Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 11: Đập đàn hủy rượu, luống lẻ loi

“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.

Mùa hạ ở Cao Tân oi bức vô cùng, Tiểu Yêu lại hiếu động sợ nóng nên A Hành hay dắt bé tới Y Thanh viên hóng mát.

Trong Y Thanh viên nuôi khá nhiều thủy cầm, mấy năm nay lơ là chăm sóc nên một vài con trở nên rất hung hăng dữ tợn. Tiểu Yêu tính tình liều lĩnh, cao không bằng hạc tiên vậy mà dám giơ tay bắt hạc tiên, bị nó mổ, Tiểu Yêu vừa khóc vừa túm chặt lấy cổ nó không buông.

A Hành thường cầm theo cuốn sách, ngồi một góc chăm chú đọc, mặc cho Tiểu Yêu nô đùa, dù bé vấp ngã hay bị chim chóc rượt đuổi, nàng cũng mặc kệ. Bởi thế Tiểu Yêu nói còn chưa sõi nhưng đã rất hiểu chuyện: vấp ngã thì tự đứng dậy, có gan trêu chọc chim chóc thì phải chấp nhận bị rượt, gặp chuyện gì cũng biết tự mình đối mặt.

Hai tay Tiểu Yêu chi chít sẹo do chim chóc mổ, bù lại, bé tự động học được cách đối phó, dần dà đã trở thành Tiểu Bá Vương trong Y Thanh viên, đám hạc tiên, uyên ương, cò vạc nhác thấy bé liền bỏ chạy, trong khi những giống ưng biển, diều hâu, đại bàng lại kết bạn với bé, cùng nhau nô giỡn.

Một hôm, A Hàng đang ngồi trên tảng đá bên bờ suối, ngắm nhìn Tiểu Yêu chơi đùa.

Đột nhiên nghe sau lưng vang lên tiếng bước chân, nàng giật mình ngoảnh đầu, thấy một bà lão đang rảo bước tiến lại, chẳng rõ là cung nhân ở điện nào.

Lão bà đến trước mặt nàng quỳ xuống dập đầu thưa: “Tuấn Đế muốn gặp vương phi.”

A Hành thoáng ngớ người rồi sực hiểu ra Tuấn Đế này không phải Thiếu Hạo, mà là Tuấn Đế tiền nhiệm sống trên đỉnh núi thứ năm. Biết Thiếu Hạo rất kỵ điều này, nàng trầm ngâm không nói, thấy vậy, bà lão càng dập đầu lia lịa, vật nài: “Bệ hạ chẳng được bao lâu nữa đâu.” Vừa dứt lời, nghe có tiếng chân người tiến lại, bà ta vội vã đứng dậy, thoắt cái đã lẩn vào cánh rừng rậm rạp.

Hai ả thị nữ hớt hải chạy đến, “Vừa nãy chúng nô tỳ hơi sơ ý, hình như đã để ai đó lẻn vào.”

A Hành cười: “Các ngươi hoa mắt đấy thôi, trong vườn thường có chim chóc lẩn khuất dưới bóng cây, mọi khi ta cũng hay trông nhầm là người lắm.”

Đuổi hai ả thị nữ đi rồi, A Hành bế xốc Tiểu Yêu đang bắt cá cùng chim ưng biển dậy, hỏi: “Mẹ con ta đi chơi với ông nhé, chịu không?”

Tiểu Yêu chẳng hiểu ông là thế nào, nhưng vẫn vui vẻ vỗ tay, “Ông, ông! Thích ông cơ!”

A Hành liền gọi Liệt Dương và A Tệ lại, cùng đến Kỳ viên trên đỉnh núi thứ năm.

Đỉnh núi thứ năm canh gác nghiêm ngặt, rất khó xâm nhập. A Hành đành giả truyền ý chỉ của Thiếu Hạo, lấy cớ “Tiểu Yêu cứ đòi gặp ông nội, bệ hạ bèn bảo ta ẵm nó đến đây thăm Người.” May sao người ngoài đều tưởng rằng vợ chồng bọn họ ân ái mặn nồng nên chẳng hề hoài nghi nàng, hơn nữa, họ cũng biết Thiếu Hạo hết lòng chiều chuộng con gái, bé đòi sao nhất định y không ban trăng.

Đám thị vệ có phần do dự: “Bệ hạ có chỉ, trừ Ngài ra không cho phép bất kỳ ai vào cả.”

A Hành gỡ mảnh ngọc giác đeo trên cổ Tiểu Yêu xuống, ném vào mặt tên thị vệ, thứ này hôm qua Tiểu Yêu giật được trên người Thiếu Hạo, thấy cô bé thích thú, y cũng mặc cho cô bé lấy đem đi chơi.

“Các ngươi nghi ngờ ta giả truyền thánh chỉ ư?”

Đám thị vệ hốt hoảng quỳ rạp cả xuống, Tiểu Yêu thấy A Hành vẫn chưa đi, liền sốt ruột ngúng nguẩy, hét lên đòi: “Ông, ông! Thích ông cơ!”

Các thị vệ đưa mắt nhìn nhau, lập tức tránh đường.

A Hành ẵm Tiểu Yêu bước vào Kỳ viên.

Trên đỉnh núi này có một dòng suối băng thiên nhiên gọi là Kỳ trì, Tuấn Đế đời nào đó đã cất một khu vườn dựa theo mạch suối ấy, cho người đào thêm mấy hồ nhỏ rồi dẫn nước từ suối băng chảy vào, đem bùn đất đào dưới hồ lên đắp thành một hòn đảo nhỏ, tạo nên một cảnh tượng lạ lùng: trên đảo có hồ, giữa hồ có đảo, bởi thế mà thành tên Kỳ viên.

Suốt dọc đường cây cao rợp bóng, bên hồ tha thướt tử đằng, thả bộ giữa những đình đài lầu gác, dị thảo phồn hoa, sóng nước dập dờn, cầu nhỏ hành lang thông nhau, quanh co ngoắt ngoéo cũng có một ý vị riêng. Đình đài lầu gác nơi đây đều có tên riêng, lấy cảnh làm tên, dùng tên tả cảnh. A Hành không khỏi cảm thán, muốn trở nên hùng mạnh có lẽ chỉ một đời là đủ, nhưng muốn phong thái thì phải tích lũy hết đời này sang đời khác mới thành, cứ so cung điện của Hiên Viên với Cao Tân thật chẳng khác nào so tay giàu xổi với môn đệ thư hương, hèn chi đám con nhà quyền quý chẳng rẻ rúng kẻ nghèo khổ bần hàn.

Tuấn Đế ở Hồng Liễu Lô, hai cung nữ già đang hầu hạ ông, thấy A Hành tiến lại vội lau nước mắt quỳ xuống. A Hành giao Tiểu Yêu cho hai người bọn họ, bảo họ dắt cô bé ra ngoài chơi.

Tuấn Đế đang thiêm thiếp trên sạp, hai má hóp lại, đầu tóc bạc phơ, già hơn hẳn lần gặp trước. Nghe A Hành khe khẽ gọi “Phụ vương”, ông mở mắt, gượng cười, “Con đến rồi ư? Xem ra vẫn còn người biết viết hai chữ ‘nghĩa tình’.”

Nhìn Tuấn Đế, A Hành hết sức băn khoăn. Theo lý mà nói, “thuốc độc” nàng chế ra đã tự hóa giải từ lâu rồi mới phải, sao thân thể ông lại càng ngày càng yếu thế này? Nàng vội quỳ xuống bên giường, cầm tay ông lên thăm bệnh, thúc đẩy linh lực vận hành hết một vòng trong người Tuấn Đế, nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, thấy lòng trầm hẳn xuống, thì ra ông đã trúng thêm một loại độc khác, độc vào đến cao hoang, không thuốc nào trị nổi.

Trông sắc mặt nàng, Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Ta biết mệnh mình chỉ còn trong sớm tối, nhưng cũng chẳng sao, dù gì lâu nay ta sống cũng không bằng chết.”

A Hành rưng rưng hai hàng nước mắt. Từ khi gả đến Cao Tân, Tuấn Đế vẫn luôn đối tốt với nàng, coi nàng là tri kỷ, nhưng nàng lại khiến ông từ một công tử hào hoa phong lưu nho nhã biến thành một lão già hấp hối gầy mòn tiều tụy thế này.

Tuấn Đế nói: “Gọi con tới vì có một chuyện ta vẫn canh cánh trong lòng, thực ra nhờ vả con chuyện này cũng không tiện lắm, nhưng Thiếu Hạo canh giữ quá nghiêm ngặt, nghĩ đi nghĩ lại chỉ mình con mới tới được đây thôi.”

“Phụ vương, chỉ cần con làm được, con nhất định sẽ gắng hết sức.”

“Chuyện đến nước này thì chẳng ai xoay chuyển nổi càn khôn nữa, tiếc rằng bọn Yến Long, Trung Long vẫn không chịu nhận ra. Lần trước Thiếu Hạo nhận lời với ta, chỉ cần ta tham dự sinh nhật của Dao Dao, nó sẽ tha mạng cho Yến Long, nhưng ta không tin nó được. Hiện giờ Thiếu Hạo còn giữ mạng bọn họ lại là để uy hiếp ta, sợ rằng một mai ta chết đi, nó sẽ xuống tay hại họ, con giúp ta cứu lấy hai mẹ con Yến Long được không?” Tuấn Đế run rẩy lần tay xuống gối mò mẫm. A Hành vội giúp ông rút một vuông vải trắng xé từ áo cánh ra, bên trên chi chít chữ viết bằng máu.

“Con giao thư này cho Yến Long.”

Tuấn Đế lại loay hoay tháo chiếc nhẫn ngọc tên tay ra, đặt vào tay A Hành. Nhẫn ngọc liền biến thành một chiếc hộp thủy ngọc, bên trong đặt một bàn tay đứt, nhờ có Quy khư thủy ngọc bảo hộ, lại được sinh khí của Tuấn Đế bù trì nên vẫn còn tươi nguyên như vừa mới rời thân thể.

Tuấn Đế giải thích: “Đây là tay của Yến Long, từ nhỏ nó coi đàn như tính mệnh, nghề đàn quán tuyệt thiên hạ, vậy mà bị đứt mất bàn tay, không thể gảy đàn được nữa. Ta vẫn luôn ăn năn vì chuyện đó, bèn tìm danh y khắp nơi giúp nó nối lại bàn tay.”

“Phụ vương, con biết y thuật, có thể nối bàn tay lại cho Yến Long mà.”

“Khỏi cần, con chỉ cần đưa mấy thứ này cho Yến Long là được, trong thư ta đã dặn Yến Long đích thân dâng bàn tay ấy lên Thiếu Hạo rồi.”

Hiểu ra nguyên do bên trong, A Hành không ngăn nổi lệ rơi lã chã.

Tuấn Đế lại nói: “Con nhắn lại với Thiếu Hạo rằng, nó không phải một đứa con ngoan, cũng không phải một huynh trưởng tử tế, chỉ mong nó có thể làm một vị vua tốt.”

Hơi thở của Tuấn Đế chợt dồn dập hẳn lên, nhận ra ông đang tự tán linh lực, A Hành vội kêu to: “Phụ vương, Người đừng như thế mà!”

Tuấn Đế dùng sức siết chặt lấy tay nàng: “Thiếu Hạo có gan hạ độc nhưng lại không có gan tới gặp ta lần cuối, con đã là vợ nó, tội của nó, con cũng phải gánh một nửa, đành phiền con tiễn ta một chặng cuối cùng.”

Linh thể của ông bắt đầu tiêu tán, thân mình không ngừng run bắn lên vì đau đớn, thân thể A Hành cũng run lên theo, nàng phải chịu lấy tất cả đau đớn từ Tuấn Đế, muốn rút tay ra mà không sao rút được, “Phụ vương, con xin Người, Người đừng như vậy mà!”

Hai mắt Tuấn Đế càng lúc càng trợn ngược, gương mặt méo mó đáng sợ, bàn tay càng lúc càng siết chặt A Hành, như muốn cấu vào thịt nàng, để nàng mãi mãi ghi khắc nỗi đau đớn mà ông phải chịu đựng khi hấp hối.

A Hành phải trơ mắt nhìn ông vật vã lìa trần mà chẳng thể làm gì được, chỉ biết gào khóc gọi “phụ vương”.

Sự sống dần dần rời khỏi ông, những đau đớn cũng từ từ giảm xuống, bàn tay Tuấn Đế trượt xuống khỏi cổ tay nàng, bấy giờ nàng lại cuống quýt nắm chặt lấy tay ông, như muốn níu giữ chút hơi tàn sau cuối.

Cặp mắt Tuấn Đế dần ảm đạm, đầu ngật ra gối, vừa khéo đối diện với song cửa.

Tuấn Đế đờ đẫn nhìn ra bên ngoài, khóe miệng hơi hé nụ cười, bờ môi tái ngắt khẽ mấp máy, tựa hồ muốn nói gì đó.

A Hành vội ghé tai lại lắng nghe.

“Mỹ nhân đào, mỹ nhân…”

A Hành ngơ ngác, “Phụ vương, người muốn gặp mỹ nhân nào cơ?”

Tuần Đế mỉm cười, vẻ mặt thanh thản, thở hắt ra một hơi cuối cùng, đáy mắt vẫn in bóng cây đào rợp hoa ngoài song cửa.

“Phụ vương, phụ vương…”

Vị quân vương phong lưu nho nhã nhất đại hoang, một trong Tam đại đế vương, đàn sáo sênh ca dưới bóng hoa giữa buổi hoàng hôn, mặc tình phóng túng trên hồ biếc khói mờ, người đẹp quây quần, con cái hàng đàn, vậy mà cuối cùng lại bị giam lỏng trong một khu vườn, cô độc chết đi giữa giường lạnh chăn đơn.

A Hành phủ phục bên giường, khóc lóc thảm thiết. Tuy chẳng phải nàng giết hại Tuấn Đế, nhưng thảm kịch ngày nay lẽ nào nàng không góp phần?

Thiếu Hạo phát hiện A Hành giả truyền ý chỉ, tự tiện lẻn vào Kỳ viên, lập tức bỏ hết mọi việc, phăng phăng đi thẳng đến đó, lòng đầy tức giận. Vừa bước lên cầu, nghe thấy tiếng khóc nức nở của nàng, y bỗng ngừng phắt lại, sững sờ nhìn về phía Hồng Liễu Lô thấp thoáng sau giàn tử đằng tím ngắt.

Trước Hồng Liễu Lô lăn tăn sóng biếc, bạt ngàn hoa liễu[1] đỏ rực như lửa, một cơn gió nổi thổi tung muôn vàn cánh hoa đỏ bay cả vào màn, chim quyên đầu cành vẫn da diết từng tràng “không khổ, không khổ” như đang kêu ra máu tiễn biệt bậc quân vương.

[1] Liễu ở đây không phải cây dương liễu, mà là một loại cây lá kim, hoa nhỏ li ti, có màu trắng hoặc đỏ, sinh trưởng bên bờ nước hoặc ngay dưới nước. (ND)

Thiếu Hạo nắm chặt lấy trụ cầu chạm trổ, gân xanh nổi đầy tay, mắt loáng ánh lệ.

Dưới cầu nước chảy lững lờ, mặt nước lăn tăn phản chiếu bóng người áo trắng, ngũ quan đoan chính, mày mắt vì bi thương đã chẳng còn uy thế trang nghiêm của núi non, lại thêm vài phần ôn hòa như nước, thoạt trông giống hệt người đó, tựa hồ ông đang đứng ngay trước mặt, Thiếu Hạo giật thót mình, luống cuống che mắt, chẳng dám nhìn nữa.

Không kiềm chế nổi, nước mắt đã thấm qua kẽ tay.

Tiếng quyên vẫn diết da, da diết: “Không khổ, không khổ.”

A Hành thẫn thờ như một u hồn bước ra khỏi phòng, bắt gặp Thiếu Hạo đang đứng lặng trước cửa.

“Chàng đã ưng thuận với thiếp những gì? Người là cha ruột của chàng kia mà! Yến Long năm lần bảy lượt hãm hại chàng, lần nào cũng là tội chết, nhưng Người chưa bao giờ có ý xuống tay giết chàng!” A Hành phẫn nộ vung tay lên, Thiếu Hạo cũng chẳng hề né tránh, bốp một tiếng, nhận ngay cái tát.

A Hành nước mắt như mưa, giơ hai tay lên hỏi dồn Thiếu Hạo, “Sao chàng lại khiến thiếp trở thành hung thủ? Chàng có biết phụ vương đã bóp chặt tay thiếp, để thiếp cảm nhận cái chết của ông không? Ông muốn trừng phạt thiếp…” Trên cổ tay nàng hằn rõ hai dấu tay tím bầm, ăn sâu vào da thịt.

“Ta xin lỗi!” Thiếu Hạo vòng tay ôm lấy nàng, vùi mặt vào mái tóc thướt tha, người không ngừng run bắn lên, y chẳng rõ mình đang an ủi nàng, hay đang tự tìm lấy chút an ủi cho chính bản thân mình nữa.

A Hành vùng vẫy đẩy y ra, khóc không thành tiếng, “Rốt cuộc là vì sao hả? Chàng đã giam lỏng phụ vương, cướp đoạt tất cả của Người, sao còn phải hạ độc giết ông?”

Thiếu Hạo làm thinh không đáp.

