Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Image

Tác giả: Na Đa

Dịch giả: Hiền Hòa


Giới thiệu


Đứa Trẻ Giấy là tập thứ hai trong Series Bút Kí Kinh Dị gồm 3 truyện của tác giả Na Đa: Lá Cờ Ma, Đứa Trẻ Giấy và Nộp Mạng, với một nhân vật xuyên suốt là chàng phóng viên trẻ Na Đa đi điều tra phá án.
Câu chuyện bắt đầu bằng mẩu tin có thật được công bố trên Thông tấn xã liên hợp Hàn Quốc. Một cặp song sinh bị đông cứng được phát hiện trong tủ đá của gia đình người Pháp tạm trú Ở Hàn Quốc. Cảnh sát và pháp y của ba nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp bắt tay vào cuộc điều tra vụ kỳ án. Những phát hiện bất ngờ về xác hai đứa trẻ và nguyên nhân giết con của bà mẹ tâm thần phân liệt khiến cả thế giới phải sửng sốt.
Cùng thời điểm đó, tại một bệnh viện ở Trung Quốc, sản phụ Hoàng Chức lâm bồn, cô ta đã phát điên khi nhìn thấy đứa con mình sinh ra lại mỏng dính như tờ giấy...
Những thông tin giật gân đương nhiên không thể nằm ngoài vòng săn lùng của phóng viên trẻ Na Đa. Anh đã đến bệnh viện và tận mắt chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đó. Anh để lại số điện thoại cho Hoàng Chức. Cũng kể từ đó, Hoàng Chức đều đặn viết thư cho anh với lời lẽ ngây ngô của một người điên. Đến một ngày, cô ta thông báo con gái Chu Tiêm Tiêm đột ngột mất tích. Ý thức trách nhiệm và lương tâm người cầm bút thôi thúc Na Đa đến nhà Hoàng Chức. Anh được hàng xóm kể rằng hàng loạt người thân trong gia đình Hoàng Chức lần lượt qua đời và mất tích một cách kỳ lạ, đồng thời cũng xác nhận thông tin Chu Tiêm Tiêm quả thực đã biến mất khỏi nhà từ mấy ngày trước, còn Hoàng Chức vừa mới ra thành phố tìm con. Mọi manh mối bỗng đâm vào ngõ cụt khi Hoàng Chức bị ám sát.
Cảnh sát bắt tay vào cuộc. Mặc dù, cuối cùng hung thủ cúi đầu nhận tội, nhưng cảnh sát vẫn không cách nào làm rõ được động cơ gây án. Vào ngày tòa phán quyết tội trạng của kẻ sát nhân, hung thủ đột nhiên bốc hơi ngay trong nhà vệ sinh dưới sự giám sát nghiêm ngặt của hàng rào cảnh sát...
Song song với thời điểm diễn ra vụ án, một tổ chức tôn giáo kỳ bí đang manh nha phát triển. Tổ chức ấy có liên quan gì đến hai đứa trẻ song sinh? Đến đứa trẻ giấy trong bụng Hoàng Chức? Đến cái chết của Hoàng Chức? Đến sự bốc hơi của tên hung thủ giết người? Và đến Chu Tiêm Tiêm?
"Đứa trẻ giấy" không chỉ khiến độc giả thán phục trước những màn điều tra hình sự tài tình, rùng mình những tội ác không thể dung tha, mà còn khiến ta hiểu rằng không phải lúc nào trẻ em cũng là thiên thần, mà trẻ em có thể trở thành ác quỷ khi nó được dạy để trở thành ác quỷ. Bởi vậy, sự yêu thương, quan tâm và vai trò giáo dục của cha mẹ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ thơ. Đó chính là thông điệp mà "Đứa trẻ giấy" muốn chuyển đến bạn đọc.

Hoàng Chức lâm bồn, ngay cả bản thân cô ta cũng không ngờ, đứa con mình sinh ra lại mỏng dính như tờ giấy… Sau đó, hàng loạt chuyện quái dị liên tiếp xảy ra, con gái của Hoàng Chức là Chu Tiêm Tiêm đột ngột mất tích, rồi Hoàng Chức bị ám sát.
Mặc dù hung thủ cúi đầu nhận tội, nhưng cảnh sát vẫn không cách nào làm rõ được động cơ gây án. Vào ngày tòa án phán quyết tội trạng của kẻ sát nhân, hung thủ đột nhiên bốc hơi ngay trong nhà vệ sinh dưới sự giám sát nghiêm ngặt của hàng rào cảnh sát…
Song song thời điểm ấy, nữ pháp y Hà Tịch khám nghiệm tử thi một cặp song sinh, cô phát hiện tay chân của đứa bé có kết cấu rắn chắc khác thường. Kết quả khám nghiệm cho thấy, Hoàng Chức và một trong hai đứa trẻ có cùng một nhóm máu hiếm…

Tác giả _ Na Đa


Tên thật là Triệu Diên sinh năm 1977, là nhà văn kinh dị nổi tiếng của Trung Quốc.
Tác phẩm của anh thường có khuynh hướng thăm dò những ẩn số vô hạn trong cuộc sống.
Các tác phẩm tiêu biểu gồm Seri Bút kí kinh dị (Lá cờ ma, Đứa trẻ giấy, Nộp mạng), Cuốn sổ sự kiện tam quốc của Na Đa, Giáp cốt vỡ, Thanh minh hoan hà đồ, Tiểu thuyết tình yêu và chòm sao v.v…
Na Đa được giới truyền thông trong và ngoài nước đánh giá là nhà văn có tiềm lực phát triển và phong cách viết truyện kinh dị hay nhất Trung Quốc hiện nay.

Trong mỗi tác phẩm của mình, anh luôn biết cách gắn kết các yếu tố nhân văn, khoa học, nghệ thuật, lịch sử… lại với nhau một cách khéo léo, không hề khiên cưỡng.
Na Đa thường mở đầu các câu chuyện của mình bằng hình thức dẫn “một mẩu tin đăng trên báo”, cách vào truyện tự nhiên, khiến người đọc có cảm giác truyện anh đang kể là một câu chuyện có thật.
Na Đa không đưa ngay vào truyện một loạt tình huống kì bí, khó hiểu, lớp lang, chồng chéo, mà khéo léo biến câu chuyện của mình thành “một lối đi với nhiều lớp cửa”, khiến cho người đọc tưởng như đã lí giải được sự việc này, thì lại tiếp đến một sự việc khác kì bí hơn; từ đó đi từ sự hiếu kì này đến sự ngạc nhiên khác.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Phần dẫn
Hai xác ướp trẻ sơ sinh trong tủ lạnh

Theo tin ngày 24 từ thông tấn xã Yonhap, một người đàn ông quốc tích Pháp đang sinh sống và làm việc tại thành phố Seoul, Hàn Quốc khi trở về nhà sau kì nghỉ ở nước ngoài đã phát hiện thấy xác hai bé trai sơ sinh đông cứng trong chiếc tủ lạnh cỡ lớn đặt ngoài ban công nhà mình. Hiện công an Hàn Quốc cũng sở nghiên cứu điều tra hình sự quốc gia đang nỗ lực điều tra làm sáng tỏ vụ thảm sát ly kỳ này.
Được biết, mấy ngày trước đó, người đàn ông này đã cùng vợ và hai con trai bay về Pháp nghỉ lễ. Vì phải quay lại Seoul dự họp, nên một mình ông bay về Hàn Quốc trước. Lúc chuẩn bị cất thực phẩm đã mua vào tủ lạnh, ông bất ngờ phát hiện thấy xác hai trẻ sơ sinh đông cứng được gói lại bằng túi ni lông đặt trong hai ngăn đá của tủ lạnh.
Cục cảnh sát Hàn Quốc còn cho biết: Do hai thi hài sơ sinh đã đông cứng, cơ thể lại bị vặn vẹo nên không cách nào nhận biết chính xác độ tuổi cùng chủng tộc của hai đứa trẻ. Song quan sát phần dây rốn cùng phân su, thì có thể xác định hai đứa trẻ sơ sinh này chỉ mới chào đời trước đó không lâu. Hiện sở nghiên cứu điều tra hình sự quốc gia Hàn Quốc đang tiến hành giải phẫu nhằm xác định chính xác độ tuổi, chủng tộc, cùng nguyên nhân tử vong của hai trẻ sơ sinh này.
Đồng thời cảnh sát Hàn Quốc đến hiện trường thu thập chứng cứ cũng cho biết: Không phát hiện thấy bất kì người lạ nào ra vào khu vực nhà cao cấp được giám sát nghiêm ngặt bởi các thiết bị bảo vệ điện tử. Theo tiết lộ của người đàn ông Pháp đến trình báo với cảnh sát, ngoài ông ta ra còn một nữ giúp việc trung niên người Philippin được gia đình thuê, và người bạn Pháp hơn 40 tuổi mà ông kết thân khi sang Hàn Quốc, cùng đều có chìa khóa mở cửa ra vào của căn hộ. Nhưng hiện nay, cả hai người này đều không có mặt ở Hàn Quốc.

(Theo trang tin tức Đông Bắc
lúc 17 giờ 52 phút ngày 24 tháng 7 năm 2006)
Trong đời mỗi người, ai cũng có thể gặp đủ mọi kiểu biến cố trọng đại làm ảnh hưởng đến quỹ đạo cuộc đời mình. Thế nhưng khi biến cố mới bắt đầu, thì nhiều khi họ lại chẳng hề hay biết, để khi nó sầm sập kéo đến rồi thì họ mới luống cuống hoảng sợ.
Tối hôm qua, trên đường Hộ Mẫn (Thượng Hải), một người đàn ông bị nghiền nát dưới bánh một chiếc xe container hung thần. Khi tôi đến sở cảnh sát phỏng vấn, gã tài xế còn chưa tỉnh hẳn rượu. Người chết dưới cửu tuyền liệu có biết số mệnh của mình được định đoạt bởi gã tài xế trạc tuổi trung niên hai tuần không cạo râu và đã nốc ngụm rượu đầu tiên vào hai tiếng trước khi sự cố xảy ra, hoặc có thể tiếp tục truy ngược về cuộc cãi cọ qua điện thoại giữa gã với cô vợ vào chiều hôm qua không?
Theo quan điểm duy vật thì người đàn ông đáng thương chết trong tai nạn ô tô đó chẳng bao giờ còn cơ hội hiểu rõ nguyên nhân gây nên kết cục bi thảm của mình. May là tôi đã từng sống sót trở về từ một tai nạn lớn, nên khi nhìn nhận lại toàn bộ sự việc từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc và đem sắp xếp chúng lại với nhau, hẳn nhiên tôi không thể bỏ qua cái tin kỳ lạ về xác hai đứa trẻ sơ sinh trong tủ lạnh này được.
Chưa thể coi đây là ngọn nguồn của tất cả, nhưng tựa như một trục lăn, nó chính là kết quả của việc xảy ra trước đó và nguyên nhân của việc phát sinh sau này. Nếu có chuyện gì đáng coi là ly kỳ trên thế gian, thì xác hai đứa trẻ sơ sinh được tìm thấy trong tủ lạnh là đại diện tiêu biểu nhất. Trên thực tế, tin tức này của thông tấn xã Yonhap Hàn Quốc mới chỉ là sự hé mở ban đầu của tấm màn bí ẩn chứa đựng không ít sự kiện ma quái, kinh hoàng bên trong.
Tôi sẽ hé lộ một mắt xích mấu chốt của sự việc, để người đọc tùy ý phán đoán và liên tưởng trong lúc đợi nghe tôi tường thuật toàn bộ câu chuyện. Và chính trong khoảng cách giữa sự liên tưởng đó với thực tế, người ta sẽ thấy mức độ đáng kinh ngạc đến khó tin của câu chuyện này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 1: Đứa trẻ bị nguyền rủa

Khí lạnh tràn ngập tàu điện ngầm, lại thêm ít người đi nên rất thoải mái. Đã gần trưa, nhưng có thể đi làm vào giờ này chính là cái hay của nghề phóng viên. Nếu không, hẳn chuyến tàu điện ngầm ở Thượng Hải lúc 8 giờ sáng và 6 giờ tối sẽ giống như dãy dài cá hộp xác-đin xếp hàng nuối đuôi nhau. Hạ thấp nhiệt độ điều hòa sẽ có tác dụng với những chú cá xác-đin đáng thương chăng? Không thể nào!
Đôi trai gái ngồi chênh chếch phía đối diện luôn miệng anh anh em em, còn người đàn ông trung niên cạnh đó thì đã cởi giày, gác chân lên đầu gối chân kia và xoa xoa gãi gãi, vẻ rất sung sướng. Đến tôi cũng cảm thấy mùi chân thối xộc thẳng vào mũi, thế mà đôi trai gái ngồi cạnh chẳng hề phản ứng gì. Tất nhiên làm gì cũng cần phải tập trung tư tưởng, nhưng cũng không nên tập trung đến mức đó chứ.
Sở dĩ tôi chưa bỏ đi, vì nghĩ làm vậy sẽ khiến đối phương bẽ mặt. Kẻ hành nghề phóng viên như tôi là người khá biết điều mà, hà hà…
Tất nhiên còn lý do nhỏ khác là băng ghế dài đối diện chỗ đôi trai gái cùng ông chú đang xoa chân chẳng còn ai, trong khi băng ghế tôi ngồi đã chật ních. Có thể toa phía sau vẫn còn chỗ trống… nhưng chuyển đi như thế lộ liễu quá còn gì?
Thế nên tốt nhất là tôi đành thu vội ánh nhìn từ những bàn tay linh hoạt và đôi chân bắc chữ ngũ của người đàn ông luống tuổi về trang sách mà tôi đang xem dở, tiếp tục đọc một cách chăm chú.
Cuốn sách tôi đang xem có tựa đề “Lược sử thời gian”, từng rất nổi tiếng nhiều năm về trước, còn giờ xem ra đã lỗi thời. Đọc một cuốn sách cũ mà còn chưa hiểu rõ thì quả thật hơi kém. Tôi tự an ủi mình, số người hiểu được cuốn sách này khi đọc nó, vào thời đại nào cũng vậy, chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay mà thôi.
Theo nghiệp phóng viên mấy năm nay, trải qua biết bao chuyện cổ kim kỳ quái, đến bây giờ tôi đành chấp nhận số phận. Có những người ngay từ khi sinh ra đã có “số thị phi”, đi đến đâu gặp thị phi đến đấy, người như thế sẽ là thợ săn tin tài ba; lại có những người khi sinh ra đã có số đào hoa, đi đến đâu cũng cố tình lả lơi, “câu” người khác, loại người này dễ trở thành đại dâm tặc bị người đời khinh bỉ và phỉ nhổ; còn loại suốt ngày gặp những việc kì quái như tôi, thì lại có số trở thành nhà mạo hiểm, hoặc cũng có thể sớm trở thành ma chết trẻ. Mạo hiểm không thể nuôi sống mấy miệng ăn, nên tạm thời hãy cứ làm phóng viên cái đã.
Tới giờ thì tôi hoàn toàn chắc chắn là thế giới này không hề đơn giản như ta thấy, nên làm thế nào để giải thích điều tôi gặp phải một cách khoa học cũng là cả vấn đề. Xét trên phương diện là thứ được con người dùng để giải thích thế giới, thì trước giờ khoa học chưa đảm nhận xuất sắc nhiệm vụ này, song điều này không thể cản được sự tò mò đối với khoa học đang càng lúc càng lớn mạnh trong tôi.
Hawking đã cố gắng viết về vật lý học một cách đơn giản và thú vị hết mức có thể. Đọc xong phần liên quan đến cơ học Newton, sang phần thuyết tương đối hẹp, tôi cảm thấy hơi nhức đầu. Công thức sự tương đương khối lượng – năng lượng của Einstein vốn đã nổi tiếng bởi sự đơn giản và hoàn mỹ của nó, nhưng chỉ nhìn vào đấy cũng đủ khiến tôi xây xẩm mặt mày, cái tật này mắc từ hồi trung học hơn mười năm trước, đến giờ vẫn chưa khỏi.
Tôi lật sang phần sau, lực hấp dẫn Newton gần như được thay bằng thuyết tương đối rộng dạng hình học không gian, liệu mình có đọc nổi không? Tôi thấy vô cùng nghi ngờ.
Trên đường từ tàu điện ngầm đến tòa soạn, tôi mải mê suy nghĩ về vấn đề vật lý cao siêu, rồi mới chợt nhận ra là nên để vấn đề này đến tối nghiền ngẫm, sẽ giúp mình dễ buồn ngủ hơn.
Trong phòng tin tức tòa soạn báo Sao Mai, ít nhất còn một nửa nhân viên vẫn chưa đến. Tôi vừa ngồi vào ghế của mình, chưa kịp bật máy tính, thì đã bị Lưu Đường quăng cho một lá thư.
“Này, thư của ông!” – Giọng điệu gã quỷ sứ Lưu Đường đầy ẩn ý.
Cầm thư lên tôi chợt ngẩn ra, phong bì đã bị xé. Tôi nhìn lướt qua phong bì, không thấy đề họ tên người gửi, còn người nhận, chỉ có: “Bộ phận cơ động – Tòa soạn báo Ngôi sao buổi sớm”.
Lia mắt nhìn xuống góc dưới bên phải thấy chữ kí người gửi, tôi cười khổ, rút thư ra.
Đúng là thư gửi cho tôi, hầu như tháng nào tôi cũng nhận được một bức thư kiểu này, có khi người viết còn quên đề tên tôi lên phong bì như lần này.
Phóng viên nhận được thư từ độc giả là chuyện hết sức bình thường, đôi khi là thư mắng chửi, đôi khi là thư khen ngợi, hay cả thư cung cấp tư liệu thực tế hoặc đơn thuần chỉ là thư giải bày tâm sự từ người hâm mộ. Một phóng viên lão luyện, xét về cơ bản, đều phải trải qua những điều này, đôi khi gặp tình huống khác cũng chẳng có gì là lạ; chẳng hạn như Dương Hoa, đảm nhận đường dây an ninh công cộng phòng bên, thường xuyên nhận được thư thông báo về thành tích cướp giật gần đây của tên cướp khét tiếng, đã bị cảnh sát âm thầm theo dõi từ lâu mà vẫn chưa tóm được.
Tôi lại là trường hợp khác, người viết thư cho tôi là người mắc bệnh tâm thần, bố cục bức thư tôi nhận cơ bản đều có ba phần: bình luận về đại sự quốc gia, khen ngợi tin bài của tôi, và cuối cùng là hàn huyên về một số việc trong cuộc sống của cô ấy. Thái độ cô ấy, xét qua thư, khá là nghiêm túc, song nó chỉ mang lại hiệu ứng giải trí, nên lần nào cũng được lan truyền rất lâu ở cả trong lẫn ngoài bộ phận.
Nhân lúc máy tính đang khởi động, tôi lướt qua thư một lượt, ngay câu mở đầu đã khiến tôi phải mỉm cười. Cô trịnh trọng bày tỏ lòng cảm ơn sự quan tâm tôi dành cho cô, rằng tôi không cần phải tiếp tục lo lắng, bệnh tình cô đã thuyên giảm nhiều, và rằng cô đã có thể sinh hoạt như người bình thường.
Tôi… rất quan tâm đến tình trạng bệnh tật của cô ư?
Đọc tiếp là rõ ngay, cô dặn tôi không nên lúc nào cũng thể hiện kiểu quan tâm vòng vo với mình trên mặt báo, người khác nhận ra sẽ không hay…
Trong mỗi lá thư gửi đến, cô đều vui mừng báo với tôi căn bệnh thần kinh của mình đã thuyên giảm nhiều, nhưng đọc xong thư cô viết thì bất kì người bình thường nào cũng sẽ phải lắc đầu. Ở phần tiếp theo của bức thư, cô hỏi tôi liệu có thể đăng tin tìm người lên báo “Ngôi sao buổi sớm” không, bởi con gái cô đã mất tích.
Tôi nhớ ở bức thư trước cô cũng đã nhắc đến việc con gái cô bị mất tích. Vậy nhưng biết đến câu chuyện này qua bức thư của người bị mắc bệnh tâm thần lại khiến tôi nghi ngờ vào độ chân thực của nó, vì có thể con gái cô chỉ ra chơi ở ngoài nhà lâu hơn một chút. Thư lần này lại nhắc đến, thì không rõ rốt cuộc con gái cô bị mất tích từ lần trước đến giờ hay lại vừa mới mất tích? Đặt bức thư xuống, không biết sao tôi thấy hơi bồn chồn, lo lắng trong lòng.
Không nên coi chuyện này là thật, mà nếu con gái cô có mất tích thật đi chăng nữa, thì việc này cũng thuộc chức trách của bên cảnh sát.
Cô ấy chỉ là bệnh nhân tâm thần, và dựa trên mức độ lộn xộn, rối rắm trong mạch lôgíc của bức thư, thì bệnh tình của cô còn lâu mới khỏi.

“Chà, xong rồi à, buồn cười thật, thế nào mà cô ấy hay viết thư cho ông vậy nhỉ?”.
“À” – Tôi giật mình, ngẩng đầu lên nhìn Lưu Đường cười cười.
Mấy giây vừa rồi, tôi quả có hơi thẫn thờ, để mặc bức thư nằm chỏng trơ trên bàn, ngẩn người nhìn nó một lúc lâu. Tôi nhớ con gái cô là đứa bé gái có cặp mắt to với hai chấm đồng tử vừa đen vừa tròn, khiến ai nhìn vào là chết chìm trong đó. Lúc ấy, con bé đứng lẻ loi một mình ở góc phòng, yên lặng như thể nó không tồn tại. Hồi đó, nó mấy tuổi nhỉ… bốn tuổi chăng? Có lẽ giờ con bé đã lên bảy, đã đến tuổi đi học rồi đây.
Con bé tên gì nhỉ? Bất chợt tôi chẳng tài nào nhớ ra.
“Sao thế? Ông không nghĩ điều cô ấy viết trong thư là thật đấy chứ?” – Lưu Đường thấy thần sắc tôi khác lạ liền buông thêm một câu.
Tôi lắc đầu, cố chặn dòng suy nghĩ của mình lại, đó cũng chẳng phải những hồi ức vui vẻ gì.
“Không có gì!” – Tôi nhún vai, nhét lại thư vào phong bì, quăng lên chồng báo bên cạnh.
“Muốn qua xem quà Thất Tịch tôi mua không, cực kì sáng tạo đấy nhé!” – Gã quỷ sứ Lưu Đường hất hất mái tóc nhuộm màu đỏ sậm, dương dương tự đắc tuyên bố.
Kể từ khi Lưu Đường được chúng tôi gán cho biệt hiệu “Quý tóc đỏ” cậu ta chỉ trung thành với một màu tóc nhuộm đỏ, không chịu chuyển về màu đen mà chỉ xê dịch giữa hai tông là màu phớt đỏ và đỏ đun.
“Quà Thất Tịch?” – Tôi nhớ ra còn mấy ngày nữa là đến lễ Thất Tịch­­[1] theo lịch âm, “Giờ lễ Tình Nhân cũng được bản địa hóa rồi à?”
[1] Lễ Thất Tịch: là ngày lễ tình nhân của người Trung Quốc, được tổ chức vào ngày 7/7 âm lịch hàng năm.
“Kiếm tiền ấy mà, chẳng qua chỉ để giúp tôi tăng cơ hội hẹn hò với người đẹp, vậy là ai cũng có được thứ mình cần, đôi bên đều hài lòng mãn nguyện”.
“Ngữ ông thì sáng tạo gì chứ!”.
“Búp bê bơm hơi, ông đã thấy bao giờ chưa?”
“Búp bê bơm hơi?” – Tròng mắt tôi như lập tức lồi hẳn ra ngoài, “Ông chuẩn bị búp bê bơm hơi làm quà Thất Tịch cho bạn gái?”
“Này, vẻ mặt thế là sao, chẳng phải kiểu như ông nghĩ đâu!” – Lưu Đường tức giận mắng, “Đồ dâm ô, ông nghĩ đi đâu thế?”.
“Thì tại ông vừa nói là búp bê bơm hơi còn gì!” – Tôi ngượng ngùng chữa thẹn.
Lưu Đường ném thứ gì lại, tôi nhanh tay chộp lấy.
“Ấy, nhẹ, nhẹ tay thôi, đừng có bóp mạnh!” – Đường tóc đỏ hét lên.
Quả nhiên là con búp bê được bơm hơi to chừng nửa lòng bàn tay, hình thỏ MashiMaro, được làm từ chất liệu dày dặn hơn là bóng bay, đây không phải loại nhựa dẻo thông thường, khi dùng tay bóp cảm giác rất thích.
“Khá thú vị, các cô gái trẻ hẳn rất thích!” – Tôi nói.
“Không chỉ có một con này thôi đâu” – Lưu Đường vẫy tôi lại, bảo: “Ở đây tôi còn hẳn một hộp này, nhìn riêng một con chỉ thấy khá thú vị, chứ nếu đem tặng cả hộp thì người nhận cứ gọi là chết đứ đừ”.
Đặt trên bàn làm việc của Lưu Đường là chiếc hộp gỗ gia công tinh xảo, nhấc nắp lên bên trong là mấy chục con búp bê da chưa bơm hơi được xếp rất gọn gàng.
Lưu Đường giơ từng con lên cho tôi xem:”Đây là mèo Garfield, đây là Snoopy, còn đây là Ultraman…”
Sở hữu xấp búp bê bơm hơi được chế tạo tinh xảo như vậy cũng đáng được tôn lên thành cấp sưu tầm, và hẳn sẽ có sức hút khó cưỡng đối với nhiều cô gái trẻ. Lưu Đường mải khoe kho báu của mình, không hay mặc tôi đã biến sắc.
Những con búp bê bơm hơi khơi lại trong tôi hồi ức nãy giờ tôi cố gắng kìm nén, nhưng đến giây phút này chúng chợt ùa về tràn ngập tâm hồn, rồi từng cảnh từng cảnh vụt lóe lên trước mắt.
Có những việc dù đã qua rất lâu, mà khi nhớ lại vẫn như đang hiển hiện trước mắt.
Một buổi chiều của ba năm về trước, khi tôi đưa tấm danh thiếp của mình cho Hoàng Chức, cô còn chưa có bất kỳ vấn đề gì về tâm thần. Tôi cũng không ngờ về sau cô ấy liên tục gửi thư cho mình địa chỉ ghi trên tấm danh thiếp đó.
Tôi tin căn nguyên gây ra bệnh tâm thần của cô có liên quan đến những chuyện đã xảy ra trong buổi chiều ba năm về trước.
Khoảng chừng ba giờ chiều, nhận được tin báo, tôi vội chạy đến một bệnh viện phụ sản có tiếng nhất thành phố Thượng Hải, với cái tên thường gọi là Bệnh viện bà mẹ trẻ em số 1.
Người báo tin cho tôi là người phụ trách thông tin của bệnh viện. Anh ta không giỏi đánh giá thể loại tin nào là đề tài viết báo hay, thể loại tin nào chỉ có thể trở thành đề tài bàn tán. Mặc dầu vậy, anh ta vẫn luôn hăng hái cung cấp đủ mọi thể loại tin cho tôi, bởi nếu tôi lấy tin đó viết bài, anh ta cũng sẽ nhận được khoản thù lao nho nhỏ.
Tin báo lần này từ anh ta chỉ là mẩu tin ngắn: “Khoa sản có một trường hợp rất kì lạ, anh muốn đến phỏng vấn không?”. Vừa hay lúc đó tôi đang ở cách bệnh viện không xa, nên sau chưa đầy hai mươi phút từ khi nhận được tin, tôi đã xuất hiện trước cửa phòng làm việc của anh.
Người báo tin hỏi thăm giúp rồi dẫn tôi đến nơi.
“Tôi không nhiều lời nữa, anh tự đi phỏng vấn nhé!” – Dứt lời anh ta bỏ đi, vẻ mặt rất không tự nhiên. Có thể đó chỉ là ảo giác, nhưng dù sao tôi cảm thấy hình như anh ta hơi khiếp sợ.
Đây là hành lang ngoài phòng bệnh, tình hình có phần khác lạ. Nơi đây thường là khu vực rất yên tĩnh, nhưng hiện giờ lại đang có người to tiếng cãi cọ, chính xác là có bệnh nhân đang lớn tiếng chỉ trích nhân viên y tế, còn người bị chỉ trích thì chỉ nhẹ nhàng giải thích.
Bệnh nhân hẳn vừa mới sinh xong, đang nằm trên giường đẩy để y tá đẩy về phòng bệnh, song vẫn kiên quyết nắm chặt khung cửa phòng bệnh, sống chết không chịu buông.
“Tôi nhất định phải được nhìn mặt con tôi, nếu không tôi sẽ không vào!” – Cô ta hét toáng lên.
Vài bệnh nhân vây quanh nhìn, thấy y tá thì đang cố gắng giải tán nhóm người khán giả về phòng bệnh.
Tôi bước tới, thầm cảm thấy hơi kì lạ. Giữa người bệnh và bệnh viện đang xảy ra mâu thuẫn, mà sao chẳng thấy người nhà bệnh nhân đâu? Trong hoàn cảnh này, chí ít có chồng cô ta phải ở bên chứ, sao chỉ có người phụ nữ đang nằm trên chiếc giường đẩy kia gào thét đến hụt hơi vậy nhỉ?
Chỉ có một bé gái còn rất nhỏ đứng ở phía xa xa, con bé đứng nép vào tường, chằm chằm nhìn về phía trước. Không một y tá hay người nào đến kéo con bé đi, như thế nó có mối quan hệ gì đó với người bệnh.
Về sau tôi mới biết, đứa bé gái đó là con đầu lòng của người bệnh tên Hoàng Chức, cô bé tên là… đúng rồi là Chu Tiêm Tiêm.
Lúc tôi bước đến gần, Chu Tiêm Tiêm đột nhiên ngoảnh lại nhìn. Vẻ mặt có phần lạnh lùng xa cách, con bé mím chặt môi. Bắt gặp ánh mắt Tiêm Tiêm, tâm can tôi chợt thoáng chấn động, đôi mắt to đó sâu đến hút hồn. Trẻ con và người lớn sống ở hai thế giới, đôi mắt này càng khiến người ta nhận ra điều đó một cách rõ ràng hơn.
“Sao tôi không được nhìn con tôi, đứa con tôi đứt ruột đẻ ra tôi phải có quyền nhìn nó chứ!” – Tiếng hét của Hoàng Chức xuyên vào tai tôi.
Ánh mắt tôi dừng lại trên cơ thể người bệnh rõ rang là đang có phần hoang tưởng này.
Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô là sự nhỏ bé, yếu ớt. Dù cô đang trong tình trạng trang cãi nảy lửa, nhưng những sợi gân xanh hiện lên trên chiếc cổ thon nhỏ, cộng với gương mặt trái xoan nhợt nhạt sau sinh cũng những vầng đỏ - là kết quả của một tâm trạng đang bị kích động, vẫn khiến tôi cảm thấy người phụ nữ này mang nét đẹp rất liễu yếu đào tơ.
Tôi không vội để lộ thân phận mình, bởi tâm trạng người bệnh đang kích động, nên có lẽ phải đợi đến khi cô ấy bình tĩnh lại. Tình cảnh hiện giờ không cho phép tôi gây thêm phiền hà, đứng nhìn là được rồi.
“Xin lỗi chị, cháu bé nhà chị đã mất rồi!”. Vị bác sỹ nói.
“Không, không thể nào, các người đã làm gì, sao con tôi có thể chết được chứ?” – Giọng nói the thé sắc nhọn của Hoàng Chức bất chợt khàn đi.
“Đó không phải là do công tác hộ sinh của bệnh viện chúng tôi, cháu bé đã qua đời từ lâu rồi, chết trước khi được sinh ra!”.
“Đồ dối trá, anh lừa tôi, đứa con trong bụng tôi rất hiếu động hoạt bát, mỗi ngày tôi đều cảm nhận được nó. Nhất định là do các người, đây là sự cố xảy ra trong quá trình đỡ đẻ!”.
“Ngày nào chị cũng cảm nhận được sao?” – Vị bác sỹ tỏ vẻ hồ nghi, khó hiểu, “Chắc đó chỉ là ảo giác của chị. Đứa bé còn chưa phát triển toàn diện trong bụng mẹ đã chết từ lâu rồi”.
“Dù thế nào thì tôi vẫn muốn nhìn mặt con tôi, dù chết nó cũng vẫn là cốt nhục máu mủ của tôi đứt ruột đẻ ra!” – Hoàng Chức gượng nhổm dậy nhìn chằm chằm vị bác sỹ đứng trước mặt với ánh mắt đầy hận thù, như thể ông ta là kẻ thù không đội trời chung của cô vậy.
Vị bác sỹ ngoảnh mặt sang bên cạnh, không muốn đối mắt với cô. Ông khẽ lắc đầu, bảo y tá đứng cạnh: “Vậy… vẫn đang ở chỗ phòng sinh phải không?”.
Y tá gật đầu.
“Thôi thế này” – vị bác sỹ nói, “Chúng tôi sẽ đưa chị sang xem. Nhưng chị cũng cần chuẩn bị tinh thần trước, tốt nhất chị hãy bình tĩnh lại và hít thở sâu lấy vài hơi. Đó là… đứa trẻ dị dạng”.
“Dù hình dạng thế nào, nó vẫn là con tôi!” – Hoàng Chức không chút do dự đáp.
Cuối cùng, cô cũng nằm xuống, y tá đẩy giường bệnh về phía phòng sinh.
Tôi nhìn lướt qua khung cửa con hằn đầy dấu tay bên trên, đó hẳn là vết mồ hôi từ tay Hoàng Chức.
Giường bệnh được đẩy đi khá xa ngoài hành lang, tôi vội vàng rảo bước, định bám theo.
Hoàng Chức đột nhiên nhổm dậy, ngoái đầu lại nhìn.
Thấy cô hướng về phía mình và nở nụ cười có đôi phần miễn cưỡng, tôi khựng lại, chưa biết nên phản ứng thế nào. Sau đó, tôi mới nhận ra rằng chẳng phải cô ấy đang nhìn mình.
“Tiêm Tiêm, đợi mẹ ở phòng bệnh nhé, mẹ sẽ quay lại nhanh thôi!” – Khi nói, ánh mắt Hoàng Chức có phần hơi mê man. Hẳn cô ấy mệt lắm khi vừa vượt cạn xong đã phải hao tốn thể lực vào cuộc tranh cãi với bác sỹ và y tá.
Đứa bé nãy giờ vẫn đứng cạnh cửa, không bám theo. Giờ nghe mẹ nó dặn, nó chẳng vâng dạ gì, chỉ chạy tọt vào phòng bệnh.
Hoàng Chức lại nằm xuống. Thấy tôi, ánh mắt cô lộ vẻ khó hiểu, nhưng cô đã chẳng còn hơi sức để tìm hiểu xem tôi, người đàn ông bám theo cô có thân phận thế nào. Tâm trí cô chỉ hướng về đứa trẻ mình vừa sinh ra.
Trong khoảnh khắc dừng lại ngắn ngủi đó, vị bác sỹ và y tá để ý thấy tôi. Một y tá nhíu mày định lên tiếng thì vị bác sỹ đã bước tới, hạ giọng bảo: “Anh với anh Bạch là… ?”
Tôi gật gật đầu. Anh Bạch là người cung cấp tin cho tôi.
“Hừm, e giờ không tiện!” – Vị bác sỹ liếc nhanh về phía Hoàng Chức đang nằm trên giường bệnh. Lúc này khi những quầng đỏ trên mặt đã biến mất, cô trong nhợt nhạt hơn bao giờ hết.
“Tôi hiểu, lát nữa tiện ta sẽ nói sau, giờ tôi chỉ đi theo xem thôi!” – Tôi đáp.
Làm phóng viên không có nghĩa lúc nào bạn cũng phải là người đặt câu hỏi, mà đôi khi việc dùng cái tâm để nhìn nhận cách sự việc phát sinh còn cần thiết hơn.
Không lâu sau, Hoàng Chức được đẩy trở lại phòng sinh. Tôi định bám theo, nhưng thấy có lẽ không được tiện lắm, trong lúc tôi còn đang phân vân lưỡng lự thì cánh cửa phòng sinh đã khép lại.
“Tôi có thể vào trong xem không?” – Tôi hỏi y tá đứng ngoài cửa.
“Anh là…”
“Tôi là phóng viên, phóng viên của tòa soạn báo Ngôi sao buổi sớm”.
“Vậy cũng không được, việc này cần được sự đồng ý của bác sỹ và bệnh nhân đồng ý!” – Cô y tá không đổi ý.
“Anh Bạch trên văn phòng báo cho tôi đến phỏng vấn, anh ấy nói ở đây có một trường hợp kì lạ, phải chăng là ám chỉ đứa bé dị dạng sản phụ kia vừa mới sinh?” – Tôi hỏi.
Y tá mím chặt môi, mặt đột nhiên trở nên căng thẳng.
Nhìn sắc mặt cô, tôi cảm thấy hình như chuyện này không đơn giản. Vốn dĩ tôi đang nghĩ bụng, mỗi chuyện đứa trẻ sơ sinh dị dạng thì có gì để mà đưa lên báo, có lẽ nào có người đẻ ra cá ư? Song dựa vào cuộc tranh cãi vừa nãy, cùng vẻ mặt hoảng sợ thất thần của y tá, xem chừng lần này lão Bạch hốt được tiền thưởng rồi đây.
“Sao lúc sinh xong không bế đứa bé cho mẹ nhìn mặt con?” – Tôi truy vấn.
“Bởi vì cô ấy sinh ra…” – Cô y tá nói được nửa chừng liền im bặt, như thể phần tiếp sau là điều cấm kị, nghẹn lại nơi họng dù thế nào cũng không dám nói ra.
Cô y tá hít một hơi thật sâu, tôi đoán cô sắp sửa tiết lộ chân tướng sự việc cho mình biết, đúng lúc đó một tiếng thét bi thương thảm thiết bất ngờ vang lên từ trong phòng sinh.
Như thể vọng ra từ nơi địa ngục âm u tăm tối, tiếng thét ấy chứa đựng sự hoảng sợ, tuyệt vọng đến cùng cực, vừa khàn đặc vừa sắc nhọn, như cơn gió lạnh buốt xương luồn qua cánh cửa chính nơi phòng sinh lọt ra ngoài. Trong chớp mắt, mọi người ở ngoài đều biến sắc, những người đang đi lại đột nhiên đứng im, bầu không khí tịch mịch đến rợn người, chỉ mỗi tiếng thét bi thương xé tai vang vọng trong đầu.
Mấy giây sau, tôi hỏi y tá: “Chuyện gì xảy ra vậy?”
Tôi lập tức nhận ra đây là câu hỏi ngớ ngẩn; tiếng thét thê lương đáng sợ đó vẫn khiến tôi chưa kịp định thần lại.
Nhân lúc y tá đang đờ ra, tôi định đẩy cửa phòng sinh xông vào.
Nhưng cửa đã được khóa từ bên trong, tôi vặn liền vài cái đều không được,
“Này, anh định làm gì thế?” – Y tá đẩy tôi ra, vặn cánh cửa đang khóa, cô hướng vào trong phòng hét gọi: “Bác sỹ Trương, Bác sỹ Trương!”.
Hình như có người đáp lại từ bên trong, tôi chưa nghe rõ là gì, nhưng y tá lập tức im bặt.
“Sao thế? Tiếng kêu vừa xong có phải là của bệnh nhân được đẩy vào phòng không?” – Tôi hỏi.
“Không có gì, không có gì!” – Y tá đáp.
“Không có chuyện gì ư? Cô biết chuyện gì xảy ra trong đó sao?” – Tôi hỏi lại lòng hơi tức giận, tiếng thét thảm thiết đáng sợ nhường vậy mà chỉ cần một câu nói từ bác sỹ bên trong, y tá đã điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Câu nói của tôi vừa thốt ra ngoài miệng đã thấy cô y tá ngập ngừng, như thể có điều gì khó nói. Phải chăng cô ấy biết điều gì?
“Có thể… có thể là người bệnh đã nhìn thấy đứa bé chị ấy sinh ra!” – Thốt ra được câu này, y tá như thể vừa gỡ được cục nghẹn nơi cổ họng.
“Đứa trẻ cô ấy sinh?” – Tôi nhớ mới vài phút trước trong hành lang, Hoàng Chức hãy còn khăng khăng một mực rằng “Dẫu hình dạng thế nào, nó vẫn là con tôi”. Vậy mà giờ lại bị đứa con chính mình đẻ ra làm cho khiếp sợ đến mức thét lên thê thảm…
Rốt cuộc cô ấy đã nhìn thấy gì? À không, rốt cuộc cô ấy đã sinh ra thứ gì?
Tôi vẫn đang kinh ngạc và nghi ngờ thì cửa phòng sinh bật mở, Hoàng Chức nằm trên chiếc giường đẩy được đẩy ra ngoài hai mắt cô nhắm nghiền.
“Bệnh nhân thế nào?” – Y tá hỏi.
“Sợ hãi quá độ nên đã bị ngất. Tôi vừa tiêm cho cô ấy một mũi ức chế thần kinh!” – Sắc mặt bác sỹ cũng không được tốt, trán ông lấm tấm đầy mồ hôi.
“Cô ấy bị đứa con mình sinh ra làm cho kinh sợ đến mức ngất đi ư? Liệu tôi có thể nhìn qua không?” – Tôi hỏi.
Vị bác sỹ chần chừ một lát rồi đáp: “Vậy thế này đi, anh cứ vào đó ngó qua. Nhưng không được phép chụp ảnh”.
“Tôi không mang máy ảnh” – Tôi vừa nói vừa theo ông vào phòng sinh.
“Tách tách…” Bác sỹ bật chum đèn không bóng trong phòng mổ. Ông lấy đôi găng tay cao su dùng khi phẫu thuật ra đeo, cúi xuống nhặt một thứ gì đó lên, rồi cứ thế xách đến trước mặt tôi.
Tôi tự cho mình trải nghiệm tương đối nhiều chuyện kinh dị, vả lại tiếng hét đầy bi thương vừa xong cũng phần nào giúp tôi có sự chuẩn bị trước về mặt tâm lý, thế nhưng vào giây phút này, tóc gáy tôi bất ngờ như dựng đứng hết lên, nửa thân trên tự động giật lùi ra sau.
Nó là vật gì vậy?
Không biết bao nhiêu thời gian trôi qua, tôi mơ hồ không thể nhớ nỗi, nỗi sợ hãi khiến tôi cảm thấy ngột ngạt. Tôi không nhìn thấy bộ dạng của mình lúc đó, nhưng đoán chắc mặt phải trắng bệch như người chết.
Khi có thể cử động trở lại, tôi lập tức lùi ra sau một bước. Mọi khớp xương trong cơ thể tôi như thể bị han gỉ, chỉ một cử động nhỏ cũng kêu lên răng rắc.
“Đây là thứ cô ấy sinh ra sao?” – Sau khi thốt ra câu này, tôi mới nhận ra giọng mình đã khàn đặc.
Nó không phải là một đứa trẻ, thậm chí còn không thể tính là một đứa trẻ quái thai.
Vật trước mặt tôi, có đầu có chân, tứ chi lành lặn, đang nhè nhẹ lay động theo tay bác sỹ.
Không sai, là lay động. Bởi nó chỉ là một tấm da!
Hoàng Chức sinh ra một tấm da mang hình hài đứa trẻ!
Tất nhiên, nó cũng dày hơn tấm da một chút, song chắc chắn chưa đến một centimet.
Hai chân kết dính với nhau tựa như đuôi cá. Tay ép chồng lên nửa thân trên, phần duy nhất có thể phân biệt được là một vài dấu vết nằm giữa phần ngực với bụng.
Còn gương mặt thì…
Gương mặt ấy dị hợm với chiếc mũi bị đè bẹp, vẹo vọ dán chặt sang phía bên trái; cái miệng hơi nhe ra; trên vị trí đại loại là đôi mắt, thì con mắt bên trái còn mang chút hình dạng, con mắt bên phải biến thành một cái hốc hơi lõm vào, chính giữa là tổ chức giống như con ngươi.
Nếu tưởng tượng một chút, thì đứa trẻ này như bị một máy ép hàng vạn tấn nén xuống một cách từ từ, sau đó được người ta lau sạch vết máu đi. Nhưng nếu thực sự có đứa trẻ nào bị đè bẹp như vậy, thì người ta chỉ cảm thấy thương xót, không nỡ nhìn, còn giây phút này, tôi chỉ thấy quái dị, một cảm giác quái dị đến độ âm u, ghê sợ. Một người bình thường sao có thể sinh ra một vật dị hợm như thế này?
Một ý nghĩ bất chợt lóe lên trong đầu tôi: Đây là đứa trẻ bị ma quỷ nguyền rủa!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 2: Cặp song sinh kì lạ

