Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Image

Tác giả : Quỷ Cổ Nữ



Mở Đầu

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 10 giờ 30 phút, tại khách sạn Đại Kim Sa thành phố Giang Kinh.

Những người quen biết đều nói hắn rất chuyên nghiệp, làm hắn không khỏi tự hào, dù đã tự nhủ mình phải khiêm tốn kiềm chế. Trong nghề của hắn, “rất chuyên nghiệp” có nghĩa là thực hiện kế hoạch suôn sẻ, không sơ sảy, không ngồi tù và không mất mạng.

Nghề của hắn là làm kẻ cướp.

Không phải trộm cắp lặt vặt, mà đánh những quả lớn như cướp công ty, cướp ngân hàng, cướp khách sạn.

Hắn thường tưởng tượng, nếu có người mời hắn giảng bài hoặc đăng đàn diễn thuyết, hắn sẽ đưa ra rất nhiều ví dụ sống động (hoặc trái lại, chết ngay tại trận). Thời nay, những tên cướp biết vận dụng trí não, biết cách tính toán kín kẽ đều vạch kế hoạch rất chỉn chu, còn những tên cướp nôn nóng, vô kế hoạch vô tổ chức thì đều “chết ngay tại trận”, sau đó suốt ngày từ sáng đến tối cặm cụi trong xưởng máy của nhà tù lắp ráp các sản phẩm bán ra thị trường thế giới, mỗi ngày chỉ còn một chút thời gian gọi là “ngoài giờ làm việc” thì ngồi bấm đốt ngón tay tính xem bao lâu nữa mình mới mãn hạn, và cầu mong trước thời điểm ấy sẽ không bị “đại ca” trong tù “lỡ tay” táng cho một chưởng, để rồi hết cơ hội mơ tưởng ngày ra tù sẽ ăn bữa cơm tự do đầu tiên ở đâu.

Hôm nay hắn sẽ lại thực thi một kế hoạch. “Quả” này một người không thể làm nổi, nên hắn đành hợp tác với hai thằng nhãi con. Hắn vốn không thân với hai thằng này, nhưng “sơ yếu lý lịch” của chúng thể hiện rằng, nếu chúng không hợp tác với hắn thì chắc chắn chúng thuộc vào hạng “chết ngay tại trận”! Lần này hắn cần hai thằng và đồng thời cũng cho chúng cơ hội để học tập một bậc thầy.

Hắn đã mấy lần dọn dẹp phòng khách, bảo đảm không để lại bất cứ dấu vết nào liên quan đến việc bàn kế hoạch cướp. Hành lý đã nhờ quầy tiếp tân chuyển ra ga tàu hỏa, cho nên hắn sẽ ra trận rất gọn nhẹ.
Hắn gọi điện cho hai tên kia: Chuẩn bị xong cả chưa?

Chuẩn bị xong rồi. Giọng cố nén phấn khích.

Nói to lên một chút, tao nghe không rõ.

Chuẩn bị xong rồi! Giọng hồ hởi, máu nóng đầy ắp.

Hắn mỉm cười, cảm thấy mình rất nên đi diễn thuyết khích lệ người khác, hắn sẽ chẳng kém gì Mã Vân, Du Mẫn Hồng…

[1] Mã Vân tên tiếng Anh là Jack Ma, chủ tịch Alibaba. com. Du Mẫn Hồng là chủ tịch Tập đoàn giáo dục Phương Đông nổi tiếng của Trung Quốc. Họ đều là tỷ phú, diễn giả và người truyền cảm hứng cho những người có chí làm giàu.

Giơ tay nhìn đồng hồ. Đã đến lúc. Một tiếng nữa thôi, sẽ xảy ra vụ cướp kinh thiên động địa, đại ca siêu trộm xuất quỷ nhập thần sẽ nổi danh thiên hạ.

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 10 giờ 45 phút, bên ngoài tòa soạn Tin chiều Tân Giang thành phố Giang Kinh.

Ông nói xem nó có đáng chết không?

Đáng chết!

Hồng Hán Hữu đang nghĩ đến người lạ mặt gặp ở quán mỳ Tôn Gia cách đây hai hôm, cả hai vừa cùng ăn mỳ vừa chuyện trò, ông kể lể, ông già ấy hưởng ứng. Ông già ấy tên là gì, họ Lưu hay là họ Lục, không nhớ nữa. Ông ta thông cảm, nói rằng những chuyện đáng buồn như chuyện của Hồng Hán Hữu cũng thường xảy ra ở nhiều nơi, dân chúng không biết, không nghe nói đến, là vì ti vi cũng như báo chí gần như không bao giờ nhắc nhỏm. Đôi khi trên mạng có người post lên mấy dòng, nhưng sự thật ra sao thì chẳng rõ. Bản thân mạng đã là một sản phẩm ảo rồi.
Các nơi khác ra sao tôi mặc kệ, ông cứ phát biểu xem nó có đáng chết không?

Tôi vừa nói rồi mà: đáng chết!

Vậy thì sẽ là như thế.

Hồng Hán Hữu lại dạo quanh một vòng, nhìn thấy cửa chính của tòa báo mở, một người đàn ông trung niên cao gầy đeo kính chạy ra nhìn phải nhìn trái, hình như là để xác định phương hướng chứ nơi đây chẳng có gì mà ngắm. Con phố này là đường một chiều, muốn đi taxi thì phải sang lề bên kia mà vẫy xe.

Hồng Hán Hữu theo anh ta qua đường. Anh ta có cái cổ dài ngoẵng, lúc sang đường trông cứ như con ngựa vằn băng qua dải vạch ngang dành cho người đi bộ.

Có đáng chết không?

Đáng chết!

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 11 giờ 30 phút, tại đường Giang Hưng Trung thành phố Nam Kinh.

Tháng Năm là lúc thời tiết Giang Kinh vào độ đẹp nhất trong năm. Trước đó, tháng Ba tháng Tư thì có bão cát hung bạo và sương mù tàn độc. Tháng Sáu thì mưa dầm liên miên. Tháng Năm chỉ có nhược điểm là người kìn kìn như nước lũ tràn khắp phố phường, ngoài ra chẳng có quá nhiều điều để người ấy phải than phiền. Nắng xuân ấm áp êm đềm trải xuống, gió Đông Nam hiu hiu ve vuốt khuôn mặt, bước chân của người ấy nhanh nhẹn hẳn lên, khiến tay tùy tùng trẻ tuổi gần như không theo kịp.

Người ấy hỏi, “Tròn một năm rồi, đã có tiến triển gì chưa?” Hỏi về một bệnh nhân của bệnh viện An Khang, kẻ từng nói những lời khiến người ấy hứng thú. Lời nói của bệnh nhân tâm thần, tỷ lệ trung thực cao hơn những người được coi là “bình thường”.

Tùy tùng đáp, “Bệnh viện An Khang lâu nay luôn quan sát và chăm sóc người này với tiêu chuẩn bệnh nhân đặc biệt. Bệnh tình tiến triển thất thường, nhưng chưa từng hé lộ một manh mối quan trọng nào liên quan tới Na Lan.”
Na Lan là một chuyên gia tâm lý mà người ấy hết sức lưu ý lâu nay. Cô như thỏi nam châm thu hút hết đủ mọi yêu ma quỷ quái của nhân gian, những kẻ tội phạm điên rồ nhất dường như đều tiếp cận cô, khiến cô bị cuốn vào vô số vụ trọng án. Đối với người ấy, Na Lan đáng thu hút ở chỗ cô có bí mật.

Người ấy để mắt đến Na Lan từ khi cô bắt đầu theo học ở đại học Giang Kinh, tính ra cũng đã bảy năm trời. Bảy năm kiên nhẫn, nhưng nhiệt tình chưa một lần nguội lạnh. Trong những câu nói rồ dại của bệnh nhân tâm thần ở bệnh viện An Khang, có một manh mối bí mật về Na Lan khiến người ấy phải cảnh giác.

“Như thế thì… nói lên điều gì?” Người ấy biết tùy tùng của mình thông minh tuyệt đỉnh. Theo mình ba năm trời mà không bỏ mạng cũng không bị giáng cấp, chứng tỏ là thông minh.

Quả nhiên, tùy tùng đáp, “Nói lên được rằng, khi bật ra câu đó, tay bệnh nhân có dụng ý khác hơn là thuần túy chỉ điểm Na Lan. Hoặc tiện miệng nhắc đến, hoặc đơn giản là đang lên cơn thần kinh.”

“Dự đoán thế nào?”

“Bệnh viện đương nhiên không hiểu mấy câu rồ dại liên quan đến Na Lan, nên họ không báo cảnh sát. Thằng cha ấy bệnh tình không ổn định, thuốc men rất kém hiệu quả, năm xưa lại phạm tội nặng, ra thì không ra ngay được mà ở lại thì điều trị mãi cũng chẳng xong.”

Người ấy im lặng gật đầu. Tùy tùng cũng không nói nữa, vì biết bộ não siêu việt của chủ nhân đang vận động cường độ cao. Trầm mặc mất mười phút, lắng chìm mất mười phút giữa ồn ã náo nhiệt của phố phường, người ấy mới cất tiếng, “Xem ra, chúng ta chỉ có thể…”

Tùy tùng hiểu ý chủ nhân, liền gật đầu, “Vâng, tôi sẽ nhanh chóng sắp đặt, phát tán để tin tức kinh thiên động địa này có thể đến tai Na Lan. Tiếp theo, sân khấu sẽ thuộc về cô ta.”

Người ấy dừng bước, nhìn tùy tùng, cứ như nhìn một người vừa mới quen. Tùy tùng đâm hoảng, nghĩ bụng, mình đã lỡ lời gì chăng? Cho đến khi chủ nhân tủm tỉm, gã mới hơi yên tâm, chỉ hơi hơi thôi, vì mỉm cười chẳng nói lên điều gì cả. Gã đã đã thấy chủ nhân mỉm cười biết bao lần, rồi đi liền theo đó là tan tành đổ nát.

Người ấy chậm rãi nói, “Nhìn cậu, tôi cảm nhận được chính tôi hồi còn trẻ.” Tùy tùng đã hoàn toàn yên tâm, không thấp thỏm nữa, rồi tươi tỉnh đáp, “Chủ nhân quá khen!”

“Có điều…” Giọng người ấy bỗng lạnh lùng. “Năm đó nếu tự nhận mình đã đoán đúng, nghĩ đúng, tôi cũng không nói ra đâu, mà cứ thăm dò ý tứ của chủ rồi đi làm thôi. Làm nghề như chúng ta, đúng là nghề tự hành hạ mình, vừa sợ sai - vì sai một ly đi một dặm - lại vừa không được sợ sai, vì sợ sai thì không thể tiến bộ.”

Tùy tùng khẽ nói, “Tôi hiểu ạ.” Gã tiếp tục bước theo người ấy thêm vài phố nữa, đến đầu khu Dư Trinh Lý, người ấy lại dừng bước. Tùy tùng hỏi, “Chủ nhân định đi thật à? Tôi nhớ có người nói trên Web Chat rằng, bọn Đới Hướng Dương là trưởng giả học làm sang, Tiêu Tương là thứ giẻ cùi tốt mã, phân tích tổng thể thì hội quán thiếu sự tinh tế, mấy ông chủ thì chỉ được cái mồm xoen xoét, giá áo túi cơm.”

Người ấy thở dài, “Lớp trẻ ngày nay cũng chỉ được cái mồm, nói năng cay độc, tâm địa hẹp hòi. Tôi muốn đến Tiêu Tương, dĩ nhiên không phải để gặp Đới Hướng Dương, cũng không nhằm thưởng thức sự tinh tế hoặc có hoặc không của lão, mà muốn tận mắt nhìn thấy báu vật thật sự.”

Tùy tùng hỏi, “Là cái lư hương khổng tước Ba Tư thời Đường hay là cái quạt trầm hương của hoàng đế Tống Huy Tông tặng Lý Sư Sư trong truyền thuyết?”

“Mấy thứ đó cùng lắm cũng chỉ gọi là đồ cổ, báu vật thực sự thì không bao giờ khoe ra trước mặt bàn dân thiên hạ và người ngoại đạo cũng không thể biết được. Đới Hướng Dương tuy bị lứa trẻ chế nhạo chẳng ra gì, nhưng về điểm này thì lão không ngu ngơ đâu.” Ý tại ngôn ngoại, nên thấy rằng người này thuộc số ít những nhân vật am hiểu giá trị chân chính của “báu vật thật sự”.

Tùy tùng tự biết không nên hỏi đến tận ngọn ngành nữa, bèn nói, “Được! Chủ nhân chờ một lát, tôi sẽ vào đánh tiếng.”

Người ấy mỉm cười gật đầu, nhìn tùy tùng đi vào ngõ, nhưng được mấy bước thì đã gọi giật lại, “Thôi! Xem ra không cần nữa.”

Từ xa vọng lại tiếng còi hụ của xe cảnh sát. Trước khi tiếng còi inh ỏi lan đến nơi thì ba chiếc SUV có dòng chữ “Công an Giang Kinh” đã phóng vụt tới, phanh gấp lại trên đường Giang Hưng Trung đầu khu Dư Trinh Lý, xe chưa dừng hẳn, một số cảnh sát hình sự đã ào ào nhảy xuống, phân luồng giao thông, ngăn cản xe cộ và khách bộ hành trên đường Giang Hưng Trung và khu Dư Trinh Lý. Một số cảnh sát hình sự khác chạy vào nội khu, yêu cầu đám đông du khách đang xôn xao di tản ra khỏi khu vực.

Loa phóng thanh đặt trên một trong ba chiếc xe cảnh sát bắt đầu lên tiếng, “Yêu cầu du khách và các cửa hàng khẩn trương ra khỏi ngõ, khẩn trương ra khỏi khu Dư Trinh Lý, để đảm bảo an toàn tính mạng, tránh những tổn thương không cần thiết!”

Không phải chưa từng chứng kiến các vụ việc tương tự, nhưng tùy tùng cũng không khỏi choáng váng, ngoảnh ra tìm chủ nhân. Và nhìn thấy cách mình mười mấy mét, người ấy đang lững thững đi khỏi hiện trường hỗn loạn.
Ngày 18 tháng Năm, khoảng 11 giờ 45 phút, tại ban chuyên án vụ cướp khu Dư Trinh Lý.

Khi Ba Du Sinh - đội trưởng Đội Trinh sát Hình sự Sở Công an thành phố Giang Kinh - đến ban chỉ huy ứng cứu ở Dư Trinh Lý thì công tác sơ tán đã hoàn tất, ba trăm mét đường chẳng còn lảng vảng một ai không phận sự, các hiệu kinh doanh thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm, trang phục đắt tiền và hàng quà bánh đã sạch bóng người.

Khương Minh, nhóm trưởng Trinh sát Hình sự khu Tân Giang trực tiếp phu trách sơ tán, báo cáo rằng: toàn bộ dân chúng của hai mươi tám ngõ phố đan nhau trong khu Dư Trinh Lý đều đã sơ tán cả, hiện chỉ có cảnh sát hình sự thành phố và cảnh sát đặc nhiệm trang bị đầy đủ vũ khí mà thôi.

“Các hộ dân ở lầu Ba Khắc thì sao?” Ba Du sinh hỏi.

Khương Minh nói, “Những người có thể ra, thì đã ra hết. Chắc chỉ còn lại một số người già cả ốm đau không tiện di chuyển, chắc sẽ không đột nhiên chạy ra ngoài đâu.”

Ba Du sinh nghĩ bụng, xử lý một chuyên án lớn như thế này, nếu xảy ra chuyện “đột nhiên” thì tình thế sẽ đầy biến động. Hiện thời, công tác sơ tán của Khương Minh chỉ tạm coi là tương đối ổn.

Anh ngoái nhìn đám đông hiếu kỳ bu kín trên đường Giang Hưng Trung và xe cộ của giới truyền thông đang ùn ùn chạy đến, nói, “Hôm nay là một cơ hội để chúng ta thực tập tại chỗ, các anh em hãy gắng hết sức!”

Giọng anh điềm đạm, nhưng tâm trạng không thể bình yên: những từ ngữ then chốt dồn dập trong mười lăm phút vừa qua như lầu Ba Khắc, hội quán, cướp, con tin, tiếng súng, rồi bóng đen chưa tan của những vụ khủng bố gần đây… dường như đều dự báo rằng hôm nay sẽ là thử thách lớn nhất đối với anh kể từ khi anh nhậm chức đội trưởng Trinh sát Hình sự thành phố.

Các lãnh đạo thành ủy, hội đồng thành phố, công an thành phố, cho đến cấp tỉnh và trung ương đều đã nhận được báo cáo kịp thời, tổ ứng cứu đã được thành lập. Vì vụ việc xảy ra giữa ban ngày ở khu đông dân cư, nên giới truyền thông cũng sớm biết tin và có mặt tức thì.

Khương Minh đưa mắt về chiếc xe tác nghiệp của tờ Tin chiều Tân Giang, “Các anh em đều đã được dặn dò: phải hết sức thận trọng khi tiếp xúc với báo giới.”

Vì du khách quá đông, mặt bằng thì chật chội, các phố các ngõ của Dư Trinh Lý đều là đường đi bộ được kiểm soát chặt chẽ, loại xe cơ giới duy nhất lúc này là xe cảnh sát và xe tấn công của đặc nhiệm.

Ba Du Sinh và Khương Minh theo đội trưởng Cảnh sát Đặc nhiệm Vương Chí Huân đến chỗ chiếc xe tấn công. Bảy tám chiến sĩ vũ trang căng thẳng nhìn về phía lầu Ba Khắc, súng tiểu liên, súng bắn tỉa, bắn chặn lăm lăm trong tay, sẵn sàng hành động.

Lầu Ba Khắc bắt đầu xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, là một phong cách kiến trúc mang đậm dấu ấn lịch sử cận đại Giang Kinh. Sau các hiệp ước bất bình đẳng giữa nhà Thanh và ngoại bang, thành Giang Kinh buộc phải mở mang, cách tân, vô số người nước ngoài và dân chúng bên ngoài tràn vào sinh sống. Đất đai chỉ có hạn, người nước ngoài xây cất nhiều khu nhà Tây san sát nhau, về sau dân chúng dần dần đến thuê ở.

Để giải quyết khủng hoảng nhà ở do dân số bùng nổ, tại các tô giới mọc lên nhan nhản những công trình pha trộn kiến trúc “tam hợp, tứ hợp” (Tức là kiến trúc sinh hoạt với ba hoặc bốn dãy nhà quây quanh một khoảnh sân. ) kiểu truyền thống với nhà gác giản tiện theo phong cách phương Tây, rất thích hợp để cho thuê.

Những kiến trúc này về sau trở thành hình mẫu xây dựng cho giới bình dân sống tập trung, nhưng chúng vẫn giữ được bóng dáng “Tây” ban đầu, trước nhà dựng trụ đá, mặt tiền ốp gạch men, bên trên khuôn cửa chạm khắc hoa văn xoáy tròn, coi như phong cách Baroque, thế rồi dân chúng gọi chệch đi, thành “Barque”, thể hiện bằng hai chữ Hán “ba khắc”.

Từ này chứa đựng vài ý nghĩa: một là mô phỏng ngữ âm của “Baroque”, hai là ngụ ý nhà ở được “tám khách (bát khách)”, cũng có người dựa vào cách đọc của tiếng địa phương, cho rằng đó là “lầu Bất Khắc”, tỏ rõ thái độ “cứng cỏi không ai khắc chế được” để vươn lên trong cuộc sống gian nan chốn thị thành của những người thuê.

Sau khi công ty Starbucks khuếch trương ảnh hưởng ra khắp thế giới, dân thành thị lại dựa theo nhãn hiệu này mà liên tưởng đến một ý nghĩa mới của tên gọi “lầu Ba Khắc (Là tiền bạc và của cải )”.

Phần lớn các công trình theo kiến trúc Ba Khắc đều đã đổ nát, hoặc bị ủy ban thành phố cho dỡ bỏ theo quy hoạch, chỉ còn lại vài tòa, trong đó có lầu Ba Khắc ở khu vực Dư Trinh Lý. Chúng được bảo tồn với tư cách di tích văn hóa hoặc điểm khai thác du lịch. Giá trị của lầu Ba Khắc tăng lên vùn vụt. Nghe nói, một tòa lầu Ba Khắc có thể có giá từ ba mươi triệu (Tương đương với 90 tỷ đồng ) đến một trăm triệu tùy quy mô, thẩm mỹ và bối cảnh lịch sử. Hội quán “Tiêu Tương”, một tổ chức hoạt động vì cư dân lầu Ba Khắc, sở hữu không chỉ một mà là ba tòa lầu Ba Khắc chính cống liền kề nhau trong khu danh thắng văn hóa nổi tiếng này.

Cho nên, họ khai trương một cách rầm rộ khác thường.

Và cho nên, vụ cướp xảy ra ngay trong ngày khai trương hội quán Tiêu Tương càng là sự kiện kinh hồn khác thường.
Vương Chí Huân 35 tuổi, vóc người vạm vỡ, mặc bộ trang phục cảnh sát đặc nhiệm dày cộp mà bắp tay vẫn nổi lên rất rõ.

Anh và Ba Du Sinh kẻ trước người sau vào công an thành phố, ngồi cùng phòng làm việc, sống cùng ký túc xá, về sau Vương Chí Huân chuyển sang cảnh sát đặc nhiệm, cả hai vẫn hợp tác nhiều lần. Bởi thế Ba Du Sinh biết rõ Vương Chí Huân thuộc tuýp phản ứng nhanh, hành động thần tốc, anh không cần hỏi nhiều, chỉ chờ Vương Chí Huân báo cáo. Vương Chí Huân trải một bản vẽ kiến trúc lên bàn, nói, “Ba tòa lầu Tiêu Tương gồm lầu chính và hai lầu Đông, Tây. Vụ cướp xảy ra ở lầu chính Tiêu Tương.

Đây là sơ đồ kết cấu bên trong tòa nhà, dùng vào mục đích trang trí nội thất, cũng là tài liệu tốt nhất chúng tôi tìm được lúc này. Ở cửa có lắp camera giám sát, nhưng băng ghi hình hiện ở bên trong, tạm thời chưa lấy ra được. Theo sơ đồ này thì trên gác không lắp camera, Tiêu Tương là hội quán có tính chất bán tư nhân, nên không lắp thiết bị giám sát nội bộ, trừ phi có những hoạt động kiểu bắt cóc tống tiền.

Chúng tôi đã thả ba quả bóng thám sát lên nhưng bọn cướp tỏ ra rất chuyên nghiệp, chúng đã đóng kín các cửa sổ, bóng thám sát chưa truyền về được hình ảnh hoặc âm thanh nào có giá trị. Bởi vậy vẫn chưa xác định được trên đó có bao nhiêu đối tượng và bao nhiêu con tin.”

“Đây là suy luận và phỏng đoán của cậu chứ gì?” Ba Du Sinh hỏi. Anh đã nghe đoạn băng ghi âm của người báo tin cho công an, tự xưng là phục vụ ở lầu chính, chỉ vỏn vẹn một câu “Chúng tôi bị cướp”, sau đó là tiếng rú thảm thiết, có cả tiếng súng nữa. Không biết về sau có ai thoát ra khỏi lầu chính hay không, nhưng khả năng này cũng rất thấp, vì không thấy ai chủ động gọi điện báo công an nữa.

Vương Chí Huân ngoảnh mặt nhìn một người trẻ tuổi mặc âu phục xanh sẫm, “Anh ta phụ trách quầy tiếp tân của hội quán, nói rằng có ít nhất hai thành viên hùn vốn trong hội quán bị bọn cướp khống chế ở đại sảnh tầng hai của lầu chính, là Đới Hướng Dương và Lương Tiểu Đồng cùng trợ lý thân tín của họ. Lúc đó đang ăn cơm, ngồi cùng bàn còn có một vị khách bàn chuyện kinh doanh. Sổ sách có ghi chép việc họ đặt chỗ. Hình như gian nhỏ trên tầng ba còn một bàn nữa, không rõ mấy thực khách nhưng thiết kế ban đầu là dành cho cặp đôi nên nhiều nhất chỉ ngồi được ba bốn người. Tính cả phục vụ, đầu bếp và con tin, tối thiểu là 12 người. Tổ chức vụ cướp ở quy mô này chỉ cần hai tên, nhưng để chắc chắn và giảm thiểu rủi ro, chúng sẽ cần huy động ít nhất ba tên.”

“Gọi loa, kết quả ra sao?”

“Chỉ như đàn gảy tai trâu.” Vương Chí Huân không tỏ ra chán nản, không cau mày nhăn nhó, chứng tỏ anh đang chờ chỉ thị của Ba Du Sinh đồng thời cũng đang suy nghĩ rất căng thẳng. “Chúng tôi kêu gọi như thông lệ, cũng đã cho biết đường dây nóng để thương lượng, nhưng rõ ràng là chúng không muốn đối thoại, không đưa ra điều kiện gì và cũng không thả con tin để thể hiện thiện chí.

Từ đó có thể nhận định chúng không phải bọn cướp chuyên nghiệp.”
Ba Du Sinh đã làm hình sự mười mấy năm nhưng cũng chưa va chạm với băng cướp nào “chuyên nghiệp” như trong phim ảnh. Trong thực tế, các vụ án đều thuộc loại tùy cơ ứng biến, vừa bình thường lại lắm tình tiết quái dị, khác hẳn tưởng tượng của các nhà biên kịch.

Khương Minh nói, “Tất cả ngõ phố ở Dư Trinh Lý đều đã phong tỏa, bọn chúng khó mà trốn thoát.” Hình như ở đầu dây bên kia đang tiếp tục báo cáo Khương Minh, có tiếng trực thăng bay trên đầu, mỗi lúc một gần. Ai nấy đều hiểu rằng mọi động tĩnh ở Dư Trinh Lý đều bị quan sát từ trên không.

Ba Du Sinh cầm chiếc ống nhòm Vương Chí Huân đưa cho, anh nhìn một lượt tòa lầu chính Tiêu Tương, tiện thể nhìn các tay súng bắn tỉa đang ẩn nấp trên gác các lầu Ba Khắc lân cận. Anh thầm cảm phục sự thành thạo và chu đáo của Vương Chí Huân.

Theo Vương Chí Huân miêu tả, từ chỗ các tay bắn tỉa có thể nhìn rõ ba cửa sổ lớn của đại sảnh tầng hai và những tấm rèm cửa đỏ sẫm dày dặn bị kéo kín bất chấp đang giữa tiết xuân tươi đẹp, che khuất tầm nhìn của khách khứa ngồi trong.

Ba Du Sinh nói với Vương Chí Huân, “Tiếp tục gọi loa, thắt chặt tuyến bao vây, gây thêm áp lực, buộc chúng phải đối thoại.”

Vương Chí Huân liền ra lệnh, cảnh sát đặc nhiệm cùng chiếc xe tấn công từ từ tiến lên. Cảnh sát dùng thiết bị vô tuyến kêu gọi qua loa phóng thanh, “Hãy dừng tay trước khi xảy ra hậu quả nghiêm trọng, yêu câu các người thả con tin, tranh thủ cơ hội để được hưởng khoan hồng. Nếu muốn đối thoại với chúng tôi thì hãy gọi theo số…”
Một tiếng súng nổ, cắt ngang tiếng loa và bước chân của cảnh sát.

Điền Lợi Mân là chính ủy đội Trinh sát Hình sự, tổ trưởng tổ đàm phán của công an thành phố. Trước đó cô đã cùng Ba Du Sinh tham dự cuộc họp khẩn cấp báo cáo tình hình với thành ủy và ủy ban thành phố, cô được giao nhiệm vụ thương lượng trong vụ khống chế con tin này. Cô biết mình sẽ là một mắt xích quan trọng trong sự kiện tồi tệ đột ngột hôm nay. Cứ vài giây cô lại đưa mắt nhìn chiếc máy di động chuyên dùng đã bật âm lượng chuông ở mức tối đa.

Tiếng súng vẫn còn vang vọng bên tai mọi người. Chiếc di động bỗng đổ chuông inh ỏi, Điền Lợi Mân nhìn màn hình, thấy hiện lên một tin nhắn.

Mẩu tin lập tức được đưa cho Ba Du Sinh và Vương Chí Huân.

Vương Chí Huân liền ra lệnh cho cấp dưới án binh bất động, rồi ngoảnh nhìn Ba Du Sinh, thấy anh không lộ vẻ kinh ngạc hay lo lắng.

Mẩu tin nhắn chỉ vẻn vẹn mấy chữ: Tiến một bước, giết một người.

Loa lại kêu gọi, yêu cầu thương lượng. Mười phút sau, máy di động chuyên dùng lại réo chuông.

Một tin nhắn nữa: Muốn thương lượng, gọi Na Lan.

Bốn tiếng đồng hồ trước khi xảy ra vụ án, tại khoa Tâm lý đại học Giang Kinh.

Một ngày của Na Lan diễn ra theo trật tự: dậy sớm, đến bể bơi của trường, nửa giờ sau tắm gội xong xuôi, đến phòng nghiên cứu. Cuối tuần cũng thế. Sắp đến ngày bảo vệ luận văn thạc sĩ, cô cũng có suy nghĩ xin việc ở bên ngoài.

Thực tế là nhờ độ nổi tiếng sau một thời gian dài bị cuốn vào các vụ trọng án, đã có một số bệnh viện hay trường học thậm chí vài trang mạng nổi tiếng… “gieo tú cầu” để mời mọc Na Lan làm chuyên gia tâm lý, giảng viên hoặc phụ trách chuyên mục, nhưng cô đều từ chối. Cô quyết định sẽ học lên tiến sĩ, tức là đi vào tháp ngà nghiên cứu rồi vươn lên đỉnh cao.

Dẫu các trường đại học ngày nay chẳng còn là thánh địa trong sáng gì về học thuật, nhưng cuộc sống học đường vẫn dễ chịu hơn. Đôi khi cô tự tư vấn tâm lý cho mình, nhận ra mình đang có ý né tránh xã hội đa dạng, rực rỡ, lung linh sắc màu. Sao lại thế nhỉ? Đương nhiên có thể quy lỗi cho những vụ án kinh hồn cận kề với cái chết mà cô đã trải qua.

Phân tích nhiều lần, cuối cùng Na Lan vẫn giữ nguyên kết luận cũ: tại mình yếu đuối. Mình phải cứng cỏi lên!
Ngày cuối tuần, phong nghiên cứu có ưu điểm là rất yên tĩnh. Cũng lúc này ở ký túc xá của nghiên cứu sinh ồn ào chẳng khác gì siêu thị hoặc khu vui chơi giải trí, các nữ sinh nô nức chải chuốt trang điểm để đi gặp bạn trai, gặp chồng, hoặc rủ nhau đi phố mua sắm vài thứ đắt đỏ, dù tiền sinh hoạt của các cô rất eo hẹp. Thật ra họ chỉ đi có tính tượng trưng, nhìn ngắm chứ không mua.

Những cô ở lại thì hì hục quét dọn vệ sinh, giặt giũ phơi phóng. Khu nam sinh thì càng náo loạn: họ tụ tập nhau uống bia, đánh bài, tán gẫu những chuyện cao xa, nhất là khi họ chơi game thì tiếng hò hét phải nói là inh tai nhức óc. Ngày cuối tuần ở khu giảng đường vắng bóng giảng viên và sinh viên, Na Lan có thể được yên tĩnh mà ngồi đọc sách, viết luận văn.

Hai tiếng “tích tích” vang lên, bình đun nước nóng của lớp nhắc Na Lan rằng nước đã sôi. Cô pha cho mình một cốc hồng trà. Chưa kịp nhấp ngụm nào, di động đã réo vang
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 2

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 11 giờ 55 phút, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

Lúc nãy đọc tin nhắn, Ba Du Sinh vẫn không tỏ thái độ gì, nhưng ba phút sau bước chân của anh đã hơi gấp gáp. Anh không thể liên lạc với di động của Na Lan và điện thoại của ký túc xá. Cũng đã nhắn tin và WeChat rồi nhưng không thấy hồi âm.

Anh tức tốc gọi cho bạn cùng phòng với Na Lan là Đào Tử. Không ai bắt máy. Anh gửi tin nhắn trên WeChat. Rồi tiếp tục suy nghĩ xem còn cách nào liên lạc với Na Lan.

À, lớp học! Na Lan thường tự chế nhạo rằng sau khi học xong nghiên cứu sinh, chắc cô sẽ biến thành con mọt sách, hoạt động giải trí chỉ là đến lớp học hoặc thư viện để tra cứu, đọc tài liệu và viết luận văn. Ba Du Sinh tìm mãi mới ra số của khoa Tâm lý đại học Giang Kinh để gọi điện.

Một giọng nam trả lời.

“Na Lan… cô ấy không có ở đây. Anh là…?” Hình như anh ta có vẻ cảnh giác.

Ba Du Sinh hỏi, “Có biết cô ấy đi đâu không?”

“Không. Na Lan có tạt qua hồi sáng, nhưng sau đó đi luôn.”

Ba Du Sinh nói, “Tôi ở Trinh sát Hình sự Sở Công an thành phố, mong anh cho biết họ tên và số điện thoại. Nếu anh gặp Na Lan thì bảo cô ấy gọi cho tôi, có lẽ tôi còn phải phiền anh lần nữa.”

“Không, không cần thiết, tôi cũng chỉ là một giảng viên ở lớp Na Lan…”

“Có việc rất quan trọng, mong anh hợp tác hỗ trợ, chúng tôi buộc phải tìm ra Na Lan ngay.”

Lấy được số điện thoại của anh giảng viên rồi, Ba Du Sinh tiếp tục đi đi lại lại để làm loãng cảm giác bế tắc.

Phải làm gì để liên lạc được với Na Lan?

Di động vẫn lặng ngắt như tờ.

Đào Tử trả lời trên Web Chat, “Muốn tìm Na Lan à? Em vừa thấy trên weibo ( Mạng xã hội phổ biến ở Trung Quốc. ) có ai đó đưa tin về vụ cướp táo tợn ở Dư Trinh Lý, huy động cả cảnh sát đặc nhiệm, anh không cần có mặt ở đó ư?”

Ba Du Sinh lập tức gọi vào di động của Đào Tử, “Tôi đang ở Dư Trinh Lý. Na Lan đang ở đâu? Chúng tôi cần cô ấy hợp tác.”

“Na Lan lại gây rắc rối à? Em cũng không biết cô ấy đang ở đâu.”

Ba Du Sinh không đả động gì đến vụ cướp, chỉ dặn Đào Tử nếu biết tin tức về Na Lan thì phải liên lạc với anh ngay.
Gọi điện xong, anh lập tức bảo một kỹ thuật viên của đội hình sự đang có mặt ở hiện trường phân tích xem máy của Na Lan có GPS không, có thể định vị được cô không.

Anh còn bảo một cảnh sát khác liên lạc với phó giám đốc công an đang trực chiến ở Sở để liên thông phối hợp tìm tín hiệu di động của Na Lan, nhờ trạm tín hiệu khoanh vùng vị trí của cô. Anh cũng biết là rất khó, rất tốn thì giờ mà chưa chắc đã có kết quả nhưng bắt buộc phải làm xem sao.
Thời gian vẫn lao nhanh, bất chấp tất cả. Năm phút đã trôi qua.

“Đội trưởng!” Điền Lợi Mân chạy lại, giơ máy di động chuyên dùng ra.

Ba Du Sinh thấy lòng trĩu nặng. Sau hai tin nhắn của băng cướp, phía cảnh sát vẫn chưa hề tiến triển, chắc lần này không thể là tin gì hay ho.

Đúng thế. Chỉ một câu, mà từng chữ đều như nhuốm máu: Mười phút nữa không thấy Na Lan, sẽ giết một người.
Khoảng ba tiếng đồng hồ trước khi xảy ra vụ án, tại đại học Giang Kinh.

Sau ba hồi chuông reo, Na Lan nhận ra người gọi đến là Quách Tử Phóng, phóng viên tờ Tin chiều Tân Giang. Cô hỏi, “Chắc không phải anh thúc dục tôi đấy chứ? Còn ba tiếng đồng hồ nữa mới đến giờ ăn trưa mà.”

Quách Tử Phóng, “Đâu dám! Chỉ là, đổi chỗ ăn.”

Na Lan cười, “Ba giờ trước bữa ăn, đổi địa điểm, thì có gì khá hơn chuyện thúc giục người ta?” Quách Tử Phóng vốn rất bẻm mép, nhưng lần này chỉ ậm ờ lúng túng, Na Lan bèn nói, “Tôi đùa thôi mà! Anh đã nói bữa trưa nay là phục vụ nhân dân phải không? Thế thì tôi không ngại địa điểm xa hay gần. Anh cứ cho biết đi?”

“Đã nghe nói đến Tiêu Tương chưa?” Quách Tử Phóng hay úp mở dềnh dàng, Na Lan không còn lạ lẫm gì, bèn đáp, “Không biết! Nghe tên này, có vẻ như nhà hàng Hồ Nam?”

“Cô em ơi, tôi chính thức cảnh tỉnh cô, hãy tiếp xúc với xã hội nhiều hơn! Tiêu Tương mà cũng không biết, chắc cô đã nghe nói đến lầu Ba Khắc chứ?” Anh ta ra vẻ ngạc nhiên.

Na Lan cũng giả bộ nghĩ ngợi, rồi trả lời, “À, nói thế tôi nhớ ra rồi, hình như là một hiệu ăn mới mở ở khu lầu Ba Khắc.”

“May mà cô chưa đến nỗi không thể cứu vãn!” Quách Tử Phóng ngậm ngùi.

Na Lan tự giác khai báo, “Kỳ thực tôi không nhớ ra! Tôi chỉ chồng hai thông tin của anh lên nhau mà thôi.”

“Kết luận của cô căn bản là đúng, nhưng không phải hiệu ăn mà là hội quán, một hội quán với nòng cốt là ẩm thực.”

Lúc này cửa phòng làm việc bỗng mở ra, một thanh niên trạc tuổi Na Lan bước vào, anh là Hảo Tấn Bằng, một giảng viên dạy năm thứ nhất ở khoa, nghe nói anh rất nhanh chóng được các chị em làm khoa học nhất trí đặt cho biệt hiệu “Bằng đẹp trai”.

Gần đây hình như anh đã tìm ra quy luật xuất hiện ở văn phòng của Na Lan, nên anh cũng sốt sắng “tăng ca” vào ngày cuối tuần nhằm tiếp cận người đẹp.

Anh thường đến trò chuyện với cô, muốn có dịp cùng ăn cơm với cô. Nhưng cô viện cớ đang ra sức giảm béo, bỏ ăn trưa vài bữa và bí mật ăn bánh quy lấp dạ dày. Trước mắt, Na Lan chỉ ứng xử cho lịch sự, nhưng cô chưa rõ mình sẽ kiên trì được bao lâu.

Hảo Tấn Bằng nói, “Kìa, càng ngày em càng đến sớm nhỉ?” Cứ như không nhìn thấy Na Lan đang nghe điện thoại. Na Lan ra hiệu đang bận, “Bằng đẹp trai” mỉm cười ra chiều xin lỗi rồi ngồi xuống chiếc bàn gần đấy, lấy di động ra giả vờ xem. Tư thế ngồi thoải mái của anh ta dường như tuyên bố: anh đây không sốt ruột, anh đây sẵn sàng chờ, để xem cô em có thể gọi điện được bao lâu.

Na Lan đang có nhiều điều muốn hỏi Quách Tử Phóng, ví dụ tại sao lại chuyển địa điểm, tại sao phải đến hội quán? Có biết gần đây các địa phương đang mạnh tay ra đòn vào các hội quán không? Tiêu Tương là hội quán thế nào… Nhưng cô bỗng cảm thấy không cần phải để Hảo Tấn Bằng nghe những điều này, nên nói vào di động, “Anh nhắn địa chỉ đó cho tôi vậy.”

Quách Tử Phóng kinh ngạc, “Thì ra cô không biết thật à?”

Na Lan đành mỉm cười, “Người xuất gia không nói dối.” Rồi cô chào tạm biệt.

Hảo Tấn Bằng tươi cười đứng lên, định bắt đầu tâm sự với Na Lan. Nhưng cô cũng đứng lên, thu dọn bàn làm việc, “Thầy thật cần mẫn, Chủ nhật cũng làm việc!”

“Nếu nói là cần mẫn, ở đây không ai bằng em.” Hảo Tấn Bằng nhìn Na Lan cầm một tập tài liệu photo lên, không rõ sau đây cô định thế nào.

Na Lan nói, “Tôi ngớ ngẩn quá, đã tự nhắc mình rồi mà vẫn quên cầm về nhà mấy tài liệu mà giáo sư Lư cho mượn, nên mới phải chạy đến đây.” Nói rồi cô bước ra ngoài văn phòng, “Tôi không cản trở thầy chuyên cần nữa, thầy đang phấn đấu ba năm được phó giáo sư, năm năm được giáo sư mà.”

Khoảng nửa tiếng đồng hồ trước khi xảy ra vụ án, tại hội quán Tiêu Tương.

Na Lan tìm đến hội quán Tiêu Tương theo địa chỉ mà Quách Tử Phóng cho biết. Thật ra, dù không có địa chỉ cụ thể cũng vẫn tìm được khu vui chơi giải trí mới ở trung tâm Dư Trinh Lý có rất nhiều lầu Ba Khắc này, ba tòa lầu ngói xanh sẫm tường đỏ nhạt trong khu dân cư, đã được tân trang như mới nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính ngày xưa, không khoe mẽ phô trương.

Chúng đã cố gắng xoa dịu những thành kiến về sự bề thế thanh cao, nhưng dù thu mình ra sao chúng vẫn nổi bật giữa các lầu Ba Khắc bụi bậm xám xỉn ở quanh đó. Hai chữ “Tiêu Tương” cách điệu mềm mại bay bướm là thủ bút của Lưu Bình Húc, bậc thầy thư pháp Giang Kinh, được thể hiện bằng đá trắng đen cao cấp trên nền tường hồng ánh bạc, đem lại cảm giác tao nhã thoát tục.

Tuy nhiên nó cũng không lấn át được dãy đèn lồng đỏ thắm và sắc màu trang trí lá hoa sặc sỡ ngoài cửa chào mừng ngày khai trương, mặc dù toàn bộ diện mạo của hội quán vẫn thể hiện sự vui mừng hơi kìm nén.

Lầu chính của hội quán là tòa lầu ở giữa ba tòa lầu Ba Khắc liền kề, trông cũng bề thế hơn cả, nó còn có riêng một khoảng sân. Từ chỗ Na Lan đứng nhìn vào thì thấy sân đó rất nhỏ, người ở trong sẽ thấy sân trước rộng rãi, còn sân sau hầu như không tồn tại, tường bao sân xây sát tòa nhà.

Các tòa lầu Ba Khắc ở Dư Trinh Lý đều sơn cổng chính màu đen hoặc xám sẫm, nhưng cổng chính của hội quán Tiêu Tương được sơn màu đỏ, hài hòa với tường ngoài, có thể coi nó như một “cửa son” mà không phô trương. Lầu chính, tường ngoài cao đến bốn năm mét, bên trong là tòa nhà ba tầng. Coi như kín cổng cao tường, lại nằm sâu trong ngõ.

Hai bên lầu chính là lầu Đông và lầu Tây. Chúng đều nhỏ hơn lầu chính, cũng có sân riêng. Nếu một ngày nào đó xin phép ủy ban địa phương cho mở thông sân lầu chính sang hai bên Đông, Tây, thì cả ba tòa lầu sẽ chung một cái sân. Tuy nhiên, đó là công trình không nhỏ, chắc sẽ phải thi công kéo dài và lỡ mất ngày lành hoàng đạo 18 tháng Năm này.

Trước mặt cả ba tòa lầu, không khí rất náo nhiệt, có các vị khách quý được mời đến chung vui, lại có rất đông du khách tham quan Dư Trinh Lý, họ còn chụp ảnh lưu niệm ngay trước hội quán rồi đăng luôn lên WeChat hay weibo. Na Lan nhận thấy hai tòa lầu bên phải bên trái có khách ra vào liên tục, trước mặt lầu chính tuy đông người qua lại nhưng thực khách ra vào chỉ lèo tèo vài người.

Địa điểm mà Quách Tử Phóng mời cô ăn trưa là lầu chính của hội quán Tiêu Tương. Cô ngạc nhiên, và ngờ ngợ liệu Quách Tử Phóng có báo nhầm cho cô không? Ăn ở một trong hai lầu phụ mới phải chứ. Cô mở WeChat xem lại mẩu tin nhắn, anh ta viết rõ là ở lầu chính.

Cửa son của lầu chính Tiêu Tương đang mở nửa chừng, Na Lan ngập ngừng tiến vào sân, đi thêm vài bước là đến cửa, rồi vào sảnh.

Bên trong im phăng phắc, như thể lễ khai trương náo nhiệt chỉ xảy ra ở hai lầu phụ, chứ lầu chính này không có hơi người. Tiền sảnh của lầu Ba Khắc thường không rộng, những lầu xây cất vào thập kỷ 30 thế kỷ trước thậm chí còn bỏ qua tiền sảnh, mà chỉ để một hành lang ngắn.

Tiền sảnh của lầu chính Tiêu Tương lại rộng rãi khác thường, không rõ là do được cải tạo hay do người chủ ban đầu giàu có nên đã để như vậy. Một thiếu nữ đứng ở cửa đón khách, cô mặc xường xám nền trắng hoa xanh, làn da mịn màng, mắt, mũi, miệng, cặp mày hàng mi đều hết sức thanh tú, như vừa từ trong tranh bước ra.

Cô mỉm cười, “Xin lỗi, lầu chính Tiêu Tương là không gian có tính chất riêng tư.” Rồi cô ta nhìn tờ giấy hồng đặt trên bàn. “Danh sách đặt chỗ, hình như không có chị.”

Na Lan hỏi, “Tôi chưa tự giới thiệu, sao cô biết tôi là ai?”

Đôi má trắng mịn của cô gái hơi ửng hồng, “À, xin lỗi, tôi chưa nói rõ: hôm nay các cổ đông của hội quán đã bao cả lầu chính này, khách dùng bữa trưa đã đến đông đủ, cho nên tôi biết chắc không có chị.”

Gã Quách Tử Phóng chết tiệt, chờ đấy, tôi sẽ cho anh một trận.

