Ma Thổi Đèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướng

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 19 May 2019

Image

Tác giả : Thiên Hạ Bá Xướng


Chương 1 - Mộ cổ thôn Địa Thiên

Tương truyền trong mộ cổ cất giấu rất nhiều báu vật, có nhiều "vật vô danh", là những báu vật kỳ bí từ xưa không được ghi chép cũng chẳng biết lai lịch, vốn không nên xuất hiện trong nhân gian, một khi đã lạc vào dân gian, để cho phàm phu tục tử thấy được, sao có thể không nảy sinh lòng tham? Mặc dù không nhất định đầu cơ trục lợi, cũng là muốn nhân cơ hội này mà làm nên danh tiếng. Có thể thấy được hai chữ "Danh Lợi" này thực hại người không nhẹ.

Gương cổ thanh đồng tôi vớt được từ hải nhãn Nam Dương, chính là "Chu thiên quái kính" thế gian hiếm gặp, những tưởng giáo sư Trần sẽ đem gương cổ nộp cho nhà nước lưu trữ, chẳng ngờ cuối cùng lại bị lão giáo sư Tôn "tấm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi" lừa mất, nếu không phải tôi nhặt được cuốn sổ ghi chép công việc của lão ở viện bảo tàng, giờ chắc vẫn để lão che mắt.

Bây giờ ba đứa tôi, Shirley Dương và Tuyền Béo cầm cuốn sổ ghi chép tới cửa hưng sư vấn tội, giáo sư Tôn bị tôi nắm thóp, cứ năn nỉ chúng tôi đừng đem việc lão "bí mật nghiên cứu văn vật tại nhà" tố giác ra ngoài, đây không phải chuyện đùa, lão đã đắc tội không ít người, chẳng may bị lãnh đạo cấp trên hay đồng nghiệp nào đó biết được, chắc chắn sẽ mang tội nghiêm trọng thân bại danh liệt.

Mặc dù tôi điên tiết lão giấu riêng tấm gương cổ thanh đồng, nhưng cũng không nỡ bóc trần hại lão bẽ mặt, biết có chừng mực, bèn nói với giáo sư Tôn:
- Ông đã biết hối lỗi, giờ chỉ cần nói cho chúng tôi biết phải làm thế nào, chúng tôi có chủ trương bỏ qua chuyện cũ, sau này sẽ coi như không biết chuyện này.

Tôi và Tuyền béo nói ra điều kiện. Trước tiên bắt giáo sư Tôn viết cam kết, bây giờ mặc dù cái trò "Qua cầu rút ván" không còn thịnh hành, nhưng ít nhiều gì thì giấy tờ chứng minh vẫn là cần thiết, nhỡ đâu lão già này mai kia lật lọng, thì lôi giấy trắng mực đen kèm dấu tay này ra là có thể giao lão cho cơ quan chức năng xử lý, nội dung hoàn toàn theo ý tôi, tôi đọc đến đâu lão viết đến đó, mang tiếng là "Cam kết", phải nói là "Khẩu cung" mới đúng.

Sau này còn phải mang cổ kính cổ phù Châu về Hợp Phố, đưa hết cho giáo sư Trần, nói thế nào đi nữa, những báu vật này cũng không đến lượt giáo sư Tôn, nhưng chuyện đó phải để sau, bây giờ chung tôi phải mượn những vật này dùng tạm đã, phải để cho giáo sư Tôn đưa chúng tôi đi kiếm "Đan đỉnh thiên thư" trong "Mộ cổ thôn Địa Tiên".

Vị địa tiên thời minh tinh thông yêu thuật "Quan sơn chỉ mê" kia mặc dù giấu kín phần mộ của mình, nhưng vẫn theo cổ pháp "vấn" của dân trộm mộ. Sử dụng hải khí ngưng tụ không tan trong Thanh đồng quái kính, lại có vài phần cơ hội chiêm nghiệm ra động tĩnh phong thủy của "thôn Địa Tiên", sau đó đám "Mô Kim Hiệu Úy" chúng tôi liền có thể vào đổ đấu, lấy thi đan nghìn năm về, còn chuyện trong "Mộ cổ thôn Địa Tiên" có "Thi đan" không được chép lại trong sử sách, tạm thời cũng không thể biết chắc được, nhưng nếu ta đã biết được manh mối này, để cứu được tính mạng Đa Linh thì không thể làm như không thấy.

Giáo sư Tôn nghe đến yêu cầu này, cứ lắc đầu quầy quậy, nói việc này so với lên trời còn khó hơn, "nến mỡ người, gương cổ thanh đồng" hôm nay đều có ở đây cả, cây nến mỡ người kia được chúng tôi vớt từ hải nhãn về, có điều cũng không phải thực sự là nến làm từ mỡ người, mà lấy mỡ hắc lân giao nhân của Nam Hải chế thành, có thể sáng mãi không tàn, gió thổi không tắt, đến giờ vẫn còn có thể dùng được.

Quẻ phù thanh đồng cũng có một rồng một cá, hai mảnh phù cổ có thể diễn ra nửa quẻ, nhưng cũng không biết hai mảnh này có huyền cơ gì, không giải được ẩn ý không có mắt trên mảnh phù, căn bản không biết dùng làm sao, mà quan trọng nhất là không có thời gian, gương cổ bảo tồn không được bao lâu.

Shirley Dương từ lúc đến nhà giáo sư Tôn, vẫn chưa lên tiếng, nghe vậy thấy kỳ quái, nhịn không được bèn hỏi:
- Sao lại nói như vậy? Sao lại bảo gương cổ không còn nhiều thời gian ?

Tôi cũng vỗ vỗ vai giáo sư Tôn, cảnh cáo lão:
- Đừng có tưởng ông là Ông Chín, bọn chúng tôi đây đối với khảo cổ học cũng không phải gà mờ, ông mà còn ăn nói lung tung, đừng trách bọn tôi không chừa cho Ông Chín chút mặt mũi.

Giáo sư Tôn đáp:
- Cái gì mà Ông với cả Chín, thế mà cũng nói được, trước đây tôi từng bị kích thích, nghe những lời này ngực đã khó chịu rồi, hơn nữa chuyện tới nước này, tôi còn gạt các anh làm gì? Các anh tự xem đi, mặt gương cổ thanh đồng này dùng Quy Khư Long Hỏa chế tạo, không giữ được bao lâu đâu. Vừa nói vừa giơ mặt gương ra cho chúng tôi xem.

Xi ở mặt trái tấm gương đều đã bị hủy đi, cổ văn sặc sỡ hiện ra trước mắt, tôi, Shirley Dương và Tuyền Béo vẫn canh cánh trong lòng, nghĩ chiếc gương này là "Tần Vương Chiếu Cốt Kính", thấy mặt sau gương, bèn tránh đi theo bản năng không để gương chiếu vào mình, nhiễm phải âm hối thi khí của Nam Hải cương thi.

Nhưng xem ra mặt sau tấm gương cũng không có dị trạng gì, mới nhớ ra đây là Thanh đồng quái kính, không liên quan gì đến "Tần vương chiếu cốt kính" trấn thi ngàn năm, tiến tới nhìn kỹ, mới hiểu được ý tứ của giáo sư Tôn.

Thì ra điểm đặc biệt nhất của gương cổ Quy Khư, chính là được luyện từ ngọn lửa âm hỏa thuần chất, hải khí trong hải nhãn Nam Hải mịt mùng dày đặc, vạn năm không tiêu tan, có thể làm nên sắc đồng như phỉ thúy, nhưng tấm gương này lưu lạc thế gian mấy nghìn năm, trước khi chìm vào đáy biển nó rơi vào tay một "nhà sưu tầm", nói đúng hơn là một kẻ "buôn lậu đồ cổ", căn bản không biết làm sao để lưu giữ món đồ cổ quý hiếm này, có lẽ là lo hải khí trong gương đồng tan hết, mới đi lấy xi che kín mặt sau tấm gương, không ngờ lại chữa lợn lành thành lợn què, xi với thanh đồng sinh ra phản ứng hóa học, mặt sau gương đồng cơ hồ bị ăn mòn hết cả, bây giờ sinh khí của tấm gương cổ chỉ còn lại lơ thơ như tơ nhện. Sắc đồng đều đã thay đổi, ước chừng chẳng bao lâu nữa, quái kính sẽ mất đi hết đồng tính, trở thành một món đồ thanh đồng tầm thường.

Tôi biết giáo sư Tôn không nói dối, có điều thấy những dự tính của việc tìm kiếm "Mộ cổ Địa Tiên" thất bại, không khỏi có chút thất vọng, đang muốn hỏi lại xem có cách nào khác hay không, thì Tuyền Béo lại nói: "Sáng dậy sớm đến giờ, mới ăn có hai cái bánh ránh, qua giờ cơm đến nơi rồi. Bao tử lên tiếng rồi. Tôn lão cửu khỏi phải nhiều lời, mau đưa tiền đây, chúng ta khởi binh đến Chính Dương Cư đánh chén cái đã."

Giáo sư Tôn nào dám không theo. Cũng may vừa mới ôm về một đống tiền lương tiền thưởng, lại còn có kiếm thêm tiền phụ cấp lên lớp, tất tật chưa động đến tí nào, đưa chúng tôi đến "Chính Dương Cư" nổi tiếng lẫy lừng, nhà hàng quốc doanh này chuyên nấu các món Mãn Hán, tôi với Tuyền Béo hâm mộ đã lâu, nghĩ thầm đây đều là giáo sư Tôn nợ chúng tôi cả, không ăn thì thôi, đã ăn thì tự nhiên không chút khách khí, nhưng vừa hỏi mới biết được. Thì ra muốn Mãn Hán đủ món thì phải đặt từ sớm, đành phải ăn mấy món Âu, bày ra đầy một bàn lớn.

Trên mặt giáo sư Tôn bày ra một nụ cười cứng ngắc, chẳng biết là lão xót tiền, hay là lo "bí mật bị bại lộ", nói chung là vẻ mặt lão vô cùng gượng gạo, lão rót cho Tuyền béo một chén đầy trước tiên, cười theo nói:
- Mời.... Mời....

Tuyền Béo hết sức hài lòng, nâng chén rượu lên "Ực" một cái uống hết rượu Mao Đài trong chén, toét miệng cười nói:
- Giáo sư Tôn này, đừng tưởng ông là Ông Chín, biết nhiều chữ hơi ông Béo đây, nhưng ông Béo đây vừa nhìn đã biết ông là loại không biết uống rượu, thấy chưa? Tôi vừa uống kiểu hổ mẫn, kiến thức rộng thế có biết không? Mau mau rót đầy cho tôi, để ông Béo đây biểu diễn cho xem chiêu sở trường "thôn tính"."

Tôi phỏng chừng lúc này giáo sư Tôn bị Tuyền Béo "thôn tính" luôn cả tim rồi, nhưng lão bị người ta nắm thóp, biết làm gì hơn ngoài nén giận rót rượu gắp rau cho Tuyền Béo, tôi nhìn mà không khỏi buồn cười, thầm nghĩ thế này mới hả dạ chứ, đang định chọc lão một tí thì lại thấy Shirley Dương ở bên cạnh chau mày nhìn tôi, trong ánh mắt có ý hờn giận, rõ ràng cho là hành động của tôi và Tuyền Béo có phần quá đáng, lão giáo sư Tôn này dù không phải đức cao vọng trọng gì, nhưng dù sao cũng mang tiếng học giả, đã xin lỗi và chuộc tội rồi, sao còn đối xử với lão như vậy?

Tôi cũng mặc kệ, nghĩ thầm:
- Thằng cha giáo sư Tôn này đáng ghét quá, nếu không hành cho lão mấy trận, sau này làm sao lão rút ra bài học được, không đánh cho lên bờ xuống ruộng là may cho lão rồi.,
Shirley Dương cảm thấy ý tứ không nhường nhịn của tôi, không biết làm gì hơn đành cắm đầu ăn uống, không cười đùa với Tuyền Béo.

Bây giờ giáo sư Tôn mới rót cho Shirley Dương một chén rượu, than thở:
- Nghĩ sai thì hỏng hết, tôi đúng là đã nghĩ sai mà hỏng hết rồi, xin cô Dương sau này trở về, ngàn vạn lần đừng nói với ông Trần chuyện này, bằng không đời này tôi chẳng còn mặt mũi nào gặp ông ấy nữa.

Shirley Dương an ủi lão:
- Ngài yên tâm đi, tôi đã thề sẽ không hé răng nửa lời, cũng không để cho hai anh đây nói ra, chỉ cần ngài tận tay trao trả gương cổ cho giáo sư Trần là được.

Giáo sư Tôn cũng chỉ chờ những lời này của cô, như nhận được ân xá, vui vẻ nói:
- Vậy thì được, vậy thì được rồi...

Tôi ngồi bên cạnh nghe, ngẩng đầu liền thấy hai mắt giáo sư Tôn lóe lên, ngoài ánh sáng mừng rỡ khi thoát được kiếp nạn, còn ẩn chứa một tia thần sắc rất vi diệu, dù chỉ thoáng qua thôi, nhưng không tránh khỏi con mắt của tôi, lòng tôi chợt lóe, liền buông đũa xuống, nói chen vào:
- Không được, gương cổ thanh đồng và sổ nghiên cứu Đại Minh Quan Sơn Thái Bảo, cùng với tờ giấy cam kết, cũng phải đưa tôi giữ trước, tôi phải nghiên cứu một phen xem còn cách nào khác để tìm đến mộ cổ Địa Tiên hay không, đây là chuyện liên quan đến mạng người, không giao cho người khác được.

Nụ cười trên mặt giáo sư Tôn cứng đờ, nhìn tôi một cái, rồi lại nhìn Shirley Dương, xem biểu hiện của lão, dường như đang hỏi:
- Hai vị, một người bảo trả, một người bảo không trả, tóm lại ai ra quyết định đây ?

Tôi không thèm để ý đến giáo sư Tôn nữa, quay sang cạn một ly với Tuyền Béo, lai rai nói vài câu chuyện, Shirley Dương thấy vậy, không biết làm gì hơn đành phải nhún vai với giáo sư Tôn, nói một tiếng:
- Sorry.

Giáo sư Tôn thế mới biết Shirey Dương thì ra cũng không quyết định được, bèn lại tới mời tôi rượu, năn nỉ nói:
- Đồng chí Nhất ạ, anh vuốt mặt cũng phải nể mũi chứ, dạo trước ở Thiểm Tây, các anh tìm tôi hỏi han rất nhiều chuyện quan trọng, lúc ấy tôi biết gì nói nấy không giấu diếm gì, ít nhiều cũng coi như đã giúp đỡ các anh đôi chút, để tôi tự tay đưa trả gương đồng cho ông Trần đi thôi.

Tôi cũng rất là chân thành nói với giáo sư Tôn:
- Ông Chín Tôn ạ, nếu không phải ông từng giúp đỡ tôi ở Thiểm Tây, thì giờ tuyệt đối không bỏ qua cho ông, ông giữ riêng món quốc bảo chúng tôi vớt về, có biết đấy là thứ phải đánh đổi bằng mạng người hay không? Việc này tôi có thể không truy cứu nữa, nhưng tôi không hay nói chơi, tôi thực sự có ý định dùng mấy thứ này đi Tứ Xuyên tìm mộ cổ thôn Địa Tiên, trước lúc ấy, dù thế nào đi nữa cũng không thể giao lại cho ông, có điều nếu ông không yên tâm, cũng có thể lựa chọn hợp tác cùng chúng tôi, chỉ cần ông đồng ý góp sức, giúp tôi tìm được vị trí viện bảo tàng mộ cổ này, các quẻ đồ chu thiên cất giấu bên trong, ông cứ việc cầm đi nghiên cứu, đến lúc đó danh tiếng trong giới học thuật ngoài ông ra còn ai vào đây.

Giáo sư Tôn nghe xong thì trầm mặc một lát, lấy chai rượu tu ừng ực mấy hớp, không lâu sau, bắt đầu chuếnh choáng, mắt đỏ tía tai, lão nhìn tôi chằm chằm rồi thấp giọng nói:
- Hồ Bát Nhất, cái thằng nhãi nhà anh đang ép tôi dẫn các anh đi trộm mộ à !

Tôi cười nói:
- Ông Chín Tôn rốt cuộc cũng thông suốt rồi, có điều ngài không nhìn ra được à? Chúng tôi cũng toàn những người thành thật, chỉ muốn đi khảo sát thực địa một chút xem mộ cổ Địa Tiên trong truyền thuyết là thật hay giả, với lại ông vụng trộm nghiên cứu thủ đoạn trộm mộ dân gian, chẳng nhẽ không có ý nghĩ lệch lạc bao giờ ư ?

Giáo sư Tôn khổ sở đáp:
- Thôn Địa Tiên do dân trộm mộ Quan Sơn Thái Bảo thời Minh lập nên, giấu ở sâu trong núi, tôi nghiên cứu bí thuật trộm mộ dân gian, động cơ cũng như các anh thôi, chỉ là muốn tìm được phương pháp chứng thực sự tồn tại của nó, chứ cũng không nghĩ tới việc đi trộm mộ.

Tôi đinh ninh "rượu vào lời ra", thừa dịp giáo sư Tôn uống nhiều rồi, tôi phải mau hỏi lão cho rõ ngọn ngành, bèn hỏi hắn những truyền thuyết "Quan Sơn Thái Bảo, mộ phần phong vương, thôn Địa Tiên, đan đỉnh dị khí, cơ quan mai phục" có tin được hay không?

Giáo sư Tôn nói, năm đó giặc cỏ càn quét Tứ Xuyên, hơn mười vạn người cũng không đào được nói lên, bây giờ căn bản không còn ai tin rằng "thôn Địa Tiên" tồn tại, tốn bao nhiêu công sức sưu tầm tư liệu, càng ngày càng nhiều chứng cớ chứng tỏ Tứ Xuyên quả thật có "mộ Địa Tiên", trong mộ chôn giấu rất nhiều quan tài minh khí các triều đại, nhưng việc này không được người ta ủng hộ, một vị nhân sĩ có máu mặt còn chỉ trích rằng... cái thuật dân gian này không thể tin được, là do "kiến thức hạn hẹp, mê tín, si tâm vọng tưởng" mà sinh ra những suy luận kỳ quái, đơn giản là ấu trĩ tưởng tượng đến những thứ không thể hình dung, ai tưởng thật người đó chắc chắn có bệnh tâm thần.

Chúng tôi thấy lời nói này đúng là mỉa mai, không ngờ giáo sư Tôn lại bị chụp mũ nặng nề như vậy, không khỏi cảm thấy ấm ức thay lão, trước giờ cái suy nghĩ "Không thấy bảo không có" là một loại tâm lý chung rất phổ biến, kiên trì bảo thủ những tư tưởng và lý luận khoa học cũ, tất nhiên sẽ thiếu dũng khí đối mặt với những sự vật hiện tượng mới lạ, trong lòng tôi nảy sinh đồng cảm, lại chuốc thêm cho lão vài chén, cuộc đời sao có thể như ý mình, ít ra còn có thể mượn rượu giải sầu.

Không ngờ giáo sư Tôn tửu lượng kém quá, vừa mới nhấp vài hớp rượu, lại đang có tâm trạng, thế mà say mụ mị cả người, Tuyền Béo đành phải nửa dìu nửa kéo lão, dẫn ra ngoài nôn mửa, tôi nhìn bóng lưng lão lảo đảo bước đi mà khẽ thở dài, nói với Shirley Dương:
- Giáo sư Tôn là một kẻ có tài nhưng không gặp thời, hơn nửa đời này của lão có lẽ sống cũng khó chịu ức chế lắm..."

Shirley Dương chợt nhớ tới một chuyện, rót cho tôi một chén rượu hỏi:
- Được rồi, sao các anh lại gọi giáo sư Tôn là "Ông Chín"? Ông ấy đứng hàng thứ chín sao ?

Tôi nói không phải, lão xếp thứ mấy tôi đâu có biết, thực ra "cửu gia" là một cách xưng hô hài hước, vì khoảng thời gian mười năm lao động văn hóa đầy biến động kia, chúng tôi gọi phần tử trí thức là "Lão chín thối", đây là gọi theo các giai cấp "quan, lại, sư, đạo(đạo sĩ), y(thầy thuốc), công(công nhân), săn(thợ săn), dân(nhân dân), nho(trí thức), cái(ăn xin)" mà thành, bởi trí thức đứng hàng thứ chín, hay bởi có vị vĩ nhân nào đó, đã từng đứng trước mọi người mà trích dẫn câu thoại "Ông Chín không thể đi!" trong vở "Dùng trí dọa hổ", ý tứ của người ta là không thể đánh đuổi phần tử trí thức, cho nên lúc đó cái kiểu nói "Ông Chín" này mới trở nên phổ biến, có điều những quan niệm ấy sớm đã bị thời đại đào thải, tôi với Tuyền Béo gọi giáo sư Tôn là "Ông Chính" chẳng qua cũng chỉ muốn trêu lão một chút mà thôi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 2 _ Kẻ chạy trốn

Tôi nghe Tôn Cửu gia lầm bầm những câu văn nửa tục, vừa giống thơ lại vừa giống vè, hơn nữa nội dung còn rất ly kì cổ quái, nhất thời cũng không sao hiểu được, đến khi nghe thấy bốn chữ "muốn đến Địa Tiên", trong lòng mới chợt tỉnh ngộ: "Quá nửa là gợi ý để tìm ra lối vào mộ cổ Địa Tiên rồi!"

Lúc này Tuyền béo bên cạnh lên tiếng:
- cái lão này, không biết uống thì đừng có uống, ống có tửu lượng như Tuyền béo đại gia đây không chứ? Đấy, uống cho lắm vào rồi bắt đầu niệm Tam Tự Kinh, chẳng hiểu là cái cái của khỉ gì nữa...

Tôi vội vàng bụm miệng Tuyền béo lại, dỏng tai lên nghe giáo sư Tôn "nói năng lảm nhảm" sau khi uống say, nhưng lão ta nói đến "muốn tìm Địa Tiên, hãy tìm ô..." là ngừng, gục mặt xuống bàn hôn mê bất tỉnh, chẳng còn lầm bầm gì được nữa.

Tôi lấy làm khó chịu, chỉ hận không thể banh miệng giáo sư Tôn ra ngay tại chỗ, bắt lão ta nhắc lại một lượt từ đầu chí cuối không sót chữ nào, quan trọng nhất là: muốn tìm mộ Địa Tiên, mả Phong Vương thì phải tìm thấy cái gì? Mấy câu đầu tôi nghe không kỹ lắm, giờ nhớ lại, hình như là "nương tử gì đấy nấu món lòng cho đại vương" thì phải.

Shirley Dương có bản lĩnh nghe một lần nhớ ngay, cô nói:

"Không phải nương tử gì nấu món lòng gì cả, giáo sư Tôn vừa nãy nói... Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi ; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm Ô..."

Tôi vội vàng chép lại mấy câu ấy vào sổ. Xem ra Tôn Cửu gia vẫn còn giấu giếm một số manh mối về mộ Địa Tiên, vừa nãy lão ta tâm trạng kích động uống thêm mấy ly, mới vô ý buộc miệng nói ra. Trong mấy câu không đầu không đuôi này rối cuộc có gì bí mật, chúng tôi căn bản không thể lý giải nổi.

Shirley Dương nói:
- Hay cho đại vương... có thân không đầu...chữ vương mà không có đầu, chính là chữ thổ, liệu có phải trò đố chữ không nhỉ? Ngầm ám chỉ bí mật trong mộ cổ Địa Tiên? Nương tử không đến núi non không khai, câu này ám chỉ chữ gì nhỉ? Chắc không phải đố chữ rồi, mấy câu sau đều không thể chiết tự được.

Lúc này tôi cũng chẳng hiểu gì cả:
- Đại vương có thân không đầu? Ai là đại vương không đầu? Cả khai sơn nương tử nữa? Câu đầu tiên đã không hiểu, những gợi ý phía sau đương nhiên cũng không thể tìm ra manh mối gì rồi.

Tuyền béo nói:
- Đế đấy anh Tuyền đây đi tìm ít nước lạnh, dội cho Tôn Cửu gia tỉnh lại, rồi nghiêm hình tra khảo, nếu vẫn không chịu nói thực thì cho lão nếm mùi thủ đoạn của anh em ta, mấy trò độc địa kiểu như nước ớt với ghế hùm ghế hiếc gì đấy, cứ lôi lão ra mà săn sóc nhiệt tình, đại hình chờ lệnh.

Tôi lắc đầu nói:
- Chúng ta có phải bọn ở hang Tra Xỉ với quán Bạch Công đâu, giáo sư Tôn cũng không phải là chiến sỹ cách mạng bị bắt, sao có thể dùng cực hình với lão ta được? Thôi hôm nay chúng ta đừng giày vò lão nữa. Lát nữa cả bọn ăn xong, đưa lão ta về nhà, đợi lão tỉnh lại rồi hỏi cũng không muộn, tôi đoán lão ta cũng không dám che giấu điều gì đâu.

Sau đó, ba người chúng tôi đều ôm đầy một bụng nghi vấn ăn nốt bữa cơm, Shirley Dương trả tiền rồi cả bọn đưa giáo sư Tôn về chỗ tôi ở. Đứng ngoài cổng, giáo sư Tôn mơ hồ hỏi tôi:
- Ủa? Đây là đâu? Đừng bắt tôi đi nông trường, tôi không phải cánh hữu, không phải kẻ phản bội, tôi chưa từng giết người...

Tôi vỗ về lão ta:
- Yên tâm, yên tâm, không áp giải ông đi nông trường cải tạo lao động đâu, ông xem, đây là nhà tôi, chỗ này gọi là Hữu An môn đấy, bị chụp mũ là bọn cánh hữu cũng chả sao, dù là cánh hữu nước nào, chỉ cần ở Hữu An môn này... thì nhất loạt đều yên ổn." Trong lòng tôi càng thêm ngờ vực, thầm nghĩ: "Giáo sư Tôn từng giết người rồi ư? Lão ta giết ai? Tính tình lão tuy không tốt đẹp gì, nhưng không giống hạng có thể xuống tay giết người. Giết người không phải giết con gà con vịt, đâu phải ai cũng có gan ra tay.

Tuyền béo sốt ruột chẳng đợi giáo sư Tôn tỉnh rượu, vừa về đến nhà liền chạy ra Phan Gia Viên bày sạp hàng. Buổi chiều, tôi và Shirley Dương thấy giáo sư Tôn đã tỉnh táo, liền rót cho lão ta một cốc trà nóng. Tôi đóng cửa phòng lại, kéo ghế ngồi xuống trước mặt lão, nói toạc móng heo:
- Cửu gia, thực không dám giấu, vừa nãy ông uống quá chén, những chuyện giết người và phản bội năm xưa đều tuôn ra hết rồi. Nhưng theo tôi quan sát, bảo ông hư vinh thì không sai, nhưng nếu nói ông từng giết người thì có đánh chết tôi cũng không tin, tôi đoán chắc ông bị oan uổng, chi bằng nói rõ chuyện ấy cho chúng tôi nghe nào.

Tội lại vỗ ngực thề có Mao chủ tịch, chuyện này chỉ cần tôi giúp được, thì dù lên núi đao xuống vạc dầu cũng không từ nan, đảm bảo sẽ nghĩ ra cách trả lại sự trong sạch cho lão. Chẳng may lực bất tòng tâm, thì chuyện hôm nay lão nói ra, tôi và Shirley Dương cũng sẽ chôn chặt trong lòng, tuyệt đối không hé nửa lời với ai khác.

Giáo sư Tôn tự biết mình say rượu lỡ lời, nhưng thấy tôi và Shirley Dương thành khẩn, đành kể lại những gì đã trải qua trong thời kì Cách mạng Văn hóa, không ngờ lại có liên quan rất lớn đến mộ cổ Địa Tiên kia, nguyên nhân giáo sư Tôn muốn tìm ngôi mộ ấy phải đến tám mươi phần trăm là do trải nghiệm của lão ta ở nông trường cải tạo lao động năm xưa.

Thời cách mạng Văn hóa, vì quan hệ không tốt nên Tôn Học Vũ bị vu oan hãm hại, thoạt đầu chỉ bị tố cáo là tác phong sinh hoạt có vấn đề, sau này không hiểu ở đâu chui ra một tên tiểu nhân, chụp cho lão ta cái mũ phản bội Cách mạng. Ở đại hội đấu tố công khái, đâu đến lượt lão biện giải, tưởng sắp bị trói gô đưa đến pháp trường xử tử tại chỗ rồi, may mà có Trần Cửu Nhân, bạn học cũ của lão ta, cũng chính là giáo sư Trân đứng ra làm chứng, chứng minh Tôn Học Vũ giác ngộ rất kém, căn bản chưa từng tham gia cách mạng, chứ đừng nói là phản bội, nhờ thế lão ta mới thoát kiếp nạn.

Về sau, cặp huynh đệ hoạn nạn có nhau Tôn Học Vũ và Trần Cửu Nhân đều bị điều xuống Quả Viên Câu ở Thiểm Tây để cải tạo lao động. Quả Viên Câu thực ra không có vườn hoa quả gì, mà là một mỏ đá, Trần Cửu Nhân là văn sĩ, làm sao kham nổi công việc cầm búa đập đá? Chưa được nửa tháng ông đã cơ hồ muốn gục. Cũng may nhờ người nhà nhờ vả chạy vạy, xin được giấy chứng nhận bị u dạ dày của bệnh viện, đưa ông về Bắc Kinh chữa bệnh, mới khỏi bỏ xác tại đó.

Nhưng Tôn Học Vũ thì chẳng có ai lo cho. Lão ta một thân một mình, vợ chết từ lâu, không con không cái, lại không quen biết ai, đành phải ngày ngày chịu khổ ở nông trường. Cũng may tố chất thân thể lão tương đối tốt, hồi trước giải phóng lại từng làm việc nhà nộng nên trong thời gian ngắn vẫn gánh vác được công việc đập đá nặng nhọc, có điều tinh thần lão ta thì phải chịu áp lực vô cùng lớn, tiền đồ mờ mịt, không biết tương lại sẽ thế nào. Vả lại những người đến đây cải tạo lao động còn phải tố cáo lẫn nhau, nếu anh không tố cáo người khác, người khác sẽ tìm đủ mọi cách để tố cáo anh, những tháng ngày ấy, lão ta cơ hỗ chẳng còn là con người nữa.

Ở nông trường, Tôn Học Vũ quen một người từng là trung đoàn trưởng thời kháng MỸ viện Triều, họ Phong, cũng không biết vì cớ gì mà bị đầy xuống đây cải tạo lao động, vì thường hay làm việc chung với Tôn Học Vũ nên có chút tình cảm của người cùng cảnh ngộ, nói chuyện cũng có thể coi là khá hợp nhau. Một hôm, trung đoàn trưởng Phong lén bảo với Tôn Học Vũ: "Lão Tôn, tôi thực tình không chịu nổi cuộc sống người không ra người, ma không ra ma này nữa, nghĩ suốt mấy ngày, hôm nay cũng thông suốt, tôi định trốn, tôi thấy anh cũng sắp không xong rồi, hay là dứt khoát đi cùng tôi luôn nhé."

Tôn Học Vũ cả kinh, hỏi trung đoàn trưởng Phong:
- Trốn ? Anh không muốn giữ cái đầu nữa hả? Thêm nữa, nông trường này tuy phòng bị không nghiêm, nhưng nơi đây lại nằm sâu trong dãy Đại Ba Sơn, dân cư thưa thớt, dù chạy chưa thoát được thì sao? Sau đấy trốn ở đâu? Bị bắt trở lại còn sống yên được sao ?

Trung đoàn trưởng Phong dường như rất tự tin, ông ta nói:
- Qua ngọn núi này là vào Xuyên rồi. Quê tôi chính ở Tứ Xuyên, so với việc cứ ở đây chờ chết, tôi thà mạo hiểm băng núi, chỉ cần về được quê hương là coi như cá về biển lớn, chim về trời xanh rồi.

Thì ra tổ tiên vị trung đoàn trưởng họ Phong này là thế gia vọng tộc thời Minh, từng làm Quan Sơn thái bảo, cũng chính là kẻ trộm mộ. Quan Sơn thái bảo đào được long cốt thiên thư trong một ngôi mộ cổ cực kì lâu đời ở Tứ Xuyên, về sau có người trong dòng tộc ấy tham ngộ huyền cơ bên trong, liền đắc đạo thành tiên. Bên trong địa cung của ngôi mộ cổ ấy, ông ta xây dựng thôn Địa Tiên để làm nơi cất giữ của báu sau khi trăm tuổi. Tương truyền, ai tìm được thôn Địa Tiên, bái tế Địa Tiên Quan Sơn thái bảo, sẽ được trường sinh bất tử, không cần ăn uống, không nhuốm chút khói lửa nhân gian nào nữa.

Nhưng ngôi mộ cổ Địa Tiên này ẩn giấu quá sâu, không có manh mối nào để tìm kiếm, từ khi nhà Minh diệt vong đến giờ vẫn chưa ai tìm được. Có điều, năm xưa Địa Tiên đã kể lại cho hậu nhân hà họ Phong mấy câu ám ngữ:
- Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điều dạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương...

Trong câu ám ngữ cổ này, có ẩn giấu bí mật quan trọng về lối vào của thôn Địa Tiên, xưa nay người nhà họ Phong chỉ truyền khẩu cho nhau, không tiết lộ cho người ngoài. Khi ấy, trung đoàn trưởng Phong chỉ nói với giáo sư Tôn non nửa, khuyên ông ta cùng mình chạy về Tứ Xuyên, trốn vào mộ Địa Tiên tránh nạn. Đừng thấy vị trung đoàn trường họ Phong này từng đi đánh trận mà nhầm, đối với những thứ hư huyền hoặc mà tổ tiên để lại ông ta cực kỳ mê tín. Chính vì nguyên nhân này, ông mới bị đày đến đây. Giờ không chịu nổi trò hành xác ngày ngày đào núi đập đá nữa, ông ta liền nghĩ đến việc bỏ trốn về quê, được trường sinh bất tử hay không vẫn là điều khó nói, nhưng dù sao cũng có chỗ để đi, đằng nào bây giờ ở trong ngoài đều chết cả, ngộ nhỡ trong mộ Phong Vương ấy có thiên thư thật, vậy thì có thể theo tổ tông thành tiên luôn rồi.

Bấy giờ, Giáo Sư Tôn nghe xong, liền cảm thấy vị họ Phong này chắc chắn đầu óc có vấn đề, phỏng chừng không chịu được cực khổ, tinh thần đã suy sụp, chuyện gì cũng dám nói chăng? Thời buổi này mà nói ra những lời ấy, có xử bắn cả chục lần cũng không quá đáng.

Cuối cùng Giáo sư Tôn tỏ rõ thái độ, kiên quyết không chịu trốn đi cùng ông ta:
- muốn đi thì anh tự đi một mình, yên tâm, tôi tuyệt đối không đi mật báo sau lưng anh đâu."

Trung đoàn trưởng Phong cười gằn:
- Tục ngữ nói rất hay, chớ đem chuyện trong lòng nói ra với người khác, tôi đã kể kế hoạch bỏ trốn với anh rồi, dù anh không tố cáo, e rằng sau khi tôi trốn mất, anh cũng khó thoát khỏi liên quan. Vậy đi, để tôi giúp anh một tay.

Giáo sư Tôn cả kinh kêu lên:
- Anh định làm gì ?
Chưa dứt lời, sau gáy đã ăn một cú đập, lão ngất xỉu tại chỗ, đến khi tỉnh lại thì không thấy bóng dáng trung đoàn trưởng Phong đâu nữa.

Chuyện trung đoàn trưởng Phong mất tích gây ra một trận náo động trong nông trường cải tạo, người ta tìm khắp phạm vi trăm dặm trong núi, nhưng không thấy dù chỉ là một sợi tóc của ông ta. Ông ta cũng không thể nào mọc cánh mà bay đi được. Lúc này, có người tố cáo, nói giáo sư Tôn là người cuối cùng ở cùng với trung đoàn trưởng Phong. Giáo sư Tôn liền bị đưa đi thẩm vấn, nhưng lão cũng biết chuyện này tuyệt đối không thể nói ra, bằng không ắt sẽ càng truy càng sâu, dù muốn nói thật cũng chả thể nào nói được, chẳng lẽ lão lại bảo trung đoàn trưởng Phong đã đi tìm mộ cổ Địa Tiên cầu trường sinh bất tử rồi chắc? Ai tin? Lão đành một mực khẳng định họ Phong đã bỏ trốn, những việc khác đều nhất loạt chối bay không biết, lại có vết thương sau gáy làm chứng, bản thân cũng là người bị hại.

Chuyện này tuy đã bỏ qua, nhưng lời đồn đáng sợ, có người bắt đầu ngờ vực, đại để nói rằng giáo sư Tôn có tư thù với trung đoàn trưởng Phong, nên đã ngấm ngầm sát hại ông ta, không biết chôn xác ở đâu. Suy luận này dù không được chính thức công nhận nhưng lại âm thầm lan rộng, người nào người nấy đều coi giáo sư Tôn như kẻ giết người, đến tận lúc bè lũ bốn tên sụp đổ, lão ta vẫn không cách nào giải thích được chuyện này.

Giáo sư Tôn cũng không biết trung đoàn trưởng Phong có trốn về Tứ Xuyên hay không, vả lại, trung đoàn trưởng Phong sau này đã được kết luận là trường hợp oan sai, dù năm xưa ông ta có trốn ở núi sâu, giờ cũng có thể ưỡn thẳng lưng mà đi ra ngoài, nhưng vẫn không thấy ông ta lộ mặt. Con người này cứ như bốc hơi vậy, bao nhiêu năm nay, trước sau "sống không thấy người chết không thấy xác", bởi thế lời đồn rằng ông ta bị giáo sư Tôn hại chết vùi xác trong núi hoang lại càng có cơ sở hơn, chỉ tạm thời không có chứng cứ nên không ai làm gì được giáo sư Tôn mà thôi.

Bí ẩn về sự mất tích của trung đoàn trưởng Phong sau này trở thành tâm bệnh của giáo sư Tôn. Về sau, trong quá trình làm việc, tiếp xúc với vô số truyền thuyết và ghi chép về mộ cổ thôn Địa Tiên, ông ta liền đặc biệt lưu tâm, một là muốn tìn được quẻ Chu Thiên để có sự đột phá trong nghiên cứu, hai là cũng muốn tìm thấy vị trung đoàn trưởng đã mất tích mười năm kia, rửa sạch nỗi hàm oan khi xưa.

Nhưng giáo sư Tôn cũng biết, sau khi bỏ trốn, trung đoàn trưởng Phong rất có thể đã làm mồi cho đám thú dữ trong núi, hoặc ngã xuống khe núi nào đấy chết rồi, khả năng ông ta chạy về được Tứ Xuyên là cực kỳ thấp, dù tìm ra mộ cổ Địa Tiên cũng chưa chắc gặp lại được ông ta. Có điều, sâu thẳm bên trong giáo sư Tôn vẫn có một thứ dự cảm duy tâm: con người trung đoàn trưởng Phong này rất không tầm thường, nói không chừng ông ta thực sự tìm được lối vào mộ cổ, thậm chí bây giờ vẫn còn sống trên đời.

Tôi nghe giáo sư Tôn kể xong, ý nghĩ xoay chuyển trong dầu, đã có ngay một vài chủ ý:
- Nhất thời chúng ta cũng không thể giải được câu đố về thôn Địa Tiên, vả lại, tấm gương cổ bằng đồng xanh cùng lắm chỉ sử dụng đươc thêm một hai lần nữa, không đến thời điểm mấu chốt thì không thể tùy tiện lấy ra chiêm đoán địa mạch phong thủy được. Tôi thấy vị trung đoàn trưởng họ Phong này chính là đầu mối quan trọng để tìm ra mộ cổ. Các truyền thuyết về vị địa tiên triều minh kia đa phần đều mù mà mù mờ, xưa nay toàn nói là ở Tứ Xuyên chứ chẳng chỉ ra đại khái một khu vực nào cả, thậm chí còn không biết ở đất Ba hay đất Thục, Xuyên Đông hay Xuyên Tây. Chưa nắm được điểm chính yếu đó, việc tìm kiếm sẽ khó khăn vô cùng. Nhưng chỉ cần thăm dò được quê quán của vị trung đoàn trưởng họ Phong kia ở huyện nào trấn nào, chúng ta có thế đích thân tới đó tìm hiểu ngọn nguồn, tùy cơ hành sự, thiết nghĩ muốn tìm lối vào mộ cổ cũng không phải là chuyện quá khó.