Chiếc đĩa bay hạ cánh xuống thảm cỏ, luồng khí thốc lên làm tóc tôi bay lòa xòa.
“Đây mới chỉ là khởi đầu!” – Thầy Vương đứng cạnh chiếc đĩa bay của ông nói, nét mặt đầy vẻ tự hào.
Nơi đây là Côn Sơn, thầy Vương là một nông dân, nhưng bây giờ gần như ông đã chuyển hẳn sang nghề chế tạo đĩa bay.
Từ nhỏ, thầy Vương đã thích mua bán đổi chác vật dụng, ông nói mọi người quanh đó đều gọi ông là thầy. Ban đầu tự chế tạo vô tuyến điện, còn bây giờ ông đã có thể tự chế tạo đĩa bay, và ngay ruộng đất cũng được ông đem rao bán để lấy tiền mau nguyên vật liệu. Tòa soạn cử tôi về phỏng vấn nhân vật lập dị này, họ còn lo liệu cả phương tiện đi lại. Dù trong lòng không cảm thấy có gì đặc biệt, nhưng vì là nhiệm vụ, nên tôi đành miễn cưỡng thực hiện bài phỏng vấn chuyên đề này.
Chiếc đĩa bay màu tro có đường kính khoảng ba mét được làm bằng nhôm. Nhờ động cơ phản lực nên nó có thể bay cao hơn chục mét. Hướng nghiên cứu tiếp theo của thầy Vương hẳn là tìm cách khiến thứ đồ chơi này có thể di chuyển, không chỉ là bay lên bay xuống.
“Rồi nó có thể chở người sớm thôi, đây chỉ là khởi đầu!” – Thầy Vương nhấn mạnh.
“Ồ…” – Tôi rất muốn bảo ông ta rằng, trước khi chở người hãy mua bảo hiểm đã, nhưng tôi đã kìm lại được. Dù sao muốn làm được thế cũng còn lâu lắm.
Thứ này có phức tạp hơn mô hình máy bay điều khiển từ xa không nhỉ? Tôi thầm thắc mắc.
Thầy Vương rất hay chuyện, tôi thực sự ngại phỏng vấn kiểu người này. Họ chẳng bao giờ chịu nghe bạn hỏi mà chỉ mải nói về điều họ thích và cứ thế thao thao bất tuyệt, không cách gì ngừng lại.
“Mơ ước của tôi là chế tạo được động cơ diềm kì dị.”
“Ồ… hả? Động cơ diềm kì dị là gì?” – Tôi hỏi.
“Đây là tên tôi đặt cho nó, thực tế các nhà khoa học Mỹ đã tiến hành nghiên cứu tương tự, tạo ra loại động cơ có khả năng uốn cong không gian, nhằm đạt đến vận tốc siêu ánh sáng.
“Cái này… Anh chắc mình không đọc nó từ một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nào chứ?”
“Tất nhiên là vậy, tôi đọc được tin này trong mục tin tức trên trang Sina[1] cách đây cũng khá lâu. Hình như họ đã cho thành lập nhóm dự án để tiến hành các nghiên cứu chuyên sâu”.
[1] Trang web tổng hợp được nhiều người Trung Quốc biết đến.
“Nhưng nó thì liên quan gì đến diềm…?” – Tôi thắc mắc hỏi.
“Không phải là diềm mà là điểm!” – Thầy Vương nhíu mày, hẳn ông đang cảm thấy gã phóng viên đứng trước mặt mình thật chịu hết nổi, đang luận bàn về khoa học hắn lại ngoặc sang cái gì không biết.
“Theo thuyết tương đối rộng của Albert Einstein, vật có khối lượng lớn sẽ khiến không gian xung quanh nó bị uốn cong, khối lượng vật càng tăng thì độ cong của không gian quanh nó cũng càng lớn, khi đạt đến mức độ mức độ nhất định, như tâm hố đen, thì điểm kì dị sẽ được hình thành. Không gian tại điểm kì dị[2] bị uốn cong, đây chính là nguyên lý động cơ điểm kì dị, thứ có thể tạo ra lỗ đen kích cỡ nhỏ giúp ta đi xuyên không gian”.
[2] Theo định nghĩa vật lý thiên văn, điểm kì dị là điểm có tỉ trọng vô hạn tại trung tâm của một hố đen, nơi những lực biên trạng trở nên vô hạn và các định luật vật lý ngưng áp dụng.
Điều thầy Vương vừa nói đã khiến tôi nhìn ông với con mắt hoàn toàn khác, bởi chí ít nghe nó cũng rất huyền hoặc.
“Bên Mỹ họ thành lập hẳn một tổ chức nghiên cứu, còn anh chỉ mỗi một mình, vật anh định bắt đầu thế nào?” – Tôi hỏi
“Trên đời này chẳng có việc gì khó, chỉ e lòng người không bền thôi. Hiện tôi đang nghiên cứu một vài tác phẩm khoa học nổi tiếng của vật lý tuyến đầu để tự trang bị cho mình”.
“Anh đang nghiên cứu cuốn vật lý học tuyến đầu nào?” – Tôi tò mò hỏi.
“Kiểu dạng như ‘Lược sử thời gian’ của Stephen Hawking, nhà vật lý học nổi tiếng người Anh!” – Thầy Vương trả lời.
Tôi chợt không biết nói gì.
Sau khi hoàn tất buổi phỏng vấn ở chỗ thầy Vương, tôi lên chiếc ô tô mà tòa soạn bố trí sẵn cho mình, lòng cảm thấy dở khóc dở cười trước viễn cảnh tươi đẹp của loại động cơ điểm kỳ lạ mà thầy Vương vẽ ra.
Hóa ra đó là cuốn “Lược ra thời gian”, tác phẩm khoa học về vật lý nổi tiếng của Hawking được viết từ nhiều năm trước. Thêm vào đó, mấy năm về trước, hồi đến Trung Quốc, Hawking cũng đã nói, quan điểm về hố đen hiện giờ đã có nhiều sự thay đổi so với thời điểm mà ông viết tác phẩm trên.
Thế nhưng đối với người say mê khoa học viễn tưởng hay với thầy Vương, thì ý tưởng bẻ cong không gian quả thực vẫn có một sức hút vô cùng lớn. Còn đối với kẻ ngoại đạo như tôi, thì uốn cong không gian thường được hình dung một cách đơn giản như việc ta gập tờ giấy lại. Và cách hình dung này đã khiến tôi không khỏi băn khoăn, bởi nếu không gian có thể uốn cong như tờ giấy, thì bốn phía trên dưới xung quanh nó là gì?
Đi thẳng đến nút giao thông phía trước rồi rẽ trái sẽ ra đến đường cao tốc, xe đi từ Côn Sơn về Thượng Hải chỉ mất một tiếng đồng hồ, rất nhanh và tiện lợi. Ngẩng đầu lên nhìn khi chờ tín hiệu giao thông, tôi chợt thấy tấm bảng chỉ đường ghi “Đại Đường 23km”.
Tôi bất ngờ đổi ý.
“Bác tài…” – Tôi gọi người lái xe.
“Gì thế cậu?”
Câu “mồm miệng đi trước trí óc theo sau” hẳn được tạo ra để nói về tình huống dạng này. Lời đã thốt ra khỏi miệng, song thực tế tôi còn chưa quyết định dứt khoát.
“Bác tạm tấp xe vào lề đường một lát được không?”
Bác tài dù không rõ nguyên cớ nhưng cũng làm như tôi bảo.
Tôi nhìn lại bảng chỉ dẫn, quả không sai, Đại Đường cách đây không xa lắm.
“Bác có thể đưa tôi đến thôi Đại Đường không?” – Chẳng còn do dự, tôi cất tiếng hỏi người lái xe.
“Đại Đường à? Lát nữa tòa soạn cần dùng đến xe, tôi e ta không thể về kịp”.
“Không vấn đề gì, bác cứ đưa tôi đến đó rồi cứ về trước, không phải chờ, tôi tự bắt xe khách về sau”.
“Vậy thì được.” – Rồi chiếc xe phỏng vấn tiếp tục bon bon lăn bánh trên đường cao tốc, thẳng tiến về phía trước.
Hoàng Chức sống ở Đại Đường.
Kể từ sau buổi phỏng vấn ở bệnh biện bà mẹ trẻ em số 1 ba năm về trước, tôi chưa gặp lại cô ấy lần nào. Liên lạc thư từ giữa hai bên đều chỉ từ một phía, hồi nhận lá thư đầu, tôi có viết thư trả lời, nhưng từ khi biết cô ấy mắc bệnh tâm thần thì tôi không hồi âm nữa.
Mãi đến ngày hôm kia, lúc nhận được lá thư cầu cứu thứ hai từ Hoàng Chức thông báo về sự mất tích của cô con gái, tôi cũng thấy hơi bất an, nhưng trong tay không có số điện thoại liên lạc của cô nên chẳng làm gì được. May hôm nay tiện xe nên tôi định đến tận nơi tìm hiểu, nhưng nhỡ đâu tình hình chưa đến mức ấy, hoặc chỉ là câu chuyện bịa đặt của người bệnh tâm thần thì sao? Thôi, cho dù có thấy con gái cô ấy đang chơi trong nhà, thì cũng xem như đây là cách xoa dịu lương tâm mẫn cảm của chính mình.
Phóng mắt nhìn phong cảnh ngoài cửa sổ xe lùi dần lại phía sau, tôi thầm nghĩ thời gian thấm thoát tựa thoi đưa. Kể từ cuộc phỏng vấn mà rốt cuộc chẳng thể viết thành bài, do quá kì dị lần ấy, đến giờ đã hơn nghìn ngày. Dù đã có thêm nhiều trải nghiệm phong phú trong suốt quãng thời gian đó, nhưng mỗi khi hồi nhớ lại cảnh tượng vị bác sỹ nhặt đứa trẻ sơ sinh trông hệt tờ giấy trong tay, rồi mang đến trước mặt mình, tôi vẫn bất giác rùng mình.
Càng đến gần thôn Đại Đường, những thước phim về quá khứ đã vùi sâu trong ký ức, lại liên tục hiên ra, đan xen với nhau, đưa tôi quay về cuối buổi chiều ngày hôm đó.
“Đây là thứ quỷ gì vậy?” – Tôi gắng định thần, hít vào một hơi thật sâu, làm bộ tỉnh bơ hỏi. Mùi tanh tanh bốc ra từ bộ da đứa trẻ trước mặt theo luồng hơi hít vào xâm nhập vào bên trong cơ thể khiến đầu óc tôi quay cuồng, suýt ói.
“Đây…” – Bác sỹ Trương nhìn lướt qua xác đứa trẻ sơ sinh mỏng tanh trên tay, mặt lộ vẻ khó chịu, lắc đầu nói, “Tôi cũng chẳng rõ nữa. Thôi, bây giờ anh cũng đã nhìn rồi, tôi tin rằng anh chẳng còn hứng thú đào bới sâu thêm”.
Tôi cười khổ, ai thích nhìn mãi xác đứa trẻ sơ sinh kì dị này chứ?
“Nếu còn muốn phỏng vấn anh cũng không nên thực hiện ở đây, ta chuyển sang địa điểm khác nhé. Song tôi cũng không có nhiều thời gian đâu!” – Bác sỹ Trương tuyên bố.
“Vâng, nếu tiện ta ra ngoài hành lang”.
Dọc hai bên hành lang có kê những băng ghế dài, chúng tôi tìm một chỗ ngồi xuống.
Phải chăng chỉ là cảm giác tâm lý, bởi sau khi rời phòng sinh, tôi cảm thấy không khí trong lành hơn nhiều, tựa như tảng đá đè trước ngực đã được nhấc bỏ.
“Trường hợp trẻ dị dạng thế này rất hiếm phải không?” – Tôi cất tiếng hỏi.
“Không chỉ rất hiếm, trước đây tôi chưa từng gặp trường hợp nào như vậy.” – Bác sỹ Trương đáp.
“Đứng ở vị trí người bình thường ngoài ngành, tôi thực không cách gì hình dung ai đó có thể sinh ra đứa trẻ như vậy. Sao nó có thể phát triển thành hình dạng này trong bụng mẹ?”
“Nói thật dù tôi chưa từng gặp trường hợp này bao giờ, thậm chí không vị bác sỹ nào ở bệnh viện này từng gặp trường hợp trẻ sơ sinh dị dạng kiểu này, nhưng trước đây đã từng có người sinh ra đứa trẻ bị chết tương tự”.
“Hả?” – Tôi hơi bất ngờ.
“Ồ vâng, đúng là có trường hợp vậy. Hiện tượng này được gọi là thai nhi giấy, hiếm gặp đến mức chỉ được ghi lại trong tài liệu y khoa”.
“Thai nhi giấy?” – Thật là cái tên phù hợp, song tôi càng cảm thấy mất phương hướng hơn. Tôi còn nhớ lúc trong phòng sinh mình đã hỏi vị bác sỹ đây là thứ gì, ông ta nói là không biết, vậy sao giờ ông ta lại bảo từng có trường hợp tương tự và được gọi là thai nhi giấy. Thế chẳng phải là tiền hậu bất nhất sao?
“Vâng, thai nhi giấy, đúng vậy!:” – Giọng điệu bác sỹ Trương lại trở nên mơ hồ, như thể ông ta không lấy gì làm tự tin cho lắm.
“Sao thế?”
“Cứ nói thế này, thai nhi giấy tôi từng nhìn thấy trên sách vở thực sự rất giống vậy, nhưng thực sự tôi thấy rất khó tin rằng đây chính là thai nhi giấy!”
Điều ông ta nói khiến tôi hoàn toàn bối rối, nó có ý gì chứ?
Nhận ra vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, vị bác sỹ khẽ lắc đầu, rồi nói rằng điều này ngay chính ông cũng thấy rất bối rối.
“Hẳn anh nghĩ lời tôi nói rất mâu thuẫn phải không? Đó là bởi vì trường hợp này hết sức kì lạ. Tuy trong y học có hàng trăm hàng nghìn trường hợp kì lạ, đặc biệt là trong xã hội hiện đại, khi sự thay đổi về điều kiện sinh hoạt và thói quen đã liên tục tạo ra nhiều căn bệnh mới, song…” – Nói đến đây vị bác sỹ lại khẽ lắc đầu, như thể suy nghĩ của ông đang bị rối, nhất thời chưa tìm ra cách diễn đạt để có thể giải thích rõ chuyện này cho tôi hiểu.
Cảm giác sợ hãi ban nãy giờ lại bị áp đảo bởi tính hiếu kỳ, tôi chăm chăm nhìn vị bác sỹ ngồi phía đối diện, đưa mắt giục ông ấy mua nói tiếp.
Không lâu trước đó, sự rối ren do tiếng thét kinh hoàng kia gây nên đã lắng xuống. Hay có thể nói rằng, nỗi tuyệt vọng ẩn chứa trong tiếng hét kinh hoàng đó đã nhấn chìm tất cả những người nghe thấy… Bởi vì, con người thường có xu hướng đón lành tránh dữ, nên họ nhanh chóng giải tán ai về chỗ nấy, và rồi hẳn sẽ tìm mọi cách quên chuyện này đi. Thế nhưng cũng rất có thể, vào lúc nửa đêm, tiếng hét kinh hoàng đó sẽ lại thình lình đánh thức họ khỏi giấc mộng.
Duy chỉ có một người vẫn đứng cách đó không xa, nơi có thể nghe được cuộc trò chuyện giữa tôi và vị bác sỹ. Đó chính là cô y tá trẻ đứng đợi trước cửa phòng sinh ban nãy. Hiển nhiên cách hành xử hiện giờ của cô ấy có phần hơi khác thường, bởi bất kể thế nào thì việc cô cần làm lúc này chắc chắn không phải là đứng ở đây.
Cô y tá đó đã biết Hoàng Chức sinh ra thứ gì. Lòng hiếu kỳ của cô hẳn không ít hơn tôi, và nhất định cũng bị một phen kinh sợ. Cảm giác sợ hãi tột độ vào khoảnh khắc nhìn thấy đứa trẻ giấy cũng đủ gây ám ảnh. Tôi đoán cô muốn nghe xem bác sỹ sẽ giải thích với tôi thế nào. Sự sợ hãi bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết và sẽ tự khác biến mất khi chân tướng sự việc sáng tỏ.
Nhưng chẳng phải việc gì cũng có thể giải thích tỏ tường, và lúc này đây…
Vị bác sỹ thở dài.
“Tôi nghĩ nó không phải là thai nhi giấy…” – vị bác sỹ tiếp tục, “mà chỉ có vẻ ngoài giống hiện tượng thai nhi giấy thôi. Trước tiên, hãy để tôi giải thích thế nào là thai nhi giấy, rồi anh sẽ hiểu tại sao tôi nói vậy. Anh biết hiện tượng mang đa thai chứ?”
“Hả?”
“À, đấy là cách gọi thông thường của hiện tượng song thai hoặc đa thai. Khả năng song thai, đa thai ở phụ nữ đang mang thai chiếm khoảng một phần trăm. Thường mọi người xem đây là tin tốt, song thực ra mức độ nguy hiểm đối với người mẹ ở trường hợp mang đa thai cao hơn đơn thai nhiều. Nó không chỉ khó khăn cho người phụ nữ trong quá trình sinh nở, mà còn khiến sự phát triển của những bào thai trong tử cung người mẹ gặp nhiều hạn chế hơn. Bởi cơ thể người phụ nữ vốn chỉ có thể đảm nhiệm việc cung cấp chất dinh dưỡng cho một bào thai, còn giờ lại phải san ra thành hai hoặc nhiều hơn”.
“Anh muốn nói, thai nhi giấy là thai nhi dị dạng do thiếu dinh dưỡng trong trường hợp người mẹ mang đa thai?”
“Không, không!” – Bác sỹ Trương liên tục xua tay, “Nếu chỉ vậy sao có thể coi là trường hợp hiếm? Từ góc độ này mà nói, đứa trẻ giấy là đứa trẻ sơ sinh bất hạnh bị mưu sát từ khi còn chưa ra khỏi bụng mẹ”.
“Bị mưu sát từ khi còn chưa ra khỏi bụng mẹ, bị ai mưu sát? Chẳng lẽ là những người anh em đa thai cũng trong bụng mẹ của nó sao?”.
“Có lẽ nên nói là người anh em song sinh kia thì chính xác hơn. Khả năng gặp thai nhi giấy ở trường hợp mang đa thai là rất thấp, gần như không thể. Thường thì trong trường hợp mang thai đôi, hai bào thai phát triển đồng đều trong tử cung người mẹ. Nhưng dưới điều kiện cực đoan nào đó, một trong hai bào thai phát triển mạnh hơn, mới đầu nó sẽ lấy phần lớn chất dinh dưỡng về cho mình, chèn ép không gian sống của bào thai kia. Sau cùng, đến một lúc nào đó, cơ thể người mẹ sẽ tự cắt bỏ nguồn dinh dưỡng dành cho bào thai yếu hơn rồi dần dần hấp thu nó”.
“Những cá thể mạnh luôn giành được cơ hội sinh tồn, anh dùng từ mưu sát ở đây có phần hơi quá!” – Tôi nói.
“Vấn đề là rất nhiều người nghi ngờ, nếu chỉ bị cơ thể người mẹ hấp thu, thai nhi này không thể trở thành mỏng như tờ giấy!” – Bác sỹ cố ý nhấn mạnh.
Tôi chợt rùng mình, đăm đăm nhìn ông.
“Nên rất có thể đã xảy ra một khả năng khác, khi bị bào thai khỏe chèn ép, bào thai yếu hơn sẽ dần thay đổi hình dạng, sau đó một phần cơ thể nó bị cơ thể người mẹ hấp thu, phần kia bị bào thai khỏe hấp thu, sự hấp thu này có thể xảy ra khi bào thai yếu đã chết hoặc… ai mà biết được!”
Bác sỹ không nhắc đến cái khả năng kia, điều này thật hết sức khó tin và cũng thật ghê tởm. Trong đầu tôi vụt lóe lên hình ảnh bào thai này bám dím lấy bào thai kia, và hút dần hút mòn sự sống người anh em của mình, khiến bào thai kia khô quắt lại như thể tờ giấy. Đúng là một con quỷ hút máu biến hình.
Sau này lớn lên biết được chuyện này, thì kẻ hút cạn sự sống của người ruột thịt để chào đời sẽ cảm thấy thế nào?
“Khi nhìn xác đứa trẻ giấy dị dạng này, phản ứng đầu tiên của tôi cho rằng đó là đứa trẻ giấy. Nhưng sau đó tôi liền nghĩ, nếu thế thì đứa trẻ kia đâu?”
Vị bác sỹ chăm chăm nhìn tôi, dù trên thực tế ánh mắt ông chẳng hẳn dõi vào tôi, mà xuyên qua tôi, hướng về phía điểm mơ hồ nào đó trong không gian. Ông như thể đang hỏi tôi, dù kỳ thực ông cũng không hy vọng mình sẽ nhận được bất cứ lời giải đáp nào. Càng nghĩ về đứa trẻ giấy mà Hoàng Chức sinh ra, tôi càng thấy khác thường hơn. Ngay đến vị bác sỹ trung niên, với hơn chục năm kinh nghiệm làm việc này, cũng chết lặng trước hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu.
“Tại sao bệnh nhân chỉ sinh ra đứa trẻ giấy, còn đứa trẻ chèn ép nó đi đằng nào? Nếu không có đứa trẻ chèn ép kia, sao đứa trẻ đã chết lại có bộ dạng như vậy? Thứ gì đã chèn ép, hấp thu nó? Thứ ấy đâu rồi?”
Những câu hỏi của vị bác sỹ càng lúc càng bật ra dồn dập hơn, gương mặt ông cũng dần chuyển thành trắng bệch, vầng trán ông thoáng chốc lấm tấm mồ hôi. Sau khi nêu ra câu hỏi cuối cùng, lông mày ông chợt rung lên, mắt ông trợn tròn khiến tôi dựng tóc gáy.
“Không thể, không thể có thứ như vậy được!” – Ông bật thốt lên sau đó vài giây một cách gắng gượng, ghê tởm nặn từng chữ ra khỏi miệng mình, “Cái thai này không thể tự nhiên thành ra vậy!”
Nước bọt theo từng con chữ khó nhọc thoát ra khỏi miệng ông, bắn trúng chóp mũi tôi.
“Ồ, xin lỗi anh, tôi hơi nhập tâm quá!” – Vị bác sỹ tạ lỗi.
Nhập tâm? Tôi thấy ông bị đứa trẻ giấy bắt mất hồn thì có.
Tiếng chân rải bước vội vàng xa dần. Ngoảnh đầu nhìn lại, tôi thấy cô y tá vừa nãy đứng bên nghe trộm càng lúc càng bước nhanh hơn, hai chân hơi ríu vào nhau, khiến cô lảo đảo suýt ngã.
Lượng thuốc an thần không nhiều, nên không lâu sau đó Hoàng Chức đã tỉnh lại. Cô không ngồi dậy trên giường, mà chỉ đờ đẫn đưa mắt nhìn lên trần nhà. Đứa bé gái ngồi trên chiếc ghế nhỏ nhìn mẹ.
“Mẹ” – Con bé khẽ gọi.
Hoàng Chức không phản ứng gì.
Con bé lại yên lặng, thực ra nó vẫn luôn yên lặng, khép kín đến mức có phần lẻ loi.
Bệnh nhân cùng phòng ở giường khác thỉnh thoảng đưa mắt nhìn hai mẹ con. Họ có thiện ý hỏi thăm mấy câu, song Hoàng Chức cũng chẳng trả lời.
Tôi đứng quan sát từ phía ngoài phòng bệnh hồi lâu, phân vân không biết có nên phỏng vấn Hoàng Chức nữa hay không. Phỏng vấn cô vào ngay lúc này thì thật tàn nhẫn, vả lại chưa chắc cô đã chịu hợp tác, nhưng nếu không phỏng vấn mà chỉ dựa vào những điều bác sỹ Trương vừa nói, thì bài báo viết ra vẫn chưa hoàn chỉnh, thậm chí có thể bị biên tập viên xử tử, chẳng thể đăng báo.
Những câu hỏi chưa có lời giải đáp của bác sỹ Trương tựa như chiếc đèn kéo quân xoay vòng vòng trong đầu tôi, cộng với sự đeo bám dai dẳng của hình ảnh đứa trẻ mỏng dính như tờ giấy, tạo thành cái bóng trơ lì, ngoan cố neo chặt lấy tâm can tôi.
Liếm nhẹ đôi môi không biết đã khô nẻ từ khi nào, tôi chậm rãi thọc tay phải vào túi áo sơ mi.
Hoàng Chức vẫn giương mắt nhìn chằm chằm lên trần nhà loang lổ. Mồ hôi trên gương mặt cô đã khô từ lâu, còn sức sống trong cơ thể cũng gần như tan biến vào không trung theo những giọt mồ hôi đó. Gương mặt nhỏ nhắn, yếu ớt và xinh đẹp, đã bắt đầu xuống sắc do kiệt quệ tinh thần, khiến người ta trong lúc mơ màng tưởng nhầm cô chỉ là xác ướp.
Luồng không khí khẽ xáo động, làm cô chớp chớp mắt.
Con ngươi cô vẫn đờ ra, không vì những cái chớp mắt đó mà thay đổi, song chúng đã phản chiếu bóng dáng một người khác.
“Chào chị, tôi là phóng viên toàn soạn báo Ngôi sao buổi sớm”

– Tôi cúi xuống nói với cô.

“Đây là danh thiếp của tôi.”

– Tôi giơ tấm danh thiếp rút từ túi áo sơ mi ra trước mặt cô.
Chớp mắt thêm lần nữa, cô chầm chậm đưa mắt nhìn tôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 3: Những vụ mất tích liên hoàn

Đại Đường là thôn xóm tương đối trù phú, trực thuộc thành phố Côn Sơn. Đa phần dân ở đây đều sống trong những ngôi nhà ba tầng mới xây, xí nghiệp do thôn thành lập cũng làm ăn rất khấm khá, thu hút lượng lao động từ nhiều nơi đổ về, thậm chí rất nhiều dân thôn đã bỏ đất canh tác trồng trọt, để cho người ngoài thôn thuê bao thầu. Hiện nay, hơn nửa số người sống ở thôn chẳng phải là người dân gốc ở đây.
Khi xe phỏng vấn đi vào thôn Đại Đường, tôi quan sát thấy khu vực quảng trường thôn mà tôi vừa đi qua rất hiện đại và khí thế với bức tượng địa cầu, cùng một màn hình điện tử cở lớn. Thực tế, do quảng trường hơi rộng nên nhìn khá trống trải.
Nơi đây không còn là vùng thuần nông nữa. Bởi nhiều lý do nên diện tích đất canh tác của vùng đang co hẹp lại, nó đang trong thời kì chuyển đổi từ mô hình nông thôn sang thành thị.
Biển chỉ đường ở đây không nhiều và dễ thấy như trên thành phố. Dù trong thư Hoàng Chức gửi tôi có ghi địa chỉ nhà, song tôi vẫn phải hỏi đường vài lần mới tìm được.
Chiếc ô tô đỗ lại ở khu tập trung nhiều nhà cao tầng, gần giống với tiểu khu trên thành phố. Sau khi tôi cảm ơn bác tài, chiếc xe phỏng vần liền quay đầu chạy thẳng về Thượng Hải.
Đất đai nhà Hoàng Chức được thôn trưng dụng làm vườn sinh thái. Mỗi tháng họ đều đền bù bằng cách trả cô một khoản phí hỗ trợ sinh hoạt nhất định. Dù phải nuôi con nhỏ, nhưng với mức sống ở đây, nếu biết chắt bóp và chi tiêu tằn tiện, thì cô vẫn có thể sống qua ngày; còn nếu lại tìm được công việc làm thêm, thì cuộc sống của cô hẳn sẽ rất khá. Bởi không thấy cô đề cập đến chuyện này trong thư, nên tôi nghĩ rằng cô vẫn chưa tìm được việc. Có lẽ người trong thôn đều biết cô có vấn đề về thần kinh.
Giờ đã gần bốn giờ chiều, ban nãy trời vừa đỗ mưa, mặt đất còn ướt nên nền nhiệt không cao lắm. Đi được một quãng, tôi thấy một bà cụ mặt đầy nếp nhăn đang ngồi nhặt rau trên thềm trước cửa ra vào một ngôi nhà ba tầng. Dù nhà cửa ở đây đều đã được thành thị hóa, nhưng thói quen của con người thì vẫn chưa thể dễ dàng thay đổi được.
Đây là xóm 2. Địa chỉ ghi trong thư của Hoàng Chức chỉ thấy đề: “Hoàng Chức xóm 2, thôn Đại Đường”, chứ không có số nhà cụ thể. Tôi bước đến trước mặt bà cụ hỏi thăm.
Bà cụ tạm ngừng công việc đang làm, ngẩng đầu lên nhìn tôi, trên khuôn mặt phủ đầy nếp nhăn hiện ra nụ cười tươi móm mém. Nhưng ngay sau đó bà cụ liền lắc đầu, hỏi: “Cậu nói gì?”.
Tôi tưởng bà cụ nghễnh ngẩng, nên đã lặp lại câu mình vừa hỏi với âm lượng lớn hơn: “Xin hỏi cụ, nhà chị Hoàng Chức ở đâu ạ?”.
Bà lại lắc đầu, ra hiệu mình vẫn không hiểu.
“Gì?” – Bà hỏi lại bằng tiếng Côn Sơn.
Nhận ra bà không biết tiếng phổ thông, tôi vội hỏi lại bằng tiếng Thượng Hải. Người vùng Chiết Giang có thể hiểu tiếng địa phương của nhau đến tám, chín phần, nếu đối phương nói chậm lại một chút.
Nghe tôi nhắc đến hai từ Hoàng Chức, bà cụ liền đổi sắc mặt, mỗi nếp nhăn trên mặt bà đã toát ra sự căm ghét cùng đôi chút sợ hãi.
“Có chuyện gì mà cậu tìm nhà cô ta? Nói cậu biết, cô ta xúi quẩy lắm!”
“Xúi quẩy?” – Tôi thấy hơi bất ngờ. Rõ ràng bà cụ chẳng nhắc gì đến việc Hoàng Chức là người tâm thần, chỉ bảo đến nhà cô ấy rất xúi quẩy.
“Người đàn bà này rất xúi quẩy, đến tìm cô ta, cậu phải cẩn thận không gặp xui xẻo!” – Chỉ là câu nói ngắn mà bà cụ cũng phải thận trọng nhìn trước ngó sau.
Tôi cười, có lẽ bây giờ chỉ người già như bà thì mới tin vào những thứ như khắc phu sát chồng ấy.
Thấy tôi cười, biết tôi không tin, bà cụ thở dài bảo: “Ôi, đúng là người trẻ tuổi!” – Bà đưa tay chỉ về một hướng, nói: “Muốn tìm cô ta thì cậu đi theo hướng đó, nhà cô ta không như các nhà khác”.
Sau khi đi theo hướng ấy một đoạn, tôi đã trông thấy nó. Quả đúng là rất dễ nhận ra, bởi đó chỉ là một ngôi nhà hai tầng xập xệ. Xập xệ ở đây không có nghĩa là gạch nát tường đổ, mà là vì ngôi nhà được xây theo lối nhà cổ trước kia, sơn tường nhiều chỗ đã bạc thếch, đang ngả sang màu nâu xỉn, khiến nó hoàn toàn tương phản với ngôi nhà bắt mắt của hàng xóm ở ngay kế bên. Thêm vào đó, nó lại được xây cách khá xa các ngôi nhà khác, đơn độc nép mình trong góc khu dân cư.
Tôi đứng trước cửa ra vào, rồi nhấn chuông.
Nhìn từ ngoài vào ngôi nhà loang lổ vết sơn của Hoàng Chức, tôi đoán hẳn đã nhiều năm nó chưa được tu sửa lại, tôi được biết: mấy tháng trước khi Hoàng Chức hạ sinh đứa trẻ giấy, chồng cô đã bất ngờ qua đời. Bởi rất coi trọng đứa bé trong bụng, cô mới đến bệnh viện phụ sản tốt nhất mà mình biết để sinh con. Đó là lý do vì sao tôi gặp cô ở bệnh viện Bà mẹ trẻ em số 1 Thượng Hải, và vì sao cô không có người nhà đi cùng ngoài đứa con gái nhỏ. Song tôi vẫn chưa rõ hoàn cảnh của những thành viên khác trong gia đình cô. Bà cụ vừa nãy cứ luôn miệng một tiếng xúi quẩy, hai tiếng khắc tinh là ý gì?
Tôi lại nhấm chuông thêm lần nữa.
Tôi nhớ Hoàng Chức mình gặp trong bệnh viện ba năm về trước hoàn toàn chẳng có nét gì giống phụ nữ nông thôn. Vẻ yếu đuối do bệnh tật khiến Hoàng Chức mang vẻ đẹp mong manh theo kiểu truyền thống. Ba năm sau gặp lại, không rõ giờ cô đã thay đổi thế nào? Nhiều người sau khi phát bệnh tâm thần đã già trước tuổi, song cũng có người vì chẳng phải bận tâm lo nghĩ việc đời, nên lại trẻ hơn cả người bình thường.
Vẫn không thấy ai ra mở cửa. Xem chừng tôi đến đúng lúc nhà cô không có người ở nhà. Nhưng cô bị bệnh như vậy, thì chắc chỉ loanh quanh đâu đó trong xóm, chẳng thể nào đi quá lâu. Bởi không dễ mà đến được đây, như lần này, nên tôi định chờ thêm một lát.
Đi vòng quanh nhà ngắm nghía, tôi càng thấy nó có phần vắng vẻ quạnh hiu hơn. Phần trên các bức tường bao quanh sân chẳng còn ngay ngắn, hiện đã bị sụt lở ở mấy góc, làm lộ ra màu gạch bên trong. Trên tầng hai, cánh cửa sổ làm bằng kính bị vỡ chưa được thay mới, chỉ được che tạm bằng một tấm bìa cứng.
Đột nhiên, tôi thấy nỗi khốn khó của cuộc đời xộc thẳng đến trước mặt mình.
Quay lại nhấn chuông cửa, vẫn không thấy động tĩnh gì, tôi vòng ngược trở lại theo lối đã đến, tới thị trấn cổ “Thiên Đăngg” cạnh thôn Đại Đường, rồi dạo bộ giết thời giờ.
Lúc đi ngang qua chỗ bà cụ ngồi nhặt rau, bà ngước lên nhìn tôi. Tôi dừng bước, hẵng cứ trò chuyện với bà cụ đã.
“Cháu nói chuyện với cụ một lát được không ạ?”
“Được, được chứ!” – Bà cụ ngừng tay, nhìn tôi gật đầu. Người già thường luôn thích trò chuyện với lớp trẻ.
“Sao vừa nãy bà nói nhà Hoàng Chức xúi quẩy ạ?” – Tôi hỏi.
“À!” – Bà cụ ngừng tay, lắc đầu, “Cô ta xúi lắm!”
“Xúi lắm? Sao bà lại nói vậy?”
Bà cụ quay đầu nhìn về phía nhà Hoàng Chức. Chỉ cái nhìn đó thôi, cũng đủ khiến tôi nhận ra bà cụ thực sự rất sợ.
Nhưng bà đang sợ cái gì?
“Tôi biết con bé Hoàng Chức này từ lúc nó hãy còn nhỏ đến giờ.” – Bà cụ mở đầu câu chuyện về cô.
Hoàng Chức gọi lão Hoàng, ông lão ế vợ của thôn Đại Đường là bố. Lão ấy đã nhận con bé mồ côi Hoàng Chức về nuôi. Người ta vẫn hay nói, nuôi con để lấy chỗ nương tựa lúc về già, chắc hẳn lão ấy cũng tính vậy.
Lúc mới được mang về, Hoàng Chức hãy còn là một đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi, nhưng đã rất hiểu chuyện. Không đầy mấy năm, nó đã biết giúp đỡ lão Hoàng làm các công việc vặt. Lão Hoàng làm nghề chai lưới. Bấy giờ con sông nhỏ chảy qua thôn Đại Đường hãy còn khá nhiều cá, hàng ngày ra đó chèo thuyền vài tiếng là có thể dễ dàng đánh được hơn chục, hai chục con cá. Có thể nói, con bé Hoàng Chức xem ra cũng vất vả không ít, nhưng một vài người trời sinh dù phơi sương phơi nắng thế nào cũng vẫn đỏ thịt thắm da, mà chẳng hề bị đen đi, khiến không biết bao cô gái thành thị mặt bự phấn phải ghen tị.
Chẳng đợi đến lúc về già không đi lại được, trong một lần đánh cá hôm trời gió to, thuyền lão Hoàng đã bị lật. Khi Hoàng Chức bơi được lên bờ, quay đầu nhìn lại, đã chẳng còn thấy bố đâu. Cả đời theo nghiệp song nước mà lần đó lão lại bị rong bèo quấn chân, đến lúc đưa được lên bờ thì đã tắt thở. Năm đó Hoàng Chức được mười sáu tuổi.
Song đấy chỉ là tai nạn bất ngờ, chẳng ai có thể đổ tại là do Hoàng Chức xúi quẩy.
Không lâu sau, Hoàng Chức lấy Chu Quốc Đông làm chồng. Khoảng một năm sau, khi cô ta mang thai con bé Chu Tiêm Tiêm thì đến lượt cha Chu Quốc Đông qua đời vì bệnh tật.
Lúc đó người trong thôn chưa hề cảm thấy gì, ngược lại do Chu Quốc Đông nát rượu, hễ cứ uống say là lôi Hoàng Chức ra đánh, không ít người đã khuyên anh ta đối xử tốt với vợ hơn. Một người con gái như thế đi lấy chồng, bên gia đình chẳng còn ai thân thích, lại rơi vào cảnh thân cô thế yếu với gia đình chồng cũng là điều bất đắc dĩ.
Chu Tiêm Tiêm chưa đầy ba tuổi thì đến lượt bà nội con bé, mẹ Chu Quốc Đông mất tích. Hôm đó mọi người trong nhà đều ra đồng làm việc, đến trưa bà cụ thấy đau đầu nên Chu Quốc Đông bảo mẹ về nhà nghỉ, trông chừng con bé hộ vợ chồng anh ta. Kết cục, chiều tối hôm đó về nhà mọi người chỉ thấy mình con bé Chu Tiêm Tiêm. Đợi đến lúc tối nhọ mặt người cũng vẫn không thấy tăm hơi bà cụ đâu, thì hai vợ chồng họ mới đi báo công an. Công an cho tìm kiếm rất lâu, còn cho dán cả thông báo tìm người ở các vùng lân cận, song mãi đến giờ vẫn không thấy tin gì về bà cụ.
Bởi thế, tin đồn Hoàng Chức có số sát nhân mới dần lan đi.
Lúc bụng Hoàng Chức lại to ra – khi cô ta đang mang thai đứa thứ hai, thì đến lượt Chu Quốc Đông mất tích một cách đầy bí ẩn. Theo những gì Hoàng Chức nói với công an, thì vào tối hôm đó do uống rượu say, Chu Quốc Đông đã đánh cô một trận thừa chết thiếu sống. Sau khi bị chồng đánh, Hoàng Chức trốn vào nhà vệ sinh khóc, nửa tiếng sau cô ra khỏi nhà vệ sinh nhưng đã chẳng thấy chồng đâu. Cô nghĩ anh ta lại ra ngoài uống rượu hoặc đánh mạt chược, nhưng đợi mãi đến chiều tối ngày hôm sau vẫn chẳng thấy chồng về. Tất nhiên công an cũng từng nghi ngờ Hoàng Chức, song dù nghi là mất tích hay bị mưu sát, thì họ cũng chẳng có manh mối gì, nên cuối cũng thành ra một vụ thiếu manh mối. Kể từ đó người trong thôn hiếm khi qua lại với nhà ấy, không dám nhìn thẳng vào mắt cô ta. Vào lần phỏng vấn tại bệnh viện, khi Hoàng Chức nói với tôi là chồng cô “mất rồi”, tôi cứ ngỡ anh ta đã qua đời, ai ngờ là “mất” thật.
Chớ nghĩ mọi chuyện đã dừng lại ở đây, tới lượt con bé Chu Tiêm Tiêm lại mất tích.
“Gì ạ? Chu Tiêm Tiêm mất tích thật sao cụ?” – Nghe bà cụ nói, tôi giật mình hỏi.
“Mất tích thật, cái nhà đó giờ chỉ còn mình Hoàng Chức sống thôi.” – Bà cụ vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía đó.
“Chuyện xảy ra từ bao giờ thế ạ?”
“Chắc khoảng hai ba tháng. Do có vấn đề về tâm thần nên Hoàng Chức không trông nom con bé kĩ càng lắm, cô ta còn biết đi chợ mua đồ về nấu ăn đã là tốt lắm. Con bé nhà ấy được thả rông, quẩn quanh bên người lạ suốt ngày. Nếu được hỏi thì tôi sẽ nói rằng nhẽ ra nó phải bị lừa bắt từ lâu rồi cơ!” – Bà cụ vừa nói vừa nheo mắt.
“Quẩn quanh bên người lạ?”
“Chẳng phải là người trong thôn, tôi chưa thấy họ bao giờ”.
“Con bé bị lạc hay bị ai dụ dỗ hả cụ?”
“Ai mà biết được. Chẳng rõ. Giờ không thấy nó nữa cũng tốt!” – Bà cụ thở dài.
Tôi thoắt sững lại, như thể cảm thấy bà cụ trước mặt mình chẳng hề buồn đau trước sự mất tích của Chu Tiêm Tiêm, trái lại thở phào nhẹ nhõm.
“Không thấy nữa cũng tốt” – sao bà cụ trông hiền từ, lương thiện này có thể thốt ra câu nói quá đáng, thậm chí có phần ác ý nhường vậy?
Thấy tôi ngỡ ngàng, bà cụ không định rút lại câu nói vừa rồi của bản thân, mà còn tiếp: “Không người nào ở thôn muốn bồng bế con bé ấy cả, theo tôi, nó hệt như mẹ nó, đều là những người rất khó bắt thân”.
“Ồ?”
“Cậu còn chưa gặp nó, một đứa trẻ chẳng khóc, chẳng cười, chẳng nói, có đôi mắt u tối, lạnh lùng, nhìn ai cũng đủ khiến họ lạnh buốt sống lưng đến nửa ngày sau đó”.
Lúc nói đến Chu Tiêm Tiêm, vẻ mặt bà cụ rất không tự nhiên, hẳn trong lòng bà còn có điều khúc mắc sâu sắc với đứa bé gái hơn là với người mẹ. Tôi rất không tán thành với bà cụ, thực ra tôi đã gặp Chu Tiêm Tiêm. Con bé chính là đứa trẻ kiệm lời, rụt rè của ba năm trước. Gia đình liên tục xảy ra chuyện, đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến con trẻ, khiến ngay cả một đứa bé hiếu động cũng trở nên lầm lì rụt rè, rồi từ lầm lì rụt rè thành ra khép kín. Lại thêm chuyện người mẹ bị mọi người ở thôn khiếp sợ, xa lánh, thì việc Chu Tiêm Tiêm bị họ coi là có mà cũng như không cũng chẳng có gì là lạ. Chính sự mê tín quá mức của người dân nơi đây đã khiến cuộc sống mẹ góa con côi của hai mẹ con Hoàng Chức trở nên không dễ dàng gì.
Sao mình không sớm về đây xem xét chứ? Tôi thầm trách bản thân.
“Phía công an họ nói gì, có manh mối nào không cụ?”
“Dầu sao cũng vẫn chưa thấy gì, mẹ con bé cứ nói năng lung tung vậy thì họ biết đằng nào mà lần?”
Qua câu trả lời và vẻ mặt của bà cụ, tôi đã hiểu ra phần nào. Người thân duy nhất còn lại của con bé vừa bị mất tích là một bệnh nhân tâm thần, còn người có thể cung cấp manh mối trong thôn, nếu đầu là người có thành kiến với Chu Tiêm Tiêm như bà cụ đây, thì hẳn sẽ không chủ động hợp tác. Thêm vào đó, trước đây gia đình Hoàng Chức từng xảy ra nhiều vụ mất tích không manh mối, e rằng vụ việc lần này cũng giống vậy nên chẳng ai để tâm theo dõi.
Tôi thử nhẩm tính, ngay khi con bé mất tích, Hoàng Chức đã gửi thư cầu cứu tôi lần đầu. Vậy sao lúc đó tôi không về đây sớm hơn? Tôi tự trách mình thêm lần nữa.
Nếu là hồi mới vào nghề sau khi ra trường, có lẽ dù nhận được thư của một bệnh nhân tâm thần, dù phải gọi điện về tận đồn công an địa phương tìm hiểu, tôi cũng sẽ tìm đủ mọi cách làm sáng tỏ mọi việc. Còn giờ thì…
Tôi lắc đầu, gạt bỏ một vài suy nghĩ ra khỏi trí óc. Bất kể thế nào tôi cũng phải cố tìm ra được Chu Tiêm Tiêm.
“Tôi thấy mắt mũi cậu trông có vẻ là người tốt, lại có ý quay lại trò chuyện với bà già này, nên mới nói vậy. Đừng đến nhà cô ta nữa, nghe lời tôi nói, cậu sẽ thấy không sai đâu!” – Bà cụ bảo.
“Thực ra vì ở đó không có ai ở nhà nên cháu mới quay lại sớm thế!” – Tôi cười.
“Cô ta không ở nhà sao? Không thể nào!” – Bà cụ một mực khẳng định.
“Đúng là không ai ở nhà thật, cháu nhấn chuông cửa tận mấy lần mà!”
“Không thể nào, cô ta tự nhốt mình trong nhà, rất ít khi ra ngoài, có ra chợ cũng không thể đến giờ này còn chưa về. Hơn nữa tôi ngồi đây đã lâu, ngoại trừ lúc đi ăn cơm, cũng đâu thấy cô ta đi qua.” – Bà cụ vừa nói vừa ngừng tay, nghĩ ngợi một lát rồi dịch rổ rau sang bên để đứng dậy.
“Đi, ta đi xem thế nào!” – Bà bảo.
Bà cụ cao không quá vai tôi, đến độ tuổi này mà bước đi hãy còn nhanh nhẹn, dứt khoát.
“Cậu tìm Hoàng Chức có việc gì?” – Khi đó bà cụ mới nhớ đến việc hỏi thăm mục đích của tôi.
“Cháu là phóng viên của tòa soạn báo Ngôi sao buổi sớm ở Thượng Hải, cô ấy…”.
Tôi mới nói được nửa chừng, bà cụ đã “A” lên một tiếng, cắt lời bảo: “Hóa ra thư từ của cô ta đều gửi cho cậu. Không ngờ cậu về đây gặp cô ta thật. Bọn tôi đều bảo phóng viên lớn họ bận lắm, phải bỏ thời gian quan tâm, để ý đến chuyện quốc gia đại sự, hơi đâu mà lo đến chuyện của một mụ điên nữa. Chà, kể ra thì tôi biết rõ Hoàng Chức từ hồi nó còn bé tí, hồi đó tôi vẫn hay kể chuyện cho nó nghe, bây giờ…”
Bà cụ vào mạch câu chuyện nên tuôn ra một tràng, khiến tôi thấy hơi ngượng. Trong thời buổi tin tức đi theo xu thế giải trí hóa hiện nay, chắc chỉ còn mình bà cụ nhà quê này giữ cách nhìn và sự kính trọng vậy đối với phóng viên. Có lẽ hơn nữa số thư của Hoàng Chức đều được người trong thôn gửi hộ, nên chuyện cô gửi thư cho ai cũng trở thành đề tài bàn tán công khai ở đây.
Hóa ra dân thôn nơi đây vẫn duy trì được tinh thần tương thân tương ái tối thiểu, ngay đến bà cụ mê tín là vậy, nhưng khi nghe nói Hoàng Chức không có nhà một cách bất thường thì cũng đòi đến xem thế nào.
Loáng cái trước cửa nhà Hoàng Chức, tôi đứng trước cửa nhấn chuông, vẫn không thấy động tĩnh gì.
“Ta ra phía sau xem sao”/
Tôi theo bà cụ vòng ra phía sau nhà.
“Cậu đẩy cửa thử xem!” – Bà cụ bảo.
“Đẩy cửa ạ?” – Cửa đóng mà, tôi đưa mắt nghi ngại nhìn bà cụ, thấy cụ đang gật đầu một cách đầy dứt khoát về phía tôi.
Tôi đưa tay đẩy thử một cái, cánh cửa hơi thụt về bên trong.
“Đẩy mạnh hơn xem nào!” – Tiếng bà cụ vang lên từ phía sau.
Tôi dồn lực đẩy mạnh hơn, chốt cửa phát ra một tiếng kêu khẽ, vì đã bị tôi đẩy tung.
“Khóa cửa phía sau nhà cô ta bị kẹt hỏng từ lâu mà mãi chưa được thay, may là thôn chúng tôi không có kẻ xấu và nhà cô ta cũng chẳng có thứ gì đáng giá”.
Tôi đang lóng ngóng không biết nên làm gì. Liệu có nên vào trong hay không? Đột nhập vào nhà riêng của người khác là phạm pháp.
“Cậu còn đứng ngẩn tò te gì nữa? Giúp tôi vào đó xem có chuyện gì đi thôi. Tôi thì chắc chắn không vào rồi, song trông cậu cũng chẳng có vẻ gì giống kẻ xấu.” – Bà cụ cười một cách đầy hiểu biết.
“Vâng, được ạ!” – Tôi thoáng do dự rồi bước hẳn vào trong.
Cửa kính đầy bụi, do đã lâu chưa được lâu chùi khiến ánh sáng rất khó lọt qua, thêm vào đó giờ đã gần lúc chạng vạng, ánh nắng đã nhạt từ lâu. Vừa bước qua cửa nhà Hoàng Chức, tôi đã thấy gai gai trong người.
Đây hẳn là kho chứa đò, trong góc là mấy chồng ván gỗ và giấy báo cũ nát, ngoài ra chẳng còn thứ gì khác. Lúc đi qua, tôi để ý thấy tờ báo trên cùng chính là tờ “Ngôi sao buổi sớm”.
Phòng ngoài trống hơ trống hoác, so với kho chứa đồ, nó chỉ có thêm một chiếc ghế dài, một chiếc bàn vuông nhỏ bằng gỗ, hai chiếc hòm gỗ, một cái tủ mất chân được kê thay bằng gạch, trên là chiếc tivi 14 inch, loại tivi cũ rích mà ngay nơi thu mua phế liệu trên thành phố cũng chẳng thèm ngó tới.
Phía bên kia là nhà bếp, cạnh bếp là mấy chiếc nồi, trong đó có một chiếc đã được vá lại bằng đinh tán, chiếc tủ lạnh một cửa với lớp nước sơn đã bắt đầu bong tróc, mặt sau đã lốm đốm vết gỉ. Mỗi món đồ đều toát lên vẻ nghèo khó của chủ nhân chúng.
Bà cụ đứng ngoài rõ ràng hơi lo rằng Hoàng Chức đã gặp chuyện, song nhìn qua tầng một thì tôi chưa thấy gì có gì khác thường.
Tôi đưa mắt nhìn về phía chiếc tủ lạnh mấy lần. Đặt trong khung cảnh này, nó gợi lên trong ta rất nhiều liên tưởng, và vì là một kẻ giàu trí tưởng tượng, nên bất giác những hình ảnh cứ thế hiện lên trong đầu tôi.
Tôi đưa tay nắm lấy phần tay cầm chiếc tủ lạnh, thoáng lưỡng lự. Nên làm vậy không, tôi chỉ định vào ngó xem Hoàng Chức có gặp chuyện gì không thôi mà, còn nhòm vào tủ lạnh thì khác gì tự tiện lục lọi ngăn kéo riêng, là sự tọc mạch ở cấp độ cao hơn về đời sống tiêng tư của người khác.
Điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa chiếc tủ lạnh và ngăn kéo là ở chỗ tủ lạnh thì to hơn và có thể chứa được nhiều thứ hơn.
Tôi khẽ kéo, cửa tủ đã bật mở. Qua cánh cửa hé mở, một mùi cực kì khó chịu xộc thẳng ra ngoài.
Mới hít thử, tôi đã thấy chóng mặt buồn nôn, vội vàng lùi ra sau một bước. Cánh cửa tủ theo đà dần mở hẳn ra.
Tuy cửa đã mở, tủ lạnh vẫn không thấy sáng đèn. Hóa ra nó không cắm điện.
Bên trong vẻn vẹn chỉ có một bát cơm, một bát cà xào cùng hai quả trứng.
Trời nóng thế này, chỉ cần ủ vài tiếng là cơm và thức ăn đã hỏng và bốc mùi, huống chi ở đây chúng lại được ủ trong chiếc tủ lạnh không cắm điện chí ít cũng hai ba ngày rồi.
Tôi đưa tay bịt mũi, đóng cửa tủ lại rồi ra khỏi nhà bếp.
Tôi không quá bận tâm đến việc tại sao còn cơm và đồ thừa trong đó, mà dây cắm tủ lạnh lại bị rút ra, vì dù sao Hoàng Chức cũng là một người bệnh tâm thần. Song chí ít điều này đã chứng tỏ Hoàng Chức đã không ăn cơm nhà hai ngày nay.
Cô ấy đi đâu? Mà không ai trong thôn hay biết?
Chiếc cầu thang gỗ dưới chân rên lên từng tiếng kẽo kẹt khi tôi lên tầng hai.
Tầng hai chỉ là vài phòng ngủ trống, không bóng người y như tầng dưới. Ngay cả tủ tường và gầm giường tôi cũng đã nhòm xem, song vẫn không thấy gì bất thường. Trong vài năm gần đây, những người từng ngủ ở mấy căn phòng ngủ này đều lần lượt “biến mất” từng người một, nghĩ đến đây – dù tin hay không tin điều bà cụ nói, tôi cũng bất chợt thấy sởn da gà.
Cũng giống như những con búp bê vải trong căn phòng ngay trước mặt tôi đây, Chu Tiêm Tiêm dù giờ đang ở đau, hẳn cũng sẽ nhớ về chúng.
Lúc bước ra khỏi phòng ngủ đó, tôi chợt khựng lại. Đảo mắt quan sát khắp xung quanh một lượt, tôi thấy da mặt và tay mình tê tê như có dòng điện chạy qua.
Đây là phòng ngủ có hai cửa vào từ cả phía trong lẫn ngoài; đi từ phòng ngủ phía trong ra còn một phòng ngủ nhỏ hơn bên ngoài, đi tiếp sẽ đến hành lang vòng thông với cầu thang lên xuống.
Ban đầu, nếu đi từ phòng ngoài vào, ta không thấy có gì kì lạ, nhưng khi bước ra khỏi phòng ngủ đầy búp bê vải, nhìn vào chiếc giường ở gian phòng ngoài thì tôi lập tức nhận ra, hai phòng ngủ thông nhau này đều có người nằm.
Hơn nữa, chiếc giường kê ở phòng ngủ ngoài lại là chiếc giường con!
Trên giường đặt chiếc gối nhỏ, tôi nhào đến chỗ chiếc hòm gỗ kê cạnh tường, mở ra. Bên trong rành rành là quần áo bé gái.
Quả nhiên phòng ngủ phía trong không phải là phòng ngủ chung của Chu Tiêm Tiêm và Hoàng Chức, Chu Tiêm Tiêm ngủ riêng ở phòng này. Một bé gái chừng sáu, bảy tuổi rất ít khi dám ngủ một mình, dù người mẹ ngủ ngay phòng trong. Không sai, phòng đây búp bê vải kia là phòng ngủ của Hoàng Chức!
Tôi từ từ xoay người, quay trở lại căn phòng chứa búp bê vải.
Trong này, đâu đâu cũng thấy búp bê vải, búp bê trên giường, búp bê trên bàn, búp bê trên ghế, trên cửa sổ. Tôi mở tủ âm tường, quả vậy, búp bê ở cả trong đây nữa.
Tôi cầm một con búp bê lên xem, hẳn nó do Hoàng Chức tự khâu tay, thân và tứ chi nó được làm từ vải xám, đầu bằng vải trắng, bên trong nhồi cotton hoặc vải vụn. Khuôn mặt búp bê được tô vẽ với màu đen phần mắt mũi, màu đỏ cho khuôn miệng xinh xinh đang toét ra cười.
Tất cả các con búp bê vải đều chung một kiểu mặt na ná nhau, mắt mở to, miệng cũng mở to. Tôi chợt cảm thấy như mấy chục con búp bê vải ở mọt góc ngách trong phòng đang chằm chằm nhìn mình, và hét lên trong câm lặng.
Trán tôi lạnh toát, lòng bàn tay nhơm nhớp mồ hôi. Tôi biết vì sao Hoàng Chức lại làm nhiều búp bê vải đến vậy.
Rút lui khỏi cuộc bao vây của quân đoàn búp bê vải, khung cảnh buổi phỏng vấn diễn ra tại phòng bệnh của bệnh viện bảo vệ bà mẹ và trẻ em ba năm về trước vịt hiện lên trong đầu tôi.
Hoàng Chức nằm trên giường, chằm chằm nhìn tôi hồi lâu rồi mới cầm tấm danh thiếp tôi đưa. Cô cử động một cách đầy khó khăn, nặng nhọc.
Cô nhìn tấm danh thiếp tôi đưa hồi lâu, chẳng phải vì vuông bìa nhỏ đó in hoa văn họa tiết gì, mà bởi cô đã quá rệu rã và kiệt quệ cả về tinh thần lẫn sức lực, với cô việc tập trung chú ý quả là nhiệm vụ đầy khó khăn.
Cuối cùng, vẻ mặt cô cũng hơi thay đổi. Cô cầm tấm danh thiếp trong tay, xoay đầu nhìn tôi, mắt ánh lên tia sáng le lói.
“Thầy phóng viên!” – Cô gọi tôi một cách đầy trịnh trọng mà mộc mạc.
“Thầy phóng viên, anh hãy giúp, hãy giúp tôi với!” – Cô níu cổ tay tôi mạnh đến mức tôi cảm tưởng như mình vừa đeo một chiếc còng sắt.
Không tiện giằng ra, tôi nhìn cô cười, đáp: “Chị đừng gọi tôi là thầy, nếu chị bằng lòng, tôi muốn được trò chuyện với chị về buổi gặp mặt này”.
“Thầy phóng viên ơi, họ cướp con tôi, và mang nó đi mất rồi!” – Tiếng Hoàng Chức lại vang lên, khiến tôi hơi khó xử.
“Không việc gì phải vội, ta cứ từ từ nói.” – Tôi an ủi cô.
“Tôi không thể sinh ra cái thứ kia!” – Lúc nhắc đến “cái thứ kia” mặt Hoàng Chức thoáng kinh sợ, “Anh… anh biết…”
Tôi gật đầu: “Tôi biết, bác sỹ cũng đã cho phép tôi nhìn qua”.
“Không, anh không biết!” – Cô khăng khăng lắc mạnh đầu, “Con tôi không thể, nó là thằng bé rất khỏe mạnh, cứng cáp và hơi hiếu động”. Ánh mắt cô lại dần trở nên mơ màng, như thể đang đắm mình vào bức tranh mà tâm trí cô tự vẽ ra.
Tôi ho một tiếng, cắt ngang dòng suy tưởng của cô, nói: “Tôi đã hỏi bác sỹ, anh ấy nói, đứa bé này của chị được gọi là hiện tượng thai nhi giấy”.
“Thai nhi giấy? Thai nhi giấy là cái gì chứ?” – Hoàng Chức giương mắt nhìn tôi hơi dữ dằn, “Sao tôi có thể sinh ra thai nhi giấy cơ chứ?”
Tôi bắt đầu cảm thấy đến phỏng vấn người bệnh thần kinh không ổn định là một sai lầm.
“Thầy phóng viên, xin anh, anh phải tin tôi. Tôi không gạt anh đâu, tôi chắc chắn trong bụng mình còn một đứa bé khỏe mạnh nữa. Không làm sao tôi có thể sinh ra cái thứ quái dị kia, bác sĩ có giải thích được chăng? Ngay bản thân ông ấy cũng khôn tin chắc vào giả thuyết của mình mà.!”
“Cái này thì, vẫn còn một vài trường hợp đặc biệt y học chưa thể giải thích được”.
“Không, không, anh hãy nghe tôi, lúc mang thai tôi vẫn thường cảm thấy đứa bé cử động, ngọ nguậy trong bụng mình. Với tôi, đây chẳng phải lần mang thai đầu nên tôi biết. Đứa bé trong bụng tôi lần này nghịch ngợm và hiếu động hơn Chu Tiêm Tiêm hồi xưa nhiều. Tôi vẫn nghĩ, nó nhất định là một bé trai bướng bỉnh, nghịch ngợm”.
“Thế… chị đã làm siêu âm ba chiều chưa?” – Tôi nghĩ đến cách chứng minh.
“Chưa… tôi không muốn mất thêm tiền cho việc này. Dẫu sao cũng đã mang thai rồi, là trai hay gái tôi đều yêu cả”.
“Việc này…” – tôi biết phụ nữ mang thai cảm nhận được cử động của thai nhi tỏng bụng họ, song nhiều khi đó chỉ là ảo giác họ tưởng tượng ra, chưa thể xem đây là bằng chứng có giá trị.
“Chị Vương, chị Vương ơi!” – Hoàng Chức gọi một bệnh nhân cạnh giường cô, “Mấy hôm trước chẳng phải em bảo chị áp tai vào bụng em nghe, và chị cũng nghe thấy nó cử động sao?”
“Hừm, đúng đấy!” – Chị Vương trả lời. Tất cả bệnh nhân trong phòng đều chăm chú lắng nghe đoạn đối thoại giữa tôi và Hoàng Chức, tuy tôi nói khá nhỏ, họ chưa chắc đã nghe được hết, song hẳn là tất cả đều biết đứa bé Hoàng Chức sinh ra đã không còn nữa.
“Chị nghe thấy?” – Tôi hỏi.
“Hình như…hình như như là một chút” – giọng chị Vương, người được hỏi, trở nên ngập ngừng, “nhưng nghe không rõ lắm nên tôi không dám khẳng định”.
“Ơ này chị Vương, hôm đó chẳng phải chị bảo nó đạp rất mạnh là gì?” – Hoàng Chức sốt ruột lên tiếng.
“Cái này cũng có thể là có”. Dù thế nào chị Vương cũng chẳng dám nói thẳng. Chị ta có chút khôn khéo của người Thượng Hải, cứ nói theo kiểu lấp lửng nước đôi, không muốn mình bị cuốn vào cuộc đôi co có thể xảy ra giữa bệnh viện và Hoàng Chức hiện giờ. Đương nhiên, cũng có thể chị ta không nghe thấy, và đó chỉ đơn giản là vài câu xã giao nhằm lấy lòng Hoàng Chức mà thôi.
Phần sau cuộc phóng vẫn ngày hôm đó trở thành vô nghĩa. Mặc tôi nói gì, Hoàng Chức vẫn một mực khăng khăng tin rằng cô đã mang thai một đứa trẻ khỏe mạnh, và bác sĩ đã cướp con cô đi. Nhưng thế nào thì tôi cũng không thể đồng tình với điều cô nói, làm vậy nghĩa là tôi thừa nhận bệnh viện cỡ ba sao này là của Thượng Hải đã trắng trọn bắt cóc con của sản phụ một cách chẳng hề giấu giếm. Sao có thể vậy chứ?
Bác sĩ không thể giải thích đứa trẻ như giấy này được hình thành như thế nào, còn sản phụ một mực khẳng định bệnh viện đã bắt cóc con mình. Vậy bài báo này tôi nên viết làm sao đây? Tôi đành phải xin lỗi người cung cấp tin cho mình, thêm lần nữa anh ta chẳng nhận được chút tiền thưởng nào.
Với tôi, moi chuyện đã kết thúc ngay sau buổi phỏng vấn đó; còn với Hoàng Chức, cô vẫn tin mình từng có một đứa con sơ sinh. Đứa trẻ đã chèn ép và hấp thu người anh em cùng mẹ với nói, biến đứa kia thành bộ da, rồi cuối cùng tan biến vào không khí. Cô ấy không kiện bệnh viện, mà lại phát bệnh tâm thần, làm ra vô sô búp bê vải như thế đó chính là đứa bé bị mất tích một cách đầy thần bí của bản thân.
Lúc ra khỏi nhà Hoàng Chức qua lối cửa sau, tôi giật bắn mình. Đứng đợi tôi trước cửa không chỉ có mình bà cụ, mà còn có bốn người khác, năm đôi mắt chăm chăm hưởng thẳng vào tôi.
“Thế nào rồi cậu?” – Bà cụ hỏi.
“Chẳng có ai cả!” – Tôi không đả động gì đến chiếc tủ lạnh. Ở đây có nhiều người nên tôi không muốn kể việc mình đã tự tiện vào nhà lục lọi đồ đạc của người khác nhằm tránh gây rắc rối.
“Vậy để tôi nói, sáng tinh mơ hôm qua tôi thấy cô ấy ra ngoài.” – Một người đàn ông mặc đồng phục bảo vệ lên tiếng.
Việc thôn mời hẳn bảo vệ trông coi khiến tôi hơi bất ngờ, sau mới sực nhớ ra: lúc vào thôn ban nãy tôi có nhìn thấy túp nhà nhỏ không bóng người ngoài cổng, không rõ lúc ấy anh ta làm việc vặt ở đâu.
“Sáng tinh mơ hôm qua à?” – Tôi hỏi anh ta.
“Vâng, chừng năm giờ gì đó, cũng có lẽ chưa đến năm giờ. Ngặt nỗi lúc đó tôi hơi mệt và buồn ngủ, không quan sát kĩ. Thế nên ban nãy tôi chưa dám khẳng định”.
“Tôi nói với anh Tiểu Hạ này, anh làm bảo vệ thì sao có thể mệt mỏi và buồn ngủ trong lúc đang làm nhiệm vụ, nhất là lại vào lúc đêm hôm sáng sớm như vậy nữa. Gần đây càng ngày càng có nhiều người ngoài đổ về thôn…”. Một cụ chừng hơn sáu chục tuổi bắt đầu lên lớp thuyết giảng bài học giữ gìn trật tự trị an cho anh chàng bảo vệ, còn đối phương chỉ một điều dạ hai điều vâng. Nhìn cảnh anh chàng hồ hởi gật gù tôi lại nghi ngờ không biết anh ta có nghe tai này rồi lại cho ra tai kia không. Dẫu sao, đó cũng chẳng phải là chuyện dính dáng gì đến tôi.
Sáng sớm hôm qua Hoàng Chức đã ra đi. Tôi đoán chừng vì biết mình vắng nhà một thời gian và không muốn phí phạm tiền điện nên cô ấy đã rút dây cắm tủ lạnh khỏi ổ điện. Và cũng do tinh thần rối loạn, nên cô quên mất rằng cơm và thức ăn thừa sẽ hỏng, nếu tủ lạnh không có điện.
Vậy Hoàng Chức có thể đi đâu?
Liệu cô ấy có đi tìm con gái?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 4: Hai đứa trẻ sơ sinh bị đông cứng