Như thể nghe được Na Lan đang giận giữ trách cứ, một người đứng tuổi cao gầy liền lách vào sân. Anh ta đeo cặp kính ngồ ngộ đã lỗi mốt từ thế kỷ trước, có cái cổ dài ngoẵng và mái tóc thưa nhưng rối tinh rối mù. Chính là một trong số ít phóng viên nổi danh Giang Kinh - Quách Tử Phóng!

Anh ta gật đầu với Na Lan rồi bước đến chỗ cô gái tiếp tân, “Em ơi, bọn anh mới đặt chỗ ở Túy Hoa Âm trên tầng ba.”

Na Lan mỉm cười, “Túy Hoa Âm nào? Anh đang nói tiếng lóng với cô em đó à?”

“Túy Hoa Âm là tên một gian riêng ở lầu này. Các gian ở Tiêu Tương đều được đặt tên. Trước mặt em gái này, anh không nói những từ ngữ trưởng giả học làm sang đâu!” Quách Tử Phóng tỏ ra rất đắc ý với câu nói đùa rất ít thiện chí của mình, đầu anh lắc lư khoái trá.

Nhưng cô gái nền nã này lại không “bắt tín hiệu”, cô cau mày, không rõ là vì khó chịu với mồm miệng Quách Tử Phóng hay vì cô lúng túng. Cô lại nhìn tờ giấy hồng đặt trước mặt, lắc đầu, “Không có ai mới đặt chỗ cả!”
Na Lan bèn nhìn sang tờ giấy hồng đặt trên bàn, thấy thiết kế các cột các hàng rất đẹp mắt, cô khẽ hỏi, “Tờ giấy này ở đâu ra?”

“Từ máy tính in ra.”

“Có lẽ hội quán của các cô sử dụng một phần mềm chuyên dùng đặt chỗ, phần lớn các phần mềm như thế này cũng liên thông, phiền cô xem lại có trang nào cập nhật hơn không?”

Na Lan lại nói với Quách Tử Phóng, “Người hẹn với chúng ta là…”

Quách Tử Phóng nói, “Tạm thời tiếp tục giữ bí mật.”

Cô gái bèn rảo bước vào trong, rẽ vào gian phụ phía Đông, là văn phòng tiếp tân của lầu chính thì phải. Chưa đầy hai phút sau, cô ta trở ra, vẻ áy náy, “Vâng, rất xin lỗi. Đúng là danh sách đặt chỗ đã cập nhật, đúng là ở gian Túy Hoa m, là gian nhỏ bốn chỗ ngồi, danh sách ghi là đặt ba chỗ. Đúng không ạ?”

Quách Tử Phóng nói, “Hoàn toàn đúng! Em cứ mạnh dạn đi trước dẫn đường cho bọn anh đi!”

Cô gái mỉm cười, hình như định nói gì đó nhưng lại thôi. Cô nghiêng người, chìa tay ra, “Mời anh chị lên gác ạ!” Nói rồi cô đi trước dẫn đường.

Quách Tử Phóng đi sát phía sau, nói, “Cô em định nói gì thì cứ nói đi?”

“Không ạ! Em cảm thấy rất có lỗi với anh chị.” Vẻ mặt cô ta rất chân thành.

Na Lan nói vui, “Lúc nãy cô ấy có ý nhắc anh rằng, hội quán Tiêu Tương là hạng đẳng cấp, không có phòng karaoke đâu! Nếu anh muốn hát những bài dân ca cổ lỗ sĩ thì cứ ra đường Giang Hưng Trung, rất sẵn các phòng karaoke!”
Cô gái ngạc nhiên ngoảnh đầu, “Đúng thế! Sao chị lại biết được?”

Na Lan thầm ngạc nhiên vì cô gái này ứng biến rất linh hoạt, mình chỉ thuận miệng nói thế thôi mà cô ta có thể hồi âm ngay lập tức. Cô ta được giao trách nhiệm đón khách ở lầu chính là phải. Biết đâu, vừa nãy cô ta “lớ ngớ” không xem bản danh sách đặt chỗ đã cập nhật, chỉ là giả bộ thế thôi?

Na Lan bèn hỏi, “Trên máy tính có ghi rõ người đặt chỗ là ai không?”

Cô ta lắc đầu, “Không thấy ạ! Chẳng lẽ anh chị lại không biết mình sẽ dùng bữa với ai à?”

Quách Tử Phóng nói, “Bọn anh cũng không biết. Có lẽ chủ chi muốn giữ bí mật đến phút chót.” Anh giơ tay xem đồng hồ. “Chắc là trong vòng mười phút nữa sẽ bật mí.”

Na Lan lấy làm lạ, “Hệ thống lại không thể hiện ai đứng ra đặt chỗ, thì quả là hiếm có! Ít ra cũng ghi là ông X bà Y hoặc số di động mới phải chứ?”

Cô gái nói, “Thông thường là thế, nhưng lần này thì không, chỉ ghi tên phòng, ba người, và các món ăn đã chọn.” Cô ta nghĩ ngợi, rồi gật đầu, “Rất có thể là… người trực điện thoại đặt chỗ đã có chút nhầm lẫn, thấy lầu Đông và Tây đã hết chỗ, bèn chuyển sang lầu chính này. Chúng em đều biết quy tắc ở đây: không dễ gì đặt được chỗ các gian ở lầu chính.”

Na Lan thầm nghĩ, nếu lớ ngớ đặt nhầm phòng rồi lại lớ ngớ quên ghi lại họ tên người đặt chỗ, một nhân viên hai lần lớ ngớ như thế thì có thể hành nghề được bao lâu nữa?

Tầng hai cũng im lặng như tầng trệt. Nếu không nhìn thấy một cậu phục vụ cầm hai chai rượu vang đẩy cửa bước vào một gian phòng, ở trong vọng ra tiếng người nói khe khẽ, thì Na Lan sẽ ngỡ tầng này không có một ai. Cô đưa mắt nhìn tấm biển gắn trên cánh cửa dày nặng của gian phòng ăn đó, viết ba chữ “Mãn Giang Hồng”.

Cô gái tiếp tân dẫn hai người lên tầng ba, rồi dừng lại trước cửa một gian phòng. Tấm biển gắn trên ô cửa trúc màu vàng sẫm viết ba chữ “Túy Hoa m” theo lối Lệ thư. Mở cửa, thấy nên trong bày một bàn vuông không rộng, và bốn ghế mây có đệm êm, phong cách như ngồi chơi ở sân vườn. Tầng ba còn một gian nữa cũng cửa trúc, đang đóng im ỉm, bên trên viết ba chữ “Động Đình Xuân”.

Quách Tử Phóng ngồi luôn xuống ghế. Cậu phục vụ ban nãy nhìn thấy liền bước vào hỏi. “Anh chị dùng đồ uống gì ạ?”

Cô gái tiếp tân mỉm cười, nói với hai người, “Rất mong anh chị sẽ hài lòng với trải nghiệm ở hội quán Tiêu Tương hôm nay.” Nói rồi cô quay ra, đi xuống tầng dưới.

Na Lan gọi hồng trà, Quách Tử Phóng gọi bia. Phục vụ nói, “Thực đơn hôm nay đã bao gồm rượu vang, có cần tôi mở một chai không?”

Quách Tử Phóng và Na Lan nhìn nhau. Na Lan nói, “Chúng tôi còn một người nữa chưa đến. Chờ đã, rồi mở rượu sau.”

Cậu ta lui ra. Na Lan nói, “Tôi có cảm giác như đang nằm mơ.”

“Không đến nỗi thế!” Hình như vóc người gầy gò của Quách Tử Phóng không hợp với chiếc ghế mây, anh ta cứ ngọ ngoạy mãi. “Chẳng qua chỉ là một hội quán tư nhân thôi mà. Cô đóng cửa tu hành lâu ngày, nhưng đâu phải là người xa lạ với đời sống xung quanh?”

Quách Tử Phóng là phóng viên của tờ Tin chiều Tân Giang, đã từng đến phỏng vấn Na Lan về vụ án “năm xác chết”. Với tính cách của Na Lan, nhà báo nói chung là cô đã muốn trốn biệt, huống hồ Quách Tử Phóng luôn gây cho người ta ấn tượng là một gã hay động chân động tay, mồm mép thì ba hoa chích chòe, thoạt đầu còn không ít lần bị Na Lan “cấm cửa”. Về sau, Ba Du Sinh đứng ra dàn hòa, nói rằng Quách Tử Phóng là một phóng viên đáng tin cậy, từng nhiều lần đưa tin các vụ trọng án ở Giang Kinh rất sát sao, phải chăng.

Sau khi tiếp xúc với Quách Tử Phóng, Na Lan mới tin các nhận xét của Ba Du Sinh, và hiểu rằng cái khoa nói và cái mặt dày là yêu cầu của nghiệp vụ, có cũng là tấm màn che yểm hộ cho tính cách thực sự của anh. Thật ra anh là con người giàu tình cảm, rất tinh ý, từ đó hai người trở thanh bạn hữu.

Na Lan nói, “Chẳng phải tôi phát hoảng vì sự bề thế của hội quán, mà là, có cảm giác khởi nguồn và diễn biến của bữa ăn này không chân thực: người trung gian thì úp úp mở mở, sau đó chuyển địa điểm, việc đặt chỗ cũng mù mờ. Tiếp đó là cái hội quán này, hai lầu phụ náo nhiệt, lầu chính thì lạnh lẽo thiếu vắng hẳn không khí mới khai trương…”
“Có gì lạ chứ? Cô cũng thừa biết gần đây các hội quán bị chà xát mạnh, cho nên họ không muốn phô trương ầm ĩ. Lúc này là buổi trưa, phải đến tối thì mới thực sự đông vui.

Người trung gian của chúng ta lúc này đặt được chỗ, chứ tối đến thì chắc chắn chỗ này chật ních, đừng hòng chen vào được.” Quách Tử Phóng tiếp tục điều chỉnh tư thế ngồi.

Na Lan hỏi, “Anh thử nói đôi nét về người trung gian đó xem nào?”

Quách Tử Phóng than thở, “Cô lại bắt bí tôi rồi. Tôi cũng chỉ biết như cô biết mà thôi.”

Mấy hôm trước, Quách Tử Phóng nhận được mẩu tin nhắn nặc danh trên di động, nói là có tin nóng sốt mà chắc chắn Tin chiều Tân Giang sẽ rất thích, nhưng muốn nói chuyện trực tiếp với phóng viên Quách Tử Phóng, đồng thời gọi thêm Na Lan, chính là cô Na Lan trải qua mấy vụ trọng án mà anh từng phỏng vấn viết bài. Khứu giác nghiệp vụ khiến Quách Tử Phóng lập tức hỏi: có liên quan tới các vụ trọng án ngày trước không, thì đối phương nói: chờ khi gặp nhau sẽ biết. Lúc đầu đưa ra địa điểm là phòng ăn xoay tròn trên nóc quảng trường Đằng Long, sau ba tiếng đồng hồ, người ấy chuyển địa điểm tới hội quán Tiêu Tương này.

“Nếu địa điểm gặp mặt không phải ở chốn công cộng đông người, thì tôi sẽ cho rằng họ đặt bẫy gì đó, xấu chơi…” Vừa lúc phục vụ bước vào nên Na Lan không nói hết câu.

Quách Tử Phóng nói, “Yên tâm đi! Không phải tôi mới một hai lần trải qua tình huống na ná thế này. Các tin độc độc quyền, các tin ngoài lề mà phóng viên có được đều từ hình thức này mà ra.”

Anh sốt sắng tợp ngụm bia đang trào bọt, rồi ợ một cái thật to. “Huống chi, hôm nay cô cũng nhìn thấy rồi đấy, có thể đặt chỗ tại lầu chính của hội quán Tiêu Tương, thì không phải nhân vật tầm thường đâu… Trừ phi, cô tin vào mấy câu lý luận của cô em ngồ ngộ phụ trách đặt chỗ ở dưới tầng trệt ấy.”

Na Lan nói, “Kể cũng hơi có lý. Nhưng không tầm thường đến mức nào? Vừa nãy nhìn thấy ở tầng hai cũng có người đang ăn mà?”

“Theo bố cục của lầu Ba Khắc, thì chính giữa tầng hai là đại sảnh, nơi chủ nhà chiêu đãi khách quý và người nhà. Ngày xưa, khi tất cả các phòng đều cho thuê, thì đại sảnh là nhà ăn chung và là trung tâm hoạt động vui chơi giải trí.

Có lẽ khu vực đó đã được sửa chữa thành hai gian phòng ăn chính, trong gian đó hôm nay có hai cổ đông của hội quán Tiêu Tương và những người bạn trong thương trường với họ, ấy là tôi đoán thế…”

Quách Tử Phóng nói.
Na Lan chưa hiểu, “Sao anh biết trong gian đó là những người như thế nào?”

Quách Tử Phóng cười rất đắc ý, “Lúc nãy cậu phục vụ cầm chai rượu mở cửa bước vào, tôi đã liếc thấy hai ông chủ của hội quán là Đới Hướng Dương và Lương Tiểu Đồng có mặt bên trong.”

Na Lan mỉm cười, “Nhà nghề có khác, mắt anh tinh thật!”

Cô cũng biết cái quy tắc này: ngồi bàn tròn, thì đa số người ngồi nhìn ra cửa, là chính chủ mở tiệc đãi khách, ngó vào là thấy họ thôi.

Cô hỏi, “Đằng nào chủ chi cũng chưa đến, anh thử đoán xem tại sao người cung cấp tin cho chúng ta lại chuyển địa điểm đến đây?”

Quách Tử Phóng gãi đầu gãi tai nghĩ ngợi một lúc, mới nói, “Điều này… khả năng không lớn lắm, có lẽ ông anh này thích làm bộ làm tịch, thích thách thức bản thân, cảm thấy nhà ăn quay giữa vũ trụ trên đỉnh quảng trường Đằng Long tuy sang trọng thật nhưng vẫn đại chúng, quá dễ đặt chỗ, nên mới tìm nơi khác vừa khó đặt chỗ vừa có sức ảnh hưởng, thì lầu chính Tiêu Tương vào ngày khai trương là nơi hội đủ điều kiện này!”

Na Lan nói, “Nghe hơi khiên cưỡng. Ông anh - giả sử là nam giới - ấy, bí hiểm thậm thụt như thế, xem ra không phải là người thích phô trương và tự làm khó bản thân.”

“Cách nói của cô cũng khiên cưỡng. Nhiều khi, những thể hiện khiêm tốn lặng lẽ lại là khúc dạo đầu của sự phô trương, người ta tạm nén nhằm kích thích tò mò, sau đó mới nổ vang trời! Tôi ngày xưa làm phóng viên ngành giải trí cũng từng dùng cái chiêu này.”

Ngày xưa Quách Tử Phóng là phóng viên lĩnh vực giải trí cho tờ báo còm, báo lá cải Thanh Giang buổi chiều, từng sống rất chật vật, nhưng với bản lĩnh trơ lì và bền bỉ không lùi, anh gần như đã bao sân toàn bộ chương trình giải trí của các báo “buổi chiều”. Cuối cùng anh được tờ Tin chiều Tân Giang bề thế mua về, trước hết anh là nòng cốt nghiệp vụ trang giải trí của ông chủ mới, sau đó trở thành cây bút chủ lực của trang đời sống xã hội. Cách đây sáu năm, khi vụ án “năm xác chết” xảy ra, chủ biên trang pháp chế không tin cánh phóng viên trẻ tốt nghiệp chính quy có thể gặm nổi mục này, bèn mời Quách Tử Phóng phụ trách chuyên đề về các vụ án lớn. Ba năm sau, nhờ Na Lan mà vụ án “năm xác chết” khép lại được, Quách Tử Phóng lại càng trở thành duy nhất, bởi anh là người đầu tiên phỏng vấn Na Lan, rồi trở thành bạn cô.

Năm ngoái, Na Lan và vụ án “chặt ngón tay” gây chấn động bốn phương, Quách Tử Phóng một lần nữa trở thành trụ cột của tờ Tin chiều Tân Giang.

Na Lan nói, “Xem ra, chỉ còn cách chờ nhân vật đình đám này xuất hiện vậy!”

Chờ. Năm phút đã trôi qua. Bia và hồng trà đối ẩm, nhân vật đình đám ấy vẫn chưa đến.

Cuối cùng, Quách Tử Phóng mở di động gọi số máy bắt đầu bằng 137, kết quả, một giọng nói đầm ấm cho biết, “Xin lỗi, số máy này không có.”

Na Lan nhận xét, “Tôi có một cảm giác rất tệ.”

Quách Tử Phóng bực mình tắt máy, “Dạ dày tôi vẫn đang rất háo hức, đằng nào thì cũng gọi món rồi, chúng ta cứ ăn, tòa soạn sẽ thanh toán.

Dù sao cũng là một dịp đến hội quán tư nhân dùng bữa, coi như cũng được trải mùi đời.”

Các món ăn chưa thấy đâu thì đã nghe thấy tiếng súng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 3

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 12 giờ trưa, tại hiện trường vụ cướp hội quán Tiêu Tương.
Mười phút, Na Lan không đến, giết một người.

Ba phút đã nhanh chóng trôi qua, Ba Du sinh lại gọi điện cho Na Lan và Đào Tử. Máy Na Lan không ai nghe, Đào Tử vừa ra ngoài ăn cơm, giờ đã về đến ký túc xá, vẫn chưa tìm thấy bất cứ manh mối nào trên bàn học của Na Lan cho biết vị trí hiện nay của cô.

Lại một phút nữa trôi qua.

Di động của Ba Du Sinh đổ chuông. “Hảo Tấn Bằng đây! Vừa nãy tôi và anh nói chuyện.” Giọng anh giảng viên, anh nhấc máy ở phòng làm việc của Na Lan.

“Thế nào rồi?” Ba Du Sinh hỏi.

Giọng Hảo Tấn Bằng có vẻ bức xúc, “Lúc trước điện thoại với anh, tôi hoàn toàn không biết tình hình cấp thiết. Tôi không biết vụ án đang xảy ra ở Dư Trinh Lý. Vừa thấy có người tung ảnh lên WeChat nên mới liên tưởng đến…”
Ba Du Sinh hít sâu một hơi, “Anh nói đi?”

“Thật ra tôi không biết Na Lan hiện đang ở đâu, nhưng lúc tôi tạt vào phòng làm việc thì vô tình nghe thấy cô ấy gọi điện thoại cho ai đó, có nhắc đến hiệu ăn mới mở ở lầu Ba Khắc thì phải…”

Ba Du Sinh thấy trán mình bắt đầu lấm tấm mồ hôi: hiệu ăn lầu Ba Khắc! Lẽ nào lại có chuyện ngẫu nhiên kiểu này?

Anh biết khu vực lầu Ba Khắc không chỉ có một vài quán ăn, nhưng kết hợp với vụ cướp đang xảy ra ở hội quán Tiêu Tương, anh không thể không liên tưởng…

Hảo Tấn Bằng ngập ngừng, chắc là vì muốn nghe phản ứng của Ba Du Sinh, nhưng không thấy gì, anh đành nói tiếp, “Trước đó, hình như cô ấy nói một câu ‘nghe tên, có vẻ như chuyên món ăn Hồ Nam’…”

Hồ Nam, Tương, Tiêu Tương. Ba Du Sinh nói, “Rất cảm ơn anh đã hợp tác, thông tin anh cho biết là rất quan trọng.”
Năm phút đã trôi qua.

Ba Du Sinh hỏi Khương Minh phụ trách sơ tán, “Khách ở hai lầu phía Đông, Tây hội quán thì sao?”

Khương Minh xoay người trỏ về phía đầu đường đi vào Dư Trinh Lý, “Tạm thời để họ chờ trong vùng cảnh giới trên đường Giang Hưng Trung, có thể có một vài người đã tản đi nhưng đa số vẫn đứng đó.” Lúc đến nơi Ba Du Sinh đã nhìn thấy đám đông trong vùng cảnh giới, nhưng không nhìn thấy Na Lan, cũng biết nếu cô ấy có trong số được sơ tán, với sự nhạy cảm cố hữu, chác chắn cô sẽ quan tâm đến diễn biến tình hình và không thể không trả lời điện thoại.

Thế rồi anh có một phán đoán, phán đoán khiến anh nhói tim.

Anh gọi Vương Chí Huân và Điền Lợi Mẫn đến. “Tôi vừa nhận được một tin, rất có thể Na Lan đang ở trong lầu chính của hội quán.”

Mười giây trầm mặc, quá đủ để biểu lộ sự kinh ngạc của mọi người.

Lúc này, nữ cảnh sát phụ trách định vị di động của Na Lan mặt đỏ phừng phừng chạy lại báo cáo Ba Du Sinh: di động của Na Lan không phát tín hiệu GPS, có lẽ máy cô không có GPS hoặc đã tắt nguồn hoàn toàn. Tắt máy như bình thường, thì tín hiệu GPS vẫn phát, tắt nguồn hoàn toàn tức là tháo hẳn pin ra hoặc máy bị va đập, bị vỡ, hỏng mất phần GPS thì máy mới mất tín hiệu GPS.

“Cho nên tôi đành lần lại tuyến đi trước đó theo GPS của máy cô ấy.” Nữ cảnh sát cố nén phấn khích. “Tôi hoàn toàn không ngờ…” Cô chỉ vào tòa lầu chính trước mặt. “Trước khi tắt nguồn hoàn toàn, thì máy ở ngay trong tòa lầu kia!”
Ba Du Sinh, “Đã bao lâu rồi?”

“Mười lăm hai mươi phút.”

Ba Du Sinh nhẩm tính, tức là gần thời điểm băng cướp gửi tin nhắn.

Điền Lợi Mẫn nói, “Có lẽ cô ấy vẫn chưa phải là con tin, cho nên bọn cướp mới đòi chúng ta cho gặp.”

Khương Minh hỏi, “Ý cô là, cô ấy tuy đang ở trong lầu nhưng đã nấp kín? Nếu thế thì chúng ta càng không thể cho chúng biết Na Lan đang ở đâu.”

“Dù chúng ta tìm Na Lan ở bên ngoài, thì cũng chỉ là để cô ấy đứng ra thương lượng kia mà?” Vương Chí Huân thắc mắc.

Điền Lợi Mẫn nói, “Không hẳn là thế. Có nhiều cuộc thương lượng chỉ cần thực hiện qua di động, gọi loa, thậm chí nhắn tin, để giải quyết.”

Vừa nói đến nhắn tin, thì máy di động chuyên dùng đã có tin nhắn mới: Còn hai phút nữa.

Trong mấy phút vừa rồi, các kỹ thuật viên đã tra ra: bọn cướp dùng di động của Lương Tiểu Đồng để nhắn tin cho cảnh sát. Lương Tiểu Đồng là một trong những cổ đông của hội quán Tiêu Tương, rất có thể cũng đang là con tin. Bọn cướp sẽ cướp di động hoặc ép Lương Tiểu Đồng tự tay nhắn tin. Cũng có khả năng Lương Tiểu Đồng là kẻ cướp, nhưng tại sao anh ta phải cướp hội quán của chính mình? Khả năng này gần như bằng không. Ngoài ra cũng đã tra được số điện thoại báo công an: phát ra từ ngay lầu chính của hội quán.

Thời gian vẫn từng giây trôi đi, các cán bộ phụ trách đều vô kế khả thi, nhấp nhổm như ngồi trên chảo nóng. Ba Du Sinh bỗng nói, “Trả lời chúng: bảo chúng truyền ảnh của toàn bộ con tin là nữ đang ở trong đó ra, và hứa rằng một hai phút nữa Na Lan sẽ đến.”

Điền Lợi Mẫn thoăn thoắt bấm phím, nhắn tin trả lời. Bọn cướp cũng hồi âm rất nhanh: Không phải lúc các người ra điều kiện.

Khương Minh làu bàu nguyền rủa. Vương Chí Huân nói, “Anh Sinh…” Cả Sở Công an chỉ có một số ít đồng nghiệp là “chiến hữu kỳ cựu” gọi Ba Du Sinh một cách thân mật là “anh Sinh”, Vương Chí Huân gọi thế, nhằm thể hiện tình cảm và sự cổ vũ anh hãy quyết đoán, nhưng anh chầm chậm xua tay, tay kia day day thái dương. Anh đang nghĩ đến một quyết định gian nan.

Máy di động chuyên dùng lại đổ chuông tình tang: Còn một phút nữa.

Khoảng hai mươi lăm phút trước khi xảy ra vụ án. Tại lầu chính của hội quán Tiêu Tương.

“Đoàng!” Một tiếng nổ vang, gây chấn động cả khu lầu Ba Khắc.

Na Lan bỗng mở to mắt. “Tiếng súng!”

Yết hầu gồ to của Quách Tử Phóng khẽ động đậy, anh mỉm cười không mấy tự tin, “Tiếng súng? Chắc không đến nỗi giật gân như thế đâu. Nên nhớ hôm nay là ngày khai trương hội quán, chắc là tiếng páào chào mừng khai trương.”
“Đốt pháo mừng sao chỉ nổ một tiếng?” Na Lan nhìn ra ngoài cửa sổ.

Như để xóa tan mối nghi ngờ của cô, “tạch, tạch, tạch…” một loạt tiếng pháo rền vang, âm thanh tan xác pháo nghe thật vui tai. Quách Tử Phóng liền nâng cốc, nhưng anh nhận ra Na Lan cau mày rõ chặt. Cứ thế ngồi im một lúc, cô bỗng đứng dậy nói, “Tiếng nổ lúc nãy đúng là tiếng súng!”

Quách Tử Phóng biết rất rõ tuổi xuân đầy biến động của Na Lan qua các vụ án, và cũng nghe một số tin đồn nữa, ví dụ về đời sống tình cảm mơ hồ, thực thực hư hư, về kho báu dưới đáy hồ đã tìm thấy nhưng lại mất tích, về việc cô đã từng điều trị thần kinh không chính thức. Anh đoán rằng sau mấy lần cận kề cái chết, Na Lan khó tránh khỏi trở nên nhạy cảm, bèn an ủi, “Nghe một âm thanh riêng rẽ, tất nhiên khác với nghe một chuỗi âm thanh…”

Na Lan đã bước ra đến cửa phòng đang khép hờ, cô không giải thích gì thêm, chỉ nói, “Tôi từng nghe thấy tiếng súng, va không chỉ một lần.” Rồi cô nghiêng đầu lắng nghe động tĩnh ở tầng dưới.

Quách Tử Phóng biết Na Lan từng tiếp xúc với tiếng súng qua mấy lần tham dự vào các vụ án, anh cũng biết Na Lan đã từng đến trường bắn để tập súng, nên anh càng khâm phục trực giác chính xác của Na Lan trong những phen trải nghiệm nguy hiểm.

Lẽ nào là tiếng súng thật?

Tiếng súng nghe thấy trong các vụ án kinh thiên động địa, tiếng súng nghe thấy ở trường bắn, tiếng súng nghe thấy hoặc không nghe thấy khi đeo chụp tai… có giống nhau không? Liệu có phải chỉ là tại thần kinh Na Lan quá nhạy cảm?

Anh cũng chăm chú lắng nghe. Ở tầng dưới có tiếng bước chân gấp gáp, bận rộn. Một số tiếng gắt tiếng quát nghe không rõ, và cả tiếng phụ nữ kêu thét lên.

“Có thể là có người đang cãi nhau đánh nhau.” Quách Tử Phóng biết, ở những trung tâm giải trí cao cấp cũng khó tránh khỏi xảy ra xung đột. “Chúng ta cứ uống đi!”

Na Lan nói, “Tầng hai, các ông chủ đang chiêu đãi khách, nhưng họ chỉ vừa mới bắt đầu, ít có khả năng đã uống say rồi đánh nhau.” Cô lại lắng nghe một lúc. “Hình như nghe thấy câu ‘tất cả, cấm nhúc nhích’…”

Quách Tử Phóng ngẩn người, “Chắc là có nhân viên bảo vệ trị an…” Nhưng rồi anh lại có cảm giác là không đúng. “Thế là có ý gì nhỉ?”

“Bọn cướp!”

Quách Tử Phóng lấy di động ra, “Tôi báo công an.” Tiếng súng, tiếng hét, và “cấm nhúc nhích”… Thực đáng ngờ, điều anh nghĩ đến trước hết là: tin nổi bật do phóng viên mục kích hiện trường đưa tin.

Tiếp đó anh nghe thấy nhiều tiếng bước chân chạy rầm rập lên tầng.

Na Lan đã khoác túi, đấy cánh cửa sổ độc nhất của gian phòng, “Mau chạy thôi!”

Quách Tử Phóng nhất định bắt Na Lan phải chui ra trước. Cả hai đều chưa đến lầu Ba Khắc bao giờ, chỉ biết đại khái về cấu trúc của nó nên cũng chỉ áng chừng đường đi lối lại, họ nghĩ cách chạy xuống tầng trệt rồi chạy vào đám đông ngoài phố là xong.

Bên dưới cửa sổ là một khung sắt sơn đỏ, áp tường, tựa như lan can, dài chừng một mét, rộng nửa mét, cao nửa mét, không thể coi là ban công hóng mát, chỉ có thể đặt ở đây một hai chậu hoa mẫu đơn. Na Lan cảm thấy may mắn vì hôm nay cô ăn mặc khá gọn gàng, lúc này quần bò sẽ tiện lợi hơn hẳn váy áo diêm dúa làm nổi bật các đường cong của cơ thể.

Tay cô nắm lan can, thả người xuống. Hai chân đặt lên cái gờ nhô ra, đây là gờ phía trên cửa sổ tầng hai, chất liệu nhôm hoặc nhựa, có tác dụng trang trí, chắn nước mưa chứ không thể chịu nổi sức nặng của cơ thể người. Nhìn xuống phía dưới, thấy cửa sổ tầng hai cũng có cái khung kim loại như trên này. Cô lúng túng giẫm mạnh vào cái gờ, nó bật tung, cô bị rơi xuống dưới nhưng đã may mắn nắm đúng cái khung kim loại ở tầng hai.

Lại nhìn xuống dưới, thấy chỉ còn cách mặt đất vài mét, cô tụt dần xuống. Đế giày da lúc này cũng được việc hơn hẳn giày cao gót.

Quách Tử phóng cũng tụt xuống theo cách đó.

Lúc cả hai đứng thẳng lên mới nhận ra mình đang đứng ở nền giếng trời của lầu Ba Khắc, nói cách khác, cả hai vẫn đang ở trong tòa lầu.

Lúc này họ cũng nhận ra đứng trước mặt là một gã bịt mặt, mặc quần áo đen, và một họng súng đen ngòm chĩa vào họ. “Còng lại!”

Thế rồi có tiếng lách cách, một gã bịt mặt nữa xuất hiện, tặng cho họ một bộ còng tay. Quách Tử Phóng giả vờ ngơ ngác, “Chỉ một bộ, thì đủ sao được?”

Báng súng lập tức nện vào sống lưng anh, “Mỗi đứa một tay!”

Thế là tay trái Na Lan và tay phải Quách Tử Phóng được còng chung một còng.

“Lên gác!” Gã bịt mặt lia ngang nòng súng tự động đang cầm. Chỉ mấy từ ngắn ngủi, nên Na Lan chưa nhận ra gã nói giọng địa phương nào, cô nhìn kỹ khẩu súng nhưng cũng không nhớ ra ngay là loại súng gì, cô tự trách mình mấy lần cùng Ba Du Sinh đến trường bắn để học xạ kích nhưng vẫn chưa tìm hiểu kỹ.

Cả hai rất biết súng đạn vô tình chẳng nể nang ai, đành bước đi theo nòng súng ra hiệu. Họ đi vào một cửa lớn đang mở, bên trong lổng chổng soong nồi bát đĩa thìa đũa, quát hút khói vẫn đang chạy. Đây là nhà bếp. Các đầu bếp đang nấu dở dang cũng vội dời đi, có lẽ họ cũng như cô và Quách Tử Phóng, trước sức mạnh của họng súng, đành phải đi tới một nơi chưa rõ sinh tử ra sao, tuy nhiên họ cũng không quên tắt bếp.

Na Lan biết rằng hôm nay ngày lành tháng tốt, hội quán khai trương, đồng thời xảy ra vụ cướp.

“Cấm nhúc nhích!” Tiếng quát dường như từ tầng hai vọng xuống. Trên đại sảnh ở tầng hai đang mở tiệc, không rõ số lượng người, nhưng ít ra cũng phải huy động một hai người cho chắc ăn, và ít nhất là một khẩu súng, thì mới có thể khống chế nổi. Cũng cần một hoặc hai người nữa để khống chế cô gái ở quầy tiếp tân, cậu phục vụ bàn và đầu bếp. Chứng tỏ bọn cướp phải có ít nhất ba bốn tên.

Đi qua nhà bếp, thì đến một hành lang ngắn, sau đó là đầu cầu thang ở cuối tiền sảnh. Đằng xa là quầy tiếp tân trơ trọi, không thấy cô gái mặc áo nền trắng hoa xanh đâu, chắc hai cổ tay thon thả của cô cũng đã được còng sắt “bảo vệ” rồi. Cổng chính của lầu chính đóng chặt.

Cả hai đều nhớ cái mệnh lệnh “lên gác”, nên họ cũng bước lên cầu thang. Cửa đại sảnh đang mở, bên trong đã có mấy người đều ngồi xổm quay mặt vào tường, hai tay giơ lên, bất động. Nhìn kỹ, thấy rằng hai người ngồi cạnh nhau đều bị còng chung một còng.

Cô gái tiếp tân và một thanh niên cao to mặc quần áo bảo vệ bị còng chung một còng, anh bảo vệ ngồi co ro, trên đầu gối phải có vết máu loang, chắc là người bị thương vì phát súng ban nãy. Một gã bịt mặt mặc đồ đen, tay cầm súng máy, khống chế toàn thể đám người ở đây.

Na Lan nghe thấy tên cướp đứng phía sau nói, “Sém chút nữa bọn chúng chạy mất!” Là giọng vùng nào nhỉ? Tiếng phổ thông rất chuẩn, nhưng “sém chút nữa” chứ không phải “suýt chút nữa”, tức là giọng miền Nam.

Một bàn tay đưa ra tước đoạt chiếc túi đeo vai của Na Lan, rồi lại thò vào túi áo Quách Tử Phóng tước đoạt chiếc di động và chùm chìa khóa của anh, sau đó ném lên mặt bàn đầy bát đĩa và đồ ăn còn ngồn ngộn. Na Lan nhìn thấy trên bàn có một đống di động, chìa khóa và ví tiền.

Tên cướp đứng ở đại sảnh nói, “Ngồi xuống như bọn họ. Biết điều thì được an toàn. Chớ tìm cách này nọ. Nhìn thằng ngu kia, sẽ biết hậu quả là gì.” Cũng nói tiếng phổ thông rất chuẩn nhưng có âm sắc miền Bắc.

Na Lan và Quách Tử Phóng cùng ngồi xuống. Tên miền Nam nói với tên miền Bắc, “Đại ca bắt đầu đào kho báu rồi chứ?”

Tên miền Bắc, “Đại ca bảo mày đến rồi thì sang đó giúp một tay.”

“Mày có kiểm soát nổi không?” Tên miền Nam hỏi.

“Tao, đương nhiên không thể.” Tên miền Bắc cười khẩy. “Nhưng khẩu súng này thì có thể. Tao vừa thử rồi, dùng rất ngon lành.”

Tiếng bước chân đi xa dần, tên miền Nam sang giúp “đại ca” đào kho báu.

Na Lan nhớ đến năm xưa cô cũng từng lập tổ săn báu vật, lặn xuống hồ Chiêu Dương tìm kho báu khổng lồ mà tể tướng Ba Nhan thời Nguyên để lại. Tuy đã lấy được kho báu nhưng lại bị con “chim sẻ” rình phía sau thừa cơ cướp đi mất
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 4

Ngày 18 tháng Năm, khoảng 12 giờ trưa, tại hiện trường vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

Còn một phút nữa, nếu Na Lan không đến, chúng sẽ giết một người.

Cuối cùng, Ba Du Sinh nói, “Trả lời bon chúng: Na Lan đang ở ngay trong đám con tin. Để tiện cho thương lượng, đề nghị Na Lan lập tức điện thoại với chúng tôi ngay.”

Điền Lợi Mẫn thao tác nhắn tin trả lời ngay. Đối phương lập tức hồi âm: Không cần nữa.

Mọi người nhìn nhau, và đều hiểu ý nghĩa là gì: Na Lan đang ở trong đám con tin, cô đã can đảm đứng ra.

Ba Du Sinh nói, “Nhắn tin nữa đi, tranh thủ cơ hội nói chuyện với Na Lan.” Bụng bảo dạ tại sao cô lại có mặt ở hội quán tư nhân trong ngày khai trương? Và lại đúng vào lúc xảy ra vụ cướp? Kinh nghiệm bao năm công tác, anh biết rằng luôn xảy ra các sự kiện ngẫu nhiên, nhưng sự trùng hợp thì hiếm hoi, khác xa với phim ảnh hay tiểu thuyết.

Anh bất giác nhớ lại hồi Na Lan mới vào đại học, đã có tin đồn cô là “tay vịn cao cấp” bí hiểm khôn lường. Sau nhiều năm quen biết Na Lan, ám ảnh về tin đồn vu vơ ấy đã tan biến khỏi đầu óc anh, tuy nhiên, cảm giác chưa hiểu hết và cảm giác bí hiểm đối với con người Na Lan đôi lúc vẫn khiến anh phải suy nghĩ: cha cô bị hại một cách kỳ lạ, kho báu Bá Nhan biến mất, chứng thần kinh phân liệt thực thực hư hư, trực giác nhạy bén khác thường, những vụ trọng án hình như mãi mãi đeo bám cô… có phải đều là ngẫu nhiên?

Trở lại câu hỏi trước mắt: tại sao Na Lan lại có mặt ở Tiêu Tương?

Ba Du Sinh nói với Khương Minh, “Nhờ cậu gọi tay phụ trách quầy tiếp tân lại đây.”

Phụ trách tiếp tân của Tiêu Tương là Cù Đào, tuổi ngoài ba mươi, mái tóc rẽ ngôi giữa láng bóng, khuôn mặt xương xương với nước da trắng mịn như da thiếu nữ không một nếp nhăn, nhẵn nhụi không râu ria. Anh ta dường như vẫn chưa hết sợ trước vụ việc đang xảy ra, đứng trước Ba Du Sinh mà thỉnh thoảng vẫn run run.

Ba Du Sinh hỏi, “Hệ thống máy tính của các anh có danh sách các vị khách không?” Khương Minh đã hỏi anh ta câu này, Ba Du Sinh gần như thuận miệng mà hỏi lại vậy thôi.

“Không có! Chỉ có ghi chép khách đặt bàn ăn, nhưng đều nằm trong mạng nội bộ của hội quán.” Mười ngón tay thon dài trắng trẻo của Cù Đào không ngớt vặn vào nhau.

“Có thể đăng nhập vào đó không?”

Cù Đào gật đầu, “Có thể. Nhưng các ghi chép ấy chỉ ghi thông tin rất sơ sài về người đặt chỗ.”

Ba Du Sinh trỏ tiếng laptop đặt trên chiếc xe tấn công ở gần đó, “Anh mở đi, chúng tôi cần xem các ghi chép đặt bàn.”

Cù Đào lấy chùm chìa khóa ra, nhìn thẻ ghi mật mã đeo trong đó, rồi nhanh chóng vào mạng nội bộ Tiêu Tương, mở bản danh sách đặt bàn ăn, trỏ vào một ô màu đỏ, “Anh xem, đây là phòng ăn chính ở tầng hai của lầu chính, kéo cửa di động lên, thì cũng được thêm một gian nhỏ nữa. Nói chung, cần một trong hai ông chủ của hội quán đích thân đặt chỗ. Hôm nay là ngày khai trương, tất cả các chỗ đã được đặt kín hết, nhưng cụ thể là những vị khách nào thì chỉ các ông chủ mới nắm được.”

“Cho nên, anh không thể biết cụ thể bàn ăn nào có mấy thực khách chứ gì?”

Cù Đào nói, “Tôi phụ trách quầy tiếp tân, chủ yếu đón khách vào hai lầu phía Đông và Tây, còn số người vào phòng ăn của lầu chính, chỉ có cô tiếp tân ở cửa lầu chính và cậu phục vụ biết thôi.”

Ba Du Sinh gật đầu, “Tiếc rằng hai người đó cũng biến thành con tin mất rồi.” Anh lại nhìn kỹ ghi chép về phần đặt chỗ, rồi hỏi, “Các phòng khác ở lầu chính thì sao?”

Cù Đào nói, “Điều này tôi đã nói với nhóm trưởng Khương Minh, trưa nay ngày khai trương, cả lầu chính chỉ mở đại sảnh mà thôi…” Anh ta chỉ vào một ô đỏ khác trên màn hình. “Nhưng ở gian nhỏ này trên tầng ba bỗng nhiên có người đặt chỗ.”

“Sao lại nói là bỗng nhiên?”

“Tức là hôm nay mới đặt. Anh xem: họ đặt chỗ lúc 6 giờ 21 sáng nay. Rất sớm.”

Ba Du Sinh hỏi, “Ai đặt?”

“Không rõ. Vì không ghi rõ họ tên và số của người ấy.”

Cù Đào nhìn Ba Du Sinh, đôi môi mỏng của anh ta mấp máy, do dự định nói lại thôi, nhưng thấy Ba Du Sinh đã nhận ra thái độ của mình, anh đành tiếp tục, “Có thể là người trực điện thoại và ghi chép đặt chỗ đã sơ suất, hoặc rất có thể là… một người trong nội bộ hội quán đã mở máy tính và thao tác vào trang đặt chỗ.”

“Người đó có thể là anh chứ gì?” Ba Du Sinh chỉ thuận miệng hỏi vậy, nhưng Cù Đào sửng sốt cứ như bị bọ cạp cắn.

“Vâng, có thể là tôi, là ông chủ chúng tôi, thậm chí một nhân viên hoặc đầu bếp quen với cách thao tác.”

Ba Du Sinh cảm ơn Cù Đào, rồi ngoảnh sang Điền Lợi Mẫn, “Thế nào rồi?”

“Bọn chúng vẫn chưa trả lời.”

“Gọi điện, xem chúng có muốn đối thoại hay không. Kể cả sử dụng Na Lan làm trung gian cũng tốt.” Ba Du Sinh biết, khi giải quyết bất cứ cuộc khủng hoảng con tin nào, mở được kênh đối thoại là rất quan trọng.

Điền Lợi Mẫn gọi điện, nghe một lát rồi nói, “Không ai nhấc máy.”

Ba Du Sinh tưởng tượng khung cảnh đang xảy ra ở lầu chính: trong số mười mấy con tin, Na Lan bỗng đứng ra nói “tôi là Na Lan”.

Sau đó bọn cướp bắt đầu đưa ra điều kiện… Bọn tôi đã tìm thấy cô. Sao phải tìm? Cô chuyên nghiên cứu tâm lý học tội phạm, cô đã tiếp xúc với các vụ án tàn độc quái dị, tiếp xúc với bọn tội phạm cuồng điên hung ác, cho nên cô có thể hiểu cho chúng tôi, trên cơ sở đó cô thương lượng hộ chúng tôi để chúng tôi có được những thứ cần có.

Bọn chúng đang muốn có được những gì? Tại sao phải thông qua Na Lan để thương lượng?

Na Lan sẽ thế nào? Sẽ bình tĩnh lắng nghe. Ba Du Sinh biết cô đã có vài năm kinh nghiệm tư vấn tâm lý, dựa vào những gì anh biết về huấn luyện các nhà tâm lý cộng với hiểu biết về tính cách của Na Lan, anh tưởng tượng: trong tình huống đặc biệt này, khi đối mặt với bọn cướp có vũ trang, cô sẽ bình tĩnh nghe, không ngắt lời, không can thiệp vào chúng, nhưng đầu óc vẫn vận động cực nhanh.

Ba Du Sinh xem đồng hồ. Kể từ mẩu tin nhắn vừa nãy đến giờ, hai mươi tư phút đã trôi qua. Na Lan đã vào cuộc hai mươi tư phút, nhưng vẫn chưa có thông tin gì, hai mươi tư phút tình huống diễn biến ra sao? Khả quan? Hay xấu đi?
Điền Lợi Mẫn nói, “Tôi có cảm giác rất tệ.”

Kể cũng phải. Đối tượng mà bọn cướp chỉ đích danh đã có mặt, thương lượng hơn mười phút mà vẫn chưa liên lạc với cảnh sát, thì không thể nói là dấu hiệu tốt.

Chứng tỏ bọn tội phạm đã có ý chuẩn bị từ trước, chúng giữ ưu thế trong sự kiện: để cho phía cảnh sát biết càng ít càng tốt, cảnh sát bị trói buộc, bế tắc không thể hành động.

Vương Chí Huân nói, “Cảnh sát đặc nhiệm chúng tôi đã bố trí chu đáo mọi phương diện, sẵn sàng đối phó với hầu hết tình huống.”

Khương Minh nói, “Chỉ e hôm nay là tình huống đặc biệt.”

Ba Du Sinh ngắm tòa lầu Ba Khắc hội quán Tiêu Tương có lịch sử hơn nửa thế kỷ kia, hiểu rằng lúc này chỉ có thể kiên nhẫn chờ đợi, sớm muộn gì cũng sẽ liên lạc được với tên trùm cướp, trừ phi hắn là kẻ khủng bố điên cuồng táng tận lương tâm.

Nhớ đến mấy vụ án đẫm máu mới xảy ra ở mấy địa phương khác, anh toát mồ hôi.

Không đến nỗi đâu. Nếu chúng táng tận lương lâm thì đã mặc tình tàn sát, chứ không lần lữa đến lúc này và còn đưa ra yêu cầu thương lượng.

Đành chờ đợi vậy.

Với tâm trạng rối bời, từng giây trôi qua chẳng khác gì một năm trời, chỉ sợ thời gian trôi qua quá nhanh. Khi giải quyết khủng hoảng con tin, thời gian càng kéo dài càng chứng tỏ tình huống phức tạp, giải cứu con tin càng trở nên khó khăn.

Lại năm phút nữa trôi qua.

