Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Image

Mật Mã Champa

Tác giả : Giản Tư Hải


Giới Thiệu

Mật mã Champa là một cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên viết về mật mã, lịch sử và tôn giáo của nền văn minh Champa cổ xưa đầy huyền bí trên dải đất miền trung Việt Nam.

Những đền tháp uy nghi có từ hàng thế kỷ trước, những pho tượng Bà-la-môn giáo nhuốm màu thời gian cùng hàng trăm tấm bia kí phai mờ đang ẩn chứa vô số bí ẩn mà hậu thế chưa thể giải mã. Sau nhiều năm trùng tu thánh địa Mỹ Sơn, một kiến trúc sư đã phát hiện ra nhiều mật mã bằng Phạn ngữ khắc trên bia đá tiết lộ các lễ hiến tế thần bí.

Điều làm ông bất ngờ và sợ hãi là những bí ẩn kho báu Champa và lễ hiến tế người gắn liền với một hội kín tà giáo có từ thời trung cổ. Lúc ông quyết định thám hiểm vào sào huyệt của hội kín thì bị sát hại đúng theo cách mà ông từng biết qua bia kí.

Rất may, trước khi chết ông đã kịp để lại một mật mã.

Ngay lập tức, một kiến trúc sư trẻ đã vào cuộc. Anh bắt đầu giải chuỗi mật mã mà nhà khảo cổ kì cựu này để lại rồi rơi vào một cuộc rượt đuổi kinh hoàng. Cuối cùng, anh đã sập bẫy rồi bị đưa lên đài cúng tế đúng như nghi thức man rợ cổ xưa.

Sau nhiều diễn biến kịch tính tại hang ổ của hội kín, bí ẩn về hội tà giáo Naga và kho báu của vương triều Champa lần lượt được đưa ra ánh sáng sau hàng thế kỉ chìm trong bí ẩn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 1

Dưới độ sâu 35 mét, người đàn ông cao lớn và một phụ nữ dắt theo một con dê trắng thắt nơ đỏ đang dò dẫm dọc một đường hầm lát đá để tìm một cánh cửa. Ông ta cầm đèn pin chiếu lên tường hầm rồi dừng lại trước một mảng tường khả nghi quan sát hồi lâu.

- Phòng 178. Chính căn phòng này.

Người phụ nữ trẻ mệt mỏi đến mức không buồn nói câu nào, cô chỉ mong chồng đứng lại để tranh thủ ngồi phệt xuống. Cô không ngờ thánh địa lại xa xôi hiểm trở đến mức đi ba ngày trời mới tới. Ngay cả con dê đực quen nhảy nhót trên núi cũng run chân và thè lưỡi ra để thở.

- Rốt cuộc cũng tới đích. – Người đàn ông Pháp nói - Chúng ta cứ trải chiếu nằm ở đây chờ cửa mở.

Ông ta xem đồng hồ rồi lấy thuốc ra vừa hút vừa đi đi lại lại nhưng mắt không rời cánh cửa đá mang số 178 đang đóng im lìm. Bỗng đất đá xung quanh rung lên báo hiệu một cơn địa chấn dữ dội bất ngờ ập đến. Cánh cửa đá bật mở rồi rút lên cao theo chiều thẳng đứng, ông ta thét vợ ngồi dậy rồi cúi xuống nhìn cái hố vuông sâu nơi cánh cửa đá vừa rút lên trần.

-Dê trắng đâu lại đây! – Ông thét to lên.

Ông quay lại nhặt sợi dây nhấc bổng con vật đáng thương lên cao rồi thả xuống cái hố đen ngòm đang ngoác to. Tiếng thét thê thảm của con dê trắng câm bặt trong tiếng đá nghiến. Viên Kiến trúc sư người Pháp cùng với phu nhân mau lẹ vọt qua miệng hố trước mặt để vào bên trong. Hành trình gian nan đi tìm kho báu Champa cổ xưa mà họ theo đuổi bấy lâu nay rốt cuộc đã tới đích. Trong hang đá tối đen như mực, người phụ nữ trẻ tỏ ra sợ sệt khi nhìn lại cánh cửa đã sập xuống sau lưng. Một dải sáng lân tinh bò ngoằn ngoèo trên vách đá nổi lên một dòng chữ Phạn cổ đập thẳng vào mắt cô:

“ Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’.

- Anh nhìn kìa... - Cô gái chỉ tay nói.

Viên kiến trúc sư đến từ EFEO (École française d'Extrême-Orient – Viện Viễn Đông Bác Cổ) rùng mình hoảng sợ khi đọc kĩ dòng chữ khắc sâu trên mặt đá. Từng bỏ ra hàng chục năm để nghiên cứu bia mộ cổ, ông liên tưởng đến một lời nguyền được cho là thần bí nhất lịch sử, đó là câu khắc trên bia mộ các hoàng đế Ai Cập

“ Bất cứ người nào đến quấy nhiễu sự yên ổn của Pharaông, thì cánh cửa tử thần sẽ giáng xuống đầu người đó.’’

Đó không phải là lời dọa suông. Hàng ngàn năm nay, lời nguyền bí ẩn kia vẫn là bản án tử hình siêu linh đã giáng phạt bao nỗi chết chóc kinh hoàng cho giới khảo cổ và cả những tên săn trộm dám phớt lờ nó.

Viên kiến trúc sư chiếu đèn pin rồi xích lại gần, ông nhìn thấy những vẩy máu khô loang lổ trên vách cửa đúng vị trí mà ông và vợ vừa nhảy qua. Ông biết rằng mình không phải là người đầu tiên bước qua đây và số phận những kẻ đi trước ra sao thì đã rõ. Ông trấn an người vợ đang run rẩy trong làn hơi ẩm lành lạnh trong lòng núi.

- Đừng để tâm, anh đã có cách khắc chế cánh cửa đó.

Người đàn bà đầu tiên đặt chân nơi cung cấm này vẫn chưa hết sợ hãi.

- Em tưởng cả vách núi đã sập xuống rồi chứ. Làm sao mà nâng lên được?

- Anh đã nghiên cứu tấm bản đồ cổ rất kĩ rồi. Trong này có cỗ máy bằng đá dùng sức nước để điều khiển cánh cửa đó.

-Nhưng trong lòng núi này làm sao có nước được?

-Em đừng quên đây là thánh địa Naga nhé. Đã có thánh địa thì bắt buộc phải có nguồn nước thiêng. Ở đây không chỉ có nước mà có cả một dòng suối ngầm. Khi băng rừng đến đây, em có nhớ chúng ta đã vượt qua mấy con sông và dòng suối không? Một nhánh trong những dòng nước đó chảy qua lòng núi này đấy.

Cô gái vội liên tưởng đến Mỹ Sơn, Cát Tiên, Ăngkor Wat và nhiều thánh địa Balamon khác mà cô từng đến đều có cả những dòng sông và suối thiêng bao quanh ngàn năm không ngừng chảy.

Mặc dù chiếc đèn pin công suất sao, chùm sáng vẫn mờ lụi trong khoảng không mịt mù. Họ mò mẫm theo hướng nam như trong trí nhớ, đi qua một khoang rộng không rõ hình thù, cuối cùng một bức tường đá xám xịt đã hiện ngay trước mắt họ. Men theo bức tường cho tới khi nhận ra một cánh cửa vòm, ông liền đẩy mạnh. Tiếng nước rào rào bất ngờ phả ra từ một đoạn suối ngầm chảy qua lòng núi. Trước mắt ông là một guồng nước khổng lồ đang chuyển động để đưa dòng chảy lên một hệ thống phức tạp nằm trên cao mà ông không thể nào nhìn rõ. Trục quay bánh guồng được gá trên hai trụ đá lớn song song mọc lên từ lòng suối giúp cho chiếc bánh xe nặng hàng chục tấn vận hành trơn tru suốt mấy trăm năm nay chưa từng ngưng nghỉ. Thấy một chiếc thang đá dựng đứng, ông lội xuống bám tay vào những thanh giằng để tìm cách trèo lên. Thận trọng leo đến bậc cuối cùng, từ độ cao của một ngôi nhà ba tầng nhìn xuống, những lá guồng gạt nước trắng xóa dưới ánh đèn bàng bạc làm ông cảm tưởng như đang lạc vào gầm máy của một chiến hạm khổng lồ thời Trung cổ đang nhởn nhơ vô định giữa đêm đen trên đại dương. Nước từ hệ thống ống máng chằng chịt trên cao dội xuống ào ào xen lẫn với dòng suối réo von tạo thành một bản hòa tấu hoang sơ đến kì dị.

Nhìn quanh, viên Kiến trúc sư ngạc nhiên khi phát hiện trước mặt là một bể đá rất lớn ngỡ là một tầng lầu. Tuy nhiên bể nước này đã cạn khô và chỉ có một dòng nước đang nhỏ giọt vào bể. Chỉ mất vài phút, ông đã phát hiện ra quy luật vận hành của chiếc đồng hồ nước cổ đã được phác họa chi tiết trong tấm di chỉ quý báu. Nắm được cấu tạo và nguyên lí hoạt động khắc sẽ điều khiển được nó. Trên chiếc bàn điều khiển, ông tìm cách cài chế độ mở cửa đá. Tháo chiếc ống nhỏ đang rỉ nước đặt sang bên cạnh rồi ông dùng hết sức xoay một ống đồng có đường kính bằng miệng bát thay thế. Ống đồng lập tức truyền nước ào ào vào bể chứa. Toàn bộ lan can và hành lang đá dưới chân ông bắt đầu rung lên nhè nhẹ. Chỉ vài chục phút nữa thôi, mực nước sẽ đạt ngưỡng cực điểm để đẩy bật một chiếc lẫy. Mấy trăm khối nước cùng hàng chục tấn đá sẽ trút xuống để khởi động một chiếc đòn bẩy có khả năng ném bay một tòa nhà với một sức mạnh khủng khiếp. Năng lượng đang tích tụ với một tốc độ rất nhanh tỉ lệ thuận với mực nước dâng trong bể. Mặc dù muốn nán thêm vài phút để đo lại thể tích và vận tốc nước nhưng một giọng rất thanh át tiếng thác vọng lên.

- Xuống ngay, nó sẽ sập xuống mất!

Nhìn qua luồng sáng yếu ớt chiếu qua đám bụi nước bạc, ông phát hiện một máng đá dốc chéo xuống dưới. Không chần chừ, ông bò qua một dầm đá trơn nhẫy để nhảy vào lòng máng. Trong tích tắc, ông gần như trượt ùm xuống lòng suối làm nước bắn tung tóe lên mặt vợ.

- Xin lỗi!... - Ông vùng đứng lên đưa tay vuốt mặt. – Tốt rồi, cách cửa lát nữa sẽ tự mở ra.

- Cửa tự động ư? Hệ thống gì mà lạ vậy?

- Một cỗ máy bằng đá chạy bằng sức nước. Tổ tiên người Chăm của em đã chế tác ra nó đấy!

- Nó đủ sức nhấc cánh cửa mấy trăm tấn kia không? Anh cam đoan là chúng ta không bị kẹt lại đây chứ?

- Yên tâm, nếu cỗ máy kia chạy đúng, khoảng nửa tiếng nữa cửa sẽ mở ra.

- Sao nhanh vậy? liệu chúng ta còn thời gian đi khắp cung điện này không?

- Chỉ có hai ống đồng. Anh đã cài chế độ mở nhanh nhất. Thôi đừng hỏi nữa, nhanh chân lên!

Họ chui trở lại tiền sảnh, do thiếu ô-xy và vận động mạnh nên ông đã có dấu hiệu rối loạn phương hướng. Tránh mất thời gian, trong khi cúi mặt xuống ông tranh thủ mở tấm bản đồ cổ ra định vị lại lần nữa.

- Đằng kia kìa! – Người vợ trẻ chỉ tay phía sau lưng ông.

Ông quay lại bắt gặp một khoảng tối đen đặc đang phả hơi lạnh vào mặt mình, ông xoay đèn về hướng đó và lờ mờ nhận ra một miệng giếng. Ông nắm tay vợ đi nhanh về phía đó và thấy một cầu thang xoắn ốc dẫn xuống dưới. Không rời một bước theo chồng, mắt cô sợ sệt nhìn theo ánh đèn nhấp nhoáng trên các phiến đá ẩm ướt và cố không để trượt chân rơi xuống cái hố mà cô chưa nhìn thấy đáy. Để thêm an toàn, cô bám tay kia lên lan can có tay vịn bằng rắn đá ưa thích của người Khmer. Con rắn bảy đầu bằng đá hoa cương xoáy lượn hình trôn ốc xuống sâu hun hút nhìn như thể nó đang cố ngoi lên từ địa ngục. Bất chấp lối đi hiểm trở, cô nhắm mắt đi theo chồng cho đến khi ông ghìm tay cô lại.

- Kia mới là kẻ giữ đền đích thực, rắn thần Naga! – ông nói.

Người phụ nữ ngước lên, dưới ánh đèn yếu ớt xuyên qua không khí đặc quánh hiện lên một cuộn trắng căng tròn bềnh bệch.

- Trong truyền thuyết Khmer rắn giữ đền Naga có tới bảy đầu cơ mà...? Người phụ nữ hỏi.

- Con này lớn nhưng chỉ một đầu.

- Đúng thế, nhưng đây là con rắn thật đang sống!

Cô gái thất kinh ôm chặt hông chồng mình. Người đàn ông từ tốn gỡ nhẹ tay cô:

- Đừng sợ, đây chính là rắn khổng lồ sống trong rừng nhiệt đới hạ lưu sông Mê Kông. Trước đây xuất hiện thường xuyên tại rừng U minh Thượng nhưng nay gần như tuyệt chủng. Truyền thuyết rắn thần Naga lấy cảm hứng từ loài bò sát khổng lồ có thật này. Sách cổ của người Khmer còn mô tả những con long xà to như cây Thốt nốt.

Vẫn nhìn con vật qua vai chồng mình, giọng cô chưa hết run:

- Nó đang ăn?

- Chính con dê trắng mà ta vừa thả xuống khi qua cửa đấy thôi, đây là bữa điểm tâm đầu tiên của nó sau 12 năm đấy.

Cô gái mắt mở to nhìn con rắn bất động, chỉ có mang tai đang phập phồng đẩy con vật bé bỏng khuất dần trong khoang miệng đang ngoác to.

- Đây là giống rắn sống nơi không ánh sáng nhưng mắt nó có thể nhìn xa hàng cây số trong bóng đêm.

Cô gái nhè nhẹ lùi xa hơn, mắt vẫn không rời con vật, cô hỏi.

- Nó nhịn đói tới 12 năm sao?

- Giữa chu kì mở cửa tháp dài tới một giáp, làm gì có ai vào được để cho nó ăn, nó rất đói. Nếu hôm nay chúng ta quên mang con dê cho nó, em có biết thức ăn của nó sẽ là gì không?

Cô kéo chồng quay lại nhưng người đàn ông to cao không hề nhúc nhích. Viên kiến trúc sư biết rằng họ đã rơi vào phạm vi tấn công của con vật từ lâu, nhưng hôm nay con dê đã thế mạng cho họ. Ông chỉ khe hở đủ một người đi phía sau con rắn và nói.

- Muốn vào thánh địa phải đi qua mặt con rắn này.

Người vợ định bỏ chạy, nhưng cô vội nhận ra phía ngoài là cánh cửa đá đã đóng chặt. Đã vào đến đây dù chết cũng phải đi đến tận cùng. Chẳng phải mười mấy năm nay cô chỉ mong ngày này đấy thôi.

- Đi tiếp! – Cô hạ quyết tâm.

Tuy lấy hết can đảm, không chỉ cô mà người đàn ông đầy chất thép kia cũng phải co mình nín thở để lách qua lưng con rắn đang phả hơi tanh nồng nặc. Ngay vừa đặt chân vào khu tiền điện, viên kiến trúc sư đã ngỡ ngàng sửng sốt với vô số pho tượng các vị thần Balamon giáo đặt trang trọng trong các khám thờ ăn sâu trong đá. Tượng Siva, Vishnu, Bharma, bò Nadin, dấu triện cổ và các thanh kiếm ánh lên màu sắc của vàng thật.

Do thời gian có hạn nên không thể xem kĩ từng chi tiết, ông muốn đi thật nhanh để bao quát quy mô thánh địa nhưng một pho tượng nữ thần vàng óng làm ông sững người lại. Đúng là pho tượng này được đúc bằng vàng khối, với kích cỡ lớn bằng người thật như vậy làm ông nghĩ đến tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng tại Po Nagar đã bị quân Khmer băng qua cao nguyên Langbian đến tấn công Nam Champa năm 945.

Sự tập trung của ông bị cắt ngang khi có tiếng động vang lên từ xa. Lúc này ông mới giật mình nhớ lại người vợ đã biến đi đâu mất. May thay, nỗi sợ của ông tan biến khi thấy nàng từ xa chạy lại với một thứ gì đó nặng trĩu trước ngực. Ông lia đèn sang nhìn thứ trên tay vợ và không thể tin nổi vào mắt mình nữa.

- Lạy chúa! Em bê cái này từ đâu ra?

- Trên đài thờ.

Người đàn ông nhìn theo chỉ tay của vợ về cuối đường hầm hun hút và nhận ra rằng mình đang ở đoạn đầu của một cung điện. Còn vô số điều hấp dẫn và lạ mắt vẫn đang chờ ông ở phía trước. Định đi tiếp nhưng môt sức mạnh vô hình đã ghìm chặt ông lại. Kinh ngạc và giận dữ, ông chỉ tay lên linh vật.

- Em... em định mang nó đi đâu?

- Mang về Mỹ Sơn.

Ông chết lặng đi sau câu nói thản nhiên như không.

- Về Mỹ Sơn?

Mặc dù hiểu được nỗi lòng khao khát đến cháy bỏng trong trái tim vợ mình bấy lâu nay, nhưng ông không ngờ cô ta lại xốc nổi như vậy. Chỉ mấy phút trước đây, nàng còn là phụ nữ non gan e thẹn, vậy mà chỉ trong phút chốc, chả hiểu phép thuật nào đã biến cô trở nên ngang nhiên đến ngỗ ngược như thế.

- Không được! - Ông dứt khoát xua tay. - Những thứ nằm trên đài thờ là bất khả xâm phạm!

- Đây là báu vật của người Chăm. - Cô nói đầy thách thức. - Nó phải trở về với người Chăm.

- Nhưng không phải lúc này, hãy trả lại đài thờ ngay!

- Không được! - Cô bướng bỉnh đáp. – Chính anh thường nói cái gì của Cesar thì trả cho Cesar đó sao. Đây là Quốc bảo của Champa, là linh hồn của người Chăm, chúng ta phải có trách nhiệm trả về đúng chủ của nó.

- Hãy nghe anh nói đã. Ông xòe hai tay phân bua.

- Chúng ta sẽ hồi hương những gì đã bị lấy cắp nhưng chưa phải lúc này. Chúng ta chưa hiểu gì về thánh địa này và sẽ phải trả giá đắt cho sự xốc nổi và ngu dốt.

- Không bây giờ thì bao giờ... Ngoài tôi và anh ra còn ai nữa?

– Cô lại lùi xa tầm tay của người chồng như tránh một kẻ phản trắc.

- Tổ tiên tôi đã mất bao nhiêu công sức và xương máu để đi tìm linh vật này nhưng đều thất bại. Đây là cơ hội duy nhất và tôi không thể chờ thêm được nữa. Anh không thuyết phục nổi tôi đâu!

Không chần chừ, người vợ ôm chặt báu vật nặng hàng chục cân lao ra cửa với một sức mạnh kinh ngạc. Nàng bất chấp bóng đêm và sợ hãi khi băng ngang trước mũi thần rắn. Người đàn ông Pháp chỉ biết chạy theo soi đèn cho cô khỏi ngã mà không dám chạm vào người vợ đang nổi cơn tam bành.

Khi chạm cửa đá, người phụ nữ quay phắt lại nhìn ông thế thủ. Nhìn cặp mắt hoang dại mà ông chưa bao giờ nhìn thấy ở người phụ nữ đầu gối tay ấp mấy năm nay, bản năng sinh tồn mách ông không nên dồn ai đó vào đường cùng. Ông lùi lại và tỏ ra lịch lãm như một đàn ông Paris thứ thiệt.

- Anh hiểu và trân trọng suy nghĩ của em. Nhưng chúng ta không thể đón rước thần linh một cách thô bạo như vậy. Đây là di sản của Champa nhưng đã nằm trong lãnh thổ Camboge (Người Pháp luôn gọi Campuchia là Camboge) mấy trăm năm nay. Để mang được nó về chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề lịch sử để lại. Dù sao chúng ta cũng sẽ hành xử đàng hoàng trong luật pháp chứ quốc tế không phải hành động như những tên mộ tặc.

- Không, sẽ không còn ngày nào nữa, em linh cảm rằng chúng ta không thể quay trở lại đây được nữa. Chúng ta sẽ vĩnh viễn mất linh vật này!

Quý ông Paris len lén nhích tới, chỉ đợi một cái chớp mắt của nàng, ông sẽ vồ cướp.

- Đừng động vào tôi. - Cô dơ cao pho tượng. - Nếu ông cướp, tôi sẽ đập đầu chết ngay trước mặt ông!

Lời nói này đã đánh gục ý chí của ông. Đứng chết lặng giữa phòng, mắt ông trân trối nhìn người phụ nữ xinh đẹp và tự hỏi rằng nàng có còn là vợ mình nữa hay không. Sai lầm! Không phải sai lầm khi cưới nàng mà sai lầm khi đưa nàng vào đây. Ngàn lần sai lầm.

- Cô có biết là cô đang xúc phạm thần linh không hả? – ông than lên.

Ông chỉ còn biết trút hết tức giận vào lời nói nhưng tiếng gào của ông dội vào vách đá rồi hắt thẳng vào chính mặt ông. Nàng vẫn im lìm dựa lưng vào cánh cửa và không thể nào nhìn thấy dòng chữ đang tỏa ám khí ngay trên đầu. Ông rùng mình nhận ra dòng chữ Phạn kia là dành cho ông, nó đang chiếu thẳng vào số mệnh ông. Họ nhìn thẳng mặt nhau trong bóng tối, câm lặng đến rợn người. Tiếng tích tích trên chiếc đồng hồ đeo tay đang nhắc nhở ông thời khắc sắp đến. Cửa sẽ mở.

Ông đưa tay nhìn đồng hồ và hốt hoảng khi nhận ra thời khắc đó chỉ tính bằng giây và cô ta sẽ dễ dàng thoát ra ngoài. Thời gian cứu vãn thần linh của ông sắp hết. Người phụ nữ vẫn nén lặng chờ đợi vì cô biết thời gian đang ủng hộ mình. Trong tích tắc ông biết mình vẫn hoàn toàn làm chủ tình huống. Cánh cửa sẽ không khởi động nếu ông kịp ngắt ống đồng. Nhanh như cắt, ông quay đầu lao vụt vào bóng tối, chưa đầy mười giây sau ông đã đứng trước thác nước.

- Khoan, anh làm gì thế?

Giờ là lúc ông trả đũa cô. Bất cần như chả nghe thấy gì, người Pháp phăm phăm lao ra suối.

- Dừng lại...!

- Tiếng vợ ông thảm thiết. – Chết đấy...!

Ông lội ùng ục đến giữa dòng rồi bất thình lình khự lại không phải vì tiếng thét sau lưng mà là âm thanh trên trời. Ông chiếu đèn lên và kinh hãi khi thấy trần nhà như đang hạ xuống. Tiếng rít của những phiến đá xanh miết vào nhau nghe lộng óc. Ông biết đã quá muộn, lúc này không có sức mạnh nào có thể ngăn cản cỗ máy khủng khiếp kia khi nó đã khởi động.

- Chạy đi! – Ông thét to về phía vợ rồi lao vọt lên bờ trước khi trần nhà sập xuống. Mặc dù bóng tối bao trùm, ông vẫn lao đúng hướng cánh cửa đá đang rung chuyển. Trước ông là tiếng bước chân dồn dập của người vợ.

- Dừng lại. Không kịp đâu! - Ông hét lên.

Người đàn ông ngũ tuần rướn hết sức lao theo, bốn bề rung chuyển tưởng như một cơn địa chấn đang ập đến. Một tiếng rít ghê tai vang lên cùng với luồng ánh sáng tràn vào. Hình ảnh mong manh bé nhỏ của vợ ông như đang bay khỏi mặt đất hướng về ánh sáng. Và đó cũng là hình ảnh nguyên vẹn cuối cùng mà ông còn thấy về người vợ đáng thương của mình. Tiếng động kinh hoàng vang lên. Tất cả lại chìm vào bóng tối.

Ông tin rằng vợ mình đã may mắn thoát qua cánh cửa. Định quay lại con suối thì tiếng động lạ trước mặt làm ông chú ý. Nhẹ nhàng ngồi xuống trong bóng đêm, ông linh cảm một sự thật kinh người đã bày ra trước mắt. Ông nhặt vội cây đèn trên sàn rồi chiếu vào nơi phát ra tiếng động. Lạy chúa tôi!

Thân thể nàng bị đứt lìa. Ông khụy xuống để hai cặp mắt kinh hồn của họ gặp nhau lần cuối. Một làn hơi thều thào hướng về phía ông.

- Hãy... mang nó về... Mỹ Sơn...

Làn hơi yết ớt tan biến vào hư vô. Người đàn ông Pháp mắt nhòa đi và không còn dám nhìn máu của nàng đang trào ra trước ngực và tưới đẫm lên cả linh vật đang nằm trên tay nàng. Phần thân còn lại của nàng đang ở ngoài hay rơi xuống hầm tối...? Rõ ràng ông đã thấy nàng băng qua cửa nhưng không hiểu sao lại bị bật ngược vào trong.

Ông soi đèn lên vết cắt ngang người của nàng và rùng mình kinh hãi khi thấy một bàn tay gân gốc bị chặt ngang cổ tay đang bấu lấy ngực áo vợ mình. Một câu hỏi xoẹt ngang óc ông. Ngoài cửa đá là ai? Là người hay quỷ dữ. Hay chúng là người của hội kín Naga... Không lẽ lời cảnh báo của cha ông từ nửa thế kỉ trước rằng hội này còn sống vẫn đúng đến hôm nay? Ông lạnh gáy khi nghĩ rằng, mình cũng không thể toàn mạng khi ra khỏi đây. Làn máu nóng hổi đã tràn ướt dưới chân ông. Đứng chết lặng trên sàn, ông hãi hùng nhìn cách cửa táp đầy máu đang rỏ ròng ròng xuống đất như một máy chém vừa xong ca hành quyết để bảo vệ một chân lí hùng hồn khắc sâu trên đá.

“ Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’

Mười hai năm sau. Đà Nẵng, 22 giờ 17 phút ngày 30 tháng 11.

Người đàn ông Pháp gầy gò đang sửa soạn đống tài liệu trong căn phòng của một khách sạn bên bờ biển Đà Nẵng. Suốt mười hai năm lánh nạn sau biến cố kinh hoàng, nỗi ân hận và sợ hãi đã vắt kiệt một kiến trúc sư kiêm nhà khảo cổ tài ba đang đà sung mãn trở thành một ông lão tiều tụy hơn so với cái tổi 67 của mình. Mỗi khi chợp mắt, hình ảnh người vợ không toàn thây và bàn tay cụt lại hiện lên như đang réo đòi thảm thiết. Niềm an ủi lớn nhất giữ ông lại trên cõi trần là đứa con gái hết mực yêu thương– một kỉ niệm duy nhất với người vợ xấu số. Đến nay, ông còn nợ nàng một nửa lời thề lúc lâm chung. Ông phải sống. Món nợ lớn nhất mà ông phải sống để trả lại cho người Chăm là một kho báu đang bị lịch sử chôn vùi trong quên lãng. Mối thù lớn nhất của ông cần phải thanh toán là một hội kín tà giáo khủng khiếp nhất lịch sử mà ông là nạn nhân số một. Ngày đó đã đến, ngày ông rửa hận và hoàn tất chuỗi sứ mệnh lớn lao trên đã đến.

Mọi khâu chuẩn bị cho ngày trọng đại sẽ diễn ra vào hôm sau đã hoàn tất, ông lôi cuốn nhật kí đặt lên bàn định chép nốt vài dòng. Dở cuốn sổ dày cộp luôn cạnh ông suốt mấy mươi năm nay, trên khuôn mặt phong sương hốc hác của nhà khảo cổ Viện Viễn Đông Bác Cổ lừng danh thoáng hiện một nỗi buồn. Cuốn sổ chỉ còn đúng một trang.

Bất giác, ông linh cảm có chuyện khác lạ, những trang giấy nâu chi chít những phát hiện, những sự kiện đáng nhớ và cả những ngày đau đớn cùng cực trong đời. Nó là người bạn duy nhất luôn ở bên ông. Càng nghĩ ông lại thấy nó giống mình đến lạ. Cũng thô mộc, nhàu nhĩ và cô độc nhưng đầy ắp tri thức và dấu ấn khủng hoảng còn nóng rực đến tận hôm nay. Nó chính là bản sao y chang đời ông nhưng ông không mong giống nó như lúc này. Bởi, nó chỉ còn đúng một trang. Một nỗi ám ảnh chết chóc bỗng dưng sống lại. Lời nguyền độc địa đã cướp đi người vợ hết lòng yêu thương. Hôm nay nó như đang hiện về để mang đi nốt bố con ông.

Cố xua đuổi cảm giác bất an của một kẻ có tuổi độc thân, Paul Morierre cầm bút định viết vài dòng nhưng nghĩ sao lại thôi. Theo lịch đã sắp xếp, đúng 7 giờ sáng mai ông sẽ đẫn đầu phái đoàn khảo cổ vào thánh địa Mỹ Sơn để khai quật một thần bảo hộ của Vương quốc Champa cổ xưa. Trừ ông ra, không một ai biết báu vật này là gì và chôn vị trí nào cho đến phút chót.

Bất chấp sự háo hức và nôn nóng dâng cao trong giới khảo cổ như một nồi súpde đang sôi, ông vẫn giữ phong thái lạnh nhạt và dửng dưng của một người Pháp. Chỉ vài giờ nữa thôi thiên hạ sẽ vỡ òa vì ông. Giây phút lịch sử của ngành khảo cổ Việt Nam nói chung và Chămpa học nói riêng sẽ bước qua một trang mới.

Paul đứng dậy mở toang cửa sổ, một làn gió biển Đông mát rượi lùa vào căn phòng nhỏ. Hít một hơi tràn đầy lồng ngực, ông đứng lặng mình hồi lâu. Hướng đông, theo quan niệm của người Chăm là hướng của thần linh và cội nguồn của sự sống. Là một kẻ đã dành hết tâm lực cho đất thánh Mỹ Sơn, cùng với lòng thành kính của mình, ông có quyền tin rằng ở chốn linh thiêng các Đấng đang nhìn thấu và sẽ phù hộ cho ông trong sứ mệnh cuối đời này. Ta chỉ cần sống thêm hai ngày nữa. Đúng vậy, chỉ cần 48 tiếng nữa, món nợ lịch sử dài đằng đẵng hơn một ngàn năm mà nhân loại đang vay của người Chăm sẽ được ông thanh toán rốt ráo. Sòng phẳng trước khi chết.

Tiếng chuông điện thoại bàn reo vang, Paul nhấc máy, giọng nói quen thuộc ập đến vào cái giờ cấm làm ông kinh ngạc.

- Anh nói gì ... Sao hả...? Paul thốt lên lạc cả giọng.

" Chắc chắn không?... Được rồi, tôi sẽ mở máy ra ngay bây giờ.."

Đặt tai nghe xuống rồi khởi động nhanh chiếc laptop, Paul mở hộp thư điện tử của mình. Tấm ảnh trong email đẩy sự kinh sợ của ông lên đến đỉnh điểm. Chính nó đây rồi. Không thể nhầm lẫn được. Chúa ơi! Sự bí mật tuyệt đối mà ông đã giữ kín mười hai năm nay đã bung bét. Linh vật vừa bị ai đó đào lên. Ai đã cướp của ông? Trời đất bỗng quay cuồng chao đảo. Nhưng mất linh vật chưa phải là tất cả, vấn đề là nó giống như cái chốt an toàn của một trái phá đã bị rút. Paul rùng mình nghĩ đến một đại họa khủng khiếp sẽ nổ tung trong nay mai.

Mồ hôi lạnh túa ra đầy trán, trong giây phút hoang mang tột độ, ông không còn nhiều sự lựa chọn. Ông cảm thấy mình phải làm một việc gì đó ngay tức thì, phải gọi ngay cho ai đó trợ giúp. Điện báo cho ban di tích Mỹ Sơn hay cho cảnh sát? Báo cho đồng nghiệp trước hay tự mình đến đó trước?

