Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười sáu : Trời tính (Phần 2)

Sau khi chuyện này đồn ra ngoài bị đầu đường cuối ngõ cười nói bàn luận một dạo, đương nhiên mỗi người nói một phách, càng ngày càng xa sự thực.

Còn khi Điền Cửu đem câu chuyện thực sự bên trong bẩm báo lên Chiêu Doãn, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt, vừa đùng bút son phê một chữ “chuẩn y” lên tấu chương, vừa nói: “Trẫm vốn muốn có hiệu quả này. Khương gia nếu không nỡ bỏ thằng con trai bảo bối này, thì phải cân nhắc thật kỹ chuyện ở Giang Đô lần này, nên tự cứu mình như thế nào”.

Điền Cửu muốn nói gì đó nhưng lại ngừng lại. Chiêu Doãn nhíu mày nói: “Có gì cứ nói đi”.

“Vâng. Hoàng thượng cảm thấy Thục phi nương nương sẽ có cách giải quyết việc này chứ?”.

“Nàng ấy có”.

“Ngộ nhỡ nương nương thất bại thì sao? Chuyện Giang Đô suy cho cùng cũng không phải trò đùa, một khi thất bại, hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi…”.

Chiêu Doãn khe khẽ thở dài một tiếng, đặt cây bút và tấu chương trong tay xuống nói: “Theo Điền Cửu ngươi Bích quốc hiện nay, hai gia tộc có sức ảnh hưởng nhất là gia tộc nào”.

Điền Cửu có vẻ hơi trầm ngâm: “Hai nhà Khương, Cơ”.

“Thế thì người có sức ảnh hưởng nhất trong hai tộc này là ai?”.

“Khương gia đương nhiên là hữu tướng Khương Trọng, còn Cơ gia…”.

Điền Cửu lắc đầu nói: “Cơ gia lại khác, con cháu Cơ thị mỗi người đảm nhiệm một phương diện, nhiều kẻ xuất sắc, nhưng chính vì cả nhà đều giỏi giang, cho nên ngược lại không nghĩ được ngoài Cơ Anh ra, còn có ai có thể áp chế quần hùng thống lĩnh đại cục…”.

Chiêu Doãn lắc đầu cười cười nhìn Điền Cửu nói: “Sai rồi”.

“Sai ạ?”. Điền Cửu ngạc nhiên: “Xin hoàng thượng chỉ bảo”.

“Đến nay hai tộc Khương, Cơ chỉ còn lại hai người này”. Chiêu Doãn nâng bút, khoanh hai vòng tròn trên một danh sách dày chi chít chữ, mà hai cái tên bị khuyên trúng chính là: Khương Trầm Ngư, Tiết Thái.

“Muội muốn huynh vứt bỏ thành kiến đối với Tiết Thái, chuyến đi Giang Đô lần này, cho dù hắn nói gì, làm gì, đều phải dốc toàn lực phối hợp với hắn. Bởi vì, hiện nay chỉ có hắn mới có thể lấy được tiền của Cơ gia. Huynh muốn lấy được đủ tiền để giải quyết vấn đề thì phải đối tốt với hắn một chút”.

Đây là lời khuyên chân thành cuối cùng Khương Trầm Ngư nói với Khương Hiếu Thành trong cái đêm ở Hồng Tụ lâu đó Nhưng nàng không ngờ rằng, trong chuyến đi Giang Đô này, ca ca của mình đã hoàn toàn biến thành tay sai của Tiết Thái, tận tâm hầu hạ, mức độ ân cần còn vượt xa so với kế hoạch của nàng… Đó là chuyện về sau, tạm thời không bàn đến.

Ngày mười hai tháng, Tiết Thái và Khương Hiếu Thành phụng ý chỉ của hoàng đế đen Giang Đô trước muôn vàn cặp mắt của mọi người.

Sau khi họ đi, hàng ngày Khương Trầm Ngư ngoài việc cùng Chiêu Doãn lên triều, thì chiều nào nàng cũng đến Bảo Hoa cung thăm Hy Hòa.

So với trước đây Hy Hòa khá lên rất nhiều, nhiều lúc Khương Trầm Ngư đọc sách ở đó, còn nàng ta yên lặng chơi một mình. Có lúc thấy Khương Trầm Ngư viết chữ, thì quấn lấy nàng đòi vẽ tranh. Khương Trầm Ngư sai người chuẩn bị màu vẽ cho nàng ta, nhưng nàng ta lại không muốn, mà đòi hồ dán với kéo cắt giấy, nhìn thấy thứ gì liền cắt thứ đó, thành ra màu, giấy các loại chất thành một mớ hỗn loạn, sau cùng lại lấy hồ dán giấy, chơi rất vui vẻ.

Lần đầu tiên Khương Trầm Ngư nhìn thấy cách vẽ tranh mới mẻ như thế, có lúc cũng không kìm được đến chơi cùng nàng ta.

Thỉnh thoảng nàng phải đến ngự thư phòng vào buổi tối nghe Chiêu Doãn và các đại thần tâm phúc nghị sự. Bách Ngôn đường lần lượt có thêm người mới, tính cả Khương Trầm Ngư tổng cộng là tám người. Bảy người kia đều là những kẻ khôn ngoan khéo léo, không hề tỏ ra kinh ngạc trước sự tồn tại đặc biệt của nàng, cứ thản nhiên tự tại khi ở cùng nàng. Có lúc, phụ thân nàng cũng bị Chiêu Doãn triệu đến thư phòng để hỏi chuyện, nàng đứng cách một bức tường nhìn ông nghị chính, giống như một người xa lạ.

Không lâu sau, ngày sách phong đã được định là ngày mùng một tháng mười một.

Vì đất nước có nạn hạn hán nên hết thảy nghi thức đều đơn giản, nhưng phong hậu vẫn là một việc lớn, nên trong một thời gian ngắn, vô số việc chồng chất, bận rộn đến mức nàng bù đầu nhức óc.

Đêm nay, nàng xử lý công chuyện trong Bảo Hoa cung, Hy Hòa ngồi bên cạnh yên lặng vẽ tranh, vào khoảng giờ Tuất, Phật âm từ bên ngoài vọng vào, du dương êm ái, cực kỳ rung động lòng người.

Hy Hòa ngẩng đầu lắng tai nghe một lúc, bỗng quẳng chiếc bút đi, bắt đầu khóc.

Khương Trầm Ngư không hiểu chuyện gì xảy ra, sai cung nữ đi hỏi, không lâu sau, cung nữ quay về bẩm báo:

“Nương nương, là từ trong Đoan Tắc cung vọng ra, nghe nói là Cơ quý tần đang làm lễ cầu siêu cho Kỳ Úc hầu”.

Cuốn sổ trong tay Khương Trầm Ngư bỗng chốc rơi xuống đất nàng ngây ra nhìn bàn tay mình, hai tay trống không, không thể chắp lại được.

Thứ âm nhạc mà Cơ Hốt chọn đùng hoàn toàn khác với những gì nàng đã từng được nghe, không hề mang âm hưởng bi ai, ngược lại còn có ý vị phóng khoáng đến siêu phàm thoát tục. Nhưng lọt vào tai, trong lòng càng đau đớn hơn. Khương Trầm Ngư nghe mãi nghe mãi, không nhịn nổi đi khỏi cung, men theo tiếng nhạc lần về phía trước, cuối cùng đã đến trước hồ Phượng Thê.

Nhìn từ xa, Đoan Tắc cung thần bí đẹp đẽ ở chính giữa hồ, một dấu chấm màu trắng muốt tựa như một vầng trăng sáng treo lơ lửng giữa bầu trời đêm. Mà tiếng nhạc linh hoạt kỳ ảo lại bay vút lên từ nơi đó, được hơi nước trên mặt hồ bao phủ, được gió thu trong không trung thổi qua, càng có vẻ liên miên xa xôi.

Phật nói, con người ta sau khi chết đi, ngoài những linh hồn lập tức thăng thiên, những vong hồn khác đều phải đợi bảy bảy bốn mươi chín ngày mới có thể quyết định đầu thai luân hồi. Vì thế, trong bảy bảy bốn mươi chín ngày đó, phải siêu độ cho vong hồn, để khi tái sinh làm người sẽ được đầu thai vào nhà nào tốt một chút.

Cơ Hốt cầu siêu cho Cơ Anh cũng xuất phát từ lòng yêu thương đệ đệ, hy vọng kiếp sau chàng có thể bình an, khỏe mạnh trường thọ. Nhưng tại sao lại mang đến cho nàng nỗi đau xé gan xé phổi như thế, giống như sắp cắt đi một phần linh hồn như thế?

Công tử… sắp đi rồi.

Lăng địa (Nơi xây lăng mộ) của chàng cũng đã chọn xong, dưới núi Ngũ Tùng ở ngoại ô phía Đông, sau bốn mươi chín ngày sẽ nhập thổ an táng. Còn linh hồn của chàng sau khi được cầu siêu, có thể sẽ luân hồi chuyển thế, thực sự cắt đứt với kiếp này… Từ khi về cung đến nay, liên tiếp xảy ra hai, ba chuyện lớn, khiến nàng bận bù đầu không có thời gian rảnh rỗi để thương xuân sầu thu, tự oán tự trách.

Nàng vốn tưởng mình đã quên rồi, nàng vốn nghĩ mình đã chuẩn bị tốt rồi, trong cái đêm khắc cốt ghi tâm mùng một tháng tám đó, nàng những tưởng hết thảy nước mắt của mình đã cạn rồi, nhưng mà… Giờ này phút này, nghe thấy Phật âm như tiên nhạc đó, nhìn thấy Đoan Tắc cung giữa hồ đó, mắt nàng lại cay xè, cảm xúc đau thương giống như sương đêm từ từ dâng lên, tầng tầng lớp lớp nhấn chìm cả thể xác và tâm hồn nàng trong đó.

Công tử… chàng có hận ta không?

Là cha và anh rể ta liên thủ, đùng thủ đoạn bỉ ổi nhất hại chết chàng. Còn ta, ta biết tất cả, nhưng lại bó tay trước tất cả, thậm chí không có cách gì báo thù cho chàng… chàng có hận ta không?

Công tử nhất định không hận ta đâu.

Nhưng bản thân ta… không có cách nào… không có cách nào tha thứ cho chính mình!

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, trước mắt bỗng nhòa đi. Từ cái đêm đoạn tuyệt với phụ thân, hai mắt nhỏ lệ máu đó, thi thoảng lại xuất hiện tình trạng mắt bị nhòe trong thời gian ngắn như thế này, nàng tự mình tra cứu y thư, cũng mời Giang Hoài khám, đều nói là do tâm tư ưu phiền tạo thành, chỉ cần nghỉ ngơi hợp lý, giữ cảm xúc cân bằng, là có thể không chữa mà khỏi.

Nhưng cảnh này tình này, làm sao nàng có thể giữ cho cảm xúc cân bằng đây?

Trong lòng đang rầu rĩ đau xót, lại thấy một chiếc thuyền nhỏ xuất hiện trong tầm mắt. Đầu tiên nàng còn tưởng mình nhìn nhầm, vội đưa tay lên dụi dụi mắt, nhìn lại lần nữa, quả thật là một chiếc thuyền.

Đây là lần đầu tiên nàng nhìn thấy thuyền ở đây!

Tuy từ lâu đã biết muốn đến Đoan Tắc cung phải đi thuyền, nhưng xưa nay chưa từng thấy chiếc thuyền nào neo lại bên hồ. Mà Cơ Hốt vốn dĩ cô độc cao ngạo phóng túng, lại ỷ vào sự sủng ái của Chiêu Doãn và sự chống lưng của gia tộc, tuy thân ở hoàng cung, nhưng lại sống như một vị ẩn sĩ mặc tình ngạo nghễ. Nàng ta không qua lại với bất kỳ phi tử nào, cùng lắm chỉ xuất hiện trong đại lễ mà thôi, chính là bậc đại ẩn ẩn mình giữa hoàng cung.

Vì thế, khi nhìn thấy một chiếc thuyền chèo từ phía Đoan Tắc cung ra, Khương Trầm Ngư có chút kinh ngạc và kích động, nàng cố sức mở to mắt nhìn chiếc thuyền đó dần tiến lại gần, trên thuyền có cả thảy hai người, một người chèo thuyền, một người đứng ở mũi thuyền.

Người chèo thuyền thân hình gầy nhỏ, khom lưng, thoáng nhìn cũng biết là một cung nữ bình thường, không hề bắt mắt, nhưng người ở mũi thuyền, cao cao gầy gầy, tuy mặc một chiếc áo trường bào màu đen không thể giản dị hơn, nhưng có thể thấy toát lên hai chữ “phong thái”.

Khương Trầm Ngư thầm ngạc nhiên trong lòng, cảm thấy dường như có gì đó là lạ, nhưng rốt cuộc nghĩ mãi mà không ra lạ ở chỗ nào. Chiếc thuyền nhỏ cập bởi người đó cởi chiếc mũ trùm trên đầu ra, hướng về phía nàng, chắp tay cười nói:

“Đã lâu không gặp, hoàng thượng có khỏe không?”.

Khương Trầm Ngư quay ngoắt đầu lại, ngạc nhiên thấy Chiêu Doãn đang đứng cách nàng không đến ba bước.

Thế nhưng, điều khiến Khương Trầm Ngư càng ngạc nhiên hơn so với việc Chiêu Doãn đến tự lúc nào mà nàng không hay là cuối cùng thì nàng cũng biết mình cảm thấy kỳ lạ ở điểm nào – Người áo đen trên chiếc thuyền nhỏ chèo ra từ Đoan Tắc cung không phải là Cơ Hốt.

Mà là một người đàn ông.

Người đàn ông đó khoảng hơn năm mươi tuổi, dáng dấp gầy guộc, tướng mạo thanh tú.

Sở dĩ không thể dùng hai tiếng “ông lão” để miêu tả, là vì ông ta tuy đã lớn tuổi, nhưng lại không có vẻ gì là già nua, mái tóc bạc như cước lại càng tăng thêm phần tao nhã, hai mắt sáng loáng, phong thái hào sảng. Khi còn trẻ hẳn là một tuyệt thế mỹ nam tử.

Ông ta là ai?

Khương Trầm Ngư còn đang nghi hoặc trong lòng, Chiêu Doãn đã nở nụ cười, tiến lên phía trước mấy bước, chắp tay làm đại lễ đáp lại:

“Đồ đệ bái kiến sư phụ. Sư phụ, người quay về rồi?”.

Sư phụ?

Khương Trầm Ngư cố gắng khống chế bản thân mới không nhảy dựng lên, từng điểm trong cơ thể nàng đều đang sôi sùng sục, đều đang nhảy nhót, đều đang vì hai chữ đó mà kích động, khó mà ngừng được.

Trên đời này chỉ có một người mới đủ tư cách để Chiêu Doãn gọi là sư phụ, đó chính là…

Người suýt chút nữa đã thành sư phụ của y, nhưng khi Hy Hòa phu nhân mang thánh chỉ xuất cung bất ngờ bị ngắt quãng, sau đó vì hành tung phiêu dạt nên không tìm thấy – Suy Ông Ngôn Duệ.

Ngôn Duệ.

Đệ nhất trí giả đương thời.

Người này thông minh từ nhỏ, bác học hiếu lễ, mười sáu tuổi đã làm thừa tướng Nghi quốc, thấy nền canh nông Nghi quốc yếu kém, không phù hơp để phát triển nông nghiệp, ông ta đề xuất quyết sách chọn đất để sinh tiền, sửa đường để mở cõi. Vì thế có thể nói, nền thương nghiệp của Nghi quốc sở dĩ có thể phát triền phồn thịnh, không thể thiếu công lao của người này.

Năm ba mươi chín tuổi đột nhiên ông ta nhiễm bệnh ác tính, thọ không được lâu nên cởi mũ từ quan, đi tìm danh y, danh y chẳng tìm thấy, lại tự điều chế ra một phương thuốc hay, sắc uống dần dần tự trị khỏi bệnh cho mình. Từ đó ông ta giác ngộ triệt để, không theo chính sự, mà mở lớp đạy học ở bốn phương, cùng đệ tử chu du các nước. Rất nhiều học trò của ông đều là cao quan đại thần ở các nước, nhưng người được biết đến nhiều nhất, cũng là kẻ bất tài nhất chính là Diệp Nhiễm.

Cha đẻ của Hy Hòa phu nhân.

Diệp Nhiễm cả đời tầm thường khiến người vợ phải thắt cổ tự vẫn, còn đem con gái của mình ra gán nợ, cuối cùng say rượu sảy chân ngã chết.

Vì thế, khi Khương Trầm Ngư biết người trước mặt này là Ngôn Duệ, phản ứng đầu tiên trong đầu chính là: Ông ta đã đến hoàng cung của Bích quốc, tại sao không gặp Hy Hòa mà lại đến Đoan Tắc cung trước? Lẽ nào, ông ta và Cơ Hốt cũng có giao tình riêng, còn thân thiết hơn cả Hy Hòa? Còn nữa, tại sao ông ta lại đến đúng lúc cầu siêu cho công tử? ở Hồi thành công tử từng nói người này đã mất tích hai năm, không ai tìm ra được, bây giờ lại đột ngột xuất hiện như thế này… Một chuỗi nghi vấn liên tiếp nổi lên, thấy thầy trò hai người họ sắp hàn huyên chuyện cũ, nơi đây không có phần cho nàng, càng không thể giải đáp băn khoăn của nàng, nên nàng liền thỉnh an rồi cúi người lui xuống.

Nàng đến Bảo Hoa cung thăm Hy Hòa, ban nãy lúc nàng rời đi, nàng ta khóc rất dữ. Mà kể ra cũng lạ, loại Phật âm này đen một người thông âm luật như nàng cũng mới được nghe lần đầu tiên, vì thế cũng đâu nhận ra nó có liên quan đến Cơ Anh, còn Hy Hòa điên điên dại dại lại biết, cho nên mới khóc lóc thảm thương như thế.

Giữa Hy Hòa… và Cơ Anh… nhất định có một phần tâm linh tương thông mà người ngoài không thể biết chăng?

Khương Trầm Ngư vừa đi vừa thẫn thờ suy ngẫm, bỗng nàng nhìn thấy một người đang đứng ở cửa Bảo Hoa cung, lặng lẽ nhìn Hy Hòa ở bên trong, gió đêm thối tưng mái tóc và tà váy người đó, dù nghi dung vẫn xinh đẹp như xưa, nhưng khó che nổi vẻ tiều tụy, mới chỉ mười chín tuổi xuân, mà nhìn như hơn ba mươi tuổi vậy.

“Tỉ tỉ?”. Khương Trầm Ngư ngạc nhiên.

Khương Họa Nguyệt đứng trước cửa nghe tiếng quay đầu lại nhìn thấy nàng, không nói gì liền quay người bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vội vàng gọi mấy tiếng: “Tỉ tỉ… tỉ tỉ…”. Thấy nàng ta không đáp, hơn nữa đi càng lúc càng xa, nhất thời rối trí, bèn thét lớn: “Đứng lại!”.

Khương Họa Nguyệt đờ người ra, quả nhiên dừng lại, một lúc sau, nàng ta quay đầu, ánh mắt lạnh băng: “Hoàng hậu nương nương có gì dặn dò? Tiểu phi xin rửa tai lắng nghe”.

Khương Trầm Ngư bước đến trước mặt nàng ta, nghiêm trang hiền hòa nhìn gương mặt rõ ràng thân thuộc mà lại hóa xa lạ, nhớ lại trước đây không lâu người này còn mong chờ ngày sinh nhật lần thứ mười chín, cho rằng tất cả vẫn chưa phải là quá tuyệt vọng, khi hay tin muội muội hồi cung vẫn còn muốn đến thăm… Mà nay, tỉ muội chỉ cách nhau có một bước, mà lại kiếm vung cung giương, chĩa mũi nhọn vào nhau… Hết thảy rốt cuộc là vì sao?

Con người rõ ràng là một loài sinh vật khoan dung, khi mình hạnh phúc, tuyệt đối không muốn oán hận người khác.

Vậy, khi con người bắt đầu oán hận, phải chăng cho thấy họ thật sự quá đau khổ? Đau khổ tới mức phải đi hại người khác mới có thể lấy lại cân bằng?

Vừa nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói:

“Lẽ nào trong hoàng cung thường xuyên chạm mặt này, ti ti muốn đến khi chết già cũng không qua lại với muội sao? Cho đù là tử tù thì trước khi hành hình cũng phải cho hắn được nói, để hắn tâm phục khẩu phục, không còn vương vấn mà ra đi. Nhưng Khương Trầm Ngư tụ hỏi lòng chẳng làm sai điều gì, mà lại bị tỉ tỉ đối xử như vậy, Trầm Ngư không cam lòng”.

Khương Họa Nguyệt phá lên cười nửa mỉa mai nửa lạnh lùng: “Không cam lòng? Hay cho một câu không cam lòng. Muội đã mở lời trước, thế thì ta cũng không giấu nữa. Trầm Ngư, trong cung này không chỉ mình muội không cam lòng; cũng không chỉ mình muội không làm sai điều gì… Mọi người đều biết, muội lẽ nào không biết?”.

Khương Trầm Ngư không ngờ nàng ta sẽ nói như thế, không kìm được sững s ờ.

Mà câu sau của Khương Họa Nguyệt lại càng không thèm kiêng dè gì hơn: “Thành thực mà nói, ta không biết muội đã làm thế nào, đi đến Bích Thủy sơn trang một chuyến rồi quay về không lập công lao, không con nối dõi mà khiến hoàng thượng đặt chiếc mũ phượng của hoàng hậu lên đầu muội, chỉ riêng điểm này, tất thảy các phi tử khác trong cung đều không ngờ tới. Thế nhưng, so với Hy Hòa yêu mị mê hoặc hoàng thượng, mọi người bằng lòng để muội làm hậu hơn, ta cũng thế. Cho dù nói nào, xuất thân, phẩm hạnh của muội đều tốt hơn Hy Hòa mà… Có nhân có trí. Mọi người đều cảm thấy hậu cung rộng lớn này dưới sự lãnh đạo của muội chí ít cũng tốt hơn Hy Hòa. Nhưng mặt khác, thời gian muội vào cung ngắn nhất, nhưng phi tử khác đều đến sớm hơn muội, vì thế tận đáy lòng không cảm thấy thoải mái, cũng là điều khó tránh. Muội đã gánh được cái đanh hiệu quốc mẫu của Bích quốc, thì cũng phải nuốt trôi nỗi đố kỵ oán hận của những kẻ thất bại, đây là điều mà kẻ thắng như muội, nên tự giác biết lấy”.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu cuối cùng, không khỏi có chút ngây ngốc.

Ánh mắt Khương Họa Nguyệt nhìn nàng tràn ngập một mối bi ai, không biết là vì nàng, hay là vì bản thân mình:

“Trầm Ngư, làm người không thể tham lam như thế, muốn có danh lợi lại muốn có cả tình cảm. Muội muốn làm hoàng hậu, thì ắt là… tỉ muội chúng ta không còn tình cảm gì nữa”.

Khương Trầm Ngư cắn môi, bàn tay run run nắm lại, giọng nói dường như lọt qua từ kẽ răng: “Nếu muội không cần ngôi hoàng hậu này, tỉ tỉ tha thứ cho muội chứ?”.

Khương Họa Nguyệt sững sờ.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, không chớp mắt chăm chú nhìn nàng ta, nhắc lại một lần nữa: “Trả lời muội đi, có phải muội không làm hoàng hậu, chúng ta sẽ có thể hòa hợp như xưa không?”

“Muội…”. Khương Họa Nguyệt cảm thấy sợ hãi trước sự chân thành và nghiêm túc của nàng, nhất thời không biết phải trả lời ra sao, trong lòng đang đấu tranh giằng co, thì thấy Khương Trầm Ngư nhếch khóe môi, cười với mình một cái.

Rất khó miêu tả đó là nụ cười như thế nào;

Tựa như khe hở đầu tiên nứt ra từ giữa khối băng trong suốt;

Tựa như sợi chỉ đầu tiên bị rút ra khỏi một tấm lụa bị dệt hỏng;

Tựa như chiếc lá đầu tiên rụng xuống của mùa thu;

Vừa đột ngột, vừa thẳng thắn, vừa rõ ràng lại vừa cương quyết.

Trái tim của Khương Họa Nguyệt run bắn lên. Mà lúc này, Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói dịu dàng, nhưng lời lời kiên nghị: “Muội hiểu rồi… có điều, muội cảm thấy quy tắc trò chơi mà tỉ tỉ nói không công bằng. Nếu người thắng nên tự biết rằng mình sẽ bị người thua hận; thế thì người thua cũng nên có dũng khí cúi đầu xưng thần mới phải, đúng không? Khương quý nhân, ngươi thấy ai gia, tại sao không quỳ xuống? Không bái kiến? Đây là cái ‘tự giác’ của ngươi sao?”.

“Muội!”.

“Nếu tỉ không làm được việc khấu đầu bái kiến muội, thế thì dựa vào cái gì mà muội không thể canh cánh trong lòng về sự thất lễ của tỉ?”.

Mắt Khương Trầm Ngư hoe đỏ, nàng ấm ức nói: “Những lời dưới đây của muội, tỉ tỉ tin cũng được, không tin cũng được, nhưng chung quy muội vẫn phải nói ra: Cho dù cả Khương gia đều nợ tỉ, thì muội Khương Trầm Ngư vẫn không hề có lỗi với tỉ. Cho nên, gặp tỉ, muội muốn nói chuyện với tỉ; tỉ không đếm xỉa đến muội, muội sẽ bám lấy tỉ; tỉ mắng muội muội coi như không nghe thấy, tỉ đóng cửa, muội sai người đẩy cửa; tỉ giả vờ ngủ, muội gọi tỉ dậy…”.

Khương Họa Nguyệt nghe thấy vừa tức giận lại vừa thấy buồn cười: “Muội có biết xấu hổ không đấy?”.

“Nói tóm lại, tỉ đừng có mơ đẩy muội ra nữa!”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, bỗng chạy lại ôm chặt Khương Họa Nguyệt, nghẹn ngào thổn thức:

“Tỉ tỉ! Tỉ tỉ, tỉ tỉ, tỉ tỉ… tỉ tỉ…”.

“Muội, muội…”. Khương Họa Nguyệt không đẩy được, bất lực mà mắng rằng: “Lại còn học được kiểu vô lại này…”.

Mắng nửa chừng không nhịn được bật cười, nhưng nụ cười vừa nhen thì vùng bụng đau nhói, rên rỉ thành hếng. Khương Trầm Ngư vội vàng ngước đầu lên:

“Sao thế?”.

“Đau… đau…”. Khương Họa Nguyệt ôm chặt bụng, cảm thấy càng lúc càng đau dữ dội, lục phủ ngũ tạng như bị thứ gì đó nghiến qua, chốc lát mồ hôi vã ra như tắm.

Khương Trầm Ngư lập tức bắt mạch cho nàng ta, Khương Họa Nguyệt đổ ập lên người nàng, đau đến mức toàn thân kiệt sức, không ngừng rên rỉ:

“Đau… muội muội, ta đau… Ta sao thế này? Có phải ta sắp… chết không?”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư càng lúc càng sáng rỡ, kết hợp với biểu cảm méo mó vì không tin nổi, trên gương mặt chấn động tột độ, cao giọng hét lớn:

“Người đâu! Tuyên thái y! Tuyên thái y…”.

Khương Họa Nguyệt không thể kiên trì đợi thái y đến, trước mắt tối sầm, hoàn toàn không biết gì nữa…

Trong mơ hồ, dường như quay trở lại thời thiếu nữ.

Tuy không ai biết, nhưng trong sâu thẳm nội tâm Họa Nguyệt không thể lừa dối chính mình – Thời thiếu nữ, nàng sống không vui vẻ.

Là thiên kim của tướng phủ sinh ra không cần lo cái ăn cái mặc, vốn dĩ chẳng có gì giày vò đến mức không được vui vẻ. Nhưng một gia tộc lớn thì tất có nhiều thị phi. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng nàng bẩm sinh nhạy cảm, vẫn ý thức được rất nhiều bóng đen âm thầm ẩn nấp dưới vẻ ngoài hòa hợp.

Khi đó, việc nàng thích nhất là tranh sủng với Hiếu Thành. Luôn cảm thấy vì ca ca là con trai, mình là con gái, cho nên mẫu thân thiên vị đại ca. Nhưng từ lúc có muội muội, nàng lại cảm thấy dường như mẫu thân không phải người trọng nam khinh nữ, chí ít so với đại ca ngốc nghếch, mẫu thân còn thích Trầm Ngư thông minh từ nhỏ hơn.

Có điều, Họa Nguyệt cũng thích Trầm Ngư.

Trầm Ngư thuở nhỏ thực sự là một đứa trẻ ngoan ngoãn khiến người ta không thể không yêu quý.

Họa Nguyệt nhớ năm chín tuổi, mẫu thân chuẩn bị dẫn ba bọn họ đi Bồ Đề đài bái Phật, không ngờ đêm trước khi đi, nàng đột nhiên bị trúng gió, sốt cao không giảm.

Mẫu thân đã hẹn với Bồ Tát rồi nên không thể nuốt lời, cuối cùng vẫn phải xuất phát. Một mình nàng nằm trên giường bệnh, ngủ li bì không biết trời đất là gì. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, loáng thoáng có người đi đến bên giường, giở mặt tấm khăn ướt chườm đầu cho nàng. Nàng cứ tưởng là a hoàn, nhưng người đó cởi giày trèo lên giường, chui vào trong chăn.

Nàng mở mắt ra, người đó chính là Trầm Ngư.

Trầm Ngư thấy nàng đã tỉnh, bèn tươi cười với nàng: “Tỉ tỉ, đại phu nói tỉ đỡ sốt rồi, ngày mai có thể khỏi đấy”.

“Sao muội không cùng mẹ đến Bồ Đề đài?”. Nàng rất kinh ngạc, bởi vì đó là chuyến xuất hành mà mẫu thân coi trọng nhất đã có một đứa con vì bị bệnh mà không thể đi, sao có thể cho phép một đứa con khác không đi?

Trầm Ngư dụi cái đầu bé nhỏ của mình vào vai nàng, cười hì hì nói:

“Muội hẹn với Bồ Tát rồi, đợi tỉ tỉ khỏi sẽ đi thăm ngài. Ngài nói được. Cho nên muội ở lại với tỉ tỉ đấy”.

Nói rồi ôm chặt nàng, hai đứa gối đầu lên chiếc gối cùng ngủ thiếp đi.

Khi ấy nàng quá mệt mỏi, nên cũng không nghi ngờ gì, vì thế Trầm Ngư nói sao nàng chỉ biết vậy. Sau này, từ chỗ * nuôi nàng được biết Trầm Ngư sợ nàng ở nhà một mình cô đơn, cho nên nói sao cũng không chịu đi, còn đem đồng xu ra bói, nói với mẫu thân: Nếu cả ba hào đều là đơn, thì Bồ Tát cho Trầm Ngư ở nhà.

Cuối cùng ba đồng tiền xoay tít, quả nhiên cả ba hào đều là đơn.

Thế nên Trầm Ngư được danh chính ngôn thuận ở lại nhà.

Sau này, nàng truy hỏi Trầm Ngư, Trầm Ngư chớp mắt cười cười, móc ra ba đồng tiền đồng đưa cho nàng xem, hóa ra có một đồng hai mặt đều là chữ, mà hai đồng còn lại không có chữ. Cũng có nghĩa là, dù Trầm Ngư tung như thế nào, cũng đều là đơn.

“Muội lấy ở đâu ra thứ đồ này?”.

“Lấy từ chỗ ca ca. Ca ca đã dùng nó để đi đánh bạc với người ta”.

“Thế huynh ấy thấy sao không vạch trần muội?”.

“Huynh ấy sợ mẹ biết huynh ấy đánh bạc cho nên không thể vạch trần muội”.

“Muội… muội đến chuyện Bồ Tát mà cũng dám làm giả…”.

Cuối cùng nàng chỉ có thể viện vào lý đo này để lên lớp Trầm Ngư, không ngờ Trầm Ngư nghe xong, lại giang rộng cánh tay ôm lấy nàng, nũng nịu nói: “Nhưng tỉ tỉ đúng là khỏi bệnh mà. Hơn nữa sau này muội cùng tỉ tỉ đến trước mặt Bồ Tát lễ tạ. Bồ Tát tấm lòng khoan dung, sẽ không tính toán với một tiểu a đầu như muội đâu”.

Năm đó, Trầm Ngư sáu tuổi.

Sáu tuổi mà biết làm nũng, biết giả trá, biết ăn nói khéo léo, khiến người ta chẳng có cách nào trách mắng được.

Nàng cũng chẳng có cách gì. Cho nên đành cùng những người lớn trong nhà để mặc nó thôi. Quên mất Hiếu Thành chỉ lừa nàng mà không lừa Trầm Ngư; quên mất mẫu thân càng yêu thương Trầm Ngư hơn… Khi ấy nàng nghĩ, cho dù thế nào cha cũng không thiên vị.

Không những không thiên vị, mà cha dường như không thích Trầm Ngư nhất, còn yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc đối với Trầm Ngư.

Bài tập phu tử giao cho, rõ ràng Trầm Ngư viết đẹp nhất, nhưng phụ thân vẫn yêu cầu Trầm Ngư viết lại. Kỳ thực trong cầm kỳ thư họa Trầm Ngư không thích đánh đàn, nhưng phụ thân lệnh cho nó mỗi ngày phải luyện một canh giờ, có khi luyện đàn rách cả da tay, Trầm Ngư không chịu được bật khóc, nàng nhìn thấy đau lòng, chạy đi cầu xin phụ thân, phụ thân lại lạnh lùng nói một câu “Lâu dần sẽ không bị rách da nữa”.

Khi đó nàng nghĩ, phụ thân thật hà khắc với Trầm Ngư, Trầm Ngư thật đen đủi.

Nhưng bây giờ nhớ lại, từ đó có thể nhận ra: Đó rõ ràng là cách đào tạo hoàng hậu, để đào tạo Trầm Ngư… cũng tức là trong ba đứa con, người phụ thân yêu nhất… chính là Trầm Ngư.

Năm mười bốn tuổi, nàng ý thức được mình đã thích Tất sư gia đang đi theo phụ thân, chàng luôn mặc một chiếc trường bào màu lam nhạt, có thêu hoa văn lá trúc, giữa hai hàng lông mày còn có một vết bới, dáng vẻ tiên phong đạo cốt, thực không giống với những người khác. Nhưng chàng lại luôn giả vờ không hay biết tấm chân tình của nàng, thậm chí còn trốn tránh nàng từ quan viễn hành, trước lúc đi, còn tặng cây đàn của mình cho Trầm Ngư… Lúc đó, nàng buồn biết bao nhiêu, buồn đến mức chẳng ăn nổi cơm. Nửa năm sau, hoàng cung bắt đầu tuyển tú nữ, nàng bị chọn làm một trong số tú nữ đó. Mẫu thân khuyên nhủ nàng cả đêm, nói nàng có số trời định làm nương nương.

Được, dẫu sao nàng cũng chẳng còn hy vọng gì với Tất sư gia, đời này nàng cũng không thể được bạc đầu bên người trong lòng mình thích, thế thì chọn một chàng rể phú quý nhất để được hãnh diện, để khiến tất cả mọi người đều phải ngưỡng mộ nàng, cung kính nàng.

Thế là nén chặt cõi lòng, nàng bước vào hoàng cung. Cũng chính là đêm đó, lần đầu tiên nàng nhìn thấy tân đế của Bích quốc – Chiêu Doãn.

Tuy vẫn biết hoàng thượng chỉ lớn hơn nàng nửa tuổi, nhưng khi tấm khăn đỏ được lật ra, gương mặt lọt vào tầm nhìn lại là thiếu niên anh tuấn như thế, vẫn khiến nội tâm nàng bị chấn động tột độ.

Nụ cười của y với nàng, đến cái chớp mắt cũng đầy tình cảm.

Y kéo nàng lại, đầu ngón tay đầy dịu dàng.

Một trái tim thiếu nữ đã bị đắm chìm trong đó, khó mà thức tỉnh.

Một phần nào đó đã mất đi trên người Tất sư gia, dường như lại được bù đắp trên người Chiêu Doãn, hơn nữa, lại càng khắc cốt hơn, càng ghi tâm hơn so với Tất sư gia.

Người nhà thấy nàng ghen với Hy Hòa, chỉ coi là vì tranh vị, mà không biết, nàng thật sự hận Hy Hòa đã cướp đi Chiêu Doãn. Từ khi Hy Hòa vào cung đến nay, trong mắt Chiêu Doãn chỉ có ả, chỉ nhớ nhung ả. Khiến cho nàng, một người cũ, sao có thể cam tâm Dẫu luôn biết rằng hậu cung tàn khốc không có tình yêu lâu bền, biết rằng hoàng đế không thể chỉ thuộc về một người, nhưng Chiêu Doãn đối với nàng mà nói, y chưa bao giờ là hoàng thượng, y thực sự là nam nhân đầu tiên cũng là nam nhân đuy nhất của nàng.

Nếu nói sự xuất hiện của Hy Hòa là bắt nguồn từ số mệnh của hậu cung, dẫu nàng không cam tâm nhưng cũng phải cắn răng nhận lấy, ai có thể cười đến cuối cùng tùy bản lĩnh mỗi người. Nhưng Trầm Ngư thì sao? Tại sao Trầm Ngư cũng bị cuốn vào? Thành đối thủ đáng sợ hơn cả Hy Hòa? Cuộc đấu của nàng và Hy Hòa, chí ít gia tộc cũng đứng về phía nàng, nhưng tranh chấp giữa nàng và Trầm Ngư? Phụ thân, ca ca sẽ giúp ai, câu trả lời vô cùng rõ ràng… Ông trời thật tàn nhẫn, biết nàng sợ cái gì nhất, liền tặng cho nàng cái đó; biết nàng muốn cái gì nhất, liền không cho nàng cái đó… hết lần này đến lần khác khiến nàng đau lòng…

Tại sao?

Tại sao?

Thứ mà Khương Họa Nguyệt nàng mong ước xưa nay, chẳng qua cũng chỉ là một phu quân chung tình son sắt một gia đình ấm cúng đoàn viên…

“Tỉ tỉ? Tỉ tỉ…”. Giọng nói êm tai trong trẻo xuyên qua làn sương mù dày đặc, dịu dàng truyền tới.

Khương Họa Nguyệt từ từ mở mắt ra, lúc đầu tầm nhìn mờ mờ, chỉ có thể thấy một ngọn đèn đang đung đưa, theo đó, trong ánh đèn gương mặt của một người dần dần rõ nét, chăm chú nhìn Họa Nguyệt, mỉm cười rạng rỡ, trong nụ cười còn mang theo vài phần mừng rõ. Dịu dàng mà xinh đẹp.

Là Trầm Ngư… Là người mà nàng quan tâm nhất cũng sợ hãi nhất, muốn thương yêu nhất cũng muốn đố ky nhất trên đời này…

Cảm giác chua xót trong mộng đó vẫn còn lẩn quẩn trong trái tim, Khương Họa Nguyệt lặng nhìn Khương Trầm Ngư ngồi ở đầu giường, cổ họng giống như bị một thứ gì đó bít chặt, nói không nên lời.

Khương Trầm Ngư lao tới ôm chặt bờ vai nàng ta, cực kỳ sung sướng vừa khóc vừa nói: “Tỉ tỉ! Tỉ có thai rồi! Chúc mừng tỉ, tỉ tỉ! Tỉ có thai rồi!”.

Khương Họa Nguyệt cả kinh, trí não hoàn toàn trống rỗng, lúc lâu sau mới phản ứng lại, giọng run run nói: “Muội…nói gì?

“Muội nói, tỉ tỉ, tỉ có thai rồi, muội đã tìm Giang thái y đến kiểm tra cho tỉ, chứng thực không phải là nhầm lẫn…”.

Phía sau Khương Trầm Ngư, Giang Hoài đứng ra, cúi người quỳ xuống nói: “Chúc mừng quý nhân, chúc mừng quý nhân, quý nhân thực sự có thai được ba tháng rồi”.

Cả người Khương Họa Nguyệt run bắn lên, tóm chặt tay muội muội, mấy lần há miệng định nói, nhưng không nói nổi lên lời. Tin này thực sự gây cho nàng ta một nỗi chấn động quá lớn, lớn đến mức dù cho có sự đảm bảo của thái y nàng ta vẫn không thể tin nổi.

Nàng ta… rõ ràng, rõ ràng là… không thể mang thai… các thái y trước đây đều nói như thế, Giang Vãn Y cũng nói như thế. Sao, sao đột nhiên… đột nhiên lại có?

Đây, đây, đây…

“Tỉ tỉ…”. Khương Trầm Ngư ôm lấy nàng ta, nhìn sâu vào mắt nàng ta, nhẹ nhàng nói:

“Tỉ tỉ, đây là tin tốt lành đúng không? Ông trời cuối cùng cũng nổi lòng thiện, đền bù cho tỉ tất cả những gì tỉ thua thiệt rồi”.

Sau cùng Khương Họa Nguyệt đã không thể kìm nén nổi, òa lên khóc hu hu, ôm chặt Khương Trầm Ngư, nghẹn ngào nói:

“Muội muội! Muội muội! Ta có con rồi! Ta có con rồi!”.

“Chúc mừng tỉ, tỉ tỉ. Thực sự chúc mừng tỉ”.

Khương Trầm Ngư nói tới đây, trăm ngàn cảm xúc đan xen trong lòng. Một mặt cố nhiên là mừng cho Họa Nguyệt, ai có thể ngờ Họa Nguyệt lại có thể có con, nàng ta đã tìm biết bao kỳ phương diệu dược nhưng đều vô ích, đã không còn hy vọng, bỗng dưng lại hoài thai rồng? Mặt khác, đây lại là sự mai mỉa đối với thế sự vô thường.

Quả thật là… người tính không bằng trời tính.

Phụ thân tính toán bao nhiêu như thế, muốn để nàng trở thành hoàng hậu, nhưng cuối cùng sở dĩ hoàng thượng phong hậu cho nàng, lại là vì nàng đã cắt đứt với phụ thân.

Phụ thân vứt bỏ Họa Nguyệt, thậm chí Họa Nguyệt cũng bỏ mặc chính mình nhưng ông trời không bỏ mặc nàng ta, trong lúc nàng ta tuyệt vọng nhất, lại đem đến cho nàng ta sự bù đắp lớn nhất…

Người tính có mấy khi có thể đấu lại với trời?

Nhưng cho dù thế nào, đây thực sự là chuyện vui tốt nhất trong thời gian gần đây.

Quá tốt rồi, tỉ tỉ.

Thật sự… quá tốt rồi…

Niềm vui này của Khương Trầm Ngư vẫn không hề giảm bớt khi nàng đến ngự thư phòng tối nay, thấy Chiêu Doãn vùi đầu trong đống tấu sớ, cũng càng nhìn càng thuận mắt hơn; nam nhân này nếu bỏ thân phận tôn quý của đế vương qua một bên, thì nghi dung cũng vào hàng xuất sắc đệ nhất. Lông mày sắc nét, mũi thẳng, phối hợp với chiếc cằm nhòn nhọn, tướng mạo khá là đẹp. Mà thứ đẹp nhất của y chính là cặp mắt, đồng tử màu trà ấm áp, luôn chất chứa nét cười long lanh, hàng mi vừa dài vừa dày, lúc cụp lúc nhướng, cực kỳ rung động lòng người.

Đứa trẻ do y và tỉ tỉ sinh ra, cho dù giống ai, đều vô cùng xinh đẹp… Nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư không nén được mỉm cười.

Mà nụ cười ấy bị ánh mắt Chiêu Doãn bắt được, y liếc nàng một cái: “Có chuyện gì mà cười tươi thế?”.

“Lẽ nào hoàng thượng không vui? Họa Nguyệt… mang thai rồng rồi”. Chiêu Doãn nhếch môi cười nhạt: “Vui”. “Hoàng thượng không thực sự vui”.

Chiêu Doãn thấy Khương Trầm Ngư lộ vẻ không vui như một cô gái nhỏ, điều này thật hiếm có, y bất giác cười “phì” nột tiếng, lúc này, lông mày mới giãn ra, mắt nheo lại, mới là cười thực sự:

“Thật là hoàng đế không vội, thái giám vội. Người sắp làm phụ thân là trẫm, nhưng nàng còn kích động hơn cả trẫm”.

“Đương nhiên là kích động rồi, thiếp sắp được làm dì đó”.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia dị sắc, lại cười, nhưng có thêm vài phần lạnh nhạt: “Làm dì không hay, nàng vẫn nên nghĩ làm mẫu hậu như thế nào cho tốt đi”.

Khương Trầm Ngư ngây người. Câu này của hoàng thượng là ý gì?

Cây bút lông trong tay Chiêu Doãn chưa dừng lại, y vừa phê tấu chương, vừa bình tĩnh nói:

“Nếu nàng thật sự thích đứa trẻ đó, thế thì đợi Họa Nguyệt sinh xong sẽ cho nàng nuôi dưỡng, đó mới là cách tốt nhất đối với nó”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình, giống như một tảng đá lớn, không kịp phòng ngự đã chìm nghỉm.

Hoàng thượng rõ ràng biết Họa Nguyệt vô cùng muốn có một đứa con, nếu ai đó cướp đi đứa con của nàng ta, nàng ta chắc chắn sẽ phát điên, tại sao lại nói như vậy? Lẽ nào cảm thấy minh là hoàng hậu không có con nối dõi thì danh bất chính ngôn bất thuận sao? Hay là đúng như lời y nói, điều đó thực sự tốt cho đứa trẻ? Lẽ nào có người muốn hại đứa trẻ?

Nhất thời, trái tim nàng hỗn loạn, nàng không kìm được cất tiếng hỏi: “Hoàng thượng, thần thiếp không hiểu”.

Chiêu Doãn lại nhìn nàng một cái, trên mặt lộ vẻ thương xót, vẫy vẫy tay với nàng.

Khương Trầm Ngư vội vàng bước lại gần.

Hôm nay nàng mặc chiếc áo lụa màu hồng nhạt, chân váy và tay áo dài bị gió thổi tung, phong thái trông thật yểu điệu, rung động lòng người. Ngũ quan cũng xinh đẹp vào hàng bậc nhất, so với lúc mới tiến cung đã trưởng thành hơn rất nhiều, tựa như một đóa hoa, qua giai đoạn chúm chím, đang nở bừng rực rỡ.

Nhưng nàng ngẩng đầu, ngước mắt, đáy mắt trong veo, vẫn ngây thơ như một đứa trẻ.

Quả nhiên… vẫn là một đứa trẻ.

Chiêu Doãn thầm thở dài trong lòng, đưa tay vuốt mái tóc nàng, chậm rãi nói: “Đứa con đầu tiên của trẫm là tâm điểm chú ý của muôn vàn cặp mắt, nếu như sinh ra là con trai, thì theo luật lệ của triều ta, nó sẽ là thái tử. Có thể nói, đây là nhân tố quan trọng kéo một sợi tóc mà lay động toàn thân. Cho nên, có rất nhiều người mong đợi sự ra đời của nó, ngược lại cũng có vô số người hy vọng nó không ra đời. Trước những lợi ích đó, đứa trẻ này sẽ rơi vào vòng nguy hiểm”.

Nói đến đây, trong đáy mắt nói lên mấy phần âm u, lạnh lùng nói tiếp: “Nàng cho rằng đứa con đầu tiên của trẫm, vì sao mà mất đi?”.

Đứa con đầu tiên của y? Lẽ nào không phải là… A! Khương Trầm Ngư đột nhiên nhớ ra, Chiêu Doãn đã từng có một đứa con, mà đứa trẻ này cũng mất đi ngay trước mặt nàng.

Ngày hôm đó, nàng vào cung gảy đàn, Hy Hòa phu nhân đột nhiên thổ huyết, sau đó Cơ Anh dẫn Giang Vãn Y vào cung, sau đó, Giang Vãn Y tuyên bố Hy Hòa sảy thai, hoàng thượng nổi cơn thịnh nộ… Đó là lý do Tiết thị diệt vong, vì chuyện này mà về sau rất nhiều người nói sảy thai chỉ là cái cớ mà hoàng thượng và Giang Vãn Y thông đồng với nhau tuyên bố ra bên ngoài, mục đích là để hãm hại Tiết Minh.

Nhưng nghe ý tứ của Chiêu Doãn lúc này, dường như Hy Hòa thực sự từng mang thai? Hơn nữa còn thực sự bị mất?

Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn Chiêu Doãn, nhất thời, không biết nên nói gì?

Còn Chiêu Doãn lại tỏ vẻ không muốn nói thêm về chuyện này, y gập tấu chương lại nói: “Đến lúc rồi, chúng ta vào Bách Ngôn đường, nghe xem tin tức báo về từ phía Giang Đô thôi”.

Khương Trầm Ngư liền dạ một tiếng, cùng y bước vào Bách Ngôn đường, bảy người khác đã đến đủ, thấy họ vào trong, lần lượt đứng dậy khấu bái.

Chiêu Doãn đưa Khương Trầm Ngư vào ghế, mới vừa. Ngồi yên, người áo tím ngồi ở cuối cùng đã lên tiếng báo cáo: Sáu bảy ngày bảy đêm ngựa không dừng bước, Tiết Thái và Khương Hiếu Thành cuối cùng đã đến Giang Đô vào hồi giờ Dậu một khắc ngày mười chín tháng chín”.

Người áo xám ngạc nhiên kêu lên: “Bảy ngày đã tới? Làm sao đi được?”.

Đây cũng chính là điểm nghi vấn của Khương Trầm Ngư và Chiêu Doãn.

Chuyến này đi Giang Đô tuy không phải là ngàn dặm xa xôi, nhưng cũng tương đối xa, bình thường cũng phải một tháng mới tới nơi. Mà hai người này sao lại mất có bảy ngày đã tới?

Người áo tím cung kính đáp: “Là như thế này, trước khi xuất phát, Tiết Thái lệnh cho chọn bốn con ngựa thiên lý tốt nhất, lại chọn một cỗ xe ngựa nhẹ và khéo nhất, tất cả vật dụng trên xe vứt đi gần hết, chỉ trải một tấm da mềm nhất, chuẩn bị một bao lương khô nước sạch lên xe là ngủ. Lại chọn hai phu xe, lần lượt thay nhau, mỗi người đánh xe sáu canh giờ. Sau một ngày một đêm đến thành trì thiếp theo, lập tức đối bốn con ngựa tốt, hai phu xe khác, tiếp tục lên đường. Cứ như thế ngựa phi không dừng vó đã đến được Giang Đô”.

Khương Trầm Ngư không khỏi tặc lưỡi khen giỏi trong lòng. Cách này nghe có vẻ dễ làm, nhưng thực hiện vô cùng khó khăn, bảy ngày bảy đêm đều phải ở trên cơ xe ngựa lao đi với vận tốc cực nhanh, đói cũng chỉ có thể ăn lương khô, còn phải khống chế ăn uống một cách nghiêm khắc, tránh lãng phí quá nhiều thời gian đi vệ sinh, Tiết Thái cũng thật là, hắn vốn là một đứa trẻ có khả năng nhẫn nhịn, nhưng không biết hắn làm thế nào mà ca ca cũng có thể chịu được, ngoan ngoãn ngủ đến tận Giang Đô.

Người áo tím dường như đọc được tâm tư của nàng, nói tiếp: “Nghe nói Khương đại nhân mới ngủ có nửa ngày đã không chịu nổi, một mực kêu đau lưng”.

Khương Trầm Ngư che miệng, đó mới là ca ca của nàng.

“Cho nên, đến lần thứ hai Khương đại nhân kêu đau, Tiết Thái liền đánh ngất đại nhân”. Người áo tứn nói đến đây, dường như cũng hơi buồn cười, nhưng vẫn phải cố nén, vì thế lộ rõ vẻ hóm hỉnh: “Chính vì thế, Khương đại nhân ngất suốt dọc đường đến Giang Đô…”.

Chiêu Doãn liếc Khương Trầm Ngư một cái, cười nói: “Cho dù đi thế nào, đến được là tốt. Tiếp tục nói đi”.

“Vâng”. Người áo tím lấy một quyển sổ tay từ trong người mở ra đọc: “Giờ Dậu hai khắc, hai người Tiết Khương tắm rửa, thay áo xong đẹp; giờ Dậu ba khắc, hai người đến đự tiệc ở phủ đệ của thành chủ Giang Đô – Quan Đông Sơn, và nói rõ sẽ đi Ngọc Giang lâu chơi…”.

Khương Trầm Ngư hỏi xen vào: “Ngọc Giang lâu là?”.

Người áo xám trả lời thay: “Là chốn phong nguyệt nơi tiếng ở nơi đó, vì mỹ nhân nhiều mà được đặt tên như vậy, cùng với Hồng Tụ lâu của kinh Đô, Khổng Tước lâu của La Sơn, là một trong Bích quốc tam tứ”.

Chiêu Doãn phì một tiếng: “Tam tú cái gì, Bích quốc đã đến mức phải dựa vào phong nguyệt yên hoa để giữ thể diện rồi à?”.

Người áo xám vội đáp: “Thần lập tức thảo chỉ ban lệnh xóa bỏ cách nói đó”.

“Được rồi. Những thứ này, càng cấm càng lan rộng, cứ kệ chúng đi”. Chiêu Doãn cau mày: “Tiếp tục”.

Người áo tím đọc: “Giờ Tuất, một hàng người đến Ngọc Giang lâu, những nhân vật nổi tiếng của bản địa cũng lần lượt xuất hiện, tất cả mọi người đều không biết hai vị khâm sai đại thần chuẩn bị làm gì, lúc mới bắt đầu đều thấp thỏm không yên, nhưng rượu được nửa tuần Quan Đông Sơn sán lại thăm dò ý tứ, Khương Hiếu Thành cười ha ha nói:

“Trời muốn đại hạn là việc không thể thay đổi được. Hoàng thượng phái hai người chúng ta tới, chẳng qua cũng chỉ là hình thức mà thôi. Yên tâm đi, hoàng thượng đã sớm chuẩn bị năm trăm vạn lượng bạc để mua lương thực, chúng ta đi trước, ngân lượng theo sau. Chúng ta đợi nhận tiền ở đây, đến lúc đó sẽ mở kho cứu dân, thành chủ ngươi giải quyết vấn đề thật tốt, hai anh em ta cũng trở về báo cáo vẻ vang”.

Nói đoạn, lại tiện tay ban thưởng một trăm lượng bạc bằng ngân phiếu cho một tiểu a hoàn bưng đồ ăn.

Chiêu Doãn lườm Khương Trầm Ngư một cái: “Ca ca của nàng có nhiều tiền thật đấy”.

Khương Trầm Ngư mím môi cười nói: “Sao có thể hào phóng bằng hoàng thượng, một lần ra tay là năm trăm vạn lượng”.

Hai người nhìn nhau, cùng bật cười.

Quốc khố không có bạc, họ rõ như lòng bàn tay, nhưng văn võ bá quan lại không hề hay biết. Khương Hiếu Thành và Tiết Thái đi cứu nạn chuyến này thực hai tay trống không, một chinh tiền cũng không có, nhưng lại thể hiện dáng vẻ tự tin có thừa, lưng dắt vạn lượng, rõ ràng là đang dàn cảnh. Kế sách kiểu này, Khương Hiếu Thành quyết không thể nghĩ ra. Chiêu Doãn gật đầu than nhẹ: “Tiết Thái quả nhiên là một tên tình quái…”

Mọi người vừa nghe xong câu này, trái tim vốn dĩ treo lơ lửng đều được hạ xuống, thoải mái chè chén, chúc tụng lẫn nhau. Trong bữa tiệc, Tiết Thái bỗng nói: “Từ lâu nghe tiếng Giang Đô giàu có, ngày hôm nay được thấy mới biết là giàu đến mức này mọi người không hiểu vì sao, cho nên lần lượt hỏi thăm, hắn bèn chỉ tay vào một con chó coi cửa ở cách đó không xa, nói: ‘Đến cái đĩa đựng thức ăn cho súc sinh cũng quý giá như thế’.

Mọi người cảm thấy kỳ lạ, vội chạy qua xem, cái đĩa vỡ bẩn đến nỗi không nhìn ra hoa văn, đâu có gì quý giá? Có người lòng đầy nghi hoặc, bèn đem cái đĩa đó đi rửa sạch, vẫn là một cái đĩa sứ men xanh rất tầm thường, nhìn không ra dấu vết gì. Cuối cùng vẫn là Tiết Thái bước lên phía trước, múc nước đổ lên đã, rồi đặt dưới đèn…”.

Người áo tím mồm miệng lanh lợi, giọng nói lên bổng xuống trầm, miêu tả sinh động, giống như kể chuyện, khiến người ta mải mê nghe. Vì thế, hắn vừa dừng lại, ngay lập tức có người hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”.

“Kể cũng kỳ lạ, chiếc đĩa đó vốn có màu xanh, nhưng đựng nước rồi bị ánh đèn chiếu vào lại nở ra một đóa mẫu đơn, gợn nước lay động, đóa mẫu đơn đó lại đổi sắc giống như đang nở bung vậy. Mọi người thấy cảnh tượng lạ lùng, không khỏi tặc lưỡi, lại đi tìm tiểu nhị của Ngọc Giang lâu đến hỏi, y cũng không biết chiếc đĩa mình cho chó ăn lại thần kỳ đến như thế. Mà điều càng khiến người ta kinh ngạc hơn là Tiết Thái, hắn chỉ đứng từ xa nhìn một cái mà có thể phân biệt được ra sự trân quý của chiếc đĩa đó, nhãn lực chừng ấy, không ai có mặt là không tâm phục khẩu phục”.

Chiêu Doãn cười hì hì: “Nhãn lực ấy… có chút ít thôi, nhưng bản lĩnh diễn trò mới là tinh túy thượng đẳng”.

Người áo tím quỳ xuống bái phục nói: “Hoàng thượng thánh minh”.

“Được rồi được rồi, mấy lời xưng tụng này bới đi vẫn hơn. Mau nói xem, Tiết Thái bày trò lừa gạt bọn người giàu có đó như thế nào”.

Người áo tím cười ngượng ngập mấy tiếng, giọng sang sảng nghiêm trang nói: “Màn kịch lớn đó, Tiết Thái không chỉ diễn một tối, mà điễn suốt ba ngày liền…”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười bảy : Tân hậu (Phần 1)

“Tiết công tử quả nhiên không hổ là Băng Ly công tử được Yên vương ngự ban, kiến thức khác hẳn người bình thường”.

“Đúng thế đúng thế, sinh nhật công tử lên sáu, tiểu nhân có may mắn nhận được một tấm thiệp, còn đen quý phủ thăm hỏi, không biết công tử có còn ấn tượng không…”.

Tiết Thái nghe những lời tâng bốc thật thật giả giả này, chỉ mỉn cười nhàn nhạt, bỗng quay sang mỹ nhân đang tiếp Khương Hiếu Thành uống rượu ở bàn bên cạnh nói: “Chiếc vòng của vị cô nương đây đẹp quá…”.

Câu nói này khiến cho tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn ánh mắt lên người mỹ nhân. Mỹ nhân nhận được sự chú ý, càng cảm thấy vui vẻ, mỉm cười xinh đẹp, nói: “Tiểu công tử nhãn lực tốt. Chiếc vòng này…”.

Nói đoạn đánh mắt sang nhìn Quan Đông Sơn, che miệng cười: “Đây là bảo bối gia truyền nghe nói là ngọc Băng Hoa Phù Dung chính tông, giá trị khuynh thành đó”.

Tiết Thái: “Có thể cho tại hạ mượn xem một chút không?”.

Mỹ nhân rất sảng khoái, vui vẻ tháo vòng đưa cho Tiết Thái.

Tiết Thái cầm lên xem kỹ một lượt, đưa trả lại cho nàng ta, trên mặt có chút cổ quái. Mỹ nhân không kìm được hỏi:

“Tiểu công tử như vậy là có ý gì? Chiếc vòng này có gì lạ à?”.

Tiết Thái than nhẹ rằng: “Cái gọi là báu vật gia truyền, quý ở tâm ý. Có tâm là tốt rồi, hà tất phải để ý ở giá trị thực sự của nó”.

Kỳ thực hắn không nói không sao, nói như vậy, mỹ nhân đương nhiên không chịu bỏ qua, liền truy hỏi: “Công tử có gì xin cứ nói thẳng, chiếc vòng này lẽ nào không phải là ngọc Băng Hoa Phù Dung?”.

Tiết Thái trầm giọng đáp:

“Mọi người đều biết loại ngọc này do Dương quý phi đặt tên, tín vật định tình Đường Minh Hoàng tặng cho Đương thị năm xưa chính là loại ngọc này, tên thuở nhỏ của quý phi là Phù Dung, lại thêm hoa văn của nó giống như băng rạn, cho người đời sau đặt tên là Băng Hoa Phù Dung. Loại ngọc này có màu sắc vô cùng hiếm gặp loại màu tím hồng này là phần được hình thành ở giữa suối, đeo lâu ngày có thể dưỡng nhan trắng da, cho nên lại càng trân quý lạ thường”.

Mọi người gật đầu lia lịa.

“Cũng vì thế, kẻ làm giả chúng vô cùng nhiều, tay nghề tinh xảo, thậm chí có thể lấy giả đổi thật”.

“ý của công tử là chiếc vòng của ta là đồ giả?”.

“Là giả hay thật, nhìn cái là biết…”. Tiết Thái nói đoạn, đảo mắt nhìn quanh, nói với một mỹ nhân khác: “Có thể cho tại hạ mượn chiếc vòng của cô nương một lát không?”.

Mỹ nhân đó liền vội vàng tháo chiếc vòng của mình đưa cho hắn, đó là một chiếc vòng bằng bạch ngọc. Hai chiếc vòng chồng lên nhau, hai màu trắng hồng lại càng đẹp mắt. Tiết Thái chồng hai chiếc vòng lên nhau xong bắt đầu cọ xát chúng, một lúc sau lại đem hai chiếc vòng đưa cho mỹ nhân thứ nhất: “Ngửi xem”.

Mỹ nhân thứ nhất hít nhẹ một cái, kinh ngạc kêu lên: “Đây là mùi gì?”.

“Mùi của đá nhân tạo”. Tiết Thái giải thích: “Mùi này toát ra từ chiếc vòng của cô nương, điều này cho thấy, chiếc vòng của cô ta là thật, còn của cô nương là giả”.

Mỹ nhân đột nhiên phù dung thất sắc, quay đầu nhìn sang Quan Đông Sơn, Quan Đông Sơn vội vã ngoảnh sang chỗ khác làm bộ nói chuyện với người khác, khiến mỹ nhân vừa tức vừa thẹn, lập tức ném chiếc vòng đó đi, khóc òa lên rồi chạy mất.

Cả sảnh đường cười ầm lên.

Mà thái độ của mọi người ở đó lập tức khác hẳn đi. Tuy Tiết Thái và Khương Hiếu Thành cùng là khâm sai đến Giang Đô lần này, những kẻ quyền quý kia lại chủ yếu nịnh bợ Khương Hiếu Thành, khi giáp mặt với Tiết Thái, luôn có ít nhiều gượng gạo bối rối.

Tiết tộc diệt vong, đến nay người nhà họ Tiết có thể nói chỉ còn lại hai người, phế hậu trong lãnh cung Tiết Mính và quan khâm sai nhưng thực chất vẫn là nô lệ Tiết Thái. Mọi người không dám quá thân thiết với hắn, cũng là lẽ thường tình của con người.

Nhưng hắn giở chiêu này, mọi người thán phục trong lòng, cũng không còn kiêng dè nhiều, lần lượt tiến lên bày tỏ sự ngưỡng mộ và mời hắn về nhà làm khách.

Tiết Thái không từ chối một ai, gật đầu đồng ý hết.

Đêm đó, hắn và Khương Hiếu Thành ở lại phủ đệ của thành chủ, nhân tiện tham quan thư phòng của Quan Đông Sơn một chút, khi Quan Đông Sơn bày những bức thư họa sưu tầm nhiều năm ra, hắn chỉ mỉm cười không nói, cũng không phát biểu bất cứ suy nghĩ gì.

Ngày thứ hai, đi đến làm khách ở các nhà quyền quý nổi tiếng cũng vậy.

Ngày thứ ba, vẫn như thế.

Thực ra mọi người mời hắn, ngoài việc bợ đỡ , lấy lòng ra, còn có mục đích muốn hắn dùng tuệ nhãn để giám định đồ quý nhà mình. Nhưng hắn nhìn tới nhìn lui, vẫn không phát biểu ý kiến, thật khiến cho người ta buồn bực. Cuối cùng vẫn là Quan Đông Sơn không nhịn nổi đầu tiên, hỏi: “Tranh chữ của nhà ta không lọt vào mắt xanh của công tử à? Tại sao công tử không chịu bình luận gì hết?”.

Tiết Thái thong thả cười nói: “Vì sao Quan đại nhân thích tranh chữ?”.

“Tại sao thích à? Cái này… chính vì thích thôi…”.

Tiết Thái lại nói: “Quan đại nhân đã tiêu không ít tiền vì những bức tranh chữ này phải không?”.

“Đương nhiên, công tử không biết chứ, số tranh chữ này còn quý hơn cảim ngân châu báu gì đó…”. Nói đến đây, Quan Đông Sơn chợt nhớ ra thân phận của đối phương, liền phân bua: “Nhưng những thứ này của hạ quan, đều nhờ người ta mua, cho nên vẫn rất rẻ, vẫn rất rẻ, hi hi…”.

“Có đến mười vạn lượng không?”.

“Không có! Tuyệt đối không có!”. Quan Đông Sơn lắc đầu nguầy nguậy như lắc trống bỏi.

“Quan thành chủ có biết chỉ một bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này, nếu đúng là bút tích của Cố Khải Chi, chí ít giá trị cũng phải năm vạn lượng trở lên không? Đấy là chưa kể đến giá cả sau khi bị bọn gian thương nâng giá”.

Quan Đông Sơn nghe thấy thế hai mắt sáng lên: “Thật à, thật à? Thế thì xem ra quả nhiên bỉ chức kiếm được món hời rồi, tốn có ba vạn lượng bạc đã mua được”.

Tiết Thái cúi đầu, nhướn mày cười một cái: “Cho nên, đây chắc chắn là giả”.

Vẻ mặt Quan Đông Sơn vốn dĩ đang phấn chấn bỗng biến thành sửng sốt: “Cái gì? Khoan đã, Tiết công tử, tại, tại sao lại khẳng định đây là giả?”.

“Bởi vì rất không may, theo ta được biết có một người vô cùng yêu tranh chữ, hơn nữa tài lực thế lực của người đó còn vượt xa đại nhân. Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này, người đó đã nới sẽ mua với giá mười vạn lượng từ ba năm trước. Nếu đại nhân là chủ nhân của bức tranh này, có ý bán nó, liệu ngài có thể không cần mười vạn lượng mà chỉ ba vạn lượng đã bán cho người khác không?”.

Quan Đông Sơn giọng run run nói: “Nhưng, nhưng ta và người đó có giao tình!”.

Tiết Thái cười nhạt.

“Tiết, Tiết, Tiết công tử?”.

Tiết Thái quay người nhìn lên đám mây trên bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Nhớ năm xưa, gia phụ cũng cho rằng mình có giao tình với rất nhiều người, muốn thứ gì chỉ cần dặn dò là trăm người hưởng ứng, người người tranh nhau làm. Nhưng khi ông xảy ra chuyện, không có một ai dám đứng ra giúp đỡ, giao tình… Quan thành chủ, ngài lăn lộn chốn quan trường đã bao năm, vẫn còn tin vào hai chữ ‘giao tình’ sao?”.

Mặt Quan Đông Sơn lúc trắng lúc đỏ, cực kỳ bối rối, nhưng vẫn cố gắng vớt vát nói: “Chỉ dựa vào giá thành, không thể suy đoán nó chắc chắn là giả được?”.

Tiết Thái quay người lại, cầm lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ”, giở ra nói:

“Thành chủ xem, chúng ta đều biết bức tranh này vẽ dựa vào quyển thứ ba ‘Nhân Trí truyện’ trong bộ ‘Liệt nữ truyện’, sau mỗi phần tranh vẽ đều có ghi lời ngợi khen, chú rõ nhân vật nào, tổng cộng có mười lăm bức”.

“Không sai là mười lăm bức”.

“Sai chính ở chỗ này”. Tiết Thái than khẽ, nói: “Trên thực tế, trải qua chiến tranh hỏa hoạn, những bức họa này ngoài bảy bức ‘Sở Vũ Đặng Mạn’, ‘Hứa Mục phu nhân’, ‘Tào Hy thị thê’, ‘Tôn Thúc Ngạo mẫu’, ‘Tấn Bá Tông thê’, ‘ Linh Công phu nhân’, ‘Tấn Dương Thúc Cơ’ còn được bảo tồn hoàn chỉnh, còn lại đã bị mất. Mà những bức thành chủ sưu tập được, lại hoàn toàn không ó chút khiếm khuyết. Đây chính là sơ hở lớn nhất.

Quan Đông Sơn mặt xám ngoét, bị đả kích mạnh, cuối cùng lý nhí hỏi: “Nói như thế, lẽ nào những bức tranh chữ khác của hạ quan cũng đều là giả?”.

“Tuy không phải toàn bộ, nhưng cũng gần hết”. Tiết Thái, ngẩng đầu, thần sắc lạnh nhạt, tựa như châm biếm, tựa như cảm khái lại tựa như cơ độc:

“Trên thế gian này, làm gì có nhiều trân bảo để cho ngưới ta chia nhau cất giữ thế? Tuyệt đại bộ phận chẳng qua đều là học đòi phong nhã mà thôi”.

Câu “học đòi phong nhã” cuối cùng đã châm chích Quan Đông Sơn thật sâu cay, hắn định xé bức tranh chữ, nhưng Tiết Thái ngăn hắn lại, nói:

“Những bức tranh này tuy là giả, nhưng mô phỏng cũng rất khéo. Nếu thành chủ không cam tâm, ta có cách để biến đồ bỏ thành bảo vật”.

“Hả? Làm sao có thể biến đồ bỏ thành bảo vật?”.

Tiết Thái cười vẻ thần bí: “Ngày mai ta và Khương đại nhân mời tiệc các vị ở Ngọc Giang lâu, mong thành chủ vui lòng đến dự. Chớ quên khi đến mang theo những bức tranh chữ này của ngài”.

Cứ như thế hai vị khâm sai đến Giang Đô, ba ngày đầu tiên, ngoài ăn uống ca hát vui chơi thì không làm gì hết. Sang ngày thứ tư, vẫn là ăn ăn uống uống, có điều có thêm một trò chơi so với ngày thường, đó chính là – quyên góp cứu chẩn.

Rượu được nửa tuần, Tiết Thái ra hiệu cho Quan Đông Sơn lấy tranh ra, lớn tiếng nói: “Các vị, quốc nạn ập đến; thần tử chúng ta cũng nên hiến chút sức lực vì hoàng thượng mới phải. Từ khi Giang Đô đại hạn, Quan thành chủ vẫn luôn đêm không ngon giấc, lo lắng trăn trọc, suy nghĩ cách giải quyết. Nhưng đúng như lời Khương đại nhân nói, trời muốn đại hạn là chuyện không thể tránh được, ông trời không chịu ban mưa, người phàm chúng ta đâu có cách gì được?”.

Khương Hiếu Thành nghe thấy Tiết Thái trích dẫn lời của mình, không kìm được đắc ý ra mặt, liên tục gật đầu. Những người còn lại trong bữa tiệc không hiểu rốt cuộc Tiết Thái định giở trò gì, đều im lặng quan sát.

Tiết Thái nói xong một tràng, rồi mau chóng dẫn dắt vào chủ đề chính: “Vì thế, đêm qua Quan thành chủ đến tim ta, bày tỏ nguyện vọng muốn quyên góp toàn bộ số tranh đã sưu tập trong nhiều năm của ngài, quy đổi thành tiền mặt ngân lượng, lần quyên góp cứu nạn hạn hán này là chia sẻ lo lắng với nước nhà, giải cơn hoạn nạn cho đân chúng…”.

Quan Đông Sơn nghe thấy, hai mắt trợn trừng lên, vội giật giật tay áo Tiết Thái, nhưng Tiết Thái nói một câu “Đừng sốt ruột” rồi không đếm xỉa đến hắn nữa, mà lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” ra trước tiên, cao giọng nói:

“Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này đã được ta giám định, là bút tích thực sự của Cố Khải Chi, giá trị mười vạn lượng. Nhưng thành chủ đôn hậu, đồng ý bán rẻ, chỉ lấy tám vạn lượng. Có ai muốn mua không?”.

Quan Đông Sơn nghe đến đây, cũng coi như hiểu ra. Hóa ra cái Tiết Thái gọi là biến đồ bỏ thành bảo vật, tức là lấy đồ rởm bán ra như đồ Tốt. Cũng hay, quy đổi thành tiền xong lại đi mua tranh tiếp, hắn không tin đen đủi đến mức cả đời đều gặp hàng giả. Chỉ có điều… các vị ngồi đây đều không phải tay vừa, ai có thể dễ đàng mua? Quả nhiên, lúc sau xung quanh vẫn im lặng như tờ, không có ai trả giá, càng không có ai lên tiếng.

Tiết Thái ngẫm nghĩ, quay sang Khương Hiếu Thành nói: “Khương đại nhân, mọi người xấu hổ nên không dám mở miệng lên tiếng trước, ngài giúp một chút nhé”.

Khương Hiếu Thành cười ha ha, khoát tay một cái: “Được. Ta nhận. Bức tranh này ta mua”.

Lời vừa thốt ra, xung quanh xì xào.

Tuy nói Khương Hiếu Thành là công tử của hữu tướng, lại đảm nhiệm chức Vũ lâm quân Kỵ đô úy, nhưng vừa ra tay là tám vạn lượng, vẫn thật sự khiến người ta giật mình. Khương Hiếu Thành cười, nói: “Dâng hiến sức lực cho Tổ quốc, đến thất phu cũng phải có trách nhiệm. Hơn nữa, chỉ cần giải quyết được việc của Giang Đô, hoàng thượng vui vẻ sẽ ban thưởng, chẳng phải là đều thu lại hay sao? Người đâu, đi lấy ngân phiếu tám vạn lượng bạc đưa cho đại nhân”.

Tên tùy tùng phía sau lưng y dạ một tiếng, đang định bước đi, bỗng từ phía ngoài sảnh một tiếng nói vang lên: “Ta trả mười vạn lượng”.

Giọng nói trong trẻo rõ ràng, tựa như gió mát tháng tư, ánh sáng ban sớm, lừa đèn vạn nhà, ấm áp êm tai.

Mọi người nhìn ra thấy một công tử trẻ tuổi dẫn theo hai tùy tùng chầm chậm từ ngoài sảnh bước vào. Đèn trong lầu sáng trưng nhưng vẫn không tươi sáng bằng nụ cười của chàng; mỹ nhân trong sảnh đường vô số, nhưng vẫn không xinh đẹp bằng ánh mắt của chàng… Có người nhận ra chàng, đột nhiên kinh ngạc đứng bật dậy kêu lên: “Nghi, Nghi, Nghi vương bệ hạ!”.

Hóa ra vị công tử đó không phải là ai khác, chính là Nghi vương Hách Dịch. Nhân lúc sự chú ý của mọi người đổ dồn lên người Hách Dịch Tiết Thái quay đầu nhỏ giọng nói với Quan Đông Sơn: “Người mà tối qua ta kể với ngài chính là y”.

Quan Đông Sơn cảm kích nói: “Công tử thật là có diệu chiêu đến ngài ấy mà cũng mời tới được”.

Còn Hách Địch vẫy tay chào mọi người, khi ánh mắt dừng trên gương mặt Tiết Thái, lại nở nụ cười đầy hàm ý: “Từ buổi chia tay ở Trình quốc, không ngờ chúng ta lại mau được gặp mặt đến thế”.

Tiết Thái hành lễ, nói: “Cung thỉnh bệ hạ kim an”.

“Được rồi, những lễ tiết phức tạp ấy miễn đi. Hôm nay ta đến đây là để mua bán, các ngươi lấy lễ của thương nhân tiếp đãi ta là được rồi”. Hách Dịch nói xong, giơ tay cầm lấy cuộn tranh “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” đó, xem xét kỹ lưỡng.

Trái tim của Quan Đông Sơn vọt lên tận cổ họng, nhảy tưng tưng, sợ bị chàng nhìn ra đó là hàng nhái.

Nhưng cuối cùng Hách Dịch lại sờ sờ lên chỗ bị sờn ở mép tranh, thở dài nói rằng: “Đồ vật từ nghìn năm trước, còn có thể giữ tốt như thế này, không tồi, thật không tồi…”.

Quan Đông Sơn bấy giờ mới yên tâm, cười khan mấy tiếng nói: “Những bản lĩnh khác hạ quan không có, chỉ có cái lạc thú này, bức họa này hạ quan còn mời riêng hai thợ khéo đến sửa lại, thỉnh thoảng cũng đem ra treo lên”.

“Quan thành chủ quả nhiên là người am tường”. Hách Dịch vừa nói mắt vừa đảo một vòng: “Khương đại nhân, ngài còn muốn trả giá không?”.

Khương Hiếu Thành sờ cằm cười hi hi, nói: “Hạ quan tiền nhiều gan lớn hơn đi chăng nữa, cũng không dám sánh với Nghi vương bệ hạ. Vốn trả giá là để nêu gương mà thôi, chứ thực lòng mà nói hạ quan là một kẻ thô lỗ, mấy bức tranh chữ này ấy mà, nhìn là thấy đau đầu rồi”.

Lời vừa thốt ra, mọi người đều cười ầm cả lên, không khí trong lầu bỗng trở nên vui vẻ hài hòa.

“Nếu thế, ta nhận”. Hách Dịch sai thị tùng bưng một chiếc rương tới, mở ra, bên trong đầy những ngân phiếu, khiến cho tất cả mọi người có mặt đều trợn mắt sửng sốt.

Tiết Thái nói: “Xem ra lan quyên góp cứu nạn này, bệ hạ đã chuẩn bị rất kỹ rồi mới tới”.

Hách Địch chăm chăm nhìn, mỉm cười: “Những thứ khác không cần cũng được, nhưng có một thứ, ta buộc phải có được”.

Mọi người nghe vậy, không ai là không cảm thấy hứng thú,rốt cuộc là thứ bảo bối gì, lại khiến cho kẻ tình quái nổi tiếng chốn thương trường này không quản nghìn dặm xa xôi chạy đến đây mua?

Quan Đông Sơn không nhịn được hỏi: “Thứ gì thế?”. Hắn rất muốn biết rốt cuộc là bức tranh nào mà mình sưu tầm đã khiến Nghi vương thèm nhỏ dãi như vậy?

Hách Dịch cụp mắt xuống, trầm tư trong tích tắc, rồi lại nhướng mắt lên, vẫn nụ cười tươi rói như cũ: “Ta muốn bản chép tay bài ‘Quốc sắc thiên hương phú’ của Cơ Hốt”.

Trong đại sảnh bỗng huyên náo hẳn lên, mãi lâu sau mới có thể yên ắng trở lại.

Mọi người đều biết, Cơ Hốt chính là đệ nhất tài nữ của Bích quốc, sở dĩ nàng được mệnh danh như thế là vì bài “Quốc sắc thiên hương phú”. Nghe nói năm đó, Cơ Hốt viết xong bài phú này, Chiêu Doãn khi ấy vẫn còn là hoàng tử nhìn thấy, kinh ngạc tưởng là tiên nữ, lập tức đánh ngựa đến trước Cơ phủ cầu hôn. Sau mấy hồi trắc trở, cuối cùng mới ôm được mỹ nhân quay về.

Nhờ một bài phú lên ngôi vị hoàng phi, và sau cùng tạo thành bá nghiệp của một vị đế vương. Mấy trăm năm nay, làm gì có thiên văn chương thứ hai nào có thể vẻ vang hơn nó?

Bài phú này tuy nổi danh, nhưng Cơ Hốt lại là một người sống bằng xương bằng thịt. Đồ của người còn sống, thường không mấy đáng tiền. Vì thế mọi người nghe Hách Dịch nói thế, trong lòng ít nhiều cũng có chút thất vọng.

Ánh mắt Hách Dịch quét qua một lượt, thu trọn biểu cảm tinh tế của mọi người vào trong đáy mắt, cười hi hi, nói: “Đương nhiên, nếu có đồ vật tốt khác, ta cũng thu mua cả”.

Chàng cũng không nuốt lời, bốn bức thư pháp, ba cuộn cổ họa mà Tiết Thái bày ra sau đó, đều được Hách Dịch mua hết một lượt, tổng số tiền đến hơn ba mươi bảy vạn lượng. Lúc này không khí trong đại sảnh đã lên đến cao trào cực điểm.

Tiết Thái nói: “Hôm nay đến đây thôi, ngày mai tiếp tục. Nghi vương bệ hạ vẫn chưa thể mua được ‘Quốc sắc thiên hương phú’, thành thật xin lỗi”.

Hách Dịch khoátay nói: “Đồ tốt thường phải giữ đến cuối cùng, đương nhiên ta biết đạo lý này. Không sao, ngày mai ta lại tới”.

Tiệc tan, mọi người ai nấy rời đi. Tiết Thái vừa về đến phủ, Quan Đông Sơn đã mời hắn vào trong thư phòng, vừa đóng cửa lại lập tức quỳ xuống đất mà vái: “Thần tài sống ơi, công tử đúng là thần tài gia của ta mà!”.

Tiết Thái cười mắng: “Dù sao ngài vẫn là đại quan tam phẩm, lại đi quỳ vải một tên nô lệ, bị người khác nhìn thấy thì còn ra cái thể thống gì?”. ‘

Quan Đông Sơn thẹn thùng tiến lên ôm chặt chân Tiết Thái nói: “Không không, ta phải vái, ta phải vái. Tiết công tử ơi, từ lâu đã nghe danh thần đồng của công tử, đến nhân vật như Yên vương còn bị công tử làm cho tâm phục khẩu phục, đến nay lại giúp ta kiếm được một món hời, ta phải cảm tạ công tử như thế nào đây?”.

Tiết Thái đá hắn ra, nghiêm mặt nói: “Bớt nói linh tinh đi, ngài có muốn kiếm nhiều tiền không?.

“Thế vẫn còn chưa đủ nhiều sao?”. Quan Đông Sơn trợn mắt kinh ngạc.

“Coi cái bộ dạng kém cỏi của ngươi kìa, quả nhiên là kẻ ở chốn thành nhỏ biên cương đã lâu…”.

Quan Đông Sơn vội cười giả lả đáp: “Đúng đúng đúng, cả đời tiểu nhân ngoài cái năm lên kinh ứng thì ra thì đều ở chỗ sơn cùng thủy tận… Tiết công tử, ngài nói xem, kiếm món lớn như thế nào?”.

“Ngươi đã nhìn thấy điệu bộ của Nghi vương hôm nay rồi đấy, hắn nhất định phải có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ cho bằng được”.

“Nhưng chúng ta không có ‘Quốc sắc thiên hương phú’”.

Tiết Thái cười kỳ dị: “Nếu hắn muốn ‘Lạc Thần phú’ thì không có, nhưng chủ nhân của ‘Quốc sắc thiên hương phú’ vẫn còn sống, sao chép lại cũng chỉ mất có nửa canh giờ thôi…”.

Mắt Quan Đông Sơn sáng lên, vỗ đùi đét một cái nói: “Đúng thế! Chúng ta lấy được bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi bán lại cho Nghi vương…”.

“Giá tiền chẳng phải là do ngươi tùy tiện đưa ra hay sao?”.

Quan Đông Sơn híp mắt cười ngất, rồi đột nhiên mặt hắn nhăn lại, rúm ró như hoa cúc: “Nhưng mà làm thế nào mới có thể có bản chép tay ‘QuồcS sắc thiên hương phú’?”.

Tiết Thái hỏi vặn lại: “Ngươi thấy sao?”.

Quan Đông Sơn ngẫm nghĩ một lát, trầm ngâm trả lời: Người có chút quan hệ với vị Cơ quý tần đó, trong ba chúng ta e chỉ có Khương đại nhân. Muội tử của Khương đại nhân sắp được phong hậu, nếu mở miệng bảo Cơ quý tần. Cơ quý tần chắc chắn không dám không nghe…”.

Tiết Thái không phủ nhận.

“Được, vậy đi hm Khương đại nhân trước xem sao”. Dứt lời Quan Đông Sơn liền vội vã đi ngay.

Khương Hiếu Thành đương nhiên vỗ ngực nói không thành vấn đề, nhưng có điều, y lại chuyển chủ đề, y bắt đầu than thở làm quan ở kinh đô thật vất vả, dưới con mắt của thiên tử kiếm chác khó khăn như thế nào, đâu có bằng chốn trời cao hoàng đế xa muốn thế nào được thế ấy, đến vài bức tranh chữ bé tẹo cũng có thể bán ra với cái giá trên trời ba mươi bảy vạn lượng chỉ trong một ngày, thật là giàu có, thật là giàu có…

Y tự oán tự trách như thế một hồi, Quan Đông Sơn hiểu ý nhét hồng bao cho y, cười nói: “Tất cả đều cậy nhờ Khương đại nltân”.

Khương Hiếu Thành nâng nâng để xem trọng lượng của chiếc hồng bao, rồi y lại bắt đầu càm ràm Cơ quý tần không coi ai ra gì như thế nào, xưa nay không tiếp xúc với thế giới bên ngoài ra sao, nếu không phải muội muội của mình có thân phận đặc biệt, e là có sai khiến cũng không nổi, rồi muốn muội muội của y bỏ qua thân phận mở miệng nói với Cơ quý tần thật là làm khó nàng ra sao.

Quan Đông Sơn lại vội nhét thêm một hồng bao nữa: “Nếu Khương đại nhân có thể giúp tiểu nhân chuyện này, việc thành tiểu nhân sẽ có hậu tạ”.

Khương Hiếu Thành bấy giờ mới đứng dậy, chắp tay sau lưng đi quanh nhà mấy vong, rất nghiêm túc giơ ra ba ngón tay nói: “Chỉ có một giá, ba trăm vạn lượng”. Quan Đông Sơn sợ đến mức ngồi phệt xuống đất: “Hả? Ba, ba, ba trăm vạn lượng?”. Nửa câu sau không buột khỏi miệng, nhưng đã chửi ,thầm trong lòng: Mi ăn cướp à?

Khương Hiếu Thành thong thả ngồi xuống, vắt chéo hai chân vừa uống trà vừa nói: “Quan đại nhân chê đắt, ta cũng có thể thông cảm. Ba trăm vạn lượng đủ để mua mấy nghìn mẫu ruộng tốt, xây một khu nhà, mua một đống người hầu, sống một cuộc đời tài chủ không phải lo cải ăn cái mặc. Có điều đại nhân cũng nói rồi, đợi được giá mới bán, thứ gì cũng phải bán cho người biết hàng mới thực sự quý giá. Hiện tại Nghi vương muốn mua ‘Quốc sắc thiên hương phú’, ta có thể tự mình cũng xin bản chép tay bán cho Nghi vương, việc gì phải để ngươi ở giữa kiếm được một khoản hời?”.

Quan Đông Sơn vừa cung kính rời khỏi phòng khách, vừa thầm hỏi thăm một lượt mười tám đời tổ tông của Khương Hiếu Thành. Nghĩ đến món tiền to như thế phải dâng cho người khác, trong lòng ngàn vạn lần không nỡ, nhưng bắt hắn bỏ miếng thịt béo bở như thế, hắn cũng lại không cam tâm. Không có cách nào khác, hắn đành phải phái người đến chỗ Hách Dịch thăm dò giá cả, khi tìm Tiết Thái, hắn kích động đến mức suýt nữa không thốt ra lời: “Tiết công tử!

Thần tài gia của ta ơi…”.

Thấy hắn lại chuẩn bị ôm chân mình, Tiết Thái vội vàng tránh sang một bên, cau mày nói: “Có gì cứ từ từ nói, đừng có làm người khác buồn nôn thế!”.

Quan Đông Sơn cười nịnh bợ mấy tiếng, thu tay lại nói: Tiết công tử, tin tốt tin tốt, đúng là tin cực tốt!”.

Tiết Thái chẳng buồn nhếch mí mắt, lười biếng hỏi: “Khương đại nhân đồng ý giúp ngươi vụ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi hả?”.

“Không phải, nhưng cũng chỉ là chuyện sớm muộn thôi. Là thế này, tiểu nhân vừa mới sai người đến thăm dò chỗ Hách Dịch, không ngờ Hách Dịch, ngài ấy lại chịu bỏ ra cái giá năm trăm vạn lượng để mua bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’! Năm trăm vạn lượng! Tiết công tử! Ngài nói xem ngài ấy có bị điên không?”.

Tiết Thái cười vẻ sâu xa: “Trong lòng có chấp niệm thì sẽ rơi vào ma chướng. Một món đồ muốn có từ lâu, tự nhiên cũng trở thành quý hiếm thôi”.

“Ồ? Nghi vương muốn có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đến thế sao?”.

