Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Image

Cô Phương Bất Tự Thưởng

Quyển I

Tác giả : Phong Lộng


Văn Án

“…Nữ tử có thân hình mảnh mai này lại độc như nọc rắn, đẩy chàng vào chỗ chết. Đáng lẽ chàng phải coi nàng là kẻ thù lớn nhất trong đời, giết được mà sảng khoái.

Nhưng… Tại sao cánh tay lại không theo ý chí của chàng, càng ôm nàng thêm chặt.

Không muốn buông tay!

Thân thể mềm yếu ấy, những ngón tay thon thả ấy, và cả khuôn mặt thanh tú ấy giờ đang lạnh cóng, lạnh đến đỏ ửng da thịt. Thường ngày, nếu lạnh đến ửng đỏ thế này, nàng đã cuộn tròn trong lòng chàng như một con mèo nhát gan.

Đã quen nghe nàng đàn hát, quen nghe nàng cười nói, quen với khi nàng uể oải dựa vào giường, cùng chàng duyệt công văn. Đã biết lai lịch của nàng không đơn giản, lại cứ tưởng có thể dễ dàng ngầm khống chế. Cứ tưởng chỉ cần chút kế mọn, bắt được kẻ đứng sau kia, là có thể bắt được cái người hay nói dối kia về lại bên mình.

Có ai ngờ mọi sự thay đổi trong khoảnh khắc, gậy ông lại đập lưng ông. Cứ tưởng có thể giữ mãi con chim phỉ thúy trong lòng bàn tay, có ai ngờ nó lại vỗ cánh bay về bên cạnh chủ nhân mình.

Còn chàng, vẫn không muốn buông lỏng vòng tay. Quen bế nàng, ôm nàng, hôn nàng. Ngón tay, vẫn còn lưu giữ xúc cảm lướt qua cánh môi hồng. Chàng quen rồi.

Chàng quen rồi…

Nữ tử đáng ghét, đáng hận, đáng giết nhất thế gian. Nữ tử yếu đuối nhất, thông tuệ nhất, đáng yêu nhất thế gian.

Người mà chàng khổ sở truy đuổi, chính là tuyệt thế giai nhân này.

Sở Bắc Tiệp khẽ nhắm mắt, bao nhiêu suy nghĩ đang giày vò trái tim chàng.

“Vương gia, hãy thả thị nữ của ta ra.”

Thả nàng? Nàng sẽ đi đâu?

Nàng lừa ta, dụ ta, sao có thể nói đi là đi?

Khắp thế gian này, ta chỉ muốn có một mình nàng…

Nàng là thị nữ nổi danh của vương phủ Kính An ở Quy Lạc quốc. Vốn thông minh, có tài dụng binh và sở hữu tiếng đàn, giọng hát say đắm lòng người, nàng luôn nhận được sự mến mộ, theo đuổi mạnh mẽ từ các bậc nam nhân. Thế nhưng, Sính Đình chỉ mưu cầu một tình yêu đích thực, không màng thế sự lợi danh hay vinh hoa phú quý…

Chàng là Trấn Bắc vương, đệ đệ của Đông Lâm vương, người ta nhắc đến chàng là nhắc đến một mãnh tướng hộ quốc đa mưu túc trí vang danh thiên hạ, mang trong mình chí lớn chinh phạt vùng đất mới, hợp nhất tứ quốc…

Số phận đưa họ tình cờ đến với nhau nhưng lại đặt ở hai đầu chiến tuyến, ngăn cách bởi quốc hận, tình thù.

“Vẫn còn đó cây đàn cổ trong vương phủ Trấn Bắc.

Đóa hoa cài lên tóc, đã héo tàn ở tận nơi đâu.

Thiếp là thân bồ liễu hồng nhan mơ với gió trăng, chàng là bảo đao cung khỏe chí ôm toàn thiên hạ, giữa chúng ta, quốc thù cao như núi.

Núi cao tới trời, chàng không nhìn thấy thiếp, thiếp ngước không thấy chàng.

Lòng đau như cắt, chưa bao giờ hết…”

Phải chọn lựa thế nào đây? Là nghĩa nặng hay tình sâu? Liệu họ có phá vỡ được bức tường cản bước tình yêu? Liệu lời thề dưới ánh trăng ngày đó có thành hiện thực?

Mời các bạn đón đọc “Cô phương bất tự thưởng” – bộ tiểu thuyết 2 tập của tác giả Phong Lộng đã khiến hàng ngàn trái tim phải thổn thức và đã cướp đi biết bao nước mắt của hàng trăm ngàn độc giả Trung Quốc. Một thiên tình ca bi tráng của đấng anh hùng và bậc tài nữ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 1

Đại nghiệp đang ngày càng hưng thịnh.

Có thái bình, mới có thịnh vượng. Nhớ lại mấy năm về trước tứ quốc phân tranh, khắp thiên hạ dân chúng lầm than. Nếu không phải nhờ đương kim Hoàng thượng, tức danh tướng Sở Bắc Tiệp kiên quyết xuống núi dẹp loạn, thống nhất thiên hạ, thì ai biết được còn phải mất bao nhiêu năm nữa mới có được cảnh phố thị phồn hoa, yên ổn ngày hôm nay?

Bàn tay thon nhỏ vén tấm rèm xe ngựa lên, cả quang cảnh náo nhiệt nơi con phố như ùa vào trong xe, tiếng rao bán hàng, tiếng cười đùa, tiếng trả giá của các bà, các cô… huyên náo vô cùng. Đôi mắt thông tuệ sáng lấp lánh, chăm chú nhìn thế giới bên ngoài, rồi lại rụt rè nép vào trong.

Xe ngựa được nạm vàng phối bạc, xa hoa lộng lẫy, ngay cả hàm thiếc của ngựa cũng toàn bằng bạc. Trước sau có tất cả mười tám hộ vệ cưỡi ngựa, lặng lẽ đi giữa phố phường náo nhiệt và thịnh vượng.

Trên xe, một nam một nữ đều không phải những quý nhân bình thường. Cô gái đang độ nụ hoa hé nở, sắc hồng tươi tắn tựa cánh đào, đôi môi chưa tô son đã thắm, khí chất tôn quý từ trong cốt cách, ai nhìn cũng phải ngưỡng mộ.

Nàng là công chúa của tộc Duy Hạo từ phương xa tới, tên gọi Dẫn La, từ nhỏ đã là tiểu mỹ nữ nổi tiếng nhất tộc, thông minh đáng yêu, là viên minh châu trong tay Tộc trưởng. Ngồi bên cạnh là ca ca của nàng, Dẫn Nghi. Hai huynh muội đường xa lặn lội, mang theo bao ngọc ngà châu báu tới vùng đất lạ lẫm này, vì một việc đại sự có liên quan đến tương lai của cả tộc Duy Hạo.

“Muội muội đang nghĩ gì thế?”, Dẫn Nghi hỏi.

Dẫn La trầm tư hồi lâu, rồi đáp: “Muội đang nghĩ, không biết vị hoàng đế Đình quốc đó trông thế nào? Những câu chuyện về ông ấy đã lưu truyền khắp thiên hạ bao năm nay. Đến giờ, chắc ông ấy đã là một lão nhân rồi”.

Dẫn Nghi bật cười, nói: “Muội muội nghĩ đi đâu thế? Vị hoàng đế này từ thuở thiếu thời đã là mãnh tướng lừng danh. Mười lăm tuổi, ông ấy dẫn quân bảo vệ Đông Lâm quốc, chinh chiến bao trận, khiến tướng địch vừa nghe tên đã hoảng sợ, nhưng sau đó chẳng hiểu vì lý do gì mà lại ẩn cư nơi núi rừng, không màng thế sự. Chỉ đến khi tứ quốc đại loạn, thiên hạ rơi vào cảnh diệt vong, ông ấy mới xuống núi bình định thiên hạ, lập nên Đại Đình quốc, hiển hách lẫy lừng. Đại Đình quốc tới nay mới thành lập được sáu năm. Tính ra năm nay ông ấy cũng chỉ hơn ba mươi một chút, đương độ tuổi sung mãn nhất của nam nhân”.

Nghe ca ca nói, Dẫn La không phản ứng gì, khẽ vén một góc rèm lên, ngó ra ngoài xem xét, rồi bất ngờ cất tiếng: “Dừng xe!”.

“Sao thế?”

“Dừng xe!”

Dẫn Nghi vô cùng ngạc nhiên, cao giọng bảo phu xe dừng ngựa, nhanh chóng xích lại bên Dẫn La, hỏi: “Sao thế?”, rồi nhìn theo ánh mắt nàng ra ngoài.

Bên đường là một tửu lâu ba tầng, sảnh đường rộng lớn, trên ngọn cờ cạnh cửa viết dòng chữ: “Chuyên thuật chuyện bản triều, bất kể người qua lại”. Một vị tiên sinh với dáng điệu thuyết thư đang ngồi gật gù đắc ý ngoài cửa, đám đông hiếu kỳ vây quanh…( Thuyết thư là cách gọi khác của nghệ thuật hát nói Trung Quốc, bao gồm các thể loại như bình sách, bình thoại, đàn từ v.v… Người thuyết thư là người biểu diễn các tiết mục hát nói trước đám đông) .

Hóa ra, hôm nay tửu lâu khai trương nên chủ tiệm cho mời thuyết thư tiên sinh đến để thu hút khách, thêm phần náo nhiệt.


“Đánh xe ngựa vào bên đường, đỗ gần một chút.”

“Muội…”

“Không sao đâu, vẫn sớm mà”, Dẫn La mỉm cười.

Nhìn nụ cười ngọt ngào của muội muội, Dẫn Nghi không muốn làm nàng cụt hứng, đành lệnh cho thị vệ đi theo đứng đợi hai bên đường, sau đó đỗ xe ngựa sát cửa tửu lâu, còn dặn phu xe mang cho chủ quán ít tiền thưởng, bảo thuyết thư tiên sinh nói lớn một chút, để người ngồi trong xe cũng có thể nghe được.

Câu chuyện đang vào hồi gay cấn.

“Đương kim Hoàng thượng nghe thuộc hạ cũ đưa thư đến, thuật lại tình hình tứ quốc hỗn loạn, dù liên tục chau mày, nhưng vẫn không thay đổi ý định, người nói với thuộc hạ: ‘Ta đã không còn quan tâm đến những chuyện này, các ngươi có nói thế nào cũng vô ích. Thiên hạ bao nhiêu anh hùng, bình định tứ quốc, hà tất phải là ta?’. Ý rằng, người sẽ không chịu xuống núi.”

Câu chuyện đến đây, những người nghe đang háo hức đều xị mặt xuống, đâu đó vang lên tiếng thở dài, có người la lớn: “Sao Hoàng thượng của chúng ta vẫn chưa chịu xuống núi? Thiên hạ đã loạn thế rồi”.

“Ông cuống cái gì chứ, nếu Hoàng thượng không xuống núi, chúng ta sao có được thái bình ngày hôm nay?”, thuyết thư tiên sinh cười khà khà, nhấp ngụm trà cho trơn giọng, sắc mặt nghiêm trang trở lại, “Thuộc hạ đó nghe vậy thì cuống lên. Giờ là lúc nào rồi mà Vương gia vẫn chẳng chịu ra tay? Nhưng mà, đúng là cái khó ló cái khôn, thuộc hạ này đã nghĩ ra một cách hay, liền nói với Hoàng thượng của chúng ta rằng: ‘Anh hùng trong thiên hạ tuy nhiều, nhưng chỉ có mình người mới cứu được Bạch cô nương. Nay Bạch cô nương đang trong cảnh nguy nan, nếu Vương gia không đi, e là Hoàng hậu nương nương tương lai của chúng ta sẽ gặp chuyện không hay rồi’. Vừa nghe thế, mặt Hoàng thượng liền biến sắc, trừng mắt quát: ‘Kẻ nào dám làm tổn hại đến Hoàng hậu của trẫm, trẫm giết kẻ đó!’.”.

Thuyết thư tiên sinh mắt trợn trừng, biểu cảm giống y như thật, khiến những người ngồi nghe cũng phải nổi da gà, duy chỉ có một kẻ không thức thời, lên tiếng cười nhạo: “Thuyết thư, ngươi nói dóc mà chẳng biết đường. Lúc đó còn chưa có Đại Đình quốc thì thuộc hạ kia sao biết được Bạch cô nương sau này sẽ trở thành Hoàng hậu nương nương?”.

“Ha ha, ngươi chưa mở miệng, người ta còn không biết ngươi thiếu hiểu biết, mở miệng ra rồi, thật chứng tỏ mình là kẻ không biết gì.” Thuyết thư tiên sinh nghiêm túc, “Lại nói đến Bạch cô nương. Người này lai lịch bất phàm. Nàng lớn lên trong vương phủ Kính An của Quy Lạc quốc, từ nhỏ đã hát hay múa giỏi. Đừng nói nhi nữ chỉ biết đàn ca, ngay cả hai việc văn võ vốn chỉ của nam nhân, cũng ít ai theo kịp nàng. Có thầy tướng xem cho Bạch cô nương, nói, ‘Người này là tiên nữ hạ phàm, để phò trợ chủ nhân thiên hạ’. Quy Lạc vương biết chuyện, hạ chỉ đòi lấy nàng. Nào ngờ vừa gặp Quy Lạc vương, Bạch cô nương đã nói: ‘Ông không đủ tư cách lấy ta, ta chỉ gả cho chủ nhân thực sự của thiên hạ thôi’. Sau đó, quả nhiên nàng đã chọn Hoàng thượng của chúng ta. Ha ha, các vị nói xem, nhãn quan này có lợi hại không?”.

Dẫn Nghi ngồi trong xe nghe, cười bảo: “Đúng là xằng bậy. Nói như thế, người đàn bà ấy không gì là không biết, không gì là không thể, vậy thì khác gì yêu quái?”.

Dẫn La khẽ mỉm cười, chẳng đáp lời, tiếp tục lắng nghe.

Có người cung kính hỏi: “Tiên sinh, ông nói Hoàng hậu nương nương của chúng ta là tiên nữ hạ phàm, thế thì Hoàng hậu chắc chắn là một đại mỹ nhân ư?”.

“Tất nhiên rồi, Bạch cô nương dung mạo tươi như hoa, giọng nói thánh thót tựa vàng anh, đẹp đến không ai sánh kịp, thực là một trang tuyệt thế giai nhân!”, thuyết thư tiên sinh ngưỡng mộ cảm thán, “Ban đầu, Hoàng thượng của chúng ta cũng sống giữa trăm hoa, chỉ sau khi gặp Hoàng hậu nương nương, người mới quên hết những mỹ nhân còn lại. Từ đó trở đi, trong mắt người chỉ có mình Hoàng hậu nương nương mà thôi”.

“Không đúng rồi!”, một lão nhân nheo mắt tỏ vẻ nghi ngờ, “Sao ta nghe nói, năm đó Hoàng hậu nương nương và Hoàng thượng đã từng giao chiến ở Bắc Mạc quốc? Rõ ràng thuyết thư tiên sinh họ Trương đã nói thế mà”. Mấy người bên cạnh lão nhân hẳn cũng nghe được đoạn này, ai nấy đều gật gù đồng ý.

“Nhảm nhí!”, thuyết thư tiên sinh nổi trận lôi đình: “Hoàng thượng và Hoàng hậu nương nương là một cặp ân ân ái ái, làm gì có chuyện đối đầu nơi sa trường? Đừng nghe cái tên họ Trương kia nói càn”.

Tiếng tranh luận vang khắp tửu lâu. Phía xe ngựa, rèm lại lặng lẽ buông xuống.

“Chẳng có gì đáng nghe cả, đi thôi.”

Ngựa chầm chậm cất bước.

Chỉ mấy khắc sau, xe ngựa đã ra khỏi thành trấn. Phía xa xa là con đường đất vàng mới đắp, hai bên cây cối xanh mướt, cơ hồ nhìn mãi cũng không thấy được cuối con đường.

Như nhìn ra nỗi ưu tư của tiểu muội, do dự hồi lâu, Dẫn Nghi nói: “Muội muội đừng nghe thuyết thư tiên sinh đó nói bậy, lấy đâu ra tiên nữ chứ. Hoàng hậu dù có xinh đẹp như hoa, cũng không thể sánh bằng muội. Mà cứ cho là đẹp hơn muội đi nữa, thì cũng làm sao, năm tháng qua đi, sao bì được với vẻ trẻ trung đáng yêu của muội? Lần này muội vào cung, theo ta thì trái tim của Hoàng đế nhất định sẽ thuộc về muội”.

Đôi mắt đẹp của Dẫn La chợt sáng lên, quét qua Dẫn Nghi một cái. Dẫn Nghi tự cảm thấy mình nói có lý, đâu biết Dẫn La lại liếc xéo mình như thế. Chỉ cảm thấy có gì đó vừa xẹt qua người, chàng giật mình im lặng.

“Đại Đình quốc thật sự quá lớn mạnh. Từ khi thống nhất tứ quốc, Đại Đình quốc binh hùng tướng mạnh, tộc Duy Hạo chúng ta tuy ở phương xa, nhưng cũng ngầm cảm thấy bị đe dọa. Phụ thân nói đúng, e rằng cầu thân chính là cách duy nhất để giữ được tương lai yên ổn của tộc chúng ta”, Dẫn La thầm thở dài, cười khổ, “Dẫn La muội chỉ lo, chưa chắc sắc đẹp đã dụ nổi vị hoàng đế ấy. Nếu thật như vậy, thì chuyến đi lần này của Dẫn La quả là vô ích”.

Như chợt nghĩ ra điều gì, khuôn mặt càng lộ vẻ trầm tư, nàng chau mày lẩm nhẩm: “Đại Đình quốc… Đại Đình? Khuê danh của Hoàng hậu nương nương, không phải là ‘Sính Đình’ sao?”.

Dẫn Nghi bỗng cảm thấy bất an, cố cười an ủi: “Muội muội đừng coi nhẹ bản thân như vậy. Ta thấy trong thiên hạ này chẳng nam nhân nào có thể làm ngơ trước nhan sắc của muội. Hoàng đế chẳng qua cũng chỉ là nam nhân, Hoàng hậu lại sắp ba mươi rồi. Là phu thê với nhau đã nhiều năm, chắc hẳn cũng đến lúc Hoàng đế thấy mệt mỏi rồi. Đây chính là thời điểm Hoàng đế muốn tìm niềm vui mới. Chỉ cần muội muội biết toan tính một chút, thì sợ gì…”.

“Huynh đừng nói nữa”, Dẫn La quay lại, “Rốt cuộc nên hành sự thế nào, đợi đến khi gặp được Hoàng hậu nương nương thâm sâu khó đoán kia, muội sẽ tự có chủ ý của mình”.

Không khí như đóng băng, chỉ còn tiếng vó ngựa gõ lộp cộp trên đường.

Ngoài cửa sổ, thảo nguyên bất tận, mênh mang không thấy bờ, cũng chính là đích đến của chuyến đi này, chuyến đi tới kinh đô Đại Đình quốc.

Duy Hạo là một ngoại tộc xa xôi khá có tiếng tăm (Người Hán coi tất cả những dân tộc khác là ngoại tộc)... Trong tộc, nam nhân thượng võ, võ nghệ tinh thông, sức khỏe hơn người, nữ nhân xinh đẹp mảnh mai. Đây hẳn là vùng đất của anh hùng và mỹ nữ. Cũng bởi truyền thống oai hùng, trước nay chưa từng e sợ ai, nên tộc này hiếm khi bị nước ngoài xâm chiếm cướp bóc. Trải qua bao đời, tộc cũng tích lũy được khá nhiều ngọc ngà châu báu.

Nếu không phải vì Đại Đình quốc quá lớn mạnh, lại có vị Hoàng đế trẻ tuổi anh minh khiến tộc trưởng cũng sinh lòng lo sợ, thì tộc Duy Hạo quyết không làm cái việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử là dâng tặng mỹ nhân và châu báu của mình.

Cuối ngày hôm sau, qua bao ngày lặn lội đường xa, dặm trường vất vả, cuối cùng đoàn xe chở châu báu và mỹ nhân cũng đến được kinh đô của Đại Đình quốc.

Đón tiếp họ, chính là người được Hoàng đế tín nhiệm nhất, Khoa hổ đại tướng quân, Sở Mạc Nhiên.

Mạc Nhiên cưỡi ngựa dẫn đầu, đưa đoàn xe đến trước vương cung nguy nga tráng lệ. Tướng quân xuống ngựa, đến bên xe, cất giọng sang sảng: “Mời Công chúa xuống xe. Hoàng thượng có chỉ, Công chúa hãy cùng ta vào cung yết kiến Hoàng hậu nương nương trước đã”.

Dẫn La và Dẫn Nghi đang ở trong xe, nghe thế đều ngẩn người, bất giác nhìn nhau.

Dẫn Nghi ngạc nhiên, nói: “Chúng ta đường xa đến đây, đã giương cờ cầu thân, sao Hoàng đế không gặp chúng ta, mà lại là Hoàng hậu? Không lẽ muội mới đến, Hoàng hậu đã phải ra oai phủ đầu?”, khuôn mặt chàng mang vài phần tức giận.

“Người đàn bà đứng đầu hậu cung lại chỉ biết ra oai phủ đầu như thế, Dẫn La hà tất phải sợ?”, Dẫn La nở nụ cười xán lạn.

Dẫn Nghi vì câu nói này mà có thêm lòng tin: “Muội muội tốt, chỉ cần dựa vào dáng vẻ này, đệ nhất công chúa của tộc Duy Hạo chúng ta nhất định sẽ không thiệt thòi”. Sau đó chàng dìu Dẫn La, đang khoác trên mình phục sức long trọng nhất của tộc Duy Hạo, nhẹ nhàng xuống xe.

Mạc Nhiên vội ngăn lại: “Hoàng hậu nương nương chỉ triệu kiến Công chúa điện hạ thôi, mời Vương tử đi lối này”.

Dẫn Nghi bất mãn nhìn Mạc Nhiên, đang định phản đối, Dẫn La đã dịu dàng bảo: “Huynh không cần bận tâm, sớm muộn gì muội cũng phải ở trong cung một mình”.

“Muội hãy nhớ rằng, không ai sánh được với sắc đẹp của muội, không ai xứng đáng được Hoàng thượng sủng ái hơn muội”, Dẫn Nghi nắm chặt tay nàng, khẽ nói.

Dẫn La nhìn sâu vào mắt ca ca, gật đầu: “Dẫn La nhớ rồi”.

Gót sen nhẹ bước theo sau người dẫn đường, từng bước, từng bước qua lớp lớp những cánh cửa trong nội cung.

Dẫn Nghi đã đợi ba ngày ở tân quán, nơi chuyên tiếp đón các quý nhân ngoại tộc.

Ba ngày nay vẫn không có tin tức gì của Dẫn La. Rốt cuộc muội muội đang ở đâu? Có được Hoàng đế sủng ái không? Có khiến Hoàng đế vui lòng không? Có đấu lại được với thế lực của Hoàng hậu không?

Chẳng hề có bất cứ tin tức nào.

Hoàng đế trịnh trọng triệu kiến Dẫn Nghi. Nhận lấy thư và bao ngọc ngà châu báu của tộc trưởng Duy Hạo gửi đến, người cũng tặng lại không ít lễ vật.

Hoàng đế tuổi trẻ uy vũ, quyền quý cao sang, không hề giống với một người đã ba mươi tuổi.

Dẫn Nghi thay phụ thân bày tỏ nguyện vọng mong Đại Đình quốc và tộc Duy Hạo có thể chung sống hòa bình. Hoàng đế cười hào sảng: “Bách tính đã chịu nỗi khổ chiến loạn đủ rồi, trẫm sẽ không vô cớ khởi binh”, còn bổ sung: “Hoàng hậu cũng không thích chiến tranh”. Nhắc đến Hoàng hậu, khuôn mặt anh tuấn của vị đế vương thoáng vẻ dịu dàng không hề che giấu.

Trong lòng Dẫn Nghi bỗng cảm thấy không ổn, liền nhân cơ hội hỏi thăm về muội muội đã được Hoàng hậu triệu kiến của mình.

“Công chúa?”, Hoàng đế nói, “Hoàng hậu ở trong cung luôn cảm thấy buồn, cứ để Công chúa ở đó bầu bạn với Hoàng hậu thêm mấy ngày cũng tốt”.

Đứng trước vị hoàng đế thâm trầm khó đoán, Dẫn Nghi không hỏi được câu nào.

Hôm đó, Hoàng đế rất có hứng trò chuyện. Người nói hết chuyện thời thế, vấn đề binh lực, biên giới quốc gia, bách nghiệp, lại đến chuyện năm nay mùa màng bội thu, rồi cả những việc của gia quyến các đại thần trong triều ở kinh thành. Từ việc nhỏ mà cân nhắc đắn đo sang chuyện lớn, thuận miệng lại ban hành thêm mấy đạo thánh chỉ, sau đó mỉm cười với Dẫn Nghi: “Vương tử cảm thấy thế nào?”.

Dẫn Nghi lùi một bước, cúi đầu.

Chàng đã hiểu vì sao người đàn ông này có thể khiến tướng địch kinh hồn bạt vía. Mạnh mẽ quyết đoán đến thế, đôi mắt sắc bén như nhìn thấu tâm tư người khác đến thế, sức mạnh ấy có thể tiêu diệt mọi kẻ thù, dù lớn mạnh đến đâu.

Sau khi cáo lui, rời khỏi đại điện, Dẫn Nghi ngưỡng mộ nói với thị vệ dẫn đường: “Đại Đình quốc có vị hoàng đế thông tuệ như vậy, theo ta thì không ai trong thiên hạ có thể đoán được tâm tư của người”.

Nghe thế, thị vệ liền cười, quay lại bảo: “Điều này thì Vương tử nói sai rồi. Vẫn có người đoán được tâm tư của Hoàng thượng, hơn nữa còn luôn đúng, không sai một li”.

“Ồ?”

Thị vệ giơ ngón tay lên, thần bí chỉ về phía xa xa, nơi hậu cung mịt mù sương khói.

“Là… Hoàng hậu sao?”

Một cảm giác thấp thỏm không yên chạy dọc sống lưng chàng.

Ba ngày sau, cảm giác thấp thỏm cứ mỗi lúc một lớn dần. Dẫn La, tiểu muội chàng yêu thương nhất đang khoe sắc của một đệ nhất công chúa tộc Duy Hạo trước nữ nhân như thế nào? Liệu nàng có khiến nữ nhân đó sinh lòng đố kỵ? Liệu nàng có giành được phần thắng trong cuộc chiến chốn thâm cung?

Chàng bỗng nhớ ra, khi nhắc đến Dẫn La với Hoàng đế, Hoàng đế chỉ gọi nàng là “Công chúa”, chứ không gọi trực tiếp tên nàng. Chẳng lẽ người vẫn chưa từng thân mật với nàng?

Dẫn Nghi đi đi lại lại trong tân quán như con dã thú đang bị nhốt trong lồng.

Ý nguyện hòa bình đã đạt được, coi như họ đã trọn vẹn mục đích của chuyến đi. Nhưng chàng không thể cam tâm khi thấy Dẫn La phải chịu đựng cái lạnh lẽo chốn thâm cung. Giả như nàng không hạnh phúc, thì đó cũng là một kết cục hết sức bi thương.

Sau khi đạt được mục đích của mình, người ta mới hối hận vì cái giá phải trả.

“Rốt cuộc, Dẫn La công chúa hiện giờ ra sao?”

“Ta muốn gặp Hoàng thượng.”

“Ta muốn gặp Hoàng hậu.”

“Đều không được hả? Thế thì, ta muốn gặp Khoa hổ đại tướng quân hôm đó dẫn muội muội của ta vào cung!”

Đã mấy lần chàng muốn rút đao xông ra, phỏng chừng Dẫn La đã bị người đàn bà độc địa chốn thâm cung kia hãm hại rồi. Chàng đau khổ tự trách bản thân sao có thể vạn dặm đường trường lặn lội đến đây, để rồi đẩy muội muội vào cuộc chiến không cân sức ở cái nơi xa lạ này. Những lời chàng an ủi Dẫn La lúc đầu toàn là điều giả dối, toàn những thứ nhảm nhí!

Chàng chẳng qua cũng chỉ là một tên khốn đem muội muội ra để đánh đổi lấy cuộc sống yên bình cho bản thân mà thôi.

Chính lúc Dẫn Nghi sắp phát điên, Dẫn La đã trở về.

Nàng đổi sang lối ăn mặc và trang điểm truyền thống của nữ nhân thuộc hàng tôn quý Đại Đình quốc, tơ lụa trắng tinh càng tôn thêm làn tóc đen mượt như thác nước của nàng.

Dẫn La bước vào phòng, dịu dàng nhìn ca ca, rồi bất chợt cúi đầu mỉm cười, cười mãi, sau đó lại ngẩng lên, nhìn dáng vẻ luống cuống vừa vui mừng vừa kinh ngạc của Dẫn Nghi.

“Muội đã gặp Hoàng hậu”, hồi lâu sau, nàng mới nói.

“Hoàng hậu trông thế nào? Ta không tin Hoàng hậu lại có thể đẹp hơn muội. Muội muội, muội có bị bà ta bắt nạt không?”

Suy nghĩ hồi lâu, Dẫn La mới lẩm bẩm: “Không thể mang cái nhìn của kẻ phàm phu mà đánh giá…”.

“Sao hả?”

“Muội nói là…”, như đang hồi tưởng lại, Dẫn La nhìn về phía vương cung lộng lẫy đang đắm chìm dưới ánh mặt trời, “Không thể mang cái nhìn của kẻ phàm phu mà đánh giá…”. Nàng bỗng quay sang Dẫn Nghi với nụ cười xán lạn: “Ca ca, chúng ta về thôi. Hoàng hậu nương nương nói, muội có thể lựa chọn ở lại vương cung của Đại Đình quốc, hoặc cũng có thể trở về. Dù chọn lựa thế nào, muội cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình, Đại Đình quốc và tộc Duy Hạo sẽ đời đời hòa hảo”.

Thấy biểu cảm khó tin trên gương mặt Dẫn Nghi, nàng nhẹ nhàng quay một vòng, dáng vẻ sảng khoái như phượng hoàng vừa được phóng thích.

“Huynh, chúng ta về thôi.” Đôi mắt đen nhánh của nàng bừng sáng, rạng rỡ thanh xuân.

Vẻ mê hoặc của mỹ nhân, một phần bởi nhan sắc, một phần bởi khí chất.

Theo thời gian, nhan sắc sẽ tàn phai, nhưng khí chất vẫn còn mãi.

Trong một nước, đã có một hoàng hậu khí chất tuyệt đỉnh, hà tất phải cần thêm một phi tần tuyệt thế giai nhân?

Về nhà đi, đệ nhất công chúa tộc Duy Hạo.

Dù toan tính cỡ nào, nàng cũng chưa chắc có được mấy ngày sủng ái của Hoàng thượng, rồi số phận nàng sẽ chìm dài trong chuỗi ngày bị lãng quên.

Đó không phải vận mệnh nàng đáng phải chịu.

Về nhà đi, người con gái trẻ trung xinh đẹp.

Bởi vì trên thế gian này, có rất nhiều điều nàng chưa từng trải qua; chưa từng trải qua tháng ngày khoác áo bào, cưỡi ngựa rong ruổi giữa ba quân; chưa từng trải qua nỗi tuyệt vọng khi cây đàn cổ tan thành tro bụi; chưa từng phải quên hết oán hận, vứt bỏ hoài bão ôm trọn cả thế gian này; và cũng chưa từng được nếm trải thứ tình yêu mãnh liệt mà ngay cả hàng ngàn hàng vạn thuyết thư trên đời cũng chẳng thể kể hết được.

Về nhà đi, tiếng cười như chuông bạc của nàng phải được vang trên quê hương tươi vui của nàng, vang bên tai cha mẹ yêu dấu của nàng.

Nửa đêm, sâu trong lớp lớp những cánh cửa cung, một đôi mắt tinh anh đang lặng lẽ ngắm nhìn ánh trăng vằng vặc treo trên bầu trời.

Cung nữ nhẹ nhàng bước tới, cúi người bẩm báo: “Nương nương, Công chúa điện hạ đêm nay đã khởi hành, rời khỏi kinh đô”.

Sính Đình ngẩng đầu, mãn nguyện dựa lưng vào gối mềm.

“Khoa hổ đại tướng quân đâu?”, nàng chợt hỏi.

“Nô tỳ không biết.”

“Có đang ở trong phủ tướng quân không?”

“Nô tỳ nghe nói Đại tướng quân vẫn chưa về.”

“Thế thì đang giúp Hoàng thượng xử lý chính sự à?”

“Nô tỳ nghe cận vệ của Hoàng thượng nói, hôm nay Hoàng thượng bàn chính sự với hai vị thừa tướng, Khoa hổ đại tướng quân cũng không tham dự.”

Sính Đình ngây người một lát, khẽ bảo: “Nếu vậy, có lẽ Đại tướng quân đang đuổi theo họ rồi. Không biết đi một mình, hay đem theo thiên quân vạn mã nữa”.

Cung nữ ngơ ngác nhìn nàng.

Người phụ nữ mẫu nghi thiên hạ bỗng cười khúc khích, nụ cười hồn nhiên như trẻ thơ, khẽ vỗ tay, nói: “Ta đoán Đại tướng quân không nhẫn nhịn nổi nữa rồi. Mạc Nhiên ơi là Mạc Nhiên, đường đường là Khoa hổ đại tướng quân, chưa đầy ba ngày đã bị nàng công chúa trẻ tuổi đó bắt mất hồn. Cũng tốt, đã đến lúc Đại tướng quân nên nếm trải hương vị ái tình rồi”.

Ngừng một lát, nàng nói tiếp: “Phải bẩm với Hoàng thượng nhanh chóng sắp xếp người tiếp quản công việc của Khoa hổ đại tướng quân thôi, tránh đến lúc đó không tìm được người lại cuống cả lên”.

Đúng lúc ấy, Sở Bắc Tiệp trở về, vừa bước vào cung, vừa hỏi: “Cái gì mà không tìm được người?”.

Sính Đình mỉm cười, thuật lại toàn bộ sự việc: “Chàng không thấy mấy ngày nay Mạc Nhiên luôn tìm cớ đến chỗ thiếp sao? Nào là mới có cống phẩm, muốn Hoàng hậu xem qua, nào là chuẩn bị lễ mừng vương đình sắp tới, có nhiều tiết mục cần Hoàng hậu phê duyệt, chẳng lẽ không phải vì nàng công chúa đó... Chỉ là thiếp thấy nàng ấy quá thông minh, không dễ gì gật đầu đâu. Lần này thì Mạc Nhiên phải khổ sở rồi”...(Vương đình: Đất nước lớn thống trị tất cả các dân tộc thiểu số trong khu vực )

Sở Bắc Tiệp cười nói: “Đã phải chịu khổ bằng ta chưa?”. Ra hiệu cho đám cung nữ lui ra xong, Sở Bắc Tiệp bế bổng Sính Đình lên giường.

Sính Đình bị chàng nhìn tới đỏ mặt: “Chàng thật là… Đường đường là hoàng đế, còn không biết chừng mực”. Nàng quay đi, Sở Bắc Tiệp rút ngay cây trâm phượng trên đầu, khiến mái tóc đen mượt của nàng trải dài xuống giường.

Sở Bắc Tiệp chầm chậm cúi xuống, thưởng thức hương thơm phảng phất nơi cổ nàng, khẽ hỏi: “Hoàng hậu còn nhớ khúc ca năm đó hát cho ta nghe không?”.

“Không nhớ.” Đôi mắt đẹp của Sính Đình khẽ động, nàng ai oán nói, “Thiếp chỉ nhớ năm đó có người đập vỡ cây đàn của thiếp, nhốt thiếp ẩn cư ở một nơi khác, còn ức hiếp thiếp trăm bề”.

“Ta biết sai rồi”, Sở Bắc Tiệp vội đầu hàng, dịu giọng dỗ dành, “Một ngày đẹp trời thế này, không lẽ Hoàng hậu lại muốn dành thời gian hồi ức tới câu chuyện dài của chúng ta sao?”.

Sính Đình bật cười, nhưng vẫn khẽ thở dài: “Đúng thế, một câu chuyện thật dài, cả đời cũng hồi tưởng không hết, thật dài, thật dài…”.

Ngày đó khi cùng ẩn cư với Sở Bắc Tiệp, tứ quốc vẫn chưa thực sự loạn lạc.

Nếu không phải vì lòng người tham lam, chỉ bởi dục vọng cá nhân mà khiến muôn dân trong thiên hạ gặp cảnh tai ương, thì sao có được một Đại Đình quốc hùng mạnh như hôm nay, sao có được một đôi đế hậu mỹ mãn thế này?

Một câu chuyện dài, tựa khúc nhạc dưới ngón tay Sính Đình, dệt nên bản ngũ âm của cả đời người.

Trăng sáng vằng vặc, dịu dàng chiếu trên hai người.

Chàng còn nhớ, chúng ta đã thề nguyền dưới ánh trăng, cả đời không phụ bạc?

Cũng có thể, cả đời này chúng ta sẽ mãi chẳng phụ bạc nhau.

Giữa tháng Bảy, biên giới Quy Lạc quốc.

Mặt trời thiêu đốt, hai hàng cây bên đường rũ lá.

Ba bốn người qua đường không chịu nổi cái nóng phải trốn dưới bóng cây râm mát. Lão đầu bán nước bên đường cũng vì thế mà có thêm vài vị khách.

“Cho bát trà nào.” Cánh tay ra sức quạt, người qua đường cẩn thận lấy trong túi ra một đồng tiền, đặt lên bàn.

“Có ngay đây, một bát trà ngon, mát gan hạ hỏa”, ông lão bán nước tươi cười bê bát trà ra, nói thêm: “Nóng quá, khách quan đang vội hả?”.

“Vâng, đúng là thời tiết quỷ quái, thiêu chết người ta mất.” Nhấp một ngụm trà, cảm thấy mát rượi cả cổ họng đang khát cháy, vị khách quan vui vẻ hẳn lên, nói tiếp: “Tôi đang vội đưa hàng sang vùng biên. Haizzz, hai năm nay Đông Lâm quốc làm loạn ở vùng biên, khiến những thương nhân như chúng ta chẳng có lấy miếng cơm mà ăn. Cũng may, tiểu Kính An vương đã đánh lui được cái gì mà Sở Bắc gì gì ấy, nếu không, cũng chưa biết khi nào tôi mới được trở về”.

“Tiểu Kính An vương của chúng ta thật là cự phách!”

“Ông nói cái người Bắc gì gì ấy tôi cũng biết, đó là đệ đệ ruột của Đông Lâm quốc Đại vương, cũng lợi hại vô cùng.”

Người bên cạnh cười bảo: “Lợi hại thì đã sao? Gặp tiểu Kính An vương của chúng ta thì cũng bị đánh lui về quê rồi”. Uống một hơi cạn sạch trà trong bát, vị khách quan lại lấy ra một đồng tiền nữa, đặt lên bàn: “Lão đầu, cho tôi thêm một bát!”.

Nghe đến bốn chữ “tiểu Kính An vương”, lão nhân bán nước vội gật đầu theo, vừa rót trà vừa nói: “Tôi cũng từng nghe nói đến, đây quả là một mãnh tướng của Quy Lạc quốc chúng ta, không có ông ấy thì không thắng nổi đâu”.

Câu chuyện đang hăng, bỗng nghe tiếng thở dài: “Các người còn dám nhắc đến mấy chữ ‘tiểu Kính An vương’ sao? Bây giờ hắn đã trở thành phản thần của Quy Lạc quốc rồi”.

Lời này chẳng khác nào tiếng sấm giữa trời quang, khiến những người ngồi uống trà đều vô cùng kinh ngạc.

Bàn tay khẽ run, ông lão bán trà thảng thốt: “Vị khách quan này nói gì vậy? Tiểu Kính An vương…”.

“Không ai biết gì sao?”, vị khách vừa đến ngồi xuống, lấy ống tay áo quạt cho mát, “Hôm qua tôi mới từ thành đô tới đây, tiểu Kính An vương hành thích Đại vương thất bại, nên đã trốn khỏi thành đô rồi. Nay, Đại vương hạ lệnh truy bắt toàn bộ người của phủ Kính An. Ta còn nghe nói, tiền thưởng không ít đâu”.

“Nhưng tiểu Kính An vương mới đánh tan đám phản quân, và bình định biên cương, vừa trở về thành đô lãnh thưởng mà?”

“Thế mới lạ chứ? Ngay tối hôm về thành đô, tiểu Kính An vương đã âm mưu vào cung hành thích Đại vương rồi. Các người có biết lúc đó, tiểu Kính An vương dùng thanh kiếm nào không?” Thấy người xung quanh đều chăm chú lắng nghe câu chuyện của mình, vị khách quan kia cố tình vòng vo.

“Chắc chắn phải là thanh bảo kiếm rồi”, có người đoán.

“Đừng nghe hắn nói lung tung”, lại có người nói vẻ khinh miệt, “Ta không tin tiểu Kính An vương dám tạo phản. Vương phủ Kính An đời đời kiếp kiếp là trung thần của Quy Lạc, quyết không bao giờ tạo phản”.

Thấy có người nghi ngờ mình, vị khách quan kia bực đến nỗi râu tóc dựng đứng: “Tiểu Kính An vương dùng chính thanh bảo kiếm Hắc Mặc do đích thân Đại vương ban tặng để hành thích Đại vương. Ở đây đã ai nghe nói về thanh kiếm này chưa? Nếu bị nó chạm vào, thì vết thương sẽ đen sì như mực, không bao giờ phai”.

“Nhưng mà…”

Giữa lúc mọi người đang tranh luận, bỗng tiếng vó ngựa lộp cộp lại gần.

Một đoàn ngựa xe tiến đến, loại xe thường thấy của thương nhân, cửa sổ, cửa xe đều được che kín bằng lớp vải dày. Nam nhân đánh xe mặt mũi bặm trợn, ném hai đồng tiền về phía mặt bàn, lớn tiếng quát: “Lão đầu, cho hai bát trà!”.

“Có ngay.”

“Trời với đất, nóng thế không biết!”

“Đúng đấy, khách quan xuống nghỉ ngơi cho mát rồi hãy đi, ở đây đang nói chuyện về tiểu Kính An vương đấy.”

“Lão tử còn phải lo buôn bán, quản làm chi mấy chuyện vương này đế nọ.” Ngửa cổ uống cạn bát nước, người đánh xe ngựa tháo bình nước lớn giắt ở thắt lưng đưa cho ông lão, “Đổ đầy bình luôn đi, lão tử còn phải lên đường”.

Ông lão vội rót nước đầy bình.

Nam nhân cầm bình nước, nhảy lên lưng ngựa, khẽ thúc một tiếng, xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh.

Xe ngựa lắc lư tiến về phía trước, khiến Sính Đình mở choàng mắt.

Không khí oi bức, mồ hôi đầm đìa trên cổ, đôi mắt mới mở của Sính Đình vẫn chưa quen với ánh sáng bên ngoài, nàng bèn nhắm lại.

Đầu đau ê ẩm, từng cơn chóng mặt như những đợt sóng đang muốn nhấn chìm cả người nàng.

Đây là đâu? Nàng nghi ngờ tự hỏi. Đến khi nhìn rõ bốn bề xung quanh, sự cảnh giác vô cớ khiến Sính Đình tỉnh hẳn. Đôi mắt tròn đen bỗng chốc mở to.

Trí nhớ của nàng đột nhiên lấp đầy những tiếng đuổi giết dữ dội, lửa cháy đầy trời…

“Sính Đình, muội đợi ở ngoài thành, chúng ta vào thành làm rối cục diện thêm chút nữa, tiếp ứng phụ thân.”

“Vậy… thiếu gia, lúc bình minh, chúng ta sẽ gặp nhau ở ngọn đồi ngoài thành nhé.”

Vương gia đâu? Thiếu gia đâu? Còn cả Đông Chước bướng bỉnh quấy phá lúc nào cũng lo thiên hạ chưa đủ loạn hiện đang ở đâu?

Còn nhớ, sau khi hẹn với thiếu gia, ngay lập tức nàng đã đi về phía đồi, rồi đoạn ký ức cuối cùng của nàng dừng lại ở việc vừa nhìn thấy ngọn đồi ấy.

Lúc đó nàng bỗng cảm thấy đau nhức sau đầu, trước mắt bất chợt tối sầm…

“Tỉnh rồi à?”, có người vén rèm xe lên, một khuôn mặt nam nhân xuất hiện, “Đáng nhẽ phải tỉnh từ lâu rồi chứ? Mãi không tỉnh, lão tử còn tưởng gậy ấy đánh chết ngươi rồi”.

Bọn buôn người ư? Sính Đình cảnh giác đánh giá con người trước mặt.

Không lẽ trong lúc quan trọng nhất, trong lúc thiếu gia không thể thiếu nàng hầu hạ, nàng lại bị bọn buôn người bắt cóc? Thật bất công, từ nhỏ đến lớn số lần Bạch Sính Đình nàng một mình rời khỏi vương phủ rất ít, nay một thân một mình rời vương phủ thì lại gặp bọn buôn người thế này.

“Được rồi, bây giờ lão tử hỏi ngươi”, nam nhân vào trong xe ngựa, rút cái giẻ ở miệng nàng ra, giọng uy hiếp: “Ta hỏi gì ngươi phải đáp nấy. Nếu không chịu thật thà, ta sẽ bắt ngươi cho sói ăn đấy”.

Nghe cái giọng dọa nạt trẻ con ấy, suýt chút nữa Sính Đình bật cười. Từ nhỏ, nàng đã theo hầu tiểu Kính An vương Hà Hiệp, là nữ tử duy nhất có thể theo Hà Hiệp xuất chinh. Tuy còn ít tuổi, nhưng nàng đã được chứng kiến không ít trận chém giết trên sa trường. Chỉ một câu ấy, sao dọa nổi nàng?

Không đợi nam nhân kia hỏi tiếp, Sính Đình hỏi trước: “Ngươi bắt ta ở khoảng hai dặm ngoài cổng thành đúng không?”.

Nghe thế, nam nhân bỗng giật mình, lại thấy vẻ ung dung tự đắc, vẻ uy nghiêm toát ra từ nụ cười của nàng, thì bất giác gật đầu trả lời: “Đúng thế”.

“Ta ngủ mấy ngày rồi?”

“Hai ngày rưỡi.”

Nghe thấy câu trả lời, mặt Sính Đình bỗng biến sắc, than thầm trong lòng.

Nếu đúng nàng đã hôn mê hai ngày rưỡi, thì chắc chắn truy binh của Đại vương đang lùng sục khắp thành đô. Đám người thiếu gia hẳn không thể ở lại nơi ngọn đồi đã hẹn. Nàng cảm thấy trong lòng như có lửa đốt, hỏi tiếp: “Ngươi định bán ta đi đâu?”.

“Đi…” Liên tục trả lời mấy câu hỏi, nam nhân bỗng cảm thấy có gì đó không ổn, liền sực tỉnh, “Rõ ràng ta đang hỏi ngươi, sao lại thành ngươi hỏi ta thế hả?”, rồi lộ vẻ hung dữ, gằn giọng: “Ta hỏi ngươi, ngươi là thê tử nhà hào phú nào bỏ trốn? Nhà ở đâu?”.

Thê tử bỏ trốn?

Sính Đình ngẩn người, cúi xuống nhìn mình, ngay lập tức tỉnh ngộ.

Tuy là nha đầu trong vương phủ, nhưng từ nhỏ nàng đã được chủ nhân yêu thương, đồ dùng thường ngày cũng hơn hẳn những tiểu thư con nhà bình thường. Khắp người tơ lụa xúng xính, một thân một mình ra khỏi thành vào lúc bình minh, chẳng trách bọn buôn người lầm tưởng là thê tử nhà hào phú nào bỏ trốn.

Hèn gì đám buôn người còn tốt bụng để nàng ngủ hai ngày rưỡi trên xe, mà không vứt ngang giữa đường, hóa ra định dùng nàng để kiếm chút tiền tài.

Sính Đình cười tươi như hoa, lắc đầu bảo: “Ta chỉ là một a hoàn, có phải thê tử của hào phú gì đâu”.

“A hoàn mà được mặc tơ lụa đẹp thế này sao?”

Sính Đình thầm tính: E rằng Đại vương đã hạ lệnh truy bắt người của vương phủ Kính An khắp nơi, nên nàng không thể để lộ thân phận của mình. Ánh mắt nàng nhìn quanh: “Ta chỉ định bụng trốn ra khỏi thành hẹn gặp tình lang, vì muốn ăn diện nên trộm y phục của tiểu thư để mặc”. Quy Lạc phong tục phóng khoáng, không hiếm chuyện nữ nhân ra ngoài hẹn gặp tình lang.

Nam nhân nghe vậy bèn cau mày, vén rèm xe, hét lên một tiếng: “Lão Trương, lại đây ngay!”.

Một lúc sau, khuôn mặt béo tròn từ bên ngoài nhòm vào: “Phúc nhị ca có gì dặn dò?”.

Thì ra nam nhân trước mặt là Phúc nhị ca.

“Dặn dò cái đầu ngươi ấy! Ngươi nói với lão tử, nữ nhân này trông giống thê tử nhà phú hào nào bỏ trốn, rất đáng tiền?”, Phúc nhị ca trợn mắt, chỉ vào Sính Đình, “Nó là con a hoàn! Nuôi không mất hai ngày!”.

Lão Trương rụt đầu, ngó qua Sính Đình đang ngồi im thin thít, cười nịnh: “Phúc nhị ca đừng giận. Đằng nào cũng bắt rồi, dù không phải, nhưng ít nhất cũng bán được vài đồng”.

“Hàng này thì bán được đồng nào?”, ngón tay to bè không hề khách khí chỉ thẳng vào mũi Sính Đình.

Kỳ thực, tướng mạo của Sính Đình không được coi là đẹp. Trong vương phủ Kính An, nàng chỉ miễn cưỡng được xếp vào hàng nhan sắc bậc trung, tạm gọi là thanh tú mà thôi.

Nhưng cả vương phủ Kính An, không ai không biết đến tầm quan trọng của Sính Đình.

Không ngờ hôm nay nàng lại bị một tên buôn người chỉ thẳng vào mũi mà nói không đáng tiền. Sính Đình không chịu nổi, liếc xéo hắn một cái.

Nạt nộ lão Trương vài tiếng, Phúc nhị ca đành mang vẻ mặt tự nhận mình xui xẻo: “Thôi vậy, ít nhiều cũng bán được năm mươi đồng. Con a hoàn ăn trộm y phục của chủ nhân này, hại lão tử tưởng là cái mỏ tiền, còn cho ngồi trong xe riêng của ta hai ngày trời. Đi đi, đưa nó ra phía sau ngồi chung với những người khác”.

Vừa vào xe ngựa phía sau, mùi hôi thối đã xộc thẳng lên mũi, ngay lập tức Sính Đình hiểu ra tại sao Phúc nhị ca lại nói đã ưu đãi mình hai ngày qua. So với chiếc xe ngựa lúc nãy, chiếc xe này rất đỗi tồi tàn, chật chội, vừa bẩn vừa nóng.

Trên xe, bảy tám nữ nhân đang chen chúc nhau. Giống như Sính Đình, hai tay họ bị trói quặt ra sau lưng, ai cũng nhìn nàng với ánh mắt vô cùng đồng cảm.

“Ngồi lui vào trong, thêm đứa nữa này.” Lão Trương đẩy Sính Đình vào xe ngựa, tiện tay lôi mấy cái giẻ nhét trong miệng các nữ nhân kia ra, “Đoạn này đồng không mông quạnh, chẳng cần bịt miệng các ngươi nữa. Nếu không, trời nóng thế này chết vài đứa thì phí công. Cứ ngoan ngoãn ở đấy cho ta, nghe rõ chưa!”. Quát tháo vài câu, lão Trương ra khỏi xe ngựa, chắc còn đi đánh xe.

Bị lão Trương đẩy ngã dúi dụi, khó khăn lắm Sính Đình mới tìm được một chỗ trong góc để ngồi.

“Lọc cọc… Lọc cọc…”

Xe ngựa lắc lư dữ dội, Sính Đình bỗng cảm thấy ngứa cổ, nàng ho mạnh vài tiếng.

Cảm giác khó chịu vô cùng.

Lần này, theo thiếu gia xuất chinh bị nhiễm bệnh, nàng vẫn chưa khỏi hẳn sao? Sính Đình chau mày, nhắm mắt dựa đầu vào thành gỗ cứng.

Cảm thấy dễ chịu hơn, nàng lại bắt đầu suy nghĩ.

Vương phủ Kính An, nơi nàng lớn lên, chắc giờ chỉ còn là một đám tro tàn?

Túc vương tử, không, phải gọi là Đại vương mới lên ngôi, nỗi nghi ngờ của Đại vương với việc vương phủ Kính An nắm giữ trọng binh ngày càng tích tụ. Thiếu gia vừa lập chiến công, Đại vương không thể nhẫn nhịn thêm, đã hạ độc kế, vu cáo thiếu gia mưu phản ngay trong đêm khải hoàn.

May mà vương phủ Kính An có đề phòng từ trước, nếu không đã trở tay chẳng kịp rồi.

Bây giờ, chắc thiếu gia đã có kế sách bỏ trốn an toàn.

Không biết họ sẽ trốn đi đâu. Không đoán được cũng tốt, tốt nhất là trốn đến một nơi không ai có thể đoán ra, như vậy, truy binh mới không tìm được.

Xung quanh nàng bắt đầu vang tiếng khóc thút thít, đám nữ nhân vừa được rút giẻ ra khỏi miệng bắt đầu khóc lóc cho sự bất hạnh của mình. Sính Đình mở to mắt, chậm rãi nhìn xung quanh.

Đúng vậy, người nào cũng rất xinh đẹp, chắc nàng là người xấu nhất ở đây.

Trước nay, bọn buôn người chỉ ra tay với mỹ nhân, bán họ cho các quan lại quyền quý mua về làm thiếp, mới được giá. Nghĩ đến lúc Phúc nhị ca định giá nàng năm mươi đồng, Sính Đình khẽ mỉm cười. Những thứ khác không cần tính, chỉ riêng số tiền thiếu gia thưởng cho nàng hằng ngày cũng đủ để Phúc nhị ca chết chìm trong đống tiền rồi.

Nếu Phúc nhị ca biết mình đã may mắn bắt được ai, chẳng biết mặt mũi hắn sẽ thế nào nhỉ?

“Tỷ tỷ…”, một nữ nhi vẫn đang trong cơn khiếp đảm, khẽ chạm tay vào vai Sính Đình: “Tỷ tỷ cũng bị bọn chúng bắt, rồi đem bán à?”.

Thật là một cô nương khiến người ta yêu quý, chẳng trách lại lọt vào mắt bọn buôn người. Sính Đình gật đầu: “Ừm”.

“Tỷ tỷ có sợ không?”

“Không.”

Nữ nhi kinh ngạc nhìn nàng: “Không sợ?”.

Thấy nữ nhi kia vẫn muốn hỏi tiếp, vốn đang đau đầu, Sính Đình bèn chặn ngay: “Muội tên gì?”.

“Muội… muội tên tiểu Thanh. Thế tỷ tỷ tên gì?”

“Ta là tiểu Hồng”, Sính Đình nhanh chóng đặt cho mình một cái tên mới. Đằng nào cũng không thể để người ta bán đi với cái tên “Bạch Sính Đình” được, cái tên không phải mọi người đều biết nhưng cũng không hẳn là vô danh.

“Tỷ tỷ…”

“Muội có biết hiện giờ chúng ta đang đi đâu không?”, Sính Đình cắt ngang câu hỏi của tiểu Thanh. Nàng muốn tìm hiểu về tình thế hiện giờ ngay lập tức. Nàng không sợ, mà còn ít nhiều cảm thấy hứng thú, cũng giống như lúc theo thiếu gia xuất chinh, giúp thiếu gia nghĩ cách phá địch. Có khác chăng chỉ là hiện giờ còn độc mình nàng hăng hái chiến đấu mà thôi.

“Nghe lão béo và lão ác nói chuyện với nhau, hình như chúng đang định bán chúng ta sang Đông Lâm.”

Nước địch? Hai hàng lông mày của Sính Đình càng chau lại.

Quân địch lần này thiếu gia đánh bại ở biên cương chính là Đông Lâm. Kế sách dụ địch vào núi, mở sông ngăn đường của Sính Đình khiến quân Đông Lâm thảm bại, tan tác rút lui. Lúc đó, thiếu gia còn cười bảo: “Giờ toàn quân đều biết chúng ta có một nữ quân sư. Trở về thành đô, ta sẽ xin với phụ thân trọng thưởng muội. Lần này muội muốn gì?”.

Giả dụ đến Đông Lâm quốc, nàng bị bóc trần thân phận, hậu quả thật là…

Xem ra, nàng không thể dùng chiêu mượn xe ngựa của bọn buôn người để trốn chạy sự truy tìm của Đại vương nữa rồi. Giờ phải xem khi nào có cơ hội chạy thoát thân, phải nhanh chóng trốn khỏi đám người này, rồi dựa vào đôi chân mình mà đi tìm tung tích của thiếu gia thôi.

Sau khi suy nghĩ rõ ràng, huyệt thái dương nàng bỗng giật giật, đau tựa như có ai đang gõ mạnh vào đó. Toàn thân mệt mỏi, nàng không còn chút sức lực nào nữa, ho dữ dội.

“Tỷ tỷ…”, tiểu Thanh nhìn nàng quan tâm.

“Không sao.” Khó khăn lắm mới ngắt được cơn ho, nàng lại phát hiện họng mình tanh nồng. Lòng nàng quặn thắt, không lẽ nàng lại ho ra máu? Nếu vậy, nàng làm sao trốn được khỏi đây?

Sức khỏe nàng khá tốt, chỉ là lần này xuất chinh bị nhiễm dịch mà thôi. Trong lúc đánh trận, vì không muốn thiếu gia lo lắng nên nàng cố chịu đựng, không nói gì. Trên chặng đường gập ghềnh trở về thành đô, ngay đêm đầu tiên nàng đã không thể chịu đựng thêm.

Lại xảy ra bao chuyện rút hết sức lực nàng, chẳng trách bệnh tình ngày một trầm trọng.

Suy tính hồi lâu, Sính Đình lặng lẽ thở dài: “Đông Lâm thì Đông Lâm”. Nàng quyết định tạm thời cứ theo bọn buôn người đến Đông Lâm đã.

Suy cho cùng, vương lệnh truy bắt người của vương phủ Kính An chỉ có hiệu lực trong Quy Lạc quốc.

Nước địch cũng có thể coi là một lựa chọn không tồi, chỉ cần thân phận nàng không bị lộ.

Mấy hôm sau, đoàn xe đã đến Đông Lâm.

Tất nhiên, đám buôn người sẽ chẳng bán họ ở cái đất quê mùa nghèo rớt mồng tơi nơi biên cương này. Đi thêm mấy ngày đường nữa, vào thẳng Mạc Ân, thành đô của Đông Lâm, bọn buôn người mới đuổi hết đám nữ nhi xuống xe, cho vào quán trọ tắm gội, thay quần áo sạch sẽ.

