.

Chưa đợi hắn nói hết, Đỗ Quyên liền lắc đầu: “Không thể nào”.

“Ngươi chắc chắn chứ?”.

“Ta chắc chắn”.

Lời lẽ của Đỗ Quyên rất kiên quyết:

“Có tất cả bốn người tham gia đào đường hầm, bọn họ đều không quen biết lẫn nhau, mỗi người chỉ phụ trách một đoạn trong đó bốn đoạn ghép lại mới có thể thông đến cửa ra. Hơn nữa, để bảo mật, ta đều diệt khẩu cả bốn người rồi”.

Tiết Thái nhìn nàng ta bằng ánh mắt đầy phức tạp, không rõ là khâm phục hay là cảm khái nữa, cuối cùng nói:

“Ngươi nói vị trí đường hầm cho ta, ta và Phan tướng quân đi thăm dò thử xem sao”.

Đỗ Quyên do dự một lúc. Tiết Thái cười lạnh: “Sao? Ngươi không tin ta à?”.

Đỗ Quyên thở dài, nói: “Điều cốt yếu không phải là tin hay không tin? Nếu như hầu gia xảy ra bất trắc, chúng ta đều phải chết. Ngươi ghé tai vào đây”.

Tiết Thái bước lên phía trước, Đỗ Quyên thì thầm một lượt vào tai hắn, hắn gật gật đầu, rồi quay người nhảy lên, nhảy lên nhảy xuống mấy lần rồi cuối cũng biến mất bên ngoài cửa sổ.

Đỗ Quyên dỏng tai lắng nghe, cảm khái nói: “Thằng bé này trời sinh kỳ tài, tuổi còn nhỏ mà đã hiểu biết và có võ công như thế nếu gặp thời vận, tất sẽ có thành tựu lớn”.

Khương Trầm Ngư vẫn ngồi im trên ghế bên cạnh, dường như không nghe thấy.

Đỗ Quyên thấy nàng không có phản ứng, bèn cười nói: Tiêu cực như thế, không giống ngươi”.

Khương Trầm Ngư hỏi vặn lại: “Ta nên như thế nào đây?”.

Đỗ Quyên từ tốn đáp:

“Khương Trầm Ngư mà ta nghe kể, dám yêu dám hận, cầm lên được cũng bỏ xuống được, bất cứ lúc nào cũng đều tích cực, quả quyết sẽ không giậm chân tại chỗ, càng không bỏ mặc cho người khác sắp đặt”.

“Cho nên?”.

Cho nên : “nếu ta là ngươi, lúc này lại càng phải nghĩ cách tự cứu mình khi nguy cơ đại thế đã mất, làm sao để thương tổn và tổn thất giảm xuống thấp nhất.

Gương mặt luôn bình tĩnh như thể đã chết của Khương Trầm Ngư cuối cùng đã có thay đổi, nàng ngước mắt nhìn Đỗ Quyên không chớp, nói bằng một giọng như đang nói mơ: Nhưng ta không phải là ngươi. Cho nên, ta không cần tự cứu mình”.

Đỗ Quyên choáng váng.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nụ cười nhàn nhạt thoảng qua trên gương mặt xanh xao, chiếu sáng đường nét như tranh vẽ của nàng, rõ ràng là một vẻ đẹp tuyệt đỉnh, nhưng lại xen lẫn một nỗi bi ai khó tả thành lời:

“Sự tình đã đến nước này sức của một người thực sự quá nhỏ nhoi”.

Đỗ Quyên đang định nói thì Trầm Ngư lại tiếp:

“Ta không cần tự cứu mình, bởi vì ta không thể rõ thiện ác, phân đúng sai, từ bỏ gia tộc, hiểu đại nghĩa đi cứu công tử đang gặp cơn nguy nan, lại càng không thể trọn đạo hiếu vẹn toàn tình thân để giúp gia tộc vào giờ phút then chốt. Cho dù xét về phương diện nào, ta cũng không có cách nào tha thứ cho bản thân, đối mặt với bản thân. Cho nên, kẻ sống thừa thãi như ta, căn bản không cần thiết phải tồn tại”.

“Ngươi…”.

Khương Trầm Ngư lại nói: “Hơn nữa, sở dĩ ta không tự cứu mình, có lẽ cũng vì ta biết trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chuyện gì chăng”.

“Ý của ngươi là gì?”. Đầu lông mày của Đỗ Quyên nhíu lại.

“Trong sự việc lần này, ta thừa nhận phụ thân đã coi thường ngươi, đó là sai lầm của người. Thế nhưng, chẳng phải ngươi cũng coi thường người hay sao?”.

Nói đến đây, khóe môi của Khương Trầm Ngư nổi lên nụ cười châm biếm:

“Tuy ta ngu độn, nhưng một người có thể lừa dối những người thân sớm tối bên mình hơn mười năm trời, ta không tin, trước bất cứ kế hoạch nào, ông ta sẽ không chừa cho mình một con đường lùi”.

Sắc mặt Đỗ Quyên đột ngột biến đổi.

” Nói không chừng, tôn phu chậm trễ chưa quay về lại là một trong các đường lui của người…”.

Âm kết thúc của chữ cuối cùng nặng nề kéo dài, một trận gió thổi ào tới khiến ánh nến trên bàn lay động, trong bóng tối, gương mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết, lạnh lẽo như sương.

Tiết Thái khoác chiếc áo tơi lên người theo Phan Phương tiến vào đường hầm.

Đường hầm vốn đĩ cũng không có gì đặc biệt, mặt đất rất bình thường, sàn gỗ đã bị thiêu cháy trong cơn hỏa hoạn, nhấc phiến đá còn sót lại lên, đó chính là lối vào. Nhưng sau khi vào bên trong, lại là một khoảng trời đất khác. Đúng như Đỗ Quyên đã nói, đường hầm từ Đông viện ra bên ngoài này do bốn người lần lượt đào và ghép lại mà thành, vì thế khi đi đến điểm cuối của mỗi đoạn đường, đều phát hiện con đường phía trước bị bít kín, mà huyền cơ lại nằm ở điểm nối các thông đạo với thông đạo, các điểm giao tiếp mỗi điểm mỗi khác. Có điểm ở phần đầu, có điểm ở phần giữa, lại có điểm phải nhảy lên trên, tách ngọn đèn phía trên đầu và vòm đá hình vòng cung ra, mới có thể phát hiện một lối vào khác nằm ở bên trên.

Nếu không phải đã được nói trước, e rằng lần mò tìm kiếm thì phải mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm được lối ra.

Có thể cảm thấy rõ ràng đoạn thông đạo cuối cùng chếch xéo lên phía trên, mặt đất lầy lội, ướt lép nhép.

Phía cuối có một cánh cửa bằng đá.

Tiết Thái mở ô vuông ngầm ở bên cạnh cửa theo cách Đỗ Quyên chỉ, kéo cái móc bên trong ra gõ mấy cái, rơi nói với Phan Phương một câu “Nín thở” sau một tiếng “cạch”, cánh cửa đá từ từ mở ra, một dòng nước ồ ạt ào vào trong phút chốc.

May mà hai người đã có chuẩn bị trước, nín thở bơi lên phía trên, không lâu sau liền trồi lên khỏi mặt nước.

Hóa ra cửa ra của đường hầm lại là một chiếc giếng khơi.

Hai người men theo vách giếng trèo ra ngoài, bên ngoài là một khoảng sân nhỏ, trong sân đang phơi vô số tấm vải, nhìn có vẻ như đây là một phường nhuộm vải. Cửa nhà phía không xa không đóng kín, bị gió thổi một cái liền phát ra tiếng cọt cà cọt kẹt.

Phan Phương trầm giọng nói: “Ta vào trước”.

Tiết Thái gật gật đầu.

Phan Phương giơ ngón tay đếm đến ba, tung người một cái không một tiếng động chạy qua mở cánh cửa.

Ngọn đèn dầu bên trong cánh cửa chao đảo vì cơn gió đột ngột tạt vào, dưới bóng sáng mờ mờ tỏ tỏ, Tiết Thái đứng thẳng nhìn về phía trước, sắc mặt hơi bệch ra.

Máu.

Vết máu vương vãi khắp nơi.

Thi thể la liệt.

Nhìn cách ăn vận của những thi thế ấy, dường như là thợ làm công của phường dệt vải, mười bảy người, không một ai sống sót.

Phan Phương tiến lên nhìn kiểu vết thương của họ, rồi kinh ngạc nói:

“Những người này tuy ăn mặc như người làm công, nhưng gân cốt cứng cáp, võ công không tồi. Nhưng họ đều chết hết. Từ đó có thể thấy, kẻ giết họ có võ công cực cao”.

Tiết Thái không nói gì, đi đến. Trước một thi thể, vừa khám xét vừa nói:
“Y phục tuy cũ kỹ, chí ít cũng phải giặt ba lần trở lên, nhưng đồ mặc bên trong vẫn còn mới, chất vải là vải gai Ô Long do huyện Thừa của Giang Đông sản xuất. Đồ bên trong và đồ bên ngoài không bị sờn cho lắm, có thể thấy họ mới thay quần áo chưa lâu”.

“Cũng có nghĩa là?”.

“Cũng có nghĩa là…”. Tiết Thái đứng dậy, nhìn những thi thể nằm trên mặt đất:

“những người này không phải là người Vệ phu nhân sắp xếp đợi ở đây ứng cứu, mà đã bị người khác đánh tráo”.

“Ý ngươi nói họ là người của Khương Trọng phái đến đợi ở đây mai phục hầu gia?”.

“Nếu là người của Vệ phu nhân, nàng ta đã chọn phường nhuộm vải này làm cửa ra, chắc chắn không phải là chuyện trong một hai ngày, để bưng bít tai mắt thiên hạ, cho dù nàng ta có đổi người thì cũng không thể đổi toàn bộ trong một ngày, hơn nữa bên ngoài là phố chợ, nơi này ban ngày vẫn phải mở cửa làm ăn buôn bán. Nếu đột nhiên thay người làm mới, hàng xóm tất sẽ sinh nghi. Mà những người do nàng ta sắp đặt cũng không thể đồng loạt cả mười bảy người thay áo lót trong cùng một ngày. Cho nên, căn cứ vào hai điểm này ta đoán rằng, họ tuyệt đối không phải người của Vệ phu nhân”.

Phan Phương gật gù, nói:

“Không sai. Có thể tắm rửa thay áo trước khi hành động, để gột bỏ tất cả manh mối có thể bị truy tìm trên người, chỉ có một loại người – sát thủ. Mà theo cách nói của triều đình Bích quốc, họ còn có tên gọi là – ám vệ”.

Tiết Thái đẩy một cánh cửa khác trong phòng bước vào bên trong, bên trong là phòng ngủ, nhìn như không có gì khác lạ nhưng mùi máu tanh nồng nặc, Tiết Thái khụt khịt mũi, lần theo mùi máu đi đến bên cạnh giường, kéo bức màn ra – quả nhiên lại có một đống thi thể chất chồng nằm trên giường, mà hết thảy đều bị lột sạch lớp áo ngoài.

Phan Phương lại kiểm tra vết thương của họ, nói:

“Đây mới là những người làm thực sự. Bọn họ đều không biết võ công. Xem ra bọn họ bị những kẻ ngoài kia giết. Chúng ta có thể đưa ra một giả thiết như thế này không? Vệ thành chủ đưa Hầu gia từ mật đạo ra ngoài thì phát hiện ra những người thợ làm này đã bị bọn ám vệ đánh tráo, cho nên Vệ thành chủ mới giết những tên ám vệ này, hộ tống Hầu gia rời khỏi đây, cho nên mới quay về dịch sở muộn?”.

Tiết Thái “ồ” một tiếng:

“Xem ra có vẻ là như vậy… Đỗ Quyên làm việc cẩn thận, nơi này đã là cửa ra, đương nhiên càng bình thường càng tốt. Nếu là ta, ta cũng sẽ tuyển người làm thực sự”.

Nói đến đây, đầu mày của hắn chau lại, lầm bầm nói: “Kỳ lạ quá…”.

“Cái gì kỳ lạ…?”.

“Tướng quân đếm đi”. Tiết Thái chỉ vào đống thi thể.

Phan Phương đếm đi đếm lại, tổng cộng trên giường có mười tám thi thể.

“Tại sao trong này có mười tám xác chết, mà ngoài kia chỉ có mười bảy?

Nếu có tất cả mười bảy tên ám vệ đến, thì không có lý gì chúng lại cởi hết quần áo trên mười tám người thợ làm này. Nếu chúng đã cởi hết mười tám bộ quần áo thì điều đó cho thấy có mười tám tên ám vệ cần hóa trang. Vậy tên ám vệ còn thiếu đã đi đâu mất?”.

“Có lý” Phan Phương gật đầu tán đồng, y trầm mặc nói: ” Lẽ nào tên ám vệ đó đã biến mất cùng Hầu gia? Cũng có nghĩa là, chính hắn đã giết mười bảy người ngoài kia”.

“Một lúc giết chết mười bảy người, không phải là điều mà một người võ công bình thường có thể làm được… “.

“Đúng vậy, lúc đầu ta vốn nghĩ rằng mười bảy tên ám vệ là do Vệ Ngọc Hành giết chết, bởi dù gì hắn cũng là một võ trạng nguyên, cao thủ đệ nhất, nhưng giờ xem ra sự việc lại cơ hồ không giản đơn như vậy…”.

Tiết Thái đi vài bước, ánh mắt bỗng bị thứ gì đó thu hút, hắn thất thanh kêu “á” một tiếng.

“Sao thế?”.

Tiết Thái chạy đến bên cửa sổ, mép cửa có chỗ bị nứt, vì thế ở phía góc có ngoắc lại một miếng vải, hắn lấy miếng vải xuống, thở dài nói: “Là của chủ nhân”.

Đoạn Thiên La, chỉ làm tuyến, đường thêu tinh xảo độc nhất vô nhị – thiên hạ bây giờ chỉ có Cơ Anh mới có thể mặc, xứng để mặc và dám mặc chiếc áo trắng này.

Trên góc viền của miếng vải còn dính vài vết máu. Dẫu không thể xác định là máu của Cơ Anh hay máu của người khác nhưng phát hiện này đã đủ khiến người ta kinh hoảng.

Tiết Thái cầm miếng vải, rồi lại lục soát tứ phía, cuối cùng hắn đã tìm ra được một thứ khác nằm im lìm trong một góc tường tăm tối nhất. Nếu như miếng vải khiến hắn chỉ mới chau mày, thì bây giờ nhìn thấy vật này hắn đã hoàn toàn hoàn toàn kinh sợ…

Đó là chiếc bản chỉ khâu bằng da thuộc.

Chỗ mép đã bị sờn lông, màu sắc nhạt nhòa nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra vốn dĩ nó có màu đỏ.

Nếu không phải là Tiết Thái tìm kỹ, mắt lại tinh tường, thì thật khó có thể phát hiện có một vật như thế nằm trên mặt đất.

Phan Phương tò mò hỏi: “Đây cũng là đồ vật của hầu gia?”.

“Đâu chỉ có vậy” Tiết Thái lẩm nhẩm: “Ta có thể vạn lần khẳng định, chủ nhân thà vứt bỏ mọi thứ cũng không nỡ vứt bỏ chiếc bản chỉ này “.

“Nó quan trọng đến thế à?”. Phan Phương cả kinh: “Vậy…”.

“Chiếc bản chỉ xuất hiện ở đây, có nghĩa là…”.

Tiết Thái quay đầu, gương mặt nhỏ bé đến lúc này mới đầu tiên để lộ sự hoảng loạn – sự hoảng loạn bình thường mà một đứa trẻ tám tuổi nên có: “Chủ nhân chết rồi. Phải làm sao?

Phan tướng quân, chúng ta… phải làm sao?”.

Cửa Tây viện khẽ khàng đẩy ra.

Một đôi giày thêu hoa màu đỏ bước vào một cách không gấp cũng không chậm, trong tay bưng một chiếc khay, trên khay có một bát canh đặc, màu sắc xanh đen, rất kỳ lạ.

Đỗ Quyên nghe thấy tiếng động liền cau mày, cất tiếng hỏi: “Là ai? Lẽ nào ta chưa hạ lệnh không được sự cho phép không được tự ý xông vào sao?”.

Người đó cười khẽ: “Là ta đây, cũng không được vào sao?”.

“Dì Mai..?”. Sau cơn kinh ngạc, Đỗ Quyên lại càng nghi ngờ: “Sao dì lại tới đây?”.... Không phải bà ta bị bọn Phan Phương Tiết Thái bắt giữ rồi sao?

“À dì Mai day day cổ của mình, nói: “Cú đánh đó của Phan tướng quân cũng thật hiểm, ta nằm trên đất hai canh giờ mà vẫn không đứng dậy nổi. Nếu không phải có ngươi tới cứu, lão nô có lẽ cũng chết trong phòng chứa củi rồi”.

Não của Đỗ Quyên ầm một tiếng, nhận ra có gì đó không đúng.

Dì Mai là tâm phúc của nàng ta.

Là người nàng ta đã chọn ra từ trong đám tử tù khi đến Hồi thành năm đầu tiên.

Dì Mai tên thật là Thẩm Mai, vốn là thất phu nhân của đầu lĩnh sơn trại tội ác chồng chất Nhất Phách Châu, sau khi Nhất Phách Châu bị tống vào ngục, bà ta cũng bị khép vào tội chết. Đỗ Quyên sau khi chứng thực hoàn cảnh thân phận của Thẩm Mai mới cất nhắc bà ta làm nô bộc thân thiết của mình. Mà hơn bốn năm qua, người này cũng thực sự đáng tin cậy, trong tối lẫn ngoài sáng đều giúp đỡ nàng ta không ít việc.

Nhưng Đỗ Quyên bản tính thận trọng kín đáo, tuy là tâm phúc, nhưng việc của Cơ Anh lần này cũng chưa từng nói rõ với bà ta. Khi Đông viện bị cháy, chỉ là giả vờ giả vịt sai dì Mai đi cản trở Vệ Ngọc Hành. Nghe nói bà ta bị Phan Phương đánh ngã, trong lòng còn thở phào nhẹ nhõm, không ngờ bây giờ bà ta lại xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện này lại còn kỳ lạ như thế. Lẽ nào, cũng có chuyện gì xảy ra với bà ta rồi sao?

Đỗ Quyên tuy lòng đầy nghi ngờ nhưng vẫn kìm chế, lạnh nhạt nói:

“Đêm nay trong phủ tình hình rối như canh hẹ, ta đúng là quên mất dì. Trở về là tốt rồi. Dì mang cái gì vào thế? Là thuốc à? “.

Dì Mai cười: “Mũi của phu nhân quả nhiên vẫn thính như xưa. Không sai, lão nô nghe nói phu nhân mắc bệnh nặng, cho nên mang tới một phương thuốc lành”.

Bà ta càng lại gần, mùi thuốc càng nồng, Đỗ Quyên cụp mi, gằn giọng nói: “Dì Mai khách sáo quá. Nhưng ta cảm thấy khỏe hơn rồi, bát thuốc này không cần dùng đâu”.

“Ấy phu nhân nói gì thế? Càng là lúc sắp khỏi bệnh càng nên uống trọng dược, để bệnh bị đầy hoàn toàn ra khỏi người. Phuxem, lão nô đã mang tới rồi, tốt xấu gì phu nhân cũng uống một ít đi”. Dì Mai nói đoạn, nhẹ nhàng ấn vào lưng Đỗ Quyên đưa bát thuốc đến bên môi nàng ta.

Rốt cuộc Đỗ Quyên không thể giả vờ không có chuyện gì nữa, giãy giụa quát: “To gant Mụ dám ép ta uống thuốc?”.

Dì Mai không hề nhúc nhích, trên mặt nở một nụ cười mỉm ngọt ngào thân thiết, nói: phu nhân bị bệnh rồi, có bệnh thì phải uống thuốc. Ngoan, đừng sợ, thuốc này rất ngọt, không đắng tẹo nào đâu…”.

“Buông ra! Buông ta ra ngay… khụ… mụ! Mụ dám… khụ khụ… mụ…”.

Đỗ Quyên tuy giãy giụa rất mạnh, nhưng vẫn bị đổ vào miệng không ít thuốc, sự phản kháng của nàng ta dần dần biến thành tuyệt vọng: “Tại, tại sao? Khụ… tại sao…

Dì Mai đổ xong chỗ thuốc đó, buông tay ra, cười híp mắt nói: “Phu nhân không phải sợ hãi thế. Không phải là thuốc độc”.

Nhưng… nhưng ta… Trời ơi!”. Đỗ Quyên thét lên một tiếng, lăn từ trên giường xuống, cả thân hình bắt đầu không ngừng co quắp, thảm thiết kêu gào: “Là thứ gì...? Đây là thứ gì...?”.

“Đây chẳng qua chỉ là một chút hình phạt ban cho ngươi mà thôi”. Người nói câu này không phải là dì Mai.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn đứng bên cạnh lạnh lùng quan sát bấy giờ quay đầu lại nhìn về phía phát ra giọng nói, thì thấy Vệ Ngọc Hành bên ngoài cửa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười bốn : Quyết biệt (Phần 2)

Gió tối hiu hiu thổi, ánh sáng và bóng tối loang lổ, hắn đứng ở cửa ra vào, áo bay phấp phới, mơ hồ như tiên khách trên trời.

Lúc này, hắn lại xuất hiện bằng cách đó, thực sự kỳ dị đến cực điểm. Nhưng Khương Trầm Ngư giờ đã không còn kinh ngạc, hay nói cách khác, thiên hạ này đã chẳng còn điều gì có thể khiến nàng ngạc nhiên được nữa. Nàng cứ thờ ơ nhìn như thế, nhìn Vệ Ngọc Hành anh tuấn hào sảng văn nhã với nụ cười nhạt trên môi, cũng nhìn Đỗ Quyên không ngừng rên rỉ đau đớn vạn phần nằm trên mặt đất.

Đỗ Quyên đùng tay chống đất nhỏm nửa thân trên dậy, mặt ngoảnh về hướng của Vệ Ngọc Hành, nói với vẻ đầy kinh sợ:

“Ngọc Hành? Chàng về rồi... Là, là, là chàng sai dì Mai ép ta uống bát thuốc đó... Tại sao... Tại sao... Xảy ra chuyện gì... Tại sao phải trừng phạt ta..?”.

Vệ Ngọc Hành im lặng nhìn nàng ta một lúc, không nói một lời, chỉ rút một thứ từ trong người ra, quẳng xuống trước mặt Đỗ Quyên.

Mảnh vải màu trắng muốt lượn trong không trung, rồi lại từ từ rơi xuống, không một tiếng động.

Nhưng mũi Khương Trầm Ngư đã ngửi thấy một mùi hương quen thuộc – Phật thủ cam.

Đỗ Quyên đưa tay sờ sờ lên mảnh vải, rồi rụt lại một cách đầy kinh sợ, ngừng một lúc, lại run run giơ tay nắm chặt vật đó mở ra. Đó là một chiếc trường bào, phía sau lưng bị rách một lỗ lớn, còn điểm những vệt máu tươi.

Trong phút chốc mắt Khương Trầm Ngư ướt nhòa.

Còn Đỗ Quyên đã thét lên: “Đây là y phục của Kỳ Úc hầu! Ngài thế nào rồi?

Ngài thế nào rồi... Không phải ta bảo chàng hộ tống ngài đi khỏi đây sao... Tại sao áo của ngài lại ở đây, hơn nữa còn có mùi máu... Không! Không chỉ thế, trong máu còn có mùi của độc quỳ, đã có chuyện gì”.

“Rất đơn giản”. Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói bằng một giọng điệu lạnh lùng tàn khốc: “Ta giết hắn rồi. Còn đây là chiến lợi phầm của ta”.

“Không thể nào!” Câu nói này đồng thời thốt ra từ miệng hai người.

Một là Đỗ Quyên. Một là Khương Trầm Ngư.

Vệ Ngọc Hành bật cười nham hiểm, càng cười càng lớn tiếng, cuối cùng ngửa cổ cười một tràng dài, nói với một giọng điệu gần như điên cuồng:

“Năm năm! Năm năm… ta đợi ngày hôm nay, đã đợi suốt năm năm rồi! Ha ha ha! Cơ thị, ta đợi chúng sụp đổ, đợi đã năm năm rồi!”.

Khương Trầm Ngư rốt cuộc vẫn không kìm được lên tiếng: “Tại sao?”.

“Tại sao à?”. Vệ Ngọc Hành quay đầu qua, nhìn nâng với vẻ mặt rất kỳ quái: “Đương nhiên là vì…”.

Một canh giờ trước…

Ngọn lửa lớn hừng hực bị tấm vách ngăn của đường hầm cản lại bên trên.

Đường hầm chật hẹp vì ngọn lửa mà trở nên nóng bức, Cơ Anh đi theo Vệ Ngọc Hành một lúc bỗng ngừng bước, dường như có điều gì đang phải suy nghĩ.

Vệ Ngọc Hành quay đầu lại: “Sao vậy?”.

Ánh mắt Cơ Anh sững sờ, cuối cùng cười cười nói: “Không có gì, đi tiếp thôi”.

Vệ Ngọc Hành “hừ” một tiếng, đi đến cuối đường hầm lúc sắp mở cửa, Cơ Anh bỗng nói: “Đợi đã…”.

Vẫn chưa kịp nói hết câu, một làn khói trắng từ bên ngoài cửa xộc vào, Vệ Ngọc Hành đứng phía trước thì không sao, nhưng Cơ Anh ngay lập tức lại giống như bị người ta thít chặt cổ, cả gương mặt trắng bệch ra, co rúm ngã xuống.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng nhìn chàng.

Cơ Anh ngã trên mặt đất, trên trán rịn những hạt mồ hôi to bằng hạt đậu, trong nháy mắt, toàn thân ướt đẫm. Chàng mở to mắt, lồng ngực phồng lên xẹp xuống dữ dội, xem ra việc hít thở cực kỳ khó nhọc.

Vệ Ngọc Hành nói: “Mùi của loại khói này thế nào? Đối với người thường nó vô hại, nhưng với người có bệnh tim, lại là loại chí độc”.

Một tay Cơ Anh ôm chặt lấy lồng ngực, một tay duỗi ra phía trước, năm ngón tay xòe ra hết cỡ dường như muốn tóm thứ gì. Những dẫu là lúc khốn đốn như thế này, chàng vẫn không rên rỉ kêu thét như những người bình thường, thậm chí có thể nói chẳng thốt ra một tiếng nào.

Trong mắt Vệ Ngọc Hành ánh lên vẻ thương xót, nhưng khoảnh khắc sau lại chuyển thành căm hận:

“Đến lúc này rồi ngươi còn phải kiên cường sao? Chà chà, Cơ Anh à Cơ Anh, ngươi quả nhiên không hổ là kẻ nhẫn nhịn nhất mà ta từng biết, không, ngươi không phải là người ngươi căn bản là con rùa rụt đầu.

Gặp chuyện thì rụt cổ lại, không dám phản kháng một tiếng, đấy chính là ngươi!”.

Đột nhiên, hắn bước lên trước vài bước, tóm lấy vạt áo Cơ Anh kéo chàng thật mạnh, nghiến răng nói từng chữ một: “Trả... Cơ... Hốt... lại cho ta!”.

Trả Cơ Hốt lại cho ta…

Trả Cơ Hốt lại cho ta.. .

Sáu chữ quẩn quanh hồi lâu trong đường hầm nhỏ hẹp.

Làn khói trắng dan dần tản mát đi hết.

Khuôn mặt của Cơ Anh càng lúc càng trắng xanh, đôi đồng tử bắt đầu mờ đục, lúc này dẫu muốn nói gì cũng không thể nói ra được.

“Trả cho ta… trả cho ta… ngươi mang trả Cơ Hốt lại cho ta…”.

