Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Image

Tác giả : Thiên Hạ Bá Xướng

Quyển thứ nhất _ Lâm chung lão quỷ


Hồi thứ 01 đến hồi thứ 05

Hồi thứ 1: Chó húc

Chuyện kể rằng hồi nọ có một ngôi làng tên là Kim Quan, vì sao lại có tên như vậy? Vốn là từ xưa tới nay, quan quach của Hoàng đế gọi là "Tử cung", quan quách của Quý phi thì gọi là "Kim Quan". Tương truyền ngày xửa ngày xưa, có một bà quý phi thưở sinh tiền rất được sủng ái, nhưng vì đắc tội với Thái hậu, phải nhận "tam ban triều điển", tức là bị thắt cổ cho đến chết. Cũng bởi quý phi chết oan, nên đêm đến, hễ chợp mắt, Hoàng thượng và Thái hậu lại mơ thấy bà ta mặc váy đỏ tới đòi mạng. Nhằm an ủi vong linh của bà phi, họ liền cho xây một ngôi mộ ở ngoài cõi xa để mai táng thi hài.
Trước khi mai táng, cỗ Kim quan của bà phi được quàn tạm trong ngôi chùa cổ của cái làng này, nên từ đấy về sau, từ tên làng đến tên chùa cũng bị đổi thành làng Kim quan, chùa Kim quan. Tuy nhiên câu chuyện này thật giả thế nào, đến các bậc cổ lão trong làng cũng không biết rõ. Bà phi nọ ngậm hờn dưới suối vàng cũng đã hàng trăm hàng nghìn năm, phần mộ đã hóa đất bằng, chẳng cỏn ai biết đích xác ngôi mộ cổ giờ ở chỗ nào nữa, chỉ còn lại cái tên làng Kim quan và ngôi miếu cũ hoang tàn chừng như muốn sập xuống bất cứ lúc nào làm chứng cho điều đó. Những ngói nát, gạch vụn dường như vẫn đang âm thầm thuật lại câu chuyện xác thực của những năm tháng xa xưa.
Cho đến những năm cuối đời Thanh, khỏi nghãi Thái Bình Thiên Quốc nổ ra trên quá nửa mảnh giang sơn. Lãnh tụ của Thái Bình Thiên Quốc là Hồng Tú Toàn, người Quảng Đông, cuộc khởi nghãi lại dấy lên ở vùng Quế Tây, Việt Đông, cũng thuộc đất lưỡng quảng, nên thuở đó người ta gọi là loạn "Việt khấu"
Trăm họ quanh làng Kim Quan phải gánh chịu nỗi khổ chiến loạn kéo dài gần hai mươi năm, quan quân và nghĩa quân công phạt chém giết liên miên. Mỗi lần chiến sự qua đi, thây người lại trải khắp nội, hầu như không ai xử lý. Người dân quanh vùng có muốn cũng không thể mang đi chôn cất vì ngừuoi chết quá nhiều, vô số thân xác máu thịt đành cứ thế phơi ngoài đồng hoang, mặc cho chó tha quạ rỉa.
Chẳng những thế, cả bọn chó làng, lợn nuôi cũng tới ăn thịt người chết. Những con lơn hay ăn xác người trông khác hẳn những con lợn thường, người tinh mắt liếc qua là phân biệt được ngay. Bọn lợn ăn xác ấy béo ú đến phát sợ, da bóng lông mượt, cả đôi mắt nhìn người ta cũng lộ vẻ hung tợn. Tuy lợn béo thật, nhưng những người nào biết nguyên do thì cả đời cũng không dám xơi thịt lơn nữa, mà đến nhìn người khác ăn vào cũng còn thấy buồn nôn.
Trong làng Kim Quan có một đứa trẻ mồ côi , họ Trương con thứ ba, hai người chị đã chết yểu từ lâu nên hắn tự xưng là Trương Tam. Cũng chẳng hiểu tên thật của hắn là gì, chỉ biết bẩn sinh tóc hắn vừa thưa vừa vàng, tới mười lăm, mười sáu tuổi cũng không tết nổi cái bím, đành phải dùng cỏ bện lại gắn bừa vào thành một cái bím nho nhỏ trông như đuôi chó, phàm là người quen đều gọi hắn là "Trương Tiểu Biện"( Trương bím nhỏ)
Trương Tiểu Biện nghèo xơ xác, không có lấy một túp lều trú thân nên thường quanh quẩn trong ngôi chùa Kim Quan đổ nát. Hắn hẩy đổ tượng đất, trải ít rơm cỏ nên trên bệ tượng để ngủ, ban ngày thường đến các nhà giúp gánh nước và làm việc vặt để kiếm chút rau cháo qua ngày. Hắn từng có lúc theo học vị sư phó của tiệm quan tài, lại cũng từng nhận vị đạo sĩ bói toán làm thầy. Song cái thời loạn lạc này, mấy ông thầy lo thân còn chẳng nối nói gì đến chuyện nuôi thêm đồ đệ, thế là mấy cái nghề đó hắn cũng chẳng học được cho ra ngô ra khoai. Có những đạn khó khăn, mấy ngày trời chẳng có gì ăn, Trương Tiểu Biện đành quay sang bắt gà trộm chó hàng đêm cho qua cơn đói khát. Hắn biết rằng nhà mình trước khi suy vi có ông tổ làm quan to trong Kinh thành, trong tham tâm vẫn thường tự hao lắm, phải đi trộm cắp thế này kể cũng lấy làm nhục. Nhưng trong thời buổi binh đao loạn lạc ấy kiếm được miếng ăn đâu phải chuyện dễ dàng, bụng đói thì khó nói mạnh, bàn gì đến xuất thân này nọ nũa.
Mấy năm rồi thiên tai địch họa liên miên, cái ăn trong làng cũng không còn xung túc như truớc, đến rau cháo qua bữa cũng khá vất vả. Đêm hôm đó, Trương Tiểu Biện đói đến mức trằn trọc mãi không ngủ được. hắn nằm ngang trên bệ tượng thần, chân vắt chữ ngũ, ngửa mặt nhìn ánh trăng xuyên lốm đốm qua mái chùa nát, trong lòng tính cách kiếm gì ăn cho đỡ đói, chứ không thì thực sự không chịu nổi nữa. Vài năm nay. Hắn vẫn quen thói trộm gà bởi trong làng có nhiều nhà nuôi, cách ba bữa lại bắt vài con, trước nay chưa từng trộm trượt bao giời. Chưa từng trộm trượt không phải vì may mắn mà bởi hắn đã tự nghĩ ra một ngón trộm gà hết sức độc đáo.
Quyết ý như vậy, Trương Tiểu Biện liền nhân lúc trăng lu gió lớn, mò vào sân ngoài của mẹ con bà Vương quả pụ trong làng. Nhà này không có đàn ông lại không nuôi chó, cửa nẻo thấp nhỏ., Trương Tiểu biện lại thuộc vị trí các ổ gà trong làng như lòng bàn tay, hắn chẳng tốn chút sức nào đã vượt qua bờ tường và phát hiện ngay con gà mái đang thiêm thiếp trong chuồng.
Nhìn đã rõ song Trương Tiểu Biện không bắt ngay mà nhẹ nhàng thò tay vào trong ổ, thi triển tuyệt chiêu độc đáo của mình, gãi nhè nhẹ vào bụng của con gà mái. Phàm mỗi khi có kẻ trộm gà hay chồn khoét ổ, bọn gà chắc chắn sẽ vỗ cánh kêu toáng lên khiến nhà chủ thức dậy. nhưng, Trương Tiểu Biện có cách riêng của gã, chỉ gãi nhẹ mấy lượt, con gà mái trong chuồng chẳng nhữung không vỗ cánh và kêu toáng lên mà còn tỏ vẻ dễ chịu sung sướng, tựa hồ rất thích thú vì được người ta gãi ngứa hộ.
Trương Tiểu Biện mừng thầm, chỉ cần bước đâu tiên này không thất bại, con gà này kể như đã vào tay hắn rồi. Nhìn bộ dạng con gà, hắn thầm cáu tiết:
- Ông chẳng chiều chuộng mày xuông đâu, đợi khi về đến miếu hoang vặt lông, mày sẽ chẳng được dễ chịu như này nữa..!"
Trong lòng vui vẻ, một tay hắn vẫn không ngừng gãi cho con gà, tay kia dỡ mái chuồng gà ra, định bụng ôm con gà lên theo lối phía trên. Nhưng có lẽ vì lâu không trộm, ngón nghề có hơi chệch choạch, cũng có khả năng vì đã mấy bữa đói ăn, tựu trung là tay chân hắn có phần luống cuống, đúng lúc nhấc được con gà khỏi chuồng, chưa kịp ôm cho chắc đã làm rớt xuống đất.
Còn gà mái nửa tỉnh nửa mê, đang lúc sung sướng mơ màng bỗng ngã oạch xuống, lập tức tỉnh cơn mộng đẹp. Đại khái nó cũng hiểu ra đây là kẻ trộm gà, nào chịu buông tha, nó liền lập tức dang cánh vỗ phành phạch, kêu loạn lên, quả nhiên khiến chủ nhà thức giấc. Chỉ nghe tiếng Vương quả phụ trong cửa sổ chửi vọng ra:
- Thằng ranh nào dám vào trộm gà nhà bà! Chắc lại thằng ranh chết bầm Trương Tiểu Biện ở miếu Quan Tài phải không? Bà còn mỗi con gà đẻ trứng mà mày cũng không tha hả... Chửi chưa dứt lời, đã thấy cửa sổ nhấc lên, một thùng nước tiểu vụt bay ra.
Trưởng Tiểu Biển thấy một vật không rõ hình thù bay ra, vội rụt cổ tránh. Thúng nước tiểu vốn nhắm không chuẩn, va vào tường đánh chát một cái, thứ nước khai thối vãi tóe ra tứ phía. Hắn biết chuyện đã chẳng xong, thầm nhủ, không ngờ tiếng tăm của Tam gia ta lừng lẫy đến thế, đến mụ Vương quả phụ nghe tiếng gà động mà cũng biết Tam gia ở đây, lại còn tương ra một thùng nước tiểu vừa khai vừa thối, rơi vào tay mụ này chắc ốm đòn, tránh voi chẳng xấu mặt nào, giờ mà không chạy mà còn đợi lúc nào nữa!
Nghĩ tới đây, Trương Tiểu Biện không dám chậm chễ, vội tung mình nhảy ra ngoài, bên tai còn tiếng VƯơng quả phụ chửi bới liên thanh trng nhà, dường như đang bảo đứa con gái Tiểu Phượng sang nhà hàng xóm mượn chó đuổi trộm. Trương Tiểu Biện chửi thầm:
- Mụ Vương được lắm! Chả trách người ta vẫn bảo, nhà quả phụ lắm điều nhiều tiếng, lời này chẳng sai chút nào. Ông trộm có mỗi một con gà mà nào đã vào tay ông, cớ sao mụ phải đuổi tận giết tuyệt chớ? Đợi Tam gia ta phát quan, ông đền cho mụ một thùng nước tiểu bằng vàng... "
Miệng nói cứng như vậy nhưng dẫu sao hắn vẫn có tật giật mình. Các nhà láng giềng xung quanh nhà nào cũng nuôi chó, khi ấy đều bị thùng nước tiểu của Vương quả phụ đánh động, thế là bốn phía chó sủa gà kêu, cả làng loạn hết cả lên, người ta còn tưởng là sơn tặc tới cướp làng nữa. Quả này thì vạ to rồi, Trương Tiểu Biện biết phải trốn đi mấy ngày mới xong, nếu không cả làng ai chẳng biết hắn trú ngụ ở miếu Kim Quan, nếu bị chặn bắt ở ngôi miếu nát đó thì chắp cánh cũng không thoát nổi, vậy là hắn liền nhân đêm tối, vội vã bỏ chạy khỏi làng.
Chạy một mảnh tưởng đứt hơi mới dám dừng chân, tiếng người kêu chó sủa trong làng đã bặt hẳn, Trương Tiểu Biện thở phào như cất được gánh nặng trong lòng, vừa thở hổn hển vừa đưa mát nhìn xung quanh để xem mình đã chạy tới chỗ nào. Chỉ thấy trăng lạnh sao mờ, cây khô cỏ dại, trong lùm cỏ rậm gò mộ nhấp nhô, đá bia lởm chởm, hóa ra lúc nãy hoảng quá chẳng chọn đường chạy lạc vào bãi tha ma phía sau làng.
Bãi tha ma này nghe nói phong thủy tốt lắm , lại là đất vô chủ, người chết ở làng xa thôn gần đều mang đến đây chôn, vì thế vô số mộ phần chen vai thích cánh, màu đất còn tươi mới là những mộ mới đắp, còn những mộ lâu lắm đầy cỏ dại thì nhiều không đếm xuể. Cách đây không lâu có mấy cánh quân Việt khẩu xuất hiện ở địa bàn này, giao tranh áo liệt với quan binh mấy trận, cũng mới vừa rút đi, bỏ lại chiến trường hàng nghìn xác chết. Xác người không kịp chôn cất, rữa nát bốc mùi gây ra một đợt ôn dịch nhỏ, vì vậy dân cư vùng lân cận chết nhiều hơn trước, bãi tha mà này cũng bởi thế mà có thêm nhiều mộ mới. Những nhà khá giả một chút thì mộ có quan tài, bia đá, còn đám người cùng khổ thì đâu máy mắn như vậy, khi chết có được cỗ áo quan mỏng là may mắn lắm rồi, có khi còn phải lấy manh chiếu gai bó lại rồi vùi xuống huyệt, nắm mồ cũng nhỏ bé đến tội, còn bia đá bỏ được thì bỏ, lấy miếng gỗ, cành cây cắm xuống cũng xong. Những ngôi mộ mới không được đánh dấu như thế sẽ nhanh chóng biến thành những nấm mồ vô chủ.
Đêm đến, những lúc mây đen mù mịt, bãi tha ma lại thấp thoáng những đốm lửa ma chơi, thỉnh thoảng một hai con mèo hoang lao vụt ra từ đám có, thêm vào đó là những âm thanh quái dị chẳng biết là ma kếu hay sói gào vọng ra tít tắp bên trong khiến người nghe dựng cả tóc gáy.
Trương Tiểu Biện vốn là kẻ gan to bằng trời, đằng nào cũng có mỗi cái mạng quèn, lại nghèo khổ mạt vận, ở đâu cũng thế cả, vì thế xưa nay đều chẳng đếm xỉa ma cũng chẳng dợ quỷ thần, giả như không lớn mặt thế, thì làm sao đêm đêm hắn dám một mình ở tròn cái miếng hoang nhập nhoạng kia chứ. Chỉ có điều tự dưng chạy lạc vào bãi tham ma nhưu thế, hắn cũng tháy hơi sợ, vội vã nhìn tứ phía vái như sảy gạo:
- Cái vị đại ca, đại tỉ! Tiểu nhân là Trương Tam không dám mạo phạm, chỉ vô tình làm kinh động, xin đừng trách mắng, xin đừng trách mắng... "
Nói xong, hắn định quay người rời đi. Chính lúc đó, đột nhiên nghe thấy bên trong nấm mồ sau lưng nổi lên một tràng:
- Thùng! Thùng! Thùng!", tựa như có người nào đang dùng hết sức đập vào cánh cửa gỗ. Nhưng, trong bãi tha ma lổn nhổn này, lấy đâu ra nhà cửa âm thanh ấy nhất định là tiếng đập nắp quan tài rồi.
Đương lúc đêm khuya, bốn bề vắng lặng lạ thường khiến cho tiếng đập nắp quan tài này càng nghe thêm kinh hồn táng đởm. Trương Tiểu Biện thấy cái bím nhỏ sau gáy dựng đứng lên, nhưng hắn không lập tức bỏ chạy ngay. Cuộc đào thoát bở hơi tai vừa rồi cộng thêm cái bụng đói meo khiến hắn không thể nhấc nổi chân lên nữa, chỉ lấy ống tay áo quệt nước mũi, quan sát các nấm mồ xung quanh, lòng thầm nghĩ không biết con mả chết toi nào đang đừa giỡn với Tam gia ta? Tam gia chẳng vừa khấn vái chúng bay rồi còn gì, sao vẫn còn lằng nhằng không tha, định dọa để Tam gia phải rập đầu xin chắc?
Tiếng đập quan tài trong nấm mồ kia càng lúc càng to, Trương Tiểu Biện hồ nghi hay là bọn trộm mộ đang cạy nắm quan tài? Phải lại đó xem thứ gì tác quái mới được. Nếu đúng là phường trộm mộ, Tam gia ta dọa hắn một phen, vừa ăn cướp vừa la làng, phỗng tay trên của nó ít tang vật, thế gọi là cá lớn nuốt cá bé, càng nuốt càng béo.
Hắn đi vài bước ra phía sau ngôi mộ ấy. Đó là một nấm mộ vô chủ còn mới, gò đất bị ai đó đào lên một lỗ lớn, âm thanh quái di
- Thùng!, Thùng!, Thùng! kia đang từ phía dưới vọng lên. Hắn vừa bước tới gần đã nghe thấy tiếng gầm gừ rất lớn vọng lên từ cái hố bên cạnh nấm mộ, một cái mặt đầy lông lem luốc màu máu thò ra. Trên trán nó mọc một cái u lớn hình bầu dục, lưỡi thè ra đỏ lòm, răng nanh bên mép còn dính vết máu, hai mắt lóe lên vẻ hung ác, hằn học nhìn vào Trương Tiểu Biện.
Trương Tiểu Biện thầm kêu khổ, sao hắn không nghĩ đến cái của nợ này cơ chứ! Bây giờ hiểu ra thì cũng muộn rồi, chỉ còn cách lẩn vào bụi rậm mà thoát thôi.
Thì ra chó hoang xưa kia và ngày nay không giống nhau, sau Giải phóng, xã hội ổn định rồi thì một số loài chó hoang đã dần tuyệt tích. Còn giữa thời loạn lạc, mạng người như cỏ rác, bởi người chết quá nhiều nên chuyện thi thể phơi giữa đồng ở đâu cũng có, thế nên những động vật ăn xác chết cũng rất nhiều. Ở vùng nông thôn hoang dã có loại chó hoang chuyên ăn xác chết, đánh hơi thấy mùi người chết là bới lỗ trên mộ, đào xuống đến quan tài thì dùng đầu húc vỡ áo quan để lôi người chết ra mà ăn ruột gan. Loại chó hoang này vóc dáng cao lớn, tính tình hung tàn, ăn nhiều phủ ngũ tang của người chết đâm ra không muốn ăn bất cứ thứ gì khác, có những lúc gặp người sống đi đơn độc, chúng cũng bổ nhào đến cắn chết ăn thịt. Những con chó hoang có bướu máu là do ăn nhiều người chết, tử khí ám nặng nề trên cơ thể, răng có khí độc của xác chết, bị nó cắn thì coi như rồi đời. Đặc trưng của nó là trên trán có một cái bướu đỏ màu máu, cứng hơn cả búa sắt. Quan tài của người nghèo vừa mỏng vừa rẻ, cùng lắm dày không quá " ba phân gỗ bách", ván quan tài bị loài chó này húc đầu vào vài lượt là vỡ. Những quan tài đơn sơ như thế còn có tên là quan tài "chó húc", ý nghĩ hết sức dễ hiểu. Tang gia mua một quan tài "chó húc" về tẩm liệm mai táng người chết là đã tận tâm lắm rồi, sau đó thì cái vị trong quan kia cứ ở đấy mà đợi chó hoang đến xơi vậy. Song thời đó đến quan tài "chó húc" ba phân gỗ này cũng không đủ mà bán.
Đúng là: "Người không có lòng hại chó; Chó lại có ý giết người."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 2: Mộ mèo khóc

Tiếp theo hồi trước, đang kể đến đoạn Trương Tiểu Biện nửa đêm trộm gà không thành, chạy nhầm vào bãi tha mà hoang vắng, làm kinh động con chó hoang đang húc mả ăn xác. Con chó đào được một ngôi mộ mới, vùa húc thủng ván áo quan, cắn toét cả ngực lẫn bụng tử thi, đang định lôi bộ ruột ra thì nghe thấy phía sau có tiếng động, liền lập tức chui ra bên ngoài. Đúng lúc đang đói mờ mắt lại vừa liếm ít máu thịt của tử thi, thấy một gã xớ rớ ngoài nấm mộ, hai con mắt vằn tia máu của nó liền long lên sòng sọc, đầy vẻ hung tợn. "Oắc!" một tiếng, con chó lao khỏi nấm mộ, xộc thẳng vào kẻ mới đến cắn xé.
Trương Tiểu Biện thấy nguy, vội la lên:
- Có giỏi thì đứng yên đấy...
Lời chưa dứt đã quay đầu bỏ chạy, rõ ràng còn cất chân không nổi, nhưng trong cơn kinh hoàng, chẳng hiểu hắn lấy sức lực ở đâu ra, sải bước chạy như bay trong bãi tha ma. Hắn thừa hiểu rằng, nếu cứ thế mà chạy, chưa được mười bước ắt sẽ bị con cho hoang vồ được mà móc ruột ra, vậy là liền nảy ra một ý, dùng phắt lại, tránh khỏi một cái vồ của con chó đang đuổi sau lưng, rồi chạy chéo vào sâu trong bãi tha ma, mượn đám bia mộ để ẩn nấp tránh né.
Con chó hoang vồ hụt một phát, càng điên tiết, lập tức quay ngoắt đầu lại, gục goặc cái bướu thịt to đỏ như máu, cắm đầu đuổi sát Trương Tiểu Biện chực cắn. Trương Tiểu Biện chạy quanh co quanh rừng bia mộ và các nấm mồ, địa thế bãi tha ma cao thấp lô nhô, ngăn bước truy đuổi điên cuồng cảu con chó hoang. Một người một chó cứ thế đuổi bắt quanh mấy ngôi mộ thành một vòng tròn. Con chó hoang hung hăng tàn bạo tuy mắt thấy miếng mồi sống đã đến tận miệng rồi mà nhất thời cũng khó vồ lấy ngay được.
Rốt cuộc con chó hoang cũng hiểu ra, nó không lòng vòng đuổi theo Trương Tiểu Biện giữa đám mồ hoang nữa, mà nhảy chồm lên một ngôi mộ cao, định bụng lấy cái cách ở cao đánh thấp, từ trên ấy vồ thẳng xuống mà thị người, chiêu này gọi là "chó cùng rứt giậu". Kỳ thực ra, dẫu cho nó không làm như thế, Vị Trương Tam gia kia cũng sắp chạy không nổi nữa rồi, lúc này hắn đang thở hổn hển, lồng ngực như muốn nổ tung ra.
Nhưng chó cùng thì dứt giậu, người ta khó thì ló cái khôn, Trương Tiểu Biện thấy mình lâm vào đường cùng, tự dưng cái mật lại to hẳn ra, liền bỏ qua chuyện sống chết, khom lưng ngồi xổm xuống đất không chạy nữa. Xưa nay, việc quân chẳng ngại dối trá, chiêu này của Tam gia cũng tuyệt không phải cái dũng của kẻ thất phu.
Đi đêm ở đường làng thường gặp phải lúc chó hoang lang sói. Sau nhiều bài học sương máu, dân gian đã đúc kết ra một số cách phòng thân, có câu tục ngữ rất hay rằng: "Chó sợ khom lưng, soi kinh thúc trống"
Lang sói, chó hoang dẫu hung hăng đến mấy đều có nhược điểm. Tính đa nghi của loài sói nặng nhất, một người đi đêm một mình gặp sói, thì khó mà khống táng đởm kinh hồn cho được, nhưng nếu bỏ chạy thì mười phần chắc chin phần là bị sói đuổi kịp mà sơi tái. Thảng như lúc ấy có thể bình tĩnh, giả tảng lờ con ác thú đi, thò tay vào túi mò bên này, sờ bên nọ, làm những việc mà chính anh cũng không biết mình đang làm gì nữa, con sói sẽ không dám mạo hiểm xông tới cắn, nó nghi ngờ anh đang bày mưu bắt nó. Còn bọn chó hoang lại sợ người ta khom người, bởi cho rằng anh đang cúi xuống lượm gậy để đánh nó; dẫu cho con chó hung hăng bao nhiêu mặc lòng, bẩm sinh loài chó đã hết sức sợ những thứ côn bổng ấy rồi. Vậy nên đám hành khất đều đem theo "đả cầu bổng" là thế.
Nhưng Trương Tiểu Biện cũng that là đen đủi, đại khái là hắn làm nhiều việc bắt gà trộm chó, lúc nào cũng mặt la mày lét, chính khí không đủ, lúc này đã khom lưng, giả tảng nhặt gậy đánh chó mà con chó hoang không bị mắc lừa, nó thuận thế nhảy vọt từ trên nấm mồ xuống, hùng hổ vồ vào Trương Tiểu Biện.
Trương Tiểu Biện kêu trời một tiếng, nghĩ mình chắc phải bỏ mạng ở đây. Chẳng ngờ gò mộ phía sau lưng hắn có một khe hở, ở chỗ phình ra hình thành một cái hang thiên nhiên, bên ngoài cửa hang bị cỏ lác che khuất, có đi đến gần cũng không trông rõ, lúc ấy, hắn bị con chó dữ vồ ngã lăn, cả người lẫn chó cùng rơi xuống hang mộ.
Khe nứt chỗ gờ mộ tuy sâu, song chỗ cuống khe lại khá chật hẹp. Trương Tiểu Biện người gầy nhỏ, cứ thế théo đường dốc của khe nứt lăn thẳng xuống dưới, còn con chó hoang kia thường nhật hay ăn ruột gan người chết, thân thể to lớn như con nghé, bị kẹt cứng ở chỗ đường hẹp, giãy giụa một hồi, tiến lui đều chẳng được.
Trương Tiểu Biện giữ được cái mạng, cũng chẳng thiết đến người đang đau như dần, lúc này đã rơi xuống bên dưới khe nứt, bốn phía tối đen như mực, xòe bàn tay không trông thấy ngón, chửng rõ rốt cuộc mình đang ở đâu. Hắn cố căng mắt nhìn, thấy phía xa xa chợt mờ chợt tỏ tựa như có ánh đèn, liền xốc lại tinh thần mò mẫm đi đến.
Một loáng sau, đi hết bờ đất, hắn sờ phải một bức tường đá lạnh ghê người, rờ rẫm thấy phiến đá to lớn lạ thường, hơi buốt thấu xương. Bức tường đá nứt ra một khe hở, qua khe hở thấy đằng sau là một gian điện đá, trên tường gắn đãi đèn chiêu hồn nhỏ như hạt đậu, cháy leo lét. Trương Tiểu Biện chẳng cần biết hay dở thế nào, cứ thấy có ánh đèn là chui tọt qua khe nứt vào bên trong, đến khi nhìn rõ quanh cảnh bên trong minh điện, hắn càng kinh ngạc khôn xiết.
Dưới ngọn đèn chiêu hồn đặt loại bệ quan tài bằng đá xanh, bên trên là thi hài của một thiếu phụ trẻ, chừng mười tám mười chín, áo liệm trên người rộng thùng thình, đính nhiều vàng bạc, trông đến xa hoa lộng lẫy. Xem lối phục sức rõ là không phải người thời nay, song người thiếu phụ trẻ này tóc mây da trắng, mặt mày thanh tú thoát tục, chẳng giống tử thi đã chết hàng trăm năm gì cả. Trương Tiểu Biện sợ thì vẫn sợ, nhưng đang lúc đường sinh nhai bế tắc, nghèo khổ đói rách chẳng có cái ăn, trước đống châu báu vàng bạc lấp lánh trong ánh đèn chiêu hồn, sao có thể không động lòng cho được.
Trong điện còn bày rất nhiều người ngựa bằng giấy hình thù quái dị, bên cạnh xác chết còn có một vũng nước xanh biếc trong vắt. Sau một phen chạy trốn vừa rồi, Trương Tiểu Biện thấy miệng khô lưỡi đắng, bèn lất tay vực nước uống vài ngụm cho sướng, cảm thấy mùi vị nước còn ngọt ngào hơn cả nước Cam Lộ, chỉ có điều nước Cam Lộ rốt cuộc ra sao thì hắn chưa từng được nếm thử bao giờ. Uống nước xong, đầu óc đã tỉnh táo phần nào, hắn tự nhủ thói đời thằng gan chết no, thằng nhất chết đói, đã là kẻ cùng khổ thì một liều ba bảy cũng liều, vậy là hắn nổi tà niệm, tiến lại gần cái xác, rút tram vàng, tháo vòng ngọc, lột hài thêu... lấy hết những thứ đáng giá, rồi cởi cả tấm áo niệm của thiếu phụ làm thành cái tay nải, vừa làm vừa khấn với cái xác để trấn an:
- Xem tiểu nương tử vàng bạc đầy người, hồi còn sống hẳn là một quý nhân sung sướng, tiểu nhân sinh ra số khổ, ba tháng nay chưa được nếm thử mùi thịt rồi. giờ không còn kế sinh nha, bất đắc dĩ đành mượn tạm vài thứ linh tinh đổi gạo dầu mắm muối qua ngày, xin cô đừng trách, về sau nhược bằng tiểu nhân được mở mày mở mặt, nhất định sẽ đốt vàng, thắp hương tạ cô... "
Đương khi lấy vàng ngọc, Trương Tiểu Biện chợt nghe có tiếng mèo kêu ở phía góc gian điện đá, hắn vội vã quay lại nhìn, chỉ thấy trong một góc tối om có một con mèo khoang to tướng bò ra. Nhưng việc ngoài sứ tưởng tượng là con mèo đó lại phát ra tiếng người khóc, ai oán như mưa sầu gió thảm. Trương Tiểu Biện đã từng thấy cảnh đám khóc trước linh cữu khi đưa ma, con mèo khoang này sao lại như đang khóc điếu người chết như thế, chẳng lẽ mèo già dã hóa thành yêu tinh?
Con mèo khoang to như thể không trông thấy Trương Tiểu Biện, có thế trong hai con mắt như hai ngọn đèn đỏ, cất tiếng khóc thống thiết. Trong không gian yên ắng dưới lòng đất, tiếng mèo khóc the thé chói tai khiến tự sâu trong lòng Trương Tiểu Biện cảm thấy hết sức bực mình. Con mèo gia này mà cũng dọa ma dọa quỷ, tự dưng trogn lòng liền nảy sinh ác ý.
Nghĩ đến đây, nhân lúc con mèo khoang không đề phòng, hắn bất ngờ cầm cả cái tay nải chứa đầy vàng bạc châu báu đè nghiến nó xuống. Chỉ thấy con mèo khoang giãy giụa một hồi rồi bị đè chết luôn tại chỗ. Trương Tiểu Biện nghĩ thầm, bây giờ đang đói đến nỗi không nhấc chân nổi về làng Kim Quan nữa, tam gia ta đã làm thì làm cho trót, cứ thịt con mèo già thành tinh này để tế cái dạ dày đã, xem rốt cuộc đọa hành của con mèo già hay của Tam gia thâm hậu hơn.
Trương Tiểu Biện to gan lớn mật, ỷ mình hồi trước cũng từng theo học lão đạo sĩ học về bùa bắt quỷ, chẳng thèm để ý đến mấy chuyện Âm y Địa phủ gì. Hắn mổ bụng lột da con mèo khoang, sơ chế một hồi rồi nhổ ngọn đèn chiếu mệnh trên tường ra, gom mấy con ngựa giấy vàng hương lại nhóm lửa, đem thịt mèo quay quay nướng nướng. Không ngờ tay nghề chẳng tới nơi tới chốn, nướng cháy hết thịt mèo, phần bên ngoài xém thành một lớp than đen. Nhưng Trương Tiểu Biện đã đói cuống cả lên, thằng đói chẳng kén thức ăn, mà ngửi cũng thấy thơm nức, chẳng cần biết có cháy hay không, há miệng định đớp một miếng mèo nướng. Bỗng một đôi tay lạnh ngắt như băng bấm vào cổ hắn từ phía sau và giọng âm u cất lên:
- Thằng kia, ngươi có thấy con mèo hoang trong cung của ta không..? Này... thằng ranh chết yểu nhà mày đang nướng cái gì đấy..?
Trương Tiểu Biện sợ hãi rụng rời, gan có to mấy cũng không chịu nổi nữa, định vẽ bùa niệm chú nhưng trong đầu trống trơn chẳng nghĩ ra cái gì, đành buột miệng trả lời luôn:
- Không... không thấy, đang nướng đang... đang nướng gà.
Chỉ thấy phía sau có một luồng hơi lạnh phả vào, toàn thân hắn run lên càm cập, mồ hôi ở lỗ chân lông tưởng như đông lại thành băng, giộng nữ ở phía sau lại tiếp tục cất vấn:
- Nướng gà sao lại có bốn chân..?
Trương Tiểu Biện vẫn bướng bỉnh vặc lại:
- Tam gia nướng hai con gà, hai con gà nướng thì có bốn chân...
Có câu rằng:
- Diêm La trước điện thêm hảo hán, Âm hồn bám riết biết sao buông?"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 3: Xác phượng