Y từng ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần giam lỏng phụ vương là sẽ kết thúc được mọi chuyện, tiếc rằng không phải. Cải cách mà y đang tiến hành sẽ đập tan vô số lợi ích của đám vương công quý tộc, hễ phụ vương còn sống ngày nào, bọn quý tộc đó còn lăm le bàn mưu tính kế ủng hộ phụ vương quay về khôi phục lại vương vị ngày đó. Bất luận thế nào, bọn Trung Dung cũng sẽ không nhượng bộ, trước giờ chúng vẫn luôn từng bước bức bách, mưu mô lật đổ y. Nếu chúng khôi phục lại được vương vị của phụ vương, y sẽ trở thành loạn thần tặc tử, cướp đoạt ngai vàng, bị loạn đao phân thây. Một nước không thể có hai vua, không sống thì là chết, y còn đường nào khác nữa đâu?

Thanh Dương nói đúng, con đường này đã bước lên thì chẳng thể quay lui, chỉ còn cách bước thẳng đến cuối đường. Thanh Dương đã nhận ra từ sớm nên không chịu bước lên, còn y…

Nhưng, dù có biện hộ bằng bao nhiêu lý do bất đắc dĩ thì y cũng đã đầu độc phụ vương! Hành động của y rất đáng bị người thân oán hận, miệng đời phỉ nhổ.

Thiếu Hạo càng lúc càng ưỡn thẳng mình, vẻ mặt cũng mỗi lúc một lạnh băng.

A Hành nhìn Thiếu Hạo, sợ sệt lui dần từng bước, như nhìn thấy một kẻ hoàn toàn xa lạ.

Thấy vẻ mặt và hành động của nàng, lòng y thắt lại, đau đớn tưởng chừng nghẹt thở. Vậy mà nét mặt y lại càng lúc càng bình thản, khóe môi mím chặt, không nói một lời.

Hai cung nữ già đã dắt Tiểu Yêu quay lại tự bao giờ, bọn họ quỳ mọp dưới đất, đầu dán sát xuống nền, âm thầm rơi nước mắt.

Tiểu Yêu đứng bên, tay cầm một cành đào đỏ thắm, ngơ ngác nhìn cha mẹ: “Cha, mẹ?”

Bên cầu có trồng một gốc đào, có lẽ vì khí hậu nơi này khá đặc biệt nên gốc đào vẫn còn trổ hoa, những đóa đào cánh kép đỏ rực trĩu cành.

A Hành chợt thẫn thờ tiến lại phía cội đào, mặc Tiểu Yêu réo gọi, nàng cũng chẳng hề phản ứng.

Đứng dưới gốc cây, nàng ngước lên ngắm hoa đào nở rực cành, lại ngoảnh trông về phía phòng Tuấn Đế, vừa khéo nhìn xuyên được qua cửa sổ, thấy gương mặt ông vẫn giữ nguyên nụ cười an lành, ánh mắt nhắm nghiền như thể đang ngắm hoa thì mơ màng thiếp ngủ. Nàng cười mà nước mắt rưng rưng, “Thì ra gốc đào này gọi là mỹ nhân đào.”

Thấy Thiếu Hạo ngỡ ngàng không hiểu, nàng liền giải thích: “Chàng còn nhớ không? Lần đó phụ vương triệu thiếp vào Thừa Ân cung ngắm hoa, đang định giảng giải cho thiếp nghe về gốc đào hiếm có này thì chàng đột ngột xông vào cắt ngang câu chuyện, người cười gọi chàng lại cùng thưởng hoa, còn kể rằng hồi chàng nhỏ xíu, ông đã nói cho chàng biết tên loại đào này, nhưng chàng bỏ ngoài tai tất cả, chỉ một mực đòi ông hạ chỉ giam cầm Yến Long… Từ khi bị giam lỏng ở đây, phụ vương chỉ sợ không thể thật sự thưởng ngoạn cội đào này nữa, vừa rồi ngài mới tiết lộ cho thiếp biết, giống đào này tên gọi mỹ nhân đào.”

Thiếu Hạo ngước mắt ngắm gốc mỹ nhân đào, chỉ thấy hoa nở đầy cành, cười ngạo trong gió. Y làm sao quên được cái tên mỹ nhân đào, năm y lên năm tuổi, phụ vương họa một bức tranh đào hoa mỹ nhân, mỹ nhân là mẹ ruột y, hoa đào chính là mỹ nhân đào, phụ vương còn cầm tay y viết một bài thơ tưởng nhớ mẫu thân lên bức họa.

A Hành thì thầm yếu ớt: “Phụ vương đã tha thứ cho chàng rồi.”

Tuấn Đế vốn rất căm hận Thiếu Hạo hạ độc giết mình, đến nỗi còn bắt vương phi của y phải nếm trải nỗi đau đớn lúc lâm chung cùng mình để trừng phạt, nhưng trong khoảnh khắc trước khi lìa trần, qua cửa sổ, ông chợt trông thấy cả cây đào nở đầy hoa rực rỡ. Phút giây ấy, ông đã buông bỏ hết thảy, mỉm cười tiết lộ với A Hành: “Đó là mỹ nhân đào.” Trong khoảnh khắc cuối cùng, điều duy nhất mà ông đinh ninh mãi chẳng quên không phải là vương vị, cũng không phải hận thù, mà là tất cả những gì tốt đẹp ông từng có trong đời. Hẳn Tuấn Đế đã quên hết những mâu thuẫn giữa cha con, chỉ còn nhớ cái ngày ông bồng Thiếu Hạo, hai cha con vừa cười đùa vừa ngắm hoa đào.

Thiếu Hạo trân trân nhìn những đóa hoa đào nở đầy cành, sắc mặt tái ngắt, toàn thân run bắn, đột nhiên y quay phắt người lao vào phòng, khuỵu xuống trước giường Tuấn Đế, gục đầu lên cánh tay ông, mãi một lúc lâu mới loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc tấm tức khẽ đến không thể nghe nổi.

A Hành cúi xuống bế xốc Tiểu Yêu lên, vừa khóc vừa chạy đi. Tiểu Yêu giơ tay lau nước mắt cho mẹ, bắt chước mẹ nói giọng dỗ dành, “Mẹ, mẹ ngoan nào, đừng khóc!”

Chim quyên trên cành đào nghiêng đầu nhìn Thiếu Hạo quỳ sụp trước giường, da diết kêu thương: “Không khổ, không khổ…”

Nếu đời không có khổ đau, có lẽ sẽ chẳng phải rơi nước mắt, nhưng phàm là người ai cũng có thất tình lục dục, thất tình lục dục đều là khổ, mà nỗi khổ đau nhất trong những khổ đau chính là yêu không được, hận cũng không đành.

Ngay đêm đó, A Hành lẻn và địa lao dưới Ngũ Thần sơn.

Địa lao này xây bằng long cốt, lại được thêm linh khí của Ngũ Thần sơn, chuyên dùng giam nhốt những kẻ có linh lực trong Thần tộc và Yêu tộc. Toàn bộ địa lao có ba tầng, phạm nhân càng ở tầng dưới thì linh lực càng cao, thế nên cũng chẳng mấy ai đủ tư cách để bị giam ở tầng thứ ba.

A Hành nhìn quanh, thấy bốn bề rờn rợn âm khí, chẳng biết Yến Long bị giam ở đâu.

Chợt loáng thoáng nghe thấy tiếng nhạc đứt quãng, nàng vội đi theo âm thanh đó, càng đi tiếng nhạc càng rõ dần lên. Chẳng biết là khúc nhạc gì, mà nghe êm tai khôn xiết.

A Hành khẽ khàng tiến lại, trông thấy Yến Long đầu bù tóc rối ngồi bệt dưới đất, trước mặt bày một hàng những chén bể bát vỡ, cái to cái nhỏ, bàn tay còn lại đang cầm một miếng ngọc bội gõ lên đám bát vỡ. Những chén bát này cái to cái nhỏ, âm thanh phát ra cũng khi bổng khi trầm, hợp lại thành một khúc nhạc.

Nàng dừng chân lặng lắng tai nghe, nhớ lại mấy trăm năm trước, dưới gốc đa, cạnh bụi dâm bụt, Yến Long áo gấm đai vàng, thần thái phiêu dật, đi đứng thong dong, để cầu một lời hứa của Tây Lăng công tử, hắn chẳng nề hạ mình, bỏ cả tôn nghiêm vương tử, mặc ý cho nàng sai khiến.

Yến Long xuất thân cao quý, dung mạo hơn người, từ nhỏ lại cần cù học tập, thông minh xuất chúng, còn trẻ mà đã sáng chế ra Âm Tập chi thuật vang danh thiên hạ, trong lúc cười nói chuyện trò, chỉ một khúc đàn mà tiêu diệt được thiên quân vạn mã. Chắc hẳn hắn cũng từng mong được tung cánh bay cao nơi bệ vàng thềm ngọc, ấp lục ôm hồng thúc ngựa phi nhanh, lông trĩ áo cừu chỉ điểm giang sơn. Chỉ tiếc rằng, đã sinh ra Yến Long, sao còn sinh ra Thiếu Hạo? Ngai vàng chỉ có chỗ cho một người duy nhất, thắng làm vua thua thì làm giặc mà thôi.

Yến Long tấu xong khúc nhạc mới ngẩng lên nhìn người đến, chẳng nói năng gì, chỉ ngồi tựa vào tường, mỉm cười nhìn A Hành.

A Hành bước đến trước cửa ngục, chợt thấy miệng khô khốc, nói không nên lời.

Yến Long châm chọc: “Nửa đêm vương phi lặn lội đến tận đây chỉ để chiêm ngưỡng bộ dạng thảm hại của ta thôi ư?”

A Hành trao cho hắn chiếc nhẫn ngọc có chứa bàn tay đứt cùng bức thư ghi trên lụa trắng của Tuấn Đế. Yến Long ghé sát vào ánh lân tinh lập lòe trong nhà lao, đọc lướt qua bức thư rồi thẫn thờ lần tay lên những nét chữ viết bằng máu trên mặt lụa, âm thầm rơi nước mắt.

“Phụ vương đi lúc nào?”

“Chiều nay.”

Hai tay Yến Long nắm chặt vuông lụa, gục đầu vào đó, chẳng trông rõ được vẻ mặt, chỉ thấy toàn thân hắn run lên bần bật.

Một lúc lâu sau, hắn ngẩng lên hỏi: “Người đi có bình yên chăng?”

A Hành thoáng nghĩ ngợi rồi đáp: “Ngoài cửa sổ phòng phụ vương có một cây đào đang trổ hoa, câu nói cuối cùng của người trước lúc ra đi là: ‘Đó là mỹ nhân đào.’”

Yến Long cười khẽ: “Phụ vương vẫn vậy, hồi nhỏ, các sư phụ ra sức đốc thúc ta chăm chỉ học hành, chỉ hận không thể bắt ta học thâu đêm suốt sáng, vậy mà phụ vương lại lén dắt ta ra vườn đi dạo, dạy ta phân biệt các loại cá vàng khác nhau. Có hoa nở đầy cành đưa tiễn, hẳn Người ra đi cũng không đến nỗi quá đau đớn.”

A Hành thấy khóe mắt cay cay, “Ta phải đi đây, ngươi có cần gì không?”

Yến Long mấp máy môi, nhưng rồi chỉ lắc đầu, không nói một lời. Bàn tay hắn vô thức máy động, nhìn kỹ đều là những động tác gảy đàn. Kẻ nghiện rượu không thể thiếu rượu một ngày, Yến Long là kẻ mê nhạc, hàng ngày không thể rời đám nhạc cụ, nhưng nhạc khí trong tay Yến Long lại là thần binh lợi khí, đương lúc một bàn tay Yến Long còn chưa biết ở đâu, Thiếu Hạo sao có thể để hắn chạm vào nhạc cụ được.

A Hành vừa ra khỏi địa lao chưa được mấy bước đã thấy Thiếu Hạo đứng dưới trời sao, gió thổi vạt áo trắng bay phần phật.

Thấy sự việc đã bại lộ, A Hành liền gỡ luôn khăn che mặt ra: “Chàng cũng phải có lúc đoán sai chứ hả?”

Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không phải ta tính toán chu toàn, mà là nàng đã quá sơ suất. Địa lao dưới Ngũ Thần sơn được xây dựng từ thời Bàn Cổ Đại Đế, trải qua bảy đời Tuấn Đế không ngừng gia cố, nơi này còn nghiêm mật hơn cả hoàng cung, nếu không phải ta cố ý để nàng vào, nàng làm sao vào được?”

A Hành cảnh giác hỏi: “Chàng muốn thế nào đây?”

Nhìn thái độ A Hành, Thiếu Hạo chợt thấy lòng đau nhói, nhưng y vẫn giữ vẻ thản nhiên, ra lệnh cho đám người phía sau A Hành: “Đưa những nhạc cụ tốt nhất trong cung vào phòng giam để Yến Long lựa chọn.”

“Vâng!” Mấy kẻ nấp trong bóng tối vội hành lễ với Thiếu Hạo.

A Hành liếc Thiếu Hạo, chẳng nói chẳng rằng, lướt qua người y đi thẳng lên núi, bỏ lại Thiếu Hạo một mình đứng lặng, hồi lâu không động đậy.

Thị vệ bưng đến một chiếc hộp thủy ngọc: “Tội thần Yến Long tâu rằng mình cam lòng nhận tội, nhờ dâng chiếc hộp này lên bệ hạ.”

Thiếu Hạo tiện tay cầm ngay lấy, chẳng buồn nhìn, gọi Huyền điểu lại rồi bay thẳng đến Quy khư.

Thanh Dương vẫn lặng lẽ nằm trong quan tài băng. Thiếu Hạo ngồi xuống bên áo quan, mở hộp ra, trông thấy bên trong là bàn tay đứt của Yến Long, y không nén được phá lên cười. Phụ vương của y vốn không tin y, còn nghĩ ra cách này để chứng minh Yến Long không có ý kình chống lại y nữa, xin y tha mạng cho Yến Long.

Thiếu Hạo vừa cười thảm thiết, vừa quăng cả bàn tay đứt lẫn hộp ngọc đi rồi bưng vò rượu bảo Thanh Dương: “Uống với ta nhé, hôm nay hai ta không say không về!” Mọi điều Thanh Dương nói đều đúng cả, từ khi hạ quyết tâm bức cha thoái vị, y đã định sẵn sẽ bị người người xa lánh, từ nay về sau, cũng chỉ có Thanh Dương dám uống rượu cùng y, nghe y trò chuyện mà thôi.

Uống rượu một mình rất dễ say, chẳng bao lâu Thiếu Hạo đã ngà ngà say, mơ màng hỏi Thanh Dương: “Ngươi muốn nghe ta đàn không?”

Thanh Dương lặng thinh không đáp.

Thiếu Hạo so dây gảy một khúc dân ca Cao Tân, người ở Cao Tân ai cũng biết hát. Gảy mãi gảy mãi, toàn thân y chợt co rúm lại, gập người nôn ọe, như muốn nôn cả lục phủ ngũ tạng ra ngoài. Thiếu Hạo cười phá lên, vỗ vào áo quan: “Thanh Dương, đây là khúc nhạc đầu tiên phụ vương dạy ta đàn, hồi đó ta vừa mới bi bô học nói, ông đã cầm tay dạy ta đánh đàn, còn nói rằng người quân tử có cây đàn làm bạn thì vĩnh viễn chẳng bao giờ phải tịch mịch… Ha ha… Ta đã giết chết cha ruột, người dạy ta đánh đàn, mà còn mong mượn tiếng đàn bầu bạn để xua tan cô độc ư… Ha ha ha… Trên đời còn kẻ nào vô liêm sỉ hơn ta không chứ?”

Thiếu Hạo vung tay đập xuống, tuyệt đại danh cầm lập tức gãy đôi, y thả cả cây đàn chìm xuống Quy khư, người dạy y đánh đàn đã bị y chính tay hại chết, y còn mặt mũi nào đánh đàn nữa đây?

Thiếu Hạo say khướt nằm vật cạnh quan tài, bưng vò rượu nốc ừng ực, chỉ trong nháy mắt, cả vò rượu đã cạn sạch. Y cười: “Thanh Dương, ngươi cũng uống đi!” Thấy Thanh Dương say giấc, chẳng hề động đậy, Thiếu Hạo liền nổi giận, “Ngay cả ngươi cũng sợ ta, không dám uống rượu ta cất sao? Ta đâu có hạ độc vào rượu!” Nói rồi y mở nắp quan tài, bưng vò rượu cố dốc vào miệng Thanh Dương, rượu đổ ra ướt đẫm hai má Thanh Dương, làm mờ cả gương mặt y.

Đột nhiên, Thiếu Hạo giật nảy mình, vò rượu đang giơ lên nửa chừng khựng lại. Nhìn những vò rượu la liệt dưới đất, y chợt lạnh cả người. Tất cả ở đây đều là rượu do y cất, có những vò đã niêm phong đem cất từ hơn ngàn năm trước, Thanh Dương nài nỉ mấy lần mới được y tặng cho một vò. Y có thể gạt người khác rằng Thanh Dương còn sống, nhưng không thể gạt chính bản thân mình được, trên đời này, đã chẳng còn kẻ biết phẩm bình rượu y cất, cùng y chuốc chén say mèm nữa rồi.

Rượu không người uống, y còn cất để cho ai?

Thiếu Hạo vừa loạng choạng bước đi vừa vung tay lên, lần lượt đập vỡ từng vò từng vò rượu, chẳng bao lâu, trên mặt đất đã chẳng còn một vò rượu nào nữa.

Đã không còn ai uống rượu y cất, từ nay trở đi, y sẽ không bao giờ cất rượu nữa.

Mấy ngày sau, Thiếu Hạo thông báo toàn dân thiên hạ rằng Tuấn Đế đời thứ bảy đã qua đời vì bệnh, cả Cao Tân quốc để tang.