Tay Vệ Ngọc Hành bắt đầu run bần bật, xé giọng thét: “Các ngươi vì vinh hoa phú quý, đang tâm chia cắt ta và Hốt Nhi, đưa nàng vào hoàng cung. Ta vì muốn gặp nàng một lần đã phải cố hết sức thi đậu võ trạng nguyên, vốn tưởng rằng nếu có thể làm ngự tiền thị vệ của đấng kim thượng dẫu cho đời này chẳng thể thành đôi thì chí ít cũng có thể bảo vệ nàng, đến buổi đại lễ cũng có thể nhìn mặt nàng từ xa. Ta chỉ mong có thế, nhưng đến cơ hội này các ngươi cũng không cho ta, ngầm xúi giục tả tướng chọn ta làm con rể, muốn cắt đứt nỗi nhớ nhung của ta dành cho Hốt Nhi...! Sao ta có thể cho các ngươi thỏa nguyện, cho dù ta lấy người khác, ta cũng không lấy nữ nhân mà các ngươi sắp đặt... Cho nên, ta thà dựa dẫm vào hữu tướng, lấy đứa con riêng của ông ta còn hơn, nhưng các ngươi vẫn không buông tha cho ta, cấu kết với tả tướng biếm chức ta, đẩy ta vào chốn rách nát sơn cùng thủy tận này chờ đợi liền bốn năm trời… Vệ Ngọc Hành ta có tài có mạo, văn võ song toàn, đối với Hốt Nhi lại càng một khối tình si, trời đất có thể chứng giám, đựa vào tài hoa của ta, phong hầu bái tướng cũng chưa chắc là không thể, tại sao... Tại sao đến nửa cơ hội các ngươi không chịu cho ta..? Tại sao lại phải chia rẽ ta và Hốt Nhi...? Tại sao cứ phải gả nàng cho hoàng đế ... Ta... ta... ta hận các ngươi…”.

Vệ Ngọc Hành nói đến đây, thái độ kích động bỗng biến thành bình tĩnh, nhưng dưới sự bình tĩnh này lại ẩn chứa một sự căm hận đáng sợ hơn cả giận dữ: “Cho nên, ta đã tự thề với lòng mình, ta muốn Cơ gia các ngươi không được chết tử tế. Ta muốn mọi mưu tính của các ngươi đều hóa thành công cốc. Ta muốn ngươi chết ngươi... Cơ Anh”.

Vẻ mặt của Cơ Anh vô cùng bi thương.

Đó là một nỗi bi thương vì hòa trộn quá nhiều cảm xúc cho nên không thể hiểu nổi.

Đó cũng là một nỗi bi thương vì thấu hiểu mọi thứ nhưng lại không thể làm gì.

Nỗi bi thương đó rất sâu nặng, rất đậm đà, nhưng lại là vì người khác, mà không phải vì bản thân chàng.

Cuối cùng, chàng chỉ có thể nhắm nghiền hai mắt.

Vệ Ngọc Hành lại bị kích thích bởi động tác này của chàng, hắn thô bạo kéo chàng ra khỏi mật đạo, vừa đi vừa nói:

“Ngươi tưởng ngươi đứng ngoài sự việc được sao? Ngươi tưởng ngươi không phản kháng là xong à? Nói cho ngươi biết, Cơ Anh, ngươi muốn chết, đâu có dễ như thế! Người đâu!”.

Lập tức rất nhiều người vận như người làm công nhưng thân thủ phi phàm xông ra từ trong phường nhuộm vải một người trong đó chạy lên trước, ôm quyền khom lưng nói:

“Chủ nhân, tất cả đều chuẩn bị xong rồi”.

“Ừm”. Vệ Ngọc Hành gật gật đầu, vứt Cơ Anh lên chiếc ghế nằm chính giữa sân. Cơ Anh đã không còn chút khả năng phản kháng nào, nhưng chúng vẫn không yên tâm, tiến lên trói nghiến tay chân của chàng lại.

Cơ Anh mở mắt he hé, hơi thở yếu ớt, nhưng ánh mắt mát lạnh, giống như nước suối dưới trăng đêm, ôn hòa mà linh lợi.

“Thắc mắc tại sao ta không giết ngươi à?”. Vệ Ngọc Hành đi đến đối mặt với Cơ Anh, dán mắt nhìn chàng từ trên cao.

Cơ Anh nở một nụ cười nhàn nhạt. Trong nụ cười không hề có ý khinh miệt, châm biếm, tựa như lúc này người đang bị trói nghiến, đau đớn đó không phải là chàng. Nhưng trong mắt Vệ Ngọc Hành, không còn nghi ngờ gì nữa nụ cười này mang ý mỉa mai.

Ánh mắt hắn sa sầm, lạnh giọng nói: “Chết đến nơi rồi, ngươi có lời gì muốn nói không?”.

“Chết ư?”. Cơ Anh thở dốc, nụ cười càng lúc càng tươi rói: “Tại sao ta phải chết? Hay nói cách khác, sao ta có thể chết được?”.

Vệ Ngọc Hành rút ra một thanh chủy thủ, kề lên cổ chàng, hung hăng nói: “Ta chỉ cần gạt nhẹ một cái là ngươi đã bỏ mạng tại chỗ, ngươi còn cảm thấy ngươi không thể chết nữa hay không?”.

“Ta chết rồi, ai đưa cho ngươi Tứ quốc phổ?”.

Câu nói này vừa bật ra giống như một cú sét đánh trúng người Vệ Ngọc Hành, hắn choáng váng, mí mắt không ngừng giật giật.

Cơ Anh phát âm rất khó khăn, nhưng thần tình xem ra lại càng nhẹ nhõm hơn: “Nếu ngươi không mang được Tứ quốc phổ về gặp Khương Trọng, lão sẽ buông tha ngươi sao?”.

Vệ Ngọc Hành ấn mạnh tay, lưỡi dao sắc lập tức cứa vào thịt Cơ Anh, dòng máu đỏ tươi từ từ chảy ra.

Lông mi Cơ Anh hơi run rẩy, nhưng chàng vẫn không phát ra bất cứ tiếng rên rỉ nào.

“Nếu ngươi đã biết, thì thức thời một chút, mau nộp Tứ quốc phổ và cả Liên thành bích ra đây!”.

“Các ngươi không đến nhà ta tìm sao?”.

“Hừ, nếu bọn ta tìm thấy, ngươi còn có thể kéo dài chút hơi tàn ở nơi này sao? Trên người ngươi hả?”. Vệ Ngọc Hành miệng nói tay lục soát. Nhưng trong người Cơ Anh chẳng có thứ gì ngoài một chiếc bản chỉ.

Vệ Ngọc Hành nhìn chiếc bản chỉ chẳng đáng tiền đó một cái rồi tiện tay vứt đi.

Chiếc bản chỉ vạch một đường cong giữa không trung, bay qua cửa sổ vào trong nhà, biến mất tăm.

Ánh mắt Cơ Anh lo lắng, rồi chàng nhắm mắt lại.

Nếu như Vệ Ngọc Hành có thể tinh tế hơn một chút, hắn sẽ phát hiện hai bàn tay Cơ Anh đang run rẩy, nhưng cho dù nhìn thấy, hắn cũng chỉ coi đó là phản ứng bình thường đo cơn đau đớn trong cơ thể gây ra nên không hề chú ý.

“Không ở trên người… cũng không ở trên thuyền sứ đi Trình quốc, vậy chắc cất giấu ở chỗ khác?”.

Cơ Anh phá lên cười ha ha, vừa cười được hai tiếng thì chuyển thành ho sặc sụa, bây giờ, không chỉ cổ mà trong miệng cũng ộc máu.

“Nói, ngươi cất hai thứ ấy ở chỗ nào? Chỉ cần ngươi nói, ta sẽ để ngươi bớt đau đớn”.

Cơ Anh nhìn Vệ Ngọc Hành chằm chằm, cuối cùng mở miệng nói: “Nhục hình vô dụng đối với ta”.

“Ngươi!”. Vệ Ngọc Hành nổi giận, thu đao lùi về phía sau vài bước, đánh mắt ra hiệu cho bọn tay sai.

Hai tên tay sai bước lên phía trước, một tên cầm một cơ quan có hình ống trụ tròn trong tay, một tên khác cầm một chiếc túi vải, chụp túi vải lên đầu Cơ Anh rồi khởi động cơ quan, một làn khói trắng chui trọn vào trong chiếc túi vải. Cơ thể của Cơ Anh lập tức co rúm một cách dữ dội. Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói: “Mùi của loại khói này rất khó chịu phải không? Bây giờ có phải ngươi cảm thấy có trăm ngàn lưỡi đao đang khoét vào tim ngươi đúng không? Lại giống như vài trăm con thỏ đang nhảy thình thịch trên đó?

Mỗi lần hít vào là một lần giày vò với ngươi, nhưng không hít thở thì ngươi sẽ chết… Cơ Anh, thứ này được chuẩn bị cho riêng ngươi, ngươi hãy trải nghiệm cho kỹ đi”.

Một ống khói trắng phun xong, tên tay sai gỡ chiếc túi vải ra, để đầu của Cơ Anh lộ ra, chỉ thấy trong mắt chàng toàn tơ máu, trên gương mặt chỗ trắng chỗ đỏ, các cơ thịt đau đớn rúm ró lại, bộ dạng rất đáng sợ.

“Thế nào? Vẫn không chịu khai à? Không sao, ta đã chuẩn bị tổng cộng hai mươi tám ống khói, hai ống vừa mới dùng ban nãy mùi còn nhẹ, những ống phía sau càng dùng càng nồng, ngươi có thể thưởng thức từng ống từng ống một, cho đến khi ngươi chịu xin dừng lại”.

Cơ Anh thở hổn hển rất lâu, cuối cùng mở miệng, nhưng chỉ nói một chữ: “Phì”.

Khóe mắt Vệ Ngọc Hành giật giật, giậm chân nói: “Người đâu! Dùng hình tiếp cho ta! Phun thật đặc vào!”.

Hai, ba tên tay sai thay nhau luân phiên tra tấn.

Phun đến ống thứ sáu thì Cơ Anh ngất xỉu.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng ra lệnh: “Dội nước vào hắn”.

Một tên tay sai bưng một chậu nước tới, hai tên bên cạnh Cơ Anh đều đứng tránh ra nhường đường, để tiện cho tên kia hắt nước. Nhưng trong khoảnh khắc chúng tách ra, tên tay sai đột nhiên trở tay hắt cả chậu nước lên người chúng; nhân lúc hai người né tránh liền phóng hai lưỡi dao găm về phía chúng, chuẩn xác, nhanh như cắt, dứt khoát, hai tên tay sai đến kêu cũng không kịp kêu liền đổ gục xuống.

Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, một bóng đen như con rắn nhảy lên đầu hắn, hắn đành phi thân lùi về phía sau, chính trong tích tắc hắn kinh sợ thối lui, chỉ nghe thấy ting ting ting… năm tiếng liên tiếp, tất cả những người bên cạnh đều ngã xuống.

Đây là loại võ công đáng sợ đến nhường nào?

Vệ Ngọc Hành nheo mắt lại, tư thế vốn dĩ chuẩn bị nhảy lên cũng ngừng lại, cảnh giác nhìn tên tay sai kia, người đó lại chẳng thêm liếc hắn lấy một cái, thu roi lại rồi ôm lấy Cơ Anh, nhanh chóng điểm mấy huyệt đạo trên người chàng, trầm giọng nói: “Xin lỗi, thuộc hạ đã đến muộn. Công tử”.

Cơ Anh vốn đã ngất xỉu nay mới từ từ mở mắt, nhìn người đó, khóe môi nhếch lên, dường như đang cười, nhưng lại càng yếu ớt hơn: “Ngươi quả nhiên chưa bao giờ làm ta thất vọng, Chu Long”.

Người đó chính là thị vệ theo sát bên chàng – Chu Long.

Vệ Ngọc Hành chầm chậm lùi lại hai bước, ánh mắt đảo nhanh quanh bốn phía một vòng:

“Tại sao ngươi có thể tìm được nơi này”.

Chu Long đáp: “Đánh dấu”.

“Không thể! Dọc đường ta đều chú ý quan sát, Cơ Anh không thể có bất cứ cơ hội nào đánh dấu cho ngươi!”.

Tựa như để hắn tuyệt vọng, hoặc là để tấn công hắn thêm một bước nữa, Chu Long tiếp tục trả lời: “Dấu ấn của công tử, không phải là ký hiệu, mà là mùi”.

“Cái gì...?”.

Sau cơn kinh ngạc, Vệ Ngọc Hành bỗng hiểu ra: Trên người Cơ Anh thoang thoảng mùi Phật thủ cam, người bình thường ngửi chỉ cảm thấy vị công từ này bản tính phong lưu ưa sạch sẽ, nào ngờ kỳ thực lại có dụng ý khác. Hơn nữa, cho dù chú ý đến mùi hương này, nhưng vì nó rất nhạt rất nhẹ đi qua là tan, sao có thể trở thành manh mối cho người ta phân biệt?

Vị Chu Long này rốt cuộc là nhân vật như thế nào? Không những võ công cao cường đến mức đáng sợ, đến khứu giác cũng vượt xa giới hạn của con người.

Vệ Ngọc Hành lại lùi về phía sau thêm một bước, hai tay dần dần nắm chặt, so với đối thủ trước mặt, nếu bây giờ hắn ra tay thì chỉ có vài phần thắng.

Cơ Anh nhìn thấu tâm tư của hắn, bỗng nói: “Ngươi không phải là đối thủ của Chu Long”.

“Vì sao?”.

“Vì là ta nói”. Cơ Anh nằm trong lòng Chu Long, tuy yếu đến độ dường như có thể chết bất cứ lúc nào, nhưng giọng nói vẫn cực kỳ kiên định:

“Ta – Cơ Anh nói – ngươi không phải là đối thủ của hắn”.

Hai chữ “Cơ Anh” thốt ra, cả thế giới bỗng nhiên chìm xuống, không khí cũng vì hai chữ này mà trở nên đặc quánh đến dị thường.

Người trước mặt mang danh Bạch Trạch, sinh ra trong gia đình quý tộc của cường quốc.

Đến đệ nhất trí giả đời nay là Ngôn Duệ cũng nhận xét là tuyệt thế tài tuấn

“Qua mười năm nữa, người thiên hạ chỉ biết đến Kỳ Úc hầu mà không biết lão phu”.

Là nhân vật tối thượng trở tay làm mây lật tay làm mưa, nhất cử nhất động đều ảnh hưởng đến thời cuộc.

Mà nay, chàng nói một câu “ngươi không bằng hắn”, trong chốc lát dường như cả thế giới đều đứng về phía chàng, khiến kết luận của chàng trở thành một sự thực chắc như đinh đóng cột không thể mảy may lay động. Tay Vệ Ngọc Hành cứ run rẩy không tuân theo sự khống chế của hắn.

“Còn nữa”. Cơ Anh lại bổ sung thêm một câu: “Kẻ thất bại bất tài như ngươi, căn bản không đủ tư cách cưới tỉ tỉ của ta. Không, đến tư cách nhìn tỉ ấy cũng không có”.

Vệ Ngọc Hành bị chọc giận đến cực điểm, hét vang một tiếng rồi nhào qua.

Chu Long một tay ôm Cơ Anh, một tay múa cây roi dài nhẹ nhàng tránh được. Thực ra Vệ Ngọc Hành thân là võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu, võ công cũng không kém Chu Long là bao. Mà Chu Long lại phải ôm Cơ Anh, bị vướng víu, tình thế rất bất lợi, nhưng vì Cơ Anh cố ý chọc giận Vệ Ngọc Hành khiến cho tâm trí hắn rối loạn.

Cũng vì thế, không lâu sau, trên người Vệ Ngọc Hành đã trúng ba roi, áo quần bị rách, hắn thở hồng hộc, lại lùi về phía sau, thần tình vốn dĩ kích động.cũng dần dần bình tĩnh trở lại.

Cơ Anh thầm than hỏng rồi, tiếp theo liền nghe Vệ Ngọc Hành đưa ngón tay lên miệng huýt một tiếng sáo rất vang. Cơ Anh lập tức nói:

“Mau chạy”.

Nhưng Chu Long vừa mới ôm chàng quay người, thì nhìn thấy bên ngoài tường bao của phường nhuộm vải mọc ra một vòng cung tiễn thủ đen kịt. Hóa ra Khương Trọng hành sự cẩn thận, đánh tráo một đám tay sai còn chưa đủ, lại còn sắp xếp thêm cung tiễn thủ ngầm mai phục. Bấy giờ bọn cung tiễn thủ nghe thấy hiệu lệnh, lũ lượt hiện thân, đầu mũi tên lạnh lẽo hướng thẳng về phía hai người đang ở giữa sân.

“Ngươi tưởng có một trợ thủ đến cứu là có thể trốn được sao?”. Vệ Ngọc Hành giơ một tay lên,lập tức có một cung tiễn thủ nhảy xuống khỏi tường bao đứa cung tên của mình cho hắn. Hắn đón lấy cung tên, nheo mắt nhắm thẳng vào Cơ Anh, trầm giọng nói:

“Hôm nay, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ bước ra khỏi nơi này!”.

Đối diện với vô số mũi tên, Cơ Anh chẳng hề có chút sợ hãi chỉ nhếch khóe môi lên, khẽ khàng nói ba chữ: “Tứ quốc phổ”.

Sắc mặt Vệ Ngọc Hành đột ngột trắng bệch.

Mà trong khoảnh khắc đó, Chu Long ôm theo Cơ Anh tung thân vọt qua tường bao, đá hai tên cung tiễn thủ, phá vòng vây thoát ra ngoài.

Đám cung tiễn thủ đang định bắn tên, Vệ Ngọc Hành vội vàng quát: “Bắt sống”.

Đám tiễn thủ sợ đến mức vội vàng bắn chệch đi, những mũi tên vốn dĩ nhắm chuẩn vào Cơ Anh cũng lần lượt bắn lệch khỏi mục tiêu ban đầu, bắn sượt qua người Chu Long rơi xuống đất.

Vệ Ngọc Hành hận đến mức nghiến răng ken két, trọng binh trong tay, người đông như nhế, chỉ vỏn vẹn có hai người mà đành bó tay, đây đúng là chuyện tức tối và bực bội biết bao! Đáng hận là Tứ quốc phổ ở đâu vẫn chưa tra ra, Cơ Anh còn chưa thể chết. Cho nên Cơ Anh liền dựa vào điểm này để nghịch chuyển tình thế, đáng ghét! Đáng ghét!

Mũi tên trong tay rung rung, chỉ cần buông hai ngón tay ra là có thể khiến thiên hạ đệ nhất danh thần bỏ mạng tại chỗ ngay lập tức.

Nhưng, lại không thể bắn được… Đáng ghét! Đáng ghét Trên bức tường phía bên kia, Chu Long đang định nhảy xuống, Cơ Anh bỗng “a” một tiếng, hai tay vô thức giơ về phía sau.

“Sao vậy?”.

“Cái bản chỉ…?.

Chu Long trong lòng vạn phần không muốn, nhưng cuối cùng vẫn quay ngược trở lại, ngắm thật chuẩn cửa sổ rồi, nhảy vào bên trong.

Vệ Ngọc Hành vốn dĩ đã chuẩn bị tâm lý để hai người chạy thoát nào ngờ hai người lại quay lại, ngón tay co một cái, dây cung đã căng đến cực điểm không còn chịu sự khống chế nữa mà trượt qua ngón tay, đẩy mũi tên bay ra, xé rách không khí.

Không sai không lệch, nhằm trúng lưng của Cơ Anh.

Còn Chu Long bấy giờ vừa mới nhảy qua khung cửa sổ, “soạt” một tiếng, tấm trường bào của Cơ Anh đã bị mắc vào gỗ. Chu Long không kịp nghĩ ngợi, thuận tay kéo một cái, dứt khoát cởi cả chiếc áo ra, vứt ra ngoài cửa sổ.

Bạch bào tung trong gió, giống như một bức màn che kín cửa sổ.

Đợi đến khi bức màn rớt xuống, đám cung tiễn thủ lũ lượt xông vào trong nhà, chỉ thấy trong nhà trống không, không có Chu Long, cũng chẳng có Cơ Anh.

Vệ Ngọc Hành nhặt chiếc áo nhuộm máu đó lên, sắc mặt cực kỳ khó coi, một lúc lâu sau mới tức giận nói:

“Chúng chạy chưa xa được đâu. Đuổi theo cho ta!”.

Bọn cung tiễn thủ vội vàng đuổi theo.

Tên cung tiễn thủ đưa cung tên cho hắn ban nãy chần chừ một lát, rồi bước lên nói: “Vệ thành chủ…”.

“Chuyện gì?”.

“Mũi tên có độc”.

“Độc?” Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, theo bản năng nhìn xuống cây cung trong tay.

“Vâng. Thiên hạ kịch độc, gặp máu thì tắt thở, trúng độc lập tức chết, vô phương cứu chữa”.

Trái tim Vệ Ngọc Hành đập thình thịch, giọng nói trở nên gấp gáp: “Cũng có nghĩa là…”.

“Bây giờ Kỳ úc hầu đã là một người chết rồi”. Cung tiễn thủ cúi gằm mặt, trong giọng nói pha lẫn sự thương xót.

Mưa đã tạnh từ lâu, nhưng tiếng gió nghẹn ngào, giữa đất trời là khung cảnh tiêu điều xơ xác.

Nửa canh giờ sau…

Tiết Thái và Phan Phương đi ra khỏi đường hầm, họ nhìn thấy phường nhuộm vải đã người vắng nhà không.

Tiết Thái khi tìm thấy chiếc bản chỉ trong xó nhà lòng đã đầy tuyệt vọng, muốn hếp tục truy tìm tưng tích nhưng chẳng có lấy chút manh mối; muốn từ bỏ nhưng lại không cam tâm. Đang lúc bó tay hết cách, bên cửa sổ đột nhiên phát ra một tiếng “cạch” rất nhỏ.

Phan Phương lập tức chạy ra ngoài nhanh như một tia chớp.

Còn Tiết Thái ngây ra một lát rồi cũng chạy theo ra ngoài. Họ phát hiện, hóa ra là một viên đá nhỏ bị người ta ném vào cửa sổ, không bị văng ra sau khi va chạm như thông thường mà bị kẹt vào giữa phần gỗ.

Bốn phía một màu đen kịt, mưa cũng dần tạnh, ngoài tiếng gió ra không có một thứ gì khác.

Là ai đang ngầm mai phục? Tại sao lại phải ném đá để nhắc nhở hai người về sự tồn tại của hắn? Để cảnh báo? Hay là Uy hiếp?

Tiết Thái đang lúc nghi nghi hoặc hoặc, chỉ nghe thấy “cạch” một tiếng nữa lại là một viên đá bất ngờ văng đến trước mặt họ rồi rơi xuống đất.

Tiết Thái và phan Phương đối mắt nhìn nhau, đồng loạt lao như bay về phía viên đá đó.

Cứ như vậy, viên đá ấy luôn xuất hiện trong thời khắc mấu chốt, giống như dẫn đường đưa hai người rời khỏi phường nhuộm vải, thậm chí dẫn qua phố chợ, càng đi lại càng hẻo lánh. Trước đó Tiết Thái từng hạ lệnh đóng cửa thành phong tỏa đường ra, cắm người ra vào thành. Nhưng người ném đá này lại biết một con đường khác men theo bờ sông, xuyên qua bụi gai lại có một bức tường đứt gãy không ai coi sóc, nhảy qua tường là đã ở bên ngoài thành.

Hai người đuổi theo đến đây lại càng tò mò về thân phận của người thần bí đó, nhưng người đó võ công cao cường đến mức khó mà tưởng tượng nổi, Tiết Thái vì tuổi còn nhỏ, đuổi đến đoạn về sau thì thở hổn hển, dần dần không gắng gượng được nữa, còn Phan Phương phải chăm sóc cho hắn, đương nhiên cũng không đuổi kịp nữa.

Cuối cùng, Tiết Thái đừng bước, ngồi khụy xuống đất, vừa thở phì phò vừa nói: “Phan, Phan tướng quân, ngài không cần quan tâm đến ta. Đuổi, đuổi theo hắn mau! Đây là manh mối duy nhất hiện nay của chúng ta!”.

Phan Phương bối rối: “Nhưng một mình ngươi…”.

“Tướng quân yên tâm, người đó nếu có ý hại chúng ta thì đã ra tay từ lâu rồi.

Hắn đụ chúng ta ra đây, tất có ý đồ, tướng quân mau mau đi xem xem hắn rốt cuộc muốn gì đi”.

Phan Phương xưa nay không phải là một người hay lằng nhằng vì thế chỉ thoáng nghĩ qua rồi gật đầu, nói:

“Được, vậy ngươi nhớ cẩn thận đấy”.

Lại nghĩ thêm gì đó rồi lấy trong người ra một cây pháo hoa: “Nếu gặp nguy hiểm, nhớ đốt pháo báo hiệu”.

Tiết Thái đưa tay nhận lấy, Phan Phương liền đi khỏi, chỉ nhảy mấy bước là đã biến mất ở phía trước.

Tiết Thái nhìn cây pháo hoa trong tay, ngồi xuống một lúc, đợi hơi thở bình ổn trở lại rồi đột nhiên nói:

“Ông có thể ra rồi đó Chu Long”.

Một bóng xám đột ngột hiện ra giữa không trung, đáp xuống bên cạnh hắn tựa như một làn khói. Người đó đứng yên, đúng là Chu Long phía trên lông mày bên trái có một hình con rồng ba móng màu đỏ.

Tiết Thái nhíu mày nói: “Ta nhìn thư viên đá trên khung cửa là đã đoán ra ông. Ông đã ở đây, lẽ nào… ông biết tung tích của chủ nhân?”.

Chu Long gật gật đầu, nói một câu “Đi theo ta” rồi quay người dẫn đường.

Tiết Thái không nhịn được hỏi: “Tại sao phải dẫn chúng ta ra khỏi thành?

Còn cố ý vòng vèo đưa ám hiệu ta phải đuổi Phan Phương đi?”.

Bởi vì chủ nhân dặn dò phải gặp ngươi trước, sau đó một lúc mới dẫn Phan tướng quân đến”.

Tuy Tiết Thái thấy kỳ 1ạ nhưng không hỏi thêm nữa, cùng Chu Long đi lên phía trước, đoạn đường này càng đi lại càng cao, họ đi lên núi.

Cơn mưa lớn lúc trước khiến cho con đường núi ưới lầy lội Tiết Thái bước thấp bước cao, từ đầu đến cuối không hé răng than khổ lấy nửa tiếng, vì thế khi chu Long dừng lại, trong ánh mắt của hắn là vẻ tán thưởng.

“Ngươi đợi một lát”.

Nói đoạn, Chu Long tung người nhảy lên trên một cái cây 1ớn. Những hạt mưa từ trên cành lá rào rào rơi xuống, Tiết Thái còn chưa kịp né thì đã thấy Chu Long ôm một người nhảy xuống.

Đôi mắt Tiết Thái trong phút chốc đỏ hoe, cuống lên gọi: “Chủ… nhân”.

Người trước mặt chỉ mặc áo trong, mái tóc ướt đẫm lòa xòa dính trên người như một con rắn, hơi thở yếu ớt, dường như có thể chết bất cứ lúc nào, đâu có giống chủ nhân của hắn, Kỳ Úc hầu cười nhạo phong vân, quyền nghiêng triều dã. Danh thần Bạch Trạch nhất cử nhất động đều khiến thế nhân ngưỡng mộ. Công tu tuyệt thế tài hoa vô song, phong độ xuất trần – Cơ Anh.

Tuy Cơ Anh vẫn chưa chết như hắn tưởng tượng, nhưng chàng như thế này thì càng khiến người ta cảm thấy đau lòng hơn là chết.

Tiết Thái vội vàng bước lên nắm lấy một cánh tay của chàng, phát hiện cả cánh tay đó đều chuyển sang màu xanh đen. Hắn trợn trừng mắt, cuống quýt hỏi:

“Là ai hại chủ nhân?”.

Hàng mi của Cơ Anh run rẩy vài cái, đôi mắt vốn dĩ nhắm nghiền từ từ hé ra, nhìn thấy hắn thì ánh lên chút vui mừng: Ngươi đến rồi à?”.

“Bây giờ ngài không tìm Giang Vãn Y mà lại sai Chu Long tìm ta...? Ngài là heo à..?”.

Tiết Thái vừa mắng vừa quay người, đang định đi tìm Giang Vãn Y thì bàn tay lạnh ngắt, hóa ra là Cơ Anh kéo tay hắn.

Tay của Cơ Anh không còn chút sức lực, hắn chỉ cần giật nhẹ một cái là có thể vùng ra.

Thế nhưng, bị bàn tay yếu ớt vô lực như thế kéo lại, Tiết Thái cứng đờ người ngay lập tức và chẳng thể nhúc nhích nổi bước chân.

Hắn quay đầu lại, nhìn thấy Cơ Anh sắc mặt vàng vọt không chút sinh khí, nhưng vẫn mỉm cười với hắn, một nỗi bi ai bất lực trào lên, hắn chỉ có thể lý nhí nói một câu: “Ngài ấy…”.

