Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Image

Tác giả: Yến Lũy Sinh

Giới thiệu tác phẩm


Những bi kịch quái gở ám ảnh


Nhân vật kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm tên là Tần Thành Khang.

Khang làm việc ở Tòa soạn Tạp chí phổ thông (trước đây vốn là Tạp chí Truyền kỳ đại quan chuyên sưu tầm truyện kỳ bí, quái đản trong dân gian…) và sống một mình tại căn hộ riêng. Những dấu hiệu bất thường bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống của Thành Khang từ khi anh lấy đĩa mềm lưu bản thảo của tác giả Ôn Khắc về (bản thân Ôn Khắc cũng có những biến đổi quá nhanh chóng như người gầy rộc, da đen và thậm chí còn thoa phấn lên mặt).

Sự hoang mang dấy lên khi Khang thấy một vết mực lúc ẩn lúc hiện, luôn thay đổi hình dạng, thấy những chiếc bóng kỳ lạ đồng thời liên tục gặp ác mộng… Nỗi sợ hãi càng nhân thêm bởi lá thư kêu cứu vô vọng của Ôn Khắc, bởi câu chuyện hãi hùng mà Ôn Khắc kể trong tác phẩm có vẻ là một câu chuyện thật mà chính Ôn Khắc đang trải qua...Cuối cùng, tất cả điều lạ lùng thúc đẩy Thành Khang tìm đến làng Xạ Công, ngôi làng mà Ôn Khắc từng miêu tả trong tác phẩm.

Ở đây, Thành Khang đối mặt trực tiếp với Dạ Vương và phát hiện ra chính mình cũng nhiễm một phần của Dạ Vương, gặp những người mang một phần của Dạ Vương đã tồn tại trong bao thế kỷ… Những bi kịch lạ lùng khủng khiếp lại tái diễn, thậm chí cho đến tận khi kết thúc: “Nheo mắt lại, tôi lại ngẩng mặt lên bầu trời. Hàng tỉ mũi kim màu vàng kim loại chọc vào mắt tôi. Tôi lảo đảo, chỉ cảm thấy như đã trúng một phát đạn. Tôi khom lưng thở hắt ra hai cái mới có thể thẳng lưng đi tiếp. Đúng vậy, đây đâu phải là kết thúc; tất cả mới chỉ bắt đầu”.

Như vậy, người trực tiếp dẫn dắt độc giả bước vào thế giới kỳ lạ là nhân vật người kể chuyện xưng tôi.

Tôi luôn chìm vào trong những cơn ác mộng quái đản, nơi những ảo giác trở nên thật đến phi lí. Sự nhập nhằng hư thực khiến chính nhân vật tham dự trở nên hoang mang, không biết mình đang tồn tại ở đâu. Yếu tố kỳ ảo ở đây không còn trợ giúp con người như trong văn học thuở xưa, nó tham dự như một thế giới đầy đe doạ và khiến con người luôn cảm thấy sợ hãi và bất an mà không thể nào trốn chạy hay giải thoát.

Cũng chính yếu tố lạ thường xâm nhập “trắng trợn” vào không gian công cộng quen thuộc như không gian công sở, không gian đường phố…Thành phố đông đúc, khoa học kỹ thuật phát triển có thể khiến con người ta thôi tin vào những phép nhiệm màu. Nhưng nỗi sợ hãi nguyên thuỷ - nỗi sợ hãi trước những điều chưa biết – có lẽ mãi mãi tồn tại bởi lúc nào cũng có muôn vàn điều chưa biết đầy bí ẩn thách đố con người…

Tất nhiên, làm nên thành công của một câu chuyện kinh dị không chỉ ở việc miêu tả những hiệu ứng hoang mang nơi nhân vật tham dự mà còn ở sự hiện diện của đối tượng gieo rắc nỗi sợ như thế nào. Vì vậy, Dạ Vương – “nguyên nhân” của những chuyện quái đản trong thế giới tác phẩm cũng được nhà văn tập trung rất nhiều bút lực khắc họa. Dạ Vương tồn tại khắp nơi với vô vàn dạng thức... Khi là vết mực mờ biến hóa.. khi là một phần trong người bị Dạ Vương nhập, khi hiện hữu toàn bộ hình dạng của một khối lỏng đen nhanh chóng nuốt chửng tất cả mọi người xung quanh... Không ai có thể tiêu diệt được Dạ Vương, Dạ Vương chỉ chìm vào trong giấc ngủ tạm thời khi đã no máu người. Dạ Vương nhập vào ai, người đó cũng nhiễm “cuồng vọng” hút máu người của Dạ Vương.

Nhân vật trong truyện đã cố gắng từ nhiều góc độ khác nhau: khoa học, sinh học, tâm linh… để lý giải Dạ Vương, nhưng tất cả những nỗ lực dường như đều vô vọng. Dạ Vương thực chất là gì, câu hỏi vẫn để ngỏ cho đến tận những dòng cuối cùng…

Phải chăng, Dạ Vương chính là ẩn dụ cho cái ác bản thể, cái không bao giờ mất đi, không bao giờ bị tiệt diệt? Nó có thể say ngủ, nhưng một lúc nào đó, nó cũng có thể thức dậy? Con người vì vậy, mãi mãi phải bắt đầu cuộc đấu tranh để không bị cái ác tha hoá?

Cái khó nhất của một câu chuyện ma quái là giữ được không khí rùng rợn đến tận những dòng cuối cùng.Trong tác phẩm này, Yến Lũy Sinh đã làm được điều đó. Chính vì vậy, tác phẩm thật xứng đáng với lời phong tặng của người Trung Quốc: thiên hạ đệ nhất kinh dị tiểu thuyết năm 2006.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 1 : Vết mực

Từ lập đông đến giờ. trời âm u kéo dài đã hai tuần lễ, cứ cách ngày một, ngày hai lại đỗ mưa, mãi đến hôm nay mới thấy hừng nắng.

Ngày mưa - với những ai đa sầu đa cảm, rất có thể sẽ là điều thú vị; không như tôi, một anh chàng độc thân, chỉ thấy vui lên khi trời quang mây tạnh.

Tôi vươn vai đứng dậy bên bàn giấy, đưa mắt nhìn ra ngòai. Nắng chói chang, những dãi nhà cao tầng gài răng lược san sát hai bên đường được nước mưa rửa sạch, ánh lên một vẻ tươi mới. Văn phòng nơi tôi làm việc ở tầng mười hai. Nhìn xuống con đường cái phía dưới, thỉnh thỏang mới thấy xe chạy qua, không gian rất tĩnh lặng vì được bao bọc bởi lớp cửa kính, hầu như không có tiếng động mà chỉ thấy bóng chiếc xe lướt qua rồi mất hút.

Tôi làm biên tập cho tờ "Tạp chí phổ thông" vừa mới ra đời. Vì việc cấp giấy phép cho số tạp chí là chuyện rất khó nên các lọai tạp chí hiện thời, phần nhiều đều phải mượn tên tạp chí cũ để ra mắt. Số tạp chí này cũng vậy, nó có tên là "Truyền kỳ đại quan biến thể"

"Truyền kỳ đại quan biến thể" vốn là tờ tạp chí lá cải chết yểu từ nhiều năm trước; khi ấy nó được chia phần chút ít trong số những tạp chí lá cải bày bán rất chạy trên các quầy báo. Lúc tôi đang còn là học sinh trung học, vẫn thường bắt gặp các bạn cùng lớp lén lút đem những tạp chí kiểu này, trên bìa có in ảnh những gái đẹp ăn vận hở hang vào trong nhà xí, ngồi đọc một cách rất thích thú.

Tôi có được đọc một số tạp chí, gồm tòan những truyện " vụ án xé xác người" hoặc "thần quyền chấn động núi non". Kém theo là những dòng đặc tả mà vào thời điểm bấy giờ được xem là thiếu tính giáo dục. Cho dù nó có góp phần làm phong phú thêm cho đời sống văn hóa của tầng lớp công nhân và học sinh trung học thời ấy, nhưng riêng tôi lại thấy chẳng có cảm tình chút nào. Bởi lẽ có lần tôi trót đọc được một câu chuyện có thể nói là bẩn thỉu trên một cuốn tạp chí. Một kẻ bất nhân, độc ác cộp được gái đẹp đã vờ "văn nhân", "nho nhã" lần lượt cởi bỏ váy áo trên thân thể người đàn bà, miệng không ngớt thốt lên những lời văn hoa vô lối. Nhưng theo đúng công thức thời ấy, khi mà hắn đã cởi đến bộ đồ lót và chuẩn bị chiếm đọat người phụ nữ thì một hiệp sĩ không biết từ đâu bỗng nhiên nhảy ra , tung quyền quật ngả tên khốn kiếp ngay tại chỗ và cứu được người đẹp.

Câu chuyện về vị đại hiệp này khiến tôi ngứa ngáy đến tận chân răng, chưa kể bút pháp của nó cũng kỳ cục với một lọat những câu dài lê thê có đến ba bốn mươi chữ xuất hiện ở nhiều chỗ trong các trang viết. Khỏang thời gia đó, tôi thường có thói quen đọc nhẩm không thành tiếng song những câu dài ấy khiến tôi ngạt thở. Nếu quá thêm nữa, chắc tôi sẽ bị ngất xỉu. Trong trường hợp có người phát hiện thấy, không chừng người ta sẽ đồn thổi rằng, chỉ vì đọc những đọan văn đó mà tôi bị căng đứt mạch máu. Nếu thật như thế thì tôi đành phải chấp nhận thôi.

Hồi ấy tôi đã nghĩ, nếu là mình viết thì chắc sẽ khá hơn. Nào ngờ mấy chục năm sau, khi tờ tạp chí này mượn danh kẻ khác để đến với công chúng thì tôi lại nghiễn nhiên trở thành biên tập viên chính thức của nó.

Tôi nghe thấy từ tầng dưới, tiếng búa đóng đinh dội lên inh ỏi. Ngôi nhà lớn này vốn được xé lẻ cho bảy tám công ty cùng thuê lại; cách đây ít lâu công ty thuê tầng dưới bị phá sản phải dọn đi, hôm nay một công ty khác mới đến đang gấp gút sửa sang lại nhà cửa. Tiếng búa chát chúa làm đầu tôi nhói lên đau buốt, tường chừng đầu mình cũng hóa thành cây cột đang bị đóng đinh dưới kia. Thế nên tôi quềnh quàng xếp gọn đống giấy tờ trên bàn rồi vội vàng bước ra cửa.

Tạp chí dự định phát hành vào ngày thứ bảy tuần này, hôm nay mới là thứ hai. Cuối tuần, các nhân viên trong tòa sọan đề đi về thực tế ở địa phương, chiều mới tập trung tại văn phòng, chỉ còn tôi và một nhân viên nữa nhận chân giữ chùa. Tiếng là đi lấy ý kiến bạn đọc nhưng thật ra đây chỉ là dịp ông chủ đãi khách và mọi người được một ngày dạo chơi ra vùng ngọai ô. Phần tôi chưa hẳn hết việc, vẫn còn tới hơn ba vạn chữ để chừa trên mặt báo đang chờ bài viết. Tác giả hẹn thứ bảy nộp bài cho tôi, thế mà hôm nay đã là chủ nhật rồi vẫn biệt tăm. Cũng may địa chỉ của ông ta ở trong nội thành; nhân lúc không thể ngồi nổi ở văn phòng, tôi đến thăm ông, luôn thể đi bát phố cũng hay.

Làm tạp chí thì phải hiểu rõ tác giả như lòng bàn tay. Hơn nữa, bây giờ theo chế độ biên tập phụ trách; với mỗi bài viết, người phụ trách biên tập được nhận thêm nhuận bút, vì thế tác giả nổi tiếng luôn là đối tượng tranh chấp của các tạp chí. Cộng tác viên của tôi là Ôn Kiến Quốc, bút danh Ôn Khắc.

Người này tuy có biệt danh rất khó phát âm, nghe chẳng ra đàn ông và cũng không hẳn là đàn bà - Ôn Khắc, nhưng được cái, những gì anh ta viết đều được bạn đọc rất tán thưởng; đó là nhờ lối viết khác người, hơi méo mó, cộng với phần miêu tả sắc dục không đến nỗi phá cách. Vì thế, mặc dù viết chậm song hầu hết những bài viết cũa ông ta đều trót lọt, thoát qua khâu kiểm duyệt.

Ôn Kiến Quốc sống độc thân trong căn nhà một tầng ở trung tâm thành phố. Đây là một căn nhà cũ kỹ, có một cửa sổ và một cửa ra vào. Diện tích hẹp nhưng được cái nó ở vào vị trí "phát tài phát lộc", nghe đâu là đất thừa kế của tổ tiên. Nếu đem rao bán cũng đủ tiền cưới đến bảy tám bà vợ một lúc. Chẳng hiểu vì sao ông ta chịu thúc thủ ở mãi trong căn nhà chật chội này? Phải chăng vì thủ tục di dời nhà cửa ngày càng phức tạp, khó giải quyết?

Chớm đến đầu hè, tôi cất bước đi lên qua mấy bậc thềm đen sạm và nứt nẻ vì lâu năm không có ai lo việc sửa sang. Giơ tay gõ cửa không thấy ai thưa. Tôi hiểu rõ Ôn Kiến Quốc rất say mê viết nhưng rồi cũng có lúc ông ta vẫn phải dứt ra mà đi đi đâu đó chẳng hạn. Chần chử giây lát, đúng lúc định quay ra, tôi chợt nghe tiếng kẹt cửa.

Vừa nhìn rõ mặt người mới từ trong bước ra, tôi buộc miệng:

- Xin lỗi, không biết tôi có nhầm nhà không, thưa ông ?

Chả là người đứng trước mặt tôi, dáng vẻ dật dờ, sắc mặt sạm đen, hai mắt trũng sâu với xương bã vai nhô lên nhọn hoắt trông chằng khác một cái xác không hồn là mấy. Tôi không còn tin vào mắt mình nữa; tôi mới gặp ông ta cách đây một tháng, lúc ấy, gương mặt ông ta béo tốt với hai vành tai to. So với bây giờ, chỉ còn mỗi bộ kính mắt là giống trước, còn hiện tại rõ ràng đã trở thành một người lạ hoắc. Tôi chưa kịp mở lời đã nghe ông ta cười thành tiếng:

- Ủa... Ngỡ là ai chứ !

Nghe giọng nói của Ôn Kiến Quốc, tôi giật nảy mình, đưa mắt nhìn, vẻ dò hỏi: "Ông... Ông là Ôn Kiến Quốc? "

- Vâng, xin ông cứ tự nhiên cho.

Chủ nhà kéo lê đôi dép, từ nảy đến giờ ông ta vẫn nằm bẹp trên giường, bây giờ mới hấp tấp chìa tay mời tôi vào nhà. Những ngón tay của ông ta vốn dĩ béo múp, trắng bệch, giờ đây phơi rõ các khớp xương khô lỏng khỏng, trên ngón tay cái có đeo một chiếc nhẫn khác thường. Tôi từng đọc một cuốn sách cổ có nói đến cái thú chơi đồ trang sức, trong đó viết rẳng: nhẫn ở thời buổi ấy có một lọai đeo cho ngón tay cái, tên gọi "ban chỉ", nó được dùng để kéo dây cung và nỏ, mãi sau này mới trở thành một món trang sức. Thứ nhẫn này hình như không thấy có ở nước ngòai, chẳng trách nó được công nhận là "trang sức độc" của riêng Trung Quốc. Không rõ Ôn Kiến Quốc kiếm đâu ra được chiếc nhẫn làm bằng thứ đồng thau rắn cấc này, đeo nó vào trông thật kỳ dị. Với ai thì chưa biết, chứ một nhà văn cỡ như ông ta, nếu có tật khác đời như thế thì cũng chẳng ai lấy đó làm điều. Tay ông ta chìa ra, chưa kịp bỏ xuống thì sắc mặt đã thất thần, gần như người bị rắn cắn, loay hoay dùng tay xoay chiếc nhẫn đeo trên ngón tay cái.

Tôi rảo bước bám sát sau lưng ông ta:

- Ông không được khỏe phải không, ông Ôn Khắc?

Ông ta đứng khựng, ngỏanh đầu lại, đưa mắt nhìn tôi, sẵng giọng:

- Tôi mà bị ốm ư?

Giọng điệu của ông ta không muốn thừa nhận mình có bệnh, cho nên câu nói của tôi khiến ông ta nghĩ rằng tôi đang rủa ông ta. Nghĩ thế, nên tôi đành phải lựa lời:

- Chỉ tại tôi thấy sắc diện ông không được tươi tỉnh đấy thôi!

Căn phòng của ông ta ở rộng 30 mét được ngăn đôi bằng ván bìa mỏng. Gian ngoài dùng làm bếp và phòng khách mờ tối. Không gian hẹp nên phòng khách chỉ đủ chỗ cho bốn hoặc năm người khách ngồi chơi. Ông kéo ra mốt chiếc ghế dựa, vẻ dồn dã:

- Mời ông ngồi.

Tôi làm theo, nhanh tay lấy từ trong túi xách ra một bọc hoa quả mới mua ở dọc đường đặt lên bàn:

- Thưa ông Ôn Khắc, xin ông vui lòng cho biết về tập truyện ấy. Chắc ông đã viết xong rồi?

Chủ nhà cũng vừa ngồi vào chỗ, người co rúm như sợ rét nhưng không nghe tôi nói gì. Tôi hẵng giọng nói to hơn:

- Tác phẩm của ông đó, mong ông hoản tất cho, thứ bảy này phải lên khuôn đấy!

- Tiểu thuyết? À ... Tôi biết rồi, chỉ còn vài trăm chữ nữa là xong. Tôi viết nốt đây, ông ngồi chờ cho chốc lát được chứ?

Ông ta xây lưng đi vào bên trong. Đàn ông chưa vợ, phòng ngũ hẳn là bừa bộn lắm. Thấy ông ta đứng dậy, tôi định bước theo sau lưng nhưng cửa đã đóng sập ngay lại. Đấy là tấm cửa phên dán giấy, có lẽ là tự tay ông ta mới dựng nên, bữa trước tôi đã có dịp đế đây rồi nhưng chưa thấy nó. Liếc mắt nhìn vào bên trong, tôi hông thể thấy gì ngòai cảm giác mọi thứ đều tối om. Dễ thường Ôn Khắc vào đấy chỉ để đi ngũ. Rèm cửa buông xuống tối như bưng và vì nó đưộc may bằng thứ vải chống sáng nên không một tia sáng nào lọt vào nổi. Cả đến cây đèn bàn củng tắc lịm và người ta chỉ còn trông thấy mỗi điểm sáng của máy tính mà thôi.

Lại nói về thói quen của từng người lúc mới sáng tác, tôi vẫn còn nhớ như in về Ôn Kiến Quốc. Cứ mỗi lần ngồi xuống viết, ông ta đều phải có một điếu thuốc, một cốc trà, cửa sổ mở toang, cửa ra vào cũng vậy. Lắm khi ông ta còn bật nhạc MP3 trên máy tính là khác. Còn như những thói quen tôi vừa nhìn thấy, có lẽ là mới bị nhiễm trong thời gian gần đây, kể cả chiếc nhẫn quái dị mà ông ta đeo nữa.

Trở lại với cánh cửa phòng, nó vốn được làm bằng phên tre dán giấy nhưng chắc và kín, không để ánh sáng lọt vào. Bên trong tối đen như phòng dùng cho việc rửa ảnh vậy. Tôi những muốn thử dòm qua khe cửa nhưng nó đã bị bịt kín, chẳng còn trông thấy gì nữa. Áp tai lên bức vách mỏng, chỉ nghe mỗi tiếng đánh máy chữ lách cách đều đều.




Đây rồi, Ôn Kiến Quốc từ trong đi ra. Cửa mở làm tôi giật bắn mình, ông ta đặt chiếc đĩa mềm vào lòng bàn tay tôi rồi nói:

- Đây... ông nhận cho!

Tôi cần đĩa bỏ vào túi nhưng vẫn còn áy náy trong lòng:

- Ông không sao chứ, ông cần tĩnh dưỡng đấy, thưa ông Ôn Khắc?

Có lẽ đây lại là một cảm giác sai lạc nữa của tôi. Vừa rồi ông đi vào đó, chỉ một thóang thôi, nhưng tôi trông ông ta có vẻ tiều tụy hơn nên mới buộc miệng nói vậy. Không dè Ôn Khắc tưởng ra điều gì đó ghê gớm đáng sợ nên mới hỏi vặn:

- Có thật không? Thật như thế hay sao?

Ông ta lao mình ra cửa, ngơ ngác soi mình vào tấm gương treo trên tường. Tôi không ngời ông ta bị bị tự kỷ ám thị đến mức đó. Lúc ấy tôi vội đưa tay đập lên vai ông ta rồi nói:

- Xin ông... Ông hãy nghe tôi.

Né tránh được bàn tay tôi, Ôn Khắc ngỏanh đầu lại hốt hoảng:

- Thật thế chăng...? Sắc mặt tôi xấu lắm rồi phải không ?

Giá như ánh đèn ngòai cửa sáng hơn một chút nữa thì tốt biết mấy, vì bấy giờ tôi vừa kịp phát hiện trên tay ông ta có hộp phấn màu da hồng vốn là đồ trang điểm của các cô gái trẻ. Kỳ cục đến thế là cùng; cho dù Ôn Kiến Quốc muốn hóa thành Hà Lợi Tú đi nữa thì cũng đâu có được. Tôi không ngờ ông ta lại thích như vậy. Mặt ông ta chẳng đã thoa lên một lớp phấn rồi sao. chỉ phải cái cách đánh vụng về lắm. Ban nãy ông ta đứng sấp bóng mới qua được mắt tôi, bây giờ thì tôi thấy nó rõ quá, tựa như một lớp vôi trát dầy lên mặt vậy. Gương mặt Ôn Khắc trông cứng đơ, không chút biểu cảm, có một chỗ lớp phấn khô cứng thành vết rạn chân chim, giống hệt lớp men rạn trên bình hoa.

Tôi rùng mình:

- Ông có sao không, ông Ôn Khắc?

- Cút đi - Hai tay ông ta ôm lấy mặt. - Cút đi! Đừng bao giời đến đây nữa!

Tội sững sốt. Ôn Khắc - coin người xưa nay điềm đạm hòa nhã, sống có tình với mọi người, bây giờ hóa thành cục súc thế sao? Vả chăng thực bụng tôi cũng không còn muốn nấn ná lâu thêm, cứ đi khỏi đây là hơn cả. Tôi nhào ra ngòai cửa y như người trốn chạy, nghe đánh "rầm" một tiếng ở sau lưng và Ôn Kiến Quốc đóng sập cánh cửa lại.

Ra ngoài tôi mới thấy mình hết rét; khác hẳn lúc còn ở trong nhà Ôn Khắc, tôi cứ có cảm giác mình bị ép ngồi trong phòng lạnh, tay chân tê cứng, run lên cầm cập. Nhiệt độ hôm nay không cao nhưng cũng chẳng đến nỗi rét quá, có chăng là nhiệt độ trong nhà Ôn Khắc chênh quá so với bên ngoài. Tôi đã để ý xem xét thêm về ngôi nhà, dễ thường do yếu tố tâm lý, một căn nhà nhỏ cũ kỹ đứng chơ vơ, lọt thỏm giữa những dãy nhà cao tầng, gieo vào lòng người ta cảm giác lạnh lẽo đến rợn người.

Về đến văn phòng thì vừa kịp giờ ăn. Với những ai làm biên tập, cơm trưa là cơm hộp, chỉ cốt no bụng chứ không phải ngon miệng. Như bữa ăn hôm nay chằng hạn, khó nuốt lắm. Món củ cải ninh với thịt mỡ nhừ nát, tôi ăn qua quít cho xong rồi lấy đĩa mềm Ôn Kiến Quốc đưa cho ra xem.

Đó là thứ đĩa mác tạp-pí-lù sản xuất ở trong nước, chất lượng không được tốt nhưng có thể dùng tạm, cũng giống như bữa ăn vội vừa rồi. Đĩa mềm tương tự như các thứ đồ khác sản xuất trong nước, vốn không được tín nhiệm, song gia công tương đối kỹ vẫn sử dụng được; chỉ hiềm một nỗi, chiếc đĩa mà Ôn Khắc đưa cho tôi bị dây một chấm mực. Chẳng hiểu Ôn Kiến Quốc làm gì nên thế. Thời buổi bây giờ còn ai dùng bút lông để đến nỗi bị dây mực.

Đang dùng dằn muốn mở hộp đĩa mềm, tôi bỗng thấy mình bị hoa mắt, cảm giác váng vất trong đầuvà lạnh cả trong bụng nữa. Khi nãy, trong chốc lát, cả người tôi mềm nhũng như bị rơi từ trên cao xuống, giống người thiếu máu nhưng chưa việc gì. Nhưng điều khiến tôi phải suy nghĩ là tôi vừa trông thấy một giọt mực động đậy ngay trên chiếc đĩa mềm. Trông nó giống một giọt thủy ngân màu đen. Nhưng nhìn kỹ lại thì giọt mực nho nhỏ ấy vẫn đúng là giọt mực. Tôi lắc đầu cho tỉnh táo rồi gỡ chiếc đĩa mềm ra, cho vào đĩa A và "copy".

Câu chuyện của Ôn Kiến Quốc mang tựa đề "Tổ ong" và có nội dung như sau: trong chuyến du lịch nước ngòai, một cặp tình nhân đặt chân đến một làng nhỏ trong núi. Lúc đó trời đã sẫm tối, họ bèm tìm một gia đình nhà nông xin ngủ nhờ một đêm. Đôi tình nhân nhận thấy, tuy trong làng có khá nhiều nhà nhưng lại có rất ít hộ làm nghề nông, hơn nữa, người ở đây, phần đông là người già và trẻ em. Khi trời tối, họ phát hiện dưới mái hiên gia đình nhà nông nọ có một tổ ong to bằng miệng bát và cảm thấy lo lắng. Đêm đến, ( sau đọan mô tả về lối làm tình nhăng nhuội bằng cách viết không đến nỗi lộ liễu quá đáng), họ bị tiếng động làm thức giấc. Không một mảnh vải che thân, họ cùng nhìn ra ngoài cửa sổ.

Đúng lúc này từ ổ đĩa A chợt phát ra tín hiệu "tạch... tạch... tạch".

Lạ thật, tôi đang trực tiếp đọc văn bản trên đĩa mềm cơ mà. Nghe đâu có lọai virus tấn công bằng cách khiến bạn cứ lần đọc mãi trên mỗi một rãnh từ nhằm phá hỏng chiếc đĩa mà bạn đang sử dụng. Thế nên tôi vội bấm nút ổ A, rút chiếc đĩa ra, kiểm tra kỹ càng một lượt nhưng không thấy dấu vết đáng ngờ. Tôi còn dùng đến cả scandisk để quét ổ cứng. Bởi lẽ đánh hỏng đĩa mềm chỉ là chuyện nhỏ chứ ổ cứng sinh chuyện thì lôi thôi to. Trong đó lưu trữ bản thảo của nhiều tác giả, còn thêm cả bản bông những bài viết đã được hiệu đỉnh cẩn thận. Với dung lượng 20KB, để quét một lượt, phải mất khá nhiều thời gian. Tôi đưa mắt theo dõi những hình vuông màu xanh di chuyển chậm chạp trên màn hình và rút đĩa mềm. Trước đây đã từng có lần phần mềm đồ họa bị format, két quả là toàn bộ minh họa, đồ thị làm xong đều bị mất hết. Và tháng đó, bộ phận biên tập mỹ thuật phải tốn công làm lại từ đầu.

A Di Đà Phật... Đội ơn Đức Chúa, xin đừng bắt chúng con phải tội như thế! - Tôi lầm rầm khấn thầm, trong lúc theo dõi máy vi tính quét virus, quên cả sự thể tôi đã khấn nhập nhằng, lẫn lộn cả hai vị giáo chủ cả hai tôn giáo tiêu biểu cho cả hai phía Đông và Tây. Không biết có chuyện gì xảy ra không?

Rất may, máy tính không có vấn đề gì.

Quét xong virus, tôi cho máy khởi động. Đèn báo và máy trở lại họat động ngon ơ... Tôi thở phào nhẹ nhõm. Từ đây đến ngày tạp chí ra mắt còn không đầy một tuần lễ nữa, nếu chẳng may có gì trục trặc, không chừng chủ nhật này tôi phải thức trắng đêm, làm theo ca, họa may mới kịp.

Cho dù ổ cứng vi tính bị hỏng thì tôi vẫn có cách cho copy lại tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc một lần nữa. Nắm thật chặc trong tay chiếc đĩa mềm Ôn Kiến Quốc đưa cho, tôi có phần yên tâm hơn nhưng cũng chưa giải tỏa hết được lo lắng.

Nhìn bên ngòai chiếc đĩa mềm không có gì khác thường nhưng không hiểu sao, tôi lại cảm thấy nó có gì đó không ổn, cứ biến đổi lúc thế này, lúc thế khác mà không biết thực sự thế nào. Tôi mở hộp ra, lật đi lật lại xem cho kỹ càng, song chỉ thấy đó là một chiếc đĩa bình thường, không có dấu hiệu lạ nào cả. Bất chợt, tôi giật nảy mình.

Vết mực bỗng biến đâu mất ?

Chiếc đĩa bây giờ trông sạch bong, không dây một vết bẩn nào, y như đã được gột rửa bằng nước tấy vậy. Lẽ nào ổ A có cả chức năng làm sạch nữa? Nói vậy chứ dù kiến thức của tôi về máy tính chưa thật đầy đủ, tôi vẫn tin chắc rằng đó là điều không thể có được. Vậy rốt cuộc vết mực ấy biến đi đường nào?

Hoặc giả chưa hề có vết mực ấy, mà chỉ tại lúc đó tôi hoa mắt thôi?

Máy tính đã hiển thị Windows, tôi ngước nhìn màn hình với bầu trời xanh và mây trắng, nín thở vì hồi hộp.

Trên màn hình xuất hiện một vết mực!

Tôi không nhớ thật rõ hình thù vết mực cũ như thế nào nhưng tôi đảm bảo rằng nó không khác gì mấy so với vết mực hiện thị trên màn hình, có chăng chỉ là to hơn chút ít. Vết mực bám vào màn hình trông như một chấm mây đen kẹp giữa vầng mây trắng. Tôi đưa ngón tay trỏ cào khẽ vào đó nhưng đầu ngón tay chỉ đụng vào mặt kính. Vết mực không phải bám trên bề mặt màn hình mà hiển hiện ngay ở bên trong đó.

Có thể như vậy chăng? Tôi biết rằng ổ A đọc bằng đầu từ và những gì đầu từ đọc là thông tin có trong rãnh từ, nó không thể đọc được vết mực có ở ngoài đĩa mềm. Còn nếu như ta cho nó là virus thì đây là một thứ virus không ai có thể tường tượng ra.

Tôi còn trông thấy tận mắt ... bây giờ nó xuất hiện trên mặt bàn. Còn vết mực kia vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Phải chăng đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên?

Có thể lỗi ở màn hình, còn như vết mực có trên đĩa mềm là do tôi hoa mắt?

Tuy đã tự cắt nghĩa cho mình như thế nhưng tôi vẫn cứ băn khuăn, đứng ngồi không yên. Bởi lẽ chuyện này, thật không sao hiểu nỗi, không chỉ riêng tôi mà với ai ở trường hợp này cũng thế thôi. Tôi kéo bàn phím ra và click nút khởi động nóng. Nghe một tiếng "tịch", màn hình trở lại tối đen.

Tuy màn hình tối đen nhưng tôi vẫn nhận ra được trong màn đen ấy có một điểm sẫm hơn, đó chính là nơi vết mực đen lúc nãy xuất hiện.

Dứt khóat là do lỗi hiển thị! Chắc đúng rồi!

Máy tính trở lại giao diện khởi động ban đầu... và cũng giống như ban nãy, nó vẫn hiển thị một vết mực đen; nhưng đến đây thì tôi thấy rợn người và ớn lạnh, tưởng mình bị quăng vào một khe sâu đầy tuyết, mình mẩy trần truồng, lo lắng và hoảng sợ.

Lạ một nỗi, vết mực ấy định hình không giống nhau. Không thể giải thích nổi nguyên nhân; khi ở trên màn hình, trông nó to hơn so với ở trên đĩa mềm và trông như nó được vấy lên đó, bắn ra những giọt li ti ở bốn chung quanh. Nếu ta cẩm một cây bút lông chấm đẫm mực để lơ lửng ở phía trên một tờ giấy ít hút mực, rồi cho nhỏ một giọt mực xuống, ta sẽ thấy nó gần giống hệt vết mực ở trên với hình thù "Trùng amip" biến dạng.

Ở vết mực này ẩn chứa một sức mạnh có thể nói là quái dị, khiến tôi gần như bị ngạt thở mỗi khi trông thấy nó. Trong con mắt của tôi, dường như nó ngày càng to ra và cử động ngay trên màn hình, đúng như con trùng biến hình mà người ta trông thấy qua ống kính hiển vi bội số cao.

Tôi vẫn còn nhớ hồi còn là học sinh trung học, có một lần tôi lên lớp nghe giảng bài sinh học, được thầy cho quan sát một giọt nước bẩn lấy từ dưới cống. Nhìn bằng mắt thường chỉ thấy giọt nước vẩn đục, nhưng khi đem nó đậ dưới mắt kính hiển vị , tức thì, một thế giới dị kỳ hiện lêntrước mắt. Ở đó, lúc nhúc và náo lọan vô số những con sinh vật nhỏ bé, hình thù quái đản tranh cướp giành giật lẫn nhau, con nọ nuốt sống con kia. Trong đó có một số mang hình hài y hệt một đống mỡ bầy nhầy, không ngừng thay đổi hình thể, bao bọc chung quanh những chấm nhỏ li ti. Đó chính là "Trùng amip".

Vậy phải chăng vết mực này cũng là một con trùng biến hình khổng lồ? không hiểu có gì run rủi không mà tôi cứ hình dung ra như thế. Ý nghĩ ấy làm tôi hỏang sợ, bủn rủn cả người. Amip là lọai trùng ký sinh nhỏ bé, người ta chỉ có thể nhìn thấy nó qua kính hiển vi có bội số cao, vì thế giả thiết về một con amip lớn cỡ ấy là điều không thể. Nhưng đúng là hình dạng của giọt mực mà tôi trông thấy và trùng amip giống nhau một cách kỳ lạ. Ngay lúc này đây, chính tôi cũng không biết đó chỉ là cảm giác hay là sự thật. Nhưng rõ ràng trước mắt tôi, vết mực đang động đậy, vẻ như sắp biến hình. Bỗng nhiên có một làn gió lạnh lướt ngang qua sau gáy; giật mình, tôi bấm vào phím khởi động.

Chợt có ai đó gõ cửa, tôi như sực tỉnh ra khỏi cơn mê, ngoảnh đầu lại.

Hóa ra cô đồng nghiệp xinh đẹp đến tận nơi tìm gặp tôi. Tên cô là Lý Đĩnh, một bông hoa của đất Yên Triệu (tức là Hà Bắc) với thân hình thon thả, dong dỏng cao, nước da trắng ngần. Có rất nhiều chàng trai bám theo tán tỉnh cô, tôi - một anh biên tập quèn, nghèo kiết xác, quyền lực chẳng có trong tay đâu dám mơ tường đến gần làm thân. Giá như vào một ngày thường, cô dừng chân ghé qua văn phòng thăm tôi thì tôi sẽ sung sướng đến mức nào, nhưng hôm nay, khi tôi còn đang bàng hòangvới những nỗi lo sợ vẩn vơ không rõ nguyên do, thú thật, tôi đã mất hết khả năng phản ứng.

- Giờ này anh có bận gì với máy tính không? Muốn nhờ anh tí chút vì máy tính của tôi vừa bị lỗi.

Lý Đĩnh với dáng đi yểu điệu, tay cầm chiếc đĩa mềm khác bước đến bên cạnh tôi, thoang thoảng một mùi thơm dịu dàng của nước hoa linh lan. Máy tính nơi chúng tôi làm việc đều có mã số của người sử dụng. Chắc mọi người đi đâu vắng nên cô đành phải đến dùng nhờ máy tính của tôi. Tôi vội đứng dậy nhường chỗ của mình:

- Máy này hình như cũng đang bị lỗi ở phần hiển thị, nó xuất hiện một mảng đen đấy.

Chả là vừa rồi tôi click phím khởi động máy, máy bây giờ ở tình trạng scandisk. Cô ngồi xuống đưa mắt nhìn hiển thị, vẻ chăm chú:

- Đâu nào. Mảng đen đâu?

Không có ư? Liệu còn điều gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn nữa không? Tôi như người bị choáng, chân bước lảo đảo tiến đến bên Lý Đĩnh, căng mắt nhìn. Trên nền màn hình bây giờ hiện rõ mồm một bức tranh trời xanh mây trắng sạch sẽ, không một tì vết nào.

Trời, mình hoa mắt chăng? Tôi lại đưa tay lên dụi mắt nhưng vẫn không thấy gì hết.



- Anh làm sao mà trông gà hóa cuốc thế! thú thật đi nào, chỉ được cái giỏi vụng trộm xem ảnh gái đẹp phải không?

Nói rồi cô phá lên cười và thuận tay đưa đĩa mềm của mình vào ổ A.

- Chỉ tại sếp "boongke" quá mà thôi. Máy móc, thiết bị cũ kỹ và rệu rã, mọi thứ long như răng ông lão hết cả, cũng chẵng biết họ mua lại đồ cũ của công ty Net nào nữa?

Bài vở của tạp chí mà tôi phụ trách, hầu hết đều là những chuyện ly kỳ, rùng rợn. Phần việc dành cho Lý Đĩnh là chuyên mục truyền kỳ, vốn không thiếu gì những điều ma quái kỳ quặc khó tin. Xem ra cô cũng từng trải già dặn hơn trước nhiều. Như bài viết đăng trên số tạp chí kỳ vừa rồi có nội dung: Tòa tháp Hòn ngọc Phương Đông ở Thượng Hải thực ra là căn cứ địa của người ngoài hành tinh. Người ta tìm thấy ở đó những cỗ máy kỳ dị và nghe đâu, ông kỹ sư trưởng ở đấy đã được đĩa bay rước đi đâu mất rồi. Thế nên với ai thì chưa biết chứ để Lý Đĩnh nhìn thấy vết mực trên màn hình thì chắc gì cô đã cho đó là chuyện lạ.

Tôi cũng cười và đổi giọng chợt nhả :

- Xem ảnh mà làm gì chứ, cứ nhìn cô đây chẳng hơn sao! Ảnh có đẹp mấy đi nữa cũng chẳng bì kịp với cô.

Chuyện thường tình thôi, đã là con gái, thì ai chả thích người khác khen mình đẹp, vả chăng cô cũng đẹp thật. Lý Đĩnh đang mãi giở tập bản bông, mười đầu ngón tay như bay nhảy trên giấy, cô đặt bút sửa hết chỗ này đến chỗ khác. Tôi đứng một bên cảm thấy ngượng nghịu:

- Cô Đĩnh, hay là tôi đi lấy cho cô cốc nước nhé?

- Anh gọi tên tôi thân mật như thế, không sợ bạn trai tôi ghen à? - Cô bụm miệng cười.

Tôi đang giơ tay rút ra một cái cốc giấy dùng một lần, nghe thế không khỏi bị chạnh lòng nhưng chỉ cười:

- Có thế mà đã ghen thì đem anh ta ngâm vào chum dấm cho xong chuyện? cô uống trà được chứ?

- Cám ơn anh, nước trắng cũng được.

Tôi bước đến bên phích nước đun sôi tự động, mở chốt vòi, mắt nhìn dòng nước tuôn chảy mà tủi lòng.

Mình là cái thá gì chứ? Tuổi hai mười qua lâu rồi, bây giờ tuổi ba mươi đang sầm sập đuổi tới sau lưng. Tiếng là tốt nghiệp đại học ra nhưng làm ăn long đong lận đận; đổi hết việc này đến việc khác, nay đây mai đó vẫn chỉ hòai công. Tiền của túng bấn, tướng mạo cũng thua kém chẳng bằng ai. Những muốn làm một viên đá lót đường song chỉ có thể là viên đá trơn nhẵn không có hoa văn, đến nỗi thân con trai mà chẳng có lấy một người bạn gái nào.

Tôi đưa mắt lên nhìn Lý Đĩnh. Cô ngồi đó, cắm cúi đánh máy chữ. Cô để tóc chấm vai, đuôi tóc được kẹp bằng chiếc cặp màu xanh hình con bướm và chiếc áo len màu đỏ ôm sát mình , tôn lên đường nét uyển chuyển của thân người.

Giá như mình được làm bạn với cô thì may mắn biết mấy, tiếc rằng chuyện đó không bao giờ là thật. Nghe đâu bạn trai của cô là một viên chức cao cấp trong một doanh nghiệp nước ngòai, tiền lương mỗi năm lê tới hai ba chục vạn. Cơm bữa có cá tươi, đi đâu có xe đưa xe đón. Chỉ những chàng trai cỡ ấy mới xứng đội với cô mà thôi. Chứ như tôi... có mà...

- Anh tặc lưỡi kiểu gì lạ thế?

Cô dừng tay đánh máy, đưa hai tay lên đầu sửa sang mái tóc, kẹp lại cái cặp và liếc nhìn tôi.

- Xong hết rồi... Nước vừa mới rót vào cốc- Tôi vừa nói vừa cười.

Có lẽ vì quá bối rối nên tôi rót nước tràn qua cả miệng cốc, nước bỏng giẫy ngấm đẫm cốc làm bằng giấy bìa mềm oặt, khó lòng cầm lên được. Tôi luống cuống tay chân, đang toan đổ bớt nước trong cốc đi thì bỗng nghe một tiếng "ối" từ phía Lý Đĩnh.

Tiếng kêu hốt hoảng của cô khiến tôi thảng thốt bỏ luôn cốc nước ở đấy, vội vàng chạy tới.

- Việc gì thế? lại có chuyện gì phải không?

- Bàn phím của anh có chiếc đinh ghim!

- Đinh ghim làm sao? Tôi giật mình thêm một lần nữa, tim như thót lại. Không biết vì sao hôm nay có nhiều chuyện lạ như thế ?

- Đinh ghim ư? Nó đâu nào?

Đinh ghim rơi tọt vào trong bàn phím, nó có thễ gây nên đoản mạch, đốt cháy bàn phím. tôi đưa tay cầm lấy bàn phím và lật sấp, vỗ mạnh lên thân nó nhưng chỉ dốc ra được chút ít cát bụi bên trong mà không thấy có đinh ghim.

- Lạ chưa? Ngay mới rồi tay tôi vừa chạm vào bàn phím thì ngón giữa nhói lên đau buốt cơ mà?

vừa nói cô vừa chìa ngón giữa tay phải ra xem, tôi thấy buồn cười quá:

- Hãy khoan, để tôi chụp cho cô tấm ảnh này!

Bàn tay phải của cô, chỉ trừ mỗi ngón giữa, cón bốn ngón kia đều cụp vào lòng bàn tay, đưa ra một dấu hiệu không được đẹp mắt và nó là của người Mỹ dùng trong trường hợp chửi đổng. Lý Đĩnh cũng bất chợt nhận ra điều đó và nắm chặt bàn tay lại:

- Thôi, tôi chẳng thèm nói gì với anh nữa. anh làm sao ấy!

- Thôi được rồi. Cùng bỏ qua nhé! - Tôi cố nhịn cười - Xem nào, có vết kim châm hay không?

Cô lại chìa tay ra, lần này thì cô xòe cả bàn tay năm ngón, mắt nhìn chăm chú rồi lắc đầu:

- Quái lạ thật, cả vết kim châm cũng biến đâu mất.

Năm ngón tay của cô trông thon dài, trắng muốt như ruột cây hành đã bóc vỏ, rất đẹp. Tôi sáp lại gần:

- Đúng thế, không nhìn thấy được. Cô chờ đấy để tôi đi lấy kính lúp.

Trong ngăn bàn của tôi luôn có sẵn kính lúp. Có nó, tôi cầm lấy bàn tay cô đưa lên xem:

- Chà...không thấy vết thương, chẵng lẽ đó cũng là cảm giác nhầm lẫn?

Cô rút ngón tay ra khỏi lòng bàn tay tôi, mặt đỏ lên:

- Thôi nhé. bây giồ cũng hết đau rồi. Cứ để mặc tôi làm cho xong công việc.

Nghe giọng nói, tôi biết cô cũng đã lấy lại được khẩu khí lạnh lùng vốn có của mình nên tôi làm bộ tươi cười cất kính lúp vào chỗ của nó rồi nói:

- Đầu ngón tay là nơi tập trung nhiều đầu dây thần kinh, lắm khi chỉ một vết xước nhỏ trên bàn phím cũng có thể làm cho bàn tay đau buốt, phát sốt lên được đấy.

Thật vậy, nói đến đầu dây thần kinh ở đầu ngón tay, bạn có thể tự kiểm nghiệm bằng cách lấy hai đầu mũi kéo đâm nhẹ lên mu bàn tay và chỉ bằng xúc giác không thôi, bạn sẽ không thể nào có cảm nhận rõ ràng xem đó là một hay là hai mũi kéo. Nhưng nếu bạn chọc mũi kéo vào đầu ngón tay thì cảm giác bạn nhận được sẽ không sai vào đâu được. Cũng như với bàn tay của Lý Đĩnh nếu nó được cô chăm chút tỉ mĩ như thế, chắc hẳn nó nhạy cảm hơn hẳn bàn tay tôi rồi. Nhưng tôi vẫn chưa hết phân vân: Phải chăng đấy đúng là vết xước trên bề mặt bàn phím?

Không hiểu sao đầu óc tôi cứ mãi trăn trở không thể dứt ra khỏi ý nghĩ về cái vết xước ấy.

Lý Đĩnh làm thẳng một mạch trên máy tính của tôi tất cả các việc như: sắo đặt lại câu chuyện bát nháo của cô, sửa hết những câu văn nghe chừng còn trúc trắc, "load" hết vào đĩa mềm rồi mới đứng lên:

- May quá, xong cả rồi!

- Lần này cô biên tập những nội dung quái quỉ gì vậy?

- Bí mật đấy? - Cô nhếch mép cười.

Nụ cười của cô mới đẹp đẽ và đáng yêu làm sao, tôi đâm ra mủi lòng xen lẫn sự ganh tỵ:

- Ủa, cô mới nhổ răng đấy ư, cô Lý Đĩnh?

Chả là ban nãy, lúc cô cười, tình cờ tôi thấy hình như cô mất một chiếc răng hàm bên má trái.

- Đâu có. - Cô nói vẻ ngạc nhiên.

Tôi giơ tay chỉ vào một bên má trái:

- Có đấy, tôi nhác thấy ở chỗ này cô bị hụt mất một chiếc răng.

- Đúng thế không? Răng sâu chứ gì? Cô giật mình và thò tay vào trong ví đầm để bên mình, lấy ra chiếc gương soi nhỏ, há to miệng, ghé mặt gần vào để soi. Tuy vậy, muốn nhìn cho rõ chiếc răng hàm ở sâu trong miệng đâu phải chuyện dễ. Lý Đĩnh càng há to miệng, tôi lại thấy cô càng đẹp hơn lúc thường.

- A ha...- Tôi tức cười không sao nhịn được nữa. Tiếng cười của tôi làm cô phát cáu:

- Đồ tồi, định lừa tôi hay sao? Tôi đã tưởng anh là người ngay thật, ai ngờ ...

- Tồi ở chỗ nào?... Tôi nhịn cười - Đàn ông hiền lành thì phụ nữ không yêu. Tôi nói thật tình, cô nghe nhé, cô Đĩnh. Giả sử cô tẩy chay anh bạn trai thì cứ đến với tôi là hơn đó.

- Phì... - Cô làm bộ nhổ toẹt - Đến với anh sao, rõ là đồ mỏ quạ. Mặc xác anh!

Cô xô chiếc ghế tựa sang bên rồi vùng vằn bỏ đi. Tôi gọi với theo:

- Cô Đĩnh... cô còn quên chưa uống nước.

Nhưng lần này thì cô tỉnh bơ. Ta khỏi cửa rồi cô còn kịp kéo sập cánh của lại.

Chờ cô đi khỏi tôi mới ngồi xuống. Hơi ấm của cô vẫn còn vương trên ghế, bên bàn máy tính, xen lẫn mùi thơm của hoa linh lan - thứ nước hoa cô thường dùng. Ngồi trước máy tính, lòng tôi bâng khuâng khó tả, cảm giác ấy đưa tôi trở về với một thời dĩ vãng.

Ngày ấy đã xa rồi... Trong lối ngõ heo hút...mưa rơi mịt mù. Tay giương chiếc dù lợp giấy dầu to quá khổ so với thân hình, tôi mãi miết đi. Lúc ấy đang tầm giữa trưa mà dọc đường vắng tanh, không một bóng người. Ngõ hẻm chạy dài tít tắp ở giữa, vách tường cao chất ngất hai bên đường cứ như muốn khép lại, áp sát người đi trên đường. Vào thời ấy, tường đất đều xây bằng đất, lớp vôi trát ngòai nhiều chỗ tróc lỡ, để lộ thân gạch xám xanh. Nền đất lát đá tảng loang lỗ những vũng đọng nước mưa chảy thành dòng, cuốn theo những tàu lá rụng từ sân vườn hai bên ngõ chảy xuôi.

Thời thơ ấu của tôi đó...

Nhưng tôi không còn nhớ gì hết ngòai cảnh tượng trên đây, nó luôn tái hiện trước mắt tôi. Một lối ngõ chạy dài tít tắp, không biết đâu là cùng. Từ đầu này đến đầu kia không một bóng người. Chân bước dưới cây dù che, tôi bỗng thấy mình cô đơn khôn xiết.

Vâng... cô đơn như bây giờ.

Trong không khí có mùi hôi thối của da thuộc. Tôi giống như một con chuột bị sập bẫy, ngồi thu lu trong chiếc ghế tựa nhỏ, chợ cảm thấy rét thấu xương.

Cô ấy đi rồi, máy tính của tôi lại không bị hỏng hóc nên tôi có thể làm thêm ca, đem bản bông tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc ra để sửa các lỗi chính tả. Khác với những cuốn sách trước, tập tiểu thuyết này của anh ta viết rất quái đản, phần cuối viết rất lộn xộn, không theo một trật tự nào cả. Như người ta nói, sau này, gần như anh ta bị tẩu hỏa nhập ma, may mà thóat nạn không mắc tội tuyên truyền cho phong kiến và mê tín. Dẫu sao đi nữa thì anh ta vẫn là một cây bút từng trải, biết tránh xa những vấn đề được cho là kị húy khi làm tạp chí.

Đối chiếu được một lượt thì trời vừa tối. câu chuyện làm tôi phát rét lên được và nghe khó chịu trong người, chốc chốc lại rộ lên từng cơn một. Rồi tôi tắt vi tính, chuẩn bị nghỉ ca.

Xong xuôi mọi việc, mấy hôm trước ngày phát hành tạp chí sẽ là thời gian thảnh thơi. Tối nay, tôi hí hửng ra ngòai định bụng tự đãi mình một bữa ra trò. Bước khỏi cửa vẫn thấy phòng bên cạnh còn sáng đèn. "Cô ấy còn ở đây sao?" - Tôi bước đến gần đưa tay gõ cửa.

- Cô Đĩnh, cô vẫn chưa về à?

Đây chỉ là cái cớ cho tôi tiếp cận mà thôi và thực như thế, tôi đã nghe giọng nói của cô lạnh nhạt:

- À, tôi còn dở tí việc.

Đàn bà là thế, họ chỉ vồn vã khi cần nhờ vã điều gì đó thôi. Còn tôi, những muốn nhân dịp này được gần gũi hơn, biết đâu có thể tạo tình thân giữa hai bên mà không được. Tôi đành lẳng lặng xuống gác một mình.

Thang máy đang dừng ở tầng trệt. Tôi bấm nút điện, đứng chờ. Vừa bước vào, tôi giật mình hoảng sợ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 2: Bóng sống

Trong buồng thang máy đèn sáng trưng, mọi thứ đều sạch sẽ nhưng trống trơn, tuồng như nếu bạn đi quá ra ngòai, chỉ một bước chân thôi là rơi ngay xuống một vực sâu thâm thẩm. Trước đây tôi từng trải qua một cơn ác mộng... tôi mơ thấy mình đang đi trên đường, chợt bị hụt chân và cả người rơi tõm xuống tầng sâu hun hút tưởng chừng sẽ không bao giờ chạm tới đáy. Giấc mơ vẫn cứ bám riết lấy tôi, dai dẳng, chẳng khác gì một lớp nhựa bao bọc quanh người mình thành cái tổ kén không sao thoát ra được nữa. Giấc mơ này tôi đã mơ đi mơ lại nhiều lần rồi, không biết có phải vì từ thuở nhỏ tôi đã mắc chứng sợ hãi độ cao mà di chứng của nó còn tới bây giờ?

Tôi đưa tay lên gãi đầu, xua tan cơn buồn ngũ rồi bước vào.

Thang máy chạy xuống từ từ, phát ra những tiếng 'lục cục" khô khỏng của kim loại. Mới đưa vào sử dụng mấy năm mà đã kêu lọc xọc như vậy, chắc nó không phải loại tốt. Cánh cửa tự động khép lại và người đứng ở trong này cứ như bị tách biệt khỏi hiện thực ngoài đời. Trong thế giới bị bao quanh bởi khung thép vẻn vẹn hai mét vuông, còn lại mỗi mình tôi.

Thang máy tiếp tục xuống thấp. Lúc nó mới khởi động đi lên tôi đã có cảm giác mình bị mất trọng lượng, thấy chóng mặt khó chịu. Nếu không vì ngại cầu thang tối mù mù và dài dằng dặc thì tôi thà cứ đi bộ một mạch xuống dưới kia còn hơn là đi thang máy. Thú thật rằng tuy đã lớn tuổi rồi nhưng tôi vẫn rất sợ bóng tối, sợ bỗng nhiên bị bỏ lại ở chỗ tối một mình. Và không hiểu sao, hôm nay, nỗi sợ trong lòng tôi cứ dâng lên dày dẵc như sương mù trong đêm. Vì sống một mình nên tối nào đi ngũ tôi cũng để đèn và trước đó tôi thường đọc sách cho đến khi chìm vào giấc mộng lúc nào không hay.

May mà thang máy vận hành suôn sẽ, ít ra thì trong đọan đường đi ngắn ngủi này cũng không có chuyện gì xảy ra với tôi. Đúng lúc cửa thang máy mở ra, tôi thấy như mình vừa sống lại và phóng vội ra khỏi cửa giống một kẻ đang chạy trốn. Bên ngòai đông đúc và náo nhiệt, khách bộ hành và xe cộ qua lại như mắc cửi nhưng bầu không khí thì giá rét và ngột ngạt mùi xăng dầu. Siêu thị mở ngay ở tầng trệt của tòa lầu. Nhà xuất bản dịp này đang bận sửa sang để đón Noel. Người ta dựng lên ở phía trước cửa hàng hai cậy thông treo đèn kết hoa, trang trí màu sắc rực rỡ, có cả cánh hoa bông làm giả những bông tuyết. Ở Trung Quốc, tuy số người theo đạo Cơ đốc không nhiều, nhưng đã là thương nhân thì ai cũng mong lấy ngày lễ ngày tết làm dịp kinh doanh kiếm lời.

Tôi vào siêu thị mua hai bọc mì ăn liền; vào giờ này đã hết xe tuyến nên gọi taxi về nhà. Ngồi vào xe rồi tôi vẫn còn kịp ngỏanh lại, để ý thấy nhiều phòng của tòa nhà xuất bản vẫn còn sáng đèn. Chả là những đơn vị thuê nhà ở đây gồm nhiều công ty, có cả những công ty tôi không biết tên, song ngoài Lý Đĩnh ra, tôi biết chắc có một vài công ty khác nữa cũng đang mãi làm theo ca.

" Biết đâu chẳng có một chàng trai nào đó đến đón cô ấy về" - Nghĩ vậy, tôi thấy chua miệng. Cá đi với cá, tôm hợp với tôm và ếch sẽ phối với ễnh ương. Nếu đem Lý Đĩnh sánh với tôi thì tôi chẳng qua chỉ là một gã đồng nghiệp quèn, không cần tính đến.

Về đến nhà, tôi đun nước sôi để đun mì. Thường thì tôi hay ra quán fastfood ăn qua quýt cho xong bữa. Họa hoằn lắm mới mua chút đồ ăn về tự nấu lấy. tuy vậy, gặp phải hôm rét mướt như thế này, tôi thà ăn một bát gọi là láo nháo nhưng nóng hôi hổi như thế này còn hơn.

Chờ nước đun sôi, tôi bật vi tính định sẽ kết nối mạng. Chả là với các chàng độc thân kiểu như tôi vốn có rất ít trò giải trí. Tiền lương tháng, ngoài để nuôi miệng, trả tiền thuê nhà và gởi chút ít về quê cho cha mẹ ra, số còn lại chỉ vừa vặn để nuôi thân. Chưa kể nếu tính chuyện mua nhà thì sẽ phải xoay xở làm sao đuổi kịp giá nhà đất không ngừng tăng. Vậy nên tôi thà theo hầu người tiên để tu đạo, sống nơi khe sâu còn hơn.

Sau khi nối mạng, tôi mở chương trình QQ. Chờ đấy, tôi sẽ phải sưu tầm một số tư liệu để viết truyện ngắn, gọi là đủ chi phí cho thuốc lá và nhân đó tập viết luôn, chứ không phải chỉ nhằm mục đích kiếm thêm tiền.

Chương trình QQ vẫn chớp lập lòe, đợi đăng nhập. Bữa nay không biết việc kết nối có trục trặc gì không mà sao khó đăng nhập thế. Nhưng cũng chẳng hề gì, tôi chỉ làm theo thói quen thường ngày. Vả lại dạo này tôi không màng đến chuyện thư đi thư lại với các bạn bè, ngoài một số tác giả là cộng tác viên gần gũi với tôi.

Tôi mở phần truyện ngắn đang viết dở, định ngày hôm nay viết thêm đọan nữa. Đột nhiên QQ nổ một hồi chuông "pip...pip" báo hiệu đăng nhập đã xong và trên màn hình xuất hiện danh sách cửa sổ thư đến, gồm số thư lưu của bạn trên mạng gửi đến cho tôi. Và lần này số thư gởi nhiểu hơn so với tất cả các lần thư gởi trước đây. Chưa kể tòan bộ số thư này đều của cùng một người gởi đến, và tôi chưa biết đó là ai. Lúc này tôi bắt đầu mở cửa sổ thông tin.

Bức thư của Ôn Kiến Quốc gởi đến với tấm ảng Icon, Avatar mà anh ta sử dụng là một chàng trai có gương mặt thông minh sáng sủa, khác hẳn với dung mạo ngoài đời của ông ta. Tôi không biết ông ta có việc gì khẩn cấp đây? Dòng chữ đầu tiên tôi đọc được là:

- Ông có ở nhà đấy chứ?

Tôi điểm tiếp thư sau. Hàng chữ hiển thị rõ ràng: "Cứu tôi với" - không có dấu chấm than. Lạ thay - Ôn Kiến Quốc viết gì cũng rất chau chuốt và cẩn thận cơ mà. Không biết vì sao tự nhiên ông ta lại đổ đốn ra thế. Có lẽ nào vì anh ta viết quá nhiều tiểu thuyết kinh dị nên dẫn đến suy nhược tâm thần như vậy.

Những dòng thông tin tiếp theo, hầu hết là những thư lưuvới nội dung na ná như nhau, cả thảy có tới bảy, tám bức mà chỉ có duy nhất một người đứng tên gởi mang triệu chứng "Hyste'rie" bị kích động dữ dội tới mức hoảng loạn ngông cuồng. Đọc đế đây tôi thấy lo lắng, hay Ôn Kiến Quốc gặp chuyện chẳng lành? nhưng cũng đã quá muộn và chúng tôi chẳng phải diện thân tình, nê7n không thể lần mò tới tận nhà anh ta giữa đêm hôm khuya khắt như thế này được. "Ông đang gặp chuyện gì thế?" - Tôi gởi thư trả lời. Đoán biết ông ta không có trên mạng nên tôi nghĩ mình chưa thể nhận được câu trả lời ngay lúc này. Tôi víet, chẳng qua để tỏ ra mình cũng chí tình và chu đáo, nào ngờ thư vừa gởi đi thì trên chương trình QQ chợt xuất hiện Icon đại diện và tiếng kêu cứu: " Cứu tôi với, mau cứu tôi đi! Chúng nó tìm thấy tôi rồi!"

Tiếng kêu cứu thảm thiết khiến tôi càng thêm hoang mang.

"Kẻ nào săn lùng ông vậy?"

Giữa tôi với Ôn Kiến Quốc tuy không phải chỗ thân tình sâu đậm nhưng cũng là mối quan hệ biên tập với tác giả lâu năm. Tôi hiểu rất rõ, xưa nay, không bao giờ ông ta tỏ ra nhiễu sự cả, hầu như lúc nào cũng ung dung bình thản. Hơn nữa ông ta không có thói chơi bời hoang phí. vậy kẻ thù cũa Ôn Kiến Quốc là ai? Chuyện này thật khó hiểu.

"Chúng nó là ai đây? Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra?"

Mặc kệ những tin nhắn mà tôi dồn dập gởi đi, Ôn Kiến Quốc vẫn không một lời đáp trả. Và bỗng nhiên, biểu tượng Nickname của ông ta vụt tắt. Hoặc là ông ta không còn Online nữa, hoặc ông ta đang đăng nhập theo cách giấu mặt. Tôi đóan chừng Ôn Kiến Quốc đã bị bệnh gì nặng lắm, chỉ còn đủ khả năng gởi đi một câu cầu khẩn không đầu không đuôi. Nghĩ thế, tôi gởi thêm cho ông ta một Email nữa song chờ đến mõi mắt vẫn không có hồi âm gì.

Đành cứ thây kệ anh ta. Kiểu người như ông ta, không ai hiểu được. Biết đâu vì viết truyện hoang đường nhiều nên ông ta bị tẩu hỏa nhập ma rồi? Có điều tôi tự hỏi là dạo này, không ngày nào tôi không nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc. Phải chăng vì cuốn tiểu thuyết tôi đặt hàng với ông ta vẫn còn dở dang đã khiến tôi phải bận tâm và hay nghĩ đến. Đang mãi suy nghĩ, chiếc ấm điện bỗng kéo còi báo nước sôi. Tôi đổ nước ngâm mì cho chín, hai gói liền. Rồi tôi bưng bát mì đan gbốc hơi nghi ngút trở lại bàn máy tính. Đây vốn là mì hương có hạng, tuy chỉ thuộc loại thực phẩm bình dân nhưng nhìn bát mì nóng hôi hổi, tỏa hương thơm lừng cũng đủ khiến tôi thấy đói cồn cào. Tôi bật Tivi, chương trình phim địa phương đang chiếu một bộ phim thuộc thể loại náo kịch của Hồng Kông.

Xem được một lúc, bát mì trên tay nguội dần. Tôi thong thả ăn từng gắp một... Dù bao bì gói mì ăn liền muôn màu muôn vẻ nhưng bên trong chúng đều có một hương vị giống hệt nhau. Gia vị mặn đến độ có thể đem muối dưa được, tất nhiên là phải gia giảm thêm chút ít rau xanh, củ cải khô và vụn thịt băm nữa. Vậy mà người sản xuất không biết dơ đã làm bao bì đủ màu sặc sỡ và hoa văn bắt mắt để thu hút khách hàng, còn gọi đó là mì ăn liền hải vị tươi sống nữa. Biết vậy đấy, nên dù ăn không thật ngon miệng mà có được bát mì rẻ tiền lót dạ thì cũng ít nhiều tăng thêm được lượng calo trong người, rồi bạn sẽ thấy khoan khoái dễ chịu ngay. Ăn xong bát mì cũng là lúc bộ phim náo kịch bắt đầu nhàm chán, tôi đứng lên, ấn nút tắt video, đổ chút nước nóng còn sót lại ra chậu để rửa chân trước khi đi ngủ.

Ngồi rửa chân, tôi mãi nhìn các vách tườngđã cũ nát vì phai màu năm tháng. Trong tôi nhói lên một nỗi xót xa. Tôi đã thuê ngôi nhà này với giá bốn trăm tệ một tháng, kể cũng phù hợp với số thu nhập ít ỏi của tôi. Bỗng nhiên tôi nhớ lại hồi mình còn nhỏ, lúc nào cũng thích thể hiện, huênh hoang và nói những lời khoe khoang rỗng tếch. Dẫu sao, thời ấy cũng qua rồi.

Tôi đem nước rửa chân đổ xuống hố xí máy. Tiếng nước hút mạnh nghe "ùng ục", tưởng như ở phía dưới có con quái vật gì to lắm.

Tôi đi ngũ. Trong giấc ngũ, tôi gặp toàn những cơn ác mộng. Tôi đứng cho vơ trên bậc thềm đồ sộ và Ôn Kiến Quốc, một lần nữa lại có mặt trong giấc ngũ của tôi. Còn tôi, ngay cả trong chiêm bao cũng ý thức được mình đang mơ. Không mơ về những người đàn bà có thân hình gợi cảm, uyển chuyển, điều này làm tôi mất hứng.


Ôn Kiến Quốc đứng ở bậc thềm trên cao đang cố nói cho tôi nghe một điều gì đó, giống như trong một bộ phim câm vậy, mọi cử chỉ và động tác của ông ta thật rõ ràng, sôi nổi nhưng chẳng có một tiếng động hoặc âm thanh nào vọng lại. Tôi trông thấy Ôn Kiến Quốc hoa tay múa chân như điên như dại rồi tòan thân ông ta bị ngập sâu dần trong bình mực đen ngòm và tan biến. Chỉ còn lại mình tôi, không cảm giác.

Tôi tỉnh giấc bởi tiếng chuông đồng hồ báo thức. Mới sáu giờ rưỡi, từ đây đến chỗ làm việc phải mất nửa giờ đường đi nên tôi thường dậy sớm. Mùa đông trời sáng rất muộn, sáu giờ rưỡi trời còn tối và bầu trời như được láng lên một lớp keo pha lẫn mực đen. Ngẫng đầu nhìn lên trời, bất giác tôi lại nghĩ tới giấc mộng về Ôn Kiến Quốc đêm qua.