Tin truyền đến địa lao dưới Ngũ Thần sơn, Tuấn Hậu đã bị phế truất nhân một đêm mưa gió bão bùng bèn dẫn lửa trời xuống, tự thiêu rụi linh thể mà chết.

Thiếu Hạo xuống chiếu khôi phục lại phong hiệu cho Tuấn Hậu, cho phép đưa vào vương lăng, táng bên mộ Tuấn Đế cùng vị Tuấn Hậu đầu tiên đã qua đời từ lâu, kẻ bên trái người bên phải bầu bạn với Tuấn Đế.

Hôm phát tang, Thiếu Hạo cũng thả Yến Long bị giam dưới Ngũ Thần sơn ra. Yến Long khóc ngất trước quan tài Tuấn Đế và Tuấn Hậu, năm người bọn Trung Dung cũng khóc gào thảm thiết, tưởng chừng không đi nổi.

Từ đầu đến cuối, Thiếu Hạo vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, chẳng hề lộ vẻ buồn bã, như thể kẻ được chôn cất đây không phải cha y vậy.

Trung Dung cao giọng chỉ trích y bất hiếu trước mặt mọi người, Thiếu Hạo cũng làm thinh không đáp, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn hắn rồi quay người đi.

Tuy không để lộ vẻ buồn thương nhưng thân thể Thiếu Hạo lại phản ánh rõ rệt nội tâm, người y chẳng mấy chốc mà xọp hẳn đi, vương bào mới đây còn vừa vặn, giờ khoác lên đã thấy rộng thùnh thình.

Trong mắt quần thần và dân chúng, Thiếu Hạo luôn là bậc quân tử khiêm tốn ôn hòa như ngọc, nhưng dần dà, bọn họ nhận ra y đã thay đổi, tựa hồ cùng với sự gầy mòn của thân thể, bản tính ôn hòa ấm áp của y cũng biến mất luôn.

Y càng lúc càng kiệm lời, hành động cũng mỗi lúc một thêm tàn khốc. Sau một trăm ngày Tuấn Đế, Thiếu Hạo liền lột bỏ tước vị của Trung Dung, biếm y ra một hòn đảo chơ vơ ngoài biển, tuy phong cảnh đẹp như tranh nhưng bốn bề đều là đại dương mênh mông, cách xa đất liền, cũng xem như một hình thức giam lỏng vậy. Yến Long bị phế làm dân thường, lột bỏ Thần tịch, mấy vị vương tử khác cũng kẻ bị biếm người bị đày. Đám võ tướng tích cực xúi giục Trung Dung làm phản đều đem ra lăng trì xử tử. Các triều thần dám mở miệng cầu xin cho họ cũng bị phạt nặng.

Chẳnh một ai dám kề vai sát cánh cùng Thiếu Hạo, chẳng một ai dám nhìn thẳng vào mắt y khi nói chuyện, chẳng một ai dám chất vấn mệnh lệnh y ban, cũng chẳng một ai dám lén lút hội họp bàn mưu lật đổ y nữa.

Thiếu Hạo không còn rèn sắt, cất rượu, cũng thôi hẳn gảy đàn, y không ham nữ sắc, chẳng mê ca múa, càng chẳng thích rong chơi, tựa hồ không có bất cứ thú tiêu khiển nào, suốt ngày chỉ vùi đầu vào công việc. Cách thư giãn duy nhất của y là mỗ khi mệt nhoài lại một mình cưỡi Huyền điểu bay đi ngắm đèn lửa vạn nhà trên khắp Cao Tân, chẳng ai hiểu y lấy đâu ra sở thích quái lạ này.

Dần dà mọi người cũng quên mất Thiếu Hạo ngày cũ ra sao, chỉ nhớ được một Thiếu Hạo kiệm lời ít nói, ánh mắt lạnh băng, vẻ mặt âm trầm, thân thể gầy đét mà ngạo nghễ khắc nghiệt như núi cao vạn trượng, khiến ai nấy đều khiếp sợ từ tận đáy lòng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 12: Thế gian khó vẹn cả đôi đàng

A Hành định đón lấy Tiểu Yêu, nào ngờ Xi Vưu một tay bồng Tiểu Yêu, tay kia nắm chặt lấy nàng, “Đi với ta đi!”

A Hành bị Xi Vưu nắm chặt, đau buốt đến tận xương. Hắn một tay ôm con gái, một tay nắm tay nàng, cả nhà ba người ở bên nhau. Chỉ cần khẽ lật tay lại thôi, nàng sẽ có thể nắm lấy tay hắn, theo hắn tiêu dao khắp trời cao đất rộng.

Dưới sự hối thúc năm lần bảy lượt của Hoàng Đế, khi gió thu nhuộm vàng rực những cánh rừng, hai tộc Hiên Viên và Thần Nông đã công bố ngày thành hôn của Hiên Viên Thanh Dương và Thần Nông Vân Tang. Vì Thanh Dương trọng thương chưa khỏi, còn đang phải bế quan trị thương dưới đáy nước Quy khư nên Hoàng Đế quyết định để Xương Ý thay anh trai làm lễ cưới.

Tuấn Đế Thiếu Hạo phái Quý Ly đem lễ vật trọng hậu tới chúc mừng, đi theo còn có cả Cao Tân vương phi Hiên Viên Bạt và vương cơ Cao Tân Cửu Dao.

Quan lại trong triều đều hiểu địa vị thái tử của Thanh Dương đã định, nên người lên Triêu Vân phong chúc mừng cứ nườm nượp không dứt. Có điều Xương Ý một mực đóng cửa không tiếp, chỉ ở bên mẹ và em gái, hưởng niềm vui ruột thịt sum vầy.

Có A Hành cùng hai vợ chồng Xương Ý, Xương Phó, lại thêm hai đứa nhỏ Chuyên Húc và Tiểu Yêu, trên Triêu Vân phong chưa bao giờ náo nhiệt đến thế.

Chuyên Húc lớn lên bên Luy Tổ, được Luy Tổ hết lòng chiều chuộng, đâm ra coi trời bằng vung, tính tình ngang ngược vô cùng. Tuy Tiểu Yêu lần đầu đến Triêu Vân phong nhưng chẳng hề làm khách, hai đứa nhỏ vừa gặp mặt đã coi nhau như kẻ địch, chẳng có tình anh em gì hết, thứ gì cũng giành nhau ỏm tỏi, ngay cả Luy Tổ cũng tranh nhau luôn.

Vì đây là lần đầu Tiểu Yêu đến thăm, Luy Tổ khó tránh khỏi chiều chuộng cô bé hơn đôi chút, khiến Chuyên Húc hậm hực căm tức, tuổi nhỏ mà đã rất ma lanh, đợi khi vắng mặt bề trên, Chuyên Húc bèn hung hăng nạt Tiểu Yêu: “Bà là của ta.”

“Cũng là của ta.”

“Không phải của ngươi, ngươi là người ngoài, ta với bà mới là người một nhà.”

“Còn lâu!”

“Thế tại sao ta gọi là bà nội mà ngươi lại gọi là bà ngoại? Bà ngoại chính là người ngoài!”

Tiểu Yêu nói không lại bèn động thủ, vung tay lên tát: “Ngươi mới là người ngoài ấy!”

Tới lúc Luy Tổ và mọi người nghe thấy tiếng gào khóc ầm ĩ, vội vã chạy lại thì hai đứa nhóc đã quấn lấy nhau đánh đá, một đứa bầm mắt, đứa kia mặt còn hằn năm dấu ngón tay. Bản thân hai đứa nhỏ không đau nhưng Luy Tổ xót cháu, chẳng nỡ mắng bọn chúng, lại quay sang sa sả mắng thị nữ.

Xương Ý than, “Muội nuôi con gái kiểu gì thế, sao chẳng giống muội tí nào cả?”

A Hành dở khóc dở cười, “Chuyên Húc mới là không giống huynh đó! Hồi nhỏ thứ gì huynh chẳng nhường cho muội! Trên đường đến đây, muội còn xuýt xoa liệt kê những điểm tốt của việc có ca ca cho Tiểu Yêu nghe nữa kìa.”

Tiểu Yêu quệt nước mắt ré lên: “Con không thèm có ca ca đâu!”

Chuyên Húc liền dúi cho cô bé một cái: “Ai thèm ngươi hả?”

Tiểu Yêu nào chịu lép, liền ra sức quật lại, Luy Tổ mỗi tay nắm một đứa nhưng không sao giữ nổi, hai đứa nhóc lại lao vào quần nhau.

“Dừng tay hết đi!” Xương Phó quát lớn, lấy uy phong tộc trưởng kéo hai đứa nhóc ra, đét cho mỗi đứa một phát vào mông, “Ai còn đánh nữa sẽ không được tham gia hôn lễ của Đại bá!” Chuyên Húc không sợ bà, chẳng sợ cha, chỉ riêng mẹ là còn có phần kiêng dè, Tiểu Yêu cũng thấy bác dâu không giận mà oai, so ra lại đáng sợ hơn cả mẹ mình. Hai đứa nhóc không dám động thủ nữa, nhưng vẫn hằm hè nhìn nhau, rồi đột nhiên cùng sực tỉnh, vội chạy nhào lại bên Luy Tổ, đứa ôm chân, đứa nắm tay, “Bà nội, bà nội ơi!” “Bà ngoại, bà ngoại!”, tranh nhau đòi bà chiều chuộng, chỉ sợ Luy Tổ cưng đứa kia hơn mình.

Xương Ý và A Hành bất lực nhìn nhau, phì một tiếng phá lên cười.

* già đứng bên lắc đầu cười, than thở: “Chẳng biết con Đại điện hạ sinh ra tính tình sẽ thế nào nữa đây, tới chừng đó ba đứa nhỏ tụ lại phá phách, e rằng đến nắm xương già của chúng tôi cũng bị tháo rời ra mất.”

Xương Ý và A Hành ngưng bặt tiếng cười, Luy Tổ cũng sa sầm mặt, liền áp tải hai đứa nhỏ đi rửa mặt thay đồ.

Đợi Luy Tổ đi rồi, A Hành mới thầm hỏi Xương Phó: “Năm xưa Thiếu Hạo biến thành Đại ca dưới đáy nước Quy khư, tẩu có nhận ra không?”

Xương Phó lắc đầu, “Giống y như tạc.”

A Hành đáp: “Muội cũng thấy giống y như tạc, hiển nhiên tâm phúc do phụ vương phái đi không nhận thấy có gì khác lạ nên phụ vương chẳng nghi ngờ gì, có điều hình như phản ứng của mẫu hậu có phần không ổn.”

“Trong mắt người mẹ nào cũng vậy, hôn lễ của con trai luôn là đại sự hàng đầu, vậy mà Đại ca lại bị trọng thương, không thể tự mình hành lễ, mẫu hậu thấy cảnh sinh tình, đương nhiên không vui rồi.”

Xương Ý lạnh lùng giễu cợt, “Phụ vương nhìn kỹ chúng ta được mấy lần? Cái ông ấy quan tâm chỉ là chúng ta có thể giúp ích cho vương đồ bá nghiệp của ông ấy hay không mà thôi. Chuyên Húc là đứa cháu đầu tiên của phụ vương, nhưng từ lúc sinh ra đến giờ, phụ vương mới nhìn nó đúng một lần, vào hôm tròn trăm ngày tuổi.”

A Hành và Xương Phó đều trầm ngâm không nói.

Vì đây là hôn lễ của Đại vương tử Hiên Viên, cũng là dịp kết nối thông gia giữa hai đại Thần tộc, nên Hoàng Đế cố ý tổ chức linh đình, còn to hơn cả Thiếu Hạo cưới A Hành khi trước.

Trong Hiên Viên thành tưng bừng nhộn nhịp, chăng đèn kết hoa, tân khách bốn phương tám hướng đổ về, trên phố người qua kẻ lại tấp nập, chen vai thích cánh mới đi được.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu kích động hơn ai hết, tay xách lồng đèn và chong chóng, hễ thấy chỗ nào náo nhiệt là sấn ngay đến, mấy * già đuổi theo hết hơi không kịp.

A Hành đã dặn dò các * già, hôm nay đông người, nhất định phải trông nom hai đứa nhỏ thật kỹ, Xương Phó còn phái bốn dũng sĩ Nhược Thủy đi theo hai đứa bé.

Thấy ánh mắt A Hành vẫn đầy vẻ âu lo, Xương Phó hỏi: “Mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái cả, muội còn lo gì nữa?”

“Tẩu tẩu không thấy phía Di Bành quá yên ắng ư?”

Xương Phó gật đầu, “Phải đó, khi ta phụ Xương Ý xếp đặt hôn lễ, còn tưởng hắn sẽ lại gây sự, lúc nào cũng phải ngấm ngầm đề phòng nhưng chẳng thấy động tĩnh gì cả, có lẽ từ sau chuyện ở Trạch Châu, hắn đã bị phụ vương trách phạt, không dám lộng hành nữa rồi.”

“Tẩu không hiểu Di Bành rồi, muội cùng Di Bành chơi chung từ nhỏ tới lớn, tuy hắn trông có vẻ hờ hững nhưng một khi đã hạ quyết tâm nhất định sẽ làm đến triệt để. Thuở nhỏ Đồng Ngư thị không cho phép hắn chơi cùng muội, vì chuyện này bà ta đã đánh đập hắn khá nhiều, nếu đổi lại là những đứa nhỏ khác, hắn đã không dám trái lời, nhưng hắn chỉ lẳng lặng chịu phạt rồi ngoảnh đi lại khập khiễng tìm muội chơi cùng. Giờ muội chỉ lo hắn đang đợi tình huống ngày mai để làm khó dễ, khiến Đại ca và mẫu hậu mất mặt trước mọi người thôi.”

Xương Phó cau mày, “Phụ vương rất coi trọng danh dự bản thân, ngày mai khách khứa lại đổ đến nườm nượp, lỡ như Hiên Viên tộc có gì thất thố trước bàn dân thiên hạ, làm hỏng hôn sự của Đại ca và Thần Nông tộc, e rằng sẽ khiến phụ vương nổi trận lôi đình, cách này xem ra còn hiệu quả gấp ngàn lần mấy trò vặt vãnh, nhưng Di Bành định làm thế nào đây?”

A Hành khẽ nói, “Xưa nay Tứ ca chưa từng sai sót, kẻ sai chỉ có muội hoặc Đại ca thôi, chắc hẳn Di Bành chưa biết chuyện Đại ca nên rất có khả năng sẽ hướng vào muội.”

“Nhưng muội chẳng phải đã… hơn nữa Tiểu Yêu và Thiếu Hạo giống nhau như thế, Di Bành không thể nắm lấy cớ đó được.”

A Hành lắc đầu, “Muội chỉ có thể khiến hắn không thu thập được bằng chứng chứng minh nghi ngờ của mình là đúng thôi, chứ không dám khẳng định đã đập tan được nghi ngờ của hắn.”

“Vương tử phi, vương cơ, không hay rồi…” Đám cung nữ hổn hển chạy đến, vừa trông thấy hai người liền quỳ sụp xuống đất.

A Hành và Xương Phó đều biến sắc, vội hỏi, “Tiểu Yêu, Chuyên Húc thế nào rồi?”

Cung nữ nức nở đáp: “Không thấy tiểu vương cơ đâu nữa cả.”

A Hành loạng choạng, Xương Phó phải đỡ ngay lấy nàng, đoạn quay sang quát đám cung nữ: “Nín ngay cho ta, kể lại đầu đuôi sự tình đã nào!”

Một tiểu cung nữ miệng lưỡi lanh lợi liền lên tiếng: “Mấy người bọn nô tỳ dẫn tiểu vương tử và tiểu vương cơ đi xem Đại điện hạ cùng tân nương ngồi xe hoa, chẳng hiểu tiểu vương tử và tiểu vương cơ lại cãi vã chuyện gì, làm ầm lên rồi bắt đầu đánh nhau, chúng nô tỳ khuyên can thế nào cũng vô ích. Tiểu vương tử nói hoa đăng của tiểu vương cơ là do cha mình làm, không cho tiểu vương cơ chơi nữa, đòi lấy lại, tiểu vương cơ bèn tức tối bảo: ‘Có gì hay đâu, hoa đăng của Cao Tân chúng ta đẹp gấp tỷ lần của Hiên Viên các người’, tiểu vương tử nói tiểu vương cơ khoác lác, còn đuổi tiểu vương cơ cút về Cao Tân đi, đừng ở Hiên Viên nữa. Cũng chẳng biết tiểu vương tử nghe lời xằng bậy ở đâu, nói cái gì con gái đã gả chồng như bát nước hắt đi, khiến tiểu vương cơ khóc lóc bỏ chạy, tiểu vương tử còn hung hăng bồi thêm: ‘Đi thì hay rồi, có giỏi thì vĩnh viễn đừng đến nữa!’, nói rồi chạy thẳng về hướng ngược lại, làm chúng nô tỳ nhất thời loạn cả lên, vội chia làm hai nhóm đuổi theo, nhưng chỉ tìm được tiểu vương tử, không thấy tiểu vương cơ đâu cả!”

“Đã tìm hết mọi chỗ chưa?”

“Tìm hết cả rồi, không tìm được tiểu vương cơ, chúng nô tỳ phát hoảng, lập tức điều thị vệ tới cùng tìm giúp nhưng khắp trong thành chỗ nào cũng toàn người là người, tìm mãi không được.”

“Có một vị thúc thúc ẵm nó đi rồi.” Chuyên Húc xị mặt đứng trước cửa.