Cơ Anh dùng một cánh tay còn lại nhẹ nhàng rẽ vạt áo của mình ra, Tiết Thái hít vào một hơi lạnh, chỉ nhìn thấy vị trí gần tim của chàng, một đầu mũi tên lộ ra, mặt cắt bằng thép tinh khiết mài bóng ánh ra tia hàn quang, chiếu lên mắt người thật đau đớn. Còn lồng ngực của Cơ Anh cũng đã biến thành màu đen giống như cánh tay của chàng.

Mũi tên đó không chỉ xuyên qua cơ thể chàng, mà đầu mũi tên còn có độc, độc tố đã hoàn toàn xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, thần tiên khó cứu, bây giờ tuy chàng vẫn còn sống nhưng cũng chẳng qua là kéo dài chút hơi tàn mà thôi.

Vừa nghĩ đến người trước mặt có thể chết bất cứ lúc nào, cả người Tiết Thái liền run lên bần bật.

Nhìn thấy bộ đạng này của hắn liền Cơ Anh lại cười cười:

“Ta còn tưởng mình còn năm năm nữa, cho nên có nhiều thứ còn chưa dạy cho ngươi, có nhiều việc còn chưa làm được. Xin lỗi”.

“Ta không cần ngài dạy!”.

Tiết Thái oán hận cụp mắt xuống, giọng nói gần như nức nở: “Ngài có gi ghê gớm chứ, cái gi ngài làm được ta đều biết cả, cái gì ngài không biết ta cũng biết! Qua mấy năm nữa, chắc chắn ta còn giỏi hơn ngài! Ngài… ngài… ngài dựa vào cái gì mà chết vào lúc này? Dựa vào cái gì mà không cho ta cơ hội vượt qua ngài, đồ giảo hoạt! Ngài quá giảo hoạt!”.

Cơ Anh chầm chậm giơ tay lên, sờ sờ mái đầu của hắn: “Ngươi nghe đây, Tiểu Thái, ta không còn nhiều thời gian nữa, độc dược trên mũi tên cực kỳ đáng sợ, nếu không phải nhiều năm qua hàng tháng ta đều uống các loại thuốc nên có chút sức đề kháng, thì đã chết từ lâu rồi. Sở dĩ ta chống chọi được đến bây giờ là để gặp ngươi một lần nữa. Điều ta nói sau đây vô cùng quan trọng, ngươi phải chú tâm lắng nghe”.

Tiết Thái ngước mắt lên nhìn.

“Ngươi có hai con đường. Con đường thứ nhất, đến Yên quốc đầu quân cho Chương Hoa, Yên vương là đấng quân vương nhân hậu, biết dùng người tài, tất sẽ đối tốt với ngươi”.

Cơ Anh ngừng lại một lát, thấy Tiết Thái trợn trừng đôi mắt to đen láy, không tỏ thái độ gì, bấy giờ mới nói tiếp:

“Con đường thứ hai, nộp thủ cấp của ta cho Chiêu Doãn”.

Tiết Thái cắn chặt môi, vẫn không nói gì, nhưng trong mắt dâng lên một màn sương mù.

“Hai con đường đều khiến ngươi một bước lên trời, dưới một người mà trên vạn người, chỉ có điều một con đường đơn giản hơn, còn một con đường lại vô cùng gian nan”.

Tiết Thái thấp giọng đáp: “Dựa vào đâu mà ngài cho rằng mục đích của ta là dưới một người mà trên vạn người?”.

Cơ Anh nhìn hắn dịu dàng, chậm rãi nói:

“Bởi vì… ta hiểu ngươi, giống như ngươi hiểu ta vậy. Chúng ta là những người giống nhau. Ta, ngươi và cả Trầm Ngư đều là những người giống nhau”.

Trên gương mặt Tiết Thái hiện lên vẻ suy sụp, hai đầu gối mềm nhũn, đột ngột ngã quỵ xuống mặt đất.

Cơ Anh đưa mắt nhìn về phía xa, khẽ than rằng: “Chúng ta đều trưởng thành trong gia tộc, rồi lại bị gia tộc trói buộc, cả đời không được tự do. Đứng trước gia tộc, không có cái tôi, không có thiện ác, không có đúng sai. Năm mười bốn tuổi ta lên nắm quyền, cũng bắt đầu từ đó đã nhìn thấy hết sự xấu xa dưới lớp áo hoa lệ, muôn hình vạn trạng. Đường thúc của ta tham ô, biều cữu của ta ăn hối lộ, con cháu Cơ thị ngang ngược hoành hành đầu đường phố chợ, làm theo ý riêng mà rối loạn kỷ cương, không một người nào là trong sạch.

Thế nhưng dầu cho như thế, cũng phải tiếp tục chống đỡ cho gia tộc, bởi vì, cha mẹ huynh đệ, cốt nhục tình thâm, lẽ nào có thể nhẫn tâm nhìn họ lâm vào đường cùng mạt lộ? Vì thế, tuy biết khối u ác tính này càng ngày càng lớn, càng ngày càng nguy hại, nhưng không thể vung tay cắt bỏ. Ta vốn tưởng rằng khi thời cơ chín muồi, có thể chỉnh đốn kỹ lưỡng một phen, nhưng ông trời 1ại không cho ta thời gian…”.

Nói đến đây chàng đưa mắt nhìn Tiết Thái, nói với một vẻ không biết là đau thương hay là lạnh nhạt: “Coi như là Cơ gia đến hồi nhận báo ứng mà thôi. Một khi ta chết đi, khối u Cơ thị này cuối cùng cũng có thể cắt bỏ”.

Tiết Thái chẳng thể nói được lời nào, chỉ nắm chặt lấy tay Cơ Anh, run rẩy như một con thú nhỏ.

Cơ Anh dịu dàng xoa đầu hắn: “Tuy đã biết cái lẽ thịnh suy là như thế, nhưng thực sự người trong cuộc không có lựa chọn nào khác, phải không? Cho nên, Tiểu Thái nếu như ngươi lựa chọn con đường thứ hai, thì hãy làm một việc vì ta”.

Tiết Thái nhìn Cơ Anh không chớp mắt, đôi mắt trong veo phản chiếu bóng hình chàng như muốn khảm sâu dáng vẻ của người này vào trong tâm trí, mãi không biến mất, mãi không phai mờ.

Thực ra với thực lực của mình, Khương Trọng đã có thể: xoay chuyển thời cuộc từ lâu nhưng lão chần chừ không ra tay, một mặt cố nhiên là vì đợi Khương Trầm Ngư trưởng thành, một mặt là vì trong triều ngoài dã lưu truyền tin đồn – Cơ gia có một quyển Tứ quốc phổ”.

Tiết Thái mím môi, rồi mở miệng nói. Thuộc hạ biết”.

Cơ Anh cười: Xem này, đến ngươi cũng biết rồi”.

Tiết Thái trầm giọng đáp: “Sinh thời gia gia của ta đã từng bí mật bàn với cha ta. Không chỉ Tứ quốc phổ, Cơ gia còn có một miếng Liên thành bích. Cái gọi là Tứ quốc phổ là chỉ những tin tức bí mật quốc gia ba nước xung quanh được những gian tế mà Cơ gia phải đi tích lũy và ghi chép trong suốt mấy trăm năm, nếu bất cứ một bí mật nào trong đó bị tiết lộ ra ngoài đều có thể kinh động thiên hạ, gây biến đổi triều chính. Mỗi gia tộc đều có những bí mật phải cẩn thận bảo vệ.

Không thể truyền ra ngoài, mà kẻ biết được bí mật này có thể lợi dụng điều đó thao túng họ. Đây chính là điểm đáng sợ nhất cũng là điểm chí mệnh nhất của Tứ quốc phổ”.

Cơ Anh im lặng lắng nghe, không phát biểu ý kiến gì.

Thế nên Tiết Thái tiếp tục nói: “Còn cái gọi là Liên thành bích chính là chìa khóa để mở kho báu gồm một khối lượng lớn tài sản và châu báu mà tổ tiên của Cơ gia đã chôn giấu khi dự đoán mấy trăm năm sau gia tộc có thể sa sút. Cơ gia có hai vật đó là có thể duy trì sự phồn thịnh, đời đời không suy vong”.

Cơ Anh hít một hơi thật sâu, nói bằng giọng điệu bình tĩnh lạ thường: “Thế, ngươi có tin không?”.

Tiết Thái trầm ngâm chốc lát, cuối cùng thận trọng lắc lắc đầu.

“Tại sao không?”.

“Bởi vì…”. Mắt Tiết Thái ướt nhòe, hắn thấp giọng đáp: “Nếu thực sự có những vật đó, ngài đã không mệt mỏi nhường này…”.

Đáp án này hiển nhiên nằm ngoài dự tính của Cơ Anh, chàng hơi há miệng, có chút kinh ngạc, có chút xúc động xen một chút tình cảm khác nữa.

“Ta biết ngài mệt mỏi nhiều lắm, ta đều biết cả. Nếu thực sự có Tứ quốc phổ và Liên thành bích gì đó, ngài sẽ không phải vất vả ngày đêm, chạy đôn chạy đáo, chưa từng được một đêm an giấc đến thời gian dưỡng bệnh cũng chẳng có. Ngài nói ngài chỉ có thời gian năm năm, nhưng rõ ràng ngài biết, nếu ngài có thể vứt bỏ tất cả, cùng với Vãn Y đi đến nơi nào đó non xanh nước biếc chú ý tĩnh dưỡng thì có thể điều đường cơ thể!”.

Cơ Anh cụp mắt, im lặng trong giây lát, định nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn không nói ra, tích tắc sau chàng ngước đôi mắt tựa ánh sáng, tựa nước, tựa hết thảy những thứ linh hoạt mà mềm dịu, cứ nhìn Tiết Thái như thế, nói: “Có”.

Tiết Thái sững sờ kinh ngạc.

Cơ Anh nở một nụ cười khổ, khẽ giọng từ tốn nói: “Tứ quốc phổ, Liên thành bích, đều có thực”.

Lúc này, Tiết Thái không nói nổi lời nào nữa.

Cơ Anh hít sâu một hơi, ghé sát tai Tiết Thái, nói vài câu. Tiết Thái vốn mở mắt rất to, nhưng vì kinh ngạc quá đỗi nên càng trợn to hơn.

Cơ Anh nói xong, liền thở dốc khôi phục tư thế ban đầu, hầm giọng nói:

“Ta dự định năm sau bắt đầu thực thi cải cách, nhưng giờ xem ra cần phải lùi thêm mười năm. Mười năm sau, tất cả đều nhờ cả vào ngươi”.

Tiết Thái đứng im không nhúc nhích như đã bị trúng phép định thân.

“Hy vọng ngươi không thay đổi bản tính lương thiện chính trực, khi phục hưng gia tộc cũng nên nghĩ cho bách tính thiên hạ, nghĩ xem ý nghĩa thực sự của cuộc đời chúng ta là gì?”.

Cơ Anh vừa nói vừa nở nụ cười thực sự: “Ngày đó, nhận lời cầu xin cứu ngươi của Trầm Ngư, giờ ngẫm lại quả là chuyện đúng đắn nhất mà ta đã làm trong đời. Ta rất vui… tuy cả đời ta không thực sự cống hiến được gì cho nước nhà, nhưng sau cùng vì Bích quốc, vì thiên hạ, vì chúng dân, ta đã để lại hai người – một là ngươi, hai là Trầm Ngư”.

“Không, không… không…”. Tiết Thái run rẩy, ngước đôi mắt mờ mịt, toàn thân hắn lộ rõ sự yếu ớt bất lực tột độ:

“Không chết không được sao? Cầu xin ngài, đừng chết! Cơ Anh, ngài không được chết… không được chết, cầu xin ngài đấy…”.

Cơ Anh nghe xong thì ngây người, lại thở dài: “Đứa trẻ ngốc này…”.

“Ta không phải trẻ con! Ta không phải là trẻ con!”.

Tiết Thái nhảy lên, hổn hển nói: “Khi các người cầu xin ta đều không coi ta là trẻ con; nhưng khi giễu cợt ta đều bảo ta là trẻ con. Ta giống trẻ con ở chỗ nào? Trong thiên hạ này làm gì có đứa trẻ nào giống như ta? Ta nói cho ngài biết, Cơ Anh, từ khi ta biết đi đến giờ, ta không phải là một đứa trẻ! Ta không cần nhũ mẫu ru ta ngủ, không cần chơi cùng bạn bè đồng trang lứa. Khi những đứa trẻ khác còn thò lò mũi xanh, ta đã vào cung hiến nghệ làm đẹp lòng tiên đế... khi những đứa trẻ khác còn đang vừa khóc lóc đọc thuộc sách vừa viết chữ nguệch ngoạc, ta đã đại diện triều đình đi sứ... cha mẹ khen ta thông minh nên muốn ta làm rạng rỡ tổ tông; cô cô khen ta mạnh mẽ nên muốn ta chấn hưng gia tộc; còn ngài, lại đem cả thiên hạ ủy thác cho ta, ngài dựa vào cái gì...?

Ta thì liên can gì đến cả thiên hạ... Ngài cũng dựa vào cái gì mà đại diện cho cả thiên hạ... Ngài chỉ cần chết đi là được giải thoát, dựa vào cái gì mà phải tiếp tục sống để hứng chịu tất cả...?

Các người...! Các người...! Những người lớn các người… không hề có trách nhiệm… Ta hận các người... Ta hận! Ta hận vô cùng...!”. Nói đến đây, ngẩng đầu òa khóc nức nở.

Cơ Anh lặng lẽ nhìn hắn khóc, cũng không ngăn cản, trong đáy mắt chàng bắt đầu trào dâng một thứ tình cảm phức tạp đan xen giữa vui mừng và bi thương.

Màn đêm từ từ buông xuống, chân trời le lói những tia sáng bàng bạc. Tiếng gió thổi vi vu trong rừng cây, tựa như đang khóc than cùng với thiếu niên ấm ức này.

Bảy tuổi.

Thậm chí đứa trẻ này còn không thể gọi là thiếu niên.

Thế nhưng, nó đã kinh qua những chuyện mà cả đời một người bình thường cũng không thể nào trải qua, có được thành tựu rực rỡ hơn cả thành tựu của vạn người.

Ba tuổi biết làm văn, bốn tuổi biết làm thơ, năm tuổi giương cung bắn hổ trước nhà vua, sáu tuổi đi sứ Yên quốc danh chấn bốn nước, bảy tuổi cả nhà diệt môn, bị biến làm nô lệ.

Mà nay lại bi gửi gắm hy vọng của toàn thiên hạ.

Người lớn có thể còn không gánh vác được, huống hồ chỉ là một đứa trẻ non nớt?

Chỉ là, ngoài hắn ra, không còn ai khác.

Cuộc đời tàn khốc thế. Bi ai như thế.

Cơ Anh nhìn Tiết Thái mặt mày đẫm lệ, thứ tình cảm phức tạp trong đáy mắt cuối cùng đã bị sự thương xót bao trùm, chàng thở dài một tiếng thật khẽ, cố gắng giơ cánh tay ra, ôm Tiết Thái vào lòng.

Tiết Thái ôm chặt chàng; khóc càng dữ hơn.

Cơ Anh vỗ nhè nhẹ lên lưng hắn, động tác cực kỳ dịu đàng.

Chu Long ở bên cạnh, mắt cũng- đã đỏ hoe, len lén lau nước mắt.

Một khoảng thời gian cứ thế trôi qua, thực sự rất ngắn, nhưng đối với ba người mà nói, lại dài như một đời vậy.

Cuối cùng Tiết Thái cũng lấy tay áo cố gắng ngăn dòng lệ.

Cơ Anh hỏi: “Khóc xong rồi à?”.

Tiết Thái “ừm” một hếng, lạnh mặt nói:

“Ngài còn trăn trối gì thì mau nói hết ra đi. Tránh để ta khóc quá lâu, ngài chưa kịp nói xong thì đã chết, đến lúc đó lại biến thành ma quấy nhiễu ta!”.

Cơ Anh bật cười thành tiếng, lại dịu dàng xoa đầu Tiết Thái: “Hết rồi”.

“Hết rồi?”. Tiết Thái trừng mắt nhìn chàng: “Ngài không còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành sao?”.

Tâm nguyện chưa hoàn thành?”.

Cơ Anh nhìn bầu trời phía xa xa, hững hờ nói: “Tâm nguyện chưa hoàn thành thì có quá nhiều cũng coi như đã hoàn thành hết rồi đi”.

“Vậy những vướng bận không từ bỏ được thì sao?”.

Cơ Anh hơi cau mày lại, trong khoảnh khắc ánh mắt trở nên tịch liêu, im lặng giây lát rồi mới nói:

“Chu Long, gọi bọn họ đến đây đi”.

“Vâng”. Chu Long đáp lời rồi đi.

Tiết Thái sửng sốt – Sao? Nơi này vẫn còn người khác.

Không lâu sau, ba người đàn ông trung niên trạc tứ tuần xuất hiện cùng với Chu Long, khi tiến lại gần đều nhất loạt quỳ bái:

“Chủ nhân”.

Cơ Anh “ừm” một tiếng.

Một người trong đó nói: “Bọn Lão Thất cũng đang trên đường sẽ mau đến thôi”.

“Không có gì…”.

Cơ Anh kéo tay Tiết Thái, đầy hắn ra trước mặt mọi người:

“Tìm các ngươi qua đây là để tuyên bố một việc, ba người các ngươi cũng sẽ truyền lệnh xuống cho những người không đến được. Từ hôm nay trở đi, Tiết Thái chính là người thừa kế của Bạch Trạch”.

Ba người đưa mắt nhìn nhau một lượt, rồi lại nhìn Tiết Thái, xong lần nữa quỳ xuống: “Bái kiến tân chủ”.

Tiết Thái cắn chặt môi, bước chân hơi dịch chuyển giống như muốn lùi về phía sau, nhưng cuối cùng vẫn bước lên phía trước, một đứa trẻ với thân hình bé nhỏ như thế đứng trước mặt những người lớn hơn hắn rất nhiều, cất tiếng:

“Đứng… đứng dậy đi”.

“Đa tạ tân chủ”. Ba người đứng dậy.

Vẻ vui mừng lộ rõ trong đáy mắt của Cơ Anh, chàng quay đầu sang dặn dò Chu Long:

“Hãy đưa ta qua đỉnh núi bên kia”.

“Vâng”. Chu Long lập tức ôm lấy chàng đi về phía đỉnh núi.

Rừng cây lần lượt rơi lại phía sau, khi đứng trên đỉnh một vách núi, cả Hồi thành đều thu trọn trong tầm mắt, mà nơi xa hơn, cây cối um tùm tươi tốt, cùng với ánh sáng càng lúc càng rõ, màu sắc cũng càng lúc càng tươi tắn hơn, lộ rõ vẻ đẹp tráng lệ mà chỉ thiên nhiên mới có.

Từ trong lòng Chu Long, Cơ Anh ngẩng đầu lên, si ngốc ngắm phong cảnh phía xa.

Sau lưng, một người đàn ông trung niên trong đám người nghẹn ngào nói:

“Chủ nhân, nếu bây giờ đi xe thật nhanh tới Nghi quốc, có lẽ vẫn còn kịp…”.

Cơ Anh lắc đầu.

Một người khác nói:

“Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Tuy mọi ngả đường từ đế đô đến nơi này đều đã bị phong tỏa, chúng ta không thể về được, nhưng đi Yên quốc thì vẫn được mà…”.

Người thứ ba nói nhanh: “Đúng thế! Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Trên thế gian không có thuốc độc nào là không thể giải! Chúng thuộc hạ đi đón Giang thần y, rồi lại đi tìm Ông Lão, hai người ấy hiệp sức chắc chắn sẽ giải được chất độc của chủ nhân”.

“Chủ nhân Không thể từ bỏ!”.

“Chủ nhân! Cầu xin người! Trước hết chúng ta rời khỏi Bích quốc! Thế lực của Khương Trọng có lớn hơn nữa, quyền uy của hoàng thượng có mạnh hơn nữa, chỉ cần ra khỏi Bích quốc thì không gì là không…”.

“Chủ nhân…”.

Dường như Cơ Anh đều không nghe thấy những lời cầu xin đó chàng vãn hỏi Chu Long:

“Bên kia có phải là hướng về đế đô không?”.

“Vâng”.

“Độc tính phát tác quá nhanh, tầm nhìn của ta càng lúc càng nhòa… “.

Cơ Anh nheo mắt: “Nhưng, la có thể tưởng tượng được dáng vẻ của nó… Đế đô là nơi đẹp nhất Bích quốc, bốn mùa trong năm khí hậu ôn hòa, cứ độ xuân về rừng hoa Hồng viên lại nở rộ, đẹp không tả xiết… đẹp không tả xiết…”.

Tiết Thái nhớ đến một chuyện, vội vàng móc chiếc bản chỉ trong người ra, đưa cho chàng.

Cơ Anh run run cầm lấy chiếc bản chỉ, nụ cười trên gương mặt biến mất, ngàn vạn cảm xúc dâng trào trong đáy mắt, sau đó chầm chậm đưa chiếc bản chỉ lên môi, giữ nguyên tư thế hôn đó, không hề động đậy.

Ba người kia vẫn tiếp tục cầu xin thảm thiết.

Tiết Thái bỗng nói: “Các người đừng nói nữa, vô ích rồi”.

Ba người sững sờ, ngẩng đầu lên đau đớn nhìn hắn.

Ánh mắt của Tiết Thái từ đầu đến cuối đều không rời khỏi Cơ Anh, chậm rãi nói:

“Bởi vì… tha hương không phải là cố quốc”.

Tha hương không phải là cố quốc.

Cho nên, đừng nói Cơ Anh vốn không thể đi nổi. Mà cho dù có cơ hội, chàng cũng không đi.

Tuy biết Bích quốc đầy rẫy nhiễu nhương, tuy biết Khương Trọng sẽ truy sát chàng, hoàng thượng cũng không buông tha chàng, nhưng, chàng vẫn không thể trốn sang nước khác.

Trong cuộc đời con người, có những kiên trì, có những lưu luyến trong mắt người khác có lẽ là rất mù quáng ngoan cố không thể nào lý giải nổi, nhưng lại quý giá lạ thường.

Cơ Anh nhìn dãy núi dưới ánh dương buổi sớm, đặt nụ hôn lên thứ mà chàng yêu quý nhất. Nét mặt của chàng thanh thản, dịu dàng, cũng chân thật nhất.

Chàng đang nghĩ gì?

Khoảnh khắc này phải chăng chàng đang nhớ đến người làm ra nó? Phải chăng đang nhớ đến rất lâu rất lâu về trước, khi chàng còn căng tràn sức trẻ đã từng yêu rất rất sâu đậm người con gái yêu kiều mỹ lệ đó..?

Phải chăng đang nhớ đến những phút giây trái tim mình thổn thức loạn nhịp mỗi khi đến gần nàng, rồi mượn cớ mua hoa của nàng? Phải chăng đang nhớ đến lời thề sẽ lấy nàng, rồi lại phải giương mắt mà nhìn nàng bị gả cho người khác?
Phải chăng đang nhớ đến lúc tuyệt vọng nhất đã từng muốn vứt bỏ tất cải dẫn theo nàng cao chạy xa bay, nhưng lại bị người trong tộc gồm cả người cha già đã lay lắt như ngọn nến trước gió của chàng quỳ gối van xin phá vỡ kế hoạch?
Phải chăng đang nhớ đến phút tương phùng lại đã xa cách tựa một đời, chàng quỳ trên đất gọi nàng là phu nhân còn người con gái ấy băng lạnh nhìn chàng?

Tất cả điều này, ngoài Cơ Anh ra, không một ai hay biết.

Vĩnh viễn không ai hay biết.

Ngay cả Chu Long, những gì hắn thấy chẳng qua cũng chỉ là Cơ Anh đã vứt bỏ cơ hội tẩu thoát an toàn ở trong phường nhuộm vải, cố chấp đòi quay lại nhặt chiếc bản chỉ, để rồi trúng một mũi tên độc xé gió phi tới, đâm vào lưng của chàng.

Nếu lúc đó chiếc bản chỉ không bị Vệ Ngọc Hành vứt đi…

Nếu lúc đó Cơ Anh không quay lại nhặt chiếc bản chỉ đó…

Nếu trên mũi tên của Vệ Ngọc Hành không có độc…

Chỉ cần bất cứ điều nào trong số đó không tồn tại, kết cục đã không như thế này.

Chiếc bản chỉ này phải chăng đã khắc sâu nỗi nhớ của Cơ Anh dành cho Hy Hòa, đồng thời cũng chôn giấu oán niệm của Hy Hòa đối với Cơ Anh? Cho nên trong thời khắc then chốt nhất, bằng phương thức đáng sợ nhất, nó đã hủy diệt Cơ Anh.

Họa thủy! Họa thủy!

Chu Long thầm thở dài trong lòng.

Khi tất cả mọi người đều tưởng Cơ Anh sẽ cứ hôn mãi như thế thì Cơ Anh lại nhìn sang Tiết Thái, cuối cùng, từ từ đưa chiếc bản chỉ ra trước mặt Tiết Thái.

Tuy chàng không nói gì, nhưng Tiết Thái hiểu ý của chàng.

Chiếc bản chỉ này hắn đã từng hỏi xin, khi ấy Cơ Anh không nỡ cho, bây giờ, trước lúc lâm chung lại cho hắn, cũng coi như bù đắp sự tiếc nuối năm đó của hắn.

Nhưng tình này cảnh này, làm sao hắn có thể nhận một vật quan trọng đến thế của Cơ Anh?

Tiết Thái lắc lắc đầu.

Cơ Anh lại đưa chiếc bản chỉ đến trước mặt hắn.

Tiết Thái vẫn kiên trì lắc đầu, mắt phải của Cơ Anh bỗng một giọt lệ.

Chất lỏng trong vắt, long lanh như hạt châu, lăn dài trên gương mặt thanh nhã vô ngần đó, trong khoảnh khắc trời đất trở nên xa xôi, trong khoảnh khắc vạn vật như biến mất, chỉ còn lại một gương mặt, một giọt lệ như thế trước mắt, ai oán giã biệt cõi đời.

Tiết Thái hoảng hốt, không dám từ chối nữa, ngoan ngoãn xòe tay ra.

Cơ Anh đặt chiếc bản chỉ vào lòng bàn tay hắn, nhưng bàn tay giơ giữa chừng của chàng đã buông thõng xuống, chiếc bản chỉ rớt trên mặt đất, lăn thêm vài vòng, cùng với đó là tiếng gào khóc thê lương của Chu Long và ba người còn lại:

“Hầu gia! Chủ nhân! Hầu gia! Chủ nhân…”.

Tiết Thái vội vàng quay người chuyên tâm nhặt chiếc bản chỉ, không dám nhìn.

Không dám nhìn dáng vẻ đã chết của người ấy.

Không dám nhìn vẻ mặt khi chết của người ấy.

Không dám nhìn khoảnh khắc buông tay của người ấy, là buồn bã là lưu luyến là đau thương hay là được giải thoát…

Những điều ấy, hắn đều không dám nhìn.

Một tia sáng từ từ chiếu trên mặt hắn, từ đầu bên kia mặt biển xa xôi, vầng thái dương đã bắt đầu nhô lên.

Tiết Thái nhìn vầng thái dương diễm lệ hơn cả trước đây, ánh mắt sáng rỡ, đồng tử từ nhạt chuyển sang đậm, lòng bàn tay nắm chiếc bản chỉ đó nắm thật chặt thật chặt.

Trên chiếc bản chỉ dường như vẫn còn sót lại hơi ấm của người đó.

Nhưng người đó, đã mãi mãi ra đi rồi.

Ngày mùng hai tháng tám, Giáp Dần, trời nắng. Đại cát. Thích hợp làm mọi chuyện.

Ngày hôm đó, Khương Trầm Ngư cùng với Vệ Ngọc Hành và những sứ thần khác đi xe ngựa hồi kinh. Suốt dọc đường đi dân chúng khấu bái, tiếng hô trùng trùng, nàng nhìn thẳng về phía trước, sắc mặt trầm tĩnh, từng bước từng bước, nghi thái vô song.

Ngày hôm đó, trong Lưu Ly cung Hy Hòa phu nhân say rượu nằm trên giường, tửu hứng dâng cao, uyển chuyển hòa mình múa cùng đám cơ nữ vũ ca, đắm chìm trong cảnh vàng son hoa gấm, sống trong say sưa chết trong giấc mộng.