Giáo sư Tôn nhất thời vẫn chưa hạ được quyết tâm, nhưng lão ta hứa với chúng tôi sẽ tìm cách hỏi dò quê quán của trung đoàn trưởng họ Phong. Có điều đã mười mấy năm trôi qua, nhiều nơi hoàn toàn thay đổi, nông trường Quả Viên Câu sớm đã không tồn tại, ngay cả phiên hiệu bộ đội của trung đoàn trưởng họ Phong còn không biết, muốn hỏi được thông tin chính xác thật không dễ dàng, việc này phải thông qua một số kênh đặc biệt, dù có đi dò la ngay lập tức cũng không thể ngày một ngày hai mà có kết quả ngay.

Tôi đành cất tấm gương cổ đi, nhẫn nại chờ đợi. Tin từ bên Hồng Kông báo về cho biết bệnh tình của Đa Linh mỗi ngày một thêm trầm trọng, nhiều chỗ đốm xác bắt đầu xuất hiện dấu hiệu thối rữa. Tôi cực kỳ lo lắng, cũng với Tuyền béo và Shirley chuẩn bị sẵn sàng, chỉ đợi tin của giáo sư Tôn là sẽ vào Xuyên lật núi tát sông, chẳng ngờ bên Tôn Cửu gia kia cũng như đá chìm đáy biển, bạt vô âm tín.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 3 _ Mây che mù mịt biết là đi đâu

Shirley Dương thấy không thể lần lữa được nữa, liền nhờ Minh Thúc đưa Đa Linh sang Mỹ trị liệu, tốn bao công sức mới ổn định được thi độc trong cơ thể cô. Phương Tây có vị học giả nghiên cứu Vu thuật Nam Dương nhiều năm, ông ta cho rằng Giáng đầu là một thuật phù thủy rất cổ xưa, cũng có thể nói là một dạng thôi miên sâu, thông qua môi trường đặc thù, khiến người sống tiếp nhận ám thị, tin rằng mình đã chết, cơ thể liền từ từ rữa nát.

Tạm thời không tính toán việc quan điểm này của ông ta chính xác hay không, khoa học hiện đại tuy đã phát triển nhưng khoa học phương Tây lại chỉ nghiên cứu vận động vật lý mà bỏ qua phương diện tinh thần và ý thức của con người, thiếu hụt các nghiên cứu tâm lý học về những trạng thái bất bình thường như trực giác, linh cảm, siêu cảm quan... vân vân. Đối với loại tà thuật đi ngược lại thường thức vật lý như Giáng đầu thuật Nam Dương này, sử dụng phương pháp thôi miên sâu để trị liệu cũng hoàn toàn vô dụng.

Vì vậy, chúng tôi chỉ có thể nhờ đến phương pháp cổ xưa nhất, để Đa Linh nằm trong bệnh viện có các thiết bị trị liệu tiên tiến, đồng thời mời vị đại sư Giáng đầu người Thái di cư sang Mỹ giúp cô giải trừ tà thuật, mặt khác tiếp tục mở rộng tìm kiếm thông tin về mộ cổ Địa Tiên. Tôi tính toán, cũng không thể chỉ ôm một cái cây đợi thỏ được, lại điều tra xem những mộ cổ khác có cất giấu nội đơn hay không. Nhưng cổ thi kết được "đơn đỉnh" thực vô cùng hiếm có khó tìm, thăm dò đủ mọi nơi đều không có tin tức gì cả.

Thời gian trôi nhanh như tên bắn, ngày tháng thoi đưa, đông qua xuân đến, thoắt cái đã nửa năm, mãi vẫn không thấy kết quả điều tra của Tôn Cửu gia. Ngoảnh đi ngoảnh lại đã đến mùa hạ, vừa hay trùng dịp mừng thọ giáo sư Trần, tôi dẫn theo Shirley Dương, Tuyền béo, Răng Vàng, Cổ Thái và Minh Thúc về nước chúc mừng, tiện thể hỏi thăm bên phía Tôn Cửu gia tiến triển thế nào.

Hôm ấy khách khứa đến chật cả nhà giáo sư Trần, ồn ào náo nhiệt kẻ ra người vào, tôi đoán Tôn Cửu gia và giáo sư Trần là bạn bè lâu năm, thể nào cũng có mặt, nhưng đợi mãi đến khi chuẩn bị nhập tiệc vẫn không thấy lão ta xuất hiện.

Giáo sư Trần đức cao vọng trọng, thân thích bè bạn đông đảo, riêng học sinh của ông thôi cũng đã kéo đến lũ lượt từng đoàn. Dù đông vui, nhưng khung cảnh có phần hỗn loạn, nhà giáo sư Trần tuy rộng nhưng cũng không thể thiết đãi hết bao nhiêu người như vậy.

Tôi và bọn Tuyền béo, Răng Vàng hoàn toàn không quen đám mọt sách kia. Vả lại mấy người bọn tôi đã sang Mỹ lang bạt mấy tháng, tự thấy mình đã trải đời, không còn là kẻ tầm thường nữa, chẳng buồn để ý đến đám phần tử trí thức trong nước kia, mà cũng chẳng có tâm tư kết giao với họ. Cả bọn chúng tôi tự vui với nhau, ngồi quây quanh một bàn ở trong cùng uống rượu, tán chuyện huyên thuyên.

Gần đây Tuyền béo tự cảm thấy mình rất oách, chốc chốc lại giễu cợt đám khách kia ăn mặc nhà quê. Giờ là năm nào rồi mà vẫn còn đội mũ rộng vành mặc đồ Tây? Tây không ra Tây ta không ra ta, đúng là mất mặt người Trung Quốc chúng ta quá đi.

Minh Thúc nói:
- Có nhầm không vậy cậu béo, người ta ăn mặc ít nhất cũng có chút khí chất nho nhã lịch sự, kiểu cách ăn mặc của cậu hồi trước còn chẳng bằng họ nữa là, mà kỳ thực bây giờ cậu cũng...

Tuyền béo nghe những lời này, suýt chút nữa thì đập luôn chai rượu lên đầu Minh Thúc, Răng Vàng vội khuyên giải:
- Bác Minh Thúc, đừng tưởng bác là người Hồng Kông mà oách nhé, quan điểm của bác thật chẳng ra sao cả. Trước khi bị nhà Mãn Thanh cắt cho nước Anh, chẳng phải Hồng Kông cũng chỉ là một làng chài ven biển thôi sao? Ngư dân ăn mặc thế nào, chúng ta cũng thấy rồi đấy, thêm nữa, tổ tiên nhà bác không phải cũng là trộm vặt ở đại lục ư? Cậu Tuyền béo đây là người thế nào chứ? Người ta là con cháu cán bộ cao cấp đấy, xuất thân nhà tướng, bất kể mặc gì, chỉ riêng khí chất ấy đã không ai bì nổi rồi. Có khi chỉ mặc mỗi cái quần cộc thôi, cũng toát lên vẻ thâm trầm khôn tả ấy chứ.

Tuyền béo ngoác miệng mắng:
- Thằng cha Răng Vàng này, tiên sư nhà ông, ông nói thế là khen tôi hay mỉa tôi đấy? Mặc độc cái quần sịp thì thâm trầm thế quái nào được ?

Tôi cũng chõ miệng vào:
- Răng Vàng không nói láo đâu, cậu chưa xem bức tượng 'Người suy tưởng' à? Người ta không phải cũng hở cả mông đít ra đấy thôi? Cậu tìm khắp thế giơi cũng không ra ai thâm trầm sâu sắc hơn thế đâu, chỉ khí chất lúc ngủ gật trong buồng tắm của Tuyền béo nhà cậu là xem ra còn so được với người ta.

Minh Thúc ai oán:
- Cái đám mất dạy các cậu, trình độ bóp méo lịch sử càng lúc càng lợi hại...

Đang tán nhảm huyên thuyên thì Shirley Dương đỡ giáo sư Trần đến chỗ bàn chúng tôi ôn lại chuyện xưa, cả bọn liền vội vàng đứng dậy. Mới mấy tháng không gặp, trán giáo sư Trần dường như đã có thêm mấy nếp nhăn, tôi liền khuyên giải:
- Không được thì bác cứ nghỉ hưu đi, cách mạng tự có người kế tục, đã đến tuổi này rồi, cũng nên ở nhà hưởng phước thôi.

Giáo sư Trần cười cười nói:
- Ngồi cả đi ngồi cả đi... vẫn chưa đến lúc lui bước, nắm xương già này vẫn còn chút hơi tàn dùng được. Các cậu không ngại đường xa vạn dặm đến thăm lão già này, làm tôi vui lắm, hôm nay nhất định phải uống thêm mấy ly mới được. Cậu Nhất, cậu Tuyền, hai người sang Mỹ sống đã quen chưa ?

Tuyền béo đáp:
- Quen thì quen rồi, chỉ là cháu thấy lo thay cho bọn họ thôi. Cái đám người Mỹ này, đúng là ngốc ơi là ngốc, lần trước bọn cháu đi nhà hàng Trung Quốc, thấy một tay da đen tới ăn, gọi món cá viên, nhai rất sướng mồm, liền giơ ngón tay cái lên 'OK' rõ to. Nhưng hắn có biết mình ăn cái gì đâu, liền tìm người hỏi xem thứ ấy là gì, kết quả hỏi xong liền đần thối mặt ra, kinh ngạc hết sức. Hắn bảo có nằm mơ cũng không ngờ được... cá cũng có tinh hoàn. Ngốc đến thế cơ đấy, bác xem cháu có thể không lo thay cho bọn họ được không ?

Giáo sư Trần bị Tuyền béo nói cho một hồi cũng ngẩn người ra, cậu ta lại tiếp lời:
- Thực ra nghĩ sâu hơn thì cũng chẳng phải lỗi của họ, con người cháu đây ưu điểm duy nhất chính là quá ham học hỏi, ra nước ngoài rảnh rỗi chỉ thích nghiên cứu lịch sử địa phương, xem xem chủ nghĩa tư bản mới ở phương Tây giành được thành công như thế nào, sao bọn họ lại có nhiều tiền đến thế ? Không nghiên cứu thì thôi, vừa đào sâu nghiên cứu cháu liền giật cả mình, té ra hai trăm năm về trước, bọn họ cũng toàn là người đến khai hoang thôi." Tuyền béo càng nói càng hăng, lại định khoác lác về cách nhìn của cậu ta đối với các nước châu Phi.

Tôi thấy có vẻ không ổn, vội vàng ngăn cu cậu lại:
- Thằng béo nhà cậu nói kiểu ấy là có khuynh hướng kỳ thị chủng tộc đấy, về nước nói chơi thì không sao, nhưng ở Mỹ tuyệt đối chớ có nhắc đến, thêm nữa, Á Phi Mỹ La Tinh vốn đứng chung một mặt trận, đời cha cậu thời trẻ còn phải đi xin ăn, cậu cũng mới ăn no mặc ấm được vài năm chứ mấy? Sao có thể vong bản kỳ thị những người anh em giai cấp ở châu Phi được ?
Vậy là, tôi với Tuyền béo, Răng Vàng lập tức bắt đầu cuộc thảo luận sôi nổi về vấn đề chủng tộc và hưng vong của chủ nghĩa tư bản phương Tây, chỉ lo nói cho sướng cái miệng bỏ mặc giáo sư Trần đứng đờ đẫn bên cạnh. Shirley Dương nói với giáo sư Trần:
- Bác đừng giận, mấy người bọn họ mà ở chung một chỗ thì chẳng bao giờ nói được chuyện gì nghiêm túc đâu.

Giáo sư Trần mỉm cười khoan dung:
- Không thể nói vậy được, tôi thấy vấn đề họ thảo luận, cũng... cũng... cũng... rất có chiều sâu mà.

Thấy Shirley Dương đưa mắt ra hiệu, tôi cũng tự biết mình thất lễ, vội lui khỏi cuộc khẩu chiến, để lại Tuyền béo tranh luận với Răng Vàng và Minh Thúc. Tôi kéo theo Cổ Thái, cùng Shirley Dương và giáo sư Trần đi ra sân.

Nhà giáo sư Trần có sân vườn riêng, dù xung quanh ồn ào song nơi đây vẫn giữ được sự yên tĩnh, u tịch. Giáo sư Trần xoa xoa đầu Cổ Thái, ông cũng lo lắng cho Đa Linh, bèn hỏi tôi xem sau này dự tính thế nào?

Tôi không dám kể chuyện của Tôn Học Vũ cho giáo sư Trần, chỉ nói trước mắt đã có chút chuyển biến, bảo ông không cần lo lắng nhiều.

Giáo sư Trần nói với tôi:
- Chỉ cần tôi giúp được, các cậu cứ nói, vừa nãy vẫn chưa kịp hỏi kỹ, sau này cậu có dự định gì ở Mỹ không ?

Tôi đáp, gần đây cũng chưa có thời gian nghĩ kỹ về chuyện sau này, tương lai có thể vẫn làm nghề cũ, thu mua ít đồ cổ gì đấy ở Mỹ chẳng hạn. Lần trước vớt được rất nhiều thanh đầu ở Nam Dương, sang Mỹ bán được một đống tiền to, nhiều đến mức làm người ta choáng váng. Có điều, hồi trong quân đội tôi đã quen sống đơn giản, giờ cảm thấy nhiều tiền như thế cũng chẳng tác dụng gì. Nhà cao cửa rộng mấy thì tối về chẳng qua cũng chỉ ngủ trên một cái giường, có núi vàng núi bạc trong nhà, một bữa chẳng qua cũng chỉ ăn được một bát cơm chứ mấy.

Vì vậy, tôi hi vọng dùng số tiền này lập ra một cái quỹ, chỉ cần là cô nhi trong chiến tranh, bất kể là quốc gia nào dân tộc nào trên thế giới, tôi đều sẵn lòng tài trợ cho chúng đến một đất nước khôngcó khói lửa chiến tranh để sinh sống học tập.

Giáo sư Trần không ngớt gật đầu khen ngợi:
- Năm xưa tôi không nhìn lầm người, tự đáy lòng tôi cũng cảm thấy vui thay cho cậu đấy. Cha mẹ Shirley Dương đều không còn nữa, tôi coi nó như con gái ruột vậy, từ nay giao phó nó cho cậu, lão già này cũng có thể yên tâm rồi. Lão đây xin càm ràm thêm câu nữa, chuyện hôn nhân phải tranh thủ làm cho mau, không thể lần lữa kéo dài được.

Tôi luôn miệng dạ vâng, song cũng không đủ kiên nhẫn tiếp tục nói những chuyện nhà cửa dông dài này, đang chuẩn bị chuyển sang chủ đề Tôn Cửu gia, dò hỏi giáo sư Trần xem gần đây lão ta có động tĩnh gì không, thì chợt thấy Tôn Học Vũ cầm một hộp đào thọ từ ngoài cửa xăm xăm bước vào. Giáo sư Trần bước lên kéo tay lão ta:
- Thong dong đến muộn, phải phạt ba ly." Đoạn không để giáo sư Tôn giải thích gì, đã kéo lão ta vào trong phòng khách.

Tôi và Shirley Dương đưa mắt nhìn nhau, thầm nhủ nhân vật chính rốt cuộc cũng chịu lộ mặt rồi. Vừa nãy giáo sư Tôn nhìn thấy chúng tôi, thần sắc trên gương mặt rất khó dò, cũng không biết sự tình có đầu mối gì hay chưa, đành đợi một lát kéo lão ta ra hỏi cho rõ ràng vậy.

Mãi đến chín giờ hơn, khách đến chúc thọ giáo sư Trần mới lục tục ra về, để lại đầy một nhà ngổn ngang chén bát. Tôi bảo bọn Tuyền béo và Răng Vàng đi giúp tiễn khách rồi dọn dẹp, bản thân thì tranh thủ kiếm cớ, kéo Tôn Học Vũ vào thư phòng của giáo sư Trần.

Tôi nôn nóng hỏi:
- Cửu gia, đã thăm dò được quê quán của trung đoàn trưởng Phong ở đâu chưa? Sao lâu la thế ?

Giáo sư Tôn nhíu mày ủ rũ:
- Tôi cũng cuống cả lên đây, nhưng tư liệu có thể tra được chỉ có mỗi hộ tịch và địa chỉ của ông ta khi mới tham gia quân đội, khó khăn lắm mới tìm được hồ sơ của ông ta, nhưng trước sau vẫn không tra được tổ tịch nhà họ Phong ở đâu cả.

Bấy giờ tôi mới hiểu, xem ra chuyện này quả không dễ. Cuối thời Minh bọn giặc cỏ vào Xuyên, đến thời Thanh mạt chiến loạn lại xảy ra liên miên khiến lưu dân di chuyển khắp nơi, mấy tỉnh Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc phải đón một lượng di dân lớn. Vì vậy, địa chỉ hộ tịch trong hồ sơ, thực ra không phải nguyên quán thực sự của trung đoàn trưởng Phong, nếu không tìm được người cực kỳ thân thiết với ông ta, chỉ sợ không ai biết rõ tường tận được.

Lòng tôi đã nguội lạnh quá nửa, lại hỏi giáo sư Tôn:
- Nói vậy là không có hy vọng tìm thấy rồi ?

Giáo sư Tôn đáp:
- Tôi thăm dò nhiều nơi, mãi đến trưa hôm nay mới có chút đầu mối, chỉ là... Vừa nói, lão ta vừa lấy một tấm bản đồ Trung Quốc mới mua xong, mở ra chỉ cho tôi xem:
- Ở trong núi ấy thôi mà, mây che mù mịt biết là đi đâu.

Tôi nhìn kỹ vị trí lão ta chỉ, thì ra chính là Vu Sơn ở mạn Trường Giang Tam Hiệp. Từ xưa đã có tương truyền Vu Sơn sớm mây chiều mưa, ngọn Thần Nữ mông lung mờ mịt, thời viễn cổ là đất phong đồng thời cũng là nơi xây cất lăng mộ của Vu Hàm , vậy nên gọi là Vu Sơn, tên ấy được dùng cho đến ngày nay. Nơi này quanh năm mây mù bao phủ, che hết cả thế núi, vì vậy không thể dùng quyết chữ "Vọng" của Mô Kim hiệu úy, vị trí cụ thể cần phải chính xác hơn nữa mới được. Tôi hỏi giáo sư Tôn:
- Vu Sơn thuộc chi mạch Trung long, trong thuật phong thủy thanh ô có thuyết Quần long vô thủ, cực kỳ khó nắm bắt. Núi này cũng thuộc phạm vi ảnh hưởng của văn hóa vu Sở, có nhiều phong tục và truyền thuyết cổ xưa. Giờ tuy đã tra được quê hương bản quán của trung đoàn trưởng Phong ở huyện Vu Sơn, nhưng phạm vi này vẫn quá lớn, chẳng lẽ không thể điều tra xem cụ thể là ở trấn nào, thôn nào à? Ông cũng đừng có mà trích văn thơ ra đây với tôi, cái gì mà mây che mù mịt biết là đi đâu, trấn nào cũng phải có cái tên mới được chứ.

Giáo sư Tôn lấy làm khó xử nói:
- Tôi cũng dò hỏi được tên trấn rồi, gọi là trấn Thanh Khê. Nhưng bản đồ này đã tường tận lắm rồi, bao nhiêu chỗ lớn chỗ nhỏ ở huyện Vu Sơn đều có hết, song lại không sao tìm được chỗ nào gọi là trấn Thanh Khê cả, vậy nên mới nói ở trong núi ấy thôi mà, mây che mù mịt biết là đi đâu.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 4 _ Bí mật trong chấn nhỏ

Tôi nghe giáo sư Tôn bảo bản đồ huyện Vu Sơn không có nơi nào là trấn Thanh Khê, cũng có chút nghi hoặc khó hiểu, phải chăng là nguồn tin không chuẩn xác? Hay là do lịch sử đổi dời, địa danh thời cổ đến nay đã không còn được dùng nữa, vì vậy bản đồ mới xuất bản gần đây không ghi chú lại. Trấn này đã có từ thời nhà Minh, tất nhiên là một thị trấn cổ, dù đã thành hoang phế thì vẫn phải có di chỉ lưu lại, không thể nào cả mảnh ngói vụn cũng không còn, cẩn thận tra tìm trong địa chí, nói không chừng lại tìm được đầu mối.

Giáo sư Tôn gật đầu tán đồng:
- Ban đầu là tôi gạt lão Trần mời các cậu đi Nam Hải trục vớt gương cổ, trách nhiệm này tôi nhận. Tôi nghĩ rất lâu rồi, quyết định sẽ đi cùng các cậu chuyến này, có kế hoạch gì chưa ?

Tôi nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
- Cửu gia cuối cùng cũng nghĩ thông rồi, chuyện về cổ trấn Thanh Khê có thể đến huyện Vu Sơn rồi hỏi thăm sau, chúng ta không thể lần lữa thêm nữa, ngày mai xuất phát luôn, không nên có nhiều người, người biết càng ít càng tốt, lát nữa chúng ta sẽ tính toán lại một phen.

Tôi ra khỏi thư phòng, thấy khách khứa bên ngoài đã về độ bảy tám phần, giáo sư Trần uống say khướt, sớm đã được người đỡ về phòng ngủ nghỉ ngơi. Tôi bèn gọi Shirley Dương và Tuyền béo vào thư phòng, khóa trái cửa lại, mật bàn kế hoạch đi Vu Sơn "khảo sát thực địa."

Trong thư phòng của giáo sư Trần, các tủ đầy chật những sách là sách, đương nhiên cũng có không ít các loại tài liệu văn sử kiểu dư địa chí này nọ. giáo sư Tôn bới loạn lên tìm ra được mấy bộ sách to như cục gạch, tra tìm lịch trình thay đổi và phát triển của huyện Vu Sơn, nhưng không phát hiện ghi chép gì liên quan đến đại vương không đầu, xem ra muốn tìm được đáp án câu ám ngữ mà trung đoàn trưởng Phong đề cập đến cũng không dễ dàng gì.

Tôi nói với giáo sư Tôn:
- Vu Sơn có đại vương không đầu gì hay không thì tôi không rõ, nhưng nghe nói hoàng đế Ung Chính nhà Thanh chết vì bị ám sát, bị Lữ Tứ Nương cắt đầu, nên lúc chôn cất, thi thể phải gắn một cái đầu bằng vàng thay thế. Thế chẳng là có thân mà không có đầu còn gì? Nhưng ông ta là hoàng đế kia mà, nếu nói là vương, vậy há chẳng phải giáng cấp ông ta rồi ư? Vả lại, niên đại và vị trí địa lý cũng không trùng khớp nữa.

Tôn Cửu gia nói:
- Đó là truyền thuyết dã sử, không đáng tin cậy, thời kỳ văn hóa Vu Sở cũng từng có một vị tướng quân không đầu, nhưng ông ta cũng không phải vương hầu. Thời cổ đại, hình phạt chém đầucực kỳ phổ biến, trong buổi loạn thế, rất nhiều vương hầu khanh tướng thậm chí cả hoàng đế đều gặp phải kết cục đầu lìa khỏi cổ, nếu muốn liệt kê ra hết, chỉ sợ chẳng bao giờ tìm ra được đầu mối. Vì vậy, chúng ta tập trung chú ý vào vùng Ba Thục thôi.

Mọi người thương lượng hồi lâu, đều không nghĩ ra ở vùng phụ cận Vu Sơn có đại vương không đầu nào. Shirley Dương nói:
- Chỉ sợ vương này không phải là vương, truyền thuyết địa phương thì cứ phải đến huyện Vu Sơn rồi thăm dò mới chứng thực được. Đằng nào ngày mai cũng xuất phát vào Xuyên rồi, theo lý chúng ta nên đặt ra kế hoạch chu toàn mới phải.

Tôn Cửu gia nói: "Có cần nghĩ cách kiếm một mảnh giấy giới thiệu gì đấy không? Đến nơi rồi việc ăn ở đi lại sẽ tiện lợi, nhưng muốn kiếm giấy giới thiệu thì ít nhất phải đợi thêm một tháng nữa."

Tôi nói không cần xin giấy má gì cả, có điều, nếu có giấy giới thiệu cũng tiện thật, thôi thì để tôi tự viết một tờ, bảo Răng Vàng tìm thợ khắc ấn, làm ngay một con dấu củ cải trong đêm là được rồi.

Tôn Cửu gia chắt lưỡi không thôi:
- Đúng là gan góc thật, giấy giới thiệu mà cậu cũng dám tự làm à ?

Tuyền béo cười khùng khục nói:
- Thời buổi này người ta nhận dấu không nhận người, mang theo con dấu củ cải là không phải lo gì cả. Tôn Cửu gia ông không biết chứ, ở Phan Gia Viên có đầy nghệ nhân sống bằng nghề khắc dấu củ cải đấy nhé.

Shirley Dương không biết tác dụng của giấy giới thiệu, lại hỏi tôi cần mang theo trang bị gì? Hoàn cảnh địa lý tự nhiên ở Vu Sơn như thế nào?

Tôi nói với Shirley Dương:
- Anh chưa đi Vu Sơn bao giờ, nhưng hồi trước trong quân đội, từng có mấy người chiến hữu quê ở Trùng Khánh, nghe bọn họ nói, Vu Sơn là cửa ngõ phía Đông của Tứ Xuyên, huyện thành nhiều dốc nhiều bậc thang, địa hình chỉnh thể đại khái là bảy phần núi một phần đất bằng hai phần nước, Trường Giang vô tận cuồn cuộn chảy, trong núi nhiều mây nhiều mưa. Công cụ trang bị chúng ta để lại Bắc Kinh hồi trước không còn nhiều, nhưng anh thấy thế cũng đủ dùng rồi. Lần này tuy cũng là vào núi, nhưng không giống như sa mạc Tân Cương, thuốc nổ súng ống đều không thể mang theo, ngoài các công cụ của Mô Kim hiệu úy, chỉ cần thuốc men cấp cứu, xẻng công binh, đèn chiếu sáng, thiết bị liên lạc cùng trang bị leo núi đơn giản là được.

Tuyền béo nói:
- Mang súng theo mới gọi là như hổ thêm cánh, trong tay có đồ nóng, lá gan cũng to hơn hẳn, tôi đoán cái bọn Quan Sơn thái bảo gì đấy cũng không phải đèn cạn dầu đâu, quá nửa là một đám giặc cướp thành tinh, giết người như ngóe, mang theo ít thuốc nổ nữa cho chắc, có câu phòng trước thì không gặp họa...

Tôi bảo cậu ta:
- Mấy năm nay đường sắt đường bộ đều kiểm tra gắt gao lắm, trên đường không được mang theo vật phẩm dễ cháy nổ. Với lại ,tất cả các truyền thuyết về mộ cổ thôn Địa Tiên đều hình dung đó là một nơi thần bí kì dị, chứ chưa từng nói nó nguy hiểm khủng khiếp thế nào. Tôi thấy, cùng lắm chỉ là một số cơ quan cạm bẫy vớ vẩn thôi, sau nhiều năm chắc đã mất hết tác dụng rồi. Chúng ta vào núi khảo sát chứ có phải đi đánh trận đâu, mà nghĩ lại thì ngôi mộ Địa Tiên ở Vu Sơn ấy chẳng qua là mộ phần của một tên đại địa chủ đời Minh, chú trọng chôn giấu kỹ càng thôi, chứ không thể nào kiên cố to lớn như lăng mộ hoàng đế được. Vì vậy không cần mang đại pháo đi bắn muỗi, chuyến này chủ yếu là dựa vào thủ đoạn của Mô Kim hiệu úy chúng ta.

Tôn Cửu gia chen vào:
- Hồ Bát Nhất giỏi thật, cậu già dặn kinh nghiệm như thế, câu nào câu nấy đều nói trúng điểm mấu chốt, còn dám bảo không biết kỹ thuật trộm mộ nữa à? Muốn tìm được mộ cổ thôn Địa Tiên, cũng phải có hạng nhân tài như cậu mới làm được.

Tôi nói:
- Về mặt phá giải các mê ngữ và kí hiệu cổ đại, Tôn Cửu gia ông là bậc nguyên lão trong nghề, nhưng nếu nói đến việc tìm long mạch trong núi, thì ông chỉ là kẻ ngoại đạo thôi. Có điều, mấy câu vè cái gì mà hay cho đại vương, có thân không đầu, muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương..., phải nhờ ông nghĩ cách phá giải cho, đến lúc ấy chúng ta đồng bộ tiến hành, chẳng lo không làm được việc lớn.

Nói thì nói vậy, nhưng trong lòng tôi chẳng thấy lạc quan chút nào, có lẽ cuối cùng lại công cốc cũng nên. Truyền thuyết về thôn Địa Tiên quá đỗi thần bí, chính sử không ghi chép lại. Đoạn ghi chép duy nhất tương đối đáng tin cậy là ở trong quyển bút ký Ba Thục Tạp Lục của một người Tứ Xuyên thời nhà Thanh. Trong đó đề cập: thuở Minh mạt Thanh sơ, bọn giặc cướp vào Xuyên, đào quật mồ mả hàng loạt hòng tìm kiếm đơn đỉnh thiên thư trong mộ Địa Tiên. "Đơn đỉnh" là một từ rất đặc biệt, là tên khoa học của nội đơn bên trong xác cổ. Nếu chẳng phải hết cách, tôi đã không chỉ dựa vào một đoạn ghi chép manh mún ấy mà nảy ra ý định đi Tứ Xuyên tìm kiếm mộ cổ thôn Địa Tiên. Ngoài ra, truyền thuyết bọn giặc cỏ cuối thời Minh đào núi quật mồ cũng không phát sinh ở khu vực Vu Sơn. Có điều, Ba Thục Tạp Lục không phải thứ sách nhảm nhí bậy bạ, trong sách ghi chép lại một cách chân thực rất nhiều truyền thuyết về phong thổ nhân tình ở Tứ Xuyên, nội dung khá đáng tin cậy.

Lúc này Tuyền béo sực nhớ ra một vấn đề quan trọng vẫn chưa thảo luận, liền đứng bật dậy nói:
- Vừa nãy cậu Nhất nói rất hay, nhưng về phương diện công tác tư tưởng vẫn chưa đủ, bản tư lệnh đây bổ sung thêm cho mọi người mấy câu nữa. Đứng trước tiếng khóc than cầu viện của dân mò ngọc Nam Hải, đều là những kẻ sống bằng nghề, Mô Kim hiệu úy chúng ta đây tuyệt đối không xuôi tay đứng nhìn. Nghe các cậu nói, Quan Sơn thái bảo kia hẳn là một tên đại đạo thông thiên, vàng bạc châu báu hắn giấu trong mộ cổ ở Vu Sơn đảm bảo chất chồng như núi. Tôi thấy đội thám hiểm chúng ta cần phải dựa trên nguyên tắc thăng quan phát tài không được tham ô lãng phí, đến lúc ấy cái gì cần đổ đống thì đổ đống, cái gì cần đóng gói thì đóng gói...

Giáo sư Tôn lập tức phản đối:
- Tuyệt đối không được, chỉ dập lại hình vẽ quẻ Chu Thiên là đủ rồi, những thứ khác đều không được động tới, tôi xin nhắc lại một lần nữa, tôi đây không phải vì tiền tài.

Tuyền béo bảo, ông thế này há chẳng phải dối mình gạt người sao, tranh danh cũng chằng cao thượng gì hơn trục lợi đâu? Tôi vội ngăn cậu ta lại nói:
- Mỗi người có cách xử sự khác nhau, không cưỡng cầu được, những chuyện khác tôi mặc kệ, nhưng kim đơn trong xác cổ thì nhất định phải móc ra. Bây giờ tranh luận chuyện này vẫn còn quá sớm, đợi đến khi tìm được mộ cổ Vu Sơn rồi tùy cơ hành sự là được.

Thương lượng xong xuôi, bốn người chúng tôi liền chia nhau đi thu dọn đồ đạc, sáng sớm hôm sau xuất phát lên đường. Hành trình đương nhiên khó tránh cảnh có đường đi xe, gặp sông lụy đò, những chuyện đói ăn khát uống, tàu xe mệt nhọc ấy không tiện kể ra hết ở đây.

Huyện Vu Sơn chính là đoạn Vu Hiệp trong Trường Giang Tam Hiệp . Dòng Trường Giang cuồn cuộn, khí thế nhấn chìm cả núi sông, xẻ đôi núi cao non cả chảy về phía Đông. Khu vực hẻm núi này chia làm ba đoạn Cù Đường Hiệp, Vu Hiệp, Tây Lăng Hiệp, giữa các hẻm núi được nối liền với nhau bằng thung lũng rộng, tổng cộng dài gần hai trăm ki lô mét.

Cù Đường Hiệp nổi tiếng hùng vĩ hiểm trở, Tây Lăng Hiệp lại là nơi nước xiết nhiều bãi đá ngầm. Nguồn gốc cái tên Tây Lăng Hiệp này có thể truy ngược đến thời Hán, giống như những địa danh Nguyễn Lăng, Vũ Lăng vậy, đều do đất ấy có mộ cổ hay quan tài treo mà thành tên. Tiếc rằng, hiện giờ đã chẳng thể tìm được di chỉ những lăng mộ ấy, càng không ai nói được những vùng đất lấy "lăng" làm tên đó rốt cuộc mai táng những vị cổ nhân nào.

Còn Vu Hiệp lại có đặc trưng là u tĩnh tú lệ, núi non liên miên, mây mù mờ mịt. Huyện Vu Sơn có đường quốc lộ chạy vòng quanh núi, có thể ngồi xe khách đường dài đến huyện thành. Đường núi quanh co, lại gặp ngày sương mù dày đặc, xe chạy rất chậm, xung quanh là rừng rậm xanh um cùng những dốc núi lởm chởm đầy những tảng đá hình thù quái dị thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương mù, khiến người ta khó mà thưởng thức được vẻ đẹp của rừng xanh núi biếc.

Chưa đi được nửa quãng đường, tài xế đã dừng xe lại, chắc có lẽ anh ta không muốn lái xe trong sương mù, sợ xảy ra chuyện, muốn đợi đến khi mây mù tan bớt mới đi tiếp. Hồi đó Trung Quốc còn ít xe hơi, người có bằng lái lại càng hiếm hơn, vì vậy cánh lái xe rất được trọng vọng, ai có người quen làm tài xế, trước mặt người khác cũng thấy mình oách hẳn lên.

Ở vùng núi lại càng chuộng nghề này, những cô gái xinh xắn nhà có điều kiện đều nhăm nhe gả cho tài xế. Cô nào gả được cho tài xế thì vừa oai vừa thích, cô nào không thành thì cả ngày nước mắt lưng tròng. Các bác tài cũng vênh váo lắm, nói một là không bao giờ hai, đã không muốn đi thì tuyệt không có hành khách nào dám thúc giục. Nếu bác tài hứng lên muốn làm vài chén, chiều ngủ một giấc rồi mới chịu lái xe đi thì hành khách vẫn phải chịu, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe, muốn không đi cũng chẳng xong. Chúng tôi nhập gia tùy tục, cũng đành ăn uống nghỉ ngơi ở một trấn nhỏ ven đường, tiện thể hỏi thăm thông tin về trấn Thanh Khê và đại vương không đầu luôn.

Cái thị trấn nhỏ đến mức chẳng thể nào nhỏ hơn này xây men theo triền núi, kiến trúc đa phần chỉ có hai màu đỏ trắng, hầu hết đều là nhà cũ đã có từ thời trước Giải phóng. Chúng tôi ăn trưa ở một quán điểm tâm bản địa ngay cửa trấn. Ông chủ là một tay đầu trọc lốc, bộ dạng ngu ngơ ngờ nghệch, nói theo kiểu dan địa phương thì là "đầu to óc quả nho ", thấy khách đến ăn chỉ biết nhe răng ra cười hềnh hệch, chẳng chào mời gì cả, nhưng muốn ăn gì y liền làm cho món ấy, tay nghề cũng thuộc loại khá.

Tôi ăn hai bát bánh chẻo, bụng đã lưng lửng, cái đầu suốt dọc đường phải chịu tròng trành lắc lư cũng tỉnh táo hơn nhiều, liền đánh mắt ra hiệu với Shirley Dương và Tôn Cửu gia, bảo họ cứ tiếp tục dùng bữa, để tôi đi moi chút thông tin. Sau đấy, tôi đứng lên, bước lại gần mời tay chủ quán trọc đầu kia một điếu thuốc, mượn cớ bắt chuyện:
- Ông chủ này, đầu ông nhẵn bóng ghê nhỉ, nhất định là có phúc tinh phù hộ rồi."

Tay chủ quán đầu trọc nghe thế cả mừng, lại hỏi tôi từ đâu đến. Tôi bảo bọn chúng tôi ở Bắc Kinh đến đây khảo sát di tích lịch sử, muốn hỏi thăm bác một nơi, bác có biết hay không.

Chủ quán đầu trọc gật đầu nói:
- Hay đấy, không biết nhà anh muốn hỏi thăm chỗ lào vậy ?

Tôi hỏi y có biết trấn Thanh Khê ở đâu không, vùng này thời cổ đại, có truyền thuyết về vị đại vương nào bị chặt đầu hay không?

Chủ quán đầu trọc lắc đầu:
- Chưa nghe bao giờ, làm gì có đại vương lào bị chặt đầu chớ? Trước Giải phóng dân chúng bị thổ phỉ quân phiệt chặt đầu thì nhiều lắm, hồi ấy tôi vẫn còn bé tí, nghe người già kể, cọc gỗ ở đầu phố đều dùng để chặt đầu đấy...

Tôi vừa nghe liền biết tay chủ quán đầu trọc này quả nhiên là óc quả nho, hỏi cũng bằng không, liền nghĩ đến việc thăm dò người khác, ngoảnh đầu nhìn quanh quất, bỗng nhác thấy ở góc phố có một cửa tiệm he hé nửa cánh cửa, nhìn bề ngoài hình như bán đồ tạp hóa.

Nhưng kỳ quái ở chỗ, trước cửa tiệm lại dùng dây thừng treo một cái hộp gỗ màu đen trông như chiếc quan tài nhỏ, thân hộp quết rất nhiều sơn sống đen tuyền, phỏng chừng niên đại rất xa xưa. Lớp sơn bên ngoài đã bong tróc, nhưng chỉ nhìn màu gỗ cũng đủ biết là gỗ tử đàn. Thứ này nhất đình là cổ vật có chút lai lịch, vả lại hình dáng không hề tầm thường. Tôi càng nhìn càng thấy lạ, không ngờ ở cái trấn nhỏ hẻo lánh tầm thường này, lại có vật như thế. Lần này để tôi trông thấy, coi như đám Mô Kim hiệu úy chúng tôi gặp may rồi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 5 _ Cái hộp đen

Ánh mắt tôi dừng lại trên cái hộp đen treo trước cửa tiệm một lúc lâu, nhìn kỹ rồi, trong lòng thầm tính toán, thiết tưởng không nhầm được, bèn quay sang hỏi tay chủ quán trọc đầu: "Hỏi ông chủ thêm một chuyện nữa nhé, tiệm tạp hóa trên phố kia là cửa hàng quốc doanh hay hộ cá thể vậy?"

Tay chủ quán đầu trọc vừa luôn tay xào nấu vừa ngẩng lên liếc nhìn cửa tiệm tôi nói, đáp: "Đấy là hộ cá thể, chủ tiệm tên là Lý Thụ Quốc, người ở Bảo Định đến, chỉ giỏi bốc phét, không biết làm ăn buôn bán gì cả, cửa tiệm chẳng có thứ lào ra hồn đâu. Chú em muốn mua gì, chi bằng đi dọc phố xuống chút nữa, có cửa hàng quốc doanh đấy."

Vừa nghe nói chủ tiệm tạp hóa là người phủ Bảo Định, tôi biết ngay không thể sai được, liền cán ơn tay đầu trọc rồi trở lại ngồi xuống bên cạnh bọn Shirley Dương, Shirley Dương hỏi: "Sao rồi? Có nghe ngóng được tin tức gì không?"

Tôi đáp: "Người ở đây đều không biết đại vương cụt đầu gì cả, nhưng lại có phát hiện bất ngờ..." Nói đoạn, tôi đưa tay chỉ tiệm tạp hóa ở góc phố, để mọi người nhìn thấy cái hộp đen treo ngay trước cửa.

Tuyền béo ngạc nhiên hỏi: "Cửa tiệm quan tài thôi mà, cậu định mua quan tài cho ai hả?"