Lại nói, Trương Tiểu Biện lớ ngớ xông vào một ngôi mộ cổ, thấy có một con mèo già khóc lóc, nghĩ là yêu quái liền hạ thủ giết chết, rồi lột da đem nướng chín, nào ngờ lại làm con ma chết oan trong mộ tới tìm mèo. Trương Tiểu Biện bị nó ở đằng sau bóp cổ, cật vấn nguyên do, liền cãi chày cãi cối rằng thứ mình đang nướng cháy sém là gà chứ không phải là mèo.
Con ma phía sau nào chịu tin lời, đôi tay lớn lạnh lẽo tựa như cái móc sắt, tàn độc khóa chặt yết hầu của Trương Tiểu Biện. Hắn thấy cổ bị thít lại, vội vận sức gỡ đôi tay ma đó ra, nhưung sức yếu, lại thêm bị đói mất ngày, làm sao giằng ra cho nổi,lập tức trợn mắt trắng dã, lưỡi thè ra, quỷ Vô thường đã tới lấy mạng, mặc cho hắn luyến tiếc dương gian. Tưởng chừng như ba hồn bảy vía của Trương Tiểu Biện đã sắp sửa rời xác để trở thành một oan hồn dưới chân thành Uông Tử.
Chính lúc sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bỗng cso tiếng nổ như sấm, đất đá trong điện đổ rào rào, tường đá sau lưng hắn bị địa lôi phá thủng một lỗ lớn từ bên ngoài, Trương Tiểu Biện bị sặc cát bụi, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa, hai tai bị tiếng nổ ù cả lên, đôi tay ma tren cổ cũng biến mất không tăm tích. Nhưung vừa loáng thoáng nghe thấy tiếng người sau bức tường bị địa lôi phá vỡ, Trương Tiểu Biện lập tức ngã lăn ra đất giả chết. Hắn phiêu bạt giang hồ đã lâu nên rất nhanh trí, hiểu ngay có người đang tới chộm mộ, nếu để chúng thấy trong gian thạch này có thêm một người sống, chắc chắn cái mạng của hắn sẽ phải toi đời, ngộ biến phỉa tong quyền, chỉ còn cách nằm thẳng cẳng giữa đống ngói nát, gạch vụn àm thôi. Mấy năm nay chiến tranh liên miên, người chết đầy khắp nơi, hắn nhiều lần trông thấy cái xác chết chẳng ai thu nhặ nằm ngổn ngang, vì vậy giả làm xác chết cũng khá giống thật.
Thật rõ khéo, đúng như Trương Tiểu Biện đã đoán, thì ra có hai tên trộm đã nghe ngóng trong bãi tha ma làng Kim Quan có ngôi mộ triều trước, sau khi lần ra dấu vết và ra sức tìm kiếm, chúng đã đào được một cái hang dẫn vào tới nơi. Trộm mộ là công việc lén lút, muốn vội cũng chẳng được, đầu phải chuyện ngày một ngày hai mà xong, lại chỉ thích hợp làm vào đêm khuya, phải mất hơn nửa tháng trời, chúng mới đào được đến tầng gạch mộ .
Canh ba đêm nay, hai tên trộm mộ mang theo đồ nghề, tiếp tục lẻn vào hang, dùng địa lôi pahs tường mộ, thấy ngọn đèn chiêu hồn trong minh điện vẫn sáng, liệu chừng bên trong không cso khí độc, chúng liền thắp đuốc đi vào. Một tên khoác áo tơi bước vào trước tiên. Hắn thấy ở cửa hang có một thiếu niên da bọc xương, mặt mũi lem luốc, nằm ngay đơ rõ là một xác chết, không nén nổi ngạc nhiên, thốt nên:
- Ôi!...Quý phi nương nương trong mộ Kim Quan lại cũng có một tên đồng tử bồi táng theo cơ à, có điều thằng này hơi lớn thì phải.! Đồng tử tuẫn táng theo phải dưới mười tuổi mới đúng chứ.?
Gã trộm mộ đằng sau vội giục:
- Có khi là một tiểu thái giám chưa biết chừng. Hiền đệ chớ hỏi nhiều, chốn minh điện này kị nhát là hai chữ "tò mò" đấy, mau lấy các đồ tùy táng rồi rút cho sớm sửa, may ra kịp về Quan Hoa lâu trong thành tìm mấy em chơi bời cho đã"
Hai tên trộm mộ nóng lòng phát tài nên không xem kĩ Trương Tiểu Biện đang giả chết, trước tiên chúng đi quanh điện một vòng, thấy phía tường hậu bị động đất làm nứt ra một khe hở không đủ cho người lớn lọt qua cũng không thèm để tâm, quay thẳng ra chỗ bệ đá, thấy chẳng có quan quách gì ngoài thi thể của một thiếu phụ trẻ áo trắng, không đồ trang sức nằm trơ bên trên. Hai gã trộm xiết đỗi kinh ngạc vì thi thể được bảo quản quá hoàn hảo, chẳng khác nào người đang nằm ngủ, tưởng chừng chỉ cần sơ ý làm kinh động là có thể đánh thức bà Quý phi. Những xác chết mà không rữa không khô, một là do oán hận không tiêu, hai là đã hóa thành cương thi, ba là bị chết mờ ám, chờ được rửa oan, chẳng hiểu bà Quý phi này ra sao nữa..? Lạ lùng ở chỗ, một là không có quan quách, hai là không có đồ bồi táng. Tương truyền năm xưa cũng có người được mai táng đơn sơ bằng áo giấy và quan tài giấy, có lễ bao nhiêu năm qua, quan quách bằng giấy đã mục nát hết cả rồi, song không có đồ đạc chôn theo thì thật khiến người ta bực mình, đã trót uổng phí bao công sức, chẳng lẽ lại về tay không?
Trương Tiểu Biện nằm dưới đất nghe thấy hai tên trộm ngoạc mồm chửi bới, nghĩ thầm:
- Hai gã này chẳng biết gì, cả bao tiền vàng trang sức đã bị Tam gia nhà các ngươi gói gém hết rồi, đang giấu dưới mình đây này, các ngươi đã trộm hụt thì đừng nấn ná nữa, mau biến nhanh, biến nhanh đi... Hắn mong cho hai tên trộm bỏ chạy đi cho nhanh vì giả chết đã khá lâu rồi, cơ thể nằm trên đóng gạch đã bắt đầu thấy ê ẩm, muốn thở mạnh cũng không dám, không thể chịu nổi nữa.
Vẫn có câu, cướp chẳng về không, hai tên trộm sao chịu bỏ qua, thấy trên người Quý phi nương nương còn mấy bộ quần áo, liền hợp sức dùng dây thừng trói xác phượng lại, lột sạch từng cái một. Đáng thương thay Quý phi ngậm hờn mà chết, chiếc thân chín suối còn chưa hóa hết hình hài, tới bây giơ còn bị hai tên trộm lột cho lõa lồ không còn mảnh vải.
Hai tên trộm lấy xong quần áo, còn cạy lấy ngọc ngậm trong mồm và nhét trong hậu môn, những thứ lúc nãy Trương Tiểu Biện chưa lấy, đương định bỏ đi, chợt thấy xác phượng đã lột trần kia đúng là một tấm thân ngọc ngà tuyệt sắc đang nằm thiêm thiếp, chẳng giống người chết chút nào, chúng bỗng thấy người nóng ran lên, dục vọng trỗi dậy, nảy sinh tà niệm định giở trò đồi bại với xác chết. Hai gã thường đào trộm cổ mộ, từ xưa tới nay chưa từng trúng quả nào lớn, những tử thi trong quan tài, không phải rữa thì cũng thối, hoặc giả đã nát bấy, chừa lại mấy khúc xương, còn bà Quý phi này là loại người nào chứ..? Là đàn bà mà Hoàng thượng mới có thể ôm ấp đi ngủ, đêm nay thật là cơ hội trời cho, cớ sao không nếm thử qua một chút mùi vị của thằng cha Hoàng đế xem rốt cuộc thế nào?
Càng nghĩ càng thấy toàn thân nóng ran, miệng khô lưỡi đắng, hai gã tiện tay vục uống mấy ngụm nước mát trong ao, hòng mong nước mát sẽ đè nèn lửa dục vòng đang dâng lên trong lòng. Nói gì thì chúng chưa bao giờ giở trò đồi bại với xác chết, có điều đối mặt với tứ khoái thì họa may có thần tiên mới bỏ được, đứng trước xác chết đẹp tuyệtt rần thế này, mấy ngụm nước vừa rồi chửng những không thấm vào đâu mà còn khiến dục vọng trỗi dậy mạnh hơn. Chuyện gì đến sẽ đến, chỉ có trời đất mới biết, mày biết tao biết, còn phải do dự gì nữa.
Tú tài gặp nhau nói chuyện chữ nghĩa, đồ tể gặp nhau nói chuyện giết lợn, hai gã trộm mộ ở cùng với nhau thì bàn cái gì đứng đắn? Chúng xốc tinh thần cho nhau, rồi dùng dây gai treo cái cổ, buộc chập hai tay lại lên đề phòng cái xác có điều gì cổ quái sau đó hai tên nở nụ cười gian hiểm trèo lên bệ đá, định bụng làm một phen sung sướng phong lưu như thằng cha Hoàng đế...
Trương Tiểu Biện nằm ở góc điện không chịu nổi nữa, nghe thấy hai tên trộm cười hỉ hả chuẩn bị gian dâm với xác Quý phi, trong bụng hắn cũng có chút tò mò nhưng lại không dám sơ suất vọng động, chỉ e làm kinh động hai gã kia. Chợt trong phút chốc, gian mộ bỗng nhiên im bặt chẳng có động tĩnh gì, hai tên trộm nọ như đột nhiên biến mất, hắn không khỏi vừa hoảng vừa nghĩ, lại bứt rứt chờ đợi một lúc, thấy trong minh điện vẫn không có động tĩnh gì, mới nhè nhẹ quay đầu lên nhìn. Chỉ thấy hai tên trộm nằm phục trên cái xác lõa lồ của Quý phi, mỗi tên tay nắm một cán dao đâm vào ngực của đối phương, trên mặt vẫn còn cứng đờ một nụ cười dâm dục, máu chảy lênh láng trên mặt đất,chẳng ngờ đã chết được một lúc lâu.
Lời tác giả: "Kim trì ngọc dịch" (nước ngọc ao vàng) trong minh điện chính là một cái bẫy chí mạng, bọn phàm phu sao có thể biết được sự lợi hại của nó? Nếu uống phải nước này ắt sẽ phát điên tới chết, bị oán hồn bàm riết không thôi.
Trương Tiểu Biện vốn không biết duyên cớ bên trong, nhưng khi ngồi dậy nhìn thì chẳng thấy con mèo già bị nướng đâu nữa thì cũng đoán được một hai phần, thứ nước ma đó không thể uống bừa uống bãi, bằng không sẽ có ác quỷ theo đuổi. Hắn hết sức sợ hãi, vội đứng bật dậy, định nhặt tai nải châu báu kia rồi cướp đường chạy, chẳng ngờ vừa với tay sờ vào thì chẳng còn châu báu mà chạm phải một vật sống đầy lông mềm mềm. Ngọn đèn chiêu hồn trong điện chập chờn chực tắt, tiếng mèo âm u lại vọng về từ phía sau
Đúng là: "Bước vào tới cửa Diêm vương, Cho hay lúc sống mới nhường vui sao"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 4: Lâm Trung Lão Quỷ

Trương Tiểu Biện mò phải một con mèo già mềm mềm, thấy con mèo kêu lên những tiếng thê thảm như phán quan dưới Âm ty đòi mạng, bất giác chửi thầm:
- Đá mọc lông, gà trống đẻ, hay là tại kiếp trước ta không nên thân? Sao bao nhiêu quái sự trong gầm trời này cứ nhè đầu Tam gia ta mà đổ xuống vậy. Cha bố cái con mèo chết bầm, đừng có mà ám ông mày mãi nữa... Mặc dầu trong bụng lầm rầm chửi bới không thôi nhưng thực ra hắn đang sợ hãi tột độ, ba hồn bảy vía lên mây cả, chỉ giận đôi chân không mọc cánh để mau chóng rời khỏi đây. Song vì quá khiếp đảm. cộng thêm cái bụng đã lâu chưa được xơi gì, tuy muốn trốn chạy, chỉ hiềm nỗi lực bất tòng tâm.
Trong lúc tinh thần hoảng hốt, Trương Tam gia hắn tự dưng cảm thấy có một con mèo khoang to đang trèo lên đỉnh đầu, hắn ngỡ con mèo đó là ma quỷ biến ra nên đâu dám động đến, đành mặc con mèo khoang luồn lên luồn xuống một lúc giũa đỉnh đầu và vai.
Trươnbg Tiểu Biện chửi thầm con mèo chết bằm khinh người quá lắm, song lại không dám làm gì, đúng lúc ấy, trong góc gian mộ bỗng có một người nhỏm dậy. Ngôi mộ bà phi chết oan này bốn góc đều mờ mịt, âm u, chẳng trông thấy gì, Trương Tiểu Biện nào ngờ ở đó lại có người ẩn nấp, hơn thế nữa người này nhất định là đã có mặt trước khi hắn và hai tên trộm mộ tới đây, có trời mới biết kẻ đó là người hay ma quỷ nữa. hắn vô cùng kinh hãi chẳng biết nên làm thế nào cho phải, đành ngồi lặng một chỗ theo dõi động tĩnh của người kia. Đã đến nước này, hắn chẳng quản gì chuyện sống chết nữa, đành mặc cho số mệnh an bài thôi.
Chi thấy người kia thân thể gầy guộc nhỏ bé, dáng lòng khòng, nhin fbooj dạng hình như là một ông lão già nua, trên người khoác một tấm áo choàng màu tro rách rưới tả tơi, che mặt bằng một miếng vải đen, chẳng thể đoán ra tuổi tác, chỉ để lộ đôi mắt nhoang nhoáng như chớp, nhìn thế nào cũng không giống người sống.
Trương Tiểu Biện nhìn tướng mạo người đó, lòng thấy bất an, chẳng trách Quý phi tiểu nương tử không có quan tài, thi thể để trơ trơ trên bệ, thì ra cỗ quan tài đó đã tu luyện thành tinh rồi, biến thành một lão già gầy guộc. Tốt đã chẳng đến, đến thời chẳng tốt, lão già kia xuất hiện đúng vào lúc này, chỉ e là muốn lấy cái mạng của Tam gia ta rồi.
Nhưng ông lão gày gò từ trong góc tường đi ra kia lại chẳng tehfm để ý đên Trương Tiểu Biện. Lão đến thẳng chiếc giường đá vái cái xác một cái, sao đó thêm chút dầu cho đĩa đèn chiêu hồn trên tường, làm không gian trong mộ thất sáng sủa hơn, rồi mò mẫm một lúc trên xác hai tên trộm mộ xấu số, lấy ra một bao lương khô.
Lão già cầm bọc lương khô, run rẩy đi tới trước mặt Trương Tiểu Biện, ném mấy bánh lương khô xuống cho hắn, rồi cũng chẳng thèm nói câu nào, cứ giương đôi mắt nhìn chòng chọc vào Trương Tiểu Biện dò xét. Đôi mắt lấp loáng của lão nhìn chằm chằm, dường như thấu đến tận xương tủy của người ta, đến nỗi Trương Tiểu Biện nổi da gà, toàn thân khó chịu.
Đỉnh đầu Trương Tiểu Biện vẫn vắt vẻo con mèo, hắn hết nhìn lão già trước mặt lại ngó mấy bánh lương không trên mặt đất, tự dưng cơn đói nổi lên. Đã ở bước đường cùng thì chí khí cũng hết, lão yêu tinh quan tài ném lương khô ra đây, chắc hẳn là cho Trương Tam gia ta ăn rồi, ở đời cũng có lúc cũng phải khom lưng uốn gối, hắn vội vã thò tay nhặt mấy cái bánh, tọng cả vào mồm. Tuy mấy cái bánh đều đã khô nứt nẻ nhưng Trương Tiểu Biện hiểu rằng thứ nước suối trong mộ này, người sống không thể tùy tiện uống vào được, đành phải trợn mắt cố nuốt hết vào bụng.
Hắn vừa ăn nhồm nhoàm, vừa tự an ủi mình rằng " người không thể chống lại mệnh". Xem ra trước mắt Tam gia còn phải vất vả thêm một thời gian nữa, tục ngữ có câu "chớ khinh thiếu niên nghèo", người còn ít tuổi, ngày sau ắt sẽ phương trưởng, sông có khúc, người có lúc, biết đâu sau này tới lượt Trương Tam gia ta đổi vận, đến lcus đó, hôm nào chẳng có thịt mà xơi...
Trương Tiểu Biện không để ý đến lão già đang chăm chú nhìn mình, chỉ cốt sao cho đầy cái bụng, nhưngn hắn chợt nghĩ:
- Thôi chết .! Lão quan tài thành tinh này chắc đang thèm ăn gan uống máu ta đây, lão thấy ta gầy guộc nên mới vỗ béo trước rồi ăn thịt..?
Nghĩ tới đây, hắn bỗng hốt hoảng ngước nhìn lão già che mặt đứng đằng trước, trong miệng lúng búng mấy miếng bánh khô nhưng không dám tiếp tục nhai nữa.
Lão gài nọ chợt cất tiếng:
- Kẻ hậu sinh chớ sợ hãi, ngươi có biết lão phu đây là ai không..? Tiếng của lão rào rạo như tiếng cưa gỗ, nghe cổ quái lạ thường.
Trương Tiểu Biện thấy yêu quái quan tài mở mồm nói, thầm nghĩ nếu có thể cởi mở với lão, chuyện này mười phần chắc tám là có cơ hội xoay chuyển. hắn thường lưu lạc khắp nơi, thấy được sự đời nên cũng ít nhiều hiểu được lẽ thói đời ấm lạnh, mấy lối a sua bợ đỡ cũng biết cả, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, vả lại hắn cũng khá là khéo mồm, miệng trơn như bôi mỡ, giờ nghe lão già hỏi thế, vội cố nuốt ực miếng bánh trong miệng, đáp rằng:
- Tiểu nhân là Trương Tam, tuy không biết lão tiền bối là ai nhưng rõ là người nghĩa khí đường đường, chắc hắn là một trang hào kiệt ngày nay... "
Lão già nghe thấy thế, biết rằng Trương Tiểu Biện không rõ lai lịch của mình, liền gật gật đầu, dẫn Trương Tiểu Biện lại một phía tường mộ, dùng tay áo lau hết bụi bặm tên tường, làm lộ ra một mảng bích họa đầy màu sắc rực rỡ. Trong tranh vẽ vô số mèo: mèo khoang, mèo trắng, mèo đen... có con đang ngủ, có con nô đùa hoặc vồ chim sẻ, muôn hình vạn trạng tuy rằng thần thái khách nhau nhưng đều sống động như thật, thì ra là một bức bách miêu đồ thật đẹp.
Trương Tiểu Biện ngấm ngầm lè lưỡi, chắc là Quý phi tiểu nương nương này nuôi nhiều mèo trong cung lắm. Chết rồi còn muốn vẽ chúng lên vách mộ làm bầu bạn, nhưng không biết lão già này rốt cuộc có ý đồ gì khi cho Tam gia xem cái Quần miêu đồ này?
Trong bụng đang hồ nghi, hắn chợt nghe lão già phía sau hạ giọng nói:
- Nghĩ cách đếm đủ số mèo trong tranh, nếu sai một con thì cả đời nhà ngươi sẽ phải ở lại trong cái mộ Kim Quan này như ta, đừng mong nhìn thấy mặt trời nữa
Trương Tiểu Biện nghe lời này cuả lão thì thất sắc, trước nay hắn vốn biết chuyện ở chốn u minh không phải trò đùa, huống chi vừa ròi trong mộ có ma quỷ giửo trò, đích thân hắn đã nhìn thấy tận mắt, chuyện đã tới nước này, hắn không muốn tin cũng phải tin, chẳng lẽ lão già này cũng đang bị oán hồn trong mộ nhốt lại mà chẳng thể thoát thân hay sao?
Lão già vẫn trơ ra như tượng gỗ không chút sức sống, trên gương mặt bịt kín chỉ lộ ra cặp mắt vô thần, thấy Trương Tiểu Biện sợ đến ngây người, đành phải cất tiếng nói chuyện, kể cho hắn nghe đầu đuôi câu chuyện.
Thì ra bà Quý phi trong mộ Kim quan này lúc sinh thời nghiện mèo, yêu mèo thành thói, thường nuôi tới hơn một trăm con mèo đẹp, lại làm cho chúng rất nhiều thứ đồ chơi, tỷ như những chiếc giỏ tinh xảo, rèm gấm màn thêu... Cậy được Hoàng đế sủng ái, bà phi nghiễm nhiên biến nơi cấm cung đại nội thâm nghiêm thành vườn mèo, nhà mèo. Có điều những con mèo Quý phi nuôi đều là loại quý hiếm, tinh quái lạ thường, khiến cho Thái hậu kinh sợ, liên lụy đến bà phi nọ phải chịu thắt cổ đến chết.
Quý phi ngậm hơn mà chết, táng vào mộ Kim quan, Thái hậu ác độc lại thắt cổ hơn trăm con mèo Quý phi nuôi dưỡng, bất luận hay dở đều bị thắt cổ rồi đem chôn vào giếng vàng trong mộ thất. dòng suốt mát trong giếng vàng ấy là do oán khí của lũ mèo chết tháo ra, kẻ nào uống phải ắt sẽ gặp ma quỷ. Vừa mới rồi, coi như Trương Tiểu Biện cao số, nhờ địa lôi của bọn trộm mộ làm cho ngất đi giây lát, bằng không giờ đã sớm chầu Địa phủ rồi.
Trương Tiểu Biện nghe đến đây suýt rơi nước mắt, nghẹn ngào nói với lão già:
- Sao cái khố Trương tam tôi lại khổ thế hả trời? Bị con chó dữ đuổi lăn xuống đây, lại chưa từng làm tổn thương mảy may đến xác phượng của Quý phi nương nương, chả hiểu ma xui quỷ khiến thế nào, uống phải mấy ngụm nước mà rước họa đến nông nỗi này... Lão tiền bối chắc cũng cùng cảnh ngộ. Đến cả lão tiền bối cũng chưa từng đếm rõ số mèo trên tường, tiểu nhân trẻ người non dạ, chỉ e vô vọng mất rồi... Dám hỏi lão tiền bối quý tính đại danh là gì? Quê quán ở đâu? Sao lại có thể hiểu rõ tường tận nguồn cơn trong mộ đến thế ... Hắn tỏ vẻ thân thiết, hy vọng lão già đồng cảnh ngộ sẽ chiếu cố nếu hắn phải ở lại trong mộ suốt đời. Nhưng dầu sao trong lòng vẫn còn chút nghi ngờ, nói xong không khỏi đưa mắt liếc nhìn, dò ý tứ của đối phương.
Lão già kia dường như đã hơi mất kiên nhẫn, lạnh lùng nói:
- Lão phu vân du tứ hải, đâu cũng là nhà, sống đến chừng này tuổi rồi cả tên của mình cũng không nhớ nổi nữa. Ngày nay những kẻ biết lão phu đều gọi là Lâm Trung Lão Quỷ. Ta đã đợi trong mộ Kim Quan này nhiều năm rồi, đêm ngày giữ lăng mộ cho Quý phi, chỉ đợi người số cao phúc dày có thể đếm rõ số mèo trong Bách miêu mê hồn đồ... Nói đến đây lão già cất tiếng cười khan rào rạo như xẻ gỗ, sừng sộ nhìn Trương Tiểu Biện:
- Hà hà..biết đâu người đó chính là Trương Tam nhà ngươi.?
Trương Tiểu Biện sững sờ, mắt trông ngọn đèn chiêu hồn trong mộ nhòa đi, quỷ khí mờ mịt, càng nhìn càng tháy lão gài che mặt nọ không phải là người sống, huống hồ chính lão cũng tự xưng là "Lâm Trung Lão Quỷ" gì đó, có điều đổi thành "Mộ Trung Lão Quỷ" thì có vẻ hợp hơn. Lão quỷ này không phải là kẻ trộm mộ càng không giống như mình, đâm đầu vào chốn thị phi mà lạc tới đây, nghe ý trong lời của lão, có lẽ đã đợi trong mộ nhiều năm rồi, có trời mới biết rốt cuộc lão đã đang có âm mưu gì..? Nghĩ sâu hơn chút nữa, không khỏi khiến cho người ta sởn tóc gáy.
Nghĩ đến đây, Trương Tiểu Biện nảy ra ý định bỏ trốn, liền nói phụ họa:
- Thì ra lão tiên sinh đang đợi người, tiểu nhân có chút việc gấp, trong nhà còn mẹ già tám mưoi tuổi đang chờ bốc thuốc mang về, xin thứ cho tiểu nhân không hầu chuyện được nữa..
Nói xong, hắn vội xoay người ba chân bốn cẳng định bỏ trốn, bỗng thấy vạt áo sau lưng bỗng thít lại, người đã bị lão già tự xưng là Lâm Trung Lão Quỷ nắm chặt, quật thẳng vào vách mộ phía trước như ném một con gà con:
- Trước khi trời sáng, nếu không đếm được cho ra. Đừng trách lão phu vô tình
Trương Tiểu Biện đau đến thấu xương, bây giờ gọi trời, trời không thấu, gọi đất, đất không hay, đành mặc cho người ta sai khiến, bị bắt đi đếm" Bách miêu mê hồn". Lúc nãy hắn mới chỉ nhìn lướt qua bức tranh như cưỡi ngựa xem hoa, tới giờ trấn tính nhìn kỹ, chỉ thấy bọn mèo trên vách mộ phân bố nhất quán, dường như bên trong còn có ẩn ý gì.
Trước đây, nhưng con mèo mà Trương Tiểu Biện thấy đa phần đều xấu chẳng ai thèm nhìn. Thời ấy, nuôi mèo làm cảnh là cái thu tiêu khiển khi trà dư tửu hậu cảu các vương công qúy tộc trong Kinh thành. Một con Sư miêu hoặc mèo Ba Tư trắng tuyền là hàng giai phẩm, giá bán trong Kinh thành rất cao, còn trong làng ngoài xóm, ở chỗ châu phủ tâm thường, đa phần là những con mèo giặc, mèo hoang lem luốc, dẫu là thi thoảng có mèo nhà nuôi thì cũng chỉ là loại mèo mướp chẳng có phẩm cấp gì.
Trở lại bức tranh Bách miêu đồ trong mộ Kim quan, nửa phía trên đều là con mèo có phẩm chất cao, mặt tròn răng sắc, thần hình mâpk mạp, thần thái an nhàn. Những con đen tuyền thì như mây đen phủ tuyết, những con trắng tinh thì như bình ngọc ngân câu, những con có vằn hổ thì chẳng khác nào một quả tú cầu. Ở giữa bức tranh thì phẩm cấp mèo hơi kém hơn, càng gân chân tường thì phẩm cấp càng thấp.
Dưới cùng là bốn mèo con gày gò giống hệt nhau, chỉ có mỗi đôi mắt là sáng lóa, không mất đi thần thái. Chúng dường như cùng một bọc sinh ra. Trương Tiểu Biện nhớ ngày trước ở làng Kim Quan cũng có một con mèo hoang sinh tư, mấy ông già hiểu biết về mèo trong làng bảo rằng, mèo sinh càng ít càng quý, một con thì quý hai con thì đần, ba con thì kém, nếu sinh tư thì gọi là "đài kiệu tử"(phu khênh kiệu), chẳng có giá trị gì mà còn hay chết non.
Trương Tiểu Biện xem đến đây, trong lòng nghĩ ngợi:
- Hẳn là thằng cha Hoàng đế thương phi tử xinh đẹp chết thảm, nên tìm tay thợ khéo vẽ đám mèo mà tiểu nương tử vẫn nuôi lên vách mộ để làm bầu bạn. Cứ như trong tranh, Quý phi tiểu nương tử này lúc sinh thời hễ có mèo là nuôi tất, chẳng kể hay dở. Bây giờ, cái mạng nhỏ của Trương tam gia sắp chẳng bằng bốn con mèo con "khênh kiệu" kia rồi, chỉ cần sơ ý một chút là bị lão quỷ tử kia khử ngay. Các vị mèo tổ tiên trên trời nếu có linh thiêng, nhớ phù hộ cho Tam gia không đếm sót,. Nếu giữ được mạng, sau này ta sẽ bỏ tiền mời thầy chùa, thầy cúng tới lập đạo tràng cầu siêu cho các vị sớm siêu thoát .
Hắn vừa lẩm nhẩm cầu khấn vừa đếm kĩ số mèo trên bức bích họa, đếm đi đếm lại, sau, bảy lần, càng đếm thì mắt càng hoa, đầu càng loạn, dường như bọn mèo trong Bách miêu đồ đều đang sống vậy, trông thì tưởng đứng im thật ra đang trốn đông chốn tây. Hai mắt hơi mất tập trung một chút là bức tranh lập tức biến đổi khác hẳn, cứ mỗi lần đếm lại ra một kết quả khác nhau, đếm đi đếm lại chỉ biết được đại khái trong bức tranh có khoảng một trăm mười mấy con mèo, nhưng rốt cuộc có bao nhiêu con thì không tài nào đếm ra được.
Trương Tiểu Biện càng thêm hoảng loạn, dã đờ đẫn rồi mà vẫn muốn đếm tiếp, bỗng nghe phía sau có âm thanh khác lạ, vội quay đầu lại nhìn, chỉ thấy cái xác vẫn chưa hóa đi của Quý phi không động đậy, nhưng móng ta đột ngột chìa hẳn ra, những đốt tay cương cướng phát ra những tiếng răng rắc.
Lão già từ đầu đến cuối chăm chú theo dõi Trương Tiểu Biện, cũng nghe thấy tiếng động, lạnh lùng liếc sang xác phượng lẩm bẩm:
- Hai thằng trộm ngu xuẩn, đã biết đào mộ mà không biết vật ngậm trong mồm cương thi không được lấy ra hay sao..? Đã dám cậy lấy ngọc lại còn định giở trò đồi bại, đúng là chán sống...
Rồi lão giơ tay nắm chặt vai Trương Tiểu Biện, gặng hỏi:
- Hôm nay ngày xấu, không được làm kinh động chủ nhân nữa. Nói mau! Trên vách có bao nhiêu con mèo..?
Có câu rằng:
- Một lời có thể gây nên họa; Chưa nghĩ cho sâu chớ nói càn... Sống chết trong đường tơ kẽ tóc, ai dám bạo mồm nói bậy.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 5: Úng trủng sơn

Lại nói, một già một trẻ trong mộ ngoảnh lại thấy xác phượng của Quý phi, vốn bị hai tên trộm mộ trói lại định giở trò đồi bại, các đốt xương phát ra tiếng kêu khiến người ta kinh hoàng. Lão già liền lấy miếng ngọc đặt lại vào miệng Quý phi rồi thúc Trương Tiểu Biện mau đếm mèo, bởi thời gian chẳng còn lại là bao.
Trương Tiểu Biện bị lão già nọ bức bách, trong lúc khó chợt ló cái khôn. Bọn mèo trong tranh thoạt trông tưởng chừng rối loạn không lề lối, thực ra đều có quy luật, ngầm bày theo thế Cửu cung, làm gì có Bách miêu đồ, rõ rành rành là một đạo phù lục trấn mộ. trước đây, hắn từng theo học một đạo sĩ vân du đoán quẻ, biết được vài ngón vẽ bùa chú lừa tiền của đám thuật sĩ giang hồ, riêng Cửu cung Bát quái thì đã thuộc lòng từ lâu, nhận ra bức bích họa ngầm ẩn dấu một đạo bùa, bèn thầm tính toán một hồi, đoạn mới định thần nhìn lại, phát hiện ra chỗ hiểm hóc trong tranh, có lẽ đạo bùa ẩn trong tranh dùng để trấn yểm tà ma, một khi phá giải huyền cơ, gỡ bùa này ra chẳng biết có gây ra tai họa tày trời gì chăng?
Nhưng Trương Tiểu Biện đang bị thúc ép, chỉ mong giữ được cái mạng nhỏ bé của mình, chỉ vào Bách miêu đồ trên vách mộ nói:
- Thực ra, cái Bách miêu đồ này là một câu thần chú để trấn mộ, "thập dương chí hạ nãi dư cô, thất tương bát tráng cửu vi huyền". Án theo thế Ngũ lôi tổng nhiếp trong Cửu cung đồ mà xếp ra, tiểu nhân to gan đoán thử, trong bức tranh có tổng cộng một trăm hai mưoi bốn con mèo... . Nói xong vội nhìn phản ứng của lão già, trong lòng chỉ sợ tính nhầm thì mạng này lập tức đi tong.
Chỉ thấy cặp mắt của lão già bịt mặt tự xưng là Lâm Trung Lão Quỷ ấy khô khốc thất thần, chẳng mảy may lộ vẻ vui buồn, nếu lão không mở mồm nói, chắc Trương Tiểu Biện sẽ lầm tưởng là một cái xác khô vừa mới lôi lên từ trong đám bùn. Đợi một lúc, lão già mới chầm chậm gật đầu, nhả tay ra khỏi cổ Trương Tiểu Biện và kể cho hắn một câu chuyện.
Lâm Trung Lão Quỷ tự xưng là người biết đoán quẻ, bói ra rằng trong đám người lạc bước vào ngôi mộ này ắt có kỳ nhân đếm rõ được số mèo trong Bách miêu đồ. Người này không những mạng lớn mà còn có vận số cực tốt, số trời đã định sẽ trở thành đại gia giàu có, vì vậy, lão mới ẩn nhẫn đợi bấy lâu trong mộ để giúp đỡ cho người ấy, hôm nay cuối cùng cũng đã đợi được Trương Tiểu Biện đến, thật là :"Cho hay muôn sự tại trời, nhọc lòng chi mấy kiếp người phù du"
Trương Tiểu Biện nghe đến đó, nghĩ bụng:
- Chuyện như vầy mà Tam gia ta cũng gặp phải à? Xem ra đây là lúc vận ra phát, nên mới định sẵn cuộc gặp gỡ này". Có điều mấy năm nay hắn đều sống trong cảnh cùng khổ, bước được bước nào hay bước ấy, chẳng có nơi nương tựa, tuy vẫn thường tự an ủi mình: muôn sự công danh, phú quý đều do trời định, song cũng không khỏi hồ nghi số mình sau này liệu có lúc được mở mày mở mặt hay chăng, đâm ra chí vươn lên sớm đã nguội lạnh phần nào, huống chi lão già trong mộ này cổ quái lạ lùng, lời của lão làm sao khiến người ta tin nổi?
Lâm Trung Lão Quỷ thấy Trương Tiểu Biện trợn mắt há mồm, liền nói:
- Cứ thử xem xưa nay, biết bao nhiêu kẻ đua danh đoạt lợi..? Trong ấy có bao nhiêu kẻ có phận mà không có phúc, đáng giàu mà không được giàu, đáng sang mà chẳng được sang. Trương Tam gia nhà ngươi tuy có cốt hoàng kim đấy nhưng chưa từng được cao nhân chỉ rõ đường mê, thực là uổng thay. Nếu tin lời lão phu, lão phu sẽ giúp người trở thành một kẻ đại phú đại quý trên đời này. Lão phu chẳng có mong mỏi gì khác, chỉ là kẻ có duyên với ngươi, không nỡ để ngươi ôm bát vàng đi ăn xin, thế nên mới điểm háo cho, âu cũng là để lại một khối duyên lành"
Trương Tiểu Biện vốn nóng lòng trở thành kẻ phú quý từu lâu, nghe đến đấy đã tin được bảy tám phần, liền cúi đầu xuống vái liến thoắng nói:
- Đa tạ lão tiền bối giúp đỡ cho. Nếu sau này tiểu nhân thật có phúc được ở nhà vàng, cưới người ngọc thì cả đời cả kiếp không bao giờ dám quên đại ân đại đức, nhất định sẽ xây mộy ngôi sinh từ cho lão nhân gia, tháng nào cũng thắp hương, năm nào cũng cúng tế"
Lâm Trung Lão Quỷ cười khan mấy tiếng: "Trương Tam gia à! Trương Tam! Lão phu chẳng ham hố gì cái sinh từ nhà ngươi. Ngươi muốn có được nhà vàng người ngọc, hà hà... có gì mà khó? Chớ nên vội vã, người ta ở đời phải có lấy một cái nghề hộ thân mới lập thân xử thế được, bằng không dẫu cho gia sản ức vạn cũng sớm muộn đến lúc miệng ăn núi lở àm thôi. Đêm nay lão phu sẽ truyền cho ngươi một pho bí thuật, tài vận vô cùng vô tận của ngươi đều nằm cả trong đó đấy"
Trương Tiểu Biện sướng đến phát điên, vội vã rập đầu mấy cái trước lão già. Lâm Trung Lão Quỷ liền đem dạy cho hắn một kỹ thuật ngay trong ngôi mộ cổ, đó là kỹ thuật gì? Thảy đều là kỹ thuật "xem mèo đoán chó, hiểu cá biết chim" Muôn vật trong vòng trời đất vốn biến hóa khôn cùng, muôn người là muôn bộ mặt, nghìn người là nghìn tính cách, vì vậy từ thời cổ đã có thuật xem tướng đoán mệnh, trời đất lại chia ra núi non sông suối, có cái lẽ động tĩnh, có cái đạo phong thủy, thế nên mới có việc xem đất, nhìn nước để đặt hướng nhà, hướng mộ, Nhật nguyệt chuyển động, tinh tú biến ảo, thiên tượng cũng có thể biểu hiện lành dữ, vì vậy mới đặt ra tào khâm thiên giám xem tinh tượng để đoán xem việc phúc họa; nhưng từ xưa tới nay chưa từng nghe việc xem mèo, xem chó cũng hợp với đạo lý đó bao giờ.
Các vị độc giả chưa biết đấy thôi, người đời xưa nay vốn không hiểu biết rõ về muôn loài sinh vật, chỉ nắm được đôi nét phiến diện về chúng như thầy bói xem voi mà thôi. Tuy cũng biết rằng "sẻ đưa thư, chó biết chữ, vẹt cất lời, khỉ thích rượu", nhưng đó đều là những loài vật có kinh tính không hiểu tiếng người, chứ chẳng hề biết rằng cả những loài tầm thường như gà lợn, mèo chuộy cũng thường ẩn giấu những thần vật dị hiếm có trên đời.
Ví như loài ngựa xưa nay cũng có lối phân hạng ưu khuyết, thậm chí trong loài ngựa thiên lý lương câu, cũng còn chia thành Ngọc hoa lưu, Vân yên báo... ? Trong loài chuột cũng có loài Táng môn khôi, Quan tài chủy, sóc còn có Bích tiên yêu, tiêu túc hổ... Lâm Trung Lão Quỷ truyền cho Trương Tiểu Biện dị thuật " Vân vật thông tải" để phân biệt các loại chó mèo, chim cá. Trước tiên lão giảng kỹ một lượt, đoạn đem hết đồ hình và khẩu quyết ra dạy cho hắn.
Trương Tiểu Biện những tưởng được học những thuật giàu sang phú quý như điểm đá hóa vàng, biến chỉ thành bạc, nhưng hóa ra chỉ là những đạo lý về mèo chó thông thường, chẳng đem kiếm ăn kiếm mặc được, không khỏi cảm thấy bực mình, thầm nhủ tám phần là lão yêu quan tài này gạt mình rồi, uổng công ta hoan hỉ mà chẳng được gì, nhưng cũng không dám mở miệng nói ra, chỉ đành ngoan ngoãn học tạm.
Kế đó lão già gầy guộc như khúc củi khô ấy bắt Trương Tiểu Biện lấy những món trang sức trong tay nải ra, đeo lại tề chỉnh lên thi thể của Quý phi nương nương. Lão bảo Trương Tiểu Biện: "Chẳng phải ta không muốn cho ngươi những thứ vàng ngọc này, nhưng với bộ dạng rách rưới của nhà ngươi mà mang theo những đồ của hoàng cung đại nội, chỉ e khi vào đến tỉnh thành, chẳng những không ai dám tiêu thụ chúng mà bọn công sai còn bắt bớ, tra hỏi việc trộm mộ cổ nữa" Nói xong lão móc lương khô và ít bạc vụn trong xác hai tên trộm mộ đưa cho Trương Tiểu Biện làm vật tùy thân.
Trương Tiểu Biện chỉ được con săn sắt mà không bắt được con cá rô, trong lòng ngao ngán, rề rà trả lại đống châu báu về cho nguyên chủ.