Ngày hôm đó, nghe nói Cơ Hốt thi hứng bộc phát, chân trần tóc xõa, vung bút viết lên tường, bài thơ này từ trong cung truyền ra ngoài, các văn nhân tranh nhau sao chép, trở thành danh tác.

Ngày hôm đó, buổi trưa Khương Trọng cùng vợ dạo chơi trong vườn, ngắm nhìn những bồn hoa lan một lượt, khí hậu đương đẹp cảnh sắc vừa xinh, phu thê ân ái, cực kỳ hòa hợp.

Ngày hôm đó, Chiêu Doãn nhốt mình trong ngự thư phòng không thượng triều, không uống lấy một giọt nước, đám thái giám sợ sệt bất an quỳ dẫy mặt đất ngoài thư phòng.

Ngày hôm đó, Chương Hoa đang gảy đàn bỗng bị đứt một dây, y ngây người nhìn cây đàn một hồi, cuối cùng cau mày, cười hì hì nói:

“Danh cầm mua từ cửa tiệm của ngươi lại không chắc chắn thế này, hừm hừm, hãy xem ta sẽ tính sổ với tên gian thương Hách Dịch này như thế nào”.

Ngày hôm đó, Hách Dịch bỗng hắt xì khi đang phê tấu chương: “Ô… là cô nương nhà ai đang nhớ nhung trẫm đây?

Thân là một đế vương lại còn anh tuấn mỹ mạo, gây ra nhiều tương tư thế, tội lỗi, thật là tội lỗi quá…”.

Ngày hôm đó, Di Thù đang chải đầu thì phát hiện ra mặt gương bị nứt, nàng tức thời ném gương nổi cơn thịnh nộ, ban chết cho hai cung nữ.

Ngày hôm đó, nghe đâu là ngày đại cát hoàng đạo trăm năm mới gặp.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Bộ thứ năm : Tân hậu…….


Những gì phụ các ngươi, những gì nợ các ngươi...Hãy để ta giúp các ngươi đòi hết về!

Thế nào là công bằng ... Đây là công bằng..! Ta, Khương Trầm Ngư, sẽ cho các ngươi công bằng..!


Hồi Thứ Mười Lăm: Điên Dại (Phần 1)


Tơ trúc réo rắt, du dương êm tai. Trong Lưu Ly cung, ca múa thanh bình.

Hy Hòa tựa người trên chiếc giường cẩm thạch kim tuyến, nhâm nhi chén rượu hai mươi năm được ướp lạnh, ánh mắt lười biếng.

Trên vũ trì có một thiếu niên áo đỏ nhảy cực đẹp, bầy yến yến oanh oanh xung quanh đều làm nền cho hắn.

Hy Hòa gỡ bông hoa bằng ngọc cài trên đầu xuống, ném cho thiếu niên, thiếu niên đảo người một cái trên không, bắt lấy, ánh mắt lấp lánh, nói: “Đa tạ phu nhân ban thưởng”.

Hy Hòa nhìn hắn cười rạng rỡ không nói gì, góc mày khóe mắt có phần lẳng lơ. Nàng ta ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoàn toàn không đếm xỉa đến sự tồn tại của người bên cạnh như thế, mà Chiêu Doãn kế bên cũng không nổi giận, thấy chén rượu của Hy Hòa rỗng không, còn rót đầy cho nàng ta.

Cứ vui vẻ như thế đến khoảng giờ Tuất, bỗng từ xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp, tên tiểu thái giám hớt hơ hớt hải chạy trên bậc thang dài, vừa chạy vừa kêu:

“Hoàng thượng, không hay rồi! Hoàng thượng, không hay rồi…”.

“Câm mồm! Đây là chốn nào mà dám la lối om sòm?”. Đại thái giám đi cùng vội vàng chạy tới giáo huấn.

Tiểu thái giám ngã nhào xuống đất, khi nhỏm dậy mặt mũi đã nhòe nhoẹt nước mắt:

“Khởi bẩm hoàng thượng, Kỳ Úc hầu và đoàn đi sứ Trình quốc đã bị hoàng tử Di Phi của Trình quốc ám toán phục kích ở Hồi thành, hầu gia trúng tên độc không thể chữa trị, đã bỏ mạng!”.

“Ngươi nói cái gì...?”. Hy Hòa nhảy dựng lên, chiếc váy dài kéo lê khiến mỹ tửu sơn hào hải vị trên chiếc bàn thấp đều rơi loảng xoảng xuống đất.

Cùng với tiếng kêu sửng sốt của nàng ta, tiếng nhạc ngừng bặt, ca múa tạm dừng, trong đại điện lặng như tờ.

Chiêu Doãn liếc mắt nhìn Hy Hòa một cái, thủng thẳng nói: Nghe thấy chưa? Nói lại lần nữa”.

Tiểu thái giám sụt sịt vừa khóc vừa nói:

“Hoàng thượng, khi Kỳ Úc hầu đến Hồi thành thì bị tam hoàng tử của Trình quốc ám sát, thân trúng tên độc, không thể chữa trị, nên đã bỏ mạng! Nô tài Tiết Thái hiện đang ôm di thể của hầu gia đợi ngoài điện, xin được diện kiến hoàng thượng!”.

Hy Hòa không kịp xỏ giầy lập tức xông ra ngoài, đôi chân trần giẫm lên những mảnh gốm vỡ, bị cứa rách chảy máu, nhưng dường như nàng ta không cảm thấy gì, cứ thế lao vút đi, mái tóc và chiếc váy tung bay giống như một ngọn lửa rực cháy.

…Tiết Thái đang quỳ ngoài cửa điện, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.

Giây sau đó, ngọn lửa ấy xông đến trước mặt hắn, một tay tóm chặt cổ áo hắn giống như định nhấc bổng cả người hắn lên, thét lớn:

“Cơ Anh đâu... Hắn ở đâu... Gọi hắn ra đây... Gọi hắn ra đây…”.

Ánh mắt Tiết Thái nhìn mặt đất bên cạnh.

Hy Hòa hướng theo ánh mắt của Tiết Thái liền thấy một chiếc hòm. Nàng ta ngây ra một lát, sau đó đi đến bên cạnh chiếc hòm, dừng lại, nhìn chằm chằm vào chiếc hòm đó, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hoảng hốt vừa nghi hoặc lại vừa do dự, cuối cùng, nghiến chặt răng, đưa tay mở chiếc hòm ra. Gương mặt khiến nàng ta kiếm tìm cả trong giấc mộng, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn đó, bỗng gần ngay trước mắt.

Cơ Anh nhắm mắt, nét mặt hiền hòa, giống như đang say giấc.

Nhưng lại chỉ có một cái thủ cấp.

Hy Hòa sững sờ nhìn cái thủ cấp đó, lùi về phía sau một bước, hai bước, ba bước rồi ngã phịch xuống đất.

Bấy giờ, những người khác cũng lần lượt từ trong Lưu Ly cung bước ra, nhìn thấy chiếc hòm đó, không ai là không kinh hãi.

Duy chỉ Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn đầu Cơ Anh, cau mày một cái, lạnh lùng quát: “Nô tài to gan, ngươi dám xử lý di thể của Cơ khanh như thế này sao?”.

Tiết Thái dập đầu, cao giọng tấu: “Hồi bẩm hoàng thượng trên mũi tên bắn trúng chủ nhân có chất kịch độc, ngoài phần đầu ra các bộ phận khác đều bị nát rữa rồi”.

Chiêu Doãn há miệng, trong mắt thoáng vẻ đau lòng, đang định nói điều gì thì một tràng cười vang lên tận tầng mây. Mọi người kinh ngạc quay đầu, hóa ra là Hy Hòa phu nhân đang cười.

“Phu nhân”. Một cung nhân dè dặt thăm dò.

Hy Hòa ngồi trên đất, ngửa đầu cười như điên như dại, mọi người không biết nàng ta cười gì, nên vừa nghi hoặc vừa sợ hãi.

Có một cung nữ bước lên phía trước, định dìu nàng ta đứng dậy, nhưng bị nàng ta cắn mạnh vào cánh tay, cung nữ kêu lên thảm thiết vừa bò vừa lăn tránh ra.

Hy Hòa cười tiếp: “Ha ha ha ha…”.

Có người thì thào: “Phu nhân… hình như phu nhân có gì đó là lạ, đi tìm thái y đến khám xem sao?”.

Thấy Chiêu Doãn vẫn lạnh lùng đứng bên quát không tỏ thái độ gì, thì ai dám tự ý hành động, mọi người đành đứng phỗng ra đó.

Hy Hòa vừa cười vừa loạng choạng đứng dậy, chạy về Bảo Hoa cung.

Mọi người chỉ có cách chạy vào trong điện theo nàng ta.

Những kẻ nhảy múa trước đó vì không biết xảy ra chuyện gì mà lại chưa được cho phép rời đi, nên đành đứng chụm đầu chuyện trò ở giữa vũ trì, nhìn thấy Hy Hòa phu nhân quay về, vừa định thở phào thì thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đến trước mặt thiếu niên áo đỏ. Thiếu niên áo đỏ vừa mừng vừa ngạc nhiên, nụ cười vừa nở trên môi, thì ngay lúc đó liền bị Hy Hòa đẩy mạnh vào tường.

“Phu, phu… nhân?”.

Hai tay Hy Hòa bắt đầu thô bạo cởi quần áo của y.

Đám cung nhân ở bên thất sắc kinh hoảng, vội vàng xông lên ngăn lại: “Không nhân, không được! Phu nhân, dừng tay đi phu nhân định làm gì thế?”.

Hy Hòa đều không để vào tai, giật mạnh chiếc áo đỏ của thiếu niên nọ, dán mắt nhìn vào đó một lúc lâu, còn thiếu niên bị lột lớp áo ngoài cũng đứng ngây ra đó, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì.

Y nở nụ cười ngọt ngào, ngại ngùng”Phu nhân… phu nhân sao thế?”.

Hy Hòa lắc đầu một cái rồi lại bỏ chạy.

Các cung nhân đành tiếp tục chạy theo nàng ta.

Hy Hòa chạy ra khỏi cung điện, chạy đến trước chiếc hòm nọ, mở chiếc áo bào trong tay ra, vừa quàng lên chiếc thủ cấp vừa nói:

“Không lạnh, không lạnh, Tiểu Hồng, không lạnh. Tiểu Hồng, Tiểu Hồng…”. Hai từ bình dị nhất trên thế gian phát ra từ miệng nàng lại dịu dàng lưu luyến vô cùng.

Tiết Thái choáng váng, nhớ lại hôm đó khi ở trên thuyền Cơ Anh từng nói với hắn:

“Đối với ngươi luôn có một người không giống những người khác, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi… Tiểu Hồng, chính là cái tên đặc biệt đó của ta”.

Tiểu Hồng…

Dù biết Cơ Anh có một tình nhân khắc cốt ghi tâm nhưng có duyên mà không có phận;

Dù biết người tình đó gọi Cơ Anh là Tiểu Hồng;

Mà sao lúc này khi tận tai nghe thấy, tận mắt nhìn thấy người tình đó của Cơ Anh, Tiết Thái lại cảm thấy bị sốc nặng như thế này, tay hắn rụt vào trong tay áo, chạm phải chiếc bản chỉ mà Cơ Anh đưa cho lúc lâm chung, hắn cảm thấy chiếc bản chỉ như đang thiêu đốt bàn tay mình, trong khoảnh khắc, toàn thân hắn nóng bừng lên.

Còn Hy Hòa chẳng thèm nhìn ai, chẳng thèm ngó ai, chỉ cầm chiếc áo đỏ quấn hết vòng này đến vòng khác, giọng như đang nói mơ:

“Không lạnh, phải không? Tiểu Hồng, ta hát cho chàng nghe nhé, hễ ta hát là chàng không lạnh đâu”.

Sau đó nàng ta bắt đầu tiếng hát.

Đây là lần đầu tiên Tiết Thái nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Thậm chí đây cũng là lần đầu tiên Chiêu Doãn nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Từ trước tới nay, Hy Hòa phu nhân chìm đắm trong nhung lụa vàng son, nhưng đều chỉ nghe người khác đàn ca diễn xướng, vì thế, cho dù mọi người biết nàng ta thích ca múa nhưng không ngờ hóa ra nàng ta cũng biết hát.

Nàng ta chăm chú nhìn thủ cấp của Cơ Anh, chuyên tâm hát, tiếng hát càng lúc càng réo rắt, giống như ngọn gió lướt qua sơn cốc đẩy muôn tầng sóng biếc; giống như vô số hạt mưa rơi tí tách trên hiên nhà biến thành những giọt châu bay bay lóng lánh; giống như làn sương dâng lên mênh mang trên mặt hồ dưới đêm trăng; giống như hạt cát bị gió thổi bay phiêu điêu khắp chốn.

Nàng ta hát còn hay còn đẹp hơn bất cứ loại nhạc cụ nào.

Nói cách khác, tiếng hát của nàng ta chính là loại nhạc cụ tuyệt diệu nhất thiên hạ.

Nàng ta hát rằng: Trăng mọc chừ, nước mênh mang Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng.

Tưởng tiên dạo chơi mây núi, dại dột giáng trần ai.

Suối chảy chừ, mưa lưa thưa, Tựa lầu chừ, lắng nghe mưa.

Mơ hồ nhận ra khúc cố nhân, biết được vạn năm si mê.

Biển xanh đẫm lệ mấy ai hay?

Rả rích đêm ngày mưa chẳng ngớt.

Ngày xuân đương đẹp muôn hoa nở, Sao nỡ úa tàn ai xót thay?

Cầu đến tiên nhân hái thược dược, Tam sinh xin nối duyên kiếp này.

Hồng trần xa lắc trời đất rộng, Xuân thu bất tận mãi vui vầy.

Nàng ta hát hết lần này đến lần khác, tiếng hát bay bổng trên cung điện, vương vấn mãi không tan.

Tiết Thái nhẩm lại câu “Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, trong Phút chốc không kiềm được thoáng ngẩn ngơ. Nếu hắn không nhầm thì lời bài hát này là do Cơ Anh viết, Cơ Anh của năm đó rốt cuộc đã ôm một khối tình si đến nhường nào mới có thể viết ra khúc ca này, và đã dùng phương thức thân thiết đến nhường nào để dạy nó cho Hy Hòa, tình cảm chứa đựng trong đó, không cần nghĩ cũng có thể biết được.

Mọi người trong phút chốc hết thảy đều bị cảm động trước khúc ca tuyệt mỹ này, im lặng lắng nghe.

Duy chỉ Chiêu Doãn, nỗi căm hận dần dần dâng lên trong mắt, cuối cùng y bước lên phía trước nắm chặt tay Hy Hòa, quát:

“Đủ rồi”.

Hy Hòa giật tay lại, đẩy thật mạnh, ôm lấy cả chiếc hòm đứng lên, lùi từng bước về phía sau, nói:

“Không cho ngươi qua đây! Ngươi sẽ cướp áo của Tiểu Hồng, ngươi sẽ làm chàng lạnh chết, không cho ngươi qua đây!”.

Chiêu Doãn sững ra một lúc, kế đó giận dữ quát: “Nàng đang nói linh tinh gì thế,mau đặt di cốt của Kỳ Úc hầu xuống!”.

Hy Hòa ôm khư khư chiếc hòm trong lòng, tiếp tục lùi lại: “Đây là của ta, Tiểu Hồng là của ta, ngươi không thể cướp của ta!”.

“Người đâu!”.

Chiêu Doãn liếc mắt, lập tức có mấy tên thị vệ xông lên đoạt lấy chiếc hòm, Hy Hòa giãy giụa điên cuồng, vừa cắn vừa xé, nhất quyết không buông tay, đám thị vệ cũng không dám động thủ với nàng ta, hai bên cứ giằng co như thế.

Chiêu Doãn tức đến mức nghẹt thở, mắng: “Các ngươi làm cái gì vậy? Mau bắt nàng cho trẫm”.

Đám thị vệ nói một tiếng “đắc tội” rồi hai tên xông lên tóm lấy cánh tay Hy Hòa, giữ nàng ta không cựa quậy nổi, một tên khác lại bẻ những ngón tay của nàng ra, chỉ nghe “rắc” một tiếng, xương ngón tay của Hy Hòa gãy lìa.

Mặt Chiêu Doãn biến sắc, y giậm chân nói: “Dừng tay! Dừng tay! Dừng tay cho trẫm. Các ngươi dám làm nàng bị thương! Đồ bỏ đi! Toàn một lũ bỏ đi!”.

Đám thị vệ không dám đoạt chiếc hòm nữa, vì làm Hy Hòa bị thương nên bị hoàng thượng khiển trách, không tên nào dám động đậy.

Đang lúc bó tay hết cách, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: “Hoàng thượng để thần thiếp thử xem sao!”.

Chiêu Doãn quay đầu nhìn thấy Khương Trầm Ngư.

Dưới ánh tịch dương còn le lói, Khương Trầm Ngư toàn thân áo lụa màu lam nhạt, mái tóc đen như mun chải ra phía sau, tuy sắc mặt có vẻ mệt mỏi, nhưng ánh mắt sáng rỡ, không nhuốm bụi trần tựa tiên giáng trần vậy.

Nàng quay về lúc nào? Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Chiêu Doãn, nhưng lập tức lại bị sự lo lắng thế chỗ, y gật đầu nói:

“Được, nàng đến thử xem!”.

Khương Trầm Ngư bước chầm chậm về phía Hy Hòa, nói với đám thị vệ: “Thả phu nhân ra”.

Thị vệ lần lượt buông tay.

Hy Hòa vừa được thả là lập tức ôm chiếc hòm lùi về phía sau, cảnh giác nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cực kỳ sợ sệt.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nhẹ nhàng cất tiếng hát: “Trăng mọc chừ, nước mênh mang. Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng…”.

Bài nàng hát chính là khúc ca Hy Hòa vừa hát ban nãy. Chính xác từng chữ một.

Giọng ca tuy không hay bằng Hy Hòa nhưng âm điệu rất chuẩn. Nếu nói tiếng hát của Hy Hòa có vẻ đẹp diễm tuyệt như mẫu đơn khuynh đảo thiên hạ thì tiếng hát của Khương Trầm Ngư lại có mùi hương thanh nhã của gỗ đàn hương dùng để chế tác bàn cờ đặt bên cạnh chén rượu mới nấu, dư âm văng vẳng kéo dài.

Hy Hòa trợn trừng đôi mắt mờ đục như sương mù, đứng im không nhúc nhích lắng nghe, vẻ cảnh giác phòng bị trên gương mặt đần dần nhạt đi.

Khương Trầm Ngư hát xong liền dừng lại tươi cười nhìn nàng ta: “Bài hát này đẹp quá. Đúng không?”.

Hy Hòa ngây ngây dại dại nhìn nàng, không nói gì.

Khương Trầm Ngư tiến thêm một bước về phía nàng ta, giọng nói càng lúc càng mềm mỏng: “Tiểu Hồng buồn ngủ rồi, để chàng ngủ một giấc thật ngon, được không?”.

Hy Hòa lại ngây ngây dại dại cúi đầu nhìn chiếc hòm trong tay, ánh mắt dán chặt lên mặt hòm, ngàn vạn nỗi đau đớn trong lòng thoáng cái đã biến thành hơi nước mịt mờ.

Cứ vậy Khương Trầm Ngư lại tiến lên một bước nữa: “Tiểu Hồng có quần áo rồi, chàng không lạnh đâu, nhưng lúc này chàng đang rất buồn ngủ, rất buồn ngủ, chàng muốn đi ngủ. Đưa chàng cho ta, được không?”.

Hy Hòa ngay tức khắc ngẩng đầu nhìn nàng cảnh giác. Khương Trầm Ngư xòe đôi bàn tay, thoải mái cười nói: “Yên tâm, ta không cướp của phu nhân đâu, chỉ để chàng ngủ một giấc yên lành thôi. Khi Tiểu Hồng ngủ, phu nhân có thể ngồi cạnh nhìn chàng, tiếp tục hát cho chàng nghe, được Hy Hòa nửa tin nửa ngờ đưa chiếc hòm cho nàng, đưa đến giữa chừng lại hối hận rụt tay lại, ôm chặt chiếc hòm vào lòng, lắc đầu nguầy nguậy.

Khương Trầm Ngư không nản lòng, tiếp tục mỉm cười tiến sát lại gần hơn: “Thế này đi… ta dùng thứ khác để đổi cho phu nhân nhé?”.

Hy Hòa vừa ôm chặt chiếc hòm, vừa hoang mang chớp chớp mắt nhìn nàng mấy cái. Cho dù vẫn bị người ngoài đàm tiếu là yêu cơ, nhưng kỳ thực đường nét của nàng ta không đẹp kiểu yêu mị, khoảnh khắc này không còn vẻ sắc sảo huyênh hoang, ngông cuồng khinh bạc thường ngày nữa, mà chỉ còn lại vẻ ngây thơ, yếu đuối và rụt rè vốn có ở người thiếu nữ.

Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, trong lòng thấp thoáng mấy chữ: Ai nhìn cũng thấy thương…

Nàng buồn bã cụp mi, cố gắng nén nỗi đau đớn chua xót không tên trong lòng lại, nhìn về phía Hy Hòa, nở một nụ cười: “Ta dùng thứ này đổi với phu nhân, phu nhân đưa Tiểu hồng cho ta, để họ đưa chàng đi ngủ, được không?”. Vừa nói vừa ra hiệu cho Hoài Cẩn ở phía sau đem đồ tới.

Hoài Cẩn đặt tay nải trên vai xuống, nhẹ nhàng mở ra, bên trong là một chiếc áo bào trắng được gấp vô cùng ngay ngắn.

Trong tích tắc đôi mắt Hy Hòa sáng rực.

Khương Trầm Ngư đón lấy chiếc áo bào trắng từ tay Hoài Cẩn, chậm rãi bước đến trước mặt Hy Hòa, không nói thêm gì nữa chỉ bình tĩnh đưa chiếc áo bào trắng ra, sau đó nhìn thiên hạ đệ nhất mỹ nhân trong chớp mắt nét mặt trở nên rúm ró, bởi bao tình cảm chất chứa trong tâm khảm tích tụ lâu ngày đã lên tới đỉnh điểm, giờ đây ầm ầm sụp đổ.

“Cạch” một tiếng, chiếc hòm gỗ rơi xuống đất, Hy Hòa run rẩy túm chặt lấy chiếc áo bào trắng. Đám thị vệ nhanh như chớp lao qua nhặt lấy chiếc hòm, mang tới trước mặt Chiêu Doãn Chiêu Doãn liếc nhìn chiếc thủ cấp trong hòm một cái, ánh mắt đau đớn, vội quay mặt qua chỗ khác, trầm giọng nói:

“Đem đi xử lý cẩn thận, chuẩn bị hậu táng”.

“vâng!”. Hai tên thị vệ vội vàng hộ tống chiếc hòm rời đi. Còn bên kia, Hy Hòa đang vùi mặt trong chiếc áo bào trắng, tham lam hít hà mùi hương trên chiếc áo, toàn thân co rúm lại, khóc thút thít.

Thấy nàng ta thất thố như thế, Chiêu Doãn vừa uất hận lại vừa thương xót, bất giác đi đến nói:

“Đừng làm ồn nữa, mau đứng dậy cho trẫm…”. Y vừa chạm vào vai Hy Hòa liền bị nàng ta cắn mạnh vào tay, rồi nàng ta vừa lăn vừa bò trên mặt đất để trốn tránh.

“Nàng!”.

Thấy Chiêu Doãn sắp nổi giận, Khương Trầm Ngư vội dịu dàng gọi một tiếng: “Hoàng thượng…”.

Chiêu Doãn hết nhìn nàng lại nhìn Hy Hòa trên mặt đất, ánh mắt lóe sáng, sau đó lại tối sầm, thở đài nói:

“Thôi… mấy người đến đây, đỡ phu nhân về cung, không được để nàng ấy ngồi dưới đất”.

Đám cung nhân ai nấy mặt mày khó coi. Bộ dạng Hy Hòa như thế, rành rành là từ chối bất cứ người nào lại gần, đến hoàng đế nàng ta còn cắn, huống hố chỉ là bọn nô tài tép riu. Hơn nữa, hoàng thượng vẫn không nỡ làm tổn thương vị sủng phi này, bọn họ nhẹ chân nhẹ tay không được, nặng tay cũng không xong, biết phải làm sao đây?

Trong lúc đám đông âu sầu khổ não, không biết làm thế nào thì Khương Trầm Ngư bước lên nói: “Để ta thử xem”.

Mọi người thầm thở phào nhẹ nhõm, thiện cảm đối với vị Thục phi này cũng vì thế mà tăng thêm mấy phần.

Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt Hy Hòa, lặng lẽ chăm chú nhìn nàng ta một lúc, thấy cả người Hy Hòa đều đang run rẩy rõ ràng là thực sự đau thương đến tột độ, trong lòng không khỏi thương xót, bi thương xen chút ngưỡng mộ, cuối cùng ngưng kết thành sự dịu dàng:

“Phu nhân… không vá áo giúp Tiểu Hồng ư?”.

Hy Hòa chấn động một lúc, ngây ngô ngẩng đầu lên. Khương Trầm Ngư chỉ chỉ vào chiếc áo bào trắng: “áo bị rách rồi kìa”.

Lúc này dường như Hy Hòa mới phát hiện trên áo còn một lỗ thủng, ngây dại mở chiếc áo ra, nhìn lỗ hổng lớn bị gió lùa vào kêu phù phù, trong phút chốc nước mắt sa xuống, không nói câu gì, loạng choạng đứng đậy cầm chiếc áo rồi quay về điện.

Nàng ta vừa vào điện, mọi người cũng lần lượt thở phào bước vào theo.

Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong điện, thì đã thấy Hy Hòa cầm kim chỉ bắt đầu vá chiếc áo bào trắng, thần tình chăm chú mà bình tĩnh, ánh tà dương len qua cửa sổ đang mở ở bốn bức tường chiếu vào trong, chiếu lên người nàng ta, mái tóc đen nhánh cùng chiếc áo bào trắng tựa tuyết tôn lẫn nhau, hai sắc màu đối lập rõ ràng như thế, tạo thành một bức tranh cực kỳ trang nhã, in đậm trong tâm trí mỗi người.

Chiêu Doãn bỗng quay người, bước đi không nói một lời.

Khương Trầm Ngư im lặng bước theo.

Những thị vệ, thái giám khác cũng lần lượt theo sau, nhưng vẫn rất dè chừng giữ một khoảng cách nhỏ với hai người bọn họ.

Đi được một lúc, Khương Trầm Ngư phát hiện Chiêu Doãn không có ý định về ngự thư phòng mà đang đi loanh quanh không mục đích trong hoàng cung, hơn nữa càng đi lại càng đến nơi hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt, cỏ cây um tùm, một nơi nàng chưa từng đến bao giờ.

Tiếp theo Khương Trầm Ngư phát hiện, đây vốn là điểm tận cùng của hồ Phượng Thê.

Hồ Phượng Thê là danh thắng nổi tiếng nhất của hoàng cung Bích quốc, mà cầu Động Đạt chính là tâm điểm của bức tranh ấy. Tiết Thái đã từng vung roi ngựa làm kinh động xe ngựa của Hy Hòa phu nhân, hại nàng ta rơi xuống nước ở chỗ đó. Vì thế, từ trước tới nay, Khương Trầm Ngư cứ tưởng cầu Động Đạt là toàn bộ của hồ Phượng Thê, bây giờ nhìn thấy nơi đây mới hay, hóa ra điểm cuối của hồ lại tiêu điều như thế này.

Tuy là mùa hè nhưng cỏ cây vẫn thưa thớt, mọc lên lởm chởm nửa xanh nửa vàng, mấy gian nhà ngói xiêu vẹo ngả nghiêng đã mục nát đến quá nửa, cho thấy đã rất lâu rồi chưa có ai đến đây. Thỉnh thoảng vẳng tới tiếng “quạ quạ” của con quạ bay vụt qua trên nhưng cành khô khiến cảnh sắc càng thê lương hoang tàn.

Khương Trầm Ngư hơi đăm chiêu nhìn Chiêu Doãn – Y cố tình hay vô ý đến chỗ này? Nếu nàng đoán không nhầm, nơi này… chính là chỗ ở của Chiêu Doãn lúc còn nhỏ.

Năm Gia Bình thứ mười một, Hành Xu đi qua đây, nghe thấy tiếng hát đẹp như tiếng nhạc trời của một người phụ nữ, nhất thời hứng khởi sủng hạnh người cung nữ làm trong phòng giặt là đó, sau đó thì quên ban danh phận cho nàng ta, chẳng ngờ người cung nữ ấy lại âm thầm mang thai rồng, mười tháng sau sinh hạ ra một hoàng tử.