Tiết Thái đặt cuốn sách trong tay xuống, ngoắc ngoắc: ngón tay. Quan Đông Sơn ngoan ngoãn tiến lên phía trước.

“Ta hỏi ngươi, năm nay Hách Dịch bao nhiêu tuổi?”.

“Nghi vương giống Yên vương, năm nay đều hai mươi ba tuổi”.

“Thế hắn thành thân chưa?”.

“Cái này… chưa thấy nghe nói ạ”.

“Hắn đã lập phi tử chưa?”.

“Cái này… cũng chưa từng nghe nói…”.

“Hắn thân là hoàng đế Nghi quốc, lớn tuổi như thế mà vẫn chưa thành thân, ngươi biết vì sao không?”.

“Cái đó… có bệnh kín à?”.

Tiết Thái gõ lên trán hắn một cái, mắng: “Lời này mà ngươi cũng dám nói linh tinh à? Ta nhắc cho ngươi biết người quỳ dưới gấu váy của ‘Quốc sắc thiên hương phú’, không chỉ có một mình hoàng đế của chúng ta đâu…”.

Quan Đông Sơn bỗng nhiên ngộ ra: “Ô! Ồ ồ ồ! Hóa ra như thế”.

“Hiểu chưa?”.

“Hiểu rồi hiểu rồi. Thật không ngờ, Nghi vương bệ hạ lại là người si tình…”.

Quan Đông Sơn nói đến đây, lại thấy đáng thương thay cho Hách Dịch:

“Làm hoàng đế cũng chẳng sướng như tưởng tượng, cũng không có được thứ mình muốn, thật làm khó cho Nghi vương khổ sở tương tư nhiều năm như vậy nói ra thì hoàng thượng của chúng ta số tốt, một Cơ Hốt, một Hy Hòa, ngài đều cưới về cung cả. Nghe nói vị Khương hoàng hậu sắp sách phong cũng là đại mỹ nhân bậc nhất…”.

Tiết Thái cụp hàng mi xuống, thẫn thờ nhìn mặt đất một lúc rồi ngẩng đầu lên lạnh lùng nói: “Ta mệt rồi”.

“Ồ, vâng vâng, đúng là không còn sớm nữa, quấy rầy Tiết công tử rồi, hạ quan xin cáo từ, ngủ ngon. Ngủ ngon…”. Quan Đông Sơn vừa nói vừa lùi lại rồi ra khỏi phòng.

Cửa phòng đóng lại, trong mắt Tiết Thái mới hiện lên vẻ chán ghét, nhìn tay áo của mình vừa bị Quan Đông Sơn lôi lôi kéo kéo, hắn lập tức cởi ra vứt xuống đất.

Trong phòng vốn có mình Tiết Thái, bỗng vang lên tiếng cười của người thứ hai: “Thuộc hạ điều tra rồi, tên Quan Đông Sơn này không bị chứng luyến đồng đâu, ủ nhân hà tất phải ghê sợ vì đã tiếp xúc với hắn như thế?”.

“Quan phụ mẫu một phương lại vô sỉ bỉ ổi ngu muội bất tài, chỉ một điều cũng đủ cho hắn chết một trăm lần rồi!”.

Rèm sa khẽ động, Chu Long xuất hiện dưới ánh đèn, ánh mắt nhìn Tiết Thái thoảng một niềm ngậm ngùi: “Chốn quan trường xưa nay vẫn thế, lẽ nào từ nhỏ chủ nhân còn thấy ít hay sao?”.

Tiết Thái nhìn bộ y phục trên mặt đất, trút giận xong, bình tĩnh trở lại:

“Thuở nhỏ không hiểu, chỉ cảm thấy những tên quan lại đó chẳng qua chỉ là vật trang trí, cả cung đình rộng lớn chỉ để mình ta vinh quang. Bây giờ mới vỡ lẽ bọn họ đối xử với hoàng đế và người có chức vụ cao hơn họ một kiểu, đối với dân chúng người hầu một kiểu. Với hoàng đế chúng nịnh bợ tầm thường và không có chút ưu điểm, với bách tính chúng thực sự xấu xa bẩn thỉu”.

Chu Long im lặng nhìn hắn, hồi lâu mới nói:

“Người ở trên ngôi cao thường không nhìn thấy mặt này. Chủ nhân chỉ có đi xuống mới có thể nhìn thấy. Cho nên, chủ nhân, thực ra chủ nhân vẫn may mắn”.

Đầu mày Tiết Thái nhíu lại, rồi lại giãn ra, chuyển sang chủ đề khác: Chuyện ta giao phó, ông đã làm xong cả chứ”.

“May không nhục mệnh”.

“Ừm… đây là trận đánh đầu tiên kể từ khi ta tiếp nhận Bạch Trạch đến nay, ta nhất định phải… thắng cho ngươi xem”.

Ánh mắt Chu Long lóe sáng, thấp giọng nói: “Công tử trên trời có nhìn thấy, nhất định sẽ rất vui mừng”.

Tiết Thái nhớ ra một chuyện, hỏi: “Người đã được chôn cất chưa?”.

“Giờ Mùi ngày kia, núi Ngũ Tùng”.

Ánh mắt Tiết Thái trong khoảnh khắc bỗng trở nên hoang vắng.

Khi Tiết Thái và Chu Long bàn luận chuyện này trong phòng ngủ, chuyện xảy ra trong ngày thứ tư ở Giang Đô vẫn chưa báo về đế đô, vì thế, sau khi nghe người áo tím báo cáo tình hình ba ngày đầu, Chiêu Doãn liền tuyên bố tan hợp.

Khi Khương Trầm Ngư lui khỏi Bách Ngôn đường, Chiêu Doãn bỗng gọi nàng lại: “Trầm Ngư, nàng… thay trẫm đi một chuyến”.

“Vâng. Đi đâu ạ?”.

Chiêu Doãn im lặng trong giây lát mới nói: “Phủ Kỳ Úc hầu”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc.

Chiêu Doãn giải thích:

“Kỳ Úc hầu sẽ được chôn cất vào giờ Mùi ngày kia, ta đã mời Ngôn Duệ đứng ra chủ trì toàn bộ việc này. Nhưng nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn ngày mai nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh”.

Khương Trầm Ngư vẫn không nói gì, Chiêu Doãn lại nói tiếp:

“Chuyện này đáng nhẽ Cơ Hốt nên đi, nhưng nàng ấy khi hay tin đữ của đệ đệ đã đổ bệnh. Mà cả nhà họ Cơ, cũng không còn ai thân thích hơn. Người khác đi ta cũng không yên tâm, cho nên, Trầm Ngư…”.

Y còn chưa nói xong, Khương Trầm Ngư đã quỳ gối trước mặt, nói giọng chắc nịch: “Thần thiếp nguyện đi”.

Chiêu Doãn ngừng lại, chăm chăm nhìn nàng, lúc sau cánh tay từ từ đặt lên vai nàng.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, mắt ướt đỏ, giọng nói gần như nức nở: “Tạ, tạ ơn… hoàng thượng”.

Khoảnh khắc này, cho dù dụng ý ban đầu của Chiêu Doãn là gì, là muốn thăm dò nàng hay là vì áy náy trong lòng với cơ Anh nên thực sự muốn làm gì đó cho chàng, nhưng vì y đã chọn mình làm việc này cho Cơ Anh, Khương Trầm Ngư quyết định phải cảm ơn.

Nàng thực sự… rất muốn có cơ hội này.

Muốn có đến mức, không kìm nén được khóc trước mặt đế vương.

Chiêu Doãn không trách nàng, trong đôi đồng tử màu trà, bóng tối bao trùm, khiến người ta không thể nào nhìn rõ được thái độ của y, nhưng bàn tay đặt lên vai Khương Trầm Ngư của y vỗ nhè nhẹ biểu lộ sự dịu dàng.

Cho dù giữa y và Khương Trầm Ngư tồn tại sự khác biệt như thế nào, tính cách khác xa nhau ra sao, thì khoảnh khắc này đều có chung một cảm xúc.

Đó chính là – đau thương.

Ngày hôm sau, Khư Trầm Ngư sau khi nghe xong buổi chầu sớm, về tới Dao Quang điện liền vội vàng thay một chiếc áo trắng, khoác chiếc áo khoác màu đen rồi ra khỏi cung. Xe ngựa đi hơn một canh giờ mới tới phủ Kỳ Úc hầu.

Sắc trời âm u, mây đen phủ lên cả thế giới một tầng xám xanh.

Từ cửa sổ xe ngựa, nàng nhìn những tòa nhà quen thuộc từ xa tới gần, trái tim giống như viên trân châu lăn tròn trên chiếc khay, mãi mà không thể bình tĩnh được.

Phủ Kỳ Úc hầu đương nhiên không phải nàng mới tới lần đầu.

Trước khi nhập cung, nàng từng tới đó một lần. Lần đó, nàng xin Cơ Anh một món quà, mà đến nay món quà ấy vẫn còn trên tai nàng.

Khương Trầm Ngư bất giác đưa tay lên sờ tai trái của mình, vết thương rõ ràng đã lành từ lâu, nhưng dường như lại lần nữa tấy lên, sau khi sưng tấy lại trở thành trống rỗng.

Người ấy, sao có thể đột nhiên… không còn nữa?

Người ấy, rõ ràng đã xỏ cho nàng chiếc lỗ tai, khi nàng bị sát thủ truy sát đã cứu nàng, chàng kéo tay nàng đi đến chỗ bọn Hách Dịch thương lượng, hơi ấm cơ thể chàng dường như chưa từng biến mất, vẫn còn lưu lại trên người nàng…

Nhưng người ấy, sao lại đột ngột không còn nữa?

Thái giám đặt viên đá kê chân xuống, Khương Trầm Ngư đẩy cửa xe bước ra, ngẩng đầu nhìn hầu phủ, trên cánh cửa treo hai chiếc đèn lồng trắng, bị gió thổi lắc lư, lộ rõ sự thê lương khôn tả.

Một cụ bà tuổi chừng sáu mươi bước chân lập cập đi ra mở cửa, tự xưng là quản gia của hầu phủ, sau đó cụ bà họ Thôi này dẫn nàng vào trong.

Trước tiên đến từ đường.

Từ đường được xây ở phía chính Bắc của phủ đệ, hoàn toàn không âm u hẻo lánh giống như từ đường của những nhà bình thường khác, hơn một trăm ngọn nến cắm ngay ngắn soi sáng cả rừng bài vị cực kỳ trang nghiêm cung kính.

Nơi đây chính là từ đường của Cơ gia… mỗi cái tên trên bài vị đều từng có một thời hiển hách. Điều khiến cho Khương Trầm Ngư bất ngờ là có cả bài vị của nữ chủ nhân, đặt cạnh chủ nhân gia tộc mỗi đời.

Cũng có nghĩa là, nếu nhân duyên của nàng và Cơ Anh năm đó không đứt, nơi đây vốn cũng có một chỗ cho nàng… Mà giờ phút này, bài vị cuối cùng vẫn còn để trống, vẫn chưa điền chữ lên đó, Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên vuốt, cảm nhận ngón tay mình lướt qua từng hoa văn tinh tế, nàng bỗng òa khóc.

Tiếng khóc nghẹn ngào đứt quãng, không chịu nghe theo sự kìm chế của nàng bật ra khỏi cuống họng. Nàng vừa nghĩ sao mình lại mất hình tượng như vậy, vừa để mặc cho những dòng lệ tiếp tục lăn xuống.

Thôi quản gia bên cạnh hiểu ý không hề khuyên can, chỉ nói: “Già dẫn nương nương đến thư phòng của công tử nhé”. Nói rồi dẫn nàng đi ra khỏi chốn đau thương đó.

Khương Trầm Ngư lấy khăn tay lau khô nước mắt, bấy giờ mới quan sát tỉ mỉ chỗ ở của Cơ Anh.

Đây là nhà của Cơ Anh: Là nhà của nam tử mà nàng yêu nhất…

Đây dù sao vẫn là lần đầu tiên nàng có cơ hội quan sát kỹ nó như vậy, đi qua con đường đá sỏi mà chàng đã đi qua vô số lần, được sờ vào hàng lan can mà chàng đã từng sờ, thỉnh thoảng cũng có làn gió thổi qua vạt áo đã từng thổi tung trường bào của chàng… Vừa nghĩ đến những điều này, trái tim Khương Trầm Ngư bỗng tan chảy, lòng đầy dịu dàng.

Thuở nhỏ chắc chắn công tử cũng đã từng ngồi đọc sách dưới gốc cây này, cũng từng ăn điểm tâm bên cạnh chiếc bàn đá này, những cành trúc mảnh xanh rậm rì, căn nhà sạch sẽ cực kỳ trang nhã, từng phiến đá từng gốc cây ở nơi đây, trong mắt nàng đều hài hòa, hợp ý.

Giống như người mà nàng thích, toàn thân từ đầu đến chân không gì là không đẹp.

Không lâu sau, đoàn người đến trước cái sân nhỏ, bên trong có ba gian nhà ngói cạnh rừng trúc, thậm chí đến cửa sổ cũng đều được điêu khắc thành hình tre trúc, dường như hòa thành một thể với rừng trúc. Một tấm biển lưu ly trên cửa khắc chìm ba chữ lớn “Hữu sở tư” bằng sơn màu xanh lục, nét chữ cứng cỏi đẹp đẽ. Khương Trầm Ngư biết, đây chính là thư phòng của Cơ Anh.

Thôi quản gia đầy cửa phòng, bước vào đốt nhang, rồi quay người lại nói: “Mời nương nương”.

Khương Trầm Ngư từ từ bước qua bậu ca, mùi Phật thủ cam quen thuộc ùa tới, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt nàng là sách.

Trên giá sách bằng trúc cao bằng bức tường, có đến hơn… nghìn cuốn sách được xếp ngay ngắn, cứ cách một tầng lại treo một miếng trúc nhỏ, viết phân loại bên trên. Bên cạnh giá sách là một chiếc đỉnh cổ chạm hình con ly (Một loài gần giống với rồng, màu vàng, không có sừng.)cao mấy thước, bấy giờ. trong đỉnh đang đốt nhang, làn khói trắng lượn lờ bay lên từ những hoa văn chạm rỗng, khiến cho tất cả những thứ nhìn thấy trước mắt trở nên không thực, mơ hồ như trong mộng.

Nàng… thật Sự đến thư phòng của Cơ Anh ư?

Hay là vì quá nhớ nhung, cho nên ông trời thương xót ban cho nàng giấc mộng này?

Khương Trầm Ngư bất giác bước tới, sờ lên chiếc sập mềm đặt phía dưới chiếc đỉnh cổ, chăn gối lạnh ngắt, đúng rồi người ấy đã không quay về từ lâu lắm rồi… Không, người ấy vĩnh viễn không thể quay về nữa rồi… Lời của Chiêu Doãn văng vẳng bên tai, từng tiếng từng tiếng một lạnh lẽo:

“Nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến, xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh…”.

Có thứ gì có thể để công tử mang theo đây? Mùi hương này chắc chắn phải mang đi…

Thôi quản gia ở bên cạnh lặng lẽ nói:

“lúc nhỏ, ngoài bệnh tim bẩm sinh ra, công tử còn bị hen. Thế nên đại phu mới kê cho công tử loại thuốc Phật thủ cam để mang theo bên mình, sau dần dần mới khỏi. Nhưng tam sao thất bản truyền ra ngoài, rất nhiều vương tôn công tử tranh nhau bắt chước, khiến một thời gian hương ở kinh đô trở nên đắt đỏ. Haizz”.

Khương Trầm Ngư đến trước thư án, bên cạnh có bày một bình hoa cao bằng nửa người, trong bình không cắm hoa, mà đặt rất nhiều quyển trục. Nàng tiện tay mở một quyển ra, bên trong là một bức tranh.

Khương Trầm Ngư “a” lên một tiếng, cánh tay đang giữ bức tranh đột nhiên run bắn.

Đó là một bức tranh hoa sen xanh.

Nhưng thực sự mà nói, đó không phải là một bức “tranh”.

Bởi vì, nó được dán lên.

Cũng tức là chủ nhân của tranh đã cắt hoa sen và lá sen thật, dán lên giấy vẽ, rồi dùng một cách đặc biệt nào đó để giữ màu sắc tươi thắm như còn trên cây cho nó.

Sở dĩ Khương Trầm Ngư giật mình, là vì đây không phải lần đầu tiên nàng nhìn thấy bức tranh được vẽ theo cách này. Mấy ngày trước, chẳng phải nàng đã cùng Hy Hòa chơi trò vẽ tranh kiểu này sao?

Giọng nói bình tĩnh gợn sóng của Thôi quản gia nhẹ nhàng vang lên, như đang hoài niệm, lại chỉ như kể lại mà thôi:

“Từ nhỏ công tử rất không thích vẽ tranh, vì thế mà không ít lần bị lão hầu gia giáo huấn. Sau này, có người dạy công tử cách vẽ tranh này, ngài liền học theo, dùng cách này đối phó với phu tử. Phu tử xem xong liền cười, từ đó về sau không còn bắt công tử vẽ tranh nữa. Ngược lại chính công tử thỉnh thoảng cũng vẫn cắt cắt dán dán. Bức tranh này công tử làm trước lúc đi Trình quốc. Khi đó, hoa sen mới vừa nhú, công tử nói cứ làm một nửa trước đã, phần còn lại sau khi trở về sẽ làm tiếp. Nhưng ai ngờ… chuyến này công tử có đi mà không có về…”.

Khương Trầm Ngư chầm chậm cuộn bức tranh lại, đưa cho cung nhân phía sau. Bức tranh hoa sen mùa mới chưa hoàn thành này, cũng theo công tử lên đường đi…

Trên tường của thư phòng còn treo một cây cung, cây cung nhỏ tinh xảo lạ thường, thường dành cho trẻ em hơặc phụ nữ sử dụng.

Thôi quản gia nói: “Đây là cung của Tiết Thái”. Khương Trầm Ngư thoáng chút ngạc nhiên.

Thôi quản gia giải thích tiếp: “Đây là bảo cung khiến Tiết Thái nổi danh ngự tiền năm xưa, Tiết Thái dùng cây cung này bắn chết một con hố. Sau khi Tiết gia bị tịch biên, cây cung này cũng mấy lần qua tay các hiệu cầm đồ, công tử đi ngang qua, liền mua nó về. Sau Tiết Thái bị đưa tới Cơ gia làm nô lệ, công tử nói với hắn, lúc nào hắn chuẩn bị tâm lý thật tốt, có thể từ bỏ tất cả mọi thứ của quá khứ, thì sẽ trả cây cung này lại cho hắn”.

Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay sờ lên cây cung, cung nhân phía sau hỏi: “Có lấy không ạ?”.

Lấy, tức là sẽ đem nó chôn theo công tử.

Khương Trầm Ngư lắc đầu, cây cung này vẫn nên giữ lại đợi Tiết Thái đích thân lấy về.

Đây là hy vọng của công tử.

Cũng là hy vọng của nàng.

Trong vòng nửa canh giờ tiếp theo Khương Trầm Ngư xem khắp lượt thư phòng một lần nữa, nhưng cũng không tìm thấy nhiều đồ. Tuy bài trí trong phòng rất tinh tế, nhưng cũng không có thứ gì để chọn, không có một món cổ vật châu báu nào. Thôi quản gia thấy nàng tìm không ra món đồ gì ý nghĩa, bèn đề nghị:

“Chúng ta đến phòng ngủ xem xem”.

Lời này rất hợp ý của Khương Trầm Ngư, nàng lập tức cùng lão quản gia đi vào phòng ngủ ctỉa Cơ Anh. Phòng ngủ rất gần thư phòng, chính là căn nhà chính cách thư phòng một hành lang quanh co ở phía sau. Thiết kế như thế này đương nhiên là để tiện cho Cơ Anh nghỉ ngơi và làm việc. So với thư phòng, phòng ngủ có ít sách hơn, có thêm một chiếc giường đầu giường đặt một tủ quần áo, Thôi quản gia bước lên mở cánh cửa tủ ra, bên trong toàn là đồ trắng gấp ngay ngắn.

Khương Trầm Ngư lấy một chiếc ra, hoa văn Bạch Trạch lọt vào mắt nàng; nhớ lại phong thái lúc còn sống của người ấy, nàng không khỏi có chút ngây dại.

Bên cạnh, Thôi quản gia nói:

“Người đời đều biết công tử thích màu trắng, thực ra công tử không hề thích màu trắng, mà luôn chê nó dễ bẩn khó giặt. Nhưng kế thừa từ lão hầu gia lúc sinh thời, tiên đế đã lấy đồ đằng Bạch Trạch ban cho Cơ gia, đây là vinh hạnh của Cơ gia, bởi vậy lúc nào cũng phải nhớ đến không được quên. Công tử không biết làm sao đành đặt may một loạt quần áo giống hệt nhau, trong thời gian thêu áo cho công tử, các tú nương đều bị đổ bệnh, nên kéo dài ba tháng liền mới xong, nhưng không hiểu sao khi đồn ra ngoài lại biến thành ‘chỉ một chiếc áo của Kỳ Úc hầu cũng phải mất ba tháng để thêu’…”.

Nói đến đây, Thôi cuản gia bỗng lảo đảo quỳ xuống.
Last edited by tuvi on 11 Jul 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười bảy : Tân hậu (Phần 2)

Khương Trầm Ngư giật mình, vội đưa tay ra đỡ: “Lão quản gia làm gì thế này? Mau đứng dậy đi!”.

“Nương nương, lão nô có một chuyện khẩn cầu, xin nương nương nhận lời”.

“Bà Cứ đứng dậy đã, có gì từ từ nói”.

Thôi quản gia lắc đầu, hai chân đã bắt đầu run run, nhưng vẫn không chịu đứng dậy, vừa nước mắt lưng tròng vừa trầm giọng nói:

“Lão nô biết gần đây bên ngoài truyền miệng những bài vè không hay ho, thóa mạ công tử nhà ta. Công tử nhà ta lúc còn sống đã đắc tội không ít người, bây giờ ngài chết rồi, những người đó bắt đầu giậu đổ bìm leo… Những điều này đều không hề gì. Thế nhưng, lão nô không cam lòng, không cam lòng khi thấy công tử thanh bạch nhật nguyệt chứng giám của nhà ta bị người ta vu oan.
May mà hôm nay nương nương thay hoàng thượng đến thu thập di vật cho công tử, lão nô sẽ để nương nương xem, công tủ nhà ta sinh thời rốt cuộc đã sống một cuộc sống như thế nào, rốt cuộc có tham ô ăn hối lộ như bên ngoài đồn đại hay không! Ta nghĩ, đây cũng là lý do mà hoàng thượng không phái người khác, chỉ phái nương nương đến đây!”.

Khương Trầm Ngư được mở mang đầu óc, một lời mà lay tỉnh người trong mộng.

Trước đó, nàng một mực chìm đắm trong nỗi đau thương, chỉ để ý đến việc cảm nhận dấu ấn của chàng còn lưu lại nơi đây, giờ được Thôi quản gia nhắc nhở, nàng mới ý thức được sứ mệnh quan trọng của bản thân. Quả thực, đúng như lời Thôi quản gia nói, từ sau khi Cơ Anh chết, những lời đồn không hay về Cơ gia nổi lên tứ phía, lại thêm quốc khố thực sự trống rỗng, nhất thời, quan lại tham ô đã trở thành một tội danh rất nghiêm trọng. Sở dĩ Chiêu Doãn phái nàng đến, dụng ý thật sự chắc chắn là mượn lời của nàng để bác bỏ tin đồn.

Bởi vì nàng họ Khương. Còn có gì hiệu quả hơn một người nhà họ Khương rửa sạch thanh danh cho Cơ thị?

Chiêu Doãn… quả nhiên làm gì cũng có tâm cơ… nghĩ đến đây Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, đỡ Thôi quản đứng lên, nói:

“Ta hiểu rồi. Yên tâm, ta biết nên làm thế nào!”.

Thôi quản gia nước mắt lưng tròng nhìn nàng, nghẹn ngào nói: “Lão nô, thay công tử, tạ ơn nương nương!”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư chọn ba cây bút đã rụng hết phần lông, một hòm áo trắng thêu hoa văn Bạch Trạch, một bức tranh hoa sen và một hộp nhang Phật thủ cam rồi rời khỏi hầu phủ.

Khi nàng về cung, đem những đồ đạc đó giao cho quan phụ trách tang lễ cũng đã đến giờ Hợi, cả người ê ẩm như vừa đi đánh trận về, toàn thân mệt mỏi không còn chút sức lực. Lê đôi chân nặng trĩu về tới Dao Quang cung, còn chưa đến cửa đã nhìn thấy bên trong đèn nến sáng trưng. Có chuyện gì vậy?

Hoài Cẩn lập cập chạy ra nói: “Tiểu thư tiểu thư, cuối cùng tiểu thư cũng về rồi, Hy Hòa phu nhân, nàng ta…”.

Hoài Cẩn còn chưa nói hết, một bóng người liền phi như bay từ trong điện ra, ôm chặt lấy nàng, miệng không ngừng gọi:

“Mẹ! Mẹ…”.

Khương Trầm Ngư bình tĩnh nhìn lại, hóa ra là Hy Hòa, nàng ta mặc một chiếc áo đơn còn đi chân trần. Hoài Cẩn đứng bên cạnh giải thích:

“Mới giờ Thân Hy Hòa phu nhân đã tới tìm tiểu thư, cứ đợi mãi ở bên trong, cho dù bọn muội khuyên thế nào cũng không chịu về, bọn nô tì lấy áo và giầy tới, phu nhân cũng không chịu cho bọn nô tì chạm vào người, không còn cách nào, bọn nô tì đành để phu nhân đợi như thế…”.

“Đưa quần áo và giày cho ta”. Khương Trầm Ngư vừa nói vừa nắm tay Hy Hòa đi vào trong điện.

Ác Du lấy áo quần giày vớ đến, nàng cầm lấy rồi giúp Hy Hòa mặc từng thứ lên người.

Hy Hòa giương đôi mắt to, đen lay láy nhìn nàng, bỗng phấn khởi nói: “Mẹ! Xem này Xem này!”.

Hoài Cẩn lấy một bức tranh, giở ra cho nàng xem: “Bức tranh này phu nhân làm vào buổi chiều”.

Khương Trầm Ngư nghiêng đầu, lần nữa nhìn thấy bức tranh dùng cách xé dán đặc biệt đó. Tầm nhìn của nàng bỗng trở nên mông lung. Hy Hòa nắm tay nàng nói:

“Vẽ tranh! Vẽ tranh! Mẹ, vẽ tranh”.

Khương Trầm Ngư nhìn kỹ bức tranh đó, phía bên trái là một vòng tròn màu xanh lục, được ghép bằng mấy miếng vải vụn, ở giữa còn thiếu mất một miếng; bên phải rất dễ nhận ra là một quyển sách, Hy Hòa đã xé bìa một cuốn sách dán lên đó.

Hy Hòa gọi: “Mẹ! Mẹ!”.

“vẽ đẹp. Vẽ đẹp lắm”.

Khương Trầm Ngư an ủi nàng ta, Hy Hòa nghe thấy thế lập tức cười vui vẻ. Đôi mắt trong veo như thủy tinh và nụ cười sáng bừng như hoa xuân, lọt vào mắt Khương Trầm Ngư lại càng khiến nàng thấy chua xót.

Nàng đưa tay ra, chầm chậm sờ lên mái tóc Hy Hòa, cuối cùng ôm nàng ta vào lòng, thút thít nói:

“Hy Hòa… ta, ta… rất. ngưỡng mộ nàng… Ta thật sự thật sự… ngưỡng mộ nàng…”.

Hy Hòa được nàng ôm chặt lúc đầu vẫn mở to mắt không hiểu, nhưng sau đó, dường như cảm nhận được nỗi đau khổ của Trầm Ngư, ngẩng mặt lên, im lặng nhìn nàng chăm chăm, hôn lên trán nàng.

“Mẹ… đừng khóc… không đau, không đau…”. Trong ánh sáng đêm, giọng nói của Hy Hòa khàn khàn, dịu dàng, thấm đẫm đau buồn.

Khi Khương Trầm Ngư tỉnh dây trời đã sáng bạch, ánh sáng chói lạ thường khiến nàng vô thức đưa tay lên che mắt, sau đó lờ mờ nhìn thấy có một người đang đứng bên cửa sổ. Nàng chớp chớp mắt, cho rằng đó là Hy Hòa, bèn cất tiếng gọi:

“Hy Hòa?”.

“Dậy rồi à?”. Người đó quay lại, một thân hoàng bào, vô cùng tôn quý.

“Hoàng thượng?”.

Khương Trầm Ngư thất kinh, vội vàng đứng dậy, liếc nhìn đồng hồ trên bàn, giật mình toát mồ hôi:

“Thần thiếp ngủ say quá, lỡ mất buổi chầu sáng của hoàng thượng, tội đáng muôn chết, mong hoàng thượng thứ tội!”.

Nàng ngủ một giấc đến giờ Hợi mà không hay biết gì, tại sao bọn Hoài Cẩn không gọi nàng?

Chiêu Doãn như đọc được suy nghĩ của nàng, lạnh nhạt nói:

“Là trẫm dặn bọn họ không cần gọi nàng, hôm qua nàng bận rộn cả ngày cũng mệt rồi, nên nghỉ ngơi nhiều một chút mới phải. Thế nào? Bây giờ nàng cảm thấy đỡ hơn chưa?”.

Khương Trầm Ngư sờ lên đầu, chau mày nhăn mặt nói: “Không biết tại sao, đầu đau ghê lắm”.

Chiêu Doãn phì cười, nắm tay kéo nàng ra khỏi giường: “Mau chải đầu thay áo, cùng trẫm đi nghe tin tức tốt lành, đầu nàng sẽ khỏi đau thôi”.

Khương Trầm Ngư dạ một tiếng. Thực ra trong lòng nàng ít nhiều cũng đoán được tin tức tốt lành hoàng thượng nói đến là gì, tính thời gian thì thông tin mới từ phía Giang Đô cũng về rồi, Chiêu Doãn đã nói là tin tức tốt lành, chắc là chỉ việc này sắp được giải quyết ổn thỏa rồi.

Khi nàng cùng Chiêu Doãn vào trong Bách Ngôn đường, bảy người đã chờ sẵn ở đó. Hành lễ theo lệ xong xuôi, vẫn là người áo tím ngồi cuối cùng đứng lên nói:

“Khởi bẩm hoàng thượng, sáng sớm hôm nay bồ câu bay về, đã chứng thực được chuyện Quan Đông Sơn đưa cho Khương Hiếu Thành một trăm vạn lượng để đặt cọc mua bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’, đợi bản chép tay đến tay, sẽ trả nốt một trăm bốn mươi vạn lượng còn lại”.

Chiêu Đoãn thong thả nói: “Hóa ra chữ của Cơ ái phi lại đáng tiền đến vậy, bảo nàng viết thêm vài bài, Bích quốc cũng bớt được khối việc”.

Người áo xám cười giả lả, nói: “Là Quan Đông Sơn thấy lợi tối mắt, muốn kiếm năm trăm vạn lượng từ chỗ Nghi vương bệ hạ”.

Trong mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia không vui, hừ một tiếng nói:

“Chỉ là một tên thành chủ Giang Đô cỏn con, lại có thể tùy tiện lấy một trăm vạn lượng làm tiền đặt cọc, Giám sát ti làm ăn kiểu gì hả?”.

Bảy người thấy y giận đữ, nhất thời không dám hó hé.

Khương Trầm Ngư thấy cứ làm căng như vậy cũng không phải là cách hay, bèn nói:

“Mưu kế Tiết Thái sử dụng lần này có thể gọi là liên hoàn kế. Đổi lại hầu hết mọi người, biết rõ cái lợi hai trăm sáu mươi vạn lượng bày ra ở đó, dù có phải dốc hết vốn liếng ra cũng phải cược một ván. Quan Đông Sơn ở trong cuộc, càng lún càng sâu, cũng là điều bình thường. Bây giờ so với việc truy cứu Giám sát ti có làm hết chức trách giám sát quan lại có liêm khiết chí công vô tư hay không, chi bằng nghĩ xem có thế giúp Tiết Thái việc gì không. Chuyện Giang Đô sớm được giải quyết ngày nào, hoàng thượng cũng có thể trừ được mối tâm bệnh ngày đó”.

Những lời này nói ra trong nhu có cương, khiến người ta không thể phản bác, chỉ có thể gật đầu khen phải, sắc mặt Chiêu Doãn cũng dịu đi rất nhiều.

Người áo tím nói:

“Không sai, lần này Tiết Thái đúng là dùng liên hoàn kế. Sau khi hắn và Khương Hiếu Thành đến Giang Đô, đã không thăm dò tình hình hạn hán, cũng không truy cứu trách nhiệm, mà ăn chơi trác táng, cơm rượu no say, Khiến cho quan viên ở đó cảm thấy bọn họ chẳng qua chỉ là hạng tầm thường.
Kế đó, hắn lại lập tức tuyên bố triều đình sẽ cấp một khoản cứu trợ thiên tai, loại bỏ tâm lý đề phòng của bọn họ. Đến khi thân quen rồi, hắn bắt đầu thế hiện kiến giải trác việt và nhãn quang tinh chuẩn của hắn về phương diện đồ cổ thư pháp. Chiếc đĩa đựng thức ăn cho chó đó có lẽ là được sắp đặt từ trước, nhưng chiếc vòng của ca cơ kia lại thực sự là hàng nhái, bị hắn nhìn ra, vạch mặt trước mặt mọi người.
Sau đó, chúng ta tra ra, chiếc vòng giả đó là do Quan Đông sơn tặng. Cũng có nghĩa là, từ chiếc vòng Băng Hoa Phù Dung giả, Tiết Thái đã nhận ra bộ mặt ham hư vinh, nông cạn, tham lam vô sỉ của Quan Đông Sơn, liền chọn hắn làm vai chính cho vụ lừa đảo này”.

Người áo xanh lục vuốt bộ râu đẹp, ra chiều khinh bỉ nói: “Cái tên Quan Đông Sơn này, đến quà tặng cho tình nhân mà cũng dám làm giả, thực sự quá bỉ ổ i “.

Khương Trầm Ngư đứng bên nghe thấy, trong lòng không khỏi thấy nực cười: Tâm lý bọn đàn ông có lúc thật sự rất kỳ lạ lừa trên gạt dưới thì xem như chẳng có gì, chẳng qua chỉ là một phương thức sinh tồn trong quan trường mà thôi, nhưng tặng tình nhân đồ giả thì lại cảm thấy đó là chuyện đáng thóa mạ phỉ nhổ. Thật ra, làm giả thứ gì cũng đều là hành vi xấu xa như nhau, còn phải phân biệt cao thấp sao? Nực cười.

Người áo tím tiếp tục phân tích:

“Vì thế, tối đó khi Quan Đông Sơn không kiềm chế nổi, mời Tiết Thái đến tham quan bộ sưu tập của hắn, Tiết Thái cố ý không phát biểu cảm tưởng, là có hai mục đích. Thứ nhất là kéo dài thời gian, phải biết là khi sự nghi ngờ của một người chưa được giải đáp, thời gian kéo dài càng lâu, hắn sẽ càng tin tưởng độ chân thực của đáp án; mực đích thứ hai là phải xem xem bộ sưu tập của người khác như thế nào, rồi lựa chọn đối tượng dễ lừa nhất cũng đáng để lừa nhất trong đó rồi mới ra tay. Như thế, cuối cùng đã chọn Quan Đông Sơn”.

Người áo xám bổ sung:

“Tiết Thái biết chỉ dựa vào một mình hắn nói thì sẽ không lừa nổi con cáo già Quan Đông Sơn, cho dù nhất thời cắn câu, nhưng cũng sẽ mau chóng cảnh giác. Cho nên, hắn nhân lúc sắt vẫn còn nóng, lập tức buông mồi thứ hai”.

“Chính xác”. Người áo tím gật đầu: “Đó chính là Nghi vương Hách Dịch”.

Nghe nhắc đến cái tên Hách Dịch, tuy là xa cách vạn nước nghìn non, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn cảm thấy có chút thân thiết. Vị Duyệt đế phong lưu khoái hoạt, phóng khoáng thú vị đó, bây giờ có ổn không? Cũng không biết Tiết Thái hứa gì với chàng, mà đến chàng cũng nhận lời giúp đỡ.

Người áo xám cười nói:

“Hách Dịch là ai? Người trong thiên hạ đều biết, đó là thần tài sống, đại phú ông đệ nhất, sự góp mặt của ngài giống như cho tất cả mọi người uống một viên Định Tâm hoàn, cũng giúp cho đại cục trở nên chân thực, đáng tin cậy hơn”.

“Nhưng Tiết Thái đương nhiên không dễ dàng để lộ mục đích thực sự của hắn, cho nên hắn đã mua liền tám bức tranh chữ của Quan Đông Sơn, để Quan Đông Sơn nếm được vị ngọt, rồi lại lấy lợi ích lớn hơn để dẫn dụ hắn, Quan Đông Sơn đương nhiên mắc lừa, khao khát kiếm năm trăm vạn lạng của Hách Dịch, cứ như thế sa vào bay của Tiết Thái”.

Người áo tím báo cáo đến đây, gấp lại cuốn sơ, mỉm cười nói: “Chuyện sau đó thần nghĩ chúng ta có thể không cần phân tích nữa”.

“Không tồi”. Chiêu Doãn gật đầu, chậm rãi nói: “Chuyện phía sau, chỉ cần thong thả xem màn kịch hay là được”.

Tất cả sau đó đúng như suy đoán của bảy người trong Bách Ngôn đường. Ba ngày sau, cái gọi “Quốc sắc thiên hương phú” được chuyển đến tay Khương Hiếu Thành. Quan Đông Sơn không nói hai lời liền chi trả ngân phiếu một trăm bốn mươi vạn lượng còn lại, sau đó mau mau chóng chóng cầm bút tích do Cơ quý tần tự tay viết đó đi tìm Hách Dịch, đến lúc đó mới phát hiện lầu không người mất bóng, không thấy Hách Dịch đâu cả.

Điều cực kỳ chấn động là hắn phái bốn người đi tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới tìm thấy Nghi vương bệ hạ trên một chiếc thuyền chuẩn bị xuất hành, nhưng Nghi vương chỉ thở dài một tiếng đổ chén rượu trong tay xuống đòng sông đã cạn một nửa, ngậm ngùi nói:

“Đời người hận mãi như nước chảy về Đông, mối chấp niệm này của ta cũng nên từ bỏ rồi”.

Nói rồi liền phất tay áo tiêu sái rời đi, không chút vấn vương.

Quan ĐÔng Sơn trơ mắt ra nhìn con vịt béo dâng lên tận miệng rồi còn bay đi, nhưng rốt cuộc hắn chỉ là một tên quan tam phẩm quèn, sao dám bất kính với hoàng đế nước khác, không biết làm thế nào đành quay về tìm Khương Hiếu Thành.

Kết quả Khương Hiếu Thành lập tức trở mặt, cười nhạt nói.

“Bản chép tay này chẳng phải Quan đại nhân ngươi cầu xin ta lấy giúp sao? Bây giờ lại nói không cần nữa? Coi hạ quan là cái gì ...coi Cơ quý tần là cái gì... Lại coi đương làm hoàng hậu nương nương là cái gì... Cứt ị ra rồi lẽ nào còn có thể ăn lại được?”.

Quan Đông Sơn ngậm bồ hòn làm ngọt, mặt mày ủ rũ về tới nhà càng nghĩ càng cảm thấy lạ, liền đi tìm Tiết Thái, kết quả còn chưa đến được chỗ Tiết Thái, thì đã có một đám quan binh tới, không nói không rằng trói gô hắn lại, giải lên công đường.

Ngồi trên công đường, Khương Hiếu Thành thân mặc quan phục chỉnh tề, vừa cười lạnh lùng vừa khép hắn vào mười hai tội trạng, liệt kê từng khoản từng khoản hắn đã tham ô nhận hối lộ trong những năm qua, cũng không cần hắn điểm. chỉ mà đã tống vào đại lao.

Trong hai ngày sau đó, với khí thế dứt khoát quả quyết, bắt hết đám quan lại quyền quý của bản địa, lý do là trong cung mất cắp, mà bảo vật bị mất am thấy trong nhà bọn họ, nhân tiện kèm thêm một bản danh sách, liệt kê từng món từng món một, những món bảo vật được liệt kê chính là những thứ mà Tiết Thái đã từng xem qua khi được họ mời về làm khách trước đây.

Con đường có được những đồ vật này cũng có chút không sạch sẽ, Khương Hiếu Thành chộp được điểm này rồi một mực cho đó đều là đồ của hoàng thượng, cứ như thế định tội từng người một.

Trong một thời gian ngắn thành Giang Đô hỗn loạn vô cùng.

Sang ngày thứ tư, Khương Hiếu Thành ban bố một mệnh lệnh gọi là trao đổi bằng giá, trồng cây gây rừng. Nghĩa là, tù nhân phạm tội tham ô bao nhiêu tiền thì lấy bấy nhiêu tiền mặt đến chuộc, hoặc là đến vùng đất được chỉ định trồng bao nhiêu cây thì có thể được miễn tới chết. Thế là kẻ có tiền lũ lượt nộp tiền, kẻ không có tiền thì ngày đêm trồng cây, ngoài Quan Đông Sơn ra, những người khác đều lần lượt được chuộc hết. Cuối cùng khi kiểm kê số tiền chuộc bọn họ thu được, cộng với hai trăm bốn mươi vạn lượng lừa được của Quan Đông Sơn, không thừa không thiếu vừa chẵn năm trăm vạn lượng, đúng bằng khoản tiền quốc khố sẽ cấp mà Tiết Thái loan truyền ra ngoài trước đó.

Chuyện này khi được báo tin về Bách Ngôn đường, mọi người nghe xong đều bật cười.

Người áo xanh lục nói: “Lấy tiền là được còn trồng cây để làm gì?”.

Người áo tím đáp:

“Lục Tử không biết đó thôi sở dĩ năm nay Giang Đô đại hạn, chính là vì một lượng lớn rừng cây bị chặt phá bừa bãi. Ngoài thành Giang Đô vốn dĩ có một cánh rừng tươi tốt, nhưng vì số gỗ đó đáng tiền nên bị thành chủ cũ sai người chặt trộm vận chuyển bán sang Nghi quốc. Đến khi Quan Đông Sơn nhận chức, cây đã bị chặt gần hết”.

“Nói vậy chẳng phải tên Quan Đông Sơn đó cũng thật quẩy sao?”.

Người áo tím xua tay phản bác: “Lục Tử có biết thành chủ cũ là ai không?”.

“Là ai?”.

“Là chú ruột của Quan Đông Sơn. Sau khi thành chủ cáo lão, định cư trong thành Giang Đô, trong những kẻ qua lại quyền quý bị bắt lần này, lão ta cũng bị tóm”.

“Quả là lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt. Nuốt vào bao nhiêu, cũng phải nôn ra bấy nhiêu”. Bảy người bàn tán rất hứng thú, vỗ tay cười lớn.

Sau cùng, Chiêu Doãn nheo mắt cười nói:

“Hiếu Thành Tiết Thái làm rất tốt, đắc tội cũng khá nhiều người rồi, chuyện mua lương thực cứu tế trẫm sai người khác làm thay, để hai người bọn họ sớm được quay về”.

“Vâng. Hoàng thượng thánh minh”.

Trên buổi chầu ngày hôm sau, Chiêu Doãn chọn hai viên quan có tiếng tốt thay Khương Hiếu Thành và Tiết Thái tiễp quản việc cứu tế cho dân. Như thế, cái nạn Giang Đô đã được giải quyết thần tốc chỉ trong vòng năm ngày ngắn ngủi. Hai vị công thần đã về tới đế đô giữa tiếng vỗ tay hoan hô và hoa tươi chào đón.

Tiết Thái rốt cuộc đã hứa với Hách Dịch điều gì?.

Nghe nói khi Hách Dịch lên thuyền rời Giang Đô, có viết một lá thư trên thuyền, nội dung đại để là:

“Trẫm đã phí sức lực chín trâu hai hổ, đi khắp tứ quốc, cuối cùng ông trời cũng không phụ lòng người, cho trẫm tìm thấy bản gốc ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’, điều hiếm có nhất chính là chúng được bảo tồn toàn vẹn, không hư hại chút nào. Vì thế phát giá một trăm vạn lạng, ngài có mua hay không?”.

À Phải rồi, người nhận bức thư đó là Chương Hoa.

Một tháng sau, Yên vương nhận được lá thư này, vui mừng như điên, trả lời rằng: “Mua!”.

Ngày mười lăm tháng mười, Chiêu Doãn thiết yến trong cung chúc mừng công lao của Khương Hiếu Thành.

Khương Trầm Ngư đứng đầu tứ phi, sắp trở thành hoàng hậu, cùng đến dự tiệc.

Khương Hiếu Thành đã lớn đầu thế này, nhưng đây lại là lần đầu tiên được vẻ vang như thế, đương nhiên là mặt đỏ tưng bừng, ai mời rượu là uống cạn. Mà công thần thực sự là Tiết Thái đến một chỗ ngồi cũng không có, chỉ có thể đứng đằng sau Khương Hiếu Thành. Tiệc mới bắt đầu còn có mấy quan viên tiến lên phía trước mời rượu, nói chuyện với hắn, sau thấy hắn thần sắc lạnh nhạt, tâm trí để tận đâu đâu, bèn không buồn để ý đến hắn nữa, chuyển sang tiếp tục nịnh bợ Khương Hiếu Thành.

Khi yến tiệc diễn ra được nửa chừng, Tiết Thái bèn tìm cớ cáo lui Khương Trầm Ngư nhìn thấy, vội vàng đứng dậy, đuổi theo hắn.

Trăng sáng treo cao, gió đêm lạnh căm, đã cuối thu rồi.

Sự huyên náo trong điện lại càng làm nổi bật sự lạnh lẽo bên ngoài, Khương Trầm Ngư gọi Tiết Thái, hắn quay người lại đứng cách nàng một trượng, trong nháy mắt nàng cảm thấy có chút xa lạ.

Hắn… lớn rồi.

Vầng trán rộng thêm, mày mắt sâu thêm, nét ngây thơ dường như chỉ lưu lại một giây trên gương mặt này rồi biến mất không tăm tích, thay vào đó là vẻ sắc bén và cao thượng thuần khiết vượt xa tuồi tác của hắn.

Hắn giống như một người lớn, một tay buông thõng, một tay chắp sau lưng, đứng thẳng nghiêm trang nhìn nàng.

Thật khó có thể miêu tả được cảm giác của Khương Trầm Ngư lúc này, có chút vui mừng, có chút chua xót, còn có chút buồn bã như đánh mất thứ gì, nhưng cuối cùng đều hóa thành nụ cười. Nàng vừa bước đến vừa cười với hắn, lấy một chiếc “túi gấm vô cùng tinh xảo đẹp mắt từ trong người ra.

“Cái gì thế?”. Tiết Thái cau mày.

“Ngươi mở ra là biết”. Khương Trầm Ngư chớp mắt.

Tiết Thái nghi hoặc trợn mắt nhìn nàng rồi cầm lấy túi gấm, mở ra, vẻ mặt sững sờ.

Trong túi gấm là một miếng ngọc.

Một miếng ngọc tuyệt thế.

Một miếng ngọc có thể nói là nổi tiếng nhất trên đời này – Băng Ly.

Tiết Thái di chuyển ánh mắt từ miếng ngọc lên khuôn mặt Khương Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư bật cười:

“Món quà sinh nhật ta tặng ngươi này, ngươi có thích không? Tại sao lại trợn mắt nhìn ta hung hăng thế”.

“Làm sao ngươi có được? Còn nữa… làm sao ngươi biết được”. Giọng hắn càng lúc càng lý nhí, gần như không nghe thấy mấy tiếng cuối “sinh nhật của t a” .

“Ta lấy ngọc từ chỗ Hy Hòa, còn sinh nhật của ngươi… là Thôi quản gia nói cho ta hay…”.

Tiết Thái cụp mắt nhìn xuống, im lặng một lúc lâu sau mới thấp giọng nói: “Bệnh của nàng ta… khỏi chưa?”. Nàng ta, rõ ràng không phải chỉ Thôi quản gia.

Khương Trầm Ngư thở dài ngẩng đẩu nhìn vầng trăng sáng lơ lửng trên bầu trời đêm, buồn bã nói: “Chúng ta coi nàng ta là người điên, có lẽ nàng ta coi chúng ta mới là kẻ điên… Dù thế nào, ta nghĩ chắc chắn bây giờ nàng ta sống vui vẻ hơn trước kia rất nhiều, cũng đơn thuần hơn rất nhiều. Như thế cũng không có gì là không tốt cả, đúng không?”.

Ánh mắt Tiết Thái lay động, bỗng chuyển chủ đề. “Công tử… được chôn cất chưa?”.

“Ừm. Chôn vào giờ Mùi ngày hai mươi lăm tháng chín”.

“Ngươi có đi không?”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt lắc đầu. Cho nàng chọn đồ bồi táng cho Cơ Anh đã là ân huệ đặc biệt của Chiêu Đoãn. Buổi nhập lệnh hạ táng thật sự, nàng là một hoàng phi đương nhiên không thể có mặt, cũng không có lý do gì để có mặt.

Hơn nữa, không biết vì sao kể từ hôm nàng từ Cơ phủ trở về, thất thố khóc trước mặt Hy Hòa, còn Hy Hòa hôn nàng, thì khi đối diện với cái chết của Cơ Anh, dường như nàng không còn cảm thấy đau khổ không thể chịu đựng nữa.

Nhà Phật nói phải giác ngộ phải giác ngộ, Khương Trầm Ngư nghĩ, có lẽ chính ở khoảnh khắc đó, mình đã ngộ rồi.

Lĩnh ngộ ra rằng người đó đã đi khỏi cuộc đời mình; không bao giờ quay trở lại nữa;

Lĩnh ngộ ra rằng người đó chưa bao giờ về thuộc về mình;

Lĩnh ngộ ra rằng đời người vốn là một chu trình không ngừng vứt bỏ cái cũ và dung nạp cái mới. Duyên phận của nàng và Cơ Anh đã kết thúc rồi; nhưng sẽ nảy sinh duyên phận giữa nàng với những người khác, kể cả với những người vốn dĩ tưởng rằng sẽ không bao giờ qua lại… ví như Hy Hòa.

Năm đó, khi nàng phụng chỉ tiến cung đánh đàn cho Hy Hòa, nàng đâu nghĩ đến một ngày nào đó mình sẽ trở thành chỗ dựa, thậm chí là chỗ dựa duy nhất cho nữ tử này?.

Mà Tiểu Tiết Thái trước mắt cũng vậy.

Nếu Tiết gia không xảy ra chuyện, tiểu thần đồng cao ngạo. không coi ai ra gì này sao có thể trở thành bạn tốt đến mức gần như có thể tâm sự về bất cứ chuyện gì của mình?

Nghĩ đến đây nụ cười trên khóe môi Khương Trầm Ngư càng tươi hơn, khiến đường nét ngũ quan nhìn lại càng dịu dàng ấm áp lạ thường.

Tiết Thái thấy nàng như vậy, bỗng thấy mơ màng, để thoát khỏi cảm xúc lạ thường này, hắn nhìn mày, nghiêm mặt nói: “Ta có chuyện muốn nói với ngươi”.

“Ta đang nghe đây”.

“Nghiêm túc chút đi”.

Khương Trầm Ngư nhìn bộ dạng bé người lanh trí của Tiết Thái, không nhịn được cười phì một cái.

Quả nhiên, đầu mày của Tiết Thái càng nhíu chặt hơn, sau đó thấp giọng nói nhỏ một câu.

Sau câu nói này, nụ cười của Khương Trầm Ngư lập tức biến mất, trái tim giống như mực đen chìm trong nước, nhấp nhô loang ra, lặng lẽ chìm xuống.

Tiết Thái nói…

“Ta không tìm thấy tiền ở cơ gia”.

Câu nói này rất nghiêm trọng.

Khiến cho tất cả những thông tin Khương Trầm Ngư nắm được hiện tại đều trở thành hư vô. Vì thế, nàng sững ra một lúc mới có thể sắp xếp lại tư duy, run run hỏi lại: “Cái gì?”.

Tiết Thái ngó nghiêng xung quanh: Họ đang đứng ở hướng chính Đông của hồ Phượng Thê, để tiện cho việc thưởng ngoạn phong cảnh, dọc bên bờ không trồng cây mà xây một hàng lan can cao bằng nửa người. Đầu bên kia chính là đại điện thiết yến tiệc. Cũng có nghĩa là, nơi đây vô cùng thoáng đãng, không chỗ nào có thể ẩn nấp, cho dù người từ phía nào, đều có thể nhanh chóng nhìn thấy.

Vì thế, sau khi thấy không có khả năng có người thứ ba nghe lén được cuộc trò chuyện của họ, Tiết Thái mới miệng nói tiếp:

“Sở dĩ ta trở về muộn như thế là vì sau hoàn thành chuyện ở Giang Đô, ta tiện đường đến thăm từng phân nhánh của Cơ gia và ngầm sai Chu Long điều tra triệt để từng người trong đó. Cuối cùng chứng thực, con Cơ gia tuy giỏi dốt không đều, nhưng xét về tổng thể, đều có hai đặc điểm. Một là tay không có thực quyền, hai là thấy không có dư tiền”.

“Sao có thể!”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc kêu lên: “Theo thống kê mà Hàn Lâm bát trí có được, năm Đồ Bích thứ nhất, Cửu khanh bãi miễn thất khanh, các đại thần xuất thân đều hai tộc Cơ, Tiết mà ra…”.

“Tiết thị đã diệt vong”. Khi nói câu này, trên gương mặt trắng trẻo của Tiết Thái không có bất cứ biểu cảm nào: “Tam khanh của Cơ gia cũng hết nhiệm kỳ cáo lão vào năm Đồ Bích thứ ba”.

“Năm Đồ Bích thứ hai, thay Đô úy tướng quân, thăng cấp ba mươi bảy người, hết thảy đều là môn sinh của Kỳ Úc hầu!”.

“Chú ý họ là môn sinh, đều không phải họ Cơ”.

Năm Đồ Bích thứ ba, Cơ thị phụng chỉ xây dựng đê điều phòng lũ tốn một khoản lớn…”.

“Nhưng chẳng phải hiệu quả rất rõ ràng sao? Năm nay mùa hạ nước dâng cao, nhưng hai bờ sông Hoa Hà vẫn bình an vô sự”.

Khương Trầm Ngư ôm đầu, lẩm nhầm nói: “Đợi đã… ngươi đợi chút đã, để ta nghĩ kỹ xem… cũng có nghĩa là…”.

“Cũng có nghĩa là Hàn lâm bát trí đều bị phụ thân ngươi mua chuộc, cố ý dùng những sỗ liệu cũ này để giá họa cho Cơ thị! Mà sự thực là từ khi Cơ Anh đứng đầu Cơ thị đến nay,ngài đã từ từ không động thanh sắc, từng bước từng bước tước bỏ, làm yếu quyền thế của con cháu Cơ thị, khiến họ không có quyền để lạm dụng, không có tiền để tham ô”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt hai tay, cảm thấy trái tim đập thình thịch thình thịch như sắp nhảy ra ngoài.

Đây, đây… đây rốt cuộc là chuyện gì?.

“Nhưng… quốc khố thật sự trống rỗng”. Hàng ngày nàng lên triều bãi triều cùng Chiêu Doãn, quốc khố có thật sự rỗng tuếch hay không đọc số liệu là biết liền không thể làm giả, Chiêu Doãn cũng không có lý do gì để nói dối.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng một lúc, bỗng hỏi: “Ngươi cảm thấy, so với những ám vệ mà phụ thân ngươi huấn luyện thì Sư Tẩu thế nào?”.

Khương Trầm Ngư vốn là một người thông minh, vừa gợi ý là đã hiểu, nghe câu này xong, lập tức trầm ngâm, lúc sau mới trả lời:

“Nếu luận về thuật gián điệp, Sư Tẩu không bằng, nhưng nếu luận về võ công, ám vệ của ta không phải là đối thủ của hắn”.

“Thế thì, bọn Sư Tẩu từ đâu mà ra?”. Tiết Thái vừa nói vừa nở một nụ cười mai mỉa: “Đừng có nói với ta họ đều đường đường chính chính được huấn luyện từ trong ngự lâm quân ra nhé”.

Khương Trầm Ngư nhìn xuống đất. Đúng thế, võ công của Sư Tẩu cao cường như thế, không phải dăm tháng nửa năm mà có thể luyện thành, chắc chắn cũng giống như ám vệ của phụ thân, được huấn luyện từ nhỏ. Từ việc Chiêu Doãn đồng ý cấp cho nàng hai tên ám vệ nữa có thể thấy, những người này hoàng đế có rất nhiều, thế thì là ai đã thay y bí mật huấn luyện ra những tử sĩ đó? Là ai không ngừng nghỉ cung cấp những người này cho Chiêu Doãn? Cho dù là ai, có một điểm rất rõ ràng, đó chính là: tiền.

Làm việc này, cần phải có một số tiền khổng lồ.

Còn số tiền này, đương nhiên lại không thể ghi chép một cách minh bạch trên sổ sách được.

Tiết Thái tiếp tục nhắc nhở: “Huấn luyện ra một Sư Tẩu đã rất khó khăn, vậy để huấn luyện ra một Điền Cửu, thì sẽ cần bao nhiêu tiền?”.

Điền Cửu chính là thị vệ theo sát Chiêu Doãn. Hắn không có bất cứ địa vị danh phận nào, thậm chí rất nhiều người không biết đến sự tồn tại của hắn. Nhưng, so với thái giám La Hoành cực kỳ vinh quang, hay vị hữu tướng đứng đầu quần thần Khương Trọng, hắn mới là tâm phúc thực sự cũng là duy nhất của Chiêu Doãn.

“ý của ngươi là, tiền của quốc khố thực ra không phải bị ai tham ô hết, mà nó được dùng để huấn luyện ám vệ và những khoản chi phí không thể cho người khác biết, cũng chính là hoàng đế đã tiêu hết tiền...?”. Cuối cùng Khương Trầm Ngư cũng nắm bắt được mấu chốt của vấn đề.

Tiết Thái không do dự gật đầu: “Phải”.

“Vậy hẳn là hoàng thượng biết rõ nhất số tiền đó đi đâu?”.

“Phải”.

Nhưng khi Hàn lâm bát trí chỉ trích Cơ Anh, hoàng thượng rõ ràng biết chân tướng sự việc mà lại không hề biện giải cho Cơ Anh, không những thế lại còn té nước theo mưa ngầm cho phép ám sát Cơ Anh?”.

Tiết Thái nhìn nàng chằm chằm, trong ánh mắt hiện lên vài phần thương xót. Tuy hắn không thốt ra tiếng “phải” một lần nữa, nhưng trái tim Khương Trầm Ngư trong phút chốc đã vỡ nát.

Nàng lảo đảo đứng không vững.

Tiết Thái theo bản năng đỡ lấy nàng: “Ngươi không sao chứ?”.

Khương Trầm Ngư vịn vào lan can bên bờ hồ, cố gắng chống đỡ cơ thể mình, gió từ hồ thổi tới rất lạnh, nàng cảm thấy vô cùng buốt giá.Tiết Thái dò xét nàng, lại hỏi một lần nữa:

“Ngươi vẫn ổn chứ?”.

Thoạt đầu, Khương Trầm Ngư lắc đầu, rồi lại gật đầu, hai tay nắm chặt phần điêu khắc bằng đá trên lan can, dường như sắp bấu chặt đến bật cả máu, nàng mở miệng, gằn giọng nhả từng chữ như đầm đìa máu rơi: “Tại sao? Hoàng thượng… tại sao nhất định phải muốn Cơ Anh chết? Tại sao?”.

Tiết Thái đăm đăm nhìn nàng, chậm rãi nói rành rọt tiếng: “Câu trả lời này phải do ngươi nói lại cho ta hay”.

Trước mắt Khương Trầm Ngư mờ mịt, nàng vội vì nhắm chặt hai mắt. Không được, không được, đại phu đã nói nhất định phải giữ cho tâm trạng bình ổn, nếu không, hai mắt sẽ hỏng mất.

Hai mắt hỏng rồi cũng chẳng sao, dủ có điều nó không thể hỏng vào lúc này.

Bây giờ, còn có một đống việc đợi nàng xử lý, một đống bí mật đợi nàng điều tra, nàng tuyệt đối không thể gục ngã trong thời khắc quan trọng này.

Tuyệt đối không thể!

Khương Trầm Ngư từ từ mở hai mắt ra, thứ lọt vào mắt nàng là biểu cảm lo âu hiếm có khó gặp của Tiết Thái, nhìn sự lo âu đó lập tức biến mất thay vào đó là sự lạnh nhạt:

“Tóm lại, đây chính là chuyện phải điều tra bây giờ, nếu còn có tin tức khác, ta sẽ báo cho ngươi”.

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, còn chưa kịp nói gì thì một tiếng gọi từ xa vẳng lại, phá vỡ sự tĩnh mịch nơi này: “tiểu Tiết Thái!”.

Quay đầu nhìn thì thấy Chiêu Loan từ xa chạy tới. Kỳ thực từ khi nàng ở Trình quốc về đến nay vẫn chưa từng gặp Chiêu Loan, nghe nói nàng ta cùng thái hậu đến tự viện hoàng gia bái Phật hơn nửa năm nay, không ngờ lại đột ngột xuất hiện trong đêm nay.

Đã xảy ra chuyện gì?

“Khương tỉ tỉ… hóa ra tỉ cũng ở đây!”. Chiêu Loan tóm lấy Khương Trầm Ngư, thở hổn hà hổn hển không ra hơi.

“Khương Trầm Ngư vội hỏi: “Công chúa sao thế? Có gì từ từ nói, đừng vội”.

“Thái hậu bệnh nặng sắp chết rồi, muội có thể không gấp sao?”.

Một lời kinh Động cả thiên hạ.

Khương Trầm Ngư thất kinh. Chiêu Loan vừa lau nước mắt vừa giậm chân nói:

“Lão hòa thượng trong miếu nói để thái hậu quay về gặp người thân lần cuối, bệnh của thái hậu không cứu được nữa, cho nên muội phải phóng xe ngựa suốt đêm đưa thái hậu quay về. Hỏi bọn thái giám mới biết hoàng huynh đang thiết yến ở đại điện, cho nên muội vội vội vàng vàng tới đây”.

“Bây giờ thái hậu đang ở đâu?”.

“Thái hậu vẫn ở trong xe ngựa trước cửa, muội vội đi tìm hoàng huynh, nên chưa kịp sắp xếp cho người…”.

Chiêu Loan tuổi vẫn còn nhỏ, lần đầu gặp phải chuyện lớn như thế này, nên hoảng loạn không biết phải làm sao.

Khương Trầm Ngư lập tức quyết định thay nàng ta: “Thế này đi, Tiết Thái ngươi đưa công chúa đi tìm hoàng thượng, tuyên ngự y mau tới, ta đi sắp xếp cho thái hậu, chút nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau trong tẩm cung của thái hậu”.

Tiết Thái “ừ” một tiếng coi như đồng ý. Chiêu Loan đi theo hắn, vừa đi vừa khóc lóc: “Khương tỉ tỉ, tất cả đều nhờ tỉ…”.

Việc không thể chậm trễ, Khương Trầm Ngư vội vàng gọi cung nhân, trước tiên đánh xe ngựa của thái hậu đến Ý Thanh cung, lại lệnh cho hai thái giám lực lưỡng khiêng thái hậu từ xe ngựa đặt lên giường.

Thái hậu rõ ràng đã yếu như cây đèn cạn dầu, hôn mê không tỉnh. Khương Trầm Ngư bắt mạch cho bà, phát hiện mạch tượng vô cùng hư nhược, có thể ngừng đập bất cứ lúc nào.

“Các ngươi mau đi đun một ít nước nóng. Các ngươi mau đến ngự trù phòng chọn ra loại nhân sâm tốt nhất nấu một bát canh bưng tới đây. Các ngươi đứng ngoài cửa đợi hoàng thượng, hễ thấy ngự y là lập tức dẫn vào trong… Nhanh lên! Đừng có đứng như phỗng thế!”. Một tiếng lệnh xuống, các cung nữ ở ý Thanh cung ai nấy đều vâng lệnh tản đi hết.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ một lát, mình ở đây hình như cũng không có tác dụng gì đang định quay người đi làm việc khác thì nghe thấy thái hậu thều thào một tiếng, từ từ tỉnh lại, đôi mắt he hé mở.

Khương Trầm Ngư vui mừng kêu lên: “Thái hậu? Người tỉnh rồi! Con đi gọi người…”.

Đang định đi, cổ tay lại bị thái hậu tóm lại: “Lang Gia, Lang Gia, ta… ta xin lỗi…”.

Lang Gia...? Khương Trầm Ngư sững người, gọi nhỏ: Thái hậu?”.

“Lang Gia, bà tha thứ cho ta đi, tha thứ cho ta… đừng tới tìm ta nữa, ta không cố ý, ta cũng bất lực, Lang Gia…”. Thái hậu rõ ràng đã lẫn, nhầm nàng thành một người khác, khóc không thành tiếng.

Còn Khương Trầm Ngư không biết bà nói gì, cũng không biết người bà nói đến là ai, muốn đi cũng không được, muốn ở cũng chẳng xong, cuối cùng đành nhẹ nhàng an ủi:

“Ta, ta không giận bà đâu, cho nên bà đừng khóc. Đừng khóc, đừng khóc”.

Thái hậu khóc càng dữ hơn, nói nhỏ một câu.

Sắc máu trên mặt Khương Trầm Ngư mau chóng biến mất, nàng lảo đảo đứng dậy lùi về phía sau mấy bước, quay đầu nhìn tứ phía, may mà đám cung nữ đều bị nàng sai đi làm việc này việc nọ hết, trong tẩm cung rộng lớn này, chỉ có nàng và thái hậu.

Một trận gió thổi từ ngoài cửa sổ vào phòng khiến tầng tầng rèm sa lay động, khiến mái tóc dài của nàng tung bay, chiếc bóng rớt trên mặt đất cũng như nhe nanh múa vuốt, giống như ma quỷ bám chặt, bám chặt, bám rất chặt… Khương Trầm Ngư kêu lên một tiếng thất thanh, ôm chặt đầu, ngồi thụp xuống đất.

Khi Chiêu Đoãn dẫn thái y hớt hải đi tới, thì thấy cửa ý Thanh cung mở rộng, gió thổi vù vù vào trong, Khương Trầm Ngư đang run rẩy lấy một chiếc khăn trắng phủ lên mặt thái hậu, sau đó quay người nhìn họ, vừa đau đớn nặng nề lại vừa bình tĩnh chậm rãi nói: “Thái hậu… đi rồi”.
Chiêu Doãn lập tức ra lệnh cho thái y tiến lên kiểm tra thái y buôn bã nói:

“Hoàng thượng, thái hậu đã qua đời Chiêu Doãn im lặng một lúc, đi đến trước giường thái hậu trầm giọng nói:

“Thái hậu về cõi tiên, cả nước cùng thương xót Truyền lệnh xuống, để tang ba mươi sáu ngày, thời gian này mọi hoạt động thi cử vui chơi đều tạm hoãn”.

“Tuân chỉ”.

Vì mệnh lệnh này, Bích quốc bước vào thời kỳ quốc tang Mà chuyện phong hậu vốn được định vào ngày mùng một tháng mười một cũng vì thế tạm gác lại, đẩy lùi đến ngày mùng một tháng mười hai.

Khương Trầm Ngư về cung, tối hôm đó liền đổ bệnh, cao liên miên, hôn mê liền ba ngày ba đêm.

Trong giấc mơ, nàng nắm lấy tay một người, không ngừng gọi, không ngừng khóc, người đó rất dịu dàng trả lời nàng lau nước mắt cho nàng. Đến khi nàng tỉnh lại, hỏi Hoài Cẩn và ác Du, bọn họ đều kinh ngạc bảo rằng hoàn toàn không có người nào như thế.

Ngày mười tám tháng mười, khi bệnh tình Khương Trầm Ngư khó khăn lắm mới có chuyển biến tốt, Hy Hòa lại lâm bệnh, liên tục nôn ra máu. Các thái y đều không tìm ra nguyên nhân căn bệnh, hết thảy đều bó tay hết cách. Khi ấy Hy Hòa dường như tỉnh táo hơn một chút, không những không kháng cự Chiêu Doãn lại gần, mà còn đặc biệt bám lấy y, tất cả thuốc thang đều đòi y đích thân đút cho mới chịu uống.

chiêu Doãn đương nhiên vừa mừng vừa ngạc nhiên, hàng ngày ngoài thời gian lên buổi chầu sáng ra, y đều đến bảo hoa cung quan tâm chăm sóc Hy Hòa. Hàng ngày Khương trầm Ngư phụ trách họp cùng với bảy người, rồi báo kết quả của cuộc họp lên Chiêu Doãn, rồi lại thông báo quyết định của chiêu Doãn cho bảy người.

Cùng lúc bụng của Khương Họa Nguyệt bắt đầu lùm lùm, nàng ta nghén rất nghiêm trọng, Khương Trầm Ngư trông coi trọng việc gì hơn việc này, đích thân quan tâm đến mọi việc ăn ở của tỉ tỉ, cứ như thế, bận rộn đến bù đầu bù óc, hôm nào cũng phải qua giờ Tí mới xong để về Dao Quang nghỉ ngơi.

Thời gian bận rộn cứ ngày tiếp ngày trôi đi như thế, cuối cùng đã tới ngày mùng một tháng mười hai.

Bích quốc đã có tân hậu .
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười tám : Người Tính (Phần 1)

Trường phục màu đỏ thắm, chín con phượng hoàng thêu bằng kim tuyến, khi ánh đèn chiếu vào lại càng diễm lệ lạ thường phần đầu phượng thêu trên vai càng khiến tư thế người mặc nó thêm cao ngạo, cùng với chiếc mũ mười hai con rồng chín con phượng trên đầu tô điểm nổi bật lẫn nhau. Tua ngọc dài gồm hơn ba nghìn viên trân châu buông rủ, từng cử chỉ đều tỏa ra ánh sáng lung linh. Khắp nhà một màu đỏ thẫm, nhưng không át nổi nàng toàn thân hoa lệ quý phái.

Khương Trầm Ngư ngồi ngay ngắn giữa Ân Phái cung, từ ngày hôm nay trở đi, nàng đã trở thành chủ nhân của cung này, người đứng đầu của hậu cung. Nhưng nàng lại không vui mừng thích thú một chút nào, mà chỉ chăm chú nhìn ngọn nến lớn hình rồng uốn lượn trên bàn đợi thời gian chậm chạp trôi qua.

Tuy là ngày lành, nhưng đáng tiếc ông trời cũng chẳng tác thành cho chuyện tốt, từ sáng tới giờ chưa thấy mặt trời ló rạng. Trước đó mọi người còn lo lắng sẽ đổ mưa, đại lễ sẽ không thể tiến hành, nhưng ông trời cũng còn tử tế, mây chồng tầng tầng lớp lớp, càng lúc càng dầy, nhưng mưa vẫn không rơi.

Chắc là đến nửa đêm sẽ mưa thôi… Khương Trâm Ngư hờ hững nghĩ đến vấn đề không liên quan này.

Tiếng cười của Hoài Cẩn và Ác Du từ ngoài cửa vọng vào, tiếp đó cánh cửa phòng bật mở, Ác Du cười giòn tan như chuông kêu, nói: “Hoàng hậu nương nương, hoàng thượng đến rồi!”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên ,liền nhìn thấy Chiêu Doãn.

Khác với vẻ chỉnh trang của nàng, Chiêu Doãn vẫn mặc bộ đồ thường ngày như cũ, rõ ràng rất tùy ý.

Ác Du len lén đánh mắt với nàng, rồi vừa cười vừa lui ra ngoài.

Chiêu Doãn đi đến trước giường, ngắm nàng một lượt từ đầu xuống chân, cười nhạt nói: “Đẹp”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt lên, im lặng nhìn y.

Chiêu Doãn tiện tay nhấc bình rượu trên bàn lên, tự rót cho mình một chén, ngồi xuống, nói: “Ôi chao, hoàng hậu của trẫm, hôm nay nàng quả thật rất xinh đẹp… Có điều sao mặt mày lại ủ dột thế kia. Là giận trẫm tới muộn sao? Trẫm đền cho nàng là được chứ gì, đến đây, chén rượu này coi như là lễ tạ của trẫm với nàng. Những ngày này vất vả cho nàng quá”. Nói rồi đưa rượu cho nàng.

Khương Trầm Ngư nhận lấy, lặng lẽ uống cạn.

Chiêu Doãn mắt cong cong, cười càng lúc càng thân mật: “Thế mới đúng chứ, uống chút rượu mặt nàng sẽ hồng hào.

Trong hậu cung của trẫm toàn là mỹ nhân, nhưng chỉ có mình hoàng hậu nàng là người thông minh nhất, ở bên nàng như được tắm gió xuân, thật là dễ chịu”. Vừa nói y vừa tiến về phía nàng, đưa tay ra nhẹ nhàng ve vuốt gò má nàng, ý đượm tình nồng vô hạn. Còn giọng nói của y cũng càng lúc càng dịu dàng hơn: “Từ khi nàng vào cung đến nay, trẫm vẫn chưa từng ân sủng nàng, đêm nay giờ lành cảnh đẹp, chúng ta… không nên bỏ phí…”.

Hàng mi của Khương Trầm Ngư run rẩy như cánh bướm.

Chiêu Doãn nhìn thấy phản ứng của nàng cười càng vui hơn: “Hoàng hậu đang căng thẳng à? Đừng căng thẳng, trẫm sẽ nhẹ nhàng với nàng…”.

Khương Trầm Ngư đặt chén rượu xuống, chậm rãi lên tiếng: “Hoàng thượng… thần thiếp có thể hỏi người một câu được không?”.

“Đợi lúc nữa rồi hỏi không được sao? Bây giờ… nên làm những chuyện khác…”. Chiêu Doãn vừa nói vừa giơ tay cởi đai áo của nàng ra. Khương Trầm Ngư không ngăn động tác của y, mà chỉ trừng đôi mắt sáng như sao sớm lên nhìn y chằm chằm không chớp.

Chiêu Doãn bị đôi mắt đó nhìn nên mất tự nhiên, đành khe khẽ thở dài, nói: “Được rồi, được rồi, nói ta nghe nào”.

“Tại sao… hoàng thượng phong thiếp làm hoàng hậu?”.

Chiêu Doãn nhướn mày, lại cười, y lùi lại mấy bước, thuận tay rót cho mình một chén rượu, vừa chầm chậm nhấp rượu vừa không chú tâ nói: “Không phải trẫm đã nói rồi sao, là trẫm ban thưởng cho nàng”.

“Tại sao hoàng thượng phải ban thưởng cho thần thiếp?”.

Một tràng truy vấn liên tiếp cuối cùng đã khiến Chiêu Doãn cảm thấy lạ, y dừng lại, nhìn thái độ nghiêm túc lạ thường của nàng, hắng giọng ho mấy tiếng nói: “Được, vậy trẫm sẽ nói cho nàng nghe. Thẳng thắn mà nói, thật sự lần đầu tin trẫm gặp một nữ tử như nàng – chủ động xin làm mưu sĩ cho trẫm, thể hiện trong chuyến đi Trình quốc của nàng cũng rất xuất sắc, cơ trí hơn người, nhưng, những điều này đều không đủ khiến trẫm cảm động. Nàng có biết vì sao không?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

“Bởi vì nàng có vốn liếng vượt xa người bên cạnh. Cho nên, trẫm không cảm động”. Nhìn gương mặt Khương Trầm Ngư lộ vẻ mơ hồ khó hiểu, Chiêu Doãn cười cười: “Hay nói cách khác, vì nàng là con gái của Khương Trọng. Nàng vừa chào đời đã có điều kiện ưu việt hơn người thường, quyền thế và quan hệ của phụ thân nàng có thể giúp nàng dễ dàng làm được rất nhiều việc, cho nên trẫm không cảm động. Thế nhưng một người sinh ra trong danh môn, lớn lên trong phú quý, tất cả mọi thứ đều có được nhờ vào gia tộc như nàng lại dám cắt đứt với phụ thân, đây mới thực sự là chỗ khiến trẫm động lòng”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư lóe sáng.

Chiêu Doãn thở dài nhè nhẹ, giọng nói trở nên dịu dàng: “Nàng ấy… rõ ràng nàng biết, rời khỏi phụ thân nàng, rời khỏi gia tộc của nàng, trong hậu cung này, nàng thực sự sẽ đơn thương độc mã chiến đấu, không có chỗ nào để dựa dẫm, không có ai để bấu víu, thậm chí không có tình thân nào để nhớ nhung… Với sự thông tuệ của nàng, nàng biết rõ hậu quả nghiêm trọng thế nào. Cho đù là thế, nàng vẫn từ bỏ. Cho nên từ khoảnh khắc biết nàng từ bỏ gia tộc đó, trẫm đã tụ nói với ình, trẫm phải ban thưởng cho nàng, ban thưởng cho nữ tử làm được chuyện phi thường nhất thế gian”.

Khương Trầm Ngư mím môi, mắt hơi hoe đỏ: “Thế hoàng thượng… tại sao lại coi trọng hành động từ bỏ gia tộc này?”.

Đầu mày Chiêu Doãn chau lại: “Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn hỏi gì?”.

“Có phải là vì bản thân hoàng thượng cũng là người chịu khổ cho nên cảm thấy đồng bệnh tương lân?”.

“Choang” một tiếng, bình rượu bị hất đổ. Chiêu Doãn đứng phắt dậy, trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư, nét mặt nghiêm nghị.

Còn Khương Trầm Ngư vẫn ngồi trên giường, đến lông mi cũng chẳng rung, tiếp tục nói: “Hoàng thượng đang thấy lạ? Hay đang sợ hãi? Đang nghĩ tại sao thần thiếp có thể biết chuyện này? Đúng không?”.

Chiêu Doãn sầm mặt nói: “Khương Trầm Ngư, chuyện gì cũng phải có chừng mực!”.

KhươngTrầm Ngư mở to đôi mắt trong veo như thủy tinh, sáng lấp lánh nhìn y, sau đó bỗng nhiên nhoẻn cười. Nàng ngũ quan dịu dàng, vì thế hiếm có biểu cảm quá sắc sảo, nhưng bây giờ khóe miệng khẽ nhếch lên, mí mắt hơi nhướn lên, đó một nụ cười lạnh lùng đến kỳ lạ. Mà trong nụ cười lạnh lùng đó, đôi môi đỏ diễm lệ như hoa xuân tạo nên một đường cong hoàn mỹ, từng tiếng từng tiếng đều lạnh như băng: “Hoàng thượng, Lang Gia là ai?”.

Cả gương mặt Chiêu Doãn biến sắc: “Nàng… nàng nói gì?”.

“Cái tên này rất hiếm gặp, triều ta từ thuở khai quốc đến nay, tổng cộng có mười ba người mang cái tên này, mà trong mười ba người đó, duy nhất chỉ có một người có liên hệ với cung đình, hơn nữa còn là một người rất giỏi giang. Hoàng thượng biết đó là ai chứ?”.

Trong mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia hung quang, lạnh lùng đáp: “Khương Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn làm gì?”.

“Làm gì à?”. Hai chân Khương Trầm Ngư chạm đất, khoan thai đứng dậy, chiếc váy dài trong phút chốc phủ kín mặt đất, nàng khẽ đan hai tay vào nhau, đi từng bước một, bằng tư thế của một hoàng hậu, nhìn thẳng vào quân vương tôn quý nhất Bích quốc hiện nay, không cao ngạo cũng không hèn mọn: “Hoàng thượng, hôm nay là ngày hoàng đạo, cho nên hoàng thượng chọn làm ngày tấn phong cho thần thiếp, còn thần thiếp cũng chọn ngày hôm nay để xin hoàng thượng một thứ”.

Thứ gì?” Đối diện với Khương Trầm Ngư lời lời bức người như thế, Chiêu Doãn bất giác run lên.

“Công bằng”.

“Cái gì?”. Chiêu Doãn cơ hồ tưởng mình nghe nhầm.

Thế nên Khương Trầm Ngư lại nhắc lại một lần nữa: “Công – bằng, thần thiếp nói là công bằng. Hoàng thượng không biết nó là cái gì sao? Cũng đúng, hoàng thượng xưa nay tùy ý làm càn, duy ngã độc tôn, vĩnh viễn chỉ nhìn thấy vết thương của mình, làm sao cảm nhận được nỗi oan khuất của người khác?”.

Một tia giận dữ lóe lên trên khuôn mặt Chiêu Doãn, nhưng rất nhanh sau đó đã bị nén xuống, không giận dữ nữa mà trái lại cười nói: “Đựợc. Nói tiếp đi.

Trẫm lắng nghe đây, rốt cuộc trẫm đã phụ hai chữ ‘công bằng’ như thế nào!”.

Khương Trầm Ngư không sợ sệt trước khí thế của y, mỉm cười nói: “Được, thế thì chúng ta nói từ Hy Hòa phu nhân đi. Hy Hòa phu nhân quả thật rất đẹp, nhờ vào phúc của hoàng thượng, thần thiếp đã được xuất ngoại du lãm, gặp đủ mọi loại mỹ nhân. Nhưng cộng tất cả bọn họ lại cũng không sánh được với một mình Hy Hòa phu nhân”.

Chiêu Doãn “hừ” một tiếng.

“Một nữ tử xinh đẹp như thế, đương nhiên sẽ phải thuộc về hoàng đế. Cho nên, hoàng đế sai người giở trò, khiến phụ thân của nàng là Diệp Nhiễm thua bạc một khoản lớn, cuối cùng phải gán con gái cho bọn buôn người, rồi bị bán vào trong cung, cứ như thế trở thành phi tử của hoàng thượng”. Việc xong rồi, hoàng thượng sợ việc lộ ra ngoài, liền giết chết Diệp Nhiễm, từ đó, Hy Hòa phu nhân trở thành cô nhi không chỗ dựa, chỉ có thể dựa vào một mình hoàng thượng”.

Chiêu Doãn nhẫn nhịn, rồi lại nhẫn nhịn, cuối cùng vẫn không nén được nói: “Trẫm và Hy Hòa… hoàn toàn không giống như nàng nói”.

“Không phải như thần thiếp nói, thì là thế nào? Lẽ nào hoàng thượng muốn nói hai người thực sự yêu nhau?”. Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn đứng bên cạnh đèn, trong lòng thất vọng về y đến cực điểm: “Hoàng thượng nhìn Hy Hòa mà xem, nhìn xem hiện nay nàng ta thành bộ dạng thế nào? Thực lòng thích một người, sao có thể nhẫn tâm thấy nàng ta biến thành như thế? Khoảnh khắc nàng ta nhìn thấy đầu của công tử, hoàng thượng có nhìn thấy biểu cảm trên mặt nàng ta không? Hoàng thượng cảm thấy tại sao nàng ta phát điên? Là hoàng thượng hủy hoại nàng ta! Là hoàng thượng: hủy hoại nàng ta và công tử!”.

“Thế thì sao!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên, không thèm để ý đến hình tượng, thét lớn: “Trẫm là đế vương! Đế vương là gì? Chính là dưới gầm trời không đâu không phải là đất của nhà vua, nội trong bốn bể, không ai không phải là thần tử của nhà vua, toàn thiên hạ đều là của trẫm! Huống hồ chỉ là một nữ nhân! Nàng ta là nữ nhân của Cơ Anh thì sao nào? Ai bảo Cơ Anh không phải là hoàng đế?”.

Tại sao Cơ Anh không phải là hoàng đế mà là hoàng thượng hoàng thượng không phải là người rõ nhất sao?”. Một câu nói nhẹ nhàng của Khương Trầm Ngư khiến cho Chiêu Doãn toàn thân run bắn, sau đó, im lặng trở lại.

Chiêu Doãn thở dốc, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bàn, trừng mắt nhìn nàng, bình tĩnh lại rất lâu rồi mới nói: “Nàng quả nhiên là đã chuẩn bị rất kỹ… Được, trẫm sẽ xem xem rốt cuộc nàng đã chuẩn bị đến trình độ nào, có thể cho mấy điểm. Nói đi, nói đi!”.

“Cơ Anh không phải là hoàng đế, lý do rất đơn giản: Chàng bị bệnh tim bẩm sinh, lại thêm chứng hen suyễn, chàng không đủ khỏe mạnh, cho nên, Cơ gia rất thất vọng với đứa trẻ này, liền lùi toàn bộ kế hoạch thêm một năm, đợi hoàng thượng ra đời!”.

Ánh nến nhảy nhót chiếu lên gương mặt Chiêu Doãn, lúc mờ lúc tỏ.

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, nói: “Quá trình này không cần nói kỹ…”.

Chính vào lúc này, một giọng nói bỗng lặng lẽ vang lên, tựa như một oan hồn đến từ địa ngục, mang th chấp niệm thấu tận xương cốt: “Tại sao không nói kỹ? Ta cũng muốn nghe”.

“Cạch” một tiếng, cửa phòng bật mở một bóng người che khuất ánh đèn, xuất hiện trong tầm mắt.

Mái tóc trắng xóa như tuyết, thân hình cao gầy yểu điệu, nàng ta ngước mắt, ánh sao cũng phải kém sắc, nàng ta nhếch môi vạn vật cũng phải nhạt màu.

Nàng ta chính là đệ nhất mỹ nhân của bốn nước – Hy Hòa.

Trước sự xuất hiện của Hy Hòa, Chiêu Doãn đương nhiên vô cùng chấn động, nhảy khỏi ghế lần nữa: “Hy Hòa, nàng, sao có thể…”.

“Sao ta có thể đến đây?”. Hy Hòa cười rạng rỡ, bước vào cửa, sau đó đóng cửa lại: “Đương nhiên trong vở kịch lớn đêm nay là một trong những vai chính ta không thể không đến”.

“Nàng không phải… bị điên sao?”. Chiêu Doãn nhìn nàng ta với vẻ khó mà tin nổi, chỉ trong một canh giờ trước, Hy Hòa lộ giương đôi mắt mờ mịt với biểu cảm của đứa trẻ con dụi vào lòng y uống thuốc, nhưng phút này, nàng ta lại thong thả, cực kỳ phong nhã bước vào, thần sắc bình thản, nụ cười lay động lòng người, đúng là tuyệt thế.

Biểu cảm của Chiêu Doãn trong nháy mắt đã biến thành Phẫn nộ: “Nàng khi quân! Nàng dám giả điên lừa trẫm! Nàng, nàng, nàng và nàng ta liên thủ…”.

Khương Trầm Ngư thở dài một tiếng khe khẽ: “Hoàng thượng, hoàng thượng sai rồi”.

“Trẫm sai cái gì? Lẽ nào bây giờ Hy Hòa vẫn đang bị điên?”.

“Đúng là phu nhân bây giờ không điên. Nhưng trước đó, nàng ta điên thật…”.

Khương Trầm Ngư vẫn chưa nói tiếp, Hy Hòa đã đi qua, nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng, mỉm cười nói: “Không cần giải thích, thật thật giả giả, là điên là ngỗc, đối với ta bây giờ mà nói căn bản không còn quan trọng nữa. Ta chỉ muốn nghe… chân tướng của Cơ gia”.

Một câu nhẹ nhàng lại mang trở lại sự thâm trầm nghiêm trang vốn có của căn phòng.

Trong đáy mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia dị sắc, sau đó y chầm chậm, thâm hiểm nở một nụ cười: “Không thể có Chân tướng. Nàng không nói ra được đâu”. Y chỉ Khương Trầm Ngư trước tiên, rồi sau đó chỉ Hy Hòa: “Còn nàng cũng không nghe thấy gì hết”.

Khương Trầm Ngư và Hy Hòa đều im lặng nhìn y.

“Còn đợi cái gì nữa? Điền Cửu!”. Chiêu Doãn sầm mặt xuống.

Thế nhưng, căn phòng vẫn lặng phắc như tờ, ngoài ánh nến thi thoảng cháy bùng lên, phát ra tiếng xèo xèo ra, không còn gì khác.

Chiêu Doãn hoảng hốt: “Điền Cửu? Điền Cửu? Điền…”.

“Đừng gọi nữa, không có ai đến đâu. Điền Cửu không đến, La Hoành không đến, thị vệ bên ngoài cũng không vào đâu”.

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt nói.

Chiêu Doãn run giọng: “Nàng, nàng đưa Điền Cửu đi đâu rồi”. “Điền Cửu đi thăm người thân”. “Cái gì? Thăm người thân nào?”.

“Lẽ nào hoàng thượng không biết, Điền Cửu còn có một người anh em. Anh em ruột. Hơn nữa người anh em ruột này của hắn vừa khéo cũng thành ám vệ, cuối cùng còn được hoàng thượng cấp cho thần thiếp”.

Chiêu Doãn sắc mặt âm u nói: “ý nàng nói Sư Tẩu?”.

Khương Trầm Ngư vỗ tay: “Hoàng thượng có trí nhớ thật tốt vẫn nhớ ra tên của hắn”.