Lời tác giả: Mọi việc trên đời đều do cơ duyên nhân quả mà ra, tuyệt không có gì là vô duyên vô cớ cả. Dầu cho anh xoay xở cách nào đi chăng nữa cũng không bao giờ thoát khỏi tiền nhân hậu quả. Lão già tự xưng là Lâm Trung Lão Quỷ không phải thân thích, không phải bằng hữu với Trương Tiểu Biện, lại chẳng nợ nần gì hắn, sao lại đem bí thuật ra truyền thụ? Thì ra đúng là lão có một âm mưu tày trời không thể bày tỏ cùng ai. Chẳng phải lão muốn làm việc thiện mà thực chất là ngấm ngầm gieo vạ, trong mười câu thì có tới tám câu nói láo để bip kẻ tham lam phú quý là Trương Tiểu Biện. Có điều đó là việc về sau này, tạm thời chưa nói ở đây.
Sau khi trả lại đồ trang sức liệm trên xác phượng, Lâm Trung Lõa Quỷ liền dẫn Trương Tiểu Biện tới đường vào mộ, cất giọng khô khan:
- Lão phu biết ngươi đang không còn kế sinh nhai, nhưng chỉ cần nghe lời lão phu, nhẫn nhịn thêm mấy ngày nữa, ngẫm nghĩ kĩ cái lẽ của muôn vật, ngày đổi đời không còn xa nữa. Cách làng Kim Quan không xa có một ngọn núi tên là Ứng Trửng, một hai ngày nữa sẽ có mưa to gió lớn, lúc tạnh mưa, người trong làng sẽ lên núi cả, lúc ấy ngươi phải làm thế này, thế này... phải nhớ kỹ đấy! Thời giờ không còn sớm nữa, không tiện ở lâu trong khu mả này, chúng ta từ biệt ở đây. Về sau, nếu ngươi gặp khó khăn, lão phu nhất định sẽ đến giúp đỡ, đảm bảo ngưoi được vinh hoa phú quý, hoan lộ thênh thang
Trương Tiểu Biện vẫn còn muốn hỏi thêm, nhưng bị lão già đẩy vào lưng một cái, lảo đảo ra khỏi cái hang mà bọn trộm mộ đã đào, ngoảnh lại phía sau chỉ thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ nghiêng ngả trong đám gò mộ ngổn ngang. Lúc ấy, bên tai văng vẳng tiếng gà làng Kim Quan gáy ở phía xa xa, đằng Đông đã ló sáng.
Trương Tiểu Biện ngơ ngẩn trở về ngôi chùa cổ trong làng, miên man nghĩ về cuộc tao ngộ huyền hoặc đến nằm mơ cũng không thấy trong ngôi mộ cổ vừa rồi. mới thấy rằng, phúc họa chưa biết thế nào, con người không thể lường được. Cả đếm không ngủ nên hắn mệt rũ người ra, lại thêm một phen sợ hãi, tinh thần sức lực đều chẳng còn, liền ngả người lên bệ tường phật, ngủ không biết trời đất trăng sao gì nữa.
Chẳng rõ bao lâu sau, bỗng có một tiếng sấm rền, ông trời trút xuống một trận mưa lớn, gió mưa sấm chớp kéo dài trọn một ngày đêm. Trong vòng mấy mươi dặm, nước ngập lai láng song người dân trogn làng Kim Quan lại rất vui mừng. Vốn trong một năm nhà nông chỉ canh tác được một vụ, mùa xuân gieo hạt, mùa thu thu hoạc, dân trong vùng thường có câu ngạn ngữ là, "tháng Ba ngày tám, thần tiên cũng ngán:. Thời điểm ấy đương là lúc giáp hạt, lại thêm nạ binh hỏa liên miên, quá nửa đồng ruỗng đã hoang hóa, đến những nhà được cho là giàu có khi xưa, tới giờ đều đã hết lương thực dự trữ, người dân thường thì càng được bữa nay no bữa mai đói, nhịn đói đã trở thành chuyện cơm bữa. Tuy vậy ở ngọn Ứng Trủng cách làng không xa, có mấy khe bùn lầy, sau mỗi lần mưa lớn, có rất nhiều con cóc ngóe tránh nước ngập, nhảy tràn lên sườn núi.
"Cóc ngóe" theo cách gọi của người địa phương chính là loại mà người đời vẫn gọi là con ếch. Những con ếch trong bùn lầy do có nguồn thức ăn phong phú nên vừa to vừa béo. Sau cơn mưa, từng đán ếch lớn nhảy khắp sườn núi, đó chình là thời cơ để dân làng giải quyết việc thiếu thốn lương thực. Ai nấy đều mang mấy chiếc bao gai lên núi thả sức bắt ếch. Đi bắt một ngày có thể bắt đầy mấy bao to, để lại nhà ăn không hết còn bao nhiêu chỗ ếch thừa nhân lúc chúng còn tươi sống, chưa chết ngạt thì mang vào thành đổi lấy chút gạo dầu mắm muối. Các tiệm ăn trong thành có cách chế biến rất cầu kỳ, ninh trong nồ đất với rượu Hoa Điêu, để lửa nhỏ lim rim, thêm nấm đông cô, măng tươi, chân giò gia giảm cho thơm ngon, chuyên phục vụ các nhà quý quyền lắm tiền nhiều của, cũng được coi là món đỉnh trong các thực đơn.
Lần này, sau khi ngừng mưa, trời vừa hửng, các nhà trong hộ làng đã giục trai tráng, rủ nhau từng tốp lên núi bắt ếch, đến cả mụ Vương quả phụ cũng chẳng thèm để ý bắt tên trộm gà nữa, thúc đứa con gái Tiểu Phượng chuẩn bị bao tải gai và lương khô, lên Ứng Trủng bắt ếch. Cùng đi có một đám nữa, toàn là người quen trong thôn, Lưu Nhị, Lý Tứ, Tôn Đại Ma Tử, Trương Tiểu Biện cũng trà trộn trong đám ấy.
Đi một lát đã đến Ứng Trủng, đó là một ngọn núi hoang lớn, chỉ vì có hình ung ủng như một ngôi mộ vò chôn người chết, nên được đặt tên như vậy. Những người lớn tuổi trong thôn đánh xe lừa đến dưới chân núi đợi, còn lại đều tất tả chống gậy, vác bao tìm lối mòn trèo lên ngọn núi hoang.
Trương Tiểu Biện không bụng dạ nào bắt ếch cùng đám người làng, chỉ mải suy nghĩ về những gì lão già trong mộ cổ đã mách bảo, giờ thì việc mưa xuống và lên núi đều đã ứng nghiệm cả, xem ra chuyến này chẳng mấy chốc mà đại phát, trong lòng mừng thầm hắn bam cây vạch cỏ đi lên núi.
Ứng Trủng là một ngọn núi hoang rất lớn, thế núi thoai thoải không dốc, nhưng cỏ cây um tùm, không có lối đi. Trương Tiểu Biện cậy chân cẳng nhanh nhẹn, băng rất nhanh qua đám cỏ lác, đáng hồ hởi bước đi bỗng thấy tai bị người nào đó véo. Đau quá, hắn mếu máo quay lại nhìn, thì ra là Tiểu Phượng con gái mụ Vương quả phụ.
Tiểu Phượng dựng đứng đôi mày lá liễu, véo tai Trương Tiểu Biện mắng:
- Trương Tiểu Biện, mày hay mò vào nhà tao trộm gà khiến mẹ tao ức đến nỗi trúng gió nằm liệt ra đấy. Phải xúc đầy năm bao ếch cho tao, tao mới tha.!
Trương Tiêu Biện tức lắm, con nhà đầu Tiểu phượng ghê gớm chẳng khác mụ Vương quả phụ mẹ nó chút nào, Trương Tam gia ta trộm gà ở nhà mẹ con bay nhưng đã bao giờ thất thủ bị bắt quả tang đâu, bây giưof lại có chứng cớ gì mà đổ cho ta, thực là vô lý hết mức. Trương Tiêu Biện vừa định phản ứng, thì Tiểu Phượng đột nhiên véo tai hắn mạnh hơn nữa khiến hắn đâu đớn gào thét, định vùng thoát ra nhưng lại sơn tai mình bị đứt, phá hỏng mất tướng đại phú quý của mình. Hảo hán trả thù mười năm chưa muộn, hắn đành hạ giọng nói:
- Thương nhà mày chỉ có hai mẹ con, không có đàn ông, hôm nay tao giúp bắt năm bao tải ếch là được chứ gì..?
Tiểu Phượng biết gã Trương Tiểu Biện mồm mép rảo hoạt, để sổng ra ắt sẽ chối bay chối biến, liền gọi người làng tới, bắt Trương Tiểu Biện hứa trước mặt mọi người mới chịu buông tay. Trương Tiểu Biện tính tạm thời còn phải lăn lộn trong làng Kim Quan một thời gian, tất nhiên không thể để người ta coi mình là loại nói không giữ lấy lời, đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, làm không công cho nhà Tiểu Phượng phen này. Nhưng trong lòng hắn cũng không khỏi uất hận, thầm nhủ đợi sau này phát tài, nhất định sẽ mua con Tiểu Phượng, bán cho thanh lâu tiếp khách, lúc ấy thì bay mới biết sự lợi hại của Tam gia ta.
Hắn mải nghĩ lung tung, liền bị Tiểu Phượng thúc đi lên sườn núi cùng mấy chục người làng. Ở đó cỏ hoang dần thưa thớt, mọi người dùng gậy đập loạn xuống đất làm kinh động đám ếch đang trốn bên trong. Ngay lập tức, cả nghìn con ếch to tướng đồng loạt nhảy toán loạn, cảnh tượng thật hết sức hoành tráng, khiến người ta nhìn hoa cả mắt. Mọi người thấy ếch nhiều như vậy, nhiều hơn tất cả những năm trước đây, ai nấy đều vui mừng ra mặt, hò nhau đón đầu chặn bắt.
Ếch là loài ngu xuẩn nhảy nhót lung tung khắp trên mặt đất, bị người ta nhặt cho vào túi như nhặt đá. Đợi khi bao đầy, họ chuyển dần xuống chân núi, đưa cho những người đánh xe lừa buộc lại. Dần dần bọn ếch bị đuổi vào chỗ khe núi, đám bắt ếch đang hứng khởi nhưng vừa đến cửa khe thì đều dừng lại, dẫu không cam lòng nhưng chẳng ai dám đi tiếp vào bên trong.
Kẻ đứng đầu đám người làng là Tôn Đại Ma Tử, chỉ vào khe núi bảo:
- Cái chỗ phía trong kia là rãnh Mỹ nhân của Ứng Trủng sơn, địa thế hiểm yếu lắm, xưa nay chưa có người nào đi qua cả, trong đó có một con yêu quái, thường hút não tủy của người sống, chúng ta chớ có tiến thêm nữa
Trong lòng Trương Tiểu Biện sớm đã có toan tính, đang định vào khe Mỹ nhân một phen, nghe Tôn Đại Ma tử đòi quay về thì làm sao chịu? Hăn vội nói khích mọi người:
- Chỗ bùn lắng bên trong khe núi là nơi chứa nước, chứa bùn, cũng chính là nơi ếch nhiều nhất. ĐẠi Ma Tử đã không biết thì đừng làm nản lòng mọi người, trong rãnh Mỹ nhân... đương nhiên là phải có mỹ nhân. Giữa lúc trời quang mây tạnh, sáng sủa thế này, chúng ta lại có mấy chục người, sợ gì cơ chứ?
Tiểu Phượng ngạc nhiên nói:
- Mày làm sao mà biết bên trong có người đẹp..? Tao chỉ nghe mẹ tao nói bên trong chỉ có một mụ cương thi mỹ nhân chuyên ăn tim gan của người ta thôi...
Trương Tiểu Biện sợ Tiểu Phượng phá hỏng chuyện lớn, không để cô ả nói hết câu, đã vội vàng bịt mồm lại, rồi hô vang với cả đám người:
- Mới xúc được hơn trăm bao làm sao mà đủ..? Vị hảo hán nào muốn xúc thêm ếch thì đi với ta. Nói xong hắn vác bao lên lưng, kéo Tiểu Phượng, nhón chân bước vào trong núi hoang.
Thật là: "Cũng bởi núi non còn mãnh hổ; Mới xui hảo hán giả tiều phu"Muốn biết bọn Trương Tiểu Biện gặp kỳ ngộ gì trong núi, xin xem hồi sau sẽ rõ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 6 đến hồi thứ 8
Hồi Thứ 6: Cương Thi Mĩ Nhân

Trương Tiểu Biện xúi giục đoàn người đi vào núi sâu bắt ếch. Người làng Kim Quang đương lúc thóc cao gạo kém, nhiều nhà mấy ngày không đỏ lửa, bấy giờ thấy ếch trong núi rất nhiều, lòng tham đã nổi lên, thì chẳng gì ngăn được nữa. Họ bỏ ngoài ta truyền thuyết về cương thi trong khe núi, cùng nhau tập hợp lại, chuẩn bị đi theo Trương Tiểu Biện tìm đến đầu nguồn của cái khe bùn lầy.
Người trong làng đều biết Trương Tiểu Biện là "Trương gan lớn". Thường ngày, hắn vẫn một thân một mình ở trong ngôi miếu nát, vốn chẳng sợ quỷ thần, lại thêm mồm mép nhanh nhảu, những chuyện chơi bời, du hiệp trong làng đều không thiếu mặt hắn, trong lứa đồng niên ở làng, hắn cũng kết giao khá rộng. Đám dân làng đi bắt ếch này phần lớn là cánh sinh cùng năm với Trương Tiểu Biện, nói chung đều là hạng cùng trang lứa cả, trong đám ấy thì Tôn Đại Ma Tử là cao lớn khôi vĩ nhất, lại còn biết một chút quyền cước côn bổng, tính tình trung hậu, ngay thẳng, vì vậy trước giờ mọi người đều coi gã là đàn anh, chẳng ngờ lần này lại bị thằng oắt Trương Tiểu Biện cướp lấy cờ đầu, trong lòng lấy làm bực tức, gương mặt mụn bạnh ra, giơ cây gập lên, cản cả đám lại.
Trương Tiểu Biện xưa nay là kẻ biết lựa theo chiều gió, tự hiểu rằng nếu lấy cứng chọi cứng, ắt mình không bằng gã Tôn Đại Ma Tử to khỏe này, vội vã quay lại nói với mọi người:
- Làng chúng ta có anh Đại Ma Tử, xem thân thủ ấy đúng là một bậc anh hùng, cử chỉ lại hết sức đĩnh đạc đường hoàng, có bậc hảo hán chọc trời khuấy nước này cùng chúng ta đi bắt ếch, thật đúng là như hổ thêm cánh, dẫu cho trời sập cũng chẳng sợ gì."
Tôn Đại Ma Tử nghe Trương Tiểu Biện nịnh mình "thân thủ anh hùng, cử chỉ đĩnh đạc", trong lòng lấy làm dễ chịu, cũng thấy mình ngời ngời hẳn lên, lập tức toét miệng cười ngờ nghệch, bảo:
- Tam đệ nói có lý lắm, trong núi dẫu nguy hiểm bao nhiêu chăng nữa, chỉ cần mỗ có cây côn này trong tay thì chẳng lo gì. Nhưng giờ cũng trưa rồi, bọn ta mải miết cả nữa ngày, chưa ai có gì nhét vào bụng cả, chi bằng xuống núi gầy lò thổi cơm đã, ăn uống no say, rồi ta vào khe Mỹ Nhân bắt ếch, cố gắng ra về trước khi trời tối.
Cả bọn làm lụng từ sáng nên cũng đói lả, nghe thấy vậy đều đồng thanh khen là phải rồi vội xuống chân núi. Đám người làng giữ xe lừa đã đào bếp bắc chảo từ nãy, đem ít khoai tây, củ cải mang sẵn từ nhà thái thành một đống lớn, đổ thêm nước vào chảo, gia giảm thêm ít rau cỏ dại, đun riu riu một lúc cho nước hơi sôi lên.
Đợi đám bắt ếch đi xuống hết, họ mới thêm củi lửa, đun nước sôi sùng sục, bắt mấy con ếch béo còn đang giãy đành đạch, rồi cũng chẳng lột da làm thịt , cứ thế ném thẳng vào chảo nước sôi, rồi nhanh tay đậy chặt vung lại. Lúc ấy liền nghe tiếng bọn ếch trong chảo lục đà lục đục, một lát sau, nước lại sôi lên sùng sục, trong chảo bộc lên mùi thơm nức mũi, mở nắp chảo thấy bọn ếch đã bị luộc chín, con nào con nấy phùng mang trợn mắt ôm chặt lấy một miếng khoai tây hoặc củ cải. Cũng bởi những con ếch bị luộc sống, trước khi chết đau đớn, khổ sở vô cùng, chỉ còn cách ôm chặt lấy khoai tây, củ cải, đến chết cũng không buông.
Bọn người làng ăn ếch hầm, thường vẫn hay dùng cái cách tàn nhẫn này. Họ vớt con ếch nóng hôi hổi trong chảo ra, cắn miếng ếch cùng với khoai tây và củ cải nó đang ôm chặt, mùi vị thơm ngon còn hơn cả thịt gà tơ. Cả mấy năm nay trời không mưa lớn, lại gặp đúng kỳ giáp hạt, bình thường một ngày hai bữa, đến củ cải, khoai tây cũng không đủ no. Dân làng đã lâu không được ăn tươi, ngửi thấy mùi thịt thơm, đều chảy hết cả nước dãi, ăn ngấu ăn nghiến, một lắt đã sạch nhẵn.
Đám ngu dân coi chuyện lên núi bắt ếch sau mưa như ngày hội được mùa, mà đâu biết đến lẽ trời tuần hoàn, báo ứng chẳng sai chẳng sót, hẵng tạm chưa bàn đễn cái nhẽ nhân quả, sâu xa ở bên trong "đời này người ăn ếch, kiếp sau ếch ăn thịt người", trước mắt tai họa tày trời sắp giáng xuống mà đám người làng vẫn mải mê ăn uống, đâu biết rằng kiếp nạn này sẽ không ai thoát nổi.
Trương Tiểu Biện và đám Tôn Đại Ma Tử ai nấy no căng, hương vị bữa ăn hồi lâu sau vẫn còn đọng lại trong mồm, cảm tưởng như người sống trên cõi đời này nếu ngày nào cũng được xơi bữa ếch hầm thì sống cũng chẳng uổng phí, thấy sắc trời đang đẹp, cả đám liền xoa tay xoa chân đi lên lần nữa, định bụng bắt sạch bọn ếch đang trốn trong hõm núi.
Phía sau núi Úng Trủng là một vùng hoang vu. Lũ quét đi qua, nước lớn từ trên núi đổ xuống nhánh chính của dòng sông đầy bùn, còn những con lạch khác thì chẳng có chút nước nào, giờ bên trong khe núi ngập đầy bùn lầy, bùn lầy hòa lẫn với cỏ nát ngập quá gối, bước đi bước nào là trơn bước ấy, chẳng tìm đâu ra chỗ nào đặt chân. Mọi người vất vả tiến bước, đi vòng qua khe núi, thấy trước mắt hiện ra một khe lạch lớn đầy bùn, "rãnh Mỹ Nhân" trong truyền thuyết chính là đây rồi. Nghe đồn, trong đám bùn lầy nước đọng có một cỗ cương thi thành tinh. Lúc bấy giờ tuy mặt trời đang trên đỉnh con sào, song đứng cạnh rãnh sâu trong khe nũi hoang này, người ta vẫn cảm thấy khí âm rờn rợn, hơi tanh xộc vào mũi.
Chỉ thấy trong rãnh có rất nhiều bùn lầy do cơn lũ vừa quét qua để lại, vô số ếch lớn ếch bé chồng chất bên trong, không dưới mấy vạn con. Dưới ánh mặt trời, bọn ếch lúc nhúc trong hố khiến người ta phải sởn da gà. Đám Tôn Đại Ma Tử hết sức vui mừng, chuyến này được vố hời rồi, ai nấy đều chỉ e số bao gai không đủ chứa hết bấy nhiêu ếch mà thôi.
Mọi người tức khắc hô vang một tiếng, tản ra quanh hố bùn, ai nấy dùng cần dài và gậy gộc xua đuổi khiến bọn ếch trong rãnh lập tức náo loạn lên. Đám ếch không biết sợ người, thấy có động nhảy tứ tung, liền bị bắt bỏ vào bao tải. Mấy chục người cùng ra tay, trong phút chốc đã bắt được hơn một nghìn con ếch.
Sau khi bọn ếch nhảy dạt ra, người ta lập tức chuyển các bao tải xuống núi. Do bắt được quá nhiều, vác một vài lần không hết được, Tôn Đại Ma Tử đành cùng vài người ở lại canh chừng, Trương Tiểu Biện thừa cơ ở lại, đảo mấy vòng xung quanh, cuối cùng cũng phát hiện bên mép rãnh bùn lộ ra một bức tường đá.
Tường đá này được xếp bằng những khối đá lớn, trông ngay ngắn trơn bóng, giống như kiểu đường hầm, tường thành. Trương Tiểu Biện mừng thần trong dạ, lập tức gọi bọn Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng đi xem cho rõ ngọn ngành. Giữa bức tường đá là một cửa đá xiêu vẹo rộng khoảng một trượng. Đường hang trong cửa nằm đúng chỗ râm; ánh mặt trời không chiếu tới, bên trong tối mịt, ẩm thấp, lạnh lẽo, hiềm nỗi cả đám đều chẳng mang theo đá lửa, không thể đốt sáng được.
Tiểu Phượng sợ run người, không muốn thêm rắc rối, liền suy đoán:
- Hang này liệu có phải là nơi cương thi lão yêu ẩn nấp..? Phải mau dùng đá chặn lên trên mới được.
Trương Tiểu Biện liền bịa chuyện:
- Chắc các người cũng biết rồi đấy, tổ tiên họ Trương nhà ta từng làm quan Cẩm Y Vệ trong Kinh thành, biết rất nhiều chuyện bí ẩn của triều trước.Hôm nay, ta hé cho các người một chuyện nhé.Cái chỗ này không phải tầm thường đâu.Hồi cuối đời Minh, tên thủ lĩnh đảng cướp Trương Hiến Trung từng chôn của tại đây, giá trị lên tới hàng vạn lạng bạc, sau này đến thời Càn Long bọn phỉ Bạch Liên giáo đã đào lên để khởi sự, khiến thiên hạ chấn động. Tới nay, chỉ còn lại một cái động đá này thôi, nếu vừa rồi không có mưa lớn,lũ không quét qua thì cũng chẳng dễ gì thấy được đâu. Không rõ bên trong còn thừa lại đồ vật gì không, nếu chúng ta gặp may, nhặt được một chút gì đó thì cũng là một món hời từ trên trời rơi xuống đấy."
Bọn Tôn Đại Ma Tử từ nhỏ đến giờ chưa từng rời làng Kim Quan, nghe Trương Tiểu Biện khoác lác thì đều tin sái cổ, tưởng là thật. Tôn Đại Ma Tử nói với mọi người:
- Hồi trước có lão thầy bói mù qua làng, mỗ đây bỏ một đồng ra xem một quẻ về đường tài lộc. Lão thầy bói ấy bảo quẻ tiền tài của mỗ gần đây đã động, sắp đến lúc phát, không ngờ đã ứng nghiệm ở đây rồi..!
Cả đám người đều sinh lòng tò mò, lại nghe nói đến hơi đồng, liền để Tôn Đại Ma Tử cầm đầu, huơ huơ cái sào dài vào bên trong động đá thọc vài lượt, định bụng dò xem nông sâu thế nào, chẳng ngờ đầu sào chạm phải một đống mềm mềm nhũn nhũn như chọc vào cơ thể ai đó. Bỗng dưng từ trong động phát ra những âm thanh quái dị, tựa hồ như có ai đó đang ho khạc, Tôn Đại Ma Tử sợ đến bủn rủn tay chân, suýt nữa đánh rơi cây sào. Tiếng ho khạc trong động càng lúc càng dữ dội.
Trương Tiểu Biện nghe tiếng ho dữ trong động, cũng giật mình kinh hoảng. Sao đến đây thì sự tình không giống như lời Lâm Trung Lão Quỷ nói nữa..? Lão ta có nói trong động có động vật gì đâu, lẽ nào lão yêu tinh quan tài ấy có bụng xấu xa, muốn lừa Trương Tam gia ta đến đây chịu chết..? Trăm mối nghi ngờ nổi lên, tức thời cũng chẳng rõ ra làm sao nữa.
Cả đám xung quanh đều bảo:
- Chắc có cương thi trong động rồi, mau bỏ ếch xuống chạy tháo thân thôi. Thế nhưng, Tôn Đại Ma Tử lại không hề sợ hãi, gã lắc đầu nói:
- Cương thi làm sao mà biết ho..? Mỗ thường nghe loài nhím già học cách ho hắng giống người, chắc chỉ có một con nhím già nấp trong đó thôi."
Gã cậy mình khỏe, lại có ý thể hiện "thân thủ anh hùng, cử chỉ đĩnh đạc" trước mặt đám người làng, liền trợn tròn đôi mắt, đanh khuôn mặt sần sùi lại, tiếp tục thăm dò tình hình trong hang động, định bụng tra xét cho tường tận điều kì lạ bên trong. Nhưng gã vừa mới vào đến cửa động, bỗng nghe tiếng vang như sấm, bên trong hang ẩm thấp tối mò vọt ra hơn trăm con ếch xanh lớn, nhảy vọt qua khe hở giữa đám đông.
Bọn Trương Tiểu Biện sợ bắn mình, vừa mới nhìn thấy bon ếch, liền dùng gậy gộc đánh loạn, đập nát bét mấy con, đuổi bọn còn lại nhảy dạt ra xa. Trong đám hỗn loạn, bỗng nghe Tiểu Phượng rú lên sợ hãi, liên tiếp bước giật lui mấy bước, ngã phịch xuống đám bùn, run lên cầm cập. Thì ra, trong cửa hang có một cái đầu ếch to bằng cái đấu thò ra, trợn mắt nhìn chằm chặp vào Tiểu Phượng kêu rống lên.
Con ếch to bự xuất hiện sau cùng ấy mình lớn như cái cối xay, màu sắc trên lưng chuyển từ lục sang vàng sậm, lốm đốm những vòng tròn đen, trông thoáng qua như có hàng trăm, hàng nghìn con mắt. Con ếch lớn phơi cái bụng trắng như tuyết, ngồi chồm hỗm trước cửa hang, nhìn trừng trừng, miệng kêu những tiếng "ồm ộp" như tiếng trống.
Bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉ sợ cương thi ăn thịt người chứ bình thường vẫn bắt ếch bắt nhái nên không sợ cái loại cóc cáy này? Mặc dù vậy, thấy nó to lớn khác thường, bọn hắn cũng biết rằng đó không phải ếch thường, chỉ sợ giết đi sẽ rước tai vạ, liền tính dùng sào xua đuổi. Chẳng ngờ, sào đâm vào chỗ nào cũng đều bị con ếch lớn dùng chân hất văng đi. Nó cứ ngồi chồm hỗm trước cửa hang đá, mặc cho que gậy tha hồ chọc, vẫn không lùi nữa bước.
Thế nên ai nấy đều càng lấy làm lạ, dường như con ếch đó muốn giữ chặt cửa, không cho ai vào, kiểu này thì mười phần chắc tám là trong động có vàng bạc châu báu của bọn giặc để lại rồi, vậy là cả đám tranh nhau dùng gậy chọc. Con ếch dần dần không cản nổi, trợn trừng hai mắt tức tối lên, bất ngờ há miệng phóng ra cái lưỡi dài màu máu cuốn vào eo của cô ả Tiểu Phượng đang ngồi bệch dưới đất, lôi mạnh về phía mình với tốc độ nhanh như sao băng. Cô nàng nặng đến mấy chục cân mà chẳng khác gì con ruồi con muỗi rơi vào mồm ếch, rồi nó đột nhiên rụt xuống hang, lẩn vào bóng tối.
Cả bọn sợ tái mét mặt, tuy mụ Vương quả phụ có tiếng khắc bạc, tính tình lại chua ngoa đanh đá, tiếng tăm xấu xa, nhưng xét cho cùng nhà mụ cũng chỉ có một đứa con gái là Tiểu Phượng thôi, cô ả còn thường nô đùa với bọn Trương Tiểu Biện từ thuở nhỏ, cả bọn làm sao trơ mắt để con ếch to kéo cô ta vào hang ăn thịt được. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy chuyện chẳng lành, vội vã vọt lên, hét một tiếng lớn rồi cùng đánh vào trong để cứu người.
Trương Tiểu Biện nóng mặt, xông vào cái hang tanh tưởi ẩm thấp, trong bóng tối chẳng trông thây gì, đành cùng Tôn Đại Ma Tử cứ thế tiện tay chộp khắp nơi, nào ngời vừa mới giơ tay lên đã chạm phải làm tóc mềm của đàn bà, sờ xuống mặt chỉ thấy lạnh băng, chẳng rõ sống chết thế nào. Trương Tiểu Biện vội ra sức bám chặt vào tóc, cố sống cố chết lôi ra ngoài hang, bên ngoài còn một đám người, thấy hắn nhô nửa người ra liền hè nhau giúp đỡ, kéo hẳn người Trương Tiểu Biện ra ngoài.
Trương Tiểu Biện vừa thấy ánh sáng liền vội ngồi dậy nhìn thử, khi ấy mới phát hiện ra người đàn bà mình đang nắm tóc kéo không phải là Tiểu Phượng mà là một cỗ cương thi mặc trang phục của triều trước. Cái xác người đàn bà triều Minh ấy cứng đờ như tượng gỗ, tuy toàn thân lấm bùn rêu nhưng vẫn có thể nhận ra khuôn mặt chết không nhắm mắt, xem chừng cũng khá xinh đẹp của mụ ta. Hai búi tóc vấn trên đầu sắp bị kéo tung ra, hàm dưới đã biến mất, dưới vành môi trên chỉ chừa lại cái lỗ sâu hoắm, khiến cho khuôn mặt như bị kéo dài ra rất nhiều, vẻ khủng khiếp đáng sợ khó bút mực nào tả xiết. Y phục trên tử thi vốn bị ngâm nước khá lâu nên đã mục nát cả, từng trận gió núi thổi qua lùm cỏ rậm hoang vu khiến quần áo ngay lập tức hóa thành muôn nghìn mảnh vải vụn bay tứ tán khắp nơi.
Những người còn lại đều sợ muốn chết, kêu thất thanh, phải như Tiểu Phượng nhà mụ Vương quả phụ bị con ếch khổng lồ lôi vào hang ăn thịt, âu cũng là số cô ả như thế chứ biết làm sao, đằng này Trương Tiểu Biện vào đó cứu người, lại lôi ra một cái xác cổi hình mạo đáng sợ như thế, xem ra truyền thuyết về cương thi ở Úng Trủng sơn không phải là lời ngoa, phen này thì đừng hòng mong sống sót nữa.
Trương Tiểu Biện cũng há hốc mồm, một lúc lâu không ngậm lại được, quên phắt luôn cả Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng trong hang còn chưa biết sống chết ra sao, cứ thế nhìn chằm chặp vào cái thây không hàm kia, trong đầu chỉ còn một suy nghĩ:
- Lâm Trung Lão Quỷ ấy đúng là liệu sự như thần, cương thi mỹ nhân quả thực giấu trong Úng Trủng sơn. Vinh hoa phú quý cả đời của Trương Tam gia này đều từ đây mà ra cả.
Thế mới hay: "Vận hết thì vàng còn nhạt sắc; Số hên xác ướp cũng long lanh".
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 7: Ếch kêu mưa