Suy cho cùng thì trong việc tìm kiếm người mất tích, công an vẫn có nhiều nghiệp vụ hơn. Nhờ người mốc nối quan hệ, yêu cầu công an Côn Sơn để ý hơn đến sự mất tích của Chu Tiêm Tiêm là việc làm thực tế nhất mà kẻ đang mang mặc cảm tội lỗi là tôi có thể thực hiện. Nếu ngay cả công an cũng không tìm ra manh mối gì, thì e rằng bảo tôi tự đi điều tra là điều hơi phi thực tế, vả lại hàng ngày tôi còn phải đến tòa soạn làm việc nữa chứ.
Do không quen ai làm công an ở Côn Sơn, tôi đã phải móc nối quan hệ qua phía người quen là cảnh sát ở Thượng Hải, đợi xem liệu những người cùng làm trong ngành có thể tương trợ, giúp đỡ nhau chăng.
Kể ra thì tôi cũng kết bạn với rất nhiều người làm trong ngành cảnh sát ở Thượng Hải, tính riêng đám anh em thân thiết đã vài người. Song lần này người tôi hẹn ăn trưa và nhờ giúp đỡ lại là một giám định viên pháp y.
Một nữ giám định viên pháp y trẻ trung xinh đẹp, là con lai với cặp mắt xanh nhạt, tôi nhớ cô ấy không mang quốc tịch Trung Quốc.
Tên cô ấy là Hà Tịch.
Ồ vâng, tôi thừa nhận mình có hơi mượn việc công mưu việc riêng, hừm, hay ta nên nói là mượn hoa cúng Phât... hoặc theo cách khác là kẻ say không say vì rượu. Không rõ sao cứ nhắc đến cô ấy là tôi lại bắt đầu lắp bắp?
Đúng rồi, tôi nhớ cô ấy mang quốc tịch Thụy Sĩ. Một Hoa kiều mang quốc tịch Thụy Sĩ, bỗng dưng gia nhập hàng ngũ giám định viên pháp y trực thuộc hệ thống cảnh sát Thượng Hải cách đây không lâu, điều tuyệt đối chẵng bao giờ xảy ra trong hoàn cảnh thông thường, vậy mà giờ nó đã xảy ra. Trường hợp đặc biệt, xét về thứ bậc, tuy cô ấy chỉ là giám định viên pháp y, song nếu đánh tiếng chào hỏi công an Côn Sơn qua cô ấy thì hắn sẽ ổn.
Sỡ dĩ tôi phải giải thích nhiều như vậy bởi tôi muốn nói rằng Hà Tịch đúng là người có thể giúp tôi trọng vụ mất tích của Chu Tiêm Tiêm, đó hoàn toàn chẳng phải là lời viện cớ để đuối theo tán tỉnh.
Chẳng phái bắn một mũi tên trúng hai đích sẽ tốt hơn sao? Xưa nay tôi vẫn luôn thẳng thắn, mối quan hệ giữa tôi và Hà Tịch quả đúng là có chút không rõ ràng. Lại dùng sai thành ngữ nữa rồi, đáng nhẽ phải nói là khó nói hết trong một câu.
Lần đầu tôi gặp Hà Tịch, cô hãy còn là nhân viên nghiên cứu của một tổ chức y học tầm cỡ quốc tế. Hồi đó, do hai người đang bị cuốn vào mối nguy lớn, nên chúng tôi đã trở thành chiến hữu cùng chung lưng đấu cật bên nhau trong cơn hoạn nạn. Nhưng đó lại là một câu chuyện khác, và tôi cũng không tiện đề cập sâu hơn ở đây. Khi chân tướng sự việc lần đó được làm sáng tỏ, mối nguy hiểm đã qua đi, rồi nếu không bị ép chia tay thì có lẽ giờ cô ấy được gọi là vợ anh Na rồi.
Sau một thời gian dài bặt vô âm tín, năm nay lúc bất ngờ hay tin Hà Tịch đã trở thành giám định viên pháp y của cơ quan cảnh sát Thượng Hải, tôi vừa ngạc nhiên vừa thấy mừng cho cô ấy. Nhưng hệt như một mô típ quen thuộc trong kiểu tiểu thuyết ngôn tình mà tôi cực ghét, cô ấy còn có một vài sự thay đổi khác.
Không phải là mất trí nhớ, song cũng chẳng khác là bao.
Các bạn bè biết về trải nghiệm ly kỳ - do mong muốn trở thành bất tử gây ra vào năm 2005, đều nghĩ nếu có ngày tôi gặp lại Hà Tịch, cô ấy hẳn đã có cuộc đời mới. Cụm từ “cuộc đời mới” ở đây được dùng để chỉ sự sống vượt lên trên hoàn cảnh không thể, và hơn thế, còn là cuộc đời mới.
Cô ấy chưa quên tôi, vẫn hoàn toàn lưu lại mọi ký ức, song tình yêu đâu chỉ đơn giản là sự ghi nhớ.
Có thể vì dấu tích sâu đậm mà tình yêu in dấu lại nơi con tim lúc cơn sóng tình rút khỏi bờ, nên khi gặp lại cô đối xử với tôi vẫn có phần hơi khác. Tôi không nên tiếp tục oán hận gì, rốt cuộc cô ấy đã xuất hiện trước mắt tôi, để ít nhất tôi có được cơ hội làm lại từ đầu.
Thứ tình cảm bùng cháy trong hiểm nguy thường rất dữ dội và mãnh liệt, nhưng giờ tôi đã học được cách giữ kiến trong lòng, để nó cứ bền bỉ, âm thầm chảy mãi như dòng nước nhỏ. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ ngày nào đó tôi sẽ chinh phục được cô ấy, chỉ là tôi đang giúp cô ấy tìm lại những cảm giác đã mất.
Hà Tịch luôn luôn đúng hẹn, nhưng giờ đã quá mười phút so với giờ hẹn. Tôi bèn gọi hai đĩa đồ ăn nguột, ăn lót dạ trước.
Ngồi ở bàn bên là đôi tình nhân trẻ đang làm nũng nhau. Đang cầm đũa gắp hạt lạc xào cho vào mồm, chợt thoáng thấy anh chàng lúc nào cũng mỉm cười chăm chăm nhìn người yêu bất ngờ rời khỏi gương mặt đối phương...
Ngoảnh lại, tôi liền nhìn thấy Hà Tịch, cùng vô số ánh mắt - hoặc lén lút hoặc công khai, đang hướng về cô ấy.
“Hiếm khi nào được thấy em đến muộn.” - Tôi cười với Hà Tịch.
“Em vừa thực hiện xong một vụ mổ xẻ là vội vàng đi luôn” - Hà Tịch ngước mắt nhìn tôi, nói: “ Anh có giấy không? Cho em lau tay chút!”
“Hả...” - Tôi giật thót mình, “Mổ xong em vẫn chưa ... rửa tay mà đi ngay à?”
Hà Tịch tỉnh bơ chìa tay cho tôi xem
Mười ngón tay thon mảnh, trắng muốt và mềm mại. May mà không có vết máu nào.
“Đùa anh thôi, là do tắt đường!”. - Hà Tịch mỉm cười.
Trong mắt đồng nghiệp, Hà Tịch là cô gái vừa xinh đẹp vừa rất khác người, song dạo gần đây hình như cô rất hay cười trước mặt tôi.
Đây là nhà hàng Tứ Xuyên rất nổi tiếng. Tôi cố tình gọi mấy món tương đối cay cay, bởi tôi thích được nhìn Hà Tịch khi gương mặt cô ửng hồng và có những giọt mồ hôi lấm tấm nơi chóp mũi, một hình ảnh hoàn toàn trái ngược so với lúc thường ngày...
Trong lúc đợi món, tôi tường thuật vắn tắt lại câu chuyện về Chu Tiêm Tiêm cho cô hay.
“Được thôi, nhưng không chắc là sẽ tìm được”.
Tôi gật đầu. Với vụ mất tích xảy ra đã lâu, nếu công tác điều tra ban đầu không được tiến hành cẩn thận, thì việc tìm kiếm bây giờ quả thực là rất khó.
Hà Tịch không phải là người thích nói nhiều, nên nếu không muốn cuộc trò chuyện đi vào ngõ cụt, tôi luôn phải vắt óc nghĩ ra đủ kiểu đề tài lúc ở bên cô ấy. Tôi từng có lần thử thi gan với cô ấy đến cùng, kết quả là hai người chúng tôi chỉ giương mắt nhìn nhau hơn hai mươi phút. Mặc dù cô ấy rất đẹp, nhưng tôi chẳng thể nào tiếp tục giữ im lặng, đã giơ cờ trắng xin hàng. Đáng bực nhất là cô ấy vẫn tỏ vẻ thản nhiên như không.
Tôi dần tìm ra những chủ đề khiến Hà Tịch hứng thú. Sau khi thuật lại toàn bộ câu chuyện về sự mất tích của Chu Tiêm Tiêm, tôi quay sang kể cho cô ấy nghe về đứa trẻ giấy.
Do có thói quen dùng bút ghi chép lại những điều bản thân trải qua ra giấy, nên khi kể lại bằng miệng, tôi biết cần tạo cao trào để thu hút người nghe ở đoạn nào. Thêm vào đó, bản thân câu chuyện cũng đã rất huyền bí nên khi đồ ăn đã lần lượt mang lên, mà tần suất động đũa của Hà Tịch lại dần giảm xuống, rõ ràng cô ấy đang bị hút vào câu chuyện li kì này của tôi.
“Vậy đứa trẻ giấy về sau thế nào?” - Nghe xong Hà Tịch liền hỏi
“Về sau à? Anh không biết, chắc là được xử lý”.
“Chà, giá như để em giải phẫu thì tốt biết bao!” - Hà Tịch thở dài.
“Ối chà, cái này...” - Tôi không ngờ việc đầu tiên cô ấy nghĩ đến lại là vậy.
“Còn sản phụ thì sao?” - Hà Tịch lại hỏi.
“Hẳn em không định giải phẩu cả người sống nữa chứ? Về sau cô ấy phát bệnh tâm thần, hôm qua anh về thăm nhưng không gặp được”.
“Hừm nếu trong vòng ba năm trở lại đây cô ấy không sinh đứa nào nữa, thì có làm siêu âm kiểu B cũng chẵng rõ; làm siêu âm TVS[1] thì tốt nhất là phải xem theo từng lớp cắt. Nhiều khả năng đó không chỉ là vấn đề ở tử cung, nên cần tiến hành kiểm tra sức khỏe toàn diện, giá như có thể để cô ấy mang thai thêm lần nữa để quan sát lâm sàng nhi. Chà, không được nhìn thấy đứa trẻ giấy quả thật là tiếc!”
[1] TVS là chữ viết tắt của Trans Vaginal Sonography, một loại siêu âm đặt ngang qua âm đạo, không chỉ rà ở bên ngoài ổ bụng.
Dù đã biết Hà Tịch hơi lập dị nhưng tôi vẫn ngây ra trước những lời cô lẩm bẩm với mình.
“Nói về chuyện này thì tuần trước em mới thực hiện ca mổ giám định trẻ sơ sinh đấy”.
Hiếm khi nào Hà Tịch chủ động đưa ra đề tài bàn luận khi trò chuyện với tôi, chỉ có điều đề tài này...
“Mổ á?” - Tôi ấp úng hỏi.
“Mổ giám định xác một đứa trẻ sơ sinh”.
Nhìn món ăn nóng hổi đang nghi ngút bốc khói trên bàn, cảm giác thèm ăn trong tôi bỗng như những bọt bong bóng xà phòng, dần thu nhỏ rồi tan biến vào hư không...
“À...” - tôi chẳng thể nào đáp trả cô với vẻ đầy thích thú, “Mà này, tuần trước ấy hả? Anh nhớ em nói là đi Hàn Quốc cơ mà”.
“Vâng, em sang đó mổ giám định xác của một đứa trẻ sơ sinh”.
“Liệu ta có thể không nhắc đến từ mổ... được không?”
Hà Tịch liếc tôi một cái, ra ý cười cười. Lẽ nào là cô ấy cố tình, dù chẳng còn sức đâu để nghĩ, song tôi lại cảm thấy vui vui.
“Anh biết em là thành viên thuộc tổ chức nghiên cứu bệnh lý học đặc biệt của quốc tề mà”.
“Anh biết? Anh biết từ khi nào vậy?” - Tôi lấy làm lạ hỏi.
“Ồ, thế em chưa nói gì à, nhưng giờ thì anh biết rồi đấy”.
“Đấy là tổ chức gì?”
“Là tổ chức nghiên cứu các bệnh lý học đặc biệt”.
“Quan tâm đến một vài trường hợp bệnh kì lạ, bao gồm cả trường hợp tử vong bất thường, tổ chức quốc tế chưa công khai chính thức này có liên quan với cảnh sát các nước, bởi cảnh sát là ngành hay phát hiện thấy những trường hợp tử vong bất thường nhất, và điều này thường gây khó khăn cho các giám định viên pháp y của họ.” - Cô khẽ giải thích.
“Em sang Hàn Quốc vì một trường hợp tử vong bất thường? Là một đứa trẻ sơ sinh?” - Tôi hỏi.
“Một vụ án kì lạ, giám định viên pháp y bên họ gặp phải một số khó khăn”.
“Kết quả là em đã giải quyết xong?”
“Vẫn chưa.” - Hà Tịch nhún vai, “Trên thực tế, sau khi qua đó, em mới phát hiện ra điều kì lạ nhất, rất khó giải thích”.
Điều cô nói càng thôi thúc tính hiếu kỳ trong tôi.
Hà Tịch vốn là nhân viên nghiên cứu của đơn vị y học hàng đầu. Sau “Sự kiện đứa trẻ nhà họ Nguyên”, nhất định cô ấy đã trau dồi được một vài năng lực đặc biệt. Chưa nói đến cái khác, cách nhìn cuộc đời của Hà Tịch hẳn đã đạt đến trình độ hoàn toàn mới. Nhìn cô ấy bây giờ mà xem, ngày ngày mải mê với công việc giải phẫu, mổ xẻ và mong muốn nghiên cứu kiểm chứng, vậy một trường hợp mà ngay đến cô ấy cũng xem là kì lạ thì sẽ như thế nào nhỉ?
“Kể anh nghe xem!” - Tôi dè dặt đề cập, dù thực ra bản thân đã rất tò mò.
Hà Tịch mở xắc tay, lấy mấy tấm ảnh ra đưa cho tôi xem.
“Đây là...” - Tôi nhíu mày.
“Xác đứa trẻ sơ sinh bị đông lạnh” - Hà Tịch nói.
Nhìn những món ăn nóng sốt trên bàn, dù thần kinh vững thế nào, tôi cũng chẵng dám chắc liệu chút nữa mình còn bụng dạ nào ăn tiếp không.
Vì cớ gì mà rất nhiều bộ phim kinh dị thích chọn trẻ con làm nhân vật chính, chính là bởi khi đứa trẻ đã trở nên hung ác, độc địa, thì tính cách hoàn toàn đối lập với bản tính thiên bẩm của chúng, điều này sẽ khiến người xem vô cùng kinh sợ. Rất nhiều nơi người ta cho rằng xác đứa trẻ sơ sinh là thứ có nhiều oán khí, linh hồn đứa trẻ khó bề siêu thoát, nên càng khó trừ bỏ hơn các linh hồn thông thường.
Chớ nghĩ rằng đứa trẻ sơ sinh sau khi qua đời sẽ trông giống như lúc nó đang ngủ. Trên thực tế, do máu trong cơ thể trẻ mất nhiệt và nhanh đông hơn nên khi cơ bắp cứng lại, hình dáng cơ thể chúng sẽ có dôi chút khác biệt so với khi còn sống, thêm vào đó, da đứa trẻ cũng sẽ thay đổi theo độ dài ngắn của thời gian tử vong. Một vài thay đổi không rõ ràng này cũng đủ gây nên cảm giác nhộn nhào không lấy làm dễ chịu ở người xem.
Vậy xác đứa trẻ bị đông lại thì thế nào? Hay nói chính xác hơn, xác đứa trẻ bị đông lạnh rồi lại được rã đông sẽ thế nào?
Nếu bạn mua một miếng thịt về nhà đem đi đông lạnh, rồi sau đó cho rã đông, thì miếng thịt trước khi đem đông lạnh và sau khi rã đông gần như không thay đổi nhiều, cùng lắm mùi vị của nó chỉ hơi khác đi một chút, nên bạn mới không để ý xem miếng thịt ban đông trông thế nào.
Một đứa trẻ sơ sinh thì lại khác.
Chẳng hạn như trên bề mặt da của trẻ sẽ xuất hiện nhiều nếp nhăn lạ hơn, một vài chỗ sẽ bị chảy nhão, một số chỗ thì bị nứt ra, ngũ quan trở nên méo mó, hay có thể nói là không rõ ràng; còn hai chân đứa trẻ, tôi bỗng nhớ đến hai chân giò được chặt rời, đang được cấp đông trong ngăn đá tủ lạnh ở nhà mình mới mua hôm trước.
Tôi hít một hơi thật sâu, nhằm xoa dịu cái dạ dày đang bắt đầu trở nên nhộn nhạo của mình.
Bức ảnh thứ nhất là xác hai đứa trẻ sơ sinh đặt song song cạnh nhau. Các ảnh sau chỉ đặc tả riêng từng đứa.
“Chuyện này là thế nào?” - Tôi đưa mắt nhìn lướt qua, nếu Hà Tịch không giải thích, tôi đã nhất thời không nhìn ra những điều kì lạ trong đó. Cô vừa mới nói đây là cái chết rất bất thường.
“Chuyện xảy ra vào tháng trước, khi một kĩ sư thiết kế người Pháp đang làm việc tại Seoul phát hiện thấy chúng trong tủ lạnh nhà mình”.
“Phát hiện thấy xác hai đứa trẻ sơ sinh trong tủ lạnh nhà ông ta sao?” - Tôi hình dung cảnh người đàn ông Pháp đó mở tủ lạnh mà thật kinh hoàng.
Câu chuyện hết như tình tiết trong một bội phim kinh dị này, thực sự đã xảy ra ngoài đời thực.
Sau khi kết thúc kỳ nghỉ vào tháng 7 năm 2006, một người Pháp tên Cournot, quay về căn hộ số 260 trong khu biệt thự Seocho tại thành phố Seoul của mình. Ban đầu, ông không hay biết trên ngăn đá trong tủ lạnh nhà mình có xác hai đứa trẻ sơ sinh đã đông cứng. Theo những điều ông báo lại với phía cảnh sát sau đó, sáng ngày 23 khi ra lấy bơ cất trong tủ lạnh vào phết bánh mỳ, ông mới để ý thấy trong tủ lạnh nhà mình có thêm một bọc ni lông. Buổi trưa cùng ngày, người đàn ông này đi siêu thị mua hai con cá thu muối, lúc về nhà cho cá vào tủ lạnh, ông mới bỏ bọc ni lông kia ra. Ông ta tưởng đó là gói đồ của cô giúp việc người Philippin gửi nhờ, kết quả sau khi mở ra xem ông ta bủn rủn cả người và phải vội vàng trình báo cảnh sát.
Riêng quá trình phát hiện trong trường hợp này đã rất ly kì rồi. Tôi vừa nghe Hà Tịch vừa tự đưa ra đủ kiểu suy đoán, đến lúc không kìm được nữa mới lên tiếng hỏi: “Là kẻ thù của người đàn ông này khủng bố á?”
Hà Tịch không trả lời, chỉ nói tiếp: “Hệ thống bảo vệ an ninh của tiểu khu nơi Cournot sống tưởng đối nghiêm mặt, gần đấy còn có cảnh vệ trông coi, muốn ra vào cổng chính phải có thẻ an ninh. Chìa khóa của căn hộ Cournot từng được giao cho mấy nữ giúp việc thân quen người Philippin, cùng số ít bạn bè người Pháp của người đàn ông này. Theo thông tin hàng xóm cung cấp, họ có thấy một cô gái da trắng lảng vảng trước cửa nhà ông ta một lúc lâu trong thời gian Cournot đi nghỉ ở nước ngoài, ngoài ra còn một người Pháp đến khá nhiều lần. Căn cứ vào đoạn băng ghi hình thu được từ camera an ninh, phía cảnh sát Hàn Quốc đã bắt đầu cho truy tìm hai người nay, song vẫn chưa tìm ra, xét nghiệm ADN của hai đứa trẻ sơ sinh đã có kết quả”.
Đến đây Hà Tịch mới dần chậm lại, như còn chưa tin hẳn vào kết quả xét nghiệm ADN.
“Trước đó cảnh sát Hàn Quốc đã lấy mẫu ADN của Cournot, kết quả xét nghiệm ADN tiếp đó cho thấy ông ta chính là cha của đứa trẻ. Ngay sau đó, cảnh sát Hàn Quốc đã lấy được lệnh cưỡng chế mẫu nước bọt của Véronique, người vợ còn đang ở bên Pháp của Cournot, và sau đó đã chứng minh được rằng bà ta cũng chính là mẹ của đứa trẻ”.
“Hả?” – Kết quả này khiến tôi rất ngạc nhiên. Nếu giết hại con mình sao Cournot còn đi báo cảnh sát?
“Nhưng bà Véronique khăng khăng phủ nhận, rằng nhất định đã có sự nhầm lẫn trong kết quả xét nghiệm ADN. Có rất nhiều người đến làm chứng cho Véronique. Những người thường tiếp xúc với bà ta cho biết họ chưa bao giờ thấy bụng bà ấy to lên, nếu thật sự có thai, bà ta ắt chẳng thể qua mặt tất cả mọi người. Ngay sau đó Véronique còn đưa ra một bằng chứng khác, bà ta đã cắt bỏ tử cung từ năm 2003”.
“Đã cắt bỏ… tử cung?” – Nếu vừa nãy là rất ngạc nhiên thì giờ tôi chỉ còn biết tròn mắt há miệng không thốt lên lời. Đã cắt bỏ tử cung thì đương nhiên bà ta chẳng thể sinh con, nhưng kết quả xét nghiệm ADN của đứa trẻ lại cho thấy bà ta là mẹ đẻ của chúng, chuyện này thế nào?”
“Liệu kết quả xét nghiệm ADN có sai không?” – Tôi hỏi, đưa ra phản ứng đầu tiên của mình.
“Độ chính xác của xét nghiệm ADN là rất cao”.
“Cũng chưa chắc, anh nghe nói, ngay như ở bệnh viện đẳng cấp ba sao của Thượng Hải vẫn có trường hợp đi chỗ A xét nghiệm thì nhận được một kết quả, sang chỗ B xét nghiệm thì lại có kết quả khác.” – Tôi hạ giọng nói.
“Ở những xét nghiệm thông thường, sự chênh lệch không đáng kể trong một vài chỉ số chẳng phải là điều hiếm gặp, nhưng xét nghiệm ADN thì khác!” – Dứt lời, Hà Tịch liền ngừng lại, lắc đầu rồi nói tiếp: “Nhưng kết quả xét nghiệm AND lần hai sau đó lại khác hoàn toàn với lần đầu, nên em đoán đã có sự nhầm lẫn khi lấy mẫu xét nghiệm. Giờ thì cảnh sát Hàn Quốc đã học được một bài học, chớ vội vàng đem công bố ngay kết quả xết nghiệm, mà trước hết phải tiến hành xét nghiệm lại cho thật chắc đã. Dẫu sao thì lý do em sang đấy cũng chẳng liên quan gì đến việc xét nghiệm ADN, anh thử nhìn mấy bức anh sau xem”.
“Là mấy tấm ảnh đặc tả cận cảnh này à? Xác đứa trẻ này có gì khác sao?” – Tôi nhìn mấy bức ảnh sau, tò mò hỏi.
“Đây là xác đứa trẻ đã được giải phẫu. Song song với việc tiến hành xét nghiệm ADN, tất nhiên giám định viên pháp y còn phải tiến hành một vài hóa nghiệm cơ bản khác. Và kết quả xác định nhóm máu ở lần hóa nghiệm thứ hai cũng hoàn toàn khác với lần đầu, nên em mới nói là có sự nhầm lẫn khi lấy mẫu xét nghiệm lần trước đó. Phen này giám viên pháp y bên họ bị dính một vố đau và hẳn giờ vẫn còn đang sống dở chết dở”.
“Đấy là việc của cảnh sát Hàn Quốc, em còn chưa cho anh biết vì sao em lại sang đó?” – Tôi nhận thấy khi bàn về vụ án này, Hà Tịch bất ngờ nói nhiều hơn. Xem ra vụ án này thực sự rất thu hút cô ấy.
“Đứa trẻ đó thuộc nhóm máu U – Sejmbey”.
“U – Sejmbey? Nhóm máu này là…” – Tôi thầm chột dạ, nói về nhóm máu, người bình thường chỉ biết đến nhóm máu A, B, AB và nhóm máu O, còn tôi lại biết cả nhóm máu Hà Tịch vừa nhắc đến.
Nhìn bộ dạng tôi, Hà Tịch nhầm tưởng tôi cũng như mọi người bình thường khác, chưa nghe đến tên nhóm máu này bao giờ. Cô mới giải thích: “Đây là nhóm máu được phát hiện vào năm 1952 trên một người có tên là Sejmbey. Đó là một loại máu chưa hoàn thiệ và không có bất kỳ đặc trưng gì. Tế bào hồng cầu của loại máu này bị khuyết thiếu gen, không mang kháng nguyên thông thường, và cũng không phản ứng lại với bất kì loại huyết thanh nào. Thế nên rất dễ nhầm nhóm máu U – Sejmbey với nhóm máu O. Tính đến nay, trên toàn thế giới chỉ có hơn ba mươi người mang nhóm máu này”.
Vì mới chỉ biết tên nhóm máu này, nên đống thuật ngữ Hà Tịch nói khiến tôi đờ người ra, song câu cuối cùng thì tôi hiểu, đó chính là lý do vì sao cô ấy đi Hàn Quốc. Trên toàn thế giới chỉ có hơn ba mươi người, tỉ lệ này còn ít hơn cả một phần một trăm triệu, với cô ấy đây là đối tượng nghiên cứu hiếm mà gặp được.
“Qua Seoul, em bảo họ rằng dù sao cũng là hai đứa trẻ sinh đôi, nên cứ cho tiến hành giải phẫu một đứa, giữ lại một đứa kia là được”.
Tôi đau khổ cười, quả nhiên Hà Tịch đã quay lại với phong cách nói chuyện của mình.
“Thực ra ban đầu họ cũng định vậy, nhưng vì cặp vợ chồng người Pháp kia có khả năng bị dẫn độ về Pháp, tới khi đó xác hai đứa trẻ cũng phải chuyển giao cho cảnh sát Pháp. Thế nên với họ thì cho giải phẫu giám định hay không là cả một vấn đề, nhưng sau một hồi năn nỉ, thì cũng có thể xem như em đã giúp họ đưa ra quyết định”.
Theo tôi dự đoán, sự “năn nỉ” của Hà Tịch nhất định không đơn giản như vậy, chưa biết chừng cô phải viện đến mọi cách, huy động đến không ít mối quan hệ thân quen.
“Đây là bức ảnh chụp trước khi tiến hành giải phẫu, còn sau đó là bị mổ tanh bành, em đoán anh không có hứng thú xem đâu”.
“Quả vậy, quả vậy” – tôi vội gật đầu, “nhưng chẳng phải dù có giải phẫu giám định thì cũng phải bảo lưu hình dáng bên ngoài của cái xác, sao ở đây em mổ xẻ tanh bành vậy…”.
“Có tanh bành cỡ nào em cũng ghép nối lại được.” – Hà Tịch trả lời không chút do dự, “Anh nghi ngờ trình độ chuyên môn của em à?”
“Tất nhiên là anh không dám.” – Tôi cười xòa, “Em tìm ra điểm gì mới lạ trong lúc tiến hành giải phẫu ư?”
Hai hàng lông mày cảu Hà Tịch từ từ nhíu lại, cô đáp: “Cấu tạo cơ bắp của đứa trẻ hơi không bình thường”.
Dứt lời cô ấy im lặng hồi lâu, không rõ đang nghĩ về điều gì. Đến khi tôi không chờ được nữa, định lên tiếng hỏi, cô mới nói tiếp: “Xác đứa trẻ đã bị đông lạnh trong thời gian khá dài, cảnh sát Hàn Quốc cho rằng do thời gian đông lạnh dài gây ra, nhưng em không cho là vậy. Do không thể giải thích sự thay đổi cơ bắp của đứa trẻ theo cách thông thường, họ mới khiên cưỡng liên hệ điều này với thời gian đông lạnh của cái xác”.
“Thay đổi thế nào?”
“Cứng cáp hơn”.
“Gì?” – Tôi chưa nghe ra.
“Cứng cáp. Phần cơ bắp của đứa trẻ đó rất cứng cáp”.
“Này, không phải kiểu cơ bắp như của Nam Vương đấy chứ?”
“Mức đó thì chưa.” – Thấy tôi chưa thật sự hiểu, Hà Tịch hỏi: “Anh nghĩ mình có thể luyện tập để có cơ bắp như Arnold không?”
Arnold là diễn viên cơ bắp nổi tiếng ở Hollywood trước đây, ông đã chuyển từ lĩnh vực điện ảnh sang chính trị, và trở thành thống đốc bang California. Ngay cả tôi cũng chẳng dám mang bắp đùi mình ra so với bắp tay Arnold nữa là.
Hình ảnh đại minh tinh Arnold vừa vụt lóe lên trước mắt, tôi đã cảm thấy nghẹt thở: “Bắp đùi này… hẳn không thể nào chứ”.
“Dù anh muốn tập luyện để có được cơ bắp như vậy, e cũng không mấy khả quan. Song tình trạng cơ bắp của đứa trẻ đó vốn chẳng thể nào vậy. Đây chính là sự khác biệt. Với đứa trẻ mới chào đời, thì ngày đến bò đã rất khó, sau rất nhiều tháng nó mới tập bò rồi đến tập đi và đến tập chạy. Việc thích nghi với môi trường sinh tồn hoàn toàn khác môi trường trong tử cung người mẹ, hấp thu chất bổ dưỡng giúp cơ thể lớn lên v.v… đều cần có thời gian, cũng như để một vài bộ phận cơ bắp trên người trẻ trở nên cứng cáp hơn lên trong quá trình tập luyện cũng vậy. Nhưng hai đứa trẻ sơ sinh qua đời không lâu sau khi chào đời chỉ sống không quá một tháng, hay thậm chí còn ngắn hơn, vậy mà xác đứa trẻ em tiến hành giải phẫu…”.
Hà Tịch khẽ hít vào, tôi để ý thấy cô đã dùng từ thuật ngữ chuyên môn “giải phẫu” mà không nói là “mổ xẻ” nữa.
"Đứa trẻ đó như thể đã biết bò bằng cả tay lẫn chân mấy tháng trước khi chết rồi vậy".
"À, hay nói cách khác, đứa trẻ đó trông có vẻ như chết lúc vừa chào đời, nhưng một số cơ bắp của nó lại tựa như đứa trẻ đã mấy tháng tuổi?" - Tôi hỏi lại
"Em định nói là nó đã biết bò bằng cách phối hợp cả chân lẫy tay liên tục suốt mấy tháng rồi cơ" - Hà Tịch nói rõ hơn.
“Liên tục à?"
"Ở trẻ sơ sinh, thời lượng ngủ chiếm một khoảng lớn trong quĩ thời gian hàng ngày, và trẻ cũng chưa có khả năng bò quá xa. Khi trẻ có thể bò được một quãng ngắn, tức là mình và tứ chi của trẻ đã tương đối cứng cáp, thì không lâu đó chúng sẽ học đứng và tập đi. Chỉ có đứa trẻ người sói mới tiếp tục bò khi tứ chi đã dần trở nên cứng cáp và có thể đi bằng chân. Đây là lý thuyết đa trùng nghịch lý, anh hiểu không?"
Đây là một tam trùng nghịch lý:
Thứ nhất là, trẻ bình thường chẳng thể bò mãi mà lại không tập đi, nhóm cơ bắp được rèn luyện ở trẻ sau thời gian bò kéo dài khác với nhóm cơ bắp ở trẻ tập đi, rõ ràng kết quả giải phẫu của Hà Tịch nghiêng về ý đầu tiên.
Thứ hai, ngay cả đứa trẻ người sói cũng không thể vừa mới sinh ra đã có cơ bắp như đứa trẻ đã biết bò từ lâu. Đến đứa trẻ hai, ba tuổi cũng không có khả năng như vậy, còn đứa trẻ này thì lại chết không lâu sau khi ra đời.
Thứ ba, cứ cho là khi vừa mới sinh ra, đứa trẻ này đã có cơ bắp đáng ngạc nhiên như vậy, song nó chỉ sống được một thời gian ngắn, khoảng thời gian này chưa đủ để các cơ bắp được rèn luyện và phát triển đến mức như vậy.
Phải rất vất vẻ tôi hiểu được ba lớp ý này, bỏ qua lớp đầu tiên, bất kì lớp nào trong hai lớp còn lại, cũng đều có thể chứng minh việc này chẳng thể xảy ra, nó rõ ràng và hiển nhiên như thể mặt trời không thể nào mọc từ hướng tây vậy.
"Liệu có phải do thời gian đông lạnh kéo dài đã làm thay đổi cơ bắp của đứa trẻ? Hơn nữa, sau khi rã đông em mới tiến hành giải phẫu, lạnh rồi lại nóng làm chất thịt thay đổi..." - Tôi biết nói thế hẳn cũng không khác gì điều giám định viên Hàn Quốc đã nói, song nó có vẻ dễ chấp nhận hơn là tam trùng nghịch lý kia. Dẫu như vậy, khi nói đến đoạn "chất thịt thay đổi", thì tôi cũng cảm thấy hơi kì lạ.
"Không thể nào!" - Hà Tịch quả quyết.
"Vậy thì do đâu?"
"Em không biết!" - Hà Tịch thẳng thắn đáp, dù khẩu khí đã có phần yếu hơn.
"Vụ đó giờ thế nào rồi?"
"Em muốn mổ đứa kia song họ không cho, mà em cũng chẳng thể ở lì bên đó nên mới quay về đây. Dù sao em vẫn sẽ lưu tâm đến vụ này".
"Tốt thôi, nếu có tiến triển bất ngờ gì, chớ quên bảo anh đấy nhé".
"Ừm!" - Hà Tịch gật đầu.
Tiếp đến, vấn đề giải quyết hết bàn ê hề đồ ăn trở thành vô cùng khó khăn. Hà Tịch tuy không mất cảm giác ngon miệng vì chuyện này, nhưng vốn dĩ cô vẫn ăn rất ít. Trong khi đó mỗi lần định ăn, tôi lại mường tượng đến những thứ như chất thịt ôi thiu, nên chẳng thể nào thoải mái đánh chén như chưa có gì xảy ra.
Lúc chia tay Hà Tịch, không kìm lòng được, tôi đã thốt ra một suy nghĩ đã nung nấu trong đầu mình từ lâu.
"Các thông số kết quả xét nghiệm ADN của đứa trẻ đó, em còn cầm chứ?"
"Vâng".
"Có thể... chỉ có thể là, anh muốn nhờ em thực hiện một xét nghiệm so sánh ADN".
"So sánh? Nhưng so đứa trẻ đó với ai?" - Hà Tịch lấy làm lạ hỏi.
"Ơ thì..., cũng phải nói thêm là, ngay bản thân anh cũng cảm thấy suy nghĩ này của mình là quá sức hoang đường".
Hà Tịch không hỏi gì thêm, quay về sở cảnh sát làm việc.
Khi thấy bức ảnh chụp lại xác đứa trẻ lúc nãy, tôi đã nghĩ về một người khác.
Người này là Chu Tiêm Tiêm.
Ba năm về trước khi thấy con bé trong bệnh viên, hôm đó trời rất nóng, nó đang mặc chiếc áo sơ mi cộc tay, hơi ngắn, khiến rốn thỉnh thoảng lại bị hở ra. Hẳn con bé được sinh ở một bệnh viện nhỏ, bởi người y tá cắt cuống rốn cho con bé rất xấu, làm rốn lồi ra ngoài, nhẽ ra trông rất khó coi, nhưng may là nó lại thành hình khum khum như nụ hoa sắp nở, khiến tôi thấy rất ấn tượng.
Phần rốn của đứa trẻ này trông cũng na ná vậy. Tuy rốn trẻ thường đều hơi lồi ra, song tôi lại nảy ra liên tưởng đó. Tôi phải thừa nhận, đó là suy nghĩ mù quáng, Hoàng Chức vẫn luôn tin, ngoài đứa trẻ giấy, cô còn có một đứa con khác. Đứa trẻ tan biến vào không khí không ai nhìn thấy này, liệu có liên quan gì với đứa trẻ sơ sinh đã chết kia không? Thực vô cùng hoang đường, sao tôi có thể nảy ra liên tưởng này dựa vào hình dạng chiếc rốn chứ, rốn đâu phải là thứ sẵn có do trời sinh, y tá cắt dây rốn thế nào, nó sẽ thành ra thế đó mà.
Vậy nhưng...
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 5: Tỉ lệ trùng hợp một phần trăm triệu