“Không phải hắn chết rồi sao?”.

Khương Trầm Ngư cười tươi rói: “Hoàng thượng thật là tin thần thiếp, thần thiếp nói thế nào thì tin thế ấy sao?”.

Nhưng rõ ràng ta đã nhận được mật báo Sư Tẩu đã chết…”.

Khương Trầm Ngư thu lại nụ cười, nghiêm mặt nói: “Đó là thiếp cố ý sắp đặt”.

“Cái gì?”.

“Sư Tẩu vì cứu thiếp đã thành tàn tật, người như hắn nếu có về cung thì kết cục chỉ có cái chết, bởi quá vô dụng lại biết quá nhiều bí mật. Vì thế, thiếp cầu xin sư huynh cố ý tạo cho hắn đáng vẻ bị trọng thương không thể cứu chữa, lừa hết thảy mọi người, đưa hắn đến một nơi an toàn để tĩnh dưỡng”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, lại cười: “Mà một canh giờ trước, thiếp sai người vờ như vô tình để lộ địa điểm đó cho Điền Cửu biết, cho nên bây giờ hắn có lẽ đã đến thăm người thân đuy nhất trên cõi đời này của mình rồi”.

“Nói nhăng nói cuội! Người thân cái gì chứ! Ám vệ không có người thân!

Họ chỉ có người thân duy nhất chính là trẫm!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên.

“Đó là hoàng thượng tưởng vậy thôi”. Khương Trầm Ngư phản bác kịch liệt, sự thất vọng trong mắt lại càng sâu đậm hơn: “Chính vì hoàng thượng chưa bao giờ nghĩ cho người khác, nên nghĩ người khác cũng máu lạnh vô tình như hoàng thượng, đến tình cảm anh em máu chảy ruột mềm cũng chẳng màng, thậm chí trái lại còn sát hại chính ca ca có chung huyết mạch với mình!”.

Chiêu Doãn bị đả kích nặng nề, hai chân mềm nhũn, toàn thân tê liệt ngã xuống ghế.

Ánh mắt y đờ đẫn nhìn về phía xa, miệng lẩm nhẩm một câu: Ca ca?”.

Đúng thế. Ca ca. Cơ Anh, chính là ca ca của hoàng thượng”. Tiếng sấm đùng đoàng như thể đặc biệt vang lên để hưởng ứng câu nói này, tiếp theo đó là cơn mưa như trút nước giữa đêm cuối thu lạnh lẽo.

Nước mắt Hy Hòa cũng cùng lúc lăn xuống, thân hình yếu mềm lảo đảo rồi loạng choạng ngồi phịch xuống chiếc giường gấm…

Có lẽ, người duy nhất có thể trấn tĩnh chỉ có Khương Trầm Ngư, nhưng ngón tay đang cuộn trong tay áo của nàng cũng không chịu nghe lời mà run lên bần bật.

Sau cùng, điều nàng đang nói chính là bí mật lớn nhất của Bích quốc, liên quan rộng lớn, can hệ nặng nề, có thể nói là chưa từng có từ xưa tới nay. Một khi bị tiết lộ hậu quả khó mà tưởng tượng nổi.

Trong tiếng mưa rào rào, giọng nói của nàng giống như một đóa hoa quẩn quanh dưới đáy nước đã nhiều năm, giãy giụa, xoáy tròn, cuối cùng ngoi lên khỏi mặt nước: “Rất lâu rất – lâu về trước đã lưu truyền một bí mật như thế này về gia tộc Cơ thị Cơ gia có ‘Liên thành bích’ và ‘Tứ quốc phổ’ hai vật này có thể giúp gia tộc vĩnh viễn chiếm vị trí đứng đầu trên. Triều đường, đứng ở vị thế bất bại. Nhưng rất lâu rất lâu rồi, không ai có thế nhìn thấy hai vật này. Cha ta từ khi trở thành hữu tướng đã luôn tìm kiếm hai vật này hòng lật đổ Cơ thị, nhưng lãng phí biết bao tài lực nhân lực mà vẫn không thu hoạch được gì. Đến năm Đồ Bích thứ tư, ông cảm thấy vạn sự đã chuẩn bị đầy đủ, không thể nhẫn nại thêm, bắt đầu… xuống tay đối với Cơ Anh”.

Trong phòng im lặng như tờ, hai người đang lắng nghe cố nhiên đều im lặng, còn người nói thì tâm thân đều tan nát. Có lúc Khương Trầm Ngư cảm thấy mình đã không còn ở trên nhân thế từ lâu, hiện giờ người đang điều khiển cái xác của nàng là một người nào khác. Nếu không, làm sao giải thích được nàng có thể kể về câu chuyện đáng sợ như thế một cách bình tĩnh đến vậy? Bình tĩnh đến mức như đã chết rồi.

“Một mặt cha thiếp âm thầm mua chuộc trọng thần trong triều đặc biệt là Hàn lâm bát trí, thực sự tốn tâm cơ để bọn họ ra mặt chỉ trích Cơ Anh, một mặt khác lại cùng Vệ Ngọc Hành giăng bẫy chờ Cơ Anh chui đầu vào rọ. Cuối cùng, ông đã thành công, ông dùng cái cách rất hạ lưu nhưng rất trực tiếp, rất hiệu quả, giết chết danh thần một đời. Mà điều khiến thiếp kinh ngạc là tại sao hoàng thượng lại dung túng cho ông làm chuyện này! Dung túng cho ông chặt đứt cánh tay mạnh nhất của mình! Cơ Anh chẳng phải là thần tử được sủng ái nhất, được tín nhiệm nhất của hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ánh mắt từ trên người Chiêu Doãn chuyền đến người Hy Hòa đang nằm sóng soài trên giường mà không nói nổi lời nào: “Bây giờ thiếp lại biết được một chuyện, đó chính là Hy Hòa phu nhân từng là tình nhân Cơ Anh. Hy Hòa bị hoàng thượng cố ý cướp đi trên tay Cơ Anh giống như năm đó đã từng cưỡng ép thiếp vào cung vậy”.

Hy Hòa gượng cười, nhưng khóe môi chưa nhếch lên biến thành một tiếng thở dài không thành tiếng.

“Tại sao? Tại sao hoàng thượng một mặt trọng dụng Cơ Anh, một mặt lại đi cướp nữ nhân của chàng? Tại sao Cơ Anh rõ ràng có thể nói là không thể thiếu đối với Bích quốc, nhưng hoàng thượng lại đồng ý cho giết chàng? Trong suốt một thời gian dài, chuỗi câu hỏi này đã khiến thiếp mất ăn mất ngủ, suy nghĩ muôn vàn. May mà… thiếp không phải chờ đợi lâu, rất mau chóng, ông trời đã cho thiếp câu trả lời. Chính là tối thái hậu qua đời…”.

“Thái hậu? Là thái hậu nói cho nàng biết?”. Trong phút chốc Chiêu Doãn kích động hẳn lên.

“Trước khi thái hậu từ trần, chỉ có một mình thiếp ở cạnh giường, bà đã nhận nhầm thiếp thành một người khác, người có tên là Lang Gia. Mà vị Lang Gia này chính là mẫu thân của Cơ Anh”. ầm ầm, lại một tia sét nữa đánh xuống, khiến khung cửa sổ sáng bừng lên.

Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, nhẹ nhàng nói: “Ngày hai mươi chín tháng ba năm Đồ Bích thứ ba, phu nhân còn ấn tượng với ngày này chứ?”.

Hy Hòa dường như bị gợi nhớ đến ký ức gì rất đáng sợ, toàn thân run lẩy bẩy, trong phút chốc hơi thở trở nên dồn dập.

Trên gương mặt Khương Trầm Ngư nói lên một sự thương khó diễn tả thành lời: “Chắc chắn phu nhân có ấn tượng. Bởi vì ngày hôm đó, phu nhân ở trong rừng hạnh, đợi Cơ Anh suốt một đêm. Mà chàng không đến”.

“Tại… tại sao ngươi lại biết?”. Giọng nói của Hy Hòa nghèn nghẹt, mỗi tiếng đều phải lách qua kẽ răng để phát ra.

“Sở dĩ chàng không đến, là vì… chàng bị người ta bán đứng, không thể đến được”. Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, chậm rãi nói: “Mà tất cả việc này đều bắt đầu từ ngày mùng mười tháng hai, ngày mẫu thân của công tử qua đời…”.

Ầm ầm đùng đùng, sấm vang chớp giật, ánh sáng lóe lên chiếu xuyên qua giấy dán cửa sổ, tựa như đến tường vách cũng bị xé nát.

Cũng đưa câu chuyện về mùng mười tháng hai của năm Đỗ Bích thứ ba.

Đêm đó, Lang Gia bệnh nặng, tất cả người của Cơ thị đều tụ tập trong nhà để đợi tin tức, nhưng bà không gặp một ai, chỉ gọi mình Cơ Anh vào trong…

Cơ Anh vào trong gian tầm thấtbên trong chỉ thắp một cây đèn duy nhất, thắp phòng nồng mùi thuốc, đù tính tình chàng luôn trầm ổn hướng nội, cũng không nén nổi khóe mắt cay cay.

Đang định thắp đèn, Lang Gia trên giường bệnh lên tiếng: “Đừng, đừng thắp đèn… ta sợ sáng”.

Cơ Anh liền dừng tay, đi đến bên giường, nắm lấy đôi tay khô gầy của mẫu thân, khẽ gọi một tiếng: “Mẹ”.

“Anh Nhi… con đến rồi”.

“Vâng, mẹ, con đã từ Hoa Hà trở về”. Mười ngày trước chàng bị Chiêu Doãn phái đi sửa, đê phòng lũ, vừa đến Hoa Hà liền nhận được tin xấu, lại vối vã trở về, vì thế người đầy bụi bặm, mặt cũng chưa rửa áo quần cũng chưa kịp thay cực kỳ tiều tụy.

Nhưng Lang Gia nhìn chàng giống như nhìn thứ yêu quý nhất trên đời, giơ hai tay ra ôm lấy mặt chàng, gọi mộ cách tràn đầy tình cảm: ‘Anh Nhi… của mẹ, Anh Nhi ngoan…”

“Mẹ, con ở đây, con vẫn luôn ở đây”

“Con đồng ý với mẹ một chuyện”.

“Mười việc, trăm việc, con đều đồng ý”.

Nhận được sự đảm bảo của con trai, Lang Gia mỉm cười trong nụ cười ấy chất chứa rất nhiều nỗi tiếc nuối và xót xa khó diễn tả thành lời: “Con có biết tại sao ta muốn con dốc hết sức lực phò tá Chiêu Doãn không?”.

Cơ Anh ngây người đáp: “Là vì… y lấy tỉ tỉ”.

Lang Gia lắc đầu.

Cơ Anh lại nói: “Là vì y là hoàng đế tốt”.

Lang Gia khẽ thở dài: “Là vì… nó là đệ đệ của con”.

Ầm ầm, mưa rơi như trút nước, mặc ý rửa sạch vạn vật trên thế gian.

Rèm mi Cơ Anh nhướng lên rồi lại cụp xuống, rồi lại nhướng lên, trong con ngươi bấy giờ mới biểu lộ một chút bóng dáng của sự chấn động ngạc nhiên. Lang Gia nhìn những biến hóa biểu cảm rất nhỏ đó, hài lòng gật đầu: “Rất tốt, quả nhiên đã học được cách xử sự dù núi Thái Sơn có sụp trước mắt cũng cũng không biến sắc… Mẹ rất hài lòng”.

Cơ Anh im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Con… có thể hỏi… tại sao không?”.

“Đương nhiên có thể, vì ta nhất định sẽ nói cho con. Bởi Vì…Đồ Bích… Vốn là thiên hạ của Cơ gia chúng ta!”.

Ầm ầm.

Ánh nến yếu ớt chiếu sáng Lang Gia đang trong cơn nguy kịch, năm tháng đã ăn mòn hết sạch, ăn mòn triệt để nhan sắc và sức khỏe của bà, nhưng lại bù đắp cho bà một đôi mắt trí tuệ.

Lang Gia, con gái của Chung thượng thư, thời thiếu nữ đẹp nhất kinh đô được gả làm vợ của Lộc Đỉnh hầu Cơ Tịch, phu thê tình thâm, bên nhau trọn đời. Nếu dùng tộc phả để ghi chép về người này, có thể chỉ có một câu nhự vậy, nhưng đối với toàn thể Cơ gia mà nói, bà mới là công thần thực sự.

Khi bà được gả cho Cơ Tịch, Cơ Tịch chẳng qua chỉ là một hầu gia hữu danh vô thực, không có gì xuất chúng, nội bộ gia tộc Cơ thị hỗn loạn, đấu đá lẫn nhau. Địa vi đệ nhất sĩ tộc vốn có cũng dần dần bị tranh giành, bị ba tộc Khương, Tiết, Vương thay thế.

Sau khi bước chân vào Cơ gia, bà đã dùng mười năm chính sách cứng rắn để trị gia mới khiến Cơ gia phân tán tập trung trở lại, cuối cùng đã đạt được thế cân bằng tứ đại sĩ. Vì thế, mọi người trong tộc đều phục tùng mình bà, một lòng bội phục vị chủ mẫu của gia tộc này. Đến nay, tính mạng bà nguy kịch, tất cả mọi người đều đến thăm hỏi, đợi lời trăn trối lúc lâm chung của bà, mà không màng tới chủ nhân thực sự là Cơ Tịch.

Từ nhỏ, Cơ Anh đã được mẹ dạy dỗ, tuy được dạy là phải độc lập tự chủ phàm chuyện gì cũng phải tự mình quyết định, nhưng đối với mẫu thân, vẫn là bảo gì nghe nấy. Cũng vì thế cho dù mẫu thân nói gì đi nữa, chàng cũng không ngạc nhiên.

Cho nên, khi Lang Gia nói ra một câu nói đủ để khiến triều dã xáo động, cực kỳ đại nghịch bất đạo đó, CơAnh cũng chỉ ánh mắt hơi lóe lên, đầu mày khẽ chau, nhìn bà chăm chú.

“Lúc còn nhỏ chắc chắn con đã từng nghe đến chuyện Liên thành bích và tứ quốc phổ”.

“vâng”.

“Thế thì, con cảm thấy Cơ gia chúng ta thật sự có hai vật này không?”.

Cơ Anh lắc đầu.

“Trên thực tế, chúng ta có”.

Mắt Cơ Anh trong tích tắc mở rất to.

“Thái Tổ hoàng đế Quý Vũ khi dựng nước đã cùng ông tổ của chúng ta kết nghĩa huynh đệ, vì thế cho phép Cơ gia đời đời hưởng tước hầu, nhưng sự thực còn hơn cả như thế – Thái Tổ vô sinh, không có con nối dõi, một người xuất thân từ lều cỏ cuối cùng làm nên bá nghiệp như ông cũng không còn người thân thích nào khác. Cho nên, sau khi bàn bạc với ông tổ của con đã bỗng một đứa trẻ vừa mới chào đời ở Cơ gia đi, đứa trẻ đó đã trở thành Tuệ đế sau này. Tuy chuyện này giữ bí mật với bên ngoài, nhưng khi Thái Tổ lâm chung đã kể lại chân tướng cho Tuệ đế, từ đó về sau, Tuệ đế trọng dụng thần tử họ Cơ khiến cho Cơ gia một thời vẻ vang không ai sánh kịp”.

Trong tiếng sấm, bà Lang Gia chậm rãi kể, giọng nói tuy yếu ớt, nhưng ngữ điệu vẫn trầm ổn, cực kỳ có sức thuyết phục.

“Trước lúc băng hà, Tuệ đế cũng truyền lại bí mật này cho Hiếu đế. Hiếu đế lại truyền lại cho Đàn đế. Đàn đế truyền lại cho tiên đế. Vì thế, hoàng tộc vẫn luôn biết rõ bí mật này. Cái gọi là Liên thành bích kỳ thực để chỉ huyết mạch hoàng gia, chỉ cần Bích quốc vẫn còn thì không có chuyện Cơ thị chúng ta diệt vong. Nhưng, tiên đế… lại phản bội lại lời hứa”.

Nói tới đây, bà Lang Gia cười lạnh lùng, nụ cười cực kỳ làn khốc.

“Bởi vì, ngài quá thích cô con gái của Vương gia đó, thích đến độ quên mất mình vốn họ Cơ!”.

Sau khi Hành Xu đăng cơ, định niên hiệu là Gia Bình. Năm Gia Bình thứ sáu, con gái út của Vương thị là Trăn Cơ vào cung, vốn chỉ là một tiểu mỹ nhân. Nhưng Hành Xu lại một lòng say đắm nàng ta, ân sủng hết mực, từng bước từng bước từ một mỹ nhân được phong lên làm quý nhân, rồi lại phong làm hoàng hậu vào năm Gia Bình thứ chín, Vương thị sinh được một hoàng tử, chính là thái tử Chiêu Thuyên sau này.

“Khi Vương thị đắc sủng, cả Vương gia đều phất lên đặc biệt là Vương phụ, nắm trong tay đến bảy phần quyền lực của Bích quốc, bắt đầu tiến hành chèn ép Cơ gia. Cha con nhu nhược, không có chủ ý, khi suy sụp nhất ngoài cái phong hiệu hầu gia ra, không có bất cứ thực quyền nào. Mắt ta nhìn thấy Cơ thị sa sút, cảm thấy không thể tiếp tục như thế nữa. Vì thế chọn một người từ Cơ gia để đưa lên ngôi vị người thừa kế, trở thành một việc vô cùng cấp thiết. Khi đó ta vừa hay mang thai con, cho nên dự định ban đầu của ta là đưa con vào cung nhưng chẳng ngờ con vừa chào đời đã mang bệnh tim, suýt nữa thì chết yểu. Đại phu nói nếu,không thể điều dưỡng cẩn thận, thì không sống được đến ba tuổi. Ta nhất thời mềm lòng không nỡ đưa con đi, huống hồ dưới sự chuyên quyền của Vương thị, nếu trong cung có hoàng tử khác ra đời, chắc chắn hoàng tử đó sẽ phải chịu khổ. Như thế, ta lại đợi thêm một năm nữa. Năm Gia Bình thứ mười một, ta có Chiêu Doãn”.

Cơ Anh không kìm được hỏi: “Cho nên mẹ tiến hành buộc tiên đế, để ngài không thể không nhận đứa con này?”.

“Không phải. Sao mẹ dám uy hiếp -tiên đế? Mẹ chỉ mua chuộc một thái giám ở bên ngài, sắp xếp tiên đế có một cuộc gặp gỡ mỹ nhân nghe hát bên hồ mà thôi. Nhưng khi đó tất cả tâm tư của Hành Xu đều dồn vào Trăn phi, tuy đã lâm hạnh cung nữ đó, nhưng quay đầu là quên. Có điều cũng không sao, mười năm sau, mẹ nhắc ngài nhớ ra. Vì thế, ta đã hứa với Vân phi không được sủng ái khi đó, cũng tức là thái hậu hiện nay, chỉ cần bà nhận nuôi Doãn Nhi, bà sẽ là hoàng kế nhiệm. Ta sắp xếp tất cả ổn thỏa, rồi đợi Doãn Nhi ra đời, nhưng thương thay nó vừa mới ra đời, mẹ còn chưa kịp ôm nó được lâu, đã phải vội vã đưa nó vào hoàng cung, chịu hơn mười năm khổ ải…”. Lang Gia nói đến đây, nước mắt lã chã: “Ta có lỗi với nó… nhưng ta cũng không còn cách nào khác. Nhà ta khi ấy, chẳng có lấy một người có thể rạng rỡ tổ tông, văn không thành võ không tựu, khoa cử thi trượt cũng đành, ra ngoài đánh trận, bình định phản loạn cũng đều là Vương gia đi… Cho nên, con bài duy nhất trong tay ta chỉ có chút huyết mạch đó của Tuệ đế, ta chỉ có thể dùng cách này”.

Lòng Cơ Anh buồn bã, nhưng trên mặt vẫn bình tĩnh như cũ giơ tay vuốt mái tóc của mẫu thân, động tác cực kỳ diu dàng.

Bà Lang Gia nắm chặt tay chàng, mỉm cười vui vẻ: “May mà, sau này con dần lớn lên. Mẹ đã dùng hết tâm huyết để bồi dưỡng dạy dỗ con, còn con cũng hoàn toàn không phụ sự kỳ vọng của mẹ, còn xuất sắc hơn cả sự tưởng tượng của mẹ, người làm mẹ như mẹ, thật sự, thật sự… cảm thấy tự hào vì con. Nhưng, con càng xuất sắc càng nhận được nhiều lời khen thì mẹ lại càng thấy áy náy với Doãn Nhi. Vì sợ Vương gia phát giác, cho nên trong suốt mười năm đó, mẹ không giúp đỡ nó dù chỉ một lần, mà mười năm sau khi thời cơ chín muồi, mẹ chỉ thị cho thái giám đưa nó đến trước mặt Hành Xu, nghe nói đến chữ nó cũng không biết, trái tim của mẹ giống như bị vô số lưỡi dao cứa nát, đau đến mức không thể đau hơn… Cho nên, Anh Nhi, mẹ muốn con đồng ý với mẹ một việc duy nhất chính là: Đời này của con, cho dù xảy ra chuyện gì,cho dù thế sự biến đổi ra sao, con đều phải bảo vệ đệ đệ của con. Phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ nó, phò tá nó, bù đắp hết thảy những gì mẹ và Cơ gia nợ nó!”.

Bà Lang Gia chăm chăm nhìn đứa con trai được bên ngoài gọi là Bạch Trạch chuyển thế, văn tài võ công kiến thức mưu trí cái gì cũng siêu phàm thoát tục, hiếu thuận khiêm cung chưa bao giờ trái lời bà, dù cho đáp án đã nằm trong dự liệu, nhưng nó vẫn vô cùng nghiêm túc hỏi: “Con… có thể đồng ý không?”.

Đúng thế. Là cái đêm mưa bão của bao nhiêu năm về trước. Chàng ân cần chăm sóc bên giường của mẫu thân, nhìn bà hơi thở yếu ớt, sinh mệnh dần tàn, đau lòng khôn tả, mà trước lúc lâm chung, những lời bà nói với chàng giống như một mũi dao nhọn cắt lìa gân cốt, giống như máu thịt lần nữa nhào nặn, trong nháy mắt, trời đất sụp đổ, vạn kiếp bất phục.

Chiêu Doãn… lại là… đệ đệ của chàng… đệ đệ ruột…

Mà cái gọi là Liên thành bích lại không phải tiền tài vàng bạc châu báu, mà là huyết mạch hoàng gia…

Nếu không phải chàng là người trong cuộc buộc phải biết chân tướng, nếu không dù cho có suy nghĩ hoang đường ly kỳ đến thế nào, e rằng cũng không ngờ tới, trên đời lại có chuyện như thế này…

Đối mặt với mẫu thân đang hấp hối, đối mặt với bí mật liên quan đến toàn gia tộc thậm chí toàn quốc gia, Cơ Anh… khuất phục.

Chàng chỉ có thể lựa chọn khuất phục.

“Hài nhi… nhớ kỹ lời mẫu thân dạy, trọn cuộc đời con, phải toàn tâm toàn ý phù tá hoàng thượng, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”.

“Tốt”. Bà Lang Gia sau khi nhận được lời câu trả lời khẳng định, hơi tàn đó cũng từ từ tan đi.

Cơ Anh bỗng nhớ ra một chuyện, nắm chặt tay bà gấp gáp hỏi: “Đợi đã, mẹ ơi! Hoàng thượng là đệ đệ của con, làm sao đệ đệ của con có thế lấy tỉ tỉ làm v ợ “.

“Tỉ tỉ của con… đã…”. Con ngươi của bà Lang Gia bắt đầu mờ đục, câu tiếp theo, đã không thể nghe ra nổi “… rồi”.

“Cái gì? Mẹ? Mẹ nói cái gì? Tỉ tỉ làm sao? Rốt cuộc tỉ tỉ làm sao? Mẹ! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ! Mẹ!…”. Cơ Anh trước sau luôn ghi nhớ lời dạy không thể hiện tình cảm ra mặt cuối cùng đã sụp đổ, khẩn thiết ôm chặt mẫu thân, muốn biết thêm vài điều từ bà, nhưng tất cả đã quá muộn rồi, bàn tay bà Lang Gia đã buông thõng, hơi thở đã ngừng lại.

Ngày mùng mười tháng hai, mưa to, chủ mẫu Cơ thị Lang Gia qua đời.

“Cơ Hốt làm sao?”. Hy Hòa nghe đến đây cũng không kìm nổi thất kinh, từ trên giường nhảy dựng lên.

“Cơ Hốt làm sao à…”. Khương Trầm Ngư kể lại đến đây, quay đầu lại nhìn Chiêu Doãn một cái: “Thiếp nghĩ, hoàng thượng mới là người biết rõ nhất. Đúng không? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn khi nghe Khương Trầm Ngư thuật lại trăn trối của bà Lang Gia trước lúc lâm chung thì không một lời, dường như toàn thân đang tê liệt, bấy giờ nghe thấy Khương Trầm Ngư hỏi cũng chỉ lạnh lùng cười: “Không phải cái gì nàng cũng biết sao? Hà tất phải để ta nói”.

“Được. Thế thì để thiếp nói. Nếu như thiếp nói sai xin hoàng thượng cải chính”.

Chiêu Doãn hừ lạnh một tiếng.

Khương Trầm Ngư quay sang Hy Hòa: “Phu nhân, phu nhân đã từng gặp Cơ Hốt chưa?”.

Hy Hòa lắc đầu: “Khi ta quen biết Tiểu Hồng… Cơ Anh, Cơ Hốt đã xuất giá rồi”.

“Thế còn sau khi phu nhân vào cung thì sao?”.

Hy Hòa mỉm cười châm biếm trả lời: “Sau khi vào cung, đến bản thân ta còn chẳng buồn nhìn, huống hồ là gặp người khác”. Câu nói này tuy rất mỉa mai, nhưng đúng sự thực. Từ sau khi vào cung, Hy Hòa cả ngày ca hát tìm vui, sống mơ mơ màng màng, e là đến bản thân mình cũng đã lãng quên.

“Giống như phu nhân, ta cũng chưa từng gặp Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư lại chuyển ánh mắt sang phía Chiêu Doãn: “Vị phi tần nổi danh thiên hạ này trước sau luôn sống trong lời đồn thổi của người khác, ta đã điều tra, kết quả là không có một ai trong cung này thực sự đã gặp nàng ta. Hoàng thượng, hoàng thượng nói xem có lạ hay không? Một hoàng phi, nhưng chưa có ai từng gặp. Một hoàng phi lại có thể không cần thỉnh an thái hậu, không tham kiến hoàng hậu. Cho dù Cơ bọn họ quyền thế lớn đến đâu đi chăng nữa, hành vi như thế chẳng phải cũng quá là kỳ lạ sao?”.

Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn xuống đất, căn bản không có bất kỳ phản ứng nào.

Khương Trầm Ngư lại cười nhạt: “Thế nên thiếp đã phái người bắt đầu điều tra kể từ khi nàng ta vào cung. Cơ Hốt là trưởng nữ của Cơ gia, tướng mạo bình thường, nhưng trời sinh thông tuệ là một tài nữ giỏi văn chương. Bài ‘Quốc sắc thiên hương phú đó’, thiếp cũng đọc rồi, đúng là một tuyệt khiến người ta kinh ngạc mà hồn xiêu phách tán, cũng khó trách hoàng thượng vừa đọc đã si mê, lập tức đến Cơ phủ cầu thân. Nhưng bây giờ nhìn lại, trái lại nó giống như một màn kịch hơn, để một hoàng tử thân không chỗ dựa, xuất thân hèn kém, có thể có được quyền thế một cách nhanh nhất, còn gì nhanh hơn là lấy con gái của một đại thần? Từ sau khi gả cho hoàng thượng, Cơ Hốt chưa từng lộ diện trước mặt người ngoài. Thậm chí… ngày hai mươi lăm tháng chín, đến lễ tang của Kỳ Úc hầu, nàng ta là tỉ tỉ ruột, là người thân thiết nhất trên đời của Kỳ Úc hầu, nhưng cũng không có mặt”.

“Đúng thế, tại sao vậy?”. Hy Hòa không nén được truy vấn.

“Tại sao ư… thiếp cũng không biết tại sao. Không có cách nào khác, người đã không đến thì thiếp chỉ có thể đi tìm người. Nhưng thiếp không dám đến Đoan Tắc cung, thứ nhất không có thuyền, thứ hai quá lộ liễu, trong cung tai mắt như rừng, ngộ nhỡ bị hoàng thượng biết được thì chẳng phải công sức trước đây của thiếp đều đổ xuống sông xuống biển sao? Cho nên, thiếp đành phải nhờ Tiết Thái thay thiếp đến Cơ gia một chuyến, tới khuê phòng Cơ Hốt đã từng ở, mang về một số thi cảo của nàng ta cho thiếp. Đọc xong sơ đó, thiếp kinh ngạc phát hiện, bài ‘Trường Ương ca’ được nói là Cơ Hốt cuồng thảo viết ra sau khi uống say vào ngày mùng hai tháng tám, lạc khoản lại là vào năm Gia Bình thứ hai mươi sáu”.

“ý của ngươi là bài văn đó nàng ta viết từ năm trước?”.

“Đúng thế”

“Sao, sao có thể… như thế?”. Hy Hòa sửng sốt.

“Tài danh của Cơ Hốt trở nên khó ai bì kịp là do nó đi kèm với truyền kỳ hoàn mỹ không gì sánh kịp. Nhưngthực tế, nếu nói đến thiên hạ đệ nhất thì thực sự còn có nhiều người tài hơn nàng ta. Nàng ta giỏi ở chỗ có thể khiến một đế vương khuynh đảo vì mình. Sở trường mạnh nhất của ngưới đời là a dua, hoàng thượng đã nói hay, thì bọn họ có thể không nói hay sao? Cho nên, phàm những bản thảo thơ văn của nàng ta lưu truyền ra ngoài, đều được tranh nhau sao chép. Nhưng nghiên cứu kỹ thì số bản thảo thơ văn lưu truyền ra ngoài của nàng ta không quá nhiều, tổng cộng cũng không đến mười bài. Trước khi xuất giá, ngoại trừ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ thì không có bài nào khác. Nhưng những thi cảo mà Tiết Thái mang về đã chứng minh một sự thực: Những bài văn lưu truyền ra ngoài sau khi nàng ta kết hôn đó, đều được viết trước lúc xuất giá. Cũng tức là sau khi xuất giá, nàng ta không còn viết gì nữa. Kết hợp với những hiện tượng kỳ lạ kể trên, thiếp rút ra. một kết luận”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói ra đáp án: “Cơ Hốt đã chết rồi”.

Hy Hòa kinh ngạc kêu lên: “Cái gì?”.

Cơ Hốt là tỉ tỉ ruột của hoàng thượng, nàng ta không thể thực sự được gả cho hoàng thượng, hơn nữa, nếu Vệ Ngọc Hành không nói dối hắn và Cơ Hốt vốn là một đôi. Cơ gia vì muốn giành lại sự huy hoàng trong quá khứ, để tác thành cho vị đế vương mới lên ngôi, cho nên đã hy sinh con gái của mình”.

Ầm ầm.

Mưa gió bện ngoài cửa sổ cứ thỏa sức trút xuống, như thể không có ngày mai, những hạt mưa tơ như hạt đậu gõ lên giấy dán cửa mỏng manh, khiến người ta cảm thấy khoảnh khắc tiếp theo nó sẽ xé rách giấy mà chui vào.

Đêm lạnh thấu xương như thế, còn ba người trong phòng im lặng hồi lâu.

Đột nhiên, một tràng cười khẽ vang lên, sau đó biến thành cười lạnh cười giễu cợt, cuối cùng thành cười lớn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười tám : Người Tính (Phần 2)

Khương Trầm Ngư và Hy Hòa cùng ngước mắt nhìn sang, thì thấy Chiêu Doãn ngồi bên cạnh bàn cười đến mức ngũ quan méo mó, cực kỳ đáng sợ.

Hy Hòa không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cười cái gì?”.

“Ta cười các nàng một kẻ thì ngu xuẩn vô tri, một kẻ thì tự coi mình là đúng, cho nên diễn ra màn kịch ép vua thoái vị vụng về hoang đường, thật là nực cười, nực cười”.

Hy Hòa mặt hơi biến sắc, có chút hoảng loạn: “Hoà thượng nói gì?”.

Chiêu Doãn căn bản không buồn nhìn nàng ta, mà trừng mắt nhìn chòng chọc vào Khương Trầm Ngư, cười nham hiểm, nói: “Cơ Hốt đã chết à? Không ngờ nàng có thể nghĩ ra tình tiết hoang đường quái gở như thế, thật là nực cười. Thực sự coi tất cả người trong cung đều là người chết? Thực sự coi người trong thiên hạ đều chết cả phải không?”.

Khương Trầm Ngư không hề rối trí, thần sắc vẫn trấn tĩnh như cũ, ánh mắt sáng ngời, lạnh nhạt mở miệng: “Thế thì hoàng thượng cho thiếp biết, Cơ Hốt đang ở đâu?”.

“Tại sao ta phải cho nàng biết? Nếu nàng có bản lĩnh thì tự đi điều tra đi!

Nàng không phải rất lợi hại sao? Đến bí mật Liên thành bích cũng moi ra được, thế thì Tứ quốc…’. Chiêu Doãn đột ngột ngậm miệng lại.

Nhưng Khương Trầm Ngư không bỏ qua câu lỡ miệng trong thoáng chốc này của y, lập tức hỏi: “Tứ quốc phổ? Lẽ nào Cơ Hốt có liên quan đến Tứ quốc phổ?”.

Chiêu Đoãn im lặng.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ánh nến đang nhảy nhót, im lặng thất thần một lúc, sau đó mới than nhẹ một tiếng, nói: “Thiếp rõ rồi”.

Hy Hòa nhìn Chiêu Doãn rồi lại nhìn nàng: “Rõ cái gì?”.

“Ta có một điều nghi ngờ vẫn chưa được giải đáp, bây giờ cuối cùng đã rõ rồi”. Khương Trầm Ngư vừa nói vừa liếc Chiêu Doãn, nhếch môi mỉm cười: “Đa tạ hoàng thượng đã nhắc nhở”.

Mặt Chiêu Doãn trở nên cực kỳ khó coi.

Hy Hòa hỏi tiếp: “Rốt cuộc ngươi hiểu ra cái gì?”.

Khương Trầm Ngư đứng thẳng dậy, lấy ánh nến tươi sáng làm phông nền, lấy mưa gió bên ngoài cửa sổ làm nhạc đệm, giương cao tay áo và làn váy như vàng ngọc sóng sánh, cười rạng rỡ: “Ta hiểu ra được một sự thực: Nếu Liên thành bích có thể là một người, vậy thì Tứ quốc phổ tại sao nhất định phải là sách?”.

Câu nới cuối cùng, vang vọng trong tẩm cung trống trải của hoàng hậu, rồi một ánh chớp xẹt qua, chiếu sáng khuôn mặt Chiêu Doãn đã hoàn tơàn trắng bệch.

“Khi cha ta mua chuộc Hàn lâm bát trí lại không biết bí mật Cơ Anh và hoàng thượng là anh em ruột. Vì ông chỉ có thể vu cho Cơ thị tham ô gây họa cho nước và thu thập một đống chứng cứ quốc khố tiền tài không biết đi đâu mất, ông tưởng dựa vào những chứng cứ hùng hồn đó để lung lạc hoàng thượng. Nhưng sự thực có phải như thế không?”.

Đáy mắt Khương Trầm Ngư sáng lấp lánh, giọng nói bỗng chốc cũng trở nên đau buồn.

“Khi Tiết Thái được phái đi cứu nạn Giang Đô, vì tiền hắn có thể nói là nghĩ đến nát óc, mục tiêu ban đầu của hắn không chỉ là lừa Quan Đông Sơn mà là lấy tiền từ Cơ gia về. Thế nhưn sự thực là Cơ gia không có tiền. Không chỉ như thế, họ cũng không có quyền. Chẳng phải là rất bất ngờ sao? Rỡ ràng hai tộc Vương, Tiết đã tiêu vong, Khương gia thu mình chờ thời cơ, một mình Cơ thị phô bày sự xuất chúng, bọn họ sao lại không tiền không quyền? Sao có thể như vậy? Sau một phen điều tra triệt để mới biết, hóa ra tất cả đều là công tử cố ý làm. Chàng không giống với bà Lang Gia, Lang Gia vì muốn phục hưng Cơ gia nên đã không từ một thủ đoạn nào, thậm chí dung túng cho người trong gia tộc lạm quyền bẻ cong vương pháp cuối cùng tuy khiến cho Cơ gia lần nữa huy hoàng, nhưng nội bộ thì muôn vàn thối nát, dơ bẩn hết đỗi. Còn công tử kể từ sau khi tiếp quản Cơ gia, bắt đầu từng bước chỉnh đốn môn hộ, bởi vì chàng làm rất tốt, rất hiệu quả, nên bề ngoài nhìn như sóng êm biển lặng, không có ai cảm nhận được, nhưng đến khi mọi người phát hiện ra thì đã lần lượt bị tước bỏ quan chức đánh mất quyền lực. Đây chính là Cơ Anh”

Chiêu Dơãn phát ra một tiếng cười “hừ”.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn nhìn chăm chú vào mắt, nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng, hoàng thượng nói mình cực kỳ cảm động trước việc thiếp cắt đứt với gia tộc, đó là vì hoàng thượng đã tìm thấy bóng dáng của mình trên người thiếp. Vào cái ngày mà hoàng thượng dung túng cho cha thiếp loại trừ Cơ Anh, đồng nghĩa với việc hoàng thượng cũng triệt để cắt đứt với Cơ gia”.

“Tại sao ta không thể cắt đứt với bọn họ?”. Trong ánh mắt Chiêu Đoãn hiện lên sự căm hận tột độ, khóe mắt giật giật nói: “Chỉ dựa vào dòng máu Cơ gia chảy trong cơ thể ta sao? Thật nực cười! Lang Gia thật là một chủ mẫu vĩ đại, vì gia tộc lại hy sinh chính con trai mình! Mười năm! Ta sống suốt mười năm khổ cực trong căn nhà nhỏ hoang tàn bên cạnh hồ Phượng Thê! Cơm không đủ no áo không đủ mặc, chịu đủ mọi tủi nhục! Là ai đã biến ta thành như thế, là ai đã an bài vận mệnh của ta trước cả khi ta ra đời? Được, họ đã đẩy ta lên ngôi báu cửu ngũ chi tôn, thì cũng chính họ phải chịu hậu quả này. Họ cho rằng ta sẽ biết ơn, sẽ báo đáp họ? Nằm mơ! Trước kia ta chưa đủ lông cánh, cho nên phải dựa vào Cơ Anh, nhưng bây giờ khác rồi, thiên hạ đều là của ta! Quyền thế cũng đều là của ta! Những khổ sở mà ta phải chịu, ta đều trả lại từng chút từng chút một! Chỉ một gia tộc cỏn con có là gì? Cha mẹ sinh ra ta nhưng không nuôi dưỡng ta có là gì? Ca ca vỗn dĩ phải đi con đường của ta nhưng vì may mắn mà tránh được có là gì? Tất cả có là gì? Có là gì?”.

Là nhiều năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng trong mật thất, chiếu sáng người đó gương mặt cuồng dại, xông đến trước mặt chàng gào lên, nợ ta, nợ ta, đời này kiếp này ngươi đều nợ ta!

Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn gào thét, cũng không khuyên can, mà chỉ lạnh nhạt đứng nhìn.

Chiêu Đoãn… năm đó không phải cũng nói với Cơ Anh những lời giống thế này sao? Khi y quyết ý cướp Hy Hòa, khi Cơ Anh biết tin đã xông vào hoàng cung tìm y đối chất, cũng chính những lời này của y cuối cùng đã khiến Cơ Anh lòng như tro tàn?

Người và người, quả nhiên là… không giống nhau.

Có công tử như thế này.

Cũng có đế vương như thế này.

Khương Trầm Ngư không nhịn được mỉm cười chua chát, thấp giọng nói: “Đúng thế. Là vì quá đau khổ, là vì quá trầm trọng, cũng là vì quan điểm khác nhau, đạo chẳng cùng đường.. Chúng ta đều vì những nguyên nhân như thế này như thế kia mà vứt bỏ gia tộc, chỉ có công tử, rõ ràng rất coi thường hành vi tư lợi làm rối loạn kỷ cương, rất ghét thói xấu tham tiền hám sắc, nhưng vì những người đó đều là người thân, cho nên, chàng lặng lẽ gánh chịu, kiên trì, không từ bỏ, mà dùng phương thức nhu hòa nhất của bản thân để thay đổi gia tộc… Đây chính là điểm khác biệt giữa hoàng thượng, thiếp và công tử”.

Khóe mắt Chiêu Doãn co giật, giống như bị câu nói cuối cùng đâm trúng.

“Cơ gia không tham ô, thế thì tiền trong quốc khố đi đâu?” Khương Trầm Ngư chuyển chủ đề: “Ngày hai mươi mốt tháng chín, ở hồ Phượng Thê thiếp bỗng nhìn thấy một chiếc thuyền chèo từ trong Đoan Tắc cung ra, trên thuyền có hai người, một là Suy Ông Ngôn Duệ danh tiếng lẫy lừng”.

“Cái gì? Ông Lão tới hoàng cung”. Hy Hòa ngạc nhiên.

“Khi ấy ta cảm thấy rất kỳ quái, tại sao Ngôn Duệ lại không kèn không trống vào cung? Tại sao sau khi vào cung Ngôn Duệ không tìm người quen cũ là phu nhân mà lại đến. Đoan Tắc cung? Tại sao Ngôn Duệ sớm không về muộn không về lại trở về đúng ngày làm lễ cho công tử… Ta nghĩ kiểu gì cũng không ra. Bây giờ ngẫm lại, khi đó ta quá chú ý đến Ngôn Duệ, nhưng lại bỏ qua một việc khác gần ngay trong gang tấc, đó là người thứ hai”.

“Người thứ hai?”.

“Đúng thế. Khi đó trên chiếc thuyền nhỏ còn có người thứ hai. Nhưng vì khi ấy người đó đang chèo thuyền, thân hình lại nhỏ thó dung mạo bình thường, cho nên ta cứ tưởng là cung nữ của Đoan Tắc Cung, nên không để tâm, bây giờ mới biết, ta đã cực kỳ sai lầm, người đó chính là Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư quay sang Chiêu Doãn nói: “Thiếp nói có đúng không? Hoàng thượng”.

Chiêu Doãn cười lạnh lùng, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận.

Khương Trầm Ngư lại nói tiếp: “Đúng như những gì ta đã nói, nếu Liên thành bích có thể là một người, tại sao Tứ quốc phổ nhất định phải là sách? Số tiền trong quốc khố đó đi đâu? Số ám vệ giống như Điền Cửu bên cạnh hoàng thượng không ít, là ai đã thay hoàng thượng huấn luyện tử sĩ? Là ai giăng mạng lưới tình báo khắp nơi, để chuyện phát sinh vào ngày mười chín tháng chín ở Giang Đô, hai ngày sau đã được truyền đến đế đô? Xâu chuỗi tất cả những điều này với nhau, một câu trả lời đã trở nên vô cùng rõ ràng…”.

Hy Hòa giọng run run nói tiếp: “Là Cơ Hốt… Cơ Hốt là Tứ quốc phổ?”.

“Nói chính xác là Ngôn Duệ. Cơ Hốt có lẽ là đệ tử của ông ta, cũng có thể là tình nhân của ông ta… Điều này bây giờ vẫn chưa thể khẳng định”.

Chiêu Doãn cười lạnh nói: “Sao? Trên đời này còn có chuyện mà hoàng hậu chưa thể khẳng định ư? Hoàng hậu không phải điều gì cũng biết sao?”.

Khương Trầm Ngư không bị y khích bác, vẫn rất bình tĩnh trả lời: “Chỉ cần cho thiếp thêm một chút thời gian, thiếp nhất định có thể tra ra”.

Lại một lần nữa Chiêu Doãn ngậm miệng.

Khương Trầm Ngư không thèm đếm xỉa đến y nữa mà quay sang nhìn Hy Hòa: “Để ta nói tiếp, nói cho phu nhân biết vì sao cái ngày hai mươi chín tháng ba đó, công tử không đến theo hẹn được”.

Cuối cùng nàng đã nói đến vấn đề Hy Hòa quan tâm nhất mắt của Hy Hòa bỗng chỗc đỏ hoe, túm chặt vạt áo trước ngực cả người hơi run run.

Thấy dáng vẻ Hy Hòa như thế, trong lòng Khương Trầm Ngư thầm thở dài một tiếng, chẳng phân rõ được là bản thân thương tiếc hơn hay là đau đớn hơn. Chỉ có thể khẳng định một điều, tạo hóa trêu ngươi, vận mệnh thường luôn tàn khốc, cho dù là với nàng, với Hy Hòa… hay là với Cơ Anh.

Một ngày tháng ba, Chiêu Doãn ra khỏi cung nhìn thấy phu nhân, sau đó, quyết định muốn có được phu nhân”.

Hy Hòa cắn chặt môi, lúc này lời Chiêu Doãn nói hôm ấy tái hiện trong đầu, trùng khớp với lời của Khương Trầm Ngư, không chút sai lệch.

“Đó là tháng ba tiết trời se lạnh, nàng giặt quần áo bên hồ, ăn vận rất mỏng manh, mũi và tay đều bị lạnh cóng đỏ ửng cả lên, sau đó móc ra một bình rượu từ phía sau, uống mấy ngụm, rồi lại giặt tiếp… Khi ấy, nàng mải giặt quần áo, hoàn toàn không nhìn thấy ta trong chiếc xe ngựa bên đường, nhưng cách khung cửa xe ta vẫn luôn nhìn nàng, nhìn mãi, từ lúc đó trở đi ta tự nói với mình, nhất định phải có được nàng”.

“Nhưng đồng thời Chiêu Doãn cũng biết mối quan hệ giữa phu nhân và Cơ Anh, cho nên, cố ý báo chuyện này cho Cơ Tịch”.

“…Cho nên, vài ngày sau, trẫm triệu Cơ Tịch vào cung, nói với lão thất phu rằng trẫm muốn có tình nhân của con trai lão”.

“Cơ Tịch quay về nói với công tử, đương nhiên công tử cả kinh thất sắc kiên quyết không chịu. Vì thế, ngay trong đêm đó chàng viết một lá thư sai Thôi quản gia mang đến cho phu nhân hẹn phu nhân vào ngày hai mươi chín tháng ba, đợi chàng trong rừng hạnh”.

Trong phút chốc, tầm nhìn của Hy Hòa bỗng nhòe nhoẹt, nước mắt trào ra, che lấp tất cả mọi thứ.

Trong lòng Khương Trầm Ngư cũng cực kỳ buồn bã, vẻ mặt của Thôi quản gia khi quỳ trước mặt nàng thú nhận chuyện năm xưa, nàng vẫn không hề quên dù chỉ là một chút, bà lão như ngọn nến tàn trước gió ấy đã quỳ gối trên nền đất, lạnh giá, hết lần này đến lần khác tự vả vào mặt mình, khóc đến mức đau đớn không thiết sống…

“Lão nô có lỗi với công tử! Nương nương, lão nô có lỗi với công tử!”. Thôi quản gia vừa đấm ngực mình vừa khóc thảm thiết: “Công tử tin tuởng lão nô, sai lão nô đưa thư cho Hy Hòa cô nương. Lão nô cũng đưa đi, nhưng trên đường trở về, càng nghĩ lại càng sợ hãi, sợ công tử sẽ đưa Hy Hòa cô nương cao chạy xa bay, bỏ mặc tất cả người nhà chúng ta… Thế nên, sau khi về phủ lão nô liền ngấm ngầm giám sát công tử, lén thấy quả nhiên công tử đang thu dọn hành lý, lòng lão nô bỗng chốc trở nên lạnh lùng… Lão nô không phải là người nữa! Lúc ấy lão nô đã bị ma sai quỷ khiến rồi! Lão nô liền, liền, liền đi, đi mách lão hầu gia! Hu hu hu…”.

Khương Trầm Ngư nghe thấy tin này lòng tuy chấn động khôn xiết, nhưng vẫn giơ tay về phía Thôi quản gia: “Bà đứng: “bà đứng dậy trước đã, có gì từ từ nói đi…”.

“Lão nô không đứng! Lão nô không đứng! Lão nô đã làm những chuyện như thế, phản bội sự tín nhiệm của công tử với mình, clùa cắt công tử và Hy Hòa cô nương, lão nô không phải là người là người…”.

“Thế sau đó… chuyện gì xảy ra?”.

Thơi quản gia ngước khuôn mặt già nua chan chứa nước mắt lên, nghẹn ngào nói: “Già mách hầu gia xong, hầu gia bảo già tìm tất cả các chi các nhà trong kinh thành, họ mở một cuộc họp thâu đêm. Trong khi họ họp bàn thì công tử lại quỳ trong từ đường, nhìn bài vị của lão phu nhân, không hề nhúc nhích, cứ thế quỳ suốt một đêm. Đến giờ Mão, cuối cùng công tử cũng đứng dậy, lão nô biết công từ sắp đi, liền vội vàng thông báo cho bọn hầu gia. Cho nên, khi công tử từ trong từ đường bước ra…”.

Khi Cơ Anh từ trong từ đường bước ra, trước tiên là nhìn thấy một điểm sáng, đó là một bó đuốc được cầm chắc trong tay một người. Gió rất to, ánh lửa bập bùng, trong thoáng chốc chàng không nhìn rõ gương mặt người ấy.

Sau đó, đốm lừa thứ hai, đốm lừa thứ ba… vô số đốm lửa lần lượt xuất hiện.

Nguồn sáng tụ lại chiếu sáng cả màn đêm, cuối cùng chiếu sáng khuôn mặt của người cầm ngọn đuốc.

Cơ Anh kinh hoảng đờ người ra, chàng không kìm được lùi về phía sau một bước nhìn từng người từng người lần lượt đi tới’ ai cũng cầm một bó đuốc trong tay, im lặng nhìn chàng, mỗi đôi mắt đường như đều đang trách móc chàng.

Người xuất hiện đầu tiên trong đám người đó từ từ, bước về phía chàng, từng bước từng bước một, loạng chà loạng choạng. Người đó đi đến trước mặt chàng, không nói lời nào, chỉ một tay vén áo, khuỵu gối quỳ xuống.

CơAnh liên tiếp lùi lại, hai mắt đỏ xọc nhìn người đó, toàn thân không ngăn nổi run lên bần bật.

Người quỳ xuống là Cơ Tịch.

Chính là phụ thân của chàng!

Là người cha già tuổi cao sức yếu, bệnh tật đầy thân của chàng!

Phụ thân của chàng vừa cầm bó đuốc vừa ngẩng mặt lên cất tiếng, mỗi tiếng tựa một lưỡi dao, yếu mềm đến chí mạng: “Anh Nhi, con không thể đi”.

“Bịch”.

“Bịch”. “Bịch”.

Tiếng hai đầu gối chạm đất vang lên liên tiếp.

Cơ Anh kinh hoảng quay người lại thì thấy những người cầm đuốc đều nhất loạt quỳ xuống thành một vòng trời. Những mái đầu đen và ánh lửa chập chờn làm nổi bật lẫn nhau, cảnh tượng đó cực kỳ chấn động, cũng cực kỳ… đau lòng.

“Công tử, công tử… không thể đi!”…

Hơn một trăm người cùng kêu gọi là cảnh tượng thế nào? Hơn một trăm người cùng quỳ trên mặt đất kêu gọi là cảnh tượng thế nào?

Hơn một trăm người thân thiết máu mủ ruột rà cùng qùy trên mặt đất kêu gọi, là cảnh tượng thế nào?

Ebook: Mèo

Nguồn: Ebook Fun&Free

Người chưa từng tự trải nghiệm sẽ không thể nào tưởng tượng nổi.

Đó là một cuộc hủy diệt không gươm không đao.

Hủy diệt một thiếu niên lòng không còn chút vấn vương với chốn quan trường, muốn đưa tình nhân cao chạy xa bay, tránh xa vòng xoáy tranh giành.

Gió đêm lạnh lẽo.

Tiết xuân buốt giá.

Cơ Anh đứng đó, sau lưng là từ đường bày la liệt bài vị, của liệt tổ liệt tông;

trước mặt là những người thân thích nhất, còn trong rừng hạnh cách đó hơn mười dặm, một thiếu nữ không hay biết gì đang lòng đầy chờ đợi… Chàng ngẩng đầu lên ngước nhìn bầu trời đen như mực, sau đó bật cười.

“Ha… ha ha… ha ha ha… ha ha ha ha ha ha…”.

“Anh Nhi?”.

“Công tử?”.

“Ha ha ha ha…”. Tiếng kêu gọi của tất cả mọi người chàng đều không nghe thấy, chàng chỉ cười cười đến mức nước mắt cũng tuôn ra, sau đó bằng một giọng nói có chút mơ hồ có chút mệt mỏi có chút thê lương có chút đau khổ, nhẹ nhàng hỏi ông trời một câu: “Chỉ vì đứa trẻ bị đưa đi năm đó không phải là ta sao?”.

Câu hỏi không hoàn chỉnh này còn thiếu nửa câu, nhưng cho đù nửa câu kia là gì đều không quan trọng nữa…

Là bao nhiêu năm về trước, quỳ trước linh vị, đồng hồ cát đang chảy, trăng đêm náu mình, cuối cùng quyết định vứt bỏ tất cả để đi tìm người đó, chân trời góc bể bên nhau, không bao giờ quay trở lại;

Là bao nhiêu năm về trước, khoảnh khắc đẩy cửa từ đường bị ánh lửa rừng rực chiếu nhức đôi mắt, trong ánh lửa phụ thân già nua bước ra khỏi đám đông, quỳ xuống trước mặt chàng.

“Công tử hỏi câu đó xong liền ngã ngửa ra phía sau, nằm trên mặt đất. Mọi người sợ hãi vội vàng bế công tử vào phòng, bệnh tim phát tác khiến công tử hôn mê bất tỉnh suốt ba ngày ba đêm. Đến ngày thứ tư, công tử tỉnh lại, chúng ta rất mừng, nhưng dẫu có nói gì công tử cũng không trả lởi. Công tử cứ nằm như thế trên giường, nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ, không nói một câu”. Thôi quản gia nói đến đây, nước mắt lại lã chã: “Trong những ngày công tử bị hôn mê đó, lão nô nghe nói cha của Hy Hòa cô nương nợ rất nhiều tiền, không có cách nào đành bán con gái vào cung. Ôi thật là tạo nghiệt… mụ già ta đã tạo nghiệt rồi… Nếu như ngày hôm đó, lão nô không mách lại với hầu gia, công tử đã có thể dẫn Hy Hòa đi, công tử sẽ không đau khổ như thế, công tử và Hy Hòa có thể hạnh phúc rồi… Tại sao lão nô phải đi tố giác? Tại sao? Tuy sau này công tử không trách 1ão nô nửa câu, nhưng lão nô biết trong thâm tâm công tử hẳn rất hận lão nô, lão nô có lỗi với công tử, lão nô có lỗi với công tử…”.

Tiếng khóc nức nở nghẹn ngào của Thôi quản gia dần dần tan biến, tiếng khóc của Hy Hòa dần trở nên rõ ràng. Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, hóa ra nàng vẫn còn đứng trong Ân Phái cung, thuật lại đoạn quá khứ rối như tơ vò này, nhận ra còn có một người khóc lóc ttước mặt nàng, nhưng không phải là Thôi quản gia suốt đời sống trong sự ăn năn day dứt, mà là Hy Hòa đã bị cuộc tranh giành làm lỡ làng cả đời này.

Nàng không kìm nổi đưa tay vuốt ve mái tóc của Hy Hòa, giống như trong thời gian Hy Hòa bị điên, đã vô số lần nàng vỗ về an ủi nàng ta như thế. Quả nhiên, khoảnh khắc sau đó Hy Hòa giang tay ôm chặt lấy nàng vùi đầu vào lòng nàng, khóc không thành tiếng.

Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng nói: “Cho nên ngày hôm đó công tử không tới, không phải vì chàng không muốn tới mà là chàng không thể tới. Phu nhân, nàng… tha thứ cho công tử nhé”.

Hy Hòa cũng không nói gì chỉ càng vùi sâu hơn vào lòng nàng. Nước mắt ẩm ướt men theo vạt áo loang ra, nhỏ giọt xuống đất, Khương Trầm Ngư sững người nghĩ rốt cuộc Hy Hòa đã khóc bao nhiêu mới khiến chúng ướt sũng như thế?

Mà kẻ gây ra tấn bi kịch này vẫn đang ngồi bên cạnh lạnh lùng nhìn hai phi tử của mình khóc lóc đau đớn, rồi y nhíu mày cười đầy ác ý: “Rất đau khổ phải không? Rất phẫn nộ phải không? Cứ khóc cho thỏa thích đi. Dù sao các nàng cũng chỉ có thể khóc mà thôi. Trẫm cướp nữ nhân của Cơ Anh đấy, thì sao? Trẫm muốn hắn chết đấy, thì sao? Trẫm vong ân phụ nghĩa, thề vạch rõ ranh giới với Cơ gia đấy, thì sao? Các nàng đều biết tất cả, nhưng có thể làm gì trẫm nào?”.

Khương Trầm Ngư thở dài.

Chiêu Doãn nghe thấy lại càng đắc ý: “Bây giờ, tất cả những hòn đá ngáng chân đều bị dẹp sạch rồi, hết thảy quyền lực đều nằm trong tay trẫm, nghe theo trẫm thì sống, chống lại trẫm thì chết! Nói cho các nàng hay, trẫm không những phải trở thành hoàng đế của Bích quốc, mà đợi đến lúc thời cơ chín muồi trẫm sẽ thôn tính ba nước còn lại cho các nàng xem! Trẫm là thiên cổ đệ nhất đế vương, trẫm sẽ là Thủy Tổ thứ hai! Trẫm…”. Đang gào thét đến đó, đột nhiên sắc mặt biến đổi ôm chặt lồng ngực, vẻ mặt không đám tin.

“Trẫm… trẫm… trẫm…”. Y giơ tay ra muốn vịn bàn, nhưng cả người lại ngã nhào xuống đất, chân tay mềm oặt như bún không có lấy một chút sức lực nào.

Chiêu Đoãn kinh hãi trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư thét lên: “Nàng làm gì trẫm? Làm gì? Làm gì?”.

“Sao ngươi không hỏi xem ta đã làm gì ngươi?”. Hy Hòa ngừng khóc, từ từ đẩy Khương Trầm Ngư ra, quay mặt lại. Làn da khinh sương ngạo tuyết đó khiến cho mày mắt nàng ta càng đen thẫm hơn, hai màu đen trắng hợp thành một vẻ đẹp hoàn mỹ trên gương mặt nàng ta, vẻ đẹp đó câu hồn đoạt phách, cũng lạnh giá thấu xương.

Chiêu Doãn ngây ra một lúc: “Nàng… nàng… nàng đã làm gì?”.

“Số thuốc đó của thần thiếp uống ngon lắm đúng không? Hoàng thượng thật tốt với thần thiếp, tất cả thuốc của thần thiếp, hoàng thượng đều tự nếm trước một ngụm, rồi mới bón cho thần thiếp…”. Hy Hòa vừa nói vừa đứng dậy, bước từng bước tới chỗ Chiêu Doãn.

Chiêu Doãn vội dùng hai cánh tay chống cơ thể lùi ra phía sau, miệng kinh hoảng hỏi: “Thuốc? Thuốc gì?”.

“Hoàng thượng quên rồi sao? Chính là thuốc mà dạo gần đây thiếp uống đó”.

“Thuốc, thuốc làm sao cơ? Làm sao?”.

Hy Hòa ngữ điệu thong thả, như đang kể chuyện của, người khác: “Trong thuốc có độc”.

“Nói, nói láo! Rõ ràng nàng cũng uống!”.

“Đúng thế, thần thiếp cũng uống, nếu thần thiếp không uống, sao hoàng thượng có thể uống đây?”.

“Nàng… nàng, rốt cuộc nàng muốn làm gì?”.

“Làm gì à?”. Hy Hòa ngẩng đầu, chợt hoang mang rồi lại tươi cười cúi đầu dịu dàng, chăm chú nhìn Chiêu Doãn, nói: “Hoàng thượng không phải rất thích thần thiếp sao? Hoàng thượng nhọc tâm suy nghĩ làm ra bao nhiêu việc vì thần thiếp, thần thiếp cảm động lắm, thật sự rất cảm động. Thần thiếp không muốn sống nữa nhưng không nỡ xa hoàng thượng nghĩ mãi đành quyết định đưa hoàng thượng cùng đi. Hoàng thượng có lòng chết cùng ngày cùng tháng cùng năm với thần thiếp không?”. Nói đoạn, nàng ta tiến tới gần y.

Chiêu Doãn sợ hãi, hai chân giãy giụa muốn đá nàng ta ra: Cút! Cút! Không được lại gần trẫm! Không được phép qua đây! Không, không…”.

Hy Hòa lấy một viên thuốc từ trong người ra, giọng điệu cực kỳ dịu đàng, cực kỳ dụ dỗ nói: “Hoàng thượng đừng sợ, đây là viên thuốc cuối cùng, chỉ cần uống vào thì không còn đau khổ gì nữa. Nào, giống trước kia, hoàng thượng uống trước một viên, thần thiếp sẽ uống nốt…”.

Tránh ra! Tránh ra! Nàng là đồ điên! Đồ điên! Trẫm không uống! Nàng muốn chết thì tự mình chết đi, trẫm không… buông ta ra…”. Chiêu Doãn ra sức giãy giụa.

Hy Hòa bị y tát, bị y đá, nhưng nàng ta dường như không có cảm giác đau đớn, đứng thẳng dậy ngước nhìn trời cười lớn: “Nhìn xem, đây gọi là yêu thích.

Hoàng thượng, sự yêu thích của hoàng thượng đối với thần thiếp hóa ra cũng chỉ như thế mà thôi!”.

“Cút ra! Ngươi mau cút ra! Người đâu… người đâu…”. Chiêu Doãn lớn tiếng gọi, nhưng âm thanh phát ra từ cuống họng lại không to như y tưởng, trái lại khản đặc, gần như không nghe thấy.

Khương Trầm Ngư chứng kiến cảnh tượng này, chỉ cảm thấy thế sự mỉa mai, thế sự bi thương, tất cả cũng chỉ như thế Chiêu Doãn… rốt cuộc có yêu Hy Hòa không? Y chỉ vì muốn báo thù Cơ Anh, nên mới cướp ý trung nhân của chàng ư? Nhưng rõ ràng một dạo y muốn để Hy Hòa làm hoàng hậu. Hơn nữa, những ngày Hy Hòa điên dại đó, sự quan tâm và đau lòng mà y thể hiện chân tình biết bao, nếu nói là giả vờ, nàng tuyệt đối không tin. Nhưng trước thời khắc sinh tử này, bản tính y bộc lộ hoàn toàn, y vẫn là một đế vương ích kỷ, trong lòng y, mỹ nhân, ân sủng, hoàn toàn không bằng quyền lực và giang sơn.

Người Chiêu Doãn yêu chỉ có bản thân y.

Cho nên, những ngày qua y đối tốt với nàng cũng chẳng qua chỉ là hứng thú nhất thời của đế vương mà thôi. Không cần cảm kích, cũng không cần áy náy.

Nghĩ thông mọi chuyện, Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, từ tốn nói: “Đừng làm ầm nữa. Chúng ta không còn nhiều thời gian đâu. Điền Cửu bỏ đi nhiều nhất là ba canh giờ. Chúng ta phải mau chóng xử lý toàn bộ mọi việc ở đây trước khi hắn quay về”.

Hy Hòa ngừng cười, bước tới một tay tóm chặt cằm Chiêu Doãn, một tay nhét viên thuốc vào miệng y. Chiêu Doãn sống chết giãy giụa, nhưng đành bất lực vì chân tay mềm nhũn: “Ngươi ngươi… ngươi cho trẫm uống gì? Rốt cuộc là thứ gì?”.

Giấc mộng nghìn năm”. Người trả lời lại là Khương Trầm Ngư: “Hoàng thượng chưa nghe tới loại thuốc độc này sao? Cũng phải. Đây là loại thuốc độc mới nhất do Giang Vãn Y bào chế ra, vẫn còn chưa kịp báo lên hoàng thượng. Theo như tên của nó, sau khi uống thuốc, cơ thể người ta sẽ từ từ tê liệt trí não cũng dần dần không còn tỉnh táo, rơi chìm sâu vào giấc ngủ. Hoàng thượng sẽ không chết, mà vẫn sống, nhưng không biết gì, cũng không thể làm gì được…”.

Hy Hòa cười tươi nói: “Không sai thứ ta uống dạo gần đây chính là loại thuốc này. Vì phân lượng mỗi lần uống vào rất nhỏ, cho nên không phát hiện ra được. Người uống loại thuốc này sẽ có một thời gian ủ bệnh rất đài, chỉ cần không uống rượu thì sẽ không khác gì người bình thường. Nhưng hễ đã uống rượu vào…”. Hy Hòa nói đến đây, che miệng cười: Thì giống hệt như hoàng thượng bây giờ… toàn thân đau đớn, không có một chút sức lực nào. Có điều không sao, hoàng thượng sẽ mau chóng không còn đau nữa đâu. Không những không đau, hơn nữa còn không có cảm giác gì…”.

“Ngươi… hai ngươi… lũ tiện nhân các ngươi! Dám câu kết đối phó trẫm! Các ngươi…”. Chiêu Dơãn tức tối trợn trừng hai mắt.

Hy Hòa đột nhiên sầm mặt, nghiến răng hung hãn nói: “Đó cũng là do ngươi ép!”.

Chiêu Doãn sững người.

“Nếu không phải do ngươi, ta và Tiểu Hồng sẽ không bị chia cắt, nếu không phải đo ngươi, ta đâu ở cái chốn quỷ quái này, nếu không phải do ngươi, đứa con còn chưa chào đời của ta cũng không chết oan thế; nếu không phải do ngươi, ta sẽ không đau khổ như thế này… Một đời ta đã hỏng, đã uổng phí cùng với ngươi, ta đã cam chịu rồi… Nhưng tại sao, tại sao đến Tiểu Hồng ngươi cũng không buông tha?”. Hy Hòa vừa nói vừa tóm áo của Chiêu Doãn, ra sức giằng kéo, nói… trong nước mắt: “Ngươi trả Tiểu Hồng lại cho ta! Trả cho ta! Trả cho ta! Chàng là ca ca ruột của ngươi! Chàng đã nhường ta và Trầm Ngư cho ngươi! Chàng vì ngươi mà đốc lòng dốc sức, cúc cung tận tụy, chàng không hề làm gì có lỗi với ngươi! Ngươi dựa vào cái gì mà hận chàng? Là vì từ nhỏ chàng bị bệnh tim nên không được đưa vào cung làm hoàng đế sao? Cho nên, ngày hai mươi mốt tháng chín, Phật âm vọng ra từ trong Đoan Tắc cung đã gọi hồi ức của ta quay về, để sau khi tỉnh táo lại ta đã quyết tâm phải báo thù! Ta không thể không biết gì mà điên điên dại dại mãi như thế Ta không thể để hung thủ nhởn nhơ! Ta phải báo thù! Báo thù!”.

Kẻ giết Cơ Anh không phải là ta! Mà là ả đàn bà kia! Là Phụ thân và tỉ phu của ả đàn bà kia!”. Chiêu Doãn nói bừa, đẩy tội danh sang cho Khương Trầm Ngư.

Thế nhưng ánh mắt căm hận của Hy Hòa vẫn dán chặt lên mặt Chiêu Doãn, giống như chiếc đinh ghăm chặt vào miệng gỗ, sắc nhọn, ngập sâu, kiên cố, thậm chí là gỉ sét loang lổ: “Không được ngươi ngầm cho phép, Khương Trọng dám giết Tiểu Hồng sao? Không sai. Người giết Tiểu Hồng thật sự là Vệ Ngọc Hành, nhưng kẻ khiến chàng không còn ý chí ham sống lại là ngươi, là đệ đệ ruột có cùng dòng máu với chàng! So với âm mưu bỉ ổi của tên tiểu nhân Vệ Ngọc Hành mà nói, thì kẻ thật sự đâm nhát dao chí mạng vào người chàng chính là ngươi, là kẻ mà chàng toàn tâm toàn ý bảo vệ ủng hộ nhường nhịn nhưng cuối cùng lại phản bội lại chàng!”.

Cuối cùng nước mắt của Khương Trầm Ngư đã lăn xuống!

Cái buổi tờ mờ sáng ngày mùng hai tháng tám đó, khi nàng ngồi trong phòng Đỗ Quyên, nghe Vệ Ngọc Hành dương dương tự đắc nói hắn đã giết chết Cơ Anh như thế nào, nàng đã hận không thể nhào đến đâm một dao giết hắn để báo thù cho công tử. Thế nhưng, hơn cả nỗi phẫn nộ và oán hận đang nhấn chìm toàn thân, chút lý trí cuối cùng đã mách bảo nàng: Sự việc không đơn giản như thế.

Công tử đâu phải là người có thể dễ dàng chết bởi một âm mưu vặt vãnh như thế? Chàng đã từng gặp những thời khắc khó khăn phức tạp hơn, nguy hiểm hơn, sao có thể không đối phó nổi một Vệ Ngọc Hành?

Cho nên, bên trong chắc chắn còn có ẩn tình. Nàng phải tìm hiểu.

Trên đường về cung nàng liền bắt đầu điều tra, bắt đầu chuẩn bị, bắt đầu nhẫn nhịn.

Nàng phải biết, rốt cuộc là ai đứng đang sau thao túng tất cả thúc đẩy tất cả, tạo nên kết cục này.

Và câu trả lời cuối cùng là – Chiêu Doãn.

Nếu không phải Chiêu Doãn muốn giết Cơ Anh, phụ thân đâu dám nhân lúc sơ hở giậu đổ bìm leo, mà từ khi Vệ Ngọc Hành bắt đầu động thủ, người thông minh như Cơ Anh, bản lĩnh như Cơ Anh, đương nhiên đã biết được sự phản bội của Chiêu Doãn ngay từ đầu.

Là Chiêu Doãn vứt bỏ Cơ Anh.

Cho nên, Cơ Anh vốn có thể trốn, nhưng chàng không trốn. Chàng vốn có thể phản kháng nhưng chàng không phản kháng.

Chàng nói tha hương không phải là cố quốc.

Một chút vương vấn cuối cùng đối với cố quốc, đối với gia tộc của chàng, lại giết chết chàng.

Hy Hòa, chắc chắn thấu tỏ điểm này.

Cho nên, ngày hôm đó khi Khương Trầm Ngư từ Cơ phủ trở về, vì trở về, vì nhìn thấy bức tranh Hy Hòa vẽ bằng cách giống của. Cơ Anh mà đau lòng vô hạn, không kìm nén được đã ôm chặt Hy Hòa khóc thất thanh. Hy Hòa ôm lại nàng, giống như một đứa trẻ thơ ngẩng đầu hôn lên trán nàng, sau đó vùi đầu vào lòng nàng, khẽ nói bốn tiếng.

Khoảnh khắc đó, Khương Trầm Ngư tưởng mình bị ảo giác.

Nhưng, lực độ từ ngón tay truyền tới và sống lưng đang không ngừng run rẩy của Hy Hòa, chứng tỏ nàng không hể nghe lầm. Vừa nãy Hy Hòa thực sự đã nói: Báo thù cho chàng!

Nàng ta… tỉnh táo.

Cũng từ ngày đó, Khương Trầm Ngư và Hy Hòa ngầm thỏa thuận bắt đầu liên thủ, một người phụ trách bí mật điều tra nguyên nhân cái chết thực sự của Cơ Anh, một người quấn lấy Chiêu Doãn để y không thể chú tâm vào việc khác. Cứ như thế ngày nối tiếp ngày tạo ra kết cục hôm nay.

Nhìn Chiêu Doãn đang run rẩy co quắp trên mặt đất, lại nhìn Hy Hòa hiện giờ vẫn đang khỏe mạnh nhưng chẳng còn lại bao nhiêu thời gian, trái tim Khương Trầm Ngư thít chặt lại giống như đang có muôn vàn lưỡi dao ngoáy trong đó, đau đến mức không nói nổi, cũng không thể hít thở bình thường.

Chiêu Doãn rất chật vật mới nói thành hềng: “Các ngươi đối với trẫm như vậy, đại nghịch bất đạo, sẽ không có kết cục tử tế…”.

Hy Hòa cười lạnh: “Hoàng thượng nói không có là không có sao? Hoàng thượng nghĩ xem ngươi tê liệt rồi, quốc gia đại sự sẽ rơi vào tay ai? Không sai, người duy nhất có thể tiếp quản chính là hoàng hậu. Khi hoàng đế của một quốc gia chỉ còn là đồ trưng bày, người lớn nhất không phải là hoàng hậu sao? Làm hoàng hậu tức là muốn làm gì thì làm nấy. Những thứ ngươi khát khao có được đều rơi vào tay hoàng hậu, ngươi nói xem kết cục như thế vẫn chưa đủ tử tế sao?”.

“Hóa ra các ngươi muốn có… giang sơn của trẫm?”. Bây giờ Chiêu Doãn mới hoàn toàn sợ hãi.

Hy Hòa lười biếng nói: “Cứ coi là thế đi. Lẽ nào không được?”.

Chiêu Doãn gấp giọng nói: “Được, cứ cho là Khương Trầm Ngư làm hoàng hậu có được giang sơn, nhưng ngươi thì sao? Hy Hòa, không phải ngươi cũng trúng độc sao? Ngươi lại không phải là hoàng hậu, ngươi được lợi lộc gì hả?”.

Trong phút chốc ánh mắt Hy Hòa trở nên bi ai tột độ, từng tiếng phát ra đều run rẩy: “Lợi lộc? Ngươi cho là… ta còn muốn sống sao?”.

Chiêu Doãn chấn động.

Hy Hòa cười, nụ cười cực kỳ thê thảm: “Chẳng phải ta nói rồi sao? Ta không muốn sống nữa. Ta vốn đã phát điên, quên hết thảy mọi thứ, như thế tốt biết bao. Nhưng cái ngày hai mươi mốt tháng chín đó ta lại tỉnh lại… Ta hận cảm giác tỉnh táo này, ta căn bản không muốn tỉnh…”. Những giọt nước mắt long lanh lăn xuống từ trong hốc mắt làm ướt đẫm rèm mi dày của nàng ta, nhìn đáng thương khôn xiết: “Khi ta bị điên là Trầm Ngư ở bên ta. Không hề cảm thấy phiền hà một chút nào đối với chứng điên dại của ta, vẫn tỉ mỉ dịu dàng chăm sóc ta, chải đầu cho ta, mặc áo cho ta, thậm chí còn xỏ giày cho ta… Chính trong khoảnh khắc đó, từ tận đáy lòng nói với bản thân mình, ta phải báo đáp nàng ấy. Con người như ta, sống trên thế gian này căn bản chỉ lãng phí lương thực, chỉ mang đến nỗi bất hạnh cho người khác, còn khiến người ta yêu đau khổ biết bao…, nhưng chí ít trước khi chết, ta phải làm được một việc tốt”.

Nàng ta nói đến đây, quay người từ từ đứng thẳng dậy nhìn Khương Trầm Ngư, nói từng tiếng rành rọt: “Phải có một người chịu trách nhiệm về việc này, cho nên tội danh giết vua này, ta gánh”.

Khương Trầm Ngư nước mắt chứa chan nhìn nàng ta.

Kỳ thực, ngay từ khi họ liên thủ đối phó với Chiêu Doãn, kết cục đã được định sẵn: Phải hy sinh một người, trở thành đồ bồi táng cùng Chiêu Doãn. Như thế mới có thể lật đổ Chiêu Doãn một cách triệt để, báo thù cho công tử một cách triệt để.

Thế nhưng, người vốn dĩ phải hy sinh có thể là nàng. Hy Hòa đã trao lại cơ hội sống cho nàng.

Về việc này, Hy Hòa từng nói: “Ngươi đừng nghĩ chết là việc không tốt.

Muốn một người cơ độc sống tiếp, phải đối mặt với gánh nặng và trách nhiệm của quốc gia, thực ra còn khó hơn là chết. Ta là một người vô dụng, ta không thể xử lý được những việc quốc gia đại sự. Cho nên, Trầm Ngư, hãy để ta chết đ i “.

Như thế, Hy Hòa uống thuốc độc và thành công trong việc dụ Chiêu Doãn trúng độc. Còn Khương Trầm Ngư chờ đợi, chờ đợi việc phong hậu hoàn thành, đợi đến khi việc nàng trở thành hoàng hậu Bích quỗc đã là một sự thực không thể thay đổi, mới dụ Điền Cửu đi, ngả bài với Chiêu Doãn.

“Ta để lại hắn cho ngươi, với sự thông minh tài trí của ngươi, hẳn sẽ biết tiếp theo phải làm gì. Đúng không? Hoàng hậu nương nương của Bích quốc”. Hy Hòa nói xong, quay người đi về phía cửa.

Khương Trầm Ngư không kìm được gọi: “Phu nhân đi đâu?”

Hy Hòa nặn ra một nụ cười giễu cợt, nói bốn tiếng: “Đi về chờ chết”.

Trong lòng Khương Trầm Ngư run lên, theo bản năng muốn ngăn nàng ta lại: “Đợi đã! Thực ra… người thực sự giết công tử chính là cha ta, tỉ u của ta, bọn, bọn họ vẫn chưa…”.

Hy Hòa bỗng dừng bước, quay người lại, im lặng nhìn nàng Khương Trầm Ngư vì quá xấu hổ mà ngón tay run run, thổn thức nói: “Ta…ta, ta đối với họ… họ…”.

Hy Hòa mỉm cười, gương mặt tuyệt mỹ, khí độ khoáng đạt ung dung, sự cảm thông lẫn thương xót nơi sâu thẳm đáy mắt… Những tình cảm ấy, khiến toàn thân nàng ta nhìn như đang phát sáng lấp lánh.

Nàng ta chưa bao giờ cười như vậy. Hay nói cách khác, từ khi vào cung đến nay, nàng ta chưa bao giờ cười như vậy.

Nhưng bây giờ, nàng ta đã cười.

Sau đó, nói một câu bằng chất giọng êm tai nhất thế gian: “Cơ Anh đã buông bỏ, ta đã buông bỏ, Khương Trầm Ngư lẽ nào ngươi vẫn chưa thể buông bỏ sao?”.

Đến đây, Khương Trầm Ngư hoàn toàn tỉnh ngộ.

Người thân mà mình yêu thích thì thân thiết một chút, người thân mà mình không yêu thích thì từ từ xa cách. Dòng máu là thứ sinh ra đã có, không thể lựa chọn. Nhưng cuộc đời tương lai phải đi như thế nào, lại có thể tự mình chọn lấy.

Đối mặt với gia tộc, Cơ Anh lựa chọn tiếp nhận toàn bộ, gánh chịu đủ mọi đau khổ đo nó đem lại và dùng cách thức mềm mại nhất của mình để mài mòn góc cạnh của họ, thay đổi họ thành dáng vẻ mà mình thích nhất.

Đối mặt với gia tộc, Chiêu Doãn lựa chọn phủ định toàn bộ, cắt đứt hoàn toàn. Y chán ghét thân phận thực sự của bản thân, lại căm hận bi kịch tuổi ấu thơ do nó gây nên, hậu quả của sự cực đoan và ích kỷ chính là chém đứt đôi cánh kiên cố nhất đáng tin cậy nhất của mình. Khi Cơ Anh chết đi, mạng lưới nhân lực lúc sinh thời chàng cực khổ thành lập cho hoàng đế đã bị hủy hoại toàn bộ, còn địa vị Chiêu Doãn tự xây dựng lại không vững chãi như y tưởng. Vì thế, ngày mùng hai tháng mười hai, trước mặt thần tử trong buổi chầu sớm La Hoành tuyên bố hoàng đế đột ngột mắc bệnh, không thể thiết triều, không có ai nghi ngờ thắc mắc. Ngày ngày qua đi, hoàng đế vẫn không khỏi bệnh, hoàng hậu đành thay mặt chấp chính, một bộ phận thần tử làm ầm lên một thời gian, nhưng cũng không ra kết quả gì, cuối cùng đành lựa chọn im lặng.

Thế nên triều chính dần ổn định, ngày tháng cũng cứ thế tự nhiên trôi qua…

Đêm trừ tịch ba mươi Tết, Khương Trầm Ngư ngồi bên giường Chiêu Doãn, đút cho y ăn. Y vẫn nằm trên giường, không có tri giác, nhưng vẫn còn sống, cái gọi là ăn uống, cũng chẳng qua là hầm các loại thuốc bổ thành cháo loãng, cậy miệng y đổ vào mà thôi. Nhưng bón cho ăn một bát cũng rất tốn sức, ăn xong thì y phục cũng nhoe nhoét đầy nước cháo.

Thất tử xếp thành một hàng, đứng bên ngoài sảnh, cách một tấm rèm dày lần lượt báo cáo, tấu lên đều là một vài chuyện vặt như chúc mừng năm mới như thế nào. Nghe xong, Khương Trầm Ngư gật gật đầu: “Cứ làm theo như các ngươi nói đi”.

“vâng”. Thắt tử nhìn nhau rồi quay người rời đi.

Hoài Cần vội vã vào trong nói: “Nương nương, phu nhân đến rồi”.

Phu nhân mà Hoài Cẩn nói chỉ có một người – Khương phu nhân. Khương Trầm Ngư nghe nói mẫu thân đến, liền bỏ thìa canh trong tay xuống, dùng chiếc khăn ướt lau nước cháo bị rớt ra, đứng dậy nói: “Một mình phu nhân đến à?”.

“Cái đó” Hoài Cẩn ấp a ấp úng: “Lão gia cũng đến”. Khương Trầm Ngư cười nhạt. Nàng biết.

Kể từ khi nàng đoạn tuyệt với phụ thân đến nay, phụ thân vẫn hy vọng làm lành với nàng, đã không ít lần ngấm ngầm bày tỏ như thế. Hôm nay là giao thừa, ông không thể không lợi đụng cơ hội này. Thôi bỏ đi. Đã đến cùng mẫu thân, cũng không thể không gặp.

Vừa nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư nói: “Mời họ vào”.

Cung nữ hai bên tiến lên phía trước, kéo một tầng rèm dày xuống, ngăn cách hoàn toàn gian trong có Chiêu Doãn nằm với gian ngoài.

Khương Trầm Ngư khoác áo đi ra gian ngoài, vừa ngồi xuống, Hoài Cẩn đã dẫn Khương Trọng và Khương phu nhân đi vào Hai người sóng đôi khấu bái: “Tham kiến hoàng hậu nương nương, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.

“Mau đứng dậy, mời ngồi”.

Vợ chồng Khương thị an vị, Khương Trọng nhìn con gái, muốn nói lại thôi, cuối cùng đùn đẩy, Khương phu nhân hiểu ý, đưa chiếc hộp bên cạnh ra phía trước nói: “Thần thiếp tự tay nặn bánh chẻo nhân tôm tươi, xin nương nương vui lòng nhận cho”.

Khóe mắt Khương Trầm Ngư nong nóng: Trước đây khi còn ở nhà, mỗi địp năm mới mẫu thân thường đích thân nXánh chẻo và đặt một đồng xu vào một trong những chiếc bánh chẻo đó, ai ăn được chiếc bánh chẻo có đồng xu thì năm tới vạn sự hanh thông… Chuyện xưa rõ mồn một, còn ấm áp vô cùng.

Hoài Cẩn vội vã nhận hộp bánh, mở ra, đặt lên bàn: Nương nương, nương nương nhìn xem bánh chẻo vẫn còn nóng hôi hổi này! Tốt quá! Nương nương ăn ngay bây giờ không?”. Nói rồi định sắp bát đũa ra.

“Tạm thời không vội ăn”. Câu nói lạnh lùng này của Khương Trầm Ngư khiến Hoài Cẩn khựng lại. Khương phu nhân cũng không kìm được lộ vài phần thất vọng. Nhưng Khương Trầm Ngư mỉm cười với bà, nói: “Nếu mẫu thân không chê, ngày mai đích thân con đến nhà, ăn một nồi bánh chẻo vừa ra lò có được không?”.

Khương phu nhân vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, kích động đến mức đứng bật dậy, giọng run run nói: “Được! Được… được ta về chuẩn bị liền”.

Khương Trầm Ngư cười, đứng dậy đỡ bà ngồi trở lại ghế, nói: “Mẫu thân thật là, không cân phải vội. Sớm mai chuẩn bị cũng vẫn kịp mà”.

“Ta… ta, xem ta hồ đồ chưa này… Ha ha…”. Khương phu nhân cười mắt đỏ hoe.

Khương Trầm Ngư nói: “Mẫu thân vào cung đã đi thăm tỉ tỉ chưa?”.

Khương phu nhân vội trả lời: “Phải đi chứ phải đi chứ! Ta cũng mang cho nó một phần, ôi không, là hai phần chứ! Nó đang mang thai, phải ăn nhiều một chút”.

“Con nghĩ tỉ tỉ chắc chắn đang đỏ mắt chờ trong Gia Ninh cung, mẫu thân mau mau mang bánh chẻo sang cho tỉ ấy đi”.

“Được. Ta đi ngay!”. Khương phu nhân nói xong quay sang nhìn Khương Trọng.

Khương Trầm Ngư nói: “Con và phụ thân còn có chuyện muốn nói, mẫu thân đi trước đi, phụ thân sẽ tới sau. Hoài Cẩn, em đi cùng mẫu thân nhé”.

“Được. Thế ta đi trước…”. Khương phu nhân vui vẻ cùng. Hoài Cẩn rời đi.

Khương Trầm Ngư nhìn theo bóng dáng của bà đần mất hút, mới thu lại tầm nhìn, quay nhìn sang mặt phụ thân, ánh mắt hai người chạm vào nhau giữa không trung, Khương Trọng suýt chút nữa ngồi không vững, cụp mắt xuống, giả bộ như đang ngắm nghía chén trà, khẽ thở dài nói: “Lại là trà cúc Đại Khê, xem ra, con vẫn rất thích loại trà này…”.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư xoay một vòng trên chén trà, hững hờ nói: “Con là một người rất ngoan cố. Thích một thứ nào đó thì sẽ thích cho đến cùng”.

Khương Trọng ngẩng đầu nhìn thẳng nàng, bộc lộ vài phần bi ai: “Không sai. Mà thứ con đã ghét thì cũng sẽ ghét đến cùng”.

“Con rất ít khi ghét thứ gì”.

“Cho nên một khi đã ghét, thì sẽ không thể cứu vãn, đúng không?”.

Khương Trầm Ngư im lặng một hồi, nhìn trả phụ thân của mình, nói một cách từ tốn: “Phụ thân, con không ghét người”.

Toàn thân Khương Trọng run bắn, đang lúc xúc động, câu sau của Khương Trầm Ngư liền ập tới: “Ch ỉ là con không thể tha thứ cho người”.

“Về cái chết của Cơ Anh, thực ra… thực ra cha không muốn hắn chết, cha chỉ là muốn Liên thành bích và Tứ quốc phổ, chuyện cung tên có độc mãi sau cha mới được biết…”.

Khương Trầm Ngư giơ một tay lên, ngăn ông nói tiếp: “Bây giờ nói những điều đó đã muộn rồi, chẳng phải sao? Hơn nữa…”.

“Hơn nữa cái gì?”.

Khương Trầm Ngư nở nụ cười thê lương: “Người phụ thân có lỗi lẽ nào chỉ có một mình Cơ Anh?”.

Khóe mắt Khương Trọng giật giật, im lặng rất lâu, mới mở miệng nói: “Trầm Ngư, con là con gái của cha, là cốt nhục chí thân của cha! Lẽ nào con phải vì những người ngoài đó, thật sự muốn cắt đứt với cha con sao? Trầm Ngư, cứ cho cha có lỗi với cả thiên hạ, có lỗi với muôn dân. Nhưng cha đối với con… luôn là yêu thương hết đỗi. Ngoài Cơ Anh ra, phàm những thứ mà con muốn, có thứ gì cha không cho con?”.

Khương Trầm Ngư dịu dàng ngước mắt lên nói: “Nhưng nếu con nói con chỉ cần Cơ Anh, thì phải làm sao?”.

Khương Trọng lặng người đi, tiếp theo lại lên cơn nóng nảy, tức tối nói: “Cơ Anh Cơ Anh Cơ Anh! Cái gì cũng đều Cơ Anh, vì một nam nhân vốn không hề yêu con, mà con bỏ thể diện của một danh gia khuê nữ, của một hoàng phi thậm chí là thể diện của một hoàng hậu!”.