Paul cuống cuồng lục tìm các số điện thoại nhưng tai quái là ông không có di động còn cuốn danh bạ thì đã quên ở nhà. Mà dù có gọi cho ai thì ông cũng không thể không đến đó. Trong lúc cuốn loạn, những linh cảm quái gở cũng thi nhau ập về xâu xé ông. Phải trao bí mật cho ai đó phòng khi một đi không trở lại. Trao kho báu cho ai mới là vấn đề. Paul bỗng nhiên nhớ tới một người Pháp rất nổi tiếng thế kỉ 18 – tên hải tặc khét tiếng Labis. Khi đứng trước giá treo cổ y đã ném tấm da dê vẽ đầy hình thù kì dị xuống pháp trường và nói lớn “ Kho báu của ta sẽ thuộc về ai có thể hiểu được nó’’.

Khi nghĩ đến kẻ đồng hương huyền thoại này, Paul bỗng thấy mình tự tin khác lạ. Ông mỉm cười. Cho dù linh vật bị mất thật đi chăng nữa nhưng kho báu Champa khổng lồ vẫn đang trong tay ông. Thế nhưng nếu đêm nay ông bị giết? Làm sao để nó không bị thất truyền đây? Phải rồi. Mã hóa nó!

Xé trang giấy cuối cùng và chấm bút, ông bóp trán viết ra một dãy kí tự rồi lập tức bỏ đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 2

Chiếc Ford Ranger cũ kĩ phanh két ngoài gara thưa thớt của sân bay, một người trung niên vội vã bước ra rồi rảo nhanh lên đón khách. Kì Phương có mặt tại sân bay Đà Nẵng trong một tâm trạng bồi hồi hiếm có ở một kiến trúc sư quen sống trầm lặng. Với anh, chưa bao giờ thời gian lại truy đuổi dồn dập như hôm nay. Anh đã lái xe xuyên rừng trong đêm để đi đón một nhân vật mà hơn chục năm nay chưa gặp lại, đó là Thi Nga. Nàng là tiểu thư danh giá của Paul Morierre - người thầy cũ của anh. Ấn tượng về cô bé lai Tây này trong anh không nhiều ngoài thân hình nhẳng nhiu với sở thích bơi lội trên con suối quanh co chảy qua vùng đất thánh.

Một tháng thực tập nhoáng trôi đi, Kì Phương trở về đất bắc và sau đó không lâu anh biết tin cả gia đình ông không còn ở Mỹ Sơn nữa. Hơn mười năm trôi qua không một tin tức gì về họ cho đến hôm qua, ông bất ngờ xuất hiện trở lại trong một cuộc khảo cổ sẽ diễn ra ngày mai.

Quá xúc động vì ông còn nhớ cậu học trò cũ năm xưa, Kì Phương không biết nói gì hơn. Ông còn ngỏ ý nhờ anh qua sân bay đón con gái cũng bay từ Paris trở lại. Thật không có gì vui hơn được gặp lại những người đã từng coi anh như thành viên trong gia đình.

Bảng điện tử thông báo chuyến bay đã hạ cánh xuống Đà Nẵng an toàn. Kì Phương đưa tay nhìn đồng hồ. 23 giờ 25 phút.

Anh lách qua đám đông ngoi lên, mắt nhìn dòng người đang ùn ùn đổ ra với tâm trạng không thể hồi hộp hơn. Ánh mắt anh không sót một ai, những cô trẻ đẹp phải nhìn kĩ hơn bởi anh tin chắc chắn rằng nàng phải thế. Một thiếu nữ đôi mươi mang hai dòng máu Pháp - Chăm chắc phải có cái gì đó rất lạ. Nàng sẽ diện váy ngắn hay là khép mình trong bộ áo dài thổ cẩm truyền thống đây? Dòng khách nhanh chóng trôi qua nhưng không ai khớp với trí tưởng tượng của anh. Cũng chẳng một ai gọi tên anh nốt. Đúng khi đó, có bàn tay vỗ nhẹ lên vai.

- Anh là Kì Phương? - Anh quay giật lại, sát sau là một cô gái rất trẻ vận váy đen, đi giày cao gót.

- Vâng, cô đây là...?

- Tôi là Thi Nga.

- Còn tôi là Kì Phương. Tôi lên để đón cô đây.

Kì Phương gần như không thể rời ánh mắt khỏi cô ta được nữa, những nét thân thuộc ẩn sâu trong kí ức vùng xé thời gian ùa về.

- Anh đúng là kiến trúc sư Kì Phương không?- Khác hẳn anh, đôi mắt đen dửng dưng của cô đã nói lên một sự thật rằng, cô đã quên tất cả.

- Đúng rồi, nếu cần cô có thể xem chứng minh thư trước khi ra xe cùng tôi.

Cô gái nhìn ảnh mỉm cười.

- Hình như cô đã quên tôi? – Anh hỏi và hồi hộp đợi câu trả lời.

Vẫn nở nụ cười xã giao, cô đáp:

- Thực ra hồi ấy tôi còn nhỏ quá.

- Chả ai trách trẻ con hay quên. – Anh nhìn ngang vào má cô và cố gắng đưa ra một nhận xét tinh tế. – Còn cô, trông khuôn mặt cô... – Anh định nói là béo hơn xưa nhưng kịp chữa lại. - Không khác trước là mấy đâu.

- Vậy mà lúc nãy anh không nhận ra tôi? – cô nói vẻ hờn dỗi.

Kì Phương gật đầu mỉm cười. Hai người không nói gì cho đến khi chiếc xe ford của anh nặng nhọc lăn bánh hướng về thành phố.

- Bây giờ chúng ta về khách sạn chứ? – Cô gái đột nhiên hỏi từ hàng ghế sau.

- Sao cô biết?

- Thì ba tôi đang ở đó mà, đúng không?

- Ừ, hôm nay ông ấy nhắc cô suốt ngày. Đã khuya nhưng có lẽ ông ấy đang chờ cô về ăn tối đấy.

Kì Phương bịa như thế chứ thực ra anh thừa hiểu tính lãng trí của Paul chẳng ai bì nổi. Cuôc đời nhà khảo cổ này gắn liền với sách vở và gạch đá. Ông có thể đọc vanh vách từng niên đại của tất cả hiện vật trong bảo tàng Chăm nhưng lại quên tịt ngày sinh nhật của vợ con.

Sáng nay ông ta bận đánh vật với khối bia kí tại bảo tàng Chăm. Thú thực, người chờ đợi cô nhất chính là anh. Chiều nay, từ khi biết tin cô về, anh luôn nghĩ về cô với bảo kỉ niệm ngọt ngào xa xưa, nhưng cái anh tò mò nhất là giờ đây cô xinh đến mức nào. Anh đã quên ăn và bất chấp mớ công việc bù đầu để đi đón cô.

- Ba em ở một mình tại khách sạn hả anh? – cô hỏi vẻ lo lắng.

- Ừ, ba cô bảo thế. Mà tôi không hiểu vì sao hai người không chờ nhau để đi cùng chuyến bay?

- Vâng, lẽ ra tôi đã bay cùng chuyến ba tôi hôm kia, nhưng do phải thi nốt một môn quan trọng nên phải đi sau một ngày mặc dù biết rằng để ba đi một mình là không nên.

- Trông ba cô quắc thước lắm, tôi nghĩ không có vấn đề gì về sức khỏe đâu.

- Anh chưa hiểu hết đâu, đêm nay rất quan trọng với ông ấy, tôi rất lo vì các rủi ro khác.

Đúng là Kì Phương không hiểu nhiều về Paul ngoài những giai thoại chứng tỏ đây là một người Pháp có nhiều duyên nợ nhất với xứ sở này. Nhưng điều mà bất cứ ai cũng biết là ngày mai đích thân Paul sẽ khai quật một báu vật của vương triều Champa. Tin này lập tức thu hút các nhà khảo cổ khắp thế giới. Đối với các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm thì đây là một tiếng sét vang dội báo hiệu cơn dông hiếm hoi sau nhiều năm khô cằn hạn hán.

Không giống như các cuộc khai quật thông thường vẫn thầm lặng diễn ra ở đâu đó hàng ngày, điều bất thường là Paul dường như biết trước cổ vật là cái gì và đang nằm ở đâu dưới lòng đất hệt như hàng ngàn năm trước tổ tiên của ông ta chôn xuống và truyền lại bản đồ cho chính ông ta vậy. Sự kì bí của báu vật và thói úp mở của người khởi xướng vừa gây thêm tò mò vừa sinh lắm kẻ hiềm ghét. Ông độc quyền báu vật lẫn thông tin. Nói dại, ngộ nhỡ đêm nay ông có mệnh hệ gì thì tất cả cũng đi theo ông nốt.

- Cô yên tâm. - Anh trấn an. - Không đầy năm phút nữa tôi sẽ bàn giao cô cho ông ta, hai cha con tha hồ mà hàn huyên!

Rex Hotel tráng lệ tọa lạc trên bãi biển lộ dần trước ánh đèn pha. Kì Phương cua xe vào trong sân rồi bước xuống dẫn cô vào trong sảnh. Gã nhân viên có chiếc nơ trên cổ áo mau miệng chào anh nhưng cặp mắt của hắn ta lại hướng về cô gái phía sau.

- Anh chị cần thuê phòng?

- Phiền anh gọi lên phòng 307, báo cho ông Paul Morierre có người đến gặp. – Kì Phương nói.

Gã nhướng mày ra chiều suy nghĩ.

- Vâng, anh chờ lát. – Anh ta cầm máy ấn số rồi áp lên tai khá lâu, mắt liếc thêm cô gái mấy chập mà hắn cho là ăn đứt mấy ả người mẫu quen mặt thường lui tới đây cùng các đại gia.

- Chẳng ai nghe máy cả. – Anh ta lắc lắc cái đầu húi cua rồi nói. - Có lẽ ông ta đang bận?

- Ông ta có ra ngoài không? – Kì Phương hỏi.

- Cũng có thể. - Gã đảo ánh mắt lơ đãng một cung tròn rồi nhìn Thi Nga gợi ý. - Cô là người nhà của ông Paul à? Khách khứa ra vào quá đông, tôi không để ý lắm. Nếu cần nghỉ ngơi, anh chị cứ đặt thêm phòng?

- Chúng tôi không có nhu cầu thuê phòng. – Thi Nga cắt ngang lời anh ta.

- Không thuê phòng? - Anh chàng lễ tân chỉ tay về phía ghế sôfa. - Vậy thì xin mời anh chị!

- Vâng, chúng tôi sẽ đợi. – Cô đáp.

Thi Nga biết nhược điểm của ba cô là hay quên. Nếu ông ta ra ngoài đi dạo một mình, cô chỉ hi vọng rằng đêm nay ông nhớ đường về. Cô không thể liên lạc cho ông vì ông không dùng điện thoại di động nhưng cô cho rằng như vậy tốt hơn, bởi hễ cứ mua tặng ông hôm nay thì lại mất vào hôm sau.

Ngồi trong sảnh có tường kính nhìn ra bãi biển, Thi Nga xua tan sự lo âu của mình bằng cách thả hồn theo những đám mây lởn vởn ngoài biển xa.

Trong khi cô ngắm biển thì Kì Phương ngắm cô. Da trắng, tóc dài, mũi thanh, môi hồng... không trang điểm. Không giống đồng tử xanh leo lẻo của cha, cô giữ sắc tố đen thăm thẳm của mẹ trong đôi mắt to tròn đầy vẻ ngây thơ. Tạo hóa đã mang cho cô sự hợp bích giữa nét thanh nhã của người phương tây và sắc màu đằm thắm dung dị của phụ nữ An nam. Nàng như một công chúa Chămpa kiều diễm vừa bước ra từ truyện cổ tích. Ánh trăng vàng lả lướt bên khung cửa làm cho khuôn mặt đầy mộng mơ của cô càng sáng lên đầy huyền ảo. Nàng ngồi đó, chỉ cách một tầm tay mà anh ngỡ như một thiên thần đang bay xa vạn dặm. Máu nghệ sĩ bất chợt nổi lên, anh khẽ nói:

- Tuyệt quá! Thi Nga cói thể cho tôi kí họa được không?

Cô gái quay lại với nụ cười hiếm hoi. Tuy nhiên dù cô có đồng ý hay không thì cuốn sổ và chiếc bút đã nằm gọn trên tay anh. Từng vẽ hàng trăm khuôn mặt danh tiếng và nhiều người mẫu khoả thân nhưng chưa bao giờ anh lại run tay như vậy. Vẽ kí họa chỉ cần chộp lấy thần sắc của nhân vật và ghi lại bằng vài nét chấm phá. Tuy sơ lược nhưng người họa sĩ phải tài hoa mới mong thổi được vào bức tranh cả tâm hồn lẫn tính cách. Vừa được vài nét thì giọng the thé của gã nhân viên làm anh cụt hứng.

- Cô Thi Nga có đây không?

- Tôi đây - Thi Nga quên mất đang làm mẫu đứng vụt lên. - Gì vậy anh?

Chàng lễ tân sẵn nụ cười duyên từ xa kèm với một lá thư trên tay. Điệu bộ hệt như sắp ban cho cô một niềm vui lớn.

- Có một lá thư của ông Paul gửi lại đây đấy.

- Thư ba tôi? sao lúc nãy anh không nói ngay.

- Xin lỗi, tôi... quên.

Thi Nga tin rằng gã này có vấn đề. Không đợi anh ta nói hết câu, cô đưa tay đón lấy nhưng bị anh chàng “ có vấn đề’’ này vội rụt tay lại. Lần này gã mạnh dạn nhìn thẳng.

- Khoan đã, lấy gì chứng minh cô là người nhà của Paul?

Thi Nga đành rút cuốn hộ chiếu màu hạt dẻ đưa cho anh ta. Chàng nhân viên nhìn xuống rồi lại nhìn lên mặt cô đối chiếu. Không thể tìm ra lí do níu cô lâu hơn, anh ta trao trả toàn bộ giấy tờ.

Nói là bức thư chứ thực ra là tờ giấy nâu kẻ ô li gấp làm tư. Hi vọng ba cô nhắn lại điều gì trước khi đi đâu đó, cô vội mở ra. Khi trang giấy dang rộng trước mắt, cô không thể ngạc nhiên hơn khi thấy mấy kí tự lạ hoắc:
1.jpg

Cô quay lại hỏi ngay người thanh niên.

- Liệu anh có đùa tôi không? Đúng là ông Paul Morierrre ở phòng 307 viết bức thư này?

- Ơ hay, cô nghĩ tôi vẽ ra để trêu cô chắc.

- Xin lỗi, đúng là ông tây cao cao gầy gầy, râu tóc bạc phơ biết tiếng Việt đúng không?

- Sống mũi dọc dừa và đôi môi màu dưa hấu như cô nữa đấy! – Anh ta bổ sung.

- Phiền anh cho tôi hỏi thêm, ông đưa cho anh lúc nào, ông ấy đi cùng ai, và có dặn gì thêm nữa không?

Chàng lễ tân cảm thấy vinh hạnh ngần nào khi đôi mắt đẹp như mộng kia đang nhìn xoắn lấy mình, cho dù đó là cái nhìn riết ráo đến điên dại. Gã ước gì được chia ra năm câu hỏi và mỗi câu trả lời tương ứng gã sẽ thêm thắt cho thêm phần lì kì hồi hộp để đứng ngắm người đẹp đến hết cái buổi trực đêm buồn tẻ này. Nhưng nhìn khuôn mặt có phần tím tái và một anh chàng hầm hầm đeo bám phía sau buộc gã phải hủy sự bông đùa của mình.

- Ông ta viết lúc rời khách sạn cách đây chừng hai tiếng. Viết xong ông đưa cho tôi và bỏ đi, hình như đi một mình...

- Anh có nhớ ông đi đường nào không?

Anh chàng lại tỏ ra động não nhưng Kì Phương kéo nhẹ tay cô. Mắt anh nãy giờ không rời tờ giấy rồi nói:

- Tôi biết đây là đâu. Ta đi thôi.

Thoáng chút ngạc nhiên nhưng không hỏi thêm, cô bước theo anh. Chiếc Ford Ranger như một mũi tên vùn vụt trực chỉ Mỹ Sơn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 3

Sau cú điện báo kèm theo những tấm ảnh hiện vật vừa bị đào trộm gửi đến, Paul rất kinh ngạc và hoảng hốt bởi đúng nó là báu vật mà ông đã mang về từ kho báu Naga mười hai năm trước. Thật khó tin là có kẻ đã biết vị trí bí mật đó.

Trên đường đến Mỹ Sơn, ruột gan ông như lửa đốt và chỉ mong tang vật vẫn nguyên vẹn tại hiện trường. Chỉ có ông mới biết được rằng cổ vật này là chiếc chìa khóa để ông tìm lại kho báu Naga đang thất lạc trong rừng sâu. Nếu cổ vật này bị mất thì con đường đến Naga sẽ vĩnh viễn khép lại hoặc mất hẳn vào tay thế lực xấu. Mười hai năm trước, sau hơn một tháng ẩn mình trong thánh địa Naga, ông tin những kẻ phục kích bên ngoài tưởng ông đã chết nên chúng cũng bỏ đi. Quyết định rời Naga, Paul đứng trước sự lựa chọn nghiệt ngã: Nếu mang cổ vật này về quê như đã hứa với vợ, ông sẽ vi phạm tày đình lời nguyền của hội kín, ngược lại, đến chết ông cũng không được thanh thản. Sau những đêm trăn trở suy tính, ông chấp nhận sự trừng phạt của hội kín để cho người xưa được mỉm cười nơi chín suối.

Sau khi thoát ra ngoài hang núi, ông đã mang cổ vật trở về sau nhiều đêm đói khát vượt núi băng rừng như một tên tù vượt ngục. Đến Mỹ Sơn, biết mình khó thoát khỏi sự trừng phạt tàn khốc, ông tính cách đào tẩu. Ông sẽ trốn về Pháp một thời gian chờ tình hình lắng xuống rồi sẽ trở lại trình báo báu vật cho nhà chức trách. Trong tay ông lúc này gồm báu vật, một tập tư liệu về Naga và tấm bản đồ. Báu vật sẽ ở lại Mỹ Sơn đúng như ước nguyện của vợ ông. Còn bản đồ và tư liệu thì ông biết không nên mang theo người. Bởi nếu hai thứ này cùng lúc rơi vào tay kẻ xấu thì lập tức Naga sẽ bị bại lộ. Sau khi cân nhắc, ông quyết định chỉ mang theo tập tài liệu.

Sáng nay, ông đã dạo vòng quanh thung lũng sau nhiều năm vắng bóng. Điều ông mừng là công tác trùng tu đã được nhà nước quan tâm hơn trước. Nhiều hạng mục di tích đã được được công nhận và có kế hoạch trùng tu phục chế bài bản. Đây không còn là sân riêng của người Pháp mà còn rất nhiều chuyên gia Ý, Anh và Nhật đã nhập cuộc. Sáng nay ông cũng không quên dò lại vị trí mà ông đã lén lút chôn báu vật và thấy nó vẫn nguyên xi. Ông đã lặng lẽ đứng đó hồi tưởng rất lâu. Thôi chết rồi, cái giây phút thả lòng kia đã bị ai đó theo dõi. Chúng sẽ đoán ông đang tìm gì ở đó.

Chiếc taxi đã tiến sát bìa rừng, ông tìm lối tắt đi thẳng tới thánh địa. Không một bóng người, ánh trăng vằng vặc phủ tràn thung lũng trong veo đến diệu kì. Họ đi đâu cả rồi? Hay có kẻ bày chuyện đùa ông? Ông tìm đến vị trí đó rồi gạt đám lá mục phủ đầy mặt đất và nhìn xuống thảm cỏ dại vẫn y nguyên như sáng nay, không có vết đào bới. Té ra mấy bức ảnh kia là đồ giả mạo mà kẻ đó đã bày mưu để lừa ông. Định cất bước trở về thì có tiếng loạt soạt sau lưng ông rồi một bóng đen đi tới.

- Đứng im tại chỗ!

Paul giật nảy người định bỏ chạy nhưng trước sau đều bị chặn. Biết đã trúng kế, ông chỉ biết đứng chôn chân mà nhìn. Một người đàn ông lực lưỡng lao tới bẻ quặt tay ông về phía sau để cho người khác trói lại.

- Có đúng chỗ này không? - Một người chỉ tay xuống đất hỏi.

- Mày nói gì? – Paul hỏi lại.

- Đừng giả vờ nữa. - Người to con dằn giọng. - Đào nó lên cho lão trắng mắt ra!

Một người thấp đậm dáng rất thạo việc vẽ một vòng tròn quanh vạt cỏ nơi ông vừa gạt đám lá khô. Tiếng cuốc xẻng chan chát thi nhau bập xuống xới tung cả khoanh đất rộng. Khi hố đã sâu ngang thắt lưng, một người dùng xẻng nhảy xuống cẩn thận xén sâu thêm từng lát đất nhỏ.

- Nhẹ tay thôi, kẻo làm hỏng việc. – Người đứng trên nhắc nhở.

Khi mũi xẻng chạm nhẹ vào một vật cứng vang lên một tiếng “ coong’’ trong ngần, y reo lên.

- Đây rồi! chính nó đây.

Đầu óc Paul chao đảo, ông sụm xuống bất lực nhìn hai kẻ lạ mặt nẫng báu vật mà ông phải đánh đổi cả máu và nước mắt mới có được. Vậy là sau bao năm ấm ủ những sứ mệnh thiêng liêng cao cả nay đã tan theo sương khói.

Hai tên trộm cho linh vật vào bao rồi đẩy ông đi về phía bờ suối rậm rạp cánh đó mấy chục bước chân.

- Cả sư! – Một kẻ cất tiếng. – Phần việc chúng tôi đã xong!

Paul ngỡ ngàng khi nghe danh xưng này, ông liền nhìn quanh xem còn ai nữa không. Dưới tán cây tối om lờ mờ hiện ra một người khoác áo choàng trắng đang tọa thiền trên một tảng đá lớn bên bờ suối. Paul căng hết thị lực nhìn người đó có đúng là kẻ mà ông suýt giáp mặt ở kho báu Naga năm xưa hay không. Nhưng nhận diện sao nổi khi ông chưa thấy mặt kẻ nằm bên ngoài vách đá và chỉ để một bàn tay bị cắt cụt trên ngực áo vợ ông. Một bàn tay cụt. Đó là tất cả những gì thuộc về xác thịt mà ông tận mắt chứng kiến về một hội kín khét tiếng trong lịch sử bán đảo Đông Dương cổ đại. Không lẽ hắn sống dai đến thế và còn đeo bám ông đến tận nơi đây hay sao.

Nếu đúng là hắn, thì nhận định bao nhiêu năm nay của ông về kẻ tà giáo cuối cùng đã chết hoàn toàn sai lầm. Đôi mắt ông đã quá mờ để nhìn kẻ đang ngồi trước mặt. Nếu không phải hắn thì là đồng bọn của hắn. Chúng chưa chết. Chúng đã trở lại đây để đòi lại linh vật và trừng phạt hai cha con ông cho trọn một lời nguyền độc ác đã tồn tại từ ngàn đời nay.

Hóa ra bao nhiêu năm nay ông vẫn chưa thoát được sự bủa vây của hội kín này. Chúng không lụi tàn, ngược lại, chúng đã cài người trong giới khoa bảng để leo cao rồi luồn sâu khắp hang cùng ngõ ngách nhằm bóp nghẹt những phát hiện và manh mối kho báu từ trong trứng nước. Chúng khoác lên vai những chiếc áo tu sĩ và trà trộn trong giới chức sắc Bàlamon. Chúng có mặt khắp nơi, từ đời thực cho đến cả trong ác mộng. Hắn là Cả sư ư? Paul nhìn kẻ đang tọa thiền trước mặt mà cười thầm một cách chua chát rồi bất chợt chỉ tay hắn rít lên.

- Chính mày? Mày đã theo tao từ Naga? mày là con rắn độc, rắn độc Naga!...

Tiếng gào vang lên một góc rừng rồi tắt nghẹt khi một tấm khăn đen chụp kín mặt. Trời đất tối sầm khi ông bị nhấn chìm xuống suối. Bộ quần áo giản dị trên người lần lượt rơi xuống. Toàn thân lạnh toát rồi từng mảng da bợt bạt co dúm trong làn nước lạnh. Con suối thiêng. Nếu được chết trong làn nước trong vắt này vẫn là diễm phúc nhưng Paul biết đây chỉ là khúc dạo đầu trong một nghi lễ tế thần rùng rợn mà ông đã từng nhìn thấy tranh khắc trên vách đá ở thánh địa Naga. Nghĩ đến đây ông rùng mình rồi ngất lịm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 4

Thực ra, chỉ liếc dòng kí tự trên Kì Phương đã biết ngay Paul muốn nói gì, và nó cũng chẳng có gì là bí mật cả. Các nhóm kí hiệu A1, A2,... B1, B2... do nhà khảo cổ kiêm kiến trúc sư người Pháp Henri Parmentier phân loại và đặt tên cho các di tích đền tháp khi ông nghiên cứu thánh địa Mỹ Sơn từ những năm đầu thế kỉ XX. Vì tính khoa học và đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu nên các kí hiệu đó vẫn được tiếp tục sử dụng đến nay. Nó cũng phổ biến trong các bản đồ và tập san du lịch đến nỗi nhiều du khách cũng thuộc nó vanh vách. Kì Phương đoán Paul đang có mặt tại một trong bốn ngôi tháp đó. Paul là người rất kiệm lời, ưa chơi chữ, mê thơ ca và đặc biệt là hay dùng các kí hiệu khoa học vào đời thường. Có giai thoại kể rằng, khi công tác ở Mỹ sơn, sống kiếp vô gia cư, không phương tiện đi lại nên Paul đã căng lều ngay bên cạnh tháp cho tiện làm việc. Lúc in danh thiếp để liên lạc, trên phần “ địa chỉ văn phòng’’ ông chỉ ghi độc một chữ “ B1’’

Đường sá về khuya vắng tanh vắng ngắt, sau hơn một tiếng lao nhanh trên những con đường rừng quanh co họ đã đến gần khu di tích. Chiếc Ford tiếp tục phá tan giấc ngủ của rừng núi để tiến về thung lũng thiêng.

- Tôi thật lấy làm lạ. - Kì Phương cất giọng trách móc. – Đêm hôm thế này cha cô đến Mỹ Sơn mà không nói cho tôi một câu, dù sao đây cũng là thổ địa của tôi.

Thi Nga nãy giờ nín thinh suy nghĩ miên man và sợ làm anh phân tán nên không dám hé môi. Khi anh nói, cô mới chịu lên tiếng.

- Hay là ba tôi bị ai bắt cóc vào đây?

Hôm nay Kì Phương đã chứng kiến tận mắt Paul được nhiều người săn đón không khác gì minh tinh màn bạc. Nhưng kẻ hâm mộ ông đến mức bắt cóc thần tượng lôi vào rừng khuya thế này thì anh không tin.

- Chắc không ai bắt cóc ông cả. Ba cô còn viết thư, mà gã đeo nơ nói ông đi một mình mà. – Kì Phương trấn an. - Mà biết đâu ông vào đây thăm lại nhà cũ thì sao.

Tuy lí do này không thực tế nhưng Thi Nga vin vào đây để tự trấn an mình. Từ thủa tấm bé, cô biết ba mình đã coi Mỹ Sơn là nhà. Nơi đây là cảm hứng vô tận của đời ông và còn là nơi bắt nguồn tình yêu giữa ba và mẹ cô. Nhưng đời cho ông cái gì thì cũng lấy đi cái đó, Mỹ Sơn lại là nơi chứng kiến cuộc chia lìa đầy tang thương của gia đình họ.

- Hình như ba tôi sáng nay đã thăm Mỹ Sơn rồi cơ mà? - Thi Nga hỏi.

- Đúng, nhưng chắc là ba cô bỏ quên cái gì đó nên quay lại, chẳng phải tính ba cô dạo này lãng trí mà.

Chiếc xe giảm tốc khi đường hẹp lại. Khi không thể chạy tiếp qua con dốc cao, Kì Phương bảo cô xuống.

- Cô leo núi được chứ? – Anh chỉ đôi giày cao gót.

- Được, anh đi trước đi!

Đáp xong, cô chợt rùng mình khi nghĩ phải đi vào rừng vắng với một người đàn ông mà cô chưa hiểu biết. Cô đã quên mất rằng thủa tấm bé trên chính con đường mòn này anh đã dẫn cô đi hái trái me dại mỗi khi chiều về. Cô dũng cảm tiến bước với ý nghĩ rằng cha cô đã chọn mặt gửi vàng, nên chắc anh ta không dám đi quá giới hạn tại một nơi linh thiêng như thế này.

- Tuy khó đi nhưng đường rất ngắn. - Anh nói. - Qua con dốc nhỏ này nữa là tới.

Sau một hồi luồn lách trong rặng cây tối om, một quang cảnh thần tiên lấp lánh dưới ánh trăng rằm hiện ra.

- Nhìn kìa! – Kì Phương thốt lên.

Hằng hà sa số những giọt sương li ti đang phủ trắng trên những ngọn tháp nâu mờ ảo. Khu đền run rẩy hiện lên đầy huyền diệu. Mặc dù đã ngắm khu tháp tới ngàn lần nhưng Kì Phương không khỏi thẫn thờ trước cảnh trăng đêm nay.

- Tuyệt quá! - Thi Nga cũng thốt lên. - Không lẽ ba tôi một mình đến đây ngắm tháp sao?

Kì Phương tỏ ra am hiểu Paul như hiểu về ba ruột của mình:

- Ba cô vẫn lãng mạn như hồi nào, dân kiến trúc mà. Sống lâu năm ở đây, ông ấy biết lúc nào là đẹp nhất. Có điều là cảnh đẹp thế này mà cha cô đi một mình thì hơi phí.

Kì Phương cầm nhẹ tay cô rồi bước lên những bậc thềm rêu phong tiến về chân tháp gần nhất nhưng cô không sao nhấc chân nổi. Cô nao lòng ngước nhìn những ngọn tháp tuyệt mỹ của tổ tiên để lại nay chỉ còn là những hình hài cụt đầu đổ nát nằm giữa rừng hoang rồi một cảm giác nhói lên trong tim làm cô muốn khụy xuống. Những thây ma tróc lở.

Cô xót xa nhìn những thứ không hề giống như người ta bấy lâu nay ca tụng mà thay vào đó là quang cảnh quạnh hiu điêu tàn. Đúng như một nhà thơ Chăm đã viết mà ba cô thường ngâm nga mỗi khi chiều về:

“ ... Tháp hoang, như thình lình mọc lên từ đất...
Lông lá... âm u... dọa nạt... tháp hoang.
Nổi cộm giữa chiều trời ma quái.
Ung nhọt trên làn da mềm mại.
Thảm rừng già xanh...’’.

Cô gắng kìm khỏi òa khóc. Mỹ Sơn đây ư? Ai đã tàn phá thánh địa linh thiêng? Ai đã đánh cắp linh hồn của tôi? Vậy là sau hơn mười năm dài đằng đẵng, cuối cùng cô đã được đặt chân trở lại chốn xưa, nơi cốt nhục ngàn đời không thể nào quên. Mẹ ơi! Trong thoáng chốc, một linh cảm lạ lùng làm cô sực tỉnh.

- Hãy tìm ba ngay!

Kì Phương lấy tờ giấy xem lần nữa rồi soi đèn lên bảng sơ đồ bằng bảng gỗ mặc dù anh đã thuộc như lòng bàn tay.

- Cô thấy các khu A, C, D, E chưa? - Anh lại chỉ về phía ngọn tháp gần nhất bên phải. - Trước mặt ta là khu B và C, nếu không tìm thấy ta qua suối để đến khu E và A. Ba cô chắc đang ở một trong bốn khu tháp kia.

- Vâng! – Thi Nga chỉ lên tờ giấy. - Thế còn cái dấu móc { úp trên đầu là gì?

- À, kí hiệu chóp nhọn, ý nói rằng bốn chữ cái đó chỉ bốn nóc tháp.

Thực ra, chỉ vài tháp thuộc nhóm B và C là còn có nóc nên bên trong rất kín và còn có những bệ thờ hoặc hiện vật, còn lại làm gì còn nóc. Nhưng để không bỏ sót, Kì Phương quyết định vào tất cả các tháp kín khu B, C tìm kiếm. Sau một hồi lùng sục cả trong lẫn ngoài tháp, Kì Phương lắc đầu nói.

- Không có, ra khu D ngay.

Khu D trải rộng phía sau khu B và C. Kì Phương cầm đèn chạy ngay ra phía ngôi tháp D6. Tuy nhiên tháp này hiện đã sụp đổ và chỉ còn vài bức tường vụn nát nằm trong cỏ dại. Kì Phương định đi về phía hai ngôi tháp dài khá nguyên vẹn tuy đã sụp mái là D1 và D2 im lìm trong đêm nhưng hai gã khổng lồ cụt đầu đang đứng gác. Khi soi đèn xuống đất, anh nhận ra những dấu chân nhàu nát trên cỏ.

- Xem này. - Anh khẽ gọi.