Bỗng một ô cửa kính phía Tây tầng hai bị đập vỡ, nghe loảng xoảng, và có thứ gì đó vạch rèm bay ra. Một cảnh sát đặc nhiệm dùng ống nhòm quan sát, rồi báo cáo Vương Chí Huân qua máy bộ đàm, “Là một cái ghế. Có tiếng quát tháo, tiếng kêu hỗn loạn.”

Khỏi cần báo cáo, Ba Du Sinh và những sĩ quan cảnh sát cũng nghe thấy những tiếng thét đó.

Vương Chí Huân trả lời bộ đàm, “Thả bóng thám sát vào cửa sổ!”

Lúc này, một tiếng nổ vang lên.

Toàn bộ cảnh sát ở hiện trường đều nghe the thấy. Tiếng nổ không quá lớn, trừ mấy mảnh gạch lát mặt ngoài tường long ra, tòa lầu chính Tiêu Tương vẫn đứng đó, nhưng sóng âm lan rộng khiến người ta có cảm giác mặt đất rung chuyển, ai cũng hình dung hơn chục người trong tòa lầu đã phải kinh hãi thót tim.

Những tiếng kêu la thê thảm lập tức vang lên.

Vương Chí Huân hô to, “Lập tức tiến vào cấp cứu!”

Ba Du Sinh lập tức dùng bộ đàm thông báo với ban điều độ của trung tâm cấp cứu thành phố, “Xe cấp cứu và xe chữa cháy lập tức hành động!”

Họ đáp, “Xe chữa cháy đang từ đầu đường Giang Hưng Trung chạy vào Dư Trinh Lý, đường hẹp, nên xe Đông Phong 145 sẽ vào trước, xe hai cầu mười lăm tấn chờ lệnh. Xe cứu thương sẽ tiến vào từ đầu đường Trường Sa!”
Xe chữa cháy và xe cứu thương hú còi inh ỏi.

Khói đen đặc tuôn ra từ ô cửa sổ vỡ, có thể nhìn rõ những lưỡi lửa bên trong.

Một bóng người nhảy ra khỏi ô cửa sổ, rơi xuống sân lầu chính. Một tiếng kêu thảm thiết. Không rõ sống chết ra sao.

Hơn chục cảnh sát đặc nhiệm đã xông vào cửa của lầu chính Tiêu Tương.

Ba Du Sinh chợt nghĩ, anh chạy đến hỏi Cù Đảo, “Bếp của lầu chính đặt ở đâu?” Lúc nãy anh đã xem sơ đồ tòa nhà, nhưng vẫn muốn hỏi lại cho chắc.

Cù Đào nói, “Ở tầng trệt.”

Ba Du Sinh hơi yên tâm. Cù Đào nghĩ ngợi, rồi lại nói thêm, “Nhưng, ở nhà ăn chính ở tầng hai cũng bố trí các nồi lẩu và bếp nướng đặt giữa bàn, có cả thảy mười hai bếp ga nhỏ.”

“Ý anh nói là có đường ống dẫn gas thông lên tầng hai?”

Cù Đào gật đầu.

Trong đám khói đen, lại có một người nữa nhảy xuống sân.

Ba Du Sinh không kịp đối chiếu sơ đồ nhà nữa, anh gọi Vương Chí Huân, “Tầng hai cũng có ống dẫn ga, coi chừng sẽ nổ lần nữa!” Vương Chí Huân lập tức thông báo cho các đội viên.

Đang thông báo thì có một tiếng nổ nữa phát ra. Ít có khả năng là nổ khí ga. Ba Du Sinh cũng hiểu nguyên lý chung: trong phòng, khí gas đạt đến một mức độ nào đó, có tỷ lệ thích hợp trong không khí thì mới phát nổ. Khoảng hai ba mươi giây sau tiếng nổ thứ nhất, liệu khí gas có đạt nồng độ ấy hay không?

Nhìn vào, thấy tường ngoài của phòng ăn tầng hai đã bị thủng một hốc to, gạch vữa và gỗ văng ra rơi xuống. Cửa kính đều vỡ vụn, có thể là hậu quả của tiếng nổ thứ hai, cũng có thể do ngọn lửa bất ngờ bùng cháy gây ra. Lúc này lửa phun dữ dội, khói đen đã bao trùm nửa trên của tòa lầu Ba Khắc.

Lại có hai bóng người nhảy ra từ hai cửa sổ khác nhau.

Các loại âm thanh hỗn loạn, vòi rồng của xe cứu hỏa cũng đã bắt đầu phun nước.

Ba Du Sinh nói với Vương Chí Huân, “Cậu tiếp tục chỉ huy!” Rồi anh chạy về phía lầu Ba Khắc đang bốc cháy.
“Anh Sinh! Anh điên rồi à?” Vương Chí Huân kêu lên. “Anh là tổng chỉ huy hiện trường kia mà?”

Ba Du Sinh, “Cứu người và trừ khử bọn cướp trong lầu, cũng cần có chỉ huy!” Anh tiếp tục chạy đi.

Na Lan, em vẫn bình yên chứ?

Vương Chí Huân gọi xe chữa cháy, “Dùng súng phun nước yểm hộ vào lầu!”

Ba Du Sinh bịt khăn mặt ướt lên mặt, rồi đi theo hai cảnh sát cầm súng phun nước và ba cảnh sát vũ trang chạy vào tòa lầu, cảm ơn sàn gỗ, cầu thang gỗ của ngôi nhà Tây cổ điển: lửa đã bắt đầu thiêu từ tầng hai xuống.

Một cảnh sát chữa cháy kêu lên, “Thủ trưởng chạy ra đi, nhà này sắp sập đến nơi rồi!”

Lúc này thấy hai cảnh sát đặc nhiệm đang cõng hai nạn nhân chạy xuống. Không phải Na Lan.

Ba Du Sinh nhảy qua hai ba bậc cầu thang một lúc, chạy lên tầng hai. Thấy mấy cảnh sát đặc nhiệm đang dìu đỡ ba con tin sắp ngất xỉu, còn phía trong kia là một biển lửa đang liếm đốt rèm cửa, khăn trải bàn, bàn ghế, sàn nhà, các thi thể… Trên sàn, có một người nằm bất động.

“Na Lan!” Ba Du Sinh gọi to.

Không đáp.

Dù đang bịt miệng, bịt mũi bằng khăn ướt, Ba Du Sinh vẫn ngạt thở bằng khói giăng dày đặc, nước ồ ạt phun ra từ các vòi rồng nhưng hầu như không thể địch nổi biển lửa hung hăng đang bao phủ khắp chốn.

Anh nhìn thấy Quách Tử Phóng đang được một lính chữa cháy cõng ra ngoài. Quách Tử Phóng và Na Lan quen nhau đã lâu, liệu có phải trước khi sự việc xảy ra thì họ đang cùng ngồi ăn?

“Na Lan đâu?” Anh lớn tiếng hỏi.

Quách Tử Phóng đang nửa tỉnh nửa mê, há miệng mấp máy những gì không rõ. Bỗng có người hô lên, “Mau chạy ra đi! Tầng trệt cháy rồi, rất có thể lại phát nổ!”

Ba Du Sinh bị ai đó đẩy rất mạnh. Vài giây sau, tất cả đã rút ra khỏi tầng hai.

Ngoại trừ người nằm bất động trên sàn.

Anh chưa kịp nhìn xem có phải Na Lan không.

Vừa đi đến đầu cầu thang, thì một luồng lửa như con mãnh thú từ dưới lao lên theo hành lang hẹp, lăm le hội nhập với lửa bên trên để cùng nuốt chửng tòa lầu trị giá hàng trăm triệu.

Có người hô lên, “Chạy thôi!”

Cả tốp người vừa rời khỏi lầu chính vài bước thì một tiếng nổ lớn vang lên.

Nổ lần thứ ba
.
Na Lan, em đang ở đâu?

Hai mươi lăm phút sau khi vụ án xảy ra, tại bệnh viện Nhân dân số 6 thành phố Giang Kinh.

Đây là bệnh viện tuyến ba, gần Dư Trinh Lý nhát, và có đủ năng lực cấp cứu. Từ phòng cấp cứu đến phòng phẫu thuật đều rất sẵn sàng hành động.

Trên các lối đi lát đá cẩm thạch sáng trắng bóng loáng, các nhân viên y tế đi lại rất khẩn trương, thỉnh thoảng khẽ trao đổi mấy câu rồi lại rảo bước. Cảnh sát ra vào, ai cũng căng thẳng, nghiêm sắc mặt, di động đổ chuông không ngừng.

Các bệnh nhân và người nhà vào thăm, tuy không phải dạng xa lìa thế sự nhưng lại chẳng mấy ai biết về vụ cướp và bắt cóc con tin ở hội quán Dư Trinh Lý, ai nấy lại cứ liên tưởng đến vụ việc bệnh nhân cầm dao chém bác sĩ xảy ra cách đây không lâu, rồi đồn đang đoán xem người nào bị chém.

Nữ bác sĩ chính phụ trách phòng hồi sức ICU là Trương Lỗi khám cho bệnh nhân xong, vừa ghi chép vừa bước ra ngoài, suýt nữa va phải một cảnh sát đang vội bước đến.

Phòng cấp cứu vốn luôn bị áp lực, lại thêm một loạt bệnh nhân tràn vào khiến chị hơi cuống, chị lắc đầu nói, “Nên cân nhắc thì hơn. Các bệnh nhân ICU lúc này không thể trả lời ‘phỏng vấn’ gì được, phải chờ họ ổn định và tỉnh lại, các anh hãy vào.”

Anh cảnh sát này chừng 30 tuổi, đeo kính trắng, vẻ áy náy, nói, “Tôi không vào để điều tra, chỉ muốn hỏi tình hình cô Na Lan.”

Trương Lỗi “thế à”, và tiếp tục đi về phía phòng trực ban, “Hiện giờ không có gì nguy hiểm cả. Anh chỉ cần biết thế là được chứ gì?”

“Vâng. Chị có thể cho biết cặn kẽ hơn, và dự đoán sau đó sẽ thế nào không?” Anh cảnh sát hỏi.

Trương Lỗi, “Chỉ bị bỏng nhẹ. Nhưng đáng ngại ngất là cô ta nhảy từ cửa sổ xuống, đập đầu vào đâu đó rồi ngất xỉu, có nhiều khả năng sẽ bị chấn thương sọ não. Lúc nãy chụp X quang, thấy có vết rạn hộp sọ. Não có bị tổn thương không, thì phải chụp CT hoặc cộng hưởng từ thì mới xác định được. Lát nữa bác sĩ chủ nhiệm khoa sẽ xem và quyết định. Chấn thương sọ não rồi ngất, thường không kéo dài. Ít phút nữa cô ấy sẽ tỉnh lại.”

Vẻ mặt anh cảnh sát rất thư sinh ấy đã bớt căng thẳng, anh nói cảm ơn rồi quay người bước đi.

Công an thành phố cử ra ban chuyên trách lâm thời xử lý vụ án, làm việc tại một phòng họp ở nhà y vụ của bệnh viện số 6. Lựa chọn này là hợp lý, vì các nạn nhân bị thương nặng hay nhẹ đều được chuyển vào viện này cấp cứu điều trị, nhà y vụ thì kề sát khu cấp cứu.

Phòng họp có hơn chục cái ghế, nhưng Ba Du Sinh vẫn đứng, lặng lẽ nghe Vương Chí Huân và Khương Minh báo cáo tình hình. Tuy đã được cứu hỏa kịp thời nhưng lầu chính Tiêu Tương lần lượt bị ba vụ nổ, nên đám cháy vẫn chưa được khống chế hoàn toàn. Cảnh sát chữa cháy vẫn đang dập lửa từ nhiều hướng để đám cháy không lan rộng sang hai lầu bên cạnh và các khu lầu Ba Khắc xung quanh đó. Việc này không dễ, vì đó là khu tập trung rất nhiều lầu Ba Khắc.

Việc cấp cứu nạn nhân cũng chỉ sơ bộ hoàn thành. Điều đáng mừng là đa số nạn nhân đều sống sót, đáng tiếc có ít nhất hai người vẫn chưa tìm thấy tung tích, đoán rằng họ là hai con tin chưa kịp chạy ra. Ba lần cháy nổ như thế, e rằng lành ít dữ nhiều. Hai người ấy lại là một trong hai ông chủ của Tiêu Tương, Đới Hướng Dương, và Yên Vệ Bình con rể kiêm tâm phúc của ông ta. Yên Vệ Bình cũng từng là trụ cột của tập đoàn Hâm Viễn do Đới Hướng Dương sáng lập. Ba Du Sinh lập tức nghĩ đến thi thể bất động mà anh nhìn thấy trong đám khói lửa.

“Chờ lửa được khống chế, mới tìm thấy các thi thể, cũng không biết liệu các thi thể ấy có còn nguyên vẹn không. Bây giờ chúng ta bắt đầu hỏi cặn kẽ tình hình được chưa?” Khương Minh hỏi.

Ba Du Sinh nhìn mẩu giấy do một cảnh sát đưa cho, trên đó viết mười tên người, bên cạnh vài họ tên có đánh dấu hỏi, chắc là vì gấp quá nên không rõ viết có đúng chữ không.

Anh cân nhắc, rồi nói, “Được rồi. Nhưng đáng nói là nên bắt đầu từ ai.” Có nhiều người chứng kiến sự việc, phương pháp tương đối thích hợp là cử một số cảnh sát chia nhau đi ghi biên bản. Nhưng Ba Du Sinh lại thoáng cảm thấy vụ việc này không thể rạch ròi thực hư, kẻ cướp rất có thể nằm trong số người may mắn sống sót.

Vương Chí Huân nói. “Tôi lo nhất là kẻ cướp thừa lúc hỗn loạn chạy thoát… Chúng ta đã làm tốt việc phong tỏa nhưng hiện trường quá rối ren, khói lửa mù mịt, các tòa lầu Ba Khắc lại nằm sát nhau, tạo điều kiện dễ dàng để chạy trốn. Dù tổ chức lục soát truy lùng ngay thì cũng không biết nên bắt đầu từ đâu vì chúng ta chưa biết tình hình về hung thủ.”

Khương Minh, “Anh lo cũng có lý, vì như thông tin bước đầu nắm được, thì những người sống sót có thể là khách cũng có thể là nhân viên của hội quán Tiêu Tương, không có vẻ là bọn cướp.” Theo Cù Đào, Tiêu Tương là hội quán bán tư nhân, muốn thuê các phòng ở lầu chính thì cần ông chủ phê chuẩn hoặc nhân viên đăng ký vào hệ thống phần mềm đặt chỗ. Cho nên, thành phần các vị khách dường như không đáng nghi ngờ gì.

Ví dụ như Quách Tử Phóng, hoặc Na Lan.

Tiếc rằng Na Lan vẫn đang hôn mê.

Ba Du Sinh hỏi, “Trong số người sống sót, ai bị thương nặng nhất?”

Khương Minh cầm tờ danh sách Ba Du Sinh đưa cho, đánh dấu vài người. Ba Du Sinh chỉ vào một trong số đó, “Nói chuyện với anh ta trước.”

Ba mươi phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.
Lương Tiểu Đồng, 31 tuổi, nếu tin những lời vẫn lan truyền trên mạng, thì anh ta là một trong tứ công tử thế hệ mới của Giang Kinh, nhưng nếu hỏi anh ta, thì anh ta sẽ xua tay, “Nhảm nhí, cha tôi kiếm tiền là chuyện của cha tôi, sao chúng tôi phải nhận cái danh hiệu kiểu giang hồ ấy?”

Nhưng nếu hỏi phóng viên có thâm niên như Quách Tử Phóng thì Lương Tiểu Đồng toàn chơi với đám con nhà giàu, cuộc sống của anh ta mới gọi là đơn giản và không phô trương: anh ta là nguyên lão của “hội Lambo” (tức Hội chơi xe Lamborghini) Giang Kinh, hằng năm đều đi dự đại tiệc Hải Thiên (là triển lãm thượng lưu tổ chức hàng năm ở Tam Á, Hải Nam, Trung Quốc ) ở thành phố Tam Á (đảo Hải Nam), và giao du với ít nhất năm sáu minh tinh màn bạc hạng B hạng C…

Giống như không ít công tử con nhà giàu, anh ta cũng không phải hạng bất tài vô học. Anh ta từng du học ở Úc, lấy được bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh rồi về nước đầu tư và cũng trợ giúp ít nhiều cho việc làm ăn của người cha.

Cha Lương Tiểu Đồng là Lương Quân, trong những năm 1990 đã từ giã cơ quan cấp bộ ở Bắc Kinh, lập công ty Điện lực Phong Hành, tận dụng các mối liên hệ sẵn có ở ngành điện lực để tổ chức kinh doanh, đến nay “Điện lực Phong Hành” không chỉ làm về điện lực mà xúc tu của nó còn vươn tới hệ thống các loại năng lượng.

Lương Tiểu Đồng hiện mang danh phó tổng giám đốc tập đoàn Phong Hành, chủ yếu phụ trách công việc ở Hội đồng Quản trị.

Điều này cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Lương Quân: nắm Hội đồng Quản trị là tuyệt chiêu xây dựng mối quan hệ lớn mạnh, để cậu con trai giao thiệp với các ủy viên Hội đồng Quản trị bản lĩnh đầy mình, đảm bảo cho Lương Quân mai kia về hưu vẫn duy trì được tập đoàn Phong Hành trường tồn dài lâu. Lương Quân từng hai lần phẫu thuật cấy ghép động mạch tim, chẳng mấy chốc sẽ đến ngày lui về hậu trường

Cho nên Lương Tiểu Đồng quyết định hùn vốn chi một khoản tiền kếch xù mua lại ba tòa lầu Ba Khắc, tân trang trùng tu, và táo tợn dấn bước thành lập hội quán… khiến Lương Quân suýt chút nữa phải đi cấy ghép động mạch tim lần thứ ba. May sao, Lương Tiểu Đồng đã thuyết phục được nhân vật nổi tiếng trong ngành năng lượng là Đới Hướng Dương góp rất nhiều tiền cùng hùn vốn vào Tiêu Tương. Lương Quân gật đầu một cách khó khăn nhất trong đời, tiền gom đủ, và thế là Tiêu Tương ra đời.

Những đoạn lịch sử này hư hư thực thực, đồn thổi cộng với suy luận, lại thêm trí tưởng tượng, có lẽ sự thật là thế nào thì chỉ có người nhà họ Lương mới biết thôi. Anh ta bước vào gian phòng nhỏ bên cạnh phòng làm việc của ban chuyên án, cảnh sát chỉ coi anh ta như một nhân chứng bình thường.

Xem ảnh ở chứng minh thư, Lương Tiểu Đồng mấy năm trước có khuôn mặt thanh tú, ngày nay mặt tròn hơn, chóp mũi to loang loáng, không rõ là chất dầu hay mồ hôi. Người tầm thước, tư thế đàng hoàng, mắt sáng, có dáng dấp của một người quen với công việc chỉ đạo quyết đoán. Sau vụ nổ, bộ âu phục Canali của Ý nhàu nhĩ, ám khói đen nhưng vẫn nổi bật, cổ tay trái đeo đồng hồ Rolex sáng lấp lánh.

Hiển nhiên, Lương Tiểu Đồng thuộc loại không ngại phô trương mình là con nhà giàu.

Trán và mặt anh ta có những vết xước, vết bỏng nhẹ, cổ dán một mảnh vải trắng to bằng bàn tay. Giày cháy nham nhở, chân bước đi hơi tập tễnh. Đáng ngạc nhiên là chiếc quần dài anh ta đang mặc lại phẳng lỳ mới tinh, cứ như vừa thay cái khác.

Bắt tay khá chặt. Đây là một ấn tượng khác của Ba Du Sinh đối với Lương Tiểu Đồng. Anh đang nghĩ, nếu Na Lan ở đây thì cô sẽ phân tích thế nào nhỉ? Sau khi hú vía suýt chết mà vẫn giữ được ánh mắt sắc sảo, bắt tay rất chặt, thì ít ra nên nói là Lương Tiểu Đồng có hình thái khí chất và tâm lý của con nhà võ tướng dày dạn chiến chinh, dù trấn tĩnh thật hay giả bộ bình thản, thì anh ta vẫn không phải dạng công tử bột đầu óc đơn giản.

Ba Du Sinh giới thiệu: anh và Khương Minh nhóm trưởng Trinh sát Hình sự khu Tân Giang sẽ lấy lời khai, có một cảnh sát ghi biên bản, các nội dung hỏi đáp đều được ghi âm.

Anh cũng nói “cảm ơn sự hợp tác của anh” và bảo Lương Tiểu Đồng ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ba cảnh sát, rồi nói, “Vụ việc mới xảy ra nửa giờ trước, các anh đều choáng váng và mệt mỏi, đáng lẽ nên được nghỉ ngơi, nhưng chúng tôi cần các anh giúp đỡ để nhanh chóng tìm ra bọn tội phạm. Mong các anh chịu khó, cho biết ở lầu Ba Khắc đã xảy ra chuyện gì, hung thủ là ai, chúng có thể đang ở đâu. Thông thường, chúng tôi sẽ có đề cương trước khi hai bên hỏi đáp nhưng tình huống hôm nay là đặc biệt, chúng tôi đề nghị: anh cứ nói, còn chúng tôi, nếu cần thì sẽ hỏi.”

Đội trưởng sở và nhóm trưởng khu phải đồng thời đích thân hỏi, thì quả là tình huống đặc biệt. Lương Tiểu Đồng sờ lên má hơi sưng, nói, “Tôi sẵn sàng hợp tác. Có điều là, nên bắt đầu nói từ đâu?”

“Trước tiên cần xác nhận, anh đã nhảy qua cửa sổ thoát thân, đúng không?” Khương Minh hỏi.

Lương Tiểu Đồng gật đầu, “Đúng.”

“Sau khi vụ việc xảy ra, anh đã nhìn thấy những người may mắn sống sót ở hiện trường cả rồi chứ?”

Lương Tiểu Đồng nghĩ ngợi một lúc mới nói, “Lúc ở trên xe cấp cứu và trong phòng cấp cứu, tôi có nhìn thấy một vài người cũng bị nạn.”

“Anh có nhìn thấy hung thủ trong số những người bị thương được điều trị không?”

Lương Tiểu Đồng lắc đầu, “Điều này rất khó xác định, tôi chưa hề nhìn thấy mặt bọn cướp, tôi chỉ thấy trong số những người sống sót không có ai là người lạ, tôi lại không đi suốt lượt các phòng cấp cứu và phòng ICU nên chắc chắn vẫn có người tôi chưa nhìn thấy… Ví dụ Na Lan.”

Ba Du Sinh nói, “Anh kể lại từ đầu xem?”

Lương Tiểu Đồng

Anh ta rất hiếm khi dậy muộn, kể cả đêm trước chơi đến rất khuya hoặc chơi thâu đêm, thì sáng hôm sau anh ta vẫn dậy sớm, cùng lắm là sẽ ngủ bù sau bữa trưa khoảng một hai tiếng đồng hồ. Đó là kết quả huấn luyện nghiêm khắc của Lương Quân, chẳng rõ từ năm nào, đồng hồ sinh học của Lương Tiểu Đồng thức dậy lúc gà gáy sáng rất chuẩn, không thay đổi nữa. Những ai biết về Lương Tiểu Đồng, dù là có thành kiến, coi anh ta thuộc nhóm tứ công tử Giang Kinh, là gã tay chơi con nhà giàu… thì cũng không cho rằng anh ta là đồ bỏ đi hoặc là kẻ lười nhác.

Huống chi, hôm nay là ngày khai trương hội quán Tiêu Tương.

Ai cũng nhận ra “ông chủ nhì” Lương Tiểu Đồng dồn tâm huyết cho Tiêu Tương nhiều hơn là “ông chủ nhất” Đới Hướng Dương. Không nên trách Đới Hướng Dương vô tâm, ông ta đứng đầu một tập đoàn lớn, bận trăm công nghìn việc, nên Lương Tiểu Đồng có thể đơn độc nhọc nhằn điểm tô cho cái “đồ chơi” mới là hội quán Tiêu Tương này. Mọi việc tu sửa, bài trí, mua sắm đồ dùng, tổ chức bày và bán đấu giá đồ cổ, xác định thực đơn ẩm thực ở Tiêu Tương đều do Lương Tiểu Đồng đảm nhận. Anh ta “tam cố thảo lư” đến từng nhà các đầu bếp danh tiếng ở Giang Kinh để chiêu mộ, từng gam màu dành cho các gian phòng đều do anh ta bàn bạc với các chuyên gia trang trí nội thất.

Còn Đới Hướng Dương? Đới Hướng Dương chỉ đặt tên cho cái hội quán mù mờ này, gọi là Tiêu Tương.

Hồn cốt của hội quán không liên quan gì đến tỉnh Hồ Nam, tổ tiên Đới Hướng Dương và Lương Tiểu Đồng không hề dính dáng đến Hồ Nam, vậy tại sao lại đặt tên là Tiêu Tương? Vì, nghe có chất cổ điển, văn vẻ, tao nhã, có phải thế chăng?

Dù là thế thì Lương Tiểu Đồng vẫn có cảm giác rằng người ngoài, khi nhắc đến hội quán Tiêu Tương sắp khai trương đều đương nhiên hiểu đó là một thứ đồ chơi mới của Đới Hướng Dương.

Cũng không thể trách họ, dù trong con mắt của Lương Tiểu Đồng, Đới Hướng Dương chỉ là một gã trọc phú biết mặc com lê nhưng cũng đã thét ra lửa trên thương trường bao năm nay. Quy mô của tập đoàn Hâm Viễn cũng chẳng thua kém gì tập đoàn Phong Hành, Đới Hướng Dương là ông trùm, còn Lương Tiểu Đồng chỉ là hàng “thiếu gia” công tử. Riêng nói về vốn bỏ vào Tiêu Tương, Đới Hướng Dương cũng hơn hẳn: hai người hùn vốn tỷ lệ 6: 4, sáu mươi phần trăm này chỉ là một sợi tóc của tập đoàn Hâm Viễn mà thôi. Còn Lương Tiểu Đồng với bốn mươi phần trăm lại là do anh ta nài nỉ đứt cả lưỡi xin bố chi ra.

Mồm miệng thiên hạ kháo nhau cộng với sức mạnh của giới truyền thông, cũng khiến cho quan điểm và cách nhìn nhận thay đổi.

Ngày khai trương hội quán đương nhiên là dịp rất tốt để Lương Tiểu Đồng thay đổi ấn tượng của công chúng. Anh ta muốn dùng hành động thực tế, hình ảnh thực tế để các quý khách của hội quán nhận ra rằng hội quán Tiêu Tương là một sản vật hùn vốn, Lương Tiểu Đồng là người phát ngôn của Tiêu Tương, dấu ấn của Lương Tiểu Đồng sẽ in đậm khắp nơi.

Chính vì thế mà Lương Tiểu Đồng gần như là người có mặt ở nghi thức khai trương sớm nhất. Lúc 8 giờ 18 phút, trong tiếng pháo nổ ran, anh ta và Đới Hướng Dương cùng cắt băng khánh thành. Cũng chính vì thế mà cả buổi sáng anh ta đều đi đi lại lại khắp ba tòa lầu để săn sóc mọi bề, cùng khách khứa ăn điểm tâm, uống trà, ăn cơm trưa, đánh cờ vây trong phòng… phát cho họ thẻ hội viên cực kỳ danh giá. Cũng chính vì thế mà anh ta vẫn gan lỳ tham dự bữa trưa do Đới Hướng Dương chủ trì.

Các thao tác chúc mừng Tiêu Tương khai trương bắt đầu thực hiện từ sáng, nội dung quan trọng thì phải chờ đến sau khi lên đèn: dạ tiệc sẽ là lúc muôn sao của Giang Kinh tề tựu, không chỉ có các lãnh đạo cao cấp của hai tập đoàn Hâm Viễn và Phong Hành, mà Lương Quân đang ốm dở cũng đến để tạo dựng thanh thế cho con trai, lại có đủ mặt danh nhân các ngành các giới thương mại, văn hóa thể thao… Nếu không vì gần đây dư luận xì xào thì hai phó thị trưởng cũng đến dự, rốt cuộc họ cải tiến bằng cách gửi lẵng hoa và lời chúc mừng vậy.

Bữa trưa… chẳng qua chỉ là bữa ăn bình thường mà thôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 5

Đới Hướng Dương chủ chi mời khách, mời ngôi sao mới nổi trong ngành thương mại. Đây là từ dùng của Yên Vệ Bình, phó tướng dưới trướng Đới Hướng Dương, là cách nói tế nhị khách sáo dành cho những người vô danh. Lương Tiểu Đồng rất hận người cha cho đến giờ vẫn cho anh ta là hạng gà nhép chưa hiểu thế sự, ông ta vẫn không ngớt nhồi vào óc Lương Tiểu Đồng những triết lý sống…

Tuy nhiên, Lương Quân cũng có lý khi nói câu này: đời người ngắn ngủi thực đáng buồn, phải biết dùng thời gian hữu hạn để kết giao với những người có thể giúp ta vô hạn. Chắc đó cũng là nguyên nhân khiến Lương Quân có ý đưa Lương Tiểu Đồng vào nắm giữ Hội đồng Quản trị? Ăn cơm với kẻ mới nổi trong ngành, chỉ là lãng phí thì giờ.

Nhưng tại sao Đới Hướng Dương muốn mời vị khách này?

Ngồi ấm chỗ, giới thiệu xong xuôi, Lương Tiểu Đồng mới hơi hơi hiểu ra tại sao Đới Hướng Dương lại không ngại hạ cố chiêu đãi: nhân vật mới nổi kia chính xác là non choẹt, tuổi mới 26 - 27 nhưng trông rất sáng sủa thông minh và cũng chín chắn nữa, nói năng lại sắc sảo. Anh ta có cái tên rất cổ điển: Đới Thế Vĩnh, giọng nói mang âm sắc Thiểm Tây. Khi trò chuyện, anh ta ngẫu nhiên nhắc đến những lề thói phong tục của quê hương, cha đã chuyển đến Tây An sinh sống từ lâu nhưng khi đặt tên con, ông ấy vẫn tuân theo quy tắc tổ tiên chèn một chữ “thế” vào giữa, anh ta là đời chữ “thế” nên giữa họ tên phải có chữ “thế”. Đới Hướng Dương liền chú ý, hỏi anh ta quê ở đâu. Anh ta nói quê ở Vị Nam. Vị Nam ở đâu? Ở Cao Dương thuộc Bồ Thành.

Chà chà! Sao trời nhấp nháy, tia lửa tỏa bốn phương, thì ra là quê mình.

Đới Hướng Dương nói, tên mình đáng lẽ ra nên có chữ đệm theo tộc phả là chữ “thiệu”. Ông ta chào đời trong thời buổi đang cổ vũ rời xa lối mòn cũ rích, cho nên cha mẹ cũng theo trào lưu mới để đặt tên con theo lối đỏ son cách mạng. Chữ “thiệu” là bề trên của chữ “thế”, Đới Thế Vĩnh chính xác là hàng cháu của Đới Hướng Dương.

Và thế là Đới Thế Vĩnh bắt đầu gọi Đới Hướng Dương là “chú”.

Tiếp tục trò chuyện, Lương Tiểu Đồng mới biết Đới Thế Vĩnh kinh doanh về ngành năng lượng.

Theo cách nói nửa đùa nửa thật của Đới Hướng Dương, thì Đới Thế Vĩnh thuộc nhóm ranh con ma mãnh mới trỗi dậy trong nghề kinh doanh năng lượng: nhập khẩu than đá. Phong trào khai mỏ điên cuồng suốt dải Sơn Tây Thiểm Tây năm xưa đã tạo ra hàng ngàn hàng vạn triệu phú, mà Đới Hướng Dương là một trong các đại diện nổi bật.

Những năm gần đây, giá than trong nước xuống dốc cũng khiến khá nhiều ông chủ than phải phá sản, đối thủ cạnh tranh của họ chính là than nhập khẩu giá rẻ. Tập đoàn Hâm Viễn tuy đã phân chia phạm vi kinh doanh cho các xí nghiệp chứ không chỉ kinh doanh than đá, nhưng rõ ràng là Đới Hướng Dương không chấp nhận ngồi chờ chết, ông ta muốn thông qua gã đại lý ngoại quốc Đới Thế Vĩnh này để đặt chân vào lĩnh vực nhập khẩu than đá.

Lương Tiểu Đồng ngồi nghĩ mà tức, thì ra, quanh đi quẩn lại, vai chính vẫn là Đới Hướng Dương!

Cho nên anh ta lại thỉnh thoảng lại đứng dậy bước ra ngoài, đi sang hai lầu Đông, Tây để thể hiện sự tồn tại của mình. Nhưng dù sao vẫn có Yên Vệ Bình ngồi đó trợ uy cho Đới Hướng Dương.

Yên Vệ Bình là nhân vật thân cận đầu bảng của Đới Hướng Dương, sắm nhiều vai, là phó tổng giám đốc tập đoàn, là cận vệ, và cũng là “con rể” ông ta. Vợ chồng Đới Hướng Dương chỉ có một con trai, nhưng ông ta có cô cháu gái là Đới Quyên cha mẹ mất sớm, được bà mẹ của Đới Hướng Dương nuôi nấng, về sau bà cụ ốm qua đời thì Đới Hướng Dương tiếp tục nuôi nấng chăm lo. Lương Tiểu Đồng đã vài lần gặp mặt Đới Quyên, cũng biết Đới Hướng Dương coi cô ta như con đẻ, mấy năm trước bà vợ đưa con trai sang Mỹ học trung học, thì Đới Hướng Dương còn mỗi Đới Quyên và Yên Vệ Bình là gia đình vậy.

Cách đây ít năm, thông qua các nghiệp vụ của tập đoàn, Lương Tiểu Đồng quen biết Đới Hướng Dương. Nghe nói ông ta cũng được đánh giá cao, ít ra không phải hạng giàu xổi ngông nghênh tự đắc rởm, cũng không dính dáng đến bọn xã hội đen, thậm chí ngày trước Đới Hướng Dương khai thác mỏ ở huyện Dương Quan đã từng mở trại mồ côi, về sau trại mồ côi ấy bị hỏa hoạn xóa sổ nhưng danh tiếng của nhà từ thiện họ Đới vẫn còn dư âm ở huyện đó đến tận bây giờ.

Trong giới doanh nhân vẫn rất sẵn các nhà từ thiện giả, tuy nhiên, từ thiện giả vẫn còn hơn là không làm từ thiện, đúng không? Lương Tiểu Đồng không biết rõ về Yên Vệ Bình, chỉ gần đây mới tiếp xúc qua công việc về hội quán Tiêu Tương. Nghe nói anh ta từng học trường quân sự, khi làm quen với Đới Quyên, anh ta là một sĩ quan trẻ hăng hái cầu tiến.

Đới Hướng Dương nhận ra Bình là người có tài, nghiêm túc và trung hậu, Đới Quyên lấy được thì cũng có chỗ dựa suốt đời, bèn ra sức tác thành cho hai người. Sau đó dìu dắt Bình vào hàng ngũ lãnh đạo của tập đoàn. Theo con mắt khắt khe của Lương Tiểu Đồng thì những con người tài ba trung hậu thời nay thường không chịu bó mình trong một khuôn khổ chật hẹp, khái niệm chỗ dựa suốt đời chỉ là ảo tưởng.

Cha của Yên Vệ Bình đột ngột ốm nặng, lẽ ra anh ta phải bay đi Vũ Hán thăm, vé máy bay cũng đã mua, nhưng Đới Hướng Dương cứ nằng nặc bảo anh ta gặp gỡ Đới Thế Vĩnh đã rồi hãy đi, Bình bèn đổi vé để bay chuyến tối, vì thế anh ta mới có mặt hôm nay dự lễ khai trương.

Đánh thêm một vòng hai lầu Đông, Tây trở về, lúc đi qua quầy tiếp tân ở lầu chính, Lương Tiểu Đồng nhận ra mặt “em Chân” hơi căng thẳng.

Chân là cô gái tiếp tân của lầu chính, kiêm hướng dẫn vị trí, kiêm giám đốc, kiêm bình hoa. Lương Tiểu Đồng không nhớ được họ tên đầy đủ của cô, lần đầu nhìn thấy nước da trắng ngần như búp bê sứ của Chân, anh ta đã ngất ngây chực ngã, cô ta họ tên gì chẳng quan trọng nữa. Cho nên cũng đừng tưởng rằng anh ta không nhớ nổi những ý tưởng diệu kỳ đối với “em Chân” và không có ý định đưa Chân đi vào miền đất của anh ta để du hí một trận.

Thực tế là Lương Tiểu Đồng cũng đã nhiều lần ỡm ờ phát tín hiệu cho Chân, nhưng chỉ được hồi đáp bằng nụ cười có lúm đồng tiền trên má và những âm thanh vu vơ rất không rõ ràng. Lương Tiểu Đồng cũng không truy đến cùng vì anh ta biết Chân không phải hạng các cô em thị cấn lân cận đi làm công vớ vẩn, cô hẳn có quan hệ quen biết riêng, vì được đích thân Đới Hướng Dương chỉ định làm tiếp tân ở lầu chính. Nhưng ai mà biết được, ngoài giờ rất có thể Chân sẽ phục dịch Đới Hướng Dương. Vậy cô ta cũng không đáng để Đồng phải tốn công đeo bám.

“Sao thế?” Lương Tiểu Đồng hỏi.

Chân đáp, “Không vấn đề gì, tất cả đều ổn.”

“Đừng tưởng anh không nhận ra… Nên nói thế nào nhỉ? Em cứ như là một bức tranh, tranh của Da Vinci, của Van Gogh, của Ngô Quán Trung… có khối người mô phỏng, cũng có không ít người mô phỏng rất chuẩn, tranh sao chép bày đầy ngoài phố, nhưng chỉ có rất ít chuyên gia giám định nhận ra đâu là đồ thật đâu là đồ giả.”

Lương Tiểu Đồng vốn rất ghét sự nông cạn và thô thiển, cho nên, dù biết Chân chỉ học xong phổ thông trung học, anh ta cũng nói năng lựa chọn từ ngữ cầu kỳ.

“Thế là ý gì ạ?” Chân mỉm cười. “Chắc anh nói bóng gió rằng em không biết cách ăn mặc? Nhưng em xin nói: chị Quyên thiết kế cho em trang phục hôm nay, nếu khó coi thì anh cứ nói thẳng với chị ấy!”

“Chị Quyên” tức Đới Quyên, cháu gái của Đới Hướng Dương. Lương Tiểu Đồng không rõ có phải Chân không hiểu anh ta đang tán khéo hay là cô ta có ý chuyển sang chủ đề khác, bèn cười nói, “Ý anh là, anh tựa như chuyên gia giám định, rất tinh mắt, chỉ thoáng nhìn là nhận ra những nét thay đổi trên khuôn mặt em. Trông em hơi hồi hộp, như thể anh đến trước mặt em là thành cường hào ác bá định cưỡng đoạt dân nữ!”

Chân bật cười khanh khách, thậm chí chẳng buồn che miệng, cô cứ như một khối ngọc thiên nhiên chưa mài giũ. “Nói theo giọng đám con gái Đông Bắc quê em, thì anh nói phứa quá đấy!”

Chân không cười nữa. “Em chỉ hơi lấy làm lạ, Túy Hoa Âm ở tầng ba bỗng dưng phát sinh một bàn ăn, trước đó em không biết gì hết, khi họ đến thì em mới biết hệ thống đặt chỗ đã cập nhật, em bị ăn một chưởng không kịp trở tay.”

Nếu là một tình huống khác, với một cô gái khác, Lương Tiểu Đồng sẽ rất “hồn nhiên” hỏi, “Em bị đau ở đâu? Để anh xoa hộ cho?” Nhưng nhìn thấy hoa xanh trên vạt áo dài nền trắng, Lương Tiểu Đồng lập tức loại bỏ ý nghĩ này, như thể bàn tay phàm của anh ta mà đụng vào thì nó sẽ nát vụn thành trăm mảnh. Lương Tiểu Đồng hỏi, “Ai đặt chỗ?”

Chân nói, “Không biết nữa, vậy thì không phải là anh đặt?”

Lương Tiểu Đồng nhún vai, “Đến thì cứ đến, cũng là khách cả, chỉ cần chi tiền là nhà bếp ứng phó được tất! Hôm nay ông ta mời mấy đệ tử đến còn gì?” Lương Tiểu Đồng bỗng nhớ ra lúc nãy ngồi ở tầng hai thấy Chân dẫn hai khách lên tầng trên, bèn hỏi, “Một nam một nữ phải không?”

Chân gật đầu, “Bàn ba người, còn một người nữa lúc này vẫn chưa đến. Anh phải lên phát thẻ hội viên cho bọn họ đi chứ?” Cô ngập ngừng rồi lại tươi cười, “Khách nữ, là một người đẹp, rất cao, cứ như người mẫu.”

Vẫn như lúc nãy, nếu là tình huống khác và cô gái khác, Lương Tiểu Đồng sẽ nói: gặp em rồi, trong mắt anh không còn người đẹp nào nữa… Nhưng nghĩ đến đôi mắt hổ báo của Đới Hướng Dương, nghĩ đến “chị Quyên”, Lương Tiểu Đồng đành nói đùa, “Cảm ơn bà chủ đã nhắc nhở, tôi sẽ lên trinh sát ngay!”

Anh ta ngước lên, chưa kịp cất bước thì nhận ra hai gã bịt mặt mặc đồ đen đứng sau Chân từ lúc nào không biết, và hai họng súng chĩa vào mình: một súng ngắn một súng trường tự động. Lương Tiểu Đồng hay tham gia câu lạc bộ bắn súng, tuy không nghiên cứu kỹ về súng đạn nhưng cũng không phải là “gà”.

Anh ta nhận ra đó là súng ngắn nhập ngoại, chắc là mác Glock, một tạp chí nào đó từng đăng nó là súng chuyên dùng của các thám tử FBI, còn khẩu súng tự động là súng nội địa model 95, sản phẩm liên doanh.

Gã cầm súng ngắn đưa một ngón tay lên môi ra hiệu cho Lương Tiểu Đồng “ngậm miệng”. Thật ra không cần thiết phải nhắc nhở, vì đứng trước họng súng anh ta trở thành người rất biết điều, lập tức giơ hai tay lên.

Chân cảm thấy có điều bất ổn, vội ngoảnh lại rồi kêu lên “ôi…” liền bị bàn tay đeo găng đen bịt mồm, tiếng kêu tắc tị, ú ớ, nhưng cũng truyền đến cửa gian nhà Đông cách đây không xa. Đó là phòng làm việc kiêm phòng bảo vệ.
Lập tức có tiếng bước chân từ phía đó vọng ra.

Lương Tiểu Đồng thầm nghĩ: có người ứng cứu thông thường là chuyện rất hay, nhưng con nai đã nằm trong nanh vuốt con báo thì chẳng còn gì là lãng mạn nữa.

Tiêu Tương chẳng phải thiên đường cũng chẳng phải cung vua, mà chỉ là một hội quán kinh doanh ẩm thực là chủ yếu, nhất là lầu chính mang màu sắc riêng tư, khách đến theo lời mời, không dính líu xã hội đen, không có gái gú chuốc rượu, không có cờ bạc đỏ đen, không cho phép làm việc vụng trộm tệ hại, đương nhiên hội quán có trưng bày một số đồ cổ có giá trị nhưng chưa phải là đồ quý hiếm.

Cho nên kể từ khi thiết kế, đã không cần bố trí bảo vệ đầu bảng. Chỉ có hai bảo vệ, trực ban cả ngày, thay nhau trực đêm, công cụ chỉ là dùi cui cao su.

Ngay Lương Tiểu Đồng cũng chưa đến mức cần vệ sĩ, cha anh ta có hai vệ sĩ nhà nghề nhưng vì ông là sếp bự của tập đoàn, lãnh đạo các công ty lớn ở Giang Kinh nhìn chung đều có vệ sĩ. Đới Hướng Dương Luôn có Yên Vệ Bình đi theo và hai vệ sĩ, một trong số đó kiêm lái xe, nhưng vì hôm nay khai trương hội quán, Đới Hướng Dương nói ngày vui thì cần cầu vui, nếu mang theo vệ sĩ thì sẽ bị xui xẻo cho nên ông ta chỉ đi một mình.

Cũng chính là ngày khai trương nên cả hai bảo vệ Tiêu Tương đều có mặt, một anh quan sát hai lầu Đông, Tây, một anh ngồi trấn ở lầu chính. Lúc này, bảo vệ ở lầu chính chạy ra, người to con vạm vỡ, anh ta tên Cát Tam Lạc, mọi người ở hội quán đều khoái cái tên này, cho rằng nghe rất khôi hài. Tiếc rằng lúc này anh ta chạy ra thì lại là bi kịch.
Một tiếng súng nổ, Chân kêu thét lên. Cát Tam Lạc trúng đạn ngã gục.

Lương Tiểu Đồng quay lại nhìn, anh bảo vệ to con đang ôm đầu gối phải, máu rỉ ra kẽ ngón tay. Anh ta cố nén không kêu gào, chỉ đau đớn rên rỉ, miệng hơi há ra.

Tên cướp cầm súng ngắn vội vàng chạy về phía cổng, không thèm nhìn anh bảo vệ đang đau đớn, đúng là tác phong kẻ cướp chuyên nghiệp! Hắn rút trong người ra một bánh pháo, bật lửa châm rồi quăng qua cổng chính. Tiếng pháo nổ ran. Lương Tiểu Đồng nhìn tên cướp cầm súng ngắn ấy, nhận ra hắn bị thọt, bước đi khập khiễng, tuy nhiên hắn vẫn hành động rất nhanh nhẹn.

Lúc này, bầu không khí trước cổng lầu chính hội quán Tiêu Tương quả là náo nhiệt với tiếng pháo rộn ràng trong ngày khai trương, có điều, cánh cổng bị đóng chặt. Quăng pháo ra, đóng cổng lại, thao tác dứt khoát, “rất chuyên nghiệp”. Lương Tiểu Đồng cay đắng mà không làm gì nổi.

Tên cướp chuyên nghiệp đóng cổng lại, lấy còng ra còng hai tay Lương Tiểu Đồng. Tên cướp cầm súng trường chĩa súng vào Lương Tiểu Đồng rồi lại lia sang Chân, “Hai chúng mày đưa nó lên gác!” Hắn nói tiếng phổ thông khá chuẩn, hơi pha âm sắc miền Nam.