Khi mơ, dù ly kỳ đến mấy đi nữa thì mọi người cũng chỉ coi như những câu chuyện thóang qua. Nhưng với tôi, mỗi lần nhớ lại giấc mơ về Ôn Kiến Quốc thì lại thấy vô cùng khủng khiếp. Trong mơ, ông ta đâu còn là một con người, tòan thân như được làm bằng sáp, thương tích mở miệng lỗ chỗ như những tổ ong, chứng tỏ ông ta từng bị cắn xé rất nhiều. Thế nên trong mơ, tôi thấy ông ta giống con ác quỷ trong sách cổ, bị trời phạt giam xuống địa ngục để chịu tội. Thân làm đàn ông như tôi mà nằm mơ thấy Ôn Kiến Quốc, chắc chắn có điềm gở, vả lại tôi đâu có khuynh hướng đồng tính. Chẳng hạn đi trên đường, nếu tôi gặp một chàng điển trai và một cô gái đẹp thì hai mắt tôi chắc chắn sẽ bám riết lấy cô gái không thể rời. Vậy mà không hiểu sao tôi cứ mơ hoài đến con người ấy và hắn gần như hóa thành một nỗi ám ảnh trong tôi. Tôi vẫn còn nhớ, trước kia mình đã đọc một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Trong đó kể rằng có một người có khả năng đi vào giấc mơ của người khác để lấy cắp thế giới nội tâm của họ. Nhưng Ôn Kiến Quốc lấy đâu ra bản lĩnh ấy? Thế mà sao tôi vẫn có cảm giác như ông ta đang tìm cách đánh cắp nội tâm của mình vậy? Chẳng khác nào một người đi bộ trong đêm tối bất chợt phát hiện có người rình mò, đứng ngấp nghé ở chỗ rẽ đầu ngõ, lẳng lặng theo dõi mình.

Tôi đi đánh răng. Tự nhiên tôi thấy rát họng, có dấu hiệu bị ốm rồi. Rửa ráy xong tôi xuống gác và ra ngòai mua ít đồ ăn sáng, sau đó đáp chuyến xe búyt đến công ty làm việc. Hôm nay mọi người đi làm việc ở bên ngoài đều đã về cả. Văn phòng hôm qua vắng teo, nay bỗng nhiên nhộn nhịp hẳn lên. Tôi ngồi vào bàn vi tính, bật máy duyệt lại bản "Morat" làm hôm qua xem có cần sửa chữa gì không? Bỗng có ai vỗ vai tôi , nói:

- Khang đấy à, hôm qua chuyện trò tình cảm với cô Đĩnh đến đâu rồi?

Đó là một người bạn đồng nghiệp mang bí danh Văn Đán (nghĩa bóng là Quả Bưởi) - Chúng tôi gọi như vậy vì anh có khuôn mặt tròn, làn da bóng và giọng nói chua loét.

- Chưa đi đến đâu cả. vẫn việc ai người nấy làm thôi - Vừa nói tôi vừa chìa ra tập bản bông cho anh ta xem.

- Đừng hòng lừa tôi nhé. Hoa khôi của chúng ta hôm nay không đến công ty, cậu biết tỏng đi rồi, có chuyện gì xảy ra chứ? - Hắn cười, vẻ ranh ma.

- Không đến làm việc là thế nào? - Tôi dừng tay giữa chừng - Có chuyện quái gì đây?

- Vừa nãy cô ấy gọi cho Giám đốc xin nghỉ ốm một ngày - Anh ta lại phá lên cười khoái chí.

- Hôm qua hai người cùng đi với nhau, lẽ nào cậu không nhận ra cô ấy không được khỏe?

"Lý Đĩnh ốm thật ư? Hôm qua cô ấy còn ...tươi tắn lắm mà..." Chỉ một chút nữa là tôi buột miệng nói ra nhưng đã kịp ngăn mình lại. Cứ tình thật mà nói, có khác gì để cho người ta bắt thóp mình. Tôi thì chẳng sao, chỉ e Lý Đĩnh nghi cho tôi tung tin nhảm nhí, thế nên tôi nói luôn:

- Thế có gì là lạ. Ăn ngũ cốc sinh bách bệnh, ai rồi cũng phải có lúc bị trái gió trở trời chứ!

- Gớm chưa, sao lại khéo chọn thế, không sớm không muộn, đúng sau khi đi chơi với anh suốt một ngày thì kêu ốm.

Văn Đán bóng gió, nhưng vẫn cười nhăn nhở. Dáng chừng gã này đang ghen đây. Dẫu chẳng là gì nhưng hắn cũng đang chết mê chết mệt Lý Đĩnh; trong khi đó cô nàng lại tỏ vẻ thờ ơ.

- Vớ vẫn thật đấy! - Tôi đâm ngán ngẫm - Anh biết rồi còn gì, tôi vốn nghèo lại xí trai, Lý Đĩnh trông mong gì ở tôi nào?

Hắn đưa mắt nhìn tôi gật gù:

- Ừ, cậu nói nghe cũng phải lắm

Hắn tỏ vẻ thông cảm, đồng tình nhưng chỉ khiến tôi cảm thấy khó chịu hơn. Lời nói thật lòng mà nghe có nhát dao cắm phập vào người vậy.

Tôi cho in bản bông tập tiểu thuyết rồi lấy một bản chuyển lên phòng Giám đốc, vốn dĩ đây là một tập san nhỏ nên Giám đốc là người cuối cùng chịu tòan bộ trách nhiệm về bản thảo, lỡ để có sai sót gì thì coi chừng sẽ bị ăn trứng thối cả lũ. Lúc tôi đem bản bông lên, ông đang cắm cúi đọc bạn thảo của Lý Đĩnh. Tôi trao bản bông cho ông, khẽ liếc chỗ ngồi của cô nàng. Đúng là Lý Đĩnh nghỉ làm thật.

Lý Đĩnh ốm làm sao được! Chắc vui bạn vui bè quá đà rồi đâm ra ngại việc, tối qua cô ta phải làm thêm giờ. Tôi cứ băn khoăn trong lòng về chuyện Lý Đĩnh. Mà không lo lắng sao được?

Sửa bông xong, tôi thở phào nhẹ nhõm, ngồi thẳng cẳng trtên ghế tựa, mắt lơ đãng nhìn mọi người chung quanh. Mới hôm qua, trong căn phòng này chỉ có mình tôi, mà nay trông nó giống như chiếc hộp đựng đầy ắp đồ chơi và người ra vào nhộn nhịp. Trong họ hệt như những hình nộm luôn tay luôn chân mà rốt cuộc, không ai hiểu mình đang làm gì.

Chính tại nơi đây, tôi chậm rãi mài mòn những góc cạnh của năm tháng, hoặc nói cho đúng hơn, năm tháng đã bào mòn góc cạnh còn xót lại trong tôi. Rồi bỗng nhiên tôi thấy trong lòng xót xa. Vì đâu không biết và xót xa vì nỗi gì tôi cũng chẳng hay!

Đúng ba giờ chiều, ông Hồ phòng thường trực đến đưa báo trong ngày, tờ báo buổi chiều. Văn Đán cầm ngay lấy, giở ra xem. Tôi cũng đứng dậy bước đến gần để xem thời tiết ngày mai. Chưa đến nơi đã thấy hắn kêu toáng lên:

- Chưa đâu vào đâu đã lại có án giết người đây này!

Ở cái thành phố nhỏ chỉ có mấy chục vạn dân này mà cứ cách dăm bảy ngày lại có một vụ án mạng, đấy không còn là chuyện lạ. Chỉ có điều , thời gian này những vụ án giết người có vẻ nhiều hơn lên. Mới hai hôm trước, tờ Tin Tức Xã Hội đăng tin về một vụ giết người ỡ ngoại ô. Một người làm nghề mãi dâm bị chặt làm tám mảnh quẳng xuống sông. Đã bước sang mấy năm đầu của thiên niên kỷ mới nhưng vẫn còn rơi rớt sự cuồng lọan của cuối thế kỷ trước. Dẫu vậy, nếu so với những tin tức liên miên về chiến tranh và nạn đói đăng trên tờ Tin Tức thì những vụ án cỏn con này chẳng là gì cả.

Tôi cầm tờ báo trở lại chỗ ngồi của mình, đọc tiếp những mẫu tin nóng. Trên mặt báo toàn tin tức ca ngợi về cuộc sống tốt đẹp, đạo đức tăng tiến... Không có gì đáng lưu tâm. Tôi lật thêm mấy trang, chán ngán. Chợt có ai đẩy đến cạnh tôi mộ tờ báo khác:

- Này, anh Khang... đổi cho tôi tờ anh đang đọc được không?

Lại vẫn là anh ta. Tôi đưa tờ báo trên tay cho Văn Đán:

- Đọc nhanh thế!

- Quanh đi quẩn lại vẫn chừng ấy tin - hắn ngáp dài - Na ná kiểu bài của Lý Đĩnh, mới liếc qua đã khó tin rồi.

- Phản động đấy! - Tôi cười gằn, chỉ tay vào một cái tin đăng trên báo - Vậy tin này có giống tin của cô ấy không?

Đó là mảng tin được đóng khung. Nôi dung không có gì nhưng lại là lọai đang được các báo săn lùng, kể về các doanh nhân là kiều dân bị mất tích. Đây là một nhà kinh doanh lớn, sản nghiệp của ông ta rải rác ở nhiều địa phương trong nước, trong đó có một hạng mục vừa mới động thổ xây dựng ở ngay giữa thành phố này. Nó được xem là thành tích của thành phố trong việc thu hút đầu tư từ bên ngoài. Mấy hôm trước ông ta đột ngột ngã bệnh khiến lãnh đạo thành phố rối lên như kiến bị rang trong chảo. Văn Đán chỉ liếc mắt nhìn:

- Đây là chuyện của bọn có của, chẳng liên quan gì tới tôi.

- Đúng đấy, vậy cô Đĩnh ốm vì sao nào?

Trên mặt hắn lộ vẽ rầu rĩ:

- Ai mà biết được, quá lắm cũng chỉ đến nước kinh nguyệt không đều là cùng.

Thình lình nghe "phù..." một tiếng và anh đồng nghiệp ngồi ngay bên cạnh cười phì bọt mép:

- Văn Đán ơi, người đâu mà thối mồm thế. Cô Đĩnh mà có ở đây, coi chừng miệng anh đã bị sưng lên rồi đấy!

Mọi người cười rộ, riêng tôi bỗng rùng mình, một cảm giác rờn rợn chạy lan khắp cơ thể, và trong cơn mê hoảng, tựa hồ tôi trông thấy bàn tay có móng vuốt bằng sắt trôi lơ lửng ngay trên đỉnh đầu. Tàn ác và nguy hiểm. Có thể đó chỉ là những ý nghĩ mông lung hỗn loạn trong đầu tôi mà thôi. Căn phòng lúc này mịt mù khói thuốc lá, trần nhà cũng dính đầy bụi bẩn.

Phải chăng chỉ vì tối qua tôi trót đọc những lời kêu cứu của Ôn Kiến Quốc? Ông đã tung ra những tin tức không đầu không đuôi khiến tôi đến giờ vẫn nơm nớp lo sợ. Nhưng kỳ thực, nếu ông ta có trót dính líu đến mại dâm thì sự việc cũng đâu nghiêm trọng đến thế. Tôi bị ám ảnh bởi suy nghĩ ác kỷ vì nghe đồn rằng trong những quán rượu lớn, vẫn có những trang nam nhi tự nguyện bán mình. Riêng với bản thân mình, tôi cho rằng đó là thứ nghề không thể chấp nhận được.

Gần tan tầm Giám đốc mới cho gọi tôi, báo tôi hiệu đỉnh thêm chút nữa bản bông của Lý Đĩnh rồi hãy đưa ra nhà in. Nói đến biên tập ,tôi là kẻ được xem là có tay nghề yếu nhất nên hầu hết những việc linh tinh đều trút lên đầu tôi. Thấy lão Gíam đốc nói vậy, tôi đành phải làm. Tay cầm tập bản bông của Lý Đĩnh rồi hỏi:

- Thưa Giám Đốc tên File của cô ấy thế nào?

- FTP. Cứ như thế nhé! - Nói rồi ông cầm cây bút Parker gài vào túi áo trên, cùng lúc xếp gọn mấy thứ lặt vặt trên bàn làm việc - Cứ sửa thêm đi, bạn đọc phản ảnh mấy số tạp chí vừa rồi có quá nhiều lỗi chính tả.

Số tạp chí ra lần này chủ yếu hướng vào đối tượng dân công và học sinh, nếu như họ có cố công xem xét, ''đào bới" thì cũng chỉ có thể tìm kiếm những lỗi chính tả mà thôi. Thế nên tôi nói:

- Được rồi, sửa xong tôi sẽ nhập vào File FTP

Xong xuôi mọi việc. Giám đốc với tay lấy tấm áo vét ở bên, khoác lên người, nhưng thóang thấy cái gì đó, ông liền giơ tay chỉ vào góc tường:

- Phải rồi, lát nữa có người quét dọn đến, anh hãy nhắc người ta nhớ chùi sạch cái vết mực kia đi. Văn phòng để bẩn, trông không đẹp mắt đâu.

Các bức tường trong tòa nhà xuất bản đều được quét lên một lớp sơn nhũ bang, có thể dùng vải lau sạch được. Tôi đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay chỉ của Giám đốc thì thấy ở góc tường có một đám mực nhỏ chỉ bằng móng tay thôi. Thực ra, Giám đốc là người tinh mắt chứ nếu người khác, chắc gì đã trông thấy. Tôi gật đầu:

- Tôi biết rồi.

- Thật chả ra sao cả. Ai lại vấy mực lên tường, tòa soạn tạp chí để như thế sao được? Tất cả chúng ta ở đây đều là viên chức cổ cồn cơ mà.

Cổ cồn? Nghe không thôi cũng đủ tức cười rồi. Ở thời đại cởi mở này, cứ tưởng mặc sơ mi màu trắng thì có thể xứng danh mình là cổ cồn với chả cổ áo trắng được chăng? Sao không lấy tiền thu nhập hàng tháng ra mà làm tiêu chí đánh giá?

Lão Giám đốc vừa đi vừa làu bàu; ra đến tận ngoài cổng, ông còn tiếp:

- À, còn nữa, cộng tác viên của anh... tên gì nhỉ... à, Ôn Khắc phải không? Sau này nhớ nói với ông ta đừng viết chi tiết quá. Những chi tiết quá đẫm máu, rùng rợn, tuy hay thật nhưng dễ gây phiền hà. Ban tuyên truyền bây giờ đang rất "ke" với chuyện phong kiến, mê tín dị đoan đấy.

Truyện của Ôn Kiến Quớc có tên là "Tổ Ong", mang phong cách quái dị. Trong tiểu thuyết ấy, hai nhân vật - một nam một nữ - đi du lịch tới một ngôi làng nọ, vào đêm trăng tròn, họ phát hiện thấy đám dân làng tụ họp trên khỏang đất trống, ăn thịt sống. Thì ra, có một loài ong ký sinh, rất nhỏ thôi, sống tầm gởi nơi đất người, và toàn bộ dân làng đều bị chúng sống tầm gởi trong não. Họ còn trông thấy từ trong mắt mũi dân làng bay ra những con côn trùng bé xíu, chúng chính là những con nhộng đã nở ra có cánh. Sau đó chúng tiếp tục đẻ trứng và bám vào óc người khác. Dân lành không hề biết nên vẫn quây quần bên nhau, cùng ăn thịt tươi máu chảy ròng ròng. Những tia máu đỏ bắn tung tóe trên môi họ. Cảnh tượng ấy Ôn Khắc miêu tả chi tiết khiến người đọc hãi hùng. Nếu khỏang mười năm về trước, câu chuyện này, chắc chắn sẽ bị gán tội tuyên truyền mê tín, đến bây giờ, nhiều người cũng khó chấp nhận được nó. Tự tay tôi đã phải cắt bớt đi những đọan miêu tả nhẫn tâm và ác độc, vậy mà khi đọc bản bông, Giám đốc vẫn còn cảm thấy rùng rợn. Câu chuyện của Ôn Kiến Quốc sẽ rất câu khách đây.

Tôi trở lại văn phòng, mọi người đã về gần hết. Còn mình Văn Đán đang hí hóay đánh máy chữ, nhác thấy tôi ngồi vào bàn máy, anh ta lên tiếng:

- Thế nào rồi, anh Khang?

- Giám đốc yêu cầu tôi sửa bản bông của Lý Đĩnh thêm một chút nữa.

Văn Đán phì cười, không rõ hắn cười vì cái gì nên tôi tiếp lời:

- Lại có chuyện gì phải không?

- Mới rồi có ai đấy gọi, nói muốn gởi bài cho Lý Đĩnh.

- Nhăng cuội gì nữa đây?

- Hắn nói rằng hắn thấy trên tường có một cái bóng người biết cử động và có cả tiếng nói nữa.

Tôi nghe và bật cười thành tiếng.

Những chuyện tào lao bậy bạ thì ngày nào chả có. Nó hoang đường đế độ " tẩu hỏa nhập ma", dối trá nhưng vụng về không thể tưởng được. Tôi nói:

- Chiếc bóng biết nói, đúng là chuyện hoang đường. Tất cả những chiếc bóng đều cử động được đấy thôi, có chăng chỉ những chiếc bóng của người chết mới bất động, đúng không nào?

- Không phải thế. Hắn nói chiếc bóng này ở ngay trên tường, không có hình dạng và ăn sâu hẳn vào tường cơ mà.

Tôi đã định bật máy tính nhưng dừng ngay lại. Giả thuyết này nghe tuyệt đấy. Một chiếc bóng không có thực thể. Vậy phải chăng nó là một câu chuyện đáng buồn. Tôi vẫn có nhớ " thiên đồng thoại' thời kỳ đầu của Andersen kể rằng: có một cái bóng biết nói năng, chuyện trò và đi đến thỏa thuận với một người: cái bóng đi làm việc và con người hóa thành cái bóng - như đã từng có lúc tôi ước ao mính sẽ là cái bóng; còn việc kiếm sống hàng ngày cứ để cho cái bóng làm. Tôi nằm khuyển ở đó, mắc cho cái bóng kéo lê tôi đi trên mặt đất. Rồi tôi tưởng tượng mình biến thành cai bóng mỏng tang, không có bề dày dán vào mặt đất. Sự thay đổi ấy khiến cảnh vật quen thuộc xung quanh sẽ trở nên lạ lẫm.

Tôi kéo bàn phím ra vừa đánh máy chữ vừa nói:

- Phải chăng hắn đang đọc truyện của Aymer?

- Cái gì? - Văn Đán chưa hiểu tôi đang nói gì hoặc hắn cũng chưa hề đọc tác phẩm của Aymer. Tôi còn nhớ những ngày học ở Đại học, tôi có đọc một tập tiểu thuyết của Aymer. Chương đầu viết về người đi xuyên tường. Về sau con ngưởi này bị phong bế ơ trong tường và người ta thường vẫn nghe tiếng thở dài của y thóat ra từ bên trong ấy. Câu chuyện hoang đường ấy đã gieo vào lòng tôi một nỗi ghê rợn. Tôi hình dung ra tình cảnh con người bị khép kín trong tường, không có khỏang trốngbốn chung quanh là gạch xây kín mít, cảm giác như bị bao bọc bởi một chất keo, tối mịt mùng. sau này, lúc phải đi một mình trong đêm tối, qua lối ngõ không có đèn đường, tôi thường mang theo nỗi lo âu vô cớ, tưởng chừng bức tường dựng đứng hai bên đường đang đổ sập xuống đầu mình và cái đen tối kia đang hóa thành chất keo dính dầy đặc.

- Chẳng có gì sất, nó chỉ là tiểu thuyết của một người ngoại quốc.

Tôi lẩm nhẩm không thành tiếng và cũng chẳng muốn giải thích cho hắn nghe Aymer là ai. Có nói tới các nhà văn Pháp, tôi nghĩ quá lắm hắn chỉ biết đến Bernard, Le Blame, hoặc thêm nữa là những người từng đọat giải Nobel như Sartre, Camus, Mauriac và những tác gia lớn như Zola, Flaubert, Daudet, Maupassant. Còn như với Baudelaire, Mallarme, anh em Concour, Valerie thậm chí Sagan, tôi nghĩ chắc gì hắn đã biết, huống hồ Aymer lại là tác gia không mấy tên tuổi. Và thực ra tôi cũng vậy, may mà đọc được một tập truyện ngắn của Aymer nên tôi mới biết đến tên này.

Văn Đán thấy không còn chuyệ gì để nói nữa, bèn quay ra đánh nốt phần tài liệu còn bỏ dở trên máy tính. Xong rồi hắn tắt máy, cất lời chào trước khi ra về:

- Hết giờ rồi, tôi về đây. Anh chưa xong việc phải không, chào nhé!

- Vâng, chào anh - Tôi thuận miệng đáp lời rồi đem bản bông của LÝ Đĩnh ra để đối chiếu. Hôm qua không biết cô ấy làm thế nào mà vẫn bỏ sót khá nhiều lỗi chính tả, lần này cho qua nữa, bạn đọc sẽ không để chúng tôi yên. Nửa chừng lại nghe chuông điện thoại réo gọi, tôi hơi bực mình khi cầm ống nghe lên. Tại sao thế nhỉ... ? Tôi luôn đoán rằng người ấy không ai khác mà chính là Ôn Kiến Quốc!

- Alô! Tòa soạn báo Truyền Kỳ Đại Quan đó phải không?

- Giọng của một người lạ, nam giới. Tôi đáp lời:

- Vâng, Truyền Kỳ Đại Quan số đặc biệt về Tin tức Kỳ lạ đây.

- Sao các người chưa chịu đến đây? - Tiếng nói nghe lịm dần.

Tôi sững sờ và còn lơ mơ chưa hiểu hắn đang nói gì, rốt cuộc nhớ ra đây chắc là người ban nãy vừa gọi đến cung cấp tin tức cho tòa soạn. Tôi kẹp ống nghe vào một bên cổ, nói tiếp:

- Ông nói cho rõ ràng đi. Nó là tiếng nói gì, ở đâu nào?

- Từ bên trong bức tường, tiếng kêu ri rỉ giống như côn trùng ấy!

Tôi thấy hoang đường. Theo lời văn Đán thì tiếng nói ấy phát ra từ một cái bóng, bây giờ người này kể là phát ra từ trong tường, tình tiết như trong tiểu thuyết của Aymer. Hơn nữa, "tiền hậu bất nhất", rõ là nói dối rồi. Biết vậy tôi gặng hỏi:

- Ông nói từ trong tường mà ra, đúng thế không? Nhưng tôi lại nghe nói là do cái bóng phát ra cơ mà.

Chuyện thật vớ vẫn, nhưng có lẽ hắn chưa kịp hiểu cái ý nói đầy vẻ giễu cợt của tôi nên cứ bám theo lời tôi rồi trả lời bừa:

- Đúng đấy, cái bóng đó đánh "soạt" một cái, chui toạt luôn vào trong tường. các ông nhanh chân lên nào, đến ngay đi. Tin nóng hổi đấy!

Tôi cố gắng nén cơn giậnđang bốc lên ngùn ngụt, rồi ra vẻ thản nhiên, nói:

- Xin lỗi ông, cái bóng là một vật thể che ánh sáng và để lại sau nó cái bóng râm. Làm thế nào nó có thể giống như loài côn trùng nhỏ bé chui vào lỗ hổng ở trên tường được.

- Nhưng trên tường làm gì có lỗ hổng, thưa ông?

Hắn chả hiểu gì về cái ý châm chọc trong câu nói của tôi nên cứ tiếp tục ba hoa. Tôi phát bực mình, nói giọng sỗ sàng:

- Nếu như cái bóng thực sự biết nói thì ông chỉ việc lấy máy ảnh chụp rồi đem bán cho đài truyền hình, sẽ trở thành tin giật gân ngay. Tôi cuộc là rất được giá đấy!

Có lẽ hắn đã đóan ra ý bực bội, khó chịu trong lời tôi nóinên chững lại, im lặng. Tôi tưởng hắn không có gì để nói thêm nữa, đang định gác máy thì bỗng nhiên hắn lại lên tiếng, giọng oang oang:

- Chuyện có thật trăm phần trăm!

Thấy hắn cứ lằng nhằng mãi, tôi đâm cáu:

- Xin lỗi ông, bây giờ tôi đang bận. Nếu như ông thấy nó đáng giá thì cứ việc viết bài gởi tới cho chúng tôi.

Rồi không để hắn dài dòng thêm nữa, tôi gác máy luôn. Thời gian qua, trang tạp chí do Lý Đĩnh phụ trách thiếu bài viết về những chuyện lạ, mới mẽ và hấp dẫn nên Ban Biên tập phải đăng tin trưng cầu bạn đọc cộng tác. Bài viết được sử dụng sẽ có nhuận bút. Tòa sọan cũng công bố số điện thoại liên lạc để bạn đọc có thể gọi đến thông báo tin nóng. Có lẽ vì thế mà gã đàn ông lúc nãy nghĩ rằng tạp chí của chúng tôi cũng giống như tờ tin tức xã hội, có thể thu nhận tất cả các lọai tin tức nhiều kiểu khác nhau.

Bản bông của Lý Đĩnh đã được sửa xong, nhưng tôi chưa thật yên tâm, chỉ e còn có sai sót chưa phát hiện được nên đành phải đọc lại thêm một lượt nữa cho thật chắc ăn. Xong xuôi tôi mới copy vào đĩa mềm và lưu vào File FTPcủa cô, tắt đèn văn phòng, tôi bước ra khỏi cửa.

Tòa sọan có hai phòng làm việc, chỗ ngồi của giám đốc chỉ chiếm một góc, được ngăn cách bởi cửa kính. tôi đã để ý đóng cửa văn phòng cẩn thận nhưng không biết có phải cảm giác của tôi lần lẫn không mà tôi thấy, dù cả hai văn phòng đều đã tắt đèn nhưng phòng làm việc của tôi vẫn sáng hơn so với phòng bên cạnh. Phải chăng đó là ánh sáng từ bên ngòai lọt vào? Ngày hai lần, sáng sớm và chiều tối, bà già giúp việc vặt đều đến quét dọn, làm vệ sinh. Đang đẩy khăn lau nhà phía cuối hành lang, thấy tôi bước ra, bà liền hỏi:

- Ông làm thêm ca sao...?

- Đúng thế, chào bà...

Một thoáng đứng chờ cầu thang máy nơi đầu hành lang. Thang máy mở, tôi vội vàng bước vào, cùng lúc, một cảm giác khoắc khoải, đầy lo âu cũng ùa theo, tựa hồ một làn nước mực đen đặc quánh, thấm đẫm toàn thân tôi.

Không thể thế được. Ngoài chứng bệnh sợ độ cao, lẽ nào bây giờ tôi còn mắc thêm cả chứng sợ nỗi u huyền?

Thang máy đi xuống êm ái, vững chãi, thế mà tôi lại cảm thấy như nó từ từ rơi xuống vực thẩm, không biết đâu là đáy. Thời còn nhỏ, tôi có đọc tập truyện của Nhà xuất bản Tủ sách khoa học phổ thông, kể chuyện những người thời Trung cổ tưởng tượng ra thế giới là một dãi đất liền bằng phẳng. trôi nổi trên biển cả, bốn bề nước mênh mông và biển đổ về một nơi không ai hay biết. Câu chuyện vu vơ ấy đã làm tôi khiếp đảm, dẫu biết chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấp thỏm, không lúc nào yên. Sau này, mỗi lần giở đến tập sách, tôi luôn cố tình lật qua mấy trang đó. Kinh sợ vốn là kết quả của sự thiếu hiểu biết, và vì chưa rõ về nó nên người ta vẫn thường sợ theo bản năng. Còn với tôi đó là sự kinh hòang ở mức tột cùng.

Xuống đến tầng lầu, thấy bên ngoài trời đã tối. Mùa đông, đêm đến sớm hơn, mới sáu giớ mà trời đã tối mịt. Gió rít từng cơn sốc tới, chà sát vào da thịt, giá buốt như kim châm vậy. Với riêng tôi, nó còn đem tới cảm giác bi thương và sự bất an.

Bản thân cái thành phố này cũng vậy, nó giống như một kẻ xa lạ, tính khí kỳ quặc, tuy sống hàng ngày với nhau mà chẳng một ai nhận ra nó thế nào. Tại những ngõ hẻm rối rắm, bộn bề, tràn ngập những sạp, những quầy hàng rởm, hàng thứ phẩm hoặc những con phố lớn trang hoàng hoa lệ, những người đàn bà phấn son lòe loẹt vụng trộm bán mình trong bóng đêm, với tôi, tất cả chỉ là một thế giới khác lạ, không ăn nhập gì cả. Tôi thấy mình giống cái bóng - một cái bóng dính trên tường.

Chính tôi không hiểu nổi tại sao mình lại có những ý nghĩ kỳ quặc đến thế. Cái bóng của tôi được ngọn đèn phác lên trên đường phố một hình thù quái dị nhưng lại hòa hợp làm một với môi trường chung quanh. theo động tác tôi đi trên đường, cái bóng cũng cử động y hệt như thế. từ khi nghe cuộc điện thoại vu vơ ở cơ quan, tôi luôn để ý đến cái bóng của mình và cảm thấy nó như mộ người sống, cũng biết vui buồn, giận dữ và đau khổ.

Và nó giống như trong chuyện cổ tích của Andersen.

Bước vào hàng ăn, tôi ngồi vào bàn và gọi một bát mì. Sực nhớ mình quên chưa nhắc bà giúp việc lau sạch vết mực mà Giám đốc dặn. Giờ này quay trở lại, chắc bà già đã về. Nghĩ đến trời rét mướt, tôi ngần ngại.

Tôi nghĩ bụng, để sớm mai mình sẽ nhắc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 3 : Người lạ lúc nửa đêm

Băn khuăn về vết mực trên tường ở chỗ ngồi làm việc của Giám đốc, sáng hôm sau, tôi trở dậy rất sớm để kịp đến văn phòng. Đến nơi, tôi chưa thấy một ai ngòai bà giúp việc đang lúi húi lau sàn nhà. Tôi vội nói:

- Bà này... Nhờ bà lau dùm vết mực góc nhà bên nhé!

- Vâng... Ông cứ mở cửa ra và chỉ cho tôi thấy đã . - Nói rồi bà gác cái chổi sang một bên.

Chìa khóa của cả hai phòng tôi đều có trong tay, nên tôi mở cửa văn phòng của Giám đốc trước, luôn thể bật đèn sáng rồi chỉ tay vào góc phòng:

- Ở đấy, đúng chỗ ấy.

Tôi giật mình thảng thốt, góc tường nhà sạch bong, thậm chí không thất cả mạng nhện. Chẳng lẽ đêm qua tôi bị hoa mắt, không ý thức được đều mình làm; vừa lúc bà giúp việc cầm giẻ lau đi tới:

- Lau chỗ nào, thưa ông?

- Chà, không thấy đâu cả, thôi vậy.

Tôi tắt đèn, quay trở lại bàn làm việctrong lòng nghi nghi, hoặc hoặc... mới hôm qua, tận mắt mình còn nhìn thấy một vết mực đen sờ sờ ra đấy, giờ chẳng thấy đâu nữa là thế nào. Ngay cả Giám đốc, đời nào ông ấy cũng hoa mắt như mình?

Hôm nay đến hạn đưa bài cho nhà in. Tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc là "con át chủ bài" của tạp chí kỳ này; nó chiếm một lượng lớn số trang của tạp chí. Sắp hết năm, công việc nhiều, mọi người tối mắt, tôi mãi lo nội dung của số tạp chí số tiếp theo. May mà gặp dịp dân công nô nức lên đường đến công trường. Đường xa, ngồi một vài ngày trên những toa tàu hạng hai, có tờ tạp chí này, họ có thể đọc giải trí hoặc nhân tiện, có giấy lót trên những chiếc ghế gỗ không đệm của xe lửa. Chính vì thế lượng phát hành của hai số tạp chí kỳ này tăng vọt. Tháng cuối năm sẽ có tiền thưởng nên mọi người lao vào công việc không một lời kêu ca oán thán.

Tôi bận soát lại bản bông để sẵn trên bàn, Văn Đán cầm tập bản thảo đi về chỗ, miệng lầm rầm điều gì không rõ. Bây giờ, mọi người đều làm việc trên máy tính, số quen viết tay chỉ còn sót lại rất ít, muốn sử dụng bản thảo của những người này phải mất rất nhiều thời gian để đánh máy lại. Văn Đán đặt xếp giấy lên chiếc giá cạnh máy tính, lấy tư thế ngồi ngắn chuẩn bị gõ máy, bất chợt hắn ngoảnh đầu lại:

- Này anh Khang, Lý Đĩnh đến rồi đấy.

Tôi rời tay khỏi tập bông:

- Anh nhiễu sự lắm, lẽ ra anh phải làm việc ở ủy ban dân số mới phải.

Hắn làm như không nghe thấy câu nói máy móc của tôi, chỉ cười nhăn nhở:

- Bỏ mặt người ta mặt mũi héo hon, trông tiều tụy thế sao đành!

- Con cáo không được ăn nho lại chê nho chua.

Anh bạn đồng nghiệp ngồi một bên nói xen vào:

- To đầu như anh Văn Đán đây cũng nên một vừa hai phải thôi, chua chát lắm điều như thế để làm gì chứ?

Chúng tôi cười ồ, cả Văn đán cũng cười, nhưng chưa hết khích bác:

- Tôi đang nói thật đây mà?

Nhưng chả ai buổn nghe thêm nữa. Cho dù hắn có bóng gió gì thì cũng không ngoài mươi mẫu chuyện pha trò nhảm nhí về Lý Đĩnh đêm qua..., dài dòng với hắn chỉ mệt thêm mà thôi.

Văn phòng bây giờ rộn lên tiếng đánh máy, nghe rào rào như mưa và tiếng sột sọat của giấy lật sang trang. Trong chuỗi âm thanh đều đều của tắc kè đèn ống, những tiếng động vốn nhỏ nhẹ ấy bỗng vang lên, chát chúa như tiếng súng nổ, làm tôi đứng ngồi không yên. Nội dung những trang bản thảo trước mắt như cố tình trêu ngươi, trở nên huyễn hoặc, khiến tôi rùng mình ớn lạnh. Tôi đành phải bỏ đống bản thảo, định ra khỏi phòng để hít thỏ không khí trong lành. giữa lúic ấy, điện thọai đổ chuông.

- Không biết chừng vẫn lại là hắn - kẻ báo tin cái bóng biết cử động - tay tôi nhắc ống nghe lên.

- Alô, Tạp chí Truyền kỳ, số đặc biệt về chuyện lạ đây!

- Xin hỏi ông Ôn Kiến Quốc có ở đấy không? - Nghe giọng nói là một phụ nữ. Tôi không dè lại có người gọi điện đến tận đây để hỏi Ôn Kiến Quốc.

- Ông ấy không đến tòa soạn. - Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu nhưng không gác máy. Tôi gọi tiếp "alô", không thấy ai đáp lại, đã toan bỏ máy thì bất chợt, người phụ nữ lên tiếng:

- Làm thế nào đây? Tôi biết làm sao bây giờ?

Biết đâu Ôn Kiến Quốc đánh lừa cô ta rồi cũng nên? Các bạn trẻ yêu văn học vốn thật thà, chắc không thể ngờ Ôn Kiến Quốc lại có ý lợi dụng. Chẳng trách ông ta đã trát phấn lên mặt mình - Tôi nghĩ thầm, rồi hỏi cô gái kia:

- Vậy cô có số điện thoại của cô ấy không?

- Tôi có gọi đến nhà nhưng không ai nhắc máy. Thật tình ông không biết ông ấy đang ở đâu sao?

- Đành phải xin lỗi cô thôi. Tôi không biết thật. - Suýt nữa tôi buột miệng: " Nếu trót lỡ thì đành cho nạo thôi...".

Chợt cô gái bật khóc:

- Chắc là ông ấy chết rồi. Chết rồi, còn đâu nữa!

Tôi giật mình đứng sững:

- Chết như thế nào?

- Ông ấy... - Tôi nghe tiếng bên kia gác máy, mặc cho tôi gọi mà không có ai trả lời.

Ôn Kiến Quốc chết rồi ư? Tôi thấy lạnh cả người, chợt nhớ tới câu nói cụt lủn không đầu không đuôi của ông ta vào đêm hôm trước. Có thể nó là một vụ ám sát?

Càng nghĩ tôi càng thấy lo, vội thu dọn gọn gàng giấy tờ trên bàn, nói với người ngồi cạnh là mình có việc phải đi ra ngoài một lát. Sau đó, vội vàng bước ra cửa.

Thời tiết ngoài trời lúc đó khoảng dưới mười độ. Vừa ra khỏi văn phòng, một luồng gió thốc vào mặt, lạnh buốt. tôi thọc hai tay vào túi áo, ngoảnh đầu nhìn lại tòa nhà một lượt, nó được che phủ dưới một lớp sơn màu vàng nhạt, trông tẻ ngắt, tựa hồ một con bệnh ốm đã lâu chưa khỏi. Không gian gợi cho tôi một cảm giác không vui.

Tôi lên xe buýt đi thẳng đế nhà Ôn Kiến Quốc. Trước cửa nhà, tôi thoáng thấy một người phụ nữ ăn mặc ấm áp đang lấy tay đập cửa, miệng gọi không ngớt:

- Kiến Quốc... Ông Kiến Quốc ơi!

Tôi tiến đến gần và lên tiếng:

- Xin lỗi, cô đang tìm gặp ông Ôn Khắc phải không?

Cô gái nghoảnh lại nhìn tôi. Hôm ấy trời không lạnh lắm mà cô lại mặc một chiếc áo khoác to đùng, quàng khăn che mặt, tay đeo găng như phải đi dưới trời băng tuyết vậy. Hai mắt cô thâm quầng và dù không nhìn rõ mặt, tôi vẫn thấy làn da mặt của cô tái mét như người ốm. Quay mặt nhìn tôi, cô hỏi ngay:

- Vậy ông là...

Tôi thò tay vào túi lấy ra tấm danh thiếp đưa cho cô:

- Tôi là biên tập viên của Tạp chí Truyền kỳ số đặc biệt về chuyện lạ, tôi có cộng tác với Ôn Khắc. Ông ấy đi vắng sao?

Cô gái cầm tấm danh thiếp, đưa mắt đọc và không kìm được nước mắt:

- Tôi đã đập cửa tới năm lần bảy lượt rồi mà không thấy ông ấy đâu cả. Tôi còn biết làm gì nữa đây?

Tôi bước tới, giơ tay đập mạnh vào cửa. Cánh cửa sắt kêu "oang oang..." nhưng không thấy hồi âm gì. Tôi đoán:

- Chắc là ông ấy đi vắng rồi.

- Tôi phải làm gì bây giờ? - Giọng nói của cô pha lẫn nước mắt - Không thể tìm đâu cho thấy được ông ấy nữa rồi... Vậy tôi...

Không rõ chuyện gì nhưng tôi thấy tội nghiệp cho cô quá. Nghĩ vậy, tôi lại nói:

- Không biết chừng ông ấy chỉ đi dạo chơi quanh đâu đó thôi. Ta cứ tìm chỗ nào ngồi uống nước, chờ thêm một lúc nữa xem sao.



Gần ngay đấy có một quán trà rất hay mà giá cả lại hợp lý. Cô gái thẩn thờ lần bước theo, cứ như người mất hồn, thỉnh thỏang lại sụt sịt khóc thầm. Chúng tôi chọn một chỗ ngồi bên cửa sổ, gọi nước trà:

- Cô uống thêm một thứ gì nóng nhé.

- Thôi. Ông miễn cho. Tôi chả muốn uống gì hết.

Tôi bật cười thành tiếng:

- Đã vào đây rồi không uống sao được. nên uống một cốc gì cho ấm bụng chứ!

Cầm cốc chè nónh hôi hổi, tôi mới gợi chuyện:

- Cô đi tìm ông Ôn Khắc để làm gì vậy?

- Tôi à? Tôi là bạn gái của ông ấy.

Đang lúc nhấp giọng, nghe nói vậy, tôi ngước mắt nhìn cô chăm chú:

- Sao không nghe ông ấy đả động gì đến...

- Tôi với ông ấy chuyện trò với nhau trên mạng khá nhiều, cốt để ông cung cấp bài viết cho tôi. Nào đâu có chuyện trao đổi thân tình gì cho cam. - Ôm cốc trà trong lòng bàn tay rồi với giọng nhỏ nhẹ , cô nói tiếp: "Tên tôi là lâm Bồ Lam; cách đây một năm, tôi gặp Ôn Khắc lần đầu tiên trong hội nghị của Hội liên hiệp Văn nghệ."

Đây đúng là một cô gái trẻ yêu thích văn nghệ. Tôi cười thầm, câu chuyện tiếp theo, không cần phải đóan cũng đã rõ rồi. Chắc hẳn y đã lừa được cô gái vào tròng. Đầu tiên thì ngọt ngào, quyến luyến, rồi đột ngột rời bỏ. Chuyện như thế vẫn diễn ra như cơm bữa, mọi người đã quen rồi nên chẳng ai trách gì được Ôn Khắc cả.

Lâm Bồ Lam lại nói tiếp với giọng đều đều, không thay đổi:

- Mới tháng trước , tôi cùng ông ấy đi du lịch ở Hồ Nam. Hôm ấy chúng tôi đi xa quá, lỡ mất chuyến xe quay trở về khách sạn, phải trọ lạ một đêm ở trong làng.

- Đúng vào cái đêm "khỏa thân trần truồng" ấy rồi - Tôi nhếch mép cười. Hóa ra câu chuiyện hoang đường, phi lý của Ôn Khắc cũng có một phần sự thật; hắn đưa bạn gái đi chơi, kỳ thực cũng có mục đích.

- Ngay ngoài cửa nhà mà hai người trọ có một tổ Ong, đúng không?

Cô gái ngước mắt nhìn lên với vẻ mặt sững sờ:

- Không có, cửa nhà ấy tối như bưng nhưng được cái nó sạch sẽ.

- Xem ra không phải tất cả những gì ông ấy viết ra đều lấy căn cứ từ thực tế. - Tôi cười mỉa. Rồi sao nữa?

Cho đến lúc ấy, Cô ta vẫn chưa kịp tháo bỏ chiếc khăn quàng trên cổ nhưng trong ánh mắt của cô đã lộ vẻ thèn thẹn và cô hơi đỏ mặt khi nói:

- Hôm ấy đúng vào ngày rằm, về đêm, trăng sáng vằng vặc. Bỗng nhiên, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân sát gần ngoài cửa. Tôi giật thót người lại, mặc cho ông Ôn Khắc bước ra ngòai xem có phải dân nhà quê đang ngấp nghé xem trộm chăng?

Tôi tỏ vẻ không hài lòng.

- Cô đang nghĩ xấu về người ta đó. Thế nào là dân nhà quê? Ít học đâu phải là lưu manh, chỉ bọn trí thức mới thiếu đạo đức cbứ nông dân thì cao thượng hơn đấy. Chuyện sao đó thế nào?

- Chúng tôi nghểnh cổ nhìn qua cửa sổ.

- Hai người trông thấy gì?

Ánh mắt cô bỗng lộ vẻ hỏang hốt:

- Tôi trông thấy một người mình trần như nhộng.

- Đàn ông hay đàn bà, độ bao nhiêu tuổi?

- Một ông lã. - Cô đảo mắt, ngước nhìn lên khoảng trống phía trên đầu tôi. - Ông lão trần truồng, mình mẩy chẳng khác gì con ngựa vằn, mảng đen mảng trắng xen lẫn nhau. Lão lê bước chậm chạp trên nẻo đất khô cằn, nứt nẻ... y như một xác người cứng đơ.

Khi nói đến hai chữ " xác người" , vẻ như cô phải cố gắng lắm mới nói nên lời và cảm thấy như có một luồng khí lạnh tràn qua khiến tôi rùng mình.

- Các người không biết đi và nó chỉ nhảy được thôi, đúng thế chứ! - Tôi nói với giọng không dứt khoát. - Xác người chỉ có trong truyền thuyết dân gian mà thôi, bản thân tôi cũng chưa đọc nhưng trong dân gian đều lưu truyền rằng thi hài chỉ nhảy thôi và nó không biết đi.

- Tôi không rõ nhưng chỉ thấy thân hình đó gầy đét y như một tấm ván dùng làm bàn giặt ấy. Chỗ sẫm đen như được quét lên một lớp mực, còn các chỗ khác hiện rõ là màu nâu, không có vẻ gì của một người còn sống cả. Trời rét ghê gớm nhưng nó dường như không biết rét là gì nữa. Nó bước đi, đầu ngẩng cao, miệng há hoác, hú lên một tiếng kéo dài như tiếng của sói rừng, nhưng âm thanh yếu ớt phát ra từ đáy họng.

Tôi sững sờ nghe cô kể, cảnh tượng ấy y hệt câu chuyện Ôn Kiến Quốc viết trong "Tổ Ong" khi ông miêu tả một người trần truồng bước đi trong đêm, nhưng khác ở chỗ, đó là một thiếu nữ có làn da trắng ngần, nét mặt cứng đơ vô cảm, trên thân người có những cái lỗ nhỏ nên toàn thân trông giống như một cái tổ Ong.


Tác giả khắc họa rất tỉ mĩ: Trên làn da thiếu nữ, ở mỗi cái lỗ đều có một con nhộng đang cựa quậy. Tình cảnh ấy, cho dù được thể hiện bằng ngôn ngữ sinh động nhưng cũng chưa thật hợp lý, bởi lẽ lúc ấy là đêm tối, nhìn từ xa không thề nào thấy rõ ràng chi tiết như thế được. Nó đủ khiến tôi cảm thấy gai lạnh khắp cả người.

Vậy phải chăng trên thân thể con người kia cũng mang vô số những lỗ nhỏ lỗ chỗ như tổ Ong?

Giả sử có một bàn tay giơ ra, trên mu bàn tay đầy lỗ nhỏ và những con sâu ngọ nguậy ở bên trong, cảnh tượng đó sẽ khiến người ta hãi hùng. Vậy mà Lâm Bồ Lam lại ra vẻ bình tĩnh nói:

- Không, mặc dù thân thể ông lão lồm đốm những vệt đen trắng xen nhau và người gầy gò, da bọc xương nhưng không có vết thương nào cả.

Tôi thở phào. Không sao hết, những gì Ôn kiến Quốc kể chỉ là sự gia giảm, thêm thắt về mặt nghệ thuật chứ không phải sự thật. Rồi nhấp thêm một ngụm trả tôi hỏi:

- Sao nữa thế nào?

- Ông lão lại gần bờ giếng, rồi đột nhiên như người hết hơi, lão ngã sấp, hai tay ôm lấy thành giếng, nằm im không cựa quậy. Chúng tôi hỏang hốt, mặc vội quần áo rồi chạy tới. Ôn Kiến Quốc đỡ lão dậy:

- Ủa bác... làm sao đến nỗi này?

Quả đúng là một cô gái yêu văn học và có tài nữa. Chỉ cần viết lại y nguyên những lời kể trên, cũng đủ làm nên một câu chuyện rùng rợn gởi đến chỗ tôi rồi. Nghĩ vậy, tôi lấy làm hài lòng; chuyến đi lần này của mình, hóa ra lại rất được việc. Chợt cô kể tiếp:

- Bất thình lình, thân hình lão nứt tóat ra...

- Gì thế? - Chả là tôi đang lơ đãng, chưa kịp nghe ra điều cô vừa nói.

- Lão nứt toát người ra! - Giọng Lâm Bồ Lam run rẩy, vẻ khiếp sợ hiện lên trên nét mặt - Trông lão như cái vỏ trứng bị vỡ nát và từ thân lão rỉ ra một chất gì đó màu đen kịt.

- Cái gì? cô nói gì thế? - Tôi không hiểu, chẳng lẽ sau khi thân thể lão nứt ra thì bên trong rỗng không.

- Không có gì hết. Mới rồi lão còn là một con người hẳn hoi, rồi bất ngờ cổ lão tách làm đôi, từ bên trong, nước mực ục ra ngoài và một chất màu đen kịt chảy thành dòng. Toàn thân lão cứ như một tảng băng bị ném vào lò, tan biến ngay trong phút chốc.

Tôi chau mày:

- Liệu có thật như thế không?

Rồi nghe tiếng thở hào hển của Lâm Bồ Lam:

- Tôi như gặp ác mộng, nhưng bữa ấy trăng sáng vằng vặc và ông lão tựa hồ một cây nến cháy ngùn ngụt, phút chốc chỉ còn lại một đoạn ngắn, một chất nước màu đen trào ra. Ngưởi ta nghe tiếng kêu thất thanh của Ôn Kiến Quốc và ông ta đưa tay lên bịt chặt lấy miệng. Tôi cũng chạy quá thêm mươi bước chân nữa, chăm chú nhìn ông lão. Ông nằm bò trên bờ giếng, giờ chỉ còn sót lại nửa thân người. Cảnh tượng quá hãi hùng!

Cô ta điên mất rồi? Hoặc cô đang móc ngoặc với Ôn Kiến Quốc hòng lừa bịp tôi. Chỉ mỗi điều là tôi với Ôn Kiến Quốc qua lại với nhau lâu thế, ông không thể chơi xỏ tôi được! Tôi hớp ngụm trà nữa mong khỏa lấp sự sợ hãi trong lòng:

- Thế cái chất nước rỉ ra ấy, nó là gì vậy?

- Tôi cho là nước nhưng rõ ràng không phải. Nếu là nước, nó sẽ chảy xuống chỗ trũng, song cái chất màu đen này lại mỏng tang đến độ không có tí bề dày nào và nó chảy ngược lên. À không phải nó chảy ra mà bò từ từ, sau khi bắt lên miệng giếng thì vỡ òa xuống dưới ấy, tựa hồ ở nơi sâu thẳm có một lực hấp dẫn rất mạnh hút nó xuống vậy.

- Khoan đã... Rốt cuộc nó phải là một thực thể gì chứ?

Bồ Lam hít vào rất sâu như muốn tĩnh tâm lại rồi mới nói:

- Là... cái bóng, một cái bóng còn sống.

Tôi cũng thở gấp, không nín được cười:

- Tôi đến phải nhờ cô Lâm thôi, sau này cô viết truyện cho tạp chí nhé. Bút danh của cô nghe được lắm!

Cô chau mày:

- Ông không tin lời tôi nói hay sao?

- Khó có ai tin được. Cái bóng chỉ là một mặt phẳng hai chiều, nó không có bề dày và cho dù nó to hơn nữa thì chỉ là một vật không có thể tích. Cón người ta sao có thể biến thành cái bóng được. Cái khối nặng trên năm mươi ki lô gram ấy, nó biến đi đâu được nào?

- Điều ấy tôi không rõ. - Cô nghĩ rất lâu rồi mới thốt ra được. - Tôi chỉ biết mình rất sợ mà thôi.

- Đúng thế!

Tôi cũng đâm hoảng, rồi búng ngón tay gọi cô hầu bàn:

- Tính tiền nào!

Bồ Lam đứng phắt dậy:

- Vậy ông giúp tôi được chứ?

- Giúp cách nào đây! - Tôi nói cũng vừa lúc thò tay vào túi áo lấy tiền trả cho cô hầu bàn đang bước lại gần.

- Tôi đang tính đi Hồ Nam một chuyến nữa, quay trở lại cái làng đó.

Tôi đưa ta lên gãi đầu, vẽ nghĩ ngợi rồi nói:

- Cô định mời cả tôi nữa phải không?

Ngó bộ cô như muốn khóc khi nói:

- Tôi chẳng còn biết làm gì hơn nữa. Vậy xin ông, ông hãy cùng đi với tôi được không ạ?

Cô gái trẻ yêu văn học tỏ ra khẩn khiết thật đấy. Tôi ngập ngừng giây lát rồi nói:

- Ngộ nhỡ ông Ôn Khắc biết tôi và cô, hai người cùng đi với nhau, ông ra đòn đánh tôi thì sao? Hơn nữa tôi hết ngày nghỉ phép rồi.

Tôi đẩy cánh cửa kính chờ cho cô ra trước. Bước ra ngoài rồi mà giọng cô vẫn chưa hết run rẩy:

- Có thật ông không muốn đi với tôi không?

- Thật sự xin lỗi cô.

- Chẳng lẽ ông không thể tin một lời nào của tôi sao?

- Cô đúng là con bệnh nan y chạy khắp mọi nơi lo tìm thầy tìm thuốc. May gặp tôi không phải hạng người xấu, chứ nếu cô yêu cầu một người khác đi cùng cô đến Hồ Nam ngay từ lần đầu mới gặp thì chắc hẳn cô sẽ mắc lừa thôi.

- Mắc lừa có gì là lạ, nam cũng như nữ đều thế cả thôi. Trong xã hội này, tôi nào dám hé răng, dầu chỉ là nửa lời với những người tôi gặp. Ngay cả chuyện này cũng vậy, tôi phải kín mồm kín miệng đấy chứ.

Đến đây Bồ Lam im bặt. Tôi đi dấn thêm mấy bước rồi dừng lại, khuyên cô:

- Hay là cố gắng đợi thêm lát nữa, chưa biết chừng ông ấy sẽ quay trở lại cũng nên.

Cô dừng chân đứng lại ngay trước cửa ra vào, người run rẩy như bị lạnh. Bất thần cô cất tiếng , giọng lạnh băng:

- Ông ấy không thể nào về đây được nữa. Không bao giờ!

Cảm nhận được ám thị trong câu nói, tôi ngoảnh lại nhìn cô chằm chằm:

- Hẳn cô còn biết gì khác nữa, cô lâm. Rốt cuộc cô đã biết được những gì nào?

Cô lặng lẽ dùng tay phải tháo chiếc găng ở bàn tay trái ra. Cô làm rất chậm, chiếc găng được lột ra từ từ. Cô không biết cô định làm gì nữa, nhưng cứ đứng lại nhìn, vẻ sốt ruột.

Cởi được găng ra rồi, Bồ Lam giơ cánh tay trái lên cao nói:

- Ông xem đây này!

Tôi bước lên mấy bước để nhìn cho rõ, có lẽ nào nó cũng giống như điều Ôn Kiến Quốc đã từng viết. Xem chừng bàn tay cô cũng lỗ chỗ những lỗ hổng, trong đó có những con sâu ngọ ngoậy. Tuy tự nhủ rằng đó chỉ là chuyện hoang đường nhưng tôi vẫn thấy lạnh cả sống lưng.

Bước lại gần hơn, tôi thấy làn da trên tay cô có vẻ như thiếu máu, nhưng nó sẫm hơn và không có gì đáng ngờ. Nước da trắng, trong như ngọc Hán thạch được lau bóng. Tôi vội hỏi:

- Nào, Cô Lâm muốn chỉ cho tôi xem gì đây?

Cô kéo tay áo lên, miệng cười nhạt:

- Ông không thấy lạ sao?

Bồ Lam nín lặng cho đến khi bàn tay tôi chạm vào da thịt trên cổ tay cô và bất chợt, tôi thấy mình thở sâu, gấp gáp, như có một luồng khí lạnh chạy lan khắp cơ thể.

Cổ tay cô... liệu còn có thể gọi đó là cổ tay hay không? Trên đó có những vòng tròn màu đen, không phải ở ngoài da mà hiện lên từ bên dưới, trông hệt như những lưỡi dao cạo râu phủ dưới một lớp màng mỏng trong suốt. Bề mặt tuy không có gì khác lạ nhưng những sợi màu đen đó như muốn phá bung lớp da để vọt ra bên ngoài. Dẫu cho nó không thật ghê gớm, hãi hùng như tổ Ong mà Ôn Khắc đã viết, song cảnh tượng này thật quái dị?

Tôi chết lịm đi:

- Cái gì đây?

- Tôi không biết - Đoạn cô thả tay áo xuống và đeo găng vào như cũ - Giờ đây, khắp mình tôi, chỗ nào cũng rải khắp những lưỡi dao bào đó và bất kỳ lúc nào chúng cũng có thể thái lát thân thể tôi tê tả thành vô số những miếng thịt mỏng manh. Vậy nên tôi cầu xin ông hãy cứu vớt tôi. Tôi cúi xin ông đấy!

Lúc này trong người tôi chẳng còn cảm thấy gì khác ngoài sự lạnh giá:

- Vậy đã có lần nào cô đi khám bác sĩ chưa?

- Bác sĩ bảo đó là trầm tích của sắc tố, khó mà nói cho rõ được.

- Thế Ôn Khắc, trên người ông ấy có gì khác không?

- Hẳn là có rồi. Ông ta bị trực tiếp, còn tôi thì bị lây từ ông ấy

Trách gì ông ta luôn phải trát phấn lên mặt, hóa ra là để che lấp những đường chỉ màu đen ấy. Chúng cứ như dấu vết còn lại của những đường cắt ngang trên da thịt ông, chúng ăn sâu vào từng thớ thịt và sau đó lại từ bên trong cắt phá ra ngòai.

- Nhưng cô có cảm giác đau đớn hoặc gì khác không?

Cô lắc đầu:

- Chả có cảm giác gì cả, chỉ thấy ghê lạnh thôi. Tôi rât sợ. Tôi sợ lắm!

- Đành phải đi khám bác sĩ thôi. Biết đâu cô đang mắc một chứng bệnh gì?

Trời nắng đẹp nhưng trong người tôi lại phát rét từng cơn một. Không phải vì nhiệt độ bên ngoài, nhưng còn lí do gì thì tôi thật sự không biết.

Tôi đi giật lùi mươi bước chân, gượng gạo cười:

- Mau thu xếp đi khám thôi. Sớm được ngày nào hay ngày nấy.

Ánh mắt cô lộ vẻ thất vọng. Cô nhìn tôi mà không nói. Khuôn mặt cô khuất sau tấm khăn quàng cổ nên tôi không biết sắc mặt cô lúc này ra sao, nhưng có thể đóan chắc rằng những đường chỉ đen sẽ lại xuất hiện trên gương mặt ấy, dọc ngang, ngang dọc phân môi trên với môi dưới, chia tách nhân trung và mũi làm mấy tầng cho đến khóe miệng. Tôi không dám nhìn cô thêm nữa, quay lưng rảo bước, mới được mươi bước đã ngoái cổ lại, Lâm Bồ Lam vẫn còn đứng đó. Dưới tia nắng mặt trời mà sao trông cô cứ như đứng giữa bóng đêm vậy.

Sau khi chia tay với cô, tôi trở về văn phòng như một người đang chạy trốn. Vừa kịp giờ ăn trưa, tôi lấy suất cơm hộp rồi bước vào phòng. Chỗ làm việc có hai biên tập viên nhà gần đó nên đã đi về. Văn Đán thì đang mãi gặm chiếc chân giò. Vừa thấy bóng tôi, hắn gọi to:

- Khang đấy phải không? Sao giờ mới tới, mình tưởng cậu không quay về đây nữa.

Mãi đến lúc ấy, tôi vẫn còn bồi hồi chưa yên vì nỗi kinh hoàng Lâm Bồ Lam vừa mới gieo vào lòng mình, vì vậy khi nghe lời hỏi thăm của Văn Đán, tôi thấy trong người ấm áp trở lại giữa cái thế giới quen thuộc thường ngày. tôi cất tiếng cười vang :

- Cả anh nữa, cũng hết việc rồi chứ?

- Xong đâu đấy cả rồi. Bây giờ lo bông của số tới. Cậu có tin gì hay không, làm cho mình một bài nhé!

- Mình vừa chớp được một câu chuyện. Ôi chà... hay quá đi mất, chỉ phải cái chưa viết ra được thôi.

Tôi ngáp vì mệt mõi nhưng sâu trong tâm trí vẫn còn phảng phất nỗi sợ hãi. Một nỗi hỏang sợ, cảm thấy giá buốt và u buồn nhưng dường như chính cái thế giới chưa ai biết đế ấy lại có sức quyến rũ lạ kỳ.

Buổi chiều tôi tiếp tục đọc bản bông. Tiếng là đọc song đầu óc tôi vẫn bị ám ảnh bởi lời nói của Lâm Bồ Lam. " Cô ấy nói thế nhằm ý gì nhỉ, liệu mọi việc có thật như thế không?" Và tôi sẽ phải nói gì đây, cứ xét theo lý lẽ thông thường thì tất cả những chuyện đó là phi lý, không thể nào có được. Nhưng cái lý thông thường đó liệu có thể cắt nghĩa được hết thảy mọi chuyện hay không?".

Giữa lúc ấy tôi chòang tỉnh khi nghe tiếng Văn Đán nhắc :

- Anh Khang, nghĩ gì mà bần thần ra thế, quên cả ăn cơ à?

Tôi gượng cười:

- Phải rồi, anh Văn Đán, theo anh thì liệu chiếc bóng có thể là một loài sinh vật hay không?

- Sao có thể như vậy được- Văn Đán bĩu môi - Mà nếu thật thế thì chiếc bóng ăn gì để sống nào?

- Cũng phải thôi- Tôi vẫn cười, vẻ gượng ép- cuối thế kỷ XIX, ở nước Anh từng có một nhà văn viết cuốn tiểu thuyết trào lộng nhan đề "Nước mặt phẳng". Ông vẽ nên một thế giới hai chiều, nơi có những con người chỉ là người mặt phẳng.

- Tất cả mọi thứ đều xuất xứ từ những ý nghĩ ba lăng nhăng mà nên- Văn Đán chỉ tay vào cỗ máy vi tính đặt bên cạnh tôi. - Giống như những chuyện đăng trên tạp chí của chúng mình ấy, chúng giống nhau hàng loạt.

Cứ cho rằng những suy tưởng loạn tùng bậy đó cũng có một phần giá trị nào đó trong nghệ thuật song dẫu sao cũng chỉ là sản phẩm của bộ não con người. Như bản thân tôi đây chẳng hạn, tôi làm sao biết được, rốt cuộc thì Lâm Bồ Lam là người thế nào, có chăng chỉ biết hiện giờ cô đã mang cái dáng dấp của một kẻ điên loạn. Mà những người viết bài trên mạng thì hoặc ít hoặc nhiều, điều có sẵn cái chất điên cuồng ở trong người rồi.

Ngày ngày chúng ta ngồi ém mình trong những chuyện điên loạn như thế, trách sao khỏi cũng hóa điên ít nhiều.

Văn Đán cười phởn ra mặt:

- Cái thế giới này vốn dĩ là điên cuồng, và trong con mắt của kẻ điên thì không điên mới đúng là điên, phải không nào?

Ai ngờ Văn Đán lại có thể đưa ra một chân lý làm tôi phải ngạc nhiên đến thế:

- Anh bạn làm tôi bị bất ngờ đấy, không ngờ anh hùng biện hay đến vậy, cứ là phải mở to mắt để nhìn anh mới xong.

- Thôi đi nào, cậu đâu phải là Lý Đĩnh, với tôi thì cậu nói hay mấy đi nữa cũng bằng thừa.

Tôi phì cười:

- Người ta là hoa thơm đã có chủ rồi, anh còn chờn vờn làm gì nữa?

Trò chuyện với Văn Đán, chẳng bao giờ phải giữ mẻ cả, hoặc ít hoặc nhiều, nó đều đem lại cho tôi cảm giác vui vẻ và dễ chịu, rằng thế giới này vẫn yên tĩnh. Vì hàng ngày tôi cứ đắm mình trong những chuyện ly kỳ rùng rợn, hay có dở có, nên tôi mới nghĩ rằng, không biết chừng mình cũng hơi bị điên. Và những người mình gặp, xem ra, hầu hết là những kẻ điên loạn.

Hết giờ làm việc, Văn Đán đến gần bên tôi hỏi:

- Hình như hôm nay cậu không phải làm thêm giờ?

- Ừ, nhưng cậu cần gì?

- Rét thế này, bọn mình đi nhậu lẫu nào, thêm chất cay, 50/50 được không?

Tôi vốn không thích rượu và cũng không mê đàn đúm; khốn nỗi hôm nay Ôn Kiến QUốc bị mất tích. lại thêm câu chuyện quái gỡ vừa nghe kể từ miệng của Lâm Bồ Lam làm tôi phát sốt , phát rét lên được. Tố nhất nên đến chỗ đông người nhộn nhạo, mù mịt khói thuốc và hơi rượu, họa may mới lấy lại được tinh thần. Nghĩ vậy tôi gật đầu:

- Được lắm, cứ đúng công thức 50/50 là xong hết.

Dân nhậu nhẹt quanh đây, phần nhiều là những gã độc thân làm trong nhà xuất bản. Họ ba hoa bốc phét và nốc bia như uống nước lã. Khi tan hội về tôi đã chuếch chóang say. Những ngày này không đế nỗi lạnh như hồi đầu đông, nhưng về đêm cũng giá rét chẳng kém. Vừa bước ra khỏi cửa hàng lẫu, gió từ bên ngoài đã thốc tới như những lưỡi dao khứa vào mặt tôi tê buốt.

Tửu lượng của tôi thuộc loại kém, chưa hết hai chai bia mà đã thấy nóng đầu, ù tai, chân bước loạng choạng. Đang dịp cuối năm, chẳng bói đâu ra một chiếc taxi, ngồi chờ ở đây thêm một lát nữa, chỉ e tiêu tán hết chút ít ngân lượng còn lại nhờ chầu rượu vừa rồi. Thế nên tôi cứ men theo lề đường mà đi, vừa đi vừa để ý nhìn sang bên đường, thấy xe thì gọi luôn.

Năm nay không đủ điện, mới chớm đông đã có chủ trương hạn chế dùng điện. Dãy phố nơi tôi đang đi thuộc khu vực bị hạn chế. Đèn đường chỉ thấp sáng được một bên phố và có nhiều cửa hàng ngay bên mặt đường phải đóng cửa. Cả đọan dài vằng tanh, vắng ngắt. Tôi thủng thẳng bước đi, hai tay đút túi áo, tự nhiên thấy buồn vơ vẫn.

Đi hết một phố vẫn chưa gặp được chiếc taxi nào. Dạo này tình hình trị an không ổn lắm, báo chí có đăng nhiều tin tức xung quanh nhiều vụ cướp taxi, phải chăng cũng vì thế mà các bác tài đâm hoảng? Tôi đưa tay lên bẻ lại cổ áo, che kín cổ cho đỡ rét mà gió lạnh vẫn lùa vào từng cơn buốt thơn thớt.

Đén đường chiếu ánh sáng mờ đục và chiếc bóng của tôi hắt xuống, lòa nhòa khơng rõ. Nó cử động theo tôi, lúc giăng dài ra, lúc thu ngắn lại, tựa hồ đang sống thật. Nó làm tôi nhớ lại câu chuyện có phần điên loạn của Lâm Bồ Lam mà giật mình, đó đã không còn là câu chuyện hoang đường khó tin nữa.

Đi đến đầu lối ngõ rồi mà tịnh không thấy bóng một chiếc taxi nào. Gần đấy có một cửa hàng tạp hóa còn mở cửa. Một ông lão thẩn thờ ngồi trông hàng phía trước một cây đèn hơi đang thắp sáng. Tôi đứng lại ngoài cửa, ghé miệnh hà hơi vào hai lòng bàn tay rồi mới nói:

- Tôi mua bao thuốc.

Ông lão, vẻ như không ngờ lại có một người như tôi xuất hiện ở cửa, nên tòan thân run rẩy khi nghe tôi nói. Lão ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhăn nheo ấy đầy những đốm đồi mồi:

- Nhãn gì hở ông?

Tôi chỉ vào một bao, lão cầm lấy trao tay cho tôi:

- Dạo này ông lão có đắt hàng không ạ?

Đó là câu hỏi để gợi chuyện; trong cái đêm mùa đông lạnh lẽo với cảnh sắc kỳ dị và quái đản như nơi này mà được trao đổi một đôi lời với ai đó, đúng là có thể sởi ấm được lòng mình. Ông lão sẵng giọng trả lời:

- Hàng với họ gì, ngay cả ma quỉ cũng chẳng dám mò đến nữa là. Lão đành phải đóng cửa thôi.