Lại nói, Trương Tiểu Biện lôi từ trong hang ra một cái thây phụ nữ không có hàm dưới, bọn người cùng đi bắt ếch trông thấy, đều sợ hãi đến hồn bay phách lạc, ai nấy run lên cầm cập. Thời bấy giờ, cánh người làng hay kháo nhau mấy chuyện: "Ma xác chết, cáo yêu tinh", đám dân đen thấy cảnh tượng đó, tài nào chẳng sợ? Cả đám lập tức dúi dụi, kéo nhau chạy sạch.
Trong núi hoang còn trơ lại một mình Trương Tiểu Biện lặng người ôm lấy cỗ cương thi. Đối với hắn nghiêng trời lệch đất mà nói, đây chính là món phú quý. Chẳng ngờ Trương Tam gia ta đang nghèo khổ mạt vận lại có thể "thoát thai nghèo, đổi cốt quý", trước mắt cuối cùng cũng có cảnh hưởng thụ xung sướng đón chờ rồi.
Ngay lúc ấy, bỗng có tiếng ếch kêu ồm ộp inh ỏi trong hang, Tôn Đại Ma Tử đang ôm Tiểu Phượng bò ra, con ếch lớn trong hang cắn chặt không chịu buông cây gậy trong tay gã. Hai bên đều ra sức kéo, không ai chịu ai.
Gã Tôn Đại Ma Tử này quả thực có cánh tay khỏe hơn người, chỉ thấy gã một tay cắp Tiểu Phượng, một tay kéo ngược đầu gậy, gồng chân giở thế mãnh hổ leo núi, dùng hết sức rướn ra ngoài cửa hang, gân xanh trên tráng gồ hẳn lên, mà chẳng biết buông tay bỏ gậy hất văng con ếch đại tướng kia đi, thấy Trương Tiểu Biện đang ngồi ngơ ngẩn trên đống bùn bên ngoài cửa động liền giật giọng hô hoán hắn tới giúp.
Trương Tiểu Biện bị gã hét gọi liền giật mình sực tỉnh. Hắn nóng máu, chạy lại giúp Tôn Đại Ma Tử kéo con ếch trong hang ra ngoài. Cả hai thấy con ếch to cố sống cố chết cắn chặt cây gậy không chịu buông, hai bên mang của nó không ngừng phát ra những tiếng ộp ộp liên hồi, cặp mắt trợn tròn lên nhìn cả hai, thể hiện sự tức giận tột độ. Nhìn con ếch to lớn quyết chẳng phải thứ ếch nhái tầm thường, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử dẫu gan to mật lớn cũng không dám tùy tiện ra tay giết hại.
Hai gã thấy bên cạnh là khe bùn, đã làm thì làm cho trót, nghiến răng lấy hết can đảm, thuận thế lôi nó đến bên khe, rồi vừa đẩy vừa đạp, khiến con ếch già xanh vàng lốm đốm rơi xuống bên dưới. Hai bên khe đều là bùn lầy,ở giữa vẫn còn một dòng nước tích lại sau cơn lũ. Con ếch vừa bị đẩy xuống bùn bỗng nhả cây gậy ra, kêu oàm oạp mấy tiếng rồi nhảy vọt ra ngoài mấy trượng, nhào xuống khe nước. Tới khi bọt nước lắng xuống, đã không còn tăm hơi con ếch đâu nữa.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mệt đứt hơi, rốt cuộc cũng đã đuổi được con ếch cụ đó đi, nhìn bốn phía, hóa ra đám người làng cùng đi đã chạy ráo cả. Tiểu Phượng mặc dầu không bị thương nhưng đang sợ tới mức ba hồn bảy vía lên mây, ngồi bệt xuống, răng đánh lập cập, không thốt được câu nào. Lúc ấy, trời chiều đã buông, trên núi hoang chỉ còn lại ba người.
Tôn Đại Ma Tử oán trách đám người làng không có nghĩa khí bỏ chạy trước, đúng là sự đời đen bạc. Thường ngày, trong làng vẫn xưng hô huynh huynh đệ đệ với nhau, đến lúc gặp nguy nan cần huynh đệ giúp đỡ thì chẳng có thằng nào chịu bước lên cùng chống chọi hiểm nguy, Tôn Đại Ma Tử tức tràn hông, lớn tiếng bảo rằng đợi về làng Kim Quang sẽ trị cho chúng một trận. Rồi gã lại bảo Trương Tiểu Biện:
- Chỉ có tam đệ của mỗ là nghĩa khí nhất, nói gì làm gì cũng đều chính trực can đảm, xưa nay chưa từng học theo lũ tiểu nhân chỉ biết nói mồm, chỉ có bậc hảo hán thế mới đáng kết giao thôi."
Trương Tiểu Biện vốn mặt dày,dùi đục còn chẳng như thủng, nghe vậy cũng chẳng hề khiêm nhường, đang định tự tâng bốc, phụ họa với Tôn Đại Ma Tử, xem kiến giải về bậc hào kiệt như thế nào, bỗng nhận ra bầu trời trong núi bắt đầu tố sầm lại. Một trận gió thổi qua, trời đất mịt mù, chớp giật ngoằn ngoèo giữa từng không, sấm nổ ầm ầm, kinh động bốn bề, nước mưa đổ ập xuống như trút. Địa thế Úng Trủng sơn này vốn dốc từ Bắc xuống Nam, hễ mưa lớn là có lũ quét, con lạch trong khe núi bỗng chốc đầy ứ nước mưa đục ngầu, tuôn ra ngoài theo sườn núi, lũ quét cuồn cuộn, tiến động ầm ầm như sấm.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy mưa to, lũ quét rất mau, không khỏi biến sắc, vội vã kéo Tiểu Phượng lùi vào bên trong hang ếch tránh mưa. Lúc ấy, Tiểu Phượng cũng đã tỉnh, nghĩ lại những chuyện vừa qua mà lòng vẫn còn chưa hết sợ.
Thấy bên ngoài mưa to như trút, lũ quét dâng cao, nhấn chìm hết cả đường núi, ba người đều không ngớt kêu khổ. Trong núi có truyền thuyết về thần ếch gọi mưa, chỉ e vừa mới vừa rồi đã trót kinh động đến thần nên mới có trận lũ này. Mấy năm nay Úng Trủng sơn khô hạn, trăm dặm quanh vùng đất khô nứt cả, trước cũng thường có lũ quét nhưng ra khỏi núi thì lũ lại phân đổ về các sông suối, may là xưa nay chưa từng đe dọa đồng ruộng xóm làng.
Chỉ khổ có ba người bọn Trương Tiểu Biện bị mưa lũ cầm chân trên núi, không đợi đến lúc tạnh mưa qua lũ thì không thể xuống được núi. Trông trận mưa như nghiêng sông dốc biển, chỉ e cả đêm chưa chắc đã tạnh, đành dọn một chỗ cao ráo, ngủ đêm trong núi đợi đến mai mưa tạnh thì về làng.
Trương Tiểu Biện đột nhiên nhớ đến cái xác còn ở ngoài hang, vội đội mưa chạy ra, lôi lôi kéo kéo vào bên trong. Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng không hiểu hắn định làm gì, cái xác này không có hàm dưới, hình dạng lại quái dị khủng khiếp, để ở trong hang chắc cả đêm sẽ thấp thỏm không yên, bèn hỏi Trương Tiểu Biện:
- Chú để cái xác lại làm gì..? Chi bằng lẳng xuống khe cho rồi, bằng không đêm khuya sấm chớp, nó hóa yêu tinh tới bắt thì chết...
Trương Tiểu Biện đương nhiên không thể đáp ứng, có điều nếu kể hết mọi chuyện thì có lẽ đổi lại là hắn, hắn cũng chẳng tin được, cũng may tay họ Trương này đã quen dối trá, liền thuận miệng đáp bừa:
- Ma tử ca, Tiểu Phượng tỷ chớ nghĩ Trương Tam ta cô khổ lênh đênh, nghèo đói rách rưới, cả mảnh đất cắm dùi cũng không có, nhưng Trương Tam này hồi nhỏ cũng từng đọc qua mấy cái chữ, tốt xấu gì biết chút lễ nghĩa, liêm sỉ. Cái xác này vốn chon trong hang núi, xưa nay không ai biết đến, nếu chúng ta không tới đây bắt ếch, chắc nó cũng không bị phơi ra ngoài như thế này. Theo tình, theo lý chính là lỗi chúng ta đã kinh động đến tiền nhân, sao còn có thể chỉ nghĩ tới mình mà vứt xác ra ngoài khe cho nước lũ cuốn đi cho được? Nam mô Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát ở trên kia, hai người thực sự cho rằng thần phật trên kia không có mắt hay sao? Những chuyện trái lẽ như thế nhất định không được làm, nếu có làm thì hai người tự đi mà làm, đừng liên lụy đến ta.
Tôn Đại Ma Tử vốn là người thô lỗ thực thà, còn Tiểu Phượng là cô nhà quê, từ nhỏ đến lớn chưa từng biết sự đời, làm sao nhìn thấu được cái trò ba hoa chích chòe của họ Trương, liền tin những điều hắn nói là thực, lại còn cảm thấy bên cạnh mình có người hiểu biết như Trương Tiểu Biện thật là may mắn, bằng không ắt đã phạm sai lầm lớn rồi. Hai người liền lẩm nhẩm niệm mấy lượt:
- Nam mô Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn", rồi cung kính đặt cái xác vào trong hang. Nhưng quần áo của tử thi vốn đã mục nát hết, lại vừa bị mưa lớn xối cho một trận, bộ dạng trông rất bất nhã, kinh nhất là gương mặt không hàm dưới của cái xác, mặc dù trong hang tối om, nhưng chỉ cần nghĩ đến gương mặt ấy chẳng che chẳng đậy gì ở ngay bên cạnh mình, đã rợn tóc gáy lên rồi. Chẳng còn cách nào khác, Tôn Đại Ma Tử đành chụp hai chiếc bao gai bắt ếch lên trên cái thây rồi mới hơi yên tâm.
Trương Tiểu Biện cười thầm trong bụng, giả tảng giúp Tôn Đại Ma Tử choàng bao tải lên cái xác, rồi tiện tay lần mò lung tung trong hang một lúc, hy vọng tìm thấy thứ gì đáng tiền, miệng vẫn lẩm nhẩm:
- Tiền là tiền của dương gian, vật là vật của dương gian, xin mượn tạm chút đỉnh để dung, có gì thì đợi Tiểu Phượng xuống dưới đó sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho cô...
Thế nhưng, Trương Tiểu Biện tìm một lúc lâu chỉ thấy toàn rớt dãi của bọn ếch, hết sức xú uế, ngoài ra chẳng thấy bất cứ thứ gì, đành bỏ ý định tìm kiếm, trải vài cái bao tải lên rồi nằm nghe mưa gió trút xối xả bên ngoài cửa hang, trong đầu trăn trở từng lời chỉ vẽ của Lâm Trung Lão Quỷ. Vất vả cả ngày trời trong núi, hắn cũng mệt mỏi lắm rồi, chỉ một lát sau đã chìm dần vào giấc ngủ.
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng thì không được như Trương Tiểu Biện, cả hai chưa từng ở trong núi hoang miếu nát bao giờ, khó mà ngủ nổi trong cái hang núi ẩm thấp, tanh tưởi này, cứ chợp mắt là mơ thấy nữ cương thi không mồm hoặc bà con than thuộc máu me đầm đìa hiện lên trước mặt. Hai người chốc chốc lại giật mình sực tỉnh, mồ hôi lạnh cứ thế vã ra ướt sung cả người.
Trong long kinh hoảng, bản than họ cũng biết rằng đây là điềm báo chẳng lành, trằn trọc mãi tới khi trời tạnh, mưa ngừng mới vơi đi cảm giác thấp thỏm giày vò tim gan ấy, đợi đến khi cơn lũ quét hơi rút đi, cả ba liền vội vã tìm đường xuống núi.
Trương Tiểu Biện nhân thể bèn nói, nếu đã quay về thì cũng không thể bỏ lại thi thể này ở đây được, phải mang về khu mộ phía sau làng Kim Quan chôn, cho dù chỉ có manh chiếu bó than người đã khuất, thì cũng là làm thiện tích chút ân đức về sau, người làm việc thiện ắt sẽ có thiện báo.
Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng mơ thấy ác mộng suốt đêm, trong lòng đang khi lo lắng, thấy bảo làm việc thiện, tích âm đức đồng ý ngay, cùng Trương Tiểu Biện vác cái xác, bước thấp bước cao, đạp bùn lầy lần theo đường mòn xuống núi. Quanh co một hồi, về đến trước cổng làng liền cảm thấy có điều bất ổn, khắp nơi đâu đâu cũng có người chết, mùi máu tanh xộc lên tận trời, cả ngôi làng đã bị loạn binh tàn phá, thi thể ngổn ngang, trước mắt chỉ ngập một cảnh tang thương.
Thì ra có mấy cánh quân Việt khấu ngầm kéo đến bao vây, công phá thành Linh Châu rất gấp. Nhưng thành Linh Châu phòng bị nghiêm mật, đánh gấp không được lại bị quân cứu viện bốn mặt kéo đến vây công. Các lộ lính dõng(1), quan binh kéo đến cứu viện và cả đám Việt khấu đang tiến đén hợp lực công thành đều di chuyển về đêm, không hẹn mà gặp nhau cùng một chỗ. Trận kịch chiến lan đến tận làng Kim Quan. Sau trận huyết chiến, thôn làng đã hóa thành bình địa. Vào lúc ấy, a số dân làng Kim Quan đang say giấc ngủ, cũng có vài người đang bàn cách vào núi tìm tung tích của bọn Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng, đột nhiên nghe pháo nổ binh gào khắp nơi, định mở cửa chạy trốn nhưng bốn bề tám hướng đã bị loạn quân vây kín, nam phụ lão ấu cả làng không ai thoát chết.
Bọn Trương Tiểu Biện vì lũ quét không về được nên may mắn thoát nạn. Nếu cùng người làng bắt ếch trở về, có lẽ đã gặp phải họa binh đao toi đời từ lâu rồi. Mắt nhìn bà con thân thuộc đều chết cả, nhà cửa, ruộng vườn tan nát, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng choáng váng ngất lịm đi.
Trương Tiểu Biện cũng lặng đi một lúc lâu, lòng thầm niệm phật Tổ từ bi, nếu không có lão thần tiên trong mộ mách bảo Tam gia thì đến mười cái mạng cũng không thoát nổi. Quá nữa thi thể trong làng đang bị chó tha quạ rỉa, cảnh tượng thảm không nỡ nhìn, liếc qua một lượt đã thấy hơi lạnh chạy dọc sống lưng, quay lại thấy Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng ngất lịm trên đất, hắn vội vã lay họ tỉnh lại. Hai người vừa tỉnh đã gào khóc xé trời, thật là "tinh tú không trung đều rớt lệ, càn khôn nhật nguyệt phải than dài".
Khóc đến lúc lả người đi, ba kẻ sống sót nhớ ra là phải thu liệm di hài của người thân, cầm gạch đá, gậy gộc đuổi lũ quạ diều, chó hoang đi. Song người chết quá nhiều, cuối cùng cũng chỉ tìm thấy xác của Vương quả phụ và một đứa em gái của Tôn Đại Ma Tử, rồi đào một cái hố ở gần đấy vùi xuống, còn lại thì thực sự không thể chôn cho hết, đành mặc cho chó hoang rỉa thành xương trắng. Hai người đứng trước mộ lại khóc lóc thêm một hồi nữa.
Trương Tiểu Biện ngẩng đầu nhìn trời, thấy mặt trời đã xế bóng, ở lại làng Kim Quan đã hóa thành một đống đổ nát này cũng không phải chuyện hay. Cuộc đại chiến qua đi, bọn trôm cướp trong vùng nhất định sẽ thừa cơ đến cướp bóc vào đêm, dẫu là quê hương làng xóm thì cũng không thể lưu luyến thêm được nữa, hắn liền hỏi Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng từ nay về sau sẽ tính toán thế nào.
Tôn Đại Ma Tử nói: "Mặc dù mỗ có vài người họ hàng xa ở ngoài tỉnh, nhưng đã lâu không qua lại nữa rồi, giờ thì mỗ đây đúng là kẻ tứ cố vô thân rồi. Cũng may là còn có sức khỏe hơn người, lại biết vài ngón côn bổng quyền cước, có chí đầu quân giết giặc, biết đâu đoạt được chút công danh bổng lộc nơi đầu thương mũi giáo, khôi phục được dòng dõi họ Tôn nhà mỗ." Gã cũng khuyên Trương Tiểu Biện cùng đi tòng quân. Đang lúc thiên hạ đại loạn, ở Linh Châu ngày nào cũng mộ binh, dẫu không trở thành quân quan thì chí ít cũng kiếm được miếng cơm bỏ bụng, còn hơn phải lưu lạc khắp nơi xin ăn.
Trương Tiểu Biện nghĩ bụng: "Hảo hán không đi lính, thép tốt chẳng làm đinh. Bây giờ đương khi thế quân Việt khấu đang thịnh, diệt được cánh quân này lại xuất hiện hai cánh quân khác. Triều đình điều cả đại quân đến mà cũng khó lòng tiêu diệt, cứ trận này rồi trận khác, dẫu ai thắng ai bại thì cả hai bên đều chịu thương vong, chẳng lẽ Trương Tam gia ta ngốc đến mức đi theo để chúng đẩy vào nơi đầu tên mũi đạn hay sao?" Nghĩ đoạn, hắn lắc đầu không nhận lời.
Tôn Đại Ma Tử không khuyên được Trương Tiểu Biện cùng tòng quân, lại thấy Tiểu Phượng cứ khóc mãi không thôi, liền nói: "Tiểu Phượng, không rõ cô định đi đâu về đâu? Trong cơn binh loạn thế này thân gái dặm trường sao tiện? Chúng ta đều là chỗ đồng hương thân thuộc, mỗ van Trương Tam sẽ đưa cô đi."
Trương Tiểu Biện không đợi Tiểu Phượng lên tiếng đã cất lời chen vào: "Cô ả còn đi đâu được nữa? Chi bằng cùng nhau vào thành Linh Châu. Vương quả phụ lúc sống có một lão tình nhân già trong thành, may ra lão nhớ chút tình xưa nghĩa cũ sẽ nhận cô ta làm con gái."
Tiểu Phượng nghe thấy càng khóc tợn, thiếu chút nữa là nghẹn thở, cao giọng chửi Trương Tam là thằng trôm yểu mệnh thất đức. Cô ả giờ không còn thân thích, nếu giờ vào thành nương nhờ cái hạng thấy lợi quên nghĩa ấy , nhất định sẽ bị bán làm gái lầu xanh. Trong lúc loạn lạc này, đầu thai làm người thực cũng chẳng hay ho gì, chẳng bằng một dao mạng thân cho xong, xuống dưới với mẹ có khi còn hơn phải sống cô khổ trong cuộc đời này.
Trương Tiểu Biện nghe Tiểu Phượng mắng mình nhưng không nổi giận như thường lê, trái lại, hắn thấy trong lòng có chút chua xót. Hắn hiểu rõ thế nào là cảnh khổ sở lưu lạc, tứ cố vô thân, thấy Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng qua một đêm đã trở thành kẻ bơ vơ, không khỏi sinh lòng đồng cảm, nghĩ thầm: "Thời bây giờ muốn làm ăn mày xin ăn cũng chẳng dễ, hai người này không biết ngón bắt gà trộm chó, nếu để tự kiếm đường sống ắt một người sẽ chết trong đám loạn quân, một người sẽ chết đói hoặc bị bán vào kỹ viện. Trương Tam gia ta sắp tới sẽ có ruộng vườn sải cánh cò bay, gia son mặc cho trộm khuân hoài không hết, cớ chi mà không cứu vớt chúng một phen. Gã Tôn Đại Ma Tử vai u thịt bắp rất hợp làm bảo tiêu cho phủ đệ của Tam gia ta, còn ả Tiểu Phượng thì... thổi bếp, nấu cơm, quét nhà, giặt áo, bổ củi, nuôi chó, mấy cái việc vặt đó giao cho ả là hợp, làm không xong thì không cho ăn cơm. Con bà nó chứ, không đem bán ả vào nhà thổ là Tam gia ta đã phát lòng Bồ Tát đại từ đại bi lắm rồi
Nghĩ đến thế, Trương Tiểu Biện liền kể cho hai người nghe câu chuyện từ khi lạc vào mộ Kim Quan, gặp phải bọn trộm mộ ra sao, gặp Lâm Trung Lão Quỷ, bị lão bắt đếm mèo thế nào, rồi bảo: "Lâm Trung Lão Quỷ thực là bậc thần cơ diệu toán, nếu không có lão nhân gia ấy mách bảo, bọn ta chắc chắn không thể thoát khỏi kiếp nạn binh đao đêm trước. Lão nhân gia còn bảo, số mệnh Trương Tam gia ta đã định sẵn, sẽ trở nên giàu có sung sướng, vinh hoa phú quý ngất trời, nên đã chỉ ra cho ta con đường đại phú đại quý. Tam gia ta bình sinh rất sẵn lòng thành chuyên cứu giúp người tốt, nghĩ chúng ta đều là đồng hương, nếu hai người sẵn lòng giúp ta thành công, nhất định lúc ấy có phúc để cùng hưởng."
Tôn Đại Ma Tử định đầu quân làm lính dõng, thực ra cũng vì cực chẳng đã chứ ai chẳng biết binh đao hung hiểm nhường nào. Bấy giờ nghe Trương Tiểu Biện nói thế, chứng cớ đều đã rành rành, tính mạng của gã quả thực đã may mắn giữ được, hơn nữa, cách đó không lâu, thầy bói cũng bảo quẻ giàu sang của gã đang vượng nên càng tin lời Trương Tiểu Biện hơn nữa, gã liền chắp tay nói: "Thôi thì nhờ cả vào hiền đệ, nhưng không biết rốt cuộc con đường đại phú đại quý ấy là thế nào?"
Trương Tiểu Biện chỉ vào cái xác trong bao tải, giả bộ thần bí nói: "Phú quý đều ở trong đó, có điều thiên cơ bất khả lộ, hai người chớ hỏi nhiều, chỉ cần cẩn thận một chút, theo ta rồi tùy cơ hành sự là được."
Có lời rằng: "Rồng xanh cọp trắng đồng hành; Phen này chưa biết dữ lành ra sao."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 8: Thành Linh Châu

Lại nói, làng Kim Quan chỉ trong một đêm đã bị binh hỏa tàn phá, Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng tuy thoát nạn nhưng đã thành kẻ tứ cố vô thân, gan ruột rối bời, trong cái thời thế nước lửa hỗn loạn này, biết tìm đường sống ở đâu?
Bỗng nghe Trương Tiểu Biện sẵn lòng đưa họ đi tìm sự giàu sang, thực như kẻ chết đuối vớ được cọc, vui sướng vô cùng, liền nhất nhất tin theo lời hắn. Tôn Đại Ma Tử cảm kích đến nghẹn ngào: "Mỗ thường nghe cha nói, đời nay người ta giậu đổ bìm leo là nhiều, chứ mấy ai biết nhường cơm sẻ áo. Đời này mỗ kết giao được người nghĩa khí như huynh đệ, thực không uổng chút nào."
Trương Tiểu Biện biết rằng, lúc này nơi này cũng không nên nhiều lời, liền bảo hai người kia: "Muốn tìm sự giàu sang phú quý ấy, trước mắt hẵng còn mấy việc lớn phải làm. Bây giờ đã xế chiều rồi, chúng ta chớ dùng dằng lâu, mau lên đường ngay mới được." Nói xong, liền bảo Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng gạt nước mắt rồi cả ba cùng lấy lại tinh thần, bới tìm chút thức ăn, tiền bạc trong đống người chết, gói gém mang theo phòng thân.
Trương Tiểu Biện lại nói, việc cần làm trước tiên là bí mật đem cương thi mĩ nhân vào trong thành Linh Châu. Tôn Đại Ma Tử nghĩ bụng, nếu đã là lời thần tiên truyền dạy để tế bần cứu khổ, bọn người thế tục chúng ta vốn ngu độn, làm sao mà hiểu biết hết được đạo lí bên trong? Bất tất nghĩ ngợi nhiều, cứ theo thế mà làm là được, vả lại Trương Tiểu Biện đã được chân truyền, hăn bảo thế nào thì là thế ấy.
Nghĩ vậy gã liền cùng Trương Tiểu Biện hiệp lực nhét cương thi mỹ nhân vào trong bao gai, tìm một cỗ xe không có vật kéo. Gã đi đằng trước nai lưng kéo xe, Trương Tiểu Biện và Tiểu Phượng đi đằng sau đẩy giúp, lần đường đi về dốc núi sau làng. Đến đó, cả ba không kìm được, cùng dừng lại, ngoái nhìn cố hương tường siêu ngói đổ rồi mới nuốt nước mắt lên đường.
Rời làng không bao lâu, chợt nghe phía trước có tiếng người kêu ngựa hí, tiếng quân reo hò càng lúc càng gần tựa hồ đang có đại quân trẩy qua. Ba người sợ hãi, vội vã nằm phục vào vách núi nhìn trộm xem sao.
Trong bóng tà dương đỏ như máu, chỉ thấy từng tốp Thái Bình quân chít khăn đỏ đang tháo chạy từ phía thành Linh Châu. Đám quân sĩ sau trận huyết chiến ai nấy máu nhuộm đỏ chiến bào, đầu thương mũi giáo còn đọng vết máu chưa khô, cờ quạt y phục đều nhuốm đầy khói đen. Đoàn quân rồng rắn đi qua, đội ngũ kéo dài tít tắp, giáo dựng như rừng, đao tuốt như cỏ, nhộn nhạo cả một vùng núi hoang, đi đến đâu núi non tưởng chừng rung động, trời đất bỗng hóa thành một không gian nồng nặc mùi máu tanh.
Mãi khi trời tối hẳn, đoàn người ngựa dưới chân núi mới lục tục qua hết, xa xa trông thấy vô số ngọn đuốc ngoằn ngoèo như một con rồng lửa đang chuyển động về phía Tây. Bọn Trương Tiểu Biện ngước nhìn đoàn quân Việt khấu đi xa, thầm tặc lưỡi, từ thưở bé tới giờ mới trông thấy cảnh tượng người ngựa đông đảo đến vậy.
Ba người thấy thế giặc rất lớn, tuy bại mà không loạn, chẳng bao lâu ắt sẽ quay lại, không rõ thành Linh Châu còn giữ được bao lâu nữa, lại lo gặp phải loạn quân, sơn tặc nên không dám đi đường lớn, đành lần theo những lối mòn trong núi để đi tiếp. Thôn làng hầu hết đã bị tàn phá cả, dọc đường đi không có lấy một ánh lửa nhà dân.
Đẩy xe cả đêm đến tảng sáng, trong lúc hoảng loạn, cả ba không phân biệt được phương hướng, đang chưa biết đã đến được nơi nào thì bông thấy nhiều thi thể nằm ngổn ngang trong khu rừng trước mặt, ước tính có đến mấy trăm cái xác. Nhìn trang phục thì đều là người dân ở các làng xung quanh, có lẽ trong lúc tránh nạn gặp phải loạn quân thảm sát. Bọn Trượng Tiểu Biện vốn đã như chim sợ cành cong , nay lại thấy khắp núi hoang phơi toàn thi thể đầu một nơi mình một nẻo, tim gan lòng ruột đổ đầy mặt đất, cả ba hết sức sợ hãi, chỉ muốn nhanh chóng vòng đường mà rời khỏi chốn này.
Chẳng ngờ mới chỉ đứng xa liếc nhìn mấy cái, cả ba đã phát hiện ra đám thây xác này có điều quái lạ. Thì ra bất luận, nam phụ lão ấu đều bị lột quần, phơi hạ bộ lộ thiên, giữa hai đùi máu thịt bầy nhầy, rõ là bị người ta dùng dao cắt vào, thảm trạng không sao tả xiết. Tiểu Phượng vội bịt chặt mắt không dám nhìn.
Tôn Đại Ma Tử cũng thấy tim đập thình thịch, hạ giọng hỏi Trương Tiểu Biện:
- Này tam đệ, chẳng lẽ bọn Việt khấu giết xong... còn cắt đi cả cái của nợ ấy à? Mà sao đến đàn bà con gái cũng bị cắt hết cả đi? Thủ đoạn này quá sức tàn nhẫn, trời có thiên đạo, người còn có vương pháp, làm thế này không sợ trời phạt ư...?"
Trương Tiểu Biện từng phiêu bạt bên ngoài vài năm, sự hiểu biết hơn hẳn Tôn Đại Ma Tử, hắn đánh bạo nhìn ngó vào rừng, đoán được đại khái sự tình, liền ra vẻ lão luyện nói: "Hành vi này, không giống thủ đoạn của bọn giặc cướp tầm thường. Ta từng nghe lão đạo sĩ quá cố, thầy của ta nói, trên đời này có một tà giáo tu luyện môn Kim Cương Thiền. Giáo phái này hết sức thần bí, lại có cả nam nữ tụ tập. Bọn chúng chuyên giết người lấy hạ bộ của nam và nữ phối thành một cặp, thêm thủy ngân, đan sa, dược thảo, luyện thành một loại đan dược, uống vào có thể đắc đạo. Quan phủ hễ bắt được giáo đồ luyện đan sa tà thuật này đều đem ra lăng trì ở chợ, nhưng cấm mãi mà vẫn không được. Xem tình hình này, có khả năng là đám gian nhân đó nhân lúc chiến loạn ngầm làm những việc thất đức. Vết dao trên mấy cái xác hẵng còn mới, chỉ e chúng vẫn còn lẩn khuất đâu đây, nếu gặp phải chúng, chúng ta ắt dính độc thủ, chi bằng ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn."
Tôn Đại Ma Tử mặt xanh như chàm đổ, lè lưỡi, nói:
- Mẹ ơi, đến thịt thối của người chết nó cũng xơi được?" Gã cùng Trương Tiểu Biện vội kéo xe lừa, lôi Tiểu Phượng trốn vào rừng rậm.
Đi được một lúc, ngẩng lên nhìn, cả bọn thấy ngoài cánh rừng là một ngọn núi lớn, chính là ngọn Úng Trủng bắt ếch hồi hôm. Trận mưa to, lũ lớn đêm qua lại khiến vô số ếch trong núi chui ra, nhảy nhót khắp nơi.
Trương Tiểu Biện đang lo tìm cách đưa cương thi vào trong thành Linh Châu, chợt thấy lũ ếch trên núi, hai mắt sáng lên, lập tức nghĩ ra cách, liền cười rộ, bảo: "Chẳng sợ vận không tới, chỉ sợ giờ mới tới!" Lập tức, hắn bảo Tiểu Phượng trông xe rồi cùng Tôn Đại Ma Tử xắn quần, vén áo, đạp bùn lầy lên núi bắt đầy một bao tải ếch rồi mới quay về, tìm lối đi tiếp đến thành Linh Châu.
Đám ba người trông vừa thê lương vừa sợ hãi, đói nuốt lương khô, khát vục nước suối, lẫn tránh mãi mới tới được bên ngoài thành Linh Châu, tìm đến một cái miếu thổ địa vắng lạng để nghỉ chân. Trước tiên, Trương Tiểu Biện đến gần cổng thành do thám tình hình, xem có vào thành được không. Linh Châu là một tòa thành hết sức to lớn, binh nhiều lương đủ, nằm ở nơi trọng yếu của cả đường thủy lẫn đường bộ, các tầng lớp sĩ nông công thương tập trung đông đảo. Bên trong thành là cả một thế giới phồn hoa, đúng là nơi cá, rồng vùng vẫy biến hóa, là đất mà các binh gia xưa nay quyết giành cho được. Trong thành phòng thủ hết sức kiên cố, trong thành có hai lớp tường thành, bốn cửa đều dựng pháo đài, xây địch lâu kiên cố. Khi ấy, trên mặt thành cung trương, kiếm tuốt, phòng bị rất nghiêm mật.
Từ khi Việt khấu đến xâm phạm đã có ý đánh tòa thành này. Chúng tụ tập xung quanh thành tạo thành thế hợp vây, đường giao thông thủy bộ đều bị cắt đứt, các nhà buôn bán và dân chạy loạn đều phải tránh vào trong thành, không chạy xa được. Hai hôm trước, quân thủ thành đã đánh bại đợt vây công của Việt khấu, liệu chừng quân giặc mới thua, quân chủ lực lại thiếu lương thảo tiếp tế, trong thời gian ngắn chắc chưa thể quay lại, bởi thế nhân lúc thanh thiên bạch nhật, thành Linh Châu mới mở nửa cổng cho dân chúng ra vào, chỉ có điều các cổng đều cắt quan Bả tổng đốc thúc lính dõng khám xét kĩ lưỡng mọi người ra vào thành. Song, chẳng rõ vì sao, khám người vào thành đã đi một nhẽ, đằng này đến người ra ngoài thành cũng bị lính canh cửa lục soát từ đầu tới chân.
Trương Tiểu Biện nấp ở ngoài thành nhìn trộm, trong lòng đã có tình toán, ước đoán rằng có thể trà trộn vào thành, liền vội vã quay về tìm Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng, đem cương thi mĩ nhân lấm bùn be bét và hơn một trăm con ếch nhét vào cùng một bao tải, rồi đẩy lên xe lừa. Cả ba lấm lét trà trộn vào đám tiểu thương, chầm chậm tiến về phía cổng thành.
Tôn Đại Ma Tử và Trương Tiểu Biện đều là kẻ to gan lớn mật, chuyện này là đã quyết tâm là làm cho bằng được, cứ coi chuyện sống chết nhẹ như lông hồng là xong. Chỉ riêng Tiểu Phượng non gan, càng đến gần cổng thành chân càng mềm nhũn ra, nghĩ bụng:
- Mang một cái xác triều trước vào thành, ngộ nhỡ trong đám lính dõng có đứa tinh mắt phát hiện ra, chắc hẳn sẽ bị bắt ngay tại trận. Mình là con gái chưa chồng, không hiểu biết gì, làm sao chịu nổi sự giày vò, lục vấn của bọn công sai?"
Rồi ả lại nghĩ:
- Mà huống hồ nếu bị giả đến công đường tra khảo, không biết cung khai thế nào, việc này rõ ràng là chủ ý của thằng quỷ Trương Tam, có trời mới biết nó tính đủ trăm mưu ngàn kế mang cái cương thi này vào thành để làm gì... " Cô ả càng nghĩ càng sợ, bước chân đi cũng chẳng vững nữa.
Đã là phúc thì không phải họa, đã là họa thì tránh cũng không được, lúc ấy muốn quay lại thì cũng đã muộn mất rồi. Bao tải lùng nhùng chất trên xe lừa van ba người đầu bù tóc rối đã khiến cho đám lính dõng giữ thành chú ý từ lâu. Viên đội trưởng dữ dằn như một tên hung thần nắm chặt yêu đao, hùng hổ chỉ mặt quát:
- Ba người chúng mày dừng lại cho lão gia, định vào thành làm gì? Trong bao tải có cái gì?"
Trương Tiểu Biện thấy thế thầm kêu khổ:
- Chuyến này đúng là bị con tiện nữ nhà Vương quả phụ hại chết rồi." May là trong cái khó ló cái khôn, hắn bạo gan giữ chặt cẳng tay của Tiểu Phượng, làm bộ ngờ ngệch, vái chào mấy tên lính dõng đang đi tới rồi nói:
- Các vị quan gia vất vả quá, bọn tiểu nhân xin thỉnh an! Bọn chúng tôi đều là dân sống ở vùng Úng Trủng sơn, hôm qua nhân trên núi mưa lớn, bắt được nhiều ếch, đúng lúc đó chị của tiểu nhân bị trúng gió, giờ bệnh đã trầm trọng lắm rồi khó mà sống nổi, nên muốn đem ít ếch tươi vào thành đổi chút tiền bạc, tìm đến thầy lang bắt mạch, bốc vài thang thuốc, xin trưởng quan cho đi qua."
Nói xong, Trương Tiểu Biện ngấm ngầm bóp mạnh vào tay của Tiểu Phượng. Cô ả đang hồn xiêu phách lạc, mặt mũi xanh lét, toàn thân run rẩy, trán đổ mồ hôi, cánh tay lại bị bóp đau, không kìm được phải cắn chặt môi, mặt nhăn nhó, quả đúng triệu chứng của người bị bệnh, dáng dấp tiều tụy.
Đám lính dõng giữ thành nhìn ngó trên dưới, thăm dò bọn Trương Tiểu Biện một hồi, thấy cả ba chừng mười sáu, mười bảy tuổi, áo quần lam lũ, giống như bọn ăn xin, chứ không như bọn thám tử của Việt khấu cử đến. Chúng liền giơ tay ấn ấn vào bao tải, rút dao rạch ra xem, thấy mùi hôi tanh xộc lên mũi, bên trong toàn là những con ếch còn sống.
Trương Tiểu Biện chỉ lo chúng khám một lúc nữa sẽ lộ chân tướng, liền ngầm nháy mắt với Tôn Đại Ma Tử. Gã họ Tôn tuy thật thà nhưng không hẳn ngốc, cũng biết lúc này không phải chuyện chơi, vội tóm một con ếch to mập, hôi thối, đang dở sống dở chết, dâng lên một tên quan: "Trưởng quan lão gia giết giặc vất vả, ăn một con ếch cho bổ thận tráng dương, khí huyết trên dưới lưu thông... "
Tên đội trưởng vốn là người trong Bát Kỳ lập tức bịt mũi xua tay:
- Bọn nô tài thối tha, không biết tốt xấu gì cả, ai thèm mấy con cóc thối của chúng bay. Coi chừng! Làm bẩn quan phục của cha chúng mày thì bay mất đầu. Đừng lằng nhằng làm tắt đường nữa! Mau cút đi...
Nói xong, hắn đá một cái vào mông Trương Tiểu Biện, chửi: "Lằng nhằng!", rồi cho cả ba đi vào, không thèm để ý nữa, tiếp tục cùng thủ hạ tra xét nhưng người dân đang ra vào thành.
Ba người bọn Trương Tiểu Biện như cá lọt lưới, vội vã trà trộn vào trong thành. Sau trận đại chiến, trên nhà dân, trên tường thành đầy vết đạn, có thể thấy sự ác liệt của trấn đánh mới rồi, nhưng người dân vẫn phải tiếp tục duy trì kế sinh nhai nên quá nửa các cửa hàng vẫn mở cửa bình thường, trên phố người qua lại nhộn nhịp.
Trương Tiểu Biện sợ trong thành nhiều người nhòm ngó làm hỏng đại sự, không dám đi vào chỗ đông, chỉ lần theo những ngõ nhỏ vắng vẻ. Qua mấy đường ngang ngõ tắt quanh co, cả bọn lạc vào một ngõ cụt, phía trước là một bức tường cao chắn lại, hai bên không có cửa nẻo của nhà dân, lối đi rất chật hẹp, xe lừa không thể xoay sở được. Ba người vừa sợ vừa mệt, đành tạm ngồi nghỉ chân trong ngõ.
Tôn Đại Ma Tử định hỏi Trương Tiểu Biện mại hiểm mang cái xác vào thành rốt cuộc là để làm gì, chưa kịp mở mồm thì thấy hai bên đầu tường chớp lên những bóng đen. Gã những tưởng là bọn trộm đang băng tường tháo chạy, vội siết nắm đấm đứng bật dậy. Vừa định thần nhìn, toàn thân gã đã toát mồ hôi lạnh:
- Chẳng lẽ lọt vào ngõ mèo rồi sao? Đâu ra mà lắm mèo thế?"
Thì ra, trên đầu tường, trong góc ngõ, không hiểu sao xuất hiện mấy trăm con mèo hoang, con nào con nấy gầy guộc, xương xẩu, chớp chớp đôi mắt mèo nhìn như nuốt lấy bọn Trương Tiểu Biện. Không rõ chúng đang có âm mưu gì mà thần sắc lộ rõ vẻ ác ý.
________________________________________
Lời tác giả: Thành Linh Châu là một tòa thành cổ đã có lịch sử nghìn năm. Từ đời Đường tới nay, ở đây sản sinh ra rất nhiều mèo, nên còn có tên gọi khác là "Miêu Nhi thành". Trong thành có rất nhiều mèo hoang, lang thang khắp đầu đường cuối ngõ, ước tính hàng vạn con. Tới nay, trong thành vẫn còn một tòa Miêu từ rất thiêng, vì vậy, tuy bọn mèo hoang thường hay ăn vụng cá thịt nhưng người dân bản xứ không ai dám đắc tội với đám ông mèo, bà mèo đó.
Trương Tiểu Biện thấy thế nguy, vội vã hạ giọng gọi Tôn Đại Ma Tử van Tiểu Phượng:
- Mau đem xác chết trong bao ra cho mèo ăn đi..! Hai người kia nghe thấy thế, lặng người đi, ấm ức:
- Khổ cực mãi mới lén mang được cương thi mỹ nhân này vào trong thành Linh Châu, dọc đường gặp biết bao nhiêu nguy hiểm, bao nhiêu kinh hãi, rốt cuộc lại mang cho lũ mèo giặc này ăn ư..?
Có lời rằng: "Lượng cả, phúc cũng lớn; Kế thâm, họa cũng sâu."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Quyển thứ hai _ Nhà Ma Hòe Viên