Lúc sải bước vào cổng chính của tòa soạn, tôi bị kẻ đối diện hích cho một cú đau điếng vào vai.
Đó là một anh chàng có vóc người gầy guộc chừng hơn ba mươi tuổi, cằm lởm chởm râu, bề ngoài nhìn có vẻ yếu đuối ủy mị, mà lại có thế hích tôi một cú mạnh vậy sao.
Sau khi va phải người khác, anh ta chẳng có vẻ gì để ý đến tôi, chỉ đưa mắt nhìn lướt tôi một cái rồi vội ráo bước về phía trước.
“Này!” – Tôi lên tiếng trách còn anh ta tựa hồ không nghe thấy gì. Tôi quay đầu lại nhìn, ở phía trước anh ta, có một bóng người màu xanh dương vụt lướt qua nơi góc phố. Rất nhanh, anh ta cũng biến mất ở khúc rẽ.
Tôi bóp vai, bực bội đi vào tòa soạn.
Lúc đi ngang qua quầy tiếp tân, bảo vệ cho biết có người đến tìm tôi.
Tôi cảm ơn một tiếng, bước vào phòng tin tức ngồi xuống chỗ của mình, mà chẳng thấy người đang đợi tôi đâu.
“Này, Lưu Đường!” – Tôi hét.
“Có việc gì?” - Ở phía đối diện Lưu Đường quay đầu lại nhìn.
“Vừa nãy có người đến tìm tôi không?”
“À!” – Gã Đường quỷ sứ lập tức đổi sang nét mặt dâm đãng, “Đó đúng là một mỹ nữ. Không biết sao ông lại được nhiều người đẹp vây quanh thế, hôm nào giới thiệu cho tôi vài cô nhé”.
“Hà hà, chẳng phải tối qua ông vừa hưởng lễ Thất Tịch à, sao rồi, vũ khí bí mật của ông không phát huy tác dụng hả?”
Lưu Đường cười giễu mấy tiếng, đáp: “Ta không thể lúc nào cũng dính chặt lấy một cái cây. Mà này, kẻ có nhiều cây để chọn như ông thật làm người ta phát ghét đấy”.
“Đừng huyên thuyên nữa, rốt cuộc thì có ai đến tìm tôi?”
“Tôi cũng chẳng biết, cô ấy nói là họ Hoàng, ngồi ở ghế chờ ông rất lâu, vẻ mặt trông khá đờ đẫn thẩn thờ, kiểu kiểu em Lâm[1] í. Tôi hỏi này, nhà ông rốt cuộc làm gì người ta thế?”
[1] Chỉ nhân vật Lâm Đại Ngọc trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.
“Đừng có ăn nói lung tung. Họ Hoàng à, có thể là ai được nhỉ?” – Tôi nhíu mày.
Chẳng lẽ là Hoàng Chức? Cô ấy lên Thượng Hải nhờ tôi tìm con gái hộ sao?
Tôi miêu tả lại dáng vẻ của Hoàng Chức theo hình dung mình còn nhớ, thấy Lưu Đường liên tục gật gù.
Tính ra, Hoàng Chức cũng đã hai tám, hai chín tuổi rồi, xem ra căn bệnh tâm thần bất bình thường đã mấy năm của cô ấy đã không khiến dung nhan của cô trở nên tiều tụy.
Tôi chợt nhớ ra, hỏi: “Cô ấy mặc bộ quần áo màu xanh à?”
“Đúng, sao ông biết?”
“Ban nãy vừa lỡ mất ngoài cổng chính”.
“Không sao, cô ấy bảo trưa mai lại đến tìm ông!” – Lưu Đường đáp.
“Thế thì tốt quá, chắc ngày mai tôi phải đi sớm hơn mới được”.
“Song không phải cô ấy bảo thẳng với tôi, mà đó chỉ là lời cô ấy tự lẩm bẩm với mình lúc ngồi trên ghế của ông.” – Lưu Đường nói rồi già giọng: “Thầy Na, vậy mai trưa mai em lại đến, anh chú ý giữ gìn sức khỏe nhé, thôi thì chuyện con gái em phó thác cả vào anh đấy. Ngày nào em cũng sẽ đến tìm anh”.
Tôi lúng túng, ngượng nghịu, vội nạt hắn dừng lại.
“Thầy Na, thầy đã có bạn gái chưa?” – Lưu Đường quỷ quyệt làm bộ mặt hề.
Hết cách với hắn, tôi đành cho hắn biết, thiếu phụ xinh đẹp đến tìm tôi chính là bệnh nhân tâm thần đã viết thư cho tôi, nếu không, chẳng rõ sẽ có tin đồn gì lan truyền ra bên ngoài.
“Hóa ra là vậy, thảo nào trông cứ quái quái thế nào í; tôi còn tưởng anh hủy hoại đời người ta cơ chứ!” – Gã Đường này hiếm khi nhả ra được lời vàng ý ngọc.
Tôi biên tập lại bài phỏng vấn thầy Vương trên máy tính rồi lưu vào tập file bản thảo của phòng. Tôi vươn người, nhún nhún hai vai rồi rút chiếc chìa khóa nhỏ từ góc ngăn kéo ra, bước đến góc phòng tin tức, mở tủ đựng đồ chuyên dụng của mình.
Ngoài mấy ngăn kéo nhỏ ở bàn máy tính, mỗi phóng viên, biên tập viên còn có thêm một tủ đựng đồ chuyên dụng để đựng quần áo cùng các thứ lặt vặt không thể cất vào ngăn kéo khác. Lần tìm trong tủ hồi lâu, tôi rút ra một cuốn sổ ghi chép đã bị quăn hết mép.
Đây là các ghi chép phỏng vấn của tôi, mỗi năm tôi dùng hết từ một đến hai cuốn sổ ghi chép cỡ lớn. Cuốn này gồm các ghi chép được thực hiện vào năm 2003.
Quay về ghế ngồi, tôi lần giở đến những trang ghi chép về cuộc phỏng vấn liên quan đến đứa trẻ giấy.
Khắp trang đều toàn là những nét chữ nguệch ngoạc, loằng ngoằng như tờ bùa; đối với người khác đây là một cuốn “thiên thư” mà chỉ mình tôi mới có thể đọc được.
Đưa mắt lướt theo đầu ngón tay, lần tìm theo từng hàng, mình ghi ở đâu nhỉ, nếu nhớ không nhầm thì…
Đây rồi!
Nhóm máu Sejmbey.
Tôi biết về trường hợp này trong lần phỏng vấn ba năm trước. Bệnh viện bà mẹ trẻ em tiếp nhận Hoàng Chức, một trường hợp sinh nở khó vào sinh cuối cùng đã phải ký thỏa thuận. Bởi nếu quá trình sinh diễn ra suôn sẻ thì không vấn đề gì, nhưng nhỡ có vấn đề gì thì tính mạng Hoàng Chức sẽ bị đe dọa.
Kho máu của bệnh viện không có loại huyết tương phù hợp với nhóm máu của cô.
Cô thuộc nhóm máu Sejmbey!
Thật quá sức trùng hợp, chẳng phải sao? Trên thế giới chỉ có khoảng hơn ba mươi người mang nhóm máu này; đứa trẻ được tìm thấy xác trong tủ lạnh bên Hàn Quốc mang nhóm máu này; Hoàng Chức cũng mang nhóm máu này; nên có thể khẳng định ở mức độ nhất định nào đó, đứa trẻ cô ấy sinh ra cũng thuộc nhóm máu này. Liệu Chu Tiêm Tiêm có vậy không? Phải chăng nếu đứa trẻ giấy đó phát triển bình thường, nó cũng sẽ như vậy?
Điều này đại diện cho cái gì?
Chẳng gì hết. Tôi tự nói với mình, điều này chẳng đại diện cho cái gì hết.
Tôi gập cuốn sổ lại, đặt sang bên cạnh. Trong nửa tiếng tiếp sau, tôi thấy mình cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn khi lướt một vòng trên mạng, mà chẳng tài nào nhớ được bản thân dã xem gì.
Tôi đưa bàn tay lên day day huyệt thái dương bằng ngón trỏ, mớ suy nghĩ hỗn loạn trong đầu dần dịu lại. Tôi đứng dậy rót cho mình một tách trà nóng, thực ra vào mùa hè tôi thích uống trà đá hơn, song vì nhấm nháp trà từ từ, có tác dụng như một thứ nghi lễ, có thể giúp ta làm lắng dịu dòng suy tư.
Miệng chiếc cốc nhựa đựng trà loại dùng một lần phủ đầy hơi nước, những làn hơi trăng trắng từ từ bay lên. Tôi ngẩn ra một hồi, đưa mắt nhìn xuyên qua làn hơi trắng, rồi dừng lại trên cuốn sổ tay cũ phía sau.
Tôi gạt tách trà sang một bên, lật sổ tay, nhấc ống nghe điện thoại lên, bấm theo dãy số được ghi trong cuốn sổ đó.
Điện thoại đã thông. “Đây là bệnh viện bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em số 1 Thượng Hải, xin quý khách chọn số máy lẻ. Để biết thêm thông tin về các số máy lẻ, quý khách nhấn vui lòng nhấn phím 0” – Một giọng nữa nói tiếng phổ thông chưa thật chuẩn cất lên, đây là máy trả lời tự động.
Tôi bấm số máy lẻ.
“Alô?” – Một giọng nam trung niên vọng lại.
“Xin cho hỏi bác sỹ Trương có đấy không?” – Tôi hỏi.
“Vâng, tôi là bác sỹ Trương đây. Anh là ai?”
“Tôi là phóng viên Na Đa của tờ Ngôi sao buổi sớm, anh còn nhớ tôi chứ?”
“Phóng viên báo Ngôi sao buổi sớm?”
“Ba năm trước tôi từng đến phỏng vấn anh, về một thai nhi dị dạng, thai nhi giấy”.
Tôi nghe thấy tiếng thở khẽ vọng lại từ đầu dây bên kia, tiếp đó là ba phút im lặng.
“Ồ, ra là thai nhi giấy” – ông nói, “Đúng vậy, tôi nhớ ra rồi. Xin hỏi anh có chuyện gì?”
“Tôi muốn hỏi một chút, về sau nguyên nhân tạo thành thai nhi dị dạng đó đã được làm sáng tỏ chưa?”
“Vẫn chưa.”
“Thai nhi đó có được giữ lại làm tiêu bản không?”
“Không”.
“Ồ!” – Tôi nhất thời bế tắc.
“Sao vậy, anh vẫn quan tâm đến chuyện này à?” - Bác sỹ Trương hỏi.
“Ngoài những bất thường về mặt tâm thần, về sau bệnh nhân đó liên tục viết thư cho tôi. Cô ấy một mực tin rằng, ngoài đứa trẻ giấy, trong bụng mình còn một thai nhi khác”.
“Lần đó cô ấy đã bị sốc mạnh, thật chẳng thể ngờ!” – Ông chép miệng.
“Bác sỹ Trương này, nếu hồi đó trong bụng cô ấy thực sự còn một thai nhi khác, thì ta có thể giải thích được sự hình thành của thai nhi giấy chăng?”
“Tôi chưa hiểu rõ ý của anh.” - Bác sỹ Trương nói, “Kiểu giả thuyết này không hợp lý, bới khi đó cô ấy chỉ sinh ra một thai nhi dị dạng đó thôi”.
Ba năm trước đây, trường hợp thai nhi dị dạng này đã từng khiến không ít người ở bệnh viện bà mẹ trẻ em khi đó hoảng sợ, còn đến giờ, nó gần như được xếp chung với trăm nghìn ca bệnh bình thường khác, chẳng hề để lại vết tích gì.
Suy nghĩ của con người thường rất hoang đường, rành rành biết là thứ không thể, mà ta vẫn không thể không nghĩ về nó; như hiện giờ, tôi đang mien man nghĩ về đứa trẻ sơ sinh bị mất tích kia của Hoàng Chức, cùng mối liên hệ giữa nó với đứa trẻ qua đời ở Hàn Quốc.
Trên thực tế, dù có sự trùng hợp về nhóm máu hiếm – với tỉ lệ một phần trăm nghìn trên toàn thế giới giữa Hoàng Chức với xác đứa trể được tìm thấy bên Hàn Quốc, ta vẫn chưa thể đưa ra chút bằng chứng chống đỡ nào cho liên tưởng này.
Sao một bệnh viện công lập lớn của Thượng Hải lại có thể đem một đứa trẻ sơ sinh giấu đi cơ chứ, điều này tuyệt đối chẳng thể nào xảy ra. Hơn nữa, xác đứa trẻ được tìm thấy tận bên Hàn Quốc, chẳng phải là Thượng Hải. Thêm vào đó, thứ ông Cournot lấy ra từ trong tủ lạnh là xác cặp trẻ song sinh…
Tôi nhắm mắt, ngả lưng ra thành ghế. Nếu những tình tiết riêng lẻ này có thể được xâu chuỗi lại với nhau, ta sẽ chỉ có thể dùng từ “kinh thiên động địa” để nói về điều vượt ngoài sức tưởng tượng này, còn hiện giờ, ta sẽ khó lòng theo kịp nếu chỉ dựa vào khả năng tưởng tượng của tôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 6: Đi tìm Hoàng Chức

Hoàng Chức giờ vẫn chưa đến. Giờ đã quá sáu giờ chiều, là quãng thời gian phòng tin tức nhộn nhịp tất bật nhất trong ngày. Tiếng gõ bàn phím lách cách, tiếng nói chuyện qua điện thoại, tiếng người cao giọng luận đàm, cũng tiếng hò hét thúc giục nộp bài đăng của biên tập viên hòa lẫn vào với nhau, khiến cả căn phòng trở nên sôi sung sục.
Bản thông cáo báo chí tôi viết xong hôm nay đã được gửi cho biên tập trang in, nên nếu muốn, tôi có thể thảnh thơi thu dọn đồ đạc ra về trước những cặp mắt đầy ghen tị từ già nửa số đồng nghiệp còn đang phải đánh vật với bản thảo ngày hôm nay.
Nhưng tôi lại muốn chờ Hoàng Chức, dù dựa theo thông tin Lưu Đường truyền đạt lại hôm qua thì cô ấy phải đến từ trưa hôm nay rồi mới phải.
Một mặt tôi nghĩ sao Hoàng Chức không đến như đã hẹn, mặt khác tôi lại nghĩ liệu có phải mình đang quá coi trọng câu nói của một bệnh nhân tâm thần chăng. Người thường khó mà đoán được tính logic của người bệnh tâm thần, cứ cho là hôm qua cô ấy bảo trưa nay sẽ tới, thì cũng đâu chắc gì cô ấy không đổi ý khi quay người rời đi.
Nghĩ đến đây, tôi quyết định không ngốc nghếch chờ thêm nữa. Cô ấy đến tìm tôi chắc cũng vì sự mất tích của Chu Tiêm Tiêm; về việc này, tôi đã có lời nhờ công an địa phương lưu tâm thông qua chỗ quen biết tôi.
Hi vọng mai đến toà soạn, bảo vệ không báo cho tôi nửa đêm hôm qua Hoàng Chức đến tìm mình.
Vừa ra khỏi tòa nhà được trang bị hệ thống điều hòa nơi tòa soạn đóng đô, khí nóng hầm hập bên ngoài tạt vào người khiến tôi nhăn mày khó chịu. Mặt trời đã lặn song trời hãy còn sáng, bầu không khí oi bức ngột ngạt trùm phủ lên người, khiến ta chẳng thể nào chạy thoát.
Xem chừng sắp mưa rồi đây, mong nó mưa sơm sớm đi để thời tiết mau dịu lại.
Giờ có thể xem như là đầu giờ tan tầm, tòa soạn tọa lạc ở trên khu đất vàng tại trung tâm Thượng Hải, bên ngoài những dòng người hối hả đi lại chen chúc nhau phủ kín cả vỉa hè.
Đến hè, trên các con phố ở những thành phố lớn, ta thường bắt gặp một vài cảnh tượng, như các cô gái vận chiếc quần short bò cực ngắn cùng mùi hương thoang thoảng, vừa đi qua ban nãy, tuy chưa nhìn mặt cô xinh hay không, nhưng chỉ cần nhìn đôi chân dài thẳng tắp phía sau cũng đủ khiến cánh nam giới xuýt xoa thích thú.
Chẳng để tôi tán thưởng lâu, dòng người qua lại trên vỉa hè đã che mất tầm nhìn của tôi. Nhưng tôi lại bất ngờ nhận ra một vóc dáng quen thuộc trong số đó.
Người này mặc một chiếc áo sơ mi màu hải quân cùng chiếc quần rộng thùng thình, và có vóc dáng gầy nhẳng với phần lưng hơi gù, khiến bộ dạng con người này toát lên đôi chút lén lút, vụng trộm. Anh ta chính là người đã va phải tôi hôm qua, rồi sau đó lại chẳng nói năng gì gì mà vội vã bỏ đi. Tôi nhớ lúc đấy anh ta đang đi phía sau Hoàng Chức, vội vội vàng vàng không biết vì cớ gì.
Giờ anh ta đang làm cái gì? Trông dáng vẻ anh ta, tôi thấy hơi lợn cợn.
Anh ta chẳng hề để ý đến bước chân của mình, đi lúc nhanh đi chậm. Lúc vội vã, anh ta tựa như con cá chạch luồn qua luồn lại giữa dòng người đi bộ, vượt lên mấy người đi ở phía trước mình. Lúc chậm thì giống như bây giờ, thậm chí anh ta còn đứng lại, ngó nghiêng về phía trước.
Không rõ có phải là ảo giác của tôi chăng, tôi cảm thấy đối tượng anh ta theo dõi cũng chính là người tôi vừa ngắm nhìn. Nếu không thì cô gái với đôi chân dài băng qua phần kẻ vạch dành cho người đi bộ ở ngã tư để sang bên kia đường, sao đầu của anh chàng gầy nhẳng đó cũng chầm chậm hướng theo, và rồi đột ngột và đầy bất ngờ anh ta lại lao về phía trước.
Lẽ nào anh ta bám theo cô gái kia?
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi, phải chăng anh ta đang làm chuyện đó? Tôi chưa bao giờ được tận mắt chứng kiến chuyện này, chỉ thấy trên phim ảnh và qua tranh biếm họa mà thôi.
Lúc anh chàng gầy nhằng bám theo cô gái kia sang bên kia đường, sắp khuất khỏi tầm nhìn, thì tôi quyết định bám theo.
Cô gái có cặp chân dài không hề hay biết mình đang bị hai gã đàn ông bám theo ở phía sau. Trên đoạn đường đông người qua lại này, chỉ cần kẻ theo đuôi cẩn thận một chút, thì dẫu là người đã qua trường lớp đào tạo về cách nhận biết kẻ bám đuôi, cũng khó lòng phát hiện ra. Chỉ có tôi và anh chàng gầy nhẳng kia là thỉnh thoảng phải rảo bước nhanh hơn, len lách qua đoạn đường chật cứng người phía trước, nếu không muốn mất dấu mục tiêu.
Cứ như vậy qua vài con phố, cô gái mới rẽ vào nhà bách hóa cao cấp, dùng dằng trước quầy hàng mỹ phẩm ở tầng một. Đây là khu vực chỉ phụ nữ mới vào xem, nên không tiện bám theo quá sát. Song anh chàng gầy nhẳng gần như chẳng kiêng dè gì, lượn đi lượn lại ở khu vực gần quầy hàng mĩ phẩm, rồi thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía cô gái. Theo tôi thấy thì cách đeo bám của anh ta hết sức lộ liễu và thiếu chuyên nghiệp.
Về phần mình, tôi chỉ dừng lại ở lối ra vào tòa nhà, rất nhiều người cũng thích đứng ở đây để hóng mát tránh nắng, và cũng có người xem đây là điểm hẹn gặp mặt bạn bè. Xem chừng bộ dạng tôi hệt người đang đợi ai. Từ chỗ tôi thì không nhìn thấy cô gái, song không có hề gì, tôi chỉ cần theo sát anh chàng gầy nhẳng kia là được.
Chẳng mấy chốc, cô gái đã mua xong đồ và bước ra. Tôi nhìn cô đi ngang qua mình, rồi tới lượt anh chàng gầy nhằng. Sau khi ra khỏi tòa nhà bách hóa, cô gái không đi tiếp mà đứng đợi trên vỉa hè một lát, rồi vẫy một chiếc taxi và chui vào trong.
Gã gầy đứng nhìn theo chiếc taxi đã lăn bánh, mà chẳng làm gì tiếp. Sau khi quan sát và cơ bản đã khẳng định được độ chính xác về suy đoán của mình, tôi rút vài tờ trăm tệ từ ví ra cho vào túi áo.
Gã gầy loay hoay trước cửa ra vào tòa bách hóa một lát, đang định đi về theo hướng đường cũ thì tôi xông đén, đập một cái thật mạnh vào vai hắn ta.
Do hãy còn thù cú hích ngày hôm qua, nên cú đập này của tôi phải nói là khá mạnh. Gã đó vốn dĩ đã gầy nhom, cộng thêm hành động mờ ám mà bản thân đang làm, nên cú đập vai của tôi khiến gã loạng choạng giật bắn người, nhảy vọt sang một bước rồi mới quay lại nhìn tôi.
“Anh là ai, anh muốn gì?” – Gã ta vừa hoảng vừa cáu gắt hỏi tôi với tông giọng không cao lắm.
“Vừa xong anh đang làm gì?” – Tôi hỏi ngược lại.
“Tôi làm gì thì liên quan gì tới nhà anh?” – Gã gầy châm biếm ngược lại.
“Đừng tưởng là tôi không trông thấy gì, tôi bám theo anh mãi đấy!” – Tôi nheo mắt cười đáp, cố tình nhấn giọng vào chữ “bám theo”.
“Theo thì đã sao, theo đuôi là phạm pháp à, tôi theo người ta, còn anh chẳng phải cũng theo tôi sao?” – Gã gầy đỏ mặt, nhặng xị lên, song vẫn không dám to tiếng quá đà.
Sở thích của con người trên đời có muôn hình vạn trạng, song lại có một số người thích bám đuôi phụ nữ dù tôi chẳng biết họ tìm thấy thú vui gì từ việc này. Tôi cứ tưởng rằng chỉ mỗi ở nước Nhật mới có kiểu người như vậy, bởi ngay tên gọi “bám đuôi” cũng được du nhập từ Nhật sang, không ngờ bây giờ tôi lại gặp được một người như vậy ở đây. Với dáng vẻ của mình, gã ta hoàn toàn xứng với danh hiệu “quái thúc thúc”.
Dứt lời, gã gầy không muốn tiếp tục lằng nhằng với tôi nữa, định quay đầu bỏ đi thì đã bị tôi nắm chặt cổ tay.
“Á, này này!” – Gã gầy hét lên, đành phải quay người lại theo hướng cổ tay bị tôi vặn. Tuy không giỏi đánh đấm, nhưng so với anh chàng bám đuôi này thì sức tôi hơn đứt song tôi không định gây chuyện lôi thôi ở ngay chỗ này nên vội buông tay anh chàng kia ra, mới chỉ có mấy giây mà xung quanh đã có người dừng lại nhìn.
“Anh… anh!” – Gã gầy tức tối. Gã ta chưa kịp phản kích đã bất ngờ há hốc miệng khi thấy tôi lấy tờ một trăm tệ từ túi áo của mình đút vào túi ngực áo sơ mi của gã.
“Cái này, cái này…” – Đồng tiền quả có uy lực vô song, vẻn vẹn một tờ một trăm tệ cũng có thể làm thui chột ý chí chiến đấu của gã ta, khiến gã ta bất ngờ không biết nên phản ứng thế nào.
“Đi chỗ khác nói chuyện!” – Không cần tốn nhiều công sức, tôi đã kéo được gã ta vào một con ngõ nhỏ bên cạnh, chỗ này khá yên tĩnh và vắng vẻ.
Tôi rút từ túi áo ra hai trăm tệ, vẫy qua vẫy lại trước mặt gã.
“Anh có sở thích gì cũng chẳng liên quan đến tôi, ba trăm tệ đây, nhờ anh giúp tôi chút việc nhỏ”.
Ba trăm tệ vốn chẳng phải số tiền lớn, nhưng gã gầy đã có vẻ động lòng. Cũng khó trách, kẻ nhàn rỗi nên mới bám đuôi con gái ngoài phố như gã ta thì có được bao tiền?
“Tôi không làm việc gì phạm pháp đâu đấy!” – Câu nói của gã khiến tôi không nhịn được cười.
Gã gầy thấy tôi cười, không hiểu ý tôi thế nào, lại hỏi: “Muốn tôi bám đuôi ai à? Việc khác thì không dám hứa, còn với kĩ nghệ bám đuôi tuyệt chiêu như của tôi thì chẳng ai có thể thoát nổi. Nhưng… nguy hiểm không thế, nếu nguy hiểm thì khoản này không đủ đâu”.
Tôi nhớ đến bộ dạng bám đuôi trắng trợn vừa nãy của gã ta, lúc đi theo cô gái vào tòa nhà bách hóa, mà giờ gã lại huênh hoang về kĩ thuật đem bám của bản thân, thì không nhịn được cười, bảo: “Chẳng phải là nhờ anh theo dõi ai. Anh thử nhớ lại xem có phải vào lúc hai giờ trưa hôm qua ở trước cổng chính của tòa soạn báo Sao Mai, anh đang bám theo một phụ nữ nào à?”
“À, hôm qua?”
“Một thiếu phụ mặc bộ đồ màu xanh, có vóc dáng nhìn khá gầy yếu song lại rất đẹp ấy”.
“Đúng… hình như là có vụ này, rồi sao?”
“Anh bám theo cô ấy đi những đâu thì đưa tôi đến đó một lần, rồi số tiền này sẽ là của anh”.
Tôi và gã gầy quay lại cổng tòa soạn báo Sao Mai, hôm qua gã bắt đầu theo đuôi Hoàng Chức từ đây.
Nói thật là lúc đi cùng gã gầy, tôi hơi bị sức ép về mặt tâm lý, bởi ánh mắt gã ta thường luôn bị hút dính về phía những người đẹp, khiến người đi đường nhầm tưởng cả hai chúng tôi cùng bám theo một cô gái nào đó ở phía trước.
“Anh còn nhớ rõ đường đi không đấy?” – Sau vài khúc rẽ, tôi hỏi.
“Đương nhiên, sao tôi lại không nhớ chứ, hôm qua cô ấy đi như thế này phía trước tôi, tôi còn nhớ cô ấy dừng lại chỗ cửa hàng quần áo bên tay trái kia một lúc mà không vào.” – Đánh hơi thấy tôi có vẻ nghi ngờ “chuyên môn” của mình, gã gầy có vẻ khá phật ý.
Đang nói chuyện, tôi đột nhiên nghe thấy một hồi còi dài, tiếp đó không gian trước mặt như được trải ra. Tòa soạn chúng tôi nằm rất gần bến Thượng Hải, khi đứng trên ban công hít vào thật sâu, tôi có thể ngửi thấy mùi sông Hoàng Phố và loáng thoáng nghe thấy tiếng còi hú thoảng nhẹ trong gió; còn bây giờ chúng tôi đang đi ra bến.
Đi xuyên đường hầm dành cho người đi bộ, chàng gầy dẫn tôi ra đê ở ngoài bến. Nước sông Hoàng Phố đục ngầu, xa xa chim yến đang bay, gió sông thổi vào từng chập khiến cảm giác nóng nực ban nãy như chợt tan biến. Dưới ánh mặt trời còn rơi rớt lại, tòa nhà hiện đại chọc trời bên kia bờ hiện lên sừng sững, rực rỡ muôn ánh đèn. Còn ở bên này, tòa nhà thiết kế theo phong cách Châu Âu được dựng lên từ hồi đầu thế kỉ, và được mệnh danh là kiến trúc vạn quốc, thì bệ vệ đứng đây trong câm lặng. Chính vào lúc tôi lia mắt qua, tháp đồng hồ hải quan vụt sáng lung linh, tiếp đó những chùm sáng này nhanh chóng lan tỏa ra xa, để rồi sai cùng bờ phía tây sông Hoàng Phố cũng sáng rực ánh đèn.
Mặc dù là người sinh ra và lớn lên ở đây, song được chứng kiến cảnh tượng đang diễn ra trước mắt cũng khiến tâm hồn tôi bất chợt trở nên bay bổng. Chẳng trách đây là nơi có phong cảnh đẹp nhất mà mọi khách du lịch đến Thượng Hải đều muốn ghé qua. Song vào chiều hôm qua – lúc Hoàng Chức qua đây, mặt trời vẫn còn đang gay gắt, bức tường bằng kính của tòa nhà bên kia sông hẳn sẽ phản xạ ánh sáng rất mạnh, cảm xúc lúc đó nhất định sẽ kém hơn bây giờ nhiều.
Cảnh tuy đẹp, song theo gã gầy đi từ đầu này đến đầu kia, rồi lại từ đầu kia vòng lại đầu này, khiến tôi không nhịn được hỏi: “Hình như ta đi vòng quanh thì phải?”
“Đúng vậy, vòng quanh, là hôm qua cô ấy đi như vậy mà, cô ấy còn vòng mấy lượt nữa, sau đó cô đi từ đầu đường Phúc Châu đến đường Bắc Kinh rồi lại lộn về, và vòng thêm hai vòng như vậy nữa!” – Gã gầy nghiêng đầu nhướng mày, cứ như thể theo chân Hoàng Chức đi vòng vòng như vậy hôm qua là một việc rất đã vậy.
May mà tôi hỏi sớm, nên không còn phải tốn thời gian lẽo đẽo theo anh chàng này. Tôi vội vàng hỏi: “Anh không cần để ý đến việc cô ấy đi mấy vòng, chỉ cần dẫn tôi đến địa điểm cuối cùng cô ấy đến là được rồi, chắc cô ấy nghỉ ở nhà nghỉ, anh theo cô ấy về đó chứ?”
“Đương nhiên!” – Gã gầy đầy đắc ý đáp, “Nhưng sao anh có thể không hứng thú với quá trình chứ? Cuộc đời mà, không thể chì chằm chằm nhìn vào kết quả, quá trình rất quan trọng”.
Tôi nín nhịn không trừng mắt với gã này, chỉ nghiêm mặt nói: “Đừng nhiều lời, anh đi trước dẫn đường đi!”
Đi tiếp hơn nửa tiếng, trong đó đã gồm cả hai lần bắt xe buýt. Do chưa ăn tối nên khi ngửi mùi bữa tối thơm nức mũi tỏa ra từ mỗi ngôi nhà dọc đường đi, thịt nướng, cà ri gà, mực nướng, cùng đủ mọi món ăn với đủ kiểu màu sắc hiện lên trong đầu, khiến chân tôi mềm đi như bún. Gã gầy quả không hổ danh là người bám đuôi “thâm niên”, vẫn rảo bước rất nhanh và thoải mái.
Cuối cùng anh ta dừng lại trước nhà nghỉ nằm trên con đường nhỏ với cánh cổng cũng rất nhỏ. Tôi nghĩ đây là một quán trọ nhỏ.
Bà cô to béo chỗ quầy tiếp tân tầng dưới đang say sưa xem chương trình tấu hài qua chiếc tivi nhỏ đặt phía trước, đằng sau là lối cầu thang lên tầng.
“Chính là chỗ này!” – Gãy gầy khẳng định, rồi nhìn tôi chằm chằm.
Tôi rút hai trăm tệ từ túi áo ra, gã ta thò tay ra nhận, toét miệng cười mãn nguyện.
“Biết cô ấy ở tầng mấy không?” – Tôi tiện mồm hỏi.
“Tầng ba, lên cầu thang sau đó rẽ trái, đi kịch đường thì rẽ phải rồi tìm phòng số hai.” – Gã gầy đáp.
“Anh chuyên nghiệp thật!” – Tôi buột miệng nói.
“Thì vậy, làm việc gì mà chẳng phải chuyên nghiệp!” – Gã gầy huýt sáo miệng, quay người bỏ đi.
Tôi bước vào quán trọ, bà cô to béo đưa mắt liếc nhìn tôi một cái, xác định đối phương chẳng phải là khách ở trọ thì liền tỏ ra hờ hững. Tôi chẳng quan tâm đến bà ta, đi thẳng lên cầu thang.
Lối đi của quán trọ này rất hẹp, trần nhà thì thấp, khắp nơi trên tường chỗ nào cũng có dấu bùn đất cùng dầu mỡ và những vết lốm đốm, không gian chật chội và ngập mùi nấm mốc. Tôi đoán thứ mùi này phần nhiều tỏa ra từ tấm thảm ni lông đã cũ dưới chân.
Lên tầng ba rồi rẽ phải, qua từng căn phòng đóng cửa im ỉm, khiến tôi có cảm giác nơi đây như một mê cung đang tỏa ra một mùi cũ kĩ. Không biết làm thế nào mà Hoàng Chức lại tìm được quán trọ này, và làm thế nào tìm được toàn soạn báo Ngôi sao buổi sớm. Xem ra cô ấy còn giữ được sự tỉnh táo ở mức độ nhất định, và biết rằng với số tiền mình có thì chỉ có thể trú chân ở những chỗ kiểu này mà thôi.
Phòng thứ nhất, phòng thứ hai, đây rồi. Tôi ấn chuông, song chẳng thấy tiếng chuông kêu, ở cái nơi xập xệ này thì có thể đến chuông cửa cũng bị hỏng rồi.
Tôi gõ cửa. Khớp ngón tay gõ lên mặt cửa gỗ làm phát ra âm thanh “cộc cộc”, như thể cánh cửa gỗ này đã bị mọt gặm ruỗng từ lâu.
Không có ai trả lời tôi, tôi gõ mạnh hơn, vẫn không thấy động tĩnh gì.
Hoàng Chức lại đi dạo đâu rồi, hay gã gầy thấy tôi không biết gì nên đã lừa dẫn tôi đến đây?
Tôi đang định xuống lầu hỏi thăm bà cô béo, thì sau khi chun chun mũi hai cái, tôi ngửi thấy một mùi rất lạ.
Khứu giác của người đang đói bụng thường đặc biệt nhạy bén, đứng trước cửa tôi còn ngửi thấy chút mùi hôi thối khó chịu lẫn trong mùi nồng nồng của nấm mốc và nước javen khử trùng.
Tôi ghé sát mũi vào cửa, ra sức hít hà rồi lập tức nhăn tít mặt lại. Quả không sai, thứ mùi bay ra từ bên trong rất khó ngửi.
“Cộc cộc cộc!” – Tôi ra sức gõ cửa. “Phần cứng” của quán trọ này thật tệ, mới gõ vài cái mà khóa cửa đã có dấu hiệu lỏng ra.
Chần chừ một lát, tôi nhớ lại lời nói và hành động của gã gầy bám đuôi ban nãy chẳng giống như lừa tôi, đúng là Hoàng Chức nghỉ ở đây.
Sau khi đã có nhiều trải nghiệm mạo hiểm, tôi dần phát triển được một khả năng có tên là “trực giác”. Bởi nó thường chẳng chuẩn xác cho lắm, nên cũng có thể nói là thần hồn nát thần tính. Còn bây giờ, tôi đang có một dự cảm rất không lành.
Cùng lắm là đền tiền khóa cửa cho quán trọ, còn trước tiên cứ vào ngó qua xem đã xảy ra chuyện gì bên trong đã.
Tôi đạp mạnh một cái, cánh cửa liền bật mở.
Vừa mở cửa tôi đã thấy Hoàng Chức. Tiếng động lớn vậy mà cô ấy vẫn còn ngồi ngủ gật trên ghế. Mùi hôi thối càng nặng hơn, lẽ nào bồn cầu trong nhà vệ sinh bị tắc?
“Hoàng Chức, Hoàng Chức!” – Tôi vừa gọi vừa bước đến chỗ cô.
Hoàng Chức mặc chiếc váy liền màu xanh, đầu cúi nghiêng nghiêng dựa vào thành ghế. Tôi gọi to vậy mà cô ấy vẫn không tỉnh.
Tôi khẽ tiến lại gần thêm mấy bước, rồi thình lình sững lại, không dám gọi cô thêm tiếng nào.
Lúc tôi bước lại gần, mùi hôi thối càng lúc càng trở nên rõ hơn nhiều, nhưng tôi không đờ người ra vì nguyên nhân này, mà là vì khi nhìn từ góc độ khác so với lúc mới đi vào ban nãy, tôi chợt phát hiện, cô ấy bị trói ngoặt hai tay ra sau ghế.
Trong lúc kinh hãi, tôi vội vàng lao đến chỗ cô. Dưới chân Hoàng Chức là đống lộn xộn, song tôi cũng chẳng thèm để ý đến chúng, mà đưa tay khua khua trước mũi cô.
Đừng nói là hơi thở mà ngay thân nhiệt cũng đã chẳng còn.
Phía bên cổ cô nghẹo đầu sang, có một vết bầm tím đã chuyển thành màu đen rất đáng sợ.
Hoàng Chức đã bị sát hại!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 7: Vụ mưu sát chưa rõ động cơ