Hai người hồi hộp soi đèn lần theo và nhận thấy những dấu chân này đi ngược ra cổng rồi mất hút trong ngôi tháp B3. Kì Phương lấy làm lạ vì tháp này không được Paul ghi trong tờ giấy. Ngôi tháp này vuông vắn, khá cao còn tương đối nguyên vẹn ngoại trừ đang bị nghiêng và có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Anh ghìm tay Thi Nga ra dấu im lặng rồi soi đèn nhìn vào khe cửa như miệng một con quái thú khổng lồ đang há chờ mồi trong bóng tối. Không thấy gì, anh vỗ nhẹ vai Thi Nga nói khẽ:

- Cô đứng đây, một mình tôi vào là đủ. – Nói xong anh bước qua khe cửa hẹp sâu hun hút, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi tanh lợm xộc vào mũi. Trong lòng tháp lạnh đến rợn người, choán gần hết không gian chật hẹp là một bệ thờ chỉ còn mỗi yoni cao ngang thắt lưng nhưng cái thứ đang nằm trên đó mới làm anh giật mình lùi lại. Tay run run soi đèn lên yoni và anh không tin nổi thứ chất lỏng đang đọng lại trên đó. Máu? Kì Phương lạnh buốt xương sống khi nghĩ một chuyện khủng khiếp vừa diễn ra nơi đây. Tiếng giày lộc cộc ập đến phía sau.

- Gì thế anh?

- Có lẽ do... nước mưa! – Anh lúng túng đáp.

- Tháp này có nóc mà! – Cô sấn sát bệ đá rồi thốt lên. - Không lẽ đây là máu?

Thi Nga rút trong túi ra một mẩu giấy rồi chấm vào thứ chất lỏng. Nó có màu đỏ tươi.

- Máu thật sao? – Cô uôm người về phía trước và chỉ cách bệ đá vài phân.

- Máu thật, không lẽ...? – Giọng cô òa lên đầy sợ hãi.

- Đứng lùi ra. – Kì Phương chộp lấy vai cô ghìm lại, tưởng chừng như nếu nắm hụt, cô nàng sẽ đổ nhào lên bệ thờ.

- Máu? ba tôi bị làm sao rồi... ba ơi, ba ở đâu? – Cô òa lên.

Kì Phương biết không sớm thì muộn cô cũng thốt ra điều hãi hùng đó. Điều mà anh đã nghĩ tới nhưng không dám nói trước. Có một mạng sống tươi rói nào đó vừa được hiến dâng cho thần linh. Một bữa tiệc sặc mùi tà giáo ghê tởm nào đó vừa diễn ra ngay trước mắt và ngay trên chiếc mâm đá có tên yoni kia. Mùi tanh nồng đang xông tỏa ngập ngụa gan ruột làm cô chạy vội ra ngoài tránh nôn tháo ra một cách bất nhã không thể tha thứ chốn linh nghiêm. Lau miệng xong, cô lấm lét bước vào. Không xông xáo như lúc nãy, trông mặt cô tái mét và bơ phờ như vừa trút hết sinh lực ra khỏi cơ thể. Kì Phương biết mọi thứ vẫn chưa bắt đầu. Điều khủng khiếp nhất vẫn đang chờ cô phía trước.

Kì Phương tuy bình tĩnh hơn nhưng cũng không thể giấu sự nao núng. Anh không muốn tin đó là máu, nhưng mùi tanh, và màu đỏ tươi đã là câu trả lời. Vết máu trên các dụng cụ thờ cúng không phải là hiếm. Từ thời cổ đại, máu đã chảy thành suối trên các đài thờ Thần Mặt trời của người Maya, người Da đỏ và nhiều bộ tộc Châu phi gần đây vẫn còn giết gái trinh và trẻ em để lấy máu tưới lên các biểu tượng tôn giáo. Mà chẳng cần viện dẫn đâu xa, ngay trên thánh địa Mỹ Sơn này có nhiều tài liệu chép lại những nghi lễ hiến sinh cho thần Siva. Trên các bia kí có nói đến lễ hiến tế bằng máu ngựa trắng, dê trắng, trâu trắng bị cắt cổ để cúng thần trên các chùa tháp. Nay một người đàn ông da trắng có lẽ là một món tế không tồi. Trên nhiều tấm bia kí còn kể triều đình đã hiến đàn ông, đàn bà và cả tù binh và cho các vị thần. Kì Phương cố xua đuổi những ý nghĩ rợn người vừa ùa đến, và vẫn để trấn an Thi Nga là chính, anh nói:

- Chắc không phải máu, mà nếu máu thì chưa hẳn là máu người.

Kì Phương đứng lên và thấy nhột lạnh ngón chân, anh nhìn xuống mũi giày vải và nhận ra vài giọt máu rỉ từ phễu yoni đã thấm đẫm một vệt lớn. Rút bàn chân lại, máu đã đọng thành vũng dưới nền gạch cũ. Kì Phương thầm nghĩ, một người già yếu như Paul có sống nổi sau khi mất nhiều máu thế này không. Bỗng nhiên Thi Nga loạng choạng đổ sụp xuống trước bệ đá như thể đó chính là ba cô đang trong cơn hấp hối.

- Ba ơi!

Khoa học chưa thể chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, nhưng họ không thể phủ nhận có một sợi dây thông tin sinh học kì diệu giữa con người cùng huyết thống. Kì Phương loay hoay cố gắng tìm mọi cách để Thi Nga không suy sụp lúc này nhưng vô ích. Anh dìu cô ra ngoài rồi nói.

- Cô đừng hoảng, chưa có cơ sở nào chỉ ra ba cô đã chết đâu.

Kì Phương lại rút bút tích của Paul ra như một bảo bối, mặc dù anh biết nó đã hết thiêng.

- Chúng ta phải sang bên khu A, biết đâu ông đang ở bên đó thì sao? – Kì Phương không tin lắm điều mình vừa nói, vấn đề là anh muốn kéo Thi Nga ra khỏi đây và nuôi dưỡng thêm niềm hi vọng đang thoi thóp của cô. Sự gợi mở làm cô gái kịp trấn tĩnh giây lát, niềm lạc quan như được đánh thức. Cô giằng lấy đèn pin trong tay Kì Phương và gạt nước mắt.

- Cha tôi bỏ khách sạn rất đột ngột, nhất định ông không thể một mình đến đây.

- Cứ bình tĩnh! Mọi việc sẽ tốt đẹp thôi.

Kì Phương không nghĩ là cô ta đã thay đổi suy nghĩ nhanh như vậy. Trong vài giây từ chỗ tin cha mình đã chết bỗng quay ngoắt tin cha cô đang sống. Bây giờ anh mới nhận ra niềm tin tích cực có sức mạnh như thế nào. Kì Phương thở phào vì đã thắp lên chút niềm tin nhỏ nhoi trong cô tuy anh biết rằng nó có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Kì Phương biết đang có nguy hiểm rình rập họ nhưng anh không muốn chạy khỏi sự thật là một ai đó có thể đang hấp hối đang cần cứu quanh đây. Anh chỉ tay về phía bên kia con suối nói:

- Chạy nhanh xem.

Lần này không để anh dẫn lối, cô băng qua cây cầu nhỏ bắc qua con suối đang chảy ào ào. Mặt đất trơn và đôi giày cao gót đã buộc cô đôi ba lần phải vồ ếch. Qua suối có một ngã ba nhỏ trên triền dốc, cô dừng lại chờ anh. Kì Phương nói:

- Bây giờ chia ra để tìm cho nhanh, cô đi về bên phải bên có khu F đang bảo tồn. - Anh quay đầu chỉ ngược lại. - Còn tôi sẽ chạy sang nhóm A xem sao. Cô dám đi một mình không?

- Tôi dám!

Kì Phương đi được chục mét thì thấy sờ sợ bèn đứng lại nghe ngóng. Phía trước mặt anh lồ lộ dưới ánh trăng những hố đào và những đống gạch đá lởm chởm mà các chuyên gia Ý vừa quy tập chiều nay. Mặc dầu tối trời nhưng do quen thuộc địa hình nên anh đã chạy một quãng khá xa. Đất dưới bàn chân trơn nhẫy như được dội mỡ. Kì Phương chỉ kịp kêu “ ối’’ lên một tiếng rồi té nhào xuống một hố sâu. Chưa kịp định thần thì anh đã sởn gai ốc khi sờ trúng một dị vật cộm lên dưới mặt. Anh trương mắt ra nhìn. Dưới ánh trăng yếu ớt chiếu qua vòm lá, anh nhận ra dưới mặt mình là tột đỉnh của một bi kịch. Điều kiêng kị nhất cuối cùng vẫn đến. Khuôn mặt trắng bệch của Paul lộ ra dưới lớp đất tươi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 5

Trên quốc lộ 1A, chiếc Audi A6 màu đen lao với tốc độ chóng mặt tiến vào thành phố Đà Nẵng từ cửa ngõ phía nam. Trời đã mờ sáng nhưng các con phố và giao lộ hầu như vắng ngắt trong ánh đèn đường vàng vọt. Đến một ngã ba, chiếc xe rẽ vào phố Lê Đại Hành rồi lại tăng tốc nhằm hướng sân bay. Trên hàng ghế sau có hai người đàn ông, một to cao, một gầy nhỏ. Mặc dầu không nói gì suốt quãng đường dài nhưng có vẻ họ khá lưu luyến trước khi chia tay. Ngồi cạnh nhau, người thấp bé chốc chốc ngước lên nhìn trộm người kia đang ngả mình lim dim trên nệm ghế.

Dung mạo người to cao mới trông đã biết ngay là ngoại quốc: lông lá, mùi hăng, mũi cao, mắt sâu, nước da đen sạm chắc bền như được xông khói từ suốt mấy kiếp trước. Chỉ vài phút nữa là tiễn khách, không để không khí tẻ nhạt kéo dài mãi, người thấp bé với tư cách là chủ nhà bèn lên tiếng trước.

- Tôi hỏi khí không phải, ông anh là người... Ấn Độ?

Người to cao cựa mình cười mỉm, mắt phóng về phía trước rồi đáp lại bằng một thứ tiếng Việt lơ lớ.

- Ông nói chỉ đúng một nửa.

- Sao cơ? - Người nhỏ bé giương to mắt. - Đúng là đúng mà sai là sai chứ?

- Xác mọc đất Miên, hồn ngự Mêru (Ngọn núi thiêng trong truyền thuyết của đạo Bàlamon ở Ấn Độ)... Anh ta đáp.

Người thấp bé vẫn láng máng cho đến khi nhìn thấy hình ảnh Siva bằng kim cương lủng lẳng trên sợi dây chuyền trước ngực. Người Miên theo theo đạo Bàlamôn. Thú vị với phát hiện của mình, người nhỏ thó càng tò mò. Mới chỉ vài phút quen nhau nhưng đã để cho anh ta không ít ấn tượng về thanh niên ngoại quốc này. Người to cao vẫn nhìn phía trước, chỉ có đôi tròng mắt như hai hòn bi đang động đậy. Ánh đèn pha của những ô tô ngược chiều phả những luồng sáng thoắt đỏ thoắt vàng trên nước da đen cháy tựa như thân xác y được đúc tạc bằng đồng thau vậy.

- Tiếng Việt của anh không tồi, chắc anh thường sang Việt Nam làm ăn?

- Tôi vẫn thường đón bình minh trên các resort bãi biển Sơn Trà, tiếc rằng lần này về cứ như chạy trốn.

- Vâng... - Người thấp bé cúi xuống tỏ chút ngượng ngập. – Chúng ta đều thừa lệnh Cả sư thôi mà.

Nghe đến “ Cả sư’’ người to cao ngoái lại nhìn chiếc vali đang an toàn trong cốp sắt mới an tâm quay lên nhưng không giấu nổi nét căng thẳng bất chợt. Xe lao nhanh hơn. Anh ta ngước cặp mắt đầy chất latin đượm buồn ngoái ra ngoài cửa sổ nhìn xa xa về phía đằng đông đầy vẻ tiếc nuối. Thấy vẻ mặt đầy tâm trạng của một kẻ sắp rời xa chốn mình yêu thích, người nhỏ bé chẳng nỡ gây xáo trộn khoảng khắc yên lặng ngắn ngủi này của y. Hai người im lặng cho đến khi chiếc Audi dừng hẳn. Người nhỏ bé xuống chạy vòng ra sau mở cốp xách vali cho y vào sâu trong sảnh đón rồi chủ động đưa tay ra bắt.

- Chúc đạo sĩ thượng lộ bình an!

Gã to cao suýt bật cười khi lần đầu tiên có người gọi mình là “ đạo sĩ’’. Thấy người bỏ bé lưỡng cưỡng chưa muốn dứt ra, y hỏi.

- Hình như ông có điều gì muốn dạy tôi?

- Ấy, không dám... tôi thấy đạo sĩ có nét gì đó hơi... quen quen, có phải tên ngài là... Shi...

- Xuỵt! - Người cao lớn trỏ vội ngón tay lên môi. - Thốt tên người khác nơi công cộng là không nên.

Y lần tay sau quần móc một tấm card rồi đưa cho người nhỏ bé. Người này đón lấy đọc ngấu nghiến, một thoáng sau ngửng lên vẻ mặt muôn phần kinh ngạc. Vua đồ cổ. Lúc này anh ta mới nhận ra trước mặt là một con người mà không phải ai cũng có cơ may được gặp một lần trong đời. Thảo nào từ đầu đã toát lên vẻ uy nghiêm khó gần, một chút lịch lãm và thừa ngạo mạn. Miệng lưỡi người nhỏ bé vốn đã sống sượng nay lại càng xơ cứng không thốt nên lời. Người to cao vỗ nhẹ vai anh ta.

- Nếu có cơ hội, đừng ngại gọi cho tôi. Nhiều người đã đổi đời sau khi họ gọi cú đầu tiên cho tôi đấy!

Người nhỏ thó xúc động đến nỗi mặt co lại, từng nhúm da bên khóe mắt giật lên từng hồi. Với công việc và chức năng của mình, anh ta hiểu từ “ cơ hội’’ ở đây là gì. Đó là đồ cổ.

- Đứng lâu nơi công cộng cũng không tốt đâu. Tạm biệt! - Người cao lớn vỗ vai cho anh ta tỉnh lại rồi ném một nụ cười bí hiểm trước khi bỏ đi.

Luôn luôn “ gieo hạt’’ là phương châm làm việc của y. Một thói quen tốt và rất đơn giản, với xấp card dày cộp đầy hai túi sau chiếc quần bò Levi’s, y không ngừng gieo xuống các mảnh đất tiềm năng. Với con mắt nhà nghề, y biết đâu là những đối tượng cần thiết lập quan hệ, đâu là đối tượng không nên la cà. Không hề vung vãi danh hão như một số doanh nhân học đòi, những tấm danh thiếp của y luôn đặt đúng nơi đúng chỗ. Đó là những nhà khảo cổ có tâm địa, những tên bảo vệ bảo tàng tham lam, và tất nhiên không thể thiếu những tên trộm đồ cổ người bản địa- kẻ mà hắn cho rằng sẽ mang niềm vui bất ngờ nhất.

Trong quá khứ đã có không ít những nhà sư biến chất trước khi từ giã cõi tu hành đã không quên ẵm về cho y bức tượng Phật vô giá. Bây giờ điểm lại, tài sản nhiều trăm triệu đô la của y đang ngày một phình to mà một phần không nhỏ đã đến từ những tấm card nhỏ xíu đó. Thật khó tin.

Sân bay quốc tế hiện đại này đã mở chuyến bay thẳng Đà Nẵng – Pnompenh càng làm cho “ con đường đồ cổ’’ của y ngày một hanh thông nhưng hôm nay còn sớm nên chỉ lác đác vài người. Bước về phía quầy check in, y cúi gầm mặt nhìn những áng đèn phản chiếu rực rỡ trước mỗi bước chân.

Mọi giấy tờ được y chuẩn bị kĩ lưỡng đã lọt qua khe thủ tục sân bay suôn sẻ như bao phi vụ trước đây. Ngồi khép lặng một góc trong phòng chờ, y mở lại chiếc vali ngó vào lần nữa. Một nỗi nghi hoặc bắt đầu nảy sinh từ khi y nhìn thấy báu vật thiêng này, nhưng giờ đây nó dâng cao và đẩy y đến suy nghĩ phải hành động gì đó ngay lập tức.

Chiếc Boing737 cất cánh khỏi đường băng rồi vếch chiếc đầu da cam như một mãnh thú hướng về phía tây nam. Trót lọt. Y ngả người trên hàng ghế VIP tận hưởng cảm giác khó tả đang dâng trào. Nhưng một sự thật phũ phàng mà y không thể ngờ tới đó là: cổ vật trong chiếc vali này là một trái bom nổ chậm sắp giáng xuống dấu chấm hết cuộc đời đầy dông bão của một vua đồ cổ tầm cỡ thế giới.

Mặc dù Kì Phương đã lường trước một kết cục tồi tệ từ khi nhìn thấy máu, nhưng anh không ngờ cái chết của Paul lại thê thảm đến như vậy. Anh vội vã lay gọi rồi ghé nghe nhịp tim. Thấy ông ta đã chết anh bèn lấy máy gọi ngay cho giáo sư Huỳnh Lẫm. Phía đằng xa, Thi Nga có anh bên cạnh, sự can đảm của cô đã rơi mất nửa. Sự sợ hãi bất giác lan tỏa trên những bước chân run rẩy của cô. Ánh đèn trong tay cô chiếu loang loáng tứ phía và tim cô giật thót mỗi khi thấy những pho tượng không đầu của thần Siva và những đứa con mình người đầu voi của Ngài ẩn hiện trong bóng tối.

- Kì Phương, anh ở đâu? - Cô khẽ gọi.

Phủi mặt mũi rồi ngồi dậy, Kì Phương định leo lên miệng hố thì bỗng nghe thấy tiếng cô văng vẳng phía xa. Anh hét với lên.

- Cẩn thận kẻo ngã đấy.

Nhận ra giọng anh, cô gào to.

- Đừng đùa tôi nữa, anh trốn ở đâu?

- Đừng chạy, đứng tại chỗ, tôi sẽ đến.

- Anh làm sao thế? - Nhận ra âm thanh khản đặc của anh thoát lên từ lòng đất, cô ta cuống cuồng chạy về phía anh.

Trong lòng hố sâu, Kì Phương nghe rõ tiếng bước chân rung chuyển mặt đất. Ánh đèn loang loáng ngày một sáng hơn. Cô ta sẽ nhìn thấy tất cả. Kì Phương bỗng dưng thấy hoang mang như chính mình vừa gây một tội ác ghê gớm, và không hiểu sao anh thấy sợ hãi, không phải sợ xác chết sau lưng mà sợ con người sống trước mặt. Anh ước cô ta biến mất khỏi đây. Cô ấy không đủ can đảm để nhìn cha mình lúc này. Kì Phương sợ sẽ phải chứng kiến trái tim non nớt kia tan nát. Cô đang chạy thình thịch trước khi quỵ ngã. Mỗi bước chân cô là một nắm đấm dội thẳng vào lồng ngực anh. Rồi bằng một động tác bản năng, anh ngã ngửa như một khúc cây bị đốn.

- Dừng lại ngay! – Kì Phương hét lên khi nhìn thấy một mũi giày thòi trên mép hố, một tràng đất đá dội xuống mù mịt kèm một chùm sáng chiếu vào mắt.

- Trời ơi! – Cô thét lên. - Anh có làm sao không?

Rõ ràng là cô chưa thấy cái mà anh đang cố che lấp. Vừa nói, cô vừa khom người túm chặt lấy miệng váy rồi duỗi chân nằm dọc theo mép hố. Bàn tay còn lại thõng sâu xuống nhưng vẫn thiếu vài tấc nữa để chạm vào điểm cao nhất của người anh. Kì Phương co rúm người lại một cách vụng về vô tình để cái xác to tướng dưới vai anh lộ ra.

- Đưa tay đây tôi kéo lên!

- Tôi bị chuột rút rồi. - Kì Phương luống cuống chỉnh lại thế nằm. - Hãy để tôi nằm đây chốc lát.

Thấy anh lúng ta lúng túng và có ý không muốn lên, cô giục.

- Nào, đưa tay đây tôi kéo lên!

- Không! Cô ra khỏi đây ngay đi.

Kì Phương cự nự như một đứa trẻ ăn vạ làm cô nổi cáu. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, cô kiểm tra lại tư thế của mình rồi ngượng ngịu thu hai vế đùi lên trước khi chuyển sang thế khác mà cô cho là kín đáo hơn. Đặt chiếc đèn bên mép hố, cô nằm sấp trên mặt đất rồi thõng toàn bộ thân trên xuống hố nhưng càng không ổn. Với chiếc áo cổ rộng trễ xuống này, Kì Phương chỉ còn nước nhắp tịt mắt. Đôi bàn tay cô vớt liên hồi trong không khí và cô suýt nữa tóm trúng cái thắt lưng đang phập phồng của anh.

- Đồ hâm, chìa cái tay ra đây!

Bất chấp vòng tay nhiệt huyết đang dang ra, Kì Phương vẫn cự tuyệt. Anh biết rằng chỉ cần cựa quậy, cái vật dưới lưng sẽ làm cô ta ngã lộn cổ xuống đây. Anh không thể tàn nhẫn như vậy được. Cách hành xử kì quặc của Kì Phương lại càng làm cô ta sinh nghi. Cô không vồ vập như trước mà tập trung soi đèn từ mặt đến bàn chân anh hòng tìm ra lí do. Thấy tình hình đã đến lúc nguy ngập, Kì Phương buộc phải tìm cách tống cổ cô ta.

- Tắt đèn đi. – Anh quát.

Ánh đèn vụt tắt nhưng khối thịt vẫn y nguyên và có thể đổ úp lên người anh bất cứ lúc nào.

- Để tôi nằm một lát. - Anh dằn từng chữ. - Cô hãy ra khỏi đây ngay.

- Không được, đưa tay đây! – Cô ta bất thần phóng tay xuống cố vồ một cú quyết định để kết thúc cái trò đùa quái gở này. Đất đá được dịp tuôn xuống lấp đầy mặt nhưng anh vẫn lấy làm mừng vì nó lấp luôn cái xác dưới lưng.

- Cô hãy quay lại khách sạn đi. - Anh gào lên. - Biết đâu ba cô đã quay lại tìm cô.

Kì Phương không hiểu sao lại vuột một câu như vậy, nhưng câu này liền tỏ ra hiệu quả tức thì. Thi Nga thu bàn tay chưng hửng trở về rồi ngồi thượt trên mép hố, nhưng vẫn bướng bỉnh không chịu bỏ đi.

- Cô lái được xe chứ?

- Để làm gì?

- Cô hãy nhanh nhanh quay lại khách sạn ngay, nếu không tìm thấy cô, ba cô sẽ lên sân bay tìm cô đấy.

- Nếu ông ấy đã rời khỏi đây, tôi nghĩ sẽ phải sang Camboge tìm ba tôi mất? Anh đi với tôi chứ?

- Campuchia à? – Kì Phương tưởng cô nói nhầm. - Cô nói nghiêm túc đấy chứ?

- Tôi không đùa vào lúc này!

Kì Phương cho rằng cô nàng láu lỉnh đang bịa chuyện để dụ anh đứng lên nhưng anh không dễ dãi mắc mưu đến vậy.

- Vậy ông hẹn cô sang Campuchia để làm gì nào?

- Thám hiểm một di tích gì đó chưa ai biết tới. Anh chưa nghe ba tôi nói về một thánh địa hay kho báu Naga nào đó sao?

Nghe đến đây Kì Phương chỉ muốn ngồi bật dậy để hỏi cho ra nhẽ, nhưng vừa dựng gáy lên anh đã phải giả vờ mệt mỏi hạ xuống. Không biết từ phía sau Paul có xác nhận điều con mình vừa nói hay không nhưng quả thật mấy hôm nay anh đã nghe phong phanh về chuyện đó. Kì Phương đã định hỏi trực tiếp Paul nhưng ông vẫn chưa dành cho anh một chút thời gian nhưng dù bất luận đúng hay sai thì đây là cơ hội để đẩy cô ra khỏi đây.

- Vậy cô nên nhanh nhanh quay về Rex đi, nếu không ba cô sẽ đi thánh địa Naga mất.

- Nhưng anh đang nằm đây thì tôi không nỡ bỏ đi được.

- Khổ quá, đừng lo. Tôi chỉ bị chuột rút thôi mà, vả lại đồng nghiệp tôi và cảnh sát cũng sẽ có mặt ở đây ngay bây giờ.

Kì Phương rút chùm chìa khóa rồi ném lên miệng hố. Thi Nga đang tần ngần thì có tiếng ô tô vang lên từ xa.

- Họ đến rồi đấy. Cô đi ngay đi!

Chỉ trong vài giây, tiếng sột soạt của đôi giày 9 li đã mất hút. Áp lực tưởng như đã vơi đi nhưng một nỗi ân hận lập tức ập đến giày xéo lấy anh. Mình quá ác với cô ta. Nhưng để cô chứng kiến cảnh này còn tàn nhẫn hơn nhiều. Anh thầm nghĩ sẽ gặp lại cô tại Rex rồi nói hết sự thật này, lúc đó dù có ngất xỉu cũng đã có giường ấm nệm êm. Anh cũng có thể ở đó an ủi vỗ về hàng giờ dù sao cũng dễ chịu hơn là để cô chuầy chòa nơi bùn lầy nhớp nhúa này. Kì Phương nặng nề ngồi dậy dũ bớt bùn đất rồi tìm cách leo lên miệng hố. Xung quanh chìm đắm vào bóng đêm mịt mùng.

Anh nhận ra các kí hiệu mà Paul để lại chẳng liên quan gì đến cái hố mới đào này cả. Còn chỗ tháp có yoni đầy máu cũng chẳng có trong bảng kí hiệu. Paul có một ý nguyện duy nhất là khi chết, tro cốt của mình được rắc xuống Mỹ Sơn. Kì Phương trộm nghĩ hay tờ giấy này là di chúc yêu cầu vị trí rắc tro sau khi chết? Tuy nhiên nhận định của anh có thể làm linh hồn ông nổi giận. Có nhiều học giả nói các đền tháp là nơi mai táng của vua chúa và các tu sĩ nhưng đến nay chưa có bằng chứng khoa học nào khẳng định điều đó. Paul là người phản bác giả thiết này nên càng không thể có ý nghĩ mạo phạm như vậy. Vậy thì bảng kí hiệu kia nói gì? Anh nhìn lại và tiếp tục vắt óc suy nghĩ.

1.jpg


Bây giờ anh mới nhìn kĩ và phát hiện sự hời hợt của mình. Trong danh mục của H. Parmentier không hề có kí hiệu C8. Chỉ có từ C1 đến C7 mà thôi. Nếu C8 không phải là tháp thì là cái gì? Mà ngẫm lại, cả ba ngôi tháp còn lại đều thành phế tích, thậm chí tháp A5 hay D6 đã bị xóa sổ gần như hoàn toàn. Kì Phương băn khăn không biết Paul muốn gửi gắm điều gì trong tờ giấy kia. Việc của ông ta là khai quật báu vật như đã hứa. Nếu biết không sống nổi thì lẽ ra ông ta phải chỉ ra vị trí cho người khác đào. Nhưng thay vì ghi rõ địa điểm thì ông ta lại chơi một mớ chữ hỗn độn thế kia. Hay là ông ta sợ kẻ xấu đọc được nên viết theo dạng mật thư?

Kì Phương nhìn lại mẩu giấy và anh nhận ra rằng đây có dáng dấp của một mật mã cổ điển. Thế nhưng mật mã thế này thì quá ư đơn giản. Cách mã hóa này có từ thời La Mã cổ đại và được sử dụng trong nhiều thế kỉ, nay đã lạc hậu và có thể bị hóa giải bởi bất cứ ai trong vòng vài phút.

Kì Phương không biết Paul đã bí mật trao mã khóa cho ai chưa nhưng anh tin loại mật mã “ vỡ lòng’’ này anh chỉ bẻ gọn mà không cần đến mã khóa. Thực ra bản khóa loại này cũng quanh đi quẩn lại mấy phương pháp cũ mèm như “ thay thế’’, “ đọc ngược’’, “ mưa rơi’’ hay “ chuồng bò’’ gì gì đó... Nghĩa là, khi không có mã khóa thì bất cứ ai bắt gặp mật thư này cũng sẽ thử mò mấy phương pháp kia và rồi cũng ra cả. Rất may là chỉ có 8 kí tự. Bản mã vừa có chữ cái La tinh vừa có chữ số nên ý nghĩ đầu tiên của anh là “ thay thế’’.

1.jpg


Thay các số thứ tự 1, 2, 3... tương ứng với bảng chữ cái A, B, C, đoạn kí tự trở thành: AEDF

ECCH
Nhìn mãi Kì Phương vẫn không thấy có nghĩa gì cả. Nếu đảo lộn bốn chữ AEDF rồi sắp xếp lại theo một trật tự khác thì tạo ra một từ đáng chú ý là “ DEAF “ Từ này trong tiếng Anh có nghĩa là “ điếc’’.

Phương pháp này trong thuật mật mã gọi là “ phép thế Caesar’’ do vị Hoàng đế Lã Mã Julius Caesar sử dụng khi gửi các bức thư mật ra chiến trường bằng cách thay các chữ cái trong thư bằng các chữ khác cách đó 3 chữ trong bảng chữ cái. Trong trường hợp này, Kì Phương biết có thể phải tịnh tiến thêm hai hoặc vài chữ cái nữa nhưng phương pháp thủ công này sẽ ngốn nhiều thời gian và tạo ra vô số nghiệm. Anh tạm gác cách này để chuyển sang cách ngược lại. Đó là biến chữ thành số. Thử thay A, B, C thành 1, 2, 3. Dòng kí tự “ A5D6’’ lập tức trở thành: “ 1546’’ Chữ số này trùng với vĩ độ đi qua di tích Mỹ Sơn. Kì Phương nhanh chóng giải dòng tiếp theo trong tâm trạng hồi hộp nhưng số kinh độ đầu tiên đã làm anh thất vọng. E3C8 chuyển thành “ 5338’’ trong khi kinh độ của Mỹ Sơn du di quanh số 108’50’’. Vậy đây không thể là tọa độ chôn báu vât rồi.

Kì Phương dừng tay nhìn lại tổng thể mật thư lần nữa và anh càng chú ý đến cái dấu móc úp trên đầu. Lúc đầu anh cứ tưởng đó là biểu tượng cho cái tháp nhọn, nhưng bản thân các chữ cái kia đã chỉ đích danh tháp rồi thì cần quái gì thêm chóp nữa. Hay nó là cái gì khác đây? Anh chưa biết làm gì tiếp theo thì nghe thấy tiếng động cơ gầm rú, tiếng còi rít kèm ánh đèn sáng chói xé tan cánh rừng. Kì Phương đút tờ giấy vào túi, xốc lại quần áo và phủi qua đầu tóc trước khi nhìn thấy một tốp cảnh sát xuất hiện.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 6

Không hiểu vô tình hay hữu ý mà cổ nhân Champa một thời đã đặt ba trung tâm Tôn giáo - Chính trị - Kinh tế của mình nằm trên một đường kẻ thẳng tắp có tâm điểm là kinh đô Sư Tử (Simhapura). Hơn một thiên niên kỉ trải qua bao biến động phải di dời kinh đô và thánh địa, ngoại trừ biểu tượng chính trị đã lụi tàn nhưng trái tim Tôn giáo Mỹ Sơn và trung tâm kinh tế Hội An vẫn trường tồn đầy sức sống mãnh liệt như thủa xưa.

Lúc này, đón những tia nắng đầu tiên là một nhóm người trong căn nhà cổ kính ven sông Thu Bồn. Đó là ba người đàn ông lớn tuổi và một nữ phóng viên trẻ Mộc Trân. Trước mặt cô là chiếc máy ghi âm đang ở chế độ tắt, một cây viết và một quyển sổ đang mở rộng chưa có dòng chữ nào. Nét mặt của họ đăm chiêu ngó ra mặt sông phẳng phiu như lụa trải ngoài khung cửa.

Người lớn tuổi nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm - một nhà khảo cổ và nghiên cứu văn hóa Chăm có tên tuổi nhất nước hiện nay. Ông bấm máy di động rồi áp lên tai lần này là lần thứ năm. Rồi cũng như mấy lần trước, ông thả xuống bàn với cái lắc đầu nặng trĩu:

- Đến giờ này vẫn chưa liên lạc được, tôi e rằng lão đã xảy ra trục trặc gì đó.

- Xin thầy đừng sốt ruột ạ. - Một người tóc xoăn lên tiếng. - Người Pháp có thói quen dậy muộn, ta đợi lát nữa xem.

Người đàn ông khác đeo cravat đỏ có phần sốt sắng hơn:

- Có lẽ chúng ta nên bắt taxi lên khách sạn xem sao, ông ta phải biết rằng khán giả cả nước và nhất là người Chăm trên toàn thế giới đang nằm phục bên tivi từ đêm qua.