Hồi thứ 01 đến hồi thứ 05

Hồi thứ 1: Kim Ngọc Nô

Nói đến đoạn bọn Trương Tiểu Biện ba người chẳng biết trời cao đất dày đem cương thi mỹ nhân trà trộn vào thành Linh Châu, kết quả là vừa vào thành đã bị lạc vào một ngõ cụt trong mê cung đường ngang ngõ cắt. Không ngờ lối ngõ cũ u ám vắng người này chính là địa bàn của đàn mèo hoang. Trong phút chốc cả ba người bị đàn mèo vây chặt. Chớ xem thường một hai con mèo không dọa được ai, nhưng một khi chúng đã tụ tập thành bầy, nhao nhao đến như ong thì quả thực khiến người ta sợ hãi.
Thành Linh Châu hay còn gọi là Miêu Nhi thành này, sản sinh nhiều nhất là mèo khoang. Gọi chúng là mèo khoang không có nghĩa lông trên người chúng rực rỡ đủ màu, mà những con chỉ có hai màu lông đen trắng hoặc vàng trắng pha tạp cũng đều thuộc giống này. Thảng như có những con mèo thuần một mèo lông thì chắc chắc đều từ ngoài thành vào cả, mèo gốc Linh Châu không bao giờ như vậy.
Chuyện này người địa phương ai ai cũng biết, Trương Tiểu BIện đã nhiều lần vào thành Linh Châu nên cũng hiểu được phần nào. Hắn biết đây chính là ngõ MIêu Nhi, ngõ của bầy mèo hoang trong thành. Bức tường cao chắn lối phía trước kia, chắc hẳn là tường hậu của ngôi Miêu Tiên từ nổi tiếng linh thiêng trong truyền thuyết. Người dân quanh vùng không cúng tiên cáo, tiên cầy gì chỉ thích vào trong miếu cầu xin tiên mèo phù hộ, ban phúc, lộc, thọ, gặp phải chuyện lớn chuyện nhỏ đều đến ngôi miếu này cầu nguyện, cũng là do phong tục bản xứ mà ra, nên thường có ngày mang thịt, bánh bao ném vào sau miếu cho mèo ăn, coi như làm việc thiện. Đám hòa thượng và đạo sĩ trong thành Linh Châu cũng không được người dân trọng vọng bằng dám mèo hoang.
Lâu dần, những con mèo ăn vụng, mèo lười vô chủ trong toàn thành đều tề tựu xung quanh Miếu Tiên từ. Buổi sáng chúng nằm ngủ phơi nắng, tỉnh dậy thì ăn cá thịt do bọn thiện nam tín nữ cúng dường. Bọn mèo này được dám ngu dân nuông chiều thành quen, để rồi trong toàn thành chẳng còn con mèo khoang nào chịu bắt chuột ban đêm nữa. Bởi thế, ngoài mèo ra, thành Linh Châu còn nhiều chuột hơn. Dịch chuột đã sắp thành thảm họa đến nơi.
Thói thường có thịnh ắt có suy, mấy năm gần đây, thiên tai địch họa liên miên, lòng người bất an, phong tục dần bị lãng quên, hầu hết dân chúng đều không đủ cơm áo mặc, chạy ăn từng bữa, chẳng mấy ai còn quan tâm đến việc cung phụng cho lũ mèo ông, mèo bà này. Hương khói trong đền miếu, đạo quán đều ảm đảm chưa từng thấy.
Khổ cho lũ mèo lười nhác háu ăn, trong ngôi đèn cổ này, con nào con nấy đói đến vàng mắt, nằm bẹp trên xà, trên tường kêu "meo, meo" thảm thiết, khó khăn lắm mới thấy ba người kéo cỗ xe lừa vào trong ngõ, chúng liền tưởng là tín chủ đến dâng hương cúng tế. Theo thói thường, lát nữa ắt sẽ có vật lễ tung ra, để bọn đồ tử, đồ tôn của Miêu Tiên gia nhà chúng được một bữa no nê.
Chẳng biết tại sao ba người nọ cư ngơ ngác, vào đây đã lâu rồi mà cứ ngồi trơ không nhuc nhích, cũng chẳng bày bánh trái thịt thà ra. Đám mèo bực lắm rồi, lòng như lửa đốt, mồm miệng nhỏ nước dãi, bèn sấn đến gần cỗ xe lừa mỗi lúc một gần hơn.
Trong lòng Trương Tiểu Biện xoay xở rất nhanh, đã mau chóng tìm ra cách. Thấy bầy mèo tỏ vẻ không lành, lại nhớ đến truyền thuyết từng nghe được trong thành, hắn đã hiểu tám chín phần sự thể. Bọn mèo phàm ăn này đến đòi ăn uống đây mà! Lúc này nếu không xua chúng đi, một khi để làm ầm lên, ắt sẽ kinh động đến đám lính dõng đi tuần thì cả ba bọn người giấu cái xác chết mang vào thành dù không bị quan phủ nghi là gián điệp của Việt khấu thì cũng bị coi là đạo tặc đào trộm mộ. Tới lúc bị giải tới chốn nha môn tra khảo thì Trương Tam gia ta dẫu có mọc thêm một trăm cái miệng cũng không biện bach nổi.
Trong đầu nảy ra một ý, hắn ngay lập tức nhớ đến đám ếch béo trong bao gai, vội gọi Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng. Hắn vốn định bảo: Mau đem ếch trên xa cho mèo ăn! Nào ngờ trong đầu mải nghĩ tới cương thi mỹ nhân có thể đổi lấy nửa đời sau phú quý giàu sang, cuống quá thành nói nhầm:
- Mau lôi cương thi ra cho mèo ăn!
Tôn Đai Ma Tử và Tiểu Phượng vẫn đinh ninh phải đem cương thi cho mèo ăn. Thịt cương thi gọi là "mãn hương", nghe đâu cũng có người ăn nhưng chưa nghe nói mèo ăn được, hơn nữa, cả bọn vất vả cực khổ mãi mới đem được vào trong thành, đều là nghe theo lời khua môi múa mép của Trương Tiểu Biện, chứ thực sự chẳng hiểu rốt cuộc hắn muốn giở trò gì, nhất thời bấn loạn, đứng ngây ra không biết nên làm gì cho phải.
Thấy hai người kia đờ ra không làm gì, Trương Tiểu Biện cuống lên vội bật dậy, Tam gia ta lại phải đích thân động thủ vậy. Hắn nhảy phắt lên xe mở bao tải, ném vung những con ếch béo đang bị nhồi đến dở sống dở chết ra khắp ngõ. Bầy mèo ngửi thấy mùi tanh, lập túc sang mắt, nhe nanh, kêo "ngao, ngao", xông tới vồ bọn ếch, cắn xé.
Nhân lúc đàn mèo đánh chén lũ ếch, Trương Tiểu Biện lại bỏ cái bao cương thi vào bao tải, bảo Tôn Đai Ma Tử vác lên vai, kéo tay Tiểu Phượng chuồn khỏi ngõ, cả cỗ xe cũng bỏ lại luôn. Cả bọn sợ giẫm phỉa những con mèo đang vục mặt ăn ếch, đành phải nhón từng bước, nép vào tường mà đi. Mới đi được vài bước, chợt thấy con mèo khoang có đủ màu lông pha sắc vàng, trắng, chạy ra khỏi dám mèo, ngồi im trên mặt đất không nhúc nhích, chăm chú nhìn vào cả bọn ba người.
Bọn Trương Tiểu Biện thấy cổ quái, bất giác chú ý tới con mèo nọ, chỉ thấy nó không giống mèo hoang tầm thường, tuổi tác cũng không già lắm, da bóng lông mượt, đôi mắt nhoang nhoáng, rất có thần thái, từ cử chỉ đến khí độ đều ung dung phi phàm, xem ra đây chính là thủ lĩnh của bầy mèo hoang.
Trương Tiểu Biện chợt nhớ lại thuật xem mèo đoán chó, liền quan sát kỹ một lượt. Con mèo này hai tai tròn trịa, khác hẳn mèo thường, có lẽ là giống mèo "Kim Ngọc Nô" được chép trong thư tịch cổ, đốm vàng thì như vàng ròng, đốm trắng thì như bạch ngọc. Từ đời Hán đến nay, đã là một loại mèo quý hiếm trên thế gian. hắn ta người nghèo chí ngắn, không khỏi nảy sinh tà niệm, bụng bảo dạ:
- Nếu đem con Kim Ngọc Nô này bán ở Kinh thành, chắc hẳn có nhiều bối lặc, vương gia biết người biết của, thích chơi mèo, có khi cũng được... "
Trương Tiểu Biện đương lúc nảy ra ý nghĩa đen tối thì chợt thấy con Kim Ngọc Nô đột nhiên ngẩng đầu, nheo nheo mắt, nhếch mép mỉm cười với ba người. Nụ cười đó khiến bọn Trương Tiểu Biện ba hồn bảy vía lên mấy. Từ xưa tới nay, khắp gầm trời này không có mèo nào biết cười bao giờ. Ai mà gặp phải một con mèo biết cười, thì đúng là gặp phải yêu quái rồi.
Trương Tiểu Biện thấy nụ cười của con mèo hết sức quái dị, lập tức nhớ lại tình cảnh đếm mèo trong cổ mộ Kim Quan lúc trước, trong lòng giật nảy lên một cái, không dám tiếp tục nhìn con Kim Ngọc Nô nữa, hai chân chạy như bay ra khỏi lối ngõ hẹp như làn khói
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng cũng đều hoảng sợ, chạy theo sau Trương Tiểu Biện. ba người chạy qua một lối ngõ khác, đến một góc phố có người qua lại mới dám dừng lại thở hổn hển, trong lòng còn chưa hết kinh hoàng, mãi chẳng nói lên lời.
Tôn Đại Ma Tử bỏ cương thi mỹ nhân trên vai xuống đất,thở hổn hển giây lát, rồi hỏi Trương Tiểu Biện:
- Ma mị thật! Mỗ đây lớn chừng này rồi, ngày thường thấy vô số mèo nuôi, mèo hoang những chưa từng thấy con mèo nào biết cười cả, nghe nói mèo không cười được là vì mặt mèo không có sợi gân cười. Con mèo chúng ta vừa thấy lúc nãy, nhất định là yêu quái trong miếu cổ, phải mời pháp sư thực thụ mới được, tránh để lâu ngày sẽ gieo hoạ cho bách tính vô tội.
Tiểu Phượng lại nói:
- Có lẽ là Miêu từ đã lâu không có hương khói, nay chúng ta đai bầy mèo hoang một bữa ếch to, khiến chúng không chịu đói nữa, Miêu tiên gia thấy vui lòng nên mới hiển linh như vậy. Tiểu Tam ngươi bảo có đúng không.?
Trương Tiểu Biện đáp:
- hai người chưa trải sự đời, biết gì mà nói chứ? Tuy rằng mèo có ở khắp nơi trên thế gian này, những kẻ tầm thường tưởng đã quá quen thuộc, những thực chất lại không biết hết ngóc ngách về chúng. Tam gia ta nói ra không phải để dạo hai người, chẳng những mèo biết cười mà sau lưng chúng ta chúng còn biết nói nữa. Dẫu là mèo trắng, mèo đen, hay mèo khoang thì đều biết nói tiếng người, có điều đó là việc cấm kị nên chúng không dám cất lời đấy thôi, chỉ khi nào không có tai mắt con người chúng mới lên tiếng
Tiểu Phượng và Tôn Đại Ma Tử đều lắc đầu không tin:
- Chú đang nói về vẹt chứ đâu phải về người. Ai thấy mèo thốt lên tiếng người bao giờ..?
Trương Tiểu Biện ra vẻ thần bí, hạ giọng nói:
- Có một phép lạ thời cổ có thể ép con mèo nói được. Đầu tiên bắt một con mèo đực, vào lúc trăng tròn thì xích nó trước gương... "
Tôn Đại Ma Tử là người thẳng thắn, chuyện gì chưa thấy thì đều cho là nói xằng, liền không đợi Trương Tiểu Biện nói xong, gã đã hết kiên nhẫn, nằng nặng hỏi lý do hắn đem cái thây vào thành làm gì, để đến nỗi cả bọn phải chịu bao nhiêu điều sợ hãi, nếu không nói thí thật hơi có thiếu trượng nghĩa.
Trương Tiểu Biện bị cật vấn gắt gao thầm tính tạm thời chưa thê giãi bày đầu đuôi câu chuyện, chỉ còn cách nói tình nói lý cho họ hiểu. hăn cũng học hai năm ở trường làng, nói nửa văn vẻ nửa quê mùa, cộng thêm cái mồm lanh lợi, kể lể bịp bợm một hồi thành ra thấu tình đạp lý , khiến Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng vừa nghe vừa gật đầu lia lịa.
Chỉ nghe Trương Tiểu Biện thuận miệng ba hoa:
- Trời không sinh ra người không có lộc, đất không sinh ra cỏ không có rễ, các người thấy trong thành bao nhiêu kẻ mặc lụa là gấm vóc không, chúng cũng như chúng ta mà thôi. Ta chả kém gì chúng, thế mà chúng ăn mo mặc ấm, còn chúng ta thì tan cửa nát nhà, nghèo tới mức áo không đủ che thân, người không một đồng cắc? tổ tiên của hai người ra sao thì ta không rõ, nhưng tổ tiên nhà họ Trương ta ba đời không có con trai phạm pháp, sáu đời không có con gái tái hôn, toàn là người chuyên làm việc thiện tích đức. Chẳng lẽ truyền đến đời Trương tam gia ta lại phải cả ngày nhịn đói nhịn khát, đi đến đâu cũng bị người đời khinh rẻ, như thế lẽ nào ông trời kia không có mắt..? Hoàn toàn không phải như vậy, có câu rằng: "Người hiền bị người hà hiếp chứ trời không hà hiếp", có một vị thần tiên sẵn lòng cứu bần tế khổ, muốn đưa chúng ta khỏi bể khổ mà được vinh hoa phú quý, chính vì vậy, khi ở trong mộ cổ đã mách bảo Tam gia ta con đường kiếm ra tiền trăm bạc vạn. Không rõ các ngươi đã từng nghe qua câu này chưa: "Mệnh do trời định sẵn, việc bởi người làm nên". Cảnh giàu sang, cả đời ăn tiêu không hết, làm gì có chuyện ngồi mát mà có được bát vàng? Nhất định phải trải qua nguy hiểm, vượt qua phong ba, chứ nếu không trên đời này làm gì có kẻ nghèo nữa"
Trương Tiểu Biện lại kể lời dặn của Lâm Trung Lão Quỷ, cắt đầu cắt đuôi đi một chút, rằng việc chuyển thi thể vào trong thành là để mang đến một cửa hàng lâu đời có tên là " Tùng Hạc đường". Nếu tìm đến đúng chỗ thì núi vàng núi bạc chẳng mấy mà hiện ra trước mắt. Song Tùng Hạc đường buôn bán cái gì và nằm ở chỗ nào trong thành thì hoàn toàn không biết.
Tôn Đại Ma Tử và Tiểu Phượng dường như đã tỉnh ngộ, ba người vội tìm một chỗ kín đáo để bàn bạc, đoán rằng cương thi mỹ nhân là một món cổ vật trong Ứng Trủng sơn, tùng Hạc đường là một cử hiệu chuyên buôn bán cổ vật, chỉ nghe cái tên không thôi cũng đã thấy cổ kính rồi, chắc hẳn là như vậy, khốn nốn lại không biết cái tiệm ấy nằm ở phố lớn nào nữa.
Đường ở mồm, cả bọn chia nhua đi thăm dò, chẳng ngờ khi nghe hỏi về cửa hàng đồ cổ Tùng Hạc đường thì người trong thành đều lắc đầu không biết. "thời bình gom đồ cổ, lúc loạn tích tiền vàng", bây giờ là lúc giặc cướp trong thiên hạ nổi lên như ong, trừ thành Bắc Kinh ra thì làm gì còn nơi nào buôn bán đồ cổ nữa chứ? Các cửa hiệu đồ cổ trước kia, nay đều đã đóng cửa cả rồi. Cuối cùng chỉ có duy nhất một vị hòa thượng trụ trì một ngôi chùa lẻ trong thành mới bảo bọn Trương Tiểu Biện rằng: "Trong thành Linh CHâu không có cửa hiệu đồ cổ Tùng Hạc đường, nhưng lại có một hiệu bán thuốc tên là Tùng Hạc đường, nằm ở đường Thanh Thạch phía bắc thành, mặt đường toàn lát đá xanh. Hiệu ấy lớn nhất phố, chỉ cần đi khỏi đây mấy trăm bước sẽ thấy biển hiệu của nó, rất nổi bật dễ tìm"
Bọn ba người Trương Tiểu Biện ngẩn tò te nhìn nhau, hóa ra lúc trước đoán sai, xem ra tám phần mười đúng là cái hiệu thuốc Tùng Hạc đường đó rồi, chẳng lẽ hiệu thuốc mua cái xác về phối làm thuốc ư? Như vậy món làm ăn này phạm phải điều cấm kị rồi, nghĩ thế cả ba khó tránh khỏi cảm giác thắc thỏm không yên, song lại nghĩ, cứ đến đó rồi mới biết, cùng lắm thì co chân bỏ chạy là xong.
Quyết ý như thế, cả bọn vòng qua một ngõ nhỏ tránh đám lính dõng tuần thành, tìm đến phố Thanh Thách, quả nhiên thấy một hiệu thuốc to, từ xa đã ngửi thấy mùi thảo dược tỏa ra nức mũi. Trước cửa hiệu có treo một biển lớn đề ba chữ rồng bay phượng múa: "Tùng Hạc đường", bên trong sảnh có tấm hoành phi cổ: "Huyền hồ tế thế"( Treo bầu thuốc cứu đời), mấy tầng lầu gác trập trùng trông đến là hoành tráng.
Cổng lớn hiệu thuốc mở rộng, nội đường, ngoại đường đều được quét dọn tinh tươm, người ra người vào không ngớt. Tầng một là nơi bốc thuốc, bày hàng loạt tủ thuốc cao ngất, sơn then bóng loáng, ngoài hai người chánh phó đứng quầy thuốc, còn có bọn người làm, học việc chạy qua chạy lại nhộn nhịp. Phía trước tấm bình phong lớn kê ở nhà ngang bày một bộ bàn ghế, một thày lang đầu râu tóc bạc, chuyên chẩn mạch kê đơn đáng bách mạch cho bệnh nhân.
Trương Tiểu Biện thấy hiệu thuốc đông người, nào dám tùy tiện bước vào, liền nấp ở một góc phố chờ tới lúc cửa nẻo lên đèn, trông thấy Tùng Hạc đường bắt đầu đóng cửa, gần đó lại không có bóng quan binh, hắn mới để Tiểu Phượng ở ngoài đợi, rồi cùng Tôn Đại Ma Tử bê cương thi mỹ nhân, rỏa nước đến trước cửa.
Tên người làm trong Tùng Hạc đường đương lúc bận bịu, thấy hia kẻ áo quần lam lũ đột nhiên chạy vào, tưởng là ăn xin, liền trừng mắt lên, cầm ngược cái chổi lông gà định đánh đuổi bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử ra khỏi cửa.
Trương Tiểu Biện vội vã vái chào, bịa chuyện: "Chúng tôi đến bán dược thảo quý hiếm, có món hàng này mong trưởng quầy ghé mắt một chút."
Nào ngờ tên người làm này là một đứa học việc quen cậy thế làm càn, trong mắt có coi hai kẻ rách rưới như Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử ra gì. Hắn trổ cán chổi vào mặt cả hai, mắng:
- Hai thằng ranh không có mắt các ngươi từ đâu đến? Sao dám lằng nhằng trước cửa Tùng Hạc đường. Ông đây cũng có món hàng đây này, để ông cho chúng bay xem trước..! Nói xong hắn hằn học vụt nhầu cái chổi lông gà xuống
Ngày thường, Tôn Đại Ma Tử rất hao trò đánh côn, múa quyền, dẫu sao cũng có vìa ngón võ, lại thêm huyết khí phương cương, làm sao chịu để hắn đánh cho. Gã giơ tay nắm chặt lấy cổ tay tên nọ, sừng sộ quát:
- Mỗ đến bán thuốc, không phải phường đạo tặc trèo tường khoét vách. Chưa rõ đầu đuôi ngọn ngành sao ngươi dám đánh? Phải cho nhà ngươi biết nắm đấm của mỗ đây lợi hại thế nào... "
Tên người làm bị Tôn Đại Ma Tử bóp chặt cổ tay, đau quá, kêu rống lên như lợn bị chọc tiết làm kinh động mọi người trong cửa hiệu, ngay tắp lự có mấy người cầm then cửa, chổi tre, ghế dài định xông vào giúp. Trương Tiểu Biện kêu lên:
- Khổ quá, Diêm Vương dễ cáu, tiểu quỷ khó dây, chưa trông thấy trưởng quầy đây đã bị bắt, lần này chắc bị giải đến công đường đánh chết thôi, không hiểu con nha đầu Tiểu Phượng có lòng tốt đến nhặt thi thể của hai bọn ta không.
Tôn Đại Ma tử nóng máu lắm rồi, đang xuống tấn lấy thế chuản bị nghênh chiến, chẳng ngờ, đúng lúc ấy, tiếng huyên náo đã kinh động đến Thiết trưởng quầy của Từng Hạc đường.

Lão Thiết chưởng quầy này là tên gian thương nổi tiếng keo kiệt ở đất Linh Châu, một đồng một cắc cũng không dám tiêu, tiền vào như nước nhưng tiền ra nhỏ giọt. Nếu có ai đó đòi lấy hơn của Thiết chưởng quầy một đồng thì chẳng khác nào rút gân của lão, người này bẩm sinh có cặp mắt gà chọi thế nên còn có hiệu là "Thiết Công Kê" (gà trống sắt).
Thiết Công Kê xưa này vẫn ngấm ngầm cấu kết với quan lại. Lão là kẻ tiểu nhân tham lam, chỉ chăm chăm mưu lợi, tìm trăm phương ngàn kế khiến các hiệu thuốc trong thành phải đóng cửa, thành ra tới giờ, các cửa hiệu kinh doanh dược thảo lớn nhỏ ở Linh Châu đều mang họ Thiết, lại nhân lúc thiên tai địch họa, ôn dịch tràn lan, lão bán thuốc thu lợi rất nhiều. Cuộc sống người dân thường đã như chỉ mành trao chuông, bệnh nhẹ thì cắn răng chịu đựng, những người đến đây kê đơn bốc thuốc đều là những con bệnh nặng chờ cứu mạng, đành phải bấm bụng để Thiết Công Kê hét giá cắt cổ. Biết bao người nghèo đã phải bán trẻ đợ con vì mấy cái đơn thuốc của lão.
Càng là những con buôn khắc bạc, keo bẩn như vậy, thì càng đặt mục tiêu trục lợi lên hàng đầu, lão nghe ngoài cửa ồn ào, liền ra hỏi, mới hay có hai người muốn đến bán thảo dược quý hiếm những bọn người làm thấy họ rách rưới tưởng là tụi rỗi hơi đến phá đám. Thiết Công Kê vốn định tỏ vẻ ta đây, mặt mày lạnh lùng, nghe đến bốn chữv "dược thảo quý hiếm", lập tức đảo cặp mắt gà nhìn nhìn chằm chằm vào cái bao tải trên lưng Trương Tiểu Biện vén môi cười gian xảo.
Mặc dù cái bao gai bẩn thỉu y như đống bùn, nhưng bên trong thì lùng bùng, như đang chứa một vật gì đó. Thiết Công Kê vốn là kẻ tay trắng làm nên, hồi trước phát tài cũng là nhờ tình cờ có được mấy cử sâm già đã thành hình. Lão biết rằng, bọn miền ngược tuy nghèo khổ nhưng thường xuyên vào rừng sâu núi thẳm mưu sinh, cơ hội đào được các thứ kì hoa dị thảo không phải là không có, riêng điểm này thì không thể nhìn bề ngoài mà xét đoán được. Chẳng cần biết thứ hai đưa nhỏ này muốn bán là thuốc thật hay giả, cứ mang ra xem cũng chẳng mất gì. Nhược bằng, chúng là bọn lừa đảo thì sẽ hô người đánh đập cũng không muộn.
Nghĩ như thế, Thiết Công Kê liền quát bọn giúp việc dừng tay, cười khùng khục một cách cổ quái rồi sai người mời Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vào nội đường nói chuyện.
Thiết Công Kê dẫn theo lão thủ quỹ tâm phúc, đưa bọn Trương tiểu Biện vào bên trong, lệnh cho đám người còn lại ở ngoài canh gác, đoạn vào trong đóng cửa lại rồi ngồi xuống, cũng chẳng mời trà nước gì, chỉ liếc nhìn vào cái bao tải to rồi nói với Trương Tiểu Biện: "Còn đứng trơ ra đấy? Có gì muốn bán thì mang ra xem nào!"
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử tuy trống ngực đập thình thịch nhưng lúc này đã chẳng còn đường lui, đành cố tỏ vẻ cứng cỏi mở bao gai, để lộ ra một cái xác nữ trần truồng không hàm dưới và nói: "Mời ông xem qua... "
Lão thủ quỹ đứng gần bao tải nhất, vốn mắt kém, lúc đầu nhìn không rõ, ngạc nhiên thốt lên:
- Củ nhân sâm lớn quá", rồi vội đeo kính lão vào, rướn người lại gần xem cho kĩ, vừa nhìn một cái, lão đã sợ tới mức đánh rơi cả kính:
- Cha mẹ ơi, là... là cường thi rồi kêu lên:
- Nhất định đào trong mộ cổ ra rồi, tởm quá! Chưởng quầy! tôi sẽ báo bọn người làm đem dây trói hai tên tặc tử đào trộm mộ này, giải đến nha môn xét xử!"
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy đại sự đã hỏng, định quay người phá cửa mà chạy, nhưng Thiết Công Kê không kinh hoàng như lão thủ quỹ mà ngược lại, thần sắc trên khuôn mặt lão biến đổi liên tục, đột nhiên đứng lê lật hẳn bao tải ra, ngắm nghía từ trên xuống dưới thể trạng và dung mạo của cái xác. Con người lão tuy tiểu nhân gian xảo những rất thông hiểu y lý, dược lý, nhớ nhiều bài thuốc cổ, cũng là một kẻ biết nhìn hàng hóa. Lão xem xong, gật đầu nói:
- Đây là Mỹ nhân vu của đời trước. hai ngươi phải nói thật, có được cái này từ đâu?"
Trương Tiểu Biện nào biết cái gì là Mỹ nhân vu, đành nói được là đào được ở vườn sau nhà, cũng không biết lai lịch thế nào. Có người học rộng trong làng bảo đây là một vị thuốc quý nên mới lặn lội mang vào thành, nghe có hiệu Tùng Hạc đường nổi tiếng đã lâu, tiếng lành đồn xa, già trẻ đều trọng... "
Không đợi Trương Tiểu Biện nói hết câu, Thiết Công Kê "hừ" một tiếng, rồi cười nhạt, mắng:
- Nói năng lung tung! Xung Quanh ứng trủng sơn đều là đất chó ăn đá, gà ăn sỏi, ngoài mấy ngôi mộ ra thì còn thứ thuốc gì trân quý nữa? Đây rõ ràng là xác chết của triều đại trước. Có điều, mặc dù là vật quý xưa nay nhưng chỉ e chả đáng mấy đồng. trong thành Linh Châu này, ngoài ta ra chẳng có người thứ hai biết hàng nữa đâu. Các người đã tìm đến đây âu cũng là một cơ duyên, cho nên ta cũng chẳng che giấu gì nữa, những việc khác thôi không bàn, chỉ mặc cả với các ngươi một cái giá hợp lý. Thuận mua vừa bán rồi sẽ bảo các người biết lai lịch của vật này...
Tôn Đại Ma Tử tưởng Thiết CÔng Kê chịu trả một món tiền lớn, trong lòng vui mừng, chửng để ý nghe lão phát giá đã tỏ ý ưng thuận ngay. Lúc đó, trong đầu Trương Tiểu Biện chợt loé lên, nhớ đến lời Lâm Trung Lão Quỷ:
- Mang cái xác này đến Tùng Hạc đường, cho dù hắn phát giá bao nhiêu cũng không đồng ý, đừng tham món lợi nhỏ, chỉ cần đòi con mèo đen ở hậu viên Tùng Hạc đường là được. Nếu không có con mèo đó thì núi vàng, núi bạc chôn giấu trong thành Linh Châu sẽ không tìm được đâu. Con mèo đen nuôi ở Tùng Hạc đường chính là chìa khoá mở ra kho báu ở thành Linh Châu đấy
Đúng là: "Sống chết có số; Phú quý nhưof trời; Huyền cơ ngầm ẩn; Chỉ trong vài lời; Tin hay không tin; Tự quyết mà thôi".
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 2: Mỹ nhân Vu

