Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công Tử

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công Tử

Postby tuvi » 30 May 2019

Image

Hoa Tư Dẫn

Tác giả : Đường Thất Công Tử


Ta mong nàng sống, có thể cười với ta, khóc với ta, giận dữ với ta....ta chỉ có một nguyện vọng như thế này mà thôi....Tô Dự

Bấy lâu, bấy lâu nay, tôi vẫn nghĩ, nếu tôi có một người trong lòng, tôi sẽ đem tất cả mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe, người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Phần 1: Tuyết ở Bối Trung

Chương 1


Vẫn không nhận được thư hồi âm của Quân Vỹ khiến tôi lo lắng. Mộ Ngôn cho rằng có Tiểu Hoàng bảo vệ, không có gì phải lo, thấy chàng lạc quan như vậy, tôi cũng không tiện nói ra, Tiểu Hoàng đã bị đem cầm cho vườn thú đến giờ cũng không biết đã chuộc về chưa. Theo hiểu biết của tôi về Quân Vỹ, chuyện này khó có hy vọng gì, rồi lại nghĩ tại sao trên đời có nhiều đàn ông thích nhau đến thế, tại sao Quân Vỹ có hình thể đẹp như vậy để lắm kẻ mê, tâm trạng cứ ngổn ngang bấn loạn. Xem ra nhà họ Quân có cơ tuyện hậu thật rồi.

Năm trước anh ta còn hứa hẹn, nếu không có ai lấy tôi, anh ta sẽ lấy, số phận đã an bài như thế, thật ngao ngán. Nhưng biết làm sao, rút cục nước xa không cứu được lửa gần, hơn nữa bây giờ chúng tôi cũng không biết anh ta đang ở đâu, đành chờ xem sao.

Ý Mộ Ngôn là Quân Vỹ mãi không có hồi âm, vậy nhân chuyến đến Tiều đô, tiện thể chàng sẽ đưa tôi về núi Quân Vu. Mộ Ngôn phải đi một chuyến đến kinh đô của Thiên tử ở phía bắc Trung Châu(Trung Quốc cổ đại có chín châu, Dự Châu ở giữa gọi là Trung Châu. Ngày nay chỉ khu vực tỉnh Hà Nam, thuộc vùng trung du sông Hoàng Hà.).... một việc dự định từ lâu cuối cùng mới có cơ hội thực hiện.

Trước giờ tôi vẫn nghĩ, Mộ Ngôn không rỗi việc đến mức đưa tôi đi du sơn ngoạn thủy, tìm hiểu phong tục nơi này nơi kia, tôi vẫn đợi chàng nói lời từ biệt, cuối cùng ngày đó đã tới, lòng vừa buồn vừa thở phào nhẹ nhõm.

Đi qua vùng rừng núi hoang vu, qua bình nguyên rậm rạp, qua những con sông nước xiết, qua những làng bản hiu quạnh, tôi cảm nhận rất rõ thời gian trôi qua, mỗi khi mặt trời lặn tôi lại đếm đốt ngón tay, tính thời gian chia tay với chàng, nhưng lại không thể chần chừ trì hoãn cuộc hành trình như lần trước. Mộ Ngôn cảm thấy buồn cười, hỏi: “Sao cô cứ luôn nhìn tôi như vậy, trên mặt tôi có vết gì chăng?”.

Tôi mạnh dạn ghé lại gần: “Đúng, có vết, nào, lại đây tôi chỉ cho xem”.

Chàng hơi ghé lại, ánh mắt cười cười: “Vậy nhìn kỹ đi”. Tôi nghĩ chàng đang giễu tôi, nhưng không sao, đằng nào cũng chia tay, mặt dày một chút cũng chẳng hề chi.

Tôi gật đầu: “Huynh nhắm mắt lại”. Chàng lại ngoan ngoãn làm theo. Củi trám trong lò đang cháy đượm, bốc lên ngọn lửa xanh, bên ngoài tiếng côn trùng nhặt thưa từng hồi, chàng ung dung ngồi đó, dáng vẻ như muốn nói thích làm gì tôi thì làm, khiến tôi bất giác muốn vuốt ve khuôn mặt gần trong gang tấc, đôi mắt gần trong gang tấc đó nhưng lại không dám.

Lòng bàn tay toát mồ hôi, từ từ giơ ngón tay đến gần đuôi mắt chàng, lấy hết can đảm chạm vào vầng trán trắng xanh, cảm giác và độ ấm truyền đến ngón tay lúc đó tôi sẽ nhớ mãi. Tất cả chỉ do không thể tự rời xa chàng, bất luận thế nào, cũng không thể. Đôi mắt, hàng lông mày, sống mũi, bờ môi, khuôn mặt đẹp, biểu cảm trên mặt, tất cả đều khắc vào lòng tôi, dù chia ly nhưng tôi sẽ nhớ suốt đời.

Chàng hơi nghiêng đầu, Thái Dương áp sát ngón tay tôi, lặng lẽ mở mắt, “A Phất?”.

Tay tôi hơi run, vội rụt về, củi cháy lép bép trong lò, lát sau, tôi chìa tay trước mặt chàng: “Nhìn này, trên trán có vật gì, lấy xuống cho huynh rồi”.

Ánh mắt chàng nhìn bàn tay trống không của tôi: “Đâu?”.

Tôi giả bộ ngạc nhiên, “Sao, không nhìn thấy à?”. Mắt chàng như cười, vẫn nhìn tôi, tay chống cằm không nói gì. Rất nhiều lúc, tôi không biết chàng nghĩ gì, lòng thấy hoang mang nhưng cũng chẳng sao, chỉ cần tôi biết mình nghĩ gì là được.

Quân Vỹ nói thích một người là sẽ trở nên ưu tư, bởi vì luôn phải suy tính được mất. Anh ta nói có lý, ở bên Mộ Ngôn, tôi luôn suy tính được mất, nhưng mất Mộ Ngôn thực ra tôi cũng chẳng có gì gọi là được, là mất, cái còn lại chỉ là bóng dáng phong nhã tuyệt vời của chàng trong ký ức, lòng như nở một đóa hoa lớn quý báu, quý báu nhất.

Chim yến không về, hoa tử vi tắm ánh trăng, phía bắc hoa nở, phía nam hoa tàn. Suốt dọc đường đi gấp, đến biên giới Khương – Trần lại xảy ra một chuyện vốn tưởng sẽ xảy ra ngay từ khi câu chuyện bắt đầu, nhưng mãi chẳng thấy gì, đã tưởng tất cả đều suôn sẻ, cuối cùng lại bất ngờ xảy ra.

Một chuyện lớn.

Tôi bị bắt cóc.

Khi xuống núi, Quân sư phụ đã dặn dò Quân Vỹ bảo vệ tôi cẩn thận, ông lo nhất là chuyện đó. Sự huyền diệu của Hoa Tư dẫn tuy thiên hạ không mấy người biết, nhưng không phải hoàn toàn không ai biết, nó được lưu truyền một cách ly kỳ, rằng đó là phép thuật có thể làm người chết sống lại, đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ nên tu luyện như thế nào để đạt được công năng huyền diệu đó khiến ai được nghe đều không khỏi xiêu lòng .

Khi một thứ được nhiều người ngưỡng mộ, người sở hữu thứ đó đương nhiên dễ gặp nguy hiểm. Ghi chép thật sự về Hoa Tư dẫn lại vô cùng ít ỏi, do vậy mặc dù tồn tại mấy trăm năm nhưng đến nay vẫn huyền bí khôn lường. Vốn tưởng nó chỉ tồn tại mơ hồ trong dân gian, chưa chắc có ai tin, nên lúc đầu khi Quân sư phụ cho Quân Vỹ đi theo bảo vệ tôi, thâm tâm tôi ngấm ngầm phản đối, giờ mới thấy sự chu đáo của sư phụ quả không thừa.

Trời tối dần, do bị bắt cóc, chân tay đương nhiên bị trói, nhưng tôi vốn có tài cởi trói, nhanh chóng cởi nút dây thừng thoát ra, nhìn rõ ràng mình bị quấn trong một tấm chăn, ngẩng đầu, thấy ánh vàng lóng lánh trên đỉnh trướng, trước mắt, là bức bình phong sáu cánh.

Bức bình phong chắn trước giường có sáu cánh, trên mỗi cánh là một bức tranh kỳ lạ, có sông có núi và một cặp uyên ương, lúc sánh vai du ngoạn, lúc họa thơ đối ẩm dưới trăng, còn hai bức vẽ một chàng công tử ung dung ôm đàn bên cạnh bộ đồ uống trà, nhìn rất quen. Trong đầu thoáng nghĩ tới một chuyện nhưng lại lập tức gạt đi, bởi vì cảm thấy bút pháp của người đó không thể kém đến vậy.

Tôi nghĩ mặc dù kẻ bắt cóc tôi ra tay nhân lúc Mộ Ngôn đi ra ngoài, nhưng như trên đã nói, chắc chắn kẻ đó không biết cái gọi là bí thuật thượng cổ thần kỳ đó thực ra được phong ấn vào một hạt giao châu, đưa vào cơ thể tôi, hơn nữa nhất định không biết tôi là một người chết, cho dù tìm ra bí mật này, thiết nghĩ họ cũng không thể tin, dùng thân thể người chết tu luyện Hoa Tư dẫn, từ thời khai sơn lập địa, trên đất Cửu châu này chỉ có tôi là duy nhất.

Tôi còn chưa kịp suy nghĩ kỹ hơn về tình hình trước mắt, bức bình phong đóng chặt “xoạch” một tiếng bị đẩy ra. Tôi vội vàng thu người vào trong chăn, hé mắt nhìn ra, thấy một ngọn đèn yếu ớt phía xa.

Người đẩy bức bình phong là một cô hầu, sau khi bước vào, cô cuốn cao bức rèm trướng rồi đứng sang một bên, cả người như lẫn vào màn đêm. Nhìn tương đối rõ là cô gái đối diện, không phải là dung mạo mà là hai ống tay áo rộng thùng của cô ta chiếm nhiều không gian như vậy, đập ngay vào mắt. Ánh nến nhỏ như hạt đậu chỉ chiếu sáng một khoảng nhỏ, quả thật không thể nhìn rõ mặt cô ta, chỉ cảm thấy ánh mắt lạnh lẽo của cô ta như xuyên thấu tận xương.

Ánh nến sáng dần, tôi nhìn thấy trên bàn trà có một chung rượu bằng đồng đen trong đựng đầy rượu màu ngọc bích. Cuối cùng nhìn rõ thân hình cô gái có ánh mắt tỏa ra hơi lạnh đó, một nửa khuôn mặt lộ ra dưới ánh nến, một nửa bị bóng cột nhà che khuất, khí chất lạnh lùng nhưng lại là một mỹ nhân hiếm thấy.

Miệng bị nhét khăn mùi xoa, không nói được. Tôi làm bộ vùng vẫy, cô gái hơi nhấc tay ra hiệu cho cô hầu, vừa giơ lên lại đột nhiên buông xuống, cười khẩy một mình: “Đúng là hồ đồ, cởi trói cho cô làm gì, hôm nay cô chỉ cần có hai cái tai là được”.

Nói đoạn, cầm chung rượu trên bàn uống cạn, loạng choạng bước tới trước giường, né tránh bàn tay đỡ của cô hầu, một tay tóm lấy cằm tôi, sau khi lột chiếc mặt nạ của tôi, cô ta ngẩng phắt đầu, tôi không biết phản ứng thế nào, thầm nghĩ, chắc cô ta không đến nỗi cho là tôi giấu Hoa Tư dẫn trong mặt nạ này chứ?

Lúc sau, ngón tay thanh mảnh trắng ngần của cô ta lần trên vết sẹo ngoằn ngoèo trên trán tôi, ánh mắt lạnh lùng sa sầm, “Thì ra là một mỹ nhân, lẽ nào cô không biết, không được tự tiện động vào đồ của người khác?”.

Trong phòng rất yên tĩnh, tôi ngẩng đầu nhìn vào mắt cô ta, không biết cô ta nói gì, nhưng không thể tỏ ra yếu thế, nhìn nhau rất lâu, cô ta cười khẩy một tiếng, giọng lạnh lùng: “Lại còn giả bộ thờ ơ, việc mới làm đã nhanh quên thế sao?”.

Tôi vẫn không hiểu cô ta nói gì, nhưng có cảm giác cô ta không phải bắt cóc tôi để đòi Hoa Tư dẫn, chẳng lẽ bắt nhầm người? Nhưng tôi vẫn ưỡn thẳng lưng, lúc này đầu cô ta đang ghé sát mặt tôi, mấy sợi tóc mai chạm vào trán tôi, hơi thở phả bên tai, giọng rất nhẹ: “Cô thích chàng, nhân lúc không có tôi, mon men đến bên chàng, cố tình gặp mặt, cố tình để chàng chú ý, múa may như một con rối. Thật nực cười, lẽ nào cô không biết chàng đã có ý trung nhân, đã có hẹn ước?”.

Tôi sững ra một lát, như có một tia sáng lóe lên, đầu như vỡ tung, không thể tin nổi. Một cách bản năng, tôi lục tìm trong trí nhớ hình ảnh cô gái hành thích Mộ Ngôn ở Bích sơn, nhưng chỉ nhớ ra một biển hoa tường vi, đó là dịp cuối xuân tháng tư.

Cô gái nghiêng đầu nhìn bộ dạng ngây ngô của tôi, những ngón tay thanh mảnh của cô ta đặt lên tóc tôi. Lúc này tôi mới chú ý, giữa mái tóc đen mướt của cô ta cài một bông hoa tường vi kết bằng dải lụa tối màu.

Nếu cô ta chính là Tử Yên, nhất định cô ta chưa quên Mộ Ngôn.

Nhưng cô ta đã hành thích Mộ Ngôn.

Tôi không biết nên tỏ thái độ thế nào, cũng không biết tâm trạng mình bây giờ ra sao. Chỉ nghĩ nếu mình có thể sớm tìm thấy Mộ Ngôn, tìm thấy chàng trước khi chàng gặp cô ta, hôm nay sẽ thế nào?

Nhưng ba năm, bao nhiêu ngày, bao nhiêu đêm tôi không tìm thấy chàng, lúc sắp chết cũng không được gặp chàng một lần, ý trời là vậy.

Cô ta ngồi gần lại, ngón tay rê trên trán, cau mày, có lẽ đã chếnh choáng, khuôn mặt say rượu dưới ánh nến hồng toát ra một vẻ đẹp tuy hơi lạnh lùng nhưng thực sự say lòng, như nhìn tôi, lại như nhìn vào một điểm hư không nào đó, thoáng mím môi, lại tiếp: “Lúc đó tôi là nhạc sư trong Triệu cung, gặp chàng trong một đại yến, chiến công lừng lẫy của chàng ai không biết, cả Triệu vương cung, bao gồm mấy vị công chúa, không ai không ngưỡng mộ chàng”.

Ánh mắt cô ta dừng trên mặt tôi, miệng lại hơi nhếch: “Nhưng chàng chỉ đưa mình tôi về nước”. Ngừng một lát, mắt vẫn hướng vào tôi như cười, “Cô chỉ nhìn thấy tư phong nho nhã, trác việt của chàng, nhưng đã bao giờ nhìn thấy chàng nhẫn nại, ôn tồn dịu dàng âu yếm chưa?”.

Tôi lắc đầu. Cô khẽ cười: “Những gì chúng tôi có với nhau, cô không thể tưởng tượng được đâu”.

Lòng tôi nổi từng cơn sóng, lớp lớp dềnh lên, ép tới, nặng như đá tảng, nhưng lại không thể tỏ ra yếu thế, giống như gặp chó sói trên đồng hoang, dù sợ hãi đến mấy cũng phải ngẩng đầu nhìn nó, kẻ cúi đầu xuống trước là thua.

Cả cuộc đời, phụ vương không dạy được tôi điều gì hữu ích, ngoài một điều khi lòng càng hoảng loạn càng phải tỏ ra bình tĩnh. Thực ra tôi muốn hỏi cô ta, đã thích chàng như vậy, sao nỡ hại chàng, làm chàng bị thương nặng như thế, cũng không ngoái nhìn một lần. Chung quy chỉ tại tôi không hiểu, làm tổn thương người yêu cũng là một cách thể hiện tình yêu.

Ở đời người ta thường hay suy nghĩ không thông, trong tình cảm lại càng như thế, tất cả những suy nghĩ của tôi đều chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân mà về mặt này rõ ràng tôi chưa từng trải.

Bên ngoài có tiếng bước chân, mặt cô ta biến sắc, đứng bật dậy, kéo xoạch bức bình phong, ánh sáng trước mắt lập tức mờ hẳn, chỉ lưu lại một ám ảnh nặng nề lan dần trong đầu mà trước đó tôi còn chưa biết là gì, bây giờ xem ra chính là những tưởng tượng mơ hồ về cảnh cô ta và Mộ Ngôn âu yếm bên nhau, lại thêm chiếc khăn mùi xoa nhét trong miệng, khiến tôi không thể cất lời.

Vẫn còn ôm một hy vọng mong manh, cố nhướn lưng, mong được thấy cảnh tượng khác, có thể an ủi bản thân, lại nghe thấy ba tiếng gõ cửa quen thuộc, cánh cửa phòng từ từ mở ra. Một giọng nói vang lên, nhẹ mềm như một nhành tơ liễu ngày xuân, cùng với tiếng cười: “Tôi tìm em đã lâu, Tử Yên”. Đó là Mộ Ngôn. Cô gái nghẹn ngào: “Em vẫn đợi chàng, vẫn luôn đợi chàng đến tìm em”.

Vai và lưng đột nhiên như rũ xuống, không thể chịu đựng hơn nữa, bải hoải tựa vào tường, cái lạnh như khi sắp chết từ sống lưng lan ra, chỗ viên giao châu trong lồng ngực đột nhiên thấy đau. Quả rất kỳ lạ.

Đúng lúc đó, ván giường như bị lật nghiêng, khi trấn tĩnh được đã thấy bị ném vào chỗ nào đó, một tia sáng lờ mờ không biết từ đâu lọt ra, tôi đoán đây là một cái hang núi dài. May trước đó tôi đã cởi được dây trói, dù bị ném xuống hố sâu cũng không bị thương.

Ngồi tựa vách hang nhìn lên, không biết lúc này cảnh tượng trong phòng thế nào.

Có thể hình dung bên ngoài nhất định là một bầu trời sao sáng, chàng giẫm lên ánh trăng đẩy cửa đi vào, vẫn phong nhã du nhàn như vốn dĩ. Có câu nói thế nào nhỉ, hình như là, “Bóng trăng lay động đầu cành, tường hoa in bóng văn nhân lại gần”. Nhưng không phải đến vì tôi.

Logic của tôi rất đơn giản, cho rằng Tử Yên đã đâm chàng, nhất định không còn là người của chàng, chàng sẽ không thích cô ta, tôi là một người chết, thực ra không có tư cách gì, nhưng mong chàng có thể tìm được người tốt hơn.

Thực ra, tôi đang nói dối, tôi không hề mong chàng tìm được cô gái tốt hơn. Nói trắng ra tôi ích kỷ, nhưng nếu nhất định phải lựa chọn, tôi thà thấy chàng yêu cô gái khác, nhất định không thể là Tử Yên, giống như suy nghĩ của Dung Viên. Nhưng họ vẫn gặp nhau, xem ra cả hai vẫn còn nhiều lưu luyến.

Tử Yên nói rất phải, tôi giống một con rối nực cười. Nhưng nếu đó chính là tình yêu của tuổi trưởng thành thì quả thực tôi không hiểu. Nhìn bàn tay mình, bàn tay phải đã mất đường sinh mệnh, càng nghĩ càng không hiểu, lòng buồn thấm thía nhưng không biết tự an ủi ra sao.

Tôi cầm lên chiếc mặt nạ dưới đất, lấy tay áo lau sạch, đeo vào mặt, còn có thể như thế nào nữa, vậy là chia tay. Tôi nhớ chàng, nghĩ tới sau này không bao giờ gặp lại, cuộc đời tôi kết thúc quá sớm, gặp chàng lúc còn nhỏ, không biết yêu là gì, khi hiểu được, chàng đã yêu người khác. Trong hang dài tịch mịch như vô tận, tôi từ từ khụy xuống, gục mặt vào hai đầu gối, bật khóc.

Khóc một lúc cũng thấy dễ chịu hơn, thực tế cho thấy, nỗi buồn có thể giải tỏa bằng nước mắt đều không phải là nỗi buồn. Những tiếng nức nở vang lên trong động, đập vào vách hang, vọng lại như có người đứng bên an ủi, lại cảm thấy có một chút can đảm.

Bám vách hang đứng lên, men theo vách đá tập tễnh đi ra, trên đường đụng phải rất nhiều xương khô, tôi bỗng thấy sợ hãi, trước kia không nhận ra, bây giờ rời xa Mộ Ngôn tôi mới hiểu chàng bảo vệ tôi quá kỹ, khiến tôi có cảm giác mình là cô gái bình thường, quên đi mình là người chết. Suy cho cùng không nên sợ hãi, bởi họ thực ra cũng như tôi, chỉ là bộ xương mục đen sì trong hang núi.

Vất vả lần ra đến cửa hang, bên ngoài là đêm đen, không phải bầu trời sao như tưởng tượng, một trận mưa lớn trút xuống đầu.

Tôi đội mưa đi trong đêm. Lúc Tử Yên nhốt tôi trong hang núi, chắc không ngờ tôi có thể thoát ra, nhưng Mộ Ngôn thích cô ta, chàng không biết chính cô ta bắt cóc tôi, nghĩ đến những bộ xương vừa vấp phải trong hang, cô ta chủ tâm vứt tôi vào đó nghĩ là tôi sẽ chết vì trúng độc chướng khí, đâu có biết tôi vốn là một người chết.

Ngọn núi như con thú nằm ngang trước mặt, há cái mồm khổng lồ đầy máu, bóng cây cao vút nhảy múa trong đêm tối, trong màn mưa tạo ra những hình thù kỳ dị. Gió réo bên tai, thổi bạt những sợi mưa, quất vào người, cái lạnh từng lớp thấm qua da thịt, thấm vào lòng, lạnh như băng.

Trời vẫn mưa như trút nước. Phía xa đình viện thấp thoáng lọt ra ánh sáng nhưng lại chính là nơi nguy hiểm nhất với tôi. Tôi không biết đường đến núi Quân Vu, chỉ biết chạy thục mạng ngược hướng ánh sáng nguy hiểm đó. Đường núi trơn, dù đã quen nhìn trong bóng tối, cũng có lúc không nhìn kỹ, tôi vấp ngã liên tục, người lấm đất.

Cảm thấy đã chạy được khá xa, không sợ bị đuổi kịp tôi mới yên tâm, nhìn thấy một bụi cây thấp ven đường, tôi chạy vào định tránh mưa.

Viên giao châu khiến tôi lạnh hơn người thường, không cần phải vội, tôi trấn tĩnh tinh thần, cảm thấy nước mưa và đất nhão bám vào từng tấc cơ thể, lạnh rúm người. Mưa tạnh thì sẽ ổn thôi, tôi nghiến răng, ôm gối tự an ủi. Mưa tạnh sẽ ổn thôi.

Trận mưa lớn nơi núi sâu đủ dài để xảy ra mọi chuyện, tôi đã nghĩ đến rất nhiều nguy hiểm, chỉ duy nhất quên một điều, có những loài mãnh thú quen tìm mồi trong mưa.

Khi phát hiện ra, con báo đó đã đứng cách tôi mười trượng, hình như nó chưa trưởng thành, đôi mắt xanh lét như hai đốm lửa quái dị trong đêm, ánh lên lớp lông ướt đẫm nước mưa, lộ những đường vằn hoa. Con báo hình như vừa thôi bú chưa lâu, dè dặt nhìn tôi, có lẽ đang suy nghĩ cái thân hình lấm đất trong bụi cây là vật gì, liệu có thể cho vào bụng. Còn tôi trong người chỉ có một vật duy nhất có thể tự vệ là con dao găm nhặt được trong hang núi.

Lúc này không nghĩ gì hết, cũng không ngây thơ tưởng tượng Quân Vỹ, Tiểu Hoàng từ trên trời rơi xuống, hoặc thần kỳ hơn, Mộ Ngôn từ trên trời rơi xuống. Nếu nghĩ vậy thì chết chắc.

Nhìn nhau một lát, con báo cuối cùng nhún hai chi sau lấy đà lao đến, còn tôi không biết lấy đâu ra can đảm, không né tránh, tay nắm chặt chuôi dao găm nhằm cổ con báo đón đợi.

Đương nhiên là không đâm trúng. Cho dù móng vuốt con báo cào lên người tôi cũng không đau, không hề gì. Không thể giương mắt nhìn nó ngoạm mình từng miếng, vẫn kiên trì dùng dao đâm vào cổ họng nó, dốc sức toàn thân, chỉ nghe thấy tiếng gầm đau đớn của con thú, lòng thấp thỏm ý nghĩ phải giết nó thật nhanh, không để tiếng gầm của nó lôi kéo mãnh thú khác đến.

Khi dao găm đâm trúng họng con báo như ý muốn, máu đỏ vọt ra như mưa, phun vào ngực tôi, nhanh chóng lan ra, đỏ ngầu một mảng. Bầu trời cao, mưa đêm vô tận, con dao trong tay cầm không chắc, suýt rơi, máu con báo lẫn nước mưa và đất nhão. Chỉ thấy tiếng gió mưa, không có tiếng thở của tôi, xung quanh không một vật sống.

Nỗi sợ cuối cùng cũng xâm chiếm từ chân lên đầu. Quân Vỹ luôn cho là tôi bạo gan, chẳng sợ gì, đó là lúc còn nhỏ, sau này lớn lên cảm thấy rất nhiều thứ không thể bị mất, càng ngày gan càng bé đi, thái độ gan góc không sợ hãi chỉ là giả bộ trước mặt Quân Vỹ mà thôi.

Lấy tay che mắt, nghĩ đến cảnh tượng một tháng trước, trong đêm trăng gặp con sói, đêm đó ánh sao mênh mông như dát bạc lên triền núi, có một người đứng trước mặt tôi mỉm cười: “Không nhận ra con sói đi theo hay sao?”, rồi vỗ lưng tôi an ủi: “Đừng sợ, con sói bị giết rồi, còn sợ gì nữa?”.

Rõ ràng biết nước mắt cũng chẳng ích gì, nhưng lại không kìm được, trong màn mưa lạnh cô đơn, một lần nữa tôi bật khóc, nước mắt chảy dài theo kẽ ngón tay, tôi nhớ chàng: “Mộ Ngôn, chàng ở đâu, em sợ lắm”.

Em sợ lắm.

Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, mưa vẫn không có dấu hiệu ngớt, vẫn ầm ầm trút nước.

Thấp thoáng nghe thấy tiếng gầm gào, hình như là tiếng hổ gầm.

Tôi khó nhọc đứng lên, thầm nghĩ, dùng đá ném liệu có được, kết quả là không được. Sức lực yếu ớt đâm chết một con báo chưa trưởng thành là do ông trời ngủ gật, lại còn muốn giết một con hổ trưởng thành có lẽ phải chờ ông trời ngủ mãi không tỉnh.

Tôi không hy vọng lại gặp may lần nữa. Không biết viên giao châu bị con hổ nuốt chửng sẽ thế nào. Quân sư phụ nói viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn huyền bí, với công lực tự thân đã có thể làm cho người chết sống lại trong ba năm.

Tôi không biết nó sẽ khiến cho con hổ sống thêm bao nhiêu năm. Tình huống xấu nhất sẽ là sau tối nay trên đời sẽ xuất hiện một con hổ trường sinh bất lão, lại không phải là Tiểu Hoàng, không biết sẽ tác động thế nào đến cân bằng sinh thái. Tôi chạy thục mạng ngược hướng con hổ, thực ra thế nào cũng được, tôi chẳng có tài cán gì, có lẽ không thể sống qua đêm nay, nhưng dù không thể sống mà ra khỏi khu rừng này cũng không thể gây hại cho người khác.

Mặc dù hơi sợ, tôi vẫn nắm chặt con dao găm đã bị nước mưa xối rửa sạch sẽ, run run thử ướm vào ngực mình. Nếu bị con hổ phát hiện, phải đâm dao vào ngực, nhất định phải hủy viên giao châu.

Tôi căng thẳng chờ đợi, không nghe thấy tiếng hổ gầm nữa, chỉ có tiếng bước chân loạng choạng vang lên sau lưng. Trời mưa to như vậy nhưng tôi vẫn nghe thấy hơi thở gấp gáp của người đó.

“A Phất”. Tiếng gọi khàn đến mức không giống giọng của chàng. Tôi đang ngây người đứng đó, chờ đợi cả nghìn vạn năm nhưng không có can đảm ngoái đầu. Khóe mắt liếc thấy thanh kiếm trong tay chàng, miếng thạch ngọc khảm trên chuôi kiếm phát ra ánh sáng màu lam lóng lánh, ánh lên một góc tay áo đỏ như đóa yên chi, trông tuyệt vời nho nhã.

Đó chính là chàng. Có thể cảm thấy bàn tay chàng chầm chậm đặt lên vai tôi, hơi ngừng lại rồi kéo tôi vào lòng. Mưa trút xối xả nhưng tôi không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào, chỉ cảm thấy thiên hoang địa lão, bể dâu cũng hóa thành tro bụi. Môi chàng áp sát vành tai tôi, tôi nghe thấy hơi thở dần bình ổn của chàng, một lúc lâu sau chàng khẽ nói: “Cô làm tôi sợ chết đi được”.

Đó chính là chàng, rõ ràng không ngửi được nhưng tôi lại cảm thấy hương hoa mai thoang thoảng quanh mình, hai tay run run ôm lấy cánh tay chàng tựa như nhìn thấy một vạn bông mai nở trên núi tuyết.

Đó chính là chàng, tôi nghe thấy giọng mình run rẩy: “Tôi tưởng không bao giờ được gặp huynh nữa”. Chàng ôm chặt hơn nhưng vẫn thận trọng né tránh vết thương ở bả vai do vuốt con báo gây ra, ngón tay lạnh lẽo vuốt ve mắt tôi.

Một khắc trước còn cảm thấy không thể sống qua đêm nay, còn lúc này Mộ Ngôn đã ở đây, tất cả mọi bất an đã hóa thành tro bụi bay đi, nhưng nỗi buồn lại ứ dâng, vốn định tỏ vẻ bất cần, không muốn để chàng nhìn thấy sự yếu đuối bi lụy của mình nhưng không thể, nước mắt đã trào ra, tôi khóc nức nở, càng khóc càng không kìm được, Mộ Ngôn lặng lẽ ôm tôi, ngón tay dán vào mặt nạ, lau nước mưa và nước mắt. Nhưng chỉ uổng công, lát sau chàng áp má vào trán tôi, thở dài.

Bấy lâu nay, tôi luôn nghĩ nếu tôi có một người trong lòng, nhất định sẽ đem mọi sung sướng khổ đau của mình phổ thành khúc nhạc gảy cho chàng nghe. Người của lòng tôi, lúc này, đang ở đây.

Không nhìn rõ bóng chàng, chỉ cảm thấy người mình từ từ quay lại. Những ngón tay lành lạnh lướt qua mái tóc, dừng lại trên đuôi mắt tôi: “Có tự đi được không?”.

Tôi gật đầu, ngừng một lát, lại lắc. Người bị nhấc bổng lên, giọng ai sát bên tai: “Không biết bị đau chỗ nào, nếu đau thì nói”.

Tôi lắc đầu, ngừng một lát, lại gật. Nhất định chàng thấy tôi rất đáng thương, sự xót thương một con chim sẻ bị bắn gẫy cánh, rất hy vọng sẽ là tình yêu, ước gì được như thế. Tôi biết mình mù quáng, nhưng cho dù mù quáng, tôi cũng muốn mù quáng thêm lát nữa.

Tôi được Mộ Ngôn bế về quán trọ, suốt chặng đường không ai nói gì, mưa vẫn không ngớt. Trước cửa quán trọ, Chấp Túc xa cách đã lâu tay cầm chiếc ô đứng đợi. Không biết tại sao cô ấy đột nhiên xuất hiện, có lẽ hộ vệ của Mộ Ngôn vẫn bí mật bám theo suốt dọc đường, tuy không lộ diện nhưng vẫn theo dõi hành tung của chủ, khi chủ gặp nguy hiểm lập tức ra tay.

Chấp Túc thu cái ô lại, định đón tôi từ tay Mộ Ngôn, tôi đang do dự không biết có nên đứng xuống, lại cảm thấy bàn tay ôm khoeo chân và eo mình xiết chặt. Nhờ ánh sáng của ngọn đèn lồng, tôi ngẩng đầu nhìn rõ bờ môi mím chặt, mái tóc ngấm mưa ướt đẫm, sắc mặt trắng xanh của Mộ Ngôn.

Chưa bao giờ thấy chàng tỏ ra lạnh lùng như vậy, như lớp lớp băng đóng trên mặt sông mùa đông. Tôi giơ tay định bám vai chàng, tay vừa chạm vào cổ áo, bàn chân chàng trên sàn nhà trọ đã dừng lại: “Đau à?”.

Nước mưa nhỏ từ tóc xuống, từng trận gió lớn làm ngọn đèn lồng trong tay Chấp Túc chao đảo, cuối cùng tắt phụt. Trong bóng tối, tôi len lén ôm cổ chàng, không thấy có phản kháng, khẽ trả lời: “Không đau”, nghĩ một lát, lại hỏi chàng: “Tôi nặng lắm phải không, huynh vất vả quá!”.

Tôi biết chàng sẽ trả lời thế nào, nhất định là nửa cười nửa không châm biếm tôi: “Cũng nghĩ đến sự vất vả của tôi cơ đấy?”. Nhưng lần này chàng không nói như vậy. Có vật gì khẽ chạm vào đầu, phả hơi âm ấm. Tôi nghĩ ra đó là gì, mặt chợt nóng bừng.

Hành lang ván gỗ của quán trọ kêu cót két dưới chân. Cửa phòng mở ra, tôi thấy sau bức bình phong vẽ khóm hoa tử oanh thấp thoáng cái chậu gỗ to nước bốc hơi nghi ngút, khiến ba chiếc đèn lồng treo trên giá đồng đen loang loáng nhập nhòe.

Mộ Ngôn để tôi xuống, kiểm tra vết thương trên người tôi, phát hiện chỉ có mấy vết xước trên vai do vuốt con báo cào rách, gọi Chấp Túc lại dặn dò. Sau đó như muốn đi ra, tôi vội túm ống tay áo: “Huynh định đi đâu?”. Mặt chàng cuối cùng lộ ra nụ cười: “Đi thay quần áo, cô tắm đi, lát nữa tôi quay lại”.

Mặc dù nghe nói Chấp Túc rất giỏi băng bó vết thương cũng phải uyển chuyển từ chối, đành bịa ra một lý do, cô ấy bán tín bán nghi, nhưng có lẽ cảm thấy con người tôi đầy bí hiểm, nên vẫn đi ra để mặc tôi tự lo liệu.

May vẫn còn giữ được một lọ thuốc trị thương Quân sư phụ đưa cho lúc lên đường, tuy bị ngấm chút nước mưa nhưng vẫn dùng tốt. Bôi thuốc lên vết thương, thay quần áo sạch xong, tiếng gõ cửa của Mộ Ngôn vang lên, vẫn là kiểu gõ thong thả ba tiếng.

Cửa mở, Mộ Ngôn hiện ra trước ngưỡng cửa, toàn thân áo chùng đen, tay và cổ áo nổi những hoa văn thêu chỉ bạc, tay bê bát nước gừng kháng hàn. Tôi chờ chàng đến, lúc tắm đã nghĩ chàng đến làm gì, nghĩ mãi rồi cảm thấy chàng đến làm gì không quan trọng, chỉ cần được ở bên chàng thêm một khắc, cho dù chàng đến chỉ để đưa bát nước gừng uống cho ấm bụng.

Kết quả chàng quả nhiên đến đưa bát nước gừng, ý nghĩ đầu tiên của tôi là mình thật ngốc, sao vừa rồi không giả thiết chàng đến thổ lộ tình yêu với mình.

Sì sụp uống hết bát nước gừng vẫn không thấy chàng có ý đi ra, ngồi bên giường ngây ngây nhìn tôi uống cạn giọt nước gừng cuối cùng, lát sau nói: “Khi tôi mười hai tuổi lần đầu tiên theo phụ thân xuất chinh”.

Đây là câu chuyện kể tuyệt vời trước khi ngủ, tôi để cái bát không lên chiếc bàn nhỏ cạnh đầu giường, kéo cao chăn, tựa đầu giường nghe chàng kể.

“Lúc đó tuổi nhỏ khí hăng, trúng kế dụ binh của địch, bị kẹt ở giữa vùng núi sâu vắng vẻ. Cũng là một đêm mưa, một trăm tinh binh dưới tay bị thiệt mạng, xác ngổn ngang trên núi, khó khăn lắm họ mới bảo vệ được tôi, giấu vào một hang núi, trong hang tôi nghe thấy phía xa có tiếng mãnh thú gầm gừ tranh mồi, biết là chúng đang tranh nhau xác chết của binh sỹ mình. Lúc đó tôi cũng bị trúng tên, dù im lặng nằm một góc, mùi máu tanh cũng sẽ dụ chúng đến, biến thành bữa tiệc cho chúng. Nhưng nếu đốt đuốc đuổi thú dữ, sẽ bị địch phát hiện, cả hai đều là đường chết.

Chàng chống tay lên trán, tựa như suy nghĩ, dáng tư lự khác hẳn bộ dạng tôi thường thấy.

Xem ra chàng cũng không thường xuyên kể chuyện cho em gái nghe, bởi vì câu chuyện kể trước khi ngủ nên là những chuyện tình cảm nhẹ nhàng, không nên hồi hộp thót tim như vậy, tôi nắm chặt ống tay áo chàng, sốt ruột giục: “Sau đó thế nào?”.

Mộ Ngôn ngước nhìn tôi, dưới ánh đèn, mắt chàng đen thẳm như biển sâu: “Tôi sống đến bây giờ, tình huống gay go nhất đã gặp chỉ có lần đó, nhưng lúc đó tôi không hề thấy sợ”.

Tôi gật đầu: “Ờ, huynh rất dũng cảm, nhưng, nhưng, về sau thế nào, huynh làm sao thoát ra được?”.

Chàng cầm cốc trà lên, không trả lời câu hỏi của tôi, xoay xoay trong tay: “Vốn đã tưởng ngay tình huống đó cũng không thấy sợ, có lẽ trong cuộc đời này sẽ chẳng sợ gì nữa”.

Ngừng một lát, chàng ngước mắt nói: “Bao gồm cả lần tôi bị Tử Yên đâm trúng mà cô nhìn thấy”.

Thấy tôi ngạc nhiên, chàng cười rất nhẹ, vẫn xoay cốc trà bằng gốm thô trong tay: “Tôi đã tính rồi, dùng tư thế đó, cô ấy sẽ đâm trúng chỗ nào trên người tôi, tôi sẽ bị thương như thế nào, cần dưỡng thương bao lâu, có bao nhiêu thời gian để cho tiểu đệ của tôi thừa cơ phản loạn”.

Chiếc cốc trong tay chàng đã xoay một vòng, “Chuyện này rất nguy hiểm, chỉ cần sai sót một chút là có thể mất mạng, nhưng đến khi con dao đâm xuống theo dự đoán, tôi điều chỉnh tư thế cho dễ chịu hơn, cũng không cảm thấy sợ hãi bao nhiêu”.

Chiếc cốc gốm chuyển sang tay trái, chàng thản nhiên nói: “Hình như tôi sinh ra đã không biết sợ, bẩm sinh đã thiếu cảm giác đó”.

Tôi kinh ngạc không nói ra lời, một lát sau chỉ có thể nói một câu: “Ngộ nhỡ bị đâm chết thì sao?”. Nghĩ đến Tử Yên cô nương, nghĩ đến chàng, đến kế hoạch chu toàn đó của chàng, quan hệ giữa chàng và Tử Yên cô nương là thật hay giả, nhưng cũng không mấy bận tâm, điều bận tâm nhất vẫn là ngộ nhỡ thì sao? Ngộ nhỡ lúc đó chàng bị Tử Yên cô nương đâm chết, chết trước mặt tôi, tôi tìm chàng cả đời, cuối cùng chứng kiến chàng thân mình đẫm máu nằm trước mặt, lại không biết chàng là ai. Tôi thở phào, may ông trời không để chuyện đó xảy ra.

Cốc trà được để lên bàn, ánh nến chao đảo, chàng khe khẽ lặp lại “ngộ nhỡ” nhưng lại khẽ cười: “Sẽ không có ngộ nhỡ nào hết. Giống như giải một đề toán, có một vạn bước, mỗi bước đều chính xác, nghĩa là một vạn trên một vạn. Sẽ không xảy ra sai sót một phần vạn nào hết, nếu có, chỉ là do khi giải, tính toán không cẩn thận…”.

Tôi ngắt lời chàng: “Nhưng sự đời không phải mọi chuyện đều như giải đề toán, con người có tình sẽ thấy sợ hãi, khi sợ hãi nhất định lo lắng đến tình huống ngộ nhỡ”.

Chàng chống tay lên trán: “Sao? Vậy cô nói xem, A Phất, tại sao người ta sợ?”.

Vấn đề này hoàn toàn không cần suy nghĩ, “Bởi vì có những thứ muốn giữ gìn bảo vệ”.

Chàng nhìn tôi rất lâu, chậm rãi nói: “Cô nói đúng, đó là nguyên nhân tối nay lần đầu tiên tôi đã thấy sợ”.

Không biết thế nào, câu chuyện lại đột nhiên chuyển hướng như vậy, đầu óc phản ứng không kịp, lúc sau, tôi ngây ngây nhìn chàng: “Nhưng huynh nói chưa bao giờ huynh sợ…”.

Chàng giơ tay nắm tay tôi: “Tối nay tôi rất sợ”.

Tôi sững người, khi hiểu được chàng đang nói gì, toàn thân bỗng cứng đờ, tay hơi rụt lại một cách bản năng lại bị chàng nắm chặt: “Là tôi đã sai, không nên để em một mình trong quán trọ”.

Tôi bối rối: “Cũng không thể trách huynh…”.

Chàng bổ sung: “Biết rõ em ngốc như vậy, thân thủ không tốt, lại dễ tin người”.

“ … Đủ rồi”, tôi bực mình nhìn chàng, “Thực ra là huynh…”.

Lại bị chàng ngắt lời: “Tôi thích em”.

Sự chuyển hướng quá đột ngột khiến người tôi bủn nhủn.

Tay run run.

Những lời hay như vậy, chuyện tốt như vậy, đây nhất định là đang nằm mơ. Cơ hồ nhắm mắt theo bản năng, bốn bề yên tĩnh, chỉ nghe tiếng mưa nhỏ dần bên ngoài.

Quả nhiên là mơ, chẳng phải thường nghe thấy những chuyện như thế sao, làm gì có bánh nướng từ trên trời rơi xuống.

Cánh cửa sổ “cạch” một tiếng, tôi giật nảy mình, mở mắt, nhìn thấy một con chim sẻ ướt đẫm bay vào, loạng choạng trong phòng. Căng thẳng nhìn lướt phía trước giường, vật đầu tiên lọt vào mắt là một đôi giày, nhích lên một chút, Mộ Ngôn nhăn nhó nhìn tôi: “Tôi đang chờ em trả lời, em nhắm mắt giả bộ ngủ là ý gì?”.

Hóa ra không phải chiêm bao.

Tôi líu lưỡi lắp bắp, hỏi lại: “Trả… trả lời gì kia?”.

Chàng cầm bàn tay tôi để bên ngoài chăn, nắm chặt trong tay mình, mỉm cười chăm chú nhìn vào mắt tôi: “Tôi thích em, A Phất, có phải em cũng thích tôi?”.

Tôi hoang mang nhìn chàng, đầu óc đột nhiên trống rỗng, nghe thấy giọng nói bình tĩnh của mình: “Thích mà huynh nói là như thích em gái sao? Nếu là thích như vậy, tôi cũng thích huynh như thích anh trai…”. Chẳng biết mình đang nói gì.

Chàng khẽ kéo tôi lại, hơi cúi đầu, như vậy có thể bốn mắt nhìn nhau. Chàng nhìn tôi, vẻ mặt nghiêm túc xa lạ, nói từng tiếng: “Em nghĩ tình cảm của tôi với em là thế nào? Trước đây tôi đã nói, lấy tôi có nhiều cái hời. Nếu cả đời tôi chỉ lấy một mình em, em có đồng ý lấy tôi?”.

Tôi nhìn thấy biển hoa mai trắng dâng lên, dệt thành một tấm thảm trắng, dâng dần dâng dần trong màn mưa đêm, lạnh buốt, trải khắp phòng. Thực ra đều là hoang tưởng, như cái đêm sao sáng lần đầu tôi gặp chàng đó, cảm tưởng như nhìn thấy hoa mai trắng tháng hai nở đầy triền núi. Trên môi chàng nở nụ cười, lặng lẽ, lặng lẽ nhìn tôi, gió lạnh lùa qua cửa sổ, hoa tử vi bên ngoài chi chít đầy cành, rung rung trong gió, cánh hoa tím lặng lẽ khoe sắc trong đêm.

Ông trời để chúng tôi tái ngộ đã là phúc lớn, trong lòng tôi cũng thầm mơ ước chàng thích tôi, nhưng chưa bao nghĩ điều đó sẽ thành hiện thực, chưa bao giờ, chàng hỏi tôi có bằng lòng không, sao có thể không bằng lòng. Nhưng tôi đâu có thể được gọi là con người.

Tôi như vậy, muốn ôm chàng cũng không dám.

Sống và chết là hai cõi khác nhau, chỉ là tôi quá quyến luyến. Đây là người tôi thích nhất, lòng âm thầm trân trọng chàng, muốn bảo vệ chàng, không bao giờ muốn hại chàng.

Gật đầu là chuyện dễ nhất, nhưng nếu có một ngày, chàng biết người chàng yêu thương là một người chết, chàng sẽ ra sao? Tôi sẽ ra sao?

Như qua cả một cuộc đời, tôi lấy hết can đảm nắm tay chàng, run run đặt lên mũi mình. Sắc mặt chàng có chút lạ lùng, tôi không dám nhìn biểu hiện tiếp theo của chàng, cố kìm nỗi cay đắng trong lòng: “Có cảm thấy gì không…? Mộ Ngôn, tôi không có hơi thở”.

Ngón tay chàng hơi dừng lại, đã nói ra được câu đó, dường như tôi có thể thẳng thắn nói ra tất cả: “Có phải rất nhiều lúc huynh ngạc nhiên tại sao tôi không thấy đau”. Tôi cắn môi, khó nhọc đẩy cái vật chắn trong họng, “Bởi vì tôi hoàn toàn không cảm thấy đau, cũng không ngửi thấy mùi hương hoa nồng nàn, cũng không ngửi thấy mùi cao lương mỹ vị của tửu lầu mà huynh ca ngợi. Tôi tỏ ra rất thích bánh chẻo nhân tôm, thực ra ăn nó không có vị gì, chỉ là trước đây, trước đây tôi từng thích món đó”.

Ngẩng đầu, hai tay che mắt, nước mắt bắt đầu tuôn, tất cả đã hết. Ép chặt vào đầu giường như bám vào khúc gỗ nổi giữa biển nước mênh mông: “Huynh nói huynh muốn lấy tôi, tôi cầu mong không được, nhưng tôi thế này, huynh còn dám lấy không?”. Tất cả đã hết.

Hồi lâu sau, ngón tay lành lạnh của chàng dừng trên tai tôi, men theo lớp mặt nạ bạc từ từ trượt lên trán. Với tâm trạng bát nước đã đổ, không thể cứu vãn, tôi đợi chàng lột mặt nạ của mình.

Khi mặt nạ được nhấc ra, tôi không dám mở mắt nhìn, chàng nhất định hoảng sợ khi thấy khuôn mặt trắng nhợt của tôi, nhất định nhìn thấy vết sẹo dài trên trán tôi, một khuôn mặt xấu xí chấp chới giữa sống và chết, cảm giác của chàng sẽ thế nào?

Tôi từng nghe một câu chuyện, một con rối bằng gỗ đem lòng yêu chủ nhân của mình, do nhân duyên ngẫu hợp thế nào bị một thuật sĩ làm bùa phép biến thành một cô gái, cuối cùng lấy được người mình yêu, nhưng đến ngày bùa phép hết công lực, chủ nhân đã sợ hãi ngất xỉu khi con rối hiện nguyên hình, con rối với trái tim thiếu nữ gục ngã bên cạnh chủ, cuối cùng dùng thanh kiếm tự kết liễu đời mình.

Tôi lúc này giống như con rối đó, chủ nhân của cô hoảng sợ khi nhìn thấy cô, nhưng không biết cô còn sợ hơn anh ta vạn lần.

Ngón tay từ giữa hai hàng lông mày từ từ vòng qua trán, di chuyển về tai trái, chính là chỗ vết sẹo đó, là nơi tôi không muốn chàng chú ý nhất, nhưng ngón tay chàng thậm chí đã dừng ở đó, người run lên, tôi chờ câu nói của chàng, “Duyên phận đã hết, chúng ta đoạn tuyệt từ đây”, câu Quân Vỹ thường viết trong tiểu thuyết.

Tóc mai bị vén lên. Trong tiếng cánh cửa sổ bị gió thổi va lạch cạch, giọng chàng rất nhẹ: “A Phất, mở mắt nhìn tôi”.

Tôi căng thẳng nắm chặt ống tay áo, vừa cảm thấy không thể từ chối đề nghị đó vừa sợ mở mắt nhìn thấy cái không muốn nhìn. Cuối cùng tình cảm chiến thắng lý trí, tôi mở mắt ngước nhìn, thần sắc trên mặt Mộ Ngôn quả nhiên lạ lùng chưa từng thấy, nhưng không phải là vẻ kinh hoàng, khiếp sợ hay ghét bỏ, giống như đứng trước một trận chiến không biết thắng hay thua, điềm tĩnh đến mức tựa như trang nghiêm.

Tôi ngây ngây nhìn chàng.

Cặp mày hơi cau của chàng cuối cùng giãn ra, kéo tôi lại gần hơn: “Chuyện đó em có thể tự nói ra với tôi, tôi rất vui”.

Tôi giơ tay che vết sẹo trên trán: “Huynh, huynh không sợ sao?”.

Chàng lắc đầu, như nghe thấy chuyện buồn cười: “Tại sao lại sợ?”.

Sao có thể không sợ, có lúc ngủ mơ, nghĩ đến bản thân sống như chết, chính mình cũng thấy sợ, sao chàng lại bình tĩnh chấp nhận như vậy.

Đối diện với gương mặt bối rối phản chiếu trong chiếc gương đồng, tôi lùi vào bóng tối, cười đau khổ, “Tôi không giống một người sống thực sự, hơn nữa, huynh nhìn thấy rồi, tôi là một quái vật xấu xí”.

Chàng kéo tôi ra khỏi bóng tối, nhìn kỹ tôi, nơi ánh mắt chàng quét qua, da thịt tôi như bị lửa thiêu, rồi lại bị dìm trong băng lạnh. Tôi ngoảnh mặt sang bên, trong cái nhìn hai tầng băng hỏa tương khắc đó, chàng nghiêng người gỡ bàn tay tôi đang ôm trán, nắm trong tay mình: “Tại sao lại cho rằng mình xấu xí, nếu như ngay… danh chấn thiên hạ…”.

Nói đến đó, chàng cúi đầu cười, như tự nói với mình: “Tôi vốn nghĩ đó chỉ là… nhưng không ngờ lại đúng như vậy”. Khi ngẩng đầu chàng lại giơ tay vuốt ve vết sẹo trên trán tôi, “Nếu hồi đó tôi có thể đoán ra, chúng ta…”. Nhưng cuối cùng lại không nói hết. Tôi không biết chàng định nói gì, chỉ lờ mờ hiểu, đó là điều tôi không thể, cũng không cần tìm hiểu.

Bàn tay chàng dừng trên má tôi: “Vui lên đi, vết sẹo nhỏ đó không ảnh hưởng đến nhan sắc của em, em là cô gái đẹp nhất tôi từng gặp”. Ngón tay chàng lau nước mắt cho tôi, chăm chú nhìn mắt tôi, “Những chuyện đó đã có tôi, em chỉ cần cố sống đến khi tôi tìm ra cách, có làm được không?”. Ngoài gật đầu tôi không thể làm gì khác. Nếu đây là mộng, cả đời này tốt nhất tôi không nên tỉnh lại.

Chính trong lúc tôi gật đầu lia lịa, một miếng ngọc bội vân mây xâu chỉ đỏ đã tròng vào cổ tôi. Bạch ngọc Dương Chi trước ngực sáng lóng lánh, chàng ngắm nghía kiệt tác trước ngực tôi, môi cười rất đẹp: “Đây là tín vật của tôi, tôi đưa cho em vật quan trọng nhất thân mẫu để lại cho tôi, em trao tôi vật gì?”.

Tôi không biết nên trao chàng vật gì, tìm khắp người, lục tung mọi thứ, gia tài của tôi gồm có lọ thuốc trị thương đã dùng hết nửa, con hổ ngọc của chàng đưa lần trước, một bức họa nhỏ vẽ trộm chân dung chàng, chiếc trâm bạch ngọc vân hoa mua cho chàng nhưng vẫn chưa đưa.

Chàng hiếu kỳ nhìn tôi: “Đây là…”.

Tôi đẩy những vật đó đến trước mặt chàng: “Tùy chàng chọn”. Tôi không có tiền, không mua được những thứ quý hiếm, chỉ mong những thứ lặt vặt đó có thể chàng sẽ thích.

Chàng nhìn tôi một lát, nhặt lên chiếc trâm bạch ngọc: “Em vẽ bức họa đó là để đổi lấy chiếc trâm này tặng tôi?”.

Tôi bối rối gật đầu, ngượng nghịu giải thích: “Nghe nói đó là loại ngọc cổ, đã có hai trăm tuổi, chế tác cũng khéo, do một thợ nổi tiếng nào đó làm ra, ông chủ nhất định đòi ba trăm thù vàng…”.

Lời chưa dứt bỗng thấy ánh nến hơi tối, chàng đã nghiêng người, bất ngờ hôn vào môi tôi. Có thể cảm thấy hơi thở âm ấm bên má. Tôi sững người nhìn chàng, không biết rằng, trong tình huống như thế này hầu hết các cô gái sẽ nhắm mắt. Khuôn mặt đẹp kề sát, hàng mi dài, ánh mắt như cười. Tôi thật vô dụng, ngay hôn cũng không biết, chàng bèn nhẫn nại chà xát, dụ dỗ, dùng môi tách môi tôi, để chàng ngọt ngào mút mát. Nghĩ đến con đường gập ghềnh đã qua, mắt cay cay, nước mắt bỗng trào ra.

Chàng áp trán vào trán tôi, lấy tay lau nước mắt không ngừng trào ra của tôi, mỉm cười chế giễu: “Đồ mau nước mắt”.

Tôi bám lấy chàng, ôm chặt cổ chàng nức nở: “Em không mau nước mắt”.

Tay chàng vò rối tóc tôi: “Sao? Có lý lẽ hay ho gì nói nghe nào?”.

Tôi nhích ra một chút: “Được, em mau nước mắt. Nhưng mau nước mắt không phải là xấu. Em cảm thấy nước mắt là thứ không cần kìm nén nhất trên đời, có lúc em cũng muốn kìm nén, để mọi người thấy em rất kiên cường, bởi vì về sau em hiểu rằng kiên cường chỉ là một phẩm chất của lý trí, mau nước mắt không phải không kiên cường, sau khi khóc xong vẫn có thể đứng dậy, có thể nhìn rõ nên đi con đường nào, làm việc gì, em muốn là một người như thế. Chàng nghĩ coi, nếu như ngay nước mắt em cũng phải nén vào trong, những nỗi lo lắng, sợ hãi và cả hạnh phúc của em nên lấy gì để chứng minh, lấy gì chứng minh em vẫn còn sống”.

Ánh lửa chiếu lên đôi mắt sáng, sâu như biển của Mộ Ngôn, như có vì sao ở bên trong, ngoài cửa sổ mưa gió đã yên.

Lúc sau, chàng kéo tôi vào lòng: “A Phất, từ nay em có thể cứ khóc thoải mái cho tôi nghe”.

Tôi gục vào vai chàng, giống như một giấc mộng lớn, đây là điều lòng tôi hằng khao khát, là Hoa Tư mộng của tôi, tóc chàng chà vào mặt tôi, có một cái cây nhỏ đang lớn dần trong lòng tôi, nở đầy một tán hoa, bóng hai người ôm nhau in lên bức rèm màu tím ngập tràn trong mắt tôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 2

Buổi sáng hôm nay, cuối cùng chúng tôi nhận được thư của Quân Vỹ, được biết anh ta đang ở cùng với Bách Lý Tấn. Thư viết, lúc này hai người đang ở Bối Trung tập trung nghiên cứu một bí thuật, bí thuật đó là làm thế nào dùng thuốc điều khiển chính xác sự chuyển biến từ người thành thú.

Những bí thuật lưu truyền xưa nay Quân Vỹ không hề biết, anh ta không nên nhúng tay vào những việc đó mới phải, có lẽ ngẫu nhiên gặp Bách Lý Tấn, bị anh ta lôi kéo đi làm những việc không công. Thư cho biết, nghiên cứu hiện đang ở giai đoạn sơ khai, muốn chuyển đổi thành công, trước hết phải tìm ra bí dược khiến người ăn xong biến thành dã thú, hỏi tôi có đề nghị nào hay.

Tôi cho là không có bí dược biến người thành thú, muốn biến thành thú, có thể mua ít xuân dược kích dục, con người sau khi dùng xuân dược đó sẽ trở nên giống cầm thú, càng dùng nhiều càng giống cầm thú, rồi sinh ra một đống tiểu cầm thú…

Mộ Ngôn nghe vậy, suy nghĩ một lát, quyết định đổi ý đích thân đưa tôi đến Bối Trung. Chuyện này cảm giác giống như các bậc phụ huynh trước khi đi đâu đó làm việc lớn nhất định phải đưa con cái gửi gắm một nơi nào đó, kết quả những bậc phụ huynh đi làm việc lớn kia thường không hay trở về hoặc không thể trở về nữa, những đứa con để lại lần lượt trở thành trẻ hư… Tôi cảm thấy một cách bản năng nên đi theo Mộ Ngôn, nhưng chàng cho là tôi nên chờ đợi ở một nơi an toàn, Bối Trung là một nơi an toàn, tuyệt đối sẽ không có sơ sẩy gì.

Mặc dù lập tức bày tỏ có thể cùng chàng đồng cam cộng khổ nhưng lại bị phản bác: “Một số nơi rất nguy hiểm với phụ nữ, còn đối với đàn ông chỉ là hơi nhạy cảm một chút, em đến đó mới làm tôi lo lắng”.

Tôi cảm thấy nên tin tưởng chàng, nhưng vẫn phải dùng thủ thuật để chàng bỏ ý định đưa tôi đến chỗ Quân Vỹ: “Chàng không biết sao, Quân Vỹ từ lâu đã nói muốn lấy em, sao chàng ngốc thế, nhất định đưa em đến bên anh ta, như vậy không an toàn”. Nói câu đó xong, mới sực nhớ ra là chàng luôn thích khiêu chiến, lập tức tôi bị nhấc lên ấn vào xe ngựa: “Anh ta cứ thử xem”.

Đi thâu đêm, đến thẳng Bối Trung.

Hai nước Vệ, Trần chung một con sông, đó là Đoan Hà, Đoan Hà bắt nguồn từ Bối Trung của nước Trần. Nhưng Bối Trung không nổi tiếng bởi con sông đó, mà nổi tiếng bởi có dòng họ Công Nghi làm nghề đúc kiếm lừng danh thiên hạ.

Nghe đồn dòng họ Công Nghi tồn tại từ xa xưa, tổ tiên từng tham gia cuộc quyết chiến giữa con người với sứ thần nhà trời ở bồn địa đá, sau đó buông kiếm chuyển sang buôn bán, lập nghiệp ở đất Bối Trung, nhiều đời làm nghề đúc kiếm, do từng lập công với Trần triều nên được hưởng nhiều đặc quyền, đến khi Trần quốc phong đất, gia sản đã giàu có vô địch thiên hạ. Mỗi đời Trần vương đều gả một vị công chúa sủng ái nhất cho dòng họ đó, khiến dòng họ Công Nghi có những quan hệ chằng chéo về huyết thống hết sức phức tạp với vương thất Trần quốc.

Người trong thiên hạ cho rằng, mục đích nước cờ đó của Trần vương là hướng tới tài sản khổng lồ của dòng họ Công Nghi, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên bất luận thế nào, dòng họ Công Nghi có bảy trăm năm lịch sử được kế truyền hai mươi nhăm đời đã bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn bảy năm trước.

Bảy năm trước quả thật đã xảy ra không ít biến cố, lúc đó tôi còn nhỏ không biết, sống trong Thanh Ngôn tông, tin đồn về một gia tộc ở xa xôi đâu đó bị hủy diệt bởi một trận đại hỏa hoạn lọt qua những bức tường sừng sững của quốc tông giáo truyền đến tai tôi, tôi cảm thấy chuyện đó chẳng liên quan đến mình.

Sư phụ nói: “Con là công chúa nước Vệ, cũng nên hiểu ít nhiều thế sự thiên hạ, dòng họ Công Nghi giàu có như thế, bị hủy diệt khác nào chặt mất một cánh tay của Trần vương, bất luận thế nào đối với nước Vệ cũng là chuyện tốt”.

Tôi thầm nghĩ, ai biết chuyện đó không phải do Trần vương gây ra?

Sư phụ trầm ngâm hồi lâu, sau đó lần đầu tiên tôi được nghe sư phụ kể về truyền thuyết hung thú Thiên Hà. Hung thú Thiên Hà, sau nghìn kiếp nạn máu chảy thành sông là thần hộ vệ của dòng họ Công Nghi, ngủ yên dưới đáy sông, bảo vệ dòng họ Công Nghi đời đời thái bình. Thực ra tôi hơi nghi ngờ, cảm thấy cái gọi là hung thú đó sao có thể gọi là Thiên Hà, giả sử nhất định phải có ngụ ý sau khi trải qua nghìn tai họa máu chảy thành sông, gọi là Hậu Hà cũng hay hơn Thiên Hà.

Nhưng đó không phải là vấn đề chủ yếu, vấn đề chủ yếu là, tại sao một gia tộc cường thịnh như vậy, lại có riêng một vị thần bảo hộ, lại có thể bỗng chốc bị hủy diệt tan tành, Trần vương không làm được, chỉ có một lý giải duy nhất, dòng họ Công Nghi bị chính vị thần bảo hộ đó hủy diệt.

Bài học tôi rút ra được từ câu chuyện này là nuôi thần hộ vệ cũng rất nguy hiểm, còn sư phụ lại nhìn xa hơn: “Rất nhiều việc có nhân mới có quả, có quả tất có nhân, dòng họ Công Nghi bị tai họa triệt diệt như vậy tất có nhân từ xa xưa, ví như một ngày nào đó Vệ quốc bị diệt, cũng do nguyên nhân từ xa xưa, con có thể không hiểu nhân quả, nhưng con phải nhìn thấy hậu quả, trước khi làm gì hãy nghĩ tới hậu quả”.

Ấn tượng của tôi về gia tộc Công Nghi sở dĩ rất sâu chính do những lời dạy đó của sư phụ, những lời đó đến giờ tôi vẫn nhớ, ngoài ra còn cảm thấy nhiều tiền như vậy bị lửa thiêu hết thật đáng tiếc. Đương nhiên một gia tộc lâu đời như thế có thật bị hỏa hoạn tàn phá như đồn đại hay không, đến nay vẫn còn là bí ẩn, nhưng lại có tin đồn, hai năm sau, Công Nghi Phỉ, trưởng tộc đời thứ hai nhăm của gia tộc Công Nghi đã tái dựng môn đình từ đống đổ nát, chàng ta còn là một trang nam nhi tuấn kiệt, chỉ có điều gia tộc Công Nghi sau khi tái thiết không sinh sống bằng nghề đúc kiếm nữa, chuyển sang kinh doanh đất đai, châu báu. Đấy là những tin sau này nghe được .

Bỗng dưng nhớ tới chuyện cũ chẳng qua là do lần này nơi Mộ Ngôn định đưa tôi đến chính là gia tộc Công Nghi ở đất Bối Trung. Trước khi chàng trở lại, tôi sẽ chờ ở đó. Suy cho cùng cũng là chuyện thường, người đời chẳng phải luôn ở trong trạng thái chờ đợi và được chờ đợi đó sao, thước đo khoảng cách giữa hai cái đó chính là lòng người. Khoảng cách gần trong gang tấc mà biển trời xa cách ngày xưa hy vọng sau này có thể trở thành xa cách cả biển trời mà gần trong gang tấc, nhưng tốt nhất là chỉ nên gần trong gang tấc thôi.

Chưa đầy một ngày đã tới chân núi Cô Trúc, thuộc địa phận Bối Trung.

Mộ Ngôn nói Phật Tang uyển, biệt cư của gia tộc Công Nghi tọa lạc trên lưng chừng núi Cô Trúc, ngày mai sẽ có người đến đón chúng tôi lên núi, nghĩ đến lúc này Quân Vỹ và Tiểu Hoàng đang ở gần đây, bất luận là nơi nào, một điều chắc chắn là sẽ gặp lại sau bao ngày xa cách, chắc chắn hơn nữa, khi gặp nhau Quân Vỹ nhất định hỏi thẳng tình hình của tôi từ ngày xa nhau, những vết thương trên vai tôi không thể giải thích với anh ta.

Tôi nằm trên giường thầm nghĩ, xa nhau đã lâu tôi cũng hơi nhớ Quân Vỹ, con người anh ta có lúc thần kinh nhập nhằng, nhưng ngoài lúc đó cũng là một người có tiền đồ, nhưng không muốn bị anh ta cằn nhằn, chỉ có cách hoãn cuộc gặp thêm vài ngày. Nghĩ vẩn vơ mãi, đầu óc dần mơ màng, đó là dấu hiệu sắp ngủ.

Cái chết chỉ là bóng đêm, vạn vật trên đời rồi cũng đến lúc trở về bóng đêm, những người sống đang nhích từng bước đến bóng đêm đó, đây cũng chính là giấc ngủ của người chết. Khi bóng tối quen thuộc dần dần bao phủ, trước mắt tôi bỗng nhiên hé ra một luồng sáng. Luồng sáng bùng phát tỏa khắp nơi, lát sau dần dần biến mất, thay vào đó là một màn sương mù dày đặc cuồn cuộn lan tỏa, thềm đá màu xanh cao cả trăm bậc ẩn hiện trong sương, cuối những bậc đá tít trên cao là một cái cổng lớn uy nghi.

Sương mù lan tràn, tầng tầng hoa phật tang màu vàng trải khắp nửa ngọn núi ẩn hiện trong mênh mang sương khói. Sơn môn sừng sững, cột đá uy nghi, lầu gác trùng trùng, trước lầu môn treo một bức rèm châu ngũ sắc cực lớn, gió lay động bức rèm, tiếng ngọc châu va chạm lanh canh.

Bên cạnh bức rèm châu có một cô gái đang đứng, tay giương chiếc ô lớn, cán trúc hơi cong, tán ô màu trắng toát, không có bất kỳ trang trí nào, giống như một món đồ tang, dưới tán ô lộ ra một vầng trán trắng ngần với một dải lụa đen đính ngọc buộc vắt ngang, hai hàng lông mày dài cong như mảnh trăng non, mắt băng lạnh, sống mũi thẳng, môi nhạt màu, hơi mím.

Toàn thân cô gái là một màu trắng toát, vật trang điểm duy nhất là mái tóc đen buông xõa tựa dòng thác đen từ trong sương mù đổ xuống, dài chấm gót chân. Một mỹ nhân như tạc từ băng.

Cách ba bậc thềm đá màu xanh trên có những vết nứt, một chàng trai áo trắng đang cúi người nhặt lên chiếc vòng tay bằng ngọc màu đen óng ánh, khi ngẩng đầu mới thấy đó là một khuôn mặt hao hao giống cô gái, chỉ có khác cặp lông mày không cong như mảnh trăng non, ánh mắt không lạnh như băng tuyết.

Mặc dù cũng xiêm áo trắng muốt như cô gái, nhưng cổ tay áo thêu hoa phật tang bằng chỉ tím, bàn tay cầm chiếc vòng ngọc màu đen lộ ra dưới ống tay áo: “Chiếc vòng này là của cô nương?”. Ánh mắt chàng trai long lanh như cười, “Hình như tại hạ đã gặp cô nương ở đâu?”.

Mưa lất phất, những đám rêu xanh trên bậc thềm đá ngấm nước mưa, màu sẫm dần, ở chóp mái hiên hai lớp cong vút nạm bạch ngọc treo tấm gương đồng cực lớn phản chiếu biển hoa màu vàng trên núi.

Chàng trai dung mạo tuấn tú, rạng ngời hơi ngẩng đầu nhìn cô gái, trong màn sương mù vần vũ, cạnh tấm rèm ngũ sắc trên bậc thềm, cô giương ô bước từng bước, đôi giày thêu màu trắng ướt nước mưa lộ ra đường viền màu vàng chanh.

Dừng lại cách chàng một bậc cô đón chiếc vòng ngọc màu đen bóng loáng nước mưa trong tay chàng, những ngón tay trắng bóc chạm vào tay chàng, chàng nắm tay cô, cô ngước mắt nhìn vẻ mặt hơi ngơ ngẩn của chàng: “Đa tạ”.

Cô chờ chàng buông tay, có tiếng sáo từ một nơi không xa nào đó từ từ vọng đến, chàng vẫn nắm tay cô: “Tại hạ là Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, dám hỏi quý danh cô nương?”.

Cô hơi nâng chiếc ô, ngước nhìn chàng đăm đăm, lát sau, giọng nói trong như tiếng châu ngọc va nhau, lạnh như hoa phật tang nở trong tuyết vang lên: “Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu”.

Vội mở bừng mắt, nếu có hơi thở tôi nhất định thở hổn hển, bên ngoài một vầng trăng tròn treo cao, ánh trăng lặng lẽ lọt qua cửa sổ, soi trước giường lúc mờ lúc tỏ.

Đây không phải là mộng, mà là ý thức tàn dư mà Hoa Tư dẫn viên giao châu phong ấn bắt được, nó vấn vương lơ lửng trên núi Cô Trúc, lẩn khuất trong sương mù, lạnh lùng và cao ngạo, trong suốt như ánh trăng dưới đáy nước giữa phồn hoa cuộc đời, lại như bức tranh thủy mặc dang dở cô đơn đợi chờ ai đó vẽ nốt những nét cuối cùng.

Ý thức phiêu du giữa đất trời được Hoa Tư dẫn cảm tri chỉ có thể là ký ức của người chết đối với thế gian, là những ký ức đặc biệt được khắc ghi.

Một cánh cổng sơn môn, một bức rèm châu ngũ sắc, một khung trời mờ sương, một chiếc ô trúc, mùa hoa phật tang, một đôi nam nữ tương ngộ, tất cả hình ảnh này nhất định có ý nghĩa đặc biệt nào đó đối với người đã chết. Nhớ lại cảnh tượng vừa nhìn thấy trước sơn môn, tôi thầm nghĩ, người đã chết có thể là chàng trai áo trắng nắm mãi tay cô gái, bất giác thầm tiếc nuối.

Nhưng lại nghĩ đến hai cái tên nghe được vừa rồi, cảm thấy có lẽ không đúng, Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, nếu không trùng tên, trưởng tộc đời thứ hai mươi lăm của gia tộc Công Nghi hẹn sáng mai xuống núi đón chúng tôi cũng mang tên đó. Nếu vậy… cảnh tôi nhìn thấy có phải là ý thức tàn dư của cô gái áo trắng kia?

Thì ra cô mới là người đã chết, Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu.

Cả đêm không ngủ, tôi luôn cảm thấy có bóng hình ẩn hiện, nhưng lờ mờ không rõ.

Ngày hôm sau tỉnh giấc trong tiếng đàn dạt dào như nước, đầy một trời ánh nắng, mấy con chim lạ đậu trên cửa sổ hân hoan ríu rít, là khung cảnh sáng sớm mùa hè.

Bước xuống giường vừa dụi mắt vừa mở cửa sổ, mấy con chim vỗ cánh bay vụt đi, ngẩng đầu nhìn ra chiếc sân rộng, thấy Mộ Ngôn đang ngồi khoanh chân dưới gốc cây hợp hoan cuối sân.

Hầu như mỗi lần chia tay chàng đều đánh đàn. Chấp Túc đứng bên cạnh, không xa có một chàng trai áo trắng đang đứng ngược chiều ánh sáng, nhìn không rõ mặt, đoán là người đến đón tôi, có lẽ là tùy tùng nào đó của Công Nghi Phỉ, nghĩ đến đây, cảm thấy không hài lòng.

Cây hợp hoan cao to rợp bóng, nở đầy những bông hoa trông như quả cầu nhung, ánh nắng sớm rạng ngời chiếu trên tán lá, lung linh nhảy múa trên cây đàn thất huyền, lóng lánh như hòa quang trên những ngón tay Mộ Ngôn.

Một giai điệu êm lắng, nhẹ như nước chảy, như gió lốc sa mạc thổi qua ốc đảo màu xanh, chỉ có chàng mới có thể đánh ra cầm âm như vậy, ấm áp khẽ khàng chầm chậm chảy vào lòng, tôi mở cửa chạy ra.

Tiếng đàn dừng đột ngột, đồng thời lúc đó tôi cảm thấy chân như vấp phải vật gì, người mất thăng bằng chúi đầu về phía trước, bị Mộ Ngôn bước vội tới kéo vào lòng: “Vừa sáng sớm đã được tặng một cái ôm, làm người ta hoảng hồn vì đắc sủng”. Tôi nghĩ, rõ ràng tôi hoảng hồn hơn chàng, thầm nghĩ được ôm chàng thêm chút nào hay chút đó, thừa cơ nép vào chàng, liếc xuống chân, thì ra là một bụi cỏ.

Đằng sau thoáng có tiếng đằng hắng, chắc là thấy tôi mãi không nói, giọng Mộ Ngôn ở ngay trên đầu: “Sao thế?”.

Tôi xoa mũi, hai tay ôm riết lưng chàng, khẽ nói: “Không có gì, cho chàng ôm thêm lát nữa, có vui không?”.

Tôi còn nhớ trong tiểu thuyết của Quân Vỹ những cảnh chia ly của cổ nhân luôn xảy ra trong màn mưa bụi ngợp trời, hay bên nắm tay nhau rơi lệ, uống cạn chén rượu chia ly, hái cành liễu tặng nhau. Nhưng lúc này là buổi sáng nắng chan hòa, mặt trời đang lên cao, nhìn quanh chẳng thấy bóng dáng nửa cây liễu, quả thật không biết làm sao tạo khung cảnh sầu bi.

Tôi lưu luyến Mộ Ngôn, lẽ ra phải buồn khi xa chàng, nhưng từ khi biết chàng thích tôi, ngưỡng mộ tôi gì gì đó như chàng nói, mọi nỗi buồn bã, quyến luyến đều trở nên ngọt ngào, lòng thầm nhủ chàng sẽ quay về, sẽ đến tìm tôi, vậy là can đảm lại tăng gấp trăm lần, chẳng còn một chút sầu bi.

Nhưng dù sao lúc chia ly cũng nên thể hiện một chút, không có liễu, đành lấy cành cây khác thay thế. Tôi cố bẻ một cành hợp hoan để vào tay Mộ Ngôn.

Vừa định căn dặn chàng mấy câu, lại nghe thấy tiếng cười khúc khích, ngẩng đầu nhìn thấy chàng trai áo trắng đứng cách không xa. Vị trí của người này quả rất hiểm, ở khoảng cách gần như vậy lại không nhìn rõ mặt, chỉ thoáng thấy một vật hình tròn màu đen anh ta cầm trong tay. Tôi căng mắt nhìn về phía đó nhưng vẫn nhìn không rõ mặt anh ta, vừa ngoảnh đầu định tiếp tục dặn dò Mộ Ngôn, thấy chàng đăm đăm nhìn cành hợp hoan trong tay, ánh mắt khó dò.

Tôi ngạc nhiên nhìn chàng, không biết cành cây xoàng đó có gì đáng nhìn.

Lát sau, Mộ Ngôn nén cười ngước mắt: “Khi chia tay, người ta tặng nhau cành liễu, ngụ ý là lưu luyến không muốn xa, hôm nay chúng ta chia tay A Phất lại tặng cành hợp hoan, có phải là muốn…”.

Tôi càng ngạc nhiên nhìn chàng: “Muốn gì”.

Chàng cầm cành cây, giọng trang nghiêm: “Hợp hoan”.

“… Hợp cái con khỉ!”.

Trong khi chúng tôi nói chuyện, Chấp Túc đứng bên thần sắc bình thường, chàng trai áo trắng lại luôn mỉm cười như kẻ ngẩn ngơ, lúc này cuối cùng không nhịn được, bật cười to: “Thế… công tử, công tử tìm đâu ra bảo bối này vậy?”.

Giọng nói hơi quen, Mộ Ngôn cúi đầu sửa lại cổ áo cho tôi, không nói gì, còn tôi thầm lục tìm trong trí nhớ, xem đã nghe thấy giọng nói này ở đâu. Còn chưa kịp tìm ra, qua tấm gương đồng phản chiếu, nhìn thấy chàng trai áo trắng thong thả bước tới.

Dưới ánh nắng sớm, tôi tròn mắt há miệng nhìn khuôn mặt rõ dần trước mắt, mái tóc như dao cắt, lông mày như vẽ, mắt như nước mùa thu sóng sánh đào hoa, bước chân nhàn tản ung dung, so với chàng trai đêm qua nhìn thấy trong mơ, ngoài vài nét phong sương hoàn toàn không có gì khác biệt. Công Nghi Phỉ ở Bối Trung. Ngoài ra, vật tròn tròn màu đen chàng ta vẫn cầm trong tay dưới tán cây cũng lọt vào mắt tôi. Tôi nhướn mày, không biết tại sao lại buột miệng hỏi một câu: “Chiếc vòng trong tay huynh là của ai?”.

Chàng ta sững người, lại giơ chiếc vòng ngọc màu đen ra trước ánh nắng ngắm nhìn: “Cô nương cũng thấy nó đẹp ư?”. Khóe mắt như cười có vẻ âu yếm, lời nói ra lại lạnh lùng: “Không biết, hình như sinh ra đã mang nó”. Không hề nhắc đến chủ nhân thực sự của chiếc vòng.

Mộ Ngôn gửi gắm tôi cho Công Nghi Phỉ, rõ ràng tôi đầy thắc mắc trước biểu hiện của chàng trai áo trắng vừa rồi, nhưng nghĩ đến triết học xử thế trong thời loạn mà sư phụ đã dạy, ví dụ, ở đời nên ít quan tâm những chuyện không đâu, trên đường thấy chuyện bất bình nên tránh xa, liền lặng lẽ xua đuổi ý nghĩ muốn làm rõ chuyện này, kiên nhẫn chờ Mộ Ngôn xong câu chuyện với Công Nghi Phỉ.

Không biết hai người nói những gì, loáng thoáng nghe thấy tiếng cười ranh mãnh của Công Nghi Phỉ: “Nói ra e chẳng ai tin, Mộ công tử có tiếng là người cẩn trọng, mọi việc dự trù đủ đường lui, vậy mà lại có điểm yếu, chính là một cô gái yếu ớt ngây thơ, hai vị công chúa Đường quốc và Lầu quốc nếu biết chắc tức ói máu”.

Tôi dỏng tai, nghển cổ nhìn phản ứng của Mộ Ngôn, thấy chàng phe phảy quạt hơi liếc về phía tôi, lại lập tức quay đi, nghiêng đầu có thể nhìn thấy nụ cười thoáng trên miệng chàng, giọng dù cố hạ thấp, nhưng vẫn bị tôi nghe thấy: “Việc này chẳng phải huynh hiểu rõ nhất sao? Cái gọi là điểm yếu, hoặc là nên tự tay phá hủy, hoặc là giữ gìn cẩn mật. Mặc dù từ thượng cổ, phàm những kẻ làm việc lớn đều chọn phương án thứ nhất, nhưng con người tôi luôn cảm thấy đời người nơi trần thế tựa phù vân ngắn ngủi, nếu có điểm yếu cũng là chuyện tốt”.

Công Nghi Phỉ ngạc nhiên nhìn chàng, thú thực tôi cũng ngạc nhiên không kém, sửng sốt nhìn chàng, có lẽ cảm thấy ánh mắt tôi, mắt chàng hơi liếc lại, tôi vội vàng khép áo ngồi ngay ngắn, giả bộ không nghe thấy gì, ngoẹo đầu thầm nghĩ mình phải đối xử thật tốt thật tốt với chàng.

Lát sau, hai người nói chuyện xong, Công Nghi Phỉ đi theo sau Mộ Ngôn, một trước một sau thong thả bước đến. Mặt trời đã lên tới đỉnh đầu, sắp đến giờ lên đường, thấy Mộ Ngôn như có gì muốn nói với tôi,

Nhưng tôi không cho chàng cơ hội, tranh nói trước, sợ không đủ thời gian, nắm tay áo chàng vội vàng nói ra những điều vẫn luôn muốn nói với chàng:

“Buổi tối nên đi ngủ sớm, không được thức khuya”. Có thể chàng sẽ cho là quá ấu trĩ.