Xương Phó lập tức túm lấy Chuyên Húc, vung tay định đánh, nhưng A Hành ngăn lại: “Trẻ con với nhau, cãi lộn là chuyện bình thường, không thể trách cháu nó được.” Nói rồi nàng kéo Chuyên Húc lại trước mặt: “Nói cho cô cô biết, sao cháu lại nói có một vị thúc thúc ẵm tiểu muội đi?”

Chuyên Húc lí nhí đáp: “Cháu vừa chạy vừa nhìn trộm Tiểu Yêu, muốn xem nó có trở về Cao Tân thật không. Cháu trông thấy một nam nhân rất giống Tiểu Yêu, Tiểu Yêu nhào đến ôm chân người đó, ông ta bèn ẵm Tiểu Yêu đi.”

Xương Phó xen vào: “Rất giống Tiểu Yêu à? Vậy chắc là người trong Cao Tân vương tộc rồi. Lần này chỉ có Quý Ly tới dự hôn lễ, nhưng Quý Ly không giống Thiếu Hạo, Tiểu Yêu và Quý Ly cũng đâu có giống nhau.”

“Tuy Tiểu Yêu không sợ người lạ, nhưng chỉ với Thiếu Hạo nó mới thân thiết như vậy thôi.”

“Không thể là Thiếu Hạo được, nếu y tới không lẽ nào lại không nói với muội.”

Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu, A Hành đứng phắt dậy, vội vã chạy thẳng ra ngoài, “Muội biết là ai rồi, Tứ tẩu, chuyện ở đây giao cả lại cho tẩu đấy. Hôn lễ này liên quan tới sự an nguy của mẫu hậu và Tứ ca, bất luận thế nào cũng không được để xảy ra chuyện gì thất thố.”

“Cô cô ơi.”

A Hành ngoảnh lại, thấy gương mặt Chuyên Húc thoắt tái thoắt đỏ: “Tiểu muội sẽ không sao, phải không ạ?”

A Hành gượng cười, “Không sao đâu!”

Ra khỏi đại điện, A Hành đi thẳng tới tìm Di Bành.

Di Bành đang uống rượu mua vui cùng một đám vương tôn công tử. Thấy A Hành tiến lại, mọi người vội cung kính đứng cả dậy, chỉ riêng hắn vẫn ngồi bất động, còn tươi cười nâng chén kính rượu A Hành, “Thật hiếm hoi, mấy trăm năm nay ta không uống rượu cùng muội rồi.”

A Hành vào đề ngay: “Muội có chuyện riêng muốn nói với huynh.”

Mọi người nghe thấy lập tức biết ý lui ra.

A Hành hỏi thẳng: “Tiểu Dao đâu rồi?”

Di Bành cười, “Lạ thật, muội còn không biết con gái muội ở đâu, sao lại chạy đến hỏi ta.”

“Thôi đi, cả hai ta đều biết là huynh bắt Tiểu Dao mà.”

Di Bành nâng chén, thong thả nhâm nhi, “Con gái muội là Đại vương cơ Cao Tân, tội danh lớn thế này ta không gánh nổi đâu. May mà từ chiều đến giờ cả đám bạn bè bọn ta tụ lại cùng uống rượu mua vui, bọn họ là người các tộc khác nhau, không lý nào lại nhất loạt khai man để bao che cho ta được.”

A Hành gắng nén lo âu, ngồi xuống trước mặt Di Bành, giơ tay chặn chén rượu của hắn lại, “Được, cứ coi như huynh không làm gì Tiểu Dao đi, vậy huynh có biết cách nào để đưa được Tiểu Dao về không?”

Di Bành chòng chọc nhìn A Hành, “Ta và muội cùng nhau lớn lên, muội thừa biết ta đã quyết báo thù thì sẽ không dễ dàng ngừng tay, ta cũng thừa hiểu tính tình muội, ta dám khẳng định đứa nhỏ đó không phải của Thiếu Hạo, chỉ là ta nghĩ nát óc cũng không hiểu nổi vì sao Thiếu Hạo lại chịu để một đứa con hoang làm hỗn loạn huyết mạch Cao Tân.”

“Rốt cuộc huynh muốn sao đây?”

“Ta muốn muội thừa nhận trước bàn dân thiên hạ rằng mình đã dâm loạn cung đình Cao Tân, cha đẻ của đứa nhỏ không phải Thiếu Hạo.”

“Ngươi đừng mơ!”

“Phải không đó? Xem ra tính mạng đứa nhỏ cũng chẳng mấy quan trọng với muội nhỉ?” Di Bành đẩy tay A Hành ra, mỉm cười nhấp một ngụm rượu, “Muội đã gặp kẻ đó ngoài Trạch Châu thành, chắc cũng hiểu giết một đứa nhỏ đối với hắn chỉ dễ như trở bàn tay.”

A Hành nghe nói liền tái mét mặt, Di Bành một hơi uống cạn chén rượu, nói tiếp: “Tối nay, trước khi Xương Ý và Vân Tang hành lễ, muội nhớ lấy. Một khi bọn họ hành lễ rồi, muội sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại đứa con hoang của muội đâu, vĩnh viễn!”

A Hành trừng mắt nhìn Di Bành, “Nếu con bé bị mất một sợi tóc, ta sẽ khiến ngươi không được chết yên lành đâu.”

Di Bành phá lên cười sằng sặc, cười đến nghẹt cả thở, trỏ về phía Triêu Vân phong: “Nếu làm tổn thương đứa nhỏ sẽ không được chết yên lành thì người không được chết yên lành nhất không phải ta đâu!”

A Hành quay ngoắt người bỏ đi, nhưng tâm hoảng ý loạn, lục thần vô chủ, hai chân cứ mềm nhũn ra, cả người run lên bần bật, không sao cất bước đi được. Bấy giờ nàng mới thật sự hiểu được cảm giác của người làm mẹ, dù bản thân phải chết cả trăm cả ngàn lần cũng không muốn con mình thương tổn một mảy may. Nếu chuyện này chỉ quan hệ đến sự an nguy của riêng bản thân mình, nàng sẽ chẳng hề do dự, đáp ứng Di Bành ngay lập tức, nhưng còn an nguy của mẹ nàng, Tứ ca, Tứ tẩu và Chuyên Húc nữa.

A Hành liêu xiêu bước đi, chợt lảo đảo khuỵu gối xuống đất.

Trên phố đèn đuốc sáng trưng, hoa giăng như biển, người qua lại như mắc cửi, phồn hoa náo nhiệt vô cùng, nhưng nàng lại như đang ở giữa vực sâu tối tăm lạnh lẽo, cả người run bắn lên. Hơn ai hết, nàng hiểu lúc này mình phải trấn tĩnh, nhưng cứ nghĩ đến sự thâm độc của Di Bành, nàng lại thấy hoang mang lo sợ, không sao nghĩ ngợi được gì, chỉ hận chẳng thể quỳ sụp trước mặt Di Bành, hy vọng hắn thả Tiểu Yêu ra.

Một cánh tay rắn chắc bỗng nắm lấy A Hành, kéo nàng đứng dậy. A Hành ngẩng lên nhìn, liền trông thấy Xi Vưu.

Dưới ánh đèn rực rỡ, gương mặt hắn hiện lên rõ ràng đến từng chân tơ kẽ tóc, đầu mày cuối mắt đượm vẻ mệt mỏi, chỉ riêng đôi mắt vẫn sáng như sao.

A Hành chợt thấy lòng nhẹ hẳn đi, nàng khóc òa lên thành tiếng. Bất chấp đang ở giữa phố, bốn bề kẻ lại người qua, Xi Vưu bèn vòng tay ôm chặt lấy nàng, vỗ vỗ lưng nàng an ủi: “Đừng sợ, đừng sợ mà, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

“Hắn bắt Tiểu Yêu đi rồi.”

“Ai bắt Tiểu Dao đi?”

“Chính là kẻ đã giả dạng chàng đấy.”

“Ai giả dạng ta?”

A Hành khóc nức nở, nói năng lộn xộn hết cả lên. Xi Vưu đành kéo nàng tới chỗ vắng vẻ, dỗ dành: “Đừng khóc nữa, bất kể kẻ nào bắt Tiểu Dao đi, chúng ta cũng phải đem nó về.”

Có lẽ vì lồng ngực Xi Vưu khiến người ta ấm áp, có lẽ vì vòng tay hắn khiến người ta ỷ lại, có lẽ vì lòng tự tin của hắn khiến người ta an tâm nên A Hành đã thôi run lên bần bật, đầu óc cũng dần dần tỉnh táo, vội nắm chặt lấy hai tay Xi Vưu: “Chàng nhất định phải đem Tiểu Yêu về.”

“Nàng quên ta trưởng thành ra sao rồi ư? Nói ta nghe, kẻ đó trông như thế nào, ta sẽ đoán ra ngay rốt cuộc là kẻ nào đã bắt con gái nàng đi.” Xi Vưu lớn lên giữa bầy dã thú, rất giỏi ẩn náu và lần theo dấu vết.

A Hành bèn kể lại chuyện lần trước bị dẫn dụ ra ngoài Trạch Châu thành, lại tường thuật cả việc Tiểu Yêu bị bắt đi.

“A Tệ xưa nay nghe lời nàng răm rắp, cả Thanh Dương nó còn không sợ, vậy mà lại nem nép trước kẻ này. Hơn nữa hắn biến hóa giỏi đến thế, chắc hẳn là Cửu vĩ hồ, vương của Hồ tộc.” Nói đoạn, Xi Vưu cười nhạt, “Thuở xưa ta sống trong rừng sâu núi thẳm, từng ăn thịt không ít hồ ly, có điều chưa được nếm mùi Cửu vĩ hồ bao giờ.”

Đột nhiên, phía cửa thành chợt vang lên tiếng pháo mừng, bốn đóa mẫu đơn tượng trưng cho phú quý cát tường bừng nở giữa không trung, xem ra Xương Ý và Vân Tang đã tiến vào Hiên Viên thành.

Từ bây giờ tới khi Xương Ý và Vân Tang hành lễ ở Thượng Viên cung, còn chưa tới một canh giờ.

Thấy A Hành căng thẳng tính toán thời gian, Xi Vưu chợt hỏi: “Cửu vĩ hồ muốn nàng làm gì?”

“Hả?”

“Hắn bắt Tiểu Dao hẳn là để uy hiếp nàng, hắn muốn cái gì?”

“Hắn là thủ hạ của Di Bành, chúng muốn phá hỏng hôn sự của Thanh Dương và Vân Tang.”

“Phá thế nào?” Xi Vưu xưa nay vốn rất sắc sảo, khó mà quấy quá đáp cho qua được.

“Muốn ta… thừa nhận có tư tình với chàng, dâm loạn cung đình Cao Tân ngay trong hôn lễ của Thanh Dương, trước mặt mọi người.” A Hành đành đáp một nửa.

Xi Vưu giễu cợt, “Sao ta cứ thấy con hồ ly đó đang giúp ta làm một việc trước giờ ta vẫn muốn làm nhỉ? Điều kiện như vậy mà nàng còn không chịu đáp ứng, nàng có thật muốn cứu con gái về không đây? Lẽ nào ta khiến nàng mất mặt đến thế sao?”

A Hành vội đáp: “Nếu làm vậy có thể cứu được Tiểu Yêu thì ta có tiếc gì, nhưng Di Bành đâu phải kẻ giữ lời, dù ta thừa nhận tất cả trước mặt mọi người, cũng chỉ có thể chứng minh Tiểu Yêu vô cùng quan trọng đối với ta, như vậy hắn lại càng không chịu thả nó ra, cuối cùng sẽ đi tới một uy hiếp khác mà thôi.”

Thấy Xi Vưu lộ vẻ bất mãn, A Hành vội hỏi: “Rốt cuộc chàng có chịu giúp ta tìm con gái về hay không?”

Xi Vưu lạnh lùng cải chính: “Con gái của nàng với Thiếu Hạo, ta cứu thì được lợi lộc gì?”

A Hành khổ sở khôn xiết, một bên là mẹ và Tứ ca, một bên là Xi Vưu, nàng đứng giữa đôi đàng, vô cùng khó xử, chưa kể phía trước lại còn phụ vương chỉ chăm chăm lo cho vương đồ bá nghiệp và Di Bành thâm hiểm độc địa sau lưng, tiến không được lùi không xong. Hiện giờ con gái bị bắt đi đâu không biết, Xi Vưu còn đòi bàn thảo điều kiện với nàng, nỗi bi ai từ tận đáy lòng trào lên, khiến nàng ròng ròng nước mắt.

Xi Vưu ôm chặt A Hành vào lòng, nâng cằm nàng lên, ngấu nghiến hôn lên môi như cuồng phong bạo vũ. A Hành giận dữ toan tát vào mặt hắn thì bị tóm lấy cổ tay, môi Xi Vưu mơn trớn môi nàng, hắn thì thầm: “Điều kiện của ta thế này, nàng cũng không chịu đáp ứng sao?”

A Hành rúng động, bao tình cảm nén chặt trong lòng từ sau cái chết của Thanh Dương đến giờ mới được dịp trào dâng, nàng nhiệt tình hôn đáp lại Xi Vưu, triền miên nồng nàn như thể đây là lần cuối trong đời.

Xi Vưu trước vui sau buồn, cuối cùng hắn đẩy phắt A Hành ra, nghênh ngang bỏ đi, “Thời gian cấp bách, phải chia nhau ra mà hành sự, ta đi tìm Cửu vĩ hồ đòi lại con cho nàng, còn nàng cố mà kéo dài hôn lễ.”

Xương Ý và Vân Tang ngồi bên nhau trong xe long phượng, hai bên đường đông nghẹt bách tính chen nhau xem nhiệt náo. Nhờ tấm bình phong do các thị vệ Thần tộc dùng linh lực tạo thành, đám người kia chen lấn xô đẩy thế nào cũng không xông ra được đến ngự đạo.

A Hành gọi Liệt Dương lại bảo: “Mày phun lửa gây hỗn loạn đi, nhớ đừng làm bị thương người đi đường.” Liệt Dương định đi, lại bị A Hành níu lại: “Đừng để bị bắt.”

Liệt Dương hừ mũi: “Dựa vào đám binh tướng Thần tộc ấy à?”

Chỉ lát sau, ngọn lửa bất ngờ bùng lên trong Hiên Viên thành, thế lửa bừng bừng, lập tức khiến đám đông hỗn loạn, A Hành liền nhân cơ hội lén đánh gục mấy Thần tướng. Dòng người tràn lên ngự đạo, đám thị vệ không ngăn nổi hàng ngàn hàng vạn người, đành trơ mặt nhìn ngự đạo tắc nghẽn.

Ý nghĩ xoay chuyển trong mắt Xương Ý và Vân Tang, bách tính bình thường có thể không cảm nhận được, nhưng bọn họ nhận ra ngay đây là do thần linh hoặc yêu quái cố tình phóng hỏa, nguyên nhân khỏi nói cũng biết, đương nhiên là muốn phá hỏng hôn lễ.

Lễ quan đi bên cạnh xe nhẩm tính thời gian, cuống quýt: “Làm thế nào bây giờ? Nếu lỡ giờ tốt thi gay go to.” Bách tính Thần Nông rất coi trọng chuyện này, lỡ có kẻ nào xấu bụng phao tin đồn nhảm, e rằng hôn sự tốt lành sẽ lại hóa thành điềm xấu, không được trời cao phù hộ.

“Hay là dùng Loan điểu kéo xe, bay đến Thượng Viên cung?”

“Tuyệt đối không được!” Đây là điều tối kỵ của Hiên Viên, dân chúng Hiên Viên quốc có đến hơn chín phần là Nhân tộc, lúc mới lập quốc, Hoàng Đế đã quy định mọi chuyện đều phải lấy Nhân tộc làm trọng, các nghi thức trọng đại cũng đều tuân theo lễ nghi của Nhân tộc.

Vân Tang liền đặt hai tay lên ngực, lật tay làm mây, úp tay làm mưa, mây ráng đan xen, kết thành một con đường giữa không trung, lung linh rực rỡ, lộng lẫy khôn xiết, tuấn mã hí vang, kéo xe long phượng chạy băng băng trên đường.

Bách tính đều ngẩn ra chiêm ngưỡng đến hoa cả mắt, rào rào vỗ tay hoan hô.

A Hành đành bất lực nhìn đoàn xe đi tiếp, có điều gây náo loạn một hồi như vậy, cũng coi như tranh thủ được chút thời gian.

Thấy A Hành hớt hải quay về Thượng Viên cung, Xương Phó lo lắng hỏi: “Tìm thấy Tiểu Yêu chưa?”

A Hành ghé tai Xương Phó thì thào: “Xi Vưu đã đi tìm rồi, tẩu nhất định đừng để Tứ ca biết đấy, kẻo Tứ ca lại nổi giận. Muội mệt mỏi lắm rồi, thật đấy…”

Xương Phó thở dài: “Ta hiểu.” Nàng cũng là mẹ, đương nhiên hiểu tâm tình người mẹ khi con nhỏ xảy ra chuyện, nếu đổi lại là nàng, e rằng đã hồn vía lên mây, cuống cuồng hoảng loạn, bất chấp mọi thứ từ lâu rồi, ít ra A Hành còn biết lấy đại cuộc làm trọng.

“Đợi chút nữa Vân Tang đến, phiền tẩu ra sức trì hoãn hôn lễ của họ nhé.” Xương Phó là tộc trưởng Nhược Thủy tộc, nắm binh quyền trong tay nên Hoàng Đế có phần khách khí với nàng hơn với A Hành.