Bị lão bóp chát thẳng thừng mà tôi không hề cụt hứng:

- Thời buổi này ai cũng khó cả, thưa lão.

Mua thuốc rồi tôi bước tiếp, vừa đi vừa đưa tay rút một điếu, châm lửa. Vừa rời tay châm lửa thì thình lình, như có một dòng điện chạy dọc theo người, tôi đứng sững tại chỗ.

Từ phía trước mặt, thỏang nghe như có tiếng bước chân vọng lại, khoan nhặt nhẹ nhàng nhưng rất chậm, dường như của một người chân đi giày đang tiến lại gần.

Đêm hôm khuya khắt thế này, ai còn ra phố làm gì nhỉ? hay là xúc cảm của tôi đã sai lạc rồi. Tôi nghi nghi hơặc hoặc nhìn về phí atrưốc, nhưng nỗi lo sợ tựa như một thứ dầu đen thấm vào tờ giấy, nó đã thấm đẫm toàn thân tôi từ lúc nào không biết. Các khớp xương trên người như khô cứng lại, tôi không còn làm chủ được bảnt hân mình nữa, chân cứ dấn bước về phía trước. Dường như bước chân kia bị nhiễm ma lực kì dị của nam châm. Rồi nó ru tôi vào cơn ác mộng- Toàn bộ cơ thể, chỉ trừ mỗi cái đầu, đều không chịu sự sai khiến của tôi nữa.

Tiếng bước chân mỗi lúc một gần hơn. Ai đó cất bước rất chậm và tiếng bước chân vọng lại, nghe thoang thóang, hệt như giọng nói mơ hồ, không rõ rệt của một ai đó, chỉ mỗi tiếng đưa chân chạm đất là như có thể trông thấy được. Đến nỗi tôi gần như đã kịp hòa nhịp, bước đều cùng người đó. Cảm giác này đến với tôi thật lạ lùng! rõ ràng mình biết hết tất cả và mọi vật hiện ra trước mắt y như cũ nhưng sao tôi cứ ngỡ là mình đang mơ. Mỗi khi tôi bước thêm một bước, nhất là lúc bàn chân chạm đất và khí lạnh của đất truyền qua đế giày thì dường như tôi cũng nghe thấy tiếng bước chân của người đó. Phải chăng đã có một sợi dây vô hình cột chặt tôi với hắn.

'' Đành phải dừng lại thôi...Mình đi nữa để làm gì nhỉ?"

Ngờ đâu, nỗi kinh hoàng cũng như một chất keo dính chắc, cho dù tôi đã cố hết sức để đứng lại bằng được nhưng rủi thay, đôi chân lại cứ bước đều đều, nhịp nhàng, từng bước một, chân sau tiếp nối chân trước, dẫu chậm chạp nhưng kiên quyết tiến về phía trước.

" Không chừng mình đang chiêm bao thấy một cơn ác mộng?" - Tôi nghĩ lung lắm, quên cả những ngón tay mình đã tê dại, mất hết cảm giác. Đúng lúc tôi tiến đến khúc rẽ ngoặt thì chỉ thiếu mươi bước nữa là đụng phải một người chạy bổ từ trong ngõ ra. Với vẻ tuyệt vọng, tôi đảo mắttrông về [hía trước , sao nó phảng phất giống như một tảng băng xốp trong suốt bị thân thể tôi lao vào phá vỡ, tạo ra một lỗ hổng lớn, không khí bốn chung quanh bị dồn nén ùa vào hình thành một cơn lốc xóay dữ dội.

Trời ơi... Ngón tay tôi đau buốt dữ dội như bị kim châm, kéo theo là cơn đau đang nhanh chóng lan truyền khắp cơ thể, cả trí não tôi cũng oằn oại, nhức nhối, chân bước lảo đảo, ngã vật vào tường.

Không dè đó chỉ là điếu thuốc cháy đến đầu ngón tay, cái bóng vì thế không lấy gì làm lớn so với nỗi kinh hoàng trong lòng tôi đang lan tỏa, mờ mịt như sương mù. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại cửa hàng lúc nãy giờ đã lùi xa tít tắp cùng với ông lão đang khuân những tấm ván cửa lo đóng kín mặt tiền. "P61p...Pốp" Tiếng va đập của ván cửa âm vang, xuyên qua không gian làm người tôi tê dại đi như một khúc gỗ. Và ánh sáng trắng nhờ của cây đèn hơi cũng bị che khuất dần bởi những tấm ván cửa lần lượt được lắp kín đầy khung cửa.

"... Mình quay trở lại, có lẽ tốt hơn?" Nhưng biết ăn nói thế nào với ông lão, không chừng ông nghĩ mình là quân trộm cắp bất lương thìsao? Còn đi nữa thì xin chịu vì không thể biết được ai đang rình rập mình ở sâu trong ngõ kia?

Đang lúc ngập ngừng bỗng nghe đánh "phập" một tiếng và cả một bên đèn đường tắt ngấm. Trời tối đen mịt mùng, tôi tưởng mình bị một tàng đá lớn từ trên trời rơi xuống đè sập. Trong khoảnh khắc ấy, tôi trông thấy đôi bàn tay lơ lửng ló ra nơi đầu ngõ hẻm.

Biết đâu nó chỉ là cảm giác sai lạc? Mắt tôi vẫn chưa quen được với bóng tối vừa bất thần đổ xuống; trông về phía trước, không thấy gì hết ngoài những đốm trắng nhập nhòe lúc xa lúc gần... và tôi lại càng không thể tin là mình đã sai. Hai bàn tay ấy, năm ngón tay cong queo lấp ló chìa ra từ bên trong ngõ. Bởi rồi, giả thử tôi không bị bỏng nơi đầu ngón tay, dễ thường tôi đã kịp đặt chân tới đầu ngõ, và có thể hai bàn tay này đã chạm lên một bên vai tôi rồi.

- Ai đấy?

- Là ông đấy ư?

Tôi sửng sốt trước âm thanh đập vào tai tôi, lạ hoắc, khô khốc, lạnh lùng song giọng nói nghe quen như đã từng gặp ở đâu:

- Vậy ông là... - Tôi nói lúng búng trong miệng.

Tôi bỗng thấy sợ gặp người này. Nỗi sợ tự nhiên len lên từ trong lòng, hệt như trẻ con sợ rắn và rết vậy. Tôi sợ hãi vì không trông thấy hắn. Song nghe trong giọng nói của hắn thì dường như là hắn có biết tôi, thế nhưng tôi không thể nhận ra đó là tiếng nói của ai. Hắn hạ thấp giọng, khẽ cười, vẻ gượng ép như tiếng một hòn sỏi lăn, ráo hỏanh. Rồi cũng đột ngột như như lúc tiếng bước chân từ đâu dội lại, song lần này, âm thanh thóang nhẹ, nhỏ dần và mỗi lúc một xa hơn, có tiếng rung của một quả chuông nhỏ ngân dài và vọng xa, hồi lâu mới lắng xuống. Gắng gượng vượt lên nỗi sợ hãi, tôi len lén men theo vách tường, thò đầu ngó vào trong ngõ. Không có đèn đường, suốt dọc ngõ sâu chìm trong bóng đêm, chẳng khác nào một đường ống dài dặc, đen ngòm. Cảm giác dường như nó cũng có trọng lượng chèn nặng vào phía giữa. Và tôi chỉ kịp nhìn thấy, vút qua nơi đầu mút của khoảng tối, một chiếc bóng đen, không biết nó rẽ vào góc nào!

Là ai không biết? - Tôi thở sâu cho bớt sợ. Giá như mình rượt lên được, chưa biết chừng có thể đuổi kịp hắn...Vô tình tôi bước một bàn chân vào lối ngõ. Gan bàn chân mát lạnh rồi nhoi nhói như bị kim châm khiến tôi rụt chân về, quay trở lại nơi dưới ánh đèn đường ở bên ngoài. Nhờ đấy tôi thấy người ấm trở lại, vẫn biết rằng tự tôi đang đánh lừa chính bản thân mình.

Dưới đất lộ ra một vật gì đen đen, ban nãy tôi vừa giẫm phải nó. Một lần nữa tôi lại liếc mắt nhìn xéo vào trong ngõ, từ chỗ sáng đèn trông vào, ngõ sâu càng trở nên thâm u, đặc quánh. Tôi không dám nhìn thêm nữa và cúi xuống nhặt vật ở dưới chân mình, đưa ra trước mắt, tôi thảng thốt, bàng hoàng cả người. Đó là chiếc nhẫn đeo ở ngón tay cái, bằng đồng, trên mặt có những đốm loang lỗ là vết tích bị bào mòn. Bốn bề vắng tanh không một bóng người, tôi xòe hai bàn tay quờ quạng rờ tìm trong không khì cái mùi hôi tanh khó chịu. Khôngh phải mùi tanh của cá, cũng không phải mùi xú uế, rửa nát mà là mùi tanh tưởi như của gỉ sắt. Và giữa khỏang không trước mắt dường như vẫn còn lưu lại cái bóng thân hình của hắn, nó lạnh ngắt như một cơn ác mộng không bao giờ tỉnh thức được nữa.

Tôi rùng mình trong cơn giá lạnh ghê người. Khí rét đêm khuya như bệnh tật thấm sâu vào vào mọi vật xung quanh. Tôi không còn lấy đâu ra hơi sức để chống đỡ với sự rét buốt, và nỗi kinh hoàng dường như không bao giờ tan biến khỏi chốn này. Cứ thế, tôi lao mình về phía trước. Sau mươi bước chân đến được đầu ngõ, lúc ấy tôi mới đi chậm, ngoài cổ trông lại khúc đường rẽ ngoặt tưởng chừng nó là một cửa hoang của lòai dã thú ngày nằm phục, đêm mò ra tìm mồi. Quanh quất nơi đây chỉ có khí lạnh âm u khiến tôi không còn muốn nấn ná thêm nữa. Đút chiếc nhẫn đeo ngón tay cái vào túi áo, tôi bước tiếp.

Một đường phố chạy ngang ngay phía trước mặt. Khác với dãy phố bị hạn chế dùng điện vừa rồi, đường phố này sàng trưngvà có sự ấm áp của hơi người. Sau khi đặt chân lên đường phố, tôi khom người, hai tay đặt lên đầu gối, thở bằng miệng từng hơi dài một.

Đi trên đường, cái mùi nồng nặc của mồ hôi người mà chỉ những lúc đêm về khuya mới cảm nhận rõ, dường như muốn báo cho tôi biết, xung quanh đây đều là những con người giống như tôi. Ngoảnh mặt về phía sau nhìn lại quãng đường vừa đi qua, tôi thấy ngôi làng ấy vẫn thấp thoáng ánh điện nhưng vì xuyên qua một lớp kính mờ nên trông không rõ. Còn cả dãy phố thì tối om như bị ma ám.

Tôi bước lên một chiếc taxi đã chật cứng người, không ai muốn nhường nhịn ai hết. Vậy mà trong cái không gian nhỏ hẹp này, tôi lại thấy nó yên ổn hơn không biết bao nhiêu lần so với nơi đường phố rộng thênh thang ngoaì kia.

- Ông đi đâu đấy?

Thấy tôi vẫn nín thinh suốt từ lúc lên xe tới giờ, ông tài tỏ vẻ sốt ruột, biết đâu ông còn nghi ngại liệu tôi có phải là một tên cướp đường hay không? Sau khi tôi cho biết địa chỉ, người lái bật sáng đèn ngầm và cho xe chạy tiếp. Về đêm, ít xe cộ qua lại nên ông chạy với tốc độ nhanh. Đoạn đường kia, thoáng cái đã bị bỏ lại phía sau. Tôi ngồi dựa lưng trên ghế, bỗng nhiên thấy ươn ướt hai khóe mắt.

Dĩ nhiên đây không phải nước mắt xúc động mà là nước mắt sợ hãi.

" Con người ấy, rốt cuộc hắn là ai"

Tôi cứ nghĩ hoài. Bất chợt, một ý nghĩ vụt thoáng qua qua đầu, tựa như tia sáng của sao đổi ngôi.

- Là ông ấy rồi? - Tôi hét lên.

" Chát", tiếng xe rít phanh đứng lại. Tôi mất thăng bằng, suýt nữa bị hắt ra ngoài cửa xe, hai tay bám vội vào thành ghế. Ông lái nhìn tôi trừng trừng, ánh mắt lộ vẻ nghi hoặc:

- Ông vừa trông thấy ai thế?

- Khôing sao hết, tôi đãng trí đấy thôi. - Tôi cười vẻ gượng gạo.

- Không việc gì thì đừng làm ồn lên nữa. - Ông tài gắt gỏng nhắc nhở - Đêm hôm khuya khoắt thế này mà ông còn làm người ta hết hồn.

- Tôi xin lỗi. - Đang lúc ngồi trên xe chẳng biết làm gì hơn ngoài câu xin lỗi suông nhưng tôi vẫn cố vớt vát - Sau này tôi không thế nữa
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 4 : Ác mộng

Về đến nhà, lúc thu tiền vé, có lẽ ông tài đã tính gộp cả lệ phí " hao tổn tinh thần" vào đó, nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào mà tranh cãi, cứ lặng thinh bước từng bước một lên gác, mang theo cả nỗi sợ hãi trong lòng và ngẫm nghĩ mãi về cái người chỉ nói với tôi một câu ở khúc rẽ ngoặt vào lối ngõ.

Tiếng nói ấy xem chừng đã khác trước nhưng ngẫm kỹ thì đúng là giọng của Ôn Kiến Quốc rồi. Đấy là chưa kể đến chiếc nhẫn đeo ngón tay cái mà tôi từng trông thấy trên ngón tay của ông ta.

Đêm hôm khuya khoắt mà hắn chặn cổ người ta ngay trong ngõ hẻm? Tôi rùng mình, mặc dù đã mặc rất ấm nhưng người tôi vẫn run lên vì rét.

Một số người có bệnh trong tâm tưởng thường biến đổi thành hai con người khác nhau vào ban ngày và ban đêm, như Stevenson từng tả về JekyII và M. Hyde là một thí dụ. Vậy phải chăng ở Ôn Kiến Quốc cũng là trường hợp bị phân liệt về mặt nhân cách?

Sau khi ngồi vào chỗ bên bàn máy tính, tôi lấy chiếc nhẫn đeo ngón tay cái ra xem. Một chiếc nhẫn rất cổ, nó gần giiống như những chiếc nhẫn cò từ thời nhà Thương, nhà Chu nay bày ở viện Bác Cổ. Bằng chứng là trên nhẫn có khắc hình con "Thao thiết", và một cái mặt quỉ nanh ác, hai bên là hoa văn con rồng. Tôi được biết trong sách cổ người ta gọi nó là con "Phì di". Nhẫn như làm từ đồng xanh, nhưng không thấy có gỉ sắt. Tôi thử đeo vào đầu ngón tay cái nhưng không được vì chiếc nhẫn này thuộc cỡ nhỏ hơn.

Nhưng đã có chuyện gì xảy ra với ông ta? Tôi cố sắp xếp lại cho mạch lạc những gì xảy ra, cả những lời Lâm Bồ Lam đã kể, dù không thật đáng tin vì bản thân cô cũng dở điên dở khùng. Nhưng nếu hai người đều điên cả thì nguyên nhân vì sao?

Đầu óc tôi rối bời không làm sao lần ra được đầu mối. Đem về khuya, nhiệt độ tụt xuống không độ và không khí gần như ngưng tụ, đóng băng. Toàn thân tôi lún sâu trong chiếc ghế tựa, nó giá lạnh như một khối băng khiến tôi nhấp nhỏm, ngồi không yên chỗ. Chiếc nhẫn tôi cầm trong tay mỗi lúc một lạnh, tựa hồ một mảnh băng. Đầu ngón tay tôi tê dại hẳn đi, không còn cảm giác nữa. Những chỗ tiếp xúc với chiêc nhẫn bỗng nhói lên như vô vàn mũi kim đâm vào da thịt...

Bất ngờ, tôi quăng luôn chiếc nhẫn xuống mặt bàn, nó nảy lên liên tiếp, kêu đánh "keng" rồi nằm im một chỗ. Nỗi khiếp sợ vượt quá mức chịu đựng của tôi; cố lấy những ngón tay tê buốt rút từ trong bao ra một điếu thuốc, chật vật lắm tôi mới đốt lửa được. Tôi rít sâu để hơi khói nồng nặc tràn đầy hai lá phổi.

" Hút thuốc là một thói xấu, hút thuốc có hại cho sức khỏe". những kẻ buôn thuốc lá làm bộ " vừa ăn cướp vừa la làng" đã cố tình cho in dòng chữ này lên vỏ hộp. Nhưng phần đông mọi người vẫn nhắm mắt làm ngơ, đắm chìm với chất Nicotin; trong đó có tôi. Tôi nhắm mắt tận hưởng cảm giác đê mê, cho đến lúc không nín thở được nữa mới nhả cho hơi bay ra.

Tôi mở to mắt.

Trong phút chốc, một cảnh tượng kỳ lạ bày ra ngay trước mắt. Bộ máy tính quen thuộc không cánh mà bay, thay vào đó là một khu rừng đen ngòm.

Cây rừng ken dày san sát, trời về đêm nên mọi vật tối đen. Khi có gió thổi qua, tất cả đều lay động, không màu sắc, trông giống như tảo biển bồng bềnh. Sự vật lặng im như đón đợi hiểm nguy đang rình rập.

" Phải chăng đây là một giấc mộng?" - Tôi tự nhủ. Dẫu biết thế, nên tôi vẫn không tài nào tự giải thoát khỏi nỗi sợ hãi đang nhen nhòm trong lòng. Với cặp mắt rầu rĩ, tôi đứng dậy nhìn xuống dưới chân. Sàn nhà không còn là bê tông nữa, nó chuyển thành đất bùn nhão nhoét có màu đen bám lấy gót chân. Vừa rồi tôi đã ngồi lên một tảng đá hình thù quái lạ.

Tôi đã đến đây lần nào chưa? Cảnh mộng là sự phản ảnh của hiện thực nhưng tôi không tài nào nhớ nơi này. Giấc mơ, cuối cùng vẫn chỉ là giấc mơ. Tôi trông về phía trước, cánh rừng tựa như một vật sống, nó lay động trong không gian tĩnh lặng, nguy hiểm nhưng quyến rũ lạ kỳ.

Ngay nơi bìa rừng, có một người giơ tay vẫy tôi:

- Đấy đây nào?

Rồi người đó như thốt lên:

- Đến đây, nhanh chân lên nào!

Tôi tiến thêm một bước. Đất bùn dưới chân như cơ thể của một con vật. Tôi hoảng hốt đi tiếp, trông rõ bóng người trước mắt tôi mỗi lúc một to hơn.

- Rốt cuộc mày cũng đến.

Hắn nói, không hề phát ra âm thanh. Bóng đen mang hình người. Tôi trông thấy lờ mờ chiếc mặt nạ và thấp thoáng dáng hình thân thể một con người, dường như nó còn đen thẫm hơn cả xung quanh. Đúng thực là một cái bóng.

Tôi bước đi như người không hồn, hắn quay người lại, và hình như lúc ấy, trên khuôn mặt xuất hiện nụ cười. Nhưng trời tối đến nỗi tôi không làm sao xác định cho được. Gió vẫn thốc tới, thốc qua tay áo; cổ áo, xống áo tôi không còn dính sát vào người nữa. Tất cả diễn ra trong lặng im và tịch mịch.

Có phải là một giấc mơ không lời? Tôi nghển cổ nhìn lên trời. Không thấy trăng. Bầu trời đen ngòm, chỉ mơ hồ tưởng tượng ra những đường nét bao quanh. Tôi đi theo người đó vào trong cánh rừng.

Một con đường. Một lối mòn uốn lượn quanh co. Cỏ dại như lửa đỏ, vùi lấp lên khắp mặt đường đi. " Giữa rừng có hai nẻo đường". - Đó chính là câu mở đầu trong bài thơ nổi tiếng của Robert Frost. Nhưng với tôi, bây giờ chỉ có mỗi một con đường và tôi bị buộc phải đi theo hắn.

- Có trông thấy gì không?

Hắn vụt đứng lại, chỉ tay về phía trước. Với ánh mắt đầy vẻ trầm tư, tôi nhìn theo hướng hắn vừa chỉ. Đó là một đống lúa sau vụ gặt hái với cái ụ nhô cao nơi đầu bờ.

Là một miệng giếng, ngay bên bờ có một người quỳ sụp ở đó.

- Đây mới là sứ mệnh của ông.

Hắn nói một cách vô thanh và như hoà điệu với lời hắn nói, người đang quỳ nơi bờ giếng kia, tức thì cúi đầu, khom nửa người xuống dưới miệng giếng, cùng lúc, toàn thân y giãy giụa như đang bị điện giật.

Tôi hoảng hồn vì nhận ra con người xấu số kia đang muốn chết, dẫu chỉ là một giấc mộng, nhưng tôi vẫn không thể không lao tới, đưa tay túm chặt hai vai gã.

Dù chỉ là trong mơ nhưng chắc không ai trông thấy chết mà có thể làm ngơ được. Khi hai cánh tay tôi đưa ra, bất thần tôi thấy mình đã lầm to, tưởng đâu đó là con người lao đầu qua miệng giếng, ai ngờ cơ thể hắn đang bị tiêu tan tựa hồ một cây nến sản xuất thủ công đang tan chảy, chỉ mỗi một điều lạ là không thấy tâm bấc của ngọn lửa. Ở đấy, một dòng nước đen ngòm chảy ra.

Không đúng, không phải là dòng nước đen mà nó là một cái bóng đang rập rình hình thành.

Tôi không sao hiểu nỗi những gì vừa trông thấy; ngẩng cao đầu lên, tôi đưa mắt nhìn chằm chằm vào người đã dẫn tôi đến đây. Hắn đứng ở chỗ chỉ cách xa tôi chừng năm, sáu mét đường. Đã có chút ánh sáng chiếu vào khuôn mặt hắn nên có thể nhìn thấy rõ hơn ngũ quan của hắn. Tuy nhiên, dường như ngũ quan của hắn cũng đang tan vào trong đêm tối nên tôi đã phải nhọc lòng mà chẳng được gì.

- Chuyện dâm dục đều kết thúc như thế cả thôi!

Hắn nói không có tiếng, còn làm bộ cười nữa. Người tôi nổi gai ốc khi thấy hắn ngẩng đầu lên với khuôn mặt phơi ra dưới ánh sáng vàng vọt.

Là Ôn Kiến Quốc - Con người đã ám ảnh tôi trong giấc mộng. Đúng ông ta rồi, chỉ có điều là trên mặt ông ta giờ đây hằn ngang những vạch đen, như những vết rạch cắt sâu, ngọt xớt của lưỡi dao bào rất sắc.

A! Cuối cùng tôi cũng gào lên được một tiếng, không cần giữ ý tứ, hơn nữa cũng vì ngón tay tôi bỏng rát không chịu nổi. Bất thình lình, tôi nghe thấy tiếng mình nói, bầu không khí trong lành xung quanh thoắt cái đã trở nên vẫn đục và nóng ngột ngạt. Khoảnh khắc ấy tôi mới chợt nhận ra mình vẫn ngồi y nguyên trước bàn máy tính. Trên màn hình xuất hiện những biểu tượng của Microsoft.

Giấc mộng ấy, tôi nghĩ... bàn tay tôi gí chuột, màn hình thoắt cái sáng lên và xuất hiện trang chủ tôi đọc dở trước lúc ngủ quên. " Bạn có muốn du chơi nơi thế giới cảm giác muôn màu muôn sắc hay không? Chần chừ gì nữa, hãy kích chuột đi thôi" - Quảng cáo Games trên mạng đang quyến rũ tôi đây.

Tôi xem xét kỹ ngón tay mình, điếu thuốc mới rồi châm vào giữa ngón trỏ và ngón giữa, vết tích còn nguyên. Những ngón tay bị khói thuốc hun lâu ngày, có chỗ đã bám màu nâu sẫm. Hút thuốc lá có hại cho sức khỏe. Có lẽ đó là câu nói thật duy nhất của những người kinh doanh thuốc lá. Nhưng tôi chỉ e rằng cho đến lúc lá phổi tôi tích đầy chất Nicotin và mắc bệnh nan y thì ngón tay tôi đã bị thiêu rụi mất rồi còn đâu nữa? Như bữa nay chẳng hạn, ít nhất thì tôi đã bị bỏng tới hai lần rồi.

Vết bỏng trên ngón tay tôi vấy đỏ, lên cơn giật đến nỗi tôi nghe thấy cả nhịp đập của mạch máu. Mỗi lần chiêm bao thấy ác mộng, tôi những tưởng mình đã bước sang thế giới bên kia, không thể tin rằng mình vẫn còn sống sót!

Dưới mặt đất, điếu thuốc hút dở tôi vừa vứt xuống, chốc chốc lại lóe sáng đốm lửa tàn. Tôi nhặt nó lên bỏ vào cái gạt tàn và dụi tắt lửa. Chiếc gạt tàn đã lâu rồi không có người đem đi đổ, lúc này chứa đầy những đầu mẫu và tàn thuốc bốc lên một mùi cay xè, khét lẹt, rất khó chịu. Thoắt cái, tôi lại nghĩ tới cơn ác mộng ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm tôi hoảng hồn. Cảnh tượng tôi thấy trong mộng giống hệt lời kể của Lâm Bồ Lam. Vậy cớ sao tôi không mơ thấy cô ta mà một lần nữa lại là Ôn Kiến Quốc xuất hiện và len lõi vào trong giấc mơ của tôi.

Đêm khuya, nhiệt độ hạ thấp dần. Ở giữa cái thành phố không có lấy một ai là người thân này lại càng cảm thấy rét đậm hơn; tôi thầm nghĩ vậy và bỗng thấy buồn nôn nao.


Tôi muốn khóc.

Tôi tắt máy tính định sẽ đi tắm, nhưng nước nóng đã hết mất rồi. Tôi lấy ít nước lạnh để rửa chân. Sau đó cởi quần áo rồi chui luôn vào trong chăn. Cung cách ăn ở của những tay chưa vợ đều như thế cả. Chỗ tôi được xem là sạch sẽ và ngăn nắp hơn cả, vậy mà mép chăn đắp cũng loang lỗ những vệt bẩn lẫn dầu mỡ và bốc lên mùi hôi chua loét. Lâu dần, những thứ mùi đó trở nên thân quen, nó gieo vào lòng tôi cảm giác ấm áp. Nằm lơ mơ một lát, tôi ngũ thiếp đi lúc nào không hay.

Lúc tỉnh dậy, trời đã sáng rõ, tôi hối hả đến ngay tòa soạn mà vẫn muộn giờ, đoán trước sẽ phải nghe Giám đốc lên lớp một hồi. Đúng lúc tôi ngồi vào bàn làm việc thì anh chàng Văn Đán không biết từ đâu bước tới, hỏi han vồn vã:

- Chào Khang nhé, hôm qua cậu say rồi phải không?

- Anh làm tôi phải nhắm mắt uống liều.

- A ha, ai ngờ tửu lượng của cậu lại kém như thế. Hôm qua, bọn này còn thấy một gã say mềm bước đi chân nam đá chân chiêu, cứ ngỡ là Khang ta đi lạc đường cơ đấy.

Dứt lời văn Đán ngáp dài, ngồi sang một bên lo công việc của mình. Tôi cũng ngồi vào chỗ sửa soạn đọc bản thảo của số tạp chí tiếp theo. Lúc mới ngồi xuống, người tôi vẫn đau như dần, may nhờ hơi men vẫn còn hiệu lực đã giúp tôi đọc loáng thoáng những dòng chữ trên màn hình.

Đọc qua một lượt, tôi thấy chưa có bài nào đạt yêu cầu; tôi mở hòm thư thử xem trong những bài gởi tới có bài nào dùng được không. Hòm thư mở ra, có tới mấy chục bài viết nhưng hầu hết là đoản văn và những bài có dung lượng một đến hai KB. Tôi chọn lấy một bài có độ dài mười mấy KB, nội dung kể chuyện một xác chết giết người, cải biên dựa theo tập bút ký của người Thanh. Giọng văn không có gì đặc sắc, cho thấy sức tưởng tượng của người viết còn kém.

Giữa lúc ấy, bỗng nghe tiếng cười to của Văn Đán rồi thấy tiếng của một người bạn đồng nghiệp:

- Anh Văn Đán có chuyện gì mà phởn thế?

- Thì đây, lại có thêm một người nữa nói hắn trông thấy một chiếc bóng biết tự cử động. A ha... Hóa ra bây giờ mọi người đều chuộng loại chuyện này.

- Chưa biết chừng họ bị ảnh hưởng vì xem phim Xfile, trong đó có một tập nói về chiếc bóng giết người... - Riêng tôi chưa xem Xfile nên chưa kịp hiểu hết câu chuyện họ đang bàn cãi với nhau thì đã nghe Văn Đán lên giọng hùng hồn:

- Đúng rồi, tôi xem bộ phim ấy rồi. Chiếc bóng đó có thể lách qua khe cửa đi vào trong. Người bóng vừa dán lên cánh cửa, thoắt cái đã biến mất, như luồn qua vậy. Thì ra người Mỹ họ có trí tưởng tượng tài tình thật, tôi e rằng người Trung Quốc không thể có nổi những bộ phim như thế.

Tôi nói xen vào:

- Chuyện bịa đấy mà. Chiếc bóng chẳng qua là tia sáng do có vật cản trước mặt mà nên, còn như bị ngăn cách bởi cánh cửa thì làm thế nào hình thành chiếc bóng cho được?

- Nhưng đây không phải chiếc bóng, nó là một loài sinh vật cơ mà. Một thứ sinh vật hai chiều.

Tôi bật cười:

- Đúng là một lũ dối trá. Chiếc bóng, nếu là sinh vật thì nó lấy gì để ăn nào?

Câu nói này vốn do Văn Đán sực nhớ ra nên nhe răng cười:

- Tôi biết cậu Khang có trí nhớ khá lắm, đã là câu chuyện thì sao cố phải cố làm cho nó thật minh bạch làm gì chứ. Cũng như ta lấy khoa học để giải thích phim kinh dị, liệu có giải thích nổi không?

- Anh nói phải lắm, tất cả các phim kinh dị rùng rợn đều giống nhau cả. Nếu không có ma quỉ thì coi như bộ phim kinh dị đó đã tự làm mất đi tính chất hoang đường, huyễn hoặc của nó. Còn nếu có yếu tố ma quỉ thì bộ phim đó lại không phù hợp với logic cuộc sống. Về cơ bản là như thế. Hết.

Tôi xếp chuyện dài này vào một hồ sơ riêng phòng trường hợp không có bài hay hơn thì sẽ dùng nó cho số tạp chí kỳ tới. Sau đó tôi còn đọc thêm một số truyện nữa, phần nhiều vẫn là những truyện rất ngắn. Trăm chuyện như một, đều rập khuôn theo một công thức sẵn có: khơi mào câu chuyện rồi phát hiện có ma, nếu thay đổi họ tên nhân vật trong truyện thì sẽ thấy chúng được viết na ná như nhau. Cách sử dụng từ ngữ, tu từ rất vụng, rõ ràng chỉ thuộc trình độ học sinh trung học. Thậm chí có một bài viết với trìch độ của học sinh tiểu học bởi vì có mấy chữ tác giả không viết được bằng chữ phổ thông nên đảnh phải viết bằng phiên âm la tinh.

Đọc xong mười chuyện, tình cờ tôi phát hiện được một hộp thư khá quen thuộc.

Nó là của Ôn Kiến Quốc.

Một lá thư rất ngắn, chỉ có hơn hai mươi bộ, nghĩa là khoảng hơn mười từ đơn, chắc hẳn không phải là bài gởi đăng báo. Tôi mở bức thư để đọc và không khỏi giật mình:

Ông ta viết:

- Ông đấy à? Cứu tôi với, tôi chết đến nơi rồi.

Cuối câu lẽ ra phải có dấu chấm than song ông ta bỏ, không đánh dấu. Xưa nay Ôn Kiến Quốc viết rất đúng văn phạm, trau chuốt từng từ từng câu. Như đoạn vào đầu chẳng hạn, bao giờ ông ta cũng để cách hai khoảng, các dấu chính tả không bao giờ có sai sót. Tôi đâm nghi ngờ, hình như không phải tự tay ông ta viết ra.

"Không có lẽ đây lại là trò đùa?" Tôi đâm sốt ruột. Ôn Kiến Quốc chỉ là cộng tác viên của tôi, hai chúng tôi không thân thiết đến mức có thể trêu chọc nhau được. Vậy rốt cuộc ông ta định giở trò gì đây?

Tiếp nữa, tôi đọc thêm một số văn bản khác và một số truyện ngắn, Trong đó, có một truyện dài hơn một ngàn chữ viết rất kỹ, lời văn điêu luyện, tên ký hình như của một phụ nữ. Truyện này có thể đăng tạp chí được nên tôi copy một bản và viết thư thông báo cho tác giả biết bài viết sẽ được sử dụng. Số văn bản còn lại tôi quăng tất vào sọt rác. Đúng lúc định nhấn phím Delete thì bàn tay đang cầm chuột của tôi chợt chững lại:

" Là ông đấy ư?" Mấy chữ này trong lá thư của Ôn Kiến Quốc có nghĩa gì?

Tôi thấy lạnh cả người, mặc dù trong phòng vẫn chạy máy điều hòa. Tôi choàng nhớ lại con người tôi gặp đêm hôm qua.

Tôi chỉ trông thấy người ấy từ phía sau với cả chiêc nhẫn trên ngón tay cái của hắn ta nữa...Liệu có đúng là Ôn Kiến Quốc không?

Sở dĩ Lâm Bồ Lam nói Ôn Kiến Quốc bị mất tích là vì cô ta không cách gì tìm thấy ông ta được . Nếu như Ôn Kiến Quốc vẫn còn sống ở thành phố này thì đêm đêm, chờ lúc khuya, ông ta sẽ lại xuất hiện quanh quẩn nơi đường phố lạnh lẽo hoặc trong ngõ hẻm dọc ngang quanh co như mê cung ấy; đó mới chỉ là một khả năng; còn thật đến đâu thì chưa ai biết!

Lâu nau Ôn Kiến Quốc được mọi người biết đến với tư cách là một tác gia viết khá nhiều tiểu thuyết kinh dị song ông ta vẫn là một con người bình thường, chứ không phải như tin đồn là những ai viết nhiều tiểu thuyết rùng rợn đều có dáng điên điên, khó hiểu. Vậy giả sử con người ấy đúng là Ôn Kiến Quốc thì tối hôm đó, vào lúc đêm khuya, ông ta lởn vởn ở đầu phố để làm gì chứ? Đi tìm cảm hứng sao? Thói xấu ấy tệ hại lắm phải không?

Tiếng máy điều hòa nghe âm âm, tai tôi ù đi, chỉ thấy nơi của thông gió, khói bốc lên, tỏa ra những gợn sóng oi nồng. giữa lúc đó, tôi có cảm giác mình bị rơi tõm xuống vực, hai bên tai vang lên tiếng ong ong của bầy ong vỡ tổ. Ngoài ra, tôi không còn nghe thấy gì hết.

Đêm qua, con người đó cũng nói đúng ba chữ ấy.

Tôi giật nảy mình, con chuột nắm trong lòng bàn tay cạch một cái rồi văng ngay xuống đất khiến cả ba người trong phòng cùng đổ dồn mắt nhin tôi chằm chằm. Trong lúc tôi cố gượng cười và cúi xuống nhặt nó lên, trên khóe miệng vẫn còn nét rung rung, tưởng đâu mình vừa bị rơi xuống một hang đá bị băng tuyết bao phủ, rét cắt da cắt thịt.

Sau đó tôi sắp xếp đống giấy tờ trên bàn cho gọn gàng rồi kéo máy điện thoại lại gần, bấm số của Ôn Kiến Quốc. Nghe hồi chuông đáp và ai đó nhắc máy:

- Ông Ôn Khắc đó phải không? - Tôi hỏi

Không có tiếng trả lời. Sự im lặng kéo dài, nặng nề; khoảng ba mươi giây sau mới nghe thấy tiếng buông máy.

Tôi đứng phắt ngay dậy. Văn Đán nhìn tôi, ánh mắt lộ vẻ ngờ vực:

- Sao thế bạn thân mến?

- Tôi phải đi gặp cộng tác viên đây.

Nói rồi tôi vội vã đi ra cửa, phía sau nghe Văn Đán vừa cười vừa nói:

- Chắc lại là người đẹp, không thì cậu ta chẳng đến nỗi phải hấp tấp, vội vàng như thế!

Dẫu sao tôi phải gặp bằng được Ôn Kiến Quốc chứ không đành lòng để dằng dai mãi tình trạng rối tinh rối mù như thế này. Nếu quả thật là trò đùa thì tôi sẽ bảo ông ta thôi ngay đi, tiện thể trả lại cho ông ta chiếc nhẫn đeo ngón tay cái luôn. Vật tuy nhỏ song dẫu sao nó vẫn là đồ cổ, có thể được giá đấy.

Xuống xe taxi vừ atầm giờ Ngọ, lại là dịp giáp tết, người qua lại đi sắm tết, bọc to bọc nhỏ, nhộn nhịp khác thường. Tiếng là trung tâm thành phố song ở đây không có mấy cửa hàng to đẹp. Hầu hết những công trình năm tầng xây theo kiểu Liên Xô cũ đều vuông thành sắc cạnh với dáng thâm nghiêm lạnh lẽo. Ngôi nhà của Ôn Kiến Quốc nằm lọt thỏm ở giữa, chẳng khác gì quả trứng chim kề bên khối đá to đùng, bị đè bẹp gí lúc nào không hay.

Đứng lại trước cổng nhà Ôn Kiến Quốc, tôi đưa tay đập cửa. Cánh cổng cũ vang ầm, nghe như bên trong là một khoảng trống rộng rãi, dội lại hồi âm văng vẳng. Cửa sổ xung quanh đã đóng chặt, bên trong có dán giấy báo kín mít không cho gió lọt vào. Tôi lại đập cửa, vừa đập vừa lớn tiếng gọi:

- Ông Ôn Khắc, là tôi đây. Ông có nhà không?

Chợt có bà cụ già đi ngang qua. Cụ đưa mắt nhìn tôi đầy ngờ vực. Với các cụ bà tuổi cao lại thêm tính đa nghi, tôi biết rất rõ các cụ là chúa nhút nhát chưa biết chừng đến một lúc nào đó là cụ gọi ngay cho số 110 báo động chứ không vừa đâu. Nghĩ vậy song tôi vẫn chưa chịu thôi đập tay vào cánh cổng:

- Ông có ở nhà không, ông Ôn Khắc?

Chắc chắn ông ta phải có ở nhà chứ.

Bà cụ tuy đã bỏ đi rồi nhưng mà đầu vẫn ngoái lại, mắt nhìn tôi không chớp làm tôi gai hết cả người. Tôi thở một hơi dài, nghĩ bụng đành ra về vậy. Khi tôi chuẩn bị rời khỏi đây thì từ phía trong ngôi nhà bỗng có tiếng hỏi vọng ra:

- Là ông đấy ư?

Tôi sợ toát mồ hôi. Đúng tiếng của người tối hôm qua nhưng sao nó không thật giống tiếng của Ôn Kiến Quốc. Tiếng nói này nghe như phát ra từ một nơi rất sâu.

Thoắt cái tôi xông tới gần sát cánh cổng đưa tay đập mạnh:

- Ông Ôn Khắc đấy phải không?

Đúng là tiếng Ôn Kiến Quốc rồi; chẳng qua là do hôm trước tôi chuếch choáng say, với lại giọng nói của ông ấy cũng có phần thay đổi nên tôi không kịp nhận ra ngay. Tiếng nói khô lạnh như băng, nhưng ở cái giọng tưởng đâu là một ngưởi xa lạ ấy lại có nét rất giống với Ôn Kiến Quốc.

Ông ta dừng lại chốc lát rồi mới nói tiếp:

- Rốt cuộc ông đã có mặt ở đây... Muộn quá rồi!

" Muộn quá rồi!" - Ba từ cuối ông ta nói nhỏ nhẹ như tiếng thì thầm, nghe không rõ... Tôi không dừng được nữa, nói như gắt:

- Ông bị làm sao thế, ông Ôn Khắc? Hôm qua tôi có gặp bạn gái ông, cô ấy đang lo lắng tìm ông. Lúc ấy, ông ở đâu?

Ông ta nín thinh. Chờ giây lát không thấy ông ta nói gì, tôi lại đưa tay đập cổng:

- Mở cửa ra nào, ông Ôn Khắc, tôi còn phải đặt ông viết bài cơ mà .

Đặt bài, đó chỉ là cái cớ thôi, và trong tình huống cụ thể như thế này, tôi cũng không nghĩ ra điều gỉ hơn thế. Đột nhiên ông ta bật khóc, tiếng nghe nhỏ như bị nén lại, gắng gượng:

- Làm thế nào bây giờ. Muộn quá mất rồi!

- Nhưng ông bị làm sao nào? Ốm thì đi khám bác sĩ, bệnh nan y thì chịu chạy chữa rồi cũng khỏi cơ mà.

Bất thần ông ta kêu lên:

- Nhưng nó không phải là bệnh

- Vậy nó là gì chứ, có phải trên người ông phát ra những đường vân không?

Dĩ nhiên, tôi không đời nào tin lời kể của Lâm Bồ Lam, nào là ông già ấy bị nứt toát ra rồi chiếc bóng đen ngòm trồi dần ra từ bên trong... Nhưng chưa biết chừng vào cái đêm ấy, Ôn Kiến Quốc và Lâm Bồ Lam đã bị nhiễm virus bệnh kỳ quái tại cái làng nhỏ, hẻo lánh ấy cũng nên. AIDS - ban đầu người ta cũng hoang mang không biết nó là gì, về sau nó mới trở thành đại dịch tràn lan khắp toàn cầu.

Ôn Kiến Quốc cười sằng sặc ở trong nhà:

- Tôi nói anh nghe, nó không phải bệnh mà là một chiếc bóng sống.

Bóng sống ư? Lâm Bồ lam cũng từng nói thế. Tôi lắc đầu như muốn xua đuổi cái ý liên tưởng ấy ra khỏi đầu mình rồi mới hỏi:

- Chiếc bóng sao mà sống được hả ông Ôn Khắc? Ông cả nghĩ quá rồi đấy. Nếu như ông thấy trong người khó ở thì nên đi khám bác sĩ là tốt nhất.

Ông ta lại cười, tiếng cười nghèn nghẹn, lạnh và khô khốc. bấy giờ đang lúc giữa trưa, trời ấm áp và nắng chan hòa, vậy mà tự nhiên tôi thấy xung quanh tối sầm lại; trong phút chốc, mây đen kéo đến đầy trời và gió rét từ đâu thổi về. Tôi run lên, nói:

- Vậy cuối cùng ông bị làm sao hả ông Ôn Khắc?

Bỗng nhiên, từ trong họng ông phát ra tiếng kêu "ùng ục" nghe khác lạ, không phải của người mà tựa hồ như của loài thú. À, không phải, tiếng của con thú khỏe hơn, đầy sinh khí, còn tiếng kêu này giống như tiếng nước bục ra từ đường ồng bị vỡ và đúng hơn, nó giống hệt tiếng mút nước của một vật nặng chìm ngập trong bãi lầy lạnh lẽo và ẩm thấp.

Tôi phát hoảng lên dang tay đập cổng, lớn tiếng gọi:

- Ông Ôn Khắc... Ông Ôn Khắc!

Im lặng ...

Hoặc là cảm giác của tôi sai mất rồi. Thoắt cái cánh cổng đã lạnh như đá, cái lạnh của sự chết chóc. Chất gỗ vốn ít truyền nhiệtnhưng tôi vẫn cảm thấy hơi lạnh thấm qua cánh cổng.

Tôi đã toan giơ tay đập cổng lần nữa thì nghe tiếng kêu vang lên từ bên trong.

Một tiếng kêu thê thảm.

Tôi chưa kịp hoảng hốt thì có xe cảnh sát phóng vội đến nơi.

Quả thật bà lão có tinh thần cảnh giác đã kịp báo cảnh sát, và lúc này, tổ chức 110 tỏ ra rất được việc. Tôi vội né người sang một bên để nhường lối cho hai người cảnh sát bước từ trên xe xuống.

Hai người này tiến thẳng đến nhà Ôn Kiến Quốc. Họ dừng lại trước cổng, một người đưa mắt nhìn tôi giây lát, cất tiếng hỏi một cách nhã nhặn:

- Xin hỏi ông là ai vậy?

- Tôi đưa tay vào túi áo lấy danh thiếp, trao tay cho mỗi người một tấm, miệng nói:

- Tôi là biên tập viên của tạp chí Truyền Kỳ Đại Quan.

Viên cảnh sát đưa mắt đọc lướt qua rồi bỏ nó vào túi áo, cất tiếng hỏi:

- Vậy ông với ông Ôn Khắc là chỗ quen biết?

- Ông ấy là cộng tác viên của tôi, thưa ông cảnh sát. Tôi chả bận việc gì, bữa nay đến đây cốt là để đặt bài với ông ấy thôi.

Hai người đưa mắt nhìn nhau rất ý nhị, một người khẽ nhắc tôi:

- Phiền ông đứng né sang bên một chút - rồi ông ta đi đến trước nhà đưa tay gõ cổng, gọi ầm ầm:

- Cảnh sát đây, ông Ôn Kiến Quốc, xin mời ông đi cùng chúng tôi lên trụ sở cục.

Không có tiếng đáp lại, viên cảnh sát bực tức ra mặt, lớn tiếng quát:

- Đừng vờ nữa, chúng tôi biết ông ở nhà, nếu quả thật ông không can gì thì cứ việc đến đấy trình bày.

Ôn Kiến Quốc vẫn nín lặng. Viên cảnh sát vừa nói dứt lời giờ nổi nóng văng tục:

- Lũ cầm bút như các người là chúa hay gây những chuyện như thế này. Cái đồ biến tướng họ Ôn kia, có gan làm thì cũng phải có gan đứng ra nhận chứ!

Ông ta vẫn không chịu lên tiếng. Trong nhà im ắng. Hai viên cảnh sát đành phải bó tay, nói gì với nhau trong chốc lát, rồi một người lấy ra một tờ giấy in sẵn có đóng dấu, viết lên đó mấy chữ đem dán lên cổng. Đó là giấy gọi trình diện. Xong đâu đấy, viên cảnh sát còn nói thêm:

- Xin ông nhớ cho, ông Ôn Kiến Quốc, đến lúc đó, nếu ông cố tình vắng mặt thì chúng tôi sẽ phải cưỡng chế đó!

Tôi cảm thấy lo lắng, chờ lúc họ lên xe mới đuổi theo hỏi:

- Vậy đã có chuyện gì thế, thưa ông cảnh sát?

Viên cảnh sát đã chuẩn bị cho xe nổ máy quay mặt về phía tôi rồi nói:

- Đêm qua có người bị giết chết và ông ấy bị tình nghi. Ông chẳng dính líu gì, tránh đi là hơn. Nếu không, chúng tôi nghi cả cho ông thì khốn.

Có người bị chết sao?

Cảnh sát đã nổ máy, xe sắp sửa lăn bánh, tôi cố hỏi thêm:

- Người chết là ai cơ?

Viên cảnh sát tỏ vẻ sốt ruột, nói cho qua chuyện:

- Ông cứ đọc tờ Tin tức Buổi Trưa, chắc đã đăng tin này rồi. Chậm nhất là trên tờ Tin Tức Buổi Tối. thôi nhé!

Tin Tức Buổi Trưa chưa có tin này. Buổi tối, sau khi về đến nhà, tôi bật vi tính xách tay, vừa ăn mì ăn liền vửa xem tin. Nội dung tin tức chả có gì mới, kể cả tin trong nước cũng như tin thế giới. Sau chót là tin thành phố, đến lúc này tôi chẳng còn nhớ gì ở trong đầu nữa, vội vàng và nốt mấy sợi mì ở trong bát thì nghe tiếng nữ phát thanh viên đọc:" Tối qua phát hiện thấy một xác chết trôi sông ở cuối thành phố. Nạn nhân là một phụ nữ còn trẻ, qua xác minh được biết tên là lâm Bồ Lam, 25 tuổi ".

Lâm Bồ Lam chết rồi sao?

Tôi đặt bát xuống, hai mắt nhìn trân trân vào màn hình. Mới hôm qua người phụ nữ này còn van nài tôi cùng đi với cô tới Hồ Nam, thế mà hôm nay đã chết rồi. Lúc ấy, hình như tôi đang uống rượu thì phải...

Cái bát đựng mì trên bàn bỗng tiếng kêu lách cách. Có lẽ vì tay tôi run rẩy. Hình ảnh trên tivi cho thấy thi thể Lâm Bồ Lam được vớt lên; nước sông ngầu bọt, váy áo trên người cô thấm đẫm nước, căng phồng thành một cái bị to đùng. Người đến xem vây kím xung quanh, nô nức và vui vẻ. Theo quan niệm, ngày tết sắp đến, những ai trông thấy người chết sẽ gặp được nhiều may mắn. Có hai người tay đeo găng cao su khiêng xác chết từ dưới sông lên. Lâm Bồ Lam được đặt nằm, ngửa mặt lên trời, hai cánh tay duỗi thẳng, thân thể cứng như một cây gỗ.

Qua màn hình tivi, tôi thấy khuôn mặt cô vẫn bình thường. Dẫu độ nét màn hình máy vi tính của tôi không thuộc loại tốt nhưng vẫn thấy rõ gương mặt Bồ Lam trắng bợt như tờ giấy, chỉ có ít chút cỏ rác dưới sông vương trên mái tóc bết lại. Trên làn da không thấy có vết gì khác thường. Tôi có ý muốn được xem kỹ lại hai cánh tay cô, hiếm một nỗi, phần cánh tay để hở ra ngoài rất ít nên không thể phát hiện ra điều gì.

Vậy phải nói như thế nào đây? Có thật Lâm Bồ Lam cố tình đánh lừa tôi không? Với cô, tôi không phải chỗ quen biết. Hãy cứ cho là cô ta định giở trò trêu tức tôi đi, vậy sao cô ta vẫn chết? Thế là thế nào?

Tôi tắt vi tính, đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Khuôn của có chấn song cắt vụn khung cảnh ngoài trời làm nhiều mảnh, khiến người ta cảm thấy tức mắt và trong tiếng động huyên náo từ xung quanh dội lại, tôi chỉ thấy hiện lên trước mắt mình hình thù hai cánh tay duỗi thẳng của Lâm Bồ Lam. Vẻ như cô đang van xin? Vải áo ướt đẫm nước dính xát vào cánh tay, hở ra mỗi một đoạn ngắn có nước da trắng xanh nhưng rắn chắc, tựa hồ được tạc bằng đá cẩm thạch.

Đúng là màu của sự chết chóc. Tôi vẫn còn nhớ lúc trông thấy thi hài của ông bác tôi; dưới ánh sáng của hai ngọn nến trắng, bác tôi được đặt nằm trên chõng tre và nước da ông cũng có màu trắng xám giống như nước da tôi vừa trông thấy của Lâm Bồ Lam. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy người chết mà không biết sợ là gì. Khác hẳn bây giờ, trong tôi nhen nhóm sợ hãi khi trông thấy thi thể Lâm Bồ Lam, dẫu tôi biết mình chỉ nhìn thấy những hình ảnh ấy trên màn hình mà thôi.

Ai là người đã giết hại cô ấy? Tuy phát thanh viên không nói đó là vụ án giết người nhưng tôi biết chắc chắn cô đã bị ám sát.

Trời bỗng nhiên tối sầm, mây đen ùn ùn kéo đến như sắp đổ mưa. Tôi chạy vội ra cất quần áo phơi ở ngoài vào. Sau đó đóng của sổ và ngồi vào bàn vi tính. Trong nhà không bật sáng đèn nên còn tối hơn ở ngoài trời. Những chiếc bóng vì thế trở nên sinh động hơn và bắt đầu hắt hình xen lẫn vào nhau, tựa hồ vô số quái vật đang há hoác miệng chờ đợi. Tôi nhấn nút khởi động máy tính, nghe ổ đĩa cứng chuyển động đánh "tịch" một tiếng và màn hình hiển thị.

Ngày đông năm nay trời không đến nỗi rét, song vì cơ thể vốn nhạy cảm mỗi khi thời tiết thay đổi nên tôi rất dễ bị cảm. Mấy bữa nay lại bị sổ mũi, tôi đưa tay ra xé giấy đặt cạnh bàn để lau mũi. Cùng lúc máy tính khởi động vừa xong, tôi nháy chuột vào chương trình QQ. Không dè nước mũi chảy ròng ròng, tôi lại phải xé giấy lau. Lúc ấy tôi thò tay vào túi áo và thấy mát lạnh nơi đầu ngón tay, sực nhớ ra chiếc nhẫn đeo ngón tay cái tôi bỏ đó, định trong ngày hôm nay đem trả cho Ôn Kiến Quốc. Không ngờ ông ta đóng chặt cửa không để tôi vào nhà nên tôi quên bẵng nó đi. Tôi thử đeo vào ngón tay cái của mình. Lạ thật, lần này nó rất vừa. Không biết có phải vì tôi gầy đi chăng? Nhìn chiếc nhẫn trên ngón tay cái, tôi lại không thấy có gì quái gở nữa. Thật lạ!

Tôi vừa lau mũi vừa mãi mê đọc những trang trên chương trình QQ. Ban ngày tôi ít kết nối mạng nên những tin nhắn gởi cho tôi được lưu ở hộp thư khá nhiều. Tôi đọc lần lượt từng lá thư một.

Thư đầu tiên là của một tác giả báo cho tôi biết bài viết xong rồi và ông đã gởi nó vào hộp thư của tôi. Những bài viết của tác giả này thường khá hay, chỉ phải cái ông ta viết rất chậm, hiếm khi viết một mạch là xong. Riêng lần này, không hiểu sao ông rất đúng hẹn nên tôi lấy làm mừng. Tôi thôi không đọc mục nhắn tin nữa và chuyển sang đọc nội dung bài viết.

Tôi click vào boxmail. Trên màn hình hiển thị ba chữ rõ ràng:

- Là ông đấy ư?

Nhìn ba chữ ấy, tôi cứ như giẫm phải con rắn độc, và nỗi kinh hoàng lại dâng lên. Dấu ấn của nó đã hằn sâu trong tôi đến nỗi tay cầm chuột cứ run lên bần bật.

Đó là nội dung tin nhắn của Ôn Kiến Quốc gởi đến tối hôm qua, sau khi tôi đã về nhà. Đêm qua, sau cơn kinh hoàng trên đường phố, về đến nhà, tôi không còn bụng dạ nào kết nối mạng nữa. Máy ở văn phòng lại không có phần mềm chương trình QQ nên mãi đến bây giờ tôi mới đọc được nó. Sau câu trên, ông ta bắt đầu kể lể một đoạn dài khoảng vài trăm chữ. Không rõ ông ta đã gởi đi bao nhiêu đoạn như thế, chỉ biết rằng trên trang Web dày dặc những dòng chữ. Ngôn từ không được chau truốt, trôi chảy như trong những tiểu thuyết Kiến Quốc thường viết. Thông tin ông ta viết lần này lộn xộn, lủng củng không ai có thể nghĩ đó là của một người cầm bút chuyên nghiệp? Phía dưới câu chữ, lời văn rối rắm, lộn xộn, thể hiện một tâm trạng hoảng hốt không yên.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 5 : Cái giếng

" Nơi tôi đến cùng với Lâm Bồ Lam là làng Xạ Công".

Bài viết của Ôn Kiến Quốc mở đầu như thế. Ông ta viết tiếp: 'Xạ Công, trong sách cổ là tên gọi một con quái vật, không rõ vì sao người ta lại lấy nó để đặt tên cho làng này. Đất làng thuộc tỉnh Hồ Nam, xung quanh là núi. Phía trước làng trải rộng những thửa ruộng vỡ đất làm mùa. Những tảng đất đen nhánh màu kim loại được cày lật lên để phơi ải. Đất khô rắn vì chưa có tuyết đầu mùa. Tôi và Lâm Bồ Lam cùng đi trên đường, lo tìm chỗ ngỉ trọ qua đêm. Làng không lấy gì làm lớn, nó chỉ có hơn hai mươi hộ gia đình và chúng tôi cảm thấy hầu hết mọi người ở đây đều có dáng dấp kỳ dị."

Tôi đã từng thấy cảnh tượng này trong tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc. Chỉ có điều là khi đăng tin trên mạng thì nên sử dụng một số chữ hạn chế, do vậy tác giả đã chia tác phẩm ra làm nhiều đoạn. Tuy trong đó có nhiều lỗi chính tả và viết sai về mặt chữ đồng âm nhưng sự gắn kết guiữa các đoạn rất mạch lạc, rõ ràng chứng tỏ không thể xem thường năng lực viết của tác giả được một bài viết hoàn chỉnh mà tác giả gởi đến cho tôi. Đến đây, tôi tự rót cho mình một chén trà, uống rồi mới đọc tiếp.

Ngôi làng dựa vào thế núi, phần nào như "Thế ngoại đào viên" , đi trên đường làng cảm thấy rất dễ chịu. Hai người vừa đi vừa ngắm cảnh, luôn tay chụp ảnh bằng máy ảnh kỹ thuật số. Không khí êm ả, mãi chụp ảnh, hai người không để tâm đến nét mặt thờ ơ, lạnh nhạt của những người làm ruộng khi trông thấy họ.

"Kìa, Kiến Quốc, anh lên đây đi ! "

Lúc ấy ông ta đang chụp cảnh trời chiều và ánh hoàng hôn lúc mặt trời gác bên đầu núi. Không khí mát lành và bầu trời trong veo, ráng chiều phô bài màu sắc vàng tươi... Ôn Kiến Quốc đang mãi mê chọn cảnh bỗng nghe thấy Lâm Bồ Lam gọi mình. Ngước nhìn lên, ông thấy cô đứng trên bệ đá, giơ tay vẫy.

Đi gần đến nơi ông ta mới kịp nhận ra đó không phải bệ đá mà là cái miệng giếng, trên mặt có phiến đá lớn đậy kín. Ôn kiến Quốc bước nhanh đến bên Bồ Lam và nói:

- Chỉ là cái giếng bị bỏ đi có gì mà phải xem?

- Anh thử coi lại đi nào, chưa chi đã vội khinh thường - Dứt lời, cô cúi xuống ngồi xổm, thò tay vào trong bọc lấy ra một tờ giấy ăn lau chùi bùn đất bàm trên mặt phiến đá. Nó được cột bằng một sợi dây xích đầy gỉ sét. Dây xích cỡ bằng cổ tay đứa trẻ, áng chừng khá nặng. Thoạt đầu, bùn đất bám đầy trên mặt phiến đá không thấy rõ được, chờ khi Bồ Lam lấy giấy lau sạch, lộ ra một khoảng rộng và Ôn Kiến Quốc nhận biết trên mặt phiến đá có khắc họa đồ " Thái cực bát quái"

Nguyên bản bức phù điêu khi làm ra tương đối thô, còn họa đồ "thái cưa bát quái" này được chạm trổ rất tinh tế, nhất là những nét khắc ở phần âm dương gây cảm giác hình khối lập thể rõ rệt. Tuy mặt đá không có màu nhưng nhìn vào tấm họa đồ, người ta vẫn cảm nhận được sự khác biệt về trình độ tinh vi của điêu khắc. Ôn Kiến Quốc như bị mê đi. Ông ta cúi xuống xem, vẻ rất chăm chú:

- Chà, đẹp quá!

Thấy Ôn Kiến Quốc thích những họa tiết khắc trên đá đó, Bồ Lam lấy làm hài lòng lắm mới hỏi:

- Vậy người ta khắc hình vẽ lên đá để làm gì vậy Ôn Khắc?

- Mê tín. - Ôn Khắc đáp bừa, người ngày xưa đều mê tín như vậy cả. Rồi ông ta đưa máy ảnh kỹ thuật số lên để chụp, tức thì nghe Bồ Lam hỏi:

- Nhưng phiến đá đó có đáng tiền không?

Ngày hôm qua hai người cũng đã đến thăm một ngôi nhà cũ, ở đó, các khuôn cửa sổ trong nhà đều được chạm trổ hình hoa là và cả hai mái vòm cũng khắc tranh " bát tiên". Hướng dẫn viên du lịch cho biết, ở miền tây tỉnh Hồ Nam bây giờ vẫn còn nhiều kiến trúc cổ kiểu như thế này, nhất là ở sâu trong những xóm làng hẻo lánh, người ta lưu giữ rất nhiều đồ cổ. Thậm chí, nhiều nhà còn có những đồ của thời Minh. Một khuôn cửa sổ hoặc một cái tủ chạm khắc hoa lá đem bán đấu giá trên thị trường cũng hái ra khối tiền đấy! Bồ Lam nghe nói vậy thì thích mê đi; giờ lại nghe cô ta hỏi đến tiền, Ôn Kiến Quốc thực không thể nào nhịn cười được nữa:

- Chẳng lẽ cô định đánh cắp phiến đá này đem đi hay sao? Coi chừng nặng lắm đấy!

" Nếu bây giờ mà gặp được ai trong làng muốn bán lại đồ cổ cho mình thì mình cũng mua... " Ôn Kiến Quốc nghĩ thầm trong bụng. Chợt nghe Bồ Lam gọi:

- Kiến Quốc, chụp cho em kiểu ảnh này đi !

Cô ngồi ngay ngắn trên phiến đá, hai chân bắt chéo, lấy tư thế hơi xoay người sang bên trái. Chả là lâu nay cô vẫn có nghĩ chụp lấy phần nửa gương mặt bên phải bao giờ cũng đẹp hơn, thế rồi các tấm ảnh của cô, hoặc íy, hoặc nhiều, tuy có khác nhau nhưng đều chụp với tư thế hơi xoay người về bên trái. Ôn Kiến Quốc thấy tức cười nhưng cũng lùi lại chừng hai bước chân rồi đưa máy lên hướng về phía cô, miệng nhắc:

- Nào, ngẩng đầu lên chứ... được đấy, ngoảnh mặt lại một chút nào...

- Các người làm gì thế?

Giọng nói nhưlệnh vỡ làm cho Ôn Kiến Quốc giật nảy mình. Ông ta quay lại nhìn, hóa ra là một nông dân vai vác cuốc. Ông ta có dáng vẻ của người có học, nói được tiếng phổ thông, tuy giọng hơi trọ trẹ nhưng hiểu được. Kiến Quốc vội đặt máy ảnh xuống và nói với vẻ mặt tươi cười:

- À... chúng tôi đang chụp mấy kiểu ảnh làm kỷ niệm, có phiền gì không hả bác?

Nét mặt của người làm ruộng lộ vẻ hoảng hốt như thấy Kiến Quốc đã làm điều gì đó quá quắt lắm vậy. Cứ vậy, ông ta giữ nguyên cái cuốc trên vai, lao bổ tới cái giếng, thấy không sao cả thì mới thở phào nhẹ nhõm:

- May mà các người không đụng chạm gì đến nó!

Sau khi bỏ cuốc xuống, ông nhìn hai người với ánh mắt dò xét hồi lâu rồi mới hỏi:

- Sai hai người lại tìm đến đây?

Từ đầu đến giờ, chỉ vì không nói được thổ ngữ trong vùng, cả hai người cứ thế mà đi, đến đâu hay đó, giờ mới gặp người có thể trò chuyện được nên họ thấy nhẹ cả người:

- Chúng tôi bị lạc đường, bác ạ. Đang muốn trở ra, không biết phải đi lối nào?

- Hai người cuốc bộ khá xa rồi đấy, những mười mấy cây số cơ mà.

Đoạn ông cúi đầu xuống, vẻ như ngẫm nghĩ điều gì rồi chợt nhớ ra:

- Phải rồi, tiện thể ngày mai đội sản xuất có xe vào làng lấy lúa giống sẽ chở cả hai người củng đi. Giờ nếu hai người không chê thì cứ nghỉ tạm ở nhà tôi một tối, không sao cả.

Ôn Kiến Quốc mừng rơn, nắm tay người nông dân và nói:

- Quả thật tôi không còn biết nói gì hơn nữa, cần trả bao nhiêu tiền chúng tôi cũng xin chịu. - Lúc cầm tay người nông dân, ông ta cảm thấy đau nhói nơi gan bàn tay vì đụng phải một vật sắc cạnh, khi cúi xuống nhìn thì thấy nơi ngòn tay cái của người dân quê có đeo một chiếc nhẫn bằng đồng, hình thù quái dị; ông ta sững lại.

- Tiền nong đối với người nhà quê chúng tôi có là gì đâu, tôi có lấy cũng bằng thừa thôi.

Ông ta tỏ ra xới lới, nói chưa hết lời đã vội đi ngay, chân hơi tập tễnh song đi rất nhanh. Ôn Kiến Quốc phải vất vả lắm mới theo kịp, còn Bồ Lam gần như phải chạy bộ theo sau. Khi tiến sát đến lưng người nông dân, Ôn Kiến Quốc lại hỏi:

- Này bác, chúng tôi phải gọi bác như thế nào nhỉ?

Gã nông dân không đứng lại, vừa đi vừa nói:

- Tôi họ Liễu, tên là Văn Uyên.

Họ tên người này lại khiến Ôn Kiến Quốc phải trầm trồ. Gã nhà quê này, dáng vẻ bề ngoài trông thô kệch, vụng về nhưng tên gọi nghe ra rất văn hoa và tao nhã, thậm chí còn có vẻ "tri thức" hơn cả cái tên "Kiến Quốc" của ông ta nữa? Nghĩ vậy, Kiến Quốc bật kêu to:

- Xin chào Liễu đại ca, rất cám ơn anh.

Nhà Liễu văn Uyên ở gần ngay đấy, cách cái giếng không đến mấy chục mét. Đó là một khuôn viên rộng rãi, chính giữa là sân. Ông ta dẫn hai người khách sang phòng bên đầu hồi, nói trong lúc không ngửng đầu lên:

- Hôm nay ngày rằm, hai người nhớ đừng đi lại lung tung, nhé !

- Vâng - Ôn Khắc chưa kịp hiểu vì sao, chỉ đằng hắng được mỗi một tiếng "hừm" giữa lúc Văn Uyên nghểnh cổ nhìn lên trời nói:

- Hôm nay chắc đẹp trời, vậy hai người nên nghỉ sớm đi !

Dứt lời ông ta cầm cây cuốc lên để dựa vào đằng sau tường, gọi với vào bên trong nhà:

- Mẹ nó nhớ thổi thêm cơm cho khách nhé! - tiếp đó ông quay mặt về phía hai người khách mỉm cười:

- Hai người cứ nghỉ đi chốc lát, cơm chín rồi ta cùng ăn.

Chờ cho văn Uyên đi khỏi, Bồ Lam, với nét mặt lộ vẻ lo ngại đưa tay kéo Ôn Kiến Quốc giữa lúc ông ta đang mãi quét bụi trên giường. Ôn Kiến Quốc ngoái cổ lại:

- Sao thế, Bồ Lam?