“Lúc ngủ phải chèn chăn thật chặt, không được đạp chăn ra”. Nếu là các cô gái từng trải, lúc xa người yêu chắc sẽ có những cách thức từng trải hơn.

“Trời lạnh phải mặc nhiều áo, đừng nghĩ mình có sức khỏe mà bất chấp”. Nhưng những chuyện đó tôi không biết.

“Không nên kén ăn, rau xanh, thịt, đều phải ăn”. Nếu tôi ở bên, sẽ dần dần học cách chăm sóc chàng như vậy.

Cả khu nhà trúc bỗng yên tĩnh, cũng không nghe thấy tiếng cười châm chọc của ai, còn một điều quan trọng nhất chưa nói ra, tôi liếm môi, phải lấy can đảm mới nói được, cổ hơi khô, đang định mở miệng, đột nhiên bị Mộ Ngôn cười ngắt lời: “Những điều đó tôi phải dặn em mới đúng…”.

Tôi lườm chàng: “Em nghiêm túc đấy”.

Chàng nhìn tôi một lát, không cười nữa, gập cái quạt trong tay, gật đầu: “Được tôi nhớ, còn gì nữa?”.

Khó khăn lắm mới lấy đủ can đảm nhưng lại bị ngắt lời, có cảm giác khó nói tiếp, ngẩng đầu liếc nhanh chàng một cái, đằng hắng một cái, nhìn xuống đất: “Còn, còn nữa chính là…”, tỏ ra dữ dằn: “Không được nhìn các cô gái đẹp, có cô gái đẹp nào làm quen cũng không được bắt chuyện!”.

Chàng khẽ cười, đặt tay lên vai tôi: “Ờ, còn gì nữa?”.

Đột nhiên hơi buồn, tôi cúi đầu ủ rũ nhìn mũi giày dưới chân: “Phải sớm quay về đón em”.

Đầu bị nâng lên, chàng chăm chú nhìn tôi một lát, môi ai chạm nhẹ vào trán: “Khi hoa phật tang tàn, tôi sẽ đến đón em”.

Trong một sớm mùa hè chói nắng, chúng tôi mỗi người mỗi ngả, người xuôi xuống núi, người lên núi, hai con đường trước mặt như vươn ra ngàn dặm, như số phận chia ly.

Tôi không thể biết trước, nhưng mơ hồ cảm thấy bất an, tự cổ đến nay, phàm những đôi khi chia tay lấy mùa hoa làm lời hứa hẹn, cơ hồ đều lỡ dở, vì lỡ mùa hoa nên không tìm lại, vì không tìm lại nên lỡ dở.

Cảnh vật rộn ràng lướt qua bên cạnh, suốt đường yến hót oanh ca, không lâu sau trước mặt tôi xuất hiện những bậc đá xanh trải dài, lốm đốm ánh nắng, bóng cây soi trên bậc đá phủ rêu xanh, giống như một mảnh gấm thêu chìm đường chỉ cùng màu trên mặt đá. Dừng chân ngẩng đầu nhìn lên, những chiếc cột sừng sững, lầu gác trùng trùng, chóp mái hiên cong viền bạch ngọc, rèm châu ngũ sắc lóng lánh hào quang, sơn môn uy nghi trước mặt, tất cả giống hệt cảnh nhìn thấy đêm qua.

Công Nghi Phỉ ngoái nhìn tôi: “Có lẽ Quân cô nương thấy mệt?”.

Thực ra, chỉ là do trong đầu hiện lên bóng người thướt tha cầm chiếc ô cán trúc. Tôi lắc đầu, đi theo chàng ta, bước lên những bậc đá cổ xưa, khi đến gần sơn môn, cuối cùng vẫn không kìm được, buột miệng hỏi: “Cô Trúc sơn này là sản nghiệp của Công Nghi gia?”.

Công Nghi Phỉ dừng chân, một chiếc gương đồng lớn treo trước lầu chính trên cao phản chiếu bóng áo trắng của chàng ta: “Trước đây không phải, Cô Trúc sơn là thánh địa của hoa phật tang, mỗi năm đến kỳ hoa nở, khách đến thưởng hoa đông như hội cho nên năm năm trước tôi đã mua lại, một nơi thanh tịnh thế này nên yên tĩnh thì hơn”.

Tôi bước hai bậc lại gần chàng ta, đến trước sơn môn, giơ tay chạm bức rèm châu lóng lánh: “Sơn môn trông khá cổ kính, bức rèm ngũ sắc này xem chừng lại rất mới”.

Công Nghi Phỉ nửa cười nửa không, xoay xoay chiếc vòng ngọc trong tay, “Quân cô nương, xin mời!”. Rèm châu rung lên, tiếng ngọc lanh canh.

Tôi giơ tay chạm một chuỗi ngọc: “Thực ra có thể tháo bức rèm này, luôn thay mới có phần lãng phí”.

Chàng ta cúi đầu, tư lự, “Nhưng nếu tháo đi sẽ cảm thấy thiêu thiếu”.

Tôi nhìn chàng ta: “Thiếu gì cơ?”.

Chàng ta hơi sững lại, tay hất một chuỗi ngọc trên bức rèm, giọng trầm tư: “Có lẽ là khoái cảm đốt tiền”.

“…”.

Tôi không biết sơn môn này có ý nghĩa thế nào đối với Công Nghi Phỉ, hình như chàng ta không bận tâm, cõ lẽ đã quên một cô gái từng gặp thuở thiếu thời, cô gái tóc đen áo trắng cầm chiếc ô cán trúc, không biết đã chết ở đâu, từ bao giờ. Những cây cổ thụ chọc trời mọc hai bên đường, vừa bước vào đã cảm thấy có vô số đôi mắt ẩn giữa tán lá rậm rạp đang lạnh lùng nhìn tôi, cánh cổng sơn môn đồ sộ này là ký ức tàn dư không thể tiêu tan của cô gái đã chết.

Phía sau sơn môn lại là thềm đá trăm bậc, trên thềm đá, một đại viện đồ sộ uy nghi thấp thoáng bóng cây cổ thụ, quy mô có thể sánh với hành cung vương thất, thầm nghĩ Công Nghi Phỉ quả nhiên rất giàu có, giàu như thế, sau lưng không phải là thế lực nắm thóp triều đình, thì là thế lực phản triều đình.

Mộ Ngôn có quan hệ với gia tộc như thế thật đáng lo ngại.

Dọc đường không ai nói gì, đến gần biệt viện, thấy cửa biệt viện đóng chặt, trước cửa không có ai, tôi cảm thấy rất lạ, một thiếu nên có vẻ là người hầu cưỡi một con ngựa gầy loạng choạng không biết từ đâu đến, hình như bị ngã ngựa, quỳ khóc trước mặt Công Nghi Phỉ: “Đại nhân, đại nhân đã về, phu nhân và đại tiểu thư đánh nhau, Tiêu Phong sắp chết rồi, Thúy Nhi tỷ tỷ bảo nô tài đi tìm đại nhân…”.

Lời chưa dứt, bóng trắng trước mắt vụt lóe, Công Nghi Phỉ thoắt cái đã kéo tôi lên lưng con ngựa đang thở dốc, như một mũi tên vòng qua bức tường vây cao sừng sững của biệt viện, phóng vọt đi. Tôi ngồi trên ngựa chỉ kịp hỏi một câu: “Những ai vậy, phu nhân, đại tiểu thư nào?”.

Giọng Công Nghi Phỉ ngập ngừng phía trên: “Đại tỷ và phu nhân tôi bất hòa đã lâu, thỉnh thoảng lại xích mích, để Quân cô nương nhìn thấy, thật hổ thẹn”. Nhưng lại không thấy chàng ta có vẻ hổ thẹn chút nào.

Tiếng gió rít bên tai, tôi nói như ma xui quỷ khiến: “Đại tỷ có phải là song sinh với huynh?”.

Người phía sau chợt lặng thinh, lát sau khẽ cười, giọng bình thường, mạch lạc: “Phải”.

Bàn tay nắm bờm ngựa suýt tuột, tôi suýt lăn xuống đất, sao có thể, tôi lẩm nhẩm ba chữ đó trong đầu, cuối cùng cố nén không để bật ra miệng.

Chuyện Công Nghi Phỉ có chị gái song sinh còn sống trên đời cũng lạ lùng và khó tin như chuyện Quân Vỹ từ nhỏ đến giờ vẫn thầm yêu tôi. Nghe đồn, gia tộc Công Nghi sinh sống ở Bối Trung tuyệt nhiên không cho phép tồn tại trẻ song sinh, nếu sinh đôi nhất định giữ một bỏ một.

Chuyện này chủ yếu là do hung thú Thiên Hà, thần hộ vệ của gia tộc Công Nghi quá vô dụng. Trước nay, trưởng tộc Công Nghi xác lập quyền uy của mình chủ yếu dùng phép chiêu hoán hung thú, nhưng hung thú vô dụng đó không thể phân biệt được sự khác nhau giữa hai người song sinh, ví dụ trong họ có người sinh ra một cặp anh em song sinh, nếu có ngày người anh được kế thừa ngôi vị trưởng tộc, sau khi cắt máu tuyên thệ với Thiên Hà, có khả năng sai khiến Thiên Hà, người em trai có cùng huyết thống nếu mạo danh anh trai sai khiến Thiên Hà tạo phản thì quá dễ dàng.

Giống như một vị anh hùng vô địch, trên đời không ai địch nổi nhưng một khi vị anh hùng mắc bệnh hiểm nghèo thì cũng không sống nổi. Những cặp song sinh chính là nguyên nhân gây ra căn bệnh hiểm nghèo cho gia tộc Công Nghi, căn bệnh đó chính là nội loạn. Một gia tộc dù mạnh đến đâu cũng sẽ suy yếu nếu có nội loạn, đó là kinh nghiệm. Những bậc trưởng lão cơ mưu đã sớm nhìn ra điểm đó. Gia tộc Công Nghi kế truyền bảy trăm năm, có không ít người xúi quẩy sinh đôi, cho dù là thai long phượng cũng đều bị xử lý, người được lựa chọn là niềm tự hào của trời, từ đó được mọi người tôn sùng, người không được chọn thì nhỏ mọn như cây cỏ, lập tức mất mạng.

Điều thú vị là nhiều thế hệ trưởng tộc có thành tựu nhất lại hầu như đều xuất thân song sinh. Món nợ đầu tiên phải gánh chịu khi đặt chân đến thế gian chính là máu của huynh đệ cùng huyết thống, cảnh ngộ đó có lẽ khiến người ta trở nên vô tình.

Bảy năm trước, lúc gia tộc Công Nghi bị hủy diệt, hình như nghe nói trưởng tộc thế hệ này có một người chị song sinh, dạo đó nghe chuyện chỉ biết thở dài. Bây giờ lại biết người chị đó vẫn sống, thật là chuyện kỳ lạ khó tin, chẳng phải người chị đó khi ra đời đã bị ném xuống Đoan Hà tế thần hộ vệ của dòng họ rồi sao?

Chuyện về sau chứng minh sự kinh ngạc của tôi là không đáng, điều kỳ diệu của sự việc không chỉ dừng ở đó, như một triết gia đã nói, cuộc sống luôn luôn có những chuyện đáng kinh ngạc, bạn không sắp kinh ngạc thì cũng đang kinh ngạc.

Con ngựa gầy hổn hển đưa chúng tôi tới một bãi cỏ xanh rộng lớn, đến một khoảnh đất đỏ trống không, tôi thấy một con tuấn mã đen bóng hí lên rồi khụy xuống, đất đỏ bốc lên mù mịt.

Công Nghi Phỉ kéo tôi nhảy xuống ngựa, khi vừa chạm đất, mới nhìn thấy một cô gái áo hồng tay cầm kiếm, quỳ bên cạnh con ngựa, đang ôm cánh tay phải hình như bị thương, khuôn mặt như hoa tường vi đầy ấm ức, một vẻ đẹp phong mãn mơn mởn. Nô bộc hoảng hốt nhất tề nhường lối đi, Công Nghi Phỉ vội chạy đến đỡ cô gái dậy, có lẽ chạm vào vết thương, cô rên một tiếng, kiếm dài chống đất, cánh tay không bị thương giơ lên níu cánh tay chàng ta, giọng tủi thân, nói như khóc: “Hãy đi xem Tiêu Phong thế nào, có phải bị người đàn bà điên đó đánh chết rồi không!”.

Công Nghi Phỉ vốn dĩ mặt luôn tươi cười, lúc này cau mày, nhẫn nại dìu cô gái áo hồng đi đến kiểm tra con tuấn mã vừa ngã. Còn mắt tôi lại đăm đăm nhìn cô gái áo trắng đứng bên cạnh chuồng ngựa phía xa. Mái tóc đen như thác nước, đôi mắt lạnh như đầm sâu, một dải lụa đen đính ngọc buộc ngang trán, trong tay là chiếc roi chín khúc màu bạc.

Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu. Cô gái tôi vốn tưởng đã chết đứng dưới ánh sáng như một bức tượng ngọc tạc, bóng đổ dài dưới chân, một người sống thực sự. Tôi nhìn kỹ một lát, không kìm nổi muốn đi ra chỗ cô, bỗng nghe tiếng Công Nghi Phỉ trầm giọng hỏi: “Huân tỷ, đã xảy ra chuyện gì?”.

Chàng ta ngẩng đầu nhìn về phía cô, cô gái áo hồng đang chúi trong lòng chàng ta hai tay run run, đôi mắt phẫn nộ đẫm nước, con ngựa đen bên cạnh gọi là Tiêu Phong sau khi thở hắt ra mấy hơi đã nằm im bất động.

Huân tỷ?

Giọng cô thanh như tiếng ngọc bội va nhau, lạnh lùng vang lên: “Tôi kiếm thuật kém, không cẩn thận bị tuột tay, làm cô ấy bị thương. Còn về con ngựa chẳng phải tối qua nó đã làm ngã đệ, một con ngựa tồi ngay chủ cũng không nhận ra giữ lại làm gì”.

Tôi nhìn kỹ cô gái áo trắng đang nói, ánh mắt cô lướt tới, lạnh như băng tuyết nghìn năm không tan trên núi, dừng một lát, thu lại cái roi, quay phắt người bỏ đi.

Cô gái áo hồng khóc to: “Cô ta đánh chết Tiêu Phong, lại còn làm thiếp bị thương vậy mà chàng vẫn để cô ta đi…”.

Công Nghi Phỉ lạnh lùng ngắt lời cô: “Nàng cũng quá bướng, đầu óc tỷ tỷ có vấn đề, bảo nàng hãy tránh xa, nàng lại đi chọc tức người ta”.

Cô gái áo hồng trợn mắt nhìn chàng: “Rốt cuộc chàng có phải là phu quân của thiếp không?”.

Công Nghi Phỉ dìu cô đứng dậy: “Hỏi hay lắm, ngoài ta, thử hỏi trên đời còn ai có thể dung túng cho nàng như thế”.

Cô gái áo hồng đẩy chàng ra đứng lên, mắt vẫn còn ánh nước, lại mím môi, nói cứng: “Trên đời này người thương thiếp nhất là cha thiếp, nhưng cha thiếp, cha thiếp…”. Chưa nói hết đã ngồi sụp xuống đất òa khóc.

Công Nghi Phỉ cũng ngồi xuống, lấy chiếc khăn mùi xoa từ trong ống tay áo đưa cho cô: “Đừng khóc, nhìn xem, trông nàng có ra dáng phu nhân không”.

Giọng có vẻ nghiêm khắc nhưng lời lại dịu dàng.

Tôi ngẩng đầu nhìn về phía Khanh Tửu Tửu vừa đi, mặt trời di chuyển sau những đám mây nhỏ để lại những bóng râm dị hình trên bãi cỏ, gió lại thổi tan đi, bồ công anh rung rinh múa, hoa phật tang vàng rực nở ngập cánh đồng và triền núi, dập dờn đuổi nhau như sóng, bóng trắng đó đi xa dần, khuất hẳn ở phía cuối cánh đồng hoa phật tang.

Năm ngày sau đó tôi không gặp Khanh Tửu Tửu, nô bộc trong biệt viện nói, đó không phải là Khanh Tửu Tửu nào hết, mà là Công Nghi Huân, chị em song sinh của Công Nghi Phỉ, từ nhỏ lưu lạc bên ngoài, cảnh ngộ rất đáng thương, vào một đêm trăng hai năm trước được đưa tới biệt viện của Công Nghi gia, chia lìa nhiều năm cuối cùng trở về đoàn tụ với tiểu đệ song sinh.

Nghe nói đêm đó phu nhân của Công Nghi Phỉ không thể tin chuyện đó, cho rằng người đó mạo danh, hầm hầm đi đến hoa đình, nhưng lại sững người khi nhìn thấy dung mạo của Công Nghi Huân. Tôi muốn hỏi dò phần kết câu chuyện, người nô bộc đang hào hứng kể bỗng dừng lại, sau đó mặc cho tôi gạn hỏi thế nào cũng nhất định không chịu mở miệng, tôi đoán có lẽ một đại tiểu thư đầu óc không bình thường, gia nhân cũng không tiện nói ra với người ngoài.

Tôi không biết đầu óc Công Nghi Huân có phải bất bình thường thật không, nhìn có vẻ không giống, nhưng Công Nghi Phỉ đã nói cô ta không bình thường, nghĩa là cô ta không bình thường thật, giống như khi phụ vương nói tôi là kẻ máu lạnh vô tình, cho dù tôi nhiệt huyết sục sôi cũng vô nghĩa, đây chính là sức mạnh của quyền lực.

Qua nhiều lần lân la hỏi chuyện gia nhân trong nhà, tôi được biết thêm, Công Nghi Phỉ có thái độ kỳ thị đối với người chị sinh song của mình. Nghe nói khi Công Nghi Huân mới trở về, cậu em trai mặc dù tình cảm không thật thân thiết nhưng cũng không có vấn đề gì lớn, thực ra chị em thất lạc đã lâu, có những xa cách nhất định cũng là lẽ thường.

Nhưng bầu không khí có vẻ hòa hợp đó chỉ kéo dài trong hai tháng đầu, dần dần mọi người phát hiện, có những lúc, việc làm của Công Nghi Huân thật rất khó lý giải. Đương nhiên, hầu như cô ít làm việc, nhưng động làm việc gì hầu như đều xảy ra chuyện.

Tháng thứ ba sau khi Công Nghi Huân trở về Công Nghi gia, có người đến mời Công Nghi Phỉ tham dự cuộc thi đấu chim ưng, hai con chim ưng trên không hăm hở lao vào nhau, một con sau khi bị thương muốn chạy trốn, con kia hiếu thắng truy đuổi đến cùng, hai con xông thẳng về phía Công Nghi Phỉ ngồi xem trên đài cao, bị Công Nghi Huân ngồi bên cạnh dùng chiếc roi chín khúc quật chết trong chớp mắt, cuối cùng phải bồi thường không ít tiền cho vị khách chủ nhân của con chim.

Đó là lần thứ nhất, Công Nghi Huân luôn muốn bảo vệ Công Nghi Phỉ. Hai năm sau đó những việc tương tự xảy ra không biết bao nhiêu lần, Công Nghi gia do vậy phải bồi thường không biết bao nhiêu tiền. Đồng thời, thích khách hãm hại hoặc sắp hãm hại Công Nghi Phỉ bị chết dưới chiếc roi chín khúc của Công Nghi Huân cũng không ít.

Mặc dù tôi có nhiều anh chị, nhưng đều cùng cha khác mẹ, hơn nữa hầu như không đi lại với nhau, tôi không hiểu chính xác cái gọi là tình anh em, từ nhỏ thân thiết nhất có lẽ là Quân Vỹ, nhưng tôi hình dung ra một chuyện như sau, giả sử có một ngày, Quân Vỹ thích viết tiểu thuyết, hy vọng có được cuốn tiểu thuyết độc quyền của một tiểu thuyết gia danh tiếng nào đó, nhưng con trai tiểu thuyết gia đó lại ra điều kiện chỉ có gả tôi cho anh ta thì Quân Vỹ mới được độc quyền cuốn tiểu thuyết của cha anh ta. Tôi suy nghĩ một lát xem mình có vì Quân Vỹ mà nhận lời không, cuối cùng cảm thấy, cho dù Quân Vỹ đánh ngất tôi đem gả cho người ta, khi tỉnh dậy tôi cũng nhất định trốn về… Nhưng trước một hoàn cảnh tương tự, Công Nghi Huân lại chủ động nhận lời, chỉ vì một cuốn kỳ phổ quý hiếm, vì muốn người em song sinh có được món quà sinh nhật vừa ý nhất.

Theo lời đồn, khi đối phương mang sính lễ đến cửa Công Nghi Phỉ mới biết chuyện, một người trước nay cho dù núi Thái Sơn sụp đổ cũng không thay đổi sắc mặt, lần này lại nổi giận thực sự, đem một đội quản gia, người hầu cùng đồ sính lễ vứt ra khỏi cửa Công Nghi gia như vứt một món đồ.

Sau đó quan hệ chị em vốn không thân thiết dần dần xa cách, đến hôm nay, theo cách nói của gia nhân trong nhà, Công Nghi Phỉ hầu như không coi mình có người chị đó nữa.

Công Nghi Phỉ nói Công Nghi Huân đầu óc không bình thường, tôi nghĩ không phải chàng ta nói bừa, có lẽ trải qua những chuyện đó chàng ta thực sự cảm thấy đầu cô có vấn đề. Nhưng tôi biết một điều mà chàng ta không biết. Bất luận bọn họ cho là thế nào, tôi biết Công Nghi Huân chính là Khanh Tửu Tửu.

Đương nhiên Khanh Tửu Tửu cầm chiếc ô đứng trước sơn môn đã chết, trên thế gian có một dạng tồn tại, ý thức và tinh thần đã phân tán được nhập trở lại vào cơ thể, sau đó, họ quên hết con người trước đây của mình, sinh vật đó nếu đến thế gian được gọi là ma.

Tôi không tin Khanh Tử Tửu là chị em song sinh với Công Nghi Phỉ, gia tộc Công Nghi xưa nay rất cương quyết trong chuyện xử trí trẻ song sinh. Nếu Khanh Tửu Tửu không phải là chị em song sinh của Công Nghi Phỉ, vậy thì Công Nghi Huân do hồn phách của Khanh Tửu Tửu nhập vào đương nhiên cũng không phải.

Nhưng suy đến cùng, đó chỉ là trực giác của tôi.

Quân sư phụ không muốn tôi ra ngoài gây chuyện. Lúc còn nhỏ tôi cho rằng biết nhiều mới hạnh phúc, không biết là bất hạnh, sau khi lớn lên bị dồn ép không còn lối thoát, mới cảm thấy nhiều lúc vô tri là phúc, hiểu biết nhân gian càng ít càng nhẹ nhõm thoải mái. Do vậy tôi kìm chế ý muốn tiếp cận Công Nghi Huân.

Nhưng tôi không đi tìm cô, cô lại chủ động đến tìm tôi.

Hôm đó có gió lạnh, trong tiểu viện dành cho khách, Hoa tử vi màu tím trong vườn đung đưa trong tán lá xanh, cả một tấm thảm hoa lớn dềnh lên như sóng mỗi khi có gió thổi. Công Nghi Huân rẽ hoa đi vào, xiêm áo trắng muốt du nhàn như ẩn hiện, như một đóa hoa được sóng đẩy đến trước mặt tôi, chúng tôi đối diện qua song cửa sổ: “Thiên hạ thênh thang quả không hiếm sự lạ, tôi là một bóng ma, còn cô là một người chết hồi sinh do luyện Hoa Tư dẫn”.

Cô hơi cụp mắt, một đôi mắt không có thần, màu lam nhạt như dòng nước chảy qua nghìn núi in bóng trời xanh, trên trời dưới đất một màn tuyết mỏng.

Tôi chống tay vào má nhìn cô: “Vì sao cô đến tìm tôi? Muốn tôi dệt cho cô giấc mộng ư? Cô đã được nghe về Hoa Tư dẫn thì nhất định đã biết cái giá phải trả nếu muốn tôi dệt cho mộng cảnh?”. Tôi nhìn mắt cô: “Cái giá này cô không trả được, sinh mệnh của một con ma không có ý nghĩa với tôi”.

Cô ngước mắt, ánh mắt lướt qua thảm hoa tử vi nhấp nhô ngoài cửa sổ, “Dệt mộng ư? Thuật sỹ giúp tôi nhập vào cơ thể mới từng nói đến công dụng này của Hoa Tư dẫn. Nhưng tôi không muốn ảo mộng nào từ cô. Tôi không biết Hoa Tư dẫn dệt mộng cần một cái giá như thế nào, thiên hạ cũng chẳng mấy người biết, điều tôi muốn chân thực hơn rất nhiều. Cô nhìn tôi, “Cô nhất định có thể nhìn thấy phần ký ức của cuộc đời trước đây được phong ấn vào cơ thể tôi”.

Mặt tôi suýt đập xuống bàn, có thể thấy lời cô khiến tôi chấn động thế nào, nếu có tái sinh, bóng ma cơ hồ tương đương với chuyển kiếp của con người, giống như chúng ta sinh ra đều quên hết ký ức về tiền kiếp của mình, ma lại càng thế, làm sao có thể có cái gọi là ký ức của cuộc đời trước.

Có lẽ nhìn thấy băn khoăn của tôi, ngón tay trắng như tuyết của cô đưa lên che mắt, đó là đôi đồng tử màu lam nhạt: “Ở đây phong ấn ký ức của tôi với tư cách là người.

Nghe nói sau khi tôi chết bảy năm trước, thuật sỹ dùng năm năm giúp tôi tái sinh, lấy ra phần ý thức tàn dư trước khi chết phong vào hai viên ngọc châu, đưa vào cơ thể tôi. Nhưng tôi bây giờ không phải là tôi trước đây, không có ký ức đó, tôi chẳng là gì hết”.

Tôi lạ lùng nhìn cô: “Vậy vì sao cô đến tìm tôi? Chỉ cần nhờ thuật sỹ kia mở phong ấn ra là được, như vậy cô sẽ là cô hoàn chỉnh”.

Gió lùa qua cửa sổ, trong mắt cô lóe lên bao điều, còn chưa kịp nắm bắt đã yên tĩnh trở lại: “Tử Khác nói đúng, trẻ như thế đã chết, không phải là một số phận tốt, những ký ức đó không cần cũng được. Chàng nhờ thuật sỹ tái sinh cho tôi, nghe nói tiền kiếp tôi nợ A Phỉ rất nhiều, tâm nguyện duy nhất là được trả ơn, mượn cơ duyên đó sống lại trở thành một sinh mệnh mới. Nhưng gần đây tôi nghĩ, một cuộc đời dù không tốt đến đâu cũng có những ký ức đẹp, khi Tử Khác đưa tôi đến Công Nghi gia đã nói A Phỉ vẫn nhớ nhung tôi. Nhưng bây giờ tôi lại hoài nghi những lời đó. Những ký ức được phong ấn vào cơ thể tôi thuật sỹ không có cách nào nhìn thấy, như cô nói, chỉ cần mở phong ấn, nhưng ký ức xấu khiến người ta đau khổ tôi không muốn biết, chỉ cần những ký ức đẹp. Hoa Tư dẫn có lẽ làm được điều đó, nếu cô đồng ý giúp tôi, cô muốn gì tôi sẽ cố làm cho cô. Còn ký ức của tôi, sau khi cô nhìn thấy, xin hãy kể cho tôi nghe những gì đẹp nhất”.

Cô nói phải, Hoa Tư dẫn quả thực có thể nhìn thấy ký ức được phong ấn, chuyện này giống như lén đi vào giấc mơ của người khác, chỉ là khi vào ký ức của cô phải chú ý giữ an toàn cho bản thân, ngoài ra không bị hao tổn gì.

Lát lâu sau, tôi khẽ nói: “Tử Khác? Tên tự của Trần thế tử Tô Dự?”.

Cô nhìn tôi khẽ gật đầu: “Phải, Tô Dự, Tô Tử Khác”.

Tôi cười: “Tôi có thể giúp cô, tôi không cần trả ơn gì hết”.

Quân sư phụ cứu sống tôi, mục đích là để tôi đi hành thích Trần vương, thấm thoát ra đi đã kha khá thời gian, nhưng vẫn chưa có chuẩn bị nào cho việc đó, lần này vừa may có thể mượn ký ức của Công Nghi Huân để thăm dò. Cũng cần nói thêm, gia tộc Công Nghi bảy năm trước có thể coi là một cánh tay của nước Trần.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 3 ( Phần 1 )

Công Nghi Huân nói cô chỉ muốn biết những phần đẹp đẽ trong quá khứ, xem ra đây không phải là người hay suy nghĩ, thật tiếc là không thể giới thiệu cho Quân Vỹ.

Có một số người nghĩ nhiều làm ít, còn những người chỉ biết cắm cúi làm việc suy nghĩ thường đơn thuần. Nghe các gia nhân nói sau lưng, hai năm nay Công Nghi Huân làm khá nhiều, bất luận là việc gì chung quy là làm không ít việc, có thể thấy cô là người ít suy nghĩ. Thực ra con người ta sống trên đời, bất luận làm nhiều hay ít, chỉ cần cảm thấy niềm vui trong đó là được, khi người ta vui, thế giới của người đó sẽ vui, những người trong thế giới của họ cũng vui, mỗi người đều có thế giới của mình, những người có duyên với nhau, thế giới của họ mới có một phần trùng nhau. Tôi nghĩ, Công Nghi Huân đến tìm tôi nhờ giúp là muốn tìm phần thế giới trùng với thế giới của Công Nghi Phỉ.

Đêm trăng tròn, Công Nghi Huân vẫn y phục trắng muốt một lần nữa đến ngôi tiểu viện dành cho khách trong biệt viện của Công Nghi gia gặp tôi. Nghe nói đêm nay bên ngoài chính đường sẽ có yến tiệc mừng tiết hoài nguyệt, có lẽ sẽ không ai quấy rầy chúng tôi. Gia nhân để một chiếc giường dưới giàn nho trong sân, những chùm nho xanh trĩu quả lủng lẳng, tựa như vô số chiếc bình phỉ thúy màu xanh, ánh trăng lạnh êm đềm lọt qua kẽ lá nho chiếu trên chiếc giường trải tấm nệm mỏng và bức bình phong nhỏ vẽ cành hoa che phía trước.

Vừa sắp đặt xong, bóng áo trắng thanh nhã của Công Nghi Phỉ đã xuất hiện ở cổng viện. Chàng ta dừng lại nhìn Công Nghi Huân, không tỏ thái độ gì: “Tìm mãi, thì ra tỷ ở đây”.

Công Nghi Huân bước lên mấy bước lại dừng lại, bóng đổ dài dưới trăng.

Công Nghi Phỉ lạnh nhạt liếc nhìn cô, ánh mắt di chuyển đến tôi, đôi mắt đào hoa như nước mùa thu tươi cười: “Gia tỷ đã thân thiết với Quân cô nương, vậy tối nay xin nhờ cô nương chăm nom dùm, đừng để tỷ ấy ra khỏi nơi này”.

Tôi băn khoăn nhìn chàng ta, không biết là ý gì, còn chàng ta đã quay đi, được một đoạn lại dừng: “Chuyện năm trước tôi không muốn lại xảy ra”.

Công Nghi Huân nãy giờ không nói gì, quay người đi đến bên giường, tôi hiếu kỳ: “Năm trước đã xảy ra chuyện gì?”.

Cô khép áo nằm lên giường, lạnh nhạt: “Không có gì, các nhà quyền quý mời khách đến dự tiệc mừng tiết hoài nguyệt, có lẽ cô cũng nghe nói”.

Quả là tôi có nghe, các bậc công hầu khanh tướng, thế gia thường tổ chức yến tiệc trong đêm trăng tròn, nói một cách văn hoa nho nhã là ngắm trăng uống rượu hát ca, nhớ những ngày qua, vân vân, thực ra là một hình thức xã giao hưởng lạc, ca kỹ mua vui trong yến tiệc mọi người đều có thể tùy ý trêu đùa hành lạc. Cửu Châu tồn tại đến nay để lại không ít lề thói phong lưu, tiết hoài nguyệt là một trong số đó.

Tôi ngồi lại gần giường, cô nhắm mắt, lạnh lùng nói tiếp: “Trong tiệc đó của Công Nghi gia năm ngoái, gia chủ các nơi đến dự rất đông, tôi đi dạo bên ngoài, gặp hai vị khách say, bị tưởng nhầm là ca kỹ mua vui trong yến tiệc”.

Tôi xê dịch bức bình phong che gió: “Sau đó thì sao?”.

Tay ôm trán, vẻ mệt mỏi, giọng cô lại bình thản rất mực: “Sau đó ư? Tôi lấy của mỗi người một cánh tay”.

Tôi tròn mắt: “Sao?”.

Cô nói: “A Phỉ rất giận, cơ hồ việc gì tôi làm cũng khiến đệ ấy giận, có lẽ tôi bị hai kẻ đó khinh bạc đệ ấy mới không giận?”.

Tôi nghĩ, nói: “Có lẽ, chàng ta giận là bởi vì họ dám khinh cô”.

Cô nhấc tay khỏi trán, mở mắt, lạnh lùng nhìn tôi: “Tôi không còn tin những lời như thế nữa”.

Mây che lấp mặt trăng, hoa rơi lả tả, trong tiếng đàn êm êm như tiếng nước, Công Nghi Huân dần dần thở đều, có lẽ đã ngủ. Tiếng đàn này không phải là Hoa Tư điệu, chỉ có tác dụng ru ngủ.

Bóng ma phiêu du bên ngoài quy luật thời gian thực ra không có Hoa Tư điệu lấy tính mạng làm nhạc phổ, tôi không cần mạng của một con ma, cô không trả được cái giá đắt như thế, thực ra tôi cũng không dệt được Hoa Tư mộng của cô. May có ký ức được phong ấn trong hai hạt trân châu chính là đôi đồng tử trong mắt, cũng may nguyện vọng của cô chỉ là muốn tôi nhìn giúp những ký ức được phong ấn trong đó. Đối với bóng ma, tinh thần có trước thân xác ký gửi, sự kết hợp giữa tinh thần và thân xác ký gửi cũng giống như sự kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần và thể xác của con người, nhưng đối với bóng ma, tinh thần chứa những ký ức tàn dư không bị trói buộc bởi thân xác mà nó nương náu, dễ tách khỏi thân xác đó, cũng dễ bị nhìn trộm.

Năng lực dùng Hoa Tư dẫn thôi động ý thức tự thân của nó, nhìn thấu tinh thần đó của chủ nhân viên giao châu được gọi là ảo chi đồng. Trong điều kiện đối phương tinh thần bình ổn, khỏi nói chỉ bị phong ấn, cho dù ký ức được bảo mật đến đâu, ảo chi đồng cũng có thể đọc được.

Đương nhiên chuyện đó không hay lắm, nhìn chung tôi không đi đọc ký ức của một con ma. Chủ yếu là vì lớn bằng ngần này, tôi vẫn chưa từng gặp ma. Giả sử Mộ Ngôn là một con ma, hàng ngày nếu rỗi rãi tôi đọc ký ức của chàng xem chơi.

Tôi nhắm mắt, trước mắt một dải ánh sáng luân lưu. Cát, sỏi mù mịt, cây xanh khô héo, phong cảnh thê lương loang loáng vút qua trước mắt. Trong khe suối lạnh quạ hoang lượn lờ, trong chớp mắt, một chùm tia sáng bùng phát như sao rơi. Bên tai có tiếng mưa lắc rắc, tầm mắt đột nhiên rộng mở. Nhìn thấy phía trước sơn môn huy hoàng một bức rèm châu ngũ sắc, mấy phiến đá xanh, cô gái áo trắng đón chiếc vòng ngọc màu đen trong tay chàng trai áo trắng, chiếc ô hơi nâng lên, một khuôn mặt trắng như tuyết không thần sắc.

Đó là Khanh Tửu Tửu, cũng là Công Nghi Huân, thì ra quả nhiên đây là cảnh họ lần đầu quen nhau.

Hình ảnh nhìn thấy đêm đó lần lượt lướt qua trong đầu, thầm nghĩ, nên tiết kiệm thời gian, phảy những giọt nước mưa bám trên người, quả quyết lướt qua chi tiết đó đi nắm bắt ý thức đoạn tiếp theo, vừa chớp mắt, mở ra, bàng hoàng bước vào một màn đêm mịt mùng vô tận.

Tôi hơi sợ, nắm chặt ống tay áo, Mộ Ngôn không có ở đây, không có ai để bám vào.

Khi mắt đã nhìn thấy vạn vật trong bóng tối, tôi cũng không căng thẳng nữa, sau một tiếng động cực nhẹ, ánh đèn chớp lóe, cuối cùng nhìn thấy ánh sáng từ dưới đất từ từ dâng lên, bên tai có tiếng hát văng vẳng, trôi nổi, ngân nga, cảnh sắc hiện dần theo ánh sáng tựa bức tranh thủy mặc mở ra.

Đưa mắt nhìn quanh, bóng người trùng trùng. Ngẩng đầu, tôi thấy trên đỉnh treo một chiếc đèn cực lớn hình tán cây, chiếc trụ đèn bằng đồng đen tựa tháp ngọc chín tầng, lửa cháy rực trong mười mấy bát đèn, khiến tòa chính đường sáng như ban ngày.

Phía trên chính đường cao rộng là giếng trời có lan can bao quanh, chính giữa là một cái bục cao bằng đá nổi vân hoa, ba cô gái mình vận đại hỉ bào màu đỏ đứng trên đó, cô gái bên trái ôm cây tỳ bà cúi đầu vừa đàn vừa hát. Trên những hàng ghế xung quanh cách đó hai trượng nam nhân ngồi chật kín, từ thiếu niên mười ba, mười bốn đến ông già bảy, tám chục tuổi, nếu chiêu mộ quân dịch mọi người cũng hưởng ứng nhiệt tình như vậy, quốc gia này ắt hẳn có tiền đồ.

Lầu hai gồm những ô nhỏ trang trí vô cũng trang nhã, đằng sau những lan can hình vuông chạm trổ tinh xảo là những bức rèm che, đó là những phòng hoa phục vụ khách giầu sang. Tôi suy nghĩ một hồi, sau khi nhận ra mình đang ở đâu, bịt mắt thở dài, cảm thấy sao mình có duyên với lầu xanh đến vậy. Mặc dù nhiều lúc cũng muốn thể hiện sự thoải mái phóng khoáng, nhưng quả thực không có ý nghĩ rằng đời này nhất định phải đến đó một lần mới bõ công sống trong thế giới này .

Số phận lại hơi quá hiểu lòng người, trong vụ của Thập Tam Nguyệt tôi đã buộc phải đi dạo lầu xanh một lượt, lần này lại phải dạo qua lần nữa. Hơn nữa nhìn quang cảnh, xem ra, lần này lại còn gặp đúng dịp lầu xanh mở hội chọn tân hoa khôi và đấu giá đêm đầu tiên của hoa khôi.

Cô gái áo đỏ trên đài vừa đánh xong khúc nhạc, khách ở lầu trên lầu dưới đua nhau trả giá, bia báo giá liên tục giơ lên, có thể thấy, đúng là cả đời phong lưu không bằng một đêm phong lưu.

Nhưng đêm đầu tiên của hoa khôi không phải ai cũng đủ ngân lượng để mua, làn sóng ồn ào qua đi, chỉ còn hai vị khách ở trong phòng hoa lầu hai tranh nhau ngã giá. Tôi thật không hiểu, những người đó bỏ nhiều tiền như thế mua một cô gái, chỉ được ngủ một đêm, sao không đem số tiền đó đi mua cô gái khác có thể ngủ suốt đời.

Bức rèm châu dài sát đất vây quanh che khuất vị khách bên trong, thân giá của cô gái áo đỏ tên gọi Ổn Liên đã lên tới ba ngàn lẻ năm đồng vàng. Sở dĩ có số tiền lẻ đó là bởi vì bất luận người khách ở phòng hoa trả giá thế nào, phòng hoa đối diện luôn thong thả trả thêm năm đồng.

Có lẽ là cảm thấy có gì bất thường, ca vũ ở lầu dưới đều ngừng lại, lầu trên lầu dưới im phăng phắc. Mọi người đang nóng lòng chờ xem kết cục cuộc mặc cả, phía cửa lớn đột nhiên có tiếng ồn ào. Từ xa nhìn lại, bóng áo trắng phấp phới phát ra ánh bạc, mấy gã trai tráng có vẻ là bảo vệ của lầu xanh bị chiếc roi bạc trong tay vị khách dồn vào chính đường. Chỉ riêng chiếc áo trắng toát trên người vị khách đã tỏa hơi lạnh, người đó chỉ có thể là Khanh Tửu Tửu.

Mấy cô gái đứng dưới đang chờ đến lượt lên đài dự tuyển mặt sợ hãi biến sắc, các vị khách cũng hốt hoảng lảng đi, vị khách mới đến còn chưa kịp bước qua bậc cửa, cửa lớn nãy giờ vốn chật ních người, “ào” một tiếng chạy sạch không còn một mống. Cô gái áo trắng tay cầm roi bạc bước vào chính đường, mấy người áo đen có vẻ là tùy tùng xếp hàng hai theo vào.

Quả nhiên là Khanh Tửu Tửu. Chủ lầu vừa liếc mắt đã biết là khách đặc biệt, mặt tươi như hoa bước ra đón:

“Tiểu thư chắc là vào nhầm chỗ, chúng tôi ở đây không kinh doanh các cô gái…”.

Lời chưa dứt đã bị lạnh lùng cắt ngang:

“Các người ở đây không kinh doanh các cô gái thật ư?”.

Từ sau bức rèm châu ở phòng hoa bên phải bỗng vọng ra tiếng nói, giọng không to nhưng do không khí yên lặng nên nghe rất rõ, sau đó bức rèm được vén lên, hiện ra một người đàn ông dáng nho nhã. Thật trăm lần phán đoán cũng không ngờ người đó lại là Công Nghi Phỉ.

Công Nghi Phỉ vận áo chùng gấm từ trên cao nhìn thẳng vào Khanh Tửu Tửu, vẻ ngạc nhiên thoáng qua, mặt lại như cười, vén một cánh rèm vào chiếc móc vàng bên cạnh.

Dưới lầu một ca kỹ che miệng ỏn ẻn nói thầm:

“A, người ở trong Ứng Mai hiên thì ra là Công Nghi công tử…”.

Một giọng khác giản dị hơn hỏi:

“Là ai thế..?”.

Cô ca kỹ giọng trầm trồ:

“Trưởng tộc gia tộc Công Nghi ở Bối Trung, được đồn đại là tư phong lừng danh, văn tài nức tiếng, Công Nghi Phỉ”.

Ngừng một lát nói tiếp, “Ổn Liên đúng là có phúc”.

Hai cô gái nói chuyện gần trong gang tấc, tôi cũng nghe thấy, huống hồ Khanh Tửu Tửu. Nhưng mắt cô chỉ thoáng liếc vào phòng hoa được gọi là Ứng Mai hiên ở lầu hai, thu lại chiếc roi, cúi đầu thong thả bước lên cầu thang gỗ trải thảm đỏ.

Chủ lầu đứng phía sau giậm chân:

“Cô nương đã đến tham quan thanh lâu, ít ra cũng nên vận nam trang, kẻo ảnh hưởng quy củ nghề chúng tôi…”, lập tức được mấy người áo đen đi sau cô gái dúi vàng lá bịt miệng.

Ánh mắt cả phòng dồn vào Khanh Tửu Tửu, nhưng cô dường như không nhận ra, đi thẳng tới phòng hoa đối diện Ứng Mai hiên.

Lát sau rèm vén lên, thấy một thiếu niên bảnh bao áo gấm đai ngọc vội vã đứng lên đón Khanh Tửu Tửu:

“A Ninh không nên đến nơi này làm tỷ tỷ không vui, A Ninh…”.

Khanh Tửu Tửu thong thả ngắt lời, tay chống cằm, cúi đầu nhìn mấy cô gái trên đài còn chưa ngã giá:

“Đệ thích cô nào?”.

Thiếu niên bối rối: “Gì cơ?”.

Công Nghi Phỉ đối diện nãy giờ im lặng, lắc chén rượu trong tay:

“Vừa rồi tại hạ đã trả đến ba ngàn lẻ năm đồng vàng, xem ra ý huynh đài là muốn…”.

Nói đến đó mỉm cười ngừng lại, nhìn đăm đăm Khanh Tửu Tửu ngồi cạnh rèm châu:

“… muốn tác thành cho tại hạ chăng?”.

Chàng thiếu niên cúi đầu không dám nói, Khanh Tửu Tửu ngước mắt, lơ đãng nhìn vị khách, ánh mắt lại hướng vào chiếc bục cao bên dưới, ngón tay hơi ngừng trên mặt bàn gỗ đàn:

“Hai vạn đồng vàng, tôi mua cả ba cô”.

Khách trên lầu dưới lầu đều trố mắt, tôi cũng trố mắt. Nhìn xung quanh chỉ thấy Công Nghi Phỉ một mình ung dung tự rót rượu uống, khóe mắt cười cười. Chưa bao giờ thấy một cô gái mua gái lầu xanh ngang nhiên, hào phóng, bức ép đến thế. Khiến người ta không thể không thán phục.

Chủ lầu há mồm không nói được gì, không biết là kinh ngạc hay là vui mừng, hai vạn đồng vàng gọi ba cô, ngay những gã công tử phá gia nhất Cửu Châu này cũng không dám vung tay như vậy.

Chàng thiếu niên tên A Ninh mặt hết trắng lại đỏ, bối rối:

“Chẳng, chẳng phải tỷ đến bắt đệ về nhà sao, sao lại…”.

Khanh Tửu Tửu nhìn cậu ta từ đầu xuống chân, nhấc chén trà đang tỏa khói trên bàn lên:

“Đã đến tranh giành mỹ nhân với người ta thì phải thắng, mọi ngày…”. Ánh mắt từ sau làn khói mông lung liếc qua, “… ta dạy đệ thế nào?”.

Chàng thiếu niên ngây người, cúi đầu rất thấp, cô uống hai ngụm trà rồi đứng dậy đi ra, khi rèm buông xuống, mắt liếc xuống lầu dưới một cái

“Ba cô đó nhan sắc cũng được, chọn một cô vừa ý nhất, đêm nay không cần về nhà”.

Không có ai nhìn thấy tôi, có nghĩa là từ khi Khanh Tửu Tửu xuất hiện, tôi có thể điều chỉnh góc độ, quan sát mỗi biểu hiện của cô. Đây quả là một đại mỹ nhân, nhưng lạnh như băng tạc, không thấy nụ cười, dù chỉ là cười khẩy, dường như không hứng thú với bất cứ thứ gì trên đời.

Nhưng trong ký ức này, tiểu đệ của cô lại là một thiếu niên có tên là Khanh Ninh kia. Mà lần thứ hai cô gặp Công Nghi Phỉ lại là lúc chàng ta tranh giành hoa khôi lầu xanh với tiểu đệ của cô. Ảo chi đồng chỉ có thể nhìn thấy ký ức, nhưng không thể hiểu được tâm tư của chủ nhân, cho nên tôi cũng không hiểu.

Đi theo Khanh Tửu Tửu ra khỏi lầu xanh mới phát hiện lầu này bên một chiếc hồ, ven bờ liễu rủ như rèm buông. Trên hồ bóng trăng nhàn nhạt. Tùy tùng áo đen lẫn vào đêm tối, bị cô lưu lại tại chỗ, tay xách chiếc đèn nhỏ, một mình cô đi dạo quanh hồ.

Tôi đi theo sát, gần như đi một vòng quanh hồ. Đến một chỗ có bậc đá xuống hồ thì nhìn thấy một chiếc thuyền mộc neo sát mép nước, người đứng ở mui thuyền lại là Công Nghi Phỉ vừa rồi còn uống rượu ở lầu xanh.

Công Nghi Phỉ vẻ đào hoa phóng túng, tay cầm một chung rượu bằng gốm xanh, đang cúi đầu rót rượu xuống hồ, nghe thấy tiếng động hơi ngẩng đầu, nhìn thấy người đến là Khanh Tửu Tửu, mỉm cười ra ý ngạc nhiên:

“Khanh tiểu thư”.

Khanh Tửu Tửu khoan thai bước đến trước thuyền, dừng lại ngước nhìn chàng:

“Trăng thanh nước biếc, Công Nghi công tử đồng ẩm với hồ, thật phong nhã”.

Chàng thu lại chiếc chung, mắt tươi cười, giọng xem chừng đầy tủi thân:

“Mấy giai nhân vừa ý lại bị tiểu thư cướp mất, không người đối ẩm họa vần, đành một mình tìm chút thú vui”. Dừng lại thở dài, “…

Không may chèo thuyền không thạo, mới nghĩ ra hối lộ thần hồ hai chung rượu nhạt, mong thần hồ không gây khó dễ”.

Ánh mắt nhìn Khanh Tửu Tửu, chàng hơi ngẩng đầu chìa tay cho cô

“Có điều, lần này tương ngộ cùng tiểu thư, xem ra ông trời đã đoái thương, không biết có thể cho Phỉ một vinh hạnh, mời tiểu thư cùng du thuyền thưởng ngoạn cảnh hồ”.

Giọng nói có vẻ tội nghiệp, nét mặt lại hân hoan khích lệ, tôi thầm nghĩ diễn như thế quá xoàng, không bẩm sinh như Mộ Ngôn, với tính cách của Khanh Tửu Tửu có họa là uống nhầm thuốc mới nhận lời.

Nhưng không biết Khanh Tửu Tửu nghĩ thế nào.

Gió lay cành liễu, Khanh Tửu Tửu giơ bàn tay trắng ngà, cổ tay đeo chiếc vòng ngọc màu đen túm ống tay áo Công Nghi Phỉ, nghiêng người lấy đà nhảy lên thuyền.

Chiếc thuyến gỗ chòng chành, hai người đứng rất gần nhau, cô đưa chiếc đèn trong tay cho chàng

“Công Nghi công tử chèo thuyền nhất định phải cẩn trọng”.

Tôi nhân cơ hội cũng lên thuyền, đứng một góc, đương nhiên tôi không có trọng lượng, không ảnh hưởng gì tới cái gọi là trọng tải.

Mắt Công Nghi Phỉ lóe sáng, nhưng chỉ thoáng qua, khi thuyền đã chèo ra xa bờ mới khẽ cười:

“Tiểu thư lên thuyền thế này thật khiến Phỉ kinh ngạc, lẽ nào không sợ Phỉ có dụng tâm, mạo phạm tiểu thư?”.

Trên chiếc bàn trà nhỏ trong thuyền có hai chiếc gối thủy tinh lóng lánh, Khanh Tửu Tửu đưa mắt ngắm nghía, chậm rãi nói:

“Vậy còn để xem Công Nghi công tử có đánh bại được Tửu Tửu không đã”.

Chiếc thuyền chầm chậm dừng lại giữa hồ, Công Nghi Phỉ tay ôm đầu, giả bộ phiền não

“Biết thế này, tại hạ đã không hối lộ thần hồ hai chung rượu, để ông ta nổi sóng lật ngã cả hai ta có phải tốt không”.

Cô chống tay vào má, mắt nhìn mặt chàng: “Thế nào?”.

Chàng rời chỗ đến ngồi đối diện cô, chỉ cách chiếc bàn trà nhỏ, tay cầm chung rượu đã rót:

“Tiểu thư có thật lòng muốn biết?”.

Hình như cô suy nghĩ thật, ngẩng nhìn chàng, hỏi lại: “Thế nào?”.

Ánh mắt chàng từ chung rượu gốm màu xanh di chuyển đến mặt cô, không cười nữa, trầm tĩnh nhìn cô: “Tiểu thư thân thủ cao cường, thầm nghĩ lúc này chỉ có như vậy mới có thể đến gần tiểu thư. Tâm nguyện của Phỉ rất bé nhỏ, sau khi chia tay ở núi Cô Trúc, bấy lâu chỉ mong có dịp đến gần tiểu thư một chút”.

Sự thổ lộ đường đột mà khéo léo, quá một chút là giống đùa cợt, bớt một chút là đối phương không hiểu mình nói gì, tôi thầm tán thưởng, Công Nghi Phỉ đúng là thiên tài về khoản này.

Theo tưởng tượng của tôi Khanh Tửu Tửu sắc mặt lúc nào cũng không biểu cảm có lẽ sẽ giả bộ không nghe thấy, vậy là Công Nghi Phỉ đã thổ lộ uổng công.

Nhưng cũng may, chuyện trái với quy luật tiểu thuyết tình cảm đó không xảy ra.

Khanh Tửu Tửu nãy giờ chống má, bàn tay nghịch chiếc gối thủy tinh thoáng dừng, từ từ ngồi thẳng người, ánh mắt hơi ngạc nhiên, trầm tĩnh nhìn Công Nghi Phỉ, phía xa vẳng đến tiếng tiêu đồng, cô cầm cái gối nghiêng người nhích lại gần chàng, hai người gần nhau trong hơi thở, tư thế rất âu yếm nhưng giọng cô lạnh băng:

“Chàng muốn cứu tôi một phen...? Có phải chàng thực lòng muốn thế...?”. Đôi mắt trong như nước mùa thu của chàng xao động.

Cô xích lại gần hơn, môi cơ hồ chạm vào tai chàng:

“Nếu tôi nhảy xuống, chàng có cứu thật không..?”.

Cô hơi nghiêng đầu, né ra một chút, giọng rất thanh rất nhạt, không nhận ra cảm xúc:

“Tôi không biết bơi, chàng không cứu, tôi sẽ chết”.

Một món tóc xõa trên trán cô, Công Nghi Phỉ nắm lấy, chàng cúi đầu, nhìn không rõ biểu cảm, giọng ôn tồn:

“Lời nói ra như giễu cợt Phỉ mỗ, tiểu thư cảm thấy tâm ý của Phỉ… quá nực cười...? Hay là cảm thấy Phỉ không biết tự lượng sức…”.

Lời chưa dứt, món tóc tuột khỏi tay chàng, “ùm” một tiếng, nước như hoa bắn lên mạn thuyền, qua làn nước hoa vọt lên, thấy bóng trắng như đóa hoa sen đã chìm xuống hồ. Lại “ùm” một tiếng, nước trào lên Công Nghi Phỉ đã ôm Khanh Tửu Tửu đang ho sặc sụa vì sặc nước lên thuyền, y phục hai người ướt sũng, mặt Công Nghi Phỉ tái nhợt: “Tiểu thư…”.



Khanh Tửu Tửu đang vuốt ngực, giơ tay nắm vạt áo Công Nghi Phỉ, trong đôi mắt lạnh có bóng trăng:

“Tôi chưa bao giờ đùa ai”.

Lại ho một tiếng

“Chàng cũng đừng đùa tôi”. Mặt áp lại gần chàng, hơi thở cách trong gang tấc

“Đã vậy, mười ngày sau đến Khanh gia cầu hôn tôi”.

Câu nói bất ngờ đáng kinh ngạc, nhưng dưới ánh trăng Khanh Tửu Tửu người ướt sũng nhìn chàng đăm đăm:

“Chàng có bằng lòng?”.

Ánh mắt trong veo của chàng xao động, không trả lời ngay. Cô lạnh mặt đẩy chàng ra, giọng lạnh thấu tận xương:

“Không bằng lòng ư? Những lời nhớ nhung chàng nói vừa rồi quả nhiên là dối trá. Nhưng Vĩnh An Khanh Tửu Tửu không phải là người chàng muốn giễu là giễu, Công Nghi công tử”.

Vẻ sửng sốt của chàng cuối cùng trở lại bình thường, mặt hồ xanh sẫm dưới trăng, nụ cười dâng đầy trong mắt:

“Sao có thể..? Mười ngày sau, ta đến cưới nàng”.

Chàng nắm tay cô, miệng hơi nhếch

“Ta chưa thích một ai, nhưng Tửu Tửu, ta vừa nhìn thấy nàng đã cảm thấy nàng phải là của ta”.

Cô ngoảnh đầu, nhìn chiếc đảo nhỏ không xa trên mặt hồ

“Chàng nhìn thấy các cô gái thanh lâu, cũng cảm thấy họ phải là của chàng à?”.

Chàng bật cười:

“Họ không phải là của ta, nàng thấy đấy, nàng thích ta cũng không tranh với nàng”.

Cô ngoảnh lại, vẻ trầm tư, lát sau lấy ra chiếc vòng ngọc đen trên cổ tay:

“Đến ngày hẹn cha muốn thiếp ca vũ kén chồng. Chàng hãy đến xem thiếp múa, phổ một khúc hay hơn trình cho cha, như vậy chàng sẽ lấy được thiếp. Cha thiếp từng ca ngợi văn tài của chàng, đáng tiếc lần này kén chồng không phải là vịnh thơ gieo vần, về nhạc lý được cha khen hay, thiên hạ hiện chỉ có Trần thế tử Tô Dự”.

Chàng tươi cười nắm tay cô:

“Ý nàng là muốn ta nhờ biểu đệ giúp?”.

Lại giả bộ thở dài

“Ta bình sinh không thích đi với hắn, vạn nhất lúc đó nàng lại thích hắn, cha nàng thích hắn, thì biết làm sao? Ta không muốn động thủ với hắn”.

Cô để chiếc vòng vào tay chàng:

“Hãy nhớ chàng đã nói gì, chàng nói thiếp là của chàng, vậy hãy giành thiếp về cho mình, đừng làm thiếp thất vọng”.

Gió thổi qua, con thuyền nhỏ đung đưa, chàng ôm cô:

“Lúc nhảy múa nên mặc nhiều xiêm áo, dừng để kẻ khác được hời”. Hai tay cô buông thõng từ từ giơ lên, ôm lấy tấm lưng thanh tú của chàng, chàng cơ hồ cứng người, ôm cô chặt hơn. Cằm cô tì vào bờ vai ướt của chàng, mắt mở to, nhìn lên vầng trăng xa xăm trên trời.

Đây là một đôi uyên ương quan hệ phát triển nhanh chóng nhất sau lần gặp đầu tiên mà tôi từng thấy, không hiểu tiếng sét ái tình là thế nào, làm sao biết người mình cần là người này chứ không phải người kia, không phải một người khác, lời hứa lúc này về sau quên hết? Tôi có ý nghĩ như vậy, chủ yếu là nhớ tới người vợ chính thức của Công Nghi Phỉ tám năm sau chính là Công Nghi San, con gái của nhị thúc chàng. Đã biết kết cục như vậy, cuộc cầu thân này sao có thể thuận buồm xuôi gió?

Nhưng bất luận thế nào, mười ngày cũng trôi qua rất nhanh.

Sáng sớm hôm đó, xung quanh chiếc đài cao tế thần của Khanh gia ở Vĩnh An tụ tập rất đông công tử các bậc thế gia trong thiên hạ, Khanh Tửu Tửu toàn thân áo trắng giản dị, mặt dửng dưng đứng trên đài cao trước một đỉnh hương lớn bốc khói.

Những chàng công tử bên dưới tế đàn có người đến đây vì tài sản của Khanh gia, có người vì nhan sắc của cô, duy nhất một người đến vì cô. Nhưng khi cô tìm thấy chàng trong đám đông lại không tỏ vẻ vui mừng, trái lại tay chống vào trán, đôi môi đỏ chỉ khẽ mấp máy, mệt mỏi nhắm mắt như bị kiệt sức.

Nhạc sư bên cạnh bắt đầu tấu nhạc. Tôi nghe rất rõ, cô nói: “Vẫn đến sao?”.

Đồng thời tôi sực nhớ đến một tin đồn từ mấy năm trước, rằng họ Khanh ở Trần quốc có một thiên kim có tài ca vũ nức tiếng thiên hạ, thầm nghĩ chắc là Khanh Tửu Tửu này. Chỉ là về sau không nghe thấy tin tức gì về tài ca vũ của cô, cho nên thiên hạ không bị chấn động hơn nữa, nhưng ca khúc phối với điệu múa của cô gọi là “Thanh hoa huyền tưởng” một thời rất nổi tiếng, ngay đến một vùng hẻo lánh như núi Quân Vu thỉnh thoảng cũng nghe thấy người ta ngân nga vài câu, có thể thấy nó vô cùng thịnh hành.

Điều bất ngờ là ca khúc được đồn thổi thần kỳ đó thực ra cũng bình thường, cơ hồ chỉ hơn các ca khúc của ca kỹ chút đỉnh, chỉ có vậy mà đã chấn động, có thể thấy thiên hạ quá dễ chấn động.

Càng bất ngờ hơn đó là hôn sự của hai người lại không hề gặp trở ngại, tất cả các thủ tục rườm ra như vấn danh, ăn hỏi, đều được giản lược loại bỏ, lập tức định ngày thành hôn, thuận lợi đến mức khó tưởng tượng. Nhưng tôi biết kết cục của câu chuyện, kết cục là Khanh Tửu Tửu chết.

Điểm lại một lượt, tôi cơ hồ ngửi thấy hơi hướng của âm mưu nào đó, nhưng do bản tính tương đối thuần khiết, lại cho chẳng qua do mình hay nghĩ lung tung.

Mặc dù ngày thành hôn đã định vào tháng sau, nhưng đêm đó, Công Nghi Phỉ không về ngay Bối Trung để chuẩn bị. Tôi từng đọc một cuốn tiểu thuyết của Quân Vỹ, kể về một vị công tử phong lưu, đang đêm khuya nhảy tường vào hậu viên của ý trung nhân, hái một cành mai trắng để trước cửa sổ phòng cô. Kết quả hái đúng cành dị mai, khiến ý trung nhân ngủ suốt ngàn đêm.

Khi nhìn thấy bóng áo trắng của Công Nghi Phỉ vọt qua tường cao nhảy vào hoa viên của Khanh phủ, giơ tay hái cành phong linh màu tím trên tường, tôi cảm thấy hôm nay đã gặp được một độc giả nhiệt thành của Quân Vỹ.

Đáng tiếc Khanh tiểu thư không yếu như cô gái trong truyện đó, dưới một gốc cây to trong hoa viên, tiểu thư đang một mình tập múa, giọng rất lạnh, ca từ đúng là ca khúc “Thanh hoa huyền tưởng”, nhưng nghe khang khác.

Đột nhiên cô cảm giác phía sau có người nhìn, khi quay lại, con dao nhỏ kẹp giữa hai ngón tay tức thì phi ra, lúc nhìn rõ là Công Nghi Phỉ, con dao đã ở cách chàng ba thốn(Đơn vị đo chiều dài của Trung Quốc, một thốn xấp xỉ bằng 3,3 cm)... một cái né người rất đẹp, con dao sượt qua tóc, cô tái mặt, ngẩng đầu nhìn chàng: “Chàng làm gì ở đây?”.

Công Nghi Phỉ tư phong ngời ngời đứng trên bờ tường, trong tay là cành phong linh vừa hái, chỉ bị bay mất mấy sợi tóc:

“Còn nàng đang làm gì?”.

Hơi cúi xuống nhìn cô

“Ca khúc nàng hát dường như là ca khúc hôm nay ta trình lên nhạc phụ”.

Ngừng lại, bổ sung thêm

“Đừng nói nàng không biết ca khúc đó do ai soạn”.

Vừa nói vừa nhảy từ trên tường xuống, nhẹ nhàng cài cành phong linh lên tóc cô, càng làm nổi bật mái tóc đen dài óng mướt của cô. Cô ngẩng đầu nhìn chàng, mắt long lanh, nhưng chỉ thoáng qua, tay chàng đặt lên vai cô, cô nghiêng đầu nhìn cảnh sắc trong vườn

“Do chàng soạn thì sao? Cha lại chọn khúc này, trình độ thưởng thức của cha quả đã giảm sút rồi”.

Chàng cười càng tươi, cúi đầu ghé sát tai cô:

“Thế đêm khuya nàng hát ca khúc kém cỏi của ta, rồi biên ra điệu vũ phối hợp với nó, rồi tập múa một mình, rốt cuộc nàng đang đợi ai?”.

Cô hơi cau mày: “Chẳng đợi ai hết”.

Chàng lẩm bẩm: “Thì ra đúng là điệu múa soạn riêng cho ca khúc này.”.

Cô ngây người, mặt lạnh lùng tỏ ra phẫn nộ, quay người định bỏ đi, bị chàng kéo lại, ngược ánh trăng nhìn ra, trong ánh sáng mờ mờ là một khuôn mặt dịu dàng thâm tình:

“Ta muốn xem nàng múa, Tửu Tửu. Sáng nay là múa cho bọn họ xem, đêm nay ta muốn nàng múa cho mình ta xem”.

Những lời tình tứ thẳng thắn như thế có thể sẽ khiến các cô gái bình thường khó xử, nhưng Khanh Tửu Tửu không phải là cô gái bình thường, trên mặt không hề có vẻ ngượng ngùng, trái lại nhìn chàng đăm đăm, cất giọng thanh thanh: “Chàng nói phải, thiếp tập múa nhiều năm như vậy là muốn múa cho chàng xem, quả thực thiếp đang đợi chàng đến”.

Tôi cảm thấy mỗi lần Công Nghi Phỉ trêu chọc cô mục đích là muốn cô trêu chọc lại. Một cô gái như thế, trí tuệ tuyệt đối không kém ai, ngay cách trêu đùa cũng thật thông minh thú vị.

Những lời tình tứ thẳng thắn đó được cất lên bởi một giọng thanh lạnh như vậy, giống như băng tuyết tan khi xuân về, róc rách chảy ra từ khe núi, nghe thật sảng khoái dễ chịu.

Ngọn lửa cháy dần trong mắt Công Nghi Phỉ, nhưng cô không nhận ra, thản nhiên nhìn chàng:

“Sau đêm nay thiếp sẽ không múa khúc này nữa”.

Cô nhìn sâu vào mắt chàng

“Thực ra thiếp không hề thích múa. Những bước vũ này nhờ chàng nhớ giúp”.

Âm nhạc quen thuộc vang lên, rất nhiều chỗ khác, nhưng càng dạt dào viên mãn, nhạc điệu cơ bản vẫn là khúc Thanh hoa huyền tưởng, nhưng lúc này lại nhìn thấy một vũ điệu khác hẳn ban ngày.

Thân hình mảnh mai khẽ uốn mềm như sóng, tựa như có ba ngàn sợi tơ phiền muộn vấn vít gót chân, tựa bị mười trượng hồng trần mềm mại trói chặt, những ngón tay lại như nở đóa hoa xuân, đây mới là điệu vũ xứng với bốn chữ “danh chấn thiên hạ”.

Những ngón tay thanh tú của Công Nghi Phỉ không ngừng lướt trên dây đàn, mắt mơ màng phiêu lãng… âm điệu cuối cùng, cô đứng trước mặt chàng, trán lấm tấm mồ hôi, khuôn mặt vốn trắng như tuyết giờ ửng hồng. Cô hơi ngẩng đầu nhìn chàng

“Đây là một đêm vui nhất của thiếp, sau này nhớ lại cũng sẽ rất vui”.

Chàng cười đứng lên, vuốt tóc cô, mũi chạm vào cành hoa phong linh trên tóc cô:

“Đêm vui nhất phải là đêm nàng thành hôn với ta”.

Tôi đắm chìm trong vũ khúc “Thanh hoa huyền tưởng” đó, mãi không thoát ra được, cảm thấy đây là điệu múa có hồn duy nhất tôi từng xem. Từ nhỏ sư phụ dạy tôi mỗi môn nghệ thuật đều có linh hồn, nghệ không có linh hồn, nhưng nghệ thuật có linh hồn.

Một tháng trước hôn lễ, họ luôn bên nhau. Lúc này ngoài xã hội đang thịnh hành ca khúc “Trăng bên hiên”, nghe đồn đó là do Công Nghi Phỉ sáng tác trong lúc chếnh choáng hơi men để tặng vị hôn thê của mình:

“Trước hiên lạnh bóng cây lồng bóng nguyệt, hoa rụng đầy theo gió cuốn về đâu…”, được thanh niên nam nữ truyền nhau hát.

Tôi cảm thấy yêu nhau hà tất cứ phải ngồi ngoài hiên, nếu thật sự thích một người, người đó ở đâu, thiên đường ở đó, đừng nói ngắm sao, cho dù trong bóng tối dựa vào nhau cũng hạnh phúc… nhưng lập tức lại phát hiện so sánh như vậy không đúng lắm, so với ngắm sao đàn ông đương nhiên càng thích ngồi dựa vào cô gái trong bóng tối hơn.

Thực ra tôi vẫn đang chờ đợi, chờ đợi câu chuyện này lao thẳng xuống vực như xe ngựa đứt dây cương. Bởi vì kết quả đã biết là thảm khốc, quá trình càng suôn sẻ chỉ càng khiến người ta thêm hồi hộp thót tim.

May mà một tháng cũng không lâu, đoạn ký ức này giống như tia sáng vụt qua trước mặt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 3 ( Phần 2 )


Chiếc xe ngựa mất phanh cuối cùng dừng lại trước đêm thành thân, những chuyện không nên xảy ra lại lặng lẽ xẩy ra như định mệnh.

Khi Công Nghi Phỉ toàn thân áo chùng tân lang đỏ chói, miệng mỉm cười ngũ quan rạng rỡ lật khăn trùm đỏ của tân nương, đúng lúc đó thần định mệnh trước nay vẫn ngủ gật đột nhiên mở mắt.

Dưới mũ phượng ánh vàng lóng lánh, Khanh Tửu Tửu làn da trắng như tuyết tóc không vấn, mặt không trang điểm, hơi nghiêng đầu không biết nghĩ gì. Ánh nến đột ngột chiếu vào mắt, cô giơ tay, nhắm mắt cơ hồ như vô thức, Công Nghi Phỉ bật cười, đưa chén rượu hợp cẩn đến trước mặt cô:

“Mặc dù trước nay ta vẫn yêu vẻ tố nhã thanh đạm của nàng, nhưng nàng cũng không nên vì muốn chiều ý ta mà ngay ngày thành hôn cũng trang điểm giản dị như vậy”.

Cô ngây người nhìn cốc rượu trước mặt, mắt dần dần trở nên hốt hoảng, lát sau không trả lời câu hỏi của chàng, mà lại gọi tên chàng, “A Phỉ”.

Cô hơi ngẩng đầu, lạnh băng nhìn vào đôi mắt tươi cười của chàng

“Đệ định uống rượu hợp cẩn này với chị ruột của mình sao?”.

Cặp nến long phượng đốt trên cao đúng lúc bùng ra một nắm hỏa tinh, chiếc cốc bạc trong tay Công Nghi Phỉ dừng lại trên không, trên trời đột nhiên bùng nổ một tiếng sấm kinh hoàng, thời gian ngưng lại trong tiếng sấm đó, chỉ có những ngọn nến vẫn cháy rừng rực. Công Nghi Phỉ vẫn cầm chiếc cốc bạc nghiêng người để lên bàn trà, định giơ tay buông bức rèm màu trắng trước giường.

Giọng cô căng thẳng, như níu giữ tay chàng:

“Đệ còn nhớ mình có một người chị song sinh, tôi cũng chưa quên trên đời có một tiểu đệ cùng huyết thống. A Phỉ, thực ra chính đệ cũng thấy lạ, tại sao trông tôi giống đệ hơn là giống A Ninh, đúng không?”.

Cô chờ chàng từ từ ngoảnh lại

“Bởi vì Khanh Ninh không phải là tiểu đệ của tôi, đệ mới là tiểu đệ của tôi. Chúng ta cùng huyết thống, là hai người cốt nhục gần gũi nhất trên thế gian”.

Trong ánh nến hồng, sắc mặt Công Nghi Phỉ trắng dần, khóe miệng vẫn nở nụ cười dịu dàng:

“Tửu Tửu, nàng mệt rồi”.

Cô nhìn sâu vào mắt Công Nghi Phỉ, từ từ nhắm mắt như quá mệt mỏi:

“Tại sao đệ không tin?”.

Chàng không nói.

Cô đứng dậy rời khỏi giường tân hôn, giày mềm bằng tơ đỏ giẫm lên chiếc bậc hình mặt trời để trước giường:

“Ngôi trưởng tộc của Công Nghi gia không dung thứ song sinh, mười tám năm trước, tôi là kẻ bị vứt bỏ, thập tử nhất sinh sống lại chính là để hôm nay lấy lại những gì thuộc về mình. Tình cờ gặp gỡ, ca vũ kén chồng, từ đầu đến cuối tất cả đều được sắp đặt”.

Hai người cách nhau không đầy ba bước, cô dừng lại nhìn thẳng vào chàng

“Chiếc gậy hình đầu rắn màu đỏ khảm hoa phật tang tượng trưng cho quyền lực của gia tộc Công Nghi do hai mảnh ghép lại, vợ chồng trưởng tộc mỗi người giữ một nửa. Đệ xem, ngoài lấy đệ, không nghĩ ra cách nào tốt hơn để tôi đường hoàng quang minh trở về Công Nghi gia, đường hoàng lấy lại những gì thuộc về tôi”.

Không gian như xẻ làm hai nửa, một nửa trôi chầm chậm, một nửa dừng lại, trong nửa dừng lại đó, sắc mặt Công Nghi Phỉ càng trắng bệch, cơ hồ không thể giả bộ cười được nữa.

Những lời đó sắc tựa dao, hơn nữa mỗi nhát đều là đòn chí mạng, phụt máu tươi, nhưng cô nhìn thần sắc trắng bợt như bị mất máu quá nhiều của chàng, giọng lại vẫn bình tĩnh như không:

“Tôi đã biết đệ từ trước, từ trước khi đệ nhìn thấy tôi, hôm đó tôi cố tình đợi đệ ở Cô Trúc sơn, cố tình đánh rơi chiếc vòng ngọc, đệ tưởng tất cả là ý trời, nhưng ý trời lại chỉ là để chúng ta vừa sinh ra đã gánh chịu số mệnh bi thảm này”.

Công Nghi Phỉ sững người nhìn cô, đôi mắt trong như nước mùa thu, đào hoa sóng sánh, giờ đây đào hoa không còn, nước mùa thu cũng cạn. Ngũ quan tuấn mỹ phong lưu ngày xưa giờ trắng nhợt, nhưng vẫn cười một tiếng, nhìn vào khoảng không:

“Ta vẫn nhớ, lúc đó nàng nói với ta, nàng không biết bơi, nếu ta không cứu, nàng sẽ chết”.

Thần sắc nhàn nhạt, cô nói:

“Tôi lừa đệ”.

Chàng dừng một lát, lại tiếp:

“Khúc ‘Thanh hoa huyền tưởng’ đó, nàng nói là tập đã lâu, đang chờ ta đến, muốn múa cho ta xem”.

Cô vẫn lạnh lùng: “Tôi lừa đệ”.

Chàng như không nghe thấy:

“Đêm đó nàng nói đó là đêm vui nhất của nàng, sau này nhớ lại…”.

Cô ngắt lời:

“Tất cả đều là lừa dối”, dừng một lát, trầm tư nhìn chàng

“Bộ dạng đệ thế này là đang hận vì mắc lừa tôi sao? Tôi đã cho đệ cơ hội, nhưng đệ lại bỏ qua”.

Đứng đối diện với nhau như vậy, chàng cao hơn cô một cái đầu, trông rất giống một đôi Kim Đồng Ngọc Nữ. Chàng hơi nhướn mi, mày hơi cau, lại không nói gì. Cô nghiêm nghị nhìn chàng một lát, bất chợt cau mày:

“Cho phép tôi đoán thử, phải chăng là đệ thích tôi thật?”.

Chàng ngẩng phắt đầu.

Cô nhìn thẳng vào mắt chàng: “Tôi nói đúng không?”.

Chàng nhếch mép: “Nàng nói xem?”.

Cô lạnh lùng nhìn chàng: “Buồn nôn”.

Câu này nhất định làm tổn thương Công Nghi Phỉ, dưới ánh nến, mắt chàng thâm trầm như biển, môi không sắc máu, lát sau bật cười một tiếng, một tay kéo cô ngã vào trong tấm chăn lớn màu đỏ.

Lại một tiếng sấm rền, khiến bức rèm trước giường rung lên, cũng lóng lánh như bức rèm châu treo trước sơn môn núi Cô Trúc. Tay chàng chống bên cạnh mái tóc buông xõa của cô, cúi nhìn cô, đôi môi không sắc máu nhếch lên đường cong theo thói quen, áp gần miệng cô:

“Đêm xuân một khắc ngàn vàng, trước đây ta đã nghĩ câu nói này quá tục, định trong đêm tân hôn sẽ nói với nàng những lời hay hơn, đêm nay, bỗng nhiên cảm thấy những ý nghĩ đó thật nực cười, Tửu Tửu, những điều nàng nói, nàng tưởng là ta sẽ tin sao?”.

Tôi nghĩ chắc cô không ngờ đột nhiên bị chàng đẩy ngã, đến nỗi mãi không phản ứng được gì. Thầm nghĩ, Khanh Tửu Tửu thân thủ cao cường, cũng rất có thể một tay đẩy Công Nghi Phỉ đè lên người mình ra, đánh cho một trận, nếu vậy, cuộc động phòng này quả thật sẽ vô cùng thú vị.

Nhưng đợi mãi, không thấy cô ra tay, chỉ bình tĩnh nhìn lên đỉnh màn. Môi chàng áp gần má cô, cũng không thấy có hành động nào tiếp. Nói không tin là một chuyện, nhưng tôi nghĩ, chung quy chàng ta vẫn để bụng những điều cô nói, nếu không đã không bị tổn thương như vậy, nếu không đã vượt qua vạn hiểm hoàn tất đêm động phòng. Mà cái gọi là vạn hiểm đó rõ ràng không thể bao gồm hai người là ruột thịt. Đây là số mệnh, nếu chưa nghe chưa biết chưa có khả năng phản kháng thì số mệnh chung quy vẫn là số mệnh.

Bóng rèm khẽ lay, vẫn là cô lên tiếng phá vỡ bầu không khí yên lặng, thần thái hoàn toàn bình thản, như thể chàng lúc này không làm bộ thân mật âu yếm áp sát vào cổ cô, như thể hai người pha một ấm trà lạnh đang trịnh trọng tâm sự:

“Từ lúc tôi hiểu biết đến giờ, lớn lên trong kỹ viện, từ ba tuổi đã bắt đầu học múa. Kỹ viện không phải là chốn bình thường, múa đẹp mới có miếng ăn, múa kém là đói bụng. Hai, ba tuổi còn đỡ, càng lớn càng phải làm nhiều việc nặng. Hồi đó thường phải làm lụng mọi việc trong khi bụng đói. Tôi rất ghét múa. Nhưng ngoài múa, múa đẹp, đẹp nữa, không còn con đường nào khác, khi sáu tuổi tôi đã nghĩ nên tìm một nghề khác để kiếm sống, không phải bán thân. Khi sáu tuổi, đệ nghĩ gì, A Phỉ?”. Giọng cô vẫn không đổi. Đây là lần đầu tôi thấy cô nói nhiều như vậy.

Công Nghi Phỉ không trả lời, cơ hồ cô cũng không bận tâm chàng có trả lời hay không:

“Lúc tôi tám tuổi, cha nuôi mua tôi về, tôi mới hiểu thì ra tôi cũng có cha mẹ, cha tôi vẫn sống yên lành trên đời, ông ấy có thể nuôi tôi nhưng lại vứt bỏ tôi vì một tội lỗi tôi không gây ra. Mẹ lén cứu tôi, nhưng vì vậy bị cha lạnh nhạt, sau đó buồn phiền qua đời. Mẹ giấu tôi ở một nơi tự cho là an toàn, không ngờ cuối cùng tôi phiêu dạt vào kỹ viện. Một người duy nhất muốn tôi sống trên đời đã ra đi, mẹ của chúng ta, đời tôi chưa một lần được gặp mặt”.

Cô ngừng lại

“Nhưng con gái của Ung Cẩn công chúa sao có thể trở thành ca kỹ, xem ra có vẻ quá hoang đường, nhưng suýt nữa, nếu cha nuôi không tìm thấy tôi, chuyện như vậy đã xảy ra. Có lẽ đệ sẽ gặp tôi ở một kỹ viện nào đó, bỏ ra ba ngàn lẻ năm đồng vàng mua đêm đầu tiên của tôi như mua những cô hoa khôi đó…”.

“Đừng nói nữa”.

Công Nghi Phỉ ngẩng đầu khỏi vai cô, một tay ôm trán, nhắm mắt cười một tiếng

“Hoặc là để người ta chỉ yêu nàng, hoặc là để người ta chỉ hận nàng, Tửu Tửu, nàng như thế, thật không hay”.

Cổ áo cô hơi trễ, thản nhiên nhìn chàng. Tôi không biết cô nói vậy rốt cuộc có nên coi là quyết làm đến cùng hay không, thực ra không phải là cô không bộc lộ tình cảm mà là hoàn toàn không có tình cảm. Lát sau, cô nhẹ giọng:

“Đệ vẫn không tin chúng ta là ruột thịt ư? Phải thế nào đệ mới tin?”.

Lời vừa dứt đột nhiên tay rút chiếc trâm trên đầu. Chàng vội giơ tay ngăn lại, cán châm nhọn rạch một vết trên tay chàng, chàng để tay cô vào trong chăn:

“Trích máu nhận người thân? Nàng nói đúng, huyết dịch không đánh lừa ai”.