Khương Trầm Ngư không nổi giận, vẫn dịu dàng nhạt như cũ, thậm chí còn cười: “Con không trộm không cướp không phạm pháp, chỉ là ngưỡng một một người mà thôi, có gì mà mất thể diện chứ? Nếu như thế mà mất thể diện, vậy thì ca ca chọc ghẹo cô nương nhà người ta, tẩu tẩu chửi đổng phố.khiến việc xấu trong nhà người người đều biết, cha đánh tráo chính con gái dứt ruột đẻ ra, lại giết cặp vợ chồng già nuôi dưỡng Đỗ Quyên… Những hành vi này, được coi là gì?”.

Khương Trọng nín thinh, không nói được gì.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu rồi đứng dậy: “Có điều mọi chuyện trước đây con cũng không định truy cứu. Cha là phụ thân của con, điểm này con không có quyền lựa chọn, cũng chẳng thể thay đổi. Điều duy nhất còn có thể làm là đối đãi với cha một cách công bằng. Từ ngày hôm nay trở đi nếu như cha làm những chuyện vị kỷ trái pháp luật, không kể là chuyện lớn nhỏ, đều bị xử trí theo quốc pháp, tuyệt đối không nể tình riêng. Còn nếu như cha lập công cho đất nước con cũng sẽ ban thưởng. Từ nay về sau, con đường làm quan của cha như thế nào, cha nên tự mình cân nhắc”.

“Con…”.

“Bánh chẻo của mẫu thân hẳn đã đến Gia Ninh cung rồi, phụ thân, mời đi cho. Con gái không tiễn”. Khương Trầm Ngư ngoảnh mặt đi chỗ khác.

Trong căn phòng im lặng một hồi lâu, Khương Trọng thẳng lưng ngồi nhìn con gái chỉ đứng cách mình ba bước mà giống như đang nhìn một người xa lạ.

Rất lâu sau, cuối cùng ông mới lảo đảo đứng dậy, khom lưng, hành lễ: “Lão thần cáo lui”.

Khương Trầm Ngư không quay đầu lại.

Khương Trọng đi ra đến cửa, bỗng dừng bước, do dự một lúc vẫn không nén được quay đầu lại nói: “Công bằng của người khác, tại sao phải do con, một người ngoài, đứng lên đòi thay họ?”.

Khương Trầm Ngư nghĩ rất lâu, mới trả lời: “Bởi vì con là Khương Trầm Ngư. Con làm được”.

Sự an bài của thế sự chắc chắn là có huyền cơ của số mệnh. Cho nên, vận mệnh đã khiến nàng đi đến bước này, biến nàng trở thành chủ tể của Bích quốc, vậy thì, nàng phải trả lại công bằng cho những con người yếu thế đó.

Nàng làm được.

Tháng Giêng năm Đồ Bích thứ năm, hoàng đế bệnh nặng, Khương hậu lâm triều chấp chính.

Sau sáng lập các quy chế như tự tiến cử, thi tuyển quan giảm thuế má, dứt can qua, bớt lao dịch, chấp chính ba năm, chính tích nổi trội, quốc uy chấn hưng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Bộ thứ sáu : Nữ Đế……


Hồi thứ mười chín : Tân vương (Phần 1)

Tháng ba, hoa xuân rực rỡ.

Muôn vàn cỏ cây đua nhau khoe sắc trong vườn hoa, đặc biệt là hoa lê, đóa đóa trắng thơm như tuyết, tô điểm cho cảnh trí tĩnh mịch thoát tục, phô bày ý xuân ngời ngời căng tràn sức sống.

Tiếng đàn từ trong một nhã xá đẹp đẽ phía xa như nước chảy mây trôi vang vọng tới.

Nam tử đi sau Hoài Cẩn dừng bước, chăm chú lắng nghe giây lát, tấm tắc khen ngợi: “Hay cho một khúc " Khúc kính thông u " (Nghĩa là con đường ngoằn ngoèo yên tĩnh), thật là hợp thời hợp cảnh”.

Hoài Cẩn nhoẻn cười: “Bệ hạ thích là được rồi. Mời đi theo nô tì”. Nói rồi dẫn vị khách đến trước nhã xá.

Tiếng đàn đó dường như cũng biết có khách nên ngừng lại.

Hoài Cẩn đẩy cửa phòng, cúi mình nói: “Nô tì chỉ đưa đến đây, mời bệ hạ tự mình vào trong”.

Nam tử nhấc chân bước qua bậu cửa, cửa phòng lập tức khẽ khàng được khép lại từ bên ngoài.

Bên trong là một sảnh nhỏ vuông vắn, một tấm bình phong bằng đá ngăn gian ngoài và gian trong. Sảnh ngoài đặt một chiếc bàn bằng gỗ đàn hương, bên trên có bày một cây đàn, nhưng người đánh đàn đã không còn ngồi đó. Trên bệ cửa sổ, hai bồn hoa nhài đang nở rộ, khiến toàn bộ căn phòng tràn ngập hương hoa thanh mát. Ngoài ra không còn vật gì khác.

Bày biện không thể đơn giản hơn, nhưng đâu đâu cũng toát lên cá tính tao nhã tự nhiên của chủ nhân. Cho dù là người thô tục hơn nữa, khi bước vào đây e rằng cũng đều trở nên giữ kẽ, huống hồ người đến lúc này vốn là một nhã khách.

Vì thế, chàng không nói gì mà bước đến bên cây đàn, ngồi xuống, cũng tấu một khúc. Tiếng đàn dìu dặt mênh mang, lãng đãng như gió mát, giai điệu nhẹ nhàng, cùng với ánh dương bên ngoài cửa sổ, thật là thích ý.

Bản nhạc đã dứt, người ở phòng trong vẫn chưa lên tiếng đáp lại, khách đến đã tự vỗ tay nói: “Không ngờ ba năm nay ta không đàn, mà vẫn không quên bài ‘Dương xuân bạch tuyết’ này đàn như thế nào, không tồi, không tồi”.

Từ gian trong truyền ra một tiếng cười nhẹ, tiếp đó, một giọng nói thanh thoát dịu dàng vang lên: “Đây cũng là lần đầu tiên ta nghe thấy một bản nhạc đàn sai hơn mười âm trở lên, nhưng cũng không đến nỗi quá khó nghe”.

Người khách cười hì hì: “Là đàn tốt. Chẳng trách nàng coi thường cây Lôi Ngã cầm của Chương Hoa. Có cây đàn Lục Y thiên hạ độc nhất vô nhị này, đúng là không cần cây danh cầm nào khác”.

Ngừng lại một lát, chàng gọi tên đối phương: “Tiểu Ngu, đã lâu không gặp”.

Người sau bức bình phong im lặng một lát rồi mới trả lời: “Cách xưng hô này của bệ hạ, thật là khiến người ta hoài niệm… Cách biệt từ độ ở Trình quốc, dễ chừng đã hơn nửa năm không gặp, Nghi vương vẫn khỏe chứ?”.

Nam tử bên đàn ngước mắt lên, ánh mắt như nước, như lửa, như ánh sáng quét qua lưu ly, như mưa rơi trên mái hiên, như hết thảy những thứ linh động trên đời, có một sức mê hoặc câu hồn đoạt phách, người đó không phải ai khác, chính là quân vương của Nghi quốc – Hách Dịch.

Mà nữ tử được gọi là Tiểu Ngu đó không cần nói cũng biết chính là Khương Trầm Ngư.

Hách Dịch nhìn chăm chú vào bức bình phong chạm khắc cành hoa phù dung, ánh nhìn lại như xuyên thủng mặt đá để nhìn thấy người bên trong, biểu cảm có chút mơ màng, lại có chút vui mừng, nhẹ nhàng nói:

“Nói một cách chính xác là tám tháng lẻ ba ngày, tổng cộng là hai trăm bốn mươi sáu ngày”.

Khương Trầm Ngư phía trong ngẩn người ra, bỗng chốc không nói gì nữa.

Lần này nàng đặc biệt hẹn Hách Dịch tới với mục đích là trả nợ. Tuy trước khi rời Trình quốc, ba cây pháo hoa Hách Dịch tặng đều bị nàng dùng hết, nhưng khi gặp khó khăn, người đầu tiên nàng nhớ đến có thể xin giúp đỡ vẫn là chàng.

Từ phút biết tin Cơ Anh chết, nàng đã quyết tâm nhất định phải điều tra ra chân tướng: Tại sao phụ thân phải giết Cơ Anh, tại sao Chiêu Doãn lại ngầm cho phép hành vi này? Vì thế, sau khi về cung, một mặt nàng đối phó với Chiêu Doãn, tiếp tục đóng vai Thục phi ngoan ngoãn nghe lời, một mặt lại ngầm điều tra chân tướng… Hết thảy những việc này đều cần đến tiền.

Khi nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, căn bản không thể sử dụng nhân lực và tiền bạc của Khương gia. Vì thế, trong lúc nguy cấp nàng liền nhớ tới Hách Dịch. Nàng và Hách Dịch liên lạc với nhau thông qua Tiết Thái, thỏa thuận với chàng: Chàng cấp cho nàng tất cả phí tổn của những việc này, sau khi xong việc, nàng sẽ phải trả gấp đôi.

Đến nay, đại quyền trong tay, thiên hạ mới an định là lúc nàng nên trả nợ.

Thế nhưng, rõ ràng là làm việc công, nhưng vì một câu nói này của Hách Dịch mà ý nghĩa đã hoàn toàn thay đổi.

Khương Trầm Ngư ngồi sau bình phong, trong lòng không phải không rõ: Sở dĩ Hách Dịch hào phóng cho nàng mượn tiền, không phải vì món lợi nhuận gấp đôi đó, mà bản thân mình năm đó rõ ràng đã từ chối tâm ý của chàng, nhưng sau cùng vẫn bất đắc dĩ phải mở miệng nhờ chàng giúp.

Có những chuyện, một khi đã mắc míu, thì không thể hoàn toàn cắt đứt được.

Nàng hiểu rõ điểm này hơn ai hết, nhưng vẫn phạm vào cấm kỵ.

Nợ tiền có thể trả, nhưng nợ tình… biết trả thế nào cho hết đây?

Chính trong lúc nàng ngổn ngang trăm mối suy tư, Hách Dịch phá tan bầu không khí bối rối gượng gạo bằng một tiếng cười sang sảng, sau đó đẩy cây cổ cầm ra, vuốt tóc mai, nói:

“Nhiều ngày nay, ta đếm từng ngày, nhớ nhung từng ngày, lòng nghĩ không biết đến bao giờ nàng có thể trả tiền, rốt cuộc có thể trả nổi hay không? Đếm đến mức ta bạc mấy sợi tóc rồi…”.

Khương Trầm Ngư biết chàng đang nói dối, nhưng vẫn không nhịn được bị chọc cười:

“Bệ hạ thật không hổ là thương nhân”.

“Cho nên những gì ta đầu tư vào luôn luôn chỉ có thể là thương vụ hái ra tiền”.

Hách Dịch nói đến đây, mắt lộ vẻ tán thưởng, khẽ than: “Còn nàng, có thể nói là khoản đầu tư thành công nhất trong bao năm qua của ta”.

“Là tiền của bệ hạ tốt”.

Câu này không phải là nói chơi. Nếu không phải nhờ khoản tiền khổng lồ do Hách Dịch cung cấp đó, cái khác không nói, chỉ riêng đại thái giám La Hoành và Thất tử của Bách Ngôn đường nàng đã không thể mua chuộc được. Sau khi nàng đầu độc Chiêu Doãn có thể thuận lợi bình định tất cả như thế, La Hoành và bọn Thất tử có công rất lớn.

Hách Dịch hiển nhiên cũng biết những việc này, vì thế, trong ánh mắt nhìn về bình phong chất chứa vài phần cảm khái:

“La Hoành ở bên cạnh Bích vương chín năm, có thể nói là thuộc hạ được tín nhiệm nhất của Chiêu Doãn, mà đến ông ta nàng cũng có thể lôi kéo về phe mình, đó tuyệt đối không phải chuyện có nhiều tiền là có thể làm được”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt:

“La Hoành là một hoạn quan, đã được thăng cao đến cực đỉnh, không thể thăng chức thêm nữa, mà lão là nhân vật quan trọng bên cạnh hoàng thượng, thường ngày căn bản cũng không thiếu hối lộ. Cho nên, số tiền bình thường đương nhiên không có tác dụng. Nhưng phàm là người ai cũng có nhược điểm, thuở còn trẻ gia cảnh lão nghèo túng, bất đắc dĩ mới phải vào cung tịnh thân làm nô tài, không có con cái nối dõi là nỗi nuối tiếc lớn nhất của đời lão”.

“Mà nàng tìm được mối tình đầu lão từng ngưỡng mộ thời thiếu niên, chồng của người tình đó đã chết, để lại mẹ góa con côi không chỗ dựa. Nàng cho La Hoành một mái nhà. Chiêu Doãn tuyệt đối không thể tưởng tượng nổi thần tử mà hắn coi trọng như vậy lại phản bội lại hắn vì một nữ tử và một đứa con không chung huyết thống”.

Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Có lúc lòng người rất dễ được thỏa mãn. Núi vàng núi bạc cũng không bằng một người có thể ở bên cạnh để nói chuyện. Không phải sao?”.

Hách Dịch dường như bị câu nói này khơi dậy biết bao cảm xúc, ánh mắt sáng lấp lánh, thần sắc phức tạp. Để che giấu cảm xúc ấy, chàng đưa tay lên miệng hắng giọng vài tiếng, chuyển chủ đề khác:

“Thế Thất tử thì sao? Từ sau khi Chiêu Doãn nổi giận bí mật xử tử Hàn lâm bát trí, để chọn ra những ‘quân sư’ mới cũng có thể coi là đã phí nhiều công sức. Bảy người này hắn đều điều tra kỹ lưỡng, cực kỳ yên tâm mới thu nạp vào Bách Ngôn đường, sao nàng có thể mua chuộc họ được?”.

“Ta không mua chuộc toàn bộ. Ta chỉ mua chuộc ba người trong bọn họ, bốn người còn lại chủ động tìm đến ta”.

Hách Dịch bật cười ha ha: “Đúng thế. Muốn mua chuộc một người có lẽ còn khó, nhưng muốn mua chuộc một tập thể, lại chỉ cần dùng một chiêu chia rẽ nội bộ là xong”.

“Vì con người rất sợ cô độc. Một khi đã quen với việc hợp tác có tổ chức có phân công, thì sẽ nảy sinh tâm lý ỷ lại. Khi họ phát hiện mình bị cô lập, lập tức sẽ cảm thấy sợ hãi. Dưới sự khống chế của cảm giác sợ hãi đó, để duy trì sự cân bằng vốn có, họ sẽ mù quáng làm theo. Thất tử đều là nhân tài hàng đầu, ta tin rằng để huấn luyện họ Chiêu Doãn đã tốn rất nhiều tâm huyết. Nhưng kết quả của việc huấn luyện nghiêm khắc chính là dẫn đến việc họ quen nghe theo mệnh lệnh và sự sắp đặt của chủ nhân, một khi không có chủ nhân chỉ đạo liền bị mất phương hướng”.

“Cho nên, một khi Chiêu Doãn bị lật đổ, họ sẽ tan đàn xẻ nghé. Đánh vào từng người một sau đó thu phục hắn”. Hách Dịch nghe đến đây, không nhịn được vỗ tay khen:

“Nàng quả nhiên là trưởng thành rồi. Tiểu Ngu mà ta gặp ở Trình quốc năm đó, tuy rằng thông tuệ, nhưng không có chiều sâu và tâm cơ như thế này”.

“Ngài có tin rằng người ta có thể bạc đầu chỉ trong một đêm, cũng có thể trưởng thành chỉ trong một đêm không?”.

Ánh mắt Hách Dịch lay động: “Hy Hòa bạc đầu trong một đêm… giờ sao rồi?”.

“Nàng ta đã không còn tri giác, tuy vẫn còn sống, nhưng không thể cử động, không thể suy nghĩ, giống như ngủ vĩnh viễn”.

Hách Dịch thở dài:

“Mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành lại có kết cục này, thật là… Có điều nàng ta cũng rất giỏi, có thể giả vờ điên che mắt nàng và Chiêu Doãn, còn lừa hai người thành công”.

“Khi một người quyết tâm làm một việc gì đó sẽ luôn có kỳ tích. Nhưng ta cảm thấy, sở dĩ Chiêu Doãn không phát giác ra, ngoài Hy Hòa giả điên rất giống ra, còn có một điểm là vì Chiêu Doãn thực sự… thích nàng ta. Quan tâm tất loạn. Một người đối với người mình thích sẽ luôn phòng bị ít đi một chút”.

“Ta muốn hỏi nàng một câu, nàng phải trả lời thành thực”. Giọng Hách Dịch trở nên nghiêm túc.

“Xin bệ hạ cứ hỏi”.

“Nói thế nào thì Chiêu Doãn cũng là chồng của nàng. Nàng đối với hắn ta như thế, nàng không hối hận sao?”.

Khương Trầm Ngư nhìn xuống đất trầm tư rất lâu, lâu đến mức Hách Dịch cũng bắt đầu hối hận vì đã hỏi câu này, bèn không nhịn được nói:

“Thôi, nàng có thể không trả lời…”.

Nàng bỗng nói: “Thực ra Chiêu Doãn đối với ta rất tốt”. Vì nhớ đến chuyện cũ, nên trong giọng nói của Khương Trầm Ngư chứa đựng rất nhiều tình cảm phức tạp, những tình cảm đó đan xen giao thoa lẫn nhau, không phân ra nổi nàng thấy cảm kích nhiều hơn hay là áy náy nhiều hơn.

“Tuy hắn cưới ta vào cung là trái với ý nguyện của ta, nhưng ngoài điểm đó ra, hắn đối với ta cũng không thể coi là tệ. Trong lòng ta có người khác, không muốn làm hoàng phi, hắn cũng đồng ý, cho ta làm mưu sĩ của hắn, còn sai ta đi sứ Trình quốc để ta được mở mang nhận thức. Sau khi về cung, còn cho ta tiếp tục ở bên cạnh hắn để học tập, cuối cùng, thậm chí còn phong ta làm hoàng hậu… Có lẽ hắn đối với Cơ Anh, đối với Hy Hòa, đối với rất nhiều người đều mắc nợ, nhưng đối với ta… Cho nên, những ngày qua, ngày nào ta cũng mơ thấy ác mộng, trong mơ, hắn biến thành một đứa trẻ bé xíu, áo quần rách rưới, gầy nhẳng xanh xao, hắn khóc lóc hỏi ta – Tại sao? Tại sao hắn đối với ta tốt như thế, ta lại lấy oán báo ơn? Ta làm như thế, có khác gì hắn đối với Cơ Anh? Ta… ta…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, tay nắm chặt vạt áo, toàn thân bắt đầu run rẩy.

“Tiểu Ngu?”. Hách Dịch đứng dậy theo bản năng, định bước vào trong, nhưng đi đến cạnh bình phong lại dừng bước, chần chừ một lúc rồi nhẹ nhàng đặt tay lên bình phong, dịu dàng nói:

“Nàng có muốn nghe xem, ta nhìn nhận như thế nào về chuyện này không?”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu: “Hả?”.

“Ta cảm thấy sở dĩ Chiêu Doãn đối với nàng không tệ là có hai nguyên nhân. Thứ nhất, nàng và hắn tạm thời không có xung đột về mặt lợi ích; thứ hai, tính cách nàng mềm mỏng, hiểu tâm ý người khác, hắn không lý do gì để không đối tốt với nàng. Nếu như hai điểm này không đủ để nàng thấy giải tỏa, vẫn còn điểm thứ ba – Đó chính là…”. Giọng Hách Dịch bỗng chốc trở nên nghiêm túc: “Hắn đối với nàng, căn bản không thể coi là tử tế”.

“Hả?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc.

“Trầm Ngư, nàng tâm địa lương thiện, phàm việc gì cũng luôn nghĩ cho người khác trước, cũng luôn nghĩ đến mặt tốt của người khác. Tại sao nàng không thử nghĩ, vì cớ gì Chiêu Doãn lại đồng ý cho nàng làm mưu sĩ của hắn? Lẽ nào không phải vì vừa hay nàng hội tụ đầy đủ tài năng cực kỳ xuất sắc về phương diện này, mà tài năng đó hắn có thể sử dụng? Chuyến đi Trình quốc không phải nhẹ nhàng, ba hoàng tử tranh đoạt ngai vị, còn có thêm một công chúa lạnh lùng vô tình, nàng suýt chút nữa mất mạng, không phải sao? Nếu nàng chết lúc đó, nàng còn thấy cảm kích hắn sao? Tại sao hắn phong cho nàng làm hoàng hậu… Thứ nhất, hắn đã đá được Cơ gia, nếu không muốn trừ bỏ nốt Khương gia, thì chỉ có cách thu phục trước đã, dù thế nào thế lực của cha nàng cũng không thể xem thường. Thứ hai, nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, cho thấy nàng sẽ không bị Khương Trọng lợi dụng, hắn có thể yên tâm phong nàng làm hậu, vì chí ít nàng sẽ không liên thủ với Khương Trọng để đối phó hắn... thứ ba, Cơ Hốt đã thành đồ bỏ đi, Hy Hòa phu nhân bị điên, tỉ tỉ của nàng lại không được hắn ưa thích, ngoài nàng ra, trong cung đâu còn ai khác để phong hậu nữa. Mà một quốc gia, trong một thời gian dài không có hoàng hậu, là chuyện không hợp với lễ pháp. Vậy thì, ngoài phong nàng làm hậu, hắn còn có lựa chọn nào tốt hơn đâu?”.

Không thể không nói Hách Dịch không hổ là thương nhân thành công nhất trong lịch sử, tài ăn nói cực kỳ lợi hại, khi đàm phán cũng như khi an ủi người khác đều như thế.

Khương Trầm Ngư vốn đang chìm đắm trong nỗi day dứt và tự trách bản thân, trong phút chốc đã thanh thản hơn rất nhiều, lập tức cảm kích nói:

“Bệ hạ thật biết ăn nói…”.

“Điều ta nói là sự thực. Đó chẳng qua là một mặt mà nàng không nhìn thấy mà thôi”. Hách Dịch chăm chú nhìn tấm bình phong, từ tốn nói:

“Có điều, đến nay ta có thể xác thực một chuyện, tên tiểu tử Chiêu Doãn đó rốt cuộc đã làm được một chuyện tốt…”.

Khương Trầm Ngư hiếu kỳ: “Chuyện gì?”.

Hách Dịch bỗng nhếch môi cười, vẻ mặt bắt đầu trở nên thiếu nghiêm túc, khôi phục lại dáng vẻ như lần đầu nàng gặp:

“Đó chính là… Chiêu Doãn, hắn… chưa động vào nàng. Đúng không?”.

Khương Trầm Ngư tuyệt đối không thể ngờ chàng lại nói đến chuyện này, mặt liền đỏ bừng lên, theo bản năng muốn giận dữ quát chàng vô lễ, Hách Dịch đã vòng qua bình phong, bước vào bên trong…

“Tiểu Ngu…”.

“Ngài!”.

Bốn mắt nhìn nhau, hai người đều ngơ ngẩn.

Với Khương Trầm Ngư, cố nhiên là kinh ngạc vì chàng không đếm xỉa đến lễ pháp mà xông vào.

Còn với Hách Dịch lại là vì nói đúng ra, đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy diện mạo thực sự của Khương Trầm Ngư.

Không có vết bớt màu đỏ trên mặt, cũng không ăn vận điểm trang giản dị như dược nữ.

Khương Trầm Ngư lúc này mặc áo tím phối với một chiếc váy dài màu xanh nhạt có nhiều nếp gấp, kết những hạt ngọc màu xanh biếc, cổ áo và gấu váy đều thêu hoa lê màu trắng nhỏ li ti, thật là băng tư ngọc cốt, sực nức hương thơm. Nàng vốn có dung mạo tuyệt mỹ, tư thái cao quý tao nhã, giờ hai gò má ửng hồng lại càng mê đắm lòng người.

Nhất thời, Hách Dịch nhìn ngơ ngẩn cả người.

Khương Trầm Ngư thấy chàng phản ứng như vậy, lại càng xấu hổ, không kìm được gắt khẽ: “Nhìn cái gì?”.

“Nhìn nàng”.

“Ta, ta có gì đáng nhìn!”.

Hách Dịch khẽ thở dài, giọng mơ màng như nói mê: “Trong mộng gặp nàng trăm nghìn lần, nhưng bây giờ mới biết, hóa ra nàng trông như thế này”.

“Ngài…”.

Khương Trầm Ngư vừa xấu hổ vì chàng to gan thẳng thắn, lại vừa cảm động vì chàng vẫn luôn nặng tình, nhất thời, không biết phải trả lời ra sao, cuối cùng đành quay mặt nhìn sang chỗ khác: “Xin bệ hạ tự trọng”.

Hách Dịch chấn động, sắc mơ màng nơi đáy mắt cũng mau chóng tan đi, khi nhìn nàng, ánh mắt đã thêm mấy phần bi ai:

“Nàng cho rằng… ta thật sự sẽ làm gì nàng sao?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư run rẩy: “Bệ hạ?”.

“Trên thế gian này, người ta không thể nào đối phó được nhất chính là nàng”.

Hách Dịch nói đoạn cất tiếng cười khổ: “Nàng gặp nạn, ta chỉ có thể cứu; nàng muốn dầm mưa, ta chỉ có thể đi cùng; nàng nói nàng là sư muội của Giang Vãn Y, ta chỉ có thể tin theo; nàng nói nàng là phi tử của Bích quốc, ta chỉ có thể trơ mắt nhìn… Tiểu Ngu, một kẻ luôn bó tay trước nàng như ta, có thể làm gì nàng cơ chứ?”. Nói rồi chàng quay người bước ra gian ngoài.

Trái tim Khương Trầm Ngư thắt lại, tựa như có một phần nào đó của bản thân cũng đi theo chàng ra ngoài, sau đó rơi độp xuống đất, vỡ thành mảnh vụn.

“Bệ hạ, Trầm Ngư lỡ lời, xin bệ hạ lượng thứ!”.

Hách Dịch dường như không nghe thấy lời xin lỗi của nàng, bỗng nói: “Ta phải đi rồi”.

“Bệ hạ, ta… ta vẫn chưa trả tiền cho ngài…”.

“Ta không cần tiền”. Trong lúc nói, Hách Dịch đã đi đến định đưa tay mở cửa.

Khương Trầm Ngư không kiềm chế được nữa, vội vàng lao ra đè lên bàn tay đang mở cửa của chàng: “Bệ hạ…”.

Nàng không thể nói hết câu vì Hách Dịch trở tay, ấn nàng lên cửa, sau đó, thân hình ấm áp ập tới ôm lấy nàng.

Nàng ngẩng đầu là nhìn thấy ánh mắt sáng rỡ có thần, như lửa rực cháy chốn đồng hoang của chàng.

Cúi đầu là nhiệt độ cuồn cuộn không dứt từ cơ thể chàng truyền sang và hơi thở đầy nam tính của chàng.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư đầy hoảng loạn, vừa căng thẳng vừa khó xử, nhưng nàng không thể cựa quậy, chỉ có thể trơ mắt nhìn Hách Dịch gần ngay gang tấc.

Hách Dịch một tay nắm vai nàng, tay còn lại chầm chậm sờ lên gò má nàng, động tác run run nhưng dịu dàng, giọng nói đê mê mà buồn bã:

“Khương, Trầm, Ngư… hóa ra, nàng ở đây…”.

“Bệ hạ?”.

“Bao nhiêu năm qua, trẫm đã gặp vô số nữ tử. Không phải là không có người xinh đẹp hơn nàng, thông minh hơn nàng, lương thiện hơn nàng, kiên cường hơn nàng… nhưng tại sao? Tại sao chỉ có nàng lại khiến trẫm khó quên như thế? Tựa như ông trời biết trẫm muốn gì, sau đó ghép từng chi tiết mà trẫm thích lại với nhau, tạo ra một mình nàng. Thế giới rộng lớn, biển người mênh mông, trẫm tìm kiếm lâu như thế, hóa ra… nàng ở nơi đây”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy bờ môi khô khốc, không nói ra lời.

Mà gương mặt Hách Dịch trong khoảng cách gần như thế, càng nhìn càng mê hoặc, đồng tử sâu thẳm, tựa như muốn hút trọn linh hồn người ta vào trong đó, e rằng trên đời này không có bất cứ một nữ tử nào, khi đối mặt với một nam tử như thế này, mà không bị đắm chìm? Huống hồ lời chàng nói, từng câu từng chữ từng âm điệu, đều mang một sức mạnh to lớn chấn động tâm can:

“Thế nhưng… tại sao nàng lại có thể là Khương Trầm Ngư? Con gái út của Khương thị hữu tướng Bích quốc, từng là hôn thê của Kỳ Úc hầu, phi tử của quân vương Bích quốc… mỗi một thân phận đều kéo nàng ra xa ta hơn, giống như đóa tuyết liên trên núi cao, có thể ngắm từ xa mà không thể lại gần, có thể chạm tới nhưng không thể có được… khiến trẫm… khó chịu, khó chịu biết bao”.

Ánh sáng xuyên qua từng ô nhỏ trên cửa lọt vào trong, kéo dài bóng hai người trên mặt đất, quấn quít lấy nhau, tựa như một mối ràng buộc mà số phận đã sắp đặt từ lâu, được viết ngoằn ngoèo trên trang giấy duyên phận.

“Khi nàng dùng hết toàn bộ ba cây pháo hoa trẫm tặng cho nàng, trẫm tuy không nỡ nhưng đồng thời cũng thấy nhẹ nhõm, trong lòng nghĩ như thế cũng tốt, cắt đứt triệt để như thế cũng đỡ phải ngày ngày nhớ nhung mòn mỏi. Thế nhưng tại sao? Nàng nói cho trẫm biết, tại sao nữ tử tên Tiểu Ngu ấy lại giống như khảm sâu trong tâm trí của trẫm, trong từng khoảnh khắc mỗi sớm thức dậy mỗi tối đi ngủ, mỗi cái ngước mắt, khom lưng, bốn mùa trôi qua, tóc trắng đã mọc đó, hình ảnh người ấy ùa về, khiến trẫm không thể kháng cự, cũng không thể trốn tránh?”.

Ngón tay của Hách Dịch vì quá kích động mà nắm chặt hơn một chút, cơn đau từ trên bả vai truyền tới, dần dần lan ra khắp cơ thể, Khương Trầm Ngư không thể cử động, không thể không thể nói.

“Trẫm không biết tại sao phải hết lần này đến lần khác tới Bích quốc, tự lừa mình dối người nói là đến Bích quốc để làm ăn; trẫm cũng không biết tại sao lại ghét Bích vương chưa từng gặp mặt đến như thế, trong lúc đố kỵ nhất, trẫm đã hận không thể lập tức xuất binh, đánh chiếm Bích quốc…

Mà sau này, trẫm lại biết người trong lòng nàng, hóa ra không phải là Chiêu Doãn mà là Cơ Anh. Cho nên, khi tin Cơ Anh đã chết truyền tới, trong lòng trẫm ngoài sự thương tiếc còn có một chút mừng trộm. Rồi sau đó, khoảnh khắc nhận được lá thư xin viện trợ của nàng, khi trẫm vui mừng xé phong thư, bàn tay trẫm run lên… Khương, Trầm, Ngư, trên đời này không phải người nào trẫm cũng chịu giúp đỡ; không phải thương vụ nào trẫm cũng chịu làm; không phải cuộc giao dịch nào trẫm cũng lo lắng; cũng không phải món nợ nào, trẫm cũng đích thân đi đòi!”.

Ngón tay chàng hơi thả lỏng, buông nàng ra, sau đó, thân hình đang áp lên người nàng cũng tách ra.

Không khí trong trẻo đột ngột xộc vào mũi, sức mạnh đè nén nàng đã biến mất, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn áp sát trên cửa như cũ, không thể nhúc nhích. Nàng chỉ có thể mở to mắt, thẫn thờ nhìn chàng, không thể cử động, không thể nghĩ, không thể nói.

Hách Dịch hít một hơi thật sâu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại:

“Nàng nghe cho rõ đây, trẫm không cần tiền. Lần sau, nếu nàng muốn trẫm đến đòi nợ, nhớ cho kỹ phải chuẩn bị thứ mà trẫm muốn”. Nói đoạn nhẹ nhàng kéo nàng sang một bên rồi mở cửa bước ra ngoài.

Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, men theo cánh cửa trượt xuống mặt đất. Cảm giác run rẩy lúc ấy mới bắt đầu dâng lên từ hai chân, rồi nhanh chóng tràn ra khắp cơ thể, nàng bó gối run lên bần bật.

Hoài Cẩn vẫn luôn đứng canh bên ngoài nhìn theo chiếc bóng dần khuất của Hách Dịch, rồi quay đầu nhìn Khương Trầm Ngư trong nhà, rất ý nhị không hỏi gì cả, chỉ lấy một chiếc áo khoác nhẹ nhàng đắp lên người nàng, dịu dàng bảo:

“Nương nương, chúng ta nên về cung thôi”.

Khương Trầm Ngư gật đầu một cách gượng gạo.

Hoài Cẩn dìu nàng đứng dậy rời khỏi nhã xá. Xe ngựa chờ sẵn ngoài khu nhà, vì chuyến này bí mật ra khỏi cung nên họ đi bằng xe ngựa của Tiết Thái. Hai người lên xe, phu xe là Chu Long thúc ngựa, xe đi như bay về hoàng cung.

Về đến cung, Khương Trầm Ngư vừa mới bước xuống xe đã nhìn thấy trong tay Tiết Thái ôm một đống hồ sơ lớn, giống như đang đi ngang qua, lại giống như chờ đợi đã lâu, hắn trừng đôi mắt to đen láy của mình lên, trợn mắt nhìn nàng bằng một ánh mắt kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư cố gắng nén những suy nghĩ rối bời quẩn quanh nơi đáy tim mãi không chịu tan kia xuống, giơ tay lên sờ mái tóc của mình nói:

“Sao vậy?”.

Tiết Thái trừng mắt với nàng một cái rồi quay người, mở miệng nói: “Thất tử đang đợi trong phòng”.

Dừng một lát, lại thêm một câu: “Nương nương về muộn quá!”.

Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong Bách Ngôn đường, bất ngờ phát hiện ngoài Thất tử và Tiết Thái ra còn một người nữa.

Người đó thít một chiếc khăn vuông, mặc một chiếc áo bào màu xám đơn giản, im lặng ngồi trong một góc, vì thế, thoạt nhìn Khương Trầm Ngư không nhận ra là ai, nhìn lại lần nữa mới sửng sốt kêu lên: “Di Phi?”.

Văn sĩ trước mặt giản dị không thể giản dị hơn, nho nhã không thể nho nhã hơn này lại là tam hoàng tử Trình quốc suốt ngày mặc trang phục hoa hòe hoa sói, lời nói cử chỉ phóng túng cợt nhả đó. Khương Trầm Ngư gần như không dám tin vào mắt mình.

Mà nàng càng không dám tin là gã lại xuất hiện trong hoàng cung của Bích quốc, trong thư phòng của chính mình!

“Ai, ai đưa hắn đến đây?”. Kỳ thực lời vừa phát ra khỏi miệng, nàng đã biết đáp án. Ngoài Tiết Thái ra, ai dám chưa được sự đồng ý của nàng mà đã đưa gã vào cung?

Còn Tiết Thái quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, chớp mắt một cái, lạnh lùng đáp: “Ta”.

“Ngươi…”. Khương Trầm Ngư căn bản không biết làm thế nào khác, đành quay người nhìn sang Di Phi:

“Ngươi dám ngang nhiên xuất hiện ở đây?”.

Di Phi cười hi hi, đứng dậy hành lễ, lại khôi phục điệu bộ giảo trá mà nàng quen thuộc, lắc đầu ngoẹo cổ nói:

“Tiểu vương phải cải chính với nương nương ba điểm. Thứ nhất, cái gọi là ngang nhiên, hồi bẩm nương nương, tiểu vương lén lút vào cung, có thể nói ngoài những người ở đây, không đến mười người biết hôm nay tiểu vương có mặt tại hoàng cung Bích quốc, cho nên nương nương có thể yên tâm”.

Khương Trầm Ngư lạnh lừng hừ một tiếng.

“Thứ hai, tiểu vương không có chuyện gì là dám hay không dám làm. Bích vương đã dám xuống tay với Kỳ Úc hầu sau đó lại gán tội danh đó cho tiểu vương, để chứng tỏ sự thanh bạch của mình, đương nhiên tiểu vương chỉ có thể tới đây đòi lại công bằng”.

Tiếng hừ lạnh lùng của Khương Trầm Ngư chuyển thành tiếng thở dài. Ngày đó ở Hồi thành, một mặt Vệ Ngọc Hành giăng bẫy hãm hại Cơ Anh, một mặt đổ tội cho Di Phi, nhưng Di Phi há lại là nhân vật đơn giản như thế? Khi Vệ Ngọc Hành xong việc dẫn quan binh đến phòng gã ở, gã đã biến mất từ lâu rồi. Có điều như thế cũng chẳng sao, chúng liền nghĩ ra cái cớ

“Trình tam hoàng tử hại chết Kỳ Úc hầu, sau đó sợ tội bỏ trốn” báo lên triều đình, vì thế, bách tính đều coi Di Phi là hung thủ đại gian đại ác, sau này Chiêu Doãn cũng giả vờ giả vịt giáng chỉ truy nã Di Phi, nhưng vì trước sau không tìm thấy người, lại thêm Khương Trầm Ngư nắm quyền, việc này dần dần cũng bị bỏ qua.

Nhưng không ngờ, nhân vật mất tích thần bí này lại xuất hiện trở lại, hơn nữa vào tận hoàng cung Bích quốc như tự tìm cái chết, lần này gã định giở trò gì đây?

Có điều, tuy trong lòng muôn vàn thắc mắc, nhưng vì “Di Phi do Tiết Thái đưa đến”, cho nên tự nhiên nàng thấy an tâm, cũng không sợ hãi là mấy.

Mà lúc này, Di Phi lại nói tiếp:

“Thứ ba, tiểu vương nghĩ đi nghĩ lại, cũng chỉ có thể đến đây. Yên và Nghi đều là nước đồng minh của con tiện nhân đó, nếu tiểu vương xuất hiện trong đất của họ, không đến ngày thứ ba, có lẽ đã bị bắt giải về Trình quốc rồi. Chỉ có Bích quốc luôn công bố với bên ngoài là không đội trời chung với tiểu vương, vẫn được an toàn một chút, đây gọi là nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Hơn nữa người nắm quyền Bích quốc hiện nay là hoàng hậu… dù sao chúng ta cũng có quen biết, hoàng hậu nhất định sẽ không nỡ để kẻ thanh bạch vô tội như tiểu vương chịu oan uծg đi tìm cái chết phải không?”.

Vừa nói gã vừa làm bộ như một chú chim nhỏ sán lại gần nép vào người Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư đang muốn tránh thì một cánh tay giơ ra tóm lấy đai lưng của Di Phi, kéo một cái, chiếc đai tụt ra.

Chủ nhân của cánh tay ấy là Tiết Thái, hắn lạnh lùng nói một câu: “Quần sắp tụt rồi”.

Di Phi khua chân múa tay loạn xạ một hồi cuối cùng mới kéo quần cười khổ nói

: “Ta biết chúng ta tình cảm thắm thiết nhưng cũng đâu nhất thiết cứ hễ gặp mặt là thẳng thắn chân thành thế này?”.

Khương Trầm Ngư cười phì một tiếng, hơi quay mặt đi chỗ khác.

Tiết Thái đưa trả đai lưng cho Di Phi: “Bớt nói nhảm đi, ngồi xuống, đợi đấy rồi ký tên”.

“Ký tên cái gì?”. Khương Trầm Ngư tò mò.

Người áo vàng sẫm vội trình một cuộn giấy lên trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư giở ra đọc, hóa ra là một bản khế ước, bên trong viết là trong thời kỳ đặc biệt, Bích quốc tạm thời thu nhận Trình tam hoàng tử, ngày sau khi Di Phi phục quốc, sẽ phải cắt bao nhiêu bao nhiêu đất cho Bích quốc, còn phải tiến cống bao nhiêu bao nhiêu tiền bạc… từng điều từng điều một, tổng cộng là hai mươi bảy điều.

Sự hà khắc của điều kiện khiến Khương Trầm Ngư cảm thấy chấn động kinh ngạc:

“Điều ước mất quyền lợi nhục quốc thể như thế này mà ngươi cũng ký?”.

Di Phi để lộ biểu cảm như thể tìm thấy cọng rơm cứu mạng, mặt xị xuống, đáng thương nhìn nàng nói:

“Cho nên cầu xin nương nương nể giao tình của chúng ta bớt đi cho một chút…”.

Khương Trầm Ngư bình tĩnh gấp bản khế ước lại, bình tĩnh đưa trả cho người áo vàng sẫm, bình tĩnh nói:

“Thêm mười điều nữa”.

Khương Trầm Ngư vừa cười vừa quay về tẩm cung.

Nàng vừa đi vừa nghĩ đến biểu cảm của Di Phi ban nãy là lại không nhịn được cười, đến nỗi mà sau đó, Tiết Thái đi sau nàng cuối cùng không kìm được cau mày nói:

“Cho dù nương nương có được thêm ba thị bạc đề cử ti cũng không cần hí ha hí hửng thế chứ (Đề cử ti là chức quan quản lý một lĩnh vực nào đó trong thời cổ )..?”.

Khương Trầm Ngư quay đầu liếc xéo hắn một cái, thu lại nụ cười, nói:

“Ta còn chưa truy cứu ngươi chuyện tiền trảm hậu tấu, dám tự ý quyết định rước tên Di Phi đó vào cửa, ngươi lại dám chê trách ta trước à?”.

Khóe mắt của Tiết Thái bắt đầu co giật.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn: “Sao? Không còn lời gì để nói à?”.

Tiết Thái cắn răng nói: “Ta muốn nói nhưng người nào đó lại biến mất từ sáng sớm tinh mơ, đi xử lý cái gọi là chuyện ‘quan trọng’ nào đó, cho đến lúc nãy mới về, ta làm gì có cơ hội mà báo trước?”.

“Di Phi không thể hôm nay mới đến đế đô, ngươi đã liên hệ với hắn từ lâu, tại sao không nói trước cho ta?”.

Tiết Thái lộ vẻ lạnh nhạt, hai tay chắp sau lưng, thong thả nói: “Trước khi nắm chắc một việc, liệu nương nương có đi tuyên truyền ra ngoài không?”.

Hai người trừng mắt gườm gườm nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng vẫn là Khương Trầm Ngư nhìn đi nơi khác trước:

“Ai gia không thèm chấp nhóc con”.

Phản ứng của Tiết Thái là nở một nụ cười châm chọc.

Bỗng Khương Trầm Ngư nghiêng đầu sang hỏi:

“Ngươi dự định sắp xếp Di Phi như thế nào? Không thể giấu hắn trong cung được?”.

Tiết Thái chậm rãi trả lời: “Hàn lâm vốn là bát trí ”.

“Rồi sao?”.

“Đến nay Bách Ngôn đường lại chỉ còn có Thất tử. Ban đầu hoàng thượng sờ dĩ chọn bảy người, là vì nương nương cũng được coi là một người trong bát trí”.

“Rồi sao?”.

“Bây giờ nương nương thành hoàng hậu, đương nhiên không thể giống như bọn họ được. Cho nên, Thất tử vẫn không hoàn chỉnh”.

“Rồi sao?”.

Cuối cùng Tiết Thái không vòng vo nữa, nhìn thẳng vào mắt nàng, nói ra câu mấu chốt của vấn đề: “Di Phi có thể làm hoa tử (Hoa tử tức người mặc áo hoa ...bát trí mỗi người mặc một màu áo)”.

Khương Trầm Ngư cười phì thành tiếng: “Hoa tử… ha ha ha, chỉ có ngươi mới nghĩ ra, ha ha ha…”.

Tiết Thái không cười, gương mặt đầy vẻ nghiêm túc nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư cười mãi, nói: “Hóa ra ngươi cũng thích số tám, phàm việc gì đều phải ghép cho đủ. Đúng rồi, nghe nói sinh nhật của ngươi vào mùng tám tháng tám, cho nên bây giờ đã đủ tám tuổi rồi?”.

Mặt Tiết Thái liền sầm xuống, giọng điệu cực kỳ cứng cỏi đáp lại: “Ta không thích số tám”. Tuy trước đó hắn cũng chau mày chau mặt, nhưng ít nhiều cũng ra vẻ cố ý đối chọi với Khương Trầm Ngư, bây giờ vẻ mặt hắn biến đổi như vậy, Khương Trầm Ngư lập tức nhận ra rằng hắn thực sự giận dữ.

Tuy không biết vì sao hắn bỗng nhiên nổi giận nhưng Khương Trầm Ngư cũng không cười nữa, nghiêm mặt nói: “Nên tận dụng mọi khả năng của mọi vật, ngươi nói rất đúng. Có điều, hắn trước sau gì vẫn là người Trình quốc, nhiều chuyện nội bộ của chúng ta, vẫn không thể để hắn biết được. Như thế này đi, hắn rảnh rỗi thì để hắn điều tra tung tích của Cơ Hốt đi”.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó khom người nói: “Tuân chỉ”.

Tâm trạng Khương Trầm Ngư vốn dĩ khó khăn lắm mới vui vẻ lên một chút, nhưng vì nói đến Cơ Hốt nên nặng nề trở lại. Bốn tháng rồi. Từ khi đoạt quyền từ tay Chiêu Doãn nàng đã tìm tung tích của Cơ Hốt ở khắp nơi, nhưng Cơ Hốt giống như bốc hơi giữa biển người, không thể tìm nổi chút manh mối nào. Có lúc, Khương Trầm Ngư không kìm được hoài nghi có lẽ mình đã bị Chiêu Doãn dắt mũi, chân tướng sự thực đúng là người đó đã chết như suy đoán trước đây của nàng, nhưng sau đó theo lời chứng của Thôi quản gia, nữ tử chèo thuyền mà nàng thấy bên hồ Phượng Thê đó, dung mạo dáng vẻ quả thực là Cơ Hốt.

Cơ Hốt đi đâu?

Ngày nào chưa tìm thấy người ấy thì ngày đó nàng chưa thể yên tâm.

Để tránh Di Phi, vị hoàng tử chưa bao giờ chịu yên phận gây chuyện trong khoảng thời gian này, một mặt cố nhiên là phải trông chừng thật kỹ, không để gã xảy ra chuyện gì không hay; một mặt cũng không thể để gã nhàn rỗi quá, phải kiếm việc cho gã làm. Hy vọng gã có thể dùng cái đầu kỳ lạ cổ quái khác biệt với người khác của mình nghĩ ra vài chủ ý hay ho, biết đâu lại có thể tìm thấy Cơ Hốt thật.

Khương Trầm Ngư vừa đau đầu suy nghĩ, vừa vô thức bước đi, đến khi nàng nghĩ thông mọi điều, ngước đầu lên. Sao nàng lại đến nơi này?

Chỗ nàng đang đứng chính là góc Tây Bắc, nơi hẻo lánh nhất của hoàng cung, cũng chính là đầu nguồn của hồ Phượng Thê, Chiêu Doãn lớn lên ở nơi này, bên hồ còn lưu giữ lại một căn nhà nhỏ rách nát. Bây giờ, nó đã đổi chủ nhân mới.

Ánh nắng ngày xuân tươi sáng rực rỡ, tịch dương đỏ chói chiếu xuống khiến mặt hồ hồng rực lên. Trên mảnh đất vốn hoang vu, nay lại trồng các loại hoa tươi theo hàng lối, những cành hoa đung đưa nhè nhẹ trong gió, đẹp như tranh vẽ.

Một người ngồi trên chiếc xe lăn bằng gỗ, đang tưới nước cho hoa, một người khác đứng đằng sau hắn, thi thoảng lại giúp một tay.

Cảnh tượng này lọt vào trong mắt Khương Trầm Ngư, càng ấm áp thêm vài phần.

Nàng đi tới, khẽ gọi: “Sư Tẩu”.

Người tưới nước quay đầu lại, đúng là Sư Tẩu. Còn người đứng đằng sau hắn lại là Điền Cửu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ mười chín : Tân vương (Phần 2)

Sư Tẩu nhìn thấy nàng liền bỏ bình nước xuống, đẩy xe lăn tới, dù chỉ còn lại một cánh tay, nhưng động tác vẫn rất linh hoạt. Trái lại Điền Cửu phía sau lưng hắn, vẻ mặt cứng đơ, im lặng hành lễ rồi quay người đi vào trong nhà.

Sư Tẩu lộ vẻ vui mừng, nói: “Sao chủ nhân lại tới đây?”.

“Những ngày qua ngươi sống ở đây vẫn ổn chứ?”.

“Vâng”. Sư Tẩu nhìn những đóa hoa tươi xung quanh bằng cặp mắt tràn đầy tình cảm: “Hôm nay lại có hai cây tường vi mới nở hoa”.

“Thế… ca ca ngươi, hắn có ổn không?”. Khương Trầm Ngư đưa mắt nhìn về phía căn nhà.

Sư Tẩu nhận ra suy nghĩ thật sự của nàng, cười cười: “Ca ca… vẫn không thể tiếp nhận chủ nhân, có điều, thuộc hạ nghĩ ca ca sớm muộn sẽ có ngày nghĩ thông thôi. Bởi vì chủ nhân đã cho chúng ta cuộc sống mới. Có thể trồng hoa hóng gió, chuyện trò cùng huynh trưởng, cuộc sống như thế, thuộc hạ đến nghĩ cũng chưa từng dám nghĩ. Ca ca cũng vậy”.

Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng.

Tuy y thuật cao minh của Giang Vãn Y có thể giữ được tính mạng cho Sư Tẩu, nhưng hai chân và một cánh tay bị chặt đứt và một con mắt bị móc của hắn, vĩnh viễn không thể lấy lại được. Bây giờ mở một góc nhỏ như thế này trong hoàng cung cho hắn ở, ngoài mục đích cảm ơn hắn ra, còn có một nguyên nhân khác, đó là kiềm chế Điền Cửu.

Ngày đó khi nàng dùng Sư Tẩu để dụ Điền Cửu đi, khi Điền Cửu trở lại phát hiện Chiêu Doãn đã biến thành phế nhân, biểu cảm trên gương mặt của hắn lúc đó, nàng vĩnh viễn không thể quên… Điền Cửu không ra tay với nàng để báo thù cho Chiêu Doãn, nàng đã vô cùng cảm kích hắn rồi, nào có khát vọng xa xỉ là hắn có thể quay đầu về dưới trướng của mình? Kỳ thực… trong lòng nàng cũng không phải là không thấy đáng tiếc… Nghe Chu Long nói, võ công của Điền Cửu thậm chí còn cao hơn hắn, hơn nữa luận về mưu trí tài tình đều cực kỳ xuất sắc, nếu có thể thu phục, tất sẽ như hổ mọc thêm cánh.

Thế nhưng… nhân sinh xưa nay chưa bao giờ hoàn mỹ, chẳng phải thế sao?

Như bây giờ cũng tốt rồi.

Khương Trầm Ngư lắc đầu, gạt cảm xúc tiếc nuối hụt hẫng đó sang một bên, bước tới chăm chú thưởng thức những bông hoa Sư Tẩu trồng: “Đẹp quá…”.

“Đúng thế, chỉ cần đối đãi tốt với chúng, chúng sẽ tặng cho ta phong cảnh tươi đẹp nhất. Còn khi ta ngắm chúng sẽ cảm thấy hết thảy khổ đau tan đi như mây khói, biến thành những chuyện cũ gió thoảng mây trôi”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn Sư Tẩu, ý thức một cách vô cùng rõ ràng rằng người trước mặt này và ám vệ cùng nàng đi sứ Trình quốc kia, đã là hai người hoàn toàn khác nhau. Sư Tẩu khi đó, trong đầu chỉ có nhiệm vụ, ngoài mệnh lệnh ra, vạn vật đều không tồn tại trong mắt hắn, nhưng Sư Tẩu của hiện tại, nhìn thấy trời xanh, hồ biếc và các đóa hoa muôn hồng ngàn tía, thế giới chém giết thập tử nhất sinh đó đã hoàn toàn lùi xa.

Nàng tự hỏi lòng mình, nếu đổi lại là mình liệu có chịu dùng đôi chân, cánh tay và một con mắt để đánh đổi lấy cuộc sống yên bình như thế này không? Trong lòng Khương Trầm Ngư mãi lâu sau vẫn không có câu trả lời.

Nàng rốt cuộc vẫn không phải là Sư Tẩu.

Sư Tẩu không cha không mẹ, ngoài ca ca ra không còn người thân thích nào khác. Cho nên, buông bỏ thế giới này đối với hắn mà nói không phải là mất mát, mà trái lại là có được.

Nhưng nàng thì sao? Thứ níu giữ nàng thực sự là… quá nhiều quá nhiều…

“Chủ nhân? Dường như chủ nhân rất mệt, chủ nhân không ngủ được ư?”. Sư Tẩu bỗng nhiên hỏi như vậy.

Khương Trầm Ngư vô thức giơ tay lên sờ mặt mình: “Rõ thế à?”.

“Vâng”. Sư Tẩu đẩy xe lăn về phía hồ Phượng Thê một đoạn, nhìn chăm chú nơi trời nước giao nhau đó, thong thả nói: “Chủ nhân, chủ nhân biết cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ về những ngày này là gì không?”.

“Là gì?”.

“Cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ là: Hóa ra, trên thế giới này có nhiều chuyện vui vẻ như thế. Ngắm một đóa hoa nở, ngắm mưa rơi, ngắm mặt trời mọc mặt trời lặn, ngắm bầy cá bơi tung tăng dưới nước… Nếu chúng ta không sinh ra làm người thì không thể lĩnh ngộ được những thứ đẹp đẽ này, cho nên, những kẻ đã được trời cao ban cho ân sủng này nên cười nhiều một chút”. Sư Tẩu nói đến đây, xoay xe lăn về phía Khương Trầm Ngư, nói với một giọng chân thành không gì sánh được: “Chủ nhân nên cười nhiều một chút”.

Khương Trầm Ngư mấp máy khóe môi, có chút khó khăn, nhưng lại cười rất chân thành.

Nàng vừa cười, Sư Tẩu liền cười theo: “Chẳng phải rất dễ sao?”.

Khương Trầm Ngư ngẩng lên đón cơn gió từ mặt hồ thổi tới, nhắm mắt lại hít một hơi thật sâu, rồi lại từ từ thở ra, sau đó mở mắt, lại cười một lần nữa. Không khí ngột ngạt trước đây dường như cũng biến mất theo hai nụ cười này, chỉ còn lưu lại cảm giác vui vẻ khi đứng trước phong cảnh đẹp đẽ này.

“Sư Tẩu, ta biết ban nãy tại sao chân của ta tự động đưa ta đến nơi này rồi…”.

Sư Tẩu nhìn nàng, dùng một con mắt nhìn nàng, dùng một con mắt vốn đen tối nhất nhưng giờ lại sáng tỏ nhất thế giới này nhìn nàng, cuối cùng mỉm cười: “Sau này nếu chủ nhân có chuyện gì không vui, xin cứ đến đây. Thuộc hạ đã không thể giúp chủ nhân được gì, nhưng nơi này của thuộc hạ có rất nhiều hoa đẹp, còn có một đôi tai nguyên vẹn nữa”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc ướt nhòa.

Sư Tẩu, ám vệ Chiêu Doãn tùy tiện ban cho nàng ngày đó, ở Trình quốc, họ đã cùng gặp kiếp nạn sinh tử, để bảo vệ nàng, hắn đã trở thành tàn phế, nhưng bây giờ, hắn ngồi ở đó, vẻ mặt dịu dàng hiền hòa, giọng nói bình thản, tuy yếu ớt, nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ.

Hắn lại trở thành bến cảng tâm hồn ấm áp và thanh thản nhất của nàng.

Duyên phận như thế này, ai có thể ngờ đến được?

Thế sự an bài, quả nhiên có sự kỳ diệu định mệnh…

Khi hoa hạnh nở rộ, hoàng cung của Bích quốc đón một vị khách lâu ngày không gặp.

Hắn chính là người một dạo bị cách chức trục xuất khỏi kinh sư không được quay về, là người đã viết nên huyền thoại “từ áo vải đến vương hầu, rồi lại trở về áo vải” – thần y dân gian Giang Vãn Y.

Mà lý do trở lại của hắn lần này cũng hệt như lần trước – Hy Hòa.

Cùng trúng chất độc “Giấc mộng nghìn năm”, vì Hy Hòa không uống rượu nên độc tính phát tác muộn hơn Chiêu Doãn, nhưng hàm lượng thuốc mà nàng ta uống vào người lại nhiều hơn, nên mức độ hủy hoại cơ thể cũng nghiêm trọng hơn rất nhiều. Về sau da dẻ bắt đầu xuất hiện những mảng tím bằm lớn, thậm chí lan lên tận mặt, rồi bắt đầu rữa nát, hình dạng trông cực kỳ đáng sợ.

Vì thế, Khương Trầm Ngư sai người triệu hồi Giang Vãn Y cho hắn hai lựa chọn: Hoặc là, cứu nàng ta tỉnh lại; hoặc là ngăn bệnh tình xấu đi, để Hy Hòa khôi phục dáng vẻ ban đầu.

Nhưng ngày tiếp ngày trôi qua, hoa hạnh đã rụng hết, Giang Vãn Y vẫn không tìm ra thuốc giải.

“Tại sao? Thuốc độc huynh bào chế ra mà cũng không giải được ư?”. Khương Trầm Ngư thất vọng vô cùng.

Trong Bảo Hoa cung, bên giường của Hy Hòa buông một tấm rèm rất dày, rất nặng, không nhìn thấy dung nhan của nàng ta.

Đứng bên giường Hy Hòa, Giang Vãn Y vẫn một thân áo xanh nhưng đã tiều tụy gầy guộc đi nhiều, không còn dáng vẻ “thanh sam ngọc diện Đông bích hầu (Nghĩa là ..Đông Bích hầu hay mặc áo xanh, mặt đẹp như ngọc )”lúc đi sứ Trình quốc năm xưa. Nhưng khí độ của hắn càng ngày càng trầm ổn, điềm đạm nói:

“Ngày đó, khi chế ra loại độc này cho nàng ấy, ta có nói là loại thuốc này vừa mới điều chế ra vẫn chưa được thành thục lắm, sau khi uống, tùy cơ địa từng người mà có sự khác biệt. Sở dĩ Hy Hòa phu nhân xuất hiện hiện tượng hoại tử, có lẽ là do loại độc nàng ấy từng trúng. Độc tố lần trước vẫn chìm sâu trong huyết dịch hòa lẫn với ‘Giấc mộng nghìn năm’ này chuyển thành một loại kịch độc khác. Hiện nay đã vượt quá phạm vi kiểm soát mà ta có thể giải cứu, mà thời gian không cho phép ta thử nghiệm thêm nữa…”.

Nói đến đây, hắn phất tay áo, quỳ xuống: “Thảo dân có một thỉnh cầu to gan”.

“Xin cứ nói”.

“Hy Hòa phu nhân… hiện tại đau đớn vô vàn, vì trúng độc nên da thịt cứng đơ nên nhìn không ra biểu cảm đau đớn, nhưng cảm giác bị rữa nát này, bất cứ người sống nào cũng không thể chịu đựng nổi. Thảo dân bất tài, không cứu nổi phu nhân, chỉ biết trơ mắt nhìn phu nhân bị hoại tử từng chút từng chút một, thực sự là… không thể đành lòng. Cho nên khẩn cầu nương nương ban cho phu nhân được chết, để nàng ấy… sớm được giải thoát”.

Nói những lời này, Giang Vãn Y ngừng lại mấy lần, rõ ràng là đau khổ đến cực điểm.

Kỳ thực những gì hắn nói trong lòng Khương Trầm Ngư đều hiểu rõ, nhưng… vừa nghĩ đến để Hy Hòa chết, trong lòng liền ngàn vạn lần không muốn.

Tuy lúc này Hy Hòa đã không còn tri giác, không khác gì người chết, nhưng chỉ cần Hy Hòa còn nằm trong Bảo Hoa cung là giống như trong chốn thâm cung này vẫn còn một người quen cũ của nàng, vẫn còn một chiến hữu chứng kiến nàng đã tay đẫm máu tanh như thế nào mới đi đến bước đường này.

Bảo nàng làm sao có thể trơ mắt nhìn một người quan trọng như thế biến mất?

Đặc biệt là sau khi nàng đã để mất Cơ Anh.

Vì thế, Khương Trầm Ngư do dự tới lui, nhưng vẫn lắc đầu: “Không… không được. Huynh phải cứu nàng ấy! Vãn Y, huynh nhất định phải cứu nàng ấy!”.

Giang Vãn Y quỳ vái dưới đất, trầm giọng nói: “Nương nương, nếu nương nương thật lòng nghĩ tốt cho phu nhân, thì hãy để nàng ấy ra đi”.

“Không được! Không được!”.

Khương Trầm Ngư cố chấp từ bên cạnh chiếc bàn ở gian ngoài nhảy lên, xông đến trước mặt Giang Vãn Y, tóm chặt cổ áo hắn nói:

“Sư huynh, sư huynh, muội cầu xin huynh, đừng buông tay, đừng để Hy Hòa chết có được không? Sư huynh…”.

Nàng lúc này vẫn là hoàng hậu tôn quý, lại dùng hai tiếng “sư huynh” để gọi một thảo dân tầm thường, rõ ràng là muốn dùng tình xưa nghĩa cũ để làm Giang Vãn Y động lòng, nhưng Giang Vãn Y nghe xong, ánh mắt lại càng đậm nét bi ai hơn:

“Sớm biết có ngày hôm nay… hà tất phải có buổi ban đầu?”.

Sắc mặt Khương Trầm Ngư hơi trắng bệch. Không sai, ban đầu khi hắn rời đế đô, đã từng khuyên nàng dừng tay, nhưng khi ấy nàng bị hận thù che mắt, cố chấp phải báo thù cho Cơ Anh, đến nay biến thành như thế này, xem ra nàng cũng khó tránh được tội, nàng vốn không nên làm khó hắn, nhưng cứ nghĩ đến người đang nằm trên giường, đang rữa nát từng chút từng chút một không phải ai khác, mà chính là Hy Hòa!

Là Hy Hòa đệ nhất mỹ nhân của bốn nước!

Là Hy Hòa mà công tử yêu nhất khi còn sống!

Là Hy Hòa tự mình gánh tất cả tội nghiệt để lại cho nàng một tiền đồ như gấm thêu!

Nàng không có cách nào chấp nhận sự thật này. Làm sao có thể chấp nhận nổi.

“Sư huynh! Sư huynh…”.

Nàng vừa khóc vừa kéo tay áo của Giang Vãn Y giống như năm đó, sau khi biết bệnh tình của Cơ Anh. Hai cảnh tượng lồng vào nhau trong trí óc của Giang Vãn Y nhìn nữ tử tuy không phải sư muội thật sự của hắn, nhưng đã cùng hắn trải qua rất nhiều việc, hắn hít một hơi rất sâu.

Khương Trầm Ngư ngỡ là hắn đã bị mình thuyết phục, ngước gương mặt đầy mong chờ lên nhìn hắn.

Nhưng Giang Vãn Y lại chầm chậm rút tay áo ra khỏi tay nàng, giọng điệu ôn hòa, nhưng lại kiên quyết chậm rãi nói:

“Nương nương, Hy Hòa phu nhân đã ra thế này, sao nương nương không từ bỏ một chút lòng riêng đó của mình, thực sự nghĩ cho nàng ấy một chút?”.

Khương Trầm Ngư choáng váng nặng nề: “Cái, cái, cái gì?”.

Giang Vãn Y quay người, kéo tấm rèm ra:

“Nàng ấy đang thối rữa, nương nương xem đi! Mức độ thối rữa mỗi ngày mỗi nghiêm trọng, dịch mủ chảy ra từ người nàng ấy đã ngấm vào giường chiếu chăn đệm, thậm chí có cả giòi bọ lúc nhúc bò trên người nàng ấy… Nàng nhìn đi, nương nương! Nếu như nàng thực sự thích nàng ấy, sao nỡ để thân thể nàng ấy chịu đựng sự giày vò đến nhường này? Chỉ bởi vì nàng ấy không có tri giác không thể cử động, cho nên nàng cảm thấy nàng ấy không biết đau đớn, không thể đau đớn hơn nàng sao?”.

Mùi hôi thối tỏa ra từ người Hy Hòa và mùi thuốc nồng nặc trong phòng quyện lại với nhau, nhìn Hy Hòa gần như không còn hình người nằm trên giường, Khương Trầm Ngư không thể chịu đựng thêm, nhảy dựng lên:

“Ý của ngươi là ta cố ý hại nàng ấy phải không...? Cố ý để nàng ấy thối rữa, cố ý hủy hoại dung nhan xinh đẹp của nàng ấy phải không? Giang Vãn Y ngươi to gan, ngươi dám nói như thế với bản cung! Ngươi ngông cuồng quá đấy!”.

Giang Vãn Y nhìn thẳng vào mặt nàng, nói câu sau cùng: “Thế thì xin thứ cho thảo dân bất tài, thảo dân cáo lui”. Nói rồi, quay người chầm chậm bỏ đi.

Hành động này thực sự vô cùng lạnh lùng, đặc biệt là đối với Khương Trầm Ngư lúc này, nàng há miệng đứng như trời trồng bên giường, mãi không phản ứng lại được.

Giang Vãn Y không đóng cửa, gió thổi vào ù ù, Khương Trầm Ngư bỗng nhiên quay người, bên đầu giường có đặt chậu nước và khăn bông, nàng lấy khăn bông thấm nước, rồi vắt khô, sau đó lau những vết mủ trên mặt Hy Hòa, cắn răng nói: “Hy Hòa, bọn họ đều bỏ rơi nàng, nhưng không sao cả, ta tuyệt đối tuyệt đối sẽ không bỏ rơi phu nhân, họ chê phu nhân bẩn chê phu nhân hôi, không sao, ta sẽ tắm cho phu nhân, ngày nào ta cũng tắm cho phu nhân, phu nhân sẽ khỏe lên, phu nhân nhất định, nhất định sẽ khỏe lên… Phu nhân xem này, mạch của phu nhân vẫn đang đập, mũi phu nhân vẫn đang hít thở, rõ ràng phu nhân vẫn còn sống, làm sao có thể để phu nhân chết được..? Đó là mưu sát...! Mưu sát..!”.

Nàng ra sức lau, nhưng càng lau mủ lại càng chảy ra nhiều, không sao lau hết được, cuối cùng khiến cả gương mặt đều nhoe nhoét, Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn khuôn mặt mà ngũ quan đã bị biến dạng đó, lại nhìn nước mủ tím đen trên tay mình, “Hy Hòa đã không thể cứu được rồi”, sự thực này bây giờ mới chậm chạp truyền đến đại não Khương Trầm Ngư, chiếc khăn bông rơi xuống đất, nàng bưng mặt mình bằng đôi tay đầy mủ, sau đó quỳ xuống, khóc thất thanh.

Tại sao một lần, hai lần, nhiều lần như thế, luôn là thế này?

Càng muốn giữ lại thứ gì, càng không thể giữ được. Chỉ có thể trơ mắt nhìn thứ đó biến mất. Hoàn toàn vô phương cứu chữa. Cả cuộc đời này của mình, rốt cuộc còn có thể có được những gì? Giữ được những gì? Bản thân chẳng giữ được thứ gì, chẳng giải quyết được gì, thì cho dù có được cả thiên hạ, cũng để làm gì đâu?

Hy Hòa, Hy Hòa, nàng có biết hay không, nàng nằm ở đây, chết đi. Giống như một lần nữa ta nhìn thấy công tử chết trước mắt ta!

Trong tiếng khóc của Khương Trầm Ngư, một bóng người từ từ tiến sát lại. Thoạt đầu nàng còn tưởng là Giang Vãn Y quay lại, sau ngẩng lên nhìn thì ra là Tiết Thái.

Trong khoảnh khắc này, Khương Trầm Ngư quên mất mình là hoàng hậu Bích quốc, quên mất tuổi tác mình lớn hơn thiếu niên trước mặt này, nàng cứ thế quỳ trên mặt đất, ngửa đầu lên, nhìn hắn bằng ánh mắt vô cùng tuyệt vọng và gương mặt giàn giụa nước mắt.

Tiết Thái vẫn im lặng, đứng nhìn nàng một lúc, trên gương mặt nhỏ nhắn trắng trẻo của hắn không bộc lộ bất cứ biểu cảm nào, sau đó, hắn đến bên giường, nhìn gương mặt bị “lau chùi” đến mức thảm hại không nỡ nhìn của Hy Hòa, trong mắt lóe lên một tia tình cảm phức tạp.

Khương Trầm Ngư còn đang lau nước mắt.

Tiết Thái quay lại nhìn nàng một cái, nhanh như chớp kéo một tấm chăn mỏng trên giường, phủ kín đầu Khương Trầm Ngư.

“Đừng nhìn”. Hắn nói.

Tấm chăn mỏng chụp xuống đầu nàng, rồi lại từ từ trượt xuống, bóng tối vụt qua, cảnh tượng trong căn phòng dần dần hiện ra trong tầm nhìn: Tấm rèm bị gió thổi không ngừng đung đưa, chiếc chăn màu tím hoa lệ mềm mại, Hy Hòa nằm trên giường giống như đang ngủ… Trái tim Khương Trầm Ngư thắt lại, chợt hiểu ra hành động vừa nãy của Tiết Thái là gì, nàng nhào tới phía trước tóm lấy cổ tay Hy Hòa, hồi lâu sau, cứng đờ ngẩng đầu lên, nhìn thấy bóng mình trong mắt Tiết Thái.

Ngày mùng bảy tháng năm năm Đồ Bích thứ năm, Hy Hòa phu nhân qua đời.

Tiết Thái đã quyết định thay cho Khương Trầm Ngư do dự thiếu quyết đoán.

Khoảnh khắc chiếc chăn che lấp tầm nhìn của nàng đó, hắn đã ấn vào tử huyệt của Hy Hòa, đặt dấu chấm hết cho kiếp người đau khổ thê thảm của một mỹ nhân vì quá đẹp mà vốn không nên có mặt trên nhân thế này.

Sau khi Hy Hòa chết, Khương Trầm Ngư từ lâu không động bút đã tự tay vẽ một bức tranh cho nàng ta.

Hy Hòa trong tranh mỉm cười đứng giữa hoa hạnh bạt ngàn trời đất.

Khi nàng vẽ bức tranh ấy, Tiết Thái im lặng đứng sau lưng nàng quan sát, lúc sau giống như nhớ ra điều gì mới nói: “Giang Vãn Y vừa rời đi nửa canh giờ trước rồi”.

Khương Trầm Ngư “ừ” một tiếng.

“Lần này ngươi không đi tiễn hắn sao?”.

Khương Trầm Ngư cười thê lương. Sau khi xảy ra cuộc tranh cãi như thế, nàng còn mặt mũi nào mà đi gặp hắn?

“Tiểu Thái…”. Nàng dừng bút, giọng nói mơ màng: “Có phải ta thay đổi rồi không?”.

“Hử?”.

“Ta cảm thấy… từ sau khi ta trở thành hoàng hậu, không, từ sau khi ta quyết tâm báo thù cho công tử, ta đã dần dần thay đổi. Quen với việc ra lệnh cho người khác, quen với việc hất hàm sai khiến người khác, quen với việc không chịu nghe lời khuyên của người khác… Trước đây ta tuyệt đối không nói với sư huynh như thế, trên thế giới này những người ta kính trọng có thể đếm được trên đầu ngón tay, mà sư huynh là một trong số đó. Thế nhưng… hôm đó ta đã cưỡng cầu, đã làm khó huynh ấy như ma xui quỷ khiến, huynh ấy không làm ta còn nổi giận… Giờ nhớ lại, ta cảm thấy thật là đáng sợ”.

Khương Trầm Ngư run rẩy quay người lại, nhìn Tiết Thái: “Ta cảm thấy mình thật đáng sợ, ta, ta sao có thể biến thành thế này? Rõ ràng, rõ ràng Hy Hòa đã bắt đầu rữa nát, ta còn cố chấp không chịu để nàng ấy chết. Sư huynh nói đúng, ta… ta quá ích kỷ… Giây phút ấy, ta chỉ nghĩ nếu không có nàng ấy ta sẽ đau khổ biết bao, nhưng không nghĩ rằng, sống mới là sự giày vò lớn nhất đối với Hy Hòa…”.

Tiết Thái không nói gì chỉ lặng lẽ nhìn nàng, trong đôi đồng tử đen láy đó, trước sau chỉ mang một sắc thái lạnh lừng khó hiểu, vì thế trông như hoàn toàn không động lòng trước sự hoang mang đau khổ của nàng.

Nhưng có lẽ, phản ứng lạnh nhạt vừa khéo như thế mới là thứ Khương Trầm Ngư cần, bởi vì, nàng thực sự chỉ muốn dốc bầu tâm sự, chứ không mong được an ủi.

“Ta cảm thấy ta đang thay đổi, thay đổi nhanh đến mức không nhận ra nổi chính mình. Cả đời ta chưa bao giờ hại bất cứ ai, nhưng lại từng bước biến Chiêu Doãn thành một kẻ dở sống dở chết, còn cướp thiên hạ của hắn… Tại sao lại như thế này? Có phải là quyền lực làm con người ta sa đọa không? Ta sợ lắm, sợ một ngày nào đó khi soi gương, phát hiện người trong gương đã hoàn toàn thay đổi… Đây có phải là trưởng thành không? Thế thì, rốt cuộc ta đã trưởng thành đến mức nào rồi? Tiết Thái, ta…”.

Tiết Thái ngắt lời nàng: “Ngươi chỉ là đang làm nũng”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người: “Làm nũng?”.

“Con đường này ban đầu là ngươi tự chọn lấy, nhưng bây giờ ngươi lại bắt đầu sợ hãi khổ sở, ngươi muốn lười biếng trốn tránh, hy vọng có ai đó đến giúp đỡ ngươi, giải quyết triệt để hết thảy những việc mà ngươi chán ghét, lát bằng con đường ngươi đi, để ngươi có thể đi trong rực rỡ vinh quang, lại có thể hai tay không dính máu tanh…”.

Giọng nói non nớt còn chưa vỡ giọng của Tiết Thái, trong không khí như thế này, nghe lanh lảnh đến mức có chút đáng sợ:

“Giống như Hy Hòa giúp ngươi giải quyết Chiêu Doãn, giống như ta giúp ngươi giải quyết Hy Hòa… Như thế, lương tâm của ngươi sẽ thanh thản hơn một chút, có thể lấy cái cớ " chí ít không phải ta đích thân hạ thủ " để làm tê liệt bản thân an ủi bản thân, cảm thấy mình vẫn là một thiếu nữ khuê các không rành sự đời lúc ban đầu, không bị gió mưa ăn mòn, không bị thế giới bên ngoài vấy bẩn, có thể tiếp tục nhìn thế sự bằng tâm thế hồn nhiên, khoan dung…”.

Khương Trầm Ngư hoàn toàn sững sờ, không nói nổi đến nửa chữ.

“Ngươi không muốn trở nên lạnh lùng tàn khốc giống như Chiêu Doãn và vô số đế vương khác, nhưng nếu như không lạnh lùng tàn khốc thì không thể làm chuyện lớn, đây chính là điểm vướng mắc nhất hiện nay của ngươi. Nhưng đừng quên, sự tiêu vong của Chiêu Doãn bắt nguồn từ sự lạnh lùng tàn khốc của hắn, những đế vương độc ác khác cũng đâu cười được đến phút cuối. Cho nên, điều then chốt nhất không nằm ở việc muốn giành thắng lợi thì nhất định phải trở nên xấu xa, mà là cho dù xấu hay tốt, cuối cùng đều phải thắng”.

Tiết Thái nói đến đây, ánh mắt lạnh nhạt có chút thay đổi, để che giấu sự thay đổi đó, hắn quay lưng lại với nàng, nói nửa câu cuối bằng giọng điệu bình thản đều đều:

“Khương Trầm Ngư, ngươi có thể cười đến phút chót hay không? Hãy để thời gian chứng minh đi”.

Nếu cách an ủi của Hách Dịch khiến người ta ấm áp như ánh mặt trời tháng tư, có thể gạt mọi phiền não sang một bên, không nghĩ tới nữa; thì cách an ủi của Tiết Thái lại là lưỡi dao lạnh và sắc bén, chớp nhoáng cắt bỏ chỗ thịt thối khiến vết thương mau chóng lên da non.

Khương Trầm Ngư không biết hai cách thức này nàng thích cách nào hơn, nhưng trong giây phút này, từ tận đáy lòng nàng cảm thấy – thật tốt.

Khi cả thế giới vỡ vụn trước mắt rồi lại ghép lại thành một diện mạo hoàn toàn xa lạ, khi những người nàng quan tâm và coi trọng trong cuộc đời lần lượt rời xa nàng, ít nhất vận mệnh cũng để lại cho nàng hai con người này.

Đa tạ… thế này thực sự… là quá tốt rồi.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, bình ổn tâm tư rối bời, đang định nói cảm ơn với Tiết Thái, thì bỗng cánh cửa thư phòng bị đẩy ra, mà không, bị người khác xô bật ra mới đúng.

Cung nhân đó loạng choạng xông vào, hoảng loạn mà vui mừng như điên, hò hét lảm nhảm.

Khương Trầm Ngư bỏ qua sự vô lễ của cô ta, vì cô ta hét rằng: “Nương nương! Nương nương! Quý nhân sắp sinh rồi! Sắp sinh rồi!”.

Không đợi cô ta hét xong, Khương Trầm Ngư đã xông ra ngoài như một cơn gió.

Tiết Thái cau mày, đành chạy theo ra ngoài, nhìn Khương Trầm Ngư ở phía xa chạy nhanh như bay, đến tóc mai lòa xòa cũng để mặc, hoặc là nàng căn bản chẳng chú ý tới, cứ thế không giữ hình tượng xông thẳng vào Gia Ninh cung.

Tiết Thái dừng bước, vịn lan can thở hổn hển, biểu tình trên mặt càng nghiêm nghị, giống như dự cảm được một điều gì đó chẳng lành, lại giống như nhìn thấy một việc gì đó không muốn xảy ra, nhưng cuối cũng vẫn xảy ra…

Nhưng, Khương Trầm Ngư đương nhiên không lưu ý đến biểu cảm của hắn, cái tin “tỉ tỉ sắp lâm bồn” làm nàng vui mừng khôn xiết. Vì thế, khi nàng chạy tới Gia Ninh cung, cảnh tượng nhìn thấy lại là bọn cung nữ thái giám mặt đầy lo âu, thái y mặt chau mày khổ, nhất thời ngẩn ra, sau đó, nhìn sang Giang Hoài một cách đầy cảnh giác: “Sao vậy?”.

Giang Hoài quỳ xuống: “Hồi bẩm nương nương, quý nhân khó sinh, e là… tính mạng nguy kịch”.

Câu này, giống như một chậu nước lạnh dội ào ào từ trên trời xuống, khiến nàng ướt như chuột lột từ đầu đến chân, lạnh cóng. Khương Trầm Ngư chớp mắt, nén giọng hỏi: “Ông nói gì? Nói lại xem nào?”.

“Quý nhân ngôi thai không thuận, lại dùng sức quá sớm dẫn đến kinh sợ, hơi thở yếu, cho nên…”.

Câu tiếp theo Khương Trầm Ngư không còn nghe lọt vào tai nữa, nàng bước lên phía trước mấy bước, cách tấm bình phong và màn trướng, nhìn thấy bóng người trên đó, Khương Họa Nguyệt đang rên rỉ yếu ớt, bà đỡ lo lắng thúc giục và đám cung nữ ra ra vào vào… Tất cả giao hòa với nhau một cách hỗn loạn, khiến tầm nhìn của nàng đột nhiên nhòa đi.

Khương Trầm Ngư lắc đầu mấy cái, đưa tay dụi mắt.

Giang Hoài nhận ra sự khác lạ của nàng, vội vàng chạy lên đỡ nàng, kinh sợ nói lớn: “Nương nương, nương nương không sao chứ? Nương nương vẫn nên về cung nghỉ ngơi một chút đi… Bệnh mắt của nương nương lại phát tác phải không? Người đâu, mau đi lấy thuốc”.

Trước đó mắt nàng thỉnh thoảng bị mờ, Giang Hoài đã điều chế ra một loại thuốc nước, bây giờ đem ra dùng, vội vàng lấy ra nhỏ mắt cho nàng. Sau khi nhỏ thuốc xong, Khương Trầm Ngư nhắm mắt ngồi tựa trên ghế nghỉ ngơi một lát, khi mở mắt, mọi vật rõ hơn một chút.

Giang Hoài bấy giờ mới yên tâm: “Nương nương không sao là tốt rồi, đừng đến mức đến nương nương cũng xảy ra chuyện…”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt tay ông ta: “Thái y, ông nhất định phải cứu tỉ tỉ của ta”.

“Nương nương yên tâm, lão thần đương nhiên sẽ dốc toàn lực… Có điều, bây giờ tình hình nguy kịch, thai nhi vẫn kẹt bên trong chưa ra, cứ kéo dài, sợ là… nếu chỉ có thể giữ được mạng một trong hai người, nương nương hãy chọn…”.

“Giữ mẹ!”.

“Giữ hoàng tử!”

Hai giọng nói đồng thời vang lên.

Khương Trầm Ngư đang hét lên câu “Giữ mẹ”, mới nghe thấy còn có một giọng nói, liền quay đầu lại thì nhìn thấy Khương Trọng vội vã chạy tới.

Khương Trọng đi vào trong điện, đến áo choàng cũng không kịp cởi, đã dặn dò Giang Hoài một lượt:

“Giữ hoàng tử! Giang thái y, cho dù ông phải dùng cách gì, đứa trẻ nhất định phải được sinh ra bình an!”.

“Phụ thân!”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc thét lên:

“Cha đang nói gì thế? Lẽ nào đứa trẻ quan trọng hơn Họa Nguyệt sao?”.

“Đương nhiên quan trọng hơn Họa Nguyệt..!”.

Biểu cảm của Khương Trọng cực kỳ nghiêm túc, quay đầu lại nhìn nàng chằm chằm, nói gằn từng tiếng:

“Đứa trẻ là thai phượng giống rồng, là huyết mạch duy nhất của đương kim thánh thượng, là người thừa kế giang sơn Bích quốc tương lai, nó quan trọng hơn Họa Nguyệt rất nhiều!”.

Khương Trầm Ngư từ lâu đã biết phụ thân máu lạnh, nhưng trong lúc này mà ông còn đến chen chân vào, thực sự khiến người ta ớn lạnh tâm can đến tột độ, nhưng sự việc nguy cấp, nàng không còn lòng dạ nào mà tranh chấp với ông, bèn quay đầu sang hạ lệnh cho Giang Hoài:

“Ai gia là hoàng hậu, nghe ý chỉ của ai gia – giữ mẹ!”.

“Ta là quốc trượng, nghe mệnh lệnh của ta – giữ hoàng tử!”.

“Giữ mẹ..!”

“Giữ hoàng tử..!”.

“Phụ thân!”.

Khương Trầm Ngư cuối cùng không nhịn được, thét lên:

“Cho dù cha không coi Họa Nguyệt là con gái của mình, nhưng tỉ ấy vĩnh viễn là tỉ tỉ thân thiết nhất của con!”.

“Ta là nghĩ cho con đấy! Trầm Ngư!”. Khương Trọng tóm chặt tay nàng, nói nhanh:

“Thời gian con vào cung ngắn ngủi, tuổi lại còn nhỏ như thế mà đã làm hoàng hậu, đây vốn là phúc của con, nhưng bây giờ hoàng thượng bệnh thành ra thế này mà con lại không có con cái để nương tựa, hiện tại tuy có lâm triều nghe chính sự, nhưng còn sau này thì sao? Ngộ nhỡ hoàng thượng có gì bất trắc, con phải làm thế nào? Trầm Ngư! Đứa trẻ này không chỉ quan trọng đối với Bích quốc, mà đối với con, nó cũng rất quan trọng!”.

Trái tim Khương Trầm Ngư nhói lên từng chặp, kỳ thực những điều phụ thân nói sao nàng lại không biết, tuy bây giờ nàng có thể dựa vào việc Chiêu Doãn thành kẻ dở sống dở chết mà muốn gì làm nấy, nhưng vẫn không phải là kế lâu dài. Hy Hòa đã chết, đủ chứng minh loại thuốc độc đó có thể giết người, một khi Chiêu Doãn chết đi, địa vị hoàng hậu của nàng cũng không thể giữ được, cho nên, nếu có một đứa trẻ bên cạnh, tất cả đều có thể giải quyết ổn thỏa. Thế nhưng… nhưng…

“Nhưng phụ thân… tương lai của con, có thể xảy ra vô số khả năng, vô số cơ hội, còn vô số cách để bù đắp và bổ cứu, còn Họa Nguyệt… chỉ có một thôi…”.

Đây chính là nguyên nhân vì sao nàng lại kiên trì muốn giữ tính mạng người mẹ.

Đừng nói Chiêu Doãn giờ vẫn chưa chết, cho dù nếu một ngày y đột ngột chết đi, việc là ở người, nàng không tin dựa vào năng lực và thế lực của nàng, mà không thể khống chế nổi thời cuộc, sẽ phải đi đến đường cùng.

Nhưng nếu Họa Nguyệt chết bây giờ, tức là sẽ hoàn toàn biến mất.

Nàng đã trơ mắt nhìn biết bao người ra đi như thế, những người đó là không được lựa chọn, nhưng người này có thể lựa chọn, nàng nhất định phải tranh giành một phen!

“Giữ mẹ!”. Nàng rốt cuộc đã ra mệnh lệnh cuối cùng với Giang Hoài.

Giang Hoài nhìn Khương Trọng mặt như đổ chàm nhưng không nói gì thêm, quay người, đi vào phòng sinh.

Thời gian tiếp theo biến thành một cuộc hành hình cực kỳ tàn khốc.

Tiếng rên rỉ đau đớn của Họa Nguyệt vang lên ngắt quãng, yếu ớt đến độ như thể phút sau không thể phát ra nữa, mà đám cung nữ ra ra vào vào càng lúc càng nhiều càng gấp, cảnh tượng hỗn loạn kinh khủng, khiến trái tim người ta càng rối bời hơn.

Cứ như thế, qua hai canh giờ, tiếng khóc oa oa của trẻ sơ sinh tuyên bố tất cả đã kết thúc.

Giang Hoài đầu ướt đẫm mồ hôi, áo quần ướt đẫm bước ra, run giọng nói: “May mà không nhục mệnh…”.

Khương Trầm Ngư và Khương Trọng đồng thanh hỏi:

”Giữ mẹ hay giữ con...?”.

“Hồi bẩm nương nương, hồi bẩm quốc trượng gia, quý phi sinh hạ hoàng tử, mẹ con bình an”.

Khương Trầm Ngư đột nhiên cảm thấy toàn thân bủn rủn, hai chân mềm nhũn, ngã vật ra ghế.

Những giọt nước mắt long lanh, vui mừng lăn xuống, hóa ra lần này, ông trời không tàn nhẫn với nàng.

Quá ổn rồi… Tỉ tỉ… quá ổn rồi.

Nửa canh giờ sau, các cung nữ dọn dẹp phòng sinh xong, dẫn Khương Trầm Ngư vào bên trong. Khi nhìn thấy Khương Họa Nguyệt sắc mặt trắng bệch như giấy nhưng rõ ràng vẫn còn “sống”, Khương Trầm Ngư cười tự đáy lòng, khẽ gọi một tiếng:

“Tỉ tỉ…”.

Còn chưa kịp nói lời chúc mừng đã thấy Khương Họa Nguyệt run run giơ tay về phía nàng, nàng vội vàng tiến đến nắm lấy, ngồi xuống bên đầu giường.

Rõ ràng vô cùng yếu ớt, rõ ràng đến nói cũng rất vất vả, nhưng không biết lấy sức lực từ đâu, Khương Họa Nguyệt bỗng ôm lấy nàng, ôm thật chặt.

Khương Trầm Ngư ngẩn người: “Tỉ tỉ?”.

“Trầm Ngư…”. Khương Họa Nguyệt nói bằng một giọng rất khẽ rất khẽ. “Cảm ơn”.

“Tỉ tỉ…”.

“Cảm ơn! Trầm Ngư! Cảm ơn! Cảm ơn! Cảm ơn…”.

Khương Họa Nguyệt nói liền mấy tiếng cảm ơn, thanh âm lần sau lớn hơn lần trước, đến cuối cùng, cơ hồ như đang hét:

“Ta… nghe thấy rồi… cảm ơn…”.

Tỉ tỉ… nghe thấy rồi.

Tuy không biết vì sao trong lúc nguy cấp như thế Khương Họa Nguyệt vẫn có thể nghe thấy nàng và phụ thân tranh cãi, nhưng không nghi ngờ gì nữa, cuộc tranh chấp này khiến Họa Nguyệt rốt cuộc đã trở lại là tỉ tỉ mà nàng quen thuộc. Tỉ tỉ thích nàng, yêu thương nàng, lúc nào cũng nghĩ cho nàng.