Nhưng nàng ta địa vị thấp kém, lại bị Hành Xu quên lãng, vì thế trong suốt một thời gian dài không ai hỏi đến.

Mười năm sau, người cung nữ mắc bệnh qua đời, có người thông báo việc này lên cấp trên, La Hoành vô tình nhìn thấy bẩm lại với Hành Xu, lúc ấy họ mới biết đến sự tồn tại của vị hoàng tử này. Bấy giờ mới sai người đón Chiêu Doãn về cung. Nhưng vì từ nhỏ thiếu ăn thiếu mặc nên Chiêu Doãn chậm lớn, lại không biết chữ, so với các hoàng tử khác đúng là một trời một vực.

Chẳng ai ngờ đứa trẻ gầy gò thô lậu đó sau này lại trở thành đế vương của một nước.

Cũng chẳng ai ngờ vị đế vương oai hùng này lại có xuất thân như thế… Còn thời khắc này Chiêu Doãn đang chăm chú nhìn nước hồ nửa đỏ nửa xanh dưới ánh tà dương, không vui không buồn, ánh mắt nặng nề, thần sắc bình tĩnh.

Gió mát nhè nhẹ thổi trên mặt hồ, mặt hồ gợn lên tầng tầng những con sóng lăn tăn, y đứng chắp tay sau lưng, ánh mặt trời phủ lên gò má y một lớp ánh sáng vàng, nhìn lại càng không rõ nét.

Giấc mộng đế vương ngàn thu.

Từ cổ chí kim, biết bao người muốn làm hoàng đế. Nhưng có phải khi làm hoàng đế là thấy thỏa mãn, là thấy không còn hối hếc không?

Chiêu Doãn, vị đế vương mới chỉ hai mươi tuổi này, năm mười ba tuổi đã cưới Tiết Mính, con gái của trưởng công chúa tiền triều, nhân đấy nhận được sự ủng hộ của Tiết gia từ hoàng tử không được chú ý nhất lắc mình một cái đã trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh nhất cho ngôi vị hoàng đế. Nhưng khi đó thế lực của Tiết gia vẫn chưa đủ đối đầu với Vương thị, vì thế năm mười bốn tuổi, y lại quỳ trước cửa phủ Cơ gia, xin cưới Cơ Hốt làm phi, Cơ lão hầu gia mới ưng thuận hôn sự này. Từ đây, Cơ gia cũng trở thành thế lực hậu thuẫn mạnh mẽ cho y. Năm Gia Bình thứ hai mươi bảy, Bích vương Hành Xu lâm bệnh nguy kịch, vốn muốn truyền ngôi cho thái tử Thuyên, nhưng sau khi bàn mưu Chiêu Doãn, cùng Tiết Hoài, Cơ Anh đã phát động binh biến vào đêm mùng mười tháng mười, giết chết Chiêu Thuyên, ép Hành Xu lập Chiêu Doãn làm hoàng đế – đó chính là biến sự Song Thập. Năm sau Chiêu Doãn đăng cơ, đổi quốc hiệu Đồ Bích, tuyển trưởng nữ của Khương thị làm phi. Từ đây, dưới sự phò tá của ba đại thế gia Khương, Cơ, Tiết, y đã ngồi vững trên ngai vàng.

Đồ Bích năm thứ tư, y lại ép Tiết Hoài mưu phản, nhổ gốc trốc rễ cả gia tộc họ Tiết.

Có thể nói, cả đời của vị đế vương này mỗi bước đi đều dứt khoát quả quyết. Y biết rất rõ mình muốn gì và không hề do dự khi thực thi.

Tiết gia như thế, Cơ gia… cũng như thế.

Tuy cái chết của Cơ Anh là phụ thân bày mưu tính kế, nhưng nếu như không có Chiêu Doãn cho phép, phụ thân đâu dám đi nước cờ mạo hiểm này. Giờ đây Chiêu Doãn lại có vẻ mặt tuy bình tĩnh nhưng bi thương không nói nên lời này, là vì cái gì?

Là thương tiếc cho cái chết đau đớn của Cơ Anh? Hay là xót thương cho sự điên dại của Hy Hòa?

Nếu nói y muốn trừ bỏ Tiết gia là vì Tiết Hoài công cao át chủ, đã uy hiếp đến hoàng quyền của y. Thì Cơ gia lại không như vậy chí ít, tính đến bây giờ vẫn không. Tại sao y lại cho phép phụ thân thực hiện hành động điên cuồng lần này? Tại sao y muốn Cơ Anh chết?

Lẽ nào vì… thật sự là vì… Hy Hòa?

Màu mắt Khương Trầm Ngư sầm xuống, hai tay từ từ nắm chặt lại, một giọng nói từ đáy lòng đang xé toang làn sương mù đày đặc lạnh lẽo và kiên quyết vang lên: Không tin!

Nàng, Khương Trầm Ngư không tin, một nam nhân thủ đoạn độc ác trở mặt vô tình như thế lại có thể vì nữ sắc mà đánh mất lý trí như vậy, vì một người con gái mà hy sinh danh thần giỏi nhất của mình.

Hôn quân vì nữ sắc như thế có lẽ sẽ là Ngô vương Phù Sai, là Trụ vương Tử Tân, là U vương Cung Niết, nhưng tuyệt đối không thể là y – Bích vương Chiêu Doãn!

Nghĩ miên man đến đây, ánh mắt Khương Trầm Ngư từ nóng chuyển sang lạnh, nàng hơi cúi đầu nhìn xuống đất, ánh đương kéo dài chiếc bóng rồi từ từ tối đi.

Màn đêm đã buông xuống rồi.

Nhưng Chiêu Doãn vẫn bất động, không có ý rời khỏi đây.

Một đám người đợi chờ, tất cả đều đứng cách cả trượng nín thở đợi chờ đợi không dám giục giã.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát mới lên tiếng nói: “Hoàng thượng, đêm lạnh rồi, về đi thôi”.

Thân hình Chiêu Doãn hơi rung rung giống như bị giọng nói này thức tỉnh, y quay đầu lại, vẻ mặt kinh ngạc, nhưng chẳng qua cũng chỉ là biểu cảm trong nháy mắt mà thôi, rồi y lấy lại bình tĩnh ngay lập tức.

“Ừ”.Y gật đầu, quay người đi trước.

Đèn hoa mới khêu, bóng sáng mông lung. Rõ ràng cùng trong cung cấm, nhưng đoạn đường mà họ đã đi này cực kỠthê lương lạnh lẽo so với sự ấm áp, sự huyên náo ở các điện khác lại giống như hai thế giới đối lập nhau, tất cả những thứ đẹp đẽ đều không thể lọt tới đây.

Từ vị trí của Khương Trầm Ngư có thể nhìn thấy bóng lưng của Chiêu Doãn, chiếc áo mỏng khó che nổi sự gầy gò của y, ngẫm kỹ bỗng phát hiện ra một sự thực: Hình như Chiêu Doãn là người gầy nhất trong những nam tử mà nàng từng gặp… Trong lúc nàng thất thần, Chiêu Doãn bỗng cất tiếng hỏi: “Nàng về từ khi nào?”.

Khương Trầm Ngư sững ra, vội đáp: “Vừa mới vào cổng cung đã được dẫn đến Bảo Hoa cung bái kiến bệ hạ rồi”.

Chiêu Doãn “ồ” một tiếng, ngưng một lát mới từ tốn nói: “Lần này xuất cung… cảm thấy thế nào?”.

Trong đáy mắt Khương Trầm Ngư dấy lên vô vàn cảm xúc rất lâu sau mới trả lời: “Thế giới rộng lớn, mà cung điện, đô thành, giang sơn của một nước…không thể sánh nổi”.

Chiêu Doãn sững người, kinh ngạc quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự dò xét: “Nghĩa là thế nào?”.

Khương Trầm Ngư thận trọng lựa chọn từ ngữ:

“Từ khi thần thiếp hiểu chuyện được phu tử dạy dỗ, được cha mẹ chỉ bảo, chịu ảnh hưởng của những người xung quanh đến nay, thần thiếp luôn tưởng một khuê nữ biết nữ công gia chánh, giỏi nấu nướng, biết thơ văn, hiểu lễ nghĩa mới là một khuê nữ tốt. Vào hoàng cung thần thiếp lại thấy những thứ như nữ công gia chánh, nấu nướng, thơ văn thậm chí những lễ tiết đã được học trước đây, đều là đồ bỏ đi cả. Bởi, chúng không thể khiến thần thiếp có được sự sùng ái của hoàng thượng, cũng không thể giúp thần thiếp trở thành một vương phi xuất sắc. Bởi vậy trong một thời gian dài, thần thiếp luôn tự vấn: Mình nên học những gì? Mình nên làm những gì? Mình tồn tại có ý nghĩa gì?”.

Chiêu Doãn cười cười: “Nàng nghĩ thật là nhiều”.

Đây là biểu cảm vui vẻ đầu tiên mà y bộc lộ trong ngày hôm nay, vì thế tuy lời nói mang ý khiển trách nhưng giọng điệu lại có chút chế nhạo mà thân mật.

Khương Trầm Ngư cũng cười theo, nói tiếp: “Nhưng lần xuất cung này, được đến những nơi chưa từng đến, được gặp đủ mọi loại người, có người sống rất vui vẻ thoải mái, có người không được như vậy, có người rất tích cực, có người tiêu cực… Tất cả giống như những mũi kim thêu, từng mũi từng mũi thêu dần dần tạo thành hình ảnh, tạo thành đáp án mà thần thiếp luôn kiếm tìm”.

“Ồ, đáp án là gì?”. Chiêu Doãn tỏ rõ hứng thú, ánh mắt sáng rỡ nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư không vòng vo, đáp rất thẳng thắn: “Làm lợi cho người”.

Lông mày của Chiêu Doãn nhướng lên.

“Cái gọi là làm lợi cho người, tức là có lợi đối với người khác Nói dễ hiểu hơn chính là sự tồn tại của bản thân có ích với người khác”.

“Nói tiếp đi”.

“Hoàng thượng, theo người tại sao con hổ luôn sống đơn độc?”.

Chiêu Doãn ngẫm nghĩ: “Hừm… vì nó mạnh mẽ?”.

“Vậy tại sao loài người mạnh hơn loài hổ lại quần cư?”.

Chiêu Doãn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã lập tức đưa ra lời giải thích: “Bởi, loài người vì muốn bảo vệ cho nhau, yêu thương lẫn nhau nên đã ở cùng một chỗ, mới có thể sáng tạo ra chủng tộc đời đời tiếp nối, vạn cổ văn minh”.

Chiêu Doãn ngẩn người nhìn nàng, không biết là vì chấn động hay là vì tán thành.

“Những năm cuối triều Tần tổng cộng có hơn 2000 vạn người, nhưng đến đầu thời Hán chỉ còn lại hai, ba nghìn hộ, thậm chí xuất hiện cảnh ‘thiên tử không có xe bốn ngựa để đi, thừa tướng ngồi xe trâu, đân chúng không có cái ăn cái mặc’. Thời Tam Quốc, chiến sự liên miên, sau trận Xích Bích chỉ còn 90 vạn người. Thời Đường Vũ Tông, đất nước có 496 vạn hộ, nhưng đến thời Chu Thế Tông chỉ còn 120 vạn hộ… Có thể nói như thế này, mỗi lần chiến tranh sẽ khiến dân số giảm đột ngột lại dẫn đến nền kinh tế, văn minh của thời kỳ đó trở nên trống rỗng. Khi nhân loại không còn tương trợ lẫn nhau, khi nhân loại bắt đầu tàn sát lẫn nhau, xã hội không những ngừng tiến lên phía trước, mà thậm chí còn tụt lùi. Vì thế, là một phần từ trong dòng chảy lịch sử mênh mang, cho dù có nhỏ nhoi biết mấy, thần thiếp nên có ích cho người khác, có ích với đời – Đây chính là đáp án mà thần thiếp kiếm tìm”.

Chiêu Doãn trầm ngâm rất lâu, sau đó hít một hơi thật sâu nói nhỏ: “Nàng… trưởng thành rồi. Trầm Ngư”.

Nữ tử trước mắt đã không còn là cô thiếu nữ tóc búi lệch, tự mình dâng thư tiến cử trước mặt y thuở nào nữa, mà nói năng đĩnh đạc, toàn thân tỏa ra hào quang trí tuệ khiến người ta không đám coi thường. Khương Trầm Ngư khi đó có lẽ chỉ là to gan mà thôi, còn Khương Trầm Ngư của bây giờ lại có trí tuệ ở tầng cao hơn nghiễm nhiên sánh ngang với Cơ Anh.

Nhớ đến Cơ Anh, lòng Chiêu Doãn lại nhói đau, y bỗng buột miệng: “Cơ Anh… hắn đi có nhanh không?”.

Khương Trầm Ngư nhìn y chằm chằm, bất động một lúc.

Chiêu Doãn bị ánh mắt của nàng chiếu thẳng, bỗng cảm thấy gai người, vô thức nói: “Sao thế?”.

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run run một lát, rồi bằng một giọng điệu trấn tĩnh lạ thường mà lại có chút lạnh lùng, nàng nói:

“Mặt của Kỳ Úc hầu, chẳng phải hoàng thượng đã nhìn thấy rồi sao?”.

Chiêu Doãn kinh ngạc, câu thứ hai của Khương Trầm Ngư nối tiếp ngay sau đó:

“Còn như vì sao ngài ấy phải ra đi, hoàng thượng và thần thiếp đều biết rõ nhất… phải không?”.

Câu nói này hiển nhiên đã đâm trúng nỗi đau của Chiêu Doãn, cơn giận bùng lên trong đôi mắt của vị đế vương trẻ tuổi khi y đang định khiển trách phi tử vô lễ thì lại kinh ngạc khi nhìn thấy hai hàng nước mắt trong suốt không một tiếng động, không chút sức sống trào ra khỏi đôi mắt, lăn dài trên gương mặt nàng. Rõ ràng Khương Trầm Ngư đang khóc, nhưng không phải đau thương, mà giống như thương xót.

Mà sự thương xót này lại bất ngờ làm tan biến cơn giận của Chiêu Doãn, khiến y cũng thấy thương xót.

Bởi y không thể khóc vì Cơ Anh, cho nên nhìn thấy Khương Trầm Ngư khóc, giống như nỗi bi thương của mình cũng được giải tỏa theo nước mắt của nàng; mà cũng vì y và nàng thực ra xuất phát từ hoàn cảnhiống nhau, nên càng có thể cảm nhận được giây phút này nàng có thể khóc trước mặt người khác là điều khó khăn xiết bao.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, từ từ đưa tay ra… Khương Trầm Ngư run run nắm lấy.

Tay hai người nhẹ nhàng nắm lấy nhau như thế.

Tay của Chiêu Doãn lạnh lẽo, không giống như tay của Cơ Anh – lúc nào cũng ấm áp, khiến người ta cảm nhận được một sức mạnh vững chãi và hiền hòa. Thế nhưng, đây lại là cánh tay cao quý nhất, quyền lực nhất thiên hạ Bích quốc ngày nay.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ngón tay của mình và y đan vào nhau, ánh mắt sâu thăm thẳm, trào dâng những cảm xúc khó hiểu, khoảnh khắc sau, nàng ngẩng đầu, mỉm cười rạng rỡ với Chiêu Doãn.

Thế là Chiêu Doãn cũng cười, nắm tay nàng tiếp tục đi về phía trước.

Khương Trầm Ngư khẽ nói “Hoàng thượng…”.

“Hả?”.

“Sư Tẩu chết rồi”.

“Ừ”. Đến lông mi cũng chẳng buồn động đậy, về tình hình của hai ám vệ, Chiêu Doãn đương nhiên đã biết từ lâu: Nghe nói tên xui xẻo vì bảo vệ Khương Trầm Ngư mà mất một cánh tay hai cái chân, sau khi hấp hối trên giường một tháng trời, cuối cùng đã chết trên đường về đế đô.

“Nàng còn cần ám vệ à? Vậy cấp cho nàng hai tên nữa”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nói: “Hoàng thượng còn có thể cho thần thiếp xuất cung nữa không?”.

Chiêu Doãn hỏi vặn lại: “Nàng muốn xuất cung sao?”.

Khương Trầm Ngư không hề do dự trả lời: “Muốn”.

Chiêu Doãn nhìn nàng, lại cười, giọng điệu có chút yêu chiều nói: “Cũng không chịu an phận nhỉ”.

Dừng một lát, lại tiếp: “Có điều đúng là không nên nhốt nàng. Hoàng cung này… thực sự quá nhỏ”.

Khương Trầm Ngư lờ mờ nhận ra gì đó trong lời nói của y, không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cũng muốn ra ngoài?”.

Trong tích tắc ánh mắt Chiêu Doãn hơi sầm lại: “Không. Trẫm không đi”.

Tuy sắc mặt y không vui, nhưng có thể cảm thấy y tức giận không phải vì nàng đã hỏi điều không nên hỏi, mà dường như là vì câu hỏi không thể trả lời đó khiến y bực bội với chính mình.

Chiêu Doãn… hình như… chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung thì phải?

Khi y dung túng cho nàng ra ngoài va chạm với mọi thứ, có phải là y đang gửi gắm vào nàng một phần khát vọng mà mình không thể thực hiện được hay không?

Nghĩ đến điểm này, trong lòng Khương Trầm Ngư giây phút ấy không biết có cảm giác gì.

“Ngày mai, hãy cùng trẫm thiết triều sáng đi”. Chiêu Doãn bỗng nói.

Khương Trầm Ngư sững người, lập tức đáp: “Thưa vâng”.

Cái gọi là “cùng” của Chiêu Doãn không phải cùng y xuất hiện, là quân sư cho hoàng đế, khi đế vương lên triều, nàng phải đứng trong phòng tối ở bên cạnh lắng nghe. Mà Hàn lâm bát trí đã chết cả trước đó, bây giờ chính là lúc chọn người mới. Chiêu Doãn nói như thế, rõ ràng ám chỉ nàng sẽ là một trong số đó.

Đây… có được coi là được công nhận không?

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên một nụ cười chua chát vốn là một chuyện đáng vui mừng, nhưng vì nguyên nhân dẫn đến việc nàng bước lên con đường làm mưu sĩ này đã tiêu vong, nên niềm vui ấy đã biến thành nỗi đau thương vô cùng.

Nhớ ban đầu, nghìn lần cứng cỏi, vạn phần chấp niệm, đều là vì người ấy.

Mà nay “muốn phép Ma Cô thay thương hải, một chén sương xuân lạnh giá này”(Bài “Yết sơn” của Lý Thương Ẩn, Hoàng Giáp Tôn dịch. Ma Cô là tiên nữ, tự xưng có thể làm cho biển xanh biến thành nương đâu trong thời gian ngắn, vì thế nhà thơ nhận định rằng biển xanh thuộc về Ma Cô, muốn hỏi xin mua cả biển xanh, tức là có thể chiếm trọn thời gian, không còn hận vì thời gian khiến mọi thứ đổi thay nữa, nhưng tiếc thay không thể, biển lớn đã biến thành chén nước sương lạnh giá của mùa xuân.) …
Last edited by tuvi on 11 Jul 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi Thứ Mười Lăm: Điên Dại (Phần 2)

Nàng chợt nhớ đến một chuyện, liền vội buông tay Chiêu Doãn. Chiêu Doãn sửng sốt quay đầu lại thấy nàng rút một cuốn sổ nhỏ từ trong người ra, cung kính dâng lên:

“Không thể hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, xin hoàng thượng trách tội”. Nói đoạn, quỳ sụp xuống đất.

Khương Trầm Ngư khấu bái rồi quay người đi vào cổng cung. Vừa bước vào cổng liền chạm phải một đôi mắt, trái tim trong chốc lát bỗng run lên.

Bởi chủ nhân của cặp mắt đó đứng trong bóng tối, khuất sáng, nên ánh mắt âm u lạnh lẽo, giống như mắt loài sói vậy.

Khương Trầm Ngư sững ra một lát mới phản ứng lại: “Tỉ tỉ?”.

Người đó chậm rãi bước ra, ánh đèn phía trước hành lang chiếu xuyên qua bóng cây loang lổ, rớt xuống khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, chiếu rõ ánh mắt của nàng ta đang tỏa ra oán hận – quả nhiên là Họa Nguyệt.

“Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư nắm lấy tay nàng ta theo bản năng, nhưng bị nàng ta gạt phắt ra. Khương Họa Nguyệt chẳng thèm nói gì, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn nàng… rồi rảo bước rời đi.

Bấy giờ, Ác Du mới từ trong nhà chạy ra, sắc mặt lo lắng, thấp giọng nói khẽ:

“Đại tiểu thư đến đã chừng nửa tuần nhang rồi, đang định đi thì nhìn thấy…”.

Khương Trầm Ngư tuyệt vọng nhắm mắt lại.

Tỉ tỉ nhất định là nghe nói mình hồi cung lại nghĩ tới tin đồn “Thục phi nhiễm bệnh, đưa đến Bích Thủy sơn trang tĩnh dưỡng” trước đây, lo lắng nàng chưa hồi phục, nên vội vàng muốn đến hỏi thăm. Chẳng ngờ lại bắt gặp chính hoàng thượng đích thân đưa nàng về cung, còn nắm tay trò chuyện cười nói suốt dọc đường… Cho nên, vốn từ lo lắng đã trở thành căm hận đố kỵ mới lườm nàng bằng ánh mắt tràn ngập hận thù như thế.

Nhất thời, trái tim nàng nặng trĩu, ngàn cảm xúc khó nói thành lời, Ác Du lại nói thêm một câu càng khiến nàng khó mà bình tĩnh nổi:

“Còn nữa tiểu thư… lão gia cũng đến rồi, đang đợi tiểu thư ở trong phòng”.

Khương Tlẫm Ngư quay đầu nhìn bóng người cao gầy đang đứng phía trong cột cửa chạm khắc rồng phượng thoáng thấy văn nhược giản dị, giống như một thư sinh trung niên bình thường, nhưng trên thế gian này, không có ai hiểu rõ người đó hơn nàng…

Người này mới là Dạ đế thực sự của Bích quốc.

Hữu tướng đương triều – Khương Trọng.

Phụ thân… của nàng. Ve mùa thu kêu ra rả.

Ô cửa sổ bằng lụa màu xanh biếc đóng im ỉm, bên trong nhà buông rèm thật thấp, ánh nến trong chiếc đèn hình rồng cuộn bằng sứ trắng cháy sáng chiếu rõ đồng tử của Khương Trầm Ngư giống như một ngọn lửa sáng rực.

Nàng nhẹ nhàng nhấc chiếc chụp đèn, khêu nhẹ bấc đèn bằng cái khêu vàng cán đài, rồi lại đậy chụp đèn bằng thủy tinh lại mặt nàng hơi cúi xuống, mang theo một chút lười biếng hờ hững, không để tâm.

Trong phòng im ắng đến khó tả.

Cho đến khi Hoài Cẩn bưng trà vào, mùi thanh mát của loại danh trà cực phẩm theo làn gió nhẹ bay tới cùng giọng nói ngọt ngào của Hoài Cẩn phá vỡ bầu không khí gượng gạo:

“Lão gia, đây là trà cúc Đại Khê mang từ Trình quốc về, mời lão gia thưởng thức”.

Khương Trọng cười nói: “Được”. Nói đoạn nhấp một ngụm, thong thả bảo:

“Mùi vị này thật khiến người ta nhớ mãi… Nhớ lần trước ta đến Trình quốc uống loại trà này, đã là chuyện của hơn mười năm trước rồi…”.

Khương Trầm Ngư nhếch môi nói:

“Phụ thân đại nhân muốn uống trà của Trình quốc, cũng chỉ cần nói một câu thôi. Lẽ nào vị cựu thành chủ Hồi thành thông quyền đạt biến, khi về kinh bái kiến ân sư, đến món lễ vật cũng không có hay sao?”.

Khương Trọng bị nàng mỉa mai nhưng cũng không tức giận, chỉ cười nhạt:

“Hắn có đem lễ vật đến hay không, chẳng phải con rõ nhất hay sao? Thiên hạ ngày nay, chẳng có thứ gì khiến ta thích thú hơn món lễ vật đó”.

Bàn tay đang giữ chiếc khêu của Khương Trầm Ngư bỗng dừng giữa không trung, lòng bàn tay như đang bị đốt giữa đống lửa, cảm giác bỏng rát đến mức chiếc khêu cũng bị nung chảy.

Lễ vật mà phụ thân nói chính là Cơ Anh.

Rõ ràng đến thời khắc đàm phán quan trọng, bất cứ sự khiếp nhược nào cũng biến thành lý do thất bại, thế nhưng, Cơ Anh vẫn là điểm yếu của nàng. Mà Khương Trọng hiển nhiên biết rõ điểm này, cho nên, mới không hề sợ hãi, tự tin có thừa.

Con người này… lại là phụ thân của nàng.

Con người này… tại sao lại là phụ thân của nàng?

Vết thương trong sâu thẳm cõi lòng, một lần nữa lại vỡ òa, máu chảy ào ạt, còn Khương Trầm Ngư phải đè nén nỗi đau xé gan xé phổi xuống chằm chằm nhìn Khương Trọng, nhẹ nhàng nói:

“Vậy phụ thân có biết, món lễ vật mà phụ thân thích nhất ấy đã có thể giết chết con gái của ngưới – là con hay không?”

Khương Trọng nheo mắt lại, trầm giọng nói: Con trưởng thành rồi, Trầm Ngư.

Cho nên, con biết, con có thể chết, nhưng, con sẽ không chết”.

Khương Trầm Ngư không khêu được bật cười, cười được nửa chừng lại biến thành phẫn nộ, cuối cùng đặt chiếc khêu xuống mặt bàn “cạch” một tiếng, quay người đứng phắt dậy hét lên:

“Bởi vì con không thể chết, cho nên phụ thân đại nhân có thể thoải mải làm tổn thương con, hủy hoại con, giày vò con phải không?”.

Khương Trọng không do dự vung tay tát thẳng vào mặt nàng.

Hoài Cẩn đứng bên cạnh chứng kiến cảnh tượng này, sợ đến mức chiếc khay trong tay rớt xuống đất.

Khương Trọng cũng không buồn quay lại mà dặn dò: “Hoài Cẩn ra ngoài cánh cửa, không cho phép bất cứ người nào vào”.

Hoài Cẩn nhìn ông ta, rồi lại nhìn Khương Trầm Ngư ngã nhoài trên mặt đất vì ăn một cái tát đó, do dự mấy hồi rồi vẫn lui ra.

Cửa phòng đóng chặt hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài. Ban đêm nóng bức, ánh nến nhảy nhót. Ánh mắt Khương Trầm Ngư vô hồn nhìn mặt đất lạnh như băng giá, má phải đau rát nhắc nhở nàng đây là cái tát đầu tiên trong cuộc đời nàng, hơn nữa, người đánh nàng không phải ai khác mà chính là phụ thân của nàng.

Khương Trọng bước đến trước mặt nàng, từ trên cao nhìn xuống, ra lệnh: “Ngẩng đầu lên”.

Khương Trầm Ngư chầm chậm ngẩng đầu lên, bởi nhìn ngửa, cho nên gương mặt phụ thân lại càng uy nghiêm khôn xiết. Mà sự uy nghiêm này suốt mười lăm năm qua, nàng chưa từng thấy. Hay nói cách khác, ông chưa bao giờ bộc lộ với nàng.

Có phải khi đối mặt với thuộc hạ ông cũng như thế này không?

Những cỗ máy giết người tình cảm thì tê liệt mà thân thủ siêu phàm đó, đều được con người này huấn luyện ra chăng?

Nực cười biết bao, mỉa mai biết bao, suốt mười lăm năm, đến tận ngày hôm nay, nàng mới nhìn ra bộ dạng thực sự của ông…

“Trầm Ngư, đây là lần thứ mấy cha đánh con?”.

Khương Trầm Ngư thành thực trả lời: “Lần đầu tiên”.

“Thế con có biết tại sao cha phải đánh con không?”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi: “Bởi vì… con không nghe lời”.

Khương Trọng lắc đầu: “Sai rồi, cha đánh con là vì con không nhìn rõ bản thân mình!”. Khương Trầm Ngư rúng động trong lòng.

“Con nhìn nơi này xem, Trầm Ngư, nhìn xung quanh xem”.