Chinh chiến liên miên, mua bán người cũng là chuyện thường, gần như thành đô nào cũng có chợ chuyên mua bán người. Sính Đình cùng những cô nương kia bị bọn buôn người dẫn ra chợ, đứng trên bục để các chủ mua soi mói món hàng.

Sính Đình là người không bắt mắt nhất trong đám, nên bị xếp ra sau, lại thành an nhàn. Bọn buôn người cướp bộ y phục tơ lụa nàng mặc hôm trước, mặc cho tiểu Thanh, nhằm nâng giá mỹ nhân.

“Mỹ nhân Quy Lạc quốc! Mỹ nhân Quy Lạc quốc đây!”

Nghĩ mình đường đường là đệ nhất thị nữ của vương phủ Kính An trong Quy Lạc quốc, giờ bị xếp ở đây rao bán thế này, Sính Đình không khỏi lắc đầu ngao ngán.

Chẳng trách người ta nói rằng, đời người biến đổi khôn lường.

Nàng nhìn những nữ nhi đứng trên bục, mấy cô gái bị bắt lên trên đó đều đã có chủ mua. Người mua tiểu Thanh dáng dấp nho nhã thư sinh, có vẻ hiền lành, rõ là công tử nhà giàu. Tiểu Thanh vẫn sợ chết khiếp, trước khi đi còn kêu lên thảm thiết: “Tỷ tỷ! Tỷ tỷ!”, rồi nắm chặt tay nàng.

Nhưng Sính Đình biết, nữ nhi xinh đẹp cùng khổ như tiểu Thanh, nếu được vào làm nha đầu ở những nhà giàu có, thì cũng coi như may mắn. Năm đó, nếu không được Vương gia mang về vương phủ, e rằng Sính Đình đã chết đói dọc đường rồi.

“Đi đi, đừng sợ”, Sính Đình khẽ vỗ vào tay tiểu Thanh, tiễn muội muội lên đường.

Người cuối cùng được bán đi là Sính Đình.

Xem ra kém sắc thật khó bán. Song, nói tốt nói xấu mãi, cuối cùng đám buôn người cũng tìm được vị quản gia đang cần một nha đầu khỏe mạnh làm những việc nặng nhọc, và đã bán Sính Đình với giá bốn mươi đồng.

Bốn mươi đồng? Nếu biết được giá nàng thấp thế, chắc thiếu gia sẽ cười ngất mất.

“Đây là cổng lớn, nhớ chưa?” Dẫn nàng đến trước một cổng lớn đẹp đẽ, Hoa quản gia chỉ vào tấm biển to bên trên, “Đám a hoàn các ngươi chỉ được ra vào lối cửa nhỏ, rõ chưa?”.

Sính Đình ngẩng lên, đọc hàng chữ trên tấm biển: “Hoa phủ”.

May mà không phải phủ của Trấn Bắc vương, nếu không, chắc Sính Đình phải co giò chạy ngay.

Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp là đệ đệ ruột của Đại vương Đông Lâm danh tiếng lẫy lừng, là đệ nhất hổ tướng của Đông Lâm quốc, cũng là người dẫn binh xâm phạm Quy Lạc quốc rồi bị thiếu gia đánh cho tan tác.

“Khá lắm, cũng đọc được vài chữ đấy”, Hoa quản gia gật đầu, dẫn Sính Đình đến bên cổng nhỏ, “Từ nay, đây là nhà mới của ngươi, lão gia và tiểu thư nhà ta đều rất tốt, ngươi chịu khó làm việc, sẽ không ai bạc đãi ngươi đâu”.

Thế là, Hoa phủ có thêm một nha đầu.

Công việc của Sính Đình là giặt y phục. Thật không thể tin nổi, một ngày nàng phải giặt bao nhiêu y phục.

Trước đây khi còn ở vương phủ Kính An, tuy mang thân phận nha đầu, nhưng địa vị nàng chẳng khác gì muội muội của thiếu gia. Công việc thường ngày chỉ là bưng trà, thỉnh thoảng quạt mát cho thiếu gia, còn cùng thiếu gia đọc sách, vẽ tranh, đánh đàn, đâu phải giặt y phục như bây giờ. Thậm chí hồi đó, ngay cả y phục của nàng cũng giao cho nô tỳ giặt sạch sẽ.

“Cuối cùng cũng giặt xong.” Nàng mang chỗ y phục đã vất vả giặt sạch ra phơi nơi giếng trời. Bàn tay thường ngày vẫn được giữ gìn trắng trẻo, nay nổi đầy mọng nước, hàng lông mày thanh tú của Sính Đình khẽ chau lại, rồi giãn ra ngay. “Sính Đình ơi là Sính Đình, ai bảo trước đây ngươi không chịu làm việc? Giờ ngươi biết rõ thân phận nha đầu là thế nào rồi chứ? Ngươi phải trả cho hết một lần thôi.” Tự giễu bản thân đôi ba câu, đôi má Sính Đình hằn rõ hai lúm đồng tiền sâu hoắm.

Đôi mắt to tròn đen láy thể hiện rõ khí chất tiềm tàng trong nàng. Tuy ngũ quan không thật tuyệt sắc, song ở nàng vẫn toát lên vẻ đẹp khiến người khác không thể làm ngơ.

Lúc này nếu Phúc nhị ca nhìn thấy Sính Đình, chắc sẽ phải vò đầu bứt tai, tiếc hùi hụi vì đã bán nàng với giá chỉ bốn mươi đồng.

Đúng là Hoa phủ không bạc đãi người dưới. Biết Sính Đình ho lâu, Hoa quản gia còn đi bốc cho nàng ít thảo dược, tuy không phải loại quý hiếm, nhưng uống hết hai thang, hình như cũng thấy có hiệu quả.

Vốn thầm tính toán, đợi khỏe lên chút ít sẽ lặng lẽ trốn đi, song một việc nhỏ đã đảo lộn kế hoạch của nàng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 2

Hôm nay thời tiết khá đẹp, mặt trời trốn sau tầng mây, không còn nóng bức như mấy hôm trước nữa.

Giặt xong y phục, Sính Đình lau mồ hôi, đang định đi phơi thì * Trần tới.

“Tiểu Hồng, đang bận à?”

“Tôi vừa giặt xong, * Trần lấy đồ ạ? Y phục hôm qua khô hết rồi, tôi đã lấy về nhưng chưa kịp gấp…”

“Không vội.” Thấy Sính Đình đang chuẩn bị đi phơi y phục, * Trần gọi lại, cười bảo, “Cứ để y phục xuống đó đã, ta có chuyện nói với cô”.

Sính Đình đặt chậu xuống, “Việc gì thế ạ?”.

“Cô vá hai miếng trên áo ta hôm trước, đúng không?”

“Tôi thấy rách nên tìm kim chỉ khâu lại. * Trần thấy có được không ạ?”

* Trần tấm tắc khen: “Đâu chỉ có được, ta gần như còn chẳng nhận ra miếng vá ấy chứ. Hiếm có người khéo tay được như cô đấy”.

* Trần nâng bàn tay nàng lên, than vắn thở dài, rồi ngẩng đầu, nói: “Tiểu Hồng, cô khéo tay thế sao không sớm nói ra? Ta cho cô biết, sắp đến việc vui của tiểu thư rồi, phủ chúng ta đang bận rộn may áo. Cả phủ này cũng chỉ có vài đứa a hoàn biết đường kim mũi chỉ thôi, ta còn sợ làm không kịp kia đấy. Từ hôm nay trở đi, cô không cần làm mấy việc nặng nhọc này nữa, vào nhà trong may áo đi”.

* Trần là * nuôi của Hoa tiểu thư, nên hơn ai hết, bà vô cùng lo lắng cho hôn sự này.

“Việc này…” Gần đây thấy đã khỏe hơn, nàng đang định tính đường trốn chạy. Ở bên ngoài làm việc nặng nhọc còn dễ bề trốn đi, chứ vào nhà trong thì càng khó thoát thân.

“Việc này làm sao? Không lẽ cô chỉ muốn làm những việc nặng nhọc?”

* Trần khẽ vỗ vào bàn tay Sính Đình, “Cứ thế nhé, ta sẽ đi nói với Hoa quản gia. Từ hôm nay, cô hãy vào nhà trong may vá, không cần lo những việc khác nữa”.

Không đợi Sính Đình nói gì, * Trần đã vui vẻ đi ra ngoài.

Chẳng còn cách nào khác, Sính Đình đành phải thu dọn đồ đạc vào nhà trong.

Hoa phủ là gia đình thương gia chuyên buôn bán tơ lụa có tiếng ở thành đô Đông Lâm. Hoa lão gia chỉ có độc một người con gái, tất nhiên chuyện hôn sự càng long trọng bao nhiêu càng tốt, riêng việc chuẩn bị y phục lúc xuất giá cũng cần tới bốn, năm nha đầu giỏi may vá.

Từ một nha đầu chuyên làm việc nặng nhọc được chuyển vào nhà trong lo chuyện may vá, điều kiện ăn ở cũng tốt hơn nhiều. Nhưng từ nhỏ vào vương phủ Kính An, Sính Đình đã được thiếu gia yêu quý, nên những việc này thực chẳng đáng gì. May mà tính nàng dễ thích nghi, tuy cuộc sống hiện giờ không bằng ngày trước, song nàng vẫn chẳng lấy đó làm buồn.

Không biết tại sao, những nha đầu phụ trách việc may vá đều được xếp ngay gian bên cạnh khuê phòng của Hoa tiểu thư.

“Lụa đẹp quá, ước gì khi thành thân, mình cũng được mặc y phục như thế này, không biết mình sẽ xinh đẹp thế nào đây.” Trong gian phòng nhỏ, mấy nha đầu túm tụm ngồi một góc, cúi đầu rút chỉ luồn kim. Làm chán, họ lại quay sang nói chuyện với nhau.

“Đừng nghĩ vớ vẩn, ngươi mà cũng có phúc lớn thế sao?”

Người lên tiếng trước là Nhược Nhi. Cô gái được chọn vào làm nha đầu may vá cùng đợt với Sính Đình, dáng người thanh tú, thấy Tử Hoa cười mình thì hừ một tiếng, nói: “Sao ngươi biết ta không có cái phúc ấy?”.

“Thôi được rồi, mau làm việc đi.” Đang bận rộn xâu chỉ, * Trần ngẩng đầu lên, thấy Sính Đình cứ lặng lẽ ngồi một góc tập trung làm việc, bà vội bỏ việc đang làm xuống, bước qua đó. “Đường kim mũi chỉ đẹp quá!”

Lời khen của * Trần khiến Sính Đình giật mình, bất chợt mũi kim đâm vào tay.

“Tiểu Hồng à, cô khéo tay quá.” * Trần cầm chiếc áo trên tay Sính Đình lên, cẩn thận đưa ra ngoài sáng, nheo mắt ngắm nghía từng đường kim mũi chỉ thêu hình chim phượng, màu sắc sống động như thật. Vốn ở Hoa phủ nhiều năm, cũng khá hiểu biết về thêu thùa, bỗng * Trần nghi ngờ, nói: “Tài nghệ này, cả Đông Lâm quốc chúng ta e là cũng không tìm nổi người thứ hai. Sao ta thấy cánh phượng hoàng này không giống cách thêu của Đông Lâm, mà lại giống…”.

Sính Đình bỗng giật mình, mỉm cười cầm lại chiếc áo, tiếp tục cúi xuống thêu: “Cách thêu này nọ gì đâu, tại * Trần thấy nhiều hiểu rộng, tôi chỉ biết thêu thế nào cho đẹp thôi”.

Ở Quy Lạc quốc, tài thêu của nàng cũng được coi là tuyệt kỹ. Tuy rằng trước nay vương phủ Kính An không lan truyền tài thêu ấy ra ngoài, nhưng thường có những quan thần thân cận với vương phủ nhờ người trong phủ giúp để có được những bức thêu của nàng.

Sính Đình vốn rất lười biếng, ngoài việc thêu một vài vật thiết thân cho thiếu gia, nàng ít khi động tay đến thứ khác. Kết quả đã tạo thành câu chuyện ngàn vàng cũng chẳng mua được tài thêu của cô nương Sính Đình ở vương phủ Kính An.

Nhân lúc * Trần không để ý, Sính Đình nhanh tay tháo hết phần thêu đôi cánh phượng hoàng rồi thêu lại. Nay thân ở nước địch, nàng không thể sơ ý mà để lộ thân phận của mình.

Vất vả hồi lâu nàng mới thêu lại được đôi cánh phượng hoàng, đang định để mắt nghỉ ngơi giây lát, bỗng có người vén rèm, bước vào. Đó là một mỹ nữ trẻ tuổi, dáng người mảnh dẻ, khoác trên mình chiếc áo thêu hoa màu tím nhạt, đôi mắt như nước hồ thu, sống mũi cao gọn, cổ đeo vòng trân châu sáng lấp lánh.

Vừa nhìn thấy, * Trần vội vàng đứng dậy, cười nói: “Sao tiểu thư lại đến đây?”.

Thì ra là Hoa tiểu thư. Trước giờ Sính Đình chỉ làm công việc bên ngoài, đây là lần đầu tiên nàng được nhìn thấy tiểu thư. Không ai bảo ai, những nha đầu trong phòng đều đứng cả lên.

“* nuôi, * cũng ở đây à?”

“Tất nhiên rồi, ta phải trông chừng tiến độ hoàn thành trang phục hôn lễ của tiểu thư chứ. Tiểu thư nhìn chuỗi hạt này, ta phải tự tay xâu từng hạt đấy…”

Hoa tiểu thư có vẻ không thích * Trần nhiều chuyện như vậy. Nàng ta lướt qua những tấm lụa màu đỏ đậm chất hỷ sự, ánh mắt mang chút muộn phiền, rồi dừng lại ở mấy nha đầu phụ trách khâu vá, như đang tìm kiếm ai.

Ánh mắt Hoa tiểu thư đánh giá từng người một, cuối cùng dừng lại nơi Sính Đình.

“Ngươi, đi theo ta”, Hoa tiểu thư chỉ vào Sính Đình nói một câu, cũng chẳng để Sính Đình kịp lên tiếng, đã vội quay người bước ra ngoài.

“Nô tỳ?”, Sính Đình kinh ngạc chỉ tay vào mình, rồi lại quay sang nhìn * Trần.

“Tiểu thư bảo cô đi, cô còn đứng đó làm gì? Đi đi!”, * Trần khẽ đẩy nàng.

Hoa tiểu thư tìm mình làm gì? Chắc không phải đã phát hiện ra thân phận mình chứ?

Sính Đình vừa suy đoán, vừa vén rèm bước ra ngoài, đi theo tiểu thư vào gian chính của tiểu viện, một làn hương khiến người ta dễ chịu như thoang thoảng đâu đây. Sính Đình hít một hơi thật sâu, thầm nghĩ: Hoa lão gia đối xử với tiểu thư thật tốt, hương thơm này chỉ có ở những vùng băng lạnh, vô cùng quý hiếm, chỉ bậc vương tôn quyền quý mới mua được, thế mà Hoa lão gia đã mua về cho con gái mình.

Thấy Sính Đình đã vào phòng, Hoa tiểu thư vẫy nàng, bảo: “Ngươi lại đây”.

Sính Đình bước lên phía trước, Hoa tiểu thư tự tay đóng cửa lại, rồi vứt cho nàng bộ y phục, nói: “Thay y phục đi”.

Bộ y phục vô cùng tinh tế, chất lụa thuộc hạng thượng đẳng, nhìn qua cũng biết đây là y phục của Hoa tiểu thư.

Thấy Sính Đình ngại ngùng, tay cầm y phục vẻ tư lự, Hoa tiểu thư khẽ nhếch mép, nở nụ cười giảo hoạt: “Ta nhìn rồi, mỗi ngươi có dáng người giống ta nhất. Vốn dĩ ta không định tìm người khác đâu, nhưng nha đầu Đông Nhi hôm nay bỗng dưng bị bệnh, ta đành phải tìm người thay gấp”.

“Đẹp quá!” Ép Sính Đình thay y phục xong, Hoa tiểu thư bước quanh nàng một vòng, vẻ rất vui mừng. Ánh mắt sáng lấp lánh, nàng ta phấn khởi: “Không ngờ dáng người của ta và ngươi giống nhau đến thế. Nếu không nhìn mặt, chắc ai cũng đoán ngươi là một mỹ nhân”. Hoa tiểu thư ngây thơ hồn nhiên, nói năng cũng chẳng kiêng dè gì.

Sính Đình khẽ mỉm cười, không buồn so đo.

“Ngươi tên gì?”

“Tiểu Hồng.”

“Tiểu Hồng, ta muốn ngươi làm một việc.” Thần sắc Hoa tiểu thư bỗng hoàn toàn thay đổi, giọng khẽ khàng, “Làm tốt, ta sẽ trọng thưởng. Hỏng việc… ta sẽ phạt thật nặng. Còn nữa, chuyện này tuyệt đối không được cho ai biết. Nếu ngươi nói ra, ta sẽ bảo Hoa quản gia đánh ngươi một trận!”. Tuy nói vẻ dữ dằn, nhưng Hoa tiểu thư chẳng hề có chút gì gọi là uy hiếp.

Sính Đình cảm thấy buồn cười, song vẫn cố ra vẻ sợ sệt: “Tiểu thư, nô tỳ sẽ không nói với ai, sẽ tuyệt đối nghe lời tiểu thư”.

“Ừm, thế mới đúng. Ngươi đừng sợ, thực ra ta cũng chẳng ghê gớm gì đâu”, Hoa tiểu thư lại quay sang an ủi Sính Đình, rồi giải thích, “Ta muốn hôm nay ngươi cùng ta đến dâng hương ở chùa Bán Sơn ngoài thành. Khi vào chùa, ta muốn ngươi mặc y phục của ta, ngoan ngoãn ngồi ở Tĩnh Tư lâu đánh đàn. Mà này, ngươi có biết đánh đàn không?”. Thật là sơ suất, đến lúc này mới nghĩ ra vấn đề then chốt nhất.

Thấy Hoa tiểu thư thấp thỏm nhìn mình lo lắng, Sính Đình khẽ gật đầu: “Biết một chút…”.

“Biết là tốt rồi.” Hoa tiểu thư lại ghé sát tai nàng dặn dò thêm lần nữa, còn dặn đi dặn lại điều quan trọng. Cuối cùng, Hoa tiểu thư động viên Sính Đình: “Đừng sợ, đã có ta”, rồi vừa vỗ ngực, vừa nháy mắt, vẻ vô cùng đáng yêu.

Không cần hỏi Sính Đình cũng biết Hoa tiểu thư có hẹn với tình lang. Một nữ tử vừa bạo dạn vừa dứt khoát nhường này, thật khiến nhà phu quân tương lai phải thở dài.

Đến trưa, Hoa quản gia và đám gia đinh tùy tùng cùng cỗ kiệu đợi trước cổng. Hoa tiểu thư là thiếu nữ nhà danh giá, được phụ thân hết mực yêu chiều nên hiếm có cơ hội ra ngoài. Mỗi lần được ra ngoài, đều là cơ hội để gặp tình lang nên nàng ta tất sẽ vô cùng vui mừng và hồi hộp.

“Tiểu Hồng, vào kiệu ngồi cùng ta.” Ra đến cổng lớn, Hoa tiểu thư nắm tay Sính Đình, kéo lên kiệu. Tiểu thư vốn quen được nuông chiều, nên những mệnh lệnh của nàng ta cũng hết sức lạ lùng. Nay cô tiểu thư này đột nhiên lại cho một a hoàn phụ trách may vá đi dâng hương cùng, tất cũng không ai nghi ngờ gì.

Sính Đình vẫn mặc bộ y phục thường ngày của mình, bộ y phục của Hoa tiểu thư vẫn nằm gọn trong tay nải mang theo người. Từ nhỏ nàng đã cùng thiếu gia nghịch ngợm đủ trò ở vương phủ Kính An, chuyên đi gây họa. Nay thấy Hoa tiểu thư ngây thơ đáng yêu, thật khiến nàng nổi hứng, không tránh khỏi việc toàn tâm toàn ý giúp nàng ta.

May mà kiệu khá to, hai nữ tử ngồi cũng không chật.

“Trước đây ta chưa nhìn thấy ngươi?”

Sính Đình khẽ mân mê lọn tóc: “Nô tỳ giặt y phục bên ngoài nên không được gặp tiểu thư”.

“Giặt y phục à? Công việc nặng nhọc thật”, Hoa tiểu thư xoay người, ngồi nghiêng sang một bên, lấy chiếc bánh hoa quế đưa vào miệng, rồi nhặt thêm cái nữa, hỏi: “Ngươi có ăn không?”.

Sính Đình cũng thích đồ ngọt. Mỗi lần có đồ điểm tâm gì ngon, Vương gia lại sai người phần cho nàng một phần. Vừa nhìn thấy bánh hoa quế, nàng vội gật đầu, đáp: “Có”.

Hoa tiểu thư cười hi hi, đưa bánh vào miệng nàng.

Bánh hoa quế vào đến miệng liền tan luôn, hương quế nồng nồng tê tê nơi đầu lưỡi.

Làm nha đầu hai tháng, Sính Đình đâu được nếm những thứ điểm tâm ngon ngọt thế này, khuôn mặt lộ vẻ ngất ngây, nàng xuýt xoa: “Ngon quá”.

Hai cô gái ngồi trong kiệu tíu tít chuyện trò, dần thân thiết nhau hơn.

Không lâu sau, cả đoàn người đã ra khỏi thành.

Kiệu dừng, Hoa quản gia đứng bên ngoài khúm na khúm núm nói: “Tiểu thư, chúng ta đến rồi”.

Hoa tiểu thư đáp một tiếng, rồi nắm tay Sính Đình ra khỏi kiệu. Vị sư phụ trong chùa đứng bên ngoài đón từ trước dẫn Hoa tiểu thư vào Tĩnh Tư lâu. Xem ra, Hoa gia là đại thí chủ của ngôi chùa này.

Hoa quản gia, gia đinh và phu kiệu đều không được vào Tĩnh Tư lâu. Hoa tiểu thư và Sính Đình vào bên trong, rồi nhanh chóng khóa trái cửa lại.

“Có lúc Hoa quản gia sẽ từ xa nhìn vào qua cái khe cửa kia. Ngươi mặc áo của ta, ngồi ở đó đánh đàn”, Hoa tiểu thư dặn dò thêm, “Nhớ là, tiếng đàn không được dừng quá lâu, không nghe thấy tiếng đàn, có thể sư phụ và Hoa quản gia sẽ vào xem sao”.

Hoa tiểu thư vừa nói, vừa vội vã thay bộ áo cánh của thư sinh đã chuẩn bị sẵn từ nhà, lau sạch son phấn trên mặt, ngay lập tức hóa thân thành chàng công tử tuấn tú. Nhìn sang Sính Đình đã thay xong y phục, Hoa tiểu thư khẽ nháy mắt, động tác rất đỗi nhanh nhẹn, có vẻ như những việc thế này chẳng phải lần đầu.

“Ta đi đây, thời gian đến, ta khắc về.” Nói rồi, Hoa tiểu thư chui vào một góc, tìm nút ấn, mở cửa đường hầm, vẻ dương dương tự đắc: “Ngoài ta và chàng, không ai biết đường hầm này”.

Sính Đình chẳng hề ngạc nhiên vì khi ở vương phủ, nàng đã thấy nhiều đường hầm, gần như là phủ đệ lớn nào cũng có thứ này. Nhìn theo bóng dáng phấn khởi của Hoa tiểu thư đang dần khuất, Sính Đình mỉm cười lắc đầu.

Nàng ngồi trước đàn theo sự dặn dò của tiểu thư, ngón tay nhẹ lướt trên dây đàn.

Cảm giác năm ngón tay chạm vào dây đàn sao mà thân thiết quá!

Sính Đình rất thích chơi đàn. Những ngón tay thon dài của nàng linh hoạt lướt trên dây đàn, tựa như đang uống thứ rượu ngon nhất trần đời, khiến người ta không kìm lòng được mà đắm chìm trong cơn say ngất.

Chẳng khác nào truyền thuyết, mấy ai được gặp cô nương Sính Đình của vương phủ Kính An, nhưng có ai chưa từng nghe đến mưu trí, tài thêu thùa và cả tuyệt kỹ gảy đàn của nàng.

Ngay cả Đại vương cũng phải hâm mộ bởi vương phủ Kính An có một thị nữ tài năng như thế.

Tinh…

Như đang ngồi trước một bàn tiệc thịnh soạn, nếm thử món khai vị, Sính Đình khẽ gảy đàn, âm thanh trầm nhẹ hư ảo lập tức vang lên.

Trầm mà miên man, nhẹ mà khí chất.

Sau chuỗi âm trầm là hàng loạt những thanh âm tươi sáng cao vang, tựa núi rừng bỗng giật mình bừng tỉnh lúc bình minh khi mãnh thú gọi bầy, đàn cò trắng đập cánh bay khỏi rừng.

Khóe môi Sính Đình mỉm cười, những ngón tay thon dài của nàng miệt mài lướt trên dây đàn. Thanh âm trong trẻo vang lên, cuồn cuộn lấp đầy không trung, khiến lòng người vui vẻ thoải mái, rồi lại xúc động thở than.

Hết một khúc, Sính Đình cảm thấy hơi mệt. Nàng lấy khăn tay lau những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán. Nghĩ đến lời dặn dò của Hoa tiểu thư, nàng cười khổ sở: “Đàn liên tục thì khác nào muốn mình gảy đứt tay, xem ra tiểu thư không hiểu về đàn rồi”.

Bỗng nhiên, bên ngoài vọng vào giọng nam nhân.

“Cả đời, tại hạ chưa từng được nghe khúc nhạc nào hay đến thế. Không biết tại hạ có được phúc phận ngắm nhìn dung mạo của tiểu thư?”, giọng nói trong trẻo nho nhã, vừa nghe đã có cảm tình.

Chắc chắn người này đứng bên ngoài từ lúc nãy, nghe nàng đàn hết một khúc mới lên tiếng. Rõ ràng là một tri âm.

Nghe tiếng người ngoài cửa, Sính Đình bỗng thấy hơi hoảng hốt. Nàng tự trách mình đã quên mất thân phận, vô tình khoe khoang tuyệt kỹ. Sính Đình ơi là Sính Đình, rõ ràng thân đang ở nước địch, còn khoe khoang gì chứ? Tiểu thư còn đang hẹn hò với tình lang, nếu giờ người kia đẩy cửa bước vào, có phải mọi chuyện đều bị vạch trần hết không?

Ngón tay út của nàng khẽ chạm vào dây đàn, đang định cự tuyệt, người kia bỗng cất tiếng: “Trong tiếng đàn của tiểu thư, tại hạ nhận thấy có nỗi hối tiếc. Xem ra, hôm nay tiểu thư không muốn tiếp kiến tại hạ. Nếu đã như vậy, tại hạ đành chờ đến ngày có duyên gặp gỡ”.

Thật là một công tử thấu hiểu lòng người.

Sính Đình khẽ thở dài, cẩn thận nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Nàng chỉ nghe thấp thoáng có tiếng cười rồi hoàn toàn yên ắng. Sính Đình lặng lẽ đến bên cửa sổ nhìn trộm ra ngoài, hành lang chẳng một bóng người.

Đã rời đi rồi sao? Trái tim lo lắng của nàng bỗng nhẹ nhõm hơn, đôi mắt linh hoạt thoáng tia tiếc nuối.

Chần chừ giây lát bên song cửa, thấy Hoa quản gia đang đứng dưới gốc hòe lớn đằng kia nhìn về bên này, nàng vội rụt đầu lại.

Chiều tối, quả nhiên Hoa tiểu thư đã kịp trở về qua đường hầm, mặt mũi hớn hở, gò má ửng hồng, rõ ràng là một ngày vui vẻ. Hoa tiểu thư và Sính Đình thay áo xong, họ gọi Hoa quản gia, rồi lên đường về phủ.

Hai người lên kiệu, dọc đường đi, Hoa tiểu thư ríu rít kể chuyện gặp gỡ tình lang, nói đến đoạn vui vẻ, còn bụm miệng cười khúc khích. Thấy tiểu thư hoạt bát như thế, Sính Đình cũng vui vui.

“Nhưng mà, sao một ngày qua đi nhanh thế.” Nói đến đây, Hoa tiểu thư lại thở dài, “Nếu có thể không thành thân thì tốt biết mấy…”.

Sính Đình cũng thấy ngạc nhiên: “Lão gia yêu thương tiểu thư như thế, sao không để ý đến tâm nguyện của tiểu thư, lại hứa gả cô cho nhà họ Trần?”.

Vừa nhắc đến hôn sự, Hoa tiểu thư mặt mày ủ dột: “Tuy cha thương ta, nhưng nhà ta với nhà họ Hứa là đối thủ trong buôn bán, cha ta không bao giờ chịu gả ta cho con trai của người mà ông hận nhất. Tuyệt đối không được để cha ta biết chuyện này, nếu không, ông sẽ gả ta đi ngay lập tức”.

“Tiểu thư, hôn sự của tiểu thư đã cận kề, không thể trốn tránh mãi được.”

“Ta cũng biết điều này…”, Hoa tiểu thư chán nản nhìn Sính Đình, rồi chợt như nghĩ ra cách, nàng ta nắm chặt tay Sính Đình, chằm chằm nhìn nàng, nói: “Tiểu Hồng, chỉ cần ngươi không thêu xong áo cưới, ta sẽ không phải xuất giá nữa? Diệu kế, quả là diệu kế. Hằng ngày ngươi hãy tìm cách cắt vài chỗ trên áo của ta, để * Trần và bọn họ thật bận rộn, được không?”. Nàng ta đắc ý nháy mắt với cô a hoàn.

Trong lòng thầm kêu gào, thật ngây thơ non nớt, Sính Đình không kìm được, liếc xéo tiểu thư một cái. Nàng đang định nói rằng chủ ý của Hoa tiểu thư thực không cao minh, thì ngoài kiệu truyền đến tiếng động lạ.

Một đám nam nhân không biết từ đâu đến đang vây kín kiệu của họ, rồi tới mười mấy con ngựa chầm chậm lại gần.

Đám người kia tuy ăn vận như thường dân, nhưng nét mặt vô cùng tinh anh, hành động cực kỳ thống nhất.

Sắc trời đã tối, kiệu nhà họ Hoa vẫn chưa vào thành, trên đường cũng chẳng còn người qua lại. Cứ ngỡ gặp đám cướp đường, phu kiệu vội túm tụm lại một góc. Hoa quản gia còn tạm gọi là tận tâm bảo vệ chủ nhân, khuôn mặt béo mập co quắp, miễn cưỡng đứng bên kiệu, chắp tay nói với tên nam nhân trẻ tuổi có vẻ như dẫn đầu đang xuống ngựa tiến về phía họ: “Trong kiệu là tiểu thư nhà chúng tôi. Hôm nay chúng tôi ra ngoài dâng hương, số bạc mang theo đã quyên góp hết ở chùa, còn lại chẳng đáng bao nhiêu…”.

Nam nhân trẻ tuổi khuôn mặt thanh tú, thấy điệu bộ luống cuống nói không ra lời của Hoa quản gia bèn mỉm cười bảo: “Quản gia hiểu lầm rồi, ta chỉ thay mặt chủ nhân đến tặng lễ vật”. Đoạn, quay lại phía kiệu, hắn cúi người cất giọng sang sảng: “Tại hạ vô lễ khiến tiểu thư hoảng sợ”.

Vốn quen được nuông chiều không biết hiểm nguy, Hoa tiểu thư chỉ cảm thấy việc này thật thú vị, liền hỏi vọng qua rèm che: “Chủ nhân nhà ngươi muốn tặng lễ vật gì?”.

“Tài đàn của tiểu thư có một không hai, chủ nhân lệnh cho tại hạ mang cây đàn cổ này tặng cho tiểu thư.”

Bất chợt giật mình, Sính Đình nghĩ ngay đến nam nhân cầu kiến mình ngoài cửa hôm nay. Nàng nói nhỏ vào tai Hoa tiểu thư một câu.

“Chủ nhân ngươi là ai?”, Hoa tiểu thư lại hỏi.

Nam tử kia hết sức lễ độ trả lời: “Mong tiểu thư thứ lỗi, chủ nhân chưa cho phép tại hạ nói ra tên người. Nhưng chủ nhân bảo, sau này có duyên nhất định sẽ đến phủ thăm hỏi”. Nói xong, nam nhân kia lại hành một lễ, trao tận tay cây đàn cổ cho Hoa quản gia rồi lập tức rời đi.

Thấy nam nhân ấy rời đi, những người khác dần dần tản ra, theo sau chàng trai trẻ.

Nhìn đám người lạ mặt dần khuất, Hoa quản gia thở phào nhẹ nhõm, đưa cây đàn cổ vào trong kiệu, thở hắt ra, nói: “Thật đã dọa ta một trận! Khà khà, chắc chắn vị công tử lắm tiền kia đã nghe thấy tiếng đàn của tiểu thư ở Tĩnh Tư lâu. Tôi cũng cảm thấy tiếng đàn của tiểu thư hôm nay thật khác, khiến quản gia tôi phải ngơ ngẩn ngồi nghe”.

Hoa tiểu thư nhìn Sính Đình, khẽ bảo: “Hóa ra tài đàn của ngươi thật xuất sắc, ta không nhận ra đấy”.

Sính Đình cúi xuống nhìn cây đàn cổ, thân đàn làm từ gỗ ngô đồng lâu năm. Nàng gập ngón tay gõ nhẹ, âm vang vang lập tức từ thân đàn phát ra.

Mặt Sính Đình biến sắc: “Đàn cổ Phượng Đồng ư..(Phượng đồng là loài cây nở đầy hoa màu trắng hoặc phấn hồng, tựa như phượng hoàng nằm trên cây, nó tượng trưng cho điềm lành ngàn năm mới gặp một lần)..?”.

Đàn cổ Phượng Đồng vô cùng quý hiếm, thiếu gia không tiếc ngàn vàng vẫn không có được nó. Chẳng biết người đó thân phận thế nào mà có thể dễ dàng đem tặng thứ quý hiếm như vậy.

“Đàn quý tặng giai nhân, không ngờ vô tình ta lại trở thành bà mối, hứng thú quá.” Hoa tiểu thư vui mừng, nói với Sính Đình: “Người đó nói khi nào có duyên, chủ nhân của họ sẽ đến phủ thăm hỏi, chắc chắn là có ý với ngươi rồi”. Phong tục ở Quy Lạc và Đông Lâm đều phóng khoáng, nữ tử nói chuyện tình ái mà chẳng hề bẽn lẽn.

Có ý với mình sao? Sính Đình lặng lẽ đánh giá cây đàn.

Tâm tư tựa như cơn gió từ đâu bất ngờ thổi tới, mơn man nhấn chìm nàng, muôn vàn cơn sóng lòng lơ đãng gợn lăn tăn.

Đối phương hành sự quyết đoán, biết thắt biết mở, biết nắm biết buông, đầu tiên là nghe tiếng đàn ngoài cửa, kế đến thì mở lời cầu kiến, không được cầu kiến lại từ tốn cáo lui, lúc này đây còn sai người mang tặng đàn để khoa trương thanh thế. Mỗi bước đều ẩn chứa ý tứ sâu xa, rất đúng với binh pháp.

Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng người đó cũng khiến lòng hiếu kỳ của Sính Đình trỗi dậy.

“Tiểu Hồng, nhìn ngươi thẫn thờ ngắm chiếc đàn kìa”, Hoa tiểu thư khẽ đẩy vai nàng, cười nói.

Sính Đình bất giác mỉm cười, ánh mắt vẫn chẳng rời cây đàn cổ.

Đông Lâm không phải vùng đất cát tường, vẫn nên cẩn thận thì hơn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 3

Sau buổi đi dâng hương cùng Sính Đình hôm đó, Hoa tiểu thư rất có cảm tình với nàng. Hoa tiểu thư kể với nàng bao nhiêu chuyện, còn thân thiết hơn cả những nha đầu đã theo hầu mấy năm. Đúng lúc Đông Nhi, nha đầu thân cận của mình ốm nặng, phải về nhà để cha mẹ chăm sóc, Hoa tiểu thư dứt khoát chọn Sính Đình vào hầu hạ nàng ta.

Vừa mới đến, Sính Đình từ một nha đầu chuyên làm việc nặng nhọc chuyển sang nha đầu phụ trách khâu vá, rồi lại trở thành người hầu cận tiểu thư. Đúng là nhảy một bước hai bậc, thật khiến người khác ghen tỵ.

Tháng Chín, tuy không còn là mùa hạ, nhưng tiết thu hổ vẫn oi nóng kinh người…( Tiết thu hổ: Khoảng thời gian nóng bức sau tiết lập thu, thường kéo dài khoảng từ 7 – 15 ngày).

Dưới bóng cây trong tiểu viện, bên dưới bày hai, ba đĩa quả tươi, thường vọng ra tiếng cười đùa của hai thiếu nữ.

“Thế này đúng không?”

“Không phải.”

“Thế này à?”

“Cũng không phải.”

Ôm đống kim chỉ cả nửa ngày mà vẫn không làm ra được trò trống gì, Hoa tiểu thư chán nản vứt khung thêu đang cầm trên tay xuống: “Không học nữa, chẳng thích chút nào cả, ngươi nhìn tay ta bị đâm đến mấy cái rồi đây này”.

Sính Đình cười đáp: “Nô tỳ đã nói với tiểu thư từ đầu rồi. Lúc nô tỳ mới học thêu, mười đầu ngón tay còn bị đâm cho sưng vù. Tiểu thư mới bị một chút thế này có đáng gì”. Sính Đình muốn trốn đi từ lâu, nhưng vì không dò hỏi được tin tức của thiếu gia và những người khác của vương phủ Kính An, nên dù muốn đi nàng cũng chẳng biết phải về đâu.

Cây đàn cổ ấy lai lịch kỳ lạ, tuy vô cùng yêu thích nhưng Sính Đình vẫn yêu cầu để nó ở phòng tiểu thư. Nói cho cùng, cây đàn là do người ta tặng đích danh tiểu thư của Hoa phủ mà.

“Ta muốn tự tay thêu gì đó tặng chàng…” Chàng ở đây rõ ràng là tình lang yêu quý của tiểu thư.

“Tiểu thư…”, Hoa quản gia có vẻ đang tìm tiểu thư. Vừa vào cửa nhìn thấy hai người họ ngồi đó, ông vội cười nói, “Hóa ra tiểu thư ở đây, để tôi tìm mãi. Ngoài kia có khách cầu kiến tiểu thư”.

“Ai muốn gặp ta?”

“Là một công tử trẻ tuổi anh tuấn, có cả nam tử lần trước chặn đường chúng ta để tặng đàn. Vị công tử đó nói tên là Đông Định Nam.”

Thần sắc Sính Đình chợt thay đổi, nàng thầm than: Đúng là đã tìm đến rồi.

“Mời họ vào trong”, Hoa tiểu thư dặn dò quản gia, rồi quay sang nắm chặt tay Sính Đình, mắt sáng như sao, “Thế nào? Ta đoán đúng không? Quả nhiên người ta đã đến tìm ngươi rồi”.

Sính Đình cười đáp: “Người ta tới tìm tiểu thư, đâu có tìm nô tỳ”.

Hoa tiểu thư cười nói: “Thôi đi, lúc này rồi còn chối cái gì? Đi theo ta”.

Hoa tiểu thư nhanh chóng kéo Sính Đình vào phòng. Hai người vừa ngồi xuống sau rèm, Hoa quản gia đã dẫn khách vào.

“Tiểu thư, Đông công tử đến rồi.”

“Ta biết rồi, Hoa quản gia cứ ra ngoài đi.”

Hoa tiểu thư và Sính Đình ngồi sau rèm lặng lẽ quan sát.

Hoa quản gia quay đi, phía đối diện chỉ còn lại một nam tử trẻ tuổi. Tuy mặc áo thường dân nhưng người này vẫn lộ rõ khí chất tôn quý, áo may từ loại lụa thượng đẳng nhất, mắt đen mày rậm, ánh mắt xuất thần, khí thế hiên ngang, mỗi cử động đều mang khí khái của bậc vương giả. Đúng là một mỹ nam hiếm có.

Sững sờ hồi lâu, Hoa tiểu thư nói nhỏ vào tai Sính Đình: “Xem ra biết đánh đàn cũng không tồi, có thể dụ được một nam nhân đẹp đến thế kia”.

Sính Đình cũng ngạc nhiên không kém Hoa tiểu thư, nhưng trong lòng lại nghĩ đến chuyện hoàn toàn khác.

Ở vương phủ Kính An gặp nhiều hiểu rộng, vừa nhìn qua nàng đã thấy sự tôn quý trong thần thái cử chỉ của Đông Định Nam ẩn chứa khí chất kiêu ngạo, rõ ràng không phải chỉ là con nhà quý tộc bình thường.

Chẳng lẽ người này là đại thần của Đông Lâm?

Thậm chí, còn có thể là người của vương tộc Đông Lâm?

Khả năng ấy không phải là không có. Đây là thành đô Đông Lâm, nơi quy tụ giới quyền quý của Đông Lâm quốc. Nhất là khí thế khi Đông Định Nam sai thuộc hạ tặng cây đàn cổ và món tiền đưa lễ quá lớn, lại càng khiến người ta sinh nghi.

Bước vào phòng, thấy trước mặt buông rèm, Đông Định Nam biết giai nhân đang ở trong đó quan sát mình. Trước nay chàng vẫn hoàn toàn tự tin vào mình, giọng sang sảng: “Tại hạ Đông Định Nam mạo muội tới thăm hỏi tiểu thư”. Vừa nói chàng vừa chắp tay về phía tấm rèm, nở nụ cười nho nhã.

Thực ra chàng không mang họ Đông, cũng chẳng phải tên Định Nam. Chàng chính là đệ đệ ruột của Đại vương Đông Lâm, Sở Bắc Tiệp. Bao năm chinh chiến nơi biên ải, đã quá quen với mưu kế sách lược và tiếng đuổi giết trên chiến trường, nay trở về thành đô hoa lệ, chàng cảm thấy trong lòng đột nhiên buồn chán vô cùng. Hai hôm trước, chàng dẫn theo thị vệ đến chùa Bán Sơn ở ngoại thành ngắm cảnh, bỗng nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu vô cùng, khiến người ta ngây ngất, cảm giác dễ chịu không thể nói thành lời.

Giai nhân này, chàng sao có thể bỏ qua?

Thân là đệ đệ của Đại vương, Trấn Bắc vương, đệ nhất vương gia Đông Lâm, ngay lập tức triển khai từng bước theo đuổi. Tính toán kỹ, chàng mới hành động, cầu kiến, tặng đàn, điều tra lai lịch nhà họ Hoa, cuối cùng là đến thăm hỏi vị tiểu thư ấy.

Thấy Sính Đình lặng lẽ nhìn ra không đáp, Hoa tiểu thư nghĩ nàng đã quá thích rồi nên chẳng biết nói gì. Ánh mắt đưa qua, Hoa tiểu thư cất giọng: “Nếu đã biết là đường đột, sao vẫn đến cầu kiến tiểu thư nhà ta? Trước nay tiểu thư chưa từng gặp gỡ người lạ”.

Sính Đình chau mày nhìn Hoa tiểu thư, thì thấy nàng ta dương dương tự đắc nháy mắt với mình.

“Tiếng đàn lay động lòng người, tại hạ những mong được nghe thêm một khúc cho thỏa nỗi lòng”, Sở Bắc Tiệp trả lời rõ ràng ngắn gọn, quang minh lỗi lạc.

Sính Đình đang suy đi nghĩ lại về lai lịch của Đông Định Nam, nhưng vắt óc vẫn không sao nghĩ ra Đông Lâm có quan lại quý nhân nào họ Đông. Nàng thầm nghĩ: Người này chắc chắn dùng tên giả, nếu hắn điều tra được thân thế của nàng thì vô cùng bất lợi. Thấy Hoa tiểu thư định lên tiếng, nàng bèn đưa tay ngăn lại, nói: “Công tử đến để nghe đàn thật sao?”.

“Đúng vậy.”

“Công tử tặng đàn cổ Phượng Đồng, chiếc đàn ngàn vàng không mua được, chỉ để nghe ta gảy một khúc nhạc ư?”

“Đúng vậy.”

Sính Đình cúi đầu trầm ngâm. Nàng ngồi trước đàn, ngón tay khẽ chạm vào dây đàn.

Những thanh âm u tịch vượt ra khỏi tấm rèm, như tiếng nước suối róc rách chảy vào khe đá, du dương lay động lòng người.

Bốn bề yên ắng, dường như ai cũng đang nín thở.

Tiếng đàn du dương bất chợt chuyển sang gấp gáp, rồi lại dần trở nên dịu dàng và ngọt ngào, cuối cùng là chuỗi âm thanh cao vút kết thúc khúc nhạc.

Hết một khúc, Sính Đình hỏi: “Tiếng đàn bay theo gió, mới đấy đã không còn. Kết thúc một khúc, công tử chắc hẳn muốn nghe thêm khúc nữa?”.

Sở Bắc Tiệp hân hoan đáp: “Tiểu thư thực hiểu lòng người, đúng là Định Nam rất muốn nghe khúc nữa”.

“Khúc vừa rồi để trả lễ tặng đàn của công tử”, giọng Sính Đình bỗng chốc lạnh lùng, “Gảy đàn là chuyện nhỏ, nhưng gảy đàn cho một người giấu giếm cả tên họ của mình, thật chẳng ra sao”.

Sở Bắc Tiệp khẽ giật mình, chắp tay hỏi: “Hà cớ gì tiểu thư lại cho rằng tại hạ dùng tên giả?”.

“Công tử không cần hỏi ta làm thế nào mà đoán ra”, biết mình đoán đúng, khóe môi thoáng nụ cười gian, nàng hỏi tiếp, “Công tử chỉ cần nói cho ta biết, ta đoán có đúng không?”.

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp sáng bừng, đôi mắt có thần nhìn về phía tấm rèm. Chàng chỉ biết tiểu thư của Hoa phủ là một giai nhân có tuyệt kỹ chơi đàn. Nay xem ra, nàng còn rất đỗi thông minh, đời này khó kiếm. Sở Bắc Tiệp trầm giọng trả lời: “Tiểu thư thật lợi hại, ‘Đông Định Nam’ là tên giả của ta, không ngờ lại bị tiểu thư phát hiện ra ngay”.

“Hà cớ gì công tử phải dùng tên giả?”

Sở Bắc Tiệp và Sính Đình đối diện nhau qua tấm rèm. Chàng chỉ cảm thấy nữ tử bên trong kia thật thông minh lanh lợi. Nói chuyện với nàng, chàng có cảm giác sục sôi như khi lâm trận giáp mặt với kẻ thù. Ngay lập tức, chàng thu lại tâm thế khiêm tốn ngưỡng mộ giai nhân, và mỉm cười, phản kích: “Tại sao tiểu thư lại buông rèm gặp khách?”.

“Thấy mặt rất quan trọng sao?”

“Thế tên họ rất quan trọng ư?”

“Công tử sao có thể so sánh như vậy? Công tử đến để nghe đàn, có việc cậy nhờ ta, tất phải thành tâm thành ý, báo họ tên thật.”

Sở Bắc Tiệp ngồi bên bàn, nhấp một ngụm trà rồi hỏi lại: “Không lẽ tiểu thư lại không cầu bất cứ điều gì?”.

“Hả?”, Sính Đình chau mày: “Ta cầu việc gì?”.

“Thứ mà tiểu thư cầu, đương nhiên là một vị tri âm”, tiếng cười trầm khàn bật ra từ cổ họng chàng.

Sính Đình than thầm, người này quả khó đối phó, nhưng không thể không thừa nhận chàng mang vẻ tự tin hấp dẫn, khiến người khác cảm thấy vẻ kiêu ngạo ấy thật hợp tình hợp lý.

Trái tim nàng bỗng đập thình thịch. Bất giác, nàng đứng dậy tiến tới sát rèm, nhìn ra bên ngoài.

Sở Bắc Tiệp vẫn thoải mái ngồi đó, mắt sáng như sao, tỏ rõ vẻ ta thừa biết nàng đang nhìn trộm. Ánh mắt Sính Đình quẩn quanh bên những đường nét đẹp như một vị thần, rồi dừng lại ở miếng ngọc bội nơi thắt lưng Sở Bắc Tiệp.

Ngay lập tức, dáng ngọc sau rèm bị chấn động.

Ngọc bội lấp lánh, nhìn qua đã biết là thứ cực kỳ quý báu. Đáng chú ý hơn cả là trên đó có ký hiệu của vương tộc Đông Lâm.

Chàng ta chắc chắn là người trong vương tộc Đông Lâm.

Ánh mắt Sính Đình bỗng chốc như lóe sáng. Nàng lưu lạc đến Đông Lâm quốc đã mấy tháng rồi, Hoa phủ lại chẳng nhạy trong việc nắm bắt thông tin bên ngoài, nàng không hề có được chút tin tức gì của vương phủ Kính An. Sao nàng không nhân cơ hội này để dò la tin tức từ cái vị Đông Định Nam trông rất có thế lực kia?

Nghĩ đến đây, đôi mắt đen của Sính Đình càng thêm gian xảo.

“Đã là tri âm, công tử có cảm nhận gì về khúc nhạc vừa rồi?”

“Cảm nhận?”, Sở Bắc Tiệp nhìn chằm chằm vào tấm rèm, khóe môi bỗng nhếch lên, nở nụ cười ngạo nghễ, từ tốn đáp: “Khúc nhạc vừa rồi tựa đàn hạc tiên bay vượt tầng mây, lại giống bầy chim ưng hùng dũng trông xuống đất bằng. Có thể thấy, tiểu thư hứng thú vô hạn với vạn vật trong thiên hạ, chứ không chịu nhốt mình chốn khuê phòng. Tiểu thư ôm hùng tâm tráng chí, vượt xa cả đấng nam nhi”.

Sính Đình thực sự chấn động.

Không ngờ vị Đông Định Nam này lại lợi hại đến vậy, chỉ nghe một khúc nhạc mà có thể nhìn thấu bản tính của nàng. Tiếng chuông cảnh tỉnh đang gióng giả từng hồi, Sính Đình không khỏi kính phục vị nam tử phong độ ngời ngời này.

Nàng thở dài nói: “Công tử quả lợi hại. Đáng tiếc, ta không thể sống theo ý mình, không thể ngao du thiên hạ như những đấng nam nhi. Thế giới ngoài kia chắc tươi đẹp vô cùng”.

Lời như nói hộ tâm sự của tất cả những nữ tử bị số mệnh trói buộc. Hoa tiểu thư ngồi bên cạnh cũng liên tục gật đầu đồng tình.

Than thở giây lát, Sính Đình lại hỏi: “Nghe nói… cạnh Đông Lâm có Quy Lạc quốc phong cảnh diễm lệ khác thường, người người yêu ca hát?”.

“Đúng vậy. Quy Lạc quốc núi non hùng vĩ, người người yêu ca hát, nhưng thứ quý nhất của Quy Lạc quốc lại là những mỏ đồng bất tận. Sản lượng đồng một năm của Quy Lạc quốc bằng sản lượng ba năm của Đông Lâm quốc.” Nói đến Quy Lạc, Sở Bắc Tiệp hứng thú hẳn lên. Tâm tư bao năm nay của chàng đều hướng về Quy Lạc, gần như ngày nào chàng cũng mở tấm bản đồ Quy Lạc ra rồi dốc sức suy nghĩ. Nay được hỏi tới, chàng có thể ngay lập tức trả lời với Sính Đình về mỏ quặng của Quy Lạc.

“Chẳng trách ai cũng nói Quy Lạc trù phú, hóa ra vì có bao nhiêu mỏ đồng như thế.”

“Tuy là trù phú, nhưng sự trù phú ấy lại tạo ra thói quen kiêu ngạo, coi thường của cải của mọi người, bao gồm cả Đại vương và cả vương công quý tộc. Họ không hiểu thế nào là ‘lúc yên ổn phải tính ngày khó khăn’, chỉ biết ngấm ngầm đấu đá lẫn nhau.”

Một lời ngắn gọn của Sở Bắc Tiệp đã chỉ thẳng ra ung nhọt lớn nhất trong cục diện chính trị của Quy Lạc quốc. Sính Đình bất giác thở dài.

Trước đây, ở Quy Lạc quốc, mỗi hành động của vương phủ Kính An đều có tầm ảnh hưởng đến toàn cục, từ nhỏ lớn lên trong phủ, Sính Đình được mắt thấy tai nghe bao cuộc tranh giành đấu đá chốn vương cung.

Cũng vì thế mà Đại vương sinh lòng sợ hãi rồi ngấm ngầm hãm hại vương phủ Kính An. Nếu không, vương phủ Kính An công lao hiển hách hàng trăm năm nay sao có thể chìm trong biển lửa chỉ qua một đêm?

Hôm nay nghe “kẻ địch” thản nhiên nói ra tử huyệt của Quy Lạc quốc, sao Sính Đình có thể không cảm thấy não nề? Nàng khẽ vịn tay vào mặt đàn, lại hỏi: “Chẳng lẽ Quy Lạc quốc không có vương công đại thần nào lo đến đại cục hay sao?”.

“Có, Kính An vương là trọng thần của Quy Lạc, bao năm nay nắm giữ binh quyền, dẹp loạn đảng, quét sạch ngoại xâm, giữ vững bình yên cho Quy Lạc quốc.” Nụ cười ấm áp dịu dàng của Sở Bắc Tiệp thoáng tia hâm mộ, “Nhưng cũng bởi Kính An vương nắm giữ trọng quyền nên khiến cho tân vương của Quy Lạc nghi kỵ, chỉ trong một đêm đã dẹp yên vương phủ Kính An”.

“Thế sao?!”, sau rèm vọng ra giọng nói yêu kiều, “Công tử nói vương phủ Kính An là người tốt, vậy thì Đại vương Quy Lạc đã quá hồ đồ rồi”.

Sở Bắc Tiệp ngồi thẳng dậy, thể hiện rõ khí thế bao trùm thiên hạ, cười nhạt: “Vương phủ Kính An hết mực trung thành với Quy Lạc quốc, song lại là đại họa với Đông Lâm chúng ta. Mất đi vương phủ Kính An, Quy Lạc quốc không còn mãnh tướng. Đại vương Đông Lâm chúng ta anh minh biết nhìn xa trông rộng, muốn thu phục đất Quy Lạc bé cỏn con ấy đã là việc dễ như trở bàn tay”.

Sính Đình càng ảo não trong lòng, nhưng ngữ điệu lại hân hoan vô cùng: “Đúng, thế thì Đông Lâm chúng ta sẽ càng hùng mạnh. Nhưng… lẽ nào vương phủ Kính An đó không ai chạy thoát hay sao?”.

“Người của vương phủ Kính An vô cùng giảo hoạt, đặc biệt là Tiểu vương gia Hà Hiệp. Nghe nói, họ đã nhận được tin trước khi người của Đại vương Quy Lạc ra tay, nên đã trốn khỏi thành đô Quy Lạc. Hà Túc đã hạ lệnh truy bắt họ. Đáng tiếc, đáng tiếc!” Hai tiếng “đáng tiếc” cuối cùng đương nhiên là tiếc vì vương phủ Kính An không bị Hà Túc diệt trừ.

Cũng coi như biết được thiếu gia và những người khác chưa bị Đại vương bắt, trong lòng Sính Đình cũng nhẹ đi vài phần.

Chắc thiếu gia và những người khác đang trốn ở một nơi an toàn để theo dõi thay đổi của thời cuộc. Lúc này nếu đi tìm họ, chắc nàng cũng không có manh mối gì. Tạm thời nàng cứ ở lại đây, cùng Hoa tiểu thư thêu thùa trò chuyện, nhân tiện dò la tin tức qua vị vương tộc Đông Lâm này, rồi tính kế tương lai.

Nghĩ như vậy, ngón tay nàng khẽ lướt trên dây đàn.

Sở Bắc Tiệp bỗng nghe thấy tiếng đàn thánh thót bên tai, du dương uyển chuyển, róc rách như nước chảy vọng ra từ trong rèm. Vẫn nguyên vẻ hùng tâm tráng chí của khúc ban nãy, và thêm chút yêu kiều của tiểu thư khuê các.

Còn chưa hết kinh ngạc, chàng đã nghe thấy giọng hát thánh thót hòa theo tiếng đàn.

“Có loạn thế, mới có anh hùng; có anh hùng, mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loạn làm sao…”

Giọng hát uyển chuyển mềm mượt, tựa như thanh âm của đất trời.

Tiếng hát bất ngờ khiến Sở Bắc Tiệp ưu tư, trong lòng càng run rẩy.

Chàng tuổi ngoài hai mươi, từ nhỏ đã học hết kinh thư binh pháp, tài rộng chí lớn hơn người. Chàng đã gặp bao nhiêu mỹ nhân chốn vương cung, mới gặp còn cảm thấy họ diễm lệ đáng yêu, nhưng gặp mãi, bỗng thấy chán ghét cái phường oanh yến ấy. Từ đó, chàng không còn quan tâm đến đám son phấn lụa là, mà hạ quyết tâm phải tìm cho được một tuyệt thế giai nhân thực sự.

Người trong rèm kia có tài đàn nhất đẳng, cách nói chuyện không hề tầm thường, lại có tiếng hát lay động lòng người. Tuy chưa từng gặp mặt, nhưng bức phác họa thuộc hạ trình lên cũng đẹp đến mê lòng người.

Xem ra, người có thể theo chàng suốt cuộc đời chỉ có mình nàng.

Tiếng hát ngân nga như tiếng ngọc khắc vào tim người nghe, uyển chuyển vô cùng.

Hòa với mấy chữ “hỗn loạn làm sao…” sau cùng, tiếng đàn đang cao vút chuyển sang bằng rồi dần trầm xuống.

Sở Bắc Tiệp lim dim đôi mắt, thưởng thức từng lời ca tiếng đàn của giai nhân. Mãi lúc sau mới sực tỉnh, chàng tán thưởng: “Bốn chữ ‘hỗn loạn làm sao’ vốn nói về sự nuối tiếc và bi thương của một giai nhân, nhưng qua tiếng hát của tiểu thư, nó bỗng trở nên phóng khoáng, bớt đi phần nào bi ai tiếc nuối”.

“Công tử quá khen”, Sính Đình khẽ khàng cảm tạ, song sắc mặt càng thêm mệt mỏi. Đàn hát với nàng là một việc rút hết tâm sức, nhưng vì hứng thú của Đông Định Nam, nàng đành miễn cưỡng bản thân mình.

“Công tử, ta từng được nghe sự tích về Tiểu vương gia Hà Hiệp của vương phủ Kính An. Mọi người đều nói đó là đệ nhất mãnh tướng của Quy Lạc, đúng không?”

“Đúng thế.”

“Vậy… người này so với Trấn Bắc vương hiển hách lẫy lừng của Đông Lâm chúng ta, ai lợi hại hơn?”

Nghe giai nhân nhắc đến tên mình, Sở Bắc Tiệp khẽ nhếch môi cười nhạt, thản nhiên hỏi lại: “Theo tiểu thư thì sao?”.

“Ta không được ra ngoài, sao biết chuyện này? Nhưng mà, ta đã nghe nói, Hà Hiệp từng giao chiến với Trấn Bắc vương ở biên giới Quy Lạc.”

“Ừm.”