Lại nói, Tôn Đại Ma Tử đang định phát giá tại chỗ, bán phắt cỗ cương thi cho lão Thiết Công Kê, chưởng quầy hiệu thuốc Tùng Hạc đường, liền bị Trương Tiểu Biện ngăn lại không cho gã mở miệng đòi tiền.
Trương Tiểu Biện cười hì hì, bảo với Thiết Công Kê:
- Vị huynh đệ mặt mụn nhà tôi vốn là người hay bông đùa, chưởng quầy chớ nên tưởng là thật. Bọn tiểu nhân ai nấy đều biết Tùng Hạc đường hành nghề y dược, gieo nghĩa cử cứu giúp người nghèo, hôm nay may mắn có được vật quý Mỹ... Mỹ... Mỹ nhân vu, có ý định đưa vật về với chủ, đáng lẽ ra, nên hai tay dâng lên, chứ nào dám đòi tiền của chưởng quầy".
Thiết Công Kê là kẻ cực kỳ keo bẩn, xưa nay chưa từng dễ dãi cho ai một đồng, một cắc. Lão đang tính cách giết hại cả hai để cướp trắng pho Mỹ nhân vu này, chứ chẳng định trả đồng nào hết. Lúc đó, nghe Trương Tiểu Biện nói không cần tiền bạc, lão hết sức ngạc nhiên. Lão lấy bụng ta suy ra bụng người, nên càng nghĩ càng không hiểu nỗi, thầm nghĩ, trong gầm trời này làm gì có cuộc mua bán nào không cần tiền, đã không phát giá lấy tiền thì nhất định có môt âm mưu khác.
Trương Tiểu Biện nói:
- Chưởng quầy quả nhiên liệu sự như thần, xưa nay thuận mua vừa bán, không cướp không hàng hóa bao giờ, nhưng chúng tiểu nhân dẫu mặt dày đến mấy cũng không nỡ lòng nào thò tay lấy tiền bạc của ông, chỉ to gan xin đổi lấy một vật trong quý phủ.
Thiết Công Kê nhíu mày, hằn học nhìn chằm chặp vào Trương Tiểu Biện, nói:
- Muốn tiền, muốn vật thì có khác gì nhau? Các người đừng vòng vo với bản chưởng quầy, có gì thì nói thẳng, còn muốn đánh rắm thì ra ngoài mà đánh, muốn cái gì thì nói rõ ra.
Mấy lời ba hoa bốc phét Trương Tiểu Biện không cần nghĩ ngợi là đã có ngay, tức khắc dựng lên một câu chuyện, rằng ở vùng Úng Trủng sơn hiện đang có nạn chuột hoành hành, bẫy chuột, bã chuột đều không thể trị được những bọn cứng cổ đó. Bây giờ đang lúc chiến tranh, bà con đều ăn không đủ no, chỉ có một ít lương thực dự trữ, cả ngày chỉ lo chuột đến đục khoét, khổ sở khôn xiết.
Từ xưa đến nay, mèo vốn là thiên địch của chuột, ngưới ta thường nuôi mèo để đuổi chuột, nhưng mèo trong cái thành lẫn phương viên mấy trăm dặm này toàn là mèo khoang Linh Châu, chùng nhờ phúc ấm của Miêu Tiên Gia, quen thói ăn trắng mặc trơn, chẳng bao giờ chịu bắt chuột.
Trương Tiêu Biên nói, được biết ở hậu viện của Tùng Hạc đường có một con mèo đen tuyền như phủ môt lớp than mịn, thần thái phi phàm, bắt chuột cả ngày không biết mệt, ngạn ngữ có câu:
- Chó khôn canh ba hộ, mèo giỏi giữ ba nhà", bọn mèo khoang sản sinh ở bản địa tuyệt đối không thể so bì với con mèo đen này được. Huynh muội ba người bọn họ quyết tâm trừ diệt nạn chuột trong làng, nên mới liều chết mang Mỹ nhân vu vào thành để đổi lấy con mèo đen đó mang về.
Nguyên trong nhà của Thiết Công Kê mấy năm nay bị chuột hoành hành dữ dội, đúng là có nuôi một con mèo đen. Vốn lão định nuôi mèo để bắt chuột, nào ngờ con mèo đó chỉ thích vồ chim sẻ, ngày nào cũng trèo cây leo xà để phá tổ chim, xưa nay không hề để ý đến lũ chuột đang tung hoành dưới bếp, gặp phải chuột thì nó cũng cứ lờ đi như không trông thấy.
Con mèo đen ấy nhiều khi khiến Thiết Công Kê tức tới trợn trắng cả đôi mắt gà chọi. Về sau lão được một thuật sĩ biết xem tướng mèo bảo cho, mới biết rằng con mèo đen này từ hai mắt đến chót đuôi đều ẩn một đường kim tuyến, dưới ánh trăng sao mới nhìn thấy được, trong "Miêu phổ" gọi là con "Nguyệt Ẳnh ô đồng kim tuyến miêu". Chính vì có đường kim tuyến liền mạch như thế, con mèo đen này không phải là mèo đen tuyền mà thực chất là một con mèo khoang hai màu chính tông của Linh Châu.
Từ khi biết được điều này, Thiết Công Kê đã sớm có ý vứt con mèo đen vô dụng đó đi. Bây giờ thấy Trương Tiểu Biện muốn đổi Mỹ nhân vu lấy mèo, lão thở phào nhẹ nhõm, không phải dốc hầu bao thì Thiết chưởng quầy sung sướng gì bằng? Chỉ sợ Trương Tiểu Biện hối hận đổi ý, lão liền lập khế ước, sai thủ quỹ ra đằng sau nhà ôm con mèo đen ra đổi.
Tôn Đai Ma Tử thấy thế, cuống lên đến nỗi gân xanh trên trán giần giật, gã vội nắm vai trái Trương Tiểu Biện, nói:
- Lão tam hồ đồ thế? Có câu: Gái ngoan không nuôi chó, trai ngoan chớ dưỡng mèo. Đàn ông con trai mà nuôi mèo trông nó ẻo lả đi, đàn bà con gái mà nuôi chó thì mất đi vẻ hiền thục. Sao chúng ta lại bỏ tiền ngay thóc thật trước mắt để đổi lấy một con mèo đen trong hiệu thuốc làm gì?".
Tuy nhiên trong lúc này, tất cả đường gân thớ thịt trong người Trương Tiểu Biện đều tập trung vào con mèo đen ở hậu viện Tùng Hạc đường, cho rằng muốn trở nên đại phú đại quý cần phải nhẫn nhịn lúc này, hoàn toàn không hề nôn nóng giống như Tôn Đại Ma Tử. Khi ấy, lòng hắn cứng rắn như thép, đừng nói Tôn Đại Ma Tử, dẫu cho Quan Thế Âm Bồ Tát giáng trần cũng chẳng thể khuyên hắn nghĩ lại được.
Lúc đó lão thủ quỹ đã ôm con mèo đen ở hậu viện ra, Trương Tiểu Biện vội đưa mắt nhìn. Thấy con mèo đen nhỏ tuy trông có vẻ lười nhác uể oải, nhưng nếu dung phương pháp xem tướng mèo cao minh để quan sát, tự nhiên sẽ nhận ra sự xuất chúng của nó.
Con mèo có gì xuất chúng? Có lời khen làm chứng như sau:
- Rồng đen vào mắt, chỉ vàng xuyên; Mây tối bọc mình tựa nhuộm then. Vuốt sắt có phen móc lật ngói; Quật đuôi bảy đốt gió dâng lên.
Đây đúng là một con "Kim tuyến miêu" rất hiếm có trong đám mèo khoang ở thành Linh Châu.
Trương Tiểu Biện nén nỗi vui mừng như phát điên trong lòng, đón lấy con mèo đen từ tay lão thủ quỹ, giở nghề xem tướng mèo, xoắn tai mèo, kéo đuôi mèo, nắn gân cốt, xem vòm miệng. Hắn mê muội cả đầu óc, cho rằng có được con mèo này thì bao nhiêu kho báu chôn ở thành Linh Châu sẽ về tay hắn, nhưng không dám lộ sơ hở trước mặt Thiết Công Kê, chỉ mở mồm cảm ơn rối rít, giả vờ như phải mang ngay con mèo về làng bắt chuột, rồi nói mấy câu từ biệt ra về.
Thiết Công Kê thấy không tốn chút tiền bạc nào mà đổi mèo đen lấy Mỹ nhân vu, quả là một việc đáng vui mừng. Lão định bụng để Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử về làng tìm thêm vài món hàng như thế này rồi mang trộm vào thành, nên không vội tiễn khách mà cất tiếng gọi người chắt một bình "cao mạt" mang ra khoản đãi và kể cho cả hai nghe về lai lịch của Mỹ nhân vu.
Nghe kể, ai nấy đều kinh hãi, các bạn có biết vì sao không? Thì ra, Mỹ nhân vu là vật của triều trước, không phải thứ có ở đời nay. Triều trước tức là triều Minh. Từ đời Hồng Vũ Hoàng đế khai quốc trở đi, đã từng một độ quốc thái dân an, bốn bề thanh bình, nhưng tới những năm cuối đời Minh, nhà họ Chu khí số sắp hết, chính sự bế tắc, không dung hiền thần, bọn gian thần hoạn quan thừa cơ nắm quyền hành.
Bọn hoạn quan trong triều thả sứa hút máu mỡ của nhân dân. Bọn người này vốn không thể sinh con đẻ cái, phải chịu cảnh vô hậu, nên lối hưởng thụ hết sức khác người, bệnh hoạn. Để thỏa mãn nhu cầu tinh thần biến thái của bản thân, chúng nghĩ ra rất nhiều phương thức hưởng lạc xa hoa, dâm dục vô độ, trong đó có Mỹ nhân vu.
Thế nào là Mỹ nhân vu? Nghe tên là đoán ra nghĩa, tức là dùng người sống làm thành cái ống nhổ đờm. Mua nữ nô tỳ về, chọn lấy một người trẻ đẹp, cả ngày bắt quỳ trong phòng, mỗi khi thấy chủ nhân ho khạc, người đẹp phải lập tức hé mở đôi môi hồng xinh xắn, đón lấy bãi đờm chủ nhân nhổ ra rồi bấm bụng nuốt vào. Thế gọi là Mỹ nhân vu.
Vào thời ấy, quan lại quý tộc đều đua nhau học theo, nhà ai càng giàu có, thế lực thì càng phải có Mỹ nhân vu. "Mỹ nhân vu" càng xinh đẹp bao nhiêu càng thể hiện thân phận cao quý của chủ nhân. Phong khí này kéo dài mãi tới khi cánh Yêm đảng thất thế mới dần dần bị phế bỏ.
Thiết Công Kê tuy nhân phẩm thấp kém nhưng rất hiểu biết phương vật của các triều đại. Lão biết rằng trong Úng Trủng sơn có mộ táng của triều trước và đã bị bọn đào trộm mộ khai quật vào hồi cuối Minh đầu Thanh. Lão thấy Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vác đến một cái xác nữ, hình thái hết sức kỳ dị, quỳ gối ngửa cổ, không có hàm dưới, liệu chừng trước khi chết dùng vật sắt rạch ra nên mới thế, lão liền đoán rằng, đây là Mỹ nhân vu được bồi táng theo mộ.
Mấy năm nay, Thiết Công Kê tìm trăm phương ngàn kế thu thập các tử thi ngậm hờn mà chết, giờ thấy Mỹ nhân vu thì như mèo thấy mỡ, nhưng lão không hề có ý dùng thịt cương thi chế làm thuốc, mà cũng giống như Trương Tiểu Biện, trong lòng lão có sẵn mưu đồ đen tối riêng. Ngoài mặt, lão mở cửa hàng thuốc nhưng bên trong ngấm ngầm làm rất nhiều việc bí mật khác không để người ngoài biết, làm sao có thể dễ dàng dốc hết gan ruột của mình ra được? Lão nói đến đó liền giấu giếm không kể tiếp nữa, chỉ bảo hai người rằng: "Kỳ thực, Mỹ nhân vu là một cái xác cổ từ triều trước, Hình luật đã cấm không cho quật lên hay làm tổn hại nó. Bách tính tầm thường có nó cũng vô dụng. nhưng bản chưởng quầy hiểu được phương cổ, sẽ dùng thịt nó để chế thuốc cứu người, lại cam tâm tình nguyện thay các ngươi gánh chịu mối họa tày trời này. Các ngươi phải nhớ giữ mồm giữ miệng không được tiết lộ nửa lời, bằng không sẽ phải lằng nhằng với quan phủ đấy."
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử rốt cuộc đã hiểu Mỹ nhân vu là cái gì, sợ đến nổi da gà, chỉ muốn nôn mửa, những lời Thiết Công Kê nói lúc sau đều ngơ ngơ ngẩn ngẩn, nghe chẳng để tâm.
Thiết Công Kê lại nói nhỏ to một hồi, chỉ vòng vo nhai đi nhai lại mấy ý đó. Trương Tiểu Biện cũng chỉ ứng tiếng qua loa vài câu. Hắn đã có được con mèo đen Linh Châu thì không muốn nấn ná ở lại Tùng Hạc đường nữa, liền ôm mèo từ biệt. Trước khi đi, hắn còn quay lại hỏi thăm Thiết Công Kê một chuyện nữa: "Nghe nói trong thành Linh Châu trước kia, có một vị quý nhân họ Lâu. Trong phủ nhà họ Lâu có trồng rất nhiều cây hòe nên còn được gọi là Hòe viên. Từ khi nhà họ Lâu lụn bại, Hòe viên trở nên hoang phế, tiểu nhân muốn hỏi thăm tòa phủ đệ đó hiện bây giờ còn hay mất?"
Thiết Công Kê nghe thế thì thoáng ngẩn người: "Hậu nhân họ Lâu nghèo rớt mùng tơi, sớm phải đem cơ nghiệp tổ tiên bán đi. Hiện giờ, Hòe viên là tài sản của Thiết gia ta. Bọn khố rách áo ôm các ngươi hỏi thăm làm gì?"
Trương Tiểu Biện chỉ nhớ lời dặn của Lâm Trung Lão Quỷ, đầu tiên đem xác chết ở Úng Trủng sơn đổi mèo, sau đó đến Hòe viên để tìm báu vật chứ chưa từng nghĩ đến việc Hòe viên của Lâu gia đã đổi chủ. Hắn chợt nảy ra một ý, liền nương theo lời Thiết Công Kê đáp luôn: "Trời sắp tối mịt đến nơi, cửa thành cũng đã đóng lại, trong thành lại giới nghiêm rất ngặt, bọn tiểu nhân không có người thân thích ở đây, định mượn tạm nơi miếu nát nhà hoang nào đó ngủ tạm một đêm, đợi trời sáng rồi về. Nghe mọi người nói có tòa Hòe viên đổ nát mới nảy ý định đến đó, không ngờ lại là sản nghiệp của Thiết chưởng quầy."
Hòe viên là một khu nhà cổ, đình đài nhà cửa bố trí rất ư điển nhã, bên trong có nhiều đá cảnh, suối nước, hoa cỏ điểm xuyết cho nhà vườn, rất nổi tiếng trong vùng. Thiết Công Kê đã nhắm Hòe viên từ mấy năm trước, giở trò cưỡng đoạt được, chẳng ngờ trong khu nhà ấy lại có ma, người sống không ở được, đành bỏ hoang cả cơ ngơi to lớn đó cho tới giờ.
Thiết Công Kê lúc nào cũng muốm chiếm phần lợi lộc về mình. Lão đảo đảo tròng mắt, nghĩ bụng, khu Hòe viên đó bỏ không thì cũng đã bỏ không rồi, mấy năm nay đến bọn gõ mõ cầm canh cũng không dám đi ngang qua đó chứ đừng nói đến chuyện sang nhượng được cho thằng xúi quẩy nào. Chi bằng cứ để bọn Trương Tiểu Biện nhà quê lên tỉnh này vào đó ở một đêm, nếu chúng mạng xấu không chết thì tiếng đồn xấu về khu nhà ma tự nhiên cũng không còn nữa. Vạn nhất ma quỷ lấy mạng chúng thì chẳng qua cũng chỉ là một vụ án không đầu không mối. Trong cái thời buổi loạn lạc này, chết mấy đứa cung khổ cũng chẳng phải việc gì to tát. Quyết ý như thế, lão liến ra vẻ rộng lượng lấy ra một chùm chìa khóa quăng lên mặt bàn, nói: "Các cổng thành đã đóng hết rồi, những nơi miếu hoang đền hoang, buổi tối thường có lính dõng đi tuần, nếu gặp phải dân tránh nạn hay ăn mày, đa phấn bọn lính ấy bất luận tốt xấu đều bắt hết lại, trước tiên cứ coi như là gian tế mà nghiêm minh tra khảo một phen, sau đó nhẹ thì tống vào đại lao, nặng thì đánh chết ngay tại chỗ. Thành Linh Châu này lớn thì lớn thật nhưng chẳng có mấy chỗ để qua đêm đâu. Khu Hòe viên phía Nam thành của họ Thiết nhà ta là khu nhà hoang không người ở, bên trong chẳng có gì đáng giá, có điều cả năm không ai quét dọn nên có chỗ... có chỗ không được sạch sẽ lắm, nếu các ngươi không chê thì có thể ở lại đó qua đêm cũng được."
Trương Tiểu Biện nghe thấy thế vội vã nhặt chùm chìa khóa lên, nói: "Không chê, không chê, bọn chúng tôi xưa nay chưa hề phạm pháp. Trong đêm tối, nếu vô duyên vô cớ bị quan binh bắt vào ngục, chắc những người dân an phận thủ thường như chúng tôi sẽ bị giết oan, chỉ e đến chết cũng không sao gỡ được mối oan khuất tày trời đó."
Hắn tỏ vẻ cảm ơn Thiết Công Kê nhưng cười thầm trong bụng: "Cứ tưởng Thiết Công Kê ngươi gian như giống ranh, hôm nay lại trở thành bàn đạp cho Trương Tam gia ta giàu sang phú quý, đúng là nhất cử lưỡng tiện, đã thế ông ôm con mèo đem vào Hòe viên tìm kho báu luôn."
Trương Tiểu Biện tuy tính toán khéo nhưng rốt cuộc không có tài tiên tri. Nếu giờ có người biết trước điều gì sẽ xảy ra trong Hòe viên, nhất định sẽ ôm chặt không cho đi, liều chết ngăn lại. hắn không đi còn không được, chứ đi lần này nhất định sẽ gây ra một tay họa tày trời, khiến cho thành Linh Châu máu chảy thành sông, ngoài thành sẽ mọc thêm vô số những nấm mồ mới.
.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 3: Dật sự đền tiên

Lại nói, trên đời này, vạn vật đổi dời, hưng vong xoay chuyển, biển xanh cũng có thể biến thành ruộng dâu, đời con người ta rốt cuộc giàu sang hay nghèo khổ thật khó mà nói trước. Chính vì vậy, thường có rất nhiều người lòng tham không đáy, luôn mong chờ có được sự giàu sang phú quý mà không biết rằng, trong gầm trời này người tốt cũng phải chịu cảnh nghèo đói lầm than. Chi bằng an phận thủ thường, tùy duyên mà sống, tìm lấy sự yên tĩnh, bình an là hơn.
Trương Tiểu Biện rốt lại thì kiến thức kém cỏi, chỉ thích làm những việc dễ dàng. Hắn nóng lòng phát tài, thấy đổi được con mèo đen của hiệu thuốc tự cho là đắc thể, nghĩ là sắp đạt được tới đích, chỉ mong mau chóng đến Hòe viên tìm của, chẳng thèm quan tâm đó là nhà ma nhà quỷ gì. Hắn cầm chìa khóa trong tay, cảm tạ Thiết Công Kê đã cho tá túc, lại lấy cớ không còn sớm sủa nữa, cùng Tôn Đại Ma Tử vội vã cáo từ ra về.
Thành Linh Châu về đêm nghiêm cấm người dân ra ngoài. Phố lớn ngõ nhỏ đều có từng tốp quan binh lính dõng rầm rập tuần tra. Lúc bấy giờ quân thủ thành đang thiếu, các nhà, các hộ đều phải cắt cử trai tráng ra giúp. Thiết gia có một người lão bộc bị điều động làm lính già chuyên cầm canh gõ mõ báo giờ. Người này hiểu rõ đường lối trong thành, có thể giúp tránh khỏi lính tuần sát. Sau khi được Thiết chưởng quầy dặn dò, lão dẫn bọn Trương Tiểu Biện đi đến Hòe viên.
Tạm thời không nói Thiết Công Kê sẽ xử lý cái cương thi đó như thế nào, riêng bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử sau khi ôm con mèo đen ra ngoài tìm Tiểu Phượng rồi cả ba vội vàng theo người lính già , luồn qua ngõ phố trong bóng đêm. Trương Tiểu Biện mồm mép trơn như mỡ, tán phét vài câu, bắt thân với người lính già nọ, thăm dò và biết được, người lính già lấy họ Thiết của chủ nhân, tên là Trung, từ ông tổ tám đời đã là người bản địa LInh Châu.
Lão hán Thiết Trung chừng năm mươi tuổi, lời nói và tướng mạo đều không có gì xuất chúng, xem ra chỉ là một lão bộc già trung hậu mà thôi. Lão mặc một cái áo cộc cũ nát có đánh số, tay xách ngọn đèn lồng, đeo thanh la và mõ phèng, vừa đi vừa hô: "Bình an vô sự đơi... ơi... Cẩn thận củi lửa đơi... ơi... "
Mấy người đi vào một ngõ nhỏ tối om om, thấy đã gần đến nơi, Thiết Trung đột nhiên ngừng lại, nói với bọn ba người Trương Tiểu Biện: "Không phải ta dọa các người đâu, nhưng trong thành Linh Châu này chẳng ai không rõ, trong Hòe viên đúng là có ma quỷ ẩn hiện, hại chết không biết bao nhiêu mạng người rồi. Hàng phố bốn bên đều sợ tòa nhà ma này nên đã chuyển đi hết. Cả dãy phố này, ngoài chuột và mèo hoang thì chẳng còn sinh vật nào nữa đâu. Đến lúc tối đêm, ngay cả đám lính dõng tuần tra cũng không dám đi ngang qua đây. Lão hán ta nói một câu khó nghe thế này, bọn hậu sinh các ngươi đêm nay nhỡ ra gặp ma, chết trong Hòe viên, chắc còn khó tìm được người đi nhặt xác. Nếu nghe lời khuyên thật lòng của ta thì nhân lúc này hãy còn sớm, mau tìm chỗ khác mà tạm trú qua đêm đi."
Trương Tiểu Biện chẳng hề để tâm, vốn không để lời của lão hán lọt vào tai, nghĩ thầm, Tam gia ta có biệt hiệu "Trương to gan", chẳng phải chỉ là hư danh tự dưng mà có được đâu. Mấy năm ở miếu hoang đền nát, chẳng lẽ sợ một chỗ nhà vườn trong thành ư? Nghĩ đoạn, hắn liền nói với lão Thiết Trung rằng: "Cảm tạ lão nhân gia có lòng chỉ bảo, nhưng trong lúc nửa đêm canh khuya này, trong thành còn có chỗ nào chứa chấp được bọn tiểu nhân nữa? Tiểu nhân Trương Tam cũng chỉ là một kẻ cùng đinh, quỷ thần còn chẳng thèm lấy mạng, vì vậy gan to mật lớn, mấy cái bọn yêu ma tép riu, tiểu nhân không hề sợ sệt gì đâu."
Tôn Đai Ma Tử rất khoái nghe những câu khoác lác kiểu anh hùng hào kiệt, liền tiếp lời luôn: "Người sợ ma ba phần, ma sợ người bảy phần, chúng tôi đều là đại trượng phu, khí nuốt bốn bề, xưa nay đi thì ngay, ngồi thì thẳng, trong lòng sẵn có đám lược. nếu trên đời này thực sự có loài yêu quỷ, theo lý chúng phải sợ chúng tôi mới phải."
Từ lúc vào thành tới giờ, Tiểu Phượng luôn run rẩy sợ hãi, nhưng cô ả nhà quê cũng không hiểu biết gì, đến gặp người lạ cũng khó mở miệng nói chuyện. Cô ả thấy một dãy phố, nhà cửa chẳng có chút tăm hơi tiếng người, hơn nữa lại còn tối đen kìn kịt không có lấy một đốm lửa, càng thêm khiếp sợ, đang định khuyên mọi người đừng vào trong căn nhà ma, bỗng nghe trên mái nhà phía sau cất lên tiếng mèo kêu: "Meooo", nghe sởn cả da gà, kinh hãi suýt ngã bệt xuống đất, may mà lão hán Thiết Trung đỡ được.
Trương Tiểu Biện nghiêng ngó thăm dò, trong đêm đen khó biết được tung tích con mèo hoang, chỉ thấy đường lối, nhà cửa xung quanh có chút quen thuộc, chợt nhớ ra nơi đây rất gần ngõ Miêu Nhi đã đi qua hồi sáng.
Lão Thiết Trung bảo Tiểu Phương: "Chớ có sợ, mèo hoang trong thành rất đông, đặc biệt là khu xung quanh Miêu Tiên từ này. Các ngươi gan lớn tày trời dám qua đêm trong nhà ma, tuyệt đối không phải chuyện giỡn chơi đâu. Ta chỉ là một gã gõ mõ cầm canh, chẳng nói được đạo lý gì ra hồn, chắc không khuyên bảo được các ngươi, nhưng đúng lúc đi qua chỗ này, thì cũng nên vào đền rập đầu trước Miêu Tiên gia vài cái, may ra lão nhân gia phù hộ cho các ngươi được một đêm bình an."
Đất Linh Châu có tục thờ Miêu Tiên gia, bọn Trương Tiểu Biện ba người hết sức tin theo, đồng thời, cũng là lấy thêm chút can đảm nên đồng thanh khen hay, thuận lối đi vào ngôi đền cổ. bệ thờ trong sảnh có môt pho tương thần bằng đất, áo xanh, râu dài, ánh mắt từ bi, giống như một nhà Nho bụng đầy chữ nghĩa. Nhìn thần vị thì chẳng phải ai khác, chính thị là Miêu Tiên gia đã nhiều lần hiển linh ở đất này.
Bọn Trương Tiểu Biện tuy nghe danh Miêu Tiên gia đã lâu nhưng không biết xuất xứ lai lịch của di tích cổ này, cũng chưa lần nào vào miếu thắp hương, xưa nay vẫn tưởng vị đại tiên nọ là con mèo già đắc đạo. Lúc này nhìn rõ, không khỏi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không dám báng bổ, vội cung kính quỳ xuống rập đầu, khấn khứa trước thần vị rằng: "Bọn tiểu nhân là các thiện nam tín nữ, xin đại tiên gia nhất thiết phải phù hộ cho chúng đệ tử gặp hung hóa cát, gặp hiểm hóa lành. Từ nay về sau nếu được mở mặt, có thể có được một chút phú quý nhất định sẽ không quên mua một ít cá muối, bánh bao để bố thí cho mèo hoang trong miếu. Nhược bằng Miêu Tiên gia khai ân, phù hộ cho chúng đệ tử được đại phú đại quý thì nguyện tô tượng kim thân, xây chùa, dựng tháp cho lão nhân gia. Chúng con lòng thành, mong tiên gia hiển linh chứng cho."
Lễ bái Miêu Tiên gia đâu đấy, Trương Tiểu Biện thấy hơi lạ, định hỏi cho rõ ngọn nguồn, liền thăm dò lão hán Thiết Trung: "Bọn tiểu nhân mới nghe nói Miêu Tiên là thần trong thành Linh Châu, chứ không rõ sự tích đắc đạo của đại tiên gia, rốt cuộc không biết ngài vốn xuất thân từ đâu? Chuyện bắt đầu và kết thúc thế nào?".
Lão Thiết Trung từ nhỏ đã tin Miêu Tiên như tin Phật Tổ, Bồ Tát, thấy bọn Trương Tiểu Biện không biết lai lịch của đại tiên, liền trách móc: "Các ngươi là đồ ngu muội lưu manh chỉ giỏi những chuyện đâu đâu, van vái trong đền một hồi mà ngay cả chuyện về Miêu Tiên lão nhân gia cũng không biết rõ?"
Mắng rồi, lão kể: Tương truyền chuyện xảy ra cách đây đã mấy trăm năm, hồi đó Linh Châu đã nổi tiếng nhiều mèo rồi. ngoài thành có một ngôi chùa cổ tên là Bỉ Lôi tự, xây dựng từ thời Nam Bắc triều, nhiều lần bị binh lửa phá hủy, nhưng rồi lại được trùng tu, quy mô ngôi chùa càng về sau càng lớn. Trong chùa đời nào cũng có cao tăng trụ trì, hương lửa rất thịnh vượng.
Từng có một vị cao tăng pháp hiệu là Đàm Chân. Lão hòa thượng này sống hơn trăm tuổi, tuy tuổi tác cao nhưng thông hiểu Phật lý thiền cơ, biết được việc quá khứ, vị lai, khi giảng kinh thuyết pháp thì lời lẽ ảo diệu vô biên, từng câu từng chữ như nảy hoa sen. Trên có quan lại phú hào, dưới có nông dân bách tính đều coi ngài là Phật sống trong Bỉ Lôi tự. Đàm Chân lão hòa thượng không màng việc tụng, hàng ngày ở trong chùa thắp hương, tụng kinh.
Trước cửa Bỉ Lôi tự có một cái ao phóng sinh, trăm họ trong vùng gọi là Bỉ Lôi đường. Đó là một cái đầm cổ nghìn năm nay chưa từng cạn nước. Nước xanh tĩnh lặng, dù tiết trời có nắng nóng thế nào, xung quanh Bỉ Lôi đường vẫn luôn mát rượi. Phàm những ngôi chùa lớn một chúa đều có ao phóng sinh, trong ao nuôi thả các loại cá, rùa. Ao phóng sinh, một là thể hiện đức hiếu sinh của nhà Phật, hai là trữ nước để phòng cháy, ao to hay nhỏ phụ thuộc vào quy mô của chùa. Bọn mèo lớn mèo nhỏ trong thành Linh Châu thường tới bờ ao xem cá. Mèo không biết bơi, nhìn lũ cá bơi trong ao, chúng cũng chỉ biết đứng hóng cho mát và rõ dãi thèm suông, vì vậy trước chùa Bỉ Lôi thường có nhiều mèo hoang qua lại, từ lâu sư sãi trong chùa đã coi đ1o là chuyện thường tình rồi.
Cũng bởi các vị hòa thượng trong chùa đều ăn chay nên mèo hoang chỉ lượn lờ ngoài Bỉ Lôi đường chứ rất ít khi vào chùa, chỉ riêng có một con mèo già toàn thân lở loét, mấy năm trời, đêm ngày quanh quẩn trong chùa.
Chú tiểu quét chùa sẵn lòng từ bi, thấy con mèo già ấy, liền tìm ít thảo dược chữa bệnh lở loét cho nó. Nào ngờ, thuốc không đúng bệnh, con mèo càng thêm lở loét, toát ra mùi hôi khó tả, thà không dùng thuốc còn hơn. Chú tiểu nọ từ đấy không dám chăm sóc nó nữa.
Sáng hôm đó, tại Phật đường, hòa thượng Đàm Chân giảng xong Nam Mô Diệu Pháp, gọi chú tiểu quét chùa vào, chỉ con mèo già lở loét đang nằm bẹp trên xà nhà đối diện, bảo: "Con vật này không thể để lại nữa, con hãy mở lòng lành, tìm cách giải thoát cho nó đi." Ý tứ bảo chú tiểu tìm nơi giết con mèo già, hơn nữa còn dặn dò làm cho gọn gàng trước rạng sáng ngày hôm sau, xác mèo có thể côn trong khu rừng rậm sau núi.
Chú tiểu quét chùa giật nảy mình, nghĩ bụng, sư phụ xưa nay bản tính từ bi, tâm luôn hướng thiện, mà sao hôm nay lại như thế? Con mèo già đó tuy dơ dáy nhưng chưa từng gây ra tai họa gì, người xuất gia kỵ nhất là sát sinh, ta làm sao xuống tay được đây? Chú tiểu định hỏi cho rõ thì hòa thượng Đàm Chân đã nhắm mắt nhập định.
Lệnh thầy khó cãi, chú tiểu không dám nhiều lời trèo lên tường bắt con mèo già xuống, định bóp chết hoặc lấy gậy đánh chết nó nhưng không thể xuống tay được. Cuối cùng, nghĩ đi nghĩ lại, chú tiểu đem con mèo đến bên ao phóng sinh, định ném nó xuống nước cho chết đuối, ngần ngừ một lúc lâu cũng không dám xuống tay. Chú tiểu là người trong sáng, đến con kiến cũng không nỡ giẫm, liền nghĩ ra một cách: "Nơi cửa Phật thanh tịnh, làm sao dung việc sát sinh?", liền ngầm đem con mèo ra ngoài chùa thả. Thấy nó đi xa, chú tiểu mới quay về phục mệnh.
Nhập định xong, hòa thượng Đàm Chân gọi chú tiểu lại Phật đường, hỏi chuyện con mèo già. Chú tiểu nói dối là đã dìm chết con mèo ở Bỉ Lôi đường. Hòa thượng Đàm Chân mắng: "Kẻ xuất gia không được nói dối, trước mặt Phật tổ mà ngươi dám mở miệng nói xằng thế ư?"
Chú tiểu sợ quá, vội khấu đầu trước tượng Phật xưng tội. Đàm Chân pháp sư nói: "Ngươi mau bắt con mèo đó về đây, trước khi trời sáng nếu không xử lý được nó, sư đồ chúng ta đều sẽ phải gánh thêm nghiệp chướng... "
Nói rồi, đại sư liền niệm bốn câu kệ rằng: "Thế gian vạn vật tàng nhân quả; Biển lớn bèo trôi cũng ngẫu nhiên; Sống chết đi về người chớ oán; Thân này khoảnh khắc sẽ tan liền."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 4: Trẻ Con Loạn Nhà