Mộc Trân với đôi mắt thâm quầng do mất ngủ bỗng ánh lên, cô đặt li cà phê xuống bàn rồi phụ họa theo:

- Cánh phóng viên chúng em có người cả tuần nay ăn chực nằm chờ ở Mỹ Sơn, lề mề nhất như em thì tối qua cũng đã hạ trại rồi.

Người đeo cravat đỏ lộ dần là một quan chức nặng kí, ông vung tay:

- Không gì tệ bằng để mất lòng tin trong nhân dân, ông ta mà bỏ trốn như hồi trước, tôi sẽ lôi cổ ông ta ra tòa.

Nghe đến từ “ bỏ trốn’’, người tóc xoăn không thể không xen vào:

- Anh Trọng cứ bình tĩnh, dù bê tha đến mấy thì người Pháp cũng không thất hứa đâu.

Giáo sư Huỳnh lẫm không hé môi, ông đưa cặp mắt sâu hoắm nhìn ra mặt sông như tìm kiếm một câu trả lời về buổi lỡ hẹn không đáng có này. Tuy không bổ nhát cuốc lịch sử xuống Mỹ Sơn sáng nay, nhưng ông vẫn là thành viên cốt cán của đoàn khảo cổ. Ông tin tưởng vào vị đồng nghiệp đến từ EFEO như tin chính bản thân mình, nhưng để xảy ra sự cố ngay từ phút đầu trong sự kiện trọng đại này lại là một điềm không lành. Dù gì đi chăng nữa, Paul vẫn được nhìn nhận như một người đầu tiên hồi sinh cho Mỹ Sơn sau hai cuộc chiến tranh tàn phá.

Hơn một thế kỉ nay các nhà khảo cổ Pháp luôn phô cái bóng to kềnh của họ che lấp những nhà khoa học da vàng mũi tẹt như ông. Từ khi nhà thám hiểm Camille Paris tìm ra Mỹ Sơn đến nay đã có không ít nhà khoa học Tây phương để lại dấu ấn trong lịch sử hàn lâm khoa học Việt Nam hiện đại. Và ngày mai, lại một người Pháp nữa. Cô phóng viên ngước nhìn lần lượt ba tinh hoa nước nhà như như thể đang khiêu khích.

- Không biết linh vật Champa là thứ gì mà ông Paul kín như bưng vậy, chẳng lẽ các bác không ai biết gì hay sao?

Người tóc xoăn lập tức quay sang trừng mắt nhìn cô ta qua cặp kính dày cộp, giọng đục ngầu.

- Cô muốn chúng tôi ngồi tù chắc? Đã nói là bí mật quốc gia, cô nên tìm Paul mà hỏi.

Giáo sư Huỳnh lẫm nhấp một li cà phê cố che một cái nhếch mép. Bởi, ông biết rằng sau cái cặp kính trí thức kia cũng chả biết gì. Ngay cả ông đây, từng là viện trưởng Viện khảo cổ, nhà nghiên cứu Chămpa có số có hạng mà cũng chẳng rõ Paul sẽ diễn trò gì trên khoảnh đất đã nén chặt dấu chân ông. Nhìn những khuôn mặt khó đăm đăm, cô phóng viên biết mình đã hỏi không đúng lúc, không đúng người và không đúng chỗ. Gấp cuốn sổ trống trơn trên bàn, cô đưa ánh đầy cam chịu nhìn chan chứa ra mặt sông lờ đờ. Ngay lúc đó, chất giọng trầm trầm u ất hơn lên tiếng.

- Chị Mộc Trân cứ bình tĩnh. - Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. - Cô mới đợi có một đêm, còn tôi, nói cô đừng cười, tôi đợi ngót một đời người rồi.

Người đeo kính cười khổ rồi phụ hoa theo.

- Cô Trân chắc không lạ gì với thầy Lẫm đây, nếu nói về thâm niên nghề nghiệp còn hơn cả tuổi đời của tôi, vậy mà tôi năm nay đã ngót năm mươi. Cái tuổi sắp đuổi gà nhưng nhìn lại mình vẫn chưa làm nên trò trống gì so với ông Paul. Thực lòng mà nói, chúng tôi rất ghen tị với ông ta - Người đeo kính lén nhìn thầy của mình rồi lại tiếp. – Nhưng nghĩ đi thì phải nghĩ lại, ở cái xứ này có ai dám xả thân bầu bạn với rắn rết trong rừng hoang để làm khoa học như ông ta đâu.

Giáo sư Huỳnh Lẫm đồng tình, ông nói thêm.

- Đợt này ông ta thề sẽ mang cho chúng ta một báu vật quý báu hơn tất cả các báu vật trong viện bảo tàng Chăm cộng lại.

- Ông ta điên chắc! - Người thắt cravat vốn kiệm lời nhất, nhưng lần này ông cũng không kìm nổi. - Có cái gì đó rất kì quặc, tôi cảm thấy chúng ta hình như đang bị lừa.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vung tay như chặn chiếc lưỡi quá khích đang nhằm vào người bạn của mình.

- Nói bậy, anh suy xét cho thật kĩ, trước khi sang đây ông ta lập hồ sơ chứng cứ rất cặn kẽ cho cơ quan chủ thể của mình. Với uy tín của cá nhân và cả EFEO, mọi khâu thủ tục đã khơi thông với tốc độ ngoài mong đợi. Đây là sự kiện lớn do một nhân vật uy tín khởi xướng.

Cả nhóm không nói thêm, lúc đó chiếc di động lại reo vang. Không phải là Paul gọi đến xin lỗi như ông tưởng, đó là một học trò của ông.

- Ai đấy?... Paul bị giết sao?... Nói to lên... Trời, không thể!

Chiếc điện thoại nhỏ bé ruốt cuộc đã đánh khụy vị giáo sư. Sau tiếng gào khô khốc, ông lẩy bẩy ôm lấy đầu. Mộc Trân nhổm người dậy, mắt dáo lên hỏi dồn:

- Có giết người hả bác, ở đâu?

Sau cơn choáng nhẹ, vị giáo sư thở sâu rồi ngả lên thành nghế, mắt mở to lơ lác nhìn lên trần nhà.

- Thầy! thầy có làm sao không thầy? - Ba người đồng thanh hỏi.

- Paul... đã bị giết rồi! - Vị giáo sư già nói hắt ra đầy khó nhọc.

- Ở đâu bác? chúng ta sẽ đến đó ngay bây giờ. – Mộc Trân nhanh tay lùa mớ đồ nghề vào bao.

- Thánh địa Mỹ Sơn. Nhanh lên!

Một phút sau, chiếc xe con nhằm hướng tây lao đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 7

Người cảnh sát đi đầu vóc dáng đậm, đeo kính đen, đầu trần để lộ mái tóc hoa râm chải vội nhìn mặt Kì Phương hỏi:

- Anh là ai?

- Tôi tên Kì Phương, thi công tại đây, đêm qua...

Chưa nghe hết, ông ta đi tiếp đến miệng hố rồi rút cặp kính râm nhìn xuống. Hàng rào người mặc cảnh phục mau chóng vây quanh, vài tiếng xì xào vang lên. Sau đó có hai người tụt xuống hố với túi dụng cụ nghiệp vụ. Chừng dăm phút sau họ nhấc nạn nhân lên mặt đất. Qua kẽ hở của hàng người, Kì Phương liếc mắt tranh thủ nhìn ông lần nữa và anh sửng sốt khi nhìn thấy thân hình Paul trần trụi chỉ độc một mảnh quần lót trên người. Họ đặt ông lên một tấm dù màu đen tương phản với nước da trắng bệch nên thi thể trông càng thảm hại. Kì Phương định dấn lên một bước để xem cho rõ thì một bàn tay túm gáy anh lôi nhẹ ra. Một cặp kính đen áp vào mặt anh.

- Anh đã làm gì ở đây?

- Tôi đi tìm ông ta và thấy ông ta nằm dưới hố.

- Vậy anh đã thấy những gì?

- Tôi chỉ mới đến đây trước các ông vài chục phút thôi, khi đó ông ta đã tắt thở, xác bị vùi dưới hố như các anh đã thấy.

Viên cảnh sát bấm đèn pin rê từ đầu xuống chân anh như thể kiểm chứng lời khai vừa rồi có đáng tin hay không rồi đột nhiên ông ta dừng lại ở mũi giày.

- Tại sao lại có máu?

Kì Phương cảm thấy nhớp nháp toàn thân. Không riêng gì mũi giày mà trên người anh chỗ nào cũng lấm láp hệt vừa trải qua một cuộc ẩu đả.

- Tại sao lại có máu ở chân? - ông ta nhắc lại.

- Trước khi tôi ngã xuống đây, tôi đã lại gần yoni đằng kia, máu ở đó đã...

- Yoni? Yoni là cái quái gì? – ông ta ngắt lời, tai vênh lên.

Kì Phương thoáng ngạc nhiên, anh nhìn xuyên mặt kính đen nhưng không thể biết ông ta có đùa hay không. Qua chất giọng bắc bộ anh đoán viên cảnh sát này vừa chuyển công tác đến đây chưa lâu. Cũng không lấy gì làm lạ, hai phần ba du khách lần đầu đến đây đều có chung câu hỏi na ná như vậy.

Kì Phương cố nhìn kĩ hình thù như một con gấu lừng lững đang ngự trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài tấm biển hiệu ánh bạc “ Thiếu tá: Lê Đại Hắc’’ treo trước ngực. Tuy trời tối mịt nhưng ông ta vẫn đeo cặp kính râm che gần nửa khuôn mặt và đang chăm chú chờ câu trả lời.

- Yoni là vật thờ cúng mô phỏng cơ quan sinh dục nữ. - Kì Phương nói:- Theo quan niệm của Bàlamôn giáo, yoni là biểu tượng cho âm tính trong vũ trụ.

- Chẳng lẽ trong vũ trụ này chỉ mỗi âm tính? - Viên cảnh sát tỏ vẻ không hài lòng. - Dương tính ở đâu?

- À không, vũ trụ này được cấu thành bởi hai lực lượng âm và dương trái ngược nhau nhưng cân bằng và luôn song hành với nhau. Lúc nãy tôi nói chưa hết, bên trên mỗi yoni luôn có một linga. Nói đến đây chắc ông biết linga là gì rồi chứ.

Một sĩ quan bước tới làm ông ta phải miễn cưỡng quay sang.

- Gì thế?

- Báo cáo sếp! đã xác định được danh tính nạn nhân. Qua khám nghiệm sơ bộ thì ông ta chết khoảng 1 đến 3 giờ sáng bởi một vết thương trên cổ gây mất máu. Không thấy máu trên hiện trường vì vậy đây có thể là hiện trường giả. Ngoài ra có rất nhiều dấu chân cày nát xung quanh và dưới đáy hố.

Nghe đến từ “ cày nát’’ Kì Phương lại chột dạ. Anh định nói lên rằng có rất nhiều máu đã đổ phía ngoài kia nhưng đã thấy rất nhiều lính tráng đã vây quanh đó tự khi nào.

- Đưa nạn nhân về trung tâm pháp y tỉnh. – Ông ta xua tay như muốn đuổi đám cấp dưới cùng cái xác to kềnh thiếu thẩm mỹ ra khỏi mắt kính thời trang của mình. Xem ra phạm trù âm dương đối với ông ta thú vị hơn nhiều. Ông ta ẩy nhẹ cặp kính rồi nói tiếp:

- Yoni? tiếp đi!

- Vâng, bộ ngẫu tượng linga- yoni thể hiện một triết lí về vũ trụ và tâm linh. Nếu ông muốn tìm hiểu về nó tôi rất sẵn lòng.

- Được, ta ra ngoài kia!

Họ ra khỏi lùm cây, bầu trời màu xám tro le lói vài tia nắng nhạt xuyên qua đám mây mù. Những ngọn tháp Chàm nhấp nhô như đang vươn mình khỏi khóm cây để tận hưởng nguồn sinh khí ban mai tinh khiết nhất. Xa xa là dãy núi trùng điệp bao quanh như những bức tường thành thiên nhiên được thượng đế dựng lên hàng triệu năm trước để che chở cho thung lũng thiêng.

Không giống như các đền đài lăng tẩm nổi tiếng trên thế giới luôn ngự trị trên quảng trường rộng lớn hay sa mạc bao la để tăng tính uy nghi đầy chế áp thì tháp Chàm lại duyên dáng e ấp trong những đồi cây khóm lá. Nếu bức màn thiên nhiên xung quanh hạ xuống, tháp Chàm sẽ trở nên trần trụi và cô độc. Kazik - người kiến trúc sư tài ba nhiều năm gắn bó với Mỹ Sơn đã thốt lên rằng “người Chămpa cổ đã gửi tâm linh vào đất đá; và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ - thâm nghiêm - hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân loại mà sẽ còn lâu chúng ta mới hiểu hết”

Trong khi anh đang day dứt với vô vàn di tích và thiên nhiên ở đây đang bị tàn phá và dần bị mất thiêng thì đi trước anh là hiện thân của chủ nghĩa vô thần. Viên cảnh sát như một con bò mộng lùi lũi dẫm đạp lên những chùm hoa dại khoe sắc để tiến về nơi có máu đổ.

- Tu bổ mà sao không ủi sạch cỏ cây ở đây đi? - ông ta cất giọng ồm ồm.

Kì Phương không biết nói gì. Ông ta nói đúng một nửa. Tuy cây rừng là lớp áo choàng xinh xắn nhưng vẫn có nhiều loại cây luôn ăn bám như tầm gửi. Những chùm rễ Đa rừng vươn dài như những xúc tu bạch tuộc đang ngày đêm gặm nhấm, sờ soạng và rỉa rói vào từng thớ thịt khúc xương để hút cạn sinh lực của những thân hình già cỗi xiêu vẹo và đổ nát. Sự xấm lấn bền bỉ thầm lặng này đang từng ngày từng giờ xóa sổ những dấu tích ít ỏi cuối cùng của một nền văn minh tột bậc Đông nam Á một thời mà một người làm nghệ thuật như anh không khỏi xót xa.

- Thưa ông, lối này! – Kì Phương gọi như thét khi thấy viên cảnh sát đặt gầm dày lên lên một tấm bia để đi tắt. Quá muộn, trang sách bằng đá lật nghiêng rơi xuống vỡ làm đôi. Ông ta quay lại chép miệng vẻ tiếc nuối rồi lách qua khe cửa để vào ngôi tháp. Hai viên sĩ quan bên trong vội vã trồi trở ra nhường chỗ cho vị sếp to lớn của mình. Rất sợ đổ vỡ, Kì Phương nhoài người lao theo nhưng chiếc máy ủi kia đã bị chặn lại bởi chiếc bệ thờ. Ông ta khự lại chiếu đèn lên xem rồi chết lặng đi vài giây. Lùi lại một bước, ông đưa tay gẩy kính khỏi mắt rồi trân trân nhìn hiện vật trước mắt như nhìn một quái vật chưa thấy lần nào trong đời.

- Đây là... yoni?

- Vâng thưa ông, linh thực khí nữ. Trong thần thoại Balamon giáo, Yoni còn là hình tượng của nữ thần Uma. Còn linga là biểu tượng của thần Siva, chồng của Uma.

- Thế chồng cô ta đâu?

- Đền này không còn linga, nó đã mất.

- Mất từ bao giờ?

Kì Phương không biết ông ta đã nhìn thấy cái gì trên yoni hay chưa. Việc yoni mất một linga từ đời tám hoánh không đáng quan tâm bằng một yoni đầy máu. Tuy nhiên anh vẫn đáp cặn kẽ.

- Bộ linh vật đầu tiên của này được chế tác bằng đá quý từ thế kỉ thứ chín, cũng như vô vàn linga xưa kia luôn được làm bằng vàng, bạc, đá quý nên nó là mục tiêu của bọn trộm cướp mọi thời đại. Sau mỗi lần bị mất, triều đình Champa lại phục dựng cái mới nhưng không dám dùng vật liệu đắt tiền nữa. Cái yoni mà ông đang thấy đây là cái phục chế lần gần đây nhất thôi.

- Nghe nói trong các nghi lễ cúng tế ở đền tháp xưa kia, họ giết súc vật để tế thần đúng không?

Giờ thì Kì Phương dám chắc ông ta đã nhìn thấy máu. Anh đáp:

- Đúng, ngựa trắng, dê trắng hoặc là voi trắng là vật tế được ưa thích trong các nghi lễ. Tục lệ này có từ xa xưa nhưng bây giờ đã biến hóa nên không còn nữa.

- Vậy người trắng thì sao? Đã có bao giờ con người bị mang ra tế chưa?

Câu hỏi trực diện và bất ngờ đã làm Kì Phương lúng túng. Từ lúc thấy máu trên yoni đến nay, tuy đầu óc anh rối bời nhưng không sao át được ám ảnh về một nghi lễ mơ hồ cổ xưa. Anh đã tự đặt ra bao câu hỏi rồi lại để nó tuột đi không lời giải đáp. Không lan man, vẫn âm giọng thâm trầm, Lê Đại Hắc đi thẳng vấn đề.

- Balamon giáo có tục giết người tế lễ, đúng không?

Kì Phương biết trả lời có hoặc không mà không đi kèm một bài giảng đầy đủ sẽ làm ông ta hiểu sai về một tôn giáo lớn. Thực ra câu trả lời là “ có’’ nhưng luôn có điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt nhưng đây đâu phải lúc dông dài.

- Tôi cho rằng đây không phải là một lễ tế! – Kì Phương đáp. - Thứ nhất đây không có linga, trong Balamon giáo tượng thờ không đầy đủ âm dương thì không thể hành lễ. Thứ nữa như tôi đã nói, vật tế là những con vật có màu trắng biểu tượng cho sự tinh khôi trong sáng. Một số lễ tế ở các bộ tộc khác còn dâng hiến các thiếu nữ đồng trinh và nhất là trẻ em bởi người ta quan niệm đó mới là sự tinh khiết. Còn một ông lão già nua hai đời vợ như Paul tôi e rằng...

- Anh nói không đúng! – Ông ta cắt ngang. – Tôi được biết người Maya còn tế cả nô lệ, tù binh và thậm chí cả tù nhân nữa, họ đâu có tinh khiết?

Ái chà. Kì Phương phải thừa nhận ông ta biết nhiều hơn cái vỏ giả ngây khi hỏi về linh thực khí. Anh nói:

- Việc chọn vật tế thần tùy theo phong tục, nhu cầu tâm linh hay mục đích cụ thể nào đó, có khi người ta mang kẻ thù hay tử tội ra để tế thần nhưng ta lấy họ ra để so sánh với Paul thì khác gì đang xúc phạm ông ta. Dù sao đi chăng nữa, tục tế người từng bị lên án quyết liệt và đã lùi xa cùng với những thời kì đen tối của lịch sử. Thậm chí ngày nay, giết súc vật cúng tế cũng bị coi là dã man. Nghi thức này chỉ còn duy trì bằng cách thay thế máu bằng rượu hoặc sữa mà thôi.

- Thế bọn tà giáo hoặc cuồng tín thì sao?

- Giả thiết này thì được. – Kì Phương gật đầu. - Việc hắn chọn một bộ ngẫu tượng khuyết linga đã nói lên đây là kẻ đầu óc không bình thường.

Trong không gian tù túng, nguồn dưỡng khí ít ỏi dường như bị cả hai hút sạch. Mùi xú uế bốc lên làm Kì Phương chực lao ra ngoài.

- Khoan đã. – ông ta chỉ vào yoni hỏi. – Nếu không có linga mà lại tưới máu lên yoni, hay kẻ điên này định mô phỏng cái gì đó chắc?

Kì Phương biết ông ta còn lâu mới bỏ qua vụ máu me này, ông ta cho rằng lí giải được hành vi này sẽ làm rõ hơn động cơ của hung thủ. Viên thiếu vỗ trán ra vẻ suy nghĩ ghê lắm, ông đi quanh bệ thờ một vòng rồi đứng lại thì thào.

- Tại sao người ta lại dùng máu để hiến tế mà không phải là thân xác? Theo tôi đọc sách thì người Maya và Inca còn moi tim gan người để đặt lên đĩa rồi mới dâng lên thần Mặt Trời... Còn đây chỉ thấy máu là máu...

Kì Phương định mặc kệ ông ta lảm nhảm một mình nhưng nghĩ lại đây là cơ hội hiếm hoi để anh truyền bá một ít phong tục Chăm. Anh nói.

- Lễ cúng tế của người Chăm theo đạo Bàlamon chính là lễ tắm linga-yoni bằng một chất lỏng đặc biệt được gọi là nước thiêng. Nếu kẻ này coi nước và sữa không đủ lay động thần linh nên phải nhờ đến thứ cao cấp hơn, tột cùng thang nấc đó là máu. Mang máu hiến lễ thể hiện sự hi sinh và dâng hiến cao nhất.

Kì Phương vẫn thao thao bất tuyệt và chưa có ý dừng lại. Như một tu sĩ Balamon đã lâu chưa có thêm con chiên, anh hào hứng nói cho đến khi cánh tay bắp cày kia khoát xuống.

- Hôm nay là ngày đặc biệt phải không?

- Vâng, hôm nay là ngày… khai quật báu vật Chăm. – anh đáp.

- Ý tôi muốn hỏi về tâm linh cơ.

- Đây cũng là một ngày đặc biệt. - Anh chỉ lên mặt trăng đang nhạt bóng giữa nền trời xanh. – Ông nhìn thấy trăng tròn chưa? nó chỉ tròn nhất vào ngày rằm. Đây là một ngày đặc biệt trong chu kì của vũ trụ.

Lê Đại Hắc chỉ phắt lên bệ thờ.

- Vậy chẳng lẽ cái cối đá này hôm nay cũng đến... chu kì?

- …

Dường như biết mình lạc lời, ông lẩm bẩm:

- Yony là linh thực khí phụ nữ. - ông rụt tay rồi nhè răng ra vẻ kinh tởm. - Mà máu chảy ra từ linh thực khí phụ nữ là máu gì?

- Kinh nguyệt. – Kì Phương đáp.

Viên cảnh sát ngượng nghịu nhìn xuống góc tường. Nhìn thái độ đó anh suýt bật cười và nói.

- Ông không phải thẹn! Kinh nguyệt có trong truyền thuyết Balamon giáo đấy.

- Tầm bậy, tôi chỉ nghe nói nếu phụ nữ đang kì kinh nguyệt đụng vào người tu sĩ Balamon, ông ta lập tức tắm rửa và thay ngay quần áo.

- Đó là cách nói cường điệu thái quá. Những gì chảy ra từ biểu tượng linh thực khí đều được tôn sùng như một thứ nước thiêng. Trong truyền thuyết Balamon giáo, thần đầu voi Ganesa sinh ra từ kinh nguyệt của nữ thần đấy.

- Thật à?

- Truyền thuyết này nói rằng nữ thần Parvati, vợ bé của thần Siva đã đánh rơi một giọt kinh nguyệt xuống sông Hằng. Một con quỷ ăn phải và sinh ra một vị thần năm đầu voi. Sau khi bị chặt đi 4 đầu nó còn lại một đầu đó chính là thần Ganesa. Kì Phương chỉ tay bức tượng cụt đầu bên ngoài xót xa nói.

- Kia, còn mỗi cái đầu duy nhất cũng bị chặt rồi. Có gần một chục truyền thuyết nói về gốc gác của vị thần này nhưng truyền thuyết sinh ra từ kinh nguyệt đối với tôi là dễ nhớ nhất.

- Hàng vạn giọt máu đã chảy ra từ yoni. - Viên thiếu tá chỉ vũng máu phẫn nộ. - Không lẽ hắn đổi một mạng người để sinh ra hàng vạn vị thần sao?

- Một mạng đâu có nhiều. – Kì Phương đáp. - Ông biết thời trung cổ người Maya đã giết hàng chục ngàn nô lệ chỉ để hiến cho một vị thần đó sao?

Lê Đại Hắc lập tức chộp lấy.

- Đấy nhé! vậy là anh cũng gián tiếp công nhận đây là một nghi lễ. Liệu anh có cho đây là kẻ tâm thần khi hắn còn đủ tỉnh táo để chọn ngày chu kì của mặt trăng?

- Paul chọn đấy chứ? Chính ông ta tự vào đây.

Kì Phương vừa thốt ra đã biết mình bị hớ, Paul không điên rồ mà tự vào đây lúc đêm khuya. Rất có thể ông bị ai đó bắt cóc hoặc dụ dỗ nhưng một điều không thể chối cãi là chính Paul chọn ngày hôm nay để khai quật. Anh cũng chưa bao giờ đặt câu hỏi tại sao phải là ngày này. Trăng tròn. Rạng sáng. Nghĩ đến đây Kì Phương thoáng rùng mình bởi các trình tự y như có ai sắp đặt trước. Các lễ tế của người Chăm cổ thường được cử hành vào ngày trăng tròn lúc rạng sáng. Đó là giờ của thần linh, là khởi nguồn của sự sống. Một bài ca trong kinh Vệ Đà nói rằng hiến tế vào lúc giao thời giữa ngày và đêm giúp cho thời gian được diễn tiếp liên tục và bảo vệ sự trật tự của vũ trụ. Đã có dấu hiệu của một lễ tế. Kì Phương thầm nghĩ viên cảnh sát đã đúng.

Ngay lúc đó, một viên cảnh sát vội vã đi tới.

- Báo cáo sếp, có phát hiện mới.

- Gì thế?

Kì Phương hiểu ý bèn lảng đi chỗ khác. Tuy nhiên giọng viên sĩ quan oang oang làm đôi tai anh không thể cúp xuống.

- Chúng tôi chứng minh được ngay sáng nay có một phụ nữ lạ đã xuất hiện tại đây.

Kì Phương chột dạ, anh tự nhận thấy mình có gì đó sơ suất, mà trong tình huống nhạy cảm như thế này, sự chậm trễ và thiếu thành khẩn có thể mang lại cho anh nhiều bất lợi. Lê Đại Hắc hỏi dồn cấp dưới.

- Cô ta làm gì ở đây?

- Chúng tôi mới chỉ thu được vết giày cao gót dẫm loạn xạ quanh xác chết và tại hai vị trí được coi là hiện trường thật và giả. - Anh ta chỉ mấy vết giày ngay dưới đất rồi tiếp. - Căn cứ cỡ giày, bước chân và độ lún đất, đối tượng này khá cao lớn, rất linh hoạt và có thể là rất trẻ.

Viên sĩ quan này nhấn mạnh từ “ rất trẻ’’ cuối câu như muốn gợi trí tò mò cho sếp mình.

- Có thu được gì không?

- Chưa, chúng tôi đang tìm dấu vân tay.

Hắc biết chẳng phải tìm đâu xa, nó đứng lù lù ngay trước mắt ông.

- Anh kia! - ông ta lập tức đổi giọng. - Anh đang giấu tôi đều gì?

Mấy phút gắn ngủi đóng vai một giáo sĩ Bàlamon thuyết pháp đã vụt biết, anh hiện nguyên hình trở lại một tên nghi phạm nhem nhuốc.

- Thưa ông, tôi không hề giấu ông điều gì.

- Chắc hẳn anh vừa nghe gì rồi chứ?

- Vâng... có một phụ nữ trẻ... - Kì Phương ngậm ngùi khi nhắc đến cô gái tội nghiệp vừa bị anh trục xuất khỏi đất thánh sáng nay.

- Tôi chưa kịp nói với ông. Sáng nay tôi đã đến đây với một cô gái, nhưng cô ta đã bỏ đi.

- Cô ta là ai?

- Đó là con gái Paul.

- Vậy khi chúng tôi đến đây sao chỉ có mình anh?

- Cô ta đến tìm ba mình nhưng không thấy nên đã bỏ đi.

Lê Đại Hắc ưỡn ngực như thể suýt ngã ngửa rồi chỉ phắt tay về phía chiếc cáng đang đi qua trước mặt.

- Không thấy? cái xác to đùng thế kia mà cô ấy cũng không thấy?

- Tôi thề là chưa.

- Chưa biết? – Lê Đại Hắc giật phắt cặp kính nhìn xoáy vào mặt anh như nhìn sinh vật lạ.

Kì Phương để ý thấy rằng mỗi khi nghi ngờ hay tức tối điều gì ông thường để cho đối phương nhìn thấy cặp mắt một mí sắc lẹm của mình.

- Đúng thế. - Kì Phương vẫn dứt khoát. - Cô ta chưa biết cha mình chết.

Hắc xích lại gần anh, giọng du dương lạnh người.

- Anh định bịp tôi? Anh xem tôi là một thằng ngốc? - ông ta hậc lên một tiếng. – Quanh hố đầy dấu chân cô ta. Cô ta đứng cạnh xác cha mình mà không biết. Anh đã giấu tôi sự xuất hiện của cô ta và tiếp tục dối tôi sao?– càng nói ông càng gay gắt. - Chưa hết, anh còn cố tình xóa nát hiện trường nhằm tẩy nốt dấu vết của cô ta. Nói thật đi! cô ta là ai và đã làm gì với Paul?

Kì Phương cảm thấy mắt cay xè, anh lùi lại tránh những lời truy vấn văng tới tấp hệt như bị bắt quả tang anh và Thi Nga đang thông đồng lén lút gì đó.

- Tôi và cô ta đến đây trong tâm trạng rất hoang mang. Trong lúc bối rối tôi đã sảy chân xuống hố. Tôi không muốn để cô ta thấy cảnh tượng đó nên nằm che lên xác chết. Sau đó một lúc cô ta liền bỏ đi.

Càng bào chữa cho Thi Nga bao nhiêu anh thấy mình vô lí bấy nhiêu. Nhìn khuôn mặt ông ta giận dữ lẫn sự thất vọng, anh biết mình nói không có sức thuyết phục. Càng bao biện anh càng bị nghi ngờ, mà trong ý nghĩ của cảnh sát thì bất cứ ai cũng có thể là thủ phạm, kể cả con gái đẻ ông ta.

- Vậy cô ta đi đâu? có thể liên lạc được với cô ta ngay bây giờ không?

- Cô ta vừa về nước nên không có số điện thoại. Cô ta tin là cha mình chưa chết và có thể sẽ tiếp tục đi tìm tiếp.

- Đi đâu?

- Theo như cô ta nói là sẽ tìm bên... Campuchia.

Kì Phương thậm chí còn thấy không thể chấp nhận nổi với chính câu trả lời nực cười của mình. Còn Lê Đại Hắc chán ngán đến mức không muốn rút cọng kính ra để nhìn cái bộ mặt nửa hâm nửa dại đang chường ra trước mặt ông.

- Tôi hỏi anh câu cuối cùng. Vì sao anh và cô ta biết Paul đến đây trong đêm khuya?

Kì Phương chợt nhớ đến tờ giấy trong bao, tuy chưa hiểu nghĩa nhưng dù sao nó cũng đã đưa anh đến đúng chỗ. Anh phân vân có nên lấy lá thư của người khác gửi riêng cho người khác đưa cho viên cảnh sát hay không. Cuối cùng anh quyết định không.

- Đêm qua chúng tôi không liên lạc được với Paul. – Anh đáp. – Mỹ Sơn là nơi mà tôi nghĩ đến đầu tiên.

- À, xem ra anh rất hiểu về nạn nhân đấy. Rồi sao?

Qua lá kính râm, Kì Phương nhận ra ông ta đang “ cười đểu’’.

- Anh thấy đấy, tôi đã có rất nhiều lí do để tạm giữ anh trong đó tội nhỏ nhất là đã phá hoại hiện trường. Nhưng thôi, tôi vẫn coi anh là nhân chứng đặc biệt vậy.

Tiếng chuông bộ đàm bỗng cắt ngang, Hắc lùi ra để nghe máy nhưng vẫn để anh trong tầm mắt. Không hiểu ông đã có thêm tin gì mới, nhưng cú điện ngắn đã hướng tâm trí ông sang mục tiêu khác. Ông ta tiến sát anh nói nhỏ nhưng rất rành rẽ:

- Nghề tôi không được phép quá tin một ai, nhưng với anh tôi thử phá lệ một lần. Chúc mừng anh. Ưu tiên số một của chúng tôi là tóm ngay hung thủ nên tôi cần đi gấp nhưng nhân viên của tôi vẫn có mặt quanh anh. - Ông ta vỗ vai anh. - Hãy ở lại và nghĩ tiếp về hiến tế đi, tôi sẽ trở lại. - Nói xong, ông ta kéo đội quân biến mất.

Khu thánh địa lại vắng lặng như chưa hề có gì xảy ra. Ánh nắng trong trẻo rắc đều lên thung lũng xanh nhưng không thể xua đuổi hình ảnh cái chết thê thảm của Paul trong đầu anh. Dòng kí hiệu bí ẩn để lại, máu chảy trên yoni và cái chết đau đớn của Paul như một bóng ma ám riết trong trí não anh.