“Trận này, không biết ai thắng?” Tất nhiên Sính Đình biết rõ thiếu gia nhà nàng giành phần thắng. Nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy chiến thắng đó có chút bất thường. Bởi với binh lực của Trấn Bắc vương lúc đó, dù có bị nàng dùng mưu kế chiến thắng một trận, cũng không thể nhận thua ngay tức khắc mà rút binh.

Còn Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp sau khi trở về thành đô Đông Lâm liệu có bị trách phạt vì bại trận? Nếu Đại vương Đông Lâm tước luôn binh quyền của Sở Bắc Tiệp thì càng tốt, như vậy sẽ bớt cho Quy Lạc quốc một đại họa.

“Hà Hiệp thắng”, Sở Bắc Tiệp thản nhiên đáp như không.

“Nói như vậy, Trấn Bắc vương thua sao?”

“Không, Trấn Bắc vương cũng thắng.”

“Sao lại thế chứ?”

Sở Bắc Tiệp nở nụ cười sâu xa: “Hà Hiệp thắng nhỏ, Trấn Bắc vương thắng lớn”.

Lời này người khác nghe không hiểu, nhưng với Sính Đình thật chẳng khác nào sấm đánh bên tai.

Nàng quá hiểu trận chiến biên cương ấy. Biên cương bị xâm lấn đúng hai năm, lúc đầu Quy Lạc vương khăng khăng không chịu cử thiếu gia ra trận, mãi đến khi đại quân Quy Lạc bị đánh cho tan tác, Đại vương mới vội vàng lệnh cho thiếu gia phải giữ vững biên thành.

Thời gian đó, chấn thương, thiếu lương thực, thời tiết nóng nực, quân đội hùng hậu của Đông Lâm thì đang uy hiếp lòng quân sĩ, cũng như thực lực quân Quy Lạc.

Tại sao Quy Lạc thắng? Nàng đã đưa ra bao nhiêu giả thiết cho câu hỏi này, và câu trả lời của Đông Định Nam đã khẳng định giả thiết mà nàng không hy vọng nhất.

Trấn Bắc vương cố ý rút lui, để công kích Đại vương Quy Lạc, để Đại vương Quy Lạc hạ quyết tâm đối phó với vương phủ Kính An. Mất đi vương phủ Kính An, sớm muộn gì Quy Lạc cũng rơi vào tay Đông Lâm.

“Hà cớ gì tiểu thư lại trầm ngâm như vậy?”, ngoài rèm vọng tới giọng nói thấp trầm.

Buồn bã hồi lâu, Sính Đình cảm thán: “Thế gian tranh đấu liên miên, thật khiến lòng người não nề”.

Sở Bắc Tiệp cảm nhận được vẻ ủ rũ trong lòng giai nhân, song lại chẳng hiểu nguyên nhân do đâu: “Tiểu thư không cần hao tâm tổn sức vì những chuyện quốc gia. Chi bằng chúng ta nói chuyện tao nhã khác”.

“Cũng hay, chúng ta nên nói chuyện phong hoa tuyết nguyệt mới phải.”

Không muốn đối phương nghi ngờ, Sính Đình lập tức đồng ý. Nàng thầm lo lắng trong lòng, nếu để lộ quá nhiều hiểu biết sẽ khiến đối phương nghi ngại mà kín tiếng, đành chuyển sang giọng hiếu kỳ thỉnh giáo vị công tử ấy về phong tục của những vùng đất khác nhau.

Có cơ hội cực tốt để thể hiện bản thân, nhưng Sở Bắc Tiệp vẫn không hề khoe khoang mà vô cùng đĩnh đạc khi nói về phong tục bốn phương. Có điều, mang trong mình dòng máu vương tộc, chàng luôn ôm ấp mưu đồ mở rộng đất đai, nên sau khi nói về phong tục thì lại chuyển sang chuyện địa hình, rồi luận bàn cách tấn công, tại sao phải tấn công trực diện, tại sao phải bí mật tấn công. Giành chiến thắng rồi thì làm thế nào để an ủi lòng dân, nên dùng chính sách cương hay nhu để cai trị… Cứ thế, chàng nói vô cùng mạch lạc, có đầu có cuối.

Thấy trong rèm hồi lâu vẫn chẳng có động tĩnh gì, Sở Bắc Tiệp giật mình bật cười, bảo: “Tại hạ nói năng vô vị, lại bàn sang chuyện dẫn binh đánh trận rồi”.

Trong rèm, Sính Đình nghe rất tâm phục khẩu phục. Thầm đoán người này chắc chắn là mãnh tướng nước địch, nàng bỗng giật mình, nghĩ: Không lẽ người này chính là Trấn Bắc vương?

Không thể nào, làm gì có chuyện trùng hợp đến thế? Khẽ lắc đầu, xua đi ý nghĩ vừa rồi, nàng đáp: “Ta chỉ là phận nữ nhi nên không hiểu những cao kiến của công tử”.

Hai người cứ nói chuyện qua bức rèm như vậy cũng hết một buổi chiều.

Sắc trời đã chuyển tối, bên ngoài vọng lại tiếng gõ cửa, nam nhân tặng đàn lần trước lặng lẽ bước vào, cúi đầu nói gì đó với Sở Bắc Tiệp.

Chứng kiến mọi việc, bất giác Sính Đình nghĩ, có thể họ đang nói đến tin tức trong quân, chưa biết chừng lại có tin của thiếu gia và vương phủ Kính An. Vô cùng sốt ruột, nàng chỉ tiếc mình ở xa, mà hai người kia lại nói quá nhỏ, không thể nghe thấy gì.

Nghe thuộc hạ bẩm báo xong, khóe miệng Sở Bắc Tiệp khẽ giật, bèn ngồi thẳng dậy, chắp tay về phía tấm rèm, giọng dịu dàng: “Hôm nay được nghe những khúc nhạc mỹ miều như thế, lại được nói chuyện thoải mái cùng tiểu thư, thật khiến Đông Định Nam ta vui mừng. Không dám làm phiền tiểu thư thêm nữa, Định Nam xin cáo từ. Hôm khác sẽ lại đến cầu kiến”.

Người này vội vã cáo từ, Sính Đình càng cảm thấy có gì liên quan đến thiếu gia, bèn đổi giọng lạnh lùng: “E rằng tiểu thư nhà khác đến cầu kiến công tử”.

Phong độ, ngữ khí của nàng hoàn toàn khác với ban nãy khiến Sở Bắc Tiệp không khỏi ngạc nhiên, lời này của “Hoa tiểu thư” thực thiếu lễ độ, cảm tình với nàng vơi đi phân nửa. Đang định trả lời thì trong rèm vọng ra tiếng cười khúc khích của Sính Đình, cùng giọng nói ngây thơ: “Ta biết, giai nhân không dụ được Đông công tử, mà chỉ có binh pháp, chiến trận mới là những thứ công tử yêu thích. Có thứ yêu thích đó, tất nhiên chỗ này của ta không thể giữ chân công tử được nữa rồi”.

Tiếng cười dịu dàng của nàng vọng ra như tiếng suối chảy, Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy đầu ngón tay mình run run. Ánh mắt chàng tươi tỉnh trở lại, buột miệng: “Kính An vương của Quy Lạc quốc mà tiểu thư nhắc đến lúc nãy, chưa biết chừng hôm nay có thể gặp được”.

Những lời này chẳng khác nào sấm đánh bên tai, tay Sính Đình run rẩy, suýt chút nữa hất đổ cả chén trà bên cạnh. Chẳng lẽ quân Đông Lâm đã nắm được tin tức của thiếu gia? Hay thiếu gia đã bị bắt, đang áp giải đến thành đô Đông Lâm?

Nàng đang định hỏi tiếp, Sở Bắc Tiệp đã thoải mái đứng dậy, chắp tay, nói: “Thực không thể ở lâu, xin cáo từ”.

Sính Đình cố kìm nén giọng run rẩy, nói: “Công tử xin dừng bước”.

Nhưng dường như đang có việc quân vô cùng quan trọng, Sở Bắc Tiệp chỉ chắp tay, rồi vội vã đi mất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 4

“Haizzz, hết kịch hay để xem rồi”

Sở Bắc Tiệp vừa rời khỏi, Hoa tiểu thư cũng ngáp một cái thoải mái, rồi nhảy lên vén tấm rèm ra, nói vẻ ngán ngẩm, “Đúng là một kẻ cuồng binh pháp, chỉ được mỗi cái bộ dạng dễ coi, cũng chẳng biết nói chuyện gì hay ho. Mà ngươi cũng giỏi thật đấy, nói chuyện được với hắn những nửa ngày trời. Này, tiểu Hồng, sao ngươi không nói gì thế?”.

Lúc này, Sính Đình đang vô cùng lo lắng. Nàng cau mày trầm tư nên chỉ ậm ừ cho qua, bởi vẫn mải nghĩ đến bộ dạng lúc vị công tử kia rời khỏi đây.

Có tin tức của thiếu gia sao? Người của vương phủ Kính An có bình an không? Đông Định Nam đang định làm gì?

Dáng đi ấy, cả phong độ khí phách khi luận binh trong lúc chuyện trò, sự cẩn trọng khi hạ giọng với cấp dưới trước mặt người ngoài, đều vô cùng thân thuộc với Sính Đình. Đó là khí phách của một đại tướng quân.

Đại tướng quân? Nàng bắt đầu lục lọi trong trí nhớ những vị tướng quân lẫy lừng của Đông Lâm, trẻ tuổi tài cao, người của vương tộc Đông Lâm… Và cái tên đầu tiên hiện ra trong đầu nàng chính là Trấn Bắc vương. Nàng khẽ chớp mắt, thật đáng tiếc vì trước đây không sai người vẽ một bức họa Sở Bắc Tiệp mang về.

Thần xui quỷ khiến thế nào mà Trấn Bắc vương lại tặng đàn cầu kiến nàng, thị nữ của vương phủ Kính An? Điều này thực quá hoang đường?

Thấy nàng ngẩn ngơ, Hoa tiểu thư che miệng, cười nói: “Người đã đi rồi, ngươi còn ngơ ngẩn làm gì? Chẳng lẽ thực sự là tình chàng ý thiếp, đã bắt đầu tương tư rồi?”, vừa nói Hoa tiểu thư vừa lấy cái khăn tay huơ huơ trước mặt nàng.

Chiếc khăn tay khẽ chạm vào lông mi khiến nàng sực tỉnh, nàng nói với Hoa tiểu thư: “Nô tỳ buồn ngủ quá, xin lui về phòng ngủ trước”.

“Còn chưa ăn cơm mà?”

“Sáng mai nô tỳ ăn bù.”

Nói rồi, Sính Đình trở về phòng, nằm lên chiếc giường sạch sẽ chắc chắn, lại bắt đầu suy nghĩ.

“Thiếu gia…” Nàng cắn chặt răng, trong lòng càng thêm buồn bực, như có ngọn lửa đang chầm chậm thiêu đốt lồng ngực. Thấy mình lại bắt đầu lo lắng, nàng tự trấn tĩnh: “Sính Đình, đừng sốt ruột, sốt ruột sẽ hỏng việc”.

Mớ suy nghĩ hỗn loạn dần được xếp lại, Sính Đình bình tĩnh hít thở thật sâu. Nàng khẽ nhắm mắt, trong đầu bỗng hiện lên hình ảnh lá cờ Kính An vương quen thuộc. Nàng nghĩ đến thiếu gia, nghĩ đến vương phủ Kính An, nghĩ đến lúc họ ca khúc khải hoàn trở về thành đô…

Kính An vương vừa thắng trận, đoàn quân hùng dũng tiến về, ngọn cờ Kính An vương tươi thắm phần phật bay trong gió, bốn bên cờ quạt rợp trời tô thêm uy phong lẫm liệt cho đoàn quân.

Dẫn đầu là vị tướng quân cưỡi trên lưng con ngựa lớn, trong mặc áo dài vân rồng cuộn màu tím, ngoài khoác áo giáp đã sáng bóng vì chinh chiến trận mạc, lưng giắt bảo kiếm chuôi vàng nạm ngọc, quý giá vô cùng. Đó chính là Tiểu vương gia Hà Hiệp, người mà mọi người vẫn hết lời khen ngợi.

Hôm đó, dù chiến thắng trở về nhưng sắc mặt Hà Hiệp vẫn không hề vui mừng, đôi mày đậm cứ chau lại.

“Thiếu gia”, giọng thiếu nữ lanh lảnh vang lên, xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp đuổi theo.

Không cần quay lại, Hà Hiệp cũng biết ai đang đến: “Sính Đình, mấy hôm nay muội không khỏe, ta đã cố ý để muội ngồi kiệu, sao lại cưỡi ngựa ra đây rồi?”.

Sính Đình đuổi theo Hà Hiệp, thúc ngựa bước sóng đôi bên cạnh: “Sao phải chiều muội như thế? Muội chỉ ho có vài tiếng mà Đông Chước đã cuống cả lên, rồi bẩm báo với thiếu gia nữa. Muội sợ thiếu gia nghĩ muội yếu ớt lắm bệnh, lần sau lại không cho muội theo quân xuất chinh”.

“Không cho xuất chinh, liệu muội có chịu không? Chỉ là, thật khổ cho muội, thân gái giữa chốn đao thương, bệnh cũng chẳng có người chăm sóc.”

Sính Đình cười khúc khích, vén sợi tóc đang bị gió thổi tung: “Muội không thấy khổ. Có nha đầu nào tốt số như muội đâu, lại được theo thiếu gia đi đánh trận”.

Nàng cười, rồi bỗng khựng lại, khẽ ho vài tiếng.

Hà Hiệp quay sang: “Sao thế? Chưa khỏi thì cố làm gì. Mặt trời nắng như thiêu đốt thế này mà cứ cố cưỡi ngựa theo ta. Còn không nghe lời, sau này ta sẽ không cho muội cùng đi đánh trận nữa”.

Sính Đình cố bụm miệng giấu đi tiếng ho. Một lúc sau, nàng ngẩng lên, thấy khuôn mặt lo lắng của Hà Hiệp, liền mỉm cười: “Thiếu gia không phải lo lắng, trước nay muội vẫn khỏe hơn ngựa mà”. Đôi mắt lanh lợi của nàng khẽ liếc Hà Hiệp, rồi nhanh chóng cụp xuống, khẽ bảo: “Muội chỉ lo… Haizzz, lo lúc thiếu gia đang phiền lòng mà lại chẳng có ai bên cạnh”.

Lời cảm thán khẽ khàng của nàng như đánh trúng suy nghĩ của Hà Hiệp.

Hà Hiệp sững người, cười ảo não, lắc đầu: “Nha đầu cổ quái, không có gì giấu được muội”. Thấy sắc mặt Sính Đình không được tươi như ngày thường, Hà Hiệp dừng ngựa, quay sang cười nói: “Sang đây, ngồi chung với ta, muội sẽ đỡ mệt. Chúng ta cũng dễ nói chuyện hơn”.

“Vâng!”, Sính Đình gật đầu, xuống ngựa.

Hà Hiệp giơ tay, đỡ Sính Đình lên ngồi phía trước mình. Một tay giữ eo nàng, tay kia cầm cương ngựa, Hà Hiệp cân nhắc những suy nghĩ vừa rồi, khẽ nói: “Lần này phụng mệnh quét sạch quân Đông Lâm ở biên cương, giao đấu với Sở Bắc Tiệp hai tháng, tuy chúng ta thắng, nhưng thực tế đã thua rõ ràng”.

Sính Đình gật đầu: “Thiếu gia nói rất đúng. Tuy Đông Lâm đã lui quân, nhưng sinh lực của Quy Lạc bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu Đông Lâm tiếp tục xâm phạm biên cương, e rằng Quy Lạc chẳng còn quân ra trận nữa. Haizzz, nếu không vì Đại vương nghi kỵ vương phủ Kính An, hai năm nay không chịu hạ vương lệnh để thiếu gia xuất chinh, thì thế cục cũng không đến mức tệ hại thế này”.

“Sính Đình, không được tùy tiện nói chuyện Đại vương”, Hà Hiệp trầm giọng, “Muội nhớ kỹ, tân vương giờ không còn là Túc vương tử khi chưa lên ngôi nữa”.

Đang định phản bác, nhưng nghĩ lại, đúng là từ khi lên ngôi, Túc vương tử đã thay đổi rất nhiều, trong lòng Sính Đình cũng chùng xuống, những lời muốn nói đều tắc nghẹn nơi cổ họng. Nàng đành an ủi: “Muội hiểu những uất ức trong lòng thiếu gia, đại quân tan tác không phải do lỗi của thiếu gia. Cục diện bất lợi kéo dài hai năm, có thể duy trì được như hiện nay đã là rất khó khăn rồi. Đến khi thế cục tan tác, Đại vương mới giao chiến sự biên cương cho thiếu gia, rõ ràng muốn làm khó thiếu gia còn gì”.

“Chính bởi vậy nên ta mới lo. Nếu không thắng trận này, trở về thành đô, ta sẽ lập tức bị đem ra luận tội, ngay cả phụ thân cũng liên lụy. Đúng là thế lực của vương phủ Kính An quá lớn, nếu ta là Đại vương, ta cũng phải nghĩ kế tiễu trừ.”

Nghĩ về thái độ lạnh nhạt, luôn gây khó dễ với vương phủ Kính An của tân vương từ khi lên ngôi, cả hai đều cảm thấy chạnh lòng.

Thấy thị nữ của mình mặt mày ủ dột, lo lắng cho vương phủ, Hà Hiệp nhếch miệng, đưa ngón tay khẽ di trên hai hàng lông mày thanh tú của nàng: “Đừng nghĩ ngợi nữa, nói chuyện gì vui hơn đi. Lần này may mà muội nghĩ ra diệu kế dụ địch vào núi, mở cửa sông, chặn đường nên mới khiến Sở Bắc Tiệp kinh hoàng rút chạy. Giờ toàn quân đều biết chúng ta có một nữ quân sư. Về đến thành đô, ta sẽ xin phụ thân trọng thưởng muội. Nói xem, muội muốn gì nào?”.

“Còn thưởng nữa sao? Những thứ Vương gia thưởng cho muội, có dùng mười đời cũng không hết.” Sính Đình ngẩng mặt lên, mặt trời đã chếch sang bên, lá cờ Kính An vương vừa hay giúp nàng che bớt phần nào cái nắng chói chang. Nàng quay sang nhìn kỹ Hà Hiệp đánh giá, rồi lại nhìn thẳng về phía trước, nói: “Thiếu gia, có việc này muội chẳng biết nên nói ra hay không”.

“Muội với ta thì còn có điều gì mà phải lưỡng lự?”

Suy nghĩ giây lát, Sính Đình cười bảo: “Hay là muội không nói nữa, nói ra, thiếu gia lại phiền lòng”.

Dường như đoán được Sính Đình đang muốn nói đến chuyện gì, nụ cười trên môi Hà Hiệp ngưng lại.

Hai người không ai mở lời, yên lặng rong ruổi trên lưng ngựa.

Tiếng vó ngựa nện lộp cộp trên đường đất nóng hầm hập, bụi cuốn tung mù mịt.

Sính Đình cứ lặng lẽ hướng mắt về phía trước, không biết đang nghĩ gì. Biết người thị nữ giỏi giang nức tiếng của mình đang suy nghĩ, Hà Hiệp chỉ im lặng ôm nàng, ghìm cương ngựa, đi chậm lại.

Một lúc sau, Sính Đình nói: “Muội vẫn nên nói thì hơn…”.

“Ta rửa tai lắng nghe”, nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Sính Đình, Hà Hiệp không kìm được trêu nàng.

“Thiếu gia, nếu muội đoán không lầm, thì sự việc vô cùng tồi tệ, muội không đùa đâu.” Sính Đình quay lại nhìn Hà Hiệp vẻ quở trách, rồi chân thành: “Với bản lĩnh của Sở Bắc Tiệp, chắc chắn hắn biết quân ta không còn sức chinh chiến tiếp. Chỉ cần hắn cố thêm hai tháng nữa, đại quân biên cương của Quy Lạc chắc chắn sẽ tan hết. Hắn cố ý rút lui trong lúc quân ta sắp không chịu đựng được nữa, là để… là để thiếu gia khải hoàn”.

“Đúng thế. Việc này chúng ta đều biết, nhưng sao hắn lại làm như vậy?”

Đôi con ngươi đen láy của Sính Đình linh hoạt xoay mấy vòng, cơ hồ đã có câu trả lời, nàng trầm ngâm: “Giả dụ thiếu gia bại trận, Đại vương sẽ trách phạt, sẽ nhân cơ hội này cắt đi một nửa binh quyền của vương phủ Kính An. Thiếu gia, chắc Đại vương sẽ không giết thiếu gia vì một lần bại trận chứ?”.

Hà Hiệp lắc đầu: “Đương nhiên là không rồi. Vương phủ Kính An chúng ta đời đời là trọng thần của Quy Lạc, nếu giết ta, Đại vương sẽ gây nên phong ba dữ dội”.

“Thế giả dụ thiếu gia chiến thắng trở về, liệu Đại vương có ban thưởng thiếu gia không?”

“Đánh trận chiến thắng, đương nhiên phải ban thưởng. Làm vua một nước phải thưởng phạt phân minh mới có được lòng dân”, Hà Hiệp thờ ơ, “Nhưng ta cũng không để ý đến việc này”.

“Chiến thắng về triều, thiếu gia sẽ càng được lòng dân chúng. Tuy ngoài mặt, Đại vương không thể không ban thưởng thiếu gia, song trong lòng càng kiêng dè vương phủ Kính An. Như thế, vương phủ Kính An sẽ càng nguy hiểm.”

“Nếu vậy, Đại vương tất phải ra tay trừ bỏ vương phủ Kính An. Trừ bỏ được vương phủ Kính An, Quy Lạc quốc sẽ rối ren, Đông Lâm sẽ thừa cơ xâm phạm. Sở Bắc Tiệp thật có dã tâm. Hắn không chỉ nhòm ngó mấy thành trì biên cương, mà còn muốn toàn bộ Quy Lạc quốc.”

“Thế thì đúng rồi!”, Sính Đình vỗ hai tay vào nhau, ánh mắt lộ vẻ đắc ý thật khiến người ta yêu mến. Từ một quân sư vạch đường chỉ lối, nàng lại trở thành một thị nữ hoạt bát đáng yêu, khuôn mặt tròn xinh xắn hằn rõ hai lúm đồng tiền sâu hoắm. Nàng quay lại cười với Hà Hiệp: “Thiếu gia thực lợi hại, tâm ý của Trấn Bắc vương đã bị thiếu gia nhìn thấu rồi”.

Hà Hiệp bật cười, nói: “Người lợi hại nhất phải là Bạch đại quân sư của chúng ta. Nếu muội là nam nhi, ta đâu được ngồi ở vị trí chủ soái này?”.

Hai người nói cười suốt chặng đường, vui vẻ là thế, nhưng thực ra trong lòng đều trĩu nặng những suy tư.

Bụi đường mờ mịt, tiền đồ gian nan.

Tuy đã có dự tính xấu, song họ không thể ngờ rằng, sự việc họ lo ngại lại xảy ra ngay trong chớp mắt.

Năm ngày rong ruổi, cuối cùng họ đã trở về thành đô. Đại vương Quy Lạc Hà Túc đích thân ra tận cổng thành nghênh đón đoàn quân. Biết tin tiểu Kính An vương danh tiếng lẫy lừng thắng trận trở về, dân chúng trong thành vội vã đổ xô ra cổng thành nghe ngóng. Sau hai hàng binh lính uy nghiêm, giương đao oai vệ là đám đông dân chúng, ai nấy đều cố rướn cổ thật dài.

“Ai là tiểu Kính An vương?”

“Còn không biết tiểu Kính An vương là ai nữa?”, có người tốt bụng chỉ, “Chính là vị tướng quân oai phong lẫm liệt dẫn đầu đoàn quân kia kìa. Người ở thành đô có ai mà không biết tiểu Kính An vương!”.

“Ha ha, đây là lần đầu tiên ta đến thành đô thăm người bà con. Không ngờ lại có cái phúc được tận mắt nhìn thấy tiểu Kính An vương danh tiếng lẫy lừng. Lần này trở về, ta có chuyện hay để kể rồi!”

Khi chúng dân đang xầm xì bàn tán, đoàn quân đã dừng ở cổng thành.

Vừa xuống ngựa, Hà Hiệp lập tức quỳ xuống, cất giọng sang sảng: “Đại vương vạn phúc! Mạt tướng may mắn chiến thắng, đã đánh bại được giặc Đông Lâm!”.

Hà Túc khoác hoàng bào tôn quý của thiên tử, đầu đội vương miện mành ngọc, ánh mắt sắc như chim ưng ẩn sau tấm rèm ngọc, thoáng tia lạnh lẽo, nhưng khóe môi lại khẽ nhếch lên. Tân vương đích thân vội vã đến đỡ Hà Hiệp: “Ái khanh đứng dậy đi. Lại làm khó ái khanh giúp quả nhân giải quyết vấn đề nan giải này. Có được vương phủ Kính An, Quy Lạc quốc ta sẽ chẳng sợ bất cứ kẻ thù nào”.

Tân vương thân thiết nắm tay Hà Hiệp, rồi quay lại.

“Nhìn xem, đây chính là tiểu Kính An vương!”

“Tiểu Kính An vương!”

Đám đông dân chúng lập tức rộ lên những tiếng reo hò vang dội.

Hà Túc cười nói với Hà Hiệp: “Ái khanh rất được lòng dân, khiến quả nhân mừng vô tận”. Sau đó, Đại vương bước lên bục cao đã được chuẩn bị sẵn, nâng chén rượu thị vệ dâng đến, cất giọng sang sảng: “Mọi người nghe đây, giặc Đông Lâm xâm phạm biên cương chúng ta đã hai năm, hôm nay tiểu Kính An vương thắng trận trở về, lập công lớn cho Quy Lạc quốc, quả nhân phải trọng thưởng”.

Người người ngẩng cao đầu, đoán xem Đại vương sẽ ban thưởng cho Hà Hiệp thế nào.

Hà Hiệp quỳ xuống, chắp tay bảo: “Tất cả đều nhờ sự chỉ huy đúng đắn của Đại vương, mạt tướng chẳng qua cũng chỉ chấp hành quân lệnh mà thôi. Mạt tướng đâu dám mong Đại vương ban thưởng”.

“Không, không, ái khanh là đệ nhất mãnh tướng của Quy Lạc quốc, chiến công hiển hách ai ai cũng tỏ, quả nhân sao có thể không ban thưởng cho khanh?”, Hà Túc nói: “Quả nhân ban cho khanh ba thứ. Thứ nhất, quả nhân ban cho khanh chén rượu này”.

Ngay lập tức, thị vệ trong cung đứng sau Hà Hiệp dâng rượu lên. Hà Hiệp nhận lấy, ngẩng đầu nhìn Đại vương. Hà Túc ngửa cổ uống trước rồi giơ tay ra hiệu: “Uống đi”.

Thấy Hà Hiệp đã uống cạn chén rượu của mình, Hà Túc vui vẻ nói tiếp: “Thứ hai, quả nhân tặng khanh thanh tuyệt thế bảo kiếm. Người đâu, mang lên đây”.

Lát sau, chiếc hộp phủ lụa đỏ xuất hiện ngay trước mắt Hà Hiệp.

Vốn đau đầu vì thế cục kỳ lạ này, giờ Hà Hiệp càng không thể hiểu Đại vương đang giở trò gì, chỉ còn cách chắp tay thưa: “Đa tạ Đại vương!”, rồi nhẹ nhàng kéo tấm lụa đỏ, hai mắt bất chợt mở to, “A” lên một tiếng.

Dưới tấm lụa đỏ, thanh bảo kiếm đẹp mắt. Bảo kiếm không có vỏ, thân đen bóng, chính là thanh Hắc Mạc bảo kiếm đã thất truyền từ lâu. Tương truyền kiếm vô cùng sắc, và đặc biệt nếu bị thanh kiếm này chạm vào, thì dù chỉ là một vết thương nhẹ, nhưng vết thương ấy sẽ mãi mãi đen sì, cả đời khó coi vô cùng.

Xuất thân quyền quý, vốn chẳng hề coi trọng vàng bạc châu báu, sở thích duy nhất của Hà Hiệp chính là binh khí. Thế nên, khi bất ngờ được nhìn thấy Hắc Mạc bảo kiếm, vị đại tướng quân này không kìm nổi mà thốt lên lời cảm thán.

Hà Túc đứng trên bục cao, cười hiền từ khẽ hỏi: “Thế nào, khanh có thích không?”.

“Kiếm này quý báu vô cùng, mạt tướng sao dám…”

“Chính vì quý báu nên mới ban thưởng cho ái khanh, quả nhân biết khanh thích nhất binh khí, nhận lấy đi.”

Hà Hiệp vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, đôi mắt sáng lên: “Tạ ơn Đại vương!”, rồi đích thân nhận lấy, quay lại nhìn về phía sau.

Sính Đình lập tức bước tới, hai tay đỡ hộp vuông, đang định lui ra, bỗng nghe thấy giọng ngạc nhiên của Hà Túc: “Chẳng phải Sính Đình đây sao?”. Nói rồi, Đại vương từ đài cao đi xuống, khuôn mặt rạng rỡ: “Lại theo Hà Hiệp xuất chinh hả?”.

Hai tay bê hộp vuông, Sính Đình cúi đầu hành lễ: “Tham kiến Đại vương”.

“Không cần đa lễ. Năm xưa, ngươi theo Hà Hiệp học hành, thuộc sách còn nhanh hơn chúng ta. Chúng ta luôn coi ngươi là tài nữ. Quả nhân lên ngôi một năm, suốt ngày trong vương cung. Trong cung không thiếu mỹ nhân, nhưng chẳng có ai thông tuệ như ngươi. Hà Hiệp, khanh có phúc hơn quả nhân đó”, Hà Túc vừa nói vừa quay sang cười với Hà Hiệp, “Đồ thứ ba trẫm thưởng cho khanh rất bình thường, vẫn là vàng bạc châu báu, toàn những đồ quý giá. Trẫm biết khanh không thích nhìn những thứ ấy, nên đã sai thị vệ trong cung mang đến vương phủ Kính An rồi”.

Tạ ơn Đại vương!”

“Chúng ta cùng lớn lên với nhau, tình cảm như huynh đệ, huynh hà tất phải đa lễ?”, Hà Túc thân thiết nói với Hà Hiệp, thấy Sính Đình đang định lui ra, liền gọi nàng lại: “Sính Đình”.

Cả chặng đường về gập ghềnh, toàn thân Sính Đình đau ê ẩm. Đang định về xe nằm nghỉ, không ngờ lại bị ánh mắt sắc sảo của Hà Túc phát hiện ra, Sính Đình dừng lại, nhỏ nhẹ hỏi: “Đại vương có gì dặn dò?”.

Tuy không xinh đẹp, nhưng Sính Đình lại sở hữu một giọng nói thánh thót lay động lòng người. Mỗi lời thốt ra tựa tiếng ngọc rơi trên đĩa bạc.

Khoảnh khắc nàng cúi đầu xuống, Hà Túc im lặng gần như thất thần.

“Đại vương?”

“Hả?”, Hà Túc sực tỉnh, khóe môi nhướng lên, xua tay, “Đi đi”.

Sính Đình nhân cơ hội ấy lui ngay ra, rồi đưa hộp vuông đang bê đến tê tay cho người khác, dặn dò: “Trông coi cẩn thận, Tiểu vương gia rất coi trọng thanh kiếm đen sì này”. Học thức hơn người, nàng biết rõ đây là thanh Hắc Mạc bảo kiếm, nhưng vì bản tính không thích binh khí, nàng luôn gọi những thứ bảo bối mà Hà Hiệp coi như tâm can là thứ nọ, thứ kia.

Đêm đó, vương phủ Kính An giăng đèn kết hoa khắp nơi, sáng rực rỡ.

Đám tôi tớ trong nhà mặt mũi hớn hở. Tiểu vương gia thắng trận trở về, Đại vương lại ban thưởng bao nhiêu thứ, chắc chắn họ cũng có phần.

Quan lại đến chúc mừng ngồi chật mười hai bàn tiệc. Kính An vương Hà Mạc ngồi ở vị trí chủ tiệc, rạng rỡ nghe mọi người chúc mừng.

Hà Hiệp đi kính rượu khắp lượt, chắc đã uống hết ba bình. Sính Đình cũng coi như là đại tổng quản của vương phủ Kính An, nhưng lại không tham gia bữa tiệc đêm đó.

Nàng ở trong tiểu viện của mình, tiếng huyên náo đã lùi tít đằng xa. Trăng sáng vằng vặc treo trên bầu trời cao, tỏa những ánh bạc bao trùm tiểu viện. Sính Đình thắp đèn trong phòng, bóng dáng thanh nhã của nàng in hình trên ô cửa giấy.

“Sính Đình…”, Hà Hiệp bỗng từ đâu xuất hiện.

Nàng vội đặt kim chỉ xuống, ngẩng lên cười nói: “Bên ngoài bao nhiêu khách, sao thiếu gia lại vào đây?”.

“Vào xem muội thế nào”, cầm bức uyên ương nàng đã thêu được một nửa lên, Hà Hiệp tán dương, “Người ta nói, nhân vô thập toàn, theo ta thì không đúng rồi. Muội giỏi về mọi mặt, thơ ca, văn chương mưu trí chẳng thua kém nam nhân, đường kim mũi chỉ quả là ‘sức người vượt quá thiên nhiên’ rồi”.

Sính Đình cười khúc khích, đáp: “Cả câu ‘Sức người vượt quá thiên nhiên’ mà thiếu gia cũng nói ra được. Sao thiếu gia khoa trương đến thế? Dùng từ ngữ lung tung”. Nàng lấy lại khung thêu trong tay Hà Hiệp, tiếp tục thêu, được mấy mũi, lại dừng tay, khẽ thở dài.

“Sính Đình, phụ thân nói với muội rồi à?”

“Vâng.”

“Ta cũng vừa nghe Đông Chước nói việc này”, nhìn khuôn mặt vẫn chẳng chút thay đổi của Sính Đình, Hà Hiệp lấy chiếc ghế ngồi xuống trước nàng, “Phụ thân thật là, cũng không hỏi ta một tiếng”.

“Vương gia muốn tốt cho muội. Vương gia nói, tuy muội không thể làm vương phi của thiếu gia, nhưng thứ bậc không khác gì vương phi. Sau này, ngoài chính thất vương phi của thiếu gia, tất cả những người khác đều phải gọi muội là tỷ tỷ.”

Nghe Sính Đình chậm rãi nói ra những lời ấy, trong lòng Hà Hiệp càng buồn bực, bèn cắt ngang: “Sính Đình, muội thật sự muốn gả cho ta chứ?”.

“Muội không xứng à?”, Sính Đình quay lại, đôi mắt đẹp trong veo chăm chú nhìn Hà Hiệp.

“Nói bậy nào!”, Hà Hiệp lắc đầu, đứng dậy, đi lại bên bàn. “Trong lòng ta hiểu rõ, bao nhiêu năm nay, chúng ta cùng nhau học hành vui chơi, thậm chí cùng nhau cưỡi ngựa xuất chinh, cùng nhau vào sinh ra tử. Nhưng muội chỉ coi ta như ca ca, ta chỉ coi muội là muội muội. Muội gả cho ta, mà không thấy ấm ức sao?” Thấy Sính Đình vẫn hoàn toàn bình thản, Hà Hiệp quay lại đập tay xuống bàn, nói giọng lo lắng: “Muội không giống những nữ tử khác. Muội có chủ ý, có chí hướng của mình. Ta thực không muốn muội phải chịu ấm ức”.

Một lúc sau, Sính Đình khẽ đáp: “Đây là chủ ý của Vương gia, muội có thể làm gì? Thiếu gia cũng biết, Vương gia nhặt Sính Đình về, bao năm nay Vương gia đối xử với Sính Đình như con gái trong nhà. Vương gia đối với Sính Đình ân trọng như núi, Vương gia bảo Sính Đình làm thiếp của thiếu gia, chứ Vương gia muốn lấy mạng của Sính Đình, Sính Đình cũng cam lòng”.

“Thế năm xưa ai từng nói, phải tìm được một lang quân hợp ý, nếu không thà ở vậy suốt đời?” Nha đầu này thường ngày thông minh lanh lợi, sao hôm nay lại cố chấp thế này? Hà Hiệp nghe Sính Đình nói vậy thì bực mình thở dài, rồi đập bàn rầm rầm.

Hai người đang giằng co, Đông Chước thình lình chạy vào phòng, báo: “Thiếu gia mau đến tiền viện nhận vương lệnh. Sứ giả của Đại vương nói, cả Sính Đình cũng đi cùng”.

Hà Hiệp hết sức ngạc nhiên: “Vương lệnh thì có liên quan gì đến Sính Đình?”.

“Đừng hỏi nữa, đi rồi khắc biết.”

Ba người vội vã ra tiền viện.

Tiền viện giờ không còn náo nhiệt như ban nãy. Đêm đã khuya, khách khứa đến chúc mừng cũng về gần hết, chỉ còn lại những người đang say mềm, có vài người ngủ gục ngay trên bàn.

Một người ăn vận kiểu thị vệ của vương cung đang cầm vương lệnh đứng trong tiền viện. Thấy mấy người Hà Hiệp đi ra, tên thị vệ bèn cất giọng sang sảng: “Phụng vương lệnh Đại vương, triệu tiểu Kính An vương và Bạch Sính Đình cô nương vào cung”. Vừa đọc xong, sứ giả kia cười nói tiếp, “Mời tiểu Kính An vương mang theo thanh bảo kiếm Hắc Mạc mà hôm nay Đại vương ban thưởng. Điều này do Đại vương dặn dò trước khi nô tài đến đây”.

Hà Hiệp ngạc nhiên: “Muộn thế này rồi, Đại vương còn triệu chúng ta vào cung làm gì?”.

“Nô tài cũng mới biết việc này”, sứ giả cười ha ha nói, “Đêm nay sau khi Đại vương và Vương hậu dùng bữa, có nói vương phủ Kính An giờ này chắc rất náo nhiệt. Rồi, không biết Vương hậu bảo gì mà Đại vương lại nhắc đến kiếm thuật của tiểu Kính An vương, nói chuyện năm xưa cùng học hành, Đại vương hay được xem Tiểu vương gia luyện kiếm, uy vũ vô cùng. Còn cả chuyện cô nương Sính Đình bên cạnh Tiểu vương gia cũng là một diệu nhân khó thấy, thông tuệ chẳng ai bì kịp”.

“Đại vương đã quá khen ngợi chúng ta rồi.”

“Đúng thế, Đại vương khen ngợi cũng khiến Vương hậu cảm thấy tò mò, muốn tận mắt xem tiểu Kính An vương múa kiếm, còn muốn nghe Sính Đình cô nương gảy đàn. Tiểu vương gia cũng biết Đại vương yêu chiều Vương hậu thế nào rồi đấy, nên người đã hạ vương lệnh, triệu hai vị vào cung.” Sứ giả thêm một câu, “Đại vương còn bảo, tuy đêm đã khuya, nhưng lại đúng ngày trăng tròn, cũng là cơ hội để cùng thưởng nguyệt và ngắm mặt trời mọc”.

Hà Hiệp khẽ gật đầu: “Hóa ra là vậy”, rồi quay sang dặn dò Sính Đình: “Vương hậu muốn nghe muội đàn, muội nhớ mang theo cây đàn nhà ta nhé!”.

Sính Đình đi vào, không lâu sau ôm ra một cây đàn, và đeo thêm một tấm mạng che mặt.

Hà Hiệp đưa theo năm thị vệ, cùng Sính Đình và Đông Chước ra khỏi phủ. Họ không ngồi kiệu mà mỗi người một ngựa.

Những cửa hiệu hai bên đường đều đã đóng cửa, tối om, rõ ràng là mọi người đang chìm trong giấc ngủ say. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chân ngựa khua trên đường đá vang lên bản hòa ca lộp cộp, lộp cộp đều đặn.

Nhìn đoàn sứ giả chầm chậm đi cách mình một đoạn không xa, Sính Đình thúc ngựa lại gần Hà Hiệp, hạ giọng bảo: “Thiếu gia, Đại vương ra tay rồi”.

“Ta cũng cảm thấy không ổn”, Hà Hiệp quan sát đoàn người đằng trước, nói: “Muội nhìn xem, mấy thị vệ mà sứ giả đem theo đều là những cao thủ”.

“Đại vương muốn thiếu gia đem thanh bảo kiếm Hắc Mạc vào cung, nhưng trong vương lệnh lại không hề nhắc đến mà chỉ dặn sứ giả chuyển lời, rõ ràng có điều gì mờ ám.” Đám ngựa đang thong dong dạo bước dường như cũng cảm nhận được mối nguy đang rình rập trước mắt, tiếng bước chân bỗng trở nên bất an hơn. Sính Đình vội giữ chặt dây cương ghìm ngựa lại, nói: “Muội chỉ sợ Đại vương vin vào bảo kiếm Hắc Mạc để giá họa cho thiếu gia tự động mang kiếm vào cung với ý đồ mưu sát. Đến lúc đó, phục binh ào lên, chúng ta hết đường chối cãi”.

Hà Hiệp nhìn quanh bốn phía, nghiêng đầu bảo: “Con đường này cũng có phục binh, chỉ cần chúng ta có động tĩnh gì, bọn chúng sẽ xông ra ngay lập tức”.

Đang lo lắng giữ chặt dây cương, lại nghe hai người nói chuyện, Đông Chước xen vào: “Đúng thế, có sát khí”. Chẳng gì cũng bao lần theo Hà Hiệp chinh chiến, nên Đông Chước cũng có chút hiểu biết.

Mọi người của vương phủ đều nhất loạt tập trung tinh thần, cảnh giác nhìn quanh.

Chỗ này cách vương cung nửa chặng đường, nếu Đại vương thực sự muốn tiêu diệt, vào đến vương cung thì chỉ có con đường chết.

“Bây giờ nên làm thế nào?”, Hà Hiệp hỏi.

Sính Đình khẽ đáp: “Lúc nãy vào trong lấy đàn, muội đã nói với Vương gia về những lo lắng của chúng ta. Vương phủ người đông, xảy ra biến cố vẫn có thể ứng phó, nhân lúc trời còn tối mà chạy ra khỏi thành đô. Còn chúng ta…”. Bàn tay trắng mịn của nàng dần mở ra, để lộ bốn, năm viên bi sắt đen sì.

Đương nhiên Hà Hiệp biết đó là cái gì.

“Hay lắm!”, Hà Hiệp hạ giọng khen ngợi Sính Đình. Hai người nhìn nhau cười.

Sính Đình cao giọng gọi: “Vị công công phía trước xin dừng bước!”.

Sứ giả dẫn đường phía trước và đám thị vệ theo sau quả nhiên quay lại. Chọn được thời cơ thích hợp, Sính Đình vung tay một cái, chỉ nghe mấy tiếng đì đùng, cả con phố khói lửa ngút trời, cắt đôi hai đoàn người ngựa.

Xoẹt! Bảo kiếm Hắc Mạc được rút ra khỏi bao.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 5

“Đại vương bức hại công thần! Chúng ta xông lên!”, Đông Chước hét vang.

Quả nhiên không ngoài dự tính, nhóm người của Hà Hiệp vừa có động tĩnh, phục binh hai bên đường lập tức xông ra.

Chỉ trong chớp mắt, tiếng đuổi giết ầm trời.

“Giết!”

“Xông lên! Không được để tên nào chạy thoát.”

“Đại vương có lệnh, bắt sống Hà Hiệp và nữ tử kia!”

Sính Đình để ý thấy phục binh hai bên đường không nhiều, trong lòng cũng thở phào nhẹ nhõm.

Xem ra, Hà Túc nghĩ rằng chắc họ sẽ trúng kế, để bảo mật nên đã không điều động đại quân. Huống hồ, vương phủ Kính An nắm giữ đại quân bao nhiêu năm, nếu Hà Túc mang quân đội đến ám hại họ, chưa biết chừng tướng sĩ lại quay giáo, tiến về vương cung.

“Giết!”

Những người Hà Hiệp đưa theo, ngoài Sính Đình không biết võ công, còn lại đều là dũng sĩ đã chinh chiến hàng trăm trận. Khi nắm được thời cơ, họ có thể chiến thắng bất cứ ai. Sau một hồi đuổi giết, họ đã chọc thủng được vòng vây.

“Vương phủ Kính An tạo phản rồi!”

“Đại vương sát hại trung thần! Đại vương tàn sát trung thần!”

“Hà Hiệp ý đồ mưu phản!”

“Vương phủ Kính An bị giết hại rồi!”

Tiếng đuổi giết khắp nơi, máu chảy lênh láng, hai bên người ngựa vẫn không quên hô hào thúc giục mình xông lên.

Sính Đình không biết võ công, từ khi lâm trận, Hà Hiệp luôn giữ nàng phía sau, thỉnh thoảng lại tung ra một, hai viên bi sắt tạo lửa. Toàn thành đại loạn thì cơ hội để vương phủ Kính An rời khỏi thành đô càng lớn.

Khi hết bi sắt, cũng là lúc nhóm người của Hà Hiệp ra khỏi thành. Người nào người nấy ướt đẫm máu, Đông Chước còn bị trúng hai đao, may mà không quá nặng.

Ra khỏi thành, cuộc rượt đuổi cũng kết thúc. Trong đêm đen chỉ vẳng lại tiếng ngựa thở hồng hộc sau trận chiến.

Sính Đình nhìn về phía xa xa, rồi chỉ vào đám lửa cháy ngút trời trong thành, nói: “Thiếu gia xem, Đại vương bắt đầu ra tay với vương phủ rồi. Hy vọng Vương gia và mọi người bình an. Muội đoán Đại vương nghĩ sẽ bắt được chúng ta để giá họa, nên chắc cũng không nhiều người bao vây vương phủ”.

Nhìn theo ánh mắt Sính Đình về phía vương phủ, Hà Hiệp không yên tâm về phụ thân ở đó, bèn thúc ngựa quay đầu, nói: “Sính Đình, muội đợi ở ngoài thành, chúng ta sẽ vào làm cho cục diện rối thêm chút nữa, tiếp ứng phụ thân.”

Sính Đình tự hiểu mình không biết võ công, lúc này chỉ gây thêm gánh nặng cho thiếu gia, liền nhảy xuống ngựa đáp: “Vâng, thiếu gia, đến lúc bình minh, chúng ta gặp nhau ở ngọn đồi ngoài thành nhé.”

“Được!”, Hà Hiệp gật đầu đồng ý, rồi dẫn theo Đông Chước và mọi người xông vào thành.

Nhìn theo bóng dáng thiếu gia vốn thân thiết với mình như huynh trưởng dần khuất, Sính Đình thầm tính: Hà Túc tuy là đại vương, nhưng việc tàn sát trung thần thế này cũng chỉ dám dùng đến đám thân tín. Như vậy, trước khi trời sáng, trước khi giải quyết được cục diện này, thì đội quân của thành đô vẫn sẽ án binh bất động. Chỉ cần đội quân án binh bất động, những người tháo chạy của vương phủ Kính An sẽ không vấp phải sự ngăn cản quá lớn.

Còn việc sau khi trời sáng, Hà Túc sẽ gán cho họ tội danh gì để điều động đại quân truy sát, đã chẳng còn quan trọng nữa. Lúc đó, người của vương phủ Kính An đã trốn thoát rồi.

Suy đi tính lại, cảm thấy không thể xảy ra sai sót gì, Sính Đình mới yên tâm đi về nơi đã hẹn.

Ngọn đồi ấy cách thành hai dặm, bình thường cưỡi ngựa một lát là tới, giờ phải đi bộ chắc cũng vất vả.

Đi được một lúc, Sính Đình đã nhìn thấy ngọn đồi ẩn hiện phía sau chân trời trắng bạc xa xa. Nàng khẽ vuốt lại những sợi tóc lòa xòa bên tai, đang định bước tiếp thì nghe sau lưng có tiếng động lạ…

Ngoài cửa bỗng vang lên tiếng mèo kêu trong đêm, làm đứt đoạn dòng suy nghĩ của Sính Đình.

Nàng mở to đôi mắt đen nhánh, sáng lấp lánh, khẽ cất giọng trong như chuông bạc: “Con mèo đáng ghét này, ngày mai phải nghĩ cách trêu ngươi một trận mới được”. Nghĩ tới sự an nguy của những người thuộc vương phủ Kính An, hai lúm đồng tiền trên má nàng lại biến mất, khuôn mặt chìm trong ưu tư lo lắng.

“Làm thế nào đây?” Đêm khuya thanh vắng, nàng bước xuống giường, lần theo mép bàn, uống một cốc trà lạnh mà vẫn không sao xua nổi u sầu.

Nếu không bị bọn buôn người bắt đi, chắc giờ nàng vẫn đang ở cạnh thiếu gia, chứ đâu phải lo lắng thế này. Đông Chước hiếu động lại nghịch ngợm, mong rằng đừng khiến thiếu gia thêm phiền lòng.

Nếu ngày mai rời khỏi đây, nàng sẽ phải đi đâu tìm thiếu gia?

Tuy nàng thông minh nhưng vẫn còn ít tuổi. Nếu mất đi chỗ dựa, người ta luôn cảm thấy thế đơn lực mỏng. Bỗng nhiên, khuôn mặt anh tuấn của Đông Định Nam lại hiện ra trong đầu nàng, đôi mắt tinh nhanh sắc sảo, như có thể nhìn thấu hồn phách người đối diện.

“Có nên mời Đông công tử đến để hỏi dò tin tức?” Trong lòng vẫn nghi ngờ Đông Định Nam chính là Sở Bắc Tiệp, nàng bỗng thấy thấp thỏm chẳng yên, “Không may lộ tẩy…”

Trong đầu lại hiện lên hình ảnh của cây đàn cổ, tim nàng bất giác đập thình thịch, giống như lần đầu nhìn thấy nó. Nghĩ đến cách nói chuyện, kiến thức, cử chỉ cao quý và hào phóng của Đông Định Nam, khuôn mặt nàng đột nhiên nóng bừng.

Sính Đình khẽ giậm chân, sờ lên mặt, lẩm bẩm: “Sính Đình ngươi lại nghĩ lung tung gì thế? Bây giờ việc tìm thiếu gia quan trọng nhất!”. Cứ nghĩ lung tung như vậy, trời đã gần sáng.

Chải đầu rửa mặt xong, nàng vào phòng hầu hạ tiểu thư. Vừa nhìn thấy nàng, Hoa tiểu thư đã vỗ tay chê cười: “Tối qua còn chưa kịp ăn đã đi ngủ rồi, sao mắt lại thâm quầng thế kia? Theo ta thì ngươi đã nhung nhớ tình lang trọn một đêm rồi”.

Sính Đình quay lại nhìn vào gương, thấy rõ hai quầng thâm dưới mắt, khuôn mặt thoáng ửng hồng, bất mãn: “Tiểu thư nói linh tinh gì vậy? Tiểu thư còn thế, nô tỳ mặc kệ tiểu thư đấy”.

Ở vương phủ Kính An, nàng vẫn thường nói chuyện với thiếu gia như vậy, nên cũng không cảm thấy bất kính. Hoa tiểu thư vốn được mọi người cung kính quá, lại thành ra thích tính cách của Sính Đình, nên cố nhịn cười, khuyên giải: “Đừng giận. Ta hiểu mà, lần đầu tiên gặp chàng, ta cũng mất ngủ mấy đêm liền”.

Vốn chẳng nghĩ thế, nhưng Hoa tiểu thư nói vậy, trái tim Sính Đình cũng đập thình thịch. Mi mắt khẽ chớp, nàng nói nghiêm túc: “Để nô tỳ giúp tiểu thư chải đầu rửa mặt, nước sắp nguội hết rồi”.

“Không cần đâu, ngươi tay chân vụng về, ta tự làm lấy còn hơn.” Nói rồi, Hoa tiểu thư cầm khăn mặt đã vắt sẵn trên tay Sính Đình, “Ngươi đâu có biết hầu hạ người khác.”

“Nô tỳ không biết hầu hạ người khác ư?”, Sính Đình trợn tròn mắt. Từ nhỏ nàng đã hầu hạ thiếu gia khó tính ngang ngạnh, mà toàn được khen, chưa có ai nói một câu không hay về nàng. Cầm kỳ thi họa, thông minh lanh lợi, nói chuyện tâm giao, luận đàm việc lớn, thông hiểu ý người, ai so được với nàng? Lòng tự tôn của Sính Đình thực sự bị tổn thương, “Hôm trước chải đầu cho tiểu thư chẳng qua cũng chỉ làm đứt mấy sợi tóc thôi mà.”

“Chắc chắn từ trước đến giờ ngươi chưa hề chải đầu cho ai.”

Điều này thì Hoa tiểu thư đã đoán đúng. Ở vương phủ Kính An, Sính Đình có nha đầu riêng. Nàng hiếm khi chải đầu cho mình, chứ nói gì đến chải đầu cho người khác. Thỉnh thoảng hứng chí, thì nàng chải cho thiếu gia. Có đứt vài sợi tóc, có bị đau đầu, Hà Hiệp cũng chẳng lên tiếng.

Chải đầu xong, Hoa tiểu thư lại đòi học thêu. Được một lúc, mười đầu ngón tay thon thả của tiểu thư đã bị kim châm vài chỗ. Tiểu thư lại kêu trời than khổ, Sính Đình cũng chẳng biết làm sao: “Đã bảo học cái này phải chịu khổ mà tiểu thư vẫn muốn học. Lần nào cũng bảo nô tỳ dạy, rồi cứ học lại than thở. Sao tiểu thư phải tận tụy thế nhỉ?”

Hoa tiểu thư nũng nịu thở dài một hơi, rồi chống tay vào má, chán nản nhìn khung thêu, nói: “Có cách nào nữa chứ? Mỗi lúc nhớ chàng, ta lại muốn thêu tặng chàng thứ gì đó. Mỗi lúc tay đau, ta lại oán thán chàng. Tất cả đều tại chàng… Nhưng, ta vất vả thế này, mà chàng đâu có biết… Cứ nghĩ thế, ta thấy thật chua xót…”.

Sính Đình thầm nghĩ, vị tiểu thư này thật si tình, định cười, nhưng không cười nổi. Nàng cúi xuống, tập trung vào khung thêu trên tay, song bóng dáng Đông Định Nam lại hiện lên làm nàng rối trí. Trong lúc mơ màng, nàng bị mũi kim đâm mạnh vào tay.

“Ôi!”

Hoa tiểu thư vỗ tay, nghiêng đầu cười khúc khích: “Ngươi cũng bị kim đâm rồi kìa, ta còn nghĩ cây kim này thiên vị, sao cứ đâm mỗi mình ta”.

Hai người trò chuyện một lúc lâu, Sính Đình vẻ ngoài vẫn hăng hái, nhưng kỳ thực tâm trí nàng đang để tận đâu đâu. Nàng cứ ngỡ hôm nay Đông Định Nam sẽ đến, nhân đó nàng có thể hỏi dò về tin tức của thiếu gia. Nhưng mặt trời đã nghiêng về phía tây, mà chẳng thấy ai đến.

Nhìn bộ dạng sốt ruột của nàng, Hoa tiểu thư cười tủm tỉm, hóm hỉnh: “Đừng sốt ruột, nội trong ba ngày người ta sẽ đến. Nếu trong ba ngày không đến, chúng ta chẳng cần để ý đến hắn nữa”.

Hoa tiểu thư không hiểu được những suy nghĩ trong lòng Sính Đình, nên lúc nào cũng vui vẻ trêu đùa nàng.

Đêm xuống, hai người đang dùng điểm tâm trong phòng, Hoa quản gia vội vã bước tới, đứng ngoài cửa nói vọng vào: “Tiểu thư, có người cầu kiến”.

Sính Đình ngẩng phắt lên, Hoa tiểu thư cao giọng: “Mời vào”.

Buông rèm, tim Sính Đình loạn nhịp, cứ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa.

Không lâu sau, tiếng bước chân vững chãi truyền lại, ngoài cửa thoáng một bóng người cao lớn. Vừa bước vào, người đó liền cúi đầu về phía rèm hành lễ, rồi cất giọng sang sảng: “Bái kiến Hoa tiểu thư, tiểu nhân Sở Mạc Nhiên phụng mệnh chủ nhân đưa lễ vật tới”. Hóa ra không phải Đông Định Nam, mà là Sở Mạc Nhiên, thuộc hạ của chàng.

Như chậu lửa đang cháy đột ngột bị hắt một gáo nước lạnh, Sính Đình thất vọng vô cùng.

Sở Mạc Nhiên cười lễ độ: “Đây là món đồ trang trí đúc bằng đồng của Quy Lạc, tuy không thực sự quý hiếm, nhưng cũng là hàng thủ công khá tinh xảo”.

Sính Đình tinh mắt, nhìn qua khe hở của tấm rèm. Khi Sở Mạc Nhiên dâng lễ vật lên, nàng nhận ra đó chính là đồ trang trí bằng đồng vô cùng quý giá của Quy Lạc, là bức tượng đồng đã mất cách đây ba mươi năm do đích thân đại sư đồ đồng Lạc Tân làm ra.

Đây là bức tượng đồng thiếu nữ đang đàn hát giữa núi rừng, thần thái như thật, sinh động, vừa nhìn đã khiến người ta yêu thích. Chắc chắn Đông Định Nam muốn dùng thứ quý báu này để đổi lấy tài đàn của nàng.

Sính Đình vừa ngạc nhiên vì sự hào phóng của Đông Định Nam, vừa ngưỡng mộ tâm kế hơn người của chàng. Nhưng, nàng lại đáp trả bằng giọng điệu vô cùng lạnh lùng: “Lễ lớn thế này, ta đâu dám nhận. Hãy đem vật này về đi”.

Sở Mạc Nhiên rất đỗi ngạc nhiên: “Hoa tiểu thư, chủ nhân nhà ta…”

“Lần trước là cây đàn cổ, lần này là tượng đồng, thế lần sau sẽ là gì?”, giọng nói tựa tiếng ngọc rơi của Sính Đình vọng ra, “Nếu lấy vật đổi vật, ta chỉ là phận nữ nhi, đâu có gì đáng giá để tặng lại. Còn nếu muốn dùng những thứ này đánh đổi những cái khác, thì cũng không dễ đâu.”

Hoa tiểu thư bỗng nhiên thông minh khác thường, ngồi bên cạnh bồi thêm một câu: “Chỉ bảo thuộc hạ đưa lễ đến, mà chẳng thấy người đâu? Không chút thành tâm thành ý, chỉ khiến tiểu thư nhà ta thêm ảo não”. Nói xong, tiểu thư bụm miệng cố nhịn cười, cao giọng gọi: “Hoa quản gia, tiễn khách!”.

“Tiểu thư, xin nghe Mạc Nhiên giải thích, thực là…”

Hoa tiểu thư nhẫn tâm gạt phăng: “Không nghe, không nghe, nam nhân các người chỉ khiến nữ nhi đau lòng”. Chẳng biết có phải vị tiểu thư nghĩ đến tình lang của mình nay không thấy tung tích hay không mà trút giận luôn lên Sở Mạc Nhiên, cứ lớn tiếng gọi Hoa quản gia tiễn khách.