Khương Trọng đang rộng hai cánh tay, xoay nửa vòng: “Nhìn bàn trang điểm trạm ngọc lưu ly này, nhìn chiếc gối ngọc thêu phượng này, cây đàn Hiệu Chung này… Đây là hoàng cung! Trầm Ngư, đây là hoàng cung, không phải là khuê phòng của thiên kim Tiểu thư Khương gia nhà con! Còn con, sở dĩ có thể ở nơi này, là vì con là phi tử của hoàng đế, đây là sự thực không thể thay đổi được! Con tưởng mình còn có thể tiếp tục nối mối tiền duyên với Cơ Anh sao? Nói cho con hay, đừng mơ, kể từ phút bước chân của con giẫm lên đất của hoàng cung là Con đã không thể dây dưa với Cơ Anh và bất cứ nam nhân nào nữa! Nhưng rõ ràng con đã quên mất điều này, chuyến đi Trình quốc con đã gây cho ta biết bao nhiêu thị phi? Cơ Anh thôi cũng được, Hách Dịch là thế nào? Di Phi là thế nào? Con tưởng những chuyện này ta có thể biết còn hoàng thượng thì không thể biết sao? Con tưởng là bây giờ hoàng thượng và con vui vẻ hài hòa là trong lòng hoàng thượng không để ý chút nào sao? Rốt cuộc là cái gì làm mờ mắt con? Con gái của ta Trầm Ngư mà cha luôn tự hào nhất”.

Mắt Khương Trầm Ngư lập tức đỏ lên, nàng nói rành rọt: “Con gái tự vấn, tấm lòng ngay thẳng, không hổ với trời đất!”.

“Thế còn Cơ Anh thì sao?”. Đồng tử của Khương Trọng co lại:

“Con dám nói đối với hắn, con cũng không thẹn với lòng không?”.

Khương Trầm Ngư sững ra, sau đó, đột nhiên bắt đầu cười lạnh vừa cười vừa lảo đảo đứng dậy:

“Con đối với Cơ Anh… tại sao phải hổ thẹn? Tại sao? Con vốn rất thích chàng. Từ hai năm trước con đã thích chàng rồi. Không, từ khi con hiểu được chữ ‘Tình’ là thế nào thì trong mắt con đã chỉ có chàng…”.

“Con không biết xấu hổ!”.

“Cho dù thân phận của con không xứng với chàng như thế nào, cho dù con và chàng vì gia tộc và hoàng thượng mà không thể kết hôn, cho dù thân con là nữ nhân của hoàng thượng không thể hai lòng… Nhưng, con vẫn khẳng định, con không hổ thẹn! Bởi vì, Cơ Anh không giống các người!”.

“Con”. Khương Trọng tức đến nỗi mặt đỏ phừng phừng.

Trái lại Khương Trầm Ngư càng lúc càng trấn tĩnh:

“Nhìn lại mình đi, phụ thân, cha nhìn lại cha xem. Cha ở trong triều ba mươi năm, thân là phụ mẫu của muôn dân, là rường cột của quốc gia, cha đã làm được những gì? Hãy nhìn lại chính tích của cha xem: Lũ lụt Khuê Hà, Tiết Hoài đích thân dẫn tướng sĩ đến phát chẩn cho dân gặp nạn, ba tháng ròng rã cùng ăn ở với dân chúng trong lều cỏ; Cơ Anh phụ trách hậu cần Còn cha? Cha đang làm gì? Cha đang bận huấn luyện đám tử sĩ của mình. Ôn địch ở Hoài Bắc lan rộng, là Cơ Anh đi trị; thư sinh kết bè kết đảng làm loạn, là Cơ Anh đi khuyên ngăn; núi tuyết ở Đồng Hương sạt lở, là Cơ Anh đi cứu… Khi quốc gia lâm nguy, khi dân chúng không biết nương tựa vào đâu cha đang làm gì? Cha vẫn đang huấn luyện đám tử sĩ của cha. Không sai. Cha đã bồi dưỡng ra tử sĩ xuắt sắc nhất thiên hạ, nhưng những tử sĩ đó từ đâu ra? Họ vốn dĩ là những đứa trẻ được cha mẹ yêu thương, được người thân che chở, nhưng từ nhỏ đã bị đòn roi đánh đập, huấn luyện bằng những phương thức tàn khốc nhất, chết biết bao người mới có thể đào tạo ra một người cuối cùng. Những ám vệ đó chẳng qua chỉ là những cỗ máy giết người biết đi đứng mà thôi. Con biết cha đã làm rất nhiều điều vì Khương gia, cha đã trả giá rất nhiều nhưng thiên hạ đâu chỉ có một gia tộc…”.

Khương Trọng bị những lời nàng nói làm cho nghẹn uất không nói nên lời.

“Phụ thân, con sinh trưởng trong nhà quan, lớn lên trong tướng phủ, từ nhỏ đến lớn luôn nhìn thấy quan lại tham ô, ích kỷ bẻ cong vương pháp, đến kẻ bị thịt như ca ca, vì là con trai của hữu tướng còn có thể nắm đại quyền trong triều… Vậy khi gặp được một người như chàng, sao con lại không thể thích được chứ? Làm thế nào để có thể không thích chàng cho được? Thích những thứ tốt đẹp có gì là sai? Yêu một nam tử phẩm đức xuất chúng có gì là sai?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây bờ môi run rẩy, trong nháy mắt chuyển thành đau đớn thê lương: “Nhưng… phụ thân, cha giết chàng. Cha dùng thủ đoạn hạ lưu, bỉ ối, giết chết Cơ Anh”.

Khương Trọng im lặng một lúc lâu, rồi mới lên tiếng: “Ta không thể không giết hắn”.

“Không thể không… hay cho một câu không thể không”.

Khương Trầm Ngư cười lạnh:

“Năm đó, cha không thể không vứt bỏ Đỗ Quyên, vì tỉ ấy bị mù, sau đó, cha không thể không giết cha mẹ nuôi của Đỗ Quyên, vì sợ lộ bí mật, lại tiếp cha không thể không cho Họa Nguyệt uống thuốc, để tỉ ấy cả đời không thể mang thai, bởi tỉ ấy không phải là con gái ruột của cha; lại sau đó của sau đó, cha không thể không đẩy con vào trong cung, bởi vì cha cần một hoàng hậu… mỗi một bước đi của phụ thân đều là ‘không thể không’…”.

“Trầm Ngư”. Khương Trọng bỗng nghiêm giọng gọi tên nàng: “Con hận ta, ta có thể hiểu được; con không chịu tha thứ cho ta, cũng không sao. Cả cuộc đời của ta có lẽ không lập công lao hiển hách gì cho quốc gia, nhưng đối với cả gia tộc, ta không hổ thẹn với các vị liệt tổ liệt tông”.

Khương Trầm Ngư ngoảnh đầu sang chỗ khác, chăm chú nhìn vào ánh nến trên bàn, lạnh nhạt nói:

“Đúng, đây chỉnh là sự khác biệt giữa cha và con. Cha là vì thanh danh của Khương Thị là vì sự vinh quang của dòng dõi. Còn con…”.

Nàng quay đầu lại, nhìn thẳng vào phụ thân của mình, nói rọt từng chữ: “So với chữ ‘Nhà’ con coi trọng chữ ‘Người’ hơn. Đỗ Quyên, Họa Nguyệt, biết bao nhiêu người vốn dĩ có thể Có Cuộc đời hạnh phúc; nhưng một tay phụ thân đã hủy hoại bọn họ. Con là con của cha, con họ Khương, cái họ này con không thể tự thay đổi, nhưng con cũng là Trầm Ngư, là Trầm Ngư mà nói, con là một con người, cho nên, thứ con yêu cầu là công bằng. Làm người, sống giữa trời đất pháp lý, cái nên có chính là công bằng”.

Khương Trọng bị rúng động trước sự kiên nghị và quyết tâm toát ra từ ánh mắt của nàng, trong phút chốc, đứa con gái ông tận mắt nhìn thấy nó lớn lên bỗng trở nên thật xa lạ. Nó rõ ràng đứng ở đó cách ông chưa đầy ba bước, mà lại giống như đứng ở một độ cao mà cả đời ông cũng không thể chạm tới, cúi nhìn ông bằng lánh mắt cực kỳ lạnh lẽo.

Kỳ thực, nói cho cùng, Khương Trầm Ngư không hiểu ông còn ông đã bao giờ hiểu Khương Trầm Ngư chưa?

Tay Khương Trọng không kìm được run lên bần bật.

Còn Khương Trầm Ngư đã quay người lại, chậm rãi nói: “Đêm khuya rồi, phụ thân ở đây lâu không hay, mời quay về đi”.

Khương Trọng không nén được gọi: “Trầm Ngư…”.

“Còn nữa”. Khương Trầm Ngư nói bằng một giọng điệu càng bình tĩnh hơn, càng lạnh nhạt hơn:

“Về sau, xin phụ thân gọi ta một tiếng ‘nương nương’”.

Khương Trọng sững người, ngẩn ra nhìn nàng hồi lâu, cuối cùng quay lưng, im lặng mở cửa bước ra.

Cửa còn chưa đóng, Hoài Cẩn sợ sệt thò đầu vào, thấy Khương Trầm Ngư ngồi quay lưng lại không nhúc nhích, lo lắng đến bên cạnh gọi:

“Tiểu thư…”.

Không thấy nàng trả lời, Hoài Cẩn bèn vòng lên phía trước lay vai nàng:

“Tiểu…”, mới gọi được một tiếng, tiếng thư” phía sau mắc nghẹn trong cổ họng, không thể phát ra được Bởi vì, cái nàng ta nhìn thấy là Khương Trầm Ngư mở trừng trừng hai mắt, hai hàng chất lỏng đang lăn dài trên gò má trắng mịn như tuyết khiến người ta kinh tâm động phách.

Đó không phải là lệ.

Mà là…

Máu, Đêm đó, ngoài Thục phi khóc ra máu trong cung còn phát sinh một chuyện lớn khác. Đó chính là Hy Hòa phu nhân nhìn tưởng như đã bình tĩnh trở lại, nhưng hôm sau khi cung nữ đẩy cửa cung ra chuẩn bị chải tóc thay áo cho nàng ta bỗng phát hiện: Nàng ta thức trắng cả đêm!

Những tia nắng ban mai đầu tiên nhẹ nhàng phủ lên thân hình của Hy Hòa, nàng ta ngồi trên đất, trong tay ôm chiếc áo bào trắng của Cơ Anh, suối tóc buông xõa.

Tóc và áo bào cùng màu.

“…Đúng là tự tạo nghiệt, sao chỉ trong một đêm mà tóc bạc trắng hết…”.

Vừa sáng sớm đã nghe thấy ác Du vừa chải tóc cho Khương Trầm Ngư vừa cằn nhằn nói: “Hơn nữa còn nghe nói ả chẳng nhận ra ai hết, các cung nữ nhìn thấy bộ dạng đó của ả liền vội vàng gọi thái y đến khám cho ả, nhưng chỉ cần có người lại gần, ả liền giận dữ la hét, thấy ai là cắn người đó. Nghe nói trong một buổi sảng đã cắn bị thương ba người rồi”.

Khương Trầm Ngư hơi cau mày, nói: “Thế thái y đến khám chưa?”.

“Đến rồi ạ, nhưng cũng không có cách nào lại gần được, trong ba người bị cắn có cả Giang thái y Giang Hoài”

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, nói: “Sai người đi mời Đông Bích hầu”.

“Ơ vâng”.

“Khi nào hầu gia đến, thì đưa ngài đến Bảo Hoa cung tìm ta”. Khương Trầm Ngư nói xong liền khoác áo đứng dậy.

Ác Du trợn trừng mắt, hỏi: “Bây giờ Tiểu thư cũng đến chỗ Hy Hòa phu nhân sao?”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bầu trời âm u sầm sì bên ngoài cửa sổ, thong thả nói một câu: “Nếu ta đoán không nhầm, hoàng thượng hôm nay sẽ không thiết triều sáng”.

Quả nhiên nàng đoán không sai.

Buổi chầu sớm đã bị hủy sau khi Chiêu Doãn hay chuyện của Hy Hòa. Còn khi Khương Trầm Ngư đến Bảo Hoa cung, Chiêu Doãn đang giận dữ mắng cung nữ:

“Các ngươi coi sóc phu nhân kiểu gì hả? Nàng bạc hết tóc mà các ngươi đến sáng mới biết?”.

Hơn mười cung nữ líu ríu quỳ rạp xuống đất, kẻ đứng đầu nghẹn ngào nói:

“Xưa nay phu nhân không cho chúng nô tì ở lại qua đêm. Đêm qua chúng nô tì sau khi thấy phu nhân không có chuyện gì nữa, bèn lui cả đi… Nào ngờ, phu nhân phu nhân lại…”.

“Các ngươi là một lũ vô dụng!”.

Chiêu Doãn đưa chân đá người cung nữ đó ngã lăn, hằm hằm đi đến trước Hy Hòa đang co rúm bên cạnh bàn trang điểm, tóm chặt cánh tay nàng ta, muốn kéo nàng ta ra, kết quả cũng vấp phải sự phản kháng của nàng ta như những người khác.

Hy Hòa há to miệng cắn thật mạnh vào tay y.

Chiêu Doãn cũng không rụt lại, nhất quyết lôi nàng ta ra, hét lên: “Cắn đi!

Cứ việc cắn đi Trẫm muốn xem xem nàng có thể cắn đến mức nào, điên đến mức nào!”.

Vừa nói vừa cưỡng ép lôi nàng ta đến trước gương, một tay tóm chặt tóc nàng, ép nàng ta nhìn vào gương: “Nàng nhìn xem, nàng nhìn kỹ cho trẫm xem! Nàng tưởng điên là được à? Nàng tưởng bạc trắng tóc là được à? Nói cho nàng biết, Diệp Hy Hòa, không dễ đâu! Nàng điên cũng vẫn là người của trẫm, nàng xấu cũng vẫn là phu nhân của trẫm. Cuộc đời này của nàng, còn khuya mới kết thúc!”.

Y đẩy thật mạnh Hy Hòa ngã dúi dụi xuống đất, nàng ta nước mắt nước mũi nhòe nhoẹt, kêu gào khóc lóc ầm ĩ.

Giang Hoài bên cạnh nhìn thấy mà tim đập chân run, vội vàng tiến lên kiểm tra tay của Chiêu Doãn, chỉ thấy hai dấu răng in sâu ở cổ tay, đã bắt đầu rỉ máu.

Vết cắn này quả thật không nhẹ chút nào.

Xin hoàng thượng cho phép thần băng bó”. Giang Hoài vừa quỳ xuống vừa vội vàng lấy băng gạc và thuốc mỡ từ trong hòm thuốc ra để băng bó cho Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn lại đẩy ông ta ra, đến trước mặt Hy Hòa lần nữa. Lần này Hy Hòa đã khôn ngoan hơn, không đợi y đến gần đã trốn ra phía sau, vừa trốn vừa đá, không cho y lại gần. Khương Trầm Ngư thu hết thảy vào trong tầm mắt, trong lòng không kìm được tiếng thở dài: Thật khó coi quá… Chiêu Doãn và Hy Hòa như thế này, đều khó coi…

Bấy giờ thái giám bên ngoài điện cao giọng hô to: “Đông Bích hầu đến…”.

Phút sau, Giang Vãn Y vội vàng xuất hiện trước cửa, nhìn thấy cảnh tượng này, hắn cũng ngẩn ra một lát, nhưng lập tức tiến lên nói:

“Hoàng thượng đừng như thế, hoàng thượng…”.

“Buông ta ra”. Chiêu Doãn hất tay hắn ra, tiếp tục tóm chân Hy Hòa, còn Hy Hòa vừa đạp vừa khóc, tiếng kêu gào thảm thiết.khiến người ta chói tai nhức óc.

Giang Vãn Y khuỵu chân, quỳ xuống đất, gấp gáp nói: “Hoàng thượng, xin cho vi thần thời gian ba ngày, để phu nhân bình thường trở lại!”.

Chiêu Doãn lập tức ngừng lại, liếc mắt nhìn Giang Vãn Y, Giang Vãn Y ra sức dập đầu, mồ hôi trên trán túa ra như tắm.

Chiêu Doãn lạnh lùng “hừ” một tiếng, thu tay lại đứng lên nói:

“Được, trẫm cho ngươi ba ngày. Ba ngày sau, nếu Hy Hòa phu nhân không thể hồi phục, ngươi biết sẽ có hậu quả gì rồi đấy”.

Giang Vãn Y vái lạy một cái.

Chiêu Doãn lại nhìn Hy Hòa, đối diện với sự giải vây của Giang Vãn Y và sự đe dọa của y, Hy Hòa vẫn không hề có chút cảm giác nào, chỉ co rúm không ngừng khóc trong xó tường, nước mắt nước mũi tèm lem hết gương mặt, bộ dạng không biết khó coi đến chừng nào.

Sắc mặt y càng lúc càng thâm trầm, không nói một lời đã quay người bước đi, khi ngang qua Khương Trầm Ngư, mặt không biểu cảm nói: Đi theo trẫm”.

Tuy Khương Trầm Ngư rất muốn ở lại để xem Giang Vãn Y chữa trị cho Hy Hòa như thế nào, nhưng nghe Chiêu Doãn nói như vậy cũng đành đi theo y.

Sắc trời bên ngoài càng lúc càng âm u, mây giăng tầng tầng lớp lớp, xem ra khó tránh khỏi sẽ có một trận mưa rào. Gió cũng rất to, thổi tung tay áo và tóc bay hất ra phía sau. Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên giữ chặt lấy tóc đồng thời lúc đó Chiêu Doãn đưa chân lên đá bay một bồn hoa mẫu đơn vốn được đặt ngay ngắn bên đường, không hề cản lối đi.

“Choang” một tiếng, bồn hoa vỡ tan.

Đám thị vệ và thái giám nhìn thấy hoàng thượng tâm trạng không vui, vội vàng tránh ra thật xa.

Khương Trầm Ngư nhìn bồn hoa xui xẻo đó, khe khẽ thở dài, không ngờ chạm phải ánh mắt hằm hằm của Chiêu Doãn, bèn tiến lên phía trước tìm một chiếc bồn rỗng, đặt cây mẫu đơn ngả nghiêng vào trong chiếc bồn mới, cẩn thận vùi đất.

Việc này mất một thời gian chừng nửa tuần trà, trong thời gian đó, Chiêu Doãn lạnh lùng đứng bên nhìn, không nói một lời.

Cho đến khi Khương Trầm Ngư làm xong, đang định đứng dậy thì y tiến lên mấy bước, lại giơ chân, đá vỡ bồn hoa đó.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, Chiêu Doãn nheo mắt nhìn nàng, ánh mắt thách thức, dường như đang nói: “Xem nàng làm thế nào?”.

Trái lại Khương Trầm Ngư không nói gì, lại lần nữa lặng lẽ lấy một chiếc bồn không chuyển cây mẫu đơn vào, làm xong, ngẩng đầu nói khẽ: Hoàng thượng, còn đá không?”.

Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, y đột nhiên quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư lập tức phủi sạch bùn đất trên tay, đứng dậy theo sau.

Chiêu Doãn đi rất nhanh, không lâu sau đã đến thư phòng, La Hoành rảo bước lên trước mở cửa, y tiến vào trong, dặn dò:

“Cho Khương Trầm Ngư vào trong, người khác đều đợi ở ngoài cửa”.

“Dạ”. La Hoành dè dặt đóng cửa lại.

Trong thư phòng chỉ còn lại hai người bọn họ. Bên ngoài gió thổi vù vù khiến giấy dán cửa sở kêu phật phật, trong phòng càng lúc càng trở nên lạnh lẽo. Vì không thắp đèn, ánh sáng lờ mờ, nên Khương Trầm Ngư chỉ thấy gương mặt nghiêng của Chiêu Doãn, trong ánh sáng yếu ớt nhìn lại càng u uất hơn.

“Vì sao nàng không sợ trẫm…?”. Trong tĩnh lặng, cuối cùng Chiêu Doãn đã lên tiếng.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, hỏi ngược lại: “ý hoàng thượng chỉ bốn hoa mẫu đơn ban nãy à?”.

Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, coi đó là câu hả lời khẳng định

“Có lẽ là vì… so với cơn thịnh nộ lúc hoàng thượng đá vỡ nó, thiếp còn nhìn thấy sự thương xót thoáng qua trong đáy mắt của hoàng thượng khi nó rơi xuống”.

Chiêu Doãn hơi kinh ngạc quay người lại, nhìn thẳng vào nàng.

“Loài hoa hoàng thượng thích nhất là mẫu đơn, mấy bồn hoa đó đều là thợ làm vườn dốc sức chăm bón, ngày đêm chăm sóc mới có được, trong lòng hoàng thượng đương nhiên cũng biết rằng chúng rất quý giá. Cho nên hoàng thượng đá chúng nhưng lòng lại đau… Mà hoàng thượng đã đau lòng, thần thiếp đi cứu thì cũng là chuyện nên làm, cho nên, có gì đáng sợ đâu?”.

Nói đến đây, Khương Trầm Ngư mỉm cười, đổi sang giọng điệu khác, thong thả nói tiếp: “Có điều, bồn hoa đá vỡ rồi, có thể trồng lại, nhưng nếu người bị hủy hoại, e rằng khó cứu… Xin hoàng thượng cân nhắc”.

Gương mặt Chiêu Doãn khi nghe nửa đoạn đầu vốn dĩ đã giãn ra một chút, nhưng khi nghe đến câu cuối cùng, lập tức nặng nề trở lại:

“Nàng đang giáo huấn trẫm?”.

Thần thiếp không đám”.

Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng nhấc gấu váy, yểu điệu quỳ xuống, khi ngẩng đầu mắt đã loang loáng nước như sắp khóc:

“Hoàng thượng có biết trong chuyến đi Trình quốc, ngoài thế giới rộng lớn, thần thiếp còn cảm nhận được gì không?”.

“Cảm nhận gì?”.

Khóe môi Khương Trầm Ngư hiện lên một nụ cười khổ, thêm ba phần buồn bã, bốn phần thê lương, năm phần thương cảm, kết đọng thành mười hai phần dịu đàng:

“Đó chính là sinh mệnh nhỏ nhoi”.

Trong mắt Chiêu Doãn có một thứ tình cảm nào đó lướt qua, rồi lại chìm lắng.

“Ngươi tưởng rằng người đó không gì là không thể làm được lớn mạnh vô cùng, nhưng chỉ nháy măt thôi đã chết đi trong lạnh lẽo; ngươi tưởng rằng thái bình thịnh thế, thiên luân yên lành, phút sau đã là đao quang kiếm ảnh, chiến sự liên miên… phút này còn cầm trong tay, phút sau đã vỡ nát, ngày hôm qua còn mỉm cười với ngươi, ngày hôm nay đã thành một cái xác khô. Có câu cổ ngữ mà chúng ta ai cũng biết, nhưng trước khi chính bản thân mình trải qua, lại chẳng bao giờ biết coi trọng, đó chính là trân quý lấy người trước mắt mình”.

Trong bóng sáng mờ tối, giọng nói trong trẻo mềm dịu không nhiễm bụi trần của nàng cùng tình cảm hàm súc, sâu đậm mà ý tứ xa xôi trong đó khiến người ta không khỏi động lòng, không khỏi cảm thấy đồng cảm một cách sâu sắc. Vì thế, sau một lúc lâu trầm ngâm im lặng, Chiêu Doãn cũng không nói gì, chỉ giơ tay ra trước mặt Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư cung kính cầm lấy.

Y kéo nàng đứng dậy. Đợi Khương Trầm Ngư đứng vững xong, Chiêu Doãn buông tay xoay người đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, không khí ẩm ướt lùa vào, sấm bên ngoài giật đùng đùng, những hạt mưa to như hạt đậu rơi xuống mặt đất bong bóng mưa thi nhau nổi lên.

“Trầm Ngư…”. Chiêu Doãn chăm chú nhìn tầng mây đen kịt ở phía xa, thấp giọng nói nhỏ:

“Nghe nói nàng và phụ thân nàng… đoạn tuyệt rồi”.

Mặt Khương Trầm Ngư nhanh chóng biến sắc.

Quả nhiên… trong hoàng cung, không chuyện gì là có thể giấu được tai mắt của hoàng đế sao?

Chiêu Doãn quay đầu nhìn nàng, ánh mắt sáng long lanh có thần, sáng đến kỳ lạ:

“Khương Trọng một lòng muốn đưa nàng lên ngôi hoàng hậu, nhưng không ngờ chuyện không như ý, ngược lại còn kích thích lòng phản nghịch của nàng”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, gương mặt trắng bệch, một lúc sau mới mở miệng: “Cuộc đời của thiếp… là của chính thiếp”.

Ầm ầm… “Hay!”.

Chiêu Doãn vỗ tay cười to: “Hay cho câu ‘cuộc đời của thiếp là của chính thiếp’. Khương Trầm Ngư, trẫm quyết định rồi. Trẫm sẽ vì nàng làm một việc, đó là ban thưởng cho nàng. Mà thứ trẫm ban thưởng cho nàng chính là…”.

Một tia sét rạch vỡ bầu trời.

Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn Chiêu Doãn trước cửa sổ, phía sau lưng y là mưa to dữ dội, ống tay áo có thêu hình rồng vàng năm móng bay phần phật mặt của y hơi rõ nét lại hơi mơ hồ… y… nói gì nhỉ?

Chiêu Doãn, y… vừa nói gì…?

Ngày mùng chín tháng chín, Đồ Bích năm thứ tư, trên điện Đường, hoàng đế quyết ý chọn Thục phi Khương thị làm hậu, quần thần khen phải.

“Đồ Bích. Hoàng hậu truyện”

Kể từ khi hoàng hậu cũ là Tiết Minh bị phế, trong suốt một thời gian dài, các triều thần rất lo lắng, sợ Chiêu Doãn sẽ phong Hy Hòa làm hậu. Mà trên thực tế, một loạt hành động của Chiêu Doãn sau đó cũng rất giống với nỗi sợ của đám quần thần: Trước tiên là để Giang Hoài và Hy Hòa nhận họ hàng, sau phong Giang Vãn Y tước hầu; lại phái Giang Vãn Y đi sứ Trình quốc lập công… Thấy lần này Giang Vãn Y thuận lợi quay về, gia quan tấn tước chỉ là chuyện nay mai, thế mà trong giờ phút quan trọng này, Hy Hòa lại phát điên!

Đương nhiên tin đồn về việc tại sao Hy Hòa phu nhân phát điên thì mỗi người một phách, càng nói càng không ra sao nhưng tâm ý của hoàng thượng đối với nàng ta như thế nào thì ai cũng biết. Chính vào lúc này, hoàng thượng thiết triều sớm, đột nhiên nói muốn phong hậu, hơn nữa còn không phải Hy Hòa, mà là người trước đó không ai nghĩ tới – KhươngTrầm Ngư.

Toàn bộ sự kiện này liền trở nên kỳ quặc.

Đám triều thần một nửa mang thái độ quan sát để bo bo giữ mình, một nửa đều là tư đảng của Khương Trọng đương nhiên là cực lực tán thành.

Cũng vì thế, chuyện phong hậu đã thuận buồm xuôi gió không bị cản trở.

Đối lập rõ rệt với tình hình khí thế đang lên của Khương gia là Giang thị khó khăn lắm mới ngóc đầu lên được, tuy rất nhiều người có lòng tin đối với y thuật của Giang Vãn Y, nhưng lần này, hắn lại khiến tất cả mọi người thất vọng Hy Hòa phu nhân không những không khỏi mà còn điên loạn hơn nữa. Mới đầu chỉ là cắn người, bây giờ, đến ánh sáng cũng không dám nhìn. Chỉ có một chút ánh sáng chiếu lên người nàng ta là nàng ta điên rồ kêu thét lên, toàn thân run rẩy, các cung nữ đành phải đóng hết cửa sổ dùng vải đen che kín mít. Như thế vẫn chưa hết, cuối cùng tình trạng còn tiến triền đến mức chỉ nghe thấy tiếng bước chân người là nàng ta bị kích thích, cho nên, đành phải cắt bớt những cung nhân hầu hạ ở đó, chỉ còn lại vài người canh cửa.

Vẫn chưa hết đâu!”.

Khi chải đầu cho KhươngTrầm Ngư, Ác Du bẩm lại những tin tức mà mình lượm lặt được ở bên ngoài:

“Bây giờ cả ngày ả chỉ ôm áo bào của Kỳ Úc hầu chui trong xó tường hát, mặt cũng không buồn rửa, cơm cũng không buồn ăn, đói thì vớ được thứ gì ăn thứ nấy, trên người dính đầy phân với nước tiểu”.