Môi chàng áp gần tai cô

“Vạn nhất nếu đúng thì sao. Tửu Tửu, ta không tin nàng là chị ta. Nàng mệt rồi, ngủ đi”.

Ánh nến kéo dài bóng chàng. Cô nằm trong chăn, chiếc trâm vàng nổi bật trên nền chăn đỏ tràn ngập bầu không khí tân hôn, nhưng phòng tân hôn đã không còn tiếng người. Cô chớp mắt, giơ chiếc trâm có dấu máu mờ mờ, nắm chặt trong tay.

Khanh Tửu Tửu nói cô đến đây vì quyền lực, cô đang nói dối. Nếu chỉ vì quyền lực, có thể dùng cách khác, không cần đánh đổi bằng hạnh phúc cả đời. Nhưng cô đã lựa chọn lấy Công Nghi Phỉ, đó là sự điên rồ. Nếu có một thứ có thể khiến người ta điên rồ như vậy, chỉ có thể là lòng hận thù và ý muốn hủy diệt. Quá yêu và quá hận ở một mức độ nhất định cũng như nhau, lâu dần biến thành tín ngưỡng, nếu vậy, yêu và hận thực ra đều mất đi ý nghĩa tự thân của nó.

Lần đầu tiên tôi cảm thấy, có lẽ họ đúng là ruột thịt. Nếu không, tại sao cô phải đánh lừa Công Nghi Phỉ như thế?

Đoạn ký ức tiếp theo chỉ lướt qua, nhưng lại giúp tôi nhìn thấy dấu hiệu lụn bại của gia tộc Công Nghi. Trưởng tộc mất sớm như vậy, đem cả đại gia sản như thế trao vào tay Công Nghi Phỉ mới mười hai tuổi, do hai vị thúc thúc phò tá.

Hai vị đó mỗi vị nắm một phương thế lực, nếu không phải do Công Nghi Phỉ khi làm lễ kế vị trưởng tộc đã cắt máu tuyên thệ với thần hộ vệ Thiên Hà, có khả năng sai khiến Thiên Hà, thì hai vị thúc thúc đã sớm đuổi đứa cháu mồ côi khỏi ngôi trưởng tộc. Cũng may Trần vương đời này tử tức hiếm hoi, chỉ có hai trai một gái, mà công chúa duy nhất đó lại nhỏ tuổi hơn Công Nghi Phỉ quá nhiều, vì thế Công Nghi Phỉ vốn từ lúc ra đời đã được định sẵn sẽ kết hôn với một công chúa của Trần vương mới được tự do hôn nhân, có thể tùy ý lựa chọn hôn thê.

Công Nghi gia xưa nay hành sự bí hiểm, thông hôn cận huyết mà thiên hạ cho là loạn luân đối với họ cũng bình thường, hơn nữa có thể thông hôn trong cùng một chi và thông hôn giữa các chi trong tộc. Hai vị thúc thúc mỗi người có một cô con gái, đều toan tính muốn gả cho đứa cháu trưởng tộc để củng cố quyền lực.

Nhưng người tính không bằng trời tính, họ quên là thiên hạ rộng lớn, mỹ nhân không hiếm, hơn nữa với địa vị gia thế và bản thân con người Công Nghi Phỉ sự lựa chọn dành cho chàng không phải là một, hai, mà là cả biển người. Vậy là trong khi hai vị thúc thúc đánh nhau vỡ đầu chảy máu để gả con gái cho đứa cháu, thì đứa cháu đã nhẹ nhàng rước đại tiểu thư Khanh Tửu Tửu của Vĩnh An Khanh thị vào phủ đệ của gia tộc.

Cô gái áo trắng lạnh như băng tạc đến đây để báo thù. Những quyền lực mà hai người đó tranh giành được xây dựng trên cơ nghiệp bao đời của gia tộc Công Nghi, nếu gia tộc bị hủy hoại phỏng còn gì để tranh giành. Có lẽ khi đó họ không nghĩ đến điều này.

Ngoài đêm tân hôn Công Nghi Phỉ ngủ ở trong thư phòng, hôm sau chàng sai gia nhân chuyển một cái giường mềm vào tân phòng, coi như quên hẳn chuyện đã xảy ra, đêm đêm ngủ trên chiếc giường đó.

Cô coi chàng là tiểu đệ, nhưng chàng chưa bao giờ gọi cô là tỷ tỷ, dường như cô là chính thê thật sự của chàng, để chàng trân trọng cưng chiều, sủng ái.

Mặc dù ngày ngày gặp mặt, nhưng thỉnh thoảng lại có gia nhân mang quà đến cho cô, một con bọ ngựa kết bằng cỏ lau, một con chim yến cắt bằng giấy vàng, những món đồ chơi tuy vụn vặt nhưng phải dụng công, tỷ mẩn, đường hoa ngõ liễu không còn thấy bóng chàng, các cô gái lầu xanh thở dài.

Khanh Tửu Tửu cau mày nhìn chàng:

“Trước đây đệ thế nào, thích cô ca kỹ nào, có thể mời về đây mấy ngày, không cần phải giày vò bản thân”.

Chàng cười khẩy: “Nàng thật khoan dung”.

Khanh Tửu Tửu muốn làm gì, người ta cũng đoán được ít nhiều. Điều tôi quan tâm nhất trong câu chuyện này ngoài cô và Công Nghi Phỉ còn có Công Nghi San con gái của nhị thúc chàng.

Trong ấn tượng của tôi, cô gái đó luôn mặc áo hồng, có khuôn mặt như hoa tường vi, kiều diễm và rực rỡ như mặt trời giữa trưa hè. Quá khứ tôi nhìn thấy là thế này, nhưng trong hiện thực bảy năm sau lại là Khanh Tửu Tửu đã chết, Công Nghi San là chính thê của Công Nghi Phỉ.

Vốn nghĩ có kết quả như vậy, có lẽ là do từ nhỏ cô ấy đã yêu Công Nghi Phỉ. Nhưng xem hết đoạn ký ức này mới biết sự thật không phải thế, lúc này Công Nghi San yêu một thuộc hạ của tam thúc tên là Mạc Trọng, hai người lén tư tình, thề non hẹn biển, thậm chí hẹn nhau bỏ trốn. Tất cả đã sắp đặt xong xuôi, nhưng Mạc Trọng trong một lần đi làm nhiệm vụ ở Đường quốc đã bị đâm chết do sơ suất của Công Nghi Hàm con gái của tam thúc, để lại Công Nghi San đã mang thai hai tháng.

Hai tháng sau, khi hầu nữ Họa Vị từ Khanh gia đi theo hầu Khanh Tửu Tửu bẩm báo sự việc với cô, Khanh Tửu Tửu đang ngồi trong đình hóng mát bên đầm cho cá ăn, nghe tiếng thong thả ngẩng đầu:

“Những người biết chuyện Mạc Trọng và San tiểu thư không biết giữ miệng, ngươi biết nên làm thế nào chứ?”.

Họa Vị mím môi cười gật đầu:

“San tiểu thư tính tình nóng nảy, gặp chuyện thế này, Hàm tiểu thư e là xúi quẩy rồi, nhị lão gia và tam lão gia nhiều năm tranh giành với nhau nhưng cũng không có thù oán lớn, xích mích nhỏ không đáng kể, lần này chính là thời cơ tốt khiến họ huyết hải thâm thù. Chuyện xảy ra vào lúc này thật đúng là ý trời, không cần tiểu thư nhọc công bố trí ván cờ, tiết kiệm được khối công sức”.

Ngừng một lát, nói tiếp:

“Nhưng tiểu thư, tiểu thư thế này e là quá nhọc lòng, cái giá phải trả quá lớn, không giống phong cách quyết liệt vốn có của tiểu thư”.

Cô vung tay ném hết chỗ thức ăn cho cá, rồi bám vào cột hoa đình bên cạnh, nói giọng nhẹ tênh:

“Trên đời có những người tài, có thể đạp gió cưỡi sóng, giữ cho cả tòa nhà lớn không đổ. Nhưng nếu tòa nhà đó bị mối mọt đục dần từng chút bên trong, cô nói xem ai có thể cứu vãn số phận sụp đổ tan tành của nó?”.

Cô nhìn chiếc cột đình vững chắc, tay kia chầm chậm đưa lên xoa thân cột nhẵn bóng, ánh mắt hướng lên xà ngang chạm trổ tinh xảo, thong thả nói:

“Lúc đó, chỉ cần đẩy nhẹ là nó vạn kiếp không thể phục hồi”.

Mười ngày sau có tin Công Nghi Hàm con gái của tam thúc ngã ngựa chết.

Đêm đó Công Nghi Phỉ không trở về bản gia, phủ đệ của tam thúc nơi cử hành tang lễ cũng không thấy bóng chàng. Dưới ánh trăng thanh mát mẻ, Khanh Tửu Tửu tìm thấy chàng ở lầu xanh lớn nhất thành. Trước sân lầu tiếng đàn sáo rộn ràng, ngợi ca nhân thế phồn hoa, đầm sen ở hậu viên xanh rì ngát hương. Trước tiểu lầu dành cho hoa khôi chỉ có một sân, một lối vào, tiểu nha đầu ngăn cô lại:

“Công Nghi công tử và tiểu thư chúng tôi đã đi nghỉ, cô nương dù có việc gì, xin để sáng mai hãy đến”.

Khanh Tửu Tửu sắc mặt dửng dưng, hầu nữ Họa Vị phía sau mỉm cười bước lên:

“Phiền cô nương thông báo một câu, nói là Công Nghi phu nhân đang đợi bên ngoài, đêm nay bất luận thế nào cũng nhất định phải gặp công tử”.

Tiểu nha đầu ngạc nhiên nhìn cô, giọng hơi sẵng:

“Công Nghi công tử đã dặn không gặp bất kỳ ai, phu nhân mời về cho”.

Họa Vị vẫn tươi cười, sợi dây thép đã ướm vào cổ nha đầu, cô gái hoảng sợ kêu thất thanh, cánh cửa gỗ hồ đào sau lưng cùng lúc mở ra.

Mỹ nhân thanh mảnh toàn thân xiêm áo trắng toát đứng sau cánh cửa khép hờ, mặt vẫn còn sắc hồng hơi rượu, lặng lẽ nhìn cô:

“Công Nghi công tử mãi mới ngủ được, đêm khuya trăng lạnh cô nương cớ gì đến quấy rầy giấc mộng của người khác”.

Cô không thèm nhìn cô ta, bước thẳng vào sân, cô gái áo trắng ngây người, định bước tới ngăn cản liền bị Họa Vị đứng bên giữ lại. Một tiếng cười nhẹ vang lên trong sân, rèm hoa buông trước cửa lầu, Công Nghi Phỉ mà chủ tớ hoa khôi vừa rồi nói là đã ngủ giờ lại đang đứng dưới cây ngô đồng sum suê, chàng đi ra khỏi bóng cây, giọng đầy ngờ vực:

“Cô đến có việc gì?”.

Khanh Tửu Tửu dừng bước, nhìn chàng từ trên xuống dưới

“Tang lễ của Hàm tiểu muội, thân là huynh trưởng, không ở linh đường bên tiểu muội nốt chặng cuối cùng, lại đến đây tìm lạc thú, còn ra thể thống gì, nếu tam thúc biết sẽ nghĩ sao về đệ?”.

Chàng vẫn cười:

“Cô thân chinh đến đây tìm tôi là vì chuyện này?”.

Không đợi cô trả lời đã quay gót vén rèm hoa đi vào, chậm rãi nói:

“Sênh Sênh tiễn khách!”.

Cô gái áo trắng được gọi là Sênh Sênh đó khóe mắt lóe ánh cười, đang định bước tới, lại bị Họa Vị giữ lại.

Khanh Tửu Tửu liếc nhìn cô ta, lướt qua bộ quần áo trắng muốt giản dị và mái tóc đen chấm gót, cất giọng lạnh lùng:

“Nhìn từ xa ăn vận thế này có vài phần giống tôi, A Phỉ, đệ thích tôi đến thế sao?”.

Cô gái áo trắng mặt biến sắc.

Công Nghi Phỉ từ sau rèm hoa sải chân bước nhanh ra, mặt dửng dưng nhìn cô. Bóng trăng xao động, quang ảnh chập chờn, cô bước từng bước lại gần, cách ba bước dừng lại hơi cau mày:

“Uống nhiều rượu lắm phải không? Đệ trở nên buông thả từ lúc nào vậy, trước đây đệ đâu có thế?”.

Tay chàng bất thần nắm tay cô, kéo lại gần, khóe mắt lại là nụ cười sóng sánh đào hoa:

“Chẳng phải cô đang muốn tôi như vậy hay sao?”.

Cô hơi ngước mắt, lặng lẽ nhìn chàng.

Tay phải chàng khẽ nhấc lên, lát sau đặt vào lưng cô, ôm chặt cô như không thể kìm chế. Cô để cho chàng ôm, để chàng gục đầu lên vai mình.

Chàng khẽ cười bên tai cô, giọng nói lại lạnh như băng:

“Rất nhiều lúc nhìn thấy vẻ lạnh nhạt vô tình thế này, tôi đã muốn bóp chết cô cho xong. Cô nói đúng, tôi thích cô đến mức này, có phải cô thấy quá buồn nôn? Trên đời không có yêu hận vô cớ, có lẽ cô nói đúng, huyết duyên đã trói chúng ta vào nhau, khiến tôi đau khổ không thể thoát ra, nhìn tôi thế này hẳn cô vui lắm?”.

Bàn tay chàng đan vào tay cô, xiết chặt, cô lại không vùng ra, bàn tay kia cũng se sẽ nâng lên, cuối cùng vẫn buông xuống. Có lẽ bản thân cô cũng không hiểu tay mình định nắm cái gì. Môi mấp máy, cũng không nói ra được.

Môi chàng ghé sát tai cô, như đã quen sự trầm lạnh của cô, nói khẽ:

“Cô muốn cho Công Nghi gia rối loạn, càng rối càng tốt, tôi không đến tang lễ của Hàm tiểu muội, tam thúc sẽ ghét tôi, chẳng phải quá tốt sao? Hàm muội chết thế nào, sau đây cô định làm gì nữa? Không sao, Tửu Tửu, cho dù cô làm tôi điên đầu thế nào, tôi cũng vẫn ở bên cô. Cô đến để báo thù, nếu lời cô nói là thật, tôi đã nợ cô nhiều như vậy…”. Giọng nói lại giống như thầm thì với tình nhân.

Cô chỉ hơi cúi xuống, mặc cho môi chàng in lên tai mình: “Đệ say rồi, A Phỉ”.

Chàng từ từ buông cô ra, trên trời đêm một vầng trăng cô lạnh bàng bạc, chàng nhìn cô, gật đầu cười:

“Cô nói đúng, tôi say”.

Ba ngày sau an táng Công Nghi Hàm. Cô gái mới mười bảy tuổi đã phải kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, là Công Nghi San đã giết cô ta. Quả thật muốn hỏi trời xanh, ái tình là thứ chi mà khiến người ta tuyệt tình tuyệt nghĩa, nhẫn tâm như vậy.

Nửa tháng sau Bối Trung bước vào tháng tám nắng gắt, Công Nghi Phỉ trước nay luôn có thú chơi phong nhã hơn hẳn các bậc đại quý tộc khác, phía sau hoa viên chàng cải tạo rất nhiều cảnh trí mô phỏng thiên nhiên, trong đó có Tự Vũ đình ở phía đông hoa viên, dùng guồng lấy nước từ trong hồ phun lên đình hóng mát. Nước từ trên mái theo bốn góc mái hiên cong tí tách nhỏ xuống như mưa, khiến không khí trong đình dịu mát như mùa thu.

Quân Vỹ với lập trường của một tiểu thuyết gia từng ân cần giáo huấn tôi rằng những nơi phong nhã sẽ chỉ diễn ra những chuyện phong nhã, nếu không sẽ có lỗi với kiến trúc sư. Đây đúng là một lời giáo huấn chân thành đối với trẻ nhỏ. Tôi không biết những chuyện đó có phong nhã không, chỉ thấy đó là hạnh phúc bình thường nhưng lại quý hiếm như mộng ảo.

Khanh Tửu Tửu hình như rất sợ nóng, có lẽ là ám ảnh tâm lý do từ nhỏ lớn lên trong kỹ viện, chưa bao giờ được mặc những bộ quần áo mát mẻ, những ngày oi bức thường cùng Họa Vị mang bàn cờ đến Tự Vũ đình tránh nắng, thỉnh thoảng bắt gặp Công Nghi Phỉ nằm trên giường mây đọc sách ở đó.

Nhưng thâm tâm tôi cảm thấy, lần đầu là gặp ngẫu nhiên, còn những lần liên tiếp sau đa phần là do Công Nghi Phỉ cố ý đợi cô ở đó.

Bởi vì ở đó hai người trông hơi giống phu thê, có thể bình tâm chuyện trò với nhau, thỉnh thoảng lại nói những chuyện thú vị hồi nhỏ, bàn vài câu về cách chơi cờ. Thái độ cô trước sau vẫn lạnh nhạt, chàng cũng không bận lòng, hình như những lời ác độc muốn bóp chết cô đã thốt ra chỉ là nói trong lúc say.

Nghe tiếng guồng nước chuyển động kẽo kẹt, nước tí tách nhỏ từ mái hiên, vẻ mặt an nhiên của chàng khi cúi đầu, ngôi đình hóng mát được ngăn cánh bởi hồ nước giống như một thế giới khác, quả thật có thể khiến người ta quên đi ít nhiều phiền muộn. Thỉnh thoảng Khanh Tửu Tửu cũng ngây người nhìn chàng, nhưng khi chàng ngẩng đầu khỏi trang sách, lại giả bộ chầm chậm nhìn ra bức tường rậm lá phía xa.

Nhưng Công Nghi Phỉ trước sau vẫn không lay chuyển được cô. Tôi từng cảm thấy Oanh Ca tim lạnh, chỉ là do tôi thiếu từng trải, so với Khanh Tửu Tửu, nói Oanh Ca có trái tim yêu thương e là có lỗi với cô ấy, mà phải nói là trái tim dào dạt yêu thương.

Đây là một cô gái cứng rắn, không ai có thể ngăn cản ý định của cô. Tôi từng nói, yêu và hận nếu trở thành tín ngưỡng sẽ mất đi ý nghĩa tự thân của nó. Tín ngưỡng khiến người ta như bị quỷ ám, khi bóng đen chiếm cứ trong lòng như một bông hoa màu đen xòe nở, cánh hoa đen thù hận sẽ che hết ánh sáng, khi không còn ánh sáng chính là lúc ngày tàn, người như thế sẽ hủy hoại bản thân, cuối cùng cô sẽ hủy hoại chính mình.

Khi thấy hầu nữ Họa Vị chuẩn bị thuốc mê theo lệnh Khanh Tửu Tửu, tôi không nén nổi hiếu kỳ, muốn xem tiếp, thầm nhủ mình phải kiên cường.

Một khắc trước Công Nghi Phỉ còn dịu dàng mỉm cười với cô, một khắc sau cô đã có thể thản nhiên đưa chén rượu bỏ thuốc mê cho chàng, dụ chàng uống hết cốc này đến cốc khác. Có lẽ nụ cười dịu dàng chân thật của chàng đối với cô hoàn toàn vô nghĩa, nó chỉ là công cụ để cô phục thù, nhưng tôi biết cô sẽ mất gì.

Hoàng hôn xuống dần, những tia nắng cuối ngày chiếu lên mái hiên cong lung linh ánh nước như sương khói. Trên chiếc giường mây, Công Nghi Phỉ đã ngủ say, cuốn “Vân Châu bát ký” chép tay che mặt. Bên ngoài, bánh xe của guồng nước vẫn quay đều, hầu nữ Họa Vị biến đâu nửa ngày đã trở về, vòng qua hòn giả sơn bước vội đến, đi thẳng vào trong đình hóng mát, liếc nhìn Công Nghi Phỉ đang ngủ, nói nhỏ vào tai Khanh Tửu Tửu: “Đã bắt chước nét chữ của Mộ Trung lưu bút ở phòng của San tiểu thư, có lẽ chỉ sau nửa tuần nhang cô ta sẽ đến”.

Cô gật đầu tiện tay cầm lên cuốn “Vân Châu bát ký”, ngón tay vô ý chạm vào đôi môi nhợt nhạt của chàng, cuốn sách rơi xuống đất.

Họa Vị khẽ kêu: “Tiểu thư?”.

Cô ngây người nhìn tay mình, lẳng lặng trở gót ra khỏi đình hóng mát, lát sau nói:

“Hai vị phu nhân của nhị lão gia và tam lão gia khi nào đến đây uống trà ngắm trăng?”.

Họa Vị mím môi khẽ nói:

“Tất cả đều theo ý tiểu thư. Hai vị phu nhân đã nhận được thiếp mời, đầu giờ Tuất tiểu thư đến Thùy Nguyệt môn đón họ”.

Nước từ mái hiên nhỏ xuống làm ướt nửa ống tay áo của cô, qua màn nước mỏng Khanh Tửu Tửu ngoái nhìn Công Nghi Phỉ áo trắng nằm trên giường mây, cuối cùng nhắm mắt, lát sau ném ra một câu

“Chuyện này nhất định phải làm thật tốt” rồi trở gót đi thẳng.

Hầu nữ Họa Vị không phụ kỳ vọng của cô, làm rất tốt, rất đẹp.

Khi Khanh Tửu Tửu lấy cớ uống trà thưởng nguyệt, đưa hai vị phu nhân đi đến Tự Vũ đình, từ xa, qua bức rèm mỏng thấp thoáng nhìn thấy bóng một đôi nam nữ đầu gục vào nhau trên giường.

Tài diễn xuất phi thường của Họa Vị giống hệt Mộ Ngôn, vừa nghi hoặc vén rèm, kêu ối một tiếng, vẻ kinh hoàng như thật. Khanh Tửu Tửu còn chưa cất bước, hai vị phu nhân đã nhanh chân chạy đến.

Sau khi vén rèm, cảnh tượng trên giường thảm khốc không thể tả, dưới tấm chăn mỏng Công Nghi San tóc xõa tung, nửa thân để trần gục trên ngực Công Nghi Phỉ xiêm áo xộc xệch, tư thế như vừa qua cuộc giao hoan, hai người đều nhắm mắt, trông như đang ngủ say.

Tôi cảm thấy đây có lẽ chỉ là dàn cảnh, xem ra lại giống như thật, có thể thấy Họa Vị đã bỏ không ít công sức, nếu không một cô gái còn trinh sao có thể biết hai người giao hoan xong là phải cởi xiêm áo chứ không phải mặc thêm xiêm áo? Trước khi chết tôi không biết những chuyện đó, thật vất vả cho cô gái này.

Bị kích động như vậy, hai vị phu nhân dường như không đứng vững, vị phu nhân trông như sắp ngất xỉu có lẽ là thân mẫu của Công Nghi San. Có thể là do không thấy có nha đầu nào ở bên dìu mình mới gắng gượng không ngất đi.

Công Nghi San mơ màng tỉnh dậy, kêu thét một tiếng, kéo vội tấm chăn che người lùi vào góc giường, mắt hoang mang kinh hãi.

Công Nghi Phỉ hơi nhíu mày, từ từ mở mắt trong tiếng thét phẫn nộ đó, chàng ôm trán ngồi dậy. Tia sáng cuối cùng từ chân trời rọi đến, chàng hơi ngẩng đầu, ánh mắt lướt qua Công Nghi San y phục xộc xệch ôm chăn run lập cập một góc giường, lướt qua hai người thím mặt xám ngoét đứng trước giường, lướt qua Khanh Tửu Tửu sắc mặt trầm ngâm đang đứng cúi đầu nhìn chàng, lát sau chàng đột nhiên khẽ cười: “Nhờ hai thím đưa San muội về trước, sự việc hôm nay A Phỉ sẽ thưa lại với hai thím”. Dứt lời nụ cười lại hiện trên môi, đôi mắt đen nhìn đăm đăm phu nhân của mình,

“Để A Phỉ nói chuyện riêng với Tửu Tửu”.

Họa Vị thắp một cây nến cao trên bàn đá, Công Nghi San chỉnh lại xiêm áo, nức nở khóc, được tam phu nhân dìu rời khỏi Tự Vũ đình. Thân mẫu cô nãy giờ sắc mặt vẫn khó coi, thực ra thâm tâm bà nằm mơ cũng mong con gái trèo được lên giường của Công Nghi Phỉ, thủ đoạn như vậy cũng từng nghĩ đến, hôm nay cuối cùng không ngờ lại thành hiện thực, vốn là chuyện vui nên nhảy múa mới phải, nhưng lại xảy ra trước mặt mấy người, cũng khiến bà có chút xấu hổ.

Ánh nến nhuộm một phía tiểu đình thành màu vàng nhạt như màu hoa phật tang, Công Nghi Phỉ vẫn trong tư thế co gối nhàn tản, chàng bảo mọi người đi hết, chỉ lưu lại một mình cô, nhưng lại ôm má nhìn ánh nến chập chờn có vẻ như không còn gì để nói.

Bên ngoài đình, bánh xe nước vẫn chầm chậm quay đều, nước vẫn tuôn xuống từ mái hiên, ánh mắt chàng thậm chí không nhìn cô:

“Tôi cho là sự đã đến nước này, cô sẽ không so đo với tôi nữa. Tôi đối tốt với cô, cô cũng đã nhìn thấy”.

Không đợi cô trả lời, ánh mắt chàng như cười, nhưng giọng lạnh như băng

“Có điều đối với những người mình không quan tâm, ai sẽ đi lo rốt cuộc họ sẽ thế nào. Trước giờ, cô chưa từng sợ làm tổn thương tôi, đúng không Tửu Tửu?”.

Có tiếng “khộc” phát ra từ guồng bánh xe nước bên ngoài, bàn tay cầm cốc của cô thoáng dừng, lát sau thong thả đi tới trước giường mây, cúi người nhìn chàng, giọng lạnh lùng:

“Đệ hận tôi đã làm tim đệ tổn thương?”.

Bàn tay như men sứ lộ ra khỏi ống tay áo, tách tà áo trên ngực chàng, áp vào bộ ngực trần của chàng

“Không ai nói với đệ, A Phỉ, mỗi người phải tự bảo vệ tim mình”.

Chàng ngạc nhiên, hơi nghiêng đầu, hai người lặng lẽ nhìn nhau, không ai nhượng bộ, cứ giữ khoảng cách gần trong hơi thở như vậy. Cuối cùng chàng mím môi tự trào

“Cô nói đúng, Tửu Tửu”.

Ánh mắt di chuyển đến mắt cô, đến bàn tay cô áp vào ngực chàng

“Vậy lần này, cô sắp đặt như vậy, là muốn tôi thế nào?”.

Cô buông tay cúi đầu:

“Chúng ta không thể có con cái, các bậc trưởng lão sớm muộn cũng ép đệ nạp thiếp, đệ cần một đứa con”.

Chàng gật đầu:

“Nếu ta chỉ có mình cô là vợ, một năm sau nếu cô không sinh con, chưa biết chừng các bậc trưởng bối sẽ ép ta bỏ cô, ai cũng biết Công Nghi gia coi trọng tử tôn thế nào. Còn Khanh gia, nếu cô vì lẽ đó bị ruồng bỏ phải quay về nhà, họ cũng không có gì để nói. Cô nghĩ vậy, đúng không?”.

Chàng buồn bã thở dài:

“Rốt cuộc là tôi cần đứa con hay cô cần tôi có đứa con?”.

Cô quay mặt, chăm chú nhìn ra ngoài đình, giống như bức tượng quay mặt ra hồ:

“Cái đó có gì khác, hoặc là ngay từ đầu phải ngăn cản tôi, hoặc là phải tránh xa tôi, sự đến hôm nay, tất cả đã muộn, hãy nhanh chóng cưới Công Nghi San, cho dù cái thai trong bụng cô ta không phải là cốt nhục của đệ, nếu đệ muốn, đệ sẽ có con của mình”.

Nụ cười bên miệng tự rút như thủy triều, thần sắc lạnh như băng, nhìn cô một lát:

“Trước giờ cô không hề biết, cô muốn gì tôi đều có thể đáp ứng, không phải cô thuyết phục tôi, chỉ là chính tôi muốn cô mãn nguyện”.

Chàng cúi đầu chỉnh sửa y phục, nhặt lên cuốn “Vân Châu bát ký” rơi dưới đất, “Cho dù tim cô làm bằng đá, bất luận tôi làm gì cũng không lay chuyển được quyết tâm của cô, nhưng tình yêu là thứ không phải nói cho là cho, nói lấy lại là lấy lại được, cô muốn gì tôi vẫn có thể đáp ứng, nhưng từ nay về sau, Tửu Tửu, từ nay về sau cô đừng bao giờ xuất hiện trước mắt tôi nữa”.

Khanh Tửu Tửu trang nghiêm ngồi một bên cúi đầu, cầm cái cốc, trông có vẻ bình thường, khi đưa cốc trà lên miệng nhấp, lại để nước trà sánh ra ngoài, nước trà ngấm vào vạt áo, loang lổ như nước mắt, nhưng cuối cùng cô vẫn uống cạn cốc trà. Đến nước này, hai người có lẽ đã kết thúc.

Nạp thiếp là chủ đề vĩnh hằng của đàn ông, Quân Vỹ từng đặt một giả thiết, nếu có một thời đại nào đó pháp luật đưa ra quy định cấm nạp thiếp, không biết sẽ xảy ra hậu quả thế nào. Tôi cảm thấy điều này đâu có gì đáng nói, hậu quả tất là đàn ông rỗi việc sẽ đến lầu xanh. Đây thật ra là chuyện tốt, có khi xã hội lại càng tốt đẹp hài hòa. Nhưng Công Nghi Phỉ nạp thiếp quả thật hơi oan, có lẽ chàng ta là người duy nhất ở Triều Châu bị chính thê ép nạp thiếp, vừa thấy thương cảm cho chàng lại có chút ngưỡng mộ chàng.

Công Nghi San suy cho cùng là tiểu thư của một chi trong đại gia tộc Công Nghi, cho dù làm thiếp hôn lễ cũng rất linh đình. Tân thiếp về phủ theo lệ phải dâng trà mời bố mẹ chồng, Công Nghi San áo gấm tân nương đỏ thẫm ngẩng khuôn mặt đẹp như hoa tường vi, nhìn Khanh Tửu Tửu ngồi trên ghế hoa lê, môi khẽ nhếch:

“Mời tỷ tỷ dùng trà”.

Cốc trà đưa lên không hiểu sao đột nhiên tuột tay rơi xuống nền choang một tiếng vỡ tan, cánh tay Khanh Tửu Tửu giơ ra đón cốc trà dừng lại trên không, cô vốn chưa bao giờ tỏ ra mất tư thế, lúc này cũng ngây người nhìn tay mình, phong thái ung dung thường nhật bỗng chốc biến đâu mất, Công Nghi Phỉ bên cạnh lạnh lùng liếc nhìn mấy mảnh sứ vỡ trên nền, giơ tay đỡ Công Nghi San đứng dậy.

Tôi nghĩ có phải Khanh Tửu Tửu đã hối hận, nhưng lại không thể kiểm nghiệm, khi tôi đang hiếu kỳ theo dõi ký ức bị phong ấn của cô, càng xem càng cuốn hút, sắp đến lần động phòng thứ hai trong đời Công Nghi Phỉ, trong sân bất chợt vang lên tiếng cười giòn giã.

Xem ký ức của người khác nhất thiết xung quanh phải trong trạng trái yên tĩnh hoàn toàn, không bị quấy rầy, tiếng cười giòn giã khiến cả hai chúng tôi giật mình, giá nến long phượng màu hồng cao vút trong tân phòng chớp mắt vỡ vụn, giống như hòn đá ném xuống mặt hồ phẳng lặng, để lại những sóng nước lan tỏa, cảnh sắc trước mặt tan thành vô vàn điểm sáng, xem ra Công Nghi Huân sắp tỉnh, không thể xem tiếp ký ức được nữa.

Tôi mở mắt nhìn thấy cô nằm trên giường, vẫn chưa tỉnh, tức phát điên, tôi lao ra khỏi bức bình phong.

Chàng trai tươi cười từ phía xa chạy đến, dừng lại dưới bóng cây tử vi ở lối vào, trong ánh sáng lờ mờ, có thể nhìn thấy vẻ ngây ngô trên mặt anh ta. Những bông tử vi tươi thắm đung đưa trong tán lá trên đầu anh ta, môi dần nở nụ cười, anh ta giang hai tay đi về phía tôi: “A Phất”.

Đã lâu không gặp, tôi giang hai tay chạy như bay đến, băng trên lối đi hẹp lát đá xanh, giống như băng qua khoảng thời gian xa cách dài lâu, mãi mới đến đích, trào nước mắt ôm chặt con hổ dưới chân anh ta. Tiểu Hoàng thân thiết dụi mãi đầu vào vai tôi, khiến tôi phải ngửa cổ lên, nhìn thấy nét mặt khó hiểu của Quân Vỹ, tôi lạ lùng hỏi anh ta:

“Huynh chìa tay ra làm gì?”.

Quân Vỹ ngập ngừng, môi hơi run run:

“Không có gì, trên bàn tiệc nóng qua, huynh chạy ra ngoài định ôm thiên nhiên một chút”.

Tôi nghĩ một lát, chỉ cho anh ta khoảng cây xanh phía trước:

“Vậy huynh ra kia mà ôm, ở đó không khí rất trong lành”.

Quân Vỹ lặng thinh liếc tôi một cái, ôm ngực, từ từ quay người bước ra khỏi cổng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 4(Phần 1)

Trước đây chưa bao giờ Quân Vỹ dằn dỗi như thế, nhìn chung anh ta đều nghe lời tôi, lần này vừa gặp lại sau hai tháng chia tay đã giận dỗi bỏ đi, không biết cả chặng đường vừa rồi đã phải chịu đựng những gì.

Đúng là anh chàng yếu đuối. Anh ta còn chưa đi khỏi cổng, mới được vài bước đã bị chàng trai áo trắng cười ha hả lúc trước hớn hở chạy ra kéo lại, lúc này mới nhìn rõ chàng trai đó thì ra là Bách Lý Tấn.

Có một việc khác đáng chú ý hơn so với việc tại sao hai người cùng xuất hiện ở đây, tôi hít một hơi dài, giơ tay xoa mũi, ngại ngùng hỏi:

“Hai người vừa rồi sao lại đuổi nhau?”.

Quân Vỹ đứng nhìn tôi, ngoẹo đầu sang một bên, vẻ bất chấp. Cuối cùng Bách Lý Tấn thật thà rút ra một chiếc trâm bằng gỗ, bối rối nói:

“Tôi đưa chiếc trâm Vỹ Vỹ tặng tôi đem tặng lại một cô ca kỹ trên bàn tiệc, khiến huynh ấy không vui, đuổi tôi đòi lại chiếc trâm”.

Nói xong rụt rè lùi về sau một bước, liếc nhanh Quân Vỹ một cái.

Đầu tiên tôi bị chấn động bởi cách xưng hô của anh ta, vừa rồi anh ta gọi Quân Vỹ là Vỹ Vỹ, khi tôi trấn tĩnh trở lại thấy Quân Vỹ xám mặt đang chồm đến túm lấy Bách Lý Tấn:

“Không phải cậu định tặng người ta chiếc trâm tôi cho cậu! Cậu định tặng chiếc trâm ngọc bích của tôi! Giấu đâu rồi? Mau trả đây!”.

Nước trà như đặc quánh trong cổ, tôi ho sặc sụa túm cánh tay Quân Vỹ:

“Huynh, huynh, huynh tặng trâm cho Bách Lý tiểu đệ sao?”.

Bách Lý Tấn đứng bên ngượng nghịu gật đầu, Quân Vỹ không nhìn thấy, khẽ nói:

“Tặng một chiếc, nhưng…”.

Hai tay ôm trán, tôi hỏi:

“Bởi vì anh ta đem tặng lại người khác nên huynh giận?”.

Bách Lý Tấn lại ngượng nghịu gật đầu, Quân Vỹ vẫn không nhìn thấy, khẽ nói:

“Tôi rất giận, nhưng…”.

Tôi run người kéo ống tay áo anh ta, choáng váng như bị búa giáng vào đầu:

“Đoạn thật rồi à?”.

Quân Vỹ không nói gì nữa, ngẩng đầu vẻ mặt như muốn hỏi gì, Bách Lý Tấn ngây người, bối rối cúi đầu vò vạt áo, mặt hơi đỏ:

“Phải, đoạn rồi”.

Trước mặt dường như đã hiện lên cảnh Quân Vỹ bị Quân sư phụ dùng gậy đánh chết, tôi lảo đảo lùi về sau, một tay bám vào thân cây để khỏi ngã, gắng gượng trấn tĩnh, lát sau bình tĩnh vỗ vai Quân Vỹ:

“Thôi, đã sớm biết đàn ông viết tiểu thuyết, mười người thì chín người mắc chứng đó, không trách huynh, đây là bệnh nghề nghiệp, phong lưu một trận, lúc nào huynh bị Quân sư phụ đánh chết, cùng lắm muội chia cho nửa viên giao châu”.

Quân Vỹ nghiến răng ngắt lời tôi:

“Muội nghĩ đi đâu vậy?”.

Tôi à một tiếng: “Nhưng chẳng phải đã đoạn tụ rồi sao (Đoạn tụ: Đồng tính nam,)?”.

Bách Lý Tấn xen vào:

“Đoạn tụ ư..?”.

Tay giơ chiếc trâm ngọc bích bị gẫy về phía Quân Vỹ

“Chiếc trâm này bị gẫy, tay áo của của huynh cũng đứt à? Thật là đại cát đại lợi, đại cát đại lợi, không bất hủ không thành văn, không gẫy không thành đôi, ha ha ha”.

Tôi thấy chiếc trâm rất quen, nhìn kỹ nhận ra chính là chiếc trâm hồi nhỏ tôi tặng Quân Vỹ. Bách Lý Tấn vẫn đứng một bên ha ha cười nhạt thếch:

“Tôi không tặng cô ca kỹ chiếc trâm này thật mà, nhưng tôi đã hứa gắn lại giúp huynh, nhất định tôi sẽ làm, huynh đừng thiếu tin tưởng người ta như vậy, chiếc trâm tôi vừa tặng cô gái đó chỉ là loại trâm rẻ tiền huynh mua đại bên đường, định tặng người nhà, nhân thể cũng cho tôi một chiếc”.

Tôi mới hiểu ra, thì ra họ hiểu lầm nhau. Mặt Quân Vỹ càng xám ngắt, ánh mắt liếc trộm về phía tôi, lại vội quay đi. Tôi ghé lại nhìn kỹ chiếc trâm ngọc bích trong tay Bách Lý Tấn, nhìn một lúc cười khinh khích nói với anh ta: “Không cần gắn, cái này thực ra là đá giả ngọc, hồi nhỏ tôi mua rất nhiều tặng mọi người, tất cả mọi người trong tông phái trên dưới đều được tặng, ngay người quét dọn và người gác cổng cũng được tặng, một đồng tiền đồng có thể mua năm chiếc”. Quay lại nói với Quân Vỹ

“Nếu huynh thích sau này muội sẽ tặng huynh cái khác”.

Nói xong lại đắn đo: “Nhưng không biết bây giờ có lên giá không?”.

Bóng lưng Quân Vỹ cứng đờ, hai tay bám vai Bách Lý Tấn, khẽ nói:

“Cậu dìu tôi”.

Tôi vội ghé lại đỡ một tay, không biết anh ta trở nên yếu đuối như vậy từ bao giờ, lo lắng hỏi:

“Đây có phải là chứng thận hư như người ta nói?”.

Bách Lý Tấn gãi đầu, nhăn nhó:

“Không biết, thận tôi chưa bị hư, không nghiên cứu về khoản đó”.

Quân Vỹ gắng bám thân cây, môi run run khó nhọc quay người, một tay ôm ngực:

“Tôi đi trước, hai người cứ nói chuyện tự nhiên”.

Thư lần trước của Quân Vỹ chỉ nói hai người đang ở Bối Trung, bảo tôi đến ở cùng nhưng lại quên ghi địa chỉ, lại mãi không phát hiện ra, vẫn chờ tôi đến, Bối Trung rộng như vậy, cuối cùng lại gặp nhau, không biết cơ duyên thế nào.

Qua một hồi chuyện trò với Bach Lý Tấn mới biết hai người gặp nhau ở biên giới Khương – Trần, anh ta được Công Nghi Phỉ mời đến Bối Trung luyện thuốc, Quân Vỹ vừa hay đang định trở về nước Trần, vậy là thành bạn đồng hành. Mãi đến tối vừa rồi, hai người còn đang ở biệt phủ của Công Nghi gia dưới chân núi, sốt ruột chờ tôi đến, không ngờ gặp tiết hoài nguyệt được mời lên núi dự tiệc, không hẹn mà gặp ở đây.

Trong lúc tôi nói chuyện, Tiểu Hoàng cắn tay áo tôi giật giật, buộc tôi phải chú ý, tôi vừa liếc nhìn nó, nó lập tức choãi chân nằm nghiêng trên đất, lộ ra cái bụng vằn vện, còn khó nhọc nâng đùi muốn chìa cái bụng ra hơn nữa.

Bách Lý Tấn hiếu kỳ giơ tay vuốt bụng nó nhưng bị gạt ra, tôi đưa tay xoa bụng nó, bảo:

“Béo ra rồi phải không, xem ra cha con chăm con rất tốt”.

Tiểu Hoàng tiu nghỉu cố cúi đầu nhìn bụng mình, lát sau dứt khoát xoay người nằm ngửa chổng bốn chi lên trời, ý bảo tôi sờ thử, Bách Lý Tấn bĩu môi:

“Nằm như thế này cho dù béo núc sờ bụng cũng lép”.

Tiểu Hoàng mặc kệ anh ta, tứ chi chới với mặt buồn thiu, ra ý mình rất khổ sở, rất khổ sở, tôi lại xoa tay lên bụng nó, giả bộ ngạc nhiên:

“Ôi chao, gầy thật, ngày mai bảo nhà bếp cho con ăn gà rán, cha con chăm con thế nào vậy, đúng là người cha tồi, ngày mai chúng ta đánh cho huynh ấy một trận”.

Tiểu Hoàng mãn nguyện lăn hai vòng đứng đậy, dụi đầu vào chân tôi, nhưng hình như cảm thấy làm vậy có vẻ nhanh nhẹn hoạt bát quá, không giống bị đói lâu ngày, lập tức gục xuống chân tôi, yếu ớt nhắm mắt giả bộ ngủ.

Tôi đang lo Tiểu Hoàng thế này làm sao đưa về được, ngẩng đầu nhìn thấy Bách Lý Tấn miệng há hốc đến nỗi có thể nhét vừa một con gà, theo ánh mắt anh ta tôi ngoái đầu, nhìn thấy Công Nghi Huân áo trắng phấp phới đứng sau tôi, thì ra cô đã tỉnh.

Bách Lý Tấn ngẩn ngơ hồi lâu, tôi giật mình, cảm thấy với danh tiếng thần y sau thánh dược, nhất định anh ta sẽ phát hiện đây là ma, còn chưa kịp lên tiếng giải thích, Bách Lý Tấn đã đỏ mặt, ngượng ngùng tay vò gấu áo, bẽn lẽn mở miệng:

“Ôi, tỷ tỷ xinh đẹp, tỷ tên gì vậy?”.

Cuối cùng cũng tống khứ được Bách Lý Tấn đưa Tiểu Hoàng đi ngủ, dưới trời đêm mùa hạ, hoa tử vi dập dờn xung quanh, chỉ còn hai chúng tôi. Công Nghi Huân khép tà váy, lặng lẽ ngồi xuống ghế đá, đôi mắt trống rỗng hơi ngước lên:

“Quân cô nương nhìn thấy gì trong ký ức?”.

Xem xong ký ức của tôi, hãy kể cho tôi nghe những phần tốt đẹp nhất. Cô đã nói như vậy. Tôi nghĩ một hồi, không biết bắt đầu từ đâu, hình như tất cả đều tốt, hình như tất cả đều không tốt, con người ta tại sao cứ cố bám lấy quá khứ đã qua, quá khứ không phải là mình, tương lai không phải là mình, chỉ lúc này mới là mình, người ta chỉ nên sống với hiện tại, nếu bị trói buộc bởi quá khứ và tương lai chỉ tự chuốc phiền não đau khổ không cần thiết mà thôi.

Tôi cúi đầu ngồi đối diện Công Nghi Huân, lát sau chậm rãi nói:

“Chàng rất thích cô, tìm mọi cách làm cho cô vui, lại còn soạn riêng cho cô một ca khúc gọi là ‘Thanh hoa huyền tưởng’, cô đã sáng tác điệu múa phối với ca khúc đó, chỉ múa cho mình chàng xem, lúc đó tình cảm hai người rất tốt”.

Đêm đó cô đứng trước mặt chàng ngước nhìn chàng, nói đây là đêm vui nhất của cô, sau này nhớ lại cũng sẽ vui, nhưng cuối cùng cô vẫn quên tất cả, giống như cây cỏ đầy vườn sau khi bị thiêu cháy, tuy rễ vẫn cắm sâu trong đất, nhưng mùa xuân đến lại không thể nào ra hoa đẹp như trước. Tôi nói với cô chuyện đó, thầm nghĩ có lẽ đó chính là những ký ức tốt đẹp mà cô nói.

Nét mặt Công Nghi Huân chăm chú như đang lần theo ký ức, lát sau cau mày:

“Thanh hoa huyền tưởng? Tôi quên rồi, thì ra tôi từng biết múa?”.

Đôi đồng tử hơi xanh của cô lặng như mặt hồ ngước nhìn tôi, tôi gật đầu:

“Cô múa rất đẹp, đó là điệu múa cô tự sáng tác, cô đã quên rồi, bây giờ có muốn học lại không?”.

Tôi nắm tay cô, “Nếu muốn học lại, tôi sẽ dạy cô”.

Điệu múa đêm đó tôi vẫn nhớ, đó là điệu múa có thể xứng bốn chữ “danh chấn thiên hạ”.

Không biết sau đó đã xảy ra chuyện gì dẫn tới kết cục như hôm nay, nhưng nếu điệu múa ‘Thanh hoa huyền tưởng’ xuất hiện trở lại, xuất hiện trước mặt Công Nghi Phỉ, chàng ta sẽ thế nào? Tôi hình dung sẽ có hai khả năng, một là Công Nghi Phỉ lương tâm thức tỉnh, sẽ sửa đổi, đối tốt với Công Nghi Huân, hai là Công Nghi Phỉ lương tâm vẫn không thức tỉnh… vậy là đành phải múa thêm mấy lần.

Ngày hôm sau, trời quang đãng, mới sáng sớm tôi đã đi đến tiểu viện của Công Nghi Huân dạy cô học múa, thực ra tôi không hề biết múa, sư phụ không dạy tôi. Lúc nhận nuôi tôi, ông đã ngoại lục tuần, một ông lão sao có thể dạy lễ nhạc múa hát uốn éo, đó là nguyên do tại sao cầm kỳ thi họa tôi đều biết ít nhiều, nhưng múa hát tuyệt nhiên không biết.

Trời vẫn còn rất sớm, trên núi không khí mát mẻ trong lành, đi qua một đình hoa nhỏ gió lùa mát rượi, nhìn thấy Quân Vỹ ngồi bên trong, vẫy tay với tôi như hôm qua không có chuyện gì xảy ra, Tiểu Hoàng ngủ gật dưới chân. Tôi nhìn quanh, không thấy Bách Lý Tấn, trời lại còn sớm nên thong thả rẽ vào.

Trên bàn để một bó hoa phật tang được buộc bằng sợi gai màu xanh. Quân Vỹ che miệng đằng hắng một tiếng:

“Vừa hái lúc sáng sớm, nếu muội thích, tặng muội”.

Tôi dè dặt đón bó hoa, cảm thấy đột nhiên anh ta tốt với tôi như vậy, nếu trên đường không làm việc gì có lỗi với tôi thì cũng sắp làm.

Cả hai yên lặng một lát, sau đó anh ta lại rút ra một quả táo đỏ nhẵn bóng đưa cho tôi, tôi kinh ngạc há miệng, vừa thấp thỏm nghĩ sắp được nghe anh ta trình bày việc làm có lỗi với tôi, vừa đón quả táo bất giác đưa lên miệng cắn một miếng, dỏng tai nghe.

Trông thần sắc Quân Vỹ có vẻ còn kinh ngạc hơn tôi, ngây người một lát, lên tiếng:

“Thôi, nói chuyện chính trước. Gần đây hai nước Trần, Triệu xảy ra chuyện lớn, muội có biết không?”.

Tôi cắn miếng nữa, lắc đầu. Tay Quân Vỹ bám vào mép ghế, hạ giọng:

“Chuyện ba tháng trước Trần thế tử Tô Dự bị một nữ nhạc sư sủng ái hành thích, có lẽ cô cũng nghe nói, nữ nhạc sư đó cũng có lai lịch nhất định, Triệu thái hậu và thân mẫu Tô Dự lại là chị em ruột, coi như là dì của Tô Dự.

Tháng hai năm nay, trong sinh nhật lần thứ bốn mươi của Triệu thái hậu, Tô Dự đến chúc mừng, gặp nhạc sư trong Triệu cung, vừa gặp đã mê, liền đưa về nước Trần, càng thêm sủng ái, nhưng không ngờ hai tháng sau bị nhạc sư đâm suýt chết. Sau đó Tô Dự buồn rầu vì tình duyên đi lang thang khắp thiên hạ, còn ở nước Trần và các nước chư hầu lại dấy lên tin đồn, nói là nhạc sư kia là do nước Triệu phái đến, trước khi vào cung được Triệu vương đặc biệt huấn luyện…”.

Tôi xua tay xen lời:

“Cái gọi là huấn luyện đặc biệt có lẽ chỉ là chỉ dạy cô ta lễ nhạc, sắp xếp cho cô ta chân nhạc sư trong cung, chờ thời cơ mê hoặc Tô Dự”.

Tô Dự thích nhạc, rất am hiểu nhạc lý, thiên hạ đều biết, nghe đồn cuốn cầm phổ do anh ta soạn lưu lạc trong dân gian không biết thế nào bị xé thành hai nửa, do hai vị công chúa hai nước Đường – Lầu mỗi người giữ một nửa. Hai vị công chúa đều muốn có cả cuốn, cả hai đều sẵn sàng bỏ giá cao muốn mua nửa còn lại. Khi tôi còn là công chúa nước Vệ, nghe nói giá của nó là một tòa thành.

Nhưng tôi không hiểu hai vị công chúa kia sao lại phải làm vậy, đã có thể trả giá cao bằng một tòa thành, thà bí mật đi tìm Tô Dự xin một cuốn, tôi dám cược Tô Dự muốn duy trì hình ảnh hiền đức của mình, đừng nói một tòa thành, dù chỉ một viên gạch xây thành cũng không lấy, chung quy là tại hai vị công chúa kia nhát gan.

Quân Vỹ gật đầu tán thành ý kiến của tôi, nghĩ một lát, bổ sung:

“Tất cả là lời đồn, Tô Dự thích một người như thế nào, Triệu vương vốn là biểu huynh của anh ta biết rõ nhất, cho nên thiên hạ cho rằng, tin đồn này cũng có vài phần căn cứ.

Sau khi chuyện xảy ra, ở các nước chư hầu lại lan truyền một tin đồn khác, nói là nước Trần biết nước Triệu phái thích khách hành thích thế tử của họ, vô cùng căm phẫn, đang ráo riết chuẩn bị lương thảo định khai chiến với Triệu. Triệu vương tuổi trẻ, thần tử triều đình cũng khí huyết sục sôi, coi chiến tranh lãng mạn như sử thi, định nhân cơ hội làm nên nghiệp lớn, trong buổi hội đàm trên triều đa phần chủ chiến, từ bốn tháng nay, quan hệ Trần – Triệu vẫn vô cùng căng thẳng, nhất là sau khi Trần quốc nhị công tử Tô Tạ do gây ra cung biến bị xử trảm tháng sáu vừa rồi, Tô Dự nắm đại quyền, các nước chư hầu càng dấy lên dư luận, cho rằng sách lược của Tô Dự nhất định là muốn thắng ngoại địch trước hết nội tình phải yên, sau này nhất định sẽ lấy cớ bị Triệu hành thích, xuất chinh thôn tính nước Triệu, Trần quốc đã có dấu hiệu xưng bá một phương, không ít chư hầu bí mật hành động, xem ra định kết đồng minh, nếu Trần có động tĩnh, rất có thể sẽ liên minh với nhau chống lại Trần”.

Quả táo trong tay chỉ còn hạt, Tiểu Hoàng thức dậy chớp mắt ngây ra nhìn hạt táo trong tay tôi, tôi vỗ vai Quân Vỹ:

“Còn táo nữa không? Cho Tiểu Hoàng một quả”.

Quân Vỹ cau mày:

“Còn đâu, quả vừa rồi vốn định cho Tiểu Hoàng, cuối cùng muội lại ăn hết”.

Nói xong ngẩng đầu: “Muội thấy thế nào?”.

Tôi nhìn hạt táo, lại nhìn Tiểu Hoàng tiu nghỉu gục đầu dưới chân tôi, làm bộ mếu máo:

“Thấy thế nào, mua cho nó quả khác chứ sao”.

Khóe miệng Quân Vỹ giật giật:

“Huynh hỏi chuyện hai nước Trần, Triệu cơ, muội thấy thế nào?”.

Quốc sự đối với tôi bây giờ đã là chuyện của đời trước, Diệp Trăn đã chết, ở ngôi vị nào gánh vác trách nhiệm của ngôi vị đó, bây giờ tôi đã không còn là công chúa nước Vệ, cũng ít quan tâm chính trị, may mà thời còn là công chúa từng quan tâm, tư duy vẫn tốt, nghe Quân Vỹ kể cảm thấy tình hình trước mắt rối ren như mê cung.

Chuyên tâm suy nghĩ một hồi, rút ra một cành phật tang từ bó hoa Quân Vỹ tặng, bứt cánh hoa, nhụy, cành, lá rải trên mặt đất dựng lên bản đồ cục diện Trần, Triệu và các vấn đề liên quan.

Khi Quân Vỹ thấy tôi bứt cánh hoa định nói gì lại thôi, cân nhắc một hồi tôi phân tích tình hình cho Quân Vỹ nghe:

“Nước Triệu có vẻ như đang bị kẻ khác hãm hại, với quốc lực của họ, không có lý do chủ động khiêu chiến với Trần, huống hồ giữa hai nước lại có quan hệ liên hôn. Giống như Tiểu Hoàng dù đói đến đâu cũng không ăn thịt muội và huynh. No bụng một bữa, bữa sau ai kiếm tiền mua gà rán cho mà ăn?”.

Nhưng lại nghĩ hình như Quân Vỹ trước nay cũng chưa kiếm tiền mua gà rán cho Tiểu Hoàng ăn, lại nói chữa,

“À không, có thể cho nó ăn thịt huynh”, bị Quân Vỹ lườm một cái.

Tôi ngồi xuống nhìn bản đồ trên đất tiếp tục suy nghĩ, Quân Vỹ cũng ghé lại gần, tôi dùng cành hoa phật tang chỉ cho anh ta:

“Đây nhất định là mưu kế của một nước khác ngoài hai nước Trần, Triệu, đưa thích khách vào Triệu cung mượn dao giết người, nếu giết được Tô Dự là đại hoan đại hỉ, nước Trần mấy chục năm tới sẽ không xuất hiện một người kế vị tuổi trẻ tài cao như vậy, không có gì đáng sợ. Nếu Tô Dự may mắn không chết, với tính cách anh ta, cho dù biết đó không phải do Triệu gây ra, cũng có thể giả bộ không biết, nhân cơ hội này thôn tính Triệu.

Người chủ mưu gây ra tình hình này đã suy xét kỹ hai điểm đó. Tin đồn của các nước về hai nước Trần, Triệu từ tháng tư đến nay mà huynh nói, theo muội do chính kẻ chủ mưu cố tình tung tin, tất cả đều phát triển theo suy tính của kẻ đó, kẻ này chờ hai nước Trần, Triệu xảy ra chiến tranh, chư hầu liên minh kháng Trần, sẽ lợi dụng ở hội kiếm lời.

Cho dù Tô Dự nhìn thấu âm mưu đó, không xuất binh phạt Triệu, nhưng hiện tại không phải là vấn đề Trần có xuất binh hay không, huynh thử hình dung, một lũ mãng phu nước Triệu có khi lại tin vào lời đồn, bị kích động một chút, rất có thể lại chủ động xuất binh. Chuyện này thật vô cùng nguy hiểm, bất luận ai xuất binh trước, chỉ cần cuộc chiến Trần, Triệu bùng nổ, Tô Dự đã thua một nửa, đúng là ngậm bồ hòn làm ngọt”.

Ngón tay Quân Vỹ chỉ vào vị trí của Hạo thành kinh đô nước Trần ở bản đồ trên mặt đất, trầm ngâm:

“Theo muội, chủ mưu nước cờ này là ai?”.

Tôi tiếp tục:

“Lân bang của Trần chỉ có bốn nước Vệ, Khương, Trịnh, Triệu, đạo trị quốc rất coi trong viễn giao cận công, giao hảo với các nước ở xa, tấn công các nước gần. Kẻ e ngại Trần hùng mạnh nhất ắt là bốn nước lân bang kia, trong đó Vệ đã mất, Triệu là thân hôn của Trần, trước nay luôn cúi đầu tuân phục Trần, quốc lực cũng yếu, cho nên ai bố trí cục diện này nhắm mắt cũng đoán ra, không Trịnh thì Khương”.

Nghĩ một lát, cắm cành hoa trong tay lên vị trí của Hạo thành

“Nhưng nếu ngay từ đầu Tô Dự đã nhìn thấu âm mưu này, tương kế tựu kế đưa nhạc sư kia về nước, bất luận là Trịnh hay Khương, cái gọi là mưu kế tinh vi của họ thực ra lại nằm trong mưu kế lớn của Tô Dự mà thôi. Tô Dự mượn mưu của họ làm động thái giả nào đó liền loại bỏ được tiểu đệ dã tâm của mình, nếu huynh là Tô Dự, lâm vào cục diện tiến thoái lưỡng nan này, huynh sẽ làm thế nào?”.

Hồi lâu không thấy trả lời, tôi mới nghĩ ra người trước mặt mình là một tiểu thuyết gia chuyên viết truyện tình cảm chứ không phải là tiểu thuyết gia viết truyện quân sự. Mặc dù hỏi Quân Vỹ nhưng tôi cũng âm thầm muốn đoán xem sao, nếu tôi là Tô Dự, trước cục diện trước mặt có báo sau lưng có hổ, Trần quốc bị chư hầu bao vây tứ phía, nhất định toàn quốc trên dưới đồng lòng chưa từng có, còn nước Triệu một bang lỗ mãng tiểu nhân tôi nên làm thế nào đây?

Ngoài tiểu đình, hoa phật tang rung rinh trong gió, sóng vàng nhấp nhô, Quân Vỹ đứng lên ngồi trở lại ghế đá:

“Tất cả những điều muội dự đoán đều đúng. Sau khi chia tay dạo trước, huynh và cha luôn thăm dò theo sát tình hình, chủ sự là nước Khương, chủ mưu là thừa tướng Bùi Ý, một trọng thần có tài, nước cờ như thế vừa tinh vi vừa hiểm ác, huynh đoán chắc chắn Tô Dự cũng biết nhưng không lộ ra, thiên hạ đều cho lần này Trần thế tử bị dồn vào đường cùng, không ngờ…”.

Anh ta ngoái đầu nhìn tôi

“Trong khi tiếng hô về cuộc chiến Trần, Triệu dâng cao chưa từng có ở cả trong và ngoài hai nước, Tô Dự lại ung dung lựa chọn lễ vật đường hoàng đến Tiều đô, dâng thư lên thiên tử vốn từ lâu đã xa rời chính sự. Biểu thư đó niêm phong trong chiếc hộp gỗ hồng mộc, tôi đã lén xem, nói là anh ta từng thân thiết như huynh đệ thế nào với Triệu vương, Triệu vương lại coi anh ta như cái đinh trong mắt, mấy lần hãm hại, tháng trước anh ta bị hành thích không thể xác định là Triệu vương sai khiến, nhưng tuyệt đối chưa hẳn không phải.

Có điều anh ta thấy Triệu thái hậu tuổi đã cao, Triệu, Trần tiền triều bang giao hữu hảo, lại thêm tất cả đều là chư hầu của thiên tử, trừ phi thất đạo, nếu không không thể công phạt lẫn nhau, chuyện lần này coi như cho qua, nên coi nữ thích khách là tội thần muốn báo tư thù, mong thiên tử có thể chuyện lớn hóa nhỏ”.

Tôi trầm trồ:

“Nước cờ này đi rất tuyệt, hòa giải theo kiểu trong nhà, thiên tử đã lâu không được coi trọng, lần này Tô Dự đem chuyện lớn như vậy trưng cầu ý kiến, thiên tử nhất định rất cảm động, chắc sẽ làm theo ý Tô Dự, các chư hầu đang chờ kiếm lời chắc chắn há mồm kinh ngạc. Triệu vương nếu còn tỉnh táo, đương nhiên nên thuận đà xuống thang, lúc này không phải khai chiến trước, cũng khỏi nơm nớp lo bị Trần tấn công”.

Quân Vỹ gật đầu:

“Không chỉ có thế, thiên tử cảm phục đức hạnh cao thượng của Tô Dự, mặc dù bị hành thích suýt chết cũng lấy đức báo oán, lại tôn vương sùng lễ như vậy, đặc biệt ban tước cho Tô Dự là Hiển Khanh, là tước vị cao hơn tước công, khi nào kế vị Trần hầu vương, địa vị sẽ cao hơn các chư hầu khác trong thiên hạ. Thừa tướng Bùi Ý cơ mưu của nước Khương dù tức muốn chết cũng đành bó tay, thực ra ông ta cũng chẳng tổn thất gì”.

Tôi đứng dậy, quẳng cành hoa phật tang đã bị vặt trụi trong tay, nghĩ một lát nói:

“Cho dù năm xưa Vệ không bị thôn tính, có thể cầm cự thêm vài năm, nếu có ngày bị Trần để mắt đến cũng khó tránh khỏi số phận diệt vong”.

Quân Vỹ khẽ nói:

“Trần có Tô Dự, Vệ có Diệp Trăn”.

Lần đầu tiên anh ta gọi tôi như vậy khiến tôi giật mình, bối rối nói:

“Không dám, muội không phải là đối thủ của anh ta, phụ vương không cho muội can dự triều chính, muội chỉ đánh trận trên giấy vậy thôi”.

Quân Vỹ ngắm nghía tôi một lát, nghiêng đầu

“Nếu anh ta nhìn thấy muội, nhất định sẽ thích muội”.

Tôi há miệng: “Sao..?”.

Quân Vỹ lại tiếp:

“Anh ta nhất định sẽ nhốt muội trong Trần cung, hoa nở hoa tàn, ngày tháng trôi nhanh, hai bên yêu yêu hận hận, âu yếm, giày vò, muội nhất định sống rất thê thảm”.

Tôi há miệng:

“Hả?”.

Anh ta liếc tôi một cái

“Có gì lạ đâu, từ cổ những chuyện thế này đa phần là thế, cuối cùng không phải muội giày vò anh ta đến chết thì là anh ta giày vò muội đến chết, sau khi chết mới thấy giá trị của nhau, tóm lại không có kết cục tốt đẹp gì”.

Anh ta thở dài, quay đầu chăm chú nhìn tôi

“Trước đây huynh luôn sợ muội đi tìm Tô Dự báo thù, cảm thấy anh ta tiêu diệt nước Vệ, muội sẽ hận anh ta, nhưng thực ra, A Trăn, muội đánh giá rất cao Tô Dự phải không?”.

Tôi hoàn toàn không hiểu tâm tư hôm nay của Quân Vỹ, lùi một bước, nói vẻ nghiêm túc:

“Huynh đừng nói bừa, muội rất chung thủy với Mộ Ngôn”.

Anh ta lơ đãng nói:

“Bởi vì cuối cùng muội phải hành thích Trần vương, huynh mới nói chuyện về nước Trần… nếu huynh nói với muội, Mộ Ngôn…”.

Tôi căng thẳng: “Mộ Ngôn làm sao?”.

Quân Vỹ đăm đăm nhìn tôi, chưa bao giờ tôi thấy anh ta có bộ dạng nghiêm túc như thế, lát sau, anh ta lắc đầu: “Không sao, từ nhỏ muội đã thích anh ta, đến chết vẫn thích anh ta”.

Tôi ngồi đối diện Quân Vỹ, anh ta dứt khoát quay lưng lại, cách một cái bàn đá lạnh ngắt, giọng lơ đãng truyền đến:

“Nếu có một ngày muội phát hiện không thể ở bên anh ta thì cũng đừng buồn, A Trăn, huynh, huynh luôn ở đây”.

Tôi ngây người: “Huynh định nói gì?”.

Vai Quân Vỹ rung rung, tôi chờ đến phát ngủ gật anh ta cũng không nói nữa, Tiểu Hoàng dưới chân vẫn nhay nhay gấu váy tôi, phía xa trên khóm hoa phật tang có mấy con bướm màu bay lượn, xem ra nó muốn rủ tôi đi bắt bướm.

Thầm nghĩ có lẽ cảm hứng đến bất chợt, Quân Vỹ cần yên tĩnh để sáng tác, không quấy rầy anh ta, tôi kéo Tiểu Hoàng nhảy nhót rời khỏi đình hóng mát.

Mộ Ngôn nói khi nào hoa phật tang tàn, tôi sẽ đến đón em, sương mù vấn vít dưới chân, hoa phật tang bên đường vẫn đang nở rộ, tôi buồn bã ngồi xuống bên đường thầm nghĩ, hoa phật tang đã rực rỡ khoe sắc hơn hai chục ngày rồi, hoa kỳ bền lâu kiên gan như vậy, bao giờ mới tàn.

Tiểu Hoàng nhảy nhót bắt bướm cạnh khóm hoa bên dưới, chạy vòng quanh đến mấy chục lần, chắc váng đầu mới thong thả bò lên, nhìn nó chơi sung sướng như vậy tôi mới sực nhớ nhiệm vụ chính hôm nay là đi dạy Công Nghi Huân học múa, vội vàng dắt Tiểu Hoàng quay về hoa đình giao cho Quân Vỹ.

Cách hoa đình gần chục bước, thấy Quân Vỹ vẫn ngồi y nguyên như lúc tôi rời đi, còn sau lưng anh ta chỗ tôi vừa ngồi là Bách Lý Tấn. Đang định đi đến chào hỏi, phát hiện thấy Bách Lý Tấn mặt lộ vẻ lúng túng, giọng Quân Vỹ lạnh lùng có phần nhẫn nhịn:

“Cậu luôn nghĩ tôi chỉ nói đùa, nhưng những gì tôi nói đều rất thật lòng, tôi thích cậu lâu như vậy, cậu thật sự không biết hay giả bộ không biết (Ngôi xưng hô trong tiếng Trung không phân biệt giới tính, tuổi tác.)?”.

Bách Lý Tấn ngây người ngồi yên, lúng túng: “Tôi không biết thật”.

Quân Vỹ nghe có tiếng động quay phắt đầu lại, do quá vội khuỷu tay đập vào mép bàn đá, đau há miệng không nói ra lời, Bách Lý Tấn vội đi đến:

“Huynh… huynh đừng xúc động, tôi… tôi trở về suy nghĩ thêm, được không?”.

Quân Vỹ nén đau, khẽ nói: “Cậu…”.

Bách Lý Tấn giận dữ nhìn anh ta:

“Huynh đẹp như vậy, tại sao không phải là con gái!”. Nói xong quay người chạy thẳng. Quân Vỹ phía sau bàng hoàng giơ tay cơ hồ muốn níu anh ta lại.

Tôi trấn tĩnh nấp sau khóm hoa vỗ đầu Tiểu Hoàng:

“Cha con quả nhiên bừa bãi rồi, vẫn còn muốn giấu mẹ, nhưng chúng ta không nên coi thường huynh ấy, huynh ấy đã bừa bãi như vậy thì không xứng làm cha, nhưng không sao, mẹ đã tìm cho con người cha mới, cha mới rất đẹp trai, kiếm thuật cũng giỏi, lại còn rất biết kiếm tiền, con có vui không?”.

Tiểu Hoàng buồn bã vùi đầu vào lòng tôi.

Tôi nói thêm: “Kiếm được tiền sẽ mua thật nhiều gà rán cho con ăn”.

Tiểu Hoàng lại tươi tỉnh mặt mày.

Tôi dạy Công Nghi Huân điệu múa đã nhìn thấy trong ký ức của cô, ý thức quả rất thần kỳ, cho dù cơ thể được tái sinh, quên hết ký ức cũ, tôi chỉ biểu diễn sơ sơ, động tác cứng như que củi, ngay gia nhân mang trà và đồ điểm tâm đến cũng che miệng cười, vậy mà Công Nghi Huân vẫn dáng lạnh lùng, khục hồi nguyên dạng vũ điệu ngày xưa, thân người mềm như sóng, từng động tác đẹp mắt lộ dần ra, giống như từ mầm cây mới nhú lớn dần, cành lá xanh tươi vươn thẳng lên trời, nở ra một vòm hoa rực sắc màu, huy hoàng không gì sánh được.

Tôi kinh ngạc thốt lên:

“Roi chín khúc cô sử dụng tốt như vậy, múa cũng tuyệt vời, mặc dù không có ký ức quá khứ, nhưng cô không thấy cô như thế này chẳng phải chính là cô ngày xưa hay sao, không nên sống vì quá khứ”.

Cô dừng lại, bàn tay vươn cao quá trán, những ngón tay chụm lại thành một nụ hoa, vẫn giữ nguyên tư thế, mắt nhìn theo bàn tay đó, tiếng nói thoảng như tiếng gió:

“Tử Khác cũng nói như vậy, người ta không nên sống vì quá khứ, mà nên sống vì những người cần tới mình”.

Lời vừa dứt bàn tay thu lại như nắm vật gì

“Tôi không biết có ai cần tôi, thế gian này cơ hồ không có ai thực sự cần tôi”.

Tôi gục đầu lên chiếc bàn thấp để cây đàn: “Công Nghi Phỉ cần cô, cô là ruột thịt của chàng ta”.

Công Nghi Huân hình như ngẩn ra, hơi ngước mắt, giọng nhàn nhạt:

“Đệ đệ không cần tôi, mọi người tưởng là tôi không biết, thực ra tôi biết. A Phỉ và vợ đệ ấy đều rất ghét tôi, đối với đệ ấy, tôi chỉ là là người thừa. Rất nhiều chuyện đệ ấy không chấp với tôi, bởi vì cho rằng đầu óc tôi không bình thường”.

Cô dừng lại rồi nói tiếp:

“Cho nên tôi nghĩ, chỉ cần trong cuộc đời trước đây có ai đó thực sự cần tôi vậy là tốt rồi”. Những lời đó cô nói ra với một giọng bình thản, nhưng khiến người nghe não lòng.

Bảy ngày sau là lễ hội săn thú. Nghe nói Công Nghi gia từ thuở lập nghiệp đã luôn giữ gìn truyền thống đó, để hậu thế tử tôn không chìm trong hưởng lạc mà lãng quên quá khứ gian nan và vàng son tổ tiên gây dựng đại nghiệp từ trên lưng ngựa.

Tôi cảm thấy chuyện này rất không nhân đạo, suy cho cùng, muốn ghi nhớ vinh quang của tổ tiên cũng không cần phải dựa vào bắt nạt mấy con thú yếu đuối, chúng đâu có tội tình gì, chúng cũng có mẹ.

May Công Nghi Phỉ lười biếng đã quen, truyền thống ưu tú của Công Nghi gia những gì bỏ được chàng ta đều bỏ hết, chỉ giữ lại lễ hội săn thú này nhưng cũng lược bỏ tính chất long trọng trang nghiêm, biến thành buổi dã ngoại ăn thịt nướng uống rượu, thưởng thức nghệ thuật mới nhất, không ngờ lại được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là những nữ khách khao khát muốn trổ tài trước mặt nam khách.

Tất cả chỉ do tình yêu là chủ đề vĩnh hằng của loài người, hôn nhân là chủ đề phụ của chủ đề vĩnh hằng.

Tôi cảm thấy đây là thời cơ thích hợp. Tám năm trước, điệu múa kén chồng của Khanh Tửu Tửu đã chấn động thiên hạ hôm nay sẽ tái xuất, thiên hạ không cần nhớ dáng thướt tha của tiểu thư áo trắng múa điệu “Thanh hoa huyền tưởng”, nhưng Công Nghi Phỉ cần nhớ.

Bên ngoài nắng hè oi bức, buổi sớm trên núi không khí đã phảng phất hơi thu. Bữa tiệc tổ chức bên chiếc hồ nhỏ sau núi, trên bãi cỏ rộng kê những dãy bàn ghế dài, xung quanh là rừng trúc xanh ngút ngát.

Tôi đã bàn với Quân Vỹ, bất luận thế nào cũng không thể để Công Nghi Huân vô duyên vô cớ đứng ra nhảy múa khi mọi người đang mải ăn uống, ai cấm họ không nghĩ là do hưng phấn hơi men hay bị thần kinh.

Tình huống chúng tôi sắp đặt như sau, khi bữa tiệc đang ở độ cao trào, Quân Vỹ dáng nho nhã thật thà mượn cớ uống say mạnh dạn chắp tay trước Công Nghi Phỉ:

“Nghe đồn trưởng nữ của Công Nghi gia vũ kỹ tuyệt thế, Quân mỗ mộ danh đã lâu, hôm nay hạnh ngộ Huân tiểu thư, thực muôn phần diễm phúc, dám mong tiểu thư ban cho một vinh hạnh được thưởng thức vũ điệu diệu kỳ của tiểu thư, Quân mỗ bội phần cảm tạ”.

Lời nói khiêm nhường như vậy Công Nghi Phỉ nhất định không thể chối từ, dẹp sự không hài lòng mà gật đầu:

“Quân công tử đã có lời như vậy, Huân tỷ nên đi chuẩn bị”. Đương nhiên chúng tôi đã sắp đặt đâu vào đó, không cần chuẩn bị nhiều, nhưng vẫn giữ ý ra ngoài một chút”.

Khi luyện nói những lời đó, Quân Vỹ phát biểu ý kiến:

“Tại sao phải nói những câu sách vở như vậy?”.

Tôi nhẫn nại giải thích:

“Có lúc chúng ta cần dùng những lời thanh nhã để che đậy những suy nghĩ cầm thú, để khiến người ta không thể chối từ”.

Quân Vỹ không hiểu: “Huynh có ý nghĩ cầm thú gì?”.

Tôi bực mình: “Ai biết huynh có ý nghĩ cầm thú hay không?”.

Tất cả diễn ra như dự tính của tôi, chỉ có điều người chơi đàn vốn định là tôi, cuối cùng lại thành Công Nghi Phỉ. Khi thử đàn chàng ta bình thản hỏi một câu:

“Gảy khúc gì?”.

Tôi ngẩng đầu đáp: “Thanh hoa huyền tưởng”. Chàng ta sững người, lập tức tươi tỉnh, khẽ cười:

“Khúc này Phỉ cũng biết, hay là để Phỉ thay thế”. Nụ cười lồ lộ, nhưng mắt lại không cười.

Tiếng đàn dồn dập trong vắt như tiếng suối nguồn trong rừng trúc buổi sớm mai, những ngón tay trắng như tuyết của Công Nghi Huân lộ ra khỏi ống tay áo màu vàng rơm, đôi giày mềm lụa bạch giẫm lên tiếng đàn như một cành hoa tươi duy nhất từ thân hình nở ra, lại bị xiêm áo tha thướt nhẹ nhàng trói chặt, những động tác có vẻ đẹp của thiền đó còn gây chấn động hơn cái đêm cô múa cho Công Nghi Phỉ xem.

Do ngược sáng nên không nhìn rõ thần sắc của Công Nghi Phỉ đang chăm chú hòa khúc, điều làm tôi ngạc nhiên hơn nữa là chàng ta không hề đánh sai một nốt, khiến tân khách xung quanh không ai không nín thở, ngẩn ngơ, thỉnh thoảng có tiếng trầm trồ không nén nổi bật ra, lại chìm trong tiếng đàn sóng xao như nước, xem ra tân khách không hổ là những bậc văn nhân, trình độ thưởng thức nghệ thuật không tồi, toàn cảnh chỉ có mỗi Tiểu Hoàng ngủ gật.

Vũ khúc kết thúc, bốn bề im phăng phắc. Khuôn mặt trắng như tuyết của Công Nghi Huân ửng hồng, tựa như đóa yên chi phớt hồng nở giữa biển băng, ánh mắt ngạo nghễ nhìn Công Nghi Phỉ như không bận tâm, nhưng bàn tay lại nắm chặt giấu trong ống tay áo sau lưng. Cô muốn được một lời khen của chàng ta, cô đang đợi chàng ta khen ngợi, tâm trạng này tôi hiểu.

Người hầu bước ra chuyển đi chiếc bàn thấp trước mặt Công Nghi Phỉ, chàng ta ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt cô đang nhìn mình, thần sắc dửng dưng cười nhạt:

“Vũ khúc thật đặc biệt, trước đây chưa thấy Huân tỷ múa bao giờ”.

Tôi đang thấy lạ, Công Nghi Huân vốn yên lặng, không ngờ lại lạnh lùng cất tiếng:

“Sao lại chưa thấy bao giờ, họ nói khúc nhạc này ngày trước đệ phổ cho tôi, vũ khúc này tôi biên cho riêng đệ”.

Rừng trúc vốn tĩnh mịch càng thêm tĩnh mịch, nếu là chị em thật, những lời hai người vừa nói với nhau quả là không ổn, Công Nghi Phỉ thôi cười cau mày, Công Nghi San bên cạnh đứng phắt lên:

“Cô!”.

Công Nghi Huân hơi nghiêng đầu, chậm rãi: “Lẽ nào không phải?”.

Xem ra hai người sắp cãi nhau, một giọng trẻ con ỏn ẻn vang lên từ bàn tiệc:

“Không phải là vũ khúc cô cô soạn, nhạc khúc này chính mẹ dạy cha đàn, vũ khúc này mẹ cũng múa cho cha xem, tối qua mẹ còn múa cho chúng cháu xem, cô cô nói bừa”.

Đứa bé trai đó là con trai Công Nghi San, chuyện quá khứ tôi chỉ biết một nửa, không biết đây có phải là cốt nhục của Công Nghi Phỉ.

Công Nghi Huân đứng ngây, tôi cũng đứng ngây không hiểu, rõ ràng vũ khúc này chỉ có hai chúng tôi biết, tại sao Công Nghi San cũng biết.

Lúc này đã thấy Công Nghi Phỉ ôm cây đàn tiến lại, đó là cây đàn tôi đem đến, có lẽ chàng ta mang trả tôi.

Công Nghi Huân đã trấn tĩnh trở lại, cau mày:

“Tôi sao có thể nói bừa, đó là tôi…”.

Lời chưa hết đã bị Công Nghi Phỉ ngắt lời, giọng rất nhỏ:

“Đủ rồi, tỷ là tỷ tỷ của tôi, San muội là phu nhân tôi, cũng là tiểu muội của tỷ, có gì đáng tranh giành với cô ấy, sao chuyện gì tỷ cũng muốn hơn, nên nhường nhịn một chút, hãy ra dáng đại tỷ, suốt ngày cãi cọ với tiểu muội của mình còn ra gì nữa”.

Chút sắc hồng trên má Công Nghi Huân đã tan biến, thần sắc vẫn trấn định, tay càng nắm chặt ống tay áo, chàng ta đi ngang qua cô, cô giơ tay túm tay áo chàng ta, chàng ta vẫn không dừng lại, bóng áo màu bạc lướt qua cô.

Một giọng cười khinh thị vang lên giữa bàn tiệc ngổn ngang chén bát, Công Nghi San quàng tay ôm đứa bé trai bên cạnh vào lòng, mắt lạnh lùng nhìn cánh tay chơi vơi trên không của Công Nghi Huân. Công Nghi Phỉ cơ hồ không nhận ra tất cả những điều đó, mỉm cười đưa cây đàn cho tôi:

“Cây đàn rất tốt, xin trả lại Quân cô nương”.

Sự việc không ngờ lại kết thúc như vậy. Vũ khúc “Thanh hoa huyền tưởng” Công Nghi Huân múa rất tuyệt, chưa bao giờ tuyệt đến thế. Nhưng Công Nghi Phỉ lại nói đủ rồi.

Chàng ta không hề biết cô đã luyện vũ điệu này vất vả thế nào. Ký ức đã mất, người dậy chỉ vụng về biểu diễn qua loa vậy mà cô thể hiện hoàn hảo hơn cả ngày xưa. Nếu không có một động lực mãnh liệt nào đó thôi thúc bên trong, sao có thể làm được như vậy.

Tôi không biết giữa cô và Công Nghi Phỉ rốt cuộc là quan hệ gì, tỷ đệ hay là quan hệ nào khác, nhưng dường như cô chỉ muốn dành cho chàng ta những gì tốt đẹp nhất, nếu có thể làm được, bất luận thế nào cô cũng quyết làm. Nhưng chàng ta lại cho là cô hiếu thắng. Tôi nghĩ, có lẽ chúng tôi đã sai khi sắp xếp chuyện này.