Lương Tiểu Đồng và Chân chật vật đỡ anh bảo vệ đứng dậy rồi dìu anh ta lên cầu thang. Tên cướp cầm súng trường chạy ba bậc một lên gác, trên đầu cầu thang đã có một tên cao to bịt mặt, cầm súng trường đứng đó. Hai tên gật đầu với nhau cứ như là giữa ca sĩ và ban nhạc đệm đứng trên sân khấu, ngụ ý “đã chuẩn bị xong”, sau đó cùng lao vào nhà ăn của đại sảnh.

Ngoài kia tiếng pháo đã dứt, bên trong mở màn tiết mục trình diễn mới của ngày khai trương.

“Cấm nhúc nhích!” Tên cướp cao to quát. Cũng nói tiếng phổ thông, nhưng chưa nhận ra hắn là người vùng nào.
“Ối…” Một tiếng thét của phụ nữ. Lương Tiểu Đồng biết trong gian phòng này chỉ có một người phụ nữ, là cô phục vụ bàn Hoa Thanh.

“Câm mồm! Hét nữa tao giết luôn!” Tên miền Nam nói. “Tất cả giơ tay lên, quay người đi!”

Lúc này, dưới sự uy hiếp của họng súng. Lương Tiểu Đồng và Chân đã kéo được Cát Tam Lạc lên đến tầng hai, máu tươi rải khắp các bậc cầu thang, Lương Tiểu Đồng nhìn chết khiếp, khẽ rùng mình. Anh ta từ nhỏ có tật sợ nhìn thấy máu, lớn lên rồi có đỡ hơn nhưng vẫn sợ chứ chưa thể “bình thản như không”.

Gian phòng ăn mở cửa, Lương Tiểu Đồng nhìn thấy cả trong lẫn ngoài đều có bọn cướp, mọi người đều quay lưng lại, tay giơ lên. Tên cướp to con bắt đầu còng mọi người với nhau theo cách thức “liên kết”: tay trái của người này còng chung với tay phải của người kia, một bộ còng dành cho hai tù binh, rất là kinh tế! Lương Tiểu Đồng cúi nhìn hai tay mình với một bộ còng, nhếch mép cười như mếu. Có phải mình được ưu ái hơn những người khác không?

Tên cướp giọng miền Nam ra hiệu cho nhóm Lương Tiểu Đồng bước vào phòng. Cát Tam Lạc bị đẩy vào một góc, chắc đang rất đau, anh chửi đổng một câu liền bị tên cướp đá một phát vào ngực, đành im re vậy. Tên cướp cao to còng Chân và Lạc với nhau, chắc cũng vì gấp gáp, hắn không đụng đến cái còng của Lương Tiểu Đồng nữa.

Lương Tiểu Đồng thầm nhẩm tính, loạt hành động vừa rồi chỉ xảy ra trong khoảng một phút. Tên cướp giọng miền Nam mau nhanh chóng lục soát áo quần từng người, thu hết di động, ví tiền, chùm chìa khóa… ném lên bàn ăn. Các cửa sổ đều bị đóng lại, những tấm rèm dày nặng cũng bị kéo kín mít. Hắn cảnh cáo, “Chớ ngoái cổ lại! Cấm động đậy.”

Trên gác bỗng có tiếng động khe khẽ, Lương Tiểu Đồng sực nhớ Chân nói rằng trước đó không lâu có hai khách đột xuất đến gian Túy Hoa m, chưa biết chừng họ đã báo cảnh sát hoặc tìm cách trốn ra. Đây là một tia hy vọng.
Tên cướp giọng miền Nam cầm súng trường chạy vụt lên tầng ba, rồi lập tức quay lại và lao xuống tầng trệt.

Trong phòng, mọi người đều ngồi xổm. Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình bị còng chung một còng, cậu phục vụ Kiến Vĩ và cô phục vụ Hoa Thanh, Chân và Cát Tam Lạc bị cũng đều bị còng chung.

Thiếu một người.
Là Đới Thế Vĩnh.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 6

Lương Tiểu Đồng ngấm ngầm hy vọng, rất có thể, Đới Thế Vĩnh lúc nãy đi vệ sinh… Nếu cậu ta sáng suốt - mà qua bốn mươi lăm phút nói chuyện khi trước, Đới Thế Vĩnh tỏ ra rất nhanh nhẹn thông minh - thì sẽ nán lại trong nhà vệ sinh gọi di động báo cảnh sát, và chỉ vài phút nữa cảnh sát sẽ ra tay kết thúc tình thế nguy hiểm này. Trừ phi…
Trừ phi, lúc đi vệ sinh cậu ta không cầm theo di động, di động lại nằm trong cái cặp da trơ trơ kia.

Lương Tiểu Đồng ráo riết tìm kiếm, rồi phát hiện ra cái cặp da đặt ở ghế ngồi của Đới Thế Vĩnh. Lương Tiểu Đồng nhớ rằng lúc đang ngồi ăn, Vĩnh mở cặp lấy di động ra nghe, và còn nhắn tin hai lần, nhưng không rõ sau đó anh ta cất di động vào cặp da hay nhét vào túi áo.

Ở cầu thang có nhiều tiếng bước chân rầm rập. Thì ra là tên cướp cầm súng ngắn đã chạy xuống dưới nhà từ khi nào, lúc này áp giải đầu bếp và hai phụ bếp lên.

Tên cướp cao kều còng cả ba người này lại với nhau, rồi nói, “Đoàn tụ một nhà rồi!” Giọng miền Bắc.

Tên cướp thọt cầm súng ngắn bước đến trước mặt Đới Hướng Dương, gí súng vào gáy ông ta, “Cho tao biết mật mã của két sắt, nếu không, tao cho mày xơi đạn ngay, rồi bọn tao sẽ phá két.”

Giọng hắn mỏng, sắc, như kiểu người vùng Xuyên - Tương nói tiếng phổ thông, âm sắc miền Nam rất nặng, đầu lưỡi đưa về phía trước.

Lương Tiểu Đồng lại thở dài, Lương Tiểu Đồng biết tính khí của Đới Hướng Dương là ngoài mềm trong cứng, là người rất rắn rỏi, từng có không ít truyền thuyết về ông ta, ví dụ như năm xưa đi từ khai thác than vươn sang mỏ đá và xi măng, ông ta nhún mình trước tấn công sau, lần lượt hất cẳng các doanh nghiệp địa phương nhỏ lẻ, rồi làm bá chủ cả khu mỏ đá trải dài mấy trăm cây số. Lúc này tuy bị gí súng vào đầu nhưng, đừng nói trong két có đồ quý giá, mà dù không có một xu, thì cũng đừng hòng ông ta dễ dàng cung khai, bó tay chấp nhận.

Cũng tức là sẽ có xung đột.

Xung đột thì sẽ đổ máu.

Lương Tiểu Đồng chán ngán nhưng cũng có cảm giác bị lừa dối: két sắt? Sao mình lại không biết có két sắt đặt ở lầu chính? Khắp các xó xỉnh trong ngoài khu nhà này mình đều biết rõ như lòng bàn tay, thế mà chưa từng nhìn thấy két sắt nào cả! Trong đó cất giữ báu vật gì mà lão phải giấu mình?

Đương nhiên là những thứ quan trọng hơn cả sự thẳng thắn và tin cậy. Chắc chắn là thứ rất quý, đến nỗi cất ở nhà cũng không yên tâm. Thế thì đừng hòng Đới Hướng Dương hé răng!

Nhưng rốt cuộc Lương Tiểu Đồng cũng thấy bất ngờ, vì Đới Hướng Dương nói, “Được! Tôi cho anh biết.” Sau đó im lặng.

Tên cướp cầm súng trường, “Không chần chừ!”

Yên Vệ Bình nói, “Chú ơi!” Giọng nài nỉ như muốn Đới Hướng Dương đừng nói tiếp. Lương Tiểu Đồng thầm nghĩ: nói thì nói luôn đi, vào lúc này, mấy đồng tiền là quan trọng hay tính mạng cả đám người ở đây là quan trọng?

Tên cướp cao kều bước đến nện cho Yên Vệ Bình một báng súng vào lưng, “Mày câm mồm! Tất cả ngồi im.”

Đới Hướng Dương, “Tôi có nói ra cũng vô ích, vì không có két sắt nào cả!”

Tên cướp cầm súng ngắn nói, “Chắc hẳn mày muốn ăn quả đắng đã rồi mới chịu hợp tác, tội gì phải thế?” Một quả đấm giáng luôn vào mặt Đới Hướng Dương, một bên mặt lập tức sưng vù, mồm rỉ máu.

Tên cướp nói, “Bọn tao đã thám thính rồi. Rừng có mạch vách có tai là đương nhiên, mày hiểu chứ?”

Lương Tiểu Đồng không hiểu hắn nói thế là ý gì, nhưng Đới Hướng Dương thì hiểu. “Tôi có thể cho anh biết, nhưng có một yêu cầu là anh phải tha cho những người này.

Không đổ máu, không bị thương.” Cách nói quen thuộc của ông ra, chậm rãi, nhưng chắc nịch, rắn rỏi.

“Bọn tao không thương lượng gì hết.” Họng súng của tên cướp gí mạnh hơn. “Tao muốn xem mày định thế nào.”
Đới Hướng Dương, “Thế thì tôi nói đây: thật ra tôi cũng không biết.”

Tên cầm súng ngắn liền đầm một quả vào gáy Đới Hướng Dương, ông ta kêu rú lên, suýt nữa ngã lăn. Yên Vệ Bình bị còng chung cũng đổ nhào về phía trước.

“Vào lúc này mà chơi game thì không hay đâu!” Tên cướp nói giọng Xuyên - Tương lại gí súng vào gáy Đới Hướng Dương, “Tao cho mày ba giây cuối cùng.”

“Nói thật vậy, mật mã có 11 chữ số, tôi nhớ sao nổi? Cứ xem di động, mở danh bạ, tìm ba chữ ‘Đới Hướng Dương’, số di động chính là mật mã.” Đới Hướng Dương vừa ho vừa nói.

Tên cướp thọt chuyên nghiệp lập tức bới tìm trên bàn, tìm thấy di động của Đới Hướng Dương, mở ra xem một lúc rồi nói, “Tao đi mấy phút, mày trông coi chúng. Đứa nào động đậy bắn luôn, khỏi cần cảnh cáo.” Nói rồi hắn tập tễnh rảo bước ra ngoài.

Có vẻ như Đới Hướng Dương đã nói thật, bây giờ chờ xem trong két sắt là thứ gì quý giá.

Lại có tiếng bước chân. Tên cướp nói giọng miền Nam lúc nãy đi ra giờ đã quay trở lại, áp giải một nam một nữ, chắc là hai thực khách ngồi ở Túy Hoa m. Thì ra họ cũng không chạy thoát.

Mắt Lương Tiểu Đồng sáng lên.

Hai người mới tới cũng bị còng chung. Người đàn ông cao gầy, còn cao hơn cả tên cướp nói giọng miền Bắc, cái cổ dài ngoẵng như cổ ngựa vằn. Điểm sáng ở đây là người phụ nữ kia.

Xem ra, em Chân không nói ngoa.

Mọi ngày nghe nói ai đó là người đẹp, Lương Tiểu Đồng chỉ cười khinh khỉnh, chuẩn mực và định nghĩa người đẹp thời nay rất chung chung, yêu cầu quá thấp, không thể tin là đẹp thật. Nhưng cô gái vừa bước vào đã khiến anh ta phải mơ màng.

Điều đáng nói nhất là tuy cô ta có vẻ căng thẳng nhưng không lúng túng hoảng loạn, thật khó hình dung một cô gái ngoài hai mươi tuổi với dáng dấp thanh cao thoát tục lại có tư thế già dặn chững chạc như vậy khi phải đối mặt với sự kiện đáng sợ hiếm gặp trong cuộc sông. Lương Tiểu Đồng thầm nghĩ, nếu mình thoát khỏi tai nạn lần này thì phải “tốn công tốn sức” một phen mới được.

Cô ta là ai? Vì sao Lương Tiểu Đồng nổi danh ăn chơi đất Giang Kinh lại không biết đến sự tồn tại của một báu vật như thế này? Xem ra, con nhà giàu thế hệ thứ hai như mình chỉ có cái danh hão chứ không có thực chất! Lương Tiểu Đồng không thể kìm mình ngắm nhìn cô, càng nhìn càng cảm thấy quen, rất có thể mình đã gặp cô gái này ở một hội quán hay một dạ tiệc nào.

Nhưng hình như không phải thế. Dáng dấp có trí thức văn minh, rất có thể là một khuê nữ sống ở nơi kín cổng cao tường, đương nhiên không thể nào gặp được.

Tên cướp người miền Nam nói, “Suýt nữa để chúng chạy mất!” Rồi bảo anh chàng ngựa vằn và cô gái ngồi xuống như những người khác. Tên người miền Bắc nói, “Đại ca bảo mày đến rồi thì sang giúp một tay (đào kho báu).” Tên cướp người miền Nam “ừ” rồi chạy ra ngoài.

Tên cướp cầm súng ngắn, có phong cách chuyên nghiệp đúng là tên trùm. Không rõ lúc này hắn đã mở được két chưa, đã lấy được thứ gì? Liệu Lương Tiểu Đồng có cơ hội chiêm ngưỡng không?

Văng vẳng nghe thấy những tiếng “lạch cạch lạch cạch”, đám con tin trong đại sảnh cũng hơi xôn xao. Tên miền Bắc quát, “Các người chớ có xúc động, kẻo khẩu súng trong tay tay tao cũng sẽ xúc động lên ngay!” Hắn muốn pha trò một chút nhưng đám đông không ai cười được.

Tên miền Nam đi sang giúp đại ca đào kho báu đã nhanh chóng quay lại và kéo theo một người, người này áo quần xộc xệch, mũi miệng rỉ máu, cánh tay trái thõng xuống bất lực, chắc là bị trật khớp.

Đới Thế Vĩnh.

Tên miền Nam nói với tên miền Bắc, “Hôm nay tao gặp may, tóm được một thằng đang đi ị, người nó thối um lại còn định đọ sức với tao.” Hắn đồng thời còng Đới Thế Vĩnh với Cát Tam Lạc. Thế là Chân, Lạc và Vĩnh bị còng dính vào nhau.

Tên miền Bắc hỏi, “Đại ca đâu?”

“Rút trước rồi. Dặn chúng ta sau khi kết thúc thì tập hợp ở chỗ cũ.”

Lương Tiểu Đồng cảm thấy dễ chịu, cơn ác mộng sắp chấm dứt.

Nào ngờ, tên miền Bắc cười he hé, rồi nói, “Màn diễn hay thực sự sắp bắt đầu, đến lượt chúng ta sắm vai chính. Trước hết phải chọn các diễn viên quần chúng may mắn đã!”

Chọn xong thì sao? Xử bắn chắc?

Lương Tiểu Đồng cảm thấy lạnh toát sống lưng.

Tên miền Nam chọn một chiếc iPhone trên bàn, hỏi Lương Tiểu Đồng, “Của mày phải không?”

Lương Tiểu Đồng lắc đầu. Tên cướp lại nhìn kỹ chiếc di động, rồi cười, “Nhầm! Đây là hàng nhái. Của ai trong số các người?”

Không ai hé răng.

Hắn lại nói, “Các người cho rằng tao không thể nhận ra chứ gì?” Hắn bước đến trước mặt cậu phục vụ Kiến Vĩ. “Của mày phải không? Nói thật, hay muốn ăn đạn?”

Kiến Vĩ vội nói, “Đúng, của tôi.”

Hắn nói, “Có cần tao nói cho biết cách tao suy luận không? Tao đã đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám phá án…”
Tên miền Bắc ngắt lời, “Mày nên biết đêm dài lắm mộng. Tiếp tục đi!”

Tên miền Nam cười khẩy, “Nói có lý.” Rồi hắn ấn chiếc di động vào bàn tay không bị cùm của Kiến Vĩ, nói, “Mày gọi 110, nói rằng mày là nhân viên của lầu chính Tiêu Tương, bị bắt cóc.”

Kiến Vĩ chần chừ. Tên miền Nam gí súng vào trán cậu ta, nói, “Tao hài hước hơn Quách Đức Cương ( Diễn viên hài kịch, người dẫn chương trình nổi tiếng của Trung Quốc )thật, nhưng tao không nói đùa vào lúc này đâu!”

Hồ Kiến Vĩ bấm số, nói giọng run run, “Tôi… tôi là nhân viên phục vụ ở lầu chính hội quán Tiêu Tương, tôi… chúng tôi bị cướp!” Vừa dứt lời thì một tiếng kêu thảm thiết vang lên: tên cướp nói giọng miền Bắc đá một phát vào cánh tay bị trật khớp của Đới Thế Vĩnh khiến anh ta rú lên.

Tiếp đó là một tiếng súng nổ.

Lương Tiểu Đồng thót tim. Chết cha rồi, chúng bắt đầu giết người! Anh ta nhắm tịt mắt.

Bốn mươi lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

“Cũng tức là, lúc đầu có ba tên cướp, nhưng khi cậu phục vụ ấy báo cảnh sát thì chỉ hai tên có mặt ở hiện trường chứ gì?” Khương Minh hỏi. Đây là chi tiết quan trọng. Lương Tiểu Đồng đã kể lại rất rành mạch nhưng vẫn cần xác định cho rõ.

Lương Tiểu Đồng hơi chần chừ, hình như đang cố sắp xếp lại dòng suy nghĩ. Sau đó nói, “Đúng! Tôi nhìn thấy cả thảy ba tên bịt mặt cầm súng, một tên cầm súng ngắn, hai tên kia cầm súng trường tự động. Khi Kiến Vĩ bị ép phải gọi điện, thì ở trong phòng ăn chính chỉ còn lại hai tên cầm súng trường. Nghe hai tên này nói chuyện với nhau, tôi hiểu rằng tên cầm súng ngắn đã lấy được thứ mà chúng cần cướp và chuồn rồi.” Dáng vẻ Lương Tiểu Đồng rất nghiêm chỉnh, cứ như đang báo cáo tài chính.

“Nếu chúng tôi thu thập đủ ảnh chụp của những người sống sót, anh có thể nhận ra mình đã từng nhìn thấy những ai không?” Khương Minh hỏi.

“Có chứ. Trừ hai phụ bếp thời vụ, còn các nhân viên ở Tiêu Tương tôi đều quen thuộc cả. Na Lan và anh phóng viên tôi cũng nhớ rõ.” Lương Tiểu Đồng nói.

Ba Du Sinh hỏi, “Trong vài phút kể từ lúc báo cảnh sát cho đến lúc xe cảnh sát đến, các anh làm gì?”

“Không làm gì cả, không có chuyện gì xảy ra.” Lương Tiểu Đồng lim dim mắt cố nhớ lại. “Sau khi báo cảnh sát thì bọn cướp nổ súng, tôi tưởng chúng sắp giết người, sau đó mới nhận ra là chúng bắn lên trần nhà, nhằm cảnh cáo. Vì khi Kiến Vĩ gọi điện, thì mọi người trong phòng ăn đều hơi hơi… lao xao, rục rịch. Tôi có cảm giác là như vậy. Vì, thứ mà chúng cần cướp thì đã cướp được rồi, chúng sẽ chuồn, tại sao chúng còn ở lại để o ép chúng tôi? Chúng tôi sẽ phải chịu đựng đến khi nào, chúng còn định làm gì nữa… cho nên tôi ngoảnh lại nhìn.

Khi súng nổ thì mọi người giật mình, sau đó im phăng phắc không ai xì xào gì nữa… cho đến lúc nghe thấy còi xe cảnh sát, tôi nhớ là một tên cướp nói: kể từ lúc này, các ngươi thực sự là con tin rồi.”

“Có cơ hội trốn thoát nhưng chúng lại không bỏ chạy cho nhanh, mà lại cố ý báo cảnh sát. Chúng có nói tại sao không?”

Lương Tiểu Đồng lắc đầu, “Tôi cảm thấy rất kỳ quái. Có lẽ cách giải thích duy nhất là chúng muốn lợi dụng đám con tin chúng tôi để đối thoại với cơ quan chính quyền nhằm moi được nhiều tiền hơn hoặc đòi đáp ứng càng nhiều yêu sách và lợi ích…”

Tất cả im lặng. Lương Tiểu Đồng đoán có lẽ các sĩ quan cảnh sát đang ngẫm nghĩ: nhưng chúng không đưa ra bất cứ yêu sách nào.

Không hẳn là thế. Chúng có thể thương lượng nhưng phải là Na Lan đứng ra.

“Ai nhắn tin yêu cầu tìm Na Lan?” Ba Du Sinh hỏi, dường như xác nhận cách nghĩ của Lương Tiểu Đồng là đúng.

“Tôi.”

Tất cả lại im lặng.

Lương Tiểu Đồng nhìn các sĩ quan cảnh sát. “Đương nhiên là tôi bị ép buộc.” Lương Tiểu Đồng nhớ đến chiếc iPhone của mình bị một bàn tay giơ lên, một giọng nói giễu cợt: cái này là của anh chứ gì?

Ba Du Sinh hỏi, “Có dấu hiệu nào thể hiện rằng bọn cướp đã biết Na Lan đang ở trong số các con tin không?”

“Không.”

“Na Lan có biết rằng bọn cướp đang muốn cô ấy làm trung gian không?”

Lương Tiểu Đồng lắc đầu, “Tôi không trao đổi gì với Na Lan nên tôi không biết. Lúc đó cô ấy không thể nhìn thấy hoặc nghe thấy nội dung tin nhắn. Bọn cướp đưa cho tôi một mẩu giấy đã in sẵn ngần ấy chữ, bảo tôi nhắn tin theo mẫu. À, phải bổ sung rằng, mỗi lần nhắn tin là một mẩu giấy riêng.”

“Các mẩu giấy đó còn không?”

Lương Tiểu Đồng ngẫm nghĩ một lát. “Chắc chắn là đã bị cầm đi rồi. Nhưng không rõ chúng nhét vào túi hay chúng tiện tay vứt bỏ. Nhắn tin xong, tôi tiếp tục ngồi quay mặt vào tường, không nhìn thấy các động tác của chúng.”
Anh ta ngừng lời, cố nhớ lại.

Ba Du Sinh nhắc, “Anh nói tiếp đi?”

“Na Lan… về Na Lan… khi tôi nhắn tin xong mẩu tin ‘còn một phút nữa’, thì cô ấy chủ động hỏi: chúng ta còn phải chờ gì nữa?”

Lương Tiểu Đồng chật vật kể lại các tình tiết khi Na Lan can đảm đứng lên. “Vì thế cô ấy bị chúng đá cho một phát. Tên cướp nói: cấm các người nói chuyện, cấm mở miệng! Rồi hắn nói to: chờ khi bọn cảnh sát gọi Na Lan đến thì các người không phải chờ đợi gì nữa.

Tất nhiên, các sự việc tiếp theo không phải như thế. Na Lan không do dự, nói luôn: tôi là Na Lan đây. Lúc đó tôi sợ quá đờ người ra, cho đến lúc bị tên cướp đập một cái vào đầu, tôi mới tỉnh táo trở lại. Tên cướp bảo tôi nhắn tin trả lời các anh, nội dung là ‘không cần nữa’.”

Ba Du Sinh hỏi, “Chúng có phản ứng gì?”

Lương Tiểu Đồng nói, “Tôi không nhìn thấy, tôi chỉ ngoảnh sang nhìn Na Lan… vì tôi kinh ngạc nên mới nhìn cô ấy. Tôi cũng không dám nhìn vẻ mặt bọn cướp, nhưng đoán rằng chúng cũng rất kinh ngạc. Tôi nghe thấy âm thanh sột soạt khi chúng lục lọi túi xách của Na Lan để tìm chứng minh thư.”

“Anh hãy kể về nội dung thương lượng đi?” Khương Minh xen vào.

Lương Tiểu Đồng im lặng, rồi đáp với vẻ tiếc nuối, “Tôi không biết.”

“Không biết?” Cả ba cảnh sát đang có mặt đều nhìn Lương Tiểu Đồng, tỏ vẻ nghi hoặc về câu trả lời này.

Lương Tiểu Đồng nói, “Thật thế! Thoạt đầu, Na Lan chủ động nói với bọn cướp hãy để cô ấy nói chuyện với cảnh sát trước, nói rằng các đối tượng này có thiện chí thương lượng, rằng trong đám con tin này đang có thương vong…

không có người chết, ít ra là… chưa chết… Nhưng bọn cướp không đồng ý, chúng nói, chắc cảnh sát đã hiểu rằng họ rất có thiện chí nên họ chỉ ở ngoài chờ, không dám tiến vào, không dám hành động.

Còn nói: cô và chúng tôi thương lượng, không cần cảnh sát nhúng vào. Na Lan bèn nói: các anh cứ đưa ra điều kiện. Bọn cướp nói: chúng tôi không đòi hỏi gì hết.”

Lương Tiểu Đồng nhìn ba cảnh sát, họ không thể hiện thái độ gì rõ rệt nhưng ánh mắt thì rõ ràng là “không tin nổi”. Lương Tiểu Đồng nói, “Tôi biết, nghe thế này thật buồn cười. Hoặc nhìn từ góc độ các con tin chúng tôi, một khi hung thủ bắt cóc con tin không cần điều kiện gì nữa thật đáng sợ, tức là không còn gì có thể khống chế chúng làm những việc tàn bạo và đổ máu! Chắc Na Lan cũng rất sợ hãi, cô ấy vội nói: hai bên chưa chính thức thương lượng, mong các anh đừng bỏ cuộc, các anh đã chờ rất lâu để tìm được tôi đến thương lượng, chắc các anh đã biết quá khứ của tôi. Tôi có thể đối thoại trực tiếp với cấp trên ở Sở Công an phụ trách vụ việc này. Tôi tin rằng các anh phải có một số yêu cầu nào đó, cứ cho tôi biết, tôi có thể giúp các anh.”

Ba Du Sinh vẫn giữ vẻ ngoài bình thản nhưng tim đập tăng dần: Na Lan không chuyên nghiệp như Điền Lợi Mẫn để mà thương lượng, trong tình huống đó Na Lan chỉ có thể huy động kiến thức tâm lý học và khả năng ứng biến để đối phó, liệu cô có thuyết phục nổi không?

Lương Tiểu Đồng lại nói, “Sau đó, họ vào một gian phụ ở bên cạnh để đối thoại, chúng tôi không nghe thấy gì hết.”
Ba Du Sinh và Khương Minh đều biết về gian phòng nhỏ đó, là một không gian kín đáo hơn dành cho khách dự tiệc trao đổi riêng tư.

Ba Du Sinh hỏi, “Một tên vào nói chuyện với Na Lan, còn một tên đứng ngoài?”

“Đúng!’

“Tên nào vào trong?”

Đồng nghĩ ngợi, rồi nói, “Tên nói giọng miền Nam.”

“Anh vừa nói rằng Na Lan và phóng viên họ Quách bị còng chung…” Ba Du Sinh chỉ nhắc lại chi tiết ấy, nhưng Lương Tiểu Đồng cảm nhận được đó là câu hỏi.

“Chúng tháo còng cho Na Lan, Quách Tử Phóng được hưởng còng một mình.” Lương Tiểu Đồng nói, không hề có ý đùa cợt.

Khương Minh dường như chưa hiểu, bèn hỏi, “Ý anh là, khi Na Lan nói chuyện với tên cướp trong gian phòng nhỏ, cô ấy không bị khống chế, cô ấy tự do?”

“Đúng! Tên cướp nói: cô đến để thương lượng thì chúng tôi sẽ cư xử đúng mực, phù hợp với thông lệ quốc tế.”

Lương Tiểu Đồng nghĩ ngợi rồi nói tiếp, “Đúng là cô ấy không bị còng, hình như chúng còn nói là trả lại túi xách cho Na Lan, di động thì tạm thời chúng vẫn giữ. Quách Tử Phóng bị còng cả hai tay, anh ấy khẽ oán trách: nhất định phải thế ư? Nhưng không ai bận tâm cả.”

“Họ nói chuyện bao lâu?”

“Không rõ lắm. Khoảng mười lăm hoặc hai mươi phút… cho đến khi Đới Hướng Dương bỗng nhiên đột biến.” Lương Tiểu Đồng hít vào một hơi thật sâu, không rõ là vì nhớ đến tình tiết mang tính bước ngoặt ấy hay là chuẩn bị “tổng kết” chấm dứt. Ba viên cảnh sát tập trung cao độ vào bước ngoặt này.

“Đột biến, nghĩa là gì? Anh nói cụ thể được không?” Khương Minh hỏi.

“Tức là khác hẳn mọi ngày, hơi giống như… hóa điên. Tôi hiểu rất rõ về Đới Hướng Dương, ông ta là người vững vàng trầm tĩnh, hiếm khi tỏ ra quá vui mừng hay giận dữ, suy nghĩ kỹ trước khi làm việc chứ không nông nổi bốc đồng. Cha tôi nói, những ai tay trắng làm nên, lãnh đạo một tổ chức kinh doanh, đều có tố chất đó. Nhưng không hiểu sao, có lẽ là vì bị đè nén quá lâu, hoặc ông ta có tinh thần vì đại nghĩa, dám đứng lên giải cứu các con tin cũng nên…

Tôi ngồi gần Đới Hướng Dương, dù quay mặt vào tường, tôi vẫn nhận ra ông ấy vụt đứng lên, dùng bàn tay không bị còng nhấc luôn một cái ghế quăng vào tên cướp cầm súng nhưng không ném trúng, cái ghế đập vào kính cửa sổ vỡ tan. Sau đó, ông ta cùng con rể Yên Vệ Bình, vẫn bị còng chung, cùng xông vào tên cướp cầm súng. Tình hình diễn ra rất nhanh, có lẽ tên cướp này chưa thực sự chuyên nghiệp hoặc hắn cũng chưa phải hạng tàn độc vô lương tâm, nên hắn không nổ súng, chỉ né tránh hai cha con Đới Hướng Dương. Ông ta như hóa điên, còn Yên Vệ Bình, anh ta tựa như vệ sĩ của Đới Hướng Dương nhưng tay vẫn bị còng chung thì cũng không thể có nhiều lựa chọn, vì thế cũng dũng mãnh xông lên.

Nghe ầm ĩ như thế, tôi liền quay lại nhìn, thầm nghĩ, mình có nên hành động cùng Đới Hướng Dương không? Rất có thể sẽ khống chế được tên cướp. Bây giờ nghĩ lại thấy rằng nếu lúc đó mọi người cùng xông ra trợ giúp thì dù tay đang bị còng cũng vẫn đè bẹp được tên cướp ấy.

Nhưng lúc đó tôi vẫn lưỡng lự, và tình hình diễn biến quá nhanh. Tên cướp cố né tránh, rồi ngã lăn ra vì vấp phải cái ghế. Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình đè lên người hắn, hắn kêu lên: Các người coi chừng, trong người tao đang quấn thuốc nổ!”

Lương Tiểu Đồng ngừng lại, thè luỡi liếm đôi môi khô ran. Ba Du Sinh nói, “Anh uống nước đi, cứ từ từ…”

Chai nước khoáng trên bàn liền cạn ngay. Trán Lương Tiểu Đồng lấm tấm mồ hôi.

Khương Minh hỏi, “Tên cướp ấy là người vùng nào?”

Lương Tiểu Đồng thầm nghĩ, tay cảnh sát này đã biết rồi mà còn hỏi lại, “Nghe giọng có vẻ là người miền Bắc, cao to vạm vỡ.”

Ba Du Sinh, “Nói tiếp đi.”

“Trong phòng bắt đầu rối loạn, mọi người đều quay lại, tên cướp thương lượng và Na Lan cũng từ gian bên kia chạy sang. Mọi người đều kêu la ầm ĩ. Tôi nhớ là mình đã hô lên: Mau đứng dậy, chạy thôi! Nhưng tôi lấy làm là, hình như Đới Hướng Dương không cảm nhận thấy tên cướp kia đang uy hiếp, còn Yên Vệ Bình thì nói: Chú ơi, đứng lên! Nhưng ông ta vẫn cứ đưa hai tay ghì chặt cổ tên cướp, có vẻ như muốn siết chết hắn luôn. Tôi càng nhìn càng thấy không ổn, bèn lùi tránh theo bản năng. Sau lưng tôi là cửa sổ, ô kính đã bị ghế quăng trúng, vỡ gần hết. Nhưng đúng lúc này phần kính còn lại bỗng rơi xuống nốt vì bị chấn động bởi một tiếng nổ!”

Trán Lương Tiểu Đồng càng ướt mồ hôi, anh ta cầm chai nước khoáng lên nhưng chai đã cạn, Khương Minh đưa chai khác, tiện thể hỏi luôn, “Tiếng nổ… phát ra từ chỗ bọn cướp?”

“Có lẽ thế. Tôi bị người khác đứng chắn nên không nhìn rõ. Bấy giờ rất hỗn loạn nhưng đúng là hướng đó, hướng đang vật lộn đánh nhau. Tiếp theo là những tiếng kêu thảm thiết, khói lửa bùng lên. Tôi biết kết cấu lầu Ba Khắc gần như toàn bằng gỗ, nhất là sàn của đại sảnh lầu chính gần đây mới đánh sáp, bắt cháy thì không sao dập được nữa, cho nên tôi tính ngay đến chuyện nhảy qua cửa sổ… Tôi cho rằng mình là người đầu tiên nhảy qua cửa sổ. Diễn biến về sau thì các anh đã biết rồi. Tôi nhảy xuống đất suýt gãy chân, mắt cá chân bị sái rất nặng nên không đứng lên nổi, bị khói lửa từ nhà bếp tầng trệt bốc cháy phun ra, tôi ngất xỉu.

Khi được khiêng lên xe cứu thương, tôi mới tỉnh lại.” Lương Tiểu Đồng nói, hai tay đặt trên bàn, đầu cúi xuống và lúc lắc liên tục, như thể làm thế thì sẽ tỉnh táo và thoát khỏi ám ảnh về cơn ác mộng vừa trải qua. Khi ngẩng đầu lên, vẻ mặt anh ta rất mệt mỏi, trán đầm đìa mồ hôi, toàn thân run run như bị rút hết sức lực sau khi kết thúc một cuộc trường chinh.

Ba Du Sinh bất giác lại nghĩ đến Na Lan, cô sẽ phân tích thế nào về tay thanh niên đang ngồi đây: thoạt tiên muốn trấn tĩnh và cứng cỏi nhưng rốt cuộc lại xẹp hẳn, bất lực?

Lương Tiểu Đồng rã rời kiệt sức, rõ ràng là một phản ứng tự nhiên.

Chờ anh ta tạm trấn tĩnh trở lại, anh hỏi, “Ba người vật lộn và xảy ra vụ nổ, là chuyện ở góc nào của đại sảnh, anh có thể chỉ ra trên sơ đồ này không?”

Anh chìa sơ đồ mặt bằng của đại sảnh bày tiệc, do các kỹ thuật viên phục dựng. “Đây là cửa, đây là bàn ăn, đây là cửa sổ anh đã nhảy qua, cửa sổ phía Đông Nam, đây là hai cửa sổ khác ở phía nam, đây là gian phòng nhỏ bên cạnh, đây là nhà vệ sinh.”

Lương Tiểu Đồng nghĩ ngợi rồi chỉ vào góc Đông Bắc trên sơ đồ, “Gần chỗ này, tôi nhớ rằng thoạt đầu Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình ngồi xổm ở góc Tây Nam, tên cướp thì đi đi lại lại trong phòng, khi Đới Hướng Dương ném ghế thì tôi không ngoảnh nhìn nhưng đoán rằng tên cướp đang đi gần của sổ Đông Nam, cái ghế bay ra nhưng không trúng hắn, lại trúng cửa sổ rồi rơi xuống.

Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình đuổi đánh tên cướp đến góc này thì cả ba vật lộn, tiếng nổ cũng xảy ra ở đây.”

Khương Minh hỏi, “Còn tên cướp thứ hai đang nói chuyện với Na Lan, khi chạy vào thì hắn làm gì?”

“Lúc đó tình hình rất hỗn loạn nên tôi không còn tâm trí đâu mà theo dõi hắn, chỉ biết rằng hắn không nổ sung.”
“Anh nói mình là người đầu tiên nhảy qua cửa sổ, sau đó là ai?” Ba Du Sinh hỏi.

Vậy là cảnh sát vẫn đang tìm hiểu về bọn cướp. Lương Tiểu Đồng cảm thấy ổn định hơn, và hơi hối tiếc vì vừa rồi mình tỏ ra quá yếu đuối, nhưng biết làm sao được, nhớ đến giây phút kinh hoàng thì còn tâm trạng nào nữa? Anh ta nói, “Tôi chịu. Các anh nhìn sơ đồ này xem, đại sảnh có ba cửa sổ, hai cửa hướng Nam, một cửa hướng Đông Nam. Tôi nhảy qua cửa sổ Đông Nam. Nếu ai đó cũng nhảy theo thì tôi có thể cảm nhận được tiếng động, nhưng chân tôi quá đau, thử đứng lên mà không đứng nổi, cứ thế loay hoay hồi lâu, có ai rơi xuống ngay bên cạnh tôi cũng không chú ý. Còn nếu ai đó nhảy qua cửa sổ hướng Nam thì tôi lại càng không biết.”

Phòng lấy lời khai tạm thời yên tĩnh một lúc. Khương Minh dừng bút, ngẩng đầu, “Anh còn định bổ sung điều gì nữa không?”

Lương Tiểu Đồng im lặng một lát rồi lắc đầu, “Chưa nghĩ ra thêm. Tôi thấy mình đã nói khá dài dòng rồi. Các anh cần hỏi gì nữa không?”

Không hiểu tại sao cả ba cảnh sát cùng mỉm cười, Ba Du Sinh nói, “Tất nhiên là vẫn còn rất nhiều…”

Thấy vẻ mặt Lương Tiểu Đồng hơi biến đổi, anh bèn nói, “Yên tâm! Anh đã cố gắng giúp chúng tôi rất nhiều, tạm thời không làm phiền anh nữa. Chân vẫn còn đau, đúng không? Chúng tôi sẽ đề nghị bệnh viện lưu ý điều trị. Có lẽ mai kia chúng tôi vẫn phải liên lạc thêm với anh…”

“Vâng. Không vấn đề gì…” Lương Tiểu Đồng đứng lên. “Nói đến liên lạc… Di động của tôi… Sau khi nhắn tin, bọn cướp quên không lấy đi, lúc tôi nhảy qua cửa sổ thì máy vẫn còn, nhưng các anh lại thu giữ. Tôi cũng hiểu, đó là công cụ liên quan đến tin nhắn của bọn cướp, nên các anh vẫn cần đến. Tôi sẽ mua máy khác để các anh tiện liên lạc.”

Ba Du Sinh bắt tay Lương Tiểu Đồng, “Rất cảm ơn anh đã thông cảm. Chúng tôi sẽ nhanh chóng trả lại di động cho anh. Chắc là khi anh ra viện. Nếu anh cần liên lạc với người nhà cứ bảo cảnh sát dân sự cho mượn di động mà gọi, không sao cả.”

Lương Tiểu Đồng bắt tay vẫn khá chặt, mỉm cười chào ba cảnh sát, rồi tập tễnh bước ra cửa phòng làm việc. Ba Du Sinh bỗng hỏi thêm, “Vết thương trên cổ anh, là tại sao?”

Lương Tiểu Đồng dừng bước, người hơi run run, rồi quay lại nói, “À, tôi chưa nhắc đến, cũng vì nghĩ rằng không mấy quan trọng. Thực tình tôi cũng không nhớ rõ nữa. Chác là lúc nhảy qua cửa sổ, bị mảnh kính vỡ cứa vào. Khi nhảy xuống đất rồi còn có nhiều mảnh kính rơi theo. Đang đau muốn chết thì lại có tiếng nổ, vô số gạch vụn và mảnh thủy tinh lại rơi xuống…

“Được! Một lần nữa cảm ơn anh.” Ba Du Sinh nói.

Cửa khép lại, bước chân loạng choạng của Lương Tiểu Đồng dần biến mất. Khương Minh than thở, “Thật là kinh khủng. Đây mới chỉ là một bút lục… Đội trưởng, anh nhìn nhận thế nào?”

Ba Du Sinh cầm tập bút lục lên, dường như chỉ nhìn lướt qua, rồi ngẩng đầu, thở dài

“Tôi cho rằng, anh ta vẫn chưa nói hết sự thật.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 7

Một tiếng sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.
Bảo Lương Tiểu Đồng chưa nói hết sự thật, chỉ là phán đoán, thậm chí là trực giác, của cá nhân Ba Du Sinh. Trước mắt chưa có chứng cứ gì nhưng có căn cứ, ví dụ, con người chín chắn già dặn như Đới Hướng Dương tại sao bỗng dưng mạo hiểm chiến đấu với bọn cướp, để rồi bỏ mạng? Hoặc, người bị cùm cả hai tay, không chỉ riêng Lương Tiểu Đồng mà sau đó còn có cả Quách Tử Phóng, và Lý Vạn Tường đầu bếp của Tiêu Tương…

Theo Lương Tiểu Đồng nói, sau khi đầu bếp và hai người giúp việc bị áp giải từ bếp lên, họ bị “cùm liên hoàn” tức là dùng hai bộ còng để còng ba người. Nhưng khi cảnh sát đặc nhiệm cứu đầu bếp Lý Vạn Tường trong đám cháy ra, thì một mình ông ta bị còng hai tay bởi một bộ còng.

Tại sao Lương Tiểu Đồng không nhắc đến tình tiết Lý Vạn Tường được “ưu đãi” hai tay dùng một bộ còng, là do không nhớ rõ chăng? Có thể lắm. Khi vụ việc kinh hồn bất ngờ xảy ra, ít nhất có hơn chục người túm tụm một chỗ, có vô số tình tiết, không thể nhớ hết là điều khó tránh khỏi. Có lẽ không nên đi sâu truy cứu.

Ba Du Sinh nói, “Sau đây chúng ta ghi bút lục đối thoại với Lý Vạn Tường.”

Nhìn vẻ do dự của Khương Minh, anh hiểu điều Khương Minh đắn đo, bèn nói thêm, “Chúng ta có thể đồng thời đối thoại ghi bút lục với nhiều người mục kích sự việc, sẽ đề nghị các đồng nghiệp ở sở và khu phối hợp làm. Nhưng cuối cùng những người mục kích vẫn phải gặp ba chúng ta. Như thế được không?”

Khương Minh gật đầu, “Được! Tôi sẽ sắp xếp ngay.”

Cửa phòng bật mở, một cảnh sát hình sự đưa máy di động chuyên dùng vào, “Sếp Vương và sếp Cát.”

Ở đầu dây bên kia, Vương Chí Huân nói, “Ngọn lửa ở lầu chính Tiêu Tương căn bản đã khống chế được, cũng may cảnh sát chữa cháy luôn sẵn sàng và đã đến kịp thời để dập lửa, cho nên cả khu lầu vẫn tồn tại, vẫn giữ được các tầng nhà, nhưng cầu thang và sàn gỗ thì hỏng hết. Chúng tôi định dùng thang di động và bắc giàn giáo để lên tầng hai khám nghiệm. Mục tiêu là trước khi trời tối hoàn thành khám nghiệm và có kết luận sơ bộ.”

Ba Du Sinh nói, “Được! Cảm ơn cậu. Các cậu phải nhắc nhở chú ý an toàn là trên hết, nhất là anh Cát bị đau lưng, nên chú ý hơn.” Anh Cát tức Cát Sơn, là một tổ trưởng của trinh sát hình sự thành phố, là cảnh sát già kỳ cựu mà Ba Du Sinh rất kính trọng. Anh bỗng cảm thấy bứt rứt: Vương Chí Huân và Cát Sơn cùng các anh em khám nghiệm hiện trường ở tòa lầu ọp ẹp sau đám cháy, còn mình thì mát mẻ ngồi đây phán bảo, chẳng phải tác phong vốn có của anh.

Nhưng anh cũng hiểu rằng, vào lúc này ở đây đang rất cần anh.

Những lời tường thuật của Lương Tiểu Đồng căn bản có đầu có đuôi, quá trình xảy ra vụ việc tương đối rõ ràng mạch lạc, nhưng anh vẫn có cảm giác như bị một lớp sương mỏng bao phủ, sự thật thoắt ẩn thoắt hiện chưa rõ ràng. Nếu lúc này Na Lan cho anh biết tất cả, thì có lẽ sẽ bớt đi những đoạn đường vòng, đỡ tốn sức một cách không cần thiết. Anh cũng có thể hỏi Quách Tử Phóng trước, nhà báo vốn nhạy bén, thông tin đưa ra thường có độ tin cậy, nhưng niềm tin vào Quách Tử Phóng liệu có khiến anh rơi vào trạng thái ấn tượng, chủ quan nên khiên cưỡng không?

Tâm trạng hơi nặng nề khi nghĩ đến Na Lan, anh lập tức gọi điện đến phòng hồi sức ICU. Bác sĩ chủ trị là Trương Lỗi cho biết Na Lan đã một vài lần hồi tỉnh nhưng lát sau lại lịm đi, cũng phù hợp với quá trình bình phục của các ca chấn thương sọ não. Trương Lỗi tiện thể hỏi anh xem Na Lan bị thương trong trường hợp nào? Thấy sau gáy Na Lan có vết tụ máu, các bác sĩ liền cho chụp X quang, xác định có vết rạn lõm xương chẩm. Rơi từ cửa sổ gác hai xuống đất, độ cao 3-5 mét rất có khả năng bị chấn thương sọ não nhưng ở vùng chẩm có vết thương rõ rệt, rất có thể đã đập đầu vào vật cứng. Hơn thế, khi Na Lan nhảy xuống đất thì xảy ra vụ nổ thứ hai, một phần tường nhà vỡ bung, gạch vữa từ trên cao rơi xuống cũng có thể trút trúng vào cô.

Ba Du Sinh không thể trả lời câu hỏi này, đành nói là cảnh sát đang điều tra, anh chỉ biết Na Lan có nhảy cửa sổ xuống đất rồi ngất đi, toàn thân bị đất đá, thủy tinh bụi bặm phủ kín.