Tôn Cửu gia nói đó chắc chắn không phải mô hình quan tài, ông ta thường xuyên qua lại các vùng nông thôn, chưa từng thấy trong dân gian có cửa tiệm quan tài nào như vậy, hơn nữa làm gì có tiệm tạp hóa nào bán quan tài chứ? Không rõ treo hộp đen ngoài cửa tiệm như thế có ý gì, chẳng lẽ là ăn no rửng mỡ?

Ông ngoại của Shirley Dương là Ban Sơn đạo nhân nổi danh thời Dân Quốc, nắm được hết những lề thói chốn gian hồ lục lâm, vì vậy dù sinh trưởng ở nước ngoài, song Shirley Dương cũng thông hiểu rất nhiều tiếng lóng của giới giang hồ. Tồn Cửu gia tiếng là giáo sư và Tuyền béo còn đang nghĩ ngợi, thì cô đã nhìn ra chút manh mối, bèn bảo tôi: "Cái hộp gỗ này thủng lỗ chỗ, giống như thùng ong của người nuôi ong vậy, có lẽ chủ tiệm xuất thân từ Phong Oa Sơn cũng nên."

Tôn Cửu gia nghe xong lầm bầm thắc mắc: "Phong Oa sơn? Nuôi ong mật à? Không thể nào, các cô cậu nhìn những lỗ ấy mà xem, lớn nhỏ không đều, nông sâu cũng khác, chẳng có quy tắc gì hết, có lẽ đều là dùng dao khoét ra. Phỏng chừng đây là tập tục gì đó của dân bản địa, các cô cậu đừng có nôn nóng võ đoán, chúng ta cần phải tôn trọng phong tục dân gian của quần chúng địa phương mới được."

Tôi nói: "Về mặt này thì giáo sư Tôn nhà ông đúng là ngoại đạo rồi, tôi chẳng buồn cãi nhau với ông làm gì. Chúng ta cũng đừng chỉ nói mồm nữa, cứ vào đấy hỏi mua đồ, xem xem bên trong có vị nguyên lão nào của Phong Oa sơn ẩn cư hay không là được chứ gì."

Tuyền béo thực ra cũng chẳng hiểu quái gì, nhưng vẫn ra vẻ ta đây hiểu biết, huênh hoang bảo Tôn Cửu gia: "Lòi dốt ra rồi hả? Không biết gì thì đừng có nói nhăng, chớ tưởng ông là chuyên gia nọ kia gì đấy thì lĩnh vực nào cũng chõ miệng vào được. Giáo sư chuyên gia không phải Biết Tuốt, sau này đi theo đại gia Tuyền béo đây mà học hỏi thêm đi, để tôi mở mắt cho." Nói xong, cu cậu liền và vội hai miếng cơm, xách ba lô lên, cùng chúng tôi đi tới trước cửa tiệm cũ kỹ kia.

Trong tiệm có một già một trẻ, người già tầm bảy tám chục tuổi, râu tóc đã bạc trắng, tay nắm hai viên bi sắt, nằm trên ghế bập bênh gật gù nửa tỉnh nửa mơ, chắc hẳn đây chính là ông chủ tiệm họ Lý; ngoài ra, còn một cô gái trẻ tầm hơn hai mươi, mi thanh mục tú, bộ dạng xem chừng rất lanh lợi, tóc thắt hai bím buông xuống trước ngực, từ đầu đến chân đều toát lên vẻ sạch sẽ gọn gàng, thoạt nhìn đã biết là con gái Tứ Xuyên, trông không giống như có quan hệ máu mủ ruột rà gì với ông chủ, có thể là người làm công trong tiệm. Cô thấy chúng tôi bước vào, lập tức rối rít tiếp đón, hỏi tôi muốn mua thứ gì.

Tôi đưa mắt nhìn quanh, thấy đồ đạc trong tiệm tuy cũ kỹ, nhưng mọi ngóc ngách đều được quét dọn sạch bong, có một tủ quầy hàng bằng gỗ, nước gỗ bóng như quết dầu, không biết đã dung bao nhiêu năm. Trên mặt tủ nổi bật nhất là dãy những hũ thủy tinh, bên trong chứa đầy các loại kẹo màu sắc sặc sỡ, ngoài ra còn một số thổ sản địa phương. Các loại hàng hóa trên giá bày hàng, nhất loạt đều được sắp xếp rất gọn gàng ngăn nắp.

Tôi biết, đám người Phong Oa sơn cũng là nghệ nhân thuộc bảy mươi hai nghề truyền thống, loại cửa tiệm này vừa buôn bán công khai vừa giao dịch ngầm, kinh doanh hai loại mặt hàng hoàn toàn khác nhau, có điều, nếu người lạ xồng xộc đi thẳng vào, chủ tiệm tuyệt đối không bao giờ làm ăn thực sự với y. Tôi nghĩ phải kiếm cớ trước đã, vừa khéo vào núi trộm mộ cần dùng một ít đồ lặt vặt, lúc đi vội quá vẫn chưa chuẩn bị hết, bèn nói với cô gái: "Em gái, bọn anh muốn mua nến, và giấy trắng, dây thừng, diêm loại thượng hảo hạn, thêm hai cân đường viên nữa."

Cô gái nghe xong, liền theo đúng số lượng lấy ra những thứ tôi yêu cầu, Tuyền béo đứng bên cạnh bổ sung: "Anh bảo cô em này, nến cũng phải chọn loại hảo hạng đấy nhé, không phải hàng hiệu bọn anh không mua đâu."

Cô gái nghĩ Tuyền béo định trêu mình, hơi giận dỗi nói: "Cái anh này định giở trò đấy hả? Có ai đi mua nến cũng đòi xem nhãn hiệu bao giờ?"

Bấy giờ, ông chủ tiệm mới he hé mắt, xoay xoay hai viên bi sắt bảo cô gái: "Út à, những vị này đều là quý khách từ xa đến, không được vô lễ."

Tôi thấy ông chủ đã tỉnh giấc, thầm nhủ, cô Út này còn trẻ măng, không giống như người Phong Oa sơn, còn ông già chủ tiệm tuy tuổi tác đã cao song già mà không lú, nói năng không tầm thường, chưa biết chừng chính là đại hành gia ở Phong Oa sơn cũng nên, nghĩ đoạn bèn lên tiếng chào hỏi: "Ông chủ, chúng tôi định mua của ông mấy món hàng, không biết ở đây có sẵn không?"

Ông chủ không tỏ thái độ gì, nói: "Hàng hóa đều bày cả trên quầy đấy rồi, quý khách muốn thứ gì cứ hỏi con bé Út ấy."

Tôi nghĩ ông chủ này cố tình giả ngốc với chúng tôi, định dùng tiếng lóng nói rõ ý đồ của mình với ông ta, nhưng tôi cũng chỉ được nghe ông nội Hồ Quốc Hoa nói qua một ít tiếng lóng, đa phần đều là từ ngữ trong nghề đổ đấu, còn loại tiếng lóng thông dụng được gọi là Sơn Kinh thì chỉ biết lõm bõm mấy câu, mà toàn thứ chắp vá không trọn vẹn, nhất thời không tìm được câu từ nào thích hợp, lại không thể phạm vào cấm kỵ mà hỏi trực tiếp, tránh để đối phương cho rằng mình là kẻ ngoại đạo. Tôi vội đưa mắt ra hiệu cho Shirley Dương, bảo cô ra mặt nói chuyện.

Shirley Dương hiểu ý gật đầu, bước lên nửa vô tình nửa hữu ý nói với ông chủ tiệm: "Đường qua non cao ngẩng đầu ngắm, thấy trên non có bảng chữ vàng; bảng chữ bạc sau bảng chữ vàng, dãy dãy đều là chữ phong."

Ông chủ nghe tiếng bừng mắt, quan sát từ đầu xuống chân Shirley Dương, cơ hồ không tin nổi những lời này có thể thốt ra từ miệng cô, còn tưởng mình nghe lầm, lại lập tức dùng Sơn Kinh hỏi rằng: "Một tấm gương rọi chiếu hai núi, chiếu ra gió vàng thổi đầy mặt; không biết lộ nào qua Phong Sơn, mà lại biết bảng vàng bảng bạc?"

Shirley Dương không cần nghĩ ngợi, thuận miệng trả lời ngay: "Con diều trong gió bay men núi, quất ngựa vung cương vội lên đường; đội ngũ chưa tề xin đừng trách, lễ mạo sơ xài chớ để tâm."

Ông chủ tiệm càng lộ vẻ kinh ngạc, hỏi tiếp: "Lên núi xuống núi? Đến vì cớ chi?"

Shirley Dương đáp: "Không lên không xuống, muốn thỉnh phong hạp."

Ông chủ tiệm vuốt râu khe khẽ gật đầu, nhưng xem chừng vẫn chưa yên tâm lắm, tiếp tục truy vấn: "Phong gia dễ gặp, phong hạp khó mời, không biết mời đi đâu làm gì?"

Shirley Dương không muốn tùy tiện tiết lộ hành tung, chỉ thoái thác rằng: "Trà lưu khách danh sơn, cửa đón bạn ngũ hổ. Đều là người trong núi, hà tất hỏi ngọn ngành."

Chỉ thấy ông chủ tiệm vỗ đùi đánh đét, đứng dậy khỏi ghế, khen rằng: "Nói có lý lắm, mấy chục năm nay chưa từng gặp ai nói năng rành rọt thế này. Út à, mau mời quý khách vào nhà trong."

Đoạn đối thoại giữa Shirley Dương và ông chủ tiệm, tôi còn nghe hiểu được đại khái, chứ Tuyền béo và Tôn Cửu gia thì đúng là như rơi vào sương mù dày đặc, không hiểu mô tê gì cả. Tuyền béo nghe tai trái lọt tai phải, đối với chuyện này cũng chẳng buồn động não làm gì, chỉ có giáo sư Tôn nghe xong cứ ngây ra tại chỗ. Khi cả bọn vào nhà trong rồi, mới nghe ông ta ở phía sau lẩm bẩm một mình: "Toàn tiếng lóng của bọn thổ phỉ à!"

Chúng tôi theo ông chủ và cô Út vào nhà trong, phía sau cửa tiệm là một căn nhà gỗ hai tầng, dùng làm nơi sinh hoạt thường ngày. Nhưng ông ta không dẫn bọn tôi vào phòng khách, mà đưa thẳng xuống hầm ngầm dưới đất.

Hầm ngầm này giống như một xưởng thủ công, bên trong chỉ riêng máy mài cắt đã có bốn năm cái, sát tường bày đầy các thứ ám khí như ống phóng tên, phi tiêu, phi hổ trảo và đủ loại vũ khí khác nhau, có thứ từng gặp, có thứ chưa, thậm chí có cả những thứ chúng tôi còn không biết tên, càng không biết dùng để làm gì.

Giáo sư Tôn ở phía sau kéo tôi lại, hỏi chuyện này rốt cuộc là thế nào? Cái hộp gỗ treo trước cửa tiệm là gì? Phong Oa sơn là gì? Sao mới nói mấy câu tiếng lóng, đã dẫn chúng ta vào trong này như thế?

Tôi cười bảo, Cửu gia à, đúng là ông phải học hành cho tử tế rồi, tôi đoán từ lúc kiếm được cái danh hão giáo sư ấy, ông không biết trời cao đất dày là gì nữa phải không? Người không học hành thì phải xét lại, vì vậy mới cần học, học nữa, học mãi. Một ngày không học thêm vấn đề, hai ngày không học liền trượt dốc, ba ngày không học tiêu đời luôn, cứ vậy mãi thì làm sao được chứ?

Giáo sư Tôn nói: "Thôi đừng đùa tôi nữa, tôi cũng chẳng muốn thế, nhưng mấy món này biết học ở đâu đây? Rốt cuộc bọn họ có ý gì vậy?"

Tôi đành giải thích sơ qua với lão ta, từ thời xa xưa đã có một số ngón nghề bị cấm, vì vậy các ngành các nghề đều có ám ngữ riêng, cũng chính là thứ ngày nay người ta vẫn gọi bằng "thuật ngữ chuyên ngành". Nhưng mỗi nghề mỗi khác, để có thể truyền đạt thông tin rộng rãi, trong bảy mươi hai nghề truyền thống sản sinh ra một loại tiếng lóng thông dụng, gọi là Sơn Kinh.

Phong Oa sơn là tập hợp những người thợ chuyên chế tác các loại ám khí. Có điều, cái thứ ám khí này từ thời cổ đại đã bị nghiêm cấm, còn chặt chẽ hơn cả việc quản chế đao kiếm, xưa nay chưa ai dám trắng trợn mở tiệm buôn bán cả, mà đều chỉ ngấm ngầm dao dịch. Trước cửa tiệm treo một cái hộp gỗ đen, bên trên toàn lỗ nhỏ, đó đều là dấu vết lúc thử ám khí cả đấy. Treo cái hộp đen ấy lên trước cửa, người biết nghề vừa nhìn liền biết ngay trong tiệm này có bán ám khí, đi vào dùng tiếng lóng nói chuyện là có thể giao dịch mua bán. Nếu không biết mặt hàng, một là không thể nhìn ra được, hai là dù có trả bao nhiêu tiền, cũng chẳng mua nổi đồ thật.

Tôi giải thích cho giáo sư Tôn xong, lại bước đến bắt chuyện với ông chủ tiệm. Thì ra ông chủ họ Lý này quê quán ở phủ Bảo Định, Hà Bắc. Phủ Bảo Định nổi tiếng là quê hương võ thuật, bao đời nhà ông chủ Lý đều là nghệ nhân của Phong Oa sơn, chuyên chế tạo các loại ám khí tinh xảo. Sau sự kiện ngày bảy tháng Bảy , chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, ông chủ Lý chạy nạn vào Xuyên, mai danh ẩn tích, dùng tên giả mở tiệm bán đồ tạp hóa, trên thực tế vẫn muốn làm nghề cũ.

Nhưng sau Giải phóng, những ngón nghề truyền thống và cả hệ thống tiếng lóng Sơn Kinh dần thất truyền, đã mấy chục năm nay ông ta chưa bán được món ám khí nào, đến giờ vẫn treo cái hộp gỗ đen trước cửa nhà hoàn toàn chỉ là hành vi "thấy yên nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người" mà thôi. Không ngờ hôm nay lại gặp được khách biết bảng hiệu chữ "Phong", cũng may các đồ nghề năm xưa ông ta vẫn còn giữ đầy đủ.

Đám mấy người chúng tôi chuyến này vào Xuyên, ngoài xẻng công binh không mang vũ khí gì khác, cả con dao lính dù cũng không dám giắt theo, hai bàn tay không đi sâu vào Vu Sơn tìm mộ cổ, không khỏi có chút thiếu thốn. May gặp được bảng hiệu chữ "Phong" ở thị trấn nhỏ này, hiển nhiên cũng muốn mua một ít khí giới thuận tay. Thời buổi ngày nay mấy thứ tụ tiễn với phi tiêu đã chẳng còn ai biết dùng nữa, bọn tôi chỉ tìm vài thứ lợi khí có lưỡi sắc phòng thân mà thôi.

Ở đây có Nga Mi thích, nhỏ gọn sắc bén, được rèn từ thép tinh luyện lại tiện mang theo, nên mỗi người đều lấy một thanh giấu trong mình. Tuyền béo lại nhìn trúng cái nỏ liên châu duy nhất, thứ này xạ trình không bằng súng trường, nhưng một hộp bốn mươi hai mũi Táng Môn tiễn có thể phát ra liên tục, mũi tên có khả năng xuyên thủng áo giáp trong khoảng cách mấy chục bước, cũng chỉ có bàn tay khéo léo của người thợ Phong Oa sơn mới chế tạo ra được thứ vũ khí lợi hại nhường này mà thôi.

Tuyền béo lại gặng hỏi: "Ông chủ à, hàng họ của ông ở đây đúng là thứ gì cũng có, tôi hoa hết cả mắt lên rồi, không biết món nào mới là bảo bối trấn sơn đây? Mang ra cho chúng tôi mở rộng tầm mắt cũng được."

Ông chủ cười ha hả, nói: "Bảo là bảo bối trấn sơn thì thực không dám nhận, có điều, ở đây tôi có một món vũ khí rất tinh xảo, cũng là tác phẩm đắc ý trong đời lão già này. Để nó quanh năm ngày tháng ở chốn này cho gỉ sét ra thì uổng quá, chỉ là không biết các cô cậu đây có hứng thú không? Được rồi, cứ xem qua rồi tính tiếp, các vị anh hùng, mời thưởng thức..." Nói đoạn, ông ta mở một cái hộp dài, bên trong có món đồ bọc kín bằng mấy lớp vải gấm. Đến khi ông chủ Lý mở lớp vải gấm ra, tôi và Tuyền béo, Shirley Dương đều đồng thanh thốt lên kinh ngạc: "Ô Kim Cang!"

Ô Kim Cang là vũ khí hộ thân của Mô Kim hiệu úy, năm xưa Liễu Trần trưởng lão ở Vô Khổ tự từng để lại một chiếc, Shirley Dương mang từ Mỹ về, có điều khi chúng tôi đi đào mộ Hiến vương ở Vân Nam đã làm thất lạc. Công nghệ chế tạo cũng như chất liệu của cái ô này đều là bí mật, thất truyền đã lâu, muốn tìm người làm lại là bất khả, thật chẳng ngờ ông chủ Lý lại từng chế tạo ra một chiếc thế này. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi: "Chẳng lẽ ông chủ này cũng từng làm Mô Kim hiệu úy?"

Tôi vội hỏi rõ nguyên do, thì ra thời Dân Quốc ông chủ Lý đã nổi tiếng như cồn, trong hai đạo hắc bạch không ai không biết "Ám khí Lý" ở phủ Bảo Định, thường hay có nhiều vị khách từ khắp ngũ hồ tứ hải tìm đến đặt ông ta làm những món đồ ly kỳ cổ quái. Nhiều năm trước, từng có một vị thương nhân cầm bàn tính, đặc biệt đến đặt làm chiếc ô Kim Cang này, đồng thời còn để lại bản vẽ và bí phương về tỷ lệ hợp kim. Có điều, khi ông chủ Lý làm xong chiếc ô Kim Cang thì người khách kia lại "hạc vàng đi mất không còn bóng ", chẳng thấy quay lại lấy hàng, đến giờ qua bao nhiêu năm, thiết tưởng người kia cũng chẳng còn trên đời này nữa.

Tôi cầm ô Kim Cang trên tay, lật đi lật lại xem xét, cảm giác rất thật, chẳng khác gì chiếc ô hồi trước. có thứ này trong tay, dù lên núi đao hay xuống biển lửa tôi cũng chẳng chau mày, trong lòng không khỏi mừng rỡ như điên, lập tức y theo giá ông chủ đưa ra mà đếm tiền trả ngay, không mặc cả mặc nhẽ gì hết.

Tôi thấy ông chủ Lý này cũng là hạng lão làng giang hồ, nói không chừng có thể thăm dò chút tin tức cũng nên, bèn hỏi ông ta xem trấn Thanh Khê ở đâu? Thời xưa ở vùng này có vị đại vương nào bị chặt đầu không?

Ông chủ tiệm nói: "Thấy các vị không tiếc tiền bạc mua những thứ vũ khí sắc bén, lại đều là bậc hành gia biết người biết của, chuyến này đến Vu Sơn chắc chắn không phải để làm chuyện vặt vãnh. Vả lại, giữa hai hàng lông mày có nét âu lo, thiết tưởng cũng không phải vì tiền tài mà đến, nếu lão già này không nhìn nhầm, qua nửa là việc cứu người chi đây. Cùng là người trong giang hồ với nhau, theo lý tự nhiên lão phải ra sức tương trợ, nhưng lão cũng chỉ là người sống nơi đất khách, mấy chục năm nay bệnh tật đầy người, thường ngày rất ít ra khỏi cửa, đối với phong vật địa phương không hiểu biết lắm, sợ rằng không giúp được các vị rồi."

Tôi khách khí nói: "Tấm lòng của ông chủ chúng tôi xin nhận, để chúng tôi đi tìm người khác hỏi thăm vậy." Nói xong, tôi định dẫn cả bọn cáo từ.

Chợt ông chủ Lý lên tiếng: "Gượm đã nào, tôi còn chưa nói hết. Bên cạnh lão già này chỉ có đứa cháu gái nuôi là con bé Út đây, quê nó vốn ở Thanh Khê, sao không để nó nói cho các vị biết." Dứt lời, ông ta gọi Út đến, bảo cô kể chuyện về trấn Thanh Khê cho chúng tôi.

Út không biết chúng tôi định làm gì, ngạc nhiên hỏi: "Trấn Thanh Khê? Đã chẳng còn từ mười mấy năm trước rồi mà, đường dốc ngược lên, chẳng đi được đâu, các anh tìm chỗ ấy làm gì kia?"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 6 _ Đường năm thước

Tôi nghe ông chủ Lý nói tổ tiên nhà Út ở trấn Thanh Khê, liền thầm nhủ: "Rốt cuộc cũng có manh mối rồi." Đoạn vội vàng hỏi cho kỹ càng. Thì ra trong dãy Vu Sơn có một thị trấn rất cổ, gọi là trấn Vu, đây là địa danh do quan phủ đặt, người địa phương không ai không biết.

Có điều, tương truyền nơi này là địa điểm xây mộ của Vu Hàm, vì vậy người trong trấn tránh chữ "Vu", đều gọi trấn này là "Thanh Khê", người ngoài đa phần không biết chuyện này. Trong núi vốn có tài nguyên khoáng sản rất phong phú, sau càng ngày càng cạn kiệt dần, lại thêm nhiều lần chịu nạn binh lửa, nên người trong trấn lần lượt bỏ đi, trấn Thanh Khê càng lúc càng hoang vắng.

Những năm sáu mươi bảy mươi của thế kỷ hai mươi, cả nước hừng hực tinh thần chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa. Để quán triệt thực thi công tác ba phòng "phòng không, phòng độc, phòng vũ khí hạt nhân", chính quyền cho xây dựng hầm phòng không và kho tàng trong đường hầm khai khoáng trước đây. Khoảng năm 1971, dân cư ở trấn Thanh Khê và vùng phụ cận đều được di chuyển đến mấy huyện xung quanh, nhưng ở đây có quá nhiều giếng khai thác khoáng sản, bề mặt đất bị phá hoại nghiêm trọng, hầm phòng không xây đoạn nào sập đoạn ấy, tiến trình thi công cực kỳ không thuận lợi. Rồi cùng với sự thay đổi của thời thế, hầm phòng không xây dựng được một nửa thì ngừng lại bỏ hoang. Năm tháng trôi qua, cả thị trấn cổ sớm đã trở thành một vùng đất hoang bị lãng quên.

Út tuy là người trấn Thanh Khê, nhưng không phải họ Phong, cũng không biết thời xưa có truyền thuyết về vị đại vương không đầu nào không. Lúc dân Thanh Khê bỏ trấn mà đi, cô theo người nhà dọn đến nơi này, cha mẹ đã qua đời trong Cách mạnh Văn hóa, cô chỉ còn lại một thân một mình rồi được ông chủ Lý thu nhận.

Út rời nhà năm mười một tuổi, những sự vật ở trấn Thanh Khê cô vẫn còn nhớ được già nửa. Cô nói, có ba con đường đến Thanh Khê, một là đường thủy, giờ đang giữa mùa hè, nước sông dâng cao đột ngột, dòng chảy rất xiết, khó mà đi được; đường bộ thì nhiều năm không tu bổ, nhiều chỗ sụt lún, cũng không thể đi nốt; chỉ có một đoạn sạn đạo(1) cổ xưa là còn nguyên vẹn, sạn đạo được xây từ thời Tần, rộng nhõn năm thước, vì vậy gọi là "đường Năm Thước". Đi đường này vòng quanh núi vào Thanh Khê cũng tốn rất nhiều công sức.

Sạn đạo: đường xây bằng cầu treo hoạc ván gỗ xếp hai bên sườn núi đá, dùng để di qua các khu vực núi non hiểm trở.

Tôi lập tức trải bản đồ ra, nhờ Út chỉ rõ phương vị tuyến đường, tốt nhất là nói thêm về vị trí cụ thể của những hầm mỏ, hầm phòng không ở trấn Thanh Khê nữa.

Lúc này, ông chủ Lý chợt lên tiếng: "Xem bản đồ gì chứ? Để con Út dẫn mọi người đi Thanh Khê là xong, sau này có cơ hội, cậu dẫn nó ra bên ngoài, cho nó biết chút sự đời, học được ít bản lĩnh thực sự cũng tốt."

Tôi không ngờ ông chủ Lý lại để Út làm hướng đạo cho đội thám hiểm. Chuyện này tuy tôi cầu còn không được, nhưng mặt khác, tôi lại rất sợ cô gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Chúng tôi vào Vu Sơn tìm mộ cổ chỉ vì muốn cứu người, tôi và Shirley Dương, Tuyền béo thì khỏi cần nói, Tôn Cửu gia thời Cách mạng Văn hóa cũng là người từng trải qua bao khảo nghiệm thực tế, nhưng Út làm sao mạo hiểm được? Lỡ cô có chuyện gì bất trắc, tôi há chẳng phải là "dỡ tường bên này vá tường bên kia" ư?

Tôi đang định khước từ, lại nghe ông chủ Lý nói: "Con Út nhà tôi tính tình lanh lợi, lại gan dạ, theo tôi học nghề nhiều năm, đã được truyền thụ hết tinh hoa của nghề làm ám khí, lại lớn lên trong núi, những chuyện trèo đèo lội suối không phải ngại, chắc chắn có thể giúp các cô các cậu đây ít nhều đấy."

Út không chịu, cô nói với ông chủ Lý: "Không được đâu, ông chừng này tuổi rồi, cháu đi thì lấy ai chăm ông ăn cơm uống trà?"

Ông chủ Lý cười cười nói: "Con bé ngốc, ông năm nay đã hơn tám mươi tuổi đầu, còn sống được mấy ngày nữa đây? Cháu đang độ rực rỡ như hoa thế này, chẳng lẽ về sau cháu định gả cho cái thằng trọc đầu xào xào nấu nấu kia à? Ông tuy già rồi, nhưng mắt còn tinh lắm, nhìn dáng dấp cử chỉ đủ thấy các vị huynh đệ đây có nhân có nghĩa, đều là người làm việc lớn cả, cháu cứ theo bọn họ xông pha, phát tài to, kiếm nhiều tiền đi, đến khi ấy nếu ông chưa chết thì cháu quay về đón ông ra ngoài hưởng phúc cũng được."

Ông chủ Lý một mực bảo Út dẫn chúng tôi vào núi, lại nhờ tôi đưa cô ra thành phố làm việc. Tôi và Shirley Dương bàn qua với nhau, cảm thấy có người bản địa dẫn đường là tốt nhất, chỉ cần không để cô đi trước mạo hiểm là được, liền nhận lời ông chủ Lý, tạm thời nhận cô làm sư muội của tôi. Kỳ thực, tôi cũng chẳng rõ thứ vai vế này rốt cuộc xác định kiểu gì nữa.

Bấy giờ giáo sư Tôn ở nhà ngoài đi vào nói: "Vừa nãy tôi ra ngoài xem thử, hình như xe sắp chạy rồi đấy, chúng ta tranh thủ thời gian lên đường thôi."

Tài xế vùng núi đều không chịu đợi ai bao giờ, chúng tôi đành gói vội một số thứ lặt vặt cần dùng, cuống cuồng tạm biệt ông chủ Lý. Năm người xách ba lô hớt hơ hớt hải chạy ra khỏi tiệm tạp hóa, nhảy lên xe khách đã nổ máy. Thân xe không ngừng tròng trành lắc lư, chạy khỏi trấn nhỏ trong núi.

Tôi ngồi ở hàng ghế sau, nhìn chiếc ô Kim Cang trên tay, thầm nhủ: đúng là một cuộc kỳ ngộ, mong rằng đây là điềm tốt, chúng tôi có thể thuận lợi tìm thấy mộ cổ Địa Tiên. Nghĩ tới đây, tôi lập tức hỏi Út xem phụ cận Thanh Khê có truyền thuyết gì về địa tiên hay không.

Út nói: "Ở quê em đúng là có truyền thuyết trong mồ Phong Vương chôn địa tiên, nhưng mọi người đều bảo địa tiên đấy là yêu tiên, ngôi mộ ấy chính là mộ yêu tiên, vì địa tiên biết yêu pháp mê hoặc lòng người, ông ta tung tin rằng hễ ai vào mộ cổ sẽ được trường sinh bất lão, lừa gạt không biết bao nhiêu người đi bồi táng theo ông ta. Có điều đấy đều là những truyền thuyết từ lâu lắm rồi, giờ chẳng ai biết chuyện mộ Địa Tiên ấy là thật hay giả nữa, nhưng ở trấn Thanh Khê quả thực có nhà họ Phong."

Tôi muốn hỏi thăm thêm một số việc nữa, nhưng thấy Út có vẻ không nỡ xa ông chủ Lý, cứ lưu luyến ngoảnh nhìn ra ngoài cửa xe, bèn an ủi cô: "Hồi còn nhỏ hơn em bây giờ, anh đã phải xa nhà, hô vang khẩu hiệu trời cao đất rộng mặc sức vẫy vùng, vượt nghìn dặm xa ra đi rèn luyện, cậu béo này chính là bạn đồng hành với anh năm ấy đấy."

Tuyền béo nghe tôi nhắc đến những ngày tháng hào hùng xưa kia, cũng máu lên nói: "Bấy giờ đúng là bạn bè đương tuổi thanh xuân , trong đầu toàn là ý nghĩ tạo phản, hồi ấy cười giễu Hoàng Sào chẳng trượng phu mà lại. Cô em đây hai mươi tuổi đầu rồi, còn làm nũng ông chủ Lý cơ à? Anh Tuyền béo của em đây năm ấy mười tám tuổi thôi đã một mình vào núi trông ruộng ban đêm rồi đấy nhé, gặp cả ma, kêu trời không thấu gọi đất chẳng xong, lại chẳng có bùa chú gì mà niệm, đành liều mình chống đỡ..."

Út dẫu sao cũng còn trẻ, tâm tính hết sức hiếu kỳ, nghe Tuyền béo nói đến chuyện gặp ma, không nhịn được liền hỏi chúng tôi rốt cuộc là sao?

Tôi có ý muốn thử độ gan dạ của Út, nếu mới nghe một câu chuyện ma mà cô đã sợ run lên thì chi bằng mau chóng đưa cô trở về. Nghĩ đoạn, tôi bèn nói: "Chuyện này anh nghe rồi, đấy là chuyện Tuyền béo gặp phải ở vùng Đông Bắc sau khi anh vào bộ đội, nói ra đúng là rởn hết gai ốc, đằng nào chúng ta ngồi trên xe cũng không có việc gì, để cậu ta kể cho mọi người nghe."

Shirley Dương và giáo sư Tôn cũng lấy làm tò mò, đều ngồi một bên yên lặng lắng nghe. Tuyền béo hắng giọng mấy tiếng, rồi bắt đầu tán phét:

Địa điểm là công xã Đại Cáp Thích Tử, bên ngoài đồn tiểu đội sản xuất Đoàn Sơn, thời gian là năm 1970, cũng vào một buổi tối mùa hạ. Đêm giữa hạ ở trong núi lẽ ra phải rất mát mẻ, nhưng hôm ấy chẳng hiểu sao, có lẽ tại sắp có mưa lớn, nên oi bức lạ thường, trên trời chẳng có lấy một ngôi sao.

Đúng hôm đó, Tuyền béo và một thanh niên trí thức khác bị phân công lên núi trông ruộng, chính là mấy mẫu đất ở lung chừng dốc núi. Trên đó trồng toàn ngô, mà bọn lợn rừng thích nhất là gặm món này, chúng ăn đã nhiều, giẫm nát còn nhiều hơn, ruộng ngô bị chúng phá thì xong luôn, vì vậy ban đêm phải có người canh gác, hễ nghe thấy động tĩnh gì liền chạy ra khua chiêng gõ trống đuổi lợn rừng.

Đêm ấy, người thanh niên trí thức kia lại có việc đột xuất, Tuyền béo đành một mình lên núi trông ruộng. Ban ngày cậu ta bẫy được một con thỏ, lúc ra cửa lại tiện tay xách theo một bình rượu quê, vui vẻ ăn uống một mình. Cậu ta thịt thỏ ngay ngoài ruộng, miệng ư ử hát một đoạn trong vở kịch kiểu mẫu Đèn Đỏ , đợi con thỏ được nướng chín từ trong ra ngoài, liền gặm một miếng thịt thỏ tu một ngụm rượu quê, tinh thần phơi phới, cảm thấy ngày tháng trong núi này cũng khá dễ chịu, chỉ tiếc dạo này bọn lợn rừng không đến quấy phá, chẳng tìm được cớ bắn vài phát súng cho đã ghiền.

Đang khi đắc ý, chợt nghe sẫm nổ ì ùng, những hạt mưa to như hạt đậu tương ào ào trút xuống. Tuyền béo vội kẹp bình rượu quê, xách con thỏ gặm được một nửa chạy vào trong lán cỏ tránh mưa. Không ngờ lán cỏ chỗ nào cũng dột, không chui rúc vào đâu được. Cậu ta thoáng nghĩ ngợi, đầu bên kia ruộng ngô có gian nhà xay bột, bỏ hoang nhiều năm rồi, sao không qua đó mà tránh mưa nhỉ?

Gian nhà xay bột vô cùng sơ sài này có từ thời trước Giả phóng, nhưng không hiểu sao bao năm nay không ai ra vào. Tuyền béo chẳng nghĩ ngợi nhiều, giơ chân đạp bật cửa gỗ ra, bên trong tối như hũ nút, toàn bụi bặm những dẫu sao cũng tốt hơn ở bên ngoài bị mưa xối cho ướt như chuột lột. Cậu ta dốc hết chỗ rượu quê còn lại vào bụng, rồi nằm chỏng vó lên cái rương gỗ ngủ luôn, lát sau đã ngáy khò khò như sấm động.

Tuyền béo ngủ giấc ấy rõ say, cũng không biết ngủ đến lúc nào, giữa chừng bị tiếng sấm làm giật mình tỉnh giấc. Cậu ta thoàng thắc mắc sao mãi trời vẫn chưa sáng, rồi trờ mình định ngủ tiếp.

Lúc này, chợt nghe bên tai vang lên tiếng bà khóc lóc. Tuyền béo vốn gan dạ, lại vô tâm, chỉ biết việc ngủ của mình. Chẳng ngờ, tiếng khóc bên tai mỗi lúc một gần, cảm giác như chui vào trong óc vậy, cậu ta nửa mê nửa tỉnh ngoác miệng chửi: "Khóc cái mẹ mày ấy mà khóc!"

Bị cậu ta chửi cho, tiếng khóc bi thảm kia liền im bặt, Tuyền béo cũng chẳng buồn nghĩ xem là chuyện gì, tiếp tục vùi đầu ngủ say sưa. Một lúc sau, chợt nghe bên tai có tiếng đàn bà nói: "Đừng đè lên giầy ta, đừng đè lên giày ta, đè lên giầy ta, ta lấy mạng ngươi..."

Câu này nói rõ mồn một, Tuyền béo đang mơ mơ màng màng cũng nghe không sót chữ nào, cả người nổi hết gai ốc gai gà, lập tức bật dậy. Dù gan to bằng trời, cậu ta cũng phải toát mồ hôi lạnh, nhìn lại thì thấy trong nhà xây bột làm gì có người đàn bà nào, trông ra bên ngoài vần dương rực rỡ, trời đã sáng bảnh từ bao giờ rồi.

Tuyền béo thầm lấy làm lạ, lầm bầm chửi mấy câu rồi đứng lên xem xét. Thì ra trên tấm ván gỗ cậu ta nằm, có một đôi giày gấm của phụ nữ đặt ngay ngắn, mũi giày còn thêu hai đóa mẫu đơn kiều diễm. Tuyền béo quệt mồ hôi lạnh trên trán, cáu tiết lẩm bẩm: "Con mụ này, chơi thật đấy à!" rồi nhặt hai chiếc giày ném xuống đất, hằn học giẫm lên mấy phát, sau đó nghênh ngang bỏ đi.

Về làng, cậu ta kể chuyện này với mọi người, ai nấy đều nói mười mấy năm trước, có thiếu phụ nọ treo cổ tự tử trong gian nhà xay bột ấy, trước lúc chết cô ta đi một đôi giày gấm mới tinh. Nhưng bấy giờ đôi giày đã được chôn theo người, gian nhà xay bột cạnh ruộng ngô ấy cũng chẳng ai lui tới, sao lại có chuyện Tuyền béo trông thấy đôi giày ở đó đêm qua được? Chẳng lẽ gặp ma sao? Có người hiếu sự còn chạy đến nhà xay bột xem, cũng không thấy giày dép gì, mọi người đều bảo Tuyền béo trộm rượu uống say mê muội cả đầu óc.

Tuyền béo chẳng coi đấy là chuyện nghiêm túc, mà bao nhiêu năm rồi cũng chẳng thấy oan hồn nào đến đòi mạng. Có điều, hôm nay hồi tưởng lại, đêm khuya núi vắng, nằm đè lên đôi giày của ma nữ ngủ một đêm, quả thực cũng thấy hơi lạnh gáy, có trời mới biết đêm hôm ấy cậu ta gặp phải tà ma quỷ quái gì.

Đây là chuyện thực Tuyền béo gặp phải lúc đi về nông thôn tham gia lao động sản xuất, có điều lúc này đem kể ra trên xe khách, cu cậu đương nhiên có ý khoe khoang, không chịu có thế nào kể thế ấy mà thêm mắm dặm muối, bổ sung rất nhiều đoạn rùng rợn khiến người ta nghe mà rởn cả tóc gáy.

Nhưng cô Út này rất gan dạ, câu chuyện của Tuyền béo căn bản chẳng dọa được cô. Cô chỉ thấy có chút tân kỳ mới lạ, chứ chẳng sợ sệt gì, còn cười Tuyền béo là đồ ngốc, bịa chuyện dọa người mà cũng chẳng biết kể cho sinh động.

Tôi thầm gật đầu tán thưởng: "Con bé này quả nhiên có gan mạo hiểm." Nhân thể đang muốn hỏi thăm về các truyền thuyết quanh vùng phụ cận mộ cổ Địa Tiên, tôi bèn thừa cơ khen Út gan dạ hơn người, có phải ở quê toàn nghe chuyện ma không? Hay là kể cho bọn anh nghe mấy chuyện xem nào.

Út nói trấn Thanh Khê có lịch sử rất lâu đời, đã khai thác khoáng muối Vu suốt mấy trăm năm. Muối Vu là một loại muối địa chất đặc biệt, có thể gia công thành muối ăn. Thời xưa, thuế muối đánh rất nặng, tự tiện khai thác muối là tội chém đầu, dân chúng đa phần đều làm lén lút hòng mưu lợi lớn, bởi vậy ở trấn Thanh Khê số lượng giếng khai thác lớn nhỏ phải lên đến con số hàng nghìn. Đến thời Thanh tài nguyên gần như cạn kiệt, trong núi không còn mạch muối nào mới nữa, về sau lại tiến hành xây dựng hầm phòng không quy mô lớn, khiến trong núi toàn những hang những hốc.

Thiên nhiên, nhân tạo, bán nhân tạo...các loại hang động hốc núi đan xen chằng chịt lên nhau, có nơi sâu đến mấy chục mét, người bên ngoài muốn đi một bước cũng khó. Những chỗ đào sâu khó tránh trông thấy nhiều thứ ly kỳ cổ quái, vì vậy mà có rất nhiều truyền thuyết khác nhau, hồi nhỏ Út hay đến hầm mỏ chơi, dù sao thời ấy vẫn còn chưa hiểu chuyện, cũng chẳng thấy sợ hãi gì.

Tôi nghe vậy, không khỏi thầm kêu khổ, chút hy vọng cuối cùng đều quăng xuống sông xuống biển rồi. Các loại công trình ở Thanh Khê đã đào rỗng cả quả núi, vậy mà bấy nhiêu năm vẫn không ai phát hiện được mộ cổ Địa Tiên, chẳng biết Quan Sơn thái bảo rốt cuộc đã sử dụng thủ đoạn gì để che trời giấu biển? Mà cũng rất có khả năng, mồ Phong Vương chỉ là một truyền thuyết hão huyền, căn bản không tồn tại trên cõi đời này.

Có điều, trong lời kể của Út có nhắc đến chuyện khai thác muối trong hang. Muối Vu là thứ tài nguyên đã cạn kiệt, giờ không còn nữa. Hồi xưa tôi làm công binh, cũng chưa từng nghe nói có thể đào được muối trong núi, nhưng chuyện này lại khá phù hợp với câu "Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền" trong bài ẩn ngữ chỉ lối tìm đến mộ cổ Địa Tiên kia.