Xương Phó chẳng hỏi gì thêm, lập tức nhận lời: “Được, ta sẽ ráng trì hoãn đến tận lúc phụ vương nổi giận, không thể không hành lễ mới thôi.”

Khi xe long phượng chở Xương Ý và Vân Tang đến cửa điện, Xương Phó bèn dẫn một đám thiếu nữ Nhược Thủy, trang điểm lộng lẫy ra đón Vân Tang.

Mọi người trong đại điện ngớ ra, trong nghi thức đâu có màn này!

Chỉ thấy Xương Phó cười rạng rỡ: “Sớm đã nghe danh Vân Tang của Thần Nông tộc được xưng tụng là sen trắng trong mây, tiếc rằng bấy lâu nay chẳng có duyên kết giao.”

Vân Tang khẽ gật đầu: “Vân Tang cũng nghe nói nữ tộc trưởng Nhược Thủy không chỉ là đóa Nhược Mộc đẹp nhất, mà còn là chiến sĩ dũng cảm nhất Nhược Thủy.”

“Từ rày trở đi hai ta là người một nhà rồi, Nhược Thủy tộc bọn muội khi kết giao bằng hữu, phải thử xem phân lượng của bằng hữu trước, chẳng hay nghi thức kết giao của Thần Nông tộc thế nào? Liệu có chê chúng ta quá hoang dã thô lỗ chăng?”

Vân Tang mỉm cười: “Tuy nghi thức bề ngoài có khác nhưng đạo lý bên trong cũng vậy mà thôi. Ưng tìm bạn để cùng bay, chuột kéo bầy mà đào lỗ.”

Xương Phó bèn cởi chủy thủ đeo bên mình trao cho thị nữ đằng sau, “Theo tập tục Hiên Viên, trong ngày thành hôn kiêng động dao động kiếm, chẳng hay vương cơ có bằng lòng tỉ đấu linh lực với muội chăng? Chúng ta kết giao bằng hữu?”

Dân chúng Hiên Viên vốn dũng mãnh, tỷ võ so tài là chuyện rất thường, trên đại điện lại có không ít võ tướng xuất thân dân gian, nghe nói đều cao giọng hoan hô.

Vân Tang từ nhỏ chỉ ưa tĩnh không ưa động, không mấy thành thạo pháp thuật giao chiến, tự biết mình không phải đối thủ của Xương Phó, nhưng Xương Phó đã có lời mời, nàng cũng không thể từ chối, bằng không sẽ khiến bách tính Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến xem thường Thần Nông. Đang lúc do dự, chợt một giọng đàn ông khàn khàn vang lên sau lưng nàng, “Thịnh tình của vương tử phi thật khó khước từ, nhưng theo tập tục Thần Nông, tân nương không được động thủ trong hôn lễ, để tại hạ thay Trưởng vương cơ tiếp mấy chiêu của vương tử phi vậy.”

Xương Phó chỉ muốn kéo dài thời gian, còn đánh nhau với ai mà chẳng vậy, bèn đáp ứng ngay.

Một gã nam tử lưng gù mang mặt nạ khập khiễng bước ra. Mộc Cận từng miêu tả cặn kẽ về gã quái nhân xấu xí dưới trướng Xi Vưu nên Vân Tang thoạt nhìn đã biết ngay y chính là Vũ Sư, trợ thủ đắc lực của Xi Vưu. Nghe nói y thần lực cao cường, xuất thân cũng không tầm thường, vốn là người thuộc Xích Thủy thị, một trong Tứ thế gia, vi phạm gia quy nên bị trục xuất.

Rõ ràng là mới thấy lần đầu, nhưng chẳng rõ tại sao, Vân Tang lại cảm thấy người này quen quen như đã từng gặp gỡ. Nàng ngẩn ra nhìn theo bóng dáng y.

Xương Phó gỡ Nhược Mộc hoa bên mai tóc xuống, búng lên không, một đóa hoa lập tức biến thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám… chỉ trong nháy mắt đã thành cả một trận mưa hoa, đổ ập về phía Vũ Sư.

Vũ Sư đứng yên bất động, mây trắng lững lờ bốc lên từ đỉnh đầu y, từng đám trôi bồng bềnh giữa đại điện, rồi mưa đổ xuống thành hàng như một bức rèm châu lóng lánh buông trước mặt Vũ Sư, chặn đứng cơn mưa hoa kia lại, những đóa hoa đỏ rực chạm phải rèm châu, liền tan ra theo làn nước.

Tuy Vũ Sư bộ dạng xấu xí nhưng pháp thuật lại đẹp mắt vô cùng, mây tụ mây tan, mưa đổ mưa tạnh, tiêu sái tùy ý, phối hợp với một trời hoa đỏ của Xương Phó, thật chẳng khác nào bức Giang Nam xuân vũ đồ, những kẻ đứng bên quan sát chẳng hề thấy gì hung hiểm, chỉ thấy ngây ngất cả người.

Di Bành nhìn cảnh gió thổi mưa bay, hoa rơi phấp phới trước điện, quay sang cười bảo A Hành: “Phụ vương đã cau mày khó chịu rồi đấy, muội trì hoãn được một chốc, không trì hoãn được cả đời đâu.”

“Tuy hồ ly giảo hoạt, nhưng thể nào cũng có tay thợ săn bắt được nó.”

Di Bành thoáng sững người, đoạn lại bật cười: “Đã tra ra được lai lịch của nó, hẳn cũng nên biết những tay thợ săn tìm thấy nó đều đã chui vào bụng nó hết rồi.”

A Hành chỉ cười nhạt.

Di Bành nói tiếp: “Để ta nghĩ xem nào, muội đang ở đây, vậy kẻ nào đi tìm đồ con hoang kia giúp muội. Dưới gầm trời này cũng chẳng có mấy kẻ dám đối đầu với Hồ vương đâu nhỉ. Phụ vương có mời Xi Vưu tới tham dự hôn lễ, cả Vũ Sư cũng tới đây rồi mà Xi Vưu vẫn bặt tăm, lẽ nào hắn chính là thợ săn của muội?”

“Huynh đoán đúng đấy!” A Hành cười nhạt, “Chuyện gì huynh cũng tường tận cả, biết thừa chỉ cần nắm được chứng cứ là có thể tuyên án tử cả nhà ta, nhưng lại chẳng có cách nào chứng thực được, chắc bứt rứt lắm nhỉ?”

Di Bành giận tái mặt, âm trầm đáp: “Ăn miếng trả miếng thôi, nếu ta giết đồ con hoang kia, muội cũng chẳng có cách nào chứng minh là ta làm. Nói cho muội hay, ta đã biết nó là con của Xi Vưu, sao có thể không tính đến hắn? Ta đã bày sẵn trận pháp đợi đại giá Xi Vưu rồi, muội cứ chờ mà nhặt xác tên gian phu và đứa con hoang đó đi!”

A Hành xanh mặt, chỉ biết cắn chặt môi, cố trấn tĩnh.

Xương Phó và Vũ Sư tỷ đấu mãi vẫn chưa phân thắng bại, đột nhiên Hoàng Đế hạ lệnh: “Dừng tay cả đi!” Ông nhìn Xương Phó, mỉm cười bảo: “Đã là tỷ thí để kết giao bằng hữu, điểm tới thì nên dừng thôi.”

Tuy Hoàng Đế tươi cười hòa nhã nhưng giọng điệu vẫn không giấu được vẻ uy nghiêm kiên quyết. Xương Phó áy náy lắc đầu với A Hành, tỏ ý đã tận lực.

Hoàng Đế quay sang lệnh tùy tòng ban thưởng cho Vũ Sư.

Vân Tang cũng mềm mỏng góp lời: “Vũ Sư đã thay Vân Tang nghênh chiến, Vân Tang có chút phần thưởng muốn ban cho gã.” Nói rồi, nàng đưa mắt nhìn ả thị tỳ bên cạnh, ả thị tỳ bị bất ngờ, đành đưa chiếc hộp trong tay cho Vân Tang.

Vũ Sư bước lên trước, quỳ xuống tạ ơn rồi đứng dậy nhận lấy phần thưởng, nào ngờ Vân Tang thình lình giơ tay giật phăng mặt nạ của y xuống.

“Á…” Tiếng kêu kinh hoàng vang khắp đại điện, mấy ả thị nữ đứng gần đó hoảng hốt hét ầm lên rồi ngất xỉu.

Chỉ thấy gương mặt đó đã bị hắt độc thủy, máu thịt lẫn lộn, chằng chịt sẹo ngang sẹo dọc, trông còn khủng khiếp hơn mặt quỷ. Vũ Sư luống cuống lấy tay áo che mặt, quỳ sụp xuống đất, tựa hồ hổ thẹn đến nỗi chẳng dám ngẩng lên.

Vân Tang cầm mặt nạ đứng ngây ra, vẻ mặt bần thần như vừa đánh mất thứ gì, lát sau mới đưa trả lại Vũ Sư, “Xin lỗi, ta, ta không biết mặt ngươi… bị thương.” Nàng thầm trách mình lỗ mãng, Xi Vưu tinh minh nhường ấy, sau khi bật tăm mấy năm, thần lực lại càng cao thâm khó lường, các ngón huyễn thuật đều không thể qua được mắt hắn, nếu Vũ Sư là do kẻ khác đóng giả, lẽ nào Xi Vưu chẳng nhận ra?

Vũ Sư nhận lấy mặt nạ, vội vã đeo lên, lặng lẽ dập đầu rồi khập khiễng quay về chỗ cũ, tất cả mọi người đều tự động né tránh y, nhất là các nữ tử càng lộ vẻ ghê sợ.

Hoàng Đế nghiêm nghị lệnh cho Tông Bá, quan chủ quản lễ nghi: “Hành lễ!”

Xương Ý và Vân Tang bước đến trước mặt Hoàng Đế và Luy Tổ, chuẩn bị quỳ xuống hành đại lễ. Vân Tang tâm thần hoảng hốt, tuy nàng hiểu rất rõ mọi chuyện đang diễn ra, nhưng chẳng hiểu sao vẫn quyến luyến không nỡ buông bỏ, ánh mắt liếc về phía Vũ Sư. Y còng lưng xuống, khuất sau đám đông, chiếc mặt nạ che lấp hết nét mặt, giữa đại điện đông nghẹt người, ai nấy đều nghển cổ chăm chú theo dõi, chỉ sợ bỏ lỡ hôn lễ long trọng này, riêng mình y cứ cúi gằm mặt, vẻ không quan tâm.

A Hành kinh hồn bạt vía, nôn nóng nhìn ra cửa điện nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì. Xi Vưu, chàng đã cứu được con gái chưa?

“Tiểu muội, hễ đầu gối Vân Tang chạm đất thì đứa con hoang của muội cũng tắt thở đấy.” Giọng Di Bành lạnh lẽo vẳng lại.

“Quỳ!”

Trong tiếng hô vang của Ty Lễ quan, Xương Ý và Vân Tang từ từ quỳ xuống, sắc mặt A Hành cũng dần dần tái đi. Một bên là tính mạng con gái, một bên là an nguy của mẹ và Tứ ca, nàng rõ hơn ai hết, nếu lúc này mình ra tay cứu con gái chính là giúp cho Di Bành đoạt được vương vị, đẩy mẹ và Tứ ca vào hiểm cảnh, nhưng còn tính mạng con gái nàng, tính mạng con nàng…

Di Bành tàn nhẫn giơ mệnh phù của Tiểu Yêu lên, toan bóp nát.

“Không được hành lễ!” A Hành thét lên.

Di Bành mỉm cười, trong cuộc cờ sinh tử này, cuối cùng hắn đã thắng.

Hoàng Đế xưa nay vẫn điềm đạm, mừng giận không lộ ra mặt, vậy mà giờ cũng lộ vẻ giận dữ, trừng mắt nhìn A Hành: “Nếu con không đưa ra được một lý do hợp lý thì dù là Cao Tân vương phi, ta cũng phải yêu cầu Thiếu Hạo giải thích, tại sao lại ngăn cản hôn lễ của Hiên Viên tộc.”

A Hành nhìn mẹ và anh trai, nước mắt ân hận ầng ậng trên mi, nhưng tình hình trước mắt đành đi bước nào hay bước nấy, phải cứu con gái cái đã, “Thực ra, Tiểu Yêu là… Xi Vưu, Xi Vưu…”

Xương Ý lắc đầu nhìn A Hành. Phút kinh ngạc ban đầu qua đi, y lại mỉm cười, như đang an ủi A Hành: Không sao đâu! Dù muội làm gì đi nữa, ta cũng sẽ giúp đỡ muội, ai bảo muội là muội muội duy nhất của ta?

Di Bành cũng đang cười hí hửng, một khi cuộc hôn nhân giữa Hiên Viên và Thần Nông bị hủy, A Hành sẽ bị Cao Tân tước phong hiệu, Luy Tổ cũng sẽ bị truất phế, Xương Ý mất đi chỗ dựa thì chỉ còn là một gã thư sinh tinh thông mấy môn cầm kỳ thi họa vô dụng mà thôi.

Hoàng Đế bực bội hỏi: “Rốt cuộc con muốn nói gì nào?”

Di Bành cười đắc ý, vận linh lực nói lớn: “Mọi người yên lặng nghe xem Hiên Viên Bạt định nói gì.” Đồng thời, hắn giơ mệnh phù của Tiểu Yêu lên, hạ giọng cảnh cáo A Hành: “Đừng hòng kéo dài thời gian, ta đếm đến ba, nếu muội còn không nói, ta sẽ…”

A Hành lau khô nước mắt, bước lên mấy bước, trước ánh mắt của mọi người trong đại điện, nàng chẳng hề thấy hổ thẹn về mối tình với Xi Vưu, thậm chí nàng còn rất kiêu hãnh vì người mình yêu chính là Xi Vưu! Nàng chỉ cảm thấy áy náy với mẹ và anh trai mình. Hôm nay, nếu phải công bố sự thật này trước mặt mọi người, nàng muốn ngẩng đầu ưỡn ngực hiên ngang tuyên bố với cả đại hoang, người nàng yêu là Xi Vưu, Tiểu Yêu là con gái của nàng và hắn!

Xi Vưu nấp trên xà nhà trong đại điện, lạnh lùng nhìn cảnh tượng bên dưới.

Hắn có bị thương chút đỉnh vì trận pháp đối phương giăng sẵn, nhưng Cửu vĩ hồ còn bị thương nặng hơn.

Khi hắn đưa Tiểu Yêu về, vừa đúng lúc Xương Ý đang thay mặt Thanh Dương dắt Vân Tang tới trước mặt Hoàng Đế và Luy Tổ, nhưng hắn không gọi A Hành mà lặng lẽ náu mình, đợi A Hành thừa nhận tình cảm với mình trước mặt mọi người. Có điều, thấy A Hành dưới sự bức bách của Di Bành, một mình đối diện với ánh mắt tò mò xen lẫn nghi hoặc của mọi người, như thể đối diện với tất cả những phán xét và trừng phạt. Xi Vưu lại chẳng còn lòng dạ nào nấp trên xà nhà nữa, bèn nhảy xuống chạy về phía A Hành.

Ngay lập tức, đám thị vệ hốt hoảng xông ra ngăn Xi Vưu lại, mười mấy vị thần tướng xúm lấy quanh Hoàng Đế, bảo vệ nghiêm mật.

Bốn mắt giao nhau giữa trùng trùng ánh đao bóng kiếm, A Hành và Xi Vưu chỉ nhìn nhau không nói.

“Mẹ!” Giọng nói trong trẻo của Tiểu Yêu chợt vang lên.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước đến, tay vung vẩy một chiếc đuôi hồ ly trắng muốt mượt như nhung, ngươi đập ta, ta đánh ngươi.

A Hành nhũn người ra, quỵ xuống đất, vừa cười vừa khóc. Từ đầu đến cuối, chỉ mình Xương Phó hiểu được những kinh hồn bạt vía mà nàng phải nếm trải vỏn vẹn trong nửa ngày ngắn ngủi này, bèn đỡ lấy nàng, khẽ khuyên nhủ: “Muội ra với Tiểu Yêu đi, chỗ này cứ để cho ta, ta sẽ ứng phó với phụ vương.”

A Hành siết chặt tay chị dâu, chạy như bay đến ôm chầm lấy Tiểu Yêu.

Hoàng Đế xua tay lệnh cho tất cả thị vệ lui xuống. Xi Vưu tỏ vẻ tán thưởng trước sự can đảm của Hoàng Đế, sải bước sấn tới trước mặt ông ta: “Ông không sợ hôm nay tôi tới lấy đầu ông sao?”

Hoàng Đế cười: “Ngươi là nam nhi Cửu Lê tộc, hẳn phải hiểu rõ hơn ta, bất luận là ân oán sâu dày tới đâu, kết oán trên chiến trường thì phải dùng đao kiếm và máu tươi trên chiến trường mà giải quyết, nơi này là hôn lễ, chỉ dùng rượu ngon và ca múa khoản đãi khách quý bốn phương thôi.” Nói đoạn, Hoàng Đế chìa tay mời Xi Vưu ngồi xuống ngay cạnh mình.

Xi Vưu cũng cười thoải mái, ngồi xuống cạnh Hoàng Đế thản nhiên như không, tựa hồ khi nãy chưa từng trông thấy vô số cao thủ đệ nhất của Thần tộc nấp quanh bảo vệ Hoàng Đế.

Hai người bọn họ, kẻ dám mời, người dám ngồi, khiến kết thảy anh hùng đại hoang đều phải tự vấn xem liệu mình có can đảm đó hay không, đáp án khiến bọn họ càng thêm bội phục Xi Vưu và Hoàng Đế.