Lại nói, chú tiểu quét chùa lĩnh pháp chỉ, vội vã ra khỏi sơn môn, cứ thế đi tìm đến quá nửa đêm mới thấy con mèo già lở loét, liền ôm nó về Bỉ Lôi đường, than thở. "Đáng thương thay con nghiệt súc không biết gì! Chẳng hiểu mày đắc tội với lão thiền sư ra sao mà liên lụy đến cả tiểu tang. Hôm nay không thể không kết liễu tính mạng của mày, rồi ta sẽ tụng kinh siêu độ cho mày về Tây phương cực lạc... " Đoạn chú tiểu nghiến răng ném con mèo xuống đầm cho chết, rồi vớt xác nó đem chôn vào khu rừng rậm phía sau núi, sau đó mới quay về chùa bẩm báo với Đàm Chân trưởng lão.
Thường có câu: "Nhập môn chớ hỏi điều hay dở, cứ xem sắc mặt biết ngay liền". Đàm Chân trưởng lão trông thần sắc của chú tiểu, hiểu rằng đã xử lý ổn thỏa. Thấy trời đã sáng rõ, hòa thượng liền hỏi chú tiểu làm thế nào giết con mèo, lúc đó trời đã sáng chưa?
Chú tiểu quét chùa phạm sát giới, trong lòng rất hoảng hốt, nhớ lại lúc dìm con mèo già, dường như trời vừa mới hửng, cửa thành còn chưa mở, đứng trước mặt Đàm Chân trưởng lão, chú tiểu không dám giấu giếm điều gì, nhất nhất kể lại hết.
Đàm Chân trưởng lão nghe xong, lòng thầm nghĩ: "Đúng là ý trời, sức người không thể cưỡng cầu cho được." Trước đó, vì thiền cơ không thể nói cho tỏ tường, khó nói thẳng với chú tiểu chân tướng mọi sự. Thì ra nhà Phật giảng lẽ tuần hoàn nhân quả, con mèo già lở loét đó tuy bị đọa trong súc sinh đạo nhưng cũng đã có đạo hạnh. Mỗi lần tăng nhân trong chùa Bỉ Lôi thắp hương tụng kinh, tiếng mõ cá vang lên, con mèo già lại theo âm thanh mà đến, nằm phục trên xà nhà trước điện lắng nghe kinh văn.
Đàm Chân trưởng lão dùng tuệ nhãn soi xét sự vật, biết rằng con mèo này có đạo cốt, không thành Phật được, song nhà Phật coi chúng sinh thảy như quyến thuộc, nó nghe kinh đã nhiều năm, trước sau cũng kết thành thiện quả, chỉ có điều phải đầu thai thành người ở chốn nhân gian, làm nên một số việc thì mới đắc đạo được. Đúng vào đêm hôm đó, trong thành Linh Châu, có một sản phụ lâm bồn, thai nhi lại xoay ngang, tính mệnh của sản phụ chỉ còn trong phút chốc, sắp sửa một thây hai mạng đến nơi. Bà đỡ và cả thầy lang sản lúc ấy đã bó tay không còn cách nào giúp được.
Người ngoài không hiểu gì, chỉ có Đàm Chân trưởng lão biết rõ, nếu con mèo này không chết thì sản phụ kia không đẻ được, thế nên sai chú tiểu kết liễu nó, nhưng không ngờ, trời xui đất khiến thế nào lại giết nhầm giờ, chỉ còn cách trông chờ vào số mệnh của con mèo già đó ra sao mà thôi.
Sáng sớm ngày hôm đó, quả nhiên có nhà Đàm viên ngoại mừng sinh được quý tử, đặt tên là "Bách Trung". Đàm gia là nhà có truyền thống thư hương nổi tiếng thành Linh Châu, đến đời Đàm công tử thì lại độc đinh, nghìn mẫu ruộng chỉ còn mình chàng thừa kế. Chẳng ngờ tiểu công tử từ lúc sinh ra, toàn thân lở loét, danh y khắp nơi cũng không chữa trị được. Có điều, chàng từ nhỏ đã thông minh đỉnh ngộ, sách vở chỉ cần liếc qua là nhớ cả, từ bé đã có chí đi thi đoạt bảng vàng. Nhưng hiềm nỗi học tài thi phận, dẫu trong bụng có lời văn như gấm, chữ viết đẹp như phượng múa rồng bay, chàng vẫn không có số đậu khôi nguyên, lần nào đi thi cũng hỏng, may nhờ gia sản giàu có nên đường kinh kế mới không đáng lo.
Đàm công tử có một đam mê kỳ lạ, bình sinh rất thích nuôi mèo, các cuốn Miêu kinh, Miêu phổ thường xem chẳng rời tay, lại còn bỏ ra rất nhiều tiền bạc, mời người từ lưỡng Quảng về để xem tướng mèo. Mấy lần đều thi trượt khiến chí công danh của chàng dần nguội lạnh, về sau chỉ dành hết tinh thần sức lực vào việc nuôi mèo mà thôi. Chàng phá tán hết gia sản, cả ngày chỉ chơi đùa với đàn mèo.
Ở Linh Châu có truyền thuyết từ xa xưa về mèo già biết nói tiếng người, mà Đàm công tử hễ gặp mèo là hỏi: "Ngươi có biết nói không?" Thấy một con mèo hoang đi qua mái nhà, chàng cũng phải đuổi theo hỏi: "Lang quân trên mái xin ngừng bước, người có biết nói không?" Thế nhưng bất kể mèo nhà hay mèo hoang xưa nay đều chẳng buồn nheo mắt nhìn Đàm công tử lấy một lần. Những cử chỉ quái dị ấy của chàng khiến cho đầy tớ, láng giềng đều tưởng Đàm công tử bị bệnh điên không có thuốc chữa.
Một năm nọ, Đàm công tử tản bộ ở ngoại ô, gặp một con mèo hoang bốn tai hết sức hiếm thấy đang phì phò nằm ngủ trên chạc cây. Con mèo này toàn thân nồng nặc mùi rượu, dường như vừa mới uống trộm rượu ở đâu đó về, say nằm ở đây. Đàm công tử giỏi xem tướng mèo, vừa trông thấy đã biết con mèo này hết sức phi phàm, có lẽ là mèo tiên bốn tai hóa ra chứ chẳng chơi. Chàng thấy tò mò, liền ngồi xuống gốc cây định bụng xem cho rõ ràng. Tới lúc mặt trời xế bóng, con mèo bốn tai mới tỉnh hơi men. Chẳng thèm để ý đến Đàm công tử đang ngồi dưới gốc cây, nó ngáp một hơi rồi nhảy xuống, lắc mình, rồi đủng đỉnh bỏ đi.
Đàm công tử đi theo con mèo vào sâu trong núi, đi miết mười mấy năm trời, ai cũng cho rằng chàng đã chết từ lâu. Không ngờ, Đàm công tử gặp được kỳ duyên trong núi, nhưng rốt cuộc là chàng đã gặp phải chuyện gì thì rất ít người tỏ tường. Chỉ biết rằng, khi từ trong núi trở về, chàng thường dẫn theo mình một con mèo bốn tai, thường hay gọi bầy gọi bạn, tụ tập cả bầy mèo hoang lớn đi khắp nơi huyên náo, rao bán "Miêu nhi dược", xưng rằng chữa được bách bệnh.
Người đời đa phần đều nghĩ chàng bị điên, làm gì có ai chịu uống loại thước lẩm cẩm ấy? Nhưng cũng có vài tên hành khất ăn xin bị ốm nặng không có tiền chữa bệnh, đành dùng thử loại Miêu nhi dược của chàng, dù sao cũng còn hơn nằm chờ chết. Chẳng ai ngờ, thuốc đến bệnh đi, chàng cứ thế cứu chữa được rất nhiều chứng nan y, cứu sống vô số người bệnh, từ đó tiếng tăm nổi như cồn, gần xa đều biết tiếng.
Rồi đến một năm nọ, thành Linh Châu gặp đợt hạn hán mấy trăm năm chưa từng có, đất đai nứt nẻ, sông suối cạn khô, đến nước giếng cũng gần như hết sạch. Dân chúng trong thành phải đào giếng sâu tới mười mấy trượng mà cũng chẳng có chút hơi ẩm, trên cao vầng dương đỏ rực nóng hầm hập, lửa độc bức xuống, chẳng đếm nổi bao nhiêu người nghèo phải chết khát. Nắng nóng khiến cho các tử thi thối rữa sinh ra dịch bệnh. Từ một vùng phồn hoa giàu có, trận hạn hán đã gần như biến nơi đây thành một tòa thành chết chóc.
Quan lại, dân chúng trong toàn thành đều tụ tập ở miếu Long vương cầu mưa. Ngôi miếu này tuy thờ Long vương của khắp tứ hải ngũ hồ, song không vị nào hiển linh ban mưa xuống. Lúc ấy, Đàm công tử mới đem con mèo bốn tai đến trước miếu Long vương, nói với mọi người rằng, trong xà gỗ của tòa đại điên miếu Long vương có một con "tằm lửa" hút hết khí nước trong mạch đất, nếu không phá hủy ngôi miếu này thì hạn hán sẽ không dứt được.
Quân dân Linh Châu tuy khao khát mưa xuống nhưng đời nào dám làm chuyện báng bộ thánh thần như thế. Lời của Đàm công tử khiến đám đông nổi giận, bị họ đuổi khỏi thành. Đêm hôm đó, miếu Long vương trong thành phát hỏa, bị ngọn lửa thiêu rụi không còn mảnh ngói. Có người trông thấy mấy con mèo hoang đẩy đổ chân đèn khiến miếu bắt lửa. Dân chúng ngờ rằng do Đàm công tử sai khiến, định bắt trói chàng giải đến nha môn hỏi tội. Chẳng ngờ, bỗng nghe ầm một cái, sấm chớp nổi lên, mây đen bốn bề kéo đến, một cơn móc ngọt từ trên trời đổ xuống.
Mọi người lúc ấy mới biết trận hạn này quả là từ miếu Long vương mà ra, lúc trước đã trách lầm người tốt. Từ đó về sau, ai nấy đều coi Đàm công tử như thần tiên. Người trong thành Linh Châu bất kể già trẻ trai gái, giàu nghèo sang hèn đều tranh nhau uống Miêu nhi dược của Đàm công tử để mong khỏe mạnh, sống lâu, gia đình bình an vô sự. Ngoài việc xem bệnh bốc thuốc, có người còn đến hỏi chàng về việc họa phúc, thường quẻ bói đã gieo ra là đúng. Vài năm sau, Đàm công tử đem con mèo bốn tai rời khỏi Linh Châu đi vân du, không biết về sau thế nào.
Bách tính Linh Châu đều bảo chàng đã đắc đạo thành tiên, liền xây dựng một ngôi đền trong thành để cúng dường bọn mèo khoang Linh Châu. Từ khi được xây dựng, Miêu Tiên từ hương lửa ngày càng thịnh vượng, mấy trăm năm không dứt, thường hiển hiện nhiều việc linh dị, tục sùng bái mèo ở địa phương này cũng theo đó mà rất thịnh, vì vậy, câu chuyện này đến nay vẫn còn lưu truyền lại. Việc cũ của Miêu Tiên, thực thực hư hư, hoang đường kỳ lạ, ít thấy trên đời, nghe tuy hay nhưng vị tất đã có thực. Trong truyền thuyết có đề cập đến cả "Nho, Thích, Đạo", tao giáo lục chúng, công là do phong khí của người dân địa phương vốn thế.
Lão Thiết Trung hết sức tin vào câu chuyện. Lão chỉ vào sau trong ngõ, nói: "Hòe viên xây dựng trên nền đất của miếu Long vương khi xưa, vốn là một khu nhà ma. Các người đương đêm vào đó phải hết sức cẩn thận, chỉ mong Miêu Tiên gia hiển linh phù hộ cho các ngươi bình an vô sự. Ta già cả nhát gan, không tiễn các ngươi thêm được nữa, chúng ta từ biệt ở đây thôi." Nói đoạn, lão đưa cái đèn lồng cho bọn Trương Tiển Biện, rồi lụi cụi quay người bỏ đi.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều là hạng lưu manh to gan, lại có chút thủ đoạn côn đồ, trong đầu toàn nghĩ vào trong Hòe viên là phát tài to, không thèm để tâm xem Thiết Trung nói gì, dẫn theo Tiểu Phượng và con mèo đen, giơ đèn lồng rảo bước đến thẳng trước cửa Hòe viên, lấy chìa khóa mở cửa. Chỉ thấy bên trong là một khu vườn rất lớn, cửa nẻo thâm nghiêm, đình đài liền nhau, tuy không phải là tiên phủ ở trên trời nhưng kể cũng là một nhà giàu có ở nhân gian.
Trong đêm đen, Hòe viên yên lặng u ám, ba bề bốn bên không một tiếng động, chỉ thấy dưới ánh trăng sáng, mặt đất trải một màu bàng bạc, đình đền đài tạ, hoa cỏ dưới ánh trăng toát lên vẻ thê lương, lạnh lẽo. Trương Tiểu Biện vào đến nơi này, trống ngực đập thình thịch, tự nhủ Lâm Trung Lão Quỷ chỉ bảo mang con mèo đen đến nhà ma là có thể đào lên núi vàng, núi bạc, còn các chi tiết khác lại không dặn dò gì. Không rõ rốt cuộc làm cách nào để lấy được cáo kho báu kia. Chuyến đi này là lành hay dữ còn phải trông vào số vận của Trương Tam gia ta nữa.
Thấy Hòe viên có rất nhiều đình đài lầu các, hắn không biết bắt tay từ đâu, đành mở gian chính ra bước vào. Nhưng bên trong mạng nhện giăng đầy, bụi phủ khắp nơi, đúng là lâu không có người qua lại. Các đồ đạc bài trí trong phòng đã bị khiêng đi sạch từ lâu, ba người tìm một góc, quét tước, lau dọc qua loa rồi ngồi xuống, chia nhau mấy mẫu lương khô còn lại, định lót dạ trước rồi mới xem xét tiếp các nơi trong khuôn viên.
Vất vả từ sáng tới giờ, cả ba đã đói lắm rồi, lúc đó cắm cúi ăn như thuồng luồng, không ai nói với ai câu nào. Đang ăn dở được một nửa chợt nghe tiếng trẻ khóc từ sau nhà vọng ra. Tiếng khóc thê lương cứ nổi lên từng chặp, lúc gần lúc xa. Con mèo đen rất cảnh giác, vốn đang cuộn tròn trên mặt đất, vừa nghe tiếng động, lập tức động đậy đôi tai soạt một cái đứng dậy, hai mắt vằn đỏ. Điệu bộ của nó như sắp có kẻ địch lớn, toát lên vẻ sợ hãi tột độ.
Trương Tiểu Biện nghe thấy rõ ràng, lại thêm một phen kinh hoảng, hắn vừa sợ hãi vừa thấy lạ, thiếu chút nữa chết nghẹn vì miếng lương khô. Hắn trợn mắt lên, khó khắn lắm mới nuốt được xuống, thầm chửi thứ âm thanh quái quỷ trong ngôi nhà vườn hoang phế này, lấy đâu ra trẻ con khóc nhỉ?
Tiếng khóc não ruột khiến Tiểu Phượng sợ hãi, hoảng hốt nói: "Chẳng lẽ trong căn nhà ma này có tiểu yêu tác quái ư?" Trương Tiểu Biện ôm con mèo đen lên, nói với Tiểu Phượng: "Sợ gì chứ? Tương truyền mèo đen, chó trắng có thể trừ tà. Dù là quỷ dữ gặp chúng cũng phải kiêng nể vài phần. Nghe tiếng khóc vừa rồi có gì đó cổ quái, biết đâu chừng vàng bạc chôn giấu trong vườn đã thành tinh rồi cũng nên."
Tôn Đại Ma Tử nói: "Sở dĩ thế gian này có yêu ma quỷ quái, phần nhiều là do lòng người bất bình mà ra. Cái gọi là chính thắng tà tức là nếu trong lòng không có gì khuất tất thì dẫu rằng ma quỷ có thật cũng chẳng đáng sợ gì!" Vừa nói, gã vừa nắm chặt cây gậy trong tay, lấy thêm can đảm, lần về phía tiếng khóc ở đằng sau nhà.
Sau nhà là một vùng rừng cây hoang vu, trồng hàng trăm gốc hòe, nhưng nay quá nửa đã chết khô. Những chạc cây khô lởm chởm dưới ánh trăng như những bóng ma dữ tợn. Cả một vùng toàn là những lùm cỏ dại lúp xúp, tường rêu nứt nẻ, không có lấy một tiếng giun dế. Trong không gian chết chóc ấy, chỉ có tiếng khóc trẻ con vọng lại từ trong đám cỏ cây rậm rạp, lúc gần, lúc xa.
Thời xưa từng có rất nhiều truyền thuyết kể về việc bạc chôn dưới đất hóa thành yêu tinh. Bảo rằng, trong những viện lớn phủ to của các nhà giàu quyền quý, thường có chôn giấu các hố bạc hố vàng, đề phòng đời sau con cháu phá tán hết gia sản. Nhưng bạc vàng đó chôn dưới đất quá lâu, vật già sinh biến, liền hóa thành người đi tác quái, dân gian gọi là: "Ngân phách". Trương Tiểu Biện bị tiền bạc làm cho mê muội, đoán chắc ấy là do trong nhà ma giấu bạc, chốn vườn hoang chôn vàng, lại cho rằng tiếng khóc đó nhất định là điềm của đóng vàng bạc chôn lâu ngày, liền giơ đèn lồng, rảo bước vạch cỏ vén cây, xăm xăm đi về phía lùm hòe rậm rạp.
Tôn Đại Ma Tử cũng là kẻ thô lỗ, không biết trời cao đất dày là gì, gã ỷ mình biết mấy đường quyền cước, liền xách gậy sánh vai cùng Trương Tiểu Biện tiến đến, định bụng "gậy đánh cho nguôi cơn thịnh nộ, côn vung để trợ sức thần uy". Nào ngờ vừa phạt đám cây khô lá úa trước mặt, liền thấy trong lùm hòe có một căn lầu gỗ hai tầng, ngói biếc cột son, chạm trổ tinh xảo, nhưng cửa sổ và cửa ra vào không còn nguyên vẹn, lộ rõ vẻ hoang phế. Tiếng trẻ con khóc đúng là vọng lại từ bên trong căn lầu này.
Ba người dừng chân trước căn lầu, nghe tiếng khóc rất gần, trong lòng hồi hộp, cả ba vừa nghi ngại vừa sợ sệt, chưa quyết định có nên xông vào bên trong xem cho rõ không thì thấy trong chỗ góc lầu tối như mực, có từng đám trắng lóa nhúc nhích, đúng chỗ ấy lại không có ánh trăng nên không rõ là vật gì.
Có câu rằng, tiền làm hoa mắt, sắc khiến rối lòng, Trương Tiểu Biện kia mấy đời nghèo đói, trong đầu chỉ biết có mỗi chữ tiền, nào biết trong căn lầu này nguy hiểm ra sao, liền cất tiếng hỏi: "Cháu chắt nhà ai chết khổ chết sở mà cứ khóc um lên mãi thế?", đoạn giơ ngọn đèn lồng rọi về phía trước. Dưới ánh đèn, cả ba đều nhìn thấy rõ sự thể. Không thấy thì thôi, vừa mới thấy liền tức tim đập chân run, đờ ra không biết trời đất trăng sao gì nữa.
Thì ra trong căn lầu tối đen như mực ấy nào có đâu Ngân tinh, Ngân phách, chỉ có một đứa bé béo trắng đang nằm sấp, ước chừng tám chín tháng tuổi, toàn thân trần truồng không mảnh vải, trên cổ còn đem một cái khóa bạc Trường mệnh để lấy khước. Thằng bé đang khóc hu hu, âm thanh nghẹn ngào trong cổ họng, vừa thấy ánh đèn chớp lên, nó lập tức chuyển từ buồn sang vui, phá lên cười "ha ha ha" một cái quái dị, rồi bò lại phía cửa lầu nhanh như một cơn gió, thoắt cái đã đến trước mặt ba người bọn Trương Tiểu Biện.
Có câu rằng: "Họ Lâu vườn cũ có ma, hiện lên đòi mạng canh ba đêm nay."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 5: Lầu Đũa

Thường có câu: "Xưa nay người mất, hồn còn; huống chi những kẻ ngậm hờn thác oan". Lại nói, đương lúc canh ba đêm đó, trong căn lầu côi ở Hòe viên, bò ra một đứa bé trai đầu gắn dây đỏ, cổ đeo khóa bạc, ba người bọn Trương Tiểu Biện sợ quá, trơ mắt há mồm đứng ngây tại chỗ, ba hồn bảy vía lên mây, không còn biết nên làm gì nữa.
Lúc ấy, con mèo đen như có linh cảm, đột nhiên kêu "meo, meo" mấy tiếng, đôi mắt mèo sáng rực lên trong đêm tối như đốm lửa. Đang đứng đờ đẫn, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nghe thấy tiếng mèo bên cạnh như tiếng sét ngang tai, lập tức giật mình hồi thần trở lại, nghĩ thầm, Hòe viên nhà họ Lâu đúng là một nơi nguy hiểm, nếu lúc ấy bị thằng nhỏ chết oan đó quấn vào, chỉ e cả đời này không thể ngóc đầu lên được.
Ở đất Linh Châu, tuy rằng mười dặm đã khác làng, năm dặm đã không chung tục, nhưng tục mèo đen trừ được tà ma thì đã có từ xưa, ai nấy đều biết. Trương Tiểu Biện nghĩ đến điều này, định ném con mèo đen ra ngăn lại, không làm thì thôi, đã làm thì phải dứt khoát, đây gọi là đánh trước thương lượng sau. Thế nhưng, chỉ thấy mắt hoa lên một cái, đứa trẻ trần trùng trục ấy bỗng tránh sang một bên, trong nháy mắt đã biến mất không còn tung tích. Sâu bên trong căn lầu tối đen như mực không trông thấy gì, chẳng rõ nó đã nấp vào đâu.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vừa kinh hoàng vừa thấy lạ, chẳng hiểu là sự việc quái quỷ gì đang diễn ra, chẳng lẽ nơi này có ma quỷ thật? Song cả hai đều nhất quyết cho rằng, trong Hòe viên có chôn tiền bạc châu báu, đương khi cao hứng, cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng, làm sao chịu bỏ qua? Vậy là cả hai giơ cao ngọn đèn lồng, bấm bụng vào bên trong lầu thám thính đến cùng.
Tiểu Phượng không có cái gan liều mạng đó, thấy trong lầu có ma, cô ả đã rụng rời chân tay, cộng thêm cả ngày đã chịu đựng sợ hãi, lại chưa ăn được chút gì cho ra hồn, người đã hết sức yếu nhược, lập tức ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự.
Tôn Đại Ma Tử là người trượng nghĩa, thấy Tiểu Phượng ngã lăn ra bất tỉnh, vội quay lại đỡ, rối rít gọi Trương Tiểu Biện:
- Tam đệ, cô ả Tiểu Phượng này sợ hãi quá ngất xỉu rồi, để mặc ở đây thì sẽ chết mất.
Trương Tiểu Biện giậm chân chửi bới: "Mụ Vương quả phụ trốn chồng đẻ ra con giặc cái này, chuyên làm hỏng đại sự của Tam gia ta!" Nhưng, thấy Hòe viên âm u, lạnh lẽo, oán khí đầy trời, trong lòng hắn cũng không khỏi run sợ, một mình hắn thì có các vàng cũng không dám đi vào bên trong căn lầu, đành giúp Tôn Đại Ma Tử khiêng Tiểu Phượng chạy nhanh ra ngoài cổng.
Chẳng ngờ cả bọn như kiến bò chảo lửa, chạy một mạch không ngừng chân. Chỉ thấy đầy trời mây tối trăng lu, bốn phía gió âm rào rạt, trong Hòe viên hoang vu vắng lặng, cành khô lắc lư rào rạo, trong đêm khuya nghe như có vô số trẻ con nấp ở khắp nơi rền rĩ khóc. Khu vườn hoang nhà họ Lâu to lớn như thế nhưng không có nơi nào yên ổn, chỉ còn cách cướp đường chạy thẳng ra ngoài. Cả bọn trốn tới Miêu Tiên từ ở đầu đường mới dám ngừng chân.
Quá nửa đêm, trong ngôi đền cổ này thường có bầy mèo hoang tụ tập đông đúc. Bọn mèo hoang nằm trên xà, trên mái, tò mò theo dõi ba người khách không mời. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử mỗi người một chân một tay đặt Tiểu Phượng lên bệ thờ phủ đầy bụi bặm, miết vào nhân trung, xoa bóp cho thông khí hoạt huyết, hì hụi một lúc mới cứu tỉnh được cô ả.
Sắc mặt Tiểu Phượng vẫn nhợt nhạt, vừa tỉnh dậy đã khóc:
- Hai người bị ma đưa đường, quỷ dẫn lối hay sao? Khu nhà đó không biết đã xảy ra án mạng gì mà bao nhiêu âm hồn vẫn vất vưởng, không tan, để rồi hiện lên con ma hung ác như thế. Giờ giữ được mạng chạy ra là tốt rồi, nhất thiết chớ quay lại tìm vàng bạc châu báu làm gì.
Tôn Đại Ma Tử nói:
- Xem ra âm hồn ác quỷ là có thật, hơn nữa đứa bé đó chắc bị chết oan, chỉ e người nhà nó không biết sự tình, khiến nó đến nay cũng không siêu thoát được. Không biết chừng, bên trong có một cái án thiên cổ kỳ oan. Nếu đã để cho chúng ta nhìn thấy, nhất định là muốn chúng ta tìm ra lẽ phải trái hộ nó, làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn được? Tiểu Phượng là đàn bà con gái, không cần phải đi vào chỗ nguy hiểm như thế, cứ ở lại đây chờ mỗ và Trương Tam đệ thăm dò một phen nữa cho rõ ngọn ngành coi sao.
Trương Tiểu Biện tuy nhỏ hơn hai người kia một hai tuổi, nhưng xét về sự lọc lõi cơ trí, khả năng tùy cơ ứng biến thì hơn hẳn bọn đồng trang lứa, thường có những ý nghĩ tự tung tự tác mà vẫn tưởng là thông minh. Lúc ấy, hắn xem xét lại kỹ lưỡng sự tình, thấy trừ đứa bé trong căn lầu đó ra, Hòe viên dường như còn có rất nhiều tiếng ma trẻ con khóc đêm, sự việc không hề đơn giản. Nếu bảo trong nhà hoang có ma thì cũng hợp lý, nhưng trong đám hòe rậm rạp mà có nhiều trẻ chết đến như vậy thì rõ ràng có nhiều điều quái gở.
Theo lẽ thường mà nói, trẻ con loạn nhà là điềm gở, khiến nhà tan cửa nát, nhưng sự việc trong Hòe viên chắc còn nhiều khúc mắc. Từ thuở nhỏ, Trương Tiểu Biện đã theo một lão đạo sĩ đi vân du đoán quẻ, từng tai nghe mắt thấy nhiều chuyện khác thường, đồng thời hắn lại tin chắc mười mươi mình đã gặp được tiên nhân trong mộ Kim quan, đến nắm mơ cũng mơ thấy vớ được một món tiền bạc lớn trong Hòe viên này.
Linh Châu là một tòa thành cổ phồn hoa đã có lịch sử nghìn năm, từ xưa đã xuất hiện rất nhiều phú thương giàu có, xa hoa. Trong xã hội cũ, nhà giàu thường có thói quen chôn của, vì vậy có vô số truyền thuyết kể tiền chôn trong nhà cổ. Vàng bạc chôn lâu dưới đất có thể hóa thành yêu tinh, đến khi gặp được người có phúc phận, nó mới hiển linh, như thế gọi là vật về với chủ.
Nghe đồn vào những năm Vĩnh Lạc triều trước, trong thành Linh Châu cũng có một ngôi nhà hoang có ma. Một hôm mưa to gió lớn, có vị tú tài hỏng thi người ngoại tỉnh lạc đến, người này gia cảnh bần hàn, chẳng biết làm gì ngoài việc nhận viết thư thuê để mưu sinh. Một hôm trời đổ mưa to, tú tài nọ vô ý mới vào căn nhà ma ẩn trú. Tú tài mới đến đất này, tất nhiên không biết hay dở thế nào, thấy phòng ốc chỉn chu liền ở lại qua đêm.
Nào ngờ đến đêm, trong phòng bắt đầu có ma quậy phá. Ngọn nến đầu giường vô duyên vô cớ sáng lóe lên, một bầy trẻ con mặc quần áo trắng, cao không đầy một tấc xuyên qua khe cửa đi vào, gái có, trai có. Chúng tiền hô hậu ủng khiêng một cái quan tài bé tẹo, vừa gõ chiêng trống, vừa khóc lóc đi ngang qua đầu giường của vị tú tài.
Tú tài nọ thấy thế sợ đờ người ra, không rõ là quái vật gì, nằm nghiêng trên giường không dám động đậy. Bỗng thấy có một người tí hon trong đám hiếu đi đến đầu giường thì dừng chân ta hiệu cả bọn ngừng khóc. Chúng nhíu mày trợn mắt, đột nhiên xôn xao hẳn lên. Bên tai tú tài dường như nghe bọn chúng hỏi nhau: "Sao hôm nay trong phòng lại có thấy người sống nhỉ?"
Tú tài đang sợ rụng rời, bỗng thấy một người đàn bà tí hon mặc áo sô gai từ trong bọn chạy lại, tuy thân hình không tày gang nhưng hết sức xinh đẹp, thần thái kiều diễm, trang điểm tươi tắn. Nào ngờ, nó trèo lên giường, chẳng hỏi đầu đuôi gì đã lập tức chỉ vào mũi tú tài, mắng chửi toàn những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu.
Tú tài vốn là thư sinh nhu nhược, đương không bị mắng như tát nước vào mặt nhưng cũng không dám cãi lại, chỉ cầu xin tha mạng. Bọn người lùn nọ đều xúm lại, mồm năm miệng mười chửi bới, bảo là, nơi nhà của thần tiên này đâu phải là chỗ cho bọn phàm phu tục tử mặc sức ra vào, nếu không ăn tươi nuốt sống tên này thì làm sao cho hết cơn tức.
Tú tài khổ sở van vỉ một hồi mới có kẻ cất tiếng:
- Muốn sống mà về cũng không khó, có điều chủ nhân nhà chúng ta mới cưỡi hạc về trời, bây giờ đưa linh cữu tới đây, thằng khố rách áo ôm nhà ngươi mau đến trước quan tài rập đầu mấy cái, kêu khóc mấy câu nghe lọt tai. Nếu bà chủ nhà chúng ta mỉm cười tức là tha cho tính mạng, chỉ đánh cho một trận nên thân còn lại thì tạm giữ cái đầu trên cổ cho nhà ngươi.
Tú tài thấy có đường sống, nào dám không tuân theo, lập tức đứng dậy đến trước cái quan tài bé tẹo, cung kính rập đầu, kêu:
- Đại tiên gia gia.
Bọn người lùn mặc áo sô dường như muốn gây khó dễ, lắc đầu lia lịa, nói: "Nhà ta vốn là thần tiên. Xưng hô là đại tiên tuy cũng tôn quý, nhưng nhàm quá, không mới mẻ gì."
Tú tài chỉ sợ chúng hối lại sẽ ăn tươi nuốt sống mình, liền vội đổi giọng vái rằng: "Trước linh cữu của hiền đại vương, xin nhận của tiểu nhân một lạy."
Đám lùn lập tức nổi giận:
- Không được gọi là đại vương, đại vương không tôn quý bằng đại tiên, thằng khố rách áo ôm này dám khinh chúng tao không biết gì phải không..?
Đúng là: "Vận hết hầu khinh chủ; Số xui quỷ nạt người." Tú tài nọ nhẫn nhục chịu chì chiết, lăng nhục mà không dám phản ứng lại nửa lời, đành van vỉ: "Liệt vị đại tiên gia thứ tội, tiểu nhân thực không nghĩ ra cách xưng hô thế nào, chẳng lẽ... chẳng lẽ gọi là Vạn tuế gia mới hợp ý?"
Đám người lùn hung ác vẫn léo nhéo không thôi, tranh nhau nói:
- Vạn tuế gia là cách xưng hô với Hoàng thượng, chúng ta là hàng tiên, không thích danh hiệu của đám quân vương trần thế. Xem ra, nhà ngươi không phải là thằng mọt sách hết thuốc cứu chữa, bây giờ để chúng ta dạy bảo ngươi một phen, ngươi cứ tôn chủ nhân nhà ta là Chí Thánh Chí Hiền lão phu tử là được rồi.
Tới lúc này, đến lượt tú tài nổi giận. Gã đọc sách nhiều tới mức hủ lậu, chẳng cần biết thời thế, trên dưới thế nào, mà chỉ biết tôn sư trọng đạo, coi sách thánh hiền quý hơn cả tính mạng của bản thân, rập đầu van xin tha mạng cũng được, nhưng bầy yêu quái mà dám vọng ngôn đòi ngang hàng với thánh hiền của đạo Nho ư? Gã nghe thấy thế, lập tức đùng đùng nổi giận, trong lòng tức tối, đứng phắt dậy, rút một chiếc giày trỏ vào mắng:
- Cha tiên nhân chúng bay, dám sỉ nhục đạo Nho ta..!
Vừa mắng chửi, gã vừa cầm giày vụt tới tấp vào đám yêu quái nọ, đuổi dạt cả ra, đến đứa được gọi là bà chủ cũng bị đập nát thành một đống thịt.
Bọn lùn đưa đám thất sắc, vội vã kéo nhau chạy qua khe cửa ra ngoài. Thật là:
- Cứ tưởng thật thà thì dễ dọa, đến khi họ tức, gớm chừng nào.
Vị tú tài giận lắm, như giao long gặp mưa, như hổ báo giương nanh, lao như điên đuổi theo đánh, chạy đến gian bếp thì thấy đám lùn đều chui vào khe nứt trên chum nước rồi biến mất.
Tú tài đang lúc hăng tiết, liền thuận thế đập tan chum nước, thấy ở đáy chum đã bị thủng, bên trong chẳng có vật gì nhưng liền ở dưới là một cái hố, trong hố toàn là vàng ròng. Gã quay lại gian phòng ngủ lúc nãy, thấy cũng có nhiều vàng bạc vung vãi, mới vỡ lẽ thì ra hồn phách của vàng bạc đã hóa thành yêu tinh giở trò trêu ghẹo. Gã nhớ lời Khổng Tử nói: "Vật già hóa quái", trước đây vẫn thấy khó hiểu, giờ mới biết thì ra đúng là có chuyện như thế thật. Xem ra người xưa nói thực cấm có sai, cũng bởi mệnh gã có số giàu sang, coi như là vật gặp được chủ, cuối cùng nhờ vậy mà trở nên giàu có.
Câu chuyện này lưu truyền rộng rãi trong thành Linh Châu. Lúc ấy, Trương Tiển Biện mới kể chuyện này ra, và quả quyết, những hiện tượng quái dị trong Hòe viên quá bán là cùng một dạng như thế, có lẽ cũng đang chôn giấu một kho báu gì đó, chỉ có điều không biết là loại kỳ trân dị bảo gì mà hóa thành hình hài một đứa bé xuất hiện trong đêm tối, nếu không mau đào nó lên chỉ e sớm muộn sẽ biến thành tiên thành quỷ, không thể tìm thấy nữa.
Tôn Đại Ma Tử vốn nóng nảy, chỉ hận không thể lập tức tìm ngay ra chân tướng, Trương Tiểu Biện lại càng sốt ruột không chờ được đến sáng. Cả hai đều nghĩ, Tiểu Phượng là đứa trời sinh ra đã có mệnh nghèo hèn, phận mỏng không dung nạp được món tiền to, liền để cô ả ở lại một mình trong miếu, sau đó chuẩn bị đèn đuốc, bắt theo con mèo Kim tuyến miêu đang chơi đùa với đám mèo hoang, hai người một mèo trở lại Hòe viên đào kho báu.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử quyết tâm vứt hết mọi nghi ngại sang một bên. Tính rằng đã sắp canh tư, tới sáng sẽ bị Thiết chưởng quầy đến thu chìa khóa, không thể chần chừ thêm được nữa, đúng là "lòng vội như tên bắn, chân nhanh tựa gió bay", hai người chạy thẳng tới cửa Hòe viên, theo lối cũ tìm đến căn lầu vắng trong đám cỏ cây rậm rạp đằng sau nhà. Căn lầu lúc ấy im ắng chẳng thấy bóng ai.
Hai người, một trước một sau giơ đèn mò vào, thấy dưới chân khác lạ dường như có vật gì đó cộm lên, liền soi đèn nhìn thử, hóa ra trong phòng vương vãi rất nhiều đũa. Đám đũa nằm ngổn ngang, cũ có, mới có, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, mà đến tìm cho đủ một đôi cũng khó. Có chiếc thô ráp giản đơn mà nhà bình dân sử dụng, cũng có chiếc đẹp đẽ cầu kỳ của những nhà giàu ngang một nước, chỉ nhìn thoáng qua đã thấy sừng tê, gỗ mun, tre, ngà voi, vàng bạc... đủ thứ chất liệu khác nhau.
Trương Tiểu Biện sinh nghi, sao trong Hòe viên lại ngổn ngang vung vãi hàng trăm loại đũa thế này? Nhất thời hắn cũng không sao hiểu nổi, chỉ ngầm thấy có điều không hay, liền giơ đèn soi xung quanh. Ngay lúc ấy, phía sau chợt vang lên tiếng khóc trẻ con, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hoàn toàn bất ngờ, không khỏi có chút kinh hoàng, vội quay người về phía phát ra thứ âm thanh đó, vừa nhìn thì lại càng thêm kinh ngạc. Hóa ra ở góc sau cửa có một cái hang, thò tay lại gần thăm dò, chỉ thấy từng trận gió âm ù ù ập tới, tiếng khóc từng đợt chính là vẳng ra từ trong hang này.
Trương Tiểu Biện ôm chặt con mèo đen ghé người sát cửa hang nhìn xuống. Căn lầu này tối om như mực, nếu không lại gần chắc hẳn khó phát hiện ra phía sau cửa có một cái hang. Con mèo đen đến cửa hang bỗng lộ vẻ bất an, lông tơ trên đuôi xù cả lên, kêu "ngao ngao", định tụt xuống bỏ chạy. Hai tên Trương, Tôn không lưu ý đến điều đó, ngược lại còn nghĩ:
- Thằng nhỏ ở truồng lúc nãy có thể đã chui vào hang đất rồi, không rõ chỗ này là chỗ nào..?"
rồi lại nghĩ:
- Nam nhi nếu không có chí làm giàu thì uổng cho tấm thân bảy thước. Giờ thì không nói gò được nữa, dù đây là quỹ điện của Sâm La Địa phủ cũng phải vào xem thử một chuyến rồi mới tính sau.
Hai kẻ nghèo đói bọn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử, ngờ rằng rừng vàng biển bạc đã ở ngay trước mặt, khác nào ruồi nghe hơi mật, lòng nóng như lửa đốt, còn chuyện gì mà không dám làm nữa? Hai chữ "sinh tử" đã sớm bỏ khỏi đầu, cả hai lập tức lần theo tiếng khóc, giơ ngọn đèn đi vào trong hang, mà chẳng hề hay biết chuyến đi này lại là:
- Nộp mình đến cửa hung thần, Miệng hùm hang cọp đem thân gieo vào".
Muốn biết sự thể ra sao, xin chờ hạ hồi phân giải.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi Thứ 06 Đến Hồi Thứ 10
Hồi thứ 6: Mắt Mèo