- Em thấy có điều đáng ngại

- Ngại nỗi gì nào, thi thoảng về sống ổ thôn quê cũng hay lắm chứ!

Dọn dẹp giường ngủ đâu vào đấy, nét mặt Ôn kiến Quốc tươi hằn lên, nói giọng nhả nhớt:

- Bồ Lam, em vẫn chưa qua kì kinh sao?

- Cái gì cơ? - Bồ Lam giơ tay đập vào người ông ta, mặt đỏ lên - Sao đầu óc anh chỉ toàn nghĩ ...

- Sắc tình khiến người ta si mê. Khổng phu tử nói thế còn sai vào đâu được?

Bồ Lam tức tối ra mặt:

- Thôi đi, đó là Mạnh Tử nói.

Rồi cô bước thẳng tới cửa sổ, nhìn ra ngoài. Khuôn cửa xây theo kiểu cổ với cánh cửa bằng gỗ mộc, khi đóng lại, trong nhà tối om. Cô nói:

- Cửa sổ này, họ làm khéo thật đấy.

Ôn Kiến Quốc vừa dọn dẹp xong, đang lúc rảnh rang, nghe Bồ Lam nói vậy cũng hùa theo:

- Đúng vậy, cái gã Liễu Văn Uyên này, trước kia có lẽ là con nhà giàu. Tôi thấy chiếc nhẫn ở ngón tay cái của ông ta dễ thường là đồ cổ. Không biết ông ta còn thứ gì khác quý giá hơn nữa không?

- Thế anh định mua đồ cổ chăng? - Bồ Lam chợt hạ thấp giọng nói nhỏ:

- Suỵt...


Có ai đến kìa?

Người đó dừng bước, đưa tay gõ cửa. Ôn Kiến Quốc thuận tay đẩy cánh cửa ra và ông chủ nhà xuất hiện nơi ngưỡng cửa với một ôm chăn gối trước bụng. Ông bỏ đống chăn gối xuống giường rồi nói, giọng thành thật:

- Chỗ nhà quê, số chăn gối này vừa mới giặt cả đấy, hai người dùng tạm.

Chăn gối tuy không phải là mới nhưng được giặt giũ sạch sẽ. Ôn Kiến Quốc tỏ vẻ ái náy:

- Thật tình, Liễu đại ca làm tôi khó xử quá, biết lấy gì để tạ ơn đại ca đây?

- Có gì đâu mà phải lo như thế, lập thu rồi, trời trở rét, không đắp chăn để chịu chết rét à? - Đưa chăn gối xong đâu vào đấy, ông ta quay ra, mới đi đến ngưỡng cửa thì bất chợt ngoảnh mặt lại, dặn dò hai người khách:

- À phải rồi, nếu có gặp bà nhà tôi thì đừng sợ nghe chưa? Bà ấy cũng dễ dãi, không có gì đáng phải ngại đâu...

Ẩn ý của câu nói này, phải đến khi ông chủ nhà gọi đi ăn cơm, họ mới vỡ lẽ. Gia đình Liễu Văn Uyên có bốn người - vợ và hai thằng con trai. Tiếng là quê mùa nhưng ông sống rất cởi mở và rộng rãi, chỉ mỗi bà vợ là thô lậu phải biết, hai thằng con thì nhem nhuốc, bẩnt hỉu, đang tuổi trái tính trái nết, thấy người lạ chỉ biết trơ ra nhìn, ánh mắt e dè sợ sệt. Nói cho dễ nghe, có lẽ chỉ vì chúng nhát, không dám gần người lạ, còn nói khó nghe hơn thì đúng là vẻ ác cảm lộ ra qua ánh mắt, cứ mỗi khi bưng chiếc bát bằng sành lên, những con mắt mở to không chớp của ba mẹ con cứ nhìn trừng trừng qua miệng bát, tựa hồ những con mắt của loài thú dữ đang chăm chú rình mồi vậy.

Gian phòng chính của Liễu Văn Uyên rộng thênh thanh, giữa nhà trống trơn không bày biện gì, cả bức tường chính diện cũng vậy. Khác với mọi nhà ở trong làng thường hay trưng bày ảnh lãnh tụ, ở đây ông ta chỉ treo mỗi một khung ảnh với tấm ảnh đen trắng rất to ở trong nhưng do mặt kính bên ngoài đã bị bụi phủ mờ nên chẳng ai biết nó là ảnh gì. Bữa ăn thanh đạm dọn ra với món ớt đỏ xào thịt muối và thêm một ít rau xanh. Cả nhà Liễu Văn Uyên ăn uống rất ngon lành. Riêng cô Bồ Lam bị từng ấy con mắt của vợ và hai cậu con trai Văn Uyên nhìn chằm chằm từ đầu đến chân nên hoạng, cô chỉ dám ăn nhỏ nhẹ, qua quýt cho xong bữa...

Ăn xong, người vợ lo việc thu dọn và ông chủ nhà ợ lên một tiếng no nê, lấy tay lau mồm. Ôn Kiến Quốc liền đưa cho ông một điếu thuốc và nói:

- Xin mời Liễu đại ca.

Gã đón ngay lấy, vẻ rất hỉ hả, châm lửa hút rồi nói:

- Ấy, suýt nữa thì quên không hỏi họ tên hai người đấy?

- Tôi họ Ôn, tên Kiến Quốc, còn kia là bạn gái của tôi, cô Lâm Bồ Lam.

Thoáng thấy mấy tiếng "là bạn gái", bà vợ Liễu Văn Uyên liển đưa mắt liếc trộm Bồ Lam. Hai người, tuổi tác chênh nhau chẳng là mấy song bà vợ ông chủ nhà, do làm lụng vất vả nên già trước tuổi, trông như đã bốn mươi. Chưa kể bà còn có hai cậu con trai đều đã hơn mười tuổi rồi. Hai người đàn ông rì rầm trò chuyện không biết chán, bỏ quên Lâm Bồ Lam ngồi buồn một mình, chẳng nói chẳng rằng. Liễu Văn Uyên khơi màu:

- Vậy ông Ôn Kiến Quốc làm nghề gì ạ?

- Kinh doanh nhì nhằng, làm cò con thôi. - Ông ta như đỏ mặt với câu trả lời ấy, song nói vậy cũng đúng, vì hiện thời Ôn Kiến Quốc viết bài cho tạp chí, cũng là một kiểu kinh doanh ít phải bỏ vốn. Vừa nói, Kiên Quốc vửa để ý quan sát bài trí trong nhà Liễu Văn Uyên. Ngôi nhà rất cổ, có lẽ chủ nhân của nó thuộc tầng lớp trưởng giả trước đây nhưng giờ đã bị sa sút. Bàn ghế cũ kỹ, không có cái nào là không bị tróc sơn, bong ra từng mảng.

Chuyện phím dông dài, Ôn Kiến Quốc thấy đã sốt ruột mới đổi giọng hỏi:

- Tôi muốn hỏi Liễu đại ca xem trong làng ta, liệu còn có ai giữ được những thứ đồ cổ tử thời xưa để lại không?

Ánh mắt Liễu Văn Uyên như lóe sáng trong lúc y nói:

- Đồ cổ thì không thiếu đâu, như ngôi nhà này chẳng hạn, nó được xây từ thời trước nhà Thanh, vốn dĩ của một địa chủ trong làng. Về sau, trong cải cách ruộng đất, nó được chia cho tôi. Đấy, ông coi thử, nào bàn, nào ghế, trăm tuổi cả đấy!

Bàn ghế đúng là rất cổ nhưng khốn một nỗi trông chúng cũ nát, khập khiểng với chất gỗ không phải là thứ hồng mộc nên xem chừng người địa chủ kia chưa chắc đã là tay giàu sụ. Đến đây ông ta nhích ghế kéo lại gần Liễu Văn Uyên và nói nhỏ:

- Thế còn những lọ hoa trang trí bằng chữ viết, ở đây có không hả ông?

Liễu Văn Uyên vội nhả khói thuốc từ trong miệng ra nói:

- Ai dè Ôn huynh lại là người chơi đồ cổ cơ đấy?

Ôn Kiến Quốc cười, vẻ gượng gạo:

- Vâng, tôi thích chơi đồ cổ, thí dụ như chiếc nhẫn hiện đang đeo trên ngón tay cái của ông anh đấy, phải chăng...?

Chưa kịp nói hết câu, Ôn Kiến Quốc đã thấy cặp mắt của Liễu văn Uyên lóe sáng tựa hồ hai mũi dao nhọn sắt, và bất thần , ông ta cảm thấy mình như bị ngạt, nói không thành tiếng nữa. Nhưng may mắn cho ông ta, lát sau, ánh mắt của Liễu Văn Uyên dịu dần khi gã nói:

- Chiếc nhẫn này lâu đời thật đấy, song nó chỉ là thứ đổ cổ giả hiệu đúc nên từ thời Quang Tự.

- Tôi xem nhờ được chứ? - Nói rồi ông ta đường đột chìa tay ra, trong bụng vẫn nghĩ, chắc gì ông ta đã nghe mình. Không dè Liễu Văn Uyên tháo ngay chiếc nhẫn trên ngón tay, nói:

- Đấy, ông cứ xem đi...

Thoạt nhìn trông như chiếc nhẫn được đúc bằng đồng xanh, song khi cầm trên tay thì biết không phải thế vì trọng lượng của nó quá nặng. Hơn nữa, Ôn Kiến Quốc lại là tay sành sõi về đồ trang sức bằng vàng, nên chỉ việc ước lượng bằng tay là đủ rõ rồi. Chiếc nhẫn này nặng hơn vàng ròng một chút, chắc chắn không phải là đồng xanh. Sau nữa, về mặt tạo hình của nhẫn, ngó bề ngoài thấy nó đơn sơ cổ kính, nhưng nhìn kỹ từng chi tiết, mới nhận ra được sự tinh xảo với nét khắc hình con thao thiết, nắn nót, thanh khiết, y như nét vẽ vậy.

Có lẽ phải đến cuối đời nhà Thanh, may chăng các nghệ nhân mới đạt tới trình độ công nghệ này, như ta vẫn thường gọi nó là trình độ của thời kỳ cận đại. Còn như đời Thương - Chu, họ không thể làm ra những thứ đồ tinh xảo như thế này. Đó là chưa kể miền Tây của Hồ Nam vào thời Chiến Quốc thuộc nước Sở lúc ấy là vùng đất của dân tộc thiểu số, khác với vùng Trung Nguyên như Hà bắc, Sơn Đông chẳng hạn. Nghe vậy, Ôn Kiến Quốc tỏ vẻ thất vọng, đành trả lại ông chủ chiếc nhẫn:

- Những lọ hoa trang trí bằng chữ viết thì sao, có hay không ông anh?

Liễu Văn Uyên phì cười:

- Chữ viết thì bới đâu ra bây giờ? Tuy làng này cũng có một số người được ăn học hẳn hoi nhưng chữ nghĩa của họ bỏ xó lâu rồi, còn rặt những đồ cổ chỉ đáng làm đồng nát đem bán như hai người đã thấy đấy. Nên tôi muốn hỏi thật, có đúng Ôn huynh đang buôn đồ cổ đấy phải không?

- Chơi đồ cổ, thích thế thôi. - Ông làm bộ cười giễu. Vẻ uy nghi, đường hoàng một thời của căn phòng lớn này đâu rồi? Lúc ấy, chính giữa phòng nổi lên bức tranh mãnh hổ, chung quanh treo đầy các bức vẽ thư pháp. Quả đáng mặt một gia chủ giàu sang. Vậy mà bây giờ, đập vào mắt mọi người là đống củi trỏng trơ trong xó nhà với cánh cửa ra vào ọp ẹp, lung lay như răng ông lão và bốn chung quanh bốc lên một mùi phân gà chua loét... đúng cảnh nhà của một gia đình nông dân bình thường.

Chuyện trò rôm rả, câu được câu mất, trời tối lúc nào không hay. Miền Tây tỉnh Hồ Nam, bốn bề núi cao nên đêm tối đến sớm, loa phóng thanh treo trên tường bất thần phất ra một loạt âm thanh chói tai dạo đầu cho chương trình truyền tin của trạm phát thanh địa phương. Trước hết, phát thanh viên dùng tiếng Quảng đọc bảng tin về thu hoạch vụ mùa. Tiếp theo là chương trình " Tượng thanh", Liễu Văn Uyên loạng choạng đứng dậy, ném điếu thuốc hút dở đi rồi quay ra bảo Ôn Kiến Quốc.

- Ông nhớ cho, tối đến, đừng ai ra ngoài và chớ có bén mảng đến chỗ cái giếng.

- Giếng nườc sao mà không dùng nữa hả ông?- Ôn Kiến Quốc hỏi.

Ông chủ nhà đã toan lên lên gác, nghe thế thì chững ngay lại, cúi đầu xuống như tự tìm hiếu và suy nghĩ. Lúc ấy, Kiến Quốc tưởng ông ta chưa nghe rõ, định hỏi lại thì bỗng nghe thấy tiếng nói:

- Dưới đáy giếng có yêu quái.

- Yêu quái là cái gì? Rõ là họ suy nghĩ theo kiểu nhà quê rồi. - Khi về đến phòng Ôn Kiến Quốc vừa cởi áo vừa nói.

Bồ Lam đứng bên nghe và thở dài:

- Em chỉ thấy sợ thôi.

- Việc gì mà sợ. Ở làng này chỉ có một điều đáng ngại là mình không hiểu tiếng nói của người ta chứ họ đâu phải yêu quái! Này, cởi quần áo ra thôi. Chịu, không thể chờ lâu thêm nữa đâu.



Dứt lời, một tay ông kéo thắt lưng và tay kia ôm choàng lấy người đàn bà. Bồ Lam mặt đỏ bừng, dùng tay cố hắt ra:

- Đừng làm thế, ngoài kia họ nghe tiếng thì sao?

- Sợ quái gì, không biết chừng ở ngoài kia họ cũng đang làm cái việc đúng như mình đang làm ở đây này? - Ông ta tặc lưỡi rồi bỗng nhiên nói, vẻ xúc động lắm- Đã là con người thì ai cũng như ai cả. Lũ chó, mèo, lợn, dê, chúng đều làm chuyện này. Con người cũng thế, kẻ giàu người hèn, có ai là người không chơi nào. Thế nên còn đợi gì nữa mà không cởi phăng xống áo ra cho rồi?

- Gượm đã, Kiến Quốc- Người đàn bà hắt hắn lùi lại và nói - Thế còn chuyện ấy, chẳng lẽ anh quên mất rồi sao?

- Chuyện về mụ vợ bị chập mạch, người thì xấu như ma lem ấy à? Để ý làm gì? Lại đây với anh nào! - Ông ta lại nuốt nước bọt, một tay nắm chặt vai Bồ Lam.

- Nhưng chẳng lẽ anh không trông thấy gì trong tấm ảnh?

Ôn Kiến Quốc giật mình. Ông biết đúng là có tấm ảnh nhưng nó bị bụi phủ kín, chả còn trông thấy gì ở đấy. Vậy có sao không?

Đến lượt người đàn bà cũng nuốt nước bọt, cô hạ thấp giọng nói:

- Em đã thấy người trong ảnh, hình như chính là ông ta đấy.

Người mà Bồ Lam vừa ám chỉ, vốn là một nhân vật lớn, có ít nhiều tên tuổi trong lịch sử hiện đại. Riêng lịch sử của tỉnh Hồ Nam cũng đã có khá nhiểu danh nhân nhất là trong lịch sử cận đại. Đến đây Kiến Quốc đâm lo:

- Là ông ta ư?

Ông suy đi nghĩ lại rồi lắc đầu:

- Không đúng, tuy cũng là người Hồ Nam song ông ta sống ở một nơi cách đây xa lắm, chắc hẳn Bồ Lam nhìn lầm rồi.

- Không thể nhầm được- Người đàn bà nói - Đúng là trong sách giáo khoa phổ thông có ảnh của người này mà. Ông ấy giống Liễu Văn Uyên như đúc.

Bây giờ Kiến Quốc mới thấy khô miệng và khó chịu trong người. Ông ta lắc mạnh đầu:

- Giờ thì ta vui vẻ được rồi. Ngay đây thôi, chẳng việc gì phải đi đâu nữa.

Người đàn bà ngập ngừng:

- Em thấy không ổn đâu, đêm khuya rồi, ngộ nhỡ ông ta bắt gặp rồi nghi cho chúng ta lén lút đi ăn trộm thì sao?

- Thôi được rồi. Ông ta có là ai đi nữa thì làm gì được mình nào- Nói xong Ôn Kiến Quốc cười nhăn nhở, đưa tay kéo quần tụt xuống. Sau đó chui luôn vào trong chăn. Tấm chăn hơi ấm vì lâu ngày bỏ đấy không dùng song nó không đến nỗi gây khó chịu. Người đàn bà đưa tay lần cúc áo, chỉ mới cởi được mỗi một cúc nên còn chần chừ:

- Hay là mình chờ thêm lát nữa...

- Trời khuya rồi, còn chờ với đợi gì, nhanh nhanh lên nào!

Nói rồi ông ta đè nghiến người đàn bà xuống giường, một tay luồn từ dưới gấy váy thốc lên trên, miệng ông ta chà xát vào mép ả. Người đàn bà vùng vẫy kêu lên:

- Đừng kéo... Đừng như thế, kéo thế đứt dây, để đấy tôi tự cởi lấy...

Ả đã gỡ bỏ được chiếc áo ngoài song ông ta nóng lòng, không chờ thêm được nữa, cứ thế lôi tuột cô ả vào trong chăn.

Tiếp theo là đoạn diễn tả về tình dục với đủ dạng bút pháp văn chương, sử dụng nhiều nhóm từ ẩn dụ, hoán dụ và so sánh, hoặc viết toạc ra một cách trắng trợn, tục tỉu không thể tưởng được. Chẳng hạn viết... cái vật cương cứng ấy được đút vào miệng Bồ Lam, qua ma sát rồi mới đưa vào chỗ ... đến nỗi tôi thấy tởm lợm, đành quẳng bút đi , bởi lẽ bây giờ ả chỉ là một cái xác chết, chưa biết chừng nó đã bị hỏa thiêu thành tro bụi rồi... Sau đó, tôi lật sang các trang thông tin khác của Ôn Kiến Quốc và lại bắt gặp hai chữ "Trời ơi!"

Đó cũng là lúc đoạn viết về cuộc giao hoan giữa Ôn Kiến Quốc và Lâm Bồ Lam sắp chấm câu xuống dòng. Và ông ta viết: bên ngoài trăng sáng vằng vặc, tôi đang dồn hết tâm trí cho cú đánh cuối cùng, bất thình lình, Bồ Lam tung chăn ra, nói giọng thều thào:

- Ngoài kia, có ai đến!

Hơi thở của cô nàng hổn hển, gấp gáp; Ôn Kiến Quốc đang cơn hưng phấnđến tột độ, chỉ vì nỗi hốt hoảng của cô mà làm ông ta cụt hứng, liền gắt lên với giọng bực tức:

- Người đâu mà vô ý thế không biết! Xem này, mềm oặt đi thế này còn làm gì được.

- Em nói thật, đang có động ở ngoài- Cô cũng chả buồn để ý đế chuyện hắn mềm ỉu đi hay không nữa- Anh thử đi ra xem, không chừng có kẻ dòm xem trộm đấy!

Hắn tức tối chửi đổng, đưa tay quơ lấy tấm khăn trải gối cuốn quanh bụng rồi bước đến gần cửa, dùng tay đẩy cánh cửa lắp theo kiểu cũ, không có chốt tự động, then gài phía trong. Lúc nàu cánh cửa đã đóng chặt. Khi hắn bước đế gần, nghe ngoài trời gió giật từng cơn ầm ã, cứ như ngoài đó có con thú kỳ dị ngồi chồm hỗn một chỗ mà gầm gừ. Tuy gió không lọt qua được cánh cửa nhưng hắn vẫn cảm thấy gió lạnh thấm mãi vào người, khiến hắn không sao chịu nỗi, liền văng tục:

- Mẹ kiếp, chẳng có ma nào ngoài gió hú.

Hắn tính đi ngủ lại thì thấy Lâm Bồ Lam đã chống tay ngồi dậy và đang gài khuy áo coóc sê. Hắn nói:

- Đeo nó vào làm gì, cởi ra đi, đã xong đâu mà...

- Khốn, nhưng ngoài kia đang có người đấy- Người đàn bà nói như van xin - Anh nên ra ngoài đó xem thế nào đã.

Ông ta đưa tay luồn xuống dưới áo coóc sê:

- Được rồi, để đấy tôi xem, cứ coi như trả tiền thuê phòng vậy.

Ông ta đang định cởi nốt khuy trên chiếc coócsê của người đà bà thì từ xa chợt vọng tới tiếng khóc nấc lên như cố nén lại của ai đó.

Tiếng khóc vọng đến giữa đêm khuya, không biết là của đàn ông hay đàn bà thực khiến người ta ghê sợ; dẫu không cảm thấy rét mà người vẫn rung lên như cầy sấy. Bàn tay của Ôn Kiến Quốc cứng ngắt không động đậy, hai mắt dõi nhìn vào ả. Và người đàn bà ngồi câm lặng, nghe ông ta nói nhỏ như tiếng thì thầm:

- Em có nghe không?

Bồ Lam gật đầu nhưng vẫn ngồi yên, vẻ mặt trân trối trong lúc ông ta rụt tay lại, mặc quần áo rồi đi về phía cửa.

Bên ngoài gió giật từng hồi. Đêm nay trời quang mây mà sao có gió to. Dưới ánh trăng vằng vặc, mảnh sân trắng ra như bị phủ dưới lớp sương giá. Nơi góc sân có đụn cỏ khô và củi cành lay động mỗi khi có cơn gió mạnh thổi qua.

Lúc này, tiếng khóc đã lắng xuống song Ôn Kiến Quốc nghĩ, có lẽ nó chỉ là ảo giác của bản thân ông ta hoặc không chừng là bà vợ Liễu Văn Uyên khóc thì sao? Hắn đưa mắt nhìn về phía căn phòng của ông ta thấy tối om, bên trong đã tắt đèn. Liễu Văn Uyên ngủ rồi chăng? Một trận gió mới ào tới và ông ta rùng mình cảm thấy lạnh.

Có một bàn tay đặt lên vai ông ta.

Bị bất ngờ, ông ta giật mình quay đầu lại, hóa ra là Lâm Bồ Lam đang run rẩy đặt tay lên vai Kiến Quốc:

- Liệu có phải là kẻ trộm không?

Ngôi làng này không lấy gì làm giàu có nên chuyện trộm cắp vặt dễ xảy ra lắm. Ông ta đảo mắt nhìn quanh." Lỡ không phải vậy thì chẳng hóa ra họ đang nói mê sao?"

Có lẽ thế thật, ông ta đã định lên tiếng nhưng thấy buồn buồn nơi sống lưng như bị kiến bò và cô nàng đang dựa lưng vào người Kiến Quốc, toàn thân rung lên bần bật, ông đập mạnh vào sườn cô:

- Thôi, cứ đi ngủ là hơn, sáng ra mình đi sớm. Có trời biết sao mình lại mò mẫm đến nơi bị ma ám thế này để làm gì chứ?

- Nhưng mà em sợ lắm- Cô nàng nói, giọng chưa hết rung và ông ta cảm thấy bứt rứt trong người. Cảnh vật xung quanh không hề thay đổi nhưng ở nơi đây, ông ta lại cảm thấy có điều gì khác lạ đang diễn ra và ngôi nhà cổ kính không biết được dựng lên vào thời nào, giờ đang chìm ngập trong bầu không khí quái đản. Trong những góc tối thoắt ẩn, thoắt hiện những con mắt vô hình chăm chẳm dõi nhìn Ôn Kiến Quốc khiến ông ta hoang mang ngay cả với chính mình:

- Có ma nào đến đây mà cô sợ.

Ông ta vừa dứt lời thì tự nhiên, tiếng khóc ở đâu lại vọng về, nghe rõ mồm một, qua tiếng gió thổi thật não nùng. Ông bồn chồn cả tâm trí, người lạnh toát, quay lại nhìn phía sau lưng. Bồ Lam đã kịp choàng tấm áo khoác lên người, đứng đó với vẻ hoảng hốt qua ánh mắt.

- Không sao hết.

Kiến Quốc lùa ngọn lưỡi quấn quanh môi, nói tiếp:

Nghe như bà vợ Liễu Văn Uyên lên cơn thì phải?

Dứt lời, thình lình có tiếng "A!" và chiếc bóng đen nhảy từ từ trên mái nhà phía trước mặt xuống. "A!" Bồ Lam giật mình thét lên, vồ lấy cánh tay ông ta. Bị đau điếng đầu óc, khi trở lại sáng suốt, Ôn Kiến Quốc cười nói:

- Hóa ra chỉ là con mèo.

Thật vậy, đó là con mèo đen tuyển nhảy từ trên mái nhà xuống. Mập mạp, to như con chó, đứng sững giữa sân ré lên rền rĩ. Bực tức, hắn chửi đổng:

- Nào, ta lại tiếp tục chứ.

Ông ta cố nói bằng giọng bình thường và tự nhiên, nhưng tự sâu thẳm trong lòng, ông lại cảm thấy không yên chút nào. Ở trong ngôi nhà xa lạ này đã có những điềm báo trước nhiều sự chẳng lành sẽ xảy đến. Ôn Kiến Quốc níu tay cô ả, đưa cô ta đến bên giường. Bồ Lam lặng lẽ ngồi xuống và ông quay lại để đóng cửa.

Vừa bước đến ngưỡng cửa, ông đụng ngay phải con mèo. Nó ngồi đó, hai mắt trừng trừng, vẻ như muốn nhìn thấu ruột gan ông ta. Hoảng hốt, ông chỉ còn mỗi cách đóng sập cánh cửa để tránh tia mắt sắc như dao của con mèo.

Những thông tin mang chất văn học của ôn Kiến Quốc viết đến đây thì chấm hết. Và những chuyện tiếp theo, tôi chỉ được biết qua lời kể của Lâm Bồ Lam... Bỗng nhiên xuất hiện một gã đàn ông trần truồng đi đến bên bờ giếng rồi thân thể hắn hóa lỏng, tan ra thành nước đen ngòm. Và không kể, giữa tôi với Lâm Bồ Lam đã sơ ý bỏ sót vài điều gì đó thì ở đây, nó có đủ một phần sự thật không thể bỏ qua được...

Và nếu nó là một câu chuyện ma quái, rùng rợn thì phần mở đầu này viết rất hay.

Tôi uống ngụm nước trà lạnh tanh vì bị bỏ quên trong khi tôi mải mê đọc một xấp những thư từ, bài viết của Ôn Kiến Quốc. Đến lúc này, khi đặt bàn tay lên tấm kính mặt bàn giá buốt, tôi mới nghĩ đến chuyện phải đi kiếm chút nước sôi để uống cho đỡ rét. Lúc đứng dậy, chiếc ghế tựa của tôi xê dịch kêu đánh "kẹt", nó làm tôi sực nhớ tới một điều gì đó và tôi đứng sững lại.

Theo lờo Bồ Lam kể, khi thân thể ông già tan loãng ra thì làn nước đen kịt tuôn xuống giếng, nhưng Ôn Kiến Quốc lại nói một cách rõ ràng rằng, trên miệng giếng có một phiến đá đậy kín.

Đặt cốc nước xuống bàn, sau đó tôi ngồi vào chỗ, rà soát lại đống giấy tờ ghi chép thì đúng là có phiến đá được dùng làm nắp đậy miệng giếng, trên đó chạm nổi hình " Bát quái thái cực".

Vậy vì sao người ta bẫy cái nắp giếng ra? Trước đó Liễu văn Uyên chẳng đã từng yêu cầu mọi người đừng ai đụng chạm đến cái nắp giếng đó sao? Như vậy đủ rõ rằng, giữa lời kể của Ôn Kiến Quốc nói ông có nghe thấy tiếng khóc với lời Lâm Bồ Lam nói cô ta cũng trông thấy một ông già thì đã có một số chuyện khác nữa xảy ra mà ông ta cố tình không nói ra và cô cũng giấu không chịu nói cho ai biết.

Vậy nó là chuyện gì? Liệu có liên quan đến tôi hay không? " Cơn gió đến làm gợn nên sóng nước mùa xuân", chuyện vớ vẫn không đâu ấy, cứ cho là cả hai người đó chết cả rồi, vậy nó chả còn dính dáng gì đến tôi nữa. Hơn nữa, viết truyện ma quái rùng rợn không phải chỉ có mỗi mình Ôn Kiến Quốc mà còn khá nhiều người khác nữa cũng viết. Cùng lắm, tự tôi có thể thuê một tác giả khác, được lắm chứ sao? Nghĩ vậy, tôi thấy tự bằng lòng với mình; dẫu vậy, trong lòng vẫn chưa hết tò mò và sợ hãi, tôi nóng lòng muốn biết thực hư của câu chuyện là như thế nào?

Lâm Bồ Lam chết rồi. Cho dù chứng cớ về nó chưa thật rõ ràng nhưng tôi gần như tin chắc rằng Ôn Kiến Quốc là người gây ra mọi chuyện. Cả phía cảnh sát nữa, chắc hẳn họ cũng nghĩ như thế. Chỉ có điều nguyên nhân gì đã đẩy ông ta đến chỗ làm liều thì không ai biết được. Bởi vì hiển nhiên trước lúc chết, Bồ Lam gần như đã hóa điên và ngay cả ông ta cũng vậy, tôi dám cuộc rằng hiện thời Ôn Kiến Quốc cũng đang dở điên dở khùng. Và ai biết được một thằng điên có thể gây nên những chuyện gì!

Đến đây, bỗng nhiên tôi thấy buồn vô hạn, nghĩ rằng cả Ôn Kiến Quốc lẫn Lâm Bồ Lam đều hóa điên hết. Còn tôi đây nữa, liệu có giữ mình được bình thường mãi như thế này không? Hàng ngày tôi phải vùi đầu vào công việc ở tòa soạn, không buổi nào được vắng mặt. Chưa kể còn phải lo phận sự đúng theo ý của ông Giám đốc. Khó khăn, nhọc nhằn cũng chỉ vì lo sao kiếm đủ chi phí cho đời sống hàng ngày - một gánh nặng dài lâu. Vậy liệu chừng tôi có dám tự nhận mình là một con người bình thường hay không?

Tôi thở dài. Ngoài trời mưa bụi giăng lưới mịt mùng. Những toà nhà cao tầng mọc lên san sát. Chúng giống nhau như được đúc ra cùng một cái khuôn vậy, đến nỗi tôi không còn phân biệt được tòa nhà này với tòa nhà khác. Nên với tôi, chúng chỉ là những người khách lạ với khuôn mặt đáng ghét. Và khuất sau những khuôn cửa sổ trăm cái như một ấy, có lẽ cũng sẽ có những niềm vui và nỗi buồn khác nhau mà tôi không được biết, song đối với tôi, chúng đều giống nhau cả.

Đúng thế, tất cả đều giống nhau và tôi chỉ là một chiếc bóng bị giam hãm trong tối đen mà thôi.

Với nỗi buồn da diết dâng lên trong lòng, tôi đưa tay ra khép cánh cửa sổ lại để ngăn cách với trận mưa đêm ở bên ngoài. Sau đó tôi tắt máy vi tính. Trong nhà mỗi lúc một tốithêm. Tôi năm sõng soài trên giường, không biết vì sao ngực như bị chẹn bởi một tảng đá và nước mắt tự nhiên ứa ra, chảy ròng ròng trên má. Rồi trong mê hoảng, dường như tôi được quay trở lại với thời thơ ấu của mình. Những tháng ngày sống ngây thơ và thảnh thơi ấy đã xa quá rồi, con người tôi nhỏ bé và yếu đuối, mãi mãi chỉ là chiếc bóng mà thôi.

Trong giấc mộng lãng đãng và mơ hồ, tôi bước đến bên bờ giếng. Hôm nay, không một bóng người, và cái nắp đậy miệng giếng đã bị lật ra ngoài.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 6 : Đêm tối

Không một bóng người. Tôi suy ngẫm. Chân không giày đi trên nền đất gồ ghề, cứng quèo, nghĩ bụng đã là đất thì nó phải xốp mềm chứ! Hơi lạnh thấm qua gan bàn chân, dâng lên

trong người, nó không làm tôi khó chịu, ngược lại, tôi thấy rất khoan khoái.

Một giấc mơ kỳ lạ. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh. Do đi chân không nên mu bàn chân bị nhuốm bùn rất bẩn. Vả chăng chuyện trong mơ thường vẫn mâu thuẫn như vậy đó, nó có thể

không đúng như hiện thực nên tôi cảm thấy đất khô rắn và cũng có thể tôi đã nhận ra rất rõ ràng: hai bàn chân mình bị dính đất.

Xung quanh đây mọc lên những thứ cây khác lạ, kiểu như loại cây mọc thành bụi được cắt tỉa gọn gàng thường có ở công viên phương tây, chúng cao tới hơn hai mét. Thấp thoáng

xuyên qua các kẽ hở của bụi cây, tôi trông thấy những kiến trúc với cách tạo hình rất lạ và có điều đáng phải để ý, chúng giống hệt những kiến trúc mảng bẹt không có khối mà tôi đã

thấy trong các bức tranh vẽ từ thời còn nhỏ tuổi. Nói cho đúng hơn, chúng giống như những hình cắt bằng giấy bìa dán trên phong cảnh trời chiều.

Thật đúng là một giấc mộng kỳ cục, biết đâu hôm nay mình được thấy lại ông lão hóa thành làn nước đen ngòm ấy cũng nên! Rồi tự dưng, tôi thấy mọi thứ thật phù phiếm.

Đi trong mơ, chung quanh vắng tanh không một bóng người, tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi đã hoảng sợ, song đến lần thứ hai, tôi thấy mình ung dung thoải mái, tai nghe tiếng lạo xạo

của những viên sỏi dưới bàn chân mà không có cảm giác đau nhói, mặt đất băng giá đã biến thành tấm thảm êm dày.

Tôi bước đi thong thả, vừa đi vừa ngắm những bụi cây di chuyển theo mình. Trong mơ, tôi ăn vận phong phanh mà không thấy lạnh. Tôi cứ bước dọc theo con đường, trong lòng thư

thái nghĩ rằng ở phía trước mặt hình như có ai đang đợi mình. Và chỉ có tôi biết người đó là ai?

Phía trước. Đúng thế, ở phía trước mặt.

Lúc đó tôi nghe như có một âm thanh nhỏ nhẹ, tựa hồ tiếng khóc thổn thức, ai oán như tiếng mèo kêu não nề giữa đem đông đón gọi xuân về. Tôi hoang mang đưa mắt nhìn ra bốn

phía, muốn biết trong mơ liệu sẽ có chuyện gì xảy ra nữa, tuồng như Elis đuổi theo chú thỏ trắng chui vào hang sâu.

- Ai đấy?

Một tiếng kêu ghê rợn của người đàn bà dội lên trong đem tối. Tiếng kêu quá đột ngột và dường như không thật. Vì thế, tôi không buồn đáp lại và thản nhiên nhìn thẳng về phía trước.

Trời tối đen không trông thấy gì và thật tình, tôi không biết phía trước còn gì chờ chực nữa. Tôi cố giương to mắt, không biết giãn rộng thêm con ngươi mắt trong mơ có khiến mọi thứ

khả dĩ không?

Trước mặt vẫn như có một lớp sương mù bao phủ, tôi cố gắng để nhìn rõ mọi thứ thì bỗng nhiên xuất hiện một chiếc bóng lọt vào tầm nhìn của tôi.

Một người đàn bà. Mãi cho đến lúc đó tôi mới vỡ lẽ tiếng kêu mà mình nghe thấy trước đó là của người đàn bà này. Cách ăn mặc của bà cũng phong phanh, không hợp với thời tiết,

kiểu như của tôi ấy. Như vậy, phải chăng ở trong mộng người ta không mấy để ý đến thời tiết? Tuy nhiên, trong đêm tối, khuôn mặt bà hiện ra khá rõ và tôi không biết mình đã trông

thấy khuôn mặt phấn son lòe loẹt này ở đâu chưa? Tôi những muốn nói mà không sao thốt nên lời, đành há hốc miệng chờ đó.

- Vậy bà là ai?

Người đàn bà run rẩy. Lẽ nào trong mộng, ngoại hình của tôi khiến người ta khiếp sợ. Thế nên tôi làm bộ hé răng cười, dẫu biết chắc bà không nhìn thấy được.

- Ối, xin đừng... Đừng dọa tôi nữa... Xin ông tránh xa tôi ra.

Bà cầu xin, nhưng giọng lại có vẻ răn đe, người run rẩy như một chiếc bóng từ trong tối đi ra. Váy áo mang trên mình chẳng nhiều hơn tôi là mấy, trên bả vai áo còn có một miếng

rách.

Giấc mơ khiến tôi nghĩ đến một bộ phim kinh dị. Nội dung phim là cuộc chạm chán giữa nhân vật nữ chính với một con quỉ dữ. Bộ phim đó tồi lắm, cả đến lời thoại nghe cũng phát

chán lên được.

Chẳng nói chẳng rằng, tôi đưa tay sờ soạn phía trước mặt, hy vọng sẽ đụng tay vào không khí mát lạnh ngoài trời hoặc sẽ sờ trúng được chiếc gối đầu hay tấm mền chăn, không dè

đó lại là thân thể nồng ấm của người đàn bà. Tôi khiếp đảm, bật dậy, vừa nói vừa run:

- Bà... bà là ai vậy? - Giọng nói như méo hẳn đi. Bất thình lình, người đàn bà rú lên một tiếng "ối!", bà đánh thẳng vào cườm tay tôi rồi vùng chạy, sạt ngang qua người tôi, để lại đằng

sau một thứ mùi hăng hắc cùng luồng khí phất phơ. Cái mùi lạ ấy quyện vào không khí, lởn vởn xung quanh người tôi.

Quái lạ, tôi thấy nóng ran như bị bỏng nơi mu bàn tay, hay là vết xước do người đàn bà đó cào cấu? Quay mặt lại, tôi thấy ngưới đàn bà bước xiêu vẹo, hướng đến chỗ có ánh đèn

đường phố. Từ trên cao, ánh sáng tỏa xuống tựa hồ những bông tuyết buông rơi lả tả trên người, cảnh sắc xung quanh không phải là thật nữa.

Trời ơi! Tôi nghĩ... Trời ơi.

Phải chăng đó là cơn ác mộng. Tôi xòe tay ra, mắt chăm chằm nhìn vào bàn tay mình không chớp. Lạ thật, mình thấy đau rát, nhưng trên mu bàn tay sao chỉ có mấy vết trăng trắng và

sạch bong, không có tí máu nào. Vậy là người đàn bà đó đã không thể cào xước da tôi được, cho dù bà ta có những móng tay nhọn hoắt.

Biết đâu bà ta cũng sợ tôi chứ? Sợ đến nỗi như một con mèo, bà đã cào cấu tôi bị thương. Chính tôi dõi theo lúc bà chạy trốn mà bàng hoàng cả người. Tự hỏi giấc mộng này sao

phi lý đến thế?

Có lẽ mình cứ phải tiếp tục đi nữa xem sao?

Trông xa về phía trước, tôi thấy con đường vắng tanh, trải dài quá thêm một đoạn nữa thì mất hút. Liệu nơi đó có gì lạ không?. Trong mộng, dẫu xảy ra chuyện gì đi nữa thì đó cũng

không phải là điều bất ngờ, nhưng tôi vẫn thấy sợ.

Thật vậy. Sự sợ hãi đối với một thế giới mình chưa biết đến, đơn giản cũng như nỗi sợ của một đứa trẻ bị lạc đường. Nó thấy sợ ngay cả đối với một ngõ hẻm xa lạ.

Tôi riếp tục đi lên, thận trọng với từng bước chân. Chân đi đất, dấn bước trên mặt đường lạnh tanh mà cảm giác mình đang đi trên lớp băng rạn. Mùa này đã hết mưa song nhiệt độ

thấp, khí lạnh như những mũi kim châm đâm vào da thịt. Nhưng người tôi đã tê cóng không còn cảm giác gì nữa.

Biết đâu đây lại là một đặc trưng nữa của cảnh mộng? Nghĩ vậy, tôi cất bước thong thả. Đột nhiên, một âm thanh lạ lọt vào tay tôi. Nghe rất nhỏ, như thể tiếng thổn thức của ai đó. Tôi

lên chân từng tí một, chậm chạp đúng như của một người đang trong cơn ác mộng. Thấp thoáng trong đêm tối, tôi trông thấy một chiếc bóng, lúc ẩn lúc hiện, thẫm màu hơn cả bóng

tối.

Nào ai biết được đó là dã thú hay một con người! Vả chăng, trong bóng tồi, dù mọi thứ có khác nhau đến mấy thì tôi vẫn nghĩ nó giống như một con ngựa vằn. Bởi vì trên thân hình

chiếc bóng đó mang đầy những mảng vằn vện có thể thấy được lờ mờ trong khoảng tranh tối tranh sáng.

Chắc hẳn đó là con vật trong sở thú sổng chuồng thoát được ra ngoài. Tôi đần người trông theo nó. Trời lặng gió. Bốn bề êm ắng không một tiếng động và khí lạnh dâng lên đột ngột

tựa hồ hai bàn chân không giày đã dẫm lên một tảng băng. Nhưng vì chuíng đã tê dại nên không còn cảm giác.

Không chừng nó là con thú dữ như ta đã thấy trong cảnh quay của một bộ phim kinh dị rùng rợn. Giữa lúc tôi đang loay hoay nghĩ cách làm sao nhìn được rõ hơn thì bỗng nhiên, từ

trong klhoảng tối đen nhảy vọt ra một con thú dị dạng, hình thù quái gở... Tuy vậy, tôi vẫn lấn thêm được một bước nữa.

Và tiếng khóc thổn thức nhỏ hẳn đi, nghe như giọt nước từ mái gianh nhỏ xuống lưa thưa , lúc có lúc không.

- Ủa, ông đấy ư?

Trong bóng đêm, bất thình lình một tiếng nói thốt lên. Tiếng nói của con người, dẫu đã biến dạng song vẫn nghe rõ.

- Vây ông là ai?

Cuối cùng tôi cũng lên tiếng, tuy giọng nói nghe trống rỗng như thoát ra từ dưới đáy giếng sâu vậy.

- Hóa ra đúng là ông.

Giọng nói như lùi ra xa hơn, vẻ ngóng chờ. Tôi cố nghĩ xem có thể là ai nhưng vô ích.

- Ông biết tôi sao?

- Dè đâu ông với tôi cũng thế cả.

Giọng nói bỗng bật cười thành tiếng, làm tôi khó chịu:

- Vậy thực ra ông là ai?

Trong mộng, ai đời lại vặn vẹo truy hỏi như thế, hắn ta có thể là ngườimình quen biết hoặc cũng có thể mình không hề biết gì. Truy đuổi một người trong mơ chẳng mang lại lợi ích gì.

Tiếng soạt soạt phát ra từ trong bụi cây lúc này nghe nhỏ dần và chắc hẳn, hắn cũng đang lùi ra xa hơn. Tôi lại bước tiếp vì nghĩ bụng, trong mơ thì không có gì cản trở mình. Một cành

cây quệt vào người làm tôi đau điếng. Bất chợt tôi đứng lại, kêu lên:

- Rốt cuộc thì ông là ai chứ?

- Ha ha... Hắn cười gằn từng tiếng, giọng mỉa mai.

- Đến cả ông mà cũng không biết mình là ai nữa là...

Lẽ nào trong mộng người ta cũng thích triết lý? " Tôi là ai vậy?" Ngay từ lúc còn bé tôi đã thấm thía điều này. Bác tôi mất vào mùa thu, năm ấy tôi còn là học sinh tiểu học. Sau khi đưa

tang, về đến nhà, tôi được chứng kiến cảnh tượng bề bộn bày ra trước mắt. Đứng trước tấm gương lớn dùng thay quần áo, tôi đã thấy được chiếc bóng của mình và nghĩ ngay đến

"vấn đề" ấy. Con người gọi là "tôi" đó, rốt cuộc là ai? Cái người mang tên Tần Thành Khang lúc bấy giờ đang là một học trò nhỏ trong trường tiểu học. Rồi nó sẽ lớn lên, trải qua sinh

lão bệnh tử và cuối cùng về với đất để yên nghĩ. Cái người ấy quan hệ gì đến tôi chứ?. Giả sử Tần Thành Khang là tôi thì cái người đang phải suy nghĩ trăn trở đó rốt cuộc là ai vậy?

Vấn đề này tựa hồ một cái hố đen, quây lộn đầu óc đơn sơ của tôi lâu nay. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nghi ngờ, phải chăng ta chưa bao giờ tồn tại. Biết đâu chính Tần Thành

Khang mới là người, còn tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc, đứng nhìn hắn học tiểu học, trung học và đại học rồi giã từ quê nhà ra đi làm việc ở một nơi khác. Lo chuyện làm ăn của hắn.

Còn bảnt hân tôi, rốt cuộc tôi là gì?

Tôi nín lặng chẳng nói chẳng rằng và cái người ấy cũng câm lặng. Trong đêm tối tôi lại nghe thấy tiếng khóc nức nở.

- Cả mày nữa, mày cũng đang khóc sao?

Tôi đánh liều, cuối cùng cũng thốt được nên lời.


Trong ác mộng, nên nhớ rằng chỉ khi nào mình nói ra được thì mới hết lo đánh mất mình. Tôi vừa dứt lời thì tiếng thổn thức ngưng bặt,

thay vào đó là một tiếng cười nhạt.

Còn tôi chỉ muốn khóc.

Giờ hắn đang nói rỉ rả. Đêm tối, tôi thấy từ trong bụi cây xuất hiện một khuôn mặt màu đen. Khuôn mặt đó gần như hóa làm một với bóng đen chung quanh, nên đường nét của nó

không còn rõ nữa, tựa hồ tảng băng màu đen đang tan chảy. Tuy nhiên tôi vẫn ra được ở cái bóng khuôn mặt có nét quen quen.

- Ôi, Ôn Kiến Quốc! - Tôi buộc miệng kêu lên. Thật không thể nào tin vào mắt mình nữa. Ôn Kiến Quốc đã bao lần xuất hoện trong giấc mơ của tôi, nhưng không giống như cái hình thù

dị dạng quái đản đang đứng trước mắt tôi.

Đó không phải là người. Gương mặt nó đen tuyền, vằn vện những đường ngang dọc trên. Tôi bất giác rùng mình, bước giật lùi, hỏi dồn dập:

- Ôn Kiến Quốc, có đúng ông đấy không?

Cái bóng đứng dậy, trang phục trên người đúng là của Ôn Kiến Quốc, nhưng hình dáng lại khiến liên tưởng đến loại "amip" biến dạng.

- Ơi trời đất! sao ông đến nông nỗi này hả ông Kiến Quốc? Nói rồi hai chân tôi bỗng nhiên bủn rủn.

Cái bóng cười nhưng nét mặt vẻ như muốn khóc :

- Nào ai biết được!

- Thế còn Lâm Bồ Lam, ông giết chết cô ta rồi phải không?

Nói xong, tôi thấy mình lỡ lời. Đem những chuyện như thế ra hỏi người trong mộng thì khác gì mình đang nói mê? Hỏi nữa cũng bằng thừa thôi. Không dè cái bóng thụp ngay xuống,

khóc nức nở.

- Đúng đấy, tôi đã giết cô ta.

- Vì sao nào? - Dù biết nó chả có nghĩa lý gì nhưng tôi vẫn cứ hỏi.

- Vì Dạ Vương.

Nó nín thinh một lúc lâu, tôi những tưởng không đời nào nó nói nữa thì bất chợt, nó thốt lên câu đó và tôi gặng hỏi:

- Vì chuyện gì?

- Vì dạ Vương, hắn...

Rồi cái bóng chợt đứng phắt dậy, quay lưng chạy vụt đi. Tuy chân hơi bị khập khiểng nhưng nó chạy rất nhanh. tôi đã tính đuổi theo nhưng không kịp vì nó chạy nhanh quá, y như một

làn khói đen. Thoắt cái tan biến vào chốn xa xăm.

Đúng là một giấc mơ quái lạ, nó làm tôi buồn nên đành dừng chân đứng lại. Vả lại tôi chẳng thể nào đuổi kịp nó được. Nhìn xuống chân, mặt đất cứng quèo và giá lạnh, lúc ấy tôi chợt

nhận ra mình đã vượt quá ra ngoài những bụi cây lúp xúp và đặt chân đến một nơi lạ. Chân tôi giẫm phải một vật gì đó, cùng lúc, mũi tôi cũng ngửi thấy mùi thơm dịu ngọt lan ra

thoang thoảng quanh đây.

Lại cái gì nữa đây? Tôi nhìn xéo xuống dưới chân với ánh mắt ngờ vực. Trong mộng, mọi vật đều nhạt nhòa như được bao bọc dưới một lớp kính đầy hơi nước nên tôi không nhìn

thấy vật vướng phải là gì. Tôi cúi xuống nhặt nó lên, tưởng chỉ là một cành cây, nhưng không. Vật này nặng khoảng hai mươi đến ba mươi kilogram. Tôi cố thu nó lên, trải ra trước

mặt để nhìn cho rõ. Thình lình, một khuôm mặt nanh ác hiện ra.

Hàm răng của nó nhe ra lạnh ngắt. Trước cảnh tượng quá đỗi bất ngờ đó, ai mà chẳng hoảng sợ. Tôi tự trấn an mình, đó chỉ là một giấc mơ.

Đúng thế, đó là một giấc mơ.

Chuông báo thức đổ từng hồi. Tôi nhỏm dậy, đưa hai tay lên vuốt ngực. Tim tôi vẫn đập đều, mới rồi ở trong mộng, khi trông thấy khuôn mặt nanh ác của con thú, tôi đã tỏ ra không

sợ sệt.

Trời chưa rạng sáng, tôi ngồi ngay tại giường lấy tay dụi mắt cho quen với mọi thứ xung quanh. Hàng ngày, cứ vào khoảng giờ này, tôi đã trở dậy sửa soạn để đi làm mà vẫn còn

thèm ngủ, hôm nào cũng cập rập vội vàng ... Chân tôi kéo lê đôi giày, với tay bật đèn.

Dưới ánh sáng đèn sáng lóa, tôi đâm hoảng khi thấy có vết máu trên tay mình. Trống ngực tôi đập thình thịch và tôi như bị nghẹt thở, cố hả miệng thở sâu. Lát sau mới lấy hết can

đảm, chậm rãi đưa bàn tay lên gần mặt để xem lại cho kỹ.

Những ngón tay tôi dính máu, không nhiều và đã khô.

Tôi đã bị đứt tay ư? Tôi kiểm tra lại nhưng chẳng tìm thấy một vết đứt. Tức thì toàn thân tôi như bị ngộp trong nỗi kinh hoàng, cảm giác một lớp keo dính bám riết lấy mình. Khi còn ở

trong mộng, tay tôi nắm vào con vật đã chết, cảm thấy nó dính nhơm nhớp. Có lẽ đó là một con chó rừng nanh ác. Nhưng làm sao chuyện trong mộng lại hóa thành thiện thực được,

nếu thế thì...

Rồi như người phát khùng, tôi ngồi phịch ngay xuống, lật ngửa bàn chân lên xem và bất thần, người tôi muốn xỉu đi.

Nơi đầu ngón chân tôi cũng bị dây máu và gan bàn chân nhuốm đầy đất cát. Có mấy vết xước nhỏ, bằng chứng cho thấy tôi đã vượt qua một chặng đường khá xa bằng chân đất.

Tôi lặng lẽ quay lại nhìn giường ngũ của mình với đống chăn gối lộn xộn. Tôi lật tung tấm chăn ra.

Tấm ga lâu ngày không giặt đã bẩn, bây giờ trát đầy bụi đất, còn vương mấy sợi lông ngắn và thô. Thứ lông của động vật, chính xác là lông chó.

Tôi ngồi chết lặng trên ghế, mắt không dám nhìn vào giường nữa!

Là người được ăn học, tôi chẳng tin một tí nào vào cái gọi là siêu nhân, làm sao biến những điều trong mơ thành hiện thực được? Tôi không giải thích nổi chuyện đã xảy ra. Những

cuốn sách tôi từng đọc có nói tới chuyện mộng du, rằng những người mộng du sau khi tỉnh dậy thì chẳng còn nhớ mình đã làm gì trong mộng. Và nếu đúng thế thật, có lẽ tôi đã mộng

du... Tôi đã gặp một Ôn Kiến Quốc với bộ dạng của một con quỉ.

Không biết tôi ngồi đần ở đó bao lâu, đồng hồ đã chỉ 8 giờ sáng, tôi giật nảy mình. Bữa trước, trót đến chậm giờ, tôi đã bị lão Giám đốc xạc cho một trận, lần này chắc cũng không

thoát. Tôi rửa chân quấy quá rồi vội vàng đi làm. Tối qua bị mộng du, tôi ăn vận phong phanh rồi bị cảm, bây giờ đầu váng vất, chân bước thấp cao. Qua cổng tòa soạn, tôi thấy ngại,

chuẩn bị sẵn tinh thần bị trách mắng. Lên đến tầng lầu văn phòng thì đụng ngay phải Văn Đản, hắn khẽ chào hỏi:

- Kìa Khang, cậu đến rồi à?

Lúc ấy hắn đứng ngay trước cửa buồng toalet. Tôi đưa tay lên gãi đầu, mặt nhăn nhó:

- Mình lại muộn giờ mất, xui quá đấy!

Lí do đến chậm thì nhiều lắm song hậu quả là bị trừ vào lương. Họ trừ hết lần này đến lần khác, dễ thường rồi miếng cơm cũng không có dủ mà ăn.

Văn Đán vẫn làm bộ nghiêm túc bảo khẽ tôi:

- Cảnh sát người ta vừa mới đến đấy, đòi gặp cậu ngay. Lại sinh chuyện gì rồi phải không? Trông mặt cậu tái đi kìa.

- Tìm gặp tôi làm gì? - Tôi giật thót mình. Nghĩ cho kỹ, ngoài việc nhổ bậy ra, tôi chẳng làm gì nên tội. Đang định nói tôi chả gây nên chuyện gì sất thì bất thần Giám đốc ló đầu ra gọi to:

- Anh Khang đến rồi, may quá. Có đồng chí công an đang muốn gặp anh đây này.

Tôi ngần ngại, lo rằng với bộ mặt tbiểu não như bây giờ của mình, biết đâu họ sẽ nghĩ mình có chuyện gì khuất tất? Giữa lúc đó, anh công an từ trong phòng bước ra, mắt nhớn nhát tìm tôi và nói:

- Xin chào, anh là Tần Khang phải không?

Với vẻ mặt lo ngại, tôi đáp:

- Phải. Vậy có chuyện gì thế hả anh?

- À, cũng có vài điều muốn biết ý kiến của anh, mời anh đi với tôi chốc lát.

Tòa lầu này lấy làm tòa soạn, kể ra cũng khá hỗn tạp; nó có phòng họp riêng dành cho Giám Đốc. Lúc tôi đi theo sau anh công an trong bộ đồng phục vũ trang thì đã có khá đông người đứng xúm xít quanh cửa phòng họp. Ai nấy đều tỏ ra thông cảm với tôi vì nghĩ rằng, rất có thể tôi sẽ bị bắt. Thậm chí có người thấy tội nghiệp cho tôi. "Thường ngày cậu ta hiền lành như thế, ai ngờ lại là thanh niên hư đốn" Một người nữa nói, ra vẻ am hiểu luật pháp lắm: " Ít ra cũng phải mười năm tù, chính tôi đã đọc luật hình sự rồi". Giám đốc bỗng bực mình, gắt um lên:

- Thôi, mọi người vể chỗ cả đi. Phải làm việc chứ! - Rồi quay sang anh công an, ông nói:

- Đồng chí Trần, đồng chí cứ nhẩn nha mà làm việc.

Cánh cửa vừa khép lại, tôi liền hỏi ngay:

- Xin lỗi, tôi muốn hỏi đồng chí Trần, tôi phạm luật sao?

- Phạm luật à? - Anh công an đang lấy giấy bút ra, nghe nói vội ngẩng đầu. ngạc nhiên vừa cười vừa nói - cứ cho là anh phạm luật đi nhưng không đến nỗi làm loạn, có gì mà phải lo. Tôi chỉ hỏi chuyện theo thông lệ thôi.

Người thừa hành chức trách này xem chừng không giống như các đội viên liên phòng khác vốn quen thói hống hách, không văng tục thì chửi đổng nên tôi vui vẻ ngồi xuống ngay:

- Vậy anh có chuyện gì muốn hỏi?

- Anh quen biết Ôn Kiến Quốc chứ?

Tôi sững sờ:

- Tôi có biế. Ông ta là cộng tác viên của tôi. Ông ấy viết tiểu thuyết, có chuyện gì sao?

- Lần cuối cùng anh gặp ông ấy là vào lúc nào?

Suýt nữa thì tôi buột miệng " chỉ mới hôm qua" nhưng nghĩ lại, tôi nói:

- Cách đây mấy hôm rồi, tôi không nhớ rõ. Nhưng tối hôm qua tôi đã nói chuyện với ông ấy mà không trông thấy mặt.

- Hừm - Anh công an hắng giọng trong lúc hí hoáy ghi chép.

Tôi nói:

- Vậy tôi xin hỏi thật anh, có phải người ta nghi cho tôi không?

Anh mỉm cười:

- Anh cả nghĩ quá ông Thành Khang ạ. Sáng sớm nay đội liên phòng đã tóm được Ôn Kiến Quốc rồi. Ông ta thừa nhận đã giết Lâm Bồ Lam, bây giờ chúng tôi hỏi chuyện anh chẳng qua là làm theo thông lê thôi.

Rồi như có điều gì làm người thừa hành công vụ băn khoăn, anh lại hỏi:

- À này anh Thành Khang, gần đây khi làm việc qua lại với Ôn Kiến Quốc, anh có nhân thấy ở ông ta có triệu gì không được bình thường chăng?

Trống ngực tôi đập dồn dập:

- Ý anh định hỏi về mặt nào chứ?

- Chẳng hạn như tâm trạng của Ôn Kiến Quốc dạo này - Anh công an nuốt nước miệng rồi đáp - Chả là đội liên phòng phát hiện được ông ta trong lúc tuần tra vùng bờ sông. Lúc ấy ông ta đang uống nước sông ừng ực. Trời thì rét và nước sông bẩn đến như thế, giặt giũ không thể được, nói gì uống.

Lâm Bồ Lam cũng phải chết dưới dòng sông đó, tôi nghĩ thầm trong bụng. Thấy tôi làm thinh, anh công an hỏi:

- Anh vừa nghĩ thêm được điều gì phải không?

Tôi ngước mắt nhìn lên:

- Sau chuyến đi chơi ở Hồ Nam về, ông ta trở nên kỳ cục như thoa phấn lên mặt chẳng hạn. Lạ lắm.

- Thoa phấn cơ à? - Anh ngẩng đầu lên nhìn tôi với ánh măt nghi ngờ - Thoa lên mặt sao?

- Chứ còn gì!

- Ông ta thích làm đẹp đến thế sao? - Anh công an xoay tròn cây bút trên đầu ngón tay và nói tiếp:

- Phải rồi. Ông ta còn có họ hàng người thân nào khác không?

- Cái đó tôi không rõ. Ông ta chỉ là tác giả làm việc với tôi và tôi không bận tâm đến các chuyện khác của ông ấy.

Anh ta lại lật giở những trang ghi chép trong cuốn sổ, tay vẫn mâm mê cây bút chì, ra chiều suy nghĩ lung lắm rồi đột nhiên hỏi:

- Mà này anh Thành Khang, anh cũng là người Hồ Nam phải không?

Tôi thấy ngạc nhiên mới nói:

- Vậy thì sao nào?

- Nhân tiện thì hỏi thôi. Anh không phải bận tâm.

Anh ta nói cho vui chuyện, song tôi biết tỏng đây không phải lúc hàn huyên chuyện trò. Tôi vẫn làm bộ gật gù:

- Đúng thế, song có điều cha mẹ tôi mất sớm. Tôi lớn lên, học xong đại học, rồi từ đó đến giờ chưa trở về lần nào.

- Kể ra cũng vất vả, phải xa quê hương. Anh ta nói với giọng cảm thông. Tôi mới hỏi:

- Vậy Ôn Kiến Quốc có đá động gì đến việc vì sao ông ta giết bạn gái của mình không?

Người thừa hành công vụ xuýt xoa. Tuồng như anh ta bị đau răng, nói:

- Ông ta không hé răng. Anh hỏi để làm gì?

Nghe thế, tôi biết anh ta có ý giấu diếm:

- Thưa anh, tôi biết Ôn Kiến Quốc lâu nay nhút nhất và tôi không tin ông ta lại đi giết người! Vậy ông ta có nói ra điều gì lạ lùng không?

Anh đưa mắt nhìn tôi trong lúc hai hàm răng cắn vào nhau, nói:

- Sau khi bị bắt, hắn nói lung tung, không đầu không đuôi, nào là "đóng dấu niêm phong", nào là " Dạ Vương" gì gì ấy và chúng tôi nghĩ rằng, đằng sau đó không chừng có tổ chức tà giáo?

Tôi sững sốt:

- Gì thế? Trong tiểu thuyết của ông ta chưa bao giờ có nội dung gì dính dáng đến tôn giáo mê tín cơ mà.

Anh công an đưa mắt nhìn xung quanh, nói:

- Hay lắm, nhân thể anh có mang theo tập tiểu thuyết nào của ông ta không, cho chúng tôi mượn đọc được chứ?

- Vừa may số tạp chí kỳ này có đăng một thiên tiểu thuyết của ông ta. bản "morat" cũng vừa gởi tới, tiện thể tôi sẽ đi lấy một bạn đưa anh đọc trước.

Trong phòng làm việc, tiếng bàn luận sôi nổi, tôi vừa đẩy cửa bước vào thì tiếng trao đổi im bặt. Cảm thấy những ánh mắt nhìn tôi soi mói, tuồng như tôi dây mơ rễ má nào đó với các phần tử phi pháp. Nhưng tôi cũng chẳng buồn để ý, vội vã đi đến bên bàn giấy, lấy bản 'morat" của số tạp chí kỳ tới còn thơm mùi mực mới in. Đã định quay ra thì Văn Đán lại gần hỏi han:

- Anh công an đi rồi chứ?

- Chưa.

Tôi cũng không muốn dài dòng song Văn Đán chạy theo lẵng nhẵng hỏi:

- Này anh Khang, anh có phạm vào điều gì không? Liệu có dính dáng đến tôi không hả anh?

Tôi cười thành tiếng:

- Anh làm chuyện gì khuất tất mới sợ tôi tố giác phải không nào?

Hắn cũng cười vẻ như gượng ép:

- Tôi sợ cóc khô gì. - Ngừng giây lát hắn mới ghé gần vào tai tôi nói nhỏ - Anh cẩn thận đấy, chớ nói lung tung, cánh công an là giỏi bắt thóp người ta lắm đấy.

Tôi cầm bản 'morat" quay lại phòng họp. Anh công an còn đứng đó, tay chắp sau lưng, đọc các biểu ngữ treo trên tường. Giám đốc trước kia có thời làm công tác tuyên huấn ở nhà máy quốc doanh nên ông ta đã cho treo khá nhiều lời trích của các nhân vật nổi tiếng, trong đó có cả câu của Edison.

- Xin gởi anh bản "morat" số tạp chí mới của chúng tôi! - Nói rồi tôi trao tờ tạp chí cho anh ta.

- Hấp dẫn lắm phải không?

Tôi gượng cười:

- Cũng bình thường thôi. Toàn ảnh người đẹp. Các tạp chí ăn khách đều thế cả.

- Chắc hẳn bán cũng khá lắm chứ?

- Cũng tạm được. - Nói rồi tôi lật đến trang in mục lục - Đây, bài này. Ôn Khắc là bút danh của Ôn Kiến Quốc đấy.

Anh ta lần giở các trang của tạp chí, hỏi :

- Vậy tôi có thể cầm bản này về được không?

- Anh cứ tự nhiên. - Tôi cười vui vẻ.

Anh ta kẹp tờ tạp chí vào trong cặp, đứng dậy bắt tay tôi, nói:

- Chào anh Thành Khang, việc coi như xong. Nếu còn gì cần thiết, có thể tôi sẽ đến nhờ anh giúp cho đấy.

Tôi thở phào nhẹ nhõm. Xem chừng Ôn Kiến Quốc cũng không đến nỗi thú nhận bừa bãi. Tôi bắt tay anh công an và nói nhỏ với hắn:

- Tiện thể anh có thể ghé qua chỗ hành lang nói vài lời với mọi người được chứ?

Anh ta sững lại:

- Sao phải thế?

- Không thì các đồng nghiệp của tôi sẽ đồn ầm lên rằng tôi là thanh niên sa ngã, phải chịu án hình sự từ sáu đến mười năm gì đó...

Anh ta cười rõ, vẻ thoải mái:

- Hay thật đấy.

Ra đến ngoài cửa anh ta mới cất giọng oang oang:

- Đồng chí Tần Thành Khang, xin cám ơn đồng chí đã phối hợp với chúng tôi, chào đồng chí!

Đi đến cửa thang máy, tôi mới sực nhớ, vội quay sang anh công an hỏi:

- Suýt quên, Ôn Kiến Quốc bây giờ bị giam ở đâu vậy?

Anh ta ngẩng đầu lên hỏi lại:

- Để làm gì?

- Chả là tôi định đến thăm, chẳng gì thì ông ta cũng là một tác giả cộng tác với tôi.

Thoáng suy nghĩ rồi ông ta mới nói:

- Được thôi. - chững lại giây lát và nói một cách chậm rãi. - Ông ta ở viện 7

Viện 7 là bệnh viện tâm thần nên tôi sững sốt:

- Ông ta bị điên rồi sao?

Anh ta gật đầu :

- Tâm trí ông ta bị rối loạn, không còn nhớ gì sất. Anh đến thăm ông ta cũng tốt biết đâu lại giúp ích cho công việc điều tra cũng nên.

Sau khi tiễn anh ta ra về, tôi mới kịp nhận ra lưng mình đẫm mồ hôi, thấm ướt ra cả áo sơ mi. Đi ngang qua cửa văn phòng, bỗng nghe tiếng Văn Đán gọi chào "See you again", hắn vẫn bận tâm đến việc của tôi. Khi tôi đẩy cửa bước vào thì hắn im bặt. đồng nghiệp chung quanh vờ như đang bận việc và thản nhiên như không thấy.



Vừa ngồi xuống thì có tiếng kẹt, cửa văn phòng mở hé ra và lão Giám đốc thò cổ vào nhìn quanh, nói:

- Anh công an về rồi à?

Tôi mới đứng dậy nói;

- Về rồi.

- Vậy anh gặp tôi một lát.

Đặt chân vào văn phòng Giám đốc, tôi để ý thấy Lý Đĩnh không có mặt ở đó. Lão ta lên giọng nặng lời với tôi rồi bảo tôi quay về phòng mà lo công việc. Lúc ấy tôi thấy mình như lên cơn sốt. Ngồi trước mặt Giám đốc mà hai chân tôi bồng bềnh như đang giẫm trên một đống bông vậy.