Nói đến đây, trên mặt ác Du lộ vẻ hả hê:

“Trời ạ, mọi người có thể tưởng tượng không? Đó là Hy Hòa phu nhân tứ quốc đệ nhất mỹ nhân đó. Sáng nay ta đến Bảo Hoa cung ngó trộm một cái, còn chưa đi đến cửa điện đã ngửi thấy mùi thối bốc ra từ bên trong…”.

“Thế muội có nhìn thấy người không?”. Hoài Cẩn hỏi.

“Muội bị mùi đó làm cho choáng váng, liền chạy về để nôn rồi, đâu có chạy vào trong để nhìn…”.

Hoài Cẩn khẽ thở dài nói: “Thật đáng thương…”.

Ác Du “hừ” một tiếng, phản đối:

“Muội cảm thấy đây là báo ứng của ả, nghe nói ban đầu là ả xúi giục hoàng thượng bắt tiểu thư tiến cung, hại tiểu thư khổ như thế này. Hơn nữa thường ngày ả đắc tội với rất nhiều người, giờ ả phát điên tất cả đều vỗ tay hả hê đó”.

Khương Trầm Ngư cau mày:

“Ác Du, không có căn cứ thì về sau không được nói những lời như ‘ta tiến cung là vì Hy Hòa xúi giục hoàng thượng’.

Hoàng thượng là ai mà có thể dùng hai chữ ‘xúi giục’ để nhắc tới?”.

Ác Du bị khiển trách, nhệch miệng nói: “Vâng, biết rồi ạ… nhưng hoàng thượng vẫn rất sủng ái Hy Hòa phu nhân… Tiểu thư nói xem; bộ dạng ả giờ vừa bẩn vừa hôi, đến cung nữ thái giám hầu hạ trong Bảo Hoa cung cũng không dám ở lại, nhưng ngày nào hoàng thượng cũng đến thăm ả, mà ả hễ nhìn thấy hoàng thượng thì lại càng điên hơn, vừa khóc vừa làm ầm lên không cho lại gần nên lần nào hoàng thượng cũng đành phải đứng ở xa nhìn một lát rồi lại đi. Haizz… đều nói đế vương vô tình nhưng hoàng thượng của chúng ta vẫn là một hoàng thượng si tình. Nhưng đáng tiếc, đối tượng lại là Hy Hòa, thật là khiến những phi tử nương nương khác vừa hâm mộ vừa đố kỵ chết đi được”.

Khương Trầm Ngư nghe những lời bàn luận thị phi đó, không tỏ thái độ gì, nhưng trong lòng lại cười lạnh – Những phi tử ngưỡng mộ Hy Hòa đó lại không biết người đáng thương nhất có lẽ chính là Hy Hòa.

Nỗi khổ của Khương Trầm Ngư là vì yêu mà không có được; còn nỗi khổ của Hy Hòa lại là vì yêu mà sinh hận.

Lấy tâm so tâm, Khương Trầm Ngư nàng chưa bao giờ có được công tử, khi mất công tử cũng đã đau buồn đến thế, huống hồ là Hy Hòa đã từng có, đã từng độc quyền sở hữu, thậm chí luôn luôn gắn kết với công tử?

Hy Hòa yêu Cơ Anh bao nhiêu thì cũng hận chàng bấy nhiêu, hận càng sâu tức là yêu càng nhiều. Yêu hận đan xen dồn cả vào người quan trọng nhất trong trời đất vô tận đó, bỗng một ngày người đó chết đi, bảo nàng ta phải chịu đựng cú sốc này như thế nào?

Cho nên, Hy Hòa phu nhân phát điên là điều tất nhiên.

Kỳ thực, điên cũng không có gì là không tốt.

ít nhất điên rồi sẽ không cần nghĩ gì nữa, không cần quan tâm đến thứ gì nữa, chỉ chìm đắm trong thế giới của riêng mình là đủ.

Nói ra, nàng có chút ngưỡng mộ…

Ác Du làm bộ làm tịch thở dài thườn thượt mấy cái, nói tiếp:

“Hy Hòa phu nhân cũng coi như bỏ đi, đáng thương thay cho Đông Bích hầu, xui xẻo vì ả ta”.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới nhớ đến cái hẹn ba ngày, kinh hãi hỏi: “Đúng rồi, sư huynh sao rồi?”.

“Còn có thể sao nữa? Không trị khỏi cho Hy Hòa phu nhân chỉ có thể chịu phạt thôi. Hầu gia cũng rất tự giác, sáng sớm hôm nay đã đến quỳ xin chịu tội ở bên ngoài ngự thư phòng của hoàng đế rồi”.

Khương Trầm Ngư vội vàng đứng dậy, Ác Du gọi: “Tiểu thư! Đợi đã! Cây trâm còn chưa cài xong mà!”.

“Ôi, Thục phi nương nương đến rồi, nô tài bái kiến nương nương…”. La Hoành làm tư thế chuẩn bị khấu bái, Khương Trầm Ngư phản ứng kịp, thuận tay tháo chiếc vòng trên tay nhét vào tay ông ta.

“Ôi chao, sao có thể để nương nương tốn kém thế…”. La Hoành giả bộ nói, nhận lễ xong mới cười híp mắt nói Đông Bích hầu không sao, nương nương yên tâm đi”.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới trút được hòn đá tảng trong lòng xuống.

La Hoành thuật lại một lượt cả quá trình cho nàng nghe đại thể là Đông Bích hầu tự biết không thể hoàn thành cái hẹn ba ngày, cho nên từ giờ Dần đã quỳ ở đây, còn Chiêu Doãn sau khi biết tin hắn quỳ bên ngoài, không lập tức tỏ thái độ gì, cứ để cho hắn quỳ hai canh giờ. Cho đến giờ Thìn mới hạ chỉ nói hắn không hoàn thành nhiệm vụ, tước bỏ hầu vị, giáng làm thứ dân, chọn ngày xuất cung, suốt đời không được bước vào kinh thành.

Khương Trầm Ngư cả kính, đang định nói gì đó, liền nghe thấy một tiểu thái giám từ bên trong bước ra nói: “Hoàng thượng mời Thục phi nương nương”.

Hóa ra Chiêu Doãn biết nàng đã tới.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, bước vào thư phòng còn chưa bước đến glữa phòng, Chiêu Doãn ăn vận đơn giản, gọn ghẽ đã được thái giám hầu hạ khoác áo choàng lên người nói: “Nàng theo trẫm đến Bảo Hoa cung”.

“… Vâng”. Xem ra, hôm nay cũng không lên chầu sớm rồi.

Chiêu Doãn không ngồi kiệu, chỉ bước đi thật nhanh, vì thế Khương Trầm Ngư cũng chỉ có thể cắm cúi đi theo sau giữa đường nhìn thấy Khương Họa Nguyệt từ xa, đang định chào hỏi, Khương Họa Nguyệt đã quay người rẽ sang lối khác.

Khương Trầm Ngư há hốc miệng, rất bối rối.

Chiêu Doãn bên cạnh nhìn thấy nhưng không tỏ thái độ gì chỉ rảo bước nhanh hơn. Trong ba cung, Bảo Hoa cung gần với tẩm cung của hoàng đế nhất, vì thế, đoàn người mau chóng đến phía trước điện.

Cửa điện đóng im ỉm, hai cung nữ đang đứng bên ngoài nói chuyện, nhìn thấy bọn Chiêu Doãn, cả hai kinh ngạc, hoảng hốt quỳ xuống.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn nổi một tia giận dữ, lạnh lùng quát: “Mở cửa”.

Một cung nữ sợ sệt thưa: “Hoàng thượng, phu nhân không cho phép thấy ánh sáng…”, lời còn chưa dứt, đã bị một cung nữ khác ngăn lại, ra hiệu nàng ta không cần phí lời, bèn ngoan ngoãn mở cửa.

Cửa mở ra rồi, một mùi khó ngửi xộc vào mũi.

Đó là một mùi hỗn hợp của mùi ẩm ướt, nát rữa, mùi thối và tinh dầu hòa trộn với nhau.

Mùi thơm là của các đồ nội thất trong điện, mùi thối đương nhiên là của Hy Hòa phu nhân.

Trong một góc âm u, ánh sáng mặt trời không chiếu tới, Hy Hòa phu nhân co rúm như một con tôm, tóc tai như rơm rạ, chiếc áo trên người cũng bẩn thỉu đến mức không thể nhìn ra màu sắc ban đầu, cả người nàng ta tỏa ra một mùi chua thối khiến người khác buồn nôn.

Nàng ta nhắm mắt, dường như đang ngủ, vì thế khi cửa cung đột ngột mở ra cũng chỉ hơi hơi co người lại một chút, khiến thân hình càng cuộn chặt hơn.

Mọi người tưởng nhìn thấy bộ dạng này của nàng ta, chắc hẳn hoàng đế sẽ nổi giận giống như mấy lần trước, nhưng lần này bất ngờ thấy sắc mặt Chiêu Doãn lại bình tĩnh, y đứng trước cửa ra vào, im lặng nhìn Hy Hòa cách xa ba trượng, trong đáy mắt trào dâng một thứ tình cảm sâu sắc mà phức tạp. Mà những cảm xúc đó cuối cùng lắng đọng thành sự bi thương, rồi bắt đầu tràn ngập lan rộng.

Khương Trầm Ngư nhìn thấu hết thảy chuỗi biểu cảm tinh tế này của y, trong lòng thầm thở dài một tiếng, sau đó, không đợi Chiêu Doãn căn dặn đã nhẹ nhàng bước từng bước vào trong.

Cung nữ há hốc miệng, dường như muốn ngăn cản, nhưng thấy phản ứng của Chiêu Doãn nên đành từ bỏ.

Còn Chiêu Doãn cũng nhìn Khương Trầm Ngư, trong ánh mắt ấy có sự thăm đò, cũng có cả sự mong chờ.

Khương Trầm Ngư tiến lại gần, khiến cho Hy Hòa đang ngủ say choàng tỉnh giấc mở mắt nhìn nàng cảnh giác, sắc mặt sợ sệt, theo bản năng chuẩn bị kêu thất thanh, Khương Trầm Ngư vội vàng cướp lời, hát trước:

“Trăng mọc chừ, nước mênh mang, tựa ngọc chừ, tự dáng chàng…”.

Nàng hát bài hát mà Hy Hòa hát vào cái ngày phát điên đó, còn hiệu quả vẫn rõ ràng như cũ: Hy hòa lập tức ngừng kêu, vẻ mặt vốn hoảng sợ cũng dần dần dịu đi.

Khi Khương Trầm Ngư hát đến câu “Biển xanh rơi lệ mấy ai hay, rả rích tiêu điều mưa chắng ngớt”, trong đôi mắt sưng đỏ đầy những tơ máu của Hy Hòa bỗng dâng lên một làn hơi nước.

Khi nàng hát đến câu “Cầu đến tiên nhân hái thược được, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, Hy Hòa bỗng nhệch miệng, dang rộng hai tay lao đến ôm chặt lấy nàng, cùng lúc, một tiếng gọi đường như xuyên qua nơi chông chênh của ngàn năm, cuối cùng liêu xiêu đi đến trước mặt…

“Mẹ ơi…”.

Các cung nữ kinh ngạc sững sờ: Chiêu Doãn kinh ngạc sững sờ.

Đến bản thân Khương Trầm Ngư cũng kinh ngạc sững sờ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười sáu : Trời tính (Phần 1)

“Khúc hát đó tên là ‘Năm tháng” hồi còn nhỏ mỗi khi phu nhân không ngủ được, Phương thị đều hát bài này cho phu nhân nghe”. Trong ngự thư phòng, một ám vệ đứng thẳng tắp nói như vậy.

Sau ngự án, Chiêu Doãn ngồi tựa trên long tọa, một tay chống trán, một tay đặt lên tay vịn, thần sắc thản nhiên, nheo mày: “Cũng có nghĩa là bài hát đó là do Diệp Nhiễm viết?”.

“Đúng thế”. Điền Cửu do dự một lát nói: “Thực ra Diệp Nhiễm rất tài hoa, có thể viết từ sáng tác nhạc, nếu không Ngôn Duệ có tham ăn đến đâu cũng không thể thu nhận ông ta làm đồ đệ”.

Chiêu Doãn “ừ” một tiếng, không bày tỏ ý kiến gì.

Nửa năm sau, hắn bị biếm khỏi kinh sư, hai bàn tay trắng, đến một người nô bộc cũng không có, chỉ có một hòm thuốc, vẫn nặng trịch đeo trên vai gầy như cũ .

Cảnh ngộ này, lọt vào mắt Trầm Ngư, cũng chỉ có một câu kết luận “lòng người đổi thay”.

Nàng lấy một ấm trà từ trong hộp đựng thức ăn ra, rót trà vào chiếc chén lá trúc miệng nông, hai tay bưng lên trước mặt Giang Vãn Y: “Trầm Ngư lấy trà thay rượu, cung tiễn sư huynh, từ đây mỗi người một nơi, non nước xa vời, mong huynh bảo trọng”.

Giang Vãn Y cũng dùng hai tay đón lấy, khóe mắt luôn ôn hòa văn nhã bỗng hơi ươn ướt hoe đỏ: “Đa tạ”. Dứt lời một hơi uống cạn, đang định đưa chén trà trả lại, Khương Trầm Ngư lại xua tay nói: “Chén này là lễ vật tặng cho sư huynh trước khi đi Ngày sau nếu có cần tiền tài, đưa chén này đến tiệm cầm đồ lớn nhất cũng có thể giải cơn nguy cấp nhất thời”.

Giang Vãn Y nghe nàng nói vậy, biết đây nhất định là chiếc chén rất giá trị, nhất thời trăm ngàn cảm xúc đâng trào, cuối cùng khẽ thở dài nói: “Mưa núi sắp rơi gió khắp lầu, Trầm Ngư, muội phải cẩn thận”.

Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt: “Thế thì phải xem đó là gió gì, mưa gì…”.

“Muội…”. Giang Vãn Y chần chừ một lúc, cuối cũng vẫn không kìm được nói ra: “Dừng tay lại đi, vẫn còn kịp đấy”.

Trong mắt Khương Trầm Ngư loang loáng ánh lệ, nàng ngẩng đầu lên, nước mắt nhạt nhòa nhìn hắn, giọng nói khẽ như mơ: “Nếu như muội đừng tay, cái chết oan uổng của công tử sẽ tính sao đây? Nỗi oan khuất của Di Phi tính sao đây? Bệnh điên của Hy Hòa tính sao đây? Sư Tẩu tàn tật tính sao đây? Còn sư huynh bị biếm chức… cũng tính sao đây?”.

Giang Vãn Y đau lòng gọi: “Trầm Ngư!”.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lấy lại vẻ bình tĩnh, dường như cảm xúc vừa nãy chẳng qua chỉ là kẻ khác hoa mắt nhìn nhầm mà thôi, sau đó, khóe miệng cong cong, nở nụ cười tươi rói: “Cho dù thế nào, chúc mừng sư huynh đã rời khỏi chốn thị phi này, trở về với cuộc sống mà huynh vốn dĩ muốn có… Huynh an tâm, muội sẽ chăm sóc tử tế cho Hy Hòa”.

Giang Vãn Y nhìn nàng mãi, trong mắt khi mờ khi tỏ, cuối cùng kết thành ly biệt: “Đã như thế… bảo trọng”.

Mấy chú quạ bay qua trường đình, tiếng gió thổn thức, cỏ cây vàng vọt, năm nay mùa thu đến sớm hơn năm ngoái.

Bóng dáng Giang Vãn Y rời đi, bị ánh tịch dương kéo dài trên mặt đất, hiện rõ sự thê lương.

“Tiểu thư, trời không còn sớm nữa, chúng ta về cung thôi”. Hoài Cẩn khoác một chiếc áo choàng lên mình Khương Trầm Ngư.

Còn Khương Trầm Ngư nhìn mãi theo chiếc bóng đã không nhìn ra nổi của Giang Vãn Y ở phía cuối con đường dài hun hút, rầu rĩ nói: “Hoài Cẩn, ta ước gì có thể đi cùng với sư huynh, rời khỏi cái chốn thị phi này biết bao…”.

“Tiểu thư…”. Hoài Cẩn không biết phải trả lời ra sao. Khương Trầm Ngư lắc lắc đầu, cười ha ha, nói: “Nhưng sư huynh không cần ta. Thôi, ta vẫn nên ngoan ngoãn hồi cung đừng quên, ta sắp thành hoàng hậu của Bích quốc rồi. Hoàng hậu đó…”.

Hoàng hậu…

Nhớ năm đó, nguyện có được một người bạc đầu chẳng rời xa.

Chưa từng nghĩ, phượng à, phượng à, theo ta về. Mãi ấp ủ nhau thành phu thê (Hai câu trong bài “Phượng cầu hoàng” của Tư Mã Tương Như.).

Thế sự mỉa mai, chẳng qua cũng chỉ thế mà thôi.

Đêm đó khi Chiêu Doãn đến Bảo Hoa cung, liền nhìn thấy một cảnh tượng như thế này. Đến cung đủ sắc đủ màu tỏa ánh sáng êm dịu chiếu rọi Lưu Ly cung ngũ sắc rực rỡ, trên sàn nhà lát bằng thủy tinh trải một tấm thảm dài dệt bằng len. Hy Hòa mặc một chiếc áo mới ngồi trên thảm vì vừa mới được tắm rửa, mái tóc nàng ta vẫn còn ướt, nên trông giống như một tấm lụa trắng ngấm nước. Còn Khương Trầm Ngư ngồi phía sau, dùng một chiếc khăn bông lau tóc cho nàng ta.

Sáng tối giao hòa, tay của Khương Trầm Ngư mềm mại nhỏ nhắn.

Hai mỹ nhân tuyệt thế đã tạo thành một bức tranh cực kỳ đẹp mắt, khắc ghi trong trái tim mỗi người có mặt.

La Hoành đang định thông báo, Chiêu Doãn giơ tay ra hiệu ngừng lại, cơ hồ cũng không nỡ phá vỡ bầu không khí ấm áp an lành trước mắt.

Khương Trầm Ngư lau khô tóc cho Hy Hòa xong, dùng một dải lụa buộc tóc lại cho nàng ta. Bấy giờ mới đứng dậy định đi, Hy Hòa lại quay người ôm chặt lấy nàng, cuống quýt gọi:

“Mẹ… đừng đi… đừng đi!”.

“Được rồi được rồi, mẹ không đi, không đi”.

Khương Trầm Ngư cười dịu dàng với Hy Hòa: “Nhưng mà, mẹ cũng phải làm chút chuyện, Hy Hòa chơi một mình một lúc được không?”.

Hy Hòa chớp chớp đôi mắt to trong vắt như thủy tinh: “Mẹ phải đi bán mì à?”.

Khương Trầm Ngư nghĩ một lát rồi gật đầu: “Ừ… đi bán mì”.

Hy Hòa nheo mắt, cười đắc ý: “Được. Mẹ mang một ít về nhé buổi tối ăn mì!”.

“Được rồi. Buối tối ăn mì”.

Coi như đã dỗ dành xong, Khương Trầm Ngư lại đưa chiếc áo bào đã được giặt sạch sẽ của Cơ Anh cho Hy Hòa chơi. Khi Hy Hòa đưa tay nhận lấy chiếc áo bào, trong đáy mắt nàng lóe lên một tia chần chừ, dường như có gì đó không nỡ, nhưng cuối cùng vẫn buông tay, rồi nhìn thấy Hy Hòa ngẩng đầu cười ngọt ngào với nàng, nụ cười ấy vừa ngây thơ vừa khờ dại.

Khương Trầm Ngư nghĩ, rốt cuộc nàng không thể nào sắt đá với con người này.

Trên người Hy Hòa dường như gửi gắm một phần tình cảm của nàng, tình cảm đó bị đè nén, bị mài mòn hủy hoại, không còn tồn tại ở bản thân nàng, nhưng lại được nối tiếp, phát triển trên con người Hy Hòa.

Nàng rất muốn không vương không vấn, mặc sức làm càn điên loạn một cơn như Hy Hòa, như thế không cần tỉnh táo đối diện với sự thực Cơ Anh đã chết;

không cần đối diện với mặt xấu xa của phụ thân – người nàng luôn tôn sùng yêu kính; không cần đối diện với tranh đấu cung đình không phút nào bình ổn, gió mây biến ảo khôn lường; không cần đối diện với người đến người đi, duyên tán duyên tận…

Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng rồi đứng dậy, đưa khăn bông cho các cung nhân đứng bên cạnh rồi đi đến cửa điện tham kiến Chiêu Doãn:

“Thỉnh an hoàng thượng”.

Chiêu Doãn bật cười khiến Khương Trầm Ngư không hiểu gì hoang mang ngẩng đầu nhìn y.

Chiêu Doãn đưa một tay lên che miệng ho nhẹ một cái, tuy đã ngừng cười, nhưng sóng mắt vẫn còn nửa cười nửa không, thế nên càng khiến Khương Trầm Ngư hoang mang hơn, không kìm được hỏi:

“Hoàng thượng?”.

“Đưa tay nàng ra đây”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy thì ngẩn người, rụt tay về phía sau theo phản xạ, sau đó nhớ ra cử chỉ này không đúng, đành cứng đơ thu lại, run rẩy chìa ra trước mặt Chiêu Doãn.

Trên mười ngón tay thon dài trắng trẻo được chăm sóc rất kỹ lưỡng có thêm vài vết thương do tắm cho Hy Hòa ban nãy, vì Hy Hòa không chịu để người khác chạm vào, mình nàng phải đảm đương. Không ngờ Chiêu Doãn tinh mắt đến thế, vừa nhìn đã nhận ra.

Còn Chiêu Doãn cười đương nhiên là cười thiên kim nhất đẳng mà chân tay vụng về. Vì thế, hai gò má Khương Trầm Ngư hơi đỏ lên, xấu hổ phân bua:

“Từ nhỏ cha mẹ yêu chiều, ngay những chuyện vặt vãnh cũng làm không nên hồn… để hoàng thượng chê cười rồi”.

Chiêu Doãn không thừa nhận mà cũng không phủ nhận, chỉ từ tốn dặn dò thêm một câu: “Đừng quên bôi thuốc”. Nói đoạn, quay người ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm. Nét mặt Chiêu Doãn thường ngày nếu không cười nham hiểm thì cũng là nổi giận lôi đình, tóm lại biểu cảm luôn rất sinh động, hiếm khi bình tĩnh. Vì thế, một khi không cười như bây giờ, rõ ràng là tâm sự trùng trùng, có nỗi u uất khó nói thành lời.

Thấy tâm trạng y có vẻ không vui, Khương Trầm Ngư buột miệng hỏi: “Xảy ra chuyện gì sao? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn khẽ thở dài một tiếng:

“Nàng nhìn nơi đây mưa gió thuận hòa, sao có thể tưởng tượng ra Giang Đô ngàn dặm xa xôi đang gặp cơn đại hạn trăm năm, không thu hoạch nổi lấy một hạt thóc”.

Chuyện này Khương Trầm Ngư cũng có nghe qua.

Giang Đô là vựa lúa vựa cá nổi tiếng của Bích quốc, một vụ thu hoạch là chiếm năm phần kho lương của cả nước. Vì thế có thể nói, Giang Đô giàu, thiên hạ no đủ. Năm nay mùa màng vốn cũng khá tốt, nhưng không hiểu vì sao, từ lúc trời chuyển hạ lại không hề đổ mưa, nắng gắt sà sã, kênh ngòi khô kiệt, khiến cho hoa mầu đều chết khô chết héo cả. Lại thêm đúng vào lúc thành chủ cũ hết nhiệm kỳ, thành chủ mới mới tiếp nhận, khi tin đại hạn được tấu lên triều đình thì đã muộn rồi.

“Hoàng thượng đã nghĩ ra cử ai đến Giang Đô xử lý việc này chưa?”.

Chiêu Doãn liếc nhìn nàng một cái, nhíu mày cười: “Sao? Nàng lại đòi tự tiến cử nữa à?”.

Khương Trầm Ngư quay đầu nhìn Hy Hòa lắc đầu nói: “Thần thiếp muốn đi, nhưng e là không thể”.

“Ồ? Thật nhìn không ra, nàng lại coi Hy Hòa quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự”. Khi Chiêu Doãn nói câu này giọng điệu khó có thể phân biệt được là châm chích hay là cảm thán.

Khương Trầm Ngư nhìn thẳng vào mắt y, trầm giọng nói: “Thần thiếp cảm thấy không nhất thiết phải là thần thiếp, sẽ có người giải quyết tốt hơn cả thần thiếp việc ở Giang Đô, nhưng Hy Hòa phu nhân… lại chỉ có thần thiếp…”.

Cả người Chiêu Doãn rúng động, mãi lâu sau bỗng giơ tay từ từ áp lên mí mắt nàng. Hành động dịu dàng, không hề có ý trừng phạt, tựa như chỉ là không muốn bị một Đôi mắt như thế nhìn chằm chằm.

Khương Trầm Ngư vội vàng lùi ra sau một bước, cúi đầu xuống, không nhìn thẳng vào mặt đế vương nữa.

Chiêu Doãn cơ hồ cũng cảm thấy hành động của mình có chút thất thố, liền cười cười, thu tay lại nói: “Trẫm cho nàng cơ hội lập công, thế nào?”.

“Hả?”. Tâm tư của vị đế vương này càng ngày nàng càng không thể nắm bắt. “Người chống hạn cứu thiên tai lần này, nàng chọn thay cho trẫm đi”. Chiêu Doãn vừa nói vừa chớp chớp mắt.

Khương Trầm Ngư không nhịn được hỏi: “Ai cũng được ư?”.

“Ừ”. Chiêu Doãn tỏ vẻ “trẫm không tin nàng dám nói ra người không xuất sắc”.

Khương Trầm Ngư lập tức nói ra một cái tên: “Tiết Thái”.

Chiêu Doãn lộ vẻ “quả nhiên là hắn”, khẽ thở dài một tiếng, không nói gì quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vội vàng chạy theo truy hỏi: “Không được sao?”.

Chiêu Doãn vẫn không nói gì, nên Trầm Ngư lại hỏi: “Thật sự không được sao?”.

Chiêu Doãn tiếp tục đi lên phía trước, Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Hoàng thượng?”.

Đáp lại nàng là một câu nói nhỏ như cát lăn vào tai, không nặng không nhẹ, không nhanh không chậm, vừa có ý trách móc mà lại vừa không mang giọng điệu trách móc:

“Nàng thật phiền phức”.

Khương Trầm Ngư dừng bước, chăm chú nhìn bóng lưng đi xa đần nhưng vẫn không quay đầu lại đó, lần này nàng hoàn toàn ngây ngẩn ra đó.

Người đến Giang Đô xử lý hạn hán đã được công bố trước buổi chầu sáng hôm sau, quả nhiên là Tiết Thái. Đối mặt với quyết định này của Bích vương, triều thần đương nhiên cực kỳ bất ngờ, sau cơn kinh ngạc, họ bắt đầu tìm mọi cách ngăn cản, lớn tiếng nói không thể.

Lý do đưa ra không ngoài những điều như: Cứu nạn thiên tai không phải là trò chơi, không phải là chuyện vặt như mua vui cho nhà vua trước điện, sao có thể phái một thằng oắt con không chút kinh nghiệm đi? Đừng nói Tiết Thái giờ đã không còn là Công tử quý tộc, mà còn là một tên nô lệ hèn kém, sao có thể gánh vác được trọng trách này?

Khi triều thần tranh cãi đến mức rối tinh rối mù, đế vương trẻ tuổi trên long tọa chỉ thong thả nói một câu, lập tức khiến cho tất cả mọi người đều trấn tĩnh trở lại.

Chiêu Doãn phán: “Đã như vậy, thì phái Vũ lâm quân kỵ Đô úy Khương Hiếu Thành cùng đi, chủ trì đại cục”.

Vũ lâm quân kỵ Đô úy Khương Hiếu Thành là ai?

Con trai của hữu tướng Khương Trọng, ca ca của Khquý nhân và Khương thục phi. Không chỉ như thế, ai chẳng biết y chẳng qua chỉ là một tên bị thịt. Vì thế, hoàng thượng nói phái y đi cùng Tiết Thái, chẳng phải đã loạn lại càng thêm loạn sao?