Điện thoại xong, tâm trạng Ba Du Sinh càng nặng nề.

Khương Minh quay trở vào phòng, đồng thời dẫn theo đầu bếp Lý Vạn Tường.

So với Lương Tiểu Đồng hoàn toàn bình thản lúc mới bước vào phòng thẩm vấn, thì Lý Vạn Tường trái ngược hoàn toàn, trông hết sức hoảng loạn khốn khổ.

Hơi khó đoán tuổi Lý Vạn Tường, nhìn tổng thể thì ở độ tuổi trên dưới 50, nhưng khuôn mặt già hơn tuổi rất nhiều, nhất là làn da đỏ thẫm, mà người ta hay gọi là “màu đồng hun”, trán và đuôi con mắt thì đầy vết nhăn. Tai phải và nửa mặt bên phải đang bị băng bó, hai má có hai vết nhăn rất sâu chạy vào đến dưới cái mũi gồ to tướng, trông thật là khổ sở. Mái tóc hoa râm cắt cua bằng phẳng, đôi mắt lờ đờ mệt mỏi, gây cho người ta cảm giác về một con người đã và đang tiếp tục nếm đủ mùi cay đắng.

Chắc không phải chứ! Ba Du Sinh đã đọc lướt tư liệu về Lý Vạn Tường, biết ông ta là tay đầu bếp thượng thặng trong giới nhà hàng Giang Kinh, hội quán Tiêu Tương đã chấp nhận chi cả đống tiền để mời ông ta từ khách sạn Đại Kim Sa về, đây cũng là thương vụ đình đám của Tiêu Tương trong ngành ẩm thực. Mấy đầu bếp hạng sao mà Ba Du Sinh biết đều thuộc loại khệnh khạng kiêu kỳ, nhưng Lý Vạn Tương ngồi trước mặt anh đây trông chân chất như một ông hàng xóm hiền hòa, thậm chí có phần nhếch nhác. Mà cũng có thể là tại mới trải qua một trận phong ba đáng sợ, ông ta vẫn chưa hết bàng hoàng.

Kể cũng đúng thôi, nếu căn cứ vào miêu tả của Lương Tiểu Đồng lúc nãy và thực tế mà anh nhìn thấy, thì bất cứ ai trải qua vụ cướp kinh hoàng kia đều có thể suy sụp tinh thần. Về thể chất, Lý Vạn Tường là một trong những người bị thương nhẹ nhất: chỉ bỏng nhẹ, và ho sù sụ, vì viêm họng cấp tính do hít phải khói nóng.

Vào tới phòng, hai tay Lý Vạn Tường vẫn không ngớt run rẩy, ngồi ghế mà như ngồi trên đống gai nhọn. Ba Du Sinh nói, “Nếu bác cần thêm thời gian thì bác cứ cho biết?”

Ông ta chỉ im lặng, ngây người nhìn ba cảnh sát, hình như không hiểu Ba Du Sinh vừa nói gì.

“Bác Tường.” Khương Minh gọi.

Vẫn không trả lời.

Ông ta vùi đầu vào hai tay, toàn thân co giật.

Rõ ràng là lúc này không thể thẩm vấn bút lục gì hết. Ba Du Sinh đứng dậy, nói với anh cảnh sát ghi biên bản, “Chúng ta cùng đưa bác ấy về phòng theo dõi y tế vậy.”

Lý Vạn Tường bỗng ngẩng đầu, “Không, không sao. Các anh cứ hỏi đi.”

Ba Du Sinh đưa mắt nhìn Khương Minh, rồi lại nói, “Bác đừng cố quá…” Đôi khi ghi bút lục trong tình hình như thế này lại càng lãng phí thời gian.

“Cứ hỏi, cứ hỏi đi, tôi có thể nói.” Lý Vạn Tường lại ho một tràng.

Ba Du Sinh ngồi xuống ghế, hỏi, “Các nhân viên cứu hộ của chúng tôi cho biết, khi cứu bác xuống lầu, hai tay bác bị còng với nhau, còn phần lớn những người khác thì hai người bị còng chung một còng, muốn hỏi bác, tại sao?”

Lý Vạn Tường sửng sốt, chắc là không ngờ cảnh sát lại mở đầu bằng câu hỏi kỳ lạ này, ông ta cười nhạt, “Tôi được ưu ái như thế, tôi nên cho rằng đó là vinh quang phải không? Để tôi bảo cho các anh biết tại sao…”

Ông ta ngồi thẳng người lên, rồi lại ho, sau đó nói, “Vì tôi là người duy nhất kháng cự bọn chúng.”

Lý Vạn Tường

Ai cũng nhận ra, trong những người hùn vốn ở Tiêu Tương, thì “ông chủ nhì” Lương Tiểu Đồng là người dốc tâm huyết nhiều nhất vào hội quán, trước ngày khai trương cũng bỏ ra rất nhiều thời gian thu xếp, nhưng thời gian có mặt ở hội quán thì vẫn thua xa đầu bếp Lý Vạn Tường. Người ngoài không động não, chỉ tưởng tượng thôi, sẽ cho rằng đầu bếp này sẽ là một CEO, xem xét chỉ bảo, còn người tất bật trong bếp là các thuộc hạ xào nấu chế biến các món. Nhầm to! Một đầu bếp xuất sắc thì luôn đích thân mó tay vào đủ thứ việc lớn nhỏ, chẳng phải họ không cần đệ tử giúp đỡ, mà là, họ nhất định muốn nắm bắt các chi tiết cụ thể.

Chi tiết quyết định thành bại, chi tiết quyết định danh tiếng của đầu bếp.

Cho nên, hai ngày trước hôm khai trương, Lý Vạn Tường đã dồn mọi tâm huyết vào khu bếp thánh địa của mình, dường như ông ta là người bận rộn nhất hội quán. Nói cho khách quan, thì nên bỏ hai từ “dường như” mới đúng. Một hội quán mà chủ đề là ẩm thực thì lẽ nào hạt nhân của nó không phải là nhà bếp? Cho nên, từng li từng tí liên quan đến nhà bếp đều quan trọng, và đều cần Lý Vạn Tường quan tâm sát sao.

Nói chuẩn xác hơn, thì Lý Vạn Tường chỉ phụ trách bếp của lầu chính Tiêu Tương, còn hai lầu kia đã có hai nhóm đầu bếp tương đối quy mô đảm đương. Lầu chính của hội quán, nếu tính cả đại sảnh, thì có cả thảy năm phòng ăn riêng biệt, nhưng bốn phòng còn lại chỉ là phòng nhỏ. Lầu chính hầu như mang tính chất của một hội quán tư nhân, về lý thuyết, các món ăn cũng đều phải đặt trước, cho nên trong đa số tình huống, áp lực đối với nhà bếp là không lớn. Nhưng Lý Vạn Tường là đầu bếp cấp độ “huy chương vàng”, hợp đồng ký kết đã ghi rõ “ông Tường phải hỗ trợ kỹ thuật cho nhà bếp ở hai lầu Đông và Tây”, ví dụ, có những món ăn như sashimi Hokkaido - Nhật, laksa Nyonya - Malaysia, bánh nhân thịt cừu Lebanon - Syria… Các thợ bếp kia cũng làm được, nhưng muốn đạt chuẩn hương vị thì phải nhờ đến Lý Vạn Tường.

Vì Lý Vạn Tường đi khắp bốn phương, biết làm đủ món trên thế giới.

Ông ta không phải sư phụ về các món Tứ Xuyên hay các món Lưỡng Quảng đặc sắc, cũng không phải bậc thầy về các món mỳ, nhưng ông là sư phụ toàn năng. Cuối thập kỷ 1980 ông đã sang Nhật làm công, bắt đầu học nghề nấu ăn. Mười mấy năm sau đó ông hành nghề ở Hồng Kông, Ma Cao, rồi Thái Lan và các nước Đông Nam Á khác. Đến đầu những năm 2000 ông trở về Trung Quốc, và đã có chút tiếng tăm trong làng ẩm thực Bắc Kinh, nhưng ông không vội ghi danh trong ngành ẩm thực đang lên phơi phới, mà vẫn hết sức khiếm tốn miệt mài học hỏi, xin được làm đệ tử (và cũng là đệ tử duy nhất) của Tiêu Kính Đức - siêu đầu bếp cấp quốc gia của Trung Nam Hải. Ở Bắc Kinh, Lý Vạn Tường đi sâu vào ẩm thực miền Bắc, kể cả các món hỗn hợp Mãn-Hán, chỉ tiếc là chưa được trực tiếp học các món cung đình của nhà họ Lịch (Một gia tộc ẩm thực chuyên phục vụ hoàng gia, thành lập từ thời Đồng Trị nhà Thanh, hiện vẫn còn cơ sở tại Hậu Hải, Bắc Kinh. ).

Tuy nhiên, năm năm sau, danh tiếng của Lý Vạn Tường đã nổi như cồn trong giới ẩm thực thủ đô, ông đã vài lần làm tiệc cưới cho một vài ngôi sao nổi tiếng. Tơ duyên của các ngôi sao ấy đã đứt gãy từ lâu, nhưng tài nghệ của Lý Vạn Tường thì đã nâng lên một tầm cao mới. Nhất là sau thời gian đi Trung Đông.

Đang ung dung bước trên đại lộ danh tiếng của kinh thành sao lại đi tận Trung Đông, vẫn là một điều bí ẩn. Lý Vạn Tường theo một công ty sang Kuwait, có người đoán rằng ông muốn kiếm nhiều tiền, nhưng ở Bắc Kinh, dù phải cạnh tranh gay gắt thì ông vẫn kiếm ra nhiều tiền nhờ tài nghệ của mình, cho nên đoán thế chưa đúng. Cũng có người bảo, có lần ông làm hỏng một bữa tiệc lớn nên đắc tội với các quan to hoặc thương nhân cự phách, thậm chí cón đồn đại rằng có người bỏ mạng sau khi ăn món của Lý Vạn Tường… nên ông phải ra nước ngoài để tránh tai họa. Thói đời vẫn thích vuốt đuôi bôi bác, giới nào cũng có những chuyện đen bạc bẩn thỉu.

Chỉ Lý Vạn Tường tự biết: đi Trung Đông là vì nghệ thuật ẩm thực Trung Đông.

Cho đến giờ Lý Vạn Tường vẫn sống độc thân không gì vướng bận, ông dồn mọi tình cảm sâu nặng cho nấu ăn. Ông vẫn khát khao đi đến những vùng xa xôi để thu lượm những điều đặc sắc diệu kỳ, để mở rộng tầm mắt, rèn luyện và nâng cao kỹ thuật ẩm thực. Ông ở Kuwait và Arab Saudi ba năm, học được những điều cơ bản của ẩm thực Trung Đông, biết tiếng Ả Rập tạm đủ dùng, lại gặp dịp công ty công trình triển khai một dự án lớn tại thành phố Dubai viên ngọc của Trung Đông, Lý Vạn Tường rất vui mừng.

Dubai không chỉ là một trong vài thành phố lớn hiếm hoi ở Trung Đông, mà còn là kinh đô của miền đất kỳ lạ đã được quốc tế hóa ở đỉnh cao. Đến đây, Lý Vạn Tường không chỉ hoàn thiện chuyên sâu về ẩm thực Trung Đông mà còn tiếp xúc rất nhiều với văn hóa ẩm thực châu Âu, châu Phi, cho nên, khi ông đến Giang Kinh cách đây hai năm, ông đã trở thành một đầu bếp toàn năng và cực kỳ quý giá.

Tại sao ông lại đến Giang Kinh?

Đã ra hải ngoại “mạ vàng quốc tế” trở về, lại sẵn có danh tiếng từ những năm trước đó, Lý Vạn Tường có thể chinh phục bất kỳ đô thị lớn nào, sao ông không đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Tam Á, Trùng Khánh, Thành Đô… mà lại về Giang Kinh? Giới đầu bếp vẫn thắc mắc về điều bí ẩn này. Nếu so sánh quy mô và tốc độ phát triển đô thị, thì Giang Kinh không hề thua kém các đô thị loại một loại hai, ngoại trừ Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, nhưng lại là nơi Lý Vạn Tường không có gốc rễ nào cả, tại sao nó lại hấp dẫn người đầu bếp dư sức thét gió gọi mây trong giới nhà hàng này?

Lý Vạn Tường thì giải thích rằng, Giang Kinh là thành phố có lịch sử lâu đời, có sức sống vô hạn và đầy ắp ý tưởng. Ông rất coi trọng bầu không khí văn hóa của thành phố và ảnh hưởng của nó đối với ẩm thực. Trong một lần giảng bài ở lớp nâng cao tay nghề nấu bếp, ông từng nói: một đầu bếp giỏi sợ nhất là thái độ qua loa thiếu chu đáo, và họ cũng sợ nhất là thiếu nhiệt tình và trí tưởng tượng đối với các món ăn. Không có gì giết chết trí tưởng tượng mạnh hơn cái lối chỉ biết cắm cổ mà đếm tiền, và không có gì kích thích trí tưởng tượng mạnh hơn bầu không khí văn hóa. Nét nhân văn tinh tế trang nhã của Giang Kinh đã hấp dẫn Lý Vạn Tường.

Hội quán Tiêu Tương thành lập là cơ duyên ông hằng chờ đợi bấy lâu
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 8

Nhà bếp và bàn ăn không chỉ là nơi sản xuất giao lưu với thực phẩm, nó còn là nơi ươm trồng và truyền bá vô số lời đồn đại.

Lý Vạn Tường đã nghe nói Đới Hướng Dương là một trưởng giả học làm sang, Lương Tiểu Đồng - một anh nhà giàu thế hệ thứ hai càng trưởng giả học làm sang hơn nữa, nhưng điểm nổi bật của Tiêu Tương ở chỗ nó không có mục đích kinh doanh kiếm lời, nhất là lầu chính, kiến trúc của nó là một trong những lầu Ba Khắc được bảo trì tốt nhất, đây chính là nền tảng nhân văn vốn có! Huống chi, lầu chính về cơ bản là mang màu sắc tư nhân, số phòng ăn, số chỗ ngồi đều có hạn và phải đặt trước, nên Lý Vạn Tường sẽ không bị động ứng phó và có thể dồn tâm trí cân nhắc điều chỉnh từng tác phẩm ẩm thực do ông làm ra, coi chúng như một cách thể hiện văn hóa.

Cho nên, khi cô gái tên Chân ở quầy tiếp tân chạy vào nói với ông rằng gian Túy Hoa Âm có thêm một bàn ăn ba người, cũng đã chọn các món, thì Lý Vạn Tường có phần không vui. Vì hôm nay là ngày khai trương, bữa trưa bữa tối đều đã đặt chỗ, nhất là bữa tối, không còn bàn nào, ông có hai phụ bếp cố định và còn gọi thêm hai phụ bếp thời vụ - một trong số đó là đầu bếp trẻ có kinh nghiệm nấu ăn, 3 giờ chiều hai người ấy sẽ đến. Bữa trưa bỗng nhiên thêm thực khách, mà đầu bếp thực sự chỉ có mình ông thì sẽ rất khó ứng phó, và điều đáng nói là sẽ làm hỏng cả quá trình làm việc yêu cầu rất cao của ông.

“Ông chủ nào bổ sung thêm thực khách?” Lý Vạn Tường cho rằng, bất ngờ bổ sung khách là việc chỉ một trong hai chủ nhân làm nổi chứ không thể là ai khác.

Chân nói, “Không rõ ạ. Cháu chưa kịp hỏi. Thật ra mọi người ở hội quán đều có thể đặt chỗ, cháu vừa hỏi Cù Đào, anh ấy cũng không biết. Bây giờ tìm hiểu cho rõ là không cần thiết, khách thì đã đến rồi, bác chịu khó vất vả một chút vậy!”

“Vấn đề không phải là vất vả…” Lý Vạn Tường cũng biết cô ta không thể nói rõ được, mình khỏi cần lãng phí thời gian, “Được! Địch đến có tướng ngăn, chúng tôi sẽ xoay sở được, cô cứ để thực đơn lại đây!”

Chân định nhắc rằng thực đơn hiển thị ở màn hình LED treo ngay trên đầu bác, nhưng nhìn khuôn mặt ông ta đầy nếp nhăn, cô lại mỉm cười, “Vâng. Cháu sẽ in một bản gửi bác.” Rồi cô quay ra.

Lý Vạn Tường đăm đăm nhìn theo bóng cô gái đi xa dần, ông rất mến cô ta, không phải mến theo kiểu các bác già “mất nết” mà là mối thiện cảm như đối với con gái, đối với thế hệ sau. Có lẽ, trong lòng người đàn ông độc thân này vẫn còn một thứ tình cảm của người cha, chưa được khai thác, chưa héo khô, và không có nơi để gửi gắm.

Ông không biết nhiều về Chân, nhưng nhìn từ một góc độ nào đó thì cô hơi bí hiểm. Trông cô như bình hoa, nhưng không phải loại bình hoa di động mà người vẫn chế giễu, nói cách khác, Chân như một lọ hoa sứ hoặc ly rượu mong manh, lung linh sắc màu, rất cần được nhẹ nhàng nâng niu.

Những ai quen biết Chân đều biết rằng, tuy có giọng nói êm ái nhẹ nhàng nhưng cô làm việc rất quyết đoàn, nhanh nhẹn và chu đáo, hoàn toàn có thể độc lập tác chiến. Cô là do Đới Hướng Dương đích thân sắp đặt đến hội quán kiêm nhiệm vài việc: vừa trực quầy vừa phụ trách tiếp tân. Liệu cô có phải hạng “con nuôi” hoặc vợ hờ của Đới Hương Dưng như một số người đồn đại?

Chân thuê một gian nhỏ trong một ngôi lầu Ba Khắc cũ kỹ ít được tu sửa, Lý Vạn Tường đoán rằng tiền thuê ít ra cũng ngốn mất nửa tháng lương của cô. Ông từng tốt bụng gợi ý sẽ tìm cho cô một chỗ ở khác, giá rẻ, nhưng cô đã từ chối. Nói rằng mình không có xe riêng, lại sợ đi xe buýt dễ bị muộn giờ làm… cho nên chỉ muốn ở chỗ càng gần càng tốt. Hiện nay cô đang học lớp tại chức về tài chính kế toán, nên cần nhiều thời gian để học tập.

Chân nhất quyết thuê nhà ở Dư Trinh Lý… biết đâu, tin đồn cô ta có quan hệ với Đới Hướng Dương là thật cũng nên?
Nhưng ít ra cũng không có dấu hiệu cô ta dập dìu với Lương Tiểu Đồng. Anh chàng công tử ấy đã nhiều lần chớt nhả nhưng đều bị Chân khéo léo hóa giải.

Lý Vạn Tường thầm than thở mình đã già mà vẫn nghĩ lan man chẳng ra sao, nhìn sự đời chỉ thấy “đục ngầu”. Người già thì mắt dần mờ đục, có liên quan không? Đó là nguyên nhân hay kết quả? Rốt cuộc ông tự thấy rằng mình nghĩ nhiều chẳng qua chỉ vì quan tâm nhiều đến Chân, giống như sợ đứa con gái mình đi nhầm đường, bị tổn thương, nếu chiếc bình hoa nuột nà mong manh rơi xuống đất thì sẽ vỡ tan tành!

Không khí làm việc trong bếp bắt đầu khẩn trương. Lý Vạn Tường nhắc nhở hai phụ bếp: vì phải phục vụ thêm một bàn ăn nữa nên không thể nhẩn nha, phải nhanh tay và vẫn bảo đảm chất lượng. Lý Vạn Tường tuy rất được ngợi ca về tay nghề nhưng bầu không khí ở bếp và năng lực lãnh đạo của ông thì… thường bị chê bai. Vì ông quá đam mê kỹ thuật chế biến, yêu cầu gắt gao với bản thân, cho nên cũng yêu cầu quá cao với các phụ tá và người giúp việc nhà bếp, muốn họ phải làm thật tốt, phải duy trì quy tắc nhà bếp hết sức ngăn nắp. Đương nhiên là rất khó, bởi lẽ, nhà bếp khi bận rộn thì phải rối tinh rối mù, ô nhiễm hơn bên ngoài là chuyện bình thường, nhưng Lý Vạn Tường muốn nhà bếp sáng sủa như quầy trưng bày hàng mẫu, coi như hành tội các phụ tá rồi. Hai phụ bếp đến đây hôm nay đều có mục đích học nghề Lý Vạn Tường, cho nên dù bất mãn thì cũng không dám nói ra, chỉ thỉnh thoảng đứng hơi xa làu bàu một câu, không để đến tai Lý Vạn Tường.

Quạt hút mùi chạy hết công suất kêu ù cả tai, cũng là một trong các nguyên nhân khiến hai phụ tá ngầm oán trách. Lý Vạn Tường đã chỉ định mua quạt hút mùi nhãn hiệu Locke sản xuất ở Giang Kinh, vì nó có công suất mạnh nhất trên thị trường. Ông đã làm công tác tư tưởng cho hai phụ tá rằng các đầu bếp già đều mắc bệnh nghề nghiệp “hội chứng tổng hợp dầu mỡ và khói”, có hại với phổi, phế quản, tim mạch, dẫn đến tai họa béo phì, huyết áp cao, tiểu đường, ung thư… Ngày trước điều kiện nhà bếp không tốt, nên các đầu bếp trở thành nạn nhân của dầu mỡ, các em thời nay may mắn, còn trẻ đã có máy hút mùi mà dùng, sao lại không vui vẻ dùng cho thoải mái? Tạp âm cũng có hại cho sức khỏe, nhưng các em nên xác định hậu quả nào mới nặng nề hơn.

Quạt hút mùi rú rít, tiếng soong chảo thìa bát đĩa va đập… át đi bất cứ âm thanh nào ở bên ngoài, ngoại trừ tiếng pháo nổ vang rền. Khi Lý Vạn Tường cảm thấy có gì đó không ổn là lúc món “Ốc sên - cua bể - dừa cau” vừa hoàn thành, cần đưa lên đại sảnh tầng hai nhưng không thấy ai xuống bưng lên, gần như đồng thời, hai món “Tùng châm kỷ tử” và “Dao trụ động thiên” dành cho gian Túy Hoa Âm cũng vừa nấu xong, đã bấm chuông báo hiệu một phút rồi cũng không thấy người vào bưng.

Lý Vạn Tường chưa nghiên cứu về quản lý khách sạn, nhưng nhà bếp và phòng ăn không phối hợp nhịp nhàng thì rõ ràng không phải một dấu hiệu tốt lành.

Anh chàng Kiến Vĩ lại lơ đễnh?

Hay Hoa Thanh tự ý rời khỏi vị trí?

Kiến Vĩ và Hoa Thanh, một nam một nữ sáng sủa và xinh xắn, là hai phục vụ bàn ở lầu chính của hội quán. Hội quán Tiêu Tương quy mô không lớn, nhưng cho dù kín đáo khiêm nhường đến đâu trước áp lực bên ngoài thì rốt cuộc vẫn hoạt động với tiêu chuẩn cao, nên tuyển người tương đối khắt khe. Kiến Vĩ và Hoa Thanh từng nói rằng, họ phải “qua năm ải chém sáu tướng” mới được tuyển dụng vào đây. Cả hai tuy còn trẻ nhưng đã có khá nhiều năm kinh nghiệm phục vụ, rất thạo việc, thông hiểu quy tắc giao tiếp, nhanh nhẹn, năng lực cơ bản miễn chê. Tuy nhiên gần đây Lý Vạn Tường trong lúc thử việc phát hiện ra rằng Kiến Vĩ hơi vô tâm, chính cậu ta cũng từng nói hồi nhỏ mình bị mắc chứng lơ đễnh, sức chú ý rất dễ bị phân tán.

Nhưng Hoa Thanh thì không vấn đề gì, Lý Vạn Tường hiểu rõ điều này vì Hoa Thanh nhảy việc từ khách sạn Đại Kim Sa sang đây, tính tình kín đáo, điềm đạm, kiệm lời nhưng làm việc hết sức tỉ mỉ, cô cũng tinh ý, biết cách quan sát và đoán ra nhu cầu của khách. Cô là một phục vụ có năng lực.

Nói là một nhẽ. Không có ai bẩm sinh ấn định làm một nghề nào đó, mà đều là do ma xui quỷ khiến, do nhân quả kiếp trước kiếp này, và đều có thể bị thay đổi.

Lý Vạn Tường lại ấn chuông lần nữa. Lập tức có câu trả lời. Ở cửa xuất hiện một người và một khẩu súng ngắn.
“Tất cả đứng im, giơ tay lên!” Khẩu súng chĩa vào Lý Vạn Tường. Kẻ đó mặc đồ đen, khăn đen bịt mặt. Lúc này Lý Vạn Tường không đứng cạnh bếp, nên dù muốn cầm chảo cầm nồi quăng vào hắn cũng không thể, ông đành giơ tay lên. Hai phụ tá cũng ngoan ngoãn làm theo.

Là trò hề gì mà bát nháo thế này? Có kẻ đang đùa chắc? Hay gã này là một tay bạn cùng vui chơi giải trí với Lương Tiểu Đồng, no cơm rửng mỡ đến mượn bộ trang phục đóng phim để làm trò đùa?

“Này người anh em, hôm nay nhà bếp chúng tôi quả là rất bận…” Lý Vạn Tường thăm dò.

“Bọn tôi cũng rất bận, cho nên không đùa đâu! Câm mồm! Cấm động đậy!” Hắn nói giọng vùng Xuyên - Tương, âm thanh hơi sắc nhọn.

Họng súng vẫn chĩa vào Lý Vạn Tường, gã mặc đồ đen ấy bước lại gần hai bếp, tắt ga đi. Chân hắn có tật, bước đi tập tễnh, hắn nhìn vào cái quạt hút mùi đang kêu vù vù, Lý Vạn Tường bỗng cảm thấy có cơ hội. Nhưng hắn không thao tác cái thiết bị hắn mà hắn không quen, vì không muốn con tin có cơ hội ra đòn quật lại, hắn chỉ hô lớn, “Đi lên gác!”

Thì ra là chuyện thật chứ không phải trò đùa. Lý Vạn Tường đành hậm hực đi trước nhất, bụng thầm nguyền rủa. Giá mà có thể đi sau, tương đối gần tên khốn này thì ông sẽ dễ ra tay. Khi làm phụ bếp ở vùng Đông Nam Á, ông đã vài lần gặp bọn cướp, chúng cướp tiền mặt, sự việc chủ yếu xảy ra ở đại sảnh và quầy tiếp tân, không mấy ảnh hưởng đến nhà bếp. Trước khi đi Kuwait ông cũng biết Trung Đông là nơi rất không an toàn, Lý Vạn Tường từng đến câu lạc bộ luyên tập võ thuật phòng thân, ông nghĩ mình đủ sức hạ được một hai tên. Nhưng chút khả năng võ thuật ấy không có dịp dùng ở Trung Đông, và cũng đã quá lâu ông không ôn tập, liệu hôm nay có nên tặc lưỡi ra tay?

Lúc đi lên gác, Lý Vạn Tường đã gặp được cơ hội tốt.

Điều này nên cảm ơn anh chàng phụ bếp Tạ Nhất Bân, một tay sáng dạ nhưng cần cố gắng hơn. Đang đi lên cầu thang, Tạ Nhất Bân bỗng loạng choạng, chắc là do bị tuột dây giày hoặc cũng có thể là do sợ quá bước đi không vững. Khi tên cướp đang chú ý nhìn cậu ta, thì Lý Vạn Tường bắt lấy cơ hội, quay ngoắt lại tiếp cận hắn ta.

Từ chỗ cao, ông nhào xuống xô tên cướp vào tường ngay sát cầu thang, đồng thời ghì chặt bàn tay đang cầm súng của hắn, ông thúc đầu gối lên, tên cướp “hự” một tiếng rồi ngã phệt xuống. Nào ngờ hắn lại ôm siết luôn hai bắp chân của Lý Vạn Tường rồi húc đầu lên, hất ngã ông.

“Cấm nhúc nhích!” Một giọng nói từ đầu cầu thang vọng xuống, Lý Vạn Tường nhìn lên, lại một họng súng đen ngòm, hình như là súng trường tự động. “Thầy chưa dạy rằng kháng cự sẽ chẳng hay ho gì à?”

Tên đó nói giọng miền Nam, Lý Vạn Tường không thể xác định cụ thể là vùng nào. Tên cầm súng ngắn bấy giờ đã đứng lên, thúc cùi trỏ vào ngực Lý Vạn Tường khiến ông suýt ngạt thở, tiếp đó lại bị hắn đấm tới tấp vào đầu vào thái dương. Chỉ thấy trước mặt tối sầm, Lý Vạn Tường lăn ra ngất xỉu.

Một tiếng hai mươi phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

“Khi tỉnh lại, tôi nghe thấy tiếng kêu thét ầm ĩ, mở mắt ra thì thấy vài người đang đánh nhau. Nhìn kỹ, thì đó là ông Đới Hướng Dương và con rể đang đè lên một người. Tôi chưa kịp hiểu ra sao thì vang lên một tiếng nổ. Mặt bàn, khăn trải bàn và các thứ trên đó bay tứ tung, chỉ lát sau tôi đã thấy đau ở mặt, chắc là cốc chén bát đĩa vỡ văng làm rách mặt tôi.” Lý Vạn Tường lại ôm đầu.

Ba Du Sinh nói, “Bác nghỉ một lát đi.”

“Lửa lập tức bùng lên, cả căn phòng khói lửa mù mịt. Tôi định đứng lên bỏ chạy nhưng hai chân tê dại không sao đứng nổi.” Ông ta như vẫn đang chìm trong khói lửa. “Cúi xuống nhìn, mới biết hai tay tôi đã bị còng. Căn phòng nóng kinh khủng, lửa tràn ngập khắp cả. Sau đó mông tôi nóng bỏng, thì ra là quần bị cháy, tôi chẳng khác nào đồ ăn trong chảo nóng, tôi nhảy chồm lên, may được hai anh phụ bếp chạy lại dập lửa giúp.”

Các sĩ quan cảnh sát đều nhìn vào cái quần bệnh nhân mà bệnh viện đưa cho ông mặc. Khương Minh hỏi, “Lúc đó hai anh phụ bếp không bị còng à?”

Lý Vạn Tường ngẩn ra, nghĩ ngợi nói, “Có bị còng, bị còng chung một còng. Họ chạy lại dập lửa cho tôi nhưng rất không ăn ý. Lửa ở người tôi tạm bị dập rồi thì Tiểu Tôn lại bị bén cháy, lúc đó quanh tôi vẫn mù mịt khói lửa… và hình như có người nhảy qua cửa sổ. Còn tôi vẫn như đang trong cơn mê không biết chạy đi đâu để thoát chết. Tôi là đầu bếp, suốt đời ở bên ngọn lửa, đầu bếp giỏi thì phải biết kiểm soát lửa cho vừa đủ độ nhưng lúc đó tôi như đồ bỏ đi, không thể làm gì nổi. Bây giờ nhớ lại tôi vẫn thấy rất sợ.”

Ba viên cảnh sát không biết nói sao, thậm chí không nhìn nhau, nhưng họ đều đoán rằng Lý Vạn Tường vẫn chưa hết sợ nên nói năng lộn xộn.

Ba Du Sinh rất hiểu cảm giác “không thể kiểm soát ngọn lửa” của ông ta. Khi mất kiểm soát, người ta sẽ rối loạn và nỗi khiếp sợ vẫn còn dư âm dài lâu.

Nếu Lương Tiểu Đồng thuật lại các diễn biến cuối cùng là đúng, thì Đới Hướng Dương cũng bị cảm giác “mất kiểm soát” làm cho rối loạn, cho nên ông ta mới có hành động mạo hiểm như vậy.

Không cần đọc lý lịch của Đới Hướng Dương cũng có thể đoán ra ông ta là người đã va chạm thương trường đầy sóng gió, chính ông ta cũng từng nói mình là người có tầm nhìn và rất từng trải, tại sao một con người đầy kinh nghiệm sống lại dễ dàng suy sụp trong vụ việc này?

“Bác cố nhớ lại xem có cả thảy mấy tên cướp?” Ba Du Sinh hỏi.

Lý Vạn Tường do dự, ngẫm nghĩ đến một phút rồi nói, “Chịu, không biết.”

Khương Minh hơi vội vã, “Sao lại thế?”

“Tôi chẳng rõ mình ngất bao lâu, sau đó tôi cứ nửa tỉnh nửa mê, có nghe thấy một số tiếng động nhưng tôi không sao tỉnh táo được, cho nên không thể nhận ra ở đó có mấy tên cướp.” Lý Vạn Tường hơi băn khoăn.

“Thế thì bác cho rằng mình nhìn thấy cả thảy mấy tên?”

“Hai tên. Một tên cầm súng ngắn thúc tôi lên gác, một tên cầm súng trường đứng ở đầu cầu thang. Về sau tỉnh lại, tôi thấy Đới Hướng Dương và anh con rể đè lên một người… tiếp đó là tiếng nổ. Tôi không nhìn rõ người đó là ai.” Chắc là vì nhắc đến “tiếng nổ” nên Lý Vạn Tường lại run rẩy.

Khương Minh tò mò hỏi, “Bác gọi Yên Vệ Bình là con rể Đới Hướng Dương…”

“Ừ, đúng, à không phải.” Lý Vạn Tường gượng cười. “Là con rể hờ, đúng ra là cháu rể. Đới Hướng Dương nuôi nấng cô cháu gái là con của người anh trai, coi cháu ấy như con đẻ, thì Yên Vệ Bình cũng tựa như con rể ông ta.”

Ba Du Sinh tò mò hỏi, “Hình như bác cũng biết rõ về Đới Hướng Dương?”

“Phải! Ngày trước tôi làm đầu bếp ở Đại Kim Sa, cả nhà ông Đới Hướng Dương rất hay đến đó.”

“Bác có thể nhớ ở đại sảnh có mấy lần nổ không?” Ba Du Sinh hỏi.

Lý Vạn Tường do dự rồi nói, “Hai lần.”

“Bác cố nhớ xem, tình hình lúc nổ lần thứ hai ra sao?”

Lần này thì Lý Vạn Tường lắc đầu nói luôn, “Lúc đó giữ mạng còn không kịp nữa là! Khi nổ lần thứ hai thì tôi đã chạy đến cửa, nên không thể nhìn nó nổ ra sao… có lẽ là nổ khí gas. Có ống dẫn khí gas lên tầng hai.”

Ba Du Sinh không hỏi thêm nữa. Sau khi hỏi ý kiến các chuyên gia kỹ thuật, anh vẫn giữ nguyên phán đoán. Nếu vì rò rỉ khí gas mà dẫn đến vụ nổ, thì trước đó phải mở vòi khí gas hoặc bị bung ra trước, sau đó cần một thời gian nhất định để khí gas khuếch tán trong không khí đạt tới một nồng độ cần thiết, khoảng cách thời gian giữa hai vụ nổ rất ngắn cho nên ít có khả năng là nổ do khí gas.

Anh nói, “Cảm ơn bác. Mong bác cứ ở phòng theo dõi chịu khó nghỉ ngơi, để tiện cho chúng tôi liên lạc. Nếu bác cần về nhà…” Anh nhìn tờ ghi bút lục, đã có địa chỉ và số điện thoại của Lý Vạn Tường, “Chúng tôi có thể sẽ còn liên lạc thêm với bác. Mong bác tiếp tục hỗ trợ chúng tôi điều tra.”

Lý Vạn Tường nói, “Không vấn đề gì…” Rồi đứng dậy chuẩn bị bước ra ngoài.

Có tiếng gõ cửa phòng họp, một cảnh sát bước vào cầm theo một tập ảnh.

Ba Du Sinh vội nói với Lý Vạn Tường, “Vừa đúng lúc! Bác thử nhìn những người trong ảnh này, bác có nhận ra hết không?”

Ảnh được bày ra bàn. Có tấm mới được chụp chính diện bằng máy SRL, trên mặt còn những vết thương vết bỏng, có một số ảnh được phóng từ ảnh chứng minh thư, chắc là vì những người này bị thương quá nặng nên không thể chụp. Đều là những người may mắn sống sót.

Lý Vạn Tường lục túi áo lấy cặp kính viễn đeo lên, xem từng tấm ảnh rồi gỡ kính ra, nói, “Tôi nhận ra cả, chỉ trừ hai người này…” Ông ta chỉ vào ảnh một nam và ảnh chứng minh thư của một nữ.

Ba Du Sinh gật đầu, đó là ảnh Quách Tử Phóng và Na Lan. Theo Lý Vạn Tường thuật lại, thì ông ta bị đánh ngất và tỉnh lại lúc có vụ lộn xộn cuối cùng. Còn theo Lương Tiểu Đồng nhớ lại, thì Lý Vạn Tường và hai phụ bếp bị tên cướp chuyên nghiệp cầm súng ngắn đưa lên gác, sau đó Quách Tử Phóng và Na Lan mới bị bắt, vì Lý Vạn Tường bị ngất nên không nhìn thấy hai người này. Trong vụ hỗn loạn cuối cùng, Lý Vạn Tường lo thân còn chẳng kịp nên không nhớ được Quách Tử Phóng và Na Lan là phải.

Sự khác biệt lớn nhất trong bút lục của Lương Tiểu Đồng và Lý Vạn Tường là trạng thái của Lý Vạn Tường. Lương Tiểu Đồng chỉ nói rằng bếp trưởng và hai phụ bếp bị giải lên, chứ không nói bếp trưởng được kéo lên vì đã bị đánh ngất. Lúc đó anh ta bị còng ở đại sảnh thì vẫn có thể nghe thấy các động tĩnh đánh nhau ở bên ngoài, tại sao anh ta chỉ miêu tả qua loa tình hình? Có phải anh ta đã quên các chi tiết vụn vặt? Nếu có người vì kháng cự nên bị đánh ngất, thì không thể gọi là chi tiết vụn vặt! Anh ta thậm chí còn nói rằng bếp trưởng và hai phụ bếp bị còng liên hoàn và giải lên gác, còn Lý Vạn Tường thì nói rằng hai tay ông ta bị còng một bộ còng.

Rõ ràng là ký ức của Lương Tiểu Đồng không đáng tin.

Rất dễ kiểm chứng điểm này.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 9

Lý Vạn Tường ra rồi, Ba Du Sinh hỏi Khương Minh, “Hai phụ bếp, ta có thể ghi bút lục anh nào trước?”
Khương Minh nhìn tư liệu đặt trên bàn, gọi điện cho viên cảnh sát túc trực ở phòng cấp cứu. Rồi trả lời, “Một anh bị bỏng độ 2, vẫn cần theo dõi nên chưa thể điều lên đây. Anh kia tay bị bỏng và chân bị bỏng độ 3, có thể đẩy xe lăn lên đây.”
Nếu không vì mái tóc cháy xém và đang mặc bộ quần áo trắng, thì người ngồi trên xe lăn trông giống một nghệ sĩ chưa gặp thời hơn là một thợ nấu ăn đang học nghề. Tóc anh ta rẽ đường ngôi giữa, dài gần chấm vai, đeo kính gọng nhỏ màu xanh lam, nhìn kỹ có thể nhận thấy là kính không độ. Khuôn mặt gầy nhỏ, trông cũng ưa nhìn, đôi môi hơi mỏng, khiến người ta dễ có cảm giác nhầm lẫn rằng anh ta sắp sửa kêu ca than vãn.
Nhưng chưa chắc là cảm giác nhầm lẫn.

Ba Du Sinh bước lại bắt tay Tạ Nhất Bân, “Rất xin lỗi, tay chân anh còn đang phải băng bó mà chúng tôi vẫn muốn gặp anh để điều tra.”

Đúng là Tạ Nhất Bân đã sẵn sàng tuôn ra bao điều khổ sở, nhưng viên cảnh sát trông giống giảng viên đại học này lại nói năng trịnh trọng như thế, khiến anh ta e ngại không biết nên than thở ra sao. Tạ Nhất Bân không phải dạng thanh niên bất mãn xã hội, cũng coi thường những kẻ a dua thích ra vẻ ta đây, anh chỉ thuộc dạng bất cần.

Chính vì bất cần mọi quy tắc người đời thừa nhận cho nên sau bao năm “giả bộ là dân lưu lạc đến Giang Kinh” anh vẫn không có nổi một bài hát ra hồn, giọng thì hỏng và cũng không có tiền làm phẫu thuật.

Chính vì bất cần với cái gọi là tiền đồ nên anh buông xuôi đến năm 26-27 tuổi, rồi bắt đầu đi phụ bếp cho người ta. Tuy hứng thú với ăn uống nhưng lại bất cần quan tâm nấu nướng ra sao cho nên cũng không mấy khát khao trở thành “đầu bếp nổi tiếng”.

Là đầu bếp nổi tiếng, rồi đi đến đâu chứ? Cứ nhìn Lý Vạn Tường thì biết, chỉ vì muốn làm món ăn cho ra trò mà suốt ngày cau có đăm chiêu, nói là “không ngừng tìm tòi vươn lên” thực chất là tự làm khổ mình. Có đáng để như thế không? Món “vịt hầm hạt dẻ bơ sâm banh” mà non lửa một chút thì sẽ bị đám thực khách sành ăn nhè ra chắc?
À quên chưa nói tại sao lại là “giả bộ lưu lạc Giang Kinh”? Đơn giản thôi, vì Tạ Nhất Bân là người gốc Giang Kinh. Không thể có chỗ đứng trên sân khấu ca nhạc quê nhà, anh ta quy tội thân phận dân địa phương của mình và cuộc sống êm ả của đứa con một trong gia đình, bởi lẽ cho rằng những ai bứt phá vươn lên được trong ngành giải trí đều phải có quá khứ gian khổ thời niên thiếu để mà khoe khoang.

Sau khi nghe giới thiệu, biết Ba Du Sinh là “tổng bộ khoái” của thành phố Giang Kinh, Tạ Nhất Bân vốn coi thường quyền quý bỗng cảm thấy có phần kính nể.

“Chà! Đội trưởng? Anh có tài liệu nội bộ không? Tôi bắt đầu làm văn sĩ trên mạng, và đã gửi bản thảo cho khá nhiều tạp chí rồi đấy!” Vậy là một quãng lịch sử ngắn ngủi tìm việc làm đã được cáo chung, Tạ Nhất Bân tạm thời nghĩ đến một định hướng nghề nghiệp mới, xem ra số phận vẫn kêu gọi anh hãy kiếm sống bằng khả năng sáng tạo!

Ba Du Sinh mỉm cười, “Có rất nhiều tài liệu hay, ví dụ, chính là cái đại án 185 này - giới truyền thông đang gọi như vậy.” Vẻ mặt anh chuyển sang nghiêm túc. “Trước khi mời anh thuật lại các sự việc, tôi muốn hỏi anh mấy câu.”
Tạ Nhất Bân nói, “Nên thỏa thuận trước nhé: tôi sẵn sàng trả lời, và anh phải cho tôi ít tài liệu.”

Khương Minh có phần sốt ruột. Hai mươi năm làm trinh sát hình sự, anh đã va chậm vô số nhưng không mấy khi gặp những gã trẻ tuổi cứ nhăn nhở mặc cả với cảnh sát. Anh lạnh lùng nói, “Chúng tôi cần ghi bút lục, chứ không phải là thương lượng.”

“Thương lượng?” Tạ Nhất Bân hứ một tiếng. “Nếu vấn đề ‘thương lượng’ hôm nay có thể làm tốt và nhanh chóng, thì không biết chừng tôi lại được tiếp tục ngồi trong nhà bếp Tiêu Tương có quạt hút mùi kêu váng cả óc để mà bóc tỏi, thái gừng, khỏi phải nài nỉ đội trưởng cho xin tài liệu nữa!”

Khương Minh sắp sửa nóng nảy, nhưng Ba Du Sinh như thể vô tình gõ cành cạch cái bút bi trong tay xuống bàn.
Trước mặt Tạ Nhất Bân, anh không muốn nhắc nhở Khương Minh chớ nóng nảy, anh cần tỏ ra tôn trọng cấp dưới của mình. Và anh cũng không muốn Khương Minh bực dọc để rồi mất kiểm soát, sẽ ảnh hưởng đến việc ghi bút lục. Cho nên anh dùng cách cổ điển nhưng hữu hiệu là tạo ra tiếng động để phân tán.

Nếu Na Lan có mặt ở đây, cô sẽ phân tích chàng thanh niên đang ngồi trên xe lăn này như thế nào?

Một cách phản ứng sau khi trải qua một cú sốc dữ dội, dùng cách chớt nhả khinh bạc, tỏ ra đối kháng với cường quyền có sẵn ngay trước mặt để hóa giải nỗi kinh hoàng vẫn tích tụ trong lòng, làm tan đi cảm giác mình không khống chế nổi số phận.

Vẫn là một dạng cảm giác mất kiểm soát.

Ba Du Sinh chỉ phỏng đoán vậy thôi, anh rất biết mình đâu phải nhà tâm lý học. Lúc này Tạ Nhất Bân thả hai tay khỏi tay vịn của xe lăn, buông xuống, là động tác nghỉ ngơi nhưng vẫn run run. Có lẽ là bằng chứng cho điều phỏng đoán của Ba Du Sinh.

Ba Du Sinh, “Bác Tường của các anh kể rằng bọn cướp chĩa súng vào mọi người, lúc đó các anh đang làm gì, bác Tường làm gì?”

Đôi môi mỏng hơi nhích lên, Tạ Nhất Bân cười nhạt, hiển nhiên cho rằng đây là câu hỏi quá bình thường, “Chúng tôi chẳng làm gì cả, bác Tường cũng thế.”

Ba Du Sinh không tỏ thái độ, im lặng chờ anh ta. Tạ Nhất Bân thở dài rồi tiếp, “Thật ra không cần hỏi câu này. Khi có kẻ bất ngờ xuất hiện rồi chĩa súng vào sư phụ đáng kính của anh, thì họng súng ấy cũng có thể chĩa ngay sang anh, anh có thể làm gì? Đương nhiên là ngoan ngoãn nghe lời hắn.”

“Hắn nói gì?” Khương Minh hỏi.

“Giơ tay lên, cấm động đậy, cấm làm ồn, tuân lệnh, đi lên gác! Chứ còn gì nữa?” Mới trả lời một câu hỏi mà hình như Tạ Nhất Bân đã thấm mệt.