Trên bàn tiệc tiếng đàn hát lại vang lên, Công Nghi Huân vẫn lặng lẽ đứng đó, giống như một cây tùng cô đơn, lạc lõng giữa chốn phồn hoa. Trên mặt hồ lăn tăn ánh vàng phía xa, một con cá nhỏ nhảy vọt lên khỏi mặt nước, rồi “bõm” một tiếng lại lao xuống, Công Nghi Phỉ tay cầm chén rượu bằng sứ màu lam ngoảnh mặt nhìn ra, Công Nghi Huân lấy cây đàn trong tay tôi:

“Về thôi, tôi hơi mệt”.

Ký ức của cô tối hôm trước dừng lại ở cảnh đại hỉ đường ngày hôn lễ của Công Nghi Phỉ và Công Nghi San. Sự đời có nhân có quả, hôm nay chàng ta lạnh lùng với cô như vậy ắt có căn nguyên, mặc dù biết chuyện chẳng liên quan đến mình, nhưng tôi lại nóng lòng muốn biết, cuộc đời trước của Khanh Tửu Tửu kết cục thế nào.

Nhưng chẵn ba ngày Công Nghi Huân không ra khỏi tiểu viện của mình.

Sáng sớm ngày thứ tư, Quân Vỹ thấy tôi ủ dột, cố nài tôi cùng đi chơi bóng. Thực ra trình độ chơi bóng của tôi rất siêu, do hồi nhỏ, tôi và Quân Vỹ không ai chịu rửa bát, nên thường chơi bóng để phân định thắng thua.

Nhìn chung là Quân Vỹ rửa, nếu thua, tôi khóc lóc chạy đi tìm sư phụ, cuối cùng vẫn là Quân Vỹ rửa. Có thể ôn lại chuyện xưa, tôi hào hứng cùng đi, đột nhiên sực nhớ, lúc chia tay Mộ Ngôn đã dặn phải chú ý chăm sóc bản thân, nên lại hơi do dự, một hoạt động mạnh như vậy ngộ nhỡ bị thương, Mộ Ngôn biết thì sao, ôm đầu nghĩ một hồi, đột nhiên đầu óc sáng láng, nghĩ ra là có thể nói dối mình bị mộng du, bị ngã trong khi mộng du, tinh thần lại lập tức phấn chấn vẫy tay với Quân Vỹ:

“Đi thôi, đi chơi bóng thôi”.

Biệt viện của Công Nghi gia quả rất rộng, đi vòng vo mãi mới tới sân bãi. Khác với Vệ vương cung, bãi bóng ở đây không có tường thấp bao quanh, chỉ vẽ ra trường địa, dựng lên hai cây trúc, có lưới chăng, hai đội đối kháng đội nào đá bóng vào lưới coi như được một quả, cuối cùng dựa vào số quả đá trúng phân định thắng thua. Hai đội đều là khách của Công Nghi Phỉ, trong lễ hội săn thú này, không ai vào núi săn thú.

Trong nửa trận đầu, đối phương sợ làm tôi bị thương, chỉ cần thấy tôi đứng gần lưới là không dám mạo hiểm đá bóng qua, sợ bóng đập trúng tôi.

Sau đó mỗi khi thấy đối phương chuẩn bị đá, tôi đều tự giác đứng dưới lưới, đội tôi liên tục giành được thắng lợi quan trọng trong phòng thủ, tôi trở thành cát nhân của đội mình. Thủ thuật hồi nhỏ nghĩ ra đế trốn rửa bát dưới sự phối hợp của Quân Vỹ cũng được phát huy ổn định, ngáng chân, cướp bóng, tôi cũng may mắn đá trúng ba quả.

Thật không hiểu nổi ngày trước, lúc thi vào sư môn tôi giở bài dưới gầm bàn, Quân Vỹ phát hiện, không những không phối hợp mà còn đứng lên tố cáo. Hồi đó quả thực anh ta không biết điều.

Đá xong nửa trận, mọi người chia nhau tản ra ngồi nghỉ dưới bóng cây, Quân Vỹ kéo tôi đến ngồi dưới một gốc cây to, gia nhân đưa khăn mặt ẩm lau mồ hôi. Bách Lý Tấn ở đội bên kia hớn hở chạy lại định ngồi với chúng tôi, Quân Vỹ dùng chân vẽ một vòng tròn bên ngoài bóng cây, trợn mắt nói:

“Đứng ở đó, cấm vào đây”.

Bách Lý Tấn lấy tay áo che nắng, rụt vai rụt cổ nói giọng tủi thân: “Tại sao?”.

Quân Vỹ nhướn mày: “Cậu nói xem”.

Bách Lý Tấn nghiêm túc nghĩ một hồi, mặt dần đỏ lên:

“Có phải lúc tôi tranh bóng bị đội trưởng sờ vào đùi, chỉ là ngẫu nhiên, ngẫu nhiên, chơi bóng mà, khó tránh…”.

Nước trà trong miệng tôi suýt phun ra ngoài, Quân Vỹ nghiến răng:

“Ông không biết mi bị ai sờ, ông hỏi mi tại sao đá hai quả đều trúng người A Phất?”.

Bách Lý Tấn ngớ ra, cúi đầu lẩm bẩm:

“Vận… vận khí không tốt”.

Quân Vỹ gõ vào trán anh ta:

“Đá vào người ta lại còn nói người ta vận khí không tốt”.

Bách Lý Tấn tủi thân xoa trán:

“Tôi nói là tôi vận khí không tốt, tôi làm sao biết tôi đá trúng Quân cô nương, rõ ràng tôi không nhằm vào cô nương…”.

Quân Vỹ nhướn mày ngắt lời: “Nói vào trọng tâm!”.

Bách Lý Tấn dè dặt liếc Quân Vỹ rồi nhìn tôi:

“Cho nên vừa nghỉ giải lao là tôi chạy đến định xin lỗi”.

Quân Vỹ băn khoăn hừ một tiếng. Tôi kéo Bách Lý Tấn vào bóng râm:

“Vậy cậu mau xin lỗi đi”.

Bách Lý Tấn đỏ mặt gãi đầu: “Tôi…”.

Tôi nói:

“Ấy, trước khi xin lỗi cậu hãy nói xem, làm thế nào cậu lại bị đội trưởng sờ đùi?”.

Bách Lý Tấn: “…”.

Quân Vỹ: “…”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 4(Phần 2)

Cuộc đấu chưa kết thúc, trước ánh mắt mọi người ba tuyển thủ của hai đội đối địch khoác vai nhau cười nói vui vẻ, có thể thấy nửa trận sau ba chúng tôi sẽ không có cơ hội ra sân.

May vừa rồi tôi đã chơi rất vui, bao nhiêu phiền muộn bay biến, ngẩng nhìn trời cao gió thoảng, phía xa nước biếc mây ngàn. Tôi uống một cốc trà lạnh, lại uống thêm cốc trà lạnh nữa, nhớ lại hồi nhỏ thường cùng Quân Vỹ mang ấm nước ra đình hóng mát ngồi chơi, dạo đó còn ngây thơ khờ khạo, Quân Vỹ cũng vậy, vốn tưởng sẽ trở thành nhân tài kết quả lại trở thành lãng tử.

Đang mệt mỏi buồn ngủ, loáng thoáng nghe tiếng Bách Lý Tấn tranh luận với Quân Vỹ về trận bóng vừa rồi, chợt anh ta reo lên:

“Này, mọi người nhìn xem, cô gái áo vàng kia xinh quá!”.

Tôi giật mình bởi tiếng reo phấn khích của anh ta, cốc trà trong tay sánh ra ngoài một nửa, thầm nghĩ không biết cô gái nào xinh đẹp mà mình lại không nhìn thấy, vừa nhìn theo ánh mắt sáng rực của anh ta, bỗng trong đầu như có gì bùng nổ. Cuối tầm mắt tôi, màu áo lam trang nhã nổi bật giữa biển hoa phật tang vàng rực, tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay.

Mộ Ngôn. Trước lúc đi chàng nói, khi nào hoa phật tang trên núi tàn, chàng sẽ quay lại đón tôi. Từ đó mỗi ngày trước khi đi ngủ, tôi nghĩ đến câu đó, ghi nhớ trong lòng, tâm niệm cầu mong ngày hôm sau tôi tìm thấy dù chỉ một bông hoa tàn, như vậy có thể sớm được gặp chàng.

Tôi dụi mắt, lại dụi mắt, xác định không phải mình nằm mơ, còn chàng đang rẽ hoa đi đến, càng đến càng gần, nhàn tản ung dung, như bước trên vệt sáng thời gian chờ đợi của tôi.

Tôi cảm thấy không thể kiềm chế, muốn chạy ra lao vào lòng chàng, gót chân đã nhón đi một bước, một ý nghĩ lại vụt qua đầu như tia chớp, chàng đã dặn nếu không nghe lời chàng tự bảo vệ mình, nhất định sẽ bị đánh đòn, do dự một lát cảm thấy không nên gặp nhau lúc này, hơn nữa bây giờ người đầy bụi bặm lem nhem, càng không thể gặp chàng, vội vàng lủi trốn sau lưng Quân Vỹ.

Không biết tại sao chàng lại đi nhanh thế, vừa núp sau lưng Quân Vỹ đã nghe thấy tiếng bước chân rất gần. Thực ra tôi rất muốn nhìn chàng, nhưng lại sợ bị lộ, mà lần nào gặp lại cũng bị chàng bắt gặp trong bộ dạng chẳng ra gì, lần này quyết không để tái diễn, nhất định phải tạo ra một cảnh trùng phùng thật lãng mạn, phải vận bộ cánh thật đẹp, ngồi trong đình hóng mát ung dung ôm đàn hay nhàn tản cho cá ăn, tóm lại phải làm chàng kinh ngạc.

Tiếng bước chân vừa đi qua trước mặt, tôi vừa thở phào, vừa không hiểu sao lại cảm thấy một chút thất vọng, hơi ló đầu ra khỏi lưng Quân Vỹ, Bách Lý Tấn vẫn đang trầm trồ reo khe khẽ:

“Chà chà, sao mà đẹp thế, thực ra màu vàng rất kén người, mặc màu vàng cũng có thể đẹp đến thế, thật là quốc sắc thiên hương…”.

Quân Vỹ sầm mặt lườm anh ta, Bách Lý tiểu đệ lại đổi giọng:

“Dù quốc sắc thiên hương đến mấy tôi cũng chẳng có ý nghĩ gì với cô ta”. Tay vuốt sống mũi, bổ sung, “Thoáng nhìn đã biết cô ta và công tử áo xanh bên cạnh rất xứng đôi, cho dù tôi nghĩ gì cũng vô ích”.

Tóm được bốn chữ “công tử áo xanh” tôi mới nghĩ ra, vừa rồi nhìn Mộ Ngôn, bên cạnh chàng hình như quả thật có một cô gái vận váy vàng… lập tức trợn mắt lườm Bách Lý Tấn: “Cậu không có mắt hay sao!”.

Anh ta ngạc nhiên: “Sao cơ?”.

Tôi nhẫn nhịn, lại không nhịn nổi: “Họ xứng đôi chỗ nào, rõ ràng không xứng tí nào”.

Bách Lý Tấn nét mặt băn khoăn.

Tôi dứ nắm đấm về phía anh ta:

“Mau nói lại đi, họ không xứng tí nào, cậu muốn ăn đấm hay sao, dám nói trước mặt tôi, Mộ Ngôn xứng đôi với cô gái khác!”.

Bách Lý Tấn ngớ người: “Mộ Ngôn? Ai cơ?”.

Tôi lườm anh ta:

“Công tử áo xanh cậu vừa nói đó, chàng là…”, đột nhiên cảm thấy ngại ngùng, nhưng nghĩ Mộ Ngôn đã thổ lộ với tôi, tôi đã nhận lời, vậy là lấy hết dũng khí trợn mắt nhìn cậu ta nói, “… là hôn phu của tôi”.

“Choang!”. Không hiểu sao Quân Vỹ tuột tay đánh rơi cốc trà xuống phiến đá dưới chân, nước trà bắn lên cả người tôi. Bàn tay anh ta vẫn dừng trên không, vẻ chấn động, miệng há mấy lần nhưng không nói ra tiếng, Bách Lý Tấn ghé lại ngắt lời:

“Là hôn phu của cô? Vậy sao vừa rồi không đứng ra chào hỏi?”.

Tôi nhìn mũi giày dưới chân: “… sẽ bị đánh đòn”.

Bách Lý Tấn đột nhiên im lặng, chắc là không tin, tôi vội giải thích:

“Nếu chàng biết tôi không nghe lời chàng, chạy ra ngoài chơi bóng, bị ngã lăn trên đất, bị bóng ném vào người, nhất định tôi sẽ bị đánh đòn…”.

Đằng sau giọng nói khoan thai du nhàn vang lên: “Ồ, vậy rất đáng ăn đòn”.

Tôi tiếp tục nói với Bách Lý Tấn:

“Trời nắng quá, hình như hơi nhức đầu…”. Nói xong, rất tự nhiên người lả ra như sắp ngã, bàn tay ai sau lưng đã đỡ, bên tai là tiếng nói quen thuộc: “Lại giở trò rồi”.

Tôi mở hé một bên mắt, lập tức bắt gặp ánh mắt tươi cười của Mộ Ngôn, tôi lập tức mỉm cười như phản xạ có điều kiện, nụ cười càng hiện rõ trong mắt chàng, tôi bỗng nhớ ra bây giờ không phải lúc cười, lập tức ngoan ngoãn từ trong lòng chàng đứng lên, ngoan ngoãn cúi đầu:

“Em sai rồi”.

Những ngón tay thon dài của Mộ Ngôn từ từ gập cái quạt giấy, giọng nói từ trên đầu tôi vọng xuống:

“Sao? Nhận tội nhanh thế, nói mau, sai ở đâu?”.

Tôi cúi đầu càng thấp: “Diễn không giỏi bằng chàng…”.

Mộ Ngôn trầm mặc một lát: “… Nhìn nhận rất sâu sắc”.

Tôi cười nhạt, nhích lại gần, dè dặt nhìn chàng, thử nắm tay áo chàng:

“Vừa rồi là em nói bừa, chàng đừng giận, em không nên chạy ra đây chơi bóng, em nên ở trong sân chơi đàn, hoặc ngồi bờ ao cho cá ăn, nhưng anh ta nhất định kéo em đi”. Nói xong lừ mắt nhìn Quân Vỹ, anh ta hiểu ý, cười gật đầu: “Đúng, là tôi rủ A Phất đến đây”.

Tôi nghiêng đầu, phát hiện quả nhiên không phải do ánh sáng, ngạc nhiên hỏi Quân Vỹ:

“Sắc mặt huynh sao trắng thế”.

Vừa nói vừa đến gần để nhìn anh ta, bị Mộ Ngôn nắm tay kéo lại.

Quân Vỹ còn chưa mở miệng, cô gái áo vàng được Bách Lý Tấn ca ngợi là quốc sắc thiên hương lại ngây thơ nói thật:

“Bất luận thế nào con gái đều không thể đá bóng với đàn ông, ở nước chúng tôi, con gái như thế sau này sẽ không có đàn ông nào muốn lấy”.

Nói xong tự cảm thấy lỡ lời, nhún vai lè lưỡi, liếc sang tôi lại bổ sung một câu,

“Dù gì, là con gái cũng không nên tùy tiện ở bên đàn ông, mặc dù tôi từ nhỏ lớn lên ở chốn dân dã, cũng chưa bao giờ chơi với con trai”.

Tôi căng thẳng hỏi: “Cô và Mộ Ngôn có cùng một nước không?”.

Cô ta lắc đầu, “Không, tôi là người nước Đường”.

Tôi vỗ ngực thở phào, vỗ xong vẫn chưa thấy yên tâm, ngẩng đầu hỏi Mộ Ngôn:

“Ở nước chàng có phong tục đó không? Vậy em thường xuyên chơi đùa với Quân Vỹ có phải là rất không hay? Nhưng Quân Vỹ là sư huynh của em…”.

Mộ Ngôn cười ngắt lời:

“Mộ Nghi cũng thích chơi bóng, không thích các trò chơi khác, thường rủ hộ vệ của ta cùng chơi. Trần quốc không có phong tục như Đường quốc”.

Tôi thở phào, lại đắn đo: “Nếu vậy, em không sai, tại sao phải nhận lỗi?”.

Mộ Ngôn thong thả phe phảy quạt, nhìn tôi tán đồng: “Em cứ thử được nước lấn tới xem”.

Vừa nói xong, trận bóng lại bắt đầu, ba chúng tôi quả nhiên bị loại khỏi sân, nhân lúc mọi người tập trung xem bóng, tôi nén cười xích lại gần Mộ Ngôn:

“Được nước lấn tới có phải là thế này không?”.

Chàng ngây người, bật cười, giơ tay kéo tôi vào lòng chàng, tự nhiên như hái một bông hoa, cúi đầu khẽ cười: “Đúng, chính là như thế”.

Cô gái áo vàng đúng lúc ngoái đầu, mặt hớn hở:

“Mộ ca ca”. Chợt tròn mắt nhìn chúng tôi, im bặt, có lẽ là Đường quốc của họ đầu óc quá bảo thủ, tôi chun mũi làm mặt xấu với cô ta, cô ta cắn môi, hừ một tiếng ngoảnh mặt đi.

Đoán là cô ta định hỏi Mộ Ngôn về cách chơi bóng, Bách Lý Tấn lại bảo cô ta và Mộ Ngôn rất xứng đôi, khiến tôi rất khó chịu, nắm tay Mộ Ngôn khẽ hỏi:

“Một cô gái ngay chơi bóng cũng không biết là người không có văn hóa đúng không?”.

Mộ Ngôn xoa đầu tôi, cười cười lắc đầu:

“Em nói thế nào thì là như thế”.

Cô gái cùng đến với Mộ Ngôn nghe nói tên là Doãn Đường, là con gái một người bạn thâm giao của Mộ gia, hai người gặp nhau ở Cô Trúc sơn, vì cô ta muốn lên núi ngắm hoa phật tang, nên chàng để cô ta cùng đi. Vốn tưởng hết mùa hoa phật tang mới được gặp lại Mộ Ngôn, mặc dù sớm hơn lời hẹn, nhưng không phải chàng đến đón tôi, chỉ là dừng lại nghỉ mấy ngày trên đường đi nước Triệu, tôi cảm thấy hơi buồn, nhưng nghĩ tới lần gặp này là được thêm ngoài dự kiến, nên đổi buồn thành vui.

Chàng định đến nước Triệu, thực ra là chàng đi đường vòng đến đây, cho dù muốn gặp Công Nghi Phỉ thương lượng chuyện quan trọng, nhưng đâu phải không có chim bồ câu đưa thư. Nghĩ tới đó lòng lại rưng rưng ngọt ngào.

Mộ Ngôn rõ ràng bận hơn trước nhiều, buổi sáng cùng tôi xem bóng một lúc, sau bữa trưa lại đóng cửa mật đàm với Công Nghi Phỉ, mãi đến bữa tối vẫn chưa thấy bóng dáng, tôi nghĩ, trước khi đi ngủ sẽ tìm chàng, lựa chọn đúng lúc chàng sắp quay lại, đang định đi ra, lại sực nhớ một vấn đề vô cùng khẩn cấp… chàng ở phòng nào? Muộn thế này một cô gái lang thang đi dò hỏi, thật không tiện chút nào, đành buồn bã khép cửa sổ chuẩn bị đi ngủ.

Cộc, cộc, cộc, đang định tắt đèn, chợt có ba tiếng gõ vào cánh cửa sổ, viên giao châu trong ngực tôi cơ hồ nảy lên. Tôi vội ra mở, nhưng cánh cửa sổ chưa đóng chặt, tự bật ra, Mộ Ngôn tay ôm mấy cuốn sách nhảy qua cửa sổ vào phòng, ném mấy cuốn sách lên bàn, ngồi lên chiếc ghế hoa lê giơ tay vẫy tôi:

“Lại đây”.

Tôi trố mắt đi đến ngồi đối diện chàng, ngoái nhìn cửa sổ, lại nhìn chàng:

“Tại sao cửa chính không đi lại nhảy qua cửa sổ?”.

Chàng dùng một cái kim bạc dài khêu to bấc đèn, mắt cười lấp láy nhìn tôi:

“Bí mật hẹn hò có ai đi cửa chính bao giờ”.

Tôi cắn phải lưỡi:

“Chàng đến là để bí mật hẹn hò với em? Nhưng… nhưng em không biết nên hẹn hò thế nào, chưa ai dạy em”.

Vai chàng hơi rung, tôi sốt ruột hỏi:

“Có phải chàng thấy em quá ấu trĩ? Nếu biết sớm em đã đi hỏi Quân Vỹ, xem các cô gái bí mật hẹn hò thế nào, tuy em không biết nhưng em có thể học”.

Ngọn đèn sáng hơn một chút, chàng đứng lên, để cái kim bạc xuống bàn tôi mới phát hiện, thì ra người ta đang cười, chân tay tôi luống cuống không biết để vào đâu, chàng vẫn cười, tôi vừa giận dỗi lườm chàng vừa nghĩ, đây chính là người của lòng tôi, chàng cười thật đẹp, chờ chàng cười đủ, lại giơ tay vuốt lông mày tôi, hỏi như chưa có chuyện gì xảy ra:

“Sao lại cau mày, gặp tôi không vui sao?”.

Tôi ngoảnh mặt đi: “Nhưng chàng cười em”.

Chàng bật cười ngồi trở lại ghế, tay chống đầu:

“Sao tôi có thể cười em, nếu em biết hết những chuyện đó tôi mới không vui”.

Tôi hoài nghi: “Thật không? Vậy hôm nay chàng đến để dạy em?”.

Chàng lắc đầu:

“Tôi đã hai mươi mấy tuổi, lần đầu nghe nói dạy hẹn hò”. Nói đoạn nhấc ấm trà tự rót cho mình: “À, sáng nay em đang định nhận lỗi với tôi thì bị ngắt lời, thế nào, bây giờ nghĩ ra mình sai ở đâu chưa?”.

Tôi đứng dậy rời khỏi ghế:

“Em rửa mặt đi ngủ đây…”. Bị chàng kéo lại: “Vẫn chưa nghĩ ra ư?”.

Thực ra hết trận cầu tôi đã nghĩ, lúc tôi trốn sau lưng Quân Vỹ, người đi qua lúc đó nhất định không phải Mộ Ngôn, chàng không thể đi nhanh như vậy, hơn nữa có Doãn Đường đi cùng, thế nào cũng phải nghe thấy hai tiếng bước chân. Nếu vậy, tôi vừa nhìn chàng đã trốn mất, nhất định chàng đã nhìn thấy, nhất định chàng đang nói chuyện này, nhưng nên giải thích thế nào? Giải thích thế nào để mình khỏi ngượng…

Quả nhiên chàng hỏi: “Nhìn thấy tôi sao lại trốn?”.

Cúi đầu đứng trước ghế chàng ngồi, vừa ngước lên lại bắt gặp ánh mắt chàng, tôi cố cãi: “Không…”.

Ngón tay chàng gõ nhẹ lên thành ghế, mắt cười cười:

“Vậy để tôi đoán nhé”. Làm ra vẻ suy nghĩ, mắt liếc nhìn tôi: “Là bởi vì gặp lại tôi mà chưa kịp đeo trang sức đẹp nhất, mặc y phục đẹp nhất, để cho tôi phải lóa mắt, đúng không?”.

Tôi kinh ngạc:

“Sao chàng…”. Vừa nói đến đó lại nghĩ, nếu thừa nhận như vậy thì quá mất mặt, vội nói chữa: “… à không!”.

Mắt chàng như có ngàn ánh sao, lát sau kéo tôi vào lòng:

“Không trang điểm cũng không sao, còn rất nhiều thời gian, em có thể từ từ trang điểm cho tôi ngắm”.

Tôi gục lên vai chàng, sụt sịt lắc đầu:

“Chàng không được nhìn thấy em lúc em đẹp nhất, khi em mười bảy tuổi mặt không có vết sẹo này, ngay phụ thân cũng nói em là đứa con gái đẹp nhất của ông, nếu lúc đó chàng nhìn thấy em có phải tốt biết bao, nếu chàng…”. Nhưng không thể nữa rồi.

Chuyện đó luôn khiến tôi đau lòng, tôi lau nước mắt, ôm chặt cổ chàng, nói ra câu định nói lúc gặp chàng:

“Em rất nhớ chàng”.

Chàng yên lặng, ôm tôi chặt hơn, hơi thở ngay bên tai, đây là thời khắc tôi mong mỏi nhất, ngẩng đầu nhìn thấy ánh đèn vàng nhạt, giống như điểm sáng hy vọng duy nhất trong đêm lạnh mênh mông, trên bức tường in bóng hai người áp sát vào nhau, nếu thời gian dừng lại, ước gì thời gian dừng lại, không có chia ly, không có đau buồn.

Nửa đêm về sáng, một trận mưa lớn đổ trên núi, sáng sớm ra không khí trong lành mát rượi, Mộ Ngôn đến ăn sáng cùng tôi. Còn mang theo một con gà rán cho Tiểu Hoàng, Tiểu Hoàng vui sướng ngoáy đuôi rối rít, bày tỏ sự thích thú đặc biệt đối với người cha mới, xem ra trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra mâu thuẫn gì.

Thu dọn xong xuôi, chúng tôi cùng đi ra ngoài, đến cổng nhìn thấy cô gái áo vàng Doãn Đường đang chạy vội đến, đứng trước chúng tôi, tay chống eo thở dốc, đôi mắt cong ngây thơ nhìn Mộ Ngôn:

“Mộ ca ca, hôm nay ca đưa Đường Đường đi ngắm hoa được không? Cô Trúc sơn đường núi quanh co, Đường Đường đi một mình e bị lạc”.

Tôi hỏi:

“Sao có thể bị lạc, Công Nghi Phỉ đã lát một con đường đá lên núi để ngắm hoa phật tang, cô cứ men theo đường lát đá mà đi, đi hết thì quay lại, không lo bị lạc”.

Doãn Đường cắn môi, ý chừng muốn nói lại thôi.

Tôi vừa đẩy Mộ Ngôn đi làm việc của chàng, vừa thân mật, khẳng khái nói:

“Mộ ca ca của cô buổi sáng còn bận chính sự, Quân tỷ tỷ của cô vừa may đang rỗi, nếu Doãn cô nương không chê, Quân tỷ tỷ sẽ đưa cô đi ngắm cảnh thưởng hoa ”.

Thấy Mộ Ngôn gật đầu như sắp bỏ đi, Doãn Đường vội trợn mắt nhìn tôi:

“Nếu tôi không muốn đi với cô thì sao, tôi không muốn đi con đường đó thì sao?”.

Cô ta chưa dứt lời, Mộ Ngôn đã bị tôi đẩy ra xa, chầm chậm nhìn về phía tôi, e ngại cười cười đi khỏi, tôi quay người nghiêm mặt nhìn Doãn Đường, gật đầu:

“Được, dù sao tôi cũng chỉ buột miệng nói vậy, cô không thích thì thôi”. Nói xong nhón gót đi thẳng.

Doãn Đường chần chừ một lát, giậm chân: “Cô quay lại ngay!”.

Tôi vẫn bước nhanh, vẫy tay: “Cô đến đây”.

Tôi quả thực muốn đi dạo, cũng quả thực không ưa cô gái tên Doãn Đường này, suốt ngày cô ta nhìn Mộ Ngôn với ánh mắt lạ lùng, tôi không đánh cô ta một trận là tử tế lắm rồi, nhưng tôi còn kiềm chế chủ yếu là bởi vì không biết nếu đánh thật liệu có thắng. Lúc này là cơ hội tốt, tôi dự định vẫn nên dùng cách làm của người văn minh, nghĩa là vừa ngắm hoa vừa giảng đạo lý cho cô ta.

Hai bên đường bạt ngàn hoa và cây xanh, sau cơn mưa hoa càng tươi thắm, cây xanh càng xanh ngắt ẩn hiện trong màn sương, lãng đãng như tiên cảnh. Tôi đang suy nghĩ nên mở đầu thế nào, Doãn Đường phía sau đã lên tiếng, bàn tay đẹp lộ ra dưới ống tay áo màu vàng, ngắt một bông phật tang vừa nở:

“Cô đã nghe chuyện kể về hoa phật tang chưa?”.

Tôi ngẩng đầu:

“Sao..?”.

Cô ta hơi ngước mắt, nhìn bông hoa trong tay:

“Chuyện kể rằng, một công tử thế gia yêu cô hầu của mình, bị cha chàng phát hiện, thiếu gia lập tức được cử đi làm việc ở xa, ngay buổi tối hôm thiếu gia rời đi, cô gái bị ném xuống chiếc giếng cạn ở hậu viên. Họ nói với thiếu gia cô gái ốm chết, không lâu sau, thiếu gia cưới một tiểu thư môn đăng hộ đối. Đêm tân hôn, từ trong giếng cạn ở hậu viên mọc ra một cây hoa rất to, nở một bông hoa dị thường, đó là hoa phật tang. Cô đã nghe thấy tiếng gió thổi qua cây phật tang chưa, giống như tiếng khóc của cô gái”.

Tôi dừng bước: “Cô muốn nói gì?”.

Cô ta nhìn tôi, quay đầu đi, giọng cố trang nghiêm nhưng vẫn mang nét ngây thơ:

“Có thể cô sẽ cảm thấy tôi rất đáng ghét, nhưng bất luận cô ghét hay không tôi đều muốn nói, giống như câu chuyện hoa phật tang, người đời không thể dung thứ tình yêu không môn đăng hộ đối, nhất định sẽ xảy bi kịch”.

Cô ta mím môi, ngước nhìn tôi

“Từ thượng cổ đến nay đều như thế, cô và Mộ ca ca cũng vậy. Cô không xứng với Mộ ca ca”.

Cạnh con đường đá có tiếng nước chảy róc rách, ánh nắng sớm xiên qua tán lá nhảy nhót trên mặt đường lát đá xanh. Thực ra tôi cũng biết mình không xứng với Mộ Ngôn. Không phải là khoảng cách về thân phận, mà là khoảng cách giữa sống và chết, suy cho cùng tôi chỉ là xác chết sống nhờ viên giao châu, một tồn tại trái quy luật tự nhiên, còn chàng vẫn là người sống đàng hoàng.

Nhưng lòng biết là một chuyện, bị người khác nói ra thực sự khó nhẫn nhịn, nhưng càng những lúc như vậy càng phải bình tĩnh. Tôi trấn tĩnh nhìn cô ta, thong thả nói:

“Chàng nói chàng thích tôi, chỉ cần chàng thích là chúng tôi tương xứng”.

Doãn Đường hơi xúc động:

“Đó là bởi vì cô không biết Mộ ca ca xuất sắc thế nào”.

Cô ta đỏ mặt

“Mộ ca ca xuất sắc như vậy, nhất định chỉ có một công chúa cũng xuất sắc như thế mới xứng với chàng. Mà công chúa đó thế gian chỉ có một, đó là Quỳnh Hoa tỷ tỷ của tôi”.

Tôi kinh ngạc nhìn cô:

“Tỷ tỷ của cô là Đường quốc Quỳnh Hoa công chúa? Vậy cô là…”.

Cô ta cũng sững ra, như sực nhớ vừa rồi lỡ miệng làm lộ thân phận, cắn môi hồi lâu, đột nhiên ngẩng đầu:

“Chắc cô cũng đoán ra, tôi là Dục Đường, công chúa út của Đường quốc”.

Cô dừng lại

“Cái đó cũng chẳng có gì ghê gớm, tôi không muốn dùng phân phận để ép cô, nhưng vương tỷ của tôi từ nhỏ đã thích Mộ ca ca, tôi không lớn lên trong vương thất không biết Mộ ca ca thế nào, còn thấy lạ vì sở thích của vương tỷ, nhưng tháng trước Đường quốc gặp nạn, Mộ ca ca…”.

Nói đến đây mặt cô ta bỗng ửng đỏ, cô ta phẫn nộ nhìn tôi

“Nói với cô những chuyện đó cũng chẳng ích gì, cô chỉ cần biết, vì bản thân chàng, Mộ ca ca sẽ biết nên thành thân với ai thì tốt. Cô không giống chúng tôi, không biết thân ở ngôi cao, hôn nhân tượng trưng cho cái gì, cô chẳng giúp gì cho chàng, gia tộc chàng cũng không cho phép chàng lấy cô, những cô gái như cô trong thiên hạ không thiếu, nhưng Đường quốc Quỳnh Hoa công chúa thiên hạ chỉ có một. Bất luận thế nào kết cục cũng là chia ly, tại sao không chấm dứt sớm đi? Cô cũng muốn có kết cục như hoa phật tang sao?”.

Lời cô ta thực ra rất có lý, tôi vốn định nhân buổi đẹp trời hoa nở chim ca, tâm trạng mọi người đều tốt, thuyết phục cô ta không ngờ cuối cùng lại thành ra tôi bị cô ta thuyết phục.

Trở thành Quân Phất đã lâu, dường như gần quên mất, hôn nhân chốn vương thất đa phần bị bóp méo, mọi người đều cho rằng hôn nhân nhất định phải đổi được cái gì.

Mặc dù tôi không phản đối liên hôn vương thất vì lợi ích quốc gia, giống như Thẩm Ngạn và Tống Ngưng năm xưa, nhưng thầm nghĩ, một quân vương có trách nhiệm không nên dựa vào hy sinh hôn nhân để đổi lấy lợi ích quốc gia, liên hôn là thủ đoạn chính trị không cần thiết.

Giá trị của công chúa, vương tử lẽ nào chỉ có thế, yêu cầu của quốc gia đối với họ cao hơn thế nhiều, mọi người có thể nỗ lực theo hướng khác.

Nhưng những lời đó cho dù nói ra cũng không thuyết phục được vị công chúa này, tôi nghĩ thực ra cô ta nói đạo lý lớn lao với tôi, chẳng qua là bởi vì cô ta thích Mộ Ngôn, không tiện nói ra, nên mượn cớ môn đăng hộ đối, nhất định mượn danh nghĩa tỷ tỷ của cô ta.

Cô ta nhìn tôi hỏi: “Sao không trả lời, cô đang nghĩ gì?”.

Tôi cười:

“Tôi đang nghĩ, một cô gái như tôi quả thật rất nhiều, không có gì đặc biệt, Quỳnh Hoa công chúa của Đường quốc quả thật chỉ có một. Nhưng trên đại lục này không chỉ có một công chúa”.

Tôi biết nói thế nhất định cô ta sẽ nổi giận, quả nhiên cô ta nổi giận, nghiến răng kèn kẹt hồi lâu, cười khẩy:

“Ngoài Văn Xương công chúa Diệp Trăn của Vệ quốc đã tuẫn tiết, đại lục này tuy nhiều công chúa nhưng ai có thể túc trí đa mưu sánh bằng vương tỷ tôi? Nếu cô từng nghe danh Quỳnh Hoa công chúa thì chắc biết Đường quốc coi vương tỷ như viên minh châu, nếu vì cô mà khiến Đường quốc công chúa phải chịu nhục, chính là khiến quốc thể Đường quốc chịu nhục, Đường quốc quyết không cam lòng, quan hệ Đường – Trần nhất định xấu đi, một trận ác chiến là khó tránh. Còn cô không những không thể giúp Mộ ca ca, trái lại khiến chàng rơi vào khốn cảnh, cô không áy náy sao?”.

Tôi cảm thấy kinh ngạc, cô gái trước mặt đích thực là quốc sắc thiên hương, cho dù nóng giận trong giọng nói cũng có vẻ rất ngây thơ, nhưng lời nói ra lại không giống công chúa một nước chút nào, không biết cả ngày cô ta nghĩ gì.

Tôi quay đầu đứng thẳng nhìn cô ta:

“Vương tỷ của cô quý là bởi thân phận công chúa, nhưng có biết thế nào là công chúa không, thân là do phụ mẫu sinh ra, nhưng nuôi dưỡng nên người là muôn dân thiên hạ. Một cuộc chiến tranh phải trả giá bằng tính mệnh muôn dân, lẽ nào có thể khinh suất phát động? Con dân thiên hạ hiến dâng tính mệnh là để bảo vệ mỗi tấc quốc thổ dưới chân chứ không phải vì tình yêu của một cô công chúa ngu ngốc. Tôi chưa bao giờ thấy một cuộc chiến tranh ấu trĩ như thế, cũng chưa từng thấy một công chúa khiến mẫu quốc xấu hổ như thế”.

Cô ta sững người nhìn tôi, lát sau cơ hồ suýt khóc:

“Cô có tư cách gì nói tôi như thế, tôi phải đi tìm Mộ ca ca, xem có thật chàng bằng lòng vì cô mà làm xấu đi quan hệ với Đường quốc chúng tôi. Thực ra sao chàng có thể thích cô, ngay đến thân phận thực sự của mình chàng cũng không cho cô biết”.

Đột nhiên cảm thấy có thứ gì trào ra cổ họng, vẫn cố nói “Im miệng” nhưng thứ đó đã tràn ra miệng, tôi sững người nhìn máu phun trên mặt đất, nhưng không ngăn được chất đó trào ứ trong cổ họng, vừa há miệng máu lại phun đỏ đất. Dục Đường kinh hoàng trố mắt, tôi lau miệng, nói sẵng:

“Chưa bao giờ nhìn thấy máu sao. Không được nói gì với Mộ Ngôn”. Lời chưa dứt đã ngã lăn ra và ngất đi.

Đối với tôi tất cả chỉ trong chớp mắt, khoảnh khắc lúc mất đi ý thức tôi đã hiểu đang xảy ra chuyện gì. Khi xuống núi, Quân sư phụ đã dặn tôi, viên giao châu kế mệnh cứ mười tháng sẽ có ba ngày trập phục, trong ba ngày đó mọi pháp lực đều bị thu hồi, lúc đó tôi hoàn toàn giống một người đã chết, phải đề phòng kẻo bị người ta đem chôn.

Tính ra viên giao châu đã ở trong người tôi vừa tròn mười tháng, tôi lại quên mất chuyện này, khi ý thức vừa khôi phục, tôi kinh hãi nghĩ, liệu người ta có cho tôi vào quan tài đóng chặt chuẩn bị đem chôn.

Đó là dự đoán tình huống xấu nhất, nhưng không ngờ vừa mở mắt, lại thấy đang nằm trong tay Mộ Ngôn. Tôi đã sợ cứng người, nhìn đôi mắt nhắm nghiền của chàng, hàng mi hơi khép, khuôn mặt nhìn nghiêng trắng lạnh, trông chàng lúc này cũng giống một người chết.

Lát sau, tôi run run lay chàng, nghe thấy giọng mình khản đặc không ra tiếng, se sẽ như gió lùa qua tán lá:

“Mộ Ngôn, chàng sao thế?”.

Vừa nói xong, bàn tay kia đã bị nắm chặt, tôi còn đang thấp thỏm lo âu đã thấy chàng mở mắt, dưới ánh đèn vàng vọt, đôi mắt lặng như mặt hồ của chàng lóe sáng:

“Cuối cùng em đã tỉnh rồi? Hay là…”. Chàng ngừng lại, “… ta vẫn đang mơ?”.

Tôi không hiểu gì, nhìn đôi mắt chàng vừa lóe sáng lại tối sẫm mông lung, đột nhiên hiểu ra, gắng mỉm cười nhưng không cười được.

Tôi đã quên một việc quan trọng, không nói trước để chàng yên tâm, chàng nhất định tưởng tôi đã chết.

Ngực tắc nghẹn, tôi ngây người nhìn chàng, khuôn mặt kề sát lại mỗi lúc càng nhòa đi, tôi giơ tay lau nước mắt, còn chưa kịp lau, nước mắt đã trào ra rơi xuống môi chàng.

Chàng sững người, ánh sáng đã trở về trong mắt chàng, dùng tay lau nước mắt trên má tôi, rất lâu, rất lâu, lâu đến mức đủ thời gian cho một hạt nảy mầm:

“A Phất, em tỉnh rồi?”. Giọng chàng như nói thầm.

Tôi bám lấy cánh tay giơ ra lau nước mắt cho tôi, cắn môi hỏi chàng:
“Em làm chàng sợ phải không?”.

Chàng để tôi nằm trên ngực mình, ánh nến mờ mờ sau bức bình phong, những ngón tay thon mảnh ấm áp của chàng vuốt ve đuôi mắt tôi, đầu ngón tay như tỏa hương mai thanh khiết. Ngón tay run run dừng trên đuôi mắt tôi, giọng lại vô cùng bình tĩnh:

“Tôi biết, em sẽ tỉnh lại, em không nỡ xa tôi”.

Tôi vẫn gục lên ngực chàng, như một cô gái e lệ, nghe vậy lập tức phản bác:

“Chàng nói bừa”.

Nhưng lòng thầm tán đồng, chàng nói đúng, tôi không muốn xa chàng. Chàng ngừng lại, khẽ nói:

“Thật ư? Tôi đi hỏi Quân Vỹ rằng em có ước nguyện gì, anh ta bảo em muốn lấy tôi, từ nhỏ em đã muốn lấy tôi”.

Tôi bỗng căng thẳng, toàn thân cứng đờ như khúc gỗ. Lát sau, hơi nhướn cằm nhìn vào đôi mắt cười lấp lánh của chàng, nghe thấy giọng chàng:

“Em bắt đầu thích tôi từ bao giờ?”.

Mặc dù bối rối, nhưng chỉ thoáng qua, sau đó nỗi tủi thân âm thầm bao năm bỗng ập đến, tình yêu day dứt âm ỉ, đến chết cũng không phai, cuối cùng chàng đã hỏi câu đó, nước mắt vốn đã kìm được lại một lần nữa ứa ra. Tôi cắn môi, nghẹn ngào:

“Chàng còn nhớ ba năm trước trên núi Nhạn Hồi, chàng đã cứu sống một cô bé bị rắn cắn, cô ấy đã tặng chàng bức tranh dùng cành cây vẽ trên mặt đất”.

Tôi chỉ vào người mình, “Cô bé ấy là em”.

Nói xong, mắt cay sè, đỏ hoe, tôi vội giơ tay chẹn lên mắt, hít một hơi cố ép nước mắt vào trong, gắng nói hết câu:

“Từ lúc đó em đã thích chàng, tìm chàng suốt ba năm, tìm mãi, tìm mãi, nhưng không tìm thấy”.

Nước mắt như suối tuôn qua kẽ ngón tay, nỗi buồn bị nén chặt như bật ra, không thể kiềm chế. Từ lần gặp đầu tiên trên núi Nhạn Hồi đến phút cuối cùng trước khi chết, ba năm tìm kiếm đằng đẵng. Trong hồi ức toàn những hình ảnh đẹp, nhưng sự tuyệt vọng tủi hờn chỉ một mình tôi biết.

Tôi che mắt vùi đầu vào ngực chàng:

“Bao người đến cầu thân, phụ thân muốn gả em đi, nhưng em không đồng ý, em phải tìm được chàng. Bức tranh tặng chàng em đã nhờ người ta khắc lên giường đá trong hang, em nghĩ nếu có một ngày chàng trở lại hang núi đó, nhìn thấy bức tranh sẽ biết cô bé ấy đang đợi chàng”.

Nước mắt lọt qua khẽ ngón tay, làm ướt ngực áo chàng, tôi sịt mũi ngẩng đầu, xua đi những hồi ức và tâm trạng bi thương, dùng tay áo lau nước mắt, cố mỉm cười:

“Cũng may, cuối cùng em đã tìm được chàng”.

Chàng lặng lẽ nhìn tôi, khiến tôi bắt đầu lo lắng, nhưng chàng chỉ im lặng gỡ dải lụa buộc tóc của tôi. Mái tóc xõa xuống, tôi thấp thỏm nghĩ vừa rồi có nói câu nào sai, còn chưa kịp nghĩ ra đã bị kéo xuống, đầu đặt nghiêng trên chiếc gối mặt đối mặt với chàng, chiếc chăn dày chèn chắc sau lưng, người tôi quả thực lạnh, nhưng lại không thấy lạnh.

Tay trái chàng chống đầu, tay phải vuốt ve tóc mai tôi, lát sau khẽ nói:

“Những điều em nói tôi vẫn nhớ, lúc đó tôi thấy em vẫn còn là một đứa trẻ, chớp mắt em đã lớn như vậy, có thể thành hôn cùng tôi”.

Tôi gối đầu trên gối sứ, tay nắm ngực áo chàng, thầm nghĩ, chàng vẫn nhớ, vậy là chàng vẫn nhớ, không kìm nổi sung sướng hôn lên cằm chàng. Hôn xong mới biết mình vừa làm gì, bỗng giật mình nghĩ tới câu chàng vừa nói, có phải chàng vừa nói, tôi có thể thành hôn với chàng?

Tôi sững người, nhổm dậy nhìn quanh, kinh ngạc nhận ra chiếc giường đang nằm lúc này không phải là chiếc giường ở phòng tôi, giơ tay vén bức màn sa trắng thêu nổi những bông hoa phù dung, đập vào mắt là chiếc bục nhỏ trước giường bằng gỗ hồng đàn, bên ngoài là một bức rèm khác màu đỏ.

Màn vén ra, ánh nến sáng hơn, nhìn rõ hai giá nến long phượng lờ mờ sau bức rèm đỏ.

Tôi khó nhọc quay đầu, Mộ Ngôn gối đầu lên cánh tay nhìn tôi, lúc này tôi mới nhận thấy chàng vận đại hỉ bào đỏ chói, mái tóc đen lấp lóa trên chiếc gối sứ trắng, nửa người đắp chăn đỏ thêu đôi uyên ương nghịch nước, trên ngực áo một đám đỏ thẫm ươn ướt, rõ ràng là nước mắt tôi. Qua cửa màn hé mở, khắp phòng là màu đỏ. Tay run run, tôi ôm lấy ngực, cảm thấy thứ bên trong lồng ngực mình nảy rất mạnh, nhất định là ảo giác, tôi nhắm nghiền mắt, thầm nghĩ sao có thể, đang mơ hồ lại bị kéo xuống gục lên ngực chàng, giọng ai thanh thanh, vẻ trêu chọc quen thuộc vang bên tai: “Nếu ngượng cũng muộn rồi, tôi đã phải ôm em đi qua bốn đình bia, hành đại lễ bái thiên địa, một trăm năm sau em nhất định sẽ được táng trong mộ phần của Mộ gia”.

Tôi vẫn nhắm mắt, mặt vẫn áp lên ngực chàng, nghe thấy tiếng nói run run của mình: “Nhưng, nhưng…”.

Chàng lặp lại: “Nhưng?”.

Tôi vòng tay ôm chàng, mãi mới nói được: “Tại sao?”.

Chàng trầm mặc một lát, khẽ nói: “Tôi không còn cách nào khác”.

Tôi không hiểu, ngẩng đầu hỏi chàng: “Chàng nói gì?”.

Chàng cau mày, giọng lơ đãng:

“Một trang hảo hán cho dù bất tài, ít nhất cũng phải giữ được hai thứ, mảnh đất dưới chân và người đàn bà trong lòng mình”.

Ngừng một lát, chàng thong thả nói tiếp:

“Lúc đó em bất động nằm trước mặt tôi, mà tôi lại không biết làm thế nào”.

Tôi suy nghĩ một lát, hơi nhổm người, chăm chú nhìn vào mắt chàng:

“Chàng không có gì là không làm được”.

Cùng nhìn nhau một lát, nụ cười ngập tràn trong mắt chàng:

“Phải, quả thực không có gì tôi không làm được”.

Tôi ngây ra:

“Chàng thiếu khiêm tốn quá, lúc này người ta thường khiêm tốn một chút, sẽ nói đại loại như thực ra cũng không vạn năng đến thế, rất nhiều sự việc không thể nào kiểm soát được, phải nói như thế chứ…”.

Chàng thản nhiên: “Em lại định làm gì?”.

Tôi lại gục xuống ngực chàng: “Sau đó có thể em sẽ dịu dàng an ủi chàng”.

Chàng khẽ cười: “Vẫn như ngày trước, vẫn trẻ con như thế”.

Tôi phụng phịu: “Chàng chê em hả?”.

Chàng khẽ cười: “Cũng tạm”.

Tôi nghiêm giọng: “Nếu chàng dám chê em, em cũng chê chàng”.

Chàng cười: “Nói xem, em định chê ta thế nào?”.

Tôi nghĩ mãi, quả thực không biết chê chàng thế nào, ngẩng mặt lừ mắt nhìn chàng, nhưng lại không có sức uy hiếp chút nào, thầm nghĩ, thôi không nên tính toán với người ta, định khuyên người ta ngủ trước, chính sự ngày mai hẵng hay, thì đã bị người ta kéo lại, đặt tay lên eo, nhẹ nhàng xiết vào người.

Giọng nói nhẹ như tiếng gió đùa tơ liễu vang bên tai:

“Lúc đó tôi đã nói với em, mọi chuyện đã có tôi, em chỉ cần sống đến lúc tôi tìm ra cách nào đó, em còn nhớ không?”.

Tôi không biết chàng hỏi câu đó làm gì, chỉ nói:

“Lúc đó em đã đồng ý với chàng”.

Chàng cười, để tay lên ngực tôi:

“Phải nhớ ở chỗ này, trước khi tôi tìm ra biện pháp, phải sống thật tốt, em là vợ của tôi, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của người vợ, tuyệt đối không được chỉ nói suông như trước”.

Tôi nằm trên ngực chàng, gật đầu lia lịa, nhưng lại thấy không ổn, tôi luôn nói lời giữ lời, chỉ nói suông lúc nào? Nhưng tôi không biết chàng có thể làm gì để cho tôi sống, có lẽ chàng tưởng tôi chỉ không có hơi thở không có cảm giác, khác với người sống bình thường chỉ là do luyện Hoa Tư dẫn mà thành.

Tôi không thể nói với chàng, kỳ thực tôi đã chết, cho dù nhảy nhót trước mặt chàng cũng là do viên giao châu mà thôi, có lúc muốn chàng biết, nhưng có lúc muốn chàng vĩnh viễn không biết.

Cứ nằm như vậy, tôi thiu thiu sắp ngủ, chàng vén mái tóc tôi xõa xuống trán, ngón tay dừng lại ở đó, giọng nhẹ nhàng:

“Có một số chuyện tôi mãi chưa hỏi em, không phải tôi không muốn biết”.

Nghe vậy tôi đã tỉnh ngủ một nửa, bỗng thấy căng thẳng. Đúng là giấu chàng quá nhiều, nhưng những gì giấu giếm, không chuyện nào có thể kể cho chàng nghe. Tôi khẽ nói:

“Muộn rồi, em buồn ngủ…”.

Mọi lần nếu tôi nói vậy, nhìn chung chàng sẽ chiều theo, nhưng lần này lại như không thấy sự phản kháng của tôi, chàng nâng cằm tôi lên để tôi có thể nhìn rõ chàng. Lát sau, chàng khẽ nói:

“Tôi là người nước Trần, em là người nước Vệ, Trần đã tiêu diệt Vệ, A Phất, em có hận tôi?”.

Tôi thở phào, thì ra là chuyện này, may quá.

Trước nay Quân Vỹ luôn lo sợ điều đó, nhưng quả thực chẳng có gì đáng lo, giả sử tôi chưa tuẫn tiết cùng Vệ quốc, vẫn là một công chúa vong quốc, để không có lỗi với những binh sĩ đã xả thân vì đất nước, về tình về lý đều không nên giao hảo với nước Trần.

Nhưng Vệ quốc công chúa Diệp Trăn đã chết.

Tôi chưa bao giờ hối hận năm xưa đã nhảy từ trên tường thành xuống, cũng không cảm thấy chuyện đó có gì cao quý, họ Diệp thống trị Vệ quốc tám mươi sáu năm, cuối cùng bị mất ở triều đại phụ thân tôi, xã tắc sụp đổ một cách bình an, còn uy danh vương thất tạo lập hơn tám mươi năm tiêu tan mây khói, họ Diệp vốn không còn mặt mũi nào sống trên đời.

Mặc dù không hiểu tại sao trừ tôi, mọi người dường như sống rất bình an. Về sau cũng nghĩ ra, suy nghĩ của tôi và họ khác nhau, những gì tôi coi trọng chưa hẳn người khác coi trọng, mà cũng chưa hẳn tôi đúng, họ sai, chỉ là mỗi người sống trên đời đều có nguyên tắc riêng.

Quân sư phụ cứu sống tôi, đặt cho tôi cái tên Quân Phất, hy vọng tôi quên hết mọi sự trong cuộc đời trước. Những chuyện không vui, những trách nhiệm không phải gách vác có thể quên, nhưng những ký ức đẹp, những tình cảm lưu luyến tại sao phải quên.

Nếu trở thành Quân Phất mà phải quên Mộ Ngôn, sống trở lại như một tờ giấy trắng, giống như hồn ma được nhập vào thân xác khác, như thế cho dù sống lại thì cũng có ý nghĩa gì. Nghĩ đến đó bỗng hiểu ra tâm tư của Công Nghi Huân, những hồi ức đẹp nên nhớ suốt đời.

Mộ Ngôn hỏi tôi có hận chàng, vẻ mặt lại nghiêm túc như vậy, ngẫm nghĩ cảm thấy hơi ngạc nhiên, tôi nép sâu vào lòng chàng:

“Chàng rất để tâm chuyện nước Trần diệt Vệ phải không?”.

Chàng không nói gì.

Tôi trầm ngâm:

“Kỳ thực nếu Vệ đủ mạnh, mà Trần lại yếu nghèo, Vệ cũng nhất định tìm thời cơ thôn tính Trần, mặc dù em chưa từng trải cũng hiểu quan hệ giữa hai nước Trần, Vệ không đơn giản như thiên hạ nghĩ, Vệ không thể tồn tại, không phải do trời vô đạo, mà do Vệ vương thất bất nhân, không phải Trần cũng sẽ là nước khác đến thôn tính. Mọi sự bại hoại đều từ trong mà ra, ngoại nhân suy cho cùng chỉ là thúc đẩy, mặc dù mất nước khiến người đau lòng nhưng cũng khó trách Trần, trong thời loạn thế quần hùng tranh bá như vậy, chàng là tướng quân Trần quốc, dốc sức vì mẫu quốc, binh sĩ Vệ quốc cũng xả thân vì xã tắc, mỗi người đều có bổn phận riêng, không thể nói người này đúng, người kia sai”.

Nói xong cảm thấy tư thế nằm không thoải mái, đang định ôm chàng nhích lên một chút, ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt chàng:

“Vừa rồi em nói tôi là ai?”.

Tôi vẫn nhích lên chút nữa, liếc trộm chàng, đắn đo:

“Tần Tử Yên nói chàng là tướng quân chinh phạt, giết tướng phá thành, em biết nước Trần có một danh tướng hiển hách cũng họ Mộ, tên là Mộ Tuy Phong, là chàng ư?”.

Tôi mạnh dạn ôm cổ chàng

“Nhưng em vẫn thích gọi chàng là Mộ Ngôn, đó là cái tên chàng nói với em”.

Ngón tay chàng sục vào tóc tôi:

“Vậy còn Trần thế tử Tô Dự, em không hận tướng soái dưới trướng anh ta, cũng không hận sĩ tốt trong tay anh ta nhưng em hận anh ta gây ra cuộc chiến đó ư?”.

Tôi trầm ngâm một lát:

“Muôn dân Vệ quốc sống lầm than nhưng vẫn một lòng chống lại sự tấn công của Trần là bởi vì họ hiểu nỗi thống khổ nhục nhã của nô lệ mất nước. Mặc dù cuối cùng Tô Dự thắng, anh ta có thể tùy ý xử lý Vệ quốc, nhưng em thầm mong muôn dân Vệ quốc có thể sống khá hơn dưới sự cai trị của anh ta. Tuy nhiên, có lẽ đó chỉ là hoang tưởng, lịch sử chưa có tiền lệ như vậy, người dân mất nước xưa nay đều gánh chịu đủ mọi sự ức hiếp nhục nhã, bị đối xử thấp hơn so với dân bản quốc”.

Tôi nói xong lại cảm thấy buồn, nói:

“Sao chúng ta lại bàn quốc sự trong đêm tân hôn, mặt dù em chưa thành hôn, nhưng cũng không nghe nói đêm động phòng phải bàn chuyện đó, chàng đừng cho là em không biết gì mà làm bừa”.

Rồi lại nghĩ, khó khăn lắm mới được thành hôn, bao nhiêu nghi lễ quan trọng lại không được chứng kiến, mặt nhăn nhó

“Mà những nghi thức long trọng đó em đều không nhìn thấy, tỉnh lại đã nằm trên giường, chẳng có chút cảm giác tân nương gì hết”.

Chàng không phản bác, lại nhiệt thành hôn trán tôi, không trả lời câu hỏi của tôi

“Một ngày khác tôi sẽ bù cho em”.

Tôi ôm chàng, yên tâm gật đầu: “Được rồi, cho chàng nợ”.

Ánh nến nhạt dần, nghĩ là nến hỉ sắp cháy hết, mơ màng nghe thấy tiếng chàng nói khẽ:

“Ta nghe nói đêm tân hôn, nếu nến long phượng cháy hết, đôi phu thê đó sẽ bình an sống đến bạc đầu”.

Tôi ngẩn người lập tức nhổm dậy.

Chàng ấn xuống: “Đang ngoan lại sao thế?”.

Tôi vẫn một mực nhổm dậy vén màn, vừa ngoái đầu lườm chàng:

“Em đi giữ lửa, sao chàng không nói sớm, ngộ nhỡ nến tắt thì sao. Ấy, buông em ra”.

Nhưng chàng không buông:

“Sắp cháy hết rồi, nhiều nhất không quá mười tiếng đếm nó sẽ tắt, không tin em đếm đi”.

Tôi đếm nhẩm đến mười, quả nhiên chưa đếm đến mười, trong phòng đã tối om, tôi không tin truyền thuyết đó nhưng vẫn yên tâm nghĩ, nến long phượng đã cháy hết, dù tương lai bất luận thế nào, đây cũng là một điềm lành, sẽ mang đến dũng khí và an ủi cho người ta những lúc khó khăn.

Tôi ôm cổ Mộ Ngôn, lòng rất vui, hỏi chàng:

“Này, nói thật đi, chàng bắt đầu thích em từ bao giờ?”.

Chàng ngập ngừng: “Nói thật là tôi không muốn nói”.

Tôi nhổm dậy: “Không thẳng thắn chút nào, không muốn thành hôn sao!”.

Chàng không kéo tôi lại, thong thả nói:

“Đã thành hôn rồi, bây giờ là động phòng. Em về cũng tốt, kẻo đêm nay tôi ngủ không yên”.

Tôi quay lại, lao lên người chàng, ra sức dụi đầu vào ngực chàng:

“Vậy em không đi nữa, để chàng ngủ không yên”.

Chàng không trả lời, tôi hiếu kỳ dụi tiếp, nghe thấy giọng nén nhịn của chàng trên đầu: “Xuống đi”.

Tôi nghĩ một hồi, bỗng nghĩ đến điều gì, mặt đỏ bừng, nhón chân nhón tay khẽ khàng trèo xuống. Tự đấu tranh trong lòng một hồi, lại áp đến hôn lên mắt chàng, lại còn dùng lưỡi liếm láp, tỏ ý an ủi.

Vốn định hôn xong sẽ lùi vào góc tường ngủ thì bị chàng tóm được, tôi giương mắt nhìn đôi môi mỏng mím thành một đường cong như cười của chàng, từ từ áp lại, ép vào môi tôi hôn thật mạnh, hôn mãi, thong thả nói:

“Em lại dám”.

Tôi mới tỉnh lại, cơ thể còn yếu, chàng nhất định không dám, tôi cảm thấy lúc này không dám còn đợi lúc nào, nhưng nhìn thấy ánh mắt lặng sóng của chàng, liền tủi thân lăn vào một góc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 5

Mặc dù chuyện tôi tỉnh lại khiến bao người kinh ngạc nhưng không ai phát hiện ra bí mật của tôi, mấy ngày sau cũng không bàn tán gì nữa, còn mang quà đến với đủ kiểu danh nghĩa.

Bách Lý Tấn đến thăm tôi, nói bao nhiêu lời tốt đẹp chẳng đâu vào đâu. Cuối cùng như nhớ ra chuyện gì, gãi đầu nói: “Đã chuẩn bị lo hậu sự, mời đến những đầu bếp có tiếng nhất Bối Trung, ai ngờ cô tỉnh lại, đành mời họ ra về”.

Giọng có vẻ luyến tiếc, như muốn tôi lại chết lần nữa. Nghe anh ta than vãn một hồi, tôi lặng lẽ rót trà cho khách. Bách Lý Tấn “à” một tiếng giơ tay đón, hai tay lại cứng đờ dừng trên không, rồi run run đặt cốc trà cạnh mép bàn, vừa gượng cười vừa đi giật lùi ra phía cửa, chớp mắt đã mất hút sau cánh cửa.

Mộ Ngôn ngồi bên xem sách thong thả liếc lại: “Độc dược trong nước trà hình như cho hơi nhiều”.

Tôi nhìn nước trà vẫn giữ nguyên màu trong cốc, ngạc nhiên: “Rõ ràng Quân Vỹ nói với em đây là độc dược không mùi không vị, sao chàng biết em cho cả gói?”.

Chàng trầm ngâm một lát: “… Lượng độc nhiều, làm nước trà hơi sáng màu”.

Tôi phiền não ôm đầu.

Thấy tôi ủ rũ, chàng buông sách giả bộ vui vẻ hỏi: “Là loại độc gì?”.

Tôi bỗng hứng thú giải thích: “Là thuốc xổ”.

Mộ Ngôn: “…”.

Nghỉ ngơi ba ngày trong phòng, tôi đã bình phục hoàn toàn, Mộ Ngôn đồng ý cho tôi xuống giường, có lúc Tiểu Hoàng cũng đến chơi với tôi một lát, nhưng thường lại bị Mộ Ngôn đuổi thẳng, khiến nó nhìn chàng với ánh mắt thù hận ra mặt, vừa nhìn thấy chàng là tiu nghỉu ngoẹo đầu ngoẹo cổ, chỉ có dùng gà rán mới mua chuộc được nó.

Khi không có gà rán để gặm, Tiểu Hoàng tỏ ra chán ngán, trước đây không có tôi thì Quân Vỹ chơi với nó, nhưng bây giờ Quân Vỹ đang ngủ bù, không có thời gian để ý đến nó.

Về chuyện Quân Vỹ ngủ bù, nói ra thì dài, bí mật về viên giao châu trập phục tôi tưởng Quân Vỹ cũng biết, bây giờ mới phát hiện hóa ra anh ta không hề biết.

Nghe Bách Lý Tấn nói loáng thoáng, trong ba ngày tôi hôn mê, Quân Vỹ rất buồn, đêm nào cũng ngồi thừ đến sáng, khi tôi tỉnh lại, vừa lăn lên giường là ngủ liền ba ngày, Bách Lý tiểu đệ hỏi tôi suy nghĩ gì về chuyện này. Tôi còn có suy nghĩ gì, chỉ thấy Quân Vỹ rất tốt, rất tình nghĩa.

Quân Vỹ ngủ đúng ba ngày, nhưng sau khi ngủ đủ, tinh thần cũng không khá hơn, sang ngày thứ tư, mới sáng sớm đã xuất hiện ở tiểu viện của tôi, bộ dạng thiểu não như bị chà đạp cả trăm lần, sắc mặt xanh xám, môi tím nhợt, mắt vô thần.

Tôi kinh ngạc nhìn anh ta hồi lâu: “Quân Vỹ…”.

Quân Vỹ nhìn tôi mấy lượt từ đầu xuống chân, ngước mắt: “A Phất, lấy anh ta muội có vui không?”. Giọng nói thoảng như làn gió, như lập tức bay mất.

Tôi không biết có phải Quân Vỹ đang mộng du, nghĩ đến những chuyện kể đáng sợ về mộng du, tôi rùng mình, không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.

Anh ta lặng lẽ nhìn tôi một lát, chống tay lên trán: “Chúc mừng”.

Tôi vẫn không dám lên tiếng.

Tay anh ta giơ ra, xem chừng sắp chạm vào tóc tôi, lại rụt vội về, giống như chạm phải lửa. Tôi nghi hoặc cố nhướn mắt nhìn món tóc đó, khi ngẩng lên đã thấy bóng anh ta loạng choạng đi xa.

Anh chàng quả nhiên đang mộng du.

Quân Vỹ đi không lâu, Dục Đường công chúa lại đến.

Hình dung ra rất nhiều lý do cô ta đến tìm tôi, đều liên quan đến Mộ Ngôn, kết quả cô ta đến cáo biệt lên đường khiến tôi sung sướng như mở cờ trong bụng. Tuy tôi không thích cô ta, nhưng cũng không ghét đến mức không muốn gặp mặt, mặc dù cô ta làm tôi tức mấy lần, đằng nào tôi cũng trả đũa được rồi, huống hồ cô ta sắp ra đi.

Hai bên mắt to mắt nhỏ nhìn nhau một hồi, tôi hắng giọng, lòng vui khôn tả, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thường, cất giọng nói: “Cô Trúc sơn là thắng cảnh đẹp thế này, công chúa đã sớm bỏ đi như vậy, e hơi đáng tiếc”.

Cô ta gật đầu như rất tán đồng: “Tôi cũng thấy…”.

Tôi hoảng hồn, vội nói: “Có điều, cũng không nên chìm đắm trong hưởng lạc, mọi việc nên lấy đại cục làm trọng, đi lo việc lớn là rất đúng, không giữ công chúa nữa, cô lên đường bình an”.

Cô ta ngây ra hồi lâu, trợn mắt nhìn tôi: “Tôi thì có việc lớn gì, chỉ là…”. Cô ta cắn môi, “ … Tôi từ bỏ”.

Tôi rót trà không nói gì.

Mắt cô ta đột nhiên đỏ lên: “Mộ ca ca mà tôi quen là một người trầm tĩnh, tháng trước Trần quốc trợ Đường kháng Tấn, trong trận chiến ở Lâm Khâu, liên quân Trần, Đường dùng mười vạn quân phá ba mươi vạn địch quân, tin thắng trận báo về Hạo thành, Mộ ca ca đang ung dung pha trà, nghe vậy chỉ cười nhạt, lệnh cho binh sĩ báo tin nói nhỏ một chút, kẻo kinh động trà trong ấm”.

Cô ta phẫn nộ nhìn tôi, “Nhưng lần này, ngay tiểu thánh y Bách Lý Tấn cũng chẩn đoán cô không thể cứu được nữa, chàng lại nhất quyết cùng cô bái thiên địa, bế cô đến bái bốn đình bia. Cô biết không, ở Trần quốc của họ chỉ có phu nhân cưới hỏi đàng hoàng mới có tư cách được phu quân bế đến bái bốn đình bia lễ, hiếu, trung, thứ như vậy”.

Một giọt nước từ đôi mắt đỏ hoe của cô ta lăn ra: “Tôi vốn không đến Cô Trúc sơn ngắm hoa phật tang gì hết, chỉ là khó khăn lắm mới gặp chàng, muốn ở bên chàng. Nhưng tận mắt nhìn thấy chàng bế cô đã chết trên tay đến đình bia…”.

Cô ta dừng lại, dùng ống tay áo lau nước mắt, “Thật không hiểu chàng nghĩ gì, chàng có thể có được những thứ tốt hơn”. Nước mắt giàn giụa, “Nhưng tôi hiểu tôi nên từ bỏ, vương tỷ không được, tôi cũng không được. Chỉ có điều tôi không cam lòng, cô có thích Mộ ca ca thật không? Vì chàng, cô không nên ở bên chàng”.

Tôi lặng lẽ nhìn cô ta, cô gái này có thể còn ít tuổi hơn tôi, cô ta đau lòng như vậy, những giọt nước mắt long lanh dưới ánh mặt trời, giống như bao đêm không tìm thấy Mộ Ngôn, tôi ngồi một mình bên cửa sổ, nước mắt cũng lăn trên má như thế, chỉ có khác không long lanh bởi ánh mặt trời mà nhạt nhòa dưới ánh trăng khuya.

Trong phòng chỉ có tiếng nức nở của Dục Đường, tôi nhìn cốc trà trong tay: “Lần trước cô đã kể cho tôi nghe câu chuyện hoa phật tang, giờ tôi cũng kể cho cô nghe một câu chuyện”.

Cô ta nghi hoặc.

Tôi ngừng một lát thong thả nói: “Ngày xưa có một cô công chúa, cô phải xa người yêu, cô tìm người đó mãi nhưng ông trời không tốt với cô lắm, cho đến lúc chết cô vẫn không tìm được người cô yêu. Lúc cô chết trời đổ một cơn mưa lớn, nước mưa xối trên người cô. Cô thầm nghĩ, đau đớn quá, nếu trước khi chết có thể được gặp chàng một lần thì tốt biết bao, dẫu chỉ đứng nhìn từ xa, công chúa lặng lẽ chết, trong lòng ôm ấp ước nguyện bé nhỏ như vậy”.

Dục Đường ngừng khóc, ngây người nhìn tôi.

Tôi tiếp tục: “Tôi đã nghe rất nhiều lời khuyên như vậy, vì muốn tốt cho chàng, cô nên thế này nên thế kia, nếu không thì không phải thật lòng yêu chàng, nhưng yêu đâu phải là chuyện của một người, tại sao không để hai người được bên nhau, tốt cho cả hai thay bằng chỉ tốt cho một người?”. Tôi ngẩng đầu nhìn cô ta: “Cô đã bao giờ đến chết vẫn không từ bỏ ước nguyện? Không phải chết trong tưởng tượng mà chết thực sự, ước nguyện quay cuồng trong đầu cô khiến cô không thể từ bỏ, không thể quên?”.

Cô ta không trả lời.

Tôi cười: “Nếu có cô sẽ hiểu, có những thứ cho dù phải trả một giá thế nào cô cũng bằng lòng đánh đổi”. Hình ảnh cho đến thời khắc cuối cùng trước khi chết vẫn bám riết trong óc tôi là ảo giác được tạo nên do tôi khư khư bám lấy ước nguyện, chàng trai trẻ vận áo chùng đen cầm chiếc ô sáu mươi tư nan thong thả đi đến, trước ánh mắt nhòe máu của tôi hiện ra một rừng mai trắng.

Hai tay tôi đưa lên ôm ngực: “Tôi rất thích chàng, vì vậy càng phải ở bên chàng”.

“Cạch” một tiếng, chiếc cốc rơi trên bàn trà, cô ta sững người giơ tay định thu dọn, nhưng tay vừa chạm chiếc cốc gốm đổ trên mặt bàn liền vội rụt sâu vào trong ống tay áo, mắt khẽ ngước, trên mặt không còn nét ngây thơ nữa mà bàng hoàng như nghĩ ra điều gì khó tin.

Tôi chờ cô ta phản bác, nhưng không ngờ cô ta lại dễ thuyết phục như vây, cô ta ngồi ngây một lát, không nói gì, đi ra, trước khi đi còn đăm đăm nhìn tôi, ánh mắt đầy nghi hoặc.

Sau khi Dục Đường đi khỏi, tôi thu dọn ấm chén. Lặng lẽ ngồi thần một hồi, thầm nghĩ Mộ Ngôn đi đến chỗ Công Nghi Phỉ không thể một lúc về ngay. Lập tức quả quyết đi giày, đẩy cửa lẻn ra như một tên trộm, thử đi mấy bước trên sân đầy ánh nắng, không thấy ai chạy ra ngăn cản, xem ra những hộ vệ của Mộ Ngôn cũng không bí mật giám sát, tôi tạm yên tâm. Bóng tôi đổ dài trên khoảng sân rộng lát gạch, nhớ lại hồi nhỏ chơi trò giẫm bóng với Quân Vỹ, vậy là nhón chân một mình giẫm bóng mình chơi cũng rất khoái trá.

Đột nhiên phía cổng có tiếng nói vang lên “Đang làm gì vậy?”.

Tôi ngẩng đầu, đắn đo gọi một tiếng: “Mộ ca ca”.

Chân Mộ Ngôn hình như vấp phải vật gì, người hơi chúi về trước, tôi vội làm ra vẻ muốn chạy lại đỡ, may chàng không ngã, chàng đi đến vừa đưa tôi trở về phòng vừa hỏi: “Ai dạy em vậy?”.

Tôi xoa mũi, “Dục Đường chẳng phải gọi chàng như vậy sao?”. Ngoẹo đầu mắt không nhìn chàng, “… lại còn gọi rất thân mật nữa”.

Chàng cười nói: “Quân muội muội”.

Tay tôi hơi run: “A… A Phất là được rồi…”.

Tất cả đều yên ổn, chỉ có Công Nghi Huân khiến tôi lo lắng, tính ra đã nửa tháng không gặp, sau khi tôi tỉnh lại gia nhân của cô mang đến biếu hai củ nhân sâm quý nhưng cô không đến thăm.

Tôi hỏi người hầu, được biết cô vẫn thế, chỉ có điều hầu như không ra khỏi cửa .

Tôi thầm nghĩ, bề ngoài lạnh băng của Công Nghi Huân đâu có dễ để người khác đoán ra tâm trạng, có điều không ra ngoài đã đủ nói lên rất nhiều điều. Nhưng đây không phải chuyện tôi cần lo lắng quan tâm.

Tôi chờ cô đến tìm tôi, nhưng lòng biết, nếu nửa tháng cô không đến nghĩa là sẽ không đến nữa. Xem ra tính hiếu kỳ muốn biết những ký ức đẹp trong cuộc đời trước của cô đã tiêu tan.

Nhưng đúng lúc tôi cảm thấy dường như cô đã hiểu ra, không còn day dứt về cuộc đời trước của mình, an phận sống như bao người thì tối hôm đó, con người tưởng đã nghĩ thông mọi chuyện đó lại đến tìm tôi. Nửa tháng trước cô nói không muốn biết những ký ức không vui, nửa tháng sau cô đứng dưới bóng trăng lặng lẽ nhìn tôi: “Tôi muốn biết, năm xưa rốt cuộc tôi chết thế nào”.

Chuyện này không thể cho Mộ Ngôn biết, nhưng giấu chàng lại không làm được. Thực ra tôi đã khỏe hẳn, có thể hoạt động bình thường nhưng vẫn bị cấm không được thế này không được thế kia, nếu lúc này dám nói định dùng Hoa Tư dẫn giúp người, chàng nhất định không đồng ý. Suy nghĩ một lát, đành tìm Quân Vỹ nhờ giữ chân Mộ Ngôn, để cho tôi và Công Nghi Huân có chút thời gian.

Công Nghi Huân nói muốn biết mình chết thế nào, tôi cũng muốn biết, có gì có thể khiến người ta hiếu kỳ hơn là bí mật của một gia tộc lừng danh? Không ai bằng lòng với một nửa bí mật.

Cơ hội đến rất nhanh, tối hôm sau có sứ giả từ nước Triệu đến, Mộ Ngôn phải nghị sự với họ. Chàng vừa đi khỏi, tôi đã điểm huyệt cô hầu được cử đến phục vụ tôi, mặc áo của cô, lén ra khỏi cửa.

Công Nghi Huân đã chuẩn bị xong xuôi, phải tranh thủ thời gian, vừa lau mồ hôi trán, tôi đã khởi động giao châu đi vào ý thức của cô.

Vừa định bước vào, tay đã bị túm lại. Tôi cứng người quay đầu, cười gượng: “A ha, Mộ Ngôn, chàng cũng tản bộ đến đây sao. Thật khéo”. Nói xong đã thấy ký ức bị phong ấn của Công Nghi Huân hiện ra.

Mộ Ngôn lạnh lùng nhìn tôi, giọng cũng lạnh đến phát run: “Làm thế nào thoát ra được?”.

Tôi nghĩ có lẽ chàng kéo tay tôi đúng lúc viên giao châu đã khởi động, nếu không, sao chàng có thể theo vào, thầm mắng Quân Vỹ vô dụng, cúi đầu nói khẽ: “Khi Công Nghi Huân tỉnh mới thoát ra được”.

Chàng giơ tay ôm trán, “Em đúng là. Không để người ta được yên chút nào”.

Tôi thầm liếc chàng, cảm thấy hình như chàng cũng không giận lắm, lập tức tấn công: “Để người ta được yên không phải là chuyện tốt”.

Chàng không dao dộng: “Lý lẽ vớ vẩn gì thế?”.

Tôi nản lòng: “Chẳng có lý lẽ vớ vẩn nào cả, thân mẫu em luôn để cho người ta được yên, cho nên cha em mới lấy nhiều mỹ nữ như vậy”. Lại bổ sung thêm: “Đằng nào em cũng là người hay sinh sự, hay là sau này chàng cũng lấy thật nhiều mỹ nữ, ngày ngày em cằn nhằn bên chàng, khiến đầu chàng nảy đom đóm”.

Chàng bật cười: “Em định cằn nhằn tôi thế nào?”.

Tôi cân nhắc một lát, buồn bã quay đầu đi: “Nếu có ngày đó, em sẽ bỏ chàng mà đi”.

Chàng cau mày, “Ai cho em nói thế?”. Tôi nheo mắt nhìn chàng, xoa mũi nói: “Chẳng ai hết, nhưng hôm nay chàng cảm thấy em hay sinh sự, nhất định chàng bắt đầu ghét em rồi”.

Nói xong lại quay đi, chàng để cán quạt dưới cằm tôi từ từ nâng lên, giống như những công tử nhà giầu phóng đãng đùa giỡn con gái nhà lành, còn làm bộ hứng thú nhìn tôi một lượt từ đầu xuống chân.

Lát sau, chàng thong thả buông quạt lắc đầu: “Lại giở trò trẻ con gì đây, môi mím thành sợi chỉ rồi, tôi ghét em bao giờ?”.

Tôi lẩm bẩm: “Vậy chàng nói đi, chàng rất bằng lòng để em chạy ra ngoài làm việc này”. Không đợi chàng trả lời, lại bổ sung “Nếu không nói tức là ghét em”.

Chàng nhìn tôi không nói, lát sau mới thong thả phán: “Em rất biết cách đối phó với tôi. Nhưng chỉ lần này thôi, lần sau không được thế”.

Tôi cúi nhìn mũi giày: “Chàng vẫn chưa nói, có phải chàng giận rồi không?”.

Chàng làm bộ lạnh nhạt: “Em nói xem?”.

Tôi sịt mũi, giơ tay định lau nước mắt, tay vừa giơ đã bị chàng nắm lấy: “Thôi, tôi không giận”.

Tôi liếc trộm chàng, thấy ánh mắt chàng di chuyển đến lại vội cúi đầu: “Vậy… vậy chàng gọi em là ‘bảo bối’ nghe nào”.

Vừa nói xong cằm lại bị nâng lên, lần này không dùng cán quạt, mắt chàng như cười: “Em định trêu chọc tôi phải không?”.

“… Bị chàng lật tẩy rồi”.

Mải phân trần với Mộ Ngôn không dám phân tâm quan sát cảnh trước mắt, khi định thần theo dõi ký ức của Công Nghi Huân thì phát hiện đã đến đoạn nửa năm sau lễ cưới của Công Nghi Phỉ và Công Nghi San. Lần trước mới đến cảnh hôn lễ của hai người.

Mộ Ngôn nhìn vẻ bần thần tiếc rẻ của tôi, đứng bên giải thích: “Cũng không có chuyện gì lớn, chỉ là sau khi nạp thiếp Công Nghi Phỉ chuyển ra khỏi phòng tân hôn, từ đó hai người không gặp lại. Còn nữa, Công Nghi San sinh con trai”.

Tôi nghĩ có lẽ chàng không biết chuyện, chần chừ một lát, kể cho chàng nghe nhân duyên của Công Nghi Phỉ và Khanh Tửu Tửu. Một câu chuyện ly kỳ như vậy, chàng lại không ngạc nhiên chút nào: “Họ là ruột thịt, có thể kịp thời nhận ra như thế cũng tốt”.

Tôi không tán thành: “Cũng chưa hẳn đúng là ruột thịt, em lại thấy chuyện này có uẩn khúc”. Ngừng một lát lại tiếp: “Chàng đã được nhìn thấy con bọ ngựa tết bằng cỏ lau, con chim yến cắt bằng giấy bóng vàng chưa?”. Tôi giơ tay phác ra kích cỡ hai món đồ chơi: “Chính là ngày trước Công Nghi Phỉ tự tay làm cho Khanh Tửu Tửu”.

Mắt chàng nhìn phía trước: “Có phải những thứ kia không?”.

Thuận theo ánh mắt chàng nhìn ra, trước mắt là cảnh trăng nước khói phủ, tất cả như ẩn sau màn sương lạnh, những ký ức được phong ấn đang hiện ra cảnh Công Nghi Huân đến thăm Công Nghi San vừa ở cữ, còn con bọ ngựa và con chim yến mà tôi vừa nhắc với Mộ Ngôn đang để trên chiếc bàn nhỏ cạnh đầu giường Công Nghi San.

Công Nghi Phỉ đang ngồi một bên, thong thả mở nắp cốc trà. Hầu nữ Họa Vị tay bưng chiếc hộp đựng một chiếc khoá ngọc chế tác tinh xảo, Khanh Tửu Tửu nghiêng người nhìn đứa trẻ ngủ say, đón chiếc khóa ngọc từ tay Họa Vị để bên cạnh đứa trẻ: “Không có quà gì, đánh một chiếc khóa ngọc bình an tặng tiểu công tử, cốt nhục của Công Nghi gia nhất định phải được chăm sóc thật tốt”. Mắt liếc những món đồ chơi trên bàn, giọng nhẹ nhàng, “Mấy hôm trước Họa Vị thu dọn phòng tìm thấy những đồ chơi này, nó rất đẹp nên mang đến cho tiểu công tử chơi”.