Sở Mạc Nhiên chưa có cơ hội giải thích, Hoa quản gia đã tới, chắp tay nói với người lạ mặt: “Mời khách nhân về cho, tiểu thư nhà tôi đã mệt nên muốn nghỉ ngơi. Khách nhân nhìn xem, trời cũng tối lắm rồi…”. Hoa quản gia vừa cúi người vừa nói, tiễn Sở Mạc Nhiên và cả bức tượng đồng ra khỏi Hoa phủ.

Kể từ khi theo Trấn Bắc vương, chưa bao giờ Sở Mạc Nhiên bị mất mặt như vậy. Nhưng biết đây là vị tiểu thư mà chủ nhân yêu quý nên hắn không dám thất lễ, đành quay về phủ Trấn Bắc vương tường thuật lại mọi việc từ đầu đến cuối với Sở Bắc Tiệp.

Sở Mạc Nhiên là người hiểu biết, nói xong sự việc thì cũng im bặt luôn, cung kính đặt trả bức tượng đồng lên bàn.

Sở Bắc Tiệp đang vùi đầu phê chuẩn công văn, lúc nghe xong thì cũng phê duyệt xong, chàng ngẩng đầu cười ha ha: “Không ngờ nàng lại có khí phách như vậy. Nếu nàng là nam nhân, chắc chắn ta sẽ kéo nàng về dưới trướng mình làm tướng quân, người như vậy có thể chỉ huy cả thiên binh vạn mã”. Cười một hồi, Sở Bắc Tiệp lim dim mắt bảo, “Kỳ phùng địch thủ, xem ra ta không thể khinh địch”.

Mạc Nhiên trầm ngâm, nói: “Một giai nhân như thế, dung mạo hơn người, tài nghệ vô song, hiểu nhiều biết rộng. Nếu Vương gia đem lòng yêu mến, chi bằng sớm mai giương cờ Trấn Bắc vương đến cửa cầu thân?”

“Không”, Sở Bắc Tiệp trầm giọng, “Nàng ấy không giống với phường oanh yến trong cung. Nàng là phượng hoàng, ta phải dùng lễ phượng hoàng để chinh phục”. Sở Bắc Tiệp đứng lên, khoác chiếc áo to rộng màu đen, “Đi, đi thể hiện thành ý của ta”.

“Bây giờ…?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 6

Đêm nay, Sính Đình lại không ngủ được, vô duyên vô cớ đuổi sứ giả của người ta về, chắc rằng ngày mai Đông Định Nam sẽ đến cửa cầu kiến.

Nếu người ta đến, trước tiên phải lựa lời hóa giải nộ khí, sau đó… tất nhiên sẽ tìm cách nói đến chủ đề vương phủ Kính An… Haizzz, đôi mắt đen thâm thúy của Đông Định Nam lại hiện ra quấy phá khiến lòng nàng bất an. Ngày mai nàng phải “giao chiến” với một nam nhân không rõ lai lịch, hơn nữa, người đó lại đang cuồng nhiệt theo đuổi nàng.

Theo đuổi cũng thế thôi, tuy Bạch Sính Đình nàng không phải mỹ nhân, nhưng khi còn ở vương phủ Kính An cũng có không ít người ái mộ.

Nhưng mà nam nhân này ngang ngược như vậy, ngang ngược một cách có tâm kế; tâm kế song chẳng hề xảo quyệt, ngược lại còn mang vẻ phóng khoáng khiến người ta không chán ghét.

“Sính Đình, ngươi lại nghĩ lung tung gì thế hả?”, nàng tựa người bên khung cửa, chau mày tự hỏi mình.

Ánh trăng bàng bạc rải ngoài cửa sổ. Đêm nay trăng thật tròn. Nàng khoác áo, ra ngoài ngắm trăng.

Cảnh giả sơn trong Hoa phủ thường ngày trông có vẻ tầm thường, lúc này được đẫm mình dưới ánh trăng, nó bỗng mang vẻ ung dung, trang nhã. Sính Đình ngẩng đầu nhìn trăng, đột nhiên thoáng thấy bóng người, nàng sợ hết hồn.

Trên tường, một bóng người cao lớn!

Có trộm!

Đang định la lên, thình lình cái bóng đó từ trên tường cao bay vèo về phía nàng như một con chim ưng. Còn chưa kịp phản ứng thì cả miệng lẫn mũi nàng đã bị bàn tay thô bạo giữ chặt, hơi thở nam nhân vấn vít quanh nàng.

“Đừng nói gì”, nam nhân trầm giọng ra lệnh.

Sính Đình ngước mắt nhìn lên, đúng là người ấy!

Sở Bắc Tiệp khẽ nói bên tai nàng: “Cô nương là thị nữ của Hoa tiểu thư ư? Tại hạ là Đông Định Nam, tại hạ không có ác ý, nên cô nương đừng lên tiếng”. Một tay Đông Định Nam giữ chặt nàng, tay kia vỗ vỗ vào thanh bảo kiếm đeo bên hông. Chàng nói năng nhã nhặn, Sính Đình cũng không cảm thấy chàng có ác ý gì.

Sính Đình gật đầu. Sở Bắc Tiệp lướt tới đôi mắt trong veo của nàng, biết nàng là người thông minh nên vội buông tay ra, gật đầu mỉm cười với nàng.

Sở Bắc Tiệp mắt sáng mày rậm, sống mũi cao thẳng, môi thoáng cười mà như không. Lần đầu tiên gần chàng như vậy, tim Sính Đình đập liên hồi, lại nghĩ đến sự ngưỡng mộ chàng thể hiện hôm đó, nàng bỗng cảm thấy ngọt ngào như mật ong.

Từ nhỏ, Sở Bắc Tiệp sống trong cung giữa bao nhiêu nữ nhi nên đã sớm quen với việc được người người ngưỡng mộ, chàng chẳng hề để ý đến việc này, hỏi: “Tiểu thư ngủ rồi à?”.

Sợ chàng nhận ra giọng mình, Sính Đình không dám lên tiếng, chỉ gật đầu.

Sở Bắc Tiệp thầm nghĩ: Dùng binh trước tiên phải tìm hiểu tình hình địch. Thị nữ hầu hạ bên cạnh giai nhân, chắc chắn biết sở thích của nàng. Chàng cười hỏi: “Tiểu thư nhà cô nương thích chơi đàn, chắc cô nương biết tài đàn của tiểu thư học từ ai chứ?”.

Sính Đình chỉ vào cổ họng mình, ậm ừ vài tiếng.

Sở Bắc Tiệp lập tức hiểu ra: “Hóa ra cô nương không nói được”. Không thể hỏi han tình hình của giai nhân, Sở Bắc Tiệp cũng chẳng lấy làm phiền mà bước tới bên phòng ngủ của Hoa tiểu thư, đứng im ở đó như nghe nghóng điều gì.

Rốt cuộc người này muốn làm gì? Sính Đình không tiện rời đi, đành bước theo, đứng cạnh Sở Bắc Tiệp.

Nàng rất muốn hỏi việc của tiểu Kính An vương hôm đó, nhưng lúc này nàng chỉ là thị nữ, lại bị “câm”, nên chỉ có thể lo suông thôi.

Sở Bắc Tiệp nhận ra nỗi lo lắng nơi mắt nàng, song lại hiểu nhầm hàm ý trong đó, nên trầm giọng nói: “Cô nương đừng lo lắng, ta không làm phiền tiểu thư nhà cô nương đâu. Ta chỉ giữ cửa cho phượng hoàng thân yêu thôi”.

Sính Đình giật mình. Đông Lâm có phong tục, khi sắp thành thân, nam nhân phải đứng giữ ngoài phòng ngủ của nữ nhân đúng ba đêm, thể hiện toàn tâm toàn ý bảo vệ người mình yêu thương. Đây là việc chỉ xảy ra ba ngày trước hôn lễ. Người này vừa sâu sắc vừa to gan, chưa có hôn ước mà dám vượt tường đến giữ cửa.

Sính Đình bỗng nghĩ đến việc mình luôn giấu giếm, lợi dụng chàng mà cảm thấy áy náy trong lòng. Hàng mi khẽ rủ, nàng tự nhủ: Chẳng qua mình cũng vì không có cách nào khác, nếu chàng biết mình là người của vương phủ Kính An, chưa biết chừng chàng còn ngay lập tức bắt mình tống vào đại lao ấy chứ.

“Cô nương đi ngủ đi”.

Sính Đình nhìn chàng, không đi không được, đi thì cảm thấy không nhẫn tâm. Hiếm có nam nhân nào lại chân tình đến mức này, nếu chẳng may ngày sau chàng phát hiện ra nữ tử mình đã thức cả đêm canh cửa không phải giai nhân trong lòng, thế thì…

“Đi đi, đi ngủ đi. Đây là việc nam nhân Đông Lâm nên làm”, Sở Bắc Tiệp hạ quyết tâm phải giành được trái tim giai nhân.

Sính Đình hết cách, đành cúi đầu về phòng.

Về đến phòng, Sính Đình sao ngủ được đây? Nàng nằm trên giường, năm lần bảy lượt trở mình, rồi tự nhủ rằng: Ta đâu bắt chàng phải canh cửa như thế? Việc này có liên quan gì đến ta? Nhưng một lúc sau, nàng lại cảm thấy mình thật bạc bẽo.

Nàng lặng lẽ trở dậy, đến bên cửa sổ xem tình hình.

Sở Bắc Tiệp vẫn đứng đó, ngẩng đầu ngắm trăng. Thân hình chàng cao lớn, khí thế hiên ngang dưới ánh trăng, chẳng khác nào thiên tướng hạ phàm.

Sính Đình ngắm nghía khuôn mặt đẹp như tạc của chàng. Sở Bắc Tiệp bất chợt cử động, Sính Đình vội thu mình lại như thỏ con, khuôn mặt nóng bừng.

Tay nàng đặt trên lồng ngực, trái tim như sắp nhảy vọt ra ngoài.

Ngồi xuống nghỉ ngơi đi, sao chàng không ngồi xuống?

Chàng ngốc, dù có đứng gác cả đêm, cũng đâu cần thành kính như thế? Chẳng lẽ lúc này lại có ai đến xem chàng đứng hay ngồi sao?

Sính Đình chỉ mong trời nhanh sáng… Trời sáng, chàng sẽ được nghỉ ngơi. Con người dù có đúc bằng gang bằng sắt cũng không thể chịu nổi sự giày vò này.

Tia sáng mờ mờ dần xuất hiện phía chân trời, Sính Đình vội vã quay người, định bước ra cửa.

Ai ngờ vừa quay người, nàng đã thấy đôi chân tê cứng, khẽ kêu lên một tiếng, cơ hồ như muốn ngã xuống đất.

Hóa ra Sở Bắc Tiệp cả đêm không ngủ, và nàng cũng đứng như thế suốt đêm cùng chàng.

“Thế này chẳng phải điên rồi sao?”, Sính Đình tự cười mình, rồi vịn tay vào tường đứng lên. Đợi cho khí huyết lưu thông, nàng mới mở cửa, đến bên Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp đứng cả đêm, nhưng thần thái vẫn chẳng hề thay đổi. Nghe tiếng bước chân tới gần, chàng quay lại và nhận ra người thị nữ câm hôm qua.

“Cô nương dậy sớm, để hầu hạ tiểu thư chải đầu rửa mặt ư?”

Sính Đình khẽ gật đầu.

Sở Bắc Tiệp vốn không để ý đến nàng nữa, nhưng quay đi rồi, chàng vẫn cảm thấy một ánh mắt ấm áp đang dõi theo sau lưng. Chàng học cao hiểu rộng, trước giờ chưa từng bị ánh mắt nữ nhi nào làm cho xao xuyến, vậy mà hôm nay bỗng thấy không tự tại trước ánh nhìn của nàng thị nữ bé nhỏ này. Chàng quay phắt lại, bắt gặp Sính Đình đang chăm chú nhìn mình.

Đôi mắt sáng long lanh, trong vắt.

Đôi mắt biết nói, vẻ chân thành trong suốt như dòng suối, nhưng nhìn kỹ, lại tựa hồ nước sâu. Muôn vàn tia sáng lấp lánh trong đôi mắt ấy, chỉ một ánh nhìn thôi cũng chất chứa bao điều muốn nói.

Sở Bắc Tiệp không kìm được cơn chấn động trong lòng: “Tiểu thư chắc rất thích cô nương. Cô nương có đôi mắt không ai sánh bằng”.

Sính Đình đang định nở nụ cười, Sở Bắc Tiệp lại nói tiếp: “Có một thị nữ như vậy, có thể tưởng tượng được Hoa tiểu thư là giai nhân thế nào”.

Nghe Sở Bắc Tiệp nói thế, Sính Đình cảm thấy như có ai cầm gậy phang mình một cái, nhưng vẫn giữ vẻ ấm áp thật thà trên khuôn mặt, cúi đầu bước vào phòng ngủ của Hoa tiểu thư.

Sính Đình đợi trong phòng ngủ gần một canh giờ, Hoa tiểu thư mới uể oải tỉnh giấc.

Giúp Hoa tiểu thư rửa mặt, chải đầu xong, Sính Đình vẫn chẳng nói lời nào.

Hoa tiểu thư ngạc nhiên: “Hôm nay ngươi sao thế?”.

“Nô tỳ không sao”. Sính Đình đang nghĩ, liệu có nên nói với tiểu thư chuyện Đông Định Nam đang đứng ngoài phòng tiểu thư giữ cửa cả đêm không, nhưng nói ra, thế nào Hoa tiểu thư cũng trêu nàng.

Nàng lo lắng cho thiếu gia, nên phải đề phòng người khác nhận ra thân phận của mình. Trong lòng đã không yên, lại buồn bã và áy náy, đã bị những cảm giác đó giày vò, tất nhiên nàng không muốn nhận thêm chê cười của Hoa tiểu thư nữa.

Cứ để người ấy đứng đó đi.

Bần thần một lúc lâu, Hoa tiểu thư và Sính Đình rời khỏi phòng ngủ. Sính Đình nhìn ra, không còn thấy bóng dáng Đông Định Nam đâu nữa.

“Nhìn gì thế? Vườn hôm nay đẹp hơn mọi ngày ư?”

Sính Đình cẩn thận ngó nghiêng bốn phía, đúng là không thấy Đông Định Nam đâu, rõ ràng chàng đã về rồi. Bất giác, trong lòng nàng tăng thêm vài phần cảm tình. Cứ ngỡ chàng đứng đó cả đêm, chí ít sáng nay cũng phải vô tình hay hữu ý mà thể hiện với tiểu thư chứ. Thật không ngờ, chàng chẳng hề có chút ý định khoe khoang, đến khi tiểu thư trở dậy lặng lẽ rời đi. Quả là phong độ của một trang nam tử.

Hoa tiểu thư từ phía sau đẩy nàng: “Đi thôi, ông chủ tiệm hoa hứa hôm nay sẽ đem đến cho chúng ta hai chậu mẫu đơn tím, ra tiền sảnh xem hoa đã đến chưa”.

Như đang suy nghĩ gì đó, đi được nửa đường, Sính Đình bỗng kêu lên một tiếng.

Hoa tiểu thư giật mình, vội hỏi: “Sao thế hả?”.

Ngộ nhỡ Đông Định Nam vẫn chưa rời khỏi, mà cứ đứng ở đây đến sáng, nay gặp nàng và tiểu thư ra tiền sảnh, ba người chạm mặt nhau… Chỉ cần cất tiếng, chẳng phải mọi chuyện sẽ bị bóc trần sao? Đông Định Nam biết giai nhân trong lòng chỉ là một thị nữ cũng không quan trọng bằng việc sau này nàng phải làm thế nào để thăm dò tin tức của thiếu gia. Nghĩ đến đây, Sính Đình sợ toát mồ hôi, tự trách bản thân suy nghĩ không chu đáo, và cũng thấy lạ vì tối qua sao nàng lại như vậy? Nàng không hề suy nghĩ đến việc lớn, mà cứ ngẩn ngơ đứng đó nhìn người ta cả đêm không ngủ.

Nhưng mà, nghĩ đến việc đứng cùng Đông Định Nam cả đêm, lòng nàng lại cảm thấy ngọt ngào.

Đến tối, tâm trạng lo lắng của Sính Đình đã hoàn toàn chuyển sang phẫn nộ. Một việc xảy ra ngoài dự tính của nàng. Đông Định Nam không tìm đến cầu kiến, sự cân nhắc đắn đo xem làm thế nào để hỏi được tin tức của thiếu gia đã hoàn toàn không có đất dụng võ.

Bữa tối trôi qua yên ắng lạ thường, ngay cả Hoa tiểu thư ồn ào vui vẻ cũng phát hiện ra vẻ bất thường của Sính Đình. Dùng bữa xong, Hoa tiểu thư không nói chuyện này chuyện nọ với nàng như mọi khi, mà để nàng về phòng nghỉ.

Hôm qua mất ngủ cả đêm, lúc này nàng rất mệt, song vẫn không sao ngủ được. Nàng mở to mắt nhìn xà gỗ trên trần nhà, trong lòng bỗng thấy xốn xang không nguyên cớ. Nàng trở dậy xuống giường, lặng lẽ đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài.

Quả nhiên, bên ngoài phòng ngủ Hoa tiểu thư lại xuất hiện bóng dáng cao lớn đó.

Tấm chân tình không màng đến thế tục, vẫn phóng khoáng, vẫn ngạo mạn như vậy. Sính Đình ngẩn ngơ đứng nhìn, mang theo chút si mê. Một lúc sau, nàng sực tỉnh, bỗng thấy không đành lòng.

Sáng sớm nay, sau khi trở về vương phủ Trấn Bắc, Sở Bắc Tiệp vào cung diện kiến vương huynh. Việc triều chính bộn bề nhưng chàng vẫn đến canh đêm ở phòng ngủ của Hoa tiểu thư. Bên tai chàng dường như đang văng vẳng tiếng đàn và giọng ca tuyệt mỹ của nàng. Thỉnh thoảng nhớ về những câu đối đáp hôm đó, chàng lại mỉm cười.

Thấy sau lưng như có tiếng bước chân, chàng quay lại: “Lại là cô nương?”.

Mi mắt khẽ cụp, Sính Đình mang cái ghế ra, đặt thêm đệm bên trên, rồi chỉ vào Sở Bắc Tiệp, sau đó chỉ vào ghế.

“Ta không mệt, không cần ngồi”.

Đôi mắt sáng nhất thế gian kia lại chăm chú nhìn chàng, lặng lẽ như dòng suối mát trong khe núi thấm vào gan ruột người ta. Sở Bắc Tiệp bỗng cảm thấy từ chối ý tốt của người ta như thế thật không nên chút nào.

Đôi mắt Sính Đình chất chứa bao ưu tư, lo lắng và nghi hoặc. Không ai có thể sử dụng đôi mắt biết nói này hơn nàng. Nàng lặng lẽ nhìn Sở Bắc Tiệp, cho đến khi chàng nói: “Được rồi, xin đa tạ”.

Nghe giọng nói của chàng, đôi mắt đáng yêu kia càng rạng rỡ, tựa hai viên dạ minh châu quý hiếm. Sở Bắc Tiệp nhìn vào đôi mắt Sính Đình, bỗng cảm thấy như cả người mình được ngâm trong nước nóng, khoan khoái lạ thường. Chàng bỗng nghĩ, ngồi xuống quả là một ý hay.

Thấy Sở Bắc Tiệp ngồi xuống, Sính Đình lặng lẽ quay đi.

Sở Bắc Tiệp ngơ ngẩn dõi theo bóng nàng. Thất thần hồi lâu, chợt nhớ ra mình đang canh giấc ngủ của phượng hoàng, chàng choàng tỉnh, lấy lại tinh thần.

Một lát sau, có tiếng bước chân vọng đến. Sở Bắc Tiệp lim dim đôi mắt, không hề quay đầu. Quả nhiên lại là Sính Đình. Nàng đặt cái đĩa bên cạnh Sở Bắc Tiệp, bên trong có một cốc nhỏ, một ấm trà nóng và cả một đĩa điểm tâm.

“Cô nương chu đáo quá”.

Loanh quanh mấy vòng trong bếp, Sính Đình đã làm được chút điểm tâm này. Nghe Sở Bắc Tiệp khen vậy, ý cười dần lộ trên khóe môi nàng, trong lòng lâng lâng vui sướng.

Dưới ánh trăng, Sở Bắc Tiệp bỗng ngẩn ngơ. Trước mặt chàng có phải một tuyệt thế giai nhân? Chàng nhìn lại, vẫn là thị nữ câm đó, đôi mắt đó, dung mạo tạm gọi là thanh tú đó, xét về nhan sắc, nàng chỉ thuộc hàng trung đẳng.

Chàng đã nhìn thấy tranh vẽ Hoa tiểu thư, đúng là một mỹ nhân.

Đứng dưới ánh trăng và trước cái nhìn của Sở Bắc Tiệp, nàng dường như ngây ngất. Khí phách thâm trầm chắc chắn của chàng đang tràn khắp Hoa phủ. Chàng ngồi đó, nhưng lại cao lớn hơn bất cứ ai. Phải chăng, đây chính là một trang nam tử hán thực thụ. Sính Đình nhìn trộm chàng, bỗng một giọng nói đáng ghét vang lên, nhắc nhở nàng đừng quên việc của thiếu gia.

Đúng thế, bây giờ mà hỏi thăm việc của thiếu gia, liệu chàng có trả lời không? Ánh trăng dịu dàng là thế, sắc mặt chàng dịu dàng là thế, chắc chàng sẽ trả lời nàng đôi ba câu.

Nhìn thêm lần nữa khuôn mặt kiên nghị của Sở Bắc Tiệp, Sính Đình bỗng choàng tỉnh. Không được, làm thế sao được? Người này tuyệt không phải phường dung tục dễ bị dụ dỗ bởi nữ sắc.

Trái tim loạn nhịp, nàng ghét thân phận của mình, thị nữ Sính Đình, kẻ lừa đảo Sính Đình. Nàng bỗng thấy bản thân bất lực tột cùng, đáng ghét tột cùng. Nghĩ thế, Sính Đình quay đi, để mặc ánh mắt chăm chú của Sở Bắc Tiệp phía sau, trở về phòng mình.

Nấp bên cửa sổ, Sính Đình lại đứng nhìn Sở Bắc Tiệp cả đêm.

Trời vừa sáng, Sở Bắc Tiệp đã biến mất không một dấu vết.

Thức liền hai đêm, bệnh ho chưa được chữa trị tận gốc của Sính Đình lại tái phát. Nàng sốt cao, đổ bệnh.

Biết nàng bệnh, Hoa tiểu thư vội sai người mời đại phu đến chữa trị, rồi an ủi: “Ngươi cứ nghỉ ngơi uống thuốc cho khỏe, chỗ ta sẽ có người khác hầu hạ. Nhớ là hôm nay không được ra khỏi giường”.

Sính Đình chìm trong hôn mê. Biết một mình trên đất khách, sức khỏe vô cùng quan trọng nên nàng ngoan ngoãn nghe lời Hoa tiểu thư, uống sạch bát thuốc đắng rồi say giấc nồng.

Khi nàng tỉnh dậy, trời đã tối.

Hoa tiểu thư vừa dùng xong bữa tối, liền qua thăm nàng: “Ngủ cả một ngày, ta thấy ngươi cũng đỡ hơn nhiều. Hôm nay, công tử Đông Định Nam của ngươi lại đến. Ta chẳng dám nói gì, sợ lộ chuyện nên đành giả vờ đau họng, đuổi hắn về rồi”.

Sính Đình “A” một tiếng, ngồi phắt dậy, mặt mũi âu sầu.

“Vội gì, nếu có ý với ngươi, hôm sau người ta sẽ lại đến”.

Lòng Sính Đình rất đỗi lo lắng, lại lỡ mất cơ hội hỏi thăm tin tức của thiếu gia rồi. Sự việc càng để lâu, không biết đến khi nào Sính Đình mới có thể trở về vương phủ Kính An đây. Cứ ở lại Hoa phủ thế này, mọi thứ càng rối lên, nàng sẽ không thể quản nổi bản thân mình.

Nàng như cảm thấy mình đang rơi xuống hố bùn, giãy giụa không được, im lặng cũng chẳng xong.

Hoa tiểu thư không hiểu những tâm sự của nàng, cứ ngỡ nàng ốm nên sinh ra nóng vội, bèn nhẫn nại khuyên nhủ nàng thêm một hai câu, rồi dặn dò thị nữ khác mang cơm và sắc thuốc cho nàng, sau đó rời đi.

Đêm đó, Sở Bắc Tiệp lại đến, đứng bất động ngoài phòng ngủ của Hoa tiểu thư. Chàng lắng nghe động tĩnh xung quanh, cảm giác người thị nữ câm dường như đang quẩn quanh bên mình, chàng muốn giữ lấy, nhưng chỉ tích tắc đã chẳng thấy đâu. Sở Bắc Tiệp rất không vừa lòng với bản thân. Chàng đến để giữ cửa cho phượng hoàng, cớ sao lại động lòng bởi một bóng hình khác? Chàng thật có lỗi với giai nhân trong tim, nỗi áy náy hiếm hoi xuất hiện bao trùm lấy chàng.

Nhưng, ánh mắt biết nói của thị nữ vẫn cứ lẩn quất trong đầu chàng.

Đôi mắt lặng lẽ, nói không thành tiếng.

Đúng là lại có tiếng bước chân, cảm giác mừng vui trong lòng Sở Bắc Tiệp như đang ngâm nga thành tiếng hát.

Chàng quay phắt lại, đang định nở nụ cười dịu dàng, sắc mặt bỗng thay đổi hẳn: “Sao thế?”.

Bước chân Sính Đình lảo đảo như sắp ngã. Sở Bắc Tiệp nhanh chóng nắm lấy cổ tay nàng, đỡ dậy.

Chạm tay, nóng hầm hập.

“Ốm?”, chàng hạ giọng hỏi.

Sính Đình bỗng vỡ òa trong lòng, dòng lệ ầng ậng nơi khóe mắt, như thể cô đơn bao ngày, nay mới được người chăm sóc. Nàng bị bệnh, Hoa quản gia và * Trần đã tốn không biết bao công sức an ủi nàng, nhưng họ đều không thể so được với từ vừa rồi của nam nhân đang ở cạnh nàng.

Chỉ từ ấy thôi cũng là quá đủ.

Nàng yếu mềm, đáng thương nhìn Sở Bắc Tiệp.

Ánh mắt đã nhìn thấu tâm can chàng. Chàng sắp quên phượng hoàng của mình.

“Phòng của cô nương ở đâu?”

Sính Đình bất giác gật đầu. Việc xảy ra sau đó suýt chút nữa khiến nàng lên tiếng. Nàng cắn chặt môi, cố không để lộ sơ hở.

Sở Bắc Tiệp nhẹ nhàng ôm ngang người nàng: “Đi nghỉ thôi. Muộn lắm rồi, còn ốm nữa, sao tiểu thư lại để mặc cô nương thế này?”. Chàng bước nhanh về phòng nàng, rồi đặt nàng lên giường.

Trước nay vẫn muốn sao làm vậy, không hề để ý đến lễ giáo thế gian, chàng vụng về đắp chăn cho Sính Đình, rồi đứng thẳng dậy.

“Ngủ đi”. Nhìn vẻ mệt mỏi trong đôi mắt mình yêu thương, chàng cảm thấy một thoáng thất thần, khó chịu, nên ngữ điệu chẳng khác gì khi ra lệnh với binh sĩ trên chiến trường.

Sính Đình cảm thấy rất đỗi yên tâm, bèn nghe lời chàng nhắm mắt, nhưng lúc sau, lại như lưu luyến mở mắt ra.

Đang định rời đi, Sở Bắc Tiệp phát hiện thấy “binh sĩ” không chịu nghe lời: “Nhắm mắt lại, ngủ đi”.

Sính Đình bỗng thấy hứng thú, giống như lúc nhỏ hay trêu đùa thiếu gia, thỉnh thoảng nàng lại làm trái lệnh. Trong lòng đột nhiên ngập tràn một niềm vui không nói được thành lời, nàng mở choàng mắt, lặng lẽ nhìn Sở Bắc Tiệp.

Bắt gặp ánh nhìn lặng lẽ của nàng, chân tay Sở Bắc Tiệp bỗng trở nên luống cuống, tim đập thình thịch, huyết quản sục sôi, cảm giác trước nay chưa từng có, vượt qua cả khí thế hào hùng khi đứng trước cảnh giết chóc trên chiến trường.

Chàng không phục, Trấn Bắc vương hô mưa gọi gió, từng trải qua bao trận chinh chiến, lúc này đây lại như một kẻ đang bị sợi dây thít lấy nơi sâu thẳm trong trái tim, khiến chàng ngạt thở.

Từ trên cao nhìn xuống, nữ nhân câm trên giường kia bỗng chốc trở thành một mỹ nhân. Sống mũi, khóe miệng nàng đã chẳng còn quan trọng nữa. Cốt cách tao nhã, tâm tình ẩn kín của nàng khiến người bên cạnh cũng mất đi chí khí.

“Nhắm mắt lại”, giọng Sở Bắc Tiệp đã khàn đi, “Ta ra ngoài đây”.

Sính Đình có chút thất vọng. Lần này, nàng ngoan ngoãn nhắm mắt.

Sở Bắc Tiệp là bậc chính nhân quân tử, chàng đã ra ngoài thật.

Lại là một đêm khó qua hơn đêm trước.

Sính Đình dần chìm vào giấc ngủ, mơ mơ màng màng đến tận trưa hôm sau.

Hoa tiểu thư thần bí bước vào, nói nhỏ bên tai nàng: “Ngươi biết Đông Định Nam là ai không?”.

Tim Sính Đình đập thình thịch.

“Ta nói cho ngươi biết, chính là Trấn Bắc vương của Đông Lâm chúng ta đấy! Hôm qua ta mới nhìn thấy tranh vẽ người này. Trời ơi, chính là Trấn Bắc vương danh tiếng lẫy lừng”.

Sính Đình thật sự chấn động, cố gắng lắm mới ngồi vững lại.

Trấn Bắc vương? Đông Định Nam, nam nhân đã giữ cửa ba đêm nay, nam nhân đã dịu dàng, nam nhân khiến cho tâm trí nàng chao đảo, lại là Trấn Bắc vương, vương gia của Đông Lâm, tướng quân giỏi nhất Đông Lâm, kẻ thù lớn nhất của Quy Lạc, đối thủ đáng sợ nhất của thiếu gia?

Hoa tiểu thư lại coi đó là kỳ ngộ, cảm thấy vui thay cho Sính Đình, bèn vui vẻ vỗ vai nàng, nói tiếp: “Tiểu Hồng, chúng ta giống như tỷ muội, ngươi nhất định phải giúp ta đấy nhé?”.

“Hả?”

“Việc này rất đơn giản. Ta đã sai Hoa quản gia gửi thư cho Trấn Bắc vương, nói rõ Hoa tiểu thư đã có hôn ước, không được tự do. Chỉ cần Trấn Bắc vương hủy được hôn sự này cho Hoa tiểu thư, mọi việc đều có thể thương lượng”, Hoa tiểu thư dương dương tự đắc: “Lần này thì cha không thể ép ta thành thân rồi… Đến khi hôn ước bị hủy bỏ, ta sẽ nói rõ mọi chuyện với Trấn Bắc vương. Ta sẽ tặng ngươi một món hồi môn hậu hĩnh. Đúng rồi, ta còn tặng ngươi cả áo cưới của ta nữa”.

Mới nghe được một nửa, Sính Đình đã sợ đến run người: “Tiểu thư… tiểu thư điên rồi sao? Trấn Bắc vương không dễ chọc giận đâu, còn lợi hại gấp mười lang quân tương lai của tiểu thư ấy. Nếu Trấn Bắc vương biết bị chúng ta lừa, Hoa phủ sẽ gặp chuyện!”. Vẫn chưa hoàn toàn bình phục, nàng nói không ra hơi, trước mắt như đầy đom đóm.

Hoa tiểu thư vẫn không để ý: “Trấn Bắc vương ngưỡng mộ ngươi như thế, tuy chưa biết thân phận thật sự và hình dáng của ngươi, nhưng ta nghĩ, đường đường là Trấn Bắc vương, người ta sẽ không để ý những thứ đó đâu!”.

“Không phải chuyện này!”, Sính Đình túm chặt tiểu thư: “Tiểu thư mau gọi Hoa quản gia lại, bức thư này tuyệt đối không thể gửi”.

Thấy Sính Đình kích động như vậy, Hoa tiểu thư bất giác cũng có chút sợ hãi, khẽ cúi đầu: “Nhưng Hoa quản gia đã về rồi, còn mang theo cả câu trả lời của Trấn Bắc vương”.

“Trả lời thế nào?”

“Trấn Bắc vương nói, ngày mai Hoa tiểu thư sẽ hoàn toàn tự do”.

“Ngày mai?!”

Thấy thần thái Sính Đình không bình thường, Hoa tiểu thư lè lưỡi: “Ta phải đi luyện đàn đây, ngày mai nói tiếp”, rồi đi luôn.

Ngẩn người hồi lâu, Sính Đình mới suy nghĩ lại được sự việc từ đầu đến cuối.

“Không thể nhắm mắt làm ngơ… Trấn Bắc vương, người này đúng là Trấn Bắc vương…”, trầm ngâm giây lát, ánh mắt bất chợt trở nên nhanh nhẹn, nàng đã quyết định xong, “Vẫn chưa tìm được thiếu gia, ta không thể vô duyên vô cớ bị trói chân ở đây. Hoa phủ… Hoa phủ tự cầu phúc cho mình đi”.

Nàng cố gắng xuống giường, thu dọn đồ đạc. Nhưng, nghĩ lại thấy Hoa phủ đối xử với mình không bạc, nàng cảm thấy thật không nhẫn tâm. Song, không nhẫn tâm cũng phải đi, nàng là người của Quy Lạc, kẻ thù của Đông Lâm, nếu để Trấn Bắc vương phát hiện ra, Hoa phủ sẽ càng thêm tội.

Nàng vội vã thu dọn đồ đạc, bước nhanh ra cổng phụ phía sau ít khi dùng đến, rời đi.

Ra khỏi Hoa phủ, đêm đầu tiên, nàng ngủ ở quán trọ. Dường như đã quen với việc thức đêm cùng Sở Bắc Tiệp, nàng không sao ngủ được, bao nhiêu suy nghĩ trào dâng, thiêu đốt nàng.

Cơn ho của nàng càng nặng và liên tục, cả người chẳng còn chút sức lực nào.

Ngày hôm sau, bệnh nàng nặng thêm, không thể ra khỏi cửa. Nàng hỏi thăm tiểu nhị tình hình bên ngoài. Trong thành cũng không có chuyện gì, sóng lặng gió ngừng.

Lại một đêm ho. Sáng ngày thứ ba, tiểu nhị mang nước lên, tiện miệng kể với nàng: “Đêm qua xảy ra chuyện lớn rồi. Không biết vì sao Hoa gia giàu có trong thành lại đắc tội với Trấn Bắc vương, bị chém đầu cả nhà”.

Toàn thân Sính Đình run rẩy, nàng không thể tin vào tai mình: “Sao, chém đầu cả nhà?”.

“Không biết chuyện gì khiến Trấn Bắc vương giận dữ như vậy”. Tiểu nhị thở dài, “Chắc Hoa gia đã làm việc gì xấu xa nên mới chuốc họa diệt vong như thế. Trấn Bắc vương là một vương gia tốt…”.

Sính Đình không còn nghe được những câu sau nữa. Nàng biết Sở Bắc Tiệp sẽ nổi cơn thịnh nộ, nhưng không ngờ đến mức này. Chém đầu toàn bộ Hoa phủ, bao nhiêu mạng người!

Hàng lông mày ngang ngược, những đường nét cương nghị của Sở Bắc Tiệp lại hiện lên trong đầu, nàng khẽ nhắm mắt… Nàng sớm đã biết không thể chọc giận nam nhân này. Một trang nam tử hùng tâm tráng trí, nhưng khi tàn sát cũng là một ma vương khát máu. Sính Đình đã từng chứng kiến sự tàn khốc vô tình của Trấn Bắc vương. Trên chiến trường, máu của binh sĩ Quy Lạc chảy thành sông, ngưng tụ dưới chân nam nhân ấy.

“Sở Bắc Tiệp muốn giết sạch cả Hoa phủ?” Trà kỷ, bình phong… mọi thứ trước mắt Sính Đình bỗng trở nên chao đảo. Nàng lắc đầu, lẩm bẩm: “Không thể nào…”

Nhưng, với quyền thế của Trấn Bắc vương ở Đông Lâm, đừng nói là giết sạch một Hoa phủ, chứ cả mười Hoa phủ, cũng chẳng ai dám hé răng.

Hoa lão gia, Hoa tiểu thư, Hoa quản gia, * Trần, Nhược Nhi, Từ Hoa… sẽ chìm trong biển máu. Sính Đình bỗng thấy lồng ngực bức bối, muốn nôn ra.

“Không được, ta không thể giương mắt ngồi nhìn”, nàng cố dậy, bước xuống giường.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 7

Vương phủ Trấn Bắc hôm nay còn yên tĩnh hơn ngày thường. Hai đội thị vệ nhìn thẳng, oai nghiêm đứng ngoài cổng lớn. Đám thị nữ trong phủ chỉ dám đi bằng ngón chân, ai có ngứa cổ, cũng phải vội vàng tránh thật xa khỏi chỗ Vương gia, rồi mới khẽ khàng ho vài tiếng.

Ngay cả Mạc Nhiên vẫn luôn ung dung trấn tĩnh là thế, lúc này cũng buông thõng hai tay đứng ngoài thư phòng, trán lấm tấm mồ hôi.

Sở Bắc Tiệp ngẩng lên sau đống công văn cao ngất: “Nóng lắm hả?”.

“Không nóng.”

“Lau mồ hôi đi.”

“Tuân lệnh.”

Sở Bắc Tiệp không hề giận dữ như Sính Đình tưởng tượng.

Hôm đó, sau khi giải trừ hôn ước cho Hoa tiểu thư, Sở Bắc Tiệp chuẩn bị cả buổi tối, rồi lại đến cầu kiến người trong mộng.

Hoa tiểu thư đã thẳng thắn nói rõ mọi chuyện. Sở Bắc Tiệp không hề đờ người kinh ngạc, cũng chẳng nổi giận đùng đùng, càng không rút đao khua trượng, mà chỉ đứng ngoài phòng Sính Đình hồi lâu, chẳng nói lời nào rồi rời đi.

Tưởng rằng mối hiểm nguy đã qua, Hoa tiểu thư còn ngây thơ cười nói với Hoa quản gia: “Ta không đoán nhầm đấy chứ? Trấn Bắc vương phóng khoáng độ lượng, lần này đúng là tiểu Hồng đã hồ đồ rồi”.

Trở về vương phủ, Sở Bắc Tiệp ngồi xuống, chậm rãi uống chén trà nóng. Mạc Nhiên đứng bên cạnh, không dám thở to, vì biết chủ nhân đang vô cùng tức giận.

Quả nhiên, uống hết và đặt chén trà xuống, Sở Bắc Tiệp thản nhiên giao phó: “Ngày mai khi mặt trời xuống núi, đưa toàn bộ người trong Hoa phủ đến trước cổng vương phủ chặt đầu”.

Thấy Sở Bắc Tiệp lên tiếng, Mạc Nhiên mới dám thở ra một hơi, lập tức nhận lệnh: “Tuân lệnh”.

“Gà chó không tha”, Sở Bắc Tiệp thêm vào bốn tiếng.

Giờ này, mặt trời đã xuống núi, cả Hoa phủ đang bị trói ngoặt tay ra sau, quỳ trước cổng vương phủ, tiếng than khóc ai oán, đao sắc kề cổ từng người, chỉ chờ mệnh lệnh của Vương gia.

“Vương gia…”, Mạc Nhiên nhìn sắc trời, cung kính: “Đã đến lúc rồi”.

“Đến lúc rồi sao?”, Sở Bắc Tiệp yên lặng lắng nghe động tĩnh bốn bề. Vẫn hoàn toàn tĩnh lặng, dường như điều chàng chờ đợi đã rơi vào hư không. Sắc mặt Sở Bắc Tiệp hoàn toàn thay đổi, tàn khốc lạnh lùng mang theo cả sự cuồng sát hiếm gặp thường ngày, Sở Bắc Tiệp cười gằn một tiếng: “Chém”.

Lời chưa dứt, bỗng cơn gió nhẹ thổi tới, lẫn trong đó là tiếng đàn du dương, vượt bức tường cao dày bao quanh vương phủ, ngang qua đám thị vệ đứng hiên ngang như núi, bay thẳng vào thư phòng đang mở toang cửa, đến bên tai Sở Bắc Tiệp.

“Có loạn thế, mới có anh hùng, có anh hùng, mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loạn làm sao…”

Du dương, thấp trầm, chính là khúc hát trong rèm hôm đó. Giọng hát mượt mà lay động lòng người, bỗng nhiên chất chứa vẻ lanh lợi nhàn nhã không sao kể hết…

“Có mê binh quyền, mới được thành danh; đã thành danh, không ngại dối lừa. Dùng binh không ngại dối lừa, không ngại dối lừa…”

Hòa theo giọng hát là tiếng đàn êm tai, lúc như dòng thác tuôn trào khiến những bông hoa nước bắn tung trên nền đất, lúc lại êm đềm như dòng suối chảy qua thảm cỏ xanh, lúc tựa đàn chim xoải cánh bay vút lên trời cao.

Khóe môi Sở Bắc Tiệp khẽ nhếch lên.

Sở Mạc Nhiên cũng nghe đến ngẩn ngơ, hồi lâu mới nhớ đến mệnh lệnh của Vương gia, đang định ra ngoài truyền lệnh thì nghe giọng Sở Bắc Tiệp vang lên sau lưng: “Tạm thời không chém Hoa gia. Ngươi ra mời cô nương chơi đàn vào vương phủ cho ta”.

“Tuân lệnh!”

Không lâu sau đó, Sở Bắc Tiệp lại được nhìn thấy đôi mắt đen vừa đáng yêu vừa đáng hận kia.

Lúc này, đôi mắt ấy đang tròn xoe nhìn chàng, không trốn tránh, cũng không khiêu khích, chẳng sợ hãi, cũng chẳng dương dương tự đắc. Sính Đình dịu dàng nhìn chàng, ngoan ngoãn hành lễ: “Bái kiến Vương gia”.

Giọng nói quá đỗi quen thuộc, giọng nói chàng đã nghe thấy sau tấm rèm hôm ấy, Sở Bắc Tiệp bất giác mím đôi môi mỏng của mình.

Chàng lim dim mắt, từ trên cao nhìn xuống nhi nữ gan to tày trời này: “Hôm nay ta cũng coi như là được mở mang tầm mắt. Ngươi vừa là tiểu thư, lại là thị nữ; đã bị câm, lại biết hát. Ngươi còn bản lĩnh gì nữa, hãy cho bản vương xem nốt đi”.

Sự nguy hiểm ẩn chứa sau lời nói mạnh mẽ kia đang bủa vây lấy Sính Đình. Đối diện với Sở Bắc Tiệp không giận mà uy, ngay cả những chiến sĩ dũng mãnh nhất cũng cảm thấy run rẩy.

Sính Đình vẫn mỉm cười, cộng thêm chút ấm ức, khẽ hỏi: “Vương gia giận sao?”.

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng hừ một tiếng, không đáp trả mà hỏi lại: “Ngươi đã biết dùng binh không ngại dối lừa, dối thành tất thắng, dối không thành tất bại?”.

“Thành làm vua, bại làm giặc”, Sính Đình không cười nữa, than thở: “Đã vậy, chỉ còn cách xin Vương gia xử tội”. Nói xong, nàng xách váy cúi đầu quỳ xuống y như thật.

Tay Sở Bắc Tiệp xoay xoay trấn ngọc trên bàn, nhướng mày cười mà như không ngay trên đầu nàng. “Ta biết mục đích của ngươi là gì. Trong lúc nguy nan không đành lòng bỏ mặc Hoa gia, cũng coi như người có chút lương tâm. Được, ta tạm thời bỏ qua cho Hoa gia, có điều…”, ngừng lại một chút, Sở Bắc Tiệp lạnh lùng nói tiếp, “Ngươi phải ở lại vương phủ”.

“Ở lại vương phủ hầu hạ Vương gia?”

Sở Bắc Tiệp châm biếm: “Không lẽ ngươi còn muốn làm vương phi?”.

Người bên dưới không nói gì thêm, chậm rãi hành lễ.

Tiểu Hồng, nàng tên tiểu Hồng. Nhưng cái tên ấy không hề hay ho như con người nàng.

Vậy là, vô duyên vô cớ Sở Bắc Tiệp lại thêm cho mình một thị nữ, và cũng mơ hồ có thêm một mong muốn không nói thành lời, giống như được thưởng thức món ăn ngon ngàn năm hiếm thấy, lòng xao xuyến nhưng lại chẳng nỡ đưa lên miệng.

Tiểu Hồng mạo phạm Trấn Bắc vương, bị Trấn Bắc vương giữ trong vương phủ, và cứ thế nàng bị ném vào căn phòng nhỏ tối tăm của vương phủ, hai ngày liền không có ai hỏi đến.

Sở Bắc Tiệp muốn triệu nàng tới, nhưng không biết tại sao lại cố kiềm chế bản thân.

Chàng không phải thánh nhân, tất nhiên cũng biết tức giận. Đêm khuya thanh vắng, lại nghĩ đường đường là một Vương gia mà bị thị nữ kia quay như chong chóng, còn đứng bên ngoài phòng ngủ của một nữ nhi khác đúng ba đêm, lòng tự tôn của một đấng nam nhi lại bị đánh cho tơi bời. Mỗi lần nghĩ tới đây, chàng cứ nghiến răng kèn kẹt, hai tay nắm chặt, chỉ muốn trói ngay nữ tử đáng ghét kia lại, ném vào đại lao, ném vào rừng sâu đầy dã thú, hoặc ném xuống vực thẳm.

“Người đâu?”

“Có! Vương gia có gì dặn dò?”

Mạc Nhiên ngay lập tức xuất hiện sau cánh cửa, Sở Bắc Tiệp bỗng thấy bình tĩnh hơn.

Không, chàng không muốn dễ dàng giết chết nàng. Nữ nhân đó phải sống cả đời trong vương phủ để chịu tội. Khi rảnh rỗi, chàng sẽ đến chơi đùa nàng, để nàng khóc lóc xin tha.

Đêm thứ hai, Sở Bắc Tiệp đang suy tính làm thế nào để báo thù Sính Đình, thì nàng đã ngã bệnh.

“Bệnh?” Ánh mắt sắc sảo của Sở Bắc Tiệp quét qua khuôn mặt Mạc Nhiên, cười gằn, “Lại một chiêu dùng binh không ngại dối lừa?”.

Mạc Nhiên thật thà: “Thuộc hạ cũng nghi ngờ nàng ta giả bệnh, nhưng đại phu đã đích thân bắt mạch, đúng là bệnh không hề nhẹ”.

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp thoáng tia ngạc nhiên, trầm ngâm hỏi: “Bệnh gì?”.

“Bệnh cũ tái phát, ho rất nặng, người cũng mê man”.

Sở Bắc Tiệp nghĩ lại đêm đó, đúng là nàng ốm thật, chính chàng đã đưa nàng về phòng, cái chạm tay nóng rẫy như vừa mới đây. Chàng vẫn nhớ rõ khuôn mặt nàng lúc nhắm mắt nằm trên giường, ngoan ngoãn và ngọt ngào. Trong khoảnh khắc dưới ánh trăng, chàng còn ngỡ mình đã nhìn thấy tuyệt thế giai nhân.

“Vương gia… có muốn đi thăm không?”

Ánh mắt sắc như dao dừng lại trên đầu Mạc Nhiên, Mạc Nhiên vội lùi một bước, cúi đầu: “Thuộc hạ, chỉ là… chỉ là nghĩ…”.

Sở Bắc Tiệp thu lại ánh mắt, quay trở về bàn, cầm tập công văn, tập trung vào đó. Hồi sau, chàng mới thong thả nói: “Mời đại phu nào?”.

“Trần Quan Chi”.

“Một thị nữ mà cần đến đại phu tốt thế sao?”

Bao năm nay làm việc cho Sở Bắc Tiệp, rất hiếm khi bị trách cứ, nên lần này mặt mũi Mạc Nhiên trắng bệch: “Thuộc hạ sẽ lập tức đổi…”

“Không cần”. Sở Bắc Tiệp cầm bút lên, phê hai hàng rồng bay phượng múa trên công văn, rồi như bình tĩnh hơn, “Đã mời rồi thì không cần phiền phức nữa”.

“Vâng”.

“Đã dùng thuốc chưa?”

“Đã bốc theo đơn thuốc của Trần Quan Chi, đang sắc rồi.”

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng bảo: “Mạo phạm bản vương, còn cần người mời đại phu sắc thuốc, cũng coi như nàng ta biết ốm đúng lúc. Đáng tiếc, bản vương lại là tướng quan nhuộm máu trên sa trường, chứ không phải công tử thích phong hoa tuyết nguyệt. Khi nào nàng ta tỉnh, ngươi hãy nói rằng, ở vương phủ của ta phải bớt tác oai tác quái đi”.

Nghe chủ nhân buông lời ngang ngược như vậy, Mạc Nhiên không dám nói thêm gì, chỉ cúi đầu, đáp: “Vâng”.

Sở Bắc Tiệp lại vùi đầu vào đống công văn. Như chợt nhớ ra điều gì, chàng dặn dò Sở Mạc Nhiên đang ra khỏi thư phòng: “Lần trước Đại vương thưởng hai hộp thuốc Ngọc mai thiên hương, tiện thể mang cho nàng ta. Vương phủ chẳng có ai là nữ, để ở đây cũng chỉ để đó mà thôi”.



Mạc Nhiên vâng dạ vài tiếng, Sở Bắc Tiệp không nói thêm gì, tiếp tục đọc công văn.

Sính Đình ốm thật. Nàng vốn khỏe mạnh, chỉ vì lần trước xuất chinh bị nhiễm phong hàn không được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, rồi lại xảy ra bao nhiêu việc, nên nàng ngày càng yếu thêm. Hôm đó, nàng cố chịu cơn bệnh tìm đến vương phủ Trấn Bắc để cứu Hoa gia. Nói được đôi ba câu với Sở Bắc Tiệp, nàng đã toát mồ hôi đứng không vững.

Mạc Nhiên phụ trách thu xếp cho Sính Đình. Vì không nhìn thấu tâm ý Vương gia, nên hắn không dám đối xử quá tốt với nàng, cũng chẳng dám đối xử quá tồi. Suy tính hồi lâu, Mạc Nhiên quyết định chuyển Sính Đình sang một phòng nhỏ yên tĩnh trong vương phủ.

Hằng ngày Mạc Nhiên đều bẩm báo bệnh tình của Sính Đình với Sở Bắc Tiệp: “Hôm nay tiểu Hồng cô nương vẫn chóng mặt”.

“Hôm nay tiểu Hồng cô nương đã ăn được ít cháo”.

“Tối qua tiểu Hồng cô nương đã bớt ho, nhưng sáng nay lại nóng hơn”.

Sở Bắc Tiệp nghe rồi, không nói một lời, giống như chưa từng nghe thấy.

Năm ngày sau, Mạc Nhiên lại đến báo. Không hiểu tại sao Sở Bắc Tiệp lại cảm thấy khó chịu. Vừa nghe Mạc Nhiên nói đến câu “Tiểu Hồng cô nương hôm nay vẫn ho”, chàng bỗng nổi cơn thịnh nộ, chau mày: “Hừ, sao vẫn còn ho? Chẳng phải đã dùng đến viên Ngọc mai thiên hương rồi sao? Trần Quan Chi cũng thật vô dụng, chữa cho một nữ tử cũng không xong!”.

Mạc Nhiên giật mình, hôm sau không còn tùy tiện bẩm báo nữa, mà chỉ nói xa gần: “Đã đỡ ho một chút, mấy hôm nữa có thể đi lại được”.

“Mấy hôm?”

Không ngờ Sở Bắc Tiệp đang vùi đầu vào đống công văn lại ngẩng lên hỏi như thế, Sở Mạc Nhiên trả lời không chắc chắn: “Chắn khoảng… mười ngày”.

Sở Bắc Tiệp ậm ừ vài tiếng, không tỏ thái độ gì.

Đến ngày thứ mười, Mạc Nhiên tới bẩm báo bệnh tình của Sính Đình. Chưa kịp nói gì, Sở Bắc Tiệp đã đứng phắt lên, hất hàm: “Đi, đi xem khổ nhục kế của nàng ta đã kết thúc được chưa”. Quả nhiên, Sở Bắc Tiệp rời khỏi thư phòng, tiến thẳng về căn phòng nhỏ của Sính Đình.

Căn phòng nhỏ có một khoảnh sân, bên ngoài nghiêng nghiêng vài khóm hoa màu hồng không rõ tên.

Đến cửa, Sở Bắc Tiệp bỗng dừng bước, suy nghĩ một lát rồi lặng lẽ đến bên cửa sổ. Tiếng trò chuyện trong phòng vọng ra, chàng nghe thấy giọng nói vô cùng quen thuộc.

“Còn có gì khác nữa không?”

“Nhiều lắm”, tiếng trả lời từ tốn xen lẫn ý cười, “Ví như xương hầm, trước tiên chặt ngang xương, để lộ phần tủy, nhưng đừng chặt đứt, sau đó dùng tế thái ( Tên một loại cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu) , đậu phụ dày trăm lá ( Một loại đậu phụ dày gồm nhiều lớp mỏng như lá xếp chồng lên nhau, gọi là đậu phụ trăm lá hoặc đậu phụ ngàn lá) phủ lên trên, để hương vị thấm dần vào xương. Lúc nấu, xào hồng cành thiên, tỏa dương, sả với dầu, xào xong cho vào nước canh, cho xương vào, đến khi canh cạn còn một nửa thì cho ngó sen tươi và cà rốt cắt miếng nhỏ vào, đậy vung rồi hầm nhừ”.

“Ta làm đầu bếp bao nhiêu năm rồi, vậy mà chưa từng nghe thấy cách làm này. Chà chà, mới nghe thôi đã thấy đói rồi”.

Sở Bắc Tiệp đứng nghe một hồi, toàn những tuyệt chiêu nấu nướng, trong đó có nhiều cách chàng chưa từng nghe thấy.

Hôm nay tinh thần khá hơn một chút, Sính Đình mải miết nói chuyện nấu nướng với * Trương hằng ngày vẫn mang thuốc đến. Trong lúc hứng chí, nàng đã liệt kê hết những món mình biết. Đang nói đến món dưa, căn phòng bỗng tối om vì bị bóng dáng người ngoài cửa che mất tám, chín phần ánh nắng. Ngẩng đầu lên, nàng thấy gương mặt anh tuấn nhưng nghiêm túc và lạnh lùng.

“Vương gia…”, * Trương gần như nhảy từ trên giường xuống, luống cuống hành lễ.

Sở Bắc Tiệp không hề nhìn * Trương, ánh mắt dừng trên khuôn mặt vẫn chưa hoàn toàn bình phục của Sính Đình.

* Trương lẩm bẩm: “Nô tỳ phải về phòng đây”, rồi nhanh chóng thu dọn bát thuốc nàng đã uống xong, cẩn thận lùi ra cửa phòng, suýt chút nữa còn vấp ngã ngoài cửa.

Gian phòng nhỏ bớt đi một người lại càng thêm yên ắng, như thể luồng không khí lạnh bỗng dưng trồi từ lòng đất lên. Khuôn mặt cương nghị như đao khắc không chút biểu cảm, ánh mắt Sở Bắc Tiệp băng giá tựa mùa đông lạnh lẽo.

Nhìn vào ánh mắt đó, trái tim Sính Đình đập thình thịch, liền vội vàng cúi đầu che đi cảm xúc ấy.

“Vương gia đến ạ?”, nàng lần theo mép giường, quỳ xuống hành lễ, “Vương gia an khang”.

Sở Bắc Tiệp khoanh hai tay trước ngực, đôi mắt sâu nhìn nàng hồi lâu, rồi đùa cợt bằng giọng điệu tà ma mà giới vương tôn quý tộc vẫn quen dùng: “Nghe nói ngươi bệnh?”.

Sính Đình cứ ngỡ nàng đổ bệnh, Sở Bắc Tiệp sẽ niệm tình cũ mà ít nhiều đối xử tốt hơn với nàng. Như thế, nàng sẽ dần hóa giải oán hận trong chàng, rồi tìm cơ hội hỏi dò tin tức của thiếu gia, sau này mới có cơ hội trốn thoát. Ai ngờ nàng bệnh mười ngày, Sở Bắc Tiệp vẫn không nghe, không hỏi. Nàng giả vờ chẳng để ý, nhưng luôn tự cười mình: “Ngươi đâu phải mỹ nhân, bây giờ Vương gia đã rõ mặt thật của ngươi, còn đâu chỗ để dùng mỹ nhân kế, khổ nhục kế nữa?”, trong lòng vẫn râm ran đau và chua xót.

Hôm nay gặp Sở Bắc Tiệp, nàng biết rõ mình không thể ảo tưởng được nữa. Nghe cái giọng băng giá này, nàng bỗng nhớ đến tiếng chàng hỏi đêm hôm ấy ở Hoa phủ: “Ốm?”. Chàng còn ôm ngang lưng nàng, đưa về phòng, ép nàng nhắm mắt ngủ, vừa thân thiết vừa ngang ngược.

Trong chốc lát, bao nỗi niềm chua xót, đắng cay kể từ khi phân ly với thiếu gia, bao gian nan uất ức cũng trỗi dậy, đôi mắt không nghe lời của nàng cứ thế trào ra hai hàng lệ long lanh như thủy tinh.

Sở Bắc Tiệp từ trên cao nhìn xuống hỏi một câu, chờ mãi chẳng thấy nàng trả lời, nộ khí lại trào dâng. Đang định giáo huấn nữ nhân kia, nhưng vừa cúi xuống đã thấy hai vai Sính Đình run run. Khẽ khom người, ngón tay chàng nâng khuôn mặt mềm mại của nàng lên, hai con mắt đỏ hoe cùng khuôn mặt thấm đẫm nước mắt lập tức xuất hiện. Hóa ra, người quỳ trên đất kia đã khóc không thành tiếng bao lâu rồi.

“Khóc cái gì?”, chàng chau mày, “Nín ngay cho bản vương”.

Sính Đình không cố ý rơi nước mắt trước mặt Trấn Bắc vương. Nàng đành cắn chặt môi để ngăn những giọt lệ, muốn đứng dậy, nhưng đôi chân rã rời, bàn tay chống bên thành giường đang run rẩy.

Nhìn một lúc, Sở Bắc Tiệp sầm mặt, nắm lấy cánh tay nàng, đỡ nàng dậy, trầm giọng nói: “Đừng cố, giờ bản vương cho phép ngươi khóc”.

Đôi đồng tử đang bị che đi bởi những giọt lệ nhìn về phía Sở Bắc Tiệp, sau đó quay đầu đi, cắn chặt môi, rơi nước mắt.

Cảm giác bị người khác khiêu khích khiến Sở Bắc Tiệp khó chịu. Chàng túm cằm Sính Đình, ép nàng nhìn mình, rồi hạ giọng: “Ngươi còn khóc, bản vương sẽ diệt sạch Hoa phủ”.