Sau đó, mọi chuyện diễn ra như thế nào, tôi cũng không nhớ nữa. Sáng sớm hôm sau, cả đến chuông báo thức cũng không sao gọi tôi dậy được. Khi tôi trở dậy thì đã chín giờ rưỡi. Tôi cố bò dậy, lê thân mình đến bệnh viện gần nhất khám bác sĩ. Tôi sốt ba mươi chín độ. May mà dịch SARS vừa mới qua, nếu không họ đã dồn tôi vào buồng cách ly rồi.

Kê đơn thuốc xong, nhân lúc chờ tiêm thuốc, tôi đã kịp gọi điện báo tin cho Giám đốc biết. Cứ nghe giọng cũng đoán được là ông ta đang trách tôi sao lại ốm đúng vào lúc công việc bận rộn thế này. Nhưng làm sao khác được. Tiêm thuốc xong, gần như tôi phải bò về đến nhà, lăn luôn lên giường. Người xa quê lại độc thân, sợ nhất là lúc ốm đau. Có cảm giác muốn buông xuôi tất cả. Tôi thấy đầu mình nặng trìch trịch, nhìn xung quanh thấy quang cảnh giống như trong một cuốn phim cũ lâu năm với hình ảnh đen trắng đảo ngược.

Tôi nằm trên giường, mắt nhìn lên trần nhà không chớp. Trần nhà vấy bẩn, ở một góc nhà có đám màng nhện và một con nhện con bò ra bò vào, giăng những sợi tơ vương đầy bụi. Dạo này, trời đang trở rét nên muỗi biến đâu hết. Mắt tôi dõi theo cái điểm đen nho nhỏ di chuyển loanh quanh trong một đường tròn, bất giác tưởng mình như con nhện, quanh năm suốt tháng ngừng lại trong sự tưởng tượng. Khi mùa hè đã qua đi, nó vẫn cứ bận rộn một cách vô ích, đến nổi coi sự cần mẫn chăm chỉ ấy mới là công việc hàng ngày của mình. Mãi cho đến lúc này tôi mới nghĩ đến tuổi già. Hiện tôi không có của để dành, mà cũng không có tài sản, nhà đất. Nếu mất việc làm, chắc tôi sẽ chết đói.

Đầu óc cứ vẫn vơ nghĩ những chuyện ấy, tự nhiên tôi thấy Giám đốc tuy ngang ngạnh, lắm lúc vô lý nhưng lão cũng có cái đáng yêu. Chẳng hạn lão cho tôi những tờ giấy vẽ hoa văn do ngân hàng phát hành... Suy nghĩ được một lúc, người tôi nặng như chì và tôi dần dần chìm vào trong giấc mộng lúc nào không biết.

Tôi thấy mình đứng ở nơi đầu đường phố vắng tanh. Gió thổi tới, giấy vụn và bụi đất tung bay mù mịt. Cảnh tượng đó đã trở thành quen mắt với tôi kể từ khi tôi còn nhỏ tuổi. Hồi ấy, tôi sống ở một thị trấn nhỏ của Hồ Nam, vì ít bạn nên tôi thường dạo chơi lung tung trên các đường phố ngập trong cát bụi. Vào thời ấy, trên các bức tường của đường phố, người ta dán đầy những tờ giấy to màu trắng và đỏ, trên đó dầy dặc những chữ viết bằng mực đen. Chúng bị mưa ướt sũng rồi được gió hong khô thành những mảnh giấy cứng quèo, bị gió thổi rớt xuống phát ra tiếng kêu khô khỏng. Buổi ấy, cái thằng tôi năm sáu tuổi đầu thích chơi trò qua cầu, lao mình qua lại trên những ngõ hẻm chạy ngang dọc như một chốn mê cung. Tôi thích nhất được ngắm xem những tranh vẽ hình người kỳ dị dán khắp nơi trên tường. Còn những chữ viết kín mít trên trang giấy với văn phong kiểu "humor' đen, đọc không hiểu được cũng chẳng làm sao, vì lúc ấy tôi chỉ mê có mỗi tranh biếm họa vẽ phác thôi.

Cách đây đã bao nhiêu năm, lúc ấy tôi lên mấy nhỉ? Quên mất rồi. Những việc xa xưa ấy, bây giờ tôi đã quên sạch sành sanh, chỉ còn lưu lại những ảo ảnh nhòe nhoẹt. Tôi trông thấy mình đứng trên chop một bức tường, khuôn mặt đỏ hồng lên vì sung sướng khi thấy người ta trương ra một bức biếm họa có tên gọi là "cười ra nước mắt" và tôi cò cảm tưởng trống ngực tôi đập thình thịch dưới lần áo rộng quá khổ.

Bất thình lình, tôi thấy đằng sau mình, những chiếc bóng đen tụ lại với nhau thành làn nước đen dâng cao dần lên. Những bóng đen ấy có ở khắp mọi nơi, lan tràn không bờ bến, tựa như một khối lượng khổng lồ mực đen đang đổ xuống, nhiều như nước sông tràn bờ mênh mông. Làn nước đen kịt chảy đến đâu, cỏ cây khô héo đến đó. Vậy mà lúc ấy, tôi đứng ở chân tường cười lên sằng sặc vì vui thích trước bức tranh vẽ người đàn bà luống tuổi đã biến dạng. Những bóng đen đang lan ra một cách lặng im, không một tiếng động, hệt như vết mực loang trên một tờ giấy hút mực thượng hạng.

Bóng đen đã nuốt chững đầu cầu và với khí thế không gì cản lại được, nó đang di chuyển đến nơi những cậy cột điện... Những bóng đen giống như loải thực vật "Shumi", nó có sức sinh trưởng nhanh ghê gớm. lặng lẽ, êm như ru, nó nhuộm đen cây cột điện bằng gỗ. Rồi nó men theo bức tường, từ chân tường đền đầu tường và tràn qua... Cứ như vào buổi trưa hè, người ta đốt một tờ giấy trắng dưới ánh nắng gay gắt và bạn sẽ không trông thấy ngọn lửa mà chỉ thấy tờ giấy trắng đen dần từng tí một cùng với một đường thẳng uốn cong rồi bị gió thổi bay đi.

Chạy trốn đi!

Tôi tự bảo mình nhưng đứa trẻ trong tôi vẫn đứng yên một chỗ, mãi mê xem tranh vẽ trên tường. Rõ ràng nó không biết gì về những điều đang diễn ra ở xung quanh. Còn tôi, cho dù kêu gào đến khản giọng, nhưng tiếng kêu không thành tiếng, như chính tôi đã không hề tồn tại.

Nó có phải là tôi không?

Tôi nghe thấy mình thở hổn hển, không khí từ đường mũi đi vào phổi rồi từ phổi trở lại với không khí và phát ra từng hồi hơi thở nghe thô và nặng. vậy mà cậu bé là tôi không hề nghe thấy gì. Tôi đã tính lao người tới để nói với chính mình song khoảng cách tấc gang ấy, sao nó xa vời đến hàng ngan2 dặm, dẫu bằng cách gì đi nữa, tôi vẫn không sao lại gần bên mình được.

Chạy đi nào!

Tôi nói và bản thân không hề nghe tiếng. Tôi đã trông thấy khí thế dữ dội "cháy rừng" của những chiếc bóng ào ạt đổ về phía trước, dẫu không đứng ở điểm cao mà tôi vẫn thấy được cả một vùng đất. Nó có hình một chậu nước và người ta nhỏ vào đó một giọt mực đen, thoáng cái, nó đã loang khắp chậu nước.

Chạy đi thôi!

Tôi gào lên một cách tuyệt vọng. Những chiếc bóng giờ đây đã tràn đến nơi chân trời, nuốt chững hết thảy. Bên cạnh cậu bé là tôi, còn sót lại một quãng ánh sáng hình tròn, tựa hồ nó đang đứng trên một cái giếng cạn. Có điều khủng khiếp hơn nữa là tuy thế giới đã đổi khác hoàn toàn nhưng bản thân tôi vẫn không hề cảm thấy gì. Nó vẫn mãi mê ngắm hình vẽ trên tờ giấy đỏ với một nụ cưới ngây thơ nở trên môi.

Mau chạy đi kìa!

Tôi lẩm bẩm, xung quanh không một tiếng động. Tôi ngẩng đầu. Màn trời tối đen như đêm đã khuya, có vẻ như mọi vật đã bị tấm vải đen dày trùm kín, không thể nhìn thấy trăng sao, chỉ còn một màu đen sâu thăm thẫm.

Cuối cùng, tôi hét lên rất to. Tiếng thét đó làm tôi nhận ra tất cả chỉ là mộng mị. Khi mở mắt ra, tôi cứ tưởng là mình vẫn đang trong cơn mê, xung quanh vẫn tối đen. Nhưng rồi tôi cũng nhận ra là trời đã tối thật chứ không phải là vẫn chìm đắm trong giấc mơ dài không thoát ra được.

Cơn sốt đã hạ, cổ họng khô rát như cháy, mồm miệng nhạt thếch chẳng muốn ăn gì. Tôi lê dép đến bên cửa sổ, dường như vừa thấy cái bóng của chính mình lướt qua trước mắt. Hình như đó chính là tôi trong bộ đồ rộng thùng thình đang ngây ngô cười, đọc những băng khẩu hiệu màu đỏ, chữ to với những từ 'Đả đảo' , "Đập tan".

Những chuyện này xảy ra từ bao lâu rồi nhỉ?



Nhiều năm tháng đã trôi qua, mọi thứ đã nhạt nhòa như phim ảnh cũ kỹ đã hết nét, ranh giới đen trắng đã nhạt phai và trở thành một mảng mờ mờ xám xịt.

Tôi không biết mình đã đứng trước cửa sổ bao lâu rồi, chỉ kịp nhận ra nước mắt chảy ròng ròng trên mặt. Tôi đã khóc vào lúc nào, mà vì sao chứ? Tất cả không còn quan trọng nữa và tôi cũng không nhớ gì hết. Với tôi, cái thế giới bên ngoài tối đen kia giống như người khách lạ. Một người khách lòng dạ khôn lường.

Vĩnh viễn...
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 7 : Kẻ hút máu

Hôm sau tôi dậy rất sớm, tuy chưa khỏe hẳn nhưng cũng phải đi làm. Khi bước vào khu nhà lớn, vẫn chưa có ai đến, cả khu nhà vắng ngắt. Trong lúc đợi thang máy, tôi thấy hai cô gái vừa đi về phía thang máy vừa chuyện trò. Họ làm ở công ty khác trên tầng mười, bình thường chúng tôi chẳng bao giờ thèm chào hỏi nhau, họ mãi chuyện trò quên mất sự tồn tại của tôi, một cô nàng trông như đang bế con.

Thang điện tới, tôi nhường họ vào trước, từ cái bọc cô nàng bồng bế trên tay bỗng có tiếng sủa của chú cún con khiến tôi giật mình, mới vỡ lẽ ra đó không phải là người. Chú cún đen ăn vận còn sang hơn cả trẻ dưới quê, lông cũng được chãi mượt, được bọc trong tấm thảm nên thoạt nhìn cứ tưởng là em bé. Vừa nghe cún sủa, cô nàng đã nựng nịu:

- Bô Bô ngoan nào, tan sở mẹ mua gan cho cưng ăn, đừng khóc nữa nhé.

Nàng kia hỏi:

- Băng Băng ơi, Bô Bô ươn người phải không?

- Ừ, hình như nó bị cảm thì phải, chốc nữa tôi phải đưa đến bác sĩ thú y.

Khi thang máy dừng lạiở tầng mười, hai nàng bước ra, vừa đi vừa tiếp tục tán dóc. Tôi bấm nút đóng cửa cho thang máy đi lên. Trong cái lồng sắt chật hẹp này, mùi nước hoa phảng phất khiến tôi không sao chịu được. Đến văn phòng, ngồi sắp xếp lại bàn máy tính được một lúc mới thấy lèo tèo vài đồng nghiệp tới. Tôi đánh tiếng chào, họ vẫn nhìn tôi nhưng không bắt chuyện.

Sao họ có thái độ như vậy nhỉ, chẳng nhẽ những lời mà tay công an nói ngoài hành lang hôm qua không có giá trị gì sao. Tôi gượng cười, đi pha một cốc trà, mở máy tính chuẩn bị sửa nốt bản thảo còn dở dang từ hôm trước. Vừa bắt đầu được một chút thì giọng nói của Văn Đán đã vang lên bên ngoài

- Đĩnh Đĩnh đã đến chưa?

- Lý Đĩnh đến rồi à?

Cô ta vừa mới "Vâng" một tiếng thì giọng của sếp đã vọng tới:

- Văn Đán, vào việc thôi.

Cửa bật mở, Văn Đán bước vào. Anh ta hay nói chuyện khôi hài, nhiều lúc vô duyên, nhưng lại chẳng có vẻ ngượng ngịu gì cả. Vừa bước qua cửa, anh ta đã hạ giọng thầm thì:

- Lý Đĩnh ốm nặng, sắc mặt xấu lắm.

Một đồng sự khác e hèm lên tiếng:

- Văn Đán, người ta ốm thì thì đã có bạn trai người ta lo, can dự gì đến anh mà lắm chuyện.

- Nhưng mà... - Văn Đán còn định nói thêm gì đó thì ngưởi bạn đồng nghiệp kia đem ra một chiếc phong bì dày cộp.

- Có bản thảo mới gởi đến, anh thử xem đi.

Tập bản thảo rất dày, Văn Đán nhận rồi vủi đầu đọc và cũng hết lắm chuyện. Nếu không có việc gì làm, có trời mới biết anh ta còn huyên thuyên những gì nữa, cả phòng đang làm việc, yên tĩnh được một lát. Đang bận rộn thì có tiếng người oang oang ngoài phòng.

- Đây có phải là Ban biên tập của Truyền kỳ Đại quan không ?

Tôi giật mình ngoái cổ nhìn, thấy một người đứng ngoài cửa. Văn Đán đặt tập bản thảo xuống, đứng dậy nói:

- Đúng đấy, xin hỏi anh tìm ai vậy ?

- Vị nào là Giám đốc của các anh?

Văn Đán trả lời :

- Ở buồng bên, để tôi đưa anh đi. - Anh ta đứng dậy, đi sang phòng bên, gõ cửa, lát sau mới quay lại.

Nét mặt văn Đán không vui, một đồng nghiệp có lẽ là hơi lo lắng liền hỏi:

- Văn Đán, có chuyện gì thế ?

Văn Đán gật đầu nói nhỏ :

- Chẳng biết nữa, sếp đang bực mình đấy.

Anh ta cưởi khanh khách:

- Mặt mũi sếp không đến nỗi khó coi hơn ông đấy chứ. Chắc là tiền thuê nhà còn chưa trả tiền nên người ta mới đến thúc nợ đấy.

Nếu đúng là tiền nhà cũng chưa trả nổi thì e là cuộc sống của chúng tôi sẽ thêm khó khăn, thôi, đành được đến đâu hay đến đó vậy. Tôi cũng chẳng bận tâm nhiều đến chuyện ấy lo làm tiếp những công việc dở dang. Tập bản thảo tôi đang làm có quá nhiều chỗ sai, phải sửa cực kỳ vất vả. Khi ngưởi ta bận rộn, thời gian thường trôi qua rất nhanh. Thoáng cái đã là buổi trưa. Nhà hàng đã đưa cơm hộp tới, chúng tôi bắt đầu ăn. Đã là cơm hộp thì làm gì có món ngon, nhưng hôm nay ăn mà chẳng có cảm giác gì. Ăn được hai miếng đã thấy không thể nuốt nổi. Bụng vẫn đói, nhưng nhìn mấy miếng thịt mỡ xào với thứ rau vàng vàng, tôi thấy buồn nôn. Vậy mà, dường như Văn Đán và những người khác ăn rất ngon miệng. Đang ăn thì sếp bỗng thò đầu vào gọi:

- Văn Đán, sang đây đã, có chuyện rồi.

Văn Đán sờ lên cái đầu cạo trọc của mình, chùi mép rồi hấp tấp đứng dậy, bườc đi với vẻ lo lắng. Anh ta vừa đi, một đồng sự đã thì thào với người ngồi bên:

- Này, liệu có phải là chuyện sa thải nhân viên không nhỉ ?

Số lượng bản in của cái tạp chí lá cải này đẩy mãi cũng không lên được. Mấy hôm nay, mặt mũi sếp lúc nào cũng nhăn nhó, nghe nói ông ta đang tính giảm bớt mấy nhân viên, ai ngờ lại dính vào Văn Đán. Trong lòng chua xót, miềng cơm trong miệng như đắng lại, không thể trôi xuống họng , tôi liền đậy luôn hộp cơm còn dư quá nửa lại mà rằng :

- Các ông đã ăn hết chưa để tôi quẳng đi luôn thể?

Nhưng hộp cơm của họ đều đã được vét sạch không còn một hạt. Tôi bỏ tất cả vào túi nilon lớn, đặt ở góc hành lang, nơi có mấy thùng rác rồi mở nắp thùng, mùi thiu thối bốc ra làm tôi suýt nôn mửa. Cái bụng trống rỗng khiến tôi càng cảm thấy khó chịu. Tôi quẳng vội cái túi vào thùng rác, vừa quay đầu lại thì chạm chán ngay với Văn Đán. Tôi giật mình, suýt ngã, liền gắt lên:

- Văn đán, anh làm gì thế? Lẳng lặng như ma, hết cả hồn.

Văn Đán nhìn thùng rác:

- Cậu đi vứt rác hả?

- Đâu có.

Văn Đán xưa nay vẫn hay nói nhiều, hôm nay lại càng lắm lời hơn. Tôi hỏi:

- Có tin xấu phải không ?

Văn Đán gật đầu, tôi thở dài :

- Thì cứ việc đuổi người, dẫu sao thì cái tạp chí này chẳng biết sẽ sống được bao lâu nữa. Ở đâu mà chả kiếm được cơm ?

Tôi còn định an ủi anh ta vài câu, nhưng Văn Đán có vẻ như trút được phiền muộn nói:

- Anh nghĩ được như thế là tốt rồi, sếp bảo sẽ trả anh một khoản tiền đền bù phá hợp đồng.

- Cái gì ? - Đầu tôi đau buốt như vừa bị ai đánh mạnh.

- Tôi bị đuổi việc à ? Hôm kia, ông không nghe thấy gì sao? Tay công an đó đến đây hỏi han về chuyện một cộng tác viên của tôi, chứ tôi đâu có làm điều gì xấu.

Văn Đán nói với bộ mặt tỉnh queo :

- Chẳng phải vì chuyện đó đâu, sếp vừa nhận được thông tin bên đồn công an nói rằng tạp chí của ta phải đình bản để điều chỉnh, vì tuyên truyền đồi trụy và mê tín dị đoan.

Tin này như sấm sét giữa trời quang mây tạnh, tôi giật mình hỏi:

- Không phải như thế chứ? Nhưng có chuyện đó thật không?

- Tôi lừa cậu làm gì? Sếp nổi giận đùng đùng, bảo rằng chuyện này là do cậu gây ra và quyết định đuổi việc cậu.

Lẽ nào vì tôi cho tay công an đó cuốn tạp chí mà sinh chuyện như thế này sao? Tôi vội nói:

- Này, hợp đồng của tôi chưa hết hạn đâu nhé, ông ấy làm sao mà đuổi được tôi?

- Thế nên sếp mới phải đành lòng cho cậu khoản tiền đền bù phá hợp đồng, và cũng chẳng muốn cậu làm thêm nữa. Khang ạ, chẳng phải là tôi không nói đỡ cho cậu, nhưng thực là hết cách rồi.

Người tôi lạnh toát, ngẩn ngơ chẳng biết nói sao, chỉ gật gù:

- Sếp bảo cậu nói với tôi sao?

Anh ta bỗng bật cười nói:

- Ông ta sợ cậu giận quá hóa điên lại cần dao xin ông ta tí tiết thì chết.

Tôi cũng bật cười cho dù trong lòng cay đắng. Có lẽ sếp vẫn cho rằng tôi bị công an đến thẩm vấn thì chắc chắn không phải là người tốt. Tôi vỗ lên vai anh ta:

- Ra là như thế đấy.

Hình như Văn Đán cũng có điều gì đó không thể thổ lộ, anh ta thở dài nói:

- Khoản tiền đền bù đã chuyển vào tài khoản của cậu, cậu kiểm tra lại nhé. Thế cậu tính sắp tới sẽ sống thế nào đây?

Tôi ngắm nghía đôi tay của mình, gõ máy chữ quá nhiều, đầu ngón tay bị mài mòn bạc phếch, tôi nói:

- Có chân có tay, chả chết đói dược. Nhưng rồi đây, tôi lưu lạc đến cửa nhà ông kiếm miếng cơm, ông nhất định phải dành ít cơm thừa cho tôi đấy.

Văn Đán không nhịn được, bật cười to:

- Cái cậu này, rõ thật là... !

Sao sếp chẳng làm thịt cái con lươn này lại đi làm thịt tôi nhỉ ? Số anh ta còn đỏ chăng ? Khi nói với tôi việc này, anh ta cố nén không để lộ nét mặt thương cảm. Quả thực chuyện này cũng làm anh ta khó xử. Nhìn bộ dạng anh ta, tôi cũng thấy lòng mình rối bời. Tôi nói:

- Thôi được rồi, thế là sếp cũng chẳng đến nỗi bạc với tôi đâu.




Tôi đi xuống gác, Văn Đán còn chạy theo lải nhải tiếp:

- À Khang, cậu không sao chứ ? Đừng nghĩ ngợi nhiều làm gì

- Không sao, tôi xuống nhà vệ sinh tầng dưới. - Tôi cười - Có tự sát thì cũng chẳng chết trong nhà xí đâu.

Văn Đán hơi ngẩn ngơ nói:

- Vậy cứ thế nhé !

Nếu có chuyện buồn phiền, ngồi hút thuốc một lúc trên cái bồn cầu cũng là cách giải sầu. Dù tầng mười hai cũng có phòng vệ sinh nhưng tôi thích yên tĩnh một mình. Cầu thang đi bộ xuống tầng dưới bị công ty trước đây bịt chặt, nay công ty mới đến đang sửa sang lại, nhưng hôm nay họ không làm việc. cả tầng lầu này hoàn toàn yên tĩnh. Tôi ngồi trên bồn cầu lặng lẽ hút thuốc mà trong lòng như muốn than muốn khóc. Bây giờ tìm việc rất khó, khá nhiều sinh viên mới tốt nghiệp còn không kiếm được việc làm, chứ đừng nói đến tôi đã tốt nghiệp được mấy năm rồi. Cuộc sống quả thực không dễ chút nào. Trước đây, khi nghĩ đến cảnh thất nghiệp, tôi có phần bàng quan, bây giờ mới thực sự được nhấm nháp vị đắng cay của nó. Tôi hút thuốc, khói lan tỏa khắp gian phòng chật hẹp, mọi thứ trước mặt cũng trở nên mờ ảo. Mặc kệ. Kiểu gì thì cũng sống được. Tôi nghĩ vậy, quăng đầu thuốc xuống sàn, đang định lấy chân gí lên thì bỗng cảm thấy phía trước có gì đó là lạ một âm thanh nhỏ nhẹ vẳng đến tai. m thanh rất nhẹ, như có ai đó đang khóc thầm, phải chăng là một nỗi khổ không nói được thành lời.

Ai thế nhỉ? m thanh vẳng đến từ phòng bên, lẽ nào bên đó còn có người?

Tôi ra khỏi phòng vệ sinh, đứng trên hành lan nhìn ra ngoài. Không một ngọn đèn, cửa lại đóng chặt, hành lang tối om chẳng khác một đường hầm vô tận. Trong không gian mờ mịt đó, tiếng khóc than như càng rõ hơn. m thanh vẳng lại từ đầu kia của hành lang, nhất định không phải là ảo giác, vậy là chuột chăng? Không, đây là tầng mười một, chắc hẳn chuột cũng không leo lên cao thế này làm gì. Tôi thận trọng bước về phía đó, cố gắng không gây ra tiếng động. Một cảm giác như say thuốc lan tỏa khắp người. Tôi thận trọng, nhẹ chân bước về phía đó.

m thanh phát ra từ phòng 1107, ảo giác không thể đánh lừa tôi. Tôi đứng trước cửa, hít một hơi thở sâu, tay nắm lấy núm cửa định bước vào. Dù tầng trên tầng dưới đều có người, nhưng đứng ở đây chẳng nghe thấy gì hết, mọi huyên náo đã rời xa, sự yên lặng bao trùm đầy vẻ thê lương. mặc dù hàng ngày tôi đều đến làm việc ở tầng mười hai nhưng chưa bao giờ đặt chân lên tầng mười một này. Ồn ào ban ngày qua đi, cái yên tĩnh ma quái còn lại sao mà khó chịu đến thế.

Người trong phòng là ai vậy ? m thanh rất mơ hồ, nghe chẳng rõ là đàn ông hay đàn bà, có vẻ như một người làm thuê chưa đòi được tiền công nên không thể về quê được. Số phận của những con người bất hạnh ấy còn hẩm hiu hơn tôi biết bao.

Đúng lúc định đẩy cửa bước vào, tôi bỗng thấy như có luồng khí lạnh sau lưng, đôi tay bị đông cứng. Tầng nhà này có lẽ vừa mới được quét vôi lại, đây đó còn vương vất mùi vôi vũa và thạch cao. Một mùi tanh như máu xộc vào mũi tôi. Có người đang cắt mạch máu để tự sát chăng?

Tim tôi đập dồn dập, ngỡ như người trong phòng cũng nghe thấy. Tôi vẫn chưa dám mở cửa, bàn tay đang nắm núm cửa tự nhiên nới lỏng. Tôi chưa kịp định thần, cánh cửa đã chuyển động rất nhẹ nhàng, khiến tôi giật mình suýt hét lên.

Tôi lập tức phát hiện ra cửa phòng đã hỏng khóa từ lâu nên không khóa được, khi tôi vừa nới tay, cửa đã hé mở, tạo nên một khe hở nhỏ. Qua khe hở này, tiếng khóc từ trong phòng lọt ra càng rõ ràng hơn khiến tôi tin chắc đó không phải là một giấc mơ.

Trong phòng đúng là có người. Tôi ghé sát khe hở nhìn vào trong. Thật lạ lùng, hai bên hành lang không có cửa sổ nên rất tối, bên trong phòng dù có rất nhều cửa sổ nhưng còn tối hơn. Tôi giương to mắt, nhìn từ góc này, chỉ thấy được một cái cửa thông sang phòng khác. Các phòng trong khối cao tầng thường liên thông với nhau nếu lần đầu tiên bước vào, không cẩn thận sẽ bị lạc. Dù nhà có nhiều tầng, việc đi lại thường dùng thang máy, người đi cầu thang bộ chỉ chiếm tỉ lệ rất ít. Hai tầng gác này đều có người ở, nhưng ngoài tôi hay đến chỗ này chơi, còn lại rât1 vắng vẻ.

Cứ ngỡ tìm được một nơi yên tĩnh, chỉ có một mình để suy ngẫm, không ngờ vẫn còn một người khác nữa.

Tiếng thổn thức đó nghe như âm thanh nổi ba chiều. Tiếng khóc nhẹ nhàng nhưng rất rõ ràng. Biết đâu, con người có nỗi thống khổ này đang cầm lưỡi dao cạo khứa vào cổ tay mình. Sau mỗi nhát khứa, da thịt hắn nứt toát ra, tựa hồ vầng đất ruộng được cày lật lên và máu đỏ tươi úa ra từ bên trong. Mãi tưởng tượng, đầu tôi choáng váng, bất giác, tôi lấy lưỡi liếm quanh làn môi khô nứt nẻ.

Không, dẫu sao đi nữa mình vẫn phải khuyên hắn chớ có đâm đầu vào chỗ đường cùng, ai cũng có lúc khó khăn nhưng không phải vì thế mà buông xuôi cho qua mọi chuyện được.

Tôi đẩy cửa.

Lúc cánh cửa mở ra, tôi cảm thấy mình bị lạc vào một không gian khác lạ, không còn là phòng 1107 nữa. Cảnh tượng trước mắt không như tôi tưởng tượng; thay vì một người tay cầm con dao nhỏ cứa vào cổ tay mình là một bóng người đầu cuối gục, đứng bên cửa sổ khóc thút thít. Đó là một con người. Một con người đen tuyền.

Một chiếc bóng ư ? Tôi sững sờ. bình tĩnh lại, tôi nhận ra ngay, nó không phải là cái bóng mà là một con người. toàn thân, suốt từ đầu đến chân, những con ruồi xanh đen bám lúc nhúc. Loài ruồi thường tìm đến chỗ kín gió, ấm và ẩm thấp để sống qua được cái khắc nghiệt của mùa đông, trước mắt tôi, chúng bâu kín mít, không để hở ra một tí da thịt hoặc một chút sắc màu quần áo của con người này.

Đàn ruồi cứ như bị dính chết trên tờ bìa bẫy ruồi có láng chất keo dính, không một con nào bay lên được nhưng chúng ngọ ngoậy, phát ra tiếng kêu ong ong. Đó là âm thanh lúc nãy tôi đã nghe thấy và tưởng lầm là tiếng khóc thổn thức của người nào đấy. Nghe tiếng kẹt cửa, con người đó giật mình quay lại, giữa đám ruồi xanh lúc nhúc lộ ra hai con mắt và trên tay hắn có thứ đồ chơi đính lông nhung màu đỏ.

Trời đất ơi! Tôi cảm thấy mình vừa hít phải một luồng khí lạnh. Tôi đang ở trong một giấc mơ ? Vì hiện thực tìm đâu ra một cảnh tượng như thế này. Tôi thấy mình trở thành vai chính trong bộ phim hành động rùng rợn, từ hiện thực rơi vào ác mộng; dũng cảm nhưng ngu ngốc. lây nay, tôi chỉ biết ong là loài côn trùng sống theo đoàn. Chưa bao giờ được chứng kiến cảnh tượng đàn ong bâu kín trên thân mình, làm thành tấm áo khoác đồ sộ bằng lông. Mãi nghĩ, tôi chớp mắt, thầm mong mọi thứ chỉ là mơ và khi mở mắt, con người bị lũ ruồi bâu kín trên thân thể ấy cũng thoắt biến mất như trong cơn ác mộng? Nhưng khi tôi mở to mắt, cái hình người với lũ ruồi xanh bâu kín chung quanh vẫn đứng yên tại đó, không động đậy.

Phải chăng vì quá hoảng sợ mà tôi đã quên không nghĩ đến chuyện mình phải chạy trốn tức thì khi hắn giơ cánh tay chậm rãi với tới một bên vai tôi. Lúc ấy, trong đầu tôi vẫn quay cuồng mỗi một câu hỏi "Rốt cuộc hắn là ai ? " Lòng bàn tay hắn mới rồi nắm chặt cái đồ chơi làm bằng lông nhung, bây giờ trông nhẵn bóng, trên đó có vết máu đang cố vươn tới chỗ tôi, cùng với bầy ruồi bay quấn quýt xung quanh.

Ngươi là ai ?

Đột nhiên tôi nghe tiếng ai đó hỏi mình. Toàn thân tôi bao phủ một cảm giác kinh hãi, đến nỗi không làm chủ được bản thân mình và mọi hành động đều theo bản năng. Nào chạy nhanh lên, nhanh nữa lên chứ ! Tôi như loài côn trùng có cánh bị hút theo ánh đèn, từ từ nhích dần tới con người kia. Gần lắn rồi và mọi thứ trở nên rõ ràng. Cho dù bầy ruồi đã bâu kín không còn lấy một chỗ hở trên người hắn nhưng tôi vẫn nhận ra được con người này có thân hình nhỏ bé.

Ma! một con ma, đúng rồi. Mặc dầu tôi không tin vào chuyện ma quỉ, nhưng cảnh tượng hiện ra trước mắt khiến tôi kinh ngạc và chỉ có thể nghĩ được như thế.

Bàn tay hắn đã đặt được lên vai tôi. Những vết máu bắt đầu khô và dính nhơm nhớp trên vai áo. Bầy ruồi lúc nãy bò nhung nhúc trên người hắn bỗng bay vù lên, tán loạn như những tàn giấy đen tung bay mù mịt. Lắm con đâm cả vào mặt khiến tôi thấy đau. Tuy nhiên lúc này, tôi đã bớt sợ hãi, chăm chú dõi nhin hắn tiến lại gần mình, trê đầu hắn đầy ruồi, cả hai tai hắn cũng vậy, ruồi chui vào lỗ tai rồi lại bò ra. Và tôi có cảm giác cả làn tóc của hắn nữa cũng đã hòa tan trong sắc màu của ruồi. Hai tai tôi ù lên bởi tiếng kêu ong ong không ngớt. Cảm tưởng những con trùng đang nối đuôi nhau bò dần vào trong tai tôi rồi chui lên óc. Tôi không thể nào cử động được tay chân, thậm chí cả lòng can đảm để nói nên lời cũng mất nốt.

Nhưng thực ra, nếu tôi có há miệng để nói thì luồi cũng sẽ ùa tới chui tọt vào cuống họng. Sức mạnh nơi bàn tay hắn kể ra cũng lạ, nó đặt lên vai tôi, kìm giữ tôi. Tôi thấy mình đuối sưc không né tránh được và người bủn rủn, bất động một chỗ.

Hắn chậm rãi bước lại bên tôi.

Với hắn, động tác ấy nghe chừng khá vất vả song hắn vẫn cố nhích dần lên, mỗi lúc một gần hơn. Tôi không thể thốt lên tiếng nói của mình, chỉ giương mắt trân trân nhìn. Có tiếng 'khục khặc" phát ra từ họng hắn.

Hắn sẽ làm gì tôi ?

Tôi đưa tay quờ quạng dưới mặt đất mong tìm được một vật gì như thanh gỗ chẳng hạn để làm vũ khí hoặc có được một viên gạch hay một cái đinh. Khốn nỗi, mặt đất lâu ngày không được quét dọn , ngoài rác và đất ra chẳng có gì khác. Giờ thì bàn tay hắn đã nhích gần tới cổ họng tôi và hắn lấy ngón tay rờ rẫm từ từ. Mắt tôi không thấy bàn tay hắn mà chỉ cảm nhận những ngón tay lạnh như đá sục sạo một cách vụng về trên làn da tôi lúc này đã tê dại.

Bất chợt, bàn tay tôi đụng phải một vật gì rắn cất, không có hình thù rõ ràng. vật này làm bằng lông, có lẽ nó là thứ đồ chơi cầm trên tay của hắn ban nãy. Nhẽ ra nó phải mềm mại vì là đồ chơi làm bằng lông nhưng đây nó rắn đanh, tựa hồ bên trong là một khúc gỗ. Biết vậy tôi chẳng cần gì phải suy nghĩ thêm, cứ thế, tôi cầm nó trong tay phang thẳng vào mặt hắn.

May mà tôi vẫn còn đủ sức tuy chưa hết sợ, cú đánh của tôi nện trúng vào trán hắn. Hắn lảo đảo nhưng chưa gục ngã, tôi định bồi thêm một chùy nữa. Bằng một tay, tôi giơ cái đồ chơi đó lên cao, và chợt nhận ra nó. Cái vật tưởng chỉ là thứ đồ chơi đầy máu, hóa ra là xác một con chó con.

Con chó đã được rửa ráy sạch sẽ, cổ nó rũ xuống dài thượt và thân chó rắn cấc, nơi cổ họng có vết thương lớn và máu xung quanh đã khô. Mình chó cũng bâu đầy ruồi nên ban nãy tôi đã không nhận ra. Bây giờ, thậm chí tôi còn ngửi thấy cả mùi giá lạnh, tanh tưởi toát ra từ xác chết. Tôi lấy làm lạ, giống ruồi vốn nhạy cảm với mùi tanh của máu nhưng chúng lại thích bâu vào thân hình con người kia nhiều hơn so với cái xác chó, mặc cho trên xác chó, những vết máu vẫn dính bết, khô cong.

Giữa lúc ấy, tôi nhớ đến cái đầu chó tôi đã thấy trong cơn ác mộng. Rõ ràng tay tôi đã nhặt lên một tấm da lông và phát hiện nó là con chó bị chết. Còn con chó trên tay tôi lúc này nó bé hơn nhiều so với con chó kia, song nó cũng nhe răng dữ dằn không kém.

Tôi đâm hoảng, vội quẳng con chó sang một bên, nghe đánh cốp một tiếng khô khỏng, tiếng rơi như của khúc gỗ. Xác chó khô cong ấy ít nhiều cũng có thể dùng làm vật tự vệ nhưng tôi không thể cầm nó ở trong tay nữa. Bởi lẽ tôi còn thấy hoảng hốt hơn hẳn nỗi sợ đối với cái người bị lũ ruồi bâu kín kia.

Hắn ngẩn đầu lên. Bị tôi choáng vào giữa trán, chắc hẳn chưa hết choáng voáng. Lúc hắn ngẩng đầu thì bầy ruồi cũng vù bay lên rào rạt, quây kín chung quanh khuôn mặt.

- Đúng là ông đấy ư ?

Tiếng nói cất lên từ trong cổ họng hắn. Tôi kinh sợ. Giọng nói tuy có khác đi nhưng tôi vẫn nhận ra được và không hiểu vì sao, nó cứ gợi tôi nhớ tới Ôn Kiến Quốc.

Chẳng nhẽ hắn lại là Ôn Kiến Quốc ? Cho dù ông ta đã hóa thành cái gì đi nữa thì ít ra ông ta cũng phải nhận ra tôi chứ ? Tôi trấn tỉnh lại và gắng gượng đứng lên, nói to :

- Đúng là ông đấy phải không ?

Tôi vừa nói dứt lời thì bầy ruồi vù bay lên mù mịt và giữa đám ruồi nhặng vỗ cánh bay loạn xạ, tứ tán đó, thân hình hắn bổ nhào vào người tôi :

Hắn định giết tôi sao ?

Dẫu những chuyện đó chưa hẳn đã là thật nhưng tôi linh cảm rất rõ điều đang xảy đến. Tôi đã kịp né sang một bên, trước khi hắn nhào tới. Cứ thế, tôi phóng ra phía ngoài cửa. Và ruồi nhặng đã bay kín phỏng. Chính giữa bầy là một con nhặng khổng lồ.

Tôi vọt được ra ngoài hành lang. Vào giờ này, hành lang hơi tối và lạnh lẽo. Từ phía sau lưng, tiếng ong ong của lũ ruồi nhặng đập cánh vang lên, lọt qua cánh của bằng gỗ, tựa hồ một mũi kim xuyên thằng vào óc tôi.

Con người ấy hắn sẽ đuổi tới tận đây ?

Tô đưa mắt cân nhắc xung quanh. Chỗ hành lang này, vừa nãy tôi đã đi qua, bây giờ thấy nó lạ lẫm. Tôi nghĩ, nếu chạy sâu nữa vào bên trong kia e rằng không kịp. Không còn lí trí, tôi lao vào gian phòng bỏ không ở ngay trước mặt.

Sau khi bước vào phòng, tôi đóng chặt cửa lại, tức thì trên cánh cửa phát ra một tiếng "thình" với âm vang không lớn nhưng nó làm rộ lên tiếng ong ong của bầy ruồi đập cánh. Ngay lập tức, tôi hình dung ra cảnh tượng đàn ruồi nhặng từ trên thân thể con người ấy vụt bay lên, tựa hồ một đám mây đen bao phủ căn phòng. Rồi định thần lại, tôi dựa lưng vào cửa, vận hết sức mình ra chống đỡ với nó.

Cho mãi tới bây giờ tôi vẫn chưa dám tin tất cả những điều đã xảy ra là sự thật. Tôi há miệng thở thật sâu để lấy sức. Cánh cửa này người ta đóng khá dầy dặn, vậy mà qua nó tôi vẫn có thể ngửi thấy bầu không khí tanh tửi toàn mùi máu ở bên ngoài; lại có cả mùi ruồi nhặng và những mùi gì khác nữa tôi không được biết.

Không biết bao nhiều thời gian đã trôi qua, tôi bỗng nghe thấy ai đó gọi tên tôi rất to. m thanh rất nhẹ nhàng, phảng phất như từ nơi thung sâu vọng tới. Lúc này tôi mới thấy xung quanh hoàn toàn tĩnh lặng, như có mối nguy hiểm không thể ngờ tới.

Là ai đây ? Có phải người mà ruồi nhặng bâu đầy vừa gọi không ? Tim tôi thắt lại. nếu hắn biết tôi thì hắn là ai. Trong khu nhà cao tầng này có mấy công ty, người ở khá đông nhưng mỗi tầng nhà gần như là một thế giới riêng họ hầu như chẳng bao giờ qua lại, trao đổi quan hệ với nhau. Ngoài những người thuộc công ty tôi ra, tôi không quen biết bất kỳ một ai khác. Lâu rồi cũng thành quen, nhưng đến khi có chuyện như những ngày này, tôi mới chợt nhận ra mình thật cô đơn quá đỗi.

Thật vậy, nỗi cô đơn giống như đêm hôm đi trên đường mà ai ngang qua trước mặt mình cũng toàn là người lạ với nét mặt thờ ơ và lạnh lùng. Tôi dựa lưng vào cánh cửa rồi trượt từ trên xuống, lấy toàn thân mình chặn vào cửa. Dẫu không cảm thấy sợ nhưng tôi đã kiệt sức, lại còn cho rằng, biết đâu cái người ruồi nhặng bâu đầy trên mình ấy, hắn có thể đi xuyên qua cửa mà vào như một chiếc bóng thì sao ?

Tiếng ồn mỗi lúc một gần. Tôi bỗng thấy cánh cửa như vừa bị ai dùng sức mạnh đẩy bật ra. Tôi vùng đứng phắt dậy, với sức lực dồi dào, tôi gắng chặn bằng được cánh cửa. Bất chợt có ai đó bên ngoài nói vọng vào:

- A, Tần Thành Khang, hóa ra cậu ở đây ?

Đó là giọng của Văn Đán và hắn cố đẩy cửa nhưng cánh cửa bị tôi chẹn cứng, hắn không mở ra được. Tôi thấy nhẹ cả người nhưng chưa dám lơi tay. Rồi hắn tiếp tục thử sức thêm hai lần nữa, không được mới lớn tiếng gọi:

- Ở trong đó làm cái thá gì hả Khang, ra đây đi?

Tôi hít một hơi thật sâu. Trong phim kinh dị, tôi đã thấy ma quỉ hay nhại theo tiếng người, vì thế tôi sợ lỡ mở ra mà thấy kẻ chực sẵn ngoài cửa lại đúng là cái người bị ruồi nhặng bâu đầy thì khốn. Định thần lại, tôi mới hỏi:

- Có phải đúng Văn Đán đấy không?

- Còn ai vào đây nữa? - nghe giọng nói có vẻ sỗ sàng - Mở cửa ra, nhanh lên, đừng có mà dọa tôi. Chỗ này tối như hũ nút ấy, cậu trốn trong ấy để làm gì?

- Thế còn ai khác ngoài ấy không?

Văn Đán bỏ lửng một lát, tuồng như hắn ngước mắt nhìn lên phía trên rồi bất thần cất giọng nói run rẩy :

- Ủa, là ai thế kia ... Đừng lại đây nữa ... Ơ! Thành Khang, cứu tôi với...

Tiếng kêu của hắn thật thê thảm, không cầm lòng được nữa, tôi mở toang cửa.

Dẫu sao đi nữa tôi vẫn phải đối mặt với nó và đã đinh ninh rằng chắc hẳn lần này mình sẹ mục kích cảnh Văn Đán bị "người ruồi" tóm gọn trong tay, không dè xuất hiện trước mắt tôi lại là gương mặt tròn trịa, tươi cười của Văn Đán. Và có lẽ bộ dạng hãi hùng của tôi mới ngộ nghĩnh làm sao, khiến Văn Đán không dừng được phá lên cười và bảo tôi:

- Ngần này tuổi đầu rồi sao còn đùa dai vậy hả Thành Khang?

Tôi đưa mắt nhìn kỹ hai bên hanh lang. tối tăm, nặng nề nhưng không có gì bất trắc, thậm chí không thấy một con ruồi nào, tôi đâm nghi ngại, vội hỏi:

- Này, Văn Đán, ban nãy anh nói rằng ...

- Cậu ngây thơ quá đấy. tôi chỉ đùa cậu thôi - Hắn mím môi và với ánh mắt săm soi, hắn tiếp:

- Cậu bị làm sao thế, khó chịu à, sắc mặt cậu trông tệ quá!

Tôi xem lại trên người mình. Vừa nãy tôi ngồi bệt xuống đất, quần áo dính đầy bụi, tôi liền lấy tay đập và phủi nó đi, nói:

- Có thật anh không trông thấy một ai khác không?

- Làm gì có ai nữa, hôm nay họ nghĩ cả. - Hắn nhìn tôi nói với vẻ quan tâm.

- Mà này, cậu không làm sao chứ. cậu có tài, làm được việc, đừng có nghĩ quẩn nhé!

Tôi cười, cái cười cay đắng. Nếu vừa rồi là ác mộng thì lúc này mới là cuộc sống thực. Tôi nói:

- Mình chẳng sao hết nên mới hút thuốc.

Những chuyện vừa rồi có phải là ảo giác không ? Tôi không sao xác định được. Tôi và Văn Đán cùng đi lối cầu thang lên tầng mười hai. Đến đây tôi mới hết căng thẳng. Dẫu chỉ cách nhau một tầng nhưng nơi đây đã như một thế giới khác. Hai người chúng tôi bước tới cửa buồng vệ sinh thì đúng lúc Lý Đĩnh từ trong đi ra. Cô đưa mắt liếc nhìn chúng tôi, chẳng nói chẳng rằng, rồi ngoảnh đầu đi thẳng.

Nhìn theo sau lưng cô ta, Văn Đán khẽ tặc lưỡi. Lý Đĩnh tỏ ra thờ ơ, lạnh lùng chừng nào thì nỗi chua chát trong lòng hắn cũng nồng thêm chừng ấy. giớc chọc tức anh ta là điều không nên nhưng không biết vì sao tôi không dừng được đã buông ra một câu:

- Anh tài giỏi, yêu ai mà chả được, việc gì phải buồn tình như thế?

- Cậu đùa đấy à? - Hắn bĩu môi - Tôi đâu có tơ tưởng đến cô ả. thôi nào, người cậu bẩn như ma thế kia, lo mà rửa ráy đi. Người như mà như mới móc từ dưới đất lên ấy. Sếp mà trông thấy cậu, không khéo ông ta lại bị nghẹn họng, không nuốt được cơm cũng nên.

Sếp đâu phải người chỉ vì tôi mà bỏ cơm. Vả chăng tôi cũng biết rất rõ, cứ khi nào Văn Đán bị người ta khứa vào cổ đau thì hắn lại cố đánh lạc hướng câu chuyệ một cách rất vụng về...Thế nên tôi mới làm bộ cười và bảo hắn:

- Anh cứ đi trước đi, tôi đi vệ sinh đã.

Vừa mở vòi nước, từ tầng dưới bỗng vọng lên giọng the thé của người đàn bà. Tiếng kêu đột ngột vọng tới, sắc ngọt như lưỡi lam. Tôi giật thót cả người vì tiếng kêu đó. Thấy có chuyện ầm ĩ, Văn Đán vội quay lại chỗ đầu cầu thang nhìn xuống dưới. Riêng tôi cảm thấy trong lòng nặng trĩu.

Tôi cố tình vặn to vòi nước những muốn tẩy bong một lớp da đi. Cùng lúc Văn Đán quay lại bảo với mọi người:

- Có con chó con chẳng biết mới bị ai chọc chết. Ngay chỗ chúng ta đây cũng có kẻ biến đổi gen đấy. Anh ta đột nhiên dừng lại. Tôi ngẩng đầu lên, thấy Văn Đán đang chăm chú nhìn mình, trong ánh mắt có chút sợ hãi. Tôi bỗng thấy phiền lòng, liền nói:

- Đi thôi.

Trên tay tôi vẫn dính vài sợi lông ngắn màu trắng, hòa cùng những hạt bụi bị nước cuốn trôi đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 8 : Bí mật của Ôn Kiến Quốc

Ra khỏi khối nhà lớn, tôi cảm thấy ngơ ngác.

Mất việc, lại khởi sự từ đầu. Ra phố, rút một ít tiền từ máy ATM. Tiền bồi thường vi phạm hủy bỏ hợp đồng đã nhập vào thẻ của tôi. Bớt chi tiêu vài khoản, tôi cũng sống thêm được mấy tháng nữa.

Tôi về nhà, sắp xếp lại một số thứ. Lâu nay đang bận rộn bỗng nhàn hạ, tôi lại cảm thấy hụt hẫng. Sau khi mua một cân táo ở quầy bán lẻ bên đường, tôi lên xe buýt đi về phía Viện 7

Viện 7 là viện tâm thần đặt ở vùng ngoại ô. Vùng này còn rất lạc hậu, khác hẳn với trung tâm thành phố. tôi phải mất công mò mẫm mãi mới tìm được đến nơi. Đây là một bệnh viện cũ kỹ, cũng rất kín đáo, người đến lần đầu rất khó tìm. Phải mất hồi lâu điền hết các mục trong bản tự kê khai, người ta mới cho tôi vào.

Thoạt nhìn, Viện 7 không khác với các bệnh viện khác, những phòng bệnh ngăn nắp nhưng đã được xây dựng khá lâu. Chỉ có điều, nơi đây đặc biệt nhiều cây cối.

Tôi cầm phiếu thăm bệnh nhân đi tìm số phòng. Ôn Kiến Quốc ở khu 3, tuy số phòng bệnh không nhiều nhưng hết sức khó tìm. Thấy một vị mặc áo blu trắng đi qua, tôi vội đuổi theo:

- Thưa bác sĩ, xin hỏi khu 3 đi hướng nào?

Ông ta xem phiếu thăm của tôi rồi nói:

- Đó là khu bệnh nặng, tiếp tục đi thẳng rồi rẽ phải.

Khu 3 nằm ở một góc của Viện 7, cũng là nơi hẻo lánh nhất. Khác hẳn với các bệnh viện khác, cổng viện này đóng chặc suốt ngày. Tôi bấm chuông điện, cánh cửa sổ nhỏ hé mở, một khuôn mặt ló ra:

- Tìm ai?

Tôi đưa phiếu thăm bệnh nhân qua cửa sổ, ông ta nhìn lướt qua rồi bảo:

- Mời vào.

Xem phim nước ngoài, thấy các bệnh viện tâm thần thường được sơn trắng toát đến chói mắt, thế mà đoạn hành lang trước mắt tôi sao lại mốc meo, tường vôi long từng mảng lớn. Tôi bước theo người hộ lý đến một căn phòng, ông ta đẩy cửa vào rồi bảo:

- Ở đây.

Tôi bước vào phòng, phòng này có năm giường bệnh, tôi nhìn ngay thấy Ôn Kiến Quốc đang nằm trên chiếc giường sát cửa sổ. Giường làm bằng sắt, chân tay Ôn Kiến Quốc đều bị trói bằng vải mềm. Tôi kinh ngạc hỏi:

- Sao lại phải trói thế?

- Vừa điều trị bằng xung điện, tinh thần còn chưa được ổn định. - Người hộ lý trả lời với vẻ phớt lờ. - Thế này nhé, hoa quả đều phải đưa vào phòng gửi, bệnh nhân không được phép dùng dao.

Trong căn phòng sáu bệnh nhân này, tôi còn trông thấy ba người nữa cũng bị trói, hai người còn lại có vẻ khá hơn. chỉ ngồi yên một chỗ, vẻ ngây ngô. Tôi chuyển túi táo cho vị hộ lý rồi ngồi xuống bên giường gọi:

- Ôn Khắc! Ông nhận ra tôi không?

Cửa sổ rất sáng, có thể thấy mặt ông ta không trát phấn. Mặt ông ta tuy rất sần sùi nhưng chẳng có biểu hiện dị dạng nào. ôn Kiến Quốc quay đầu lại, ngây người nhìn tôi rồi nở một nụ cười trên khóe miệng. Nhìn bộ dạng ông ta, tôi bỗng thấy chua xót trong lòng.

Tôi nghe thấy Ôn Kiến Quốc nói nhỏ nhưng rất rõ:

- Tần Thanh Khang, đúng là ông hả?

Tôi vừa vui vừa kinh ngạc:

- Tôi đây, ông vẫn khỏe chứ?

Ôn Kiến Quốc chăm chú nhìn vào mặt tôi làm tôi cảm thấy ngượng nghịu. Quầng mắt ông ta hơi thâm, rõ ràng là mất ngủ. Tôi đang thất vọng vì cho rằng ông ta đã bị điên, nhưng lại thấy Ôn Kiến Quốc thở dài một cái rồi nói:

- Tôi không thể ngờ là ông lại đến thăm.

Tôi cười cay đắng, trả lời :

- Có lẽ tôi cũng chưa đến nỗi cạn hết tình người đấy chứ?. Ôn Khắc, vậy đã xảy ra chguyện gì thế?

Ông ta cựa mình, nhưng chân tay đã bị trói không nhúc nhích được, ông van xin:

- Cởi ra hộ tôi đi.

Tôi nhìn xung quanh, một vị hộ lí to béo, lưng tròn ngồi bên cửa ra vào, tay cầm một cuốn tạp chí cùng loại với Truyền kỳ Đại quan, anh ta đang chăm chú đọc, chẳng thèm để ý đến ai. Một người tuổi trung niên đã giãy tuột được dây vải trói tay, đang ngắm nghía nút thắt trói chân, có vẻ như ông ta cũng không hiểu đó là thứ gì. Tôi cởi nút trói trên tay cho Ôn Kiến Quốc. Khi cởi trói, tôi trông thấy rất nhiều vết sẹo trên tay ông ta, có vẻ đó là dấu vết thương tích của nhiều trận đấu ác liệt. Tôi hồi hộp hỏi:



- Ôn Khắc, ông đã khá hơn chưa?

Ôn Kiến Quốc bĩu môi, tự mình cởi trói tiếp, rồi ngồi lên cởi nút trói trên chân. Động tác của ông ta rất nhanh, hoàn toàn không thể nhận ra đó là động tác của ngưới bệnh tâm thần. Tôi ngồi trên mép giường nhưng hồi lâu cũng chẳng biết nên nói năng gì. Ôn Kiến Quốc đã gỡ được nút trói chân, ông ta đứng dậy quan sát xung quanh với vẻ mặt căm ghét rồi bảo:

- Ra ban công đi, sống với bọn điên rồi tôi cũng phải phát điên thôi!

Lời nói của ông ta có đầu có đuôi, không có vẻ gì của một người tâm thần rối loạncả. Tôi bước theo ông ta ra ban công. Khác với các bệnh viện khác, ban công ở đây được bọc bằng lồng thép với những cây thép mập giống như nhà tù. Đứng trên ban công, Ôn Kiến Quốc vươn tay cho thoải mái rồi nói:

- À Khang này, tôi hoàn toàn không ngờ là cậu đến.

- Thế ông vẫn trông đợi Lâm Bồ Lam đến sao?

Vừa nói ra câu này khỏi miệng, tôi đã vội chuyển sang ý khác.

- Tôi mang cho ông ít táo, hộ lý cất đi rồi.

- Cám ơn! - Ông ta thọc tay vào túi rồi quay lại hỏi - Ông có thuốc lá không?

Tôi móc điếu thuốc lá đưa cho ông ta rồi bật lửa châm thuốc. Ôn Kiến Quốc hút một hơi rất sâu, tới mức như muốn nuốt hết đám khói. Ngậm miệng hồi lâu, ông ta mới thở ra một hơi thật dài:

- Nicotin có tác dụng gây mê, quả là chẳng sai.

Tôi đứng sau lưng ông ta hỏi:

- Thế đã xảy ra chuyện gì? Hôm kia công an đến hỏi quan hệ của tôi và ông.

- Có lẽ lúc đó tôi đã lơ mơ nói đến tên ông? Lúc đó trên người tôi còn có danh thiếp của ông nữa, chả trách họ đến tìm.

Tôi chột dạ. Hôm đó tay công an họ Trần chẳng nói gì tới cái danh thiếp tìm thấy trong người Ôn Kiến Quốc. Tôi do dự hỏi:

- Ôn Khắc, hôm đó tay công an bảo Lân Bồ Lam...

Ôn Kiến Quốc quay phắt đầu lại, trừng trừng nhìn tôi. Tóc gáy tôi dựng đứng dưới cái nhìn của ông ta. Tôi sợ là ông ta lại sắp lên cơn. Nhưng rồi Ôn Kiến Quốc chỉ thở dài nói:

- Lâm Bồ Lam... Chết rồi!

- Ông... ông giết cô ấy?

Dù tôi không định hỏi nhưng chẳng hiểu sao lại buột miệng như thế. Tôi thấy mình hiếu kỳ. Không biết là đã có cái gì mọc ra trên mình Lâm Bồ Lam và Ôn Kiến Quốc? Cho dù Ôn Kiến Quốc không phải là hạng người nhát gan tới mức có thể nghĩ lá cây rụng làm vỡ đầu người, nhưng tôi không tin ông ta có thể giết người. Dân văn chương chỉ tưởng tượng nhiều mà chẳng bao giờ hành động. Ông ta làm sao giết được người trong khi chỉ cần viết ra được một câu chuyện là đã hết hơi rồi.

Ôn Kiến Quốc gục đầu không nói một lời làm tôi thấy lo lo. Tôi khẽ hỏi:

- Ôn Khắc, ông không sao đấy chứ?

- Cũng có thể nói là chính tôi đã giết cô ấy. - Ông ta ngẩng đầu lên, ánh mắt đau khổ, nói tiếp - Đúng, tôi đã giết cô ấy.

Tôi bảo ;

Cũng có thể. Nhưng không, thật khó mà tin là ông lại giết cô ấy?

Ông ta cười cay đắng:

- Thế có gì khác nhau. Chính tôi đã làm hại cô ấy, nếu tôi không dẫn cô ấy đến vùng đó thì chẳng sao cả, cô ấy đã không bị Dạ Vương nhập vào.

Tôi rùng mình. Dạ Vương, đây là lần thứ hai tôi nghe thấy từ này. Khi nằm mê, tôi cũng đã hỏi Ôn Kiến Quốc về chuyện này, lúc đó ông ta cũng trả lời tôi như vậy. Như thế có nghĩa là lần mộng du đó của tôi hoàn toàn không phải là ảo giác. Tôi hỏi:

- Dạ Vương là cái gì?

Môi run rẩy, Ôn Kiến Quốc ngẩn người nhìn tôi, mắt thất thần như bỗng biến thành kẻ tâm thần. Tôi rùng mình hỏi tiếp:

- Ôn Khắc. Dạ Vương thật ra là cái thứ gì?

Ông ta hơi mấp máy môi dưới, khẽ nói;

- Là cái gì ư?

- Đúng thế, là cái gì vậy?

Ông ta bỗng chộp lấy lan can ban công rồi hét lớn:

- Không! Ông không được đi, thả tôi ra, tôi phải về, phải về...




Vừa hét, ông vừa lắc mạnh lan can sắt. Nhưng lan can rất chắc, ôn Kiến Quốc lại chẳng phải là lực sĩ, lan can sắt chỉ hơi kêu lên răng rắc.

Tiếng kêu đột ngột của ông ta làm cho những bệnh nhân đang ngồi ngây trên giường cũng kêu theo, cả phòng bệnh bỗng náo loạn. tôi không biết làm thế nào, chỉ còn biết ôm lấy vai Ôn Kiên Quốc dỗ dành:

- Ông Kiến Quốc, thôi nào, thôi nào?

Đến lúc này, vị hộ lí lao như tên bắn tới ban công, ôm chặt lấy hai vai Ôn Kiến Quốc rồi kéo mạnh. Ôn Kiến Quốc ngã vật xuống đất, gáy đập mạnh xuống sàn nhà, nằm im bất động.

Tôi thấy Ôn Kiến Quốc bị lôi về giường và bị trói lại. mặt ông ta trắng bệt không khác gì người chết.

Trói xong Ôn Kiến Quốc, vị hộ lí cáu kỉnh hỏi tôi:

- Cậu vừa nói gì với ông ta? Không được kích thích bệnh nhân, đừng có chọc ông ta.

- Tôi cũng chẳng nói gì... - Tôi lắp bắp trả lời.

Tôi đã nói gì nhỉ? Phản ứng của Ôn Kiến Quốc quá bất ngờ làm tôi quên hết mọi điều đã nói. Ông ta nghe thấy gì mà kích động thế? Tôi cố nhớ lại mọi việc, tôi đã nói đến, Dạ Vương.



Bên tai tôi bỗng vang lên tiếng gì đó. Tôi giật mình nhìn quanh, các bệnh nhân đều đã bình tĩnh lại, không còn ai nói năng gì. Không lẽ là ảo giác. Tiếng ồn trong ảo giác là triệu chứng ban đầu của bệnh tâm thần. Lẽ nào tôi cũng sắp điên?

Càng nghĩ tôi càng sợ, tôi nhìn Ôn Kiến Quốc đang nằm trên giường, trong lòng cảm thấy sao mà lạnh lẽo. Nếu bên ngoài không rực nắng như vậy thì hẳn là tôi đã cho rằng mình đang chìm vào ác mộng mà không sao tỉnh được. Tôi bước đến trước giường, lại nhìn Ôn Kiến Quốc rồi nói nhỏ với ông ta:

- Ôn Khắc! Tôi về đây, ông giữ gìn sức khỏe đấy!

Tôi đang định bước đi thì Ôn Kiến Quốc quay đầu lại rên rỉ nói:

- 750918...

- Sao? - Tôi ngạc nhiên hỏi.

Ôn Kiến Quốc lại nói:

- 750918 không chọn được nữa rồi, ông về đi.

Nói xong ông ta quay đi, dõi mắt trân trân nhìn lên trần nhà bẩn thỉu. 750918, sáu con số đó có ý nghĩa gì? Ra khỏi bệnh viện tôi vẫn tiếp tục suy nghĩ. Các số điện thoại ở địa phương này đều có bảy con số, nếu là số điện thoại vùng ngoài thì lại thiếu mã, dù Ôn Kiến Quốc có bảo tôi thì cũng chẳng được tích sự gì. Lẽ nào số điện thoại thuộc tỉnh Hồ Nam? Nhưng Hồ Nam có bao nhiêu vùng, làm sao tôi có thể thử quay số đến tất cả các vùng.

Về đến nhà, tôi lại ăn một bát mì như thường lệ. Bê bát mì nóng ran trên tay, tôi vẫn tiếp tục suy nghĩ, tôi ăn mà không để ý đến mùi vị của nó.

Ăn được mấy miếng cũng cảm thấy trong người dễ chịu; nhưng khi nhớ ra là đã sắp Tết; lại nghĩ đến chuyện mất việc làm ở nơi đất khách quê người, qua ngày đoạn tháng với mì ăn liền, tôi thấy đau nhói trong lòng như bị kim châm.

Làm thế nào đây? Trên cõi đời này, tôi bị quẳng đi như thứ đồ cũ, dù không chịu thừa nhận thì tôi củng không có cách nào thay đổi thực tế. Tôi tiếp tục nghĩ ngợi trong tâm trạng bi đát. Đúng là từ nhỏ tới giờ, số tôi chưa bao giờ may mắn, va vấp khắp nơi đến sứt đầu mẻ trán mà vẫn cho là tại mình không may, chẳng bao giờ thừa nhận mình là đồ bỏ đi.

Tôi đúng là đồ bỏ đi. Tôi tiếp tục tự xỉ vã mình, rồi một cơn giận bỗng ập tới, tôi bẽ gãy đôi đũa trên tay từ lúc nào. Cho đến khi tiếng đũa gãy giòn giã lọt vào tai tôi, tôi mới bừng tỉnh và cảm thấy rùng mình.

Nhà tôi thì quá xa, xa tới mức không thể nhớ nỗi. Ngày nay gởi thư điện tử quá dễ dàng nên lâu lắm rồi tôi chưa viết thư tay. Mà viết cho ai đây?

Thư...

Đầu tôi bỗng lóe sáng, tôi bỗng nhớ tới hàng chữ số của Ôn Kiến Quốc, lẽ nào đó là mật khẩu hộp thư của ông ta?

Hộp thư của Ôn Kiến Quốc, tôi vẫn ghi trong boxmail, nghĩ đến đây tôi lại thấy tỉnh người. Mật khẩu hộp thư điện tử thường có sáu đến mười hai chữ số. Ôn Kiến Quốc là người cẩu thả, chắc chỉ dùng sáu chữ số cho khỏi quên, mà những chữ số đó có thể là ngày sinh của ông ta. Với tính cách của Ôn Kiến Quốc, khó mà tin rằng ông ta có thể nhớ được một chuỗi những chữ số vô nghĩa. Nói với tôi chuỗi số này, phải chăng ông ta muốn tôi đọc hộp thư của mình?

Tôi dò tìm địa chỉ hộp thư, mở được trang mục kục. Ông ta chưa cho tôi biết tên người sử dụng, cho dù đây có thể là mật khẩu thì cũng chẳng biết có phải là mật khẩu của hộp thư này hay không. Đành bó tay thôi.

Nhập tên hôp thư và mật khẩu, lướt tay trên bàn phím. tôi bỗng thấy lo. Ngày nay, số người lên mạng khá đông, đường truyền Internet quá chậm, màn hình trắng xóa, tôi bắt đầu thất vọng, có lẽ là tôi đã nhầm lẫn, thế nhưng trang web quen thuộc bỗng dần hiện ra.

Thành công rồi, tôi vui mừng, nhưng không hiểu tại sao lại thấy bâng khuâng. Mặc dù thư điện tử chỉ có mấy hàng chữtrên màn hình, nhưng nó cũng là chuyện riêng tư thầm kín. lẽ ra không nên xem. Phải thú thực là xem trộm thư của người khác vẫn có cái khoái của sự tò mò, có lẽ đó cũng là bản năng tồi tệ nhất của loài người.

Hộp thư được mở ra, đầy rẫy các thứ tạp nham, phần lớn là thư rác, cũng có không ít hình ảnh đồi trụy do các trang sex gởi đến, một số thư của các nhà văn trẻ tuổi. Phần lớn các thứ đó đã được gởi tới từ mười mấy ngày trước, nhưng chưa được mở ra. Có một bức thư cực dài với các phụ bản tới hơn 70KB. Văn bản thuần túy nặng 70KB phải dài tới hơn 30000 chữ, liệu đó có phải là thứ Ôn Kiến Quốc muốn tôi đọc?

Tôi mở bức thư này, chủ đề của nó ghi bằng số, phần lớn là do Ôn Kiến Quốc túy tiện đánh lên, còn tên của văn bản thì được ghi là " Lưu trữ văn bản mới". Tôi mở tập văn bản, phải đợi mất mấy giây.

Tôi rất muốn biết đầu đuôi toàn bộ sự việc, thế mà lúc này tôi lại không mấy hứng thú, vừa mất định hướng vừa hơi e sợ, chẳng khác gì cánh cửa trước mặt sắp mở ra mà tôi chẳng biết phía sau cánh cửa đó là những gì.