Kì Phương tiến vào tháp để quan sát một lần nữa với hi vọng tìm thấy cái gì đó mặc dù toán cảnh sát không trừ cho anh cơ hội nào sau khi xới nát từng gọng cỏ đến hạt cát dưới chân. Nắng đã lên cao, ánh sáng tán xạ trên mặt tường đã làm cho lòng tháp sáng màu hơn. Kì Phương chạm mắt lên lên bệ thờ giật mình kinh hãi!

Lớp máu đen trên mặt yoni hiện lên một dòng chữ rợn người.

Image


Kì Phương choáng váng đứng chết lặng giữa phòng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 8

Giống như một số vương quốc cổ khác ở Đông Nam Á, người Champa không có truyền thống chép sử. Để nghiên cứu Champa cổ, các nhà khoa học rất vất vả và phụ thuộc rất nhiều vào những văn bản được viết trên những chất liệu vô cơ bền như gạch đá, đất nung, đồng và các vật dụng kim loại khác còn sót lại của nền văn minh này. Trong nguồn dữ liệu khá hiếm hoi đó, những tấm bia kí được coi như những cuốn sách sử vô giá.

Đã hơn một thế kỉ kể từ khi Camille Paris tìm ra Mỹ Sơn, chỉ riêng mảng văn bia đã có hàng chục chuyên gia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ lao vào nghiên cứu nhưng những gì họ làm được chỉ là một phần rất nhỏ và những bí ẩn trên đó vẫn đang chờ các nhà khoa học trong tương lai giải mã. Trên những cuốn “ bách khoa toàn thư’’ đó người ta có thể tìm thấy bất cứ lĩnh vực nào mà mình yêu thích: từ lịch sử, tôn giáo, văn học, kiến trúc, điêu khắc và nhiều lĩnh vực khác. Đây là một tài sản vô giá của dân tộc Chăm nói riêng cũng như của đại gia đình các dân tộc Việt Nam và là nguồn cảm hứng vô cùng tận cho bao thế hệ văn nghệ sĩ muôn đời sau.

Có một điều nên nhớ: cổ nhân Champa kiến tạo ra những kiệt tác nghệ thuật đó không phải để cho lớp con cháu sau này ca tụng mộng mơ mà là để phục vụ cho mục đích thờ cúng của tầng lớp tu sĩ và quý tộc đương thời. Vô số của cải được dâng cúng cho các vị thần Balamon được nghi lại rõ ràng cụ thể trên bia kí từ chủng loại và khối lượng như vàng bạc, đá quý, hầm mỏ, đất đai và lãnh địa và điều này dẫn đến sự xuýt xoa nhòm ngó của những cái đầu đen tối. Vì vậy, trong những nơi cất giấu của cải này luôn kèm theo bùa yểm và lời nguyền trừng phạt kẻ xấu. Bia kí Champa cũng vậy, chúng ta không khó để nhận ra các thông điệp lạnh lùng đó.

Đơn cử: một tấm bia đặt trước tháp A1, đây là ngôi tháp đẹp nhất Mỹ Sơn và được xếp vào hàng kiệt tác của kiến trúc Champa cổ. Tiếc thay, công trình này đã bị phá hủy bởi bom đạn nhưng di chỉ khắc trên tấm bia này vẫn là những lời nguyền bất hủ vang vọng ngàn đời không thôi. Dòng thứ 9 và 10 của mặt (B) trên tấm bia chữ Phạn này viết: “ ...Ai giữ gìn các đồ cúng thần này thì công đức thuộc về người đó. Ai không gìn giữ mà phá hoại thì người đó sẽ tự bị thiêu hủy... Bhadresvarasvami thấu hiểu’’

Cũng ngay bên cạnh tháp A3, bài minh khắc năm 657 của vua Prakasadharma có 55 dòng tiếng Phạn được tìm thấy, mặt (B) câu thứ 30 viết “ kẻ nào phá hoại (đền tháp và đồ thờ cúng), kẻ đó sẽ ngã gục, không hề được tha thứ, hệt như chịu hậu quả muôn đời về tội giết người balamon...’’

Một bia kí tìm thấy ở An Vỹ, Quảng Nam có niên đại thế kỉ thứ chín dường như chỉ có một chức năng duy nhất là khuyên cáo và đe dọa. Bất kì mảnh vỡ nào của tấm bia này cũng thấy những dòng chữ nói về những con sói trắng và đen sẽ xé xác bất cứ kẻ bất lương nào đụng đến những gì thuộc về thần linh.

Thực tế đã chứng minh, những lời nguyền bí ẩn trên không phải là những lời dọa suông.

Mắt Kì Phương hoa lên khi dòng chữ kì lạ đang nhảy múa trước mặt. Anh cúi người xuống cho máu thông suốt lên não rồi thở sâu cho dưỡng khí tràn ngập buồng phổi. Khi đã đạt độ tỉnh táo cao nhất, anh lại tập trung vào yoni với hi vọng điều mình vừa thấy chỉ là ảo giác. Nhưng không, dòng chữ nổi rõ trên lớp máu đen sánh hiện rõ hơn bao giờ hết. Điều kì lạ là trước đó anh và viên cảnh sát đã nhìn hàng chục lần mà không ai phát hiện ra điều này.

Ai đã viết ra nó? Khi anh và Lê Đại Hắc đàm đạo bên ngoài không hề có ai bước vào. Mấy viên giám định thì không thể viết mà viết được thì có cho vàng họ cũng không dám. Một kẻ lạ thừa cơ lẻn vào đây là lại càng không thể. Kì Phương cố giải thích rằng quá trình ngưng kết của máu diễn ra rất chậm và tĩnh. Vả lại máu đen trên mặt đá sần sùi nằm trong màn đêm rất khó thấy. Mặt chất lỏng lại có tính phản xạ cao nên khi anh chiếu đèn lên thì hình ảnh nhìn thấy là của bức tường gồ ghề xung quanh. Giờ đây, dưới ánh sáng tự nhiên, nó hiện rõ chân thực hơn bao giờ hết.

Mới nhìn, Kì Phương tưởng là chữ Chăm hoặc chữ Malay cổ, nhưng nhìn kĩ thì hoàn toàn không phải. Nó có vẻ cũng có nguyên âm, phụ âm, dấu âm trên, dấu âm dưới và cả móc câu y như chữ Chăm cổ thường thấy.

Mà nếu không phải chữ Chăm truyền thống thì có thể là Chăm cổ hoặc một ngôn ngữ nào đó trong số hơn 150 ngôn ngữ thuộc hệ Mãlai - Đa Đảo chăng? Người viết chữ lên đây với kẻ giết Paul có phải là một? Như sợ dòng chữ lại biến mất đột ngột như lúc xuất hiện, anh lấy giấy bút nắn nót sao chép y nguyên rồi cất kĩ vào ba lô như sưu tầm được một ngôn ngữ lạ.

Kì Phương khóa chặt balo rồi lại ngắm nghía. Mỗi loại chữ cổ có một quy luật viết khác nhau, khi đọc không đúng chiều hoặc ngược hướng sẽ không nhận ra mặt chữ. Đã đi ba vòng và thử các góc độ nhưng các kí tự đó vẫn là một câu đố hiểm hóc. Mà có thể đây không phải là chữ mà là bút tích có ý đồ của hung thủ. Trong thế giới của những hội kín, sau vụ án thủ phạm thường để lại thông điệp nào đó trên hiện trường. Đó là một thông tin, sự thách thức, hoặc một đe dọa hay nhắn nhủ của hung thủ. Ngay lúc anh định bỏ đi thì có tiếng xe đỗ nhẹ ngoài bờ suối cùng lúc có bốn người đang đi rất nhanh về phía anh. Kì Phương mừng rỡ khi nhìn thấy tốp sư phụ của mình và một cô phóng viên quen mặt. Anh vẫy tay kêu to.

- Mời mọi người vào đây!

Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp lại từ xa với khuôn mặt nghiêm trọng, ông dẫn đầu đoàn tiến thẳng vào tháp như chính ông mới là chủ nhân đích thực ở đây. Kì Phương và Mộc Trân đứng ngoài để dành không gian cho ba người đàn ông đi vào. Tiến sát đài thờ, giáo sư Huỳnh Lẫm nghiêng mình đứng lại, hai người khác dàn ra hai bên và cúi xuống như đang làm một nghi thức nào đó. Thấy khuôn mặt giáo sư Huỳnh Lẫm đột nhiên căng thẳng và giữ nguyên tư thế cúi đọc rất lâu mà không ngửng lên.

- Thưa các thầy, em đã cố tìm hiểu, nhưng chịu. – kì phương nói vọng vào.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vẫn giữ nét mặt kính cẩn lẫn kinh ngạc, có lẽ trong cuộc đời khảo cổ và dịch cổ ngữ của mình chưa bao giờ ông nhìn thấy một chữ viết quái lạ đến thế. Hơn nữa nó lại viết bằng máu tại trên một biểu tượng tôn giáo thiêng liêng. Tiến sĩ Phú Thành Tài lùi lại một bước lấy tay che miệng nói khẽ.

- Chữ của quỷ dữ!

Tiếng thì thào của ông ta như làn gió buốt len vào tai mọi người. Giáo sư Huỳnh Lẫm quay mặt lại nhìn xiết vào mắt ông ta áp chế. Kì Phương liền hỏi.

- Thưa thầy, có phải đây là hệ chữ Phạn hay Chăm cổ?

- Hỏi thế sai bét! - Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp khô khốc.

- Vậy thì theo thầy là hệ chữ gì ạ?

- Tôi đã nhắc anh bao nhiêu lần rồi, trên các bia kí của Champa chỉ dùng một hệ thống chữ viết duy nhất để biểu đạt, đó là hệ thống chữ Bhahmi vay mượn từ Ấn Độ. Mà có tới hàng trăm hàng ngàn ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết Bhahmi tôi làm sao biết hết. Giống như tiếng Anh, tiếng Pháp, Ý và cả tiếng Việt... mượn hệ thống chữ Latin để viết và phiên âm cho ngôn ngữ của mình!

Kì Phương hỏi: - Nếu đây không phải chữ Phạn hay chữ Chăm cổ, vậy có hay không một chữ viết khác mà chúng ta chưa từng biết?

Giáo sư Huỳnh Lẫm chau mày lại:

- Người Malay cổ, Khmer cổ, cư dân đảo Sumatra và nhiều dân tộc Nam Á trước đây cũng viết khá giống với người Chăm cổ. Sau bao thế kỉ họ đã biến đổi và rẽ nhánh khác xa nhau. Tôi đã thuộc làu nhiều bộ sưu tầm ngôn ngữ kim cổ kể cả của Aymonier, Cabaton và Moussay, nhưng thú thật dòng chữ này là lần đầu tiên tôi nhìn thấy.

- Hay đây là chữ của... thánh thần? – Mộc Trân buột miệng.

Cô muốn rút lại câu hỏi của mình khi nhận ra vị giáo sư già rất đang rất nghiêm túc khi đối diện với trường hợp hóc búa nhất trong suốt cuộc đời đánh vật với chữ nghĩa của mình.

- Hết quỷ dữ rồi lại thánh thần. Các người khéo nghĩ những thứ đâu đâu nhưng một điều gần gũi và khoa học hơn thì lại không ai nghĩ ra.

- Đó là gì ạ? – Tất cả cùng hỏi.

- Đây đích xác là chữ của tiền nhân!

Cả đoàn nghe xong đều vô cùng ngạc nhiên. Vốn rất ưa những gì gây sốc và li kì, cô phóng viên vội vã chộp lấy hỏi dồn.

- Chữ tiền nhân? Chẳng lẽ tiền nhân vừa hiện về để viết lên đây sao?

- Cô nói đúng! Người vừa viết chữ này sống cách đây hơn một ngàn năm!

Tất cả vô cùng bối rối khi câu nói hoang đường đó lại thốt ra từ miệng ông. Nếu là tiến sĩ Tài nói câu đó Kì Phương đã bác bỏ thẳng thừng, nhưng đây lại là vị giáo sư cổ ngữ giỏi nhất mà anh từng biết. Sau khi Paul mất, chắc chắn ông là chuyên gia số một về Phạn ngữ trên dải đất chữ S này.

Kì Phương nhoài tới bệ thờ quỳ hai chân xuống để nhìn lại dòng chữ mà “ tiền nhân’’ vừa viết. Tuy không phải chữ Phạn hay Chăm nhưng nét viết y hệt như trên các bia đá Champa hơn ngàn năm tuổi. Những bia kí mà người ta tìm thấy ở Miền trung trước thế kỉ IV có nét chữ dạng cong của vùng Nam Ấn. Từ thế kỉ IV trở đi chữ Phạn ở Champa có dạng vuông của Bắc Ấn. Rồi khoảng từ thế kỉ VII trở đi lại quay trở lại dạng tròn ban đầu.

Nét chữ bằng máu trên Yoni này là loại cong tròn kiểu Nam Ấn mà Kì Phương dám cá rằng giáo sư Huỳnh Lẫm cũng không thể viết nổi chữ này cho dù dành cả ngày để nắn nót. Không nghi ngờ gì nữa, kẻ vừa viết lên đây có bàn tay và khối óc của... người cổ đại. Giáo sư Huỳnh Lẫm có thể đã cường điệu nhưng xét về cổ tự học, ông ấy chưa bao giờ sai.

Khổ nỗi, nếu đúng lời ông nói, thì tiền nhân vừa hiện về thật sao? Tiền nhân nào? Ai? Không lẽ vua Chăm tái thế trần gian để trừng phạt kẻ thù rồi kí tên mình bằng máu nạn nhân? Hoang đường! Nếu Paul bị người xưa trừng phạt thì phải xem lại việc làm của ông ta thực chất là gì? Những lời nguyền trên bia kí răn đe kẻ mạo phạm thần linh vẫn còn trơ trơ ra đó. Kì Phương biết mình đang đối mặt với hiện tượng dị thường nhất trong đời và thấy e ngại cho viên cảnh sát đang cố công đuổi theo một bóng ma.

Giọng giáo sư Huỳnh Lẫm vang lên:

- Các người hãy nghe cho rõ và đừng bao giờ quên! – Mấy người vẫn im re dỏng tai đón lấy từng chữ sắp tuôn ra khỏi miệng ông. Có lẽ hàng chục năm đứng trên bục giảng, chưa có lớp học nào tập trung cao độ như lúc này. Tiếng ông long trọng gióng lên như đang sắp đọc lời phán xét.

- Theo sử Trung Hoa, năm 445, vua Tống sai thứ sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi đánh chiếm Champa cướp được vô số đồ cúng bằng vàng bạc, riêng tượng vàng lên tới vài chục vạn cân. Khi về nước Đàn Hòa Chi đêm đêm bị ma hiện lên đòi lại đồ cúng, y sợ hãi và suy sụp, không lâu sau thì lìa trần. Năm 605 tên tướng Lưu Phương của nhà Tùy đến Mỹ Sơn xâm lược và cướp lấy 18 bộ thần chủ bằng vàng trong đền tháp rồi mắc bệnh lạ lăn ra chết trên đường về. Vua khmer “ bách chiến bách thắng’’ Suryavarman II sau khi đưa quân càn quét và dọn sạch của cải ở Mỹ Sơn đã chết mất xác trước khi trở về. Trong cuốn Lịch sử Đông Nam Á của giáo sư Hall còn ghi chép sự kiện thủy quân Java tấn công Champa và cướp đi một pho tượng Siva bằng vàng có kích thước lớn hơn người thật trong một ngôi đền ở Panduranga. Tuy nhiên chuyến thuyền tội lỗi này đã không bao giờ cập bến nữa.

Ông chùng giọng rồi tiếp:

- Chưa có thống kê đầy đủ nhưng ta tin rằng không ai đụng đến thần hộ mệnh của người Chăm mà toàn mạng trở về. Nay Paul chết, chết bất đắc kì tử tại đây là chuyện vô cùng cấm kị. Thần linh nổi giận thật rồi!

Giọng ông run lên, ông định nói gì thêm nhưng rồi lại thôi. Nhưng chỉ ngần ấy đã đủ làm cả bọn hoang mang. Kì Phương biết ông vẫn còn tỉnh táo bởi những điều vừa nói là trích chính sử. Giáo sư Huỳnh Lẫm vốn xem tôn giáo là một thứ xa xỉ và càng không bao giở tỏ ra mê tín. Ông say mê nghiên cứu tâm linh nhưng luôn khẳng định mình là một nhà duy lí. Kì Phương bấy lâu nay xem ý kiến của ông là trí tuệ, đáng tin, nhưng sau những gì vừa nói lại chứng tỏ ông đang tin vào thần thánh. Ông đã thay đổi, và đây cũng là lần đầu tiên ông cởi tung chiếc áo vô thần ngay trước mặt mọi người.

Mà thật ra không riêng gì ông, những gì diễn ra tại thánh địa sáng nay đủ làm những bộ óc sáng nhất cũng phải đặt dấu hỏi về tính năng của lời nguyền.

- Thưa thầy! – Kì Phương nói. – Trong lịch sử Champa, người ta xử tội nhũng kẻ xúc phạm thần linh như thế nào, có phải là tế máu?

- Trên các bia kí và trong các nghiên cứu của tây lẫn ta như Bergaigne, Boisselier, Finot, Ngô Văn Doanh, Trần Kì Phương... cũng có viết về lễ tế tù binh và tội phạm tại đền tháp nhưng không ai nói rõ cách thức hiến tế ra sao. Đó là chỉ nghi lễ tượng trưng hay là màn giết chóc đẫm máu thì không ai biết. Nhìn sang các nền văn minh cổ khác, đến nay sử sách họ vẫn lưu truyền rõ ràng rằng người Maya hiến tế thần Mặt trời bằng cách mổ bụng nô lệ moi tim và lấy máu tưới lên các tượng thần hay ném các cô gái đồng trinh xuống giếng thánh. Người Mêhicô và Peru cổ chỉ lột da người để phục vụ cho nghi lễ. Người chăm không chép sử, họ không có sử gia. Mặc dù chúng ta đã dịch gần hết 200 văn khắc và hàng ngàn thư tịch cổ chép tay cổ nhưng hiếm khi nói đến tế người. Có giả thuyết rằng cổ nhân đã hủy hết tài liệu loại đó. Đây là lỗ hổng tư liệu trầm trọng và bằng chứng đã tan vụn theo hàng trăm tấm bia. Dù sao...

Ông lặng đi nhìn lên bệ thờ với ánh mắt đầy xúc động nói tiếp:

- Tuy hành vi giết người tế lễ này là tội ác, nhưng nghi thức hiến tế này hắn học ở đâu hay tài liệu nào thì không thể xem thường được. Chúng ta phải mổ xẻ dưới góc độ khoa học lịch sử. Có thể một tu sỹ đắc đạo đội mồ chui lên để giáng thế một nghi lễ nguyên thủy xa xưa.

Đúng là ông già không còn tỉnh táo. Tiến sĩ Phú thành Tài nhúc nhắc định chui ra, nhưng ông nghĩ bỏ đi lúc này cũng không đặng bèn xen vào một câu.

- Nếu là cúng tế, vậy sao lại không có linga? đạo Bàlamon cúng thần mà không có linga khác gì tượng Phật không đầu. Huỳnh Lẫm quay phắt sang, đỉnh mũi ông ta chỉ cách vành tai Phú Thành Tài nửa gang tay.

- Không có linga không có nghĩa là thiếu biểu tượng dương khí!

- Dương khí? – Phú Thành Tài vặc lại. - Vậy dương khí ở đâu hả thầy?

- Kẻ hành lễ đã làm một phép thế!

- Thay thế? Hắn dùng cái gì thay thế linga?

Giáo sư Huỳnh Lẫm trỏ tay vào lòng yoni.

- Chính dòng chữ kia là biểu tượng dương khí.

Phú Thành Tài há hốc mồm, quả là thầy mình có cái nhìn rất sáng tạo và thú vị. Các nghi lễ tôn giáo hiện đại đã giản lược hủ tục và thay thế những vật tế rờm rà bằng các hình vẽ hoặc chữ viết đơn giản hơn nhưng không mất ý nghĩa.

- Đây là một chữ cổ chưa rõ nghĩa. – Giáo sư Huỳnh Lẫm tiếp. - Nhưng tôi dám chắc nó là biểu tượng thay cho một linga. Mà linga là biểu hiện của thần Siva, vì vậy dòng chữ này là tên của thần Siva hoặc một vua Chăm được phong thần.

- Vua nào nhỉ? - Tiến sĩ Tài lẩm nhẩm trong họng. Em sợ đó là tên của một thằng điên. Cảm thấy tai mình đã ù ù, nhưng ông ta vẫn chưa thôi tranh cãi. - Trong mấy trăm đời vua Chăm, tôi không thấy vua nào có cái tên không thể đọc được như vậy. Theo tôi, đây là bí danh của kẻ khát máu, một kẻ u mê giữa tín ngưỡng và tội ác. Hắn ngông nghênh ngạo mạn tự coi mình là vua thì có.

- Một tên ngạo mạn nhưng uyên bác. – Giáo sư Huỳnh Lẫm gắt lên. - Đầu óc một thằng điên không thể làm phép ẩn dụ tinh thông và bàn tay thư pháp như thế.

- Thưa thầy, nhưng lấy gì để chứng minh đây là “ chữ’’. Nhìn qua hao hao chữ Lào... nhưng rốt cuộc chả là gì hết. Một vài nét múa may học đòi, hắn thậm chí không hiểu tiếng Chăm.

- Anh đừng coi thường. Khi người Babilon đặt chân đến vùng đất Lưỡng Hà họ đã phát hiện loại chữ hình nêm vẽ nguệch ngoạc trên các tấm đất sét đã cho rằng đó là trò nghịch ngợm trẻ con cho đến khi nhận ra đó là chữ viết của người Sume. Sau này chính người Babilon cũng học theo nó và phát triển lên tầm cao hơn. – ông chỉ lên dòng chữ. - Hãy tìm cách đọc nó đi!

Tiến sĩ Tài vuốt mũi mà không phản bác gì nữa. Ông ta chăm chú nhìn kĩ rồi lại thốt lên:

- Ppadop akhar...

Từ này tiếng Chăm cổ có nghĩa là “ chữ quái dị’’. Đó không phải là sản phẩm trí tuệ chân chính mà là cách viết mã hóa của một từ ngữ. Trong kho tàng văn bản viết tay của người Chăm rất nhiều tài liệu quý hiếm từng nằm trong tay một số cá nhân hẹp hòi. Do muốn hưởng riêng hoặc lo thất lạc nên người sở hữu đã cố tình cất giấu bản chính và tạo ra nhiều bản sao với ngôn ngữ quái dị chỉ có họ mới hiểu, với mục đích là nếu bị mất thì không ai dùng được. Suy cho cùng, họ cũng đang thực hành một dạng nghệ thuật mật mã.

- Có lẽ tên sát nhân muốn chơi khó cảnh sát và giới ngôn ngữ chúng ta. – Tài thốt lên.

- Thôi, bàn chuyện chữ nghĩa sau! - Người cán bộ tên Trọng nói lớn. - Việc bây giờ là tìm kiếm báu vật nó ở đâu.

Giáo sư Huỳnh Lẫm khó khăn lắm mới dứt mắt ra khỏi dòng chữ để quay sang hỏi Kì Phương.

- Trước khi mất, không biết Paul có dặn điều gì không?

Kì Phương sực nhớ tờ giấy, theo quán tính anh lôi tuột ra.

- Đây, tất cả những gì Paul để lại cho chúng ta đây.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vội cầm lấy rồi thốt lên.

- Trời! Sao anh không nói sớm?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 9

Thi Nga đánh vật với chiếc Ford cà tàng dễ đến mười năm chưa bảo dưỡng trên con đường mấp mô đầy ổ trâu bò. Rốt cuộc cô cũng đến được khách sạn Rex. Đón chào cô vẫn là gã đeo nơ.

- Chìa khóa đây, tôi chờ mãi nhưng chưa thấy ba em đâu cả. - y còn tỏ ra lo lắng cho cô hơn mức cần thiết. - Ủa, mà đêm qua em ở đâu mà trông phờ phạc thế kia?

- Anh cho tôi hỏi, từ lúc tôi ra khỏi đây có ai đến tìm ba tôi hay không?

- Không, có mấy cú điện gọi tới hỏi ông ta nhưng không xưng danh là ai.

- Cảm ơn anh, tôi lên phòng và nếu có ai gọi điện hay muốn gặp tôi thì phiền anh báo cho tôi trước.

- Ok, à mà nếu cái anh kia muốn lên phòng gặp cô thì sao?

Thi Nga nghĩ ngợi giây lát rồi đáp.

- Thì để anh ta lên, không cần báo cho tôi đâu.

Biết ba mình chưa hề quay lại, cô càng thêm lo. Nếu không có ở Mỹ Sơn và khách sạn thì ba cô đã đi sang Camboge như lời ông căn dặn trước khi sang đây. Sáng hôm đó, tuy vội đến trường nhưng cô vẫn nán lại với ba mình rất lâu. Đã lâu hai ba con mới nói chuyện nhiều đến như vậy, đúng hơn là chưa bao giờ ba cô lại trải lòng cho đứa con gái những điều cơ mật của quá khứ. Sau sự tiết lộ tày đình đó, cô ngỡ ngàng hiểu ra hơn mười năm nay ba cô giấu tất cả để cho cô được hồn nhiên vui vẻ như bao đứa trẻ khác. Sự thật là từng phút từng giây gia đình cô đang đối mặt với sự trừng phạt man rợ như một lưỡi hái đang kè kè sau cổ.

“Ba đã đợi nó mười hai năm nay’’. – ông nói. – “ Đây là chuyến đi thay đổi số phận của ba con ta! Nếu thuận buồm xuôi gió, cái án mạng của ba con mình sẽ vĩnh viễn xóa bỏ, ngược lại ba sẽ một mình chịu đựng và con phải làm một cuộc lột xác lần nữa’’

“ Ba nói thế nghĩa là sao?’’

“ Nghĩa là nếu ba bị hội Naga giết hại, điều đó cũng sẽ đến với con. Cho nên, nếu có tin xấu về ba, con hãy lập tức trốn khỏi đây và thay đổi tên họ một lần nữa.’’

Thi Nga ngồi như kẻ mất hồn, cô thấy mình không có thật hoặc chưa thực sự sống thật trên cõi đời này. Tại sao lại phải chạy trốn một kẻ thù mà cô chưa bao giờ thấy mặt. Tại sao phải lẩn trốn như tử tù khắp thế gian trong khi cô không làm gì nên tội.

“ Hội Naga là ai mà tàn tệ đến vậy ba?’’

“ Còn tệ hơn những gì ba đã nói, nhưng thôi, dần già ba sẽ nói thêm. Bấy lâu nay ba con ta sống yên bình là bởi chúng tin ba đã quy phục và cam phận nên chưa ra tay đó thôi nhưng một khi ba đụng đến sào huyệt của chúng thì tất cả sẽ xảy ra. Dù sao, ba cũng phải báo thù cho mẹ, và nếu có chết thì ba sẽ chết ở Naga, ngay nơi mẹ con đã nằm lại đó cho trọn đạo vợ chồng.’’

Giờ đây, những gì đã xảy ra ở Mỹ Sơn và sự biến mất của ba cô dường như đang báo hiệu theo chiều hướng xấu đó. Mải lo nghĩ mà cô đã quên phắt nguy hiểm đang rình rập. Thay vì trốn đi và thay tên đổi họ thì cô lại làm ngược lại. Lúc này cô chỉ muốn biết Naga ở đâu để cô tức khắc bay thẳng đến đó may còn kịp thấy ba cô.

Thi Nga chạy ào lên phòng rồi đóng sầm cửa lại, căn phòng vẫn thoảng hơi ấm thân thương quen thuộc. Chiếc laptop trên bàn đang chạy ro ro trong chế độ bảo vệ màn hình. Cô lại gần rồi lay nhẹ, một hình ảnh bật sáng đập thẳng vào mắt cô.

Gì thế này? Một vị thần bị chôn lấp? Thoáng giật thót khi vừa nhìn vào, và rồi cô không rời mắt ra được nữa.

Giáo sư Huỳnh Lẫm nheo mắt nhìn tờ giấy rồi gật đầu tỏ vẻ tâm đắc:

- Hay lắm, nhưng hơi đơn giản. Nếu mật mã này lọt vào tay kẻ trộm chắc bị chúng đào lên rồi.

Kì Phương hơi bị chạm lòng nhưng anh không tin ông sẽ hiểu đúng. Mọi người xúm quanh ông nhưng chỉ có Phú Thành Tài cất tiếng:

- Theo tôi chúng ta phải đào dưới các chân tháp này lên xem thật kĩ, dưới đó có thể chôn cất vàng bạc.

Thực ra ý này không mới, Những kho báu Chămpa được được người Pháp tìm thấy dưới chân tháp khi trùng tu rất nhiều. Tháng 2-1906, khi tổ chức khai quật khu tháp Pô Nagar, Parmentier đã tìm thấy một căn hầm bí mật chứa đồ thánh, nhiều hiện vật bằng vàng như nhẫn, vòng, độc bình. Đầu thế kỉ XX khi trùng tu Tháp Po klong Garai các nhà khảo cổ Pháp cũng tìm thấy bát vàng, bạc và đồ trang sức. Có lẽ khám xét lòng tháp là công việc trước tiên của những tên trộm và nhà khảo cổ khi đặt chân đến. Ngay ở Mỹ Sơn, người ta cũng đã tìm thấy dưới lòng tháp C7 một bộ trang phục bao gồm vương miện bằng vàng, dây chuyền ngọc bích, thắt lưng nạm kim cương và vô số đồ trang sức quý đi kèm khác.

- Những tháp này đã bị đào bới từ lâu nhưng không có báu vật nào sất. – Giáo sư Huỳnh Lẫm lắc đầu.

- Có lẽ chúng ta cần khai quật lại. - Phú Thành tài nói. - Báu vật mà Paul ám chỉ không hẳn là vàng bạc mà có thể là một văn bia hoặc kho văn bia. Bia kí và sử liệu về Champa nửa cuối thế kỉ thứ IX vẫn là một khoảng trống. Nếu khai quật được vài minh văn nói về thời này chả phải là quý hơn vàng đó sao?

Quả thật, đầu thế kỉ XX các nhà khảo cổ Pháp đã phát hiện được một kho văn bia có tới 700 mảnh vỡ của hơn chục tấm bia do ai đó cố tình đập phá và chôn giấu một cách bí ẩn. Kho này chỉ là một trong số nhiều kho khác được các học giả khẳng định đang nằm đâu đó trong lòng đất Mỹ Sơn. Chính vì bị hụt một lượng sử sách đồ sộ nên chúng ta hiện nay không hề biết điều gì khủng khiếp đã xảy ra ở Champa đầu thế kỉ X. Những gì chúng ta biết về họ trong thời đại này đều dựa trên nguồn sử liệu ít ỏi của người Hán và Đại Việt.

- Tôi đồng ý với anh. – Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Nhưng anh chưa nắm được ý Paul. Ông ta không tiết lộ cụ thể đó là gì nhưng đã khẳng định đây là báu vật theo nghĩa đen của nó. Giả sử như chúng ta tìm thấy một minh văn chôn trong những tháp này thì nó phải chỉ ra một kho báu theo nghĩa chân phương nhất.

Kì Phương đồng tình với giáo sư Huỳnh Lẫm, giả thiết này vừa li kì vừa thực tế. “ Hòn đá đỉnh vòm’’ của tu viện Sion – một hội kín của Châu Âu thời trung cổ theo truyền thuyết là một tấm bản đồ bằng đá chỉ nơi cất giấu Chén thánh. Giả thuyết trên đã kéo theo nhiều cuộc tìm kiếm của các nhà khoa học nhằm vào các viên đá khóa đỉnh trên nóc vòm các tu viện tại Pháp.

Là những nhà khảo cổ uyên bác, chắc Paul và đồng nghiệp biết các bí mật nằm ở đâu trong các công trình cổ. Cái tháp cũng như cái người. Có chỗ phình to chỗ tóp vào, chỗ linh thiêng chỗ trần tục, có chỗ chỉ cần đẹp mắt nhưng có chỗ lại đặt ưu tiên lưu trữ thật nhiều tri thức. Đó là lí thuyết nhưng đôi khi cái trang trí lại hàm chứa mật ngữ hay chỗ làm đẹp lại cất giữ của cải. Cuối năm 1906, khi phục chế một tháp phía nam khu đền Pô Nagar, cũng chính Parmentier đã tìm thấy một kho đồ thánh rất lớn giấu trên đỉnh tháp, một vị trí mà không ai ngờ tới.

Kì Phương bắt đầu tưởng tượng đến một tấm bản đồ cổ bằng đá nằm đâu đó dưới nền những ngôi tháp này. Anh góp ý.

- Để biết ý Paul muốn gì, trước tiên cần khảo sát lại những ngôi tháp này lần nữa. Chúng ta đừng quên cách đây mười hai năm ông ta đang khai quật dang dở những ngôi tháp này.

Giáo sư Huỳnh Lẫm lại xua tay. Có lẽ do thói quen lên lớp đã ngấm vào máu, ông không nói đáp án luôn mà khơi gợi cho học trò tranh cãi.