Hết thảy đều có thể trở lại điểm xuất phát.

Trở lại trạng thái nàng mong chờ nhất.

Khi Khương Trầm Ngư ra khỏi Gia Ninh cung đã là giờ Hợi, trời đã tối.

Trăng mờ sao thưa gió mát, có lẽ vì lòng người vui vẻ, phong cảnh trong hoàng cung nhìn cũng đẹp đẽ vô cùng. Nàng hít một hơi, xoa chiếc cổ tay hơi đau, vừa định quay về tẩm cung thì đã gặp Tiết Thái ở bên ngoài Gia Ninh cung.

Tiết Thái đứng dưới một cây bách bên đường, giống như đã chờ nàng từ lâu.

“Sao ngươi lại ở đây?”. Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên: “Không về nhà à?”. Đã muộn thế này rồi.

Tiết Thái vẫn nhìn nàng chăm chăm, mặt không biếu cảm như cũ. Người bình thường khi nhìn vào mắt người khác thường là chuẩn bị lên tiếng nói chuyện. Còn hắn ngược lại khi nhìn vào mắt người khác, là để khiến đối phương chủ động lên tiếng.

Nhưng Khương Trầm Ngư đã quá quen với điều này, hắn không trả lời, nàng tự chọn chủ đề: “Đúng rồi, tỉ tỉ của ta đã sinh hạ được một nam…”.

“Ta biết rồi”. Tiết Thái ngắt lời nàng.

Cũng đúng, hắn đứng chờ bên ngoài lâu như thế, cũng biết tin từ lâu rồi. “Ta nghĩ một cái tên cho đứa trẻ, gọi là Tân Dã, ngụ ý là " Cách cố đỉnh tân... ốc dã thiên lý "(Nghĩa là bỏ cũ lập mới....đồng rộng màu mỡ nghìn dặm), ngươi cảm thấy thế nào? Là thái tử của Bích quốc, hy vọng sau này nó có thể lãnh đạo Bích quốc ngày càng phồn vinh thịnh vượng…”.

Tiết Thái nhíu mày: “Thái tử?”.

“Đương nhiên. Ta đã sai người đi chọn ngày lành…”.

Đối lập với vẻ hứng chí của Khương Trầm Ngư, Tiết Thái lại càng thâm trầm thấy rõ, hắn há miệng, giống như muốn nói gì đó, nhưng nhìn thấy Khương Trầm Ngư nói rất hăng hái, cuối cùng lại lựa chọn im lặng.

“… Tóm lại, nhất định phải làm thật hoành tráng, thật náo nhiệt!”.

Khương Trầm Ngư miêu tả xong cảnh tượng trong đầu, nhìn thấy Tiết Thái vẫn giữ dáng vẻ sự việc chẳng liên quan đến mình, cảm thấy hơi mất hứng, đành đổi sang chủ đề khác:

“Tại sao ngươi không về nhà?”.

Tiết Thái lạnh nhạt đáp: “Không muốn về”.

Khương Trầm Ngư nhận ra mình đã hỏi câu không nên hỏi, lập tức nín thinh.

Trước khi Cơ Anh chết, ngoài việc trao thế lực của mình cho Tiết Thái, cũng đem cả phủ đệ của mình cho Tiết Thái.

Tiết Thái hiện sống trong phủ Kỳ Úc hầu. Nhìn vật nhớ người, một Cơ phủ không có Cơ Anh, đối với hắn mà nói chẳng phải chỉ là chỗ để ăn cơm ngủ nghỉ thôi sao?

“Tiết Thái, sẽ có một ngày ngươi có được thứ ngươi muốn”. Khương Trầm Ngư nhìn hắn chằm chằm, chân thành nói: “Tin ta đi”.

Tiết Thái không đáp lại câu này của nàng.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng treo trên bầu trời đêm, chậm rãi nói: “Mấy canh giờ trước, ta còn than phiền với ngươi, than phiền vận mệnh hà khắc với ta, ta rất tủi thân, cảm thấy không công bằng. Nhưng ngươi nói rất đúng, sở dĩ ta ấm ức, bất bình, là vì ta tham lam. Ta muốn có một số thứ, nhưng ta không chịu trả cái giá tương ứng. Cho nên ta làm nũng, ta muốn trốn tránh, ta luôn làm liên lụy đến người xung quanh. Nếu như ban đầu không phải vì cứu ta, Sư Tẩu sẽ không tàn phế; nếu như ta chịu dứt khoát một chút, Hy Hòa sẽ không cần dùng bản thân làm đồ bồi táng để đạt được mục đích; nếu như ta có thể chịu đựng đau khổ, thì nên đưa Hy Hòa đi sớm hơn… Tất cả của tất cả, đều là vì ta không làm tốt, ta không chịu trả giá bằng chính mình. Nhưng ban nãy, khi tỉ tỉ khó sinh, khoảnh khắc Giang thái y hỏi ta cần đứa trẻ hay cần tỉ tỉ, ta đã ngộ ra…”.

Ánh mắt nàng trong phút chốc sáng bừng lên, quay đầu sang nhìn Tiết Thái, mắt sáng long lanh.

“Tiểu Thái! Ta đã ngộ ra rồi! Phụ thân nói với ta, đối với ta Tân Dã cực kỳ cực kỳ quan trọng, có thể khiến con đường của ta sau này trở nên bằng phẳng, nhưng, tại sao ta nhất định phải đi con đường bằng phẳng? Nếu như gặp vấn đề thì dũng cảm đối mặt, nghĩ cách để xử lý; nếu như sợ hoàng thượng băng hà, thì tìm kiếm giải pháp, không để hắn chết; nếu như sợ triều thần làm khó mình, thì làm cho họ không thể chỉ trích… Có ai là một đời xuôi chèo mát mái, không từng bước từng bước khổ sở, nỗ lực đi tiếp đây? Dù sao cũng không thể tồi tệ hơn bây giờ, cho nên, phải chờ đợi ngày mai tốt hơn. Ta hiểu ra rồi”.

Trên gương mặt buồn rầu của Tiết Thái, cuối cùng cũng hé lộ chút biểu cảm hiền hòa, hắn nhếch khóe môi, dường như muốn cười, nhưng ánh mắt vẫn thâm trầm như cũ.

Khương Trầm Ngư liền nở nụ cười trước hắn, khẽ nói:

“Cho nên, ngươi cũng không cần lo lắng Tân Dã ra đời sẽ tạo ra những ảnh hưởng không tốt với ta, nếu ngươi lo có thần tử sẽ lấy nó ra để uy hiếp địa vị của ta, thế thì tìm ra những triều thần đó, trừ bỏ họ; nếu ngươi lo lắng Tân Dã biết được sự thật về phụ vương rồi sẽ hận ta, thế thì, giáo dục nó từ nhỏ… Cho dù ngươi lo lắng điều gì, đối mặt với nó, thách thức nó, đập nát nó – sự việc là do con người làm ra”.

Cuối cùng Tiết Thái đã cười, ánh mắt lay động, môi đỏ răng trắng, mày kiếm mắt sao, ngũ quan đẹp không tả xiết.

Khương Trầm Ngư nhìn đến ngây ngẩn, khẽ than nói: “Nhóc con như ngươi, sau này lớn lên không biết sẽ làm bao nhiêu thiếu nữ đau lòng đây…”.

Nụ cười mới chớm nở của Tiết Thái trong nháy mắt đã sầm xuống, hắn trợn mắt nhìn nàng một cái: “Chẳng liên quan gì đến ngươi”.

“Là ta lo lắng thôi”.

“Ngươi lo lắng cho mình trước đi đã”.

“Ta có gì mà phải lo lắng. Ta lấy chồng rồi”.

“Cả đời làm quả phụ có gì đáng tự hào hả?”.

“Tuy đây là sự thực, nhưng ngươi nói toạc ra như thế, khiến ta bỗng cảm thấy cuộc đời mình rất bất hạnh…”.

“Ngươi vốn dĩ bất hạnh!”.

“Nhưng hôm nay ta rất may mắn, ông trời nghe thấy lời thỉnh cầu của ta, cứu tỉ tỉ của ta, cũng cứu cháu của ta…”.

“Ngươi phiền chết đi được!”.

“Bản cung không chấp trẻ con…”.

“Hứ…”.

“Hứ…”.

Ngày mùng mười tháng năm năm Đồ Bích thứ năm, Khương quý nhân sinh hạ hoàng tử, hoàng hậu vui mừng, đích thân ban tên Tân Dã, phong làm thái từ. Đại xá thiên hạ, cả nước chúc mừng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ hai mươi : Tân tướng

Trên thế gian này có một cụm từ, gọi là “Thiên đạo nhân sự”.

Thiên đạo nhân sự không thể trái lại, tức là phải thuận theo đại thế.

Nhìn lại quá khứ, chẳng qua cũng chỉ là một câu thành ngữ bình thường, hiểu nó rồi liền gác qua một bên. Có rất nhiều rất nhiều câu thành ngữ trên đời, nhưng trong đờỉ một con người có thể thực sự trải nghiệm, kỳ thực lại rất ít rất ít.

Nhưng khi Khương Trầm Ngư đọc được sớ từ quan đề tên “Khương Trọng” đó, thứ đầu tiên bật ra trong đầu là cụm từ – thiên đạo nhân sự.

Sau khi Họa Nguyệt thuận lợi sinh hạ Tân Dã, mẹ tròn con vuông, lại có một việc khó đã từng làm khó nàng từ lâu bỗng tự động được giải quyết, không còn tồn tại nữa.

Nhưng so với Họa Nguyệt, trên thực tế, Khương Trọng mới là vướng mắc của nàng. Bởi vì, đối với Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư chỉ có thương xót và trân trọng, cho dù Họa Nguyệt có đố kỵ nàng, oán hận nàng đến đâu, đó đều là tình cảm của một mình Họa Nguyệt, Khương Trọng lại không giống vậy. Đối với phụ thân sinh ra nàng nuôi nấng nàng dạy dỗ nàng, dốc vô số tâm huyết cũng gửi gắm rất nhiều hy vọng vào nàng, tình cảm của Khương Trầm Ngư cực kỳ phức tạp.

Một mặt, nàng chán ghét nhân cách của ông, chính là “đạo bất đồng bất tương vi mưu”, Khương Trầm Ngư nàng không thể mù quáng nghe theo, tức đã định họ không thể là người đi chung đường.

Nhưng mặt khác, cốt nhục chí thân, rốt cuộc không thể nói cắt đứt là cắt đứt, nói mỗi người một ngả là có thể mỗi người một ngả được.

Vì thế, xử lý cha của mình như thế nào đã trở thành việc khiến nàng đau đầu nhất. Tuy nàng cũng từng nói hết thảy đều làm theo phép công, nhưng sự thực khi bắt tay vào, lại vô cùng khó khăn, huống hồ có một số chuyện không phải xảy ra rồi thì có thể bỏ qua hoàn toàn, ví dụ như Đỗ Quyên.

Chuyện ở Hồi thành kết thúc, tuy Khương Trọng đã tìm được một cơ hội để triệu Vệ Ngọc Hành về đế đô và Đỗ Quyên cũng cùng hắn quay về, nhưng Khương Trọng vẫn không nhận đứa con gái này, thân phận của Đỗ Quyên vẫn không được thừa nhận. Khương Trầm Ngư vỗn dĩ còn phiền não vì chuyện này, nhưng khi nàng đến Vệ phủ thăm Đỗ Quyên, lại phát hiện đương sự là Đỗ Quyên trái lại nghĩ rất thoáng, lý do là “Chuyện đau khổ như thế, thêm một người biết là thêm một người chịu tội. Tỉ đã rất bất hạnh rồi, nhưng chí ít tỉ còn có thể giúp mẫu thân, người bị che mắt bịt tai, không hề có lỗi lầm gì trong chuyện này có thể tránh được sự đau khổ này. Cho nên, tỉ không thể nhận tổ quy tông được, tỉ cũng không muốn nhận tổ quy tông”.

“Thế sau này tỉ định thế nào? Lẽ nào cứ sống thế này?”.

Đôi mắt không có chút ánh sáng của Đỗ Quyên chiếu thẳng nàng, cuối cùng mỉm cười: “Tỉ sẽ không ngừng báo thù. Tỉ ở đây, không đi đâu cả, sau đó, tìm từng cơ hội có thể để lật đổ Khương Trọng. Cho dù không báo được thù, tỉ cũng phải căm ghét ông ta, để ông ta cắn rứt, để ông ta đau đầu, để ông ta lúc nào cũng nhớ – ông ta đã từng làm bao nhiêu chuyện bỉ ổi như thế”.

Đó chính là lựa chọn của Đỗ Quyên.

Khương Trầm Ngư cảm thấy kỳ thực Đỗ Quyên không nói thực lòng, nhưng hỏi thêm cũng không ra được nguyên cớ, nên đành từ bỏ.

Có lẽ, so với bản thân nàng, tình cảm Đỗ Quyên dành cho phụ thân còn phức tạp hơn nhiều.

Bây giờ, Khương Trầm Ngư ngồi dưới đèn, cầm quyển tấu sớ này, đọc rất lâu rất lâu, cuối cùng ngẩng đầu, hạ lệnh:

“Tuyên hữu tướng”.

La Hoành lập tức đi ra tuyên chỉ: “Hoàng hậu tuyên hữu tướng yết kiến”.

Lát sau, Khương Trọng chậm rãi đi vào thư phòng: “Lão thần tham kiến hoàng hậu, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.

“Thừa tướng có thể nói rõ lý do từ quan không?”. Khương Trầm Ngư đưa quyển tấu sớ lại cho ông.

Khương Trọng không đưa tay ra nhận, vẫn khom lưng nói: “Tất cả đều đã nói trong tấu sớ”.

“Thừa tướng đang tuổi tráng niên, lại là lúc cống hiến tốt nhất cho đất nước, sao có thể nói là chán ghét phân tranh, xin được quy ẩn chứ?”.

Khương Trọng ngẩng đầu chăm chú nhìn nàng, lúc sau, nhẹ nhàng mỉm cười: “Hoàng hậu đang hoài nghi lão thần? Hoàng hậu cảm thấy lão thần đang lùi để tiến? Hoặc là có mưu đồ khác?”.

Khương Trầm Ngư không nói gì, chỉ là ánh mắt trở nên sâu thẳm.

Khương Trọng ngưng cười, trên gương mặt hiện vẻ cô đơn, thở dài một tiếng: “Hoàng hậu, có thể cho người bên cạnh lui ra hết không?”.

Khương Trầm Ngư im lặng một lát, hạ lệnh: “Ta và hữu tướng có chuyện cần bàn, các ngươi lui hết cả đi”.

Cung nhân vâng dạ lui ra. Thư phòng rộng lớn, trong nháy mắt đã trở nên lạnh lẽo. Ánh sáng của cung đăng cũng không còn sáng rỡ như bình thường, nhìn chỉ cảm thấy âm u tối tăm.

Mà trong bóng tối trùng trùng ấy, tấm thân cao gầy của Khương Trọng nhìn hơi còng xuống, nhìn kỹ lại, tóc mai cũng đã bạc đi không ít.

Phụ thân già rồi…

Khương Trầm Ngư bỗng phát hiện ra, trong khoảng thời gian nàng đối xử lạnh nhạt với ông, phụ thân đã mau chóng già đi, mới chưa đầy một năm, mà dường như đã già đi mười tuổi.

“Trầm Ngư…”. Trong lúc nàng im lặng dò xét, Khương Trọng từ tốn nói: “Mẫu thân của con, bà ấy… sắp không ổn rồi”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư chấn động đến mức lập tức đứng bật dậy.

“Con đừng vội, ngồi xuống, từ từ nghe ta nói”.

Khương Trầm Ngư lại chầm chậm ngồi xuống, một cánh tay không kìm được ôm ngực, cảm thấy trái tim của mình, không chịu nghe lời, đập lên điên cuồng.

“Mẫu thân con vốn không khỏe mạnh. Từ năm ngoái, thường xuyên cảm thấy đau đầu, nhưng nghỉ ngơi một lúc là khỏi, vì thế không quá bận tâm. Nhưng tháng trước, bệnh đau đầu của bà ấy lại tái phát, rồi rơi vào trạng thái hôn mê, ta đã mời danh y ở kinh thành đến chữa trị cho bà ấy, họ đều nói bệnh đau đầu của bà ấy rất nghiêm trọng, cần phải uống thuốc gây mê, lại dùng dao sắc mổ đầu lấy máu đọng bên trong ra mới có thể chữa khỏi. Nhưng cách này cực kỳ mạo hiểm, nếu có chút sai sót là chết ngay tức khắc. Cho nên, mẫu thân con sao có thể chịu chữa trị”.

“Sự việc nghiêm trọng như thế, tại sao giờ cha mới nói”. Khương Trầm Ngư lại đứng bật dậy lần nữa.

Khương Trọng cười cười, trong nụ cười ấy chứa đựng sự chua xót, sự bối rối, sự ngậm ngùi, còn có cả bao dung:

“Con nắm quyền chưa lâu, căn cơ chưa ổn định, một ngày phải xử lý trăm việc, mẫu thân sợ con phân tâm, cho nên, không chịu cho ta nói với con”.

Lại là… lỗi của mình ư?

Khoảng thời gian này, nàng có quá nhiều việc, quá nhiều quyết sách, quá nhiều hành động… nhưng, nhiều việc như vậy, nhiều quyết sách như vậy, nhiều hành động như vậy đều không liên quan đến mẫu thân.

Hay nói cách khác, nàng chỉ để ý đến bản thân để ý đến tỉ tỉ để ý đến người trong lòng thậm chí để ý đến thiên hạ, nhưng lại bỏ sót mẫu thân của mình.

Trời ơi… trời ơi… trời ơi… cú sốc này quả thực không nhỏ, khiến cho toàn thân Khương Trầm Ngư run lên bần bật, buộc nàng phải bấu chặt vào thư án mới có thể chống đỡ cơ thể gắng gượng mà đứng được.

Mắt Khương Trọng loang loáng ánh lệ, ông thấp giọng nói:

“Trầm Ngư, cha con đích thực không phải là người tốt, cả đời mê đắm quyền thế, vì lợi ích của cả gia tộc mà hy sinh cả con gái dứt ruột đẻ ra, nhưng... ta thật sự… yêu mẫu thân của con. Quyền thế có thể nói quan trọng hơn tất cả mọi thứ của ta; nhưng mẫu thân của con… lại là sinh mệnh của ta. Con có thể hiểu không?”.

Khương Trầm Ngư ra sức lắc đầu nguầy nguậy. Đúng thế, cả đời của phụ thân làm sai rất nhiều rất nhiều việc, nhưng duy chỉ đối với mẫu thân là chung thủy nặng tình.

“Cho nên… chúng ta đều sai rồi, chẳng phải sao? Nếu sớm biết mẫu thân con gặp đại hạn, cùng lắm chỉ có thể sống thêm ba năm, trước đây ta huấn luyện tử sĩ, triệt hạ đối thủ, tranh đoạt lợi ích để làm gì? Tốn bao thời gian để làm những chuyện vô dụng đó, mà không ở nhà với bà ấy, còn nổi giận với con gái của mình, khiến mẫu thân con kẹt ở giữa khó xử, bạc thêm bao nhiêu tóc…”.

Nước mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc lăn trào, xấu hổ bưng mặt.

“Cho nên, ta quyết định từ bỏ tất cả, ba năm còn lại đều ở bên cạnh mẫu thân con. Bình sinh chuyện bà ấy tiếc nuối nhất chính là vì thân phận nên không được ra ngoài, không thể ngao du danh sơn trong thiên hạ, nếm hết mỹ thực của nhân gian. Ta quyết định trong ba năm này sẽ bù đắp hết những điều bà ấy nuối tiếc”.

Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Phụ thân… cha muốn đi xa?”.

“Ừ”.

“Cha… muốn đưa mẫu thân cùng đi? Đi liền ba năm?”.

Khương Trầm Ngư cuống lên: “Phụ thân đưa mẫu thân đi, thế con, con phải làm thế nào?”.

“Chúng ta thỉnh thoảng sẽ về thăm các con”.

“Nhưng…”.

Khương Trọng ngắt lời nàng: “Trầm Ngư, con… không còn là một đứa trẻ nữa”.

Khương Trầm Ngư chấn động.

Khương Trọng chăm chú nhìn nàng, giọng nói dịu dàng mà đau buồn:

“Trên người con mặc phượng bào của hoàng hậu... trên bàn con bày ngọc tỉ của Bích quốc… Con không còn là một đứa trẻ nữa”.

“Cho nên, con không có quyền ở bên cạnh mẫu thân phải không?”. Khương Trầm Ngư giàn giụa nước mắt hỏi.

“Trầm Ngư, hãy để mẫu thân con vui vẻ một chút đi. Bà ấy đã bên cạnh con mười lăm năm rồi, chẳng phải sao?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư chìm xuống. Cùng với đó là cảm giác bi thương sâu thăm thẳm ùa đến, là cảm giác chán ghét quen thuộc – chán ghét bản thân mình – Nàng… lại bắt đầu ích kỷ rồi. Vĩnh viễn chỉ nghĩ đến cảm giác của bản thân, cho nên, khi phụ thân nói muốn đưa mẫu thân đi du ngoạn, phản ứng đầu tiên chính là không được, như thế chẳng phải mình không được gặp mẫu thân sao, nhưng không hề đứng ở lập trường của mẫu thân mà suy nghĩ: Bà mong muốn có thể ngao du sơn thủy, mong muốn suốt cả một đời. Đến phụ thân, người chỉ chăm chăm đến quyền thế đến mức có thể hy sinh con gái của mình, không quan tâm đến hạnh phúc của cốt nhục, cũng bằng lòng từ bỏ quyền lực mà ông khổ tâm lăn lộn một đời mới có được vì mẫu thân, lẽ nào mình, kẻ được gọi là đứa con ngoan nhất, hiếu thuận nhất, chưa từng khiến mẫu thân phải nổi giận dù chỉ một lần, còn không bằng phụ thân sao?

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, nhìn phụ thân đứng cách nàng một trượng, không biết nói gì, chỉ cầm chiếc ấn ngọc tỉ trên thư án lên, chậm rãi, nặng nề, đóng lên trên tấu chương.

Bụi trần lắng đọng.

Vương ấn đỏ thắm.

Mùa thu năm Đồ Bích thứ sáu, hữu tướng cáo lão, từ quan về quê. Hoàng hậu khóc phê chuẩn.

Ngày hôm sau, tân tướng được lập, là Băng Ly công tử – Tiết Thái.

“Thư sinh gần đây rất không chịu an phận”.

Trong Bách Ngôn đường, người áo xanh lục phe phẩy quạt thong thả nói.

Sáu người còn lại vừa nghe thấy đều bật cười, cười rất kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư đang phê duyệt tấu chương nghe tiếng ngẩng đầu, không hiểu, hỏi: “Có chuyện gì?”.

Người áo xanh lục cuối cùng đã gây được sự chú ý của hoàng hậu, liền vội vàng gấp quạt lại hồi bẩm:

“Hoàng hậu nương nương có biết vì sao mấy ngày nay Tiết tướng đều không đến tham gia nghị sự với chúng ta không?”.

Y nói thế, Khương Trầm Ngư mới nhớ ra. Tiết Thái đã bảy ngày liền không đến thư phòng, mỗi ngày chỉ vội vàng đến buổi chầu sớm, sau đó biến mất tăm mất tích, mà hôm nay lại càng quá đáng, đến chầu sớm cũng không xuất hiện.

“Hắn đang bận gì à? Có liên quan gì với thư sinh không chịu an phận? “.

“Hồi bẩm nương nương, là như thế này”.

Người áo vàng sẫm đáp: “Tiết tướng tuy thành danh từ sớm, bốn bể đều hay, nhưng trước đây trong nhà xảy ra biến cố lớn, sau lại bị biếm thành nô lệ. Đến nay được khôi phục quan tịch, nhưng tuổi hãy còn quá nhỏ đã làm thừa tướng dưới một người trên vạn người, dân gian nghị luận xôn xao, có hai thư sinh là Ngô Thuần và Trần Long công khai phản đối, dựng sân khấu trên phố phê phán chính sự, kích động bách tính, càng làm càng loạn, đến nay ngày ngày đều có hơn trăm người tụ tập đến nghe”.

Đầu mày của Khương Trầm Ngư hơi nhíu lại; “Lại có chuyện này à? Tại sao không thông báo cho ta sớm?”.

“À, cái này…”. Giọng người áo vàng sẫm nhỏ dần đi: “Là Tiết tướng nói hoàng hậu bộn bề công việc, không được đem chuyện vặt này đến quấy nhiễu nương nương, tướng gia sẽ tự mình xử lý ổn thỏa…”.

“Thế hắn có xử lý ổn thỏa không

Lời vừa thốt ra, bảy người nhìn nhau, rồi lại cười kỳ quặc như trước.

Bọn họ phản ứng như vậy, chắc chắn là sự tình đã được giải quyết, nếu không thần tình sẽ không nhẹ nhõm sảng khoái như thế. Khương Trầm Ngư thấy vậy trong lòng đã hiểu, nhưng mặt lại sầm xuống: “Hắn nói thế nào thì làm thế ấy, rốt cuộc hắn là chủ tử của các ngươi, hay ta là chủ tử của các ngươi?”.

Thất tử vội vàng lũ lượt đứng dậy khỏi ghế quỳ xuống, đồng thanh nói: “Hoàng hậu xin thứ tội!”.

Khương Trầm Ngư cảnh cáo xong, thấy thế liền thôi: “Đứng dậy đi. Nói cho ai gia nghe, rốt cuộc là chuyện gì? Hoa Tử, ngươi nói đi”.

Đối tượng bị gọi tên vốn luôn ngồi trên ghế, ngủ gật gà gật gù, bị gọi đột ngột, cả người giật bắn, cực kỳ hoang mang đứng dậy: “A? Cái gì?”.

Khương Trầm Ngư không nhịn được, bật cười một tiếng.

Thấy nàng cười, bọn Thất tử cũng trút được tảng đá đè trong lòng, cùng cười ầm lên.

Di Phi thấy mọi người cười, càng không hiểu, nhìn mọi người với vẻ cực kỳ nhếch nhác lẫn vô tội, thử thăm dò hỏi một câu: “Đến giờ ăn cơm rồi à?”.

Cả sảnh đường cười vang.

Khương Trầm Ngư mỉm cười nói: “Được rồi, ngươi ngồi xuống đã. Tử Tử (người áo tím), ngươi giỏi ăn nói nhất, ngươi kể đi”.

“Vâng”. Người áo tím khom lưng hành lễ, cũng không rề rà:

“Sau khi Tiết tướng hay chuyện, liền cải trang trà trộn vào giữa đám người nghe bọn Ngô Thuần, Trần Long đó nói một buổi. Ngày hôm sau, khi Ngô Thuần, Trần Long vừa mới dựng sân khấu định nói chuyện tiếp, thì mười hai thiết kỵ đột ngột xuất hiện, tất cả đều mặc áo trắng, hơn nữa, trên dây cương ngựa đều thêu đồ đằng Bạch Trạch. Bách tính xung quanh nhìn thấy cảnh tượng này, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lũ lượt tản ra quỳ vái. Mười hai thiết kỵ đến trước sân khấu, xếp hàng như cánh quạt xòe ra, đi sau họ, chính là Tiết tướng đang cưỡi trên con Hãn Huyết bào mã”.

“Lớn tiếng phủ đầu, chiêu ra oai này quả không tồi”.

Khương Trầm Ngư cười, tên tiểu tử Tiết Thái lại dám đem đồ đằng của công tử đi giễu khắp nơi, thật là ngày càng vô sỉ! Có điều, Bạch Trạch có địa vị rất cao trong lòng dân chúng Bích quốc, dùng nó để ra mắt, hiệu quả đúng thực rất tốt. Nàng hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”.

“Tiết tướng quét mắt nhìn sân khấu của bọn Ngô Thuần Trần Long một lượt, cười lạnh lùng, rút một quyển trục từ trong lòng ra, thúc ngựa đi đến trước một tửu lâu bên đường, vỗ cổ ngựa một cái tung thân bay lên, mở quyển trục kia ra, treo lên trên tấm biển hiệu, rồi nhẹ nhàng hạ xuống, đứng vững trên mặt đất. Động tác như nước chảy mây trôi, tư thế linh động, chân tay nhanh nhạy, khiến người ta phải tấm tắc khen hay…”.

Người áo tím còn định tán thưởng tiếp, Khương Trầm Ngư dở khóc dở cười nói: “Đủ rồi đủ rồi, ai gia khen ngươi giỏi ăn nói, ngươi lại thêm một tràng mỹ từ bóng bẩy, đâu phải bảo ngươi thuyết thư… Mau vào vấn đề chính đi!”.

“Vâng vâng vâng. Vi thần lỡ lời. Vi thần xin sửa”. Người áo tím cười cười khổ não: “Tất cả mọi người có mặt ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên quyển trục đó viết bốn chữ lớn ‘Đỉnh phanh thuyết thang’”.

“Gì?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc, sau đó lại thở dài: “Lẽ nào hắn muốn làm vậy thật?”.

“Tiết tướng treo xong quyển trục đó, quay người lại, lạnh lùng quét mắt nhìn một lượt, cao giọng nói: “Xưa Doãn tướng dùng cái vạc cái thớt nấu ăn cho vua Thang, lấy việc nấu ăn, ngũ vị để phân tích cục diện thiên hạ và đạo làm chính trị. Thang vương nhờ thế mà biết được ông có tài kinh thiên vĩ địa, xóa bỏ thân phận nô lệ, cất nhắc làm hữu tướng, từ đó khai sáng nên thịnh thế phồn hoa của triều Thương. Tiết Thái bất tài, mượn điển cố của cổ nhân, để làm chuyện ngày nay: Tại đây dựng lôi đài, trong bảy ngày, cho dù là ai, chỉ cần người đó cảm thấy có thực lực hơn ta, có thể làm thừa tướng của Bích quốc, đến đây khiêu chiến với ta, đánh bại ta, ta nguyện dâng tướng vị cho người đó, quyết không nuốt lời!”.

Khương Trầm Ngư nghe những lời này, trong lòng không biết là buồn cười hay là chấn động. Tiết Thái năm sáu tuổi đã dám nói với Yên vương “Yên là ngọc trong các nước, còn ta là ngọc trong loài người, hai thứ hợp nhau, có gì không thỏa đáng”.

Tiết Thái năm bảy tuổi đã dám quát sủng phi của hoàng đế “Chim sẻ nhỏ nhoi, sao dám cản phượng giá”... Tiết Thái của hôm nay lại công khai tiếp nhận thư sinh thách đấu và dựng lôi đài trên phố, tự ví mình với Y Doãn… cho dù trải qua bao nhiêu trắc trở, Băng Ly vẫn là Băng Ly, ngạo cốt vẫn còn, không hề thay đổi một chút nào…

Người áo tím nói đến đây, mặt lộ vẻ khâm phục, cảm khái nói: “Hành động lần này của Tiết tướng mau chóng lan truyền ra ngoài, văn nhân các vùng lũ lượt đến đế đô, có người to gan thật sự lên thách đấu. Tiết tướng tuổi còn nhỏ nhưng kiến thức sâu rộng, trí nhớ tuyệt đỉnh, giỏi hùng biện, khẩu chiến nho sinh, đối diện với lời cật vấn của nhiều người vẫn ung dung ứng đối, thong thả đáp lời, khiến cho mọi người ai nếu đều thất sắc, đặc biệt là hai người Ngô Thuần Trần Long, đến phút cuối, phải hổ thẹn nói:

“Cho dù ngươi tài hoa cái thế, kinh lược ngút trời thì sao? Chớ quên, cha ngươi và gia gia ngươi đều là nghịch thần! Là phản tặc! Là loạn thần tặc tử phạm thượng làm loạn! Là tội nhân thiên cổ mưu đồ lật đổ giang sơn Bích quốc! Ngươi thân là con cháu của họ, lại có thể đảm nhiệm chức thừa tướng của Bích quốc, há chẳng phải là cổ vũ người trong thiên hạ đều có thể thả sức tạo phản sao? Dẫu cho tạo phản không thành, con cháu của mình cũng vẫn có thể làm quan. Để mặc cho ngươi làm tướng, thì luật pháp thiên thu để vào đâu? Thể diện của hoàng tộc để vào đâu? Giang sơn xã tắc để vào đâu?”.

Tràng chất vấn này đến Khương Trầm Ngư nghe xong mặt cũng biến sắc. Chiêu này quả thực quá độc, phơi bày ra chuyện cũ, lại dùng hai chữ “tạo phản” để chèn ép. Phải biết rằng đế vương từ thiên cổ đều kỵ nhất là tạo phản, không thể khoan dung nhất cũng là tạo phản, vì thế, đối với hậu quả của việc mưu nghịch làm loạn, cũng là cánh cáo kẻ khác: Kẻ làm phản, tru di cửu tộc, tất phải chết! Thế mới có thể cảnh cáo thiên hạ, phải ngoan ngoãn nghe lời, không được ngông cuồng dấy lòng mưu phản.

Có điều… tuy nàng kinh ngạc, nhưng không cảm thấy lo lắng. Bởi vì, nếu là Tiết Thái, chắc chắn có thể giải quyết vấn đề khó này… Trong lòng nàng đầy tin tưởng như thế.

Quả nhiên, câu tiếp theo của người áo tím đã chứng thực điểm này: “Tiết tướng nghe xong, mặt không đổi sắc, lạnh lùng cười nói: ‘Việc sai lầm cha ta và gia gia ta làm, có liên can gì đến ta?’.

Trần Long nói: ‘Lẽ nào ngươi không biết cha nợ con trả sao?’.

Tiết tướng nói: ‘Nếu ngươi đã nói như thế, vậy thì tổ tiên của các ngươi cũng tạo phản, các ngươi sao có mặt mũi mà sống trên đời này?’“.

Khương Trầm Ngư cả kinh: “Cái gì? Bọn họ cũng là con cái của phản tặc sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, lời này của Tiết tướng vừa nói ra, hết thảy người nghe đều ngạc nhiên, phản ứng đều giống như nương nương. Mà tên Trần Long đó lập tức nhảy dựng lên, giận dữ đùng đùng nói: ‘Ngươi nói bậy! Tổ tiên ta ba đời đều là người đọc sách thanh bạch, làm gì có tạo phản? Đừng có ngậm máu phun người!’.

Tiết tướng cười lạnh nói: ‘Tổ tiên ba đời không có? Thế thì mười đời? Hai mươi đời thì sao? Đừng quên Trần Thắng Ngô Quảng năm xưa, Đại Tần chính là diệt vong trong tay bọn họ’”.

Khương Trầm Ngư nhắm mắt – Nàng biết ngay mà… đến Trần Thắng Ngô Quảng cũng lôi ra được…

“Trần Long nghe đoạn càng nổi giận: ‘Cái, cái gì? Trần Thắng Ngô Quảng với, với với bọn ta có liên quan gì?’.

Tiết tướng đáp: ‘Các ngươi cùng họ, truy ngược lên nghìn đời, tất là cùng gốc rễ mà ra’.

Trần Long nói: ‘Cho dù, dù là tổ tiên của bọn ta, họ họ đều là thay trời hành đạo! Tần Nhị Thế thi hành bạo chính, hình phạt hà khắc, khiến muôn dân không được yên ổn…’.

Tiết tướng ngắt lời hắn: ‘Ồ? Lúc này lại không đếm xỉa gì đến luật pháp thiên thu, thể diện hoàng tộc với giang sơn xã tắc nữa sao?’.

Trần Long nói: ‘Ngươi, ngươi, ngươi…’”.

Trần thuật đến đây, Khương Trầm Ngư thở dài khe khẽ: “Tử Tử, ngươi cứ nói một mạch là được, không cần bắt chước cả điệu bộ nói lắp của họ đâu”.

Cả Bách Ngôn đường lại vang lên một trận cười.

Có lẽ bình thường họ đã quen với việc chế nhạo nhau, cho nên người áo tím tuy lúng túng, nhưng không thấy xấu hổ, vẫn cười vui vẻ như trước, nói:

“Vâng. Vi thần xin sửa. Tóm lại bọn Trần Long nói không lại Tiết tướng, tức muốn chết, cuối cùng Tiết tướng nhìn đám đông một lượt, chậm rãi nói:

‘Trải qua nghìn năm, triều đại nào chẳng có phản thần, chẳng sinh nghịch tử, họ làm sai thì họ phải chịu phạt, nhưng vì thế mà tước đoạt công lao của con cháu họ, thì thực quá nực cười! Không sai, cha ta ông ta làm chuyện sai trái, nhưng rốt cuộc vì sao mà họ sai, trong lòng mọi người đều rõ. Trong triều đình, có thiên tử sao thần tử vậy, nếu phải nói Tiết gia nhà ta có tội, Tiết tộc nhà ta nợ Bích quốc, thế thì, để ta làm tướng quốc, há chẳng phải chính là cách chuộc tội tốt nhất sao? Nếu các ngươi cho rằng Tiết Thái ta năng lực không đủ, không thể làm tướng quốc, thì hãy dùng sự thực để chứng minh điểm này, chớ viện lý do nông cạn như xuất thân, tuổi tác gì đó, ta tuyệt đối không phục! Bảy ngày đã hết, các người đã thua. Nhưng ta biết các ngươi vẫn không phục, không sao cả, ta lại cho các ngươi thêm một cơ hội, ngày này hàng năm, ta đều đến đây dựng lôi đài, người trong thiên hạ đều có thể đến thử. Nhưng, chỉ là bảy ngày. Bất cứ thời gian bất cứ địa điểm khác nếu ta nghe thấy có người bàn láo chuyện triều chính, bôi nhọ danh dự của ta, chém!’. Tiếng chém cuối cùng chắc nịch đanh thép, lầu trên lầu dưới, không có ai dám ho he nữa, đều lặng ngắt như tờ”.

Khương Trầm Ngư tưởng tượng khung cảnh khi đó, không kìm được nói: “Giá như ta cũng có mặt thì hay biết mấy, thật muốn xem phong thái áp đảo quần hùng của Tiết Thái khi ấy”.

Người áo tím thở dài nói: “Trong Thất tử chỉ có vi thần hôm qua đích thân đi, nhìn thấy cảnh tượng quan trọng nhất đó, thật sự là cảm thấy… triều ta có thể có Tiết tướng, đúng là ông trời ban phúc”.

Khương Trầm Ngư nhớ ra một vấn đề: “Đợi đã! Ngươi nói hôm qua đích thân ngươi đi xem, cũng tức là thời hạn bảy ngày đến ngày hôm qua đã kết thúc. Vậy tại sao hôm nay Tiết Thái không đến?”.

Người áo xanh lục ở bên cạnh cười “phì” một tiếng, những người khác lại nở nụ cười kỳ quặc.

Nghe đến đây, Khương Trầm Ngư đã hiểu ra, bọn họ cười, không phải vì Tiết Thái khẩu chiến thắng bọn nho sinh, mà là đã phát sinh chuyện khác, hơn nữa, hẳn là chuyện này khiến Tiết Thái gặp xui xẻo. Nghĩ đến đây, không khỏi càng lúc càng tò mò: “Mau nói! Hắn làm sao?”.

Người áo tím nói: “Hồi bẩm nương nương, là như thế này, khi dựng sân khấu Tiết tướng quy định là từ giờ Ngọ đến giờ Tuất. Ngày hôm qua đến giờ Tuất, vốn dĩ tất cả đã kết thúc, bọn Trần Long cũng á khẩu không biết nói gì, thì một tên ngọc diện thư sinh đột nhiên ôm một cây đàn tiến vào tửu lâu, ngang nhiên đòi thi đàn với Tiết tướng”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư ngẩn ra một lúc, nhớ ra một vấn đề: Tiết Thái có biết chơi đàn không?

Tuy Tiết Thái là thần đồng, văn võ song toàn, nhưng cũng không phải cái gì cũng tinh thông, ví như chơi đàn, nàng chưa bao giờ nhìn thấy hắn chơi.

“Tiết tướng ngài… không biết chơi đàn”. Người áo tím nói ra đáp án.

Quả nhiên là thế… Khương Trầm Ngư đã lờ mờ đoán ra vì sao mọi người lại cười như thế.

“Vì vậy, thư sinh đó nói thi gảy đàn với ngài, không chỉ Tiết tướng ngẩn ra, mà những người xung quanh nghe thấy đều sững người. Tiết tướng chau mày nói; ‘Ngươi nói cái gì?’.

Thư sinh đáp: ‘Ta muốn thi đánh đàn với ngài. Thừa tướng không phải nói, trong bảy ngày này bất luận là ai cũng có thể đến khiêu chiến ngài hay sao? Ta chính là đến khiêu chiến cầm nghệ của thừa tướng’”.

Di Phi sau khi bị gọi dậy không còn gật gù nữa, vẫn đứng bên cạnh, nghe đến đây, mắt đảo một vòng, “ồ” lên một tiếng, cười trộm nói: “Hay, hay, cái này hay! Đường đường là thừa tướng Bích quốc mà đến đàn cũng không biết gảy, đúng là quá mất phong nhã…”.

Khương Trầm Ngư lườm gã một cái: “Thứ lý lẽ ngụy biện này mà ngươi cũng nói ra được à? Ai gia muốn có một thừa tướng có thể xử lý chính sự chứ không cần một nhạc sư”.

Người áo tím nói: “Trên thực tế, khi ấy mọi người đều nghĩ như thế, đều cảm thấy thư sinh đó thật kỳ quặc, lại nghĩ ra được yêu cầu vớ vẩn như thế, chắc chắn Tiết tướng không biết chơi đàn, nhưng Tiết tướng nhìn thư sinh đó một cái, cười lạnh nói: ‘Được’”.

“Hắn đồng ý à?”. Điều này thực sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ.

“Vâng. Tiết tướng nhận lời, không chỉ như thế, ngài còn nói: ‘Ta biết trong lòng ngươi đang nghĩ gì, nếu ta không nhận lời ngươi, ngươi chắc chắn sẽ rêu rao với bên ngoài là lôi đài mà ta dựng có lỗ hổng, quy định thi đấu có lỗ hổng, cũng chỉ là hình thức, nếu có thi cũng không chính xác, từ đó mà tiến một bước xóa sạch toàn bộ thành tích huy hoàng trong bảy ngày qua của ta, đúng không?’.

Thư sinh đó mỉm cười, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận. Tiết tướng tiếp tục nói: ‘Cho nên, ta tuyệt đối không để ngươi được thỏa nguyện. Ngươi muốn thi đàn à? Đến đây! Thi thì thi!’”.

Khương Trầm Ngư tuy biết sau cùng chắc chắn Tiết Thái sẽ thắng nhưng nghe đến đây, trong lòng cũng không khỏi lo lắng.

“Không phải hắn không biết chơi đàn sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, Tiết tướng đích thực là không biết chơi đàn, đối phương chắc chắn cũng đã tìm hiểu về điểm này, cho nên mới dám đến khiêu khích không hề e sợ như thế. Thế là, thư sinh đó ngồi xuống, đặt cây cổ cầm xuống nói: ‘Trước tiên phải nói cho rõ, kỹ thuật đánh đàn, cao thấp khác biệt nếu như rất lớn, tự nhiên sẽ dễ phán đoán, nhưng nếu trình độ ngang ngang nhau, thì sẽ khó mà đoán định. Ta và ngươi phải phân giới hạn rõ ràng như thế nào?’.

Tiết tướng đáp: ‘Ngươi nói đi’. Thư sinh nói: ‘Được. Ý của ta là, có mặt ở đây tổng cộng bảy mươi chín người, chúng ta đàn ra sao, hãy để bảy mươi chín người này chấm điểm, cuối cùng ai được ủng hộ nhiều nhất, người đó thắng. Thế nào?’. Tiết tướng nói: ‘Được’”.

Khương Trầm Ngư thở dài: “Thật là làm khó hắn rồi. Thế mà cũng nhận lời. Ai chẳng biết những người đi xem đó, kỳ thực đều là những người muốn nhìn thấy hắn thua cuộc, cho dù hắn có thể đàn hay như thư sinh kia, e là mọi người cũng mang tâm lý xấu xa muốn coi trò hay nên vẫn bỏ phiếu cho hắn thua thôi”.

“Vâng, vi thần cũng nghĩ như vậy, vì thế vi thần đứng bên nhìn mà lo lắng hết đỗi, thần tiến lên phía trước khuyên can, trái lại Tiết tướng căn bản không để ý đến thần, bước tới ngồi đối diện với thư sinh, nói: ‘Ở đây không có đàn, ta dùng đàn của ngươi có được không?’. Thư sinh nói: ‘Được’. Tiết tướng nói: ‘Thế thì ngươi là khách, ngươi đàn trước’. Thư sinh đồng ý, liền bắt đầu gảy đàn…”.

“Chắc hắn đàn rất giỏi”. Khương Trầm Ngư đoán.

Người áo tím lại lắc đầu.

“Sao? Lẽ nào hắn đàn cũng dở?”.

Người áo tím vẫn lắc đầu.

Khương Trầm Ngư đang cảm thấy kỳ quái, thì người áo tím đã nói rõ chân tướng:

“Kỳ thực thì… căn bản hắn không đàn nổi. Hắn vừa mới gảy hai âm, dây đàn đã đứt. Cho nên, hắn đành phải thay dây đàn, nhưng gảy thêm được mấy âm, dây đàn lại đứt. Hắn lại thay dây, dây đàn lại đứt nữa… Tóm lại hắn cứ đàn được ba bốn tiếng, lại bị đứt một dây, cuối cùng, hắn đập bàn đứng dậy quát: ‘Tiết Thái, ngươi giở trò gì với đàn của ta phải không?’.

Tiết tướng nói: ‘Đây là đàn của ngươi, dây cũng là ngươi tự tay mang theo’.

Thư sinh nói: ‘Nhưng lúc ta gảy đàn ngươi lén lút dùng nội lực làm đứt dây đàn, đúng không?’.

Tiết tướng mỉm cười: ‘Tỉ thí thôi mà. Nếu ngươi không phục, khi ta gảy đàn ngươi cũng thoải mái làm đứt dây đàn của ta’.

Thư sinh giận dữ nói: ‘Ta không biết võ công!’.

Tiết tướng nói: ‘Rất tốt, ta cũng không biết chơi đàn’.

Thư sinh nói: ‘Thế thì ngươi thua rồi!’.

Tiết tướng nói: ‘Dựa vào cái gì? Cầm nghệ đến đàn cũng không đàn nổi của ngươi cũng có thể coi là thắng sao?’.

Thư sinh nói: ‘Đó là vì ngươi đứng bên cạnh phá hoại!’.

Tiết tướng nói: ‘Ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, thì ta thắng’.

Thư sinh kêu lên: ‘Thế mà gọi là thắng à?’.

Tiết tướng bỗng nói thật chậm, từng tiếng từng tiếng rành rọt: ‘Đây chính là chiến thắng của sức mạnh’. Thư sinh sững ra, không nói gì nữa”.

Khương Trầm Ngư nhắc lại: “Chiến thắng của sức mạnh?”.

“Vâng. Tiết tướng nói:

‘Trên thế giới này có rất nhiều kỹ nghệ, duy chỉ có sức mạnh là có thể trấn áp tất cả. Cầm nghệ của ngươi có cao hơn nữa, nhưng ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, đây chính là biểu hiện của việc ta vượt trội hơn ngươi’. Nói đến đây, ngài xoay người, nhìn mọi người, cất cao giọng nói: ‘Các ngươi nghe rõ cho ta, những người khác muốn lợi dụng kiếm chác, muốn xuyên tạc lời ta, thì cũng phóng ngựa đến hết cả đây, nhưng trước khi đến, các ngươi phải chuẩn bị tâm lý cho tốt – Có lẽ các ngươi có thể thắng ta về một kỹ năng nào đó, nhưng, nếu võ công không thể thắng ta, đều là vô ích. Nếu võ công hơn ra, chớ quên sau lưng ta còn có mười hai thiết kỵ, ba vạn binh mã, quyền hành cả nước, các ngươi cứ khiêu chiến thử xem!’.

Thư sinh thét lên: ‘Thế thi đấu còn gì là công bằng?’.

Tiết tướng nhìn hắn khinh miệt, lạnh lùng cười: ‘Quyền thế cũng là một loại thực lực. Nếu ngươi không có thực lực vượt hơn ta, dựa vào cái gì mà đòi thay thế ta?’”.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu “Quyền thế cũng là một loại thực lực”, không khỏi có phần ngây ngốc.

Tiết Thái… Tiết Thái… xuất sắc như thế, kiêu ngạo như thế, lại bá đạo như thế!

Có lúc không khỏi hoài nghi hắn có thực sự là con người không? Một đứa trẻ tám tuổi, sao có thể có trí tuệ như thế? Hơn nữa, ngoài trí tuệ ra, hắn còn xuất thân cao quý, vì thế đã bồi dưỡng nên tính cách cao ngạo ngút trời, cậy tài khinh người, ngoài tính cách ra, hắn lại trải qua chuyển biến lớn kinh thiên động địa của đời người – từ trời cao rớt bùn lầy, lại từ bùn lầy trở lại trời cao như thế, khiến hắn ngoài ngạo mạn, còn rèn luyện được tính thận trọng và chu toàn hơn người thường. Hành vi nhìn có vẻ như huênh hoang to gan, được ăn cả ngã về không của hắn vừa hay là biểu hiện của việc hắn chuẩn bị đầy đủ, không hề sơ sót.

Người bình thường, cho dù có được khả năng bẩm sinh như hắn cũng không thể có tính cách như hắn; cho dù có tính cách giống như hắn, cũng không thể có cảnh ngộ giống hắn… Hàng loạt các loại yếu tố này đã tạo thành thái độ ngang ngược coi thường hết thảy của hắn lúc này, mà thái độ ngang ngược ấy chính là điều không thể thiếu của một người làm chính trị thành công.

Có lẽ bản thân thật sự may mắn, may mà hắn đứng về phía nàng.

Nếu có một đối thủ như thế này, thực sự quá đáng sợ…

Mắt Khương Trầm Ngư hơi trầm xuống, trong lòng đã quyết: Cả đời này, tuyệt đối không thể cho Tiết Thái bất cứ cơ hội nào trở thành kẻ địch của nàng.

Người áo tím nói:

“Tiết tướng nói xong những lời này, hết thảy mọi người có mặt tại chỗ đều im lặng, còn thư sinh đó đứng yên mà toàn thân run rẩy, trên mặt lúc trắng lúc đỏ, chính lúc mọi người tưởng hắn chắc chắn sắp tức đến chết, hắn đột nhiên lấy một vật từ trong chiếc hộp bên cạnh ra, ném vào người Tiết tướng. Đám thị vệ cả kinh, tưởng là ám khí, đang định xông lên phía trước hộ vệ, Tiết tướng giơ tay lên, tự mình dùng tay áo cuốn vật đó lại…”.

Bảy người còn lại nghe đến đây, lại bắt đầu cười khùng khục. Thế nên Khương Trầm Ngư biết cuối cùng đã kể đến đoạn mấu chốt, bèn hỏi: “Là thứ gì?”.

“Là tú cầu”.

Khương Trầm Ngư gần như hoài nghi câu mình nghe thấy, không nhịn được nhắc lại lần nữa: “Là thứ gì?”.

“Tú cầu”. Người áo tím nghiêm trang trả lời: “Chính là loại tú cầu thêu bằng chỉ màu, dùng để các thiếu nữ chưa chồng kết duyên…”.

“Ta biết cái gì là tú cầu”. Trầm Ngư ngắt lời y: “Ta chỉ muốn hỏi tại sao thư sinh đó lại ném tú cầu cho Tiết Thái?”.

“Khi đó, bọn thần nhìn thấy quả tú cầu đó, tất cả đều ngẩn người ra, nghi ngờ mắt mình bị làm sao. Thư sinh đó cười khúc khích, giọng nói đột ngột biến đổi, nếu nói ban đầu hắn nói giọng eo éo, thì khoảnh khắc đó lại biến thành giọng nữ nhi, hơn nữa còn giơ một tay chỉ vào Tiết tướng nói: ‘Được, quả nhiên không hổ là tiểu Băng Ly nổi danh thiên hạ! Ta phục rồi. Cho nên, ta quyết định lấy ngươi! Quả tú cầu này chính là tín vật định tình của ta, ta biết tuổi ngươi còn nhỏ, có điều không sao, ta có thể chờ ngươi. Bản cô nương chính là con gái của Hồ Cửu Tiên, tiểu danh là Sành Nương. Ngươi chớ có quên, ngày sau phải đến nhà xin cưới ta nhé’!’. Nói đoạn, ôm đàn thướt tha rời đi…”.

“Hồ Cửu Tiên?”. Cái tên này rất quen, dường như đã nghe thấy ở đâu rồi.

“Ông ta là người Nghi quốc, được mệnh danh là đệ nhất thương gia của bốn nước, giàu nhất thiên hạ, nơi nào cũng có sản nghiệp của ông ta. Mà Hồng viên nổi tiếng nhất đế đô chính là của ông ta”.

Khương Trầm Ngư “a” một tiếng, chẳng trách nàng cảm thấy quen tai, hóa ra là chủ nhân của Hồng viên.

“Ha ha ha ha ha, hay cho một cô nương to gan!”. Di Phi nghe xong đập bàn kêu tuyệt: “Hay cho một mối nhân duyên tuyệt diệu! Chúc mừng nương nương, chúc mừng nương nương, hữu tướng của nương nương sắp thành gia lập nghiệp rồi, ha ha ha ha ha…”.

Người áo tím cố gắng nhịn cười, tiếp tục nói: “Hồ tiểu thư đó bỗng nhiên bỏ đi, làm mọi người bất ngờ, vẻ mặt của Tiết tướng khi ấy thật là… cả đời này vi thần cũng không thể quên. Chuyện này lập tức đồn ra ngoài, vì thế, hôm nay Tiết tướng vốn dĩ muốn lên triều, nhưng kiệu của ngài vừa mới ra khỏi hầu phủ, liền phát hiện bên ngoài có một đám người đông đúc vây quanh, đều là những cô nương tuổi thanh xuân đứng chờ bên ngoài cả đêm, ngài vừa mới vén rèm kiệu lên thò đầu ra ngoài nhìn, liền có vô số tú cầu bay về phía ngài… Những cô nương đó vừa ném vừa hét: ‘Thừa tướng đại nhân, chúng ta cũng muốn lấy ngài…’. Họ đứng đông nghịt cả đường, chiếc kiệu căn bản không thể đi nổi, đành quay đầu về phủ, cho nên, hôm nay Tiết tướng không thể lên triều…”.

Lời của người áo tím còn chưa dứt, mọi người trong sảnh đã cười nghiêng cười ngả.

Chỉ có một người không cười, đó chính là Khương Trầm Ngư.

Mọi người cười xong một lúc, mới phát hiện hoàng hậu không cười, liền vội vàng thu lại nụ cười, lo lắng bất an nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, trầm mặc một lát, sau đó đẩy đống tấu sớ ra, nói: “Hôm nay đến đây thôi, các ngươi về cả đi. Ai gia cũng mệt rồi, về cung nghỉ ngơi đã”. Nói rồi, đứng dậy rời ghế.

Nàng bình tĩnh đi ra khỏi Bách Ngôn đường, rất bình tĩnh đi ra khỏi thư phòng, rất bình tĩnh đi vào trong n Bái cung, nói với cung nữ: “Ai gia muốn ở một mình một lúc, các ngươi lui cả ra đi”.

Bọn cung nữ vâng dạ rồi đi ra, đóng cửa phòng lại.

Khương Trầm Ngư đi đến bên giường, ôm chăn trùm kín đầu, bấy giờ mới cười to, cười đến nỗi chiếc giường rung lên bần bật, cười đến nỗi trào cả nước mắt: “Ha ha ha ha ha ha… Ha ha ha… Ha ha ha ha ha…”.

Tiết Thái… lấy vợ…

Ha ha ha ha ha…

Tiết Thái à Tiết Thái, ngươi cũng có ngày này!

Ha ha ha ha ha…

Tiếng cười của nàng loáng thoáng truyền ra ngoài điện, Ác Du nghe thấy tò mò: “Hoài Cẩn tỉ tỉ, nương nương sao thế? Có chuyện gì vui à?”.

Hoài Cẩn mỉm cười nhàn nhạt: “Chúng ta làm nô tài, chỉ cần vui thay nương nương là được rồi. Tiểu thư… đã lâu lắm rồi mới được vui vẻ như thế…”.

Đúng thế, kể từ sau khi Kỳ Úc hầu chết, ngoài lần thái tử Tân Dã chào đời, tiểu thư, chưa từng vui vẻ như thế…

Có thể cười như thế này, là chuyện tốt biết bao…

Ngày hôm sau trong buổi chầu sớm, Tiết Thái vẫn không xuất hiện. Nhưng khi Khương Trầm Ngư chuẩn bị đi vào thư phòng nghị sự cùng với Thất tử, hắn lại xuất hiện, hơn nữa còn không mặc quan phục, chỉ mặc một chiếc áo khoác màu đen, quấn kín từ đầu đến chân.

Khương Trầm Ngư thấy hắn nai nịt như thế, không kìm được mỉm cười: “Thừa tướng từ đâu đến, định đi đâu đấy?”.

Tiết Thái sầm khuôn mặt nhỏ trắng trẻo xuống, không trả lời, tự đi vào Bách Ngôn đường, cởi áo khoác rồi ngồi lên ghế tựa, cất tiếng hỏi: “Hôm qua và hôm nay có chuyện gì lớn xảy ra không?”.

Khương Trầm Ngư khoan thai đi vào trong, từ tốn nói: “Có đấy, chuyện lớn nhất chính là thừa tướng của Bích quốc sắp thành thân. Chuyện này có lớn không?”.

Khóe mắt Tiết Thái quả nhiên bắt đầu co giật.

Bọn Thất tử cũng mím môi nén cười, người áo vàng sẫm bật cười thành tiếng đầu tiên nói: “Nghe nói từ ngày hôm qua, tất cả các cô nương chưa lấy chồng ở đế đô đều xếp hàng dài trước cửa hầu phủ, chuẩn bị chặn thừa tướng đại nhân của chúng ta, một bầy oanh oanh yến yến, bao vây hầu phủ đến một giọt nước cũng không lọt. Tình hình này, thừa tướng vẫn có thể thoát thân đi khỏi, thật là lợi hại, thật là lợi hại”.

Tiết Thái “hừ” một tiếng.

Người áo xanh lục bên cạnh cười nói: “Ta biết rồi, hôm nay thừa tướng dùng kế kim thiền thoát xác, sai nô tì ngồi vào kiệu của mình đi ra cổng trước, còn mình cải trang âm thầm đi cổng sau, nhưng vì muốn tránh tai mắt của người ta, cho nên đến muộn một canh giờ, không kịp lên buổi chầu sáng”.

Khương Trầm Ngư cười híp mắt nói: “Sao thế, thừa tướng đại nhân, có cần ai gia ban hôn cho ngươi không?”.

Tiết Thái rít qua kẽ răng: “Không phiền nương nương nhọc lòng”.

“A, thừa tướng nói gì thế? Thừa tướng là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, hôn sự của thừa tướng là đại sự quốc gia. Cái cô Hồ Sảnh Nương đó cũng không phải nhân vật tầm thường, thừa tướng lấy cô ta, có thể gọi là được cả danh lẫn lợi, song kiếm hợp bích, đã vui lại thêm vui…”. Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Điều quan trọng nhất là, nếu như thế, những thiếu nữ trước cửa nhà thừa tướng kia, sẽ hết hy vọng. Nếu không, ngày ngày thừa tướng đau đầu vì việc ra ngoài, lần nào cũng đến trễ, ai gia không thể cho phép như vậy được”.

Mí mắt Tiết Thái giật giật, không biết là giận hay là buồn, nghiến răng nói: “Xin nương nương an tâm, tiểu thần đã nghĩ ra một cách giải quyết, không đầy nửa ngày, đám nữ nhân vô vị đó sẽ tản đi hết”.

Khương Trầm Ngư nghe xong lại càng cảm thấy hứng thú: “Ồ, không biết cách của thừa tướng là gì?”.

Tiết Thái còn chưa trả lời, một tiếng cười lớn từ bên ngoài truyền vào, tiếp theo, cửa mật thất mở ra, La Hoành dẫn theo Di Phi đi vào.

Di Phi nhìn thấy Tiết Thái mắt sáng rỡ lên, vừa cười lớn vừa đi đến bên cạnh hắn, vỗ vỗ lên vai Tiết Thái nói: “Hóa ra là như thế! Hóa ra là như thế! Không ngờ lớn thừa tướng Tiết Thái của chúng ta lại là một kẻ si tình. Ha ha ha ha!”.

Mọi người đều nhìn Di Phi bằng ánh mắt hiếu kỳ.

Di Phi che miệng cười, cuối cùng nhìn, sang Khương Trầm Ngư: “Nương nương, nương nương có biết Tiết tiểu thừa tướng nhà ta hôm nay đã làm chuyện kinh thiên động địa đến nhường nào không?”.

Khương Trầm Ngư cười cười nói: “Theo như ta biết, Tiết ái khanh ngày nào cũng làm những chuyện kinh thiên động địa”.

“Cũng đúng. Chỉ có điều, hôm nay là đặc biệt nhất mà thôi”. Di Phi lại vỗ vào vai Tiết Thái, thở dài nói: “Ngươi dù không thích những cô gái đó, cũng ít nhiều phải giữ chút thể diện cho họ chứ, sao có thể một đòn quét sạch như thế? Nếu ngày mai bọn họ treo cổ tự vẫn thì làm thế nào?”.

Người áo vàng sẫm nghe thấy hai mắt liền phát sáng, nói nhanh: “Tam hoàng tử muốn nói gì, mau nói nhanh nói nhanh, thừa tướng rốt cuộc đã làm gì?”.

“Thừa tướng… sai người treo một bức tranh bên ngoài cửa lớn của phủ Kỳ Úc hầu, và tuyên bố: Tiết Thái hắn là nhân vật kiệt xuất trăm năm khó gặp, đương nhiên phải lấy một mỹ nhân tuyệt thế có thể xứng với hắn. Vì thế, nếu vị cô nương nào không xinh đẹp bằng người trong bức tranh, thì hãy bỏ ý nghĩ lấy hắn đi…”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy có gì là lạ: “Đợi đã! Ngươi nói hắn treo một bức tranh? Lẽ nào là…”.

Tiết Thái bấy giờ ngẩng đầu lên, biểu tình u ám trên gương mặt biến mất, khóe môi cong lên, mang theo nét cười có chút gian trá: “Nói ra vẫn phải đa tạ nương nương. Nếu không phải là nét vẽ tuyệt diệu của nương nương, vi thần vẫn còn phải khổ não tìm đâu được một bức tranh như thế?”.

“Ngươi! Lẽ nào ngươi treo bức tranh ai gia vẽ cho Hy Hòa?”. Lời vừa thốt ra, Thất tử cũng thất kinh, hóa ra Tiết Thái lại treo tranh của Hy Hòa?

Tiết Thái “ừ” một tiếng.

Khương Trầm Ngư lập tức đứng dậy: “Ngươi dám ăn trộm tranh của ai gia!”.

“Tiểu thần chỉ mượn dùng mấy ngày thôi, đợi sự việc qua đi sẽ tự giác đem trả”. Tiết Thái nói rất ngang nhiên đường hoàng: “Đúng như nương nương nói, tiểu thần là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, nếu ngày nào cũng bị người ta vây kín dẫn đến không thể lên buổi chầu sớm, tổn thất này to lớn quá. Cho nên, nghĩ cho giang sơn xã tắc Bích quốc, nương nương cũng không nên hẹp hòi, tiếc một bức tranh cỏn con, đúng không?”.

Đến lượt Khương Trầm Ngư nói không nên lời.

Cứ như thế, Tiết Thái dùng tranh vẽ Hy Hòa phu nhân, thành công ép những tú nữ muốn gả cho hắn phải thối lui. Nhưng hành động này cũng để lại một ảnh hưởng rất xấu, đó chính là…

“A, ngươi nghe nói chưa? Thừa tướng của chúng ta có ý trung nhân rồi đấy!”.

“Hắn mới mấy tuổi mà đã có ý trung nhân?”.

“Ngươi thì biết cái gì, phàm chuyện gì mà gắn với Băng Ly công tử thì không thể suy luận theo lẽ thường được. Tóm lại là thế này, hắn đã sớm có ý trung nhân rồi, mà người hắn yêu không phải ai khác, chính là tiền phu nhân của triều ta”.

“Ngươi nói là… Hy Hòa phu nhân?”,

“Ngoài nàng ta ra còn có ai nữa! Đệ nhất mỹ nhân của bốn nước năm xưa, chậc chậc, đáng tiếc là chết sớm quá”.

“Lá gan của hắn cũng to thật nhỉ? Đến phi tử của hoàng đế mà cũng thầm thương trộm nhớ. May mà Hy Hòa phu nhân đã chết, nếu không đã thành tin xấu rồi!”.

“Luôn làm chuyện không bình thường, một hành động cả thiên hạ kinh ngạc. Không hổ là Băng Ly công tử…”.

“Đúng thế đúng thế…”.

Chuyện này càng đồn càng rộng, phiên bản cuối cùng chính là…

Thừa tướng của Bích quốc Tiết Thái, từ thuở còn bé tí đã thầm yêu Hy Hòa phu nhân, thậm chí miếng mỹ ngọc Băng Ly tuyệt thế mà Yên vương tặng hắn cũng đem tặng lại cho Hy Hòa phu nhân. Nào ngờ Hy Hòa phu nhân hồng nhan bạc mệnh, chẳng đợi hắn làm nên sự nghiệp đã ngọc nát hương tan.

Cho nên, Tiết Thái rất đau lòng, tuyên bố với bên ngoài rằng nhất định phải lấy một nữ tử có tướng mạo giống Hy Hòa làm vợ. Yêu cầu này quá cao, vì vậy, chuyện chung thân đại sự đành phải gác lại.

Đến đây, Tiết Thái đã không còn bị ai quấy nhiễu nữa.

Ngày tháng cứ trôi qua thi thoảng vội vàng, thi thoảng vui đùa cười nói, thi thoảng nguy hiểm, thi thoảng bận rộn như thế. Không biết bắt đầu từ khi nào, Tiết Thái càng ngày càng bận, thường xuyên nghị sự xong là mất tăm mất tích, mà không chịu về nhà giống như trước đây, cho dù không có chuyện gì cũng ở trong cung. Có lúc Khương Trầm Ngư hỏi hắn, hắn cũng không trả lời, lâu ngày, Khương Trầm Ngư cũng không hỏi nữa.

Dịp khai xuân năm Đồ Bích thứ sáu, xảy ra một chuyện vui.

Nói là chuyện vui, kỳ thực cũng không hẳn, có người lại cho là xúi quẩy, có người cho là đương sự thấy vui là được. Mà sự kiện gây nên sự chú ý và bàn tán rộng rãi ở Bích quốc này chính là – đại tướng quân Phan Phương lấy vợ.

Mọi người đều biết, đại tướng quân vốn có một người vợ chưa cưới mà y yêu chân thành, nhưng lại bị Tiết Túc gọi đến phủ để thuyết thư rồi làm nhục, không chịu nhục, nàng đã tự vẫn. Sau này đại tướng quân tuy đích thân dẫn binh đánh bại Tiết Hoài khiến cả Tiết gia sụp đổ, coi như đã báo được thù, nhưng người yêu đã chết, không thể vãn hồi. Sau đó lại phụng chỉ đến Trình quốc chuẩn bị hỏi cưới công chúa, cũng không ra đâu vào đâu… Tóm lại, nói đến vị đại tướng quân Phan Phương này, trừ việc hắn kiêu dũng thiện chiến ra, điều khiến người ta có thể bàn luận say sưa nhất chính là sự si tình của hắn.

Mọi người đều cho rằng hắn sẽ không thể thành thân lần nữa, không ngờ, hắn bất ngờ cưới vợ mà không hề báo trước. Vì thế, chuyện này đồn ra ngoài, cả nước kinh ngạc.

Mà điều khiến người ta ngạc nhiên nhất chính là vị thê tử kia của hắn…

Về việc này, Khương Trầm Ngư được biết thông qua báo cáo của Thất tử. Khi đó, người áo tím nói như thế này: “Nương nương, Phan tướng quân xảy ra chuyện rồi”.

Làm cho Khương Trầm Ngư sợ đến mức cuống lên: “Xảy ra chuyện gì?”. Phan Phương có thể nói là thần tử mà nàng yên tâm nhất, luôn an phận thủ thường, chưa từng kéo bè kết đảng, cũng không thích thể hiện bản thân, sinh hoạt càng cực kỳ đơn giản, ngày ngày không làm việc thì đóng cửa luyện tập võ công, uống rượu, rất hiếm khi ra ngoài. Một người như thế có thể xảy ra chuyện gì được? Nếu là người khác còn có khả năng mắc bệnh, còn Phan Phương, nếu đến hắn cũng đổ bệnh, thì trên đời này có lẽ chẳng có người nào khỏe mạnh nữa?

Người áo tím thở dài, sáu người còn lại lần lượt biểu lộ vẻ buồn rầu.

Vì thế, Khương Trầm Ngư càng lo lắng hơn: “Hắn làm sao?”.

“Hắn bị người ta hãm hại”.

“Ai dám to gan thế? Dám hãm hại cả Phan ái khanh?”.

“Là như thế này, ngoại ô kinh thành có một ông lão câu cá, ông có một cô con gái tên là Phương Cô, xấu xí không thể tả nổi, lại còn bị điếc hai tai, vì thế, năm nay đã hai mươi sáu tuổi mà vẫn chưa gả đi được, ông lão rất buồn rầu, trăn trở mãi phải làm sao, cuối cùng nương nương đoán thế nào?”.

“Có liên quan đến Phan ái khanh?”.

“Tháng trước không phải có một trận tuyết lớn sao? Ông lão liền lừa Phương Cô đến trước cổng Phan phủ, vứt cô ta ở đó. Khi Phan tướng quân mở cửa, nhìn thấy một người nằm ngất lạnh cóng trong tuyết, bèn tốt bụng cứu cô ta về, cứ thế qua một đêm. Sang ngày hôm sau, tướng quân đưa Phương Cô đã tỉnh về nhà, ông lão lại nói họ trai đơn gái chiếc ở chung với nhau một đêm, sự thanh bạch của con gái ông đã bị hủy hoại, không gả chồng được, bắt tướng quân phải chịu trách nhiệm. Cô Phương Cô đó thoạt đầu không biết là chuyện gì, sau biết rồi thì khóc ầm lên chạy đi nhảy xuống hồ. Nước hồ đóng băng, cô ta nhảy xuống hố băng, Phan tướng quân vội vàng cứu cô ta lên, khi cứu người đương nhiên không tránh được ôm ôm ấp ấp, thế là ông lão bám chặt lấy tướng quân… Thế nên, Phan tướng quân đã cưới cô ta”.

Thất tử lũ lượt thở dài: “Quá thảm!”. “Đúng thế đúng thế, chỉ có Phan tướng quân mới vậy, chứ người khác thì mặc xác ngươi chết hay là người…”. “Ông lão kia chắc chắn đã tìm hiểu tướng quân là người thế nào, biết tướng quân không dùng thế ép người, cho nên mới vu vạ cho tướng quân”. “Cái này gọi là ở hiền gặp ác mà…”. “Thực ra cũng chẳng có gì, coi như lấy một người thiếp, vấn đề là cô gái đó thực sự quá xấu xí ấy!”. “A, đại nhân cũng thấy rồi à? Mấy ngày trước quá hiếu kỳ nên ta cũng liếc một cái, kết quả là…”. “Đại trượng phu sống ở trên đời, những chuyện thảm nhất Phan tướng quân đều gặp cả, thật là đáng thương, đáng thương…”.

Lời Thất tử nói thể hiện tâm lý nam nhân một cách rõ rệt nhưng Khương Trầm Ngư nghe được, trong lòng cũng không vui.

Ngày hôm sau, nàng triệu Phan Phương vào trong cung, nói với hắn: “Phan tướng quân, nếu có chuyện gì khanh ngại không tự mình ra mặt từ chối, ai gia có thể giúp khanh từ chối”.

Phan Phương nhìn nàng với vẻ hơi ngạc nhiên, lát sau đáp: “Hồi bẩm nương nương, vi thần không có chuyện gì khó xử cả”.

“Khanh không cần giấu ai gia, ai gia đã nghe nói rồi, vị phu nhân đó của khanh…”.

Phan Phương cúi đầu.

Khương Trầm Ngư thấy điệu bộ này của y, lòng càng thương hơn, bèn giận dữ nói: “Dưới càn khôn rộng lớn, trời cao vời vợi này, lại có tên điêu dân ép hôn, hơn nữa còn ép đại tướng của triều ta, chuyện này tuyệt đối không thể tha được, người đâu! Truyền ý chỉ của ai gia…”.

Nàng còn chưa nói dứt câu, Phan Phương đã quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư kinh ngạc nói: “Phan ái khanh, khanh làm gì vậy?”.

Phan Phương cung kính dập đầu, khi ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ mà kiên định: “Vi thần tạ ơn nương nương quan tâm đến vi thần, nhưng chuyện cưới vợ là vi thần tự nguyện, không phải ép gạt, cho nên xin nương nương nguôi giận”.

“Nhưng… họ rõ ràng nói là ông lão đó cố ý vứt con gái trước cửa nhà khanh…”.

Phan Phương cụp mắt, thấp giọng nói: “Cho dù chuyện trước đó như thế nào, sự thực là vi thần đúng là đã ôm cô nương đó”.

“Phan ái khanh!”. Khương Trầm Ngư cũng không biết vì sao mình để ý chuyện này như thế, có lẽ là vì nàng đã từng tận mắt chứng kiến bi kịch của Phan Phương và Tần nương, trong lòng luôn cảm thấy hổ thẹn với y, vì thế, bây giờ đột nhiên có người nhét một nữ nhân cho Phan Phương, giống như một tay hủy diệt mối tình duyên bi thương đến cực điểm và cũng đẹp đẽ đến cực điểm ấy.

Ở nơi sâu thẳm nội tâm của nàng, không sao có thể tiếp nhận nổi, vì thế nàng hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói: “Tóm lại, hôn sự này ai gia không chấp nhận! Ai gia không thể trơ mắt nhìn khanh nhảy vào hố lửa!”.

Phan Phương ngẩng mặt lên, nhìn nàng chằm chằm, sau đó, bỗng nhiên bật cười.

“Khanh cười cái gì?”.

“Không có gì…”. Phan Phương khẽ thở dài, trong ánh mắt chất chứa vài phần hoài niệm: “Chỉ là cảm thấy, nương nương vẫn là nương nương của thuở ban đầu, vi thần… rất cảm động, cũng rất vui”.

Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng biết hắn ám chỉ bản thân mình lúc đi sứ Trình quốc năm nào. Cơn xấu hổ qua đi, nàng lại càng thận trọng.

“Chuyện này khanh nghe ta, được chứ?”.

“Nương nương… nếu, vi thần thực lòng muốn cưới Phương Cô thì sao?”.

“Cái, cái gì?”. Khương Trầm Ngư cả kinh. Phan Phương đối với Tần nương như thế, nàng tận mắt chứng kiến, một nam nhân như thế sao có thể thay lòng đổi dạ? Được thôi, cứ cho là hắn có thể thay lòng đổi dạ, nhưng Phương Cô đó, theo như Thất tử miêu tả là một cô gái xấu xí vô cùng! Sao có thể?

Dường như đọc được suy nghĩ trong lòng nàng, Phan Phương cười cười, nói: “Phương Cô là một cô gái tốt. Vi thần biết có lẽ nương nương cũng nghe nói rồi, nàng ta… bị điếc. Tướng mạo cũng không được ưa nhìn. Nhưng ngoài hai điểm kia ra, nàng thật sự, thật sự là một cô gái rất tốt”.

“Phan tướng quân…”. Nhất thời, Khương Trầm Ngư không biết phải nói thế nào.

“Vi thần biết trong con mắt người ngoài, đều cảm thấy cô ấy không xứng với thần, nhưng, tự vi thần lại cảm thấy thành thân với vi thần mới là thiệt thòi cho Phương Cô… Tóm lại, vi thần thật lòng thành tâm muốn cưới cô ấy, xin nương nương tác thành”.

Khương Trầm Ngư nhìn Phan Phương đăm đăm, lúc lâu sau cũng không nói được gì, cuối cùng đành để cho Phan Phương ra về.

Mấy ngày sau, nàng mặc thường phục xuất cung, cùng với Tiết Thái bí mật đến Phan phủ một chuyến. Phủ đệ của Phan Phương cực kỳ đơn sơ, là một căn nhà nhỏ nằm ở một mảnh đất vắng vẻ, qua tường rào, Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cô gái đang quét sân.

Dấu tuyết trên mặt đất còn chưa tan, nàng ta quét từng li từng tí một, quét rất cẩn thận.

Một lúc sau, Phan Phương từ trong nhà bước ra, khoác áo khoác lên người nàng ta, nàng ta ngẩng đầu, cười ngọt ngào với Phan Phương…

Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, hạ lệnh cho phu xe quay về hoàng cung.

Trong xe ngựa trên đường về cung, nàng hỏi Tiết Thái một câu: “Ngươi nói xem Phan tướng quân lấy cái cô Phương Cô đó, thật sự không nuối tiếc chứ?”.

Tiết Thái trầm ngâm rất lâu, mới trả lời nàng: “Tiếc hay không ta không biết, nhưng hẳn là rất hạnh phúc”. Nói rồi, liếc xéo nàng một cái: “Lẽ nào nương nương hy vọng hắn cô độc đến cuối đời? Đừng có ác độc quá thế”.

“Đợi đã, ta ác độc ở chỗ nào?”.

“Đừng tưởng ta không biết trong lòng nương nương nghĩ gì, nương nương cảm thấy Phan Phương đã yêu Tần nương, thế thì cả đời này phải vì Tần nương mà giữ thân như ngọc, quyết không lấy vợ…”.

“Ta đâu có nghĩ như thế!”.

“Tốt nhất là đừng nghĩ như thế. Bản thân nương nương đã như thế này, đừng có mong người khác cũng phải giống mình”.

“Đợi đã, cái gì mà bản thân ta đã như thế này? Lẽ nào ngươi nói ta đang đố kỵ Phan Phương? Đố kỵ vì hắn cuối cùng đã được giải thoát khỏi chấp niệm với Tần nương, còn ta vẫn đang chìm trong bùn lầy?”.

" Đó là tự nương nương nói, ta không có nói”.

“Ngươi…”. Khương Trầm Ngư tức chết đi được, nhưng lại không có cách nào nói lại Tiết Thái, cuối cùng đành ra đòn sở trường lần thứ một ngàn lẻ một: “Ai gia không chấp trẻ con”.

“Ta chín tuổi rồi”.

“Vẫn là trẻ con”.

“Hứ”.

“Hứ…”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ hai mốt : Gấm rách (Phần 1)

Trung thu năm Đồ Bích thứ sáu chầm chậm đến trong cảnh tượng bừng bừng khí thế.

Trưa ngày mười bốn tháng Tám, khi Khương Trầm Ngư đang đút cho Chiêu Doãn ăn, La Hoành thông báo: “Nương nương, quý nhân cầu kiến”.

Khương Trầm Ngư đặt chén cháo thuốc xuống, vừa ra lệnh cho người hầu buông rèm, Khương Họa Nguyệt liền theo sau cung nữ dẫn đường bước vào bên trong:

“Thần thiếp tham kiến hoàng hậu”.

“Tỉ tỉ chớ đa lễ, mau mời ngồi. Người đâu, dọn chỗ”.

Khương Trầm Ngư bước ra, mời Họa Nguyệt ngồi xuống bên bàn ở sảnh ngoài, nhìn tỉ tỉ hai má phinh phính, không kìm được vui mừng nói:

“Sau khi sinh tỉ tỉ hồi phục khá nhanh, khí sắc nhìn tốt lắm”.

“Từ sau khi ta nghe lời muội, không uống loại thuốc đó nữa, liền cảm thấy cơ thể mình mỗi ngày một khỏe hơn”.

Khương Họa Nguyệt vừa nói, vừa cố tình liếc vào màn trướng ở gian trong một cái, mới nói:

“Ta vừa nhận được một lá thư, hóa ra mẫu thân và phụ thân đang trên đường về kinh, nếu không có gì thay đổi, khoảng giờ Thân ngày mai là đến nhà. Cho nên ta đến hỏi muội, ngày mai có muốn về nhà một chuyến không?”.

“Đương nhiên muốn. Muội cũng nhận được thư, đang chuẩn bị đi kiếm tỉ tỉ để bàn việc này. Vừa khéo tỉ tỉ tới đây”.

Từ khi nhận được thư của mẫu thân, biết hiện nay bà vẫn khỏe, Khương Trầm Ngư rất vui, vì thế liền sắp xếp chuyện về nhà thăm người thân, cứ nghĩ đến ngày mai là có thể gặp mẫu thân, trong lòng nàng khó có thể bình tĩnh được. Lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng tranh cãi, Khương Họa Nguyệt vội nói:

“A, là * nuôi của ta”.

Khương Trầm Ngư hạ lệnh: “Cho * nuôi vào”.

Một nữ tử có dáng vẻ * nuôi ôm một đứa trẻ đang khóc oa oa đi vào trong. Khương Họa Nguyệt tiến lên phía trước đón đứa trẻ:

“Tân Nhi, sao thế con? Không phải bảo con ngoan ngoãn ở nhà chờ mẹ sao...Sao lại khóc thế?”.

* nuôi lo lắng nói:

“Lão nô cũng không biết có chuyện gì, thái tử điện hạ đột nhiên khóc toáng lên, không sao dỗ được, đành phải đưa đến tìm nương nương”.

Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn đứa trẻ đó trắng trẻo bụ bẫm, rất đáng yêu, không kìm được nói:

“Có thể cho muội bế một chút không?”.

“Đương nhiên”. Khương Họa Nguyệt quay người đưa đứa trẻ qua.

Khương Trầm Ngư cẩn thận đón lấy, khẽ đu đưa, đứa trẻ nín khóc, nhìn nàng một cái, miệng nhệch ra, lại khóc òa.

“Ô ô, ngoan, đừng khóc đừng khóc, hoàng di ở đây… tỉ tỉ, có phải nó đói không?”.

“Không đâu, nó vừa mới ăn mà”.

Khương Họa Nguyệt thấy nàng bế cũng không có tác dụng, bèn đón lấy Tân Dã, dịu dàng dỗ một lát, nói:

“Muội muội, ta có một thỉnh cầu hơi quá đáng…”.

“Tỉ tỉ cứ nói”.

Ánh mắt Khương Họa Nguyệt hướng về phía gian trong, nói: “Là thế này, từ khi Tân Nhi ra đời còn chưa được gặp hoàng thượng. Muội có thể để nó gặp phụ thân được không? Tỉ biết bây giờ hoàng thượng đang hôn mê bất tỉnh, vốn không nên đưa ra yêu cầu kiểu này, nhưng…”.

Khương Trầm Ngư hơi do dự, nhưng nhìn thấy Tân Dã khóc không thôi, lại mềm lòng bèn gật đầu nói:

“Được, tới đây nào”. Nói đoạn, đứng dậy dẫn đường.

Hai người cùng đi vào gian trong, Khương Trầm Ngư ra hiệu cho cung nữ kéo rèm lên, rèm kéo lên rồi, khuôn mặt say ngủ bình thản của Chiêu Doãn xuất hiện trong tầm mắt Khương Họa Nguyệt. Y nằm ở đó, mái tóc, gương mặt đều vô cùng sạch sẽ, nhìn cũng biết là được chăm sóc rất cẩn thận.

Thấy nét mặt y hiền hòa, nhẹ nhõm, thật khó mà tưởng tượng, người này đã nằm ngủ suốt một năm ròng.

Nhớ đến cảnh ân ái ngày xưa, mắt Khương Họa Nguyệt hoe đỏ, cúi đầu nói với đứa con trong lòng:

“Tân Nhi, đừng khóc nữa, nhìn này, đây là phụ vương của con. Phụ vương con đang ngủ, ngủ rất lâu rất lâu, cho nên không thể nói chuyện với Tân Nhi, nhưng không sao, đợi con lớn hơn chút nữa, phụ vương con sẽ tỉnh, đến lúc đó sẽ dẫn con đi chơi ở rất nhiều nơi… được không?”. Vừa nói vừa bế Tân Dã đến sát mặt Chiêu Doãn.

Đứa trẻ dường nghe hiểu lời nàng ta, bỗng ngừng khóc, giương đôi mắt to đen trắng rõ ràng, nhìn chăm chăm vào Chiêu Doãn nằm trên giường.

Khương Họa Nguyệt nhìn thấy nó có phản ứng, không kìm được vui mừng nói:

“Muội muội xem kìa, đúng là có tác dụng. Tân Nhi nín rồi đó!”.

Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn thấy sự thần kỳ ấy, trong lòng không khỏi ngậm ngùi, huyết thống quả nhiên là thứ rất kỳ diệu, một đứa trẻ nhỏ như vậy, lẽ nào cũng cảm nhận được hơi hướm của phụ thân mà trở nên bình tĩnh hơn?

Khương Họa Nguyệt vỗ nhè nhẹ vào Tân Dã nói:

“Tân Nhi ngoan, phải hay ăn chóng lớn khỏe mạnh, để có thể nói chuyện với phụ vương nhé. Phụ vương thích Tân Nhi nhất, ngoan nhé…”.

Mắt Tân Dã nhìn Chiêu Doãn không chớp một lúc, bỗng nhệch miệng khóc nức nở.

Khương Họa Nguyệt hoảng lên:

“Ôi ôi sao thế? Đừng khóc đừng khóc… được rồi, ta nên đưa nó về cung thì hơn, có lẽ đến chỗ quen thuộc nó sẽ đỡ hơn..”. Vừa nói vừa vội vàng đi ra ngoài.

Chính lúc này một vật nặng loảng xoảng rơi xuống đất.

Khương Trầm Ngư quay đầu, hóa ra là một cung nữ đứng hầu bên cạnh đánh rơi chậu rửa mặt kê cạnh giường. Cung nữ tự biết đã gây ra họa, cuống quýt quỳ xuống nói bằng vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ:

“Nương nương! Hoàng thượng… hoàng thượng…”.

“Hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư thuận theo ánh mắt của nàng ta nhìn qua, liền phát hiện trên mặt Chiêu Doãn, hai hàng lệ trong vắt từ từ chảy xuống.

Y… tỉnh rồi!

Khoảnh khắc đó, một nỗi lo sợ vô bờ bến cuộn trào từ chân lên đỉnh đầu, Khương Trầm Ngư gần như kinh sợ đến suýt kêu lên, nhưng cuối cùng nàng đã khống chế được bản thân, trợn trừng mắt nhìn hàng lệ chậm rãi lăn trên gò má Chiêu Doãn rơi xuống gối. Còn các bộ phận khác của Chiêu Doãn vẫn bất động như cũ.

Nàng tiến lên một bước, nắm tay y bắt đầu bắt mạch, chỉ cảm thấy mạch tượng lúc nhanh lúc chậm cực kỳ kỳ quái, với trình độ của bản thân không thể nhìn ra nguyên nhân, bèn trầm giọng nói: “Truyền thái y!”.

Đám cung nữ vội vàng đi gọi người.

Khương Họa Nguyệt bên cạnh lo lắng nói: “Muội muội, hoàng thượng sắp tỉnh phải không?”.

“Không biết”.

“Nhưng hoàng thượng chảy nước mắt kìa, hoàng thượng có phản ứng!”.

“Không biết”.

“Hoàng thượng? Hoàng thượng?”.

Khương Họa Nguyệt không kìm được tiến lên mấy bước, đưa tay vuốt ve mặt Chiêu Doãn:

“Hoàng thượng? Hoàng thượng có cảm thấy không? Thiếp là Họa Nguyệt… Thiếp đưa thái tử đến thăm người, nó tên là Tân Dã, vừa tròn bảy tháng tuổi, vẫn còn chưa biết nói…”.

Tân Dã khóc oa oa, Khương Họa Nguyệt lòng tràn đầy hy vọng và Chiêu Doãn nằm trên giường tuy chảy nước mắt song vẫn không tỉnh, hình thành nên một cảnh tượng kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư nhìn cảnh tượng ấy, chỉ cảm thấy mình giống như một người ngoài cuộc, cách một tầng lụa cúi nhìn xuống mọi người. Nhưng trên thực tế, bất cứ cử động nào của Chiêu Doãn, là sống hay là chết đều có thể khiến nàng tan xương nát thịt.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói mệnh lệnh thứ hai: “Truyền Tiết tướng”.

Lại một toán cung nhân vâng dạ rồi rời đi.

Không lâu sau, Giang Hoài dẫn theo hai thái y hốt hoảng chạy đến, đang định hành lễ, Khương Trầm Ngư liền nói:

“Đừng quỳ, mau xem hoàng thượng sao rồi?”.

Bọn Giang Hoài vội vàng vào khám, nhưng đang định bấm ngón tay bắt mạch cho Chiêu Doãn, thì trên mặt đã lộ một biểu cảm vô cùng cổ quái, sững sờ.