Nhìn ánh mắt uy hiếp của Sở Bắc Tiệp, Sính Đình biết chàng không nói chơi. Trong lòng Trấn Bắc vương, Hoa phủ có đáng gì?

Nàng cắn chặt môi dưới đến bật máu, đôi mắt đen quật cường. Tới khi Sở Bắc Tiệp bị khiêu khích trợn mắt lên, nàng mới đưa tay gạt nước mắt, gương mặt thanh tú quật cường nhìn thẳng vào ánh mắt thiêu đốt của chàng.

Sính Đình không biết rằng, thần thái của nàng lúc đó thực sự khiến người khác rung động, ngay cả Sở Bắc Tiệp cũng cảm thấy trong lòng mình run rẩy.

“Nước mắt nữ nhi, ta đã gặp nhiều rồi, vô dụng thôi”. Giọng thấp trầm và cả thân hình Sở Bắc Tiệp bỗng tiến sát tới, kề sát ngay bên tai nàng, Sính Đình bất giác kinh hãi, muốn tránh qua một bên.

Chàng giơ tay kéo lại, nhẹ nhàng ngăn hành động của nàng: “Ngồi xuống cho ta”, rồi ấn nàng ngồi xuống lòng mình.

“A…”

“Ngồi yên, cẩn thận không ngã xuống đất.” Ngửi thấy mùi hương lạ trên người nàng, thấy cổ nàng đang đỏ rần, Sở Bắc Tiệp bỗng thoải mái hẳn, cố ý cọ vào má nàng, “Ngươi dùng hương gì thế?”.

Sính Đình vừa cuống vừa xấu hổ. Khí phách và hơi ấm nam nhân trên người Sở Bắc Tiệp đang bá chiếm toàn bộ cảm giác của nàng, ý thức tê dại và cảm giác bị sỉ nhục quấn quyện vào nhau. Nàng không thể giãy giụa, cánh tay mềm yếu đặt trên cơ thể vững chắc kia như không nỡ cự tuyệt. Thế là, Sính Đình dứt khoát chuyển ánh nhìn, thả lỏng người, ngoan ngoãn dựa vào lòng Sở Bắc Tiệp.

“Mùi hương này có thơm không?”, nàng cố tình kéo dài giọng, học theo thanh điệu của cô nương lầu xanh.

Nàng nói thay đổi liền thay đổi, khiến Sở Bắc Tiệp gần như không thể thích ứng kịp, cả người cứng đờ.

Nàng nở nụ cười ngọt ngào, ngẩng lên nhìn khuôn mặt anh tuấn: “Vương gia là người không gì không biết, chẳng lẽ lại chưa nghe qua Tứ phương thảo?”.

Ánh mắt Sở Bắc Tiệp như tia chớp, chiếu trên khuôn mặt tươi tắn của Sính Đình.

“Tứ phương thảo là loài kỳ độc trong thiên hạ, lá có bốn màu, vị thanh tân”, Sính Đình thong thả, “Đằng nào tiểu nữ cũng đắc tội với Vương gia, sống không được mà chết cũng chẳng xong, chi bằng chết luôn cho xong. Nếu chẳng may có ai bên cạnh ngửi phải, sợ rằng cũng phải chết cùng tiểu nữ”.

Chỉ một thị nữ nhỏ, lấy đâu ra thiên hạ kỳ độc? Sở Bắc Tiệp hoàn toàn không tin. Chàng nhìn vẻ ngây thơ của Sính Đình, đáng yêu vô cùng. Nàng thơm tho mềm mại trong lòng, khiến máu nóng trong người Sở Bắc Tiệp bốc lên, nhưng vẫn thủng thẳng nói: “Nếu đã là thiên hạ kỳ độc khó kiếm thì bản vương cũng phải thử xem”. Cánh tay dùng sức, ôm chặt lấy Sính Đình, chàng từ từ cúi xuống đôi môi hồng của nàng.

Hơi thở nóng bỏng phả trên khuôn mặt trắng bệch của nàng, khuôn mặt chiếm đoạt của chàng càng lúc càng gần.

Sính Đình chưa từng gặp những chuyện thế này, nàng bỗng trở nên luống cuống. Khoảnh khắc hoảng loạn ấy, nàng bật kêu: “Mạc Nhiên, mau đi báo với Đại vương, Trấn Bắc vương hôn ta rồi”.

Sở Bắc Tiệp sững người.

Bên ngoài bỗng ầm một tiếng. Mạc Nhiên vẫn luôn đứng ngoài cửa. Đã nghe những câu nàng đưa chàng đẩy khiến người ta ngại ngùng, Sính Đình lại kêu ầm lên như thế, Sở Mạc Nhiên bỗng sẩy chân đạp đổ cái ghế bên cạnh.

“Mau đi báo với Đại vương, Đại vương và Vương hậu nương nương đánh cuộc thắng rồi, Trấn Bắc vương hôn ta rồi!”.

Sự việc đột ngột, Sở Bắc Tiệp cho rằng mình bị người ta giăng bẫy, trong lúc không để ý đã thả lỏng cánh tay. Cơ thể đang bị ép chặt của Sính Đình được chút tự do. Nàng dùng hết sức lực của mình thoát khỏi cánh tay ấy, rồi chạy về phía góc giường, ngồi ôm gối cảnh giác nhìn Sở Bắc Tiệp.

Khi nàng giằng ra, Sở Bắc Tiệp biết mình lại trúng kế của nàng, mắt lim dim, hậm hực nói: “Lại lừa ta hả?”.

“Vương gia quyền thế bằng trời, chỉ cần vẫy tay một cái, biết bao mỹ nữ xúm quanh, hà tất phải khinh bạc một thị nữ?”.

“Mỹ nữ ta còn thả sức lực chọn, huống hồ thị nữ trong vương phủ của ta?”, Sở Bắc Tiệp ngoắt ngón tay, khuôn mặt nở nụ cười tà khí, “Lại đây”.

Lúc này, Sính Đình sợ thật, nhưng vẫn cố không để lộ nỗi sợ hãi, cười đáp: “Muốn tiểu Hồng hầu hạ thực ra không khó, chỉ cần Vương gia đánh cuộc với tiểu nữ. Nếu Vương gia thắng, tiểu Hồng xin nghe theo ý Vương gia. Không biết Vương gia có dám chấp nhận?”. Hồi nhỏ, vẫn hay chơi đùa với thiếu gia mấy trò này, lập tức nàng nghĩ ra ngay nên cuộc cái gì.

“Đánh cuộc?”, Sở Bắc Tiệp ra vẻ suy nghĩ, trầm ngâm giây lát, rồi cười ha hả, “Rõ ràng ngươi là người của bản vương, bản vương muốn người thì cần gì phải đánh cuộc?”. Nghe ý tứ rõ là lấy mạnh nạt yếu, Sính Đình bất giác kinh hoàng. Không ngờ Sở Bắc Tiệp lại đổi hướng: “Có điều, hôm nay bản vương tạm thời chưa muốn ngươi, đợi đến khi ngươi khỏi rồi hẵng hay”. Sở Bắc Tiệp nhìn Sính Đình, quay người bước ra khỏi phòng.

Đến lượt Sính Đình sững người.

Nhìn theo bóng dáng mạnh mẽ của Sở Bắc Tiệp dần khuất sau cánh cửa, Sính Đình lầm bầm: “Hỏng rồi, người này thật không dễ đối phó. Lùi để tiến, muốn bắt vờ thả, sẽ chẳng ai thoát khỏi bàn tay chàng”. Mặt nàng bất giác đỏ bừng, đỏ hơn cả ánh mặt trời đang thiêu đốt ngoài kia.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 8

Tĩnh dưỡng ba ngày, lúc nào Sính Đình cũng cảm thấy bất an.

Mấy khóm hoa màu hồng ngoài cửa sổ đang nở rộ, tranh giành chỗ đẹp nhất trong sân nhỏ. Sính Đình ngây người nhìn lướt qua khóm hoa, ánh mắt dừng lại bên những chiếc lá xanh không bắt mắt.

Đã ba ngày nay, Sở Bắc Tiệp không xuất hiện.

“Không đến cũng tốt…”

Ba ngày nay, nàng sợ tới sợ lui, sợ chàng đến, rồi lại sợ chàng hoàn toàn quên mất gian phòng nhỏ này. “Đợi đến khi ngươi khỏi rồi hẵng hay”.

Lời này rốt cuộc là ý gì... Nàng nghĩ ngợi sâu xa, cảm thấy như có con mèo đang cào cấu trái tim, khuôn mặt xấu hổ thẹn thùng. * Trương đưa thuốc đến cứ khen: “Tiểu Hồng cô nương, sắc mặt cô nương khá lên nhiều đấy, hồng hào lắm”.

Hôm đó, chưa đến giữa trưa, Mạc Nhiên bước vào, truyền lại lời của Sở Bắc Tiệp: “Khẩu vị Vương gia không tốt, cô nương làm một vài món, dâng lên Vương gia”.

Nấu ăn... Sính Đình cắn môi hồi lâu, rồi đi về phía nhà bếp.

Trước nay, muốn gì làm nấy, vậy mà Trấn Bắc vương đã phải chịu đựng ba ngày rồi. Hôm nay, chàng cảm thấy rất vui vẻ, dự định sẽ ở cùng thị nữ đáng yêu lanh lợi kia.

Tiểu Hồng không đẹp nhưng thật đặc biệt, đáng để chàng hao tâm tổn sức. Mỗi khi nghĩ tới từng cử chỉ của nàng, chàng lại bật cười. Chàng vốn là Vương gia, nàng chỉ là một thị nữ, nhưng nhớ đến ngôn ngữ, hành động của tiểu Hồng lúc đó, vấn đề thân phận của nàng cũng không phải quá quan trọng.

Hơn nữa, nàng đã ốm lâu như thế, coi như ông Trời đã trừng phạt nàng đủ rồi.

Sở Bắc Tiệp không phải người dễ dàng tha thứ cho người khác, nhưng nữ tử đa tài đa nghệ này là một ngoại lệ. Gió hôm nay mát lành kỳ lạ, chàng dự định sẽ ăn chút mỹ thực do tiểu Hồng làm; nghe tiếng đàn hiếm có khắp nhân gian và giọng ca buồn đau u uất của nàng; sau cùng, chàng sẽ dùng đến khí khái và sức hút mà Sở Bắc Tiệp tự hào nhất để cổ nàng càng đỏ hơn.

Một trái tim quen với chinh chiến tàn sát, nay bùng cháy lên dục vọng hưởng lạc dung tục của người đời, tất cả chỉ vì nữ tử không được coi là đẹp ấy. Khi uống chút canh Sính Đình đã phải mướt mồ hôi mang lên, nét cười trên khuôn mặt chàng đã hoàn toàn biến mất.

Sính Đình tỉ mỉ quan sát phản ứng của chàng.

“Chủ nhân của tiểu nữ chưa từng nếm thử đồ ăn do tiểu nữ làm”.

Sắc mặt Sở Bắc Tiệp vô cùng kỳ quái, gật đầu: “Chủ nhân của ngươi thật thông minh…” Chàng cố chịu đựng, rồi thật thà nói, “Canh rất khó nuốt”.

Khuôn mặt anh tuấn nhăn nhó, hoàn toàn khác với vẻ nghiêm túc điềm tĩnh thường ngày. Khi chuẩn bị đến gặp Sở Bắc Tiệp, Sính Đình còn cảnh giác, lo lắng không yên, nhưng giờ nhìn vẻ mặt chàng, nàng thấy thật thân thiết. Nàng bật cười khúc khích, lộ ra hai lúm đồng tiền xinh xắn.

Sở Bắc Tiệp than thở: “Hôm nay ta mới biết, người hiểu cách nấu ăn không hẳn đã biết nấu ăn”.

Sính Đình gật đầu: “Người hiểu binh pháp, cũng chưa chắc đã biết đánh trận”.

Câu này thật hợp ý Sở Bắc Tiệp. Chàng đập tay vào đùi, cười vang: “Nói rất có lý! Rất có lý!”. Ngẩng đầu cười một lúc, bỗng Sở Bắc Tiệp im bặt, đôi mắt đen nhìn Sính Đình chằm chằm, hạ giọng hỏi, “Bệnh đã khỏi hẳn chưa?”.

Giọng chàng đã khàn đặc, vô cùng mờ ám. Mùi hương tình ái dần dâng đầy căn phòng ngủ hoa lệ, Sính Đình nhạy cảm nhận thấy điều cấm kỵ, bất giác lùi ra sau một bước.

Không lùi thì thôi, vừa lùi, Sở Bắc Tiệp còn nhanh hơn nàng. Chàng không cần đứng dậy, chỉ giơ tay ra đã ôm trọn cái eo thon chưa đầy một vòng tay của nàng, ấn vào lòng mình.

Sính Đình khẽ kêu lên một tiếng, rồi ngã vào lồng ngực rắn chắc của Sở Bắc Tiệp. Ngẩng lên, ánh mắt hoảng hốt bắt gặp đôi mắt đen tình ý.

Chỉ cần một tay, Sở Bắc Tiệp cũng đủ khiến Sính Đình không thể cử động, miệng gần như cắn vào vành tai đỏ ửng của nàng, lễ độ hỏi như đang diễn kịch: “Nguy cơ kề cận, tiểu thư còn kế gì không?”.

Sính Đình cảm thấy tai mình bỗng ngứa ran, trái tim như nhảy vọt ra khỏi lồng ngực, có chút sợ hãi, nhưng vô duyên vô cớ vẫn muốn nở nụ cười ngọt ngào. Nàng không nhìn Sở Bắc Tiệp, cau mày đáp: “Tướng quân toàn thắng, bại tướng đã hàng, không lẽ còn muốn đuổi giết đến cùng?”.

Sở Bắc Tiệp không hề động lòng, lắc đầu nói: “Hàng đâu mà hàng, ta vẫn chưa nghe thấy khúc hàng ca”.

Da thịt chàng đã kề ngay bên cổ nàng, hơi nóng bao trùm, Sính Đình khẽ thu người lại trong lòng Sở Bắc Tiệp, giọng nói vô cùng đáng thương: “Tự cổ chỉ có khúc ca khải hoàn, lấy đâu ra khúc hàng ca?”.

“Nàng hát khúc đầu tiên, từ nay sẽ có”, Sở Bắc Tiệp mỉm cười uy hiếp, “Còn không hát, đừng trách bản vương đuổi giết tới cùng”, rồi làm ra vẻ như sắp hôn nàng đến nơi.

“Đừng…”, Sính Đình không biết làm thế nào, đối với người này, thất bại của nàng dường như do Trời định. Nàng chỉ còn cách cố trừng mắt nhìn chàng một cái, rồi thở dài cho bản thân.

Ở khoảng cách gần như vậy, Sở Bắc Tiệp như bị cái nhìn oán thán của nàng bắt mất hồn, không làm chủ được muốn đặt nụ hôn ngọt ngào lên môi người đang ôm trong lòng. Nhưng, chàng chưa kịp cúi đầu, Sính Đình đã khẽ khàng cất tiếng hát.

“Có yến bay, mới có tình cảm; có tình cảm, mới thành tương tư; vừa gặp đã vui, vừa gặp đã vui…”

Giọng ca mượt mà của Sính Đình thực có sức lay động lòng người. Sở Bắc Tiệp nhắm mắt lại, yên lặng lắng nghe, hồi lâu mới mở choàng mắt: “Từ nay trở đi, khi nàng hát, không cho phép người ngoài được nghe. Nếu không, sẽ khiến bao người phải luyến lưu, bao người phải thương nhớ”.

Nói xong, sắc mặt đang vui vẻ của chàng bỗng chuyển sang nghiêm túc, hạ giọng: “Một giai nhân thế này, không thể chỉ là nô bộc trong Hoa phủ. Rốt cuộc nàng là ai?”.

Lời nói tựa sét đánh ngang tai. Sính Đình bao lần xuất chinh theo thiếu gia, túc trí đa mưu, nhưng chưa từng giao chiến mặt đối mặt như vậy, huống hồ đối thủ của nàng lần này lại chính là Trấn Bắc vương danh tiếng lẫy lừng.

Sở Bắc Tiệp thấy sắc mặt nàng nhợt nhạt bỗng cảm thấy thật thương xót. Chàng nhẹ nhàng vén những sợi tóc mai của nàng, dịu dàng hỏi: “Nàng đừng sợ, chỉ cần nàng nói thật, bản vương sẽ bảo vệ nàng, không cho phép ai làm tổn thương đến nàng”.

Sính Đình cười khổ.

Nếu Sở Bắc Tiệp biết nàng là Bạch Sính Đình của vương phủ Kính An bên Quy Lạc quốc, biết nàng nghĩ kế nhấn chìm đoàn quân Trấn Bắc mà chàng vẫn tự hào, biết nàng có bao nhiêu bí mật lớn nhỏ của vương phủ Kính An, thậm chí là bí mật của cả vương triều Quy Lạc, thì e rằng, vấn đề không nằm ở chỗ Sở Bắc Tiệp có bảo vệ nàng hay không.

Hậu quả thật khiến người ta không dám tưởng tượng.

“Nói đi”. Đôi mắt biết nhìn thấu lòng người của Sở Bắc Tiệp không chịu buông tha nàng. “Dù nàng là ai, bản vương đều có thể giúp nàng…”

“Tiểu nữ…”

“Nói đi.”

Đôi mắt với hàng mi dài của Sính Đình nhìn Sở Bắc Tiệp buồn bã. Dưới cái nhìn động viên của Sở Bắc Tiệp, nàng hít một hơi thật sâu, chậm rãi đáp: “Tiểu nữ là cầm kỹ trong vương phủ của Đại vương Quy Lạc lúc người chưa lên ngôi”.

Sở Bắc Tiệp sững sờ.

“Tiểu Hồng vốn tên là Dương Phượng, từ nhỏ bị bán vào phủ vương tử, được vương phủ yêu quý vì có tài đàn hát. Mỗi khi ra vườn hoa uống rượu, Vương tử lại cho gọi tiểu nữ đến đánh đàn”.

“Dương Phượng?”, Sở Bắc Tiệp trầm ngâm, “Nếu đã như vậy, sao lại lưu lạc đến Hoa phủ?”.

Sính Đình nhắm mắt, khẽ thở dài: “Chẳng giấu gì Vương gia, tiểu nữ ở Quy Lạc cũng gọi là có chút tiếng tăm, lại được chủ nhân yêu quý, nên đã đắc tội với người khác. Cũng không biết kẻ nào đặt điều với Vương hậu, vu cho tiểu nữ tội bất kính, nên đại họa đã giáng xuống đầu. May mà trong vương cung cũng có vài người bạn tâm giao chịu ra tay cứu giúp, tiểu nữ mới có thể vội vàng trốn đi. Ai ngờ, họa vô đơn chí, tiểu nữ không may gặp phải bọn buôn người, bị bán đến Hoa phủ ở Đông Lâm, rồi ma xui quỷ khiến thế nào… lại gặp Vương gia”. Khuôn mặt xúc động, hai tròng mắt đỏ hoe, nàng vẫn cố mỉm cười nói, “Đúng là tạo hóa trêu đùa con người”.

Ánh mắt thâm trầm của Sở Bắc Tiệp khẽ lướt qua Sính Đình, nói: “Ta đoán không sai, chắc chắn nàng là người của cung đình hoặc danh gia vọng tộc”. Chàng hiểu rõ mọi chuyện trong cung, đương nhiên cũng hiểu rõ hiện thực mạng người như cỏ rác. Sở Bắc Tiệp dịu dàng nói với Sính Đình, “Nàng không phải lo, đừng nói là Vương hậu Quy Lạc, mà ngay cả Hà Túc thân chinh tới đây, cũng không thể làm gì được nàng”.

Nghe được sự chân thành trong giọng nói của chàng, Sính Đình thật hổ thẹn, tai nàng đỏ ửng, nhưng Sở Bắc Tiệp cứ ngỡ đó là cảm kích. Nàng cúi đầu, hành lễ với Sở Bắc Tiệp: “Đa tạ Vương gia”.

“Đứng dậy đi”. Sở Bắc Tiệp đỡ Sính Đình dậy. Bàn tay nàng trơn mềm như ngọc, thật ấm áp. Sở Bắc Tiệp nhìn mãi đôi bàn tay ấy, hạ giọng, “Đây mới đúng là bàn tay để đánh đàn”. Chàng cứ xuýt xoa khen mấy câu, mãi không chịu buông tay.

Sính Đình muốn trốn mà không được, như thể Sở Bắc Tiệp đang giữ cả trái tim nàng. Mặt nàng bỗng ửng đỏ, muốn rút tay ra nhưng không được, đành nhíu mày nhìn Sở Bắc Tiệp: “Vương gia…”, đột nhiên chạm phải ánh mắt cười như không của chàng, nàng càng thêm hoảng loạn.

Nhìn cho thỏa khuôn mặt ửng đỏ của Sính Đình, mãi sau Sở Bắc Tiệp mới chịu buông tay: “Lúc nãy đã nghe nàng ca, giờ ta muốn nghe nàng đánh đàn. Tiểu Hồng, không, Dương Phượng, nàng đàn cho ta nghe một khúc đi”. Sở Bắc Tiệp chỉ vào trong phòng, nơi một cây đàn cổ đang nằm ngay ngắn trên bàn.

Sính Đình vâng lời, ngồi xuống, đúng là cây đàn cổ Phượng Đồng.

Tiếng đàn du dương cất lên…

Lần đầu trông thấy núi lạnh, tùng già mạnh mẽ, gió Bắc thét gào, cảnh tượng thê lương.

Dần dần, gió đã ngừng, tuyết lại đến, bay khắp không trung. Lạnh, nhưng thêm chút sinh khí. Tuyết chưa ngừng rơi, từ trong rừng tùng, những con thú nhỏ tỏa đi kiếm mồi, lanh lợi đáng yêu lục tìm quả rừng đã bị vùi dưới đám tuyết. Một lúc sau, đàn thú bỗng đứng yên bất động, như đang nghe ngóng gì, rồi bỗng chạy biến, không còn bóng dáng.

Vách núi tĩnh lặng trở lại.

Một lúc sau, từ xa vọng đến tiếng cười vui. Năm, bảy đứa trẻ nghịch ngợm hẹn nhau chơi đánh trận tuyết, bỗng chốc, những quả cầu tuyết bay khắp nơi, có quả rơi xuống đập vào thân tùng, có quả đập trúng vào người… Chúng vừa chơi đùa, vừa la lối, vô cùng huyên náo.

Tiếng đàn bất chợt im bặt đúng lúc đang huyên náo nhất.

Sở Bắc Tiệp ngồi thoải mái trên ghế, mở to hai mắt: “Một khúc nhạc hay, nhưng sao lại thiếu tiếng ngân?”.

“Tiệc vui nào cũng đến hồi tàn, dừng ở lúc vui nhất chẳng phải là cách hay sao?”, Sính Đình cười tinh nghịch.

Hai người nhìn nhau, cùng cảm thấy tim mình đập nhanh đến khác thường. Giọng Sở Bắc Tiệp càng thêm phần khàn hơn, chàng đưa tay ra, nói: “Dương Phượng, nàng lại đây”.

Sính Đình đứng dậy bên cây cổ cầm, rồi tiến lên phía trước một bước. Nàng kịp quay người trước khi bị Sở Bắc Tiệp giữ được. Đứng cách Sở Bắc Tiệp một cái bàn, Sính Đình tinh nghịch hỏi: “Vương gia có muốn uống canh nữa không ?”.

Nhắc đến bát canh khó uống ấy, Sở Bắc Tiệp lập tức lắc đầu.

“Thế… tiểu nữ mang ra vậy”, bàn tay thon thả bê bát canh đã nguội lên, vội vã ra khỏi phòng.

Nhìn theo bóng nàng, Sở Bắc Tiệp như đang có tâm tư, khẽ vỗ tay.

Mạc Nhiên nhanh chóng xuất hiện từ cửa sau.

“Vương gia.”

“Quy Lạc quốc có một cầm kỹ tên Dương Phượng”, Sở Bắc Tiệp lãnh đạm, “Điều tra!”.

“Tuân lệnh, thuộc hạ lập tức đi ngay”.

Sính Đình cũng coi như đã yên ổn ở vương phủ Trấn Bắc. Hầu hạ Sở Bắc Tiệp không khó, cũng giống như hồi còn trong vương phủ Kính An, nàng chẳng cần phải rót trà bưng nước, hay làm mấy công việc hạ đẳng, mà chỉ phải đánh đán, trò chuyện cùng Sở Bắc Tiệp.

Những người trong phủ đều biết nàng được yêu chiều nên không ai dám sai khiến gì. Cách xưng hô thì như Vương gia đã dặn, cứ một điều một tiếng “Dương Phượng cô nương”.

Thời tiết vẫn độ nắng nóng, hoa sen đang mùa nở rộ. Dùng bữa xong rảnh rỗi, hai người ngồi trò chuyện bên hồ sen.

“Thiên hạ này rốt cuộc rộng bao nhiêu?”

“Câu này, phải hỏi Vương gia mới đúng. Tiểu nữ làm sao biết được?”, Sính Đình nghiêng đầu, đôi mắt lanh lợi khẽ động. “Không lẽ Vương gia muốn làm rõ câu hỏi ấy để dẫn binh gom hết thiên hạ về cho Đông Lâm?”.

Sở Bắc Tiệp cười ha ha: “Có gì không thể?”.

Sính Đình ra vẻ không để ý, đáp: “Tiểu nữ chẳng tin thiên hạ này lại dễ bị chinh phục đến thế. Tứ quốc đều có danh tướng trấn thủ, Đông Lâm đương nhiên có Vương gia người, ba nước còn lại cũng vậy, chỉ riêng tiểu Kính An vương của Quy Lạc quốc đã không dễ đối phó rồi.”

“Hà Hiệp?”, Sở Bắc Tiệp khẽ “hừ” một tiếng, để lộ nụ cười thần bí.

“Đúng rồi. Lần trước Vương gia bảo chưa biết chừng hôm đó sẽ gặp được tiểu Kính An vương, rốt cuộc chuyện là thế nào.."?

Sính Đình làm ra vẻ sực nhớ, “Hồi ở phủ vương tử, tiểu nữ từng nhìn trộm tiểu Kính An vương từ sau rèm, thực là một nhân vật anh hùng, khí phách hiên ngang khác hẳn người thường”. Lời nói chưa dứt, vòng eo đã cảm thấy đau, nàng bị Sở Bắc Tiệp ôm cứng.

“Khí phách hiên ngang, khác hẳn người thường?”, Sở Bắc Tiệp gằn giọng nhắc lại.

Sính Đình cười khúc khích. Nàng che miệng, liếc mắt hỏi: “Vương gia đố kỵ ư?”. Thấy vẻ mặt của Sở Bắc Tiệp rõ ràng đang ghen, nàng bèn dịu dàng: “Vương gia cũng thật nhỏ nhen. Nghe nói vì mưu hại Đại vương mà tiểu Kính An vương bị Quy Lạc coi là loạn thần tặc tử, thân giờ chạy loạn khắp nơi. Thiên hạ cũng chẳng thiếu người muốn kiếm cái đầu của Hà Hiệp đổi lấy tiền vàng. Cũng có thể, Hà Hiệp đã chết mất xác từ lâu rồi”.

Sở Bắc Tiệp lắc đầu cười: “Ha ha, Hà Hiệp mà dễ chết như thế thì đâu còn là Hà Hiệp nữa”.

Trái tim Sính Đình bất giác loạn nhịp. Nàng đã đợi cơ hội này quá lâu rồi. Nay khó khăn lắm mới dò được tin tức, nàng cố che giấu nỗi xúc động trong lòng, hỏi theo: “Nói như thế, Vương gia đã biết được tung tích của Hà Hiệp?”.

“Sau khi trốn khỏi thành đô Quy Lạc, vì bị truy binh đuổi bắt ráo riết, nên có một dạo Hà Hiệp phải trốn đến đất Đông Lâm. Mấy hôm trước, suýt chút nữa bản vương đã tóm được hắn.”

Cảm giác thấy một thoáng rùng mình của người trong lòng, Sở Bắc Tiệp nghi ngờ hỏi: “Dương Phượng, nàng khó chịu sao?”.

“Không ạ”, Sính Đình vội lắc đầu, tự cảm thấy sắc mặt mình đã trắng bệch. Nàng biết Sở Bắc Tiệp là người tinh nhanh, trong lòng tất đã nghi ngờ nàng nên chau mày, giả vờ ảo não, “Lần trước là hoa quế, lần này thành hoa hồng, lần sau là gì nữa đây?”.

“Hử?”

“Mỗi lần vào cung, Vương gia lại mang về một hương thơm khác nhau”, Sính Đình oán hận nhìn Sở Bắc Tiệp, có vẻ như hờn dỗi.

Lòng nghi ngờ đã bị xua tan, Sở Bắc Tiệp cười phóng khoáng: “Ngọc phù dung dễ có, hoa hiểu lòng người thật khó cầu, nàng hà tất phải tức giận với những chuyện ấy? Sau này chọn vương phi, ta quyết không trọng nhan sắc, chỉ xem ai có gan theo ta ra sa trường”.

“Vương gia, câu chuyện về Hà Hiệp vẫn chưa nói xong mà”.

“Có gì đáng nói chứ. Hắn vừa vào Đông Lâm, tai mắt của ta đã bẩm báo lên. Ta lệnh cho Mạc Nhiên lập tức chuẩn bị binh khỏe mã cường đi vây bắt. Ai ngờ tên Hà Hiệp này cũng thật lợi hại, không hiểu làm thế nào, hắn lại biết kế hoạch của ta, không những giết chết người của ta, còn tránh được mai phục, trốn về Quy Lạc. Cơ hội tốt chừng ấy mà lại phí hoài.”

Sính Đình đã có thể yên tâm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 9

Biết Hà Hiệp tạm thời không gặp nguy hiểm, Sính Đình lập tức dự định tìm cơ hội trốn thoát.

Thực ra, nàng nên đi từ lâu rồi mới phải. Rời khỏi Trấn Bắc vương không khó, nàng đã từng nói với Sở Bắc Tiệp muốn ra ngoài. Hai lần đầu còn có người theo sau, nhưng một hai lần gần đây, Sở Bắc Tiệp đã yên tâm để nàng ra ngoài một mình.

Không có lộ phí, nhưng mấy cái vòng Sở Bắc Tiệp tặng nàng cũng đã đủ dùng.

Còn đường đi, lại càng không thành vấn đề.

Nàng suy tính chu toàn, song vẫn lần lữa chưa thực hiện.

Qua tháng Mười, trời đã sang thu. Lá trên cây ngày một vàng, chỉ mấy hôm nữa sẽ rụng về cội.

Phải đi rồi, nàng thật không nỡ.

Sở Bắc Tiệp đã quen ngày nào cũng nghe nàng đàn hát. Chàng thường nhắm mắt lặng lẽ ngồi nghe, còn vỗ tay theo, nở nụ cười thích thú.

Nụ cười ấy in đậm trong lòng nàng, sao mà ngọt ngào quá.

Nàng cũng đã quen với việc đàn hát cho chàng nghe. Hôm nào Sở Bắc Tiệp không gọi nàng đến đàn, nàng biết hôm ấy đã xảy ra chuyện. Nếu không vì vương cung xảy ra tranh chấp không vui, thì cũng bởi tướng lĩnh biên ải lại làm chuyện gì không nên làm. Đương nhiên, thỉnh thoảng cũng có một vài lý do khác.

Giống như hôm kia, Sở Bắc Tiệp không cho nàng đàn, chàng hỏi: “Tối qua lại ho hả? Không phải giấu, vương phủ rộng lớn thế này, có việc gì ta không biết? Có phải không mời được đại phu đâu, nàng giấu ta làm gì?”.

Nạt nộ Sính Đình một hồi, Sở Bắc Tiệp vẫn giữ nguyên vẻ lạnh lùng. Nàng không biết, hôm qua sau bữa cơm tối, Mạc Nhiên đã bị chàng mắng cho một trận. Phản ứng của Mạc Nhiên cũng mạnh mẽ hơn Sính Đình, ngay đêm đó đã chuyển nàng sang một gian phòng tốt nhất có chuẩn bị sẵn chăn lụa gối mới, còn đưa cả Trần Quan Chi đến bắt mạch.

“Người này có gì tốt?”, Sính Đình tựa người vào cửa sổ, thất thần nhìn đám lá vàng bay trong gió. “Vốn là đối đầu, lại ức hiếp người, khinh bạc người, cả ngày không nói được câu nào dễ nghe. Lúc thì chính nhân quân tử, khi lại ra vẻ Vương gia”. Sau cùng nàng bỗng than một tiếng: “Người này vô cùng khó hiểu, ai đi theo sẽ phải chịu thiệt”.

Thị nữ mời nàng sang dùng bữa cùng Sở Bắc Tiệp. Thấy Sính Đình bước vào phòng, Sở Bắc Tiệp nói: “Chắc chắn nàng sẽ thích món ăn hôm nay”.

Quả nhiên, những món ăn đưa lên đều là đặc sản chính hiệu, trong đó đĩa cà tím hấp và đĩa bát bảo[1] trộn tương là hấp dẫn nhất.

[1] Món ăn làm từ ít nhất tám loại rau củ.

“Nàng dạo này không chịu ăn gì. Hôm nay, nàng nhất định phải ăn nhiều một chút. Ta cố ý mời đầu bếp Quy Lạc làm đấy”. Sở Bắc Tiệp vô cùng có hứng, liên tục gắp thức ăn cho Sính Đình.

Sính Đình nếm một miếng, nhẩn nha thưởng thức mùi thơm của cà trong miệng, lại thử món bát bảo trộn tương, khẽ cười: “Nói về ẩm thực, Vương gia không bằng tiểu nữ rồi. Vương gia mời đầu bếp Quy Lạc không chính cống, nên đồ ăn cũng không đúng là đồ ăn Quy Lạc. Ví như bát bảo trộn tương này rõ ràng là món ăn nổi tiếng của Bắc Mạc, sao lại lẫn vào đây?”.

Sở Bắc Tiệp tỉnh ngộ: “Hóa ra là thế, ta sẽ đổi người, lần sau bảo đầu bếp mời làm món bát bảo trộn tương của Quy Lạc”.

Sính Đình lắc đầu, chỉ vào đĩa tương bát bảo, nói: “Tiểu nữ thích nhất thứ này. Vương gia không biết, tiểu nữ là người Bắc Mạc”.

“Ồ?”

“Vâng, chẳng qua bị bán sang Quy Lạc từ nhỏ mà thôi. Trước đây, tiểu nữ thích nhất món này”. Nói rồi, nàng gắp một miếng vào bát của Sở Bắc Tiệp, “Vương gia nếm thử xem”.

Trong ánh nến mờ ảo, hai má nàng càng ửng hồng. Nghe nàng cười nói dịu dàng, Sở Bắc Tiệp không ngừng xích lại gần.

“Ta muốn nếm thử nàng”, chàng thẳng thắn.

Sính Đình run rẩy.

Thân hình nam nhân càng lúc càng sát bên nàng. Tay chàng ôm chặt eo, khiến nàng không trốn đi đâu được. Nàng xấu hổ quay đi, nhưng lại dâng vành tai vào “miệng hổ”.

“A!”, tai nàng bỗng nhiên tê rần, đôi đũa trên tay rơi cạch xuống nền nhà.

“Vương gia…không…”

“Không cái gì?”, Sở Bắc Tiệp nở nụ cười tà ý, nhẹ nhàng ngậm vành tai tuyệt đẹp của nàng, thưởng thức từng chút một, “Ta sớm đã chọn nàng rồi, nàng muốn chạy cũng không thoát được đâu. Sau này ra chiến trường, ta sẽ mang nàng theo”.

Chàng hôn mạnh vào môi nàng, ánh mắt kinh hoàng của Sính Đình giống như dây dẫn lửa, thiêu đốt dục vọng trong Sở Bắc Tiệp cháy thành biển lửa.

“Ta muốn lấy nàng.” Sở Bắc Tiệp cho Sính Đình một khe hở để lấy lại nhịp thở, rồi hạ giọng nói.

“Vương gia?”, Sính Đình nhìn Sở Bắc Tiệp như không tin vào tai mình. Nàng nghi hoặc chau mày, mọi việc đến quá nhanh, không giống chút nào với tính toán của nàng. Chẳng lẽ khoảng cách khi xa khi gần lại không phát huy tác dụng?

Nàng là Dương Phượng, cầm kỹ của Quy Lạc, một thị nữ bỏ trốn.

Chàng đường đường là Trấn Bắc vương Đông Lâm, lại nói muốn lấy nàng.

Sở Bắc Tiệp sa sầm nét mặt: “Không bằng lòng?”.

Sính Đình bất chợt mở choàng mắt, Sở Bắc Tiệp đang ở cách nàng quá gần, đang ôm lấy nàng như thiêu như đốt. Lúc này đây, chàng quá đỗi anh tuấn, mọi cử động của chàng đều tràn đầy ma mị.

Sự bình tĩnh mà Sính Đình vẫn tự hào giờ đã chạy đi đâu hết.

“Gả cho ta nhé?”

“Tại sao?”.

“Nàng giỏi đàn, giỏi ca hát, có cốt cách, lại khéo léo”, nụ cười tuấn tú khôi ngô của chàng tựa như thuốc độc ăn mòn trái tim nàng, “So với những nữ nhân kia, ta bằng lòng lấy nàng”.

“Thiếp…”

“Chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.”

Sính Đình đáng thương bị Sở Bắc Tiệp ôm chặt trong lòng. Giọng chàng dịu dàng như nước, thấm vào gan ruột nàng. Nàng như sắp tan chảy trong vòng tay ấm.

“Không bao giờ phụ bạc?”, từng tiếng, từng tiếng ra khỏi miệng nàng.

Sở Bắc Tiệp càng ôm nàng chặt hơn, rồi khẽ cắn vào cổ nàng. Hơi thở đàn ông thô bạo bao trùm lên nàng: “Đúng thế, từ nay trở đi, nàng là vương phi của ta, ta là phu quân của nàng”.

Trấn Bắc vương ép dần từng bước. Giống như trên chiến trường, Sính Đình lùi dần từng bước.

“Không được đâu…”, nàng hạ giọng, giãy giụa.

“Tại sao?”

“Thiếp là… cầm kỹ”.

“Ta thích tiếng đàn của nàng”.

“Thiếp không xứng với Vương gia.”

“Ta xứng với nàng”.

Nàng vẫn hoảng loạn lắc đầu, cắn môi: “Thiếp… thiếp không đủ xinh”.

Sở Bắc Tiệp nhìn nàng chăm chú, mỉm cười: “Cho một mình ta ngắm, thế là đủ”.

Sính Đình im lặng, đôi mắt long lanh ai oán nhìn quanh, trong lòng bất giác vô cùng chua xót và đau đớn. Phải rời khỏi đây, ngày mai phải rời khỏi đây thôi, nơi này không phải Quy Lạc, nơi này là Đông Lâm. Nam nhân trước mặt đã dẫn thiên quân vạn mã giẫm đạp lên quê hương nàng, chàng muốn thôn tính Quy Lạc, muốn dùng kế xúi giục Đại vương hãm hại vương phủ Kính An.

Nhưng vòng tay Sở Bắc Tiệp ôm nàng sao ấm áp, ấm đến độ khiến người ta không thể rời đi. Trước ánh nhìn chân tình của chàng, nàng không nỡ nói tiếng “không”.

Trái tim rộn rã của nàng dần bình tĩnh lại. Nàng không còn giữ được cái đầu lạnh, những suy nghĩ cũng trở nên điên cuồng. Nếu đã định đi, nếu đã phải đi, nếu đã quay đi, thì đừng ngoảnh đầu lại. Ba chữ “không cam tâm” từ trong sâu thẳm nội tâm cứ nhảy múa trước mắt nàng.

Đôi mắt biết nói bỗng sáng lên, Sính Đình đã có dự định của mình.

“Vương gia…”, nàng khẽ gọi, lo lắng ngẩng đầu lên nhìn chàng, “Thiếp không mong làm vương phi, nhưng thiếp…”, nói đến nửa chừng, nàng bỗng cắn môi. Sở Bắc Tiệp dịu dàng lướt qua môi nàng: “Nói tiếp đi”.

“Không, không nói nữa”. Nỗi đau và niềm vui xen lẫn, tạo thành khúc hát lay động lòng người, Sính Đình sắp không kìm nổi dòng nước mắt. Khẽ thở dài một tiếng, giống như trong phút chốc đã rũ bỏ hết mọi ngại ngần, nàng ôm Sở Bắc Tiệp, ngẩng đầu ngoan ngoãn bảo, “Cảnh thu lá đổ, chỉ mong đêm nay một lần tương phùng”.

Vui vẻ, vứt bỏ, chiếm hữu.

Sự kiên trinh của nàng, tấm thân nàng đều bị bỏ lại phía sau. Ngày mai hết duyên gặp gỡ đã là may mắn, chưa biết chừng còn gặp nhau lúc giương đao đuổi giết trên sa trường.

Nàng mặc kệ, đêm nay thuộc về nàng. Và nàng thuộc về chàng.

Cứ ngỡ mình nghe nhầm, Sở Bắc Tiệp thoáng sững sờ, rồi bùng phát, bèn ngửa mặt lên trời cười. Chàng ôm giai nhân trước mặt, bước nhanh về phòng ngủ, nhẹ nhàng đặt nàng xuống giường.

Cúi đầu, chàng ngắm nhìn thật kỹ hàng lông mày thanh tú, đôi bàn tay trắng nõn của nàng.

Chàng nói: “Cả đời này chúng ta sẽ ở bên nhau”.

“Vâng”, Sính Đình gật đầu, nước mắt trào ra.

Chiếc trâm quý rơi xuống, mái tóc đen trải dài trên gối, như dòng thác khiến người ta kinh ngạc. Ái tình thiêu đốt con người ta, ánh mặt họ chạm nhau đã quá đủ si mê.

Khẽ kéo một cái, chiếc thắt lưng lụa rơi xuống giường, để lộ làn da trắng nõn, hút hết hồn phách của Sở Bắc Tiệp. Nhiệt huyết trong chàng từ lòng bàn chân xông thẳng lên đỉnh đầu.

“Tuyệt thế giai nhân…”, chàng lẩm bẩm, cúi xuống hôn nàng. Làn môi hồng thơm mùi hương mang tên Sính Đình, ngọt ngào đẹp đẽ tựa hoa quế.

“Vương gia…”

“Không phải Vương gia.”

Sính Đình hiểu ý, vội sửa: “Bắc Tiệp”.

“Ngày trước Định Nam, ngày nay Bắc Tiệp”, muốn làm dịu sự hồi hộp nơi nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Giọng chàng thấp trầm vang vọng trong căn phòng.

Ngoài cửa sổ, trăng dần tròn.

Trong vương phủ Trấn Bắc, tiếng rên nhẹ tựa khúc ca. Hai người của Đông Lâm và Quy Lạc, một mất hồn, một lạc trái tim.

Áo lụa trắng tinh, góc áo điểm xuyết vài nhành hoa mai. Sở Bắc Tiệp vén những sợi tóc đang vương trên môi nàng, ánh mắt đầy yêu thương bao phủ lên người con gái xinh đẹp đang nằm ngủ. Sính Đình mỉm cười ngọt ngào trong giấc mơ, hơi thở yên lành ấm áp.

Nàng mệt rồi. Sở Bắc Tiệp biết nàng mệt mỏi thế nào. Tiếng rên hồi nãy khiến ngôi sao trên trời cũng phải xấu hổ, những cảm xúc đẹp đẽ vẫn còn lưu lại trong gian phòng này, cả hương thơm ngọt ngào ngập đầy trong lòng chàng.

Bờ môi xinh đẹp, khuôn ngực tròn đầy, vòng eo thon nhỏ, và cả đôi chân dài thẳng, tất thảy đều lưu lại dấu ấn sâu sắc với Sở Bắc Tiệp.

Không biết nghĩ gì, nụ cười trên môi Sở Bắc Tiệp bỗng tắt ngấm, hàng lông mày hơi chau. Chàng ra khỏi phòng ngủ, khẽ khép cửa lại.

Mạc Nhiên đang đợi trong thư phòng.

Sở Bắc Tiệp lê đôi chân nặng nề vào phòng, rồi ngồi xuống. Trong tay áo chàng là một mẩu giấy Mạc Nhiên vừa trình lên sáng nay.

Dương Phượng, người Bắc Mạc, từ nhỏ bị bán vào phủ vương tử Quy Lạc, là một trong hai tay đàn nổi danh nhất Quy Lạc. Sống trong thâm viện, được Hà Túc yêu quý, ít khi lộ mặt. Thích trồng hoa cỏ. Món ăn ưa thích: Bát bảo trộn tương. Màu sắc ưa thích: Xanh đậm. Vì bị vu oan mà chịu tội, nay không rõ tung tích.

Chàng lấy tờ giấy ra, xem lại lần nữa.

Uy thế lạnh lùng của chàng khiến không khí xung quanh như trở nên hỗn loạn bất an.

“Không chút sơ hở”, Sở Bắc Tiệp nở nụ cười chua xót.

Hiếm khi thấy chủ nhân như vậy, Mạc Nhiên hoang mang cúi đầu: “Ý của Vương gia là…”.

“Một trong hai tay đàn nổi danh nhất Quy Lạc…”, Sở Bắc Tiệp trầm ngâm. “Người còn lại là ai?”.

“Bẩm Vương gia, là thị nữ trong vương phủ Kính An, họ Bạch”.

Sở Bắc Tiệp mệt mỏi nhắm mắt, rồi từ từ mở ra, lấy lại thần sắc tinh anh, tiếng nói rít qua kẽ răng: “Tra”.

“Tuân lệnh”.

Sính Đình thức dậy trong ánh ban mai.

Mái tóc đen thả dài trên tấm lưng trần, có người đang dịu dàng hôn vai nàng.

Quay đầu lại, chạm phải đôi mắt đen nhìn thấu gan ruột người ta, nàng bỗng nhớ tới tiếng rên rỉ thở dốc hôm qua, bèn kêu lên một tiếng, giấu khuôn mặt nóng bừng vào trong gối.

“Ván đã đóng thuyền, không cần trốn nữa”, Sở Bắc Tiệp chơi đùa với mái tóc Sính Đình. Thấy nàng xấu hổ mãi không dậy, chàng cười thành tiếng, khẽ cắn một cái vào vai nàng.

“A!”, Sính Đình quay lại. Chẳng khác gì người đang ôm cây đợi thỏ, Sở Bắc Tiệp tóm ngay lấy, ôm eo nàng, rồi hôn mạnh vào đôi môi tươi hồng ướt mọng của nàng.

“Chà, chà, món điểm tâm ngon nhất thiên hạ”.

“ Chàng… chàng…”

“Ta làm sao? Từ nay trở đi, nàng phải gọi ta là phu quân”.

Sính Đình lườm chàng một cái, nói giọng không phục: “Ai đồng ý gả cho chàng?”.

Sở Bắc Tiệp nắm chặt tay nàng, như thể muốn bóp nát bàn tay ấy, đôi mắt đen nhìn nàng chằm chằm: “Gả cho ta rồi, không bao giờ được rời khỏi đây nữa”.

Sính Đình bỗng thấy tim mình đau như dao cứa, sững sờ nhìn Sở Bắc Tiệp.

Chàng chân thành: “Đừng nghĩ ngợi gì hết, cứ theo ta. Cho dù đất trời sụp đổ, vẫn có ta ở đây”.

Đất trời sụp đổ? Nàng ngẩng đầu lên, ngước hàng mi dày nhìn nam nhân trước mặt.

Thân hình cao lớn ấy, khí thế dũng mãnh ấy, đôi mắt sâu rậm ấy… có điều gì không khiến nữ nhi say mê?

Có chàng đứng bên, ai mà không yên lòng?

Nhưng… nhưng nàng nhất định phải đi.

Nước mắt lã chã rơi, Sính Đình vẫn ngẩng đầu, không nỡ quay về hướng khác.

Bàn tay rắn chắc của Sở Bắc Tiệp dịu dàng lau những giọt lệ trên khóe mắt nàng: “Đang yên lành thế này, sao lại khóc?”.

“Thiếp cũng không biết tại sao, đang yên lành thế này lại khóc”, Sính Đình lau nước mắt, cười với chàng.

Trái tim càng dao động càng đau, càng đau, Sính Đình càng phải cắn răng rời đi.

Không nỡ thì đã sao? Nàng phải rời xa niềm vui nỗi buồn và cả sự phẫn nộ của chàng. Thiếu gia đang lưu lạc, nàng không thể vào vương phủ Đông Lâm, làm vương phi của Đông Lâm.

Đi, nàng nhất định phải đi.

Lần này rời đi, năm này sang năm khác, thời lành cảnh đẹp sẽ chỉ còn là hư vô.

Nằm trong vòng tay chàng, nàng không nỡ chìm vào giấc ngủ, cứ tham lam ngắm từng nét trên khuôn mặt chàng. Mỗi đêm mây mưa vần vũ, đến khi sức lực cạn kiệt, nhắm mắt lại, nàng vẫn muốn nắm chặt bàn tay nóng rẫy của chàng, dựa vào lòng chàng.

Tiếng thở dài nặng nề của Sở Bắc Tiệp chốc chốc lại vang bên tai, khiến nàng càng đau lòng.

Con người này, lấy đâu nhiều dã tâm đến thế? Triều chính, sa trường, quyền lực, vinh dự… chàng không thể từ bỏ thứ nào, ngay cả trong giấc mơ, chàng cũng tự làm khổ bản thân.

Phải đi, nhất định phải đi. Nàng đã sa vào bãi cát xoáy có thể nhấn chìm người ta. Tuy rút chân ra không dễ, nhưng không thể không rút chân.

Sau đêm ân ái đầu tiên, Sở Bắc Tiệp đã bỏ hẳn một ngày công vụ để ở bên nàng.

“Tháng Mười hoa quế thơm nồng…”

Được người thương yêu đích thân cài hoa quế thơm nồng lên mái tóc, Sính Đình thoắt quay đầu, trong vòng vô cùng thê lương, nhưng vẫn tặng chàng một nụ cười ngọt ngào.

Sở Bắc Tiệp kề sát tai nàng, khẽ bảo: “Đợi đến mùa xuân, hoa trong hậu viện nở đầy, mỗi ngày ta sẽ tự tay hái một đóa đẹp nhất, cài lên mái tóc nàng”.

“Người vốn không đẹp, lại làm nền cho hoa, chẳng phải càng khó coi sao?”

“Thế thì nàng cất giọng hát, để hoa xấu hổ mà tàn.”

Tiếng cười của Sở Bắc Tiệp vang vọng trong vương phủ.

Sính Đình càng thêm tan nát cõi lòng.

Mùa xuân, khi trăm hoa đua nở, chàng ở Đông Lâm, thiếp ở nơi nao?

Liền hai mươi ngày, Sở Bắc Tiệp không rời nàng nửa bước. Như biết trước sẽ mất nàng, chàng cứ quẩn quanh bên nàng như đứa trẻ nghịch ngợm, như người đói khát tham lam tìm kiếm.

Trái tim Sính Đình sắp hóa thành nước.

“Sao không thấy Mạc Nhiên?”

“Ta sai Mạc Nhiên đi làm chút việc, hôm qua mới về”.

“Việc gì quan trọng mà cần đến Mạc Nhiên ra ngoài?”

Sở Bắc Tiệp ôm chặt bờ vai nàng, than thở: “Việc quan trọng nhất trên đời này có gì hơn là giữ nàng ở bên ta”.

Sính Đình nguýt một cái, chiếc mũi nhỏ nhăn nhúm: “Lời lẽ đường mật”.

“Đúng vậy, miệng ta ngọt lắm. Mời Vương phi nếm thử”. Bắt được cơ hội, càng không để giai nhân chạy thoát, chàng lập tức quay lại, đến khi cái miệng la lối của Sính Đình bị khóa chặt, chỉ còn cơ thể nàng đang quằn quại, rên xiết, chàng mới thỏa mãn thả nàng ra, rồi thèm thuồng nói, “Chúng ta về phòng nhé?”

“Không được! A!” Tiếng kêu chưa kịp ra khỏi cổ họng, cả người nàng đã bị Sở Bắc Tiệp bế bổng lên.

Sính Đình đấm thùm thụp vào lưng chàng: “Chàng là đồ háo sắc, thiếp không về phòng đâu. Trời ơi, không phải chàng lại muốn đấy chứ… tha cho thiếp đi”.

Sở Bắc Tiệp cười vang: “Lát nữa khắc đến lúc nàng xin tha”.

Đến lúc tuyết bay đầy trời, nàng vẫn chưa có cơ hội rời khỏi vương phủ Trấn Bắc. Suy tính thiệt hơn khiến Sính Đình suýt chút nữa vò nát chiếc khăn tay.

Hôm đó, khó khăn lắm Sở Bắc Tiệp mới ra ngoài, chàng dặn dò Mạc Nhiên: “Chăm sóc tốt cho Vương phi tương lai, ta đi rồi sẽ về”.

Sính Đình sao có thể bỏ qua cơ hội hiếm hoi này. Nàng ra tận cổng tiễn Sở Bắc Tiệp. Nàng nhìn khí thế lúc chàng cưỡi ngựa rời đi, cứ như đây là lần cuối nàng được thấy bóng dáng chàng. Nàng ngây người, đứng thẫn thờ hồi lâu ngoài cổng lớn của vương phủ.

Mạc Nhiên cung kính đứng cách nàng mấy bước: “Dương Phượng cô nương, trời lạnh, mời cô nương quay vào”.

Đợi bóng Sở Bắc Tiệp khuất hẳn, Sính Đình lấy lại bình tĩnh, quay người, mỉm cười nói: “Ngày mai chắc lại có tuyết”. Nói xong, nàng nhẹ nhàng bước vào cổng, liếc mắt qua vai, Mạc Nhiên đã từ tốn theo sau.

“Mạc Nhiên, cứ làm việc của Tướng quân đi.”

“Theo lệnh của Vương gia, Mạc Nhiên phải theo Dương Phượng cô nương”.

Sính Đình lạnh lùng: “Giám sát ta hả?”

“Không dám”.

“Ta muốn ra ngoài, ngươi có bắt trói ta lại, giao cho Vương gia trị tội không?”.

“Không dám”, Mạc Nhiên quả không hổ là Mạc Nhiên, vô cùng thản nhiên, không hề buồn bực.

Cúi đầu suy nghĩ, Sính Đình nở nụ cười, khẽ bảo: “Tại ta không tốt, Vương gia đi vắng, ta cảm thấy không vui, nên trút giận lên Tướng quân Mạc Nhiên”.

Mạc Nhiên ngó nàng một cái, vẫn nguyên vẻ ôn tồn nhã nhặn.

Dùng bi phát nổ hay mê hồn dược đây? Sính Đình trong lòng tính toán, chân vẫn bước vào phòng.

Nguyên liệu tạo bi phát nổ khó kiếm hơn một chút, cách làm cũng không dễ. Mê hồn dược thì có nhiều cách hơn, trong đó có một cách chỉ cần dùng đến mấy thảo dược thường thấy và bí quyết pha trộn là sử dụng được.

Nghĩ tới đây, Sính Đình bỗng giận mình năm xưa không chịu theo thiếu gia luyện võ. Như thế, nàng đã có thể rút kiếm, Sở Mạc Nhiên trở tay không kịp, không địch được với nàng.

Vậy thì dùng mê hồn dược đi.

Sính Đình bất chợt ôm cổ ho vài tiếng.

Mạc Nhiên cẩn thận tiến lên được: “Dương Phượng cô nương, khó chịu ư? Để ta mời Trần Quan Chi đến…”

“Không cần, thuốc của ông ấy không trị được tận gốc, uống bao nhiêu ngày mà vẫn chẳng đỡ chút nào”, Sính Đình nhăn mày, “Ta tự kê đơn có khi còn khá hơn”. Nói rồi, nàng bước tới bên bàn, mài mực, cẩn thận viết từng nét lên tờ giấy, rồi đưa cho Mạc Nhiên: “Phiền Tướng quân mua giúp ta mấy lại thảo dược này”.

Sính Đình bình tĩnh để Mạc Nhiên kiểm tra đơn thuốc.

Thấy không có gì đáng nghi, Mạc Nhiên gật đầu: “Được”.

Mạc Nhiên cao giọng gọi thị vệ, rồi đưa tờ giấy ra: “Đi đi, bốc thuốc theo đơn về đây”.

Sính Đình cười cảm kích, sau đó về phòng, đóng cửa lại.

Sở Mạc Nhiên yên lặng đứng bên ngoài.

Căn phòng hoa lệ, do Sở Bắc Tiệp đã bố trí cho nàng, cửa sổ khắc hoa, bình phong bằng vải thêu, màn phù dung, xiêm y diễm lệ. Chiếc bàn trang điểm tinh xảo đặt ở góc phòng, hai ba cọng tóc đen nhánh nằm trước gương mà sáng nay Sở Bắc Tiệp làm đứt khi chải đầu giúp nàng.

Đôi mắt đẹp lưu luyến nhìn khắp phía, cố nén tiếng thở dài, Sính Đình bước tới trước bàn trang điểm, mở hộp trang sức.

Trong đó đựng những vật dụng mà nữ tử thường dân cả đời chẳng dám mơ tưởng: kim thoa, vòng ngọc, phỉ thúy, lục lạc, còn cả mấy chuỗi trân châu các tiểu tộc tiến cống, muôn phần óng ánh.

Nàng chọn đại vài ba món không bắt mắt, rồi cất vào trong tay áo.

Mọi sự đã chu toàn, chỉ còn thiếu gió đông. Có mê hồn dược, giải quyết Mạc Nhiên dễ như trở bàn tay, rời khỏi vương phủ Trấn Bắc không còn là việc khó nữa.

Thời gian còn lại, nàng hồi tưởng chuỗi ngày qua, hồi tưởng để rồi vứt bỏ, để khi rời đi mới có thể dằn lòng không quay đầu lại.

Thị vệ kia làm việc cũng chậm chạp, đã qua hai canh giờ rồi mà vẫn chẳng thấy đâu. Lúc đầu, Sính Đình không dám hỏi vì sợ Sở Mạc Nhiên nghi ngờ, lúc sau nàng không thể chịu đựng thêm, bèn cố ho hắng vài tiếng, để Mạc Nhiên đang đứng bên ngoài biết rõ “bệnh tình” của nàng. Nàng đang định hỏi vọng qua cửa sổ “Sao thuốc vẫn chưa về đến nơi”, thì có người đẩy cửa bước vào.

“Sao thế? Lại không khỏe ư?”, Sở Bắc Tiệp bước vội vào, nhanh chóng vứt roi ngựa ra đằng sau, ôm lấy nàng, “Trời lạnh mà nàng ngồi thế này sao?”. Giọng chàng đầy vẻ trách móc.

“Sao chàng về nhanh thế?”, Sính Đình hết sức ngạc nhiên. Lúc trước nàng còn tưởng hai người không gặp lại nhau, vậy mà giờ chàng đang đứng đây, thân thiết trước mặt nàng, thật không biết phải hình dung thế nào về suy nghĩ của nàng lúc này, “Xong việc rồi à?”.

“Chưa xong. Mạc Nhiên sai thị vệ đến báo với ta là nàng bệnh, ho dữ dội”.