Hoàng Chức đã chết.
Dù lúc còn sống đẹp đẽ thế nào, nhưng khi chết đi mà không được “mông má” thì cũng khó mà tươi tắn như lúc còn sống, đặc biệt những người có cái chết bất thường đều trông vô cùng đáng sợ.
Mắt Hoàng Chức trợn trừng, cơ má méo xệch, miệng há to, chóp lưỡi cứng đờ thè ra dưới hàm răng trắng ngà, mái tóc đen rũ rượi. Cô ấy bị bóp cổ chết hay bị thít cổ chết? Người chết ngạt thường mất khả năng kiểm soát việc đại tiểu tiện; đấy chính là nguyên do vì sao tôi lại ngửi thấy thứ mùi khó chịu kia.
Dây dùng để buộc chân tay cô là dây ni lông, rất dai bền, dù trước lúc chết cô ấy ra sức vùng vẫy thế nào cũng đều vô ích, chỉ để lại vết cứa bật máu giờ đã khô lại trên cánh tay và cổ tay.
Hai chân cô bị trói vào hai bên chân ghế, tay bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng ghế. Ở tư thế này, cô khó mà có thể dồn lực vùng vẫy. Trong lúc giằng co giữa sự sống và cái chết, một người đàn bà yếu ớt cũng có thể bật lên một sức kháng cự đáng kinh ngạc, song những sợi dây ni lông nho nho kia đã chặn đứng chút cơ hội sống mong manh sau cùng này. Trong phòng không có dấu vết vật lộn gì rõ ràng, tôi nghĩ, rất có khả năng cô ấy bị đánh bất tỉnh trước, rồi bị trói vào ghế và sau đó mới bị thít cổ chết.
Trên sàn nhà cạnh giường có một con búp bê vải đang toét miệng ra cười. Nó chính là loại búp bê tôi thấy trong ngôi nhà ở thôn Đại Đường, có vẻ như đi đâu cô cũng mang nó theo.
Lúc trông thấy Hoàng Chức, bà cô to béo hét lên một tiếng thất thanh. Bây giờ tôi mới biết vì sao các ca sĩ opera thường đều sở hữu một thân hình đẫy đà như vậy, hét xong bà ta liền ngất xỉu và ngã vật ra sàn, mãi đến khi cảnh sát tuần tra đến mới tỉnh lại, mặt xám ngoét như gà cắt tiết.
Trước là cảnh sát tuần tra, sau đến tốp đông cảnh sát điều tra hình sự, Hà Tịch là giám định viên pháp y cũng đến. Lúc đó tôi đang bị cảnh sát xét hỏi, ánh mắt cô dừng lại trên mặt tôi chừng nửa giây như thể một lời chào rồi người nào lo việc người nấy.
Thẩm vấn tôi là một cảnh sát trung niên không thân thiện cho lắm. Hiện đội trinh sát hình sự của cục cảnh sát được cơ cấu thành tổ điều tra. Cách xưng hô rất Tây này khiến ta liên tưởng đến bộ phim “Thợ săn” của Mĩ từng một thời nổi đình nổi đám trong những năm 80 của thế kỉ trước ở Trung Quốc. Sĩ quan cảnh sát này chính là trưởng phòng điều tra.
“Họ tên, nghề nghiệp gì, anh phát hiện thấy xác chết khi nào?” - Anh ta nghiêm giọng hỏi, với một trinh sát trẻ đứng cạnh, họ kẹp tôi vào giữa, như có ý khống chế.
Biểu hiện của tôi khi đứng trước xác chết có phần bình tĩnh hơn bà cô to béo kia nhiều, hẳn điều này khiến cảnh sát trưởng thấy có chút nghi ngờ.
Tôi lần lượt trả lời từng câu hỏi, kết quả là ánh mắt viên cảnh sát trưởng hướng vào tôi càng lúc càng thêm phần sắc bén hơn.
“Anh là phóng viên? Sao anh có lại mặt ở đây, sao anh lại phá cửa xông vào phòng?”
Chuyện này kể ra thì dài lắm, phải thuật rõ nguyên do kết quả từ chuyện đứa trẻ giấy đến gã gầy đeo bám, chẳng thể vắn tắt vài câu là xong được.
Việc cần nói thì nhiều, song nhất thời tôi chẳng thể trả lời ngay. Thấy cảnh sát trưởng cười nhạt một tiếng rồi bảo điều tra viên trẻ: “Người này là nghi phạm, cậu cứ tạm dẫn về đồn trước!”
“Tuân lệnh!” - Cậu trinh sát viên đứng bên hô một tiếng, lách cách rút ra chiếc còng số tám.
“Này, đợi đã. Chỉ bởi tôi có khá nhiều điều muốn nói nên trả lời hơi chậm.”
“Giờ tôi làm gì có thời gian nghe, cứ về cục rồi từ từ tính!” - Cảnh sát trưởng không chịu lép vế.
Tách tách hai tiếng, tôi đã bị còng lại, viên trinh sát trẻ khá mạnh tay, làm cổ tay tôi bị vặn đau điếng.
“Tôi mà đáng nghi? Thế tôi còn báo án làm gì?” - Tôi tức tối hỏi.
“Tự báo án chẳng nói lên điều gì.” - Hà Tịch ra khỏi phòng, công tác hiện trường đã hoàn tất, cô đang đợi người chuyển xác về cục để tiến hành giải phẫu giám định. Thấy tình hình bên đây, cô ấy mới góp thêm một câu.
“Này, sao em có thể nói thế?” - Tôi sốt tiết.
“Người này có hợp tác vài lần với phòng cảnh sát đặc nhiệm thành phố, nên chắc sẽ không làm mấy chuyện vớ vẩn, thiếu kĩ năng này đâu.” - Hà Tịch bảo cảnh sát trưởng, rồi liếc nhìn tôi một cái, khóe miệng hơi cong lên, quay người bỏ đi.
“Người bị hại? Phòng cảnh sát đặc nhiệm…” - Cảnh sát trưởng lẩm bẩm, ánh mắt hướng vào tôi đã từ nghiêm khắc lạnh lùng chuyển sang thành hồ nghi.
“Tôi có quen biết người bị hại, chuyện này tương đối phức tạp, nên tôi chỉ nói sơ qua một chút…” - Tôi chớp lấy thời cơ kể sơ lược lại một lượt.
Lúc tôi nói đến nửa chừng, cảnh sát trưởng ra hiệu bảo viên trinh sát trẻ tháo còng cho tôi.
“Ra là vậy!” - Cảnh sát trưởng gật gật đầu, “Anh đã động chạm vào vật gì ở hiện trường chưa?”
“Tôi đạp cửa một lần, để vào trong này xem Hoàng Chức còn thở không, rồi sau đó ra ngoài gọi điện báo cảnh sát.”
“Vừa xong nếu có phần hơi thô lỗ thì anh cho tôi xin lỗi.” - cảnh sát trưởng vừa cười cười vừa nói, “tuy nhiên chúng tôi vẫn phải mời anh về đồn thuật lại mọi chuyện thật chi tiết cho chúng tôi lập biên bản.”
“Tránh ra, tránh ra nào!” - Thi thể Hoàng Chức đã được cho vào túi đựng xác đang được hai cảnh sát khiêng qua trước mặt tôi.
Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc túi đựng xác màu đen, lòng đầy nghi hoặc.
Ai đã giết hại Hoàng Chức. Sao hắn lại giết cô ấy?
Cướp của ư, người chọn quán trọ nhỏ này để nghỉ thì có bao tiền? Vì sắc ư, Hoàng Chức tuy đẹp thật nhưng lúc chết cô ấy vẫn ăn mặc chỉnh tề.
Cô ấy bị trói chặt vào ghế và thít cổ chết, không giống với kiểu của những kẻ bất ngờ nảy ra ý định mưu sát. Ai lại kè kè mang theo dây ni lông bên mình chứ, kẻ này rõ ràng là có ý đồ mưu sát từ trước.
Trong phòng, nhân viên khám nghiệm hiện trường vẫn đang cần mẫn dò tìm dấu vết hung thủ để lại, tôi nhìn qua vài lượt, đoán chừng ít nhất họ cũng đã tìm được dấu chân và sợi tóc đáng nghi.
“Phóng viên Na này, hay ta đi lấy mấy bức thư mà ban nãy anh nói trước rồi quay về cục sau?” - Cảnh sát còng tay tôi ban nãy nói.
“Cũng được”.
Lúc xuống tầng, tôi thấy cảnh sát trưởng đang thẩm vấn bà cô to béo kia. Mặt bà ta đầm đìa mồ hôi, các ngấn mỡ trên người rung lên khe khẽ, giọng vừa nhỏ vừa sắc, hẳn vẫn đang trong tâm trạng hoảng loạn.
“Anh cảnh sát ơi, việc này chẳng liên quan gì đến tôi, tôi không hề hay biết gì!” - Vẻ mặt bà cô rầu rầu như đưa đám.
“Người nghỉ ở đây giờ đã chết mà bà còn nói mình không biết gì hay sao? Tầng đó có tất cả bao nhân viên, người đâu rồi?” - Giọng điệu của cảnh sát trưởng lúc tra hỏi bà cô này nghiêm khắc hơn nhiều so với lúc thẩm vấn tôi.
“Chuyện của khách trọ tôi đâu quản được, chỗ tôi ít nhân viên, họ thường chỉ quét dọn sau khi khách đã trả phòng. Ban đầu mỗi tầng đều có một người trực, song gần đây một người xin nghỉ phép về quê nên về người làm có phần căng hơn.”
“Băng ghi hình từ camera giám sát thì sao?”
“Chưa… chưa, à không, nó bị hỏng rồi”.
“Cái này thiếu, cái kia cũng thiếu, thế nào mà quán trọ này của bà có thể lọt qua quá trình kiểm tra cấp phép nhỉ? Theo tôi cũng không nên để chỗ này tiếp tục mở cửa kinh doanh nữa”.
“Ô, ối, ô kìa!” - Lúc đang đi ở đoạn khúc quanh trên cầu thang để xuống tầng, tôi đã nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thiết của bà cô.
Trên đường quay về tòa soạn, tôi mua vài cái bánh rán rồi vừa đi vừa ăn. Một tiếng đồng hồ trước, tôi đói đến mức bụng sôi ùng ục, còn bây giờ, một chút cảm giác thèm ăn cũng chẳng có, nên tôi chỉ ăn có một nửa, nửa còn lại nhờ tay cảnh sát trẻ thanh toán hộ, cậu ta cũng chưa ăn tối.
“Hóa ra anh quen người của phòng cảnh sát đặc nhiệm, ở phòng đó có một anh to béo được gọi là Chân đại nhân, trước đây từng có thời gian làm ở đội chúng em. Ồ, anh cũng biết anh ấy à, anh ấy quả là một bảo bối sống!” - Chàng cảnh sát này tỏ ra rất háo hức tò mò với chủ đề về phòng cảnh sát đặc nhiệm, còn tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện, bởi thực ra tôi không có hứng tán gẫu lúc này.
Về tòa soạn, tôi lật tìm khắp một lượt từ bàn làm việc đến tủ đựng đồ mà vẫn thiếu mấy bức thư. Việc này cũng chẳng thể trách, bởi sao tôi lại phải cất giữ cẩn thận thư từ được gửi đi từ một bệnh nhân tâm thần chứ?
Lưu Đường vẫn chưa về, thấy tôi về rồi lại đến, kèm thêm mấy viên cảnh sát, hắn ta nhiều chuyện hỏi: “Sao? Ông tìm gì à?”
“Bệnh nhân tâm thần đến tìm tôi hôm qua chết rồi. Đang tìm thư cô ấy viết gửi tôi”.
Lưu Đường giật mình, mở ngăn kéo lục tìm rồi lấy ra một bức thư bảo: “Chỗ tôi có một bức này, lần trước chuyền tay nhau đọc đến chỗ tôi thì quên gửi trả ông. Thế cô ấy bị giết hại à?”
Tôi cầm thư, gật gật đầu: “Lúc về sẽ nói chuyện với ông sau”.
Lưu Đường đang ngồi trên ghế đột nhiên nhảy dựng lên, vội vàng giật phắt lấy túi hào hứng hỏi: “Tin nóng, tin nóng, ở đâu thế, cho tôi biết đi!”
Tôi vừa cho hắn biết địa chỉ, Lưu Đường đã vụt lao ra ngoài.
Cái gã bộp chộp này, tôi nhìn theo bóng Lưu Đường dần mất hút ngoài cửa rồi đưa tay tắt điện thoại di động.
Đợi khi Lưu Đường nhận ra tôi là người đầu tiên phát hiện thấy xác chết, hắn nhất định sẽ gọi điện lại hỏi, nhưng tôi không có tâm trạng nào tiếp nhận cuộc phỏng vấn của gã.
Phải đợi một lúc lâu ở cục cảnh sát, cảnh sát trưởng mới vào ghi biên bản cho tôi, thái độ anh ta bây giờ khá hơn trước rất nhiều, tôi đoán chắc anh ta đã nắm được thêm các thông tin liên quan đến tôi. Mấy năm nay, tôi có mối quan hệ khá mật thiết với phía cảnh sát.
Quá trình lập biên bản đã tiến hành được hai tiếng đồng hồ. Cảnh sát trưởng hỏi han rất kĩ, khi nghe đến phần đứa trẻ giấy, anh ta rất ngạc nhiên. Lúc nghe tôi kể mình đã tận dụng anh chàng bám đuôi thế nào để tìm ra chỗ nghỉ trọ của Hoàng Chức, cảnh sát trưởng liền dừng bút, ngẩng đầu nhìn tôi một cái, chắc hẳn cảm thấy nếu nghĩ được cách này thì tôi cũng chẳng phải là tay vừa.
“Sao anh biết cô ấy đến tìm mình vì chuyện mất tích của con gái?”
“Tôi đoán vậy, bởi giữa tôi và cô ấy không còn bất kì quan hệ nào khác”.
“Trong thư viết cho anh, cô ấy nói là rất quan tâm, theo dõi những tin bài anh viết, anh thử nhớ lại những tin bài mình viết gần đây xem, liệu có bài nào khiến cô ấy đến tìm anh không?”
Điều này thì tôi chưa nghĩ đến, sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu, tôi cười khổ rồi lắc đầu, đáp: “Tôi không biết, tôi chẳng thể nào đoán ra logic của cô ấy, cô ấy đâu phải người bình thường”.
“Cô ấy có kẻ thù nào không?” - Cảnh sát trưởng hỏi.
“Tôi không rõ, người ở thôn cô ấy chắc là biết!” - Đến đây, tôi nghĩ ra một điều, chần chừ nói: “Thực ra… theo như tôi biết, mối quan hệ giữa Hoàng Chức và mọi người trong thôn không được tốt cho lắm”.
Mắt cảnh sát trưởng chợt sáng lên, anh ta vội vàng hỏi tôi lý do, tôi kể lại một lượt chuyện người dân thôn Đại Đường coi Hoàng Chức là kẻ “xúi quẩy”. Cảnh sát trưởng ngẫm nghĩ một lát, rồi lắc lắc đầu.
“Chắc chưa đến mức đó!” - Anh ta nói: “Được rồi, cảm ơn anh đã hợp tác, mọi chuyện đến đây là xong, trong trường hợp còn vấn đề cần làm sáng tỏ thì tôi sẽ gọi điện cho anh”.
“Ồ, tôi có thể hỏi một câu không, hiện ta đã có manh mối gì chưa?”
Cảnh sát trưởng do dự một thoáng, rồi cũng cho tôi biết một vài thông tin: “Hoàng Chức qua đời vào khoảng sáng sớm hôm nay, đây là một vụ mưu sát, tuy nhiên hung thủ không phải là kẻ chuyên nghiệp, hắn để lại rất nhiều dấu vết. Tôi cho rằng chúng tôi sẽ tóm được hắn. Song động cơ gây án thì vẫn chưa rõ, ban đầu tôi muốn đợi xem liệu có thể tìm được gợi ý gì từ chỗ anh không, nhưng…” - Anh ta nhún vai rồi im lặng.
Ra khỏi cục cảnh sát, tôi bật điện thoại di động lên, gọi cho Hà Tịch, tôi đoán cô ấy vẫn chưa về.
“Anh đang đứng ngoài cổng cục cảnh sát, em có thể xuống đây đi ăn tối với anh không?” - Tôi hỏi.
“Không được đâu, em đang bận lắm!” - Câu trả lời khe khẽ của cô ấy vọng ra qua điện thoại.
“Giọng em sao nghe yếu thế?”
“Đã nói rồi, em bận lắm, đang phải kẹp điện thoại vào giữa vai và cổ để nghe đây này.” - Hà Tịch đáp.
“Em đang thực hiện công việc giám định pháp y đấy à?” - Tôi nhớ ra lý do vì sao cô ấy không rảnh tay.
“Đang làm được một nửa, không có việc gì thì em ngắt máy đây”.
“Gượm đã, là cái xác anh phát hiện à?”
“Hỏi thừa quá đấy!”
“Em xét nghiệm nhóm máu cô ấy chưa?” - Tôi không nghe thấy chút phấn khích nào từ giọng điệu cô ấy, đáng nhẽ phải ngược lại mới đúng chứ.
“Đã thực hiện các xét nghiệm cơ bản, nhóm máu O, rồi sao?”
“Anh biết nhóm máu của cô ấy, em xét nghiệm cẩn thận lại xem, nói cho em biết, cô ấy thuộc nhóm máu Sejmbey đấy!”
“Cái gì?” - Giọng nói vọng lại bất ngờ tăng âm.
“Nhóm máu Sejmbey, anh từng có lần phỏng vấn cô ấy, anh biết”.
“Ồ, em yêu anh, Na Đa!” - Hà Tịch thốt ra câu nói tôi đã mong đợi bao ngày, song những tiếng tút tút báo mất liên lạc cũng vang lên ngay sau đó, cô ấy đã cúp máy.
Tôi ngớ người ra một lúc, rồi mới gọi lại.
“Anh còn việc gì nữa?” - Giọng cô ấy bất chợt trở nên khó chịu hơn nhiều so với lúc vừa nãy, đúng là kì lạ, đây là kiểu yêu của cô ấy đối với tôi sao?
“Còn nhớ chuyện đứa trẻ giấy anh kể không, cô ấy chính là sản phụ đó”.
“Há ha!” - Hà Tịch kêu lên. Tôi đoán cô ấy nhất định sẽ phấn khích đến đỏ bừng mặt, một bác sĩ khùng.
“Thật tuyệt, thật tuyệt!” - Một tràng xuýt xoa cảm thán vọng lại từ máy bên kia, dù chẳng rõ là dành cho ai.
“Em nhớ anh nói gia đình cô ấy không còn ai thân thích nhỉ?” - Hà Tịch bất ngờ hỏi tôi một câu hỏi vô thưởng vô phạt.
“Ừ, em hỏi thế để làm gì? Này, gượm đã!” - Tôi chợt có một linh cảm không lành, “Em không định làm gì với cái xác của cô ấy đấy chứ?”
“Không còn nhân thân thì em muốn làm gì thì làm chứ, thứ của hiếm này giờ có thể giữ lại chỗ em lâu hơn một chút rồi.” - Hà Tịch chẳng hề che giấu ý định của bản thân, “Em là giám định viên pháp y, đây có thể xem như quyền hạn chính đáng của em, yên tâm đi, mổ xẻ thế nào em cũng ghép lại được hết”.
“Trời đất!” - Tôi chỉ có thể than trời, người con gái tôi yêu sao có thể thành ra thế này, tôi đã thực lòng muốn theo đuổi cô ấy ư?
“Đúng rồi, sao lúc trước em nói cái gì mà tự mình báo án chẳng nói lên được gì, làm anh thót cả tim. Lúc đó cảnh sát trưởng gần như đã coi anh là hung thủ rồi!” - Tôi buồn bực hỏi.
“Tự mình báo án thực sự chẳng thể nói lên được điều gì, vụ án bên Hàn Quốc đã có tiến triển mới”.
“Tiến triển mới? Ý em là vị kiến trúc sư người Pháp đã tự mình báo án, ông ta thế nào?”
“Là về cái xác hai đứa trẻ, đã có kết quả xét nghiệm ADN lần cuối. Mới đầu mọi người đều nghĩ đó là hai trẻ sinh đôi, nhìn chúng quả rất giống nhau, vì dù sao cũng đã bị đông lạnh một thời gian dài. Mẫu xét nghiệm ADN lần đầu và mẫu xét nghiệm ADN lần hai không được lấy từ cùng một đứa, thực tế là một trong hai đứa trẻ đó đúng là con của đôi vợ chồng Pháp đã chủ động báo án kia, còn đứa trẻ mang nhóm máu U-Sejmbey thì không phải. Hiện vụ này đã được chuyển cho cảnh sát Pháp thụ lý, Cournot cũng đã bị dẫn giải về Pháp”.
“Hả, nếu ông ta là hung thủ sao còn đi báo án?” - Tôi thắc mắc hỏi.
“Câu này để phía cảnh sát Pháp điều tra tiếp nhé!”
Sau khi kết thúc cuộc nói chuyện qua điện thoại với Hà Tịch, tôi phát hiện thấy trong lúc mình tắt máy Lưu Đường đã gửi rất nhiều tin nhắn cho tôi. Chẳng đọc một tin nào, tôi thẳng tay tắt luôn điện thoại.
Về đến nhà đặt mình xuống giường là tôi đánh thẳng một giấc say. Hôm sau tôi vừa bước chân vào tòa soạn, Lưu Đường đã nhào đến hậm hực hỏi: “Sao ông không nói với tôi ông là người đầu tiên có mặt ở hiện trường?”
“Thì ông có hỏi đâu!”
“Vậy hôm qua ông làm gì mà tắt điện thoại?” - Lưu Đường trừng mắt đến mức con ngươi như thể sắp vọt ra ngoài, đến mức khiến tôi băn khoăn không biết có cần lấy cốc cho hắn hứng không.
“Cảnh sát yêu cầu tôi tắt điện thoại”.
“Tại sao cảnh sát lại yêu cầu ông vậy?”
“Ông đi mà hỏi họ. Có lẽ khi rơi vào tình huống này và được đưa đến cục cảnh sát, ông sẽ biết”.
“Chà chà chà…” - Gã quỷ sứ Lưu Đường chép miệng một hồi, rồi hỏi tiếp, “Hôm qua ông làm bản tường trình đến mấy giờ? 12 giờ tôi gọi lại cho ông trước khi lên trang vẫn thấy ông tắt máy”.
Là vì ông gọi không đúng lúc, không kiên trì gọi lại cho tôi mỗi phút ba lần.
Đương nhiên tôi chẳng thể nào nói vậy, rất biết điều, tôi thu ánh mắt lại: “Quên mở máy”.
Hắn lẩm bẩm một hồi, rặn ra câu: “Đến phục ông” rồi tức tối quay về chỗ.
Dù thế nào thì tin bài lần này chỉ độc quyền có ở mỗi báo tôi, bởi thế Lưu Đường cũng nhận được khoản tiền thưởng kha khá. Hắn định mời tôi đi ăn khao và tiêu sạch chỗ tiền này, nhưng tôi đã từ chối. Tôi cảm thấy không thoải mái khi ăn khao bằng khoản tiền đó.
Hai ngày tiếp sau đó, tôi lấy hết tiền các bản thảo tin bài mình đã viết mấy tháng gần đây được cất trong kho lưu trữ ra nghiên cứu, thử xem có bài nào liên quan đến Hoàng Chức không; rồi lại lấy thư Hoàng Chức viết cho mình (bản gốc đã nộp lại cho cảnh sát, tôi giữ bản copy) ra đọc đi đọc lại, song kết luận vẫn vậy - ngoài việc con gái mất tích nên cô ấy lên Thượng Hải tìm tôi cầu cứu ra thì cô ấy gần như chẳng còn lý do gì để lên đây.
Lẽ nào vụ mưu sát này liên quan đến việc cô ấy đi tìm con gái? Có lẽ nào vì tìm được chút manh mối về sự mất tích của con gái mình mà cô ấy đã đe dọa đến quyền lợi của một vài nhân vật nào đó nên mới bị sát hại?
Tôi chia sẻ suy nghĩ này của mình với cảnh sát trưởng, bởi nếu tôi có thể nghĩ ra được thì ắt anh ta cũng đã lường đến. Với tư cách là bạn của người đã chết, tôi đề nghị anh ta nếu vụ án có tiến triển đột phá gì mới thì hãy cho tôi biết, và anh ta cũng đã đồng ý.
Liền mấy ngày chẳng thấy Hà Tịch hồi âm, gọi vào di động thì cô ấy tắt máy. Chuyện này làm tôi nhớ lại tình cảnh của Lưu Đường lúc gọi điện cho mình. Chắc chắn cô ấy đang say sưa lao đầu vào công việc giải phẫu mổ xẻ của mình.
Tối nay bộ phận của tôi sẽ có buổi tập trung đánh chén, chủ nhiệm bộ phận Tông Nhi bảo sắc mặt tôi mấy hôm nay không được tốt lắm, có vẻ như hơi mệt mỏi.
“Dạo này chẳng thấy cậu săn được tít bài gì đặc biệt nhỉ; chàng trai trẻ, hãy nhớ sức khỏe là tiền vốn của ta đấy nhé!” - Khi người đàn ông đứng tuổi này nói, lũ tiểu yêu vây xung quanh đều ồ lên cười, ngay chủ nhiệm Tông Nhi cũng toét miệng cười.
Tôi đau khổ cười, uống cạn chỗ bia trong cốc.
Tửu lượng của tôi vốn rất kém, nên lúc về đến nhà tôi vẫn mơ mơ màng màng, mệt mỏi tựa như có một ngọn núi bất chợt ụp xuống người mình vậy. Tắm rửa qua loa xong tôi lên giường nằm, song hóa ra chất cồn chẳng khiến tôi dễ ngủ hơn chút nào. Hoàn cảnh cái chết của Hoàng Chức, cùng hình ảnh đứa trẻ giấy đang đung đưa trên tay vị bác sĩ, thay nhau hiện lên trước mắt, khiến toàn thân tôi đổ đầy mồ hôi, cảm giác dinh dính rất khó chịu. Dù vậy nhưng tôi cũng chẳng còn hơi sức đâu để bò dậy tắm rửa thêm lần nữa.
Những hình ảnh hỗn loạn trong đầu cứ biến chuyển, rồi tôi lại nhớ đến Chu Tiêm Tiêm còn đang bị mất tích. Con bé đứng ở một góc khuất ánh nắng, chẳng nói chẳng rằng, chằm chằm nhìn tôi đầy lạnh lùng.
Tôi bất ngờ choàng tỉnh.
Là tiếng điện thoại di động đánh thức tôi. Trong phòng tối đen, tôi mở to mắt, chẳng rõ giờ đang là mấy giờ.
Chiếc điện thoại di động lì lợm kêu lên một hồi, tạm dừng một lát, rồi đến lượt điện thoại để bàn trong phòng tôi vang lên.
Mắt tôi đã dần thích nghi với bóng tối. Tôi ngoảnh đầu nhìn đồng hồ báo thức, mới gần ba giờ sáng.
Ai có thể gọi mình vào giờ này nhỉ?
Tôi quệt mồ hôi lạnh vã ra trên trán, đưa tay lần mò mặt tủ bàn đặt đầu giường tìm ống nghe, rồi nhấc máy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 8: Người phụ nữ mang thai giấu mặt

Cúp điện thoại, tôi thẫn thờ ngồi yên lặng trong bóng đêm một lúc, rồi mò xuống giường.
Cơn buồn ngủ đã hoàn toàn tan biến, tôi bật đèn, vào nhà tắm, vặn vòi nước lạnh làm ướt người từ đầu đến chân.
Cuộc điện thoại vừa rồi đến từ Hà Tịch.
Mấy hôm nay cô ấy miệt mài làm đủ kiểu xét nghiệm chẳng quản ngày đêm; mãi đến sáng sớm hôm nay, chà, tính theo thời gian hiện giờ thì đã là sáng ngày hôm qua, cô ấy mới nhớ ra là đã nhận lời giúp tôi một việc vào mười phút trước xét nghiệm, và lời tôi yêu cầu đã có kết quả. Quá sững sờ và kinh ngạc, cô ấy liền gọi điện ngay cho tôi, dù giờ đang là lúc nửa đêm.
Khi điện thoại được kết nối, câu đầu tiên cô ấy thốt ra thậm chí hơi có phần lộn xộn.
“Quả đúng là vậy, anh có thể tin được không chứ, quả đúng là vậy!” - Chưa từng nghe thấy cô ấy nói chuyện với tốc độ như tên bắn thế này bao giờ, sự phấn khích, sửng sốt khiến cô ấy trở nên hơi lắp bắp.
“Cái gì đúng là vậy?” - Kẻ bị đánh thức là tôi đương nhiên chẳng thể phản ứng kịp.
“Kết quả xét nghiệm ADN của Hoàng Chức giống hệt kết quả của đứa bé được tìm thấy bên Hàn Quốc”.
Tôi bất ngờ như bị đóng băng ngay tại chỗ.
“Trong xác hai đứa trẻ sơ sinh Cournot lấy từ tủ lạnh ở nhà ông ta ra, có một đứa là con Hoàng Chức, đó chính là đứa trẻ mang nhóm máu U-Sejmbey”.
Khi đề nghị Hà Tịch xét nghiệm ADN của Hoàng Chức, rồi đem so với ADN của đứa trẻ được tìm thấy xác bên Hàn Quốc, tôi đã thầm cười giễu linh cảm nhạy bén quá đà của mình. Bởi dù cách nào thì tôi cũng chẳng thể ngờ được rằng đứa trẻ đó lại chính là con của Hoàng Chức.
“Sao anh đoán được? Sao anh có thể đoán ra là đứa trẻ kia có mối quan hệ với Hoàng Chức?” - Hà Tịch lớn tiếng chất vấn tôi trong điện thoại.
“Anh cũng chẳng biết, em đừng hỏi, giờ đầu óc anh còn bấn loạn hơn em nhiều!” - Tôi trả lời Hà Tịch.
Sau khi tắm bằng nước lạnh, mớ suy nghĩ lộn xộn trong đầu tôi đã dần lắng xuống. Cho dù kết quả này có bất ngờ thế nào, thì sự thật vẫn mãi là sự thật.
Trước đó tôi từng tưởng tượng, nếu Hoàng Chức có quan hệ huyết thống với đứa trẻ được tìm thấy xác bên Hàn Quốc, ta cần móc nối họ lại với nhau, và sợi dây liên kết giữa hai người đó hẳn sẽ vừa ly kỳ vừa rắc rối. Còn giờ thì dù ẩn tình bên trong lớn cỡ nào, tôi cũng quyết tâm làm sáng tỏ dần.
Hiện giờ cần phải làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản nhất. Việc này thì không khó lắm.
Chẳng thể nào ngủ tiếp, tôi đã ghi lại những suy nghĩ của mình ra kín mấy trang sổ tay. Cuối cùng cũng đến 5 giờ, trời mới bắt đầu hửng, tôi đã gọi vào máy di động cho Hà Tịch. Cô ấy có thể gọi điện cho tôi vào lúc nửa đêm gần sáng, thì giờ tôi cũng có thể gọi lại mà chẳng phải áy náy gì. Với kiểu phụ nữ như cô ấy thì sự bao bọc chăm sóc đến tận chân tơ kẽ tóc, tuyệt đối chẳng thể làm đối phương cảm động.
“Anh nghĩ ra cái gì à?” - Cô hỏi phủ đầu, chừng như không phải là đang ngủ.
“Em có quần áo cảnh phục không?” - Tôi hỏi, bởi chưa thấy cô ấy mặc chúng bao giờ.
“Có”.
“Thẻ ngành?”
“Có thẻ tạm thời, nhưng đã hết hạn”.
“Thế được rồi. Ngay bây giờ hai ta sẽ vi hành một chuyến về Côn Sơn xem thế nào”.
6 giờ 10 phút sáng, trời mới rạng, tôi hẹn gặp Hà Tịch, người sẽ mặc cảnh phục ở bến xe buýt đường dài, bắt chuyến xe thẳng đến Côn Sơn.
Tinh thần Hà Tịch không được tốt lắm, dù sao cô ấy cũng đã thức trắng không ít đêm. Sắc mặt cô ấy trông rất tiều tụy, cơ thể ẩn sâu sau bộ cảnh phục nom càng gày gò, nhỏ bé hơn. Cô ấy chưa biết vì sao phải về Côn Sơn, lúc gặp nhau tôi chẳng nói gì, còn cô cũng chẳng hỏi.
Lên xe ngồi, tôi dúi cho cô chiếc bánh hành chiên hãy còn nóng hổi, bảo: “Em ăn bánh rồi chợp mắt nghỉ chút đi, đến Côn Sơn ta nói chuyện sau”.
Chuyến xe không kín chỗ, hàng ghế sau chúng tôi chẳng có ai ngồi, nên tôi có thể thoải mái ngả lưng ghế ra sau. Hà Tịch chưa quen, nhất thời không tìm ra chỗ điều chỉnh, tôi vươn tay ra giúp, tư thế khá ngượng nghịu này gần như khiến đùi cô ấy áp sát vào cánh tay tôi. Cảm giác của sự tiếp xúc đó, chà, mềm mại và rất tuyệt.
Hà Tịch không né tránh cũng không nói năng gì, ngả người theo đà ngả của lưng ghế tựa rồi nhắm mắt lại.
Tôi đăm đăm nhìn khuôn mặt cô ấy hồi lâu, rồi cũng nhắm mắt, thầm nghĩ ngợi: mình có nên mạnh dạn chủ động hơn, đẩy nhanh tiến độ hơn không nhỉ…
Vẫn chưa đến giờ cao điểm, chiếc xe khách chạy lên cầu vượt, tăng tốc phóng về phía trước. Cầu vượt nối với đường cao tốc nên chẳng mấy chốc chúng tôi sẽ đến Côn Sơn.
Hà Tịch nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, đầu gục sang bên ngả lên vai tôi. Tôi có thể cảm thấy hơi thở nhẹ phả ra từ mũi cô ấy, đàn ông hình như rất thích cảm giác này.
Vai tôi cũng hơi giơ xương xẩu, liệu nó có làm cô ấy khó chịu không nhỉ? Đang miên man nghĩ vậy, thì kẻ thiếu ngủ là tôi cũng dần chìm vào giấc mộng.
Xe về đến Côn Sơn tôi mới tỉnh, nhận ra đầu mình đang ngả lên vai Hà Tịch. Thường thì khi ngủ tôi không nghiêng đầu về phía đó, nên ngắm chừng trong tiềm thức tôi cũng biết đây chẳng phải là lúc thông thường.
Khi xuống xe, không nhịn được, tôi đã chọc cô ấy một câu: “Sao người em thơm thế, đúng là lạ quá”.
“Lần tới em sẽ tẩm thêm chút mùi tanh của máu cùng mùi hôi thối của xác chết để anh ngửi cho đã ha ha!” - Hà Tịch nguýt tôi một cái, trông cô ấy đẹp đến mức tôi không thể thốt thành lời.
Đích đến cuối cùng tất nhiên là thôn Đại Đường, nên chúng tôi còn phải đổi xe. So với chiếc xe buýt cỡ lớn vừa rồi, chiếc xe lần này kém hơn nhiều, lại chẳng có điều hòa, nên tuy có ghế ngồi nhưng tôi chẳng tài nào chợp mắt tiếp. May nhờ có thời gian chợp mắt vừa xong nên tinh thần cả hai đã khá hơn nhiều.
“Lúc về thôn Đại Đường, ta sẽ phải cậy nhờ vào tấm thẻ ngành của em để hỏi một vấn đề đấy”.
“Hỏi hàng xóm của Hoàng Chức rằng tổng cộng cô ấy đã mang thai mấy lần?”
“Hóa ra em đã đoán được!” - Tôi cười nói.
“Nếu chỉ là mang thai thì người khác chưa chắc đã nhận ra”.
“Hả?” - Tôi cảm thấy câu nói này của Hà Tịch còn có ẩn ý khác bên trong.
“Em đang nói đến vụ án kia cơ, anh có còn hứng thú với tiến triển mới trong vụ án xác hai đứa trẻ sơ sinh bên Hàn Quốc không?”
“Đương nhiên, giờ thế nào rồi?”
“Giờ vụ này đang gần đến giai đoạn kết án rồi. Cảnh sát Pháp sau khi được phía cảnh sát Hàn Quốc bàn giao lại, đã có được bước tiến mang tính đột phá”.
Phải nói vụ án này rất quanh co rắc rối. Quay về Pháp, vợ chồng Cournot đã tổ chức một buổi họp báo. Trong buổi họp báo đó, Cournot tiếp tục phủ nhận rằng: “Vợ tôi không phải là người sinh ra hai đứa trẻ đó”. Véronique còn ra vẻ bội phần oan ức hơn, nhất mực lặp đi lặp lại rằng: “Đây đúng là cơn ác mộng”. Đồng nghiệp của Véronique cũng đứng lên chứng minh: “Tôi làm việc bên cô ấy tám tiếng mỗi ngày ở trường trung học bên Hàn Quốc, lúc hết giờ làm cả hai lại cùng nhau đi tập Yoga. Nếu cô ấy có mang tôi nhất định phải biết chứ”. Và lời Hà Tịch nói là nhằm vào người làm chứng này, bởi tình tiết phát triển sau đó đã khiến tất cả những người từng cam đoan chưa bao giờ thấy bụng Véronique to ra đã vô cùng bất ngờ.
Bước ngoặt quan trọng xuất hiện, khi bằng chứng Véronique không còn khả năng mang thai sau khi cắt bỏ tử cung, đã được làm sáng tỏ.
Qua xét nghiệm, cảnh sát Pháp thực hiện bằng các thiết bị máy móc tiên tiến, mốc thời gian hai đứa trẻ qua đời là hơn ba năm, cũng có nghĩa là vào khoảng năm 2003 hay thậm chí là 2002. Trong khi đó, đến tháng 12 năm 2003 Véronique mới cắt bỏ tử cung. Xét về mặt thời gian, người phụ nữ này hoàn toàn có thể sinh ra hai đứa trẻ kia.
Sau buổi điều tra luân phiên và chiến thuật tấn công tâm lý của cảnh sát, Véronique cuối cùng đã thay đổi lời khai, thừa nhận sau khi bí mật sinh hạ cặp song sinh và bóp chết hai đứa trẻ vào năm 2003, bà ta đã bọc chúng lại rồi đem bỏ vào tủ lạnh. Song song đó, người ta càng sởn gai ốc hơn khi biết rằng, hành động giết con trẻ dã man như thế này của Véronique chẳng phải lần đầu. Vào năm 1999, bà ta từng thiêu chết đứa bé gái do chính mìn sinh ra. Hơn thế bà ta còn nhấn mạnh thêm rằng, tất cả những việc này đều do mình bà ta thực hiện, lặng lẽ sinh con rồi tàn nhẫn hại chết đứa trẻ, còn người chồng hoàn toàn không hay biết gì.
“Không đúng, hai đứa trẻ đó đâu phải là anh em sinh đôi, chỉ có một đứa là con Véronique, còn đứa kia là con Hoàng Chức!” - Vừa nghe dứt lời tôi đã lập tức lên tiếng.
“Đây là tin được phía cảnh sát Pháp công bố công khai, Véronique nhận tội; có thể do công chúng quá quan tâm nên vụ án này nhất định sẽ kết thúc sớm thôi”.
Bị công chúng và dư luận quan tâm chú ý là sức ép lớn, nếu Véronique đã thừa nhận giết con mình, thì hãy cứ thông báo cho công chúng biết trước, rồi từ từ điều tra làm rõ những điểm còn khúc mắc cũng là cách hay. Đương nhiên, ở đây còn một lựa chọn khác nữa là cảnh sát kết thúc luôn ở đây để mau mau đóng hồ sơ lại, tránh xa mớ rắc rối này.
“Thế không đúng, điều kì lạ đâu chỉ mỗi thế này!” - Tôi nhíu mày nói.
“Ừm!” - Hà Tịch kéo cửa sổ xuống, giờ nắng vẫn chưa gắt, làn gió mát ùa vào qua cửa sổ thật sảng khoái, cô đưa tay chải chải lại mái tóc bị gió thổi tung nói: “Vụ án này rất thú vị!”
“Rõ ràng bà ta chỉ sinh một đứa, mà lại nhận mình sinh ra cặp song sinh. Hơn thế, hôm nào tan buổi làm bà ta cũng đi tập Yoga cùng với đồng nghiệp. Anh thử nói xem, không nhẽ người khác chẳng nhận được ra bà ấy đang mang thai à?”
“Tuy Véronique cũng khá cao lớn, nhưng nếu nói đến ngày sắp lâm bồn mà bà ta vẫn có thể đi tập Yoga và không bị ai phát hiện ra thì…” - Nói đến đây Hà Tịch im bặt, thầm tính toán những khả năng có thể xảy ra, rồi lắc đầu bảo: “Đây có lẽ là kì tích”.
Kì tích ư? Kì tích đều thường chứa đựng ẩn tình bên trong.
“Thực ra, trong phần thông tin được phía cảnh sát Pháp công bố còn có nhiều chỗ được giải thích khó hiểu hơn, Véronique nói chồng bà ta không hề hay biết, mọi người rất dễ tin điểm này, bởi dù sao thì Cournot cũng là người chủ động đi báo án. Đương nhiên, để làm được vậy thì Véronique phải có khả năng che giấu việc mình đang mang bầu cực kì hoàn hảo, đến mức ngay người chồng sống cạnh bà ta cũng chẳng phát hiện ra. Nhưng còn có một câu hỏi khác là, Véronique thường sống ở Pháp trong thời gian Cournot đi du lịch nước ngoài, không hề quay lại Seoul, nên càng chẳng thể cho xác hai đứa trẻ vào tủ lạnh nhà mình, đồng thời bà ta cũng thừa nhận sau khi giết hại hai đứa trẻ vào năm 2003, vẫn luôn để xác chúng trong tủ lạnh”.
Tôi rùng mình, tưởng tượng nếu trong chiếc tủ lạnh ở nhà mình cũng có xác hai đứa trẻ, và mọi đồ ăn thức uống hàng ngày đều được đặt chung tủ với chúng…
“Nếu Véronique nói thật, vậy sao đến giờ Cournot mới phát hiện ra trong tủ lạnh nhà mình có thêm một bọc ni lông đựng xác hai đứa trẻ?”
Tôi gật đầu nói: “Không sai, và anh còn nhớ, phản ứng đầu tiên của Cournot khi nhìn thấy bọc ni lông kia, ông ta đã cho rằng người giúp việc Philipin của gia đình gửi đồ nhờ. Điều này cho thấy người giúp việc nhà ông ta, cũng có thể là người mở tủ lạnh, trong thời gian tận ba năm, đúng ra cũng phải phát hiện ra xác hai đứa trẻ từ sớm rồi chứ.”
“Còn một điểm nữa là Véronique nói bà tự tay bóp chết đứa trẻ, nhưng em không phát hiện thấy dấu hiệu chết ngạt nào ở bất kì đứa nào trong hai đứa trẻ đó” - Hà Tịch nói.
“Vậy gần như có thể khẳng định, đây chưa phải là toàn bộ chân tướng sự việc. Với nhiều điểm sơ hở về bằng chứng như thế này mà cảnh sát Pháp vẫn dám kết án à?” - Tôi thắc mắc.
“Vì Véronique đã nhận tội, đã có kẻ cam tâm tình nguyện giơ đầu chịu báng, thừa nhận tất cả việc làm sai trái, thì cảnh sát đương nhiên có thể kết án. Nhưng dù sao cũng vẫn còn một vài người bán tín bán nghi, họ cho rằng Véronique chỉ chịu khuất phục trước áp lực từ phía cảnh sát, rằng bà ta còn chưa khai hết mọi chuyện và có vấn đề về thần kinh”.
“Nếu đúng bà ta giết con mình rồi đem bỏ vào tủ lạnh, thì chắc chắn là vấn đề về mặt thần kinh rồi!” - Tôi nói.
“Này, anh chị gì kia, hai người về Đại Đường à?” - Nhân viên bán vé lớn tiếng nhắc nhở.
Tôi định thần lại, hóa ra đã đến nơi rồi. Tôi vội vàng ôm theo mối hoài nghi về vụ án liên quan đến xác của hai đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc xuống xe với Hà Tịch.
Bên ngoài trời lất phất mưa. Mưa rất nhẹ hạt, được những làn gió thổi đi muôn nơi, lọt cả vào trong cổ áo.
Đúng thật là có sương mù, cả vào mùa này trong năm thì quả là vô cùng hi hữu.
Làn sương lãng đãng, kết thành từng đám, nơi mỏng đến mức gần như chẳng thể nhận biết, chỗ dày đến mức như ta đang bị bịt mắt. Mới chỉ hơn bảy giờ sáng, chốc nữa khi mưa tạnh, mặt trời lên, sương mù cũng sẽ tan đi; còn bây giờ, thôn làng tựa như một thị trấn chìm trong sương mù đang cất giữ trong mình một bí mật khó nói ra thành lời.
Tôi tự cười giễu bản thân, những điều được nghe, được thấy trong mấy ngày gần đây, cũng khiến tôi có phần nơm nớp lo sợ, chẳng phải đây chỉ là một thôn làng bình thường thôi sao?
Đi men theo con đường bữa trước, chỉ cần nhìn qua tôi đã tìm ra đường dẫn đến thôn 2.
Sau khi đi qua nhiều ngôi nhà nhỏ, ngôi nhà của Hoàng Chức đã thấp thoáng hiện lên xa xa phía trước. Vậy nhưng khi càng tiến gần về phía ấy, sương mù cũng càng lúc càng dày đặc hơn.
Gió phả từng đám sương mù lên mặt tôi. Hít vào một hơi sâu, tôi ngửi thấy mùi nước sông thoang thoảng. Lúc đó tôi mới chợt bừng tỉnh, nhìn thẳng về phía trước không xa là một con sông, ở hai bên bờ sông đương nhiên sương mù sẽ dày hơn.
Ngôi nhà nhỏ xập xệ của Hoàng Chức đây rồi. Tôi đột nhiên nhớ lại chuyến viếng thăm lần trước, cùng lời bà cụ nói với mình.
Bà nói chỗ này rất nhiều ám khí, nhiều đến nỗi bà chẳng dám bước chân qua cửa.
Nghĩ ngợi một lúc thì thấy trong vòng mấy năm gần đây, những người sống trong ngôi nhà này đã lần lượt ra đi từng người một, chẳng phải vì mất tích thì cũng vì đã qua đời. Cho đến giờ, thì nó đã hoàn toàn trống vắng, không một bóng người.
Tôi bất giác rùng mình.
Tôi vòng ra lối cửa sau, cánh cửa hỏng khóa vẫn được dựng lại một cách tạm bợ, để lại một khe hở hẹp, qua đó có thể nhìn vào một góc tường của nhà kho trống huếch trống hoác bên trong. Mấy ngày hôm nay, sau khi Hoàng Chức chết, hẳn đã có không ít người về đây. Tôi đoán chủ yếu là cảnh sát, chứ người trong thôn chắc chẳng dám mò đến.
Tôi không định vào trong nhà, vì đây chẳng phải là mục đích chuyến đi ngày hôm nay của chúng tôi, mà chỉ là do xúi giục của một cảm xúc nào đó, tôi đã bước vào trong nhìn ngó. Ban đầu Hà Tịch không nói gì, khi thấy tôi đi quanh nhà một lượt, cô mới hỏi: “Là nhà Hoàng Chức à?”
Tôi gật đầu: “Ta đi chỗ khác tìm người hỏi thăm đi. Ồ, anh đã có ứng cử viên đây rồi!”
Từ nhà Hoàng Chức đi ra, rẽ ở khúc quanh, xa xa phía trước tôi đã thấy một bóng người ẩn hiện.
Đến thật gần, bóng dáng còng còng ấy dần hiện ra rõ hơn sau làn sương mù dày đặc.
Không sai, tôi lại gặp bà cụ đó. Hệt như lần trước, bà đang ngồi trước cửa nhà mình nhặt rau.
Tôi bước đến trước mặt bà cụ, lên tiếng chào hỏi.
Bà tạm ngừng việc đang làm, ngẩng đầu lên nhìn tôi một cái. Động tác đó, ánh mắt đó vẫn hệt như lần trước, chẳng khác gì.
“Gì, anh hỏi gì?” - Bà cụ chậm rãi hỏi.
Thật đúng là, tôi quên bà không hiểu tiếng phổ thông, giống như lần trước, bà phải hỏi lại tôi.
Trong chớp mắt, tôi có cảm giác như dòng thời gian đang quay ngược trở lại. Trong bầu không gian kì lạ tại thời khắc này ở cái xóm nhỏ này, ngay đến thời gian cũng trở nên bất định.
Ảo giác lạ này khiến tôi nhất thời chẳng kịp định thần, quên cả việc trả lời bà cụ.
Bà cụ hơi nheo mắt, vết chân chim nơi đuôi mắt tỏa ra thành những nếp nhăn hằn sâu.
“Chà, hóa ra là cậu, anh chàng phóng viên đó!” - Bà đã nhận ra tôi.
Rồi bà hướng ánh mắt sang phía Hà Tịch, người đang đứng cạnh ở phía sau tôi. Bộ cảnh phục khiến nếp nhăn nơi đuôi mắt trên mặt bà sâu thêm mấy phần.
“Cảnh sát.” - Bà lẩm bẩm câu gì đó, rồi đặt rổ rau sang bên, đứng dậy.
“Có chuyện gì?” Bà nhìn tôi, rồi lại lia mắt nhìn sang Hà Tịch.
“Là chuyện về Hoàng Chức ạ, lần trước bà nói mình là người biết cô ấy từ hồi còn nhỏ, cháu có vài thắc mắc muốn được hỏi bà.” - Tôi nói.
“Được, được, ồ, mời anh chị vào trong ngồi, vào trong đi!” - Vừa nói bà vừa mời chúng tôi vào trong, còn chuyện chúng tôi có mang thẻ ngành hay không, bà hoàn toàn chẳng nghĩ đến việc yêu cầu được xem, với những người dân bình thường, “lớp vỏ” ngụy trang này đủ để nói lên tất cả.
Kết cấu nhà cửa ở nông thôn đa phần đều giống nhau, so với nhà Hoàng Chức, đồ đạc được bài trí trong phòng khách lớn ở đây cũng chẳng hào nhoáng gì, song chí ít còn tốt hơn nhà cô ấy nhiều.
Bàn bát tiên, ghế làm từ gỗ đào, sa lông, ấm trà, ti vi màn hình lớn, nói chung là mọi đồ dùng thiết yếu đều đủ cả, trên tường còn treo bức tranh trang trí cỡ lớn. trang trí cỡ lớn.
“Để tôi đi rót trà cho anh chị”.
“Bà ơi, chúng con không cần đâu ạ”.
“Cần chứ, cần chứ!”
Bà cụ quay người đi xuống bếp, song lại mang hai lon Coca cola lên bảo: “Trời nóng quá, uống cái này đỡ hơn”.
“Bà ơi, chuyện là vậy, cô ấy là người thuộc Sở cảnh sát thành phố, về điều tra vụ án liên quan đến Hoàng Chức!” - Tôi giới thiệu qua Hà Tịch với bà. Về cơ bản câu nói này của tôi cũng chẳng phải là câu nói dối.
“Mấy bữa trước có vài anh cảnh sát đến đây, cũng có một số người từ Thượng Hải về, nhưng cô thì đây là lần đầu phải không nhỉ?” - Bà cụ hỏi Hà Tịch.
Hà Tịch gật đầu.
“Cô ấy muốn hỏi bà mấy câu về chuyện liên quan đến Hoàng Chức lúc còn sống trước kia”.
“Cô cứ hỏi, cứ hỏi đi!” - Bà cụ liên tục gật gù, thái độ vô cùng hợp tác.
“Em hỏi đi, đã biết mình muốn hỏi gì không?” - Tôi bảo Hà Tịch.
Hà Tịch gật đầu. Vừa lên tiếng cô ấy đã làm tôi giật bắn mình.
“Về xác chết đó, điều cháu muốn biết là…” - Hà Tịch chưa nói hết câu đã bị tôi đánh tiếng ho cắt ngang. Cũng may, Hà Tịch chỉ nói được tiếng phổ thông, tiếng Thượng Hải bản địa thì cô ấy chỉ có thể nghe hiểu mà không biết nói.
“Là vậy ạ, vì cô ấy chỉ nói được tiếng phổ thông nên cháu sẽ đứng ra hỏi thay, cháu đi cùng cô ấy về đây phỏng vấn, cô ấy định hỏi gì cháu đều biết cả. Cô ấy muốn biết thêm một số chuyện về người đã qua đời, tức Hoàng Chức ấy ạ, phía cảnh sát nghi ngờ cái chết của cô ấy có liên quan đến đứa con đã mất tích”.
“Là con bé Chu Tiêm Tiêm hả?”
Tôi gật đầu.
“Con bé đó đến một tiếng cũng chẳng nói, thích nhất là được lủi vào góc tối, đi lại không phát ra tiếng động nào, hệt như người chết vậy. Tôi thấy có khi nó còn tà ác hơn mẹ nó nữa!” - Bà cụ thốt lên những điều hoàn toàn chẳng có chút căn cứ gì với vẻ mặt căm ghét, dù việc Chu Tiêm Tiêm đã mất tích cả mấy tháng cũng chẳng thể làm dấy lên chút lòng cảm thông, trắc ẩn nào từ phía bà cụ. Lần trước đến đây tôi đã cảm thấy bà chẳng yêu mến gì Chu Tiêm Tiêm, không ngờ bà lại có thành kiến sâu sắc vậy.
“Hoàng Chức còn sinh đứa con nào khác không bà?” - Hà Tịch hỏi.
Tôi vừa dịch lại câu hỏi của Hà Tịch sang tiếng Thượng Hải cho bà cụ, vừa thầm tự lắc đầu. Hà Tịch quả có phần thẳng đuột ruột ngựa, ban đầu tôi định hỏi về Chu Tiêm Tiêm trước rồi mới lái dần sang vấn đề này.
“Không, ba năm trước cô ta có mang thai một lần nhưng bị sinh non”.
Lần sinh non này hẳn là chỉ lần sinh ra đứa trẻ giấy đó.
“Ngoài lần đó ra, cô ấy còn mang thai thêm lần nào khác nữa không, bà cố nhớ hộ cháu xem, thông tin này rất quan trọng với việc phá án”.
Chẳng cần nghĩ ngợi gì, bà cụ đã lắc đầu: “Chắc chắn là không, đều là người cùng một thôn, lại ở gần nhau thế, nhất định không thể nào sai được. Kết hôn được ba năm, cô ta sinh con bé Chu Tiêm Tiêm, sau được tổ chức sinh đẻ kế hoạch hóa của thôn đến vận động, nên cô ta đã đi đặt vòng tránh thai. Ba năm sau, do có vấn đề nên mới đi bệnh viện tháo vòng ra. Rồi vừa tháo vòng thì cô ta có thai, chính là lần sinh non đó đấy, rồi sau đó cô ta mắc bệnh tâm thần. Với cái số đen đủi, xúi quẩy thế thì người đàn ông nào còn dám gần gũi cô ta chứ”.
Tôi nhìn Hà Tịch, Hà Tịch gật gật đầu, nói: “Vậy đúng rồi, cô ấy từng đặt vòng tránh thai, thời gian tháo vòng xem ra cũng trùng khớp. Ở đa phần phụ nữ, cổ tử cung của họ đều bị viêm nhiễm, lại thêm vòng tránh thai, nên để càng lâu càng viêm tấy, cô ấy nói không ổn là vì vậy”.
“Có thể khẳng định cô ta đã mang thai hai lần. Với cái vóc người gầy nhẳng đó thì cô ta có bầu mọi người sẽ nhận ra ngay, muốn giấu cũng chẳng giấu được, không thể trật đi đâu!” - Bà cụ lại nói.
Vóc người Hoàng Chức rất gầy nhỏ, nói Véronique sở hữu vóc người to cao nên có thể che giấu việc mình mang bầu phần nào còn tin được, chứ Hoàng Chức thì chẳng thể nào.
Theo kết quả xét nghiệm của cảnh sát Pháp, hai đứa trẻ kia qua đời cách đây tầm ba năm, nên dù nhầm lẫn thế nào, cái xác đã đông cứng của đứa trẻ là con Hoàng Chức, được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc, cũng không thể ra đời trước Chu Tiêm Tiêm. Và sau khi Chu Tiêm Tiêm ra đời, Hoàng Chức đã đặt vòng tránh thai, khoảng ba năm sau mới bỏ vòng ra thì liền mang thai đứa trẻ giấy, rồi tiếp đó là phát bệnh tâm thần, nên chẳng người đàn ông nào còn dám lại gần cô ấy nữa.
Như vậy chỉ còn lại một khả năng: Một trong hai đứa trẻ Cournot phát hiện thấy trong tủ lạnh nhà mình chính là anh em sinh đôi với đứa trẻ giấy, kẻ đã hút cạn người anh em song sinh với mình, và biến đứa kia thành một tờ giấy!
Những điều Hoàng Chức nói trong bệnh viện ba năm về trước hóa ra là thật. Trong bụng cô ấy còn một đứa trẻ khác!
Nó nói lên điều gì?
Tôi thực sự chẳng thể tin vào cách suy luận theo logic này: Lẽ nào một bệnh viện lớn cao cấp như vậy, lại rắp tâm đánh cắp con của sản phụ.
Dù là để lừa bán hay lý do nào khác, thì đây cũng là một vụ scandal động trời!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 9: Cái bụng nhỏ lại

Tôi châm một điếu thuốc, tựa người lên hàng lan can bảo vệ trên hè phố.
Thuốc lá được mua từ cửa hàng tiện lợi ( một dạng siêu thị mini. ) gần đây, bật lửa cũng vậy. Tôi rất ít khi hút thuốc, thỉnh thoảng mới làm vài điếu trong trường hợp nhất định nào đó, như khi đang thấy bế tắc, khó khăn.