Khương Họa Nguyệt thúc giục: “Thái y.... Sao thế?”.

Giang Hoài loạng chà loạng choạng lùi ra sau nửa bước, quỳ sụp xuống, run rẩy nói: “Vi thần đến trễ một bước, hoàng thượng đã… đã… băng hà rồi…”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tai mình “bùng” một tiếng, câu tiếp theo không còn nghe thấy nữa, đồng thời, tầm nhìn của nàng cũng tối sầm, loáng thoáng nghe thấy có người kinh sợ hét:

“Nương nương! Nương nương sao vậy?”. Nhưng bóng tối vô bờ bến bao trùm đất trời đã ụp xuống, nàng đột ngột mất đi tri giác.

Trong bóng tối, rất nhiều giọng nói mông lung bồng bềnh trôi nổi.

“Nương nương? Nương nương…”.

“Muội muội? Muội muội…”.

“Trầm Ngư ... Trầm Ngư…”.

Nhưng mà, không có thứ nàng muốn, hay nói cách khác, không có thứ nàng mong chờ. Nàng đang muốn điều gì? Rốt cuộc muốn điều gì?

“Tiểu thư của Khương gia?”. Là cái này sao? Là cái này sao?

“Trời không còn sớm nữa, Anh đưa tiểu thư về phủ nhé”. Là ai? Là ai?

“Tiểu thư hẹn Anh tới, tất có việc, đã có việc, là ai hẹn thì có quan hệ gì đâu?”. Là lúc nào? Là lúc nào?

“Là Anh hành sự đường đột, vội vàng truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư…”. Không, không cần câu này, không cần câu này. Cái nàng cần không phải câu này, không phải, chưa bao giờ là câu này!

Nhưng người đó chưa bao giờ gọi nàng bằng phương thức nàng hy vọng, từ tiểu thư lúc ban đầu, đến sau này, khi thân mật nhất cũng chỉ gọi một tiếng “Trầm Ngư”.

Người ấy là “Tiểu Hồng” của người khác, nhưng vĩnh viễn chỉ là “công tử” của nàng…

Khương Trầm Ngư cảm thấy đầu mình mù mịt nặng trịch, không biết mình đang nằm mơ hay là đang tỉnh nữa. Sau đó, bóng tối dần dần tan đi, loáng thoáng xuất hiện những bóng hình mờ nhạt: Một đứa trẻ vô cùng gầy yếu, kéo một thứ gì đó, cực kỳ vất vả đi về phía trước.

Bốn bề im ắng không một tiếng động.

Đứa trẻ đó nghiêng nghiêng ngả ngả, thứ kia quả thực quá nặng, mà nó quả thực quá gầy quá nhỏ, vì thế mỗi lần đi được hai bước lại phải dừng lại nghỉ một lát.

Cảnh tượng dần dần thu lại gần hơn, thứ trên mặt đất dần dần rõ nét, hóa ra là một nữ nhân nằm không nhúc nhích, không biết là đã chết hay vẫn còn sống. Linh cảm trỗi dậy, trong nháy mắt, dường như nàng đã biết mình đang nhìn thấy gì, một hơi hướm quen thuộc nào đó gần trong gang tấc, nàng nghiêng đầu nhìn, thất kinh phát hiện – Chiêu Doãn đang đứng cách nàng một bước, đứng ngang vai với nàng, im lặng nhìn cảnh tượng đó, nhìn đứa trẻ không ngừng lôi lôi kéo kéo không chịu buông tay đó.

“Hoàng thượng…”. Nàng nghe thấy mình run rẩy lên tiếng, trong lòng sợ hãi đến cực điểm, cũng hỗn loạn đến cực điểm.

Nhưng dường như Chiêu Doãn không phát hiện ra nàng, chỉ im lặng nhìn thiếu niên phía xa đó, hai hàng lệ từ hốc mắt y lăn xuống, bộ dạng không cười của y nhìn càng đau thương khôn tà.

“Hoàng thượng…”. Nàng không kìm được giơ tay hướng về phía Chiêu Doãn, muốn kéo tay áo y, nhưng trong chớp mắt sau đó lại phát hiện mình đang tóm tay đứa trẻ đó, gầy guộc trơ xương, lạnh giá như băng. Còn đứa trẻ đó ngẩng đầu lên nhìn nàng, các nét trên gương mặt mờ mờ, duy chỉ có đôi mắt đen lay láy.

“Giúp ta với…”. Đứa trẻ khóc nấc: “Giúp ta với… Mẹ ta uống rượu say ngã xuống hồ… giúp ta với…”.

Nàng cảm thấy rất buồn vì câu nói này, đang định nhận lời giúp nó, đứa trẻ đột nhiên trở nên hung hăng, nhìn nàng gào lớn:

“Tại sao phải hại ta ... Tại sao phải hại trẫm .... Khương Trầm Ngư, nàng dám hạ độc trẫm! Nàng dám tước đoạt giang sơn của trẫm! Nàng sẽ không được chết tử tế... Nàng sẽ phải nhận báo ứng!”.

Báo ứng…

Báo ứng…

Báo ứng…

Tiếng thét thảm thiết dường như có một sức mạnh vô song, giống như một cánh tay lạnh ngắt, thò tới, hung hãn thít chặt cổ nàng.

Ai đến cứu nàng? Cứu nàng! Chỉ có một câu nói! Một câu nói chính xác là nàng có thể thoát ra khỏi cơn ác mộng này! Mau nói đi, mau nói câu nói chính xác đó đi…

Chính trong lúc nàng giãy giụa, một giọng nói trong trẻo có phần hơi hà khắc lại có chút lạnh lùng đột nhiên phá vỡ tầng tầng mây mù, đánh xuống như một luồng sét: “Chiêu Doãn chết rồi. Ngươi còn không tỉnh? Muốn trốn tránh đến bao giờ?”.

Mây mù tan biến trong chớp mắt, Khương Trầm Ngư lập tức mở mắt ra.

Lọt vào mắt là gương mặt hớn hở của Hoài cẩn: “Nương nương! Nương nương tỉnh rồi! Nương nương tỉnh rồi!”.

Khương Trầm Ngư hơi đờ đẫn đảo mắt nhìn một lượt, bên cạnh màn trướng màu đỏ thẫm là người toàn thân áo trắng như tuyết, vẫn biểu cảm thâm trầm, pha chút lạnh lùng như cũ, người tuổi vẫn còn nhỏ, nhưng chỉ cần hắn ở đây là nàng cảm thấy an tâm đến lạ lùng.

Nàng gắng ngồi dậy, cất tiếng nói, giọng lào khào: “Tiết Thái… ngươi, vừa nãy ngươi nói gì?”.

Tiết Thái mặt không biểu cảm đáp: “Cuối cùng nương nương đã chịu tỉnh rồi. Nếu nương nương không tỉnh, hoàng thượng sẽ không được hạ táng”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy một tràng sấm dậy ầm ầm trong đầu, không nhịn được bưng chặt đầu mình. Đúng rồi, trước khi nàng ngất, thái y nói là Chiêu Doãn chết rồi… Đó không phải là một giấc mộng… Nhưng tại sao?

Rõ ràng nghe thấy tiếng khóc của Tân Dã cho nên mới rơi nước mắt;

Rõ ràng bắt đầu có phản ứng với thế giới bên ngoài…

Tại sao đột nhiên lại chết?

Y chết quá không cam lòng, cho nên mới tìm đến chất vấn nàng, đòi báo thù nàng trong giấc mộng chăng?

Đầu Khương Trầm Ngư đau như muốn nứt toác, không nhịn được rên rỉ thành tiếng.

Tiết Thái bên cạnh bỗng đi lên phía trước, bưng một bát canh đến trước mặt nàng, ra lệnh: “Uống đi”.

Khương Trầm Ngư nhìn bát canh giống như nước lọc nhưng lại tỏa ra mùi thuốc thoang thoảng đó, mày cau lại, nhưng không hỏi gì hết, chỉ ngoan ngoãn uống. Nói ra cũng kỳ lạ, vừa uống xong bát canh đó, cảm giác thanh mát lập tức lan tỏa khắp cơ thể, đến cơn đau đầu cũng giảm đi rất nhiều.

Nàng không kìm được hỏi: “Đây là cái gì?”.

“Thuốc độc”.

“Thật à?”.

“Giả đấy”. Tiết Thái trừng mắt nhìn nàng: “Để xem lần sau ngươi còn dám không hỏi rõ là thứ gì mà đã uống không”.

“Nhưng chẳng phải là ngươi cho ta uống sao?”.

Tiết Thái sững người, có chút cảm động, nhưng tức khắc lộ vẻ khinh thường nói: “Cứ cho là ta đưa, cũng không thể uống bừa được”.

“Hóa ra ngươi đa nghi đến mức nghi ngờ cả bản thân mình…”.

“Đó là bởi vì…”. Trong mắt Tiết Thái lóe lên một tia dị sắc, sau đó vô cùng nghiêm túc nén giọng xuống, nói:

“Ngươi sắp trở thành đế vương một nước rồi, xung quanh có rất nhiều lang sói đang dòm ngó ngươi, chực xông lên để cấu xé nhai nuốt ngươi”.

Khương Trầm Ngư choáng váng, bàn tay đang vén tóc liền khựng lại giữa không trung, một lúc lâu sau, mới chậm chạp phản ứng lại, quay đầu nhìn chằm chằm Tiết Thái, khẽ hỏi:

“Ngươi đang nói gì?”.

“Có rất nhiều lang sói đang dòm ngó ngươi, chực…”.

“Không phải câu này, câu trước cơ”.

Tiết Thái hít sâu, trầm giọng nói: “Ngươi sắp trở thành đế vương một nước rồi”.

Tuy toàn thân Khương Trầm Ngư vô cùng yếu ớt, nhưng nghe đến câu này cũng kinh sợ đến mức nhảy dựng lên:

“Ngươi nói cái gì? Ai thành đế vương?”.

“Ngươi đó”. Giọng Tiết Thái gần trong gang tấc, nghe rõ mồn một đến mức gần như đáng sợ:

“Chính là ngươi, Khương Trầm Ngư”.

“Ngươi nói đùa cái gì thế?”.

Tiết Thái tiến sát, nhìn thẳng vào mắt nàng, lạnh lùng nói:

“Ta không nói đùa. Chiêu Doãn chết rồi, ngươi chính là đế vương kế nhiệm”.

“Đùa… đùa cái gì thế!”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư nổi giận, hất chăn nhảy xuống đất, cũng không thèm để ý mình đang đi chân trần, nói nhanh:

“Trong khoảng thời gian ta hôn mê đã xảy ra chuyện gì ... Tại sao ngươi lại nảy sinh suy nghĩ điên cuồng như thế? Hoàng thượng đâu.... Di thể của hoàng thượng bây giờ đang ở đâu..?
Không, không đúng… hôm nay là ngày mười lăm à... Mẫu thân về nhà rồi ư, ta phải đi gặp bà…”.

Đầu nàng đột nhiên co giật, đau đến mức ngã ra đất, nàng bị sao vậy? Rốt cuộc nàng bị sao vậy?

Tiết Thái một tay bấu lấy tay của nàng, mạnh đến nỗi nàng suýt hét lên, nhưng cái đau thấu xương cốt như thế, kỳ lạ thay đã đẩy lui, làm tan biến cơn đau đầu, nàng run rẩy ngước mắt lên nhìn hắn, thấy biểu cảm của hắn là vẻ đau thương chưa từng có.

“Tiết Thái”.

“Một bước cuối cùng”.

Tiết Thái nói bằng một giọng điệu dịu dàng mà nàng chưa bao giờ nghe, hoặc là hắn chưa bao giờ nói:

“Chỉ kém một bước cuối cùng, đi qua là được. Khương Trầm Ngư, ngươi đi lâu như thế, bỏ ra nhiều thứ như thế, lẽ nào, chỉ đi đến đây thôi sao?”.

“Nhưng… ta… ta… không muốn làm hoàng đế…”.

Có lẽ vì giọng nói của hắn quá dịu dàng, có lẽ là vì ánh mắt của hắn quá thân thiết, Khương Trầm Ngư bỗng òa khóc:

“Ta chưa bao giờ muốn thay thế Chiêu Doãn. Ta chỉ muốn đòi lại công bằng, nhưng vì hắn quá quá đáng, hắn đem tuổi thơ bất hạnh của mình ra để quy mọi tội lỗi lên người công tử, còn làm công tử tổn thương sâu sắc, thậm chí cuối cùng đã vứt bỏ công tử… Mất công tử, ta quá đau khổ, ta phải tìm chút việc để làm, mới có thể xóa bỏ nỗi đau khổ kia. Cho nên ta lựa chọn khoác lên mình chiếc áo giả tạo ‘thay trời hành đạo’ đó, lao vào vòng xoáy chính trị xấu xa bẩn thỉu, đi cướp thứ quyền thế mà người trong thiên hạ đều muốn có… Ta căn bản không hề thích việc mỗi ngày phải thiết triều, ta cũng không thích phê duyệt tấu chương, ta càng không thích mở miệng khép miệng đều phải nói ai gia này ái khanh kia… Một người như thế không phải là ta, không phải là Khương Trầm Ngư!”.

“Nhưng ngươi đã làm rất tốt. Không phải sao?”... Trong ánh mắt Tiết Thái chất chứa sự bi thương rất sâu đậm, sâu đậm đến vô cùng vô tận, khiến hắn nhìn lại yếu mềm hơn bao giờ hết.

“Tiết Thái, vừa nãy ta nằm mơ gặp Chiêu Doãn, ta mơ thấy hắn biến thành một đứa trẻ, đáng thương lắm, thực sự rất đáng thương… Ta rất hối hận, ta hối hận ta đã không cho hắn chút cơ hội nào đã biến hắn thành một kẻ dở sống dở chết, ta hối hận mình đã không thể cho hắn một cơ hội tự sửa đổi bản thân, kỳ thực hắn làm đế vương phù hợp hơn ta, xuất sắc hơn ta, ta, ta không nên cướp của hắn… Tiết Thái, hắn chết rồi, bây giờ hắn chết rồi, ta có cắn rứt thế nào cũng không cứu vãn được, ta hối hận lắm, ta thực sự thực sự rất hối hận… Ta không muốn làm nữa, ta không muốn gì nữa”.

“Ngươi chỉ cảm thấy tội lỗi mà thôi. Chiêu Doãn chết rồi, cho nên ngươi cảm thấy hổ thẹn với hắn, cho nên không chịu đăng cơ, nhưng nghe ta nói đây: Ngươi nhất định phải đăng cơ”. Khẩu khí của Tiết Thái nghe rất nghiêm túc.

Nhưng lúc này Khương Trầm Ngư căn bản không nghe được gì nữa, chỉ lắc đầu nguầy nguậy:

“Ta không cần, ta không cần. Ta muốn về nhà, ta muốn gặp mẫu thân… Đúng rồi, ta không làm gì cả, không quản gì cả, ta muốn về nhà sống với mẫu thân, ta muốn cùng mẫu thân ta sống phần đời còn lại của bà, ta muốn là một đứa con gái ngoan…”. Nói đến đây, nàng loạng choạng bò dậy, lảo đảo đi ra ngoài.

Tiết Thái khẽ gầm lên: “Thế giang sơn này phải làm thế nào?”.

“Chiếu theo lịch pháp của triều ta, truyền cho Tân Dã”.

“Nó mới có một tuổi”.

“Có các ngươi phò tá nó, có thể mà”.

“Ngươi cảm thấy chuyện này có thể sao? Khắp triều đình ai nghe theo nó?”.

Bước chân Khương Trầm Ngư khựng lại, đờ đẫn một lúc lâu, sau đó mới chậm rãi quay đầu nói:

“Ngươi nói đúng… được, thế thì ta và tỉ tỉ cùng lâm triều quản chính sự, tiếp tục thay nó cai quản giang sơn này, đợi nó từ từ lớn lên. Nói tóm lại, ta tuyệt không muốn tự mình xưng đế. Đây là triều đình của Chiêu Doãn, ta phải trả nó cho con trai của hắn”.

Tiết Thái lộ biểu cảm cực kỳ thất vọng.

Hai người cứ nhìn nhau chằm chằm như thế, không nói gì trong suốt một quãng thời gian dài.

Qua thời gian chừng nửa tuần trà, Tiết Thái cụp mắt xuống, cuối cùng lên tiếng, giọng nói âm u đến mức đáng sợ:

“Thế thì, xin thứ tội cho thần không thể ở cạnh thái hậu được”.

Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuống quýt hỏi: “Cái gì?”.

“Tạm biệt. Thái hậu của Bích quốc”. Tiết Thái lạnh lùng nói nốt rồi quay người bỏ đi.

“Đợi đã! Ta không cho phép ngươi đi”.

Tiết Thái dừng chân, nhếch môi cười chế giễu:

“Chỉ có vương giả mạnh nhất mới có thể ra lệnh cho ta. Còn ngươi, một nữ nhân nhu nhược như thế, cứ ôm đứa trẻ tiếp tục mơ giấc mơ cả nhà hòa thuận đi”.

Khương Trầm Ngư vội vàng kéo hắn lại, nhưng chỉ tóm được một ống tay áo của Tiết Thái, sau đó nghe tiếng “soạt”, tay áo rách toạc. Tiết Thái không buồn liếc mảnh tay áo bị kéo rách lấy một cái, cứ thế sải bước ra khỏi n Phái cung.

Chỉ còn lại Khương Trầm Ngư, thẫn thờ nhìn nửa ống tay áo trong tay mình, rõ ràng mới vào đầu thu khí hậu mát mẻ dễ chịu mà phút này sao giá buốt như băng.

Tiết Thái không xuất hiện nữa.

Mới đầu Khương Trầm Ngư còn cảm thấy hắn chỉ là giận dỗi với mình, nhưng ngày tiếp ngày trôi qua, Tiết Thái vẫn không thấy đâu, nàng mới biết lần này hắn làm thật.

Đại tang của Chiêu Doãn do một tay Khương Họa Nguyệt tổ chức, bấy giờ nàng mới phát hiện kỳ thực tỉ tỉ của mình rất có năng lực, những chuyện vụn vặt phức tạp như thế, nàng ta đều xử lý ổn thỏa tỉ mỉ cẩn thận, có lớp lang, thuận lợi. Vì thế, một mặt ý định nhường vị trao quyền trong lòng càng kiên định, mặt khác lại bị chuyện Tiết Thái làm cho bứt rứt chẳng yên, không sao chuyên tâm xử lý triều chính được.

Cỏ lúc nàng nghĩ, bản thân cũng cảm thấy mình rất nực cười: Mình lại đi giận dỗi với một đứa trẻ lên chín. Nhưng Tiết Thái… đối với nàng mà nói, chưa bao giờ chỉ đơn giản là một đứa trẻ… Thậm chí có lúc Khương Trầm Ngư cảm thấy, vì sự tồn tại của Tiết Thái mà khiến nàng cảm thấy công tử chưa thực sự ra đi, vẫn còn một phần nào đó vĩnh viễn ở lại trên đời, ở lại bên cạnh nàng.

Nhưng bây giờ… đến Tiết Thái cũng đi rồi… mấy ngày liền Khương Trầm Ngư ăn không ngon, ngủ không yên, ngủ mơ nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, luôn cảm thấy Tiết Thái quay về rồi, nhưng đến lúc mở mắt ra, lại tràn đầy thất vọng.

Bộ dạng lo lắng không yên của nàng, cuối cùng đến Ác Du cũng nhận ra, nàng ta nói:

“Nương nương, tại sao nương nương phải quan tâm đến Tiểu Tiết Thái đó như thế nhỉ. Tên nhóc già đời, cao ngạo, không coi ai ra gì đó, dám cãi lại nương nương, không hề có vẻ gì là thần tử. Loại nô tài này, bớt đi một đứa cũng chẳng sao, tránh cho mọi người học theo, còn tưởng là nương nương dễ bị bắt nạt”.

Nàng không trả lời. Ác Du không thể hiểu, không thể biết nếu trên đời này có một người, từng cùng mình đi qua giai đoạn đau khổ nhất, thì người ấy sẽ trở thành một phần không thể thiếu của mình.

Đối với nàng mà nói, Tiết Thái chính là người không thể thiếu ấy.

Thế sự thần kỳ biết bao, bao năm nay, loạng choạng, lảo đảo đi được đến hôm nay, biết bao người hợp rồi tan, tan rồi hợp, đến đi vội vã, biến mất không dấu vết.

Chỉ có hắn, từng bước từng bước đi bên cạnh nàng.

Bây giờ, hắn quay người bỏ đi, cạnh nàng liền trống một khoảng, không thể bù đắp được.

Phải làm sao… phải làm sao…

Hoài Cẩn rót một chén trà, bưng đến bên nàng, dịu dàng nói: “Nương nương, uống trà đi”.

Khương Trầm Ngư cúi đầu, lại là trà cúc Đại Khê, trong lòng càng thêm rối bời. Người giống như mình đã thích một loại trà là sẽ uống mãi loại trà đó, nếu đã quen với một người, nay đột nhiên người ấy biến mất, sao có thể chịu nổi…

“Nương nương, nếu không… nương nương đi thăm thừa tướng đi”.

Khương Trầm Ngư run run hỏi: “Cái gì?”.

Hoài Cẩn cười cười, trong nụ cười hàm chứa sự thấu hiểu trong vắt như nước:

“Nương nương và thừa tướng giận dỗi mấy ngày nay, cũng đến lúc làm hòa rồi. Nương nương đã không nỡ rời xa thừa tướng như thế, thế thì hãy dẹp tự ái đi làm lành đi. Nô tì nghĩ, thừa tướng có lẽ cũng đang đợi nương nương đó”.

Khương Trầm Ngư “a” một tiếng, rồi sững người ra.

“Nương nương, thừa tướng tuy có tài năng lớn, là thần đồng trăm năm mới gặp, nhưng ngài chung quy vẫn còn quá nhỏ, cũng có chỗ ngài làm không tốt lắm, nhưng có chỗ ngài lại làm rất tốt, đó là vì không có ai dạy ngài. Nương nương, thử nghĩ mà xem, thừa tướng bảy tuổi cả nhà đã diệt vong, ông bà cha mẹ, họ hàng thân thích đều chết hết cả. Bây giờ đến nương nương cũng bỏ mặc ngài, nương nương cảm thấy, giờ một mình ngài ở nhà, trong phủ đệ cô quạnh như thế, lẽ nào không đáng thương sao? Cho nên…”.

Hoài Cẩn còn chưa nói hết câu, Khương Trầm Ngư đã bật dậy xông ra ngoài, vừa chạy vừa hét: “Chuẩn bị xe! Chuẩn bị xe! Ta phải đến phủ thừa tướng…”.

Hoài Cẩn nói rất đúng.

Kỳ thực Tiết Thái còn đáng thương hơn nàng. Chí ít, nàng còn có cha mẹ tỉ tỉ, nhưng Tiết Thái ngoài cô cô Tiết Mính vẫn đang ở trong lãnh cung, thì đâu còn người thân nào nữa.

Nếu mình thật sự quan tâm hắn, không nỡ xa hắn, thì nên cố gắng giữ hắn lại, biện pháp tích cực này mới giống phong cách hành xử vốn có của Khương Trầm Ngư.

Tiết Thái, trên thế gian này nhất định có phương pháp vẹn cả đôi đường. Ta không làm hoàng đế, nhưng ngươi cũng không được đi, có được không? Có được không?

Khương Trầm Ngư vô thức túm lấy tay áo mình, giống như túm lấy hy vọng chân thực nhất, không nỡ buông tay.

Một ngọn đèn cô lẻ chiếu lên khung cửa sổ lạnh giá.

Những cành trúc đung đưa nhè nhẹ trong cơn gió đêm, phát ra tiếng kẽo kẹt kẽo kẹt, càng làm nổi bật sự u tịch của không gian.

Bóng người màu đen hắt lên giấy dán cửa sổ màu trắng dường như cũng ngừng cử động

Khi Khương Trầm Ngư đặt chân lên Cơ phủ, được Thôi quản gia dẫn vào sân trong, từ xa nhìn thư phòng, thứ nàng thấy chính là cảnh tượng này.

Trước sau Tiết Thái vẫn không dọn ra khỏi Cơ phủ, sau khi đã trở thành thừa tướng, vốn dĩ hắn có thể có phủ đệ riêng, nhưng hắn lại từ chối. Về điểm này, Khương Trầm Ngư hiểu rất rõ, nếu đổi lại là nàng, nàng cũng chọn ở lại Cơ phủ. Không chỉ vì nơi này còn lưu giữ hơi hướm của công tử, điều quan trọng hơn là, phủ đệ của Cơ Anh thực sự rất tiện lợi, rất gần hoàng cung, giao thông thuận tiện, hơn nữa đồ đạc trong phủ đều đầy đủ, cần gì có nấy, thiết kế hợp lý, cho dù làm chuyện gì, đều có thể mất thời gian ngắn nhất để đạt hiệu suất cao nhất.

Nhưng bây giờ, khi nàng tận mắt nhìn thấy cảnh tượng Tiết Thái ở trong Cơ phủ, nàng lại cảm thấy mình đã sai. Bởi vì, mọi thứ hiện lên trước mắt nàng đều thê lương như thế, sống ở đây, sao có thể vui vẻ được?

Thôi quản gia theo sau nàng nói:

“Từ khi Tiết tướng tiếp nhận nơi này, đã giải tán toàn bộ người hầu, chỉ giữ lại lão nô và một trù nương nấu cơm. Bình thường lão nô chỉ giúp dọn dẹp nhà cửa, còn những việc khác không được mó tay vào”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bóng người đang cúi đầu đọc sách bên bàn hắt trên giấy dán cửa sổ, khẽ hỏi:

“Thừa tướng vẫn luôn một mình thế à?”.

“Tiết tướng tính cách khá cô độc, hàng ngày chỉ có bọn thuộc hạ của ngài đến nghị sự, họa hoằn mới có người đến thăm, hơn nữa…”.

Thôi quản gia nói đến đây, lại thở dài, không biết là thương cảm hay là gì khác: “Ngài ấy không biết vì sao không tín nhiệm một ai, ngài ấy không gọi, bọn lão nô cũng không được tự tiện vào thư phòng của ngài”.

Trái tim của Khương Trầm Ngư nặng nề thêm mấy phần, nàng xua xua tay, ra hiệu cho Thôi quản gia lui xuống, sau đó một mình tiến lên đẩy cửa thư phòng ra.

Đúng như nàng nhìn qua cửa sổ giấy, Tiết Thái đang đọc sách, nghe thấy tiếng động cũng không ngẩng đầu, vẫn vùi đầu trong đống sách như cũ.

Hắn đã không chào hỏi nàng, nàng cũng không lên tiếng, đầu tiên nàng dạo một vòng quanh thư phòng. Thư phòng gần như không có bất kỳ thay đổi nào so với lần trước nàng thấy, xem ra, Tiết Thái cũng cố ý giữ nguyên hiện trạng. Cây cung treo trên tường cũng không được gỡ xuống, Tiết Thái chưa chuẩn bị xong sao?

Khương Trầm Ngư im lặng quan sát một lúc, sau đó đi đến cạnh bàn, ngó đầu qua nhìn, Tiết Thái đang dọc “Lục Tổ đàn kinh”, bèn chậm rãi đọc thuộc một đoạn trong đó:

“Tâm bình hà lao trì giới? Hành trực hà dụng tu thiền? n tắc thân dưỡng phụ mẫu, nghĩa tắc thượng hạ tương lân. Nhượng tắc tôn ti hòa mục, nhẫn tắc chúng ác vô huyên. Nhược năng toàn mộc xuất hỏa, ứ nê định sinh hồng liên. Khổ khẩu đích thị lương dược, nghịch nhĩ tất thị trung ngôn…” (Lục Tổ đàn kinh hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, một trong những bộ điển tịch thiền tông Phật giáo kinh điển, do Lục Tổ Huệ Năng khẩu thuật, đệ tử là Pháp Hải ghi lại thành sách, về sau gọi là Đàn kinh. Đoạn văn trên dịch nghĩa như sau: “Tâm bình thản thì cần gì phải vất vả giữ giới luật, hành vi chính trực thì cần gì dụng công tu thiền? Ơn thì phụng dưỡng cha mẹ, nghĩa thì yêu thương anh em. Nhượng thì tôn ti hòa thuận, nhẫn thì mọi điều ác đều tan biến. Nếu có thể đục gỗ tạo lửa, ở giữa bùn tất sinh hoa sen đỏ. Đắng miệng chính là thuốc lành, nghịch tai chính là lời trung…”.)

Quả nhiên, đọc đến đây, Tiết Thái cười phì một tiếng, ánh mắt vẫn đặt trên cuốn sách như cũ, không chịu nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư dứt khoát đưa tay chặn lên cuốn sách đó, nói: “Ngươi thấy ta đến đây, cho nên cố ý đọc cuốn sách này để châm chích ta phải không? Có gì sao không nói thẳng trước mặt ta?”.

“Ta và thái hậu chẳng có gì để nói cả”. Tiết Thái rút cuốn sách trong tay nàng ra, quay sang hướng khác tiếp tục đọc.

“Thật uổng cho ngươi là thừa tướng của Bích quốc, ăn nói càn rỡ như vậy, đáng bị chém đầu”.

“Thế thì chém đi”. Tiết Thái tỏ vẻ không coi lời nàng nói ra gì: “Dù sao hai năm trước đầu của ta cũng nên bị chém rồi”.

“Tiết Thái!”. Khương Trầm Ngư giật cuốn sách trong tay hắn, giận dữ nói: “Nhìn ta đây!”.

Tiết Thái ngước mắt lên, lườm nàng: “Thái hậu có gì căn dặn à?”.

“Không cho phép ngươi nói với ta lạnh nhạt như thế nữa”. Lại thấy Tiết Thái cười nhạt, Khương Trầm Ngư theo bản năng giơ tay ra nhéo tai Tiết Thái.

E là Tiết Thái cả đời này cũng chưa bị người khác đối xử như thế, bất giác sững người.

Còn Khương Trầm Ngư bây giờ mới ý thức rốt cuộc mình đã làm chuyện thất thố như thế nào, nhìn bàn tay mình rồi lại nhìn tai Tiết Thái, cứ thế đứng như phỗng.

Hai người mắt to mắt nhỏ nhìn nhau im lặng một lúc.

Cuối cùng vẫn là Khương Trầm Ngư tự tỉnh ra trước, hoang mang thu tay lại, bối rối giấu sau lưng, hắng giọng mấy tiếng nói:

“Tóm lại, ta cố ý tới đây thăm ngươi, ngươi… không được phép bày bộ mặt thần giữ cửa đó ra với ta”.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng, đồng tử đen láy sâu thẳm, giống như không chút biểu cảm, lại giống như vì chất chứa quá nhiều biểu cảm nên không thể nhìn ra nổi.

Trái tim Khương Trầm Ngư bỗng nhiên mềm nhũn, nàng dịu giọng nói:

“Tiết Thái, ngươi luôn hiểu lý lẽ, thế thì hôm nay ta đến đây để nói lý với ngươi. Nếu ngươi có thể thuyết phục ta, ta sẽ nghe theo ngươi, nhưng nếu ta thuyết phục được ngươi, thì ngươi phải nghe theo ta, ngoan ngoãn quay lại lên triều cùng ta. Ngươi… đồng ý chứ?”.

Tiết Thái chăm chăm nhìn nàng một lúc lâu, rồi nhìn sang chỗ khác. Theo sự hiểu biết của Khương Trầm Ngư về hắn, biết rằng như vậy là hắn đã đồng ý. Thế nên nàng hít một hơi thật sâu, nghiêm mặt nói:

“Vậy ta nói trước. Tiết Thái, ta không muốn xưng đế, có ba nguyên nhân. Một là, nữ tử làm hoàng đế, đối với đất nước là tai họa. Tuy bây giờ đã có một vị nữ đế của Trình quốc là Di Thù, nhưng, mọi người nói cô ta như thế nào, nhìn cô ta như thế nào, chúng ta đều rất rõ. Khương Trầm Ngư ta không có dũng khí đi thách thức truyền thống lễ pháp cả mấy nghìn năm”.

Tiết Thái không có bất cứ phản ứng nào.

Khương Trầm Ngư lại nói: “Thứ hai, nếu như ta xưng đế, ngươi để Tân Dã sau này dùng thân phận gì để kế thừa Bích quốc đây?
Nếu ta là hoàng đế, giang sơn tất đổi, từ đây hoàng tộc họ Khương không còn là họ Lý, thế thì chiếu theo luật pháp, trừ phi giữa chừng có người tranh quyền đoạt vị, nếu không quân vương đời sau sẽ phải mang họ Khương. Ta không thể để Khương tộc đi đến bước này, gánh lấy tội danh soán quyền đổi nước. Cho dù ta có thể nhất thời dùng thủ đoạn cứng rắn để khống chế thời cuộc, nhưng trăm năm sau, sử sách sẽ viết về ta như thế nào? Viết về Khương thị như thế nào? Lại viết về Tân Dã như thế nào? Việc này đối với nó, thực sự quá tàn nhẫn.
Tiết Thái, bao nhiêu năm qua, bởi vì chuyện kế vị mà những đứa trẻ bị hủy hoại còn chưa đủ nhiều sao? Nếu Chiêu Doãn không bị đưa vào cung, hắn đâu có hình thành tính cách méo mó như thế, công tử và Hy Hòa đâu có bị chia lìa... Di Phi nếu không mồ côi mẹ từ nhỏ, thì sẽ không quái gở, điên điên cuồng cuồng... Di Thù nếu không bị cha mình cưỡng bức, thì đâu có nham hiểm buông thả, máu lạnh như vậy...thậm chí… cả ngươi. Tiết Thái, đối với một con người, tuổi thơ yên lành quan trọng biết bao, ngươi đáng lẽ phải biết rõ điều này hơn ai hết.
Chúng ta đã không thể cứu vãn được, thế nhưng, chí ít chúng ta có thể để lại hạnh phúc và niềm vui cho đời sau, không phải sao? Ta không thể ích kỷ, chỉ nghĩ cho riêng mình như thế, ta phải nghĩ cho Tân Dã, ta phải nghĩ cho sự an cư lạc nghiệp của bách tính thiên hạ”.

Ánh mắt Tiết Thái sáng rỡ lên mấy hồi, dường như có chút bị thuyết phục.

Khương Trầm Ngư chầm chầm đặt cuốn kinh thư trong tay xuống mặt bàn: “Thứ ba, Tiết Thái, ngươi biết không? Lúc sinh thời Chiêu Doãn nói với ta, nếu như ta thực sự muốn tốt cho Tân Dã, vậy thì hãy nhận nó làm con, biến nó thành con trai của ta, tự tay nuôi dưỡng nó. Đương nhiên, khi đó tình hình khác bây giờ, Chiêu Doãn vẫn còn sống, có lẽ phi tử khác cũng sẽ có con cái, cho nên muốn lập Tân Dã làm thái tử, người duy nhất kế vị hoàng vị, thì được hoàng hậu nuôi dưỡng là danh chính ngôn thuận nhất. Tân Dã bây giờ đã không phải lo lắng chuyện này nữa.
Nhưng khi đó, ta nghe Chiêu Doãn nói xong, trong lòng rất khó chịu, tối hôm đó, ta đã nằm mơ. Ta mơ thấy rất nhiều cung nữ thái giám xông vào Gia Ninh cung, bế Tân Dã đi, nói là phải giao cho hoàng hậu cũng chính là ta nuôi nấng. Lúc đó tỉ tỉ ngã trên mặt đất, vừa khóc vừa bò lên phía trước, đòi trả con lại cho tỉ ấy, nhưng đều vô dụng cả. Sau đó, tỉ tỉ bị điên, bị nhốt sau hàng rào, đầu tóc xõa xượi, mặt đầy máu và nước mắt kêu gào: ‘Trả con lại cho ta, trả con lại cho ta…’. Ta tỉnh mộng, toàn thân run rẩy”.

Bờ môi Tiết Thái mấp máy mấy cái, sau đó lại mím chặt hơn.

“Tiết Thái, khi tỉnh lại ta đã tự nói với mình, người sau hàng rào đó là tỉ tỉ của ta, tuy không có máu mủ ruột rà nhưng tình như chân tay, ta không thể đẩy tỉ tỉ của mình vào hoàn cảnh đó được, ta không thể hủy hoại một đời của tỉ ấy. Chiêu Doãn có thể vô tình với Cơ Anh, Di Thù có thể ép các ca ca của mình chết, nhưng ta không thể. Nếu ta cũng làm như thế, thì ta so với bọn họ – những kẻ ta coi thường – có gì là khác biệt đâu? Cho nên, Chiêu Doãn chết rồi, hoàng vị này là của Tân Dã, không thể, cũng không cho phép bất cứ rắc rối nào phát sinh. Ngươi có thể hiểu không?”.

Tiết Thái lặng im cầm cuốn kinh thư lên, quay người nhét nó vào lại giá sách, sau đó, vẫn giữ tư thế quay lưng với nàng, nhẹ nhàng, ngập ngừng, cực kỳ khó mở lời, nói:

“Ta chỉ là… muốn… ngươi lấy chồng mà thôi…”.

Mắt Khương Trầm Ngư đột nhiên trợn tròn, không thể không nói, nàng đã từng nghĩ vô số khả năng, nhưng lại chưa hề nghĩ qua, lý do Tiết Thái cố chấp lại là điều này.

Ánh đèn chiếu lên lưng Tiết Thái, cũng kéo bóng của hắn trùm lên giá sách, nhìn như thể có hai người. Còn hắn xoay lưng lại với Khương Trầm Ngư, trước sau vẫn không quay người lại, thấp giọng nói:

“Chiêu Doãn chết rồi, ngươi chính là thái hậu, nghĩa là số phận đã định sẽ chết già trong cung, cô độc cả đời. Nhưng ngươi mới mười bảy tuổi, con đường tương lai còn rất dài rất dài, tuy… Cơ Anh chết rồi, nhưng ngươi sẽ gặp những người khác biết trân trọng ngươi, đối tốt với ngươỉ – chỉ cần ngươi có cơ hội đó. Mà xưng đế, chính là cơ hội tốt nhất cũng là duy nhất của ngươi. Sau khi làm nữ hoàng, ngươi có thể mở hậu cung, ngươi có thể tùy ý lựa chọn trượng phu mà mình thích, ngươi… có thể có hạnh phúc…”.

Giọng hắn càng nói càng nhỏ, cuối cùng lý nhí đến mức gần không nghe ra.

Sống mũi Khương Trầm Ngư cay cay, không kìm chế được tiến lên phía trước, ôm Tiết Thái từ đằng sau.

Tiết Thái thấp hơn nàng một cái đầu, nàng ôm hắn, giống như ôm một đứa trẻ – mà trên thực tế, hắn cũng thực sự là một đứa trẻ.

“Đồ ngốc… đồ ngốc…”. Nước mắt của nàng lăn xuống, vừa cảm động vừa chua xót:

“Sao ngươi có thể nghĩ đến lý do này? Lại còn vì lý do này mà giận dỗi với ta, không thèm để ý ta, để ta buồn mất mấy ngày… đồ ngốc…”.

Tiết Thái đứng bất động, để mặc cho nàng ôm, khuôn mặt giấu vào bóng tối, dù là ai cũng không thể nhìn rõ biểu cảm của hắn lúc này.

“Ta…”. Khương Trầm Ngư nói ngắt quãng:

“Ta không muốn lấy chồng, thật đó. Có lẽ ngươi và tất cả mọi người đều thấy, ta là một nữ nhân mệnh khổ, người ta muốn lấy thì không thích ta, lại còn chết rồi. Người cưới ta cũng không thích ta, cũng chết. Là quốc mẫu, ta còn chưa thực sự trưởng thành đã bắt đầu già nua; sau này làm thái hậu tức là cả đời sẽ tàn úa sớm như thế này. Nhưng đồ ngốc ạ, tại sao ngươi không biết? Ở đây của ta, ở chỗ này…”.

Nàng sờ lên lồng ngực của mình: “Bởi vì từng có một người, một người hoàn mỹ như thế, cho nên, tuy ta cô độc, nhưng không thấy trống vắng”.

Nàng xoay người Tiết Thái lại, nâng mặt hắn lên, dùng ánh mắt dịu dàng vô hạn cũng bi thương vô hạn, nhìn thẳng vào hắn nói:

“Đúng như lời ngươi nói, chỉ có người đẹp hơn cả Hy Hòa phu nhân mới có thể trở thành thê tử của ngươi…”.

Hàng mi Tiết Thái rung lên một cái, lên tiếng phản bác: “Ta chỉ cố ý gây khó dễ…”.

Khương Trầm Ngư mỉm cười: “Nhưng đổi lại là ta, thực sự là cảm giác ‘tằng kinh thương hải nan vi thủy’(nghĩa là “ai đã từng qua biển lớn sẽ cảm thấy nước bình thường không sao sánh được nước biển”, ví với việc trong lòng Khương Trầm Ngư không có ai được như Cơ Anh.)”.

Tiết Thái lại trầm ngâm, hàng mi dài cụp xuống, che phủ đôi mắt.

“Cho nên, Tiết Thái…”. Khương Trầm Ngư kéo tay hắn, cứ thế bốn bàn tay nắm lấy nhau, truyền hơi ấm cho nhau: “Chúng ta làm lành nhé. Có được không?”.

Bàn tay Tiết Thái run lên rõ rệt.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới để lộ một chút biểu cảm ấm ức, hạ thấp giọng nói:

“Ta có thể coi chuyện trước đây của chúng ta là cãi nhau không? Nếu như có thể, ta có thể đề nghị không cãi nhau nữa không? Tiết Thái, nếu bây giờ hỏi ta người ta không muốn mất đi trên đời này nhất là ai… câu trả lời của ta chính là ngươi”.

Hơi thở của Tiết Thái loạn nhịp rõ rệt.

“Nếu ta mất đi mẫu thân, bởi vì trong tiềm thức luôn biết sẽ có một ngày như thế, cho nên ta chuẩn bị đủ dũng khí để đi tiếp; nếu ta mất đi tỉ tỉ, tuy đau thương nhưng ta sẽ cố gắng nuôi nấng Tân Dã, để tỉ ấy không phải vương vấn; nếu ta mất đi những người khác, ta đều có đủ mọi phương thức để bù đắp và cắt bỏ; nhưng… nếu ta mất ngươi… Tiết Thái, ngươi có biết không, đối với ta, ngươi không chỉ là ngươi đâu. Ngươi là lý do ta đã yêu công tử năm mười ba tuổi; ngươi là thanh kiếm báo thù cho công tử của ta; ngươi còn là cánh tay thứ ba từ sau khi ta lên ngôi hoàng hậu Bích quốc…”.

Nói đến đây, Khương Trầm Ngư úp hai bàn tay vào nhau, bao bọc tay Tiết Thái bên trong, ánh mắt chăm chú nhìn hắn, nói rành rọt từng chữ từng chữ một:

“Số mệnh đã định đời này ta và ngươi kết duyên, thế thì, tuyệt đối không cho phép những chuyện ngoài thiên mệnh phá hỏng. Chúng ta làm lành nhé”.

Tiết Thái nhìn chằm chằm hai đôi bàn tay giao nhau rất lâu, cuối cùng, gượng gạo gật đầu một cái, coi như đồng ý.

Nụ cười lập tức thắp sáng gương mặt Khương Trầm Ngư: “Thế là nói chắc rồi nhé, ngày mai ngươi phải lên triều đấy”.

Tiết Thái khẽ “ừm” một tiếng.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn đăm đăm, thở dài buồn bã nói: “Ngươi… có lúc thật giống ca ca của ta…”.

Khóe mắt Tiết Thái bắt đầu co giật.

Khương Trầm Ngư cười phì: “Nhưng nhiều lúc ngươi lại giống tiểu đệ đệ không hiểu chuyện hơn”.

Tiết Thái lập tức rút tay từ trong lòng bàn tay nàng ra, sau đó cau mày, trừng mắt lườm nàng.

Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, cố ý chọc ghẹo: “Thực ra, ngươi biết không? Tuy làm thái hậu không thể gả cho người khác một cách quang minh chính đại, nhưng kỳ thực cũng có thể có hậu cung, thu thập một đống nam sủng. Ví như Triệu Cơ và Lao Ái đời Tần; ví như Phùng thái hậu va các thần tử

Vương Duệ Lý Xung Lý Dịch thời Bắc Ngụy, lại ví như…”.

Tiết Thái lập tức quay trở lại bên cạnh thư án, vừa lấy giấy viết thư bắt đầu viết hồi âm, vừa lạnh lùng nói: “Nếu nương nương không có chuyện gì khác thì mời về đi. Vi thần rất bận”.

Khương Trầm Ngư thấy đã đạt được mục đích, bèn mím môi cười quay người chuẩn bị rời đi. Vừa đi đến cửa, sau lưng vang lên tiếng của Tiết Thái: “Đợi đã”.

Nàng quay đầu, ánh mắt lưu chuyển: “Chuyện gì? Tiết đệ đệ?”.

Tiết Thái không có phản ứng gì với cách xưng hô này của nàng, trên khuôn mặt nhỏ nhắn, nghiêm túc hiện lên một sự thương xót kỳ lạ: “Những lời ngươi nói hôm nay, từng chữ ta đều ghi nhớ”.

“Cho nên”. Thấy hắn nghiêm trang như thế, nàng lại cảm thấy bất an.

“Cho nên, nếu sau này xảy ra chuyện gì, ngươi chỉ cần nhớ đêm nay, ngươi đã nói những lời này là đủ”.

“Hả?”. Nàng càng lúc càng không hiểu.

“Không có chuyện gì. Ngươi đi đi”. Tiết Thái nói xong, cúi đầu bắt đầu viết thư.

Khương Trầm Ngư ngơ ngác nhìn hắn một lúc, lòng biết rõ nếu hắn không muốn nói, thì dù nàng tiếp tục truy hỏi cũng chẳng ích gì, thôi bỏ đi, sớm muộn gì cũng biết thôi. Cứ nghĩ đến nàng và Tiết Thái đã giảng hòa, lòng không kìm được vui vẻ, suốt dọc đường cứ tủm tỉm cười đi ra khỏi phủ. Nàng lên xe ngựa, ngồi trong xe nhớ đến một loạt phản ứng của Tiết Thái ban nãy, nhớ đến câu nói của hắn – “Ta… chỉ là… muốn ngươi lấy chồng mà thôi…”. Trong lòng vừa ngọt ngào lại vừa chua xót.

Ngọt ngào đương nhiên là vì Tiết Thái lại nghĩ cho nàng đến mức này, một đứa trẻ cao ngạo, không coi ai ra gì như thế, lại có thể một lòng một dạ nghĩ cho nàng, ấm áp biết bao, cảm động biết bao.

Chua xót là vì đúng như hắn nói, trở thành nữ đế nàng mới có cơ hội có được mái ấm và hạnh phúc về tình cảm. Còn làm thái hậu… cái gọi là nam sủng chẳng qua chỉ là nói giỡn mà thôi. Nàng không phải là người như thế. Về điểm này, nàng biết rõ và Tiết Thái cũng hiểu rất rõ.

Mẫu thân, xin lỗi người… cả đời này của con gái, xem ra thật sự vô duyên với việc sinh con đẻ cái, cử án tề mi rồi… Vừa nghĩ tới đây, xe ngựa đột ngột dừng lại, sự va đập bất ngờ khiến nàng nhất thời không ngồi vững nổi, ngã sang một bên. Không màng tới cánh tay đau nhức, nàng vội vàng vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra hỏi: “Xảy ra chuyện…”.

Mới nói ba tiếng, thanh âm đã ngưng bặt.

Một mũi tên xé gió bay tới, cơ hồ sát sàn sạt má nàng, cắm phập vào thành xe.

Khương Trầm Ngư lập tức rụt vào trong xe, sau đó, bên ngoài vang lên tiếng hò hét của thị vệ và tiếng leng keng của binh khí va vào nhau, thỉnh thoảng còn có tiếng rên đau đớn vì bị thương, hỗn loạn vô cùng…

Khương Trầm Ngư co mình trong xe, túm chặt vạt áo của mình, không kìm được run bần bật. Lần này xuất cung chỉ là ý muốn tức thời của nàng, vì thế không mang theo nhiều hộ vệ, hơn nữa phủ Kỳ Úc hầu rất gần, cứ nghĩ là sẽ không thể xảy ra chuyện gì, chưa từng nghĩ lại bị phục kích như thế này.

Là ai?

Là ai muốn ám sát nàng?

Nhất thời, trong đầu lóe lên vô số suy nghĩ, nhưng mỗi suy nghĩ đều tàn nhẫn đến mức khiến người ta sợ hãi.

“Phập” một tiếng vang lớn, một lưỡi đao chém vào thành xe, rồi kéo mạnh một cái, cả thùng xe liền vỡ toác ra như một chiếc hộp giấy. Thành xe đổ xuống, cuối cùng Khương Trầm Ngư cũng nhìn thấy tình hình bên ngoài – Hai mươi thị vệ nàng mang theo đều ngã trên mặt đất, chết đi trong bộ dạng vô cùng đáng sợ.

Tiếng gió thổn thức trên con phố dài vắng vẻ mười mấy tên áo đen bịt mặt bao vây nàng ở giữa.

Đây là lần thứ hai trong đời Khương Tram Ngư gặp phục kích.

Lần trước là ở Trình quốc. Lần đó chí ít vẫn còn có Sư Tẩu ở bên cạnh nàng, vì thế tuy thê thảm, nhưng cũng không cảm thấy quá sợ hãi, còn lần này, lại thực sự chỉ còn lại một mình nàng.

Những người này muốn làm gì? Bọn chúng muốn có thứ gì? Nếu như có thể thương lượng, có lẽ vẫn còn một cơ hội sống… Nhưng một tên áo đen trong đó giơ tay lên làm hiệu “giết”, trái tim Khương Trầm Ngư đột ngột chìm xuống tận đáy vực sâu – Thứ chúng muốn chính là tính mạng của nàng! Cho nên hoàn toàn không cho nàng bất cứ cơ hội nào!

Nhìn thấy những tên sát thủ lao vào nàng từ bốn phương tám hướng, Khương Trầm Ngư không khỏi nhắm mắt lại một cách tuyệt vọng. Nhưng, chính trong chớp mắt nàng nhắm mắt đó, bên tai tiếng gió rít vang lên, vô số thanh âm hỗn loạn đột nhiên trỗi dậy, nỗi đau không ập đến như trong tưởng tượng, Khương Trầm Ngư ngây ra một lúc rồi mới chầm chậm mở mắt, chỉ thấy mười tên áo đen bịt mặt đó vẫn giữ nguyên tư thế lao tới, không hề nhúc nhích, nhưng trong đôi mắt để lộ ra ngoài khăn bịt mặt lại tràn ngập sợ hãi, cho thấy bọn chúng vẫn chưa chết.

Chuyện gì vậy?

Xảy ra chuyện gì..?
Last edited by tuvi on 11 Jul 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Hồi thứ hai mốt : Gấm rách (Phần 2)

Khương Trầm Ngư vội vàng quay người lại, liền thấy Chu Long.

Ngón tay của Chu Long thong thả rút về từ lồng ngực của một tên áo đen, sau đỏ nghiêng người chắp tay bái kiến nàng:

“Thuộc hạ cứu giá chậm trễ, xin nương nương thứ tội”.

“Ngươi… ngươi, ngươi từ đâu ra?”.

Trước khi nàng nhắm mắt, bốn bề chẳng có một ai, cứ cho là Chu Long khinh công giỏi hơn đi chăng nữa, cũng không thể chỉ trong nháy mắt có thể bay mười mấy trượng để xuất hiện ở đây, không những thế còn điểm huyệt, khống chế liền mười mấy người.

Chu Long vẫn cung kính như cũ, nói: “Bẩm nương nương, thuộc hạ vẫn ẩn mình phía dưới xe ngựa của nương nương”.

Khương Trầm Ngư kinh hãi nhìn chiếc xe ngựa đã bị tan nát thành bốn năm mảnh, duy chỉ có sàn xe là vẫn còn nguyên vẹn nằm trên bánh xe, cũng có nghĩa là, trước đó Chu Long nấp dưới sàn xe?

“Tại sao ngươi lại nấp dưới xe ngựa của ta? Còn nữa, bọn chúng là ai? Tại sao bọn chúng lại muốn giết ta…”.

“Những vấn đề này, để chủ nhân nói với nương nương”.

“Hả?”. Khương Trầm Ngư sửng sốt, kế đó quay đầu lại nhìn theo ánh mắt của Chu Long, liền thấy cuối phố, một đội người ngựa từ từ đi tới, thuần một sắc bạch y hiên ngang mạnh mẽ, áo khoác thêu đồ đằng.

Bạch Trạch.

Là Bạch Trạch.

Trái tim Khương Trầm Ngư thít chặt lại, sau đó nhìn thấy một bóng người nhỏ nhắn, đi sau đoàn người ngựa, đi về phía nàng một cách từ từ, khoan thai, bằng một khí độ ung dung thong thả.

“Tiết Thái…”. Là hắn.

Hắn… cũng… đến rồi…

Tiết Thái đi đến trước mặt nàng, khua khua tay, mười hai thiết kỵ bạch y lập tức xuống ngựa, trói gô những tên áo đen kia lại, lột khăn bịt mặt của chúng ra, để lộ dung mạo thực sự.

Tiết Thái đi đến trước mặt một tên, lạnh lùng cười: “La đại nhân, đã lâu không gặp”.

Người này ước chừng ngoài ba chục tuổi, thân hình vừa gầy vừa nhỏ, trên mặt còn có một nốt ruồi to bằng đồng tiền, dáng vẻ nhìn rất quen, nhưng nhất thời Khương Trầm Ngư không nhớ ra lai lịch của hắn.

Người đó giận dữ trừng mắt, mắt như sắp tóe ra lửa, nhưng khổ nỗi huyệt vị bị khống chế, không thể nói, vì thế đành căm hận lườm Tiết Thái.

Tiết Thái quay người, bình tĩnh nói một câu: “Giết”.

Thiết kỵ vâng một tiếng, tay giơ lên đao hạ xuống, đầu liền lìa khỏi cổ, một dòng máu vọt ra, bắn hết lên chiếc cột đằng sau lưng hắn.

Khương Trầm Ngư thất kinh, không ngờ Tiết Thái không thèm hỏi gì mà đã hạ thủ giết người. Còn những người áo đen khác hiển nhiên cũng bị kinh sợ trước cảnh tượng vừa rồi, mặt mày trắng bệch.

Tiết Thái chắp hai tay sau lưng, nhẩn nha đi qua trước mặt từng tên áo đen một, vừa đi vừa nói:

“Trương Đại Đông, biểu muội của ngươi vẫn còn trong kỹ viện đợi ngươi đem tiền đến chuộc cô ta à? Lục Tiểu Chu, đi theo La Dữ Hải mười năm, hắn cuối cùng cũng chịu đề bạt ngươi, chỉ tiếc võ công của ngươi chẳng tiến bộ được chút nào. Giả Tiểu Cửu, cưới con gái của Tiêu tướng quân cũng không thể giúp ngươi một bước lên trời sao? Sao còn phải tự mình đích thân đi giết người hả…”.
Mỗi khi bước qua mặt một người, hắn đều nói ra thân phận lai lịch của đối phương, nói đến mức đối phương vốn đã mặt cắt không còn giọt máu, nay lại càng mặt xám xịt như người chết.

Tiết Thái nói xong, quay người cười lạnh nói:

“Các ngươi tưởng ta sẽ dùng hình tra khảo để ép các ngươi khai ra kẻ sai khiến là ai sao? Các ngươi tưởng có thể ỷ vào bí mật này để ép ta sao? Mỗi người các ngươi, ta đều rõ như lòng bàn tay, chỗ dựa sau lưng các ngươi là ai, mục đích muốn đạt được là gì, ta cũng rõ như lòng bàn tay… cho nên, ta căn bản không cần bức cung các ngươi, cũng không cần chứng cớ gì hết. Có điều…”.

Nói đến dây hắn cố ý liếc Khương Trầm Ngư vẫn ngẩn người đứng nguyên tại chỗ một cái, trong ánh mắt lóe lên một thần sắc phức tạp, khi nhìn lại bọn áo đen, đã có thêm vài phần tà ác:

“Hôm nay tâm trạng ta khá vui vẻ, cho nên quyết định tha cho ba người trong bọn ngươi. Ba kẻ nào trong bọn ngươi lớn tiếng trước, kể lại một lượt chân tướng sự việc cho hoàng hậu nương nương của chúng ta nghe, thì ta sẽ tha cho ba kẻ đó. Những người khác, hừ”. Tuy hắn không nói những người khác sẽ làm sao, nhưng nhìn cái đầu be bét máu tươi còn lăn lóc trên mặt đất, kết cục ra sao đã rất rõ ràng.

Vì thế, bọn áo đen nhìn nhau, sợ hãi tranh nhau kêu lên: “Nương nương! Là La Dữ Hải đại nhân chỉ thị bọn thuộc hạ đến ám sát nương nương!”.

“La Dữ Hải nhận lợi lộc của Tiêu tướng quân, nói xong việc sẽ thăng cho hắn làm quan nhị phẩm…”.

“Khương quý nhân cấu kết với Tiêu tướng quân, chỉ cần trừ bỏ nương nương, phù trợ tiểu thái tử đăng cơ, Khương quý nhân sẽ dùng bọn thuộc hạ…”.

“Thuộc hạ chỉ muốn kiếm chút tiền đi cứu biểu muội mà thôi, hu hu hu hu hu…”.

Từng giọng nói vô cùng hỗn loạn trộn lẫn với nhau. Khương Trầm Ngư ngẩn ngơ đứng nguyên chỗ cũ, chỉ cảm thấy giữa trời đất rộng lớn nhường này, bỗng nhiên chỉ còn lại một mình nàng, không còn tồn tại ai khác. Nàng không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì.

Tại sao?

Tại sao tại sao tại sao tại sao?

Bọn áo đen mồm năm miệng mười, càng nói càng loạn, càng nói càng rối, cuối cùng Tiết Thái hét một tiếng:

“Dừng!”.

Những âm thanh bát nháo bấy giờ mới ngừng lại.

Tiết Thái xua xua tay, đám thiết kỵ giải những kẻ áo đen đó đi.

Bây giờ hắn mới đi đến trước mặt Khương Trầm Ngư, im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó giơ tay về phía nàng.

Rèm mi Khương Trầm Ngư run run, ánh mắt di chuyển từ bàn tay hắn lên đôi mắt hắn, rồi sau đó, đẩy tay hắn ra.

Tiết Thái để lộ biểu cảm đã đoán được trước nàng sẽ như vậy, không hề tức giận, chỉ nhìn nàng, lạnh nhạt nói:

“La Dữ Hải câu kết với Tiêu Thanh xúi giục Khương quý nhân âm mưu ám sát ngươi, vốn dự định vào ngày mười lăm tháng tám sẽ tiến hành lúc ngươi về nhà thăm người thân. Nhưng ngày đó xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Ngươi vì chấn động do hoàng thượng qua đời nên hôn mê, sau đó đóng cửa không ra ngoài, La Dữ Hải hết cách, đành nằm im chờ đợi. Mà trước lúc đó, hắn và Khương quý nhân đã ngầm mua chuộc cung nữ hầu hạ thiết thân của hoàng thượng, cho hoàng thượng uống một loại độc dược khác để y chết trước thời hạn. Cũng có nghĩa là, bắt đầu từ nửa năm trước chúng đã lên kế hoạch cho tất cả. Sau khi ta nhận được tin này, để tránh đánh rắn động cỏ, ta đành im lặng quan sát, âm thầm bố trí, không vạch trần chúng ra”.

“Sau đó ngươi đã cố ý cho họ một cơ hội”.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư đã có thể lên tiếng, nhưng giọng nói khô khốc đến mức đáng sợ:

“Ngươi thông đồng với thị nữ Hoài Cẩn của ta? Để nàng ta thuyết phục ta đến thăm ngươi và loan tin tức này ra ngoài, khiến những người kia cho rằng đã đến thời cơ, cho nên mai phục ở đây chờ ám sát ta? Có phải ngươi cảm thấy ta nên cảm ơn ngươi? Cảm ơn ngươi đã cứu ta?”.

“Ta chỉ là nói sự thực cho ngươi biết, có rất nhiều lang sói đang ngấm ngầm dòm ngó trong bóng tối, đợi chờ để cấu xé ngươi. Mà con sói lớn nhất tên là Khương Họa…”.

“Đủ rồi!”. Khương Trầm Ngư xé giọng hét lên.

Tiết Thái lần nữa biểu lộ ánh mắt thương xót đó, mấp máy môi, nhưng không nói nữa.

Khương Trầm Ngư bưng mặt, chỉ cảm thấy trong cơ thể dường như có một ngọn lửa đang thiêu đốt, bỏng cháy đến mức sắp phát nổ, buộc phải làm chuyện gì đó mới có thể phát tiết hết ra ngoài. Thế nên nàng quay sang Chu Long, trầm giọng nói: “Ngươi đưa ta về cung!”. L

ại đi đến trước mặt một thiết kỵ: “Đưa ngựa của ngươi cho ta!”.

Thiết kỵ lập tức đưa dây cương. Khương Trầm Ngư cầm lấy, quay người lên ngựa, sau đó thúc roi một cái, con ngựa trắng kêu lên đau đớn, tung vó phi điên cuồng.

Chu Long nhìn sang Tiết Thái, Tiết Thái gật đầu với hắn, Chu Long bấy giờ mới trở người lên ngựa, đuổi theo nàng.

Trên con phố dài hun hút, hai con ngựa trắng một trước một sau phi như bay, tiếng vó ngựa vang lên cộc cộc, như thể giẫm nát trái tim của con người.

Tiết Thái nhìn theo bóng hai người, ánh mắt sâu thẳm, có chút mong chờ, lại có chút bi thương.

Khương Trầm Ngư tóm chặt dây cương, không để ý tới gió táp vào mặt, thổi tung vô số lọn tóc của nàng, mái tóc dài xòa ra, bay sang tứ phía. Nàng chỉ đỏ mắt vung roi, thúc giục bạch mã phi nhanh hơn, nước mắt trào ra theo nhịp lên xuống trên lưng ngựa, mau chóng bị gió thổi khô.

Kỹ thuật cưỡi ngựa của nàng thực ra không giỏi, nhưng lúc này rạp người trên lưng ngựa lại vững vàng đến lạ thường, đến Chu Long phóng ngựa phía sau cũng có vài phần kinh ngạc.

Qua thời gian chừng một tuần trà hai người đã đến cửa cung.

Đám thị vệ trước cửa cung đang định ngăn cản, Khương Trầm Ngư vung roi ngựa: “Bọn nô tài mắt mù, đến ai gia cũng không nhận ra sao?”.

Thị vệ cả kinh thất sắc, vội vàng quỳ xuống hành lễ.

Khương Trầm Ngư xuống ngựa, vừa rảo bước đi vào trong vừa hét lên: “Tất cả quỳ xuống cho ta! Quỳ tại chỗ không được nhúc nhích!”.

Mấy tên thị vệ định lén lút quay người chuồn đi lập tức sợ đến mức quỳ phịch xuống.

“Kẻ nào dám ngông cuồng cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”.

Nàng bản tính dịu dàng, hiếm khi nghiêm khắc như lúc này, bây giờ, ba tiếng “chém” liên tiếp vang lên, tất cả bọn người đang quỳ đều cảm thấy sát khí đằng đằng ập thẳng vào mặt chúng.

Khương Trầm Ngư không nhìn bọn người đang quỳ trên đất, mà tự mình sải bước tiến về phía trước. La Hoành nghe tin vội vã chạy đến, vừa kêu một tiếng nương nương, đã bị một roi của nàng làm cho sợ mất mật, lập tức quỳ xuống.

“Ta nói lại một lần nữa”. Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn quanh, nói từng tiếng rành rọt: “Trừ Chu Long ra, tất cả kẻ khác, kẻ nào dám cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”.

Mọi người nhìn thấy ngay đến La Hoành là người có quyền thế lớn nhất trong cung cũng quỳ xuống, nhất thời sợ đến mức không dám thở, toàn thân run bần bật, cúi gằm mặt không dám ngẩng lên.

Khương Trầm Ngư đi như bay đến Gia Ninh cung.

Hai cung nữ trước điện nhìn thấy nàng, đang định mở miệng, nàng đã vung roi quất mạnh vào khoảng không bên cạnh hai cung nữ, khiến chúng nhất thời phù dung thất sắc, quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư nhấc bước, đẩy cửa điện, trong nhà, Khương Họa Nguyệt đang đắp chăn cho Tân Dã, nghe tiếng động ngẩng đầu lên, nhìn thấy nàng, sắc mặt rõ ràng trắng bệch, nhưng rất mau đã lộ một nụ cười, nói: “Muội muội… sao lại đến… giờ này?”.

Khương Trầm Ngư sầm mặt đi vào trong, quét mắt nhìn bọn cung nhân khác trong phòng một lượt, lạnh lùng hạ lệnh:

“Tất cả các ngươi lui ra, quỳ hết ở bên ngoài, ta không gọi, không được phép vào”.

Đám cung nhân liền nhìn Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư nhăn mày một cái, gọi một tiếng: “Chu Long”.

Chu Long lập tức tiến lên trước, mỗi tay một người, hai tiếng vèo vèo vang lên, cung nhân bị ném ra khỏi cung, chúng rên lên thảm thiết, cũng không biết là bị văng đến đâu. Những người còn lại thấy cảnh này nào còn dám do dự, bèn lần lượt lui hết. Chỉ có * nuôi đang bế Tân Dã vẫn còn chần chừ. Khương Trầm Ngư lập tức liếc nàng ta một cái lạnh như băng:

“Ngươi cũng cút ra”.

“Vâng…”. * nuôi run lập cập bồng Tân Dã ra ngoài. Khi đi qua nàng, Khương Trầm Ngư bỗng giơ tay chặn lại: “Bỏ thái tử xuống”.

“Cái, cái gì ạ?”. * nuôi vẫn còn chấn động, kinh hãi, Chu Long đã ẵm Tân Dã ra khỏi lòng nàng ta trong nháy mắt, động tác nhanh chóng nhẹ nhàng, Tân Dã vẫn đang say ngủ không hề tỉnh giấc.

“Trả con lại cho ta!”.

Khương Họa Nguyệt lập tức cuống lên, xông lên phía trước muốn ngăn cản, Khương Trầm Ngư lại tóm lấy cánh tay nàng ta, miệng nói:

“Các ngươi lui hết ra”.

Chu Long một tay bế Tân Dã, một tay tóm * nuôi, lôi * nuôi ra khỏi cung, sau đó “cạch” một tiếng, cửa cung nặng nề đóng lại.

Khương Họa Nguyệt giãy giụa thét lên: “Trả con lại cho ta! Các ngươi muốn làm gì? Các ngươi to gan thật đấy, dám động thủ với cả thái tử!”.

Khương Trầm Ngư bỗng buông tay, Khương Họa Nguyệt không kịp thu lực về, trong nháy mắt lao về phía trước, ngã lăn ra đất, khi quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự sợ hãi:

“Trầm Ngư! Muội muốn làm gì? Muội muốn làm gì hả?”.

“Muội muốn làm gì à?”. Trên gương mặt trắng trẻo của Khương Trầm Ngư không bộc lộ chút biểu cảm nào, nhìn tỉ tỉ mà mình trân trọng nhất cũng bảo vệ nhất, trong lòng tràn ngập sự lạnh lẽo:

“Trái lại muội đang muốn hỏi tỉ tỉ, tỉ muốn làm gì?”.

“Cái, cái gì?”.

Khương Họa Nguyệt thoáng chột dạ, nhưng vẫn cứng miệng nói:

“Ta, ta không biết muội đang nói gì! Tối đến mà muội điên cái gì thế, mau trả Tân Dã lại cho ta…”.

“Tỉ tỉ cũng biết là trời tối, trăng mờ gió lặng đêm đen, thích hợp để phát điên, cũng thích hợp để giết người, có phải không?”.

Khương Họa Nguyệt tiếp tục giả ngốc: “Ta không nói chuyện phiếm với muội, ta phải đi tìm Tân Dã…”. Nói đoạn đi ra cửa.

Khương Trầm Ngư lạnh lùng nói: “Người tỉ muốn tìm bây giờ không phải là Tân Dã, mà là bọn Trương Đại Đông, Lục Tiểu Chu, Giả Tiểu Cửu đúng không?”.

Toàn thân Khương Họa Nguyệt run bắn, bước chân dừng lại.

“Ồ, không đúng, đó chỉ là bọn tiểu tốt thôi, có lẽ tỉ chưa từng nghe tên, thế hai cái tên sau chắc chắn tỉ biết: La Dữ Hải, Tiêu Thanh”.

Mỗi lần Khương Trầm Ngư nói ra một cái tên, mí mắt Khương Họa Nguyệt liền giật giật, ngón tay cũng không tự chủ được run lên bần bật.

Khương Trầm Ngư quan sát phản ứng này của nàng ta, trong lòng càng thất vọng, sau khi thất vọng lại là đau lòng đến cùng cực. Trong sâu thẳm nội tâm có nơi nào đó nứt ra một kẽ hở, bắt đầu rỏ máu ròng ròng. Còn nàng chỉ có thể cố gắng chịu đựng, không thể kêu đau, cũng không thể chữa trị.

“Tại sao?”. Khương Trầm Ngư lên tiếng, từng từ đều như thấm đẫm máu tươi:

“Tại sao phải đối xử với muội như thế? Tỉ tỉ?”.

Khương Họa Nguyệt đứng yên không nhúc nhích, trầm ngâm một lúc lâu, sau đó bắt đầu cười lạnh:

“Tại sao? Muội nói thử xem?”.

“Muội không biết, cho nên muội mới phải hỏi tỉ! Muội đã chuẩn bị để đưa Tân Dã lên ngôi, nó sắp trở thành hoàng đế Bích quốc, còn tỉ, mẹ đẻ của nó, sẽ cùng muội chia sẻ vinh quang này…”.

“Rất tốt, cuối cùng muội đã nói đến mấu chốt của vấn đề!”.

Khương Họa Nguyệt ngắt lời nàng, mày mắt thanh tú, một khi thâm trầm là trở nên tàn nhẫn không thể nói hết được:

“Sự thực thì căn bản ta không muốn chia sẻ với muội. Hay nói cách khác muội dựa vào cái gì mà đòi chia sẻ cùng ta?”.

“Tỉ tỉ…”.

“Đừng gọi ta như thế!”. Khương Họa Nguyệt cắn môi cười gằn:

“Mỗi lần nghe muội gọi ta dịu dàng như thế, tỏ vẻ thân thiết như thế, ta đều thấy buồn nôn! Từ lâu ta đã ghê tởm muội rồi, Khương Trầm Ngư ạ!”.

Lông mi Khương Trầm Ngư rung rung, một sự thực bắt đầu trồi lên mặt nước: Họa Nguyệt, nàng ta biết rồi…

“Căn bản ta không phải tỉ tỉ của ngươi! Không phải sao? Ngươi đã biết điều này từ lâu rồi!”. Khương Họa Nguyệt cuối cùng đã nói câu này ra.

Thế nên, một loạt sự kiện mờ mịt trong đầu Khương Trầm Ngư đã trở nên rõ ràng trong nháy mắt, từng chuyện từng chuyện đều xếp hàng cạnh nhau theo trình tự lớp lang, có thể nhìn thấy rõ rệt.

Nàng ra sức đè nén muôn vàn cảm xúc rối ren trong lòng, hỏi: “Làm sao tỉ biết được..? Là Đỗ Quyên nói cho tỉ sao?”.

Ngẫm đi ngẫm lại, cũng chỉ có Đỗ Quyên có thể tiết lộ tin này cho nàng ta. Khi ấy, Đỗ Quyên quả nhiên nói dối, nàng ta lưu lại đế đô là vì có mưu đồ khác, nàng ta đã muốn báo thù cho cha mẹ nuôi, thì tuyệt đối không thể buông tha cho Khương gia, mà trong tình hình đại cục đã ổn định, cách duy nhất có thể báo thù Khương gia chỉ có Họa Nguyệt.

Đúng rồi, nàng ta nói sự thực cho Họa Nguyệt. Thế nên, Họa Nguyệt đã sụp đổ lại bị người khác xúi giục, liền làm chuyện ngu xuẩn này.

Quá ngu xuẩn, quá ngu xuẩn, quá quá ngu xuẩn!

Cơ thể Khương Trầm Ngư vì quá thất vọng và phẫn nộ mà bắt đầu run rẩy.

Còn Khương Họa Nguyệt bên cạnh hiển nhiên đã nhận ra phản ứng của nàng, căm giận nói: “Là ai nói cho ta không quan trọng! Quan trọng là bao nhiêu năm qua, bao nhiêu năm như thế! Cuộc đời ta là cái gì? Ngươi nói cho ta biết, rốt cuộc là cái gì đây? Tại sao trong ba huynh muội ta không được yêu chiều nhất! Tại sao phải đưa ta tiến cung! Tại sao tiến cung rồi ta lại không được phép có thai, hóa ra chính cha ngươi đã bỏ thuốc vào đồ ăn của ta! Muốn ta không thể có thai! Khương Trọng, ông ta có còn là con người không? Ngươi nói cho ta biết, ông ta có phải là con người không?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư đau như bị ai bóp chặt, nhất thời nói không nên lời, còn Khương Họa Nguyệt lại coi đó là sự thừa nhận, cười càng bi thảm thê lương hơn:

“Nhưng ông trời có mắt để Họa Nguyệt ta vẫn có giống rồng trong muôn vàn hãm hại như thế! Hừ, ha ha, ha ha ha ha ha. Cả đời lão cáo già Khương Trọng cũng có lúc tính sai! Mà sai lầm lớn nhất của ông ta chính là ta phúc lớn mạng lớn, không bị khó sinh mà chết, trái lại còn sinh hạ thái tử một cách thuận lợi!”.

Khương Trầm Ngư nhớ đến cái ngày đó, cuối cùng Họa Nguyệt đã sinh Tân Dã một cách bình an, khi ấy nàng vào thăm nàng ta, nàng ta ôm nàng khóc nói xin lỗi, khi đó nàng thật sự tưởng rằng đã khổ tận cam lai, thật sự tưởng rằng có thể hòa thuận với tỉ tỉ như thuở ban đầu, thực sự tưởng rằng từ đây mặt trời ló khỏi làn mây, không còn vướng mắc gì nữa…

Ngây thơ làm sao.

Mình ngây thơ làm sao…

Khương Họa Nguyệt nhìn nàng, bỗng từ bi thương chuyển thành cay nghiệt:

“Khương Trầm Ngư, ngươi tưởng rằng ngươi đưa Tân Dã lên ngôi là ta sẽ cảm kích ngươi sao? Thật nực cười, lẽ nào đây chẳng phải là chuyện chính đáng sao? Tân Dã là huyết mạch duy nhất của hoàng thượng, hoàng thượng chết rồi, ngôi báu vốn là của nó, chẳng phải sao? Còn ngươi, một nữ nhân còn chưa từng gần gũi với hoàng thượng, dựa vào cái gì mà đòi sánh ngang với ta? Ngươi biến hoàng thượng thành bộ dạng người không ra người quỷ không ra quỷ, uy hiếp thiên tử để sai khiến chư hầu bao nhiêu năm qua, đã đủ rồi. Ngươi còn muốn bá chiếm vị trí đó đến già sao?”.

“Cho nên tỉ đã giết hoàng đế, sau đó còn muốn giết muội?”. Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng hỏi.

Trong mắt Khương Họa Nguyệt nổi lên sự chột dạ trong tích tắc, nhưng nhanh chóng biến thành lạnh lùng:

“Đúng thế. Dù sao hoàng thượng cũng đã thành ra thế, chẳng thà cho hoàng thượng đi sớm một chút thì hơn. Tình nghĩa phu thê, cũng coi như là ta không xử tệ với người”.

Giọng nói của Khương Trầm Ngư càng trầm thấp, mơ hồ:

“Thế còn muội thì sao? Tỉ có đối tốt với muội không? Khương gia dẫu không phải với tỉ như thế nào, nhưng tỉ tự hỏi lòng mình xem, Khương Trầm Ngư muội đối với tỉ ra sao?”.

Khương Họa Nguyệt nhìn nàng chòng chọc, sau đó lắc đầu:

“Khương Trầm Ngư à Khương Trầm Ngư, xem ra ngươi vẫn không biết mình rốt cuộc đã làm sai điều gì… Ồ không, phải nói là ngươi luôn luôn vô tội như thế, luôn luôn lương thiện, xưa nay chỉ có người khác có lỗi với ngươi, không có chuyện ngươi có lỗi với người khác… Thật nực cười! Ngươi làm những gì tự ngươi là người rõ nhất! Cái khác không nói, chỉ việc ngươi và ả Hy Hòa liên kết với nhau hạ độc hoàng thượng đã đủ cho ngươi bị chém muôn đao rồi!”.

Khương Trầm Ngư bất giác lùi lại một bước.

Ngũ quan của Khương Họa Nguyệt bắt đầu rúm ró, đầy vé oán hận:

“Ngươi vì tên nam nhân không yêu ngươi Cơ Anh lại dám hạ độc thiên tử đương triều; là thần tử, ngươi tội không thể tha! Ngươi lại vì một nam nhân khác mà hạ độc chồng của mình, là vợ, ngươi đáng bị thả rọ trôi sông! Ngươi vì một người ngoài, lại dám giết chết tỉ phu của mình, là muội muội, ngươi còn có mặt mũi nào gặp ta! Còn mạnh miệng nói không có lỗi với ta! Ngươi giết chồng ta cũng có nghĩa là hủy hoại một đời của ta!”.

Khương Trầm Ngư lại lùi ra sau một bước nữa.

“Ngươi nhìn xem, chậc chậc, vẻ mặt thật vô tội, ngươi có biết không? Mỗi lần nhìn thấy vẻ mặt này của ngươi là ta cảm thấy buồn nôn, ta buồn nôn chết đi được, rất rất buồn nôn!”. Khương Họa Nguyệt vừa nói, vừa làm điệu bộ nôn ọe.

Khương Trầm Ngư run run nói: “Cho nên, tỉ liên kết với người ngoài để giết muội?”.

“Người ngoài? Thế nào là người ngoài? Nếu như ngươi chỉ người không có cùng huyết thống, thì chẳng phải ngươi cũng là người ngoài sao? Khương Trầm Ngư”. Khương Họa Nguyệt cố ý gọi ba tiếng này rất nặng nề, trong giọng nói tràn ngập sự mỉa mai.

“Thế thì, muội có thể hỏi tỉ một câu, muội chết đi rồi, tỉ sẽ thu dọn tàn cuộc như thế nào?”.

Khương Họa Nguyệt sững người ra một lát, sau đó tỏ vẻ cứng cỏi, nói lớn: “Tàn cuộc cái gì? Ngươi chết rồi, đương nhiên ta phù trợ Tân Dã làm hoàng đế…”.

Giọng của Khương Trầm Ngư trong chốc lát át giọng nàng ta:

“Sau đó tỉ sẽ danh chính ngôn thuận được tấn phong làm thái hậu lâm triều xử lý chính sự, đợi đến khi Tân Dã trưởng thành có thể một mình cáng đáng, sẽ trả lại quyền lực cho nó. Tỉ cho rằng sẽ là như thế sao?”.

“Ngươi có ý gì?”. Khương Họa Nguyệt trừng mắt nhìn nàng đầy cảnh giác.

Lần này đến Khương Trầm Ngư cười giễu cợt.

“Ngươi cười cái gì?”.

Khương Trầm Ngư lại cười một tiếng.

“Rốt cuộc ngươi cười cái gì?”. Khương Họa Nguyệt nổi giận.

“Muội cười tỉ quả nhiên là một nữ nhân ngu xuẩn. Hơn nữa, không thể không nói là nữ nhân ngu xuẩn nhất mà muội gặp trong đời”.

“Ngươi nói cái gì?”. Khương Họa Nguyệt tức đến nỗi lao đến muốn đánh nàng, nhưng Khương Trầm Ngư nhẹ nhàng tránh ra, nàng ta liền bị hẫng, ngã lăn ra đất.

Khương Trầm Ngư cứ thế từ trên cao nhìn xuống nàng ta, vẻ mặt lạnh nhạt, nhưng lại có sức mạnh sát thương hơn bất cứ sự khinh bỉ, châm biếm nào:

“Tỉ tưởng rằng chuyện trong cung đơn giản giống như chuyện nhà tỉ sao? Đánh chửi mấy tên người hầu, quản giáo thần tử một chút là có thể khiến bọn họ ngoan ngoãn nghe lời, làm theo mệnh lệnh của tỉ sao? Tỉ tưởng rằng La Dữ Hải và Tiêu Thanh nghe theo tỉ, chỉ cần tỉ hứa cho chúng vinh hoa phú quý là chúng sẽ trở thành chó ngựa của tỉ sao? Tỉ tưởng rằng một nữ nhân vừa bồng con vừa xử lý quốc sự, có thể bao quát hết sao?”.

Nàng còn chưa nói hết, Khương Họa Nguyệt đã hét lên: “Khương Trầm Ngư, ngươi đừng coi thường ta, chuyện ngươi có thể làm được, ta cũng có thể!”.

“Muội có Tiết Thái. Tỉ có không?”.

Một câu lạnh lùng của Khương Trầm Ngư khiến Khương Họa Nguyệt chấn động nặng nề: “Tỉ không thực sự cho rằng cỡ bọn La Dữ Hải và Tiêu Thanh có thể sánh với Tiết Thái đấy chứ? Tiết Thái là tân chủ nhân của Bạch Trạch, còn Bạch Trạch nghĩa là gì ở Bích quốc, hẳn tỉ cũng hiểu rõ”.

Khương Họa Nguyệt “hừ” một tiếng, rất lâu sau mới nói: “Ngươi cho rằng Tiết Thái luôn nghe theo ngươi sao? Nếu như ta thả cô cô của nó ra khỏi lãnh cung, cho dù nó không giúp ta, nhưng chí ít cũng có thể không đối địch với ta”.

“Được, cứ cho là như thế đi. Nhưng muội còn cả Khương gia làm chỗ dựa, tỉ có không?”.

“Ngươi!”.

“Muội văn có Tiết Thái, võ có Phan Phương, trên triều dã còn có Khương thị, ngoài triều dã còn có Giang Vãn Y, những người này… tỉ đều có chứ?”.

“Ngươi! Những kẻ đó có gì ghê gớm, ta cũng có thể dần dần mua chuộc!”.

“Muội còn có giao tình với Nghi vương, Yên vương, tỉ có chứ?”.

“Ngươi…”.

“Điểm cuối cùng…”.

Khương Trầm Ngư đi về phía nàng ta một bước, mắt chằm chằm nhìn nàng ta không chớp, lạnh lùng nói:

“Toàn bộ những người tỉ sai đi giết muội đều chết cả rồi. Còn muội, vẫn đứng yên lành ở đây, hạ lệnh cho tất cả mọi người trong cung đều quỳ xuống, không có lệnh không được phép đứng lên, còn bế con trai của tỉ, hoàng đế tương lai của Bích quốc đi… Đây chính là khoảng cách giữa hai chúng ta”.

“Ngươi!”. Khương Họa Nguyệt lanh lảnh thét lên, lại nhào tới lần nữa.

Lần này, Khương Trầm Ngư không tránh, mà vung tay tóm cánh tay của nàng ta thật chặt.

Tuy Khương Trầm Ngư không biết võ công, nhưng chuyến đi Trình quốc trước đó đã rèn luyện cho nàng nhãn quang tinh chuẩn, xúc cảm nhanh nhạy, người ở lâu trong cung như Khương Họa Nguyệt làm sao có thể bì được, vì thế bị Khương Trầm Ngư tóm chặt cánh tay, Khương Họa Nguyệt không thể nào cựa quậy nổi.

“Để muội nói cho tỉ hay, nếu như muội chết đi sẽ xảy ra chuyện gì”.

Khương Trầm Ngư áp sát nàng ta, giữ một khoảng cách có thể cảm nhận được hơi thở của đối phương, chậm rãi nói bằng một giọng nói cực kỳ kiên định:

“Sự tình sẽ là: Muội chết rồi. Tân Dã đích thực sẽ trở thành hoàng đế của Bích quốc, còn tỉ cũng đích thực sẽ đươc tấn phong thành thái hậu, nhưng, hai người cô nhi quả phụ, cần người không có người, cần quyền không có quyền, khắp triều văn võ bá quan không ai không là thuộc hạ của muội, căn bản sẽ không nghe theo mệnh lệnh của tỉ. Mà hai kẻ La Tiê tỉ dựa vào, sẽ nhân thế mà sách nhiễu, đòi tỉ chức vụ cao hơn nữa, quyền lực nhiều hơn nữa, nếu tỉ ngoan ngoãn nghe lời thì còn tốt, một khi tỉ kháng cự, chúng hoàn toàn có thể giam cầm tỉ, sau đó, lấy danh nghĩa của tỉ, thích làm gì thì làm. Chúng sẽ tranh quyền đoạt vị với những thần tử khác, nếu thắng, tỉ sẽ là con rối trong tay chúng, nếu thua, tỉ và Tân Dã đều biến thành đồ bồi táng, khiến thiên hạ đại loạn…”.

“Ngươi, ngươi, ngươi…”. Khương Họa Nguyệt thét ầm lên: “Ngươi nói bậy!”.

“Muội có nói bậy không, trong lòng tỉ rất rõ”.

Khương Trầm Ngư đẩy mạnh một cái, Khương Họa Nguyệt lại ngã lăn ra đất. Khương Trầm Ngư nhìn nàng ta nằm sóng soài trên mặt đất, nhớ đến mình đã từng tranh cãi với phụ thân giữ mẹ hay giữ con đến mức mặt đỏ tía tai; nhớ đến trước lúc đi Trình quốc mình đã từng ôm nàng ta vừa tuyệt vọng lại tràn đầy dịu dàng; nhớ đến hết thảy hết thảy chuyện thời thiếu nữ… Dường như tất cả đã như cách cả một cuộc đời.

“Tỉ coi thiên hạ là cái gì? Tỉ coi thời thái bình thịnh thế khó khăn lắm mới có được này là cái gì? Thậm chí… tỉ coi Tân Dã là cái gì? Tỉ vì lòng riêng của bản thân, đặt nó vào một hoàn cảnh nguy hiểm như thế, để bọn tặc tử La, Tiêu thao túng tiền đồ của nó, khiến nó trở thành trò cười của bốn nước! Khương Họa Nguyệt, tỉ có phải con heo không? Không, đến heo cũng thông minh hơn tỉ, căn bản tỉ làm gì có chút đầu óc nào! Mà một kẻ vô trí, vô năng, vô đức, vô sỉ, không thuốc chữa như tỉ, cũng dám tranh với ta, thực là sỉ nhục ta!”. Khi thốt ra câu cuối cùng, nước mắt Khương Trầm Ngư bất giác lăn xuống, nhưng không phải vì bản thân, mà là vì Tân Dã, còn vì Khương Họa Nguyệt, thậm chí là vì… giang sơn Bích quốc này.

Nàng hít một hơi thật sâu, tiến lên mở cửa cung.

Gió đêm lập tức tràn vào, Khương Trầm Ngư cứ im lặng đứng ở bậu cửa như thế, nhìn đám cung nữ thái giám vẫn quỳ bên ngoài, không dám cử động, ánh mắt lạnh băng, từ tốn nói:

“Truyền ý chỉ của ai gia: Khương quý nhân thiếu đức hạnh, không đáng đảm đương việc giáo dục thái tử. Từ ngày hôm nay, thái tử do ai gia tự chăm sóc, chưa được sự cho phép của ai gia, không cho phép Khương quý nhân gặp thái tử, càng không cho phép quý nhân ra khỏi cửa một bước!”.

“Tuân chỉ…”.

“Tuân chỉ…”.

“Tuân chi…”.

Tiếng “tuân chỉ” lần lượt truyền vang, cùng với tiếng kêu thất thanh hoảng loạn của Khương Họa Nguyệt trong điện, lồng khít một cách kỳ dị với mộng cảnh mà Khương Trầm Ngư đã từng mơ trước đó…

Ta mơ thấy rất nhiều cung nữ thái giám xông vào Gia Ninh cung ôm Tân Dã đi, nói là phải giao cho hoàng hậu, cũng chính là ta nuôi dưỡng. Khi đó tỉ tỉ ngã dưới đất, vừa khóc vừa bò lên phía trước, muốn đòi lại con của tỉ ấy, nhưng vô ích. Sau đó, tỉ ấy phát điên, bị nhốt sau hàng rào, đầu tóc xõa xượi, mặt mày đẫm lệ gào: “Trả lại con cho ta, trả lại con cho ta…”.

Mệnh trời… không thể trái.

Khoảnh khắc này, trong lòng Khương Trầm Ngư bỗng dâng trào một nỗi sợ hãi trước vận mệnh.

Rất nhiều chuyện, cho dù ngươi có không tình nguyện thế nào, không cam tâm thế nào, thậm chí không nỡ thế nào vẫn sẽ từng bước từng bước, bị ép đến cảnh khốn cùng, ép đến mức ngươi không thể không phản kháng, không thể không từ bỏ, không thể không sắt đá, biến thành một người hoàn toàn khác.