Bỗng chốc, Sính Đình thấy hận Mạc Nhiên mà nghiến răng kèn kẹt. Chính Mạc Nhiên đã đánh mất cơ hội chạy trốn của nàng. Nàng cố lấy lại bình tĩnh, cười nói: “Thiếp khỏe, không sao. Mạc Nhiên hơi một chút đã cuống cả lên. Chàng cứ mặc kệ thiếp, yên tâm lo việc của mình. Chàng là Vương gia, đừng có suốt ngày ở cạnh nữ nhân như thế”, rồi nhẹ nhàng đẩy chàng ra ngoài.

“Ha ha, quả nhiên rất ra dáng một vương phi”, Sở Bắc Tiệp buông tay ra, giải thích, “Việc cũng không quan trọng, chỉ là bắt được một kẻ bên cạnh Hà Hiệp. Ta đang định đích thân tra hỏi, nhưng nghe nàng bệnh, đành vội vã về ngay”.

Toàn thân bất chợt run rẩy, Sính Đình giả vờ ho vài tiếng, ôm miệng che đi cảm xúc của mình.

Sở Bắc Tiệp khẽ vỗ lưng nàng: “Sao thế? Sớm muộn gì cũng phải trị tận gốc căn bệnh của nàng. Ta đã lệnh cho thuộc hạ đi lấy thuốc rồi”.

Sính Đình ngừng ho, ngẩng đầu hỏi: “Thế còn việc của chàng? Không tra xét phạm nhân, chàng định bẩm lại với Đại vương thế nào?”.

“Đã sai người áp giải hắn đến đây rồi, xét hỏi trong vương phủ cũng thế mà”.

“Người này quan trọng lắm không?”.

“Cũng không phải quan trọng, chỉ là một tên tiểu quỷ, tên Đông Chước”.

Sính Đình lại run rẩy, nhưng mặt không hề biến sắc: “Thiếp đã từng nghe nói đến cái tên này, là một thị vệ bên cạnh tiểu Kính An vương, nhận được rất nhiều ân sủng. Có lần đến phủ vương tử, tiểu Kính An vương còn dẫn hắn theo cùng”.

Sở Bắc Tiệp cuộn lọn tóc của nàng: “Có muốn tra hỏi cùng ta không?”.

Tại nơi tra xét trong địa lao.

Lửa cháy rừng rực khiến cả phòng giam sáng như ban ngày, muôn vàn loại hình cụ với hình thù cổ quái xếp đầy hai bên, trên tường rơi rớt những vệt máu khô.

Lần đầu tiên vào đây, bước theo sau Sở Bắc Tiệp, Sính Đình tỉ mỉ quan sát từng thứ một.

Tường nhà lao kiên cố, ngoài tấn công vào rất khó, trong phá ra còn có thể. Con ngươi nàng khẽ chuyển động, khắc ghi từng chi tiết.

Hơi nóng của Sở Bắc Tiệp sát bên tai nàng: “Nếu sợ, cứ ôm chặt lấy ta”.

Sính Đình rụt đầu, khiến Sở Bắc Tiệp cười hào sảng.

Đến cuối đường, lửa cháy càng mạnh. Một thiếu niên cúi đầu đang bị treo giữa lưng chừng, tứ chi bị cùm, xích sắt quấn quanh.

Chỉ nhìn qua, Sính Đình đã biết đó chính xác là Đông Chước. Y phục rách rưới, nhưng vết thương không mấy, xem ra cũng chưa phải chịu nhiều cực hình.

“Tiểu tử, tỉnh dậy đi! Vương gia của chúng ta đến rồi”, tên lính to khỏe phụ trách trông coi nhà lao lấy cán roi nâng cằm Đông Chước lên, để Sở Bắc Tiệp nhìn rõ khuôn mặt đẹp trai bầm tím ấy.

Ánh mắt của Đông Chước chưa bao giờ lạnh lẽo đến thế, hắn nhìn thẳng vào Sở Bắc Tiệp: “Hừ, Sở Bắc Tiệp”.

Kẻ thù số một của vương phủ Kính An đang đứng ngay trước mặt.

“Bản vương không có ác ý, chỉ muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ với tiểu Kính An vương, hy vọng có thể khuyên giải tiểu Kính An vương quy thuận Đông Lâm ta”, Sở Bắc Tiệp cười nhạt, trong khí phách hào hùng có phần thành khẩn: “Nếu Quy Lạc đã không còn là chốn dung thân, tại sao tiểu Kính An vương lại không tìm minh chủ khác?”.

Đông Chước lạnh lùng: “Dù ngươi có nói gì, ta cũng không nói bất kỳ chuyện gì với ngươi đâu”.

Sở Bắc Tiệp khẽ lắc đầu, lộ rõ vẻ thương tiếc: “Bản vương rất khâm phục những kẻ cứng rắn, đáng tiếc ở địa lao của ta, không mấy người có thể cứng rắn được”. Lùi ra sau một bước, hai tay khoanh trước ngực, Sở Bắc Tiệp gật đầu ra hiệu cho thuộc hạ đang đứng bên cạnh.

Sính Đình lặng lẽ quan sát mọi việc ngay sau lưng Sở Bắc Tiệp. Thấy rõ chàng định dùng hình, nàng cúi đầu lo lắng, đang tìm cách ngăn cản thì đã nghe tiếng roi xé gió.

Vút!

Tiếng roi quất vào da thịt khiến Sính Đình run rẩy.

Vút! Vút! Vút!

Những đợt roi liên tiếp. Ngoài kia gió Bắc thổi dữ dội, bên trong địa lao oi nồng đến khó thở.

Tiếng xích sắt va vào nhau theo nhịp roi vung.

Từng đợt roi tàn nhẫn quất xuống da thịt Đông Chước. Nhưng Đông Chước giỏi chịu đựng, không hề kêu lên một tiếng.

Đứng chắn trước mặt Sính Đình, hình như Sở Bắc Tiệp cũng cảm nhận được sự run rẩy của nàng, bèn vỗ nhẹ lưng nàng. Sính Đình ngẩng lên, nhìn thấy tấm lưng to thẳng và khuôn mặt nghiêng vô tình đang đỏ lên trong ánh lửa.

“Còn không chịu nói hả?”, Sở Bắc Tiệp không hề vội vã, “Phải biết, roi quất chẳng qua chỉ là hình phạt thường dùng nhất trong lao ngục, cũng chỉ là móm điểm tâm trước bữa ăn. Tới lúc phải dùng đến những hình phạt sau, thì ngươi có muốn nói cũng đã thành tàn phế”.

Đông Chước lấy giọng, vẫn còn nguyên hơi sức: “Vương phủ Kính An không có người sợ chết!”.

Sở Bắc Tiệp cười ha ha. Sính Đình ngẩng lên, thấy tà khí phát ra từ khóe môi chàng, ý cười nguy hiểm khiến người ta rùng mình. Xem ra, tối nay Đông Chước không hay rồi.

Thấy Sở Bắc Tiệp lại sắp ra lệnh, Sính Đình vội túm ngay vạt áo Sở Bắc Tiệp để ngăn mệnh lệnh.

Sở Bắc Tiệp cúi xuống nhìn nàng, dịu giọng: “Sao sắc mặt nàng bỗng trắng bệch thế kia? Nàng sợ hả? Không phải sợ, có ta ở đây”.

“Nhiều máu quá”, giọng nói chứa đựng nỗi sợ hãi đến kinh hồn bạt vía.

Dây xích sắt đột nhiên phát ra những tiếng leng keng khe khẽ, dường như Đông Chước có chút chấn động.

“Sợ máu?”, Sở Bắc Tiệp lắc đầu, trêu nàng, “Nữ nhân của Sở Bắc Tiệp ta mà lại sợ máu, sau này làm sao theo ta ra sa trường?”.

Sính Đình ngẩng lên, để lộ nửa khuôn mặt thanh tú, yếu ớt nhìn Sở Bắc Tiệp. Đôi mắt nàng khẽ liếc qua Đông Chước toàn thân đầy máu đang bị treo lơ lửng bên kia. Hai mắt Đông Chước bỗng mở trừng trừng, một thoáng sững sờ, rồi bỗng như hiểu ra điều gì, lại cúi đầu, che đi ánh mắt ấy.

“Thiếp hơi khó chịu”, nàng lau trán, dựa hẳn vào người Sở Bắc Tiệp.

Sự dịu dàng yếu ớt đến hiếm thấy. Sở Bắc Tiệp xót xa, vội đỡ lấy nàng, cúi xuống hỏi: “Nàng khó chịu ở đâu? Đáng lẽ ta không nên đưa nàng đến đây”.

Sính Đình không hề nhìn Đông Chước, ánh mắt trong veo chỉ có mỗi bóng dáng Sở Bắc Tiệp: “Ở đây ngột ngạt quá, thiếp muốn ho mà không ho nổi. Vương gia bảo ai đó đưa thiếp ra, rồi ở lại đây xử lý việc công”.

“Bản vương đi cùng nàng.”

“Việc công quan trọng…”

“Nàng quan trọng”.

Giọng nói đầy khêu gợi vang bên tai, nàng bỗng thấy người nhẹ bẫng, Sở Bắc Tiệp đã ôm nàng vào lòng.

“A!”, Sính Đình mắng khẽ. Nghĩ đến Đông Chước ở ngay bên kia thì mặt càng đỏ lựng, lần này nàng thật tâm vùi đầu vào lòng Sở Bắc Tiệp.

Cai ngục cầm cây roi đầy những vết máu, đi lên trước một bước, cẩn trọng hỏi: “Vương gia, phạm nhân kia…”

“Trông coi cẩn thận người của vương phủ Kính An, cứ để đó, ngày mai bản vương sẽ đích thân tra hỏi”.

“Vâng”, cai ngục lại thỉnh thị, “Vậy có cần cử thêm người trông coi không ạ?”.

Ánh mắt sắc như dao của Sở Bắc Tiệp quét tới: “Lẽ nào Hà Hiệp dám xông vào vương phủ của ta?”.

“Vâng, vâng, thuộc hạ hiểu rồi”.

Cả chặng đường tâm trạng nàng nhẹ bẫng, bị Sở Bắc Tiệp bế về phòng. Sính Đình nằm gọn trong lòng Sở Bắc Tiệp, nhưng mắt vẫn mở to. Trên đường về, mấy tên đóng cửa, mấy tên trông coi, mấy trạm gác bí mật, nàng đều nhớ kỹ.

Bước vào phòng, mùi hương ấm áp xộc lên, căn phòng của nữ tử quý tộc hoàn toàn khác với địa lao âm u lúc nãy.

Sở Bắc Tiệp đặt Sính Đình lên giường, đắp chăn cho nàng: “Đừng để lạnh đấy”, rồi quay lại gọi người dâng trà nóng lên.

“Thiếp không khát”, Sính Đình nhăn mày.

Chàng dịu dàng mà cương quyết ép làn môi hồng nhấp chút trà nóng, sau đó sai người dâng điểm tâm.

“Thiếp không đói”.

Lời cự tuyệt yếu ớt vẫn hoàn toàn vô hiệu, đồ điểm tâm cũng chui vào bụng nàng.

Nàng ăn xong điểm tâm, đến lượt Sở Bắc Tiệp muốn ăn chút “điểm tâm ngọt”.

“ Chàng… chàng lại không đứng đắn…”

“Bản vương chỉ không đứng đắn với mình nàng”. Lưỡi chàng như trận cuồng phong tìm đến môi răng nàng, không chỗ nào thoát khỏi kiếp nạn. Cuối cùng, đóa đinh hương đang tìm cách chạy trốn cũng rơi vào lòng bàn tay chàng.

Sính Đình miễn cưỡng trốn tránh, đôi mắt vừa to vừa sáng vô cùng xấu hổ, xin tha: “Thiếp… Ai ya… A… Ai ya…”. Không chịu được cơn đói khát của Sở Bắc Tiệp, nàng ho dữ dội.

Sở Bắc Tiệp giật mình, vội lùi ra một chút, rồi đặt tay lên trán nàng, hỏi: “Ốm thật à? Ta chỉ nghĩ nàng sợ máu, một lát là đỡ”. Chàng quay ra cao giọng, “Người đâu, gọi Trần Quan Chi đến đây”.

Sính Đình vội túm vạt áo chàng: “Không cần đâu, nghỉ ngơi một lát là đỡ mà. Hơn nữa, thiếp không thích thuốc của Trần Quan Chi, đắng chết đi được”.

“Thuốc đắng dã tật”, Sở Bắc Tiệp quay lại nhìn nàng, gương mặt thật đáng thương khiến chàng hạ giọng, “Nếu thật không thích, ta sẽ tìm đại phu khác”.

“Cần gì phải tìm? Hôm nay thiếp đã kê đơn đưa cho Mạc Nhiên, sắc xong thì uống…”

Đang nói, bỗng bên ngoài có tiếng báo.

“Khởi bẩm Vương gia, Đại vương truyền lệnh triệu kiến.”

Sở Bắc Tiệp nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của Sính Đình, hạ giọng: “Việc gì mà phải vào cung giữa đêm thế này?”.

Mạc Nhiên đáp: “Hình như sứ đoàn cử đi Bắc Mạc đã xảy ra chuyện…”.

Nghe xong, Sở Bắc Tiệp “ừ” một tiếng. Đang mong chàng đi, Sính Đình vội đẩy vai chàng: “Việc công là trọng, chàng mau đi đi. Đừng để Đại vương phải chờ lâu”.

“Vậy nàng chịu khó nhé, ta sẽ sai người sắc thuốc”.

“Đừng làm lỡ việc, tự thiếp sẽ dặn. Đi đi.”

Sở Bắc Tiệp có vẻ áy náy, dặn dò thêm vài câu, rồi dịu dàng nói: “Ta sẽ về ngay”.

“Vâng.”

Nhìn theo bóng dáng vạm vỡ của Sở Bắc Tiệp dần khuất ngoài cửa phòng, nhiệt huyết kiềm chế bấy lâu của Sính Đình lại trào dâng.

Nàng nằm trong chăn, kiên nhẫn nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Lúc sau, nàng hít một hơi thật sâu, lật chăn, xuống giường, nhanh nhẹn mặc y phục rồi đến bên cửa sổ. Đôi mắt đen cảnh giác nhìn qua khe hở trên cửa, nàng quan sát một vòng quanh sân.

Hình như Mạc Nhiên đã đưa Sở Bắc Tiệp ra cửa, nên không thấy đứng bên ngoài.

Đôi môi nhỏ nở nụ cười gian, nàng quay lại bàn lấy thảo dược, nhanh chóng nghiền nát.

“Mê hồn dược bí truyền, lại thêm cả đạn nổ”, nàng lẩm bẩm tính toán: “Lính canh ngục không nhiều, chắc có thể ứng phó được”.

Nàng lấy bi nổ từ cái hộp bí mật được giấu kỹ nơi chân giường mà mình đã vất vả chế tạo từ rất lâu rồi, động tác nhanh nhẹn bỗng hơi sững lại.

“Nếu chàng biết, không biết chàng sẽ hận ta đến mức nào.” Trái tim nàng như bị ai xé nát, đau thắt, khuôn mặt thanh tú có chút u oán, nàng than thở, “Chỉ sợ chàng…”.

Có điều, sau thoáng ưu tư ấy, nàng lấy lại được vẻ nhanh nhẹn: “Đừng nghĩ nữa, đương nhiên là phải giúp đỡ thiếu gia và Đông Chước”.

Từng bước, từng bước theo kế hoạch đã định, chưa đầy một khắc, mọi sự đã được chuẩn bị xong.

Sính Đình nhìn ra ngoài cửa. Thấy Mạc Nhiên vẫn chưa quay về, nàng bèn mang theo mê dược và bi nổ, chậm rãi rời khỏi phòng.

Đêm đông, côn trùng trốn đi đâu hết. Mảnh trăng lưỡi liềm lãnh đạm soi sáng phủ Trấn Bắc vương.

Nàng hít một hơi dài, rồi đi thẳng về hướng nhà lao.

Theo quan sát nhiều ngày, không khó để nàng tránh được các đợt đi tuần theo lịch của đám thị vệ trong vương phủ. Những a hoàn gia nô trong nhà nếu có gặp khuôn mặt quen thuộc của Dương Phượng cô nương, họ đều cười chào rồi tránh đi.

Sính Đình vòng qua hòn giả sơn, lặng lẽ tiến về cửa nhà lao.

Từ xa, cai ngục đã nhận thấy có bóng người đi lại. Nhìn kỹ, thấy chính là Dương Phượng cô nương, hắn ngẩng lên cười chào: “Dương Phượng cô nương ra đây làm gì thế? Trời lạnh quá”.

“Ta đánh rơi cây trâm, định đến tìm.”

“Trâm?”, cai ngục hơi sững người, “Hay là cô nương đánh rơi trong phòng?”.

“Ta đã tìm rồi nhưng không thấy, chắc rơi ở đây thôi”, Sính Đình dịu dàng, “Đây là cây trâm Vương gia vừa tặng ta hôm nay, mới mang ra dùng thì bị rơi mất, ngày mai Vương gia hỏi, ta thật không biết ăn nói thế nào? Ngươi giúp ta, mở cửa cho ta vào tìm nhé”.

“Việc này…”, cai ngục khó xử, “Địa lao là nơi quan trọng, không được tùy tiện ra vào”.

“Chẳng phải hôm nay ta đã vào rồi sao?”

Cai ngục tươi cười: “Cô nương làm khó tiểu nhân rồi? Ngộ nhỡ Vương gia hỏi đến…”

Sính Đình không ép nữa mà ra vẻ lo lắng: “Vậy phiền người vào trong tìm giúp, nhớ tìm kỹ khắp mọi nơi, ta đứng đợi ở đây vậy”. Nói xong, nàng làm như bị lạnh, che miệng ho lên vài tiếng.

Gió Bắc thổi buốt xương, cai ngục đứng ở cửa vào địa lao cũng lạnh đến run người. Thấy Sính Đình ho thế, hắn lo lắng: “Ngoài này lạnh lắm, cô nương cứ về trước, khi nào tìm được, tiểu nhân sẽ mang qua”.

“Không, không, ta đợi ở đây cũng được… khụ khụ… Ta đang sốt ruột, trán còn toát mồ hôi đây, nên cũng không thấy lạnh”, giọng Sính Đình run run.

Cai ngục có chút do dự, hắn biết nữ nhân này được Vương gia vô cùng sủng ái. Vì nàng mà Vương gia còn mời cả danh y Trần Quan Chi đến Trấn Bắc vương phủ nữa, chưa biết chừng sau này sẽ trở thành vương phi. Trời lạnh như vậy, để nàng đợi ngoài địa lao, chẳng may đổ bệnh, thì…

Suy tính một hồi, cai ngục cắn răng, nói: “Cô nương vào đi, trong này ấm hơn một chút. Cô nương tự tìm sẽ yên tâm hơn”. Nói rồi, cai ngục mở cánh cửa địa lao, để Sính Đình bước vào, rồi lại cẩn thận đóng cửa lại.

Phía cuối địa lao là phong giam tối om, Đông Chước đang cúi đầu nghỉ ngơi.

Hắn không cảm thấy lạnh, những vết thương nóng rẫy trên da thịt khiến cả người Đông Chước như đang bị mấy chục cái lò lửa cùng thiêu đốt. Chiếc áo cánh đầy vết máu khô dính chặt vào da thịt, khẽ cử động là lại chạm vào những vết thương.

Đông Chước dựa vào tường nghỉ ngơi, cố gắng giữ sức.

Két…

Trong yên lặng, cánh cửa sắt bị đẩy ra, một luồng sáng từ ngoài lọt vào.

Như có linh cảm, Đông Chước mở to mắt.

“Đông Chước?”, Sính Đình cầm bó đuốc, xuất hiện bên ngoài cửa.

Đông Chước nở nụ cười, nói bằng giọng tinh nghịch thường ngày: “Đang đợi ngươi đấy”. Hắn đứng dậy, vết thương bị kéo căng đau đến tái mặt, tiếng xích trói chân tay kêu lẻng kẻng.

Sính Đình bước vào, huơ huơ chiếc chìa khóa, cười tươi tắn.

Tháo được hết gông cùm, Đông Chước hỏi: “Những người ngoài kia đâu?”.

“Nằm hết rồi.” Đôi mắt tròn to của Sính Đình sáng lấp lánh, nàng khẽ nhếch môi: “Còn chưa cần dùng đến bi nổ”.

“Chính là phương thức bí truyền suýt chút nữa đánh mê toàn vương phủ Kính An?”

Sính Đình tự đắc nhếch môi: “Theo ta”.

Ra khỏi phòng giam, quả nhiên cai ngục và thị vệ đều nằm lăn trên mặt đất. Đã trải qua bao sóng to gió lớn, nên hai người rất nhanh trí mà cẩn thận thay sang y phục của thị vệ vương phủ. Vốn quen đường thuộc lối, Sính Đình lợi dụng lúc đêm tối dẫn Đông Chước ra chuồng ngựa.

Trời còn chưa sáng, người coi ngựa đang ngủ say.

Đông Chước chọn hai con ngựa tốt, một cho Sính Đình, một cho mình.

“Xem ra Sở Bắc vương vẫn chưa quay về, đúng là Trời giúp ta”, Sính Đình ngẩng lên nhìn trời, “Giờ lão Trương đang canh cổng nhỏ phía sau, đối phó với ông ấy rất dễ, ngươi chỉ cần nhanh nhẹn chút xíu là được”.

Ở cổng sau, Đông Chước ra tay đánh ngất lão Trương đang gà gật. Hai người an toàn ra khỏi phủ Trấn Bắc vương.

Hai người nhìn nhau cười, cảm khái muôn phần.

Họ vung roi thúc ngựa, rời khỏi chốn nguy hiểm này càng nhanh càng tốt.

Không lâu sau họ ra khỏi thành, chạy tiếp một mạch nữa, trước mắt đã là vùng thôn dã. Dưới vòm trời màu xám, đám cỏ vàng đang run rẩy, những thân cây khô kiêu ngạo ưỡn mình.

Nghĩ đến nguy hiểm đã lùi xa, tiếng vó ngựa dần chậm lại.

Hai người đều kiệt sức, bèn xuống ngựa tìm chỗ ngồi nghỉ ngơi.

Đông Chước cúi đầu suy nghĩ hồi lâu, không nhịn được hỏi: “Vấn đề này đáng phải để sau mới hỏi, nhưng… Sính Đình, sao ngươi lại vào vương phủ của Sở Bắc Tiệp?”.

Nụ cười của Sính Đình bỗng ngưng lại trong thoáng chốc, rồi nhanh chóng trở về như bình thường, nàng hạ giọng: “Lại đây, ta nói cho nghe”.

Đông Chước ghé tai qua, nghe Sính Đình thì thầm, sắc mặt dần thay đổi, đến sau cùng thì ngẩng lên, kinh ngạc nhìn Sính Đình.

Sính Đình bình thản: “Sao thế?”.

“Hóa ra là vậy…”

“Được rồi, nói việc chính trước”, Sính Đình nói, “Vương phủ mất phạm nhân, chắc chắn Sở Bắc Tiệp sẽ đại phái truy binh. Hai chúng ta cần một người dụ truy binh, một người đi gặp Vương gia”.

“Sính Đình, theo ta việc này nên suy tính kỹ càng”.

Sắc mặt Sính Đình trở nên lạnh lùng, nói kiên quyết: “Việc đã đến nước này, có gì để suy tính?”. Không để Đông Chước nói tiếp, nàng đã đứng lên, ngẩng đầu bảo, “Ta vừa ra khỏi vương phủ Trấn Bắc, có nhiều chuyện muốn bẩm báo với thiếu gia. Đông Chước đành phải làm mồi nhử truy binh vậy. Ta đi về phía đông để gặp thiếu gia, ngươi đi về phía tây. Đi đi”.

Vẫn đang do dự, Đông Chước đã bị Sính Đình đẩy lên ngựa. Nàng quất ngựa một roi, rồi đứng nhìn ngựa phóng như bay về phía trước.

“Thiếu gia, Sính Đình sắp gặp được thiếu gia rồi.” Lẩm bẩm mấy lần, thấy bóng dáng Đông Chước đã mất hút phía bình nguyên bao la, nàng mới lên ngựa, tiến về địa điểm đã hẹn trước.

Sính Đình không đoán sai, ngày hôm đó quả nhiên tuyết rơi rất to. Sáng sớm, mặt trời từ từ xuất hiện rồi lại vội vàng lẩn ngay sau tầng mây. Không đầy một canh giờ sau, cả không gian đã hoàn toàn chìm trong tuyết trắng.

Ngồi trên lưng ngựa, Sính Đình ngẩng đầu, nhìn ngắm từng đợt hoa tuyết rơi.

“A, hoa tuyết to quá.” Nàng giơ tay ra, đón được một bông tuyết giữa không trung. Nhìn bông tuyết tan dần trong lòng bàn tay đang ửng đỏ vì lạnh, Sính Đình nở nụ cười trẻ thơ. Lâu lắm rồi, nàng không được ngắm tuyết đẹp như vậy.

Trước đây, mỗi dịp thế này, thiếu gia lại vội vã gọi Sính Đình: “Nhanh lên, nhanh lên, đi thưởng tuyết! Còn cả đàn nữa, nhớ mang theo đấy”.

Thiếu gia vốn phong lưu phóng khoáng, dù giờ đây cả người đã nhuốm phong trần, nhưng chắc vẫn vui vì trận tuyết này chứ?

Nàng không vội vã lên đường, mà chậm rãi thưởng thức cảnh tuyết đẹp trắng xóa của muôn vàn bông tuyết bay lượn khắp không trung. Nàng lấy chiếc áo lông cáo trắng đã chuẩn bị sẵn khoác lên người.

Sở Bắc Tiệp mới tặng nàng cái áo khoác này, hình như là cống phẩm của một tiểu quốc nào đó. Đúng là đồ tốt, mặc vào người cảm thấy ấm ngay, gió chỉ biết đứng ngoài mà thôi. Biết sẽ có tuyết lớn nên nàng đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng.

“Có loạn thế, mới có anh hùng; có anh hùng, mới có giai nhân. Hỗn loạn làm sao, hỗn loại làm sao…”

Cảnh đẹp. Tuy lạnh, nhưng Sính Đình lại có hứng thú, nàng khẽ cất giọng hát.

Một bóng dáng cứ quẩn quanh trong đầu óc nàng. Nàng nở nụ cười, đáy mắt thoáng tia nghi hoặc không xác định.

Nhưng tiếng ca sao vẫn động lòng người.

“Có mê binh quyền, mới được thành danh; đã thành danh, không ngại dối lừa. Dùng binh không ngại dối lừa; không ngại dối lừa…”

Bất giác, nàng nghĩ tới dáng vẻ giận dữ của Sở Bắc Tiệp khi biết mình bị lừa.

Má nàng bỗng đỏ bừng lên như thoa thêm phấn.

Nam nhân đó… Sính Đình không hát nữa mà khẽ thở dài. Nam nhân đó, đúng là hình dung thế nào cũng không đủ.

Tuyết rơi liền ba ngày, nàng cũng đi về phía đông đã ba ngày.

Ba ngày sau, tuyết ngừng rơi. Sính Đình vừa hát vừa quất roi trong tuyết. Nàng đã đến miền biên cương Đông Lâm. Nàng dừng lại nơi còn cách biên giới Đông Lâm và Quy Lạc một nửa ngày đường.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 10

Trời đất trắng xóa một màu.

Sính Đình dừng lại, lần đầu tiên nàng hỏi thăm người đi đường: “Lão gia, xin hỏi đến vách Yến Tử đi thế nào?”.

“Đi thẳng về phía trước, có nhìn thấy con đường ruột dê ( Đường nhỏ ngoằn ngoèo trong núi )trước mặt kia không? Phía cuối con đường có hai ngã rẽ về bên trái và bên phải, cô nương men theo con đường bên phải, đi ngựa nửa ngày đường là tới”. Lão nhân vác bao lương thực đã phơi khô từ mùa hè, ngẩng đầu hỏi, “Lạnh thế này mà vẫn vội đi sao?”.

“Vâng!” Đa tạ lão nhân xong, Sính Đình thúc ngựa, miệng lẩm bẩm, “Đường ruột dê…”

Chính ở trước mặt.

Nghĩ tới nụ cười ấm áp của thiếu gia… Thiếu gia gặp nàng, không biết sắc mặt sẽ thế nào?

Nàng cố kìm lại sự xúc động, quất một roi vào mông ngựa, ngựa liền phi nhanh trên con đường nhỏ.

Con đường nhỏ ruột dê ở ngay trước mặt. Vách đá dựng đứng hai bên kẹp chặt con đường nhỏ chỉ đủ cho ba con ngựa đi hàng ngang, ngẩng đầu lên chỉ nhìn thấy một khe trời.

Sắc trời bàng bạc.

Sính Đình lặng lẽ dừng chân trước lối vào của con đường ruột dê.

Đường nhỏ hút gió, lạnh đến thấu xương, gió vù vù cuốn bay sỏi cát. Khung cảnh này thật khiến lòng người thấp thỏm không yên.

“Truy binh…” Đôi môi hồng khẽ thở than. Lát sau, dường như cảm thấy nguy hiểm đang rình rập, con ngươi Sính Đình bất giác co lại, nàng vung roi, quất mạnh lên thân ngựa: “Đi!”.

Dường như cũng ngửi thấy mùi nguy hiểm, con hắc mã hí lên một tiếng dài, rồi bốn móng gõ nhịp trên đường, phi như bay vào con đường ruột dê.

Hai bên vách đá dựng đứng âm u như cũng đang muốn nhấn chìm nàng.

Sau lưng nàng bỗng vang lên tiếng chân ngựa dồn dập, giống những ác ma ẩn mình dưới lòng đất bất chợt trồi lên chốn nhân gian.

Truy binh, đúng là truy binh!

Truy binh của vương phủ Trấn Bắc đã tới!

Tiếng ngựa như xé tan mặt đất mờ mịt, dồn dập vang lên sau lưng, càng lúc càng gần, đinh tai nhức óc. Thật không khó để tưởng tượng binh sĩ Đông Lâm sát khí ngút trời và binh đao sáng bóng đang đuổi theo sau lưng nàng.

Sính Đình không quay lại, vẫn phi như bay về phía trước.

Tiếng gào thét lẫn trong tiếng gió đang ngày càng theo sát.

“Dương Phượng!”, tiếng gọi uy nghiêm cao ngạo truyền đến bên tai.

Sở Bắc Tiệp đuổi đến rồi!

Thân thình thon thả trên lưng ngựa run run. Sính Đình nhắm mắt lại, mặc cho hắc mã cứ bay đi trên con đường nhỏ.

Gió hung hăng quất vào mặt, đau rát.

“Bạch Sính Đình!” Vẫn là giọng một người, bao hàm sự giận dữ khiến người ta khiếp sợ.

Sính Đình giật mình.

Nàng vẫn còn ghi nhớ giọng nói dịu dàng của người này.

Người ấy nói, chúng ta thề với ánh trăng, không bao giờ phụ bạc.

Người ấy nói, mùa xuân đến, mỗi ngày ta sẽ tự tay ngắt một đóa hoa đẹp nhất, cài lên mái tóc nàng.

Nhưng giờ đây, người ấy đang nộ khí ngút trời tựa hồ như con sư tử bị chọc giận, hung hăng khát máu.

Đó là giọng nói của ác ma khi dẫn thiên quân vạn mã xung phong vào trận địa, ra lệnh tàn sát kẻ thù.

Tiếng vó ngựa ngày càng gần, như sát sau lưng nàng.

Nàng dốc hết sức lực lệnh cho hắc mã lao đi, giơ tay định quất thêm roi nữa.

Nhưng, roi chưa kịp quật, đã có người đuổi đến, một tay nắm lấy roi ngựa trong tay nàng, rồi ôm chặt eo nàng, như đã dùng hết sức lực để trút toàn bộ nộ khí của mình.

“A!” Khẽ kêu lên sợ hãi, nàng đã rơi vào một vòng tay chắc chắn đầy mùi khói lửa.

Mở mắt ra, nàng nhận thấy đôi mắt đen trên đầu mình ẩn chứa đầy hiểm nguy.

“Chạy cũng xa thật đấy”. Một tay giữ ngựa, một tay ôm chặt tên tù binh của mình, Sở Bắc Tiệp khẽ nhếch môi, nở nụ cười tà ma, “Nhìn nàng kìa, thật không biết nghe lời, đã đi xa đến thế này”.

Những lời lẽ dịu dàng bất ngờ ẩn chứa bao nguy hiểm, Sính Đình lặng lẽ nhìn chàng: “Từ lúc nào chàng biết thiếp là Bạch Sính Đình?”.

“Cũng may, khi không quá muộn.” Chàng cúi đầu, lim dim mắt đánh giá nàng.

Cổ cao thanh mảnh, cánh tay trắng nõn, khuôn mặt thanh tú, đôi mắt vẫn thâm trầm, lấp lánh ánh sáng thông tuệ.

Chắc chắn nàng không biết thế nào là khổ hình thực sự, cũng không biết khi giận dữ, Trấn Bắc vương đáng sợ đến nhường nào.

Nên trừng phạt nàng thế nào đây?

“Đông Chước đâu?”, Sính Đình không thể giãy giụa trong cánh tay Sở Bắc Tiệp, nên dứt khoát thả lỏng bản thân, dựa vào lồng ngực chàng, dịu dàng ngước lên hỏi.

“Chạy rồi. Yên tâm, ta sẽ bắt được hắn, hai người nhanh chóng được gặp nhau thôi”. Sở Bắc Tiệp lạnh lùng, “Ngã ba vách Yến Tử, đúng không?”.

Sính Đình khẽ cười.

Sở Bắc Tiệp dịu dàng: “Sợ thì khóc đi, ta thương nhất là nước mắt của nàng”.

Sính Đình không cười nữa: “Bên cạnh Vương gia chắc chắn có những cao thủ trong việc lần theo dấu vết”.

“Đúng thế.”

“Ngay từ đầu, Vương gia đã nghi ngờ thân phận của thiếp, nên khi bắt được người của vương phủ Kính An, chàng đã đem ra thăm dò thiếp”.

“Nếu nàng có thể trấn tĩnh, mặc ta đánh chết tên tiểu quỷ kia, e là mọi nghi ngờ của ta sẽ tiêu tan.”

“Vương gia cố ý tạo cơ hội để thiếp cứu Đông Chước, rồi lần theo dấu vết của bọn thiếp để tìm nơi náu thân của tiểu Kính An vương?”

Sở Bắc Tiệp nhìn nàng đầy ẩn ý: “Đã có binh mã bao vây ngã ba vách Yến Tử. Kế hoãn binh của nàng hoàn toàn vô dụng”.

“Ở trong lòng Vương gia vẫn ấm áp nhất.” Như đã mệt mỏi, Sính Đình nhắm mắt lại, ngoan ngoãn dựa vào Sở Bắc Tiệp, “Vương gia lợi hại như thế, vì lý do gì mà vẫn không bắt được Đông Chước?”.

Sở Bắc Tiệp nghe lời nhắc nhở của Sính Đình, bỗng như nhớ ra điều gì, cả người chợt cứng đờ, rút kiếm ra lệnh: “Rút! Rút khỏi đây”.

Sính Đình yêu kiều: “Muộn rồi”.

Tất cả mọi người đều không hiểu gì cả.

Còn chưa kịp hiểu, họ đã nghe trên đỉnh đầu một tiếng hú dài. Ngẩng lên, hai bên vách đá bỗng hiện ra muôn vàn cung tên, những mũi tên sáng loáng đang chĩa về phía họ.

Nếu tên bắn ra, người có bản lĩnh đến mức nào đi chăng nữa cũng sẽ không có cơ may sống sót.

“Có mai phục!”

“A! Người của vương phủ Kính An!”

“Hỏng rồi! Chạy thôi! A…”

Đám đông hỗn loạn trong con đường nhỏ, không ít binh sĩ Đông Lâm vội vã thả ngựa muốn ra khỏi nơi này. Nhưng vừa cử động, mũi tên đã vèo vèo bay tới, trúng tim.

Chiến mã đứng yên, hú những tiếng dài.

Tiếng kêu gào thảm thiết, máu tươi trào ra, không ít binh sĩ ngã xuống từ trên lưng ngựa.

Tên bắn như mưa, vô tình lấy mạng của những kẻ đang trốn chạy. Sau khi giết hết những người này, bên trên vách đá vọng xuống tiếng kêu vang: “Đầu hàng không giết! Đầu hàng không giết!”.

Thân nơi hiểm nguy, địch trên ta dưới, thắng bại đã phân.

Trong lòng Sở Bắc Tiệp biết mình sơ suất, e rằng hôm nay đại nạn đã giáng xuống đầu. Nhưng, vốn là bậc anh hùng sách lược, dù đại họa có rơi xuống đầu, chàng vẫn giơ tay đĩnh đạc cất tiếng: “Toàn bộ xuống ngựa, dắt ngựa của mình, không được manh động!”.

Chàng thét lên mấy tiếng, trấn tĩnh toàn bộ thuộc hạ của mình. Quả nhiên, tất cả binh sĩ xuống ngựa, đồng loạt rút dao, đứng quanh Sở Bắc Tiệp. Trong ánh đao sáng lóa, họ ngẩng lên nhìn mũi tên dày đặc trên đầu mình.

Sở Bắc Tiệp cúi xuống, nhìn đôi mắt gian giảo kia.

“Nàng cố ý tạm biệt tiểu quỷ đó, rồi chọn nơi này, hóa ra có thâm ý. Lúc kề tai nói chuyện, nàng đã định hết kế sách dụ ta vào đất chết.”

“Vương gia quá khen. Nơi này không dễ tìm, muốn Đông Chước có thể bình an trở về, cộng thêm việc mật thám của Vương gia không thể ra mặt truy đuổi, thiếp cũng mất bao nhiêu tâm sức.”

Cả chặng đường thưởng thức phong hoa tuyết nguyệt, là để Đông Chước kịp thời bẩm báo kế sách với thiếu gia, để họ có đủ thời gian chuẩn bị tốt lần mai phục này. May mà thường ngày nàng chịu khó đọc sách, biết được biên cương Đông Lâm có vùng đất hiểm ruột dê, cả ngã ba vách Yến Tử là nơi thích hợp nhất để ẩn nấp người ngựa.

Sở Bắc Tiệp bỗng chuyển đề tài: “Đáng tiếc là nàng đã chọn sai địa điểm”.

“Ồ?”

“Nếu không tính nhầm, sao nàng lại rơi vào tay ta?”, Sở Bắc Tiệp lạnh lùng hừ một tiếng: “Tên bắn ra, tất nhiên ta không thể sống, và nàng cũng chẳng có cơ may sống sót”.

Sính Đình liếc xéo Sở Bắc Tiệp một cái, rồi thản nhiên đáp: “Thiếp phụ chàng, chết cùng chàng thì thế nào?”.

Ánh mắt sắc sảo của Sở Bắc Tiệp chằm chằm găm trên da tóc nàng: “Không cần khua môi múa mép, ta không tin nàng tự tìm đến cái chết”.

Sính Đình đáp: “Vương gia một đời anh hùng, tất nhiên không an tâm kết thúc thế này. Thực ra thiếp đâu muốn lấy mạng chàng, chỉ cần chàng hứa một việc, những mũi tên kia sẽ lập tức biến mất, không làm bị thương thêm bất cứ ai”.

“Nói.”

“Yêu cầu rất đơn giản, trong năm năm, Đông Lâm không được có một binh một tốt nào xâm phạm Quy Lạc.”

Sở Bắc Tiệp hạ giọng: “Binh quốc đại sự, phải có sự đồng ý của Đại vương”.

“Vương gia là đệ đệ của Đại vương, lại là đệ nhất đại tướng của Đông Lâm, chẳng lẽ không gánh vác nổi chút việc cỏn con này? Năm năm thái bình của Quy Lạc đổi lấy tính mạng quý giá của Vương gia, có tính thế nào cũng đáng.” Nàng mím môi, hạ giọng, “Kẻ thức thời là tuấn kiệt. Vương gia sống, thiếp cũng được sống. Vương gia chết, thiếp cũng chỉ có thể chết cùng chàng”.

Biết rõ nữ tử trong lòng giảo hoạt vô cùng, nhưng Sở Bắc Tiệp vẫn không sao dứt tình.

Ngọc ấm hương nồng (Ý nói thân thể người con gái đem lại cho người ta cảm giác rất thơm và mềm mại )...chàng vẫn nhớ như in những xúc cảm trong lòng. Nhưng mặt sau của vẻ dịu dàng ấy lại tiềm ẩn bao dối lừa quỷ kế.

Sở Bắc Tiệp cắn răng, cổ nổi gân xanh.

Cả đời chàng, chưa từng bị ai kiềm chế thế này bao giờ.

Đây là nỗi nhục không thể nào tha thứ.

Sao Sính Đình lại không biết nộ khí của Sở Bắc Tiệp đang trào dâng? Ánh mắt chàng nhìn nàng còn sắc hơn cả kiếm.

Hai hàng lông mày của Sở Bắc Tiệp chau lại đau đớn, khiến ruột gan nàng cũng như đang bị ai đó xoắn lại.

Không thể tiếp tục chịu đựng được cái nhìn đè nén của Sở Bắc Tiệp, Sính Đình khẽ nghiêng đầu, giục giã: “Vương gia, nên đưa ra quyết định rồi”.

“Ha ha… ha ha ha!” Nghe thấy người trong lòng có ý thúc giục, hôm nay ép chàng thề, Sở Bắc Tiệp giận quá hóa cười, ngẩng đầu cười vang vài tiếng, rồi cúi xuống nhìn chằm chằm Sính Đình, hạ giọng, “Như nàng mong muốn”.

Chàng rút thanh bảo kiếm luôn mang bên mình, ném xuống đất. Bảo kiếm chạm phải nền đá, bắn ra vài tia lửa nhỏ.

“Ta, Đông Lâm Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp xin thề với uy danh vương tộc Đông Lâm, trong vòng năm năm, không một binh một tốt nào của Đông Lâm xâm phạm lãnh thổ Quy Lạc. Thanh kiếm này bỏ lại đây, chính là tín vật.”

Giọng nói phẫn uất vang vọng trên con đường nhỏ kẹp giữa hai vách đá, bi thương ai oán như lời cuối của khúc ca nơi tận cùng chân trời, người trên vách đá dưới đường đều nghe rõ mồn một.

Sở Bắc Tiệp vừa dứt lời, trên vách liền xuất hiện một người, cúi mình hành lễ, từ tốn cười nói: “Trấn Bắc vương biết tiến biết lui, thật là trang quân tử. Hà Hiệp ta tin Trấn Bắc vương hứa là sẽ giữ lời. Tại đây, ta thay mặt cho toàn bộ bách tính không mong muốn chiến tranh của Quy Lạc, đa tạ Trấn Bắc vương”. Phong lưu khoáng đạt, bạch y như tuyết, chính là tiểu Kính An vương tiếng tăm lẫy lừng, người đang bị Đại vương Quy Lạc truy sát khắp nơi.

Nhìn thấy Hà Hiệp, Sính Đình vô cùng xúc động, bất giác buột miệng hét lên: “Thiếu gia”.

Hà Hiệp từ xa nhìn về phía Sính Đình, gật đầu: “Sính Đình, muội làm rất tốt. Ta…”, lời nói như nghẹn lại nơi cổ họng, không tiện nói ra trước bao nhiêu người. Hà Hiệp quay sang nhìn Trấn Bắc vương: “Trấn Bắc vương hãy thả thị nữ của tiểu vương ra. Khế ước đã định, Trấn Bắc có thể lui quân mà không gặp phải bất cứ sự truy đuổi nào”.

Sở Bắc Tiệp không nói gì, chỉ cúi đầu nhìn Sính Đình.

Thả nàng?

Buông tay, để nàng xuống ngựa. Hành động đơn giản ấy sao mà khó khăn đến vậy. Sở Bắc Tiệp không làm được, cánh tay như không sao khống chế nổi, càng ôm nàng chặt hơn.

Hận nàng, trên trời dưới đất, không có ai dám to gan điên cuồng như nàng. Nghiến răng nghiến lợi, Sở Bắc Tiệp như đang muốn dùng mọi hình phạt tàn khốc nhất trong thiên hạ để trừng phạt nàng, giam nàng lại, giày vò cả đời này cũng không đủ để an ủi nỗi uất hận trong lòng.

Nữ tử có thân hình mảnh mai này lại độc như nọc rắn, đẩy chàng vào chỗ chết. Đáng lẽ chàng phải coi nàng là kẻ thù lớn nhất trong đời, giết được mà sảng khoái mới đúng.

Tại sao cánh tay lại không nghe theo ý chí của chàng, mà càng ôm nàng thêm chặt.

Không muốn buông tay, những ngón tay thon thả ấy, và cả khuôn mặt thanh tú ấy giờ đang lạnh cóng, lạnh đến đỏ ửng da thịt.

Thường ngày, nếu lạnh đến mức này, nàng sẽ cuộn tròn trong lòng chàng như một chú mèo nhát gan.

Đã quen nghe nàng đàn hát, nghe nàng cười nói, quen những khi nàng uể oải dựa vào giường, cùng chàng duyệt công văn.

Đã biết lai lịch của nàng không đơn giản, lại cứ tưởng có thể dễ dàng ngầm khống chế. Cứ tưởng chỉ cần chút kế mọn, bắt được Hà Hiệp, là có thể bắt cái người hay nói dối kia về lại bên mình.

Có ai ngờ mọi sự đã thay đổi chỉ trong khoảnh khắc, gậy ông đập lưng ông. Cứ tưởng có thể giữ mãi con chim phỉ thúy trong phòng bàn tay, nào ngờ nó lại vỗ cánh bay về bên chủ nhân của mình.

Còn chàng, vẫn không muốn buông lỏng vòng tay. Quen bế nàng, ôm nàng, thơm nàng, rồi hôn nàng. Ngón tay vẫn còn lưu giữ xúc cảm lướt qua cánh môi nàng. Chàng quen rồi.

Hận đến cực điểm, yêu không phai nhạt.

Quen rồi…

Nữ tử đáng ghét, đáng hận, đáng giết nhất thế gian, nữ tử yếu đuối, thông tuệ, đáng yêu nhất thế gian.

Thật đáng thương, người mà chàng phải khổ sở truy đuổi, chính là tuyệt thế giai nhân này.

Sở Bắc Tiệp khẽ nhắm mắt, bao nhiêu suy nghĩ đang giày vò trái tim chàng.

“Vương gia, hãy thả thị nữ của ta ra”, giọng Hà Hiệp lại vang lên.

Như đang lang thang trên những tầng mây hồi ức, bỗng chốc rơi thẳng xuống con đường ruột dê hiện thực, Sở Bắc Tiệp khẽ giật mình, cúi đầu, nàng vẫn nằm gọn trong vòng tay mình, ánh mắt sáng nhìn mình chăm chăm.

“Vương gia, để thiếp xuống ngựa”, nàng thấp giọng nói.

Sở Bắc Tiệp như không nghe thấy gì.

Xuống ngựa? Nàng sẽ đi đâu?

Nàng lừa ta, dụ ta, sao có thể nói đi là đi?

Khắp thế gian này, ta chỉ muốn có một mình nàng.

Oán hận chất chồng, yêu thương mãnh liệt, ta muốn thân hình và cả trái tim nàng không nơi nào có thể trốn.

Sở Bắc Tiệp lạnh lùng: “Ta chỉ hứa Đông Lâm sẽ không xuất binh vào Quy Lạc trong năm năm, nhưng không hề hứa sẽ thả nàng đi”.

Sính Đình thong thả ngẩng đầu, nói: “Phục binh trên kia vẫn chưa lui, lúc này vô cớ sinh sự, không có lợi cho Vương gia”.

“Không hổ là nữ quân sư của Hà Hiệp.” Khóe môi mỏng của Sở Bắc Tiệp thoáng nét cười quái dị, “Nếu bây giờ ta bóp chết nàng trong lòng ta ngay trước mặt Hà Hiệp, nàng nghĩ sao?”.

Sính Đình không hề sợ hãi, cười ngọt ngào: “Vạn mũi tên lao tới, Sính Đình và Vương gia sẽ chết cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng”.

“Sai”, Sở Bắc Tiệp chắc chắn, “Hà Hiệp sẽ không bắn tên. Chỉ cần ta vẫn tuân thủ hiệp ước năm năm, Hà Hiệp sẽ để ta bình yên trở về. Cùng lắm là bắn một đám thị vệ để trút giận”.

Sắc mặt Sính Đình thoáng chút thay đổi. Tuy đã lấy ngay lại được vẻ bình tĩnh, nhưng vẫn không thoát khỏi ánh mắt sắc sảo của Sở Bắc Tiệp.

Sở Bắc Tiệp thở dài: “Là thị nữ bên cạnh Hà Hiệp, chẳng lẽ nàng không biết Hà Hiệp là một danh tướng đương thời? Thế nào là danh tướng? Chính là biết phân rõ cái nào trọng cái nào yếu, có thể gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi. Cho dù Bạch Sính Đình nàng thông minh lanh lợi được yêu chiều đến thế nào đi chăng nữa, cũng không so được với năm năm thái bình của Quy Lạc”.

Sính Đình khẽ khàng: “Vương gia hận thiếp đến thế sao?”.

Sở Bắc Tiệp vẫn chăm chăm nhìn nàng, không nói.

Sính Đình cười thê thảm: “Cũng đành, Vương gia hãy ra tay đi”.

Lời vừa dứt, vòng tay bỗng lỏng, chân nàng đã chạm đất. Nàng ngạc nhiên ngẩng đầu, ngước nhìn nam nhân uy vũ hiên ngang trên lưng ngựa.

“Ta cho nàng cơ hội cuối cùng.” Sở Bắc Tiệp nói, “Tự nguyện lên ngựa, cáo biệt Hà Hiệp. Từ nay, nàng không còn mang tên Bạch Sính Đình nữa, nàng họ Sở”.

Sính Đình run rẩy, không ngờ đến bước này Sở Bắc Tiệp vẫn cho nàng một lựa chọn. Tình ý này sao không khiến người ta cảm kích mà rơi lệ?

Đôi mắt long lanh sững sờ nhìn khuôn mặt tuấn tú như đao khắc, những ngày tháng yêu thương mặn nồng, những lời lẽ ngọt ngào cứ lặp đi lặp lại trong đầu nàng.

Vẫn còn đó cây đàn cổ trong vương phủ Trấn Bắc.

Đóa hoa cài lên tóc đã héo tàn tận nơi đâu.

Thiếp là thân bồ liễu hồng nhan mơ với gió trăng, chàng là bảo đao cung khỏe chí ôm toàn thiên hạ, giữa chúng ta, quốc thù cao như núi.

Núi cao tới trời, chàng không nhìn thấy thiếp, thiếp ngước chẳng thấy chàng.

Lòng đau như cắt, chưa bao giờ hết.

Sính Đình nhìn về phía Hà Hiệp đứng trên vách núi, sóng mắt khẽ lay động. Nàng cắn chặt môi, lùi về sau nửa bước: “Mời Vương gia quay về, Sính Đình không tiễn”.

Chỉ thấy khuôn mặt Sở Bắc Tiệp không chút biểu cảm, ánh mắt lạnh lẽo dùng trên khuôn mặt nàng, chàng gật đầu khẽ đáp: “Được, được, được …”. Nói liền ba tiếng “Được”, chàng lạnh lùng tiếp, “Sẽ có ngày, nàng biết thế nào là nỗi đau xuyên tim”. Thúc ngựa quay đầu, Sở Bắc Tiệp quất mạnh roi.

Tuấn mã hí vang, gào thét phóng đi, gõ móng lộp cộp, cuốn tung bụi đất.

Chỉ còn lại một bóng dáng trong ánh chiều tà, trên con đường nhỏ kẹp giữa hai vách đá.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 11

Đông qua, xuân tới.

Hoa núi nở rực rỡ, một chú bướm bay đến, đậu lên ngón tay nàng.

Trong một sơn trang ở giữa biên giới Quy Lạc và Bắc Mạc, Sính Đình đang đứng bên cửa sổ.

“Dạo này, muội gầy đi nhiều đấy.” Hà Hiệp đứng sau lưng nàng, khẽ thở dài, “Sính Đình, muội thay đổi rồi.”

“Thay đổi?”, Sính Đình cố cười, ngón tay khẽ động, làm kinh động cánh bướm đang nghỉ ngơi. Nàng quay lại: “Ai thay đổi? Sính Đình vẫn họ Bạch, vẫn theo thiếu gia, vẫn ngày ngày đàn hát.”

Nhìn nàng chăm chăm, cho đến khi nàng phải đưa ánh mắt ngạc nhiên của mình sang hướng khác, Hà Hiệp mới rút từ sau lưng ra một thứ đưa cho Sính Đình: “Của muội này”.

“Gì thế?”, Sính Đình nhìn kỹ, là thanh bảo kiếm tín vật Sở Bắc Tiệp để lại, “Đây là tín vật của hai nước, sao lại giao cho Sính Đình?”

“Sở Bắc Tiệp có thói quen, mỗi khi ra sa trường thì hai bên trái phải đều mang kiếm. Tín vật lần này là thanh kiếm bên trái.” Hà Hiệp ngừng lại, hạ giọng giải thích, “Thanh kiếm này tên là Ly hồn.”

Sóng mắt Sính Đình nhìn sang thanh kiếm trăm năm cổ xưa này, khẽ mân mê, rồi đờ đẫn nhắc lại: “Ly hồn?”

“Hôm đó, ta không hiểu tại sao Sở Bắc Tiệp để lại thanh kiếm bên hông trái luôn được coi trọng nhất này mà không phải thanh bảo kiếm có sức mạnh thần kỳ bên hông phải. Giờ ta đã hiểu, hắn để lại thanh kiếm này cho muội, bây giờ, muội đã bị ly hồn rồi.” Hà Hiệp đặt thanh bảo kiếm vào tay Sính Đình, rồi thở dài, bước ra khỏi phòng.

Ly hồn?

Sính Đình ôm kiếm vào lòng, thanh kiếm lạnh giá áp sát vào da thịt.

Nàng thất thần.

Đúng thế, hồn phách của nàng đã đi theo bóng hình trên lưng ngựa.

Làm sao để quên được Sở Bắc Tiệp? Trời xuân tươi đẹp, chính là thời khắc để ngắt hoa cài lên tóc.

Khoảng thời gian sau khi ổn định lại dài như thế, khiến nàng từng ngày từng đêm hồi ức đến tất cả mọi điều về Sở Bắc Tiệp.

Tại sao ruột gan nàng lại mềm tựa bùn, hoá thành nước?

Quên hết những nghi ngờ lừa phỉnh, tương kế tựu kế, thành làm vua bại làm giặc, nàng chỉ nhớ ba đêm trong Hoa phủ, gương mặt chàng chân thành đến thế, trang nghiêm đến thế, từ đó buộc chặt trái tim nàng.

“Rốt cuộc chàng là người thế nào?”, Sính Đình ngẩng đầu hỏi mây trên trời, “Chàng hận thiếp, hay yêu thiếp? Một lời trước khi ly biệt, vì không nỡ, hay để đoạn tuyệt?”

Ngày đêm bên nhau, dịu dàng đến thấu xương, không phải là giả.

Lừa dối phỉnh phờ, mưu cao kế dày, cũng chẳng phải giả.

Nàng thông minh là thế, lúc này sao lại hồ đồ, giống như sa chân xuống vũng bùn, không sao rút ra nổi?

Bỗng có người đập mạnh vào vai, Sính Đình giật bắn mình, quay phắt lại.

“Ha ha, lại ngẩn người ra rồi?”, Đông Chước làm mặt quỷ, nhìn rõ thần sắc của Sính Đình thì vội vàng thu nụ cười: “Này, này? Sao lại khóc thế kia?”.

Sính Đình vội vã lau hàng lệ, trợn mắt nói: “Lúc nào cũng không đàng hoàng! Trong lúc hiểm nguy còn có vài phần tiến bộ, vừa mới yên ổn vài ngày, đã lại chẳng ra sao rồi.”

Đông Chước cười hì hì lắc đầu, mắt vẫn nhìn nàng, rồi ngồi xuống bưng chén trà lên: “Ta đến thăm ngươi, định bụng đùa cho ngươi vui. Nhưng ngươi được lắm, vừa nhìn thấy ta đã nghiêm mặt giáo huấn”.

Nghe Đông Chước nói vậy, Sính Đình bỗng cảm thấy xấu hổ, cúi đầu, ngượng ngùng lên tiếng: “Mọi người không phải lo cho ta, ta vẫn khỏe, mấy hôm nữa là ổn thôi”.

“Mấy hôm? Ngày mai chúng ta đã rời khỏi đây rồi, còn mấy hôm gì chứ?”

“Ngày mai?”, Sính Đình ngẩn người, “Đi đâu?”.

Đông Chước ngạc nhiên, vô cùng ngỡ ngàng khi thấy Sính Đình không hề biết gì, khuôn mặt thoáng chút bối rối, nhưng nhanh chóng lấy lại vẻ bình thường, nói lấp lửng: “Ta cũng chỉ nghe loáng thoáng thiếu gia nói một hai lần, hình như… nơi này tuy là sản nghiệp bí mật bao năm nay của vương phủ, nhưng dù gì cũng vẫn nằm trong biên giới Quy Lạc. Nay Đại vương đang truy đuổi những người của vương phủ Kính An, nên cẩn thận vẫn hơn, đi sớm một chút… song không biết đi đâu”.

Đông Chước cười gượng gạo, rồi vỗ mạnh tay vào trán, “Chết rồi, ta đang làm dở việc của thiếu gia, phải đi làm nốt đây”.

Sính Đình lặng lẽ nhìn theo Đông Chước vội vã đi ra.

Cảm giác lạ lẫm bỗng xâm chiếm nàng, nghĩ lại, nàng cũng không thể trách thiếu gia và Đông Chước.

Từ khi trở về bên thiếu gia, lúc nào nàng cũng như người mất hồn. Mọi người nói mười câu, nàng chỉ đáp được một.

Trước đây nàng là người quản lý những sự vụ trong phủ, nhưng thời gian lưu lạc sang Đông Lâm, thiếu gia cũng đã dạy dỗ được mấy thị nữ đắc lực khác, nên từ khi trở về, nàng cũng chẳng quan tâm đến việc này nữa.

Cứ như thế, dường như nàng đã tách khỏi vương phủ Kính An.

Nỗi lo lắng của thiếu gia hoàn toàn có lý. Nơi này tuy vắng vẻ, nhưng vẫn là vùng đất của Đại vương Quy Lạc, phòng bị vẫn hơn. Nếu là trước đây, đáng lẽ nàng còn phải nhắc nhở thiếu gia, nhưng giờ… Lẽ nào qua một lần tôi luyện, nàng đã đánh mất trí thông minh của mình?

Ngày hôm sau, quả nhiên có thị nữ đến báo thu xếp hành lý rời đi.

Sính Đình hỏi: “Chúng ta đi đâu?”.

“Muội không biết.”

“Tiểu vương gia đâu?”

“Tiểu vương gia đang bận.”

Lên đường cùng đám người của vương phủ, nhưng chẳng thấy Đông Chước đâu, nàng lại hỏi: “Đông Chước đâu rồi?”

“Muội sao biết được những việc này? Sính Đình tỷ tỷ, tỷ cứ yên tâm lên xe đi.”

“Tiểu vương gia đi xe nào? Ta vẫn hay ngồi cùng thiếu gia mà.”