Ánh mắt Công Nghi San thoáng hốt hoảng, cũng phải thôi, ẩn ý những câu nói vừa rồi của Khanh Tửu Tửu dường như rất rõ, vừa như biết hết mọi chuyện vừa như không, Công Nghi San không lo sao được.

Bàn tay Công Nghi Phỉ đang nâng cốc trà dừng lại rất lâu, trong phòng yên tĩnh khác thường, chàng khẽ cười hướng về mấy hầu nữ: “Đại phu nhân đã nói thế, các người còn đứng ngây ra đấy, mau thay nhị phu nhân mang đồ cất đi”.

Tam thê tứ thiếp thường là thế, thiếp bao giờ cũng được sủng ái, Công Nghi San về làm thiếp, vốn không có tư cách gọi là phu nhân, nhưng lúc này Công Nghi Phỉ lại gọi cô là nhị phu nhân, phòng càng yên tĩnh, chỉ có kẻ gây sự vẫn bình thản uống trà, sắc mặt Khanh Tửu Tửu trắng như tuyết, nhưng cũng có thể tôi nhìn nhầm, cô vốn đã trắng, hơn nữa ở khoảng cách hơi xa.

Thời gian nửa năm tiếp theo, cảnh trong ký ức lướt qua rất nhanh. Nhưng con đường sụp đổ của Công Nghi gia từng bước cơ hồ nằm trong tính toán của Khanh Tửu Tửu, con người ta chúng quy cần lựa chọn. Tôi đã đánh giá thấp cô, chưa bao giờ cô quên mình phải làm gì.

Tháng chín mùa thu mát mẻ, Khanh Tửu Tửu được gả vào Công Nghi gia một năm có lẻ, chưa có chuyện gì xảy ra, còn Công Nghi San hưởng phúc nhờ con, sống ở cư gia tộc trưởng như cá gặp nước, mặc dù những người trong cuộc đều biết lai lịch đứa trẻ đó.

Dần dần lan ra tin đồn, nói rằng phụ thân Công Nghi San ngầm liên thủ với các vị trưởng lão trong họ tộc khuyên Công Nghi Phỉ bỏ vợ, với lý do một nửa quyền thế của gia tộc rơi vào tay người đàn bà không thể sinh con nối dõi. Một thời gian, mọi người trong nhà đều nhìn Khanh Tửu Tửu với con mắt thương cảm, nhưng không ai biết chính cô tung ra tin đồn đó.

Mặc dù xem ra nhị thúc của Công Nghi Phỉ luôn nhòm ngó ngôi cao, cũng đích thực muốn đuổi Khanh Tửu Tửu ra khỏi Công Nghi gia, để con gái trở thành chính thê, nhưng trong chuyện này quả thực ông ta bị oan.

Lời đồn quả có sức mạnh ghê gớm, nhị thúc vốn không có động tĩnh gì bức bối bởi lời đồn mới tương kế tựu kế đi trước một bước, ngồi chờ tai họa giáng xuống chi bằng ra tay trước. Trong một đêm mưa to gió lớn cuối tháng chín, Khanh Tửu Tửu khoác áo choàng trắng bước vào cổng lớn cư gia tam thúc lúc này vẫn còn đang để tang con gái.

Âm mưu cơ mật này được thực thi rất nhanh.

Những việc cô muốn làm, việc cô đã làm cuối cùng tôi đã hiểu, mặc dù trước đây cũng dự đoán nhưng lúc này mới tin, quả nhiên cô đến báo thù Công Nghi gia. Từ lợi dụng cái chết của Công Nghi Hàm, khiến hai vị thúc thúc huyết hải thâm thù, đến cưỡng ép buộc Công Nghi Phỉ nạp Công Nghi San làm thiếp, từng bước dẫn tới cục diện hôm nay, tất cả đều được tính toán tỉ mỉ đâu vào đấy.

Người ngoài chỉ biết Khanh Tửu Tửu không sinh được con, còn Công Nghi San được Công Nghi Phỉ sủng ái, rốt cuộc thật giả thế nào không ai biết, họ chỉ cảm thấy người kế vị trưởng tộc sẽ là con trai của Công Nghi San.

Hai vị thúc thúc ngấm ngầm tranh giành đã lâu, nhưng cũng không có xung đột lớn, bởi họ vẫn nhớ câu chuyện ngụ ngôn “cò vạc tương tranh, ngư ông đắc lợi”, dưới sự sắp xếp cơ mật của Khanh Tửu Tửu, Công Nghi gia rõ ràng hình thành hai phe đối lập, hai vị ngư ông đều bị kéo xuống nước. Một người bị cò cướp đi, người kia đến tìm vạc làm hậu thuẫn cho mình.

Tam thúc đồng ý giúp Khanh Tửu Tửu, ở đời, trong thế tương tranh, kẻ này thịnh ắt kẻ kia suy, nhị thúc đắc thế, tam thúc đương nhiên thất thế, huống hồ hai bên còn có mối thâm thù là cái chết của Công Nghi Hàm.

Nhưng tôi nghĩ họ đã bị Khanh Tửu Tửu lợi dụng, họ cho rằng loại bỏ đối phương là mình sẽ đứng đầu, hơn nữa thời cơ cuối cùng đã đến, nhưng lại quên mất đạo lý bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ đi ngay sau, họ không biết có một người đứng ngoài mong đợi họ huynh đệ tương tàn, lại không ai quy định một người đã là ngư ông thì không thể làm chim sẻ.

Hai phe đã tranh giành đến lúc này, nếu tôi là Khanh Tửu Tửu, ôm mối hận như vậy đến nơi này, mục đích chỉ là tiêu diệt Công Nghi gia, sực nhớ tới trận đại hỏa hoạn của Công Nghi gia bảy năm trước, bỗng giật mình, có lẽ cuối cùng cô đã hoán gọi được hộ thần Thiên Hà đó…

Người bỗng cứng đờ, Mộ Ngôn ngồi bên nắm chặt tay tôi, khẽ nói: “Chuyện đã xảy ra, còn lo làm gì cho mệt”.

Tôi dựa vào chàng: “Công Nghi Phỉ nhất định đã tiên liệu được cô ta muốn hủy gia tộc của chàng ta, tại sao không ngăn cản?”.

Chàng cười nói mập mờ: “Có lẽ cái cũ không hủy, cái mới khó nảy sinh”.

Lá trên cây rụng dần, trời chuyển sang đông. Thời gian thấm thoát trôi đi, chớp mắt đã đến ngày mồng bốn tháng chạp, ngày tế tổ của Công Nghi gia, cũng là ngày khởi sự của Khanh Tửu Tửu.

Đêm mồng ba, canh khuya trăng lạnh, Công Nghi Phỉ sau khi nạp thiếp chưa từng quay lại tiểu viện của chính thê giờ lại rẽ hoa, giẫm ánh trăng bước vào viện môn quạnh quẽ. Gió lạnh thổi bật cánh cửa chính đường, trùng trùng rèm sa phấp phới, thấp thoáng nhìn thấy một mỹ nhân ngồi trước đài trang sau những bức rèm, giống như chìm trong màn sương mỏng, toát ra hàn khí yêu dị. Còn bóng hoa in lên cửa sổ trông giống những chữ tròn khéo léo cắt ra từ câu đối.

Gió cuốn cao bức rèm, lộ ra Khanh Tửu Tửu toàn thân xiêm áo đỏ thẫm, cặp mày dài thanh mảnh tựa nét vẽ trên băng, môi hồng, giữa trán điểm một đóa tử kim hoa đỏ chói, ngay đêm tân hôn cũng không thấy cô trang điểm lộng lẫy như vậy.

Tiếng tinh tang phát ra từ bức rèm châu ngũ sắc, trong ánh nến lay động, cô từ từ chìa tay về phía Công Nghi Phỉ sắc mặt dửng dưng đứng ở cửa phòng, cô hơi nhướn mi, ánh mắt dịu dàng xôn xao như sóng.

Công Nghi Phỉ sững sờ, nhưng không bước đến nắm bàn tay chìa ra đó, ánh mắt dừng lại trên gương mặt dịu dàng hiếm hoi của cô, “Đã là canh hai, phu nhân còn chưa ngủ, cho Họa Vị mời ta đến có việc gì gấp gáp?”.

Cô bước ra mấy bước, chiếc váy dài xúng xính sát đất, hơi nghiêng đầu nhìn chàng: “Tôi tưởng đệ không đến, nhưng đệ đã đến, đến rồi cũng không dám nắm tay tôi”. Cô cúi đầu cầm tay chàng, ấp vào ngực mình, nhích dần lên trên, như muốn bàn tay đó ôm ấp má mình, nhưng lại dịch sang bên dừng lại ở tai. Cô đăm đăm nhìn chàng: “Đang run”, trong mắt có gì lóe qua, “… Tôi đáng sợ thế sao?”.

Chàng tẽ từng ngón tay cô, thần sắc dửng dưng thu tay về: “Cô uống nhiều rồi”.

Cô nhìn chàng rất lâu, giơ tay vuốt trán, như đầy nghi hoặc: “Uống say không tốt sao? Lúc nhỏ tôi ở lầu xanh, nhìn thấy khách mua vui nếu thấy cô gái nào bị chuốc say họ sẽ rất vui”. Cô ngẩng nhìn chàng, hơi nghiêng đầu, “Còn đệ, A Phỉ, tôi say rồi đệ có thấy vui không?”.

Trong phòng yên tĩnh, chàng cười khẽ: “Cô muốn kéo tôi quay lại chăng?”.

Đôi môi đỏ của cô hơi mím.

“Tôi đã đoán sai?”. Chàng cười gật đầu, “Phải, sao cô có thể muốn kéo tôi quay lại, ngày xưa tôi thích cô, cô đã phát buồn nôn, hôm nay làm đến nước này, tôi lại cản đường cô ư?”. Nói đoạn bước tới trước đài gương, cầm lên bình rượu bằng ngọc, “Hôm nay muốn chuốc cho tôi say để làm gì? Muốn làm tôi ngủ say như chết, hay là hôn mê bất tỉnh?”. Nhìn ngắm bình rượu trong tay, mặt hiện ra nụ cười kỳ quái, ngoái đầu nhìn cô: “Chắc không đến nỗi định giết tôi chứ?”.

Mặt cô cứng đờ, sắc hồng trên má tiêu tan, chỉ có cặp môi đầy đặn thắm đỏ như đóa anh đào đầu cành giữa trời tuyết, một khuôn mặt đẹp như băng tạc, nụ cười lạnh từng tấc: “Thì ra đệ nghĩ tôi như thế”.

Chàng nhướn mi, môi hơi cong dịu dàng như cười, lời nói ra lại sắc như lưỡi dao: “Có lúc tôi đã nghĩ rốt cuộc cô có gì tốt, nghĩ suốt nửa năm”.

Chàng nâng cằm cô, giống như đánh giá món đồ trang sức trong cửa hiệu, “Hồi đó sao tôi lại thích cô nhỉ?”.

Chàng tiến lại gần cô, “Tôi đã nói rồi, bất luận cô làm gì tôi đều không ngăn cản”. Nộ sắc từ đáy mắt lan ra, chỉ thoáng qua, thần thái lại ung dung, “Nhưng tại sao cô luôn muốn gây chuyện với tôi?”.

Cô ngây người: “Nếu tôi nói lần này thì không, đệ có tin?”.

Chàng buông cô ra, lắc đầu cười: “Cô luôn nghĩ tôi dễ đánh lừa, cô nói gì tôi cũng tin, nhưng bây giờ không phải là một năm trước”.

Chàng quay người bước thẳng ra khỏi cửa, không hề lưu luyến, bóng khuất sau viện môn, trời có tuyết nhỏ, giống như muôn cánh hoa bé xíu từ mặt trăng rơi xuống. Gió to làm tắt mấy ngọn nến, trong ánh nến tàn, cô cầm lên bình rượu, từng ngụm uống cạn bình.

Đó là lần cuối cùng hai người ở bên nhau.

Ngày bốn tháng chạp, tuyết rơi dày. Cành cây khô oằn xuống bởi tuyết đọng, thỉnh thoảng có cành gãy rơi xuống.

Trước cửa tông miếu của Công Nghi gia, gia nhân bận rộn đi lại, hương thơm, nước sạch đã bày sẵn lên hương án, ba tiếng trống đồng ngân vang, đại lễ tế tổ bắt đầu.

Ngày tế tổ mồng bốn tháng chạp của Công Nghi gia nghe đồn là cát nhật được một thuật sư bấm tính từ bảy trăm năm trước. Nhưng ngày hôm đó, từ sắc trời u ám đến bầy quạ rào rào trước tông miếu đều báo hiệu điềm không lành.

Giờ tốt đã đến, đại tế mỗi năm một lần nhưng nhị thúc lại vắng mặt, tam thúc không thấy đâu, Công Nghi San như có linh cảm gì, ôm chặt đứa bé trong lòng, vẻ căng thẳng, tay mỗi lúc càng run, càng xiết chặt.

Chủ tế đốt nến, thắp hương, tiểu công tử trong tay Công Nghi San đột nhiên khóc một tiếng, trưởng lão cau mày, đang định nhắc nhở, Công Nghi Phỉ đã giơ tay đón đứa trẻ trong lòng Công Nghi San. Khanh Tửu Tửu hơi ngẩng đầu, mắt liếc qua, rửa tay trong tịnh bồn gần đó, thản nhiên lấy ba nén nhang, thong thả châm lửa, không cắm vào bát hương tiên tổ, lại cắm ngay ngắn trước bài vị của Ung Cẩn Công chúa, phu nhân tộc trưởng đời trước.

Tàn hương rơi trúng tay cô, người khẽ run, Công Nghi Phỉ lạnh lùng theo dõi mọi cử động của cô, khi ánh mắt cô liếc lại, chàng dửng dưng ngoảnh mặt đi.

Chủ tế đọc văn tế, tụng ca công đức bảy trăm năm của liệt tổ liệt tông, giữa thời khắc xem ra rất mực bình yên đó, cánh cửa tông miếu bị đẩy “rầm” một tiếng, một người áo xám loạng choạng lao vào, bất chấp lễ tiết thần sắc hốt hoảng bước vội đến bên nói với Công Nghi Phỉ: “Xảy ra chuyện lớn rồi, nhị lão gia và tam lão gia đánh nhau, cả hai đều đem theo rất đông gia nhân nô bộc, có vẻ quyết đấu đến cùng, đại nhân…”.

Chưa bẩm xong, Công Nghi San bên cạnh đã lao ra cửa, Công Nghi Phỉ kéo lại: “Định đi đâu?”.

Công Nghi San hai mắt đỏ hoe, một tay bịt miệng, nén khóc cầu xin: “Đừng ngăn em, em phải đi tìm cha!”. Chàng trầm giọng: “Đợi ta cùng đi”. Tiểu công tử giao cho trưởng lão, Công Nghi Phỉ lướt qua Công Nghi Huân, nắm tay Công Nghi San, bước vội khỏi tông miếu.

Lát sau Khanh Tửu Tửu cũng mượn cớ bỏ đi. Đàn quạ đen trước cửa đã bay mất tăm, loài chim ăn xác thối đó chắc đã đánh hơi thấy mùi chết chóc.

Công Nghi gia có một chiếc đài cao gọi là Phù Vân đài, cao ba ngàn bậc đá, trên đài có ngôi đình Phù Vân cột bằng bạch ngọc, từ đó nhìn ra có thể nhìn khắp cả mười dặm vuông.

Bốn bề yên tĩnh, tuyết rơi lả tả như lông ngỗng, Khanh Tửu Tửu đứng trên Phù Vân đài, tóc đen, áo trắng giống như một nét bút đầy thi vị trong tờ tuyên biểu trắng tinh.

Trên cao như vậy vẫn có thể nghe thấy tiếng hô giết chóc, cô cúi đầu nhìn thảm cảnh do tay mình gây ra, đôi mắt đen thất thần. Họa Vị bên cạnh khẽ nói: “Công Nghi gia đến nước này vận số đã hết, tiểu thư hà tất hao tâm tổn lực, nhất định hoán gọi hung thú Thiên Hà, găng với Phỉ thiếu gia như thế, quả thực không cần thiết”.

Cô giơ tay ra, hoa tuyết lọt qua kẽ ngón tay rơi xuống: “Chắc ngươi đã nghe câu nói cà cuống đến chết còn cay. Phải triệt để hủy hoại Công Nghi gia, nhất định phải thế”.

Cô nói như vậy thực ra tôi có thể hiểu, nghe nói trưởng tộc Công Nghi cả đời chỉ có thể hô gọi Thiên Hà một lần, vị hộ thần đó cũng chỉ có thể tung hoành trên trần gian một canh giờ. Nếu Công Nghi gia vận số vẫn còn, cho dù hô gọi được Thiên Hà cũng không hoàn toàn hủy diệt được họ. Điều cô muốn chính là lợi dụng Thiên Hà giáng cho Công Nghi gia một đòn chí mạng, kết thúc vận số của họ.

Họa Vị vội nói: “Nhưng nếu làm thế thật, Phỉ thiếu gia sẽ không tha thứ cho tiểu thư”.

Nói xong tự biết lỡ lời, nhưng vẫn không kìm được, tiếp tục khuyên can: “Ngày trước, ngoài phục thù trong mắt tiểu thư không có gì khác, nhưng bây giờ, chẳng phải tiểu thư rất coi trọng Phỉ thiếu gia…?”.

Bàn tay Khanh Tửu Tửu sững lại trên không, chầm chậm thu về: “Có phải ngươi cảm thấy tiểu đệ đó của ta rất vô dụng?”. Ống tay áo cô gió lùa căng phồng lên như con bướm khổng lồ giương cánh, “Trong cuộc đời phù phiếm này, mọi người đều đang tranh giành, tranh hư danh, tranh hư lợi, người thắng ít, người thua nhiều, có biết tại sao không?”.

Cô thu tay áo, chậm rãi tự trả lời: “Bởi vì người ta thường khinh địch”.

Lát sau cô ngẩng đầu nhìn bầu trời hoa tuyết bất tận, “Cậu ta không ngăn ta, không phải không ngăn được, chỉ là việc ta muốn làm, cậu ta cũng muốn. Ta vì phục thù, cậu ta muốn là kim thiền thoát xác, để gia tộc thoát khỏi sự khống chế của Trần vương, làm lại cuộc đời. Mấy năm nay tài sản của Công Nghi gia có thể di chuyển được, cậu ta đều lạnh lùng di chuyển hết, những người tài, mưu sĩ Công Nghi gia không thể thiếu cũng bị cậu ta phân tán đến các nước, Công Nghi gia bây giờ chỉ còn cái khung rỗng. Ta không phải không biết, chỉ là…”.

Cô dừng lại, “Ta có thể giả bộ không biết”.

Họa Vị tay nắm chặt gấu áo, mặt kinh ngạc chấn động.

Cô vẫn đứng quay lưng lại, tay bám vào lan can bạch ngọc, thong thả nói: “Trước giờ ta vẫn cho rằng, không có sự phản bội huyết thống nào có thể tha thứ, cũng không có sự phản bội tình yêu nào đáng bận lòng, ngươi thấy A Phỉ thuộc loại nào?”.

Họa Vị thầm thì: “Những cái tốt của Phỉ thiếu gia đối với tiểu thư có vẻ không phải là giả”.

Lát sau cô nhẹ giọng: “Khi chúng tôi gần nhau nhất là trong bụng mẹ, hai bên tựa vào nhau, ta không biết ta là ai, cậu ta không biết cậu ta là ai, sự ra đời của người khác là để đoàn tụ, sự ra đời của chúng tôi là để chia ly”.

Tiếng hô “giết” bên dưới đài vẫn không dứt, cô hơi ngẩng đầu nhìn tuyết rơi bên ngoài, “Tất cả đã là định mệnh”.

Phía xa, dãy núi u ám, dòng đại hà như một con mãng xà khổng lồ màu trắng nằm vắt ngang Bối Trung tuyết ngập trời.

Thời khắc cuối cùng đã đến.

Lúc này tôi mới nhìn rõ, bộ y phục trắng muốt trên người Khanh Tửu Tửu hôm nay long trọng khác thường. Gió lồng lộn quần đảo trên đầu, rít lên như tiếng thú gầm. Khanh Tửu Tửu khép mắt, hai tay đặt trước ngực tạo một thủ ấn phức tạp, môi mấp máy, lời hoán truyền xa xăm vang lên, lan trong không trung.

Từng hồi chuông không biết từ đâu vọng đến, tôi nắm chặt tay Mộ Ngôn, nghĩ tới hung thú Thiên Hà say ngủ bao năm dưới đáy sông bị đánh thức, không biết sẽ là kỳ quan thế nào.

Nhưng kỳ lạ là lời hoán gọi đã niệm sắp hết, hộ thần Thiên Hà trong truyền thuyết lại chưa thấy phá sóng, tung nước vọt lên, Khanh Tửu Tửu mắt mở to, chớp đảo, môi mím chặt, lời hoán truyền cuối cùng đã tan trong gió tuyết.

Tôi sững người, cô và Công Nghi Phỉ là chị em song sinh, theo lý Thiên Hà nhất định nghe lời hoán gọi của cô nhưng lại không thành công, lẽ nào hung thú ngày xưa không phân biệt được song sinh giờ đột nhiên tiến bộ?

Tôi nói ra suy nghĩ đó với Mộ Ngôn, chàng trầm ngâm, lát sau khẽ nói: “Có lẽ Khanh Tửu Tửu không phải là chị của Công Nghi Phỉ”. Tôi à một tiếng, nghi hoặc ngoái đầu, lập tức hiểu ra đây mới là đáp án có khả năng nhất.

Tôi không nghĩ đến điều đó bởi vì trước giờ Công Nghi Huân vẫn đinh ninh như vậy, hơn nữa đã làm mọi việc cực đoan như thế, không phải bởi vì Công Nghi Phỉ là tiểu đệ của cô sao?

Tuyết đã phủ một lớp dày trên Phù Vân đài, Khanh Tửu Tửu sắc mặt trắng bệch, loạng choạng bước đi như đột nhiên không thể gượng được nữa, Họa Vị vội chạy đến đỡ, giọng run run: “Tiểu thư, thử lại lần nữa xem sao, lời hoán truyền dài như vậy, liệu có…”.

Cô ngắt lời: “Không sai, một chữ không sai”. Người đứng không vững nhưng lại đẩy Họa Vị ra, mắt nhìn xuống cuối đài, bỗng giật mình. Theo ánh mắt cô nhìn ra, thấy Công Nghi Phỉ đang đứng trong gió, không biết đã đứng bao lâu, tóc đen, áo trắng phấp phới trong gió lộng.

Hai người nhìn nhau từ hai mé đài cao, giữa họ là màn tuyết rơi. Lát sau, Công Nghi Phỉ từng bước đi đến, dừng hai bước trước mặt cô, giơ tay vuốt má cô, nhìn đôi môi tím ngắt của cô, khóe miệng nhếch ra nụ cười giễu cợt, lạnh lùng cất tiếng: “Nàng cho rằng mình là chị ta, bởi vì phụ thân nàng nói thế, bởi vì khuôn mặt nàng có vài phần giống ta, thiên hạ không hiếm người giống nhau, nhưng hôm nay, Khanh Tửu Tửu, nàng còn dám khẳng định nàng là chị ta không?”.

Cô lùi xa chàng hai bước, vẻ bàng hoàng đã tiêu tan. Xưa nay cô vẫn giỏi che giấu tình cảm, khi ngẩng đầu, đôi mắt đen đã lại trở nên băng lạnh, dường như lại trở về là Khanh gia trưởng nữ trước khi gả về Công Nghi gia, cho dù đi ngang qua chàng cũng không dừng bước.

Cô lạnh lùng nhìn chàng: “Tôi không phải là chị của chàng, chẳng phải chàng nên vui sao? Chàng hãy nói đi, thế nào là yêu, thế nào là hận, ai đã nói tình yêu không phải muốn cho là cho được, muốn lấy lại là lấy được?”.

Chàng từ từ kéo cô lại gần, đôi mắt bùng nộ khí: “Sự đã đến nước này, những điều nàng muốn nói với ta chỉ có thế sao? Nàng không bận lòng chút nào ư?”.

Cô để chàng nắm vạt áo mình, “Tại sao chàng lại giận như vậy?”. Hai tay nắm tay chàng, để trước ngực mình, mắt nhìn thẳng vào mắt chàng: “Bởi vì tôi không phải là chị của chàng, không thể hoán gọi Thiên Hà, chàng cũng muốn hủy diệt gia tộc này, nhưng lại không nhẫn tâm ra tay…”.

Tôi tưởng với câu nói gây tổn thương như vậy, có lẽ Công Nghi Phỉ lập tức đánh cho cô một trận, nhưng kết quả khiến tôi thất vọng, ánh mắt Công Nghi Phỉ vừa tràn nộ khí bỗng trở nên ngơ ngác thất thần, hai tay dưới ánh mắt điều khiển của Khanh Tửu Tửu đã kết thành thủ ấn phức tạp.

Tôi bỗng lặng người, nếu không đoán nhầm, thần sắc này của Công Nghi Phỉ có lẽ là đang bị thôi miên. Trong truyền thuyết, thuật thôi miên này gây tổn hại không nhỏ đối với người thực thi phép thuật, nhưng nếu thành công lại có thể khống chế hành vi và tư tưởng của người khác, khiến người đó làm theo ý mình.

Không ngờ Khanh Tửu Tửu lại biết bí thuật đó, cô làm vậy có phải muốn Công Nghi Phỉ đích thân hoán gọi Thiên Hà? Mới nghĩ đến đó, những lời hoán truyền cổ xưa một lần nữa được hô lên. Giống như một vùng đất hoang phong ấn đã lâu đột nhiên khai động, mọi văn minh đều không tồn tại, mây đen cuồn cuộn phía chân trời, ào ào chuyển động như thoát khỏi sức hút của tinh cầu, khiến toàn bộ vùng Bối Trung chớp mắt tối đen như mực.

Ba vì sao ló ra từ tầng mây đen kịt, rõ ràng là ban ngày trên bầu trời lại chỉ thấy ánh sao. Một tiếng gầm từ xa lan tới, mặt đất rung chuyển, đột nhiên thêm một tiếng gầm từ phía dòng đại hà như phá tầng không ập đến, luồng ánh sáng trắng chói chang nóng như lửa chiếu rực nửa vùng trời. Tôi mở to mắt, chăm chú nhìn dị vật vọt ra từ luồng sáng trắng đó, sừng vàng, vảy bạc, giống ngựa nhưng lại có vảy, giống rồng nhưng lại có bốn chân, chính là… thần thú Thiên Hà.

Tiếng động quá mạnh, không nghe rõ Công Nghi Phỉ ra mệnh lệnh gì, chỉ nhìn thấy bốn vó của Thiên Hà tung lên, nửa bầu trời tức thì bùng lên chùm tia sét như vạn móc câu, luồng ánh sáng phía sau là gió lửa, tuyết bị hơi nóng làm tan thành mưa, bỗng chốc mưa trút xuống.

Đó không phải là điều Công Nghi Phỉ muốn mà là Khanh Tửu Tửu muốn, chàng đang cố vùng vẫy thoát khỏi thôi miên. Tôi không biết tại sao, cô không phải là con gái của Ung Cẩn công chúa, những đòn báo thù đó chẳng có ý nghĩa gì, Công Nghi gia không nợ cô, cô đã biết vậy nhưng vẫn cố tình muốn hủy hoại Công Nghi gia, rốt cuộc là vì sao?

Chùm sáng từ miệng Thiên Hà phun ra, móc vào cơ thể con người giống như mũi tên, khoét ra những lỗ hổng chi chít đầy máu. Tiếng thét thê thảm như tiếng quỷ khóc chốn địa ngục. Một cảnh tàn sát thảm khốc chưa từng có.

Tôi nép vào lòng Mộ Ngôn, chỉ hé mắt tiếp tục quan sát thảm cảnh, một địa ngục trần gian dưới Phù Vân đài, trên đài lại vẫn có tuyết rơi.

Cuối cùng Công Nghi Phỉ vùng vẫy thoát khỏi thuật thôi miên đẩy Khanh Tửu Tửu ra, ánh mắt lướt qua những thi thể dưới Phù Vân đài rồi quay lại nhìn Khanh Tửu Tửu, “Tôi tức giận vì cô không hoán gọi được Thiên Hà ư? Tôi không nhẫn tâm tự ra tay ư? Cô rất biết tìm cho mình cái cớ!”.

Chàng đứng dậy, từ trên cao nhìn xuống: “Dù cô không giết họ, những người đó hôm nay cũng khó thoát khỏi cái chết, nhưng cô, một ngoại nhân, có tư cách gì giết người của Công Nghi gia? Tôi cứ nghĩ cô bản tính lạnh lùng, thì ra tôi đã đánh giá thấp cô, báo thù gì? Cô chỉ là một kẻ ác tâm, một kẻ thú tính”.

Họa Vị rơi nước mắt đỡ Khanh Tửu Tửu đang gục trên đất, hiểu tính chủ nhân, vừa đỡ đứng lên là vội buông tay, nhưng đã bị cô níu lại. Bí thuật thôi miên chỉ dùng một lần tinh lực tổn thương tám phần, xem ra cô không còn sức đứng lên nữa.

Tay bám lấy Họa Vị, cô ho mấy tiếng, lấy ống tay áo che miệng, rồi lại chắp tay sau lưng, sắc mặt vẫn trắng bệch, khẽ nói: “Tôi có lỗi với chàng, sau khi chuyện kết thúc, hãy cho tôi một khế ước chia tay”.

Chàng cười khẩy một tiếng, mắt lóe hận như muốn bóp chết cô: “Cô tưởng làm thế coi như bù đắp cho tôi sao? Ngoài chạy trốn, cô còn biết làm gì?”.

Cô chưa trả lời, tôi nghĩ không phải cô không muốn trả lời mà là không có sức lực, phía xa đột nhiên lại bùng nổ một tiếng động phá trời, ngẩng nhìn, thấy một tia sáng hình mũi tên từ miệng Thiên Hà phun ra không hiểu sao lại bay về phía Phù Vân đài.

Tôi lập tức đoán ra, nhưng cảm thấy mũi tên hình như hơi lệch hướng, tôi kêu lên một tiếng, biến cố xảy ra trước mắt khiến người ta tức thở. Tất cả chỉ trong chớp mắt, thấy Công Nghi San tay ôm đứa trẻ đột nhiên từ bậc đá trên cùng bước lên Phù Vân đài, mũi tên ánh sáng đang nhằm cô lao tới.

Mọi người còn chưa kịp phản ứng, thân hình dong dỏng của Công Nghi Phỉ đã lao đến chắn trước Công Nghi San. Nhưng sau khi tia sáng lóe lên, mũi tên đó cuối cùng lại xuyên qua ngực Khanh Tửu Tửu.

Nguyên nhân không có gì khác, trong chớp mắt Công Nghi Phỉ lao ra cứu Công Nghi San, là cô đã kịp thời lao đến chắn trước chàng. Công Nghi San kêu thét một tiếng ngất đi, đứa bé trong lòng không hiểu sao không khóc. Công Nghi Phỉ dường như vô thức đỡ lấy Khanh Tửu Tửu, chùm tia sáng hình mũi tên từ trên không bay vút tới, hung khí tuyệt đẹp đó giống như một chùm pháo hoa, nhưng khi tới gần chàng lại tan thành những điểm sáng lóng lánh. Chàng nắm chặt tay cô, đôi môi tái nhợt vừa rồi còn lạnh lùng thốt ra những lời độc địa như lưỡi dao đâm vào tim cô cho hả hận, lúc này lại run run không thốt lên lời.

Họa Vị cũng bị thương, gắng gượng bò đến nhưng không thể chạm tới gấu váy chủ nhân.

Chàng ôm riết Khanh Tửu Tửu vào lòng với một vẻ chiếm hữu, xiêm y trắng muốt trên người cô đã nhuộm máu đỏ. Màu trắng chỉ còn điểm xuyết, giống như mấy đóa mai trắng nở trên mảnh đất đỏ, đẹp vô cùng, cũng lạnh vô cùng.

Cô thở dốc từng hơi trong lòng chàng, sau mấy tiếng ho, máu từ miệng phun ra, nhưng vẫn cố nói: “Bất chấp tính mạng của mình cứu cô ta, chàng thực sự thích cô ta!”.

Giọng chàng khàn đặc, hơi run, liên tục dùng tay áo lau vết máu bên miệng cô: “Đừng nói bừa, ta đưa nàng đi tìm đại phu”.

Nhưng máu vẫn không ngừng tuôn, ướt đẫm vạt áo cô. Cô vẫn gắng gượng muốn nói, lời vẫn rõ ràng mạch lạc, giống như vết thương chí mạng kia chỉ là vết thương giả.

Có lẽ đây là lần duy nhất yếu đuối trong đời cô. Nhưng thần trí cô đã bắt đầu mê man, nếu không cô đã không hỏi chàng câu này: “Tại sao chàng không thích em nữa, chàng có biết những lời của chàng làm em buồn biết mấy”.

Lúc này đôi đồng tử của cô đã giãn ra, không còn in được hình bầu trời bao la tuyết, không in được hình khuôn mặt trắng bệch và ánh mắt đau đớn điên dại của chàng, nhưng cô lại cất tiếng: “Chàng nói em là kẻ ác tâm, nhưng trong định mệnh phải có một trận tàn sát, em đến ra tay không phải càng tốt sao, chỉ cần một người xấu là đủ”.

Một giọt nước từ khóe mắt cô lăn xuống, “Em không biết thì ra em xấu xa như vậy. Nhưng, cũng không sao, chưa bao giờ em nghĩ, em có thể sống qua ngày hôm nay”. Giọng nhỏ nhẹ, trầm tĩnh, nhưng lại như mũi dao nhọn, từng lời, từng câu chích vào lòng người.

Tay chàng run run vuốt ve má cô, khi nhích lên chạm vào vệt nước ở đuôi mắt cô lại càng run lẩy bẩy như bị lửa đốt nhưng vẫn không rụt tay về.

Chàng ôm tấm thân đẫm máu của cô, áp mặt vào trán cô: “Nàng không có gì xấu hết, những lời ta nói lúc trước chỉ là do quá giận mà thôi. Nàng đến Công Nghi gia tất cả đều rất tốt, duy nhất không tốt chỉ là không chịu sinh cho ta một đứa con”.

Mắt chàng như cười, tay nắm tay cô, “Nhưng không sao, ta cũng không bận lòng”.

Cô tựa vào chàng ho mãi, hàng mi đọng nước mắt, lại bật cười: “Cuộc đời em thật nực cười, bị cha mẹ bỏ rơi, bị cha nuôi lừa gạt, lại đi lừa người, cuối cùng bản thân… trận tuyết rơi này rất tốt, mọi hoen ố đều bị vùi lấp, tất cả đều kết thúc trong ngày hôm nay…”.

Cô nhìn chàng, mắt thoáng có ánh sáng lướt qua, giọng thoảng như tiếng gió: “Sự đã đến nước này, chàng vẫn an ủi em như vậy, em rất vui”. Run run giơ tay, như muốn vuốt nếp nhăn trên trán chàng, cuối cùng không đủ sức tay thõng xuống, lời thốt ra tan trong gió tuyết: “A Phỉ, chàng hãy sống thật vui”.

Tuyết vẫn rơi không ngớt, tuyết đọng trên Phù Vân đài tan chảy dưới sức nóng của chùm mũi tên ánh sáng, lộ ra những phiến đá ngọc thạch lóng lánh, trong sắc màu long lanh của máu đỏ pha lẫn tuyết trắng ánh lên hai bóng người áp sát vào nhau.

Chàng muốn bế cô lên nhưng lại ngã khụy, nước mắt lã chã rơi trên mặt cô, nhưng cô đã không còn cảm thấy được nữa. Chàng cố giữ giọng bình tĩnh để cô nghe thật rõ: “Ta không dối nàng, người ta thích vẫn luôn là nàng, ta cứu Công Nghi San bởi vì mũi tên của Thiên Hà không giết được chủ nhân của nó, nàng không phải chị ta, ta rất vui, những lời khiến nàng buồn chỉ là nói dối”.

Nhưng cô đã không thể đáp lời. Môi chàng áp sát môi cô, giọng nhẹ nhàng như thể cô vẫn đang còn sống, chàng lay gọi cô, nói với cô nỗi tủi trong lòng: “Rốt cuộc nàng nhìn nhận ta thế nào? Tiểu đệ của nàng hay một người đàn ông?”. Nhưng cô đã không thể trả lời.

Mây đen tan dần, Thiên Hà đã ngủ dưới lòng sông.

Khanh Tửu Tửu đã chết như vậy, đó chính là ký ức cuối cùng được phong ấn của Công Nghi Huân, cảnh cuối cùng chúng tôi nhìn thấy trước khi tất cả chìm trong đêm tối là dưới bầu trời tuyết vô tận của Bối Trung, Công Nghi Phỉ ôm Khanh Tửu Tửu loạng choạng lê bước trong tuyết, như thể thế gian chỉ còn lại hai người
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 6

Thoát ra khỏi ký ức của Công Nghi Huân, cô vẫn đang ngủ. Bên cạnh chiếc giường mây, ngọn nến an thần đã cháy được một nửa, mặc dù không ngửi thấy hương nến, nhưng nhìn sắc diện Công Nghi Huân là biết hương nến tác dụng rất tốt.

Tôi rất đắn đo có nên nói với cô kết cục đó. Thực ra mục đích của cô ngay từ đầu không phải là để người khác giải đáp bí ẩn cho cô, cô nói muốn biết mình chết thế nào chẳng qua là do trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, cuối cùng cô trở nên hoài nghi đối với sự tồn tại của mình mà thôi.

Cô vốn cho là mình nhập hồn trở lại là để báo đáp, nhờ tôi xem giúp ký ức cũ cũng chỉ là muốn xác nhận, nếu mọi ân oán tình thù đều đã kết thúc ở cuộc đời trước, vậy thì sự tồn tại hôm nay của cô là vô nghĩa, cô hy vọng tôi nói với cô, suốt cuộc đời cũ từ đầu đến cuối cô đều có lỗi với Công Nghi Phỉ, cô nợ chàng ta rất nhiều.

Tôi biết điều đó là do khi đi vào ký ức của cô, có một thời khắc nào đó thần trí của chúng tôi tương thông, tôi đọc được điều đó.

Nhưng sự thực không phải thế, những gì cô phụ lòng Công Nghi Phỉ, Khanh Tửu Tửu cuối cùng đã lấy cái chết để trả. Cô lưu luyến nhân gian cũng không phải là do cô nợ chàng.

Cũng may sau năm năm, cô đã trở lại, nhưng rất khó lý giải tại sao sau khi cô trở lại, thái độ của Công Nghi Phỉ lại như thế, chẳng phải đến lúc cô chết chàng vẫn yêu cô sâu nặng hay sao? Lẽ nào một tình yêu dù sâu nặng đến mấy cũng không chống lại được sự tàn phá của thời gian?

Trầm ngâm hồi lâu, tôi để lại cho Công Nghi Huân mảnh giấy, nói với cô thảm cảnh Công Nghi gia bị cô hủy hoại bảy năm trước, còn cô bị chết bởi mũi tên của hung thú Thiên Hà trong cơn gia biến đó.

Rất nhiều vấn đề còn khúc mắc, cho nên nếu lúc này tôi đường đột giải thích với cô sẽ chỉ khiến cô tự hủy hoại bản thân, là một hồn ma tái sinh để trả ơn, cô không cần quá tỉnh táo, nhưng cũng không thể quá hồ đồ, cho dù vốn không nên sống chỉ để trả nợ, trước tiên tạm thời cho là thế cũng được, ít nhất cũng để tôi có thời gian làm rõ chuyện này.

Tôi vừa suy nghĩ vấn đề nghiêm túc đó vừa ra khỏi tiểu viện, định trở về vẽ sơ đồ các liên hệ bên trong sự việc để tiện phân tích, hoàn toàn quên bên cạnh còn có Mộ Ngôn, vừa không chú ý là đã va vào người chàng, tôi xoa trán, chàng xoa tay cúi nhìn tôi: “Chẳng phải em nói khi Công Nghi Huân tỉnh lại chúng ta mới có thể thoát ra sao?”.

Tôi sững người, bỗng nhớ ra nửa canh giờ trước đã lừa chàng thế nào, trước sự thực rành rành, mọi biện bạch đều vô ích, lúc này ngoài dĩ bất biến ứng vạn biến không còn cách nào khác.

Tôi trấn tĩnh nói: “Chàng nghe nhầm”.

Chàng nhướn mày: “Sao?”.

Tôi gật đầu: “Đúng, chàng nghe nhầm”.

Chàng bật cười: “Lại còn biết chối nữa, rất tốt”.

Tôi ưỡn ngực, hiên ngang: “Chàng nói em chối cãi, có chứng cớ gì không”.

Chàng rút trong tay áo một con búp bê bằng ngọc tạc rất đẹp, thoạt nhìn hơi giống tôi, nói nhẹ như gió: “Tối qua được miếng ngọc rất đẹp, tạc cái này vốn định tặng em”.

Tôi không ưỡn ngực nữa, níu cánh tay chàng “Từ nay em không bao giờ cãi chàng nữa, đúng là em không tốt, em quá xấu”. Nhận sai xong giơ tay cướp con búp bê.

Chàng giơ cao tay, cười cười: “Cầu xin đi”.

Tôi nói ngay: “Cầu xin chàng!”. Thấy chàng không có phản ứng, túm ống tay áo chàng: “Cầu xin, cầu xin chàng!”.

Chàng ngẩn ra, vừa đỡ lấy người tôi kiễng lên túm áo chàng, đặt tôi đứng xuống, vừa để con búp bê vào lòng bàn tay xòe ra của tôi: “… Em có nên không kiên định như vậy?”.

Tôi chăm chú ngắm nghía con búp bê bằng ngọc, phát hiện quả nhiên hơi giống mình, lòng rất vui, sực nhớ lời chàng vừa nói, ngẫm nghĩ: “Thế thì phải kiên định một chút vậy, tối nay chàng không nên ngủ trên giường nữa, ngủ dưới đất đi”.

Mộ Ngôn: “…”.

Tôi cảm thấy tôi nên làm nghề bán mộng, cái nghề này nghe vừa thần bí vừa cao sang, nhưng những việc làm gần đây chẳng việc nào liên quan đến bán mộng, những việc đã làm chỉ loanh quanh ngoài rìa câu chuyện mà thôi.

Mấy ngày trước tình cờ gặp Quân Vỹ, từ ngày xưa Quân Vỹ luôn cho rằng nhất định có ngày tôi sẽ trở thành Bách Hiểu Sinh (Nhân vật trong tiểu thuyết của Cổ Long, là một người hiểu rộng, biết nhiều) .... cái gì cũng biết, mở một phòng thám tử tư, chuyên điều tra phá án, cho rằng vừa hoạt động đã có thể nổi tiếng khắp Cửu Châu.

Tôi nghĩ tương lai thế nào quả thực khó đoán, quan trọng là hiện tại, tôi phải làm thế nào để biết Công Nghi Phỉ rốt cuộc đang nghĩ gì? Để Quân Vỹ đi quyến rũ có vẻ không ổn, Công Nghi Phỉ hình như không có hứng thú về khoản đó… không, hay là để anh ta đi quyến rũ phu nhân Công Nghi Phỉ?

Tôi trằn trọc trên giường, suy nghĩ nên nói thế nào để Quân Vỹ đồng ý làm việc này, một tia sáng lóe ra trong đầu, đột nhiên nghĩ ra một câu thuyết phục rất thần kỳ, vội vàng xuống giường ghi ra giấy.

Mộ Ngôn đang ngồi tựa đầu giường đọc sách, tóc để xõa, mình vận áo ngủ bằng tơ, một chân hơi co chắn ở mép giường. Tôi nhón chân nhón tay đang định bò qua chân chàng, bị chàng kéo lại, ngẩng đầu khỏi trang sách, “Đứng ngồi không yên như vậy hình như đã khỏe hẳn rồi?”.

Tôi đỏ mặt, giả bộ đau khổ ho hai tiếng, giọng yếu ớt: “Chưa, chưa đâu…”. Nhưng vẫn muốn xuống giường, quả thực tôi nhớ rất kém, lúc này không ghi lại, sáng mai ngủ dậy có khi lại quên. Nhân lúc chàng không để ý lại lén nhích dần về phía cuối giường.

Chàng làm như không nhìn thấy động tĩnh của tôi, tay vẫn giở sách, đột nhiên hỏi: “Chuyện của Công Nghi Huân em nhất định phải quan tâm?”.

Tôi ngớ người: “Sao chàng biết em quan tâm?”.

Chàng bật cười nhìn tôi: “Em có gì mà tôi không biết?”.

Tôi bĩu môi: “Chuyện hồi nhỏ của em chàng không biết”.

Chàng gập sách, co chân lên, tay chống cằm: “Vậy em kể ta nghe”.

Nếu bình thường tôi đã phấn khởi chuyển hướng câu chuyện, nhưng lần này thì khác.

Tôi nhìn thấy Công Nghi Huân giống như nhìn thấy bản thân mình, không thể tưởng tượng, nếu trong ngực không có viên giao châu, cho dù tôi có thể phục sinh cũng chỉ có thể là hồn ma nhập vào thân xác, không biết gì về cuộc đời trước của mình, không nhớ được Mộ Ngôn cũng như cô ấy không nhớ được Công Nghi Phỉ.

Tôi gục đầu vào gối Mộ Ngôn, khẽ nói: “Em muốn giúp Công Nghi Huân. Có lẽ em là người duy nhất trên đời có thể giúp được cô ấy, chàng nghĩ xem, nếu ngay em cũng không chịu giúp cô ấy, nếu có ngày em cần ai đó giúp nhưng người duy nhất có thể làm được lại không bằng lòng giúp thì biết làm sao?”.

Nến cháy to, bóng lửa chập chờn hắt lên bức bình phong, yên lặng rất lâu, tôi cảm thấy có lẽ không thuyết phục được chàng, giọng chàng từ trên đầu vọng xuống: “Để em vất vả ngược xuôi như vậy chi bằng tôi nói cho em biết”.

Tôi kinh ngạc ngẩng đầu, nhìn thấy chàng nghiêng người thổi nến ở đầu giường, trước giường chỉ còn ánh trăng, chàng quay người kéo tôi vào chăn, đắp cẩn thận, chuẩn bị cho giấc ngủ xong xuôi, mới chậm rãi nói: “Chuyện Công Nghi Huân được nhập hồn hai năm trước do Trần thế tử Tô Dự giúp, có lẽ em đã biết”.

Đầu tôi gối lên cánh tay chàng gật gật tỏ ý biết.

Chàng hỏi: “Theo em tại sao Trần thế tử Tô Dự lại giúp cô ấy?”.

Tôi đáp: “Nghe nói Ung Cẩn công chúa, thân mẫu của Công Nghi Phỉ là tiểu muội của Trần vương, vợ chồng Công Nghi Phỉ tính ra là biểu huynh, biểu tỷ của Tô Dự”, lại tiếp, “… nhưng điều đó cũng chưa đủ, vương gia không giống thường gia, đâu có sự giúp đỡ thân thích đơn giản như vậy”.

Chàng tỏ ra tán đồng: “Em nói đúng, vương gia không có sự giúp đỡ thân thích đơn giản như vậy. Tô Dự chịu giúp Công Nghi Huân là bởi vì mấy ngày trước khi Công Nghi gia xảy ra sự biến, nhận được thư của cô ấy, trong thư gửi kèm bí thuật đúc kiếm gia truyền của Công Nghi gia, cô ấy trả công bằng cái đó, muốn Tô Dự nghĩ cách để cô ấy tái sinh. Muốn sống một cuộc đời nữa để báo đáp Công Nghi Phỉ. Giá trị của bí thuật đúc kiếm bằng mấy tòa thành, Tô Dự đồng ý vụ trao đổi này, lấy tài sản trị giá bằng một tòa thành mời thuật sĩ cao tay bỏ thời gian năm năm khiến cô ấy tái sinh, đưa trở về bên Công Nghi Phỉ”.

Đám sương mù lẩn quất trước mắt cơ hồ cuối cùng hé ra một tia sáng, nhưng nghĩ lại cảm thấy không ổn, tôi ranh mãnh liếc chàng: “Đây là chuyện cơ mật, sao chàng biết rõ thế?”.

Chàng cười: “Chuyện này đương nhiên do tôi làm”.

Thấy tôi không có ý bắt bẻ, lại tiếp: “Tái sinh là chuyện không dễ, ngay thuật sĩ cũng không dám chắc, cho nên chuyện này phải giấu Công Nghi Phỉ. Vốn tưởng lúc đó chỉ cần đưa người đến trước mặt anh ta, sẽ là một niềm vui bất ngờ to lớn đối với anh ta, không ngờ năm năm sau, Công Nghi Phỉ đã không nhận ra cô ấy”.

Tôi kinh ngạc: “Sao có thể, mới năm năm, hình dạng cô ấy cũng không thay đổi nhiều”.

Chàng dường như rơi vào trầm tư nào đó, rất lâu mới sực tỉnh, khẽ nói: “Anh ta đã uống thiên nhật vong”.

Tôi không hiểu: “Thiên nhật vong?”.

Chàng giải thích: “Đó là một loại kỳ dược, uống vào sẽ quên nhiều chuyện. Công Nghi Phỉ uống kỳ dược đó, đã quên Khanh Tửu Tửu”.

Tôi há mồm kinh ngạc, Mộ Ngôn trở mình nằm nghiêng, tôi gối đầu lên cánh tay chàng, lập tức biến thành tư thế nằm gọn trong lòng chàng. Tôi nhích ra, lùi về sau, bị chàng kéo lại, cười: “Định trốn hả?”.

Nhưng chàng không tiếp tục đùa tôi như mọi khi, chỉ điều chỉnh tư thế, giọng như kể chuyện: “Đó thực ra cũng là lời đồn, nghe nói hai trăm năm trước Tô gia từng có ơn đối với Công Nghi gia, để trả ơn, Công Nghi gia đã có thệ ước thề đời đời phụng sự Tô gia. Về sau thiên tử phong chư hầu, họ Tô được phong làm Trần vương đất Trần, Trần vương cần một số văn thần võ tướng làm mưu sĩ, cần đội quân bí mật rải khắp nơi, Công Nghi gia chính là đội quân bí mật đó”.

Chàng ngừng lại, “Công Nghi gia ở Bối Trung là một đội quân ngầm tuyệt mật của Trần vương, dùng vào những vụ ám sát tuyệt mật nguy hiểm nhất. Người của gia tộc này đi ám sát người, cũng bị người ám sát, trưởng tộc các đời không có ai sống quá bốn mươi tuổi, đến đời Công Nghi Phỉ có lẽ anh ta muốn gia tộc thoát khỏi số mệnh đó, mới xảy ra những chuyện em đã nhìn thấy trong ký ức của Công Nghi Huân”.

Tôi trầm ngâm một lát, buồn bã nói: “Nhưng cái giá phải trả quá lớn”.

Chàng hơi cúi đầu, hơi thở thoảng qua tai tôi, người tôi lại nóng bừng, giọng chàng vẫn bình thường: “Cái giá đó thực ra không lớn, chỉ là nhìn nhận ở những góc độ khác nhau. Công Nghi Phỉ có lẽ không ngờ Khanh Tửu Tửu sẽ chết, chung quy là do hai người không thật hiểu nhau. Những gia sản của Công Nghi gia đã được di chuyển nếu không dựa vào Công Nghi Phỉ thì không thể duy trì, nhưng có lẽ cái chết của Khanh Tửu Tửu đã khiến anh ta suy sụp hoàn toàn. Nghe nói sau hôm đó, Công Nghi Phỉ đóng cửa không tiếp khách, suốt ngày mượn rượu giải sầu, sự vụ trong tộc không cai quản, Công Nghi San cực chẳng đã mới tìm mọi cách mời thánh dược Bách Lý Việt luyện thiên nhật vong, ép anh ta quên Khanh Tửu Tửu.

Tôi cảm thấy kỳ lạ, dứt khoát trườn ra khỏi chăn, chỉ trích chàng: “Nhưng rõ ràng các người đã thu ký ức của Khanh Tửu Tửu, tại sao lại đem phong nó lại? Về sau khi cô ấy đã trở về bên Công Nghi Phỉ, các người cũng không để cho Công Nghi Phỉ nhớ lại chuyện cũ!”.

Chàng giơ tay tóm lấy tôi, kéo xuống: “Còn động đậy lung tung, bắt dậy chép tam tự kinh bây giờ”.

Thấy tôi bị dọa, ngoan ngoãn không động đậy nữa, mới khẽ nói: “Giúp Khanh Tửu Tửu lấy ra ký ức đó là do Tô Dự không biết họ là chị em, về sau được biết họ song sinh, cảm thấy ký ức đó quá đau khổ, mới đem phong ấn vào hai viên ngọc châu để vào mắt Khanh Tửu Tửu, lúc đó đã mang cái tên mới là Công Nghi Huân. Công Nghi Phỉ uống thiên nhật vong nên đã quên hết, tưởng rằng Khanh Tửu Tửu sau khi được nhập hồn chính là Công Nghi Huân, cốt nhục lưu lạc bên ngoài của Công Nghi gia, một lòng coi cô ấy là đại tỷ của mình, cô ấy cũng tưởng anh ta là tiểu đệ, quan hệ ruột thịt thuần túy đó thực ra chẳng phải cũng tốt sao?”. Không đợi tôi trả lời, chàng than thở: “Ít nhất lúc đó xem ra cũng ổn, nhưng không ngờ hai người họ thật ra không phải chị em”.

Tôi nghĩ một lát, cảm thấy chàng nói có lý, nhất thời không nói gì.

Bức rèm trước giường được vén lên, ánh trăng vàng lặng lẽ chiếu qua, dịu dàng trải lên tấm chăn gấm uyên ương. Mộ Ngôn cúi đầu nhìn tôi: “Sự việc Công Nghi Phỉ coi như xong, sao em lại ngoẹo đầu ngoẹo cổ như không muốn nhìn ta… là thế nào?”.

Tôi hơi dịch ra ngoài, giọng đắn đo: “Chàng đừng nói bên tai em, em… em sẽ căng thẳng”. Nói xong len lén hé mắt nhìn chàng.

Chàng ngây người mỉm cười, nhấc tay khỏi trán tôi, tôi đang lấy làm buồn đã bị chàng ấn vào chăn.

Muốn cựa quậy nhích ra cũng khó, lòng băn khoăn tự hỏi, lẽ nào đêm nay phải hoàn tất việc động phòng? Lại nghe thấy giọng chàng như cười: “Thì ra đúng là căng thẳng thật”.

Tôi giận dỗi, rõ ràng đang giỡn người ta, định đẩy chàng ra, tay chàng đã lại mân mê vết sẹo trên trán tôi, dịu giọng: “Ngày mai ta phải khởi hành đi nước Triệu nhưng không thể đưa em đi cùng”.

Bàn tay giơ ra định đẩy cuối cùng chống vào ngực chàng, ánh trăng rất sáng, thậm chí có thể nhìn rõ bóng mình in trong mắt chàng. Lại là chia ly. Mặc dù nghe nói tiểu biệt thắng tân hôn, nhưng đang tân hôn đã phải tiểu biệt, thực quá tàn nhẫn.

Trong khoảng không êm ả giữa những bức rèm ngăn, những bông tuyết phù dung nở trên đỉnh màn, người nằm bên tôi có khuôn mặt tuyệt đẹp và nụ cười dịu dàng ẩn dưới hàng mi là nỗi lưu luyến không thể từ bỏ của tôi ở nhân gian.

Tôi nói khẽ: “Tân phòng của chúng ta sau này nhất định phải có một cái giường thật lớn, phải có rất nhiều rất nhiều rèm che, giống như một nơi ngăn cách với trần thế không ai biết, chỉ có hai chúng ta”. Chàng gật đầu, môi dán lên môi tôi, tôi nhắm mắt, ôm chặt cổ chàng,

Lúc ra đi, Mộ Ngôn để Chấp Túc lại cho tôi, nghe nói là tối qua cô mới đến Cô Trúc sơn, lại còn thêm mấy hộ vệ thân thủ cao cường, bên cạnh mình tự dưng có thêm bao nhiêu người như vậy, cảm thấy quá phức tạp, phiền hà, ở Công Nghi gia còn được, rời khỏi Công Nghi gia, làm thế nào giải quyết ngày ba bữa ăn cho đám người này?

Tôi suy nghĩ mãi, đành để họ tự giải quyết, tôi có thể giả bộ không biết có hộ vệ đi theo.

Mộ Ngôn nói không muốn tôi tiếp tục nhúng tay vào chuyện của Công Nghi Phỉ, lại cho đông người như thế bảo vệ tôi, xem ra chàng không tin tôi sẽ ngoan ngoãn ngồi đợi chàng ở Cô Trúc sơn.

Tôi cũng không định tiếp tục lưu lại đây. Chàng nói chuyện của Công Nghi Phỉ coi như xong, tôi không cho rằng mọi chuyện nên kết thúc ở đây, tối hôm qua trước lúc ngủ tôi đã quyết định, đợi chàng đi khỏi tôi sẽ kéo Bách Lý Tấn rời Công Nghi gia, đi tìm ông ngoại Bách Lý Việt của anh ta xin thuốc giải thiên nhật vong.

Thực ra là tôi hay quan tâm những chuyện không đâu, rõ ràng làm trái triết lý xử thế trong thời loạn sư phụ đã dạy, không phải do có lòng tốt, chỉ là khi hạ quyết tâm đột nhiên nghĩ tới Công Nghi Huân.

Cô nói: “Con người không nên sống vì quá khứ, mà nên sống vì có người cần mình, nếu trong cuộc đời trước có ai đó thực sự cần tôi, thế cũng tốt rồi”.

Không biết khi Khanh Tửu Tửu viết bức thư nhờ Tô Dự giúp cô tái sinh, tâm trạng thế nào, thời gian như bóng câu qua cửa, chớp mắt đã bảy năm, khó khăn bền bỉ mãi mới nhập hồn trở lại trở thành Công Nghi Huân, cô vẫn đang đi tìm ý nghĩa sự tồn tại của mình ở trên đời, nếu không có ai cần cô, cô sẽ không do dự tự hủy bản thân.

Ngày thứ hai sau khi Mộ Ngôn ra đi, tôi chuẩn bị ít hành lý từ biệt Công Nghi Phỉ, cố nhiên mang theo Tiểu Hoàng, Quân Vỹ và Bách Lý Tấn.

Công Nghi Phỉ cũng không níu giữ nhiều, tôi nhìn chàng ta mấy lần, định nói lại thôi, cuối cùng vẫn không mở miệng. Những chuyện đó cho dù nói ra, bây giờ chàng ta cũng không tin, cũng không cần thiết nói với Công Nghi Huân, đợi khi lấy được thuốc giải thiên nhật vong tất cả sẽ tốt đẹp. Lúc đó tôi đã lạc quan nghĩ như vậy.

Phóng ngựa một mạch, bảy ngày sau đã đến thành Tùy Viễn, tìm đến một sơn cốc, chính là nơi ẩn cư của Bách Lý Việt, nơi ẩn cư của cao nhân thần bí chắc chắn phải qua lớp lớp thành lũy tường cao hào sâu, đứng thẳng mà vào, nằm ngang mà ra, tôi đang tưởng tượng Tiểu Hoàng vốn bò ngang vào liệu có thể đứng thẳng đi ra, nhưng chẳng gặp gì hết, nhất lộ hanh thông không trở ngại gì, rất bình an suôn sẻ đứng trước mặt Bách Lý Việt.

Quá trình xin thuốc giải cũng vô cùng thuận lợi, hoàn toàn không gặp phải những yêu cầu mà một cao nhân nhất định nêu ra, ví dụ, “Muốn tôi cứu một người thì phải giết một người”. Hoặc là “Muốn tôi cho thuốc giải phải để lại đây một người phục vụ tôi mười sáu năm” vân vân…

Xem ra thế đạo này vẫn chưa đến nỗi khiến người ta tuyệt vọng, về sau Quân Vỹ nói đây hoàn toàn là do tôi có cao kiến kéo Bách Lý Tấn cùng đi, đột nhiên lại thấy thế đạo này quả nhiên vẫn khiến người ta tuyệt vọng.

Có được thuốc giải, cơ hồ đi suốt ngày đêm về Bối Trung, không kịp tắm rửa lập tức đi tìm Công Nghi Phỉ.

Gia nhân đưa tôi đến một ngôi đình hóng mát, dưới trời nắng oi, màn mưa như bức rèm chảy theo mái hiên xuống, thì ra nơi này cũng có Tự Vũ đình. Vén rèm mưa bước vào, Công Nghi Phỉ đang một mình uống rượu vẽ tranh, ngẩng đầu nhìn tôi một cái, không chào hỏi gì.

Tôi cảm thấy có gì không ổn, nhưng không kìm được niềm vui cuối cùng đã lấy được thuốc giải mang về, vội vàng lấy chiếc bình sứ nhỏ đựng thuốc giải để lên mặt bàn đá, “Mang về cho huynh một thứ rất tuyệt”.

Chàng ta vẫn cắm cúi vẽ, tôi đẩy cái bình đến trước mặt: “Chẳng phải huynh vẫn luôn muốn biết Công Nghi Huân nhìn nhận huynh thế nào ư? Uống cái này, tự huynh đi hỏi cô ấy”.

Mãi chàng mới ngẩng đầu: “Cô đến tìm Huân tỷ?”. Khuôn mặt vốn luôn tươi cười đó lúc này không chút cảm xúc, “Tỷ ấy chết rồi”.

Tôi há miệng, cảm thấy như nằm mơ: “Sao?”.

Chàng ta dừng bút, nhưng không nhìn tôi: “Tỷ ấy chết rồi, chín ngày trước”.

Tôi cắn môi, “Sao có thể?”.

Chàng khẽ nhắc lại: “Sao có thể?”. Đột nhiên bật cười, “Tôi được lệnh đi giết thừa tướng Khương quốc Bùi Ý, nhiệm vụ rất nguy hiểm, nhất định phải thành công, Công Nghi gia ngoài tôi không ai làm được, tỷ ấy lo cho tôi, đi thay tôi, chuyện là thế”.

Chàng cúi đầu nhìn bức họa trước mắt: “Tỷ tỷ làm rất tốt, tự hủy dung mạo, quyết hành thích bằng được Bùi Ý, không để lại manh mối nào, họ đem thi thể treo trên cổng thành, mưa tuôn nắng xối, ba ngày sau đem thiêu rắc tro tế trước mộ Bùi Ý, tôi không thể làm gì được, vì Trần quốc thậm chí không thể bảo toàn di thể tỷ tỷ, cũng không thể tổ chức một tang lễ cho tỷ tỷ”.

Chân tôi như nhũn ra, bám lấy bàn đá, rất lâu mới mở miệng: “Huynh đang… hối hận? Cô ấy chết rồi, chết thảm như vậy, huynh lại chỉ có hối hận thôi ư?”.

Thần sắc chàng ta băng lạnh: “Nếu tôi biết tỷ ấy đi làm việc đó, tôi sẽ ngăn cản”.

Tôi lắc đầu: “Đương nhiên huynh không biết, lâu quá rồi huynh không quan tâm đến cô ấy”.

Vốn tưởng câu nói sẽ khiến Công Nghi Phỉ nổi giận, nhưng chàng ta lại như không nghe thấy, ánh mặt trời xuyên qua màn mưa trước đình, chiếu lên khuôn mặt trắng bệch của chàng ta, một hồi lâu, giọng chàng ta nhỏ nhẹ: “Cô nói đúng, tôi không quan tâm tỷ tỷ từ lâu rồi. Ngày cuối cùng đó, tỷ tỷ đến tìm tôi, nói là tôi đã từng nhớ giúp tỷ ấy một điệu vũ, có phải tôi đã quên. Có những lúc tỷ tỷ hơi khác thường, nhưng chưa bao giờ như hôm đó, tôi nên nhận ra mới phải, nhưng tôi lại trách mắng tỷ tỷ, lúc ra đi tỷ tỷ rất đau lòng. Tôi không biết tỷ tỷ nói gì, vũ điệu tỷ tỷ múa vào ngày lễ hội săn thú sao tôi không nhớ, mỗi biểu cảm động tác của tỷ tỷ tôi đều nhớ. Vừa nhìn thấy, tôi đã biết tỷ tỷ là một mỹ nhân”.

Chàng ta hơi ngẩng đầu, mắt lại trống rỗng, “Có lúc, tôi rất hận tỷ ấy là tỷ tỷ của tôi”.

Tôi kinh ngạc, những lời nói của Công Nghi Huân mà Công Nghi Phỉ vừa nhắc tới chứng tỏ cô đã nhớ ra chuyện cũ, tôi không xác định lần cuối cùng khi sử dụng ảo chi đồng, liệu có bất cẩn mở ra phong ấn của cô.

Nhưng cô đã chết.

Tôi nhìn chàng ta: “Cho dù huynh đối tốt với cô ấy, huynh cũng nhất định không biết lòng cô ấy nghĩ gì, cô ấy nói với tôi, huynh rất ghét cô ấy, coi cô ấy là vật thừa, nhiều việc huynh không chấp với cô ấy là bởi cho rằng đầu óc cô ấy có vấn đề, bị huynh nói như vậy, cô ấy bắt đầu cảm thấy bản thân có vấn đề thật. Cô ấy cũng không biết sống để làm gì, cô ấy đã mệt mỏi rồi”.

Chàng ta ngây người nhìn tôi, sắc máu trên môi biến mất dần: “Tỷ tỷ đã nói như vậy ư?”.

Tôi đẩy bình sứ lại gần chàng ta, thong thả nói: “Ngày trước tôi gặp một cô gái bị chồng phụ bạc, tôi rất bất bình cho cô ấy, rất ghét người chồng đó”.

Nghĩ tới tất cả những chuyện đó, bỗng dưng cảm thấy sự nghiệt ngã đáng sợ của số phận, bất luận nỗ lực thế nào, cuối cùng vẫn không thoát khỏi bàn tay vô tình của nó. Tôi đứng lên, cúi đầu nhìn chàng ta một lát, “Nhưng tôi không ghét huynh, suy cho cùng, mọi người đều bị số phận giày vò, huynh và Khanh Tửu Tửu, cả hai đều đáng thương”.

Nghỉ ngơi ở nhà Công Nghi Phỉ đúng ba ngày, Quân Vỹ mang đến bức thư của Quân sư phụ do chim bồ câu đưa tới, Trần vương thất có động tĩnh mới, có lẽ đã đến lúc khởi sự.

Tôi nên ở đây đợi Mộ Ngôn đến đón nhưng lại không thể làm trái lời hứa với Quân sư phụ, suy nghĩ rất lâu, lưu lại một bức thư cho Mộ Ngôn, định nhờ Công Nghi Phỉ chuyển giúp. Nhưng không gia nhân nào biết chàng ta ở đâu, cuối cùng lại là Công Nghi San đường đột xuất hiện chủ động đưa tôi đi gặp chàng ta.

Càng đi con đường này càng thấy quen, hai bên đường nhỏ lát đá xanh, hoa phật tang vẫn nở, cuối thảm hoa trải dài là một ngôi viện lợp ngói xanh, đó là tiểu viện của Công Nghi Huân.

Tôi còn nhớ viện nội trồng rất nhiều hoa tử vi lả lướt trong gió đêm như sóng. Đẩy cổng vào quả nhiên nhìn thấy hoa tử vi đầy vườn đung đưa trong gió, mới không lâu trước Công Nghi Huân còn nằm ngủ dưới gốc cây bên sân, bây giờ hoa vẫn thế, cây vẫn còn đây, chỉ có người không thấy.

Đi qua những khóm tử vi, nhìn thấy cửa chính đường đóng chặt, Công Nghi San nhìn tôi khẽ hất hàm, tôi hồ nghi đẩy cửa, ánh mặt trời rọi vào căn phòng tối om, giống như mở ra một chặng quá khứ xa xưa, xung quanh phòng vải đen che kín, tít cuối phòng có một ngọn đèn dầu.

Tôi đứng ở cửa ngây người nhìn Công Nghi Phỉ áo trắng bên cạnh ngọn đèn dầu, trong tay chàng cầm một con dao khắc, có giọt máu nhỏ từ chuôi dao rớt xuống đất, trước mặt chàng là… tôi cơ hồ bịt miệng kêu lên, định thần mãi mới phát hiện đó chỉ là bức tượng của Khanh Tửu Tửu, một bức tượng có hồn như thật, mái tóc thả dài chấm gót chân, nửa bàn tay lộ ra dưới ống tay áo cầm chiếc ô cán trúc.

Công Nghi Phỉ thất thần đứng mãi, như sực nhớ ra, rút trong ống tay áo chiếc vòng ngọc màu đen, chìa ra trước bức tượng gỗ, nhẹ nhàng: “Chiếc vòng này có phải của cô nương?”.

Âm thanh trống rỗng vang lên trong căn phòng mờ mờ ánh đèn, nhưng không thấy tiếng trả lời. Chàng ta lại không bận tâm, ánh mắt tươi cười, giọng vẫn nhẹ: “Hình như tại hạ đã gặp cô nương ở đâu?”.

Nghe đến đây tôi đã biết câu sau chàng ta sẽ nói gì.

Đó là cảnh tượng lần đầu họ gặp nhau, cuối cùng chàng ta vẫn uống thuốc giải thiên nhật vong. Quả nhiên chàng ta nắm tay cô nói khẽ: “Tại hạ là Công Nghi Phỉ ở Bối Trung, dám hỏi quý danh cô nương”.

Như có tiếng thanh thanh vẳng lại: “Vĩnh An, Khanh Tửu Tửu”. Nhưng tất cả đã không thể quay trở lại.

Nhìn cảnh Công Nghi Phỉ rơi nước mắt, Công Nghi San bên cạnh giơ tay bịt miệng, quay người bỏ chạy như không thể chịu đựng hơn. Tôi từ từ khép cửa.

Bên ngoài chợt một trận gió mạnh thốc tới, hoa tử vi trên cây rụng lả tả như một trận tuyết rơi.

Bối Trung tháng chín, trận tuyết rơi màu tím. Ngẩng đầu nhìn bầu trời xanh ngắt, giữa tầng mây trắng dường như thấp thoáng bóng áo trắng, tôi ngửa mặt thốt lên: “Khanh Tửu Tửu, rốt cuộc cô yêu chàng thế nào?”.

Nước mắt ứa ra, có lẽ đây là lần duy nhất tôi rơi nước mắt vì khách hàng của mình.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Image

Phần 2: Trọn đời bình an


Chương 1

Ngày hôm sau chúng tôi rời Bối Trung, Chấp Túc đi theo còn được, nhưng Bách Lý Tấn một mực đòi đi theo thì quả rất thú vị.

Tôi và Quân Vỹ dự định giữa đường tìm cách bỏ rơi Chấp Túc và đám hộ vệ, cho nên biện pháp cuối cùng nghĩ ra là để Bách Lý Tấn đeo mặt nạ đóng giả tôi, còn tôi đeo mặt nạ đóng giả anh ta, ra khỏi Bối Trung đoàn sẽ chia làm hai ngả, Bách Lý Tấn đưa Chấp Túc, Tiểu Hoàng và đám hộ vệ tìm một lý do nào đó đi về hướng bắc, về hướng bắc, lại tiếp về hướng bắc, còn tôi và Quân Vỹ cưỡi ngựa truy phong đi Hạo thành, kinh đô Trần quốc gặp Quân sư phụ.

Lúc đầu Bách Lý Tấn phản đối rất dữ, nhưng ngoài anh ta chỉ có cách để Tiểu Hoàng đóng giả tôi, nếu vậy quả là quá khó.

Chuyện hành thích Trần vương tôi đã suy nghĩ rất nhiều, làm người phải giữ chữ tín, tôi được Quân sư phụ tái sinh trở lại nhân gian, sau khi chết vẫn có thể viên tròn ước nguyện mà suốt cả cuộc đời trước luôn day dứt tiếc nuối, cho nên bất luận thế nào cũng không thể nuốt lời, cho nên nhất định phải hành thích Trần vương.

Mộ Ngôn là tướng quân nước Trần, tôi biết, từ thượng cổ lương tướng trung thần có người trung thành với xã tắc, có người trung thành với quân vương, nhưng quả thực không thể đoán Mộ Ngôn thuộc loại nào, không dám hình dung chàng sẽ thế nào nếu biết tôi sẽ giết quân vương của chàng.

Ở đời có khi chuyện càng đơn giản càng khiến người ta đau đầu. Bất luận suy tính thế nào, đều khẳng định là thật thà chỉ có đường chết, muốn vẹn toàn cả hai, chuyện này chỉ có thể giấu Mộ Ngôn. Tôi nghĩ chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng này là đời này tôi không nợ ai nữa, từ đó có thể theo chàng suốt đời đến tận chân trời góc bể.

Trên đường một lần nữa nghe tin thừa tướng Khương quốc Bùi Ý bị giết, dư luận xôn xao, cơ hồ thiên hạ đều cho rằng chuyện do nước Triệu gây ra, bàn tán rất nhiều, rằng Triệu vương bản tính nham hiểm, hành xử hà khắc. Trước giết Tô Dự, sau giết Bùi Ý, lòng lang dạ sói.

Những lời đồn đó từ đâu ra đại khái có thể đoán được, Bùi Ý thực ra là bị Công Nghi Huân giết, Công Nghi Phỉ nói đó vốn là nhiệm vụ của chàng ta, tất cả đều vì nước Trần, xem ra Tô Dự bắt đầu báo thù.

Ngày trước Khương vu cho Triệu giết Tô Dự, lúc này Trần giết Khương thừa tướng, lại tung ra tin đồn như vậy nhất định khiến Khương rối loạn, dễ cho rằng đó là đòn báo thù của Triệu, đâu có ngờ người đứng sau âm mưu này lại chính là nước Trần từng được thiên tử phong thưởng.

Mộ Ngôn đi Triệu chuyến này có lẽ là phụng mật lệnh của Tô Dự liên minh với Triệu vương, chắc chắn sẽ tiết lộ với Triệu chuyện Khương vu oan cho Triệu, từ đó xúi bẩy Triệu gây chiến với Khương, có lẽ không lâu nữa, chiến tranh Triệu, Khương sẽ khai hỏa.

Theo tôi, chọc vào người khó chọc còn nguy hiểm hơn yêu người không nên yêu, Bùi Ý cả gan chọc vào Tô Dự, quả nhiên bị mất mạng.

Trần thế tử Tô Dự, con người luôn khiến thiên hạ xoay như chong chóng, đằng sau tiếng thơm nhân hậu hiền đức che giấu bao thủ đoạn hiểm ác, vậy mà trên thiên tử dưới lê dân, ai cũng cho là thanh liêm chính trực, trượng nghĩa, thủ tín, đóng kịch giỏi như vậy quả thật là bậc quân vương bẩm sinh, nước Vệ bị diệt dưới tay anh ta tôi tâm phục khẩu phục.

Nhưng nói vậy thôi, lúc đó Vệ đã hủ bại đến thế, bị diệt bởi tay ai tôi cũng tâm phục khẩu phục.

Phóng ngựa đi hai ngày đường, qua bao nhiêu cảnh vật làng quê, cuối cùng đến Hạo thành. Thành ngoại có sông bao quanh, rộng mười trượng, hai bên bờ trồng liễu, mùa hè nắng gắt liễu soi mình tỏa bóng xuống sông, thỉnh thoảng có tiếng ve trong lá. Một toà thành thơ mộng như vậy, đâu đâu cũng một cảnh tượng du nhàn, trên đường phố thỉnh thoảng lại thấy những công tử nhà giầu phóng đãng tay cầm lồng chim dẫn theo vài ba nô tài đùa giỡn trêu chọc con gái nhà lành.

Quân Vỹ rất không tán đồng, cho rằng nhất định chúng tôi đi sai phương hướng, làm gì có kinh đô nào phóng túng như vậy, thực ra có lẽ anh ta chưa từng trải. Hạo thành kinh đô Trần quốc, một trong những kinh đô phồn thịnh nhất đại lục, nói trắng ra là người ta thế này là che mắt thiên hạ, sức mạnh ẩn dưới vẻ phù hoa hào nhoáng bên ngoài, trông càng phong lưu phóng đãng, ý chí càng kiên định khó lay.

Quân Vỹ nói đùa, nói vậy nghĩa là nơi ý chí kiên định khó lay nhất đại lục có lẽ là kỹ viện. Tôi lại thấy biết đâu đấy, sao dám khẳng định không phải thế.

Quân sư phụ chờ chúng tôi ở Tứ Hải Lầu, lữ quán lớn nhất Hạo thành, sư phụ cho rằng ở nơi hỗn tạp, rồng, rắn chen nhau như vậy mới dễ che mắt thiên hạ,

Chúng tôi được biết, thì ra động tĩnh mới của Trần vương thất chỉ là lễ mừng thọ Trần vương, lúc đó bá quan vào cung chúc tụng, tương đối dễ trà trộn vào, nhưng rút cục sư phụ định bố trí thế nào, tôi và Quân Vỹ cũng chưa biết, chỉ đoán là đây chính là nguyên do sư phụ từ núi Quân Vu cách xa ngàn dặm đích thân lặn lội đến đây.

Đang đêm Quân sư phụ gọi tôi và Quân Vỹ đến phòng, vốn tưởng bàn chuyện cơ mật gì, không ngờ sư phụ dùng dao rạch nhẹ ngón tay tôi, thản nhiên uống mấy giọt máu của tôi pha với nước trà lạnh, giống như Tống Ngưng đã làm ngày trước.

Không biết sư phụ định làm gì, tôi và Quân Vỹ băn khoăn nhìn nhau, đột nhiên nghe thấy sư phụ hỏi: “Lai lịch Hoa Tư dẫn thế nào, chắc hai con đã nghe nói?”. Thấy tôi và Quân Vỹ lắc đầu, sư phụ hơi ngừng lại, bỏ chiếc cốc trong tay xuống, chậm rãi giải thích: “Viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn thế gian chỉ có độc nhất một viên, không phải là thánh vật gì của Quân Vu giáo, mà là di vật của sư phụ ta để lại cho ta. Sư phụ của ta có lẽ hai con cũng từng nghe, mang họ kép Mộ Dung, tên là An.

Tôi sững người. Mộ Dung An. Đã sớm nghe danh sư xuất cao đồ, cao nhân như Quân sư phụ mặc dù từng nghĩ sư phụ của ông ắt phải là bậc cao nhân, nhưng nghĩ trăm lần cũng không thể nghĩ ra lại chính là Mộ Dung An.

Cái tên đã trở thành truyền kỳ, phàm những người liên quan đến bí thuật không ai không biết. Một trong những bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, có một tư dung siêu phàm trác việt vượt hết thảy thế gian, sư phụ Huệ Nhất tiên sinh của tôi đã từng vinh hạnh được gặp, ca tụng là nhan sắc tuyệt thế.

Ngồi lặng mãi mới cất lên lời, tôi kinh ngạc hỏi: “Nghe đồn Mộ Dung An chết hai mươi năm trước trong trận chiến Lịch Khâu giữa hai nước Khương – Trần, không biết năm đó có phải Mộ Dung An bị Trần vương hãm hại?”.

Ông nhắm mắt, rất lâu sau, giọng mơ hồ vang lên: “Trần vương Tô Hoành là sư đệ của ta”. Tôi lại lần nữa chấn động.

Trong đêm thu bóng nguyệt chan chứa, Quân sư phụ để cho chúng tôi nhìn thấy Hoa Tư điệu của ông, nói về quá vãng đã chôn vùi hơn hai mươi năm trước, cũng là nguyên nhân ông nhất quyết hành thích Trần vương.

Giọng ông khe khẽ, vang lên trong ánh nến yếu ớt: “Chuyện năm xưa sư phụ chưa bao giờ nói với ta, người biết chuyện chỉ cảm thấy Tô Hoành còn trẻ tuổi, sư phụ ta đã sai, nhưng họ quên mất một điều, sư phụ là một vong hồn, không quan tâm đến đạo đức nhân luân, còn Tô Hoành năm xưa tuy tuổi còn trẻ nhưng chưa chắc trong lòng đã không hiểu rõ, ta không tin định mệnh, nhưng rất nhiều năm sau hồi tưởng lại cũng không khỏi cảm thấy, gặp Tô Hoành có lẽ là hung mệnh của sư phụ ta…”.

Trong tiếng nhạc trầm trầm, từng cảnh trong câu chuyện Quân sư phụ vừa nói tới hiện ra trước mắt tôi, chuyện bắt đầu từ một đêm giữa hạ hai mươi nhăm năm trước.

Tôi nhìn thấy một rừng phong lụi tàn, trăng sáng treo trên trời cao, tỏa ánh rạng ngời. Nhưng rừng phong dưới ánh trăng lại đượm màu chết chóc yêu ma, tháng sáu vốn là mùa lá phong nảy nở tươi xanh, nhưng ở đây thân khô cành héo, lá úa vàng lay lắt trên cành, có gió thổi lại không thấy rung lay.

Cả khu rừng im lìm như chết, không tiếng chim, không tiếng côn trùng, không sinh khí.