Phía trong là khối lượng khổng lồ các văn bản. Tôi phát hiện thấy non nửa đầu là những thông tin mà ông đã gởi cho tôi. Không hiểu vì sao những lần đó ông ta không đưa thẳng cho tôi đọc mà lại chọn cách rắc rối này. Có lẽ là lúc ấy, ông ta chưa muốn cho tôi biết toàn bộ câu chuyện. Tôi đọc lướt rất nhanh, khả năng viết lách của ông ta cũng không đến nỗi tồi, tuy không mạch lạc nhưng người đọc cũng hiểu ngay là ông ta muốn diễn đạt cái gì.

Tôi dò tìm đến chỗ đã đọc lần trước, tay chân lòng ngóng làm chuột cứ trượt hoài.

" Tôi nghe tiếng khóc vọng ra từ góc tối, dường như có nhiều cặp mắt vô hình đang theo dõi tôi..." Ôn kiến Quốc đã viết như thế.

Lần trước ông ta đã viết đến đó, cho dù không thấy bút tích trên màn hình nhưng tôi vẫn có thể hình dung ra khi đánh những dòng chữ trên, tinh thần của Ôn Kiến Quốc vô cùng hoang mang hoảng sợ. Tôi cũng có thể mường tượng ra cách ông ta run rẩy đánh những dòng chữ này. Vừa đánh vừa không ngớt quay đầu nhìn lại phía sau lưng.

Dạ Vương, rút cuộc là cái gì?. Tôi ăn nốt bát mì rồi tiếp tục đọc cẩn thận.

Từ những xó xỉnh tối tăm hình như có nhiều cặp mắt vô hình đang theo dõi ông ta. Ôn Kiến Quốc rùng mình, đóng cửa lại không dám nhìn tiếp. Khu nhà lớn này không có gì đặc biệt vào ban ngày, nhưng đêm đến thì như có luồng yêu khí lan tỏa. Ông ta ôm lấy Lâm Bồ Lam, định đưa tay lên ngực cô thì bị bàn tay của Lâm Bồ Lam gạt phắt ra và bảo:

- Thử nghĩ xem!

Gió rất mạnh, trong tiếng gió rít còn có tiếng chân bước dồn dập, khi gần khi xa, dù bị tiếng gió át đi nhưng vẫn có thể nghe rõ. Ánh trăng bên ngoài sáng rợn người. Những cơn gió mạnh và tiếng bước chân làm cho đêm tối có vẻ dị thường và ma quái. Hai hàm răng Lâm Bồ Lam va vào nhau lập cập, ghì chặt cánh tay Ôn Kiến Quốc, ôn Kiên Quốc cũng run lên theo từng cơn run của thân thể cô. Ông ta vỗ lên mông Lâm Bồ Lam và nói:

- Ở nhà quê, người ta thường dậy sớm, có lẽ đó là những người đi làm đêm.

Nói xong ông ta biết không đúng , lúc đó khoảng mười hai giờ đêm, không ai nói giờ này là sớm cả. Lâm Bồ Lam ngững mặt lên, run rẩy nói:

- Nhưng mà... nhưng mà...

Lắp bắp mãi mà cô ta chẳng nói nên lời. Ôn Kiến Quốc quan sát căn phòng. Cạnh giường là cửa sổ. Nhà kiểu cổ ở nông thôn, cửa sổ đều bằng gỗ đặc. Cửa sổ nhìn ra đường và tiếng chân đang vọng lại chính từ phía đó. Ông ta leo lên giường, vươn tay đẩy cửa sổ, tay vừa chạm vào thì Lâm Bồ Lam đã nhào tới kéo tay ông ta lại. Ôn Kiến Quốc giật mình quay lại nhìn Lâm Bồ Lam, mặt cô trắng bệt, cô im lặng, hai tay ôm chặt cánh tay Ôn kiến Quốc. Cô để móng, móng tay nhọn bấm sâu vào da thịt Ôn Kiến Quốc làm cho ông cảm thấy đau buốt. Ôn Kiến Quốc đang định bảo cô nới lỏng tay ra thì bên ngoài cửa sổ có tiếng người nói:

- Sẽ không có chuyện gì chứ?

m thanh rất nhỏ, gió lại mạnh, Ôn Kiến Quốc nghe tiếng được tiếng mất. Tay đã chạm cửa sổ, nhưng ông ta chẳng còn sức để đẩy cửa ra.

- Muộn thế này, Liễu Văn Uyên nhất định phải ngủ say rồi, đừng có sợ.- Giọng một người khác thì thầm. Giọng người này rõ ràng là già hơn. Lại một cơn gió mạnh, từ nơi xa xôi vọng tới một thứ âm thanh kỳ lạ rất giống hơi thở con người. m thanh này tuy không vang nhưng hòa trong tiếng gió rít tạo nên cảm giác u uất, như không phải là thứ âm thanh của cõi trần gian. Mặc dù ở trong phòng nhưng Ôn Kiến Quốc vẫn thấy rùng mình, Lâm Bồ Lam bất giac ghì chặt cánh tay ông. Ông ta quay đầu vỗ vỗ lên vai cô để trấn an nhưng bản thân ông cũng không trấn an nỗi chính mình.

Hai kẻ đứng ngoài kia có lẽ cũng đang hoảng sợ, bẵng đi hồi lâu không thấy nói năng gì, chỉ còn nghe tiếng gió rít như hổ gầm. Tiếng gió rít trầm trầm và u uất " như có ai đó đang thổi một loại kèn cổ dưới thung lũng núi" - Ôn Kiến Quốc bỗng đưa ra một cách so sánh không đâu vào đâu như vậy khiến tôi nhớ ra mình chỉ là người ngoài cuộc.

Loại kèn cổ nói trên vốn dĩ rất giản đơn và thô kệch, âm thanh nó phát ra hết sức u trầm chẳng khác gì đêm tối. Có lẽ giữa đêm khuya bí hiểm ở nơi xa lạ đó, khi nghe tiếng gió rít, người ta rất dễ liên tưởng tới âm thanh của thứ nhạc cụ đó. Vậy mà tôi vẫn cảm thấy ngơ ngác.

Vì sao Ôn Kiến Quốc lại có sự so sánh đó? Đối với kiểu văn kể chuyện, đưa ra sự so sánh này dễ làm đứt đoạn nhịp kể của câu chuyện. Nhưng tôi lại lơ mơ thấy rằng khi viết những dòng này, tâm trạng Ôn Kiến Quốc đang rối bời và sợ hãi. Ông ta đưa ra sự so sánh đó chỉ để làm cho bản thân mình bình tĩnh trở lại, để không đến nỗi phải bỏ dở giữa chừng.

Có lẽ khi đọc những trang viết này, tôi cũng cần có những kiểu so sánh như vậy để làm đứt mạch suy nghĩ của mình, làm cho bản thân nhớ lại mình chỉ là kẻ ngoài cuộc và không bị chìm đắm hẳn vào trong câu chuyện.

- Chì là con mèo thôi mà! - Giọng người già bên ngoài lại cất lên.

Đó chỉ là con mèo. Chú mèo bám chân không chắc trên mái nhà bị gió đánh bật xuống phát ra tiếng kêu "meo meo..." Tiếng mèo trong đêm khuya nhiều khi rất giống tiếng trẻ thơ khóc, đôi khi như tiếng người khóc. Ôn Kiến Quốc đã nghe thấy tiếng người kia nói như thế, cảm thấy như trút được gánh nặng. Nhưng rất kỳ quặc là âm thanh đó vẫn tiếp tục vọng tới, lúc rõ lúc không, như thể con mèo đó lúc gần lúc xa.

Đâu phải là con mèo. Ôn Kiến Quốc bỗng thấy ớn lạnh, không phải là mèo mà là có ai đó đang khóc, chính ai một trong hai người đứng bên ngoài. Ông ta không rõ vì sao người đó tự nhiên lại khóc, tiếng khóc dường như chỉ ngẹn ngào trong cổ, nghe rất khó chịu.

- Khóc cái gì? Tiếng người cao tuổi lại cất lên. - Bố mày đã sống đến sáu mươi tuổi, còn có gì chưa phải trải qua, kể cả cái thời bọn Nhật đến đây cũng chưa bao giờ sỏn đái ra quần, thôi, đứng lên đi.

- Bố ơi, ta ở đây vẫn sướng chán đấy thôi.

- Sướng cái cục cứt, mày còn muốn chôn chân ở cái đấ chó ăn đá gà ăn sỏi này đến bao giờ? Thằng già này dù sao cũng hết cái số thọ rồi, cố làm mẻ này may ra vớ được cái tượng Phật vàng ròng, hai đứa chúng mày có tiền thì lên phố mà buôn bán, làm người tỉnh thành.

Phật vàng ! Dù là ngồi đọc trên máy vi tính, tôi vẫn như bị kim châm. Hai từ này tôi đã nghe thấy nhiều nhưng phần lớn là trong các câu chuyện rẻ tiền trên tạp chí. Không hiểu sao mỗi khi đề cập đến báu vật thì các tác giả như không hẹn mà gặp, ai cũng miêu tả cái nào, cái nấy nặng trình trịch, óng ánh sáng lòa, đáng giá bạc triệu. Khi đọc đến những đoạn này, tôi lập tức hiểu rằng những báu vật đó chỉ có trong tiểu thuyết mà thôi.

" Cái mà ông già đó nói chính là hai chữ này, tôi nhìn sang Lâm Bồ Lam, cô ấy cũng nhìn sang tôi để tỏ ý cho tôi biết là không nghe nhầm". Ôn Kiến Quốc đã viết như vậy, có lẽ là ông ta cũng đang hoài nghi, những gì ông ta nghe được hoàn toàn không phải là tiểu thuyết.

"Giọng nói của ông già nhỏ đi, không rõ là đang nói gì nhưng hai chữ đó đã như kim xoáy sâu vào đầu óc tôi, riết lấy tôi".

Có lẽ lúc ấy ông ta cũng phải nghĩ ngợi xem pho tượng Phật vàng đó đáng giá bao nhiêu. Không riêng ông ta, cả tôi vũng nghĩ đến chuyện đó. Nếu là vàng ròng, pho tượng Pho tượng Phật đó chỉ cần to bằng nắm đấm thì cũng phải nặng đến mươi, mười lăm cân.ỗi gram được hơn trăm tệ thì pho tượng này đáng giá cả triệu.

Triệu tệ! Tôi bị con số này làm cho ngẩn người. Mặc dù cái mức triệu tệ tôi vẫn thường đọc thấy trên báo chí, nếu so với tệ nạn hối lộ của các quan tham, con số này chẳng to tát gì, nhưng đối với tôi, đó vẫn là con số khổng lồ, đủ làm mình chết khiếp. Tôi cố gằng đọc tiếp, thầm mong tượng Phật này vẫn chưa bị kẻ nào lấy đi.

Trên cửa sổ có một số khe hở được dán kín bằng giấy báo chẳng biết xuất bản từ thở nào, giấy đã ố vàng, in bằng chữ lớn tin tốt lành về một địa phương nào đó đạt sản lượng 7.5 tấn lương thực trên một hecta. Ôn Kiến Quốc dùng móng tay cái rạch một đường, một luồng gió nhỏ rít lên lùa vào phòng.

Từ khe hở nhìn ra, ánh trăng sáng đến chói mắt nhưng chẳng thấy bóng người, có lẽ hai người kia đang đứng sát chân tường. từ vị trí này nhìn ra, có thể thấy rõ một giếng nước. Mặt giếng được đậy bằng tấm đá lớn, năm tháng trôi qua, mặt đá đã phủ đầy rêu, tạo nên một màu sẫm tối. Bên dưới cửa sổ, người trẻ tuổi lại tiếp tục nói, giọng nghẹn ngào:

- Bố ơi, các cụ đều bảo không được động vào, xin bố đừng có làm nữa.

- Thằng ranh, bố mày đã mở một lần, chẳng làm sao cả, mày đừng có sợ. - Một tiếng "bốp" hòa trong tiếng gió, có lẽ đó là cú tát của ông bố.

- Nhưng mà...

- Đi mau! Pho tượng vàng đó nặng tới trên mười lăm kilogram, trơn tuột, chẳng dễ ôm, nếu không có mày đỡ một tay thì không xong nên thằng già này mới phải gọi mày đến. Mẹ nó chứ, cái thằng ranh này, mày có phải là dòng giống nhà ông không hả? Sao mà nhát gan thế?. Thế mày không thấy Liễu Văn Uyên bảo nếu không lấy nhanh thì chẳng còn kịp đó sao!

Hai bóng người bỗng xuất hiện trong tầm nhìn của Ôn Kiến Quốc. Người đi trước khoác một sợi thừng to mập, xem ra đã luống tuổi, dáng đi cà nhắc nhưng vẫn nhanh nhẹn. Theo sau là một chàng trai, bước chân ngập ngừng, lúc lắc.

Tôi nhăn mày. Thế này là có sự khác nhau giữa lời kể của Lâm Bồ Lam với tôi và câu chuyện của Ôn Kiến Quốc, họ đều nói là đã tận mắt thấy một người trần truồng. Vì Ôn kiến Quốc viết tiểu thuyết, đương nhiên là anh ta có thể thêm thắt, biến một ông già thành một thiếu nữ khỏa thân, nhưng vì sao Lâm Bồ Lam lại kể không giống với Ôn Kiến Quốc. Cô ta còn giấu diếm điều gì? Vì sao ở đây lại xuất hiện tới hai người? Người trẻ tuổi sau đó đã đi đâu?

Những thắc mắc này của tôi vẫn chưa có lời giải.

Hai người kia đến bên giếng. Do khoàng cách đã xa, chỉ còn thấy hai bóng người đang cúi xuống hai bên miệng giếng, hì hụi bê một vật gì đó. Chắc hẳn thứ đó là nắp giếng rồi! Ôn Kiến Quốc nghĩ vậy.

Tượng vàng nằm dưới giếng? Nghe câu chuyện xì xào của hai người đó thì có thể thấy Liễu Văn Uyên cũng biết việc này, cho nên hai người mới phải lén lút như vậy. Ông ta đang bực tức vì không thể lôi Liễu Văn Uyên ra hỏi cho rõ ngọn ngành thì bỗng thấy đau nhói ở bắp tay. Lâm Bồ Lam lại chộp lấy tay ông ta, móng tay đang cắm sâu vào da thịt. Ôn Kiến Quốc thận trọng gỡ tay cô ta, đang định nói câu gì đó thì đã nghe thấy tiếng thì thầm của Lâm Bồ Lam.

- Kiến Quốc, anh có nghe thấy không? Những mười lăm kilogram cơ đấy!

Mấy tiếng "mười lăm kilogram", nghe cô ả phát ra thật nặng nề. Mười lăm kilogram. Đương nhiên mười lăm kilogram chỉ là con số ước lượng, không phải con số chính xác, nhưng nếu chỉ là mười kilogram thôi thì cũng đã là một tài sản kếch xù. Lúc này, Lâm Bồ Lam đã hoàn toàn tươi tỉnh, đôi mắt cô ta sáng rực đến ghê người.

Viết đến đoạn này bỗng Ôn Kiến Quốc đưa ra mấy lời than vãn: " Tôi vẫn tưởng cô ta là người thanh khiết, nào ngờ sự thật ngược lại. Lâu nay vẫn chỉ nói với nhau về chuyện văn chương chứ có bao giờ nói chuyện của cải, vậy mà nay toàn thân cô ta như đang bốc lửa. Cứ cho ả là một nữ văn sĩ nõn nường đi nữa thì cũng chẳng có cái giá đến mười kilogram vàng ròng."

Ở đoạn này ông ta than thở một tràng dài, có lẽ sau đó thần kinh cũng được dịu bớt nên lời lẽ lại trôi chảy, lại có thể thư thái mà luận bàn thế sự. Quả thực là với các nũ văn sĩ mỹ miều, cho dù vừa đẹp lại vừa tài hoa thì tôi cũng chỉ cần tốn vài nghìn bạc là có thể mua được, tuyệt đối không có cái giá đến mười kilogram vàng ròng. Chẳng qua là bởi tôi muốn biết những diễn biến tiếp theo, không còn hơi đâu mà tính toán các nữ văn sĩ xinh đẹp đáng giá bao nhiêu nên vội bấm tay lên bàn phím để đọc tiếp các trang sau.

- Trời ơi !

Hai chữ này đập vào mắt tôi. Hai chữ này độc chiếm riêng cả một khoảng rộng, mặc dù cỡ chữ không đổi nhưng vì quá nổi bật nên đã gây ra cảm giác là đã được phóng to lên đến mấy cỡ chữ. Nếu Ôn Kiến Quốc viết bằng bút chì thì chắc chắn là lúc viết đến đó, ông đã phải ấn nút rất mạnh, rất có thế ấn mạnh tới mức làm rách cả giấy.

Nhìn thấy hai chữ đó tôi lại càng rùng mình. Trong văn kể chuyện, kiểu khẩu khí này rất dở, dễ làm mất đi tính liên tục, chẳng khác nào một người khi đang kể chuyện bỗng nhảy tót lên hoa chân múa tay làm cho thính giả không thể phát triển luồng suy nghĩ theo câu chuyện. Nhưng lúc này, hai chữ đó làm cho tôi tỉnh táo lên, tôi biết rằng đã đến đoạn mấu chốt, tôi đảo lại để tìm chỗ vừa bị gián đoạn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 9 : Dạ Vương

Khoảng cách quá xa, Ôn Kiến Quốc nhìn mãi vẫn không rõ những việc cụ thể hai người kia đang làm, chỉ biết là họ đã bê được nắp giếng xuống. nắp giếng được khóa bằng xích sắt nhưng họ bê xuống không mấy khó khăn. Sau khi đặt nắp giếng xuống, một người đã buộc thừng vào lưng và trèo xuống, người đó chắc hẳn là lão già vì người còn lại trên bờ giếng cứ thấy lúc lắc hoài như đứng trên tổ kiến.

Quá xa, Ôn Kiến Quốc nghe không rõ họ nói gì với nhau, nhưng có thể biết chắc là những từ đại loại như "cẩn thận"...

Bỗng người trên miệng giếng ra sức kéo một thùng nước rất nặng. Ôn Kiến Quốc đang chăm chú theo dõi thì cánh tay bỗng bị bóp chặt, ông ta ngoảnh lại thì Lâm Bồ Lam thì thầm vào tai:

- Anh phải ra mau.

Lâm Bồ Lam vẩn dính sát ông ta, ả cũng vạch ra một khe hở trên cửa sổ để nhìn ra ngoài. Lúc trước, ả còn bạt hồn mất vía nhưng lúc này đã tỏ ra hoàn toàn bình tĩnh, ánh mắt tưng bừng như đã biến thành người khác. Ôn Kiến Quốc ngẩn người hỏi:

- Định làm gì thế?

- Các đồ này, ai trông thấy cũng đều có phần; họ hai người, ta cũng hai người, muốn gì thì cũng phải chia đôi.

Những một nữa...

Ôn Kiến Quốc bắt đầu dao động, cho dù chỉ là năm cân vàng thì cũng là cả một tài sản lớn. Nếu như giành được thật thì nửa đời sau ăn chơi mệt nghỉ, khỏi cần vắt sức viết những tiểu thuyết rác rưởi kia để đổi lấy tiền.

Ông ta đang mãi nghĩ thì từ ngoài vọng lại một tiếng kêu thảm khốc. Gió còn rất mạnh, tiếng kêu bị gió xé vụn, nghe yếu ớt như tiếng mèo.

Ôn Kiến Quốc còn chưa trấn tỉnh lại thì Lâm Bồ Lam đã đẩy mạnh ông ta, giục giã:

- Đi mau kẻo không kịp.

Ôn Kiến Quốc còn đang trù trừ thì Lâm Bồ Lam đã mở toang cửa sổ và nhảy ra ngoài. Động tác của ả hết sức thanh thoát nhẹ nhàng. Ôn Kiến Quốc kinh ngạc vì không ngờ cô ả lại có thân thủ phi phàm đến thế.

Căn phòng họ ở trên tầng hai, những ngôi nhà cổ kiểu này thường thấp lùn, tầng dưới là gian chứa củi nên tầng hai cũng chỉ cao chừng hai mét. Lâm Bồ Lam nhảy xuống nhẹ nhàng, bên dưới lại là đất mềm nên chỉ phát ra tiếng động nhẹ. Cô ả co chân chạm đất, chỉ cần chống hai tay xuống là đứng bật dậy ngay. Cô ả ngoái lại nhìn Ôn Kiến Quốc đang thò đầu ra cửa sổ, vội gọi:

- Nhanh, xuống mau!

Ôn kiến Quốc còn ngần ngại. Bố con người kia chắc chắn sẽ không hoan nghênh các vị khách không mời. Ông ta trả lời:

- Thế này chẳng hay tí nào...

- Có gì mà không tốt ? - Lâm Bồ Lam ngẩng mặt nhìn anh ta. Tại ngôi làng hẻo lánh này, một cô gái rất "mốt" đang đứng dưới ánh trăng vằng vặc, mái tóc xõa được gió cuốn lên, một vẻ đẹp gợi cảm nhưng ma quái.

- Ông chẳng phải là đan ông nữa sao? Xuống mau đi !

Ánh mắt Lâm Bồ Lam sáng rực đến rợn người. Ôn Kiến Quốc đưa mắt về phía giếng nước, hai bố con nhà kia đang đánh nhau, không rõ vì lí do gì.

Hai người đàn ông quấn chặt vào nhau, ông bố thì trần truồng đang ôm một vật vàng chóe trong lòng. Có lẽ do công việc đồng áng nhiều da dẻ bị phơi đen thui nên bức tượng vàng hiện lên chói chang hơn. Có vẻ như hai bố con đang tranh nhau, đuổi nhau trên bờ giếng.

Ôn kiến Quốc vẫn còn ngập ngừng, Lâm Bồ Lam đã chạy về phía đó. Không còn nghĩ ngợi thêm được gì, ông ta cũng phải nhảy ra khỏi cửa sổ. Cửa sổ không rộng, dáng người ông ta cũng không được gọn gàng như Lâm Bồ Lam, nhảy khỏi cửa sổ đâu có dễ dàng, phải cởi bớt áo ra cho dễ chui hơn, nhưng nhảy xuống đất cũng chẳng được nhẹ nhàng như lâm Bố Lam, ông ta đã ngồi phệt mông xuống đất. Cũng may mà cửa sổ không cao nên chưa xảy ra tai nạn gì.

Ông ta ngước mắt lên, Thấy Lâm Bồ Lam đang thoăn thoắt chạy về phía giếng, trăng sáng vằng vặc, dáng dấp cô ả nhanh nhẹn như " một con rắn".

Tôi không hiểu làm sao mà Ôn Kiến Quốc có thể nghĩ ra một cách so sánh như vậy, nhưng trong mắt tôi thoắt đã hiện ra hình ảnh một con rắn, nó nhanh nhẹn trườn lướt trên mặt đất, những chiếc vảy mảnh mai cọ đất phát ra âm thanh lào xào. " Mềm như không xương, giồng dòng nước chảy, môi hồng đỏ tươi mê hoặc lòng người", những thứ đó có vẻ gần giống với cốt cách của Lâm Bồ Lam.

Lâm Bồ Lam đã chạy đến bờ giếng, hai bố con kia vẫn chạy vòng quanh. Chàng trai trẻ trông thấy cô ả, giật mình kêu lên một tiếng rồi bỗng trượt chân, thân nghiêng sang một bên và rơi xuống lòng giếng. Ôn Kiến Quốc giật mình, còn ông già thì kêu lên như xé tim xé phổi chồm tới thành giếng và nhìn xuống dưới, nhưng vẫn khư khư ôm pho tượng vàng ròng trong lòng.

Đúng là tượng Phật vàng. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua nhưng pho tượng vẫn còn sáng bóng như mới, dưới ánh trăng, pho tượng tỏa ra lớp lớp hào quang.

Khi Ôn Kiến Quốc chạy tới thì Lâm Bồ Lam đang giằng lấy pho tượng từ tay ông già. Dưới ánh trăng đêm, một cô gái trẻ giành giật một pho tượng vàng với ông lão trần truồng, trông như một cơn ác mộng. Khi chạy đến nơi, Ôn Kiến Quốc không phân biệt được đâu là hư đâu là thực. Lưỡi ông ta cứng lại không nói nên lời.

Điều làm ông ta kinh hãi là thân lão già đen kịt như than, nhưng không phải đen tuyền mà là những sọc đen sọc trắng, không, không phải trắng mà là là màu nâu. Da lão vốn dĩ thẫm màu, có thể là do một thứ bệnh ngoài da nào đó, nhưng Lâm Bồ Lam hoàn toàn không để ý tới, chỉ ra sức nắm chặt pho tượng, da thịt hai người dính sát vào nhau.

- Ông Kiến Quốc, lại đây mau !

Lão tuy đã già nhưng khỏe mạnh khác thường, lão ta ôm chặt pho tượng trong lòng, lâm bồ lam không sao kéo bật ra được. Cô ả ngẩng đầu, lông mày dựng ngược, mồm la hét, nét dịu dàng trên khuôn mặt bỗng bay biến hết. Ôn Kiến Quốc rùng mình, lắp bắp với giọng yếu ớt:

- Thôi đi, thôi đi! - Lão già khư khư ôm chặt pho tượngtrong lòng, miệng rên rỉ. - Của tao, của tao. Đồ kẻ cướp, cút đi.

Từ lòng giếng vọng lên một tiếng vỗ nước vừa trầm vừa tù túng, chứng tỏ độ sâu ngoài sức tưởng tượng, nhưng lão già chỉ lo ôm chặt lấy pho tượng, chẳng thèm quan tâm tới bất cứ cái gì khác.

- Hãy cứu người trươc đã !

Giọng Ôn Kiến Quốc đã vang hơn, Lâm Bồ Lam giật mạnh tay, pho tượng có vẻ nhẵn bóng lại đang ướt, ả bị tuột tay, pho tượng củng bật khỏi tay lão già bay thẳng lên trời. Lão già vươn tay bắt lại, tóm được đầu pho tượng nhưng không giữ được. Pho tượng trơn tuột rơi thẳng xuống giếng.

Ôn Kiến Quốc kêu lên thất vọng, ông ta vội tới thành giếng nhìn xuống. Một tiếng "cốp" khô khốc dội lên, rõ ràng là tiếng va chạm của vật cứng.

Giếng rất sâu, ít ra cũng phải mười mét, từ trên nhìn xuống chỉ là một cái miệng đen ngòm chẳng thể thấy gì. Nghe thấy tiếng va chạm đó, Ôn Kiến Quốc rùng mình. Điều ông ta nghĩ tới là liệu pho tượng có bị biến dạng vì va đập hay không. Còn lão già thì lao tới gào thét trong tiếng khóc:

- A Bảo, con nói đi, A Bảo !

Lòng giếng tĩnh lặng, nhưng sự tĩnh lặng hình như là để đánh lừa cảm giác. Ôn Kiến Quốc loáng thoáng nghe thấy những âm thanh oằn oại. Đó là thứ âm thanh quánh đặc như tiếng bò của một con sên đang gắng sức thoát ra khỏi chiếc bình miệng hẹp, nhưng âm thanh lại không liên tục như kiểu sên bò mà giống âm thanh của một đàn động vật nhuyễn thể quấn với nhau thành khối cầu lớn đang cuộn lên cuộn xuống như nồi nước sôi.

- Xảy ra... xảy ra chuyện gì thế?

Lâm Bồ Lam đã mất hết vẻ cứng cáp, e sợ mép vào sau Ôn Kiến Quốc. Chẳng hiểu vì sao, nỗi căm ghét bỗng trào dâng trong lòng Ôn Kiến Quốc, ông ta né người sang bên hỏi:

- Có lẽ mất mạng rồi?

Một hòn gạch rơi xuống từ độ cao cả chục mét thì tốc độ cuối cùng cũng phải đạt tới mấy chục mét mỗi giây, một vật nặng hơn mười lăm kilogram rơi từ độ cao như thế mà trúng vào đầu thì e là xương cũng phải vỡ. Anh ta vừa nói xong thì lão ngẫng phắt đầu lên, trừng trừng nhìn vào mặt Lâm Bồ Lam. Cô ả kêu lên một tiếng, trốn vào phía sau Ôn Kiến Quốc. Lão già gào lên, giọng khản đặc:

- Đồ kẻ cướp, mày giết A Bảo rồi!. lão như muốn chồm lên Lâm Bồ Lam. Lão chỉ mặc một chiếc quần đùi vải thô đã ướt sũng dính chặt vào da thịt, bộ dạng không còn là một người còn sống mà cũng chẳng khác gì một xác chết. Lâm Bồ Lam hoảng hốt, mặt trắng bệt núp sau lưng Ôn Kiến Quốc, miệng lắp bắp:

- Không phải tôi, không phải tôi

Ôn Kiến Quốc giơ tay ngăn lão lại bảo:

- Mau cứu anh ta trước rồi hãy hay. Mau lại đây, để tôi xuống.

Tuy nói vậy nhưng nhìn lòng giếng ông ta lo là mình sẽ bị kẹt. Lão già khóc lóc nói:

- Vô ích thôi, hết rồi, toi đời rồi, hết cả rồi.

Lão già gục trên thành giếng, miệng lắp bắp như máy hát chạy kim cũ kỹ, tấm lưng không ngớt co giật, mỗi lần co giật, những vết vằn vện trên người lão ta lại chuyển động giống như những vết dầu bẩn loang trên mặt sông, trông rất quái đản.

Ôn Kiến Quốc đến bên lão an ủi:

- Thưa cụ...

- Cút ngay! - Lão già chẳng ngoái đầu, tiếp tục co giật, Ôn Kiến Quốc lại rụt rè nói:

- Thưa cụ, mau kéo cậu ấy lên đi!

- Vô ích thôi, thấy máu rồi, A Bảo chết rồi! - Lão lại bị co giật, nhìn xuống lòng giếng, tiếp tục làu bàu:

- A Bảo, tại bố cả thôi, bố làm hại con rồi !

Lâm Bồ Lam hé miệng thì thầm hỏi Ôn Kiến Quốc:

- Dạ Vương là cái gì thế?

Ôn Kiên Quốc lắc đầu:

- Không biết, có lẽ là chuyện mê tín.

Trên nắp giếng bằng đá tấm có khắc Thái cực đồ, lại có cả xích sắt, những thứ đó có lẽ là phép thuật của thời trước. Ôn Kiến Quốc nghi ngại nhìn ông lão đang co giật bên thành giếng, đang định nói câu gì đó để an ủi lão thì lão bỗng bật thẳng lên, chồm lên miệng giếng, miệng nôn thốc nôn tháo.


Một dòng nước đen kịt tuôn ra từ miệng lão già.

Thổ huyết ư? Ôn Kiến Quốc ớn lạnh, lão già bỗng ngẩng đầu lên, hung hăng nói:

- Bọn bây cũng không thoát được đâu, Dạ Vương không tha chúng mày đâu! - Giọng lão u trầm. Khi ngẩng đầu lênánh trăng soi rõ mặt lão. Khuôn mặt vốn già nua giờ lại như già thêm cả chục tuổi, chòm râu bạc trắng như bị nhuộm mực đen. Cặp mắt thất thần với ánh nhìn vô định, trắng bệt như mắt cá chết. Thứ nước đen như mực trào ra từ miệng, chảy qua cằm, xuống cổ rồi xuống bộ ngực xương xẩu như tấm bàn giặt của lão.

- Trời ơi ! - Đây là lần thứ hai Ôn Kiên Quốc kêu trời.

Hai tay lão già chống trên thành giếng, miệng há hoác, rách đến mang tai. Có vẻ như lão vẫn đang kêu rên nhưng không còn phát ra được âm thanh. Ôn Kiến Quốc lo lắng nhìn lão, bước tới đỡ lão rồi bảo:

- Thưa cụ, cụ không sao chứ?

Miệng lão vẫn chẳng phát ra được âm thanh nào, Ôn Kiến Quốc định nói thêm đôi câu nhưng đầu lão già đã gục xuống. Vì lão già đang nhô đầu trên miệng giếng, cái đầu như quả táo chín mõm trên vây rụng luôn xuống giếng, khá lâu sau mới thấy tiếng đập nước u trầm dội lên. Cảnh tượng sao mà bí hiểm. Lâm Bồ Lam the thé kêu lên, Ôn Kiến Quôc cũng hoảng hốt bật lại phía sau, bịt chặt lấy miệng ả:

- Đừng kêu nữa! - Tuy nói như vậy nhưng ông ta cũng đang hoảng loạn tới mức tim muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Cái cổ của lão già như bị xén đứt bằng lưỡi dao rất sắc, nhưng nơi vết cắt không hề có máu chảy như vẫn thường thấy, nó giống như một thứ kem đang đông cứng, chỉ khác là màu đen kịt như than, máu vẫn đùn ra khỏi cái cổ và từ từ run rẩy vươn cao.

Lảo già không còn cựa quậy được nữa, toàn thân bất động như pho tượng.

Mọi diễn biến kéo dài không quá vài chục giây, cái thân xác không đầu đó bỗng lúc lắc rồi nứt toát ra như một ống tre đựng nước, khối nước đen như mực bên trong ào ra chung quanh. Khối nước đen đó vẫn gợi lên cảm giác đặc quánh, chảy chậm chạp. Nước đen chảy ra thì thân xác lão cũng teo tóp lại như cây nến cháy kiệt. Chắc hẳn là mộng mị, tuyệt nhiên không thể là thực tại.

Ôn Kiến Quốc muốn hét lên, chẳng còn thấy gì trước mặt, mảng nước đen mỗi lúc một trải rộng đang sắp loang tới chân ông ta. Ông ta bật lùi lại hai bước, thoáng nghe thấy giọng Lâm Bồ Lam đã biến dạng vì sợ hãi đến mức suýt nữa thì Ôn kiến quốc không thể nhận ra.

- Đây là thứ quái gì thế?

- Tôi cũng chẳng biết.

Ôn Kiến Quốc đã quá căng thẳng, ông ta nhìn trân trân vào miệng giếng, lúc này mảng nước màu đen đang co lại và cuốn vào lòng giếng. Cho dù mắt đã thấy rỏ là nước, nhưng Ôn Kiến Quốc biết rằng đó không thể là nước, bởi lẽ làm sao mà cái thứ nước đen kịt đó lại có thể bò ngược lên trên thành giếng. Giống như tấm lụa đen, ông ta nghĩ. Đúng lúc đó, Lâm Bồ Lam thì thào bên tai:

- Pho tượng vàng ròng đó...

- Cô còn nghĩ được tới tượng vàng! - Ôn Kiến Quốc lúc đó mới hồi tỉnh lại. - Đã chết mất hai người!

Lâm Bồ Lam cứ như muốn khóc:

- Em đâu có biết... Em đâu biết được! - Ánh mắt hãi hùng và ngơ ngác, cô ả vẫn huyên thuyên và tiếp tục nhìn cái miệng giếng.

Ôn Kiến Quốc lẩy bẩy kéo tay ả, giục:

- Chạy mau thôi.

- Thế không lấy pho tượng nữa sao?

- Thế có định để người ra quy kết là hung thủ giết người không?

Lâm Bồ Lam cũng rùng mình bật lùi hai bước rồi bỗng quay đầu bỏ chạy. Có lẽ mãi đến lúc ấy cô ả mớ chợt hiểu ra tình cảnh của mình, còn Ôn Kiến Quốc như muốn cười cay đắng. Lúc này, cách tốt nhất là chuồn, chuồn cho mau.

Ông ta ngẩng đầu nhìn trời. Đã quá nửa đêm, bầu trời đã tối sẫm. Mây đen đang kéo đến dày dặc như muốn rơi xuống mặt đất, thỉnh thoảng có cơn gió thổi, lẫn trong gió có tiếng rên rỉ, lúc gần lúc xa. Tất cả cảnh tượng đó làm ông ta cảm thấy ớn lạnh, hãi hùng và bất giác lùi lại. Cai giếng đó yên tĩnh, cực kỳ bí hiểm. Khi nhìn tới miệng giếng, Ôn Kiến Quốc dường như muốn thở gấp. Lòng giếng đen không thể thấy đáy, quầ áo lão già vương vãi trên sàn giếng như thể ai đó đạ giặt giũ ở đây lúc ban ngày rồi quên không đem đi. Ngoảnh mặt nhìn đã thấy Lam Bồ Lam chạy đến bên khối nhà của Liễu Văn Uyên, nếu gọi chưa chắc ả đã quay lại.

Ông ta bước tới, lượm lặt quần áo của lão già ném xuống lòng giếng rồi ôm lấy tấm đá.

Tay vừa chạm vào thì cảm thấy một luồng hơi lạnh thấu xương. Ôn Kiến Quôc suýt nữa không bám chắc được. Tấm đá này tối thiểu cũng nặng tới ba mươi, bốn mươi kilogram; nếu trượt xuống, chân ông ta chắc chắn sẽ nát nhừ. Ông ta nghiến răng bẫy phiến đá lên miệng giếng. Mặt dưới phiến đá có một khối lồi như một cái nút và khít với miệng giếng. Ôn Kiến Quốc lay phiến đá một cái thì một âm thanh như tiếng nghiến răng rít lên, phiến đá đã đậy khít vào miệng giếng. Đậy xong, Ôn Kiến Quốc lại luồn nốt sợi xích sắt qua lỗ đục trên phiến đá. Sợi xích đã bị chặt đứt một đoạn, nhưng đoạn đứt lại nằm bên dưới phiến đá, nếu không nhìn kỹ sẽ không thể trông thấy. Xong xuôi, anh ta ngắm nghía cái giếng thêm một lần nữa. Bây giờ nó chẳng khác gì với cái giếng mà ông ta đã quan sát vào ban ngày. Khác chăng là ông ta biêt rõ trong lòng giếng đã thêm hai xác chết mới.

Hai người ư? Ý nghĩ đó bỗng làm ông ta buồn cười cho dù chẳng có gì đáng để cười vào lúc này cả. Cái cậu A Bảo trẻ trung giờ thân xác chỉ còn là những mảnh vụn, còn lão già kia cũng đã biến mất như hơi nước tan trong không khí. Đến giờ thì chẳng còn ai phát hiện ra chuyện xảy ra đêm nay, ngoài Lâm Bồ Lam và bản thân ông ta.

Đến đó, Ôn Kiến Quốc ngừng kể câu chuyện. Một lúc lâu sau, ông ta mới lại đưa ra những lời than thở, toàn là những câu lập đi lập lại kiểu như "khó nói nên lời" , " tôi phát điên rồi" ...

Câu chuyện khiến tôi cũng thấy nổi da gà. Khi Ôn Kiến Quốc nhớ lại những việc đã làm, chắc hẳn ông ta sẽ dựng tóc gáy. Có lẽ ông ta không thể tin rằng mình đã làm những việc đó, đã có thể lạnh lùng xóa hết dấu vết của hai cái chết đó.

"Đó là tôi sao?" Kết thúc đoạn này, Ôn kiến Quốc hạ một câu như vậy. Rõ ràng là nhìn vào cách hành văn thì Ôn kiên Quốc lúc này chẳng giống với Ôn Kiến Quốc tôi vẫn gặp thường ngày. Cho dù tôi không hiểu lắm về tính cách của Ôn Kiến Quốc nhưng ít nhiều cũng biết được rằng ông ta là kẻ mềm yếu, không thể bình tĩnh mà xử lý mọi việc như thế. Vậy mà khi kể lại những cảnh tượng trên, ông ta bình tĩnh như một kẻ ngoài cuộc.

Tôi quơ một đũa mì để ăn tiếp. Mì đã nguội lạnh. Mì ăn liền rất thơm nhưng ăn vào lại thấy có mùi chất dẻo, phần lắng đọng dưới đáy bát lại mặn đến kinh người, tuy nhiên tôi vẫn cần ăn một thứ gì đó để tự trấn tĩnh. Tôi nhồm nhoàm ăn nốt phần còn lại rồi tiếp tục đọc.

Đúng lúc Ôn Kiến Quốc định bỏ đi thí có vật gì đó đụng vào chân. Ông ta sững lại, cúi đầu nhìn. Có một vật đen nhánh, hình như là chiếc móc khóa. Ôn Kiến Quốc nhặt lên xem mới biết đó là một chiếc nhẫn.

Đọc đến đây, tôi lại giật mình. Cái nhẫn đó! Hôm nay, khi đến thăm Ôn Kiến Quốc, tôi đã mang bên mình, định bửng trả lại ông ta, nhưng thấy tình trạng ông như thế, tôi đã quên sạch. Tôi thọc tay vào túi moi chiếc nhẫn ra.

Chiếc nhẫn này rất nặng. đeo nó chắc chẳng dễ chịu chút nào, tôi cũng không có thói quen đeo đồ trang sức. Cầm nó trên tay thì lạnh như băng giá, dường như muốn làm tay tôi tê cóng. Tôi ngắm nghía chiếc nhẫn có hình thù kỳ dị mà trong lòng cảm thấy lạnh lẽo.

Chuyện này là thật chăng? Mặc dù Ôn Kiến Quốc đã viết nó bằng búp pháp văn học, đọc lên rất giống truyện ngắn, nhưng chẳng hiểu vì sao tôi cứ cảm thấy đây là một câu chuyện có thật. Có điều Lâm Bồ Lam đã chưa kể hết sự thật. Chuyện về cái nắp giếng, không hề thấy ả nhắc đến. Chỉ trong bức thư này của Ôn Kiến Quốc tôi mới biết rõ đầu đuôi. Một số chi tiết khác cũng có thể tìm hiểu lại, nó khiến tôi suy nghĩ, chuyện là thật hay mơ?

Khi đọc lá thư, tôi không thấy có gì kỳ dị cả, nhưng càng ngẫm nghĩ tôi lại càng thấy chuyện này thật vô lý khó tin. Có thể tóm lược lại câu chuyện như sau: Ôn kiến Quốc và Lâm Bồ Lam cùng nhau đi du lịch và đã đến một nơi gọi là làng Xạ Công. Đây là một địa danh có thật, chúng đều xuất hiện trong thư và trong tiểu thuyết của ông ta. Ông ta ở nhờ một tối tại một ngôi nhà trong làng, rồi đêm đó đã thấy hai bố con nhà kia mở được cái nắp giếng, mó lên được pho tượng Phật bằng vàng nặng tới mười lăm kilogram, nhưng chẳng biết vì sao hai bố con xông vào đánh nhau. Cậu con bị ngã xuống giếng, tượng Phật cũng rơi trúng đầu làm cậu ta chết tươi, rồi ông bố bỗng bị xé thành hai mảnh, thân xác biến thành thứ nước đen như mực chảy vào trong giếng. Ôn Kiến Quốc nhặt được chiếc nhẫn trên bờ giếng.

Một câu chuyện thô nhám, hoàn toàn thiếu logic. Nếu là một người khác biên tập, chắc cũng đánh giá giống tôi. Chỉ có đều nếu tất cả đều là sự thực thì quả là quá sức tưởng tượng của tôi.

Nếu là thực, pho tượng vàng những mười lăm kilogram đó ...

Tôi không thể cười được. Vàng vốn có sức mê hoặc con người. Trong hài kịch của mình, Shakespeare đã nói: " Đổi trắng thay đen, biến xấu thành đẹp". Cho dù giá trị của vàng vẫn làm cho người ta sẵn sàng phạm tội. Vì thế tôi tin truyện ngắn của Ôn Kiến Quốc có một phần sự thật. Nhưng cố nhân vẫn chê cười những kẻ huyên thuyên bằng ảo giác là những kẻ hoang đường mộng mị. Có lẽ những điều Ôn Kiến Quốc đã viết chỉ là một giấc mộng thôi, mà thực ra thần kinh của ông ta cũng đã có những triệu chứng thất thường.

Tôi kéo rê con chuột định đọc tiếp nhưng phát hiện ra đoạn này đã là đoạn cuối. Bức thư này của Ôn Kiến Quốc đột ngột kết thúc ở đây. Tôi không thể hiểu nổi tại sao Ôn Kiến Quốc vốn là người viết lách có đầu có đuôi mà lại có thể bỏ dở thế này. Đó là dấu hiệu rất lạ lùng. Bát mì đã lạnh toát, ôm trên tay chẳng dễ chịu tí nào. Tôi mang bát đi rửa, đang định cất đi thì bỗng nhớ lại ở đoạn cuối bức thư của Ôn Kiến Quốc hình như còn vài câu gì đó. Do không để ý, giớ tôi mới nhớ ra ra, còn mấy câu tôi chưa kịp đọc.

Lau khô tay, tôi lại ngồi xuống trrước bàn phím. Ở đoạn Ôn Kiến Quốc kể về chiếc nhẫn, ông ta còn viết rằng " Tôi ngây thơ quá, tháo không ra đưộc rồi, cứu tôi với!"

Đọc dòng chữ đó, tôi hoảng hốt nghĩ đến cảnh Ôn Kiến Quốc gào lên đến kiệt sức, bất lực và hoảng sợ. Dù tôi chưa rõ đã xảy ra chuyện gì trên người ông ta, nhưng đọc tới đoạn này, tôi vẫn thấy có chút sợ hãi mơ hồ.

Tôi tắt máy, cởi quần áo và lên giường. Hôm đó chăn gối đều mới giặt, rất thoải mái và dễ chịu. Tôi khẽ nhắm mắt, chút lo lắng nhen lên trong lòng, có thể là vấn đề tâm lý, tôi sợ rằng sau khi ngũ thiếp đi, mình sẽ như một hồn ma chạy ra đường phố trên đôi chân trần. Mười lăm kilogram vàng! Rốt cuộc Ôn Kiến Quốc đang trốn chạy cái gì? Mười lăm kilogram vàng, anh ta đang sợ cái gì?

Còn Lâm Bồ Lam vì sao mà chết? Mười lăm kilogram vàng! Nếu mọi đều Ôn Kiến Quốc nói đều là sự thật thì cái làng Xạ Công đó ở đâu? Mười lăm kilogram vàng!

Tôi mở mắt nhìn lên trần nhà bẩn thỉu. Nằm trong bóng tối, cái trần nhà đó như cách rất xa, rất xa, như một cái giếng hình vuông đang trào lên những gợn sóng đen ngòm. Tôi trở mình nhưng không sao ngũ được. Dù là nghĩ đến chuyện gì thì mười lăm kilogram vàng đó như là đã khắc sâu vào đầu óc tôi và cứ bật ra mãi. Mười lăm kilogram vàng ròng. Cho dù là trong trạng thái nửa ngũ nửa thức tôi cũng thấy buồn cười. Những người đơn giản thường hay cả tin, tôi tự tin rằng mình không phải là loại cả tin như vậy, vậy mà vì sao lại không thể quên được mười lăm kilogram vàng? Nếu số mệnh giàu có thì có ngày sẽ được, nếu số mệnh không thì ước mấy cũng không. Tôi nhớ lại một chuyện kiếm hiệp đã đọc từ rất lâu về trước, có một vị sư chẳng lấy gì làm cao đạo đã nói ra hai câu làm tôi vô cùng tâm đắc như vậy. Từ nhỏ, tôi vẫn hay dùng hai câu đó để tự an ủi mình trong những lần thi trượt hoặc thất tình, cứ cho là mình không có số có má cũng thấy đỡ tủi đôi phần.

Dù là nhìn từ phương diện nào thì mười lăm kilogram vàng đó cũng không thể thuộc về tôi, cứ nghĩ mãi về nó, quả thực là rất tức cười.

Nhưng, những mười lăm kilogran ...

Tôi trùm chăn kín mặt để mong nghĩ được sang chuyện khác. Cánh tay mà Lâm Bồ Lam chìa cho tôi xem đầy những vết vằn màu đen, đó có phải là một thứ bệnh? Liệu có thể truyền nhiễm?

Nghĩ tới đó tôi bỗng thấy toát mồ hôi lạnh. Có lẽ Ôn Kiến Quốc cũng đã mắc bệnh đó, mà tôi lại tiếp xúc với cả hai người, liệu tôi đã bị nhiễm chưa? Tôi ngồi lên, bật đèn, giơ tay lên quan sát kỹ. Da dẻ tôi không lấy gì làm trắng trẻo nhưng nhìn thế nào cũng không thấy những vết như tay Lâm Bồ Lam. Vẫn không yên lòng, tôi lại săm soi tiếp những chỗ khác trên cơ thể. Mới tắm xong, thân thể còn sạch sẽ, tôi vẫn chẳng tìm thấy chỗ nào khác thường. Tôi lại đứng trước gương, soi xét kỹ mặt mình; trên khuôn mặt héo hon và mệt nhọc của tôi cũng chẳng có dấu vết gì đáng ngại.

Lại chui vào chăn, tôi đã bớt lo. Tuy bệnh truyền nhiễm thường có thời kỳ ủ bệnh, nhưng đến bây giờ, tôi vẫn chưa thấy điều gì bất thường, chắc là sẽ chẳng có chuyện gì.

Nhưng, có đúng là chẳng sẽ có chuyện gì không? Tôi không còn nhớ đã có lần nào bị mộng du hay chưa, nhưng từ nhiều năm nay, tôi cứ ngã lưng là ngủ, chưa bao giờ bị mộng du. Vậy cơn mộng du hôm đó là gì đây? Còn chuyện tôi trông thấy con chó bị chết đêm hôm trước báo hiệu điều gì?

Như bị kim châm, tôi ngồi bật dậy. Cái bộ dạng nhe răng trợn mắt của con chó hôm đó thật là dữ tợn, đến tận hôm nay nó vẫn ám ảnh tôi. Tôi gắng sức nhớ lại mọi thứ xảy ra trong cơn mộng du đó. Ôn Kiến Quốc mai phục trong bụi rậm như một con ma, lặng lẽ khóc... Có phải là khóc không?

Tôi lại nhìn lên trần nhà, tưởng tượng rằng mình có thể nhìn xuyên qua đến tận căn phòng ở tầng trên cùng. Đây là trò chơi tôi vẫn thường đùa giỡn hồi còn bé. Ngày ấy, tôi thường ngồi ngây trước cửa nhà người khác, nhìn vào những cánh cửa đóng chặt rồi tưởng tượng rằng cửa và tường trong veo như thủy tinh. Từ chỗ ấy, tôi có thể nhìn được những người đang đi lại bên trong, đang đánh lộn... Trò chơi nhạt nhẽo này, tôi đã chơi không biết mệt, tôi có thể ngồi hàng giờ, có lúc còn quên cả về nhà ăn cơm. Những kỷ niệm đã chìm vào dĩ vãng, bây giờ lại trở về với tôi.

Không bật đèn, trần nhà cũng không thể nhìn thấy, hoàn toàn chẳng nhìn thấy gì hết, nhưng trong tưởng tượng của tôi, gia đình ở gác trên bỗng có thể thấy rõ mồm một. Bàn, ghế, giường, tủ, cả chiếc tivi đều hiện rõ ra trước mắt, chỉ có điều tôi hoàn toàn không biết ai đang sống ở tầng trên, mặt mũi của chủ nhân xấu hay đẹp.

Thao thức không ngủ được nhưng tôi cũng chìm vào giấc mộng. Trong giấc mơ, tôi gặp lại Ôn Kiến Quốc, ông ta vô cùng hoảng hốt, ra hiệu cho tôi về điều gì đó, thân thể ông ta như cây nến sắp tàn đã mất đi từng mảng, đang lay động trong gió đêm chực gục xuống. Tôi muốn hết lên nhưng toàn thân tôi như đang bị vật nặng ngàn cân đè lên không thể nhúc nhích, khắp người ướt sũng và lạnh toát, tưởng bị dìm trong nước lạnh.

Giữa lúc khủng khiếp tột cùng thì có tiếng gõ cửa. Không có cửa, không biết tiếng gõ cửa vọng tới từ đâu. Trong không gian yên tĩnh, tiếng gõ cửa vọng tới càng rõ ràng, tôi thấy Ôn Kiến Quốc đang huơ tay ra hiệu cho tôi, dữ dằn và tuyệt vọng, rồi mọi âm thanh tắt ngắm và hình dáng của Ôn kiến Quốc cũng biến mất luôn.

Tô mở mắt, nắng chan hòa, chẳng còn sớm nữa. Mất việc làm, mọi thứ không hẳn đều tồi tệ, ít ra tôi cũng tha hồ ngủ thêm. Nhưng tôi vẫn nghe có tiếng gõ cửa. Khi đầu óc tỉnh táo hơn, tôi chợt hiểu ra là có ai đó gọi tôi ở phía ngoài.

Căn phòng tôi đang ở đã trả trước hơn nửa năm tiền thuê nhà, bình thường chẳng có ai đến. Tôi cảm thấy có chuyện lạ bèn vội vàng khoác áo ra mở cửa. Đứng trước cửa là người công an đó.

- Xin chào, đồng chí tần Thành Khang - Anh ta xét nét nhìn tôi một cái - Đồng chí vẫn chưa ngủ dậy à? Tôi xin lỗi đã đánh thức đồng chí.

- Không sao đâu, mời vào! - Tôi vừa mặc quần áo vừa kéo chiếc ghế ra. - Tạm ngồi xuống đi.

Anh ta ngồi xuống nói:

- Hôm nay tôi đến cơ quan của đồng chí, các đồng nghiệp báo là đồng chí đã từ chức, thật đáng tiếc, tôi còn chút việc muốn hỏi thêm, hình như đồng chí vẫn chưa ăn sáng thì phải?

Tôi vừa mặc quần áo vừa nói;

- Không sao đâu, về việc Ôn Kiến Quốc phải không? Hôm qua tôi vửa đi thăm ông ta.

- Thế à? Anh ta ngắm nghía căn phòng - Chỗ ở của đồng chí cũng hơi chật nhỉ?

Tôi cười với chút cay đắng:

- Phòng của dân chưa vợ mà, bề bộn quá. Lẽ ra là kiếm được chút lương cố định, giờ thì lương cố định cũng chẳng còn, đến căn phòng thế này rồi cũng không thê nổi.

Anh ta bảo:

- Hay là tôi và đồng chí đi ăn sáng đã, ta vừa ăn vừa chuyện trò cũng được.

- Được thôi, có quán ăn nhỏ ngay dưới nhà, ta cùng đi chứ!

Tôi mặc xong quần áo rồi cùng anh ta xuống thang gác. Khi tới ngoài cổng thì công nhân vệ sinh tiểu khu đang quét dọn cổng chính. Lúc đó đã hơn mười giờ, trong quán ăn rất vắng khách. Tôi lấy một bát sữa đậu nành, gọi thêm chút bánh trái, bê tới bàn rồi hỏi:

- Thế đồng chí đã ăn chưa?

- Tôi ăn rồi, đồng chí cứ thong thả mà ăn.

Anh ta mở cặp, lấy ra một cuốn sổ tay và một cái bút bảo tôi:

- Vừa ăn vừa trò chuyện không có vấn đề gì chứ?

- Không có vấn đề gì. - Tôi cắn một miếng bánh hỏi tiếp - Có chuyện gì thế?

- Xin hỏi đồng chí có biết Ôn Kiến Quốc có nguồn thu nhập kinh tế nào không?

Tôi ngây người rồi nói:

- Việc này tôi cũng không rõ lắm, hình như ông ta chỉ ngồi nhà viết lách kiếm tí nhuận bút. Sao cơ? Ông ta lại có vấn đề kinh tế?

Anh ta nhíu mày:

- Bây giờ còn chưa rõ, bọn tôi nghi ngờ ông ta buôn lậu cổ vật văn hóa.

Tôi giật mình hỏi:

- Cổ vật văn hóa?

Có lẽ tiếng tôi quá to, một người đang nhẩn nha ăn bánh bao hấp phía bên kia ngoái đầu lại nhìn tôi.

Ôn kiến Quốc chẳng làm gì liên quan đến cổ vật văn hóa. Nhưng... chiếc nhẫn đó cũng có thể coi là cổ vật văn hóa...

- Đồng chí có biết gì không?

Tôi cười giấu diếm:

- Làm sao mà tôi biết được tôi cũng chẳng thân với ông ta lắm.

Anh ta lại nheo mày hỏi:

- Đúng thế, con người Ôn Kiến Quốc rất lạ lùng, chẳng ai thân thích, bọn tôi đã lục soát nhà ông ta, tối đen cứ như phòng rửa ảnh, chẳng tìm thấy gì.

Tôi hỏi:

- Làm sao mà phải khám nhà ông ta?

Có lẽ cảm thấy đã lỡ lời, anh ta ngẩng đầu lên bảo:

- Chắc đồng chí chưa biết, đêm qua ông ta đã trốn khỏi bệnh viện, trời đất, quản lý bệnh viện sơ xuất quá!

Tôi kinh ngạc hỏi:

- Trốn rồi?

- Đúng vậy, chúng tôi đã đề nghị đưa ông ta tạm giam rồi đấy, nhưng ông ta giả vờ là người nhà bệnh nhân rồi trốn mất, từ hôm qua chúng tôi đã cử ngay người canh chừng gần nhà ông ta, nhưng khôgn thấy ông ta về. Ông ta chưa đến chỗ đồng chí chứ?

Tôi lại cười cay đắng:

- Chưa thấy, ông ta không hề biết chỗ ở của tôi, trước đây toàn là tôi đến chỗ ông ta. Phải rồi, lúc nãy đồng chí nói ông ta buôn bán cổ vật văn hóa là những thứ gì đấy?

Tôi thấy anh ta búng búng ngón tay lên xà cột công văn, mắt nhìn vào cuốn sổ như có vẻ nghĩ ngợi. Tôi nói vội:

- Nếu là điều cơ mật thì chớ có nói.

- Có gì cơ mật đâu, chúng tôi tìm thấy một ít đồ cổ ở chỗ anh ta, toàn là tượng Phật bằng vàng, bằng bạc, nếu là của thật thì cũng phải được hai ba trăm ngàn. Không biết ông ta kiếm ra những thứ này ở đâu?

Làng Xạ Công, suýt nữa thì tôi đã buột miệng nói ra. Ôn Kiến Quốc và Lâm Bồ Lam đều chưa nói đúng sự thật. Đọc bài viết của Ôn Kiến Quốc, tôi nghĩ không thông về chuyện vì sao ngay trong đêm đó ông ta phải chuồn khỏi làng Xạ Công. Chẳng phải ông ta đã viết là chẳng lấy được gì khi chuồn khỏi đó, vả lại hình như hai bố con nhà đó chỉ mò lên có một cái tượng vàng.

Tay công an còn nói thêm:

- Chưa biết chừng sau lưng Ôn Kiến Quốc còn có cả một tập đoàn chuyên buôn bán cổ vật văn hóa. Nếu ông ta đến tìm, đồng chí nên khuyên ông đầu thú; phạm pháp là phải ra tòa đấy!

Còn tôi thì nghe tai này ra tai kia, chỉ nghĩ về câu anh ta vừa nói. Bê bát sữa đậu nành lên miệng, tay vẫn còn thấy run. Thấy tôi ăn xong anh ta cũng đứng lên.

- Thôi được rồi, ta tạm nói đến đây, nếu có tin gì về Ôn Kiến Quốc, anh báo cho tôi biết ngay.

Tôi gật gật đầu:

- Được thôi!

Chia tay với anh ta rồi, tôi còn nghĩ mãi về những chuyện anh ta nói. Trong nhà Ôn Kiến Quốc còn có số đồ cổ bằng vàng bằng bạc, điều đó chứng tỏ những điều anh ta viết ra không phải hư cấu. Như thế nghĩa là trong cái giếng ở làng Xạ Công ấy, pho tượng vàng mười lăm kilogram vẫn còn nguyên đó. Tôi trả tiền, bước ra khỏi quán, bất giác mỉm cười. Lại bắt đầu nghĩ lung tung rồi.

Có lẽ mất việc làm mới sinh ra hay nghĩ lung tung như thế. Vừa trở về đến tầng gác nơi tôi ở đã thấy công nhân vệ sinh đứng trước cửa, đang gõ cửa phòng. Tôi vội bước tới hỏi:

- Thưa bác, bác có việc gì thế?

Ông ta nhìn tôi một cái rồi hỏi:

- Đây có phải là nhà anh không?

- Vâng, sao ạ?

Ông ta chỉ vào ven tường nói:

- Những quần áo này anh có cần không? Nếu cần thì sao lại vứt ra thế này?

Quần áo! Tôi ngạc nhiên. Tuy có nghe nói về mấy tay công tử chẳng chịu giặt quần áo, mặc đến bẩn rồi lại quẳng đi luôn nhưng tôi đâu có thực lực kinh tế để làm như thế. Dù có điên rồ cũng chẳng có đem quần áo ra mà quẳng đi. Tôi cúi nhìn theo hướng tay chỉ của ông ta. Bên cạnh cửa đúng là có mấy chiếc quần áo, toàn là những đồ đại loại như đồ mặc lót. Từ đâu ra thế này? Tôi thử nhặt lên xem, không phải là đồ mới nhưng cũng chẳng cũ đến mức vứt đi. Đã quen mắt, tôi có thể khẳng định ngay không phải quần áo của tôi. Tôi nói:

- Không phải đồ của tôi, bác thử hỏi người khác xem.

- Tôi hỏi cả rồi, đều không phải, phí phạm quá, đồ còn tốt thế.

Ông ta gấp những quần áo đó lại rồi nói:

- Giặt sạch vẫn còn mặc tốt. Không ai nhận thì tôi cầm đi.

- Bác cứ mang đi.

Tôi mở cửa, dọn dẹp giường đệm rồi ngồi xuống hút thuốc.

Vừa châm được điếu thuốc, tôi bỗng ngây người. Những quần áo đó là của Ôn Kiến Quốc! Những quần áo anh ta mặc là đồ của bệnh viên tâm thần, còn những thứ vừa rồi là đồ mặc trong.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 10: Bệnh tật

Tôi mở cửa phòng ra hành lang, người công nhân vệ sinh còn chưa đi xuống. tôi gọi theo:

- Bác ơi, đợi một chút !

Ông ta dừng bước:

- Là anh à ?

- Bác cho xem một chút.

Tôi bước tới, lật bó quần áo ra xem. Quần áo không được sạch lắm, có vẻ như đang mặc dở. Tôi không dám khẳng định nhưng rõ ràng là của Ôn Kiến Quốc. Tôi sờ tay lên, môi bỗng cảm thấy tê dại, không thể nói thành lời.

Tôi sờ mãi rồi bỗng chạm vào một vật cứng nằm trong túi, có vẻ là một tấm thẻ. Tôi lôi ra, đó là tấm thẻ quảng cáo, loại thẻ quảng cáo kiểu rẻ tiền thường được nhét vào khe cửa nhà người ta, quảng cáo cho một loại thuốc kích thích cường dương không rõ hiệu lực hay không.

Phía sau viết mấy chữ nghuệch ngoạc cỡ lớn. Chữ quá khó đọc và nhợt màu, không biết có phải là do Ôn Kiến Quốc viết hay không. Đó là một hàng tám chữ số bắt đầu bằng số 8.

Liệu có phải là do Ôn Kiến Quốc viết không? Tôi ngẩn người. Những chữ số này có ý nghĩa gì? Mật khẩu hộp thư của ông ta rõ ràng là sáu chữ số 780918, lẽ nào đây lại là mật khẩu cho hộp thư khác? Tôi hoàn toàn không biết Ôn Kiên Quốc còn có hộp thư khác, có lẽ phải mở chính máy tính của ông ta mới có thể biết được. Chỉ biết rằng căn hộ của ông ta đã bị công an để mắt đến, họ đã khám xét chỗ đó, lúc này không còn cách nào tiếp cận để mà mở máy. Nếu đúng là Ôn Kiến Quốc viết thì rốt cuộc là ông ta định nói gì với tôi? Còn bản thân ông ta đã đi đâu rồi ?

Tôi bỗng nhớ tới giấc mộng hôm qua, dù bây giờ đang là ban ngày nhưng tôi vẫn thấy rùng mình.

- Thế có phải đồ của cậu không?

- Người công nhân vệ sinh đó đã bị tôi làm cho hoảng sợ.

- Cậu vừa bảo không phải là của cậu nên tôi mới mang đi chứ tôi đâu có ăn trộm.

- Không liên quan gì đến bác.

- Tôi vẫn cầm mảnh giấy đó, lật ngược lật xuôi mớ quần áo nhưng chẳng còn thấy thêm cái gì.

Trở lại phòng, tôi bỗng cảm thấy chẳng có việc gì phải làm. Bình thường thì giờ này tôi đang ngồi ở tòa soạn, nay bỗng nhàn rỗi, tôi lại cảm thấy không quen.

Tôi ngồi xuống ghế, moi mảnh giấy đó ra xem lại. Mấy chữ số đó viết nguệch ngoạc, màu nâu đỏ, hơi giống màu sơn nhưng xem kỹ lại có vẻ giống màu máu hơn. Nó nhợt nhạt đến mức gần như không nhìn rõ. Nhưng nếu ai bảo rằng tối qua Ôn Kiến Quốc đến cửa phòng tôi lột hết quần áo, viết mấy số nguệch ngoạc bằng máu lên mảnh giấy này rồi trần truồng chạy ra ngoài đường phố thì cho dù bị đánh đến chết tôi vẫn không tin.

Tôi ngẩn người ngồi nghĩ rồi một ánh chớp chợt lóe lên trong đầu. Tám chữ số đó có thể là số điện thoại ? Nghĩđến đó tôi lại thấy rùng mình.

Lâm Bồ Lam chết rồi, đài báo đã đưa tin. Nếu là số điện thoại của Lâm Bồ Lam thì Ôn Kiến Quốc cho tôi để làm gì ? Trong phim kinh dị, khi bấm vào một số điện thoại thần bí là có thể liên lạc với người đã chết. Lẽ nào kiểu cách thần bí này cũng đang xảy đến với tôi ? Tôi lắc đầu, cố gắng quên đi cách nghĩ hoang đường đó. Dù thế nào chăng nữa, nếu không phải là số điện thoại thì chỉ cần bấm một cái là rõ ràng. Còn nếu tám chữ số này là số điện thoại, tôi chỉ cần nói câu xin lỗi gọi nhầm là xong, hoàn toàn chẳng thiệt hại gì.

Tôi nhắc máy rồi bấm số. Mới bấm được ba số tôi đã vội ngừng tay.

Liệu có phải là số điện thoại để liên lạc với Ôn Kiến Quốc sau khi ông ta trốn không? Ôn Kiến Quốc không người thân thích và cũng chẳng nhiều bạn, đến giờ mới chỉcó tôi là hơi thân một chút. Nếu ông ta trốn được khỏi viện tâm thần mà nơi ở đã bị công an giám sát thì cũng không thể quay về, có lẽ ông ta tới đây là để tìm kiếm sự giúp đỡ. Nếu tôi liên lạc được với Ôn Kiến Quốc thì sẽ sao đây ?

Khuyên ông ta đầu thú ? Nếu ông ta không nghe thì sao?



Đang do dự thì điện thoại reo báo bận. Tôi đặt ống nghe xuống, lại tiếp tục do dự. Cuối cùng thì tôi cũng thử bấm cả tám chữ số.

Đầu bên kia là giọng đàn ông " A lô!" giọng lười nhác như chưa tỉnh ngủ, nhưng tôi cũng trút được hơi thở dài. Đó không phải là giọng của Ôn Kiến Quốc, tuyệt đối không. Nhưng biết không phải là giọng của Ôn Kiến Quốc, tôi lại thấy hụt hẫng.