Ba Du Sinh hỏi, “Sau đó thì sao?”

“Chúng tôi làm theo, giơ tay lên, im mồm, và đi lên gác.” Tạ Nhất Bân ngả người ra lưng tựa xe lăn, lim dim mắt, nhìn ra ngoài gọng kính, trông như đã nhắm mắt và sắp ngủ. Cảnh sát đưa mắt nhìn nhau, anh ta trông thấy, liền tỏ vẻ thỏa mãn. “Tôi bị tuột dây giày.”

Câu nói này gần như thâu tóm được mọi sự chú ý của các cảnh sát, họ đều nhìn vào chân Tạ Nhất Bân: đôi giày vải Converse, cứ như sợi dây màu đen đang chốt giữ tình tiết hệ trọng để phá án!

“Lúc bước lên cầu thang, dây giày tôi bị tuột, hoặc nên nói là tôi làm dây giày tuột ra…” Tạ Nhất Bân lại ngồi thẳng lưng. “Các anh có biết bác Tường đã từng tập võ không?”

Ba Du Sinh khẽ gật đầu. Tạ Nhất Bân tiếp tục, “Tôi đã nghe nói từ lâu, vì thế, khi tên khốn kia xuất hiện, tôi đã quan sát từng cử chỉ của bác Tường. Bác ấy nghe lời thì tôi cũng làm theo, nếu bác ấy kháng cự tôi sẽ phối hợp. Tôi cảm nhận được, kể từ lúc bị họng súng chĩa vào, bác Tường luôn tìm cơ hội để ra đòn. Hắn chỉ có một mình, chân thì thọt, chúng tôi có ba người khỏe mạnh. Nhưng thằng cha áp giải chúng tôi rất xảo quyệt, hắn chỉ đi sau, bắt bác Tường đi đầu tiên, cứ như nhận ra bác ấy là người đáng gờm nhất. Hắn luôn giữ khoảng cách an toàn. Tôi bèn nghĩ cách tạo cơ hội, rút ngắn khoảng cách giữa bác Tường và hắn. Cho nên dây giày tôi tuột ra.”

Tạ Nhất Bân cầm chai nước khoáng trên bàn uống một ngụm, rồi ngẩng đầu nhìn ba cảnh sát, giống như cậu học trò trả lời đúng câu hỏi và đang chờ thầy giáo khen.

Không thấy gì. Chỉ có sự im lặng.

“Dây giày đương nhiên không tự tuột ra vào cái lúc đó, mà là chân phải của tôi giẫm lên đầu dây giày bên trái, người tôi hơi chao đi một chút… các anh không ở tình huống đó nên có lẽ không cảm nhận được. Tôi làm như thế là cực kỳ mạo hiểm! Vì nói chung, kẻ cầm súng áp giải người khác thường cảnh giác cao độ, hễ thấy có điều bất thường là họ dễ phản ứng quá khích, nhiều khi súng sẽ cướp cò hoặc họ sẽ bắn luôn. Nhưng tên khốn ấy không định giết người, hoặc hắn khá tự tin rằng mình đủ sức khống chế tình hình, nên chỉ hơi ngớ ra, không sao ngờ được bác Tường của chúng tôi là con nhà võ, thân thủ nhanh nhẹn, bác ấy bổ nhào xuống mấy bậc thang rồi đánh nhau với tên kia. Có điều, ngay trên đầu cầu thang lại xuất hiện một tên khác cầm súng chĩa vào bác Tường. Cho nên việc kháng cự thất bại hoàn toàn.” Tạ Nhất Bân nói liền một hơi, rồi lại tựa lưng ra sau.

Căn phòng im lặng một lúc, các cảnh sát đều đồng thời ghi bút lục. Khương Minh hỏi, “Sau đó… sau khi bác Tường kháng cự thất bại, thì sao?”

“Đương nhiên là chẳng còn gì nữa. Tên cầm súng ngắn đấm cho bác Tường một quyền, làm bác ngất luôn… rồi hắn ép chúng tôi kéo bác lên đại sảnh tầng trên.”

“Có bị còng tay không?” Khương Minh hỏi.

“Có, có!” Tạ Nhất Bân nói ngay.

“Còng như thế nào?”

“Là sao?”


Khương Minh giải thích, “Là mỗi người một còng hay còng theo cách khác?”
“À, thì ra là thế.” Tạ Nhất Bân vỡ lẽ. “Bác Tường được ưu ái một mình một còng, còn tôi và Hổ Bì chung một còng. Tên cướp ấy rất biết cách sống, còng người ta mà cũng tiết kiệm.”

“Hổ Bì?” Khương Minh đã biết là ai nhưng cứ hỏi.

“Tôn Nguyên Hổ, cùng làm bếp với tôi. Hổ Bì là biệt hiệu của nó. Vì thằng nhóc ấy quá dồi dào sinh lực, rất nghịch ngợm bướng bỉnh, nên mới gọi là Hổ Bì (Da hổ ).” Tạ Nhất Bân hạ thấp giọng. “Lúc nãy tôi nhìn thấy nó, nó bị cháy khiếp quá.”

Ba Du Sinh ghi chú trên tờ giấy: cần hỏi lại Lương Tiểu Đồng.

Lương Tiểu Đồng chưa nói thật.

Anh ngẩng đầu nhìn Tạ Nhất Bân, “Được! Bây giờ anh kể lại từ đầu xem?”

Tạ Nhất Bân ầm ừ trong họng, ý chừng không bằng lòng. Rồi hỏi, “Đường ống dẫn nước khoáng ở đây có đủ không?”
Một tiếng năm mươi lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng cấp cứu bệnh viện Nhân Dân số 6 thành phố Giang Kinh.

“Cha! Con là Tiểu Đồng.”

“Con dùng điện thoại của ai đấy?” Đầu dây bên kia, Lương Quân mở đầu bằng một cơn ho, cứ như bị khói ở hội quán Tiêu Tương xộc vào phổi vậy. Lương Tiểu Đồng thấy buồn bực, ông già chưa đến nỗi già lắm, mới ngoài sáu mươi nhưng bệnh tật đầy mình, sắp xuống lỗ đến nơi. Đó là hậu quả của thời trung niên tổn hao quá nhiều sức lực vật lộn với cuộc sống. Liệu ông ấy còn trụ được bao lâu nữa? Nếu ông ấy đi, thì mình có thể chống đỡ được bao lâu?
“Cha không phải lo. Dù sao con cũng an toàn rồi.”

“Không phải lo thì cha dập máy luôn vậy!” Lương Quân thể lực kém nhưng đầu óc và miệng lưỡi vẫn rất sắc sảo.
“Con chỉ báo với cha rằng con vẫn bình an.”

Đôi khi Lương Tiểu Đồng cảm thấy ông già lạnh lùng quá thể. Có mỗi một đứa con trai, có thành tài hay không cũng chẳng quan trọng, hà tất gay gắt làm gì?

“Mẹ con đã cho cha biết, bà ấy đến hiện trường ở Dư Trinh Lý, nhìn thấy con nhún nhảy bước lên xe cứu thương!” Lương Quân nói giọng châm biếm. Lương Tiểu Đồng dần thấy nóng gáy, tôi dù sao cũng suýt chết, ông thể hiện một chút quan tâm thương xót thì danh tiếng của ông bị bào mòn chắc? Xem ra, tạp chí phụ nữ nói cũng không sai: tình thương của mẹ mới thực sự là tình thương, còn người cha thường chỉ bận tâm đến những cái mẽ tầm thường như sĩ diện hoặc triển vọng của con cái…

“Sao lại nhún nhảy? Con lao từ trên gác xuống bị sái cổ chân! Không thể đi đứng bình thường được!”

Lương Quân “hứ” một tiếng, rồi nói, “Thì ra là con nhảy lầu thoát chết! Con xứng đáng là một… hình tượng vĩ đại đấy!”

“Không nhảy lầu thì ngồi chờ chết à? Có ai ngờ xảy ra cái chuyện kinh khủng ấy! Súng bắn, bom nổ, gần bằng Trung Đông và Ucraina rồi! Sợ chết đi được! Nhưng đáng tiếc hơn nữa là lầu Ba Khắc bốc cháy, coi như đống đổ nát!” Lương Tiểu Đồng cố nén oán trách, dần dần tiếp cận chủ đề.

“Hồi nọ con mua ba tòa lầu, cha đã nói gì? Nói là đốt tiền! Cha cho rằng đốt nhà và đốt tiền cũng đều là đốt, chẳng khác gì nhau.” Lương Quân lại ho lụ khụ.

“Không phải con mua mà là con và Đới Hướng Dương cùng mua! Được chưa?”

“Được chưa à? Chưa được!” Lương Quân gần như quát vào điện thoại khiến Lương Tiểu Đồng phải giơ di động ra xa mà nghe. “Cha hỏi đây, Đới Hướng Dương đâu?”

“Đứt rồi!” Lương Tiểu Đồng nói nhỏ.

Im lặng.

“Đới Hướng Dương… chết rồi, thật ư?”

“Chẳng lẽ là chuyện bịa à? Chính mắt con nhìn thấy, vụ nổ kinh hồn, khó mà còn toàn thây. Cha xem, vụ này không phải trò đùa. Coi như Đới Hướng Dương đã liều xả thân, hy sinh rồi. Bây giờ nhớ lại, người chết không phải không có khả năng là con!” Lương Tiểu Đồng nhân thể truy kích ông già, tranh thủ sự đồng cảm của ông lúc này là rất cần thiết.

“Làm gì đến lượt con? Con nhảy lầu cơ mà. Con là hạng người dám nhảy lầu tìm đường sống, cho nên con… là con, dù Đới Hướng Dương có thể làm đến tổng giám đốc tập đoàn…”

Lương Quân nói rất đanh thép. Lương Tiểu Đồng hậm hực nghĩ bụng: lại lên lớp nhau rồi! “Bây giờ con về nhà được chứ?”

Lương Tiểu Đồng không rõ có phải mình tự huyễn, cảm nhận được giọng ông già cũng hơi ấm áp không. Anh ta vội đáp, “Có thể hoặc không thể. Vì hình như cảnh sát cũng ỡm ờ, nói rằng có thể ra về nhưng cũng dặn là hễ gọi thì phải có mặt. Trong bệnh viện vẫn có rất đông cảnh sát và cảnh sát mặc thường phục để mắt đến bọn con. Đại khái là vì vẫn chưa xác định được hung thủ, có thể hung thủ đang ở trong số người may mắn sống sót, cho nên về lý thuyết thì bọn con đều là nghi phạm cả. Con đang nghĩ con sẽ nán lại bệnh viện đã, vì không muốn chuốc thêm phiền hà, không muốn cảnh sát phải đa nghi.”

“Thế con gọi điện cho cha để làm gì?”

Lương Tiểu Đồng cảm thấy chút ít tình cảm lúc nãy đã biến thành số không, đành nói, “Con không thể báo tin mình vẫn bình an hay sao?”

Anh ta nuốt nước bọt, thấy ông già vẫn chưa dập máy, bèn tiếp, “Định nói về vấn đề vốn liếng của ba tòa lầu và hội quán. Tất nhiên có thể để hôm khác nói sau.”

Đây mới là nguyên nhân thực sự để Lương Tiểu Đồng gọi điện cho cha. Tuy sẽ được bảo hiểm bồi thường, nhưng làm sao bù đắp hết tổn thất được. Lương Tiểu Đồng nhìn thấy một cơ hội rất hay: chỉ cần Lương Quân bằng lòng ra tay trợ giúp thì có thể trùng tu lầu chính Tiêu Tương, tức gây dựng thành tài sản Lương Tiểu Đồng toàn quyền sở hữu.

Đến lúc đó, Tiêu Tương không còn cổ đông nào nữa, và chỉ có Hình… chủ nhân.

Lương Tiểu Đồng đang chìm trong mơ tưởng thì ông già đã dập máy.

Có nghĩa là, lầu chính Tiêu Tương vẫn chỉ là một đống đổ nát.

Đồng rủa thầm “lão già sống dai”, ức quá, muốn tìm điếu thuốc để hút, nhưng biết mình xưa nay không hút thuốc vì rất sợ cái mùi khét lẹt ấy, bọn con gái cũng không thích. Anh ta lại cười nhạt nghĩ bụng, nếu có mặt mẹ thì mình vẫn còn hy vọng. Bèn lấy di động ra định gọi một cú điện thoại quan trọng hơn, nhưng anh ta bỗng thấy ngờ ngợ, bèn ngoảnh nhìn khắp, nhận ra đội trường Đội Trinh sát Hình sự của Sở Công an thẩm vấn mình lúc nãy đang bước lại gần.

Ghi xong lời khai của Tạ Nhất Bân, Ba Du Sinh chủ động đẩy xe lăn cho anh ta. Nhưng Tạ Nhất Bân lại bứt rứt bất an, cứ ngọ ngoạy mãi trên xe như bị sâu róm bò trong cổ. “Thế này thì… không hay lắm anh ạ.”

Ba Du Sinh tiếp tục đẩy xe, mỉm cười nói

“Có gì mà không hay? Tôi đang muốn đến phòng cấp cứu để tìm một người, tiện thể…”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 10

Không phải vì hôm nay là ngày hoàng đạo hay cuối tuần mà phòng cấp cứu được nhàn rỗi. Bỗng dưng phải chứa thêm một số con tin và cảnh sát cứu hỏa bị thương, ngoài ra, thời tiết đẹp của ngày Chủ nhật để đi chơi cũng đóng góp thêm nhiều bệnh nhân bị tai nạn giao thông hoặc các tai nạn khác, hơn hẳn mọi ngày. Đương nhiên còn có thêm cảnh sát phải làm nhiệm vụ và các loại người nhà của bệnh nhân nữa. Cả khu cấp cứu đông nghẹt người, rất ồn ào. Ba Du Sinh đẩy Tạ Nhất Bân đi, phải luôn miệng kêu “Cho đi nhờ với… Xin lỗi, cho đi nhờ nào…” thì mới không bị “ùn tắc giao thông”.

Đưa trả Tạ Nhất Bân về phòng theo dõi xong, Ba Du Sinh lại sang phòng hồi sức ICU. Ở đây có bốn người sống sót trong vụ án, đều bị thương nặng. Gồm phụ bếp Tôn Nguyên Hổ, 20% diện tích da bị bỏng sâu độ 2, hai người phục vụ Kiến Vĩ và Hoa Thanh, bị bỏng độ 2, sâu độ 2. Cánh tay Kiến Vĩ còn bị thương khá sâu do thủy tinh và thuốc nổ gây ra, các mảnh thủy tinh gắp được đều là mảnh cốc rượu. Và Na Lan, bị chấn thương sọ não.

Ba Du Sinh không tìm bác sĩ để hỏi tình hình, anh chỉ đứng ở cửa nhìn vào phòng theo dõi. Có vẻ như những người bị thương đều không bị đe dọa tính mạng, Na Lan thì nhắm mắt, không rõ đang hôn mê hay nằm nghỉ. Lúc nãy bác sĩ Trương Lỗi nói qua điện thoại, Na Lan đã tỉnh lại hai lần, chắc đang tiến triển khả quan.

Hành lang ngoài phòng ICU chạy đến một cánh cửa, ra khỏi cửa là một khu vực như vườn hoa, có hai cây long não, một cây thông và vài khóm cây thấp. Ba Du Sinh nhìn từ xa, thấy Lương Tiểu Đồng đang đứng bên gốc cây gọi điện. Anh quan sát một lúc, thấy anh ta vừa nói vừa khua tay, vẻ như ngao ngán, nản lòng và không tin nổi…

Lương Tiểu Đồng điện thoại xong, bỗng ngoảnh phắt về phía Ba Du Sinh đang đứng. Ba Du Sinh liền cất bước về phía anh ta.

“Chắc đang báo tin bình an cho nhà?” Ba Du Sinh hỏi, nhưng cảm thấy không đúng. Vụ án xảy ra được gần hai tiếng đồng hồ, nếu báo tin thì đáng lẽ phải báo từ sớm, phòng cấp cứu đã đông nghịt người nhà rồi.

Lương Tiểu Đồng xác nhận, “Vâng, tôi báo rồi.” Anh ta định nói rằng mẹ tôi đang ở trong kia, nhưng lại chuyển sang ý khác, “Tôi nghe theo gợi ý của các anh, tạm nán lại đây để nếu cần thì tìm thấy tôi ngay.”

Ba Du Sinh, “Cảm ơn anh hợp tác. Nghe nói anh đã giúp chúng tôi xem các tấm ảnh.”

“Vâng, tiếc rằng chẳng giúp được gì, vì bộ ảnh đó toàn là người quen và đều là con tin, không thấy ai đáng nghi cả.” Lương Tiểu Đồng mang máng bất an, vì Ba Du Sinh đến tìm mình hẳn là có vấn đề chứ không nhằm nói chuyện chung chung. Có phải mình đã nói nhầm gì đó? Có chi tiết nào mà mình nhớ lại đã không hợp tình hợp lý?

“Phòng kỹ thuật của chúng tôi trả lại anh máy di động chưa?”

“Chưa.” Lương Tiểu Đồng lắc đầu. “Không sao. Người nhà tôi đã gửi cho tôi chiếc di động mới. Chẳng qua là lũ bạn bát nháo của tôi hơi đông, và tôi cũng có lắm việc phải làm khẩn trương, ngoài Tiêu Tương ra, tôi còn cả đống việc.”

“Là con nhà tướng môn có khác, chắc chắn anh sẽ kế thừa y bát của chủ tịch Lương Quân.” Ba Du Sinh có vẻ như cố bày trận Long môn.

Lương Tiểu Đồng lại lắc đầu, “Đây có! Tôi còn quá nhiều thứ cần phải học, nghiệp vụ của tập đoàn rất phức tạp, bề bộn, tôi chỉ có thể gặm nhấm từng tí một… cho nên tôi vẫn thích Tiêu Tương, ở đó tôi có thể chuyên tâm làm một việc.”

Anh ta chuyển đề tài khác một cách rất tự nhiên, giành thế chủ động. “Tôi đã dồn rất nhiều tâm huyết cho Tiêu Tương, cha tôi vẫn trách tôi chưa bao giờ chuyên tâm làm một việc gì. Cho nên, vụ việc vừa xảy ra, người hùn vốn với tôi thiệt mạng… bản thân tôi hiếm khi yếu lòng nhưng xin nói thật, chuyện đó khiến con tim tôi tan nát.” Đôi mắt rưng rưng lệ.

Ba Du Sinh khẽ vỗ vai Lương Tiểu Đồng, “Tôi rất hiểu tâm trạng của anh, nhất là, như anh vừa nói, Tiêu Tương là tâm huyết của anh, chẳng ai muốn những nỗ lực của mình, những thứ mà mình yêu quý lại bị hủy hoại một cách tàn nhẫn. Chúng tôi sẽ gắng hết sức để làm rõ vụ án này, sẽ xem xét kỹ từng manh mối.” Anh gỡ cặp kính ra, dụi đôi mắt bị khô, rồi nói tiếp, “Vừa khéo, đang có một chi tiết tôi muốn xác nhận lại với anh.”

Lương Tiểu Đồng nghĩ bụng: vào đề, cũng tốt thôi, khỏi cần vòng vo tam quốc. Bèn xởi lởi nói, “Được! Anh cứ hỏi đi. Vừa nãy trao đổi, tôi đã gắng nói đúng sự thật, nếu có chỗ nào chưa nhớ rõ thì cũng là chuyện bình thường… Các anh là chuyên gia chắc sẽ hiểu.”

“Tất nhiên rồi. Sau bất cứ vụ việc nào, nhất là những vụ việc đáng sợ, người trong cuộc và người chứng kiến đều bị sốc, và khó tránh khỏi không nhớ rõ. Điều này là rất bình thường, chúng tôi hiểu chứ! Bây giờ tôi chỉ muốn hỏi về bếp trưởng ở lầu chính Tiêu Tương.”

Lương Tiểu Đồng kinh ngạc, “Ông… ông ta làm sao?”

Ba Du Sinh lại dụi mắt, như thể bỏ lỡ sắc mặt ngạc nhiên của Đồng. “Ông ta có vấn đề.”

Lương Tiểu Đồng sững người, “Không, không thể! Ông ấy không vấn đề gì. Nhất định ông ấy không phải là kẻ xấu. Trong suốt quá trình xảy ra vụ việc, ông ấy đều có mặt. Ông ấy yêu nghệ thuật nấu nướng như tính mạng, không bao giờ làm chuyện phạm pháp.”

Ba Du Sinh không muốn chỉ ra chỗ phi logic trong cách suy luận này, chỉ bình thản nói, “Tôi chỉ muốn anh nhớ lại xem, khi tên cướp cầm súng ngắn áp giải ba người nấu bếp lên gác, cả ba đều lên, đúng không? Nhất là Lý Vạn Tường, lúc đó bác ấy ở trạng thái nào?”

Lương Tiểu Đồng ngẩn người, tay phải đưa lên chỗ má bôi thuốc cùng những vết xây xước đan xen, khẽ nói, “Để tôi nghĩ lại xem sao…”

Tay anh ta tiếp tục sờ má, rồi vò đầu gãi tai, cứ như Ba Du Sinh vừa đưa ra một đề toán cao cấp của khoa toán đại học Cambridge. “Lúc đó, tôi cực kỳ hoảng loạn, phía sau thì mấy tên cướp chĩa súng, đầu óc tôi rối bời, cũng có lúc trống rỗng không biết gì nữa, cho nên tôi rất mơ hồ về mọi việc đang xảy ra xung quanh, chúng tôi bị ép quay mặt vào tường, cấm động đậy. Tôi có liếc trộm, thấy có người vào, nhưng trạng thái của ông Tường ra sao thì tôi không nhớ được. Tôi lại có tật sợ nhìn thấy máu me, cho nên suốt thời gian bị khống chế, tôi cứ như kẻ u mê.”

Lương Tiểu Đồng lại gõ tay lên trán. “Anh ạ, lúc cuống lên thì tôi không sao nhớ nổi các chi tiết, liệu có thể… Ôi, chán thật!”

“Cứ từ từ.” Ba Du Sinh nhẹ nhàng an ủi. “Từ từ nghĩ xem. Hay là thế này vậy, anh cứ nghĩ đi, nhớ được điều gì thì cho tôi biết. Tôi vẫn ở chỗ phòng họp, anh có thể đến gặp bất cứ lúc nào.”

Lương Tiểu Đồng gật đầu. Ba Du Sinh bắt tay anh ta. Lần này anh ta bắt tay không quá chặt, lòng bàn tay ươn ướt, lành lạnh.

Ba Du Sinh vội đi lên chỗ ban chuyên án, hỏi một người đang ngồi đó, “Các anh phụ trách điều tra nguồn gốc tài sản và tình hình tài chính của hội quán Tiêu Tương phải không?” Anh ta gật đầu. Ba Du Sinh nói, “Nhắn chuyên gia nghiên cứu văn bản pháp luật của các anh, đọc thật kỹ điều khoản về phân phối sở hữu của hai người hùn vốn, quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên nếu chẳng may xảy ra sự việc bất trắc, cùng cách phân định tính toán tài sản còn lại. Nếu cần, thì hỏi ý kiến văn phòng luật sự đã soạn hợp đồng ấy.”

Dặn dò xong, anh đi thẳng sang phòng thẩm vấn tạm thời.

Đới Thế Vĩnh đã đến.

Các bên tự giới thiệu, bắt tay nhau. Đới Thế Vĩnh nói, “Lúc nãy tôi đã trao đổi với nhóm trưởng Khương Minh, rằng sáng nay trước khi đến Tiêu Tương tôi đã quyết ý, phải tổ chức cướp thành công.”

Khoảng hai tiếng hai mươi phút sau khi xảy ra vụ án, hiện trường khám nghiệm lầu chính Tiêu Tương.

Kể từ đầu mùa xuân, Cát Sơn cứ bị ho liên tục, khám Đông y, Tây y, chụp CT, đều không có được kết luận gì, uống vô số nước nấu quả La Hán, quả Đại Hải, đều không thấy đỡ. Anh có hứa với vợ: sau khi vụ án nóng này khép lại, anh sẽ xin nghỉ phép để sang với con trai đang ở Nhật tìm thầy thuốc điều trị, nhưng thật ra anh đang nghĩ xem có nên xin đến đảo Điếu Ngư để làm trinh sát. Tất nhiên vợ anh cũng biết anh nói cho dễ nghe vậy thôi, chứ xưa nay các vụ án nóng chưa từng ngơi tay anh. Đúng thế, hôm nay vừa mới xảy ra một vụ, một vụ khiến anh rất hào hứng. Anh không phải hạng người máu lạnh để mà hào hứng trước những tổn thất của người khác. Chết chóc, đau thương, luôn là bi kịch. Nhưng không ai có thể phủ nhận vụ trọng án này là thách thức đặc biệt đối với bất cứ cán bộ trinh sát hình sự lão luyện nào.

Trước mắt là một tòa lầu Ba Khắc vẫn còn bốc khói, dường như nó đang lạnh lùng (đúng ra là nong nóng) khiêu khích phế quản đuối sức của Cát Sơn. Vương Chí Huân ở đội cảnh sát đặc nhiệm, thuộc lớp còn sức vóc, đã vài ba lần nhắc khéo Cát Sơn đừng nên liều mình tiếp cận khói bụi, đặc biệt là hôm nay có kỹ sư trưởng Trung tâm Kỹ thuật Hình sự của Sở Công an là Đường Vân Lãng đích thân khám nghiệm hiện trường, anh cứ ngồi ở ban điều hành là được rồi.

Không có chuyện đó.

Kỹ sư trưởng Đường Vân Lãng là chuyên gia kỹ thuật hình sự nổi tiếng cả nước, ông từng đăng hàng ngàn bài viết chuyên môn, kiến thức về kỹ thuật hình sự rất uyên bác. Cát Sơn đã từng hợp tác với ông, anh vô cùng khâm phục. Tuy nhiên anh cũng biết, cùng là khám nghiệm hiện trường, song cách nhìn nhận của các chuyên gia và trinh sát viên không hoàn toàn giống nhau. Người làm về kỹ thuật nhìn nhận bằng con mắt của nhà khoa học nhà nghiên cứu, còn người làm về trinh sát thì tìm các dấu vết đồng thời khám phá động cơ, thủ đoạn của tội phạm, so sánh các vụ án tương tự với nhau. Nói cách khác, hai người có nền tảng khác nhau khám nghiệm hiện trường sẽ có những phát hiện và thu hoạch khác nhau.

Cát Sơn, Đường Vân Lãng và đội trưởng đội cảnh sát chữa cháy đã trao đổi ý kiến, cân nhắc nguy cơ về an toàn, sau đó cùng nhận định rằng có thể từng bước thâm nhập phế tích lầu Ba Khắc đầy nguy cơ rình rập kia. Cát Sơn không để Vương Chí Huân có cơ hội ngăn cản, anh mặc trang phục bảo hộ, đi giày cách nhiệt, đeo mặt nạ lọc bụi, dẫn đầu tiến vào hiện trường.

Khoảnh sân bên dưới vô cùng bề bộn. Mảnh thủy tinh, gỗ vụn, gạch vữa, những vật dụng cháy thui, đồ gỗ và các dụng cụ văn phòng bắn ra do vụ nổ… coi như đã phủ kín nền đá xanh. Mặt đất thì nhớp nhúa lầy lội do bị phun nước dập lửa. Lầu chính Tiêu Tương bị nổ và cháy thủng toang hoác, nham nhở, bộ khung cơ bản vẫn còn nhưng thủng lỗ chỗ vừa người chui, cửa chính và hành lang coi như đã biến mất.

Cát Sơn đi vào từ cửa chính. Cánh cửa màu đỏ đã bị cảnh sát đặc nhiệm phá tung sau đó bị lửa liếm xám xịt thậm chí đen thui. Bên trong vẫn còn tàn tích quầy tiếp tân, mặt sàn đầy đất đá và thủy tinh, chưa biết chúng vốn là kính cửa hay chùm đèn trần. Cát Sơn nhìn xung quanh, trong thấy Hình Thụy An điều tra viên hỏa hoạn, bèn bước lại vỗ vai anh ta, trỏ tay về hướng nhà bếp.

Lúc nãy, trong khi chờ đợi, Cát Sơn đã nghiên cứu kỹ sơ đồ của lầu chính Tiêu Tương, biết rằng từ tiền sảnh đi thẳng vào, bên trái cầu thang sẽ có một hành lang ngắn, cuối hành lang là nhà bếp, nhà bếp là khu vực duy nhất khiến Cát Sơn thấy hứng thú. Nguyên nhân rất đơn giản: bếp là nơi lửa nóng nhất, dẫn đến vụ nổ lần thứ ba.

Hình Thụy An hơi do dự, rồi gật đầu. Anh vốn có thói quen: khi khám nghiệm hiện trường cháy nổ sẽ bắt đầu từ nơi bị phá hủy nhẹ nhất, sau đó đi ngược lên khu vực bị cháy nghiêm trọng nhất. Như thế có thể thu thập được tối đa các manh mối liên quan đến quá trình hỏa hoạn rồi truy ngược đến nguồn lửa. Nhưng anh cũng biết hiện trường vụ cháy hôm nay rất khác với hiện trường hàng ngàn vụ cháy anh từng làm việc: trước hết xảy ra vụ cướp và khống chế các con tin, chưa rõ hung thủ và hành tung của chúng, nhiệm vụ của anh không chỉ là điều tra hỏa hoạn mà quan trọng hơn nữa là cần hợp tác với các trinh sát để phá án.

Cho nên, dù muốn xem xét kỹ khu vực bị tàn phá nhẹ nhất là tiền sảnh và phòng làm việc, nhưng anh vẫn phải tán thành yêu cầu của Cát Sơn là vào nhà bếp trước tiên.

Trong nhà không đủ ánh sáng, Cát Sơn và Hình Thụy An chiếu đèn pin rồi bước đến cầu thang, cầu thang bị cháy nham nhở, rệu rã, khó mà gánh nổi nhiệm vụ vốn có. Mặt sàn hành lang ngắn đi đến bếp cũng tan hoang, hai bên vách bị lở từng mảng lớn, lộ ra khung gỗ đen thui bên trong.

Cát Sơn tháo mặt nạ, hỏi Hình Thụy An, “Tôi muốn hỏi anh một câu rất sơ đẳng: nếu tầng hai bị cháy trước, thì đương nhiên lửa sẽ bốc lên trên chứ không cháy xuống dưới đúng không?”

Hình Thụy An cũng gỡ mặt nạ ra, “Nếu không có tình huống nào khác thường, thì đúng là tầng trên dễ bị vạ lây. Nhưng đa số các hiện trường hỏa hoạn đều rất phức tạp, ví dụ, ở đây.”

Anh quay ngược lại, chỉ tay, “Cầu thang ở ngay trước mặt đại sảnh, lúc đó cửa sổ đã bị vỡ, gió lùa vào sẽ thốc lửa theo xuống cầu thang, nhất là… lúc nãy tôi đọc trên mạng thấy có người tung lên Web Chat tấm ảnh trước khi xảy ra vụ việc, cầu thang này trải thảm, thì quá dễ bắt lửa. Cho nên lửa cháy xuống dưới cũng là chuyện rất bình thường.”

“Nhưng từ cầu thang cháy lan đến bếp, chắc không dễ đâu?” Cát Sơn đã biết nhưng vẫn hỏi. Anh đã tìm hiểu qua các cảnh sát đặc nhiệm và đội cứu hỏa tham gia chữa cháy, họ nhớ lại rằng có nhìn thấy lửa từ bếp cháy ra hành lang ngắn rồi lan ra các nơi ở tầng trệt.

Hình Thụy An chỉ vào hai vách hành lang nham nhở, “Anh nhìn hai bên tường, sẽ thấy bị cháy loang theo chiều ngang và loe dần, tựa như cái phễu xoay ngang, càng gần bếp thì càng bị tổn hại, càng xa bếp thì diện tích bị hun đen càng lớn, chứng tỏ lửa phun ra từ bếp, khói đen thoát ra ngoài.”

Cát Sơn nói, “Khi lính cứu hỏa của chúng ta tiến vào, tầng trệt không một bóng người. Có lẽ nhiệm vụ của hai chúng ta là phải khám phá xem lửa trong bếp bị cháy như thế nào.”

Hình Thụy An lại chụp mặt nạ lên. “Nếu không có gì bất ngờ, thì chắc là lửa từ tầng hai lan xuống. Tôi có hai giả thiết sơ bộ, một là lửa bén vào các vật liệu rơi từ tầng hai xuống, hai là các vật liệu đã bắt cháy rơi từ tầng hai xuống bị hút vào cửa sổ nhà bếp nhưng khả năng này không lớn, cho nên chỉ có thể là giả thiết thứ nhất.”

Hai người tiếp tục bước vào nhà bếp, cứ như là đi vào một ngôi “nhà đen”, tất cả đều cháy thui ngoại trừ một mặt tường đã vỡ tung vì sức nổ.

Mặt tường nào chưa bung thì cũng bục thủng vì lửa cháy xuyên qua, chỉ còn lại bộ khung, khi nào sập xuống thì chỉ ông trời mới biết được. Một số dụng cụ bằng thép không gỉ như tủ ướp đông, giá bát đĩa, xe đẩy, bàn mổ cá thái thịt… đều bị lửa thiêu đen xỉn, bếp ga vốn dĩ màu đen, nồi soong đủ kích cỡ đều bị hun đen, tay cầm của chúng đã cháy sạch, ngay nền gạch men màu vàng và trần màu trắng cũng đều đen sì.

Hình Thụy An lại gỡ mặt nạ, “Căn bản có thể nhận ra rồi, anh xem, ở đây tất cả đen sì, nhất là cái trần nhà, chứng tỏ một điều.”

Cát Sơn hỏi dò, “Chứng tỏ lửa từ dưới bốc lên chứ gì?”

“Chứ lại không à?” Hình Thụy An ngồi xổm, tháo găng tay ra, sờ xuống mặt sàn vẫn cứng đanh, “Mặt sàn này đáng lẽ không thể cháy, không dẫn lửa, thực khó tưởng tượng trong điều kiện thông thường nó lại bị thiêu đen như thế này. Anh sờ thử mà xem có cảm giác gì?”

Cát Sơn cũng tháo găng tay, sờ lên những chỗ đen xỉn trên sàn nhà, “Thấy nham nhám sần sùi, có chỗ hơi dinh dính.”

“Anh nhìn những chỗ bị hun đen, có thấy đặc biệt không?”

Cát Sơn nhìn thêm một lúc, không nhận thấy có gì đặc biệt, anh đứng dậy bước mấy bước, “Ha, nhận ra điều này: không chỉ có một nơi có những hình loe ra, mà vừa rồi anh gọi là hình phễu…”

Hình Thụy An, “Tinh mắt đấy! Đúng thế. Có thể gọi là hình phễu, hoặc hình chữ V, là dấu hiệu bọn tôi vẫn tận dụng để điều tra phán đoán nguồn lửa bắt đầu từ đâu. Nói chung, lửa cháy sẽ bốc lên hoặc lan ra ngoài, trên tường và sàn sẽ có những vết hun đen theo hình chữ V đúng chiều hoặc xoay nganh. Nếu đồng thời phát hiện ra nhiều hình chữ V thì chứng tỏ được một điều.”

“Rằng có bao nhiêu nguồn lửa cháy?” Cát Sơn chưa biết mình phán đoán đúng hay sai, anh hơi cảm thấy bất an.
Hình Thụy An trịnh trọng gật đầu, “Ở phần lớn các sự cố hỏa hoạn, nguồn lửa cháy chỉ có một. Nếu bị vạ lây do vụ nổ và lửa tầng hai tạt xuống, thì chúng ta có thể nhận ra một nguồn lửa chính, nhưng rõ ràng là mặt sàn này có nhiều điểm là nguồn lửa, những hình chữ V xuất hiện khắp mặt sàn, bàn nhà bếp, tủ lạnh và các vật dụng khác, chứng tỏ một khả năng rất lớn là mặt sàn đều bốc cháy. Nguyên nhân thường gặp khiến mặt sàn có nhiều nguồn lửa là trên mặt sàn có nhiều vật dễ bén lửa, ví dụ xăng dầu, rượu cồn… Tôi biết, ngửi thì rất hại sức khỏe, nhưng nếu anh thử ngửi sẽ nhận ra mùi xăng dầu, và không rõ rệt lắm là mùi dầu diesel thoang thoảng. Phải đem đi xét nghiệm thì mới biết được. Hoặc đưa chó nghiệp vụ đến, chúng có thể đánh hơi nhận ra những điểm khác biệt rất nhỏ của các loại chất đốt.”

Cát Sơn càng nghe càng thấy khó hiểu, anh hít một hơi thật sâu, nhưng lập tức ho dữ dội. Vận dụng khứu giác không phải là cách để giám định.

Anh hỏi, “Ý anh là có ai đó tưới xăng dầu ra sàn rồi phóng hỏa à?” Lòng càng cảm thấy không sao hiểu nổi.

Suốt quá trình kẻ xấu khống chế con tin, đương đầu với cảnh sát, Cát Sơn đều có mặt ở hiện trường. Anh chứng kiến vụ nổ và lửa bốc ra đều xuất phát từ tầng hai, liệu có phải kẻ xấu đã tưới xăng ở bếp trước, sau khi xảy ra vụ nổ tầng hai chúng mới chạy xuống bếp để châm lửa? Có lẽ chỉ có thể giải thích như vậy, nhưng gần như là vô lý, không thể xảy ra. Nổ, rồi cháy, bọn tội phạm cũng chỉ là người, chạy tháo thân và trốn cảnh sát còn chẳng kịp nữa là! Chúng không thể lại vòng xuống bếp để phóng hỏa. Huống chi, lầu đã cháy rồi, hà tất vẽ rắn thêm chân?

Hình Thụy An ngồi xổm xuống, soi đèn pin tìm kiếm trên mặt sàn, “Nếu đúng là có kẻ tưới xăng dầu từ trước, thì chẳng thể tìm được nhiều xăng dầu còn sót lại sau vụ cháy dữ dội như vậy. Nhưng nếu tìm kỹ thì có thể vẫn phát hiện ra chút ít đọng ở các góc tường, khe nứt của sàn…”

Nhưng Cát Sơn biết, nhà bếp này mới được tân trang, khó lòng tồn tại những kẽ nứt cho nguyên liệu cháy đọng lại. Trên sàn có một số vết nứt nhưng là do hậu quả của vụ nổ hoặc các vật dụng rơi xuống đất gây ra, xăng dầu bám trên sàn cũng đã cháy hết cả rồi.

Nhà bếp mới tân trang. Xăng dầu còn sót lại. Nhà bếp mới tân trang!

Cát Sơn bỗng nảy ra một ý, anh nhìn khắp nhà bếp đã được cơi nới mở rộng, diện tích lên đến bảy mươi mét vuông (thông thường, nhà bếp ở lầu Ba Khắc chỉ rộng ba mươi mét vuông), và chú ý đến một bồn nước to ở góc phía Đông Bắc. Nhà bếp này có hai bồn nước kích cỡ vừa phải, nhưng anh để ý đến cái bồn thấp hơn, đáy bồn cách mặt đất chừng nửa mét, rộng và sâu gấp đôi chậu rửa thông thường. Có thể dùng để rửa một lượng khá nhiều rau, thực phẩm.

Anh bước lại gần. Trên nền nhà bên dưới bồn nước có một đám tro bụi, gần đó có một thanh kim loại, có lẽ vốn là cái cán chổi quét sàn hoặc lau sàn. Anh cúi xuống gạt đám tro ấy sang bên, rồi hào hứng gọi, “Anh Hình Thụy An!”
Bên dưới là một lỗ thoát nước, nắp chắn rác vẫn còn, nó đã bị lửa hun xám xỉn.

Hình Thụy An không đáp. Cát Sơn nhận ra mình hơi hấp tấp, vẫn đeo nguyên mặt nạ. Anh liền gỡ mặt nạ ra, rồi gọi lại. Lần này Hình Thụy An bước đến, soi đèn pin xuống. Bên dưới nắp chặn rác là một thứ chất lỏng.

“Anh đã tìm thấy báu vật rồi đấy!” Giọng Hình Thụy An cũng phấn khởi. “Lúc này có thể sơ bộ phán đoán rằng, lớp váng ở phía trên chính là dầu diesel!”

Cát Sơn đứng dậy lấy di động, bước ra sau bếp gọi Ba Du Sinh.

“Anh Sinh! Bút lục của các anh sẽ khó ghi chép mất rồi! Tình hình đang trở nên phức tạp. Lửa cháy ở bếp là do bị phóng hỏa.”

Hai tiếng hai mươi lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng hồi sức ICU bệnh viên Nhân Dân số 6 Giang Kinh.
Tôn Nguyên Hổ đau quá tỉnh lại, rên rỉ, rồi lại lịm đi.

Cậu vẫn nhớ rõ bác sĩ nói với mình và một cảnh sát - rất có thể chỉ là nói với cảnh sát - rằng mình bị bỏng 20% toàn thân, bỏng độ 2. Cậu không dám tin ở tai mình nữa.

Chỉ 20% thôi ư? Sao mình có cảm giác 120% toàn thân đang bị thiêu đốt, chảy mủ và sưng vù?

Có cha mẹ làm chứng, từ bé cậu đã gặt hái lắm “thành tích” và cũng vì thế mà hôm nay bị cháy đến nông nỗi này chăng? Từng nghịch ngợm đủ trò, trèo tường ngã gãy cánh tay, đá bóng bị gãy chân, đánh nhau bị giập sống mũi, xuống sông bơi suýt chết đuối… nhưng chưa lần nào khốn khổ như hôm nay bị lửa thiêu.

Tra tấn kinh khủng thế này không ai chịu nổi.

Nửa tỉnh nửa mê, nhưng Tôn Nguyên Hổ vẫn cảm thấy có người đi lại bên giường, khẽ nói, lửa cháy rần rật trong nhà bếp… cảm giác như mình đang trở lại Tiêu Tương, ngửi thấy mùi dầu diesel khét lẹt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 11

Dầu diesel ở đâu ra? À, nhớ ra rồi. Mình đang bị cháy, cảnh sát cứu hỏa lao qua đám khói lửa phun bọt dập lửa… một cái kìm to cắt luôn còng tay… mình bị bốc dậy, chơi vơi… được một cảnh sát cứu hỏa cõng lên, rồi đi xuống cầu thang.

Có người hô lớn, “Nhà bếp cháy rồi!”

Sao lại thế? Tầng hai bị cháy kia mà? Đại sảnh ở tầng hai là nơi những người giàu có nâng cốc, là nơi ẩn chứa những trò bẩn thỉu…

Nhà bếp là đất thánh, là căn cứ địa của mình và sư phụ Lý Vạn Tường. (Không tính Tạ Nhất Bân vào đây, hắn chẳng để tâm học nghề nấu ăn.) Mùi dầu diesel nồng nặc xộc vào mũi Tôn Nguyên Hổ. Tuy sống mũi từng bị giập nhưng vẫn rất thính, ngay bác Tường cũng phải khen ngợi “chú em có cái mũi của một vua bếp”.

Tôn Nguyên Hổ vẫn còn nhớ mình đã xách cái thùng sắt chứa 10 cân dầu diesel từ cửa sau xe tải chở hàng đi một lèo vào gian chứa đồ của nhà bếp. Cậu còn hỏi bác Tường cần dầu diesel để làm gì. Tạ Nhất Bân đứng bên cười nhạt nói đế vào: Hổ Bì không biết à, ở đây có hai loại bếp, bếp gas và bếp dầu, nếu gas trục trặc thì châm bếp dầu. Cho nên phải dự trữ dầu đun.

Tôn Nguyên Hổ không ưa tính khí quái dị của Tạ Nhất Bân, đôi khi chỉ muốn nện cho một trận. Nhưng thật ra Tạ Nhất Bân không phải kẻ xấu, cậu đành tặc lưỡi không chấp anh ta. Đành thế vậy, thường là người khác không chấp cậu, nay cậu đụng phải một gã quái hơn cả mình.

Mùi dầu khét lẹt, lửa cháy rừng rực. Bỏng rát. Đau kinh khủng!

Khi tỉnh lại lần nữa, Tôn Nguyên Hổ nhớ ra lúc ấy vẫn còn mùi dầu xào nấu. Mùi dầu ăn và mùi dầu diesel khác hẳn nhau, mùi dầu ăn không kinh khủng khé mũi như mùi dầu diesel. Sực nhớ đến cái thùng dầu ăn 20 cân đặt dưới bể nước cũng là do mình xách vào, cậu bỗng rùng mình run rẩy và hiểu ra, tại mình xách nhiên liệu vào nhà bếp, nếu không đã không bị hỏa hoạn, nhà bếp sẽ không bị cháy dữ dội như thế. Thật là xót xa!

Lại đau, rồi ngất đi. Trong mơ, Tôn Nguyên Hổ nhìn thấy một cái bóng mờ mờ đứng bên giường, cúi nhìn mình, cứ như thần chết đang hỏi thăm kẻ hấp hối.

Ông là ai?

Ta là ai cũng thế. Cảnh sát đã gặp anh hỏi chuyện chưa?

Chưa. Họ biết rằng tôi không thể trả lời.

Nếu họ tìm anh, anh biết nên trả lời sao rồi chứ?

Tại tôi xách dầu vào, dầu diesel và dầu ăn bị cháy.

Nói vớ vẩn gì thế?

Tôi nói thật mà!

Anh không được phép nói thật.

Đới Thế Vĩnh

Trước khi đến Tiêu Tương dùng cơm, Đới Thế Vĩnh đã chuẩn bị xong bài vở kế mưu chu đáo tỉ mỉ để thực hiện kế hoạch suôn sẻ. Anh ta biết, đây là cơ hội hiếm có và sẽ trôi đi rất nhanh. Vụ cướp phải được thực hiện gọn gàng, thành công.

Trong lĩnh vực nhập khẩu năng lượng, “cướp” là danh từ hài hước chỉ sự trấn lột nồi cơm của các đại gia năng lượng bản địa. Gần hai năm nay đã xảy ra vô số vụ cướp như thế này. Ví dụ, than đá nội địa chất lượng chỉ tầm tầm mà giá thì cao, than nhập khẩu chất lượng hơn hẳn, giá lại không đắt, cho nên nảy sinh cạnh tranh và tình hình nhanh chóng nóng lên.