Tôi đang nghi ngờ trước mắt là bức tranh hay là cảnh thực, bỗng thấy một thiếu niên áo đen cưỡi tuấn mã màu đen phi như bay vào rừng phong, móng ngựa đạp xào xạo trên lớp lớp lá khô tích tụ, quạ đêm không biết từ đâu kêu oang oác, rào rào rơi xuống như lá rụng.

Tiếng vó ngựa rầm rập vang lên phía sau chàng thiếu niên, tiếng vó ngựa dồn dập truy bức gần tới nơi, mấy mũi tên vút qua lá phong cắm vào thân cây, con tuấn mã của chàng thiếu niên đột nhiên giương vó hí vang một tiếng, có lẽ bị trúng tên. Tôi nhìn mà sởn da gà, cảm thấy thiếu niên bị truy đuổi cùng đường, chắc chắn phải chết, trong rừng bất chợt vang lên tiếng lục lạc tinh tang.

Tiếng vó ngựa phi gấp, tiếng tên lao vun vút, tiếng lục lạc tinh tang, cảnh tượng trước mắt giống như ảo giác. Càng lạ lùng hơn, cùng với tiếng lục lạc tinh tang mỗi lúc càng rõ càng tiến càng gần, rừng phong tàn im lặng như chết trong chớp mắt như được hồi sinh, như một bức tranh thủy mặc trải ra, rễ đâm tua tủa bên dưới đám lá mục, trên cành nảy chồi xanh, cảnh tiêu điều từ từ chìm xuống, cả rừng phong lập tức sống lại tràn trề sinh khí.

Sương mù từ mặt đất bốc lên, lẩn quất trong lá cây, trên không truyền đến tiếng cười trong như tiếng chuông bạc, một cái bóng màu đỏ thoáng vút trong sương mù, nhanh đến không kịp nhận ra, chỉ có tiếng lục lạc tinh tang vang vọng, tiếng ngựa hí, tiếng người kêu thảm loạn trong màn sương, lát sau tất cả đã yên tĩnh không một tiếng động. Sương mù tan dần, một thiếu nữ áo đỏ lộng lẫy tay cầm trường kiếm đứng trên cành phong, xung quanh hàng đàn bướm đỏ bay dập dờn.

Thiếu niên áo đen ngồi trên lưng ngựa, hơi ngửa mặt nhìn ân nhân cứu mạng, dưới ánh trăng, đôi đồng tử đen in bóng áo đỏ, cặp mày thanh, mắt hạnh đào, trên trán in hình con bướm đỏ giương cánh. Mái tóc đen thướt tha, dưới gấu váy đỏ lộ ra đôi chân trần trắng như tuyết, trên cổ chân nhỏ nhắn đeo chuỗi lục lạc bằng bạc sáng loáng.

Kiếm trong tay vẫn nhỏ máu, cô không bận tâm, nghiêng đầu liếc qua những xác chết ngổn ngang trên mặt đất, ánh mắt dừng lại trên đôi mắt đẹp của thiếu niên đang lặng lẽ nhìn mình: “Ngươi là ai? Tại sao lại đến đây?”.

Khóe mắt hơi nhếch lên, tươi cười, lời nói ra lại lạnh như băng: “Lẽ nào ngươi không biết, tự tiện xông vào rừng lá đỏ Phương Sơn ắt phải chết?”.

Thiếu niên thúc ngựa tiến lên hai bước, ánh mắt liếc qua gót chân trần của cô: “Cho dù là đêm mùa hạ, cô nương đi chân trần thế này, e sẽ bị cảm lạnh”.

Bướm đỏ đã bay mất từ lúc nào, trường kiếm cũng không thấy đâu, tiếng lục lạc lại vang lên trong không trung, gót hồng đã đậu trên đầu tuấn mã chàng thiếu niên đang cưỡi, tuấn mã vẫn đứng yên.

Cô hơi cúi xuống, tay phải nâng cằm chàng thiếu niên: “Ngươi không sợ ư?”.

Chàng hơi ngẩng đầu, nhìn cô: “Tại sao ta phải sợ?”.

Cô ngây ra một lúc rồi bật cười: “Thật là một nam nhi thú vị, ngươi nói thế khiến ta không muốn giết ngươi nữa”.

Chàng trai thấy mình được an toàn vẫn không đổi sắc mặt, ánh mắt một lần nữa liếc qua gót chân trần của cô: “Cô không đi giày”.

Cô nghiêng đầu: “Thế thì sao?”.

Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt nghiêm trang hơi lạnh của chàng thiếu niên, giọng nói nhẹ như tuyết bay gió thoảng: “Trông cô thế này, cô định đi đâu?”, hơi dừng lại: “… Để tôi đưa cô về nhà”.

Thiếu niên thúc ngựa phóng về phía tay cô vừa chỉ, rừng phong phía sau chớp mắt lại trở về cảnh tượng chết chóc ban đầu. Vó ngựa vừa vút qua, một thiếu niên áo xanh từ sau cây phong chỗ cô gái vừa đứng ló ra, tay cầm đôi giày lụa thêu màu đỏ, khẽ thở dài, nhìn kỹ nhận ra đó chính là Quân sư phụ lúc tuổi đôi mươi.

Thời gian vụt trôi, thì ra cô gái áo đỏ đó chính là Mộ Dung An, còn thiếu niên áo đen chắc là Trần vương Tô Hoành thuở thiếu niên. Chăm chú xem cảnh đó, hai mươi tư năm trước Tô Hoành mười sáu tuổi, đúng rồi, lúc đó ông ta vẫn chưa là Trần vương, mà là Trần quốc Hoành công tử.

Nghe nói tự cổ chí kim, phàm những trang giai nhân tuyệt sắc tình trường đều trắc trở, nhưng Mộ Dung An mà sử sách ghi chép cơ hồ không bị vướng vào oan nghiệt đó, trái lại chính những trang nam nhi gặp cô, tình lộ ai ấy đều trở nên truân chuyên, trắc trở.

Trong số đó người nghĩ quẩn nhất phải kể đến tứ công tử Trang Kế của Hạ quốc. Không nhớ rõ bộ dã sử nào ghi chép, nói Trang Kế muốn cưới Mộ Dung An, sự không thành, đành ôm hận mà chết, mẫu thân chàng muốn xin Mộ Dung An một món tóc để táng theo chàng, nhưng vị công tử đã chết vì mình là ai Mộ Dung An cũng không biết.

Sử sách chỉ dừng ở đó, vốn tưởng chỉ là truyền thuyết dân gian không đáng tin, lúc này thông qua Hoa Tư điệu của Quân sư phụ mới thấy hóa ra chuyện có thật.

Ba tháng sau khi Trang Kế công tử qua đời, Mộ Dung An xuất hiện ở lầu xanh lớn nhất Hạo thành, mỗi ngày đều tiếp hai vị khách, khách lên lầu thù tạc họa thơ thưởng nguyệt không cần ngàn kim vạn bạc, nhưng nhất thiết phải kể cho cô nghe một câu chuyện tình. Bởi vong hồn trở lại trần thế đương nhiên không hiểu thế thái nhân luân, điều đó nói lên cái chết của Trang Kế công tử đã làm cô xúc động, ít nhất cũng khiến cô bắt đầu hiểu chữ tình rốt cuộc là gì?

Nhưng tình duyên của Mộ Dung An và Tô Hoành một khi đã bén không gì ngăn được, có ai ngờ, một con người lãnh đạm kiêu ngạo như Tô Hoành lại đến lầu xanh, gọi đích danh Mộ Dung An, mặc dù lầu chủ nói rõ, cô gái này hơi đặc biệt, không bán thân không bán nghệ, cô đến nơi này thuần túy chỉ vì muốn kiểm nghiệm khổ ải của nhân sinh…

Mộ Dung An trí nhớ không tốt. Khi Tô Hoành vén rèm bước vào mặc dù dung quang chẳng khác lần gặp ban đầu, ngoài không cưỡi tuấn mã đen, thậm chí xiêm áo cũng giống hệt đêm đó, nhưng cô ngẩn người không nhận ra chàng, vẫn ung dung co gối ngồi trên ghế quý phi, thần thái khoan thai, không nhìn khách thêm một lần: “Đêm nay chàng đến là để kể chuyện cho ta? Chàng mang đến câu chuyện thế nào?”.

Mắt cô vẫn nhìn đi nơi khác: “Ta biết một chàng công tử yêu một cô gái, mắc bệnh tương tư mà chết, câu chuyện của chàng liệu có ly kỳ như thế?”.

Chàng để cốc trà xuống bàn, “Chuyện đó có gì ly kỳ, chẳng qua là một người yếu đuối, vì không được thỏa mãn tham vọng, chết bất đắc kỳ tử mà thôi”.

Cô ngẩn người, cuối cùng quay lại nhìn chàng: “Vậy chàng đến đây không phải để kể chuyện ư?”.

Chàng nhìn qua cửa sổ, một khuôn mặt nhìn nghiêng vô cùng tuấn tú, thong thả nói: “Nàng nói đúng, ta xưa nay không biết kể chuyện. Chỉ là hai tháng trước ta không cẩn thận xông vào một khu rừng phong, được một cô gái áo đỏ cứu mạng, về sau chúng tôi chia tay, ta không thể nào tìm thấy nàng. Ta đến đây để hỏi có lẽ nàng biết cô gái ta cần tìm ở đâu?”.

Mắt cô lộ vẻ mơ màng, chăm chú nhìn chàng một lát, nhếch môi cười: “Là chàng sao?”.

Chàng không nói.

Cô hơi nghiêng đầu, như hồ nghi, tôi không nhận ra động tác của cô, khi định thần đã thấy cô chân trần đứng trước mặt chàng, giống như lần đầu họ gặp nhau, cô cúi xuống nhìn chàng, trước khi mở miệng còn giả bộ suy nghĩ nghiêm túc: “Chàng tìm ta… chàng tìm ta… là muốn gì?”.

Chàng bình tĩnh ngẩng đầu: “Nàng nói xem?”.

Nhìn cô hình như băn khoăn thật, chàng chậm rãi nói: “Một người đàn ông trăm phương ngàn kế tìm một cô gái, ngoài muốn có được cô ấy, còn có thể vì cái gì?”.

Cô như giật mình: “Có được cô ấy? Chàng định làm gì để có được cô ấy?”.

Nụ cười tinh nghịch dâng lên trong mắt chàng: “Cho nên ta đến thỉnh giáo nàng, phải làm thế nào để có được cô ấy”.

Cô quả thật sững ra một lát, lát sau, cuối cùng hiểu ra chàng định nói gì, nụ cười hiện dần trong mắt: “Thật thú vị!”.

Dưới ánh đèn, con bướm đỏ trên trán lạnh lẽo yêu mị, ánh mắt cô dừng lại trên bàn tay thanh tú của chàng: “Nếu chàng đánh bại cô ấy, đương nhiên sẽ có được cô ấy. Ngoài ra không còn cách nào khác”.

Tôi thầm nghĩ, thôi rồi, lại một cuộc đấu võ kén chồng. Nhưng cái gọi là đấu võ chẳng qua cũng chỉ là chinh phục và bị chinh phục. Thực ra, tại sao nhất thiết phải lấy người chinh phục mình, lấy người mình chinh phục cũng tốt chứ sao, như vậy nếu xảy ra bạo lực gia đình mình cũng không đến nỗi rơi vào thế hạ phong.

Nhưng rõ ràng Mộ Dung An không nghĩ thế, có lẽ chỉ là một cách thoái thác, cô vốn không muốn lấy ai, chắc chắn những lời từ chối đó chính là nguyên nhân mấy người đàn ông không thể có được như cô, như Trang Kế công tử, bởi không ai có thể thắng cô.

Đêm hôm đó Tô Hoành không nói gì ra về, cũng không rút kiếm thử với cô vài chiêu. Nhìn bóng chàng rời đi, Mộ Dung An thản nhiên giơ tay vuốt trán, môi lạnh lùng cười khẩy một tiếng, có lẽ cô cho rằng Trần quốc Hoành công tử thực ra cũng chỉ thế mà thôi.

Mộ Dung An là người thế nào, cả đông lục không ai tường tận, trước đây tôi chỉ biết qua những truyền thuyết thiên hạ truyền tụng về cô, các đạo sĩ cho rằng may mà cô quá siêu phàm khó bắt chước, nếu không đã có vô khối thiếu nữ sùng bái cô mà đi lệch đường.

Bây giờ nhìn thấy việc làm của cô, cảm thấy mối lo của các đạo sĩ là thừa.

Quân sư phụ nói gặp Tô Hoành là hung mệnh của Mộ Dung An nhưng xem đến đây cảm thấy tất cả đều trái ngược.

Mộ Dung An thần thái ung dung, người đắm đuối mê muội lại là Tô Hoành. Thì ra vốn tưởng hai người sẽ âm thầm nảy sinh tình cảm do tình sư phụ, đệ tử sớm tối bên nhau, bây giờ xem ra giả thiết đó đã bị lung lay.

Nửa năm sau Tô Hoành trở thành đệ tử của Mộ Dung An. Một ân nhân của Mộ Dung An đưa Tô Hoành đến rừng lá đỏ Phương Sơn bái sư, nói rõ muốn học kiếm thuật của Mộ Dung An.

Tôi không biết chuyện này rốt cuộc là do Tô Hoành cố ý bày ra hay là duyên phận. Quân sư phụ lại không nói, nhưng lần thứ ba gặp lại, nhìn thấy Tô Hoành xuất hiện trong rừng lá đỏ, Mộ Dung An rõ ràng sững người, lát sau mỉm cười, “Lại là ngươi”.

Cô vốn là một hồn ma sinh ra từ sát khí ngưng tụ trên chiến trường cổ, bao nhiêu năm nhân sự như phù vân lướt qua trước mắt, rất ít người khiến cô nhớ được, nhưng cô lại nhớ được Tô Hoành, không chỉ nhớ chàng, xem ra còn nhớ những lời chàng nói đêm đó.

Dưới vầng trăng tròn, Mộ Dung An vẫn tư thái ung dung đứng dưới một cây phong khô héo, hứng thú nhìn đệ tử mới nhập môn trước mặt: “Mặc dù có câu băng vốn từ nước mà thành nhưng lạnh hơn nước, xanh vốn từ lam nhưng đậm hơn lam, đệ tử không nghĩ chỉ cần bái ta làm sư là sẽ có ngày thắng được ta đấy chứ?”.

Thiếu niên áo chùng đen đi lướt qua cô, đến chỗ sâu trong rừng phong, bóng đổ dài dưới trăng, giọng nói thanh lạnh tản trong gió: “Sư phụ nghĩ nhiều rồi”. Kính cẩn tới mức có vẻ như trước nay chàng ta chỉ coi cô là sư phụ, con người ngang nhiên hỏi cô làm thế nào để có được cô nửa năm trước cơ hồ chưa từng tồn tại.

Trên Phương Sơn, sau khu rừng lá đỏ kỳ dị đó có một thiên động, có sơn thủy bốn mùa xanh tươi, có cổ thụ um tùm râm mát, một ngôi lầu trúc thấp thoáng dưới bóng cây, chính là biệt cư của Mộ Dung An.

Từ khi bái sư, Tô Hoành cư xử đất đúng đạo, ngôn hành nghiêm cẩn, đối với Mộ Dung An rất mực lễ độ, ngoài ăn ngủ, hầu như chỉ chuyên tâm luyện kiếm pháp, như một đồ đệ tôn sư trọng đạo, say mê kiếm thuật, tư chất thông minh lại chuyên cần nỗ lực.

Tôi nghi ngờ có lúc Mộ Dung An như đang thăm dò Tô Hoành, có lẽ cô không biết thiếu niên đó nghĩ gì, hoặc là thái độ một người tại sao trước sau lại khác xa như vậy. Trước đây tôi có nghe Quân Vỹ kể một câu chuyện, cũng là sư phụ và đệ tử, kể rằng một buổi tối, đệ tử luyện kiếm trở về nhìn thấy sư phụ nằm ngủ dưới bóng cây, đệ tử không thể kìm lòng đã mạo phạm sư phụ, sau đó bắt đầu một mối tình nồng nàn dai dẳng.

Nhưng rõ ràng Tô Hoành kìm chế hơn nhiều so với đệ tử đó, có một thời gian Mộ Dung An ngày nào cũng ngủ trưa ở trong khu rừng chàng luyện kiếm, còn đặc biệt cho đặt một chiếc giường mây ở chỗ chàng thường ngồi nghỉ khi luyện tập mỏi mệt, chàng lại bỏ đi chỗ khác như một người có giáo dưỡng, không hề có biểu hiện bất kính nào đối với sư phụ.

Nhưng càng như thế Mộ Dung An dường như càng hiếu kỳ. Lúc đầu khi Tô Hoành mới bái sư cô chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện, đa phần là lúc Tô Hoành gặp khó khăn, thong thả đưa vài câu chỉ giáo đại loại “Muốn chiêu thức nhanh hơn mắt của mình, thì không nên nhìn bằng mắt”. Những câu người bình thường nghe không hiểu hoặc nghe rồi cũng không biết nên làm theo thế nào.

Về sau lại hầu như ngày nào cũng tập với Tô Hoành, chỉ dẫn kiếm pháp cẩn thận hơn trước nhiều, thỉnh thoảng hứng lên lại cầm kiếm thử vài chiêu với chàng, nhưng cũng chỉ dừng ở mức hướng dẫn đồ đệ vận dụng kiếm pháp tốt hơn mà thôi, còn đọ sức chính thức chưa bao giờ xảy ra.

Nhưng ngày hôm đó cơ hồ hơi khác thường.

Đó là ngày đại tuyết tháng mười một, tuyết phủ ngập núi, khu rừng luyện kiếm tuyết chồng chất, lạnh đến nỗi hơi thở ra lập tức đóng băng, cây tùng lá kim bị tuyết đóng thành cột băng, khắp rừng toàn những cột băng lạnh nhấp nhô trong tuyết.

Mặt trời trên đầu chỉ là quầng trắng lờ mờ, hắt ra tia lạnh, kiếm trong tay hai người vun vút loang loáng, hoàn toàn không có điểm dừng như mọi khi, đòn ra tay, đòn đánh trả đều quyết liệt. Kiếm pháp giống hệt nhau, khinh thủ trọng công, không có chiêu thức nào khác, một đòn ra chỉ là xem ai nhanh hơn ai, lá kim trên cây rơi xuống ào ào như nước, họ đã hoàn tất ba lần đánh giáp lá cà.

Trong rừng chỉ thấy tiếng tuyết rơi và tiếng kiếm va vào nhau chan chát trong tuyết lạnh cô đơn, phảng phất màu thiền.

Sau một ánh kiếm lóe lên, cột băng bên cạnh Mộ Dung An đổ rầm, người cô hơi lùi lại né sang phải một cách bản năng, chỉ trong tích tắc, thân hình áo đen của Tô Hoành đã như một con rồng đen vút qua, không nhìn rõ chàng ra chiêu thế nào, trường kiếm trong tay cô đã bị chàng đánh bật, trước khi rời khỏi tay cô đã kịp vạch trên người chàng một vệt máu dài với những hạt máu li ti, đầu kiếm dính máu, từ trên không cắm phập xuống tuyết, để lại một vệt đỏ trên tuyết trắng chỗ lưỡi kiếm cắm vào, còn kiếm của chàng bình ổn ép vào cổ cô.

Lại một cột băng nữa bị phạt đổ, vụn tuyết bắn lên, hai người thở gấp, lưỡi kiếm của chàng vẫn không thu lại, mắt đăm đăm nhìn cô: “Còn nhớ lúc đó đã nói gì không, sư phụ”.

Cô giơ tay đẩy lưỡi kiếm trên cổ ra, nghiêng đầu: “Ta đã băn khoăn, thấy chàng say mê kiếm thuật như vậy, ta đã tưởng những lời chàng nói ở thanh lâu mấy tháng trước là ta nhớ nhầm”.

Chàng thu kiếm vào bao, máu vẫn chảy nhưng chàng không bận tâm: “Nếu không dùng bí thuật ly hồn, chỉ đơn thuần dùng kiếm thuật, hôm nay nàng đã không thể thắng ta, nếu nàng sử dụng ly hồn thuật đối với ta, cả đời này ta cũng không thể thắng nàng, tình cảm của ta chưa bao giờ thay đổi, tất cả chỉ phụ thuộc vào nàng”.

Chàng từng bước tới gần cô, tuyết lạo xạo dưới chân, nhưng không át nổi tiếng chàng: “Nàng muốn dùng ly hồn thuật đối với ta sao?”.

Cô không trả lời, lại gật đầu tán đồng nửa câu trước của chàng: “Chàng nói đúng, nếu có ngày kiếm vẫn còn mà ta lại thua, đó là bởi vì ta muốn thua”.

Cô hơi ngước mắt, đôi mắt đen láy lóng lánh ánh cười, chân bước tới, từng bước thu hẹp khoảng cách với chàng, hơi kiễng chân, môi cơ hồ dán vào tai chàng: “Hôm nay, ta thua rồi”.

Chàng mãi không có phản ứng, còn cô đã thản nhiên lùi ra, giơ tay che ánh nắng ngước nhìn trời, nói như than: “Chưa ăn gì đã giao chiến, bụng hơi đói”.

Nói xong nhặt thanh kiếm lên. Nhưng vừa quay người chưa kịp bước đã bị người phía sau nắm lấy tay. Tôi bật ra hơi thở nãy giờ vẫn vít trong cổ họng từ lúc họ bắt đầu giao thủ, xem ra qua một lúc lâu như thế Tô Hoành cuối cùng mới hiểu ý câu nói vừa rồi của cô. Cô quay người tươi cười nhìn chàng: “Ôi, chàng làm đau ta rồi”. Nhưng chàng vẫn không buông tay, tay kia giơ lên thận trọng vuốt ve con bướm đỏ xinh xắn trên trán cô như vuốt ve một thánh vật, đầu hơi cúi, đôi môi nhạt màu áp lên cánh bướm.

Cô khẽ cười một tiếng: “Gan của chàng chỉ có vậy thôi?”. Không đợi chàng phản ứng, cô đã kiễng chân ôm cổ chàng, môi ép vào môi chàng. Sau phút sững sờ, chàng quàng tay ôm cô, ép vào thân cây tùng phía sau lưng, mặt vẫn ngơ ngẩn, đôi mắt thâm trầm như nước dịu dàng nhìn cô: “Nàng cũng thích ta, đúng không?”.

Lại một năm mùa xuân hoa nở, mùa hạ lá xanh, từ khi Tô Hoành lên núi bái sư, rừng cây trên núi đã hai lần thay lá, tình cảm nảy sinh giữa sư phụ và đệ tử nhìn từ góc độ lễ giáo là trái nhân luân, đạo đức xã hội khó dung.

Nhưng đây là thế giới của Mộ Dung An, cách biệt nhân thế, tuyệt đối không có ai chỉ trích họ, người duy nhất cảm thấy không thỏa chỉ có Quân sư phụ, nhưng Quân sư phụ lúc này quả thực không có quyền phát ngôn.

Thời gian hơn một năm hai người sớm tối bên nhau, giống như hầu hết những đôi vợ chồng bình thường trên đời, đêm trừ tịch năm đó, Mộ Dung An treo trên cửa bức hoành phi bốn chữ “nhất thế trường an”(Nghĩa là: Trọn đời bình an.).

Nhất thế trường an, đơn đơn giản giản bốn chữ, một dấu hiệu tốt lành, nhưng sự đời đâu đơn giản như vậy, Tô Hoành là công tử Trần quốc. Không biết ai đó nói, tòa lâu đài xây thì lâu như vậy, trải qua bao nỗ lực như vậy, phá hủy nó lại chỉ cần thời gian một cái chớp mắt, câu nói quả chí lý.

Mùa xuân năm Trần Văn hầu thứ hai mươi ba, Trần quốc công tử Tô Hoành tổ chức đại hôn lễ, cưới Mộ Chỉ, trưởng nữ của Mộ Hành tướng quân làm vợ, Mộ Dung An rời khu rừng lá đỏ đi đâu không ai biết.

Sự việc thực ra rất đơn giản, chẳng qua Văn hầu vương dồn ép, giữa vương vị và Mộ Dung An, Tô Hoành chỉ có thể chọn một, cuối cùng Tô Hoành lựa chọn vương vị.

Tháng chín, Trần hầu vương báo với thiên tử lập công tử Diễn (Tô Hoành) làm thế tử, gia phong Mộ Chỉ làm thế tử phi. Một đêm, Quân sư phụ ôm một đứa trẻ vừa đầy tháng xuất hiện ở thư phòng của Tô Hoành, nói là Mộ Dung An đã chết, để lại cốt nhục này, mong chàng nghĩ đến tình sư đệ năm xưa, đối xử tốt với đứa bé.

Đứa bé được bọc trong tã khóc oe oe không ngớt, Tô Hoành ôm nó ngồi trong thư phòng thức trắng đêm, khi rời khu rừng lá đỏ chàng không biết Mộ Dung An đã có thai.

Nhưng tôi luôn cảm thấy Mộ Dung An chưa chết. Mặc dù ma đích thực không thể mang thai sinh con, nếu có cũng dễ bị chết trong quá trình mang thai và sinh nở, nhưng Mộ Dung An mạnh mẽ như vậy, nếu một hồn ma mạnh mẽ như vậy cuối cùng vẫn không thoát khỏi kiếp nạn khó sinh mà chết, quả khiến người ta thất vọng. Tuy nhiên căn cứ quan trọng nhất vẫn là theo dã sử lưu truyền, Mộ Dung An chết ở chiến trường Lịch Khâu trong cuộc chiến giữa hai nước Trần, Khương…

Quân sư phụ nói Tô Hoành là hung mệnh của Mộ Dung An, đến giờ tôi mới tin. Tính cách Mộ Dung An như vậy có lẽ không dễ yêu, một khi đã yêu là yêu suốt đời suốt kiếp, còn Tô Hoành, con người này rất bí hiểm, khó dò.

Tình cảm của chàng ta đối với Mộ Dung An không có vẻ giả dối, nhưng cũng có thể sẵn lòng từ bỏ.

Tôi nghĩ người chàng ta yêu nhất trước sau chỉ có Mộ Dung An, nhưng bất luận thế nào cô cũng không thể địch nổi giang sơn xã tắc, không địch nổi vương vị dưới một người trên vạn người. Nhưng dùng giang sơn vạn dặm vô cương đổi lấy cuộc sống vạn dặm cô đơn có phải là điều chàng muốn?

Nghĩ lại, cảm thấy mình thật ấu trĩ, có giang sơn vạn dặm nghĩa là có mọi mỹ nhân trong thiên hạ, tuy có lẽ không được thứ mình muốn có nhất, nhưng lại có số lượng bù lại, làm gì còn cô đơn.

Tôi chờ đợi Mộ Dung An xuất hiện lần nữa, những sự việc xảy ra sau đó chỉ là chuyện vụn vặt không đáng nói, hai sự việc tương đối lớn đó là, năm đầu tiên sau khi Trần vương băng hà, Tô Hoành kế vị, năm sau hai nước Trần – Khương do tranh chấp biên giới nổ ra cuộc chiến tranh lớn.

Trong cuộc chiến Khương – Trần, Trần vương Tô Hoành đích thân xuất chinh. Tôi đã đọc cố sự đó trong sách sử, trong đó nói, Trần quốc thượng võ, các đời Trần vương đều trưởng thành trên lưng ngựa, Tô Hoành cũng thế, từ nhỏ theo cha chinh chiến biên cương trận mạc, tác chiến vô cùng mau lẹ cơ mưu, thường đích thân đi tiên phong, dẫn một đội khinh kỵ tinh nhuệ thâm nhập vào quân doanh đối phương thăm dò tình hình, hoặc đánh chọc sườn, giúp quân chủ lực có cách tác chiến thích hợp.

Vốn nghĩ có lẽ khi thân đã ở ngôi cao chàng sẽ không mạo hiểm tính mạng như vậy, nhưng qua trận Lịch Khâu, có thể thấy con người này cho dù đã trở thành quốc vương cũng không thay đổi phong cách tác chiến. Đêm trước khi xảy ra đại chiến, Tô Hoành vẫn mang hai mươi khinh kỵ lẻn vào trận địa Khương quân, vung kiếm đánh thẳng vào trận địa đối phương, sau đó lại vừa đánh vừa quay ra, đích thân cảm nhận thực lực địch quân.

Phương thức thăm dò địch tình này đối với chàng không là gì, thời thiếu niên thường làm như thế, nghe nói mấy lần lọt vào hiểm cảnh đều dựa vào sự bình tĩnh mưu trí mà an toàn thoát hiểm, thực là một kỳ tài.

Nhưng đêm đó, chàng mang hai mươi khinh kỵ luồn sâu vào quân doanh địch, lúc quay ra bất ngờ vấp phải mấy ngàn phục binh của đối phương mai phục trên đường. Khi thâm nhập vào quân doanh địch, đội khinh kỵ mang theo đã bị hao tổn, hơn nữa chiến mã cũng bị trúng tên, nếu không tìm ra diệu kế, rất khó hy vọng phá vây.

Sử sách không thấy ghi chép những tình huống hiểm nguy trước có phục binh, sau có truy binh chàng từng gặp khi còn là thế tử.

Trong rừng núi tối tăm, vòng vây mỗi lúc càng hẹp dần, đuốc đột nhiên sáng trưng, trống trận vang lừng, trống trận vốn là để cổ vũ sĩ khí, nhưng trong tình huống này lại có phần nực cười.

Trên sườn núi, ngồi trên lưng chiến mã đỏ au, mũi phun hơi phì phì, thống lĩnh tướng quân Khương quốc đắc ý cười ha hả: “Không ngờ Trần vương nức tiếng mưu dũng hôm nay lại bỏ mạng ở đây, xem ra cái gọi là mưu dũng cũng chỉ đến thế, là mưu dũng của kẻ phàm phu mà thôi, các huynh đệ, các huynh đệ thấy có phải không?”.

Lời vừa dứt, thủ cấp đã rơi bịch xuống đất lăn lông lốc. Một thanh kiếm dính máu cắm phập trên vách núi gần đó, thủ cấp đẫm máu của Khương tướng quân lăn mấy vòng, nụ cười đắc ý vẫn còn cứng đờ trên mặt.

Một tình cảnh thật khó tưởng tượng, tôi nhìn mà đau thay cho ông ta, bất giác giơ tay sờ vào cổ mình, may cái đầu vẫn yên vị trên cổ.

Nhưng nhát kiếm chém phăng thủ cấp Khương tướng đó không phải là của Tô Hoành hay thuộc hạ của Tô Hoành, trường kiếm của họ vẫn nắm trong tay, tôi tròn mắt quan sát cảnh tượng trong Hoa Tư mộng trước mắt, muốn tìm ra manh mối, đồng thời trong đầu cũng lóe lên ý nghĩ, liệu có phải một binh sĩ nào đó của phía Khương quân do ngưỡng mộ tài năng Tô Hoành mà ra tay cứu giúp. Cũng không biết tại sao chợt nghĩ đến Mộ Dung An.

Khi cái tên đó lóe lên trong đầu như một tia chớp, trên không trung bỗng vang lên tiếng lục lạc tinh tang. Tôi nhìn thấy đôi mắt mở to của Tô Hoành, vừa rồi bị Khương tướng làm nhục như vậy vẫn không nổi sóng giờ đột nhiên thất sắc, nhìn thẳng về phía phát ra tiếng lục lạc, bàn tay cứng đờ nắm dây cương.

Đối phương dường như cuối cùng đã hiểu ra chuyện gì, phó tướng trên lưng ngựa thét lên hạ lệnh khép vòng vây xông tới. Đúng lúc binh sĩ lăm lăm trường mâu trong tay dồn lên, trong ánh đuốc nhựa thông sáng rực, những đàn bướm đỏ không biết từ đâu vèo vèo bay ra

Chính thời khắc đó, rừng cây cổ thụ chọc trời bừng bừng sinh khí xung quanh đột nhiên lá cành bắt đầu héo rũ, chớp mắt đã biến thành cảnh rừng chết xác xơ, gió lớn bật đất mà lên, ánh lửa đuốc sáng rực nửa ngọn núi chớp mắt tắt ngấm, gió như trường đao cắt vụn màn đêm, trên bầu trời tĩnh lặng lại hiện ra một vầng trăng tròn.

Đàn bướm đỏ bay liệng trên không, toàn thân phát hồng quang rực rỡ, còn tiếng lục lạc cũng rõ dần, trong sắc đêm cuối cùng lộ ra bóng hoa phục màu đỏ của cô gái, mái tóc như dòng thác thả xuống tận gót chân, con bướm trên trán giương cánh như muốn bay, dáng mỹ miều băng lạnh, khóe miệng liên tục nhếch lên vẫn không thành nụ cười.

Tôi không ngờ Tô Hoành lại bất chấp nguy hiểm thúc ngựa qua, trong tình huống hiểm nghèo đó, chỉ cần động đậy là trở thành mục tiêu cho trận mưa tên của đối phương. Tôi biết chàng chỉ muốn phóng đến bắt cô, chàng tưởng cô đã chết, nhưng cô lại xuất hiện trước mặt chàng.

Chàng cơ hồ đã trấn tĩnh trở lại, ánh mắt dán chặt không rời khỏi cô, trận mưa tên bay vào chàng, chàng cũng chỉ bình tĩnh khua kiếm đỡ. Cô cúi xuống mắt lạnh lùng nhìn chàng, hai ống tay áo vừa phất, có tiếng “phù” trong gió, vạn vật xung quanh đột nhiên dừng lại như bị đóng băng, im phăng phắc, bao gồm cả vòng vây của binh sĩ Khương quốc vừa rồi còn nhốn nháo, bao gồm cả mũi tên bay đến, bao gồm cả Tô Hoành và con ngựa tung vó phi tới, thậm chí bao gồm cả những ngọn đuốc bốc khói.

Tiếng lục lạc khẽ vang, cô đứng trên đầu ngựa nghểnh cao của chàng, cúi đầu nhìn ánh mắt đen cầu khẩn của chàng, khẽ cười một tiếng: “Cuối cùng chàng vẫn yêu ta, ta không thua ai, chỉ thua vương vị của chàng”. Giọng thanh lạnh vang trong không gian tĩnh mịch như ném viên sỏi xuống mặt hồ, sóng loang ra mấy vòng rồi tiêu tan.

Tiếng lục lạc dưới chân lại tinh tang tinh tang, cô đã đạp gió tung người lên không, liếc nhìn trận địa bất động dưới chân, chầm chậm giơ bàn tay phải. Gió thổi tung mái tóc đen của cô, năm ngón tay mảnh dẻ kết thành hình nửa đóa hoa sen.

Một giọt máu từ tâm sen nhỏ xuống, đàn bướm đỏ bay liệng trong màn đêm đột nhiên hóa thành những mũi kim dài sáng chói. Hoàn toàn không nhìn rõ những mũi kim đó bay thế nào, chỉ cảm thấy trên bầu trời đêm đột nhiên bùng phát một đám khói cực lớn, trong ánh sáng màu đỏ, binh sĩ Khương quốc đang đứng như trời trồng chớp mắt biến thành những bộ xương trắng chồng chất.

Từ đống xương trắng nảy ra vô vàn ấu bướm đỏ. Sực nhớ tới những ghi chép trong sách sử, tôi sững sờ mãi mới hiểu ra, Mộ Dung An đã dùng bí thuật cổ trên quy mô lớn – ly hồn thuật.

Bí thuật hoa mỹ và tàn khốc trong truyền thuyết đó khi thực thi phong ấn cả không gian và thời gian của một khu vực, bướm đỏ ký sinh trong bí thuật hóa thành kim trâm hút máu thịt người sống, những cánh bướm kia đã nhuốm máu đỏ, càng nhiều bướm đỏ bay ra, xương trắng càng chồng chất.

Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ Mộ Dung An khi sinh con đã hao tổn bao nhiêu tinh lực, lại thực thi ly hồn thuật trên trận địa lớn như vậy, làm sao trụ nổi?

Sự thực cho thấy lo lắng của tôi có lý.

Vầng trăng tròn dần dần hiện ra màu đỏ quái dị, gió thổi phồng ống tay áo, Mộ Dung An nhắm hai mắt, máu từ miệng không ngừng trào ra, giữa vầng trán hơi nhăn, con bướm đỏ yêu dị đó đột nhiên vẫy cánh bay mất, miệng cô thổ ra một ngụm máu tươi, không gian phong ấn đột nhiên mở ra, thân người loang máu hơi ngửa về sau, như sắp rơi xuống đống xương khô nhung nhúc ấu bướm trên chiến trường. Con chiến mã phía xa đột nhiên tung bờm hí vang, bóng áo đen của Tô Hoành rời lưng ngựa lao đến như một mũi kiếm.

Cô rơi xuống trúng ngực chàng, chàng nằm trên đống xương ôm chặt cô. Những con bướm đỏ chết chóc bay quanh cô, sắc mặt cô trắng bệch, môi lại vẫn đỏ. Chàng run run giơ tay lau vết máu dính trên miệng cô: “Tại sao phải đến cứu ta, nàng nên giấu ta, sống bình yên ở một nơi ta không hay biết mới phải”.

Cô cau mày: “Chàng là đệ tử của ta, là đồ đệ ta đích thân truyền dạy, cho dù chàng sai, khiến ta giận, ta có thể giận chàng, giáo huấn chàng, bắt chàng chịu khổ, nhưng những kẻ kia họ có là gì, đồ đệ chân truyền của ta sao có thể để bọn chúng hạ nhục?”.

Chàng ôm cô, bàn tay đặt trên eo cô, từ từ ép cô vào người, trong đôi mắt thâm trầm chất chứa bao nỗi niềm, lát sau giọng khàn khàn, chàng thầm thì: “Sư phụ, hãy trở về bên đồ đệ”.

Cô giơ tay, máu rỉ ra giữa các ngón tay, một con bướm theo vết máu bay đến, dừng lại giữa ngón tay cô, cô nhìn con bướm đó, môi cong cong khẽ nhếch thành nụ cười: “Trở về ư?”. Lại chầm chậm lắc đầu: “Không về được nữa, ta sắp chết”.

Bờ vai rộng của chàng run lên, thất kinh nhìn cô, giọng nói lại mơ hồ: “Sao có thể, cho dù ta sai, nàng vẫn nên trở về giáo huấn ta, bắt ta chịu khổ”.

Cô ngẩng đầu nhìn chàng một lát, đột nhiên mỉm cười: “Người của Trần vương thất nói ta thế nào, ta không bận lòng, chàng nghĩ gì ta cũng không bận lòng, chỉ là cảm thấy ta đã sống quá lâu trên đời, lâu đến mức cảm thấy vô vị, chàng khiến ta hiểu được chữ tình, nếm trải niềm hoan lạc của nó, cũng nếm trải nỗi đau của nó, một trải nghiệm viên mãn như vậy đối với một hồn ma không phải là chuyện kỳ thú sao? Giống như một bữa đại yến, sơn hào hải vị trời nam biển bắc đều có, vui vẻ thưởng thức hết các món, khách nhân nên giải tán”. Cô nói trơn tru, tinh thần vẫn tốt, nhưng sắc mặt đã dần trong suốt, bướm đỏ bay quanh càng nhiều, giống như chờ đợi thời khắc tống biệt cuối cùng.

Chàng nắm chặt áo cô, giọng rên rỉ như mãnh thú bị thương: “Cho dù nàng không cần ta nữa, nhưng vẫn còn cốt nhục của chúng ta, Tô Dự rất thông minh, nàng còn phải nhìn nó lớn lên, nhìn nó kế thừa xã tắc đại Trần”.

Chàng nghẹn ngào nhưng vẫn cố nói, dường như không cho cô cơ hội nói, không cho cô cơ hội chối từ, chỉ cần cô không từ chối, chàng sẽ giữ được cô.

Cô chỉ mỉm cười nhìn chàng, nụ cười đó bao hàm ý nghĩa gì không ai biết.

Một trận gió thổi qua, bóng chàng ôm cô đột nhiên cứng đờ, mãi sau, chàng loạng choạng đứng lên, trong tay chỉ còn bộ hoa phục màu đỏ.

Hoa Tư mộng đột ngột dừng lại, tôi ngồi ngây người hồi lâu mãi không thể định thần, Mộ Dung An quả nhiên chết ở chiến trường Lịch Khâu, sử sách không ghi chép tỉ mỉ, thì ra cô chết như vậy.

Con người đó, sống tự tại vô song, chết tư phong tuyệt đại, đó là Mộ Dung An, bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, là… thân mẫu của Tô Dự. Thì ra thân mẫu anh ta không phải là Mộ Chỉ.

Kể hết câu chuyện đó, Quân sư phụ cau mày chìm trong suy tư, thì ra đối với ông đây không phải là hồi ức đẹp, tôi và Quân Vỹ nhìn hoa đèn ngây người không biết nói sao.

Xem hoàn chỉnh quá khứ đó, tôi cảm thấy câu chuyện chẳng liên quan đến Quân sư phụ, không hiểu tại sao sư phụ lại thâm thù Trần vương, muốn giết ông ta. Nhưng trước mặt sư phụ, không dám nói ra với Quân Vỹ, chỉ giao lưu bằng ánh mắt không hé ra tư tưởng gì, một mình suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy cách giải thích hợp lý nhất chỉ có thể là Quân sư phụ cũng có tình với Mộ Dung An, mới có thể thù hận Tô Hoành đã làm cô ấy chết như vậy. Nhưng lại nghĩ, Mộ Dung An không thể xúi quẩy đến thế, cả đời chỉ thu nạp hai đồ đệ, mà hai đồ đệ đó lại có tình cảm thầm kín không thể nói ra với mình như vậy.

Tôi còn chưa nghĩ ra nguyên do, Quân sư phụ đã nói: “Xem xong Hoa Tư mộng này, có lẽ con đã biết ta muốn con làm gì rồi chứ?”.

Tôi ôm đầu, buột miệng hỏi thử: “Sư phụ muốn con dệt mộng cho Trần hầu vương, giữ ông ta ở lại trong mộng?”.

Quân sư phụ cười, nhưng mắt vẫn lạnh tanh: “Đúng, Tô Hoành năm xưa từ bỏ sư phụ ta lựa chọn vương vị, chuyện này mặc dù sư phụ không nói ra, nhưng sự đau khổ của sư phụ hồi đó ta đều nhìn thấy hết. Sư phụ vốn có thể tiến xa hơn nữa, nhưng lại bị Tô Hoành ngáng đường. Đáng hận bởi vì sư phụ đã từ bỏ tất cả vì ông ta, nhưng ông ta lại không biết trân trọng, nếu mọi chuyện quay trở lại, ta muốn xem sau bao nhiêu năm đau khổ Tô Hoành sẽ lựa chọn thế nào. Nếu tình của ông ta đối với sư phụ bằng ấy năm vẫn không thay đổi, bằng lòng ở lại trong Hoa Tư mộng, ở bên sư phụ, ta sẽ bỏ qua cho ông ta, coi như kết thúc niềm tiếc nuối cuối cùng của sư phụ trên trần thế. Nếu ông ta vẫn lưu luyến ngôi báu vinh hoa, ta đành phụ lòng sư phụ, nhất định khiến ông ta chết không có chỗ chôn”.

Tôi băn khoăn nhìn Quân sư phụ, cảm thấy áp lực rất lớn. Nghe sư phụ nói vậy, nghĩa là ông muốn tôi dệt cho Tô Hoành một Hoa Tư mộng tái hiện quá khứ, để ông ta lựa chọn có lưu lại trong mộng hay không.

Nhưng chuyện này không giống với tình hình của Tống Ngưng, trong tình cảnh hiện tại của Tô Hoành, bất luận ông ta lựa chọn thế nào kết cục vẫn là cái chết, chỉ có khác chủ động chết và bị động chết mà thôi. Tôi cắn môi suy nghĩ, khẽ nói: “Rõ ràng có thể có bao nhiêu cách phục thù, sư phụ lại nhất định muốn con thực thi Hoa Tư dẫn đối với Tô Hoành, thực ra sư phụ chỉ muốn biết, năm xưa Mộ Dung An hy sinh tính mạng cứu ông ta rút cục có đáng hay không, con nói đúng chứ?”.

Ông không trả lời, những gì chất chứa trong mắt ông tôi khó lòng hiểu được.

Tôi nghĩ, một sử đoạn nhạy cảm bị che đậy bao năm, bị thời gian hơn hai mươi năm xói mòn, chẳng còn gì nữa, chỉ khắc thù hận vào lòng người sống, vật vã muốn có một kết quả cuối cùng trước khi quên lãng, nhưng cùng với thời gian cả người và việc đã thành cát bụi, cái gọi là đáng hay không, cho dù có được câu trả lời cũng chẳng để làm gì. Tôi không biết vì sao Quân sư phụ quyết chí báo thù Trần vương mối thù không phải của mình, nhưng nhìn ánh mắt ông lúc này lại đột nhiên cảm thấy có lẽ ông chỉ muốn dùng Hoa Tư dẫn khảo vấn nhân tâm một lần mà thôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 2

Ngày mười hai tháng chín mừng thọ Tô Hoành. Nghe đồn Trần hầu vương bệnh nặng đã lâu, đầu tháng tám đã di giá tới tĩnh dưỡng ở An Lạc cung trên núi Trà, việc triều chính do thế tử Tô Dự lo liệu. Vì vậy ngày mừng thọ bá quan sẽ đến An Lạc cung chúc tụng.

Bắt đầu từ ngày mồng mười, trên công khanh dưới cung nhân, quà mừng thọ đã tới tấp chuyển đến núi Trà, vết xe ngựa để lại hai rãnh sâu trên con đường lên núi, không biết bên trong đựng những gì.

Thực ra tặng quà cho cấp trên cũng là một nghệ thuật, quà tặng phải mới mẻ để chứng tỏ tâm huyết nồng hậu của người tặng, nhưng lại không thể quá mới mẻ, chứng tỏ người tặng giữ đúng thân phận. Quân Vỹ do cơ duyên thế nào kiếm được danh mục lễ vật đó, kết quả chúng tôi thất vọng phát hiện hầu như toàn những thổ đặc sản quý hiếm của các vùng miền địa phương, quả nhiên vừa mới vừa không quá mới.

Riêng thái thú quận Tề An hơi khác người, quà mừng thọ Trần vương là một mỹ nữ nhạc sư. Quân Vỹ cảm thán lắc đầu: “Tề An thái thú này quả là quá nôn nóng muốn hưởng hậu lộc, khác người thế này e là khiến khối người ghen tức”.

Tôi ngẫm nghĩ nói: “Quận Tề An xưa nay nổi tiếng trong các nước chư hầu bởi nghệ thuật ca vũ phồn thịnh, nhạc sư chẳng phải chính là đặc sản của họ hay sao, ha ha”. Còn chưa cười xong đã thấy Quân sư phụ bước vào, mang đến ba chiếc mặt nạ da người, theo sư phụ giải thích, một cái là Tề An thái thú, một cái là người hầu Tề An thái thú, còn một cái chính là mỹ nữ nhạc sư, “đặc sản” mà tôi nói…

Chúng tôi phải làm như vậy thể lọt vào An Lạc cung trên núi Trà, nhưng khi tôi thử đeo chiếc mặt nạ đó, hiển nhiên nhận ra bóng dáng Mộ Dung An hiện lên trong chiếc gương lớn viền gỗ chạm trổ hoa văn.

Quân sư phụ nhìn rất lâu khuôn mặt tôi trong gương, thong thả nói: “Trong tiệc mừng thọ, con xuất hiện với khuôn mặt này, Tô Hoành nhất định sẽ tìm gặp riêng con để hỏi han, lúc này phải linh hoạt một chút, tìm cơ hội để ông ta uống mấy giọt máu của con, xem Hoa Tư điệu của ông ta”.

Tôi cúi đầu nhìn mũi giày dưới chân mình: “Nhất định phải dùng hình dạng này sao, chắc chắn sẽ xảy ra bi kịch, trong các vở kịch thường như vậy, công tử hào hoa thời trẻ tình cờ gặp gỡ thục nữ yểu điệu, khi thục nữ chết, suốt đời công tử đi khắp chân trời góc bể tìm người giống nàng. Tô Hoành nhìn thấy con nhất định cho rằng đó là Mộ Dung An tái sinh, lúc đó con sẽ bị ông ta coi là thế thân của Mộ Dung An đưa vào hậu cung, có khi còn phong là phu nhân cũng nên…”.

Quân sư phụ chống tay vuốt trán ngắt lời tôi, quay đầu nói với Quân Vỹ, “Con nói với A Phất xem, một người đàn ông bình thường hơn hai mươi năm sau khi người đàn bà của mình chết đi, lại nhìn thấy một cô gái trẻ rất giống người đó, ý nghĩ đầu tiên của ông ta là gì?”.

Quân Vỹ gãi đầu, bộc lộ chính kiến với lối tư duy của một tiểu thuyết gia, nói vẻ đắn đo: “Ông trời đoái thương nỗi lưu luyến nhớ nhung bao năm đối với nàng, cho nàng tái sinh tiếp tục mối lương duyên?”.

Quân sư phụ kinh ngạc nhìn hai chúng tôi, khóe miệng hơi run nói: “Theo ta, ý nghĩ đầu tiên của ông ta có lẽ là cô gái này liệu có phải con gái của mình…”.

Vào An Lạc cung theo đúng kế hoạch. Quân sư phụ đeo mặt nạ đóng giả thái tú quận Tề An diễn xuất như thật, ngang nhiên tung hoành trước bao người quen của thái thú, không ai phát hiện có gì khác thường, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tôi và Quân Vỹ.

Mấy ngày sau, gần đến giờ Ngọ, Trần vương mở đại yến khoản đãi quần thần ở bên dưới Tử Hoa lầu, văn võ bá quan theo thứ bậc phẩm hàm từng người tiến vào dâng tiến vạn thọ tửu.

Cung nữ dẫn tôi đợi ở phía sau mấy cây hoa quế, là một địa điểm hoàn toàn không bị ai nhìn thấy. Từ xa truyền đến âm thanh hỗn tạp, lát sau, thị quan cuối cùng xướng đến tên tôi. Chỉ thấy một giọng kim the thé vang lên: “Tuyên, Tề An Mộ Dung Điệp”.

Tôi ôm cây đàn đi trên hành lang dài lát đá xanh dưới bao nhiêu ánh mắt, bụng nghĩ, ngoài lần tuẫn tiết chết cùng Vệ quốc, cả đời chưa bao giờ được nhiều người chú ý như vậy. Ánh mắt bá quan với đủ loại hàm ý đan xen tựa như một tấm mạng nhện khổng lồ giăng trước mặt tôi, chắc chắn họ cảm thấy Mộ Dung An rất đẹp, giống như ý nghĩ của tôi khi lần đầu nhìn thấy cô.

Đột nhiên có cảm giác dị thường, cảm giác thân này không phải là mình, còn từng bước chân di chuyển bên dưới giống như có tiếng lục lạc tinh tang vô hình. Khi tiến đến gần cầm đài, cuối cùng nhìn rõ người đàn ông tay chống cằm ngồi trên bảo tọa, đó chính là Tô Hoành hai mươi ba năm sau. Nước Trần vượng thủy sùng bái màu đen, ông ta toàn thân mặc huyền bào, tuổi tính ra đã ngoại tứ tuần, nhưng dung quang vẫn rất trẻ trung, sắc diện có xanh xao bệnh tật nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghi của một quốc vương, sau bao thăng trầm dâu bể khí chất càng trầm tĩnh lạnh lùng, khác xa so với với chàng thiếu niên nằm rạp trên lưng ngựa lao vào khu rừng lá đỏ ngày xưa.

Tôi có thể miêu tả chi tiết diện mạo ông ta là bởi vì tôi đứng đúng góc độ, ánh mắt ông ta dừng trên mặt tôi rất lâu, chưa bao giờ tôi thấy ánh mắt hàm ẩn phong phú như vậy, ưu sầu tựa lá vàng thê lương, mông lung tựa ánh nguyệt thâm trầm, lấp lánh tựa muôn tinh cầu chói lọi, nhưng tất cả cuối cùng lại trở về một màu đen tĩnh lặng. Tôi chơi hết khúc đàn trong ánh mắt đó, không sai một âm, cảm thấy mình thật trượng nghĩa, mặc dù đóng giả nhạc sư cũng không hay gì nhưng lại giúp quận Tề An một lần nữa quảng bá mạnh mẽ nghệ thuật ca vũ của họ…

Tất cả đúng như Quân sư phụ nói, sau khi nhận lời chúc tụng của quần thần, Trần vương đã rời bàn tiệc rất sớm, lát sau tôi được một thái giám đưa lên Trường An lầu, là nơi Tô Hoành thường nghỉ ngơi. Gần tới giờ Mùi, mặt trời mùa thu nhợt nhạt, người đó đứng quay lưng về phía tôi, đang lau một thanh lợi kiếm dài. Thị quan bước ra, tiếng cánh cửa đóng sập sau lưng, cuối cùng ông ta quay người lại, kề lợi kiếm vào cổ tôi: “Ngươi là ai?”.

Quân sư phụ nói tôi càng giống Mộ Dung An, Tô Hoành càng tin tôi là con gái ông ta, hơn nữa do công lực của viên giao châu, máu của tôi có thể tương hòa với các loại huyết dịch khác, như vậy càng tiện cắt máu nhận người thân, nếu tôi có thể dùng cách đó khiến Tô Hoành tin tưởng, chuyện để ông ta uống vài giọt máu của tôi, nhìn thấy Hoa Tư điệu của ông ta dễ như trở bàn tay.

Mặc dù cảm thấy chuyện này có phần nguy hiểm, nhưng dưới ánh lợi kiếm lạnh lùng cơ hồ cũng không có cách nào tốt hơn. Tôi giơ tay đẩy kiếm ra, nghiêng đầu nhìn ông ta, đó là động tác Mộ Dung An thường làm, còn đôi mắt hơi nhướn lên, lúc đó luôn mê hồn nhất: “Theo lời sư phụ tôi dặn lại trước lúc qua đời, tôi có một sư huynh song sinh, tên là Tô Dự, mẫu thân tôi là Mộ Dung An ở khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn, cha tôi là Trần vương Tô Hoành”.

Trường kiếm trên vai run run khựng lại. Tất cả đều có thể xảy ra, chuyện này ông ta không có lý do không tin. Bởi nếu năm xưa Mộ Dung An sinh đôi thật, theo tính cách của cô, hoàn toàn có khả năng cô giữ lại nuôi dưỡng đứa con gái. Trong vẻ sững sờ của ông ta có vài phần chấn động, tôi tiến lại gần, khẽ nói: “Cha có muốn gặp mẹ một lần nữa không, cha”.

Trường kiếm rơi choang xuống đất, ông ta ngoảnh mặt đi, sắc mặt trắng bệch lộ vẻ đau khổ, giọng khàn khàn: “Hai người rất giống nhau”.

Hoa Tư điệu trầm trầm vang lên từ lầu Trường An, giai điệu nhuốm màu thiền, yên bình đến mức không nhìn ra bất kỳ tình cảm nào. Tôi chỉ không ngờ lại dễ dàng đưa Tô Hoành vào Hoa Tư mộng như vậy, bản thân cũng thấy khâm phục sự bình tĩnh cơ mưu của mình, Mộ Ngôn nói từ khi lấy chàng tôi trở nên thông minh hơn nhiều, coi như chàng nói đúng.

Thực ra trong suốt hai mươi ba năm qua, có thể nhận ra Tô Hoành chưa bao giờ quên Mộ Dung An, nhưng nếu tất cả quay trở lại, trở lại lúc Văn hầu vương bức ép ông ta, liệu ông ta sau khi trải qua bao đau đớn có lựa chọn khác ngày xưa hay không, quả thực tôi không dám chắc.

Trong cuộc đời mỗi người, có những nỗi đau khổ có thể tránh, có những nỗi đau khổ không thể tránh. Tôi không biết lòng Tô Hoành thế nào khi mất Mộ Dung An, hơn hai mươi năm không có cô, rốt cuộc hối hận nhiều hơn hay yêu nhiều hơn? Hay là ông ta không hề do dự để tôi dệt mộng cảnh này chỉ là muốn gặp lại cô một lần rồi đoạn tuyệt mãi mãi?

Dải ánh sáng lờ mờ thông đến mộng cảnh xuất hiện trước mắt, tôi ôm cây đàn đang định bước vào luồng sáng đó, Quân sư phụ không biết từ đâu xuất hiện, khi tôi nhận ra đã thấy hai thầy trò rơi vào một khu rừng đỏ rực như lửa cháy, nhìn quanh khắp lượt, nếu nhớ không nhầm đây chính là khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn. Ban ngày tràn trề sinh khí, ban đêm im lìm như mộ địa.

Tôi đang định hỏi, Quân sư phụ đã lên tiếng trước: “Thật khéo, đúng vào ngày Văn hầu vương cho người đến đón Tô Hoành về kinh”. Ngừng một lát lại nói: “… là ngày sư phụ bị bỏ rơi”. Nhìn theo ánh mắt sư phụ, quả nhiên thấy bên cạnh đầm nước phía xa có hai người đàn ông ăn vận kiểu võ tướng đang đứng, tôi quay đầu hỏi: “Sư phụ theo con vào đây làm gì”.

Khi hỏi thế đã biết câu trả lời, nhưng nghe sư phụ nói vẫn không khỏi giật mình, bởi vì trong lòng tôi Quân sư phụ đâu phải là người thích giết người, suốt đời ông chỉ nghiên cứu những độc dược độc cỡ uống vào trông giống hệt bị đầu độc chết, thực ra chỉ là chết giả. Một Quân sư phụ như vậy lúc này gương mặt lại hằn lên vẻ dữ tợn: “Ta đã nói nếu lần này ông ta vẫn lựa chọn vương vị, ta sẽ cho ông ta chết không có chỗ dung thân”.

Hoa Tư mộng là dùng giấc mộng đẹp trói buộc những ai không tự vượt qua được chính mình, chìm đắm trong mộng đẹp, lần này lại chỉ là tái hiện quá khứ khiến Tô Hoành lựa chọn lần nữa, không có gì gọi là mộng đẹp, nếu Tô Hoành lựa chọn vương vị, mọi chuyện sẽ giống như trong hiện thực, tức là không đưa ông ta ra khỏi giấc mộng, ông ta sớm muộn cũng tỉnh lại, nếu muốn ông ta không tỉnh lại, chỉ cần giết ông ta trong mộng cảnh.

Tôi nghĩ, có thể trong ý nghĩ Quân sư phụ cảm thấy Tô Hoành sẽ vẫn lựa chọn vương vị, điều này cũng giống như ban đầu khi tôi tuẫn tiết cùng Vệ quốc, mặc dù sống lại nhờ viên giao châu vẫn có bao điều bất tiện, nhưng nếu thời gian quay lại, tôi vẫn sẽ nhảy từ trên tường thành Vệ quốc xuống.

Ngồi trên một cây phong, chỗ Tô Hoành nhất định phải qua khi ra khỏi khu rừng lá đỏ, cây đàn để trên đầu gối, tay lơ đãng vuốt trên dây đàn vang lên những âm điệu ngẫu nhiên, tiếng vó ngựa phi gấp đến, dừng lại cách cây phong mười trượng. Chàng thiếu niên dáng thanh tú hơi ngẩng đầu nhìn tôi: “Sư phụ đợi ở đây là có gì sai bảo?”.

Tôi nhìn kỹ ông ta, nhìn khuôn mặt đẹp vẫn còn non nớt trước mắt, hoàn toàn không nhận ra nỗi bi thống giày vò về sau, có lẽ người ta đều thế, từ bỏ điều gì đó để có được thứ tưởng là có giá trị hơn, sau khi mất đi mới trân trọng, tiếc nuối thì đã muộn. Tôi ôm cây đàn chống tay vào má, lặng lẽ ngắm nhìn ông ta, sau khi nhìn đủ, lắc đầu: “Tôi không phải là Mộ Dung An, nhưng Tô Hoành, công tử có muốn nghe tôi kể chuyện?”.

Trong hiện thực gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong giấc mộng sẽ hiện lên trong thế giới hiện thực, trái lại, trong giấc mộng gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong hiện thực lại hiện ra trong mộng, gảy nốt cuối cùng, trong ánh mặt trời bị cành cây khẳng khiu cắt vụn, từng sự kiện trong hiện thực lại phản chiếu trên không trung.

Trong ánh nến long phượng sáng rực, vị phu nhân vừa cùng ông ta bái đường lặng lẽ ngồi tựa mép giường, còn ông ta thẫn thờ ngồi bên song cửa, liên tục tự rót rượu uống cạn hết chén rượu này đến chén rượu khác.

Đêm ông ta được phong thế tử, trong màn đêm khi những chùm pháo hoa chúc mừng tan hết, Quân sư phụ ôm Tô Dự mới đầy tháng xuất hiện trong thư phòng trước mặt ông ta: “Cô ấy chỉ là vong hồn, để sinh được con đã khổ cực khó khăn thế nào? Cô ấy đã chết, đây là cốt nhục của hai người, hãy chăm sóc cho tốt”.

Trong cái đêm bị bao vây ở Lịch Khâu, con bướm đỏ trên trán cô vẫy cánh bay đi, nằm trong lòng ông ta, cô mỉm cười: “Trở về ư? Ta không trở về được nữa rồi”.

Hoa Tư điệu đột nhiên dừng lại, dừng lại lúc Mộ Dung An chết.

Tô Hoành ngồi trên lưng ngựa, cặp mày cau lại, đôi đồng tử đen đặc đáng sợ: “Đó là… là gì vậy ?”. Bàn tay nắm dây cương run run.

Tôi thu lại cây đàn: “Ông cảm thấy đó là gì?”.

Ông ta mím môi, đăm đăm nhìn tôi.

Tôi đứng trên cao nhìn ông ta một lát, thở dài: “Ông cũng đoán ra rồi phải không, đó là sự thật, những chuyện đó xảy ra hơn hai mươi năm rồi, cảnh tượng mà ông tưởng là thực chẳng qua là giấc mộng người ta ủy thác tôi dệt cho ông, mặc dù Mộ Dung An đã chết hơn hai mươi năm, ông đối với cô ấy thế nào đã hoàn toàn vô nghĩa, nhưng người ủy thác tôi muốn biết, nếu tất cả quay trở lại lần nữa, ông sẽ lựa chọn thế nào…”.

Trán ông ta toát mồ hôi: “Chuyện quá hoang đường…”.

Tôi nghĩ một lát, nhẹ giọng: “Bây giờ tôi nói với ông, ông có thể lựa chọn lại, nếu vẫn lựa chọn vương vị thì lại trở về hiện thực tiếp tục cô đơn ở ngôi cao, nếu lựa chọn Mộ Dung An…”.

Tôi dừng lại: “Ông sẽ không quay trở lại hiện thực được nữa, nhưng Mộ Dung An sẽ đợi ông ở ngôi lầu trúc nơi hai người đã chung sống hai năm, chờ để cùng ông sống trọn đời bình an”.

Tôi đánh lừa ông ta, nếu ông ta lựa chọn vương vị, Quân sư phụ trốn sau cây phong nhất định sẽ một nhát kiếm lấy mạng ông ta. Nhưng lựa chọn bao giờ chả thế, sự chênh lệch giữa hai thứ so sánh càng lớn mới càng thử thách lòng người.

Gió xuân tháng hai làm vướng tầm nhìn, trong chớp mắt con tuấn mã màu đen đã hí vang một tiếng tung vó lao về phía sâu trong rừng, bỏ lại vết móng ngựa hằn sâu trên cỏ.

Tôi ngoái đầu cười với Quân sư phụ phía sau: “Sư phụ đoán xem, ông ta đi đâu?”. Vừa nói tay vừa gảy hai âm trên dây đàn, chớp mắt đã ở bên ngoài ngôi lầu trúc của Mộ Dung An.

Tôi và sư phụ nhanh chóng tìm một chỗ nấp để quan sát bên trong.

Trong phòng không thấy Tô Hoành, qua chấn song ô cửa sổ không đóng, nhìn thấy Mộ Dung An đang đứng lặng trước bức bình phong. Vốn tưởng cô đang ngắm nghía bức tranh phong thủy vẽ trên đó, nhưng đợi mãi không thấy cô nhúc nhích.

Tôi không dám chắc hai âm tôi vừa gảy trên dây đàn khiến chúng tôi tới vào thời điểm nào, về lý có lẽ là sau một tuần trà, nếu Tô Hoành quay lại tìm Mộ Dung An thì chắc cũng sắp xuất hiện, lẽ nào ông ta phi ngựa phóng đi không phải đến tìm cô?

Tôi nhìn Quân sư phụ vẻ thăm dò, nhưng sư phụ hoàn toàn không để ý đến tôi, ánh mắt đăm đăm hướng vào Mộ Dung An. Cửa phòng bị đẩy “xịch” một tiếng, ngón tay thanh mảnh của chàng thiếu niên dừng trên then cửa, tôi ôm ngực, cảm giác hòn đá tảng đè nặng đã rơi xuống đất, thân người Mộ Dung An khẽ động nhưng không quay lại: “Ta đã nói thế nào? Nếu đã ra đi thì đừng quay trở lại, mới chưa quá nửa ngày chàng đã quên?”.

Trong phòng chợt lắng lại, những ngón tay của Tô Hoành cuối cùng ngừng run khi nhìn thấy cô, cách năm bước, giơ ra định nắm lấy cô, nhưng bị cô dửng dưng né tránh, tuy nhiên động tác của chàng vẫn nhanh hơn cô giống như sau lần đầu đấu kiếm thắng cô, chàng đều vừa vặn nhanh hơn cô nửa chiêu.

Cô cuối cùng vẫn bị chàng nắm được tay, kéo giật cô vào lòng, giống như trước giờ chàng luôn biết khi nào dùng cách gì có thể khiến cô khuất phục. Cầu xin tha thứ là vô ích, chỉ có thể khiến cô khuất phục.

Chàng nhắm mắt, xiết cô thật chặt: “Ta sẽ không bao giờ xa nàng nữa. Ta đã sai một lần, không thể sai lần nữa”.

Tay cô che mắt, hơi ngửa đầu, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay, lăn qua má, từng giọt từng giọt lặng lẽ rơi trên vai chàng.

Cùng Quân sư phụ ra khỏi Hoa Tư mộng của Tô Hoành, mãi không thấy sư phụ nói gì, thực ra câu chuyện này coi như kết cục mỹ mãn, không biết sư phụ còn gì không hài lòng.

Có lẽ là vì ông thấy tiếc cho Mộ Dung An, loanh quanh mãi cuối cùng Tô Hoành cũng hiểu ra điều ông ta mong muốn nhất là gì, nhưng Mộ Dung An lại không thể nhìn thấy. Tuy vậy ở đời làm gì có chuyện mọi sự thập toàn thập mỹ, thập toàn thập mỹ sẽ khiến người đời đố kỵ, thập toàn cửu mỹ là tốt lắm rồi. Ví như Mộ Ngôn, trước giờ tôi vẫn luôn lo lắng chàng tài năng như thế liệu có lam nhan bạc mệnh, may chàng lấy tôi, người mà chàng gọi là vợ đó chỉ là một người chết, nhân duyên không hoàn mỹ này có lẽ sẽ khiến thần linh cảm thấy công bằng mà tha cho chàng.

Quân sư phụ đến không ai biết, đi không ai hay, không hổ là đồ đệ của Mộ Dung An.

Trên giường, Tô Hoành sắc diện bình thường như ngủ say, tôi biết ông ta đã chết. Điều cần làm ngay là mau chóng rời khỏi lầu Trường An quay về An Lạc cung bởi vì muộn nhất sáng mai cung nhân sẽ phát hiện Trần vương đã chết, mới ở tuổi này chưa đến nỗi đột tử trong giấc ngủ trưa, bất luận thế nào tôi cũng là người bị nghi ngờ đầu tiên.

Tô Hoành đương nhiên chết trong Hoa Tư mộng, nhưng tôi không cảm thấy mình là thích khách, chỉ thấy giống như vừa thực hiện một vụ giao dịch, chỉ là giúp người khác thỏa mãn nguyện vọng mà thôi.

Trải qua bao vinh hoa thế tục, điều ông muốn nhất vẫn là cùng Mộ Dung An sống trọn đời bình an, mặc dù đã rời khỏi cõi trần, ông đã dùng tính mạng của mình đổi lấy mộng cảnh cô vẫn còn sống, ông vẫn được sống bên cô, quả rất đỗi công bằng.

Đẩy cánh cửa lớn bên ngoài, một tiểu thái giám đứng hầu ngoài cửa ân cần cúi chào, tôi lấy tay ra hiệu giữ yên lặng, khẽ nói: “Bệ hạ khó khăn lắm mới ngủ được, công công nên chăm sóc cẩn thận, nhất định không được để ai quấy rầy sự yên tĩnh của bệ hạ, dây đàn của tôi bị đứt, không biết có chỗ nào sửa được, phải nhanh chóng sửa xong trước khi bệ hạ tỉnh lại, tấu hầu bệ hạ đoạn hai của khúc nhạc”.

Tiểu thái giám không chút nghi ngờ, vội sai cung nữ dẫn tôi đi sửa dây đàn, còn mình lại hiên ngang đứng thủ bên ngoài tẩm cư của Tô Hoành.

Ngoái lại nhìn lầu Trường An, những mái hiên cong rực rỡ tỏa ánh vàng dưới ánh mặt trời mùa thu, ngôi lầu cao tới tám chục trượng đổ một bóng thẫm màu khổng lồ trên mặt đất. Tô Hoành đã tìm được chốn trường an của ông ta, nhiệm vụ hành thích Trần vương đã hoàn thành, tôi phải nhanh chóng đến gặp Bách Lý Tấn đổi lại thân phận của mình, quay về Bối Trung chờ đợi Mộ Ngôn, tôi cũng tìm được chốn trường an của mình.

Nghĩ đến đây lòng thấy vui vui. Trên đầu, ánh mặt trời mùa thu dịu dàng, bên tai là tiếng côn trùng rả rích, trước mặt là cây lá rậm rạp, dưới chân là cỏ mùa thu xanh um, trường an, trường an, thật là hai chữ tốt lành.

Khi bên tai vang lên tiếng kiếm va vào nhau, tôi đang suy nghĩ làm thế nào thoát khỏi cô cung nữ một mực muốn dẫn tôi đi sửa dây đàn này, giật mình quay đầu, nhìn thấy hai mũi trường kiếm giao nhau chìa ra trước cánh cửa điện.

Trong phút sững sờ, phát hiện trước mặt rất nhiều thị vệ áo đen không biết xuất hiện từ lúc nào tay cầm vũ khí xông tới, còn Quân sư phụ vừa rồi đã tưởng không biết đi đâu lại đứng chắn trước người tôi vung kiếm đỡ.

Phản ứng đầu tiên là dùng tay đánh ngất cung nữ bên cạnh, phản ứng thứ hai là xem ra tình hình không đơn giản như tôi nghĩ, chuyện Trần vương chết có lẽ đã bại lộ.

Kiếm thuật của Quân sư phụ được Mộ Dung An truyền dạy, mặc dù không nhanh bằng Tô Hoành nhưng thắng ở sự di chuyển linh hoạt mau lẹ, đường kiếm không bổ thẳng mà lựa chọn điểm đâm chính xác, tôi từng một lần chứng kiến sư phụ giao chiến, hầu như ra một chiêu là đánh ngã một người, nhưng lần này xem ra có chút khó khăn, toán thị vệ áo đen phối hợp quá hoàn hảo.

Ánh kiếm loang loáng trước mặt, Quân sư phụ chỉ có thể chắn đằng trước bảo vệ tôi lùi từng bước, không lâu sau đã lùi đến bên rìa một vách núi. Tôi được biết không rõ đời Trần vương nào đã cho xây cất lầu Trường An ở trên sườn núi, mục đích là đưa vách núi vào hậu hoa viên trong cung, tạo nên thắng cảnh thiên thiên thơ mộng. Nhưng bây giờ Quân sư phụ chủ động đưa tôi đến chỗ này, rất có thể là để nếu không còn đường rút có thể từ đây nhảy xuống vực bên dưới, nhưng nhìn lối xuất chiêu của ông, cảm thấy nhiều khả năng là để tìm cho chúng tôi một chỗ chắn dễ thủ dễ công.

Quả nhiên, tôi bị đẩy ra một mỏm đá hình quạt nhô ra, ba phía đều là khoảng không, phía những người áo đen có thể tấn công đã bị Quân sư phụ thủ giữ chặt chẽ, hơn nữa lại có những cành cây hoa chi chít không biết là hoa gì la đà che chắn, vả lại không có tôi bám đằng sau rõ ràng ông được rảnh chân rảnh tay hơn.

Tình thế cơ hồ đã bắt đầu chuyển hướng có lợi cho chúng tôi, mấy thị vệ áo đen đã bị mất mạng dưới kiếm của Quân sư phụ, đột nhiên từ phía trước hơi chếch sang phải lóe ra một ánh kiếm thảm khốc.

Tôi không hiểu kiếm pháp, nhưng trong tích tắc đó cũng có thể cảm thấy tốc độ khủng khiếp của nó, lực gió kèm theo mạnh đến nỗi làm rung những cành hoa la đà như tấm bình phong trước mặt, sượt qua vai sư phụ mang theo vệt máu, nhưng trong tích tắc lại chuyển hướng đâm thẳng vào tôi, đó là một thế kiếm ưu nhã cách gần trăm bước có thể xuyên thấu hoa rụng lá rơi, nhát kiếm quyết liệt đầy sức mạnh lại nhanh như ánh chớp. Tôi nhìn rõ người đó, thậm chí nhìn rõ miếng thạch ngọc màu lam khảm trên chuôi kiếm lóe ra muôn tinh quang lóng lánh.

Mộ Ngôn. Trong tích tắc trường kiếm chưa đâm vào ngực tôi, tôi đã nghe thấy tiếng viên giao châu rạn nứt, giống như một nụ hoa đột nhiên giật mình bừng nở trong màn đêm tịch mịch.

Một tay tôi nắm chặt thanh lợi kiếm cơ hồ đang định đâm sâu hơn, máu tuôn ra từ ngón tay, định kêu lên ngăn lại, nhưng sinh mệnh mất quá nhanh khiến tôi cơ hồ không có sức để mở miệng, ánh mặt trời mùa thu bàng bạc thảm đạm, cỏ dại lay động trong gió, người đó lạnh lùng nhìn tôi, ánh mắt sắc lạnh vô tình: “Dám cải trang thành thân mẫu ta để hành thích phụ vương ta, các ngươi tưởng Trần quốc không còn ai để các ngươi mặc sức tung hoành ư?”.

Tôi cảm thấy mình như chiếc lá khô lay lắt đầu cành, chưa hiểu người đó nói gì, thầm nghĩ có lẽ đó là ảo giác, Quân sư phụ bị vây giữa đám thị vệ nhìn thấy vậy, thét lên: “A Phất”.

Ánh mắt mờ dần, tôi thấy sắc mặt băng lạnh của Mộ Ngôn đột nhiên trắng bệch, toàn thân chàng cứng đờ, bàn tay cầm kiếm dừng lại trên không, mũi kiếm vẫn cắm trong ngực tôi, tôi lắp bắp: “Mộ… Ngôn…”.

Tôi ho ra máu, ký ức như chiếc đèn kéo quân xoay không ngừng trước mặt, một tia chớp như rạch ngang mảng ký ức hỗn loạn, tôi bàng hoàng sực tỉnh.

Chàng chính là Trần quốc thế tử, sao tôi không nhận ra.

Tô Dự, Mộ Ngôn. Chàng lấy họ mẹ, chữ “dự” bỏ đi chữ “hưng” thành chữ ngôn, dáng tao nhã bẩm sinh của người xuất thân trong cung đình quý tộc, khí chất uy nghi tàng ẩn của người ở ngôi cao, Tô Dự huyền thoại dùng mười vạn thiết binh dẹp bằng Vệ quốc, khiến thiên hạ quay như chong chóng, sinh ra là để trở thành một bậc quân vương.

Chàng chính là người trước mặt tôi, là phu quân tôi.

Thảo nào đêm thành hôn chàng hỏi tôi Trần quốc diệt Vệ tôi có hận chàng, lại để mặc tôi tưởng chàng là một tướng quân. Thảo nào chàng chưa bao giờ hỏi xuất thân của tôi, thấy bao điều dị thường về cơ thể tôi cũng không hề ngạc nhiên, bởi vì chàng biết, chàng biết hết.

Nhưng tại sao lại giấu tôi, tôi đã nói Vệ quốc diệt vong là do Vệ vương thất vô đạo, công chúa tuẫn tiết cùng xã tắc là bổn phận của người ở ngôi cao, Quân Phất bây giờ đã không còn là Diệp Trăn ngày xưa, mọi nỗ lực hiện tại chỉ là muốn sống cho riêng mình.

Suy cho cùng là do chàng không tin tôi có thể thật sự nhìn nhận vấn đề như vậy, nếu sớm hiểu lòng tôi, nói thẳng với tôi chàng là Tô Dự, thì đâu đến nỗi xảy ra bi kịch này? Âu cũng là ý trời. Nhưng ý trời quả nhiên vô tình như dao.

Khó nhọc giơ tay áo lau miệng, nhìn thấy bàn tay rất mực thanh tú của chàng giơ ra, những ngón tay run run lần sát đường viền trên trán bóc lớp mặt nạ của tôi.

Một chuyện đơn giản như vậy, chàng làm rất lâu mới xong, khoảnh khắc lớp mặt nạ rơi ra, người chàng run bần bật, sắc mặt trắng như sáp.

Cuối cùng tôi cũng thở ra được một hơi, nhưng không thể khống chế sinh mệnh trong viên giao châu mất dần từng tấc. Do sinh mệnh mong manh, không ít lần hình dung ra cảnh cùng chàng vĩnh biệt, không ngờ lại như thế này.

Khi viên giao châu hoàn toàn vỡ nát, thân thể này chớp mắt sẽ trở thành khói bụi, vậy mà kỳ lạ là tôi không hề thấy sợ, thực ra tôi không hề nhát gan…

Chỉ là không muốn để Mộ Ngôn nhìn thấy tôi biến mất trước mắt chàng, nhất định không được. Tôi vẫn có thể nặn ra nụ cười, ít nhất cũng khiến chàng nhớ nét mặt cuối cùng của tôi là tươi cười, không biết nên nói gì, có bao nhiêu điều muốn nói, nhưng tôi chỉ lắc đầu cười: “Em không biết ông ấy là phụ thân chàng, đừng hận em”.

Khi người tôi bay xuống vực, còn nghe thấy tiếng chàng thất thanh gọi tên tôi, âm thanh bị gió cắt vụn, tôi âm thầm nghĩ không thể ngờ tất cả lại kết thúc nhanh như thế, cuối cùng nước mắt vẫn trào ra.

Nước mắt còn chưa kịp rơi trên má, thắt lưng đã bị ai túm lấy, tiếng mũi kiếm cắm vào vách đá chói tai, tôi khó khăn há miệng: “Tại sao lại đuổi theo…”.

Chàng khàn giọng: “Em nói sẽ chờ tôi ở Bối Trung”.

Có lẽ là sự tỉnh táo và sức lực cuối cùng bùng phát, tôi nói năng trơn tru, nhắm mắt, không dám nhìn mặt chàng: “Không phải em muốn thanh minh cho mình, nhưng cha chàng ra đi rất thanh thản, ông tự nguyện để em lấy đi tính mạng, ông luôn thương nhớ thân mẫu chàng, ông tình nguyện ở lại trong thế giới có thân mẫu chàng, có lẽ chàng cho rằng, em nói dối để cứu vãn, nhưng…”.

Chàng ngắt lời tôi: “Tôi tin, tôi tin. Ngoan nào, đừng nói nữa, chúng ta lên đã”.

Tô Dự là người thông minh, khi tôi nhảy xuống vực có lẽ chàng hiểu, không phải tôi cố tình khiến chàng đau đớn, mà là không còn cách nào khác, nhưng vẫn cố nhảy xuống cứu tôi, chưa bao giờ tôi thấy chàng tự lừa dối mình như vậy.

Tôi ôm cổ chàng, vùi đầu vào hõm vai chàng: “Nếu em chết, có phải chàng cũng không sống nổi, cũng muốn đi theo em?”.

Cánh tay chàng nhẹ run, giọng run run: “Nếu thích tôi, em hãy sống tiếp, ở bên tôi suốt đời suốt kiếp”.

Tôi cười, cố phấn chấn tinh thần: “Đừng lên vội, chàng cứ ôm em thêm lát nữa, quê hương em có một truyền thuyết kể rằng, người ta sau khi chết linh hồn vẫn còn, có một nơi gọi là cầu Nại Hà, các linh hồn quy tụ ở đó để chờ qua cầu, bên kia cầu là một nhân thế mới, họ gọi qua cầu Nại Hà là luân hồi”.

Một tay chàng giữ thanh kiếm cắm vào vách núi, tay kia ôm tôi lơ lửng trên không, xiết chặt đến nỗi như ấn sâu vào xương cốt, tôi khẽ nhích ra, nhìn vào mắt chàng: “Nếu đúng là có một nơi như thế, em sẽ chờ chàng dưới chân cầu Nại Hà. Chàng sinh ra đã là quân vương của Trần quốc, chàng cần lập đại nghiệp, làm rạng danh xã tắc. Không nên bi lụy vì tình. Chúng ta hẹn nhau ba mươi năm, sau ba mươi năm chàng hãy đến tìm em, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà, bắt đầu kiếp luân hồi, chưa biết chừng trong vạn kiếp luân hồi, chúng ta có thể làm vợ chồng ở một kiếp nào đó”.