- Chúng ta không cần phải đào nữa. – ông nói. – Paul đã đào hết nền móng các tháp này từ lâu rồi, những gì quan trọng ông ta đã mang vào Bảo tàng. Nếu cho rằng cả bốn nền tháp này đang có cổ vật là quá ngây thơ. – ông lại giở tờ giấy ra rao giảng. – Xem này, ngay cách trình bày cũng rất lạ. Mỗi bốn cái tháp tại sao không viết thành một dòng mà lại viết thành hai dòng?

- Đây là hai câu thơ! – Kì Phương buột miệng.

Chỉ khi giáo sư Huỳnh Lẫm gợi ý hai dòng thì Kì Phương mới nghĩ đến thơ. Sinh thời, Paul yêu thơ và thích đọc Chế Lan Viên hoặc Inrasara nhưng dùng thơ của họ để mã hóa kho báu thì có lẽ không phải mà Kì Phương đang hướng đến một dòng thơ bác học hơn. Thơ Ấn Độ!

Thực ra, một điều khó tin là ở thung lũng Mỹ Sơn không chỉ có những vị thần Ấn Độ giáo mà còn tràn ngập văn chương và thi ca Ấn Độ cổ đại. Trên các tấm bia kí là cả một kho tàng văn học đậm chất sử thi được viết chủ yếu theo những thể thơ phổ biến của Ấn độ như Arya, Sloca, Upajati, malini, Sikharini... Những áng thơ này chứa nhiều điển tích và tính ẩn dụ của văn học Ấn độ nên mau chóng lan truyền và thẩm thấu sâu đến nhiều nền văn hóa phương đông theo chân balamon giáo trong đó có Champa. Đã sống ở đây lâu năm, trong những đêm khuya thanh vắng Kì Phương còn nhìn thấy cả những hồn ma thi sĩ Ấn Độ cổ xưa hiện về lang thang quanh các bờ cây góc tháp như thể đang xót xa tìm lại những trang bản thảo tả tơi mục nát của mình.

Giữa một cái nôi tràn trề chữ nghĩa như vậy, một người tinh thông như Paul nếu muốn nhắn gửi cho ai điều gì ông ta chỉ cần chọn lựa hai câu thơ đặc biệt nào đó rồi mã hóa nó bằng con số hay các kí tự latin là xong.

- Vậy anh có biết đó là hai câu nào không?

Kì Phương chưa thể luận ra thể thơ nào thì giáo sư Huỳnh Lẫm đã nói tiếp.

- Đừng nghĩ đến văn thơ rờm ra, đây chỉ là một bài toán hình học lớp hai mà thôi! Bất kì một hình tứ giác nào cũng có một giao điểm của hai đường chéo.

- Ý thầy đó là vị trí kho báu? - Kì Phương nói. - Nhưng kí hiệu C8 không hề tồn tại.

Giáo sư Huỳnh Lẫm nhìn anh mỉm cười.

- Hồi anh còn là đứa trẻ, Paul đã đào được một móng tháp sát tường của tháp C7. Đây là phế tích chưa có trong bảng của Parmentier nên Paul đã bổ sung tháp C8 nhưng còn thiếu thuyết phục nên chưa công bố rộng rãi. – Ông chỉ tay về phía sau. - Lại đằng kia thầy chỉ cho.

Giáo sư Huỳnh Lẫm chỉ rõ một móng gạch phủ đầy cỏ dại rồi nói.

- Cách đây hơn mười năm, mọi việc còn dang dở nhưng Paul đã phải về nước mà chưa kịp báo cho ai biết. Mà thôi, chúng ta tiếp đi. Tìm xem giao điểm của hai đường chéo này có gì.

Giáo sư Huỳnh Lẫm cùng Kì Phương loay hoay tìm tâm của tháp C8. Cảm thấy có gì đó không ổn, Kì Phương nói:

- Nếu chính Paul trước đây chôn giấu báu vật đó, ông ta chỉ cần chôn cạnh ngôi tháp nào đó là đủ.

Giáo sư Huỳnh Lẫm nói:

- Có thể cổ vật này được chôn mấy trăm năm trước và Paul đã phát hiện ra nhưng vì lí do nào đó chưa thể đào lên lúc đó nên tạm đánh dấu chờ dịp khác. Có thể ông ta đã đo đạc rồi phát hiện vị trí đó nằm trên hai dường chéo này.

Có tiếng sột soạt bên tai, Kì Phương quay sang đã thấy người cán bộ tên Trọng xuất hiện, mồ hôi đầm đìa.

- Thưa giáo sư, Bộ trưởng Vinh muốn hỏi ý kiến giáo sư.

Giáo sư Huỳnh Lẫm thoáng ngạc nhiên rồi nhanh chóng hiểu ra. Mặt trời đã lên cao trong khi hàng vạn người đang theo dõi tin tức về đội khảo cổ của ông từ sáng đến nay.

- Bộ trưởng hỏi gì?

- Bộ không muốn việc cá nhân của Paul mà ảnh hưởng đến kế hoạch lớn, Bộ trưởng muốn hỏi ý kiến giáo sư có khả năng tiếp tục công việc không?

Giáo sư Huỳnh Lẫm buông một câu vẻ tự ái.

- Hãy nói với ông ta chúng tôi có thừa khả năng.

Anh ta bỏ đi với chiếc điện thoại kè kè bên tai. Giáo sư Huỳnh Lẫm quay lại nói với Kì Phương.

- Thực ra công việc này chỉ cần đến cậu là quá đủ.

- Thưa thầy, em sẽ xong sau ít phút nữa.

Giáo sư Huỳnh Lẫm kéo mấy người đi tiếp về phía bên kia con suối rồi dừng lại nơi người đồng nghiệp đã ngã xuống. Đã 8 giờ 23 phút, nếu theo lịch trình lẽ ra giờ này Paul và nhóm của ông đã đưa báu vật lên khỏi lòng đất. Sẽ không thiếu cờ hoa và những vòng tay chào đón một biểu tượng lịch sử đã trở về đất mẹ. Sinh nghề tử nghiệp. Vị giáo sư chạnh lòng nhìn vu vơ giữa vòm trời ngả nghiêng để ngăn những giọt nước mắt lại chực trào ra. Rồi không ai bảo ai, họ đi vòng quanh hố đào như muốn tiễn đưa một linh hồn lưu lạc về chốn linh thiêng.

Kì Phương lấy tấm bản đồ khu di tích rồi dùng bút chì tìm giao điểm hai đường chéo. Kết quả thật bất ngờ, điểm này nằm giữa lòng suối. Kì Phương thoáng chút thất vọng và chạy ra nhìn thực địa. Khúc suối này rất rộng, nước sâu và rất trong, hai bên đầy đá cuội từng là thiên đường bơi lội của cô bé Thi Nga mười năm trước. Vị trí lòng suối ở Mỹ Sơn này trước đây nằm trên cạn cho đến khi các kĩ sư EFEO thực hiện dự án táo bạo nhưng thất bại là đục xuyên núi để lái dòng chảy nhằm bảo vệ di tích. Kì Phương chạy đi báo cho giáo sư Huỳnh Lẫm thì đúng lúc họ đang tụm lại bàn tán gì đó. Lại gần, anh nhận ra thứ trên tay tiến sĩ Tài đã làm cho hi vọng của anh vụt tắt. Cổ vật đã bị khai quật!

Không để ý đến Kì Phương, giáo sư Huỳnh Lẫm giành lấy mẩu đất sét lóc ra từ một vật lạ rồi chăm chú soi xét, mặt đầy vẻ phẫn khích.

- Chính đây là báu vật!

- Báu vật gì vậy thầy? – Kì Phương sấn đến hỏi.

Tiến sĩ Tài nhìn Kì Phương với ánh mắt bề trên. Trao đổi với người ít kinh nghiệm không phải là đối tượng giao lưu của anh ta. Ở đây, ngoại trừ giáo sư Huỳnh Lẫm và người quan chức mà anh ta thỉnh thoảng nhờ cậy thì không ai đáng để anh ta chia sẻ. Tiến sĩ Tài chìa hai mẩu đất thay cho câu trả lời. Kì Phương đón lấy và nhận ra đây là mẩu sét bong ra từ một bề mặt nhẵn bóng in hình một con mắt ô van cân xứng vuốt dài. Một ý nghĩ lóe lên. Chỉ có Siva mới có con mắt thứ ba.

- Kì Phương gói lại cất vào túi cho tôi, nhẹ tay đừng làm vỡ! - Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Có lẽ đây là thứ Paul định khai quật.

- Chúng ta cần tìm nốt các mẩu đất khác. – Tiến sĩ tài sốt sắng.

- Tôi sẽ tìm đội điều tra mượn lại các mẩu đất để ráp lại xem. – Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Nó đã bị đánh cắp, chúng ta chẳng có gì để làm nữa cả. Các vị cứ tạm ra về, riêng Kì Phương ở lại.

Mọi người giải tán sau một buổi sáng tồi tệ. Đây là một thất bại của ngành khảo cổ, nhưng đối với riêng tiến sĩ Tài thì có nhiều thứ phải cảm ơn cái chết của Paul. Cái chết xảy ra đúng hôm nay không những loại cho ông một đối thủ mà còn thầm mách cho ông một hàm số cốt tử trong hành trình săn tìm kho báu suốt ba mươi năm dài lê thê của mình. Một ý tưởng mới đã ngoi từ huyệt mộ của nhà khảo cổ Pháp.

Khi mọi người đã khuất bóng, giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi Kì Phương.

- Đêm qua, Paul có liên lạc với anh không?

- Có ạ, em đang ở công trường thì nhận được điện của ông ấy gọi ra Đà Nẵng.

- Để làm gì?

- Lên sân bay đón con gái ông ta.

- Chạy bảy mươi cây số để làm một việc mà bất cứ chiếc taxi nào cũng có thể làm?

- Ông ta không biết em ở xa vậy, khi em nói đang ở Mỹ Sơn ông ấy vội thoái lui nhưng em nói cũng đang định về Đà Nẵng nên tiện thể đón luôn.

- Nếu ông ta nhờ anh đi đón một mẹ xề nào đó, chắc anh đã không có ý định “ tiện thể’’ đúng không?

Kì Phương cười gượng, mà đúng thế thật.

- Thế rồi sau đó thì sao?

- Sau đó em đưa cô ta về khách sạn chỗ cha cô ta, chờ mãi không thấy nên đoán ông ta đi Mỹ Sơn, vậy là chúng em vào đây luôn.

Vị giáo sư thở dài, không giấu vẻ buồn bã.

- Còn bây giờ, chắc cô ta đã khóc hết nước mắt rồi chứ?

Kì Phương biết mình sắp phải giải thích một việc khó tin hệt như sáng nay với viên cảnh sát.

- Em nhìn thấy xác Paul trước và không muốn cái chết thảm thương đó đập vào mắt cô ta, vì lí do ấy mà em đã che thi thể lại. Cho đến giây phút này, cô ta cũng chưa biết ba mình đã chết.

- Chưa biết? – ông ngạc nhiên. - Nhưng thầy thấy có dấu chân giày nữ bên xác chết!

Kì Phương không ngờ thầy mình có năng khiếu làm thám tử đến vậy nhưng anh vội nhớ ra các nhà khảo cổ luôn có thói quen luôn nhìn xuống đất. Dân trong nghề đồn rằng họ còn có biệt tài nhìn các nếp nhăn trên cơ thể phụ nữ mà đoán trúng phóc “ niên đại’’ của họ nữa.

- Vâng, đúng là cô ta đứng bên xác chết mà không thấy.

- Anh đè lên xác chết hả?

- ... Vâng.

Giáo sư Huỳnh Lẫm nhìn anh như một sinh vật mọi rợ.

- Bây giờ thì cô ta đi đâu rồi?

- Bởi chưa biết cha mình chết, nên cô ta đã đi tìm.

- Nếu cô ta không thấy xác, thì máu lênh láng kia không làm cô ta thắc mắc hay sao?

- Vâng. - Kì Phương thở dài. - Đàn bà con gái hay tin một cách ẫu trí mà, thầy còn lạ gì.

Giáo sư Huỳnh Lẫm biết kẻ ấu trí ở đây là ai, còn cô gái quái đản kia đi đâu và làm gì sau khi bỏ chạy khỏi hiện trường bắt đầu làm ông chú ý.

- Sao không ngăn cô ta lại? anh thật tàn nhẫn! nếu anh không dám nói thì tôi sẽ nói. Số máy cô ta bao nhiêu?

Kì Phương không ngờ ông lại phản ứng gay gắt đến vậy.

- Thưa thầy, cô ta từ nước ngoài về nên chưa có số. Em sẽ đi tìm cô ấy ngay bây giờ!

- Anh biết gì về cô ta? Hai người thân nhau đến mức nào?

Kì Phương nhận ra sự quan tâm của ông đã đi hơi xa, nhưng trước một người thầy luôn tận tụy với học trò, anh coi đây là điều đáng trân trọng.

- Thưa thầy, em biết cô ta hồi bé, hơn chục năm nay chưa hề gặp lại...

- Một con người mà đứng bên xác cha mình mà không biết chỉ có mất hết giác quan hoặc là giả vờ. Anh tin cô ta là người tốt sao?

Lúc nằm trên xác chết và dưới cái nhìn da diết đến tội nghiệp của cô ta, anh không thể nghĩ gì khác. Sau lời nói khó nghe của thầy anh bắt đầu hoài nghi về cô. Dù sao, trước cái nhìn đầy soi mói của thầy, anh bắt đầu tự ái.

- Vâng, em tin cô ấy, cha cô ấy là người tốt.

- À, cha tốt thì con tốt!

Kì Phương định đáp lại nhưng nhận ra ông ta đã tự trả lời, một sự khẳng định đầy mỉa mai. Năm ngoái đứa con trai độc nhất của ông đã vĩnh biệt cõi đời vào cái tuổi chớm ba mươi. Trong khi ông dành hết đời cho mình khoa học thì chốn hậu phương, người vợ đã đẩy niềm hạnh phúc bé mọn của ông xuống vực thẳm. Có chồng mà cũng như không, người vợ đáng thương đã tìm nguồn an ủi nơi người khác và phó mặc cho đứa con “ nối dõi tông đường “ của ông sa vào tệ nạn. Chỉ vài năm sau, cậu quý tử mà ông hết lòng yêu thương đã qua đời trong cái đêm mà ông đã phải đáp xe đò hơn ngàn cây số từ Tây nguyên về để nhìn mặt con lần cuối. Người cha già tiễn đứa con chết trẻ mà nước mắt chảy vào trong. Trong thoáng chốc, Kì Phương bỗng thấy lòng mình se sắt như có luồng gió lạnh thấm qua.

- Thưa thầy, em xin lỗi.

Ông ta quay sang với sự khổ hạnh đã giấu kín.

- Ta hiểu con, bây giờ anh mau mau đi tìm cô ta đi, tìm thấy hãy gọi ngay cho tôi.

Kì Phương định quay mặt đi thì ông bất ngờ kéo tay lại hỏi.

- Anh có biết vì sao Paul chết không?

Kì Phương sầm mặt, giờ là lúc còn quá sớm và quá khó để nói về nguyên nhân hay hung thủ.

- Anh có thấy điều gì đó bất ổn ở cô gái vừa bỏ trốn kia không?

- Thầy nói sao? Cô ta không thể liên quan đến cái chết của ba mình.

- Tôi không biết cô ta là loại người gì, nhưng chưa chắc Paul là người duy nhất sẽ phải chết.

- Thầy nói gì? - Kì Phương giật mình.

- Hãy nói cho cô ta biết sự thật và điều quan trọng nhất là đưa cô ta trốn đi đâu đó thật nhanh.

Kì Phương chột dạ, giáo sư Huỳnh Lẫm đã cảnh báo một điều mà lẽ ra anh phải biết trước. Trong khi nguyên nhân cái chết của Paul đang trong bí ẩn thì giáo sư Huỳnh Lẫm có lí do để lo lắng cho đứa con nạn nhân. Thi Nga là người ruột thịt duy nhất nên ba cô chắc chắn đã chia sẻ nhiều thông tin bí mật. Nếu chúng giết Paul vì những bí mật đó thì không lí do gì chúng không làm điều tương tự với con gái ông ta. Kì Phương vội vã đi nhanh ra xe. Hình như vừa sực nghĩ ra điều gì, giáo sư Huỳnh Lẫm đuổi theo rồi chặn ngang trước mặt anh:

- Tôi sẽ đi cùng anh!

- Việc này một mình em là đủ. - Nhìn khuôn mặt khốn khổ của thầy, Kì Phương không nghĩ ông lại đánh giá sự việc trầm trọng đến vậy. Anh nói vội. – Thầy cứ yên tâm, cảnh sát đang giăng lưới khắp nơi, nếu có kẻ nào đó muốn hại cô ta cũng không dại gì manh động lúc này. - Kì Phương né sang đi tiếp nhưng giáo sư Huỳnh Lẫm không để anh vượt lên.

- Anh định tìm cô ta ở đâu?

Kì Phương biết rằng ông muốn đích thân đi tìm Thi Nga, nghĩ đến viễn cảnh ông ta gặp Thi Nga để sổ toẹt cái điều anh đang bưng bít sẽ ê mặt. Việc này để anh chủ động nói lại với cô thì hơn. Hơn nữa, có thêm một ông lão già nua bên cạnh cũng không làm cô an toàn hơn. Anh đành nói qua quýt.

- Em cũng không dám chắc cô ta ở đâu, có lẽ ở chỗ người quen thôi.

- Nghe tôi nói đây. - ông đẩy anh lùi nửa bước rồi nói. - Nếu tìm thấy cô ta, hai người nên tạm náu mình đâu đó một hai hôm cho tình hình lắng xuống cái đã.

- Thầy nghĩ có kẻ sẽ giết cô ta sao? – Kì Phương phát hoảng.

- Qua những gì ta đã chứng kiến sáng nay, chúng ta chưa rõ kẻ giết Paul vì động cơ gì, hung thủ là ai và có bao nhiêu tên nhưng chắc chắn đây không phải là hành vi đơn lẻ bột phát. Từ sáng qua tới nay anh với Paul như hình với bóng. Sự gần gũi và ân cần thái quá của anh với cha con họ đang vô tình phát một thông điệp cho kẻ xấu rằng: anh với họ cùng bè cùng đảng. Họ phải chết thì anh cũng khó sống sót.

Kì Phương nghe xong suýt bật cười, anh cho rằng tên sát thủ đã cao chạy xa bay cùng với cổ vật. Khả năng chúng sẽ hãm hại nốt Thi Nga và anh gần như không có. Tuy nhiên chuyến thám hiểm thánh địa Naga nào đó có khi lại là căn nguyên chúng săn lùng cha con cô. “ Cẩn tắc bất áy náy’’ rõ ràng giáo sư Huỳnh Lẫm tĩnh tâm và có cái nhìn thấu đáo hơn anh tưởng.

- Nếu trốn đi lúc này. – Anh đắn đo. - Có làm cho cảnh sát nghĩ sai về mình không?

- Nếu anh và cô ta không phạm pháp thì không ai bắt được tội được cả.

- Thầy nói đúng, em sẽ đưa cô ta vào náu ngay tại đồn cảnh sát luôn.

Giáo sư Huỳnh Lẫm vội vã xua tay.

- Tìm đến họ lúc này không phải là cách làm thông minh nhất.

- Tại sao thưa thầy?

- Đương nhiên hai người không có tội, nhưng những gì anh và cô ta làm ở hiện trường đã lọt vào tầm ngắm của cảnh sát rồi. Lẽ ra cô ta nên ở lại trình báo và hợp tác với cảnh sát để tìm kẻ giết cha mình thì lại trốn biệt tích. Ai dám chắc cô ta không móc nối với với hung thủ hay đang tẩu tán cổ vật thì sao? Họ thừa lí do để tạm giam hai người để điều tra, anh hiểu chứ?

Kì Phương nhìn rõ một nỗi ác cảm về Thi Nga đang gợn lên trong đôi mắt sõi đời của ông.

- Vậy theo ý thầy, ta vẫn phải tìm một nơi nào đó để tránh nạn?

- Tôi nghĩ ra rồi, anh hãy đưa cô ta về Hội An ở tạm ngôi nhà bỏ không của nhóm chuyên gia khảo cổ Nhật. Chìa khóa tôi đang giữ đây. Dù sao thì bảo vệ và chăm sóc con gái Paul là trách nhiệm của tôi và anh lúc này. Ai dám chắc kẻ giết Paul sẽ không thanh toán nốt cô ta. Không được rời cô ta nửa bước. Phải bí mật và tạm thời cắt hết mọi liên lạc với bên ngoài. Tôi sẽ nhờ bạn đến bảo vệ hai người.

Kì Phương biết ngôi biệt thự hai tầng đầy đủ tiện nghi trong một con hẻm vắng bên sông Thu Bồn đó, đúng là một nơi lãng mạn và kín đáo.

Anh mỉm cười nhận chùm chìa khóa rồi lên xe lao đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 10

Champa là một vương quốc nhỏ bé nhưng lấp lánh trên bản đồ thế giới cổ đại bởi những ngọn tháp Chàm đỏ thẫm và huyền thoại về những pho tượng thần balamon đúc bằng vàng khối dựng khắp các thánh địa. Họ sở hữu một kĩ nghệ độc đáo về chế tác kim hoàn và đá quý dùng làm đồ trang sức. Các linga, kosa, các loại tượng thần và nhiều đồ thờ cúng tinh xảo được đúc bằng kim loại qúy hiếm đều là những tác phẩm nghệ thuật đắt giá nên được ngoại bang săn lùng ráo riết. Non trẻ, giàu có, xinh đẹp, lại nằm chênh hênh bên đường huyết mạch hàng hải nên quanh năm đối mặt với bao thèm thuồng nhòm ngó của cướp biển và các loại giặc dã. Để tồn tại, họ rất tinh thông, thiện chiến, giỏi đi rừng lẫn đi biển, giàu kinh nghiệm phòng thủ và dĩ nhiên là cả đào tẩu khi cần.

Tháng 6 năm 1902, trời Miền trung nóng như trút lửa, trên một công trường lọt sâu giữa cánh rừng vàng sém đang tấp nập từng đoàn người đào bới, khuân bê dưới sự giám sát tỉ mỉ đến khắt khe của những đốc công đặc biệt. Dưới một lều cây dựng tạm có hai người đàn ông cao lớn mặc quần short trắng, mũ vải cao, râu ria xồm xoàm đang chụm đầu trước các trang giấy trải rộng. Tuy gầy gò khắc khổ nhưng không làm mất niềm đam mê cháy bỏng hiện rõ trên khuôn mặt thanh nhã tuấn kiệt của mình. Đó là hai “ tên thực dân’’ Henrry Parmentier và Luis Finot. Hôm nay công việc của họ có thay đổi, thay vì khai quật và ghi chép như lệ thường, họ vừa nhận được một tấm bản đồ từ các cộng sự của EFEO gửi về.

Trước bản vẽ còn sơ sài và do dự, Luis Finot cho rằng dưới lòng đất xung quanh kinh đô Simhapura phải có một hệ thống hầm ngầm bí mật nối liền với Thánh địa Mỹ Sơn và cửa biển Hội An. Hệ thống hầm ngầm này phải là nơi thỏa mãn được một loạt yếu tố cốt tử như giúp vua chúa chạy giặc, cất giấu của cải, nơi trú ẩn và luyện pháp hoặc tẩu thoát nhanh ra Biển đông khi cần.

Tính riêng trung tâm tôn giáo Mỹ Sơn vào lúc hưng thịnh nhất là thế kỉ VI -VII, đã có hàng chục ngọn tháp với vô số tượng vàng bạc và đá quý ùn ùn dâng cúng trong các ngày đại lễ linh thiêng. Sử Hán còn khoe rằng quân của họ cướp được vô số vàng đến hàng trăm cân phải nấu chảy rồi đúc thỏi để tiện mang về. Các vương triều cổ đại luôn có một lượng ngân khố dự trữ và họ biết cách cất giấu chúng khi loạn lạc. Những kho báu này cho dù được cất dẫu kĩ càng đến bao nhiêu thì theo thời gian và binh biến cũng làm cho nó thất lạc và trở nên vô chủ.

Một thực tế là hầu hết các kho của này không bao giờ đến tay hậu duệ của họ, còn các nhà thám hiểm phương tây luôn luôn là người tìm ra chúng. Khắp địa cầu từ Châu á đến Châu phi rồi vòng qua Châu đại dương, không kho báu nào là thiếu dấu chân của người Pháp, Anh. Trước tấm bản đồ Champa, câu hỏi dầu tiên của Parmentier và cộng sự là: Il est ou le trésor? - Kho báu ở đâu?

Đã hơn một thế kỉ trôi qua, không biết các chuyên gia EFEO có lần ra manh mối kho báu nào ở Champa hay không thì câu trả lời cũng đã theo họ về với Chúa. Trăm năm qua không một nhà khoa học chân chính nào khơi gợi vấn đề tìm kho báu Champa thì đùng một cái, hôm nay và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử EFEO, Paul Morierre đã dõng dạc tuyên bố sẽ khai quật kho báu Chămpa. Nhưng... hỡi ôi, ông thề thốt ầm ĩ xong chưa kịp chứng tỏ cho nhân loại thấy thì cũng vội vã về trời. Vậy thực chất kho báu này là gì và đang ở đâu?

Trên đường quay lại Đà Nẵng, Kì Phương băn khoăn không biết Thi Nga đang ở Rex chờ anh hay đã lên đường đi tìm kho báu Naga. Anh lo đêm hôm lạ nước lạ cái không biết cô có về đến Đà Nẵng an toàn hay không. Nếu không bị sát hại dọc đường thì giờ này cô nàng đang thu xếp hành lí để rời Việt Nam theo dấu chân mịt mù vô vọng của cha cô sang Campuchia. Thật điên rồ. Đúng như anh hi vọng, chiếc Ford sét rỉ đang đỗ xệch xẹo ngoài cổng khách sạn. Chàng nhân viên đeo nơ thấy khách quen đi vào nên tỏ ra là người tinh tế.

- Cô ta đang chờ anh ở trên phòng 307 đấy!

- Vâng, cảm ơn anh!

Đến trước cửa phòng 307 anh lặng mình một lúc rồi ấn chuông. Cánh cửa vội mở ra.

- Anh vào đi!

Cô nhìn anh với ánh mắt mừng rỡ rồi ngồi vội xuống sàn trước chiếc vali lớn đầy sách đã mở tung. Cô đang lục lọi tất cả hành lí của ba mình để tìm manh mối về Naga. Kì Phương đảo mắt, khắp nơi bừa bộn sách báo bày từ trên bàn đến sô pha. Anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế trống dựng góc phòng và không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Dù muốn hay không anh cần phải nói ra sự thật. Dường như không hề để ý đến vẻ mặt căng thẳng của anh, Thi Nga rút một cuốn sách rồi xoay bìa về anh.

- Anh hãy lật chồng sách đầu giường xem có cuốn nào có từ “ thánh địa’’ như cuốn này không?

Kì Phương liếc qua cuốn “ Thánh địa Mỹ Sơn’’ của Ngô Văn Doanh liền hiểu ngay cô đang tìm gì nhưng anh biết điều đó không cần thiết nữa. Thi Nga đặt cuốn sách xuống rồi lại nói tiếp.

- Có hai thứ quan trọng nhất mà tôi muốn có ngay trước khi đi Camboge, đó là tấm bản đồ hay cuốn sách nào đó dẫn đến thánh địa Naga, thứ hai là cuốn nhật kí của ba tôi. Anh giúp tôi đi.

Cũng không cần nốt, anh nói thầm trong cổ. Nhưng không hiểu sao trước lời yêu cầu tha thiết kia, anh lại buột ra một câu khác hẳn:

- Mấy thứ đó chắc ba cô đã... mang đi rồi!

- Dạo này ba tôi hay quên, lúc đi lại rất vội vã. Nhật kí là vật bất li thân của ba rồi, mong sao tấm bản đồ ba tôi bỏ quên đâu đây.

Kì Phương dường như không nghe thấy gì, mấy lần suýt vọt miệng rằng ba cô chết rồi không cần đi đâu nữa nhưng anh đã kìm lại. Nhìn Thi Nga hừng hực ý chí mà anh không nỡ làm cô cụt hứng. Cô ngồi gần như xếp bằng trên sàn nhà trước ngổn ngang biển trời tri thức. Tấm lưng ong thon thả đang căng lên dưới mái tóc đen như lụa của cô gái mới đôi mươi. Khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt đen không chớp lướt nhanh trên những trang sách như sợ các dòng chữ sẽ vụt biến mất.

Một vẻ đẹp thánh thiện, một cô gái thơ ngây đáng thương thế này mà không hiểu sao viên thiếu tá và ngay cả thầy anh lại dồn bao ghi hoặc lên tâm hồn trong trắng như vậy? Không! Cô là một thiên thần. Anh không thể tiếp tục trù trừ và lừa dối cô được nữa. Phải nói. Lấy hết sự bình sinh anh cất giọng.

- Thi Nga! em hãy nghe... tôi nói đây!

Cô gái từ từ ngước lên, đôi môi mọng đầy hé mở thoáng chút ngạc nhiên. Nàng lúng liếng cặp mắt nhìn anh như chuẩn bị đón nhận một lời nguyện ước thiêng liêng. Nhưng rốt cuộc chẳng có gì cả. Kì Phương thấy trong đôi mắt kia là cả một bầu trời hi vọng đang bừng cháy. Ôi, đôi mắt! Có lẽ nào anh lại phũ phàng dập tắt nó. Lẽ nào đôi môi của anh lại phóng ra một lưỡi dao làm trái tim kia phải bật máu. Không! Lại một lần nữa, cổ họng anh như bị thít chặt.

Về phần Thi Nga, cô sớm nhận ra bên cạnh mình cũng chỉ là một kẻ si tình, một biểu hiện y hệt những anh chàng kém tự tin đang đeo đuổi cô bên Paris. Cô vội dụi mắt xuống đống sách, giọng chán ngán:

- Anh hết mệt chưa? có thể giúp tôi một tay được không? Trong chiếc túi vải trên giường kia của ba tôi cũng là sách, anh tìm nốt đi, chú ý các từ “ thánh địa’’ hoặc “ Naga’’.

- Nhưng... ba cô... ba cô đã... - Kì Phương cố gắng như một nỗ lực cuối cùng, nhưng chưa kịp nói tròn câu thì bị chặn lại bởi một câu ráo hoảnh.

- Ba tôi đã nói với tôi rằng, ông ấy sẽ có mặt ở thánh địa Naga trong chiều mai. Nào, hãy giúp tôi mở cái túi kia nhanh lên đi chứ.

Ở đời có một việc hiếm gặp mà ai cũng sợ phải làm, đó là đi báo tin người chết cho người thân của họ. Bởi đơn giản là không ai muốn làm đồng loại lên cơn đau đớn tột cùng. Vậy mà hôm nay, cái chân “ sứ giả thần chết’’ mà anh kiêng kị nhất trong đời đã gọi đúng tên anh. Trong tích tắc nữa, cơ thể tràn trề sức sống kia sẽ đổ ngã và giãy dụa trước một sự thật đang chực sẵn trên môi anh.

Giờ đây anh lại phân vân không biết nên kiên quyết chứng minh cha cô ta đã chết hay là cứ để cho cô ta tin cha mình đang sống thêm... một thời gian nữa? Mà một khi tin ba mình còn sống tức là anh cũng chuẩn bị khăn gói mà tháp tùng cô đi tìm ba mình tại cái thánh địa quái quỷ nào đó bên Campuchia.

- Cô tin mọi việc đang diễn ra đúng như cha cô đã nói? – Anh hỏi xong thì vội nhận ra câu hỏi quá thừa.

- Ơ kìa anh này! - Cô ngửng phắt nhìn anh như một thằng ngốc. – Nói thêm để anh biết, kế hoạch khám phá thánh địa của ba tôi đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm chứ không phải bột phát đêm nay.

- Sao? kế hoạch khám phá thánh địa của ba cô đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm? – Kì Phương kinh ngạc đến mức lắp bắp.

- Đúng vậy. Ba tôi nhất định đến đó.

- Thôi được. - Kì Phương lắc đầu chịu thua. - Chúng ta tìm bản đồ rồi đi Naga tìm ba cô.

- Anh đừng quên chúng ta đã thỏa thuận với nhau lúc ở dưới hố rồi nhé.

Lúc đó túng quá mà Kì Phương hứa bừa là sẽ cùng cô đi Pnompenh, rồi sau đó anh lại hứa đại với giáo sư Huỳnh Lẫm là đưa cô đi trốn. Giờ đây, theo đà này thì cô ta sẽ lôi anh trốn ra nước ngoài mất. Thế mà hóa hay. Làm thế thì được lòng cả hai và điều quan trọng nhất là cô ta sẽ thoát khỏi nơi nguy hiểm này?