Nghĩ tới đây, tôi liền đem bài vè "Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương..." ra hỏi xem Út có biết những câu này ẩn chứa bí mật gì hay không?

Út cũng chẳng hiểu gì cả, cô chưa bao giờ nghe nói nhà họ Phong vẫn âm thầm truyền lại cho con cháu đoạn ẩn ngữ này, đương nhiên không biết trong những câu chữ ấy có gì bí hiểm, nhưng nếu nói đến "Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền", thì chắc chắn là cổ trấn Thanh Khê không chệch đi đâu được. Thời xưa, hầm khai thác muối Vu gọi là giếng muối, có điều đây là cách gọi bản địa, người ở nơi khác đa phần đều chưa từng nghe qua.

Giếng muối Vu thường do các phú hào địa phương chiếm giữ, người nghèo chỉ có thể làm lao công, phu mỏ. Trong mỏ muối Vu thường có khí mê tan, đồng thời nước ngầm dưới lòng đất có thể phun lên bất cứ lúc nào, các phu mỏ xuống giếng làm việc phải hết sức mạo hiểm, thường xuyên có một lượng lớn phu mỏ chết oan dưới giếng, vì vậy trong vùng mới có câu ngạn ngữ rằng: "Đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền."

Tôi thấy cuối cùng cũng có chút manh mối, không khỏi mừng thầm, nhưng chỉ nhờ đoạn này thì vẫn khó lòng giải thích ý nghĩa toàn bài. Phỏng chừng, muốn hiểu được câu đố về thôn Địa Tiên này, vẫn phải phá giải câu đầu tiên "Hay cho đại vương, có thân không đầu" trước, rồi lần lượt suy diễn từng bước mới xong. Dân cư trấn Thanh Khê xưa sớm đã phân tán đi các nơi, muốn tìm thêm ài người hỏi thăm cũng không được, mà những truyền thuyết cổ xưa kia chắc chắn còn lâu đời hơn cả mộ cổ triều Minh, người thời nay chưa chắc đã biết. Những mạch suy nghĩ trong đầu tôi cứ rối tung beng cả lên, đang chưa biết sắp xếp thế nào, chợt thấy bên ngoài cửa xe mây mù tan hết, xa xa hiện lên một ngọn núi cao ngất, dáng đẹp tuyệt trần, toát lên một vẻ u tĩnh mông lung, bất giác làm tôi ngẩn người ra ngắm.

Giáo sư Tôn bên cạnh cũng thở dài tán thường: "Đây chính là đỉnh Vọng Hà, tương truyền năm xưa lũ lụt hoành hành khắp thiên hạ, Đại Vũ chỉ huy dân chúng trị thủy. Đó là hành vi thay đổi cả càn khôn, không thể thiếu sự tương trợ của quỷ thần, vì vậy thần nữ hạ phàm, đứng ở đất này chỉ đường cho thuyền bè, năm tháng dài lâu liền hóa thành đỉnh núi, vì vậy còn có tên là đỉnh Thần Nữ." Chợt lão ta sực nhớ ra gì đó, tự mình hỏi mình, rồi lại tự trả lời: "Nương tử không đến, núi non không khai, Khai sơn nương tử nhắc đến trong đoạn mê ngữ này, lẽ nào là chỉ đỉnh Thần Nữ?"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 7 _ Khu vực bị xóa khỏi bản đồ

Lúc này, mây mù lại dần dần tụ lại, che đi đỉnh núi mông lung, Tông Cửu gia ngồi trên xe thất thần, không ngừng lẩm bẩm: "Núi non không khai ... trăm bước chín hồi..." như một kẻ si dại.

Tôi từng đọc cuốn sổ ghi chép của giáo sư Tôn nhiều lần, biết ông ta nghiên cứu giải mã các ký hiệu cổ đại đã nhiều năm, rất kiên trì với những câu đố kiểu này, nên suy nghĩ có phần cứng nhắc, thường đâm đầu vào ngõ cụt. Lúc này, thấy ông ta liên hệ đỉnh Thần Nữ với mộ Địa Tiên, tôi bèn bảo: "Truyền thuyết về đỉnh Thần Nữ này xa xưa quá rồi, cơ hồ xảy ra vào thời kỳ thần thoại, mà vua Đại Vũ cũng không phải vị vương không đầu; trong thần thoại chỉ có Hình Thiên múa búa là không có đầu, lấy bụng làm mặt, nhưng Hình Thiên không phải vương, sự tích cũng không có vùng Vu Hiệp này. Tôi thấy câu Nương tử không đến núi non không khai kia, không giống như có liên quan đến thần thoại đâu, có thể trong dãy Vu Sơn, có truyền thuyết gì tương ứng không chừng."

Shirley Dương cũng nói nên tập trung chú ý vào vùng phụ cận trấn Thanh Khê, nếu bài vè gợi ý lối vào thôn Địa Tiên của trung đoàn trưởng Phong không phải giả, vậy thì mộ cổ Địa Tiên đến tám chín phần là ở nơi có giếng muối, dù trong quá khứ không ai tìm thấy nhưng chúng ta có mấy điều kiện thuận lợi: trước tin là câu đố vị trí địa tiên kia để lại cho hậu nhân nhà họ Phong, ít nhất cũng được một nữa; ngoài ra còn có "tuyệt chiêu sát thủ" chính là tấm gương cổ bằng đồng xanh có thể chiêm đoán sinh khí của long mạch, đến thời điểm mấu chốt đem ra dùng, tí nhiều cũng có chút gợi ý.

Tôi đưa tay rờ rờ chiếc gương "Quy Khư quẻ kính' trong ba lô, nói với mọi người: "Dạo trước tôi có nhờ sư huynh Trương Doanh Xuyên giúp nghiên cứu cách dùng quẻ phù, may mà anh ấy là cao thủ chiêm nghiệm suy đoán, hiểu rất nhiều đạo thuật âm dương, lại tham khảo thêm quẻ số và lời chú cổ xưa của Đản nhân ở Nam Hải, gần đây cuối cùng đã có chút manh mối. Nhưng hải khí trong tấm gương cổ này sắp tiêu tán hết rồi, e rằng nhiều nhất cũng chỉ dùng được một lần nữa thôi, mà tôi cũng không dám chắc có thể hiểu được một nửa quẻ tượng hiện lên. Không đến lúc vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối không thể tùy tiện sử dụng. Phát Khưu Mô Kim, Ban Sơn Xả Lĩnh để lại rất nhiều cổ thuật tầm long trộm mộ, tôi không tin bốn phép Vọng Văn Vấn Thiết không đối phó được thuật Quan Sơn chỉ mê của đám địa chủ trùm sỏ mỏ muối kia."

Tôn Cửu gia tỏ vẻ không đồng tình: "Các cậu còn trẻ, kinh nghiệm non nớt quá. Cậu bảo mộ cổ Địa Tiên chỉ cất tay là tìm được, dễ như ăn bắp à? Tôi đây dựa trên sử liệu suy đoán, Minh Hiếu Lăng an táng Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương chính là do Quan Sơn thái bảo chọn đất thiết kế, vị địa tiên kia tiếp nhận danh hiệu tổ tiên truyền lại, Quan Sơn kim bài cũng là vật vua ban, vì vậy Quan Sơn chỉ mê tuyệt đối không phải thứ vớ vẩn, mà là tinh túy của văn hóa truyền thống đấy."

Tôi không đồng tình với luận điệu của giáo sư Tôn: "Cứ suy luận như thế thì bùa Mô Kim còn là tổ tiên mười tám đời của kim bài Quan Sơn kia, mộ Tào công chính là do Mô Kim hiệu úy xây dựng mới gọi là linh dương treo sừng, không biết đâu mà tìm , cái thứ bố cục trên bàn giấy như Minh Hiểu Lăng kia mà đòi sánh à?"

Giáo sư Tôn nói: "Hồ Bát Nhất, cậu ăn nói ba hoa. Chuyện Mô Kim hiệu úy xây mộ Tào Tháo là cậu tiện mồn bịa ra đúng không? Làm gì có chính sử nào chép lại chứ? Đây không phải là thái độ chính xác cần có khi nhìn nhận lịch sử, tôi từ chối thảo luận với cậu."

Tôi cãi: "Thử nhìn lại tự cổ chí kim, có bao nhiêu việc lớn không được ghi vào chính sử? Sử sách xưa nay đều do triều đình viết ra, chẳng phải kẻ cầm quyền muốn viết thế nào thì viết ư? Những chuyện cơ mật thực sự, mấy tay viết sử làm sao biết được? Chẳng phải chỉ biết đem những bí ẩn không lời giải đáp đó, bôi thành mấy hàng mập mờ trên giấy trắng để người đời sau tự nghiền ngẫm suy luận ư? Bảo là sử xanh mà toàn những nội dung tăm tối mập mờ."

Tôi lại bảo giáo sư Tôn, mộ Tào Tháo được giấu trong vùng khí hồng hoang hỗn độn còn lại từ thuở trời đất chưa phân cách, nhìn tưởng không, mà thực ra là có. Lúc hạ táng, phải tìm bắt một xà nữ, đánh vảy chọc tiết trong mộ, chỉ man phần mỡ ra ngoài, sau đó niêm phong hầm mộ lại. Từ đó trở đi, không ai có thể nhìn thấy ngôi mộ này từ bên ngoài được nữa. Những khi tế bái, phải dùng mỡ xà nữ làm dầu đốt đèn mới có thể nhìn thấy chỗ ánh sáng đỏ lấp lóa trong núi mà cúng tế. Nhiều năm sau, khi mỡ xà nữ dùng hết, thần tiên cũng chẳng thể nào tìm được vị trí ngôi mộ ấy. Đây đều là thủ đoạn thần thông của Mô Kim hiệu úy thời xưa, vì vậy ngàn vạn lần không thể coi thường trí tuệ và kỹ thuật của người xưa được. Chúng ta chuyến này tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên ở Vu Sơn, đừng hòng được thong dong.

Giáo sư Tôn một mực không tin, nguyên tắc của ông ta là "một chữ trong sách cũng đáng tin, trong thư tịch không ghi thì kiên quyết không tin", cực kỳ cố chấp. Dọc đường, chúng tôi cứ tranh luận không ngớt, trong khi Tuyền béo ngủ ngáy khò khò, chẳng ai để ý xem xe khách đã chạy được bao lâu, giữa chừng, Út đột nhiên gọi tài xế dừng xe lại.

Tôi còn tưởng đến bến rồi, vội vàng đánh thức Tuyền béo dậy, cả bọn lục tục xuống xe, đứng lại quan sát, chỉ thấy bốn phía đều là núi non trùng điệp giữa màn mây mù bảng lảng, rõ ràng là một nơi trước không thấy nhà sau chẳng thấy tiệm. Tôi liền hỏi Út xem đây là đâu?

Út nói: " Không phải đã nói rồi ư, mấy anh chẳng ai nhớ hết hở? Phải đi đường Năm Thước mới đến Thanh Khê được, từ chỗ này đi xuống, chính là đường Năm Thước đấy mà."

Tôi nhìn theo chiếc xe khác đưa chúng tôi đến đây, thấy chẳng còn tăm hơi đâu nữa, vốn định đến huyện thành nghỉ chân rồi mới hành động, nhưng kế hoạch lại không theo kịp biến hóa, đành tiến thẳng vào núi vậy. Út lớn chừng này tuổi rồi, cũng chỉ đi qua đây có một lần, có trời mới biết phải đi bao lâu mới tới?

Năm người chúng tôi men theo con đường nhỏ ngoằn ngoèo, đi vòng theo triền núi, không lâu sau liền tìn thấy dấu vết sạn đạo cổ xưa. Đó là vách đã thẳng đứng, đã phiến và gỗ bắc thành một con đường rộng năm thước treo lơ lửng bên trên. Từ thời Tiên Tần, đoạn sạn đạo cổ này đã được xây dựng để vận chuyển muối Vu ra bên ngoài núi. Công trình thời Tần không phải hạng vừa, Trường thành, sông Tần Hoài, sạn đạo cổ, Tần lăng, cung A Phòng... đều có mức độ hiểm trở và quy mô vĩ đại khiến người ta khó lòng tưởng tượng nổi.

Chúng tôi đặt chân lên đường Năm Thước, di xuyên qua hẻm núi mây mù thăm thẳm, cảm giác như đạp mây mà đi, mỗi bước hạ xuống, phiến đá đặt chân đều lung lay, có những chỗ cọc đá, phiến đá đều đã sụt lở, chỉ còn lại mấy khúc gỗ chỏng chơ bắc ngang. Tuyền béo thấy út di qua hết sức thong dong tự tại, thà chết cũng không chịu mất mặt, đành liều mình dấn bước, cứ tóm chặt lấy ba lô của tôi, nhích từng bước một.

Mọi người đều nín thở dán mình sát vào vách núi nhích lên từng bước, không ai dám lơ là, càng không dám nhìn ngó xung quanh, thi thoảng cũng buộc phải dừng chân nghỉ ngơi giây lát, phóng mắt nhìn ra, chỉ thấy toàn núi cao non cả trùng điệp. Dưới chân, nước xiết cuồn cuộn như sấm động hổ gầm, nhìn xuống khe núi toàn là mây mù, chỉ nghe tiếng nước lớn ầm ầm, mà không thấy được cảnh dòng nước xiết cuộn trào dữ dội.

Con đường Năn Thước cổ xưa này có lẽ cũng không dài lắm, nhưng tôi có cảm giác như thể đi mãi cũng không đến tận cùng, càng đi sâu vào trong núi, cảnh sắc xung quanh càng kỳ lạ. Rõ ràng trông thấy vách đá chắn ngang không còn đường để đi tiếp nữa, nhưng tới chỗ ngoặt, lại thấy mây rẽ ra một vùng trời mới, hơi nước mù mịt không tan nương theo thế núi lững lờ bốc lên, hóa thành mây bay, thành mưa bụi. Có nơi mây đen cuồn cuồn, có nơi lại sương trắng mang mang, mây mù vấn vít như ảo cảnh. Sạn đạo cổ cũng vì thế mà trở nên nguy hiểm bội phần, độ cao so với mực nước biển đã lên tới cả nghìn mét, chẳng ai dám phân tâm thưởng thức những khói mây biến ảo mời mịt mông lung kia nữa cả.

Khó khăn lắm mới đi đến tận cùng sạn đạo, người nào cũng tê chồn cả chân tay, ngồi xuống nghỉ ngơi hồi lâu vẫn thấy tâm thần hoảng hốt, khó mà tưởng tượng nổi sao mình có thể kiên trì đến tận lúc này. Nghĩ đến lúc trở về lại phải đi thêm một chuyến nữa, bất giác ai nấy đền rùng mình.

Út chỉ xuống dưới dốc núi bỏa tôi: "Anh Nhất nhìn đi, bên dưới chính là trấn Thanh Khê mà các anh muốn tìm đấy. Anh xem, phòng ốc trong trấn vẫn còn, nói không chừng nhà cũ của em cũng chưa bị sập đâu."

Lúc này mây mưa vừa tan, vầng tà dương đỏ như máu treo lơ lửng ở góc trời, sắc hoàng hôn thấm đẫm rặng núi xa xa, trời đất non song tự như một bức họa mông lung kỳ ảo. Tôi vội vực lại tinh thần, nhân lúc trời chưa tối hẳn , cầm ống nhòm lên quan sát dịa hình bên dưới, chỉ thấy một khu vực toàn kiến trúc dân cư theo phong cách cổ xưa phân bố rải rác ở lừng chừng núi, đường phố nối với nhau bằng bậc thang đá. Vì trấn cổ này hoang phế từ lâu, bên trong hoàn toàn không có anh đèn đuốc và dấu vết của con người, cơ hồ cả lũ chuột đồng mèo hoang cũng chẳng còn, hoàn toàn lặng ngắt như tờ, thậm chí trên bản đồ cũng chẳng còn đánh dấu nơi này nữa.

Lại quan sát xung quanh trấn cổ, bề mặt đất đã bị phá hoại nhiều chỗ, không thể quan sát hình thế phong thủy được, nếu mộ cổ Địa Tiên ở gần đây, tôi thực khó lòng tưởng tượng thuật Quan Sơn chỉ mê xem đất tìm long mạch bằng cách nào. Thấy sắc trời đã muộn, mọi người sau một chặng đường dài vất vả đều vừa đói vừa mệt, muốn hành động gì cũng phải đợi sáng mai tính tiếp. Nghĩ đoạn, tôi bèn lấy đèn pin mắt sói ra, điều chỉnh lại độ sáng rồi soi đường dưới chân, dẫn đầu đi xuống dốc núi, định tìm một nơi nghỉ ngơi qua đêm trong trấn.

Lúc cả nhóm xuống đến chân núi trời đã tối mịt, Út bảo tôi tìm một cành cây dài để dò đường, thì ra bắt đầu từ chỗ này, đường đi đầy những hố, có một bãi tha ma rất lớn, quan tài đã được chuyển đi nơi khác lúc di chuyển mộ tổ, để lại toàn huyệt rỗng, cỏ dại mọc cao quá gối, nếu không cầm gậy dò đường như người dò mìn, thì trong đêm tối mù mịt thế nào thế nào cũng có người hụt chân rơi xuống dưới.

Tôi đành dùng cành cây vừa đi vừa chọc chọc, bốn người còn lại bước theo sau lưng. Trong lùm cây bụi cỏ rất nhiều muỗn, chùm sáng đèn pin trên tay lại càng thu hút vô số muỗi mòng thiêu thân không ngừng lao bổ vào mặt người ta, vửa đi vừa phải vung tai đuổi. Tôi cũng không nhịn được nhăn nhó mặt mày, hoàn cảnh và địa hình của trấn Thanh Khê này phức tạp hơn nhiều so với dự liệu của tôi, chẳng hiểu rốt cuộc còn có những gì trong thị trấn như tòa thành chế này nữa?

Cả bọn chân thấp chân cao đi qua bãi tha ma, mặc dù chỗ hở ra ngoài trên cơ thể đều đã bôi thuốc chống muỗi, nhưng rốt cuộc vẫn bị bọn muỗi mòng như biệt đội cảm tử Thần Phong ở đua hút không biết bao nhiêu máu. Chúng tôi di vòng qua mấy cái hồ cạn khô, cuối cùng cũng vào được cổ trấn. Chỉ thấy các kiến trúc cổ trong trấn này đều vắng ngắt, cửa rả mở toang hoác, đa phần đến cả cánh cửa cũng bị gỡ mất, đồ đạc trong nhà đã được dọn đi hết, chỉ còn lại cái xác nhà với vô số khẩu hiệu trên tường, trong màn đêm tựa như những bóng ma cao lớn đen kịt. Thời tiết giữa hè nóng bức oi ả, chẳng có lấy một ngọn gió thổi qua, không khí ban đêm lại càng ẩm thấp bức bối, khiến cảm giác bất an trong lòng người cũng tăng lên gấp bội.

Giáo sư Tôn nói: "Cũng may chúng ta đi cả nhóm, nếu chỉ có một thân một mình, ai dám ở đây qua đêm chứ? Mau mau tìm một gian nhà nghỉ ngơi thôi, bằng không ở bên ngoài này bị muỗi đốt cả đêm, đến Kim Cương La Hán cũng không chịu nổi đâu."

Tôi bảo chúng ta không mang lều bạt, chắc chắn phải tìm căn nhà hoang nào đấy qua đêm rồi, có điều nhìn trăng nhạt sao mờ, nửa đêm về sáng quá nửa sẽ có mưa ròa kèm sấm chới, ông xem những căn nhà này đều lâu năm không được tu sửa, có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Chuyện này muốn gấp cũng không được, phải chọn nơi nào kiên cố một chút mới yên tâm.

Tuyền béo giơ đèn pin mắt sói lên, đứng giữa phố quét mấy vòng: "Tôi thấy cái nào cũng thế cả, trời tối om rồi, đi đâu tìm chỗ yên ổn đây chứ? Chi bằng cứ xem vận may, vào bừa một căn đi, nhà không sập coi như chúng ta có phúc."

Tôi không tán thành cách làm ăn may của Tuyền béo, vận may nên để đến lúc mấu chốt mới lấy ra đặt cược, sao có thể lúc nào cũng nhờ cậy vào nó chứ? Vậy là tôi dẫn theo cả bọn tiếp tục đi dọc theo phố chính. Lúc này Shirley Dương lên tiếng hỏi Út: "Trong trấn có công trình kiểu như đồn cảnh sát hay bệnh viện không? Hay ... có chỗ phòng ốc lớn nhất, đẹp nhất không?"

Út nhớ kỹ lại rồi nói:" Đồn công an và bệnh viện thì không có đâu, hồi trước có hợp tác xã mua bán, nhà khách, trạm y tế cũng đều chẳng ra sao cả, nhà cửa cũ kỹ thô sơ, bây giờ chắc chắn không ở được. Nói đến to đẹp nhất, thì phải tính đến nhà họ Phong đầu tiên, khu nhà ấy to lắm, còn to hơn cả miếu Long Vương nữa. Nhưng mọi người đều nói ở đấy không sạch sẽ, là đất dữ, từ lâu đã không còn ai ở nữa rồi. Nhà học Phong chì là tên cũ thôi, mấy người chỉ đời sau đều không phải họ Phong, cổng chào bằng đá xanh với đôi sư tử đã trước nhà họ, đã có đến mấy trăm năm lịch sử rồi đấy".

Tôi vừa nghe nói đến giờ vẫn còn "dương trạch" năm xưa của Quan Sơn thái bảo, đương nhiên muốn đi xem thử, liền bảo Út dẫn đường. Cô rời khỏi nơi này đã lâu, cũng không nhớ đường lắm, may mà nhớ ra nhà cũ của họ Phong nằm ở trung tâm cổ trấn. Lần mò tìm tới, liền thấy phía trước một ngôi nhà tường trắng ngói đen, có đôi sư tử đá đứng ngoài cổng hộ vệ.

Đại bộ phận khu nhà cũ đã bị dỡ đi, không còn diện mạo năm xưa nữa, quy mô phần còn lại nhỏ hơn hồi trước rất nhiều, ngoài đôi sư tử đá trước cổng, chỉ còn lại một tòa lầu và một cổng chào cao lớn nguy nga bằng đá xanh, là kiến trúc cổ giữ được từ trước thời nhà Thanh.

Tôi thấy nước sơn trên mái hiên, cột nhà tuy đã tróc hết, nhưng chất gạch chất gỗ và cấu tạo đều xa hơn những nhà dân thông thường. Căn nhà tuy cũ kỹ lâu đời, nhưng còn kiên có hơn nhiều phòng ốc được xây dựng sau này trong thị trấn, chỉ là không biết hung trạch nhà họ Phong đêm nay có được thái bình hay không?

Lúc này trên trời đã bắt đầu lác đác hạt mưa, cả bọn chúng tôi đều mệt lử người, cũng không do dự thêm nữa, lập tức quyết định qua đêm trong ngôi nhà này, mỗi người cầm một chiếc đèn pin đi vào trong.

Tôi vừa bước vào liền ngẩn người tại chỗ, dưới ánh đèn pin mắt sói loang loáng, chỉ thấy trong phòng chứa rất nhiều thứ chẳng ai ngờ tới. Tôi lấy làm ngạc nhiên, sau nhà trước ngõ sao lại cõ nhiều sư tử đá hình dáng ký quái thế này? Đột nhiên, một tia chớp dài lóe lên như con rồng lướt qua giữa bầu không, trong khoảnh khắc chiếu sáng bừng cả phòng trong phòng ngoài. Qua cửa sổ và cửa sau, có thể trông thấy ở sân sau cũng xếp đầy những con thú đã kỳ dị.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 8 _ Hầm phòng không Thanh Kê

Vào khoảnh khắc sấm nổ chớp lóe đó, chúng tôi trông thấy bên trong tòa lầu trơ trọi của khu nhà họ Phong bày đầy những con thú đá hình thù quái dị, trong lòng liền rất nghi hoặc. Tôi bước lên trước, giơ đèn pin mắt sói lên soi thử một con, chỉ thấy con thú đá ấy diện mạo hung ác dữ tợn, hình dáng tròn tròn, cũng có mấy phần tương tự con sư tử đá trước cổng nhưng lại không có khí chất uy vũ mà chỉ khiến người ta cảm thấy tà ác đáng sợ. Tôi chưa từng trông thấy con sư tử đá nào như vậy, sao nó có thế xấu xí hung tợn thế được?

Shirley Dương nói: "Những con thú đá này không giống sư tử trấn trạch, mà trông như tượng đá giữ mộ ở khu vực lăng mộ hơn."

Tôn Cửu gia cũng đeo kính lão lên nhìn một lúc lâu: "Chắc chắn không phải sư tử đá, lông bờm trông như kiếm, hai tai đặc biệt to, lỗ mũi hếch lên trời, theo tôi thấy... đây là ô dương, muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương; ô dương, ô quỷ đều là lợn mà. Tôi nghĩ mãi không hiểu mộ cổ Địa Tiên này có liên quan gì đến ô dương, còn định ra lò mổ hỏi thăm, thì ra trên đời này lại có thứ tượng đá Ô dương thế này.

Út là người bản địa, nhưng cô chưa từng thấy những thứ này, tôi đành hỏi Tôn Cửu gia: "Thú đá ô dương là totem cổ hay là tượng đá trấn lăng?" Giáo sư Tôn đáp: "Không đoán được, hình dạng ô dương đã bị quỷ quái hóa đi rồi, phong cách rất kỳ dị, tôi chưa từng thấy khu lăng mộ nào trấn lăng bằng vật này, cũng không giống như totem của thần đạo". Nói xong, lão ta liền móc quyến sổ ghi chép ra viết viết vẽ vẽ, miêu tả lại từng chi tiết nhỏ của thú đá để làm tư liệu tham khảo quan trọng cho việc tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên.

Tôi nghĩ mãi không ra tại sao tượng thú đá ô dương lại được bày trong nhà họ Phong, trấn Thanh Khê này đã trải qua mấy phen biến thiên dời đổi, khiến người ta chẳng biết căn cứ vào đâu đế suy đoán nữa, nếu đã không có đầu mối, tốt nhất là đừng tốn sức suy nghĩ đoán bừa đoán bậy làm gì. Để tiết kiệm pin, tôi và Tuyền béo thắp mấy ngọn nến chiếu sáng, tìm chỗ khô ráo trong nhà bắc gạch làm bếp, nấu ít nước nóng để mọi người ăn chút gì rồi đi nghỉ, xem địa thế cổ trấn này tương đối phức tạp, ngày mai thế nào củng phải bận rộn một phen.

Tôi lại đi quanh trong nhà một lượt, xem hết từng căn phòng, thấy trong một phòng ở tầng hai có bàn gỗ ghế gỗ, đều là những món nội thất đơn giản thời cận đại, trên bàn, trên tường treo rất nhiều bản vẽ, nhìn kỹ mới thấy đều là bản vẽ kết cấu đường hầm mỏ muối khoáng, còn ghi chú rõ ràng về tiến độ công trình. Tôi hồi trước làm lính công binh, biết xem bản vẽ, vừa nhìn thấy những thứ này liền sực hiểu ra ngay. Thì ra, hồi xây dựng hầm phòng không ở khu vực trấn Thanh Khê này, nhà họ Phong chính là bộ chỉ huy thi công, về sau tình hình quốc tế thay đổi, công trình bị đình chỉ và vô hiệu hóa, lúc rời đi, những bản vẽ này cũng bị bỏ lại nơi đây.

Còn trên mình những tượng thú đá ô dương kia, ngoài một lớp bụi dày, còn có dấu vết bùn đất, rõ ràng là chưa từng được cọ rửa, chắc hẳn đội ngũ thi công đào được chúng dưới lòng đất, chưa kịp xử lý thì công trình đã bị đình chỉ, nên bỏ lại sở chỉ huy này.

Nói không chừng, khu vực đào được tượng thú đá ô dương cách mộ cổ Địa Tiên không xa, tôi vội vàng cuộn hết bản vẽ mang xuống tầng dưới, nói cho cả bọn phát hiện mới này. Bấy giờ Tuyền béo đã nấu xong món mì ống trong túi chân không chúng tôi mang theo, mọi người đều đói ngấu, liền vừa ăn vừa nghiên cứu bản vẽ hầm phòng không.

Út hỏi Tuyền béo đây là thức ăn kiểu gì vậy? Nhão nhoen nhoét, thật là khó ăn. Tuyền béo nói: "Đây là hàng Mỹ đấy em gái, nhưng cái mùi vị này... đúng là hơi tệ thật, không phải do anh béo của em kém tài đâu, chủ yếu là tại cái thứ mì ống Mỹ này đây, nghe nói nếu người Mỹ nào muốn tự sát từ từ, thì cứ ngày ngày xơi cái thứ này".

Tôi thì mặc xác mùi vị thế nào, chỉ cần nhét no cái bụng là được, và vội mấy miếng, nhanh chóng giải quyết xong xuôi phần của mình. Nhìn đồng hồ, thấy mới tầm chín giờ tối, tuy hơi mệt mỏi, nhưng tôi vẫn gắng vực dậy tinh thần, xem xét từng bản vẽ một, để riêng những bản có thể dùng đến ra một chỗ, quyết định ngày mai đi xuống hầm phòng không thăm dò trước.

Shirley Dương hỏi tôi có kế hoạch gì không? Tôi liền trải bản vẽ ra, chỉ vào những ký hiệu trên đó, nói cho cô biết ý tưởng hình thành trong đầu mình: "Hầm phòng không Thanh Khê là sản phẩm lịch sử của thời kỳ đào hầm tích trữ lương thực, anh đoán thời đó người ta xây dựng hầm phòng không quy mô lớn ở đây, hẳn là vì nơi này có nhiều giếng khai thác muối khoáng dưới lòng đất, nhìn trên bản đồ cũng đủ thấy điều ấy, đơn vị thi công cải tạo gia cố, đồng thời nối liền những hang động nửa thiên nhiên nửa nhân tạo này lại, khiến chúng trở chành một hệ thống công trình thời chiến ngang dọc chằng chịt. Có điều trên bản vẽ cũng đánh dấu nhiều chỗ đã bị sụt lún ngập nước, công trình tiến triến rất không thuận lợi."

Tôi dùng phép loại trừ, đánh dấu mấy khu vực không thể đào được di chỉ cổ. Núi non xung quanh cổ trấn Thanh Khê đều đã bị đào rỗng, những nơi như đường hầm giếng muối và hầm phòng không, bao gồm cả lòng đất bên dưới cổ trấn này cũng rỗng không, không thể có mộ cổ Địa Tiên được, vì vậy có lẽ cần tập trung vào "khu vực chân không".

Shirley Dương là người tinh ý, lập tức hiểu ra ý tôi, gật đầu nói: "Rất có lý, khu vực chân không, chẳng phải còn được gọi là vùng mù của mạch khoáng sao ? Vị trí đào được tượng thú đá ô dương, nhất định là ở khu vực đường hầm công trình lệch với đường hầm mỏ khoáng."

Tôi nói, đúng vậy, trước khi khởi công xây dựng hầm phòng không chuẩn bị cho chiến tranh, chắc chắn người ta đã phải khảo sát kỹ lưỡng địa hình núi non sông ngòi ở các khu vực lân cận, đỡ rất nhiều công sức cho chúng ta. Đồng thời, ta cũng đã biết được gợi ý rất quan trọng: "Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương", vậy thì mục tiêu hàng đầu, đương nhiên chính là địa điểm có khả năng đào thấy tượng thú đá ô dương này nhất. Tất cả hầm mỏ ở đây đều được đào men theo mạch khoáng muối Vu, vì vậy cực kỳ lộn xộn, không theo quy tắc nào cả.

Phân tích trên bản vẽ, thì chỉ có đoạn phía Tây của hầm phòng không Thanh Khê là được xây mới do nhu cầu sử dụng, hoàn toàn không lợi dụng các đường hầm khai thác muối khoáng có sẵn, vả lại, dựa theo các tiêu chuẩn trên bản vẽ, có thể thấy đường hầm phía Tây này vẫn chưa hoàn tất thi công. Điều này chứng tỏ công trình ở khu vực này vẫn được tiến hành đến phút cuối cùng. Còn tình hình thực tế và bước tiếp theo hành động thế nào, chúng ta phải đến thực địa xem xét rồi mới nắm chắc được.

Shirley Dương lại tự tin thêm một phần: "Không sợ đầu mối rối như tơ vò, chỉ sợ không có manh mối nào thôi. Nếu đã tìm được một số đầu dây mối nhợ rồi, chúng ta cứ lần theo đó mà tiến, cuối cùng thế nào cũng tìm được mộ cổ Địa Tiên."

Giáo sư Tôn ở bên cạnh nghe chúng tôi nói chuyện hồi lâu, gật đầu tán đồng: "Cậu Nhất đúng là lính chiến dạn dày kinh nghiệm, vừa đến Thanh Khê đã nắm bắt được trọng điểm công tác rồi. Năm đó, trung đoàn trưởng Phong bị đày ải ở nông trường cải tạo lao động với tôi cũng là kẻ chinh chiến nhiều năm, đại khái chắc vì đánh trận giỏi quá, nên được thủ trưởng trong quân đội nuông chiều quen thói, chẳng chịu để ai quản chế cả. Người đó rất vênh váo, cũng rất ngạo mạn, ông ta bảo hồi trước đánh trận ở Triều Tiên, ngày nào cũng ngói xe Jeep cướp được của quân Mỹ, ăn đồ hộp Mỹ, có bận máy bay Mỹ vù qua trước hiên, bom nổ ngay trước mặt mà cũng không làm tổn thương ông ta được cọng tóc nào. Loại người ấy sao có thể ngoan ngoãn ở mỏ đá chịu khổ chứ? Vì vậy ông ta mới quyết tâm trốn về quê cũ. Hồi trước, tôi luôn nghĩ ông ta không thể sống sót chạy về đến đây, nhưng giờ nghĩ lại, những người đã thực sự được tôi luyện trong chiến trận như cậu vói ông ta, đích thực có chỗ hơn người, cũng không biết trung đoàn trưởng Phong ấy..." Nói tới đây, lão ôm đầy mội bụng u uất, chìm vào trầm ngâm suy nghĩ.

Tôi khuyên Tôn Cửu gia đừng nghĩ ngợi nhiều, có người nghi ngờ ông giết chết vị trung đoàn trưởng Phong đá mất tích nhiều năm sau khi bỏ trốn, nhưng đấy là chuyện chết không đối chứng, mà thực ra cũng chỉ bọn tiểu nhân muốn hãm hại ông mới suy đoán như vậy thôi. Bọn họ chưa từng nghĩ, với bản lĩnh của Tôn Cửu gia ông đây, cho dù ngấm ngầm ra tay sợ rằng cũng chẳng thể làm gì nổi vị trung đoàn trưởng họ Phong kia. Người ta là sĩ quan chỉ huy cấp quân đoàn của Chí Nguyện quân từng đánh trận với quân đội Mỹ chứ có phải đùa đâu, vậy nên tổ chức không định tội ông cũng có cái lý của họ. Chuyện này người có đầu óc một chút đều hiểu được, chẳng qua không chính thức đứng ra thanh minh cho ông mà thôi.

Tôi nghĩ hồi đó chỉ cần trung đoàn trưởng Phong chạy về được đến đây, quá nửa là đã trốn vào mộ cổ Địa Tiên rồi, dù hiện giờ ông ta sống hay chết, cũng sẽ bị chúng ta tìm thấy. Vụ án oan của ông đến lúc đó sẽ có lời giải đáp.

Đã có kế hoạch hành động sơ bộ, cũng không còn băn khoăn điều gì nữa, chúng tôi cắt lượt canh đêm, rồi lần lượt chìm vào giấc ngủ trong tiếng mưa rào rào bên ngoài, cả đêm không nói chuyện gì. Sáng sớm hôm sau vẫn còn mưa phùm lất phát, khắp nơi khắp chốn trong thị trấn Thanh Khê đều là hố, rãnh nước, lại thêm đường núi sau mưa lầy lội không thể đi được, chúng tôi đành quyết định đi xuống địa đạo ở sân sau, tiến về phía mé Tây của hầm phòng không.

Nghe nói, đường hầm này vốn là địa đạo ngầm, vì trước Giải phóng, người ở trong khu nhà họ Phong không phải địa chủ thì cũng là chủ hầm mỏ, tình hình xã hội bất ổn, quân phiệt thổ phỉ hoành hành, chủ mỏ muối lại toàn cự phú nhiều vàng lắm bạc, vả lại người nào người nấy hai tay đều nhuốm đầy máu tươi của phu mỏ, để đề phòng bất trắc, ngoài việc ngấm ngầm nuôi dưỡng một đám "tử sĩ" làm gia đinh trông nhà giữ cửa, còn đặc biệt xây dựng đường hầm bí mật, phòng khi cấp bách có thể nhanh chóng đào thoát.

Có điều, các đường hầm bí mật thời đó dường như đều bị phá hoại lúc thi công công trình, lối vào bí mật lộ ra ngoài, bên trong cũng trở thành một phần của hệ thống hầm phòng không quy mô lớn. Cái gọi là hầm phòng không này, không phải chỉ để dân chúng ẩn nấp khi có ném bom, mà ở mức độ thấp nhất cũng có tác dụng "ba phòng". Thời đó chủ nghĩa đế quốc vẫn chưa từ bỏ tham vọng xâm chiếm Trung Quốc, hơi tí là rêu rao phải tiến hành "ném bom chiến lược phẫu thuật ngoại khoa" cho Trung Quốc. Với mục tiêu phòng ngự tích cực, toàn quốc mới tiến hành "đào hầm sâu, trữ lương thực" trên diện rộng, tác dụng lớn của loại công trình ngầm này chính là có thể cất giấu một lượng lớn các vật tư thiết bị chuẩn bị cho chiến tranh, từ đạn dược, máy bay cho đến lương thực, quần áo đều có thể cất chứa trong này, việc thiết kế xây dựng hoàn toàn dựa theo yêu cầu thời chiến, quy mô không nhỏ.

Khu vực bên dưới cổ trấn Thanh Khê này đều là những kho hàng trấn hình vòm cung nối liền với nhau, được cải tạo lại từ các giếng muối hồi xưa, tường xi măng màu xám nhạt đem đến cho người ta cảm giác cực kỳ u ám lạnh lẽo. Những chỗ xi măng tróc lở, còn có thể nhìn thấy tầng nham thạch bên trong, tình trạng ngấm nước trong phạm vi cục bộ hết sức nghiêm trọng.

Mặc dù trong đường hầm cứ mười mấy mét lại có một ngọn đèn chiếu sáng, nhưng đường điện đã bị ẩm, thiết bị phát điện thô sơ cũng đã bị phá hoại từ lâu, không thể sử dụng được nữa, chúng tôi đành dùng đèn pin mắt sói soi đường. Dựa vào bản đồ và la bàn để tham chiếu dò đường, thông đạo dưới lòng đất này cũng không khó đi lắm, vả lại những chỗ đường hầm giao cắt nhau còn có chỉ dẫn rõ ràng.

Men theo đường hầm đi về phía Tây, trong hầm phòng không mỗi lúc một thêm ẩm thấp, được nửa đường thì gặp đoạn hầm sụt lún, không thể tiến lên theo tuyến đường đã định ban đầu được nữa. Tôi lấy bản vẽ ra xem, thấy chỉ có thể đi vòng theo lối rẽ ở mé bên, liền vòng lại chỗ ngã tư gần nhất, nhìn lại ký hiệu trên bản vẽ, nếu đi theo con đường phía bên trái sẽ là một hầm mỏ nguyên thủy, ra khỏi phạm vi của hầm phòng không, ở lối vào có hàng rào sắt, bên trên treo một tầm bảng gỗ.

Tôi giơ đèn pin lên soi, thẫy trên bảng gỗ hình như có chữ viết nhưng đã bị bùn đất che khuất. Tuyền béo bước lên lấy tay quệt quệt, hàng chữ màu đỏ tức khắc hiện ra, cậu ta đọc to lên: "Phía trước sạt lở - Nguy hiểm. Nhất này, xem chừng hầm mỏ bên này có nguy cơ sạt lở, chắc chắn không dễ đi đâu, chúng ta vòng theo lối bên phải thì hơn."

Shirley Dương giơ đèn pin chiếu vào đường hầm mé bên phải: "Trên tường phía bên phải này cũng có chữ, dám đấu tranh, dám thắng lợi... thế là ý gì vậy?"