Ánh mắt chàng đau đớn, tôi muốn giơ tay xóa đi nỗi đau đớn ấy, môi chàng chạm vào tóc tôi: “Nhưng nếu không có tôi, em sợ thì sao? Nếu không muốn cùng tôi ở cõi trần, hãy để tôi đi cùng em, có được không?”.

Chàng thản nhiên nói ra những lời đáng sợ đó, tôi sững sờ hồi lâu, lòng đột nhiên cay đắng: “Thực ra không có chàng, em cũng sẽ không sợ, em lớn rồi, chỉ là thường giả bộ làm nũng trước mặt chàng, khiến chàng cảm thấy không thể bỏ em mà thôi, chàng xem, có phải em xảo quyệt quá không…”.

“Nhưng tôi sợ”. Chàng khẽ ngắt lời tôi: “Không có em tôi sẽ rất sợ”.

Tôi giơ tay vuốt tóc chàng: “Vậy em không chờ chàng ở đó nữa, sau khi chết em vẫn đi theo chàng, đợi đúng hẹn ba mươi năm, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà. Nhưng nếu chàng đến trước sẽ không tìm thấy em, chàng phải lập đại công, phải trở thành minh quân thánh chủ được người đời ca tụng, chàng mang đầy chiến tích quang vinh đi gặp em. Kiếp này em và chàng… kiếp này là không thể, kiếp sau em nhất định…”.

Nhưng nhìn thấy sắc mặt chàng lại bất giác ngừng lời, rồi cố nở nụ cười: “Chàng giận gì kia, cười một cái cho em xem nào”.

Lưỡi kiếm lại cắm vào vách núi, chạm vào đá tóe lửa, chàng ôm tôi nhảy lên phía trên một đoạn, giọng khàn đặc: “Không cần hứa hẹn đời sau kiếp sau, ta chỉ cần em đời này kiếp này”.

Cổ họng nghẹn ứ, đời này kiếp này quả thật không thể. Tôi nắm chặt dao găm trong tay áo, nhân lúc chàng bung người bật lên, run run thích nhẹ vào cánh tay ôm tôi, cánh tay như xiềng xích đó bị đâm bất ngờ, lập tức buông ra.

Khi cơ thể tôi rơi vun vút xuống dưới, tôi nghe thấy giọng mình lẫn trong gió: “Hãy nhớ, đừng quên em, nếu sau này thích cô gái khác, nhất định không được để em biết”. Nhưng không biết chàng có nghe thấy không.

Cảnh cuối cùng nhìn thấy là vẻ mặt đau đớn không thể tưởng tượng của chàng, bóng áo lam nhập nhòe trong nước mắt. Dưới bầu trời thu, gió truyền đến giọng chàng, nhưng tôi không còn nghe thấy.

Chết đi như vậy cũng tốt. Chỉ có điều nếu sớm biết sẽ phải chia ly nhanh như vậy, tôi nhất định sẽ luôn đi theo chàng, không để những ngày tháng cuối cùng chia xa nhiều như vậy.

Nhưng nghĩ lại, ông trời cũng vẫn tốt với chúng tôi. Từ giữa đông năm ngoái đến mùa thu năm nay giống như một giấc mơ, trong giấc mơ đó, tôi được một báu vật, chàng luôn là báu vật của tôi.

Đời người không coi trọng ngắn dài, có lúc một khắc cũng bằng một đời dài lâu, có lúc một đời chỉ là một khắc ngắn ngủi, tất cả đều là số mệnh, năm xưa có vị trưởng môn đã phán tôi là người bạc mệnh, lời của ông quả nhiên linh ứng, hôm nay tôi chết cũng nằm trong số mệnh mà thôi.

Nhưng còn Mộ Ngôn, tôi nghĩ chàng nhất định sẽ dằn vặt đau buồn, có cách nào khiến chàng không buồn như vậy, nếu tôi không chết thì tốt quá.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 3

Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt.

Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi.

Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn.

Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi.

Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt.

Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng.

Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc.

Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”.

Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng… nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện.

Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ.

Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về.

Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên giường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động.

Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu.

Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên giường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét.

Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ.

Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh.

Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật.

Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa.

Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước giường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”.

Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”.

Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa.

Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết.

Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước.

Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất.

Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc.

Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”.

Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy.

Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn.

Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”.

Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”.

Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc.

Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi.

Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy.

Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”.

Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ.

Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”.

Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”.

Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh… huynh hà tất…”.

Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên…”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “… những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.

Nước mắt nhập nhòa rồi tuôn như mưa xuống má, cũng không muốn lau. Một trận gió thổi tới, rẽ ra những sợi dây leo trước mặt, tôi hốt hoảng nép người về phía sau, nhưng chỉ là hoảng sợ vô ích, ngước mắt đã thấy bóng hai người một trước một sau chầm chậm ra khỏi cửa, trong động chỉ còn ánh đuốc tàn đổ bóng xuống mặt đất.

Tôi tưởng tất cả sẽ kết thúc ở đó, không ngờ mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Mộ Ngôn không phát hiện ra tôi, bởi trong động không có dấu vết của người sống. Tôi là người chết, không cần nồi niêu bát đũa, cũng không cần đốt lửa xua đuổi dã thú, lại thêm sức lực yếu dần, trước khi chàng đến, tôi đã nằm lỳ hai ngày trong hốc đá.

Thầm nghĩ có thể họ sẽ quay lại, ngày hôm đó tôi vẫn không ra khỏi chỗ ẩn náu, sáng hôm sau đoán là sẽ không có gì sơ sảy, mới loạng choạng ra khỏi động đến con suối gần đó. Mang mái tóc dài đẫm nước quay về, lại sững người nhìn thấy cô gái áo xanh đứng cạnh chiếc giường đá cúi đầu chăm chú vẽ gì đó trên giấy.

Không kịp trốn, tôi ngẩng đầu, đôi mắt đen tròn như hạnh nhân của cô ấy bỗng mở to, nhìn chằm chằm bóng người ở cửa động. Tôi bước đến, nhẹ giọng hỏi: “Ba tháng không gặp, muội vẫn khỏe chứ, Mộ Nghi?”.

Bức họa trong tay cô hơi run, chằm chằm nhìn tôi, lát sau đôi tròng đen giàn giụa nước mắt: “Muội không biết tẩu là người hay là ma, có phải tẩu vẫn ở trong động này? Nhưng tại sao bây giờ mới xuất hiện, người tẩu cần gặp phải là ca ca của muội chứ”.

Không thể nói sự thật với cô, nhưng thấy cô khóc như vậy, tôi không đành lòng, mặc dù tôi cũng thường xuyên rơi nước mắt, nhưng sợ nhất người khác khóc trước mặt mình. Không biết làm thế nào, đành quay người định đi, đằng sau truyền đến tiếng khóc to hơn của Mộ Nghi: “Tẩu nhẫn tâm như vậy ư?”.

Bên ngoài có gió, mấy chiếc lá phong rơi trên cửa động, tôi dằn lòng cắm cúi bước tiếp, được mấy bước, hai chân chậm dần, cuối cùng dừng lại.

Sau lưng là tiếng nói nghẹn ngào của Mộ Nghi: “Ngày tẩu rơi xuống vực, ca ca cũng nhảy theo, ca ca muốn đuổi theo tẩu, từ vách núi lăn xuống dòng sông nước xiết, vùng vẫy tìm kiếm cuối cùng chỉ vớt được chiếc áo tím của tẩu, tẩu không biết khi thị vệ tìm thấy, bộ dạng ca ca thế nào đâu, cơ hồ nửa mạng sống đã bị Diêm vương lấy đi, nhưng trở về hành cung tuyệt nhiên không nhắc tới tẩu nửa câu, nghỉ ngơi nửa ngày liền bắt tay lo liệu tang lễ cho phụ vương. Ca ca xưa nay dù gặp bất cứ việc gì cũng luôn điềm tĩnh, chúng tôi đều tưởng ca ca chỉ là mê muội nhất thời, dường như đã nghĩ thông, không ngờ lo xong tang lễ cho phụ vương, ca ca đóng cửa giam mình ba ngày trong phòng. Ngày đăng quang, tay bê linh vị của tẩu, đích thân đặt vào bảo tọa dành cho vương hậu sau lưng, tẩu nhất định không biết, linh vị đó ca ca tự tay tạc suốt ba ngày không ngủ”.

Tôi ngước mắt nhìn trời, tầng không thăm thẳm xanh ngắt bao la, mây trắng lững lờ. Đó là lỗi của tôi, là niềm lưu luyến của tôi, chàng không nên yêu tôi. Một người sống yêu một người đã chết làm sao có tương lai.

Ngày trước tôi chỉ muốn ở bên chàng, gần chàng hơn nữa, để sau khi ra đi không còn gì tiếc nuối, nhưng hoàn toàn không nghĩ nếu có ngày tôi rời xa chàng, chàng sẽ thế nào. Tôi đã sai.

Mộ Nghi từ phía sau bước đến, giọng vẫn run run nghẹn ngào: “Tại sao tẩu vẫn không ngoái lại? Tẩu cảm thấy như thế vẫn chưa đủ sao? Nếu muội nói với tẩu, giờ đây vì tẩu ngay cả kiếm ca ca cũng không muốn động vào nữa, tẩu có động lòng hay không?”.

Tôi quay phắt lại, khó nhọc nói: “Thế là thế nào?”.

Cô giơ ống tay áo lau nước mắt, cố nở nụ cười còn khó coi hơn khóc: “Ca ca kiếm thuật cao cường như vậy, gặp sự cố ra tay nhanh như chớp, khiến hộ vệ tùy tùng xấu hổ. Nhưng hôm đăng quang, trên yến tiệc có thích khách, rõ ràng có thể kịp thời tránh mũi kiếm, ca ca lại… muội đi xem vết thương của ca ca, hỏi mãi, ca ca chỉ nói, ca ca đã không thể dùng kiếm nữa. Về sau muội mới biết, do ca ca đã đâm nhầm tẩu nên không thể chạm vào kiếm nữa. Lần này cũng thế, để kịp sinh nhật tẩu, cơ thể ca ca dù chưa bình phục, vẫn vượt ngàn dặm trở về núi Nhạn Hồi. Mặc dù ca ca không nói gì, nhưng muội cũng nghĩ, ca ca đến đây hoàn toàn là vì tẩu. Vậy mà tẩu lại nhẫn tâm như thế, nhẫn tâm đến mức rõ ràng vẫn sống mà lại giấu ca ca, ca ca ở trước mặt tẩu, tẩu cũng không lộ diện, tẩu nhẫn tâm để ca ca…”.

Hang động rất cao, lần đầu phát hiện thì ra trên đỉnh có nhiều chỗ bị xói mòn. Phải, sao lại nhẫn tâm đến thế, tôi không nhẫn tâm, nhưng nỗi đau trong lòng lại từ từ dâng lên, lát sau, tôi nghe thấy tiếng mình lạc giọng: “Mộ Nghi, giúp tôi một việc được không”.

Trên đường đến Hạo thành, nghe đồn hai nước Triệu – Khương khai chiến. Chuyện này vừa trong dự đoán lại vừa ngoài dự đoán. Cuối tháng tám, Mộ Ngôn đến Triệu, cùng hội đàm với Triệu vương, với tính cách nóng nảy của Triệu vương, tôi tưởng nhiều nhất không quá nửa tháng sẽ tuyên chiến với Khương, không ngờ lại kìm được cơn thịnh nộ, trì hoãn đến tận đầu tháng mười.

Nghe đồn hôm tuyên chiến, Triệu vương đích thân đứng trước trận tiền vạch ra bảy tội lớn của Khương quốc, trong đó tội lớn nhất vô cùng thú vị, nhân chứng vật chứng chỉ thẳng chuyện tháng tư vừa rồi Khương mượn dao giết người giá họa cho Triệu giết Trần quốc thế tử Tô Dự.

Triệu vương lời lời đanh thép lên án Khương quốc lòng lang dạ sói, rắp tâm hùng bá một cõi, trăm phương ngàn kế chia rẽ hai nước Triệu, Trần hòng mưu lợi, may thay hai nước giao hảo đã lâu, lại có liên hôn tín ước mới tránh được cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Không ngờ Khương vương đến chết không chừa, để che giấu tội bất nghĩa với hai nước Trần, Triệu, lại bày ra khổ nhục kế tự chặt tay mình, giết chết thừa tướng Bùi Ý, chủ mưu hãm hại Triệu rồi giá họa lên đầu Triệu, hành động này của Khương vương trăm lần trái đạo quân vương, trên bất trung với thiên tử, dưới bất nghĩa với trung thần, khiến thiên hạ rùng mình.

Tôi cảm thấy lời cáo trạng đó, đoạn trước còn được, đoạn sau quả thật oan uổng cho Khương vương. Có thể đoán ra, tháng trước Mộ Ngôn đã nói thế nào để đánh lừa Triệu vương, cũng có thể đoán ra tại sao Triệu vương nhất nhất tin lời chàng, quả nhiên xuất binh, không có nguyên nhân khác, tất cả nhờ vào tài diễn xuất bẩm sinh của Mộ Ngôn.

Lấy gậy ông đập lưng ông, nước cờ này Mộ Ngôn đi rất tuyệt, lúc đầu khi Khương quốc bày mưu giăng lưới đâu có ngờ dẫn đến kết cục hôm nay, cũng đâu ngờ người có tư cách thu lưới cuối cùng lại không phải là mình mà chính là con cá mình giăng lưới muốn bắt.

Nhưng tôi nghĩ, với quốc lực của Triệu, dám tuyên chiến với Khương lại không phải là sự mạnh động nhất thời, ắt là khi kết đồng minh Mộ Ngôn đã hứa, nếu hai nước khai chiến, Trần sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Triệu. Nhưng khi Mộ Nghi bí mật đưa tôi trở về Hạo thành lại không hề nghe nói Triệu đã thu được lợi gì trong chiến sự này.

Trái lại, nghe nói Khương vương phẫn nộ bởi bản cáo trạng bảy tội danh kia, lập tức điều binh khiển tướng kháng cự, toàn quốc trên dưới một lòng quyết kháng địch rửa hận, liên tục bảy ngày đại quân Triệu quốc không những không thể tiến thêm bước nào vào lãnh thổ của Khương, trái lại liên tục rút lui. Xem ra Mộ Ngôn đã không giữ lời khi kết đồng minh với Triệu.

Mộ Nghi với tầm mắt của một công chúa không hiểu gì thế sự, cũng cho rằng hai nước Khương, Triệu đều bại là tốt nhất, như vậy Trần quốc láng giềng có thể kê cao gối ngủ yên vài chục năm.

Ngay Mộ Nghi cũng có thể nhìn ra bí ẩn đằng sau thế cục này, tin là Triệu vương đang lún sâu vào vũng lầy cũng hiểu ra, nhưng lúc này ngoài giương cờ trắng cầu Trần cứu viện ông ta còn có thể làm gì hơn. Mà khi hai nước chưa đến lúc sức cùng lực kiệt, tôi dám cược Mộ Ngôn quyết không xuất binh. Quả thực tôi rất hiểu chàng, chỉ cần tôi muốn.

Ngày hai mươi lăm tháng mười, trời u ám, từ khi chia tay ở Bích sơn, tôi và Mộ Ngôn đã tròn nửa tháng xa nhau, đối với chàng, quãng thời gian xa tôi còn dài hơn.

Chiến tuyến trải quá dài, Triệu vương cuối cùng không trụ nổi, hoảng hốt cấp tốc cử người đến Hạo thành xin cứu viện. Nghe Mộ Nghi nói, Mộ Ngôn viện cớ ốm mệt, sáng không thiết triều, coi như phớt lờ sứ thần nước Triệu, buổi chiều mới truyền chỉ báo, sức khỏe đã khá lên, buổi tối sẽ mở tiệc ở Trân Long viên khoản đãi sứ thần nước bạn.

Mộ Nghi đứng bên an ủi tôi: “Sức khỏe của ca ca gần đây tuy có hơi kém, nhưng vết thương trên người không đáng ngại, chắc là do thức đêm giải quyết chính sự, không hề gì. Dạ tiệc hôm nay, muộn một chút tẩu có thể nhìn thấy ca ca…”.

Lời vừa dứt mắt đã đỏ hoe, tôi cười chun mặt làm xấu với cô: “Nếu tối nay muội vẫn mau nước mắt như thế, không khéo chúng ta bị lộ tẩy, nếu chàng phát hiện thì biết làm sao, nếu bị ăn đòn muội phải đứng chắn cho tôi đấy”.

Cô ngẩn người, lau nước mắt: “Chuyện buồn như vậy mà tẩu vẫn còn tâm trạng đùa giỡn, tẩu đúng thực như ca ca nói, khi không có ca ca ở bên…”. Trong đầu tôi hiện ra câu nói, “… khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.

Tôi phấn chấn tinh thần, ôm đầu than thở: “Muội xem, chàng đã nói vậy, khiến tôi vốn định khóc lại không dám khóc, phải làm gương cho muội”.

Mộ Nghi rầu rĩ nhìn tôi, buồn bã nói: “Ngoài làm cho ca ca quên, không còn cách nào khác sao, tẩu tẩu?”. Tôi ngẩng đầu nhìn lên xà nhà, nụ cười vụt tắt: “Đúng, không còn cách nào khác”.

Cuối cùng tôi đưa ra quyết định sẽ gảy một Hoa Tư điệu cho Mộ Ngôn, Hoa Tư điệu Tý Ngọ, lấy đi ký ức của chàng.

Thực ra phương thức có được Hoa Tư điệu Tý Ngọ không khác nhiều so với Hoa Tư điệu tôi thường tấu, chỉ là nhất định phải tấu vào giờ Tý, lấy viên giao châu làm khế ước, niệm lời chú để thôi động cây đàn tấu ra nhạc khúc chứ không phải dùng ngón tay.

Khúc nhạc tấu ra có thể dệt được ảo mộng đặc biệt cho người khác, ảo mộng này mặc dù cũng là tái hiện quá khứ nhưng không phải thu hút tính mạng của người đó mà là lấy đi tình cảm sâu sắc nhất trong lòng người đó.

Tý Ngọ là chỉ từ giờ Tý đến chính Ngọ, người rơi vào ảo mộng không thể thoát ra khỏi tình cảm đau đớn giày vò, tự mình thoát ra khỏi mộng cảnh, sau giờ Ngọ khi người đó tỉnh lại, phần tình cảm đó sẽ biến mất do bị ảo mộng thu hút. Nhưng ảo mộng mà Hoa Tư điệu Tý Ngọ dệt ra không giống ảo mộng thường ở chỗ, cho dù người được dệt mộng không thoát ra khỏi mộng cảnh, cũng không bị mất tính mạng, đến giờ Ngọ sẽ tỉnh lại còn mộng cảnh sẽ được tiếp diễn ở một không gian khác.

Đây có lẽ là bí mật lớn nhất của Hoa Tư dẫn, có lẽ ngay cả Quân sư phụ cũng không biết, đó là cấm thuật trái đạo lý. Bởi trên thế gian không nên có ai có quyền tước đi ký ức tình cảm của người khác, cũng không nên vạch ra khoảng không thời gian mà ngay trời cũng không nhìn thấy, cho nên phép thuật một khi thực thi thành công, tác dụng tương phản đối với người thực thi phép thuật sẽ rất lớn, lúc này viên giao châu mà Hoa Tư dẫn ký thác sẽ vỡ vụn, công lực của phép thuật cũng theo đó tiêu tan. Tất cả sẽ trở về cát bụi.

Trước kia, tôi muốn để Mộ Ngôn nhớ tôi, nhớ suốt đời. Nhưng nếu nhớ tôi chỉ khiến chàng đau khổ, chi bằng để chàng quên đi.

Buổi tối, Mộ Nghi dẫn tôi đến Trân Long viên dự tiệc. Theo phong tục nước Vệ, công chúa chưa xuất giá tuyệt đối không được lộ diện ở chốn xã giao cung đình, Trần và Vệ chỉ cách một con sông, phong tục về mặt này lại khác nhau.

Tôi phục trang vào vai người hầu của Mộ Nghi, theo sát bên cô, đi thẳng tới Trân Long viên, dưới bầu trời đêm thu, giữa trùng trùng đèn cung sáng rực, một biển hoa thiên trúc trải ra trước mắt, kéo tới tận chân vương tọa bằng ngọc tạc, giống như bữa tiệc được mở trên một biển hoa.

Cảnh trí trang nhã, du nhàn như bức họa mới tinh, vừa nhìn là biết đó là phong cách của ai. Từ xa truyền đến tiếng hô của thị quan, khóe mắt liếc thấy dải thắt lưng của hầu nữ bay bay trong gió, Mộ Nghi kéo tay tôi, lúc này mới phát hiện quần thần đã nhất loạt quỳ phục dưới vương tọa, khiêm nhường chờ đợi quân vương giá đáo.

Tôi quỳ theo mọi người, thầm nghĩ sau nửa tháng xa cách, không biết bây giờ trông Mộ Ngôn thế nào. Không nén nổi hơi ngẩng đầu, dưới ánh sáng cung đăng, cuối cùng tôi nhìn thấy bóng chàng khoan thai bước đến, nhưng không phải là áo chùng gấm màu lam như trước, mà là toàn thân long bào gấm đen tuyền, mái tóc đen ẩn trong vương miện, chín tua ngọc châu rủ quanh vương miện, bóng đổ xuống hơi che khuất sắc diện ngược chiều sáng của chàng. Lần đầu tiên nhìn thấy chàng trong trang phục như vậy, ở ngôi cao xa vời như vậy, trông chàng càng bội phần tuấn tú.

Tất cả sau đó giống như trong một giấc mộng, luôn có cảm giác không thực, nghe tiếng chàng chỉ vài câu lạnh lùng đã khiến sứ thần nước Triệu đang thao thao bất tuyệt không nói tiếp được, vừa nghĩ bình thường chàng chẳng phải vẫn thế sao, lại vừa nghĩ bình thường chàng như thế thật sao?

Trong ký ức tôi cơ hồ có hai con người, một người là Tô Dự, một người là Mộ Ngôn. Một người là chính trị gia bẩm sinh, một người là phu quân tôi.

Một người điềm tĩnh đối diện mọi nguy biến, ung dung điều hành triều chính, một người bỏ lại kinh thành phồn hoa, đêm ngày ngồi trong sơn động tấu ra những khúc đàn bi thương vì tôi.

Mặc dù hai người đó là một, nhưng nhìn thấy Mộ Ngôn lúc này, trong một khắc nào đó tôi không thể gắn hai người đó làm một.

Tôi không biết rốt cuộc tôi muốn nhìn thấy chàng quên tôi, sống vui vẻ hay là muốn thấy chàng suốt đời đau khổ, có lúc bản thân cũng cảm thấy ý nghĩ của mình thực quái dị, nhưng không sao kìm được tình cảm mâu thuẫn đó, đành để nó lan tràn như cỏ dại.

Trên bàn tiệc, bá quan đang đua nhau nâng cốc chúc tụng, chợt có tiếng kêu “ối” bật ra đầy kinh ngạc của Mộ Nghi, luồng suy nghĩ đang miên man đi xa bỗng quay về, mới phát hiện trên bàn tiệc, tiếng cười nói, tiếng chạm cốc một khắc trước còn ồn ào chợt im bặt, trên đài cao nơi các ca kỹ cung đình múa hát, không biết lúc nào xuất hiện một thiếu nữ áo đỏ muôn phần xinh đẹp, sứ giả Triệu quốc đang hướng về phía Trần vương thao thao bất tuyệt gì đó.

Tôi dỏng tai nghe, thấy ông ta tán tụng cô thiếu nữ xinh đẹp thế nào, đàn giỏi múa hay ra sao, tinh thông lễ nghĩa thế nào, cho dù mãi vẫn chưa đi vào chuyện chính, nhưng trong hoàn cảnh này, mang đến một mỹ nhân khuynh thành như thế, ai cũng hiểu ông ta muốn gì.

Không biết tại sao Mộ Nghi lại kinh ngạc như vậy, mặc dù xưa nay trong chuyện tình cảm tôi rất ích kỷ, chỉ muốn độc chiếm người mình yêu, nhưng trong hoàn cảnh này cũng không phải nghĩ không thông. Các nước tặng nhau mỹ nhân cũng bình thường như tôi và Quân Vỹ tặng nhau dưa gang, cũng không phải dưa gang nhận về đều ăn, mà đa phần đem tặng cho đầu bếp.

Trên trời sao ẩn hiện, theo tính cách Mộ Ngôn chàng vẫn giữ thái độ dửng dưng, không ngờ lời sứ giả vừa dứt, lại thấy chàng cúi nhìn cô gái áo đỏ rất lâu, đoạn trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.

Tôi băn khoăn nhìn lên đài cao, đúng lúc bắt gặp khuôn mặt từ từ ngẩng lên của cô gái. Hai hàng lông mày thanh như làn khói, đôi mắt hạnh nhân đen láy, chiếc mũi xinh, đôi môi nhạt như sắc xuân hơi mím.

Tôi kinh ngạc lùi lại một bước.

Chẳng trách Mộ Nghi chấn động như vậy. Khuôn mặt đó có vài phần giống tôi, một năm trước khi còn ở Vệ cung thường gặp. Cô gái áo đỏ đó chính là thập nhị tỷ Diệp Minh của tôi.

Tôi có mười bốn chị gái, cơ hồ tôi và Diệp Minh giống nhau nhất, nhưng sao tỷ tỷ có thể biến thành mỹ nhân do Triệu cống lên? Sau khi Vệ mất, tỷ tỷ đã cùng phụ hoàng và mẫu phi bị quản thúc ở biệt viện ngoại vi Hạo thành cơ mà?

Vẫn còn chưa hết bàng hoàng, lại nghe tiếng Triệu sứ giả gần như nói lại những lời tán tụng đã nói.

Mộ Nghi kéo váy tôi, dùng ngón tay chấm rượu viết lên bàn: “Cho dù ca ca thu nhận cô ấy, cũng bởi vì người ta giống tẩu, ca ca nhớ tẩu…”.

Chữ cuối cùng tôi không nhìn hết, trong lòng bất chợt như có nước băng thấm vào, lạnh đến tận đáy lòng. Thậm chí tôi còn chưa nghĩ đến điều đó, lúc này bị nhắc như vậy, đột nhiên nhớ lại chuyện này hình như đã từng có tiền lệ.

Nhưng sao có thể hoang đường như vậy, sao có thể vừa nhớ nhung một người vừa thu nhận một người khác. Dung Viên yêu Oanh Ca như vậy nhưng cũng không nói yêu Cẩm Tước giống hệt Oanh Ca.

Tôi ngẩng đầu nhìn Mộ Ngôn trên cao, trong khi sứ giả vẫn đang tiếp tục thao thao bất tuyệt, có lẽ do góc độ của ánh đèn trên đài cao, tôi lại có thể nhìn rõ thần sắc của chàng sau những tua rèm vương miện, chàng hơi nghiêng đầu hướng về tể tướng Doãn Từ ngồi bên trái bàn tiệc: “Quả nhân xưa nay không mấy hứng thú với ca vũ, còn nhớ Doãn khanh rất có nhã hứng về khoản đó, vậy ban Mạnh Diệp cô nương cho Doãn khanh”.

Tôi thở phào.

Sắc mặt Triệu sứ giả đang đỏ hồng biến thành trắng bệch khi Mộ Ngôn nói vậy, nhưng nhất thời không biết đối đáp ra sao, Diệp Minh bên cạnh đã lạnh lùng lên tiếng: “Hai chân Mạnh Diệp đứng trên quốc thổ nào chỉ biết phục hầu người cường đại nhất của quốc thổ đó, bệ hạ nếu không muốn để Mạnh Diệp hầu hạ, lại ban cho người khác, chi bằng hãy giết chết Mạnh Diệp”.

Diệp Minh, Mạnh Diệp. Nói thật tôi hầu như không có tình cảm gì đối với người chị này, nhưng trong mười bốn chị gái có ai có thể khiến tôi thích một chút, người đó chính là Diệp Minh .

Nghe nói trước khi tôi trở về Vệ quốc, người phụ hoàng thích nhất là Minh tỷ. Vệ quốc thập nhị công chúa Diệp Minh kiêu sa cao ngạo, trong cung không ai dám động đến. Nhưng tôi không hiểu, Diệp Minh tỷ tỷ của tôi tuy đã là công chúa vong quốc, nhưng với tôn nghiêm và hào quang đã có sao có thể hạ mình biến thành món cống vật trong tay người khác.

Tôi thấy Mộ Ngôn cười một tiếng, lòng đang run sợ liệu chàng có bị nhan sắc của Diệp Minh cám dỗ, lại nghe thấy giọng nói thanh lạnh quen thuộc: “Vương hậu của quả nhân rất hay ghen, thu nạp nàng rất dễ, nhưng vương hậu sẽ không vui, nàng nói xem, quả nhân nên để cho nàng không vui hay để cho vương hậu của quả nhân không vui?”.

Tay tôi nắm chặt run run, Mộ Nghi bật cười thành tiếng, trên bàn tiệc yên tĩnh, tiếng cười nghe rất rõ, ánh mắt Mộ Ngôn liếc lại, tôi vội cúi đầu. Lại nghe tiếng Diệp Minh không chút nao núng: “Bất luận vương hậu không vui hay Mạnh Diệp không vui đều không quan trọng, quan trọng là bệ hạ thuận theo tâm ý của người”.

Mộ Ngôn bỏ tay chống cằm để lên tay ghế: “Thuận theo tâm ý của quả nhân?”.

Chàng cười, thong thả nói: “Tâm ý của vương hậu là tâm ý của quả nhân”.

Hai tay nắm ống tay áo khẽ run. Quần thần bên dưới nhất định cảm thấy vui mừng vì vương hậu của họ chỉ là một linh vị, nếu không thì đây đúng là một hôn quân.

Cuối cùng Diệp Minh vẫn lựa chọn đi theo tể tướng Doãn Từ, không biết kết cục đó là tốt hay xấu, có nhiều lựa chọn, nhưng tỷ tỷ đã lựa chọn như vậy, cũng giống như có nhiều con đường, nhưng tôi lại lựa chọn tuẫn tiết cùng xã tắc, một việc không cho phép hối hận.

Khi bữa tiệc sắp kết thúc, Mộ Ngôn ban cho Mạnh Diệp một chén rượu, nhưng chén rượu của chàng lại do Mộ Nghi rót.

Lòng bàn tay dâm dấp ướt, tôi thầm mong mọi sự suôn sẻ, mấy giọt máu đựng trong lọ sứ đưa cho Mộ Nghi, cô đã thêm vào mấy giọt nước cỏ đắng, hơn nữa chỉ cho vào rượu ba giọt, dù lưỡi chàng có tinh đến mấy cũng không thể nhận ra mùi máu mới phải.

Khi Mộ Nghi rót rượu, hình như Mộ Ngôn nói gì với cô, chỉ nhìn thấy bàn tay rót rượu của cô hơi run, Diệp Minh bên cạnh đón chén rượu từ tay hầu nữ, mặt bỗng trắng bệch, tay run đến nỗi cơ hồ không cầm nổi chén rượu.

Khi chàng uống cạn, dưới đài ca vũ đã ngừng, trên đài cao, Mộ Ngôn lặng ngồi trên bảo tọa tay chống cằm, nửa người chìm trong bóng hai cánh chim khổng tước trên cao, không biết đang nghĩ gì.

Lát sau nhạc khúc thuộc về chàng văng vẳng vang lên trong ánh đèn hắt ra từ cung Thiện Mộc, âm phù xao động như một khúc vũ điển nhã, từng chút, từng chút, đi vào lòng tôi.

Tất cả đều theo đúng kế hoạch, thuận lợi không ngờ, cũng may kế hoạch đã vạch định chu toàn, tâm thần mới không bị rối loạn bởi thắng lợi nhất thời, vẫn nhớ bước tiếp theo là tìm một nơi không bị ai quấy rầy đợi đến giờ Tý, niệm lời chú khởi động Hoa Tư điệu Tý Ngọ của Mộ Ngôn.

Nhìn bóng Mộ Ngôn rời bàn tiệc, tôi không thể kìm lòng, bước lên hai bước nhìn chàng. Đây là lần cuối cùng nhìn chàng trên đời, lại diễn ra trong màn đêm với mấy ngôi sao tàn trên trời, chỉ nhìn thấy bóng áo đen của chàng. Hoa thiên trúc trải đầy mặt đất, như nở ra từ gót chân chàng, sắc hoa ánh lên xiêm áo chàng, lung linh theo nhịp bước chân.

Mộ Ngôn. Em sẽ không quên những ngày đẹp nhất của chúng ta, nhưng đời này em không thể gặp lại chàng được nữa.

Mộ Nghi hỏi tôi: “Tẩu có biết vừa rồi ca ca nói gì với muội không?”.

Tôi lắc đầu.

Cô quay đi, khẽ nói: “Ca ca bảo ‘Đến bây giờ ta mới cảm thấy A Phất đã đi thật rồi, nhìn thấy cô gái giống cô ấy, ta không nén nổi ý nghĩ, tại sao người chết không phải là bọn họ mà lại là A Phất. Một mình cô ấy sẽ rất cô đơn, ta lại không thể ở bên cô ấy, nếu đưa những cô gái đó đến bên cô ấy để bầu bạn, không biết A Phất có vui”.

“Choang!”. Tôi tuột tay đánh rơi chiếc cốc, Mộ Nghi thở dài: “Đi thôi, muội đưa tẩu đến một nơi không ai quấy rầy. Tẩu nói không thể để ca ca nhớ đến tẩu nữa”. Cô ngoái đầu lại: “Cuối cùng muội đã thấy tẩu nói đúng”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 4

Giờ Tý đang nhích đến gần theo tiếng trống điểm canh, đây sẽ là đêm trăng cuối cùng của tôi trên đời.

Trên mặt cây đàn gỗ đồng mộc đặt trong động băng đã đọng hơi nước, tôi ngồi trước cầm đài, bó người trong chiếc áo lông chồn rộng thùng do Mộ Nghi mang đến, khi ánh nến đầu tiên tắt phụt cùng với tiếng trống báo giờ Tý, tôi khẽ niệm lời chú từ những vết nứt của viên giao châu thoát ra quanh quẩn trong ý thức.

Tôi luôn cho là mình không đến nỗi phải dùng đến nó, những bậc tiền bối có kết cục bi thảm do tu luyện Hoa Tư dẫn, tôi biết khúc cuối cùng họ đều gảy cho chính mình, hơn nữa đa phần chính là Hoa Tư điệu Tý Ngọ.

Mơ quá nhiều mộng đẹp, cuối cùng có ngày chìm đắm trong đó không thoát ra được, đó là tham vọng của con người, mặc dù tôi không vì bản thân nhưng cũng có ước vọng, luyến tiếc trong lòng không thể nói ra.

Tiếng đàn dìu dặt cùng lời chú chầm chậm vang lên, băng động tối om đột nhiên bừng sáng, trong cảnh đất trời rung chuyển, một bóng trắng đột nhiên xuất hiện trước mắt, bàn tay bị ai chộp lấy, bên tai vang lên tiếng thét như tiếng hổ gầm, tích tắc tôi đoán ra người đó là ai, khi cả người đã đi vào mộng cảnh do Hoa Tư điệu Tý Ngọ dệt ra, chân vừa chạm đất, ngẩng đầu quả nhiên nhìn thấy khuôn mặt cau có của Quân Vỹ, cúi đầu lại thấy Tiểu Hoàng nằm phục dưới chân.

Tôi bỗng chốc không biết nói sao. Quân Vỹ nghiêng đầu nói: “Muội định làm gì, huynh đã nghe Mộ Nghi nói hết rồi, đừng trách cô ấy”. Ngừng một lát, cúi nhìn tôi, “Cha và huynh tìm muội mãi, khi muội vui, đương nhiên không cần đến huynh, nhưng khi muội buồn, A Phất, tại sao không đến tìm huynh?”.

Tôi cúi đầu vuốt ve Tiểu Hoàng: “Quân sư phụ có khỏe không? Nghe nói Mộ Ngôn không làm khó sư phụ”. Ngẫm nghĩ một lát, lấy giọng vui vẻ thoải mái nhất nói với anh ta, “Đại khái như huynh đã biết, đây là ngày cuối cùng của muội, thực ra huynh nên coi là muội đã chết, bắt đầu từ khi muội được tái sinh, huynh cũng biết ngày đó sẽ đến, phải không? Nhưng muội muốn dùng mấy ngày cuối cùng này làm một việc có ý nghĩa, huynh định ngăn cản muội sao?”.

Tiểu Hoàng sau một hồi hốt hoảng ra sức liếm tay tôi, đương nhiên nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, giọng khàn đặc của Quân Vỹ từ phía trên vọng xuống: “Không, huynh đến là để giúp muội”.

Tôi kinh ngạc, không phải vì lời của Quân Vỹ, mà bởi vì giọng nói run run của mình: “Quân Vỹ, huynh hãy đỡ muội, chân muội tê không đứng lên được”.

Tôi ngửi thấy mùi hương dưới ánh trăng, đó là mùi y phục của Quân Vỹ được xông hương, đã lâu không ngửi thấy, tôi lại có thể khôi phục tri giác rồi sao?

Hơi thở lan ra trong không khí, ngưng thành làn sương trăng trắng, Tiểu Hoàng liếm tay tôi, răng nanh cào vào tay đau điếng, tôi nhăn mặt. Cuối cùng vẫn chưa dám tin, tri giác của tôi đã khôi phục thật rồi.

Quân Vỹ đưa cho tôi chiếc gương, trong gương hiện lên một vầng trán trắng ngần, vết sẹo khiến tôi buồn khổ bao ngày đã biến mất, dường như đã trở về thời hoàng kim, tuổi mười bảy đẹp nhất của tôi.

Phải, đây là lúc tôi đẹp nhất.

Xưa nay, tôi luôn muốn Mộ Ngôn nhìn thấy tôi như thế này. Quả là Hoa Tư điệu Tý Ngọ lấy sinh mệnh của mình gảy cho người khác, không ngờ lại có thể khiến tôi được thỏa mãn ước nguyện của mình, tính mạng này quả thật đổi không oan.

Quân Vỹ mỉm cười nhìn vẻ kinh ngạc của tôi, đề nghị nhân dịp này nên đến tửu lầu ăn mừng một trận. Ý kiến rất hay, huống hồ Tiểu Hoàng vừa nghe nói đi tửu lầu đã sướng rơn lăn tròn một vòng, nhưng tôi vẫn sốt ruột nói: “Thời gian không còn nhiều, nên đi tìm Mộ Ngôn đã”.

Quân Vỹ cau mày, chỉ một câu đã hoàn toàn thuyết phục tôi: “Trong mộng cảnh này muội đã là một người sống, không phải như trước. Muội không ăn làm sao có sức đi tìm anh ta”.

Rất may chỗ đang đứng không phải là cánh đồng hoang, đi theo Quân Vỹ một hồi đã nhìn thấy tửu lầu. Có thể một lần nữa đi lại trên thế gian như một người sống, mặc dù trong mộng cảnh tôi cũng thấy sung sướng vô chừng.

Trên đầu có hạt mưa, từng giọt rơi xuống mặt sông, gợn lên những vòng tròn nhỏ lan tỏa, bầu trời mùa đông màu chì nằng nặng, in bóng xuống mặt sông trong vắt, bên sông là tửu lầu. Bụng đói cồn cào, tôi sải bước đi vào cửa lớn, đang đảo mắt lựa chọn chỗ ngồi, ánh mắt lướt đến chiếc bàn bên cửa sổ, đột nhiên không thể nào di chuyển được nữa.

Hai cánh cửa mở toang, rèm trúc cuốn cao, một cành mai trắng để trên mặt bàn gỗ hình vuông. Sắc mai trinh trắng nổi bật bên cạnh bình rượu sứ màu lam nhẵn bóng long lanh như giọt sương đầu cành. Ống tay áo gấm đen huyền của chàng trai phủ trên bàn tay đang cầm bình rượu, trên sống mũi là chiếc mặt nạ màu bạc.

Mộ Ngôn. Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở đây.

Chàng hơi ngẩng đầu, hình như đang lắng nghe chàng trai trẻ vận áo trắng đối diện nói, do người đó quay lưng lại, chỉ có thể thoáng nhìn thấy chiếc vòng ngọc màu đen trong tay chàng ta.

Tôi sững người, xem ra người ngồi cùng với chàng chính là Công Nghi Phỉ. Quân Vỹ có lẽ nhìn thấy cảnh đó, nhưng làm sao biết người đó là Mộ Ngôn, nên đẩy tôi đi vào phía trong. Tiểu nhị ra đón, cười nói ân cần: “Bên dưới đã hết chỗ, nhị vị quan khách xin mời lên lầu”.

Nhưng tôi không thể nào cất bước. Mộ Ngôn hơi nghiêng đầu, cuối cùng cũng ngoái lại, nhưng không nhìn tôi. Tôi túm tiểu nhị hỏi: “Tiểu nhị ca có biết năm nay là niên hiệu gì?”. Đã đi tới chiếu nghỉ ở lầu hai, tiểu nhị gãi đầu: “Năm Trang Công thứ hai mươi ba”.

Trang Công. Nếu nhớ không nhầm lúc đó thiên hạ chỉ có một vị Trang Công, chính là Lê Trang Công. Lê Trang Công năm thứ hai mươi ba, đó là năm tôi mười sáu tuổi, hai năm sau khi tôi gặp Mộ Ngôn ở núi Nhạn Hồi. Ánh mắt lơ đãng đó rút cục là có nhận ra tôi nhưng lờ đi như không quen, hay là hoàn toàn không nhận ra?

Lên lầu hai ngồi vào bàn, tôi vốn định làm rõ đây là thời điểm nào, nơi nào, ít nhất cũng dành thời gian suy nghĩ cần làm gì khi gặp Mộ Ngôn, không ngờ lại gặp nhanh như vậy.

Tôi cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ, cảm thấy để tránh đi vào vết xe đổ, điều cần làm chỉ có một, chính là để Mộ Ngôn nhanh chóng yêu tôi. Mộng cảnh này có thể tồn tại mãi, nhưng tôi lại không thể. Trong hiện thực, tôi vẫn còn sống được mấy tháng nữa, trong mộng cảnh tôi cũng còn chừng ấy thời gian sống. Nếu trong mấy tháng này Mộ Ngôn chưa yêu tôi, cuối cùng vẫn là kết cục Vệ quốc bị diệt, tôi vẫn tuẫn tiết, mộng cảnh này không mảy may thay đổi, vậy tôi hà tất phải dùng ba tháng tính mệnh của mình đổi cho chàng Hoa Tư mộng Tý Ngọ.

Thực ra mộng cảnh bắt đầu từ đây là tốt nhất, chỉ cần chàng có thể yêu tôi, nhiệm vụ của tôi coi như hoàn thành, lúc đó tôi sẽ để cho chàng bức thư, bảo chàng đến Vệ quốc cầu hôn tôi, mộng ảnh của tôi đang tìm chàng khắp nơi nhất định sẽ đối tốt với chàng, khiến chàng hạnh phúc, chàng sẽ không muốn ra khỏi Hoa Tư mộng này. Như vậy tôi sẽ yên tâm.

Ý đã thế, tôi vẫy tay ra hiệu cho Quân Vỹ ghé lại gần, nói: “Huynh xuống dưới lầu được không, giúp muội để ý vị khách đeo mặt nạ bạc, xem lúc nào chàng đi, thì ra ám hiệu cho muội”.

Quân Vỹ vừa rót trà vừa chau mày: “Muội định làm gì?”.

Kỳ thực tôi định tạo ra một cuộc tái ngộ bất ngờ thật đặc sắc, tham khảo những vở kịch đã xem, dự định khi Mộ Ngôn vừa ra khỏi tửu lầu, tôi sẽ nhảy từ lầu hai xuống, cố gắng rơi đúng vào tay chàng, gây ấn tượng thật sâu với chàng.
Đương nhiên không thể nói điều đó với Quân Vỹ, rất có thể anh ta sợ tôi cắm thẳng đầu xuống đất, sẽ ngăn cản không cho tôi thực hiện ý định. Nhưng không vào hang cọp sao bắt được cọp con, Quân Vỹ có lúc rất bảo thủ. Tôi nghĩ một lát rồi nói thật với anh ta: “Người đó chính là Mộ Ngôn”.

Tay Quân Vỹ hơi run, có vẻ chăm chú nhìn cốc trà trong tay, tôi tưởng anh ta đang mải suy nghĩ, không nghe thấy tôi nói, không ngờ mãi lúc sau, anh ta chỉ đáp gọn lỏn: “Được”.

Quân Vỹ đứng đợi dưới lầu không biết bao lâu, tôi uống hết một cốc trà, một cốc nữa, lại một cốc nữa thì chợt nghe có tiếng huýt sáo, đang nhâm nhi cốc trà thầm nghĩ, chắc có ai trêu chọc Tiểu Hoàng, đột nhiên sực nhớ, có phải là ám hiệu của Quân Vỹ?

Vội vàng đến bên cửa sổ, ngó đầu nhìn ra, quả nhiên thấy Mộ Ngôn đứng cạnh gốc mai đang chuẩn bị giương ô, tôi còn chưa kịp suy tính nên nhảy như thế nào để tránh nguy hiểm, cả cơ thể đã bay khỏi cửa sổ rơi thẳng xuống không thể nào kiểm soát, mà Mộ Ngôn bên dưới lại không hề có phản ứng. Tôi đã nghĩ rất nhiều phương thức và tư thế tiếp đất, quả thực không nghĩ đến sẽ rơi thẳng vào người chàng. Vừa hét lên “Cẩn thận” thì mùi hương mai thanh khiết đã thoảng qua mũi, đầu va vào ngực ai, có tiếng nói vui vui như cười vọng xuống: “Cô nương mới cần cẩn thận một chút”.

Tay tôi hơi run, nắm chặt vạt áo chàng, chàng trai trẻ bên cạnh đã lên tiếng: “Chiếc ô làm khéo thế này mà bị hỏng, tiểu cô nương nên bồi thường cho chúng tôi mới phải”.

Dừng một lát, người đó lại tiếp, “Xem ra trận mưa chưa thể tạnh ngay, hay là quay lại ngồi lát nữa”. Nghe giọng nói, quả nhiên là Công Nghi Phỉ.

Tôi không có thời gian để ý gì khác, trong đầu mê mải cố nhớ câu mở màn đã nghĩ ra trong lúc uống trà, thầm nhắc đi nhắc lại mấy lần, một câu mở màn sao cho vừa nho nhã lại vừa khiến mình không bị mất giá. Nhưng chưa kịp nhớ ra, người đó đã định buông tay thả tôi xuống đất. Tôi buột miệng nói: “Chàng không muốn chịu trách nhiệm sao?”.

Im lặng một hồi, Mộ Ngôn vẫn buông tôi ra, thong thả nói: “Dám hỏi cô nương tại hạ sao phải chịu trách nhiệm?”.

Thực ra tôi cũng không biết tại sao lại buột miệng nói như vậy, nhưng không thể để lỡ cơ hội, đành cứng đầu nói bừa: “Ở nước chúng tôi, các cô gái chưa xuất giá nếu không cẩn thận bị đàn ông chạm vào, nhất định phải lấy người đàn ông đó, nếu không chỉ có nước tự vẫn. Chàng vừa ôm tôi thì phải chịu trách nhiệm đến cùng”. Nói xong trộm liếc sắc mặt chàng.

Mộ Ngôn không nói gì, Công Nghi Phỉ đã cười ha hả: “Tập tục này thật thú vị, nhưng có điều mưa to thế, hai người định tắm mưa hay sao?”.

Đương nhiên chẳng ai muốn tắm mưa, vẫn trở về ngồi ở bàn cũ, tiểu nhị hâm nóng rượu đem đến, tôi vẫn chờ phản ứng của Mộ Ngôn, đến khi chàng rót đầy ba chén rượu, mới nghe một giọng nhẹ tênh: “Quân cô nương là người nước Vệ, sao tôi không nghe nói nước Vệ có tập tục đó?”.

Tôi kinh ngạc vội ngẩng đầu: “Chàng, chàng còn nhớ tôi?”.

Tôi có cảm giác môi chàng hơi nhếch lên sau lớp mặt nạ, như nghĩ ra điều gì: “Muốn không nhớ cũng khó…”. Thuận tay đưa cho tôi chén rượu đã hâm nóng, “Chắc có người cùng đi với cô? Người đâu?”.

Tôi liếc qua khóe mắt ra hiệu với Quân Vỹ lúc này đang đứng phía xa thỉnh thoảng liếc lại, ngầm ý bảo: Hãy nhớ bắt đầu từ bây giờ chúng ta không quen nhau. Ra hiệu xong tôi nhìn Mộ Ngôn lắc đầu: “Chẳng có ai, tôi đi một mình”.

Nghĩ một lát mạnh dạn bổ sung: “Đi tìm huynh”.

Chàng ngạc nhiên ngẩng đầu: “Tìm tôi?”.

Gật đầu lia lịa, bụng nghĩ chẳng cần e dè giữ ý gì hết, thời gian không còn bao nhiêu, e dè giữ ý chi bằng tốc chiến tốc thắng, chỉ còn ba tháng ngắn ngủi làm sao có thể áp dụng chiến lược mưa dầm thấm lâu.

Tôi căng thẳng nắm chặt cái cốc trong tay: “Chắc chàng không biết, suốt hai năm qua, tôi đã tìm chàng, vừa rồi bị ngã là do nhìn thấy chàng xúc động quá…”.

Công Nghi Phỉ ngồi bên xen lời: “Cô nương nóng lòng tìm công tử đây là có việc gì gấp?”.

Mộ Ngôn không nói, chỉ nghịch chiếc cốc trong tay. Tôi đắn đo một lát, hơi ngẩng đầu, dũng cảm nhìn chàng: “Giả sử tôi muốn gả tôi cho chàng, chàng có ưng không?”.

Công Nghi Phỉ bật cười, phun cả rượu trong miệng ra ngoài, một nửa bắn lên áo tôi.

Mộ Ngôn để cái chén xuống, ngồi im không nói, mắt nhìn cành mai để trên bàn. Mặc dù cũng biết không nên hy vọng nhiều, nhưng lòng không kìm được vẫn thầm hy vọng.

Lát sau, cuối cùng chàng lên tiếng, nhưng chẳng ăn nhập gì với câu hỏi của tôi: “Cha mẹ cô nương có biết chuyện không?”.

Tôi hiểu ra, trang trọng gật đầu.

Chàng cười: “Họ có biết người cô nương muốn lấy là chủ hiệu tạp hóa?”.

Tôi ngớ người: “Sao?”.

Công Nghi Phỉ lại bật cười, rượu lại phun ra lần nữa, Mộ Ngôn thoáng liếc chàng ta, quay đầu nói với tôi: “Lấy tôi rất khổ, cô có bằng lòng?”.

Tôi ngẫm nghĩ, cuối cùng hiểu ý chàng, có lẽ chàng vẫn cảm thấy chuyện quá hoang đường, không muốn lấy tôi, nhưng lại sợ làm tôi tổn thương mới viện cớ đó để tôi nản chí tự rút lui. Nhưng chàng không biết nếu chàng đúng thật chỉ là chủ hiệu tạp hóa, nếu…

Tôi nghĩ mặt tôi nhất định nở một nụ cười thật tươi: “Nếu là ông chủ hiệu tạp hóa thì quá tốt…”.

Không kìm được nắm tay Mộ Ngôn: “Tôi có thể nuôi chàng”.

Lần đầu tiên cảm nhận vẻ mịn màng, êm dịu của bàn tay chàng, nhưng lòng còn xúc động hơn. Một giọt nước long lanh trên cành mai trắng, rơi trên bàn tay, cảm giác trên mặt hơi ươn ướt, vội lấy ống tay áo lau, không biết có phải tửu lầu bị dột?

Cuối cùng Mộ Ngôn cũng đồng ý để tôi đi theo, thầm hiểu có lẽ chàng muốn đưa tôi về Vệ quốc, nhưng không có người hộ tống, lại không thể bỏ mặc tôi, không có cách nào khác, đành đưa tôi đi cùng.

Đi theo mấy ngày mới biết hai người bọn họ định đi đến Dĩnh Xuyên. Nghe nói ở đó có một người họ Hình làm nghề đúc kiếm nổi tiếng. Hình lão gia cơ hồ dùng tâm huyết nửa đời đúc được một thanh kiếm quý, mời các bậc anh hùng thiên hạ đến thử sức để tìm chủ nhân cho thanh bảo kiếm của mình. Chuyến đi này của họ là vì chuyện đó. Cũng phải nói thêm, đương kim gia tộc đúc kiếm nổi tiếng nhất phải là Công Nghi gia ở Bối Trung.

Mặc dù đến nay Công Nghi gia đã bị hủy hơn sáu năm, nhưng Mộ Ngôn đã lấy được từ Khanh Tửu Tửu bí thuật đúc kiếm gia truyền của họ, không hiểu sao vẫn có hứng với thanh kiếm của Hình gia.

Tôi quay sang hỏi dò Công Nghi Phỉ mới biết thì ra thanh kiếm Hình lão gia đúc không phải là kiếm thường, ngay từ khi cho thép vào lò đã chế vào máu người để tế lễ, bởi vậy đó là một thanh hung kiếm, một binh khí tùy thân lợi hại hiếm có, theo ông ta, mọi kiếm khách trong thiên hạ đều thích.

Tôi ngẫm nghĩ, cảm thấy cũng có lý. Về điểm này tư duy của kiếm khách và lãng khách có thể cũng có chỗ tương đồng, chỉ là một người khao khát sưu tầm danh kiếm, một người khao khát sưu tầm mỹ nhân, không được sở hữu cũng phải sờ một cái, không sờ được, ít nhất cũng phải nhìn một cái, nếu ngay nhìn cũng không được thì đâu phải là kiếm khách hoặc lãng khách đích thực.

Không lâu sau, chúng tôi đến một thị trấn nhỏ tựa lưng vào núi, nghe nói bên kia núi chính là Dĩnh Xuyên. Có lẽ do tôi đeo bám Mộ Ngôn quá chặt, mười hai canh giờ trừ lúc đi ngủ tôi đều bám riết chàng, khiến chàng cảm thấy phiền hà, dù không cố ý tránh, nhưng không hòa nhã như lần đầu gặp ở núi Nhạn Hồi.

Tôi nhận ra vấn đề, nhưng không biết giải quyết thế nào, thời gian không còn nhiều, chỉ muốn nhanh chóng gây được thiện cảm với chàng. Buổi tối nhân lúc Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ có việc đi ra ngoài, Quân Vỹ vẫn lẽo đẽo theo chúng tôi suốt chặng đường cuối cùng tìm được cơ hội gặp tôi, dắt theo Tiểu Hoàng chỉ trích tôi: “Suốt ngày muội lẽo đẽo đi theo người ta nói là thích, là yêu phỏng ích gì, chỉ nói suông ai chẳng nói được? Yêu không phải chỉ nói, mà phải làm”.

Tôi ngớ ra hồi lâu: “Làm… làm ư? Ý huynh là bảo muội đêm nay…”.

Anh ta cũng ngớ ra, mặt đỏ bừng: “… Huynh nói chỉ là ý mặt chữ đơn thuần muội đừng suy diễn…”.

Ý kiến của Quân Vỹ xứng đáng là ý hay, xứng danh tiểu thuyết gia, trước giờ quả thật tôi coi đã thường anh ta. Làm thế nào để động lòng Mộ Ngôn, tôi vắt óc nghĩ mãi, cuối cùng quyết định nấu cho chàng một bữa cơm ngon, lúc đầu cũng chỉ thoáng nghĩ như vậy, nhưng khi chí đã quyết bỗng hưng phấn bừng bừng.

Tôi chưa bao giờ nấu ăn cho Mộ Ngôn, dù lúc đã lấy chàng cũng chẳng mấy khi đoàn tụ, mỗi người bận lo việc mình, không có cơ hội làm việc đó.

Những cảnh hạnh phúc đời thường vợ nấu nướng, giặt giũ cho chồng trong tiểu thuyết mô tả ngày trước tôi không mảy may quan tâm, bây giờ lại thấy trân trọng. Mặc dù tôi nấu ăn không thạo, may có Quân Vỹ giúp, hơn nữa có lẽ đây là việc duy nhất anh ta có thể có tự tin giúp đỡ mà không làm tôi bận thêm.

Đã nghĩ xong các món, tôi xuống bếp nhà trọ mượn dụng cụ, lại phát hiện thiếu hai loại gia vị đặc trưng của món ăn Vệ quốc, được nhà bếp gợi ý, tôi chạy thẳng đến hiệu tạp hóa, Quân Vỹ không yên tâm, dắt Tiểu Hoàng đi theo.

Một thị trấn nhỏ toàn những người dân chất phác như vậy không hiểu anh ta có gì không yên tâm. Mặc dù trời đã sẩm tối, nhưng lòng tôi lâng lâng ngọt ngào, nhảy chân sáo trên đường, lúc đi qua lầu xanh duy nhất của thị trấn lại còn khe khẽ hát, rồi bất ngờ ngẩng đầu nhìn lên, lại bất ngờ khựng chân.

Tôi dụi mắt, chàng trai trẻ dáng thực hào hoa nhàn tản đứng tựa song cửa sổ là… Mộ Ngôn?

Quân Vỹ không biết từ lúc nào đã đến sau lưng, kéo tôi đi một mạch, miệng lẩm bẩm, “Đó không phải là Mộ Ngôn, muội nhìn nhầm”. Cảm thấy anh chàng thật ngốc, tôi còn chưa nói người đó giống ai, anh ta làm vậy khác nào lạy ông tôi ở bụi này.

Bị anh ta kéo đi một đoạn, tôi hỏi: “Có phải huynh sợ muội buồn?”. Anh ta còn chưa kịp trả lời, tôi lại tiếp, “Kể ra thì cũng hơi buồn, nhưng biết làm sao, vả lại đây là mộng cảnh tái hiện quá khứ, lúc đó muội vẫn chưa tìm thấy chàng”.

Quân Vỹ ngập ngừng: “Nhưng bây giờ muội đã tìm thấy rồi”.

Phía xa màn đêm đã buông, tôi hà hơi sưởi bàn tay lạnh cóng, cười: “Vả lại chàng vẫn chưa thích muội”.

Quân Vỹ ngoái đầu nhìn tôi, thần sắc nghiêm túc chưa từng có: “A Phất, cho dù muội thích anh ta cũng không nên hạ mình như thế, trước đây muội có thế đâu?”.

Tôi sững người, buông tay, lát sau khẽ nói: “Đó là mộng cảnh, hoặc là chưa xảy ra trong hiện thực, hoặc đã thành quá khứ. Nếu có một người như muội, chỉ còn sống được ba tháng nữa, thiết nghĩ không nên, cũng không thể dùng quãng thời gian quý báu đó để đắn đo câu nệ những chuyện bất đắc ý trong quá khứ, cho dù chỉ là một khắc. Huống hồ, vẫn chưa phải là quá khứ chung của muội và chàng. Chúng ta có lúc quyết chí muốn làm một việc nào đó, cuối cùng thường thất bại, không phải bởi vì không có khả năng, mà do trong quá trình thực hiện lại bận tâm vào những chuyện vụn vặt, dẫn tới xao nhãng mục tiêu ban đầu. Muội luôn luôn nhớ muội đến đây để làm gì, còn huynh, huynh còn nhớ không, Quân Vỹ?”.

Anh ta cau mày: “Huynh chưa hỏi muội, muội vì anh ta như vậy, anh ta có đáng không?”.

Tôi ngẩng đầu mỉm cười: “Đáng!”.

Cho dù trong mộng, có lúc nhắm mắt cũng có thể nghe thấy giọng trầm ấm của Mộ Ngôn dường như vẫn vẳng bên tai: “Nếu em không muốn cùng tôi ở trần gian, thì tôi sẽ đi cùng em, được không”.

Phu quân của tôi, chàng là quân vương Trần quốc, chàng điềm nhiên nói ra những lời đáng sợ như vậy nhưng cũng khiến tôi vui. Chàng là người tôi thích nhất, tôi lưu luyến nhất trên trần thế.

Được sự giúp đỡ của Quân Vỹ, tôi hoàn thành một bàn thức ăn thịnh soạn, thực ra anh ta chỉ đứng bên chỉ dẫn, còn mọi khâu từ nhóm bếp, rửa rau, chặt thái xào nấu, đến bày lên đĩa đều do tôi tự tay làm. Chỉ có điều thao tác không quen, khi thái thịt bị đứt tay hai lần, lúc xào rau mỡ bắn ra làm phồng một nốt trên tay.

Mặc dù hơi đau, nhưng cảm giác từ ngón tay truyền đến não lại khiến người ta hoài niệm, quả thật quá lâu rồi không có cảm giác đau. Quân Vỹ đã rời đi khá lâu, Mộ Ngôn vẫn chưa trở về quán trọ, bếp vẫn còn củi, cũng đủ để hâm nóng nếu thức ăn bị nguội. Tôi gục đầu xuống bàn chờ chàng trở về, chờ mãi chờ mãi, ngủ thiếp lúc nào. Trong mơ màng thoảng thấy mùi hương mai thanh khiết, dưới ánh trăng mênh mang một cây mai cô đơn trổ hoa, thần trí lơ mơ một hồi, đột nhiên tỉnh giấc, nhìn thấy Mộ Ngôn đang cúi xuống.

Từ khi rời thị trấn nơi gặp chàng trong mộng, chàng bèn bỏ mặt nạ, có lẽ ở đó có người chàng không muốn gặp, giống như trong hiện thực ngoài lần đầu gặp ở núi Nhạn Hồi hầu như chàng không đeo mặt nạ. Chỉ là thấy tôi tỉnh ngủ, chàng hơi lùi lại, đôi mắt đen trầm tĩnh như nước: “Muộn thế này sao không về phòng ngủ, ngồi ở đây làm gì?”.

Nếu như trước đây, nhất định tôi không khách khí trợn mắt đối lại: “Chàng cũng biết là muộn cơ đấy!”.

Nhưng bây giờ tôi hiểu, thực ra đó là một kiểu làm nũng, không phải ai cũng có thể nói với chàng như vậy, ngập ngừng một lát, tinh thần phấn chấn, miệng mỉm cười: “Em chờ chàng về cùng ăn cơm”.

Chàng nhìn thức ăn trên bàn: “Tôi…”.

Tôi giật thót, ngắt lời chàng: “Dù đã ăn ở ngoài cũng phải ăn một chút, chỉ một chút chút thôi, em đã chuẩn bị rất lâu”. Còn chưa nói hết, sực nhớ có lẽ thức ăn đã nguội, đúng lúc tiểu nhị đi qua, vội cầm bát canh nấu xong trước nhất, “Này tiểu nhị ca…”.

Tôi chưa nói xong, Mộ Ngôn đã ngồi vào bàn, cầm đũa hướng về đĩa bánh chẻo nhân tôm đặt giữa bàn, ngẩng đầu: “Tôi vẫn chưa ăn, cùng ăn đi”.

Tôi ngẩn người: “Chàng thích món này ư?”.

Mộ Ngôn ngắm nghía chiếc bánh kẹp trên đũa, dường như nghĩ gì, lát sau mới trả lời: “Có ấn tượng lờ mờ, không nhớ rõ, cô làm à?”.

Tôi gật đầu thật mạnh, háo hức chờ đợi thái độ tiếp theo của chàng, trong lòng có phần để ý cái gọi là ấn tượng lờ mờ chàng vừa nói, nhưng chỉ lát sau lại xua đi ngay, cho dù có ấn tượng cũng không liên quan đến tôi, Hoa Tư điệu Tý Ngọ nếu dễ nhìn thấu sao có thể xứng được coi là khúc nhạc cuối cùng của đời người.

Ăn xong một chiếc bánh chẻo, chàng buông đũa, uống một ngụm trà, miệng hơi nhếch lên: “Vị không tồi, trông cô không có vẻ là người biết nấu ăn”.

Trong ánh nến lờ mờ, tôi chống cằm khẽ nói: “Phải, em rất biết nấu ăn, vậy chàng… có thích em thêm chút nào không?”.

Bàn tay cầm cốc trà của chàng khựng lại, nụ cười tan dần, liếc nhìn hai ngón tay tôi băng bó như củ nhân sâm, không trả lời câu hỏi của tôi: “Tay cô sao thế? Cắt vào tay à?”.

Tôi vội vàng định giấu tay ra sau: “Không”. Nửa khắc trước nếu chàng hỏi câu đó, tôi không chỉ nói thật mà còn thêm dấm thêm ớt, biết đâu sẽ khiến chàng thương xót, nhưng vừa rồi đã hùng hồn khẳng định mình rất biết nấu ăn, bây giờ nếu thừa nhận bị cắt vào tay thì quá thiếu trí tuệ, đành thầm thở than, đã ăn xôi thì khỏi ăn thịt.

Chàng nhìn tôi từ đầu xuống chân, rõ ràng không tin: “Vậy sao lại băng bó thế kia?”.

Tôi há miệng, nhất thời không nghĩ ra cớ gì, lát sau nói: “… Băng bó chơi thôi”.

Chàng lẳng lặng kéo tay tôi, từ từ tháo lớp băng, khi vết thương lộ ra hết mới nói nhẹ tênh: “Còn chối nữa không?”.

Vết thương chạm vào vẫn hơi đau, nhung tôi quả thật còn có lời muốn nói, ghé lại hỏi nhỏ: “Mộ Ngôn, các cô gái lầu xanh có đẹp không?”.

Những ngón tay cầm tay tôi hơi khựng lại, cảm thấy có lẽ chàng sẽ không trả lời, lát sau lại nghe thấy tiếng chàng dửng dưng: “Không để ý”. Dừng một lát, lại tiếp: “Tôi đến để bàn chuyện”.

Tôi cho là mình nên cười một cái, ghé lại gần hơn: “Em đẹp hay họ đẹp?”.

Chàng băng lại vết thương cho tôi, nghe hỏi vậy, tay thít chặt giải băng, tôi đau điếng rụt tay về, vùi đầu vào cánh tay thở dài: “Sao chàng không thích em nhanh lên, em cũng thấy vất vả quá!”.

Chỉ nghe thấy tiếng vải băng cọ xát, cử động của chàng rất thành thạo duyên dáng, băng khéo hơn tôi và Quân Vỹ nhiều, chỉ có điều vẫn chưa trả lời tôi.

Nhưng cho dù vậy, lúc này tôi cũng thấy vui và mãn nguyện. Đời người nếu không nhìn về phía trước cũng không nhìn về phía sau, chỉ sống với hiện tại, sẽ chẳng có phiền não gì hết, có lúc chúng ta cảm thấy sống quá mệt mỏi chỉ là bởi vì suy nghĩ quá nhiều.

Quân Vỹ cho rằng từ khi tôi nấu ăn cho Mộ Ngôn, chàng đối với tôi khác đi rõ rệt, vậy mà tôi không nhận ra.

Hết một ngày, lại một ngày, thời gian lặng lẽ trôi, một ngày trôi qua là một bước tiến dần tới cái chết. Mộ Ngôn không phải là người dễ bị xao lòng bởi các cô gái đẹp, chàng yêu tôi… phải, sao chàng có thể yêu tôi?

Tôi lại chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, tôi chỉ biết đã cùng chàng trải qua nhiều chuyện, chàng tìm thấy tôi trong trận mưa như trút nước đêm đó, nói với tôi: “A Phất, tôi thích em”.

Những hồi ức đẹp đẽ đó tôi đã thầm ôn lại bao lần, bao đêm tuyết rơi trong giấc mộng này, mặc dù biết mưa dầm thấm lâu mới là vững bền, nhưng tôi không có nhiều thời gian.

Nếu chàng cao quý bởi thân phận thế tử chắc hẳn đã có bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp tìm mọi cách làm chàng động lòng, cho nên một chút thành ý của tôi lúc này có là gì? Nhưng liệu có cô gái nào từng tình nguyện vì chàng hy sinh đôi tay của mình?

Nếu tôi làm thế, liệu chàng có động lòng, liệu tất cả có như tôi mong muốn, cuối cùng chàng có thể quên tôi? Suy nghĩ mãi, cuối cùng cảm thấy thực ra có thể thử xem.

Mộ Ngôn đến Dĩnh Xuyên thuần túy chỉ là vì thanh bảo kiếm. Nhưng tôi được biết, thanh bảo kiếm đó của Hình gia cuối cùng không thuộc về Trần quốc thế tử.

Chuyện này rất nổi tiếng hồi đó, nghe đâu Hình gia cố tình mời quần hùng trong thiên hạ đến thử kiếm, quy định vốn là ai có thể phá hết thất tinh kiếm trận của gia chủ là có thể mang thanh kiếm đi.

Nhưng người muốn có thanh kiếm nhất lại là một vị phu nhân không hề biết kiếm thuật, phu quân đã qua đời của bà sinh thời nổi tiếng là người say mê kiếm. Tiểu thiếu gia được cưng sủng nhất Hình gia là một điêu khắc sư tài năng nức tiếng thiên hạ, đặc biệt sở trường tạc tượng nữ giới, tác phẩm làm ra sống động có hồn như thật, nhưng duy nhất bàn tay của bức tượng luôn giấu trong tay áo, nghe đồn là do chưa tìm thấy đôi bàn tay khéo léo, khả dĩ đem ra giải phẫu nghiên cứu tỉ mỉ cấu tạo xương bàn, xương ngón, vì thế chưa thể tạc được đôi bàn tay ưng ý, liền dứt khoát bỏ lại.

Vị phu nhân muốn có thanh kiếm đó không biết dùng kiếm nhưng lại giỏi nữ công, tài thêu đứng đầu thiên hạ. Vậy là vị phu nhân tình nguyện hiến đôi tay vàng cho Hình thiếu gia, ngay đêm trước ngày diễn ra hội thi kiếm đã mang đến cho bảo kiếm gia chủ. Anh hùng thiên hạ từ ngàn dặm tề tựu ở Dĩnh Xuyên nhưng lại không được chiêm ngưỡng bảo kiếm, mặc dù hơi tiếc nhưng cũng cảm thấy bảo kiếm cho dù quý hiếm nhưng rốt cuộc cũng không thể sánh với đôi tay bằng xương bằng thịt.

Tôi không dám nói đôi tay tôi khéo léo hơn đôi tay quý phụ kia, nhưng có thể vẽ ra những bức họa khiến đương thế danh gia trầm trồ tán thưởng, biết gảy khúc đàn ngay Mộ Ngôn cũng không phê phán, tôi nghĩ có lẽ nó cũng có tư cách đổi lấy bảo kiếm.

Dĩnh Xuyên không phồn hoa như trong tưởng tượng, chỉ có quá đông người, nhưng một nửa là khách vãng lai đến xem hội thi kiếm của Hình gia bảy ngày sau.

Tôi không hiểu tại sao Mộ Ngôn phải đến sớm như vậy, hai ngày sau phát hiện khách trọ đến sau đành trải chiếu ngủ ngoài sân mới biết hóa ra chàng rất có kinh nghiệm.

Mặc dù đồng hành suốt chặng đường nhưng Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ không quá bận tâm về tôi, cho nên vào một đêm không sao, trên trời chỉ có một vầng trăng đơn độc, tôi mới thuận lợi ôm đàn ra khỏi quán trọ đi đến biệt phủ của Hình gia gặp tiểu thiếu gia.

Thực ra là tôi hẹn anh ta, vừa đến Dĩnh Xuyên đã nhờ Quân Vỹ đưa thư hẹn, không ngờ lại rất suôn sẻ, hai ngày sau nhận được hồi âm của anh ta.

Xem ra tiểu thiếu gia rất hứng thú với đôi tay của tôi. Quân Vỹ dù không biết tôi viết gì trong thư, nhưng một mực theo tôi đến chỗ hẹn, may mà tôi kịp tìm cơ hội bỏ thuốc mê vào thức ăn của anh ta.

Nếu để Quân Vỹ biết, việc này nhất định không thành, cùng tôi đi vào Hoa Tư mộng Tý Ngọ, Quân Vỹ nói anh ta đến giúp tôi, cho rằng giúp tôi là bảo vệ tôi, nhưng lại không biết trong những ngày cuối cùng này, tôi không cần sự bảo vệ nào hết.

Tuy nhiên, nếu nói thẳng Quân Vỹ sẽ cảm thấy bị tổn thương, vả lại tôi cũng nghi ngờ, vấn đề tình cảm rắc rối như vậy liệu anh ta có hiểu?

Đi qua đình bia bằng bạch ngọc, bên ngoài biệt phủ của Hình gia toàn hoa lê trắng xóa, tựa hồ tuyết phủ, hai bên đường hoa lê đó còn có rất nhiều bức tượng phật bằng đá tọa trên đài sen, trên đài thắp nến, gió thổi ánh nến chập chờn lúc mờ lúc tỏ.

Thỉnh thoảng có những cô hầu vận áo dài tay cầm những cây đèn cao đến nửa người lướt dưới tán hoa lê, bóng đổ dài không biết do ánh trăng hay ánh đèn. Hình tiểu thiếu gia Hình Sở đã đứng chờ dưới mái hiên phòng trà mở rộng cửa, bên trong đèn thắp sáng trưng, trên chiếc bàn thấp giữa phòng để một cây đàn bằng gỗ đồng mộc, sát tường phía trong có chiếc bàn cao chân chạm trổ hình chân thú, bên trên để một thanh kiếm.

Hai thứ đó là chuẩn bị cho tôi. Hình Sở toàn thân áo chùng màu bạc như ánh trăng, tay ôm chiếc lò sưởi nhỏ, cũng trạc tuổi Quân Vỹ. Nhìn tôi đi đến, không hiểu sao thần sắc sững sờ, nói vẻ băn khoăn: “Quân cô nương?”.

Tôi cười: “Quân Phất vì sao đến đây, thiết nghĩ đã nói rõ trong thư, Hình công tử ắt đã hiểu rõ. Công tử muốn có đôi tay tôi, còn Quân Phất lại muốn thanh bảo kiếm”. Tôi hơi ngẩng đầu nhìn anh ta, “Không biết công tử có bằng lòng trao đổi với Quân Phất?”.

Anh ta xoa xoa cái lò sưởi trong tay, ánh mắt dừng trên đôi tay ôm đàn của tôi, khóe miệng khẽ nhếch, hiện ra nụ cười: “Tại hạ nghe đồn, hiện nay thiên hạ đệ nhất am tường nhạc lý không ai vượt qua Trần quốc thế tử Tô Dự, cầm âm tuyệt thế là Vệ quốc Văn Xương công chúa Diệp Trăn. Trong một nhạc khúc công chúa có thể biến hoán mười hai chỉ pháp không sai một âm, trong mắt tại hạ đó mới xứng là đôi tay khéo léo, hôm nay Quân Phất cô nương muốn trao đổi với tại hạ, nhưng không biết đôi tay cô nương liệu có xứng với thanh bảo kiếm tâm huyết nửa đời của thân phụ tại hạ?”.

Điều anh ta nói có lẽ là chuyện xảy ra lúc tôi mười lăm tuổi. Một nhạc sư người nước Lầu không hiểu sao biết được Huệ Nhất sư phụ là một cao nhân lễ nhạc, một lòng muốn cùng sư phụ so tài, sư phụ vốn cảm thấy mình không phải là người của hồng trần, không muốn tiếp khách nhân kiểu đó.

Nhưng người này rất ngoan cố, cho dù bị sư phụ quá tam ba bận từ chối vẫn không nản chí, ở liền mấy ngày trong tông phái không ăn không uống, khiến sư phụ rất phiền, cũng muốn nhượng bộ nhưng lại sợ sau đó sẽ mở ra tiền lệ, thiên hạ lại đua nhau tìm đến muốn so tài. Nghĩ đi nghĩ lại mới cho tôi ra ứng chiến. Nhưng nói thật, tuy tôi học đàn từ nhỏ, nhưng chỉ sau khi gặp Mộ Ngôn mới bắt đầu học nghiêm túc, chưa đầy một năm, chỉ có thể gọi là cao nhân bình thường, để khiến tôi ngay từ đầu đã đánh bại đối phương, sư phụ mới nhất thời dạy tôi vài chiêu.

Trong một khúc biến hoán mười hai chỉ pháp chỉ là trò vặt, đến năm mười bảy tuổi là lúc tôi qua đời đã có thể trong một thời gian ngắn biến hoán hai mươi tư chỉ pháp trong một nhạc khúc mà ngón tay vẫn bay múa tự nhiên như lưu thủy hành vân.

Nhưng sư phụ không khuyến khích cái đó, ông cho rằng đại âm mà hy thanh, đại hình mà vô hình, trong nhạc lễ, cao minh nhất không phải là biến hoán bao nhiêu chỉ pháp phức tạp, mà là dựa vào một chỉ pháp đơn giản nhất có thể tấu ra những cầm âm khiến trăm hoa đua nở, bách điểu quần tụ, trăm sông quy hải. Mặc dù giới hạn đó cả đời sư phụ cũng chưa đạt tới, tôi cũng vậy. Hình Sở liếc nhìn tôi mấy lần, như đang chờ tôi thấy khó mà lui. Tôi nhìn quanh một lượt, vầng trăng bạc, đêm thanh vắng, hoa lê trắng tuyết, ánh nến chập chờn, tượng phật băng lạnh tỏa màu thiền.

Khung cảnh quá tuyệt để dạo một khúc đàn, tôi lẳng lặng lấy cây đàn khỏi túi vải bố, ôm đến ngồi trên chiếc chiếu trải dưới mái hiên, cúi đầu có thể nhìn thấy xiêm áo trắng muốt trên người hòa với màu hoa lê trên đất, khúc nhạc cuối cùng có thể được tấu lên ở một nơi tuyệt đẹp như vậy, nhìn theo cách khác âu cũng là một may mắn.

Hình Sở từ hành lang gỗ đi xuống, chầm chậm đến gần tôi: “Quân cô nương rất tự tin vào đôi tay mình. Nếu đôi tay có thể địch được đôi tay diệu kỳ của Văn Xương công chúa, tại hạ tự nguyện hai tay nâng bảo kiếm dâng lên, nếu không, Quân cô nương định thế nào?”.

Tôi cúi đầu thử đàn: “E là không phải tôi định thế nào, mà là Hình công tử định thế nào?”.

Anh ta cười: “Nếu cô nương bằng lòng ở lại một năm gảy đàn hầu tại hạ, tại hạ sẽ…”.

Đây là lần đầu tiên nghe thấy có người muốn tôi hầu đàn, cảm giác cũng thật mới mẻ, tôi cúi đầu tiếp tục thử đàn: “Có phải Hình công tử cho rằng một quốc gia chỉ cần thành trì phồn hoa là phú cường? Một lữ quán chỉ cần trang trí hào nhoáng là thượng hạng? Một thiếu nữ chỉ cần sinh ra có bề ngoài đẹp đã là giai nhân? Nếu gật đầu chắc tự công tử cũng cảm thấy rất nực cười? Vậy tại sao lại cho rằng một cầm sư chỉ cần giỏi múa mười ngón tay trên dây đàn là cầm kỹ cao siêu?”.

Gảy âm phù đầu tiên, ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt mông lung của anh ta, tôi bổ sung: “Tôi nói vậy không phải là tự tìm cớ rút lui, chỉ là cảm thấy nên cải chính một chút quan điểm của công tử”.

Ngón tay dán vào dây tơ phiêu du, dây tơ vấn vít như đan vào ngón tay, đó là chỉ pháp sư phụ đã dạy, lâu không dùng tới, nhưng đúng như sư phụ nói, mặc dù lúc học hơi vất vả nhưng một khi đã thành thục sẽ không bao giờ quên.

Cầm âm như nước chảy hòa với ánh trăng. Sư phụ nói một khúc đàn hay không chỉ là nhạc mà còn là họa, trong nhạc có họa nghĩa là không chỉ tạo ra những thanh âm đẹp mà còn khiến người ta nhìn thấy bức họa ẩn sau thanh âm.

Trước mắt tôi vốn là một bức tranh hoàn mỹ, tự cảm thấy không còn không gian để vẽ gấm thêm hoa, nhưng vừa ngẩng đầu, một người tuyệt đối không thể xuất hiện lại hiện ra trong tầm mắt, ngẩng nhìn lần nữa đã không thấy bóng dáng.
Tôi thật ngốc, nếu không phải là ảo giác thì còn có thể là gì?

Một khúc nhạc vừa kết thúc, mấy cánh hoa lê rụng xuống đất, Hình Sở ngồi cách chỗ tôi ba bước nhìn tôi ánh mắt mông lung. Khi bắp gặp ánh mắt tôi, anh ta vỗ tay nồng nhiệt. Mấy cánh hoa lê rơi trên giày của tôi, anh ta thong thả nói: “Xin cho phép tại hạ mạo muội hỏi, Quân cô nương có đôi tay như vậy tại sao không trân trọng, lại đem đi đổi lấy một thanh sắt vô dụng?”.

Nếu là bình thường tôi cũng không hẳn vì Mộ Ngôn thích thanh kiếm đó mà dùng đôi tay để đổi, nhưng bây giờ tôi sắp chết… một thời điểm đặc biệt như vậy.

Tại sao không trân trọng đôi tay, không phải không trân trọng mà bất đắc dĩ phải làm thế, để thực hiện bằng được kế hoạch ban đầu, nhưng không cần thiết phải giải thích với anh ta.

Tôi vừa cho đàn vào bao vừa thong thả nói: “Đó không phải là thanh sắt vô dụng, người tôi thích rất muốn có nó. Thỉnh thoảng tôi cũng muốn chàng vui lòng”.