- Tấm bản đồ và cuốn nhật kí. – Anh nói. - Trước đây cô đã nhìn thấy chúng bao giờ chưa?

Thi Nga định không đáp, nhưng không phải câu hỏi nào cũng vô vị.

- Bản đồ thì tôi chưa thấy bao giờ, còn cuốn sổ tay thì rất dày, bìa da màu đen. Cũng như một cuốn nhật kí riêng tư của bất cứ ai, ông không muốn ai xem nó cả.

- Chưa thấy bản đồ bao giờ, sao cố lại biết là có?

- Có lần ba tôi vui miệng hé lộ rằng khi tôi tốt nghiệp đại học ông sẽ tặng tôi một bản đồ kho báu.

- Và cô đã lục lọi tấm bản đồ đó?

- Anh hiểu tâm lí trẻ con đấy. Thú thực hồi đó tôi cũng tò mò, lúc ba vắng nhà tôi lục tung giá sách của ông mà không thấy. Ba tôi bắt quả tang nhưng ông không mắng mà cười nói, nó không ở trong ngôi nhà này đâu. Tôi hỏi ba để đâu thì ông nói lớn lên khắc biết.

Kì Phương đột nhiên nghĩ tới bản kí tự, liệu đây có phải là tấm bản đồ kho báu Naga nào đó đã mã hóa. Anh nói.

- Nếu tồn tại kho báu Naga, ắt ta sẽ tìm được. – Kì Phương an ủi, mặc dù anh cũng chưa có cách gì.

Ngay lập tức Thi Nga hất mái tóc và quay mặt sang.

- Anh đừng nghĩ đơn giản, đây là bí mật lớn nhất của lịch sử Khmer và Champa, nếu dễ người ta đã tìm ra từ lâu rồi.

- Chính ba cô đã biết đấy thôi?

- Ba tôi là người duy nhất làm được điều đó nhưng cái giá quá đắt. Mẹ tôi phải bỏ mạng ngay tại đó. Sự trả thù vẫn còn đeo đẳng ba con tôi đến tận bây giờ. Chính vì thế nên bằng mọi giá tôi sẽ không để ba đến đó một mình.

Lúc này thì Kì Phương mới thấm câu nói của giáo sư Huỳnh Lẫm, quả thật, ba con cô ta đang bị ai đó truy sát.

- Vậy ba cô đã nói kế hoạch gì với cô trước khi ông ấy sang đây?

- Ba tôi cho tôi biết sáng nay khai quật một linh vật ở Mỹ Sơn, chiều nay sẽ đáp máy bay qua Pnompenh để chuẩn bị cho khai quật thánh địa Naga vào chiều mai. Có lẽ sự cố ở Mỹ Sơn sáng nay đã buộc ba tiến hành khai quật Naga sớm hơn dự định. Ba tôi nói khai quật Naga là sứ mệnh lớn nhất của ông trước khi chết.

Nghe đến đây, Kì Phương nhận ra rằng đây là lí do cô chưa “ cho phép’’ ba mình được chết. Sau nghĩa vụ ở Mỹ Sơn sẽ là Naga. Ý nghĩa khám phá thánh địa Naga bí ẩn bắt đầu cuốn hút Kì Phương, và không biết tự khi nào anh đã bỏ hẳn ý định nói thật với Thi Nga. Tận dụng nguồn thời gian, Kì Phương định bảo Thi Nga mang vài cuốn vào ba lô vừa đi vừa tìm thì cô đã reo lên.

- Đây rồi, thánh địa Naga!

Kì Phương trờ tới nhìn lên cuốn sách được đóng thủ công đã thâm ố trên tay cô. “ Thánh địa Naga’’. Không kìm được tò mò, Kì Phương nhìn qua vai cô khi cô giở nhanh từng trang. Anh nhìn thấy có rất nhiều ảnh chụp và tranh vẽ tay khá công phu cố diễn tả từng phần một công trình bằng đá đồ sộ rất lạ mắt. Sức hút của những công trình kiến trúc cổ đối với Kì Phương là rất mãnh liệt. Đáng chú ý, trong công trình này hiện diện nhiều mảng phù điêu bằng gạch rất đặc trưng của người Chăm đan xen những bức phù điêu khổng lồ bằng đá khắc những điển tích thần thoại đậm chất Khmer. Thi Nga giở nhanh thoăn thoắt để tìm bản đồ. Cũng như khi soát xong đống sách trong va li, một lần nữa cô lại thất vọng.

- Anh tìm lại đi, để tôi tìm cuốn nhật kí.

Kì Phương vội cầm lấy xem ngấu nghiến. Mấy bức ảnh chụp đầu tiên là các lối đi lắt léo nhỏ hẹp rất tối tăm giống như một mê lộ dưới lòng đất. Những vách đá dựng đứng được khắc tạc các vị thần Ấn Độ giáo uy nghĩ lững lững và cả những hình vẽ lễ hội và dâng tế lạ mắt mà nhất thời anh không hiểu nổi. Tiếp đến là những không gian đóng mở, lồi lõm xen kẽ chứa đựng những pho tượng và kinh sách rất bề thế. Kì Phương đồ rằng nếu đây không phải là những tác phẩm do Paul tưởng tượng ra thì bấy lâu nay nhân loại đang bỏ quên một kho báu khổng lồ theo tất cả các ngữ nghĩa của nó.

- Đây là một kho báu trong lòng đất! – Kì Phương thốt lên.

Quả nhiên là trăm nghe không bằng một thấy, cho dù là thấy trong tranh ảnh. Kho báu Chămpa là có thật và được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp- những người không màng mê tín hay huyền thoại mà chỉ tin vào thực chứng. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được khẳng định bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm “ Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923.”

Cầm trên tay cuốn sách lạ này Kì Phương không khỏi hoài nghi đây liệu có phải là kho báu Champa mà sử sách tốn bao công bàn luận hay không. Kì Phương lật nhanh để xem nó lớn đến mức nào nhưng anh bỗng dừng tay khi thấy một bức ảnh tối màu nhưng nổi lên một vệt sáng ngoằn nghèo như dải khói trắng. Nhìn kĩ anh nhận ra đây là một con rắn rất lớn đang ôm một cây cột.

- Xem này! – Kì Phương hướng ảnh về phía Thi Nga.

Thi Nga thấy rắn liền giật thót mình suýt chút nữa ngã nhào lên đống sách. Kì Phương bấm bụng cười rằng mới chỉ là bức ảnh mà đã thế, không biết khi gặp rắn thật cô sẽ ra sao.

- Nếu nó canh giữ thánh địa này cô có dám vào không? – anh hỏi.

- Nó nằm trong Naga ư?

- Đúng. Thánh địa này có tên là Naga, theo thần thoại Ấn Độ thì đây là tên một loại “ rắn thần’’rất hung ác và là đối thủ không đội trời chung của chim thần Garuda. Loài vật thiêng này cũng được xem là thần giữ của trong các đền tháp. Cha cô còn tiết lộ điều gì về Naga nữa không?

- Mặc dù là một người kín tiếng nhưng trước khi đi ba tôi nói rằng thám hiểm thánh địa Naga có thể mất nhiều ngày và vô cùng nguy hiểm. Ba khuyên tôi ở nhà đừng lo lắng gì, ba sẽ liên lạc với tôi khi có thể.

- Vậy lí do gì mà cô phải cấp tốc đi tìm ông?

- Tôi biết đây là công việc liên quan đến cái chết mười hai năm trước của mẹ tôi, và lần này cũng rất nguy hiểm với ba tôi nên không nỡ để ông ra đi một mình.

- Mẹ cô cũng từng vào thánh địa Naga sao? - Kì Phương rất ngạc nhiên.

- Vâng, đó là câu chuyện dài. Dường như ba rất ân hận về việc mình đã làm với mẹ. Nhìn ông u uất nên tôi chạnh lòng và không nỡ hỏi thêm.

- Vậy tại sao ông không trở lại Naga sớm hơn, ví như năm ngoái, năm trước chẳng hạn?

- Không được. Ba nói rằng không phải cứ thích đi là đi, vấn đề là cánh cửa đá bí mật trong hang núi này không ai mở được!

Kì Phương đã từng nghe rất nhiều truyền thuyết kể rằng người Chăm cất giấu kho sách lớn dưới hang núi vùng Cà Ná từ mấy thế kỷ nay. Nền hang được phủ dày bằng lớp cát phát sáng, cửa đóng kín mít bởi một tảng đá to mà chỉ có người Raglai - một dòng họ gia nhân của hoàng tộc Champa mới mở được bằng bài phù chú bí hiểm với lễ vật. Câu chuyện này hấp dẫn các nhà sử học và hàng lớp người đã lên đường tìm kiếm. Không lẽ Thi Nga đang nói về nó chăng.

- Nếu không ai mở được sao ba cô trước đây lại vào được?

- Nó tự mở theo chu kì, và chu kì này sẽ đến vào ngày mai.

- Chu kì?

- Đúng vậy, ngày cửa mở chính là ngày diễn ra nghi lễ theo chu kì 12 năm một lần.

Kì Phương thấy bắt đầu thú vị. Sáng nay đã có một người buột miệng ra từ “ Chu kì’’. Thật ngốc nghếch nếu coi hiện tượng trên yoni sáng nay là tín hiệu của một chu kì cánh cửa xa lắc nào đó nhưng cũng không được bỏ qua bất cứ điều lạ thường nào.

Kì Phương lật từng trang một cách vô thức và mắt anh nhanh chóng lạc vào thế giới âm u thần bí. Khi nhìn xuống, anh bỗng rùng mình đánh rơi cuốn sách. Bàng hoàng mất vài giây anh mới dám nhìn xuống một bức ảnh văng ra nằm trên sàn. Không thể tin nổi. Chính giữa yoni là một dòng chữ kì quái đập vào mắt

Image
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 11

Sau khi xảy ra án mạng, Lê Đại Hắc nhận được chỉ thị tìm một bộ tài liệu mật liên quan đến Hoàng gia Campuchia đang trong tay Paul. Do quá tập trung chỉ đạo truy tìm hung thủ nên ông đã coi nhẹ căn phòng của nạn nhân ở Rex. Tuy đã báo cho cảnh sát khu vực đến niêm phong nhưng ông không mấy tin vào sự khẩn trương của họ. Hắc bỗng dưng thấy nôn nóng khác lạ, nếu Paul có một tài liệu tuyệt mật tầm cỡ về kho báu như bên Đại Sứ quán Campuchia khẩn báo như sáng nay thì chắc chắn đang nằm trong két sắt ở khách sạn. Ông lao ra ngoài gara, một phút sau chiếc Land Cruiser chở nhóm cảnh sát lao hết tốc lực về phía Đà Nẵng.

Kì Phương mở ba-lô lấy tờ giấy anh chép dòng chữ sáng nay ra so với dòng chữ trong bức ảnh. Thật kinh ngạc. Hai chữ này là một. Vậy là chữ đó đã từng xuất hiện tại một thánh địa khác ở một thời điểm khác. Kì Phương gợn lên một nỗi hoang mang rằng liệu những gì xảy ra với Paul sáng nay có giống như vợ ông ta ở Naga 12 năm về trước không? Nếu đúng thì cái chết của Paul đã được lập trình từ trước và hôm nay, tên sát thủ đã trở lại.

- Ai giết mẹ cô? – Kì Phương đột nhiên hỏi.

- Tôi không biết.

- Nhưng ba cô phải biết chứ?

- Tiếc rằng ba tôi cũng không nhìn thấy kẻ giết người. Đó là cái chết khủng khiếp đã ám ảnh ba suốt bao năm nay. Đã có lần trên giường bệnh ba tôi đã mê sảng và hét lên rằng “ Đừng giết ta, đừng giết con ta’’. Rõ ràng có ai đó muốn giết ba con tôi.

Kì Phương suy ra một điều rằng Paul đã bị một lực lượng nào đó đeo bám để trả thù từ khi rời kho báu Naga. Sáng nay giáo sư Huỳnh Lẫm đã vô tình gieo một câu mà anh cứ nhớ mãi “ chưa có kẻ nào đụng vào thần hộ mệnh Chăm mà toàn mạng trở về’’. Kì Phương cố gạt nỗi ám ảnh trong đầu rồi lật các trang sách hòng tìm chứng tích nào đó về hung thủ nhưng các bức ảnh còn lại chỉ là hang động âm u không có sự sống.

- Ba cô có bao giờ tiết lộ thánh địa này ở nơi nào không?

- Không, không bao giờ. - Thi Nga lắc đầu dứt khoát. – Ba nói vị trí này phải được giữ tuyệt mật vì tính mạng của tôi. Ba sợ tôi sẽ tìm cách vào đó và sẽ lại mất mạng... Ba nói nó là thánh địa có chủ hàng mấy thế kỉ nay. Những chủ nhân bí ẩn này sẵn sàng có mặt bất cứ đâu để ban cái chết cho bất cứ ai nhăm nhe xâm phạm nó. Ba mẹ tôi may mắn đã đặt chân đến đó nhưng mẹ tôi đã không thể trở về. Ba tôi căm thù chúng đến tận xương tủy và thề rằng ngày lôi chúng ra ánh sáng không còn lâu nữa!

- Nhưng ba cô đã... - Kì Phương định nói chết rồi nhưng may kìm được.

Nhìn Kì Phương đứng ngây người, Thi Nga giằng lấy cuốn sách trong tay anh rồi nói:

- Nếu anh sợ, tôi sẽ đi tìm Naga một mình.

- Ơ kìa. - Kì Phương giằng lại cuốn sách. – Ai bảo tôi sợ? mà cô biết Naga đâu mà đi một mình?

- Tôi sẽ tự đi tìm.

Kì Phương không hiểu cô gái này sẽ tìm cách nào giữa núi rừng bao la xứ người. Mà tình cảnh cô lúc này cũng rất éo le, ở lại cũng không ổn, đi cũng không xong và anh không nỡ bỏ cô lúc này.

- Tôi sẽ đi cùng cô. Chúng ta sẽ cùng đi Naga.

- Anh không sợ tai vạ à? Nếu có mệnh hệ gì thì sao?

- Tôi chỉ lo cho thân gái của cô thôi.

Nhìn thấy sự quyết tâm của Kì Phương, mặt cô rạng rỡ trở lại.

- Chúng ta phải tìm ra Naga trước chiều mai. - Cô nói. – Nếu muộn hơn e phải đợi thêm... mười hai năm nữa đấy.

Kì Phương gật đầu rồi nói nửa thật nửa đùa.

- Không bản đồ, không manh mối, không người dẫn đường, hi vọng mười hai năm sau tìm thấy là vừa.

- Tại sao lại không có manh mối chứ?

Kì Phương chợt nhớ ra mẩu giấy của Paul và cả dòng chữ trên yoni. Rất có thể con đường đến Naga đang ẩn trong đó.

- Chắc cô biết tiếng Chăm chứ?

- Tôi chỉ học một ít qua ba thôi. – Cô đáp thoáng chút ngượng ngùng.

- Thế là tốt, hơn một trăm ba mươi ngàn người Chăm trong nước cũng chỉ vài chục người đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ là cùng. Còn để đọc được tiếng Chăm cổ thì chỉ đếm đầu ngón tay.

- Mà anh hỏi để làm gì?

Kì Phương đưa cho cô tờ giấy có dòng chữ Chăm lạ.

- Đây đâu phải tiếng Chăm?

- Đây không phải là chữ thảo Akhar Thrah, nhưng có thể là một chữ Chăm cổ. Cô nên nhớ là từ thời lập Quốc đã có đến hàng trăm phiên bản đấy.

Thú thực Kì Phương cũng không thể biết hết người Chăm đã sáng tạo ra bao nhiêu và khai tử bao nhiêu loại chữ. Ngoài chữ thảo Akhar Thrah có từ thời vua Pô Rôme đã tròm trèm năm thế kỉ thì còn vô số phiên bản cổ xưa hơn nhiều. Chữ Chăm cổ đó lại được phân ra nhiều loại khác nhau như chữ thánh Akhar Rik, chữ con nhện Garlimang, chữ bí ẩn Akhar Yok, chữ Hayep viết trên bia kí, kim loại, chữ Agal viết trên lá buông... Chính vì quá nhiều và phức tạp nên hầu như không ai có thể liệt kê hết bao nhiêu chữ Chăm cổ. Nhìn tờ giấy xong Thi Nga lắc đầu.

- Tôi chịu, có vẻ như là chữ trên bùa chú?

- Không phải, chữ trên bùa chú của người Chăm thường là hình vẽ hoặc viết phăng trên nền chữ Akhar Thrah nên xem qua là dễ đoán được ngay.

- Vậy theo anh?

- Tôi cũng chịu, có lẽ nó đã chết. – Anh buồn bã đáp.

Kì Phương lôi cả bảng kí tự latin lẫn chữ Chăm cổ đặt lên bàn nghiền ngẫm mong sao tìm ra lời giải.

Dòng kí tự đầu tiên A5D6. Ở đây D6 chưa hẳn là tháp D6 mà là chữ Door – 6 viết tắt. Paul xuất thân từ kiến trúc sư, quy tắc quốc tế đánh kí hiệu cửa đi trong các bản vẽ kiến trúc là D1, D2... Vậy là ý đồ của Paul có thể là:

A5D6 có thể là cửa đi thứ 6 của tháp A5.

Và E3C8 có thể là cột (column) thứ 8 của tháp E3 .

Một niềm hi vọng mãnh liệt lóe lên trong óc Kì Phương. Cửa đá và cột đá của tháp Chăm luôn khắc đầy minh văn và ẩn chứa vô số điều bí ẩn. Nếu nói đó những trang sách cổ bằng đá cũng không ngoa. Theo các truyền thuyết, vua chúa Champa sau khi chôn giấu kho báu rồi để lại di chỉ bằng các bài thơ thể loại Arya hoặc Malini trên các phiến đá. Đầu óc Kì Phương mau lẹ kết nối các kinh nghiệm trong quá khứ rồi quyết định phải tìm ngay cánh cửa đá D6 và cột C8.

- Tôi nghĩ ra rồi? – Kì Phương vui sướng thốt lên.

Thi Nga vội vàng ập đến.

- Anh đã tìm thấy bản đồ rồi sao?

Kì Phương bỗng dưng im lặng, anh đã quá bộp chộp khi làm Thi Nga cụt hứng. Các tháp này đã... không còn nữa. Hai tháp A5 và E3 đã bị phá hủy hoàn toàn. Trước đây các nhà khảo cổ đã bới trong đống tàn tích kia vài cấu kiện nhưng không còn đầy đủ và nguyên vẹn nữa.

- Nói đi. – Thi Nga giục.

- Di chỉ ngay trên tháp, nhưng các tháp này đổ nát hết rồi.

Thi Nga không ngạc nhiên, đêm qua cô đã phát khóc vì quang cảnh tiêu điều ở đây. Cô nói:

- Nhưng các mặt chữ trên đá chưa vụn ra là được.

Kì Phương cũng tin như vậy, đống hoang tàn khu B do bị bom đánh sập nhưng các mặt chữ trên đá còn nguyên. Nhưng anh lại phát hiện ra mình nhầm chỗ khác. Các tháp chỉ có một và tối đa là hai cửa nên D6 cũng không thể là cửa thứ 6 được. Anh nói.

- Cái ta cần là cửa thứ sáu, nhưng tháp này chỉ có đúng một cửa thật. Có lẽ tôi đã nhầm.

- Sáng nay tôi có thấy cánh cửa đá nào đâu, chỉ trơ mỗi khung mà thôi.

- Khung cửa? Đúng đấy. Mỗi bộ khung có hai đà dọc và một đà ngang, mỗi đà có ba mặt nên tổng cộng có tới chín mặt khắc chữ. D6 là mặt thứ 6 của khung đó.

Một chiếc cột ở Mỹ Sơn của vị tân vương Paramabodhisatva khắc năm 1081 cho biết ông ta lên ngôi năm nào và dâng cúng cho thần bao nhiêu vàng bạc, ngọc ngà châu báu. Để biết thêm số của cải khổng lồ này cất đặt ở đâu sau khi cúng tế, các nhà khoa học đã truy tìm tất thảy những gì có chữ ghi trong tháp. Tương truyền, tất cả những bài thơ tả cảnh sông núi hữu tình khắc trên đá là ám hiệu những vị trí chôn giấu của cải đã nói trong ngôi tháp đó.

Một khung cửa và một cột đá là cái Paul phím cho anh thật sao? Kì Phương phấn khích như cậu học trò vừa giải xong bài toán khó, anh nói chắc nịch.

- Đúng là ba cô treo kho báu trên khung cửa, chúng ta phải tìm cách hái xuống.

- Lại quay lại Mỹ Sơn à? – Cô lo lắng hỏi.

- Không, mấy cái cột đá này đã mang vào trong bảo tàng Chăm từ lâu. Chúng ta đến đó để xem các trang sách này viết gì, mà biết đâu chính hôm qua ba cô đã dùng phấn viết đè lên đó.

Cả hai háo hức xách túi định đi ra thì điện thoại Kì Phương reo vang, anh lập cập khi nhận ra giọng giáo sư Huỳnh Lẫm.

- Này, tìm được cô ta chưa? – Ông ta gào lên.

Bây giờ anh mới sực nhớ lời ông dặn.

- Em cũng vừa tìm được cô ta nên...

- Hiện anh chị đang ở đâu?

- Dạ, bọn em đang trong... khách sạn.

- Trời ạ! Các người làm quái gì ở đó mà lâu thế?

Kì Phương tiến về cửa sổ tránh xa Thi Nga nhưng hình như ông cố tình gào lên để cô nghe thấy.

- Nguy hiểm! Hãy kéo cô ta trốn đi ngay lập tức!

Giọng nói khô khốc lẫn tiếng huyên náo trong máy vụt tắt. Kì Phương thò đầu qua cửa sổ ngó xuống sân lạo nhạo người ra vào mà mường tượng đến tên sát thủ cải trang đang lẻn vào khách sạn tìm Thi Nga. Không chỉ thế, nhìn đống hành lí ngổn ngang giữa nhà anh chợt thấy mình đang vi phạm nghiêm trọng đến tài sản của nạn nhân. Sau vụ phá nát hiện trường, anh đang tạo thêm dấu vết dễ ngộ nhận liên can đến vụ án mạng và đây là cái cớ để cảnh sát đưa anh vào buồng giam.

“ Nguy hiểm! Hãy kéo cô trốn đi ngay lập tức’’. Giáo sư Huỳnh Lẫm thật đúng lúc.

- Thi Nga, chúng ta cần ra khỏi đây ngay!

Thi Nga thoáng ngỡ người nhưng cô vội hiểu rằng nếu nán thêm một phút nữa, cô sẽ không thể ra khỏi phòng chứ đừng nói là ra khỏi Việt Nam. Cô tùa mấy cuốn sách xem dở vào ba lô rồi lao ra khỏi phòng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 12

Chiếc Land Cruiser bật hết chế độ xin đường để băng qua thành phố với thời gian ngắn nhất có thể.

Chiếc xe phanh két ngay cổng ngoài khách sạn, trước khi bước ra, viên chỉ huy phóng mắt ra ngoài chạm đúng chiếc Ford màu đen cũ rích đậu bên hè. Với con mắt nhà nghề, sáng nay ở Mỹ Sơn ông cũng đã thấy nó đậu cẩu thả như vậy bên mép đường. Viên chỉ huy nói nhỏ với một nhân viên:

- Cậu đứng xa nhưng đừng rời mắt khỏi chiếc xe này, nếu thấy kẻ nào lấy xe báo ngay cho tôi.

Nhóm cảnh sát mặc sắc phục nhảy ra khỏi xe rồi tiến vào bên trong.

Trong chiếc taxi băng băng trên phố hướng về nhà Bảo tàng, Thi Nga lo lắng nói.

- Họ sẽ phát điên vì chúng ta mất.

Kì Phương ngoái nhìn phía sau, nửa muốn quay lại gặp Lê Đại Hắc nửa muốn giục lái xe tăng tốc nhanh hơn nữa. Anh ái ngại nói:

- Nếu cánh cửa kho báu không mở vội như thế, ta chẳng cần chạy trốn như thế này đâu.

Kì Phương nói như để thanh minh cho một hành vi mà dù chính cô đang ủng hộ nhưng biết đâu trong bụng lại nghĩ anh hành động như một tên du đãng.

- Đúng vậy. – Thi Nga đáp - chỉ cần bị ai đó chặn trên đường, chúng ta sẽ lỡ chuyến bay và cả kho báu nữa.

- Nhưng nếu chúng ta tìm ra Naga thật, mọi hiểu nhầm sẽ được thanh minh ngay tức khắc.

- Có vẻ anh rất lạc quan, anh tin manh mối được ba tôi chỉ ra trên khung cửa kia sao?

- Tin chứ, trước đây có một người Hoa đọc được bài thơ khắc trên bậc cửa chùa và họ đã lần theo rồi tìm được một tảng đá khác. Trên tảng đá có câu văn chỉ họ đến một ngôi đền.

- Sau đó thì sao?

- Dưới nền ngồi đền này có một cái hầm rất sâu và họ quyết định đào xuống.

- Chắc là có vàng dưới đó? – Thi Nga hồi hộp.

- Không, dưới đó có một tảng đá khắc chữ nói rằng...

Thi Nga cười chua xót.

- Nói rằng các vị là những thằng ngốc chứ gì?

Kì Phương nhìn cô nghiêm mặt nói:

- Cái gì càng giấu nhiều lớp càng kín đáo và an toàn. Một trong những tố chất cần có của một người tìm kho báu là kiên trì. Có khi mất nhiều năm cho đến hết đời người mới tìm ra, thậm chí cha truyền con nối, cháu noi theo...

- Thôi, tôi xin, tôi chỉ có chưa đầy hai mươi bốn tiếng nữa thôi đấy. Mà anh chắc là mấy chiếc khung đá này đang ở bảo tàng Chăm chứ?

Kì Phương cố giấu một nỗi lo ập đến. Phải thừa nhận Bảo tàng Chăm là kho tư liệu về văn khắc Champa lớn nhất nước nhưng con số này chỉ nhỉnh hơn 206 bia kí đang lưu trữ ở Pháp. Ngoài ra số lượng đang rải rác khắp miền trung và các bảo tàng địa phương cũng không ít.

- Tôi chỉ dám nói là hi vọng thôi, bởi nếu ba cô chọn cô là người mở kho báu thì ông không muốn giấu chìa khóa một nơi quá xa được. Tôi nhớ cách đây vài tháng rất nhiều mảnh cột vỡ mới được nhập kho chờ phục chế. Mong rằng khung cửa mà ta cần nằm trong số đó.

- Có đúng là sáng qua ba tôi đã đến đó để giúp Bảo tàng dịch tiếng Phạn không?

- Cô nói đúng lắm. Sáng qua ông có nhờ tôi chở vào Bảo tàng rồi ở đấy cả buổi sáng. Ba cô nói rằng đang còn 87 văn khắc bằng tiếng Chăm và 15 bằng tiếng Phạn đang chờ ông.

- Vậy có lẽ chúng ta đã tìm đúng chỗ.

Bảo tàng Chăm luôn tấp nập khách tham quan ngoại quốc nhưng hôm nay khá vắng ngoại trừ một đôi trai gái và một nhóm học sinh đang thích thú tạo dáng chụp ảnh bên 32 bầu * bằng đá bên phải gian ngoài. Kì Phương kéo Thi Nga đi một mạch ra khu nhà ngang phía sau cùng, nơi vừa là kho vừa là khu trưng bày tạm thời. Thấy cửa kho mở, họ đi vào một xưởng phục chế khá rộng. Nhiều mảng bia vỡ chất đống bám đầy bụi mấy chục năm nay chưa có người dịch, chỉ rất ít được làm sạch để sao chép và nghiên cứu.

Kì Phương đi tiếp về cuối phòng, không mất thời gian như anh tưởng, dưới sàn có vài mảnh sa thạch vỡ, dăm ba mảng phù điêu, vài trán bia sứt mẻ và nhiều cột đá. Tất cả đang được phân loại và đánh số rất rõ ràng do đó Kì Phương đã mau chóng tìm ra những thứ mình cần. Sự suôn sẻ ngoài mong đợi này càng làm anh nghi ngờ Paul đã “ dọn cỗ’’ cho họ từ hôm qua. Anh chỉ một dãy cột đá xếp ngăn nắp nằm sát tường rồi nói:

- Nó đây rồi.

Kì Phương tìm thấy một nhóm gồm ba dầm đá nhỏ xếp gọn và ghi rõ “ Dầm cửa A5’’. Đúng như anh nhận định, mỗi dầm chỉ có ba mặt khắc chữ, còn một mặt gắn vào tường nên để trơn. Tổng cộng có chín mặt chữ và được đánh chữ cái từ A cho đến I. Kì Phương chợt lúng túng khi thấy cách đánh kí hiệu bằng chữ cái latin chứ không phải bằng số. Vì vậy 6 tương ứng với F và tim anh bỗng đập rộn lên khi nhìn vào mặt đá lỗ chỗ này.

- Có thấy gì không? – Thi Nga sốt ruột hỏi.

- Phải tìm nốt cột C8 ở đâu đã. – Anh nói.

Kì Phương sục sạo trong đống phế tích nhưng không cần tìm lâu, dường như Paul đã cố tình xếp hai món ăn này cạnh nhau cho thực khách tiện dùng. Thông thường tháp chỉ có 4 cột góc, nhưng tháp E3 thực ra là nhà dài đón khách hành lễ đặt trước các tháp thờ chính nên có nhiều cột đá. Nhanh chóng thấy cột ghi chữ C8 này nằm cách đó không xa, anh vội vã nằm cùng chiều để đọc nhưng khi nhìn vào anh đã nhận ra đây là những khúc xương khó gặm. Oái oăm thay, bài minh đậm chất Hayep sắc nét tuyệt đẹp kia là tiếng Phạn - ngôn ngữ mà một chữ bẻ đôi anh cũng không biết.

- Anh không hiểu đúng không?

Kì Phương giật mình quay lại và thấy Thi Nga đang nằm sát sau lưng và cũng hướng về cột đá. Anh quên phắt dòng chữ và kịp đọc một nỗi thất vọng tràn trề hắt ra từ ánh mắt đen thẳm kia. Thi Nga ngồi dậy rồi dựa lưng vào một tảng bia đá khổng lồ trong khi Kì Phương vẫn nằm dài không buồn cử động. Mệt mỏi và hụt hẫng, từ hôm qua đến nay tuy không nói ra nhưng Kì Phương biết cô vẫn hi vọng ở anh. Vậy mà anh chưa làm được gì giúp cô ngoài sự lừa dối và đưa cô đi hết thất vọng này đến thất vọng khác.

- Mật mã chắc chắn chỉ ra cột đá này. - Kì Phương thanh minh. – Nhưng phần tiếng Chăm quá ít và tiếng Phạn quá nhiều.

- Theo tôi biết các văn khắc ở Mỹ Sơn chủ yếu là tiếng Chăm cổ. Ba tôi dùng tiếng Phạn chắc có ẩn ý nào đó chứ?

- Các bia kí và đền tháp còn tồn tại ở Mỹ Sơn hầu như xây dựng từ sau thế kỉ thứ 8 trích dẫn điển tích Ấn giáo và thi ca Ấn Độ.

- Xem chừng chúng ta đang đối mặt với ngôn ngữ thuộc loại khó nhất hành tinh. – Thi Nga nói. - Vậy nếu anh không biết tiếng Phạn, chúng ta hãy tìm xem bản dịch đang ở đâu?

- Mấy tấm văn khắc mới khai quật này chưa có ai dịch đâu. Thậm chí trước khi người Pháp bỏ về năm 1945 cũng chỉ một nửa trong số hai trăm bia kí mới được dịch một cách sơ sài. Nếu hôm qua ba cô dành cả ngày để dịch thì cũng không thể xong nổi, vì sao lâu thế tôi sẽ nói sau.

- Nhưng dù sao thì cũng được vài dòng chứ? - Cô thắc mắc.

Kì Phương nhìn lên bản minh văn dài dằng dặc và biết rằng dù một bậc thầy Phạn ngữ như Finot hay Codès thì cũng phải mất vài tháng để dịch. Khả năng Paul chỉ dịch trong buổi sáng là không thể. Kì Phương đưa bàn tay miết lên bài minh bí ẩn mà tự trách mình đã không chịu khó học tiếng Phạn từ người thầy vĩ đại này. Bỗng dưng một cảm giác gai nhột rợn lên gan bàn tay, Kì Phương nhìn vào lòng bàn tay và kinh ngạc khi thấy trắng hếu như tẩm bột. Anh quan sát kĩ mặt đá rồi nhanh chóng nhận ra đây là bột phấn. Giờ thì anh hiểu vì sao mặt đá kia đã bị ai đó xóa sạch.

- Có thể ba cô đã dịch nhưng đã bị ai đó xóa mất.

Thi Nga đứng dậy kiểm chứng rồi nói đầy vẻ hoang mang.