Tôi ngẩng đầu lên nhìn hàng biểu ngữ kẻ trên tường xi măng phía mé phải, thật là vô cùng quen thuộc, bèn cười cười nói: "Chắc chắn em không hiểu được đâu, cái này gọi là chỉ thị tối cao. Trên bản đồ có đánh dấu lối đi bên phải này là thông đạo dự phòng, tương đối chật hẹp thô sơ nhưng đã hoàn công, các đồng chí, chúng ta đến đây rồi thì không còn lựa chọn nữa, đành phải đi theo bên có biểu ngữ này thôi."

Tuyền béo nói: "Được rồi, nghe theo chỉ thị tối cao của tư lệnh Nhất là không sai đâu, đi thôi..." Nói xong liền nghênh ngang đi vào trước. Tôi lo Tuyền béo đi nhanh quá bị lạc đội ngũ, vội thúc giục ba người còn lại rảo bước theo sau cậu ta. Đường hầm ở mé Tây bị ngấm nước còn nghiêm trọng hơn cũng có thể là do trận mưa lớn đêm qua, hai bên tuy có đường ống thoát nước nhưng nước vẫn ngập hết bàn chân, bên dưới tường xi măng mọc đầy những rêu.

Ốc sên trắng phớ bò kín chân tường xanh đen, trông rất nổi bật, càng đi sâu vào trong ốc sên càng nhiều, có con còn sống, có con chết rồi để lại vỏ, bước một bước lại nghe tiếng vỏ ốc vỡ lạo xạo.

Út mặc dù gan dạ, nhưng giẫm lên một đám ốc sên chết thối rữa nhoen nhoét cũng không khỏi cảm thấy tởm lợm: "Hồi trước làm gì có nhiều ốc sên thế này ? Chả hiểu bọn chúng ở đâu chui ra nữa?"

Tôi ngoảnh đầu lại bảo cô: "Nơi này ngấm nước quá nhiều, rêu mọc dày, thành thử mới kéo bọn ốc sên đến, em chỉ cần đừng nghĩ đến chúng nó thì sẽ không thấy ghê tởm nữa, theo sát anh nào, chớ để lạc đội ngũ..." Tôi còn chưa dặn dò xong, đã nghe đằng trước có người "ối cha" một tiếng ngã lăn ra đất. Thì ra Tôn Cửu gia bị lũ ốc sên nhầy nhụa dưới đất làm trượt chân ngã chổng vó lên trời, hai tay cũng bị vỏ ốc vỡ đâm toạc cả máu.

Tôi vội vàng đưa tay đỡ lão ta dậy, thấy không bị thương gân cốt mới yên tâm phần nào. Trong đường hầm ẩm ướt chật hẹp này không thể dừng chân nghỉ ngơi, đành bảo lão ta cố nghiến răng chịu đựng, cũng may Tôn Cửu gia từng phải chịu tội chịu khổ, ngã bầm tím mình mẩy cũng không để tâm lắm, chỉ xuýt xoa một chút rồi lại đi tiếp được.

Tôi thấy trong đội ngũ có già có trẻ, nếu ngã gãy tay gãy chân thì không phải chuện đùa, liền bảo Út và Shirley Dương đỡ giáo sư Tôn đang khập khà khập khiễng, còn tôi và Tuyền béo đi phía trước, vừa đi vừa dùng xẻng công binh xúc từng đống từng đống ốc sên dưới đất, dẹp đường cho bọn họ.

Cứ đi như vậy một lúc, cuối cùng chúng tôi cũng qua hết đoạn đường hầm lổn nhổn toàn ốc sên ấy, đẩy cánh cửa sắt ra, bên trong rộng rãi thông thoáng hẳn, phía trên có những lỗ thủng để ánh sáng từ bên ngoài núi rọi vào, mưa đã tạnh, một luồng không khí mát lạnh trong lành ùa vào mặt, cả bọn ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đây là khu vực tiếp nối cuối đường hầm dự phòng, chỉ chốc lát nữa thôi là có thể đến được mé Tây của hệ thống hầm phòng không. Khu vực này chạy xuyên vào lòng núi, hồi trước toàn giếng khai thác muối, nhưng giờ bên trong đã được cải tạo thành bê tông cốt thép cả rồi.

Tôi thấy Tôn Cửu gia đau đến nỗi nghiến răng kèn kẹt, hai tay máu mê đầm đìa, liền bảo cả bọn nghỉ ngơi một lát, băng bó vết thương trên tay lão rồi đi tiếp.

Giáo sư Tôn cởi ba lô, tìm một chỗ khô ráo ngồi xuống. Shirley Dương lấy túi cứu thương ra rửa vết thương cho ông ta, chỉ nghe giáo sư Tôn thở dài nói: "Không chịu già cũng không được, nếu là mười năm trước, ngã một cú thế này có đáng gì đâu chứ? Nhớ năm xưa ở nông trường cải tạo Quả Viên Câu.."

Tôi ngồi xuống, thấy Tôn Cửu gia lại giở giọng già cả ra, chuyện lớn làm không nổi chuyện nhỏ làm chẳng xong, đang định giễu cợt mấy câu, ngước mắt nhìn lên bỗng thấy phía sau ông ta và Shirley Dương có một bóng người, cái bóng đen ấy ngói chồm hỗm dưới đất, đang len lén vươn tay nhón lấy con ốc sên dính trên lưng giáo sư Tôn, bắt được con nào liền bỏ vào miệng ăn con ấy. Bóng đen đó hết sức lặng lẽ, Shirley Dương và giáo sư Tôn đều không phát giác.

Tôi giật bắn mình, vội kéo Út ra sau lưng, kêu một tiếng "có chuyện", rồi lập tức bật dậy, lăm lăm xẻng công binh trong tay. Tuyền béo phản ứng cũng cực nhanh, giơ nỏ liên châu lên bắn luôn. Hai mũi tên ngắn có thể xuyên cả giáp sắt ấy như hai con châu chấu "vù" một tiếng lướt qua giữa giáo sư Tôn và shirley Dương, sượt qua bóng đen kia ghim vào tường xi măng.

Bóng đen trong góc tựa như quỷ mị, sau phút kinh hãi liền lách người bỏ trốn, thân hình nhanh đến khó bề tưởng tượng. Tuyền béo đang định dùng nỏ liên châu bắn nữa, chợt nghe giáo sư Tôn thất thanh kêu lên: "Đừng bắn!" Kế đó, lảo ta lại hô vang: "Lão Phong... ông đừng chạy, chúng tôi không đến bắt ông đâu... Cách mạng Văn hóa kết thúc rồi mà..."

Tiếng gọi của giáo sư Tôn không ngừng vọng đi vọng lại trong hầm phòng không trống trải, nhưng đáp lại lão ta không phải tiếng người, mà là tiếng còi hụ cảnh báo có máy bay tập kích thê lương khôn tả vảng ra cừ sâu bên trong.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 9 _ Còi báo động máy bay tập kích

Tôi và Tuyền béo đang định nhổm dậy đuổi theo bóng đen kia, chợt nghe trong hầm phòng không vang lên tiếng còi báo động chói tai, đường hầm này rất tụ âm, tiếng rít dài khủng khiếp ấy tựa hổ được cả núi non sông suối đồng thanh hưởng ứng, khiến người ta nhất thời kinh hồn bạt vía.

Cả bọn thảy đều kinh hãi, trong đường hầm phòng không Thanh Khê bỏ hoang nhiều năm, sao lại có tiếng còi báo động máy bay được chứ? Lẽ nào đây là hành vi của trung đoàn trưởng Phong kia? Tuyền béo buột miệng chửi bậy: "Thằng cha trung đoàn trưởng kia cầm tinh con thỏ hả, sao chạy nhanh thế?" Út lắc đầu nói: "Không phải người, ai mà nhanh thế được chứ? Em thấy giống khỉ Ba Sơn hơn..."

Một màn vừa rổi diễn ra thực sự quá nhanh, trong đường hầm có rất nhiều chỗ nứt toác như giếng trời, lấy được không ít ánh sáng, tuy không phải chỗ nào cũng tối om như mực, nhưng ánh sáng nhập nhèm mông lung, căn bản không kịp nhìn rõ cái bóng đen kia là người hay khỉ. Lúc này, nghe tiếng còi hụ báo động vang lên đầy cổ quái, chúng tôi do dự không biết có nên tiến vào trong xem xét hay không.

Đột nhiên thấy giáo sư Tôn bật dậy, chạy thẳng vào sau bên trong đường hầm, vừa chạy lão ta vừa hét gọi tên trung đoàn trưởng Phong, tôi và Shirley Dương định vươn tay ra níu lão ta lại. nhưng đều hụt mất. Tôi gọi với: "Tôn Cửu gia, ông điên rồi à?" đoạn cũng guồng chân đuổi theo lão. Đồng thời gọi mấy người kia nhanh chóng bám sát.

Cả bọn chạy dọc theo dường hầm dược mấy chục mét , đến trước một cánh cửa vòm bằng xi măng rất lớn, Tôn Cửu gia chạy đằng trước thình lình dừng phắt lại, tiếngcòi hụ báo động phát ra chính từ chân bức tường có kẻ biểu ngữ "Chuẩn bị chiến tranh, đề phòng mất mùa". Đó là một góc chết ánh sáng không chiếu vào được, trong góc có thứ gì đó đang nhấp nhổm không yên, dường như đang quay một cái còi báo động phòng không kiểu quay tay.

Tôi nhân lúc giáo sư Tôn dừng lại liền tóm chặt lão ta, đồng thời giơ đèn pin mắt sói soi về phía góc chết tối om ấy. Vật trong góc cảm nhận được sự thay đổi của ánh sáng, lập tức ngẩng đầu lên, không ngờ lại là một bộ mặt lông lá kỳ dị như dã nhân, đôi mắt xanh lam sáng rực như ngọn đuốc.

Con quái vật lập tức bị ánh sáng chói từ đèn pin làm hoa mắt, kinh hãi kêu lên một tiếng quái dị rồi ném bỏ thiết bị báo động phòng không đang cầm trên tay xuống. Tiếng còi hụ vang khắp hầm phòng không lập tức im bặt, chỉ thấy nó giơ tay lên che cột sáng chói lóa đang chiếu vào mắt, da trên bàn tay nhăn nhúm đầy lông đen sì, móng tay cũng dài thượt, tuyệt đối không thể là tay người.

Lúc này, Shirley Dương, Út, Tuyền béo cũng lần lượt chạy tới. Tuyền béo thấy vậy lập tức giơ nỏ liên châu lên định bắn chết con vật kia, nhưng Tôn Cửu gia vội đẩy cái nỏ của cậu ta ra, thở hồng hộc nói: "Đừng... chớ bắn tên, lão Phong... là... là lão Phong.

Út không hiểu lão Phong mà giáo sư Tôn nói đến là ai, ngẩng mặt lên nhìn, bất giác kinh ngạc thốt: "Lão Phong cái gì chứ? Đây là con khỉ Ba Sơn thường gặp trong núi lắm mà, người trong núi ai mà chẳng gặp rồi ?"

Con khỉ Ba Sơn trong góc cao gần bằng người, nhân lúc chúng tôi chưa xông lên, liền bưng cặp mắt bỏng rát vì ánh sáng của đèn pin mắt sói, lách người chui vào bóng tối phía sau khung cửa xi măng, tiếng hú chớp mắt đã ở xa ngoài trăm bước. Lúc này dù là nỏ liên châu cũng chẳng theo kịp nó nữa rồi.

Tôi sợ giáo sư Tôn lại lên cơn điên đuổi theo con khỉ kia, vẫn tóm chặt lấy bắp tay lão ta không dám buông ra, hỏi: "Tôn Cửu gia, ông bị hoa mắt hay mất trí vậy? Cả người với khỉ mà cũng không phân biệt được à? Ông không nhìn rõ sao? Đó đâu phải trung đoàn trưởng Phong chứ?"

Giáo sư Tôn giậm chân nói: "Cậu tưởng tôi không chịu được đả kích như lão Trần, bảo điên là điên luôn đấy hả? Đó rõ ràng là con khỉ trung đoàn trưởng Phong nuôi mà, hồi đó ở nông trường cải tạo lao động tôi đã gặp nó rồi. Con khỉ này cực kỳ tinh quái, tuy không ở cạnh chủ nhân, nhưng toàn đi khắp nơi trộm đồ ăn, nhân lúc người ta không để ý lại mang đến cho lão Phong, thuốc lá bánh kẹo trà lá trứng gà hoa quả... chẳng gì mà nó không trộm được, bấy giờ tôi cũng được hưởng sái ăn theo không ít thứ."

Shirley Dương hỏi Tôn Cửu gia: "Giáo sư có thể xác định không ? Loài khỉ Ba Sơn này ở trong rừng đâu đâu cũng có, trong thiên hạ nào phải chỉ có mỗi con khỉ được trung đoàn trưởng Phong thuần dưỡng ấy."

Giáo sư Tôn đáp: "Dù tôi già cả mắt kém, nhưng tuyệt đối không thể nhìn lầm được, tại sao biết không? Vì trên cổ con khỉ già ấy có đeo một cái kim bài. Tôi thoáng liếc mắt đã thấy ngay, hồi trước trung đoàn trường Phong bị đày đi lao động cải tạo, không được phép mang theo bất cứ vật phẩm cá nhân nào. Nhưng ông ta có một miếng kim bài Quan Sơn thái bảo của tổ tiên truyền lại, đấy là vật Minh Thái Tổ ngự ban, nếu bị phát hiện chắc chắn sẽ bị tịch thu. trung đoàn trưởng Phong không nỡ bỏ vật này, bèn đeo lên cổ con khỉ mình nuôi. Lúc ống ta bỏ trốn về đây, chắc chắn cũng dẫn theo cả con khỉ ấy cùng về."

Tôi nói: "Xem ra vị trung đoàn trưởng Phong này cũng là một nhân vật đượm màu sắc truyền kỳ đây, nếu ông ta còn sống đến nay, tôi thật rất muốn gặp một lần cho biết."

Tuyền béo nhặt bộ còi báo động phòng không kiểu quay tay lên, nói thứ nàv giờ là hàng hiếm, ở Phan Gia Viên chuyên thu mua, cũng không biết con khỉ kia trộm ở đâu ra, bỏ đây thì tiếc quá, nói đoạn cậu ta tiện tay nhét luôn vào ba lô, rồi bảo: "Nếu con khỉ Ba Sơn ấy hiểu được ý người, chi bằng chúng ta đuổi theo bắt sống, ép nó dẫn chúng ta đi quét sạch thôn Địa Tiên, con khỉ này chắc chắn thích ăn kẹo, ở đây ta có đầy sô cô la Mỹ, còn sợ không tìm được lối vào mộ cổ hay sao ?"

Giáo sư Tôn nói: "Khỉ Ba Sơn tuy rất thông minh, nhưng dù sao cũng là loài thú, ép nó dẫn đường cho chúng ta thì không thể, nhưng có thể lần theo dấu vết của nó, không chừng lại tìm thấy lão Phong và mộ cổ Địa Tiên cũng nên."

Tôi gật đầu nói: "Cứ vậy đi, tiểu đội trưởng đầu heo Vương Khải Tuyền, không phải cậu muốn làm tướng quân sao? Cậu đi trước mở đường cho chúng ta đi, nhanh chóng xuất phát."

Bọn tôi sợ để con khỉ Ba Sơn chạy xa quá sẽ không thể theo dấu được, không dám lần lữa, vội chạy dọc đường hầm đuổi theo nó. Đường hầm này chạy xuyên qua cả ngọn núi phía Tây trấn Thanh Khê, trên mặt đất có đường ray để vận chuyển đất đá, những mỏ muối khoáng xung quanh đã đào rỗng ruột ngọn núi, hầm phòng không và đường hầm chính quy chỉ là một phần nhỏ trong đó, bên trong địa hình phức tạp, nhiều chỗ rẽ nhánh. Chúng tôi di trong đường hầm tối đen như mựckhoảng mấy cây số vẫn không thấy bóng dáng con khỉ Ba Son kia đâu, chẳng rõ nó đã chạy đến tận đâu rồi.

Trước mắt, muốn tìm "Địa Tiên", vẫn phải tìm thấy "ô dương" chứ không thể theo con khỉ Ba Sơn kia chạy loạn trong hệ thống đường hầm như mê cung này được. Chúng tôi đành tiếp tục đi về phía cuối đường hầm, chỗ đó nối liền với một hẻm núi đan xen chằng chịt, là nơi mạch khoáng muối không vươn tới, cũng là khu vực chúng tôi định khảo sát theo kế hoạch ban đầu.

Đi đến cuổi đường hầm, chỉ thấy bức tường mé bên đã sạt lở, để lộ một hang núi rất lớn, trong hang toàn gạch đá vỡ vụn, nhìn màu sắc thì đều là gạch cổ, bên trong vẫn còn một đống thú đá ô dương mới bới ra được một nửa, một nửa vẫn chìm trong tầng đất, nhìn qua đủ thấy số lượng cũng không ít.

Tôi nói với những người còn lại, chỗ này có thể bị sụt lún lộ ra lúc công trình đi gần đến giai đoạn cuối. Hầm phòng không này là sản phẩm đặc thù của một thời đại đặc thù. Thực ra trong lòng núi chằng chịt những hầm mỏ khai thác muối khoáng thời xưa này, tình hình ngấm nước và sạt lở rất nghiêm trọng, căn bản không thể xây công trình phòng hộ nào hết, người chui vào đây không bị chôn sống là may phước rồi, còn mong gì phát huy tác dụng ba phòng với chẳng bốn phòng.

Giáo sư Tôn cắm đèn pin chiếu vào hang động lộ ra ở chỗ sụt lún xem xét: "Đây là hố tuẫn táng à? Nhưng cũng không giống..." Ngay sau đó, lão ta phát hiện ra những con thú đá ô dương mới đục đẽo một nửa và đống đá nguyên liệu, liền đoán đây có thể là nơi điêu khắc tượng thú đá thời cổ. Bên trong hang động lớn bằng khoảng bảy tám nhà dân, bề mặt tầng nham thạch trơn nhẵn kiên cố, mạch đá hết sức đặc biệt. Những tảng đá dùng điêu khắc thú đá ô dương đều được khai thác tại chỗ, ngoài ra không còn vật gì đặc biệt, nhưng hang động này không có mạch khoang muối Vu, nếu chẳng phải vì công trình đường hầm kéo dài đến đây, thì không thể phát hiện ra được .

Shirley Dương phát hiện trên vách núi có luồng gió lưu động, cơ hồ có khe hở thông ra ngoài, bèn lấy xẻng xúc lớp đất bám bên trên, để lộ một bức tường không chắc chăn lắm. Cô đưa tay đẩy nhẹ, tường gạch liền rầm ràm đổ xuống, ánh sáng bèn ngoài chiếu thẳng vào. Tôi thò đầu ra quan sát, thấy miệng hang này mở ra lưng chừng núi, phía trước có một con đường đi dốc đứng ngoằn ngoèo dẫn xuống đáy hẻm núi, nhưng từ chỗ này nhìn xuống không thể thấy được tình hình phía dưới.

Đối diện là một vách núi dựng đứng dựa trời tiếp đất, vách cao nghìn thước, khói mây mù mịt, mấy chục dòng thác hình thành sau cơn mưa từ trong núi cuồn cuộn trào ra, chảy từ các khe ránh trên vách đá xuống đáy hẻm núi. Vì vách núi rất cao, những dòng nước chảy ra đều như những sợi chỉ bạc buông thẳng, rơi xuống giữa những sườn dốc hiểm trở cây cối um tùm, trông hết sức hùng vĩ.

Trên vách đá cheo leo hai bên hẻm núi đều có đường đục vào lòng núi, ngang dọc đan xen như mạng nhện, không biết là dẫn tới những đâu. Đoạn đường dốc bên dưới miệng hang có tượng thú đá ô dương chỉ là một đoạn rất nhỏ trong hệ thống ấy. Tôi hỏi Út có biết hẻm núi này là nơi nào không? Út bảo, đây là hẻm núi Quan Tài, khắp nơi đều là quan tài treo. Nơi ấy thuở trước có phong tục "treo quan tài lấy may, gỗ rơi xuống là điểm lành", chẳng biết đã qua bao nhiêu đời. Rất nhiều khe núi quanh đây đều là quan tài treo, nhưng hẻm núi Quan Tài là nhiều nhất, vì vậy mới có tên .

Tôi thầm nghĩ, truyền thuyết về Mộ cổ thôn Địa Tiên chưa từng nhắc đến chuyện treo quan tài trên vách đá, Quan Sơn thái bảo hẳn cũng không chọn nơi lộ ra cho gió dập mưa vùi này làm âm trạch, bèn hỏi tiếp Út, dưới hẻm núi này có gì không? Có ai từng xuống dưới đó chưa?

Út lắc đầu, ý bảo mình cũng không rõ lắm, vì dân bản địa đa phần đều biết, hẻm núi Quan Tài không chỉ là một hẻm núi, mà mười mấy hẻm núi khe sâu hun hút đan xem chằng chịt với nhau, từ trên cao nhìn xuống, địa hình trông tựa như một chữ "Vu", nên còn được gọi là Tiểu Vu Hiệp. Trong đó, hầu hết các vách đá đều có đường sạn đạo do cổ nhân xây dựng, có điều vì đã quá lâu, hệ thống sạn đạo đã biến thành một mê cung phức tạp, nhiều chỗ đi được một nửa là không còn đường đi nữa. Đồng thời, từ bên ngoài cũng không có đường nào để tiến vào. Ngay cả dân trong vùng cũng rất ít người thông thạo đường đi lối lại, bởi ngoài việc đường đi khó khăn nguy hiểm, bên trong hẻm núi Quam Tài còn đầy những quan tài treo lơ lửng, toàn là xương cốt người chết, ai rỗi hơi đến đây làm gì? Hồi trước, Út từng nghe người già trong trấn nói rằng: "Hẻm núi Quan Tài, một đường trời, mười người trông thấy chín kẻ sầu".

Tôn Cửu gia nói: "Vậy thì đúng rồi, người trong vùng hiện nay đã không phân biệt nổi sạn đạo cổ lơ lửng trên vách núi và điểu đạo khảm vào lòng núi nữa. Kỳ thực cổ đạo ở hẻm núi Quan Tài này đều được khoét vào vách núi dựng đứng, cách một đoạn lại có một hang nông, giống như ổ chim vậy, nên mới gọi là điểu đạo. Chắc chắn câu Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi kia chỉ hệ thống điểu đạo chằng chịt ở khu vực này, trăm bước điểu đạo có lẽ là một đoạn nào đó, chỉ cần nghĩ cách tìm dược đoạn đường ấy, thì chúng ta đã đến rất gần lối vào mộ cổ Địa Tiên rồi đấy."

Shirley Dương quan sát một lúc, đoạn nói: "Độ cao của vách đá dựng đứng không dưới một nghìn mét, hệ thống điểu đạo trên đó ngang dọc rất phức tạp, có thể nói là cực kỳ ngoằn ngoèo, chẳng những vậy thế núi lại cheo leo mờ mịt, xung quanh bị sương mù phong tỏa, làm sao phán đoán được đoạn nào mới là chỗ trăm bước chín hồi chứ?"

Tôi thấy hình thế hẻm núi Quan Tài này quả thực bất phàm, chênh lệch độ cao hơn một nghìn mét là khái niệm thế nào chứ? Tương đương chồng vài tòa nhà mấy chục tầng lên nhau đấy. Vả lại, mỗi hẻm núi đều chạy vòng tít tắp, trong núi mây mù mờ mịt, nước xiết cuồn cuộn, khí tượng thần bí vô cùng, vừa hùng vĩ vừa tráng lệ, nhìn mãi không hết, ngắm mãi không chán.

Những nơi thâm nghiêm hiểm trở mà tôi từng thấy trong đời, đều không thể bì với nơi này. Dù giẫu mười vạn đại quân trong hẻm núi Quan Tài, cũng tuyệt đối không thể lộ chút dấu vết nào, nếu mộ cổ Địa Tiên được xây dựng tại đây, người ngoài không hiểu nội tình và bí mật bên trong, sợ rằng có được thần tiên giúp cũng khó lòng tìm ra nổi.

Tôi bảo mọi người, muốn soát sơn tàm long, phân kim định huyệt ở đất này chỉ e còn khó hơn lên trời, tốt nhất phải nghĩ cách tìm được "điểu đạo trăm bước". Tình hình trước mắt cho thấy, mấy câu gợi ý của trung đoàn trưởng Phong đa phần đều đã có đối ứng, bây giờ chúng ta đang ở vùng ngoại vi của hẻm núi Quan Tài, đợi tiến vào trong xem xét rõ tình hình rồi tính toán tiếp, cứ tùy cơ ứng biến là được.

Tuyền béo nghe loáng thoáng phải đi trên "điểu đạo nghìn thước", ngước lên đã thấy hoa mắt chóng mặt, trông xuống thì đầu váng mắt hoa, thực quá cao quá nguy hiểm, lập tức đòi đánh trống lui quân, viện cớ nói Quan Sơn thái bảo chắc chắn không ở trong hẻm núi Quan Tài này, vẫn nên quay lại hầm phòng không Thanh Khê tìm con khỉ dẫn đường mới là thượng sách.

Tôi liền giở phép khích tướng, vỗ vỗ cái bụng thịt của Tuyền béo, hỏi cậu ta gần đây có phải mải mê hưởng thụ đến chột cả lá gan đi rồi hay không? Hẻm núi Quan Tài đích thực là nơi thập phần hiểm yếu, "dẫu bậc cái thế anh hùng cũng phải khiếp đảm kinh tâm" nhưng nếu không phải vậy, mộ cổ Địa Tiên đã không thể thoát khỏi bàn tay đám trộm mộ mà giữ được nguyên vẹn đến ngày nay. Chủ nhân ngôi mộ ấy, chính là một kẻ trùm sò năm xưa từng đi trộm mộ khắp nơi, kim châu bảo ngọc bên trong, có thể nói là nhiều không kể xiết, tư lệnh Tuyền béo nhà cậu còn không mau chóng đi tiếp quản thì sớm muộn gì cũng thành vật trong túi kẻ khác đấy.

Tuyền béo bị tôi gãi đúng chỗ ngứa, nghe thấy mấy chữ "kim châu bảo ngọc" càng sáng bừng hai mắt, hừng hực lửa lòng, nghiến răng nghiến lợi mãi rồi cũng hạ quyết tâm, dằn giọng nói: "Hôm nay để cho các người thấy, ông Tuyền béo còn chưa về hưu đâu, tiên sư nó chứ, ông chính là loại người dám đấu tranh, dám thắnglợi đây, nêu không có đảm lượng khí phách mặc sóng to gió lớn, ngồi vững Điểu Ngư đài(1), thì đâu xứng với sự nghiệp đổ đấu này nữa chứ?"
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 10 - Hẻm núi quan tài

Những bức nham họa trên vách đá cổ ấy giống như một dạng totem hay truyền thuyết, phong cách kỳ dị hiếm thấy, men theo điểu đạo nghìn thước đi xuống, chỗ nào cũng có, không biết từ niên đại nào sót lại đến ngày nay. Những cảnh tượng được vẽ lại, cơ hồ đều là những tai họa khủng khiếp, có nạn châu chấu che kín cả mặt trời, có nước lũ ngập tràn mặt đất, cũng có núi lửa phun trào, núi long đất lở, loài người và muông thú tàn sát lẫn nhau...

Tôi xem mà lấy làm kỳ quái, sao bao nhiêu kiếp nạn khủng khiếp đều đổ dồn về hẻm núi Quan Tài trấn Thanh Khê này như vậy? Thật đúng là "nước sôi lửa bỏng", nhưng nhìn địa thế khu vực hẻm núi chằng chịt đan xen này, tựa như vô số con rồng đang cuộn mình tiềm phục, trong núi mây khói biến ảo vấn vít, thác nước trên vách đá cheo leo như sông Ngân từ trời đổ xuống, theo quan điểm phong thủy học thì đây là đất "ẩn nạp, tàng tiên", lẽ nào thời viễn cổ lại là chốn Địa ngục A Tỳ hay sao?

Shirley Dương nói: "Nước sông cuộn máu, ếch nhái khắp nới, rận rệp thành đàn, dã thú chết hết, ôn dịch lây lan, da dẻ thối rữa, mưa đá lửa đỏ, châu chấu ùa về, bóng tối xâm chiếm, con trưởng chết thảm là mười hình phạt của Chúa Trời được ghi chép trong Kinh Thánh. Tuy rằng văn hóa Trung Quốc và phương Tây có sự khác biệt, nhưng tôi thấy nơi này thật giống vùng đất bị thần linh lãng quên được nhắc đến trong Kinh thánh vậy."

Giáo sư Tôn không đồng ý với cách nhìn của chúng tôi, lão ta lập tức chỉ ra: "Chớ nên theo chủ nghĩa duy tâm tin vào thần linh hay trời phạt, theo kinh nghiệm của tôi, những bức nham họa này là di tích có từ trước thời Chiến Quốc. Trước khi Tiên Tần xây dựng công trình thủy lợi Đô Giang Yến, vùng Ba Thục này liên tiếp gặp thiên tai, năm nào cũng có lũ lụt hay núi lửa phun trào, hoàn toàn không phải truyền thuyết không có thật đâu."

Tôi vốn định tranh luận thêm với lão ta, nhưng điểu đạo càng đi càng hiểm trở, không thể phân tâm nói chuyện hoặc để ý đến những bức họa trên vách đá được, ai nấy đều phải dán lưng sát vách, nhích từng bước một. Tuyền béo mặt mày tái mét, nhắm tịt mắt lại không dám nhìn xuống dưới, bốn phía mênh mang toàn sương khói mông lung mờ ảo, người đi trên điểu đạo như lạc giữa tầng mây, chẳng thể phân biệt được Đông Tây Nam Bắc.

Chúng tôi đi trên điểu đạo đục lõm vào vách đá một lúc lâu, chợt nghe tiếng nước ầm ầm như sấm động dưới chân, trên vách đá lạnh toát toàn hạt nước, thiết tưởng cách đáy hẻm núi không còn bao xa nữa. Lúc này, Shirley Dương đi đầu đột nhiên dừng lại, thì ra con đường đã bị cắt đứt, không sao tiến thêm lên được, có điều, chỗ này chỉ cách mặt đất chừng ba mét mà thôi.

Shirley Dương nói bên dưới có thể đặt chân được, bèn thả phi hổ trảo xuống, để mọi người lần lượt bám vào dây xích đánh từ thép ròng tụt xuống đáy hẻm núi. Dưới đáy hẻm là một dòng sông nước chảy rất xiết, hai bên có nhiều bãi đá xanh tự nhiên. Giữa những bãi đa nguy hiểm "loạn thạch tứ tung, sóng dữ cuộn trào" ấy, có mấy con đường lát đá quanh co khúc khuỷu có thể đi được.

Tuyền béo chạm được chân xuống đất, mới thấy yên tâm: 'Nhất à, chúng ta đến đâu rồi ? Viện bảo tàng mộ cổ của địa tiên ở trong hẻm núi này đấy hả?

Tôi đảo mắt nhìn quanh bốn phía, trên đỉnh đầu là màn sương mỏng thoắt tụ thoắt tan, đáy hẻm núi thì đầy hơi ẩm, nước bẩn tung tóe, chỉ thấy khắp dải núi non đều mênh mang mờ mịt, thực không biết đã đến nơi nào. Còn chưa biết trả lòi Tuyền béo ra sao, chợt nghe Shirley Dương nói: "Mọi người nhìn phía sau kìa..." Chúng tôi vội ngoảnh đầu nhìn, thì ra bên dưới vách đá sau lưng chúng tôi toàn đá vụn lở vỡ, trong đám ngổn ngang ấy lộ ra mấy chỗ gần giống dấu tích của rường đá, cửa đá, xem chừng trước đây dưới chân vách đá này có một cửa hang bằng đá rất lớn, nhưng giờ đã bị đất lở bít kín hoàn toàn.

Shirley Dương nói: "Út nói nơi đây là khu vực rìa của hẻm núi Quan Tài, đường hầm dẫn đến cửa đá này, rất có thể là đường tiến vào từ bên ngoài hẻm núi, giờ chúng ta đã đến được cổng lớn của hẻm núi Quan Tài rồi đấy."

Tôi và Tôn Cửu gia đểu cảm thấy mười phần chắc tới tám chín là như vậy, nhưng hẻm núi Quan Tài này địa thế hiểm trở, không rõ có mạch khoáng hay giếng khai thác gì không. Phỏng chừng, hầm phòng không Thanh Khê cũng chưa vươn vào tới đây, bản đồ bản vẽ tìm được trong thị trấn đều vô dụng mất rồi. Bởi vậy, tuy đã vào đến cửa núi, nhưng đối diện với hẻm núi sâu thần bí khó lường này, tôi thực tình cũng không biết bước tiếp theo nên hành động thế nào.

Mọi người thương lượng tại chỗ vài câu, rồi nhanh chóng quyết định dựa theo phương vị của cửa đá ở lối vào hẻm núi, từ đây tiến sâu vào trong thăm dò kỹ hơn. Chúng tôi mang theo nhiều lương khô, đủ dùng trong thời gian ngắn, chỉ có điều, hẻm núi Quan Tài này cách biệt với thế giới bên ngoài, bên trong lại im lìm hoang vắng, chỉ sợ sẽ gặp phải nguy hiểm khó lường, về mặt trang bị rõ ràng có hơi đơn sơ. Tôi thấy Út tuy rất gan dạ, lại quen trèo đèo vượt núi, nhưng dẫu sao vẫn còn thiếu kinh nghiệm, bèn dặn dò Shirley Dương chiếu cố đến cô, đừng để cô đi phía trước, cũng chớ để cô rớt lại đằng sau.

Tuyền béo vẫn canh cánh "kim châu bảo ngọc" trong bảo tàng mộ cổ, liền xách nỏ liên châu đi trước mở đường, vừa đi vừa hỏi dò giáo sư Tôn: "Cửu gia, ông tiết lộ cho bọn tôi nghe chút ít nội tình đi, kim châu có phải bằng vàng ròng không? Bảo ngọc quý giá đến chừng nào?"

Giáo sư Tôn nghe giọng điệu Tuyền béo có vẻ không ổn, vội nói: "Cái cậu Tuyền béo này, lại định giở quẻ đấy à, đã nói trước là các cậu chỉ cần đơn đỉnh, phần tôi là quẻ phù Long cốt, những thứ khác coi như phát hiện chung của mọi người, báo lên cấp trên hẳn công lao không nhỏ, sao cậu lại nảy ý khác rồi ?" Tuyền béo nói: "Ông đừng phí lời, giờ là thời buổi dân chủ, mà chúng tôi còn đang nắm thóp ông đấy nhé, đại gia Tuyền béo đây mốn làm thế nào thì làm thế ấy, đâu đến lượt nhà ông mặc cả mặc lẽ ? Có muốn lấy lại quyển nhật ký công tác kia nữa không đây?"

Giáo sư Tôn đành đấu dịu: "Được, được, được, tôi chỉ cần quẻ phù Long cốt, những thứ khác... các cậu muốn thế nào thì thế ấy đi, có điều sau này nhất thiết không được nói quẻ phù Long cốt của tôi là tìm thấy trong mộ cổ nhé. Không phải tôi thèm muốn gì vật này, chỉ là không nỡ để nó vĩnh viễn chôn vùi dưới lòng đất, mà cũng muốn nhân chuyện này giành lấy cơ hội vươn lên..."

Tuyền béo nói: "Tôn Cửu gia cũng đừng ngại, chẳng phải chỉ là mấy mảnh mai rùa thôi sao? Còn nhớ ông Lỗ Tấn từng nói thế nào không? Người đọc sách trộm sách không tính là trộm cơ mà, Cửu gia ông uống đây một bụng mực đen, bây giờ đi đào mộ trộm thiên thư, có gì mà phải khó xử? Cứ dứt khoát mặt dày mày dạn, thoải mái mà làm là được rồi, lúc về diệt hết bọn cầm đầu phái học thuật phản động mắt chó không biết nhìn người kia đi, cũng là biểu dương uy phong của Mô Kim hiệu úy chúng tôi."

Lời lẽ của Tuyền béo tuy toàn là pha trò giễu cợt, nhưng không câu nào không cắt đúng chỗ đau hiện nay của giáo sư Tôn, khiến nét mặt lão ta lúc trắng lúc xanh, hết sức ngượng ngập, lẩm bẩm tự hỏi lòng: Người đọc sách trộm sách không tính là trộm... Lỗ Tấn từng nói vậy sao? Lão dường như cảm thấy hết sức bức bối, bất giác ngẩng đầu thở dài, đột nhiên chỉ lên không trung bảo chúng tôi: "Mau nhìn mau nhìn, có quan tài treo!"

Chúng tôi ngước mắt lên, quả nhiên thấy trên vách núi dựng đứng có treo vô số quan tài, phân bố cao thấp đan xen, vị trí cực kỳ phân tán, những chiếc ở nơi cao nhất trông chỉ bằng cái chấm đen, số lượng cực nhiều, không sao đếm xuể, áng chừng sơ sơ cũng phải lên đến hàng vạn, quả là một kỳ quan hiếm thấy.

Từ chỗ này, hẻm núi âm u cũng dán thu hẹp lại, ngẩng đầu nhìn lên, trời mây chỉ còn là một sợi chỉ nhỏ, tựa hồ cách chỗ chúng tôi đang đứng một khoảng vô cùng vô tận, nếu có hòn đá nhỏ từ trên cao rơi xuống đập trúng đầu, ắt cũng đủ lấy mạng người ta. Giữa chốn thâm sơn cùng cốc này, mọi người bất giác rùng mình run sợ.

Tuy biết nơi này được gọi là hẻm núi Quan Tài, thế nào cũng sẽ bắt gặp quan tài treo trên vách đá, nhưng lúc này thấy số lượng quan tài treo trên vách đá đối diện nhiều đến khó tin, cả bọn cũng không khỏi hiếu kỳ, bèn đứng lại quan sát một lúc lâu. Tuyền béo cứ lải nhải bảo tôi leo lên xem trong quan tài treo có cái gì không, nhưng tôi nói: "Treo quan tài không phải hình thức thổ táng, không hề quan trọng việc nhập thổ vi an, cậu nhìn đống quan tài kia ở trên cao đã trải bao gió dập mưa vùi rồi, đa phần đều mục nát hết cả, mà công nghệ chế tạo cũng rất thô sơ, toàn là thổ dân chặt gỗ ở khu rừng nguyên sinh gần đấy, trực tiếp khoét rỗng thân cây, đặt xác người chết vào trong đấy, rồi đắp vỏ cây lên làm nắp quan tài, chẳng có thứ minh khí bồi táng nào đáng tiền đâu. Thời xưa, nghề trộm mộ cực kỳ thịnh hành, nhưng rất ít người có ý định đi trộm quan tài treo, vì thực sự chẳng có gì để trộm cả."

Giáo sư Tôn nói: "Chưa chắc, táng theo kiểu treo quan tài này có nhiều hình thức khác nhau, có thể chia làm dạng hang động, dạng khe hở trên vách núi và dạng đóng cọc vào vách núi, cũng có sự phân chia cao thấp sang hèn như mộ phần bình thường vậy. Những quan tài treo ở đây, thuộc dạng đóng cọc vào vách núi, có lẽ toàn là nơi táng xương cốt của dân chúng..." Nói tới đây, lão ta chợt bảo: "Không đúng lắm... mọi người có cảm thấy có gì đó là lạ không... sao quan tài treo đều tập trung cả ở một bên? Phía bên kia sao không có cái nào..." Lời còn chưa dứt, Shirley Dương đã đột ngột chen vào: "Mọi người nhìn kỹ xem, những quan tài treo kia xếp thành hình dáng... giống như là...?"

Lúc này, chúng tôi đang đi bên dưới vách đá có quan tài treo, nghe Shirley Dương nói vậy không biết là ý gì, bèn lập tức ngẩng đầu lên nhìn theo cô, chỉ đúng lúc mây mù trong núi tan đi, từ góc độ này nhìn lên, chỉ thấy những cỗ quan tài treo rải rác trên cao đột nhiên tập trung lại, lở mờ phác họa nên một bóng người khổng cao lớn kỳ vĩ.