Quần thần không ai là không choáng váng, đến ngay cả bản thân Khương Trọng cũng bất ngờ, hoàng thượng lại vứt “củ khoai lang nóng” này cho mình. Đang định phản đối thì Chiêu Doãn đã đứng dậy nói: “Quyết định như thế đi, bãi triều”.

Một đám cung nhân vội vàng bày bố nghi trượng hầu hạ chủ tử bãi triều, thế là Chiêu Doãn đã lui gót một cách tao nhã trong những ánh mắt ngây dại hoặc không dám tin, hoặc đau lòng, hoặc không hiểu gì của thần tử khắp triều.

Khi Chiêu Doãn về tới ngự thư phòng, Khương Trầm Ngư đã đợi trong Bách Ngôn đường, thấy y tuy vẫn trang nghiêm nhưng không thể giấu được nụ cười trong đáy mắt, từ khóe mắt bờ môi lan ra khắp gương mặt.

Chiêu Doãn nửa cười nửa không nhìn nàng: “Nàng hài lòng chứ?”.

Khương Trầm Ngư tao nhã khấu bái: “Hoàng thượng anh minh”.

“À, nàng nói thử xem, anh minh ở điểm nào?”. Chiêu Doãn chầm chậm tựa vào chiếc giường gấm, hơi nheo mắt lại giống như một chú mèo.

Khương Trầm Ngư cung kính nói: “Thần thiếp nông cạn, đoán mò thánh ý, nếu có lỡ lời, xin thánh thượng thứ tội”.

“Trẫm ban cho nàng vô tội”.

“Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng phái Hiếu Thành đi cùng Tiết Thái là có ba lý do. Thứ nhất, Tiết Thái hiện tại thực sự không thể khiến người khác phục tùng, sai hắn đến Giang Đô, danh bất chính ngôn bất thuận, nhưng nếu ca ca của thiếp cùng đi, thì lại khác. Tuy…”.

Khương Trầm Ngư nói đến đây, có chút buồn cười, nhưng nén lại nói tiếp:

“… không phải người có thể làm được việc, nhưng chí ít về tư cách, thân thế đều có cả. Hơn nữa, đây là lần đầu tiên huynh ấy đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng, cũng là cơ hội tốt có thể dương danh lập công, cha thần thiếp kiểu gì cũng ngầm giúp huynh ấy, lót đường sao cho thuận lợi, làm việc gì tất nhiên cũng hanh thông”.

“Ừ”. Chiêu Doãn gật đầu, ra ý bảo nàng nói tiếp.

“Thứ hai, nạn hạn hán khác với nạn bão tuyết, không phải là thiên tai xảy ra chỉ trong một đêm. Quan viên địa phương đáng lẽ nên có sự cảnh giác từ lâu, nhưng lại chậm trễ không bẩm báo lên thượng cấp, giả vờ thái bình, đến bây giờ không thể xử lý được mới tùy tiện tìm một cái cớ điều thành chủ cũ đi tìm một người mới thay vào để dọn dẹp rắc rối. Nếu dọn dẹp được, đương nhiên là chuyện đáng mừng, bằng không cũng không sao, hoàng thượng nếu có truy cứu thì cũng có người chịu tội thay…”.

Khương Trầm Ngư cười lạnh:

“Trên thế gian nào có chuyện dễ dàng như thế? Bọn họ ỷ trời cao hoàng đế xa, dối trên lừa dưới, sai Tiết Thái và ca ca của thiếp đi chính là hoàng thượng đã tương kế tựu kế, bởi hai người này – một kẻ nhỏ tuổi, một kẻ bị thịt – có lẽ bọn họ cũng không quá mức coi trọng. Ai ngờ dụng ý thực sự của hoàng thượng chính là cứu nạn cố nhiên quan trọng, nhưng trừ quan tham cũng là điều bắt buộc. Đợi đến khi chúng lần lượt bị định tội tịch thu gia sản, thì sẽ biết rốt cuộc mình đã sai lầm đến mức nào”.

Đối mặt với sự cung kính của nàng, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt một cái, vẫn không tỏ thái độ như cũ: “Thứ ba?”.

“Thứ ba…”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, nét mặt bỗng trở nên nghiêm trang: “Sau khi Tiết thị sụp đổ, Cơ Anh qua đời, bây giờ văn võ đầy triều có thể nói là phần lớn tầm thường, không chọn được ai”.

Biểu cảm vốn lười biếng như một chú mèo của Chiêu Doãn bỗng trở nên nghiêm túc. Câu nói vừa nãy của Khương Trầm Ngư cực kỳ quan trọng, nếu là lúc khác, hoặc để người thứ ba nghe được tiết lộ ra ngoài, đều gây nên đại họa. Nhưng nàng đứng trước mặt y lại dịu dàng yếu đuối, bình thản nói ra câu đó Trái tim của y trong phút chốc chợt vừa chua xót vừa đau nhói như bị vật gì đó đâm trúng.

“Cũng là lúc tổ chức một đợt tuyển chọn nhân tài mới, hoàng thượng chọn Tiết Thái, chính là muốn tuyên bố với thiên hạ – Người có tài sẽ được quan cao chức trọng. Cho dù hắn có thân phận gì, cho dù hắn đã từng có hoàn cảnh tồi tệ đến đâu, đều không sao cả”.

Khương Trầm Ngư nói những lời này với tư thế hết sức khẳng khái dõng dạc, không ngờ Chiêu Doãn nghe xong lại cười: “Thế à?”

Ở cạnh vị đế vương này lâu ngày cũng dần dần nắm được một vài đặc trưng tính cách của y. Ví như bây giờ mí mắt y không nhếch lên, chỉ hơi nhướng nhẹ khóe môi bên trái – Kiểu cười này, chứng tỏ y không đồng tình.

Thế nên Khương Trầm Ngư ngừng lại một lát, hỏi: “Hoàng thượng, thần thiếp nói sai sao?”.

Ánh mắt Chiêu Doãn lướt qua phía sau vai nàng, nói với một vẻ mặt cực kỳ khó miêu tả: “Tiết Thái… không thể hồi phục quan tịch”.

Ngừng một lát, lại bổ sung: “Có thể trọng dụng, nhưng không thể ban thưởng”.

Tuy y không nói tiếp, nhưng Khương Trầm Ngư đã thực sự hiểu rõ ý tứ của y, một cơn ớn lạnh từ dưới chân bỗng bốc lên, trong nháy mắt, chân tay nàng lạnh ngắt.

Là nỗi thương xót cho mỹ ngọc bị bụi trần che phủ. Là sự bi thương vì đế vương vô tình.

Cũng là sự lĩnh ngộ vì thế sự tàn nhẫn.

Tiết thị diệt vong trong tay Chiêu Doãn, cũng không thể lần nữa đứng dậy trong tay Chiêu Doãn. Đó là sự tôn nghiêm của một đế vương, cũng là quy tắc của một triều đại.

Nhìn xuyên suốt lịch sử, tại sao rất nhiều vụ án oan đều không thể thẩm tra lúc đương thời, phải đợi sau khi thay triều đổi lại mới có thể lật án rửa tội? Đó chính là vì tồn tại quy tắc như thế này.

Cho nên, Tiết Thái dù có xuất sắc đến đâu, có lập bao nhiêu công lao cho nước nhà, đều không thể gia quan tấn tước. Chí ít, trong thời Chiêu Doãn còn tại vị, sẽ không thể.

“Cái gọi là quan trường, không gì ngoài hai thứ: Quyền, tiền. Bắt đầu niên hiệu Đồ Bích, quyền nằm trong tay Tiết Hoài, tiền nằm trong tay Cơ thị. Trẫm thân tuy là đế vương, nhưng việc gì cũng bị hai thứ này khống chế. Bây giờ, quyền trở lại rồi, nhưng còn tiền thì sao?”.

Chiêu Doãn thu ánh nhìn, cười với nàng, trong nụ cười thấm đẫm ý vị khổ sở xót xa: “Tiền biến mất rồi”.

Trái tim Khương Trầm Ngư trong phút chốc quặn lại.

“Cơ gia giống như một cái động không đáy, cuồn cuộn không ngừng nuốt chửng tiền bạc của Bích quốc. Khi Cơ Anh còn sống còn chưa rõ ràng, nhưng một khi hắn chết đi, tất cả tấu sớ thỉnh cầu cấp tiền đều bay tới như tuyết, mỗi một tấu sớ đều là chuyện khẩn cấp, việc đại sự, nhưng quốc khố… lại trống rỗng”.

Chiêu Doãn đứng chắp tay, cụp mắt nhìn nàng, hàng mi dài che lấp cả biểu cảm:

“Trên thực tế, trẫm cũng không biết phải ứng phó với thiên tai ở Giang Đô như thế nào”.

Cho nên… mới sai hai kẻ thế mạng đi?

Khương Trầm Ngư bỗng nhận ra. Tất cả hóa ra… còn phức tạp hơn tưởng tượng của nàng.

Cửa sổ đang mở, một cơn gió lùa vào mang theo hơi lạnh ập vào cơ thể Khương Trầm Ngư xoa xoa cánh “tay trong làn áo lụa, mới thực sự cảm thấy mùa thu đã đến thật rồi.

Thánh chỉ vẫn còn chưa được ban bố một cách chính thức, Khương Hiếu Thành đã biết tin mình được chọn làm khâm sai, liền lập tức gọi một lũ bạn bè lêu lổng tới thả sức ăn mừng. Sau một chầu ăn chơi trác táng bốc giời, lại đi tìm mận hỏi đào một chuyến, cuối cùng uống say khướt, nằm ngủ lăn lóc trên giường của đế Đô đệ nhất danh kỹ Mật Tiểu Tiên.

Trong lúc nửa tình nửa say, loáng thoáng cảm thấy có một người ngồi ở đầu giường, gã tưởng là Mật Tiểu Tiên, liền giơ hai tay ra, kề sát mặt lại gần, miệng thì thào:

“Đến đây đến đây nào, Tiểu Tiên của ta, đề đại gia hôn một cái nào…”.

Một mùi thơm nhàn nhạt thanh nhã tràn vào cánh mũi y, khác hẳn với mùi mật hoa mà Mật Tiểu Tiên thường dùng hàng ngày, ngửi kỹ ra thì còn có chút gì quen, vì thế mắt y không kìm được he hé mở ra. Không mở thì không sao mà nhìn thấy rồi thì sợ đen mức nhảy dựng lên. Người ngồi ở đầu giường, đang giãy giụa vì bị y ôm nào phải Mật Tiểu Tiên mà rành rành là muội muội nhà hắn.

Khương Hiếu Thành sợ đến mức tỉnh cả rượu nhảy cẫng lên: “Trầm Ngư? Sao lại là muội?”.

Khương Trầm Ngư chỉnh trang lại áo xống, nửa cười nửa không nhìn y.

Khương Hiếu Thành vội vàng xuống giường, đến giầy cũng chẳng thêm xỏ vào, đi chân trần quanh nhà một vòng, kiểm tra đích xác là không có người thứ ba ở đó xong mới bước đến trước mặt Khương Trầm Ngư, cuống giọng hỏi:

“Bà cô của ta ơi, đây là chốn nào, sao muội lại đến đây hả? Có người khác nhìn thấy không? Cha mẹ và tẩu tẩu của muội có biết không?”.

Khương Trầm Ngư thổi thổi ngón tay của mình, chậm rãi nói:

“Hóa ra ca ca lén lút đến đây? Công khai dùng mười chuỗi minh châu mua đêm đầu của Mật Tiểu Tiên ở Hồng Tụ lâu, sau đó lại mở tiệc lớn để cho người khác thỏa thích ăn nhậu cử chỉ hào phóng như thế, muội e là toàn đế Đô đều đã biết cả rồi”.

Khương Hiếu Thành đột nhiên mặt tái xám, lắp ba lắp bắp nói: “Không, không phải chứ? Ta thật, thật sự làm thế à?”.

Khương Trầm Ngư nhìn y bằng ánh mắt “Ca ca nói xem”.

Khương Hiếu Thành nhìn chiếc giường hoa được mệnh danh là khó lên nhất đế Đô, lại nhớ lại tình hình tối qua, có chút ấn tượng.

Nhưng đi theo nó là một nỗi sợ hãi còn lớn hơn: “Hỏng rồi hỏng rồi hỏng rồi! Nếu cha và tẩu tẩu muội biết, ta chết chắc rồi! Không thể chậm trễ, mau chuồn thôi!”.

Nói đoạn bắt đầu vội vội vàng vàng mặc y phục.

Y tuy là một tên háo sắc mê rượu, nhưng từ nhỏ bị quản giáo rất nghiêm, vì thế rất hiếm khi có chuyện say xỉn ở bên ngoài. Ngày hôm qua thực sự y uống quá nhiều, cuối cùng còn không nhớ mình đang ở đâu nữa. Giờ nhìn thấy Khương Trầm Ngư xuất hiện ở đây, phản ứng đầu tiên chính là: Xong rồi, cha và vợ chắc chắn đều biết cả rồi! Cha biết cũng đành thôi, nhiều nhất là ăn mắng một trận, bịt tai không nghe là xong. Nhưng Lý thị mà biết, ít nhất là nửa năm, đừng hòng được sống yên ổn; hơn nữa cả cuộc đời này đều bị thị suốt ngày lôi ra để châm chọc… Vừa nghĩ đến tình cảnh bi thảm đó, y hối hận vô cùng, chân tay bủn rủn mặc xong áo ngoài, xỏ xong giầy, đang định đi bỗng thấy muội muội vẫn ngồi trên giường như không có việc gì, liền đưa tay kéo nàng:

“Chờ cái gì nữa? Còn không mau đi?”.

Khương Trầm Ngư nhíu mày: “Đi? Đi đâu?”.

“Đương nhiên là về nhà…”.

Lời vừa buột ra khỏi miệng, mới nhận ra có gì đó không đúng, Khương Hiếu Thành lại nhìn dò xét muội muội từ đầu xuống chân một lượt, rồi vỗ vỗ vào đầu nói:

“Đúng rồi, muội không phải đang ở trong cung sao? Sao lại đến đây? Muội lén xuất cung à?”.

“Ca ca, ca ca ngồi xuống đi”.

“Ngồi cái gì mà ngồi, bây giờ là lúc nào rồi? Ta thấy vẫn nên quay về trước khi phụ thân phát hiện”.

Khương Trầm Ngư đằng hắng một tiếng, trầm giọng nói: “Ca ca, ngồi đi, muội có vài lời muốn nói với ca ca”.

Nàng xưa nay luôn là người được yêu chiều nhất nhà, tuổi tuy nhỏ nhưng lại uy nghiêm nhất, có thể nói, Khương Hiếu Thành có chút sợ muội muội kém mình năm tuổi này, vì thế, khi nàng trở mặt làm bộ nghiêm túc bảo y ngồi xuống, tuy trong lòng lo lắng muốn chết, nhưng cơ thể vẫn ngoan ngoãn ngồi xuống.

“Ca ca, hoàng thượng quyết định sai huynh và Tiết Thái đến Giang Đô chống hạn cứu tế…”.

Khương Hiếu Thành nghe đến đây liền cười hì hì, đắc ý nói:

“Hoàng thượng quả nhiên là người có tuệ nhãn, nhìn ra huynh tài hoa và năng lực hơn người. Ta ấy à, cũng coi như là lên tiên rồi, không còn bị kẻ khác nói xầu là cậy thế của cha nữa. Giang Đô cũng là nơi tốt, mỗi năm tuyển tú nữ, mỹ nhân của vùng ấy là nhiều nhất!”. Nói đến đây, nước bọt ứa hết cả ra.

Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm thở dài, nghiêm mặt nói: “Ca ca có biết Giang Đô đại hạn, đã ba tháng rồi chưa có mưa không?”.

“Ồ, cái này ta có nghe nói rồi”. Khương Hiếu Thành không thêm để ý, khua tay một cái: “Yên tâm đi, ta đã nghĩ ra kế sách ứng phó rồi”.

Câu trả lời này thật sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ, không kìm được phải hỏi: “Kế sách ứng phó gì?”.

“Muội nghĩ xem, Giang Đô năm nào cũng mưa thuận gió hòa, rất hiếm khi bị hạn hán, tại sao? Bởi vì đó là vùng bảo địa phong thủy của Bích quốc chúng ta. Tại sao lại bị hạn hán? Chắc chắn là vì phong thủy đã bị phá hoại”.

Khương Hiếu Thành nói đến đây thì nén thấp giọng, ra vẻ thần bí, nói: “Còn có người nói Cơ Anh chết rất kỳ lạ, không chừng cũng có liên quan đến phong thủy nơi đấy”.

Khương Trầm Ngư cố gắng nén nỗi buồn bực trong lồng ngực, hỏi thật nhanh: “Sau đó?”.

Khương Hiếu Thành vỗ ngực nói: “Ta chỉ cần tìm một sư phụ phong thủy giỏi nhất, đến lúc đó đưa ông ta lập đàn làm phép ở đấy, cầu mưa gì đó đều được hết”.

Trước mắt Khương Trầm Ngư tối sầm, suýt chút nữa thì ngất đi. Nàng biết ca ca chắc chắn sẽ chẳng có cách gì ra hồn, nhưng nghe thấy câu này, vẫn vượt qua phạm vi mà nàng có thể chịu đựng, nên trong khoảnh khắc, nỗi bi ai trở nên càng sâu đậm, cảm giác vô cùng tuyệt vọng.

Thế mà Khương Hiếu Thành vẫn còn dương dương tự đắc:

“Sư phụ phong thủy này lấy thù lao rất đắt đỏ nhé, hơn nữa nếu không có quan hệ thì không mời được đâu. Ca ca của muội bình thường rất biết làm người, kết giao với một số bạn tốt thời khắc then chốt đều nhờ cậy họ giúp đỡ ta”.

Khương Trầm Ngư hít thật sâu, mở miệng từ từ nói: “Ca ca có biết vì sao hoàng thượng không chọn người khác, mà lại chọn huynh đi xử lý đại sự quan trọng như thế này không?”.

“Đương nhiên là vì ta năng lực hơn…”. Ánh mắt lạnh như băng của Khương Trầm Ngư lướt qua, Khương Hiếu Thành nuốt nước bọt xuống, nửa câu sau đành nuốt trọn vào trong.

Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn y, sẵng giọng nói: “Bởi vì hoàng thượng muốn huynh làm kẻ thế mạng. Huynh và Tiết Thái là hai quân cờ dùng để hy sinh!”.

Khương Hiếu Thành giật mình “Cái, cái, cái gì cơ?”

“Giang Đ đại hạn, mùa màng thất thu, năm nay thu hoạch ắt kém, một khi thu hoạch kém giá lương thực sẽ tăng cao, bách tính sẽ bị đói! Nạn đói một khi kéo dài, triều đình sẽ phải mở kho lương cứu tế… mà thực sự là, quốc khố bây giờ đang trống rỗng, căn bản không có tiền mua lương thực!”.

“Hả?”. Mắt Khương Hiếu Thành bỗng chốc trợn trừng.

Ca ca tưởng đây là vấn đề chỉ cần làm phép cầu mưa là có thể giải quyết được à? Bây giờ bài toán then chốt nhất chính là căn bản không phải là mưa hay không mưa, mà là tiền đó! Ca ca! Bây giờ quốc khố không có tiền! Cho nên, chống hạn cũng được, cứu tế cũng xong hoàng thượng không cấp cho ca ca một xu, tất cả tiền tài đều là tự ca ca móc hầu bao ra!”.

Hai chân Khương Hiếu Thành mềm nhũn, ngồi phịch xuống mặt đất, lẩm bẩm: “Sao, sao có thể như thế…”.

“Ca ca còn tưởng có thể được lợi, sung sướng cảm thấy bản thân mình được coi trong được đề bạt… nhưng không biết họa từ trên trời giáng xuống, chỉ gây ra một chút sai lầm là chết chắc”. Khương Trầm Ngư vừa tức vừa thương, hơi thở mắc ở lồng ngực không thoát ra được.

Khương Hiếu Thành thấy vậy, vội vàng bò dậy rót nước cho nàng uống: “Muội muội, muội đừng vội, từ từ nói, uống một chút đi, từ từ nói…”.

Hành động này của Khương Hiếu Thành đã đánh thức ký ức thời thơ ấu của Khương Trầm Ngư: Khi còn nhỏ, y từng đem đồ cho nàng ăn như thế này, thấy nàng bị ốm, cũng cùng người khác đứng bên cạnh lo lắng…

Rốt cuộc y vẫn là huynh trưởng của nàng, dù y có vô dụng thế nào, hư hỏng thế nào, cũng không thể để chết. Huống hồ, sự việc này còn lôi kéo thêm cả Tiết Thái và ngàn vạn dân chúng vô tội của Giang Đô.

“Ca ca, ca ca có tin muội không?”. Khương Trầm Ngư túm chặt tay của Khương Hiếu Thành, hỏi như vậy. Tin tin tin, trăm lần tin, vạn lần tin! Trên thế gian này người ta tin nhất chính là Trầm Ngư muội!”.

“Thế thì chuyện Giang Đô, huynh nghe muội, có được không?”.

“Được được được, cái gì cũng nghe muội, muội nói gì ta cũng nghe…”.

Khương Trầm Ngư nắm tay y chặt hơn, ngữ khí nghiêm trang hơn: “Ca ca!

Muội không nói giỡn đâu! Huynh đồng ý với muội, phải làm được không được có một chút sơ suất nào, nếu không, không chỉ huynh, cả Khương gia đều bị liên lụy, sẽ thành Tiết thị thứ hai!”.

Nét mặt vốn dĩ không chú tâm của Khương Hiếu Thành đã biến thành chấn động, há hốc mồm, chân tay thừa thãi đứng như trời trồng hồi lâu, cuối cùng mới khẽ nói: Nghiêm trọng thế à?”.

Khương Trầm Ngư gật đầu: “Rất nghiêm trọng”.

“Thế… bây giờ xin hoàng thượng hủy thánh chỉ, vẫn còn kịp chứ?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

Khương Hiếu Thành cực kỳ thất vọng, lại ngồi xuống đất, im lặng một lúc rồi buồn bã nói:

“Hóa ra hoàng đế không có tiền… Tên tiểu tử, bảo sao đột nhiên lại nhớ ra đề bạt nhân tài như ta, hóa ra là không có ý tử tế. Tên tiều tử hoàng đế đó đúng là nham hiểm, năm đó đối với Tiết Hoài như thế, bây giờ lại đối phó…”.

“Ca ca!”.

“Được rồi, không nói nữa… cứ tưởng là được đi tiêu tiền, còn vui mừng vì cuối cùng cũng có thể ra khỏi kinh thành một chuyến…”.

Khương Hiếu Thành bực bội lẩm bẩm mấy câu xong đột nhiên quay đầu nghiêm túc hỏi:

“Muội nói xem tại sao hoàng đế lại không có tiền... Thế tiền đi đâu rồi... Tháng tư tịch biên Tiết gia, lúc đó chẳng phải là sung công được ba triệu lạng sao? Sao mới nửa năm mà đã hết sạch rồi... Triều đình chúng ta đâu có quan tham… A! Lẽ nào là cha dùng hết vào việc huấn luyện bọn tử sĩ gì đó?”.

Khương Trầm Ngư nhìn y bằng một ánh mắt thương hại, nói nhỏ: “Không phải cha?”.

“Thế là ai?”. Khương Hiếu Thành bắt đầu động não cái đầu không thông minh hơn heo là bao của y: “A! Đó chính là Hy Hòa phu nhân! Chắc chắn là ả! Ngày ngày xa hoa vô độ…”.

Khương Trầm Ngư kêu khổ trong lòng, nhưng ngoài miệng chỉ nói: “Ca ca, huynh ăn nói bớt cay nghiệt đi, Hy Hòa phu nhân đã bị điên rồi”.

“Đúng đúng đúng, không nói ả không nói ả, mạo phạm người đẹp, không dám không dảm… ôi, nghĩ không ra”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt xuống, thấp giọng thì thào: “Là Cơ gia!”.

“Cơ gia...?”.

Khương Hiếu Thành nhướng mày: “Muội đang nói đùa à..? Cơ Anh nổi tiếng thanh liêm, môn khách của ngài còn phải tự cày cấy làm ruộng mới đủ ăn…”.

“Không phải Cơ Anh, mà là Cơ gia”. Khương Trầm Ngư nhấn mạnh: “Toàn bộ Cơ gia”.

Khương Hiếu Thành gãi đầu: “ý của muội là hầu gia không tham ô, nhưng người thân thích của ngài tham ô..? Nếu so sánh với nhà chúng ta, cha không tham, muội không tham, nhưng ta tham, cho nên toàn bộ đều do ta nuốt hết?”.

Khương Trầm Ngư gật đầu.

Khương Hiếu Thành lại há miệng ngây người một lát: Thế thì che giấu giỏi thật… Không đúng, không đúng… muội muội! Chuyện này không đúng! Cơ gia chẳng phải có Liên thành bích trong truyền thuyết sao, không sợ thiếu tiền!”.

“Liên thành bích gì cơ!”.

Thấy muội muội không biết chuyện, Khương Hiếu Thành lại nổi máu nam tử hán lên, y ưỡn ngực, hóp bụng, đang định kể lể một lượt, bỗng nghe bên ngoài vang lên một tiếng gọi chói tai:

“Khương đại ngốc, chàng lăn ra đây cho thiếp!”.

Khương Hiếu Thành nhất thời sợ hãi đến mức run lẩy bẩy, tiếng đập cửa dồn dập, tiếng thét như quỷ khóc, và hai chữ “đại ngốc” không hề để cho g chút sĩ diện đó, đã nói rõ người đến không phải ai khác, mà chính là người vợ kết tóc se tơ kiêm hổ cái nhà y – Lý thị.

Y mở cửa sổ định nhảy ra ngoài.

Khương Trầm Ngư từ tốn nói: “Ca ca, đây là lầu ba”.

Khương Hiếu Thành vội vàng rụt một chân đang giẫm lên bậu cửa sổ xuống, lo lắng đến mức mồ hôi vã ra như tắm: “Làm sao đây làm sao đây? Sao nàng ta lại tới? Làm sao đây, làm sao đây?”.

“Để muội thay ca ca xoa dịu đại tẩu”.

Khương Hiếu Thành mừng rỡ ra mặt: “Thật à?”.

“Nhưng như đã nói trước đó, chuyện Giang Đô lần này…”.

Khương Trầm Ngư còn chưa nói hết lời, Khương Hiếu Thành đã gật đầu lia lịa nói: “Đều nghe muội, đều nghe muội cái gì cũng nghe muội hết! Muội bảo ta làm sao thì ta làm vậy, ta còn đợi muội cứu mạng đây, muội muội tốt của ta!”.

“Giao kèo xong”. Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi tới mở cửa phòng ra, dịu dàng nói: “Bọn muội ở đây”.

Lý thị dẫn đầu một toán gia đinh khí thế hung hăng chuẩn bị xông vào bắt gian nhìn thấy người sau cánh cửa, còn chưa kịp kinh ngạc đã bị Khương Trầm Ngư tóm cổ tay lôi vào trong.

Sau đó, cửa phòng đóng lại, nhốt toàn bộ gia đinh ở bên ngoài.

Bởi vì chỉ có một mình Lý thị nhìn thấy Khương Trầm Ngư, cho nên đám gia đinh bên ngoài cửa đều không rõ bên trong xảy ra chuyện gì, đang định tiến vào thì nghe Lý thị ở trong quát một câu: “Các ngươi không được vào trong”. Mọi người liền vội vã dừng bước. Cứ như thế đứng khoảng nửa tuần trà ở ngoài cửa, cánh cửa phòng lại mở ra, Lý thị chậm rãi bước ra ngoài.

Nếu như nói khi vào phòng Lý thị như cuồng phong bạo vũ; thì khi ra Lý thị lại thành gió mát ngày lành.

Chỉ thấy nàng ta vén tóc mai, cười híp cả mắt nói: “Không có chuyện gì, về thôi”.

Một tiểu a hoàn không hiểu chuyện, vẫn ngây ngây ngô ngô hỏi: “Thiếu phu nhân? Đại thiếu gia đâu?”.

“Thiếu gia cái gì mà thiếu gia”.

Lý thị mắng té tát: “Không nhìn xem đây là đâu hả? Thiếu gia nhà các ngươi đến đây sao? Ngu như heo, còn không mau theo ta về, để tránh bị mất mặt!”. Nói rồi, uốn éo bước lên kiệu.

Tiểu a hoàn bị mắng không dám mở miệng cãi, vội vàng đi theo kiệu, một đám người rầm rầm rộ rộ rời khỏi Hồng Tụ lâu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 93 guests