- A lô! Anh gọi ai thế?

Giọng người đàn ông trong máy có vẻ bực dọc, tôi hồi tâm nghĩ một chút mà chẳng biết nên trả lời thế nào. Rốt cuộc cũng chẳng biết người đàn ông đó là ai, điều duy nhất có thể biết được là có lẽ anh ta cũng có quan hệ với Ôn Kiến Quốc.

Đang suy nghĩ xem nên nói thế nào thì ngưởi đàn ông kia nổi cáu:

- Đồ chó chết, đứa nào thế?

Tuy bị chửi, tôi vẫn vội vàng nói:

- Xin lỗi, ông là ai?

Người kia cáu kỉnh hỏi lại: - Thế ông là ai?

Tôi đang suy tính xem có nên khai tên mình ra không thì ông ta bỗng reo lên:

- A ha, Ôn Khắc đấy hả? Ốm à? Sao lạc giọng thế?

Vừa nghe thấy hai tiếng " Ôn Khắc", toàn thân tôi như bị kim châm, tôi vội nói:

- A, đúng rồi, tôi muốn hỏi một chút, ông nói đến Ôn Kiến Quốc phải không?

Người kia ấm ứ mấy tiếng rồi hỏi lại:

- Ông không phải là Ôn khắc? Vậy ông là ai?

- Tôi là bạn ông ấy, ông có phải là bạn của ông ấy không?

Người kia lại chửi một câu tục tĩu vào điện thoại, nhưng rõ ràng không phải chửa tôi, mà chỉ là tự làu bàu với mình. Ôn Kiến Quốc là một văn nhân, ai ngờ cũng đánh bạn với hạng hạ lưu tục tĩu này.

Nói ra được một câu tục tĩu, coi như ông ta đã được súc miệng. Ông ta nói tiếp:

- Thôi được rồi, thế cái thằng cha này trốn đi đâu rồi, tôi đang cần tìm hắn.

- Tôi cũng không biết nữa.

Ông ta bỗng bật cười.

- Có lẽ hắn lại chui vào cái ổ chó để quàng xiên với con nữ văn sĩ ấy rồi. Thẳng ranh Ôn này thế mà hiếu sắc.

Tôi hơi buồn, trả lời:

- Bây giờ ông ta đang lảng tránh mọi người, chắc chẳng làm cái trò đó đâu.

- Ha...ha, hai tiếng cười vang lên trong ống nghe. - Làm ưỡn bụng nữ văn sĩ người ta, chắc lại bị "lão công đội mũ xanh" truy sát chứ gì? (ýnói ông chồng bị mọc sừng)

- Ông ta là nghi phạm giết người.

Công an đang tìm ông ta. Tôi vừa buột miệng thì giọng người kia đã trầm hẳn xuống, ngừng một lát, ông ta hỏi lại:

- Điều ông nói là sự thật? - Tất nhiên là đúmg rồi?

Tôi chỉ là bạn học với anh ta thời phổ thông, trước đây ít liên lạc, cách đây ít lâu ông ta đến đây tìm còn Iàm cho tôi thấy Iạ, chẳng cam hệ gì tới tôi hết.

Lời lẽ ông ta không tục tĩu, nhưng lại có vẻ hoảng loạn, tôi nói:

- Tôi không phải là cảnh sát. Ông ta "ồ" lên một tiếng có vẻ như bình tĩnh trở lại; im lặng hồi lâu, tôi tưởng ông ta đã đặt ống nghe xuống nhưng lại thấy hỏi tiếp:

- Thế ông định làm gì?

Phải rồi? Làm gì bây giờ?

Tôi cứ tưởng rằng số điện thoại này có mối liên hệ với Ôn Kiến Quốc, hóa ra cũng chỉ là bạn học cũ của ông ta. Nếu như người này không đóng kịch thì chắc chắn là ông ta cũng chẳng biết tung tích của Ôn Kiến Quốc. Tôi đang không biết nên nói gì thêm thì người đàn ông cất lời:

- Đúng rồi, Thế Ôn Kiến Quốc có đưa cái gì cho ông không? Tôi bỗng giật mình. Tay công an đó nói đã tìm thấy một số đồ cổ trong căn hộ của Ôn Kiến Quốc. Cái thằng cha tục tĩu này rất có thể cũng là một tay buôn đồ cổ phi pháp. Hạng người này kiếm tiền nhanh, đang bị công an tìm, nếu như khảo hắn một món cũng coi như kiếm tiền bất chính. Tôi nói:

- Được rồi, để tôi liên lạc với ông, thế ông ở đâu?

Ông ta cười khô khan rồi báo địa chỉ cho tôi. Tôi đáp:

- Được rồi, tôi sẽ đến ngay.

- Tôi là Trần Đào. Đến ngay nhé, ông không đến thì tôi cũng tìm được, số điện thoại của ông là ...phải không? - Ông ta lại cười, không đợi anh ta cười xong tôi đã đặt điện thoại xuống và bước ra ngoài.

Địa chỉ ông ta nói là một nơi hẻo lánh. Ngồi xe buýt phải mất bốn mươi đến năm mươi phút. Khi ngồi trên xe tôi sờ lên chiếc nhẫn trong túi, ước đoán chiếc nhẫn này đáng giá bao nhiêu. tuy chẳng đáng giá bằng pho tượng vàng, nhưng cũng là món đồ cổ, nếu ông ta không cho giá cao, tôi sẽ dọa đi tố giác công an, Iàm cho ông ta không dám cứng đầu.

Sờ vào chiếc nhẫn, tôi bỗng cảm thấy nôn nao muốn nôn mửa. Bỗng nhiên người tôi lạnh toátnhư bị ai đó dội một xô nước lạnh lên đầu. Tôi không hiểu vì sao mà tôi lại có ý nghĩ như vậy, đi trấn tiền của một tay Iàm ăn phi pháp! Nếu người đó là hạng côn đồ thì Iiệu Y có thể giết tôi để diệt khẩu.

Tôi càng nghĩ càng thấy sợ, chỉ còn thiếu nước đứng bật dậy để xuống xe. Nhưng chưa kịp đứng dậy, tôi đã nhớ đến câu cuối cùng của ông ta. Ông ta nói gì nhỉ? " Nếu ông không đến thì tôi đi tìm ông" Điện thoại của ông ta rõ ràng là có hiện số máy gọi đến.


Chỉ cần biết số điện thoại của tôi là hoàn toàn có thể tra ra địa chỉcủa tôi. Tôi nghĩ vậy và tiếp tục ngồi xuống.

Nếu ông ta ngỗ ngược, tôi cũng chẳng cần đòi giá trên trời Iàm gì, chỉ cần ông ta trả cho một hai trăm bạc là sẽ bán luôn cho. Nghĩ vậy, tôi lại cảm thấy cái thói nghi ma ngờ quỉ của mình thật đáng tức cười. Những kẻ buôn bán bất hợp pháp này cũng xem mạng sống rất quỉ, đâu có dễ dàng giết người. Nếu không phải vậy thì Iàm sao mà khi tôi nói Ôn Kiến Quốc bị nghi giết người, ông ta đã hoảng lên rồi vội vã thanh minh như thế. Xe lắc lư chạy, nhà cao tầng hai bên đường thưa thớt dần, rồi cũng tới cái nơi mà người kia đã nói. Xuống xe, tôi ngắm nhìn tứ phía. Vùng này mới sửa sang lại biển phố, số nhà nên tìm cũng dễ. Người đó dặn là số nhà 147, số lẽ nằm bên phía Nam. Tôi cứ lần theo đến 147thì bỗng sững người. Đây là cả một khối nhà hoành tráng, diện tích rộng lớn tới hàng nghìn mét vuông, ngoài cổng treo tấm biển rất lớn ghi mấy chữ " Viện nghiên cứu vi sinh".

Người kia cũng là một tay trí thức? Tuy cũng có nhiều trí thức đi buôn lậu song thực tế mà tôi trông thấy khác xa điều tôi tưởng tượng. Nhưng như thế tôi lại thấy yên tâm. Trong một Viện nghiên cứu như thế này, cho dù người kia có máu côn đồ thì cũng chẳng xảy ra chuyện gì với tôi.

Tôi đang định bước vào thì một ông già xuất hiện trước mặt tôi, đột ngột như từ lòng đất chui lên gọi:

- Này, cậu tìm ai?

Tôi đứng sững trả lời:

- Tôi tìm Trần Đào, ở đây có người này không?

- À, Tiến sĩ Trần, điền ngay vào phiếu tiếp khách đi.

Ông lão chỉ tay về phía phòng trực rồi bước đi trước. Đến đó ông ta lấy ra một tờ giấy rồi bảo:

- Điền vào đây, đợi một chút để anh ta ký xong thì lấy ra.

Phiếu tiếp khách không phức tạp lắm, cũng gồm tên khách tới, số chứng minh thư, tên người cần gặp, lý do gặp...có lẽ Viện nghiên cứu vi sinh là nơi nhạy cảm nên cần làm thế để tiện bề tra xét. Nhưng cái tay Trần Đào tục tĩu như thế mà lại là Tiến sĩ cơ à? Điều này thực sự làm tôi bất ngờ. Tôi điền xong phiếu, đưa cho ông già, hỏi:

- Trần Đào ở đâu ạ?

- Ở cái nhà trắng nhỏ bên kia, mỗi mình ông ta ở đấy, cứ gõ cửa là gặp.

Ông ta bảo là căn nhà nhỏ bên phía tây có sân rộng, nhiều người mặc blu trắng vội vã qua lại làm tôi có cảm giác như trong bệnh viện.

Ngôi nhà trắng nhỏ đó cũng rất sạch sẽ, cửa đóng chặt, tuy ông già bảo cứ gõ cửa là gặp, nhưng lại thấy rõ ràng là có nút bấm chuông bên cửa nên tôi đã bấm vào đó. Chẳng thấy tiếng reo, có lẽ hỏng mà không sửa, tôi lại gõ cửa.

Đang gõ cửa thì thấy có tiếng chân người vội vã chạy ra. Cửa vừa mở, một người đàn ông đeo kính có mắc dây đeo bằng vàng thò đầu ra nhìn tôi. Tôi sững sờ, người này từ đầu đến chân rất chỉnh tề, đầu tóc cũng rất sạch sẽ có lẽ chải bằng dầu bôi tóc loại Moss. Nếu có con ruồi mà đậu vào đó ắt phải trượt chân ngã lộn cổ, thật chẳng giống anh chàng tục tĩu trong điện thoại tí nào.

Tôi đang ngần ngừ thì ông ta hỏi luôn:

- Xin hỏi ông là bạn Ôn Kiến Quốc phải không?

- Đúng là cái giọng tôi nghe thấy trong điện thoại.

Tôi vội vàng đáp:

- Vâng, Xin hỏi ông là Trần Đào?

- Là tôi, mời vào.

Bên trong rất sạch sẽ, sạch đến mức làm người ta mất cả tự nhiên, còn một phòng quây riêng bằng kính, một đống dép sạch để trước cửa, bên trong là máy móc thiết bị. Tôi hơi ngẩn người hỏi:

- Đây là phòng vô trùng sao?

- Cũng chẳng khoa trương đến thế đâu. - Ông ta cười, điệu cười cũng khá bình dị chẳng giống tí nào với giọng điệu nghe qua điện thoại.

- Phòng nghiên cứu, chỗ nào mà chă thế, không sao đâu, ông cứ thay dép rồi vào đi, thế còn thứ mà Ôn Kiến Quốc bảo ông mang đến đâu?

Tôi thò tay vào túi rồi lấy ra cái nhẫn ra với chút ngập ngừng. Thằng cha Trần Đào này chă có tướng mạo của kẻ buôn lậu đồ cổ tí nào. Tôi thậm chí không thể liên tưởng được con người này với kẻ đã gọi tôi là đồ chó chết trong điện thoại. Tôi vừa chìa tay ra trước mặt ông ta, ông ta đã hớn hở đón nhận, khi tôi xòe bàn tay ra thì ông ta có vẻ cụt hứng hỏi:

- Là cái gì thế này?

Không đúng sao, tôi bỗng hơi hoang mang nói:

- Thứ này là đồ cổ đấy chứ!

- Tôi biết là đồ cổ, nhưng Ôn Kiến Quốc bảo cậu mang thứ này đến đây là có ý gì? - Tôi đột nhiên hiểu ra mình đã lầm. Rõ ràng là ông ta chưa hề nói với tôi điều gì là đồ cổ, tất cả chỉ do tôi tưởng tượng. Nhưng tôi làm sao mà biết được Ôn Kiến Quốc đã từng đưa cho ông ta những gì.

Tôi chỉ còn cách gân cổ lên mà nói:

- Nhưng Ôn Kiến Quốc đã đưa cho tôi cái này, tôi cũng chẳng hiểu ý ông ta ra sao.

Ông ta nheo mày, cầm lấy chiếc nhẫn từ tay tôi, còn tay kia đưa lên chỉnh chiếc kính mắt có sợi dây vàng với hai ngón tay. Ông ta ngắm nghía một hồi rồi bỗng một tia sáng lóe lên trong ánh mắt:

- Đợi một chút, để tôi xem xem.

Ông ta ngồi vào trước bàn, trên bàn có kính hiển vi. Trần Đào chỉnh độ cao kính hiển vi rồi lấy một tấm kính đỡ xuống dưới và đặt chiếc nhẫn lên. Ông ta điều chỉnh kính hiển vi với bộ dạng rất chăm chú. Tôi lặng im không nói gì, chỉ chăm chú nhìn ông ta làm, chẳng hiểu ông ta có tìm thấy vi sinh vật nào trên chiếc nhẫn này không.

Xem xét hồi lâu, ông ta xoay bộ mặt đưa ma lại phía tôi:

- Đúng là Ôn Kiến Quốc bảo là mang cái này đến cho tôi sao?

Tôi đã biết mình suy đoán nhầm, đang định kiếm cớ để chuồn mau cho xong, thấy ông ta hỏi thế tôi vội nói:

- Cũng không hẳn thế, ông ta để nó ở chỗ tôi, lại đưa cho tôi số điện thoại này, tôi cũng chẳng hiểu thế là có ý gì.

Ông ta trả chiếc nhẫn cho tôi, nói:

- Thế ông ta đã bao giở cho cậu Xem một chất gì đấy giống như mực chưa? Toàn thân tôi lại rùng mình. Rõ ràng, ông ta đã nhận ra sự bất thường của tôi, tôi vui vẻ gật đầu.

- Ông cũng thấy rồi? Ở đâu? Phải hết sức cẩn thận đấy, phải đậy kín, không để ánh sáng mạnh chiếu vào.

- Tôi chưa thấy. - Sự thất vọng lớn hiện lên trong mắt ông ta khi nghe nói vậy, không hiểu sao tôi vội chữa lại.

- Thế mà tôi đã được thấy. nh mắt ông ta lại lộ ra vẻ hân hoan, reo lên: - Ở đâu? Có còn không? Tôi lắc đầu

- E là chẳng còn nữa, ngày trước tôi cứ tưởng là mực đen, dính lên đĩa mềm, thế rồi chẳng hiểu thế nào nó lại đẩy lên màn hình.

- Chính là cái đó. - Ông ta vui sướng nói, hai bàn tay xoa vào nhau.

- Trời ơi, chính là cái đó, cậu nói mau, ở đâu còn.

Tôi lắc đầu:

- Sau đó lại phát hiện ra một mảng lớn ở trên tường nhưng đã bảo công nhân vệ sinh chùi đi nên chẳng còn gì nữa, hết sạch rồi.

Ông ta thừ người ra, không hề giấu diếm nỗi thất vọng.

- Hết rồi mà cậu vẫn kể hăng hái thế để làm gì. Ôi, thật đáng tiếc, nếu không rất có thể được giải thưởng về sinh học đấy. Mẹ nó, cái thằng Ôn Kiến Quốc, phải dựa vào hắn rồi hắn bỗng có chuyện, hắn đã giết ai hảẹ Thế cậu có biết bây giờ hắn đang ở đâu không?

Ông ta đưa ra cả đống câu hỏi nhanh như súng máy làm tôi không sao trả lời kịp. Tôi ngừng một lát trả lời:

- Tôi cũng chẳng biết bây giờ ông ta ở đâu. Cái ông nói rốt cuộc là cái gì thế?

Ông ta nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Thư thả đã, để tôi cho cậu xem cái này.

Ông ta lôi ra chùm chìa khóa, mở một ngăn kéo bàn, lật giở một hồi rồi lấy ra một tập ảnh nói:

- Cậu xem đi.

Ảnh chụp rất mờ, có thể thấy đó là ảnh chụp dưới kính hiển vi nhưng độ mét chưa được chuẩm, phía trên là cả khối đen sì, tôi nhìn thế nào cũng không ra hình thù vật gì, chẳng khác bức tranh sơn dầu tồi tệ theo chủ nghĩa Phăng-tê-di. Tôi hỏi:

- Đây là cái gì?

- Ảnh Amiba, không gian hai chiều.

- Sao cơ? Tôi không hiểu lời anh ta nói, anh ta lập tức định thần lại nói thêm:

- Đây là cách chọn từ ở hội tôi. Cậu biết Amiba chứ?

- Trùng biến dạng Amip.

Anh ta toác miệng cười, đánh ngón tay kêu tanh tách:

- OK, cậu cũng hiểu một chút đấy, Amip là vi trùng đơn bào thuộc ngành động vật nguyên sinh nguyên thủy nhất. Vì có thể thay đổi hình dáng dễ dàng nên theo thói quen vẫn gọi là trùng biến dạng. Amip có nhiều chủng loại nhưng chỉ có một loại gây ra bệnh tật cho con người được gọi là Amip mô lỏng như các loại Amip gây sưng gan, Amip gây viêm màng não, Amip gây bệnh lị, Amip viêm ruột...

Tôi chẳng đợi anh ta nói hết, vội chen ngang:

- Xin đợi một chút, tôi không hứng thú lắm với chủ đề này, anh bảo thật ra đây là cái gì? - Anh ta thở dài, chỉchiếc ghế bên cạnh nói:

- Ngồi xuống đã. Đó đều là chuyện của mấy hôm trước, hôm đó tôi đang làm một thí nghiệm nuôi vi sinh thì bỗng nhận được điện thoại của Ôn Kiến Quốc. Ông ta là bạn cùng lớp thời phổ thông, vào đại học chúng tôi chẳng còn liên lạc gì với nhau. Hôm đó nhận được điện của ông ta, tôi rất bất ngờ. Tôi hỏi làm sao mà ông ta biết tôi, ông ta bảo ngẫu nhiên thấy được một bản luận văn của tôi đăng trên Tạp chí Y học, mặt sau có ghi chú tiểu sử tóm tắt vá cách liên lạc với tôi.

Nói đến đây Trần Đào ngồi xuống, cầm một cái cốc:

- À, mà tôi còn chưa pha trà mời cậu.

- Không cần đâu, ông nói đi, Ôn Kiến Quốc tìm ông có việc gì?

Mặc dù còn chưa hiểu về những thuật ngữ trong câu chuyện của ông ta nhưng tôi bỗng bị ông ta lôi cuốn. Ôn Kiến Quốc tìm ông ta, chắc chắn không vì tình bằng hữu bấy lâu nay mà đây mới thực là mục đích chính. Ông ta nhấp một ngụm nước, nói tiếp:

- Cậu không uống thì thôi. Hôm đó ông ta vừa thở hổn hển vừa nói trên điện thoại cứ như vừa chơi gái xong, rằng có thứ để cho tôi xem. Lúc đầu tôi hiểu lầm nên bảo ông ta là vi trùng gây bệnh giang mai thể xoáy ốc trắng, bất kỳ xét nghiệm máu thường quy nào ở chuyên khoa bệnh tình dục cũng có thể phát hiện ra. Nhưng ông ta bảo không phải là chuyện đó. Và kể về cái bóng rất kỳ quái, có thể vận động, vận động cực kỳ nhanh.

Đúng rồi, chính là những thứ Ôn Kiến Quốc đã viết. Từ hồi nào đến giờ tôi chưa hế nghĩ theo hướng vi sinh. Nếu như đó là những vi sinh vật kỳ lạ thì đã có hướng lý giải hợp lý hơn. Đây là loại vi sinh mới mà đến giờ y học chưa hề biết đến. Lâm Bồ Lam đã đi khám bệnh, bác sĩ lại đem những thứ đại loại như kết tủa sắc tôí ra mà hù dọa cô ả. Tay thầy thuốc dốt mát đó hoàm toàm chẳng biết đây là căn bệnh gì.

Tôi hỏi:

- Có phải là vi sinh vật không? Trần Đào dẫu môi về phía những tấm ảnh tôi cầm trên tay nói:

- Chính là cái đó, tôi cũng cảm thấy hứng thú nên mới bảo anh ta mang đến cho xem. Nhưng khi mang tới đây thì những thứ này không còn động đậy được nữa. Tôi thật là vô ý, chỉ lo quan sát trên kính hiển vi, nhưng lại chẳng biết nó là cái gì. Cứ cho chất đó là mực nhưng dưới kính hiển vi vì lẽ ra phải thấy được những hạt sắc tố nhỏ bé, đằng này tôi lại chỉ phát hiện ra một mảng đen liên tục.

- Không phải là vi sinh vật?

Anh ta bỗng nóng đầu nói:

- Vi sinh vật là cái gì? "Vi: mà, cái thứ đen sì mà Ôn Kiến Quốc mang đến đây đựng trong túi nilon to bằng cái móng tay, to hơn phần lớn các loại côn trùng, thế thì còn gọi là "vi" sao được. Đã thế tôi hoàn toàn không thấy dáng dấp nào của tế bào, chỉ là một khối đen sì. Ôn Kiến Quốc gọi là cái bóng xem ra cũng có lý, và chúng có thể là những cái bóng thật.

Chẳng hiểu vì sao trong tôi bỗng trào lên nỗi thất vọng khó nói thành lời. Tôi nhớ ra rằng ở ban biên tập đã có mấy người từng thảo luận rằng cái bóng liệu có thể có sự sống , còn vị chuyên gia trước mắt tôi đây lại đang nói rằng liệu có thể đó là những cái bóng. Tôi nói:

- Nhưng, liệu những cái bóng có thể tồn tại độc lập?

- What's in a name? That which we call a rose by any name would smell as sweet Tôi ngẩn người. Đoạn tiếng Anh anh ta nói ra là của Shakespeare: "Tên là gì nào? Hoa hồng được thay bằng cái tên khác thì hương thơm vẫn ngọt ngào" Ta có thể bắt gặp câu nói này trong nhan đề cuốn tiểu thuyết. "Tên của hoa hồng" của nhà văn Ý Eco. Tôi còn nhớ, lần đầu đọc cuốn tiểu thuyết suy lý mô tả thời trung cổ đó, tôi đã rất thích và cũng rất tâm đắc câu nói của Shakespeare nói trên, thật khó mà tin được.

Đúng thế! Tên có ý nghĩa gì chứ? Cái bóng chẳng qua là cách gọi mà thôi. Dù những thứ màu đen đó không phải là bóng thì ta vẫn có thể đặt tên chúng là cái bóng. Và trông chúng vẫn đáng sợ, có thể làm tan chảy cả người đang sống. Tôi lại thấy ớn lạnh; cứ nghĩ đến cảnh tượng thân thể lão già đó nứt toát ra dưới ánh trăng như mô tả của Ôn Kiến Quốc, trong tôi lại trào dâng một nỗi sợ không nói nên lời.

Thực ra, đáng sợ hơn còn có một sự kiện khác...

- Nếu có thể tìm ra chứng cứ, giải Nobel y học năm nay chưa biết chừng sẽ thuộc về tôi, chấn động cả thế giới ấy chứ.- Trần Đào lại xoa xoa hai bàn tay, chìm đắm trong tưởng tượng của mình. - Mẹ nó chứ, một cơ hội tuyệt thế mà để vuột mất.

- Thế còn cái mẫu vật mà Ôn Kiến Quốc cho ông thì sao?

- Chính là cái này. Lúc đó tôi không biết, khi quan sát đã để cường độ ánh sáng quá mạnh. Lúc mới bắt đầu còn chưa phát hiện ra, nhưng rồi đã thấy cái bóng này co lại rất nhanh, tôi chỉ còn kịp chụp được mấy tấm ảnh đó. Vội quá, tiêu cự cũng không kịp chỉnh đúng, mẹ nó. - Anh ta làu bàu đầy miệng tục tĩu, chẳng hề giống một người đã được đào tạo bậc cao.

- Thứ này sợ ánh sáng, hình như cũng có điểm tới hạn, vượt qua điểm tới hạn đó sẽ phát sinh hiệu ứng tuyết lở, thoắt cái đã biến hết. Hơn nữa, cái mà tôi được thấy chắc chắn chỉ là thi thể của cái xác đã chết hoặc là trong trạng thái bào tử, hoàn toàn không thể hoạt động. Giá như có được mẫu vật sống, chắc chắn sẽ có thể làm chấn động cả thế giới vi sinh học, kiếm được cái giải Nobel.

Đúng là mơ giữa ban ngày, tôi ngắt lời anh ta.

- Vậy sao lại gọi là Amiba không gian hai chiều?

Anh ta tỉnh lại:

- Ôi, cái tên này là tôi đặt ra, chẳng thể nói được nó là cái gì, thậm chí cũng chẳng có độ dày. Cậu thử

xem cái ảnh này.

Anh ta chỉvào một tấm ảnh. Hình ảnh rất mơ hồ, tôi chẳng thấy cái gì hay ho trong đó, tôi hỏi:

- Có chuyện gì trong ảnh đó?

- Hãy xem vùng rìa, có dấu vết nứt nẻ nhưng vẫn là một mặt bằng. Tấm ảnh này đã được phóng đại

100000 lần, một tế bào hồng cầu đã khuyếch đại to lên bằng bánh xe ô tô, thế mà cái mảng màu đem

này lại hầu như chẳng có độ dày, còn mỏng hơn một con Amip không biết bao nhiêu lần. Nói cách

khác, dù là có độ dày thì kỹ thuật hiển vi ngày nay cũng chưa thể đo được, cbưa biết chừng có thể

mỏng đến cấp độ nguyên tử. Thật là kỳ diệu, thế giới sao còn có thứ tuyệt diệu đến thế.

Anh ta ra sức tán thưởng, tôi nhìn vào tấm ảnh nét mờ đó hỏi thêm:

- Như Vậy, sau khi thâm nhập cơ thể con người, loại Amip này có thể tạo ra triệu chứng bệnh lý gì

không?Anh ta ngẩn người rồi bỗng nói:

- Phải rồi, nhưng tôi lại chưa tìm thấy. Sao cậu lại nghĩ tới chuyện cảm nhiễm vào cơ thể người? Với

độ dày của loại Amip này, mảng tế bào chắc chỉ như tầng sương mù, trời ơi, giá mà được thấy thể

trạng sống của nó thì tuyệt biết bao, chấn động thế giới là cái chắc.

Tôi hơi sốt ruột hỏi:

- Nhưng có triệu chứng bệnh lý nào không?

- Với độ dày như thế chắc là sẽ chẳng có ảnh hưởng gì đến cơ thể con người.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Có chuyện đó?

- Chỉ là phán đoán của tôi. Thứ này tương đối yếu ớt, mà lại có thể không tiết ra chất độc gì, tôi thật sự

không nghĩ ra được là có thể gây ra chứng bệnh gì hay không, cũng giống như khi đi ăn cơm, có thể anh

vô tình nuốt vào một hạt sạn nhỏ, rồi nó sẽ được thải ra theo đường bài tiết.

- Thế nhưng virus cũng rất nhỏ bé...

- Virus là chuyện khác. - Ông ta cầm một cuốn sách dày trên bàn, có vẻ như muốn cho tôi nghe một bài

giảng, tôi vội vàng nói:

- Thật sự là không có ảnh hưởng gì chứ? Tôi cứ cảm thấy Ôn Kiến Quốc lúc đó có những biểu hiện khác thường.

- Chuyện này tôi không dám chắc chắn. Thế giới rộng lớn quá, những điều ta hiểu chưa được nhiều, như chuyện nội tiết của cơ thể con người mãi đến bây giờ cũng vẫn chưa có cách gì tìm hiểu triệt để. - Ông ta nghĩ ngợi rồi nói tiếp. - Loại Amip này nếu nhiễm vào cơ thể người, ảnh hường lớn nhất có thể là vào hệ thần kinh.

- Phát điên?

Ông ta suy nghĩ rồi lắc đầu:

- Tôi không biết. Mẹ nó, cái thằng cha Ôn Kiến Quốc chẳng biết lấy ở đâu ra cái thứ này. À, phải rồi, thế cậu là ai?

Ông ta ngắm tôi với vẻ hoài nghi, tôi cười, miễn cưỡng trả lời:

- Tôi chỉ là một người bạn của Ôn Kiến Quốc.

- Thế thật ra cậu với hắn có liên lạc với nhau không? - Ông ta do dự một chút. - Nếu cậu có thể liên lạc với hắn thì bảo hắn rằng cố gắng mang thêm một chút thứ này về đây cho tôi xem.

Tôi cười cay đắng, Ôn Kiến Quốc đã như giọt nước bốc hơi tan biến vào không khí, không còn để lại dấu vết, tôi hoàn toàn không nắm được hành tung của ông ta. Nhưng tay Trần Đào này hình như đã nhìn nhận đúng là tôi với Ôn Kiến Quốc vẫn có liên hệ với nhau. Tôi nói:

- Được thôi, nếu tìm được ông ta, tôi sẽ báo ông. - Vừa nói tôi vừa bước ta cửa.

- Đừng quên chuyện này nhé! - Ông ta đuổi theo. - Phát hiện này có thể làm đảo ngược cả thế giới vi sinh đấy. Sự tồn tại của sinh vật với kích thước nguyên tử sẽ là chuyện làm cho nhiều chuyên gia phải phát điên. Cậu tuyệt đối không được nói với ai, có tin tức gì thì báo tôi ngay. - Ông ta Vừa nói Vừa sờ vào trong túi lôi cái ví ra. - Phải rồi, tôi đưa trước cho cậu ít tiền, bảo Ôn Kiến Quốc liên lạc với tôi. Tìm được hắn, tôi cho cậu thêm.

Tôi đẩy tiền của ông ta lại:

- Tôi thật sự không biết, Ôn Kiến Quốc hầu như biến mất rồi, tôi cũng đang đi tìm ông ta.

Rời khỏi cái viện vi sinh đó, tôi lại lên xe buýt, vừa vân vê tờ tiền giấy vừa nhớ lại bài học về sinh vật của Trần Đào. Amiba không gian hai chiều? Tôi không tin là có thứ đó, con Amip ăn thức ăn bằng cách biến dạng, nếu bóng đen chỉ có kích thước nguyên tử, không lẽ nó phải nuốt nguyên tử để sống? Thế nhưng, lần này thì ít nhất tôi đã biết sự bất thưòng của Ôn Kiến Quốc, rõ ràng là có liên quan tới những thứ màu đen kia, bản thân ông ta cũng đã phát hiện ra điều đó.

"Ảnh hưởng tới hệ thần kinh" - Đúng là Ôn Kiến Quốc đã thay đổi rất nhiều, cứ như đã trờ thành người khác vậy. Phán đoán của Trần Đào rất có thể đúng. Bây giờ nên làm gì đây? Tôi những tưởng Ôn Kiến Quốc cung cấp số điện thoại này là để tôi nắm được hành tung của ông ta,hóa ra là không phải.

Vậy ông ta có dụng ý gì đây và tại sao lại đến chỗ tôi, tại sao không nói thực với tôi mà lại báo cho tôi biết theo cách kỳ cục như thế này?

Hoàng hôn đã buông xuống, những tia nắng lướt qua cửa sổ xe buýt như những bó tơ vàng óng. Lúc này đang tan tầm, xe chật cứng, khách chen chúc nhau. Tôi ngồi bên cửa sổ, ngây người ngắm nhìn cảnh vật nối tiếp lùi dần về phía sau rất nhanh. Cảnh vật ở xa lướt qua chậm làm cho những cảnh rất xa lại như đang tới gần. Hãy quên đi cái chết của Ôn Kiến Quốc, mặc kệ giải Nobel của Trần Đào. Điều tôi phải lo lúc này là tìm việc làm, kiếm cơm nuôi thân.

Vừa nghĩ đến chuyện kiếm cơm tôi lại cảm thấy một cảm giác là lạ đang xâm chiếm tâm hồn. Khẩu vị của tôi ngày càng tồi tệ, cáng ngày càng chán chẳng muốn ăn, mà tôi cũng chẳng thấy đói. Hệ tiêu hóa của tôi có vấn đề gì sao? Người xưa vẫn có câu: "Không ăn không uống ắt thành Tiên" - Tôi mà được như thế thì may mắn quá. Thất nghiệp hay không chẳng còn quan trọng nữa, cứ kiếm chỗ nào đó dễ chịu, suốt ngày ngắm trời, ngắm đất lại chẳng sướng đời. Tôi bất giác mỉm cười, tự chữa thẹn. Mặt trời đã khuất sau núi, trời tốt rất nhanh, tôi thấy hình ảnh của mình hiện ra từ cửa kính xe thật ngộ nghĩnh, có lẽ do kính không được phẳng cho lắm. Cái bóng của tôi khi cười sao mà nham hiểm đến thế.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 11: Cậu đến rồi

Bóng tối sâu thẳm đến khó tưởng tượng đang quằn quại như một cơ thể sống, như một đầm lầy cổ đại sâu không thấy đáy, quá sâu đến mức làn nước cũng trở thành một mảng tối, đen kịt như mực tàu. Cái ga tàu hỏa hỗn loạn, chỗ nào cũng đầy người, khắp nơi đều như vậy. Ga Thường Đức cũng không ngoại lệ.

Rời khỏi nhà ga, tôi lo lắng ngắm nhìn thành phố xa lạ này. Thành phố này nằm ở phía tây hồ Động Đình mấy năn nay phát triển rất nhanh, giống như những thành phố hàng đầu ở miền đông, khắp nơi là công trình xây dựng, chỗ nào cũng bụi mù, bầu trời cũng ngã màu xám xịt.

Bức thư để lại của Ôn Kiến Quốc không nói rõ làng Xạ Công ở chỗ cụ thể nào. Đi tìm ngôi làng này như mò kim đáy biển. May mà tiểu thuyết của anh ta để lại một dấu vết, anh ta nói đã khởi hành từ Trường Sa đến Thường Đức, đáng lẽ định đi chơi một chầu ở Vũ Lăng, Phượng Hoàng, nhưng vì lên nhầm xe ở Nguyên Lăng nên mới lạc đến làng Xạ Công. Rõ ràng lộ trình đến đây đã không được vạch sẵn. Ngôi làng quá nhỏ bé này không có trên bản đồ, nhưng dấu vết nói trên đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm rất nhiều.

Bức tượng Phật bằng vàng đó có còn dưới giếng không? Tôi không biết, còn Ôn Kiến Quốc thì khẳng định là chưa mang về. Một cảm giác kỳ lạ dường như đã mách bảo tôi rằng trong cái giếng bị đậy chặt bằng đá khối ở cái làng nhỏ bé hẻo lánh đó, pho tượng vàng nặng trịch vẫn còn.

Phật vàng! Trên mười lăm kilogram. Nếu tìm không thấy thì cứ coi như đi chơi. Tôi tự gỡ ngượng, nghĩ sống đến tuổi này, đã đi khắp đông tây nam bắc nhưng chưa có lần nào được đi chơi.

Tương Tây là vùng đất mở cửa kém, lâu nay chẳng phát triển gì, nhưng vùng Phượng Hoàng lại nổi tiếng vì chính sách bế quan tỏa cảng và đã trở thành điểm du lịch thu hút lượng khách đổ về đông. Ngày giáp tết cũng là những ngày vàng cho du lịch. Tôi cứ tưởng sắp được đến một vùng u tịch cho thư giản tâm hồn nhưng đâu có ngờ rằng nơi ấy, người đông nườm nượt chẳng khác nào chợ rau chợ cá.

Ra khỏi ga xe lửa, tôi ấn tay vào cái vali. Bên trong chẳng có thứ gì đáng tiền. Mấy bao thuốc lá, mấy bộ đồ thay đổi hàng ngày, cộng cả lại cũng chưa bằng tiến chiếc vali. Đường tàu đến Thường Đức quả thật là mệt dễ sợ. Con đường tiếp theokhông có tàu hỏa, cứ nghĩ đến việc đi bằng Ô tô xốc nảy người cũng đủ mất hết can đảm. Nhưng đã đến Thường đức rồi thì lẽ nào lại quay về. Vẫn còn may là đi đường thủy, chỉmột mạch là sẽ đến nơi. Tôi ra bến mua vé thuyền đến Nguyên Lăng, thời gian rời bến là 3 giờ 20 phút chiều. Tôi tìm một quán ăn nhỏ trên đường phố Thường Đức, gọi một món gì nhồi vào bụng, rồi châm một điếu thuốc lá, trầm tư suy nghĩ về chuyến đi.

Tôi xuất phát theo đúng lộ trình mà Ôn Kiến Quốc đã mô tả. Mấy hôm trước, tôi còn lưỡng lự nửa ở nửa đi, đôi lúc tôi chỉ biết ngồi cười cay đắng. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định phải lên đường. Đồ ăn đã bưng lên, thức ăn Hồ Nam cho nhiều mắm muối nhưng tôi Vẫn thấy nhạt nhẽo, vô vị. Trong tôi lúc này chỉcòn bận tâm đến giấc mơ đó. n qua quýt, tôi đứng dậy trả tiền, rồi bước khỏi quán. Ngày trước, mỗi thành phố đều có diện mạo riêng của mình, mấy năm gần đây, khắp nơi đều đập phá nhà, xây lên những tòa nhà một kiểu như nhau. Tôi đảo một vòng quanh phố, rổi ra đợi thuyền. Thuyền ngược dòng Nguyên Giang rồi đi xuống phía nam, phong cảnh đôi bờ kỳ thú. đúng là núi non, sông nước đẹp vô cùng. Hầm mỏ, nhà máy rất ít, gần như chẳng có Ô nhiễm nào. Bế quan tỏa cảng cũng có cái hay của nó. Bầu trời đặc biệt trong xanh, tôi ngồi ở đuôi thuyền ngắm cảnh đôi bờ, thỉng thoảng lại gặp vài chiếc thuyền gỗ lướt qua hai bên. Khi vượt thác ghềnh, đám phu kéo thuyền lại quấn thừng vào vai giúp thuyền vượt qua. Nghe tiếng nhịp dô ta, dễ có cảm giác lạc về dĩ vãng.

Trời rất lạnh. Đứng trên mạn thuyền, gió sông thổi vào mặt giá buốt. Tôi rút một điếu thuốc lá, thò tay vào túi quần rút chiếc bật lửa nhưng lại đụng phải chùm chìa khóa. Chùm chìa khóa rất lớn, trùm kín chiếc bật lửa, tôi đành phải rút tât cả ra. Chùm chìa khóa có rất nhiều chìa nhưng phần lớn là của cơ quan, giờ đã trở thành vô dụng nhưng tôi chưa kịp vứt đi. Gió quá mạnh, bật mãi không được lửa, đang vào bên trong khoang tìm chỗ kín gió châm thuốc rồi sẽ quay ra, bỗng có cánh tay đưa ra:

- Xin mời!

Đó là chiếc bật lửa cao cấp có thương hiệu nổi tiếng. Sau tiếng kêu giòn giã, lửa đã bắt ngay, tôi nghểnh mặt lên châm thuốc và nói càm ơn.

Đó là một người đứng tuổi vận chiếc áo gió hàng hiệu cao cấp, chắc hẳn là một người thành đạt đi du lịch. Ông ta bỏ bật lửa vào túi và mỉm cười bảo tôi:

- Đi chơi à?

- Thưa vâng! - Tôi gật đầu.

- Cảnh đơn côi không vợ, một người ăn no, cả nhà không đói, tranh thủ dịp này đi chơi một chút.

- Tuổi trẻ tuyệt thật! - Ông ta thở dài một hơi. - Ô' vào cái tuổi của cậu, tôi còn phải đi kiếm cơm, làm gì có chuyện du lịch. T

ôi bỗng cười thầm đau khổ, tôi bây giờ đến bát cơm cũng chẳng kiếm được, nếu mục tiêu chuyến đi này không thành thì có nguy cơ trở thành kẻ bần cùng cũng nên. Tôi không định nói về chuyện này bèn đánh trống lảng:

- Ông anh, anh làm ở ngành nào?

Ông ta mỉm cười bảo:

- Gì cũng làm, chủ yếu là đi khắp nơi kiếm ít đồ cổ.

- Chắc mệt lắm hả? - Chẳng dễ ăn gì! - Ông ta thở dài não ruột. - cũng may là bây giờ đã có chút kinh nghiệm, đỡ hơn trước nhiều rồi. Nhưng nếu nhìn sai thì lỗ vốn.

Ông ta ăn diện đàng hoàng, xem ra cũng chẳng phải là người làm ăn thua lỗ. Tôi hỏi:

- Nghề này dễ kiếm không?

- Nếu vớ được món tốt, thế nào cũng kiếm được gấp mười mấy lần.

Ông ta có vẻ không muốn nói nhiều về chuyện này; tôi cũng hiểu những người buôn đồ cổ đâu chỉ kiếm lãi gấp mười lần. Tôi nghe nói có tay buôn đồ cổ bỏ ra hai trăm bạc mua được bốn cánh cửa sổ chạm khảm hoa văn, sau đó đã bán được với giá mười mấy ngàn đô la Mỹ tại nơi bán đấu giá Tô Phúc. Nếu Iàm tốt, hoàn toàn có thể kiếm lãi gấp trăm ngàn lần.

Đoán chừng ông ta không muốn bộc bạch, tôi không tiện hỏi thêm. lm lặng hồi lâu, bỗng ông ta hỏi:

- Cậu định đi đâu?

- Nguyên Lăng.

- Nguyên Lăng hả? - Có vẻ như ông ta nhớ ra chuyện gì đó. - Đó là một nơi thú vị có nhiều kiến trúc cổ. Ý tứ câu nói đó cho thấy ông ta chắc chắn đã từng đi tìm kiếm đồ cổ ở Nguyên Lăng và đã kiếm được ối tiền nên mới đánh giá cao vùng đất này.

Vì tôi định đi Nguyên Lăng trước để dò hỏi thông tin, nên thuận mồm nói:

- À phải, thế ông có biết một ngôi làng tên là Xạ Công không?

- Tôi cũng đã đến đó. Thực ra tôi chỉ buộc miệng mà hỏi thôi, cũng chẳng thèm quay đầu nghe câu trả lời. Vừa nghe dứt câu nói của ông ta, tôi sững người, vội móc cuốn sổ tay ra, ghé sát rồi hỏi thêm:

- Ở đâu cơ? Cái làng Xạ Công đó? Ông vẽ cho tôi cái bản đồ chỉ đường được không?

Không ngờ mọi chuyện lại trở nên thuận buồm xuôi gió đến thế, thậm chí tôi chẳng dám tin. Vẽ xong bản đồ cho tôi, ông ta bảo:

- Đó là ngôi làng hẻo lánh, chẳng có gì đáng giá, may tìm được cái bát đời Hán có một góc mẻ chẳng bõ công, thế cậu đến đó làm gì.

Ông ta hỏi tôi vẻ hồ nghi, không dám nói thật, tôi thuận mồm nói:

- Có mấy người thân thích. - Nhưng vừa nói xong, tôi đã thấy hối hận vì nếu có người thân ở đó, sao lại chẳng biết đường. Nếu ông ta vặn lại, tôi sẽ không sao trả lời nổi. May mà ông này chẳng thèm đểý mà chỉdán mắt vào chùm chìa khóa của tôi.

Cái ông ta để ý là chiếc nhẫn.

Chiếc nhẫn đó, hôm nay tôi không lùa lọt ngón tay nữa. Tôi không rõ lý do nữa, dù tôi cũng không nghĩ là mình béo ra. Tôi dùng nó làm cái vòng móc chìa khóa, khi đeo nó trên tay trông rất ngộ, nhưng khi làm vòng móc khóa lại rất đẹp. Tôi cười, định cất chùm chìa khóa vào túi thì ông ta vội nói:

- Cho xem chút được không.- Giọng của ông ta khô khốc, nếu tôi không cảm nhận nhầm thì trong giọng nói đó có ý tham. Tôi đưa chùm chìa khóa cho ông ta, ông ta lật đi lật lại rồi đột ngột hỏi:

- Cậu lấy đâu ra cái thứ này? Câu hỏi đường đột này làm tôi mất vui. Tôi trả lời qua quýt: " Của bạn tặng đấy." Vừa nói tôi vừa đưa tay lấy lại chùm chìa khóa. Thấy tôi bỏ chùm chìa khóa vào túi, ông ta lại đột ngột hỏi:

- Tôi trả một trăm, có bán không?

Tôi hơi giật mình:

- Cái này đáng tiền không?

Ông ta cười với chút thiếu tự nhiên:

- Cũng chẳng phải là rất đáng tiền.- Ông ta nói xong, có lẽ nhận ra tôi có vẻ nghi ngờ nên mỉm cười.

- Cái nhẫn này chế tác rất tinh tế, có điểu trùng thư, có lẽ là đồ thời Chiến Quốc, gặp khách cũng phải được ba bốn trăm. Nhưng cái này sáng quá, màu gỉ, có lẽ là gỉ nước, rất có thể là đồ rởm.

- Điểu trung thư?.

-Tôi lại ngạc nhiên. Tôi không hiểu lắm về thư pháp nhưng tôi biết điểu trùng thư là một loại thư pháp rất cổ. Tôi đã xem kỹ chiếc nhẫn, phát hiện nhiều hoa văn được khắc rất tinh vi nhưng chẳng hiểu ra là cái gì. Từ trước đến giờ, tôi vẫn tưởng nó cũng như hoa văn trang trí trên các đỉnh đồng thau thời Thương Chu, thế mà lại thấy ông ta bảo là chữ viết.

Tôi lấy chùm chìa khóa ra hỏi:

- Cậu nhận ra thư pháp điểu trùng thư chứ? - Ông ta nuốt nước bọt rồi nói.- Tôi cũng chẳng nhận ra được.




Ông ta thiếu thật thà như vậy làm tôi hơi cáu, nhét vội chùm chìa khóa vào túi, nói :

- Thế thì thôi vậy!

Ông ta chẳng nói gì, búng búng tàn thuốc lá. Gió sông rất mạnh. Tàn thuốc rơi ra chỉ là một sợi màu trắng xám nhưng chưa kịp chạm mặt nước đã mất tăm mất tích. Điếu thuốc của tôi đã cháy gần hết, hút tiếp cảm thấy nặng nồng, tôi quẳng đầu thuốc xuống nước, mắt dõi theo đốm lửa đỏ âm thầm tắt trong làn nước trong xanh. Ông ta cũng ném đầu thuốc lá và bảo:

- Đến giờ ăn rồi, đi thôi.

Trời sắp tới, vẻ u ám như sắp có mưa. Ngắm nhìn những dãi núi bất tận hai bên sông, tôi bỗng dưng nghĩ tới lời thơ Trúc Sơn: " Tráng niên thỉnh vũ khách đan trung".

Ăn xong bữa cơm nhà thuyền vừa đắt lại vừa khó nuốt, tôi đã định bụng hỏi thêm người đó đôi điều về làng Xạ Công. Nhưng ông ta đã biến mất như bong bóng xà phòng. Đúng lúc đó trời bắt đầu mưa, tôi ngồi bó gối trong khoang khách, sán lại gần ngọn đèn đọc mấy cuốn sách. Nghe tiếng mưa rơi, tiếng sóng vỗ mạn thuyền, tôi cảm thấy mệt mõi và bắt đầu buồn ngủ, nhưng không dám ngủ.

Khoang khách có tám giường, giường tôi ở sát góc. Bảy giường kia mọi người đều đã ngủ, tiếng ngáy đều đều như đã say giấc. Tôi đắp chăn, lôi trong túi ra một cuộn thừng tự buộc tay phải trước, kéo qua người, luồn xuống kẻ hở của chiếc giường sắt rồi dùng răng tự cố định tay trái vào phía bên kia.

Nếu ai đó trông thấy bộ dạng này ắt sẽ rất kinh ngạc, tưởng tôi là kẻ bất thường. Tôi vừa muốn cười lại vừa muốn khóc. Tự trói mình xong tôi nằm yên, nước mắt âm thầm chảy qua má.

Đêm đó, tôi mơ mình đã đến một nơi hoang vắng. m u, mưa ướt suốt sũng người, giá buốt. Không biết bao lâu sau tôi mới hiểu ra đó chỉ là giấc mộng mà thôi.



Khi thuyền đến Nguyên Lăng, trời còn chưa sáng. Sự ồn ào đánh thức giấc ngũ của tôi. Việc đầu tiên khi tỉnh dậy, tôi kiểm tra nút thắt còn chắc, chưa có dấu hiệu tuột. Tôi tự cởi trói trong chăn, mặc quần áo rồi ra khỏi giường, nhìn ra cửa sổ. Trên bến, đèn đuốc sáng trưng, một chiếc thuyền đang dỡ hàng.

Trời còn sớm, thu nhặt đồ đạc, lên bến, ra đến đường phố, tôi còn cảm thấy hoa mắt nhức đầu. Có lẽ do tôi ngủ chưa đầy giấc. May mắn, tôi có tấm sơ đồ do tay buôn đồ cổ vẽ cho chiều qua. Từ Nguyên Lăng đến làng Xạ Công phải đổi nhiều tuyến xe, đoạn cuối cùng còn phải đi bộ. Khi bắt đầu hành trình, tôi cứ nghĩ mọi chuyện đơn giản nhưng lúc này lòng tin chẳng còn bao nhiêu. Ra bến Ô tô, mua xong tấm vé đến phố huyện nọ thì chiếc xe ca đã đợi sẵn trong bến. Tôi xách va li quần áo chui vào xe nhưng xe vắng tanh. Tôi ngồi một lát, bắt đầu ngũ gật, đang mơ màng thì xung quanh bỗng trở nên huyên náo. Họ là khách đi sớm, chuyện trò bằng tiếng địa phương, nghe không hiểu nỗi, cái rét ngọt đầu xuân, tất cả sao mà xa lạ. Tôi kéo cổ áo, co người lại, mong tạo được một thế giới riêng cho mình.

Từ Nguyên Lăng đi mất ba tiếng thì đến một phố huyện trực thuộc. Khi xe dừng lại, trời không mưa nhưng bầu trời nặng trĩu. Tới làng Xạ Công, mỗi ngày chỉcó hai chuyến xe, một chuyến chỉcòn mười mấy phút nữa là khởi hành, còn một chuyến thì đến một giờ chiếu mới xuất phát. Cảm thấy không vội, tôi bèn mua vé chuyên sau rồi đi dạo xem cảnh phố phường.

Thành trấn cổ xưa vùng Tương Tây này, nếu được bê về vùng duyên hãi thì chắc hẳn sẽ trở thành thắng cảnh cuốn hút khách du lịch lắm đấy. Nhà cửa, phố xá phầm lớn được Iàm từ cuối đời Thanh hoặc đầu thời Dân quốc, một số kiến trúc cổ có lẽ còn cổ xưa hơn.

Dạo xong một vòng tôi còn phát hiện ra một biển hiệu được gìn giữ rất cẩn thận, có đề bốn chữ "Lập Huyết Văn Trinh". Không rõ là điển cổ gì nhưng nhìn bốn chữ đó cũng đoán ra, nơi đây hẳn đã xảy ra một cuộc tranh chấp đẫm máu, Chữ "Huyết" khiến tôi cảm thấy không thoải mái trong lòng.

Chọn một tiệm cơm sạch sẽ trên phố, tôi bước vào. Người hầu bàn với phong cách hơi cổ chạy lại mời chào. Thức ăn Hồ Nam được tiếng là ngon nhưng lại rất cay. Bữa ăn ở Thường Đức đã cho tôi một bài học, vì thế tôi cố gắng chọn những món ít cay nhất nhưng khi ăn vào miệng vẫn không chịu nổi. Tôi gọi món mì bò và hai chiếc nem cuốn thịt trân châu, thong thả ăn, mãi thả hồn bên cửa sổ, không còn nhớ mình đang ngồi nơi đâu.

Mì Hồ Nam được làm bằng cách trộn bột sống với bột chín thành thứ sợi săn, cắn vào thấy hơi dai. Nem cuốn thịt trân châu thì dùng bánh đa bột mì gói thịt vào trong rồi cùng rán với xôi nếp trong chảo mỡ, rất cay nhưng vị lạ miệng. n món này, tôi có cảm giác như đang nhai giấy.

Đang ăn, bỗng có người lạ mặt xuất hiện. Không để ý, khi tôi ngẩng đầu lên thì người đó đã đi xa. Từ cửa sổ nhìn ra bên ngoài, thấy tất cả những người qua lại, ai cũng có dáng vẻ đờ đẫn, vội vàng như tôi.

Tôi lắc đầu. Người tôi không có gì đặc biệt, tôi cũng chẳng có của nã gì cho xã hội đen để ý; có lẽ đó là những ý nghĩ lung tung.

Ăn xong, hầu bàn tính tiền, thức ăn ở đây không đắt. Tôi cho tay vào túi lấy tiền bỗng thấy hoảng. Dáng người đó rất quen nhưng tôi không sao nhận ra. Chẳng lẽ là... là tay cảnh sát họ Trần hôm đó? tôi đã bị công an để ý? Nhưng tôi lập tức dẹp bỏ ý nghĩ này. Cảnh sát chắc sẽ chẳng bao giờ nghi tôi vào trại tạm giam giết Ôn Kiến Quốc? Nếu không phải là cảnh sát thì người đó là ai?

- Mười ba đồng...

Lời nhắc của tay hầu bàn cắt đứt dòng suy nghĩcủa tôi. Anh ta nhìn tôi với vẽ hoài nghi. Tôi thò tay vào túi mà mãi chẳng rút tiền ra, có lẽ anh ta tưởng là tôi muốn chạy làng. Tôi vội nói:

- Được, được rồi! - Moi tiền từ trong ví ra trả anh ta, tôi nhắc vali bước ra đường. Đến cửa, tôi ngoái đầu nhìn lại sau lưng.

Con ngõ dài lát đá rộng chừng ba mét, hai bên là những cửa hàng nhỏ đã có lịch sử lâu đời, vẫn còn dùng chai thủy tinh miệng rộng làm đồ chứa hàng, bên trong đựng kẹo bánh, bích quy...

Đã gần giữa trưa, có một người đang ngồi trên bậu cửa để vặt lông gà, miệng ngậm điếu thuốc, ngân nga một điệu nhạc lưu hành ở địa phương, điệu bộ rất tự đắc. không có ai quen. Đối với tôi, mọi xó xỉnh của cái thế giới này đều toàn người xa lạ, chẳng có quan hệ gì. Tôi lắc đầu, thầm nhẫm tính giá trị của pho tượng vàng đó. Chỉ có mỗi cách ấy mới giúp tôi xua đuổi được những ý nghĩ lung tung, những nỗi sợ hãi vô cớ.

Bữa cơm trưa, tôi ăn không thấy ngon miệng. Tôi không ăn được nhiều, chỉ một lát sau lại thấy đói bụng ngay. Tôi tới một tiệm nhỏ mua hai gói sôcôla. Dù chă thích thú gì với loại kẹo này nhưng dùng nó đối phó với cơn đói cũng không đến nỗi nào. n được một gói đã thấy chán, tôi cất gói còn lại vào túi.

Một giờ chiều, chiếc xe ca bắt đầu lăn bánh. Tiếng máy chạy như muốn long cả ốc ốc vít, khói đùn ra làm người ta nôn mửa. Người ngồi xung quanh trò chuyện bằng tiếng địa phương, tôi không sao hiểu được, cảm giác như rơi vào hố bùn. Chiếc xe xóc tung người, chồm chồm tiến về phía trước. Tôi chen chúc trong xe. một cơn mệt mõi ập đến. Bầu trời bên ngoài u ám như sắp có mưa.

Tôi chăm chú nhìn ra cửa sổ, cho đến khi trời đất mờ mịt. Tuy rất sợ ngủ quên nhưng dường như tôi đã rơi vào một cái đầm lầy, giãy dụa thế nào vẫn cứ chìm xuống cho đến khi bị chìm ngập.

"Cậu đến rồi"

Một giọng nói bỗng vang lên. Tôi giật mình, âm thanh đó phát ra phía trên đầu, lẽ nào người đó ngồi trên mui xe. Chiếc xe này rất cũ kỹ. Mui xe làm giá hàng có thể cho người ta để đồ đạc, nếu trên đó có người ngồi thì thật khó hiểu. Nghi nghi, hoặc hoặc, tôi định ngẩng đầu nhưng đốt sống cổ khôgn thể cựa quậy như bị đúc cứng, chỉcòn cách ngước mắt nhìn lên. Tôi không hề bất ngờ khi chỉ nhìn thấy mui xe han gỉ, chiếc xe này hình như sắp đến ngày thanh lý. Tôi muốn cười nhưng bỗng ngạc nhiên nhận ra da mặt mình đã bị đông cứng không nhúc nhích được.

"Rốt cuộc cậu cũng đã về"

Đúng là tôi đang ngủ mê. Vừa nghĩ tới những chuyện đó, tôi liền nhìn xuống đôi tay mình một cách có ý thức. Vết lằn do thừng vải buộc quá chặt đêm qua đã không còn dấu Vết, giờ chỉ là đôi tay rất bình thường. Nhìn ra xung quanh, cảnh tượng như trong phim câm có độ nét cao, tất cả mọi người đang giơ tay, múa mép nhưng không hề phát ra âm thanh.

Cảnh tượng quái đản này chỉ có thể xuất hiện trong cơn mê. Tôi nhớ rõ rằng tôi cũng đã từng mơ thấy những hình ảnh như thế. Đó là một buổi trưa hè mười mấy năm về trước, tôi đang ngồi trong phòng tự học thì mọi thứ trước mắt bỗng trở nên kỳ lạ và bí hiểm. Từ góc phòng, những hình người nửa trong suốt lũ lượt kéo ra, cho đến lúc tôi thét lên vì sợ hãi thì mới hiểu mình đã gục đầu trên bàn mà ngủ.

Đúng thế, một lần nữa, mọi thứ lại diễn ra.

Tôi tự nhủ mình như vậy nhưng vẫn thấy chẳng yên lòng. Giọng nói này quả thực đến mức không thể bảo là ảo giác. Hay là tôi đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê vì đêm qua đi ngủ quá muộn.

Tỉnh dậy mau, trời ơi, tỉnh dậy mau!

Tôi mơ màng nghĩ. Lúc này xe đang chạy chậm như đứng yên một chỗ, người xung quanh cũng im phăng phắc như những pho tượng, nhưng tôi biết rằng, từ những cái miệng hé mở hay há hốc ra kia vẫn không ngừng thải ra mùi hôi thối, dưới lớp da của họ, dòng máu đặc quánh như hồ vẫn dâng lên hạ xuống như thủy triều. Thứ máu đó, quánh đặc và ngọt lịm như nước dưa hấu.

Đó là ảo giác.

"Quả là cậu đã đến"

Như đập vỡ suy đoán của tôi, giọng nói này bỗng lại vang lên. Có thể nghe rõ giới tính của giọng nói, âm sắc cao nhưng không phân biệt là giọng đàn bà hay đàn ông. Mộng mị là sự phản ánh những quanh co của cuộc đời, nhưng tôi không sao tìm ra được giọng nói đó là của ai. Nó giống như giọng nói đã bị cố tình làm méo đi trong phim ảnh.

Đây không phải là ảo giác. Tôi toan đứng lên nhưng toàn thân bị ép bởi vật nặng nghìn cân, không thể nhúc nhích. Đây phải chăng là cơn ác mộng? Tôi nghĩ. Trước mặt là một mảng tối, mọi người xung quanh như hóa đá.

Tôi ra sức giãy giụa để đứng lên nhưng cả ngón tay cũng không thể động đậy. Tôi ngạc nhiên nhìn xung quanh, những người đàn ông, đàn bà đó vẫn không động đậy, không, không phải không động đậy mà là cử động hết sức chậm chạp.

Miệng họ từ từ mở ra, khép lại, không phát ra âm thanh như đàn cá. Tôi lại giãy giụa như điên, giọng nói vang bên tai mỗi lúc một to biến thành một trận cười. Tiếng cười cất lên ở mọi nơi trong bóng đêm vậy. "Rốt cuộc là mày đã đến"

Những âm thanh này được phát ra từ từ, vẻ như thỏa mãn lắm. Lời nói ra đầu ra đuôi như thể không giống với cảm nhận nhầm của tôi nhưng cảnh tượng chung thì lại quá phi hiện thực. Phải chăng đây là ảo giác của tôi, chắc hẳn là thế rồi.

Tôi nghĩ ngợi, thân xác càng nặng trình trịch, cái tối đen đang quằn quại như vật thể sống, có một thứ sâu thăm thẳm không thể tưởng tượng, giống như đầm lầy cổ, sâu không thấy đáy, sâu quá chừng, đến nước cũng trở thành đen kịt như mực tàu.

"Đến đi, cậu đến đi."

Những âm thanh đó vẫn tiếp tục vang lên, độc địa, hãi hùng. Bàng hoàng, tôi thấy mình như đang đứng bên bờ vực sâu thăm thẳm. Tựa hồ như chỉđi thêm một bước là rơi xuống, thịt nát xương tan. Nhưng âm thanh đó vẫn lôi cuốn tôi, kéo tôi về phía trước, mặc cho hiểm nguy đang rình rập đe dọa.

Đúng là mộng mị chăng? Chắc chắn là như thế, như giấc mộng này sao mà thật đến thế. Không, tôi nhất định không được ngủ thiếp đi. Thần kinh của tôi đã căng ra như dây đàn, tôi biết, nếu ngủ say thì hậu quả sẽ như thế nào.

Tôi nhất định phải tính. Bây giờ tôi đang ngồi trong chiếc Ô tô, một chiếc xe cũ kỹ, xóc nảy người. Ngồi phía trên là một phụ nữ nông thôn đang ôm một chiếc làn, khư khư bảo vệ những thứ đựng bên trong. Đó có thể là trứng gà? Trứng gà sẽ nở thành gà con. Những quả không nở thì gọi là trứng ung. Mỗi quả trứng sẽ trở thành một chú gà con, đủ lông đủ cánh. Nếu đem những quả trứng chưa kịp nở thành con đem luộc, gọi là trứng lộn, đập ra có cả nước máu chảy ra, màu hồng. Nước máu có mùi vị tanh ngọt.

"Ôi"

Tự nhiên tôi như bị điện giật, dòng điện truyền khắp người, tôi đứng bật dậy. Giá hành lý ở ngay trên đầu, tôi đứng dậy quá nhanh, đầu va "rầm" vào hành lý làm cho đồ đạc trên đó cũng loảng xoảng phát ra âm thanh. Đầu đau buốt.

Mãi đến lúc đó tôi mới phát hiện ra mình đã kêu la thảm thiết. Bên ngoài, vẫn hoàn toàn sáng sủa. Đến một nửa số người trên xe tỏ ra ngạc nhiên ngây người, mồm há hốc vì sự kì quặc của tôi. Có lẽ họ cho là tôi bị điên, tôi cười chữa thẹn phân bua:

- Xin lỗi, tôi đang mãi nghĩ một chuyện, rất xin lỗi.

Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm. Người phụ nữ nông dân mở tấm bạt ba lô đang đậy kín chiếc làn để ra soát đồ đạc trong đó. Trong xe chật chội và bí hơi, nếu tôi là một kẻ điên thì chẳng ai có thể yên lòng. Nhưng bây giờ tôi đã tỏ ra là một người hoàn toàn bình thường. Tôi ngồi xuống, chẳng thèm để ý đến người chung quanh đang lặng lẽ đoán mò, một số khác nhìn ra cửa sổ với vẻ lo âu.

Đã sắp đến huyện có làng Xạ Công. Nhưng càng gần đến gần mục tiêu, sự hoảng loạn trong tôi càng thêm nặmg nề. Lúc mới đi, tôi cảm thấy chuyến đi này có lí do đầy đủ. Nhưng đến bây giờ, tôi thấy việc mình đến cái làng xa xôi hẻo lánh này thật vô nghĩa. Vì pho tượng vàng đó? Dạo trước, tôi từng đọc một mẫu tin ngắn nói rằng có một phụ nữ Nhật xem một cuốn phim Mỹ đã cho rằng báu vật Tây Tạng trong phim là thật và đã sang tận ơi để tìm. Hàm ý của mẫu tin này là: người phụ nữ đó có vấn đề về thần kinh. Nhưng tôi đã qua cái tuổi đọc truyện và coi những gì kể trong đó là thật, sao lại có thể chạy tới tận đây chỉvì pho tượng Phật bằng vàng mà Ôn Kiến Quốc nhắc đến trong tiểu thuyết kia chứ!

Không lẽ tôi cũng bị điên?

Điên rồi, tôi thật sự điên thật rồi.

Tôi đã tự nhận thấy biểu hiện bất thường của mình. Học trò trường trung học có thể chạy đến Thiếu Lâm tự học võ sau khi xem phim Thiếu Lâm Tự, chuyện này đã có tiền lệ. Những năm ba mươi của thế kỷ trước từng có chuyện một cậu bé nào đó, sau khi đọc xong tiểu thuyết kiếm hiệp đã tìm đến núi Nga Mi để học đạo. Tôi đã thành người lớn, mà cũng bị mê hoặc bởi cái tượng Phật vàng này sao? Nếu Văn Đán và bọn họ biết, chưa chừng cũng sẽ cười nhạo tôi.

Đầu óc đã tỉnh táo, cơn buồn ngủ đã tan biến. Dù thế nào cũng đã trót, không thể quay đầu lại. - Tôi tự trấn an. Thôi thì mặc chuyện gì đến cứ đến, tới làng Xạ Công hẵng hay. Tôi tiếp tục nghĩ theo chiều hướng đó để chữa thẹn cho mình, hi vọng mong manh có thể tìm ra tượng vàng.

Nhưng theo Ôn Kiến Quốc, cái giếng đó có người chết, còn Liễu Văn Uyên...Chuyện của Ôn Kiến Quốc đã kết thúc rất lặng lẽ. Tôi không thấy trong đó có hành động gì của Liễu Văn Uyên cả. Những lời Văn Uyên nói, chẳng giống chút nào với cung cách của người hiện đại, lại còn những cái chi chi kiểu vào dịp trăng tròn ngày rằm, giống như câu chuyện của những tay tiểu thuyết gia tầm thường, làm sao có thể coi là chuyện thật.

Nghe bình văn mà rơi lệ cho cổ nhân là chuyện nực cười, còn tôi?

Chưa chừng ở làng Xạ Công chẳng có tay Liễu Văn Uyên nào cả; chẳng hóa ra sẽ thành chuyện cười cho giới săn tin?

Tôi tự hành mình không chút thương xót, cũng không ngớt tự cười cay đắng. Nhưng mặc cho sóng gió tự nguyền rủa đang trào dâng, tự đáy lòng, một tiếng nói ngoan cường vẫn nhắc nhở tôi rằng: Ôn Kiến Quốc đã chết.