Càng nhìn lâu, hình dáng mơ hồ của mảng quan cài treo ấy càng trở nên rõ nét, bộ dạng ngồi ngay ngắn giống hệt như thật. Hai vai bằng nhau, hai tay đặt trên đùi, hai chân khổng lồ giẫm lên dòng nước cuồn cuộn dưới đáy hẻm núi. Có điều, đường nét ấy, tuy giống hình người như đúc, song lại không có đầu, tựa hồ như một vị thiên thân không đầu cao lớn uy vũ, im lìm bất động dính chặt vào vách núi cao nghìn thước, năm người chúng tôi đều chỉ là những con kiến nhỏ dưới gót chân vị thần ấy.

Tôi nhìn đến ngẩn cả người ra, đến lúc cảm thấy cổ mỏi nhừ đau nhức mới giật mình sực tỉnh, thấy mấy người Tôn Cửu gia xung quanh vẫn đang ngẩng đầu thẫn thờ nhìn đám quan tài treo đầy trên vách đá, há hốc miệng tấm tắc khen lạ. Lúc này, trong đầu mọi người ngoài "trầm trồ kinh ngạc" ra, hẳn đều không hẹn mà cùng nghĩ đến câu ám ngữ Hay cho đại vương, có thân không đầu.

Hình người không đầu do vô số quan tài treo ghép lại mà thành này, nếu không đứng dưới chân ngước lên nhìn, thì dù từ góc độ nào khác cũng không thể hiện lên rõ ràng như vậy được, người xưa tựa hồ cố ý sắp xếp như thế, đế những người đến nơi này đều phải ngẩng đầu lên chiêm bái vậy.

Giáo sư Tôn mừng rỡ ra mặt: "Hình dạng ẩn giấu trên vách đá quan tài này uy vũ trang nghiêm, hệt như một vị vương giả thời cổ, vả lại còn thiếu mất cái đầu, ứng với câu có thân không đầu, quả nhiên ông bạn cùng chung hoạn nạn năm xưa không gạt tôi..."

Mặc dù tôi đã đứng dưới chân hình vóc vị thiên thần không đầu tạo thành từ vô số quan tài treo, cũng biết rõ những quan tài thần bí này có liên quan mật thiết đến ám ngữ của trung đoàn trưởng Phong để lại, song vẫn không hề có cảm giác hân hoan, mà ngược lại còn cảm thấy câu đố về mộ cổ Địa Tiên quyết không thể dễ dàng giải được.

Tương truyền, trước khi địa tiên vào mộ, trong gia tộc có một số người không tin vào huyền cơ vi diệu của ông ta, không muốn nhập mộ thành tiên, vì vậy vị địa tiên chân quân, đồng thời cũng là thủ lĩnh Quan Sơn thái bảo đã để lại cho người đời sau một đoạn ám ngữ, chỉ cần lần theo đầu mối này sẽ có thể tiến vào mộ cổ thôn Địa Tiên bất cứ lúc nào, thoát khỏi xác phàm, vũ hóa phi thăng, đắc thành đại đạo, trường tồn cùng nhật nguyệt.

Trung đoàn trưởng Phong chính là người nắm giữ bí mật này, nhưng huyền cơ sao có thể tùy tiện tiết lộ như vậy? Ông ta muốn khuyên giáo sư Tôn cùng bỏ trốn với mình nên mới nói ra một đoạn trong đó, nội dung rất hữu hạn, chỉ là mấy câu mở đầu. Từ khi chúng tôi tiến vào trấn Thanh Khê, đã liên tiếp gặp được những sự vật đối ứng với đoạn ám ngữ này, ở đây không chỉ có "mạch khoáng muối Vu", "thú đá Ô dương", mà giờ còn gặp một lượng lớn quan tài treo trên vách đá xếp thành hình đại vương không đầu.

Mặc dù những manh mối này đều từ một khía cạnh chứng minh mộ cổ Địa Tiên nằm ở Thanh Khê, nhưng sự việc lại thông hề thuận lợi như những gì hiện lên trước mắt. Mấu chốt nhất là giữa những đầu mối ấy hoàn toàn không có mối liên hệ nào cả, khiến người ta càng thêm hoang mang không biết phải làm thế nào.

Tôi nói những âu lo này ra với mọi người, đến Tôn Cửu gia cũng chẳng thể nào vui nổi: Lão Phong này... bí hiểm với tôi mười mấy năm, đến giờ vẫn khiến người ta không thể đoán biết được, từ lúc tiến vào hẻm núi Quan Tài này, mọi việc dường như thuận lợi đến mức khó tin, nhưng giờ nghĩ kỹ lại... những đầu mối tìm được chẳng có cái nào hữu dụng cả.

Tôi gật đầu: "Đúng là phạm phải sai lầm của chủ nghĩa lạc quan mù quáng rồi... trước đây tôi cứ nghĩ Quan Sơn thái bảo chỉ là một tên địa chủ, liệu được bao nhiêu phân lạng chứ? Giờ xem ra, e rẳng là bậc cao thủ có bản lĩnh thực sự đấy." Đầu óc tôi bắt đầu rối loạn, hẻm núi trước mắt núi non trập trùng, lại không có đầu mối nào để lần theo, giữa lúc nôn nóng, cũng may còn có người hiểu chuyện như Shirley Dương giúp đưa ra chủ ý. Nghĩ đoạn, tôi bèn hỏi ý kiến cô, theo điều lệ quân sự, sĩ quan tham mưu có quyền kiến nghị ba lần về quyết định cụ thể của chỉ huy, không nên lãng phí.

Shirley Dương ngước nhìn vách đá dựng đứng, ngãm nghĩ một lúc mới nói: "Mọi giả thiết và suy đoán đều phải dựa trên cơ sở ám ngữ năm xưa trung đoàn trưởng Phong để lại là thật. Em nghĩ, mạch khoáng muối Vu, tượng thú đá Ô dương, hình đại vươngkhông đầu, đều là di tích cổ có thực ở khu vực Thanh Khê, từ đây có thể hoàn toàn loại trừ khả năng đoạn ám ngữ kia là một câu đố kiểu chiết tự hay thơ đố chữ, mà quá nửa là có liên quan đến một truyền thuyết cổ xưa nào đó của địa phương này, đồng thời, lối vào mộ cổ Địa Tiên ẩn giấu chính trong truyền thuyết ấy."

Tôn Cửu gia tán đồng: "Cô Dương phân tích có lý lắm, nói trúng điểm mấu chốt rồi đấy, nhưng rốt cuộc đó là truyền thuyết thế nào? Thân hình vị vương giả tổ hợp từ những quan cài trên vách đá chắc hẳn chính là đại vương không đầu được nhắc đến trong câu đầu tiên của ám ngữ rồi, nhưng vị vương không đầu này chỉ là di tích totem người xưa dùng để trấn núi trấn hẻm hay vào thời cổ đại nơi này đích thực từng có một vị vương như thế?"

Những gì Shirley Dương và giáo sư Tôn vừa nói, tuy không đưa đến kết quả rõ ràng gì, nhưng lại cho tôi khá nhiều gợi ý, loại trừ khả năng nội dung ám ngữ là câu đố, mà nghĩ theo chiều hướng trong đó ẩn chứa một truyền thuyết cổ xưa, trong những câu nghe tưởng như thông mà lại chẳng thông này, có lẽ ẩn giấu cả những nội dung không phải truyền thuyết mà cũng chẳng phải câu đố.

Tôi tự hỏi, âm thầm nhẩm đi nhẩm lại mấy lượt: "Hay cho dại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non không khai; đốt củi bắc lò, nấu gan nấu phổi; đào giếng lấy muối, hỏi quỷ xin tiền; điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi; muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương..." đoạn lại ngẩng lên quan sát kỹ vô số quan tài treo trên vách đá hiểm trở, trong đầu chợt lóe lên một ánh chớp, đột nhiên nghĩ đến một mắt xích quan trọng nhất mà từ đầu đến giờ mọi người vẫn lơ là, huyền cơ ẩn chứa trong đoạn ám ngữ để tìm kiếm lối vào mộ cổ Địa Tiên hẳn chính là ở đây.

Tôi thầm mắng mình càng lúc càng hồ đồ, sự việc quan trọng như vậy mà lại quên béng mất, vội bảo mọi người: "Quan Sơn thái bảo giỏi nhất việc gì nào?"

Những người kia nghe hỏi đều ngớ ra, Út đáp: "Những người trong mộ yêu tiên, đương nhiên biết yêu pháp, giỏi nhất chính là yêu pháp chứ gì."

Tôn Cửu gia lại nói: "Bản lĩnh sở trường của Quan Sơn thái bảo, đương nhiên là trộm mộ và xây mộ... còn chuyên môn sưu tầm cổ vật nữa."

Tuyền béo nói: "Mặc xác nó là ai, nó giỏi cái gì thì đại gia đây chẳng biết, đằng nào việc đại gia Tuyền béo này giỏi nhất mà cũng muốn làm nhất bây giờ, chính là vào mộ nó mò vàng phát tài một phen đây."

Trong những người này, chỉ có Shirley Dương là tư duy mạch lạc, nói cũng tương đối hợp lý, không hẹn mà trùng với điều tôi đang nghĩ trong đầu: "Quan Sơn thái bảo... Quan Sơn chỉ mê".
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 11 _ Lò mổ trong núi Su

Giáo sư Tôn nghe Shirley Dương nói ra bốn chữ "Quan Sơn chỉ mê", lập tức vỗ đầu, bừng tỉnh ngộ: "Sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Quan Sơn thái bảo của triều đình Đại Minh sở trường nhất chính là thuật Quan Sơn chỉ mê. Quan Sơn chỉ mê có lẽ chính là thuật phong thủy, lẽ nào muốn tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên... phải dùng thuật phong thủy thanh ô?"

Tôi nói, vậy cũng chưa chắc, lúc này vẫn chưa thể phán đoán mấy câu đằng sau, nhưng câu "Hay cho đại vương, có thần không đầu" thì chắc chắn là một ám ngữ tàng phong nạp thủy, chỉ điểm huyền cơ. Trước đây tôi chỉ biết thuật Phân kim định huyệt của Mô Kim hiệu úy độc bộ thiên hạ, mà thường quên mất đám người Quan Sơn thái bảo cũng là cao thủ trộm mộ biết thuật tầm long.

Giáo sư Tôn bỗng sinh lo lắng: "Quan Sơn chỉ mê là thuật phong thủy cực kỳ cao thâm, những phần còn sót lại trên đời đến giờ giả nhiều thật ít, nếu ám ngữ gợi ý lối vào mộ cổ Địa Tiên ngầm hợp với thuật phong thủy thanh ô thật, chỉ sợ tôi khó lòng đảm nhận được trách nhiệm nặng nề... phá giải không nổi những câu đố này."

Tôi vừa ngẩng đầu chăm chú nhìn những quan tài treo đầy trên vách đá như quân cờ trên bàn cờ, vừa nói với giáo sư Tôn: "Chuyện này cũng không cần lo lắng, Tầm long quyết của Mô Kim hiệu úy dung nạp hết thảy núi non sông ngòi trong thiên hạ, Quan Sơn chỉ mê chẳng qua chỉ là thuật bàng môn tả đạo, xem nó có bản lĩnh gì, liệu có nhảy ra được lòng bàn tay Phật tổ hay không? Mộ cổ Địa Tiên không dính dáng gì đến pho thủy địa mạch thì thôi, bằng không đừng hòng thoát khỏi mấy cặp mắt lửa ngươi vàng của Mô Kim hiệu úy chúng tôi. Tôi đây không sợ cái tay Quan Sơn thái bảo kia giở ra chiêu này chiêu nọ, mà chỉ sợ lão già ấy chẳng có chiêu có thức gì thôi."

Trong lòng tôi đã có chút manh mối, chỉ thấy trên vách núi dựng đứng treo đầy quan tài, vì niên đại quá xa xôi nên đa phần đều đã bị phong hóa mục nát cả, e rằng hễ đụng nhẹ sẽ vỡ tan thành bụi phấn. Không ai nói rõ được tại sao trong hẻm núi Quan Tài lại có nhiểu quan tài treo dạng đóng cọc vào vách đá như thế, xác chết trong quan tài là người triều đại nào cũng chẳng ai hay, nhưng theo kinh nghiệm của Mô Kim hiệu úy chúng tôi, những thứ này hẳn đã có từ thời thượng cổ, trước cả giai đoạn Tần Hán trong lịch sử, khẳng định không phải vật của triều Minh cách ngày nay có mấy trăm năm.

Từ thời Tây Chu, thuật phong thủy âm dương đã có mặt trên đời, trong Kinh Thi từng có một đoạn miêu tả, nói bấy giờ Công Lưu(2) vì chọn đất để xây dựng Chu Nguyên(3) đã "độ kỳ tịch dương, tương bỉ âm dương...", chứng tỏ từ thời Thương Chu mấy nghìn năm trước, người ta đã bắt đầu chú trọng hoàn cảnh địa lý "thiên nhân tương ứng" rồi.

Trước thời Tần Hán, tuy rằng lý luận phong thủy tỉ mỉ chặt chẽ vẫn chưa được hình thành, nhưng những khái niệm "hình thế lý khí, long sa huyệt thủy" của hậu thế đều phát triển từ thuật phong thủy cổ. Cũng có nghĩa là, tiêu chuẩn của việc chọn lựa âm trạch dương trạch ở những thời đại tương đối xa xưa như Tây Chu, Xuân Thu và thời Tần Hán Đường Tống về cơ bản là giống nhau, cùng là "trong vòm tạo hóa, thiên nhân nhất thể". Nhưng có thể vì thời đại thay đổi, mà có sự khác biệt ở khuynh hướng lựa chọn long mạch. Chẳng hạn như mộ cổ thời Xuân Thu Chiến Quốc đa phần đều đặt ở chốn đồng bằng rộng lớn, còn đến thời Đường Tống lại chủ yếu chọn nơi núi cao xây lăng dựng mộ.

Thậm chí, ngay cả những dân tộc thiểu số quanh vùng Trung Nguyên cũng bị ảnh hưởng một cách sâu sắc, tuy chưa hẳn đã có lý luận phong thủy cụ thể gì, nhưng hẩu hết mộ phần lăng tẩm đều ở chốn "thâm u tĩnh mịch" dựa vào thế núi, lại có nước chảy xung quanh.

Tôi nhìn lên vách đá cổ dựng đứng, vô số quan tài treo tạo nên một hình người khổng lổ không đầu, tựa như một vị thiên thần trấn giữ ngoài cửa hẻm núi, chân đạp lên dòng nưóc cuồn cuộn chảy, đúng như trong Tầm long quyết đã viết: " Thế núi như cửa nước như rồng, núi cao nước hẹp rồng muốn đi; bên trong cửa dài phải trấn phục, không để non kia nước ấy đi", tuy không biết quần thể quan tài treo có quy mô khổng lổ này là di tích từ thời đại nào còn tồn lưu lại, nhưng cách sắp xếp lại ngấm hợp với phép cổ, chứ không phải tùy tiện bày ra, mấy nghìn năm nay vẫn trấn thủ long khí phong thủy ở hẻm núi Quan Tài này.

Trong đầu tôi không ngừng hồi tưởng lại mọi chi tiết được chép trong Thập lục tự m dương Phong thủy bí thuật, hòng tìm ra vị trí của "long khí" mà quần thể quan tài treo trấn phục, phát hiện ra hình dáng người khổng lổ không đầu đang ngồi ngay ngắn ấy có mấy chỗ tàn khuyết. Ở bàn tay trái, dưòng như thiếu mất một mảng quan tài, khiến bàn tay khổng lồ ấy chẽ ra hai ngón, tựa hồ đang bắt quyết, chỉ vào chỗ xeo xéo trên vách đá trước mặt. Nếu không phải đứng bên dưới hẻm núi quan sát hồi lâu, chúng tôi tuyệt đối không thể phát giác ra chi tiết này.

Chúng tôi biết chỗ ấy ắt hẳn có sự lạ, đều quay người nhìn lên vách núi phía sau, nhưng vách đá này phần trên nhô ra phần dưới lẹm vào, từ góc chúng tôi đang đứng không thể thấy được bên trên có gì, trừ phi sang phía bên kia. Nhưng giữa hẻm núi là dòng nước cuồn cuộn, không thể nào tiếp cận được mé vách núi có quan tài treo, giữa hai vách đá tuy cũng có xích sắt nối liền, song họa may loài khỉ vượn mới đi qua được.

Nếu muốn nhìn rõ trên vách đá đối diện với quần thể quan tài treo ẩn tàng bí mật gì, chỉ còn cách men theo điểu đạo trên vách núi quay trở lại mà thôi. Cả bọn thấy đường vào sâu trong hẻm núi trước mắt đã đứt đoạn, không thể đi tiếp, lập tức quay đầu leo lên điểu đạo hiểm trở. Đoạn đường này lại càng khó khăn nguy hiểm bội phần, mãi đến khi mặt trời khuất sau rặng núi Tây, dưới đáy hẻm núi tối đen như mực, chỉ những chỗ cao mới còn chút ánh sáng lờ mờ, nhìn sang phía đối diện chỉ thấy toàn quan tài treo đập vào mắt, chúng tôi mới đến được chỗ ngón tay của hình người khổng lổ không đầu chỉ vào.

Thế núi nơi này gần như dốc đứng, trái ngược với vách đá đối diện treo đầy quan tài, vách đá bên này lại chẳng có lấy một cỗ, chỉ toàn bụi gai và dây leo chằng chịt. Tôi nhìn xuống đáy sơn cốc tối đen như mực dưới chân, lòng thầm kêu khổ: chưa tối hẳn mà đáy hẻm núi đã như đêm khuya rồi, lúc này muốn trở lên trên cũng không thể lần mò trong đêm tối được, chẳng lẽ phải qua đêm trên vách đá này sao?"

Đang khi lo lắng, tôi chợt thấy bên dưới đoạn điểu đạo phía trước có một cửa hang, bên ngoài có mấy bụi cỏ dại trông rất kỳ quái, vừa khéo đối ứng với chỗ bố cục quần thể quan tài treo chỉ vào, đứng dưới đáy hẻm núi dùng ống nhòm nhìn lên cũng khó mà tìm được chỗ này. Tuy chúng tôi không giỏi phép "xem vết bùn, phân sắc cỏ" của hội Ban Sơn Xả Lĩnh, nhưng đã nhiều lần nghe nói về pháp môn này, cũng biết trên vách đá dựng đứng mà có bụi cỏ dại ắt không phải dấu hiệu bình thường.

Tôi định xuống dưới tìm hiểu xem sao, nhưng bị Shirley Dương ngăn lại. Cô ỷ vào thân thế nhẹ nhàng, dùng phi hổ trảo móc lên vách đá, mạo hiểm xuống dưới trinh sát, phát hiện trong hang có dấu vết đục đẽo của con người, ben trong là một cửa đá khổng lồ, phía ngoài có rất nhiều bùn đất, khiến cỏ dại mọc đầy, che kín toàn bộ khung cửa. Phía trước con đường từ cửa vào, lởm chởm rất nhiều gỗ đá, có lẽ trước đầy từng có sạn đạo rộng rãi nối liền vào cửa hang này, nhưng giờ đã không còn nữa, chỉ sót lại một vài tàn tích.

Tôi bảo giáo sư Tôn: "Xem ra phương hướng cùa chúng ta đúng rồi, quần thể quan tài treo phía đối diện quả nhiên có ẩn tàng huyền cơ, trong cửa đá giấu trên vách núi này, mười phần chắc tám chín là con đường buộc phải đi qua để đến mộ cổ Địa Tiên, nhân lúc trời còn chưa tối, vào trong xem xét rồi tính sau."

Tôi và bọn Tuyền béo lập tức chia nhau trèo từ điểu đạo xuống, chui vào cửa hang mở trên vách núi. Bật đèn pin lên quan sát, chỉ thấy trên khung cửa đá khổng lồ có điêu khắc những dị thú ô dương hình dạng cực kỳ hung tợn. Khung cửa này đã sập từ nhiều nằm trước, con đường bên trong quanh co khúc khuỷu, đèn pin mắt sói không thể chiếu đến cuối đường. Tôi bèn thu phi hổ trảo lại, dặn mọi người nhanh chóng kiểm tra các thiết bị chiếu sáng mang theo, rồi tiến vào con đường phía sau cửa đá.

Chúng tôi vừa dợm bước, chợt nghe Út ngạc nhiên thót: "Ủa... con khỉ kia, từ nãy nó vẫn bám theo chúng ta à?" Tôi Vạt đám cỏ dại mọc trước cửa đá, nhìn theo hướng Út chỉ, liền thấy trong ánh sáng mờ mờ còn sót lại của buổi chiều tà, trên vách núi có một bóng đen hai tay dài thượt đang nhảy nhót leo xuống giữa những chiếc quan tài treo, chính là con khỉ chúng tôi gặp bên trong hầm phòng không Thanh Khê. Khu vực hẻm núi Quan Tài này địa hình chằng chịt phức tạp, thiết tưởng không phải là tình cờ gặp gỡ lần thứ hai, mà nãy giờ nó vẫn bám theo chúng tôi từ đằng xa.

Tuyền béo bảo, nó thì tử tế gì chứ? Chắc chắn là loại "lành thì chẳng đến, đến ắt chẳng lành", tiếc nỗi nỏ liên châu không thể bắn xa được, bây giờ mà có khẩu súng trường ở đây, đại gia chỉ cần một phát là cho nó xuống gặp Diêm vương điểm danh báo cáo rồi.

Tôn Cửu gia vội vàng khuyên can: "Con khỉ Ba Sơn này rất có linh tính, xưa nay chưa từng gây hại cho người, không ngờ sau bao nhiêu năm như thế nó vẫn còn sống, chỉ không biết trung đoàn trưởng Phong sinh tử ra sao ? Nó từ chỗ hầm phòng không theo ra đến đây, có lẽ muốn dẫn chúng ta đi tìm chủ nhân của nó cũng nên, mọi người đừng ra tay với nó."

Lúc này, mặt trời đã lặn, cả hẻm núi Quan Tài hoàn toàn chìm vào bóng tối, không thấy bóng dáng con khỉ ấy đâu nữa, tôi bèn bảo cả bọn: "Con khỉ Ba Sơn kia chắc chắn không vô duyên vô cớ theo chúng ta vào trong núi, nhưng lúc ở hầm phòng không nó đã bị một phen kinh hoảng rồi, không dám tùy tiện tiếp cận chúng ta đâu. Lúc này muốn bắt sống hay làm thịt nó đều không dễ, mà hẻm núi Quan Tài này cũng chẳng phải nơi thái bình yên ả gì, mọi chuyện đều phải xử lý hết sức cẩn thận mới được."

Tôi dặn dò mọi người phải đề phòng cảnh giác, âm thầm chú ý tung tích của con khỉ kia, nếu phát hiện nó có ý đồ xấu thì cứ giết luôn tại chỗ, còn không thì đừng tùy tiện ra tay làm hại nó, nhưng trước mắt, hẵng tiến vào hang động sau cửa đá để tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên trước đã. Trời vừa tối, ngoài hẻm núi và bên trong lòng núi đều tối om như mực, hầu như chẳng còn gì khác biệt, duy chỉ có sâu trong hang thi thoảng vẳng ra những tiếng gió rít quái dị.

Đường hầm ẩn giấu trên vách đá dựng đứng này vừa sâu vừa rộng. Muốn đục núi mở đường ở chốn này chắc phải có sức mạnh của thần tiên tạo hóa chứ con người e khó mà làm nổi, nhưng bên trong đường hầm lại cực kỳ nhẵn nhụi chỉnh tề, không giống hang động thiên nhiên, hai bên vách và trần vòm đều ốp gạch cổ, đồng thời có rất nhiều đèn đá thú đá. Mấy bát đèn đá đều cạn khô, không biết đã tàn lụi khô dầu từ bao nhiêu năm trước. Trên bề mặt đường hầm rộng mười mấy mét, thi thoảng còn trông thấy xương thú, mai rùa và những khúc gỗ mục. Cứ từ đây mà suy, đường hầm sâu hun hút không dò được này tựa như một con ngõ trong tòa thành cổ nào đó, lại có mấy phần giống như mộ đạo phía trước địa cung trong mộ có vậy.

Tuyền béo thấy thế lập tức phấn chấn hẳn tinh thần, nhìn tình hình này thì đây quá nửa là mộ đạo, chắc chắn sắp đến mộ cổ Địa Tiên chứa đầy minh khí rồi.

Nào ngờ giáo sư Tôn lại nói: "Đừng vội mừng, đời tôi chưa từng gặp mộ đạo nào thế này cả, tôi thấy cách thức bố trí kiểu này, tuyệt đối không phải mộ đạo thông thường đâu". Tuyền béo phản bác: "Tôn Cửu gia ông chẳng có kinh nghiệm gì cả, những chỗ kiểu này đại gia Tuyền béo đây quá quen đường thuộc lối rồi, tôi cam đoan với ông chỗ này chính là mộ đạo, đi thêm tí nữa, tám mươi phần trăm là ba tầng mộ thất, hai bên còn có hai gian phụ, chính giữa là một cái quách to tướng... không tin chúng ta cứ đi mà xem".

Đối với những vấn đề học thuật, xưa nay Giáo sư Tôn không bao giờ chịu thỏa hiệp, lập tức chỉ đống xương thú dưới đất nói: "Trong mộ cổ đích thực là có người và thú tuẫn tang, nhưng những thứ đó đều nằm trong rãnh tuẫn táng với hố bồi táng, thậm chí cũng có khi ở điện trước của mộ thất, tự cổ chí kim, chẳng bao giờ thấy trường hợp nào giết người giết thú tuẫn táng trong mộ đạo cả, mà cậu nhìn những xương cốt này đi, hết sức tản mác lộn xộn, vì vậy tôi dám khẳng định đây không phải mộ đạo."

Tôi đi trước dò đường, càng đi càng thấy cổ quái, lại nghe Tuyền béo và Tôn Cửu gia ở đằng sau cứ tranh cãi mãi, cũng muốn thảo luận với họ mấy câu. Đúng lúc này, nhờ ánh sáng của đèn pin mắt sói, tôi nhận ra phía trước đã hết đường, hai bên đều có tường đá trắng toát, trên tường vẽ hai cái đầu lợn đen máu thịt bẩy nhầy tựa như hai con ác quỷ gác cửa.

Bên dưới tường đá có một bàn đá hình chữ nhật, bày bừa bãi cả mấy nghìn cái đầu lâu chồng chất như ngọn núi nhỏ, thịt sớm đã thối rữa từ lâu, nhìn răng và hình dạng sọ thì hơi giống đầu người, có lẽ là xương sọ của loài linh trưởng nào đấy. Đứng trong đường hầm cổ xưa này, tựa hồ vẫn cảm nhận được mùi máu canh nồng nặc của cuộc đồ sát hiến sinh từ nghìn năm về trước.

Tôi thoáng động tâm, lập tức dừng bước, ngoảnh lại bảo Tôn Cửu gia và Tuyền béo: "Đừng cãi nhau nữa, đây không phải mộ đạo đâu, tôi thấy quả này chúng ta lạc vào trong xưởng chế biến thịt rồi "

Shirley Dương chưa nghe qua từ này bao giờ, liền hỏi: "Xưởng chế biến thịt là cái gì?" Tôi đáp: "Thường có câu, xưởng chế thịt ánh đao bóng máu, xưởng chế thịt chính là nơi chọc tiết lợn ấy, anh thấy nơi này chính là một cái lò mổ ở trong núi sâu".
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 12 _ Đại vương không đầu

Shirley Dương dẫn theo Út đi phía sau tôi, nghe thấy tôi bảo chỗ này là lò mổ trong núi sâu, liền lên tiếng: "Cái anh Nhất này lại nói xằng nói bậy dọa người ta rồi, hẻm núi Quan Tài này đã bao lâu không có dấu chân người, làm gì có lò mổ chứ?" Nhưng khi đi tới phía trước tôi, rọi đèn pin vào đống đầu lâu khỉ chất chồng cao ngất, lại thấy hai cái đầu lợn chết không nhắm mắt được vẽ sống động như thật trên vách đá, cả hai đều không khỏi biến sắc. Hang động này rốt cuộc là nơi nào vậy?

Lúc này Tuyền béo và Tôn Cửu gia cũng đã đến gần, thấy tình hình đó, đều hết sức ngạc nhiên khó hiểu, giáo sư Tôn nói với chúng tôi: "Thế này thì càng không giống mộ đạo, vừa có khỉ vừa có đầu lợn, chẳng lẽ chúng ta đến mộ Hầu vương rồi?"

Tôi và Tuyền béo bật lại lão: "Uổng cho ông hay nói phải có thái độ khách quan và chính xác với lịch sử, sao lại móc đâu ra cái mộ Hầu vương thế ? Hầu vương là ai ? Tôn Ngộ Không à? Thành Phật từ đời nào rồi, lấy đâu ra mộ phần chứ?"

Giáo sư Tôn tự biết mình lỡ lời, vội nói: "Không phải tôi có ý này, chỉ là cảm thấy ở đây xương khỉ chất chồng như núi, mới vô tình nghĩ đến chuyện mộ Hầu vương thôi, câu chuyện Tôn Ngộ Không đi Tây Thiên lấy kinh là do tiểu thuyết gia hư cấu, nhưng ở Chiết Giang đúng là có di tích mộ Hầu vương thật, không phải tôi bịa ra đâu. Tôi khác các cậu, các cậu nói cho sướng cái mổm rồi vỗ đít đi luôn, chằng chịu trách nhiệm gì, người làm giáo sư như tôi sao có thể thế được ? Tôi không nói gì, người khác còn tìm đủ trăm phương nghìn kế kiếm chuyện phiền phức với tôi nữa là, vì vậy bao nhiêu năm nay, tôi chưa bao giờ nói ra dù chỉ nửa câu vô căn cứ."

Shirley Dương nói: "Trước cửa có bức phù điêu đầu lâu ô dương trông rất thần bí, tôi nghĩ nơi này hẳn có liên quan đến ô dương. Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương, bên trong là một sơn động, hình như không gian cũng không phải nhỏ, sao không vào trong xem xét rồi tính sau?" Nói xong, cô liền giơ ô Kim Cang lên hộ thân, gác đèn pin mắt sói vào tán ô, dẫn đầu đi vào qua con đường chật hẹp giữa đống xương đầu lâu khỉ chồng chất. Giữa hai vách đá có một cửa hang, bên trong loạn thạch tua tủa, nhũ đá buông xuống, không ngờ lại là một hang động đá vôi thiên nhiên.

Tôi thấy hang động này toát lên yêu khí, lo cô và Út ở phía trước có gì sơ sẩy, vội ra hiệu, dẫn theo Tuyền béo và Tôn Cửu gia bám sát theo sau. Không gian bên trong hang động lớn không ngờ, với phạm vi chiếu sáng hữu hạn của đèn pin mắt sói, nhất thời khó mà thăm dò được địa hình xung quanh, chỉ có thể thấy trước mắt là một khoảng đất trống bằng phảng, cách những nhủ đá trên đỉnh đầu chừng mười mấy mét.

Cả bọn không ai dám lơ là bất cẩn, tụ lại một chỗ lần mò tiến về phía trước, chốc chốc lại dùng đèn pin chiếu ra xung quanh, nhưng ánh đèn pin như bị bóng tối nuốt chửng, căn bản không thể nhìn được tình cảnh ở ngoài khoảng cách mấy bước chân. Trong hang động này dường như cũng không có gì, Tuyền béo lấy ra một quả pháo sáng, "xòe" một tiẽng, ánh sáng đò lập tức chiếu lòa cả khoảng không gian xung quanh.

Chỉ thấy một khối đá xanh lớn như một tấm bia khổng lồ, nằm ngang phía trước chúng tôi chừng mấy chục mét, bên trên có một người ngọc cao lớn khôi vĩ, sắc ngọc đỏ tươi như máu, Người ngọc này thân khoác mãng bào, đeo thắt lưng, đầu to như cái đấu, an tọa trên một bệ màu trắng ở chính giữa, tiếc rằng khoảng cách vẫn hơi xa nên không nhìn rõ mặt, lại thấy bốn phía xung quanh có mấy mươi tượng đá nam nữ nô bộc đang quỳ, hai tay nâng đèn nến và đồ uống rượu.

Chúng tôi thấy có phát hiện, liền rảo bước đến xem khối đá ấy, còn leo hẳn lên bệ đá quan sát kỹ lưỡng. Thì ra trên đầu người ngọc ở chính giữa ấy trùm một cái mặt nạ bằng đồng, trông như cái ấm tích, nhưng không có đường nét trên mặt, ngay cả lỗ để thông hơi và nhìn cũng không có. Tôi lấy ngón tay gõ lên mặt nạ đồng, thấy âm vang rổn rảng, xác thực là cổ vật bẳng đồng xanh.

Giáo sư Tôn ngạc nhiên nói: "Chẳng lẽ là táng kiểu trùm đầu?" Nói đoạn, lão ta giơ đèn pin lại gần, chiếu vào cái mặt nạ không có mặt mũi ấy, chăm chú nhìn hồi lâu.

Tuyền béo đưa tay rờ rờ lên người ngọc, cảm thấy không khênh về được thì thật đáng tiếc, bèn lẩm bẩm thôi mang cái đầu về cũng tạm được, đoạn giơ tay nhấc mặt nạ đồng lên, chằng ngờ, cậu ta giật một phát mà chẳng thấy nhúc nhích gì.

Giáo sư Tôn thấy Tuyền béo có ý xấu, vội vàng ngăn lại, một tay chộp lấy cánh tay Tuyền béo, tay kia ấn xuống một bên mặt nạ đồng xanh, đề phòng Tuyền béo giật bung cả cái mặc nạ ra.

Chẳng ngờ, hai người vừa dùng sức, đã làm cái mặt nạ xoay một vòng tại chỗ, phần gáy quay ra phía trước. Giáo sư Tôn kêu lên một tiếng, cuống cuồng xem xét coi mặt nạ đồng có bị tổn hại gì không, nào ngờ không nhìn thì thôi, vừa nhìn lão ta liền kinh hãi vã mổ hôi lạnh, suýt chút đánh rơi cả cái đèn pin mắc sói đang cầm trên tay.

Tôi và Shirley Dương, Út đang ở phía sau xem xét những người đá tay nâng đèn nến, đột nhiên phát giác thân hình Tôn Cửu gia co rút lùi về phía sau, suýt nữa ngã phịch xuống đất, vội đưa tay đỡ lấy lão ta, hỏi: "Chuyện gì thế?" Đồng thời, cũng ngẩng đầu lên nhìn.

Vừa ngước nhìn, mấy người chúng tôi cũng giật mình kinh hãi, tại sao lại kinh hãi chứ? Thì ra phần mặt nạ phía sau gáy người ngọc có cả ngũ quan, mắt mũi miệng đều đầy đủ, nét mặt cũng nghiêm trang, có điều đó không phải mặt người, mà là một bộ mặt "ô dương". Lúc này, mặt nạ đồng xanh bị Tuyền béo và giáo sư Tôn xoay ngược lại, cộng thêm thân hình người ngọc ấy vốn cao lớn to béo, nên thoạt trông cứ như một con yêu tinh ô dương khoác mãng bào ngồi sừng sững ở đó vậy.

Cả bọn đều lấy làm kinh ngạc: "Người ngọc này có phải đại vương không đầu không? Tại sao nói là có thân không đầu? Không phải có cái đầu lợn đấy sao ? Trong hang động không như trong địa cung mộ cổ, tượng ngọc quái dị này rốt cuộc đứng ở đây để làm gì?"

Út tuy lanh lợi gan dạ, nhưng dẫu sao cũng không có kiến thức gì, thấy mặt nạ "ô dương" kỳ dị như thế, không khỏi hoảng hồn, sợ hãi hỏi giáo sư Tôn: "Người ở trấn Thanh Khê chúng tôi từ xưa đến nay, chẳng ai chịu ăn thịt ô dương cả, tại sao lại đội cái đầu ô dương lên cổ trông phát khiếp thế kia?"

Giáo sư Tôn nghe câu ấy liền ngẩn người ra, hỏi lại Út: "Cô bé, cháu nói thật đấy chứ? Vùng này thời xưa có tục không ăn thịt ô dương à?" Không đợi Út trả lời, lão ta đã lẩm bẩm một mình: "Hay cho đại vương, có thân không đầu... muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương... lẽ nào đại vương không đầu kia chính là ô Dương vương?"

Tuyền béo vừa rồi không đắc thủ, sau khi xoay một vòng lại phát hiện bên trong mặt nạ trùm đầu rỗng không, không có đầu người bằng ngọc, đang lấy làm khó chịu, thấy giáo sư Tôn lẩm bẩm mấy câu khó hiểu, bèn nói: Đại gia Tuyền béo này sống hơn ba chục năm, chẳng bao giờ nghe cái nước khỉ nào có Ô Dương vương quái gì cả, Nhất, cậu có nghe nói chưa?"

Tôi lắc đầu, xưa nay chưa từng nghe đến chuyện "Ô Dương vương" bao giờ, Shirley Dương cũng nói: "Tôi từng xem một mục tin tức, theo bài báo đó, đoàn khảo có hai nước Trung Nhật liên hợp khảo sát di tích văn hóa Ba Thục cổ đại, địa điểm chính là Vu Sơn này. Mặc dù không thu được kết quả gì, nhưng trong bản tin nhiều lần nhắc đến chuyện người Ba thời xưa thờ cúng totem hổ, chứ không hề nói bất cứ chuyện gì về ô dương cả."

Tôi thấy giáo sư Tôn nhìn cái mặt nạ "ô dương" đến ngây ngẩn bần thần, thầm nhủ có lẽ lão ta tìm được đầu mối gì đó, đang vắt óc suy nghĩ, tốt nhất không nên làm phiền, lại thấy mọi người đi cả ngày trời trên điểu đạo vắt vẻo lưng chừng vách đá, ai nấy đều đã mệt mỏi, bèn bảo cả bọn tạm thời nghỉ ngơi giây lát, rồi mới xác định bước hành động tiếp theo.

Tượng ngọc đầu trùm mặt nạ đồng "ô dương" ngồi trên một cái bệ màu trắng, xưa nay tôi vốn chẳng coi các vị đế vương khanh tướng thời xưa ra gì, đâu thèm quan tâm Ô Dương vương kia là người hay yêu, chỉ đưa mắt nhìn rồi nói với nó một câu: "Lão già này ngồi đây mấy nghìn năm, trong khi nhân dân lao động lại phải quỳ dưới kia mấy nghìn năm... không thấy xấu hổ à?" Dứt lời, bèn ngồi dựa lưng vào bức tượng ngọc ấy.

Tuyền béo cưỡi lên lưng tượng người bằng đá quỳ gần đấy, huyên thuyên tán phét với tôi. Út ngồi trên một cái ba lô chăm chú lắng nghe, có điều nội dung câu chuyện của chúng tôi tương đối chuyên nghiệp, người ngoại đạo thông thường đều không hiểu nổi, chẳng hạn như tượng người ngọc kia để nguyên hay chia thành từng mảnh thì được giá hơn? Không có cái đầu bằng ngọc thạch nguyên bản, liệu có làm mất đi giá trị thẩm mỹ và giá trị sưu tầm hay không?

Đang tán chuyện lung tung, tôi chợt cảm thấy dưới mông có gì đó không ổn lắm, đang định nhổm người đứng dậy thì nghe Tuyền béo ở bên cạnh xỉa: "Tư lệnh Nhất, vẻ mặt cậu cứ quai quái thế nào ấy, có phải chỗ ngồi của Ô Dương vương không thoải mái không? Cậu tưởng chỗ ngồi của lãnh đạo cao cấp bậc ấy là dễ ngồi chắc? Chắc chắn là vừa cứng vừa lạnh rồi, có câu thế nào ấy nhỉ ? À, trên cao vẫn sợ lạnh(4), cẩn thận bị lạnh bụng đấy nhé..."

Tôi vỗ vỗ lên tượng người ngọc bên cạnh, bảo Tuyền béo: "Cái gì mà trên cao vẫn sợ lạnh? Con bà nó, cả đánh bạn với vua như chơi với hổ nữa, nhưng cậu không nói thì thôi, đúng là lạ thật, ngồi đây không phải không thoải mái, mà ngược lại... rất thoải mái là đằng khác, còn giông giống ghế sô pha, lạnh thì cũng có hơi hơi... nhưng mà không cứng."

Tuyền béo và Út nghe vậy, đều lấy làm lạ, trong hang núi này ngoài đá ra thì cũng chỉ có mỗi đá, dù cái bệ ngọc này có thể làm từ thứ ngọc ấm khiến người ta không thấy lạnh lẽo nhưng sao có thể giống như ghế sô pha được chứ?