Một người cực kỳ lạnh lùng tàn khốc, nhưng lại là người thành công sau cùng.

Khương Trầm Ngư không để ý tới tiếng kêu gào thảm thiết của Khương Họa Nguyệt nữa, mà trở về n Phái cung với một vẻ mặt nặng nề như thể cái chết cũng không thể khiến nàng sợ hãi, sau đó nói với cung nhân: “Các ngươi lui cả cho ta”.

Cung nhân lần lượt lui ra.

Hoài Cẩn trước khi đi còn nhìn nàng một cái, tựa như muốn biện bạch điều gì, nhưng sau khi nhìn thấy biểu cảm của nàng, nàng ta lựa chọn im lặng, ngoan ngoãn cúi đầu đi ra.

Cánh cửa nặng nề từ từ được đóng lại.

Ánh đèn chiếu từ bốn phương tám hướng, soi sáng toàn bộ căn phòng, không có góc tối nào. Còn Khương Trầm Ngư tắm trong ánh đèn sáng trưng như ban ngày, im lặng ngồi một lúc, sau đó đi đến trước một bình hoa, tóm lấy, ném mạnh về phía tường một cái, “choang choang”, chiếc bình hoa vỡ tan.

Nàng lại đi đến bên những chiếc bình hoa khác, nhấc lên, ném một cái; nhấc lên, ném một cái; nhấc lên… choang choang, choang choang, choang choang… Không lâu sau, trên mặt đất toàn mảnh gốm vỡ. Còn nàng vẫn không ngừng nghỉ, xông đến kéo ghì bức rèm trướng, dùng sức xé toang.

Xoẹt xoẹt xoẹt… Không đủ! Không đủ! Như thế còn lâu mới đủ!

Những âm thanh này hoàn toàn không thể làm tiêu tan nỗi thống khổ trong lòng nàng! Còn có gì nữa! Còn có gì nữa?

Khương Trầm Ngư nhìn quanh, những thứ có thể ném đã ném hết, những thứ có thể xé đã xé hết, những thứ có thể đập đã đập hết, đập đến mức không còn gì để đập như thế, xé đến mức không còn gì để xé như thế, phá đến mức cả một gian nhà ngổn ngang vỡ vụn xong, nàng cũng không thể chịu đựng được, vật ra đất mà khóc thất thanh.

Rõ ràng tất cả đều có thể ổn thỏa!

Rõ ràng vốn có thể rất hạnh phúc!

Thậm chí nàng đã lựa chọn từ bỏ tương lai của mình để chuẩn bị trút mọi tâm huyết vào Tân Dã, bảo vệ nó, bảo vệ giang sơn Bích quốc, cùng tỉ tỉ sống tiếp cuộc sống tương thân tương ái…

Tại sao phải ép nàng?

Tại sao phải đích thân đập vỡ giấc mộng tươi đẹp nhất của nàng trước mặt nàng, để nàng nhìn thấy sự thực trần trụi, máu me, mỗi một chi tiết đều thấm đẫm sự bẩn thỉu và xấu xí!

Tại sao?

Tại sao tại sao?

Tại sao tại sao tại sao?

Bấy giờ lời Tiết Thái nói lại vang lên, cuối cùng nàng đã hiểu tại sao hắn lại gọi nàng lại, sau đó nói với nàng: “Nếu sau này xảy ra chuyện gì, ngươi chỉ cần nhớ đêm nay, ngươi đã nói những lời này là đủ”.

Hắn đã cho nàng uống thuốc trước để nàng có chút sức đề kháng khi cơn đau ập đến, nhưng hắn lại không biết rằng liều thuốc đó căn bản vô hiệu, nàng vẫn đau đớn đến mức xé gan xé phổi, đau đến mức ruột gan đứt đoạn, đau đến mức hận không thể một ngàn lần, một vạn lần, chết đi như thế này!

Bởi vì quá đau khổ, một suy nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu, nàng nhẹ nhàng hỏi: “Ta có thể lại tha thứ cho Họa Nguyệt một lần nữa hay không?”.

Lại tha thứ một lần nữa, sau đó, tất cả đều bước tiếp theo viễn cảnh mà nàng đã tính toán lúc đầu…

Tân Dã vẫn là hoàng đế.

Nàng và Họa Nguyệt vẫn là thái hậu.

Thiên hạ thái bình, triều thần hòa thuận, tất cả đều thuận lợi.

Chỉ cần nàng chịu quên đi chuyện xảy ra trong đêm nay, lại tha thứ cho Họa Nguyệt một lần nữa.

Khương Trầm Ngư bắt đầu bò lên phía trước, dùng cánh tay nhích cơ thể đang cứng đơ của mình lên trước từng chút từng chút một, nhích qua mặt đất đầy những mảnh vỡ, không quan tâm đến bản thân máu me be bét.

Nếu như đau đớn như thế này, thế thì, tha thứ cho Họa Nguyệt chẳng phải tốt hơn sao?

Tha thứ cho nàng ta, không oán hận nàng ta muốn giết mình, không tính toán chuyện nàng ta ích kỷ như thế, không để ý nàng ta ngu xuẩn như thế… tha thứ cho nàng ta!

Khương Trầm Ngư thét lên chói tai, tròng mắt cũng không chịu nổi thứ áp lực đang thít chặt nàng này, nàng bắt đầu lớn tiếng gào thét khóc lóc.

Khóc đến mức muốn nôn cả trái tim ra ngoài.

Khóc đến mức muốn phun toàn bộ máu huyết ra ngoài.

Khóc đến mức dường như đã đau thương hết nỗi đau thương của mười kiếp, không hề kiềm chế.

Mà trong tiếng khóc đau đớn tột cùng đó của nàng, cửa cung nhẹ nhàng mở ra, một người xuất hiện trước cửa dưới ánh đèn.

Khương Trầm Ngư không ngẩng đầu, cũng không ngừng khóc, tiếp tục kêu gào.

Người đó đóng cửa cung lại, sau đó bước từng bước một, rất chậm nhưng rất vững chãi tiến về phía nàng, cuối cùng dừng trước mặt nàng.

Khương Trầm Ngư nhìn thấy hài của người ấy, một đôi hài trắng nhỏ, mũi hài còn thêu đồ đằng, nhưng không phải là Bạch Trạch, mà là phượng hoàng. Phượng hoàng màu vàng kim, lửa đỏ rực rỡ, dường như thiêu đốt cả mắt nàng.

Nàng chật vật, gắng gượng, yếu ớt ngẩng đầu lên.

Trong tầm mắt là khuôn mặt dịu dàng lạ lùng của Tiết Thái: Hắn nhìn nàng, ánh mắt long lanh như thủy tinh, cuối cùng giơ tay ra, đỡ lấy đầu nàng.

“Xưng đế đi”.

Tiết Thái nói như thế.

Khương Trầm Ngư phát ra một tiếng kêu rên thật dài.

“Chỉ khi ngươi thực sự có đủ sức mạnh áp chế tất cả, mới có thể đích thân tạo ra hạnh phúc mà ngươi muốn”. Tiết Thái nói đoạn nước mắt chầm chậm trào ra khỏi hốc mắt: “Xưng đế đi”.

Nước mắt của hắn nhỏ xuống gương mặt của Khương Trầm Ngư, thế nên, Khương Trầm Ngư đang khóc thảm thiết đã nín một cách lạ kỳ.

Không có gió mà cung đăng lắc lư chao đảo, trong nháy mắt, trong n Phái cung, quang ảnh trùng trùng.

Một tháng sau, vào buổi chạng vạng, một cỗ xe ngựa bí mật lao ra khỏi cửa cung, đến một khu vườn ở ngoại ô.

Nửa canh giờ sau, một cỗ xe ngựa khác cũng tiến vào khu vườn này.

Người trong xe cúi người xuống xe, người cầm đèn dẫn lối vẫn là Hoài Cẩn.

“Bệ hạ, xin đi theo nô tì”.

Cùng một lối mòn nhỏ quanh co, ngoằn ngoèo trải dài. Cùng một quý khách áo bào hoa gấm, im lặng đi sau. Cùng một tiếng đàn chậm rãi vẳng ra từ trong nhã xá, nhưng biểu cảm của vị khách hôm nay trong chốc lát lại trở nên bi thương.

Hoài Cẩn dẫn chàng đến trước cửa, khom mình nói: “Nô tì đưa đến đây, mời bệ hạ tự mình vào bên trong”.

Đến câu này cũng giống y lần trước.

Trong lòng vị khách khe khẽ thở dài, đẩy cửa phòng bước vào bên trong.

Lần này, tiếng đàn không ngưng, nhưng người gảy đàn lại đặt cây đàn ở một vị trí khác, không bày ở sánh ngoài mà là ở gian trong.

Bức bình phong chắn giữa gian ngoài và gian trong cũng được dẹp, chỉ buông một mức rèm mỏng.

Cách tấm rèm lụa, có thể nhìn thấy Khương Trầm Ngư đang cúi đầu gảy đàn bên trong, tiếng đàn càng làm lòng người đắm say.

Khách đến lặng im lắng nghe, không nói một lời, cho đến khi nàng đàn xong bản nhạc, mới nhẹ nhàng vỗ tay.

Khương Trầm Ngư thu tay, chăm chú nhìn người mới đến, giây sau mới khẽ nói: “Ngài vẫn đến, bệ hạ”.

“Ta vẫn đến”.

“Ta cứ tưởng ngài sẽ không đến”.

Hách Dịch cúi đầu, cười khổ một lát: “Ta cũng tưởng mình sẽ không đến”. Nói đoạn ngồi xuống cạnh chiếc bàn ở gian ngoài. Trên bàn đặt một bình trà, chàng cầm chén lên tự rót cho mình, không ngờ, sau khi rót ra phát hiện lại là rượu.

Chàng hơi bất ngờ ngước nhìn Khương Trầm Ngư: “Đêm lạnh khách tới rượu thay trà sao?”.

“Có lẽ là vì ‘Chủ nhân ví biết mời say khách. Non nước đâu là chẳng cố hương (Câu thơ nổi tiếng của Nguyên Chẩn, nghĩa là “ai đã từng qua biển lớn sẽ cảm thấy nước bình thường không sao sánh được nước biển”, ví với việc trong lòng Khương Trầm Ngư không có ai được như Cơ Anh )”.

“Nàng muốn ta...? Tại sao?”.

“Bởi vì…”. Giọng Khương Trầm Ngư trở nên mơ màng: “Có một số chuyện, có lẽ chỉ khi say ta mới dám nói, cũng chỉ khi say ngài mới dám nghe”.

Hách Dịch vốn định uống, nhưng nghe xong câu này bèn bỏ chén rượu xuống, chăm chú nhìn bóng hình sau tấm rèm hồi lâu mới mở miệng nói: “Kỳ thực… ta đã biết nàng muốn nói gì”.

Khương Trầm Ngư thấp giọng nói: “Ngài không biết đâu”.

“Không, ta biết”. Hách Dịch nhếch môi, tự cười giễu cợt: “Đừng coi thường mạng lưới thông tin của trẫm ở đế đô như thế…”.

“Thế thì, bệ hạ đã biết những gì rồi?”.

“Ta biết tỉ tỉ nàng câu kết với người khác, muốn đẩy nàng vào chỗ chết. Nhưng bọn họ quá ngây thơ, dựa vào mấy tên võ công quèn không trốn khỏi cặp mắt của tên tiểu hồ ly Tiết Thái. Để ép nàng hết hy vọng, đối mặt với hiện thực, tên tiểu hồ ly Tiết Thái án binh bất động, để mặc bọn chúng làm càn, nhưng lại xuất hiện vào thời khắc then chốt nhất, khiến bọn chúng hoàn toàn thảm bại, cũng để nàng nhìn thấu tất cả…”.

Lần này đến lượt Khương Trầm Ngư tự giễu mình:

“Sự tình đến bệ hạ cũng biết, vậy mà ta đến lúc chúng động thủ, định giết mình mới phát giác… Xem ra, ta thật sự là kẻ mù mờ thông tin nhất Bích quốc rồi”.

Hách Dịch chăm chú nhìn nàng, nhẹ nhàng nói:

“Tiết Thái chỉ là muốn bảo vệ nàng. Hắn tuy bé người mà tinh ranh, có lúc không biết rốt cuộc hắn muốn gì, hắn cần gì, nhưng có một điểm rất rõ ràng, hắn nguyện phò tá nàng, cũng rất có năng lực phò tá nàng. Nàng có được một vị thừa tướng như vậy, thật khiến vô số người ngưỡng mộ, đặc biệt là cái tên ở Yên quốc đó”. Nói đến đây, không nhịn được bật cười.

Khương Trầm Ngư nghe thấy nhưng không cười, mà quay mặt qua chỗ khác cúi đầu nói: “Cho nên, bệ hạ cho rằng hôm nay ta mời bệ hạ đến vì cái gì?”.

“Dù sao cũng không phải là trả nợ”. Hách Dịch ngẫm nghĩ, vẫn cầm chén rượu đó lên, uống cạn một hơi: “Rượu ngon! Đủ cay!”.

“Tại sao bệ hạ cho rằng ta không muốn trả nợ?”.

Hách Dịch lại rót thêm một chén, ngửa đầu uống cạn, giọng nói mơ hồ không rõ: “Nàng sắp đăng cơ rồi, cho dù ta có hoang đường đến đâu nữa, cũng biết một vị đế vương sẽ không trả nổi món nợ nhân tình đâu”.

Giọng nói của Khương Trầm Ngư trở nên hơi cổ quái: “Thế tại sao bệ hạ còn đến?”.

Hách Dịch ngẩng đầu lên, ngẩn ngơ nhìn ngọn đèn phía trên bức rèm sa, lẩm bẩm nói:

“Ai mà biết được… Có lẽ, ta chỉ là đang đợi một kỳ tích? Không biết nữa… Ta, ta… haizz, nàng cứ coi như ta không đến, nàng cũng không ở đây đi!”. Nói đoạn, dứt khoát nhấc bình rượu đó lên, dốc hết vào cổ họng.

Khương Trầm Ngư bỗng đứng dậy, từ từ vén bức rèm bước ra.

Bàn tay của Hách Dịch khựng lại giữa lưng chừng, rượu từ trong miệng bình chảy rớt ra ngoài, thấm ướt y phục chàng. Chàng hoàn toàn ngây ngẩn.

Bởi vì, Khương Trầm Ngư mặc một chiếc áo đỏ mỏng như cánh ve, thân hình tuyệt mỹ ẩn hiện dưới ánh đèn, mái tóc buông xõa, dịu dàng phủ trên vai, là dáng vẻ một đại khuê nữ chuẩn bị đi ngủ sau khi tẩy trang.

Rượu trong bình đã chảy hết, sau đó, “xoảng” một tiếng, chiếc bình rớt xuống đất, lăn mấy vòng.

Hách Dịch liếm môi: “Nàng…”.

“Lần trước bệ hạ nói trừ phi có thể trả thứ mà bệ hạ muốn, mới có thể lần nữa hẹn gặp ngài. Mà ta đã hẹn gặp ngài lần nữa, tại sao bệ hạ lại cho rằng, ta nhất định là một kẻ quỵt nợ?”. Khương Trầm Ngư thong thả đi đến trước mặt chàng, mày mắt như vẽ lại được ánh đèn chiếu sáng, ngoài cực kỳ trang nhã, lại thêm vài phần quyến rũ.

“Nàng…”. Hách Dịch dường như biến thành một thiếu niên mới biết yêu lần đầu, đối diện với thiếu nữ mà lòng mình ngưỡng mộ, chân tay trở nên luống cuống không biết làm gì.

“Bệ hạ, thứ bệ hạ muốn… là ta ư?”. Khương Trầm Ngư vừa nói, vừa từ từ cởi đai áo của mình.

Hách Dịch lập tức chộp lấy tay nàng, ngăn nàng tiếp tục cởi. Biểu cảm trên mặt chàng biến đổi hết lần này đến lần khác, cuối cùng ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào nàng nói:

“Nàng có biết mình đang làm gì không?”.

“Trả nợ”.

“Nàng! Ta… nàng…”.

“Bệ hạ, ta là người không thích nợ nần người khác, nhưng thật sự ta nợ ngài quá nhiều quá nhiều… Muốn trả ngài tiền, nhưng ngài không cần; nếu bảo ta dâng cho ngài Bích quốc, ta tuyệt đối không làm được, may mà… ta vẫn còn chính bản thân mình”. Trên gương mặt trắng trẻo xinh đẹp của Khương Trầm Ngư hiện lên một vẻ bình tĩnh đến lạ thường, mà vẻ bình tĩnh đó lại khiến trái tim của Hách Dịch vì thế mà bắt đầu run rẩy.

“Tiểu Ngu”.

“Tiểu Ngu”.

“Tiểu Ngu…”.

Chàng gọi liền ba tiếng, sau đó im lặng hồi lâu.

Trong im lặng, chàng chầm chậm thả tay Khương Trầm Ngư ra, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, mở cánh cửa vốn đóng chặt ra, ngọn gió đêm của buổi chớm đông ùa vào, thổi tan hơi ấm và sự mê hoặc trong phòng.

“Nàng… không còn là nàng nữa”.

Chăm chú nhìn lên bầu trời đêm đen như mực không một ánh sao le lói, Hách Dịch nói như thế:

“Tiểu Ngu, có lẽ nàng vẫn không biết đế vương thực sự nghĩa là thế nào đâu, thế thì hãy để một người từng trải là ta nói cho nàng hay. Nó có nghĩa là toàn thiên hạ đều là của nàng chỉ duy có bản thân nàng không phải là của nàng”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người.

“Cho nên, món lễ tạ này của nàng, ta không dám nhận, cũng không thể nhận, đúng như ta đã nói trước đó, coi như hôm nay ta không tới, mà nàng cũng không ở đây… Như thế, sau này chí ít nhớ đến ngày hôm nay, sẽ không cần hối hận”.

Khương Trầm Ngư buồn rầu nói: “Bệ hạ không thích ta sao?”.

Nàng phải lấy hết dũng khí mới có thể làm được việc này. Mặc bộ áo đỏ mà xưa nay chưa bao giờ mặc, hẹn gặp một nam nhân đến khuê phòng của nàng, sau đó coi mình là lễ vật để đem dâng tặng.

Nếu nói khi nàng bày tỏ tình cảm với Cơ Anh năm xưa, vẫn còn mang tâm thái của một thiếu nữ; thì ngày hôm nay, nàng dùng sự giác ngộ của một người đàn bà để đến gặp Hách Dịch. Thế nhưng, Hách Dịch cũng giống như Cơ Anh, đều cự tuyệt nàng.

“Ta không thích nàng ư?”.

Hách Dịch quay người lại, nhìn nàng, bên khóe môi hiện lên một nụ cười khổ, ánh mắt càng lúc càng dịu dàng:

“Tiểu Ngu, để ta nói cho nàng biết khi ta không thích một người là như thế nào. Ta sẽ không vì đọc được thư của người ấy mà lòng mừng vui khấp khởi, không vì biết tin về người ấy mà buồn bã như mất đi thứ gì, không vì sắp đến gặp người ấy mà thấp thỏm bất an, không vì phải cáo biệt người ấy mà lưu luyến không nỡ, khi người ấy chủ động, càng không phải kiềm chế toàn bộ dục vọng của bản thân, dùng chút tỉnh táo cuối cùng để nói không được”.

Mắt Khương Trầm Ngư đã hoen ướt.

“Không được. Tiểu Ngu, nàng có biết hai chữ này, phút giây này đây, ta nói ra được khó khăn đến nhường nào không?”. Hách Dịch nhìn khoảng cách giữa nàng và mình, cười càng chua chát: “Thậm chí, ta còn không dám gần nàng thêm một chút, ta sợ chỉ gần thêm một chút là sẽ quên mất thân phận của nàng, cũng quên mất thân phận của ta. Có một câu nói, ta đã nói hai lần, hiện tại, ta lại nói lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng… Đêm nay ta không đến. Còn nàng cũng không ở đây”.

Một trận gió thổi tới, tấm rèm sa tung bay, cũng thổi tung mái tóc xõa của Khương Trầm Ngư, bay về phía sau.

Không gian bị kéo xa hơn trong nháy mắt, thời gian dường như ngừng trôi.

Nàng và chàng, đứng ở hai đầu của căn phòng, chỉ là khoảng cách năm sáu bước chân, nhưng lại là cách một con kênh ngăn giữa hai đất nước.

Khương Trầm Ngư nhắm nghiền mắt lại.

Sau đó nàng xoay người, quay lưng lại với Hách Dịch, nói: “Bệ hạ, kỳ thực nơi này không chỉ có đàn và rượu”.

“Hả?”.

“Ta còn bày một bàn cờ”.

Mắt Hách Dịch phút chốc sáng bừng lên, rồi nở một nụ cười mỉm, thong thả nói: “Trẫm đánh cờ rất giỏi đấy”.

“Thật khéo, ta cũng vậy”. Khương Trầm Ngư tươi cười, mở mắt ra quay lại nhìn chàng, nói: “Thế thì bệ hạ, đêm dài đằng đẵng, có muốn chơi một ván cờ cùng A Ngu không?”.

Đêm dài đằng đẵng.

Hai người im lặng đánh cờ.

Gạt bỏ hết thảy hồng trần tục thế.

Vứt bỏ hết thảy ràng buộc ham muốn.

Chỉ có niềm vui của tri kỷ gặp gỡ.

Chỉ có sự thản nhiên của núi cao nước chảy.

… Như lần đầu chàng và nàng gặp gỡ.

“Tuy biết là suy nghĩ viển vông, có điều…”. Ngày hôm sau, khi tia nắng ban mai chiếu lên giấy dán cửa sổ, khi ván cờ cuối cùng đã đi đến hồi kết, Hách Dịch lặng lẽ nói một câu: “Ta vẫn muốn xem xem, trong số mệnh có kỳ tích hay không, cho nên, ta sẽ đợi nàng ba năm, trong ba năm, cho dù nàng thay đổi ý định bất cứ khi nào, đều có thể đến tìm ta”.

“Ý định gì?”.

“Đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích bản thân. Cũng tức là khi nàng thay đổi chủ ý, chính là lúc nàng không muốn làm hoàng đế nữa”.

“Nếu ta không thay đổi chủ ý thì sao?”.

Tuy xưng đế không phải là nguyện vọng của nàng, nhưng đã quyết định xưng đế thì không thể thay đổi trong sớm chiều, bỏ dở giữa chừng được.

“Vậy thì, ta sẽ phải kết hôn”. Hách Dịch vừa cười vừa nói câu này.

Ba năm.

Ba năm sau, Hách Dịch ba mươi tuổi.

Ba năm này sẽ xảy ra những biến đổi to lớn đến đâu, Khương Trầm Ngư không biết, nhưng có một điểm nàng rất rõ: Là nữ đế của Bích quốc, toàn bộ nam tử của Bích quốc đều có thể là của nàng, nhưng Hách Dịch vĩnh viễn không phải là một thần dân của Bích quốc.

Cũng như vậy, thân là một hoàng đế, nữ nhân trong toàn thiên hạ Hách Dịch đều có thể cưới, chỉ trừ nữ đế như nàng và Di Thù.

Sự tình đến mức này, giống như ván cờ tàn cuộc trên bàn, đã đi đến nước chết.

Hách Dịch… Hách Dịch…

Hóa ra ta và chàng, đời này kiếp này cũng vô duyên…

Mùa đông năm Đồ Bích thứ sáu, Khương quý nhân và phế hậu Tiết Minh lần lượt bệnh nặng qua đời. Hoàng hậu khai ân, ban cho hai người này được hợp táng với tiên đế.

Trên triều đường, quần thần dâng tấu thư khẩn cầu hoàng hậu xưng đế, hoàng hậu từ chối.

Ba ngày sau, cao tăng ở Định Quốc tự quan sát tinh tướng, kinh hãi nói rằng: “Hoa nở theo gió, đế tinh xuất hiện, nhưng lại nấp sau mây, khác hẳn với bình thường, nếu không gạt mây chính danh, e là chẳng lành”.

Quần thần lại dâng tấu thư của vạn dân, hoàng hậu thở dài, cuối cùng đồng ý.

Đến đây, Đồ Bích cáo chung
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Chương 22: Đại kết cục: Hạnh phúc là ở việc hiểu được cách từ bỏ ...

Mùa đông, năm Lê Yến thứ ba.

Tuyết trắng như lông ngỗng bay lả tả, phủ lên cả hoàng cung một tầng trắng như bạc. Khi Di Phi bước vào Bách Ngôn đường, Khương Trầm Ngư đang khẽ thảo luận gì đó với Tiết Thái, còn những người khác đang im lặng làm việc, ngọn lửa trong lò than hồng đang cháy rực, thỉnh thoảng phát ra tiếng nổ lép bép, khiến cho cả căn mật thất có vẻ yên bình lạ thường.

“Không đúng không đúng, rõ ràng ta tính là cách Vĩnh Xuyên ba trăm bảy mươi hai dặm, sao đến chỗ ngươi lại thành ba trăm sáu mươi chín dặm?”. Khương Trầm Ngư cầm một quyển sổ, băn khoăn không thôi.

Tiết Thái cũng lộ vẻ hơi kinh ngạc, ngẫm một lúc, trả lời: “Có lẽ là đo lường có nhầm lẫn”.

Di Phi rũ rũ chiếc áo lông cừu bám đầy tuyết, tới sau lưng Tiết Thái nhìn: “Đang làm gì đấy?”.

Chỉ thấy trong tay Tiết Thái cũng cầm một cuốn sổ, ghi chép chi chít toàn là con số.

Khương Trầm Ngư vẫy tay nói:

“Hoa Tử, ngươi đến đúng lúc lắm, chúng ta đang đo vẽ bản đồ mới nhất của Bích quốc, nhưng có vài chỗ số liệu nhận được không giống nhau lắm, ngươi giúp xem xem là thế nào”.

Khóe mắt Di Phi hơi co giật, thở dài nói: “Này này này, đừng có đặt cho ta cái tên khó nghe này nữa, nghe chẳng khác gì ăn mày cả…”.

“Nếu ngươi không thích Hoa Tử, thế gọi là Phi Tử cũng được”.

Tiết Thái vùi đầu trong những con số, không ngẩng đầu lên. Di Phi lườm hắn một cái, bước đến ngồi cạnh bàn:

“Thì sai có ba dặm, có sao đâu, các người thật là rảnh đến mức vô vị, lại tự mình làm chuyện vặt vãnh này. Này, ta mang đến một chuyện rất thú vị, các người có nghe không?”.

Khương Trầm Ngư và Tiết Thái đều tỏ vẻ không quan tâm, đặc biệt là Tiết Thái còn ngáp một cái.

Di Phi bẽ mặt: “Được rồi, dù sao cũng không can hệ gì đến Lê quốc, nhiều nhất là con dân Nghi quốc phát rầu mà thôi”.

Nghe đến hai chữ Nghi quốc, Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên: “Nghi quốc làm sao?”. Gần đây không nghe thấy bên đó có chuyện gì lớn xảy ra cả.

Di Phi cười hì hì, để lộ vẻ mặt: “Thế nào? Bây giờ muốn nghe rồi à? Đáng tiếc ta lại không muốn nói nữa”, gã bắt chéo chân, rồi thuận tay tự rót cho mình một chén trà nóng.

Tiết Thái cũng không ngẩng đầu lên nói:

“Có thể truyền đến tai hắn, chắc chắn chỉ là mấy chuyện vớ vẩn, không thể có chính sự”.

“A, lần này ngươi lầm rồi. Cái ta sẽ nói ra không những là chuyện lớn, hơn nữa ít nhiều cũng có chút liên quan đến Lê quốc, thậm chí là thừa tướng ngươi”.

Khương Trầm Ngư trong lòng tò mò, nhưng lại không muốn Di Phi đắc chí, bèn quét mắt nhìn khắp phòng một vòng rồi nói:

“Tử Tử đâu?”.

“Đến đây đến đây, thần đến đây!”.

Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến ngay, cửa gian mật thất mở ra, người áo tím theo sau La Hoành vội vàng đi vào trong, tiết trời lạnh giá như thế, hắn lại chạy đến mức mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển không ra hơi, vừa vào đến cửa vừa bái kiến vừa kích động nói:

“Hoàng thượng, Nghi quốc xảy ra chuyện rồi!”.

Mọi người có mặt nghe đến đây, không ai là không quay đầu lại nhìn Di Phi, để lộ biểu cảm “Xem kìa, không có ngươi cũng đâu có sao”.

Di Phi mắt thấy người áo tím cướp mất cơ hội ra vẻ của mình, đành sờ sờ mũi, cười hì hì nói:

“Quả nhiên, về trình độ nhanh nhạy thông tin, Tử Tử không bị tụt hậu so với bất cứ người nào!”.

“Tử Tử, có chuyện gì từ từ nói”. Khương Trầm Ngư căn dặn.

Người áo tím lấy tay áo lau mồ hôi, không buồn ngồi xuống, vội vã kể ngay:

“Là như thế này, ngày mùng bảy tháng mười một chính là ngày sinh nhật của Nghi vương Hách Dịch, mà năm nay ngài ấy đã ba mươi tuổi”.

Khương Trầm Ngư nghe đến đây, nhớ đến lời Hách Dịch đã từng nói với nàng, lờ mờ đoán ra “xảy ra chuyện” mà họ nói là chỉ chuyện gì. Không biết tại sao, rõ ràng đã sớm biết sự tình, nhưng khi thực sự đối diện với điều này, ngón tay vẫn không kìm được run lên, sau đó khi lên tiếng, giọng nàng cũng hơi khàn khàn:

“Nghi vương… chọn ai… làm hoàng hậu?”.

Sẽ là ai nhỉ..?

Trong Nghi quốc, vị thiên kim tiểu thư của danh môn nào có thể xứng với vị quân vương phong lưu phóng khoáng đó?

Nữ tử nào có thể cùng chàng chơi cờ? Có thể gảy đàn cho chàng nghe? Có thể cùng chàng xuất hành? Có thể phụ tá cho chàng trị lý thiên hạ Nghi quốc?

Cho dù như thế nào… Hách Dịch đã chọn người ấy, thế thì, người ấy nhất định có thể làm được.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, trong lòng dấy lên một nỗi chua chát xót xa, rốt cuộc là cảm giác gì, đến bản thân mình cũng không rõ nổi. Chính vào lúc này, một câu nói lọt vào tai nàng: “Nghi vương không cưới ai cả”.

Thoạt đầu, giọng nói vẫn còn mơ hồ, lúc ẩn lúc hiện, nhưng đột nhiên, như một tiếng sấm giữa đất bằng, sáu tiếng ấy vang lên rành rọt.

“Ngươi nói gì...?”. Nàng kinh ngạc đến mức lập tức đứng bật dậy. Tiết Thái bên cạnh cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, lườm nàng một cái.

Người áo tím thấy mình đã thành công trong việc thu hút sự chú ý của quân vương, vô cùng tự hào, ưỡn thẳng ngực cao giọng nói lại một lần nữa:

“Nghi vương không cưới ai cả”.

Sáu tiếng này, âm nào cũng đẹp.

Như tuyết tan, như hoa nở, như ánh dương vươn khỏi tầng mây, như đứa trẻ con nhú chiếc răng mới… Vô cùng tuyệt mỹ.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy trái tim của mình thình thịch thình thịch, đập rất nhanh, sau đó, nghe thấy giọng nói của mình vui mừng như trời hửng nắng trong tiết trời tuyết giá, như nụ hoa chúm chím đợi bung nở:

“Tại, tại sao?”.

“Là thế này, từ nửa năm trước, các lão thần của Nghi quốc đã bắt đầu tuyển phi cho hoàng đế của bọn họ, lựa chọn được hơn khoảng ba trăm khuê nữ danh môn, mỗi người đều được vẽ một bức tranh, trình lên trước mặt Nghi vương để ngài lựa chọn. Còn Nghi vương bệ hạ chọn trái chọn phải, không phải chê người này lông mày thô quá, thì cũng chê người kia dái tai nhìn không đẹp… Tóm lại là những lý do viện ra đều khiến người ta tức chết. Cuối cùng các lão thần hết cách, phải hỏi ngài thích như thế nào. Thế là, Nghi vương bệ hạ liền…”.

Người áo tím nói đến đây, mắt cong cong liếc sang Tiết Thái, cố nhịn cười nói:

“Đã làm một chuyện khiến cả nước chấn động giống như Tiết tướng”.

Tiết Thái thấy chủ đề bị chuyển sang hắn, liền cau có nhíu mày.

Khương Trầm Ngư là nhân vật tầm cỡ nào, lập tức hiểu ngay, “a” một tiếng, nói:

“Không phải là Nghi vương cũng dùng tranh vẽ Hy Hòa phu nhân để bịt miệng thế gian đấy chứ?”.

Người áo tím ngay tức khắc quỳ sát đất:

“Hoàng thượng thánh minh! Hồi bẩm hoàng thượng, Nghi vương chính là dùng chiêu này. Vì thế, hiện tại người trong toàn thiên hạ đều biết: Hóa ra Nghi vương bệ hạ cũng một lòng thầm thương trộm nhớ Hy Hòa phu nhân của nước ta, chẳng trách khi phu nhân còn sống, ngài lén lút đến Bích quốc mấy lần! Đến nay, khắp đầu đường ngõ phố đều lưu truyền một quyển thoại bản ‘Mộng hoa hạnh’, trong đó ám chỉ Hy Hòa phu nhân một đời làm chúng sinh điên đảo, có mắc mứu tình cảm với vô số đế vương khanh tướng, từ ngữ sinh động linh hoạt, cũng khá dễ đọc, vi thần mua một cuốn, hoàng thượng có muốn đọc không?”.

Vừa nói, vừa rút một cuốn sổ bìa màu xanh lam từ trong người ra, trình lên trước mặt Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư dán mắt vào ba chữ “Mộng hoa hạnh” viết xiêu xiêu vẹo vẹo trên bìa sách, mí mắt giật giật một hồi, cuối cùng gượng gạo đẩy nó ra, nói với Tiết Thái:

“Chúng ta tiếp tục đi. Núi Hướng Dương cao chín mươi tư trượng thật à?”.

Tiết Thái gật đầu: “Đã từng cao hơn trăm trượng, nhưng gió sương ăn mòn, bây giờ thành thấp như vậy”.

Người áo tím thấy không có ai đếm xỉa đến lời mình nói, đành hụt hẫng cất cuốn sách đi, ngoan ngoãn tìm chỗ ngồi xuống.

Di Phi sán lại, vỗ lên vai y, ra chiều thần bí nói: “Chỗ ta còn bản chưa bị cắt xén, có đọc không?”.

Người áo tím giật thót người, vội vàng nhìn sắc mặt Khương Trầm Ngư, thấy nàng thần sắc bình thường, có lẽ là không nghe tháy câu ban nãy, bấy giờ mới an tâm, cũng không nói gì, chỉ thò tay ra dưới gầm bàn.

Di Phi chớp chớp mắt, giơ một ngón tay lên: “Một quyển một trăm lượng…”.

“Ngươi…”.

“Chê đắt à, thế thì không bán nữa”. Di Phi nhướng mày, quay người ra vẻ định bỏ đi.

Người áo tím vội vàng kéo gã lại, không lằng nhằng nhét một thỏi bạc cho gã.

Di Phi cười hì hì, cũng rút một cuốn sách từ trong người ra. Tất cả đều phát sinh dưới gầm bàn thần không biết quỷ không hay – nhưng không lọt qua nổi cặp mắt của Tiết Thái.

Đầu mày của hắn cau lại càng chặt hơn, cuối cùng trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư, hạ giọng nói:

“Bọn họ làm bậy như thế, hoàng thượng cũng không quản?”.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, dễ tính nói: “Đấy là bản tính của con người, cấm cũng không được, cứ mặc họ”.

Tiết Thái nhìn nàng chăm chú một lúc, “hừ” một tiếng, bất mãn nói:

“Chẳng qua hoàng thượng nghe Hách Dịch không thành thân, cho nên tâm trạng vui vẻ mà thôi…”.

Vì giọng nói của hắn thực sự rất nhỏ, nên nhất thời Khương Trầm Ngư chưa nghe ra: “Hả? Ngươi nói cái gì?”.

“Không có, thần chẳng nói gì cả”. Tiết Thái không nói gì nữa, lại vùi đầu vào đống sổ sách, không ngẩng đầu lên nữa.

Tuyết bên ngoài rơi càng lúc càng lớn.

Nháy mắt đã lại đến giao thừa.

Tân Dã đã lên bốn tuổi, nhưng vẫn chưa biết nói, tính cách cũng khá hướng nội, hay ngồi một mình ngẩn ngơ, nhìn không có vẻ gì là hoạt bát nhanh nhẹn, khiến một đám cung nhân lo lắng đến chết đi được.

Sáng sớm ngày giao thừa, Khương Trầm Ngư đã đến tẩm cung của thái tử, đích thân mặc quần áo cho nó. Tuy nó phát triển chậm về các phương diện khác, nhưng vóc dáng lại lớn rất nhanh, khuôn mặt đều tập trung hết những ưu điểm của Chiêu Doãn và Họa Nguyệt, vô cùng vô cùng tuấn mỹ. Rất nhiều người già trong cung nói, thậm chí còn đẹp hơn cả Tiết Thái năm xưa. Vì thế, khi chọn xiêm y cho nó, nàng cũng dụng tâm: Một chiếc áo bông nhỏ, mặt ngoài là hoa vàng nền đỏ, thêu hoa văn chìm hình con rồng vàng nhỏ bốn móng, mặt trong nụ hoa màu hồng phấn trên nền màu vàng mơ, cổ áo và tay áo đều chần một vòng lông chồn màu trắng như tuyết, làm nổi bật gương mặt nhỏ ngây thơ, đáng yêu không tả xiết.

Khương Trầm Ngư nhìn rất thích, không kìm được bẹo má nó: “Trắng như đánh phấn tạc ngọc, chính là nói con đó”.

Tân Dã giương đôi mắt to tròn, đen láy như sơn, nhìn nàng không chớp mắt, ngũ quan vô cùng thanh tú nhưng biểu cảm vẫn đờ đẫn, cũng không biết nghe có hiểu không.

Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng, đội mũ lên cho nó rồi nắm tay nó nói: “Đi thôi. Hoàng di dẫn con đi cắt mai”.

Cái gọi là cắt mai là một tập tục mới thịnh vài năm gần đây, trước đêm trừ tịch, cắt một cành hoa mai vùi xuống đất, ngụ ý “cắt bỏ vận xui, để điềm gở quay về với cát bụi”.

Trong cung vốn không có mai đỏ, nên đã đặc biệt trồng mấy cây bên ngoài Phái cung.

Sau khi xưng đế, Khương Trầm Ngư đã chuyển đến Cảnh Dương điện, nơi ở cố định của hoàng hậu các đời – Phái cung bị bỏ trống. Lúc bấy giờ đi đến trước Phái cung không người ở, thấy các cung nữ thái giám đã chuẩn bị xong xuôi từ lâu, đang đứng chờ dưới gốc cây. Trong cảnh tuyết trắng giăng trời, mấy cây mai ngạo nghễ bung cánh nở, từng đóa từng đóa đỏ tươi, phong cảnh cực kỳ trang nhã.

Cung nữ bê một chiếc khay bằng gỗ mun lên, vén lớp khăn nhiễu điều ra, bên trên có đặt một cây kéo mới, trên kéo còn buộc dây tơ bảy màu. Màu sắc của dây tơ này cũng được chọn cẩn thận, xanh xanh đỏ đỏ, nhìn rất vui mắt.

Thái giám giữ thang thật chắc chắn, Khương Trầm Ngư cầm kéo bước lên thang.

Kể ra thì đây thực chất là một phong tục rất đáng ghét, đặc biệt là nhát kéo đầu tiên của mỗi năm đều phải do hoàng thượng đích thân cắt, hơn nữa cây mai càng cao càng tốt. Nghi quốc và Yên quốc thì không sao, hoàng đế đều là nam, nhưng đến Bích quốc và Trình quốc, hai vị nữ vương đều đau đầu nhức óc vì nó.

Năm ngoái Khương Trầm Ngư giẫm lên váy khi trèo thang, suýt chút nữa thì ngã, vì thế năm nay nàng đã đổi sang mặc Hồ phục khi cưỡi ngựa, đi giầy thúc ngựa để trèo thang, quả nhiên không bị chật vật như năm ngoái.

Nhất thời trong lòng đắc ý, nàng trèo đến bậc thang cao nhất xong, nhón gót kiễng lên cắt cành mai cao nhất.

Phía dưới tiếng hoan hô của mọi người vang lên.

Khương Trầm Ngư cúi đầu nhìn Tân Dã, lắc lắc cành mai trong tay, kết quả thanh gỗ chắn ngang dưới chân bị gãy làm đôi, nàng lập tức chới với, rơi xuống.

“Hoàng di…”. Một giọng nói non nớt vang lên đầu tiên. Những người khác bấy giờ mới kinh hoảng hò hét, lũ lượt chạy đến cứu giúp.

“Hoàng thượng, hoàng thượng không sao chứ?”.

“Hoàng thượng, hoàng thượng sao rồi? Ngã có đau không?”.

Khương Trầm Ngư bị mọi người vây quanh, nhưng cũng chẳng buồn để ý đến cái chân bị trẹo lúc ngã, vội vàng đẩy mọi người ra, khập khiễng đi đến trước mặt Tân Dã, giọng run run nói:

“Tân Dã, vừa nãy là con… gọi ta phải không?”.

Trong đôi mắt to của Tân Dã vẫn còn sót lại vẻ sợ hãi, sau đó, nó nhào đến ôm chặt nàng, òa lên khóc.

Khương Trầm Ngư sững người ra một lúc, sau đó ngồi xuống, ôm lại nó, nói: “Tân Dã, hóa ra con biết nói! Tốt quá rồi! Thật sự tốt quá! Gọi lại một lần nữa đi!”.

“Hoàng di…”. Giọng nói sợ sệt, vì trước đó chưa từng nói nên nghe lại càng cứng nhắc.

Nhưng Khương Trầm Ngư lại giống như được nghe thứ âm thanh tuyệt vời nhất thế gian, vui đến phát khóc, nói:

“Tốt quá rồi… tốt quá rồi… Tân Dã! Tốt quá rồi…”.

Tân Dã không bị câm điếc, cũng không bị chậm phát triển trí tuệ, nó biết nói, hơn nữa, câu đầu tiên lại là gọi nàng.

Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy tất cả nỗi đau mà Khương Họa Nguyệt mang đến cho nàng, khoảnh khắc này, toàn bộ đều được đền bù nhờ Tân Dã.

“Tân Dã, ngoan lắm, ngoan lắm…”.

Nàng hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Biết làm sao được, hoa rơi rụng..." Nhất khúc tân từ tửu nhất bôi ” (Hai câu trong bài từ “Hoán khê sa – của nhà thơ đời Tống Yến Thù...." Như từng quen biết yến quay về "...)

Một khi đã yên ổn, thời gian sẽ trôi qua rất nhanh, nước chảy mây trôi, nháy mắt là đã qua hai năm.

Năm Lê Yến thứ năm, ông trời rốt cuộc không còn đối xử ưu ái với con người như trước nữa.

Đầu tiên là tháng tư khai xuân, Khương phu nhân cả đời sống trong những lời dối trá đã kết thúc cuộc đời một cách bình yên trong giấc ngủ ngàn thu. Khương Trầm Ngư đau đớn vạn phần, cử hành tang lễ rất long trọng cho mẫu thân... Khương Trọng không quay về Khương phủ, mà chọn cất một ngôi nhà nhỏ bên cạnh mộ phần của vợ mình, ngày ngày câu cá trồng hoa, sống cuộc đời ẩn dật.

Đến khi vào hạ, ôn dịch bùng phát, chỉ trong chưa đầy hai tháng ngắn ngủi, đã lây nhiễm bảy tòa thành trì chủ yếu trong vùng Hàn Cừ, Hán Khẩu, mỗi ngày đều có đến hơn trăm người chết vì dịch bệnh.

Khương Trầm Ngư cử liền bảy mươi đại phu dược sư đi theo quân đội đến bảy thành, nhưng không khống chế được dịch bệnh, cuối cùng, trên triều đường, Tiết Thái xin được đích thân đi thị sát tình hình dịch bệnh.

Khương Trầm Ngư đắn đo rất lâu, cuối cùng đồng ý.

Chuyến này Tiết Thái đi liền nửa năm.

Trong nửa năm, Khương Trầm Ngư chỉ có thể dựa vào những tấu sớ chuyển đến chuyển đi và những lời kể vắn tắt của Thất tử để biết được tin tức của Tiết Thái.

Nghe nói, đầu tiên hắn đến thành Hàn Cừ, chạm trán Giang Vãn Y ở đó. Sau khi vào thành, hắn không đi thăm bệnh nhân bị nhiễm bệnh trước, mà tuần sát quanh thành một vòng, cuối cùng phát hiện nguồn nước trong thành Hàn Cừ bị ứ đọng lâu năm, bùn đất tích tụ khiến nguồn nước ô nhiễm, là nguyên nhân gây ra dịch bệnh. Vì thế, bắt đầu cho thợ nạo vét kênh ngòi.

Đồng thời, lập ra Lục Tật quán, cách ly toàn bộ những người bị nhiễm bệnh. Việc này dẫn đến sự phản đối gay gắt, cho rằng hành động đó là bất nhân.

Tiết Thái chẳng nói chẳng rằng, vứt hết những người phản đối vào trong Lục Tật quán này, từ đó tất cả im bặt, không còn người nào dám phản kháng.

Về sau, hắn còn thi hành một loạt các biện pháp như “xây Lậu Trạch viên để chôn thi thể những người nhiễm bệnh”

“phàm những người chôn được một trăm người chết dịch thì được thưởng mười lạng vàng để khích lệ”... cuối cùng, trước sự nỗ lực của hắn và Giang Vãn Y, đến mùa đông, ôn dịch coi như đã được giải quyết. Khi số người chết mỗi ngày một ít đi, gần vạn người còn sống sót sau khi uống thuốc do Giang Vãn Y điều chế, thì một bi kịch chấn động đã xảy ra…

Tiết Thái đã bị nhiễm bệnh.

Vô phương cứu chữa.

Mà khi hắn tự biết bệnh của mình không thể chữa được, hắn chỉ nói một câu: “Ta đứng đầu bách quan, phải lấy làm gương”. Bèn chủ động chuyển vào Lục Tật quán, không ra ngoài nữa.

Khương Trầm Ngư ở đế đô nghe được tấu báo trên buổi chầu sớm, lập tức bật dậy khỏi ngai vàng, mặt không còn giọt máu, sau đó bệnh ở mắt tái phát, trước mặt tối sầm liền ngất đi.

Văn võ khắp triều kinh hãi hoảng loạn.

Khi Khương Trầm Ngư tỉnh lại, tức khắc hạ chỉ đến thành Hàn Cừ, mặc kệ quần thần ra sức phản đối, dẫn theo Phan Phương và thị vệ thiết thân. Một đoàn hơn trăm người cưỡi khoái mã ngồi khinh xa đến thành Hàn Cừ.

Khi nàng đến Hàn Cừ đã là mười ngày sau.

“Thảo dân Giang Vãn Y, tham kiến hoàng thượng”. Giang Vãn Y và các quan viên nghe tin đến ngoại thành tiếp giá, đang định quỳ lạy thì Khương Trầm Ngư đã tóm cánh tay hắn, kéo lên.

“Tiết tướng đâu?”.

“Tiết tướng vẫn ở trong Lục Tật quán…”. Giang Vãn Y còn chưa nói xong, Khương Trầm Ngư đã hạ lệnh: “Đưa trẫm đến Lục Tật quán”.

Hắn còn chưa kịp nói gì, mười mấy quan viên lớn nhỏ bên cạnh đã lũ lượt quỳ xuống nói:

“Không được đâu! Hoàng thượng thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không thể đi tới đó! Nếu đến hoàng thượng cũng bị lây nhiễm, thì biết làm thế nào?”.

Khương Trầm Ngư không thèm nhìn bọn họ, chỉ nhìn thẳng vào mắt Giang Vãn Y: “Sư huynh, huynh dẫn ta đi!”.

“Hoàng thượng…”.

“Sư huynh”. Khương Trầm Ngư bỗng chốc hét lên, đồng tử co lại, gương mặt đầy vẻ kiên nghị:

“Lẽ nào trẫm tạm gác quốc sự ngàn dặm xa xôi chẳng ngủ chẳng nghỉ đến đây là để nhìn thấy một đám các ngươi khóc lóc sao?”.

Câu này quả thực quá mạnh mẽ, Giang Vãn Y không có cách nào phản bác, cuối cùng, đành thở dài một tiếng, nói:

“Được rồi. Xin hoàng thượng theo thảo dân”.

Thế là, cuối cùng Khương Trầm Ngư đã đến trước Lục Tật quán.

Đó là một khu nhà trệt nằm ở ngoại ô hẻo lánh, vì gấp rút xây dựng trong thời gian ngắn, nên cực kỳ đơn giản sơ sài. Bốn bề trống trải, đến cây cối cũng chẳng có. Gió đông thổi ù ù, quạ kêu “quà quạ”, trong tích tắc mắt Khương Trầm Ngư cay xè.

Giang Vãn Y đưa cho nàng một viên đan dược, nói: “Để đề phòng, xin bệ hạ uống viên thuốc này”.

Khương Trầm Ngư nhận lấy, thái giám bên cạnh đang định thử thuốc thì nàng đã uống hết, nhảy xuống xe chạy về phía cửa lớn, khoảnh khắc này, nàng quen mất mình là hoàng đế của Bích quốc, là nữ tử quý tộc đi không lộ chân cười không lộ xỉ, nàng chỉ dùng tốc độ nhanh nhất của mình, dồn toàn lực để chạy, vừa chạy vừa kêu: “Tiết Thái! Tiết Thái!”.

Thế nhưng, cánh cửa của Lục Tật quán vẫn đóng im ỉm.

Khương Trầm Ngư đập cửa: “Tiết Thái! Tiết Thái! Người đâu, mở cửa cho trẫm! Mở cửa ra!”.

Đám thị vệ đi cùng mặt đầy vẻ do dự.

Khương Trầm Ngư nổi giận: “Các ngươi dám kháng chỉ?”.

Thị vệ vội vàng đi lên phía trước, đang định đẩy cửa, một giọng nói trong trẻo, đanh vang, rõ ràng từ bên trong vẳng ra ngoài:

“Không được vào trong”.

Khương Trầm Ngư lập tức nhận ra đó là giọng của Tiết Thái, liền đập cửa nói: “Tiết Thái! Là ngươi sao? Mau mở cửa! Là trẫm đây! Trẫm đến rồi”.

Bên kia cánh cửa im lặng một thời gian rất dài, hắn mới chậm rãi nói một câu: “Hoàng thượng… mời về cho”.

“Nói đùa gì thế? Lẽ nào trẫm vứt bỏ quốc sự nghìn dặm xa xôi không ngủ không nghỉ đến đây là để nhìn cánh cửa đóng kín này sao? Mau mở cửa ra cho trẫm!”. Nàng lại lôi lý do này ra.

Nhưng rõ ràng Tiết Thái không phải là Giang Vãn Y, cũng không phải là bất cứ một quan viên nào khác, hắn chính là hắn, Băng Ly công tử Tiết Thái. Vì thế, hắn vẫn không mở cửa, lạnh nhạt nói:

“Vi thần cỏ bệnh trên người, nếu hoàng thượng lại gần sẽ bị lây nhiễm. Cái lễ quân thần tuy quan trọng, nhưng sức khỏe của hoàng thượng còn quan trọng hơn, thần không dám làm tội nhân thiên cổ. Cho nên, hoàng thượng xin giữ cho vi thần cái danh trong sạch”.

“Tiết Thái!”. Tiếng đầu tiên thốt lên là phẫn nộ, nhưng đến tiếng thứ hai, lại chuyển thành vô cùng ấm ức và đau thương:

“Tiết Thái… ngươi đừng giận dỗi nữa, ngươi mở cửa được không? Trẫm, trẫm… thật sự rất lo lắng cho ngươi… Mười ngày nay, trẫm sợ mình đến muộn, sợ không gặp được ngươi… Ngươi mau mở cửa đi…”.

Tiếng nói nghẹn ngào thảm thiết, đến người bên cạnh cũng không đành lòng nghe. Huống hồ nàng thân phận là cửu ngũ chí tôn mà lại van nài một thần tử như vậy.

Những người bên cạnh ai biết rõ quan hệ của nàng và Tiết Thái, nhìn thấy đều không khỏi thương xót; còn người không biết hoặc lần đầu gặp hoàng thượng, đều trợn mắt há mồm – Hoàn toàn không dám nghĩ, sao lại có thần tử bất kính với hoàng đế như thế.

Đối mặt với tiếng khóc lóc van nài của Khương Trầm Ngư, Tiết Thái vẫn không có động tĩnh gì, giọng điệu vẫn lạnh nhạt đến gần như thờ ơ:

“Hoàng thượng, cánh cửa này thần tuyệt đối sẽ không mở. Người đừng hy vọng nữa”.

“Ngươi! Ngươi! Ngươi dám kháng chỉ?”. Khương Trầm Ngư tức tối giậm chân: “Trẫm sẽ giết cả nhà ngươi, tru di cửu tộc nhà ngươi”.

“Cả nhà thần đã chết hết từ lâu rồi”.

“Ngươi ngươi ngươi!”.

Khương Trầm Ngư không thuyết phục được hắn, liền quay sang sai khiến các thần tử khác: “Các ngươi qua đây, phá cánh cửa này cho trẫm, sẽ có trọng thưởng”.

Đám thị vệ còn chưa kịp hành động, Tiết Thái đã lạnh lùng nói: “Nếu vì thế mà hoàng thượng nhiễm bệnh, cả nhà các ngươi đều bị diệt môn, có gan thì cứ qua đây đi”.

Đám thị vệ nhìn nhau, nhất thời không ai dám động thủ.

Khương Trầm Ngư vừa giận dữ vừa đau lòng, đành tự mình đập cửa, nàng đập rất mạnh, đến mức cả bàn tay đều sưng đỏ lên:

“Tiết Thái, ngươi dám cư xử như vậy với ta, ngươi là đồ khốn! Ngươi không phải là người! Người vong ơn phụ nghĩa! Ngươi coi thường hoàng uy…”.

Nàng mắng chửi hết một lượt những từ có thể nghĩ ra, mắng đến mức giọng khản đặc, mắng đến mức sức cùng lực kiệt, cuối cùng đôi chân mềm nhũn, trượt xuống theo cánh cửa ngồi bệt trên mặt đất.

“Hoàng thượng…”.

Tiết Thái trước đó vẫn luôn im lặng không lên tiếng để mặc cho nàng mắng chửi, đến lúc này mới chậm rãi mở miệng, nói:

“Hoàng thượng, nước không thể một ngày không có vua, người… mau về sớm đi”.

Khương Trầm Ngư ngồi trên mặt đất không chút hình tượng, bưng mặt, toàn thân run rẩy.

Tiết Thái im lặng đợi một lúc, không nghe thấy phản ứng của nàng, bèn nói tiếp:

“Vi thần có hai việc muốn nói với hoàng thượng, nhưng trước đây không ngờ hoàng thượng sẽ đến, cho nên đã nhờ Chu Long viết thành tấu chương đưa về đế đô. Bây giờ có lẽ cũng đã đến nơi rồi. Sau khi hoàng thượng quay về, đọc xong sẽ hiểu”.

Khương Trầm Ngư vẫn không phản ứng lại.

Giọng Tiết Thái mơ hồ như đang than thở: “Hoàng thượng… người… thật sự… không nên đến”.

“Ngươi bớt lời đi!”. Giọng Khương Trầm Ngư đầy vẻ căm giận: “Trẫm tới hay không là chuyện ngươi có thể bình luận được sao?”.

“Hoàng thượng, vi thần… không còn nhiều thời gian nữa”. Hắn bỗng mềm mỏng nói câu này, Khương Trầm Ngư rúng động, sau đó nước mắt tuôn rơi.

Thái giám sau lưng muốn lấy lòng nên đi lên phía trước đưa khăn tay cho nàng, Khương Trầm Ngư quay lại nói:

“Toàn bộ các ngươi lui hết, đứng cách thật xa. Ta nói chuyện với Tiết tướng, không cho phép các ngươi nghe!”.

Mọi người vội vàng lùi ra sau trăm trượng, ở đây trống trải hoang vắng, lại sắp vào đêm, một nhóm ngươi run lập cập chờ trong gió lạnh, từ xa nhìn đôi quân thần đó, trong lòng có đủ mọi suy nghĩ.

Còn bản thân đương sự lại hoàn toàn không để ý đến ánh mắt của người khác, lao đến trước cửa khóc đến mờ mịt cả đất trời:

“Tiết Thái, ngươi mở cửa ra. Ta phải gặp mặt ngươi, nhìn thấy ngươi xong, ta sẽ đi ngay. Ngươi mở cửa đi… Tiết Thái, ngươi đừng như vậy với ta, đừng như vậy với ta có được không?”.

Tiếng hít thở của Tiết Thái lọt qua tấm ván cửa, lờ mờ truyền đến, khoảnh khắc này hắn đang có biểu cảm như thế nào? Trong lòng hắn đang nghĩ gì?

Dung nhan nhìn chẳng được, tâm tư đoán không xong. Đứa trẻ này đối với nàng mà nói chưa bao giờ là thuộc hạ, chưa bao giờ là đệ đệ, mà là huynh trưởng, là chỗ dựa của nàng!

Khương Trầm Ngư thút thít nói: “Ngươi có biết không, mấy ngày hôm nay trong đầu ta chỉ nghĩ có một chuyện? Đó chính là tại sao ta phải phái ngươi đi Hàn Cừ? Là ta hại ngươi, ngươi sắp chết rồi, cả đời ta sẽ vì thế mà cắn rứt và tự trách, là ta, là ta đã khiến Tiết Thái mới chỉ mười lăm tuổi chết ở nơi đất khách quê người!”.

“Mười lăm tuổi…”. Tiết Thái nhắc lại ba chữ này, dường như hơi ngây ngốc:

“Vi thần… ba tháng trước, đã tròn mười lăm rồi”.

“Đúng thế, ngày mùng tám tháng tám, ta tặng quà cho ngươi, ngươi nhận rồi chứ?”.

“Ừ”. Ngừng một lát, lại nói: “Thần rất thích”.

Món quà nàng tặng cho hắn là một bức tranh đích thân nàng vẽ, tranh vẽ quang cảnh Tiết Thái và Cơ Anh tỉ thí trong đại thọ của phụ thân nàng vào năm Đồ Bích thứ hai.

Đó là cảnh lần đầu tiên nàng gặp Cơ Anh.

Đó cũng là cảnh lần đầu tiên nàng gặp Tiết Thái.

Nhiều năm trôi qua như thế, cảnh tượng đó vẫn sống động trong trí não nàng, mỗi một chi tiết đều rõ mồn một. Thế nên khi nàng vẽ xong, liền sai người từ đế đô đem đến Hàn Cừ.

Lúc ấy Tiết Thái hoàn toàn không có hồi âm, cho nên một dạo nàng vẫn nghĩ có lẽ hắn không thích món quà này cho lắm. Nhưng phút này, tai nghe thấy mấy tiếng “thần rất thích” của hắn, tại sao cùng với vui mừng, lại lời lời như đâm vào tim như vậy?

“Tiết Thái, ngươi mở cửa ra, dù vắt kiệt sức lực của toàn thiên hạ, ta cũng phải cứu ngươi. Ngươi sẽ khỏe lên, nhất định sẽ khỏe lên. Ta không để truyền kỳ của ngươi kết thúc vào tuổi mười lăm đâu! Cho nên, ngươi mở cửa ra đi!”.

Tiết Thái hít một hơi thật sâu: “Trầm Ngư”.

Cánh tay Khương Trầm Ngư vốn dĩ chuẩn bị đập cửa bỗng dừng lại giữa khoảng không.

Tiết Thái gọi… gọi… nàng là gì?

Hắn luôn không dùng kính ngữ, thậm chí gọi cả tên kèm họ của nàng ra, đây là lần đầu tiên hắn gọi nàng là Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư ngẩn ngơ trả lời: “Cái gì?”.

“Mười lăm tuổi”. Tiết Thái nhắc lại ba chữ này một lần nữa, sau đó, giọng nói bỗng chốc trở nên vô cùng dịu dàng, cũng vô cùng thê lương:

“Lần đầu tiên khi ta gặp nàng, nàng cũng mười lăm tuổi”.

Tuy Khương Trầm Ngư gặp Tiết Thái trong buổi thọ yến của Khương Trọng, nhưng khi ấy nàng nấp sau rèm cửa, Tiết Thái không nhìn thấy nàng. Sau đó, hắn khiến Hy Hòa ngã xuống hồ, rồi xông đến Cảnh Dương điện thỉnh tội, lần đó kỳ thực cũng được coi là lần đầu tiên, nhưng khi ấy Tiết Thái chỉ mải thỉnh tội, căn bản không chú ý đến trong đám người xung quanh còn có một người là nàng.

Lần đầu tiên họ chính thức đối mặt nhìn nhau là khi Tiết Thái đã bị biến thành nô lệ, khi Khương Trầm Ngư dẫn hắn đến lãnh cung gặp Tiết Minh. Nàng còn nhớ khi đó nàng chìa tay ra, hắn lại lùi lại một bước, nói:

“Tiết Thái là nô tài, không dám cầm tay tiểu thư”.

Năm đó nàng mười lăm tuổi.

Trái tim của Khương Trầm Ngư bỗng chốc run rẩy thít chặt lại.

“Ta không thích số tám, nàng có biết tại sao không?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

Tiết Thái dường như ngần ngừ một lát, nhưng cuối cùng vẫn nói ra: “Bởi vì, khoảng cách giữa chúng ta là tám năm”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng mở to đến cực đại.

Tiết Thái khẽ cười: “Rất kinh ngạc sao? Thực ra ta cũng thế. Có một ngày, ta phát hiện ra nguyên nhân tại sao ta lại ghét con số này như thế, là vì số tuổi của nàng trừ đi số tuổi của ta, đáp án là tám. Khi ấy, bản thân ta cũng rất kinh ngạc”.

“Tiết Thái…”. Khương Trầm Ngư không kìm được gọi tên hắn, nhưng gọi xong, lại không biết phải nói gì.

“Nếu như, ta ra đời sớm tám năm, vào ngày mùng một tháng một năm Đồ Bích thứ tư, khi nàng đến tuổi cập kê, trong bốn nước, người xứng với nàng nhất kỳ thực không phải là Cơ Anh, mà nên là ta, chẳng phải sao?”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy có một bàn tay vô hình, trong khoảng khắc này, bóp chặt trái tim nàng.

“Tám năm… cho dù ta có trưởng thành sớm như thế nào, cho dù ta có thần thông ra sao, cho dù ta có nỗ lực trưởng thành nhanh gấp ba người khác như thế nào, thế nhưng, tám năm này, ta không sao vượt qua nổi…”

Giọng nói của Tiết Thái càng lúc càng trầm thấp mơ hồ, giống như đang nói mơ: “Đối với sinh mệnh, ta lạm chi quá nhiều, cho nên, bây giờ, đến lúc hoàn trả rồi…”.

“Hoàn trả cái gì ... Lạm chi cái gì?”.

Khương Trầm Ngư cuống lên: “Ngươi mới mười lăm tuổi! Ngươi còn có thể sống đến tám mươi tuổi! Ta không cho phép ngươi nói như thế”.

“Đối diện với sự thực đi, Trầm Ngư. Cả đời này của nàng, mỗi lần gặp phải chuyện không muốn đối mặt, nàng liền chọn cách trốn tránh, nhưng lần này, ta không cho nàng trốn tránh”.

Khương Trầm Ngư lại bàng hoàng lần nữa.

“Để ta nói cho nàng nghe, những gì ta nói sau đây rất quan trọng. Ta đã tìm ra tung tích của Cơ Hốt, nội dung cụ thể ta đã sai Chu Long đưa cho nàng; còn trong triều thần hiện nay, có vài người có thể bồi dưỡng, có vài người cần phải cấp tốc cách chức, trong lòng nàng rất rõ; nhưng để cho chắc chắn, ta cũng viết cả ra rồi… Năm năm qua, ta kế thừa chí hướng của Cơ Anh, mỗi ngày trăm công nghìn việc khổ sở vất vả lao tâm khổ tứ, cuối cùng đã được đền đáp. Đến nay, trong nước quốc thái dân an, quan hệ bốn nước hòa hảo, trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chiến sự. Cho nên!”.

Giọng hắn bỗng dưng trở nên kích động, nói từng tiếng rành rọt: “Nếu như nàng muốn thoái vị lấy chồng, đây là thời cơ”.

“Ngươi nói cái gì?”. Khương Trầm không thể ngờ đến điều hắn muốn nói lại là điều này, cơ hồ hoài nghi mình lầm.

Nhưng giọng nói của Tiết Thái lại càng lúc càng sáng rõ, rành mạch và gấp gáp:

“Nàng thích Hách Dịch đúng không? Nhưng vì thân phận của hai người, cho nên không thể ở bên nhau đúng không? Hiện tại, nàng có cơ hội rồi đó”.

“Ta không biết ngươi đang nói gì!”.

“Cơ Hốt là chủ nhân của Tứ quốc phổ, năm năm qua vì trốn tránh nàng, nàng ta đã chọn ẩn cư, nhưng chỉ cần nàng mời nàng ta lần nữa nàng ta sẽ xuất sơn, nàng có thể gửi gắm Tân Dã cho nàng ta, nàng ta vẫn sẽ giúp cháu của mình. Mẫu thân nàng đã qua đời, cũng là lúc mời phụ thân nàng quay về rồi. Hai người bọn họ, một người là bù nhìn rơm, một người là cáo già, tuy đều rất bạc tình, nhưng đối với Tân Dã, đều sẽ tận tâm tận lực. Cho nên nàng, cuối cùng cũng có thể rút lui khỏi vòng xoáy lớn này”.

“Ngươi… ngươi…”. Khương Trầm Ngư nói không nên lời.

“Trầm Ngư, có câu này có thể khá phũ phàng, nhưng lại là sự thực – Nàng không có tố chất làm hoàng đế. Năm năm nay, sở dĩ nàng có thể làm hoàng đế thuận buồm xuôi gió, ngoài vì nàng khoan dung độ lượng, được lòng người ra, còn có một phần nguyên nhân là – Những việc xấu xa, bẩn thỉu, nàng không muốn làm ta đều làm thay nàng. Bây giờ, ta sắp chết rồi, trừ phi nàng dùng Khương Trọng giúp nàng, nhưng, chắc chắn nàng không muốn lại đối diện với ông ta, cho nên… lúc này là lúc rút lui rồi. Lấy chồng đi, Trầm Ngư”.

Lấy chồng đi, Trầm Ngư.

Năm tiếng cuối cùng chắc nịch đanh thép, không ngừng vang vọng.

Nhất thời, trên trời dưới đất, đều lặp đi lặp lại năm tiếng này – Lấy chồng đi, Trầm Ngư. Lấy chồng đi, Trầm Ngư. Lấy chồng đi, Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư kêu thét lên, bịt chặt tai mình.

Giọng nói của Tiết Thái hơi nghẹn ngào, nhưng vẫn cố gắng kìm chế: “Năm đó ta ép nàng xưng đế là vì ta có tính toán riêng, ta không muốn nàng và Hách Dịch tiếp tục dây dưa, ta sợ nàng thực sự vứt hết tất cả đi theo hắn ta, cho nên, ta sử dụng tất cả mọi thứ để giữ nàng lại. Ta biết chuyện Khương Họa Nguyệt và hai tên Tiêu La thông đồng, ta cố ý không đánh tiếng, ta cho ả ta có cơ hội đoạn tuyệt với nàng, kỳ thực, nếu như không cho họ cơ hội, chị em nàng vẫn có thể tiếp tục hòa thuận chung sống... ta biết nàng đã hai lần đi gặp Hách Dịch, ta ghen muốn chết, nhưng, ta nhất định phải cho hai người cơ hội cắt đứt, cho nên ta mạo hiểm việc có thể mất nàng, dùng xe ngựa của mình để che giấu cho nàng… Ta thận trọng từng bước, khổ tâm trù tính, ta tưởng rằng… chỉ cần cho ta thêm vài năm là sẽ có hy vọng. Từ nhỏ ta đã muốn gió được gió, muốn mưa được mưa, cho dù sau này nhất thời thất thế, nhưng cũng là nhận đủ vinh sủng, vì thế trên thế gian này, không có thứ gì là ta không có được, bao gồm cả nàng trong đó. Cho nên, ông trời cuối cùng đã không chấp nhận, giáng một đòn chí mạng cuối cùng xuống ta”.

“Tiết Thái…”.

Khương Trầm Ngư run run ấn lên cánh cửa, không thể tưởng tượng nổi vẻ mặt của Tiết Thái khi nói những lời này ở bên kia cánh cửa, hắn đang khóc ư? Lần duy nhất hắn khóc chính là lần khuyên nàng xưng đế, nhưng lần đó hắn tuy lòng xao động, nhưng không phải là kích động.

Băng Ly.

Danh hiệu mà Yên vương phong tặng kỳ thực là sự miêu tả chân thực về Tiết Thái. Cứng cỏi như băng đá, trong suốt như lưu ly.

Một con người như thế này, lại, lại… lại thích nàng. Sự thực này khiến cho cả trời đất đều trở nên ảm đạm.

“Nàng đi đi”. Tiết Thái mềm yếu nói.

“Ta không đi! Ta không đi! Cho dù ngươi có đuổi ta như thế nào, ta cũng không đi! Trừ phi ngươi đi cùng ta!”. Khương Trầm Ngư cố chấp lắc đầu.

Tiết Thái hít sâu một hơi, cười với một vẻ bất lực: “Nàng ấy… quả nhiên là khắc tinh của đời ta…’.

“Tiết Thái… ngươi, ngươi thật sự thích ta sao? Thế thì…”.

Khương Trầm Ngư cắn môi, mỗi từ nói ra đều rất khó khăn: “Chỉ cần ngươi khỏe, khỏe lên, ta, ta sẽ lấy ngươi… Ta sẽ lấy ngươi, được không? Cho nên, Tiết Thái, ngươi đừng từ bỏ, ngươi ra đây đi, ta không tin bao nhiêu danh y trong thiên hạ, bao nhiêu thuốc quý như thế mà không cứu nổi ngươi!”.

Bên kia cánh cửa, im lặng rất lâu.

Khương Trầm Ngư đợi một lúc, không kìm được lại đập cửa:

“Tiết Thái, Tiết Thái, ngươi có nghe thấy không? Ngươi có nghe thấy ta nói không? Ngươi đã lên kế hoạch lâu như thế, còn ép ta phải làm hoàng đế, để dọn đường cho quan hệ giữa chúng ta, sao lại có thể dừng lại ở đây? Ngươi không thích ta sao? Hãy cưới ta đi! Cưới ta đi!”.

“Không kịp nữa rồi!”. Giọng Tiết Thái vô cùng vô cùng khản đặc, khản đến mức khiến người ta cảm thấy dây thanh đới của hắn có thể đứt bất cứ lúc nào.

Khương Trầm Ngư mặt trắng bệch như tờ giấy: “Gì cơ?”.

“Nàng còn nhớ cái lần Hy Hòa chết đó không, ta dùng chăn chụp lên đầu nàng, không cho nàng nhìn? Lần này… cũng như thế…”.

Khương Trầm Ngư run rẩy lảo đảo đứng dậy: “Tiết Thái, ngươi, ngươi sao thế? Bộ dạng của ngươi bây giờ… rất đáng sợ sao?”.

“Đúng thế. Cho nên, nàng không thể nhìn. Nếu như nàng thấy… cả đời này sẽ toàn mơ ác mộng, hơn nữa mỗi lần nhớ đến lại là một lần đau khổ. Còn ta, tuyệt đối không thể để lại nỗi đau khổ này cho nàng. Cho nên…”.

Tiết Thái nhẹ nhàng nói với nàng, bằng giọng điệu dịu dàng mà nàng chưa từng được nghe: “Không được nhìn. Trầm Ngư, không được nhìn”.

“Tiết Thái…”.

“Ta đã nói hết, nàng… đi đi”.

“Tiết Thái”. Nước mắt đầm đìa trên gương mặt Khương Trầm Ngư.

Tiếng bước chân lạo xạo, loáng thoáng truyền tới từ đầu bên kia cánh cửa, sau đó, câu nói cuối cùng của Tiết Thái vang lên:

“Thực ra, hôm nay nàng có thể đến đây thăm ta, ta thật sự… rất vui”.

Sợi dây cuối cùng ở nơi sâu thẳm cõi lòng nàng cũng vì câu nói này mà đứt phựt, Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy mắt mình bỗng dưng nhòe đi, sau đó, sương mù dày đặc màu đỏ như máu tươi bao phủ, che hết tất cả cảnh vật trước mắt.

Nàng ngất đi.

Đến khi Khương Trầm Ngư tỉnh lại, trên mắt đã bị băng một dải lụa, có thể lờ mờ cảm thấy mình đang ở trên xe ngựa, bánh xe lăn lộc cộc, chòng chành lắc lư.

Nàng sờ dải lụa: “Chuyện gì thế?”.

Bên cạnh, giọng nói của Giang Vãn Y vang lên dịu dàng: “Hoàng thượng, bệnh mắt của người tái phát, lần này tương đối nghiêm trọng, cho nên phải điều trị cẩn thận. Hơn nữa… Tiết tướng dặn dò chúng thần đưa người về kinh, cho nên, bây giờ người đang trên đường về kinh.”

“Muội không đi!”. Khương Trầm Ngư giãy lên muốn ngồi dậy: “Muội không đi, muội phải nói chuyện với Tiết Thái, muội còn phải…”.

“Tiết tướng chết rồi!”. Giang Vãn Y lạnh nhạt nói một câu, nàng run lẩy bẩy.

“Huynh… nói gì?”.

“Sau khi hoàng thượng ngất, Tiết tướng vô cùng lo lắng, dặn dò chúng thần đưa người về kinh, nhưng dặn dò được một nửa thì không nghe thấy tiếng nữa, chúng thần vội vàng phái người vào trong, thì phát hiện Tiết tướng đã… ngừng thở”.

“Cũng có nghĩa là… đến nhìn mặt hắn lần cuối muội cũng không được nhìn?”.

Có lẽ vì không nhìn thấy gì, nên Khương Trầm Ngư trở nên yên tĩnh, không còn kích động nóng nảy như lúc đập cửa nữa.

Giang Vãn Y nhìn nàng một cách thương xót, “ừ” một tiếng.

Cả người Khương Trầm Ngư không hề nhúc nhích.

Giang Vãn Y nhẹ nhàng cầm tay nàng, khẽ nói: “Nếu muốn khóc thì cứ khóc đi”.

“Muội không khóc”.

“Hoàng thượng…”.

“Muội không thể khóc. Mắt của muội đang đắp thuốc, nếu muội khóc, nước mắt sẽ làm trôi hết thuốc”.

Khi Khương Trầm Ngư nói câu này, giọng nói vẫn còn run rẩy, nhưng biểu cảm đã bình tĩnh đến mức đáng sợ.

Giang Vãn Y sờ lên dải lụa băng mắt nàng: “Ba ngày sau là được tháo băng, hoàng thượng có thể nhìn thấy trở lại”.

“Muội biết rồi. Cho nên, muội không khóc”.

Khương Trầm Ngư cầm tay hắn, giống như đang nắm chặt chỗ dựa cuối cùng của mình, nói từng tiếng một:

“Muội sẽ mau chóng khỏe trở lại, sau đó, muội sẽ đích thân đưa tiễn Tiết Thái. Truyền ý chỉ của trẫm, hỏa táng thi hài của Tiết tướng thành tro, rồi lấy tro cốt cho vào hộp, mang về đế đô. Trẫm sẽ đích thân chủ trì đại tang cho Tiết Thái!”.

Ánh mặt trời mùa đông chiếu xuyên qua cửa sổ rọi lên gương mặt nàng. Tuy đôi mắt không nhìn thấy gì, nhưng khóe môi cương nghị, cái cằm xiết chặt, không điểm nào là không bộc lộ quyết tâm và ý chí của vị nữ vương này.

Trong lòng Giang Vãn Y bỗng trào dâng một niềm kính trọng, hắn không nói thêm gì nữa.

Năm Lê Yến thứ năm, thừa tướng Tiết Thái nhận đế mệnh đến bảy thành trì xử lý dịch bệnh, không may nhiễm bệnh, chết ở Hàn Cừ. Hoàng đế nghe tin chảy nước mắt, lệnh hỏa táng di thể thừa tướng, đưa tro cốt về kinh.

Ngày mùng một tháng mười hai, hoàng đế đích thân chủ trì tang lễ cho thừa tướng.

Ngày thừa tướng nhập thổ, tuyết rơi nhiều như khóc, cả nước đau buồn.

Hoàng đế mất đi cánh tay phải, bệnh nặng, ba tháng sau băng hà, truyền ngôi cho thái tử Tân Dã, lệnh cho tiền thừa tướng Khương Trọng, tiền quý tần Cơ Hốt phò tá thái tử, đổi quốc hiệu thành Bích, niên hiệu Tân Bình.

Người đời sau để phân biệt, gọi giai đoạn trước triều Lê là Tiền Bích, sau triều Lê là Tân Bích.

Bức tranh mỹ nhân treo trên tường, xiêm áo bị gió thổi phấp phới, tựa như sắp bước từ trong tranh ra.

Nhưng vì ngày ngày dãi gió dầm mưa, nên có những chỗ đã bắt đầu ố vàng, khiến nàng vừa cao ngạo, cách biệt nhân thế, lại vừa thêm vài phần tịch liêu không thê tả xiêt.

Bức tranh này treo trên một tửu lâu hai tầng có tên là “Long Phượng lâu”, tọa lạc trên con phố phồn hoa nhất Nghi quốc. Còn ông chủ của tửu lâu này không phải ai khác chính là Nghi vương.

Từ hai năm trước, sau khi chàng treo bức tranh này lên, chặn đứng tâm tư muốn mai mối của một số đại thần, cũng thu hút được vô số văn nhân tao khách đến đây, bọn họ người thì muốn đến xem Hy Hòa phu nhân trong truyền thuyết rốt cuộc trông như thế nào, người thì muốn đến so sánh nàng ta với nữ quyến trong nhà mình… Người người đều nghe nói về một bức tranh như thế, người người đều chạy đến đó ăn cơm. Tóm lại, hành động này của Hách Dịch không những thành công trong việc từ chối hôn sự của mình, còn kiếm được bộn tiền.

Nhưng cũng hoàn toàn trì hoãn hôn sự của chàng. Đến nỗi khi người Nghi quốc nhắc đến hoàng đế của mình, đều tỏ vẻ lo lắng:

“Ngươi nói xem hoàng đế của chúng ta tuổi có còn nhỏ đâu mà vẫn còn kén cá chọn canh như thế. Sao không chịu tìm một nữ nhân để ổn định chứ?”.

“Ngươi thì biết gì, bây giờ hoàng đế ngài muốn đi đâu thì đi đấy, muốn làm gì thì làm nấy, không có ai quản tốt biết bao nhiêu. Hơn nữa tuy ngài không lấy vợ, nhưng hồng nhan trí kỷ, một đêm phong lưu chắc chắn là vô số, hi hi, đây mới là cảnh giới cao nhất của nam nhân: Có quyền, có tiền, có nữ nhân, còn có tự do!”.

“Nhưng không có con cái nối dõi thì vẫn không ổn”.

“Sợ cái gì chứ, chúng ta còn có tiểu công tử. Dù sao hoàng thượng quanh năm suốt tháng cũng không ở đế đô, nếu không có tiểu công tử, ngài có thể thoải mái như thế không?”.

“Cũng đúng. Tiểu công tử thật sự rất lợi hại… Đúng rồi, năm nay ngài cũng mười sáu tuổi rồi đúng không? Cũng có thể thành gia rồi nhỉ? Ngươi nói xem, ở Nghi quốc chúng ta, thiên kim tiểu thư của nhà nào có thể xứng với tiểu công tử?”.

“Ồ, cái này ấy mà, phải suy nghĩ cho thật kỹ…”.

Những cuộc thảo luận kiểu này có khắp trong các tửu lâu, lọt vào tai một người nào đó, y liền không nhịn được mỉm cười?

Người này thân khoác áo khoác màu đen, đi lên cầu thang vội vã lên tầng hai, đến trước bức tranh.

Nữ tử trong tranh đứng trước chiếc gương đồng, dáng người cực kỳ thướt tha yểu điệu, mái tóc như mây bay lãng đãng, còn trong gương đồng lại có thể nhìn thấy gương mặt của nàng – mày đậm môi son, không phải là nhan sắc của nhân gian.

Bức tranh này truyền từ Tiết Thái đến Hách Dịch, giúp hai nam tử xuất sắc từ chối hôn sự, vì thế có thể thấy nó được vẽ đẹp đến nhường nào.

Thế nhưng, người thân khoác áo choàng đen đó đứng trước bức tranh, nhìn thần thoại do tự tay mình vẽ ra, lại hiểu một cách sâu sắc rằng, thứ nàng vẽ ra chẳng được đến bảy phần của Hy Hòa phu nhân.

Có lẽ do nàng đứng nhìn chăm chú trước bức tranh quá lâu, cho nên đã thu hút sự chú ý của vài người khách:

“A? Ngươi xem, lại có người ngơ ngẩn trước bức tranh đó”.

“Đừng nhìn nữa, năm nào chẳng có bao nhiêu thằng ngốc như thế, có phải hiếm thấy đâu…”.

“A! Nhìn kìa!”.

“Có cái gì hay mà nhìn…”.

“Mau nhìn mà xem! Người đó gỡ bức tranh xuống rồi!”.

“Cái gì? Giữa thanh thiên bạch nhật, lại có người dám ộm tranh!”.

Khách khứa trong tửu lâu nhốn nháo cả lên, nhìn lên tiêu điểm của tầng hai, đoán xem kẻ nào không sợ chết dám lấy bức tranh đó xuống.

Nhưng từ góc nhìn của bọn họ, chỉ thấy người áo choàng đen đó kín mít từ đầu đến chân, không hở ra một chút da thịt.

Ngay tức khắc có tiểu nhị xông lên lầu chuẩn bị bắt giữ y. Nhưng lúc này, người áo đen nói một câu: “Nghe nói, muốn gả cho Nghi vương bệ hạ, phải đẹp hơn người trong tranh, đúng không?”.

Giọng nói nhỏ nhẹ dịu dàng, linh động như khói, triền miên như nước, lại ngân vang như chuông.

Nữ nhân?

Tất cả mọi người có mặt đều ngẩn ra, tiểu nhị cũng đứng yên tại chỗ.

Sau đó, người áo đen lại nói câu thứ hai: “Thế thì ta đến ứng cử, hãy đưa ta yết kiến Nghi vương bệ hạ”.

Sau một hồi im lặng chết chóc, cả tửu lâu bùng lên náo loạn.

Trong tiếng huyên náo của mọi người, chưởng quầy của tửu lâu đi lên cầu thang, chắp tay hành lễ: “Mời tiểu thư đi theo ta”.

Hai người rất mau chóng biến mất ở góc rẽ cầu thang.

“Người đó là nữ nhân? Nữ nhân? Nàng ta còn đẹp hơn cả người trong tranh?”.

“Đã dám hạ bức tranh đó xuống, chắc chắn là như vậy. Nếu không là khi quân, bị chém đầu đó…”.

“Trời ơi, vừa nãy sao không kéo áo choàng của nàng ta xuống? Muốn biết nàng ta trông thế nào quá!”.

“Đừng có ngốc thế! Nếu người đó quả thực xinh đẹp hơn cả Hy Hòa phu nhân, hơn nữa thực sự trở thành hoàng hậu của Nghi quốc, dung mạo của nàng ta có thể dễ dàng cho ngươi nhìn thấy sao?”.

“Tuy nói như vậy, nhưng vẫn muốn biết quá á á á á á…”.

Tiếng than thở, tiếng ngạc nhiên, tiếng tò mò và đủ mọi giọng nói hòa lẫn với nhau, khiến tửu lâu càng lúc càng náo nhiệt hơn bình thường.

Mà lúc này, người áo đen được chưởng quầy của tửu lâu dẫn dắt, đã bước vào một căn phòng ở tầng hai.

Hai tên thị vệ tiến lên phía trước chuẩn bị lục soát người, Hách Dịch ở trong phòng xua tay: “Không được làm mỹ nhân kinh sợ. Các ngươi lui ra, để nàng vào trong”.

Người áo đen chậm rãi đi đến trước mặt chàng, dừng lại cách chàng khoảng một trượng.

Hách Dịch dò xét nàng từ đầu đến chân một lượt, cười nói: “Nàng thật may mắn, hôm nay trẫm lại ở đây”.

“Đừng có coi thường thế lực của ta ở Nghi quốc”.

“Ha ha”. Hách Dịch cười vui vẻ: “Ta đương nhiên biết rõ thế lực của nàng, chỉ có điều ta lại không ngờ đến bây giờ nàng vẫn còn có thể sử dụng những thế lực này”.

Đám thị vệ nghe đến đây, cuối cùng đã hiểu hóa ra vị cô nương này là chốn quen biết cũ với hoàng thượng!

Người áo đen cầm bức tranh lên, từ tốn nói: “Ta nghe nói, muốn gả cho ngài, cần phải đẹp hơn nàng ta!”.

Hách Dịch tươi cười nhìn năng.

Người áo đen bỏ bức tranh xuống: “Nhưng ta không đẹp bằng nàng ta, còn có thể gả cho ngài không?”.

Ánh mắt của Hách Dịch liền trở nên sâu thẳm: “Cởi áo choàng ra”.

Người áo đen từ từ cởi bỏ chiếc đai, thả hai tay ra, chiếc áo choàng trùm từ đầu đến chân tụt xuống đất như nước chảy.

Các thị vệ nhìn thấy dung mạo của nàng xong, hai mắt trợn tròn.

Hách Dịch nhìn phản ứng của mọi người một lát rồi mỉm cười: “Nếu như nàng nhìn phản ứng của những người này xong còn cảm thấy chưa đủ tự tin…”.

Chàng đứng dậy, đi thêm khoảng một trượng, dừng trước mặt người khách, giơ tay lên, nhẹ nhàng kéo lấy tay nàng:

“Vậy thì để ta nói cho nàng hay, trong mắt ta, Hy Hòa phu nhân căn bản không bằng một phần vạn của nàng”.

Người đó run rẩy, giọng run run: “Cái hẹn ba năm đã qua… lại thêm hai năm nữa, còn có hiệu lực không?”.

Hách Dịch chăm chú nhìn nàng một cách dịu dàng vô hạn: “Đối với nàng… ta nghĩ hẳn là có hiệu lực vĩnh viễn…”.

Ngừng lại một lát, gọi tên nàng:

“Tiểu Ngu”.

Năm Tân Bình thứ nhất, có nữ tử lấy bức tranh Hy Hòa trên Long Phượng lâu xuống, tự xưng dung nhan mình còn đẹp hơn nàng ta. Nghi vương gặp xong, quả nhiên cả mừng, bèn cưới nàng, giấu trong thâm cung không ai được gặp.

Năm Tân Bình thứ hai, Nghi vương truyền ngôi cho người cháu, tức Hiền vương mà người Nghi quốc gọi thân mật là “tiểu công tử” Dạ Thượng.

Nghi vương cùng vợ thoái vị ẩn cư, làm ăn trong bốn bể, vô cùng thích ý.

Năm Tân Bình thứ ba, có sử quan khẩn cầu biên lại Bích sử, khi hạ bút đến đoạn Khương Trầm Ngư, lời lẽ phần nhiều miệt thị, nói là họa quốc (gây họa cho đất nước).

Bích vương Tân Dã mới chín tuổi đọc xong, sai người phạt trượng.

Sử quan hoảng sợ, định sửa lại, Bích vương giữa triều đường lại nói: “Cứ như thế đi, không cần sửa”.

Thế nên, Bích sử ghi rằng:

Lê vương Khương Trầm Ngư, con gái út của hữu tướng của triều Tiền Bích Khương Trọng, dung mạo xinh đẹp, được Bích vương Chiêu Doãn yêu thích, cưới về trong cung, phong làm Thục phi, sau lại tấn phong hoàng hậu. Người này giỏi về quyền thuật, lòng dạ độc ác thủ đoạn sâu xa, kiêm cả văn sử, tài năng ngút trời. Vào đêm được phong hậu, đầu độc giết Bích vương, khiến ngài bệnh mãi không khỏi, nhân cơ hội lâm triều xử lý chính sự, nắm chính quyền trong tay. Năm Đồ Bích thứ sáu, Bích vương băng hà, tỉ muội họ Khương tranh quyền, thị được thừa tướng Tiết Thái hỗ trợ, giết tỉ tỉ của mình, từ đây lên ngôi, tự xưng Duệ đế, đổi quốc hiệu thành Lê.