Di Bành thất thần đứng ngây ra, không sao tin nổi tình thế lại xoay chuyển đột ngột, thời cơ nắm chắc trong tay mà vẫn hỏng việc.

Hoàng Đế không vui, hỏi: “Giữa hôn lễ của Thanh Dương, con nói này nói nọ, rốt cuộc muốn làm gì hả?” Đoạn lại ngó quanh tìm A Hành, “Hành nhi đâu rồi? Chẳng phải vừa nãy nó còn làm loạn ở đây sao?”

Xương Phó đỡ lời: “Tiểu muội đột ngột phát hiện Xi Vưu nấp trong đại điện, sợ lỡ như hắn đối với phụ vương… lại không dám nói thẳng ra… trong lúc nguy cấp, đành giở ra hạ sách này.” Xương Phó nói câu này cũng như không, nhưng Hoàng Đế là người thông minh nhất mực, một câu này cũng đủ rồi. Tâm tư kẻ thông minh vô cùng phức tạp, tự mình cũng sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình.

Di Bành liền mượn thang xuống tường, “Nhi thần cũng thấy Xi Vưu lẻn vào đại điện, chẳng rõ hắn định làm gì, nhi thần không dám tùy tiện làm loạn, sợ ảnh hưởng đến mối thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông… Dù sao Xi Vưu cũng là Đại tướng quân Thần Nông…”

“Quỳ!”

Dưới sự dìu đỡ của thị nữ, Vân Tang bắt đầu hành lễ cùng Xương Ý.

Lễ tiết vô cùng rườm rà, nhưng cũng chính vì rườm rà nên lại càng toát ra vẻ long trọng và trang nghiêm, nhất là đến một lạy sau cùng, chiêng trống chợt trỗi lên, hoa bay ngập trời, mọi người đồng thanh chúc mừng, khiến người ta cảm giác như cả thiên hạ cùng chân thành chúc phúc cho cuộc hôn nhân này vậy. Xi Vưu không khỏi có phần hoảng hốt, trong mắt hắn, những lễ tiết này thực là nhàm chán vô vị, nhưng đối với kẻ từ nhỏ đã lớn lên trong hoàn cảnh đó như A Hành, nhất định là rất quan trọng, có lẽ nàng vẫn luôn muốn được như vậy, tiếc rằng hắn mãi mãi không thể cho nàng.

Sau khi đại lễ hoàn tất, sứ thần các tộc lần lượt dâng lễ vật lên, ai nấy đều hiểu ý nghĩa của cuộc hôn nhân này nên tặng phẩm cũng rất hậu hĩnh, ra sức lấy lòng Thanh Dương.

Có kẻ tặng thần khí, kẻ tặng bí bảo, thậm chí có người còn cắt đất dâng tặng… Hoàng Đế mừng rỡ vô cùng, quả nhiên mọi chuyện đều như ông ta dự tính, kết mối thông gia với Thần Nông có thể quy tụ lòng người trong thiên hạ, tất nhiên, vẫn còn những kẻ cứng đầu cứng cổ, trừ Xi Vưu, Hậu Thổ, Chúc Dung, Cộng Công ra, những tên khác đều không đáng bận tâm.

Trong khoảnh khắc, cả đại điện từ ngoài vào trong chợt ắng lặng hẳn đi, rồi im phắc như tờ, chỉ nghe thấy tiếng bước chân “cộp, cộp” nặng nề vang lên, hết thảy mọi người đều đổ dồn mắt ra ngoài điện.

Trong ánh sáng chói mắt, một bóng người vận khôi giáp, toàn thân trùng trùng linh khí, xuất hiện ngay cửa điện, hiên ngang tiến vào như đem theo cả trời hào quang rực rỡ, anh vũ bức nhân, là Hậu Thổ.

Hậu Thổ thong dong bước vào, cả đại điện đông nghịt người là người, vậy mà chỉ nghe tiếng bước chân hắn cồm cộp gõ lên nền đá, từng bước từng bước chân vang vọng trong đại điện, tựa hồ chiến mã hí vang, giáo vàng giao kích, khiến người ta run rẩy cả lên.

Hậu Thổ đứng bên dưới hiên ngang ngước mắt nhìn Hoàng Đế, trao một cuốn lụa trắng cho lễ quan, đoạn tâu lên Hoàng Đế: “Tôi tới dâng lễ vật.”

Lễ quan vừa nhìn lướt qua cuốn lụa trắng, cánh tay chợt run bắn lên, suýt nữa cầm không vững.

Là chiến thư gây hấn ư? Muốn tuyên chiến à?

Mọi người căng thẳng đổ dồn mắt về phía Lễ quan, nhưng ông ta lắp bắp mãi không thốt nổi nên lời. Tông Bá liền bước ra cầm lấy cuốn lụa, vừa nhìn qua, tay cũng bắt đầu run lên. Hoàng Đế thấy vậy lại càng không vui, cau mày toan khiển trách thì Tông Bá đã quỳ xuống, cao giọng hô vang: “Chúc mừng bệ hạ, chúc mùng bệ hạ! Hậu Thổ đại nhân đã dâng tám vạn tướng sĩ dưới trướng làm lễ vật.” Câu này ý là Hậu Thổ đã xuất lĩnh tất cả quân lính đầu hàng.

Hoàng Đế nhất thời không kiềm chế được, giật nảy mình vì kích động nhưng lập tức bình tĩnh lại ngay, rảo bước tiến về phía Hậu Thổ, xá dài một cái, “Người báo đáp ta như quốc sĩ, ta cũng sẽ đãi ngươi như quốc sĩ, lời này có thiên hạ làm chứng, nếu dám làm trái, người người khinh khi!”

Hậu Thổ vẫn thản nhiên chẳng lộ vẻ gì, chỉ quỳ một gối trước mặt Hoàng Đế, tỏ ý thuần phục.

Hoàng Đế giơ hai tay nâng Hậu Thổ đứng dậy, nắm tay gã đi về phía vương tọa, mấy ả thị nữ nhanh nhảu đã bê ngay một chiếc ghế danh dự ra đặt cạnh, cơ hồ ngang bằng với vương tọa.

Trước tình cảnh đó, anh hùng bốn bể cũng lần lượt quỳ xuống, đồng thanh chúc mừng.

Nhìn anh hùng thiên hạ lũ lượt quỳ gối dưới chân mình, Hoàng Đế không nén nổi tiếng cười sảng khoái.

Chỉ riêng một mình Xi Vưu vẫn ngồi trơ trơ bất động, khoanh tay lạnh lùng nhìn cảnh tượng trước mắt, bóng dáng hắn nổi bật lên giữa một rừng người quỳ bái, kỳ quặc vô cùng. Hoàng Đế nhìn hắn, thành khẩn nói: “Trên Hiên Viên điện luôn luôn để trống một chỗ cho Tướng quân.”

Xi Vưu nghe nói bật cười, sải bước đi thẳng ra ngoài: “Hiên Viên có đối đãi tốt đến mấy chăng nữa, cũng không có một Du Võng coi ta như huynh đệ, tuy y đã chết nhưng ta vẫn còn sống, ta sẽ thực hiện di nguyện của y, thay y quét sạch quân Hiên Viên ra khỏi bờ cõi Thần Nông!”

Giọng hắn sang sảng, như ánh chiếu cả càn khôn, soi rọi hết nhật nguyệt, khiến đám người Thần Nông quỳ gối quy hàng không khỏi hổ thẹn, nhưng chúng chẳng lấy thế để tự ngẫm mình, ngược lại còn oán trách tên cầm thú kia thật không hiểu thời thế, đua nhau xì xào chửi rủa Xi Vưu. Trái lại, Hậu Thổ ngồi trên ngai cao nhất tuy vẫn giữ vẻ thản nhiên lạnh lùng, nhưng lại đăm đăm nhìn theo hút bóng Xi Vưu, mượn ánh mắt tiễn hắn ra tận cửa điện.

Hoàng Đế cố nén nỗi thất vọng trong lòng, mỉm cười gật đầu với Lễ quan, Lễ quan liền ra lệnh tấu nhạc ban yến, tức thời cả đại điện tưng bừng náo nhiệt cả lên, múa ca rộn rã, yến tiệc linh đình, xôn xao tiếng cười tiếng nói.

Thấy Xi Vưu đi khỏi, A Hành vội bế Tiểu Yêu đuổi theo, nhưng không dám hiện thân, mãi đến khi ra ngoài cung mới cất tiếng gọi.

A Hành đặt Tiểu Yêu xuống đất: “Con nhớ lời ta dặn chưa?”

Tiểu Yêu liền hớn hở chạy về phía Xi Vưu, ôm chầm lấy chân hắn: “Con tạ ơn thúc thúc.”

Xi Vưu cứng người lại, một thoáng sau mới cúi xuống, chẳng đợi hắn kịp phản ứng, Tiểu Yêu đã giơ tay ôm lấy cổ hắn, thơm má trái hắn một cái, lại quay sang thơm má phải một cái nữa, đoạn bật cười khanh khách, vùi đầu vào lòng Xi Vưu.

Xi Vưu bất giác vòng tay ôm lấy Tiểu Yêu, chỉ thấy hào tình vạn trượng, nhu tình quyến luyến cùng lúc trào lên trong lòng, hắn chăm chú nhìn A Hành, “Rốt cuộc là vì sao?” Trên núi Cửu Lê, nàng đã tự tay cất một mái nhà cho hắn, chính miệng hứa sẽ mau chóng rời khỏi Thiếu Hạo, nhưng đợi đến khi hắn tỉnh lại, nàng lại nói điện Thừa Ân tình khó dứt, còn sinh con gái cho Thiếu Hạo. Đến tận bây giờ, hắn vẫn chẳng hiểu nguyên do vì sao cả, cách giải thích duy nhất chỉ có thể là A Hành có tình cảm với Thiếu Hạo mà thôi.

Xi Vưu trao Tiểu Yêu cho A Hành, “Nếu Tiểu Yêu là con ta, ta nhất định là kẻ hạnh phúc nhất trên đời này.” A Hành định đón lấy Tiểu Yêu, nào ngờ Xi Vưu một tay bồng Tiểu Yêu, tay kia nắm chặt lấy nàng, “Đi với ta đi!”

A Hành bị Xi Vưu nắm chặt, đau buốt đến tận xương. Hắn một tay ôm con gái, một tay nắm tay nàng, cả nhà ba người ở bên nhau. Chỉ cần khẽ lật tay lại thôi, nàng sẽ có thể nắm lấy tay hắn, theo hắn tiêu dao khắp trời cao đất rộng.

Nàng cầm lòng không đậu, toan nắm chặt lấy tay Xi Vưu.

Đột nhiên, trên bầu trời chợt vút lên những đốm pháo hoa mừng đại lễ, sáng rực cả Hiên Viên thành, cũng đồng thời thức tỉnh A Hành.

Trong Hiên Viên thành còn mẹ và anh trai nàng! Từ lâu, giữa hai người bọn họ đã tồn tại một lằn ranh không cách gì vượt qua nổi do Du Võng và Thanh Dương vạch ra!

Nàng giật tay lại, cau mày: “Giờ ta đã là Cao Tân vương phi rồi, tướng quân hãy quên ta đi!”

Trong một khoảnh khắc, Xi Vưu đã cảm nhận được rõ rệt tâm ý của nàng, thậm chí còn cảm thấy tình ý triền miên vương vấn nơi đầu ngón tay nàng, nhưng đúng lúc hắn ngỡ rằng nàng sẽ nguyện ý theo hắn tới tận nơi góc biển chân trời, bên nhau đến bạc đầu, thì nàng lại nhớ tới Thiếu Hạo, lập tức trở mặt lạnh lùng ngay.

Thì ra, mọi thứ chỉ là ảo giác!

Xi Vưu buông tay ra, A Hành ẵm lấy Tiểu Yêu, cúi đầu bảo bé: “Từ biệt thúc thúc đi con.”

Tiểu Yêu tươi cười vẫy tay, “Thúc thúc, lên đường bình an nhé.”

Xi Vưu đăm đắm nhìn A Hành, trong khi nàng không chịu nhìn hắn thêm một lần nào nữa, đoạn lắc đầu, ngửa cổ cười thảm một tiếng, cưỡi Tiêu Dao đi thẳng.

Tiểu Yêu nhìn theo bóng Xi Vưu cưỡi trên lưng Tiêu Dao, áo đỏ phấp phới, phong thái lẫm liệt, xán lạn như ráng sớm, vun vút tựa chớp lóe, bé không khỏi ước ao: “Yêu Yêu cũng muốn cưỡi chim lớn.”

A Hành áp mặt vào trán Tiểu Yêu, hồi lâu vẫn đứng yên bất động, nước mắt lã chã nhỏ xuống mặt bé. Tiểu Yêu đưa tay lau nước mắt cho mẹ, ngoan ngoãn thủ thỉ: “Mẹ đừng khóc, Yêu Yêu không cưỡi chim lớn nữa đâu.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 13: Thề đem máu biếc đền nợ nước (1)

Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.

Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.

Sau hôn lễ của Thanh Dương, A Hành cũng cáo biệt Hoàng Đế. Hoàng Đế ân cần hỏi han thương thế của Thanh Dương, còn dặn nàng phải chăm sóc cho Đại ca thật tốt, nhắn y gắng dưỡng thương cho khỏi hẳn, không cần nôn nóng.

A Hành sớm đã liệu được Hoàng Đế sẽ dặn dò như thế, trải cả ngàn năm, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên quốc đã như hổ phục, giờ lại được Thần Nông tộc quy thuận, càng như hổ thêm cánh. Nếu Thanh Dương khỏe mạnh, Hoàng Đế mới phải ưu phiền, còn hiện giờ y đã bị thương không thể tham chính, vừa hay có thể ngăn binh quyền tập trung quá nhiều vào tay Thanh Dương.

Bá quan Hiên Viên cung tiễn A Hành lên đường đều ra sức nịnh nọt tâng bốc nàng, chỉ mình Di Bành lặng lẽ đi giữa đoàn người, phớt lờ tất cả. Tâm trạng A Hành cũng rất nặng nề, thuật làm vua vốn chỉ gói gọn trong hai chiêu: cân bằng và kìm hãm, cùng với sự quy thuận của Hậu Thổ, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên tộc đã lớn mạnh quá mức, nên Hoàng Đế nhất định sẽ dùng Di Bành để cân bằng và kìm hãm Thanh Dương, có điều một khi Di Bành nắm quyền bính trong tay, ắt hẳn hắn sẽ dốc lòng tìm cách báo thù.

A Hành về tới Ngũ Thần sơn đã thấy Thiếu Hạo đứng chờ trên vọng lâu. Tiểu Yêu chẳng đợi xe mây đỗ lại đã vươn tay ra gọi: “Cha, cha!”

Thiếu Hạo giơ hai tay lên, biến thành hai con thủy long, quấn lấy Tiểu Yêu đỡ cô bé xuống. Tiểu Yêu lập tức kể khổ, nào là Chuyên Húc bắt nạt mình, không chịu tin Cao Tân đẹp gấp ngàn lần Hiên Viên, nào là có kẻ đóng giả làm cha lừa gạt cô bé, may mà hồng y thúc thúc đã đánh bại hắn, thì ra tên lừa đảo đó là một con hồ ly trắng tuyệt đẹp, còn có tới chín cái đuôi, ngay cả A Tệ cũng phải sợ hắn.

“Đó là Cửu vĩ bạch hồ, vương của Hồ tộc, cực giỏi biến hình, dù kẻ khác có thần lực cao cường đến đâu chăng nữa, cũng không nhìn ra được.” Thiếu Hạo ôn tồn giải thích với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu rút ra một chiếc đuôi hồ ly trắng muốt như tuyết, nhẹ xốp như mây, đẹp đến mê hồn đưa cho Thiếu Hạo, “Hồng y thúc thúc cho con cái này để chơi, Chuyên Húc thối cũng đòi một cái, nhưng đừng hòng con cho.”

Thiếu Hạo cười: “Con cất lấy đi, đó là đuôi của bạch hồ ly, tuy chỉ có một mẩu, nhưng cũng là vật bao nhiêu người ao ước đấy.”

Tiểu Yêu cầm chiếc đuôi phất qua phất lại, thuận miệng “ưm” một tiếng. Thiếu Hạo liền ẵm cô bé giao cho cung nữ, dặn chúng đưa vương cơ đi rửa mặt. Đoạn y thong dong vừa đi vừa trò chuyện với A Hành, nghe nàng thuật lại mọi chuyện xảy ra ở Hiên Viên, còn gạn hỏi thật kỹ chuyện Hậu Thổ quy hàng.

Đưa A Hành về đến tẩm thất, Thiếu Hạo mới từ biệt: “Hai mẹ con nghỉ ngơi trước đi, ta còn có việc phải giải quyết.”

Trở về, Thiếu Hạo bí mật triệu kiến An Dung, hỏi xem gã thấy thế nào về cục thế đại hoang hiện giờ.

An Dung nghiêm trang đáp: “Hiên Viên ít sông ngòi, quá nửa lãnh thổ là hoang mạc, dưới trướng Hoàng Đế thiếu đại tướng thông thạo thủy chiến, kẻ duy nhất thông thạo là Ứng Long đã mất tích từ sau nạn lụt ở Trạch Châu. Hoàng Đế ngỏ lời mời chúng ta xuất binh giúp ông ta trừ diệt Cộng Công, hứa rằng sẽ cắt đất mặt Nam Thần Nông cho chúng ta, thoạt nhìn có vẻ là chúng ta được lợi lớn, nhưng nếu Thần Nông bị tiêu diệt thì tiếp theo sẽ đến lượt Cao Tân.”

Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu chương tới trước mặt An Dung, “Thật hiếm thấy kẻ nào thông tỏ như ngươi, đám tấu chương này bức sau đanh thép hơn bức trước, đều thỉnh cầu ta phát binh giúp Hoàng Đế diệt trừ dư nghiệt Thần Nông đấy.”

An Dung cười khổ, “Người ta chỉ biết cười lang sói tham bắt thỏ mà sa vào hố bẫy thợ săn, nào biết mình cũng là một con sói tham lam ngu xuẩn.”

“Ngươi có kế sách gì để ứng phó không?”

“Bề ngoài bệ hạ cứ đáp ứng Hoàng Đế, còn bên trong thì tăng cường huấn luyện quân đội, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh với Hiên Viên. Cộng Công và Chúc Dung không phải đối thủ của Hoàng Đế, chỉ có thể hy vọng vào cuộc chiến giữa Xi Vưu và Hoàng Đế thôi, mong rằng dù ông ta có thắng được, cũng phải liểng xiểng.”

Thiếu Hạo phì cười, “Ngươi phân tích đúng lắm, có điều chúng ta không thể ngồi ôm hy vọng suông được, mà phải khiến Xi Vưu đánh cho Hoàng Đế dù có thắng cũng phải liểng xiểng, thậm chí lưỡng bại câu thương thì càng tốt.”

Thấy Thiếu Hạo đã có dự tính sẵn, An Dung kích động đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, đây mới chính là Thiếu Hạo mà y dốc lòng phò tá chứ! Nhưng phải làm sao mới được đây? Cao Tân không thể phát binh giúp Thần Nông được.

“Thần ngu độn, không hiểu được ý bệ hạ.”

Thiếu Hạo đáp ngắn gọn: “Chuyện này ta đã sắp đặt cả rồi, ngươi và An Tấn chỉ cần an tâm huấn luyện binh sĩ cho thật tốt để ngày sau còn chiến đấu bảo vệ Cao Tân.”

An Dung dập đầu, “Xin nghe theo bệ hạ sai khiến.”

Sau hôn lễ của Thanh Dương, Hoàng Đế bắt đầu bố trí lại quân đội, chuẩn bị thảo phạt tàn dư Thần Nông tộc không chịu quy thuận. Trước mắt, Hoàng Đế chưa muốn giao phong chính diện với Xi Vưu, bởi một khi Hiên Viên thất bại, không những đại tổn sĩ khí mà còn khiến đám binh lính Thần Nông vừa quy hàng không lâu dao động. Cân nhắc thiệt hơn đủ cả, cuối cùng Hoàng Đế quyết định tập trung binh lực thảo phạt Chúc Dung trước. Chúc Dung là dòng dõi chính thống của Thần Nông vương tộc, chỉ cần hắn đầu hàng, đám tàn quân Thần Nông sẽ đại tổn sĩ khí.

Nghĩ trước tính sau chán chê, Hoàng Đế quyết định phái Xương Ý dẫn quân xuất chinh.

Từ sau trận hồng thủy ở Trạch Châu, Ứng Long mất tăm mất tích, Yêu tộc lòng quân bất ổn nên không thể phái tướng lĩnh Yêu tộc xuất chinh được, chỉ có dùng đại tướng Thần tộc suất lĩnh Thần tộc và Nhân tộc xuất chinh mà thôi. Hai viên đại tướng Ly Chu và Tượng Võng đang giằng co với Cộng Công, Hiên Viên Hưu và Thương Lâm lại đang trấn thủ Trạch Châu, lựa chọn thích hợp nhất chính là Di Bành, nhưng Di Bành và Chúc Dung có mối thù giết anh, mà Hoàng Đế hiện giờ chỉ cần Chúc Dung đầu hàng chứ không muốn tử chiến với hắn, nên không thể phái Di Bành đi được, cuối cùng chỉ còn lại mỗi Xương Ý. Hơn nữa năm xưa Hoàng Đế ra sức thúc đẩy cuộc hôn nhân của Xương Ý và Xương Phó, nguyên nhân quan trọng chính là nhắm vào những chiến binh kiêu dũng thiện chiến của Nhược Thủy.

Ý chỉ của Hoàng Đế truyền đến Nhược Thủy, Xương Phó biết Xương Ý căm ghét chiến tranh, bèn hỏi dò xem y có muốn kháng chỉ hay không, “Thiếp tìm lý do gì đó từ chối phắt đi, dù phụ vương tức giận cũng không làm gì được thiếp đâu.”

Nào ngờ, Xương Ý lại nói: “Không, ta sẽ chuẩn bị dẫn binh xuất chinh.”

Xương Phó hết sức bất ngờ, nhưng rồi lập tức hiểu ra ý Xương Ý. Từ sau khi Thanh Dương chết đi, một mình A Hành phải vất vả trù tính, chèo chống cả gia đình. Xương Ý không muốn dựa vào em gái để bảo vệ bản thân và mẹ nên muốn ra chiến trường, dùng hành động thực tế để bảo hộ người nhà.

Xương Ý nắm lấy tay Xương Phó, dịu dàng nói: “Nếu Đại ca còn sống, ta có thể cự tuyệt phụ vương, nhưng giờ huynh ấy đã không còn, nàng đừng tùy tiện cự tuyệt phụ vương nữa nhé. Chẳng qua phụ vương nhường nhịn nàng là vì nàng hữu dụng, ông ấy cần binh lực của nàng, nhưng nếu nàng ương ngạnh không nghe lời, nàng sẽ trở nên vô dụng trong mắt ông ấy, tới chừng đó, ông ấy có thể sẽ… sẽ tìm một kẻ khác biết nghe lời.”

Lòng Xương Phó chợt nghe ấm áp, thì ra, y cũng vì cả nàng nữa! Xương Phó ngả vào lòng Xương Ý: “Thiếp cùng đi với chàng!”

“Được!” Xương Ý mỉm cười ôm chặt lấy nàng.

Sau khi bố trí sắp xếp tỉ mỉ, Xương Ý và Xương Phó quyết định áp dụng chiến thuật đánh chớp nhoáng, dẫn theo hai trăm tướng sĩ Thần tộc và một vạn dũng sĩ Nhược Thủy lặng lẽ lên đường.

Vùng đất nơi Hiên Viên giao cắt với góc Đông Nam của Thần Nông trập trùng đồi núi, nổi tiếng là hào trời khó mà vượt qua nổi, nhưng Nhược Thủy xưa nay vẫn san sát núi non, trẻ con Nhược Thủy bảy tám tuổi đã thi leo trèo với khỉ vượn trên vách đá.

Một vạn người xé lẻ ra thành mười tổ, náu mình vào thâm sơn cùng cốc, vượt qua những rặng núi chưa ai có thể vượt qua, đột nhập vào Tuân Sơn – nơi đại quân Chúc Dung đóng giữ, hội hợp với hai trăm tướng sĩ Thần tộc cưỡi tọa kỵ tiềm nhập vào trước.

Nhạc Uyên suất lĩnh tướng sĩ Thần tộc đề nghị nghỉ ngơi một lát, nhưng Xương Ý phản đối: “Có thể che giấu được tung tích hai trăm binh sĩ Thần tộc, nhưng muốn giấu tung tích của một vạn binh sĩ Nhược Thủy thì khó lắm, mục đích chúng ta băng đèo vượt suối là muốn tiến đánh bất ngờ, khiến chúng không kịp trở tay kia mà.”

Bất chấp tướng sĩ mệt mỏi vì hành quân suốt ngày đêm, Xương Ý hạ lệnh lập tức tiến quân đánh lén Chúc Dung. Quân Hiên Viên tiến đánh quá đột ngột khiến quân đội Thần Nông chẳng kịp trở tay, trận đánh thu được kết quả mỹ mãn: hơn bốn vạn quân của Chúc Dung không địch lại được một vạn người của Xương Ý, đại quân thua tan tác, chỉ còn chưa đầy một vạn người chạy vào Tuân sơn.

Trong trận đánh du kích đó, hơn hai vạn quân Thần Nông tử trận, còn Nhược Thủy chỉ tổn thất hơn một ngàn người, trong đó là hơn một trăm người đang trên đường vượt núi, không may rớt xuống vách núi. Trận thắng lớn này đã tạo nên một kỳ tích, đến nỗi rất nhiều năm về sau, hễ nhắc đến nam nhi Nhược Thủy, người ta lại nhớ đến chiến thuật đánh du kích đáng sợ của họ. Dân gian còn truyền tụng rằng, núi cao đến đâu, sông sâu chừng nào cũng không ngăn nổi bước chân nam nhi Nhược Thủy.

Tin Hiên Viên đại thắng lập tức lan truyền khắp đại hoang, dân chúng Hiên Viên vui mừng nhảy múa, còn Thiếu Hạo lại rầu rĩ ủ ê. Tuy y chẳng trông mong gì vào Chúc Dung, nhưng cũng không ngờ hắn lại thua dễ dàng đến vậy. Hiện giờ Hoàng Đế hẳn đã giở ngón sở trường ra để công kích Chúc Dung, trước là đè bẹp cái sắc bén của hắn, khiến hắn khiếp sợ, rồi sau đó lại dùng thủ đoạn lung lạc, thi ân dụ hàng, thu nạp hắn vào dưới trướng.

Quả nhiên, đúng như Thiếu Hạo dự liệu, Xương Ý và Xương Phó được lệnh đóng quân dưới Tuân sơn, không tiếp tục tấn công lên nữa. Chúc Dung cũng bí mật gặp gỡ với sứ giả của Hoàng Đế, bàn bạc điều kiện, đồng thời sắp xếp nghi thức đầu hàng.

Từ khi Xương Ý xuất chinh, A Hành vẫn sát sao quan tâm từng chút một, mãi tới lúc nghe nói Chúc Dung đã quyết định đầu hàng, nàng mới thở phào nhẹ nhõm.

Lâu lắm không chơi đùa với Tiểu Yêu, hiện giờ mọi chuyện đã tạm ổn, A Hành bèn dắt Tiểu Yêu tới Kỳ viên du ngoạn. Trên đỉnh núi có suối băng nước lạnh tự nhiên. Tiểu Yêu sợ nóng nên rất thích nghịch ngợm trong suối băng. Như tất cả những đứa trẻ Cao Tân, cô bé từ nhỏ đã dầm mình trong nước mà lớn lên, rất thông thạo thủy tính, cứ liên tục leo lên bờ rồi lại lập tức nhảy ào xuống nước, thả sức vui đùa.

“Mẹ ơi, nước ở đây lạnh quá.” Tiểu Yêu ngoi lên mặt nước, thích thú hét.

A Hành thò tay xuống thử nước, cười nói: “Con sợ nóng như thế thì nên ở Hiên Viên mới phải. Tầm này chắc Hiên Viên sắp đổ tuyết rồi.” Nhớ đến mưa tuyết đầy trời, A Hành lại nghĩ đến những trái dâu lạnh chua chua ngọt ngọt, lòng chợt dậy lên nỗi nhớ quê.

Tiểu Yêu nghe mẹ kể chuyện đắp người tuyết, chơi ném tuyết, vô cùng mê mẩn, nhưng nghĩ đến Chuyên Húc lại thấy bực mình, “Hừ! Con không thèm chơi với Chuyên Húc đâu!” Nói xong ùm một cái, lại ngụp xuống nước, tự chơi một mình.

Liệt Dương đứng trên đầu cành bảo A Hành: “Là tiết trời đã chuyển lạnh. Tuy các người là Thần tộc, nhưng không thể mẫn cảm với thiên địa linh khí bằng thực vật được, cô nhìn kỹ cây cối bên bờ mà xem, tất cả đều không ổn.”

A Hành nói: “Làm sao có thể mãi mãi không đổi suốt bao nhiêu năm được? Thời tiết ngẫu nhiên thay đổi cũng là chuyện thường thôi.”

Liệt Dương khinh khỉnh hừ mũi: “Chẳng nhẽ ta không phân biệt được bình thường và khác thường sao? Nói cho cô biết, là địa khí không bình thường đó!”

A Tệ đang dùng cả tứ chi vọc nước, cái đuôi phe phẩy đập lên mặt nước, tỏ ý đồng tình với Liệt Dương.

Chẳng hiểu sao, trước những trận thiên kiếp như động đất sóng thần, kẻ phát hiện ra đầu tiên luôn là động vật và thực vật chứ không phải những kẻ trong Thần tộc tự xưng linh lực cao tường. Nghĩ vậy, A Hành liền cảnh giác hỏi: “Có gì khác thường?”

Liệt Dương đáp: “Phượng Hoàng nội đan của ta tính thuộc hóa, tương thông với hỏa linh trong trời đất, mấy ngày nay, hỏa linh quanh đây biến động rất khác thường, có điều không ở Ngũ Thần sơn nên ta cũng chỉ cảm giác được có vậy mà thôi, không nói rõ ra được.”

Hỏa linh? A Hành lập tức liên tưởng đến Chúc Dung, lòng chợt dâng lên một linh cảm không lành. Nàng vội gọi cung nữ lại, dặn dò bọn họ đưa Tiểu Yêu về Thừa Ân cung.

“Liệt Dương, chúng ta về đại lục ngay, ngươi ráng cảm nhận cho kỹ hỏa linh biến hóa thế nào nhé.”

A Hành, A Tệ và Liệt Dương bay về hướng Tây, băng qua biển cả mênh mông, thẳng đến đại lục. Liệt Dương nhả Phượng Hoàng nội đan ra, chăm chú cảm nhận hỏa linh, lúc nó bay vút lên không, lúc lại nhào xuống đất, A Hành và A Tệ chỉ đứng một bên đợi.

Hồi lâu Liệt Dương mới quay lại báo cáo với A Hành: “Có lẽ là cao thủ Thần tộc đang bày trận pháp, dẫn phát linh khí biến đổi, hỏa linh bên dưới đều tụ lại một nơi cả.”

“Vì sao không phải là Yêu tộc chứ? Biết đâu đại yêu quái nào đang luyện công thì sao?”

Liệt Dương cười nhạt, “Phượng Hoàng sinh ra trong lửa, chết vùi trong lửa, yêu quái nào dám triệu tập hỏa linh trước mặt ta?”

“Hỏa linh hội tụ về phương nào?”

“Bên đó.” Liệt Dương trỏ về phía Thần Nông quốc. “Kẻ bày trận hết sức thận trọng, chỉ điều động hỏa linh từ sâu trong lòng đất lên mà thôi, không động gì tới hỏa linh ở các nơi khác, nên rất khó phát hiện.”

“Hắn triệu tập nhiều hỏa linh như thế làm gì?”

Liệt Dương ngưng thần nghĩ ngợi một lát rồi đáp, “Cô trông thấy núi lửa phun rồi chứ?” Liệt Dương điểm ngón tay một cái, trên mặt đất liền xuất hiện một đám lửa cháy phừng phừng, “Núi lửa phun trào, đất rung núi chuyển, trời đất đều hóa thành biển lửa, dù Thần tộc thần lực cao cường tới đâu cũng chỉ như con sâu cái kiến quằn quại giữa đống lửa này mà thôi.”

Chúc Dung đóng quân ở Tuân sơn, nếu Tuân sơn nổ tung thì Tứ ca và Tứ tẩu… A Hành lạnh toát cả người, vội xé nửa ống tay áo, cắn ngón tay viết vội viết vàng một bức huyết thư, đưa cho Liệt Dương, “Ngươi lập tức bay về Hiên Viên thành, giao phong thư này cho phụ vương, bay nhanh nhất có thể nhé.”

Liệt Dương biết là chuyện nước sôi lửa bỏng, lập tức bay vút về phía Tây.

A Hành tâm hoảng ý loạn, chân nhũn cả ra, phải cấu thật mạnh vào người mới bình tĩnh mà suy nghĩ được. Ngũ hành tương khắc, Thủy khắc Hỏa, tuy Chúc Dung đã sắp bày xong trận pháp nhưng Cao Tân cũng có rất nhiều cao thủ về thủy linh, miễn là Thiếu Hạo đồng ý trợ giúp, có lẽ sẽ hóa giải được kiếp nạn này.

Nghĩ vậy, A Hành vội vã quay về Ngũ Thần sơn tìm Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo đang nghị sự với mấy vị đại thần, nhắc tới việc Hiên Viên ngày càng lớn mạnh, sớm muộn sẽ có ngày tấn công Cao Tân, mọi người đều căng thẳng lo lắng.

Thị vệ ngăn A Hành lại, phân trần rằng nàng phải đứng ngoài chờ nghị sự xong, không được bước vào. A Hành đang lúc khẩn trương, chẳng nề đẩy cả thị vệ ra, xông thẳng vào đại điện, đám thị vệ liền nhốn nháo ngăn cản.

Thiếu Hạo nghe tiếng xôn xao bèn ngẩng đầu nhìn ra ngoài, thấy A Hành đang giằng co với đám thị vệ, y liền đưa mắt cho kẻ hầu bên cạnh, tên hầu lĩnh ý vội chạy ra, quát đám thị vệ dừng tay.

“Xin hỏi vương phi có việc gì?” Kẻ hầu hành lễ cung kính hỏi.

A Hành chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng tới trước mặt Thiếu Hạo, quỳ sụp xuống, dập đầu.

Thiếu Hạo thấy tay áo nàng rách toạc, nửa cánh tay lộ ra ngoài, quần còn vương vệt máu vội bước xuống ngai vàng, định đỡ nàng dậy, bây giờ mới phát hiện hai tay A Hành lạnh ngắt, “Có chuyện gì thế?”