Bản thân tôi lại càng ngạc nhiên hơn, bất giác đưa tay sờ thử, thấy trên bề mặt bệ là một lớp bụi, nhưng bên dưới mềm mại trơn nhẵn, giống như da thuộc, không biết làm bằng vật liệu gì. Cúi đầu xuống nhìn, thì ra cái bệ này được ghép từ những khói gạch màu trắng hình chữ nhật, trông như cái gối, ở rìa mép là mảng tua dài màu đen. Tôi thấy lạ, liền đưa tay giật lấy một mảng, thấy khô như rơm, không khác gì tóc người chết, bèn buột miệng: "Ở đâu ra nhiều tóc thế này?"

Đúng lúc này, Shirley Dương đột nhiên kéo tôi ra phía sau. Tôi thấy sắc mặt cô có vẻ khác lạ, biết tình hình có biến, vội vàng nương đà kéo ấy đứng bật dậy, đồng thời rút cây Nga Mi thích bằng thép tinh luyện cầm trên tay, ngoảnh đầu nhìn theo chùm sáng đèn pin của cô, chỉ thấy ở mặt bên cái bệ màu trắng ấy, không biết từ lúc nào đã lẳng lặng lộ ra một gương mặt đàn bà. Gương mặt ấy tuyệt đối không phải được điêu khắc từ ngọc thạch, mà rõ rành rành là một bộ mặt cương thi mắt mũi miệng đều rỉ máu.

Tôi không chuẩn bị tâm lý, lập tức cảm thấy lạnh buốt sống lưng, cảm tưởng như tóc trên đầu "pực" một tiếng dựng đứng hết cả lên, vội vàng kéo Tôn Cửu gia và Út ra sau lưng mình, Tuyền béo cũng hoàn toàn không có đề phòng, bất thình lình trông thấy một gương mặt rỉ máu trắng ởn hiện ra dưới chùm sáng của đèn pin, không khỏi cuống lên, chẳng kịp rút nỏ liên châu sau lưng ra, đã rối rít một tay móc móng lừa đen, một tay nhặt xẻng công binh lên đập.

Nghe tiếng Shirley Dương can: "Đừng hoảng, nó không cử động đâu!" tôi định thần lại, nhìn kỹ cái đầu người ở mé bên bệ đá màu trắng, quả nhiên là một xác chết, mắt miệng đều há hốc, trong bóng tối trông lại càng thêm phần dữ tợn, nhưng thứ chảy dài trên mặt nó không phải máu tươi, mà là thứ gì đó bị nhét đầy trong miệng. Tôi cầm Nga Mi thích cẩn thận khêu khêu một chút, hóa ra toàn là cát đỏ như máu, không biết lúc sống người này đã bị đổ đầy một bụng thứ thuốc gì.

Không chỉ có một xác chết, nguyên cả phần bên dưới tượng người ngọc đeo mặt nạ đồng xanh kia, không ngờ lại là sáu tấm lưng của sáu cái xác trần truồng. Những xác đàn bà ấy chia làm hai hàng quỳ dưới đất, có người cúi gằm đầu xuống, có người lại nghiêng mặt qua, bộ dạng khủng khiếp khác nhau, nhưng đều hướng lưng lên trên. Sáu cái xác này phỏng chừng dáng người đều tương đương, chiều cao cũng đồng đều, làm thành một cái bệ bằng da thuộc mềm mại. Người ngọc đeo mặt nạ ô dương bằng đồng kia, chính là ngồi trên cái ghé mềm ghép bằng xác người chết ấy.

Giáo sư Tôn đeo kính lên nhìn chằm chằm hồi lầu, biến hẳn sắc mặt, nói với chúng tôi: "Không cần khảo chứng nữa, tôi lấy danh dự ra đảm bảo, đây là... ghế... ghế người, ghế người thật trăm phần trăm, trong sử sách cũng có ghi chép, không ngờ đến đây lại thấy vật thực! Bên trong những cái xác đàn bà này đổ đầy cát đỏ, có thể đều là thuốc dùng để duy trì cho xác thịt không bị cứng lại sau khi chết."

Tôi nhớ lại, mình vừa ngồi lên lưng máy cái xác cổ, lại còn cảm thấy hết sức dễ chịu, không khỏi toát hết mô hôi lạnh, tim đập thình thịch liên hồi: "Ghế người là cái quái quỷ gì thế? Không ngờ lại giết cả người sống để làm ghế... thế này thảo nào quần chúng lao khổ chẳng tạo con bà nó phản ?"

Giáo sư Tôn giải thích: "Cách gọi ghế người này là do các học giả đời sau tự thêm vào, còn tên gọi thực của nó giờ đã chẳng thể khảo chứng được nữa rồi. Vật này đích thực đã có từ thời xã hội nô lệ, trước cả thời Tam Đại(5), tương truyền Hạ Kiệt, vị vua cuối cùng của triều Hạ là một bạo quân nổi tiếng, ông ta cực kì xa xỉ, còn so mình với trời, tự xưng mình là vầng thái dương, nữ nô lệ phải quỳ rạp xuống đất làm ghế người, còn nam nô lệ thì làm xe người, ngựa người để cưỡi, đều do ông ta phát minh ra cả. Chế độ ngược đãi tàn khốc này còn kéo dài rất nhiều triều đại về sau, nghe nói đến thời Nguyên vẫn còn. Từ xứa đã có tục trần sao âm vậy, các vật phẩm quân vương hưởng dụng lúc sống lúc chết nhất thiết cũng phải đầy đủ, cái... ghế bẳng xác chết này, hẳn là vật thay thế cho ghế người ở chốn âm thế."

Tôi nghe mà lửa giận bừng bừng bốc lên, hỏi giáo sư Tôn: "Vậy thì... cái ghế xác này là minh khí tuẫn táng theo Ô Dương vương hả? Nhưng sao không thấy quan quách và xác Ô Dương vương đâu?"

Giáo sư Tôn lắc đầu đáp: "Tôi đã nói từ trước rồi, các cậu chẳng ai chịu nghe cả, đây căn bản không phải minh điện mộ cổ, mà là một chỗ để tế bái cúng lễ thôi, trong huyệt mộ của Ô Dương vương từ lâu cũng không còn quan quách và thi thể nữa rồi, bởi vì... Quan Sơn thái bảo đã quật mộ ấy từ lâu, đồng thời kiến tạo nên thôn Địa Tiên ở trong huyệt mộ quy mô cực lớn ấy để làm nơi náu thân, Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương, há chẳng phải ứng với chuyện này hay sao ?"

Tôi cảm thấy chuyện này càng lúc càng rắc rối ly kỳ, lẽ nào thời xưa thật sự từng có một vị Ô Dương vương? Câu Hay cho đại vương, có thân không đầu chính là chỉ vị Ô Dương vương này? Vừa rồi còn không có đầu mối nào, chỉ trong chốc lát, làm sao giáo sư Tôn biết được ?

Shirley Dương bảo tôi: "Lúc nãy khi anh ngồi... ngồi trên ghế người, giáo sư Tôn phát hiện trên bệ đá ở dưới, toàn là chữ triện cổ theo thể Trùng Ngư, còn có rất nhiều phù hiệu cổ giống như nhật nguyệt tinh tú. Em xem không hiểu gì cả, nhưng giáo sư Tôn là chuyên gia giải các loại văn tự cổ, theo ông ấy nói thì những gì khắc trên bệ đá là truyền thuyết xưa về hẻm Quan Tài, tuy rằng không biết thật giả, nhưng có thể khẳng định trong hẻm núi này có một lăng mộ cổ đại quy mô bất phàm.''

Giáo sư Tôn gật đầu: "Đúng thế, tượng ngọc Ô Dương vương chưa bị hủy đi, có thể là do Quan Sơn thái bảo cố ý làm vậy, vị vương có thân không đầu, chính là chân thân của tượng ngọc này, không gọi là Ô Dương vương, mà phong hiệu chính xác của nó phải là "Vu Lăng Di Sơn vương", có điều các cô các cậu chớ tưởng Vu Lăng vương là người, theo truyền thuyết cổ xưa này, Vu Lăng vương thực tế là... là một con ô dương rất lớn."
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 13 _ Người chết......thân phận bất minh

Giáo sư Tôn nói hang động này vốn là nơi để cúng tế Vu Lăng vương, còn mộ của Lăng vương hẳn được chôn giấu ở chỗ sâu nhất trong hẻm núi Quan Tài. Càng khiến người ta khó tin hơn là, vị vương này không phải người, mà là một con "ô dương" toàn thân đen trũi, năng đến nghìn cân.

Tôi vẫn còn vô vàn thắc mắc, đang định hỏi lại thì Tôn Cửu gia đã nằm bò ra chăm chú xem xét cái bệ đá, tôi đành ôm đầy một bụng nghi vấn, kéo Tuyền béo đi xung quanh xem xét địa hình, hang động giữa lưung chừng núi này rất lớn, đằng xa gió dữ rít lên như thần khóc quỷ gào, thiết nghĩ cái hang này hẳn chạy xuyên qua núi, chắc hẳn có lối ra thông sang một sơn cốc khác.

Đợi được đến lúc Tôn Cửu gia dập lại hết toàn bộ văn tự ghi chép sự tích của Ô Dương vương thì đã đến nửa đêm, chúng tôi đành tìm một góc trống trải, đốt lửa lên, qua đêm trong hang động.

Giáo sư Tôn ngồi trước đống lửa vừa sắp xếp lại các tư liệu thu thập được trong ngày, vừa câu được câu chăng kể cho chúng tôi nghe truyền thuyết ghi chép trên bia. Cái bệ đá bên dưới ghế ngồi bằng xác người của Ô Dương vương có từ thời Đại Vũ trị thủy, văn tự ký hiệu điêu khắc cực kỳ tỉ mỉ, hoa văn chạm khắc theo lối "lôi văn khinh trọng", chữ là kiểu chữ "cổ triện Oa Thiền", người bình thường căn bản không thể nào hiểu nổi những ký hiệu quái dị như trong sách trời này, nhưng giáo sư Tôn đắm chìm trong việc nghiên cứu chữ cổ đã mấy chục năm, dốc hết tâm huyết vào đó, thành tựu không phải tầm thường đám học giả chuyên gia binh thường không thể so sánh, nên cũng đọc hiểu được bảy tám phần nội dung ghi chếp.

Tôi thầm nhủ mình may mắn, nếu không phải nhất quyết lôi bằng được Tôn Cửu gia đến Thanh Khê, chỉ dựa vào ba người tôi, Shirley Dương và Tuyền béo thì dẫu có nhìn thấy những văn tự cổ đại này cũng lờ đi coi như không thấy. Nghĩ đọan liền im bặt, tập trung lắng nghe giáo sư Tôn giảng giải. Thì ra những câu ám ngữ chỉ dẫn cách tìm lối vào mộ cổ Địa Tiên này, ngoài ẩn chứa bí mật phong thủy thanh ô, quả nhiên cũng có liên quan mật thiết đến những truyền thuyết thời xừa ở hẻm núi Quang Tài.

Thời xa xưa, vì địa hình mạch núi Vu Sơn rất đặc thù, khu vực này liên tiếp gặp lũ lụt, thiên tai quanh năm, mỗi năm đều có vô số người và súc vật bị dòng nước nhấn chìm, làm mồi cho lũ tôm cá dưới sông.

Đương khi không biết phải làm sao, trong núi chợt xuất hiện một vị ẩn sĩ, thể hình khôi vĩ, mặt đầy râu ria., thân vận áo choàng đen, tự xưng mình là Vu Lăng đại vương, có thuật dời núi, có thể sai sử âm binh khơi thông dòng nước.

Nhưng ông ta đưa ra hai điều kiện, một là trong khi tiến hành công trình dời núi khơi sông, phải cung phụng rượu thịt cơm nước đầy đủ, đến giờ cơm thì đem cơm rượu chất đống trước cửa hang trong núi. Trước cửa hang có một cái đỉnh lớn, dân chúng đưa cơm đến rồi gõ đỉnh ba tiếng, sau đó phải nhanh chóng lánh đi.

Điều kiện thứ hai là xin thiên tử gia phong quan tước để biểu dương công đức của ông ta, bấy giờ triều đình đang đau đầu vì công trình quá lớn, dù chịu xuất bạc xuất lương thực và tráng đinh cũng không thể làm nổi việc dời núi thay dòng, trong triều lại cực kỳ coi trọng các cao nhân đắc đạo nên lập tức đồng ý ngay.

Vây là Vu Lăng vương ngày đêm làm phép, sai sử âm binh âm tướng khơi dòng nước dữ, từ đó trong núi ngày nào cũng mờ mịt mây mù, tiếng phá đá dời núi ầm ầm như sấm. Dân trong vùng cảm kích công đức ấy, đã chọn một cô gái họ Lý gả cho Vu Lăng vương làm vợ, về sau, việc chuẩn bị đồ ăn thức uống cúng tế âm binh, đều do vị phu nhân này đích thân đốc thúc.

Công trình trị thủy vừa khó khăn lại kéo dài dai dẳng, một hôm, trời đột nhiên đổ mưa lớn, Vu Lăng vương chỉ huy âm binh khơi dòng bất lợi, rượu thịt đưa đến hai ngày liền vẫn không đụng tới. Phu nhân lo lắng trong lòng, mới dẫn người mang đồ ăn vào núi.

Đến nơi công trình khơi sông đang tiến hành, mọi người ai nấy đều kinh hãi. Trong hẻm núi có một con lợn đen khổng lồ đang đứng giữa dòng nước, lấy đầu húc vào núi đá, sau lưng nó là vô số quỷ mị đang vận chuyển đát đá. Thì ra Vu Lăng vương chính là con ô dương trong núi tu luyện hóa thành, muốn khơi dòng phải hiện nguyên hình dùng sức quỷ thần khai phá, vì vậy không chịu để dân chúng vào núi gặp mặt.

Vu Lăng vương bị dân chúng nhìn rõ nguyên hình, từ đấy ẩn cư trong núi, không chịu tiếp tục công việc nữa, lại càng không còn mặt mũi nào gặp phu nhân. Phụ nhân quỳ trước núi khẩn cầu vô ích, đành gieo mình xuống vách đá tự vẫn. Vu Lăng vương bấy giờ mới thẩy hổ thẹn với phu nhân, bèn suất lĩnh âm binh khai thông nốt đoạn sông cuối cùng, loại bỏ hoàn toàn mối lo lũ lụt của dân cư trong vùng.

Triều đình ban trọng thưởng, muốn mời Vu Lăng chân quân đi trị thêm một đoạn sông cũng thường gặp lũ lụt nghiêm trọng, nếu thành công sẽ lập tức phong vương hầu. Nhưng Vu Lăng vương lại nói từ nay sẽ quy ẩn sơn lâm, trừ phi phu nhân sống lại, bằng không vĩnh viễn không bao giờ dời núi khơi sống nữa. Ngày từ biệt, có cả ngàn vạn người đến cung tiễn.

Vu Lăng vương say khướt, đi lạc vào núi Tây Lăng, hiện nguyên hình nằm lăn ra ngủ, kết quả bị sơn dân trong vùng không hiểu chuyện bắt sống, lập tức trói nghiến lại, đun một nồi nước to, cạo lông chọc tiết náo động một hồi. Khi đám thuộc hạ tìm được đến nơi, thì bộ lòng của đại vương đã nấu được một lúc lâu rồi.

Sau đó, khắp vùng liền xuất hiện ôn dịch, kế đó châu chấu bay đến che kín cả bầu trời, dân chúng đều nói là do âm hồn của Vu Lăng vương chưa tan, bèn xây một ngồi một lớn trong hẻm núi, thu liện những phần xương cốt còn sót lại đem đi an táng, nhưng cũng chỉ thu thập được một ít da lông xương vụn, cái đầu chắc đã bị ăn mất, không sao tìm lại được nữa. Sau đấy, dân chúng lại xây điện tế, đẽo tượng ngọc đầu đồng để thờ cúng, năm nào cũng tế bái đầy đủ.

Những khe núi đan xen trong khu vực hẻm núi Quan Tài này, cùng con đường điểu đạo hiểm trở trên vách đá, đều là di tích năm xưa Vu Lăng vương sai sử âm binh khơi dòng, những người chết trong quá trình khơi sông trị thủy bao đời nay đều được cho vào quan tài treo, rồi theo dòng nước lũ dần dần rút xuống mà được an táng trên vách núi, thành tầng tầng lớp lớp quan tài như ngày nay. Vốn chỉ là hành vi vô tình, không ngờ lại tạo thành một hình bóng không đầu khổng lồ, có lẽ cũng là điềm báo Vu Lăng vương phải mất mạng. Trước khi ra khỏi núi, Vu Lăng vương cũng từng dẫn âm binh đi đào mạch khoáng muối Vu trong núi, những giếng khai thác muối trong hẻm Quan Tài chính là nơi đặt lăng mộ. Từ điện tế này, phải đi qua một đoạn "điếu đạo trăm bước" cực kỳ hiểm trở mới đến được lối vào lăng.

Giáo sư Tôn đọc hết nguyên văn đoạn ghi chép này cho chúng tôi nghe, bấy giờ tôi mới sực tỉnh ngộ: "Thì ra đoạn ẩn ngữ năm xưa trung đoàn trưởng Phong để lại, trên thực tế chỉ có câu cuối cùng là hữu dụng, cũng có thể đây chỉ là đoạn đầu tiên, ý muốn nói lối vào mộ cổ Địa Tiên có khả năng được giấu trong huyện một ban đầu của Ô Dương vương, vậy nên: "Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương". Truyền thuyết Ô Dương vương mở núi khai sông chính là đầu mối quan trọng để tìm thấy lăng mộ, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên để tìm kiếm thôn Địa Tiên, tiếp sau đấy chắc vẫn còn những gợi ý khắc, nhưng giờ thì không thể biết được nữa rồi."

Đối với truyền thuyết về Ô Dương vương, Shirley Dương cũng có nhiều điểm thắc mắc, bèn hỏi giáo sư Tôn: "Truyền thuyết này nghe chẳng giống sự kiện lịch sử gì cả, theo thuyết này, Vu Lăng vương là người đã mở núi khơi dòng, có công có đức với dân, nhưng cái ghế bằng xác người trong sơn động lại quá bạo nghiệt, khác xa những sự tích được ghi lại trong bia văn, trong hẻm núi Quan Tài này liệu có mộ của Vu Lăng vương thật không?"

Giáo sư Tôn đáp: "Những văn tự khắc trên bia đá đỉnh đồng đại để đều là những lời ca tụng công đức, không thể tin hết được, nhưng những thứ còn sót lại sau nghìn năm ở đây khiến người ta không thể không tin lăng mộ của Vu Lăng vương chính nằm trong hẻm núi Quan Tài này. Có điều, sự thật lịch sử chưa chắc đã như vây. Truyền thuyết Ô Dương vương hiện nguyên hình mở núi khơi dòng mang nhiều màu sắc thần thoại, đương nhiên không thể coi là thật được. Ngoài ra, chuyện này không hề được ghi chép trong các sử liệu và địa chí, văn hóa Vu Tà cổ xưa thần bí, có nhiều sự việc đã bị nhấn chìm trong dòng chảy lịch sử, đến giờ không thể khảo chứng được nữa rồi."

Tuyền béo cũng chõ miệng vào: "Tôi thấy hẻm núi Quan Tài này hiểm trở như thế, với năng lực lao động nguyên thủy của con người xưa không thể khai thông được đâu, chắc toàn là những lời tự trát vàng lên mặt mình thế thôi. Vị đại vương không đầu này hẳn cũng là một kẻ tội ác chất chồng, sợ sau khi chết bị người ta đổ đấu nên mới kiếm người khác bịa đặt chuyện ở trước mộ ấy mà. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, dù Vu Lăng vương sinh tiền có bạo nghiệt thế nào chăng nữa thì lúc chết bị người ta xẻ thịt chặt đầu nấu lẩu ăn, cũng coi như báo ứng rồi."

Giáo sư Tôn nói: "Lời này của cậu cũng có lý, theo kinh nghiệm của tôi, Vu Lăng vương chưa chắc đã là ô dương gì đó, lịch sử cổ đại Trung Quốc có quá nhiều trường hợp phải lật lại kết luận rồi, trở tay làm mây, lật tay làm mưa, chuyện gì cũng không thể một lời mà định luận được. Tôi nhớ trong sử liệu cũng nhắc đến sự tích một vị vương hầu khá giống Ô Dương vương này, có điều không phải Vu Lăng vương, mà là Long Xuyên vương. Tương truyền, Long Xuyên vương tính tình tàn bạo xa xỉ cùng cực, nhưng lại có công khơi sông đào lạch, tiêu trừ mối nguy lũ lụt, công tội khó bề đánh giá. Lúc chết, ông ta từng bị loạn đao phân thây. Con cháu ông ta sợ có người vì báo thù mà đào lăng mộ ông ta lên, vì vậy lúc hạ táng đã thay đổi danh hiệu, lại dùng nhiều thủ đoạn che tai mắt người đời, còn về việc Long Xuyên vương là kẻ thống trị ở khu vực nào, đến giờ vẫn chưa có kết luận thống nhất. Nom những di tích ở hẻm núi Quan Tài này, tôi cảm thấy Long Xuyên vương rat có khả năng là Di Sơn Vu Lăng vương."

Tôn Cửu gia xưa nay trong công việc đều không dám nói nhiều, nhưng trước mặt chúng tôi, lão ta đương nhiên không cần sợ lỡ lời, vì vậy vừa mở máy liền có dấu hiệu hơi mất kiểm soát, cứ thao thao bat tuyệt việc kinh dãn sử, kế đó lại bàn về Long Xuyên vương, nói người này biết dị thuật. Thời cổ đại, muốn mở núi khơi sông đều không thể không vận dụng phương thuật, nếu không biết bố cục phương hướng của núi non sông ngòi thì không chỉ uổng công vô ích, mà còn gây ra hậu quả vô cùng. Khi nghiên cứu Long cốt thiên thư, giáo sư Tôn đã phát hiện rất nhiều ghi chép về động đất, lũ lụt...

Tôi bảo giáo sư Tôn: "Mặc xác lão là Ô Dương vương hay Long Xuyên vương, lăng mộ của lão đã bị đào từ mấy trăm năm trước rồi, thị phi thành bại ngoảnh đầu lại cũng chẳng còn gì nữa, vì vậy chúng ta khỏi cần khảo chứng công tội trong lịch sử làm gì, trước mắt phải nghĩ cách tìm được đoạn điểu đạo trăm bước kia đã. Nếu cái hang có tượng người ngọc với ghế xác người này đúng là nơi để tế mộ, dựa theo bố cục phong thuỷ của mộ táng, lối vào mộ đạo, chắc chắn ở phía sau người ngọc, cũng không khó kiếm lắm đâu. Tôi chỉ lo vào được mộ đạo rồi cũng chưa xong chuyện thôi."

Giáo sư Tôn và Shirley Dương cũng lấy làm lo lắng, án ngữ của trung đoàn trưởng Phong để lại chỉ có đoạn đầu tiên, sau khi tìm được lối vào mộ Ô Dương vương, chúng tôi sẽ chẳng còn gì để tham khảo nữa, đến lúc ấy chỉ có thể đi bước nào hay bước ấy, không ai biết còn bao xa mới đến mộ cổ Địa Tiên. Cả bọn bàn bạc hồi lâu, cũng chỉ kết luận được rằng hung cát khó lường, tiền đồ mờ mịt.

Nghỉ ngơi trong hang động đến sáng sớm, chúng tôi vực dậy tinh thần, tiếp tục tiến sâu vào bên trong, quả nhiên hang động này xuyên qua lòng núi, tận cùng bên này là một sơn cốc khác cũng thuộc khu vực hẻm núi Quan Tài, tuy rộng hơn khu vực treo đầy quan tài bên kia nhiều, nhưng địa hình cũng rất hiểm trở.

Trong núi mây mù vẩn vít, mênh mênh mang mang ngút tầm mắt, dưới đáy khe núi là dòng nước cuồn cuộc ngất trời, bị vách đá ngăn trở, hình thành nên một chỗ ngoặt hình chữ "a", còn vùng thượng du phía xa xa, là một thác nước ầm ầm như sấm động, dòng nước xiết ở trong hẻm núi đổ dồn rồi chuyển hướng gấp gáp, làm bắn lên một màn bụi nước mù mịt, như một con rồng khổng lồ lóng lánh vảy bạc đang bay lượn giữa tâng mâng chợt lao xuống đáy khe sâu thăm thẳm, tách rời hai bên vách núi.

Tôi đưa mắt nhìn dòng nước xiết cuộn chảy bên dưới ba bốn lượt. Tuy không sợ độ cao, nhưng tôi cũng thấy chóng cả mặt, lại ngẩng lên nhìn sang vách đá đối diện, quả nhiên có rất nhiều điểu đạo ngoằn ngoèo, tựa như một tấm mạng nhện khổng lồ đục sâu vào vách núi cao muôn trượng, chằng chịt đan xen, nhất thời nhìn mà hoa hết mắt.

Shirley Dương giơ ống nhòm lên quan sát một hồi, bat giác trù trừ nói: "Phía đối diện phải có mấy trăm con đường đẽo vào trong vách núi, ngoài rất nhiều đoạn đường cụt ra, khá nhiều chỗ dẫn đến những miệng hang khác nhau, làm sao biết điểu đạo trăm bước rốt cuộc là chỉ đoạn nào đây?"

Tôi bảo đường cuống lên thế, tối qua Tôn Cửu gia đã bỏ sức không ít, bằng không làm sao biết được lai lịch của đại vương không đầu? Nhưng công lao không thể để một mình ông ta chiếm hết được, hôm nay để tôi cho các đồng chí chiêm ngưỡng thủ đoạn của Mô Kim hiệu uý. Nói đoạn, tôi xác nhận lại với giáo sư Tôn, câu nói của trung đoàn trưởng Phong có chính xác là "Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi" hay không?

Giáo sư Tôn lập tức lấy danh dự ra thề, lão ta đã không ngừng nhẩm đọc đoạn ám ngữ này trong đầu suốt mười mấy năm rồi, khẳng định không thể nào sai được.

Tôi ngầm gật đầu, trong lòng sớm đã có biện pháp, từ chìa khoá của câu "Điểu đạo tung hoành, trăm bước chín hồi" này hẳn là "chín". Nhìn điểu đạo trên vách đá dựng đúng phía đối diện vừa khéo giống với thế "quần long triền sơn", dù di tích cố trong hẻm núi này là do ai để lại thì cũng tuyệt đối không phải tuỳ tiện tạo thành, có lẽ người khác khó lòng nhìn ra được huyền cơ bên trong, nhưng kiểu bố cục " chiêm tinh tượng, suy quẻ tượng" này lại chính là sở trường mũi nhọn của bí thuật Mô Kim.

Những mộ táng thời cổ nói chung, dù cục bộ hay chính thể, cũng đều phải hợp lại với số "chín (cửu)". ý là "cửu tồn, trường cửu". "Tầm long quyết" trong Thập lục tự âm dương Phong thuỷ bí thuật có viết rằng: "Quần long quấn núi chia chín khúc, khúc khúc đều là chín vòng tròn; chín vòng bên ngoài lặp cửu chuyển, cửu chuyển cửu trùng cuốn lầu rồng; chín chín lượn vòng quy về nhất, ba ba hai hai nhập linh sớn..."

Tuyền béo ngạc nhiên nói: "Tư lệnh Nhất tính toán cũng khá lắm, cả chín chín tám mươi mốt mà cũng biết cơ đấy, nhưng mà cậu chín nọ chín kia nãy giờ, tôi nghe mãi vẩn chẳng hiểu nổi rốt cuộc chúng ta nên đi phía bên nào?"

Tôi giải thích: "Tôi bảo chín chín tám mốt bao giờ? Còn có cả chín ba hai mươi bảy nữa cơ. cái này gọi là "Tầm long nhập thể quyết", lẽ ảo diệu của Cửu cung Bát quái đều nằm cả ở trong đó đấy, nếu ngay cả loại người thô tục như cậu nghe cũng hiểu thì thà tôi xé cha nó quyển sách gia truyền ném xuống sông cho rồi. Mọi người để ý điểu đạo trên vách núi kia chẳng chịt như mạng nhện, kỳ thực chỉ có một con đường là thật thôi, chỉ như cần leo lên từ con đường thứ mười ở dưới đấy, cứ ba giao lộ lại rẽ một lần, sau hai lần rẽ thì cách ba giao lộ lại rẽ tiếp, đi xuống không đi lên, đi trái không đi phải, cứ vậy lặp đi lặp lại chín lần, trông thấy cửa hang mới được vào, đó hẳn chính là lối vào mộ đạo lăng mộ Ô Dương vương đấy.

Giáo sư Tôn càng lấy làm lạ. Theo thói quen trong công việc, chuyện gì lão ta cũng thích tìm hiểu đến đầu đến đũa, bèn hỏi tôi: "Năm xưa Gia Cát Lượng dùng Bát Môn trận đồ suýt nữa bao vây giết được đại tướng Lục Tốn của Đông Ngô, hình như trong đó cũng vận dụng nguyên lý Ngũ hành sinh khắc, nhưng đây là thứ đã thất truyền bao nhiêu năm nay, sao cậu lại biết được? Nghe lão Trần bao, những ngón nghề này đều do trưởng bối trong nhà truyền cho hả? Bề trên nhà cậu rốt cuộc làm gì vậy?"

Tôi đưa mắt nhìn Shirley Dương, thầm nhủ ông ngoại Shirley Dương là thủ lĩnh Ban Sơn, danh tiếng lừng lẫy nhường nào? Ông nội cô cũng xuất thân dòng dõi thi thư, đem ra khoe với ai cũng được, ngay như ông nuôi của Út, cũng là bậc nguyên lão Phong Oa sơn. Thế mà sao ông nội của Hồ Bát Nhất này lại đi bày sạp xem bói tuyên truyền mê tín dị đoan chứ? Giác ngộ thấp quá, nói ra cũng thấy ngại ngần. Nghĩ vậy, tôi thấp giọng thì thầm vào tai giáo sư Tôn: "Ông nội tôi năm xưa là tay lang bạt đi khắp núi non sông hồ, danh lừng thiên hạ, tham gia cách mạng cũng khá sớm, nhưng là tham gia cách mạng Tân Hợi thôi. Trên giang hồ, người ta gọi nghề của ông là Kim Điểm, những ngón nghề này của tôi đều là gia truyền, tiếc rằng chỉ học được võ vẽ, để ông phải chê cười rồi."

Giáo sư Tôn dọc đường đã hỏi thăm ở chỗ Shirley Dương khá nhiều ám ngữ của giới giang hồi, nghe vậy dường như cũng hiểu được gì đó, gật đầu tấm tắc: "Chẳng trách chẳng trách, nếu không phải xuất thân từ thế gia chốn lục lâm, thì cũng không thể có kỳ tài bậc này."

Tôi sợ Tôn Cửu gia lại hỏi tiếp, vội dẫn đầu tìm một con đường có thể đi xuống. Giữa hai vách núi dựng đứng tưởng chừng kéo dài vô tận ấy, có mấy cây cầu gỗ dùng xích sắt nối liền, đi bên trên người cứ lắc lư theo cầu, dưới chân là dòng nước xiết cuồn cuộn chảy, không khỏi kinh hồn bạt vía, nhưng đã đến đây thì cũng khó lòng quay đầu lại được, cả bọn đành đánh liều đi sang phía bên kia.

Trong khe núi chợt nổi mây mù rồi mưa bụi lất phất, trong màn mưa, cảnh vật xung quanh trở nên mơ hồ, mờ mịt, cũng may từ đầu chúng tôi đã xác định tuyến đường, tìm được lối lên đoạn điểu đạo lưng chừng vách núi, cứ dựa theo khẩu quyết "Tầm long nhập thế" mà đi lên. Đoạn đường này lầy lội vì mưa, cực kỳ hiểm trở, bước bên trên như thể đang bước trên lưỡi dao cao, trăm bước chín vòng, người đi phía sau, có thể thấy hai chân người đi trước ở ngay trên đầu mình.

Tôi thầm dượi lại "Tầm long quyết" trong đầu, đi trên con đường ngoằn ngoèo hiểm trở khảm vào vách đá dựng đứng, lại sợ đi sai đường, chốc chốc phải phân tâm quan sát. Tục ngữ có câu "lên núi thì dễ xuống núi khó", đi lên trên thì nhìn thấy đường trước mặt, ngay cả kẻ sợ độ cao như Tuyền béo cũng kiên trì được, nhưng nếu phải đi xuống dưới, cảnh tượng trước mặt chỉ là sương mù mờ mịt và khe núi sâu thẳm khiến người ta kinh hồn táng đởm, hễ bất cẩn một chút, sẩy chân rơi xuống thì chết mất xác là cái chắc.

Khó khăn lắm mới đi đến tận cùng của "điểu đạo trăm bước chín hồi", trên vách núi xuất hiện một đường hầm sâu hun hút. Tôi leo vào trước tiên, rồi vươn tay ra lần lượn đón bốn người còn lại, bấy giờ mới quan sát kỹ tình hình trong hang. Nơi này sương mù dày đặc, hít thở cũng khó khăn, tầng nham thạch vẫn còn dấu tích của đá mẹ, khắc hẳn đường hầm trong phòng không Thanh Khê, hẳn là một đường hầm cổ xưa, không rõ thông đến nơi nào.

Tôi không dám chắc con đường này có chính xác hay không nữa, cũng có thể vừa nãy trên vách đá đã rẽ nhầm lối không chừng, trong lòng không khỏi có chút hoang mang, vừa nghĩ vừa giơ đèn pin mắt sói lên đi mấy bước vào trong, chợt thấy bên cạnh có một tấm bia mộ, trước bia một có một cái xác đang ngồi xếp bằng, mặt mũi y phục đều đã phong hoá, hầu hết da thịt cũng đã tiêu tan, chẳng rõ chết được bao lâu rồi. Tôi vội gọi Tôn Cửu gia ở phía sau bước lên, để lão ta xem đây có phải di thể của trung đoàn trưởng Phong hay không.

Tôn Cửu gia thấy cái xác khô, tâm tình lập tức trở nên kích động, run run đeo khẩu trang và găng tay vào, nâng đầu người chết lên quan sát kỹ lưỡng, đoạn nói: "Không giống... không giống..., tôi nhớ trước khi bỏ trốn, trung đoàn trưởng Phong từng bị người ta đánh gãy mấy cái răng ở mỏ khai thác đá, mà cái xác này vẫn còn đầy đủ cả hàm răng, hẳn không phải lão Phong đâu. Nhưng người này là ai chứ? Không đúng... các cậu mau xem xem, đây là gì vậy?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 14 _ Thiên hiểm vô hình

Chúng tôi tưởng giáo sư Tôn muốn nói đến cái xác vô danh kia, đang định lại xem, chợt lão ta nói tiếp: "Không phải là cái xác khô, là tấm bia mộ này cơ, quả nhiên là cột mốc chỉ đường đến thôn Địa Tiên."

Nghe vậy, tôi phấn chấn hẳn lên, vội cùng Tuyền béo nhắc cái xác vô danh sang bên, chỉ thấy trên bia mộ vốn bị xác chết chắn mất không phải tên tuổi của người chết, mà khắc lõm vào năm chữ "Quan Sơn chỉ mê phú", nét khắc mạnh mẽ, cứng cáp, hai bên còn có mấy hàng chữ nhỏ, tôi lướt mắt đọc qua, chính là đoạn ám nữ để tìm kiếm mộ cổ Địa Tiên kia: "Hay cho đại vương, có thân không đầu; nương tử không đến, núi non không khai..."

Tôi thấy đoạn ám ngữ trên tám bia vỡ này hoàn chỉnh hơn hẳn phần trung đoàn trưởng Phong năm xưa thổ lộ cho giáo sư Tôn, bất giác mừng rỡ ra mặt: "Thì ra ám ngữ ẩn chứa bí mật về mộ cổ Địa Tiên này, gọi là 'Quan Sơn chỉ mê phú', mấy câu phía sau là..."Muốn đến Địa Tiên, hãy tìm ô dương; trước đài Hách Hồn, m hà vắt ngang; cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm, ngả vách xả thân, một bước lên trời; Tường sắt vách bạc, càn khôn tại số; Hắc Sơn động phủ, thần khuyết diệu cảnh; lầu đồng trăm quan, Ngoã gia đến cửa; Dập đầu tám trăm, sẽ được trường sinh."

Chúng tôi đọc đi đọc lại mấy lần, hầu như chẳng hiểu gì cả, theo kinh nghiệm trước đó, cứ lần mò đi tới, tự khắc sẽ ngộ ra lý lẽ bên trong, nên cả bọn liền chép bài "Quan Sơn chỉ mê phú" trên tấm bia vỡ ấy lại.

Giáo sư Tôn nói với cả bọn: "Giờ thì tốt rồi, bao nhiêu năm nay, rốt cuộc cũng đã đọc được toàn bộ bài 'Quan Sơn chỉ mê phú' chỉ đường đến thôn Địa Tiên, di chỉ mộ đạo của mộ Ô Dương vương có thể nằm trong chính hang động tận cùng 'điểu đạo trăm bước' này rồi." Nói đoạn, lão ta lại trầm ngâm: "Trước đài Hách hồn, âm hà vắt ngang... tiếp sau đây có thể là một đài cao và một dòng sông ngầm, chúng ta cần phải chuẩn bị tâm lý trước đã."

Tuyền béo nói: "Cái đoạn Chỉ mê phú này có phải nhắc đến vàng bạc châu báu gì không? Mấy chữ này nghe ra còn có vài phần tác dụng, chứ đoạn đường chỗ hẻm Quan Tài này toàn là đường trên trời, nguy hiểm quá đi mất, giờ tôi vẫn còn thấy đầu gối mềm nhũn cả ra đây, nếu trong mộ có vàng bạc châu báu thật, đại gia đây mới coi như không uổng một phen khiếp vía."

Út từng nghe kể về truyền thuyết mộ yêu tiên của dân bản địa, nghe Tuyền béo nói vậy liền hỏi cả bọn: "Dập đầu lạy địa tiên là có thể trường sinh bất tử à? Có tin được không?"

Giáo sư Tôn nói: "Thế mà cũng tin được hả? Dưới gầm trời này làm gì có ai trường sinh bất tử? Những lời hoang đường ăn không nói có kiểu ta đây có tài bắt thần gọi quỷ ấy, đa phần đều là lời bịa đặt của lũ buôn thần bán thánh, sao có thể tin được."

Tôi nghe mấy người Tôn Cửu gia và Tuyền béo bàn tán xôn xao, cúi đầu nhìn xác chết vô danh kia, rồi lại nhìn tấm bia mộ khắc bài "Quan Sơn chỉ mê phú", ý niệm xoay chuyển trong đầu, chợt nghĩ đến một số việc cực kỳ quan trọng, bèn chen vào: "Chúng ta còn chưa đỗ ông nghè, đừng có vội đe hàng tổng, tình hình trong mộ cổ Địa Tiên thế nào, hẵng vào được bên trong rồi tính toán cũng chưa muộn. Mọi người có nghĩ chuyện trước mắt này có chút kỳ lạ không..."

Bên trong hang động ở tận cùng "điểu đạo trăm bước" rất rộng rãi thông thoáng, "Quan Sơn chỉ mê phú" lại được ghi rõ rành rành ở đây, như chỉ sợ người ta không tìm được mổ cổ Địa Tiên vậy. Mê cung trên vách đá tuy gian nan hiểm trở, nhưng đời nào cũng có các nhân sĩ tinh thông kỳ môn thuật số, thời Thanh lại càng có một dạo hưng thịnh, nếu là cao thủ đổ đấu chân chính, muốn vào tới chỗ này thật chẳng khó khăn gì.

Người xưa có câu: "Mộ, là phải giấu đi, không để người khác thấy." Quan Sơn thái bảo là cao thủ đào mồ quật mả, sao lại có thể làm trò trẻ con vớ vẩn, lập bia chỉ đường ở ngay cửa hang thế này được? Ngoài ra, chỉ có hậu nhân của nhà họ Phong mới biết nội dung "Quan Sơn chỉ mê phú" mà thôi, vậy cái xác khô đằng trước tấm bia vỡ này là người nào? Chẳng lẽ bên trong có điều gì gian trá hay sao?