“Sính Đình tỷ tỷ, là Tiểu vương gia dặn dò tỷ ngồi chung với bọn muội. Tiểu vương gia ở đâu, muội cũng không biết.”

Hỏi mười câu đến chín câu a hoàn kia không biết, cả chặng đường không gặp nguy hiểm gì, họ lại đến một biệt viện, chắc cũng vẫn là sản nghiệp bí mật của vương phủ Kính An từ trước.

Bỗng thấy nghi ngờ, Sính Đình không thể không lấy lại chút hồn phách từ chỗ Sở Bắc Tiệp mà đánh giá mọi việc đang diễn ra xung quanh.

Mấy ngày nay vẫn không thấy thiếu gia…

Vô duyên vô cớ, những người ở đây ngày càng xa lạ với nàng.

Lúc trước, nàng thất thần vì Sở Bắc Tiệp nên không phát hiện ra, giờ mọi thứ đã đập vào tầm mắt nàng.

“Sao không thấy Vương gia đâu?”

“Vương gia không đi chung đường với chúng ta.”

“Thế Vương gia ở đâu?”

“Không biết.”

Biết rằng họ cũng chẳng biết gì, nàng quyết định ra khỏi phòng tìm thiếu gia, nhưng đã bị ngăn lại: “Tỷ tỷ muốn tìm Tiểu vương gia, bọn muội đi báo đã”.

Một lát sau, thị nữ trở lại, nói: “Tiểu vương gia không có ở đây, khi nào về, Tiểu vương gia sẽ đến thăm tỷ tỷ”.

Bao ngày không gặp Hà Hiệp, mọi tin tức như đã bị cắt đứt, Sính Đình cơ hồ không nhìn thấy xung quanh, bất luận gần xa, tất cả đều trở thành một khối mờ mịt.

Nàng sao có thể không cảm thấy lạnh lòng? Lưu lạc một thời gian, mọi thứ xung quanh nàng đã hoàn toàn thay đổi.

Vương phủ Kính An thay đổi, hay nàng thay đổi?

Không lâu sau, bệnh cũ bị nhiễm từ năm ngoái lại tái phát.

Sính Đình tỉnh dậy giữa đêm, ho liên tục, thị tì mời đại phu, sắc thuốc bận rộn cả một đêm.

Ngày tiếp theo, cuối cùng Hà Hiệp cũng xuất hiện.

“Sao lại ốm thế này?” Hà Hiệp chau mày, trách hỏi, “Lúc nào muội cũng không chịu chăm sóc bản thân mình cho tốt, muội xem, đang yên đang lành lại ốm thành ra thế này, sao phải khổ vậy?” Hà Hiệp tự tay bê thuốc, giúp nàng uống.

Sính Đình ngẩn người nhìn Hà Hiệp, lát sau mới nở nụ cười, nói: “Thiếu gia gần đây bận thật đấy, không thấy đâu cả”.

“Ta sợ muội phiền lòng, lại sợ muội lao tâm khổ tứ, nên giấu hết những việc khiến muội buồn và lo lắng đi.”

“Vương phủ Kính An tương lai sẽ quy tụ chốn nào, thiếu gia và Vương gia đã bàn bạc gì chưa?”

“Đã bảo mà, muội đừng có lo lắng… Ta sẽ sắp xếp hết.”

Cố chống người uống hết bát thuốc, Sính Đình nhắm mắt lại. Hà Hiệp cũng không vội đi, ngồi bên cạnh, khẽ bóp vai cho nàng: “Ngủ đi, muội gầy trơ xương rồi. Ăn được ngủ được mới là cái phúc. Giờ lúc nào muội cũng cau mày không nói, khiến ta nhớ tới lúc nhỏ muội cứ thích nghịch trò ném đĩa xuống giếng”.

“Lúc nhỏ thật thích, chúng ta ở bên nhau hồn nhiên vô tư.”

“Giờ cũng tốt mà.”

Khuôn mặt gầy gò nở nụ cười mệt mỏi, Sính Đình bỗng nhớ đến một chuyện, khẽ khàng mở mắt: “Thiếu gia, Sở Bắc Tiệp đã nói với muội một câu”.

“Nói gì?”

“Sở Bắc Tiệp nói: Muội là thị nữ thân cận của thiếu gia, chẳng lẽ lại không biết thiếu gia là danh tướng đương thời? Thế nào là danh tướng, chính là có thể phân rõ cái nào trọng cái nào yếu, có thể gạt bỏ tình riêng, cắt đứt tư lợi. Cho dù Bạch Sính Đình muội thông minh lanh lợi, được yêu chiều đến thế nào đi chăng nữa, cũng… cũng chẳng là gì.”

Hà Hiệp lắc đầu bảo: “Nha đầu hồ đồ, muội chỉ ghi nhớ mỗi lời của hắn sao?”

“Sở Bắc Tiệp tuy là tướng địch, nhưng muội tin câu nói ấy.” Ánh mắt yếu ớt của Sính Đình dừng lại trên khuôn mặt Hà Hiệp, khẽ nói, “Thiếu gia là danh tướng đương thời”.

Hà Hiệp cúi đầu không nói.

“Sính Đình, từ lúc trở về, muội chưa từng kể với ta về việc trong vương phủ Trấn Bắc.”

“Sở Bắc Tiệp đã sớm nghi ngờ muội, nên khi phê duyệt công văn, dù muội ở trong phòng, nhưng cũng chẳng đọc được gì.”

Những phỉ thuý trân châu, xưa nay ở nơi nào.

Vương phủ Kính An một thời lẫy lừng chốn thành đô Quy Lạc, giờ bỗng thành phòng dột nhà không, hiên đổ ngói vỡ. Thế sự khó lường, sao trách được lòng người thay đổi?

“Quy Lạc đã có năm năm yên bình, trong năm năm ấy, Đại vương có thể chỉnh đốn quân ngũ, đối kháng với Đông Lâm. Chúng ta làm được việc này cũng coi như xứng đáng với bao đời quốc ân. Hà Túc là đại vương Quy Lạc, hắn bất nhân, nhưng chúng ta không thể bất trung. Từ nay trở đi, vương phủ Kính An không còn tồn tại. Chúng ta muốn quy ẩn sơn lâm, không bao giờ xuất hiện nữa.” Hà Hiệp im lặng một lát, rồi lại nói, “Nhưng Hà Túc quyết truy đuổi đến cùng, thù riêng của vương phủ Kính An cũng không ít. Cả tứ quốc đều có đám quyền quý muốn truy sát chúng ta, thế nên, việc giữ bí mật hành tung liên quan trực tiếp đến sinh tử tồn vong”.

Cơn lạnh thấu xương bất chợt bao trùm lên suy nghĩ của Sính Đình, như sợi dây thừng cột chặt tim nàng.

“Thiếu gia…”, Sính Đình cắn chặt răng, run rẩy một hồi mới nói ra thành tiếng, “Thiếu gia nghi ngờ muội?”



“Muội dụ Sở Bắc Tiệp, lập công lớn cho Quy Lạc, Muội là bậc kỳ nữ hiểu rõ đại nghĩa. Ta tin muội.” Hà Hiệp ngẩng lên trời, nhắm mắt lại, im lặng một hồi, rồi bỗng mở mắt, lạnh lùng hỏi, “Nhưng, Sính Đình, muội có tin muội không?”

Tám từ vừa hỏi, từng từ đâm thẳng vào tim nàng.

Sính Đình thực sự sững sờ. Cảm giác đau đớn và không thể nào tin hổi in hằn lên mặt nàng.

“Thiếu gia nói gì?”, cố tìm lại giọng nói, nàng tức giận hỏi.

Hà Hiệp không trả lời mà hỏi lại: “Muội đang cầm cái gì?”

“Ly hồn”, Sính Đính nói, “Thiếu gia đưa cho muội”.

“Không, Sở Bắc Tiệp đưa cho muội.” Hà Hiệp thở dài, “Nếu hôm đó đưa Ly hồn cho muội, muội cự tuyệt không nhận, ta còn có một tia hy vọng. Hy vọng muội chưa từng bị Sở Bắc Tiệp đầu độc, chưa từng đánh mất hồn phách và lý trí. Nhưng muội đã nhận. Nhận Ly hồn, muội chỉ nhớ đến Sở Bắc Tiệp mà quên mất Quy Lạc. Muội đã bao giờ nghĩ rằng, đây là tín vật của hai quốc gia, là vật chứng giữ cho trăm họ Quy Lạc được năm năm thái bình?”

“Nếu muội quên Quy Lạc, sao vẫn dụ Sở Bắc Tiệp vào bẫy?”

Hà Hiệp chăm chăm nhìn nàng: “Thì ra là thân ở chốn hiểm nguy, tình còn mịt mờ chưa rõ. Đến lúc biệt ly, tương tư đã ngấm tận xương”.

“Không phải thế…”

“Sính Đình, sau khi trở về, muội không còn cưỡi chung ngựa với ta. Trước đây, mỗi lần xuất chinh trở về, huynh muội ta sao mà thân mật quá đỗi. Hôm đó, ta thấy hắn thả muội xuống ngựa, một nam nhân rơi vào cạm bẫy lại đành lòng thả nữ nhân đã hãm hại mình xuống ngựa…”

“Đừng nói nữa, đừng nói nữa!” Sính Đình liên tục lắc đầu, khuôn mặt tiều tuỵ trắng bệch. Nàng khẽ nhắm mắt, hai hàng lệ lăn dài trên má, rầu rĩ nói: “Muội hiểu rồi”.

Kẻ phản gián.

Nàng lừa tấm chân tình của Sở Bắc Tiệp, Sở Bắc Tiệp dùng chính chân tình để hại nàng.

Tình là thật, kế cũng là thật.

Sự tín nhiệm trong mười lăm năm bên cạnh thiếu gia, lại không chống được một kế sách của Sở Bắc Tiệp.

Lần đầu tiên trong đời, Sính Đình mở trừng mắt nhìn mình trúng kế mà không thể làm gì. Nàng không thể làm gì để Hà Hiệp hết nghi ngờ mình, bởi thực ra, nàng cũng đã động lòng.

Nam nữ trên thế gian, một khi đã động lòng thì không thể phán đoán đúng sai, hay dở.

Ngộ nhỡ sau này gặp lại Sở Bắc Tiệp, thật khó đảm bảo rằng ngôn ngữ cử chỉ của nàng lại không tiết lộ gì về vương phủ Kính An.

Hà Hiệp đề phòng nàng, hoàn toàn có lý.

Phản gián.

Đó chính là chiêu cuối cùng của Sở Bắc Tiệp trước khi rời đi, khiến nàng đau xuyên tim.

Nàng cứ mở trừng mắt như thế đến tận khi trời sáng. Nghe tiếng gà gáy, Sính Đình bỗng giật mình, ngồi nhổm dậy. Chăn gối bỗng chốc trở nên nặng nề. Nàng như người thất thần, chậm rãi đưa tay ra, mân mê những hoa văn quen thuộc trên đồ vật ấy.

Hai chữ cổ “Ly hồn” tựa như rồng bay phượng múa trên cán kiếm.

Khoảnh khắc toé lửa khi Sở Bắc Tiệp ném cây kiếm hôm đó vẫn như đang ở ngay trước mắt nàng. Trái tim Sính Đình chẳng khác nào bị ai đó bóp chặt, nàng nghĩ đến những lời Hà Hiệp nói.

Nếu nàng không nhận thanh kiếm này, thì vẫn còn một tia hy vọng.

Nếu nhận rồi…

Ơn nghĩa dưỡng dục mười lăm năm nay đã bị cây kiếm này lặng lẽ chém tan tành.

Nàng vốn không hay khóc, nhưng mấy ngày nay nước mắt nàng cứ lặng lẽ rơi. Giờ trái tim nàng đã lạnh như kết thành băng, muốn khóc, cũng chẳng nhỏ được giọt lệ nào.

Sính Đình cứ ngồi như thế trên giường, cảm thấy đầu óc mình thật mơ hồ, bèn giơ tay ôm trán.

Nàng lại sốt, ngón tay lạnh giá chạm vào da thịt nóng rẫy, khiến nàng rùng mình.

Thị nữ Linh Đương do Hà Hiệp cử đến hầu hạ nàng chợt đẩy cửa bước vào, nhẹ nhàng hỏi: “Tỷ tỷ dậy rồi ư?”, Linh Đương hỏi đến ba lần, Sính Đình mới hoảng hốt quay lại: “Ừ?”

Linh Đương nhanh nhẹn bê nước nóng vào, vắt khô khăn rồi đưa cho Sính Đình. Trong cơn chạy nạn, đến rồi lại đi, những đồ đạc thường dùng cũng lộn xộn hết lên, Linh Đương tìm lược chải đầu của Sính Đình khắp mọi nơi.

Sính Đình nói: “Đừng tìm nữa. Muội đi gọi Đông Chước đến đây”.

“Đông Chước?”

“Không có ở đây à?”

Linh Đương lắc đầu, cười: “Để muội đi xem đã”.

Nắng chan hoà, hương vị mùa xuân càng lúc càng nồng. Linh Đương vén rèm cửa sang một bên, để ánh nắng oà vào chói mắt. Sính Đình bỗng nghĩ đến tấm rèm cửa trong Hoa phủ.

Nàng cùng Hoa tiểu thư đã núp sau tấm rèm, lặng lẽ ngắm nhìn vị khách đến nhà bái phỏng.

Đó là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Sở Bắc Tiệp.

Căn phòng chỉ còn lại mình nàng, lạnh đến nỗi không cần người khác kinh động, Sính Đình cũng giật mình bừng tỉnh. Nàng xuống giường, lấy lược đứng bên cửa sổ, chậm rãi chải mái tóc đen óng, rồi ngắm nhìn cảnh sắc đầy sức xuân bên ngoài.

Những bông hoa đang chúm chím với đủ sắc màu hồng tím, cỏ non xanh rợn bên hồ. Cảnh tuy đẹp, nhưng sao xa lạ quá!

Không phải vương phủ Kính An, cũng chẳng phải vương phủ Trấn Bắc.

“Tự nguyện lên ngựa, cáo biệt Hà Hiệp. Từ nay, nàng không còn mang tên Bạch Sính Đình nữa, nàng sẽ mang họ Sở.”

“Nhận lấy Ly hồn, muội chỉ nhớ đến Sở Bắc Tiệp mà quên mất Quy Lạc. Muội có từng nghĩ rằng, đây là tín vật của hai quốc gia, là vật chứng đảm bảo năm năm yên bình của trăm dân Quy Lạc?”

Sính Đình bỗng chau mày, lòng đau đến nghẹt thở. Ngón tay trắng bệch nắm chặt vạt áo trước ngực. Nàng quay lại, lặng lẽ nhìn thanh bảo kiếm đang đặt cạnh giường.

Ly hồn.

Rời xa Sở Bắc Tiệp, nhưng không thể trở về vương phủ Kính An. Bạch Sính Đình nàng, thị nữ giỏi giang nhất của vương phủ Kính An, nữ quân sư theo chủ xuất chinh nghĩ kế diệt thù, nữ tử ép đại tướng địch quốc lập lời thề giữ vững năm năm bình yên cho Quy Lạc, sao bỗng trở thành cô hồn ở chốn này?

“Sính Đình, tìm ta hả?”, giọng Đông Chước vang lên sau lưng nàng.

Sính Đình đặt cây lược xuống, quay lai, khoé môi đã lại nở nụ cười quen thuộc như mọi hôm: “Có việc muốn nói với ngươi đây”.

Đông Chước có vẻ hơi lúng túng. Trong lúc bôn ba, bao nhiêu ngày không nhìn thấy Sính Đình, Đông Chước cũng thầm nhận ra nhiều chuyện khiến người ta lạnh lòng. Thấy người bầu bạn sớm hôm kề cận cùng mình giờ tiều tuỵ đến mức này, vẻ nghịch ngợm thường thấy trên khuôn mặt Đông Chước cũng hoàn toàn biến mất. Đông Chước xoa hai tay vào nhau, giống hệt cậu bé lớn phạm lỗi: “Ngươi nói đi”.

“Ta phải đi đây.”

Bốn tiếng tưởng chừng hoàn toàn bình tĩnh ấy lại đang đè nặng lên trái tim Đông Chước.

“Đi?” Đông Chước ngẩng lên, kinh ngạc nhìn vào đôi mắt đen của Sính Đình. Những gì hắn nghe thấy, nhìn thấy bao ngày nay bỗng hiện ra trước mắt. Đông Chước thấy đau như bị kim châm, lời muốn nói ra cũng lập tức bị chặn lại. Hắn cứ cúi đầu đứng đó, ngập ngừng hỏi: “Thiếu gia có biết không?”

Sính Đình cười dịu dàng, cả người dựa bên cửa sổ, vẫy tay với Đông Chước: “Đông Chước, lại đây”.

Nàng nắm bàn tay Đông Chước, nhìn kỹ hồi lâu, rồi chợt tinh nghịch hẳn lên, trêu đùa: “Tiểu tử này, lúc nào cũng Sính Đình, Sính Đình, ta còn lớn hơn ngươi mấy tháng đó. Gọi một tiếng tỷ tỷ nghe xem nào”.

Đông Chước buồn bã cắn chặt răng, suy nghĩ hồi lâu, mới khẽ gọi: “Tỷ tỷ”.

“Đệ đệ ngoan.” Sính Đình ra dáng tỷ tỷ dặn dò, “Ở đời khó nhất là phải biết tiến biết lùi. Hôm đó dụ được Sở Bắc Tiệp, ta đã tiến. Nay, đã đến lúc ta phải lùi rồi”.

“Nhưng tỷ là người của vương phủ Kính An, biết đi đâu bây giờ? Trong danh sách những người của vương phủ Kính An mà Đại vương truy bắt có tên tỷ, Sở Bắc Tiệp cũng sẽ không tha cho tỷ đâu.”

“Ta tự biết sắp xếp.”

Những điều buồn bực phải nín nhịn trong lòng bao ngày nay giờ bỗng bùng phát, Đông Chước phẫn nộ: “Đệ biết thiếu gia nghi ngờ tỷ. Để đệ đi nói với thiếu gia”.

“Không được đi.”

“Đệ không thể tiếp tục nhẫn nhịn được nữa. Lần này thiếu gia sai rồi. Cứ như vậy, thiếu gia cũng đâu có khác gì vị Đại vương đang theo dõi hành tung và tiêu diệt vương phủ Kính An ta.”

“Đứng lại!” Sính Đình vội kéo Đông Chước lại, nhìn hắn chằm chằm, nói, “Thiếu gia nghi ngờ không sai đâu”.

Đông Chước sững sờ, chau mày ngạc nhiên: “Tỷ nói gì vậy? Đệ không tin tỷ lại có lòng khác với vương phủ Kính An”.

Sính Đình ngẩn người, thở dài: “Có nói đệ cũng không hiểu được. Dẫu sao, ta đi, tốt cho vương phủ, tốt cho thiếu gia, và tốt cho cả ta. Đúng vào lúc dầu sôi lửa bỏng thế này, ta chẳng giúp được gì cho thiếu gia, thì ít nhất cũng không nên để thiếu gia phải bận lòng”.

“Sao tỷ lại có thể khiến thiếu gia bận lòng?”

“Đông Chước…” Sính Đình dịu dàng nhìn Đông Chước, cười chua xót, “Luận về công lao, thiếu gia không thể bạc đãi ta; luận về hậu họa, thiếu gia không thể tín nhiệm ta. Vào lúc hành tung của vương phủ Kính An cần giữ bí mật nhất, thiếu gia không muốn nhốt ta, không muốn hại ta, cũng không muốn ta đau lòng. Ta cũng phải lo thay thiếu gia.”

“Nhưng nếu tỷ đi…”

“Ta đi rồi, không còn liên quan gì tới vương phủ Kính An nữa. Không biết tung tích của vương phủ, ta muốn tiết lộ cũng chẳng thể.”

Đông Chước vẫn lắc đầu: “Không được. Tỷ làm thế khác gì nói thiếu gia vong ân bội nghĩa, bức hại công thần?”.

Sính Đình khẽ chớp đôi mắt sáng: “Vì thế ta mới cần ngươi giúp. Ta phải lặng lẽ ra đi, không để thiếu gia biết.”

“Không, không. Đệ không thể giấu thiếu gia.”

“Đương nhiên ngươi không giấu được thiếu gia, nhưng thiếu gia sẽ giấu ngươi. Đánh cuộc nhé, nếu thiếu gia biết kế hoạch của chúng ta, không những thiếu gia không lên tiếng, mà còn ngầm sắp xếp cho thuận tiện.”

“Đệ thật không hiểu nổi hai người!”, Đông Chước lắc đầu, lo lắng, đi đi lại lại, rồi bỗng quay sang: “Giúp tỷ thì không vấn đề gì, dù sao thiếu gia có biết hay không, trong chuyện này tỷ cũng không thể chịu ấm ức, đệ không tin tỷ lại bán đứng vương phủ. Nhưng… tỷ có thể đi đâu? Tỷ vẫn đang bệnh, chi bằng để một hai hôm nữa…”.

Sính Đình vội ngắt lời: “Không, ta phải đi ngay trong đêm nay”. Sính Đình nói giọng lãnh đạm, nhưng chứa đựng sự quả quyết không thể dao động.

Đông Chước chau mày, khoanh tay trước ngực, đứng đối diện với Sính Đình: “Không nói tỷ dự định đi đâu, đệ sẽ không giúp tỷ. Tỷ thân cô thế cô ra đi thế này, chẳng may xảy ra chuyện gì thì cả đời này đệ không thể ngủ yên”.

“Rời khỏi đây, ta chỉ có một mình, muốn lên trời xuống đất gì cũng được. Ngươi đã biết có bao nhiêu người muốn tìm ta, nên ta càng không thể tiết lộ hành tung của mình cho một tên tiểu tử hấp tấp như ngươi. Nhưng mà, ta dự định sẽ đi về…”, Sính Đình ghé sát tai Đông Chước, nói khẽ, “Phương Bắc”.

Có phải mùa xuân của phương Bắc đến muộn hơn nơi này?

Trước đây trong phủ vương tử của Hà Túc, Dương Phượng từng nói về nơi đó. Trên thảo nguyên bao la của Bắc Mạc, từng đàn bò dê ngựa mải mê gặm cỏ, vẫy đuôi tung tẩy. Nếu có con nào đó cong đuôi lao đi, cả đàn cũng lao vút theo, tiếng chân rầm rập như sắp nứt đôi mặt đất.

Nàng không thể ở lại Quy Lạc, càng không thể rơi vào miệng hổ Đông Lâm, chi bằng tới Bắc Mạc.

Ngút ngàn tầm mắt là một màu đen tối, nhưng mặt trời cũng chính là phía đó. Sính Đình hít một hơi thật sâu bầu không khí mát lành, cảm thấy mình đã mệt mỏi quá lâu, gân cốt rã rời. Trói mình trong tù túng chật hẹp, không nhìn thấy mặt trời, nàng bỗng nhớ đến bằng hữu tốt gan to bằng trời, mượn cớ Vương hậu hãm hại mà từ bỏ tất cả, đến vùng Bắc Mạc.

Nụ cười trên môi Dương Phượng chắc hẳn giờ còn rạng rỡ hơn trước.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 12

Gió đêm.

Bình an ra khỏi biệt viện canh gác cẩn mật.

Sính Đình cầm tay nải đơn giản, sau lưng chỉ có mình Đông Chước. Nàng quay lại, nhìn về phía những đốm đèn ẩn sâu trong lưng chừng núi.

Đốm sáng nào mới là ánh sáng trên bàn thiếu gia? Quay đầu nhìn lại, nàng càng cảm thấy nấc nghẹn.

“Đừng tiễn nữa”, Sính Đình ngăn Đông Chước lại, “Về đi”.

“Đệ…” Định nói gì lại thôi, Đông Chước đặt dây cương ngựa vào tay Sính Đình, quay người, buồn bã nói: “Bảo trọng”.

Sính Đình lên ngựa, tuấn mã lồng lên, khiến nàng lảo đảo, phải cố cắn răng ngồi cho vững. Chưa kịp quất roi, Đông Chước khẽ gọi một tiếng: “Tỷ tỷ…”.

Sính Đình quay đầu.

Như không thể giấu nổi những lời trong lòng, Đông Chước ngẩng lên nói với nàng: “Thực ra đệ đã nói với thiếu gia chuyện tối nay rồi”.

Sính Đình nhìn Đông Chước, rồi lại hướng ánh mắt về nơi vương phủ Kính An đang nghỉ ngơi. Ngày mai, họ lại xuất phát, đổi sang chỗ ẩn náu khác an toàn hơn. Cảm giác bi thương dâng trào, nàng cố nén cảm xúc, hỏi: Thiếu gia nói thế nào?”

“Thiếu gia nói, nếu tỷ tin vào bản thân thì sẽ không rời khỏi chúng ta. Tỷ muốn đi, chúng ta không nên ngăn, và cũng chẳng có cách nào ngăn được.”

“Còn gì nữa?”

Đông Chước cúi đầu: “Hết rồi”.

Sính Đình nhếch môi cười, lặng lẽ thở dài: “Đông Chước, ngươi đã trưởng thành thật rồi, cũng đã biết nói dối”.

“Đệ…” Đầu Đông Chước càng cúi thấp hơn, hồi lâu mới khẽ mấp máy môi, “Thiếu gia nói, vốn dĩ tỷ có thể tự đi, nhưng vẫn tìm đến đệ, thực ra… thực ra chỉ là muốn dùng thêm một kế với thiếu gia, ép thiếu gia tiến thoái lưỡng nan. Thiếu gia nói, nếu trước đây thiếu gia sẽ nguyện trúng kế, để giữ tỷ ở lại, nhưng hiện giờ…”.

“Giờ là thời khắc sống chết tồn vong của vương phủ, nên đành phải vứt bỏ một thị nữ…” Sính Đình chậm rãi nói tiếp một câu, rồi ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đầy sao, cố nở nụ cười, gật đầu, “Ta nói cho ngươi biết, thiếu gia không đoán sai đâu”.

Chẳng đợi Đông Chước kịp nói gì, Sính Đình đã quất roi ngựa.

Con tuấn mã chọn lọc của vương phủ hí vang một tiếng, rồi gõ móng lao vút đi. Nàng nắm dây cương, để mặc nước mắt trào ra.

Từ biệt nhé, vương phủ Kính An! Xưa huy hoàng tráng lệ, nay mai danh ẩn tích, không còn liên quan gì đến Bạch Sính Đình nữa.

Ly hồn bảo kiếm vẫn dựng bên cửa sổ. Ngày mai khi mặt trời lên, ánh dương chiếu vào thân kiếm tạo nên những hào quang chói mắt sẽ tỏa trên cái giường trống của muội. Đó từng là trò chơi thuở thiếu thời của chúng ta.

Đáng tiếc, Sính Đình không đủ vô tình.

Nếu vô tình, Sính Đình sẽ đặt thanh kiếm chếch sang một bên, ánh sáng sẽ phản chiếu lên chiếc chuông đồng bóng loáng như mặt gương trên nóc nhà đối diện, chuông đồng lại phản chiếu ánh sáng ra phía xa, làm kinh động đám quan binh đang truy tìm vương phủ Kính An gần đó.

Thiếu gia, à, Hà Hiệp, ngày mai khi nhìn thấy Ly hồn, huynh sẽ nghĩ thế nào?

Mặt trăng ẩn sau những đám mây, mặt trời dần dần ló dạng từ phía đằng đông.

Ngựa cuốn tung bụi cát, phi như bay trên con đường đất đỏ tiến về phía Bắc.

Trên khuôn mặt thanh tú, nước mắt đã dính đầy bụi đường, Sính Đình quay sang, nhắm hờ đôi mắt nhìn về phía mặt trời đỏ như màu quýt. Mặt trời sắp nhô cao, cảm giác thật ấm áp, nhất định càng lúc sẽ càng chói chang hơn.

“Đi!”, Sính Đình hào sảng hô lên một tiếng, vung roi quất ngựa.

Gió thổi rát mặt, chạy thôi, qua hết con đường đất đỏ dài vô tận này, chính là Bắc Mạc, nơi không có Hà Hiệp, cũng chẳng có Sở Bắc Tiệp.

Cuối cùng, nàng đã đến được địa giới của Bắc Mạc. Thảo nguyên với thảm cỏ bao la, đẹp như lời Dương Phượng từng nói. Phía cuối chân trời là những ngọn núi trập trùng. Qua một mùa đông lạnh lẽo, khí thế mùa xuân của phương Bắc còn mạnh hơn cả phương Nam. Trong rừng cây tươi tốt trên triền núi, từng bụi cây lúp xúp mạnh mẽ ngẩng cao đầu.

Một dòng suối trong vắt từ trên đỉnh núi quanh co uốn lượn đổ xuống tận chân núi.

Lữ khách phương xa chọn chỗ nước suối trong mát nhất, dừng lại rồi buộc thừng ngựa quanh gốc cây. Không khí mát lành dịu dàng ôm ấp thân hình nàng, khuôn mặt không được xem là đẹp gầy đi đôi chút, đôi mắt tinh nhanh hơn thủy ngân. Nàng chậm rãi lấy cỏ mềm đắp lên trán, nhìn về phía thảo nguyên mà nàng vừa đi qua.

Xa xa có người dân du mục đang cất cao tiếng hát.

“Hùng ưng bay tới, trời càng cao. Cô nương xinh đẹp đuổi theo chú ngựa con trên đồng cỏ…”

Sính Đình bật cười, cúi xuống múc nước.

Lạnh quá, chắc nước do những bông tuyết tan ra, chảy từ trên núi xuống.

Khoan khoái uống một ngụm, nàng nhắm mắt tận hưởng, sao mà ngọt quá.

Sắp tới rồi, mệt mỏi nhưng khoan khoái bôn ba đến cùng, đến chỗ ẩn mình của người bạn thuở xa xưa.

Dương Phượng đã từ bỏ tất cả để lựa chọn con đường này, có đúng đường không?

Con đường mà nàng đang lựa chọn, thẳng đến Bắc Mạc. Ở đó có trời xanh mây trắng cỏ non… Cũng có thể, nàng sinh ra đã hợp với nơi này, người dân hào phóng chất phác, bớt đi toan tính hãm hại lẫn nhau.

Sính Đình chọn một gốc cây to thẳng bên đường, ngồi xuống nghỉ ngơi.

Nước chảy róc rách, sơn thủy hữu tình.

Trong lúc nhắm mắt dưỡng thần, nàng bỗng nghe thấy tiếng chân ai đó.

Có người? Sính Đình mở to mắt nhìn về phía phát ra tiếng động. Cũng là một vị khách qua đường thấy cảnh đẹp nước trong nên xuống dắt ngựa đi tới.

Là một nam nhân, ánh mắt có thần sáng ngời, bộ râu quai nón khiến người ta không đoán được tuổi, vai rộng, lưng đeo cung, hông thắt kiếm, đều là những vật bất ly thân.

Phát hiện chỗ này đã có người, lại là một nữ tử mắt to, nam nhân đó hơi sững lại.

“Ngựa tốt.” Nam nhân chẳng có hứng thú với Sính Đình, ánh mắt dừng lại trên con tuấn mã, lộ rõ vẻ hâm mộ. Sính Đình mỉm cười, đứng dậy tháo dây cương. Nàng phải đi rồi.

“Cô nương, ngựa này có bán không?”, giọng nói thật to, giọng của người quen thét ngựa trên thảo nguyên.

Nhãn quang của người này quả không tồi. Đây là con ngựa tốt nhất nhì trong vương phủ Kính An. Cũng coi như Đông Chước còn có chút lương tâm, ngoài ngựa tốt, hắn còn chuẩn bị cho Sính Đình không ít tiền vàng.

“Không bán.” Nàng sảng khoái nhảy lên lưng ngựa, cái giá phải trả cho sự phong độ này là cảm giác hoa mắt chóng mặt bao quanh. Sính Đình ngồi yên trên lưng ngựa để thích nghi với sự kháng nghị của cơ thể mệt mỏi, hồi lâu mới mở mắt, “Đại ca, cho hỏi sơn trại Đóa Đóa Nhĩ ở đằng trước kia đúng không?”.

“Cô nương muốn đến sơn trại Đóa Đóa Nhĩ à?”

“Vâng.”

“Cô nương là người của sơn trại?”

“Không, ta chỉ đến tìm người.”

Nam nhân cười đáp: “Sơn trại chuyển đi rồi, cô nương có đến cũng không tìm được ai”.

“Chuyển rồi?”, Sính Đình kinh ngạc, “Sao lại chuyển? Chuyển đi đâu?”. Trong đầu nàng thoáng qua bao nhiêu ý nghĩ. Dương Phượng sẽ không vô duyên vô cớ chuyển đi, trừ khi đã xảy ra chuyện gì.

Vì cần giữ bí mật, sau khi biết được điểm dừng chân của Dương Phượng, Sính Đình vẫn không liên lạc với người bằng hữu ấy, thế nên lúc này nàng không có cách nào biết được nguyên do.

“Mới chuyển gần đây thôi.”

“Người trong sơn trại đi đâu hết rồi?”

“Cô nương, bán con ngựa này cho ta đi.” Trong mắt người dân du mục, ngựa tốt cũng quan trọng như cô gái mình yêu thương.

Sính Đình cong môi: “Huynh biết việc trong sơn trại Đóa Đóa Nhĩ? Huynh tên là gì?”.

“Ta tên A Hán. Rốt cuộc cô nương có bán ngựa không?”

Nàng bỗng nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, đưa dây cương cho người kia: “Tặng huynh đấy, ta chỉ muốn biết tin tức của bằng hữu thôi”.

A Hán mỉm cười lắc đầu: “Ta không lấy không ngựa của cô nương”. Nói rồi, hắn lấy ra số bạc gấp hai lần lượng bạc mua một con ngựa bình thường đưa cho Sính Đình, “Ta nói cho cô nương nghe, trại chủ sơn trại Đóa Đóa Nhĩ không phải người bình thường! Đó chính là Tắc Doãn tướng quân uy danh lẫy lừng. Có ai ngờ Tắc Doãn tướng quân lại ẩn cư nơi sơn trại nhỏ bé này? Nay Đại vương lại đưa tới bao nhiêu báu vật để mời Tướng quân ra làm thượng tướng quân của Bắc Mạc chúng ta. Vì thế, Tướng quân Tắc Doãn đã xuống núi, người ở sơn trại Đóa Đóa Nhĩ cũng chuyển hết đến thành đô Bắc Nha Lý rồi”.

“Vậy à?” Sính Đình chau mày, trầm ngâm một hồi, rồi trả lại bạc cho A Hán, nói, “Cầm lấy, ta mua ngựa của huynh. Huynh mua ngựa của ta, ta cũng phải mua một con khác để dùng chứ”. Đáng lẽ nàng nên đổi sang con ngựa không có dấu ấn của vương phủ Kính An từ lâu rồi mới phải.

“Không được, ngựa của ta không tốt bằng ngựa của cô nương, ta không muốn để cô nương chịu thiệt.”

Sính Đình nhanh chóng cởi dây cương ngựa của nam nhân kia, nhảy phắt lên, rồi quay lại nháy mắt tinh nghịch: “Đại ca, cứ cất tiền đi để tìm một phu nhân tốt, huynh là người tốt mà!”. Dứt lời, nàng quất nhẹ roi lên mông ngựa, để lại tiếng cười trong như chuông bạc.

Không khí trên thảo nguyên thực khiến lòng người phơi phới. Ngay cả vị thanh tân của cỏ non, cảnh sắc đẹp đẽ nhất ở Quy Lạc và Đông Lâm cũng không thể sánh bằng. Tiếng hát vui vẻ của người dân du mục vẫn vang lên đâu đó, nghe thật xốn xang.

“Thảo nguyên của trâu và ngựa, là quê hương ta đó, sông chảy xiết, cỏ xanh non, đều không bằng cô nương của lòng ta…”

Sính Đình mỉm cười, nhưng vẫn không thể xua tan nỗi lo trên hàng lông mày đang nhíu chặt lại.

Tắc Doãn, đại tướng dũng mãnh của Bắc Mạc chẳng phải đã quyết định lui về ở ẩn để Dương Phượng cả đời vui vẻ sao? Nay bỗng đồng ý với Đại vương Bắc Mạc quay lại triều đinh, việc đó chứng tỏ điều gì?

Vốn dĩ chỉ cần đi thêm nửa ngày đường là có thể gặp được Dương Phượng, nhưng nay sơn trại Đoá Đoá Nhĩ đã chẳng còn ai, nàng đành phải đi tiếp đến thành đô Bắc Mạc, Bắc Nha Lý.

“Muốn vui vẻ mấy ngày cũng không được hay sao?”, Sính Đình nhăn nhăn cái mũi nhỏ, ngẩng lên nhìn trời.

Một mình trên cả chặng đường dài, Sính Đình đã quen với việc tự lẩm bẩm một mình.

Bên cạnh nàng không còn bốn chữ sơn vàng “Vương phủ Kính An” liệu có phải là việc tốt? Còn ở Đông Lâm? Sở Bắc Tiệp…

Bất giác, lông mày càng chau lại, nàng di di ngón tay trên đó, như thể làm thế có thể xoa dịu cơn đau trong trái tim.

Nàng học theo người dân trên thảo nguyên cất cao giọng hát, vung roi ngựa. Bụi bay mù mịt, cái bóng kiều diễm trên thảo nguyên càng đi càng nhỏ dần.

Vẻ mệt mỏi khắc trên khuôn mặt kẻ lữ hành, những ánh tịch dương cuối cùng còn sót của ngày tàn lại rải xuống, người mang nỗi đau xé lòng giờ đang ở phương nao?

Mong trời cao có linh, ban cho ta cỏ xanh ngút ngàn và nước uống quên sầu, để ta tiêu dao khắp chân trời góc bể…

Sau năm lần bảy lượt Đại vương triệu hồi, Tắc Doãn – đại tướng Bắc Mạc – đã quay lại với triều đình Bắc Mạc.

Bắc Mạc vương không chỉ coi trọng Tắc Doãn ở mức bình thường.

Năm đó, khi mãnh tướng này muốn về ở ẩn, Đại vương Bắc Mạc đã ở trong vương cung rầu rĩ ba ngày, khuyên giải ba ngày. Mãnh tướng trẻ tuổi thanh danh lẫy lừng, nam nhi tốt trong lòng các cô nương Bắc Mạc, bậc anh hùng chân chính, bỗng nhiên vì một nguyên nhân không chịu nói ra, đã quyết vứt bỏ tiền đồ rộng mở.

“Chắc chắn vì tình”, Bắc Mạc vương phán đoán.

Không yêu giang sơn, yêu mỹ nhân, chẳng phải truyền thuyết mà là đời thực.

Tắc Doãn hùng dũng oai vệ đứng trước Bắc Mạc vương, ung dung mỉm cười. Nhìn nụ cười đong đầy niềm khao khát ấy, Đại vương Bắc Mạc đã biết kẻ làm vua này không thể giữ được vị đại tướng tài năng bậc nhất Bắc Mạc.

Khi nam nhân yêu một nữ nhân, không gì có thể ngăn nổi những việc ngây dại mà nam nhân ấy muốn làm.

Đại vương Bắc Mạc không thể không gật đầu.

Nay Tắc Doãn đã trở lại.

Vị đại tướng quân vốn được dân chúng Bắc Mạc yêu thương sùng kính đã quay trở lại. Vị tướng quân ấy sẽ lại dẫn binh bảo vệ biên cương Bắc Mạc. Đây là tin khiến cả nước vui mừng.

Bản trường ca vui vẻ của Bắc Nha Lý khi Tắc Doãn dẫn theo cả sơn trại Đoá Đoá Nhĩ vào thành, không những nhận được sự ủng hộ của hàng vạn bách tính, mà còn có cả Đại vương Bắc Mạc thân chinh dẫn theo các quan đến nghênh đón.

Phủ thượng tướng quân vừa được xây mới dành riêng cho Tắc Doãn giăng đèn kết hoa, huy hoàng rực rỡ. Dương Phượng ở trong căn phòng tinh xảo nhất, lắng nghe tiếng huyên náo vượt qua bao bức tường. Tắc Doãn đã bị triệu vào cung, còn nàng thì đang vừa mừng vui vừa kinh ngạc chào đón cố nhân.

Khi thị nữ dâng lên tín vật của một vị khách không chịu báo danh tính bên ngoài cửa, đôi mắt Dương Phượng cứ mở to, nhìn chằm chằm như không thể rời ra.

“Còn muốn nhìn bao lâu nữa?”, Sính Đình ngồi trên ghế, mỉm cười hỏi.

“Lâu lắm không gặp, không cho ta nhìn muội thêm một lúc sao?” Dương Phượng khẽ than thở, rồi đưa năm ngón tay trắng mịn ra, “Sính Đình, để ta ngắm muội thật kỹ”.

Sính Đình cười khúc khích, nói: “Tuân lệnh, Tướng… không, phải là Thượng tướng quân phu nhân”. Nàng chầm chậm bước tới bên giường ngồi xuống cạnh Dương Phượng.

Hai đôi mắt thông tuệ nhìn nhau, trong con ngươi linh hoạt hơn thuỷ ngân cùng hiện lên bóng dáng của nhau.

“Muội gầy đi nhiều.”

Sính Đình bật cười: “Tỷ đẹp lên nhiều”.

“Ta nhớ muội lắm, nhớ những chuyện hồi nhỏ của chúng ta. Ngoài muội ra, ta không tìm được ai để nói chuyện.”

“Dương Phượng…”, Sính Đình bỗng gọi, “Tại sao tỷ không hỏi?”.

“Hỏi?” Nụ cười của Dương Phượng như ngưng lại, nàng cúi đầu, “Ta… ta không dám hỏi. Nếu không đến lúc vạn bất đắc dĩ, liệu muội có chịu rời xa thiếu gia nhà mình? Những việc có thể khiến muội vạn bất đắc dĩ, chắc chắn rất đáng sợ”.

Như mặt trống đang căng bị kim châm mạnh một cái, Sính Đình cố cười, nói: “Đúng là nguy hiểm. Tỷ hãy đàn cho muội nghe một khúc, rồi muội nói với tỷ tất cả mọi việc”.

Cây đàn thường dùng đặt ngay trên chiếc bàn bên cạnh giường. Dương Phượng nhìn Sính Đình, vén ống tay áo dài tha thướt lên, đầu ngón tay khẽ chạm vào phần cuối dây đàn.

Tinh…

Một âm thanh nhẹ đến gần như không nghe thấy. Dây đàn run rẩy, trái tim con người cũng run rẩy theo. Nỗi bi thương, thất vọng bàng hoàng đè nén trong tim bỗng chốc bị đào lên tận gốc, bao nhiêu uất ức tuôn trào như sông dâng biển cuộn phá vỡ bờ đê.

“Dương Phượng!”, Sính Đình run rẩy gọi một tiếng, rồi nhào vào lòng Dương Phượng, khóc tức tưởi.

Cứ để cho nước mắt tuôn trào, thấm hết vào đất mẹ. Đây không phải Quy Lạc, cũng chẳng phải Đông Lâm, chốn này không có ai khiến nàng đau khổ, không có ai khiến nàng ly hồn. Làm sao có thể quên được những ngày đông tươi đẹp ấy, những đêm dài ấm áp, bóng dáng vững chãi của chàng và cả ký ức rõ ràng về mười lăm năm ở vương phủ?

Làm sao để Dương Phượng hiểu rằng, nàng đã yêu một nam nhân. Nàng yêu chàng, lại hại chàng, lừa chàng, đến cuối cùng còn cố hết sức rời khỏi chàng, nhưng cũng không thể quay lại vương phủ Kính An mà nàng ngỡ có thể ở được cả đời?

Trong ánh mắt thương xót ngày hôm nay của Dương Phượng, Sính Đình đã được khóc thật thoải mái, dốc sạch những nỗi khổ trong lòng.

Dưới gầm trời này, e là chỉ có mình Dương Phượng mới hiểu được trái tim Sính Đình.

Sính Đình chỉ khóc mà không nói, Dương Phượng cũng đã đoán được vài phần. Không liên quan đến tình, Sính Đình sẽ chẳng thương tâm đến vậy.

Ai có được bản lĩnh khiến một Sính Đình luôn kiêu ngạo phải động lòng như vậy?

“Chàng ấy tên gì?”, Dương Phượng vuốt tóc nàng.

Hai mắt Sính Đình đẫm lệ, hàm răng cắn chặt nói rõ ràng ba từ vẫn ngày đêm bóp nghẹt trái tim nàng, khiến nàng đau đớn: “Sở Bắc Tiệp”.

Trấn Bắc vương của Đông Lâm? Dương Phượng khẽ thất thần, hồi lâu mới khe khẽ thở dài, dịu dàng nói: “Khóc đi, khóc cho thoả đi”.

Nước mắt rơi xối xả như mưa, Sính Đình gục trong lòng Dương Phượng khóc đến tối tăm trời đất.

“Dương Phượng, muội bây giờ, xem như là…”, Sính Đình đau đớn chống người ngồi dậy, nói được một nửa thì dừng lại, bỗng cảm thấy cổ họng mình tanh nồng, oẹ một tiếng, nàng nôn ra toàn máu tươi.

“Sính Đình!”, Dương Phượng vội đứng bật dậy, nhìn trừng trừng phần váy đã bị nhuộm đỏ, hét lên, “Người đâu! Người đâu!”.

Sính Đình dốc hết bao muộn phiền, khóc lóc rồi đổ bệnh.

Giai nhân ngày trước vẫn nói cười bàn việc dùng binh, hoạch định chiến lược nơi màn trướng, gặp biến động bất ngờ mặt vẫn không đổi sắc mà nay lại sa sút đến nhường này.

Sính Đình bệnh cũ tái phát, bệnh đến vừa gấp vừa nặng.

May mà phủ thượng tướng quân mọi thứ đều đủ cả, nhân sâm mật gấu liên tiếp đưa lên. Nhờ sự chăm sóc chu đáo của Dương Phượng, bệnh tình của Sính Đình dần dần thuyên giảm.

Nghỉ ngơi mấy ngày, Sính Đình đã có thể ngồi dậy được. Nàng đã dốc hết những ai oán, nên ngực không còn đau lên từng cơn. Bệnh tuy nặng, song cũng đỡ hơn rất nhiều, không tái phát liên tục như trước nữa.

Nàng cảm nhận được bên ngoài tấm rèm, một bóng dáng thân thuộc đang đi đi lại lại. Tiếng rèm châu bị vén kêu lên vui tai, Dương Phượng bước vào cười nói: “Khí sắc tốt lên nhiều rồi, đại phu nói hai hôm nữa có thể đi lại được. Muội đã doạ ta một trận đấy”.

“Ngồi đây đi”, Sính Đình vỗ vào bên giường.

Dương Phượng ngồi xuống cạnh nàng, lấy trong người ra một cây trâm loại thượng hạng, cẩn thận cài lên mái tóc Sính Đình, rồi ngắm thật kỹ: “Đại vương ban cho Tắc Doãn, nhưng ta luôn cảm thấy mình cài không đẹp, đúng là muội cài vẫn đẹp hơn”.

Sính Đình ngắm mình trong chiếc gương đồng mà Dương Phượng đưa đến. “Cố ý mang đến tặng muội sao?”, ngừng một lát, nàng lại hỏi, “Thượng tướng quân có biết lai lịch của muội không?”.

“Chàng không hỏi.” Dương Phượng trả lời. “Chỉ cần là bằng hữu của ta, chàng sẽ dốc hết sức lực bảo vệ, chỉ là…”. Khuôn mặt đầy đặn hơn hẳn Sính Đình bỗng trở nên u ám, “Chàng sắp dẫn binh rời khỏi thành đô rồi”.

Không khí bỗng trở nên ngột ngạt, như khi mây đen kéo đến che kín bầu trời khiến lòng người hoảng hốt.

Sính Đình cầm chiếc gương đồng trong tay Dương Phượng, đặt xuống bên giường, mím môi không đáp.

Dương Phượng nói: “Hai chúng ta thân thiết từ nhỏ, luận về tài đàn, ta không kém muội, nhưng nếu luận về mưu lược, ta chẳng thể sánh bằng muội”.

Sính Đình miễn cưỡng nở nụ cười: “Tỷ vẫn kiêu ngạo, sao bỗng dưng lại khiêm tốn thế?”.

“Ta chỉ có chút thông minh vặt trong chốn khuê phòng, trong bốn bức tường, ra oai với gia nhân. Quản một cái sơn trại Đoá Đoá Nhĩ hay một phủ tướng quân còn được. Nhưng nói đến việc quân đại sự, muội mới là bậc nữ đại trượng phu.” Đôi mắt sâu đen của Dương Phượng nhìn Sính Đình, khẽ hỏi, “Tại sao Đại vương lại đột nhiên triệu gấp Tắc Doãn về, để chàng nắm hết binh quyền? Tắc Doãn không phải là người mưu cầu danh lợi, trừ khi Bắc Mạc nguy cấp, còn không chàng sẽ chẳng bao giờ bỏ mặc tất cả, phản bội lời thề với ta năm xưa để quay lại nơi này. Ta không hiểu chuyện quốc gia đại sự, Sính Đình, muội nói cho ta biết, việc này là vì sao?”, Dương Phượng gằn từng tiếng một.

Bên ngoài kia hoa thơm chim hót, trong này lại im lặng khác thường.

Sính Đình trầm lặng, cúi đầu không nói.

Ánh mắt truy hỏi của Dương Phượng như đang thiêu đốt đỉnh đầu nàng. Không biết bao lâu sau, Sính Đình mệt mỏi, ngẩng đầu lên, dựa vào chiếc gối mềm ở thành giường, cười khổ: “Sở Bắc Tiệp vì chút sơ suất nên trúng kế, bị ép để lại bảo kiếm làm tín vật, thề trong năm năm không quay lại Quy Lạc. Đông Lâm đang dốc sức mở rộng đất đai, đã có sẵn tinh binh mãnh tướng, nếu tạm thời không thể có được Quy Lạc, Đông Lâm tất sẽ quay giáo, tìm mục tiêu khác. Nói thế nghĩa là, Đông Lâm đã dụng binh ở biên giới Bắc Mạc rồi?”.

“Đúng vậy.” Dương Phượng mệt mỏi chau mày, “Những ngày này, lúc nào Tắc Doãn cũng nhắc đến cái tên Sở Bắc Tiệp, đệ nhất mãnh tướng Đông Lâm, Trấn Bắc vương… Mật thám tiền tuyến trở về nói hắn như một ma vương từ địa phủ trồi lên, không ít đại tướng Bắc Mạc đã chết trong tay hắn”.

Dương Phượng nhìn chằm chằm Sính Đình hồi lâu, rồi mới quay đi, dịu dàng nở nụ cười như hoa, thư thái nói: “Đừng nghĩ ngợi làm gì, những việc của nam nhân, chúng ta lo sao được. Thật không hiểu nổi, tại sao các bậc đại vương cứ luôn mong muốn mở rộng biên cương của mình? Hoàn thành sự nghiệp thiên thu thật sự quan trọng thế sao? Tắc Doãn sắp ra trận, mấy hôm nay ta phải ở cạnh chàng”. Dương Phượng đứng dậy, thấy Sính Đình đang cố gắng đứng dậy thì khẽ đặt bàn tay lên vai nàng, “Muội vừa khỏi bệnh, cứ nghỉ ngơi cho khoẻ. Nếu buồn quá thì bảo bọn thị nữ ra hoa viên hái hoa tươi mang vào, có việc gì thì bảo chúng tìm ta”.

Dương Phượng rời đi, tấm rèm châu bị động vào lại kêu lách cách. Sính Đình tâm phiền ý loạn, mày ngài nhíu chặt.

Đông tây nam bắc, trong bóng tối lúc nào cũng có những tấm lưới giăng sẵn, để người ta rơi vào đó.

Thật quá mệt mỏi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 13

Thảo nguyên xanh mát cũng không thể trở thành chốn bồng lai tiên cảnh của Sính Đình. Canh bốn, lúc sắp bình minh, một bóng người mệt mỏi lặng lẽ đứng bên cửa sổ.

Hoa thơm chim hót của ban ngày giờ đi đâu hết. Bóng những cành hoa lay động như ẩn như hiện trong ánh nến tựa hồ như những móng vuốt sắc nhọn đáng sợ của ác ma đang rình rập con mồi.

Phu quân của Dương Phượng đã lên đường chinh chiến. Ở tận trong đình viện sâu, Sính Đình cũng nghe thấy tiếng những thị nữ thì thầm với nhau, nói Thượng tướng quân lúc xuất phát thật uy vũ hào hùng. Trong lời nói chứa đựng khâm phục và hy vọng đó, cũng có vài phần suy đoán về kết quả không hay.

Đừng suy nghĩ nữa.

Sính Đình lắc đầu, từ trong tối nhìn ra, những cụm hoa cũng trở nên mờ ảo. Nàng lại nhìn lên vầng trăng sáng trên bầu trời cao rộng, ánh mắt bỗng ngây dại.

“Chúng ta thề với ánh trăng, cả đời không phụ bạc.”

Giọng nói thấp trầm của người đó… với ánh trăng, không phụ bạc… tim nàng bỗng đập dồn. Nàng vội đưa tay ôm ngực, cắn chặt môi.

Đừng nghĩ nữa, không thoả được nỗi hận trong lòng… Khi thề với ánh trăng, thực ra chàng đang lừa thiếp, thiếp đã phụ chàng.

Đang gặm nhấm nỗi đau thương, nàng bỗng thấy từ xa có chấm sáng chuyển động. Sính Đình nhìn ra, một chiếc đèn lồng đỏ từ đằng xa đi tới. Đến lúc chiếc đèn còn cách nàng hơn chục bước chân, nàng mới nhìn được rõ người.

“Sao còn chưa ngủ?”

Không biết bên cửa có người, Dương Phượng bỗng giật mình, ngạc nhiên dừng bước, cười nói: “Ta phải hỏi muội mới đúng, sao còn chưa ngủ? Chẳng lẽ vì chủ nhân tiếp đón không chu đáo, còn chỗ nào chưa vừa ý muội?”.

Sính Đình bước ra khỏi phòng, nhìn về phía những thị nữ đang xách đèn đi theo Dương Phượng, mỉm cười kéo tay nàng đi vào phòng.

“Lâu lắm chúng ta chưa được nói chuyện với nhau, đêm nay khách giữ chủ ở lại nhé.”

Hai người giống như trước kia, thân mật nằm chung trên một chiếc giường, Sính Đình khẽ hỏi: “Muộn thế này còn đi dâng hương sao?”.

“Chàng đi đã mấy ngày rồi, chưa đêm nào ta ngon giấc.” Dương Phượng có vẻ mệt mỏi, khẽ thở dài, dựa vào gối, cọ cọ nửa khuôn mặt vào lớp vỏ gối bằng vải gấm bóng mịn, ngây thơ như một tiểu nữ nhìn Sính Đình, “Muội không cười ta đấy chứ?”.

Sính Đình bật cười thành tiếng, quay sang nhìn Dương Phượng, vẫn không nói gì.

“Đã nói là không được cười mà.” Dương Phượng thấy Sính Đình cười liền ngồi thẳng dậy véo nàng một cái.

“Thương nhớ phu quân đâu phải chuyện gì đáng xấu hổ. Muội cười một chút cũng có sao? Nghe nói trước khi Thượng tướng quân xuất chinh, chàng ấy bị phu nhân quấn ghê lắm, bắt hứa ngày nào cũng phải viết thư về, có việc này không?”

Khuôn mặt trắng nõn nà của Dương Phượng khẽ ửng hồng: “Muội còn cười hả, muội cười nữa, ta sẽ về phòng đấy”.

Nhưng Sính Đình vẫn mím môi cười, Dương Phượng hết cách bèn giận dữ lườm nàng một cái, rồi nằm xuống.

Tiếng cười trong trẻo vang khắp căn phòng, như những thanh âm vui vẻ của tiếng suối róc rách.

Hai người như được quay trở lại trước kia, cười sảng khoái. Dương Phượng bỗng thở dài: “Từ khi làm tướng quân phu nhân, ta chưa từng được cười thoải mái thế này”.

Một câu nói cũng đủ thu lại đoạn ký ức vô lo vô nghĩ cất vào trong túi. Sính Đình không cười nữa, cúi đầu chẳng nói gì.

Do dự hồi lâu, Dương Phượng mới khẽ hỏi: “Lần này xuất chinh, liệu họ có gặp nhau trên sa trường?”.

Họ đã nhắc đến vấn đề cả hai đều không muốn nói tới, không khí trong phòng bắt đầu ngưng tụ.

Dương Phượng như không muốn đối diện với Sính Đình nên nằm quay mặt vào tường, lại hỏi: “Nếu họ gặp nhau, ai thắng?”.

“Chuyện nhà binh xưa nay khó đoán định, thắng bại còn tuỳ vào thiên thời địa lợi nhân hoà. Muội… muội không biết.”

Dương Phượng lại im lặng, rồi hạ giọng hỏi tiếp: “Không tính thiên thời địa lợi nhân hoà, chỉ luận tài tướng soái, Tắc Doãn và Sở Bắc Tiệp, ai thắng?”.

Sính Đình vẫn lắc đầu, ánh mắt dừng nơi cành hoa đang đung đưa ngoài cửa sổ: “Tỷ thật là… muốn muội trả lời thế nào? Sở Bắc Tiệp là mãnh tướng của Đông Lâm, có cách hành quân chinh chiến khác. Thượng tướng quân của tỷ cũng là danh tướng Bắc Mạc, muội chưa từng được tiếp xúc, sao có thể trả lời đuợc”. Sính Đình muốn nở nụ cười để Dương Phượng yên tâm, nhưng cố hết sức vẫn không sao cười nổi.

Vầng trăng sáng ngoài cửa sổ kia cũng đừng nên vô tình như thế chứ! Đã làm chứng cho bao lời lẽ ngọt ngào của những chuyện tình chốn nhân gian, nay lại không thương xót soi rọi cảnh đầu rơi máu chảy trên sa trường.

Tiếng bấc nến cháy lèo xèo, Sính Đình quay ra nhìn ngọn nến.

Một cơn gió xộc đến như vị khách không mời, làm ánh nến đung đưa dao động, sáng rực lên, rồi tắt phụt.

Trong yên lặng, bóng đêm nặng nề đè nén hai cô gái.

“Sính Đình…” Dương Phượng âu sầu nói: “Muội không chịu nói thật với ta”.

Sính Đình bỗng giật mình, vội chống tay vào giường ngồi dậy, hỏi: “Dương Phượng, tại sao lại nói lời này?”.

Dương Phượng nằm quay mặt vào trong, im lặng. Sính Đình thấy vai người bằng hữu của mình rung lên, như đang cố nén tiếng khóc, vội nói: “Tỷ đừng khóc, việc chinh chiến đại sự, chúng ra không thể quyết định được. Chắc ông Trời sẽ phù hộ cho phu quân tỷ bình yên trở về. Dương Phượng, chẳng phải tỷ đã nói chúng ta không lo được những việc quốc gia đại sự sao?”.

Hai vai Dương Phượng càng rung lên, xưa nay Dương Phượng vốn ung dung điềm tĩnh, chưa bao giờ khóc oà thế này. Sính Đình cảm thấy lo lắng, dịu giọng khuyên nhủ. Sính Đình quỳ xuống bên cạnh định xoay Dương Phượng nhìn vào mặt mình.