Đới Hướng Dương là một trong các đại gia năng lượng truyền thống, khởi nghiệp từ khai mỏ than nho nhỏ tiến lên thành một tập đoàn lớn, và rất có đầu óc so với các đồng nghiệp, ông ta đã nhìn ra hậu quả sinh tử khi giao đấu với năng lượng nhập khẩu, ít ra sẽ là cả hai bên cùng bị thương nặng, và có khả năng rất lớn là nội địa phải bỏ của chạy lấy người. Cho nên ông ta bắt đầu tính kế lâu dài, bắt tay hữu hảo với đám hậu sinh như Đới Thế Vĩnh và những người đối lập của mình, thông qua Yên Vệ Bình, chấp nhận tiếp xúc với Đới Thế Vĩnh vào ngày khai trương hội quán Tiêu Tương, thậm chí gọi cả người cùng hùn vốn là Lương Tiểu Đồng gặp gỡ để cùng làm quen.

Nhưng, với Đới Thế Vĩnh thì lại là một mũi tên bắn hai con chim.

Lương Tiểu Đồng tuy chỉ là nhà giàu thế hệ thứ hai, ý chí và năng lực đều có hạn, nhưng tập đoàn Phong Hành của Lương Quân ông già anh ta làm về năng lượng, tập đoàn ấy sớm muộn gì cũng do Lương Tiểu Đồng tiếp đồng, Đới Thế Vĩnh làm quen chính là để gieo xuống hạt giống hợp tác trong tương lai.

Tuy gọi là “bữa trưa”, nhưng bắt đầu từ 10 giờ rưỡi. Trước tiên uống trà, sau đó nâng ly uống rượu. Ngồi trò chuyện với Lương Tiểu Đồng một lúc, Đới Thế Vĩnh mới nhận ra “ông chủ nhì” này non kém hơn hẳn mình hình dung, anh ta chẳng hề hào hứng với rất nhiều cơ hội làm ăn mà Đới Thế Vĩnh nêu ra trong bữa ăn, thậm chí anh ta sắp ngủ gật và đã vài lần viện cớ cần sang hai lầu Đông Tây “thăm hỏi các hội viên mới” để đứng lên bước ra ngoài, chắc chỉ là xuống tầng trệt tán tỉnh con bé xinh xắn ở quầy lễ tân.

Tất nhiên, Đới Thế Vĩnh cũng có vài lần phải rời bàn ăn vì di động để trong cặp đổ chuông, đó là những cú điện thoại liên quan đến làm ăn, các khách hàng mới muốn được tư vấn, hoặc các giao dịch về chuyển khoản, về vận tải đến cảng… Đới Thế Vĩnh mới thành lập công ty, tuy đã hoàn tất thành công vài thương vụ nhưng hiện giờ quy mô vẫn chưa đáng kể, chỉ có vài phụ tá, nên một số vấn đề then chốt anh ta vẫn phải đích thân giải quyết.

Đới Thế Vĩnh thuộc dạng người mà nếu anh ta có mặt thì không lo không khí nguội lạnh, mỗi lần nghe điện thoại xong trở lại bàn ăn, nhét di động vào cặp là anh ta hỏi ngay, “Chú ơi, chúng ta nói đến đâu rồi nhỉ?”


Tuy là đồng hương với Đới Hướng Dương, nhưng Đới Thế Vĩnh rất “thuộc bài”, không nói toạc ra điều ấy ngay, mà sử dụng giọng quê nhà Thiểm Tây để Đới Hướng Dương tự phát hiện, sẽ càng tự nhiên và không bị ngờ rằng có mưu đồ gì đó. Thật ra chưa thể nhận định Đới Thế Vĩnh có mưu đồ, anh ta chỉ tương đối yêu nghề và hăm hở làm ăn.

Về việc hợp tác với tập đoàn Hâm Viễn của Đới Hướng Dương, hai bên cùng có lợi ra sao, Đới Thế Vĩnh cũng đã suy tính trước rồi. Chi tiết thì nhiều nhưng định hướng chung đơn giản là: Hâm Viễn có thực lực về vốn sẽ lo nhập khẩu các nhiên liệu giá rẻ như than đá, dầu mỏ thậm chí nhập khẩu kim loại màu, sau đó nâng giá, bán cho đám khách hàng lớn mà Hâm Viễn đã tạo dựng bấy lâu, khách hàng của Hâm Viễn cũng được hưởng lợi vì giá mềm, sẽ tiếp tục được Hâm Viễn phục vụ, vai trò của Đới Hướng Dương không đổi, vẫn là ông lớn trung gian, ăn lãi ít cũng không sao vì bán hàng với số lượng lớn, vẫn no bụng chán. Ba cái lợi.

Yên Vệ Bình tò mò hỏi, cậu Vĩnh còn trẻ sao đã có thể móc nối được với các chủ hàng ngoại quốc? Đới Thế Vĩnh đáp là nhờ tiếng Anh và mạng internet. Hồi nhỏ, anh ta đã theo làm tiếp thị cho một bậc thầy chuyên buôn đi bán lại, về sau lại chạy việc cho một công ty, mà công ty ấy là một trong những đơn vị đi đầu về nhập khẩu năng lượng.
Đới Hướng Dương cười hỏi, “Cậu học lỏm à?”

Đới Thế Vĩnh cũng mỉm cười, “Phải! Đời tôi chỉ làm một việc ám muội duy nhất là học lỏm. Tôi quan sát họ tìm khách hàng ra sao, nói chuyện với đối phương như thế nào, rồi đến các thủ tục thông quan, đón tàu thuyền ra sao. Thoạt đầu họ nói gì tôi cũng như vịt nghe sấm, vì họ nói tiếng Anh.” Đới Thế Vĩnh kể rằng từ đó anh ta bắt đầu chuyên tâm học tiếng Anh. Vì chưa bao giờ học đại học, không được thầy giáo có ngữ âm chuẩn phụ đạo cho, Đới Thế Vĩnh tự chế nhạo rằng tiếng Anh của mình hiện nay là thứ “tiếng bồi” sặc mùi Thiểm Tây.

Mọi người đều phì cười.

Chỉ có Lương Tiểu Đồng không cười. Anh ta đang mở di động ra xem Web Chat nên bỏ lỡ đoạn đối thoại của họ. Hình như cảm thấy hơi lạc lõng, Lương Tiểu Đồng đứng lên nói đang vào giờ bữa trưa nhộn nhịp, phải sang hai lầu Đông, Tây để làm công tác “giới thiệu hội viên”, không rõ là “giới thiệu Tiêu Tương với các hội viên tương lai” hay là “giới thiệu một số thực khách làm hội viên gia nhập hội quán”. Không rõ. Nhưng thôi đành, vì anh ta cũng như mình, đều là thế hệ 8x đáng yêu.

Lương Tiểu Đồng ra ngoài không lâu thì bụng Đới Thế Vĩnh bỗng nhiên tưng tức, nhắc anh ta phải đi vệ sinh. Cảm thấy nếu đứng dậy luôn thì dở, sẽ khiến bầu không khí bị hẫng, nên Đới Thế Vĩnh muốn chờ Lương Tiểu Đồng quay lại đã. Nhưng chỉ cố nhịn được một lúc, không thể chống lại quy luật tự nhiên, Đới Thế Vĩnh đành “xin phép” Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình vậy.

Đại sảnh này có một gian vệ sinh nhỏ khép kín, nhưng Đới Thế Vĩnh cần “đi nặng” và cảm thấy mình sẽ gây ra “tiếng ồn và nặng mùi”, nên tế nhị đi ra nhà vệ sinh ở tận cuối hành lang tầng hai để giải quyết.

Ở tầng hai, ngoài đại sảnh còn có một gian nhỏ, cô gái tiếp tân đã giới thiệu đó là phòng nghỉ. Cũng như các gian khác của Tiêu Tương, nó cũng được đặt tên riêng, là “Như Mộng Lệnh”. Đi qua phòng nghỉ sẽ đến nhà vệ sinh. Đới Thế Vĩnh bước vào, khóa cửa lại, ngồi xuống bệ xí… chắc khỏi cần đi vào chi tiết. Đại khái là nếu nhất định phải miêu tả, thì diễn biến trong nhà vệ sinh là “đúng như suy đoán”.

Đang ngồi trên bệ xí, Đới Thế Vĩnh nghe thấy một tiếng súng. Nhưng rồi anh ta biết mình đã nhầm. Vì sau đó là tiếng pháo nổ không ngớt, cho nên tiếng “đoàng” thứ nhất hình như cũng là tiếng pháo.

Đi vệ sinh xong, Đới Thế Vĩnh chỉnh đốn quần áo, rửa tay. Đột ngột nghe thấy tiếng hô, “Cấm nhúc nhích!”
Tiếng phổ thông rất chuẩn. Hình như từ đại sảnh vọng đến.

Rồi một tiếng “ôi…” ré lên. Đoán là tiếng cô phục vụ bàn ở đại sảnh, một cô gái hiền hòa, rất tận tình chu đáo.
Tiếp đó là nhiều tiếng kêu, tiếng hét, Đới Thế Vĩnh nghe không rõ nhưng cũng không dám mở cửa thò đầu ra.
Chỉ còn cách cứ đứng trong này, tim đập thình thịch mà suy đoán.

Bị cướp rồi!

Ngày trước đi theo sư phụ bán thuốc giả kiếm chác, hai thầy trò đã từng bị trấn lột mấy lần. Còn nhớ lần đầu đi xe khách bị kẻ cắp lục soát, Đới Thế Vĩnh sợ đứng tim. Hai lần sau, anh ta đã bình tĩnh hơn, tim vẫn đập nhanh nhưng cũng đã ở trạng thái tỉnh táo, nhanh nhẹn. Rồi rút ra một kinh nghiệm nhỏ là trước mặt họng súng thì nên co mình lại, bị hỏi phải trả lời, dốc túi nôn tiền ra, sau đó “quên đi”, coi như mù như điếc.

Phải báo cảnh sát.

Chết thật! Di động vẫn nhét trong cặp.

Chỉ tại cái loại điện thoại thông minh đáng chết này!

Ngày trước dùng di động bé tẹo vừa lòng bàn tay, dù để nói, nghe và nhắn tin, anh ta cũng luôn nhét túi quần như bao thanh niên khác. Ngày nay di động thông minh, lắm chức năng, màn hình to, tuy vẫn có thể nhét túi quần nhưng với người chạy suốt ngày như Đới Thế Vĩnh thì không tiện, riêng năm ngoái anh ta đã đánh mất hai cái (do trồi ra khỏi túi quần rồi rơi mất), thế là chuyển sang túi dết da và nhét di động vào đó. Lấy ra dùng tuy phiền toái nhưng vẫn còn hơn là năm ngày ba bận phải mua cái mới.

Đới Thế Vĩnh gõ trán nghĩ ngợi, cảm thấy rất hối hận. Nếu lúc này có di động thì báo cảnh sát, tuy chẳng phải cử chỉ anh hùng nhưng ít ra cũng là một chút cống hiến. Lúc này đành đứng trong bầu không khí xú uế chờ đợi, mong sao bọn cướp đừng vào đây lục soát và cũng đừng mót đi vệ sinh.

Thử nghĩ mà xem, cướp chuyên nghiệp thì trước khi hành động phải giải quyết xong xuôi đại sự như bài tiết rồi chứ, đúng không? Và còn phải chú ý không uống nhiều trà hoặc cà phê, không ăn các đồ tươi sống, cá gỏi, hàu tươi… để tránh thúc đẩy quá trình tiêu hóa và nhu động ruột, đúng không?

Chẳng rõ thời gian trôi đi bao lâu, thật ra cũng chẳng thiết xem giờ. Đới Thế Vĩnh nghe văng vẳng tiếng bước chân đi về phía đầu xa nhất của hành lang.

Thật ra, những ai đã hiểu về kết cấu của lầu Ba Khắc đều biết rằng, vì diện tích tổng thể đặc biệt là chiều rộng tòa nhà hạn chế, nên hành lang thường chỉ dài bốn năm mét là cùng, vì vậy đầu xa nhất của hành lang cũng chẳng xa tí nào.

Đầu xa nhất của hành lang chính là nhà vệ sinh này.

“Két…” một tiếng. Cánh cửa chếch đối diện mở ra.

Đới Thế Vĩnh dựa vào trí nhớ và âm thanh để phán đoán, đó chính là phòng nghỉ có tên “Như Mộng Lệnh”.

Bọn cướp đã thấm mệt hay sao, mà tranh thủ vào đây chợp mắt?

Anh ta bỗng thấy căng thẳng. Bọn cướp vào đó đương nhiên không để nghỉ ngơi, mà là lục soát bằng hết, sợ bỏ sót ai đó. Cho nên, khu vực hôi hám mà Đới Thế Vĩnh đang ẩn náu sẽ là điểm lục soát tiếp theo.

Ví tiền, di động và chìa khóa ô tô đều để cả ở trong cặp da. Nếu kẻ này tóm được mình thì chỉ còn cách thí cho hắn chiếc đồng hồ đeo tay mới dùng ba năm, hàng nhái Oméga, đồ giả nhưng chạy rất chuẩn, đại ca dùng tạm vậy!
Nhưng, kỳ lạ thật, mấy phút trôi qua mà không ai vào đây.

Khi Đới Thế Vĩnh đang dần bớt căng thẳng, cho rằng giây phút nguy hiểm nhất đã qua thì cửa nhà vệ sinh bị đạp tung ra.

Nếu sớm biết kẻ này cầm súng trường tự động thì anh ta đã không nhảy ào ra tấn công hắn. Còn tên cướp, trước khi đạp cửa đã tính đến khả năng bên trong có người nên né ngay sang bên, làm hai tay Đới Thế Vĩnh xẹt qua áo hắn, vồ hụt, mất thăng bằng chúi người tới trước. Tên cướp bồi cho một báng súng vào lưng làm anh ta đau thấu tim, Đới Thế Vĩnh ngã sóng soài trên mặt đất.

Không một giây lơi lỏng, tên cướp giẫm chân lên gáy Đới Thế Vĩnh, làm anh ta đau đến nghẹt thở. Vì vẫn chưa nhìn thấy khẩu súng của hắn, Đới Thế Vĩnh tiếp tục chống cự như một bản năng, đưa tay lên định kéo chân hắn ra. Tên cướp thở dài, hình như thương hại đối phương hành động vô ích và buồn cho thảm án sắp xảy ra đến nơi, hắn tóm luôn tay trái của Đới Thế Vĩnh, bẻ ngoặt lên trên. Lại đau thấu tim, buốt lên tận óc. Đới Thế Vĩnh nhận ra cánh tay mình đã không còn là của mình nữa.

Trật khớp.

“Được rồi! Mày đã chứng minh với tao rằng mày không phải tay vừa, đúng không? Mày không chỉ ị cực thối mà còn dám ra đòn với súng tự động nữa! Mày giỏi nhất rồi!”

Đoạn hắn lôi tù binh mới về đại sảnh.

Thoạt tiên, Đới Thế Vĩnh ngỡ sẽ phải chứng kiến vẻ hy vọng chuyển thành thất vọng trên mặt mọi người, nhưng đa số bọn họ đều đang quay mặt vào tường, nên chẳng trông thấy gì cả.

Điện thoại không thông minh ơi, anh nhớ mày!

Khoảng hai tiếng ba mươi phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

“Vậy là anh nhìn thấy cả thảy mấy tên?” Khương Minh hỏi.

“Hai tên. Một tên đã ở đại sảnh lầu chính canh gác các con tin, tên kia là tên gay đã bẻ trật khớp cánh tay tôi.”

“Gay?”

“Hề hề…” Đới Thế Vĩnh cười. “Nói đùa thôi. Hai đàn ông xoắn lấy nhau trong nhà vệ sinh, chẳng phải gay thì là gì?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 12

Khương Minh định bảo: anh hãy nghiêm túc đi! Nhưng không nỡ vì thấy anh ta đang bị thương đeo băng treo cánh tay. Đới Thế Vĩnh kể lại sự việc một cách thoải mái và dí dỏm, không như Tạ Nhất Bân chỉ cố soi mói châm chích người ta, nhưng quá hồn nhiên thì cũng không cần thiết.

Ba Du Sinh hỏi, “Lúc trở lại đại sảnh, anh có chú ý đến khu nhà bếp không?”

Đới Thế Vĩnh ngẫm nghĩ, rồi nói, “Tôi chỉ chú ý nhìn hai người, đều mặc đồng phục, một người cao to mặc đồng phục bảo vệ, ngồi ở chân tường cứ như đang hết hơi, chân loang lổ máu chưa được băng bó. Tôi nói, ‘Các người cướp đã đành, nhưng nên có chút nhân đạo, băng bó cho người ta thì hơn.’ Hậu quả là bị thằng gay ấy đạp cho một phát. Sau đó hắn còng chung tay phải tôi với tay trái của anh bảo vệ, tay phải anh ta thì đang bị còng với tay trái của cô gái ở quầy tiếp tân.

Những gã này nếu làm hậu cần, mua sắm, sử dụng trang thiết bị… sẽ rất biết tận dụng vật tư! Và một người nữa hơi có tuổi, mặc bộ đồ trắng của đầu bếp.

Ông ta nằm co ro, bất động, cứ như đã chết rồi, bị còng hai tay. Có phải đó là bếp trưởng mà các anh nhắc đến không? Bên cạnh còn có hai người mặc đồ trắng nữa, tuổi tác chênh nhau nhưng đều còn trẻ, chắc không thể là bếp trưởng rồi.”

Ba Du Sinh, “Được rồi! Anh kể tiếp đi?”

“Sau đó, chúng làm một việc hết sức quái dị, chúng lục lọi trên bàn, chọn ra một chiếc di động đưa cho anh phục vụ bảo gọi điện báo cảnh sát. Tôi nghĩ bụng: hôm nay gặp phải hai con bệnh trốn khỏi nhà thương điên hay sao? Đời thuở nào ăn cướp rồi lại chủ động báo cảnh sát? Nhưng tôi lập tức nhận ra mình rất ấu trĩ, mình chưa có kinh nghiệm phạm tội.

Hai tên ấy chủ động báo cảnh sát, tất nhiên có mục đích, nhằm tạo ra một vụ khống chế con tin, ra điều kiện mặc cả với nhà nước phải chiều ý chúng, vẫn thường thấy trên phim ảnh là thế… Chờ xe cảnh sát hú còi chạy đến bắc loa kêu gọi đầu hàng, chúng lại làm một việc quái dị nữa: bắt Lương Tiểu Đồng nhắn tin cho cảnh sát. Nội dung tin nhắn, tôi không biết, chỉ nghe thấy chúng nói đến hai chữ ‘thương lượng’.

Nhưng chẳng thấy thương lượng gì hết, cả đám ngồi đợi suông mà không biết phải đợi cái gì. Cuối cùng mới hiểu chúng đợi một cô gái tên là Na Lan.”

Khương Minh hỏi, “Anh hãy nói về nội dung trao đổi giữa Na Lan và bọn chúng, chúng định đưa ra điều kiện như thế nào?”

“Điều này thì tôi không biết. Chúng tôi đều phải quay mặt vào tường, thỉnh thoảng nhìn trộm, nếu chúng phát hiện ra thì ăn đòn luôn. Nhưng tôi cũng nghe thấy Na Lan khuyên chúng đầu hàng, hứa rằng sẽ nói đỡ cho chúng phần nào, cô ấy còn hỏi chúng muốn điều kiện ra sao thì sẽ truyền đạt hộ.

Một tên nói: bọn tôi không cần gì cả, hoặc nói cách khác, thứ mà chúng tôi muốn có e rằng không thể có được, nên đành phải liều! Na Lan không nói gì nữa. Cũng chẳng thể trách cô ta. Thực ra tôi cũng ù ù cạc cạc không hiểu. Về sau, một tên cướp - nói giọng miền Nam, là tên đã đánh tôi bị thương - đưa Na Lan sang phòng nhỏ bên cạnh lầm rầm trao đổi, nói gì thì không ai nghe rõ.” Đới Thế Vĩnh cúi đầu, người giật lên.

“Anh sao thế?” Ba Du Sinh hỏi.

“Không sao, không sao.” Đới Thế Vĩnh hít vào một hơi thật sâu, rồi thở ra. “Được, tôi nói thật, vì nhớ đến các sự việc xảy ra sau đó, tôi lại thấy hơi hoảng loạn.”

Cả ba cảnh sát đều im lặng, không truy hỏi tại sao.

Khi ghi bút lục ba người trước đó, họ đều gặp tình huống tương tự: ba người ấy nói đến đoạn cuối cùng tức là vụ nổ và hỏa hoạn, đều tỏ ra kinh hãi hoang mang. Đúng là những hình ảnh ghê rợn không nên nhắc lại, vụ nổ ấy là một trải nghiệm cận kề cái chết của mọi người có mặt. Đới Thế Vĩnh tuy mồm mép tép nhảy, không ngớt hài hước nhưng khi nhắc lại giây phút bạo lực kinh hoàng ấy thì vẫn không thể bình tĩnh nổi.

“Ông Đới Hướng Dương… muốn tự sát.” Đới Thế Vĩnh hít sâu một hơi, “Nhưng còn định kéo cả bọn chúng tôi chết theo.”

Cả căn phòng lại chìm vào im lặng.

Đới Thế Vĩnh tiếp tục độc thoại, “Chắc các anh sẽ nghĩ rằng tôi rất nghiệt ngã, phải không? Vì tôi kết luận rất vô căn cứ như thế về một người vô tội bị hại, với con người mà tôi gọi là chú… Tại sao ông ấy chết, tại sao tôi nói ông ấy tự sát? Nhưng nếu các anh hỏi kỹ, thì rất có thể cũng sẽ có kết luận như tôi. Trước đó tôi và ông ấy ngồi ở bàn ăn nói chuyện về nghiệp vụ và khả năng sẽ hợp tác… đều là những đề tài thông thường trên thị trường, tôi vẫn quan sát phản ứng của ông ấy. Tôi công nhận rằng mình có những ưu nhược điểm về chuyện quan sát người khác, tôi rất thẳng thắn, vì việc quan sát sẽ… chắc các anh cũng biết rồi, tức là nhìn vẻ mặt và nghe cách nói năng. Dù là vẻ mặt hay cách nói, tôi đều rất sát sao.

Quan sát đối phương là kỹ năng cơ bản của người kinh doanh bán hàng. Nhiều khi một thương vụ thành bại ra sao rất phụ thuộc vào năng lực của người tiếp thị đánh giá đối phương và nắm bắt thời cơ…”

Khương Minh có vẻ sốt ruột, ngắt lời, “Anh Đới Thế Vĩnh…”

“Xin lỗi, tôi hơi lan man. Tôi định nói rằng, mục tiêu của tôi khi đến bữa ăn đó là chốt được sự hợp tác với tập đoàn Hâm Viễn, được Đới Hướng Dương tin cậy và thiện cảm. Cho nên tôi chăm chú quan sát ông ta, sắc mặt, ánh mắt, và thái độ khi nói chuyện, đánh giá mức độ hứng thú của ông ta đối với sự hợp tác. Nhưng kết quả thì… các anh đoán xem, tôi nhận ra điều gi?”

Ba Du Sinh, “Chúng tôi thời gian hạn hẹp, và cũng muốn nhanh chóng kết thúc để anh được nghỉ ngơi nhiều hơn. Anh cứ nói luôn đi.”

“Được.” Dù quan sát Đới Hướng Dương như thế nào, anh ta vẫn tỏ ra hào hứng. “Tôi nhận thấy ông ta mệt mỏi, cũng là điều bình thường thôi, vì một tổng giám đốc tập đoàn lại không mệt mỏi tức là không ham công việc. Tôi còn nhận ra ông ta không hứng thú với các nghiệp vụ mà tôi nêu ra, cũng là bình thường, tôi vẫn tự tin vào khoa nói của mình.

Nhưng điều tôi thấy rõ nhất là thái độ thờ ơ lạnh nhạt với cuộc sống, công việc và sơn hào mỹ tửu trước mặt hình như chỉ là phù vân với ông ta. Ánh mắt ông ta thậm chí bi ai, cứ như đã linh cảm thấy sau nửa giờ nữa tất cả sẽ tan thành mây khói.”

“Được! Tôi tin rằng anh quan sát rất nhạy bén sắc sảo nhưng nếu chỉ dựa vào ánh mắt và vẻ mặt thì rất khó mà…” Ba Du Sinh không biết nên làm gì để đánh loãng trí tưởng tượng dâng trào của Đới Thế Vĩnh.

“Đúng là những điều này không thể coi là chứng cứ gì cả, nhưng còn cách nói năng của ông ta nữa. Tôi đã nói lúc trước rằng ông ta rất hứng thú muốn hợp tác với tôi. Việc ông ta dành thời gian để tiếp kiến một nhà buôn nhỏ như tôi nhân ngày khai trương hội quán Tiêu Tương chứng tỏ điều đó. Nhưng khi nói đến tương lại, thì ông ta đã vài lần nói rằng Yên Vệ Bình sẽ tổ chức tập đoàn Hâm Viễn thế này, thế kia… Vệ Bình là cháu rể ông ta, các anh đã biết rồi, hoặc ông ta nói: e rằng tôi không đợi đến cái ngày ấy nhưng Vệ Bình và Hâm Viễn sẽ thế này thế khác. Nghe có vẻ như Yên Vệ Bình sẽ là người kế thừa Hâm Viễn, điều này thì ai cũng đã biết cả, nhưng hãy nghĩ kỹ mà xem, tại sao ông ta nói không thể đợi đến cái ngày ấy? Tại sao lại tách mình ra khỏi Hâm Viễn? Bấy giờ tôi không đào sâu suy nghĩ nhưng kết hợp với hành động về sau của ông ta, thì rõ ràng là ngụ ý rằng mình chẳng sống được bao lâu nữa, khi ngồi cùng bàn ăn, ông ta đã có ý tìm đến cái chết. Chẳng ai biết ban đầu ông ta dự định thế nào nhưng vụ cướp bất ngờ xảy ra hôm nay đã cho ông ta một cơ hội rất tốt.”

Cả ba cảnh sát không thể hiện thái độ gì. Khương Minh hỏi, “Anh kể rõ xem, Đới Hướng Dương đã làm những việc gì?”

Đới Thế Vĩnh uống một ngụm nước, dường như chìm trong suy tưởng, sau đó nói, “Nên bắt đầu từ đâu nhỉ… À, một tên cướp đang thương lượng với Na Lan trong gian phòng nhỏ.”

Anh ta nhìn lên trần nhà, cố nhớ lại. “Không rõ họ thương lượng bao lâu. Tôi ngồi quay mặt vào tường, vì tay bị trật khớp nên đau lắm, chỉ muốn chết. Bỗng phía sau như có loạn, khiến tôi tỉnh hẳn. Rồi loảng xoảng một hồi, kính cửa sổ vỡ tan, thật kỳ quái, tôi ngoảnh lại nhìn, thấy Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình đã nhảy bổ vào tên cướp, vồ mấy lần đều trượt vì hắn né tránh, nhưng rồi họ cũng đè được hắn xuống đất. Lúc đó cả gian nhà trở nên hỗn loạn, ai cũng la oai oái. Tôi nghe thấy Đới Hướng Dương hét lên: đồ khốn nhà mày có súng chứ gì, sao không bắn đi? Mày có giỏi thì bắn cụ mày xem? Chính câu đó khiến tôi nghĩ ông ta có ý tự sát.”

Ba Du Sinh và Khương Minh nhìn nhau. Lần đầu tiên hai anh nghe nói điều này.

“Trước khi anh kể tiếp, tôi muốn hỏi nhanh một câu: giả sử phán đoán Đới Hướng Dương muốn tự sát là chính xác, thì trước đó, khi đang ngồi ăn, trong lúc nói năng ông ta có hé lộ câu nào thể hiện ý định này không?” Ba Du Sinh nhớ rằng có lần Na Lan đến Sở Công an tư vấn, cô nói bất cứ ai định tự sát đều có một vài dấu hiệu báo trước, ngầm ngụ ý thậm chí nói thẳng nguyên nhân khiến cho mình phẫn uất rồi nghĩ quẩn, còn người nghe có nhận ra dấu hiệu hay không lại là chuyện khác. Đới Thế Vĩnh hồi tưởng sự việc, cảm nhận rằng Đới Hướng Dương muốn tự sát, vậy cảnh sát nên gắng tìm hiểu nguyên do khiến ông ta chán sống.

Đới Thế Vĩnh, tay mân mê cái băng đeo cánh tay trật khớp, nghĩ mộ

t hồi rồi lắc đầu, “Con người ông ta… có lẽ là gừng càng già càng cay thật, ông ta không tùy tiện bổ bã thiếu chọn lọc nghĩ sao nói vậy như tôi. Tôi và ông ta nói chuyện gần một tiếng đồng hồ, tôi phun ra cả mấy đời tổ tiên nhà mình, mà ông ta thì rất ít nói về bản thân, không kể lể lịch sử phất lên, không nói về các thành viên gia đình và càng không tâm sự các vấn đề tâm lý của mình.”

Ba Du Sinh, “À, nhắc đến vấn đề tâm lý… Tôi muốn anh nhớ lại một vấn đề có thể là rất khó, mong anh chuẩn bị. Anh hãy kể về cảnh vụ nổ đó?” Mấy người đã ghi bút lục khi trước, lúc kể về vụ nổ, ít nhiều đều rối trí, không ai chủ động miêu tả cảnh tượng chết người ấy. Ba Du Sinh rất thông cảm, đương nhiên không thể trách gì họ. Thụ động chứng kiến một vụ nổ là cơn ác mộng không bao giờ quên. Đó là một cảnh tượng đáng sợ ám ảnh họ suốt đời. Hai tiếng đồng hồ sau vụ nổ kinh hồn, những người may mắn sống sót đều muốn xóa sạch dấu ấn về nó, chứ mấy ai muốn miêu tả lại cảnh tượng đổ máu ấy? Người may ra đủ khả năng hỗ trợ cảnh sát, chỉ có thể là nhà doanh nhân trẻ nói như rồng leo này thôi.

Đới Thế Vĩnh cúi đầu im lặng. Hồi lâu sau mới ngẩng lên, “Nhất thiết… phải kể về nó à?”

“Việc này rất quan trọng, giúp chúng tôi tìm hiểu các tình tiết vụ án. Hay là chúng tôi cứ hỏi anh một số câu, anh gắng trả lời vậy, được không?” Ba Du Sinh hỏi.

Đới Thế Vĩnh gật đầu, “Như thế… thì dễ hơn.”

“Lúc nổ và sau khi nổ, anh có bao quát được tình hình thương vong không?” Ba Du Sinh hỏi.

Đới Thế Vĩnh lại hít sâu một hơi, đầu lúc lắc rất nhanh, rồi thở mạnh. “Máu thịt bắn tung tóe.” Sắc mặt tái nhợt từ lúc nào không biết.

Ai nấy nín lặng, chừng mười giây sau, Khương Minh hỏi, “Anh có thể nói cụ thể hơn không? Chết và bị thương… bao nhiêu người, là những ai?”

Sắc mặt Đới Thế Vĩnh càng bợt bạt, nhưng anh ta vẫn gắng trả lời, “Tôi đứng ở cửa ra vào, họ vật lộn đánh nhau đến góc tường đằng xa, cho nên tôi chỉ nhìn thấy lửa chớp sáng lóa rồi khói đen bốc lên, không biết là một người hay nửa thân người bay lên… các khúc chân tay và máu bắn ra tứ tung. Sau đó cả ba người đang đánh nhau đều bất động. Hình như…”

Anh ta ngửa đầu, như thể trên trán hiện ra những thước phim vô hình ghi lại cảnh tượng máu me kinh khủng cách đây hai tiếng đồng hồ, “Vì ngay sau đó là hỏa hoạn cho nên tôi không chú ý được nữa, chỉ nhớ rằng một trong ba cái xác tương đối nguyên vẹn, tôi đoán là Yến Vệ Bình, còn hai cái xác kia thì đều nát tan thậm chí không còn ra hình người nữa… Còn mọi người thì… vừa nghe có người quấn thuốc nổ trong mình, ai nấy đã lùi ra, cách họ càng xa càng tốt. Sau tiếng nổ có người kêu thét lên, tôi không nhìn thấy ai ngã thêm nữa, đoán rằng một số người chỉ bị các mảnh vụn bắn vào mà bị thương. Số tôi tương đối may mắn…”

Anh ta đập vào dải băng đang treo cánh tay, “Đương nhiên, cũng không thể nói tôi bị thế này là may mắn, nhưng ít ra không sứt sẹo, cũng không bị bỏng vì vụ nổ. Sau đó, đến bệnh viện, tôi nhìn thấy rất nhiều người bị thương.”

Ba Du Sinh hỏi một vấn đề mà các sĩ quan cảnh sát đều rất quan tâm, “Anh có chú ý đến tên cướp thương lượng với Na Lan ở gian phòng nhỏ bên cạnh, sau vụ nổ và hỏa hoạn, hắn ta đi đâu không?”

“À…” Đới Thế Vĩnh ngẩn người, dường như chợt hiểu ra. “Hắn ta, đáng lẽ tôi nên chú ý mới phải! Bây giờ thì… đúng là không thể nhớ ra. Sau tiếng nổ mọi người đều hoảng loạn, có người nhảy qua cửa sổ, có người… có hai ba người bị còng liền với nhau, ví dụ như tôi…”

Anh ta bỗng run bần bật, ngay giọng nói cũng run run, “Tôi… tôi và anh bảo vệ cao to bị còng với nhau, khi lửa bùng lên tạt thẳng vào mặt tôi, khăn trải bàn trên bàn ăn lập tức bốc cháy, tôi gọi anh ta: mau đứng lên hai ta cùng chạy thôi… Anh ta nói: tôi chỉ còn một chân thì chạy sao được? Lúc này tôi mới nhớ ra một tay mình bất lực, tay kia bị còng, kéo anh ta thế nào đây? Tôi choáng váng, nghĩ bụng: thế là hết, đành đi đời nhà ma mất rồi! Lửa cháy mỗi lúc một to, bàn ghế, tường, đều cháy, tôi nhìn thấy cô gái tiếp tân tên là Chân đang cố kéo anh bảo vệ đứng lên, tôi bèn gọi: này đồ thộn, chúng ta ít ra cũng cứ nên thử xem sao! Nói thì dễ, và có lẽ anh ta cũng muốn cố gắng, nhưng cổ tay tôi dường như sắp đứt, tôi và Chân vẫn không thể kéo nổi anh ta đứng lên. Đúng lúc đó bỗng có một người chạy đến xốc anh bảo vệ đứng dậy và cùng hai chúng tôi dìu đỡ anh ta. Lúc này khói đen dày đặc, nhưng tôi vẫn nhận ra người ấy là Na Lan.”

Ba Du Sinh khẽ thở dài, thầm nghĩ: Na Lan, em luôn rơi vào cảnh hiểm nguy, là yếu tố ngẫu nhiên lặp lại hay là quy luật tất nhiên dành cho em?

Đới Thế Vĩnh tiếp tục, “Cô ấy đỡ anh bảo vệ đứng dậy rồi cùng chúng tôi đi xuống tầng dưới. Lúc này lại có thêm một anh cao cao gầy gầy, lúc nãy anh ta bị còng chung với Na Lan, bây giờ thì hai tay bị còng, anh ta kêu lên: Na Lan, cô không bị còng, cứ ra cửa sổ nhảy xuống, tôi đỡ anh ta cho! Na Lan hơi do dự, rồi cũng bằng lòng để anh ta đỡ anh bảo vệ, sau đó nhảy qua cửa sổ. Bốn chúng tôi vừa đi được mấy bước, chưa ra đến cửa, thì tiếng nổ thứ hai vang lên.”

Đới Thế Vĩnh đưa ống tay áo quệt mồ hôi trán, rồi tiếp tục, “Vụ nổ ấy tuy cách hơi xa nhưng cũng đủ để hất chúng tôi vốn đang đi loạng choạng ngã nhào xuống đất. May sao các nhân viên cấp cứu đã kịp thời chạy đến, nếu không, có lẽ da dẻ tôi còn đen thui hơn nữa.”

Khương Minh đưa tờ sơ đồ mặt bằng đại sảng tầng hai ra, “Phiền anh, đánh dấu vị trí xảy ra hai vụ nổ.”

Đới Thế Vĩnh nhanh chóng đánh dấu vị trí vụ nổ thứ nhất. Nhưng sau một lúc lâu nghĩ ngợi, anh ta mới miễn cưỡng khoanh một vòng tròn nhỏ ở góc Đông Bắc đại sảnh, rồi ngẩng lên, “Lúc đó trong nhà mù mịt khói, cho nên khẳng định là cái gì nổ, nổ ở chỗ nào thì tôi chịu. Tôi chỉ hơi có ấn tượng và áng chừng phương hướng xảy ra vụ nổ nên đánh dấu ở đây, các anh đừng cho nó là tuyệt đối đúng.”

Lúc này di động của Ba Du Sinh bỗng rung mạnh, nhìn tên người gọi đến, anh lập tức bắt máy

“Cát Sơn, anh nói đi!”

Hai tiếng bốn mươi phút sau khi xảy ra vụ án, tại hiện trường khám nghiệm lầu chính Tiêu Tương.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 13

Xe thang di động chạy vào Dư Trinh Lý bị vướng víu rất khó đi vì nó quá đồ sộ. Cát Sơn sốt ruột theo dõi, vừa thấy bắc xong giàn giáo liền trèo lên rồi chui qua một hốc tường bị thủng, bước vào tầng hai. Kỹ sư trưởng Đường Vân Lãng gần đây đang tập giảm béo theo một cách quái dị nào đó, có hiệu quả nhưng rất thấp, người “tóp” đi rất chậm, ông vẫn còn nặng gần một tạ. Thấy “anh già” Cát Sơn trèo lên ngon lành, ông cũng đu lên các bậc thang hợp kim nhôm, nhưng vừa lên được năm sáu bậc đã thấy chóng mặt hoa mắt, cái thang cũng ken két sẵn sàng giở chứng “phản đối”, ông đành tụt xuống, tức điên, giá mà ông có thể ra ngoài kia lôi cái xe thang vào đây thì tốt.

Hốc tường mà Cát Sơn chui vào có lẽ vốn là cửa sổ, quanh nó và dưới sàn chất đầy vụn kính. Các “nhiếp ảnh gia” của ban kỹ thuật hình sự và cảnh sát chữa cháy cũng bám theo. Họ đều không phải lính mới chưa từng trải, nhưng nhìn cảnh tượng tan hoang và máu thịt bê bết khắp nơi sau vụ cháy nổ, họ cũng cảm thấy ghê rợn kinh hoàng. Cát Sơn kìm nén cảm xúc, không đợi mọi người chiếu đèn công suất lớn, tự anh bật đèn pin bắt đầu xem xét các dấu vết nổi bật nhất, xem xét vấn đề nạn nhân.

Máu thịt của nạn nhân không tập trung ở thân thể mà bắn tung tóe khắp các hướng. Cát Sơn soi đèn pin, nhanh chóng nhận ra một nửa cánh tay bị nổ đứt văng ra sau đó bị lửa thiêu đen xỉn. Anh ngoảnh sang bên, thở gấp mấy lần trong mặt nạ phòng độc, nhưng vẫn không kìm được một cơn ho rũ rượi. Hai cảnh sát chụp ảnh hiện trường vội chạy đến, nhìn thấy cái cẳng tay ghê rợn ấy, cả hai làu bàu nguyền rủa, vì họ chỉ đeo khẩu trang y tế mỏng nên có thể nghe thấy khá rõ.

Sau nhiều lần lia đèn pin, Cát Sơn đã xác định rõ trong đại sảnh tầng hai có một cái xác tương đối hoàn chỉnh và hai xác bị phá hủy nghiêm trọng. Điều tra viên hỏa hoạn Hình Thụy An cũng đã lên đến nơi, lát sau anh xác định ra hai vị trí khởi nguồn hỏa hoạn.

Rốt cuộc xe thang cũng đã vào đến hiện trường, Đường Vân Lãng được nâng lên từ từ trông như một ca sĩ nhạc Rock, chỉ thiếu ánh đèn pha rọi vào cho thêm phần hoành tráng. Lúc này Cát Sơn và Hình Thụy An đã nghiên cứu điểm phát hỏa thứ hai được một lúc, thấy Đường Vân Lãng bước vào, họ cùng cất tiếng chào hỏi, Cát Sơn gỡ mặt nạ ra, “Anh đến thực đúng lúc, chúng tôi đang nghĩ xem đám cháy thứ hai bùng lên như thế nào.

Lúc còn ở hiện trường, vì nghe thấy hai lần phát nổ nên chúng tôi đoán rằng chính nguồn lửa thứ hai đã tạo ra tiếng nổ thứ hai. Nhưng tiếng nổ thứ hai phát sinh như thế nào? Sàn nhà đen thui nên chúng tôi không đủ dữ liệu phán đoán.”

Đường Vân Lãng đeo mặt nạ phòng độc, chật vật ngồi xổm xuống, thở một cách nặng nhọc. Ông bật đèn pin, tay đeo găng rờ lên mặt sàn đen xỉn. Rồi ông rờ một khoảng rộng hơn, và nhón một số vụn cứng đặt sang bên cạnh.
Lại rờ rẫm thêm một lúc nữa, thu thập được nhiều mảnh vụn hơn, cuối cùng Đường Vân Lãng đứng dậy tháo mặt nạ ra, nói với Cát Sơn, “Hai điểm phát nổ, hai bọc thuốc nổ, chứng tỏ do hai hung thủ gây ra.”

Hai tiếng bốn mươi lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

Ba Du Sinh cảm ơn Cát Sơn rồi cúp máy, đi về gian phòng ghi bút lục. Khương Minh đã đưa cho Đới Thế Vĩnh xem toàn bộ ảnh của những người may mắn sống sót. Anh ta nói không có khuôn mặt nào đáng ngờ cả.

Đới Thế Vĩnh đi rồi, Ba Du Sinh nói, “Chúng ta sẽ hội ý với các nhóm ghi bút lục khác, sơ bộ tổng kết xem có những sai lệch nào. Khám nghiệm hiện trường đã nắm được một số manh mối quan trọng, tình hình xem ra rất phức tạp.”

Cả ba người lại đến ban chỉ huy lâm thời, sau mấy phút chờ đợi, ba nhóm ghi bút lục khác cũng dần dần tập hợp về phòng họp. Ba Du Sinh xem nhanh ba tờ bút lục, các đối tượng được hỏi gồm: Ngu Uyển Chân, Hồ Kiến Vĩ và Hoa Thanh. Hỏi tại chỗ, các chi tiết tỉ mỉ chỉ có hạn, đâu phải cảnh sát đều biết tốc ký, muốn biết kỹ, cần nghe lại băng ghi âm. Bút lục của Kiến Vĩ và Hoa Thanh rất ít, chỉ trong phạm vi vài câu mà Ba Du Sinh đã nêu ra. Hai người này đầu óc tỉnh táo nhưng đều bỏng độ 2, đang nhức nhối nằm trên giường để được điều trị giai đoạn đầu, nên không tiện hỏi nhiều.

Cũng giống như các bút lục đã ghi, ba thanh niên này nhớ lại về sự kiện căn bản giống nhau. Từ những phần “căn bản giống nhau” này, cảnh sát đã có được nhận định sơ bộ về số lượng nghi phạm, quá trình gây tội ác, quá trình phát sinh vụ nổ… và cũng có thể loại trừ khả năng nghi phạm nằm trong số những người may mắn sống sót. Các cảnh sát hình sự cũng chú ý đến một số điểm khác biệt trong các bút lục.

Ví dụ, mỗi người nói một khác về vị trí xảy ra hai vụ nổ, vị trí của các con tin khi đó, cả Kiến Vĩ lẫn Hoa Thanh đều “nhầm” như nhau ở một điểm: họ cùng không nghe thấy các động tĩnh ở cầu thang khi Lý Vạn Tường giao đấu với tên cướp.

Ba Du Sinh biết, trên thực tế, những khác biệt này là điều khó tránh khỏi.

Thần kinh căng thẳng, sợ hãi, chứng kiến cháy nổ kinh hoàng suốt mười mấy phút xảy vụ việc, nếu dăm bảy người sống sót vẫn có thể miêu tả toàn bộ sự kiện y hệt nhau thì mới là lạ! Xưa nay vẫn thế, những người khác nhau sẽ nhớ lại và miêu tả không thật giống nhau về một sự kiện là chuyện đương nhiên, lần này cũng không phải là ngoại lệ.

Khương Minh cầm một tờ giấy khổ rộng vẽ sơ đồ mặt bằng tầng hai của lầu chính Tiêu Tương treo lên tấm bảng trắng ở đầu phòng họp. Anh bắt đầu tổng kết các bút lục và điểm lại diễn biến vụ án.

“Khoảng 11 giờ rưỡi sáng nay, tại quầy tiếp tân, Lương Tiểu Đồng một trong hai người hùn vốn lập hội quán Tiêu Tương và Ngu Uyển Chân nhân viên tiếp tân đã gặp phải hai tên cướp. Tên A cầm súng ngắn có lẽ là súng Glock, nói giọng Xuyên-Tương, chân tập tễnh, tên B cầm súng tường bán tự động, nói giọng miền Nam, vóc người thấp nhỏ. Cả hai khống chế Lương Tiểu Đồng và Ngu Uyển Chân. Khi Cát Tam Lạc bảo vệ chạy từ phòng thường trực ra, tên A đã bắn vào đầu gối Cát Tam Lạc. Sau đó đốt một bánh pháo ném ra ngoài cổng lầu chính của hội quán, đóng cửa lại, rồi bắt đầu vụ cướp.”

Khương Minh tạm dừng lại để thở. Một cảnh sát nói, “Đốt pháo nhằm lấp liếm tiếng súng vừa nãy, mặt khác là tuyên bố vụ cướp bắt đầu. Xem ra bọn cướp cũng muốn tranh thủ sự may mắn cát tường.”

Không thấy ai bật cười.