Lúc này, ngay sau lưng tôi, cách con đường cái không rộng lắm, là cánh cổng chính của bệnh viện bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em số 1 Thượng Hải. Rất nhiều người đang ra ra vào vào, phần đông trong số ấy là những phụ nữ mang thai với cái bụng lặc lè.
Tôi đứng ở đây đã lâu, quan sát mấy người bán hàng rong với đủ kiểu ăn mặc, đang ngồi bệt dưới đất cùng mấy món đồ trang trí. Không rõ có thứ ám hiệu gì mà vừa mới cách đây một giây, họ còn đang nháo nhào giải tán trước khi ban quản lý trật tự thành phố đến, thì ngay sau đó lại lũ lượt quay về chỗ của mình.
Xác đứa trẻ do Hoàng Chức sinh ra ở bệnh viện bà mẹ trẻ em Thượng Hải, lại được tìm thấy trong ngăn đá tủ lạnh bên thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Kẻ đã nhận tội, Véronique, đang che giấu điều gì? Hay do không đương đầu nổi với áp lực mà bà ta hoảng loạn và ăn nói lung tung? Song dù coi tâm thần bà ta không bất thường đi nữa, ta cũng chẳng thể nào lý giải vì sao đứa con của Hoàng Chức lại bay sang tận bên đó.
Lẽ nào giết con mình thôi chưa đủ, bà ta đã thông qua tổ chức mua bán trẻ em để mua trẻ về giết hại, nhằm thỏa mãn tâm lý biến thái của bản thân? Nếu là vậy, sao đã nhận tội, bà ta lại không nhận đến cùng?
Thêm nữa, vết tích khác thường chỉ có ở đứa trẻ đang trong thời gian tập bò trên người đứa trẻ kia từ đâu mà ra? Vết tích này liên quan gì đến hành vi hấp thu người anh em song sinh cùng trong bụng mẹ của nó? Hay còn do nguyên nhân thần bí nào khác?
Tôi tin, chìa khóa của vụ án nằm ngay trong bệnh viện trước mắt mình. Chỉ cần tìm được “đầu mối” trong bệnh viện bà mẹ trẻ em, rồi từ từ lần theo là có thể làm sáng tỏ mọi chuyện.
Vẫn là chiêu bài như trước đây, tận dụng chức danh phóng viên để tiến hành điều tra ư? Nhưng với bệnh viện bà mẹ trẻ em, thì cách này xem ra có phần không ổn. Liệu tôi có tìm được một lý do hợp lý để yêu cầu bệnh viện điều tra xem xét lại trường hợp của một bệnh nhân ba năm trước, cùng những thông tin liên quan đến người này không? Liệu có thể moi được điều gì mới bằng cách dò hỏi những nhân viên y tế có liên quan về chuyện xảy ra ba năm về trước chăng?
Thêm vào đó, đây chẳng phải là trách nhiệm của riêng người nào cả. Nếu đi sâu hơn, thì để thực hiện kế hoạch này một cách kín kẽ như vậy, cần có sự liên kết và bắt tay hợp tác của một nhóm người có vai vế và tầm ảnh hưởng trong bệnh viện. Liệu những kẻ đó có để một tên phóng viên như tôi được chạm vào bất kì thứ tài liệu nào có khả năng lột trần chân tướng sự thật không?
Nếu có thể đưa ra câu trả lời hoàn hảo thì tôi đã chẳng phải quanh quẩn ở đây lâu vậy. Đến bây giờ mà vẫn chưa nghĩ ra phương án hoàn hảo thì thôi, đừng nghĩ nữa.
Tôi dụi điếu thuốc, đi về phía bệnh viện. Với nơi không biết nên bắt đầu từ đâu như nơi này, thì hãy cứ để tôi lấy trứng chọi đá thử một lần xem chuyện gì có thể xảy ra. Ít nhất khi đó tôi cũng biết kẻ nào là đáng nghi.
Chuông điện thoại di động đột nhiên vang lên.
“Anh đang ở đâu?” - Giọng điệu dứt khoát này chỉ có thể đến từ Hà Tịch.
“Anh đang… ở đường Thường Lạc”.
“Thường Lạc? Anh đang ở bệnh viện à?”.
“À ừ”.
“Đợi nhé, em đến ngay đây!” - Dứt lời Hà Tịch liền cúp máy.
Tôi ngẩn ra một lúc, tựa vào hàng lan can bảo vệ, rút thuốc lá ra châm.
Mười lăm phút sau, tôi nhận được cuộc gọi tiếp theo của Hà Tịch.
“Anh đang ở đâu thế?” - Khi Hà Tịch thốt ra mấy từ này, thì một chiếc xe cảnh sát chạy qua trước mặt tôi rồi ngoặt vào cổng chính của bệnh viện.
Tôi vội vàng rảo bước vào trong đó, Hà Tịch trong bộ đồng phục cảnh sát, đã đứng trước cửa chính của khoa khám bệnh.
“Em vào bằng cách nào, đây chẳng phải như thôn Đại Đường, chỉ cần tấm thẻ ngành đã quá hạn là qua cửa được!” - Tôi nói.
“Anh đến điều tra về đứa trẻ giấy à?” - Hà Tịch không trả lời mà vặn lại tôi.
“Đúng thế!”.
“Vậy thì vào thôi”.
Dứt lời Hà Tịch liền bước đi trước, ném lại cho tôi một cái bóng ở sau, khiến tôi tức tối. Giải thích rõ ràng hơn một chút đã chết ai, cái phong cách này thật là… hợp khẩu vị của tôi mà.
“Còn ngẩn ra đấy làm gì?” - Hà Tịch đi đằng trước ngoảnh đầu lại hỏi.
“À… à…” - Tôi vội rảo bước theo.
Chúng tôi tìm gặp trực tiếp giám đốc bệnh viện bảo vệ bà mẹ và trẻ em số 1, đó là một người đàn ông bị hói tóc nơi đỉnh đầu, trông chừng chỉ vài năm nữa là sẽ nghỉ hưu.
Vừa gặp, Hà Tịch đã rút tấm thẻ ngành của mình ra, tôi đứng bên vội đưa mắt liếc nhìn một cái, hình như không phải là tấm thẻ ngành quá hạn bữa trước.
Giám đốc xem xét tấm thẻ ngành một cách kĩ càng, rồi đưa lại cho Hà Tịch.
“Xin hỏi chị có việc gì, giám định viên pháp y Hà?”.
Hóa ra đó là giấy chứng nhận giám định viên pháp y.
“Hiện có vụ mưu sát, cần được bên quý bệnh viện giúp đỡ. Ba năm về trước, người qua đời này từng nhập viện ta một thời gian. Tôi cần biết mọi thông tin, tư liệu về một bệnh nhân tên Hoàng Chức mà bệnh viện đã tiến hành tiếp nhận khi đó, để đối chiếu so sánh với kết quả giám định pháp y hiện giờ. Chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tìm hiểu vụ án”.
“Ồ, được thôi, phía chúng tôi nhất định sẽ hỗ trợ!” - Vị giám đốc gần như chẳng có chút đề phòng nào, lập tức nhận lời ngay.
“Em ăn nói đâu ra đấy phết nhỉ!” - Tôi khẽ bảo Hà Tịch.
“Vốn vậy rồi mà!” - Hà Tịch đáp.
Giám đốc bệnh viện đề nghị Hà Tịch ngồi đợi ở phòng làm việc, rồi bảo người đi tìm kiếm mọi thông tin tài liệu liên quan đến Hoàng Chức để mang tới. Lúc gọi điện thoại nhờ người khác làm việc này, giọng điệu và ngôn từ của ông ta đều rất bình thường, không thấy có điểm khác biệt gì đáng nghi.
“Vậy, anh cũng đến phỏng vấn về vụ mưu sát này?” - Tôi đã đưa danh thiếp của mình cho giám đốc, song ông ấy vẫn chưa thật rõ ý định của tôi.
“Ồ, không, tôi và giám định viên pháp y Hà là chỗ bạn bè, ban nãy gặp nhau ngoài cổng bệnh viện. Tuy vậy, quả thực là tôi muốn viết một bài chuyên đề về mức độ hài lòng của các bệnh nhân điều trị ở những bệnh viện lớn tại Thượng Hải. Đã nghe nói về phương diện điều trị của bệnh viện Bà mẹ trẻ em số 1 ta đây đã làm được không ít điều, nên tôi muốn đến tận nơi xem xét. Lý tưởng nhất, anh có thể cử một người đi cùng và giới thiệu cho tôi biết mọi khâu của các anh”.
Giờ ngồi đợi ở đây chẳng để làm gì, nên tôi cứ bịa ra một lý do, thăm dò theo kênh khác xem có thể tìm ra được gì không.
Khuôn mặt vị giám đốc hiện thêm nét cười, kiểu tuyên truyền quảng cáo không dưng mà có cho bệnh viện thế này sao bỏ qua được chứ, đã lập tức điều một nữ nhân viên văn phòng dẫn tôi đi quanh quanh xem. Xét về tuổi tác, nữ nhân viên này không còn trẻ, chỉ là trẻ hơn so với vị giám đốc kia thôi. Tôi đoán chắc cô ta đã làm y tá nhiều năm, sau được điều về làm ở bộ phận hành chính của bệnh viện. Nói thực, đây là con đường thăng tiến tốt nhất dành cho các y tá, tốt hơn nhiều vị trí y tá trưởng.
Cô ta nhiệt tình giới thiệu với tôi điều này điều kia, khiến tôi thấy hơi ngại. Bởi bài viết này là do tôi tưởng tượng ra. Cô ấy có giới thiệu nhiều hơn nữa thì tôi cũng chẳng thể viết bài được.
Tất nhiên, nơi tôi quan tâm nhất là khoa phụ sản. Một người đàn ông mà lại hứng thú với khoa này, thì quả là... nhưng dưới danh nghĩa là phóng viên đi viết bài thì cũng mặt dày mà lao theo. Sau khi một loạt câu hỏi được đưa ra, có thể xem tôi đã thông hiểu mọi khâu mà mỗi một sản phụ sẽ phải trải qua như: kiểm tra sức khỏe trước khi sinh, nhập viện rồi sinh. Ngoài ra, tôi còn được vào xem phòng trẻ sơ sinh, được đặt câu hỏi và được giải đáp tận tình như: sau khi chào đời, trẻ sơ sinh sẽ được cắt dây rốn trong phòng sinh, được tắm rửa lau chùi sạch sẽ thế nào rồi mới đến công đoạn đăng ký, sau đó trẻ sẽ được bế về phòng trẻ sơ sinh để các y tá chuyên biệt tắm rửa cho trẻ bằng nước ấm.
Tóm lại, những thủ tục này tương đối chặt chẽ nên việc bắt cóc trẻ sơ sinh với quy mô và số lượng lớn gần như là không thể.
Trên thực tế, lúc đứng ngoài cổng bệnh viện tôi đã ý thức được rằng, dù hiện tượng đánh cắp trẻ sơ sinh có xảy ra ở một bệnh viện cỡ lớn nhường này đi chăng nữa, thì cũng chẳng thể diễn ra ở quy mô lớn. Ngày nay, khi mang thai, các chị em đều đã làm siêu âm ba chiều chui rồi, nên trường hợp đến lúc lâm bồn mà vẫn chưa biết đứa con mình sắp sinh là trai hay gái, là một hai hay như của Hoàng Chức là vô cùng hiếm. Ngoài ra, không nói đến thủ tục đăng ký sinh của bệnh viện, thì chồng sản phụ thường đều đứng đợi trước cửa phòng sinh, trẻ chào đời là y tá sẽ bồng ra cho bố đứa bé xem mặt ngay.
Giờ nghĩ lại, muốn đánh cắp một đứa trẻ thành công, cũng cần phải vượt qua được một loạt điều kiện. Trước tiên, đấy phải là song thai, có vậy bệnh viện mới có thể để lại một đứa, đánh cắp một đứa. Thứ nữa là sản phụ chưa từng siêu âm ba chiều, không biết rõ tình trạng mang thai của mình; đây thực sự là sự mạo hiểm, bởi biết đâu họ đã siêu âm ba chiều ở bệnh viện khác rồi. Sau đó là giấu đứa trẻ đi, không để sản phụ và người chồng đứng đợi ngoài cửa phòng sinh nhìn thấy; cuối cùng là hoàn tất các thủ tục trong nội bộ bệnh viện thật kín kẽ.
Với các điều kiện nghiêm ngặt đó, thì việc này không thể nào diễn ra trên quy mô lớn, càng không thể thành một đường dây chui bởi giá thành quá cao.
Theo suy luận đó thì chỉ trong những trường hợp đặc biệt hiếm hoi, những người liên quan nào đấy mới làm việc này. Thậm chí họ làm vậy với riêng trường hợp Hoàng Chức cũng nên.
Không sai, là trường hợp đặc biệt. Đứa trẻ này quá ư đặc biệt, không chỉ hấp thu người anh em song sinh cùng nó thành một tờ giấy, mà sau khi chết còn để lại trên cơ thể dấu vết rất khó tin của đứa trẻ đã biết bò trong thời gian dài. Dấu hiệu đặc biệt đó có thể xuất hiện ngay khi nó chào đời, hoặc cũng có thể trong hoàn cảnh đặc biệt khác.
Xét trên nguyên nhân về mặt y học, hẳn động cơ là đây. Tôi nhớ về vụ việc nguy hiểm liên tiếp xảy ra vào năm ngoái, cuối cùng đã bắt Hà Tịch phải chọn trải nghiệm hồi sinh, nó khiến tôi hiểu ra: cho dù là trong y học đi nữa, nó cũng có thể khiến người ta gây ra chuyện rất điên rồ.
Những nơi cần “phỏng vấn” đều đã “phỏng vấn” đầy đủ, trên đường quay trở lại văn phòng làm việc của giám đốc bệnh viện, tôi nhận được tin nhắn từ Hà Tịch.
“Chưa thấy vấn đề gì”.
Ngay khi nhìn thấy năm chữ này, tôi cảm thấy hơi sợ. Nếu những kẻ đó bọc lót được đến mức gần như không sót lại bất kì dấu vết gì, thì liệu tôi có nên tiếp tục tra cứu nữa không?
“Anh ấy hiện không ở đây, mà ra nước ngoài rồi. Thật không may, anh ấy vừa đi hôm qua xong!” - Vừa vào văn phòng, tôi đã nghe thấy giám đốc bảo Hà Tịch.
“Hà, em vẫn chưa xong à?” - Tôi hỏi Hà Tịch, nhưng đương nhiên là để cho vị giám đốc nghe.
“Chưa, em muốn tìm bác sĩ phụ trách ca sinh này để tìm hiểu kĩ hơn, nhưng anh ấy đã ra nước ngoài rồi!” - Hà Tịch đáp.
“Là bác sĩ Trương phải không, mấy hôm trước anh còn nói chuyện qua điện thoại với anh ấy mà.” - Tôi ngạc nhiên hỏi.
“Sao anh biết?” - Vị chủ nhiệm thắc mắc hỏi.
“Ba năm trước tôi từng đến phỏng vấn anh ấy về vụ việc đứa trẻ dị dạng do sản phụ này sinh ra” - Tôi vắn tắt giải thích.
“Ồ, hóa ra vậy. Bác sĩ Trương sang Mỹ học, phải nửa năm nữa mới về”.
Ánh mắt tôi và Hà Tịch thoáng gặp nhau, đúng là trùng hợp.
“Thế này vậy. Tôi sẽ mang bản copy về, rồi nếu có vấn đề gì khác, tôi lại đành đến nhờ anh vậy” - Hà Tịch nói.
“Được, được!” - Giám đốc bệnh viện nhận lời ngay.
Tôi và Hà Tịch ra khỏi văn phòng, lúc vòng qua một khúc quanh ngoài hành lang, tôi hỏi cô: “Không thấy điểm đáng nghi nào a?”
“Về mặt giấy tờ có vẻ rất rõ ràng, ban đầu em định tìm gặp bác sĩ để hỏi, rốt cuộc thông tin phản hồi ta có được từ con người luôn nhiều hơn là từ giấy tờ, nhưng...” Nói đến đây Hà Tịch bất ngờ ngừng bặt, cô chăm chăm nhìn một y tá đi ngược lại cho đến khi người này và chúng tôi lướt qua nhau.
“Gì thế?”
“Em suýt quên mất, còn một người nữa, thường thì trong phòng sinh bác sĩ không phải là người động chân tay, mà chỉ đứng bên quan sát, đề phòng bất trắc xảy ra. Bà đỡ mới là người đỡ đẻ cho sản phụ, người đỡ đẻ cho Hoàng Chức hôm ấy hẳn biết mọi việc không kém gì bác sĩ.” - Dứt lời Hà Tịch liền quay phắt lại văn phòng giám đốc bệnh viện.
“Thực sự rất tiếc, người đỡ đẻ cho sản phụ ấy khi đó hiện không còn ở bệnh viện!” - Giám đốc nói với chúng tôi.
“Gì cơ?” - Tôi không kìm được, thốt lên.
“Cô ấy đã xin thôi việc từ hai ba năm trước đây, cũng không rõ giờ đang ở đâu!” - Vị giám đốc nhún vai, “Rất lấy làm tiếc, tôi không thể giúp gì hơn cho anh chị”.
“Cô ấy tên gì vậy ngài giám đốc?” - Hà Tịch hỏi.
“Nhạc Văn Anh”.
“Người miền nào, Thượng Hải ạ?”
“Vâng, cô ấy là người ở đây”.
“Nếu vậy tìm cô ấy chắc sẽ không khó lắm!” - Hà Tịch nhìn vị giám đốc.
“Ồ, đúng thế. Một khi cảnh sát đã muốn tìm thì hẳn là không khó” - vị giám đốc cười đáp.
Buổi chiều hai ngày sau đó, tôi đến một tiểu khu. Đây là một trong những cư xá cao cấp ven bờ Đông của sông Hoàng Phố. Nhạc Văn Anh sống ở đây.
Tôi vốn cho rằng, nếu hai người nắm rõ tình trạng mang thai năm đó của Hoàng Chức, lại không có mặt ở bệnh viện một cách trùng hợp như vậy, thì ngay cảnh sát cũng chưa chắc đã dễ dàng tìm ra Nhạc Văn Anh. Giờ ngẫm lại, cũng không thể nói phán đoán đó của tôi là không đúng.
Tôi không rõ Nhạc Văn Anh có ở nhà hay không, thậm chí cũng không rõ cô ấy có còn sống ở đây? Sau khi xin nghỉ việc, Nhạc Văn Anh, gần như không đi tìm việc nữa. Số điện thoại trong hồ sơ đã thay đổi, nhưng chúng tôi vẫn tìm được cha mẹ cô ấy. Công an khu vực nơi cha mẹ Nhạc Văn Anh sống - do được Hà Tịch nhờ, đã tới nhà ông bà ấy một lần, mới hay họ đã hoàn toàn cắt đứt quan hệ với con gái, vì nguyên do gì thì không rõ bởi ông bà ấy không nói. Do không liên lạc với nhau, nên ngay số điện thoại của con gái họ cũng chẳng có, địa chỉ tôi có được là địa chỉ đề trên tấm thiệp mà Nhạc Văn Anh gửi chúc tết cha mẹ vào mùa xuân năm ngoái.
Xem ra Nhạc Văn Anh đã làm một chuyện gì đó mà ngay đến cha mẹ cô cho đến giờ cũng không thể tha thứ, không muốn chủ động liên hệ lại với con mình.
Hà Tịch không đi cùng, còn tôi đến phỏng vấn với danh nghĩa nhà báo thì sẽ khiến Nhạc Văn Anh dè chừng hơn. Hiện Hà Tịch phải tranh thủ thời gian nghiên cứu kĩ hơn về thi thể của Hoàng Chức, vì rốt cuộc cái xác vô cùng quý giá với cô ấy sẽ không thể giữ lại phòng giải phẫu giám định của Viện pháp y mãi được nên phải tranh thủ ngày nào hay ngày đó.
Nhạc Văn Anh ở trên tầng bảy, tầng dưới có thiết bị camera và thiết bị liên lạc kết nối với các hộ sống bên trên, chủ nhà có thể thấy mặt khách đến thăm mình qua camera và có thể trao đổi qua thiết bị liên lạc.
Tôi bấm phím liên lạc với căn hộ 702, lòng lo ngay ngáy, mình đã liều đến tận đây thì chẳng lẽ lại không qua được cổng chính?
“Ồ, anh là ai?” - Một giọng phụ nữ vọng ra ngoài qua loa.
“Xin cho hỏi chị Nhạc Văn Anh có nhà không?” - Tôi hỏi.
“Vâng, tôi là Nhạc Văn Anh đây”.
Tôi mừng thầm, vội vàng hỏi: “Xin lỗi đã mạo muội đến quấy rầy chị, tôi là phóng viên Na Đa của báo Ngôi sao buổi sớm, muốn được phỏng vấn chị.” - Nói đến đây, tôi giơ thẻ nhà báo của mình ra trước ống kính camera.
“Phóng viên báo Ngôi sao buổi sớm? Anh muốn hỏi về chuyện gì?”
“Là về... về một số trải nghiệm của chị, việc này... liệu ta có thể nói kĩ hơn lúc tôi lên trên đấy không?”
“Vâng, được”.
Cánh cửa bảo vệ phát ra một tiếng khe khẽ, rồi tự động mở ra.
Chỉ thế thôi tôi đã được phép lên à? Có vẻ dễ quá nhỉ.
Lần này không cần nói nhiều, tôi ấn chuông là cửa mở ngay.
Không khí điều hòa mát rượi lan ra đến tận ngoài cửa, khiến tinh thần tôi trở nên phấn chấn. Mở cửa cho tôi là phụ nữ mặc một chiếc váy hai dây bằng lụa dài quá gối với chiếc cằm nhọn cùng cặp mắt nhỏ và dài như thể còn ngái ngủ, từ cô ta toát lên một sự mệt mỏi.
Nhưng sao tôi cảm thấy gương mặt này có nét quen quen, như thể đã từng thấy ở đâu đó rồi.
Thêm lần nữa tôi rút thẻ nhà báo cùng danh thiếp của mình ra, Nhạc Văn Anh chỉ nhìn lướt qua tấm danh thiếp rồi ngẩng lên nhìn tôi, bảo: “Anh... có phải... trước đây anh đã từng đến bệnh viện bà mẹ trẻ em số một phỏng vấn rồi không?”
Tôi sững người, gật đầu, rồi chợt nhớ ra, người phụ nữ đang ngồi trước mặt tôi là cô y tá đã đứng bên ngoài nghe lỏm cuộc trao đổi giữa tôi và bác sĩ Trương về trường hợp đứa trẻ giấy ba năm về trước khi tôi đến đó phỏng vấn. Hóa ra cô ấy chính là người đỡ đẻ, xem ra đồng phục của bà đỡ và y tá cũng na ná nhau, nên mới khiến tôi không phân biệt rõ như vậy. Xét theo cảm quan thì dáng vẻ cô ấy hiện giờ cuốn hút hơn nhiều so với hồi làm y tá, nhưng cũng rất có thể do hồi đó tôi còn đang tập trung vào chuyện đứa trẻ giấy, nên không chú ý gì đến cô ấy.
Nhạc Văn Anh cười, nói: “Vậy là anh nhớ ra rồi, có chuyện gì thì vào trong rồi nói”.
Tôi thay giày, đi vào phòng khách, ngồi xuống ghế salon. Diện tích của phòng khách này chắc phải cỡ năm sáu chục mét vuông, toàn bộ đồ đạc, cách sắp xếp cũng như lắp đặt, đều rất chau chuốt, tỉ mỉ.
Phòng khách đã rộng thế này, thì tối thiểu cả căn hộ cũng phải lên tới hai trăm mét vuông. Hiện nhà đất ở khu vực này giá bao nhiêu, ba vạn tệ một mét vuông hay cao hơn? Cô ấy lấy đâu ra nhiều tiền vậy nhỉ?
“Sao anh biết tôi sống ở đây?” - Nhạc Văn Anh hỏi.
“Ồ, ban đầu tôi đã nhờ người tìm cha mẹ chị, họ cho tôi địa chỉ này”.
Thấy tôi nhắc đến cha mẹ, gương mặt Nhạc Văn Anh thoáng hiện chút u uẩn.
“Thực ra hôm nay tôi đến tìm chị, vì có chút chuyện liên quan đến cuộc phỏng vấn hồi trước”.
“Liên quan đến cuộc phỏng vấn hồi trước? Là về thai nhi giấy đó?” - Nhạc Văn Anh buột miệng nói.
Tôi gật đầu mà lòng chần chừ, nói tiếp thế nào đây. Hỏi thẳng hay hỏi vòng? Việc Nhạc Văn Anh đột ngột nghỉ việc ở bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ em năm ấy rồi giờ lại lắm tiền như vậy, thì quả thật rất đáng nghi.
“Đúng là có chút liên quan, sau đó tôi và sản phụ tên Hoàng Chức vẫn tiếp tục giữ liên lạc. Lần ấy, do thiếu kinh nghiệm phỏng vấn, tôi chỉ phỏng vấn bác sĩ thành ra cuối cùng bài viết chẳng hoàn thành được. Nếu sớm biết chị chính là người đỡ đẻ trong ca đó, thì tôi đã phỏng vấn chị rồi!” - Tôi vòng vo thu hẹp chủ đề, rồi bất ngờ hỏi, “Nhưng sao sau đấy chị lại bất ngờ nghỉ việc ở bệnh viện? Nghe nói thu nhập và chế độ đãi ngộ ở đó rất tốt”.
Phải tìm cách làm sáng tỏ được điểm này mới mong xác định được sách lược tiếp theo.
Nhạc Văn Anh cười cười, nhưng nét cười ẩn chứa bao điều chẳng thể nói rõ.
“Ồ, tôi mạo muội quá!” - Tôi vờ giữ ý, nói.
“Chuyện cũng chẳng có gì là không thể nói, anh đã tìm được chỗ tôi ở qua cha mẹ tôi, chẳng lẽ còn chưa đoán ra được lý do à?”
“À!” - Quả thật tôi không phản ứng kịp, cô ta đang nói về cái gì nhỉ?
Nhạc Văn Anh lại cười cười, bảo: “Căn hộ cao cấp như thế này tôi chẳng đủ sức mua, giấy tờ nhà cũng chẳng đứng tên tôi”.
Tiếp đó, cô ấy thẳng thừng cho tôi biết toàn bộ câu chuyện của mình.
Hóa ra cô là “chim bạch yến”.
Chim bạch yến là loài chim có vẻ ngoài rất đẹp, hót cũng rất hay, thường hay bị nhốt trong lồng, không được tự do. Mấy năm gần đây, ba từ này còn mang thêm hàm ý đặc biệt khác.
Do bị các thông tin làm nhiễu nên tôi hoàn toàn phán đoán sai lý do Nhạc Văn Anh xin nghỉ việc. Thực ra mọi chuyện rất đơn giản, cô ấy gặp một thương nhân giàu có người Đài Loan, rồi thành vợ bé của ông ta ở đại lục.
Với rất nhiều cô gái cam tâm tình nguyện trở thành vợ bé, ngoài lý do tiền bạc, tình cảm cũng là yếu tố rất quan trọng. Năm đó, Nhạc Văn Anh quyết một lòng yêu người đàn ông ấy, dù cha mẹ mắng mỏ thế nào cũng không chịu chia tay. Là những tri thức gia phong, nề nếp, nên với cha mẹ Nhạc Văn Anh việc con gái mình trở thành vợ bé của một người đàn ông Đài Loan là điều không thể chấp nhận được. Chuyện mà vỡ lở thì họ còn mặt mũi nào mà nhìn mọi người nữa, nên họ đành đoạn tuyệt quan hệ với cô, xem như mình không có đứa con gái này.
Tình yêu càng nồng đượm bao nhiêu, thì thời gian tồn tại của nó càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Bây giờ, thứ khiến Nhạc Văn Anh tiếp tục duy trì mối quan hệ này không chỉ đơn thuần là tình cảm nữa. Phần lớn thời gian cô sống thui thủi một mình, cô đơn vò võ trong căn hộ rộng rãi này, ngay đến một người trò chuyện cũng chẳng có. Hôm nay tôi đến đây, hóa ra lại mang đến cho cô cơ hội được trò chuyện. Vả lại tôi và cô vốn là người xa lạ, nên xét ở khía cạnh nào đó càng dễ nói chuyện và tâm sự hơn.
Nghe xong câu chuyện của Nhạc Văn Anh, cuối cùng tôi đã thấy yên tâm. Câu đầu tiên tôi bảo cô ấy chính là: “Hoàng Chức chết rồi”.
“Hoàng Chức, sản phụ sinh ra đứa trẻ giấy đã bị người ta giết hại”.
Trong ánh mắt sững sờ của Nhạc Văn Anh, tôi đã kể lại đầu đuôi toàn bộ sự việc. Từ chuyện Hoàng Chức phát bệnh tâm thần, chuyện con gái cô ấy mất tích, rồi tôi về thôn Đại Đường tìm cô ấy đã qua đời trong một quán trọ nhỏ ở Thượng Hải; chuyện mẫu ADN Hoàng Chức trùng khớp với ADN của xác đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc ra sao...
Không ai có thể lần ra được chút đầu mối nào giữa một loạt sự kiện đã phát sinh và mối liên hệ kì lạ giữa chúng. Sau khi tôi kể xong, Nhạc Văn Anh đã lặng đi một lúc, rồi mới nói: “Điều anh nghi hiện giờ là Hoàng Chức không chỉ sinh ra mỗi đứa trẻ giấy? Và đứa kia tại sao lại chạy sang chiếc tủ lạnh bên Hàn Quốc?”
Tôi gật đầu: “Bởi chẳng còn khả năng nào khác, các ghi chép về việc sinh nở của Hoàng Chức chỉ có mỗi hai lần đó”.
“Nhưng chính tôi là người đỡ đẻ, và cô ấy chỉ sinh ra đứa trẻ quái dị đó!” - Nhạc Văn Anh tròn mắt nói.
“Sao có thể vậy?” - Tôi chăm chú quan sát biểu hiện của đối phương, nhưng không có vẻ gì là cô ấy nói dối.
“Đó là ca ấn tượng nhất trong mấy năm tôi theo nghề đỡ đẻ, sao tôi có thể nhớ nhầm được” - Nhạc Văn Anh quả quyết nói: “Thêm nữa, nếu cô ấy thực sự sinh ra đứa trẻ khỏe mạnh kia, thì lúc đó chúng tôi đã bế cho cô ấy xem mặt rồi, sao lại đem giấu đi cơ chứ.”
Nói đến đây, cô nhìn tôi với một vẻ rất kì lạ, rồi chợt ồ lên: “Hóa ra anh thực sự nghi chúng tôi đã đem đứa trẻ kia đi”.
Tôi ho một tiếng, nói: “Dựa trên thực tế thì đây là phán đoán hợp logic nhất, hơn nữa, lần này tôi đến bệnh viện Bảo vệ bà mẹ trẻ em số 1, bác sĩ Trương cùng chị, hai người biết rõ chuyện này nhất, lại tình cờ đều không có mặt...”
“Nhưng thực tế lúc đó Hoàng Chức chỉ sinh ra mỗi đứa trẻ giấy. Bất kì điều nào trong những điều anh vừa nói cũng đều rất kì lạ, kì lạ đến mức chẳng thể lý giải theo cách thông thường; vậy nên thêm một sự thật không thể giải đáp, với anh, cũng chẳng phải là điều gì không thể chấp nhận”.
Tôi cười đau khổ: “Ban đầu tôi định đi tìm điểm đột phá từ chỗ chị, còn hiện giờ... chị thử nghĩ lại xem, hồi đó còn điều gì khiến chị thấy lạ không?”
“Chuyện lạ à?” - Nhạc Văn Anh cười cười, “Con người nhưng lại sinh ra một thứ như vậy mà vẫn chưa được xem là kì lạ sao?”
Tuy vừa cười vừa thốt ra những lời này, song vẻ mặt của Nhạc Văn Anh lại khiến tôi cảm thấy: đến tận giờ, cô ấy vẫn thấy khiếp sợ khi nhớ lại hoàn cảnh hôm đó.
“Nhưng giờ nghĩ lại thì đúng là cũng còn một vài điều khác thường nữa. Vì những người có mặt trong phòng sinh lúc đó đều sững sờ như hóa đá, nên hẳn sẽ có một vài chi tiết nhỏ bị bỏ qua”.
“Ồ, là những chi tiết gì?” - Tôi bất giác thẳng người lên.
“Là nhau thai”.
“Nhau thai?”
“Chính là lớp màng được tạo ra trước khi bào thai hình thành, nhằm bảo vệ thai nhi, nó tựa như vỏ trứng, nhưng mềm hơn. Thường thì sau khi trẻ chào đời, và nhau thai bị đẩy ra ngoài, tính mạng sản phụ mới được coi là an toàn. Đã có loại thuốc gọi là bột nhau thai, vì nó được làm từ nhau thai, rất bổ”.
Rất bổ... Tên thuốc này nghe ghê ghê.
“So với nhau thai của những đứa trẻ khỏe mạnh bình thường, nhau thai của đứa trẻ giấy lại to hơn nhiều”.
Mắt tôi sáng lên, tôi vội nói: “Như trứng có hai lòng đỏ bao giờ cũng to hơn là trứng một lòng đỏ phải không?”
Nhạc Văn Anh gật đầu: “Với đứa trẻ giấy đó mà nói thì quả thật là nhau thai quá to. Còn chuyện nữa, mà tôi luôn nghĩ đó là ảo giác của mình, tôi... cảm thấy bụng Hoàng Chức bé hơn một chút so với khi cô ấy vừa vào viện”.
“Bụng nhỏ lại?” - Mắt tôi bất giác giật nhẹ. Thông tin này dự báo trước những điều mờ ám nào...
“Nếu không được nghe những chuyện anh vừa kể, tôi chẳng dám nói lại cho anh biết cảm giác của mình, bởi đó là điều hoàn toàn chẳng thể xảy ra, tôi luôn nghĩ mình đã quá đa nghi, nhưng giờ xem ra, chuyện này thật ma quái, quá ư ma quái”.
Nghe Nhạc Văn Anh nói từ “ma quái” liền hai lần, tôi bất giác run lên.
“Đợi chút. Tôi mới tới bệnh viện phỏng vấn, được biết, người đỡ đẻ thường không tiếp xúc với sản phụ trước khi sinh, phụ trách khâu chăm sóc bệnh nhân sau khi nhập viện là các y tá khác mới đúng. Vậy làm thế nào mà ngay từ khi Hoàng Chức nhập viện chị đã biết bụng cô ấy to chừng nào?”
“Là do mối quan hệ với một người bạn cờ bạc”.
“Bạn cờ bạc? Bạn chơi mạt chược sao?”
“Bạn chơi Poker. Anh chờ chút...” - Nhạc Văn Anh vừa nói, vừa lấy từ tủ ra một cuốn sổ tay, lật đến một trang trong đó đưa tôi xem.
“Bức ảnh này được chụp vào khoảng mấy ngày trước khi Hoàng Chức sinh con, trong ảnh là những người bạn thường chơi bài cùng nhau, người tôi nói đến chính là người này”.
Cảnh nền của bức ảnh hẳn là góc nào đó trong bệnh viện, phía trước là sáu cô gái trẻ. Thực ra là năm thì đúng hơn. Người Nhạc Văn Anh chỉ, cứng tuổi hơn, chí ít cũng phải ba mươi. Sáu người đứng thành hai hàng người này đứng ở giữa hàng sau.
Nhìn kĩ hơn, tôi chợt nhận ra, giữa người này với cô gái đứng bên tay trái, hình như còn một người nữa. Nhưng người mới thấy này quá thấp, tựa như một đứa trẻ, chỉ lộ một ít tóc trên đầu, còn gương mặt gần như bị che khuất, không thể nhìn rõ.
Mặt tôi bất ngờ tê cứng, cơn rùng mình ớn lạnh bỗng ùa về.
Đây là ai?
Trong trường hợp thông thường, khi chụp ảnh chung với người lớn, đứa trẻ thường được đứng ở vị trí nổi bật dễ thấy nhất, chứ đâu bị người lớn che khuất để đến nỗi chỉ còn lại một đường ngôi mờ nhạt này.
Huống chi, Nhạc Văn Anh vừa nói rõ, đây là bức ảnh chụp chung các bạn chơi bài của mình. Bạn chơi bài của cô ấy đương nhiên không bao gồm cả đứa trẻ này!
Đó là người nào, hay nói cách khác, là cái gì?
Tôi nhớ đến những bức ảnh hồn ma được lưu truyền trên mạng, hồn ma trẻ em vô cớ xuất hiện sau con người...
“Đây, đây là gì?” - Tôi hỏi Nhạc Văn Anh, tôi thấy lưỡi mình như hơi cứng lại.
“À, cái này à?” - Nhạc Văn Anh nhìn vào chỗ tay tôi chỉ, rồi nhìn sang mặt tôi, cuối cùng mủm mỉm cười.
“Đây là một bé gái, tên gì thì tôi quên mất rồi, con bé chính là con gái của sản phụ này”.
“Con gái Hoàng Chức? Chu Tiêm Tiêm sao?”
“Chu Tiêm Tiêm? Hình như đúng là cái tên này. Đây chính là lý do vì sao tôi chú ý đến Hoàng Chức, người bạn chơi bài này của tôi tên Tiết Dĩnh, là một y tá và là người đang chăm sóc sản phụ khác nằm cùng phòng bệnh với Hoàng Chức lần đó. Con bé Chu Tiêm Tiêm rất cô độc quái gở, không chịu nói chuyện với người lớn, thế mà nó lại rất hòa hợp, rất thân thiết với người bạn này của tôi. Nên lúc chụp ảnh, cô ấy mới kéo con bé vào chụp cùng, nhưng nó khăng khăng không chịu đứng lên hàng trên, mà một mực trốn ra phía sau nên thành ra vậy”.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, hóa ra là vậy, làm mình thót hết cả tim.
“Sự hòa hợp và thân thiết giữa cô y tá là bạn chơi bài với Chu Tiêm Tiêm, đã khiến chị để ý đến mẹ con bé?”
“Vâng, đúng vậy. Dù con bé rất ít nói, thường chỉ nép mình vào góc phòng, nhưng không biết sao lại khiến người ta chẳng thể nào tảng lờ nó. Hơn nữa cũng rất ít sản phụ dẫn con gái vào bệnh viện cùng mình. À, đúng rồi...”
Nhạc Văn Anh nhớ ra điều gì, đoạn tiếp: “Nếu nhắc đến chuyện kì lạ thì sau đó không lâu, Tiết Dĩnh đã xin nghỉ việc một cách đầy bất ngờ, ngay điện thoại cũng đổi số mới, giờ chẳng thể tìm được cô ấy nữa. Trước đây cô ấy rất gần gũi với con bé, tôi thấy nó còn thân với cô ấy hơn là với mẹ mình. Nên đó cũng có thể là chuyện kì lạ liên quan đến Hoàng Chức”.
“Sau đó không lâu? Không lâu là bao lâu?”
“Khoảng độ hai ba tuần. Không cả một lời chào tạm biệt dành cho đám chị em - có thể xem là thân thiết như chúng tôi, cô ấy chỉ nói xin nghỉ là nghỉ luôn”.
Ngẫm nghĩ một lát, tôi nói: “Tôi muốn chụp lại những bức ảnh này, chị không thấy phiền chứ?”
“Không vấn đề, nếu muốn anh cứ chụp”.
Tôi lấy máy ảnh kĩ thuật số luôn mang theo bên mình ra, cố chụp lại bức ảnh này ở mức nét nhất.
Sao người phụ nữ này lại đột nhiên xin nghỉ việc? Nếu thật sự yêu mến Chu Tiêm Tiêm, liệu cô ta còn giữ liên lạc sau khi Hoàng Chức xuất viện không? Móc nối với chuyện tôi nghe từ thôn Đại Đường rằng, trước khi Chu Tiêm Tiêm mất tích, họ thường thấy một người lạ ngoài thôn ở cùng con bé, liệu đó có phải là người này?
Sau khi từ chỗ Nhạc Văn Anh ra về, tôi đã có một vài thu hoạch, nhưng nghi vấn còn nhiều hơn.
Bụng nhỏ lại ư?
Nhau thai quá lớn ư?
Tôi đang nghiền ngẫm điều ẩn chứa sau những thông tin này, thì điện thoại di động chợt vang lên.
“Alô, tôi là Vương Tuyển Nhân”.
“Ồ, là cảnh sát trưởng Vương.” - Tôi ngẩn ra một lúc mới phản ứng kịp, đây là cảnh sát trưởng phụ trách việc điều tra vụ sát hại Hoàng Chức.
“Báo cho anh biết một chuyện, hung thủ đã bị bắt!”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 10: Hung thủ