Dương Phượng bất chợt ngồi bật dậy, quay lại nhìn Sính Đình, khuôn mặt đẫm nước mắt.

Sính Đình chưa hết sững sờ, khẽ gọi: “Dương Phượng?”.

Dương Phượng không đáp, nhưng động tác lại vô cùng nhanh nhẹn. Nàng bước xuống giường, quỳ trước mặt Sính Đình.

Sính Đình càng sững sờ, vội nhảy xuống giường kéo Dương Phượng đứng lên, hỏi: “Tỷ làm thế này là vì lẽ gì?”.

Nhưng Dương Phượng không chịu đứng dậy, cứ quỳ ở đó nắm lấy vạt áo Sính Đình, ngẩng lên với ánh mắt thê lương: “Sính Đình, muội không hiểu thật sao?”.

Sính Đình sững sờ đứng trước mặt Dương Phượng, đôi mắt đen nhìn chằm chằm bằng hữu tốt của mình.

Ngay cả tiểu Kính An vương cũng không còn sức chống đỡ thì Tắc Doãn sao có thể đối phó với Sở Bắc Tiệp nộ khí ngút trời?” Từng lời khẩn cầu, Dương Phượng nắm chặt cổ tay Sính Đình mà than khóc, “Muội có thể khiến Sở Bắc Tiệp lập lời thề năm năm không xâm phạm Quy Lạc, chẳng lẽ lại không có cách nào để Sở Bắc Tiệp lui binh khỏi Bắc Mạc?”.

“Dương Phượng, muội…” Sính Đình lui về sau vài bước, chán nản ngồi xuống giường, quay đi nói, “Muội không làm được”.

Nàng không thể đối diện với Sở Bắc Tiệp, Dương Phượng sao có thể hiểu nổi cảm giác của nàng.

Nam nhân đó, dù không đứng trước mặt nàng, nhưng cả trong giấc mơ, từng giờ từng phút chàng đã lấy đi hồn phách của nàng, khiến nàng rơi lệ.

“Sính Đình, ta cầu xin muội.”

Ánh mắt khẩn cầu của Dương Phượng khiến Sính Đình lạnh toát toàn thân. Nàng thật không nhẫn tâm khi nhìn đôi mắt dịu dàng ẩn chứa vẻ thông tuệ kia lại tuyệt vọng đến thế.

Nhưng nàng vẫn lắc đầu: “Không được”.

Hai đôi mắt đen nhìn nhau không nói, cả hơi thở cũng như ngưng lại.

Dương Phượng sững sờ nhìn Sính Đình hồi lâu, rồi cười thê thảm: “Không trách muội, nam nhân… việc quân đại sự… ta không nhìn thấu bằng muội”. Dương Phượng khẽ cười vài tiếng, song nước mắt cứ lăn tròn trên má, hai tay dịu dàng đặt lên bụng.

Thấy thần thái cử chỉ của Dương Phượng khác thường, Sính Đình nghi ngờ: “Dương Phượng, không lẽ tỷ…”. Ánh mắt Sính Đình dừng nơi bụng dưới của Dương Phượng đã khẽ nhô ra.

Dương Phượng cắn chặt răng, lặng lẽ gật đầu.

Sính Đình thở dài, dựa vào thành giường.

Nàng, Dương Phượng, cả hai đều không thể đứng ngoài, phó mặc mọi chuyện.

Gió thổi nhẹ, đêm lặng lẽ qua.

Sương sớm long lanh.

Mặt trời ngó đầu ra từ đằng đông, rải ánh nắng ban mai rực rỡ xuống vương cung Bắc Mạc trang nghiêm. Bắc Mạc vương đã tỉnh rồi. Đại vương không ngủ được đã mấy ngày nay, từ khi đại quân Đông Lâm tràn đến biên cương, phòng tuyến biên giới của Bắc Mạc ngày càng lùi về sát thành đô, ông cũng ngày một ngủ ít đi.

Hôm qua có tin của đội quân báo về, mấy ngày gần đây Sở Bắc Tiệp lại bắt đầu công thành, tướng sĩ Bắc Mạc tử thương nhiều vô số. Tắc Doãn chiến đấu quyết liệt mới giữ được biên thành Kham Bố, nhưng với binh lực của quân Bắc Mạc hiện nay, gần như không có khả năng chống chọi với đợt công thành tiếp theo của quân địch.

Mất đi Kham Bố chỉ còn là vấn đề thời gian…

Có được Kham Bố, Đông Lâm cũng coi như có được con đường tiến thẳng đến thành đô Bắc Mạc.

Bắc Mạc nguy rồi.

Dương Phượng cầu kiến Bắc Mạc vương từ sớm.

“Hôm nay Dương Phượng dẫn một người đến gặp Đại vương.” Khoác trên mình y phục và trang sức của một quý phụ do đích thân Đại vương ban tặng, Dương Phượng hành lễ rồi từ tốn đứng dậy.

Đại vương vô cùng yêu quý trọng thần Tắc Doãn, tất nhiên với Dương Phượng cũng không ngoại lệ. Ông cười hiền từ: “Người nào mà quan trọng đến vậy, lại được Thượng tướng quân phu nhân đích thân tiến cử?”.

Dương Phượng dịu dàng đáp: “Đại vương anh minh. Người này thông tuệ nhanh trí, chưa biết chừng có thể xoay chuyển được thế cục ở biên cương”.

Từ khi theo Tắc Doãn về thành đô, Dương Phượng đã trở thành một quý phu nhân được nhiều người để ý trong triều đình Bắc Mạc. Nàng có cốt cách thanh cao quý tộc, để lại cho người ta ấn tượng sâu sắc. Qua Tắc Doãn, Đại vương của Bắc Mạc cũng đã biết tính nàng, biết rõ nàng không nói năng tuỳ tiện. Dương Phượng đã nói như vậy, nhất định vì đã nắm chắc đến bảy, tám phần. Đại vương ngạc nhiên: “Người nào lại tài ba như vậy? Mau truyền vào!”.

Dương Phượng không vội, mà khuỵu gối cúi đầu đáp: “Xin Đại vương thứ tội, người này họ Bạch tên Sính Đình, là hảo hữu từ nhỏ của Dương Phượng. Người này vốn không liên quan gì đến Bắc Mạc, vì Dương Phượng khẩn cầu nên mới đồng ý tương trợ, nhưng người ấy đưa ra ba điều kiện”.

“Nói.”

“Vâng.” Dương Phượng nói, “Thứ nhất, người này chỉ tương trợ khi Bắc Mạc bị xâm phạm. Nếu có một ngày Đông Lâm lui quân, người này sẽ rút lui, không có bất cứ liên hệ gì với Bắc Mạc”.

Đại vương chẳng để ý đến chuyện này, hiện giờ biên cương khó giữ, đâu còn tâm tư mà hoang tưởng đến chuyện truy kích Đông Lâm, nên vui vẻ gật đầu: “Bắc Mạc ta không có dã tâm xâm phạm nước khác, việc này không đáng lo”.

“Thứ hai, không một người nào của Bắc Mạc được phép truy cứu lai lịch của người này.”

“Việc này…”

Tứ quốc phân tranh, các nước đều cử gian tế ẩn náu khắp nơi, triều đình muốn dùng người nhất định phải điều tra rõ lai lịch, nếu không cẩn thận để gian tế quân địch trà trộn vào trong triều, có khác nào dâng giang sơn cho kẻ khác? Bạch Sính Đình này rốt cuộc là thần thánh phương nào mà thần bí như thế? Vì người tiến cử là Dương Phượng, nên Đại vương chẳng thể thẳng thừng bác bỏ, nhưng trong lòng vẫn không khỏi khó chịu.

Dương Phượng hiểu được suy nghĩ của Bắc Mạc vương, khẽ nói: “Đại vương không phải lo lắng. Bằng hữu này vì có quá khứ đau thương, nên không muốn người khác biết đến lai lịch của mình. Chắc chắn người ấy không phải gian tế, về điểm này Dương Phượng có thể đem toàn bộ tính mạng của cả phủ thượng tướng quân ra để đảm bảo”.

Nghe vậy, Bắc Mạc vương yên tâm hơn vài phần, cười nói: “Dùng người đích đáng là trách nhiệm của Đại vương, người này có đáng tin hay không, ta nhìn qua sẽ biết ngay, ngươi cần gì phải đem tính mạng cả phủ tướng quân ra để đảm bảo? Điều kiện thứ ba là gì?”.

Dương Phượng đáp: “Nếu Đại vương muốn người này hoá giải nguy cơ cho Bắc Mạc thì phải hoàn toàn nghe theo người này, không được thay đổi một ly”.

Điều này cũng có nghĩa là đem sự hưng thịnh và diệt vong của Bắc Mạc đặt hoàn toàn vào tay người đó. Bắc Mạc vương không cười nữa, hồi lâu mới lạnh lùng đáp: “Nếu người đó muốn có quân quyền của Bắc Mạc, lẽ nào bản vương cũng phải giao toàn bộ binh tướng?”.

Không ngờ Dương Phượng lập tức trả lời: “Quân quyền chính là một trong những yêu cầu. Dương Phượng xin Đại vương giao toàn bộ quân quyền biên cương cho Sính Đình, tự Sính Đình sẽ có cách để Đông Lâm lui quân”.

Sắc mặt Bắc Mạc vương đã thay đổi hoàn toàn, nhưng vẫn còn nể mặt Tắc Doãn, cố cười nói: “Khẩu khí của người này cũng thực là ghê gớm. Thống soái Đông Lâm là mãnh tướng Sở Bắc Tiệp tiễng tăm lẫy lừng, Thượng tướng quân của Bắc Mạc còn không dám lơ là, đằng này…”. Bắc Mạc vương bỗng giật mình, hỏi: “Là một nữ tử?”.

“Đúng thế.”

Bắc Mạc vương càng không cho là đúng. Ông ngồi dựa lưng vào ngai vàng, xua tay nói: “Chỉ là một nữ tử, lấy đâu ra bản lĩnh như vậy? Bỏ đi, để bản vương ban thưởng cho nàng ta, rồi bảo nàng ta lui đi”. Thật là nực cười, quân địch còn ở biên cương, bao nhiêu đại thần đang chờ để vào bẩm báo quốc sự, người làm đại vương lại lãng phí thời gian nghe đám nữ tử nói những lời xa xôi?

Dương Phượng cúi đầu một lát, biết rằng nếu không nói rõ thì đừng mong sự ủng hộ của Đại vương. Mất đi sự giúp đỡ của Sính Đình, tính mạng phu quân nàng sẽ gặp nguy hiểm. Nàng khẽ cắn môi: “Xin Đại vương hãy nghe thần thiếp nói nốt một câu”.

Bắc Mạc vương không muốn Dương Phượng khó xử nên vẫn gật đầu bảo: “Nói đi”.

Do dự một lát, Dương Phượng quyết định tiến lên trước mấy bước, nói khẽ vào tai Bắc Mạc vương: “Thần thiếp đã hứa với Sính Đình không tiết lộ chuyện này với ai, nhưng vì việc có quan hệ tới sự tồn vong của Bắc Mạc, nên Dương Phượng không thể không nói. Đại vương đừng coi thường Sính Đình, Sở Bắc Tiệp trí dũng song toàn, Tắc Doãn chưa chắc đã là đối thủ của hắn, nhưng Sính Đình lại có thể khắc chế con người này”.

“Sao lại nói vậy?”

“Bởi chính Sính Đình là người đã ép Sở Bắc Tiệp ra khế ước năm năm không xâm phạm Quy Lạc.”

Bắc Mạc vương thực sự bị chấn động, quay lại nhìn Dương Phượng chằm chằm.

Dương Phượng không hề trốn tránh ánh mắt của Bắc Mạc vương, chậm rãi gật đầu, khẽ nói: “Sở Bắc Tiệp tình sâu nghĩa nặng với Sính Đình. Chỉ cần biết Sính Đình đang ở trong quân Bắc Mạc, Sở Bắc Tiệp sẽ rơi vào thế ném chuột sợ vỡ bình quý, Tắc Doãn mới có cơ hội giành phần thắng”.

“Ngộ nhỡ…”

“Ngộ nhỡ Sở Bắc Tiệp không niệm tình…” Dương Phượng nấc nghẹn, vẻ mặt bi ai. Nàng khẽ nói: “Đại vương sao nỡ nhẫn tâm hỏi Dương Phượng câu tàn nhẫn này?”. Nghĩ tới Sính Đình đang đợi ngoài cung, lòng đau như cắt, Dương Phượng gạt nước mắt, cắn răng nói: “Xin Đại vương lập tức triệu kiến Sính Đình”.

“Truyền Bạch Sính Đình!”

“Truyền Bạch Sính Đình!”

Tiếng hô vang nối tiếp nhau, truyền đến tai Sính Đình đang chờ ở điện bên cạnh. Nàng đặt chén trà đã lạnh ngắt trên tay xuống, chỉnh lại xiêm y, hít một hơi thật sâu, ra khỏi điện, ung dung bước về phía chính điện của Bắc Mạc vương.

Thiên hạ làm gì có nơi nào thoát khỏi được chiến tranh? Cuối cùng nàng cũng bị cuốn vào vòng xoáy chính trị quân sự của Bắc Mạc quốc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Cô Phương Bất Tự Thưởng - Phong Lộng

Postby tuvi » 17 Jun 2019

Chương 14

“Dân nữ bái kiến Đại vương!” Sính Đình bước vào chính điện của Bắc Mạc vương, cúi người hành lễ.

Thấy Sính Đình không quỳ xuống hành lễ, Bắc Mạc vương không những không trách phạt mà còn tươi cười: “Miễn lễ. Thượng tướng quân phu nhân năm lần bảy lượt tiến cử tiểu thư, nói tiểu thư có diệu kế khiến quân Đông Lâm lui binh, việc này có phải là thực?”.

Sính Đình thầm thở dài, Bắc Mạc vương đã hạ mình đến mức gọi nàng là “tiểu thư”, có thể đoán được tình hình tiền tuyến của quân Bắc Mạc đang vô cùng tồi tệ, thế nên, Bắc Mạc vương mới coi nàng như vị cứu tinh từ trên trời rơi xuống.

Nàng có thể giúp Bắc Mạc đánh bại Sở Bắc Tiệp không? Nàng cảm thấy thật khổ sở, nhưng thế đã ở trên lưng hổ, cũng chẳng còn cách nào nữa. Thấy Dương Phượng đứng bên cạnh sốt ruột chờ đợi thái độ của mình, Sính Đình khẽ đáp: “Dân nữ nhất định dốc hết khả năng”.

“Có lời này của tiểu thư, Bắc Mạc được cứu rồi!” Bắc Mạc vương vỗ tay cười lớn, rồi trao cho Dương Phượng một ánh nhìn, sau đó quay sang Sính Đình, tỏ vẻ chân thành, khiêm tốn hỏi, “Việc quân khẩn cấp, quân Đông Lâm hiện đã tấn công Kham Bố, xin hỏi tiểu thư có diệu kế gì để đánh lui quân địch?”.

Khi vừa quyết định giúp đỡ Bắc Mạc, ngay trong đêm Sính Đình đã nghiên cứu kỹ bản đồ biên giới Bắc Mạc. Nàng đã có những phân tích tình thế bước đầu, nhưng không hề biết đến việc quân Đông Lâm đã tấn công Kham Bố, nên hơi kinh ngạc: “Không lẽ quân Bắc Mạc đã đánh mất phòng tuyến biên giới cuối cùng này? Vậy sao người phụ trách thăm dò diễn biến quân sự của phủ thượng tướng quân lại không hay biết?”.

Tất cả những tin báo về tình hình chiến tranh mà nàng biết được đều thông qua Dương Phượng, nên lúc này đây ánh nhìn tất nhiên cũng hướng về Dương Phượng. Rõ ràng Dương Phượng vừa mới biết tin xấu này, sắc mặt trắng bệch lắc đầu với Sính Đình.

Bắc Mạc vương cười khổ: “Đây là tin mới nhận được từ đêm qua. Dân chúng Bắc Nha Lý còn đang bàng hoàng, vì thế tạm thời bản vương không cho phép tiết lộ tin này ra bên ngoài. May còn có Tắc Doãn cố thủ nơi tiền phương, nếu không thế cục sẽ càng tồi tệ. Nhưng Kham Bố có thể chống chọi được mấy ngày, ngay cả Tắc Doãn cũng không dám đảm bảo”. Bắc Mạc vương chắp tay sau lưng, ngửa mặt lên trời thở dài, rồi lặng lẽ nhìn Sính Đình.

Nhận được ánh mắt ấy của Bắc Mạc vương, Sính Đình cũng ngộ ra: “Chẳng trách Đại vương lại chịu dùng một người ngoài”. Tình thế còn tồi tệ hơn cả suy nghĩ của nàng. Sở Bắc Tiệp quả nhiên không hổ là uy danh đệ nhất danh tướng Đông Lâm.

Nàng biết, giả như nàng không nghĩ ra được cách gì, hài nhi trong bụng Dương Phượng sẽ chẳng được gặp cha. Vậy nên, Sính Đình đành nén lại những phiền não trong lòng, nhắm mắt tĩnh tâm suy nghĩ.

Bắc Mạc vương và Dương Phượng biết nàng đang suy nghĩ, không ai lên tiếng mà yên lặng chờ đợi.

Cả gian chính điện rộng lớn bỗng im ắng đến nghẹt thở.

Một lát sau, Sính Đình từ từ mở đôi mắt to sáng của mình, dường như đã nắm chắc điều gì trong tay. Nàng mỉm cười với Dương Phượng, rồi quay sang Bắc Mạc vương, khẳng định: “Có thể có cách, nhưng cần đến sự hỗ trợ toàn lực của Đại vương”.

Đã nghe Dương Phượng nhắc tới từ trước nên Bắc Mạc vương lập tức gật đầu không chút do dự: “Tiểu thư hãy đưa ra các điều kiện, cần tiền có tiền, cần vật có vật”.

“Vậy thì tốt. Trước tiên xin Đại vương nói thật, Bắc Mạc có sắp xếp gian tế nào bên cạnh Đông Lâm vương không?”

Bắc Mạc vương bỗng im lặng, ông chỉ đoán đến việc Sính Đình sẽ lấy quyền chỉ huy đại quân nơi tiền tuyến, chứ hoàn toàn không ngờ nàng hỏi đến việc này. Thiên hạ phân tranh, các nước đều dốc kiệt khả năng tạo dựng cơ sở bí mật bên cạnh quân vương các nước khác để do thám được những tin tình báo cơ mật nhất. Quân vương các nước cũng vô cùng cẩn trọng đối với những người xung quanh mình, đề phòng gian tế. Trong tình hình này, rất khó để cài người vào nước khác. Thế nên, hoạt động tình báo cũng trở thành việc cơ mật tối cao của từng nước.

Thấy Bắc Mạc vương do dự, Sính Đình vội giải thích: “Dân nữ không định dò hỏi điều gì, chỉ là kế sách này cần có sự giúp đỡ của người ở bên Đông Lâm vương thì mới có thể hoàn thành. Đại vương không cần nói ra tên và chức vụ của người ở bên Đông Lâm. Dân nữ chỉ cần biết người đó có thể tiếp cận tới việc ăn uống của Đông Lâm vương không thôi”.

“Hả!”, Dương Phượng kinh ngạc, “Chẳng lẽ Sính Đình lại muốn đầu độc Đông Lâm vương?”.

Bắc Mạc vương chau mày: “E là kế này không thoả. Chẳng giấu gì tiểu thư, đích thị là bản vương cũng có một, hai người bên cạnh vua Đông Lâm. Nếu nắm bắt thời cơ, họ cũng có thể tiếp xúc tới việc ăn uống của Đông Lâm vương. Nhưng Đại vương các nước luôn phòng bị chuyện hạ độc, nên vô cùng cẩn trọng trong chuyện ăn uống. Trước khi dùng bất cứ thứ gì cũng phải do thân tín kiểm tra xem có độc hay không, những thân tín đó đều là người hiểu rất rõ về độc tố. Cho dù người của bản vương có hạ độc, thì chắc chắn cũng sẽ bị phát hiện trước khi Đông Lâm vương dùng đến. Như thế, vừa không giải quyết được vấn đề vừa chẳng khác nào tự đẩy cơ sở mà chúng ta khó khăn lắm mới xây dựng được vào chỗ chết”.

Sính Đình thong thả đáp: “Nếu có loại thuốc không thể kiểm tra ra được, thì không thành vấn đề”.

“Có loại độc dược như thế sao?”

“Cũng không gọi là độc dược, chỉ là một loại thuốc mê.” Sính Đình cười nói, “Đây là một phương thuốc do năm xưa dân nữ rảnh rỗi tự chế ra, sau khi cho vào đồ ăn, dùng mọi cách kiểm tra đều không thể phát hiện ra, người lớn ăn phải sẽ hôn mê hơn mười ngày, mạch cũng rất yếu, tựa có thể nhắm mắt xuôi tay bất kỳ lúc nào. Nhưng khi thuốc hết công hiệu sẽ lại tỉnh táo như thường”.

Bắc Mạc vương vui mừng đáp: “Nếu có thể qua được cửa kiểm nghiệm thì vấn đề sẽ rất dễ giải quyết. Thật không ngờ tiểu thư lại có bản lĩnh này. Không biết việc chế ra loại mê dược ấy cần đến bao nhiêu thời gian?”.

“Phương thuốc này chỉ dùng đến những loại thảo dược bốn bề dễ kiếm. Chúng ta không có nhiều thời gian, phải kịp để Đông Lâm vương hôn mê trước khi quân Đông Lâm công phá Kham Bố…” Sính Đình vừa suy nghĩ vừa trả lời, “Thời gian một ngày, dân nữ có thể chế được một thang”.

“Tốt!” Bắc Mạc vương cười đáp, “Đông Lâm vương bỗng nhiên hôn mê, vương tộc Đông Lâm đại loạn, chỉ riêng việc ổn định các phe phái muốn nhân cơ hội giành ngôi đoạt vị, cũng đủ khiến Sở Bắc Tiệp phải dẫn binh trở về Đông Lâm rồi”. Bắc Mạc vương cười một hồi, bỗng như nghĩ ra điều gì, lại thở dài.

Dương Phượng không hiểu, nhưng Sính Đình nhận ra ngay, nàng khẽ mỉm cười: “Đại vương bỗng dưng thở dài, chắc thất vọng vì hiệu lực của mê dược này chỉ khiến người ta hôn mê có mười mấy ngày thôi. Nếu có một loại độc dược qua được cửa kiểm nghiệm lại khiến người ta tìm đến cái chết, khiến Đông Lâm vương mất mạng tức khắc, thì chẳng phải lo một lần, vui cả đời sao?”. Nàng nói trúng tâm tư của Bắc Mạc vương, nhưng không hề có vẻ đắc ý mà còn thở dài: “Dân nữ đã tốn bao nhiêu tâm huyết, thay đổi các kiểu phối thuốc, song vẫn không thể khiến loại thuốc này đoạt được mạng người. Nếu không Quy Lạc đâu phải chịu đựng hết lần này đến lần khác quân Đông Lâm xâm lấn. Cũng có thể ý Trời là vậy, nếu phối ra được loại độc dược ấy, thì dù là bậc quyền quý của nước nào cũng đều không thể ngủ yên”.

Dương Phượng nghe những lời này, lại nghĩ đến Tắc Doãn đang quyết một trận sống còn ở Kham Bố thì lòng càng cảm động, bèn mơ hồ đáp: “Người đời cứ ham hố giết chóc lẫn nhau, là vì lẽ gì?”.

Trong lòng Bắc Mạc vương đang lo cho thế cục nên nhanh chóng quay về chuyện chính: “Sau khi chế thành mê dược, bản vương sẽ lập tức sai người đưa đến cho người bên Đông Lâm vương, để chọn thời cơ hành sự. Có điều, cần có thời gian chế thuốc, cộng thêm hành trình đi về… Kham Bố đang nguy cấp, không biết tiểu thư đã có đối sách gì?”.

“Đại vương suy tính rất chuẩn xác.” Sính Đình đã lường trước được câu hỏi của Bắc Mạc vương, nên vẫn ung dung trả lời, “Một mặt chúng ta sai người tung tin đồn vương tộc Đông Lâm tranh giành nội bộ, Đông Lâm vương đang nguy cấp. Khi tin đồn đến tai Sở Bắc Tiệp, hắn sẽ cử người về Đông Lâm do thám tình hình, đảm bảo tin tức Đông Lâm vương hôn mê nhanh chóng truyền tới quân Đông Lâm, ép Sở Bắc Tiệp rút quân về”.

Ánh mắt Bắc Mạc vương đầy vẻ ngưỡng mộ, tán thưởng: “Tiểu thư quả nhiên lợi hại, suy tính chu toàn, đánh đòn tâm lý phủ đầu”.

“Đại vương quá khen.” Sính Đình điềm đạm tiếp lời, “Nhưng nếu Kham Bố bị công phá, quân địch Đông Lâm sẽ thừa thắng tiến về Bắc Nha Lý. Đến lúc đó, e là bất cứ tin tức gì về Đông Lâm vương cũng không thể ngăn được vó ngựa của Sở Bắc Tiệp. Vì thế, buộc phải cắt cử người có thể cầm chân Sở Bắc Tiệp, cố thủ Kham Bố, để Sở Bắc Tiệp hiểu rằng tấn công Bắc Nha Lý không phải chỉ ngày một ngày hai là có thể hoàn thành”.

“Ngoài tiểu thư ra, khó có ai đảm đương nổi việc này.”

Đến nước này, Bắc Mạc vương đâu dám chậm trễ, nhanh chóng mang ra binh phù và vương lệnh đã chuẩn bị sẵn, đi xuống, hai tay đưa cho Sính Đình. Đại vương nhìn chăm chăm nữ tử yếu mềm trước mặt, người sắp nắm giữ quân quyền cao nhất của biên cương Bắc Mạc, trầm giọng nói: “Tiểu thư bảo trọng, sự an nguy của Bắc Mạc trông cậy cả vào tiểu thư”.

Khẽ hít một hơi thật sâu bầu không khí lạnh và trong trẻo, Dương Phượng bước đến cạnh Sính Đình: “Ta sẽ viết thư cho Tắc Doãn, nói rõ mọi chuyện của muội. Có Tắc Doãn, muội không phải đau đầu về chuyện tướng sĩ không phục tân soái”.

Sính Đình cầm binh phù và vương lệnh trong tay, đứng yên không đáp, dường như đầu óc nàng đã bay đến Kham Bố xa xôi với muôn vàn đao quang kiếm ảnh. Nàng sao có thể yên lòng? Nàng sắp tái ngộ Sở Bắc Tiệp, đối đầu với Sở Bắc Tiệp trên sa trường đổ máu, trước thiên quân vạn mã.

Một ngày sau, mê dược đã được hoàn tất. Sính Đình không vào cung nữa mà giao mê dược cho Dương Phượng, dặn kỹ cách dùng, rồi nhắc nhở: “Nhớ cho kỹ, chỗ này chỉ đủ để bỏ mê một người”.

Dương Phượng cẩn trọng nhận lấy, thắc mắc: “Sao không làm ra hai phần, ngộ nhỡ xảy ra sai sót, há chẳng phải xôi hỏng bỏng không sao?”.

Sính Đình cười ẩn ý: “Muội tự có lý của mình, tỷ không cần hỏi nhiều. Có thể ở cạnh quân vương nước địch đều phải là những nhân vật trí dũng song toàn, quyết không thể hành sự lỗ mãng, lãng phí mê dược. Tỷ yên tâm”.

Thấy Sính Đình quyết đoán như vậy, Dương Phượng cũng yên tâm, liền cất mê dược vào người, đáp: “Lát nữa ta sẽ vào cung tự tay giao cho Đại vương. Đội xe hộ tống muội lên đường đã sẵn sàng chờ lệnh”. Dương Phượng lấy từ ống tay áo ra một bức thư có đóng dấu của phủ thượng tướng quân, giao tận tay Sính Đình: “Muội nhận lấy bức thư này, khi nào gặp Tắc Doãn hãy giao lại cho chàng”.

“Tỷ đã viết hết chuyện của muội vào trong này sao?”

“Để chàng biết toàn bộ tình hình sẽ tốt hơn, cũng thuận tiện cho muội chỉ huy đại quân.” Thấy đôi mắt đen của Sính Đình đầy vẻ trêu chọc, khuôn mặt Dương Phượng bỗng đỏ bừng, cảnh cáo, “Không được xem trộm đâu đấy, trong này ngoài việc của muội, còn lại toàn tư tình của phu thê ta, một nữ nhi như muội xem cũng không hiểu đâu”.

Sính Đình cười đáp: “Đã không hiểu thì cần gì phải đề phòng”. Thấy Dương Phượng giậm chân, nàng lại lắc đầu xuýt xoa, “Thượng tướng quân phu nhân mà không biết tự bảo vệ mình, vừa bị muội công kích một chút đã cuống lên rồi. Muội thân mang trọng trách, phải ra sa trường để kịp chiến đấu, tỷ bảo đội xe hộ tống chuẩn bị lên đường”. Nói rồi, nàng bước chân ra khỏi cửa.

“Sính Đình!”

“Gì thế?” Sính Đình quay lại, trong lòng thầm than Trời, khó khăn lắm nàng mới có thể giả bộ thoải mái xuất phát, lúc này mà Dương Phượng diễn bài nước mắt tiễn đưa, chắc nàng cũng đổ lệ mất.

Để người ta biết tân chủ soái mắt đỏ hoe xuất chinh, đại quân Bắc Mạc sao có thể thuận theo?

Dương Phượng đuổi theo ra cửa, dừng trước mặt Sính Đình, đôi mắt đen nhìn nàng hồi lâu, khẽ nói: “Muội thân là nữ nhi, làm chủ soái thì cứ ở trong trướng soái trù mưu tính kế, đừng vì hiếu thắng mà đích thân xông pha nơi chiến trường”.

Sính Đình ngạc nhiên, hồi lâu mới hiểu ra, trong lòng không khỏi cảm động. Nàng khẽ nắm tay Dương Phượng, dịu dàng nói: “Yên tâm đi, muội đâu phải người không yêu quý bản thân? Cái gì mà chiến đấu nơi sa trường, chẳng qua cũng chỉ là nói chơi thôi, muội còn chẳng cầm nổi ngọn đao thanh kiếm mà… Không còn sớm nữa, muội phải đi đây, đến khi chiến thắng trở về còn bế bảo bối của tỷ và Tắc Doãn nữa. Mà, tới lúc đó, chắc bảo bối vẫn chưa chào đời”.

Trong lòng vô cùng buồn bã, nhưng Dương Phượng cố ngăn những giọt nước mắt đang chực trào ra, cắn môi nói: “Thân làm chủ soái mà còn đùa cợt thế sao?”. Im lặng giây lát, cuối cùng nước mắt nàng cũng trào ra.

Lúc ngẩng lên, Sính Đình đã không còn ở trước mặt Dương Phượng nữa. Chỗ cổng nhỏ của hoa viên thoáng bóng áo xanh, người đã đi rồi.

Xe ngựa lao đi vội vã, cát vàng cuồn cuộn, khiến người ta không nhìn rõ được con đường phía trước.

Sính Đình vén tấm rèm che xe, nheo mắt quan sát địa hình xung quanh. Thời gian ở trên xe, nàng đã mở tấm bản đồ Kham Bố ra, xem đi xem lại mấy lần, ghi nhớ tên gọi, phương hướng, vị trí của những vùng đất dốc, đồi núi, sông ngòi… lân cận. Nàng cũng phân tích kỹ tình hình quân Bắc Mạc qua lời Bắc Mạc vương, thuộc lòng tên gọi và sở trường của từng vị tướng lĩnh.

“Sắp tới Kham Bố rồi.” Sính Đình lẩm bẩm, không nén nổi tiếng thở dài.

Đau đầu. Những lúc tỉnh giấc, gần như nàng dành toàn bộ thời gian vào việc xem bản đồ và bản danh sách, ghi nhớ tất cả tình hình. Cứ nghĩ tới việc đến Kham Bố, Sính Đình sẽ phải đối đầu với Sở Bắc Tiệp trên sa trường, đầu nàng lại kêu ong ong, đau vô cùng.

Kham Bố bị tấn công dữ dội, chắc chắn đang ở vào thời khắc gian nan nhất. Nếu người giữ thành không phải là danh tướng Tắc Doãn, e rằng, khi nàng chưa kịp đến nơi, Kham Bố đã bị công phá rồi.

Nàng thật sự có thể là đối thủ của Sở Bắc Tiệp không? Mỗi vòng xe lăn bánh, nàng lại gần nam nhân ấy thêm một bước, càng không thể kìm lòng nghĩ đến bóng dáng uy phong lẫm liệt đó trên sa trường.

Không nghĩ đến chàng, không nghĩ đến chàng, Sính Đình khẽ lắc đầu.

Nàng hít thật sâu, rồi từ từ mở mắt, ánh mắt thêm phần kiên nghị. Trận chiến Kham Bố đã không còn là chiến tranh giữa Đông Lâm với Bắc Mạc nữa, giờ đã trở thành cuộc đọ sức giữa Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình.

Nàng có thể thắng không? Sính Đình lặng lẽ nhìn binh phù và vương lệnh nặng như ngàn vàng bên cạnh.

Xe ngựa rung lắc mạnh rồi dừng lại, cắt đứt dòng suy tưởng của Sính Đình. Ngoài xe vang lên giọng nói quen thuộc của tướng lĩnh Nhược Hàn phụ trách đoàn xe hộ tống Sính Đình: “Đã đến Kham Bố, mời tiểu thư xuống xe, Thượng tướng quân đích thân ra đón”.

Vén tấm rèm xe, đập vào mắt nàng là tường thành cao ngất, trên tường thành đầy những dẫu tích bị tàn phá và vết khói in hằn, có cả những mũi tên sắt vẫn ghim trên tường chưa kịp nhổ ra. Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ cho thấy chiến sự Kham Bố thê thảm đến nhường nào. Sính Đình yêu kiều bước xuống từ trên xe ngựa, ánh mắt chuyển sang đội tướng lĩnh trước mặt.

Dẫn đầu đội quân là một người bám đầy bụi vàng, đám râu như cỏ dại che khuất nửa khuôn mặt nhưng ánh mắt thì vô cùng kiên nghị, nhìn qua cũng biết đó không phải là người dễ khuất phục.

Sính Đình nở nụ cười e thẹn, chậm rãi hành lễ: “Vị này nhất định là Tắc Doãn thượng tướng quân, làm phiền Thượng tướng quân đợi lâu như vậy, thực là tổn thọ cho nữ tử ta”.

Tắc Doãn bước nhanh đến, ngăn Sính Đình lại: “Lần này tiểu thư thân là chủ soái đến đây, không nên đa lễ với thuộc hạ như vậy”. Rồi Tắc Doãn hạ giọng, “Đại vương đã cử người mang vương lệnh đến, Tắc Doãn nguyện toàn tâm toàn lực phò trợ tiểu thư. Chúng ta vào thành hãy nói tiếp”.

Sính Đình gật đầu đồng ý. Nàng lấy bức thư của Dương Phượng ra trao lại cho Tắc Doãn. Nhìn thấy bút tích của Dương Phượng, Tắc Doãn liền nở nụ cười ấm áp, vừa đa tạ Sính Đình vừa đưa hai tay nhận lấy.

Các tướng lĩnh còn lại lần lượt đến hành lễ, báo tên và chức hiệu để dễ phân biệt.

Một hàng người bước vào căn phòng được bảo vệ nghiêm ngặt. Tắc Doãn đối xử với Sính Đình vô cùng hữu hảo, còn nhường cả hành dinh của mình cho Sính Đình ở tạm.



Căn phòng với hai gam màu xanh và đen làm chủ đạo, thể hiện rõ tính cách khảng khái hào hùng của chủ nhân, trên tường treo một chiếc nỏ to màu đen, trên bàn trải tấm bản đồ địa hình Kham Bố. Dường như trước lúc Sính Đình đến đây, Tắc Doãn cũng đang nghiên cứu bản đồ để tìm kế sách phá địch.

Sính Đình nhìn một vòng quanh căn phòng, thấy nơi này bài trí đơn giản, cũng coi như có chút hiểu về con người Tắc Doãn. Nếu không phải là nhà có ái thê, thì phủ thượng tướng quân không thể hoa lệ như thế, vì bản thân Tắc Doãn không phải là người chuộng xa hoa.

Đúng là ông Trời khéo sắp đặt, một đại hán thô kệch nhường này lại lấy được lòng Dương Phượng, người chẳng buồn để ý đến đám quyền quý Quy Lạc.

Dặn dò những tướng lĩnh khác tạm thời đợi ở bên ngoài xong, Tắc Doãn quay sang chắp tay nói với Sính Đình: “Tiểu thư có vừa ý nơi này không? Vì thời gian cấp bách, mong tiểu thư cố gắng ở tạm. Nếu tiểu thư cảm thấy nơi đây màu sắc quá tối thì có thể sai cận vệ tìm những loại vải màu sắc tươi tắn hơn mang tới… Có điều, tìm được hay không cũng là cả một vấn đề…”.

Biết Tắc Doãn đang muốn nhanh chóng bàn thảo việc quân, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra ung dung, Sính Đình cười đáp: “Thượng tướng quân khách khí quá rồi. Việc quân quan trọng, đâu có thời gian lo mấy chuyện vặt ấy. Thượng tướng quân hãy nói tường tận tình hình chiến sự gần đây nhất, để chúng ta luận bàn đối sách”.

Tắc Doãn đang chờ câu này nên nói ngay: “Mời tiểu thư ngồi”.

Hai người cùng ngồi xuống. Tắc Doãn vô cùng nghiêm túc, hạ giọng: “Mười ba ngày trước quân ta lui về Kham Bố, Sở Bắc Tiệp dẫn quân toàn lực bao vây, may mà Kham Bố tường thành chắc chắn, khó công phá, cộng thêm tướng sĩ Bắc Mạc liều chết bảo vệ nên mới có thể mấy lần đánh lui quân Đông Lâm. Nhưng quân Đông Lâm có ưu thế về binh lực, ngay cả ta cũng không chắc chắn có thể hoàn toàn đánh lui quân địch hay không. Sở Bắc Tiệp quả không hổ là danh tướng, đã nhiều lần phá được chiến thuật dụ địch của quân ta”.

“Ta có một việc muốn thỉnh giáo, mong Thượng tướng quân đừng để ý. “Sính Đình thẳng thắn hỏi tiếp: “Biên thành Bắc Mạc xưa nay phòng thủ nghiêm ngặt, lại có Thượng tướng quân đích thân trấn giữ, sao chỉ trong thời gian ngắn đã bị phá vỡ mấy đạo phòng tuyến, bị dồn đến cửa ải Kham Bố cuối cùng này?”.

Tắc Doãn vô cùng sửng sốt, ánh mắt nghiêm khắc nhìn thẳng vào Sính Đình, thấy đôi mắt trong veo của nàng không hề có ý khiếp sợ, bèn ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, rằng: “Nếu không phải Dương Phượng nhiều lần nhắc tới vị hảo hữu của nàng, mạt tướng sẽ cho rằng câu hỏi vừa rồi của tiểu thư là muốn ra oai với mạt tướng. Câu hỏi của tiểu thư đã đi thẳng vào vấn đề. Quân ta liên tiếp chịu thua, bị dồn về Kham Bố, nguyên nhân chính không phải vì địch đông ta ít. Lần này quân Đông Lâm tiếng là mười vạn binh mã, nhưng con số thực lại chưa quá bảy vạn. Nguyên nhân thất bại của quân ta chủ yếu nằm ở vấn đề chủ soái”.

Không chú ý tới thần sắc khác thường trên khuôn mặt Sính Đình, Tắc Doãn đứng dậy, nhìn vào tấm bản đồ trên bàn, lộ rõ vẻ hồi tưởng: “Tắc Doãn cũng được coi là lão tướng trên sa trường của Bắc Mạc, nhưng gặp phải Sở Bắc Tiệp, mạt tướng mới biết thế nào là uy phong của danh tướng. Sở Bắc Tiệp đã mấy lần phá được chiến thuật dụ địch của quân ta, thân làm quân tiên phong, võ nghệ cao cường. Trong trận giao chiến thứ nhất, Sở Bắc Tiệp tự mình khiêu chiến. Trước đại quân hai bên, chỉ trong ba chiêu hắn đã chém đầu thuộc hạ của mạt tướng là đệ nhất mãnh tướng Mông Sơ, khiến tướng sĩ ta bị chấn động mạnh. Tất cả những người có mặt đều được tận mắt chứng kiến kiếm thuật vô địch thiên hạ. Khí thế bất khả chiến bại của hắn đã giáng một đòn trí mạng lên quân ta, dẫn đến hàng loạt thất bại liên tiếp sau này”.

Cảm nhận được nỗi khiếp sợ Sở Bắc Tiệp của quân Bắc Mạc, bất giác Sính Đình lại mộng tưởng đến khí khái anh hùng của chàng trước thiên quân vạn mã khi chỉ ba chiêu có thể lấy đầu đại tướng Bắc Mạc. Sau thoáng yên lặng, nàng sực tỉnh, an ủi: “Thượng tướng quân chớ nản lòng. Tuy Sở Bắc Tiệp có bản lĩnh, nhưng cũng đã bị Thượng tướng quân chặn lại bên ngoài thành Kham Bố mười mấy ngày qua”.

Tắc Doãn không tiếp lời ngay, hồi lâu mới nói: “Khi nãy mạt tướng đã đọc qua thư của Dương Phượng, tiểu thư hiểu rõ Sở Bắc Tiệp, chắc cũng biết tình thế những ngày sắp tới. Bây giờ mọi người đều biết một khi Kham Bố bị công phá, quân Đông Lâm sẽ thừa thắng xông thẳng đến thành đô Bắc Nha Lý. Lúc đó, chúng ta sẽ trở thành nô lệ mất nước. Bị ép vào tử địa, lòng quân vốn bị Sở Bắc Tiệp đánh cho tan tác mà khiếp đảm mới dần vững tâm trở lại, người liều chết tiến lên”.

“Thượng tướng quân nghĩ rất đúng”, Sính Đình gật đầu nói, “Giờ là lúc quân ta phải đoàn kết nhất, sĩ khí đang hăng, cũng là lúc hoạt động phòng thủ chắc chắn nhất. Nếu chỉ dựa vào ưu thế này thì quân ta không thể đánh lui quân Đông Lâm. Như thế, sớm muộn gì quân Đông Lâm cũng công chiếm Kham Bố”.

Cuộc đối đầu trên sa trường và màn đấu trí trong vương phủ là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Ở vương phủ, Sính Đình còn có thể so năng lực. Trên sa trường, Sính Đình kém đối thủ đến vài cấp bậc. Nghĩ đến Sở Bắc Tiệp có thể bàn mưu tính kế trong màn trướng mà quyết định chiến thắng ngay ở ngoài ngàn dặm, trong khi nàng lại dẫn đầu một đội quân tan tác đã bị Sở Bắc Tiệp dọa cho khiếp hồn, Sính Đình không khỏi não nề.

Nhưng trong lòng nàng cũng thầm cảm thấy tự hào. Luận về chinh chiến trên sa trường, trong thiên hạ mấy người sánh được với chàng?

Suy nghĩ lung tung hồi lâu, Sính Đình mới nhớ ra bên cạnh mình còn có Tắc Doãn đang cùng luận đàm việc quân, nàng cố gắng tĩnh tâm, ra vẻ ung dung dù Thái Sơn có sập ngay trước mặt cũng không hề chớp mắt.

Chỉ vài lời ngắn gọn của Sính Đình đã nói trúng nỗi lo lắng thường trực trong lòng Tắc Doãn, khiến vị thượng tướng quân này không thể không khâm phục: “Những lời của tiểu thư hoàn toàn đúng. Mấy ngày đầu Sở Bắc Tiệp hăng hái tấn công, cả hai bên đều thương vong không ít. Từ ngày thứ mười trở đi, quân Đông Lâm án binh bất động, đến hôm nay vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Theo mạt tướng, hắn đang chờ lòng quân tan rã, rồi mới tung quân tấn công”.

“Không.” Sính Đình mím môi, chau mày không đáp, hồi lâu sau mới ngẩng lên, sắc mặt vô cùng nghiêm túc, nói từng tiếng một: “Sở Bắc Tiệp án binh bất động, đó là vì hắn đã nghĩ được cách tốt hơn để công thành. Với thủ đoạn tâm kế của hắn, những sách lược sử dụng cũng vô cùng kỳ dị khó đoán. Một khi nó bắt đầu sẽ mạnh như vũ bão, chưa biết chừng còn có thể thần tốc phá vỡ phòng thủ của Kham Bố”.

Tắc Doãn có vẻ nghi ngờ: “Có thể thế sao?”.

Sính Đình không giải thích thêm mà chỉ hỏi một câu: “Quân ta có cử người thăm dò động tĩnh của quân Đông Lâm không?”.

“Có, chúng ta liên tục cử mật thám ra ngoài. Nhưng Sở Bắc Tiệp rất cẩn thận, hắn thường xuyên cử đại đội binh sĩ càn quét xung quanh doanh trại, nên mật thám của chúng ta không thể ở lâu, chỉ biết về cơ bản quân Đông Lâm không có động tĩnh gì.” Tắc Doãn thở dài, “Tất cả những người mạo hiểm ở lại với ý đồ dò xét kỹ hơn đều chẳng ai trở về”.

“Thế là đúng rồi, vì Sở Bắc Tiệp đang âm thầm thực thi kế hoạch của mình.” Sính Đình vừa suy nghĩ vừa nói, “Thượng tướng quân, thân phận của ta và việc tiếp quản vị trí chủ soái, tạm thời chỉ để những tướng lĩnh cao cấp biết, không được truyền tin này ra ngoài”.

Tắc Doãn đồng ý ngay: “Tiểu thư yên tâm, hôm nay đến gặp tiểu thư đều là tâm phúc thân tín của mạt tướng, cũng chỉ có họ biết tiểu thư là chủ soái do Đại vương cử đến thôi. Ngoài ra, ở Kham Bố này chỉ có Tắc Doãn và Nhược Hàn vừa hộ tống tiểu thư đến là biết thân phận của tiểu thư. Đại vương đã nói rõ trong vương lệnh, chúng ta chỉ xưng hô là ‘tiểu thư’”.

Thân là Bắc Mạc thượng tướng quân, Tắc Doãn cũng phải xưng hô với Sính Đình là “tiểu thư”, hóa ra đều có nguyên nhân.

Sính Đình yên tâm gật đầu, lặng lẽ nhìn quanh một lượt, ánh mắt dừng trên con đường rải sỏi thẳng ra sảnh lớn, khẽ bảo: “Vậy, chúng ta lên tường thành xem sao”.

Đứng trên tường thành Kham Bố hùng vĩ tráng lệ, trước mắt nàng là bình nguyên bao la và một vùng rừng núi xung quanh đã bị ngọn lửa chiến tranh thiêu rụi. Tắc Doãn đứng bên Sính Đình, chỉ về phía đông nam nói: “Đó chính là đại bản doanh của quân Đông Lâm”.

Tim Sính Đình loạn nhịp.

“Đại bản doanh quân Đông Lâm…”

Sính Đình phóng tầm mắt ra xa, tiếc rằng khoảng cách quá lớn, ngay cả bóng cờ đang bay phấp phới phía ấy còn nhìn không rõ, nói gì đến khuôn mặt tuấn tú như đao khắc của chàng.

Sở Bắc Tiệp, chàng có biết không? Bạch Sính Đình đã đến.

Không trốn được, đành phải đến.

Nhiệm vụ cấp bách nhất là phải làm rõ xem rốt cuộc Sở Bắc Tiệp đang sử dụng quỷ kế gì.

Sính Đình không có ý định nắm đại quyền. Nàng lấy binh phù ở chỗ Bắc Mạc vương, chẳng qua chỉ để những thời khắc quyết định nhất, quân Bắc Mạc sẽ nghe theo sách lược đối kháng với quân Đông Lâm của nàng mà thôi. Thế nên, ngoài lần gặp mặt vội vã với các tướng lĩnh ngay hôm đầu tiên, nàng chưa từng mang thân phận chủ soái ra để triệu tập mọi người.

Địa điểm xử lý việc quân trong hành dinh do Tắc Doãn dựng lên, cũng chỉ có mình Tắc Doãn nghiên cứu chiến lược cùng nàng. Vị thượng tướng quân Bắc Mạc không những không có ý định lật đổ tân chủ soái tự dưng xuất hiện này mà còn luôn suy nghĩ cho nàng. Riêng tấm lòng lỗi lạc ấy cũng đủ khiến nàng khâm phục.

Quân Bắc Mạc ở vào thế yếu, không phải vì Tắc Doãn không có tài, mà bởi Sở Bắc Tiệp quá mạnh.

“Tiểu thư đang nghĩ gì vậy?” Tắc Doãn đột nhiên lên tiếng, xua tan cái im lặng trong hành dinh, “Lần này quân ta tổn thất hơn mười mật thám tiền tuyến tài ba, mới chỉ thu được chút ít tin tức, thật là mất nhiều hơn được”.

Sính Đình cũng đang phân tích tin tình báo này, nên tạm thời không trả lời câu hỏi của Tắc Doãn. Nàng mở bản đồ ra, ngón tay thon nhỏ khẽ di chuyển đến góc dưới của bản đồ, cau mày lẩm bẩm: “Đi khoảng hơn mười dặm về phía nam là rừng rậm um tùm, tại sao Sở Bắc Tiệp lại liên tục cử binh sĩ ra đó?”.

Tắc Doãn đến trước bản đồ, đôi mày nhướng lên như nghĩ ra điều gì, lại vội vàng lắc đầu phủ nhận: “Không thể vượt qua rừng rậm Bách Lý ở phía nam để tấn công Kham Bố từ phía sau được. Muốn thế, quân sĩ phải đi đúng một vòng, sẽ vô cùng hao tổn sức lực. Hơn nữa, trong rừng già biết bao nhiêu nguy hiểm, rắn độc trùng độc nhiều vô kể, e là chưa đến được cửa sau của Kham Bố, quân sĩ đã thương vong một nửa rồi”.

Sính Đình đang lật xem chồng ghi chép dày cộp trên thư kệ, nghe vậy cũng giật mình: “Có những ghi chép nào liên quan đến rừng rậm Bách Lý này?”.

“Rất ít người chịu đến nơi âm u độc địa ấy.” Tắc Doãn đáp, “Nhưng quan hộ thành tiền nhiệm của Kham Bố là người rất có trách nhiệm, ông ta từng đi thu thập chỉnh lý các tài liệu về vùng lân cận xung quanh Kham Bố, còn tập hợp thành từng quyển, lưu giữ ở đây. Trong những sách này chắc chắn có ghi chép về rừng rậm Bách Lý, song không biết có đầy đủ hay không. Tiểu thư muốn xem, mạt tướng sẽ đi lấy ngay”.

Không lâu sau, Tắc Doãn ôm theo một cuộn sách cũ đầy bụi, lạch cạch đặt khắp bàn.

Tắc Doãn hy vọng trước khi Sở Bắc Tiệp tung ra quỷ kế, tin Đông Lâm vương hôn mê có thể tới đây. Còn không, nếu Sính Đình không thể kịp thời phá vỡ kế hoạch của địch, Kham Bố thất thủ, mất đi Kham Bố cũng có nghĩa là tiếng chuông tận số của Bắc Mạc quốc và người Bắc Mạc đang gióng lên từng hồi.

Việc đến nước này, Tắc Doãn cũng mất đi mấy phần khí khái kiêu hùng dũng cảm mạnh mẽ trên sa trường ngày trước, chỉ biết gửi gắm toàn bộ hy vọng vào Sính Đình, nghe đâu là khắc tinh của Sở Bắc Tiệp. Đây thật là cảm giác khiến người ta đau thương, ai bảo Tắc Doãn phải đối đầu với Sở Bắc Tiệp, kẻ không có địch thủ trên sa trường chứ?

Như cảm nhận được nỗi đau của Tắc Doãn, Sính Đình ngẩng lên với ánh mắt vô cùng thấu hiểu, nói: “Đã mấy ngày Thượng tướng quân không chợp mắt rồi? Nghỉ ngơi lấy sức mới có thể đối chọi với kẻ địch. Thượng tướng quân hãy ngủ một lát đi”.

“Mạt tướng vẫn có thể cố được.”

Sính Đình khẽ mỉm cười, dịu dàng nói: “Nếu Thượng tướng quân cố gắng quá, há chẳng phải là trúng ý của Sở Bắc Tiệp sao? Sở Bắc Tiệp giỏi nhất chiêu dùng kế ép đối thủ ngày đêm cảnh giác, tinh thần suy sụp, giày vò đến mức độ nào đó, hắn chưa cần công thành, quân sĩ đã hồn xiêu phách lạc rồi”.

Tắc Doãn bỗng tỉnh ngộ, gật đầu: “Tiểu thư nói rất đúng, quá lo lắng sẽ làm tiêu hao sinh lực của chúng ta”. Cố nở nụ cười khổ sở, Tắc Doãn thẳng thắn, “Chẳng giấu gì tiểu thư, từ khi giao chiến với quân Đông Lâm đến nay, mạt tướng chưa từng được ngủ ngon. Tối nay mạt tướng phải ngủ say một giấc, tĩnh dưỡng tinh thần để chiến đấu với quân Đông Lâm mới được”.

“Tuần tra doanh trại một vòng xong, mạt tướng sẽ đi ngủ”, Tắc Doãn đứng dậy, đẩy cửa bước ra ngoài.

Trong đại bản doanh của Đông Lâm, trừ người phụ trách canh gác tuần tra, tất cả binh sĩ còn lại đều đang chìm vào giấc ngủ say.

Chẳng có ai lo lắng quân Bắc Mạc sẽ tập kích vào ban đêm. Sau mấy lần không biết sống chết mà tùy tiện tập kích vào đêm thất bại, quân Bắc Mạc sẽ không lặp lại hành động biết trước thất bại này nữa.

Cũng chẳng ai lo lắng chuyện có phải đột phá Kham Bố về đêm để giành lấy thắng lợi, áo gấm vinh quy hay không. Họ có một thống soái vô địch thiên hạ, chỉ cần cờ Trấn Bắc vương vẫn ở kia, họ tin chắc, phương hướng của ngọn cờ chính là đường chiến thắng.

Cờ Trấn Bắc vương lúc này đang giương cao trên đỉnh trướng soái ở chính giữa đại bản doanh, bay phần phật trong gió núi thổi từ rừng rậm Bách Lý xa xôi.

Nơi rèm cửa của trướng soái vẫn có ánh đèn, Sở Bắc Tiệp chưa đi ngủ. Chiến giáp đúc bằng vàng treo trên thành trướng, sáng lấp lánh trong ánh nến. Mạc Nhiên im lặng đứng bên, đợi chỉ thị của Sở Bắc Tiệp. Từ lúc đưa lên tin tình báo mới nhất của mật thám, Sở Bắc Tiệp vẫn chưa nói lời nào.

Hồi lâu, Sở Bắc Tiệp mới đặt bản quân báo trên tay xuống bàn, bình thản hỏi: “Vị tiểu thư vừa tiếp nhận vị trí chủ soái ấy có thể là người phương nào?”.

Một cái tên kiêng kỵ thoáng qua trong đầu, Mạc Nhiên khẽ lùi ra sau một bước, cúi đầu đáp: “Tên thật và lai lịch của tân chủ soái là vấn đề cơ mật bên quân địch nên người thuộc hạ phái đi vẫn chưa thăm dò được”.

Sở Bắc Tiệp ngồi xuống, nhìn Mạc Nhiên, giọng ấm áp: “Chúng ta cùng đoán đến một người”.

Mạc Nhiên ngạc nhiên, ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt sắc như dao của Sở Bắc Tiệp, do dự hỏi: “Giả như đúng là người ấy, Vương gia định xử trí thế nào?”.

“Có gì khó xử trí sao?”

“Hiện giờ chúng ta còn chưa thể xác định chủ soái đối phương có phải là người ấy hay không, vậy kế sách ngày mai…”

Sở Bắc Tiệp xua tay, đáp: “Mạc Nhiên quá lo rồi. Bảo mật thám không cần điều tra lai lịch chủ soái của đối phương nữa, nếu đúng là Bạch Sính Đình, trước khi trời sáng, nàng có thể dựa theo chiều hướng của quân ta mà đoán được kế sách của bản vương”.

Mạc Nhiên to gan hỏi: “Giả như người đến đúng là nàng ấy, nhưng nàng ấy không kịp đoán được kế sách của Vương gia, há chẳng phải chúng ta sẽ cùng quân Bắc Mạc vùi thây ở Kham Bố sao?”. Vấp phải ánh mắt lạnh như băng của Sở Bắc Tiệp quét qua, Mạc Nhiên lập tức im bặt, không nói thêm nửa lời.

“Không đoán ra…” Trong lòng hình như cũng cảm thấy lo lắng, Sở Bắc Tiệp đứng dậy bước tới trước cửa, vén tấm rèm lên, ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng treo trên trời, hít đầy cái không khí mát lạnh của buổi đêm, rồi cố nén lại nỗi xao động, ánh mắt trở nên quyết đoán, hạ giọng, “Nếu nàng không có được sự thông tuệ ấy, sao xứng nhận được tình yêu thương sâu sắc của bản vương?”. Sở Bắc Tiệp quay lại, nhìn đại tướng tâm phúc của mình, cười nói: “Nhìn bộ dạng của ngươi kìa, vẫn thắc mắc gì sao? Cứ nói cho hết đi”.

Đại chiến cận kề, chỉ thị của chủ soái tuyệt không được lấp lửng vòng vo, nhưng Mạc Nhiên biết rõ thắc mắc của mình cũng chính là tâm bệnh của Sở Bắc Tiệp, nên do dự: “Chẳng phải Vương gia muốn bắt sống Bạch Sính Đình sao?”.

“Mạc Nhiên cho rằng bản vương muốn bắt sống Bạch Sính Đình để báo thù?” Sở Bắc Tiệp thản nhiên nói, “Ngươi nên nhớ, thân làm chủ soái không được cố chấp một lần thắng bại, vì đó sẽ trở thành vết thương trí mạng. Muốn bắt sống nàng, bởi bản vương khâm phục nàng”. Sở Bắc Tiệp cúi xuống hất văng những thứ trên mặt bàn, giở tấm bản đồ da dê đã xem không biết bao nhiêu lần ra, ánh mắt thâm trầm, như đang nhìn nữ tử duy nhất có thể khiến mình lưu luyến nhớ nhung, “Giả như nàng không còn khiến ta khâm phục, hà tất phải bắt sống?”.

“Vương gia có từng nghĩ rằng…” Mạc Nhiên nói, “Cho dù Bạch Sính Đình có thể đoán được diệu kế của Vương gia, nhưng cũng không có cách nào chống đỡ?”.

“Ngươi sai rồi. Chỉ cần đoán được, nàng sẽ phá được.” Sở Bắc Tiệp vẫn rất ung dung, “Khi mặt trời mọc, hãy để bản vương xem nàng có xứng là nữ nhân đáng được bản vương yêu thương nhất thế gian này hay không. Sính Đình ơi Sính Đình, nếu nàng đã dám đến thành Kham Bố, thì đừng để bản vương thất vọng”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 87 guests