Năm Lê Yến thứ năm, Tiết tướng bệnh chết, không lâu sau Khương thị cũng qua đời.

Phía dưới bình luận:

Trong thời gian tại vị tuy Lê vương làm được rất nhiều việc tốt, nhưng trước thị giết chồng sau lại giết chị, ngay đến cha mình cũng không tha, vì ý kiến bất đồng với Khương tướng nên đã bãi miễn ông, khiến ông nhiều năm không được quay về kinh, vì thế người này có thể nói là bạc tình lạnh lùng đến cực độ. Đồ Bích mênh mông, thiếu chút nữa là bị hủy hoại trong tay người phụ nữ này, buồn thay đau thay! Hy vọng người đời sau lấy đây làm gương…

“Thanh sơn viễn cận đái Hoàng Châu, Tễ cảnh Trùng Dương thướng bắc lâu. Vũ yết đình cao tiến cúc nhuận, Sương phi thiên uyển ngự lê thu. Thù du sáp mấn hoa nghi thọ, phỉ thúy hoàng thoa vũ tác sầu. Mạn thuyết Đào Tiềm ly hạ túy, Hà tằng đắc kiến thử phong lưu…”(Bài “Cửu nhật đăng cao” của Vương Xương Linh (thời Đường). Nhà thơ kể lại tình cảnh đăng cao vào tết Trùng Dương theo phong tục, leo lên Bắc lâu, cảnh núi non trùng điệp từ xa tới gần thu vào tầm mắt. Tạm dịch nghĩa như sau: Núi xanh từ xa tới gần trải dài đến kinh đô, sau cơn mưa leo lên lầu Bắc vào tiết Trùng Dương. Mưa tạnh đình cao hoa cúc tươi tốt, sương giăng vườn ngự uyển hoa lê vào thu. Cành thù du gài tóc, hoa trường thọ, trâm phỉ thúy cài ngang dáng như mỹ nhân âu sầu nhảy múa. Chẳng trách Đào Tiềm uống say mèm dưới hàng rào, đời người có được mấy lần phong lưu như thế này…)

Ngữ điệu chậm rãi, nhẹ nhàng vang vọng giữa những tán bách xanh tươi, nam tử ăn vận thoải mái vừa đi vừa ngâm nga, có vẻ vô cùng thoải mái.

Sau lưng chàng, một người dáng vẻ như a hoàn đang dìu một nữ tử, nữ tử này nghe xong liền cười: “Nhìn chàng vui vẻ như thế, tiết Trùng Dương sắp đến, lẽ nào chàng không có chút ưu sầu "*biên sáp thù du thiểu nhất nhân " nào sao (* Một câu trong bài “Cửu nhật cửu nguyệt ức Sơn Đông huynh đệ” của Vương Duy, nghĩa là vào tiết Trùng Dương nhớ người thân nơi phương xa hôm nay đều đăng cao, cài thù du lên tóc, duy chỉ thiếu có mình ).

Nam tử lập tức quay người lại, ra hiệu cho a hoàn lui ra, tự mình đỡ tay nữ tử, nói: “Ta có ái thê xinh đẹp ở bên cạnh, lại còn có con trai chưa chào đời đang chờ đợi, có gì mà phải ưu sầu?”.

Nữ tử chớp chớp mắt: “Sao chàng khẳng định là con trai?”.

“Con gái càng tốt, xinh đẹp giống như nàng, có tố chất gây họa cho nước nhà”.

Nữ tử đang định cười thì phía trước có mười mấy người đi đến, nhìn dáng vẻ cũng là leo núi vãn cảnh, những người đó ăn vận theo kiểu văn sĩ, vừa đi vừa bàn luận:

“Này, huynh có nghe nói Bích vương sai người soạn lại sử sách Tiền Bích, trong đó viết về Lê vương rất tệ không!”.

“Ả vốn gây họa cho nước cho dân, theo ta thấy, viết như thế vẫn còn nhẹ đấy”.

“Chẳng trách ả chết rồi trước mộ chẳng có lấy một tấm bia. Không giống như Võ hậu thời Đường cho mình một tấm bia không chữ”.

“Võ Tắc Thiên dù có thế nào đi chăng nữa, cũng không hạ độc chồng mình, so với Khương Trầm Ngư, còn nhân từ hơn nhiều”.

“Nhưng ta nghe nói, người hạ độc không phải là Lê vương, mà là đệ nhất mỹ nhân của bốn nước – Hy Hòa phu nhân”.

“Thôi đi. Làm gì có ai hạ độc cả bản thân mình. Đừng quên cuối cùng Hy Hòa chết thảm nhường nào… Chắc chắn là Khương Trầm Ngư đố kỵ với dung nhan kiều diễm của nàng, Bích vương vừa bị bệnh, ả liền lập tức ban cái chết cho Hy Hòa, còn tung tin với bên ngoài là bệnh chết, ai tin chứ!”.

“Thế xem ra Khương Trầm Ngư này quả nhiên là mầm họa lớn!”.

“May mà ông trời có mắt, làm cho ả bị bệnh mà chết. Tạo nghiệt quá nhiều sẽ có kết cục này”.

“Ta cảm thấy, để cho ả chết vẫn là dễ dàng cho ả, loại đàn bà độc ác này, đáng nhẽ phải lôi ra giễu phố lăng trì mới có thể giải hết hận!”.

“Được rồi, ai bảo hoàng đế của chúng ta nhân từ nương tay, nói thế nào đi chăng nữa, ngài cũng do một tay nữ nhân kia nuôi lớn, giống như là mẹ vậy… Đổi lại là ta, ta cũng thấy khó xử. Hoàng thượng đáng thương, mới chín tuổi mà phải đối mặt với những chuyện này… May mà ngài vẫn còn ông ngoại và Cơ thái hậu yêu thương ngài…”.

Tiếng bàn luận của đám văn nhân này càng lúc càng xa, chẳng ai buồn đưa mắt liếc về phía bên này một cái.

Đợi khi họ đi khuất tầm mắt, a hoàn mới “phì” một tiếng, căm hận nói: “Những kẻ đọc sách này là đáng ghét nhất, nói nhăng nói cuội, bàn luận vớ vẩn!”.

Nam tử cười hi hi: “Thế theo Hoài Cẩn, phải trừng phạt bọn họ như thế nào?”.

“Ừm… bắt bọn họ đi làm ruộng hết đi! Xem bọn họ còn nhàn rỗi như thế không?”.

Nam tử lộ vẻ kinh ngạc, quay sang nói với nữ tử: “A đầu này của nàng thật là ghê gớm đấy!”.

Nữ tử mỉm cười.

Hoài Cẩn bất mãn nói: “Tiểu thư, bọn chúng nói tiểu thư như thế, tiểu thư không tức giận sao? Còn nữa, hoàng thượng sao lại đồng ý cho sử sách viết về tiểu thư như thế? Còn cả lão gia nữa, sao lão gia cũng đồng ý…?”.

Nữ tử dịu dàng ngắt lời nàng ta, nói: “Thiên tử thay đổi thần tử cũng thay đổi, để củng cố chính quyền, đẩy hết lỗi lầm cho triều đại trước là một hành động sáng suốt”.

“Nhưng mà…”.

“Không sao. Dẫu sao… Khương Trầm Ngư đã chết rồi, người đời sau bình luận về nàng thế nào, nàng cũng không có ý kiến gì”.

“Đúng đấy đúng đấy!”. Nam tử ghé sát lại, trong ánh mắt tràn ngập sự tán thưởng: “Tiểu Ngu nhà ta nghĩ thông suốt nhất, cho nên mỗi ngày mới hạnh phúc như thế”.

Tiểu Ngu ngẩng đầu lên, nhìn nam tử cao hơn mình nửa cái đầu, ánh mắt sáng lấp lánh, có chút cảm khái, lại có chút cảm ơn:

“Hạnh phúc của thiếp… lẽ nào không phải do phu quân ban cho sao?”.

Hai người dù đã thành hôn nhiều năm, nhưng phút này nhìn vào mắt nhau, tình ý vẫn triền miên như cũ.

Hoài Cẩn ở bên cạnh đã quen, nên quay đầu đi làm bộ không thấy.

Nữ tử bỗng kêu một tiếng rất khẽ.

Nam tử đột nhiên biến sắc, lo lắng hỏi: “Sao vậy?”.

“Con… đạp thiếp…”.

“Đi nào, ta bảo bọn Tiểu Chu đánh xe đến, chúng ta mau về thôi”. Nam tử nói đoạn rồi gọi người.

“Đừng… đừng gấp gáp như thế… chỉ là đạp thiếp một cái thôi, không phải sắp lâm bồn đâu…”.

Nữ tử bị phản ứng của nam tử chọc cười, lườm chàng một cái: “Chàng luôn không cho thiếp ra khỏi cửa, làm cho thiếp chán chết đi được. Hôm nay khó khăn lắm mới dẫn thiếp leo núi, gì thì gì thiếp cũng phải leo đến đỉnh núi mới thôi”.

“Ta đâu có không cho nàng ra khỏi cửa”.

Nam tử mặt đầy vẻ oan uổng, cười khổ nói: “Trước đây nàng ngôi thai không thuận, động một chút là nôn ọe, sư huynh nàng nói nàng khí hư thể nhược, không nên hoạt động nhiều”.

“Sư huynh sư huynh sư huynh, rốt cuộc chàng nghe huynh ấy hay là nghe thiếp?”.

“Ta đương nhiên là…”.

Nam tử nói đến đây, mắt đảo một vòng, bỗng cúi xuống: “Nghe ‘Song Hoàng Liên’ nhà chúng ta!”.

Hoài Cẩn ở bên cạnh bật cười thành tiếng, che miệng nói: “Cô gia thật quá đáng, sao lại đặt cho tiểu thiếu gia tương lai một cái tên khó nghe như thế!”.

“Tuy khó nghe, nhưng lại gần gũi, độc nhất vô nhị. Ngươi nghĩ xem, ta từng là hoàng đế, còn phu nhân của ta cũng từng là một hoàng đế, hai hoàng đế kết hợp lại mới có đứa trẻ này, thế chẳng phải là ‘Song Hoàng Liên’ sao?”.

“Sao chàng không gọi là ‘Song Đản Hoàng’ (trứng hai lòng) đi?”. Nữ tử lườm chàng một cái, quay người đi lên phía trước.

Nam tử vẫn rất nghiêm túc ngẫm nghĩ: “Song Đản Hoàng… hình như cũng không tồi đâu…”.

“Này, thiếp chỉ tùy tiện nói ra thôi! Nếu chàng thật sự dám đặt tên như thế, thiếp không chịu đâu”.

“Ha ha ha ha…”. Ba người tiếp tục đi lên núi, lại gặp đám văn nhân đó xuống núi, tiếng bàn luận của họ vẫn chưa dứt, lại đổi sang một chủ đề khác.

“Nghe nói Trình vương tháng trước bị ám sát chết rồi?”.

“Ừ, hơn nữa, nghe nói là huynh trưởng của nàng ta làm”.

“Huynh trưởng của nàng ta chẳng phải đã chết cả rồi sao?”.

“Còn một người bỏ trốn. Đó chính là kẻ đã hại chết Kỳ Úc hầu của chúng ta!”.

“Ồ… hình như tên là Di gì đó, Di Phi thì phải”.

“Đúng. Hắn quả là giỏi nhẫn nhịn, mười năm đằng đẵng, cuối cùng đã phục quốc thành công!”.

“Quả nhiên là một nam nhân như lạng sói…”.

Tiếng bàn luận xa dần.

Hoài Cẩn nhớ đến diện mạo thực sự của nam nhân bị bình luận là như “lang sói”, không kìm được lại cười “phì” một tiếng nữa: “Nào có giống lang sói, rõ ràng là một con công!”.

“Mười năm…”. Trong mắt của nam tử lại ngập tràn sự cảm khái: “Hóa ra đã mười năm rồi…”.

“Đúng thế, mười năm phong vân biến ảo của thiếp, cũng là mười năm nếm mật nằm gai của Di Phi”. Nữ tử nói đến đây, cũng bộc lộ vẻ mặt đầy phức tạp: “Hắn tuy bề ngoài cười cợt không nghiêm túc, nhưng thực sự là một nam nhân rất giỏi. Cũng may, hắn cũng không phải kẻ địch của thiếp”.

Nam tử mỉm cười rất kỳ dị.

Nữ tử không kìm được hỏi: “Chàng cười cái gì?”.

Nam tử thong thả nói: “Di Phi không thể là kẻ địch của nàng được”.

“Tại sao chàng lại khẳng định như vậy? Nếu như năm đó thiếp không chịu đồng ý thu nhận hắn…”.

Nam tử ngắt lời nàng: “Nàng nhất định sẽ thu nhận. Bởi vì, nàng đã từng thề phải báo thù cho Sư Tẩu, tuyệt đối không thể tha thứ cho Di Thù. Thế thì còn có cách gì tốt hơn là thu nhận cái gai trong mắt của Di Thù?”.

Nữ tử nhìn chằm chằm chàng một lúc xong cười rạng rỡ: “Chàng quả thực rất hiểu thiếp”.

“Sở dĩ ta nói Di Phi không thể trở thành kẻ địch của nàng, ngoài việc hai người có chung một kẻ địch ra, còn có một nguyên nhân, đó là…”.

“Là gì?”.

Nam tử bỗng nín thinh, không chịu nói.

“Mau nói đi! Mau nói mau nói…”.

“Không nói”.

“Hách Dịch!”.

“Đại trượng phu nói không nói, tức là không nói. Nàng gọi tên của ta cũng vô dụng”.

Hoài Cẩn bên cạnh đưa mắt liếc qua liếc lại hai người, sau đó cũng cười. Kỳ thực, nguyên nhân đó nàng cũng biết, chỉ có điều tiểu thư… dường như thật sự thật sự không biết…

Tiểu thư quả thực là một người rất chậm hiểu.

Năm đó trong mắt chỉ có một mình Cơ Anh. Tâm tư của những người khác đối với nàng thế nào, nàng hoàn toàn không hay biết. Nếu không phải cô gia là người đầu tiên dũng cảm bày tỏ với nàng, có lẽ người bên cạnh tiểu thư hôm nay chưa chắc đã là cô gia.

Nói ra, đáng thương nhất vẫn là thừa tướng, hắn nói sớm một chút thì tốt rồi, nhưng lại đến lúc gần chết mới nói, hại cho tiểu thư khóc đến suýt mù cả đôi mắt…

Vừa nghĩ đến muôn vàn chuyện năm xưa, nàng bỗng hắt xì hơi một cái, lại nhìn thấy hai người – một người vẫn truy hỏi không thôi và một người cười kỳ lạ trước mắt, một cảm xúc từ từ trào dâng, mềm mại lan tỏa khắp toàn thân.

Tên của loại cảm xúc này chính là hạnh phúc.

Ngàn năm trôi qua, đời sau bình luận.

Hạnh phúc vui sướng lại ở hôm nay.

Mùa đông năm Tân Bình thứ hai, Trình quốc Di Phi xưng đế. Lịch sử bốn nước, một lần nữa sang trang.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Ngoại truyện……


Ngoại Truyện 1 – Ngày Tháng Trên Thuyền

Ngày tháng trên thuyền trôi qua từ từ, phàm trần thế tục dường như đã trở nên xa vời vợi nơi đây.

Sóng biển ì oạp vỗ, hải âu kêu lảnh lót, ánh dương ấm áp chiếu xuống sàn thuyền, cơn gió ẩm ướt lướt qua mặt, thật là mát mẻ.

Khương Trầm Ngư dựa lan can nhìn mặt biển xanh thăm thẳm mênh mông chẳng biết đâu là bờ, ánh dương biến thành một tia sáng bảy sắc cầu vồng giữa những ngón tay, thời tiết tháng năm ấm áp như thế, an lành như thế, đẹp đẽ như thế, trong lòng nàng lại nảy sinh một cảm giác không chân thực.

Giang Vãn Y xách hòm thuốc đi qua. Nàng nhìn thấy vô tình hỏi: “Có người bị bệnh à?”.

Giang Vãn Y mỉm cười với nàng: “Còn ai vào đây nữa”.

Nàng đột nhiên hiểu ra – Nghi vương bị thương. Xem ra thuyền đã ra biển, y cũng không muốn che giấu nữa. Nàng liền nói: “Ta đi cùng huynh”.

Hai người đi tới hoa sảnh, từ xa đã nhìn thấy Hách Dịch nằm trên chiếc giường quý phi bên cạnh cửa sổ, có hai thị nữ xinh đẹp hầu hạ, một người đút rượu cho y, một bóp chân cho y thực là thoải mái.

Nhìn thấy họ bước vào, Hách Dịch vẫy tay nói: “Các ngươi đến thật đúng lúc, bình Nữ Nhi Hồng mười tám năm này vừa mới khui, mùi vị cực ngon, lại thêm ông trời nể mặt, mấy ngày nay sóng êm gió lặng thế này, cùng nhau nâng mấy chén nhỉ?”.

Giang Vãn Y mỉm cười, không nói gì, đi tới đặt hòm thuốc xuống, một thị nữ lấy ghế cho hắn ngồi, lại hiểu ý kéo tay áo của Hách Dịch, đặt tay y lên đệm cho Giang Vãn Y bắt mạch.

Hách Dịch nằm rất thoải mái, ăn một quả vải do thị nữ kia đút sau đó quay đầu nhìn chằm chằm Giang Vãn Y, bỗng nói: “Ta thích ngươi”.

Tay Giang Vãn Y run run, suýt chút nữa trượt khỏi mạch của y. Đám thị nữ bụm miệng cười khúc khích.

Hách Dịch chớp chớp mắt, chậm rãi nói: “Bởi vì, ngươi là đại phu duy nhất thấy ta đang uống rượu mà lại không khuyên ta ngừng lại”.

Bấy giờ Giang Vãn Y mới hiểu mình bị chơi xỏ, vừa thở phào nhẹ nhõm, lại có chút dở khóc dở cười: “Đó chẳng qua là vì ta biết, cho dù có khuyên bệ hạ cai rượu cũng vô dụng mà thôi”.

“Không sai”, Hách Dịch giơ ngón tay cái, “Sống ở trên đời nếu không thể uống rượu, không thể ăn cay, không thể gần gũi mỹ nữ, chẳng thà giết ta còn hơn. Cho nên, những cái khác đều có thể chấp nhận, duy chỉ có ba việc này là tuyệt đối không thể thỏa hiệp”.

Đám thị nữ cười rũ rượi.

Khương Trầm Ngư nhìn họ, trong lòng thầm nghĩ vị Nghi vương này quả nhiên không phải người tầm thường, mới có một tối đã trở nên thân thiết với bao người trên thuyền, khiến đám hạ nhân bình thường luôn giữ quy củ trước mặt y muốn cười là cười không hề che đậy.

Thân là quân chủ, lại không hề có vẻ cao ngạo của bậc vương giả, nên nói y khác với những người xung quanh? Hay là nói y còn có mưu đồ gì?

Nàng đang thầm suy đoán, Giang Vãn Y đã bắt mạch xong, vừa đứng dậy mở hòm thuốc ra, vừa nói: “Vết thương của bệ hạ là nội thương, bị khí âm nhu tổnhương đến tim phổi, lại thêm ngâm mình trong nước lạnh, bây giờ hàn khí đã xâm nhập đến các kinh mạch, nếu không sớm trị bệnh tận gốc, hễ để lại thành tật, hậu hoạn vô cùng. Trước tiên thần dùng châm bạc đả thông kinh mạch, trục xuất hàn khí cho bệ hạ, sau đó lại kê đơn thuốc bồi bổ. May mà trên thuyền có đủ các loại thuốc mà thân thể bệ hạ xưa nay luôn cường tráng, điều trị mười ngày nửa tháng, tất sẽ chữa khỏi”.

“Thần y quả nhiên là thần y, vết thương do Họa Chi Lũ Băng chưởng gây ra, đại phu khác nhìn là thấy đau đầu, còn với ngươi lại chỉ là chuyện vặt”. Hách Dịch tán thưởng, ánh mắt đảo một vòng, dừng lại trên người nàng, “Nghe nói vị Ngu cô nương này là sư muội của hầu gia, chắc tài nghệ y thuật cũng không tồi. Con người ta ấy mà, thực ra rất sợ đau, nhưng nếu là mỹ nhân châm cứu cho ta, tâm trạng sẽ tốt hơn nhiều, một khi tâm trạng tốt thì không thấy đau nữa, cho nên, chẳng hay có thể làm phiền đến ngọc thủ của Ngu cô nương không?”.

Giang Vãn Y ngẩn ra một lúc, quay đầu nhìn Khương Trầm Ngư. Hôm nay nàng mặc một chiếc trường bào màu tím, bên ngoài choàng áo khoác màu đen, dưới ánh nắng, làn da gần như trong suốt. Cho dù trên mặt có vết bớt đỏ, nhưng mày mi như vẽ, chút tì vết kia sao có thể che mờ vẻ đẹp của nàng?

Vì thế Hách Dịch gọi nàng là mỹ nhân cũng không phải là sai.

Hắn không kìm được thở dài – Có những vẻ đẹp quả là không thể che giấu được.

Ví như Trầm Ngư giờ phút này đang dùng thuốc để làm xấu dung nhan của mình, ví như… người nào đó đã từng áo gai vải thô đầu bù tóc rối…

Nhớ tới người đó, Giang Vãn Y chợt bần thần, đến khi hắn tĩnh trí lại Khương Trầm Ngư đã rửa sạch tay, đón lấy hòm thuốc của hắn.

Hắn hơi ngạc nhiên, không kìm được khẽ hỏi: “Muội biết châm cứu?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

“Thế sao muội còn…”.

Khương Trầm Ngư cong cong khóe môi, lộ một nụ cười châm biếm: “Hắn đã không sợ chết, muội còn sợ cái gì?”.

Đây… Giang Vãn Y đờ người ra, nhưng không nói nổi điều gì, chỉ trơ mắt lên nhìn nàng lấy những cây châm bạc trong hòm thuốc ra, sau đó ngồi xuống cạnh giường. Hách Dịch đối mặt với mỹ nhân, quả nhiên cực kỳ phối hợp, không uống rượu nữa, chủ động cởi áo ngoài ra, để lộ tấm lưng trần.

Tuy hắn gầy nhưng không gầy kiểu da bọc xương, người hắn săn chắc, lại thêm ăn sung mặc sướng, nên da trắng hơn tuyết, vì thế khi nằm trên gấm đoạn màu hồng đào, nhìn trông rất đẹp mắt.

Đám thị nữ đỏ bừng mặt, quay đầu đi chỗ khác không nhìn nhưng lại không kìm được liếc trộm.

Ngược lại Khương Trầm Ngư đối mặt với nam tử để mình trần lại không xấu hổ cũng không thẹn thùng, vô cùng trấn tĩnh rút một chiếc kim châm từ trong túi ra, dùng ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa chuôi kim, dùng ngón vô danh đè lên thân kim, hơ qua trên lửa với tư thế vô cùng thành thục, sau đó nhắm chuẩn một vị trí nào đó rồi đâm xuống.

Giang Vãn Y vừa nhìn phương vị nàng châm xuống, trong lòng run rẩy.

Quả nhiên, kim vừa đâm xuống, toàn thân Hách Dịch chấn động dữ dội: “Ai da!”.

Khương Trầm Ngư giữ chặt y, thấy sắc mặt nàng trầm tĩnh, không giống như đang đùa, bờ môi Hách Dịch động đậy, nhưng cuối cùng không nói gì cả.

Khương Trầm Ngư tiếp tục rút kim, hơ lửa, sau đó châm xuống.

Hách Dịch rốt cuộc không chịu nổi nữa, nghiến răng quay đầu lại, “Ngu cô nương, cô nương có chắc mình không châm sai chứ?”.

Nàng ừ một tiếng. Hách Dịch nghĩ một lát, rồi lại ngoan ngoãn nằm sấp xuống với vẻ mặt nghi ngờ. Sau đó Khương Trầm Ngư châm mũi kim thứ ba, lần này, không chỉ Giang Vãn Y kêu “á”, mà hai thị nữ phía sau còn kêu thất thanh: “Ôi chảy máu rồi!”.

Hai viên ngọc màu đỏ máu, từ từ trào ra khỏi lỗ kim vừa châm, như một đóa hoa, bung cánh nở trên sống lưng trắng muốt, cực kỳ chói mắt.

Lần này đến sức để kêu gào Hách Dịch cũng không còn, y ngẩng gương mặt trắng bệch lên, có lẽ vì quá đau, trong mắt loang loáng ánh nước.

Khương Trầm Ngư nói: “Đừng sợ, bệ hạ, còn sáu mũi nữa là xong”.

Hách Dịch đáp lại nàng bằng nụ cười trông còn khó coi hơn cả mếu, rồi giơ một ngón tay, ngoắc ngoắc gọi Giang Vãn Y lại, trong lòng Giang Vãn Y thầm thở dài, đi tới vỗ vào vai nàng: “Hay để ta làm đi”.

Khương Trầm Ngư nói: “Không được, chẳng phải bệ hạ nói nhất định phải là mỹ nhân châm kim sao?”.

Hách Dịch vội vàng kéo tay Giang Vãn Y, nhìn hắn bằng ánh mắt cực kỳ tha thiết, gấp gáp nói: “A, Đông Bích hầu, Trẫm đột nhiên phát hiện, hóa ra ngươi lại anh tuấn phi phàm như thế, trẫm quyết định phong cho ngươi làm thiên hạ đệ nhất mỹ nhân!”.

Vẻ mặt của Giang Vãn Y lập tức trở nên vô cùng quái dị, thị nữ bên cạnh không nhịn được phá ra cười.

Khương Trầm Ngư vốn vẫn giữ dáng vẻ nghiêm túc đường hoàng, nhưng khi nghiêng đầu liền đưa tay che miệng, không kìm được mỉm cười.

Tiếng cười từ khung cửa sổ mở rộng bay ra ngoài, đến trù phòng ở cuối thuyền cũng nghe thấy.

Một trù nương hỏi: “Nghe tiếng cười này, chắc chắn là Nghi vương lại làm trò cười gì rồi”.

Một trù nương khác nói: “Từ khi vị Nghi vương này lên thuyền, trên thuyền náo nhiệt hơn hẳn, ngày ngày đều nói cười vui vẻ. Ầy, cô nói xem ngài ấy có đúng là hoàng đế không?”.

“Đương nhiên rồi, hầu gia và tướng quân đã đích thân xác nhận, chẳng nhẽ còn có thể giả?”.

“Chưa từng thấy một hoàng đế nào như thế cả”.

“Đúng đấy, đúng là lần đầu gặp một hoàng đế như vậy…”.

Sau sử ký có chép: Hách Dịch, quân vương đời thứ mười chín của Nghi quốc, lúc thiếu thời hay du ngoạn, thích rượu, có thể uống liền mấy chục tước không say (Tước: Một loại chén rót rượu )... Tinh thông buôn bán, lười việc chính trị, tính hài hước, tình khoáng đạt, có thể kết giao với cả bọn tiểu thương sai dịch. Vì thế còn được gọi là .... Duyệt đế.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Ngoại Truyện 2 – Dễ Tỉnh Sớm Hôm, Dễ Say Lòng Người

Ánh dương nhô lên trên mặt biển, hóa ra không giống như khi nhìn qua cửa sổ ở nhà.

Lúc ở nhà, bình minh đến một cách không rõ ràng, luôn phải đợi trời sáng bạch mới nhận ra được, có một làn ánh sáng mỏng manh rọi từ trên trời xuống, rớt xuống lòng bàn tay, không còn chút hơi ấm.

Nhưng trên mặt biển, giữa màn đêm đen kịt, đột nhiên có một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu sáng, vẻ rực rỡ hoa lệ trong nháy mắt đó lại khiến người ta gần như ngừng thở.

Ta không kìm được nghĩ, ánh sáng như thế này kỳ thực không khác gì ngọn lửa. Đến cũng trực tiếp, dứt khoát, kinh động hồn phách như thế.

Mà tiểu thư tắm trong bình minh như lửa đó, im lìm đứng trên mũi thuyền, chăm chú nhìn về phương xa. Gió biển thổi bay phần phật mái tóc và chiếc áo choàng đen của nàng, làn da của tiểu thư trắng trong như bạch ngọc.

Bức tranh này được thời gian nung thành vĩnh hằng, khắc sâu trong tâm trí ta. Mãi mãi ta không thể quên được dáng vẻ khi đó của tiểu thư. Có lẽ, không chỉ mình ta mà những người khác cũng không thể quên được.

Tiểu thư là một mỹ nhân. Xưa nay đều là vậy.

Ta nhớ lần đầu tiên gặp tiểu thư là bảy năm về trước. Khi đó, cha ta làm ăn thất bại, nhảy sông tự vẫn, bỏ lại con côi quả phụ phải sung làm nô dịch nhà quan. Ta coi như vẫn còn tốt số hơn mấy chị em, được sắp xếp đến nhà hữu tướng gia vốn có tiếng tốt. Ngày vào phủ là một ngày mưa gió bão bùng, ta được một vị quản sự gọi là Dung thẩm dẫn đến đại sảnh bái kiến chủ nhân, vừa đến cửa, phía sau đã nổi lên một tràng tiếng bước chân gấp gáp, một thiếu niên và một thiếu nữ lấy tay áo che đầu vội vàng chạy từ đầu sân bên kia lại, khi chạy qua ta, thiếu niên kia còn đâm sầm vào người ta một cái. Ta đau điếng người, nhưng nhìn áo quan dát vàng khảm ngọc của hắn, liền cuống quýt nén tiếng kêu kinh hãi đã vọt đến cổ họng xuống thật sâu. Người này không phải giàu có cũng là quý tộc, không thể đắc tội.

Còn thiếu nữ kia vừa vắt tay áo ướt, vừa quay đầu lại kêu: “Trầm Ngư, nhanh lên nào!”.

Bấy giờ ta mới chú ý đến, thì ra còn có người thứ ba.

Đó là một nữ đồng bảy, tám tuổi, chắc nhỏ hơn hai người kia, nàng chầm chậm từ trong làn mưa đi tới, gấu váy không hề lay động. Lúc sinh tiền, phụ thân ta rất chuộng hư vinh, hận không thể nuôi dạy con cái thành tiểu thư khuê các đại gia tuyệt thế vô song, vì thế yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc đối với mọi cử chỉ lời ăn tiếng nói của sáu chị em ta, cười không lộ xỉ, đi không lộ bàn chân. Ta cho rằng mình được huấn luyện lâu năm như vậy, đã làm rất tốt rồi. Nhưng bấy giờ, nhìn thấy nữ đồng này mới biết thế nào là phong cốt quý tộc thực sự.

Tuy nàng chỉ mặc một chiếc áo trắng, trên đầu vấn hai búi tóc, cũng không cài trang sức châu báu gì, nhưng từng hành động cử chỉ đều thể hiện sự tôn quý và giáo dưỡng, so với nàng, vị thiếu niên lúc trước rõ ràng chỉ là phường lưu manh phố chợ.

Ta chấn động trước sự tao nhã của nàng, vội vàng lùi ra phía sau để nhường đường. Nàng bước lên bậc thềm, nhìn thấy ta thối lui, liền ngẩng đầu mỉm cười với ta một cái.

Những hạt mưa tí tách rơi, cảnh vật vốn dĩ u ám, nhưng cái ngẩng đầu này của nàng, nụ cười này của nàng lại tựa như ánh sáng, lập tức chiếu sáng cả thế gian này.

Ta không kìm được kêu lên kinh ngạc, rồi tự thấy mình thất thố, vội vàng dùng tay bịt miệng lại.

Dung thẩm quay lại mắng: “Kêu cái gì? Sao lại không có quy củ thế?”.

Nữ đồng đó nhìn ta tò mò, rèm mi còn đọng nước mưa, khiến đôi mắt lại càng thêm sáng.

Ta đỏ bừng mặt, lý nhí: “Vị tiểu thư… này xinh đẹp quá, giống hệt Ngọc Nữ bên cạnh Phật Bà Quan Âm”.

Bên môi Dung thầm thoảng nét cười, nhưng miệng vẫn dạy dỗ: “Chớ có nói những lời ngốc nghếch, còn không mau bái kiến tam tiểu thư đi. Tam tiểu thư, đây là nha đầu mới đến phủ, chưa hiểu chuyện, xin tiểu thư đừng trách”.

“Ồ? Hôm qua nói mới thu nhận một tốp nha đầu mới, trong đó có một người rất xinh, là cô ta sao? Ta xem nào, ta xem nào!”. Thiếu niên lúc trước vốn đã bước nửa chân vào đại sảnh, nghe nói vậy liền lập tức quay lại, xông đến trước mặt ta, dòm ta thật kỹ.

Ta không biết làm thế nào, hoảng loạn quay sang cầu cứu Dung thẩm.

Dung thẩm cười nói: “Đâu có gì xinh đẹp, cũng chỉ là sạch sẽ sáng sủa một chút thôi, cũng rất nhanh nhẹn, hơn nữa trước đây còn từng đọc sách, biết chữ, cho nên dẫn đến cho phu nhân xem xem, nói là cho vào làm trong nhà lớn”.

Cặp mắt của thiếu niên giống cái bàn chải quét dầu, quét đi quét lại người ta một lượt từ đến chân, sau đó khóe miệng cong lên, cười chớt nhải nói: “Nhìn cũng không tệ. Đúng lúc ta đang thiếu một nha đầu, hãy giao cô ta cho ta”.

Ta thất kinh, còn chưa kịp có bất kỳ phản ứng nào, thiếu nữ đầu tiên đã bỉ bai nói: “Hứ! Huynh còn thiếu nha đầu? Ở chỗ huynh đã có đến bảy, tám nha đầu rồi!”.

“Huynh nói thiếu là thiếu, muội càm ràm cái gì?”. Thiếu niên trừng mắt lườm nàng ấy một cái, quay sang Dung thẩm: “Nói vậy là xong rồi nhéĐưa cô ta bái kiến mẹ xong, thì dẫn cô ta đến phòng ta”.

Sắc mặt Dung thẩm trông rất khó coi, nhưng rốt cuộc vẫn khom lưng vâng dạ.

Trái tim ta chùng xuống, tuy chỉ là lần đầu gặp gỡ, không biết gì về phẩm hạnh của vị thiếu gia này, nhưng thấy ít mà hiểu nhiều, từ việc vừa rồi hắn lỗ mãng xông đến, hoàn toàn không đếm xỉa đến ta ở trước mặt, đâm sầm vào ta để tranh đường đi, cộng thêm vẻ mặt nhìn ta thèm thuồng không biết gì là xấu hổ lúc này, ta liền biết là họa chứ không phải là phúc.

Gia đạo sa sút vốn đã đau lòng, nếu lại gặp thêm một chủ tử xấu xa nữa… Ta giấu tay trong tay áo, khó giấu nổi nỗi bi thương…

Nữ đồng kia nhìn ta một cái, không nói gì, tự mình vào phòng trước. Dung thẩm ra hiệu cho ta đi theo sau. Bước vào trong phòng, thấy một vị phu nhân xinh đẹp tuổi chừng ngoài ba mươi, y phục trang sức hoa lệ quý phái đang ngồi tựa trên chiếc sập nói chuyện với người bên cạnh. Thiếu niên vừa kêu một tiếng “mẹ” vừa chạy vào, đến bên sập.

Vị phu nhân xinh đẹp đó đưa tay vuốt phẳng cổ áo xộc xệch của hắn, cười nói: “Đi chỗ nào chơi thế? Sao lại dầm mưa?”.

“Con đi thả diều với các muội muội. Không ngờ thời tiết quỷ quái này thoắt cái đã đổ mưa!”. Hắn đang oán trách, thiếu nữ đã cười khanh khách, nói: “Mẹ à, mẹ không biết ấy, vừa nãy Trầm Ngư thấy trời tối đen, đã đề nghị về nhà, nhưng huynh ấy không nghe, còn đòi chơi tiếp, kết quả là trên trời đột nhiên giáng một tia sét xuống ngay cạnh chân huynh ấy. Mẹ nhìn quần huynh ấy mà xem, bị cháy xém rồi kìa!”.

Phu nhân xinh đẹp cả kinh: “Sao lại như thế được? Không sao chứ, Hiếu Thành! Để mẹ xem nào…”

Thiếu niên tên gọi Hiếu Thành không thèm để ý, nói: “Mẹ nghe Họa Nguyệt nói nhăng cuội làm gì, con về nhà an lành rồi đấy thôi”.

“Thằng bé này, con đúng là ham chơi.”

“Được rồi mẹ, đừng nhắc chuyện này nữa. Con nói với mẹ chuyện khác”.

Khương Hiếu Thành vừa nói, ánh mắt vừa liếc sang phía ta, trong lòng ta đã biết hắn sẽ nhắc đến chuyện nhận ta, không kìm được cắn chặt môi.

Chẳng ngờ hắn còn chưa mở miệng, một giọng nói trong trẻo và non nớt đã vang lên trước: “Mẹ, hôm nay trong buổi học, phu tử có bói cho con một quẻ”.

Ta quay đầu, người vừa nói chính là nữ đồng có gương mặt như ngọc tạc đó. Phu nhân xinh đẹp bị nàng thu hút, tò mò hỏi: “Phu tử bói thế nào”.

Nữ đồng cụp mắt xuống, lộ rõ vẻ u buồn, “Phu tử nói mệnh lý con vô duyên với ngọc”.

Khương Hiếu Thành cười ha một tiếng: “Nói bừa, nhà ta còn không có ngọc sao? Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”.

“Mệnh lý không ngọc, là chữ lý trong từ ‘lý niệm’ không phải chữ lý trong từ ‘lý diện’ (Hai từ lý, đọc đồng âm nhưng tự dạng và nghĩa khác nhau, từ thứ nhất nghĩa là lý số, luân lý, lý lẽ, từ thứ hai là bên trong.) “.

“Có gì khác nhau”. Khương Hiếu Thành gãi đầu.

Nữ đồng đi đến trước mặt phu nhân xinh đẹp, kéo tay bà nói:

“Mẹ, phu tử nói nếu người thường không có ngọc thì không có vấn đề gì lớn. Nhưng con thì khác, đời này của con, việc có liên quan đến ngọc rất nghiêm trọng, nhẹ thì lo lắng mất ngủ, nặng thì mang họa sát thân”.

Phu nhân xinh đẹp lo lắng nói: “Vậy phải làm thế nào? Chu phu tử có nói bổ cứu như thế nào không?”.

Nữ đồng gật gật đầu: “Có. Thầy nói tìm hai nữ tử sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc, sớm chiều bầu bạn, tuy không thể trừ họa hoàn toàn, nhưng cũng có thể giúp cho một đời bình an”.

“Trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc…”. Phu nhân xinh đẹp đưa mắt nhìn Dung thẩm, “Trong phủ nhà ta có những a hoàn như thế này không?”.

Dung thẩm ngẫm nghĩ, đáp: “Con gái út nhà thủ quỹ Cung là phù hợp. Sau đó chính là…”, bà nhìn sang ta, “a đầu này cũng thế…”.

Khương Hiếu Thành đột nhiên cảnh giác: “Cái gì? Không được! Mẹ, a đầu này con nhìn trúng trước, không thể cho Trầm Ngư!”.

“Con nhìn trúng?”. Đầu mày phu nhân xinh đẹp khẽ chau lại.

“Đúng thế mẹ. Trong phòng con thiếu một a đầu hầu đọc sách vừa hay cô ta lại biết chữ…”.

Khương Hiếu Thành còn chưa nói hết, thiếu nữ tên Họa Nguyệt đã hừ mũi, nói: “Cái đồ đầu đất như huynh, có đến mười a đầu hầu đọc sách cũng vô dụng, có cũng chỉ là lãng phí.”

“Nói tóm lại chuyện này không được”.

Khương Hiếu Thành không thèm đếm xỉa đến nàng ấy, trực tiếp nói với nữ đồng: “Trầm Ngư, muội không thể tranh giành với huynh”.

Nữ đồng im lặng nhìn hắn, một lúc sau mới lên tiếng: “Ca ca, nếu khuyết ngọc, muội sẽ chết đấy”.

Mặt Khương Hiếu Thành biến sắc. Phu nhân xinh đẹp vội nói: “Trầm Ngư, lời này không thể nói bừa được đâu!”.

“Con không tranh với ca ca”. Nữ đồng nói: “Dung thẩm, trong phủ còn a hoàn nào có điều kiện phù hợp không?”.

“Cái này… một chốc một lát thì thực sự không có. Hay là tôi ra ngoài mua tiếp được không?”.

“Mua làm gì, chẳng phải đã có sẵn một người sao?”.

Khương Họa Nguyệt đẩy ta đến trước mặt nữ đồng, “Cứ thế này đi. A đầu này và con gái của Cung thủ quỹ đều thuộc về Trầm Ngư!”.

Khương Hiếu Thành còn chưa kịp nói, Khương Họa Nguyệt đã hung hăng trợn mắt nhìn hắn: “Chuyện ăn uống vui chơi của huynh quan trọng hơn hay tính mạng của muội muội quan trọng hơn?”.

Khương Hiếu Thành lụng bụng trong miệng, quả nhiên không đòi hỏi nữa.

Phu nhân xinh đẹp khẽ thở dài: “Cứ làm như thế đi”.

Sự tình chuyển biến quá nhanh, đến nỗi nhất thời ta cũng không thể tin rằng mình lại đổi chủ tử. Nữ đồng mỉm cười với ta, quay người rời đi trước. Ta được Dung thẩm dẫn đi lĩnh đồ dùng hàng ngày, sau đó vào trong một căn phòng nhỏ thì gặp một thiếu nữ khác sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc. Cuối cùng hai chúng ta được dẫn đến chỗ ở của tam tiểu thư.

Đó là một tòa đình viện vô cùng xinh đẹp.

Giữa màn mưa, những đóa hoa lê trắng tinh khôi vẫn không giấu nổi vẻ diễm lệ, yên lặng nở rộ, thanh khiết cao quý, dưới một cành lê trắng là một khung cửa sổ được hồ bằng vải voan thượng đẳng, một nữ đồng đang ngồi lặng lẽ bên cửa sổ, chống má chăm chú nhìn ra xa, thanh tú khôn xiết.

Đó chính là tam tiểu thư của hữu tướng phủ – Khương Trầm Ngư.

Dung thẩm dẫn chúng ta đi vào, khom người nói: “Tam tiểu thư, người đưa đến rồi. Đây là Cung Ngọc, đây là Liễu Phác”.

Nữ đồng quay lại nhìn chúng ta, cuối cùng ánh mắt dừng trên người ta, “Liễu Phác, cái tên đẹp thật”.

Ta vội vàng đáp tạ: “Đa tạ tiểu thư khen ngợi”.

“Phu tử nói mệnh lý của ta thiếu ngọc, vì thế cần hai ngươi ở cạnh, việc này Dung thẩm đã nói qua với các ngươi rồi chứ?”.

Thấy chúng ta gật đầu, nàng nói tiếp “Phu tử còn nói, tuy là ngọc nhưng lại kỵ sáng. Cho nên, ta sẽ đặt lại tên cho hai ngươi. Ừm, gọi tên gì thì hay nhỉ…”.

Nàng nghĩ một lúc đứng dậy, đi đến bên thư án, nhấc bút viết ra hai cái tên: “Gọi thế này đi”.

Ta ngó đầu sang nhìn, trên giấy viết: “Ác Du, Hoài Cẩn”.

Trong lòng không khỏi kinh ngạc. Vị tam tiểu thư này trông có vẻ tiểu thư khuê các dịu dàng yếu đuối, không ngờ, khi đặt tên cho người khác lại cao ngạo hào phóng đến thế. Ác Du, Hoài Cẩn, lẽ nào nàng muốn Thục tướng Khổng Minh và đô thống Chu Du đều ở bên cạnh mình hay sao?

Bên kia, thiếu nữ tên Cung Ngọc tò mò hỏi: “Ác… Du, Hoài… đọc là chữ Cẩn ư? Cái này có quan hệ gì với ngọc?”.

Nữ đồng vẫn chưa trả lời, Dung thẩm đã cười nói: “Hai chữ Du, Cẩn, đều là cách gọi khác của mỹ ngọc. Còn không mau tạ ơn tam tiểu thư ban tên?”.

Cung Ngọc a một tiếng: “Vậy nô tì gọi là gì?”. Nữ đồng hỏi: “Ngươi thích tên nào?”.

Cung Ngọc ngẫm nghĩ: “Cung Du, Cung Hoài Cẩn… Ừm, nô tì thích Ác Du”.

“Vậy ngươi tên là Ác Du”. Nữ đồng quay sang ta, trong ánh mắt thấp thoáng nét cười nhàn nhạt, “ngươi tên là Hoài Cẩn có được không?”.

Ta nào dám nói không được, vội vàng tạ ơn lần nữa. Cứ như thế, từ đó trong hữu tướng phủ, có thêm một cặp đôi a hoàn Hoài Cẩn Ác Du, là thị nữ cho tiểu nữ của hữu tướng gia, bầu bạn với nàng.

Nói cũng lạ, tuy về sau liên tiếp nghe thấy những chuyện phong lưu của Khương gia đại công tử Khương Hiếu Thành, nào là hắn thích cô danh kỹ nào đó cả đêm không về, nào là hắn có tư tình với vị quả phụ nào đó, nào là hắn trêu ghẹo con gái nhà ai không được… Thế nhưng, hắn không hề gây phiền phức cho ta. Cho dù có gặp nhau trong phủ, hắn cũng chỉ nhìn ta bằng ánh mắt vừa háo sắc vừa tràn đầy tiếc nuối, chứ không có hành động gì.

Về chuyện này, Ác Du từng hỏi: “Tại sao mỗi lần đại công tử thấy Hoài Cẩn tỉ tỉ đều có vẻ mặt đau đớn không thiết sống?”.

Khi ấy, đúng lúc nhị tiểu thư Khương Họa Nguyệt có mặt, nghe thấy liền cười phì một tiếng: “Đương nhiên là thế rồi. Miếng thịt béo huynh ấy ngắm trúng, đưa lên tận miệng rồi còn bị người ta cướp đi, hơn nữa miếng thịt béo này còn thường xuyên đung đưa trước mắt, nhìn được mà không ăn được huynh ấy dĩ nhiên là đau đớn không thiết sống”.

Ta xấu hổ đỏ bừng mặt, giận dỗi nói: “Nhị tiểu thư lại ví nô tì với miếng thịt béo…”.

Nhị tiểu thư cười nói: “Ngươi thoát khỏi móng vuốt của huynh ấy đã là may mắn lắm rồi, chịu thiệt một chút thành miếng thịt béo thì đã làm sao? Phải biết rằng, trong phủ này, thứ gì của Trầm Ngư thì huynh ấy sẽ không động đến, nếu ngươi là a hoàn của mẹ hoặc là của ta, có lẽ huynh ấy đã ăn cả không chừa rồi”.

Tta run lên. Điều nhị tiểu thư nói là sự thật. Quả thực, Khương Hiếu Thành là con trai duy nhất của hữu tướng gia, từ nhỏ đã được sủng ái, cực kỳ không có phép tắc, muốn gió được gió muốn mưa được mưa, hiếu sắc hoang dâm, lại kiêu ngạo ngang tàng. Duy lại đối xử rất tốt với muội muội Trầm Ngư, tất cả thói hư tật xấu cứ đến trước mặt nàng là đều mất tăm.

Nhị tiểu thư gõ trán tam tiểu thư, đùa rằng: “Muội nói đi, cùng là muội muội, tại sao cái tên heo ấy đối với ta xấu xa thế, còn đối với muội lại tốt thế? Thật khiến người ta ghen tỵ”.

Tam tiểu thư chậm rãi đáp: “Chắc… là vì muội xưa nay chưa bao giờ gọi huynh ấy là heo?”.

Lời vừa nói ra, tất cả mọi người đều cười ồ.

Đợi đến khi nhị tiểu thư đi rồi, khi ta chải đầu cho tam tiểu thư, nàng bỗng nắm chặt tay ta, im lặng nhìn ta. Ta thấy lạ lùng, hỏi: “Tam tiểu thư, sao thế?”.

“Em theo ta, có hối hận không?”.

“Tam tiểu thư nói gì thế, nô tì có thể theo tam tiểu thư, là phúc phận của nô tì, người khác cầu còn chẳng được, sao lại nói đến hối hận?”.

“Ca ca thích em, nếu năm đó em tới chỗ huynh ấy, có thể bây giờ đã là thiếp, không cần phải làm kẻ hầu người hạ bưng trà rót nước…”.

Ta không đợi nàng nói xong, vội nói: “Nhưng nô tì không muốn đến chỗ công tử!”.

Tam tiểu thư không nói gì nữa.

Ta cắn môi, nhìn thẳng vào mắt nàng, trầm giọng nói: “Tam tiểu thư… năm đó chẳng phải cũng chính vì nhìn ra điểm này, cho nên mới… đòi nô tì, từ trong tay đại công tử sao?”.

Ánh mắt tam tiểu thư lóe sáng, nàng buông tay ta ra, mỉm cười: “Hóa ra em biết”.

“Vâng. Ân đức của tam tiểu thư đối với nô tì, nô tì mãi khắc ghi trong lòng”. “Thực ra ta rất không phải với ca ca. Nhưng, nếu như em đi theo huynh ấy, thì đúng là bị hủy hoại. So với việc mãn nguyện sự háo sắc của ca ca, ta nghĩ để một cô gái sống vui vẻ tự do một chút mới là điều quan trọng”. Nói đến đây, nàng khẽ thở dài.

Ta mím chặt khóe môi, rồi lùi ra sau một bước, quỳ xuống.

“Em làm gì vậy?”.

“Bốn năm trước, nô tì gặp kiếp nạn lớn, phụ thân tự vẫn, mẫu thân và các chị em phân ly từ đây, mỗi người một phương, đời này còn có thể gặp lại hay không cũng không biết. Ngỡ rằng đó đã là đau khổ đến cùng cực, cũng từng nghĩ đến cái chết. Nếu không phải vào tướng phủ, gặp được tiểu thư, thật không biết cuộc đời về sau của nô tì sẽ ra sao. Mà bây giờ nô tì được ăn no mặc ấm, còn có thể tiếp tục đọc sách học chữ, tiểu thư đối với nô tì… tình thân như tỉ muội… Nô tì nghĩ trong thiện hạ không có a hoàn thứ hai nào có thể hạnh phúc như nô tì. Cho nên, đại ân của tiểu thư, đời này Hoài Cẩn mãi mãi khắc ghi, vĩnh viễn không quên!”.

“Mau đứng dậy đi!”. Nàng đưa tay dìu ta dậy. Rõ ràng nhỏ hơn ta, nhưng lực độ và hơi ấm từ đôi bàn tay ấy lại khiến ta cảm nhận được một sức mạnh khôn tả, mạnh mẽ nhưng ấm áp vô tận.

“Hoài Cẩn. Ta cần hai a hoàn sinh năm Tân Tị là bịa đặt, nhưng nói mệnh lý thiếu ngọc thì không phải là giả”. Tam tiểu thư có đôi mắt đẹp nhất thế gian: đen như mực, mềm mại như ánh trăng và… cô tịch như sao lạnh.

Vẻ mặt của nàng khi nói câu đó, ta vẫn luôn ghi nhớ trong lòng, mà nàng lại nhìn ta bằng một biểu cảm khiến cả đời này ta mãi mãi không quên, nói từng tiếng: “Hy vọng em và Ác Du có thể giúp ta bình an, bổ sung những gì ta thiếu”.

Ba năm sau, lời đoán mệnh năm đó của tiểu thư đã ứng nghiệm.

Nam tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ, gần như sắp trở thành phu quân của nàng, chỉ trong một đêm, vì một đạo thánh chỉ mà biến thành người qua đường.

Nam tử đó ôn nhuận như ngọc, người đời gọi là Kỳ Úc.

Mệnh lý thiếu ngọc, hóa ra chỉ… ngài.

Đầu hạ ba năm sau, ta theo tiểu thư đến Trình quốc, tại đó, tiểu thư gặp lại Kỳ Úc hầu. Sau đó, tiểu thư cùng ngài về Bích quốc.

Từ Lô Loan đến Thanh Hải, ba mươi sáu ngày.

Tiểu thư dùng thời gian ba mươi sáu ngày đó ở bên Kỳ Úc hầu nhiều nhất có thể. Mỗi ngày từ giờ Tị nàng đã đến bái kiến ngài, cùng tiểu công tử của Tiết gia đánh cờ, chơi đàn, đun trà mài mực, nghị sự trong thư phòng. Cứ như thế cho đến giờ Dậu, về phòng rồi cũng không ngơi nghỉ, mà lại đọc hàng đống, hàng đống y thư, đọc một lèo đến đêm khuya.

Nàng luôn là một mỹ nhân, nhưng khoảng thời gian đó, nàng gần như không hề che giấu, phô bày triệt để vẻ đẹp của mình, trở nên rực rỡ, tươi sáng, thu hút như ánh dương trên mặt biển.

Những người đi theo đều rất kinh ngạc, họ không biết cái gì đã khiến cho sư muội của Đông Bích hầu, người vốn cực kỳ kín đáo giấu mình, thay đổi chỉ trong một đêm. Cho dù trên mặt nàng vẫn còn vết bớt, cho dù nàng vẫn khoác lên người chiếc áo choàng đen, nhưng mỗi người đều cảm nhận được sự đổi thay của nàng.

Nàng càng u uất, lại càng rực rỡ.

U uất và rực rỡ vốn là hai tính chất hoàn toàn khác nhau, nhưng lại đồng thời bộc lộ trên người nàng.

Khi nàng mỉm cười với người khác, mọi người có thể nhìn thấy đóa hoa nở trong đáy mắt nàng, khi nàng im lặng, lại phảng phất bi thương như tuyết bay trong gió.

Mọi người đều kinh ngạc, họ xì xào bàn tán, dò đoán sau lưng. Nhưng không một ai biết được đáp án thực sự. Có lẽ chỉ có ta là biết được đáp án đó.

Chính bởi vì ta biết đáp án, cho nên mỗi lần nhìn thấy tiểu thư như thế ta lại thấy buồn.

Khi thuyền đến bến cuối cùng – Nguyên Châu là vào một buổi sớm mai. Tiểu thư cả đêm không ngủ, gần đến giờ Dần, tiểu thư hỏi ta, có thể cùng tiểu thư lên mũi thuyền ngắm mặt trời mọc hay không.

Chúng ta đi lên trên sàn tàu, khi ấy mặt biển vẫn đen ngòm, chỉ có ánh đèn trên thuyền tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt, mờ mờ chiếu sáng mọi thứ trước mắt.

Tiểu thư cứ thế đứng trên mũi thuyền, hứng gió biển, im lặng không nói một l ời .

Nhưng sau đó, mặt trời ló dạng.

Vầng sáng trong nháy mắt đã chiếu rọi cả thế gian.

Trong khoảnh khắc quang ảnh giao nhau đó, dường như ta đã nhìn thấy tiểu thư khóc, nhưng khi nhìn lại, trên gương mặt nàng không hề vương dấu lệ. Nàng chỉ chăm chú nhìn mặt biển đang sáng bừng như lửa cháy, lặng lẽ nhìn, nhìn đăm đắm, như thể muốn nhìn như thế đến tận khi thiên hoang địa lão.

“Tiểu thư, về phòng nhé?”.

“Ta từng không hiểu, tại sao phu tử lại nói mệnh lý của ta thiếu ngọc, sẽ thành thương tổn lớn. Ta ngỡ liên quan đến bát tự, đến ngũ hành. Ngọc không phải kim loại không phải đá, thiếu hay không thiếu thì có quan hệ gì? Không ngờ… thật không ngờ…”. Giọng nói của nàng mông lung như nói mơ.

“Tiểu thư…”.

“Hoài Cẩn, rõ ràng ta đã có em và Ác Du, tại sao vẫn còn vô duyên với ngọc?”.

“Tiểu thư…”.

“Rõ ràng ta không tin số mệnh. Thế nhưng, e rằng ta thực sự bị nguyền rủa cũng không chừng”.

“Tiểu thư…”, ngoài tiếng gọi này ra, ta không biết nên nói gì.

Tiểu thư quay người lại, nhìn thẳng vào ta rồi bỗng nở nụ cười giống như bảy năm về trước, ngày đầu tiên ta bước vào tướng phủ, trong màn mưa nàng ngẩng đầu lên mỉm cười với ta. Cảnh tượng xưa cũ trùng khớp với cảnh tượng lúc này, mắt ta bỗng dưng ươn ướt.

Tiểu thư giơ tay ra, khẽ nắm tay ta, cười nói: “Cho dù thế nào, ta đã có ba mươi sáu ngày này. Ta phải… cảm tạ ba mươi sáu ngày này. Trong ba mươi sáu ngày này, ta rất vui. Thực sự, thực sự rất vui…”.

“Tiểu thư…”.

“Hoài Cẩn, em nhìn xem, ánh dương đẹp làm sao”. Tiểu thư chăm chú nhìn mặt biển sáng bừng trước mắt, nói như vậy.

Gió biển thổi bay phần phật mái tóc và chiếc áo choàng đen của nàng, làn da của nàng trắng trong như bạch ngọc.

Ta vĩnh viễn không thể quên cảnh tượng này.

Bởi vì, đó là buổi sáng cuối cùng tiểu thư ở trên biển. Cũng là buổi sáng cuối cùng nàng ở bên Kỳ Úc hầu.

Sau ngày hôm đó, tiểu thư đã triệt để, hoàn toàn đánh mất “ngọc duyên”

trong mệnh lý của mình.

Dịch tỉnh thần hôn dịch túy nhân Ảo giác kim sinh ngộ kim sinh.

(Dễ tỉnh sớm hôm, dễ say lòng, ảo giác đời này lỡ kiếp này).
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Ngoại Truyện 3 ... Chọc Cười: Khi Xuyên Không Gặp Phải RPG (Viết tắt của Role – playing game, loại hình game nhập vai.)

Cánh cửa sổ mở ra một nửa, gió biển ùa vào, hoa lan trên chiếc giá điêu khắc bằng gỗ cây dương bắt đầu nở, cả căn phòng tràn ngập hương hoa.

Khương Trầm Ngư cầm chiếc bút lông, chăm chú nhìn trang giấy trên kỷ án, mày hơi chau lại, ngần ngừ không chịu hạ bút.

Cửa phòng kẹt một tiếng, có người đẩy cửa bước vào, đó là Tiết Thái.

Chỉ thấy hắn đặt quyển sách đang ôm trong lòng xuống một chiếc bàn khác rồi quay người bước tới phía nàng: “Ngươi giam mình trong phòng ba ngày để làm gì?”. Ánh mắt hắn dừng lại trên trang giấy đó, lông mày nhướn lên, đọc lên từng tiếng: “Tội – kỷ – thư? (Thư kể tội bản thân)”.

Khương Trầm Ngư ừ một tiếng.

“Viết cái này làm gì? Định bắt chước Vũ Thang hả (Vũ Thang tức vua Đại Vũ và Thành Thang...là hai vị vua nổi tiếng anh minh, hiền đức ) ...?”.

“Chuyến đi sứ Trình quốc lần này, yêu cầu của hoàng thượng là lấy được phương pháp luyện binh khí bí mật của Trình quốc và xin cưới Di Thù công chúa. Hai nhiệm vụ này ta đều không làm được, tuy kết cục hiện nay trông có vẻ tốt hơn, nhưng đó đều là công lao của công tử”.

Tiết Thái cười châm biếm, “Cho nên ngươi sợ sau khi hồi kinh, hoàng thượng trách tội, liền dứt khoát tự mình thỉnh tội?”.

“Ừ”.

“Ngươi cảm thấy làm thế có tác dụng sao?”.

“Chính vì không biết, cho nên chần chừ không thể hạ bút”.

Ánh mắt Tiết Thái lóe sáng, rồi hắn ngồi xuống bên cạnh, nghiêng người, đánh giá nàng từ một khoảng cách rất gần.

Bị hắn nhìn với ánh mắt sáng rực đến bức người như vậy, Khương Trầm Ngư không khỏi có chút bối rối, ngại ngần hỏi: “Sao thế?”.

“Lần này đến Trình quốc, sai lầm lớn nhất của ngươi không phải là không lấy được phương pháp bí mật, cũng không phải là không hỏi cưới được công chúa”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, tiếp lời Tiết Thái, “Ta biết. Sai lầm lớn nhất của ta là… cứu Nghi vương”.

“Cho nên, cho dù trong thư kể tội, ngươi có liệt kê một trăm lý do không hoàn thành nhiệm vụ cũng đều vô dụng, bởi vì hoàng thượng ám sát Hách Dịch là chuyện cơ mật, căn bản không thể tiết lộ ra ngoài, ngươi không thể viết ra giấy. Mà thứ ngươi có thể viết ra giấy, đều không phải là mấu chốt thực sự của vấn đề. Viết cũng bằng không. Ngươi nên bớt lo nghĩ đi”.

Khương Trầm Ngư rầu rĩ. Thực ra sao nàng không biết đây là việc thừa thãi, chỉ là… thấy ngày mai đã cập bến Bích quốc, nàng vẫn không nghĩ ra nên đối diện với sự trách tội của Chiêu Doãn như thế nào. Mà vị đế vương không thể nắm bắt, lạnh lùng cố chấp này sẽ xử lý nàng ra sao? Không thể xác định được, vì thế, lòng nàng đầy lo sợ.

Tiết Thái nhìn nàng, bỗng nở nụ cười cay nghiệt: “Thực ra ngươi có bao giờ từng nghĩ, có lẽ ưu điểm lớn nhất của ngươi không phải là mưu?”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt đầy kinh ngạc.

Ánh mắt của Tiết Thái trong sáng sâu thẳm, ẩn chứa sự thông thái không thể tưởng tượng nơi ở một đứa trẻ độ tuổi này, hắn nhìn nàng, nhìn chằm chằm, nói rành rọt từng tiếng: “Bao nhiêu người khen ngươi đẹp, lẽ nào, như vậy vẫn không đủ cho ngươi tự tin sao?”.

Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại nói câu này, sau cơn kinh ngạc, khuôn mặt lập tức đỏ bừng lên.

Tiết Thái đứng dậy, lạnh nhạt nói: “Chớ quên, thiên hạ đều yêu thích người đẹp. Hoàng thượng mê đắm Hy Hòa cũng không phải là ngoại lệ”. Nói đoạn liền bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vẫn đỏ mặt trơ mắt nhìn hắn, khi hắn bước qua bậc cửa, nàng bỗng hỏi: “Ngươi… có thật chỉ có bảy tuổi không?”.

Tiết Thái dừng bước, vịn vào khung cửa, mãi lâu mới trả lời: “Sinh nhật của ta đã qua rồi, bây giờ là tám tuổi”.

“Cho dù là tám tuổi cũng không thể có trí tuệ như thế. Rõ ràng, rõ ràng là mưu trí đến mức gần như, gần như yêu quái…” Khương Trầm Ngư nói ngắt quãng câu này, vốn cho rằng Tiết Thái sẽ nổi giận, ai ngờ hẳn chỉ cười phì một tiếng, quay đầu lại, ánh mắt lấp lánh nét cười, bộc lộ sự vui vẻ hiếm có.

“Ta có một bí mật tày trời, ngươi có muốn biết không?”.

Hắn nói bằng một giọng điệu thần bí.

“Bí mật gì?”.

“Thực ra…”.

“Hả?”.

“Hả?”.

“Xuyên không đến”.

Trong tích tắc, Khương Trầm Ngư hóa đá.

Tiết Thái thỏa nguyện nhìn phản ứng của Khương Trầm Ngư đúng như hắn chờ đợi, cuối cùng bật cười ha ha. Trong tiếng cười của hắn, Khương Trầm Ngư cúi đầu, ngây ngốc một lúc mới ngẩng đầu lên, nhìn lại hắn, thong thả nói: “Thực ra, ta cũng có một bí mật lớn, ngươi có muốn biết không?”.

“Xuyên không đến”.

“Ồ? Lẽ nào ngươi muốn nói với ta ngươi cũng là xuyên không đến?”.

Khương Trầm Ngư lắc lắc đầu, “Ta không phải xuyênđến. Nhưng…”.

“Hả?”.

“Hả hả?”.

“Game thủ”.

Tiết Thái cả kinh, sau đó nhìn thấy khóe môi của Khương Trầm Ngư cong lên, nở một nụ cười cực kỳ diễm lệ, nói với một giọng vô cùng êm ái: “Họa quốc” là một game RPG, ta là game thủ bước vào thế giới này, lựa chọn quân cờ mà ta muốn, lựa chọn anh chàng đẹp trai mà ta muốn theo đuổi, kiến tạo kết cục mà ta muốn có. Mà ngươi là một quân cờ”.

Tiết Thái hóa đá.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Họa Quốc (2 Tập) - Thập Tứ Khuyết

Postby tuvi » 11 Jul 2019

Ngoại truyện 4: Giấc mộng nhiều năm

Sương trắng như khói.

Lại lờ mờ như tuyết, cứ giăng lả tả lả tả, bao phủ lên cơ thể nhưng không cảm thấy lạnh.

Khương Trầm Ngư nghĩ: Cảnh tượng này, tựa hồ đã gặp ở đâu rồi.

Nhưng cuối cùng vẫn không nhớ ra.

Thế là nàng đi về phía trước.

Đường đi dài tít tắp, quanh co, mềm và xốp, hai chân giẫm trên mặt đất, giống như bị sương mù bao trùm. Một sức mạnh nào đó đang ngăn cản nàng tiến về phía trước, lại có một sức mạnh nào đó đang thôi thúc nàng tiến về phía trước. Nàng bị hai loại sức mạnh này lôi kéo, không thoát thân nổi và cũng không muốn thoát thân.

Bởi vì, sâu thẳm trong ý thức, tựa như biết rằng, phía trước có một thứ rất quan trọng, rất quan trọng.

Sau đó nàng nhìn thấy một con thuyền, thoắt ẩn thoắt hiện xuyên qua làn sương mù, từ từ tiến lại gần.

Người đứng ở mũi thuyền, xiêm áo phấp phới, phiêu diêu như tiên.

Đến khi lại gần, có thể thấy người ấy quay người về phía nàng, giơ tay, khuỵu gối, khom lưng, vái lạy nàng.

Tựa như còn nói câu gì đó, nhưng nàng không nghe rõ.

Trong nháy mắt mắt Khương Trầm Ngư đẫm lệ. Một nỗi bi thương vô hình, không rõ nguyên nhân, nỗi thê lương giống như ấm ức giống như không cam lòng giống như vĩnh viễn không muốn nhớ lại bỗng trỗi dậy.

“Nương nương? Nương nương?”. Hơi ấm truyền đến từ cánh tay đã đánh thức nàng dậy.

Trong nháy mắt, sương mù biến mất, người đó cũng không thấy đâu, chiếc thuyền nhỏ cũng biến mất, tất cả đều biến mất…

Khương Trầm Ngư bỗng tỉnh giấc! Lọt vào tầm mắt là khuôn mặt lo lắng sốt ruột của Hoài Cẩn:

“Nương nương, người lại nằm mơ thấy ác mộng”.

Khương Trầm Ngư đưa tay lên theo bản năng, sờ lên mặt, nước mắt ướt đẫm.

Cảm giác bi thương trong mộng đó vẫn chưa tan đi, vẫn còn quanh quẩn ở nơi sâu thẳm của cơ thể, ẩn ẩn hiện hiện, nhưng thực sự tồn tại. Nàng nhớ đến người đứng ở mũi thuyền vái nàng, trái tim lại run rẩy một chặp.

“Nương nương”. Hoài Cẩn lấy một chiếc khăn ướt còn ấm lau mặt cho nàng, dịu dàng nói: “Nương nương có muốn ngồi dậy không?”.

“Mấy giờ rồi?”.

“Giờ Thân hai khắc rồi”.

“Giờ Thân?”. Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, còn tưởng là mình nghe lầm.

Hoài Cẩn gật đầu: “Vâng. Nương nương đã ngủ liền mười hai canh giờ, trong lúc đó còn sốt nhẹ, may mà hết sốt rồi. Thái y nói, nương nương do mệt mỏi quá độ, lại gặp tiết trời lạnh đột ngột gần đây, hàn khí xâm nhập cơ thể, cho nên mới bị hôn mê. May mà cuối cùng đã tỉnh lại, vẫn kịp tham dự đại lễ vào giờ Tí”.

Khương Trầm Ngư vừa nghe đến hai chữ “đại lễ”, liền vội vàng hất chăn xuống giường: “Ta ngủ say quá, cũng không biết những thứ đó đã được bố trí ổn thỏa chưa…”.

Vừa nói vừa hớt hơ hớt hải đi ra cửa, vừa mở cửa phòng ra, nhìn thấy cảnh vật bên ngoài, giọng nói liền ngưng bặt.

Sắc trời âm u, hoa tuyết bay lất phất, hành lang sáng trưng trải dài, đèn cung đỏ rực. Thực ra rất nhiều năm trước, nàng đã nhìn thấy cảnh tượng này, nàng của khi đó ngồi trong kiệu vào cung thăm tỉ tỉ, vẫn còn bốc đồng bình luận long phượng điêu khắc trên tường, chê chúng thô tục, nhưng sau đó, Chiêu Loan công chúa xuất hiện, nhiệt tình thân thiết gọi nàng, đưa nàng đi xem trò hay, cũng chính ngày hôm đó, nàng nhìn thấy Hy Hòa phu nhân…

Chuyện cũ còn ngay trước mắt, rõ ràng như mới xảy ra ngày hôm qua, sao nháy mắt một cái, đã biến thành năm đó?

Phía xa, có người đang đốt pháo hoa, bầu trời bị pháo hoa chiếu sáng, tỏa ra những tia sáng ngũ sắc.

Khương Trầm Ngư ngây ngốc chăm chú nhìn những tia sáng đó.

Hoài Cẩn đứng bên cạnh cười nói:

“Bất ngờ không ... Đại lễ buổi tối không cần nương nương quá lo lắng, có người đã bố trí ổn thỏa đâu ra đấy từ lâu rồi. Nghe nói năm nay pháo hoa dùng trong cung đều không phải là của Bích quốc tự sản xuất, mà mua từ Nghi quốc về đó. Trong đó còn có một hòm, là Nghi vương chỉ rõ tặng riêng cho nương nương, đợi lúc nữa nương nương tham dự đại lễ sẽ đốt”.

Đại lễ kỳ thực là một loại tập tục từ thời Bích quốc dựng nước đến nay: Đêm trừ tịch mỗi năm, hoàng đế đều dẫn theo phi tử quan trọng đi lên thành lâu, đích thân đốt Trường Minh đăng, cùng vui đón giao thừa với bách tính, và cầu cho năm mới mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Vì thế, có thể nói đây là một nghi thức rất long trọng.

Năm Đồ Bích thứ nhất, Chiêu Doãn dẫn Tiết Minh đi châm đèn; năm Đồ Bích thứ hai, Chiêu Doãn dẫn tỉ tỉ; năm Đồ Bích thứ ba, thứ tư, Chiêu Doãn dẫn Hy Hòa phu nhân, mà nay… cuối cùng đã đến lượt nàng.

Cuối cùng đã đến lượt Khương Trầm Ngư đi lên thành lâu, tỏ rõ với thiên hạ bách tính, ở Bích quốc hiện nay, nữ tử quan trọng nhất là ai.

Nhưng… kết cục như thế này lại không thể khiến nàng vui vẻ chút nào.

Trước mắt dường như lại hiện lên cảnh tượng trong giấc mộng: Mũi thuyền quẩn sương trắng, người ấy vái lạy về phía nàng, vái lạy khiến trái tim nàng tan nát.

Đồ Bích… bảy năm rồi.

Bảy năm mưa gió điên đảo, quốc gia này mấy phen động loạn, đầu tiên là Vương thị ép thái tử phản nghịch, rồi bị trấn áp; sau Chiêu Doãn bức Tiết thị tạo phản, lại trấn áp; lại đến Cơ gia suy thoái, Khương gia nổi lên… Suốt một chặng đường, là máu tanh lầy đất, không nhẫn tâm nhìn. Phong thủy luân hồi, mỗi năm mỗi khác, vào năm Đồ Bích thứ tư, văn võ trong triều có mấy người có thể ngờ rằng, phồn hoa tan hết, cuối cùng hoa rụng vào Khương gia.

Rụng trúng đầu Khương Trầm Ngư nàng?

Đứng trước chiếc gương đồng Bách Quỹ Triều Dương cao ngang người, Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bóng mình trong gương: Trên mái tóc đen nhánh là chiếc vương miện tuyệt thế chạm trổ bằng bạch ngọc Lam Điền, khảm chín mươi chín viên hồng châu Nam Hải; khoác trên hai bờ vai nhỏ nhắn là chiếc áo choàng lông phượng dệt bằng lông bạch hồ Thiên Sơn; rủ sau đuôi váy là lụa Thiên Vũ Cung dệt bằng tơ bảy mươi hai màu… Phải tôn quý nhường nào, mới có thể hội tụ bảo vật thiên hạ lên người? Lại phải tôn quý bao nhiêu, mới có thể xứng với thứ phục trang long trọng này?

Nhưng vì sao nàng nhìn vào trong gương, lại chỉ nhìn thấy tai trái của mình?

Trên tai trái, một viên Trường Tương Thủ đung đưa đung đưa, cô đơn cô đơn.

Khương Trầm Ngư không đành lòng nhìn tiếp, quay người bỏ đi. Hai nữ quan tiến lên dìu nàng, lại có hai mươi tám nữ quan khác cấp tập theo gót phía sau.

Ngoài điện, đội quân nghi thức trang phục trang trọng đứng nghiêm, uy nghiêm đế vương ập vào tầm mắt.

Trước sự cung nghênh của các nữ quan, Khương Trầm Ngư bước lên bảo xa, hai bên chiêng trống tưng bừng, sau một tràng tù và rúc dài, phu xe bắt đầu thúc tuấn mã, từ từ đi về phía thành lâu.

Những dải tua màu vàng kim và hoa tuyết bay lả tả hòa vào nhau, chập chờn trước mắt nàng.

Xe ngựa đi qua Đoan Tắc cung đầu tiên.

Cung điện này xây dựng trên hồ, bốn bên là nước, nói thẳng ra đây là một hòn đảo nhỏ cô độc.

Muốn vào cung, chỉ có thể chèo thuyền từ bến phía chính Đông, từ bờ hồ đến cửa cung, nhanh nhất cũng phải mất thời gian một khắc.

Nghe nói vì Cơ Hốt tính tình cổ quái, lại ghét lễ tiết cung đình, cố ý xây dựng cho mình một tòa cung điện cách biệt thế gian như vậy. Nàng ta không thích người khác thăm hỏi, cũng không muốn thăm hỏi người khác. Vì thế, đại bộ phận người trong cung đều chỉ nghe tên nàng ta mà chưa từng gặp mặt.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn Đoan Tắc cung ngói xanh tường đỏ, nàng đã bao giờ nghĩ rằng chân tướng đằng sau nhân vật được coi là thần thoại đó, tài nữ văn thái tinh tuyệt khiến văn nhân bốn nước đều phải thẹn chẳng bằng đó, tỉ tỉ của nam tử mà mình ngưỡng mộ suốt đời đó hóa ra là như thế này.

Thế sự mỉa mai, chẳng qua cũng chỉ như vậy mà thôi.

Đi qua cầu Động Đạt là đến Bảo Hoa cung. Lưu ly vẫn sáng lấp lánh trong tuyết đêm như xưa, ánh đèn giống như nước chảy róc rách trên ngói, đẹp đến tận cùng, cũng linh động đến tận cùng.

Giống như chủ nhân cũ của nó, đẹp đến mức không tì vết.

Thế nhưng, hết thảy ánh sáng đều đến từ thế giới bên ngoài, cửa sổ giấy âm u, bên trong tối đen như mực.

Bên trong đã không còn ai nữa.

Bảo Hoa cung đã từng ca vũ thái bình, đêm đêm yến tiệc, nay đã thành một tòa cung điện chết chóc.

Gió thốc nắng táp, xuân đi thu đến, nơi đây đã bị thời gian mài mòn, biến thành hoang phế.

Sẽ không còn có phi tử thứ hai đến sống ở nơi này nữa.

Bởi vì, Khương Trầm Ngư không cho phép có phi tử thứ hai vào sống ở cung này.

Thế gian này cũng không còn phi tử thứ hai xứng đáng sống tại cung này nữa.

Đi qua Bảo Hoa cung chừng ba khắc mới đến Gia Ninh cung

Nàng đã từng quen thuộc với nơi này biết bao.

Ở nơi đây, nàng lần đầu tiên hành lễ vái lạy tỉ tỉ là quý nhân, vái xong, Khương Họa Nguyệt một tay ôm eo nàng đỡ nàng đứng dậy, tươi cười nói:

“Muội muội không cần đa lễ, về sau ở đây cứ thoải mái như ở nhà chúng ta”.

Nàng tin rằng tỉ tỉ thật lòng thật ý khi nói câu này.

Nhưng, tỉ tỉ ngây thơ, nàng cũng ngây thơ.

Thâm cung nội viện, một phi tử đến vận mệnh của mình cũng không có cách gì khống chế, đến tương lai của bản thân cũng không thể biết được, làm sao có thể coi nơi đây là nhà?

Cây mai vàng trước sân đã chết khô. Hai cung nữ mặc đồ trắng đang quỳ trước sân vái lạy nàng từ phía xa.

Khương Trầm Ngư không kìm được giơ tay lên sờ hạt minh châu trên tai trái của mình, nhớ đến cảnh tượng ngày hôm đó, tỉ tỉ lấy hạt châu từ trong hộp ra, dịu dàng đưa cho nàng, trong lòng chua xót, vội vàng hạ rèm xuống, không đành nhìn tiếp.

Xe ngựa đi qua Ngọc Hoa môn, Cảnh Dương điện, đến Thiên Đoan thập nhị giai.

Cái gọi là Thiên Đoan thập nhị giai là bậc thang lấy Cảnh Dương điện làm trung tâm, phương vị được triển khai chia đều theo mười hai canh giờ, lần lượt là Tí bệ, Sửu bệ, Dần bệ, Mão bệ, Thìn bệ, Tị bệ, Ngọ bệ, Mùi bệ, Thân bệ, Dậu bệ, Tuất bệ và Hợi bệ.

Mà xe ngựa của Khương Trầm Ngư dừng trước Ngọ giai hướng về phía Nam, tương đối rộng rãi so với mười một bậc thang còn lại.

Một tên tiểu thái giám sải bước tiến lên phía trước, đặt viên đá kê chân khảm ngọc xuống, Khương Trầm Ngư giẫm lên đá bước xuống xe, vịn vào tay đại thái giám La Hoành, nâng nhẹ gấu váy, bước lên bậc thang.

Tuyết vẫn bay lất phất trong không trung, nhưng trên mặt đất không có lấy một vệt tuyết nào, hoa tuyết rơi xuống bậc đá hình cửu long tranh châu, lập tức tan chảy. Nghe nói, chỗ này đều lát ngọc ấm Bình Khê, có độ ấm vĩnh cửu tự nhiên, đông ấm hạ mát. Người bình thường khó mà gặp một lần, còn hoàng gia xa xỉ, lại dùng nó để lát đường.

Khương Trầm Ngư khe khẽ thở dài trong lòng.

Đi hết mười hai bậc thang, văn võ bách quan đã quỳ kín tại thành lâu phía trước.

Bách quan đồng loạt vái lạy: “Trời phù hộ Đồ Bích, triều ta phồn vinh hưng thịnh”.

Khương Trầm Ngư đón lấy ngọn Trường Minh đăng từ trong tay thị quan, từ từ đi lên thành lâu. Bên ngoài lầu tiếng huyên náo nổi lên, giống như làn sóng càng lan càng rộng, tụ thành một mảng.

Xuyên qua hàng rào, Khương Trầm Ngư nhìn thấy sông hộ thành, dân chúng đang đứng thành hàng chờ đợi trên khoảng đất trống bên bờ sông, nhìn thấy nàng, hưng phấn cao giọng hò hét.

Nàng giơ một cánh tay, khẽ gạt xuống, tiếng hò hét lập tức nín bặt.

Tất cả mọi người đều im lặng nhìn nàng, vô số cặp mắt xuyên qua hoa tuyết bay phất phơ dán chặt lên người nàng.

Cái gọi là “vạn mắt đổ dồn”, cũng chẳng qua là như thế thôi.

La Hoành đưa một quyển trục màu vàng cao quá đầu, trình lên trước nàng, Khương Trầm Ngư lại lắc đầu, đẩy quyển trục ra, bước lên phía trước một bước, giơ Trường Minh đăng lên, để bách tính phía dưới có thể nhìn rõ hơn.

Sau đó, nhìn thẳng phía trước, mở miệng ngâm:

Đại minh chi thần,

Dạ minh chi thần,

Ngũ tinh liệt tú chu thiên tinh thần chi thần,

Vân vũ phong lôi chi thần,

Chu thiên liệt

Ngũ nhạc ngũ sơn chi thần,

Ngũ trấn ngũ sơn chi thần,

Cơ vận tưởng thánh thần Liệt Thiên Thọ Nạp Đức ngũ sơn chi thần,

Tứ hải chi thần,

Tứ tân chi thản,

Tế địa liệt chức chi linh,

Thiên hạ chư thần,

Thiên hạ chư chi,

Phiền vi ngô vận nhĩ thần hóa, cung suất thần dân, tí hựu lai niên, phong điều vũ thuận, quốc thái dân an, chính thông nhân hòa, bách phế câu hưng. Phong niên tường triệu, thử đăng trường minh.

Đặc thử thượng tôn, vọng thần nghi tất tri, cẩn cáo.

Dâng phụng ở đây, mong chư thần thấu tỏ, cẩn cáo.

(Đoạn trên là bài tế, tạm dịch như sau: Thưa các vị: Thần mặt trời/ thần mặt trăng/ Các vị thần sao/ Thần mây mưa gió sấm/ Các thần coi các sao trên trời/ Thần coi sóc Ngũ nhạc ngũ sơn/ Thần soi sóc Ngũ trấn ngũ sơn/ Thánh thần Cơ Vận Tường, thần của năm ngọn núi Liệt – Thiên – Thọ – Nạp – Đức/ Thần bốn biển/ Thần bốn bờ/ Thần đất các nơi/ Chư vị thiên thần trong thiên hạ/ Chư vị thần đất trong thiên hạ. Xin các vị vì ta mà ban phép thần, dẫn dắt thần dân, phù hộ năm tới, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, chính sự hanh thông người người hòa hảo, trăm phế đều hưng. Mùa màng bội thu, điềm lành dồi dào, đèn này sáng mãi ).

Nói xong, châm đèn, chỉ nghe thấy mấy tiếng xèo xèo, Trường Minh đăng từ từ bay lên, dân chúng phía dưới thấy vậy hoan hô vang dội.

Đồng thời khi ấy, pháo hoa bùng lên bốn phía, mà ở hướng chính Bắc, một ngọn lửa màu xanh cực lớn bay vọt lên bầu trời, nở bùng giữa không trung, biến thành một con cá khổng lồ.

“Oa…”. Đến đám thị vệ trên thành lâu đều ngẩng đầu lên há hốc mồm kinh ngạc.

Con cá màu xanh lam lượn vài cái, nổ bùng lên lần nữa, biến thành mấy chục đóa hoa lê to nhỏ khác nhau, chầm chậm rớt xuống.

Khương Trầm Ngư thầm biết đây chính là pháo hoa Nghi vương tặng riêng nàng mà Hoài Cẩn nhắc đến, vừa kinh ngạc vì sự khéo léo kỳ công, trong lòng lại thoáng dấy lên một nỗi buồn.

Tình cảnh ngày đó vẫn còn hiện lên mồn một trước mắt, đến nếp áo, vẻ tịch liêu nơi đôi mày của đối phương cũng đều rõ ràng…

Hách Dịch nói: “Ta sẽ đợi nàng ba năm. Trong ba năm, cho dù nàng thay đổi chủ ý bất cứ khi nào, đều có thể đến tìm ta”.

Nàng đáp: “Nếu ta không thay đổi chủ ý thì sao?”.

Hách Dịch cười cười, một nam tử trong sáng tiêu sái như thế, khi cười ánh mắt lại ưu sầu vô cùng: “Vậy thì, ta sẽ phải kết hôn”.

Chàng không nói tiếp nữa, nhưng nàng làm sao mà không biết được?

Ba năm sau, Hách Dịch đã ba mươi tuổi. Một vị quân vương ba mươi tuổi mà còn chưa kết hôn, còn không có con cái nối dõi, thì không biết phải ăn nói với con dân thế nào.

Cả nước gây áp lực nặng nề, dù cho Hách Dịch luôn tùy ý phóng túng, cũng không thể gánh đỡ nổi.

Hách Dịch không gánh đỡ nổi.

Khương Trầm Ngư nàng càng không gánh đỡ nổi.

Cho nên, cái gọi là ước hẹn ba năm, cũng chẳng qua là một ý niệm si mê cuối cùng như hoa trong gương như trăng dưới nước mà thôi.

Hách Dịch. Hách Dịch. Hách Dịch à…

Hóa ra trên thế gian này, thực sự có một loại ân tình trả không nổi, trả không được và không dám trả.

Trường Minh đăng lượn vòng bay lên, bầu trời rộng lớn, giống như chỉ còn lại một ngọn đèn như thế, cháy giữa đất trời, cháy trong càn khôn, cháy trong tim mỗi người.

Tăng lữ hoàng gia khác trên mình áo cà sa vung tay, chuông đồng kêu vang.

Boong…

Boong…

Boong…

Chuông đồng vang mười hai tiếng, tiếng nhạc nổi lên tứ phía, pháo hoa sáng lòa, dân chúng vốn chỉ đứng xem, bỗng ồn ào hẳn lên, trong tay mỗi người đều cầm một cây đèn, thắp sáng xong, giơ lên cao, nhìn từ trên thành lâu, xếp thành tám chữ “Phương thần vĩnh hảo, thọ ngang trời đất”.

Khương Trầm Ngư cả kinh.

Không sai, ngày mùng một tháng Giêng ngoài là ngày bắt đầu năm mới ra, còn là sinh nhật của nàng.

Nháy mắt, nàng đã mười tám rồi.

Lại nhớ về cái năm nàng vào tuổi cập kê đó, như thể đã cách một đời.

La Hoành đứng bên cạnh khẽ nói: “Việc này đều do Tiết công tử sắp xếp”.

Khương Trầm Ngư không khỏi quay đầu, thấy Tiết Thái đang cùng bách quan đứng dưới bậc thềm, cúi đầu chẳng tỏ thái độ gì. Còn lúc này, La Hoành đã quỳ dưới đất, cao giọng hô: “Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế…

Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.. .

Từng tiếng từng tiếng lần lượt truyền tới.

Khương Trầm Ngư đột ngột quay người, nhìn thấy tất cả mọi người có mặt đồng loạt quỳ gối, vái lạy dưới đất, đất trời như liền một dải, trong chớp mắt, không có ai khác đứng cao hơn nàng.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư nhớ đến mộng cảnh, câu mà người ấy nói khi vái lạy nàng, người ấy nói là: “Tạm biệt, hoàng thượng”.

Giấc mộng nhiều năm. Lệ đổ như mưa.

Cơ Anh Cơ Anh, có phải chàng đã sớm tính được số mệnh của ta không? Cho nên trong giấc mộng khi từ biệt ta, chàng đã nói ra kết cục của ta.

Cơ Anh Cơ Anh, thế nhân nói chàng là Bạch Trạch luân hồi, đầu thai vì phù trợ Chiêu Doãn. Hóa ra, quân vương mà chàng muốn phù trợ không phải là Chiêu Doãn, mà là… ta.

Là ta!

Chàng rèn giũa ta, hướng dẫn ta, ép buộc ta, từng bước từng bước, đi đến ngày hôm nay.

Đi đến ngai vàng đế vương này, trở thành chủ tể của càn khôn này.

Thế nhưng… thế nhưng… thế nhưng…

Có cả thiên hạ không sở nguyện, mơ ước phu thê hóa hão huyền.

Thứ Khương Trầm Ngư ta tâm tâm niệm niệm, chẳng qua là có thể được chàng yêu thích. Giống một nữ tử được một nam tử yêu thích…

Tất cả trước mắt, mơ hồ trùng khít với cảnh tượng trong giấc mộng.

Trên không trung, pháo hoa mà Nghi vương tặng đang nở rộ.

Dưới mặt đất, Tiết Thái đương tuổi thiếu niên nhìn nàng từ xa.

Năm Đồ Bích thứ bảy chầm chậm đến trong cảnh tuyết bay đầy trời, pháo hoa dệt gấm.

Năm nay là tròn ba năm sau khi Khương Trầm Ngư nhiếp chính, là năm đầu tiên nàng đăng cơ trước tình thế quần thần nhiều lần dâng thư của vạn dân khẩn cầu nàng xưng đế.

Mùng bảy tháng Giêng, nữ đế tự xưng là Duệ đế, định Nguyên Đô đời đời là Thần Đô, đổi quốc hiệu là Lê.

Lịch sử bốn nước, lại một lần nữa được viết lại, mà lần này…

Đã đến thời đại của Khương Lê.

Hết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 110 guests