Thu xong cây đàn, tôi đứng lên nhìn anh ta: “Hình gia ở đất Dĩnh Xuyên vốn luôn trọng chữ tín, thiết nghĩ Hình công tử đã chuẩn bị xong bảo kiếm?”.

Nhưng anh ta không trả lời, chỉ nhìn phía sau tôi. Hiếu kỳ theo ánh mắt anh ta ngoái đầu, giật nảy mình suýt làm rơi cây đàn.

Mộ Ngôn đã đứng cách tôi không đầy ba thước, bên cạnh một cây lê hoa chi chít như tuyết phủ đầy cành, nặng trĩu như sắp rơi.

Còn chàng toàn thân áo chùng lam lóng lánh đứng dưới gốc cây như đang hẹn hò một giai nhân nào đó trong đêm trăng, nhưng sắc mặt lại dửng dưng, lạnh lùng nhìn tôi: “Cô cho rằng như vậy tôi sẽ vui?”.

Bước trên mặt đất rụng đầy hoa lê, đi đến trước mặt tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt đen không chút hơi ấm, điềm nhiên nhắc lại: “Cô cho rằng dùng đôi tay cô đổi lấy bảo kiếm, tôi sẽ vui?”.

Chàng giận, nhất định chàng đang giận. Tôi không biết chàng sẽ đến, hoặc là đến sớm như vậy, trong kế hoạch ban đầu, tôi sẽ làm cho chàng cảm động, nhưng chàng nói như vậy đúng vào lúc này, nhìn rõ vẻ chế giễu khinh thường trong mắt chàng, đột nhiên cảm thấy thứ bấy lâu chống đỡ mình nhanh chóng mất đi, mệt mỏi lùi hai bước, dựa vào bức tượng phật: “Em cứ nghĩ em có thể nuôi chàng, có thể bảo vệ chàng, nhưng chàng quá mạnh mẽ, chàng hoàn toàn không cần em, em chỉ muốn chàng vui, đây là điều duy nhất em có thể làm được, nhưng chàng vẫn không vui. Hay là tại em quá ép chàng, cho nên dù em làm gì, chàng cũng ghét em? Ngày trước chàng…”.

Tôi giơ tay bịt mắt, “… ngày trước chàng không thế”.

Chàng nhấc bàn tay đó ra, cau mày nhìn tôi: “Cô gái nhỏ mà tôi quen cũng không như cô bây giờ. Quân Phất, cơ thể được cha mẹ ban cho, bản thân cô không tự trân trọng như vậy, sao có thể yêu cầu người khác trân trọng?”.

Tôi như muốn cười, lại như muốn khóc, cuối cùng chỉ có thể ngẩng đầu thở dài: “Chàng chẳng biết gì cả”.

Đúng, chàng chẳng biết gì cả.

Miễn cưỡng vùng ra, lại bị Hình Sở chặn lại: “Quân cô nương dừng bước, trong thư chúng ta đã hẹn, bảo kiếm cũng chuẩn bị xong, không biết cô nương định giữ lời thế nào?”.

Vừa rồi có thể vùng khỏi tay Mộ Ngôn là vì chàng nắm không chặt, lúc này, cánh tay lại bị chàng nắm chặt kéo ra sau lưng, hoàn toàn không thể động đậy.

Nghe thấy chàng nói với Hình Sở, vẫn giọng lạnh nhạt: “Không biết công tử dựa vào đâu cho rằng thanh kiếm lệnh tôn đúc đủ tư cách đổi lấy đôi tay của Quân cô nương?”.

Hình Sở ho một tiếng: “Bất luận có tư cách hay không khế ước là khế ước, lẽ nào công tử định hủy khế ước?”.

Chàng cười: “Hoặc là chúng ta so tài, tại hạ thắng sẽ hủy khế ước, hoặc là tại hạ lập tức hủy khế ước, Hình công tử tùy ý lựa chọn”.

Từ trước tôi đã biết có lúc chàng tương đối vô lý, ví dụ lúc bắt nạt tôi, nhưng không ngờ lúc này chàng cũng vô lý.
Hình công tử có lẽ cũng muốn xuống thang, lựa chọn so tài, cầm kỳ thi họa đều thử hết, kết quả thua thảm hại, tôi cảm thấy có lẽ chỉ có so tài nữ công anh ta sẽ thắng Mộ Ngôn một ván.

Tâm trạng tồi tệ của tôi không tốt lên chút nào khi thấy Hình Sở còn xúi quẩy hơn mình. Rốt cuộc tôi cũng có giới hạn của mình.

Tôi thầm quyết định không để ý đến Mộ Ngôn nữa, không phải là bỏ kế hoạch ban đầu đối với chàng, chỉ là tạm thời không quan tâm đến chàng nữa, những lời chàng nói như lưỡi dao, cho dù da dày đến mấy cũng bị tổn thương, huống hồ tôi thuộc loại da non bẩm sinh.

Nhưng khi cùng về lữ quán, Mộ Ngôn lại chủ động nói chuyện với tôi: “Muốn tôi vui không cần làm những chuyện điên rồ như vậy, cô có thể chơi cho tôi nghe khúc đàn đã chơi ở chỗ Hình Sở tối nay”.

Tôi băn khoăn: “Chàng cũng nghe thấy?”.

Chàng vượt lên trước, bóng đổ dài dưới trăng, dừng lại một lát: “Tôi đã nhìn thấy. Một khúc biến hoán hai mươi tư chỉ pháp, không sai một âm, khoan bàn về cầm âm, chỉ riêng hai mươi tư chỉ pháp đó cũng là hiếm có”.

Tôi cắn môi: “Nhưng chàng chơi đàn rất giỏi. Có phải chàng cảm thấy những lời nói với em lúc trước là rất quá đáng, cho nên tìm cách dỗ dành em?”.

Chàng lắc đầu, cơ hồ nhìn ra chỗ khác: “Cô đàn cho tôi nghe và tôi tự đàn là hai chuyện khác nhau, A Phất”.

Tôi ngẩng đầu nhìn trăng trên cao: “Nhưng em phải đàn cho chàng nghe bao nhiêu lần chàng mới thích em? Em muốn chàng lập tức thích ngay, cho dù thích chỉ vì cảm thấy có lỗi với em cũng không sao”.

Chàng dừng chân, ngoái đầu, ánh mắt băn khoăn nhìn tôi, lát sau chậm rãi nói: “Cô vẫn còn quá nhỏ”.

Buổi tối đó kết thúc trong lời nói mập mờ như vậy. Ngày hôm sau tôi chạy đi hỏi Quân Vỹ, một người đàn ông nói với cô gái cô còn quá nhỏ nghĩa là sao, kết quả anh ta nhìn tôi hồi lâu, “Nói thật nhé, muội còn không được coi là một cô gái, nhiều nhất chỉ là một bé gái, không, bé gái cũng không được, phải thêm một chữ ‘bé’ vào nữa, gọi là ‘bé gái bé’ mới phải”.

Kết quả bị tôi đấm cho một trận. Nhưng tôi nghĩ câu nói đó của Mộ Ngôn đúng là ý đó, chàng cảm thấy tôi quá nhỏ, thấy tôi không đủ xinh đẹp, chưa trưởng thành.

Làm thế nào mới coi là xinh đẹp trưởng thành, tôi không biết. Giả sử chàng thích một cô gái như thế, tôi sẽ cố trở nên như thế. Vì yêu mà hủy hoại bản thân tôi cũng không tán thành, nhưng tôi không còn cách nào khác, tôi không giống Oanh Ca, dù không toại nguyện nhưng cô vẫn còn thời gian, còn tôi không còn cơ hội nữa.

Chỉ cần đạt được mục đích, bất luận phương thức nào cũng có thể thử. Đây mới thử một lần, làm cho Mộ Ngôn thích thật quá khó. Nhưng cũng không thể trách chàng, chàng vốn là người không dễ động lòng.

Mặc dù tôi gây chuyện như vậy, khiến Mộ Ngôn và Hình gia bất hòa, nhưng hội thử kiếm hai ngày sau cũng không thấy chàng có động tĩnh chuẩn bị tham dự.

Mới sực nghĩ thực ra có thể chàng đến đây không hẳn vì thanh kiếm đó, chẳng qua tôi chỉ nghe một phía, tin lời Công Nghi Phỉ.

Con người quan trọng hơn kiếm, những người đua tài trong hội thử kiếm cần phá được thất tinh kiếm trận của gia chủ, chính là lúc kiếm khách trong thiên hạ trổ tài, rất có thể mục đích chính yếu của chàng là muốn tìm ra anh tài. Thế mới phù hợp tư duy của chàng.

Ban ngày, Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ hầu như không ở lữ quán, Quân Vỹ đến lầu xanh lớn nhất Dĩnh Xuyên tìm giúp tôi một hoa khôi ăn khách nhất, nói là để dạy tôi trở nên phong tình, chỉ có anh ta mới nghĩ ra chiêu đó, nhưng có lẽ là một chiêu tốc chiến tốc thắng.

Từ nhỏ tôi đã rất giỏi bắt chước, bằng chứng là tôi có thể vào vai Tống Ngưng và Mộ Dung An một cách tự nhiên, bởi vì tuy mang mặt nạ giống hệt họ, nhưng nếu cử chỉ dáng điệu không giống, công việc cũng khó thành công. Cho nên, mọi ánh mắt, nụ cười, cử chỉ của cô hoa khôi đó tôi lập tức ghi nhớ.

Làm thế nào đem ngàn vạn lời khó nói gửi vào một cái liếc mắt như gió thoảng mây bay, làm thế nào nâng cốc trà một cách tao nhã duyên dáng như nhành hoa lan, làm thế nào phảy chiếc quạt hoa che nửa miệng một cách quyến rũ nhất. Học suốt một ngày cơ hồ đã có thể thành thục mọi động tác cô ta truyền dạy, khiến Quân Vỹ luôn mồm ngợi khen, nhưng trước sau tôi vẫn cảm thấy có gì không ổn.

Mãi đến khi cô hoa khôi giúp tôi trang điểm một khuôn mặt vừa cầu kỳ vừa đậm phấn son, mới đột nhiên phát hiện ra vấn đề, đợi Quân Vỹ sau khi tiễn khách quay về tôi mới ôm đầu, nói: “Cả ngày hôm nay coi như uổng công, huynh cũng miễn cưỡng được coi là đàn ông, huynh có nhận ra những điệu bộ đó mặc dù duyên dáng, phong tình vạn độ, nhưng Mộ Ngôn nhất định vừa nhìn đã nhận ra muội học được ở đâu, lúc đó mười phần chắc chín bị ăn đòn…”.

Quân Vỹ phẫn nộ hét lên: “Cái gì? Sao lại nói huynh miễn cưỡng được coi là đàn ông!”.

Hét xong nhìn tôi chằm chằm, nói dỗi, “Kiểu gì muội cũng nói được, vừa muốn lả lơi quyến rũ vừa muốn hiền thục đoan trang, khó thế ai làm được…”. Đột nhiên mắt sáng lên, “Thân mẫu muội ngày xưa chẳng phải được gọi là phu nhân đoan nhã nhất Vệ cung sao? Muội có còn nhớ tư phong của phu nhân không?”.

Tôi ngây người: “Sao?”.

Quân Vỹ nói tiếp: “Thân mẫu muội đối với thân phụ muội thế nào, muội cứ đối với Mộ Ngôn như thế, thế là đơn giản nhất, coi như hôm nay mất tiền oan…”.

Tôi sáng mắt: “Vậy huynh nhìn giúp muội xem có giống không”.

Có điều Quân Vỹ không biết ấn tượng của tôi về mẫu phi thực ra rất mờ nhạt. Tình thân trong vương thất vốn đã nhạt, huống hồ từ nhỏ tôi không sống bên bà.

Từ năm mười sáu tuổi trở lại Vệ cung, những lần gặp bà cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong ấn tượng của tôi, mẫu phi luôn trang điểm rất tinh tế, các bà phu nhân của phụ vương nhiều người múa giỏi hát hay, thân mẫu tôi lại khác, bà có tài thẩm định rượu.

Một lần phụ vương mang về một bình rượu quý do một thần tử dâng cống, bảo thân mẫu thẩm định, tôi nhìn thấy động tác cầm chén rượu của bà quả thực vô cùng mê ly.

Cốc và rượu đã có, ngoài cửa ánh trăng mờ, tôi thận trọng nâng thử chiếc cốc sứ mấy lần, Quân Vỹ dùng kim khêu cao bấc đèn.

Nghiêng đầu nhìn bàn tay nâng cốc in bóng lên tường, trông tựa như người chủ lễ dâng bình nước thánh. Nhớ lại hồi nhỏ sư phụ không cho chúng tôi xuống núi xem múa rối, tôi và Quân Vỹ chăng một tấm vải bố rộng lên tường, đốt mấy ngọn nến, dùng ngón tay tạo hình các con thú in bóng lên tấm vải, chơi cũng rất hào hứng. Lúc này tôi dùng khuỷu tay hích Quân Vỹ ý bảo nhìn bóng tay tôi trên tường. Quân Vỹ cười nhấc cái cốc khỏi tay tôi, cũng dùng ngón tay làm ra hình con chuột, cho nó xông tới mổ bàn tay khum khum vẫn giữ tư thế cầm cốc của tôi. Tôi buông tay, con chuột ngã chúi.

Quân Vỹ cau mày: “Ấy, phải diễn nốt cảnh con chuột ăn vụng mỡ đã chứ”.

Tôi giơ ngón tay: “Muội đã chụm tay lâu như vậy mà huynh không chớp thời cơ. Đến lượt muội, đến lượt muội, mau làm hình con thỏ đi, lần này cho hai con thỏ đánh nhau”.

Quân Vỹ gãi đầu nhăn nhó, “Khó quá, huynh không biết làm thỏ, làm chim khổng tước đi, một con trống, một con mái cùng… cùng…”.

Tôi gật đầu: “Vậy được, hai con khổng tước trống tranh giành địa bàn, nhưng con của huynh phải đứng yên, để con của muội đến mổ”.

Mỏ khổng tước vừa mổ, Quân Vỹ hét lên, “… Ối, móng tay muội dài thế, lại còn mổ mạnh như vậy, muội thù gì huynh?”.

Ba tiếng gõ cửa vang lên, còn chưa kịp phản ứng cửa phòng đã mở. Mộ Ngôn khoanh tay trước ngực, mặt lạnh tanh, tựa khung cửa nhìn chúng tôi. Tôi và Quân Vỹ vẫn giữ tư thế buồn cười như vậy. Đèn hoa bỗng xèo một tiếng, không hề có dấu hiệu báo trước, Quân Vỹ rụt tay vào ống tay áo, ấp úng: “Hai người nói chuyện đi”. Lúc đứng lên còn nháy mắt với tôi, ý bảo: Có chuyện gì cứ hét to lên, huynh ở phòng bên.

Quân Vỹ vừa đi, Mộ Ngôn liền đóng cửa, ung dung bước tới, ngồi bên tôi, tiện tay nhấc một chén trà, liếc nhìn bình rượu và chiếc cốc tiểu nhị vừa mang đến, nhưng không nói gì.

Nhưng càng im lặng như vậy càng khiến tôi thấp thỏm, tôi cảm thấy nhất định phải giải thích một chút, đắn đo mở miệng: “Quân Vỹ là ca ca của em, chúng em từ nhỏ thường chơi trò này”.

Tay chàng rót trà chợt dừng lại: “Em có ba ca ca, Diệp Tề, Diệp Kỳ, Diệp Hy, sao không nghe nói em còn một ca ca tên là Quân Vỹ”.

Tôi kinh ngạc nhưng chỉ chốc lát, nghĩ cũng phải, sao chàng có thể để một cô gái lai lịch không rõ ràng đi theo. Nhưng nhìn thần thái chàng không có vẻ muốn nói chuyện phiếm với tôi, tôi nuốt nước bọt: “Là bạn hữu từ nhỏ cùng lớn lên với em, giống như ca ca vậy”.

Chàng xoay xoay cái cốc trong tay: “Ồ? Thì ra là đôi bạn thanh mai trúc mã”.

Tôi đột nhiên lo lắng, đầu lắc như trống bỏi: “Chúng em không có gì”.

Chàng lại cười, chậm rãi nói: “Trăng thanh, rượu nồng, hai tiểu đồng vô tư vui đùa”.

Chợt liếc tôi một cái, “Tối nay trang điểm thế này…”.

Sống lưng toát mồ hôi lạnh, trong những vở kịch, hiểu lầm thường xảy ra từ những lời nói như vậy, tôi vội ngắt lời chàng: “Có phải chàng cảm thấy không đẹp, vậy em sẽ đi rửa ngay”.

Nói xong chạy đi tìm cái gương, nhúng khăn mặt vào nước đang định lau mặt lại nghe giọng chàng lành lạnh sau lưng: “Thực ra cũng chẳng có gì khác biệt”.

Tôi ngẩn ra, gượng cười, quay lại hỏi chàng: “Vậy rốt cuộc em nên lau hay nên để?”.

Chàng vẫn chăm chú nhìn cái cốc trong tay: “Can hệ gì đến tôi?”.

Nhìn mặt mình trong gương, khẽ hỏi: “Mộ Ngôn, rốt cuộc chàng thích kiểu thế nào?”.

Lời vừa nói, nước mắt đã tuôn. Tôi đã khóc bao lần trước mặt chàng, chẳng còn thấy ngượng nữa, chỉ là lúc đó biết chàng thương xót, có lúc cố ý khóc trước mặt chàng, lần này lại không thể.

Lấy ống tay áo lau nước mắt, giơ tay định nhấc then cửa, cố kìm tiếng khóc: “Trà chẳng có gì ngon, Mộ công tử cứ thong thả thưởng thức, tôi có việc, đi trước…”.

Lời vừa dứt, bày tay để trên then cửa bị bàn tay khác đặt lên, giọng chàng từ phía trên vọng xuống, có vẻ nén giận: “Muộn thế này còn đi đâu?”.

Đã khiến tôi bực mình lại không cho tôi ra ngoài xả giận, tôi thấy bải hoải, quay người, vận ra chút sức lực cuối cùng sau một ngày vất vả: “Chàng thích thế nào? Rốt cuộc phải thế nào chàng mới thích?”.

Có thể bộ dạng đó khiến chàng hoảng sợ, nét mặt vốn điềm tĩnh của chàng lộ vẻ hốt hoảng, cố giữ bàn tay đang giằng ra của tôi, nhưng tay bị trói vẫn có thể dùng chân đá, lúc này, sự kích động của tôi khiến chàng bất lực, dứt khoát một tay ôm tôi, ép chặt vào sau cửa: “Em sao thế, bình tĩnh một chút”.

Sao có thể bình tĩnh, tôi đã bình tĩnh quá lâu rồi, ngay Quân Vỹ cũng cảm thấy có lúc tôi quá… quá mất tự trọng. Chàng chẳng đã bảo tôi giống đứa trẻ đó sao?

Đằng nào tôi cũng chỉ là đứa trẻ, dằn dỗi như một đứa trẻ cũng chẳng sao. Lúc này bị chàng ép như thế khiến tôi khó chịu như vậy, vậy mà còn bảo tôi bình tĩnh.

Không hề biết mình có sức lực như thế, chàng có sức lực như thế, tôi cực lực chống lại, “Đằng nào tôi có làm gì cũng khiến chàng bực mình, nhìn thấy tôi là chán ngán phải không, vậy không nhìn thấy cho xong, tôi mệt rồi, chàng bỏ tôi ra để tôi bình tĩnh lại được không, sao chàng đáng ghét thế, chưa biết chừng tôi nghĩ thông rồi sẽ không đeo bám chàng nữa, tôi… tôi…”.

Đột nhiên cả phòng yên tĩnh lại, cảm giác âm ấm ở môi khiến tôi bất chợt không phản kháng nữa, mà cảm giác đó vẫn không ngừng tăng, lại có ảo giác nó miên man không dứt. Lát sau tôi nghe thấy giọng mình: “Chàng, chàng đang… đang làm gì vậy?”.

Môi chàng kề sát tai tôi: “Đang ghen”.

Tôi ngừng nghẹn ngào, sững người hỏi: “Cái gì?”.

Chàng lùi ra một chút, giơ tay lau nước mắt cho tôi: “Không làm loạn nữa sao?”.

Tôi hơi lùi ra: “Câu vừa rồi chàng nói lại xem”.

Chàng lặng lẽ nhìn tôi, nhắc lại: “Tôi đang ghen”.

Tôi mở to mắt đăm đăm nhìn chàng, không hiểu sao tình thế lại bất ngờ chuyển ngoặt như vậy, chỉ cảm thấy trên đời không có gì ly kỳ hơn chuyện này: “Chàng nói… chàng nói chàng đang ghen? Sao có thể? Chẳng phải chàng… chàng không thích em, cảm thấy em rất chán hay sao? Mà em đã nói rồi, em với Quân Vỹ chỉ đùa vui thôi”.

Chàng ôm trán thở dài: “Tôi nói không thích em, nói em rất chán lúc nào?”.

Tôi nghĩ, hình như chàng không trực tiếp nói ra như vậy, nhưng lập tức tìm cách phản bác: “Nhưng chàng cũng chưa nói thích em”.

Chàng thở dài, vẻ bất lực: “Đầu óc em thế nào vậy? Tôi thích hay không em cũng không nhận ra?”.

Tôi lùi lại: “Không… không nhận ra mấy”.

Chàng xoa trán, “Thôi vậy”. Tay vừa buông, giọng lại nghiêm khắc, “Lớn như thế còn chạy đi tìm người khác chơi trò đó, không thấy quá trẻ con sao? Muốn chơi sao không đến tìm tôi?”.

Tôi tủi thân, “Không phải em chủ ý đi tìm Quân Vỹ, hôm nay vốn là mời người đến dạy em phong tư lễ nghĩa của một cô gái trưởng thành, nhưng cô ta dạy không tốt, em và Quân Vỹ thương lượng phải bắt chước tư thái bình dị của thân mẫu em, chẳng phải chàng thích các cô gái như thế sao?”.

Khăn tay để sang bên, bàn tay lau nước mắt cho tôi sững lại: “ … Ai bảo tôi thích các cô gái như vậy?”.

Tôi lườm chàng: “Chàng nói mà, chàng nói em còn quá nhỏ”.

Tay chàng lại ôm trán: “Câu nói đó không phải ý như vậy”.

Tôi liếc chàng: “Vậy ý thế nào?”.

Chàng im lặng một lát, đột nhiên một tay bế bổng tôi lên: “Được rồi, hôm nay em nghịch cả ngày, cũng khóc mệt rồi, ngủ sớm đi”. Nói xong đặt tôi lên giường, còn kéo chăn đắp cẩn thận. Bị bất ngờ bắt ép như vậy, tôi quên mất mình vừa nói gì.

Thấy chàng định đi ra, tôi vội níu áo: “Chàng ở lại với em lát nữa, nếu không em không ngủ được”.

Chàng cúi xuống: “Em đã nói tôi rất đáng ghét cơ mà?”.

“Ai nói…”. Tôi ngoẹo đầu: “… Nhưng cũng không phải không khiến người ta ghét, vậy chàng đi đi”.

Chàng cười một tiếng, nằm xuống bên cạnh, ôm tôi qua lần chăn: “Miệng nói một đằng bụng nghĩ một nẻo”.

Tôi quay đầu nhìn khuôn mặt chàng kề sát: “Đợi em ngủ rồi chàng mới được đi, em muốn ở bên chàng thêm lát nữa”.

Ánh trăng chiếu qua cửa sổ, lòng nhẹ nhõm như cất được gánh nặng, cuối cùng, cuối cùng vẫn làm được, chàng nằm nghiêng, nửa người tắm trong ánh trăng, thì ra nếu gặp nhau trước khi tôi tuẫn tiết cùng Vệ quốc, chúng tôi sẽ như vậy.

Cảm thấy ánh mắt tôi, chàng cười, dùng ngón tay úp lên mắt tôi, môi chạm nhẹ vào trán tôi, giọng thầm thì như tiếng gió: “Ngủ đi”.

Đó là câu tôi muốn chàng nói nhất, thầm thì bên tai, A Phất, ngủ đi, vậy là tôi có thể thỏa mãn ngủ không tỉnh lại nữa.

Ngày hôm sau, sáng sớm vừa mở mắt đã nhìn thấy Mộ Ngôn ngồi bên mép giường, chống tay bóp trán. Tôi hơi mơ hồ, không biết là thực hay là mộng, có ánh sáng nhẹ chiếu vào, nhưng không giống ánh mặt trời, phân vân hồi lâu mới nhìn thấy ngọn nến vẫn cháy, vậy là vẫn chưa sang ngày hôm sau.

Tôi khẽ động đậy, khi ngước mắt, bắt gặp ánh mắt tĩnh lặng của Mộ Ngôn, tôi dụi mắt, “Bây giờ là canh mấy rồi? Sao không về ngủ đi? Em đã nói em ngủ là chàng có thể về cơ mà?”. Lại nắm tay chàng, “Hay là chàng cũng không ngủ được?”.
Không thấy chàng có phản ứng gì, ánh mắt khó hiểu nhìn tôi.

Tôi ngẩn ra: “Sao thế?”.

Chàng giơ tay vén món tóc xõa trên trán tôi, cứ thế nhìn tôi đăm đăm: “Em còn dối tôi đến bao giờ, A Phất?”.

Tôi nắm chặt một góc chăn: “Sao?”.

Chàng chậm rãi: “Đây chỉ là một giấc mộng phải không? Tại sao em dệt mộng cho tôi, chạy vào giấc mộng của tôi là muốn giữ tôi ở lại đây sao? Vì thế mới muốn tôi lập tức yêu em? Dùng một người giả là em trói buộc tôi vĩnh viễn ở đây? Đúng không?”.

Ngực đột nhiên chấn động, nhất định là tôi đang mơ, mau tỉnh lại đi, mau tỉnh lại đi. Nhắm mắt, lại mở ra, không được, lại nhắm, lại mở, vẫn không được. Chàng lại nắm tay tôi, ép tôi đối diện với chàng: “A Phất, có phải thế không?”.

Tôi lắc đầu lia lịa, thở hổn hển phản bác: “Không phải, không phải. Đây không phải là mộng cảnh gì hết, em ở đây, em đích thực đang ở đây, Mộ Ngôn, nhìn em đi, là em thật mà”.

Chàng nhìn tôi: “Sau khi em ngủ, tôi đã nghĩ rất nhiều, những gì không hiểu, tôi đi hỏi Quân Vỹ. Em nói đúng, em là thật”. Chàng dừng lại, “… nhưng tôi lại là giả”.

Trán toát mồ hôi lạnh, tôi lắp bắp: “Không… không thể, không ai có thể, xưa nay chưa từng có, chàng… chàng, sao có thể biết được… không, chàng nói dối em…”.

Chàng ngắt lời tôi, ánh mắt buồm thảm: “Trước đây em đã nói với tôi, mỗi người đều bị ám ảnh bởi những ước nguyện không thành. Mỗi khi tôi nhìn em, những ký ức không nên thuộc về tôi lúc này lại giằng xé tôi. Em muốn dùng hư ảo để trói tôi ở đây, em tưởng trên đời không có ai có thể nhìn thấu Hoa Tư mộng ư, A Phất, đó là em tưởng vậy thôi”.

Tôi ngước nhìn chàng, cuối cùng bình tĩnh lại: “Rốt cuộc chàng biết bao nhiêu?”.

Ánh nến mờ dần, giọng chàng rất nhẹ: “Tất cả. Đủ để tôi thoát ra khỏi giấc mộng em đang dệt cho tôi”.

Trong phòng đột nhiên nổi gió, mang đi ánh nến cuối cùng, từ xa hình như có tiếng móng ngựa đạp trên lá khô, nhưng tôi biết không phải, đó là mộng cảnh đang tan vỡ.

Tôi không nhìn thấy Mộ Ngôn, mảnh chăn gấm trong tay biến mất, đầu choáng váng, đột nhiên cảm thấy một tia sáng chói mắt. Cố mở mắt, cùng với hơi thở và khứu giác biến mất, tôi nhìn thấy không biết bao nhiêu những mỏm băng nhấp nhô, đây là băng động của Trần cung. Mộ Nghi tròn mắt nhìn tôi và Quân Vỹ từ trên không rơi xuống cùng với Tiểu Hoàng đang ngủ gật, cô kinh ngạc không nói lên lời, phải một lúc lâu sau mới nói: “Mới canh năm, nến cũng mới cháy được một nửa, lẽ nào…”.

Tôi giơ ngón tay, chạm vào cây đàn đã đứt hết dây, gật đầu: “Muội đoán không sai, thất bại rồi”.

Viên giao châu trong ngực lại không vỡ tan như tôi đã nghĩ, thật là chuyện thần kỳ, có lẽ chưa từng có ai thoát khỏi Hoa Tư mộng Tý Ngọ, cho nên không ai biết thoát khỏi sẽ ra sao. Có lẽ tôi vẫn còn có thể sống thêm hai tháng nữa?
Mộ Nghi khẽ ối một tiếng, lại vội bịt miệng: “Vậy ca ca…”.

Hơi lạnh thấm vào da thịt, tôi quấn chặt áo lông chồn vào người, “Chàng sẽ tỉnh lại, những chuyện xảy ra trong mộng có lẽ chàng sẽ không nhớ được, thôi vậy, coi như tôi chưa dệt cho chàng giấc mộng đó, đành vậy, muốn ra sao thì ra”.

Quân Vỹ im lặng nãy giờ mới lên tiếng: “Huynh không muốn nói với anh ta, nhưng anh ta đã đoán ra gần hết”.

Tôi lắc đầu: “Không phải lỗi của huynh”.

Quân Vỹ thu lại cây đàn đồng mộc đứt dây: “Vẫn còn hai tháng, muội không muốn ở bên anh ta sao?”.

Tôi cúi xuống đánh thức Tiểu Hoàng, trầm ngâm rất lâu, vẫn nói: “Chàng không biết muội còn sống trên đời, để chàng nhìn thấy hy vọng, rồi lại tuyệt vọng, chi bằng…”.

Không biết là vật gì rơi xuống, sau lưng có tiếng động nhẹ và tiếng bước chân quen thuộc, toàn thân tôi đột nhiên cứng đờ, thầm nghĩ sao có thể như vậy, nhưng trên nền băng trơn sáng như một tấm gương trước mắt đã hiện lên rõ ràng bóng Mộ Ngôn. Mái tóc chưa búi, áo chùng tơ trắng tuyết, một chiếc áo rộng khoác hờ trên vai: “Em nói chi bằng thế nào?”.

Mộ Nghi giơ tay ra hiệu cho Quân Vỹ, cả hai đi khỏi, Tiểu Hoàng xem chừng không bằng lòng, bị Quân Vỹ kéo đi. Còn tôi sững sờ nhìn Mộ Ngôn, cặp mày đậm, sống mũi cao, đôi môi mỏng, một khuôn mặt đẹp hiếm có in trên nền băng tuyết lại như tỏa hơi lạnh.

Tôi tưởng ánh mắt nhìn chàng lúc tiệc tàn sẽ là lần cuối cùng tôi được nhìn chàng trên trần thế, không ngờ lại còn cơ hội này, vốn nên rất vui, nhưng nỗi buồn ập đến lớn hơn niềm vui… tôi giơ tay che mắt, không biết nên làm thế nào. Mộ Ngôn, không biết chàng có hiểu lòng em lúc này.

Nghe thấy tiếng băng vỡ.

Chàng ôm tôi từ phía sau. Ôm thật mạnh, cả người bị vòng tay chàng khóa chặt, như muốn hòa hai cơ thể làm một. Buông bàn tay che mắt, trên mặt băng trơn láng tôi nhìn thấy chàng nhắm mắt, mái tóc đổ sau lưng, áp má vào má tôi, mặt không biểu cảm, từ hàng mi khép chặt lăn ra… một giọt lệ.

Tôi không thể nói, cảm thấy cơ thể run rẩy dữ dội, lát sau nghe thấy giọng chàng khàn đặc: “Trong giấc mộng đó tay em rất lạnh, khi tỉnh lại tôi nghĩ là em sẽ ở đây”.

Tôi vội ngắt lời: “Chàng nhớ được ư?”.

Chàng nhìn tôi, “Chỉ một ít”. Chàng kéo tôi vào lòng, “Quân Vỹ nói với tôi, em muốn dùng giấc mộng đó để tôi quên em. Có phải đó là điều em muốn?”.

Tôi há miệng, nhưng không thể cất lời, vùi đầu vào ngực chàng, cuối cùng tôi nghẹn ngào bật ra: “Không, em không muốn chút nào, nhưng thấy chàng đau buồn như vậy, Hoa Tư điệu Tý Ngọ không phải là cách tốt, nhưng nó có thể khiến chàng quên em, sau này chàng sẽ có hạnh phúc, em cũng yên tâm”.

Tay chàng để trên đầu tôi: “Nếu quên em, người đó chỉ là Tô Dự, không còn là Mộ Ngôn, nếu tôi đã không còn là tôi nữa, theo em tôi có hạnh phúc? Em có yên tâm?”.

Làm sao tôi biết, lúc đó tôi không còn trên đời nữa, chàng luôn thích đưa ra những vấn đề nan giải như vậy, nhưng không câu nào tôi có thể trả lời. Tôi sịt mũi: “Nhưng chàng biết không, em chỉ còn hai tháng nữa. Tại sao chàng không coi đó chỉ là một giấc mơ, tại sao còn đến tìm em?”.

Người chàng bỗng cứng đờ, bàn tay vuốt tóc tôi cũng dừng lại. Tôi không biết chàng sẽ phản ứng như vậy, tưởng chàng đến tìm tôi là chàng đã nghĩ thông mọi chuyện.

Lát sau tôi lại tiếp: “Nhưng đây là sự thực, chàng không muốn chấp nhận ư?”.

Lâu như chờ đợi một cái cây ra hoa, chàng khàn giọng: “Có lúc tôi vẫn hoài nghi, rốt cuộc có phải chính bàn tay này đã đâm kiếm vào em. Là tôi đã giết em. Hai lần, một lần tôi bức em nhảy từ tường thành Vệ quốc, một lần…”.

Tôi ôm chặt chàng: “Không phải lỗi của chàng. Có lúc em rất hận số phận đã khiến chúng ta nhầm lẫn, có lúc em lại cảm kích nó, không có nó khai ân em sẽ không được gặp chàng, cho nên cuối cùng cũng không phân định rõ hận bao nhiêu, cảm kích bao nhiêu. Em vốn nghĩ để chàng quên em sẽ tốt hơn, nhưng chàng cho là em sai. Vậy thì em sẽ cùng chàng, chúng ta sẽ để lại những hồi ức đẹp, cho dù hai tháng sau em…”.

Người chợt nhẹ bẫng, chàng đã bế bổng tôi lên, giọng điềm tĩnh khiến người nghe yên lòng: “Không chỉ có hai tháng, tôi sẽ tìm cách”. Không biết chàng an ủi tôi hay là an ủi chính mình. Ngừng một lát lại tiếp: “Em coi hồi ức là quan trọng, nhưng đối với tôi, hiện tại và tương lai quan trọng hơn quá khứ rất nhiều. Bây giờ em vẫn sống, không có gì tốt đẹp hơn điều này, quan trọng hơn điều này. Tôi sẽ tìm được cách, mặc dù em luôn không chịu tin tôi”.

Tôi phản bác một cách bản năng: “Không phải em không tin chàng”. Vừa nói vậy đã cảm thấy đó là lời nói dối.

Tôi quả thực không tin chàng, nếu tin, một khắc trước đã không trốn chàng. Bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ chàng có thể tìm được cách gì, tôi đành tuân theo số phận. Thực ra ngay đến bây giờ, tôi cũng không tin chàng sẽ tìm được cách gì. Nhưng chàng đã thoát khỏi Hoa Tư mộng, tìm thấy tôi. Chàng không thích tôi lựa chọn cho chàng, cuối cùng lại là chàng lựa chọn cho tôi.

Tôi phấn chấn tinh thần, vòng tay ôm cổ chàng: “Chàng định đưa em đi đâu?”.

Chàng dịu giọng: “Về đi ngủ, em không mệt sao?”.

Tôi lắc đầu, “Em vẫn khỏe, giấc mộng đó rốt cuộc chàng nhớ được bao nhiêu? Có nhớ em nấu ăn cho chàng, còn nữa, chúng ta đến Hình gia ở Dĩnh Xuyên để cầu bảo kiếm. À phải rồi, chàng còn ghen nữa, nhớ không?”.

“… Không nhớ”.

Tôi nghiêm túc nhắc chàng: “Chàng ghen với Quân Vỹ, rõ ràng em trang điểm đẹp như vậy, chàng tưởng đó là vì Quân Vỹ, mới ám chỉ bảo em trang điểm không đẹp”.

“… Không nhớ”.

Tôi càng nghiêm túc nhắc lại: “Thấy em và Quân Vỹ chơi lại trò chơi hồi nhỏ, chàng đã ghen, còn bảo em muốn chơi cũng không nên tìm Quân Vỹ, mà nên…”.

Chàng bất lực ngắt lời tôi: “Thôi, tôi nhớ rồi, em không cần nhắc lại”.

Nhưng tôi không kìm được hưng phấn: “Hơn nữa, chàng đối với em không tốt tí nào, lúc đó chàng lạnh lùng vô cùng, lại còn trách em không biết trân trọng cơ thể được cha mẹ ban cho, em không biết tự trân trọng, làm sao người khác trân trọng, đúng là quá đáng”.

“Được rồi, tôi hơi quá đáng”.

Một mảnh trăng lưỡi liềm đơn độc cuối trời, đêm đã tàn, trời sắp sáng, tiếng côn trùng cuối thu lẫn trong gió, hoa trong vườn bông nở bông tàn. Một chặng đường dài đã qua, tôi hồi tưởng lại những ngày tháng dường như đã rất xa xôi cùng với những ký ức đẹp. Sau lưng là ánh trăng lai láng, không biết nhiều năm sau, chuyện giữa tôi và chàng sử sách sẽ viết thế nào, những ngày hạnh phúc vô ưu, vui tươi đấu khẩu như vậy còn được bao lâu?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Chương 5 : Đoạn kết

Từng ngày trôi qua, sức lực cạn dần, sự sống rời đi càng nhanh theo vết nứt mỗi ngày một sâu trên nửa viên giao châu. Trước đây chỉ không có hơi thở, khứu giác, vị giác và cảm giác đau, nhưng gần đây ngay đến xúc giác cũng không còn nhạy nữa.

Tôi không hy vọng sẽ có kỳ tích, nhưng mỗi sáng thức dậy, ý nghĩ đầu tiên luôn là về viên ngọc tàn trong ngực, dường như có thể nhận ra những vết nứt mới nhất, quả là sự giày vò đau khổ.

Tôi không nói với Mộ Ngôn chuyện đó nhưng tôi nghĩ chàng biết rất rõ, chỉ là trước mặt tôi tỏ vẻ cho dù trời sập cũng không sao, cơ hồ chỉ cần có chàng mọi việc đều có thể yên tâm.

“Nếu em làm việc gì đó, bản thân cũng không tin mình có thể làm được thì sao có thể thành công”. Chàng đã nói như vậy từ lâu. Ở bên chàng tôi học được nhiều điều, đây là một trong những điều đó, nhưng có một số việc, không phải cứ tin là có thể làm được.

Nhưng tôi muốn chàng thấy tôi một lòng tin chàng, thấy tôi yên tâm không chút nghi ngờ.

Từ hôm Mộ Ngôn tìm thấy tôi, trong cung bắt đầu xuất hiện rất nhiều pháp sư, tôi biết họ được mời đến làm gì. Mộ Nghi phấn khởi nói với tôi, trong số họ có nhiều pháp sư có pháp lực cao cường trong thuật nhập hồn, tôi hiểu ý cô, nhưng linh hồn người đã bị Hoa Tư dẫn cầm cố tuyệt nhiên không thể ngưng tụ thành ma, điều này Mộ Ngôn cũng biết.

Ngày trước chàng ân cần dặn tôi, cố sống đến lúc chàng tìm ra biện pháp, bây giờ nghĩ lại, khi nói như vậy thực ra chàng đã biết tôi là người chết, cái gọi là tìm ra biện pháp chỉ là cố gắng khôi phục những cảm quan hoặc đã mất hoặc đã suy thoái của tôi.

Nghĩ lại hồi đó còn ôm hy vọng như vậy quả là xa xỉ, hôm ngay, ngay giữ được thân xác nửa sống nửa chết này trên đời cũng trở nên vô vọng.

Phần lớn thời gian, chúng tôi luôn bên nhau như hình với bóng. Chỉ khi chàng bận luận đàm với pháp sư thì không đưa tôi đi cùng, có lẽ nội dung luận đàm duy nhất là chuyện sống chết của tôi.

Nhưng tôi không nghe lời như chàng nghĩ, từng đến ngự thư phòng nghe lén một lần. Cũng không khác nhiều so với nghị sự thông thường, đều là đầu tiên những người tham dự trình bày ý kiến, thông báo kết quả nghiên cứu mới nhất, sau đó tất cả luận bàn, chỉ ra những cái hay cái dở của kết quả đó, tranh luận gay gắt cuối cùng dẫn tới cãi nhau, điều này quả là bất ngờ. Kết quả là có tiếng cốc vỡ, cùng với giọng Mộ Ngôn nhàn nhạt: “Lỡ tay”.

Thư phòng im phăng phắc, giọng chàng trang nghiêm: “Nếu chia tính mạng của ta cho vương hậu, chư vị ai có thể làm được?”.

Sau đó, tôi không muốn đi nghe lén nữa. Ở đời nhiều khi người ta bị tổn thương nặng nề bởi một câu nói, có lúc chúng ta đau lòng không phải bởi câu nói đó quá tàn nhẫn, mà bởi không thể chấp nhận.

Trước đây tôi không cần ngủ, lúc muốn có thể ngủ, không ngủ cũng không sao, bởi viên giao châu có thể hóa giải giấc ngủ, nhưng gần đây ngày càng buồn ngủ, xem ra viên giao châu ngày càng mất công lực.

Mà Mộ Ngôn cũng bắt đầu có bệnh, nửa đêm thường đánh thức tôi, bảo tôi nói mấy câu cho chàng nghe, sau đó mới để tôi ngủ tiếp. Mấy lần như vậy, có lúc đầu óc tôi lơ mơ, nghe giọng chàng run run, rõ ràng chúng tôi đắp một cái chăn dày, nhưng hai tay chàng ôm tôi vẫn lạnh ngắt.

Lúc đầu tôi không biết tại sao, sau hiểu ra, chàng sợ, chàng sợ tôi ngủ mãi, vĩnh viễn thiếp đi. Mỗi ngày mỗi đêm chàng đều sợ nhưng ban ngày không để tôi nhận ra.

Trời đã sang đông, nghe nói cuộc chiến Khương – Triệu ngày càng ác liệt. Lần này Triệu tự dẫn lửa đốt chân, chiến sự lan rộng đến từng hộ thường dân, mặc dù tướng sĩ trên dưới đồng lòng chiến đấu ngoan cường, nhưng rút cục do thực lực chênh lệch, thất bại thê thảm. Khương quốc rõ ràng biết lợi thế, được đà rất có thể đánh thẳng vào kinh đô Triệu. Sự thể đã đến nước này, chắc chắn Mộ Ngôn sẽ ra tay.

Đây quả nhiên là tấm lưới chàng tung ra. Thiên tử ban cho chàng hiệu Hiển Khanh, để chàng phân ưu với ông ta. Lý do xuất binh lần này hoàn toàn danh chính ngôn thuận – “Thay thiên tử điều đình bất hòa giữa chư hầu”. Tham gia cuộc chiến này, về lý mà nói, khắp đông lục ngoài thiên tử cũng chỉ có chàng thích hợp nhất, thiên tử không thể trực tiếp xen vào, trong mắt thiên hạ, chàng là người nên ra tay nhất. Trần quốc mặc dù dân phong cởi mở, nhưng cũng như Vệ quốc, nữ nhân vẫn không được tham dự triều chính.

Nhưng lúc nằm trên giường, Mộ Ngôn thường đem những chuyện đó kể cho tôi nghe trước khi ngủ, giống như ru ngủ. Chàng thích coi tôi là trẻ con, trước đây tôi không biết đó là cách chàng yêu một người. Cục thế đã sắp kết thúc, điều duy nhất khiến tôi hiếu kỳ là tông tích quân cờ ban đầu của cục thế này – Tần Tử Yên, bởi vấn đề quả thật khó suy đoán, cho dù nghe chàng kể rất nhiều, vẫn không thể lần ra manh mối. Đem khúc mắc hỏi Mộ Ngôn, nhưng chàng chỉ đáp gọn một câu: “Nếu còn sống có lẽ cô ta đang ở nước Triệu”.

Tôi vẫn băn khoăn, chàng giải thích: “Lần bí mật liên minh với Triệu, theo em, làm thế nào mới khiến Triệu vương hoàn toàn tin Khương giá họa cho Triệu?”.

Tôi không hề suy nghĩ: “Dựa vào tài diễn kịch của chàng!”.

Chàng tỏ vẻ không muốn tiếp tục câu chuyện: “… Chúng ta ngủ thôi”. Bị tôi bám riết mới hà tiện tiết lộ hai chữ: “Nhân chứng”, Tần Tử Yên là nhân chứng, đó chính là nguyên cớ chàng luôn tìm cô ta, cũng là nguyên do tại sao cuối cùng cô ta ở lại Triệu quốc.

Nằm gọn trong lòng chàng, bàn luận với chàng đại sự của thiên hạ như bàn chuyện trong nhà, nếu tôi có thể sống với chàng đến bạc đầu, chúng tôi suốt đời sẽ như vậy, tôi có thể làm một người vợ tốt của chàng.

Trước đây tôi luôn mơ ước một ngày có thể trở thành chỗ dựa của chàng, khi chàng cần đưa ra một phán quyết sáng suốt nào đó, tôi sẽ cùng chàng luận bàn cân nhắc với tầm nhìn đủ rộng, nếu có thể sống lâu và nỗ lực một chút, tôi nghĩ tôi cũng có thể làm được. Nhưng mỗi lần nghĩ tới chuyện đó, sâu trong lòng lại có tiếng nói lặng lẽ nhắc tôi, có nhìn thấy bóng đen sau lưng không? Bóng đen của chia ly và tử thần?

Tháng mười một, sau mấy trận sương mù, ngoài thành hoa mai nở rộ. Tôi mong thời gian trôi thật chậm, không nghĩ nhiều đến chuyện chia ly, vẻ mệt mỏi trong mắt chàng ngày một tăng, chàng tưởng rằng đã giấu được tôi, tôi cũng giả bộ không biết.

Nhưng không biết có phải tuyệt cảnh dễ nảy phùng sinh, chính vào lúc khó khăn lắm tôi mới từ bỏ tất cả những ước vọng không hiện thực, vị pháp sư mới được mời đến lại mang đến một tin tốt lành mong đợi bao lâu: Thế gian có lẽ vẫn còn một viên giao châu khác được phong ấn Hoa Tư dẫn.

Theo lý luận của ông ta, thế gian thường không có độc vật, vạn vật vạn sự đều coi trọng tương sinh, đây là quy luật của tạo vật ngay từ thượng cổ xa xưa, bất luận Hoa Tư dẫn là bị siêu lực tự nhiên phong ấn hay bị con người phong ấn đều không trái nguyên tắc này, vậy thì ở Cửu Châu nhất định còn tồn tại một viên di ngọc lưu lạc đâu đó.

Nhưng thế nhân đa phần không biết sức mạnh siêu nhiên của nó, có thể nó bị phủ bụi từ lâu, hoặc chỉ được coi là món đồ thông thường.

Tôi không muốn nói đó là do ông trời có mắt, bởi không biết đây có phải là một trò đùa khác của số phận. Nói một cách có trách nhiệm thì số phận rất thích đùa tôi. Nhưng bất luận thế nào, Mộ Ngôn đã bắt đầu tìm tông tích viên ngọc huyền bí đó ở khắp Cửu Châu, cho dù không biết thực sự có tồn tại viên ngọc đó không.

Xem ra đời tôi vận may vẫn chưa hết.

Bảy ngày sau, Quân sư phụ đến Trần cung thăm tôi lại mang đến một tin, đó là trong tế miếu của Khương quốc đang thờ một viên minh châu, tương truyền là báu vật từ thời thượng cổ, viên minh châu đó cũng đúng là viên giao châu.

Ngày mười hai tháng mười một, Trần quốc xuất binh vây Khương cứu Triệu, lần này Mộ Ngôn thân chinh xuất trận, tôi biết ý chàng ở đâu.

Đêm trước hôm xuất binh, dưới ánh nến hồng, chàng vẽ một bông mai trắng trên trán tôi. Trong chiếc gương đồng, bông hoa mai ở góc trán như mọc ra từ tóc, e ấp và diễm lệ. Tôi không biết dụng ý của chàng là gì, rất lâu sau nghe chàng nói: “Vốn định vẽ lông mày cho em, nhưng lông mày của em thanh như nét vẽ, không cần tô điểm cũng đẹp”.

Thì ra là vậy, mặc dù chàng không thích tôi quá coi trọng hồi ức, nhưng đó là cử chỉ âu yếm vợ chồng, chàng cũng muốn lưu lại một hồi ức đẹp.

Chàng chống tay vào má, mắt cười cười nhìn tôi: “Đẹp không?”.

Tôi gật đầu, lại muốn trêu chàng: “Đẹp, một bông mai lúng liếng, khiến quân vương không thể dự buổi chầu sớm”. Thấy chàng ngước mi, mắt nheo nheo, tôi vội lùi vào góc giường: “Em đùa đấy, chàng, chàng chàng đừng lại gần”.

Chàng dịch đến: “Lại gần thì sao?”.

Tôi tiếp tục lùi sâu vào trong: “Vậy chàng phải hứa không làm chuyện quá đáng”.

Chàng cười: “Em thấy có thể không?”.

“…”.

Hôm sau Mộ Ngôn xuất chinh, đó là một ngày đông lạnh hanh khô, tôi đứng trên thành lầu nhìn chàng, nhưng không tiễn chàng ra cổng thành. Chàng đã hứa sẽ nhanh chóng trở về, vậy đây không phải là một cuộc chia ly.

Hoặc là nếu tôi từ bỏ thế gian trước khi chàng trở về thì cũng sẽ gắng đi tìm chàng. Thư mỗi ngày như hồng nhạn bay đến, đều là bút tích của chàng, vậy là chàng vẫn bình an. Thể lực tôi yếu dần, gần đây nhận ra thính giác cũng giảm sút. Hôm báo tin chiến thắng chính là ngày Hạo thành có trận tuyết đầu tiên kể từ khi vào đông, tuyết đầu mùa như cánh hoa mai bay lả tả trên bầu trời Hạo thành, rơi xuống tay hơi lành lạnh.

Ngày hai mươi bảy tháng mười một, một ngày đông buốt giá, tuyết rơi rất dày, tôi ăn vận thật ấm đứng trên tường thành, chờ đợi Mộ Ngôn khải hoàn trở về. Trên trán vẫn còn bông mai trắng chàng vẽ trước đêm xuất trận, dưới lớp áo choàng lông chồn nặng trịch là chiếc váy màu lam lóng lánh dài bảy thước.

Dưới chân tường thành cao vút, quần thần trang nghiêm đứng thành hai hàng trên con đường lát đá xanh, phía xa bạt ngàn mai trắng nở rộ trong tuyết, tưởng tượng cũng thấy trong không gian tràn ngập hương mai lạnh.

Chấp Túc đứng bên đỡ tôi, không ngừng thuyết phục tôi quay về: “Thánh giá của bệ hạ phải đến giờ Mùi mới đến thành ngoại, bây giờ mới là giờ Tỵ, tuyết lại rơi dày thế này…”.

Tôi lắc đầu: “Chàng sẽ sớm trở về”.

Chấp Túc không tin. Nhưng cũng không biết làm gì.

Cuối giờ Tỵ, tiếng vó ngựa phi gấp cùng với tiếng quân hành rầm rập từ xa truyền đến, tôi mỉm cười khẽ hỏi Chấp Túc: “Nghe thấy chưa?”.

Chấp Túc chưa kịp trả lời đã nghe thấy tiếng vó ngựa gấp gáp gõ trên mặt đường đá. Khoảng không giữa trời và đất lúc này tựa hồ không có âm thanh nào khác, chỉ có tiếng vó ngựa rõ dần gõ vào lòng tôi, hình bóng quen thuộc xuất hiện trong tầm mắt tôi. Tôi đẩy Chấp Túc ra, nâng váy chạy xuống thành lầu. Chiếc váy dài quét đất phấp phới trong gió, tôi nhìn chàng nhảy xuống ngựa, từ xa giang rộng hai tay bước về phía tôi. Thời khắc đó, cơ hồ có muôn ngàn tia sáng thấu qua tầng mây xám, những bông hoa tuyết như lông ngỗng lơ lửng biến thành những mẩu băng trong suốt long lanh. Tôi lao vào vòng tay chàng, ngón tay sượt qua chiến giáp lạnh ngắt, bất giác rùng mình, nhưng nhìn đôi mắt đẹp nhuốm phong sương tươi cười đó lại thấy yên tâm, tôi soi bóng mình trong mắt chàng.

Tôi muốn vuốt ve mặt chàng, cuối cùng chỉ dừng lại trên hàng lông mày: “Em biết nấu cháo yến sào, về nhà sẽ nấu cho chàng ăn”.

Khóe miệng khẽ nhếch, chàng cầm tay tôi áp lên má mình

“Có thể ăn được thật sao?”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Hoa Tư Dẫn (Tuyệt Ái Chi Thành) Tập 2 - Đường Thất Công

Postby tuvi » 30 May 2019

Ngoại truyện : Quân cờ

Sau khi đã thuận lợi lọt vào hoàng cung nước Trần, cô không biết chuyến mạo hiểm này của mình có đáng không.

Tự do chỉ ở ngay phía sau lưng thôi, lùi một bước là chạm tới trời cao biển rộng. Nhưng trên đường trốn khỏi nước Triệu, ngẫu nhiên cô nghe được vài tin tức phong thanh về Tô Dự; cõi lòng cô những tưởng đã chết từ lâu, một lần nữa lại vì người ấy mà nổi lên giông tố.

Lòng kiêu hãnh khiến cho cô không quản ngàn dặm xa xôi tìm tới Hạo thành – kinh đô Trần quốc, chỉ muốn gặp lại người ấy một lần. Ẩn thân sau ngọn núi giả sơn trong cung, nhìn thấy bóng dáng người ấy thong thả bước ra, sau lưng là cả một biển hoa lơ đãng bay trong không gian, trái tim yên tĩnh của cô lại một lần nữa xáo động, rộn ràng.

Tiết trời ấm áp, cô nhìn thấy người ấy trong bộ trang phục màu đen, sau lưng chàng hé lộ một ống tay áo đỏ tươi. Nghe âm vang tiếng nói của lảnh lót của một cô gái trẻ: “Để hoa rơi trên mặt đất như thế này thật uổng phí, chàng thấy có phải không? Hay là em thu thập những cánh hoa này lại, sau đó làm cho chàng một cái gối hoa khô nhé?”.

Người ấy nghiêng đầu nhìn xuống cô gái kia: “Em bảo sao? Em mà cũng biết làm gối hoa khô à, đa tài nhỉ?”

Cô gái kia có vẻ không bằng lòng, ngẩng đầu lên: “Người ta thật sự có rất nhiều tài lẻ mà. Tiểu Nghi lúc nào cũng khen em giỏi giang vô cùng (Tiểu Nghi: tức Mộ Nghi.. em gái cùng cha khác mẹ với Mộ Ngôn.. Tô Dự) ..Chỉ có chàng là suốt ngày chê em vụng về thôi!”.

Người ấy cười nói: “Vậy thì Tô phu nhân tài năng cho ta hỏi, nàng định làm gối hoa khô cho ta như thế nào đấy?”.

Cô gái trẻ mặc bộ váy màu đỏ tươi hơi cúi cúi đầu: “Ừm, em sẽ nhờ Chấp Túc làm vỏ gối, sau đó đem nhét hết cánh hoa khô vào đó, như vậy chẳng phải đã làm xong gối hoa cho chàng rồi sao!”.

Người ấy cười vang: “Ờ, em thật là giỏi giang quá đi mất”.

Cô gái trẻ kia tỏ vẻ buồn bực, ai oán: “Chàng dám nói em như vậy à, đợi lát nữa em sẽ bỏ thạch tín vào canh hạt sen của chàng luôn á!”.

Người ấy dịu dàng đưa tay lên, khẽ sửa lại chiếc trâm hoa cài lệch trên mái tóc cô gái: “Em nỡ không?”.

Cô chứng kiến khung cảnh ấy, cảm thấy đau tận đáy lòng, nỗi đau cứ thế lan ra, trái tim như bị một con ác thú gặm. Cô thích Tô Dự, từ cái khoảnh khắc đâm chàng một dao, cô đã nhận ra điều này.

Đến nay, cô vẫn chưa hiểu được tại sao ngày ấy cô lại có thể xuống tay với chàng? Lại còn đâm một một nhát rất dứt khoát. Có lẽ chỉ là vì muốn phủ nhận tình cảm chăng? Cô muốn chứng minh rằng cô là một thích khách hoàn hảo, không bị bất cứ điều gì tác động.

Lúc đó, cô thật sự đã đâm trúng chàng, chỉ có điều cô ngây thơ không biết tất cả mọi việc đều nằm trong dự liệu. Tô Dự là người như vậy, chàng anh tuấn, chàng thông minh, chàng phong nhã, con người chàng tỏa ra một sức hút khiến cho người ta không thể kháng cự lại. Nếu như chàng muốt lừa gạt ai, chàng sẽ làm việc đó hoàn hảo không chê vào đâu được, chàng sẽ lừa cho người ta hồn xiêu phách lạc, vạn kiếp bất phục. Chàng đa tâm đáng sợ như vậy đấy, nhưng lại làm cho người ta say mê đến không còn lý trí.

Cô còn nhớ, khi chàng ở trấn nhỏ bên cạnh Bích Sơn dưỡng thương, giữa cơn nửa tỉnh nửa mê, chàng đều gọi một tiếng “Tử Yên”. Nhiều khi cô cảm thấy, có lẽ chính hai chữ “Tử Yên” này đã khiến cho cuộc đời cô không thể nào thoát khỏi mối tình si với Tô Dự.

Về sau, cô mới hiểu ra, sở dĩ chàng gọi tên cô là vì đã phát hiện ra có người đang theo dõi chàng ở ngoài cửa sổ, chàng chỉ diễn kịch cho cô xem mà thôi. Còn cô thì sao, cả một thời gian dài sau khi đâm bị thương chàng vẫn day dứt không thôi. Cô khờ khạo tin rằng chàng yêu cô, nếu không kẻ cả gan ra tay hành thích thế tử Trần quốc liệu có thể yên ổn cao chạy xa bay được không? Cô tin rằng chàng đã vì yêu cô nên mới không nỡ cho người đi truy sát.

Chỉ đến một ngày, khi cô bắt cóc một cô gái tên là Quân Phất, lúc ấy cô mới hiểu ra, sở dĩ chàng không có thái độ gì với hành động ám sát của cô, chẳng qua là vì chàng vẫn muốn lợi dụng cô thêm nữa. Ván cờ này, chàng chơi thật là cao tay, bên phe cô không lường trước được sự nguy hiểm của chàng, đến khi hay thì đã mất đi một nửa lực lượng trên bàn cờ rồi. Còn cô ư? Từ đầu đến cuối chàng chỉ coi cô là một quân cờ để lợi dụng.

Từ xưa tới nay, cô biết bậc quân vương nào cũng có một nỗi khổ tâm riêng. Ngôi vị cao sang cũng đồng nghĩa với sự lạnh lẽo. Thân là đế vương, không khỏi phải chấp nhận sự cô quạnh. Chính bản thân họ cũng tự giễu mình bằng hai chữ “quả nhân”, cách xưng hô như thế cũng biểu đạt sự thương hại đối với chính bản thân mình.

Nhưng nhận thức đó chỉ đúng cho đến khi cô gặp Tô Dự. Nếu thế gian này có ai đó trời sinh ra là để làm một vị đế vương, người ấy nên là chàng. Chàng có đủ lạnh lùng, đủ tàn nhẫn, và cũng có đủ kiên tâm.

Cô không tin rằng người như Tô Dự có thể thật lòng yêu thương ai đó. Thế mà hôm ấy, chàng không do dự đẩy cô ra để nhảy xuống sơn động cứu Quân Phất, cô vẫn còn tự lừa gạt chính mình rằng chàng đang diễn kịch cho cô xem thôi. Trong lúc vô tình cô lại biết được trên người Quân Phất có mang theo bí thuật về Hoa Tư Dẫn, cô đã thở phào nhẹ nhõm, nghĩ rằng quả nhiên chàng chỉ vì viên ngọc giao châu. Thậm chí cô còn phỏng đoán thật ác tâm, rằng chàng sở dĩ luôn đồng hành cùng Quân Phất là vì muốn sở hữu bí thuật Hoa Tư Dẫn đã nhiều năm thất tung ở vùng Đông Lục này.

Nhưng dù cho mọi chuyện có diễn ra y như mong muốn của cô, thì cô cũng có ý nghĩa gì với chàng đâu? Cô biết mình nên và không nên làm gì. Nhưng đau khổ nhất chính là mơ tưởng, dẫu biết vô vọng mà vẫn không thể nào dứt bỏ.

Trong cái đêm cô trốn khỏi nước Triệu, cô đã từng thề với lòng mình rằng cả đời này cô vĩnh viễn không liên quan gì đến Tô Dự nữa. Chàng chỉ coi cô là một quân cờ, nếu như cô vẫn bị chàng tác động, chàng bảo làm gì thì làm nấy, như vậy, lòng kiêu hãnh của cô để đi đâu?

Huống hồ, từ sau lần gặp lại, chàng không hề hứa hẹn gì với cô. Cô không thể vì chàng mà hủy diệt chính mình.

Ai ngờ, đã hạ quyết tâm tưởng như khôn- gì-lay-chuyển đến mức ấy, lại chẳng chịu nổi một đả kích nhỏ nhoi. Thật là rất đỗi nực cười!

Trên đường rời khỏi nước Triệu, cô nghe thấy nơi nơi đều đồn rằng Tô Dự vì vương hậu mới cưới mà lập đàn cầu phúc. Trong một tháng, chàng ra liền ba đạo đại xá, ban ơn khắp chúng dân. Lòng cô dường như tan nát bi thương. Thì ra tình yêu vốn là một liều thuốc độc đáng sợ nhất, cứ ngỡ có thể giết chết được tình cảm của mình, kỳ thật, tình cảm ấy chỉ tạm thời lắng xuống như một giấc ngủ đông ngắn ngủi.

Một lần nữa, cô lại không ngăn nổi mình lao như bay đến Hạo thành.

Rốt cuộc cô muốn gì đây? Cô muốn tìm gặp chàng? Hay là cô muốn gặp vương hậu của chàng? Xét đến tột cùng, cô đến đây là vì không cam lòng.

Cô không biết người con gái mà chàng lựa chọn, nàng ấy là kiểu người như thế nào? Có phải là một trang quốc sắc thiên hương? Có phải là một cô gái yêu kiều phong tình vạn chủng?

Cô đặt ra tới trăm nghìn giả thiết.

Trăm nghìn cái giả thiết cuối cùng đều không đúng. Có lẽ tại cô thôi, cho đến tận bây giờ cô vẫn không dám nhìn thẳng vào sự thật. Người mà chàng chọn là Quân Phất. Vị vương hậu mà chàng toàn tâm toàn ý yêu, đúng là Quân Phất.

Sự tức giận hiện lên thật rõ rệt trong đáy mắt cô, trào ra cả cái nhìn của cô. Rõ ràng chàng lợi dụng cả cô lẫn nàng ta. Cuối cùng tại sao chàng lại chỉ đối xử tàn nhẫn với một mình cô? Tại sao chàng lại lựa chọn Quân Phất mà không thể lựa chọn cô?

Nàng ta quả thật cũng có một nhan sắc khuynh thành. Nhưng trừ đi gương mặt đẹp ấy, nàng ta chỉ là một cô gái tính tình trẻ con, thích nũng nịu, giận hờn vô cớ… Quân Phất thì có gì hay? Móng tay cô bấm vào da thịt thật sâu, cô cứ thế ẩn mình trong bóng tối, hận ý cứ thế bùng lên như ngọn lửa, đốt cháy họng, đốt bỏng mắt, màu lửa đỏ ấy cứ rực lên.

Cô muốn giết Quân Phất!

Ban đầu, đây chỉ là một ý nghĩ thoáng qua, nhưng cứ như bị yểm bùa, suy nghĩ đó len lỏi vào đầu cô, án ngữ trong đấy, ám ảnh, trong đầu chỉ còn lại duy nhất ý nghĩ này. Giống như một mồi lửa hừng hực dấy lên, thiêu rụi lý trí thành tro.

Tô Dự ở bên Quân Phất không lâu, sau đó giao lại nàng ta cho hai người khác. Cô biết cô gái đi sau người thanh niên mặc áo trắng kia. Cô ấy là Chấp Túc – là hộ vệ tín nhiệm nhất của Tô Dự. Trần quốc có 300 ảnh vệ * chỉ có mình Chấp Túc là nữ, và chỉ duy có Chấp Túc là không phải ẩn thân như những ảnh vệ khác mà được sống đường hoàng ở nơi này. (Ảnh vệ *: hiểu nôm na là những người hộ vệ luôn ẩn thân, thuộc đội quân bí mật, có nhiệm vụ bảo vệ chủ nhân mình, sẵn sàng hy sinh vì chủ nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào)

Cô muốn giết chết Quân Phất, nhưng không thể ra tay ngay được. Cơ hội chỉ có một, không muốn thất bại thì phải tính toán cẩn trọng. Quân Phất gọi người con trai mặc áo trắng đi bên cạnh nàng ta là Quân Vĩ. Hậu cung vốn là nơi mà đàn ông không được phép bén mảng đến. Hậu cung của Tô Dự cũng chỉ có một mình Quân Phất làm vương hậu, như vậy có lẽ người đàn ông bên cạnh Quân Phất là anh trai nàng ta.

Cô ép sát mình vào vách đá để tránh bị phát hiện.

Trong tay Quân Phất cầm một túi thức ăn cho cá, sắc mặt nàng ta tái nhợt, quả như lời đồn đại, khí sắc của vương hậu không được tốt, nét mặt lúc nào cũng xanh xao.

Không biết bọn họ đang nói với nhau chuyện gì, đến khi cô có thể nghe rõ lời, lúc ấy Quân Phất đang tựa vào ghế, đắc ý nói: “Trước giờ tôi cảm thấy rất quái lạ, những diễn viên trong các vở kịch ấy, họ muốn khóc là lập tức khóc được, muốn cười là lập tức cười được, sao có thể tài giỏi như vậy? Hôm rồi Mộ Ngôn thấy tôi buồn chán thì cho mời một hội gánh hát vào cung diễn cho tôi xem. Cuối cùng thì tôi đã bắt chước được theo mấy người đó rồi, cái trò khóc cười này cũng không đến nỗi khó như tôi tưởng”.

Kẻ áo trắng tên gọi Quân Vĩ nhận lấy túi thức ăn cho cá từ tay nàng ta, hỏi: “Em không học hát hí khúc thì thôi, học cái trò khóc khóc cười cười để làm gì?”.

Quân Phất có vẻ vô cùng đắc ý, giọng nói cao vút: “Chỉ cần tôi khóc lóc, Mộ Ngôn sẽ không còn lựa chọn, mặc kệ tôi có nói giời nói biển gì, chàng cũng đều nhất nhất nghe theo. Anh cũng biết chàng là người quá đáng, cứ trêu chọc khi dễ tôi suốt ngày. Bây giờ tôi đã có cách hữu hiệu để…”

Bàn tay cô nắm lại thật chặt, cánh tay truyền đến cơn đau tê dại. Nực cười, nghĩ đến cái trò dùng nước mắt để buộc chặt trái tim của đàn ông, thật là khiến cho người khác phải xem thường!

Quân Vĩ nhíu mày ngắt lời nàng: “Sở dĩ Mộ Ngôn làm vậy là vì anh ta lo lắng cho em, chứ không phải là không làm gì được em. Chẳng phải em yêu Mộ Ngôn lắm sao, nếu yêu thì phải khiến cho anh ta an tâm về mình chứ, sao lại cứ làm cho anh ta phải lúc nào cũng bất an vậy?”.

Một lúc lâu sau cũng không nghe thấy âm thanh gì đáp lại. Chấp Túc lên tiếng: “Quân công tử, anh…”, chưa nói xong thì đã bị Quân Phất nhẹ nhàng ra hiệu im lặng.

Tuy Quân Phất bị chỉ trích, nhưng gương mặt lại sáng tươi như ngọc, nét cười vương chút hồn nhiên như một đứa trẻ chưa trải qua sự đời, đẹp đẽ như mộng ảo…

Sau đó nàng ta lại nói ra những lời khiến người nghe cảm thấy khó lòng lý giải: “Chàng đều biết cả. Tôi vờ khóc để làm nũng hay tôi mừng rỡ tươi cười để gạt chàng, Mộ Ngôn đều biết hết. Nhưng chàng lại vờ như không biết, để mặc tôi phỉnh phờ. Với Mộ Ngôn, tôi phải làm loạn như vậy thì chàng mới an tâm rằng tôi vẫn còn sức sống. Nếu có một ngày tôi không bực bội, không hờn dỗi chàng, như vậy thì chàng mới lo lắng. Nói vậy thôi chứ nhìn thấy chàng ngoan ngoãn nghe theo mọi yêu sách của tôi, tôi cũng thấy cao hứng lắm.”

Cô nghe lời nói ấy mà cứ đứng bần thần một chỗ. Bên tai cô văng vẳng câu nói của nàng ta: “Tôi phải có hơi sức chọc giận chàng thì chàng mới yên tâm.” Những gì mà cô vừa nghe được, thật là có nằm mơ cũng không dám tưởng tượng. Thủ đoạn của nàng ta chỉ là như vậy thôi sao? Nhưng cái kiểu lý lẽ vòng vo kỳ quặc như thế này, Tô Dự, chàng thật sự suy nghĩ như vậy sao? Nàng ta nói dối! Nếu như đó là sự thật, nàng ta căn cứ vào đâu mà dám khẳng định như thế chứ!

Người mà Quân Phất nhắc đến, đó hoàn toàn là một người xa lạ chứ không thể nào là Tô Dự mà cô biết. Lòng cô bỗng trào lên một nỗi hoài nghi: vậy thì tất cả những hình ảnh về Tô Dự mà cô ôm ấp trong lòng bấy lâu này, đều là giả hết sao?

Quân Vĩ ở lại chơi có một chốc rồi rời đi. Tô Dự cũng chỉ đi nửa canh giờ rồi ngay lập tức quay trở lại bên nàng ta. Cô không biết mình còn ẩn nấp ở nơi này làm gì, do trong lòng vẫn còn vài khúc mắc chưa sáng tỏ sao…

Thái giám đem một chồng tấu chương đặt lên chiếc bàn gỗ ở trong đình. Tô Dự cùng Quân Phất cho cá ăn, lát sau thì ngồi phê duyệt tấu chương. Chấp Túc bưng một bát thuốc đặt trên thành hồ, Quân Phất cầm chén thuốc ấy lên.

Trong lòng cô có vạn ngàn cảm xúc cuồn cuộn ập đến, giống như con ngựa hoang cất tung vó chồm lên giữa sa mạc, khiến cho bão cát mịt mù nổi dậy bốn phương. Nếu như cô là người sáng suốt, cô nên lập tức rời đi. Năm đó đâm Tô Dự một nhát dao mới dứt khoát làm sao, vậy mà nay lại không thể thẳn thắn mà buông tay ư? Cô muốn buông bỏ một cách thật là thống khoái, dùng dằng kéo dài chỉ khiến cho lòng mình thêm đau xót, chỉ khiến người ta thêm ghét bỏ mà thôi.

Tất cả những lý lẽ đó, cô đều hiểu hết.

Chỉ có điều, cô không có cách nào rời đi cả. Cô không kiềm được suy nghĩ muốn ở lại để nhìn xem bọn họ ở bên nhau như thế nào? Quân Phất, nàng ta có điểm gì tốt? Có điểm gì đáng để được chàng trân trọng? Nếu như nàng ta làm ra dáng vẻ đầu mày cuối mắt dụ dỗ mê hoặc chàng, liệu chàng có vì thế mà rung động? Chàng có thật sự rơi vào tình yêu? Cô muốn biết chàng có thể vì Quân Phất mà làm những chuyện gì!

Trả lời cô, chỉ là một bầu không khí yên tĩnh trong đình. Nếu như cô ở gần thêm một chút, chắc sẽ nghe được cả tiếng bút lông của chàng đang chuyển động trên trang giấy.

Quân phất nhíu mày, đăm chiêu nhìn bát thuốc trong tay, sau đó một hồi lâu thì lén bưng theo bát thuốc đến sau một cây mộc lan.

Tô Dự vẫn cắm cúi phê duyệt tấu chương, nhưng chàng cất tiếng hỏi: “Em đang làm gì thế?”

Tay nàng ta khẽ run run một chút: “Ừm…… thuốc rất đắng, em đang chờ nó nguội một chút rồi mới uống thôi”.

Chàng không bình luận gì, tiếp tục công việc. Khi Chấp Túc bưng trà tiến vào, chàng căn dặn cô ấy vài lời. Quân Phất nhìn chằm chằm vào bát thuốc, sau đó nhanh tay hất hết thuốc xuống hồ.

Chàng nghiêm giọng hỏi: “Thuốc đâu rồi?”.

Nàng ta cầm cái bát rỗng, lưỡng lự: “…… Uống hết rồi”.

Chàng đặt bút xuống: “Thế âm thanh lúc nãy là tiếng gì?”.

Một thoáng bối rối khẽ lướt qua gương mặt, nàng ta mân mê sợi tóc: “Là tiếng bọn cá thi nhau nhảy lên đớp mồi á!”.

Chàng đứng lên, nhìn xuống hồ nước, chẳng tỏ vẻ gì cả: “……. Vì sao nước dưới hồ lại bị loang đen cả một vùng như thế?”.

Bị bại lộ, nàng ta vẫn không tâm phục khẩu phục, còn bắt đầu cất tiếng ai oán: “…… Vì sao chàng cứ bắt em phải uống thuốc cho bằng được? Cứ cho rằng đây là bí thuật gì gì đó của mấy lão đạo sĩ đi, nhưng chàng thừa biết là nó sẽ không có tác dụng với cơ thể của em mà! Em không thể dựa vào ba cái thứ thuốc này để sống lại đâu. Chàng cố chấp, đã hiểu rất rõ, sao vẫn còn ép em?”.

Chàng nhíu mày: “Chẳng phải em không cảm nhận được thế nào là ngọt là đắng sao? Vậy mà lần nào uống thuốc cũng tỏ ra…..”, lời chưa nói xong thì đã bị nàng ta ngắt:

“Chàng không biết là trí tưởng tượng của em rất phong phú à? Uống thuốc tuy không cảm thấy đắng, nhưng cảm giác của em tệ lắm. Kiểu như chàng biết là mấy con sâu sẽ không cắn chàng, khi ăn cũng chẳng có vị gì cả. Nhưng nếu em bày ra trước mắt chàng cả một đĩa đầy sâu là sâu, sau đó bắt chàng ăn, như vậy chàng có dám không?”.

Lúc này Chấp Túc đã mang thêm ra một chén thuốc khác. Chàng đưa tay đỡ lấy. Nàng ta dừng lại không vuốt tóc nữa, nhìn về phía chàng đầy tò mò. Tô Dự bưng bát thuốc lên uống một ngụm vơi đi hơn phân nửa bát.

Rồi chàng đem phần thuốc còn lại đưa đến, đặt miệng bát lên môi nàng ta, nàng ta ngỡ ngàng, mắt cứ mở trợn trừng, cuối cùng cũng bị ép uống hết bát thuốc. Chàng lau đi chút thuốc còn dính trên môi Quân Phất, dịu dàng: “Có người cùng em uống thuốc, cảm giác có tốt hơn chút nào không?”

Rốt cuộc nàng ta đã bắt đầu có phản ứng trở lại, liếc Tô Dự một cái rồi cúi đầu húng hắng ho vài tiếng: “Cũng… hơi tốt một chút xíu”.

Chàng cảnh cáo: “Lần sau còn dám giở trò làm loạn, ta sẽ tự mình cho em uống thuốc biết không?”.

Mặt Quân Phất đỏ ửng lên, không nghe rõ nàng ta thì thầm nói cái gì, chỉ đoán qua nét môi mấp máy: “Chẳng có gì ghê gớm cả! Lần sau em lại bày trò làm loạn cho chàng xem!”

Chàng nở nụ cười: “Còn dám tái phạm đổ thuốc đi một lần nữa, ta sẽ bỏ thêm sâu vào đó rồi bắt em uống bằng hết. Em đừng nghĩ ta nói chơi.”

Từ lúc biết mình chỉ là một quân cờ trong tay chàng, cô nghĩ, người đàn ông này vốn dĩ không có tình cảm, hoặc là cảm xúc của chàng đã bị đóng thành băng tầng tầng lớp lớp rồi, không còn biết yêu là gì. Nhưng khi nhìn thấy chàng ở bên Quân Phất, vì nàng ta mà mỉm cười, dịu dàng đặt tay lên trán nàng ta, cái biểu hiện trăm tình nghìn ý này, cái sự chăm sóc dịu dàng âu yếm này, cô cảm thấy thật xót xa.

Đây là một Tô Dự hoàn toàn xa lạ với hiểu biết của cô.

Tô Dự ở trong lòng cô, chàng lạnh nhạt vô tình. Cũng có lúc chàng tỏ ra quan tâm đến người khác, nhưng đều giữ một khoảng cách nhất định. Cô còn tưởng đó là biểu hiện của tất cả những bậc đế vương. Ở trên ngôi cao, quyền uy không cho phép họ được tự do thể hiện tình cảm. Họ sẽ không biết thế nào là thật lòng.

Nhưng hóa ra chàng cũng có thể cười như vậy, nụ cười chan chứa từ trong đáy mắt, lan ra cả gương mặt rạng ngời. Chàng đang hạnh phúc giống như thể tất cả mọi chuyện lớn trong thiên hạ đem gộp lại bày ra trước mắt, cũng chẳng đáng bận lòng, cũng chẳng bằng sự vui vẻ của người con gái kia.

Cô cứ thế đứng nấp trong một bụi hoa lớn không rõ tên, tựa hồ như suy nghĩ rất nhiều chuyện, lại tựa hồ như chẳng nghĩ bất kì điều gì, trong đầu vừa hỗn loạn, lại vừa trống rỗng, ngây ngốc đến nỗi có người tiếp cận mình mà cũng không hay.

Nghe thấy có tiếng động, cô vội vàng né người tránh theo bản năng, một đường kiếm lạnh như băng kề ngay trên cổ. Là Chấp Túc. Cô ấy nói: “Nếu không phải là bệ hạ vì cầu phúc cho phu nhân mà nghiêm cấm sát sinh trong thời gian này, Tần cô nương có biết là cô nương đã phải chết bao nhiêu lần rồi không?”.

Cô mệt mỏi lắc đầu: “Nói như vậy có nghĩa là chàng đã sớm phát hiện ra tôi?”.

Nàng liếc mắt đánh giá cô một hồi: “Ngày đó cô đâm bị thương bệ hạ, người nhân từ không hề truy cứu. Nhưng hoàng cung nước Trần không phải là nơi cô có thể tùy tiện ra vào, xin cô rời đi ngay cho”.

Cô thật sự hy vọng Tô Dự thả cô là vì chàng nhân từ. Như vậy, cô có thể ôm ấp một chút ảo tưởng rằng chàng ít nhiều vẫn còn một chút tình cảm lưu luyến với cô. Nhưng chẳng qua, sự thật là, chàng chỉ muốn thanh toán sòng phẳng với cô thôi, chỉ vì cô đã giúp chàng làm nhân chứng nói ra nước Khương làm chủ mưu để Trần – Triệu thuận lợi kết liên minh với nhau.

Chuyện đã tới nước này, nếu như không tuyệt vọng, không cam tâm, cũng có cách gì đây?

Cả đời này, cô chỉ không ngờ được hai chuyện. Cả hai chuyện này đều là về Tô Dự.

Cô thật không ngờ, cô ở bên cạnh chàng lâu như vậy, thế mà con người thật sự của chàng là như thế nào, cô chưa bao giờ nhìn thấy.

Cô thật không ngờ, cô muốn lừa gạt chàng, hóa ra lại bị chàng lừa lại, lừa triệt để.

Nếu như có một ngày cô có thể quên chàng, đến lúc ấy, có lẽ cô sẽ tìm được một người trân trọng mình. Lúc đó, mặc kệ cho là yêu là hận, cô vẫn mong tìm được một người như chàng, không phải Tô Dự, mà là như người đang ở bên Quân Phất. Nếu được như thế, nhất định có thể sống một cuộc đời bình an, hạnh phúc.

Cô nhìn hoàng cung nước Trần một lần sau cuối; ánh chiều tà chiếu rọi lên cung điện nguy nga, tràn đầy màu sắc rực rỡ; thật là một quang cảnh đẹp.

Tạm biệt, Hạo thành. Tạm biệt, Tô Dự.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95695
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 33 guests