“Tóm được hung thủ sớm vậy à? Hắn là ai, sao lại giết Hoàng Chức?”
Sau khi biết tin đã bắt được hung thủ, tôi vội đến sở cảnh sát, để trực tiếp hỏi han tình hình.
Tôi hỏi với tư cách không chỉ là nhân chứng đầu tiên ở hiện trường, mà hơn thế, còn là một phóng viên. Hôm đó, sau khi gã quỷ Đường viết bài, chủ nhiệm Tông Nhi biết tôi là người phát hiện xác chết đầu tiên, đồng thời có mối liên quan với người qua đời, nên đã lệnh cho tôi phải viết một bài phóng sự dài sau khi vụ án này được làm sáng tỏ. Gã quỷ Đường nghe sếp nói vậy rất không vui, bởi được viết bài phóng sự dài, nghĩa là tôi sẽ nhận được nhiều tiền thưởng hơn. Song chẳng còn cách nào khác, với ưu thế trời ban cho bản thân, nếu tôi chịu khó hơn một chút, thì đến ngay chút tiền trà thuốc cho bài viết đầu tiên của mình, gã quỷ kia cũng chẳng có phần.
Thế mà sau khi nghe tôi nói, cảnh sát trưởng lại cười cười một cách đầy bí hiểm và lắc đầu.
“Cũng chẳng cần vội nói về chuyện hung thủ”.
“Hả, còn chuyện gì quan trọng hơn chuyện này à?” - Tôi tò mò hỏi.
Cảnh sát trưởng nhìn xoáy vào tôi, nghiêm mặt lại, song không trả lời mà nhấc ống nghe của chiếc điện thoại đặt trên bàn lên thực hiện một cuộc gọi.
Nơi tôi được tiếp đón là một căn phòng trống. Vừa bước chân vào phòng, tôi đã cảm thấy nó tựa như nơi cảnh sát thẩm vấn nghi phạm, hay chí ít cũng giống căn phòng nhỏ hôm tôi làm bản tường trình.
Chỗ này lạnh đến mức khiến người ta khó mà chịu nổi, tôi đang định lên tiếng hỏi thì cửa đã mở ra, và một cảnh sát trẻ bước vào.
“Làm tường trình cho tốt vào đấy!” - Cảnh sát trưởng nói.
“Thế này là sao, anh vẫn còn nghi ngờ tôi?” - Tôi tức giận nói.
“Hi vọng anh thành thật trả lời các câu hỏi của tôi”.
“Được, anh muốn hỏi gì nào?”
“Trong bản tường trình lần trước, anh còn bỏ sót điểm nào không?”
“Không, mọi điều liên quan đến vụ án mà tôi biết, tôi khai báo với các anh cả rồi”.
“Thật không?” - Cảnh sát trưởng hỏi vặn lại một cách thiếu thiện ý.
“Đúng vậy!” - Hai người nhìn nhau chằm chằm, công khai truyền tải suy nghĩ khó chịu của bản thân.
“Vậy thì ngày này của tuần trước anh đã đi đâu?”
Ngày này của tuần trước à?
Cảnh sát trưởng thấy tôi hơi trù trừ, liền nói: “Có cần tôi nhắc cho anh nhớ không, sáng hôm ấy anh không có mặt ở Thượng Hải?”
“Tôi về thôn Đại Đường!” - Xem chừng anh ta đã biết chuyện này, chẳng có gì cần phải giấu giếm. Có lẽ ngay sau khi tôi và Hà Tịch đi khỏi thôn Đại Đường, cảnh sát khu vực hoặc cảnh sát Thượng Hải, đã về đó điều tra nên mới biết.
“Anh về đó làm gì?”
“Tìm hiểu một số chuyện!” - Tôi thầm nghĩ: biết rồi mà lại còn phải hỏi.
“Sau khi Hoàng Chức chết, anh về thôn Đại Đường mạo nhận là cảnh sát rồi dò hỏi lung tung, vậy mà anh còn dám nói không giấu cảnh sát chúng tôi điều gì ư?”
“Tôi đâu mạo nhận là cảnh sát, người đi cùng tôi là...”
“Là giám định viên pháp y Hà, đúng không? Cô ấy là giám định viên pháp y; giám định viên pháp y và cảnh sát hình sự chịu trách nhiệm điều tra phá án là hai công việc hoàn toàn khác nhau. Còn nữa, hôm kia cô ấy nhờ công an hộ tịch ở khu vực Dương Phố tiền hành điều tra một người từng là y tá đỡ đẻ trong bệnh viện Bà mẹ trẻ em số một trước đây, là vì lý do gì? Vì liên quan đến vụ án này chăng? Mấy ngày hôm nay, pháp y Hà có biểu hiện hứng thú khác thường với thi thể Hoàng Chức, song dựa vào báo cáo giám định cô ấy nộp, thì tôi hoàn toàn chẳng rõ vì sao cô ấy lại háo hức và hứng thú vậy”.
“Sao anh không hỏi thẳng Hà Tịch?”
“Tôi đang hỏi anh!” - Cảnh sát trưởng đập bàn, “Còn về phần pháp y Hà, tôi tự khắc sẽ hỏi”, đoạn anh ta tiếp.
Lúc nói câu sau, giọng anh ta có vẻ hơi chùng xuống, có lẽ biết thân phận giám định viên pháp y của Hà Tịch không hề đơn giản, nên anh ta chẳng thể xét hỏi Hà Tịch như đang thẩm vấn tôi hiện giờ. Thậm chí rất có khả năng anh ta bị Hà Tịch từ chối không trả lời, nên mới trút giận vào tôi.
“Thực ra là liên quan đến Hà Chức, nhưng chẳng phải tôi giấu giếm, không chịu nói trong lần tường trình trước, mà bởi vì có một số chuyện sau khi Hoàng Chức qua đời tôi mới biết.”
“Vậy tại sao anh không trực tiếp báo những chuyện này cho cảnh sát, mà lại chọn cách tự điều tra hành động một mình?” - Cảnh sát trưởng hùng hổ chất vấn tôi.
“Trước tiên mấy chuyện này tuy liên quan đến Hoàng Chức, song tôi lại không chắc chúng có liên quan đến cái chết của cô ấy hay không. Thứ hai, tôi nghĩ là có nói chăng nữa, anh cũng chưa chắc coi chuyện này là nghiêm túc, mà có khi anh còn bảo tôi có vấn đề về thần kinh cũng nên”.
“Tôi nghĩ và nhận định thế nào là việc của tôi. Vậy giờ, anh cứ nói hết cho tôi nghe xem nào, đừng để tôi phát hiện thấy anh giấu giếm điều gì nữa đấy!”
Tôi nhún vai, bắt đầu từ chuyện xác hai đứa trẻ được tìm thấy trong tủ lạnh bên Hàn Quốc - mà Hà Tịch kể, đến chuyện ghé thăm nhà Nhạc Văn Anh hôm nay, cùng một vài suy nghĩ của bản thân, đều nói ra hết.
Đến nửa chừng, viên cảnh sát trẻ - phụ trách việc ghi chép, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn tôi bằng ánh mắt rất khác lạ. Trong khi đó, vẻ mặt thờ ơ, phớt tỉnh ban đầu của cảnh sát trưởng thì càng lúc càng giống như đang bực dọc hơn, tôi để ý thấy mấy lần anh ta định lên tiếng cắt lời mình.
“Thật hoang đường, chuyện này quá sức hoang đường!” - Không đợi tôi nói hết, cảnh sát trưởng đã trừng mắt nhìn tôi bảo: “Anh nghĩ tôi là một thằng ngốc, hay là kẻ hoang tưởng mà đi tin vào những điều anh nói?”
“Tin hay không thì anh vẫn luôn có thể cho xác minh những điều tôi vừa nói, còn về những suy đoán của tôi thì anh cứ coi như tôi là một tên ngông, hoặc anh có thể đưa ra một cách suy đoán hợp lý hơn. Thực tế, tôi cũng chẳng vui thích gì khi đưa ra những kết luận phô trương như vậy”.
Cảnh sát trưởng vẫn lắc đầu, nói: “Tất nhiên tôi sẽ cho xác minh, song tôi không thể không nói, ngài nhà báo, trí tưởng tượng của anh phong phú quá đấy. Anh nghĩ thế giới nơi chúng ta đang sống là kiểu thế giới nào?”
“Thế anh nghĩ thế giới nơi chúng ta đang sống là kiểu thế giới nào?” - Tôi lấy chính câu đối phương vừa nói, vặn hỏi lại anh ta.
“Hả?”
“Tôi nghĩ hẳn anh không thể không biết vì lý do gì mà bộ phận cảnh sát đặc biệt trong hệ thống cảnh sát lại được thành lập!”
“Bộ phận cảnh sát đặc biệt?” - Cảnh sát trưởng nhíu mày, rồi nhìn tôi một cách đầy hàm ý. Tôi đoán hẳn anh ta mới nhớ ra, tôi đã từng có lần hợp tác với bộ phận cảnh sát đặc biệt. Quả nhiên, thái độ anh ta dần dịu lại, hỏi tôi: “Ban nãy anh nói, hôm nay anh chụp lại một bức ảnh ở nhà Nhạc Văn Anh?”
Tôi ngoan ngoãn lấy máy ảnh kĩ thuật số ra.
Cảnh sát trưởng nhìn bức ảnh trên màn hình tinh thể lỏng của chiếc máy ảnh, mắt nheo lại, quay đầu bảo viên cảnh sát trẻ: “Cậu mang bức ảnh này đi phục chế, in một bức thật rõ, rồi mang bức ảnh đó cùng bức chân dung được vẽ theo lời miêu tả của người dân ở thôn Đại Đường về đây!”
Viên cảnh sát trẻ dạ một tiếng, lập tức đi thi hành mệnh lệnh.
“Người dân thôn Đại Đường đã trông thấy một người lạ từng nhiều lần tiếp xúc với Chu Tiêm Tiêm, con gái Hoàng Chức. Theo lời miêu tả đó, chúng tôi đã cho mời chuyên gia phác thảo lại nhận dạng này!” - Cảnh sát trưởng giải thích.
Chẳng lâu sau, viên cảnh sát trẻ đã quay về cùng với hai bức ảnh trên tay.
Cảnh sát trưởng so sánh bức ảnh với bức phác thảo chân dung, gật gật đầu, rồi đưa tôi xem bức phác thảo.
“Xem ra thêm một lần nữa, anh lại cung cấp cho chúng tôi thông tin rất quan trọng. Lúc trước do chút hiểu lầm, nên tôi đã có phần không phải với anh, tôi xin lỗi”.
Tôi luôn miệng nói không có gì, rồi tiếp tục quan sát, so sánh hai bức hình thật kĩ. Một cái là bức ảnh phóng to từ tấm ảnh chụp lại, khuôn mặt Tiết Dĩnh, người đứng hàng sau, được khoanh tròn bằng mực đỏ, trên bức kia là hình ba khuôn mặt đã được phần mềm máy tính phục dựng lại ở các góc khác nhau.
Quả là rất giống, đặc biệt đôi mắt, còn chiếc mũi và khuôn mặt thì gần như là y hệt.
“Fax ngay bức ảnh này cho cảnh sát Côn Sơn, bảo họ đến gặp những người liên quan ở thôn Đại Đường đối chiếu lại, xem có phải là người này không!” - Cảnh sát trưởng nói với viên cảnh sát trẻ.
“Chẳng phải lúc đầu anh nói trên điện thoại là bắt được hung thủ rồi, giờ sao vụ này xem ra còn chưa kết thúc?” - Tôi hỏi.
“Hung thủ thì đúng là bắt được rồi, hơn nữa, hắn cũng đã nhận tội, nếu muốn cũng có thể kết thúc vụ án này ở đây, nhưng...” - Đến đây cảnh sát trưởng chép miệng một cái.
“Song còn chưa rõ động cơ gây án, nghi phạm lúc khai là vì tiền, lúc lại nói là vì sắc, còn căn cứ vào tình hình hiện giờ thì cả hai lý do này đều chẳng đứng vững. Tuy nhiên, hắn đích thị là kẻ ra tay, điều này thì không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng bởi hắn không chịu khai rõ động cơ, nên ta chẳng thể loại trừ khả năng đằng sau đó còn động cơ gây án khác”.
“Liệu tôi có thể gặp hung thủ một lát với tư cách là phóng viên không?”
Phải chăng xuất phát từ tâm lý muốn bù đắp, cảnh sát trưởng đã vui vẻ đáp ứng yêu cầu tôi đưa ra, chỉ đề nghị tôi phải thông báo lại cho phía cảnh sát một tiếng trước khi viết bài đăng báo.
“Chà, tôi chợt nảy ra ý này, anh thấy thế nào...”
Tôi cho anh ta biết ý tưởng bất chợt của mình, cảnh sát trưởng nhìn tôi một cái rồi bảo: “Được, cứ thử xem sao. Tôi thấy anh không đầu quân làm cảnh sát hình sự thì quả là một tổn thất vô cùng đáng tiếc”.
“Ha, bên cục cảnh sát đặc biệt cũng rất muốn mời tôi gia nhập đấy!” - Tôi cười bảo.
Nghi phạm bị tóm cổ tên là Lã Vãn Cường, 23 tuổi là một người làm thuê đến từ tỉnh khác.
Tám giờ sáng ngày hôm đó, hắn quanh quẩn gần chỗ nhà trọ một hồi, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn lên tầng trên, còn mua hai chiếc bánh ở cửa hàng bánh gần đó, ăn hết cái rưỡi, nửa cái còn lại thì vứt ở vệ đường. Những điều này do chính hắn tự thú, và cũng được người làm chứng xác nhận.
Do tối hôm trước mất ngủ, nên sáng hôm đó lúc ra ngồi trông nhà trọ chỗ sảnh vào, bà cô to béo đã ngủ gật. Nhân lúc bà ta ngả người ra quầy ngủ bù, Lã Vãn Cường lẻn vào trong nhà trọ. Hắn lên tầng ba, gõ cửa phòng Hoàng Chức, đánh mạnh vào huyệt thái dương làm cô ấy ngất đi, rồi dùng dây ni lông mang theo trói cô ấy vào ghế, và cuối cùng thít cổ cô đến chết.
Lúc xuống nhà, Lã Vãn Cường chạm trán với một nhân viên phục vụ ở tầng hai. Cú chạm trán này chính là một manh mối quan trọng, giúp cảnh sát sớm truy ra hung thủ.
Sau khi giết người, Lã Vãn Cường chẳng hề chuẩn bị trốn chạy, trái lại hắn đã hành xử như không có gì xảy ra, rong chơi khắp Thượng Hải, tối đến vẫn quay về căn hộ thuê chung với mấy người khác nghỉ ngơi mãi đến khi bị cảnh sát bắt.
Tôi đi nhờ xe cảnh sát trưởng đến trại tạm giam, nơi Lã Vãn Cường bị giam giữ. Cảnh sát trưởng đã bố trí giúp, nên tôi chỉ phải vào phòng gặp mặt chờ một lát.
Tấm kính thủy tinh chống đạn dày, ngăn căn phòng gặp phạm nhân thành hai. Đợi một lát, tôi đã thấy cánh cửa phòng bên phía phạm nhân mở ra, cảnh sát trông coi phạm nhân áp tải một thanh niên tay đeo còng số tám đi vào.
“Cậu là Lã Vãn Cường?” Tôi hỏi.
Đối phương nhìn tôi một cái, chẳng nói gì.
“Đây chính là Lã Vãn Cường!” - Cảnh sát áp tải bảo tôi, rồi yêu cầu Lã Vãn Cường ngồi vào chỗ đối diện với tôi.
“Ngoan ngoãn trả lời đấy nhé!” - Anh ta bảo hắn rồi quay người đi ra.
Lã Vãn Cường là một thanh niên có khuôn mặt vuông, tóc để kiểu đầu đinh, trên mép lún phún ít lông măng và mặt thì đầy trứng cá. Thành thực mà nói, tên hung thủ tàn nhẫn sát hại Hoàng Chức này vẫn còn là một tên nhãi ranh to đầu.
“Chào cậu, tôi là phóng viên Na Đa ở báo Ngôi sao buổi sớm!” - Tôi chào cậu ta như với các nhân vật được phỏng vấn bình thường khác. Thường tôi còn thêm một câu là “Rất vui được gặp cậu”, song lần này tôi đã lược bỏ.
Cậu ta gật đầu, gửi tặng tôi một nụ cười - không lấy gì làm tươi tỉnh, để đáp lễ.
“Cậu đi làm được mấy năm rồi?”
“Năm năm” - Lã Vãn Cường có vẻ hơi bất ngờ, bởi tôi chẳng vồ vập hỏi cậu ta về vụ mưu sát ngay.
“Cậu từng làm công việc gì?”
“Công nhân xây dựng, bảo vệ, vận chuyển máy móc, chuyển phát nhanh”.
“Cậu lấy vợ chưa?”
Cậu ta lắc đầu.
“Muốn kiếm chút tiền về quê cưới vợ hả?”
“Tôi muốn lấy vợ Thượng Hải!” - Cậu ta toét miệng cười, khi đó trông cậu ta có phần rất hồn nhiên và ngây thơ.
“Một mong ước khá đấy chứ, thế sao lại đi giết người, thiếu tiền à?”
Vẻ tươi cười trên mặt đối phương vụt tắt, im lặng một hồi, cậu ta cười nói: “Thích thì giết thôi”.
“Vì tiền à?”
“Thích thì giết thôi!” - Cậu ta hơi ngoảnh mặt đi, lặp lại câu vừa nói thêm lần nữa.
Tôi nhíu mày, rõ ràng vừa nãy mình đã tạo được bầu không khí thân thiện cho cuộc nói chuyện này mà. Định đợi đối phương thấy thoải mái hơn rồi mới hỏi, ai ngờ vừa nhắc đến việc kia, cậu ta đã vội xù lông nhím như bị chạm nọc.
“Là vì tiền à?”
“Chút chút”.
“Hình như cậu khai với cảnh sát là, do thấy cô ấy đẹp nên...”
“Cũng có một chút. Tôi đã nói thích thì giết mà!” - Cậu ta nhướn mày, nhìn tôi theo kiểu thách thức.
“Nhưng cậu không động chạm gì vào người cô ấy, chẳng phải thế sao? Dù là tiền hay tình, cậu cũng đều không động vào”.
“Giết người xong thì hoảng quá, nên tôi bỏ đi”.
“Vậy làm thế nào cậu biết là Hoàng Chức nghỉ trọ ở đó, cậu đã thấy cô ấy trước đấy, đúng không?” - Tôi đổi cách vào đề.
“Thấy hôm trước lúc đang đi dạo phố, bởi cô ấy đẹp nên mới để ý”.
“Cậu bám theo cô ấy về đến tận nhà trọ?”
Lã Vãn Cường cười rất lạ: “Tôi thấy một gã đàn ông theo đuổi cô ấy, hơi tò mò nên cũng bám theo”.
Ha! Hóa ra vào ngày hôm đó, trong khi gã gầy tôi thuê bám đuôi Hoàng Chức, thì sau anh ta còn một người khác bám theo.
“Vậy sao không hạ thủ ngay lúc đó?”
“Lúc đó thấy hơi do dự, sang ngày hôm sau mới hạ quyết tâm”.
“Cậu không thành thật!” - Tôi nhìn chằm chằm đối phương, “Muốn giết thì giết là hành động thôi thúc nhất thời, làm gì có chuyện lúc đó không thấy vậy, về nhà nghĩ một tối rồi hôm sau mới quyết định ra tay”.
Cậu ta không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, cũng chẳng cố tình tránh ánh nhìn của tôi.
Biểu hiện của cậu ta rất kì lạ, ánh nhìn không có vẻ gì là sợ sệt, ngược lại rất bình thản.
“Rất có thể cậu sẽ bị khép vào án tử hình, cậu biết không?”
“Biết!” - Lúc thốt ra từ này, cậu ta thậm chí còn cười, chẳng phải kiểu cười điên rồ cuồng loạn, cũng chẳng phải là cử động máy móc của cơ mặt không chút tình cảm gì như lúc vừa gặp tôi ban nãy. Trong nụ cười đó còn ẩn chứa một ẩn ý mà tôi chưa thể hiểu ra.
Lúc này, cậu ta tựa như kẻ tử vì đạo, tràn đầy kiên định và ung dung. Dù vậy, tôi chưa thể lý giải được điểm này, bởi thái độ đó của cậu ta khiến tôi cảm thấy vô cùng kì lạ.
“Đã giết người sao còn chưa bỏ trốn?” - Tôi cảm thấy không thoải mái, nên hỏi sang vấn đề sau.
“Tôi biết là chẳng thể chạy thoát, vì cảnh sát phá án rất nhanh”.
“Thế nên cậu mới đi chơi khắp nơi?”
“Đúng! Tranh thủ chút ít thời gian còn lại cuối cùng này”.
Cuộc chuyện trò giữa tôi và Lã Vãn Cường diễn ra trong khoảng tiếng rưỡi đồng hồ. Rõ ràng là rất nhiều lúc cậu ta đã chọn cách nói dối, một vài lúc khác thì chỉ trả lời bằng cách im lặng. Chẳng trách là cảnh sát trưởng không quyết định cho dừng vụ án này ở đây, vì phía sau chuyện này không có ẩn tình mới là lạ.
Buổi phỏng vấn này có thể coi như đã thất bại, trong đáy lòng Lã Vãn Cường vẫn có một số chuyện mà dù khéo léo thế nào, tôi cũng chẳng thể gợi ra.
“Ồ, cám ơn cậu đã bằng lòng tiếp nhận cuộc phỏng vấn này của tôi”.
“Dạ, không có gì!” - Cậu ta nói.
“Để đảm bảo độc chính xác về mặt thông tin, cậu hãy đọc qua phần ghi chép của tôi trong buổi phỏng vấn hôm nay, xem còn sai sót chỗ nào hoặc cần sửa gì không!” - Tôi vừa nói vừa đẩy cuốn sổ ghi chép vào cho đối phương qua cửa sổ.
“Không cần phải thế này đâu”.
Tôi cười cười, ra dấu tay bảo đối phương cứ tự nhiên.
Cậu ta cầm cuốn sổ ghi chép lên bằng hai bàn tay đang bị còng, chậm rãi đọc. Với cậu ta, việc tôi viết gì thực ra chẳng có mấy ý nghĩa. Song con người thường vẫn luôn hiếu kì, băn khoăn không hiểu một phóng viên sẽ viết gì về mình.
Do tốc kí với tốc độ nhanh nên chữ tôi viết khá to, kín bốn trang rưỡi: Cậu ta lật xem từng trang cho đến trang cuối cùng.
Tôi chăm chú theo dõi biểu hiện trên gương mặt đối phương. Cuối cùng, tôi cũng phát hiện thấy khi lật giở đến trang cuối vẻ mặt cậu ta hơi thay đổi.
Chỉ là một gợn thay đổi, khóe mặt cậu ta giật giật một cái, tựa như tâm thế đang tĩnh lặng như mặt hồ thu, bỗng gợn sóng bởi một hòn đá do ai đó ném vào, rồi lại nhanh chóng trở về trạng thái tĩnh lặng ban đầu.
Động tác gập sổ của cậu ta được thực hiện có phần hơi vội vã, khiến chiếc còng trên tay kêu lên leng keng.
Cậu ta đẩy trả cuốn sổ ghi chép lại cho tôi, qua cửa sổ.
“Có vấn đề gì không?” - Tôi hỏi.
“Không, không có vấn đề gì!” - Lã Vãn Cường đáp, gần như cậu ta đã bình ổn lại tâm trạng của bản thân, nhưng tôi nhận thấy mí mắt bên trái của cậu ta lại bất ngờ giật giật.
Tôi cười, cuối cùng thì chuyến đi lần này cũng không phí hoài.
Cảnh sát trưởng đứng đợi bên ngoài, thấy tôi ra liền hỏi: “Thế nào, tôi quan sát qua camera theo dõi, nên chẳng rõ nét mặt của hắn”.
Tôi giở cuốn sổ ghi chép ra, phần bên phải của trang đó có dán một bức ảnh nhỏ, chính là bức đặc tả khuôn mặt Tiết Dĩnh.
“Ánh mắt cậu ta không bình thường, có thể khẳng định đối phương nhận ra người này. Song cậu ta làm ra vẻ như không nhìn thấy bức ảnh này, chẳng hỏi gì tôi, mà chỉ vội vàng trả cuốn sổ lại. Tuy nhiên, tôi có thể khẳng định, ít nhất cậu ta cũng đã nhìn bức ảnh này ba giây”.
“Tôi biết tên đó có điều gì mờ ám mà!” - Cảnh sát trưởng tuyên bố với đôi chút phấn khích.
“Dù biết là có điều mờ ám, nhưng liệu đối phương có thành thật cung khai hay không thì lại là chuyện rất khó nói!” - Tôi nhớ lại ánh mắt của cậu ta, nói.
Cảnh sát trưởng xoa xoa chiếc cằm lởm chởm râu của mình, gật đầu nói: “Tên oắt này chẳng phải là tay dễ đối phó”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 11: Kết án không hoàn hảo

Cuối cùng tôi cũng đọc hết trang cuối của cuốn “Lược sử thời gian”. Cuốn sách mỏng tang này đã ngốn của tôi khối thì giờ, vậy mà còn không ít chỗ trong đó tôi vẫn chưa ngẫm ra. Đặc biệt phần giải thích về kết cấu thế giới theo kiểu hình học của “thuyết tương đối rộng” kì bí, đã khiến trong tâm trí tôi thường hiện lên những ảo giác về không gian bị uốn cong, tựa như di chứng để lại khi xem xong một bộ phim khoa học viễn tưởng. Đồ rằng chỉ số ít người, có thể đếm trên đầu ngón tay, trên thế giới, là thực sự hiểu được thuyết tương đối rộng; và nếu đúng vậy thì sự dốt nát của tôi là quá bình thường. Ngặt nỗi, tôi biết đó chỉ là lời nói vui.
“Thuyết tương đối rộng” được đưa vào đầu thế kỉ trước, hiện nay đã có một vài thuyết mới như “lý thuyết siêu dây” cố tìm cách thử hoàn thiện nó. Liệu tôi có nên xem qua lý thuyết này chăng, và liệu nó sẽ khiến mối nghi hoặc trong tôi giảm bớt hay tăng thêm?
Tôi gập cuốn “Lược sử thời gian” lại. Ngay sau một tiếng “bốp” nhẹ, như thể một cái van bị bật mạnh, dòng thác âm thanh ồn ào ban nãy được tôi chặn lại thành công giờ lại ào ạt rót thẳng vào tai tôi tựa một dòng nước lũ.
Bây giờ là 5 giờ 20 phút chiều, là khoảng thời gian ồn ào tiếng người trong phòng tin tức.
Cho dù “thuyết tương đối rộng” cao sâu thế nào, nhưng với tôi hiện giờ, nó cũng chẳng thể sánh bằng một loạt các câu đố vây bủa xung quanh câu chuyện về Hoàng Chức. Những điều tôi đã gặp, chẳng phải các mô hình vũ trụ cùng nhưng phương trình đòi hỏi phải có nền tảng lý thuyết uyên thâm mới hiểu được, mà là một loạt sự kiện thực tế đang diễn ra trước mắt. Đó là những thứ chỉ nhìn qua cũng rõ, nhưng dù vắt óc suy nghĩ, ta vẫn chẳng thể lần tìm ra mối liên hệ giữa chúng. Thậm chí ngay cả việc đưa ra một vài giả thuyết táo bạo, cũng là điều chẳng thể. Những cái tôi thấy chỉ là một vài manh mối nhỏ lẻ, đứt đoạn về mặt logic, nhưng tôi cũng biết rõ chúng là một chỉnh thể.
Thực tế, việc tôi đọc “Lược sử thời gian” vào thời điểm này, ngay tại đây cũng là một cách thư giãn, để giúp trí não thoát khỏi ngõ cụt không lối ra trong vụ án liên quan đến Hoàng Chức, để bản thân tạm thời có thể nghĩ đến những điều huyền diệu thú vị khác. Cách làm này xem ra đã khá thành công.
Tôi đưa mắt nhìn quanh, nhận ra mình chẳng thể hòa hợp với bầu không khí làm việc ồn ào náo nhiệt nơi đây. Tắt máy tính, tôi khoác cặp bước ra ngoài.
Ở cửa ra vào của tòa soạn, tôi gặp chủ nhiệm Tông Nhi, ông buột miệng hỏi: “Cuộc phỏng vấn cho bài phóng sự dài kì thế nào rồi, thuận lợi không?”
Tôi lắc đầu.
Ít nhiều ông cũng đã nắm được tình hình cơ bản của vụ án, nên hỏi: “Động cơ ra tay của hung thủ vẫn chưa được làm rõ sao? Tôi nhớ hôm nay cậu đi phỏng vấn bạn bè hung thủ mà, có phát hiện gì mới không?”
“Không ai trong số họ có thể tưởng tượng được rằng Lã Vãn Cường lại giết người. Hành tung thường ngày của Lã Vãn Cường đúng là có chút bí hiểm, song không có khuynh hướng bạo lực, tính tình khá điềm tĩnh. Tóm lại, chỉ có thể xem họ là bạn cùng trọ với Lã Vãn Cường, cũng chẳng nắm được gì nhiều về đối phương”.
Tông Nhi gật đầu, bảo: “Vậy à, thế gan ba te nhé”.
“Gan cái gì?” - Tôi nghe không rõ.
“Gan ba te, nghĩa là “cố gắng” theo tiếng Hàn. Ấy? Hình như phải là theo tiếng Nhật, Đợi chút... gần đây xem nhiều quá, nên cứ nhầm phim truyền hình Nhật với phim Hàn hết cả lên, nhưng dẫu sao thì từ này cũng có nghĩa đó”.
“Sao nghe từ miệng anh mà em cứ thấy rờn rợn!”
“Ha ha ha!” - Tông Nhi cười lớn ba tiếng, vỗ vỗ vai tôi, thiếu trách nhiệm bảo: “Tóm lại tôi tin cậu nhất định sẽ hoàn thành bài phóng sự này!” - Dứt lời, ông nghênh ngang đi vào trong.
Tôi thở dài, bất giác hồi tưởng lại cuộc phỏng vấn sáng nay.
Tiểu khu nơi Lã Vãn Cường thuê trọ cách bến tàu không xa lắm. Ban đầu họ định xây khu này thành khu tập thể cao cấp để bán với giá cao, nên đã phủ xanh và trang bị đầy đủ mọi thiết bị. Nhưng chẳng rõ bắt đầu từ ai hay nhà nào, đã ngăn nhà mình ra thành nhiều phòng cho những người từ nơi khác đổ về Thượng Hải thuê trọ, dần dà, số người bắt chước cách làm này mỗi lúc một nhiều hơn, và nơi đây đã trở thành khu ngụ cư của dân tứ chiếng - tốt xấu đủ cả, còn giá nhà đất thì mãi chẳng thể tăng như các khu khác.
Căn hộ Lã Vãn Cường ở gồm có ba phòng, phòng lớn nhất có hai người ở, gian để đồ rộng chừng vài mét vuông có một người ở, tổng cộng tất cả là năm nhân khẩu. Giá tiền phòng trọ đương nhiên cũng khác nhau, trừ hai người thuê chung phòng lớn, những người còn lại không quen biết gì nhau. Đây vẫn được xem là chỗ trọ rộng rãi, chỉ những người tìm được công việc kha khá ở Thượng Hải mới dám thuê, còn người mới về đây hoặc có thu nhập thấp, thì ở trọ trong kiểu một phòng kê sáu giường, như kí túc xá sinh viên đại học hồi xưa.
Tuy cùng sống dưới một mái nhà, song công việc mỗi người mỗi khác, giờ giấc đi về cũng chẳng giống nhau; có người còn đi làm lệch ca nhau, nên những người sống chung ở đây rất ít khi chạm mặt người khác. Trong gian phòng Lã Vãn Cương nghỉ trọ, tôi đã phỏng vấn hai người - được xem là có phần gần gũi với cậu ta.
Một người tên là Lô Vọng Thái, vóc người khô gầy, mới mười chín tuổi. Cái tên này nghe có vẻ khá lạ, tôi thầm nghĩ: liệu có phải tên trước đây của cậu ta là Vượng Tài, về sau vì nghe không nay nên mới đổi thành tên này chăng?
Lô Vọng Thái là nhân viên nghiệp vụ của công ty bảo hiểm. Ngoài thời gian làm công việc này, cậu ta còn làm nhân viên chào bán sản phẩm cho Amway, vì trong phòng thấy chất đủ loại chai lọ của Amway. Cậu từng chào bán bảo hiểm và sản phẩm Amway với tất cả những người cùng trọ, song cuối cùng chỉ có mình Lã Vãn Cường mua một chai thuốc tẩy của Amway. Mấy người sống ở đây đều không có nhiều tiền, nên việc Lã Vãn Cường có thể bỏ ra khoản tiền đó, đã khiến cậu cảm thấy Vãn Cường thực sự là một người tốt. Song đương nhiên, công lao lớn nhất vẫn thuộc về tài ăn nói của cậu.
“Lòng dạ tốt, kiên nhẫn nghe bạn bè nói chuyện, sẵn lòng giúp đỡ mọi người”, chính là ấn tượng của Lô Vọng Thái về Lã Vãn Cường. “Nếu không biết Lã Vãn Cường lạnh lùng xuống tay với một người phụ nữ chân yếu tay mềm, thì tôi thật sự nghĩ rằng Lã Vãn Cường đáng được xem là tấm gương mẫu mực của người từ nơi khác về Thượng Hải.”
Người chơi thân với Lã Vãn Cường còn lại là một anh chàng có vóc dáng nhỏ bé, tên Tần Đông, là nhân viên chuyển phát nhanh cho một công ty chuyển phát. Vì phơi nắng phơi mưa suốt ngày ngoài mặt đường thành ra cậu ta đen như bồ hóng. Cậu ta là người sống trong căn nhà kho chật chội. Lúc mới về Thượng Hải, không tìm được việc làm, chính Lã Vãn Cường khi nghỉ việc ở công ty chuyển phát nhanh, đã giới thiệu cậu ta vào làm thay.
Do cái ơn đó nên Tần Đông rất cảm kích Lã Vãn Cường, và càng chẳng thể nói xấu đối phương. Hệt như Lô Vọng Thái, Tần Đông cũng không thể tin Lã Vãn Cường đã phạm tội giết người, thậm chí còn tỏ ý bất hợp tác với phóng viên tôi đây. Cậu ta đã hỏi đi hỏi lại mấy lần rằng liệu Lã Vãn Cường có giết người thật không, hay là phía cảnh sát nhầm.
Từ sau khi nghỉ làm chuyển phát nhanh, Lã Vãn Cường chuyển sang làm công việc gì thì Tần Đông và Lô Vọng Thái đều chẳng hề hay biết. Hàng ngày, Lã Vãn Cường vẫn đi sớm về tối như trước. Khi được hỏi là đang làm gì, Vãn Cường chỉ cười mà không nói.
“Em nghĩ cậu ấy có tâm sự!” - Tần Đông cho tôi biết từ sau khi chuyển sang làm công việc bí mật, Lã Vãn Cường “thường ngẩn ngơ, thẫn thờ nhìn gì đó, đến mức người khác có khua tay trước mặt thì chưa chắc cậu ấy đã để ý. Có một khoảng thời gian, cậu ấy rất lờ đờ, ủ rũ. Em và Lô Vọng Thái có hỏi thăm, nhưng cậu ấy chỉ bảo là không có chuyện gì”.
Nói đến đây, Tần Đông chau mày, lắc đầu bảo: “Dù gì em vẫn không thể tin cậu ấy lại giết người!”
Câu nói oán giận đang mấp mé chực phun trào trong tôi đã được kịp thời ghìm lại, tôi vội nói: “Cậu ấy có giết người hay không thì bây giờ cậu cũng nên cho tôi biết mọi điều mình biết, chúng có thể làm sáng tỏ chân tướng sự thật”.
Tần Đông nhìn tôi với ánh mắt vô định, đoạn tiếp: “Cậu ấy nghĩ gì trong đầu thì bọn em không biết, em cảm thấy có vài lần lúc đang tán gẫu, cậu ấy định nói gì đó nhưng cuối cùng lại thôi. Rồi một thời gian sau cậu ấy đã tươi tỉnh trở lại”.
“Đúng là có tươi tỉnh hơn một chút, song vẫn có gì đó khang khác với hồi xưa!” - Lô Vọng Thái, người cũng được tôi phỏng vấn, nói chen vào. Là nhân viên chào hàng nên con mắt quan sát nhìn người của cậu này phần nào sắc sảo, nhạy bén hơn.
“Khác ở điểm nào?”
“Rất khó nói, ánh mắt cậu ấy lúc nhìn mọi người rất không bình thường”.
“Đúng là hơi khác!” - Tần Đông gật đầu phụ họa, “Đôi khi ánh mắt đó có thể dõi vào anh, khiến anh dựng tóc gáy”.
Tôi hỏi họ rốt cuộc là khác ở điểm nào, nhưng họ chẳng thể cho tôi lời giải thích thỏa đáng. Cảm giác như nếu có thể truyền đạt được cho người khác biết cảm nhận của mình về điều huyền bí này, họ đã trở thành nhà nghệ thuật tài ba rồi. Rõ ràng về phương diện này thì Tần Đông và Lô Vọng Thái vẫn còn thiếu tố chất.
Thế nên tôi chẳng tìm được lý do nào có thể xui khiến Lã Vãn Cường giết người từ hai người bọn họ. Điều duy nhất tôi biết là: trước khi giết người một khoảng thời gian, Lã Vãn Cường trở nên rất kì lạ. Tính từ lúc nghỉ việc ở công ty chuyển phát nhanh, thì thời gian này kéo dài khoảng bốn, năm tháng.
Nếu sự thay đổi của Lã Vãn Cường liên quan đến cái chết của Hoàng Chức thì lẽ nào cậu ta đã lên kế hoạch từ bốn, năm tháng trước?
Tôi tập trung hỏi cậu Tần và cậu Lô, trước hôm hành động mấy ngày, Lã Vãn Cường có biểu hiện gì khác lạ không, nhưng họ lại cảm thấy tinh thần Lã Vãn Cường vào thời điểm đó rất ổn, như thể đang vui mừng về vài chuyện gì đó. Từ sau khi nghỉ việc ở công ty chuyển phát nhanh, Lã Vãn Cường thắt chặt chi tiêu hơn nhiều, vậy mà trước khi xảy ra chuyện một tuần, cậu ta lại mời các bạn cùng nhà đi đánh chén một bữa. Sau đó, Lã Vãn Cường nói phải đi công tác, mấy ngày không về nhà, cho đến hôm trước khi xảy ra sự việc trên một ngày, cậu ta mới xuất hiện trước mặt Tần Đông và Lô Vọng Thái.
Tiếng “rì rì” phát ra từ chiếc di động đã khiến tôi định thần lại.
Một tin nhắn đến từ Hà Tịch, vẻn vẹn có ba từ, từ trước đến giờ lúc nào cô ấy cũng ngắn gọn vậy.
“Kết án rồi”.
Giật mình sửng sốt, tôi vội trả lời lại, hỏi: “Kết thúc luôn rồi sao? Nhanh vậy, hung thủ thú nhận hết rồi à?”
Đợi một lúc không thấy Hà Tịch trả lời tin nhắn, không chờ được, tôi gọi điện thẳng cho cảnh sát trưởng.
“Cảnh sát trưởng Hoàng, tôi nghe nói vụ này đã kết thúc?”
“Vâng, đã khép lại rồi, anh nắm tin nhanh thật đấy”.
“Lã Vãn Cường thú nhận tất cả rồi sao?”
Cảnh sát trưởng thở dài qua điện thoại, đáp: “Chưa”.
“Thế sao lại kết án, biết đâu còn một loạt sự kiện chưa được làm sáng tỏ bên trong thì sao?”
“Là vì giới truyền thông các anh!” - Cảnh sát trưởng cười đau khổ.
“Chúng tôi?!”
“Vụ án thông thường còn có thể tiến hành từ từ, còn vụ này thì ngay ngày thứ hai, kể từ khi cảnh sát phát hiện ra vụ việc, đã thấy tin bài xuất hiện trên mặt báo. Giới truyền thông theo vụ này rất sát, khiến chúng tôi gánh chịu rất nhiều áp lực. Giờ hung thủ đã bị tóm, có thể xác nhận cậu ta là thủ phạm gây án, và ngay bản thân cậu ta cũng đã thừa nhận, nên có thể xem như chứng cứ hoàn toàn là xác thực. Nếu hoãn việc kết án với lý do chưa rõ động cơ thì thật sự là...”
“Tôi có thể hiểu!” - Nói vậy song tôi vẫn phải thở dài. Tôi có thể hiểu nỗi khổ của anh ta, nó cũng giống như việc vì sao cảnh sát Pháp phải kết án dù vẫn còn điểm nghi ngờ. Trong trường hợp có thể kết án thì sao cảnh sát phải giơ đầu gánh chịu áp lực càng lúc càng lớn hơn từ dư luận, chỉ để đổi lấy cái kết chu toàn hơn? Hơn nữa, hẳn họ cũng phải chịu áp lực về mặt thời gian phá án từ cấp trên.
Bên công tố sẽ sớm đưa ra bản cáo trạng, nhưng những vụ án được quan tâm thế này, thì chắc sẽ được xét xử công khai, để mọi người đến dự. Kiểu gì thì cậu ta cũng bị khép vào khung hình phạt tử hình chờ thi hành án, nếu thành khẩn thì sẽ được kéo dài thời gian, nhưng vì thái độ nhận tội không tốt lắm nên rất có khả năng cậu ta sẽ bị tuyên phạt xử bắn ngay lập tức. Nếu sau khi tòa tuyên án, cậu ta không chịu được áp lực nên thành khẩn khai nhận thêm, thì còn có cơ được giảm án, giờ chỉ hi vọng vào khả năng đó thôi.
Tôi nhớ lại tinh thần của Lã Vãn Cường hôm tôi vào thăm cậu ta trong trại giam. Đã sớm biết kết cục gì đang đợi mình phía trước, thì liệu cậu ta có bất ngờ suy sụp tinh thần vào thời khắc then chốt cuối cùng đó chăng? Vậy nhưng chuyện này chưa thể khẳng định được gì. Chuẩn bị cho sự ra đi của mình là một chuyện, có thể buông tay chấp nhận để lưỡi hái tử thần từ từ vồ lấy mình hay không lại là chuyện khác. Con người luôn có tâm lý ham sống sợ chết, trừ khi...
Trừ khi với cậu ta còn điều gì đó quan trọng hơn cả tính mạng.
“À đúng, về sau chúng tôi còn điều tra cả Thôi Hành Kiện”.
“Thôi Hành Kiện, là ai nhỉ?”
“Chính là kẻ biến thái thích theo đuôi các cô gái mà anh đã nhắc đến trong cuộc phỏng vấn Lã Vãn Cường ngày hôm kia. Lúc anh đề cập đến người này trong buổi tường trình đầu tiên, chúng tôi cũng đã tìm anh ta thẩm vấn, song vì không thấy gì đáng nghi, nên đã để anh ta ra về. Nhưng ngày hôm kia, Lã Vãn Cường lại kể với anh rằng vào ngày trước ngày mưu sát, cậu ta đã bám theo Thôi Hành Kiện đến tận chỗ quán trọ nơi Hoàng Chức nghỉ. Nếu đúng là vậy, thì với một nơi có không gian nhỏ hẹp như quán trọ đó, lúc quay người xuống tầng sau khi thấy Hoàng Chức vào phòng 319, Thôi Hành Kiện phải nhìn thấy Lã Vãn Cường chứ.”
“Chà, đúng thế! Lã Vãn Cường chắc chắn phải lên tầng trên mới biết Hoàng Chức nghỉ ở phòng nào. Thế anh chàng bám đuôi trả lời thế nào?”
“Anh ta bảo không trông thấy Lã Vãn Cường, và cũng khẳng định nếu có người bám theo đến chỗ quán trọ, thì nhất định anh ta sẽ phát hiện ra, trừ khi đấy chỉ là một con mèo!”
“Lã Vãn Cường giải thích thế nào?”
Cảnh sát trưởng Hoàng “hừ” một tiếng, bực bội đáp: “Hắn nói hắn rất cẩn thận nên không bị anh chàng Thôi kia phát hiện ra”.
“Vô lý!”
“Tuy biết là vô lý, song làm được gì hắn, giờ ngay đến chết hắn còn chẳng sợ nữa là!”
Tôi lặng lẽ kết thúc cuộc điện thoại với cảnh sát trưởng. Điều tra bên phía cảnh sát, xác nhận hành động giết người của Lã Vãn Cường đối với Hoàng Chức không đơn thuần là suy nghĩ nhất thời thích giết thì giết như cậu ta nói, mà cậu ta biết nơi Hoàng Chức ở thông qua một đầu mối khác. Đầu mối này liên quan mật thiết với thứ cậu ta đang tìm mọi cách che đậy, và thà chết chứ quyết không khai.
Tôi đứng ngẩn ra bên vệ đường người qua kẻ lại, mải đuổi theo dòng suy tưởng không đầu mối của bản thân, trong khi sắc trời đã dần chuyển tối.
“Rì rì”, di động vang lên.
Lại là tin nhắn từ Hà Tịch. So với tin nhắn trước, lần này nó còn ngắn gọn hơn, vẻn vẹn chỉ có mỗi hai từ:
“Đồ ngốc!”
Tôi ngẩn người nhìn hai từ này. Mình đã làm gì mà bị cô ấy mắng là đồ ngốc chứ?
Lạ thật, ban đầu cô ấy bảo tôi là đã kết án, mà chẳng thèm hồi âm; sau một lúc lâu rồi lại nhắn tin mắng tôi là đồ ngốc.
Nhưng nếu bây giờ tôi gọi điện lại hỏi cô ấy tại sao lại bảo tôi thế, há chẳng phải càng khiến tôi yếu thế hơn ư?
Tôi cầm điện thoại, chau mày lại. Đã kết án, rồi nhảy phắt sang thành đồ ngốc. Ba từ trước với hai từ sau thì có liên quan gì với nhau?
Bung sôi ùng ục một chập, tôi chợt ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đang càng lúc càng sẫm lại.
Tôi quả là một gã ngốc.
Hà Tịch báo tôi đã kết án, nghĩa là cô ấy đã bàn giao lại cái xác Hoàng Chức, và không còn phải nghiên cứu tìm hiểu mổ xẻ lại cả ngày nữa. Thế nghĩa là bây giờ cô ấy đang rảnh rỗi. Hơn nữa, sau một thời gian dài bận rộn như vậy, ai lại không muốn thư giãn vui chơi một chút chứ. Thêm một điểm nữa là: giờ là thời điểm của bữa tối.
Nhưng nếu không suy ra ẩn ý đằng sau ba từ đó mà đã bị xem là kẻ ngốc, thì kẻ ngốc trên đời này hẳn không ít chút nào.
Không thêm ý kiến gì khác nữa, tôi lập tức gọi vào máy di động của Hà Tịch.
“Em vẫn đang ở sở cảnh sát phải không, anh đến ngay đây, em định đi đâu dùng bữa tối?” - Tôi hỏi han bằng giọng điệu vô cùng nịnh nọt.
Hà Tịch chỉ hứ nhẹ một tiếng.
Tôi như kẻ nhận được thánh chỉ vua ban, vội nhào ra lề đường, khua tay loạn xạ và hét lên: “Taxi! Taxi!”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 12: Tổ chức kì lạ