Những lời này của tôi lập tức khiến cả bọn trở nên hoang mang, giáo sư Tôn ngẫm nghĩ giây lát, rồi tỏ ý không tán đồng: "Vị địa tiên kia hẳn là một kẻ cực kỳ tự cao, sau ki nhìn thấu được thiên cơ, tính tình liền hoàn toàn biến đổi, vì vậy mới vào núi xây mộ giấu của báu, bên trong bài 'Quan Sơn chỉ mê phú' này có hàm ý tiên nhân chỉ lối. Từ những sự sắp đặt này có thể thấy, mộ cổ Địa tiên là để độ cho người ta đắc đạo, không thể coi như một ngồi mộ chôn xác giấu của bình thường mà phán đoán được. Vả lại, 'Quan Sơn chỉ mê phú' cũng không phải thứ bọn trộm mộ bình thường có thể dễ dàng phá giải, những người thực sự hiểu được thuật số ngày nay đã hiếm như sao buổi sớm, không có cơ duyên đặc biệt, chắc chắn sẽ không thể tìm được mộ cổ. Năm xưa, bọn giặc cỏ đông như thế cũng không đào được Thiên thư trong mộ cổ Địa Tiên, đây chính là chứng cứ tốt nhất."

Giáo sư Tôn lại nói: "Chúng ta vừa khéo lợi dụng được ý đồ muốn độ nhân đắc đạo thưở sinh tiền của vị địa tiên ấy, bằng không hẻm núi Quan Tài địa thế hiểm trở như vậy, sợ rằng khó mà tìm được nơi này. Cái xác vô danh này..." Nói tới đây lão ta bắt đầu ngần ngừ, rõ ràng không nghĩ ra phải giải thích việc các xác ngồi trước tấm bia như thế nào cho hợp lý. Người chết thần bí này đã có thể tìm được tới đây, lại thấy cả "Quan Sơn chỉ mê phú", sao còn không tiến vào trong mộ? Mà ngồi chết ở trước mộ đạo như thế?

Lúc này, Shirley Dương đã kiểm tra kỹ lưỡng cái xác khô, thấy giáo sư Tôn tắc tị không nói tiếp được nữa, cô bèn nêu ra suy nghĩ của mình: "Trong hang động này tối tăm ẩm ướt, không thể xác định được người này đã chết bao lâu, nhưng trong người ông ta có mấy cuốn Đạo kinh bằng thẻ tre, tôi nghĩ ông ta có lẽ là người theo Đạo giáo. Nếu ông ta biết 'Quan Sơn chỉ mê phú', vậy mà lúc còn sống lại không thể vào trong mộ, thì có một khả năng không nên xem nhẹ."

Tôi vội hỏi xem khả năng đó là gì? Shirley Dương nói: "Có lẽ nửa năm sau của 'Quan Sơn chỉ mê phú' là một rào cản không thể vượt qua, ông ta không qua được, hoặc không thể tham ngộ nổi, lại không can tâm rời khỏi nơi này, thành thử cạn kiệt tâm sức, cuối cùng ngồi đây mà hoá. Nhưng ông ta chết ở đây cũng có thể vì duyên cớ khác, em chỉ nêu ra một trong các khả năng mà thôi."

Giáo sư Tôn đọc lại nửa sau "Quan Sơn chỉ mê phú" hai lượt, luôn miệng khen Shirley Dương nói có lý, trong các truyền thuyết tôn giáo, đắc đạo thành tiên cũng chia ra làm ba đẳng cấp thượng, trung, hạ. Hạ tiên phải độ hoá sau khi chết, trung tiên thì trước khi đắc đạo phải trải qua bệnh nặng, nạn lớn, "trước đài Hách Hồn, m hà vắt ngang, cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm; ném đá xả thân, một bước lên trời", mấy câu này chắc chắn chỉ những khảo nghiện khó khăn nơi hiểm địa tột cùng, e rằng chỉ cần hơi thiếu can đảm và may mắn, là sẽ không thể tiến vào mộ cổ Địa Tiên được.

Tuyền béo nghe vậy, lập tức ngoác miệng ra bốc phét: "Đã dám làm cái nghề mò vàng đổ đấu này thì đến ông trời xuống đây còn đếch sợ, tôi chẳng tin có hiểm nguy gì không vượt qua được, cứ đứng đây nói suông thì ích gì? Phải đi xem mới biết thế nào chứ." Nói xong, cậu ta liền cầm đèn pin bước vào phía trong hang động.

Tôi thầm nhủ: "Thằng béo này thường hay nói những câu ngớ ngẩn, có điều câu vừa nãy coi như nói trúng trọng điểm rồi, m hà với âm hiếc, không tận mắt xem xem thì làm sao biết được là thứ quái gì?" Nghĩ tới đây, tôi lập tức hạ quyết tâm, dẫn theo cả bọn tiến vào trong.

Ngọn núi hai bên vách khảm chằng chịt điểu đạo này cao ngất trời, hai bên vách núi dựng đứng nghìn thước lại càng kéo dài ngút mắt, thực tình cũng không biết ngọn núi này lớn chừng nào nữa. Bọn chúng tôi đi trong hang động chỉ một mực tiến về phía trước, không hề gặp phải lối rẽ nào, hang này rõ ràng kéo thẳng một đường từ lưng chừng núi sang đến phía bên kia. Không biết đi được bao lâu, cả bọn bỗng thấy mắt sáng bừng lên.

Ở cuối đường hầm hang động hiện ra một khu vực có địa hình hết sức kỳ quái. Cửa hang bên kia mở giữa lưng chừng núi, phía trước là một hẻm núi hình chữ "T" ngược, mà lối ra này nằm đúng giao điểm của nét dọc và nét ngang trên chữ "T" ấy.

Đối diện là một ngọn núi cao ngất chọc lên cả mây mù lơ lửng giữa tầng không. Ngọn núi như bị kiếm trời chém xả xuống, tách ra một đường thẳng tắp chính giữa. Dưới đáy khe núi theo chiều dọc, có một "Long môn", hai bên là hơn trăm con thú đá ô dương đứng đối diện nhau. Phỏng chừng bên trong chính là địa cung của mộ Ô Dương vương rồi. Những dấu tích thú đá ô dương có thể gặp ở bất cứ đâu xung quanh trấn Thanh Khê, từ một mặt nào đó đã chứng tỏ quy mô vô cùng to lớn của lăng mộ dưới lòng đất nay. Lại thấy, bên trong Long môn vươn ra một dòng thác bằng đá lơ lửng giữa không trung, bề mặt đá trơn nhẵn óng ánh, trông hết sức kỳ dị, tựa như nước đông cứng lại mà thành, bên trên khắc hai chữ đại triện theo lối Oa Tinh: "Hách Hồn".

Long môn được xây dựng giữa hẻm núi cheo leo chật hẹp này vừa khéo song song với lối ra đường hầm nơi chúng tôi đang đứng, còn hẻm núi nằm ngang kia lại cắt thẳng một đường phía trước, chia đoạn đường phía trước Long môn làm hai đoạn, bên dưới là mây mù vấn vít, sâu không thấy đáy.

Giáo sư Tôn lẩm bẩm một mình: "Xem ra nơi này chính là đài Hách Hồn ngay cả khỉ vượn cũng tuyệt đường rồi, quả là công trình của Tạo hoá, m hà vắt ngang có ý gì nhỉ? Lưng chừng trời có sông ư? Còn cầu tiên vô ảnh lại ở đâu nữa?"

Tôi thấy địa thể nơi này thực vô cùng hiểm yếu, từ lối ra của đường hầm xuyên núi tới Long môn không có cây cầu nào cả, tuy khoảng cách giữa đôi bên chỉ chưa đầy hai chục mét, như thể một đường kẻ chỉ giữa trời mây, nhưng nếu không có loại công cụ đặc biệt như súng bắn dây thừng thì rất khó vượt qua khe sâu ở giữa này. m hà, cầu tiên được nhắc đến trong "Quan Sơn chỉ mê phú", phải chăng chỉ vực sâu phía trước đài Hách Hồn? Lẽ nào thật sự có một dòng m hà lơ lửng giữa không trung?

Tôi định lại gần thêm chút nữa để thăm dò, nhưng vừa dợm bước đã bị Shirley Dương kéo lại, Shirley Dương nói: "Đừng qua đó. Anh nghe phía trước có tiếng gì không?"

Tôi lắng tai nghe, thấy ở giao điểm của hẻm núi hình chữ "T" thấp thoáng tiếng gió như có như không, dường như đâu đây có vô số oan hồn đang khóc lóc nỉ non, bèn chau mày hỏi Shirley Dương: "Tiếng gió?"

Shirley Dương không trả lời, chỉ nhặt một hòn đá ném vào khe núi sâu hun hút phía trước Long môn. Cả bọn nghếch mắt lên nhìn, tức thì đều trợn tròn mắt há hốc miệng ra, chỉ thấy cục đá ấy bay được lưng chừng đột nhiên dừng phắt lại, sau đó tựa như rời vào "mắt bão", lơ lửng trên không trung quay "vù vù vù", chao đảo mấy lượt, rồi chẳng rõ đã bị dòng khí lưu thần bí kia mang đi phương nào.

Trước cảnh tượng đó, chúng tôi đều vô cùng kinh hãi, giữa hẻm núi chữ "T" ngược ấy, thoạt nhìn tưởng bình lặng trống trải, nào ngờ lại ngầm chứ sát cơ. Trước đó chẳng ai ngờ nơi đây lại có dòng khí lưu nguy hiểm đến vậy, có lẽ là tại địa thế đặc thù, khiến gió núi tụ cả về giữa khe sâu, hình thành một dòng xoáy vô hình vô ảnh. Bốn phía xung quanh, ngoại trừ những âm thanh của không khí dao động yếu ớt dị thường, thì hoàn toàn không phát giác được bất cứ dấu hiện gì nguy hiểm nữa, chỉ e, đây chính là m hà vắt ngang trong "Quan Sơn chỉ mê phú" rồi.

Giáo sư Tôn lắc đầu nói: "Không qua được, thần tiên có cánh cũng không qua được đâu, đài Hách Hồn không phải thiên hiểm, mà là một tấm bình phong thiên nhiên, nếu dùng dây thừng móc câu ném qua thì trong nháy mắt cũng bị dòng khí lưu hỗn loạn kia cuốn đi thôi. Xem ra đường này không thông rồi, nhưng cũng không sao, tôi tin rằng hễ có công mài sắt ắt có ngày nên kim, chúng ta bỏ thêm chút công sức, nghĩ cách đi đường vòng ra sau núi tiến vào là được."

Tôi ngắt lời giáo sư Tôn: "Xung quanh hẻm núi Quan Tài đa phần là những ngọn núi cao trên một nghìn năm trăm mét, ông đi vòng kiểu ấy mười ngày nửa tháng cũng chẳng vòng đến nơi, dòng khí lưu hỗn loạn này tuy lợi hại, song trong thuật phong thuỷ thanh ô, đây lại chính là chỗ tàng phong tụ khí. Không phải nơi có điều kiện phong thuỷ tuyệt hảo, tuyệt đối không thể xuất hiện hiện tượng kỳ dị này. Mô Kim hiệu uý sở trường phân kim định huyệt, nhưng nếu không đứng trên cao quan sát trọn vẹn toàn cảnh thì cũng không thể nhận ra được hình thế, long khí, địa của vùng núi này. Mạch núi Vu Sơn mây mù mờ mịt, thuật Phân kim định huyệt chắc chắn không có cách nào thi triển, vì vậy tôi không thể nói chắc được rằng có mấy chỗ "mắt gió" kiểu thế này, chưa chừng sau núi và cửa khe núi cũng có nữa. Nhưng nếu đã phát hiện ra nơi tàng phong tụ khí, chứng tỏ chúng ta đã đặt chân vào khu lăng mộ rồi, bảo là đăng đường nhập thất e còn quá sớm, nhưng nói đã chạm tay vào cửa lớn cũng không ngoa đâu."

Giáo sư Tôn hễ cứ cuống lên là tư duy trở nên cứng nhắc, trì độn, lo lắng nói: "Giờ ngay cả giấy giới thiệu giả cũng làm rồi, còn cách nào nữa đây?"

Tôi phì cười: "Cửu gia, ông xem ông cuống lên một cái là hồ đồ ngay, muốn vào chỗ này, có giấy giới thiệu của ai cũng vô dụng thôi."

Giáo sư Tôn vội giải thích: "Lỡ miệng lỡ miệng, cuống lên thành thử nói 'Quan Sơn chỉ mê phú' thành giấy giới thiệu, giờ 'Quan Sơn chỉ mê phú' chúng ta cũng thấy rồi..."

Tôi ngắt lời ông ta: "Thực ra ông nói vậy cũng không sai, 'Quan Sơn chỉ mê phú' chính là giấy giới thiệu của địa tiên viết, chỉ cần tờ giấy giới thiệu của ông ta không phải đồ rởm, chắc chắn chúng ta có thể tìm ra cách vượt qua chỗ hiểm yếu này từ trong đó."

Shirley Dương nói: "Trước đài Hách Hồn, m hà vắt ngang; cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm; ném đá xả thân, một bước lên trời... ba câu này, không biết có phải đều muốn nói đến đài Hách Hồn hay không? Cầu tiên vô ảnh, hắn ám chỉ một cái cầu người bình thường không nhìn thấy, câu cuối cùng thì tôi không hiểu lắm, sao rơi xuống vách núi xả thân lại có thể một bước lên trời? Cầu ở đâu?

Tôi trầm ngâm một lúc, rồi nhắc nhở mọi người trong nhóm: "Còn nhớ cái xác vô danh ở trước tâm bia vỡ không? vị đó có thể cũng muốn tìm mộ cổ Địa Tiên như chúng ta, nhưng ông ta hẳn không phải nghệ nhân đổ đấu hay người yêu thích khảo cô nghiệp dư, tôi đoán rất có thể đây là một người tu tiên cầu trường sinh bất lão. Ông ta chết thế nào thì cũng khó nói, nhưng người này không vào được mộ cổ Địa Tiên, hẳn là bị thiên hiểm vô hình vô ảnh này làm cho khiếp vía, thậm chí còn do dự loanh quanh ở chốn này rất nhiều năm mà không dám hạ quyết tâm xông qua nữa kia."

Tuyền béo nói: "Tư lệnh Nhất, sau khi nghe cậu phân tích, tôi cảm thấy mình hết sức thông cảm với tâm trạng của vị đồng chí kia, con đường này... thật là con bà nó không phải để cho người đi qua, kho báu đã ở ngay trước mắt, vậy mà lại không dám vượt qua, không thể lấy trứng chọi đá, đổi lại là ai đi nữa, cũng không sao can tâm được."

Tôi nói: "Không phải tôi muốn để mọi người hiểu được cảm nhận của nhà thám hiểm kia năm xưa, ý tôi là, mọi người thử nghĩ xem, người kia bị địa thế hiểm yếu của nơi này ngăn trở không dám đi qua, hay là... bị cây cầu kia doạ cho khiếp vía? Tại sao tôi lại nói thế chứ? Bởi vì dọc đường đến đây chúng ta không hề thấy xác của trung đoàn trường Phong, nhưng con khỉ Ba Sơn ông ta nuôi dưỡng vẫn cứ luẩn quẩn quanh đây, chứng tỏ năm ấy ông ta đã chạy được đến Thanh Khê, hơn nữa rất có khả năng đã tiến vào mộ cổ Địa Tiên, nhưng... tại sao con khỉ kia lại không vào cùng ông ta?"

Giáo sư Tôn trầm ngâm: "Ừm... ý cậu là con khỉ Ba Sơn và cái xác vô danh trước tấm bia vỡ cũng giống nhau, đều không dám liều chết bước lên cây cầu tiên kia? còn trung đoàn trưởng Phong gan lớn? Nhưng các cậu nhìn cả hẻm núi trước mắt mà xem, đâu có vật cản gì, trước đài Hách Hồn làm gì có cây cầu nào chứ?"

Ngay sau đó, giáo sư Tôn lại tỏ ý, nếu nói ở nơi tàng phong tụ khí có dòng xoáy do khí lưu hình thành thì còn tin được, vì đây là hiện tượng vật lý đặc biệt, nhưng cầu tiên vô ảnh thì tuyệt không thể tin. Trên đời này làm gì có loại cầu nào vô hình? Là tác dụng quang học chắc? Hay là điểm mù thị giác? Khả năng này không cao lắm, đối diện với sự thật bằng thái độ khách quan... là vấn đề nguyên tắc, tuyệt đối không có chuyện nhượng bộ hay thoả hiệp

Lão ta lại dẫn nguyên văn lời một vị nhân sĩ có vai về năm xưa đã phê phán mình... những truyền thuyết dân gian kiểu này rất không đáng tin cậy, rặt những luận điệu nguyên thuỷ quái dị, được sản sinh ra từ sự "thiếu tri thức, mê tín quá độ, si tâm vọng tưởng", nói chung đều là những tưởng tượng ấu trĩ đến mức không thể hình dung, kẻ nào tin thì đúng là tâm thầm nặng rồi.

Shirley Dương và Út thì cũng đều lắc đầu, không thể tin trên đời này lại có thể có một cây cầu vô hình. Shirley Dương nói: "Ở khu vực tập trung năng lượng cao, mọi thường thức vật lý của con người sẽ trở nên vô dụng, chỉ cần hội đủ điều kiện, thậm chí ngay cả thời gian và không gian cũng có thể vặn vẹo biến hình, nhưng dòng khí lưu đặc biệt hình thành ở chỗ giao điểm của hẻm núi này, còn chưa đạt tới mức có trường năng lượng tập trung cao như thế."

Tôi cười khổ nói: "Tôn Cưu gia quả không hổ là bậc lão thành, quán triệt rất triệt để lời phê của lãnh đạo, còn Shirley Dương cũng không hổ là học viên ưu tú của học viện Hải quân Hoa Kỳ cả hai đều rất có lý, đời nay tuy tôi đã gặp phải không ít chuyện ly kỳ cổ quái, nhưng nói thực lòng cũng không tin có cây cầu vô hình. Có điều tôi tin rằng vực sâu trước mặt chúng ta chính là một cầu... cầu Hách Hồn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Ma Thổi Ðèn II(Quyển 4..Vu Hiệp Quan Sơn)Thiên Hạ Bá Xướ

Postby tuvi » 19 May 2019

Chương 15 _ Cầu hách hồn

Giáo sư Tôn lập tức phản bác: "Thật hết chỗ nói, chẳng lẽ cậu muốn cả bọn bước lên mắt gió mà đi qua chắc? Dòng khí lưu hỗn loạn ấy tuy có thể giữ được hòn đá lơ lửng, nhưng cuối cùng chẳng phải cũng cuốn nó văng đi tít tận đâu còn gì? Cậu đã tính toán thử xem, trọng lượng của bản thân mỗi người trong chúng ta cùng đống hành lý trang bị đeo theo tổng cộng là bao nhiêu chưa? Đừng nói là một bước lên trời, chỉ cần nửa bước cũng đủ rơi xuống vực sâu rồi, chúng ta phải nghiêm cẩn, phải thiết thực chứ!"

Tôi lắc đầu, tôi đâu có nói phải bước lên không khí để sang phía bên kia. Trong "Quan Sơn chỉ mê phú" đã để cập đến "Trước đài Hách Hồn, m hà vắt ngang; Cầu tiên vô ảnh, mắt tục khó tìm; Ném đá xả thân, một bước lên trời" dựa theo kinh nghiệm trước đó, ắt hẳn sẽ có chỗ đối ứng, vả lại hẻm núi hình chữ "T" phía trước Long môn này là con đường duy nhất, vì vậy, tôi tin rằng ở đây hẳn sẽ có một cây "cầu tiên vô ảnh", có điều phải nghĩ cách tìm ra nó mới được.

Shirley Dương nói: "Anh nói không sai, nhưng dù chúng ta phát hiện ra cầu tiên vô ảnh thì có vượt qua được hay không cũng rất khó nói. Mọi người có từng nghĩ rằng, xác chết vô danh ở lối vào hang động kia trên người mang kinh sách Đạo gia, rất có thể là một người tu đạo của triều trước. Nếu ông ta không tìm được lối vào mộ cổ Địa Tiên, chỉ cần theo đường cũ mà quay về là được rồi, nhưng từ cách chết của ông ta mà xét thì dường như người này đã tìm được cầu tiên vô ảnh, nhưng không có gan đi qua, lại không cam tâm rời khỏi đây, cuối cùng cứ quẩn quanh trong hang động mà chết."

Tôi nghe Shirley Dương nói, lập tức nhớ lại hồi trước ở tiền tuyến, rất nhiều chiến hữu vì dính mìn treo(6) mà chết hoặc bị thương, tình cảnh cực kỳ thảm liệt. Đám chến sĩ nhiều người không sợ xông pha chiến đấu, chỉ sợ những quả mìn treo chôn rải rác, nửa lộ nửa kín ấy.

Đúng như câu "binh bất yếm trá", cái xác vô danh trong đường hầm chết một cách cực kỳ khó hiểu, trên người ngoài mấy quyển Đạo kinh ra thì không còn thứ gì khác để người ta tìm hiểu thân phận nữa. Trong các mộ cổ được bày bố kỹ càng, đa phần đều có nghi trận để phòng bọn trộm mộ, nói không chừng cái xác và cả bài "Quan Sơn chỉ mê phú" kia đều là "mồi" của Quan Sơn thái bảo hòng dẫn dụ những kẻ trộm mộ bước vào "mìn treo" trên con đường tuyệt không lối về.

Những ý nghĩ này cứ vẩn vít trong đầu tôi, xua mải không hết, trực giác sau nhiều năm qua lại giữa lằn ranh sinh tử nói với tôi: "Những dấu hiệu này quá bất bình thường, ngàn vạn lần không được sơ ý đâu đấy!"

Tôi nghĩ tới đây, liền bảo giáo sư Tôn và Shirley Dương: "Cầu tiên vô ảnh có lẽ không khó tìm, nhưng tôi đoán dẫu có tìm thấy thì cũng phải mạo hiểm rất lớn mới vượt qua được, vấn đề bây giờ là, có nên mạo hiểm hay không? Ngộ nhỡ đấy là cạm bẫy có đi mà không có về thì sao? Chúng ta làm sao đoán biết được bài 'Quan Sơn chỉ mê phủ' ở cửa hang bên kia là thật hay giả chứ?"

Tôn Cửu gia đầy tự tin nói: "Chuyện này thì dễ, chỉ cần cậu có cách làm cho cầu tiên vô ảnh xuất hiện, với kinh nghiệm phong phú của người đã nhiều năm tham gia công tác khảo cổ như tôi đây, khắc có thể khảo chứng xem nó là thật hay giả. Nếu là cầu giả thì tuyệt không thể thoát khỏi cặp mắt lửa ngươi vàng này của tôi đâu, có điều, xem nửa sau bài 'Quan Sơn chỉ mê phú', thấy nội dung quá nửa ăn khớp với kết quả điều tra của tôi, vì vậy tôi tin rằng, chỉ cần cầu tiên vô ảnh thực sự tồn tại, những câu khắc trên bia đá ấy mười phần chắc đến tám là hàng thật đấy."

Tôi thoáng trầm ngâm, cảm thấy đã thế thì nói thêm cũng vô dụng, trước mắt phải nghĩ cách tìm được cầu tiên vô ảnh đã. Tôi và Sherley Dương thương lượng một hồi, nhưng không ai nghĩ ra một cây cầu thế nào thì mắt thường không nhìn thấy được. Shirley Dương suy luận, có lẽ câu ấy có ẩn ý gì khác cũng không chừng.

Tôi thầm nghĩ: "Ném đá xả thân, một bước lên trời, ném đá xả thân là ý gì đây? Lẽ nào chỉ hành động ôm tảng đá nhảv ra giữa không trung?" Một ý niệm chợt lóe lên: "Không đúng, ném đá trước, xả thân sau, nếu ý câu này chỉ việc bất cần mạng sống ôm tảng đá nhảy xuống, thì phải là xả thân ném đá mới đúng, ném đá xả thân có lẽ muốn nói, trước tiên là đẩy tảng đá rơi xuống, sau đó mới có thể 'xả thân' được."

Tôi đảo mắt một vòng, thấy trong đường hầm có rất nhiều những khối nham thạch to nhỏ khác nhau. Cứ đứng đây nghĩ ngợi lung tung thì làm sao nắm bắt được yếu lĩnh? Tốt nhất cứ mặc xác không nghĩ nữa, chọn một tảng đá to to đẩy xuống thử xem chế nào, nghĩ đoạn tôi liền gọi Tuyền béo đến giúp, hai người bước đến bên cạnh một tảng đá lớn nặng khoảng mấy trăm cân, đẩy thử hai ba lượt, thấy tảng đá khẽ đung đưa phỏng chừng có thể chuyển động được.

Những người khác cũng định lại giúp một tay, nhưng Tuyền béo xua tay bảo: "Các vị, thôi đừng qua đây, cứ đứng bên đó đợi đi để đại gia đây còn rộng chỗ, không khéo lại đè lên chân mấy người thì hỏng bét." Dứt lời, cậu ta nới lỏng dây lưng ra hai nấc, cu cậu lo chẳng may vận sức lên lại làm đứt cả thắt lưng.

Tuyền béo có ý khoe tài, cả tôi cũng đẩy sang một bên. Tôi lo cậu ta dùng sức mạnh quá, lại bị dòng khí lưu hỗn loạn kia cuốn phăng theo tảng đá thì thành ném đá xả thân thật luôn, liền lấy phi hổ trảo ra móc vào đai chịu tải trên vai Tuyền béo, cùng với ba người còn lại ở phía sau nắm chắc lấy đề phòng bất trắc.

Tuyền béo xắn tay áo lên, nhổ hai bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giậm chân xuống tấn, dùng vai huých vào tảng đá to tướng, hít sâu một hơi, tụ khí vào Đan Điền, huy động cơ bắp toàn thân, hét lên một tiếng như sấm: "Đi nào!"

Chỉ thấy tảng đá lớn ấy ầm ầm đổ về phía trước, vì trọng lượng rất lớn, lại gần lối ra của hang động nên nó không hề bị dòng khí lưu hỗn loạn phía trước Long môn hút lấy, mà va vào vách đá dựng đứng, lăn lông lốc xuống khe sâu đầy sương mù bên dưới.

Khoảng cách giữa hai vách núi rất gần, tảng nham thạch lăn xuống cứ đập qua đập lại giữa hai vách đá dựng đứng, phát ra những tiếng ầm ầm trầm đục, chúng tôi đứng ở cửa hang lắng nghe, chỉ thấy khe núi này sâu không thể dò, mãi vẫn chưa nghe tiếng tảng đá kia chạm đáy.

Cả bọn thấy Tuyền béo đẩy một tảng đá lớn xuống vách núi. nhưng phía trước đài Hách Hồn không hề có cây cầu ẩn hình nào, cũng không có dấu hiệu dị thường gì xuất hiện, không khỏi có chút nản lòng, đang định cách này không xong ta bày cách khác, bỗng cảm thấy những âm thanh hỗn tạp vang lên ù ù trong tai.

Lúc này, tảng nham thạch vẫn chưa chạm đất, trên vách núi ngoài tiếng vọng ầm ầm liên tu bất tận, dường như còn có nghìn vạn nồi nước cùng lúc sôi lên sùng sục, rồi sau đó tiếng nước sôi lại chuyển thành tiếng lạo xạo như thể ai đó đang xào nấu, âm thanh sàn sạt khiến màng nhĩ âm ỉ đau nhói. Tôi than thầm trong bụng: "Ném đá xuống gây ra phiền toái rối, giờ tính sao đây?"

Giáo sư Tôn và Út cũng phát hoảng vì những âm thanh lạo xạo ồn ào ấy, không kìm được lùi về sau hai bước. Shirley Dương giương Ô Kim Cang lên chắn trước mặt chúng tôi, nói: "Đừng cuống, có khi là cầu tiên vô ảnh xuất hiện đấy."

Những âm thanh sàn sạt dày đặc bỗng nhiên dồn dập hẳn lên, cảm giác này tựa như đang đứng trước Quỷ Môn quan, đối mặt với vô số ác quỷ nhào ra từ chốn u minh địa phủ, khiến người ta kinh hồn bạt vía, luống cuống tay chân. Tôi thu phi hổ trảo lại, dúi vào tay Shirley Dương, rồi âm thầm nắm chặt xẻng công binh, trong lòng cực kỳ bất an: "Chẳng lẽ cầu tiên phía trước đài Hách Hồn do âm binh dựng nên ư? Sự bố trí trong mộ cổ Địa Tiên này, quả là thần tiên cũng khó đoán..."

Tuyền béo cũng biến sắc mặt, vội thủ thế, giơ nỏ liên châu lên ngắm vào khoảng không, bất kể có của nợ gì bay lên, cứ bắn cho nó mấy chục mũi tên xuyên giáp rồi tính sau.

Cả bọn đang hoảng hốt kinh hãi, thình lình thấy một làn khói đen từ đáy khe núi bay lên, tôi còn chưa hét hoảng hồn, đã thêm bất ngờ, vội nói: "Cái quái gì vậy?" Nhìn kỹ lại, liền thấy mắt mình sắp hoa lên, không ngờ lại là vô số những con chim yến to bằng bàn tay bị kinh động đang ồ ạt lao ra từ khe núi, bị dòng khí lưu hỗn loạn giữa khe hút lấy, tạo thành một đám hỗn loạn, số lượng nhiều đến mức khiến người ta hoa hết cả mắt, chỉ sợ phải đến cả trăm nghìn con chứ chẳng chơi.

Chim yến hay làm tổ trên vách đá cheo leo, vả lại bọn chúng là sinh vật sống theo đàn, có khi trong một hang yến, phải có đến mấy trăm nghìn con. Tổ yến làm từ nước dãi của bọn chúng cực kỳ trân quý, vì hang yến thường nằm ở những nơi địa hình hiểm trở, nên người lấy tổ yến thường phải bám vào vách đá leo lên, mạo hiểm lớn thì thu hoạch cũng nhiều.

Thì ra ở vách đá bên dưới đài Hách Hồn có một hang động bên trong có rất nhiều chim yến xây tổ, Tuyền béo đẩy tảng đá lớn xuống làm cả đàn yến kinh động bay ùa ra. Trong dân gian, chim yến còn được gọi là "khoan gió", loài chim này sở trường bay lượn theo gió, thậm chí còn có truyền thuyết bọn chúng có thể ngủ trong gió, chẳng những vậy, tốc độ cũng rất kinh người, bay nhanh như chớp. Lúc này, mấy vạn con chim yến đen sì bay vút lên trời, vừa đến cửa khe núi liền lập tức bị dòng khí lưu vô hình của m hà cuốn lấy.

Chim yến thiên tính thích tụ tập thành bầy, bị dòng khí xoáy cuốn lại thành một đám, giữ chặt trong "mắt gió" không sao thoát ra được. Đàn chim yến tụ tập đày đặc đến nỗi gần như không còn một kẽ hở, bên dưới khe núi còn vô số con khác, vẫn không ngừng lao vào trận thế.

Dòng khí lưu hội tụ từ ba phía khe sâu lập tức bị đàn chim yến với số lượng khổng lồ làm cho tắc nghẽn, dòng m hà vô hình vắt ngang không trung tức thì bị lấp đầy, hàng vạn con chim yến cũng chặn hết những dòng khí lưu từ các hướng tràn tới, khiến cho khu vực hẻm núi hình chữ "T" phía trước Long môn chật ních không còn một kẽ hở, hình thành nên một "cây cầu chim yến" nẳm ngoài sức tưởng tượng.

Tôi hít sâu một hơi khí lạnh: "Thì ra cầu tiên vô ảnh... là do một đàn chim yến lớn tạo thành!" Mắt thấy mấy vạn con chim yến đang bay lượn quấn quýt vào nhau, tựa như kết lại thành thực thể trong gió, tất cả chúng tôi cơ hồ đều khó lòng tin vào kỳ cảnh mà mình tận mắt chứng kiến.

Nhưng tôi biết, kỳ cảnh này chỉ có thể duy trì trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khi lũ chim yến trong hang động bay ra càng lúc càng nhiều, bọn chúng sẽ nhanh chóng thoát khỏi dòng khí lưu hỗn loạn, tản ra theo gió, cầu tiên vô ảnh cũng sẽ một lần nữa biến mất không còn tăm tích.

Nghĩ lại, đợi khi tất cả lũ yến về tổ thì không biết phải bao lâu sau mới có thể tập hợp chành cây cầu lần nữa, muốn xả thân cầu tiên, lúc này cần phải vứt hết sinh tử ra sau đầu, liều mình bước lên "cây cầu chim yến" này, đạp lên phi yến xông thẳng tới Long môn phía trước địa cung mộ cổ Ô Dương vương.

Tôi không biết lũ chim yến tụ tập lại một chỗ thế này có nâng được người hay không, vả lại muốn qua "cây cầu" này, thực cũng chẳng khác nào đạp trên sóng nước, bất cẩn bước hụt một bước sẽ rơi xuống vực sâu nghìn thước ngay. Phía trong Long môn phía đầu cầu bên kia cũng hung cát khó lường, một khi đã bước qua câu tiên này, trong thời gian ngắn chắc chắn sẽ không thể rút lui trở về được. Bài "Quan Sơn chỉ mê phú" của vị địa tiên kia để lại, rốt cuộc có đáng tin hay không đây ?

Có nhà triết học nói "tính cách quyết định số mệnh", vì tính cách thao túng những lựa chọn khác nhau trên con đường đời, cũng có thể giải thích rằng "đời người chính là do vô số lựa chọn hợp lại mà thành", tôi xưa nay gặp chuyện gì cũng nghĩ thoáng, nhưng muốn vậy, ít nhất cũng phải khiến tôi cảm thấy nắm chắc được từ ba mươi phần trăm trở lên, mà hiện giờ tôi thậm chí còn chẳng có đến năm phần trăm lòng tin, không phải không dám qua cầu, mà chỉ lo sau khi qua cầu không biết có rơi vào cạm bẫy hay không nữa.

Những ý nghĩ này chỉ lóe lên trong đầu tôi rồi phụt tắt, tình thế trước mắt không cho phép nghĩ ngợi quá nhiều, tôi đưa mắt lướt qua những người bên cạnh một lượt, muốn xem xem họ có ý tưởng gì không, liệu có cần "khoanh tay đứng nhìn", đợi thêm một hai ngày, khi nào nắm chắc mười phần rồi xông qua cũng chưa muộn hay không?

Tuyền béo đứng bên cạnh nhìn mà run lên như cầy sấy, ngoác miệng chửi: "Hay cho lão yêu nhân trộm mộ Quan Sơn thái bảo kia, mười phần chắc tám là lão với người yêu bị chia cách nhiều năm rồi, bằng không sao lại chơi cái trò dở hơi mùng bảy tháng Bảy bắc cầu Ô Thước này làm gì, cái cầu chim này người làm sao đi qua được chứ?"

Giáo sư Tôn lại mừng rỡ ra mặt, lớn tiếng kêu lên: "Đây đúng là một kỳ tích, cậu Tuyền cậu Nhất, các cậu không phải lúc nào cũng khoác lác tự xưng là nam tử hán chuyện gì cũng dám làm sao? Sao rồi? Giờ sợ rồi hả? Đây là chốn tuyệt hiểm một bước lên trời, chỉ cần can đảm bước qua là xong, quẻ phù long cốt ở phía trước kia rồi, cây cấu chim yến này có thể tản mác bất cứ lúc nào, chúng ta phải tranh thủ thời gian qua cầu cho sớm đi!"

Tuyền béo kéo giáo sư Tôn lại, quát: "Cái gì mà nam tử hán đại trượng phu? Lên cầu để cả bọn rơi xuống nát như tương à? Ông Tuyền đây..." Còn chưa dứt lời, cậu ta đã đột ngột nhao lên phía trước, loạng choạng bước lên cây "cầu tiên" do lũ chim yến kết thành. Dòng khí lưu hỗn loạn trong khe núi làm cậu ta nghiêng nghieng ngả ngả, cơ hồ đang gắng đứng vững trên cầu, nhưng tay chân vừa chạm xuống mặt cầu liền trượt đi, cứ thế lộn nhào một vòng rồi lao về phía trước.

Tôi biết Tuyền béo xưa nay có chứng sợ độ cao, bệnh này của cậu ta thuộc loại chướng ngại tâm lý, thực ra cũng không có phản ứng gì đặc biệt, chỉ là mắt hoa chân nhũn mà thôi, khi có điều kiện vật chất nhất định, cậu ta cũng có thể khắc phục, chẳng hạn lúc ngồi máy bay cậu ta sẽ uống thuốc ngủ, nên tôi thấy cũng không phải chuyện gì lớn lao cho lắm. Nhưng tôi ngàn vạn lần không thể ngờ được cậu ta lại một mình xông lên cầu chim yến trước nhất như thế, chuyện này quả không phù hợp với tác phong cậu ta chút nào. Trước tình huống này, tôi hoàn toàn chưa được chuẩn bị tâm lý, thậm chí còn không kịp vươn tay ra cản lại.

Nhưng tôi lập tức nhận ra, giờ có muốn kéo cậu ta lại cũng không được nữa rồi, đã đến nước này thì chỉ còn cách kề vai sát cánh xông lên thôi, tốt xấu gì cũng không thể để cậu ta một mình lăn qua bên đối diện được. Nghĩ đoạn, tôi lập tức bảo những người còn lại: "Đừng sợ, cầu này chịu được sức nặng của người, tất cả đều qua cầu đi!"

Trong tiếng chim kêu ríu rít hỗn loạn, tôi kéo giáo sư Tôn, Shirley Dương kéo Út, bốn người tung mình xông lên đầu cầu, chỉ nghe bên tai đầy tiếng gió rít vù vù, trong chớp mắt đã bị dòng khí lưu hút chặt, cả người vừa khéo rơi vào trạng thái không trọng lượng, hai chân căn bản không cần dùng chút sức lực nào, thân thể đã không tự chủ được trượt về phía trước.

Vô số chim yến dưới chân tựa những đám bông gòn đen, như có như không, dòng khí lưu xung quanh ùa đến liên hồi kỳ trận, tựa hồ bất cứ lúc nào cũng có thể cuốn người lê giữa không trung, quần áo trên người chúng tôi bị gió thổi bay phần phật. Người ở trong hoàn cảnh ấy mới biết, bước lên cây cầu tiên này kỳ thực không phải giẫm chân lên lũ chim yến đi qua khe núi, mà chỉ là lợi dụng đàn chim có số lượng khổng lồ bít kín mắt gió lại, rồi nhờ vào dòng khí lưu bên trên cây cầu ấy mà lướt qua. Lũ chim yến dưới chân thực ra chỉ phải chịu tải khoảng hai đến ba phần mười trọng lượng của người bên trên mà thôi.

Cũng may lũ chim này quá đông, bít kín cả mắt gió giữa tầng không, bốn người chúng tôi lôi kéo lẫn nhau, nhờ vào trọng lượng bản thân cũng miễn cưỡng bước được mấy bước, nhưng thân đang ở chốn hiểm nguy, hồn phách cơ hồ đều theo gió bay tứ tán, ruột gan lạnh buốt cả. Dưới tác dụng của thuyết tương đối, khoảng cách mấy bưóc ngắn ngủi ấy, lại trở nên dài dặc khôn cùng.

Hai hàm răng tôi run lên, rốt cuộc cũng đích thân lĩnh giáo cảm giác trước đài Hách Hồn là như thế nào, đồng thời cũng tự thề với lòng rằng đời này sẽ không đi qua đây lần thứ hai nữa. Lúc này, chỉ còn cách liều mình cầm đầu tiến lên, bám sát Tuyền béo ở phía trước mà thôi. Mắt thấy đã sắp đến thác đá phía trước Long môn, đột nhiên, dưới chân có một luồng lực khổng lồ thốc lên, mấy vạn con yến rốt cuộc cũng vùng thoát khỏi sự trói buộc của dòng khí lưu hỗn loạn. Trong tiếng kêu ríu rít, lũ chim tựa như một làn khói đen bay ùa lên không trung.

Tôi thầm than một tiếng: "Không xong, cầu tan mất rồi", vội đưa tay che mặt để phòng bọn "xuyên vân yến" bay lung tung khắp trời kia đâm mù mắt, chỉ thấy trời xoay đất chuyển, cảm giác như rơi vào trong mây, bị lũ chim yến ở dưới ùa lên nâng lơ lửng trên không trung. Nhưng khoảnh khắc ấy chỉ kéo dài chưa đến một chớp mắt, bầy chim vừa thoát khỏi "mắt gió", liền lập tức đập cánh bay tứ tán khắp phía. Phần còn lại của cây cầu không chịu được trọng lượng cơ thể người, khiến chúng tôi "thụt" xuống giữa lưng chừng không.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 46 guests