Không chỉ Ôn Kiến Quốc mà cả Lâm Bồ Lam cũng đã chết.

Theo Ôn Kiến Quốc thì không những đây là chuyện có thật mà nếu muốn sống, tôi phải đến làng Xạ Công. Ôn Kiến Quốc đã viết như thế. Lẽ nào ông ta cũng đã chết. Tôi lại giật thót người nhưng may chưa hét thành tiếng! Tôi chỉ muốn thét, muốn gào thật to. Trong khoảmh khắc ấy, tôi biết được kết cục của Ôn Kiến Quốc.

Đúng vậy, mỗi câu chuyện đều phải có một kết cục, Ôn Kiến Quốc đâu có phải là ngoại lệ. Nhưng liệu tôi có rơi vào trường hợp đặc biệt này không? Chính tôi cũng không biết nữa.

Trời rất lạnh nhưng không khí trong xe bức bối. Còn tôi, tôi vẫn thấy rét, rét đến run người, rét đến mức đôi môi tê cứng. Hai bàn tay tôi chà sát như điên vào nhau, nhưng những ngón tay vẫn tê dại không còn cảm giác, trơ khấc như khúc gỗ.

* * *

Xe dừng lại, cuộn theo một đám bụi. Bến xe cũ nát, có lẽ còn sót lại từ hàng chục năm trước, ngoài cửa còn lại cái biểu ngữ từ thời cách mạng Văn hóa, màu đỏ của nó đã phai nhạt. Có lẽ chỉtrong những năm tháng loạn lạc đó, bến xe hẻo lánh này mới trở thành trận địa tuyên truyến tư tưởng cách mạng.

Tôi xách vali xuống xe, bị một đám bụi làm mờ mắt. Tránh sang một bên, thò tay vào túi móc ra một điếu thuốc lá rồi từ túi quần moi ra một chgiếc bật lửa châm thuốc. Nhưng động tác quen thuộc này làm tôi sửng sốt, túi quần trống rỗng, không bình thường, tôi thọc lại tay vào túi.

Chùm chìa khóa nặng trịch đã biến mất. Tôi ngán ngẫm, lúc này nó chẳng có tác dụng gì nhưng nếu mất đi, khi trở về, tôi sẽ phải đối mặt với sự khó chịu của chủ nhà, nhất là lúc mượn mẫu chìa khóa đi đánh cái mới. Chiếc xe đang định quay đầu chuẩn bị vào chỗ đợi khách. Tôi vội vàng đuổi theo hò hét:

- Đợi một tí.

Tài xế phanh lại, thò đầu ra cửa xe:

- Chuyện gì thế?

- Tôi mất chùm chìa khóa, cho lên tìm được không?

Anh tài tuổi chưa cao, tỏ vẻ thông cảm, vội mở cửa xe:

- Vào tìm nhanh lên, khách sắp lên rồi.

Tôi nhảy lên xe, thùng xe ngập ngụa vỏ trái cây, đầu thuốc lá, phân gà và các thứ khác chẳng khác gì sau một đêm cuồng hoang của thú vật. Tôi bước tới chỗ ngồi lúc trước, tìm kỹ trên sàn xe. Chùm chìa khóa nhét sâu trong túi quần, khó có thể rơi nhưng trong cơn mê sảng, có thể tôi đã vô tình làm nó văng đi đâu đấy. Tôi lấy chân bới đống vỏ trái cây, đầu thuốc nhưng không sao tìm thấy được. Không cam chịu, tôi tìm lại một lần nữa từ đầu xe tới cuối xe mà vẫn không có kết quả gì. Chùm chìa khóa ấy đâu có nhỏ bé gì, nếu rơi ở trên xe, chắc chắn tôi đã tìm thấy.

Người lái xe cầm chổi bắt đầu quét, khi tôi đi tới cuối xe, anh ta cũng sắp quét tới đó. Thấy tôi, anh ta vươn thẳng lưng hỏi:

- Đã tìm được chưa?

- Chẳng tìm thấy. - Tôi thiểu não - Chắc là rơi ờ nơi khác rồi.

- Có gay lắm không?

- Cũng chẳng đến nỗi, xin cảm ơn!

Tôi nhảy xuống xe, nắng và bụi bên ngoài làm mắt tôi nheo lại. May mà chùm chìa khóa cũng chẳng phải tài sản to tát, chứ mất ví tiền thì tôi chẳng còn đường xoay sở. Giữa nơi xa lạ này, việc mất chùm chỉa khóa làm tôi cảm thấy có điềm chẳng lành. Còn cái nhẫn đó, vì được dùng làm vòng móc khóa nên cũng mất theo luôn. Theo lời tay buôn đồ cổ thì cái nhẫn đó cũng được món tiền, kể ra cũng hơi tiếc.

Từ đây đến làng Xạ Công còn mười mấy dặm, theo sơ đồ tay buôn đồ cổ đó vẽ thì có một đoạn tôi buộc phải đi bộ hoặc phải bắt xe.

Tôi dự kiến nếu không bắt được xe thì quay lại mua vé về Nguyên Giang ngủ trọ một tối, đảo một vòng ngắm cảnh thị trấn cổ. Chuyến đi cũng chẳng đến nỗi mất công

Tôi đang bước ra phía ngoài, thì người lái xe đang bê sọt rác, chạy lại gọi lớn: - Này ông anh, đi đâu thế, đánh mất chìa khóa không sao chứ? Nhiệt tình của ông bạn lái xe làm tôi cảm thấy ấm lòng, tôi cười cười nói:

- Cũng chẳng sao, tôi định đi hỏi xem có xe đến Xạ Công không?

Anh ta nhăn mày, tôi đang e ngại việc anh ta hỏi cặn kẽ lý do tôi đến làng Xạ Công thì anh ta lại nói:

- Phải rồi, vừa may cậu hai tôi tuần nào cũng đến đó thu gom ít hàng hóa, hôm nay là đúng ngày. Để tôi gọi điện hỏi ông ấy xem, nếu ông ấy chưa đi, anh có thể bám xe.

Tôi sững người. Tôi chẳng thấy phấn chấn chút nào mà còn thầm mong anh ta không liên lạc được với ông cậu để có thời gian thong thả ngắm cảnh. Anh ta đã vào văn phòng bến xe để gọi điện, lát sau vui vẻ quay ra bảo:

- Có rồi, có rồi, cậu ấy sẽ đến ngay, đợi ở đây nhé!

Tôi hỏi:

- Thế có bất tiện không?

Anh ta cười bảo:

- Đáng kể gì. Anh cứ đợi ở đây là được rồi, đằng nào thì cũng thuận đường. Chút nữa tôi đi rồi mà cậu hai tôi vẫn chưa đến, thì khi thấy chiếc xe ba bánh tới, anh cứ nói là A Đông bảo cho anh đi nhờ.

Tôi cười miễn cưỡng:

- Vậy xin cám ơn anh!.

- Nhưng thực ra trong bụng chẳng cảm thấy ơn huệ gì, mặc dù hiểu rất rõ thiện chí của người ta.

Vừa dứt lời, tù góc đường vọng tới tiếng động cơ ầm ầm của xe máy, anh ta vội lao ra:

- Cậu Hai ơi, cậu Hai!

Đó là chiếc xe ba bánh, loại xe này nay không còn thấy ở vùng duyên hải. Nó là một chiếc mô tô ba bánh có trùm bạt. Người lái cũng là một thanh niên tuổi trạc hai mươi, nghe lái xe gọi bằng cậu, tôi cứ ngỡ là một ông già.

Chiếc xe đỗ lại, người cháu đến bên nói:

- Này, cậu đi xạ công chứ gì, anh này cũng cần đến đó, cậu cho ahn ấy đi theo một đoạn.

Tôi bước về phía trước, chìa một điếu thuốc mời anh ta:

- Nếu không tiện thì cũng chẳng sao đâu, tôi tìm cách khác cũng được thôi.

Anh ta nhận điếu thuốc rồi cài lên tai:

- Lên đi, chúng tôi đến đại đội còn cách cái làng đó hơn một dặm đường, đoạn đó anh đành đi bộ Vậy nhé.

Tôi cười:

- Được rồi, được rồi, không sao đâu, cảm ơn anh!

Tôi chui vào trong xe, xe không đến nỗi chật lắm, nhưng vừa ngồi tôi đã thấy gò bó. Anh ta đạp cần

khởi động và nổ máy, tôi chào cám ơn người lái xe ca, còn chưa ngồi ấm chỗ thì chiếc xe đã phát ra một tiếng "khục", đùn ra phía sau luồng khói dầu và lao về phía trước.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 12: Lạc đường

- Mở hành lý ra cho tôi xem có truyền đơn không!

Tôi dở khóc dở cười. Tự nghĩ, một bí thư đại đội như ông ta hình như không có quyền khám xét, nhưng cũng chẳng dám nói ra câu này. Nếu chọc tức ông ta chưa biết chừng sẽ bị quy tội hành nghề mê tìn dị đoan, thần quyền cũng nên. Tôi quỳ xuống mở va li bảo:

- Ông xem đi.

Trong vali của tôi chỉ toàn là quần áo thay đổi hàng ngày, giấy má cũng chẳng có lấy một tờ. Ông ta đến, lật lên lật xuống, thấy rõ tôi thực sự chẳng giống một kẻ tình nghi, mới ôn tồn hỏi:

- Đúng là đi tìm đồ cổ? Sao mà chẳng có đồ đạc gì?

Tôi nói:

- Tôi mới vào nghề, không dám tranh với các vị tiền bối, chỉ dám đến những nơi hẻo lánh để thử vận may.

Trịnh Bảo Xuân vỗ vỗ lên vai tôi:

- Cậu phải cẩn thận đấy, cái làng ấy nhiều thầy lắm ma lắm đó. Nếu không phải vì họ rất ít ra ngoài thì đại đội đã dùng biện pháp mạnh từ lâu rồi.

Ông ta chẳng nói ra sẽ dùng biện pháp gì, nhưng bỗng vươn thẳng lưng, lại hít hít cái vỏ hộp đựng chai rượu rồi nói tiếp:

- Phức tạp lắm, cái làng ấy phức tạp lắm, không tiện nói.

Tôi cảm thấy lạ, hỏi tiếp:

- Phức tạp lắm ư?

- Phải rồi, làng ấy hẻo lánh quá, nấp sâu trong xó xỉnh, đường lại xấu, chả được mấy hộ gia đình, chả biết đang làm cái chuyện gì, nghe nói kẻ đứng đầu là cái tay Liễu Văn Uyên gì đó.

- Liễu Văn Uyên?

Tôi buột miệng, Trịnh Bảo Xuân ngẩng phất đầu lên nhìn tôi với vẻ cảnh giác, hỏi lại:

- Cậu đã nghe nói về hắn?

Tôi hơi hối tiếc, không dễ nói lại, tôi chỉ thuận mồm nói thêm:

- Là nghe một người buôn đồ cổ đã đến đó nói, ông ta đã mua một mó đồ của Liễu Văn Uyên.

- Trương Bằng phải không? - Trịnh Xuân Bải hỏi lại. - Tay này cứ ít lâu lại đến đây một lần, hôm nay cũng mới đi, cậu làm ăn với hắn chứ?

Tôi móc bao thuốc đưa cho cậu hai và bí thư Trịnh, mỗi người một điếu và nói:

- Bí thư Trịnh, cái tay Trương Bằng đó thế nào?

Trịnh bảo Xuân cầm lấy điếu thuốc, vui vẻ đến mức không biết để chân tay vào chỗ nào, một tay ôm chai rượu, tay kia đưa điếu thuốc lên miệng, mắt cười, miệng nói:

- Ôi trời, tử tế quá...Cái tay Trương Bằng đó hả. người tốt đấy, lúc nào cũng mặc cái áo khoác, cứ gặp người là mời thuốc, rất lắm tiền, hổi này chắc phải sắm sửa, làm dáng rồi.

"Là cái tay buôn đồ cổ đó?" Tôi giật mình. Tôi không ngờ hắn cũng đến làng Xạ Công mà còn nhanh hơn tôi một bước. Y không bảo tôi là y cũng đến Xạ Công, có lẽ y nghi ngờ tôi đã nghe được tin tức gì đó nên mới đến làng đó kiếm đồ cổ và cố ý đi trước tôi. Chả trách sau khi thấy cái nhẫn của tôi, y trở nên lạnh lùng. Cùng nghề hay trở thành đối thủ, nghề buôn đồ cổ cũng không phải là ngoại lệ.

Trịnh Bảo Xuân rít lên hai hơi, liến thoắn nói về Trương Bằng.

- Tay đó năm nào cũng phải đến một lần, toàn đi mua những của rẻ tiền, người trên tỉnh thích những thứ đó lắm à? - Trời ơi! Thứ thuốc này của cậu hút ngon tuyệt.

Trong vali của tôi vẫn còn mấy bao, thấy ông ta tán dương, tôi vội vàng lấy ra hai bao đưa cho ông ta và cậu hai, mỗi người một bao:

- Đây là thuốc lá sản xuất ở chỗ tôi, các vị nếm thử đi, lần này vội, lần sau đến sẽ đem cho cho mỗi vị một cây.

Trịnh Bảo Xuân nhét bao thuốc vào túi rồi bỗng trở nên nhiệt tình, bảo với cậu hai rằng:

- Tam Hoạnh Vương, cậu đưa cậu này đến đến Xạ Công đi, chốc nữa tớ cho cậu bốc hàng nhiều hơn chút đỉnh.

Cậu hai có phần do dự:

- Đến Xạ Công?

Chưa dứt lời thì Trịnh Bảo Xuân đã nghiêm giọng:

- Cậu sợ cái gì? Đi mau đi, đi sớm về sớm, người ta từ xa đến đây đâu có dễ dàng.

Nhưng cái cậu hai đó vẫn rất do dự, tôi thấy rõ là anh ta có ý ngại đi nhưng không dám cưỡng lại. Tôi vội nói:

- Chẳng phải là chỉ còn chừng một dặm nữa sao?

- Ôi dào, thấy núi rồi mà chạy chết ngựa đó, một dặm đường cũng phải đ mất cả tiềng đồng hồ đấy.

Tôi cười:

- Dù sao thì tôi cũng chẳng vội, cứ đi từ từ là được rồi.

Bây giờ là khoàng hơn ba giờ chiều, trời có vẻ sắp mưa nhưng trong vòng một tiếng rưỡi chắc chưa thể mưa. Lang thanh một lát ở nơi hẻo lánh này có lẽ sẽ giúp tôi vơi bớt những chuyện không vui hàng ngày. Tôi chia tay họ và bắt đầu lên đường.

Vừa ra khỏi làng, bỗng thấy sau lưng có người gọi, tiếng gọi mỗi lúc một gần, rõ ràng là bằng thứ tiếng phổ thông không lấy gì làm chuẩn mực lắm. Tôi đứng lại, thấy cái cậu lái xe túc túc đang vừa vẫy tay vừa chạy tới. Tôi đứng đợi, anh ta chạy lại phía tôi, miệng thở hồng hộc, hai tay chổng lên hai đầu gối.

Tôi đợi anh ta bình thường trở lại rồi hỏi:

- Có chuyện gì thế?

Anh ta hít mấy hơi dài rồi hỏi:

- Anh định đến Xạ Công thật à?

Có vẻ như anh ta muốn nói điều gì đó, nhưng lại chỉ há hốc mồm như con cá heo, chẳng nói ra lời nào. Tôi lặng lẽ đợi anh ta nói, anh ta ngập ngừng chỉ hỏi:

- Anh thực sự là không làm chuyện mê tín chứ?

Anh ta chạy vội như thế, tôi cứ tưởng có chuyện gì quan trọng lắm muốn nói, vậy mà lại chỉ có một câu như vậy. Tôi cười:



- Thế tôi có giống như vậy không?

Anh ta cũng cười:

- Chẳng giống mấy. - Nhưng cái cưới thì gượng gạo. Đá cục đất trên đường, anh ta nói: - Nghe nói ngưới ở đó rất lỳ, họ cũng rất ít ra ngoài, nếu anh không có người quen thì hãy cẩn thận.

Tôi nói:

- Vâng, xin cám ơn!

Anh ta có vẻ muốn nói thêm điều gì đó, nhưng bỗng quay ngoắt, chạy lộn lại. Tôi nhìn theo bóng anh ta, lắc đầu rồi lại đi tiếp.

Tôi đi đôi giày du lịch, hợp với cuốc bộ đường dài. Tuy là nói vậy, nhưng mới đi được một đoạn đã cảm thấy chán. Con đướng ấy quanh quanh, co co, lên lên, xuống xuống. Vừa chui qua một khe núi lại phải leo lên một ngọn đồi. Một dặm đường này chắc là ước lượng trên bản đồ, còn thực tế có lẽ phải dài gấp đôi gấp ba.

Tôi lâu nay ít luyện tập, mới đi được nửa tiếng đã thấy mệt hết hơi, đầu bốc ra hơi nóng. Tôi nhặt một viên đá bên đường để ngồi lên, định hút một điếu thuốc rồi tính tiếp. Hòn đá lạnh buốt, vừa ngồi lên bỗng như có tiếng sấm nổ trên đầu. Tôi giật mình, ngẩng phất nhìn lên, chẳng ngờ vừa đưa mắt về phía chân trời thì toàn thân đã run lên.

Trời đất kiểu quái gì thế này?

Mặt trời đã ngã về tây. Trời nhiều mây phản chiếu nắng chiều đỏ rực một vùng. Mây trời tạo nên những hình thù quái dị, đang bốc lên cuồn cuộn thiên biến vạn hóa, phảng phất như có một bầy quái thú khổng lồ đang nấp trong các tầng mây. Bầy quái thú thương tích đầy mình đang giãy giụa tìm cách thoát ra.

Những đám mây đó, chúng đã không còn giống đám mây nữa rồi, trông lại càng giống một đàn côn trùng đỏ máu đang xúm xít lại với nhau thành đống làm cho ai trông thấy cũng phải dựng tóc gáy.




Lúc đó tuy đã là mùa mưa, nhưng còn chưa tới Kinh Chập ( tên gọi một trong hai mươi bốn ngày tiết trong năm theo lịch cổ truyền của TQ, ứng với 5.6 hoặc 7 tháng 3 dương lịch - ND), sao đã có sấm chớp? Tôi có chút hoang mang, nhìn ra xung quanh không biết phải làm gì. Trong hành lý của tôi có một chiếc ô, nhưng nếu trời mưa to thì chiếc ô này cũng không chống đỡ nổi.

Tôi xem xét ven đường, nuôi hy vọng tìm ra một cái hang núi hay một nơi nào đó có thể trú mưa. Nhưng nhìn mãi cũng chỉ thấy núi với rừng. Khi trời sấm chớp, không được đứng dưới gốc cây, tôi đã hiểu tình thế khó khăn. Kẹt ở nơi này, không gần làng cũng chẳng gần quán, quay lại thì không kịp nữa, đi tiếp thì chưa biết đến bao giờ mới tới nơi.

Tôi lại nhìn lên trời, những đám mây đỏ mỗi lúc thêm quái dị, đỏ thẫm đến mức ngã sang màu tím nhưng lại tối bầm, chẳng khác một miếng tiết lợn đã đông đặc.

Tôi không đoán chừng được khoảng bao lâu thì mưa rơi xuống. Chẳng hiểu tại sao khi nhìn cái ráng chiều đỏ màu máu đỏ tôi lại nghĩ rằng, nếu trời mưa thì nước mưa cũng sẽ đỏ rực. Trước cảnh hoàng hôn ập xuống, tôi cảm thấy một nỗi sợ mơ hồ, xách vội vali và chạy thục mạng.

Không rõ vì sao trong cơn hoảng hốt, lúc nào tôi cũng cảm thấy có một con quái thú đang bám đuổi sau mình. Trong lúc chạy nhanh, lồng ngực phập phồng không ngừng, dường như từng chút không khí đều bị ép, phát ra tiếng thở như tiếng đàn gió.

Bỗng chân tôi vấp phải một cái gì đấy, tôi lảo đảo, suýt ngã lộn. Tôi ngừng chạy, đặt vali xuống, đôi tay chống lên đầu gối thở gấp.

Trời bỗng tối sầm. Có lẽ lúc đó mới chỉ bốn giờ. Bình thường thì vào giờ này, trời còn sáng lắm, chưa đến giờ ăn cơm, nhưng ở đây, tất cả đều tối đen như mực, chẳng khác gì lúc nửa đêm. Thường thì phải qua một quá trình, trời mới tối hẳn. Nhưng lúc này, bầu trời như bị một chiêc thảm không lọt sáng trùm kín từ đầu đến chân. Xung quanh bỗng chốc tối như hũ nút. Tôi lại chạy thục mạng chẳng khác gì trong cơn ác mộng, đất dưới chân như cũng dần nhão ra, càng tạo cho người ta một cảm giác siêu thực, còn tôi thì mỗi lúc một hoang mang hơn.

Sao tôi lại ở đây?

Tôi không hiểu nổi mình. Tôi chỉ là kẻ lang thang không việc làm, thậm chí không bao giờ nghĩ đến đi du lịch vì thiếu tiền. Vậy mà sao tôi lại một mình đơn côi đến cái làng nhỏ hẻo lánh này? Rốt cuộc là nguyên nhân gì?

Mây trời đã dồn tụ tới mức có thể sập xuống bất cứ lúc nào, trong cái hoàn cảnh yêu dị đó, đầu óc tôi bỗng tỉnh táo tới mức không thể ngờ tới. Giống như hít vào một thứ khí nào đó, trạng thái tinh thần của tôi bỗng phấn khích, nhìn mọi vật thấy sáng sủa lên, bất luận là cây, cỏ, đá, gỗ, thậm chí là một chiếc lá rụng đều thấy sáng đến lóa mắt. Đúng ra, tôi nên ở lại cái thành phố nhỏ đầy bụi và tiếng ồn đó, hít thở cái không khí đầy huyền phù chứ không nên ở đây. Nhưng thực tế là tôi đã đến đây, cho dù mỗi gốc cây, ngọn cỏ chung quanh đều là chân thực nhưng bỗng chốc đem lại cho tôi một cảm giác không thực.

Nên về đi.

Tôi đột ngột dừng bước, ngây người ra nghĩ. Cho dù sẽ bị mưa làm cho ướt sũng cũng chỉ cần về được cái đại đội sản xuất ấy, ngồi uống rượu cùng với tay bí thư họ Trịnh có cái mũi nở ấy, chỉ ở đó mới là thực.

Nhưng lúc này tôi như đang chìm dưới đáy đầm lầy, cái bóng tối sâu thẳm ấy như một thứ keo dính, đặc sệt, bó chặt lấy tôi. Mọi cử động giơ tay, đưa chân đều làm cho tôi có cảm giác như không khớp với thực tế.

Tôi quyết định quay trở lại. Vừa quay đầu, tôi đã bị sững lại. Trời còn rét, cỏ chưa rậm, nhưng đã bắt đầu lún phún xanh non. Gió đã ngừng thổi, nhưng thảm cỏ vẫn nhấp nhô gợn sóng; đên lúc này tôi mới hiểu ra vì sao mà thứ thực vật này đem lại một cảm giác bình yên.

Chúng đang mọc lên!

Cây cỏ mọc lên, bản thân nó chẳng có gì đáng sợ. Nhưng khi chứng kiến được cây cỏ đang mọc lên bằng mắt thường thì nỗi sợ càng tăng. Như có con vật lớn đang trốn trong lòng đất, vươn những xúc tu nhỏ bé màu xanh ra ngoài, được sự vẫy gọi của sấm chớp kích thích bỗng rẽ đất chui ra, run rẫy vươn lên bầu trời, làm cho tôi bất giác liên tưởng tới những con đĩa đang rập rờn theo sóng nước.

Trời ơi!

Tự đáy lòng, tôi thầm kêu lên. Mãi đến lúc đó tôi mới hiểu ra vì sao Ôn Kiến Quốc rất ưa dùng hai tiếng đó. Thứ cỏ lớn lên theo từng giây, chẳng khác gì cuộn phim quay chậm rồi chiếu lên theo tốc độ thường. Không nhanh nhưng vẫn có thế thấy chúng đã vươn dài từng ly, từng ly một, từ từ phủ kín mặt đất.

Cảnhột cách ma quái. Lúc đó, thứ thực vật thường ít được chú ý này lại phát tiết ra sức mạnh của sự sống, sôi động và quái đản.

Mặt đường bị vùi kín. Có hai lối đi trong rừng, tôi chọn lối đi chưa có người bước qua. Một thoáng u uất mơ hổ bỗng làm tôi sững lại. Không nhớ thời gian qua đi bao lâu, một ánh chớp lóe lên làm tôi tỉnh lại, người bất giác run lên.

Con đường đã biến mất.

Con đường mà tôi đã đi khi mới đến đây đã bị cỏ phủ kín. Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ còn thấy những ngọn cỏ điên dại đang tiếp tục vươn dài, trông rất giống những con bọ xanh đang oằn oại. Tôi lùi một bước. Nhưng đám cỏ kia vẫn tiếp tục tràn tới như lửa rừng và tiếp tục vươn tới, thậm chí có mấy ngọn còn chui cả vào ống quần của tôi. Tôi nhận thấy chúng đang tiếp tục vươn cao với tốc độ kinh người, nhẹ nhàng chà xát lên da tôi, gây cảm giác ngứa giống như ngón tay người chết.

Không đến mức quá khó chịu nhưng tôi cảm thấy rất ghét, mặc dù đó chỉ là những ngọn cỏ, và chính tôi cũng biết đó chỉ là những ngọn cỏ.

Những chuyện sau đó, tôi không còn biết rõ. Mãi cho đến khi bị những giọt nước từ trên trời rơi xuống đánh thức, tôi mới phát hiện ra mình đang chạy dưới gốc cây lớn, thở phì phò. Trí nhớ trở thành mớ hỗn độn không lần ra đầu mối, tôi loáng thoáng nhớ ra là mình vừa mở to mồm nhưng có phát ra tiếng kêu la hay không thì tôi không biết. Vài giây sau, tôi đã xoay người một cách bản năng, điên dại phóng về phía trước.

Đây là ác mộng, là ma ám, tôi sẽ tỉnh ngay thôi.

Tôi cúi đầu tự nhủ, nhưng mưa vẫn lạnh lùng tuôn xuống làm ướt đẫm quần áo, đem đến cái lạnh thấu xương. Nếu đây là ác mộng thì quả thực là cơn ác mộng đáng sợ nhất, bởi thực tại lại quá chân thực.

Mộng mị chăng? Đúng thế rồi. Tôi vẫn bướng bỉnh tự nhủ, có lẽ là tôi đang nằm trên giường, nửa đêm đạp tung chăn nên mới cảm thấy lạnh đến thế. Không lâu sau, tôi bị cái lạnh đánh thức rồi mặc quần áo, xuống nhà ăn sáng, bắt xe buýt đi làm, biên tập số báo mới chi Truyền Kỳ Đại Quan. Bởi vậy, đây nhất định là mộng mị; một người bình thường tuyệt đối không thể nổi máu tham, chỉ vì một bức tượng Phật bằng vàng ròng mà lao tới cái xó xỉnh hẻo lánh này.

Là mộng mị, tôi lẩm bẩm, rập rờn như bướm lượm, khi tỉnh dậy không còn biết là trong giấc mơ, bướm biến thành Trng Chu hay Trang Chu biến thành bướm. Lần đầu đọc câu chuyện chẳng có giá trị giáo dục này, tôi cảm thấy bị mê hoặc; đến tận bây giờ vẫn thế.

Tôi mong rằng đây là giấc mộng, nhưng nó là một phần trong cuộc sống thực của tôi lúc này. Liệu những thứ tôi biên tập cho Truyền Kỳ Đại Quan cũng đều là mộng? Còn tôi, lẽ nào lại chính là những con sâu đã gặm no lá cây và đang ngủ ngon trong khu rừng nào đó?

Tôi xoa xoa lên mặt, chùi sạch cả nước mưa và nước mắt. Dù có phải là mộng mị hay không, lúc này tôi chỉ còn thấy lạnh, cô đơn và hơi đói bụng. Tôi ngẩng đầu. Cuộc chạy như điên dại vừa rồi làm cho tôi không biết mình đang ở đâu, khắp nơi đều là cây cỏ màu xanh đậm, vì trời càng u ám, lại đang mưa, tôi không còn trông thấy chúng đang mọc nữa nhưng vẫn còn nghe thấy tiếng rì rào vươn lên của những cây cỏ ấy, ướt đẫm, như những con bướm chui ra khỏi bùn.

Tiếng rì rào mỗi lúc một to, át cả tiếng mưa rơi, như có những chiếc đinh mảnh mai lấp đầy lỗ tai tôi; gây nên một cơn đau nhói trong tai.

Quá ư là không thực, trời ơi, chuyện này quả là không thực.

Tôi bị vấp vào hòn đá, ngã sóng xoài xuống đất, chỉ còn kịp nghĩ được như vậy. Phía trước có một quãng sáng khi tỏ khi mờ, nhưng chẳng nhìn được là cái gì.

Tôi cố gắng mở to mắt, cứ ngỡ khó làm nhưng hóa ra lại mở to được ngay. Một quầng sáng tràn ngay vào mắt.

Không chói mắt, nhưng vửa thấy luồng sáng đó, thoáng chốc, tôi đã chẳng trông thấy gì nữa. Thoáng chốc, cảm giác lóa mắt đã qua đi rất nhanh, tôi lại thích ứng được ngay.

Đó là một ngọn đèn dầu. Không rõ được thắp bằng loại dầu gì, có lẽ là dầu ma dút vì tôi ngửi thấy cái mùi đặc biệt của nó. Trong sự ngỡ ngàng, tôi lại nhớ đến lần mẹ tôi nấu cháo cho tôi trên bếp dầu ma dút hồi tôi còn bé. Thời ấy thường hay mất điện, buổi tối, khi lò than tổ ong đã tắt, muốn đun nấu gì đó đều phải dùng bếp dầu ma dút. Mỗi khi mất điện, mẹ tôi lại bê bếp dầu ra, mở nắp, châm lửa, dùng bếp thay đèn. Tôi ngồi bên bếp làm bài tập ở nhà. Đã bao năm trôi qua, kỷ niệm chỉ còn là dĩ vãng.

Nghĩ đến thời gian, tôi lại sững sờ. Hai mươi năm, gần ba mươi năm rồi. Một thoáng chua xót trong lòng; những hồi ức xa xưa bỗng như cặn, lắng cuộn lên từ đáy nước, trào trong lòng tôi rõ mồm một. Cứ ngỡ chỉ vươn tay ra là có thể sờ mái tóc bạc của mẹ.

Tôi chết rồi chăng? Tôi đang nghĩ ngợi mông lung, bỗng nghe thấy tiếng ai đó gọi, nói thì thào. Giọng nói già nua, phát âm cổ quái cứ như không phải là tiếng Trung. Lúc đó tôi tưởng mình mị hoặc là đã rơi vào một không gian kỳ ảo khác. Nhưng giọng một người con gái nhẹ nhàng đã làm vỡ ảo giác của tôi:

- Bà ơi, người này tỉnh rồi.

Tôi chống tay nửa ngồi trở lại, thần trí lại nhập về với thân tôi. Tôi đang nằm trên chiếc giường ván gỗ cũ kỹ, cũng chẳng có khung, chỉ dùng hai cbiếc ghế dài kê lên thành giường. Một chiếc chăn cũ đắp lên mình tôi, khá sạch sẽ.

Quần áo ngoài của tôi đã được cởi bỏ nhưng đồ lót vẫn còn nguyên, có lẽ bởi bé gái đó ngượng không dám lột hết cho tôi.

Thật giống với chuyện tình lãng mạn, tôi thầm nghĩ, một thôn nữ xinh đẹp đã cứu sống tôi. Nhưng khi nhìn thấy cô bé đó, những ảo vọng bỗng tan thành mây khói.

Đó đúng là một thiếu nữ, cho dù quần áo trên người cũ kỹ, vá víu mấy chỗ, nhưng vẫn là quần áo thiếu nữ, chỉ có điều khác với mong ước của tôi, cô ấu cực kỳ xấu xí.

Thấy tôi tỉnh lại, cô ả vội vàng kêu lên:

- Anh tỉnh rồi?

Ả nói bằng thứ tiếng phổ thông không chuẩn. Tôi cảm thấy may mắn vì ả biết nói tiếng phổ thông, còn thứ tiếng mà bà già nói thì quả thực còn khó hiểu hơn cả tiếng nước ngoài. Tôi ngồi thẳng lên, giọng yếu ớt:

- Là cô cứu tôi sao? Đây là đâu? Tôi đã làm gì?

Da mặt ả vừa đen vừa ráp, nhưng giọng nói lại rất dịu dàng, hoàn toàn trái ngược với nhan sắc. Nghe tôi nói, mặt ả lại càng đen hơn, có lẽ là đã đỏ lên thì phải, ả cúi xuống nói:

- Anh ngã trên mặt đất, đi cắt cỏ lợn về, thấy anh thì đưa về đây. Anh cứ ngất mãi... Đồng chí ạ, đây là làng Xạ Công.

Cách gọi này có lẽ là bắt chước những bộ phim cũ , được nói ra một cách cứng ngắt. Tôi cứ ngỡ, làng Xạ Công khép kín với bên ngoài, không ngờ vẫn có những mối giao lưu

Tôi cười miễn cưỡng:

- Tôi không sao chứ?

- Chẳng sao cả. - Ả mở to mắt nhìn tôi. - Quần áo của anh ở đây, đã hong khô cả rồi, anh khỏe rồi chứ ?

Tuy chưa được thấy con người này, nhưng y đã làm cho tôi cảm thấy thần bí và bất trắc. Tôi trầm ngâm, xỏ chân vào giày, bước xuống đất. Khi vấp ngã bất tỉnh, có thể tôi đã bị thương, nhưng bước đi, tôi không hề thấy khó chịu, xem ra cũng chẳng có chuyện gì nghiêm trọng. Cô ả thấy tôi bước xuống, lấy ra từ lồng ủ cơm một âu có nắp đậy:

- Còn khỏe chứ, húp tí cháo đi.

Lồng ủ cơm được bện bằng cỏ, giống kiểu người dân quê tôi vẫn dùng thời xa xưa. Cái lồng ủ cơm này rất thô kệch, tối màu, có lẽ đã dùng từ lâu lắm rồi, nhưng được cọ rửa rất sạch sẽ, nắp đậy khít, vẫn có luồng hơi nóng xì ra. Ả mở nắp, bên trong đầy ắp thứ cháo trắng muốt, có lẽ đã được nấu từ lâu, bề mặt phủ một lớp màng dày. Ả múc cho tôi một bát, lại lấy ra một lọ ớt dầm, miệng nói:

- Cho anh này.

Cháo rất thơm, tôi đón lấy bát cháo đang định húp, ngẩng mặt lên:

- À phải, tôi tên Tần Thành Khang, cứ gọi là A Khang. Vẫn chưa biết xưng hô với cô thế nào?

Ả khẽ cười:

- Gọi tôi là Tử Lam là được rồi.

Tôi cứ ngỡ là sẽ nghe thấy một cái tên đại loại như Xuân Hoa, Chiêu Đệ... Không ngờ ả mang cái tên đẹp thế này. Tôi lại ngây ra.

Ả ta hỏi:

- Sao cơ, cái tên này dở hơi à?

Người không đẹp, dù có mang cái tên danh gia vọng tộc trong tiểu thuyết ái tình thì vẫn cứ không đẹp. Nhưng lúc đó ả ta cũng đã lộ ra cai thần sắc rất chuẩn của một thiếu nữ. Tôi nói với nụ cười cay đắng:

- Chẳng phải là dở hơi mà rất hay. Thế ai đặt tên cho cô?

Nét mặt Tử Lam sa sầm:

- Là Liễu Văn Uyên.

Cứ nhắc đến Liễu Văn Uyên là ả ta lại kêu đủ họ tên. Giọng điệu cho thấy Liễu văn Uyên phải là bề trên đến mấy đời. Tôi lấy làm lạ hỏi:

- Cô hình như không thích Liễu Văn Uyên?

- Không thích, cả làng không ai thích.

Liễu văn Uyên là người cao tuổi trong làng, lý ra phải được kính trọng nhất, nhưng theo lời Tử Lam thì ngược lại. Như thế có nghĩa là thế nào?

- Anh ăn đi, ăn đi.

Thực ra tôi không dám ăn ớt, còn dân Hồ Nam thì nổi danh về chuyện đó. Cái thứ ớt muối này, chắc hẳn phải cay là lưỡi, tôi đang định từ chối, Tử Lam bỗng tiếp thêm một câu:

- Tôi muối đấy, anh nếm thử xem có ngon không?

Vẻ chờ đợi hiện rõ trong mắt ả, tôi cảm thấy không ăn thì có lỗi với thiện chí của ả. Tôi gắp lấy một quả nhỏ, bỏ vào mồm. Cứ tưởng là vị giác đã hết nhạy cảm, ăn thứ gì cũng chẳng có cảm giác ngon, nhưng tôi vừa cắn một cái đã cảm thấy như bị ai phang một gậy vào sau gáy, nước mắt nước mũi traò ra. Tất nhiên là không do cảm động mà chỉ vì cay. Thứ ớt này vừa mặn vừa cay, thậm chí chẳng phải là thức ăn nữa mà như thứ cây đầy gai, đám gai nhọn của nó móc vào lưỡi và hàm trên của tôi rồi gãy luôn trong đó. Chẳng khác một cục lửa, trong đó có những tia bật từ que hàn điện, bung ra trong miệng tôi:

"Ôi" Tôi rên rỉ húp vội một lớp cháo. Cháo còn rất nóng, tôi định làm cho miệng đỡ cay, nào ngờ lại tưới thêm dầu vào lửa. Cay quá thành đau, lúc đó miệng tôi tê dại đến mức có thể nhổ răng mà không cần tiêm thuốc tê. Tôi bưng lấy miệng rên rỉ. Bộ dạng đó có vẻ rất hài hước. Tử Lam và bà của ả đều bật cười. Ả lấy một cái hộp ở gần đó, bên trong là thứ nước không màu sắc. Ả rót một bát đưa tôi:

- Uống đi.

Tôi sợ ả lại rót cho một thứ rượu mạnh gì đó, hàm hồ hỏi lại:

- Là cái gì thế ?

- Nước đây, nước tôi vừa cõng dưới suối về.

Tôi cầm lấy bát nước, uống một hơi hết sạch. thứ nước này mát đến tận ruột non, ruột già. Uống xong ngụm nước, quả thực rất dễ chịu, cảm giác cay đã được ép xuống. Đến lúc đó tôi mới phát hiện ra, ngoài cảm giác cay, loại ớt ấy còn có vị ngọt rất lạ mà chỉ rau cỏ miền núi mới có.

Đó phải chăng là dư vị của ớt muối? Đáng tiếc là với kiểu người không quen ăn ớt như tôi, quả thực là không thể thưởng thức được cái ngon của ớt muối. Tôi lau miệng rồi xin:

- Rót cho tôi thêm một bát nước nữa đi.

Tử Lam nén cười, lại rót một bát nữa cho tôi. Tôi đón lấy, uống cạn một hơi, thở dài một cái mà rằng:

- Thứ nước này ngon quá. Tử Lam, cô thường lên núi cõng nước về sao?

- Nước trong làng không uống được. - Tử Lam thấy tôi uống hết bèn lấy lại cái bát, nói tiếp. - Nước lạnh không được uống quá nhiều, làm hỏng người đấy.

Tuy ả không đẹp, nhưng giọng nói nhỏ nhẹ, ôn tồn, dưới ánh đàn dầu khi mờ khi tỏ, tôi bỗng cảm thấy khuôn mặt bình thản chẳng có gì hấp dẫn, thậm chí còn vẹo vọ ấy trở nên bắt mắt hơn nhiều. Tôi hơi ngẩn người trong chốc lát.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 13: Mở giếng

Ánh trăng sáng lòa rọi lên thân người, phảng phất như đưa cả hơi lạnh tới. Ở vùng quê hoang vắng này, mặt trăng có vẻ như to khác thường.

Tôi ngồi xuống bên cửa, phiến đá lạnh băng, hơi lạnh thấu tới tận xương. Mới hút được nửa điếu thuốc, tôi chợt thấy tiếng động sau lưng. Ngoảnh đầu lại đã thấy Tử Lam. Ã khoác

áo đứng nhìn tôi dò xét.

Tôi hỏi:

- Sao không ngủ nữa đi?

Tử Lam nhìn tôi xét nét rồi chậm rãi nói:

- A Khang, sao anh không ngủ?

Tôi đau khổ cười:

- Ngủ không nổi.

- Anh buồn ngủ lắm rồi cơ mà!

Tôi hơi lúng túng. Lúc nãy tôi ngồi ngáp, Tử Lam đều thấy rõ. Tôi bảo không ngủ được rõ ràng là nói dối. Nhưng ả biết tôi không dám ngủ. Tôi lại rít một hơi thuốc, không nói thêm gì

nữa.

Tử Lam ngồi bên bậu cửa sau lưng tôi nói nhỏ:

- A Khang, anh là người xã nào?

Tôi bảo:

- Xa lắm đấy, cũng phải ngót ngàn dặm.

Ả hơi sững người:

- Anh không phải là người ở đây?

Tôi cũng ngây người, quay đầu lại nhìn:

- Sao lại nghĩ thế?

- Lúc nãy anh nói mấy câu, đúng là giọng địa phương ở đây, bà nghe còn hiểu được. Bà chưa bao giờ ra khỏi làng này, làm sao mà hiểu được giọng vùng khác?

Tôi hít một hơi khí lạnh, không biết trả lời Tử Lam ra sao. Giọng của bà Tử Lam, tôi nghe không hiểu chút nào, vậy mà ả bảo tôi nói giọng địa phương này, sao lại thế được? Tôi ngẩn

người ngồi xuống, miệng làu bàu:

- Thật thế không?

- Thật đấy, lúc nãy anh hỏi Liễu Văn Uyên bao nhiêu tuổi, câu ấy đúng là giọng ở đây. Tôi nghe anh nói giọng địa phương cũng giật thót mình.

Dải đất Tương Tây có nhiều dân tộc thiểu số, tiếng địa phương đặc biệt khó nghe. Nhưng tiếng địa phương trên dải đất Hồ Nam, về cơ bản là gần giống nhau, không như các vùng

khác, đi mười dặm là không hiểu nhau. Thời nhỏ tôi đã ở các vùng khác nhau, nhưng phần lớn là bắc Hồ Nam, từ nhỏ đã không nói tiếng địa phương, đến nay quên sạch rồi, có

chăng chỉ nhớ được đôi câu.

Tôi chẳng dám nghĩ thêm, chỉ cười trừ mà rằng:

- Có lẽ là câu ấy giống nhau. Quê gốc tôi cũng là Hồ Nam. Chỉ tại bỏ quê từ nhỏ, đến giờ chẳng còn nhớ được đã ở những nơi nào.

- Ngoài ấy tốt không?

Tôi lắc đầu:

- Cũng khó bảo là tốt, thành phố lớn thì người chen người, ồn ào kinh khủng, tôi cũng chẳng thích, phố trấn nhỏ thì cũng loạn lắm. Được cái hơi nhiều nhà cao tầng một chút. Thực ra ở

đây chỉ cần mở mang cũng có thể thành điểm du lịch, xa xôi người ta vẫn thích đến.

Ả thở dài một cái:

- Tôi thực bụng muốn đi xem một cái, cái làng này, tôi cũng chưa lần nào ra khỏi.

Tôi cười:

- Nếu như cô rỗi rãi, tôi đưa cô đi thăm Nguyên Lăng là được rồi.

Mặt Tử Lam thoáng một nét buồn lo:

- Liễu Văn Uyên đã bảo mọi người chúng tôi không được ra khỏi làng.

- Vì sao? - Tôi bỗng có ác cảm với cái tay Liễu Văn Uyên Chưa từng trông thấy mặt ấy.

- Thật nực cười, đến cả trưởng thôn cũng không được phép canh chừng không cho cô ra khỏi làng. - Tử Lam mở to mắt như nghe thấy điều gì đó rất đáng sợ, nói một cách gượng

gạo:

- Nhưng dân làng này, nếu ra bên ngoài đều không sống nổi, nhà A Bảo cũng thế đấy!

A Bảo, cái tên này cũng đã xuất hiện trong cuốn truyện của Ôn Kiến Quốc, kẻ này đã rơi xuống giếng và bị tượng Phật dìm chết. Tôi nắm lấy tay ả:

- Có thật là có người tên A Bảo không?

Tử Lam ngượng ngùng rút tay ra khỏi tay tôi:

- Có chứ, anh biết người ta à? Phải rồi, anh đã mua đồ cổ nơi anh Chín chứ?

Anh Chín lại là ai đây? Tôi chột dạ, chả hiểu từ đâu lại thêm ra cái gã anh Chín này.

Tử Lam thấy rõ sự nghi hoặc của tôi:

- Anh Chín là bố A Bảo.

Tôi gượng cười:

- Ngôi thứ của cô cũng khá cao đấy chứ?

Ở làng quê thường là như vậy, người cả làng thường có quan hệ họ hàng, thông gia xa gần với nhau. Lâu đời rồi thì người ngôi thứ dưới lại cao tuổi hơn người ngôi thứ trên. Như

vậy thì cái tay anh Chín này đúng là người già đã chết trước miệng giếng trong tiểu thuyết của Ôn Kiến Quốc.

Chẳng hiểu tại sao tôi bắt đầu run khắp người, tôi hỏi nhỏ:

- Họ đều đã chết cả sao?

Tử Lam lấy làm lạ, nhìn tôi một cái:

- Cái anh này kỳ lạ thật, làm sao mà anh biết? Liễu văn Uyên đã bảo bọn họ ra ngoài thì phải chết, chị Chín còn khóc vật vã mấy ngày cơ đấy.

- Họ chết thế nào?

Tử Lam hơi ngại ngùng nhưng thấy bộ dạng sốt ruột của tôi, ả thì thầm bảo:

- Liễu Văn Uyên nói, người làng Xạ Công, nếu đi ra ngoài thiên hạ thì Dạ Vương sẽ ăn thịt hết, thế là chẳng ai dám đi.




Dạ Vương, lại hai chữ đó. Tôi hỏi:

- Dạ Vương, thực ra là cái gì?

Tôi vừa buột miệng, mặt Tử Lam đã tái đi. Da dẻ ả vốn đã đen, lúc đó lúc đó lại biến thành màu xám. Ả vội vàng xua tay:

- Đừng nói, Liễu Văn Uyên bảo Dạ Vương là thứ không ai được nói đến.

Cái tay Liễu Văn Uyên này đúng là đang dùng mê tín khống chế dân làng. Tôi bảo:

- Tử Lam, cô đừng sợ Dạ Vương, cái thứ này không có đâu, chắc chắn là Liễu Văn Uyên lừa các người. Chắc chắn là hàng năm hắn đều đều mọi người tiến cống cho Dạ Vương,

thực ra là để hắn thu về cho mình.

Tử Lam hoảng hốt nhìn tôi:

- Có đâu, giếng Dạ Vương mỗi năm chỉ mở một lần, cũng chỉ ném vào đó một con lợn, Liễu Văn Uyên chẳng lấy cái gì. Nhà ông ấy cũng chẳng sung sướng gì, hai đứa con đều dở

người.

Nếu là như thế thì Liễu văn Uyên đâu có phải là tay lừa đảo bằng mê tín dị đoan, chưa biết chừng hắn là tín đồ Thiên Chúa thật sự. Tôi thở dài một hơi:

- Cứ cho là ông ta không lấy, thế nhưng đã có ai trông thấy Dạ Vương chưa?

Sắc mặt Tử Lam vừa bình thường trở lại, bây giờ bỗng xám xịt. Ả nhìn ra bên ngoài, đêm đã khuya, chỉ có tiếng côn trùng rải rác, nhẹ nhàng và lạnh lẽo thảng hoặc kêu lên.

Ả ghé sát tai tôi nói khẽ:

- A Khang, tôi bảo anh, có Dạ Vương thật đấy, tôi đã thấy.

Ả nói mới nghiêm trang làm sao, chẳng có vẻ gì là khóac lác. Tôi hỏi:

- Cô thấy thật chứ?

- Đã nhiều năm rồi, năm đó bỗng có nhiều ô tô đến đây, có một người đàn ông ăn vận rất đẹp đến làng tìm Liễu Văn Uyên. - Ả nói đến đó lại nhìn ra bốn chung quanh rồi bỗng hạ

giọng thầm thì hơn nữa. - Nhưng anh tuyệt đối không được nói với ai.

Bộ dạng ả lúc này chẳng khác gì một bé gái. Cho dù ả không đẹp nhưng cái thần thái ấy cũng có đôi phần đáng yê. Tôi cảm thấy lòng mình cũng đã rộng mở hơn nhiều.

Tôi nhịn cười bảo:

- Được rồi, tôi ngồi nghe, nói tiếp đi.

- Tôi chưa bao giờ được thấy quần áo đẹp đến thế, hình như không phải bằng vải, đúng lắm... cứ như nước ấy.

Ả phải nghĩ một chút mới tìm ra cách so sánh này. Có lẽ trong nhận thức của Tử Lam, chỉ có mặt nước mới so được với chất liệu làm nên thứ vải phẳng phiu đó.

vừa đưa tay sờ lên cổ

- Đang cắn vào động mạch cổ - Tôi lẩm bẩm một mình, trong lòng như đóng băng. Lời của Tử lam không ai tin, nhưng tôi biết đó là sự thật. Không những Liễu Văn Uyên, cả Ôn Kiến Quốc và tôi cũng đã trở thành những con quỷ hút máu, đều bởi Dạ Vương cả. Trần Đào bảo những thứ đó ảnh hưởng tới hệ thần kinh. Hắn đã đoán đúng... Nhưng tôi không thể hiểu được là tôi bị nhập cuộc vào lúc nào. Còn Lâm Bồ Lam, cô ta có bị nhập không? Vì sao mà trên thân cô ta lại mọc ra những vết rằn vện màu đen còn Ôn Kiến Quốc và tôi thì không? Nghĩ đến đó tôi ngắt lời Tử Lam:

- Phải rồi, trên thân Liễu Văn Uyên cp1 thấy những vết vằn vện màu đen không?

Tử Lam lấy làm lạ nhìn tôi:



- Anh cũng biết là xúc phạm Dạ Vương sẽ thành ra thế sao?

Một mớ hổn độn trong đầu óc tôi. kết hợp tất cả những lời nói của Ôn Kiến Quốc, Lâm Bồ Lam và Tử Lam lại với nhau, tôi đã hiểu được "nhân quả" của sự việc, nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ vì sao trên mình tôi và Ôn Kiến Quốc chưa xuất hiện những vết vằn vện. Sau khi chết, trên mình Lâm Bồ Lam không còn vết vằn vện nữa, tôi đã thấy rất rõ trêb tivi; còn Ôn Kiến Quốc ngay cả khi còn sống, tôi cũng không hề thấy thân thể anh ta những vết đó.

Tôi đang mãi nghĩ thì Tử Lam bảo:

- Nhưng trên thân Liễu Văn Uyên đâu có thấy?

- Tai sao Liễu Văn Uyên muốn hút máu người, người khác có biết không?

Tử Lam lại lắp bắp:

- A Khang, anh không được nói với ai đấy nhé; nếu Liễu Văn Uyên biết tôi nói với anh, ông ta sẽ giết tôi.

- Sẽ không nói đâu. - Tôi lẩm bẩm, vẫn còn hoang mang không hiểu thết nào.

Dạ Vương thực ra là cái thứ gì vậy? Sự thật này tôi không sao hiểu nổi và cũng thật đáng sợ. Chắc chắn là Tử Lam không nói dối tôi, mọi điều ả nói, khẳng địng là đúng, nhưng tất cà những điều đó thật là khó hiểu.

Tôi bảo:

- Kể tiếp đi, về sao thế nào?

- Người đó... - Mắt ả bổng trợn lên, giọng lạc đi - A Khang, không kể có được không?

- Kể tôi nghe đi.

m thanh nghe thấy lúc này hoàn toàn không giống với tiếng còi hụt hơi đó nhưng chẳng hiểu tại sao, tôi cứ cảm thấy chúng cùng một loại.

Tôi lại nhìn Tử Lam, đôi mắt ả đầy vẻ sợi hãi chẳng khác gì con vật nhỏ bé đang bị thú dữ chằm chằm nhìn mình. Tôi thấy hơi nhói đau trong lòng, đập đập vào tay ả:

- Thôi, đi ngủ đi, tôi đi xem một chút rồi về ngay.

- Anh cẩn thận đấy, đừng đến quá gần - Ả dường như sắp bật khóc - Tôi sợ lắm.

- Đừng sợ.

Tôi đi về phía trước, được hai bước lại quay đầu nhìn lại, Tử Lam vẫn đứng trước cửa nhìn theo tôi, người đứng thẳng, hoàn toàn không động đậy. Tôi vẫy tay tiếp tục bước. m thanh đó vọng tới, nghe rõ hơn và không còn giống tiếng còi ho8i; chỉ là tiếng rít của không khí phát ra trong đường ống; vừa rền rĩ vừa trầm nặng. Khi mới nghe tưởng như rất xa, nhưng nghe kỹ lại có cảm giác rất gần, gần như ngay dười chân và dễ làm người ta liên tưởng đến hơi thỏ.

Đúng vậy, ở ngay dười chân. đôi chân tôi đã cảm nhận được lòng đất đang run rẩy.

Trong nhà là nền đất, nhiều năm tháng đã qua, nền đất bị giẫm đã chật cứng. Vậy mà gan bàn chân tôi lại cảm nhận thấy nơi ấy đang gợn sóng trồi sụt , tuy biên độ rất nhỏ nhưng có thể cảm nhận rõ. Tôi dường như đang đứng trên lưng một con sâu xanh khổng lồ, con sâu này oằn oại từng cơn.

Liệu tôi có nhầm lẫm, tôi đã đọc được trong một cuốn sách viết rằng: nơi mà lớp vỏ trái đất đang có hoạt động chuyển dịch mạnh mẽ thì những cơn động đất nhẹ kiểu này là chuyện thường thấy. Có lẽ cái làng nhỏ bé Tương Tây này cũng nằm trong vùng thường xuyên xảy ra địa chấn.

Nếu lắng tai, có thể nghe thấy tiếng lao xao rất khẽ xung quanh như tiếng thở của đất. Nhưng tất cả những âm thanh đó chỉ biến nơi này thành tĩnh lặng như trong cõi chết. Những âm thanh đó rất nhỏ nhẹ, thậm chí còn có nhịp điệu, tạo nên sự kỳ bí của đêm đen.

Nhà của Tử Lam hẳn phải ở chỗ cùng làng vì tôi không nhìn thấy mái nhà nào khác. Một con đường vòng qua trước cửa rồi chìm vào cỏ dại cao lút đầu người. Tôi thận trọng bước lên từng bước vì đường làng không được là phẳng bằng xe lu mà do con người đi mãi thành lối mòn. Sau cơn mưa, mặt đường mềm nhão; nếu đi chân trần bùn nhão chắc hẳn sẽ trào qua kẽ chân.

Tôi rẽ cỏ tiến lên phía trước. Bùn dính bám vào đế giày theo từng bước chân làm mất sức nhanh như thể có một sức mạnh bí hiểm nào đó muốn níu chân tôi. Không chút do dự, tôi từng bước, từng bước tiến về phía trước.

Tiếng lào xào bỗng lắng xuống

Tôi cũng đứng sững lại nỗi sợ hãi mơ hồ trào dâng làm tôi chao đảo, chẳng khác gì đang đi đêm trên con đường đá mấp mô, gồ ghề; khi bước lên đoạn đường nhẵn phằng lại có cảm giác không vững nữa.

Tôi rẽ cỏ tiếp tục tiến bước.

Cỏ mọc rất cao che khuất mọi vật trước mắt, nhưng lúc này chắc chắn là tôi đã đến rìa tràng cỏ, phía trước là vùng thoáng đãng. Không chỉ trảng cỏ trên vùng tới đây, cỏ quanh làng cũng tốt um tùm, nhẹ nhàng gợn sóng trong gió đêm; trông giống như đàn động vật nguy hiểm tiềm ẩn. Tôi vươn tay ngắt một lá cỏ đẩm nước mưa, nước dính vào ngón tay đem lại cảm giác giá buốt. Nhưng không hiểu vì lý do gì, trong lòng tôi bỗng trào lên một dục vọng mờ ám.

Có người đến. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi thực sự chẳng muốn bước thêm, cảm thấy như trút được gánh nặng.

Có ba người đến. Người đi trước ăn vận kiểu nông dân. Kẻ đi giữa vạm vỡ, khỏe mạng trên tay cầm chiếc gậy dài bằng sắt có vẻ rất nặng. Người đi cuối cùng vận chiếc áo gió, ăn mặc kiểu tỉnh thành.

Ngoài tôi ra, hóa ra làng Xạ Công vẫn có người ngoài. Mãi đến lúc này, cái thế giới siêu thực như lời đồn đại mới mờ nhạt bớt. Lâu nay tôi vẫn cho rằng cái làng nhỏ bé này là một thế giới hoàn toàn biệt lập.

Bọn họ bước tới trước giếng, người mặc áo gió bỗng nói:

- Thì ra là ở đây.

Người này hạ giọng rất thấp, cổ áo gió dựng đứng che khuất mặt mũi nhưng giọng nói thì nghe quen quen. Tôi chưa kịp nhớ ra là ai thì người mặc bộ đồ thôn quê kia đã nói:

- Ở đây! Chuẩn bị xong chưa?

- Tấn nhiên.

Kẻ mặc áo gió cười, rút một điếu thuốc đưa lên miệng:

- Làm điếu thuốc đã nào!

- Làm việc trước đã - Người cầm gậy nói.

Một tiếng "tách", lửa đã bật. Tiếng bật lửa đó như tiếng chuông đánh thức trí nhớ của tôi. Nhờ ánh sáng bật lửa, tôi nhìn rõ mặt người này, y chính là tay lái buôn đồ cổ có tên Trương Bằng mà tôi gặp trên thuyền.

Sao hắn cũng đến đây? Phải chăng lúc ở trên thuyền, thấy tôi muốn hỏi han về làng Xã Công, hắn tưởng tôi cũng đi kiếm đồ cổ nên đã vội đến trước? Tôi rất giận hắn, nhưng nghĩ đến việc nếu không có cái sơ đồ mà hắn vẽ cho, tôi khó mà đên được làng Xạ Công này nên tôi cũng nguôi ngoai.

Tay vạm vỡ đó lùa cây gậy vào dưới nắp giếng, một tiếng "cheng" phát ra. đó là tiếng va chạm của kim loại, rõ ràng cây gậy đó phải là cây gậy sắt. Hắn dùng sức bẫy lên, cái nắp giếng phát tiếng kêu "két" nhưng cũng chỉ hơi nhúc nhích. Hắn lại nắm lấy cạnh nắp giếng, kéo thử một cái rồi gọi Trương Bằng:

- Đừng phát ra ánh lửa.

Trương Bằng cùng gả nông dân, mỗi người nắm lấy một cạnh của nắp giếng, từ từ nhích từng chút một. Chiếc nắp cọ trên thành giếng phát ra tiếng cọt kẹt như nghiến răng. Bố con nhà A Bảo, như Ôn Kiến Quốc nói, chắc hẳn đã tốn không ít công sức mới mở được cái nắp ấy ra. Trương Bằng làu nhàu:

- Giấu kỹ đấy.

- Bên trong là pho tượng vàng ròng đó? Trong bóng đêm, nhịp thở của tôi cũng gấp gáp thêm.

Trong bóng tối bỗng lại có người nói khẽ:

- Chú ơi, làm thế này không được đâu.

Tiếng nói đó thật đột ngột, lại một người đàn ông mặc áo nông dân bước ra. Giọng nói này rất già. Ánh trăng soi vào mặt ông, có thể thấy rõ những nếp nhăn như vỏ cam héo dồn lại thành đống. Cả ba người kia đều giật mình, buông nắp giếng ra đứng sang một bên.

- A Kim, việc này không quan hệ gì đến anh.

Người đàn ông mặc áo nông dân hạ giọng nói; vừa nghe thấy, tôi liền chột dạ. Giọng trầm nhỏ nhưng như có nam châm, phát âm khúc chiết, tôi không thể tin được giọng nói đó lại có thể từ miệng một người nông dân ở vùng hẻo lánh này. Nếu đó là một phát thanh viên của đài trung ương thì tôi tin ngay.

- Sao lại không quan hệ gì đến tôi, tôi là trưởng thôn, dù thứ bậc trong họ thì chú cao hơn tôi nhưng chú phải nghe tôi.

Khẩu khí của tay trưởng thôn tên Kim đó rất cứng, ông ta lại bước lên một bước nói:

- Trời ơi, các cụ đã bảo rồi, nắp giếng này không được mở, mở ra là sinh chuyện đấy. Dạo trước cả nhà A Bảo mở nắp giếng này đều đã chết ở trong rồi còn gì. Từ hôm đó chú chẳng bảo bọn tôi là không bao giờ được đến gần cái giếng này nữa là gì. Sao chú còn dẫn người lạ lén lén lút lút tới đây mở giếng?

Trương Bằng ngơ ngác nhìn người trưởng thôn rồi nói:

- Liễu Văn Uyên, thế này là thế nào?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bóng Hồn - Yến Lũy Sinh

Postby tuvi » 14 Jun 2019

Chương 14: Điên cuồng


Cháu biết rằng tối đến, mọi người hễ ngủ say là không tỉnh lại được nên hai ngày nay không ai dám ngủ. Ngoài đại đội đã hỏi cháu là trong làng có làm cái trò mê tín dị đoan không, chú ơi...!

Ông ta chưa nói xong bỗng tắc nghẹn. Trương Bằng đứng bên cạnh nhảy cẫng lên, lưng cong lại như con tôm, kêu la thảm khốc.

Một đoạn gậy sắt đã thò ra phía sau lưng trưởng thôn. Đó là đoạn gậy sắp đần đìa máu. Đoạn này hơi chúc xuống nên đã bị nhuộm thành máu đỏ thẫm, máu theo đoạn gậy sắt thò ra chảy ròng ròng xuống đất.

Thằng cha vạm vỡ đó đã xông đến trước mắt ông ta với tốc độ mà mắt thường không kịp thấy, cây gậy sắt trong tay hắn đã xuyên qua người ông ta. Bóng hai người áp sát vào nhau như rất thân mật, dưới ánh trăng, mặt kẻ này như có nét cười.

Tôi khiếp sợ ngẩn người. Tôi không sao hiểu được sự việc lại được phát triển tới mức ấy. Chỉ một lời không vừa ý đã có thể ra tay giết người. Tôi cứ tưởng kiểu cách này chỉ có trong những chuyện rẻ tiền trên các tạp chí vỉa hè đại loại như "Truyền kỳ đại quan". Không lẽ kẻ này đã phát điên? Hay là ở cái làng này, pháp luật chẳng có giá trị gì? Muốn giết người là giết

Ánh trăng chiếu sáng lên mặt hắn làm rõ cái nét cười nhạt nhẽo và dễ sợ.


Hắn từ từ rút cây gậy sắt gần như chui hết qua xác trưởng thôn làm phát ra tiếng kêu "rốp rốp". Có lẽ là tiếng ma sát giữa vằn xoắn trên gậy sắt với xương cốt của trưởng thôn. Tôi không thể tưởng tượng được loài người chúng ta lại có kẻ có sức mạnh lớn thế. Khi cây thép xây dựng đã được rút ra, xác trưởng thôn đổ vật xuống đất như một hình nộm.

- Giờ thì chẳng còn đứa nào quấy rối nữa, nhanh tay lên Liễu Văn Uyên!

Tên này nhìn lên bầu trời. Trăng đã lên tới đỉnh đầu, sáng như ban ngày. Gió rất lớn, xác trưởng thôn nằm bên bờ giếng đã nhuộm đầy máu. Trương Bằng bỗng hét lên:

- Sao lại giết ông ta? Sai lãi giết người, làm thế nào bây giờ? - Y đứng đó, chân tay lóng ngóng; khi trưởng thôn bị giết có mấy giọt máu bắn lên quần áo của y, nóng như mấy giọt dầu sôi; Trương Bằng cứ cuống quít lau chùi, miệng làu bàu. Lúc này, thằng cha vạm vỡ bỗng vọt tới như tên bắn, túm chặt lắy cổ Trương Bằng nói:

- Nhanh lên, đừng lề mể nữa.

Rõ ràng là Trương Bằng không hề ngờ tình thế lại diễn biến như vậy. Thằng cha quả là khỏe kinh người; dù cũng được coi là to con nhưng trong tay hắn, Trương Bằng cũng chỉ như con gà đợi cắt tiết. Y ngoẹo cổ hét lớn:

- Mày là cái loại người gì? - Xem ra định chửi rủa mấy câu nhưng thằng cha kia đã hươ hươ cây gậy sắt, thế là y không còn dám kêu la gì nữa.

Hắn dồn Trương Bằng đến bên thành giếng gọi:

- Liễu Văn Uyên, làm phép thuật đi.

Đúng là một giấc mộng. Tôi nghĩ, đây đúng là một giấc mộng. Mọi hành vi của lũ người này thật không thể hiểu được, chỉ có thể gặp trong ác mộng. Tôi quỳ xuống, cảm thấy khó thở. Bầu không khí như đặc quánh đến nỗi bước đi cũng khó khăn, chẳng khác gì con ruồi dính chân lên bẫy dính chỉ còn biết giãy dụa tuyệt vọng

Nhưng đây đâu phải là nỗi sợ. Tôi nghĩ đây chắc chắn là ác mộng, rồi tôi sẽ tính lại thôi, sẽ tính lại trong căn phòng đó.

Thằng cha kia lôi Trương Bằng đến bên thành giếng, gần như định quăng xuống. Trương Bằng vẫn còn dãy dụa nhưng sức khỏe của y làm sao so được với thằng cha kia. Liễu Văn Uyên nhìn Trương Bằng một cái, chút thương hại ánh lên trong mắt, nói:

- Thiết Mân, sao lại đi giết người, mày không sợ báo ứng à?

Thằng cha đó tên là Thiết Mân? Tôi thấy hắn ngẩng đầu lên , mắt đã lộ rõ vẻ dữ dằn nói:

- Đây là việc ông lớn giao cho, ngoài ông lớn ra, trên đời này ta không sợ ai hết, ai lề mề chậm chạp tôi đều giết hết.

Thằng cha Thiết Mân này, mặt vuông chữ điền nhưng đầy vẻ ngu dốt, rõ ràng là hạng người của xã hội đen. Tôi cảm thấy người mỗi lúc một lạnh, chân cứ mềm nhũn ra. Tình huống đã diễn biến ngoài sức tưởng tượng. Tôi không hiểu lai lịch thằng cha Thiết Mân này từ đâu mà ra, cái ông lớn mà hắn nói ra chắc chắn phải là một tay trùm của xã hội đen rồi. Nhân vật giết người không ghê tay này, xưa nay chỉ có thể tìm thấy trong tiểu thuyết vá điện ảnh. Vậy rốt cuộc bọn chúng ở đây là gì?

Còn Tiếp
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,234
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong


Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 93 guests