Trong sảnh đợi tàu điện ngầm sáng choang ánh đèn, còn ngoài kia đêm đã về khuya.
Hà Tịch đi phía trước, tôi vội nối bước theo sau.
Gió nhẹ thổi.
“Đủ rồi đấy, anh còn định theo tôi đến khi nào nữa, chúng ta đã kết thúc rồi!” - Hà Tich thình lình đứng sững lại, nghiêm mặt nói.
Tôi lúng búng nói không thành lời.
“Ngừng ở đây được rồi đấy, từ giờ trở đi anh đừng bao giờ để tôi thấy cái mặt anh nữa!” - Cô lạnh lùng bảo.
Ánh đèn thắp sáng hành lang tối đen như mực, gió chợt nổi lên.
“Hãy cho anh thêm cơ hội nữa, nhất định anh sẽ làm được, em...” - Tôi chưa nói hết câu đã nhận được một cái bạt tai giáng mạnh lên má. Đi kèm cảm giác nóng ran nhức nhối là tiếng còi đanh gọn, cùng ánh mắt ngạc nhiên của những người xung quanh.
Tuy chỉ là trạm nhỏ và có rất ít người còn đợi tàu giờ này, song Hà Tịch vẫn luôn là cô gái có khả năng thu hút mọi ánh nhìn của những người xung quanh ở bất kì đâu. Vậy nên dù mọi người không vây lại xem, thì cũng chẳng nghi ngờ gì là chúng tôi đã trở thành tiêu điểm của mọi cặp mắt quanh đó, gồm cả người mẹ đi cùng cô con gái, một đôi tình nhân ngồi trên băng ghế dài, một người trung niên đi làm ca đêm, cùng một bảo vệ.
Tôi sững sờ nhìn Hà Tịch, thật không ngờ cô ấy lại ra tay đánh tôi.
Tia nhìn trìu mến thoáng lướt qua đôi mắt xanh nhạt của Hà Tịch, rồi chỉ sau một chớp mắt, cặp mắt ấy lại trừng lên đầy dữ dằn.
Tiếng ầm ầm càng lúc càng rõ, tàu điện ngầm gầm gào tiến đến, mấy sợi tóc bị gió thổi lòa xòa bay hai bên má cô.
“Đừng gọi cho tôi nữa, tôi sẽ đổi số di động!” - Dứt lời, Hà Tịch bước lên tàu điện ngầm. Tiếng còi cảnh báo rát tai lại vang lên, cửa tàu điện ngầm từ từ khép lại, ngăn cách cô trong một thế giới khác, rồi rầm rập lao đi.
Gió lặng, ánh đèn mờ dần, khiến khu hành lang nơi đây lại được che phủ trong màn đêm đặc quánh.
Tôi bước lại chỗ băng ghế dài ngồi thụp xuống, đưa tay lên bưng mặt, từ từ gục người. Những chuyến tàu cứ đến rồi đi, những hành khách đi tàu buổi tối băng ngang qua chỗ tôi ngồi - mà tôi hoàn toàn không để ý. Nếu thực sự Hà Tịch bỏ tôi mà đi, thế giới này với tôi còn ý nghĩa gì nữa?
Tôi không rõ là bao lâu, tâm trạng con người có thể chi phối dòng thời gian, khiến nó hoặc trôi nhanh hơn hoặc chậm lại, còn lúc này đây, chiếc đồng hồ trong ý thức của tôi đã dừng lại từ lâu rồi.
“Này!” - Ai đó vỗ vào vai tôi.
Tôi ngẩng đầu, thì ra là người bảo vệ, tôi nghĩ hẳn anh ta đã đứng nhìn mình rất lâu rồi.
“Vừa nãy chuyến tàu cuối đã đi rồi!” - Anh bảo tôi.
“Ồ!” - Tôi ậm ừ một tiếng, rồi lại cúi đầu.
“Tôi bảo này, cậu không thể ngồi đây suốt đêm được!” - Người đàn ông kia nói.
Tôi chầm chậm đứng lên. Tôi tin, lúc này mình chắc chắn trông vô cùng ủ rũ.
Tôi ra chỗ khác, song không phải là hướng cửa ra, mà tiến đến trước một máy bán hàng tự động, thẫn thờ nhìn nó một hồi, rồi bất ngờ tung ra một cú đấm thật mạnh.
“Này anh kia!” - Bảo vệ kêu lên, chạy đến chỗ tôi.
Chẳng thèm để ý đến anh ta, tôi hậm hực bồi thêm một cú đá cho cái máy.
“Cạch!” - Một lon Coca từ chiếc máy bán hàng tự động lăn ra.
“Xin cảm ơn và hẹn gặp lại quý khách!” - Giọng ghi âm phát ra từ chiếc máy bán hàng tự động. Bảo vệ chạy đến bên, nhìn chiếc máy rồi lắc đầu nói: “Cậu có giận cũng đừng trút giận lên nó chứ, may là còn chưa đá hỏng đấy, nếu không cậu phải đền rồi đấy”.
Tôi ngẩn người nhìn đối phương, mà như thể đang nhìn vào nơi khác.
“Đối với tôi thì thế giới này chẳng còn ý nghĩa gì cả!” - Tôi nói bằng giọng điệu của kẻ mất hồn.
Bảo vệ là một người đàn ông trung niên, chừng hơn bốn chục tuổi. Anh ta nhìn tôi bằng một ánh mắt lạ lùng, rồi đập vào vai:
“Cậu nói rất đúng, thế giới này vốn dĩ đã là vô nghĩa!” - Anh ta nói, “Ta gặp vô vàn khó khăn, rắc rối trong cuộc đời, nhưng nếu có tín ngưỡng thì khó khăn nào rồi cũng qua thôi”.
“Tín ngưỡng ư? Thượng đế ư?” - Tôi nhìn anh ta một cái, “Tôi không theo tín ngưỡng nào cả, không gì hết”.
“Tín ngưỡng không chỉ là niềm tin vào Thượng đế!” - Anh ta mỉm cười với tôi, “Dù sao cũng sắp hết ca làm của tôi rồi, tôi đi chung cùng cậu một đoạn nhé”.
“Tùy anh!” - Tôi thờ ơ đáp.
Dù nói vậy nhưng sâu trong thâm tâm tôi, lại vang lên tiếng hò reo vui mừng.
Những tình cảm ấp ủ bao lâu nay, chịu đựng bao ánh nhìn từ người đi đường, cùng kĩ năng đóng kịch tài ba được phát huy, cuối cùng mình đã làm hắn cắn câu.
Thêm nữa, tôi ước gì ngay bây giờ mình có thể đi tìm Hà Tịch để tính sổ với cô ấy. Trong kịch bản đã nói rõ ban đầu đâu có đoạn cô “tặng” tôi một cái bạt tai. Tuy diễn viên có thể tự do ứng biến nhưng trong chừng mực nhất định nào đó, song cũng không nên ứng biến quá đà như vậy chứ. Lát nữa, nhất định tôi sẽ trả lại cô ấy cả vốn lẫn lãi. Bắt đền thế nào nhỉ, ha ha, nghĩ thôi cũng thấy đã rồi.
Bảo vệ trạc tuổi trung niên, đang sắm vai người tốt sánh bước cạnh tôi lúc này tên là Viên Cát. Để nói rõ đầu đuôi xuôi ngược chuyện này, ta cần quay trở lại cuộc nói chuyện vào tối hôm kia của tôi và Hà Tịch.
Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hẹn hò với Hà Tịch hôm đó, thì toan tính đòi lên nhà cô ngồi nhâm nhi cà phê của tôi lại chẳng thành, nhưng tôi biết mình cần tiền dần từng bước.
Đang vừa huýt sáo miệng vừa ngân nga một giai điệu nhỏ về đến trước cửa nhà, thì tôi bị ai đó chặn lại.
“Cậu là Na Đa?” - Chị ta hỏi.
Tôi gật đầu.
Chị ta đưa mắt nhìn tôi từ đầu xuống chân dò xét.
Sau chừng mấy phút, không chịu được thêm, tôi hỏi: “Tối thế này chắc chị chẳng nhìn rõ được đâu. Có cần tôi ra chỗ nào sáng hơn để chị nhìn cho đã mắt không?”
“Được lắm!” - Chị ta lập tức đồng ý.
Tôi choáng đến mức suýt ngã lăn ra đất.
“Thưa thím, thím tìm tôi có việc gì?” - Tôi liền hỏi. Có hai hạng người mà ta tốt nhất không nên vòng vo với họ, một là những người thông minh, hai là những kẻ lỗ mãng.
“Ta đi chỗ khác nói chuyện!” - Chị ta híp mắt cười bảo, rồi đủng đỉnh đi trước.
Tôi ghét nhất những kẻ cố làm ra vẻ huyền bí… dù vậy tôi vẫn ngoan ngoãn đi theo chị ta. Tốt nhất đừng nên chọc vào loại người có điệu bộ như vậy.
Cửa xe chiếc Buick đa dụng màu đen đỗ bên lề đường tự động mở ra. Bà thím lên xe trước, rồi đưa một cánh tay mập mạp ra ngoài cửa xe vẫy vẫy về hướng tôi.
Trong xe sáng ánh đèn, gần như chẳng còn ai khác bên trong, tài xế ngồi ở ghế lái đằng trước, im lặng không nói gì. Tôi bước đến chỗ cửa xe, rồi dừng lại mà không vào.
“Chị là ai?” - Tôi chống tay lên khung cửa xe hỏi lại lần nữa. Tùy tiện lên xe người khác ư, chị xem tôi ngây thơ và dễ mắc lừa như gái mới lớn vậy à? Vừa hỏi tôi vừa cẩn thận quan sát động tĩnh bốn phía xung quanh, bởi trong phim nếu nhân vật chính làm vậy, anh ta sẽ ăn một gậy vào phía sau gáy rồi ngất đi và bị khênh lên xe.
“Tôi là trưởng ban ban văn hóa tôn giáo của thành phố, nghe Quách Đông nói cậu là anh chàng rất thú vị”.
“Ban văn hóa?” - Tôi nghi hoặc hỏi. Đêm hôm khuya khoắt người của ban văn hóa tôn giáo thành phố đến chặn cửa nhà tôi làm gì nhỉ?
“Là ban văn hóa tôn giáo, không phải ban văn hóa. Có cần xem chứng nhận của tôi không?” - Chị ta hỏi, rồi chìa một tấm thẻ dày ra.
Tôi mượn ánh đèn đường săm soi kĩ lưỡng tấm thẻ một hồi lâu, rồi trả nó cho vị chủ nhân và chui vào xe.
Cửa xe từ từ khép lại.
“Cậu có phân biệt được thẻ này là thật hay giả không?” - Chị ta cất tấm thẻ vào ví, miệng hỏi.
“Không!” - Tôi thật thà đáp, “Song chị đã nhắc đến cái tên Quách Đông”.
Quách Đông, phó phòng cảnh sát đặc nhiệm của công an thành phố, có thể xem như chỗ bạn bè của tôi. Đây là phòng ban đặc biệt, có gần như hầu hết toàn bộ hồ sơ về tôi, và tôi cũng từng được tiếp cận họ trong một vài dịp.
Chị ta lắc đầu nhìn tôi, bảo: “Cậu có vẻ dễ mắc lừa quá đấy!”
Tôi giật nảy mình, vội vàng giật mở cửa xe song nó đã khóa rồi còn đâu.
“Nhưng tôi chẳng lừa cậu đâu!” - Chị ta nhẫn nại nhìn tôi ra sức giật giật tay nắm xe hai lần rồi mới chậm rãi lên tiếng.
“Làm cấp dưới của chị hẳn phải rất khốn khổ!” - Tôi giận dỗi nói.
“Đây, lại đây ngồi đi!” - Chị ta vỗ vỗ lên ghế đối diện.
Tôi khom lưng nhoài người qua chỗ đó, dưới ánh đèn, gương mặt chị ta hiện lên với vẻ dịu dàng, hòa nhã. Đương nhiên tôi đã biết đây là một nhân vật lợi hại, đáng gờm hơn cả Quách Đông.
“Thường mọi người không rõ lắm về ban chúng tôi. Ban văn hóa tôn giáo phụ trách các việc liên quan đến văn hóa tinh thần và phải là việc thực sự quan trọng”.
“Nghe như kiểu chơi chữ ấy nhỉ!”
Chị ta cười cười: “Lại làm bộ làm tịch như đứa trẻ đang giận dỗi rồi”.
Tôi hơi bĩu môi.
“Những vụ chúng tôi chịu trách nhiệm đều là các vụ gây ảnh hưởng, tác động xấu nghiêm trọng cho công tác xây dựng tinh thần văn hóa văn minh và tôn giáo!” - Chị ta đảo mắt nhìn khắp lượt mặt tôi rồi tiếp.
“Ta có thể đi vào chi tiết hơn không?”
“XXX” - Chị ta thốt ra tên một người.
“Chống lại tà giáo?” - Tôi hơi thấy bất ngờ.
“Đây đúng là nhiệm vụ công việc trọng tâm của chúng tôi. Xử lý mấy việc này rất phiền hà, nên chúng tôi phải phối hợp với nhiều ban ngành khác. Gần đây, cục cảnh sát thành phố đã tóm được một tên, vừa hay hắn đúng là phần tử khả nghi chúng tôi đang theo dõi sít sao, chuyện này đôi phần cũng liên quan đến cậu đấy”.
“Lã Vãn Cường à?” - Tôi lập tức nghĩ đến cậu ta, “Cậu ta là phần tử tà giáo? Giáo phái gì vậy?”
“Một tổ chức tà giáo xét trên quy mô chưa hẳn là quá lớn, mới thành lập vài năm, và giờ đang trong thời kì khuếch trương phát triển.” - Chị ta xòe bàn tay trái mũm mĩm, rồi đặt đầu ngón cái bên tay phải lên lòng bàn tay dí dí mấy cái, “Ta phải nhanh chóng tìm cách dẹp yên chúng”.
Chị ta vừa làm động tác mô phỏng bằng tay vừa ha ha cười, khiến tôi cảm thấy hơi đáng sợ. Biết đâu trong biểu tượng tạo ra từ bàn tay và ngón tay cái múp míp đó của chị ta, lại chứa đựng sự ác liệt ghê gớm.
“Lã Vãn Cường là một trong vài tín đồ vòng trong mà chúng tôi đang để ý. Nói cách khác, cậu ta có thể được xem là tín đồ ngoan đạo của hội tà giáo đó. Lý do cậu ta giết người rất có thể có liên quan đến hội tà giáo này. Chúng có những hành động cực đoan, gây nguy hại cho xã hội như vậy là điều vượt ngoài dự tính của chúng tôi, bởi thế giờ ta cần phải nhanh chóng hành động”.
“Việc này thì liên quan gì đến tôi?”
“Chẳng phải cậu rất sốt sắng điều tra vụ này à? Giúp chúng tôi thám thính giáo phái đó, cậu sẽ biết tại sao Lã Vãn Cường lại giết người. Hơn nữa, chúng tôi cũng rất muốn có một phóng viên có khả năng viết bài về quá trình đánh sập tổ chức tà giáo đó. Xông pha nơi tuyến đầu, cậu sẽ nắm được các tư liệu, thông tin đắt giá đấy!” - Chị ta chậm rãi bày tỏ ý định của mình.
“Nhưng vừa nãy chẳng phải chị đã nói tôi là đứa dễ bị lừa à; liệu tôi có thể lọt vào hội tà giáo đó dễ dàng vậy không?”
“Nói vậy là cậu đã đồng ý…”
“Này, này!”
“Chớ lo, loại cáo già như tôi chẳng phải là kiểu người cậu có thể dễ dàng chạm trán ở bất kì đâu; hơn nữa, người trẻ phải chịu khó luyện rèn thì mới mong trưởng thành được chứ”.
“Không phải là nhiệm vụ này quá nguy hiểm, nên không cấp dưới nào của chị dám nhận sao?”
“Cấp dưới của tôi ấy à, không dám cũng phải nhận!” - Chị ta tủm tỉm cười nói, “song với những tổn thất có thể tránh được thì cố gắng tránh vẫn tốt hơn. Quách Đông nói số cậu rất may mắn, chẳng dễ gì chết được”.
Tôi trừng mắt nhìn chị ta y như tuyệt chiêu giết người chỉ nhìn bằng ánh mắt trong truyền thuyết.
Chị ta chẳng cảm thấy mất tự nhiên chút nào, mà còn thản nhiên lấy ra một bì thư lớn bằng giấy da bò dày, đưa cho tôi.
“Bên trong là chút thông tin chúng tôi đã nắm được cùng một vài thành viên cao cấp trong hội tà giáo mà chúng tôi gợi ý, cậu hãy cố gắng tìm cách tiếp cận. Bởi chúng đang rất cần mở rộng quy mô, nên cậu sẽ nghĩ ra cách để bắt liên lạc với chúng thôi. Được rồi, tuy hội tà giáo này hơi cổ quái, song chưa phải là nguy hiểm lắm. Hay cậu định từ bỏ việc theo đuổi vụ án liên quan đến Hoàng Chức? Nếu chúng tôi tự điều tra thì mọi thông tin kết luận sẽ được giữ kín, lúc đó chắc cậu chẳng thể biết gì đâu!”
Tôi do dự một lát, rồi cầm lấy chiếc bì thư.
“Tôi xem thứ trong này rồi ta nói chuyện sau, nhưng thế không có nghĩa là tôi nhận đâu đấy!”
“Vậy thì, chúc cậu có giấc ngủ thật ngon đêm nay”.
Cửa xe lại mở ra, từ đầu chí cuối, tài xế ngồi ở ghế trước chẳng hề hé răng nói câu nào, cũng chẳng quay đầu lại nhìn, anh ta hệt như một người gỗ. Tôi xác nhận lại quan điểm ban nãy của mình, làm nhân viên dưới quyền chị gái này hẳn vô cùng, vô cùng, vô cùng vất vả.
“À đúng, chị muốn tìm tôi sao không gọi điện trước, mà lại đứng trước cửa nhà chặn tôi thế?” - Trước khi xuống xe tôi hỏi.
“Sáng mai sau khi tỉnh dậy, cậu không quên bà chị gái phốp pháp này đấy chứ?”
“Đương nhiên chẳng thể nào, nhưng điều đó thì liên quan gì đến câu hỏi của tôi?”
“Cậu thấy đấy, cách làm này chẳng phải sẽ khiến người khác thấy ấn tượng và hiệu quả hơn sao? Tôi khá thích gây bất ngờ nho nhỏ, thú vị cho mọi người. À mà với thời tiết oi nóng này, đứng đợi ở ngoài một lát là đã toát hết mồ hôi rồi, tắm rửa phiền phức lắm”.
Tôi vội vàng xuống xe, mải miết đi một mạch, chẳng hề quay đầu lại nhìn.
Nghiên cứu qua chỗ tài liệu bà chị kia đưa, tôi biết hội tà giáo có tên gọi là “Thánh Nữ giáo” này khi muốn thu hút thành viên mới đặc biệt hứng thú với những người đang gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống, nhằm tận dụng tình trạng sa sút tinh thần của đối phương. Thế nên tôi đã chọn Viên Cát làm đối tượng tấn công, cùng Hà Tịch dựng lên một màn kịch, và quả nhiên đối tượng đã cắn câu.
Ở lần gặp đầu đương nhiên chẳng thể nói gì nhiều, Viên Cát chỉ an ủi tôi mấy câu đầy thiện ý, rồi bâng quơ nhắc đến vấn đề “tín ngưỡng”. Thấy tôi hứng thú, hắn liền đề nghị chúng tôi trao đổi thông tin liên lạc và hẹn khi nào rảnh sẽ đến tìm tôi nói chuyện nhiều hơn.
Tôi không muốn tỏ ra quá chủ động, vồn vã, nên chỉ đợi Viên Cát gọi điện cho mình. Một buổi tối mấy ngày sau đó, màn hình điện thoại di động của tôi cuối cùng cũng hiện lên cái tên tôi chờ đợi bấy lâu. Qua điện thoại, hắn ta nhiệt tình mời tôi đến tham dự buổi tụ họp của bọn chúng. Tôi làm ra vẻ chần chừ, do dự, rồi cuối cùng mới xuôi theo lời khuyên của đối phương.
Địa điểm tụ họp của hội tà giáo này chẳng phải được tổ chức ở nơi ma mị nào, mà là ở ngay một ngôi trường trung học.
Đấy là ngôi trường trung học bình thường ở khu Bắc Thượng Hải, Viên Cát đã đứng sẵn trước cổng trường đợi tôi. Trời mới bắt đầu nhá nhem, còn chưa đến bảy giờ.
Nhà trường cho thuê phòng học để thu tiền là một chuyện thường tình, vì cũng không rõ người trực tiếp đến thuê đứng tên dưới danh nghĩa gì. Nếu buổi tụ họp trong nhà trường của hội tà giáo này mà lộ ra, hẳn vị hiệu trưởng sẽ khó giữ được cái ghế của mình.
Nơi diễn ra buổi họp là một phòng học được xây theo kiểu bậc thang, rộng gấp hai lần phòng học bình thường. Tôi đi cạnh Viên Cát, thấy từ lúc ở cổng vào, thỉnh thoảng hắn ta lại chào hỏi ai đó, nên thầm nghĩ: hẳn người đến tham dự buổi tụ họp lần này chẳng phải là ít.
Muốn vào được bên trong cần phải kí tên trước, lúc này xung quanh tôi các giáo chúng càng lúc càng đổ về nhiều hơn. Viên Cát tươi cười niềm nở, như thể đang gặp người thân trong gia đình, bắt tay người này vỗ vai người nọ, nhiệt tình chào hỏi mọi người xung quanh, rồi đẩy tôi lên giới thiệu: “Người anh em này mới đến dự lần đầu”. Liền đó rất nhiều gương mặt tươi cười xích lại, chừng như rất thân thiện.
Luận về tuổi tác, họ cơ bản đều lớn tuổi hơn tôi, nếu gặp ở ngoài đời, trông họ cũng chẳng khác gì những người dân bình thường. Ở ngay chính nơi đây, dù biết đó là buổi tụ họp ngầm của nhóm tà giáo, song nó không khiến tôi cảm thấy “tà” mấy, mà phần nhiều là sự đáp trả đầy thân thiện từ những người mới gặp lần đầu, như đang tham dự buổi hội thảo bán hàng vậy.
Phòng học xây theo kiểu bậc thang chật ních người ngồi, có rất nhiều ghế xếp ở góc tường. Viên Cát dẫn tôi đi lấy hai chiếc, đặt vào hàng cuối rồi ngồi xuống. Vẫn tiếp tục có người đi vào, nói là bảy giờ bắt đầu, nhưng đã đến giờ mà chưa thấy động tĩnh gì.
Đến bảy giờ mười phút thì phòng học đã nen chật một, hai trăm người. Những người đến sau, ngay ghế cũng không thể lấy ra, đành phải đứng. Một phụ nữ trung niên với dáng vẻ còn rất thướt tha, nền nã, là người dẫn chương trình, bước lên bục diễn thuyết phát biểu đôi câu chào mừng. Tôi để ý quan sát những người xung quanh, thấy đa phần họ đều chẳng phải là người đến tham gia lần đầu, nét mặt lộ vẻ tươi cười đầy hào hứng theo từng câu nói của người dẫn bên trên; trong khi đó một số ít người lại ra vẻ nghiêm nghị, giữ kẽ, một số khác thì không biết nên làm gì.
Người dẫn nhanh chóng giới thiệu với mọi người vị diễn giả khai mạc, rồi bước xuống bục diễn thuyết. Bước lên bục diễn thuyết tiếp sau đó là một người đàn ông to béo, trông rất phúc hậu. Theo tôi đánh giá, bài phát biểu của ông ta khá có kĩ xảo và dụng ý.
Mở đầu, ông ta kể một câu chuyện cười, điều tiết lại bầu không khí của buổi tụ họp. Sau khi cười, tâm lý cảnh giác của con người phần nhiều sẽ được giảm bớt, tiếp đó ông ta đặc biệt nhấn mạnh đây không phải là buổi bán hàng đa cấp, sẽ không chào bán bất kì sản phẩm gì với người tham gia, và cũng không thu tiền dưới bất kì danh nghĩa gì. Đây chỉ là một nơi hướng thiện, xoa dịu những nỗi phiền muộn của mọi người trong cuộc sống để mọi người yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Khi một người được đưa đến nơi xa lạ, nỗi lo lớn nhất của họ là bị gạt tiền, ông ta nói thế nhằm khiến những người mới đến an tâm. Tôi đồng thời cũng xác định: đây nhất định là buổi tụ họp nhằm thu nhận thêm thành viên mới, được chủ trì bởi những kẻ có tài ăn nói hòng xóa bỏ, hạ thấp hàng rào cảnh giác của người mới đến tham gia, khiến họ thấy tò mò, hiếu kì về tổ chức này. Do đối tượng thu nạp mà hội Thánh Nữ này nhắm đến là người từng gặp khó khăn, trắc trở trong cuộc sống, nên họ rất dễ bị mắc lừa.
Người đàn ông to béo đã lên bục diễn thuyết trao đổi hơn tiếng rưỡi đồng hồ có thể được xem là một diễn giả giỏi, rất biết cách khuấy động bầu không khí xung quanh. Những mẩu chuyện cười - với các nhân vật là những con người bình thường trong cuộc sống hàng ngày, cứ tiếp nối nhau hiện ra, khán thính giả bên dưới nghe kể về trường hợp người này, người kia bị mắc lừa mà vừa cười vừa chợt liên tưởng đến chính bản thân mình. Tôi thầm thấy mình đã hơi dao động, bởi chúng có phần rất giống với những câu chuyện trong kinh Phật.
Dù vậy, người đàn ông to béo không nhắc đến bất kì thông tin thực tế nào liên quan đến hội Thánh Nữ giáo. Tôi đang đoán người đàn ông này có vẻ chỉ là một nhân vật đệm cho ai sau đó, thì quả nhiên, ông ta đã mở lời giới thiệu về vị “đại sư” sắp xuất đầu lộ diện ngay sau đấy.
Ông ta hết mực tung hô, ngợi ca vị “đại sư” này với toàn những lời có cánh như “giàu tư tưởng”, “uyên bác”, “có thể giúp con người thoát khỏi biển khổ cuộc đời, tìm được động lực sống”…
Khi vị “đại sư” - được bao phủ trong vô số ánh hào quang, “khó mà thỉnh mời được” này bước ra bục diễn thuyết từ phía sau cánh gà, rồi mỉm cười đứng trước mọi người, thì tôi bất ngờ đưa tay lên dụi mắt mấy lần. Nhìn kĩ thêm, tôi không khỏi giật mình, và tiếp sau đó là cảm giác mừng rơn.
Là người này ư?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Bút Ký Kinh Dị Của Na Đa - Quyển 2... Đứa Trẻ Giấy

Postby tuvi » 08 Jun 2019

Chương 13: Thần tích

Là Tiết Dĩnh.
Người được trịnh trọng giới thiệu và cũng là một nhân vật cấp cao của hội Thánh Nữ giáo chính là Tiết Dĩnh, cô hộ lý năm xưa của bệnh viện Bà mẹ trẻ em số 1, người rất hòa hợp với Chu Tiêm Tiêm, và cũng là người đã về thôn Đại Đường để bí mật tiếp xúc với con bé, sau khi Hoàng Chức xuất viện.
Chị trưởng ban to béo kia đã không lừa tôi. Hội Thánh Nữ giáo này đúng là có mối liên hệ mật thiết đến vụ án sát hại Hoàng Chức. Nhìn Tiết Dĩnh, nhớ về Chu Tiêm Tiêm còn đang mất tích, tôi bất giác nảy ra một vài liên tưởng về tên gọi của hội tà giáo này.
Tiết Dĩnh – kẻ đang thao thao bất tuyệt trên bục diễn thuyết, quả là có một phong độ khí khái khác người. Không ai có thể ngờ mới vài năm trước đây, cô ta chỉ là một hộ lý chăm sóc người bệnh trong bệnh viện.
Nội dung những điều cô ta nói hơi khác với điều người đàn ông ban nãy vừa phát biểu. Dựa trên bước đệm hiệu quả người đàn ông kia tạo ra trước, Tiết Dĩnh đi thẳng vào vấn đề tín ngưỡng.
“Tôi biết rất nhiều người trong số các vị đang ngồi phía dưới, vừa mới phải trải qua không ít sóng gió, làm người trên cõi đời này ai chẳng phải gặp khó khăn, chỉ khác nhau ở chỗ ta đang hoặc đã, hoặc sẽ gặp khó khăn mà thôi. Mọi người thấy đấy, bất kể ta đau khổ thế nào, thì trên thực tế nó cũng chỉ là một điều hết sức bình thường”.
Giọng Tiết Dĩnh vừa nhỏ nhẹ, vừa trầm trầm pha chút khàn khàn. Những điều được cô ta lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần này, giờ nghe ra lại có vẻ rất hay.
“Sao một điều hết sức bình thường đó lại khiến ta đau khổ vậy? Là bởi vì ta đã quá để tâm, quá coi trọng một số thứ nào đó, nên mới bị tổn thương. Nhưng thực sự chúng có quan trọng như vậy không? Hãy thử nghĩ lại xem, trước khi được sinh ra ta là gì, sau khi chết đi ta là gì, và trong mấy chục năm ngắn ngủi của cuộc đời thì điều gì mới thực sự là quan trọng?”
“Chỉ có tình cảm mới là thứ thực sự khiến trái tim ta rung động. Tình cảm ta dành cho bản thân, cho người khác, tình cảm giữa người với nhau. Ngoài nó ra, mọi cái khác đều chỉ là hư ảo. Chẳng phải vậy sao? Cảm giác vui mừng, sung sướng của nhà sưu tầm đá khi tìm thấy một viên đá lạ nơi sa mạc; của đứa trẻ khi nó nhặt được một chiếc vỏ ốc rất đẹp, rất đặc biệt ngoài bãi biển, hay của người đào vàng khi đãi được những bụi vàng ròng v.v… chẳng phải rất giống nhau sao? Song trên thực tế, hòn đá, chiếc vỏ ốc và bụi vàng, những thứ mang đến cho họ cảm giác đó, lại không hề quan trọng.
“Bởi thế nên ta có thể nói: phần lớn, thậm chí là tất cả mọi thứ trên thế gian này, đều không quan trọng, đều là hư ảo, chỉ có trạng thái tinh thần trong nội tâm mỗi người chúng ta mới là cái có thật. Khi bạn hiểu ra điều này, mọi phong ba bão tố của cuộc sống bên ngoài sẽ chẳng thể đánh gục được bạn”.
Tiết Dĩnh vẫn tiếp tục thao thao nói, nhưng tôi dần cảm thấy hơi kỳ lạ. Những lời cô ta nói càng lúc càng gần với học thuyết hư vô của chủ nghĩa duy tâm. Hay nói cách khác, giáo lý của Thánh Nữ giáo cũng mang khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên điều này không phù hợp với sự sùng bái trong tà giáo, vì theo lệ thường, tà giáo liên quan đến sự sùng bái của một cá nhân và có giáo lý hết sức cuồng tín. Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm là thứ tiêu cực đến mức không thể tiêu cực hơn được nữa. Cô ta đã nói một hồi lâu, mà vẫn chưa đề cập tới việc liên quan đến “Thánh Nữ”. Vậy một giáo phải kiểu này tập hợp tín đồ dựa trên căn cứ gì? Với chính giáo hay tà giáo? Mà thiếu khả năng tập hợp tín đồ, cũng đồng nghĩa với sự diệt vong.
“Những bạn bè xung quanh tôi đều có cách nhìn riêng về thế giới, về cuộc đời. Những cách nhìn này có thể giúp ta can đảm tiến bước trên đường đời, khiến ta không cảm thấy e ngại, run sợ trước bất kì phong ba bão táp nào. Vòng tròn nhỏ này của chúng tôi được đặt tên là “Thánh Nữ”. Vậy tại sao lại là “Thánh Nữ”? Hôm nay tôi xin mạn phép được đưa ra câu hỏi này cho mọi người. Nếu bạn thấy môi trường của chúng tôi hòa hợp thân thiện, muốn tiếp tục đến tham gia buổi họp sau, tới khi đó bạn sẽ biết câu trả lời. Vấn đề lớn nhất của người Trung Quốc hiện giờ là thiếu tín ngưỡng. Song may là bây giờ chúng tôi đã tìm thấy tín ngưỡng kiên định cho bản thân, chân thành hi vọng bạn cũng có thể gia nhập với chúng tôi”.
Tiết Dĩnh kết thúc bài diễn thuyết, hoặc bài giảng đạo của mình bằng đoạn thuyết giảng trên. Tuy nhiên, buổi tụ họp này chưa dừng lại ở đó, các thính giả bên dưới kết thành các nhóm nhỏ, bắt đầu chia sẻ thu hoạch sau buổi nói chuyện hôm nay, đồng thời khích lệ những người mới đến tham gia lần đầu, nói về những khó khăn mới đây của bản thân để “thư giãn thân tâm”.
Viên Cát kéo tôi nhập vào một nhóm – chừng hơn hai chục người, các thành viên trong nhóm lần lượt phát biểu theo thứ tự. Không lâu sau, Tiết Dĩnh cũng xuất hiện, cô ta hình như chỉ đến nghe, nhưng đã lập tức bị những tín đồ cũ níu lấy, khẩn khoản đề nghị cô ta chút nữa lên phát biểu lời kết sau cùng cho buổi họp.
Đến lượt mình, tôi mang câu chuyện tình yêu – đã được soạn sẵn ra, thuật lại một lượt và nhận được rất nhiều ánh mắt an ủi của mọi người. Vì không thể không giới thiệu qua đôi nét về bản thân, nên tôi cứ có gì nói đấy, rằng tôi là một phóng viên. Lúc nhắc đến công việc này, qua đuôi mắt mình, tôi quan sát thấy thần sắc Tiết Dĩnh hơi dao động, Viên Cát cũng có phần bất ngờ. Anh ta hỏi tôi làm gì, song tôi chỉ trả lời một cách mơ hồ.
Điều Tiết Dĩnh phát biểu sau đó không nằm ngoài những điều ban nãy cô ta đã nói, nhưng bây giờ lại được phát triển thêm lên dựa trên ý kiến của các thành viên trong các nhóm nhỏ. Sau khi cô ta nói xong, tiếng vỗ tay vang rền như sấm dậy, còn cô ta thì cáo lui.
Lúc đó về cơ bản, các nhóm nhỏ cũng đã kết thúc thảo luận, Viên Cát dẫn tôi đi gặp mọi người hàn huyên dăm ba câu rồi chuẩn bị ra về. Bấy giờ có một người chạy tới, ghé sát tai Viêm Cát thầm thì đôi câu; sau đó anh ta, bảo tôi đợi một lát, rồi chạy về phía một góc khác trong phòng.
Đưa mắt nhìn theo, tôi phát hiện thấy người đang đợi anh ta chính là Tiết Dĩnh.
Tiết Dĩnh trao đổi vài câu với đối phương. Trong lúc nói chuyện, thấy tôi đang nhìn về phía mình, cô ta hơi gật gật đầu ra hiệu với tôi.
Phải chăng thân phận phóng viên của tôi đã khiến Tiết Dĩnh trở nên cảnh giác? Vốn dĩ tôi đã định bịa ra một công việc ít nhạy cảm hơn, nhưng sau khi Tiết Dĩnh xuất hiện, tôi đã thay đổi chủ ý. Ba năm về trước, khi tôi đến bệnh viện phỏng vấn, rất có thể cô ta đã nhìn thấy tôi. Nếu thật sự trí nhớ cô ta còn tốt, thì việc tôi khai gian công việc sẽ chỉ biến “lợn lành thành lợn què” mà thôi.
Sau khi quay lại Viên Cát chẳng nói gì, khiến tôi càng cảm thấy bất an hơn.
Lúc bước chân ra khỏi lớp học, bầu không khí ban đêm tạt vào mặt tôi ở ngoài này rõ ràng dễ thở hẳn bầu không khí trong kia. Tôi và Viên Cát đi với nhau, xuyên qua sân tập, hướng về phía cổng trường.
“Na Đa, cậu thấy tối nay thế nào?”
“Không khí trong đó rất tuyệt, song tôi thấy hơi kì lạ, chắc do xưa nay tôi chưa từng tham gia những buổi tụ họp kiểu này!” – Là phóng viên thì cẩn thể hiện một chút nhạy cảm nghề nghiệp, nếu không sẽ thật giả dối.
“Tham gia thêm mấy lần nữa, dần dà cậu cũng sẽ quen thôi. Thực ra chúng tôi là một tổ chức giáo hội gồm những người có chung một tín ngưỡng”.
“Ủa?” – Tôi không ngờ Viên Cát ngửa bài nhanh và thẳng thắn vậy.
“Đừng lo. Chúng tôi không phải là tà giáo!” – Viên Cát vội nói, “Đúng ra, đến tham gia thêm mấy lần tự khắc cậu sẽ biết, song vừa nãy Tiết thượng sư bảo tôi nói thẳng với cậu, không cần che che giấu giấu nữa. Người làm nghề như của cậu ắt sẽ hiểu nhiều biết rộng, tín ngưỡng của chúng tôi rốt cuộc có thật hay không tin chắc cậu sẽ sớm nhận ra.”
Sợ tôi đoán ra nên mới nói thẳng? Hay Tiết Dĩnh nghĩ thu nhận thêm một tín đồ là phóng viên thì sẽ tạo ra hiệu quả thị phạm tốt. Nhưng vấn đề là làm thế nào cô ta có thể khẳng định là tôi sẽ “tin”?
“Xin ngợi ca người, đáng Thiên tôn, vị thần duy nhất!” – Viên Cát dừng lại bên đường biên của sân tập, hạ giọng niệm. Câu nói có vẻ như một câu chú này khiến thần sắc anh ta thoắt trở nên vô cùng thành kính, “Nhất định cậu sẽ tin vào đấng Thiên tôn, đó chẳng phải là câu nói suông, cậu sẽ nhìn ra chân tướng của thế giới này”.
“Chân tướng? Chân tướng gì?” – Tôi thầm nghi ngại, cái tên Thiên Tôn này quả chẳng có gì là sáng tạo.
Khóe miệng Viên Cát nhếch lên cười một cách thần bí: “Đúng ra có một số chuyện chỉ tín đồ đích thực như tôi mới được hay biết. Song nghe nói chẳng thể nào bằng tận mắt trông thấy. Một giờ rưỡi chiều mai, tại khu vực X sẽ mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai. Tuy nói là công khai, song lại không công bằng, người bị đưa ra xét xử là một tín đồ của chúng tôi. Dù luật pháp của thế giới này phán quyết anh ta thế nào, thần hội cũng tuyên bố anh ta vô tội. Cậu nhất định phải đi, rồi cậu sẽ nhìn thấy thần tích”.
Vào giai đoạn mới hình thành ban đầu, mọi tôn giáo đều cỏ rất nhiều thần tích. Ví dụ như Jesus Christ với năm chiếc bánh cùng hai con cá, cũng khiến cho năm nghìn người no nê; như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiên đoán vào thời gian Đức Phật qua đời, mặt đất rung động mạnh. Dựa trên hằng hà sa số những điều khó có thể tưởng tượng, khó có thể giải thích, họ tập hợp được tín đồ và khiến cho giáo lý của mình được lưu truyền.
Thánh Nữ giáo cũng cần thi triển thần tích; hơn thế, cần phải thi triển ngay tại tòa, nơi có vẻ khó giở trò nhất. Đó sẽ kiểu thần tích gì?
Cứ đợi xem.
Phiên tòa xét xử không công bằng ư? Một tín đồ vô tội ư?
Tôi rút di động ra gọi cho cảnh sát Vương.
“Phiên tòa xét xử mở màn của Lã Vãn Cường mà lần trước anh bảo tôi, được định ngày rồi à? Là ngày mai phải không?”
“Đúng, sao anh biết?”
“Ở tòa án chiều mai?”
“Không sai. Anh định đến dự à?”
“Ôi, trời!”
Đáng lẽ chiều hôm nay nóng gắt, nhưng khoảng tiếng rưỡi trước, lớp mây dày đã che ngang mặt trời, không khí càng lúc càng ngột ngạt hơn, báo hiệu cho một cơn mưa lớn sắp kéo đến.
Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực X – thành phố Thượng Hải là một tòa nhà bề thế, vuông vắn nổi bật, mọc lên sừng sững, mà từ phía xa ta đã có thể trông thấy. Đi đến trước cổng tòa án, ta mới nhận ra kì thực còn phải băng qua một quảng trường rộng cùng những bậc thang dài, thì mới vào được bên trong tòa án. Nếu là kẻ có điều khuất tất trong lòng, e là khi đặt chân lên những bậc thang trước tòa nhà màu trắng trang nghiêm đó, hẳn sẽ thấy vô cùng bứt rứt khó chịu.
Song lúc này, thu hút sự chú ý của tôi lại là hai chiếc xe cảnh sát cùng chiếc mô tô chuyên dụng đang đỗ trước cổng tòa án.
Lúc tôi đứng lại nhìn về phía mấy chiếc xe thì cửa chiếc xe đi trước bật mở, cảnh sát trưởng Vương bước ra ngoài.
“Anh dừng xe ngay chỗ này không sợ đánh rắn động cỏ sao?” – Tôi hỏi.
Cảnh sát trưởng Vương nhăn nhó cười: “Tôi muốn nó thấy kinh động rồi bỏ đi luôn ấy chứ, nếu có chuyện xảy ra ở tòa, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Nguồn tin của anh đáng tín không thế?”
Đây chẳng phải là lần đầu anh ta hỏi tôi; về phần mình, tôi đành phải lặp lại rằng: “Tôi đã thuật lại y nguyên toàn bộ điều tôi nghe thấy tối qua cho anh. Nếu phiên tòa kết thúc mà không có chuyện gì xảy ra, và cái gọi là “thần tích” không xuất hiện, thì chẳng những tên phóng viên tôi đây sẽ không trở thành tín đồ, mà ngay cả những tín đồ cũ cũng sẽ vô cùng thất vọng. Nếu không chắc chắn phần nào, tôi nghĩ chúng chẳng dám mạnh miệng tuyên bố vậy đâu”.
“Hi vọng không có chuyện gì xảy ra!” – Cảnh sát trưởng Vương thở dài nói.
“Công việc chuẩn bị ở đây, anh bố trí vẹn toàn rồi chứ?”
“Vẹn toàn ấy hả? Làm quái gì có thứ gọi là vẹn toàn, huống chi bọn tôi và tòa án là hai hệ thống khác nhau, thời gian lại quá gấp, tính từ lúc anh gọi tôi tối hôm qua đến giờ mới chỉ mấy tiếng đồng hồ!” – Cảnh sát trưởng khẽ trách tôi.
“Chúng tôi đã báo bên tòa án, đề nghị họ tăng cường phòng bị, đồng thời bên tôi thì như anh thấy đấy, hai xe cảnh sát và một mô tô đặc chủng luôn trong tình trạng sẵn sàng nhận lệnh. Thực ra mạng lưới tuần tra ở khu vực quanh đây cũng đã được bố trí. Đó là toàn bộ những việc tôi có thể thu xếp trong ngần ấy thời gian. Ngoài ra, khắp bốn phía xung quanh tòa án đều được rà soát, không có vật gây cháy nổ, tôi còn chọn mấy trinh sát tinh mắt vào ngồi ở hàng ghế phía dưới, để đề phòng biến động lúc phiên tòa diễn ra. Thành thực mà nói, tôi thấy khó có thể tưởng tượng là bọn chúng sẽ chuẩn bị thực hiện thần tích này như thế nào. Trừ khi chúng tìm được một nhóm người trực tiếp xông vào tòa án tấn công”.
“Chắc không đến mức ngang nhiên như vậy!” – Lúc tôi đang nói, chiếc xe chở tội phạm đã hú còi đi vào tòa án qua lối cổng chính.
“Cậu ta ở trong à?”, tôi hỏi.
“Ừ”.
“Hai hôm nay cậu ấy thế nào? Có gì khác không?”
Cảnh sát trưởng lắc đầu: “Vẫn vậy thôi. Mấy ngày gần đây hắn không tiếp xúc người ngoài, nếu Thánh Nữ giáo có kế hoạch gì, chắc hắn cũng chẳng biết”.
“Vậy tôi vào trong trước, mong là đừng xảy ra chuyện gì”.
Vào phòng xét xử án hình sự, tôi chọn một ghế ngay phía trên rồi ngồi xuống. Xung quanh, người đến dự phiên tòa xét xử cũng chẳng phải là ít, tôi đảo mắt một vòng tìm kiếm, chưa thấy Viên Cát đâu. Giờ này chắc anh ta vẫn đang trong ca làm ở trạm tàu điện ngầm. Song tôi đoán, nhất định một vài tín đồ Thánh Nữ giáo sẽ đến xem, làm chứng cho thần tích của họ. Hoàng Chức chẳng còn ai thân thích nên chắc thôn sẽ cử người đến tham dự, dù tôi không biết ông ấy là ai.
Một lúc nữa phiên tòa mới bắt đầu mà phòng xét xử đã rất yên ắng, những người đang chuyện trò đều hạ thấp giọng hết mức có thể. Những phiên tòa xét xử, không rõ đã bao lần được tiến hành ngay trong gian phòng này, đã để lại một vẻ tĩnh mịch, thâm nghiêm cho bầu không khí nơi đây, khiến cho mọi người không dám ăn nói hồ đồ.
Dọc theo bốn bức tường quanh phòng xét xử có rất nhiều cảnh sát có vũ trang, không rõ vốn dĩ phải vậy hay là do bên công an yêu cầu nên họ mới được tăng cường thêm.
Đợi thêm lúc nữa, cánh cửa ngách phòng xử được mở ra, những người thuộc bên kiểm soát và tòa án như công tố viên, thư kí phiên tòa bắt đầu bước ra, đến đứng ở vị trí của mình. Tiếp đó là Lã Vãn Cường với sự áp tải của hai cảnh sát tòa án.
Cậu ta trông gầy gò, xanh xao hơn hôm tôi gặp ở chỗ tạm giam đôi chút, bộ quần áo tù trên người cậu ta có vẻ hơi quá khổ so với vóc dáng. Đầu cậu ta hơi cúi, nhưng không hiểu sao tôi không cảm thấy đó là dáng vẻ của kẻ hối lỗi, mà chỉ toát lên sự thờ ơ, bất cần.
Người vào sau cùng là vị thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử hôm nay, đó là một người đàn bà trung niên đeo kính. Bà ta ngồi xuống ghế chủ tọa phiên tòa, đưa mắt nhìn đồng hồ, chờ thêm một lát, rồi tuyên bố phiên tòa bắt đầu.
Tôi hít một hơi thật sâu, tiếp theo liệu sẽ có chuyện gì xảy ra đây?
Mở màn là bản cáo trạng dài được vị công tố viên của bên kiểm soát tuyên đọc trong hai mươi mấy phút. Tôi thầm thắc thỏm, mắt nhìn ngược nhìn xuôi, tai dỏng lên nghe ngóng cho tới khi ông ta đọc xong, đến lúc Lã Vãn Cường khai báo nhận tội, mới hơi thả lỏng. Không chi tiết nào trong những điều Lã Vãn Cường khai báo làm tôi ngạc nhiên, tất cả vẫn hệt như những gì cậu ta đã trả lời hôm tôi vào nhà tạm giam phỏng vấn.
Trông thấy Hoàng Chức ngoài đường lúc đi dạo phố, động lòng háo sắc, lại cũng muốn kiếm chút tiền tiêu, nên đã bám theo cô ấy về chỗ nhà trọ. Chưa dám động thủ ngay, phải qua một đêm đấu tranh tư tưởng đến sáng sớm hôm sau nghi phạm mới quay lại chỗ Hoàng Chức trọ, lừa cô ấy ra mở cửa rồi giết chết. Do hoảng loạn nên sau đó nghi phạm đã bỏ trốn mà không dám làm gì.
Toàn bộ câu chuyện được cậu ta tường thuật lại với vẻ lãnh đạm, thậm chí ung dung. Khi cậu ta gần dứt lời thì một người đàn ông trung niên đến dự phiên tòa xét xử ném mạnh một chai nước ngọt về phía nghi phạm, miệng lầu bầu câu phương ngôn mà tôi nghe không hiểu, dáng điệu đầy vẻ đau đớn phẫn uất. Cảnh sát giữ trật tự trong phiên tòa nhanh chóng tiến đến, nhưng họ không đuổi ông ta ra khỏi phòng xét xử, mà chỉ yêu cầu ông này ngồi xuống. Tôi đoán đó là cha đẻ của Lã Vãn Cường.
Lã Vãn Cường đưa mắt nhìn về phía cha mình một cái, rồi lại cúi đầu.
Ánh mắt đó của cậu ta như nhìn vào người mình không hề quen biết.
Tôi thấy hơi bất ngờ, hội Thánh Nữ giáo này có thể tẩy não tín đồ đến mức sẵn sàng xả thân quên mình vì giáo hội, mà ngay cả đến tình thân ruột thịt cũng bất chấp thì quả là đáng sợ
Sau phút biến động, phiên tòa lại tiếp tục. Sang phần biện hộ trước tòa, thực tế chẳng có mấy điều gì để nói, Lã Vãn Cường đã thừa nhận tội lỗi của bản thân, nên luật sư biện hộ - mà tòa chỉ định cho cậu ta, cũng chỉ có thể nói vài câu chung chung kiểu: “Thái độ nhận tội của bị cáo tương đối thành khẩn, nên đề nghị tòa lượng xét khi quyết định hình phạt”.
Vị chủ tọa phiên tòa khá có trách nhiệm, trong quá trình thẩm vấn trước tòa bà ta có hỏi Lã Vãn Cường về mấy vấn đề mà bên công an đã tìm ra trong quá trình điều tra, nhưng đã bị bên công tố bỏ qua, như: tại sao trong bản tường trình khai báo của Thôi Hành Kiện, người này nói anh ta bám theo Hoàng Chức lên tầng trên mà khi đi xuống lại không thấy Lã Vãn Cường? Thì Lã Vãn Cường trả lời rằng: “Cầu thang tối, tôi lại nép vào một bên nên anh ta không để ý”. Tóm lại, cậu ta hoàn toàn không định khai báo ẩn tình để chối tội cho bản thân.
Sau hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, chủ tọa phiên tòa tuyên bố tạm nghỉ mười lăm phút.
Khi phiên tòa tiếp tục sau giờ nghỉ, chắc sẽ chuyển sang phần tuyên án. Đối với vụ án giết người, tốc độ xử án như trong phiên tòa này có thể xem là nhanh. Bị cáo không hề phản đối gì, định sẽ ngoan ngoãn thi hành án, bên kiểm sát được phen thảnh thơi nhàn nhã, thế sao lại chẳng nhanh?
Tôi nhìn Lã Vãn Cường đang được cảnh sát tòa án áp giải vào trong, thầm nghĩ, đến khi cậu ta lại được dẫn giải ra e sẽ có vài chuyện xảy ra.
Cho tới lúc này mọi việc vẫn đang sóng yên biển lặng, nếu không có chuyện gì xảy ra trong chút thời gian ngắn ngủi còn lại thì chẳng phải sẽ khiến những tín đồ đến theo dõi phiên tòa xét xử này thất vọng sao? Điều hôm qua Viên Cát nói: tòa án loài người tuyên bố Lã Vãn Cường có tội, song Thiên Tôn của họ lại tuyên bố Lã Vãn Cường vô tội, thì thế nào mọi chuyện cũng sẽ được làm rõ ngay vào lúc này đây.
Tôi không vào nhà vệ sinh, chỉ ngồi lặng yên tại chỗ.
Từng phút giây chậm chạp trôi qua trong sự chờ đợi đầy khắc khoải.
Mười lăm phút sắp sửa kết thúc.
Lông mày tôi hơi nhíu lại, tim càng lúc càng đập nhanh hơn, chẳng phải do đã có chuyện xảy ra mà ngược lại, là vì chưa có gì xảy ra.
Thế này là thế nào, đã hết mười lăm phút nghỉ giải lao sao phiên tòa còn chưa được tiếp tục?
Không, tôi nhìn đồng hồ, đã mười tám phút hơn rồi.
Chủ tọa phiên tòa đã bước vào phòng xử án, người khác còn lại cũng nối đuôi nhau quay trở lại chỗ ngồi, riêng chỗ bị cáo thì vẫn trống trơn.
Những người đến dự phiên tòa phía dưới đã bắt đầu xì xầm bàn tán, song nhìn vẻ mặt của những người bên kiểm sát và phía tòa án, thì hình như họ cũng không biết có chuyện gì xảy ra.
Lại thêm mấy phút nữa trôi qua, rồi một người vóc dáng thấp nhỏ đã chạy đến bên vị chủ tọa phiên tòa qua lối cửa ngách, nghiêng người ghé sát tai bà ta thì thầm một câu.
Nét mặt chủ tọa phiên tòa lập tức thay đổi, bà mở to mắt, sững sờ nhìn người kia.
Chợt có ai đó đập nhẹ vai tôi một cái, tôi quay đầu lại, là cảnh sát trưởng Vương.
Mồ hôi ròng ròng chảy hai bên má mà anh ta chẳng hề để ý, anh hạ giọng bảo tôi: “Theo tôi ra ngoài, có chuyện xảy ra rồi!”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $56,924
Posts: 94112
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 24 guests