Tiếp theo hồi trước, nói đến đoạn Trương Tiến Điện và Tôn Đại Ma Tử là hai tên tiểu tử, ... . Xưa nay không biết trời cao đất dày là gì. Hai gã thấy dưới sàn trong lầu có một cái hang tối om, bèn cho rằng đó là một đường ngầm dẫn đến một mật thất nơi chôn dấu kho báu trong Hòe viên, liền không kìm được sự sung sướng trong lòng, nào còn đắn đo gì nữa, tức khắc một tên đi trước, một tên đi sau, giơ đèn chui tọt vào trong. Dưới hang quả nhiên là một đường hầm rộng rãi quanh co, ngập đầy bùn và đất bùn và đất vụn, lại có vô số hang lớn nhỏ đan xen, vách hang lồi lõm, lối đi lúc cao lúc thấp, thoắt rộng thoắt hẹp, đào rất qua loa, không thành lề lối gì cả. Trương Tiểu Biện thấy bên dưới Hòe viên có một mê cung như thế, thầm lắc đầu lè lưỡi, hạ giọng nói với Tôn Đại Ma Tử:
- Chắc hẳn kho báu bên dưới nhà họ Lâu này bị chôn lâu quá đã thành tinh rồi, nên mới hóa thành thằng nhóc ở truồng chạy vào đây. Nghe lão sĩ thầy ta nói rẻ cấu kỷ tử nghìn năm có thể hóa thành con chó nhỏ, củ nhân sâm một vạn năm có thể hóa thành người con gái, không biết rốt cuộc có Hòe viện này chôn vật quý hiếm gì mà kinh dị như thế? Gía như để huynh đệ chúng ta tìm được, ta với ngươi lại trở thành Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam của thành Linh Châu ấy chứ.
Tôn Đại Ma Tử cả mừng, nói:
- Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam giỏi lắm đấy nhé. Mỗ ta thường nghe nói hai người bọn họ xưa kia giàu phú gia địch quốc, là những người giàu có nghiêng ngửa thiên hạ, bốn phương đều nghe danh. Chúng ta chỉ cần bằng một nửa của Thẩm lão gia, ngày nào cũng có gà nướng, chân giò để ăn, thế cũng mãn nguyện rồi.
Trương Tiểu Biện cười , bảo:
- Ma Tử huynh thật thiển cận chỉ biết mỗi việc ăn chân gà nướng với gặm chân giò. Chúng ta mà có một nửa gia sản của Thẩm Vạn Tam , dù cho huynh ngày nào cũng ăn gan rồng mật phượng cũng không hết nữa là.
Tôn Đại Ma Tử một chữ bẻ đôi không biết , nhưng thường ngày gã và Trương Tiểu Biện vẫn thích đi nghe nhà trò diễn tích kể chuyện, lúc rỗi rãi gã còn ngâm nga mấy câu, thuộc nằm lòng các khúc dân ca. Hồi ấy, trong các tích trò diễn ở địa phương, có một vở gọi là "Chiêu tài tiến bảo" khá rộn rã tươi vui, kể chuyện thần tài giáng trần ở các triều đại. Mỗi khi tết đến hoặc có hội vui , hay những dịp cần điềm lành người ta đều mời gánh hát đến diễn vở này. Đặng Thông là người đời Hán, từng được Hoàng đế ban thưởng cho một mô đồng, tự mình có thể khai đúc tiền nên mới có câu:
- khắp nơi tiền rải lanh canh biết bao được đúc từ Thành Đặng Thông, thành ấy chính là nơi người này đúc tiền. Thẩm Vạn Tâm là cự phú ở Giang Nam vào thời cuối Nguyên đầu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi khai đô kiến quốc phải mượn Thẩm lão gia tiền để xây thành là một đại tài chủ giàu giang cả nước. Hai vị đó được dân chúng xem như thần Tài đầu thai hạ phàm, nếu nói theo kiểu của người ngày nay, thì đã được coi là thần tượng về việc phát tài làm giàu rồi. Bởi thế, dù là hạng cùng đinh mạt rệp không cửa không nhà như Tôn Đại Ma Tử và Trương Tiểu Biện cũng thuộc nằm lòng những sự tích của hai ông Đăng, Thẩm trong các vở kịch, câu chuyện kể. Hai gã đến nằm mơ cũng tưởng tượng sẽ có lúc được giàu có như thế mà chẳng hề biết rằng, Đặng Thông và Thẩm Vạn Tam về sau đều không có kết cục tốt đẹp. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử niệm mấy lượt:
- Miêu Tiên gia và các vị Tài thần lão gia phù hộ cho đệ tử được đại phú quý... ",
sau đó liền hăm hở đi tìm của. Chẳng ngờ trong đường ngầm dưới nền căn lầu, cửa hang nhiều tới mức hoa mắt chóng mặt, nhất thời không biết nên đi theo lối nào. Cả con đường khi lưỡng lự, chợt nghe văng vẳng tiếng khóc ở xa xa. Hai người vừa nghe thấy động tĩnh, vội rùn người đi tiếp, lần theo tiếng khóc mà tiến lên. Trương Tiểu Biện tuy bị tiền bạc làm mờ mắt nhưng dầu sao cũng là một tay lão luyện trong nghề bắt gà trộm chó cũng có chút cơ tri và kiến thức của bọn trộm cướp, hiểu rõ cần phải trả lại cho mình một lối thoát thân. Hắn thấy đường ngầm dưới Hòe viên rất chằng chịt phức tạp liền bỏ con mèo đen vào lòng, bảo Tôn Đại Ma Tử treo đèn vào đoản côn đi trước, hắn ở đằng sau, dùng tay và đầu gối bò trên đất, vừa bò vừa nhặt đũa xếp rồng rắn thành chữ nhất để đánh dấu đường phòng trường hợp không tìm được đường ra, phải chết kẹt dưới long đất. Con mèo đen vốn nhát gan, không biết bị cái gì dọa đến nỗi run lên cầm cập, dường như dự cảm được có tai họa sắp giáng xuống. Nó cuộn tròn trong lòng Trương Tiểu Biện không kêu một tiếng nào, chỉ để lộ ra đôi mắt sáng sợ sệt nhìn xung quanh. Trương Tiểu Biện thầm rủa con mèo đổi về từ hiệu thuốc nay vô dụng. " Vân vật thông tài" miêu tả về mọi loài sinh linh trên thế gian, trong đó viết về loài mèo có Miêu phổ, viết về chó có Khuyển kinh, trong cuốn Miêu phổ ghi rất rõ ràng rằng, Linh Châu thời cổ sản sinh ra loại mèo đen rất quý, tên là: "Nguyệt ảnh ở đồng kim tuyến miêu". Loại mèo đen này có một đường kim tuyến chạy dọc mình, có thể đảo ngói trèo tường, rất giỏi vồ chim bắt bướm, mà cũng có thể lần mò vào nhà trộm vàng lấy ngọc. Trong lúc hành động, giống mèo này thoăn thoắt như gió, giữa ban ngày ban mặt có thể đi lại giữa chốn đông người mà chỉ trông thấy bóng không thấy hình. Nhưng phong tục cúng Miêu Tiên ở thành Linh Châu đã có từ lâu, vì vậy đám mèo ở đất này dù là mèo nhà hay mèo hoang đều vừa tham vừa lười. Con mèo khoang mà Trương Tiêu Biện mất bao công sức mới tìm được này, đích thị là một con mèo lười rõ mười mươi. Tuy nó đúng là giống Nguyệt ảnh ở đồng kim tuyến miêu thuần chủng, nhưng bản lĩnh mà tổ tiên nó nổi danh với đời từ mấy trăm năm trước, đến đời nó thì đã thất truyền lâu rồi, chỉ mỗi trò trèo cây bắt cây sẻ là còn giữ được đôi phần mà thôi. Trương Tiểu Biện còn nhớ mấy hôm trước trong mộ Kim quan của Quý phi, Lâm Trung Lão Quỷ từng căn dặn rằng:
- Nhà người muốn vào nhà ma Hòe viên để lấy kho của thì trước tiên phải đến Tùng Hạc đường. đem cương thi mỹ nhân đổi lấy con Nguyệt ảnh ở đông kim tuyến miêu nhà đó đang nuôi. Không có con mèo ấy tương trợ , sức ngươi đừng hòng lấy được một đồng một cắc trong núi bạc núi vàng ở Hòe viên. Nhớ lấy! Nhớ lấy!
Những lời ấy được Trương Tiểu Biện coi như thánh chỉ, nhớ như in trong đầu, trong mơ cũng không quên lẩm nhẩm lại. Bây giờ,cả mèo đen lẫn đường ngầm trong Hòe viên đều tìm ra rồi, nhưng hồi đó, Lâm Trung Lão Quý lại không chỉ rõ cho hắn xem rốt cuộc phải dùng con mèo đen ấy tìm kho báu như thế nào. Trương Tiểu Biện nghĩ bụng, thiên cơ bất khả lộ, tức là đầu gặp được thần tiên chỉ lối, thì con đường mà họ chỉ cho người phàm đa phần cũng đều mờ mờ ảo ảo, còn phải dựa vào sự tham ngộ của bản thân, phá giải mới lĩnh hội được. Dù sao kiến thức cũng hạn hẹp, mấy ngày liền vò đầu bứt tai cũng chỉ đoán ra đại khái là dùng "mắt mèo" của con mèo đen để khắc yêu trừ tà. Con mèo này tuy lười nhác nhưng lúc lấy của báu chưa chắc đã không có đất cho nó dụng võ trước mắt còn chưa biết trong lòng đất này rốt cuộc chôn dấu thứ gì, đương nhiên hắn không thể dễ dàng để cho nó chạy trở ra. Hắn nghĩ ngợi lung tung một hồi, đi được mấy trượng trong đường hầm hẹp, bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy khẽ vang đến. Tôn Đại Ma Tử cũng đứng lại, thì ra tuy đường đi trong hang càng lúc càng rộng, dẫn tới một không gian khá lớn, nhưng trước mặt hai gã lại có một con sông ngầm chắn ngang. Trong Hòe viên có rất nhiều cảnh trí đẹp đẽ như đình lang thủy tạ, lâu đài điện gác. Tới nay, những cái ao, con suối trong vườn tuy khô cạn nhưng mạch nước ngầm trong lòng đất vẫn còn, tiếng trẻ con khác hu hu chính là vọng lên từ bóng tối phía bên kia sông. Hai bên bờ sông ngầm trong hang động dưới lòng đất, gió âm vù vù lạnh buốt, tiếng trẻ khóc văng vẳng dường như không xa lắm. Trương Tiểu Biện lớn ngần này tuổi nhưng chưa từng nghe thấy tiếng khóc nào thê lương đến thế, khóc tưởng như cổ họng rỉ máu. Hắn không khỏi rùng mình, tự úy lạo tinh thần, hướng về phía bóng tối mắng rằng:
- Tổ tông mười tám đời nhà chúng mày đã nghe đến tên Tương Tam già Trương to gan ta chưa? Cái bọn Kim tinh Ngân phách chúng bay cũng có mấy phần đạo hạnh, biết hôm nay sớm muộn gì cũng bị Tam gia đào mang về, mới nấp ở trong tối khóc thần gọi quỷ, dọa người ta hả. Chúng bay biết đâu rằng Trương Tam gia nhà các ngươi ăn gan hùm mật sói, sợ quái gì mấy trò đó.
Nói xong, hắn thò tay cấu vào đuôi con mèo đen trong lòng, định bắt nó gào lên mấy tiếng dọa bọn yêu tinh do vàng bạc hóa ra kia phải hiện nguyên hình. Tôn Đại Ma Tử là người chính trực, không chịu được cảnh bất bình trong thiên hạ, nghe tiếng khóc rỏ máu kia, cảm thấy rất đỗi đáng thương, không giống như tiếng khóc để dọa dẫm người khác, liền ngăn Trương Tiểu Biện lại, nói:
- Không phải rồi! Tam đệ nghe kỹ xem, đây rõ ràng là tiếng khóc của trẻ con, chẳng lẽ nào chuyện hỗn phách kêu oan là có thật? Có phải muốn nhờ bọn ta rửa oan kiếp trước cho nó không..
Trương Tiểu Biện nói:
- Trẻ con một hai tuổi ranh thì có oan tình gì? Chắc hẳn là đống châu báu hấp thụ linh khí ngũ hành trong trời đất, ẩn ở dưới đất hàng trăm, hàng nghìn năm mới luyện thành hình hài đứa trẻ con,. Lúc này, nhân đạo hạnh của chúng chưa cao, chỉ mới biết khóc, biết bò thôi, vừa hay có thể bắt lấy đổi sự giàu sang phú quý, nếu để muộn mấy năm nữa, để nó đắc đạo, làm sao tìm ra tung tích được..?
Tôn Đại Ma Tử lắc đầu không tin:
- Có lẽ đứa trẻ này bị người ta bỏ đói đến chết trong hang động... Gã ngẫm nghĩ thêm, thấy không đúng lại nói :
- Nhưng trên cổ nó có khóa bạc, cũng không giống như con nhà nghèo. Chắc hẳn là có kẻ gian lập mưu cướp gia sản nên bắt cóc nó tới đây rồi giết, vì thế trong lòng nó mới đầy oán hận. Chẳng ngờ dưới gầm trời này còn có chuyện vô đạo như thế thực khiến người ta tức nổ lồng ngực. Nói thế nào thì nói, hai huynh đệ chúng ta tuyệt đối không thể khoanh tay đứng nhìn
Gã vốn là người lỗ mãng, không tin chuyện ma quỷ, thường tự cho mình là:
- Người ngay lo gì bóng lệch, chân thẳng chẳng sợ giày nghiêng", hơn nữa rất tin cái lý:
- không làm việc xấu hại người, nửa đêm nào sợ quỷ đòi kêu oan ....vì vậy xưa nay không sợ gì quỷ quái. Lúc này, gã lại nổi tính lỗ mãng, bộ mặt sần sùi bạnh ra, nằng nặc cho rằng tiếng khóc của đứa bé đó chính là lời kêu oan tố khổ của vong hồn. Trương Tiểu Biện tuy lanh mồm lanh miệng nhưng cũng không thuyết phục được gã, đành thì thầm:
- Cho dù nó có là yêu ma hay quỷ quái, hay là vật gì thành tinh. Cứ đến nơi mới trông rõ được, mất thời gian tranh cãi với thằng em ngốc này thì có ích gì..?
Nghĩ đoạn hắn liền không nói thêm gì nữa, tháy dòng sông ngầm khó vượt qua hai gã đành nghĩ cách đi đường vòng. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Mà Tử tính tìm một khúc sông hẹp để nhảy qua, bèn men theo bờ sông mà tiến, đi được mấy trượng, liền cảm thấy đũa dưới chân càng nhiều, soi đèn nhìn xung quanh, thấy trên mặt đất mấp mô cũng cương vãi rất nhiều đũa. Đũa tre, đũa gỗ đều là những vật gia dụng hết sức tầm thường. Tầm thường tới mức nào đây..? Lấy một ví dụ thế này. Có tên phi tặc đã vào hàng trăm nhà phú hộ đào tường khoét vách, một hôm trót vào nhầm nhà nghèo, thấy bốn vách trống trơn, trong chum không gạo, chẳng có gì để ăn trộm, nhưng tôn chỉ " trộm không về tay không" thì không thể phá bỏ, vậy là đành phải rút mấy sợi rơm nhóm lò rồi đi. Đến mức như thế là cảnh "thượng lương quân tử" cũng tuyệt nhiên không lấy đi cái đũa nào trong chạn, vì lẽ rơm khô còn có thể giữ ấm được, thậm chí nếu có nhiều thì còn đổi được ít tiền bạc, chứ ai lại bỏ tiền ra mua mấy cái đũa cũ nát của người nghèo đã dùng nhiều năm. Những chiếc đũa trong động mỗi cái một vẻ , hiển nhiên không phải vật của cùng một nhà, nằm ngổn ngang dễ phải đến hàng nghìn, hàng vạn cái, ai ăn no rửng mỡ đem từng ấy đũa đến hang động dưới đất này? Trương Tiểu Biện nghĩ muốn vỡ đầu cũng đoán không ra lẽ gì, dành biết để đấy. Hắn lại đi lên mấy bước thăm dò, thấy sâu trong động, trên mặt nước, có một cây cầu bắc ngang. Cây cầu đó hoàn toàn dùng đũa ghép lại, tuy những chiếc đũa dài ngắn khác nhau, có mới có cũ mà chất liệu cũng khác, nhưng được gắn rất bằng phẳng kiên cố. Mặt cầu hình cung, rộng không đầy hai thước. Giơ đèn lồng soi phía đối diện của cây cầu đũa, thấy trong bóng tối hiện ra một tòa thành, đều ghép từ những chiếc đũa lại, trông rất ngợp mắt, nhưng cũng ra hình ra dáng. Thành cũng có cửa, có lầu gác, trên địch lâu còn trổ hơn mười lỗ châu mai để quan sát địch, hai bên đều là tường thành ghép bởi vô số chiếc đũa. Tòa thành đũa và mấy cây cầu đũa phia trước thành đều nhỏ bó hơn nhiều so với ngoài đời thực. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử nín thở bước trên cầu đũa, miễn cưỡng qua được sông, nhưng tới dưới lầu thành mới phát hiện ra cửa thành không có dành cho người ra vào, chỉ nhỉnh hơn cái lỗ chó chui một chút mà thôi. Cổng tòa thành xây bằng những chiếc đũa ấy mở rộng, bên trong xộc ra một làn gió tanh, hơi thối xông lên đến tận đầu. Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử vội vã xé vạt áo nút mũi lại, nín thở, xem tiếp xuống dưới chân lầu thành thì thấy xương vụn rải đầy mặt đất, bị gặm đến nát bét, trắng huếch hoác chẳng chừa lại chút da thịt nào, không rõ là xương người hay xương thú. Hai người lấy làm kinh hãi:
- Rốt cuộc bên dưới Hòe viện nhà họ Lâu có cái gì? Sao lại có tòa thành kỳ quái này? Ai ở trong tòa thành bằng đũa..?
Chuyện này hoàn toàn nằm ngoài sức tưởng tượng Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử tuy to gan nhưng cũng không dám tùy tiện làm bừa, hai gã nín thở, bò xuống trước cửa thành, ghé mắt nhìn vào trong. Chỉ thấy đèn đuốc trong thành sáng rực, nhà cửa phòng ốc san sát, đều do những cây đũa nhiều màu sắc ghép lại, đường phố im lìm vừa rộng vừa sâu, nhưng tất cả phòng ốc lầu gác đều bé tý tẹo, tuy giống hệt nhân gian nhưng chỉ có mèo mới ở được. Tiếng khóc "oa oa" của đứa trẻ liên tục vọng từ bên trong ra. Tiếng khóc bất thường toát lên vẻ tà mị khó hiểu khiến hai người và con mèo sợ đến nổi da gà. Tình cảnh trong thành này thực hết sức kỳ quái. Đúng là:
- Nghe thấy, anh hùng đều vỡ mật. Nhìn vào, tráng sĩ thấy run gan.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Hồi thứ 7: Hầm Người Sống

Hồi trước nói đến đoạn Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử hai người đang đêm vào địa đạo bên dưới Hòe viên, phát hiện ra trong hang sâu có một tòa thành toàn ghép từ những chiếc đũa. Hai gã kinh hãi khôn xiết, liền lấy áo che mũi, khom lưng, quỳ trước cổng thành Đũa, ghé mắt quan sát động tĩnh bên trong thành.
Con mèo đen đang ủ rũ trong lòng Trương Tiểu Biện tuy nhát nhưng cũng tò mò thò đầu ra xem, cặp mắt mèo đảo lia lịa, cùng hai chủ nhân đánh giá tình hình bên trong thành đũa.

Cách bài trí phố xá, nhà cửa bên trong giống hệt thành Linh Châu, chỉ có điều kích thước nhỏ bé hơn nhiều, tựa như trẻ con chơi đồ hàng vậy. Không hiểu đã phải dùng đến bao nhiêu chiếc đũa của nhân gian mới ghép được òa thành Đũa như thế này.
Đường phố chợ búa trong thành đều thắp đèn sáng trưng, đầu đường cuối ngõ đốt khá nhiều nến. Trong ánh sáng lung linh chập chờn, trùng trùng điệp điệp lầu gác làm bằng đũa toát lên một vẻ âm u lạ thường, vô số chuột to chuột nhỏ đang leo lên, leo xuông giữa đám nhà cửa nhấp nhô.
Cũng bởi mèo khoang ở vùng này không bắt chuột nên nạn chuột trên địa bàn Linh Châu đã kéo dài gần trăm năm, khó diệt được tận gốc. Tuy bọn chuột vẫn thường dung dăng thoải mái trong thành Linh Châu nhưng vì thiên tính bẩm sinh nên vẫn sợ người, sợ mèo đôi chút. Nhưng đàn chuột lớn trong tòa thành này thì con nào con nấy đều lộ vẻ hung ác, không thèm để ý đến hai người và một mèo ở ngoài cổng thành. Rất nhiều con chuột to tướng còn táo tợn bò qua bò lại trước mặt Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử.
Trương Tiểu Biện nhìn mà thấy buồn nôn, vội giơ tay đuổi mấy con chuột to ở trước mặt thầm nghĩ :
- Đâu ra lắm chuột thế này, chẳng lẽ đã lọt vào sào huyệt của bọn chuột thành Linh Châu rồi ư?"
Thường có câu rằng:
- Không có lửa thì làm sao có khói, ở nông thôn thường nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian kể về đám cưới chuột, đám ma chuột, nhưng liệu đã có ai chính mắt trông thấy.? Bọn chuột sao có thể hành động giống như con người được..? Cứ nghĩ đến việc bầy chuột đã ăn trộm đũa của hàng nghìn nhà, xây dựng thành trì trong hang động, lại có thể bắt chước y hệt lối sinh sống của con người, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đều lạnh cả người, trong đầu chỉ có một ý nghĩ ... có nhẽ đâu thế?
Trương Tiểu Biện thầm nghĩ, bây giờ đúng là thiên hạ đại loạn, chẳng lẽ bọn chuột cũng học tập Việt khấu khởi binh tạo phản... tự lập triều đình trong hang động này? Nhưng chuột chỉ là bọn giỏi phá kho trộm thóc, làm sao có trí tuệ để xây dựng thành trì được? Xem ra đây đúng là điềm chẳng lành, chẳng rõ sẽ có đại họa nào giáng xuống nữa. Trong thời loạn thì giữ mình là trên hết, Tam gia ta đánh một mẻ lớn, xong xuôi phải mau mau chóng chóng ôm tiền bạc cao chạy xa bay là tốt nhất.
Lúc ấy, Tôn Đại Ma Tử không cầm lòng nổi, kinh hãi kêu lên một tiếng, chỉ tay vào trong thành nói với Trương Tiểu Biện:
- Tam đệ mau, bọn chuột không chỉ ăn trộm đũa đâu, ngươi xem, ngươi xem... Chúng còn bắt trẻ con nữa. Lũ chuột cống này thành tinh rồi!"
Trương Tiểu Biện đưa mắt nhìn, quả nhiên trên con đường thẳng đối diện với cổng thành, có hàng trăm con chuột kìn kìn xúm lại một chỗ, cõng đứa bé trần truồng từ từ đi vào sâu bên trong. Đứa trẻ "oa oa" khóc lớn, chân tay giãy đạp liện tục.
Dẫn đầu bầy chuột bắt trẻ con là một con chuột cống già, toàn thân lông trắng, trụi lỗ chỗ, nó nheo nheo đôi mắt ti hí giảo hoạt dị thường, thỉnh thoảng lại trèo lên người đứa trẻ, dùng đuôi ngoáy làm thằng bé nhột nhạt. Đứa bé trần truồng ước chừng chỉ khoảng một tuổi, lúc thì khóc lóc, quẫy đạp, lúc thì bị con chuột cù lại phá lên cười, có lẽ bầy chuột đã dùng chính thủ đoạn này làm đứa bé thôi khóc để đưa nó từ nhà dân đến đây.
Trương Tiểu Biện xem rõ, vô cùng ngạc nhiên, hạ giọng chửi:
- Bọn chuột chết toi này sao cũng học được ngón trộm gà của Tam gia ta nhỉ! "
Tôn Đại Ma Tử nói với Trương Tiểu Biện :
- nghe nói thành Linh Châu hay bị mất trẻ con, thường náo loạn cả thành, ai cũng bảo rằng thủ đoạn của bon mẹ mìn lợi hại. Ta cứ tưởng chỉ là lời đồn bậy trên phố, hóa ra mầm họa là từ " thành Đũa" bên dưới Hòe viên này. Đứa trẻ đó không biết là con cái nhà ai, bị bọn chuột bắt về trong thành thì sống làm sao nổi, hai chúng ta phải mau cứu nó ra mới được."
Trương Tiểu Biện tuy không biết đàn chuột bắt đứa trẻ về làm gì nhưng đoán rằng không phải việc tốt, vả lại tính cách của hắn một là hám lợi, hai là hiếu sự. Lúc bình thường, hễ thấy gió lay cây động, là hắn lập tức nóng mắt nóng tai, chạy lại xem cho rôm rả. Hắn thường tự cho mình can đảm hơn người, thích hành hiệp trượng nghĩa, hễ thấy sự bất bình trên đường là ra tay cứu khốn phò nguy, chẳng bao giờ chịu ngồi yên. Lúc ấy hắn nhất thời tức khí lên muốn làm anh hùng hảo hán, liền tạm gác việc đi tìm sự phú quý trong Hòe viên, định xông thẳng vào trong thành giải cứu đứa trẻ bị bầy chuột bắt cóc.
Nào ngờ cửa thành Đũa quá hẹp, Trương Tiểu Biện tuy người gầy xương nhỏ nhưng cũng không chui qua được, đành trơ mắt nhìn bầy chuột mang đứa trẻ đi xa dần, mất hút trong thành. Chẳng bao lâu nữa, đã không còn nghe thấy tiếng trẻ khóc đâu nữa.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử thấy chưa gì đã mất cả tiên cơ, liền tính cách dùng sức phá vỡ tường thành xông vào. Ngờ đâu, những chiếc đũa ấy đều được gắn keo da cá rất chặt, tuy không kiên cố bằng gạch đá nhưng chỉ với sức của hai gã, trong tay lại không có cuốc chim hay xẻng gì, muốn phá hủy hay đẩy đổ tường cũng hết sức tốn công.
Trương Tiểu Biện nôn nóng, chợt vỗ trán, nghĩ bụng :
- Đúng là cuống quá hóa hồ đồ? Sao không trèo thành mà vào? " Nghĩ thế, hắn vội giơ đèn chiếu lên bờ tường thành, chỉ thấy tòa thành trong động có bề mặt thành cách trần động một khoảng khá xa.
Trương Tiểu Biện kéo Tôn Đại Ma Tử dậy, chỉ tay lên trên ra iệu, sau đó hai người dùng cả chân cả tay trèo qua tường thành cao quá nửa người. Chỗ đặt chân bỗng vang lên tiếng " chít chít" thảm thiết, cả hai giơ đèn cúi đầu xem, thì ra là cả một ổ chuột nát nhừ, máu thịt bầy nhầy một đống. Trương Tiểu Biện vội nhấc chân chà giày vào tường thành bên cạnh, kêu lên:
- Đừng trách, đừng trách. Có trách thì trách mẹ chúng mày sanh nhầm chỗ.
Tôn Đại Ma Tử cũng giơ gậy đạp tứ tung xuống đất, đuổi bọn chuột xung quanh chạy dạt ra, rồi cả hai cùng xem xét tình hình trong thành. Trong tòa thành Đũa bị lũ chuột chiếm cứ này, mỗi gian phòng ốc, lầu gác đều có vài con chuột, nhung nhúc khắp nơi không sao đếm xuể. Các gian nhà thấp bé nối dài tít tắp, lốm đốm cơ man những chân đèn, chân nến đang cháy, nhưng ánh nến phía đằng xa yếu ớt nên nhìn không rõ rốt cuộc tòa thành này quy mô như thế nào.
Hai người nhất thời không biết nên đi đâu để tìm ra đứa trẻ bị bầy chuột đưa đi lúc nãy, đành dò dẫm bước vào vùng nhà cửa san sát phía trong thành, TrươngTiểu Biện phát hiện ra con mèo đen trong lòng đang run lên sợ hãi, thầm cảm thấy cổ quái. Bầy chuột trộm đũa xây thành đã là một chuyện hết sức ly kỳ trong thiên hạ, không ngờ đến cả mèo trong thành Linh Châu lại cũng sợ chuột, chẳng lẽ trong tòa thành chuột này còn điều gì hung hiểm chưa hiển lộ ra nữa hay sao? Tới nước này, không thể không đề phòng cẩn thận hơn, chớ để Tam gia ta chưa phát tài đã lỗ cả vốn, mất cả tính mạng ở đây. Nghĩ đoạn, hắn bất giác đi chậm lại.
Hai người đi được mấy bước trên con đường hẹp hai bên san sát lầu đũa nhà đũa trong thành, bỗng thấy một trận gió âm thổi vào mặt, trong gió thoảng một mùi hương lạ, nồng nồng khác hẳn mùi xú uế, lạnh lẽo trong địa động. Mặc dù Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đã dùng vải nút mũi nhưng mùi hương nọ vẫn xộc thẳng lên tận óc, hai người cùng bỏ vải che mặt ra, hít hà một lúc rồi nói:
- Dường như là mùi thịt hầm, nhưng thịt gì mà hầm thơm thế? Thịt bò hay là thịt chó nhỉ?"
Cả hai đã lâu rồi chưa được ăn mặn, ngay cả mùi vị thịt bò hầm ra sao cũng gần như quên mất rồi, lại gặp đúng lúc bụng đang trống rỗng, ngửi thấy mùi thịt nức mũi thì không khỏi them thuồng rỏ dãi, liên tục nuốt nước bọt, đưa tay áo rách quệt nước dãi đang chảy ròng ròng trên khóe miệng, bất giác rảo bước lại phía mùi thịt thơm nồng.
Qua hai khúc ngoặt, cả hai đến trước một căn lầu đũa cao lớn dị thường. Căn lầu cao hơn một trượng, nằm giữa ngã tư, nhà cửa xung quanh đều thấp hơn rất nhiều, bên trong không có ngọn đèn ngọn nến nào. Cửa sổ, cửa ra vào lầu cũng ghép bằng những chiếc đũa, đóng lại im ỉm. Trên con đường phía trước của lầu đặt một nồi hầm to, đáy nồi là một hố bếp đang cháy, cũng không rõ bên trong đựng thứ gì, hơi nghi ngút bốc ra qua kẽ hở chỗ nắp vung khép hờ.
Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử chỉ chun mũi hít một hơi, biết rằng mùi thịt thơm lan tỏa trong thành chính là từ nồi này mà ra, bèn nghĩ bụng :
- Ai đang hầm thịt nhỉ? Chẳng lẽ ngoài bầy chuột lớn, trong thành còn có người cư trú?" Mùi thịt trong nồi thơm ngon khó cưỡng, hai gã chẳng buồn nghĩ ngợi gì thêm, thấy bốn phía toàn chuột là chuột, chẳng có hiện tượng dị lạ nào , liền rảo bước tới gần cái nồi.
Trương Tiểu Biện dí mũi gần nồi, hít sâu mấy hơi, mặt mày rạng rỡ, khen rằng:
- Thơm quá! Thơm quá! Ai cũng biết quán ngon nổi tiếng trong thành Linh Châu là Bát Tiên Lâu, nhưng tuy là đầu bếp trong Bát Tiện Lâu tinh thông các món ăn nổi tiếng Bắc Nam cũng chưa chắc đã làm được nồi thịt ngon thế này. Nói xong, hắn không kìm được giơ tay mở nắp vung. Chẳng cần biết nồi thịt của nhà ai, định ăn một bữa no rồi hẵng tính.
Tôn Đại Ma Tử ngăn lại, nói:
- Chúng ta đều là bậc trượng phu trong sạch, sao có thể ăn vụng của người ta được
Trương Tiểu Biện nói :
- Huynh đệ chúng ra đương nhiên là người ngay không làm chuyện mờ ám, tuy không biết ai đang ở trong thành Đũa này nhưng cũng không thể ăn không của người ta được... " Hắn vừa nói vừa sờ soạng trong người một hồi. Sau khi làng Kim Quan bị lửa chiến tranh hủy diệt, Trương Tiểu Biện đã bới trong đống đổ nát và xác người được ít lương khô và tiền nong. Lúc ấy, còn dư được vài đồng, hắn liền tiện tay lấy ra đặt xuống cạnh bếp rồi nói với Tôn Đại Ma Tử rằng:
- Bây giờ trả họ tiền là được chứ gì?"
Tôn Đại Ma Tử tuy ngoài miệng nói cứng nhưng bụng cũng đang réo ồ ồ, nước bọt đã ứa ra chảy dài cả thước, chẳng thèm hỏi số tiền đó bao nhiêu, lập tức ngoạc mồm kêu lên:
- Nếu đã như thế, tất nhiên mỗ cũng chẳng có gì để nói... " Chưa dứt lời gã liền vội sán lại, dùng gậy nhấc nắp nồi, định cùng với Trương Tiểu Biện đánh chén một bữa.
Dù gan dạ có sắt thép đến mấy cũng phải thưa cái bụng đói, Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử bị mùi thịt thơm trong nồi quyến rũ, bao nhiêu chuyện khác đều gác hết ra sau đầu. Tới khi mở nắp vung ra, xua bớt hơi nước sôi đang nghi ngút, vừa mới ngó vào bên trong cả hai đã suýt chút nữa nôn ọe cả bữa cơm ăn từ năm ngoái. Thì ra, bên trong nồi đang hầm chín nhừ bốn đứa bé trần truồng béo mập, nhìn áng chừng đều là những bé trai bé gái tầm một, hai tuổi.
Thật đúng là:
- chạy trời không khỏi nắng... Tôn Đại Ma Tử bằng ngần này tuổi, ỷ mình can đảm chính trực, lại có võ nghệ, xưa nay chưa từng biết sợ là cái gì, thế mà lần này đúng là run rẩy từ tận đáy lòng, cả người từ đầu đến chân lạnh toát, sợ đến nỗi vội rụt tay làm cho nắp vung rơi trở lại:
- Cha mẹ ơi, hầm như người sống! Ai mà dám ăn chứ..?
Trương Tiểu Biện nghĩ thầm:
- Thứ nấu trong nồi vừa làm món ăn vừa làm món nhậu được, nhưng chắc chắn không phải dành cho người sống ăn, hẳn là trong nhà ma Hòe viên này có thứ gì đó rất ghê tởm, lâu ngày đã tự luyện thành tinh, lại còn biết sai khiến lũ chuột bắt trẻ con trong thành. Bọn chúng ta dẫu có thủ đoạn đầy mình e cũng không phải là đối thủ của nó được. Nhân lúc tên cầm đầu còn chưa hiện thân, không đào thoát bây giờ thì còn đợi lúc nào..?" Hắn liền đánh mắt với Tôn Đại Ma Tử, hai người chuẩn bị chuồn thẳng một lèo, nhưng lúc đó muốn chạy khỏi thành Đũa này không kịp nữa rồi.
Đúng là: Thiêu thân vào lửa thôi khôn cứu.. Cá lọt đáy nồi sống được chăng..?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 132 guests