“Khó mà nói chắc ý đồ của chúng là gì. Hai tên cướp ép Lương Tiểu Đồng và Ngu Uyển Chân đỡ Cát Tam Lạc lên gác, tập hợp với một tên cướp nữa rồi cùng xông vào đại sảnh tầng hai. Ở đó đang có mặt Đới Hướng Dương, Yên Vệ Bình và hai phục vụ Hồ Kiến Vĩ, Hoa Thanh. Lẽ ra còn có Đới Thế Vĩnh nhưng anh ta đang ở gian vệ sinh bên ngoài.”

Khương Minh cầm bút chì chỉ vào gian vệ sinh ở tận cùng hành lang trên sơ đồ. “Nhưng vì di động cất trong cặp da đặt ở đại sảnh nên Đới Thế Vĩnh không thể báo cảnh sát.”

“Cả ba tên cướp còng tay các con tin, còng chung hai hoặc ba người với nhau để tiết kiệm còng và có thể hạn chế khả năng các con tin kháng cự. Sau đó tên cướp A xuống tầng trệt, vào bếp khống chế ba người nấu bếp giải lên gác. Theo lời khai của Lý Vạn Tường và phụ bếp Tạ Nhất Bân, lúc lên cầu thang, ông Tường đã tìm cơ hội tấn công nhưng không kết quả, và bị chúng đánh ngất xỉu. Việc ông Tường kháng cự, không phải mọi người đều nhận ra. Lương Tiểu Đồng không kể với cảnh sát ghi bút lục, về sau chúng ta hỏi lại, anh ta vẫn không nhớ ra. Còn Hồ Kiến Vĩ thì hầu như không có ấn tượng gì. Điểm này hơi kỳ lạ nhưng cũng có thể giải thích được. Các con tin bị bắt ngồi quay mặt vào tường, đối mặt với súng đạn, tất nhiên họ kinh hãi và rất có khả năng họ không chú ý đến động tĩnh của Lý Vạn Tường ở cầu thang.”

“Có thể suy đoán rằng loạt hành động nói trên của bọn cướp xảy ra trong vòng hai phút. Lúc này có tiếng động trên tầng ba, tên cướp B đi lên kiểm tra, sau đó lại xuống. Trên đó có hai thực khách là phóng viên Quách Tử Phóng ở báo Tin chiều Tân Giang và Na Lan mà Sở Công an chúng ta ai cũng biết, đoán rằng hai người này định trèo cửa sổ tầng ba chạy trốn. Chúng ta sẽ còn phải hỏi lại họ. Nhưng lúc đó họ lập tức bị tên cướp B áp giải xuống tầng hai. Lúc này tên A đang ép Đới Hướng Dương nói ra mật mã của két sắt, rồi đi lục soát để lấy chiến lợi phẩm mà chúng muốn giành được trong vụ cướp này.”

“Tên B giải Na Lan và Quách Tử Phóng vào, sau đó hắn nói là đi giúp tên A ‘đào kho báu’, nhưng lại phát hiện ra Đới Thế Vĩnh trong nhà vệ sinh, hai bên ẩu đả, Đới Thế Vĩnh bị thương rồi vẫn trở thành con tin. Tiếp đó, tên A và tên B ép Hồ Kiến Vĩ báo cảnh sát. Nghe chúng nói chuyện, thấy rằng kẻ cầm đầu và giàu kinh nghiệm nhất chính là tên A, đã rời lầu chính Tiêu Tương. Hắn chuồn ra như thế nào, có đem theo két sắt đựng báu vật không, hắn đi đâu… tất nhiên cảnh sát chúng ta chưa biết.”

Một tổ trưởng cất tiếng, “Băng ghi hình của camera hội quán cho biết điều gì?”

Khương Minh nói, “Hội quán Tiêu Tương lắp cả thảy 16 camera giám sát, chủ yếu đặt ở tường ngoài, hai camera lắp ở tiền sảnh. Nhưng tất cả coi như vô dụng!”

Mọi người lặng ngắt. Tổ trưởng nọ hiểu ra, vỗ trán nói, “Vì ổ cứng ghi lại các hình ảnh đặt ở lầu chính, mà lầu chính bị hỏa hoạn.”

Ba Du Sinh nói, “Đúng thế. Máy chủ và ổ cứng của hệ thống camera đều đặt ở văn phòng lầu chính, chúng ta chưa được báo cáo về tình trạng hư hỏng của các thiết bị ấy, ở đó không chịu ảnh hưởng nhiều của vụ cháy nhưng cũng bị lửa tấn công, e rằng sẽ để lại hậu quả.”

Khương Minh tiếp tục, “Ở đại sảnh của Tiêu Tương, tên cướp B và C chờ đến khi phía cảnh sát bố trí xong lực lượng, thì bắt một con tin nhắn tin vào đường dây nóng của chúng ta, nói rằng có thể thương lượng nhưng yêu cầu Na Lan đứng ra đối thoại. Cũng tức là chúng không biết Na Lan đang ở trong đám con tin. Chính Na Lan và các con tin khác cũng không biết bọn cướp đang muốn tìm cô. Phía chúng ta gắng tìm Na Lan nhưng không liên lạc được… những người đã ghi bút lục đều nói trong khoảng thời gian này không xảy ra chuyện gì khác. Cho đến khi anh Ba Du Sinh nhận ra rất có thể Na Lan đang ở trong đám con tin, định báo cho bọn cướp biết, thì Na Lan cũng nghe thấy bọn cướp nhắc đến tên mình, cô bèn đứng ra xưng danh với chúng.”

“Không rõ tại sao việc thương lượng chỉ xảy ra giữa tên cướp C với Na Lan. Theo thông lệ, Na Lan muốn bọn cướp để cho cô nói chuyện với cảnh sát, nhưng chúng lại không chấp nhận, chúng chỉ muốn thương lượng với cô. Cho nên tên cướp C và Na Lan sang căn phòng nhỏ để trao đổi. Các con tin đều không biết họ nói những gì.”

“Ở thời điểm này, hơi có sai lệch. Phần lớn các bút lục đều nhớ rằng cửa gian phòng nhỏ ấy đóng lại, chỉ có Hồ Kiến Vĩ nói ‘hình như vẫn mở cửa’, Na Lan và tên cướp ấy lầm rầm nói chuyện. Cho nên không ai biết bọn cướp đưa ra những điều kiện gì.”

“Họ đang nói chuyện thì bên đại sảnh, Đới Hướng Dương bỗng tấn công tên cướp B ở lại canh giữ các con tin, ông ta quăng cái ghế, tên cướp tránh được, cái ghế bay đi, đập vỡ kính cửa sổ rồi rơi xuống sân. Sau đó Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình đang bị còng chung cùng lao vào tên cướp C.”

Khương Minh chỉ lên sơ đồ. “Tôi vừa nói, các bút lục của con tin có chỗ không khớp, không khớp về vị trí ban đầu của Đới Hướng Dương. Nay chúng ta giả định Đới Hướng Dương đứng ở góc Tây Nam hoặc phía Nam đại sảnh này ném cái ghế bay qua cửa sổ phía Đông Nam rồi rơi xuống.

Sau đó cả hai vật lộn với tên cướp C, dồn nhau đến góc Tây Bắc căn phòng, Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình thắng thế, đè tên cướp xuống sàn. Lúc đó tên cướp đã cảnh báo rằng trong người hắn buộc thuốc nổ.”

“Nhưng Đới Hướng Dương vẫn không buông tha. Hầu hết bút lục của các con tin đều thừa nhận trạng thái của ông ta rất khác thường, thậm chí có người ngờ rằng ông ta cố ý tự sát. Trước mắt, chúng ta chưa thể xác minh điểm này. Tuy nhiên, vụ nổ đã xảy ra rất nhanh. Hậu quả thương vong đang thống kê xem xét, nhưng cơ bản có thể xác định thuốc nổ trong người tên cướp C đã khiến hắn tan xác, ở hiện trường còn các mảnh thi thể của hắn, Đới Hướng Dương cũng tử vong tương tự, xác ông ta bung lở nghiêm trọng, xác Yên Vệ Bình thì còn tương đối hoàn chỉnh nhưng vẫn mất đầu và một cánh tay.”

“Sau vụ nổ, cả đại sảnh hỗn loạn nhưng cụ thể hỗn loạn ra sao thì bút lục của các con tin không thống nhất, cũng là lẽ thường tình. Có người nhớ rằng Lương Tiểu Đồng nhảy khỏi cửa sổ đầu tiên, Na Lan giúp hai con tin đứng dậy, rồi cô ta cũng nhảy khỏi cửa sổ rơi xuống. Lương Tiểu Đồng và Na Lan bị thương ở những mức độ khác nhau. Lương Tiểu Đồng bị sái chân, Na Lan bị chấn thương sọ não có lẽ vì đập đầu vào gạch tường vây vườn hoa hoặc bị gạch đá của vụ nổ thứ hai văng từ trên cao xuống rơi trúng đầu.

Khám nghiệm hiện trường nhận ra rằng vụ nổ thứ hai xảy ra ngay sau vụ nổ thứ nhất. Vị trí của vụ nổ thứ nhất là góc Đông Bắc đại sảnh, nhưng vụ nổ thứ hai ở đâu thì chưa có con tin nào nhớ rõ được. Cũng không có gì lạ, vì sau vụ nổ thứ nhất thì căn phòng bốc cháy, khói lửa mù mịt, các con tin tìm cách chạy tháo thân, đương nhiên không thể nhớ vụ nổ thứ hai xảy ra ở hướng nào. Có người bảo ở hướng Đông Bắc đại sảnh, có người bảo ở hướng Nam, khác nhau rất xa.”

“Các chuyên gia điều tra hiện trường đang tìm cách xác định điều này…”

“Nghe nói Đường chưởng môn cũng ra trận, phải không?” Một cảnh sát hỏi chen vào.

Khương Minh nói, “Đường chưởng môn? Ở Sở các anh đều gọi ông ấy như thế à?”

Anh ngừng lại, uống ngụm nước.“Còn các anh thì gọi ông ấy là gì?”

“Gọi là Lãng Lãng.” Khương Minh mỉm cười. “Có thấy ông ấy béo phục phịch, trông rất đáng mến không?”

“Đội trưởng nói các anh nên trở lại chủ đề đi!” Một cảnh sát thiện chí nhắc nhở.

Khương Minh nói, “Theo chuyên gia Đường Vân Lãng, vụ nổ thứ hai xảy ra ở trung tâm căn phòng, hơi chếch phía Tây, nguồn nổ cũng là thuốc nổ như vụ nổ thứ nhất. Đường chưởng môn phát hiện ở mặt sàn có các vụn giấy gói thuốc nổ, cả vụn đã cháy và chưa cháy.

Căn cứ vào hướng văng ra của vụ nổ, xác định vị trí nổ là chính giữa căn phòng. Chính giữa hơi chếch hướng Tây, vốn là chỗ kê bàn ăn, phía dưới bàn ăn có ống dẫn gas, vụ nổ đã phá hủy ống dẫn gas, khí gas sẽ rò ra, nhưng may sao trước đó chúng ta đã liên lạc với công ty cung cấp gas đóng van tổng bơm vào khu Dư Trinh Lý, sau vụ nổ, cảnh sát đặc nhiệm đã đóng ngay van dẫn gas vào lầu chính Tiêu Tương, tránh được hậu quả lớn hơn…”

“Nhưng vấn đề là…” Lại có một cảnh sát sốt ruột ngắt lời Khương Minh.

Khương Minh xua tay, “Tôi sẽ nói luôn, vấn đề là ai đã mang theo gói thuốc nổ thứ hai.”

Cả phòng họp lắng xuống, mọi người đều đang băn khoăn vấn đề này.

“Ở hiện trường không thấy có thêm thi thể bị phá hủy, chứng tỏ không ai quấn thuốc nổ trong người, vậy thuốc nổ được đưa vào gian nhà ấy như thế nào?” Không phải Khương Minh nêu câu hỏi, anh chỉ ngừng lại chốc lát, và biết chắc sẽ có đồng nghiệp muốn hỏi điều này.

“Chắc vẫn là tên cướp B.” Có người suy đoán.

Khương Minh nói tiếp, “Nhưng theo đa số các con tin được hỏi, họ nhớ lại rằng tên B đã bắt đầu thương lượng với Na Lan ở gian nhỏ bên cạnh từ trước vụ nổ, đến khi Đới Hướng Dương nổi khùng thì hắn mới chạy ra, Đới Hướng Dương và Yên Vệ Bình nhanh chóng áp đảo tên C, tên B không có phản ứng gì rõ rệt. Lúc đó, và tình huống đó, hắn có la hét thế nào thì cũng không ai để ý, tiếng nổ phát ra ngay sau đó. Cho nên, vị trí bấy giờ của tên B vẫn là ở cửa gian phòng nhỏ, cũng tức là góc Tây Nam của cả đại sảnh.”

Một cảnh sát phân tích, “Nhưng cũng không loại trừ khả năng trước đó hắn đã cài sẵn thuốc nổ trong người, khi nhìn thấy hỏa hoạn, hắn biết lợi thế không còn nữa, hắn không định hy sinh, sợ lửa sẽ bén vào người và phát nổ nên vội tháo thuốc nổ ra rồi ném đi, ném vào giữa gian phòng, hơi chếch về phía Tây.”

Khương Minh nói, “Dĩ nhiên có khả năng này. Cho nên, vấn đề tiếp theo là tên B đã đi đâu?”

Cả phòng họp lại im lặng, mọi người đều nghĩ ngợi, Khương Minh tiếp tục bổ sung thông tin, “Nếu tên B cũng bị thương như mọi người đang ở trong nhà, và muốn thoát thân, thì hắn phải là một trong số những người may mắn sống sót và được đưa vào bệnh viện, ngay từ đầu hắn đã bịt mặt, cho nên hắn sẽ là khuôn mặt xa lạ với mọi người. Nhưng các nhân chứng đã xem toàn bộ ảnh mà chúng ta đưa ra, đều không thấy có khuôn mặt nào xa lạ. Cũng tức là tên cướp B không nằm trong số những người may mắn sống sót.”

Lúc này, trên tường trắng chiếu ảnh của những người sống sót: Lý Vạn Tường, Tạ Nhất Bân, Tôn Nguyên Hổ, Lương Tiểu Đồng, Hoa Thanh, Hồ Kiến Vĩ, Ngu Uyển Chân, Na Lan, Quách Tử Phóng, Cát Tam Lạc.

“Rất có thể hắn đã tẩu thoát. Lúc đó tình hình hỗn loạn, khói lửa, tiếng nổ… Tôi đứng ở hiện trường, chỉ tập trung chú ý vào việc dập lửa, cứu các con tin và bảo đảm an toàn hiện trường, nếu có ai đó chạy ra khỏi lầu, náu vào một góc nào đó ở sân hoặc giếng trời để tìm cách trèo tường trốn thoát, chưa chắc tôi đã nhận biết được.” Một đội phó cảnh sát đặc nhiệm nói.

Khương Minh gật đầu. “Về lý thuyết thì đúng là như vậy. Chúng ta đã sơ bộ hỏi các nhân viên cấp cứu hiện trường, nhưng chẳng ai nhớ rằng có nhìn thấy người chạy ra khỏi lầu. Một số đồng chí đã đi xem xét các tòa lầu Ba Khắc ở gần Tiêu Tương, kể cả hai lầu Đông và Tây, hy vọng tìm thấy manh mối gì đó. Tôi nói tiếp về một phát hiện rất lạ lùng của anh Cát Sơn và anh Hình Thụy An. Họ có đủ chứng cứ chứng tỏ đám cháy ở nhà bếp là do bị phóng hỏa. Sau đó lại có một nhân viên khám nghiệm hiện trường phát hiện ra một mảnh đồng bị cháy biến dạng, tạm thời coi đó là nguồn châm lửa.”

“Bật lửa bằng đồng à?” Có người hỏi. “Là thứ hiếm thấy.”

Khương Minh nói, “Đúng thế, nhưng không quá hiếm thấy. Vấn đề là ai đã phóng hỏa? Tại sao phải đốt lầu chính Tiêu Tương?”
“Tên cướp B!” Có người nói luôn. “Điều kiện hắn đưa ra không được chấp nhận, nên hắn trả thù cho bõ tức!”
“Có thể.”

Khương Minh tắt đèn chiếu. “Cho nên, cuối cùng tổng kết rằng, ngoại trừ còn rất nhiều chi tiết phụ chưa được làm rõ, vụ án này hiện tồn tại hai điểm chính chưa sáng tỏ, chưa minh…”

“Không đâu!” Lại có người cắt ngang. “Anh là Khương Minh, anh minh bạch…”

“Này! Rồi tôi sẽ tính sổ với cậu.” Tay Khương Minh làm động tác bóp cò vào anh chàng đồng nghiệp hài hước đó. “Một là, chưa rõ về động cơ. Trong két sắt cất giữ báu vật gì? Điều quan trọng hơn nữa là tại sao chúng phải cuống lên thúc giục chúng ta tìm Na Lan để thương lượng? Điều kiện là gì? Hai là, chưa rõ về tung tích bọn chúng. Theo những người chứng kiến, thì tên cướp C bị nổ banh xác, tên cướp B đã rời đại sảnh, hắn đi đâu? Tên cướp A cầm theo chiến lợi phẩm cướp được và chuồn đi trước, hắn ở đâu?”

Di động của Ba Du Sinh rung lên. Cát Sơn gọi. Nghe xong, anh hơi cau mày.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 14

Mọi người trong phòng họp đều nhìn Ba Du Sinh bằng ánh mắt dò hỏi. Ba Du Sinh nói, “Lại thêm một đề toán khó dành cho mọi người rồi. Cán bộ khám nghiệm hiện trường cho biết: trong túi quần của Yên Vệ Bình có một mẩu ống kim loại bị bẹp. Anh Đường Vân Lãng xác định nó là nòng súng ngắn Glock 9 ly.”

Ba tiếng năm phút sau khi xảy ra vụ án, tại hiện trường khám nghiệm lầu chính Tiêu Tương.

Cát Sơn sắp đeo mặt nạ lên thì ho sặc sụa, chắc là ngứa cổ vì khói, anh ho dữ dội làm rung cả sàn nhà. Nói thế không ngoa, vì sàn tầng hai sau vụ cháy đã trở nên mỏng tang như cánh ve sầu (nói thế này thì đúng là khoa trương), nhiều chỗ đã hõm xuống lộ ra các thanh giằng ở khe giữa sàn và trần bên dưới. Mặt sàn kham nổi trọng lượng của Đường Vân Lãng đã là quá may mắn rồi. Cát Sơn lo mình ho sẽ xảy ra sự cố, bèn bước chầm chậm để giảm lực tác động.

Trong mười mấy phút trước đó, cảnh sát chưa khui ra hết các dấu tích súng đạn của tên cướp, nhưng tìm ra nhiều mảnh cơ thể rải rác đó đây. Cho đến giờ, đã xác nhận ba người tử vong, dù các mảnh cơ thể bị văng tứ tung nhưng căn cứ vào suy đoán về lượng thuốc nổ, quy luật phân bổ các mảnh cơ thể, Đường Vân Lãng xác định rằng ba người đều chết bởi vụ nổ thứ nhất. Đồng thời chứng tỏ rằng vụ nổ thứ hai không gây ra tử vong.

Cát Sơn đứng ở vị trí xảy ra vụ nổ thứ hai, cũng tức là ở chính giữa đại sảnh, bàn ghế đã biến thành các mảnh vụn, thành củi thành than, một số đoạn ống dẫn gas nằm rải rác chỏng trơ như những đoạn cành cây, cút nối vào bếp gas đã văng đi đâu mất.

Bên tai anh vẫn văng vẳng câu nói của Ba Du Sinh, “Theo các nhân chứng, khu vực giữa đại sảnh không có ai đứng, rất có thể hung thủ mất bình tĩnh ném bọc thuốc nổ lên bàn. Sau vụ nổ thứ nhất, có lẽ một tên khác đang đứng gần cửa gian phòng nhỏ gần đó.”

Cát Sơn bước đến cửa gian phòng ấy, thử làm động tác ném bọc thuốc nổ ra đại sảnh xem sao. Nếu mình là thằng cha ấy, đang cuống lên, và không muốn tấn công liều chết vào đám con tin vô tội trong kia, mình sẽ vứt bỏ cái bọc nguy hiểm đó. Anh ngoảnh nhìn, rồi đưa ra kết luận: mình sẽ ném nó vào một góc của gian phòng nhỏ.

Trừ phi hắn cố ý sát hại nhiều người hơn. Cũng không nên loại trừ khả năng này.

Cát Sơn mở cuốn sổ tay nhỏ, ghi lại cách nghĩ của mình, rồi anh bước ra đại sảnh.

Mặt sàn ở gần cửa sảnh la liệt các mảnh thủy tinh. Cát Sơn đi giày cao su đế dày, nhưng vẫn soi đèn pin và bước đi thận trọng, vì hành lang này cũng rất dễ bị sụt lở. Anh băng qua đầu cầu thang, bên trái là một gian phòng khác, bên phải, đi tiếp thì đến một gian nhỏ ở tận cùng hành lang. Ở cửa có một tấm ván cháy đen, một tấm biển vốn treo trên cửa, cũng bị hun đen thui nằm đó, soi đèn pin vẫn có thể đọc được ba chữ “Tô Mạc Già” và bốn chữ nhỏ “Thực Quá Tịnh Duyên”.

Cát Sơn vốn rất ghét cái lối chữ nghĩa mù mờ khó hiểu, anh nghĩ một lúc. “Thực quá” thì dễ hiểu, nhưng “tịnh duyên” thì là gì? Là “bút chì sạch sẽ” à? Cuối cùng, anh chợt nhớ đến bốn chữ “tẩy quá tịnh duyên”. “Tô mạc già” cộng với “thực quá tịnh duyên” thì ra khái niệm “nhà vệ sinh” được dùng phổ biến trong sách cổ.

Cát Sơn tạm thời không cần “thực quá tịnh duyên”, anh nhớ rằng sơ đồ mặt bằng ghi rằng gian bên trái là phòng nghỉ, Ba Du Sinh nói hình như tên cướp đã từng vào đó để “đào kho báu”. Anh tin rằng sau vụ cướp và vụ cháy, thì không đến lượt anh vào đây để “đào” gì nữa, nhưng anh cũng cứ bước vào.

Thoạt trông thấy ngay trong phòng kê hai cái giường và đã bị cháy sập xuống sàn. Tuy nhiên vẫn nhận ra chúng rất dày nặng và tinh xảo chứ không như chiếc giường tầm thường để ngả lưng ngủ trưa. Đầu và cuối giường đều có thể điều chỉnh nâng lên hạ xuống. Trên sàn vẫn còn một chiếc tủ nhỏ mà trước kia hẳn cũng rất tinh xảo, mặt đất rơi vãi thuốc men và kem dưỡng da, chứng tỏ những cái giường có thể dùng làm công cụ để mát xa thậm chí chăm sóc spa.

Vật dụng còn sót lại mà tương đối nguyên vẹn là chiếc ti vi LED chất lượng cao màn hình rộng choán lấy già nửa
mảng tường. “Tương đối nguyên vẹn” ở đây là nó đã đổ nghiêng, màn hình nứt vỡ, nhưng chưa chạm hẳn xuống đất và chưa tan xác pháo. Tuy nhiên, tư thế nghiêng của nó lại hé lộ trước mắt Cát Sơn một cái cửa bí mật nằm trên mảng tường đã biến dạng sau đám cháy.

Cửa này không lớn, và không còn vẻ bí hiểm gì nữa, lửa đã đốt trụi khung gỗ và thiêu đen vào sâu trong tường. Có thể dễ dàng hình dung, nếu kéo khít cánh cửa và nhích cái ti vi lên vị trí cũ thì không ai nhận ra một dấu vết gì. Anh thầm nghĩ, hội quán vẫn là hội quán, dù trước ngày khai trương Tiêu Tương có rêu rao rằng mình thuộc hạng đẳng cấp khác hẳn các lò bán dâm hay cờ bạc thì vẫn không tránh được việc giấu giếm những chuyện bẩn thỉu, nếu không, họ thiết kế cái gian kín đáo này làm gì?

Cát Sơn đẩy cửa bước vào, lẩm bẩm “Ngột ngạt quá!” Anh đã chụp mặt nạ rất kín mà vẫn ngửi thấy mùi khói nồng nặc, không khí ở đây rất thiếu oxy. Anh tin rằng lát nữa Hình Thụy An sẽ tuôn ra một tràng lý luận về đối lưu không khí. Đám khói dày đặc đã len vào mật thất này như thế nào, cánh cửa đóng kín thì không khí nóng và lạnh trao đổi kiểu gì, tại sao khói vẫn bị giam kín ở đây không thể tản đi?

Căn mật thất bị hun đen tuyệt đối, nhưng không bắt cháy. Cát Sơn cảm thấy hơi bất ngờ ở chỗ, ở đây không có chi tiết gì đáng gọi là “bẩn thỉu”. Trong không gian khoảng mươi mét vuông này chỉ có một chiếc két bảo hiểm bằng thép, cao ngang đầu người. À, thì ra mục tiêu của “đào kho báu” chính là nó!

Anh giơ đèn pin, từ từ bước lại gần cái két. Trên cửa két có hàng chữ tiếng Anh, Cát Sơn không hiểu nhưng đoán nó là nhãn mác của một thương hiệu quốc tế nào đó. Ở phần ngang trán anh là một màn hình nho nhỏ, không có dấu hiệu gì thể hiện rằng nó còn hoạt động. Cửa két đang đóng kín, nhưng anh vẫn muốn thử vận may, bèn cầm tay nắm và giật mạnh....Cửa mở ra.

“Khốn kiếp!” Cát Sơn cảm thấy dạ dày ruột gan trào ngược, quá kinh tởm đến nỗi quên cả ho.

Khoảng ba tiếng mười phút sau khi xảy ra vụ án, tại một quán Starbucks đối diện bệnh viên Nhân Dân số 6 Giang Kinh.

Hai tên cướp gặp nhau lần thứ ba sau khi vụ việc xảy ra. Kể từ lúc vụ nổ phát sinh, toàn bộ kế hoạch đã đổ vỡ tan tành. Bất cứ tên kẻ cướp nào có chút đầu óc và ít nhiều chuyên nghiệp cũng đều bỏ chạy, chạy càng xa càng tốt, nhưng chúng lại không thể cao chạy xa bay như kế hoạch đã vạch ra, mà buộc phải quẩn quanh gần khu vực các con tin để giải quyết hậu sự gọn ghẽ, thể hiện “đạo đức nghề nghiệp”. Cho nên, trước hết là phải trao đổi tin tức. Chúng không hề hay biết các cảnh sát hình sự đã đánh số cho chúng rồi, tên cướp A, tên cướp B, tên cướp C, giống như cách liệt kê các nhân vật phụ vô danh theo thứ tự xuất hiện khi kết thúc một bộ phim.

Chính vì sự cố bất ngờ xảy ra vào phần cuối của vụ cướp, nên lúc này ba chỉ còn hai, chúng vốn có ba người, nay bị thiếu một.

“Tình trạng Cát Tam Lạc thế nào rồi?” Một tên hỏi.

“Chưa tiến triển, vẫn ở bên bờ vực thẳm. Đây là mối nguy rất lớn.” Tên kia nói.

“Na Lan đã tỉnh chưa?”

“Nghe nói tỉnh mấy lần rồi lại hôn mê.”

“Thật ra tao lo nhất là cô ta.”

“Cũng không có gì phải lo. Từ đầu đến cuối, cô ta đều là một quân cờ then chốt, kể từ thiết kế ban đầu… lẽ nào bài vở chúng ta làm vẫn chưa đến nơi đến chốn hay sao?”

“Người tính không bằng trời tính, trời tính không bằng có kẻ phá rối. Chúng ta đâu lường được rối loạn ở phút chót? Mẹ kiếp, tất cả nát bét, cứ như đạo diễn đã soạn kịch bản đâu ra đấy, nhưng diễn viên thì diễn bừa!”
“Người soạn kịch bản là biên kịch chứ?”

“Mày hiểu ý tao nói gì là được rồi.”

“Bước tiếp theo nên thế nào?”

Im lặng. Tên cướp kia nhấp một ngụm cà phê, rồi nói, “Thế nào được nữa? Tiếp tục quan sát, nhất là Na Lan. Nếu cần thì đành ra tay trước vậy.”

Khoảng ba tiếng mười phút sau khi xảy ra vụ án, tại phòng làm việc tạm thời của ban chuyên án vụ cướp hội quán Tiêu Tương.

Trong khi hai tên cướp hội ý, thì Ba Du Sinh cũng đang hỏi một vấn đề tương tự, “Tình trạng Cát Tam Lạc thế nào rồi?”

“Chẳng ra sao,” một cảnh sát báo cáo, “Cho đến giờ anh ta vẫn chưa nói nổi một câu hoàn chỉnh. Cuộc phẫu thuật đã xong, anh ta ôm đầu gối ngồi ở mép giường và nhìn ra ngoài cửa sổ, ánh mắt vô hồn, toàn thân run rẩy. Mấy bác sĩ giàu kinh nghiệm nói rằng đó là cú sốc sau khi bị thương, cần mời bác sĩ khoa thần kinh hội chẩn.”

“Ban pháp y có ai đến xem vết thương không?”

“Đã xem. Họ nhận định là do đạn 9 ly súng Glock bắn. Viên đạn sượt qua cơ ngoài đầu gối phải, vỡ một phần sụn ở khớp gối. Ngoài ra toàn vết xây xát nhẹ. Nhưng rắc rối là trạng thái thần kinh của anh ta.”

Ba Du Sinh gật đầu. Vậy là khớp với miêu tả của Lương Tiểu Đồng. Anh cũng biết, tạm thời không thể ghi bút lục với Cát Tam Lạc. Không còn nhiều lựa chọn, anh quyết định chọn một người may mắn song sót mà anh không muốn ghi bút lục, nhưng đã muốn hỏi chuyện từ đầu, là Quách Tử Phóng.

Dù sao Quách Tử Phóng vẫn là chỗ quen biết cũ. Còn nhớ có lần cùng uống rượu, Quách Tử Phóng đã dốc bầu tâm sự, rằng luôn có một tình cảm đặc biệt đối với tin tức về lĩnh vực pháp chế. Nguyên nhân là vì Quách Tử Phóng từng liên quan đến một vụ án lớn.

Sau này, Ba Du Sinh có đọc hồ sơ về vụ trọng án cực kỳ phức tạp ấy, anh công nhận rằng đó là một vụ án rất ly kỳ và tàn khốc, không thể không gây ấn tượng sâu sắc trong đời sống của người đã trải qua nó, tựa như Na Lan sau khi trải qua nhiều vụ án, không tránh khỏi có những thay đổi đáng kể về tính cách và quan niệm.

Sáu bảy năm về trước, Quách Tử Phóng phụ trách tin bài về lĩnh vực pháp chế của tờ báo Tin chiều Tân Giang, anh ta bắt đầu tiếp xúc nhiều với Ba Du Sinh. Xưa nay Ba Du Sinh vốn né tránh giới truyền thông và các phóng viên, nhưng anh cũng nhanh chóng nhận ra Quách Tử Phóng là một nhà báo tài ba thú vị hiếm thấy. Khi phỏng vấn hoặc viết bài, Quách Tử Phóng hầu như không dùng nhãn quan “tôi là phóng viên” để nhìn nhận các vụ án với vẻ cao ngạo, anh thường đứng ở góc độ của các độc giả bình thường với những sắc thái tình cảm tự nhiên để mổ xẻ phân tích, đưa tin về quá trình và kết quả của sự việc đã xảy ra.

Ba Du Sinh dần dần nảy sinh thiện cảm với người phóng viên độ tuổi trung niên, cao lêu đêu, trông giống như lạc đà hoặc như ngựa vằn này. Ba Du Sinh không gàn dở tẩy chay giới truyền thông, trái lại anh biết rằng những nỗi gian truân, mồ hôi xương máu của anh em công an cũng cần được nói ra, không nhằm ca tụng công đức nhưng ít ra phải tạo nên một hình tượng đa chiều và sinh động.

Quách Tử Phóng cũng đặc biệt tâm đắc với người đội trưởng trinh sát hình sự có ngoại hình thư sinh này. Xét từ phương diện logic và nhân tình thế thái, thì việc Ba Du Sinh trở thành “tổng bộ đầu” của thành phố Giang Kinh đúng là chuyện thần kỳ hi hữu, tuổi còn trẻ, chưa đủ kinh nghiệm, không ai đỡ đầu ở chốn quan trường, đã từng có tin đồn rằng Ba Du Sinh là con người vợ đầu tiên của ông bí thư tỉnh ủy lân cận nào đó, cha mẹ ly hôn, anh theo họ mẹ. Nhưng sau khi đi sâu tìm hiểu, Quách Tử Phóng đã đưa ra kết luận: tin đồn chỉ là tin đồn, vô căn cứ. Đương nhiên, nếu phân tích kỹ thì thấy rằng, anh có vẻ như suôn sẻ thăng tiến trên đường hoạn lộ cũng không phải là chuyện gì quá xa vời. Một là anh có trình độ học vấn tương đối, mà là học vấn thực sự (chứ không như những năm gần đây một số lãnh đạo có được trình độ cao chỉ trong nháy mắt khiến người ta phải kinh ngạc). Anh chỉ huy phá được một số vụ án lớn “bế tắc tồn kho”, ở Sở Công an anh chưa từng theo phe phái nào nên không đứng nhầm chỗ, bên trên cho rằng anh “rất an toàn”. Và từ đó nảy ra một cảnh sát trưởng quái thú đeo kính trắng, không thuốc lá bia rượu, không khệnh khạng bố tướng.

Ba Du Sinh là người trong ngoài như nhất, anh tương đối ít nói, sống nội tâm, không phải do cố ý tỏ ra như thế, mà là anh thường suy nghĩ kỹ rồi mới lên tiếng, lời nói ra đều thực bụng chân thành. Quen biết nhau một thời gian, Quách Tử Phóng bắt đầu từ hiếu kỳ chuyển sang mến mộ rồi kính phục. Ngoài quan hệ công tác, hai người dần trở thành bạn thân thiết.

Mấy vụ trọng án xảy ra ở Giang Kinh những năm gần đây, tờ Tin chiều Tân Giang đều đăng bài dài với nội dung sâu sắc, tư liệu chuẩn xác, khiến các tờ báo “anh em” là đối thủ cạnh tranh cũng phải khâm phục ngợi ca. Về điều này nên thấy rằng đó là nhờ may mắn của Quách Tử Phóng và Ba Du Sinh gắn kết cảm thông với nhau.

Quách Tử Phóng đi đi lại lại trong phòng chờ cấp cứu. Ba Du Sinh biết ngoài việc hơi bị ngạt lúc hỏa hoạn, anh ta chỉ xây xước và bỏng nhẹ, tình trạng không có gì đáng ngại so với những người khác. Lúc này Quách Tử Phóng cúi đầu như đang nghĩ ngợi. Cái cổ vốn đã dài, cúi xuống trông cứ như con cò đang tìm thức ăn. Một số bệnh nhân và người nhà sốt ruột chờ đến lượt mình đều tỏ ra khó chịu trước việc anh ta cứ liên tục lượn lờ chóng cả mặt như thế, nhưng anh chẳng bận tâm, hoặc coi như không nhìn thấy. Lúc này anh bỗng ngẩng đầu và nhìn thấy Ba Du Sinh, cứ như là có giác quan thứ sáu.

Anh lên tiếng gọi. Chờ Ba Du Sinh bước lại gần, anh nói, “Tôi vẫn đang đoán… anh sẽ thẩm vấn tôi hoặc đầu tiên hoặc cuối cùng.”

Ba Du Sinh cười, “Anh đoán sai rồi.”

“Hoặc, tôi chỉ có thể làm phóng viên.” Quách Tử Phóng tự chế nhạo mình. “À, còn cả Na Lan nữa. Cô ấy mới phù hợp để thẩm vấn đầu tiên hoặc cuối cùng.”

Ba Du Sinh, “Tôi cần chỉnh lại, không phải thẩm vấn, mà là hỏi, để thu thập thông tin. Bài báo anh đăng không thể có nhầm lẫn.”

Quách Tử Phóng gượng cười, “Bài báo? Chắc anh đã hỏi nhiều người rồi, và hiểu rõ hơn tôi, rằng vụ án hôm nay đầu đuôi ra sao không dễ nắm bắt đâu! Bài báo của tôi đăng lên, chắc chắn sẽ có kha khá dấu hỏi.”

Trong ánh mắt của bệnh nhân và người nhà dõi về Quách Tử Phóng, lúc này ngoài sự khó chịu đã pha thêm ít nhiều tò mò. Ba Du Sinh nói, “Cho nên tôi xin giả vờ khách khí một chút, nói rằng muốn được anh giúp đỡ.”

Quách Tử Phóng cười, “Khách khí đã là giả vờ rồi, khỏi cần nói ‘giả vờ khách khí’ nữa.

Tôi bắt được một lỗi ngôn ngữ của anh!” Đoạn nghiêm chỉnh hỏi, “Chỉ có mình anh? Tức là không phải là thẩm vấn và ghi bút lục tôi chứ gì?”

“Bên kia đường có một quán Starbucks, hai ta sang đó uống cà phê uống trà và nói chuyện cho tiện.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tiệc Báo Thù ... Quỷ Cổ Nữ

Postby tuvi » 21 May 2019

Chương 15

Khoảng ba tiếng mười lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại quán Starbucks đối diện với bệnh viện Nhân Dân số 6 Giang Kinh.

Hai người bước vào rồi mới nhận ra chọn nơi đây nói chuyện không “tiện” tí nào. Không phải do Ba Du Sinh đánh giá nhầm, vì phần lớn các quán Starbucks ở Giang Kinh hoặc bất cứ đâu đều tương đối ấm cúng dễ chịu, nhưng cái nơi đối diện bệnh viện này thì khác hẳn các Starbucks khác. Nói khác hẳn không phải là bảo nó ế ẩm mà trái lại, rất đắt hàng. Đây chính là vấn đề. Khách ra vào không ngớt khiến nhà hàng biến thành chen chúc, khách ngồi sốt ruột, ngao ngán và bức xúc khiến bầu không khí luôn căng thẳng. Thỉnh thoảng lại có người càu nhàu, thở than hoặc gào lên khi gọi di động, ảnh hưởng đến những ai đang lặng lẽ trò chuyện, họ đành bực mình đứng lên kết thúc rồi vội vã bước ra.

“Anh hỏi đi, tôi sẽ trả lời tất nhưng không bảo đảm chính xác đâu.” Quách Tử Phóng nói.

“Tại sao?”

Quách Tử Phóng liếc nhìn Ba Du Sinh, “Anh còn giả vờ à? Tôi đi phỏng vấn bao năm trời, anh cũng bao năm trời ghi bút lục, chúng ta đều biết rõ trí nhớ là không đáng tin cậy. Nhất là những vụ việc bất ngờ như thế này ai cũng hoảng hồn, bị sốc và lúng túng, cho nên trí nhớ sẽ sai lệch không ít.”

Ba Du Sinh, “Thế thì tôi không hỏi nữa vậy.”

“Dỗi như trẻ con thế à?”

“Không! Tôi muốn anh tự nói ra những điều tai nghe mắt thấy thì hơn.” Ba Du Sinh nhận hai cốc cà phê của cô phục vụ đứng sau quầy đưa cho, rồi cùng Quách Tử Phóng bước ra ngoài, cả hai chẳng thiết ngồi lại nhà hàng đáng thất vọng này, họ trở vào với khung cảnh yên tĩnh trong bệnh viện, ví dụ sân sau của khu bệnh xá, ngồi xuống nói chuyện.

Quách Tử Phóng không tỏ ý gì, đi theo Ba Du Sinh. “Đã không phải là thẩm vấn… à, lấy lời khai chính thức, không ghi bút lục, thì tôi sẽ hỏi trước một câu được chứ?”

“Có thể trả lời, thì tôi nhất định trả lời.”

“Lúc nãy tôi áp đặt một điều rằng các anh chưa nắm được nguồn cơn vụ án, nhưng anh không chính thức thừa nhận, nếu tôi hỏi thẳng thì anh có bằng lòng trả lời không: đã ghi các bút lục rồi, đến giờ, ấn tượng của anh là gì?”
Quách Tử Phóng hỏi.

“Ấn tượng hô mờ.” Hình như Ba Du Sinh trả lời lạc đề, hoặc là lú lẫn gì đó.

Quách Tử Phóng ngạc nhiên, “Ý anh là gì?”

“Hô mờ, là mơ hồ! Nếu đem các bút lục tổng hợp lại thì ấn tượng của tôi là như thế, một mớ bòng bong, có rất nhiều điểm bất ổn mà toàn là những điểm then chốt.” Ba Du Sinh biết, mình nói như thế sẽ khiến Quách Tử Phóng không chỉ là người chứng kiến mà còn là người tư vấn cho anh nữa. Anh không nói thêm các tình tiết mơ hồ khó hiểu như thế nào, ví dụ tại sao bọn cướp lại chủ động báo cảnh sát, tại sao muốn chúng tìm Na Lan thương lượng rồi lại không đưa ra điều kiện nào, tại sao Đới Hướng Dương bỗng dưng “hóa điên” và “tìm đến cái chết”, tại sao bọn cướp lại mang theo thuốc nổ để tấn công liều chết?

Quách Tử Phóng nói, “Cảm ơn anh đã trả lời thành thật.”

“Anh rất giỏi đảo ngược tình thế, biến bị động thành chủ động. Đúng là danh ký[1]!” Ba Du Sinh mỉm cười.
[1] Ký giả nổi tiếng.

“Đừng châm biếm nhau, lại còn danh kỹ (Kỹ nữ nổi tiếng )? Anh không càn quét tin bài của tôi là tôi phải cảm ơn anh rồi!” Quách Tử Phóng nhấp cà phê. Vừa đi vừa uống, chắc là bỏng môi, anh xuýt xoa. “Được! Tôi sẽ kể lại những điều tai nghe mắt thấy, nhưng tin rằng nghe xong anh sẽ thất vọng. Vì tôi không thể giải quyết các vấn đề của anh.”

Di động trong túi áo Ba Du Sinh bỗng rung lên. Khương Minh gọi, giọng căng thẳng, “Anh mau về đây… Na Lan… mất tích rồi!”

Khoảng ba tiếng mười lăm phút sau khi xảy ra vụ án, tại hiện trường khám nghiệm lầu chính Tiêu Tương.
Đường Vân Lãng đã có bốn mươi năm kinh nghiệm điều tra hiện trường, đã nhìn vô số cảnh tượng máu me tanh tưởi, nhưng khi nghe tiếng Cát Sơn gọi và đi sang gian phòng ở tầng hai, nhìn thấy két sắt đã mở, ông vẫn phải thốt lên

“Ôi trời…”, bụng dạ nôn nao hết cả.

Các chi tiết bên trong két sắt đã bị tháo bỏ, chỉ còn lại vách sau rất mỏng áp sát tường.

Nhưng lấp đầy nó là xác hai người đàn ông.

Đường Vân Lãng từng nhìn thấy nhiều xác chết, ngay như ba xác chết vừa nãy bên đại sảnh thậm chí có hai cái đã nát bươm. Điều khiến người ta kinh hoàng ở đây là hai cái xác này giống hệt người còn sống. Có lẽ cả hai đều chưa quá 35 tuổi, mắt mở to, mồm bị nhét giẻ đen, như thể đang thầm nguyền rủa số phận, khuôn mặt vẫn còn nguyên nét sợ hãi, tuyệt vọng và phẫn nộ, hệt như người đang sống.

Người trong tranh trong sách mà sinh động, thì là nghệ thuật. Người chết ngoài đời mà sinh động, thì là kinh hồn.
Lúc bước vào không gian nho nhỏ này, Đường Vân Lãng đã chú ý thấy ở đây vẫn còn thoang thoảng mùi khói, không khí rất loãng. Bây giờ Hình Thụy An đang lia đèn pin cố tìm dấu hiệu của những vị trí bắt cháy. Cát Sơn nói từ phía sau mặt nạ, “Lúc nãy, cửa két sắt vẫn đóng.”

Đóng, nhưng không khóa.

Tuy nhiên, hai người bên trong không tài nào đẩy được nó ra. Cửa két sắt không như cánh cửa phòng, người ta không thiết kế để đóng mở từ bên trong cho nên cửa không có tay nắm hay chốt then gì hết. Hai nạn nhân ở tư thế đối diện nhau, tay đều bị còng nhưng là còng chung tay phải người này còng với tay trái người kia và ngược lại. Một trong hai cái còng buộc thêm một sợi thừng nilon câu vào cái mấu gắn ở mé trong két, cho nên họ không thể chạy ra và cũng không thể mở cửa.

Cát Sơn chỉ vào cái còng, kêu lên, “Chính bọn cướp đã làm chuyện này.” Cảnh sát đặc nhiệm và cảnh sát cứu hỏa đều đã nhìn thấy kiểu còng liên hoàn ấy, Đường Vân Lãng cũng nghe nói rồi, nên không lấy làm lạ, Cát Sơn đoán không nhầm. Nhưng hai nạn nhân này là ai?

Điều đáng nói là cả hai đều mặc quần áo đen, như một thứ đồng phục.

Theo các con tin nhớ lại, thì đây là đồng phục của bọn cướp.

Đường Vân Lãng sờ vào mạch cổ tay hai nạn nhân, đúng là họ đã chết. Ông biết, bỏ mạng trong hỏa hoạn có thể là do trúng độc ôxít cácbon hoặc các khí độc khác, thậm chí do hít phải khói đen, do căng thẳng rồi tim ngừng đập… nhưng phần lớn là ngạt thở do thiếu ôxy, căn cứ vào tầm tuổi của hai nạn nhân và việc gian phòng này đến giờ vẫn ngột ngạt đầy khói nên suy đoán là thế.

Đợi chụp ảnh xong, Đường Vân Lãng gọi kỹ thuật viên vào mở còng, hai cảnh sát khác thận trọng kéo hai cái xác ra khỏi két rồi chuyển sang gian phòng nghỉ bên ngoài. Họ đặt xác xuống sàn, kéo miếng vải đen trong mồm ra. Cảnh sát chụp ảnh tiếp tục làm việc. Tiếp đó Cát Sơn và Đường Vân Lãng cùng kiểm tra hai cái xác nhưng không thấy có giấy tờ gì cả.

Cát Sơn đứng dậy, gọi điện cho Ba Du Sinh.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 97 guests