- Có lẽ đã có kẻ nào đó nhìn thấy bản kí hiệu của ba tôi và nhanh trí giải mã trước chúng ta hay sao? Nếu đúng thì hắn sẽ đến Naga trước chúng ta rồi.

Kì Phương cay cú như bị thua cuộc, không chỉ là kho báu mà là niềm tin của Thi Nga trao cho anh. Anh đã quá chậm. Mà kẻ chết tiệt nào mà nhanh thế cơ chứ? Không lẽ giáo sư Huỳnh Lẫm hay Phú Thành Tài? Cách gì thì cách, thánh địa này đang ở đất Campuchia nên muốn tìm phải đến đó. Dân bản xứ có thể đã biết. Phải tìm một người bản địa để hợp tác. Trước hết đó là một người thông thạo đia hình như một nhà thám hiểm kinh nghiệm. Chưa đủ, kiến thức anh ta phải ngang một sử gia và nhà khảo cổ cộng lại. Một người uyên bác như vậy đào đâu ra bây giờ, mà giá như tìm được thì liệu họ có sẵn lòng giúp hay không. Lục trí nhớ hồi lâu, anh bật dậy rồi reo lên.

- Tìm ra rồi!

Thi Nga vẫn im như thóc, cô biết sự xốc nổi của anh cũng chả đi đến đâu.

- Lần này sẽ có người giúp chúng ta. - Anh nói to.

- Ai đấy?

- Vua đồ cổ.

- Vua đồ cổ nào?

- Không những vua đồ cổ mà còn là nhà sưu tầm sách cổ người Khmer. - Kì Phương nói chắc nịch. - Không một đền đài nào trên thế giới thiếu dấu chân anh ta. Nếu tồn tại Naga trên đất Campuchia, anh ta ắt đã biết. Nếu anh ta không biết, thì kho sách của anh ta sẽ cho chúng ta biết.

- Hình như ba tôi có biết anh này. – Mắt Thi Nga hấp háy.

Kì Phương không ngạc nhiên điều đó bởi y quá nổi tiếng. Vốn con trai của một vị hoàng thân Khmer đầy quyền thế, mấy năm trước chính y đã bỏ ra một triệu đôla để mua một kosa vàng trong một phiên đấu giá Sping. Mặc dù y mang về làm của riêng, nhưng giới khảo cổ vẫn lấy đó làm vui bởi cổ vật đã quay lại Đông phương sau bao nhiều năm lưu lạc trời Âu. Đó là phần hoạt động mang tính quảng bá, nghề chính của y là buôn lậu và sưu tầm cổ vật. Có nhiều người đồn rằng số sách quý y thuổng của người Chăm cũng không ít. Người hiểu biết hơn thì nói rằng mục đích chính của y là lật tung kho thư tịch cổ Chăm để tìm một tấm bản đồ da dê về kho báu Chămpa thất lạc từ thế kỉ 12. Để làm ăn suôn sẻ, y quen khá nhiều quan chức và những nhà Champa học uy tín.

Chẳng biết có nên cơm cháo gì không nhưng một lần nữa Thi Nga lại đặt niềm tin ở anh. Mà thực ra không tin anh cô cũng chả còn ai khác. Cô hỏi.

- Thế anh với vua đồ cổ là bạn à?

- Không! – Kì Phương cười cười nói. - Anh ta thuộc đẳng cấp Brahman, còn tôi chỉ là hạng Soudra làm sao dám kết thân. Giáo sư Huỳnh Lẫm và mấy thầy tôi quen anh ta. Có lẽ Campuchia quá nhỏ nên vị vua này rất hay vãng lai Miền trung tìm hàng và quen rất nhiều người trong các Bảo tàng. Các phiên đấu giá lớn cổ vật ở Paris, London không bao giờ vắng bóng y.

- Đúng đây là người chúng ta cần. – Thi Nga chép miệng. - Anh thử móc nối với y xem sao?

Kì Phương không nỡ hâm nóng cô lên rồi lại dìm xuống nước lạnh, anh rào trước:

- Khó lắm, tay này rất bận và kiêu ngạo. Giờ này chắc gì có mặt ở Campuchia nhưng tôi sẽ thử xem.

Sực nhớ trong túi vẫn con cuốn danh thiếp, Kì Phương vội mở balô ra tìm và điều thần kì chẳng ở đâu xa. Anh không ngờ trong đám kĩ sư khắc khổ lại lạc lõng một tấm danh thiếp dát vàng của một doanh nhân.

Hóa ra cách đây vài năm trong bảo tàng Chăm, Kì Phương đã có mấy phút chạm trán với y. Điều đáng nói là vua đồ cổ lại chủ động làm quen với một sinh viên mới ra trường như anh. Lúc đó Kì Phương không hề biết y là ai và cũng chẳng bận tâm đến du khách sang trọng này. Hắn có đưa card và theo phép lịch sự anh cất vào ví. Sau này khi biết hắn là ai, Kì Phương mới nghĩ ra xưa kia hắn muốn móc nối với anh là có chủ ý. Giờ đây khi hắn trở nên giàu có và nổi tiếng thì cơ hội để kết thân với y đã xa vời vợi. Đã chín năm, giờ là lúc anh cần đến hắn. Mặc dù chưa biết khơi lại trí nhớ của y bằng cách nào nhưng tay anh vẫn bấm số di động ghi trên card.

“ Số máy này tạm thời không liên lạc được...’’

- Biết đâu anh ta tắt, nhắn tin xem sao. – Thi Nga gợi ý.

- Nhắn gì bây giờ đây?

Kì Phương vắt óc suy nghĩ. Đường đột nhờ vả một người chưa quen là rất khó. Có câu răn dạy đại ý rằng “ phải làm cho người ta cần mình trước khi mình cần người ta’’. Phải có gì đó thật ấn tượng mang ra chào hắn trước. Muốn nhử mèo phải dùng cá rán, nhưng cá rán của y là gì đây. Kì Phương đưa mắt dọc ngang rồi nhìn thẳng khuôn mặt xinh đẹp của Thi Nga .

- Đã có cách!

Anh mỉm cười soạn một mẩu tin nhắn rồi nói như đinh đóng cột.

- Nhận được tin này, anh ta sẽ đến tận chân cầu thang máy bay đón chúng ta!

Thi Nga rướn lên nhìn màn hình xem anh vừa làm trò gì nhưng anh đã kịp xóa. Hồi năm thứ nhất đại học, đám con trai trong lớp luôn dùng điện thoại chụp trộm khuôn mặt đẹp như ngọc của cô. Điều này cô không bận tâm nhưng sự việc không dừng lại ở đó. Trong đám nghịch ngợm này có kẻ mang về nhà dùng Protoshop cắt đầu cô ghép lên một loạt bức ảnh khỏa thân nào đó rồi tung lên mạng. Cô vẫn không hề hay biết gì cho đến khi mấy tay đại gia trẻ và cả một đạo diễn phim cấp 3 từ Mỹ bay qua để đặt vấn đề thì cô mới vỡ lẽ. Thi Nga không buồn nhớ lại chuyện đau lòng này nhưng cô rất sợ trò đùa man rợ này lặp lại lần nữa.

- Ta đi ngay thôi. – Kì Phương kéo tay cô đứng dậy.

- Lúc nãy anh chụp ảnh tôi phải không? – Cô vừa đi vừa gặng hỏi nhưng Kì Phương luôn miệng phủ nhận.

Hai người bước ra cửa ngách rồi bắt xe lên sân bay mua vội hai chiếc vé đi Pnompenh chuyến bay gần nhất. Sau cái chết của Paul, cơ quan điều tra và giáo sư Huỳnh Lẫm cũng không muốn anh bỏ đi lúc này nhưng kho báu Naga ngàn năm bí ẩn đang thôi thúc réo gọi và anh không muốn bỏ lỡ.

Xong thủ tục check-in và qua khâu kiểm tra an ninh, họ lặng lẽ tìm một góc yên tĩnh trong khu cách li chờ lên máy bay. Dãy kí tự và dòng chữ cổ ngoằn ngèo trong túi vẫn không một phút để anh nghỉ ngơi.

- Anh đưa chữ Chăm cổ kia tôi xem lại! – Thi Nga đột nhiên yêu cầu.

Kì Phương đưa cho cô rồi gợi chuyện.

- Liệu cô có cho rằng đây là tên một người nào đó?

- Tôi cũng nghĩ vậy. Nó giống một chữ kí được luyện rất công phu rất khó luận tên người. Nhìn qua rất giống chữ kí của các tu sĩ hoặc vua chúa thời xưa.

Kì Phương vui vì cô bắt đầu suy diễn lí thú mặc dù anh không đồng ý như vậy.

- Tôi chả thấy giống vua chúa nào cả. - Kì Phương nói. - Tôi nghĩ đây là một tên sát thủ.

- Tại sao phải là sát thủ? Hắn có giết ai đâu?

Kì Phương nghĩ lại không nên để cô loạn nghĩ. Anh nói.

- Tôi cũng cho rằng nó giống chữ kí, trong bức ảnh yoni ba cô chụp ở Naga có chữ này, và ở Mỹ Sơn đêm qua cũng xuất hiện chữ này nên tôi nghĩ rằng kẻ này thường hay đi cùng ba cô thì phải. Nếu cô biết chữ kí này là của ai thì rất có ích để tìm ra hắn ta lẫn Naga.

- Có lí! Để tôi nghĩ xem đã nhé, ba tôi dạy cho tôi rất nhiều tên riêng của các nhân vật lịch sử Chămpa và bạn bè ông ta nữa. Đây có thể là tên thánh của người Chăm nào đó.

Kì Phương bồi thêm:

- Không loại trừ đó là đồng nghiệp của ba cô. – Kì Phương đặt nhẹ tờ giấy vào tay cô và dằn giọng. – Tôi tin chữ này còn xuất hiện rất nhiều nơi khác nữa, hãy nhớ là tính mạng cô đang nằm trong tay hắn đấy.

Thi Nga định phản bác nhưng rồi cô lại im lặng nhìn lên dòng chữ. Giờ là lúc nên tập trung. - cô tự nhủ. Kì Phương bước đi một đoạn khá xa cốt dành cho cô một không gian tĩnh lặng để ôn lại kí ức.

Anh đồ rằng trong sổ tay hay giấy tờ của ba cô có chữ đó, thậm chí trên các bức tranh, các cuốn sách hoặc trên một kỉ vật nào đó. Một khi không hiểu nghĩa thì cũng phải tìm cho ra ai là tác giả chữ đó. Thi Nga là người duy nhất có khả năng nhận dạng bởi không ai có thể tiếp cận góc khuất của Paul trừ cô.

Thời gian lại trôi đi, chẳng có tiếng reo nào vang lên từ Thi Nga. Cô vẫn cầm tờ giấy ngồi yên như hóa đá. Tên kẻ thủ ác đã hại chết ba mẹ và sẽ giết cả cô nữa vẫn bí ẩn đầy thách đố như chính dòng chữ lờ nhờ ma quái trên tay cô.

Kì Phương nhìn trộm cô, một nỗi thương hại trào lên xé nát những ước ao cháy bỏng không nói thành lời từ trái tim anh. Không biết Thi Nga đang nghĩ gì nhưng cô vẫn dán mắt vào tờ giấy như bị thôi miên. Ánh nắng chiều từ vách kính hắt qua khung cửa làm cho tờ giấy gần như trong suốt. Đang nhìn cô bỗng Kì Phương chợt rùng mình. Mắt anh quắc lên nhìn xuyên tờ giấy. Một dòng chữ sắc nét hiện lên trên mặt sau và anh không thể tin nổi vào mắt mình nữa.

Cái gì thế này! Anh lao bổ về phía cô.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 13

Phi cảng quốc tế Pochentong - Pnompenh tại thời điểm đó, trong dòng người hối hả ùa ra từ máy bay đột ngột xuất hiện một gã thanh niên cao lớn khác thường. Khuôn mặt và sải chân của y phóng đãng bay lượn như dải khói từ chiếc tẩu chênh chếch trên khóe miệng vươn đến mang tai. Chiếc áo da phanh rộng lộ ra hai thứ mà hắn tin thiên hạ nhìn vào mà ngưỡng mộ. Thứ nhất là vị thần bằng kim cương sáng lóe trên cổ. Thứ hai là bộ ngực như hai chiếc vung úp căng phồng đầy sung mãn.

Không thèm bước vào căn phòng có tên “ nộp thuế là vinh quang’’, y triệu tập vị sếp bộ phận này đến làm việc. Biết hắn là một người quyền thế và là chỗ làm ăn lâu năm của sếp mình, một nhân viên biết ý vội dẫn anh ta đi thẳng vào gặp trưởng phòng. Cung cách làm việc ngược đời này làm cho tốp hành khách đang xếp hàng kê khai hải quan vừa ghen tị vừa tức tối.

Y thuộc dòng họ vua Monivong, Simha theo tiếng Phạn có nghĩa là “ sư tử’’. Lại nói về cái tên, khi đạo Bàlamon xâm nhập các quốc gia Đông Nam Á, những cái tên tiếng Phạn như Simha (sư tử), Jaya (thắng lợi), Sri (sáng ngời), Maha (vĩ đại)... được dùng làm tên thánh đặt cho các tu sĩ và vua chúa. Tu sĩ và vua thuộc hai đẳng cấp cao nhất trong năm phân cấp của Bàlamon giáo. Các đẳng cấp thấp chiếm đông đảo khi nghe đến những tên kia là đã quỳ sụp van lạy như chính thánh nhân vừa xuất hiện trước mặt.

Ngày nay, đạo Bàlamon gốc đã nhạt bóng, truyền thống người Khmer tuy vẫn coi trọng thần quyền nhưng các biệt hiệu trên đã lùi xa vào lịch sử. Không ai dám dùng nó để tránh mạo phạm và tỏ lòng tôn kính những bậc đế vương và tu sĩ đắc đạo. Họa hoằn lắm mới có vài vị hoàng thân có công lớn được dân gian phong thánh còn gan mấy họ cũng không dám tự đặt cho mình. Ấy nhưng, người đàn ông to như loài hổ báo kia thấy mình hoàn toàn đầy đủ tư cách để khoác cái tên siêu phàm đó. Hắn là Monivong de Simha. Và tự nhận mình là “ Vua Sư tử’’

Phòng làm việc trưởng phòng hải quan trống không nhưng “ Vua Sư tử’’ vẫn khệnh khạng đi vào ngồi lên chiếc ghế da to tướng rồi vắt chéo chân ve vẩy đôi giày khủng bố hiệu Solomon. Simha chờ sếp hải quan đến với một tâm trạng bực bội như một lãnh đạo chờ nhân viên đến muộn. Phải đến điếu xì gà thứ hai thì từ hành lang mới có người bệ vệ đi vào. Cái dáng đi khệnh khạng lập tức biến mất khi ông ta nhìn thấy một gã to con đang ngồi ngậm tẩu ngay trên chiếc ghế trưởng phòng của mình. Ông ta vội vã chắp hai tay ngang cằm:

- Chào ngài Monivong! Mong ngài thứ lỗi khi đợi quá lâu.

Y vẫn lặng im, chỉnh lại thế ngồi rồi nói.

- Bây giờ anh thích loại giấy gì? Hóa đơn mua bán, giấy tạm xuất nhập khẩu hay giấy đặc cách của Bộ ngoại giao?

- Dạ, thưa anh. - Viên hải quan cất giọng dãi bày. – Để gọi là khỏi quan liêu, anh cứ kí khống vào tờ khai này để em khai hộ là đủ.

Y kí roẹt rồi đặt bút lên bàn, nói:

- Cần gì nữa không?

- Dạ, nếu được. - Viên hải quan chỉ chiếc vali kéo. - Cho em ngó qua chút.

Vẫn ngồi chễm chệ trên ghế, y ra hiệu viên hải quan bê vali lên bàn. Kẹp tẩu trên môi, y đưa hai tay mở khóa rồi hé ra một khe nhỏ đủ cho ánh mắt lươn kia nhìn lọt vào trong. Viên trưởng phòng vừa thò mặt vào bỗng rụt người lại, miệng run rẩy:

- Thần... Siva?

Biết anh ta chỉ nói đúng một nửa, chẳng buồn giải thích thêm, y tặc lưỡi:

- Cũng như lần trước thôi.

- Vẫn là... cối chày?

Y nhếch mép cười và thầm khen gã hải quan có trí nhớ tốt. Chính tên lóng này do y dạy cho gã từ mấy năm trước. Nhờ có tay trong cỡ bự nên y từng đưa trót lọt hàng chục “ cối chày’’ qua cửa khẩu này. Thế nhưng hôm nay từ ấy như một mũi kim chích vào lòng tự ái của y. Sau khi nhận chiếc “ chày’’ này, y cũng từng hỏi Cả sư chiếc “ cối’’ ở đâu nhưng câu trả lời là “ đã có người khác lo’’. Theo quán tính y hỏi tiếp “ đó là ai?’’ nhưng ông ta đã cắt máy. Y hiểu ra Cả sư muốn đe y rằng “ không phải việc của ngươi’’

Y đóng tách vali rồi kéo người hải quan lại gần thì thầm.

- Mấy lần trước tôi vội. – y lôi từ túi quần ra một tập tiền. - Lần này tôi bồi dưỡng cho các chú!

Không đợi viên hải quan chối một câu lấy lệ, y nhét cọc tiền vào túi làm anh ta giãy nảy.

- Ấy, anh đừng làm thế... chúng tôi có camera.

- Mấy camera đểu không kia dọa được tôi đâu.

Vốn là hung thần của đám con buôn thuốc lá ngoại và rượu lậu, viên hải quan không hiểu sao lúc này người ngợm trở nên mềm nhũn. Một cảm giác bị động đầy thích thú chạy rần rật khắp cơ thể lan đến đến tận các tế bào làm anh ta cứng đờ. Hắn còn điều khiển được thần Siva, huống chi là ta. Viên hải quan rút ra đếm lại tiền rồi ngả người lên ghế tận hưởng nốt làn khói thơm đang bảng lảng quanh ngế ngồi.

Vua đồ cổ sải bước ra ngoài rồi bật máy lên sau chuyến bay dài, y nhận được một mớ tin nhắn từ tổng đài, năm từ khách hàng, hai từ bạn nhậu, vài ba tin quảng cáo. Không đáng để tâm, y xóa tất cả và dừng lại trước tin từ một số thuê bao lạ. Trong những năm gần đây, không riêng gì y mà các tỉ phú kếch sù luôn nhận được vô số thư điện tử và các tin nhắn mời tham gia đầu tư. Đa phần là những dự án ma núp dưới những chiêu mời chào khôn khéo hay hứa hẹn những cổ phần béo bở trong các công ty cỡ bự. Họa hoằn lắm mới nhận được vài tin nhắn hay cuộc gọi tham gia đấu giá và rao bán vài thứ cổ vật lặt vặt từ một nơi xa lắc nào đó. Y đã thẳng tay xóa bỏ những thư rác này một cách không thương tiếc. Thế nhưng đứng trước ba dòng ngắn ngủi này, hệ thần kinh của y bỗng dưng căng vút.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mật Mã Champa - Giản Tư Hải

Postby tuvi » 11 Jun 2019

Chương 14


[scroll]Kì Phương lao tới tuốt tờ giấy trong tay Thi Nga rồi hướng về phía mặt trời. Dòng chữ hiện lên làm anh choáng váng.
Image
Mặt sau là:
Image
Chính là:
Image
Nghĩa chữ này là BHADRESVARA. Đây là vương hiệu của vua Champa BHADRAVARMAN. Hay nói theo tên Hán Việt là vua Phạm Hồ Đạt. Ông là người sáng lập ra trung tâm tôn giáo Mỹ Sơn từ cuối thế kỉ thứ IV - một vị vua Champa quyền lực vang danh khắp Á Châu cổ đại. Ông có công mở mang bờ cõi, thống nhất hai miền bắc nam Champa và quyền lực xuyên suốt. Về văn hóa, các nhà nghiên cứu đánh giá ông là một nhà khai sáng, ông cổ võ cho một nền văn hóa mang bản sắc Chăm. Dưới sự trị vì của ông tiếng Chăm cổ được phát minh rồi dần dần lấn át và thay thế tiếng Phạn. Tiếng Chăm cổ được xem là chữ viết bản địa đầu tiên của Đông Nam Á thoát ra sự thống trị của Phạn ngữ. Hầu hết các bia kí ở bắc và một phần nam Champa đều ca tụng đức vua này với một niềm kiêu hãnh sâu sắc.

Kì Phương đứng trơ lặng giữa nhà, đầu óc hoa lên như lạc về thời tiền sử với trùng trùng chữ nghĩa mông lung. Bỗng Thi Nga sấn tới giật lại tờ giấy trên tay anh rồi hỏi dồn.

- Tên sát thủ là ai?

Câu hỏi của cô làm Kì Phương bừng tỉnh. Giáo sư Huỳnh Lẫm đã tiên định đúng: dòng chữ có tính dương, nó đã thay thế linga và là tên của một vua Chăm được phong thần. Và đúng như vậy. Ông là Bhadravarman - Phạm Hồ Đạt. Câu hỏi mới nảy sinh là tại sao kẻ đó lại viết tên ông lên yoni để cúng tế? Và tại sao một nơi xa xôi như Naga cũng có dấu ấn của vị vua Champa này cơ chứ? Không lẽ ông ta đã xác lập chủ quyền tận đất Angkor? Hay là kho báu này được vua Phạm Hồ Đạt mang gửi cho các tu sĩ cũng là đạo hữu Bàlamon ở đó cất giữ khi binh biến loạn lạc rồi “ bỏ quên’’ ở đó đến nay?

- Đây không phải là tên hung thủ, tôi xin lỗi. – Kì Phương lắp bắp. – Đây là tên vua Bhadravarman.

- Vậy tại sao ông ta lại “ nằm’’ lên… yoni?

- Có ai đó đã viết tên ông ta để hiến tế.

- Hiến tế người? – Thi Nga trố mắt hỏi.

- Đúng thế, có nghi lễ hiến tế người ở Mỹ Sơn lẫn Naga.

Thi Nga rủn người sau tuyên bố lạnh tanh của anh, cô không thể tin nổi những nghĩ lễ man rợ từ thủa hồng hoang xa lắc nào đó cũng hiện ngay trên cái nôi sinh ra cô.

- Anh nói có cơ sở gì không?

Có lẽ đã đến lúc Kì Phương phải kể cho cô biết rằng các vương triều Champa đều có nghi lễ tế người trên đền tháp. Đó là một sinh hoạt tôn giáo mà tầng lớp tăng lữ rất hân hoan chào đón như một nghi lễ thiêng liêng nhất. Họ dâng lễ vật từ vàng bạc châu báu cho đến cả... người sống. Đây là sự thực với vô số bằng chứng thuyết phục.

Bài minh khắc trên bia kí năm 1081 ở tháp D3 nói về vua Harivarma dâng tặng thần linh có đoạn viết: “ Ngài đến cúng thần với lòng ngoan đạo và dâng cho thần. Ngài dâng cúng những người thuộc các loại khác nhau như khoảng một trăm tôi tớ đàn bà, đàn ông, bò trâu voi và các loại đồ vật khác nhau cho thần Srisanabhadresvara vào năm saka 1002’’

Kì Phương băn khoăn không biết thần linh sẽ sử dụng “ một trăm tôi tớ đàn bà và đàn ông’’ như thế nào.

Có nhiều bằng chứng nói vua Phạm Hồ Đạt cũng là người từng tổ chức hiến tế người lên đền tháp.

Nhà nghiên cứu Champa kì cựu Ngô Văn Doanh trong cuốn “ Thánh địa Mỹ Sơn’’ viết rằng: “ ... Bia Chợ Dinh cho biết, vua Bhadresvara làm lễ hiến tế và có thể có cả người cho thần Siva để mong thần phù trợ cho các con, các cháu của vua’’.

Nói gì thì nói, hiến tế người làm chúng ta liên tưởng đến máu me và chết chóc. Theo triết lí người xưa, đó là sự hi sinh sự sống để dâng hiến cho đấng tối cao mà nhiều tôn giáo cổ trên trái đất đều quan niệm và thực hành như vậy hết. Vậy, các minh văn kia nói tế thần “ hàng trăm đàn ông và đàn bà’’ để làm gì nếu không phải là lấy máu? Người Chăm cổ chém súc vật lấy máu tế thần thì ai cũng biết. Lễ cắt cổ trâu bằng thanh kiếm dài hướng về phía mặt trời mọc để lấy máu tế thần trên núi Đá trắng vẫn còn đó di tích lẫn thần chú. Tế thần Siva trên đền tháp chính là nghi thức tắm linga bằng chất lỏng. Xưa, chất lỏng đó là nước thiêng được chế từ nước suối và hương liệu, sang hơn thì sữa hoặc rượu, sang nữa thì có máu dê, ngựa. Và tột đỉnh của sang trọng là máu người.

Phải chăng tế máu người là có thật? Nghi lễ cổ xưa rùng rợn này dường như bắt đầu sống lại ở Mỹ Sơn sáng nay sao?

- Anh nghĩ gì mà thần người ra thế? – Thi Nga giật mạnh tay anh. – Nếu có lễ hiến tế thì có liên quan gì đến kho báu hay không?

- Hãy tạm gác chuyện hiến tế người lại đã. – Kì Phương nói. - Chúng ta phải tập trung tìm ra Naga trước.

- Vua Phạm Hồ Đạt có liên quan đến một trong mấy ngôi tháp này không? – Cô hỏi.

- Không, vua Bhadravarman chỉ dựng một ngôi đền bằng gỗ đầu thế kỉ thứ IV nhưng sau đó đã bị cháy, còn các tháp này đều từ thế kỉ thứ VIII trở đi.

- Lúc anh giải mã bảng kí tự tôi thấy có gì đó chưa ổn, cái khung cửa và chiếc cột đá trong bảo tàng không phải là ý đồ của ba tôi.

- Tại sao? Không ổn chỗ nào?

- Đó là anh chỉ căn cứ vào tiếng anh Door và Column, nhưng theo tôi biết ba tôi rất kiêng dùng tiếng anh trừ khi bất khả kháng.

- Vậy thì D phải dùng tiếng Pháp để suy luận? – Anh hỏi.

- Cũng không.

- Vậy thì dùng tiếng Chăm của cô chắc?

- Tiếng Việt! Ông coi Việt Nam là quê hương thì cũng coi tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ của mình.

- Vậy cô giải mã xem nào.

- Em hỏi anh trong đền tháp, đâu mới là nơi chính thức để lưu các văn bản cổ?

- Bia kí. – Kì Phương nói. - Đó là nơi chứa dung lượng lớn nhất. Mỗi tháp luôn có một tấm bia ghi lai lịch của tháp.

- Vậy kí tự “ { “ là hàm ý gì? – cô hỏi.

- Có lẽ là kí hiệu nóc tháp. – anh đáp.

Kì Phương ngắm lại hình hài bản mã, sao giờ đây nó giống đúc một tấm bia kí đến thế không biết.

Image

- Tôi nghĩ ra rồi! - Kì Phương nói. - Đây chính là bốn tấm bia kí!

- Nếu đúng thì phải tìm đi chứ? Vấn đề bây giờ quá đơn giản, chỉ cần tìm ra bốn bia này ắt sẽ hiểu ba tôi muốn nói gì. Tìm bia đi thôi!

Kì Phương bỗng nhận ra lời giải mật mã quá đơn giản. Kho báu nằm trên bia kí. Anh nhớ lại một loạt tấm bia kê khai của cải. Bài minh trên bia D3 mặt B nghi chi tiết hơn: “ Ngài dâng mũ miện có trang trí những viên ngọc, hai vòng đeo cổ, 4 kami, 2 kalasa bằng vàng, 8 kalasa bạc,... chim công bằng vàng, 1 havvai vàng...’’.

Một minh văn tiếng Phạn trên cột tháp B1 nói rõ vua Sri Jaya Indravarman hào phóng với thần linh đến nhường nào. “ ... Mahesa đã mang năm mặt cùng năm chiếc Kosa vàng. 232 panas bạc đã được dâng...’’

Khủng khiếp hơn, trên bia A1, toàn bộ 21 dòng mặt chính bằng tiếng Chăm cổ này toàn nói về vàng là vàng: Kosa vàng nặng 137 thil và 200 thil bạc nạm ngọc bích. Đồ cúng khác có 1096 thil vàng và bạc phủ lên một con antargrha 26 thei. Bốn con rắn naga 30 thei vàng. Srumvil nặng 45 thei vàng, bình vàng nặng 24 thei... Minh văn này còn nói “ Nếu gom số vàng này lại đủ để phủ lên tất cả các đền tháp’’

Người Chăm sau bao thế hệ hì hục đục đẽo và dựng văn bia khắp đất nước thì họ mới giật mình cho sự hớ hênh này bởi bia nào cũng khoe khoang dâng tế đầy ắp vàng bạc. Điều này không khác thống kê của cải và chi tiêu trong nhà rồi dán ra ngoài cổng cho thiên hạ thấy. Họ bỗng lo sợ hậu thế sẽ lật tung thánh địa và đào bới các vùng đất thiêng nên vội vã răn đe khi dựng tháp A1. Câu thứ 11 mặt A văn bia tiếng Phạn này viết: “ trước đức vua người thấu hiểu bốn bộ veda, trước các triều thần của Ngài, và trước mọi người, tôi tuyên bố: vì lòng trắc ẩn đối với tôi xin đừng phá những đồ cúng của tôi’’

Chắc lại không yên tâm vào “ lòng trắc ẩn’’ của đám hậu thế tham lam nên đến câu thứ 9, họ đã thòng thêm một câu mà bất cứ ai đọc xong cũng thấy lạnh người: “ ai giữ gìn các đồ cúng thần này thì công đức sẽ thuộc về người đó. Ai không gìn giữ mà phá hoại thì người đó sẽ bị tiêu hủy. Bhadresvarasvami thấu hiểu’’.

Số đồ cúng này sau khi làm lễ không để lại trên tháp mà được mang về cung đình hoặc được các tu sĩ cất giùm thần linh rồi ghi lại nơi cất dấu trên đá.

Nhiều nhà khoa học đã âm thầm nghiên cứu mối liên hệ giữa kho báu đã tìm thấy và những di chỉ trên bia kí mong tìm ra một quy luật để tìm thấy kho báu khác. Paul là một trong số đó nhưng chưa bao giờ ông hé lộ điều gì. Biết đâu trước khi chết ông ta mới chịu khai? Nhìn lại kí hiệu 4 tấm bia này, Kì Phương bắt đầu kì vọng.

- Có thể đây là bí ẩn lớn nhất của ba cô. – Kì Phương nói thận trọng. - Phải tìm bốn tấm bia này để xem sao đã.

- Chắc hẳn là thế, vấn đề bây giờ quá đơn giản.

- Không như cô nghĩ đâu. Lượng chữ trên bốn tấm bia này ngang với bốn cuốn sách và đáng tiếc là bia không còn nguyên vẹn nữa.

- Hay là bị ai đó đập vỡ?

- Tôi đã bỏ ra ba năm khảo sát và nhận ra một quy luật: bia càng “ chứa’’ nhiều vàng càng hay bị vỡ.

- Rất chí lí. – cô nói. - kẻ trộm khi đọc xong bèn phi tang sợ kẻ sau tranh cướp.

- Chưa hẳn, tôi cho kẻ phá bia kí chính là các... đạo sĩ Champa!

Thi Nga giật phắt người:

- Tầm bậy, anh ăn nói cẩn thận đấy.

- Hầu như hàng trăm văn bia đều nói về hiến tế vàng bạc, đá quý. Nhưng tấm bia đó đã vô tình chỉ điểm và gây hiểm họa. Khi ngoại xâm tràn vào, không những tượng thờ trên tháp bị dọn sạch mà chúng còn lần theo các văn bia để tìm kiếm của cải. Mỗi khi có giặc hoặc di dời kinh đô các tu sĩ phải làm nhiệm vụ hủy manh mối. Chính các đạo sĩ Champa đã đập vỡ các tấm bia hoặc cưa ra nhiều mảnh và chôn bí mật xuống những nơi khác nhau để đến lúc nào đó họ sẽ ghép lại để tìm lại kho báu.

Thi Nga nói. – Hi vọng 4 tấm bia này chưa bị cưa. Tìm bia đâu bây giờ?

Là người gần như có mặt hằng ngày ở thánh địa nhưng chính anh cũng không biết rõ các văn bia này đang ở đâu. Chắc chắn nó không còn ở cạnh tháp, có thể nó gãy vỡ trong lòng đất, nếu may mắn hơn thì được mang vào các bảo tàng.

- Quý khách đáp chuyến bay VN1307 chú ý...

Tiếng loa vang lên đầy thôi thúc, Kì Phương như đang đứng ở ngã ba đường. Đi tiếp hoặc quay lại tìm văn bia. Nếu ở lại thì anh cũng nhờ phải người tìm giúp trong khi một cuộc hẹn với vua đồ cổ đã lên lịch.

- Đi thôi! – Anh nói. - Tôi đã có cách.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 76 guests