A Hành nắm chặt lấy tay y, móng tay bấm vào da thịt, như chết đuối vớ được cọc, “Xin bệ hạ xuất chinh cứu mạng Tứ ca thiếp.”

Thiếu Hạo còn đương ngỡ ngàng chưa hiểu, An Tấn tính tình thẳng thắn đã đỡ lời: “Cả thiên hạ đều biết tin Xương Ý vừa đại thắng, dù có phải chết cũng là Chúc Dung bỏ mạng, đâu đến lượt Hiên Viên vương tử.”

“Nhưng Liệt Dương vừa phát hiện ra hỏa linh dưới lòng đất đang tụ về hướng Tuân sơn.”

“Vậy thì sao chứ?” An Tấn vẫn chưa hiểu ra vấn đề.

Thiếu Hạo nghe đến đây liền hiểu ra ngay, một dải Tuân sơn dồi dào hỏa linh nên Chúc Dung định hội tụ địa hỏa, biến nó thành một ngọn núi lửa, một khi núi lửa phun trào thì không cách gì ngăn được, tới chừng đó, chẳng ai có thể chạy thoát.

Quý Ly cũng hiểu ra, bèn góp lời: “Sao có thể chứ? Sao Chúc Dung lại tự mình hại mình như vậy? Nếu núi lửa phun trào thì bản thân hắn cũng chạy không thoát mà? E rằng vương phi hiểu lầm rồi, liệu có phải hắn định dùng chuyện này để uy hiếp Hoàng Đế, đòi thêm điều kiện gì chăng?”

Thiếu Hạo lặng thinh không nói. Tham lam, nhỏ mọn, ghen ghét đều chỉ là tiểu tiết, phục vụ quốc gia và thần dân của mình mới là đại nghĩa. Những kẻ chỉ khư khư tránh tiểu tiết chắc gì đã có đại nghĩa, tựa như các quần thần ngày ngày đứng giữa triều đường Cao Tân rao giảng lễ nghĩa quy củ vậy, thoạt nhìn có vẻ đạo cao đức trọng, nhưng tương lai biết đâu chính họ lại là những kẻ đầu hàng Hoàng Đế trước tiên; còn những kẻ xem trọng tiểu tiết cũng chưa chắc không có đại nghĩa, tựa như những người dân thường trên phố vậy, ngày ngày đều tính toán chi li, so đo từng ly từng tí, vì chút lợi lộc mà chẳng nề trộm cắp đốt nhà, nhưng khi nguy nan ập đến, rất có thể bọn họ lại lấy thân báo quốc.

A Hành thấy Thiếu Hạo làm thinh, bèn nài nỉ: “Thiếp đã gủi thư cho phụ vương, khẩn cầu người lập tức phái binh cứu trợ Tứ ca, nhưng đường sá xa xôi, đi đi về về có nhanh đến mấy cũng phải mất một ngày đêm, chỉ có Cao Tân ở gần đó, lại có nhiều cao thủ thủy linh, nếu hiện tại lập tức xuất chinh thì chỉ một ngày là đến được Tuân sơn, phá vỡ trận pháp của Chúc Dung.”

Thiếu Hạo cúi đầu trầm tư, hồi lâu không đáp, nếu như hôm nay y cứu trợ Hiên Viên, ngày sau Hiên Viên tiến đánh Cao Tân, ai sẽ cứu Cao Tân đây?

Đoán được tâm tư Thiếu Hạo, An Dung cao giọng: “Cao Tân không thể xuất binh được!”

Quý Ly ôn hòa hơn, uyển chuyển lựa lời: “Đã biết là núi lửa bùng nổ, nếu Cao Tân phát binh, chẳng phải là đẩy tướng sĩ đi tìm chết sao?”

A Hành vội thuyết phục: “Trận pháp lớn như vậy, hiện giờ Chúc Dung không đủ nhân lực, lại nôn nóng hoàn thành thật nhanh nên chắc chắn sẽ có nhược điểm. Thủy khắc Hỏa, chỉ cần chúng ta lập tức tiến công, lấy ưu thế tương khắc mà đánh nhanh thắng nhanh, hẳn tỷ lệ tử thương rất thấp. Thiếp xin đi theo đại quân, đảm bảo sẽ là người đầu tiên tấn công, người cuối cùng rút lui.” A Hành nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, ngẩng đầu nhìn y, lấy sự sống chết của mình ra bảo đảm để Thiếu Hạo cho mượn binh.

Thiếu Hạo vẫn lặng thinh không nói, chỉ có An Dung lên tiếng: “Vương phi cũng biết đấy, Cao Tân không giống như Hiên Viên, Cao Tân đã lập quốc mấy vạn năm nay, pháp lệnh quy củ nghiêm ngặt, dẫu là quân vương cũng không thể tùy tiện phát binh. Vả lại, nếu các binh sĩ Thần tộc biết được họ bị đẩy tới chỗ núi lửa sắp phun trào, nhất định sẽ không chấp nhận, mà gia tộc của họ sau này cũng không thể kính phục bậc quân vương đùa bỡn với tính mạng con cháu họ.”

A Hành khẩn khoản nhìn Thiếu Hạo, nước mắt lã chã: “Thiếp biết quân đội Thần tộc của các nước đều rất đáng quý, chàng không thể vì lời thỉnh cầu của một người đàn bà mà mạo hiểm phát binh, huống hồ giữa hai ta lại chẳng hề có tình cảm, nhưng thiếp xin chàng, xin chàng nể giao tình giữa chàng và Đại ca thiếp, cho thiếp mượn một cánh quân đi, thiếp sẽ bảo đảm an toàn cho các binh sĩ Cao Tân?”

An Tấn giễu cợt: “Vương phi bảo đảm an toàn được cho họ ư? Vương phi chỉ là một người đàn bà, chưa từng ra trận, có hiểu chiến trường là thế nào không? Vương phi lấy gì để bảo đảm an toàn cho họ?”

Quý Ly lắc đầu thở dài, “Ngay cả những tướng quân trung thành với bệ hạ nhất trong đại điện này vương phi còn không thuyết phục được, huống gì tộc trưởng các tộc và các vị đại thần?”

Hai vị tướng quân khác cũng lắc đầu phản đối, đua nhau khuyên Thiếu Hạo không thể phái binh vào chỗ chết. An Tấn thấy mọi người tán đồng với mình, lại vàng to mồm phản đối, từng bước lấn át A Hành.

Nghĩ đến Tứ ca đang ngàn cân treo sợi tóc, bi ai và phẫn hận trào lên trong lòng A Hành, nàng đột ngột đứng phắt dậy, tuốt bội đao giắt nơi thắt lưng An Tân, vung đao chém xuống, An Tấn vội né người tránh đi, chỉ thấy máu bắn tóe lên, phun cả vào mặt hắn, ngón út bàn tay trái của A Hành đã biến mất, máu chảy xối xả, nàng đanh giọng hỏi An Tấn: “Ta có thể bảo đảm được chưa?”

An Tấn nào ngờ vị vương phi bề ngoài yếu đuối này lại quyết liệt đến nhường ấy, chỉ biết ngây ra nhìn A Hành. An Dung định mở miệng nói gì đó nhưng đã bị ánh mắt A Hành chấn nhiếp, không sao cất nổi nên lời. Quý Ly và hai vị tướng quân khác cũng sững sờ trước hành động của A Hành, lắp bắp mãi không ra tiếng.

Thiếu Hạo vội vã nắm lấy tay A Hành, toan cầm máu cho nàng nhưng A Hành đã đẩy tay y ra, quỳ sụp xuống, tha thiết vật nài: “Xin bệ hạ cho thiếp mượn một cánh quân thôi.”

Thiếu Hạo lòng đau như cắt, tái mặt đáp, “Nàng cần gì phải như vậy? Trước hết lo cầm máu đi đã.” Đâu phải y không muốn đáp ứng A Hành, nhưng y là vua một nước, hôm nay hứa một lời cũng chẳng mất mát gì, nhưng ngày sau mấy chục vạn bách tính vô tội của Cao Tân phải lấy tính mạng ra đền lại thì sao?

A Hành thấy y trù trừ không chịu đáp ứng, liền nôn nóng sẵng giọng chất vấn: “Khi trước ai từng nói ‘từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương’? Đại ca thiếp thà hy sinh tính mạng, cũng quyết không để kẻ khác làm thương tổn đến bọn thiếp.”

Thanh Dương… Thiếu Hạo run bắn, lồng ngực thoắt lạnh buốt, thoắt nóng rực, tưởng như nỗi đau đớn và tuyệt vọng khi Thanh Dương chết đi lại quay về. Hơn ai hết, y rất mong mình có thể đáp ứng A Hành, thậm chí y không dám mở miệng, chỉ e vừa cất lời sẽ đáp ứng nàng ngay. Y nắm chặt tay lại thành quyền, cố ngăn bản thân không kích động. Hôm nay không cứu trợ Hiên Viên, y cũng không còn mặt mũi nào gặp lại Thanh Dương nằm trong cỗ quan tài thủy tinh kia nữa, chỉ càng thêm căm ghét sự vong ân bội nghĩa của chính mình mà thôi; nhưng nếu cứu quân đội Hiên Viên, y chẳng những phụ chính mình, mà còn phụ Nặc Nại dấn thân vào hang hùm miệng cọp, thâm nhập doanh trại địch, phụ cả An Dung, An Tấn dốc hết nhiệt huyết phò tá y, phụ tất cả thần dân của y, khiến vô số bách tính Cao Tân phải lênh đênh khổ sở, sống không bằng chết.

Thấy Thiếu Hạo mím chặt môi, chẳng nói chẳng rằng. A Hành nước mắt đầm đìa, dập đầu lia lịa thành tiếng, “Chàng đã đáp ứng với Đại ca thiếp thế nào? Đó là Tứ ca Xương Ý của thiếp mà! Chàng đã chứng kiến Tứ ca sinh ra lớn lên, từ bé huynh ấy đã gọi chàng là ‘Thiếu Hạo ca ca’, coi chàng như đại ca mình, thuở nhỏ chàng còn ẵm huynh ấy đi chơi, chiêu kiếm đầu tiên huynh ấy biết cũng là do chàng dạy.”

Thiếu Hạo không hề nhúc nhích, nét mặt trơ trơ, thoạt nhìn có vẻ bình tĩnh, nhưng bàn tay giấu trong tay áo vì linh lực xáo động, máu tươi đã ứa ra theo kẽ móng tay, nhỏ tong tỏng xuống đất, vừa hay nhỏ đúng vũng máu của A Hành nên nhất thời không ai để ý.

A Hành dập đầu đến gần toạc cả trán mà Thiếu Hạo vẫn lạnh lùng đứng đó, cuối cùng nàng tuyệt vọng, bèn đứng dậy, đau đớn nói: “Thiếu Hạo, Đại ca ta nhất định không tha thứ cho ngươi đâu! Giao tình ngàn năm, từ nay cắt đứt!”

Dứt lời nàng quay ngoắt người chạy ra ngoài, huýt một tiếng lanh lảnh, nhảy lên lưng A Tệ, bay vút đi, chớp mắt đã biến mất.

Người Cao Tân tôn thờ màu trắng, nên đai điện lát toàn bạch ngọc, máu đỏ thắm nhỏ lên nền đá bạch ngọc, càng thêm chói mắt.

Thiếu Hạo thần người nhìn những giọt đỏ thẫm tí tách nhỏ xuống.

“Bệ hạ.” Quý Ly định mở miệng tấu trình.

“Ra ngoài cả đi!” Thiếu Hạo xua tay, giọng trầm thấp lạnh lùng, không chút biểu cảm.

Đám cận thần cung kính lui ra khỏi đại điện. Cách một thông đạo dài đằng đẵng, họ thấy giữa đại điện sáng sủa mà trống trải, đấng quân vương của họ vẫn đứng sững đó, không hề nhúc nhích.

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn vũng máu của A Hành đọng lại trên sàn.

Cứ ngỡ rằng, ngày dài tháng rộng, nước chảy đá mòn, rồi sẽ có một ngày y đợi được nàng ngoảnh lại, trông thấy một người vẫn luôn đứng bên nàng. Có lẽ đến lúc ấy nàng sẽ bằng lòng làm vợ y, thực sự làm vợ y, nhưng hết lần này sang lần khác, y đều tự tay đẩy nàng ra xa.

Máu nàng vương trên nền bạch ngọc, đỏ đến nhói lòng, tựa như muôn vàn cánh đào nở rộ.

Lòng y chợt động, sực nhớ ra trong thiên hạ này vẫn còn một kẻ vô câu vô thúc, phóng khoáng tự do, bất chấp tất cả!

Y lật đật rút ra một mảnh khăn lụa cũ, nhúng tay vào vũng máu A Hành trên sàn, bắt chước nét chữ của nàng, viết vội viết vàng một phong thư cầu cứu.

Viết xong, y lại do dự, thật sự phải gửi phong thư này đi ư? Một khi gửi đi rồi, có lẽ mọi ràng buộc giữa y và A Hành sẽ hoàn toàn đứt đoạn, một khi gửi đi rồi, chính là giúp cho A Hành và Xi Vưu nối lại duyên xưa.

Ánh mắt y lạnh ngắt như tro tàn, nhưng chỉ một khắc sau, y đã gọi Huyền điểu lại, nghiêm trang mà rành rọt ra lệnh: “Đưa phong thư này tới Trạch Châu, giao cho Xi Vưu.”

Sáng hôm sau, A Hành đến Tuân sơn, đang len lén lẻn vào trong núi thì một mũi tên xé gió bay vút đến.

Nàng vung tay, mũi tên liền bay ngược trở lại, lập tức một bóng người lao đến tấn công nàng, thanh chủy thủ loang loáng dưới nắng mai, phát ra hàn quang quen thuộc.

A Hành vội gọi: “Tứ tẩu, là muội đây.”

Xương Phó khựng lại, “Sao muội lại ở đây?” Nhác thấy tay áo A Hành rách toạc, khắp người đầy máu, nàng kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

“Đừng lo cho muội, muội có chuyện cần nói riêng với tẩu.”

Xương Phó cho đám binh sĩ theo mình đi tuần lui ra, bấy giờ A Hành mới hỏi: “Chúc Dung hẹn khi nào thì đầu hàng?”

“Chính là hôm nay, Xương Ý đã đi tiếp nhận đầu hàng rồi. Chúc Dung muốn phụ vương phong cho hắn chức quan cao hơn Hậu Thổ, đất phong cũng phải lớn hơn, phụ vương đều đáp ứng cả. Hắn còn đòi phụ vương đích thân tới đây tiếp nhận sự đầu hàng của hắn, nhưng phụ vương cự tuyệt, chỉ đáp ứng khi nào hắn tới Hiên Viên thành, sẽ cử hành nghi thức long trọng nhất để nghênh tiếp.”

Thấy A Hành tái mặt, Xương Phó hỏi: “Rốt cuộc có chuyện gì?”

“Chúc Dung không thật lòng quy hàng đâu, hắn vờ đầu hàng dụ quân ta tới để giết đó.”

Xương Phó cười đáp: “Việc này ta đã phòng hờ cả rồi, nên mới không đi cùng Xương Ý, một khi xảy ra biến cố, ta sẽ lập tức tiếp ứng ngay.”

A Hành buồn bã nói: “Chúc Dung đã bày bố trận pháp, điều động địa hỏa dưới lòng đất, định sẽ dẫn cho núi lửa bùng nổ, khiến tất cả cùng chết.”

Xương Phó kinh hoàng há hốc miệng, ngay sau đó, nàng quay phắt người định chạy đi nhưng bị A Hành giữ lại, “Tẩu đừng cuống lên, lỡ Chúc Dung phát hiện chúng ta đã biết, hắn sẽ lập tức phát động trận pháp đấy.”

Xương Phó vẫn run lên, “Dù có chết, ta cũng phải chết chung với Xương Ý.”

A Hành trấn an nàng, “Muội hiểu mà, tẩu đi tìm Tứ ca, bảo Tứ ca nói với Chúc Dung rằng, phụ vương đột ngột thay đổi chủ ý, quyết định sẽ đích thân tới tiếp nhận đầu hàng, tối nay là đến nơi.”

“Liệu hắn có tin không?”

“Căm hận làm mờ mắt! Phụ vương khiến Thần Nông quốc sụp đổ, Chúc Dung hận phụ vương hơn ai hết, căm hận sẽ khiến hắn mất đi sáng suốt, tẩu cứ cố gắng trì hoãn nhé, trì hoãn được lúc nào hay lúc nấy. Hôm qua muội đã gửi thư cho phụ vương rồi, cứ theo tốc độ của Liệt Dương thì đến nửa đêm là phụ vương nhận được, chắc hẳn giữa đêm hôm đã điều binh đi rồi, chỉ cần trì hoãn đến chập tối, quân cứu viện của Hiên Viên sẽ đến.”

Xương Phó không hổ là nữ kiệt nổi tiếng đại hoang, chỉ lát sau đã trấn tĩnh lại, khôi phục khí độ tộc trưởng, “Ta vốn đã bàn với Xương Ý, chàng dẫn một trăm tướng sĩ Thần tộc và năm ngàn chiến binh Nhược Thủy đi tiếp nhận đầu hàng, ta chỉ huy những người còn lại trấn giữ ở đây, một khi có biến, ta sẽ lập tức đem binh tiếp ứng. Hiện giờ, những người đi theo Xương Ý tuyệt đối không được manh động, bằng không Chúc Dung sẽ lập tức phát động trận thế. Chỉ cần cố gắng bảo toàn những chiến sĩ đóng ở đây, ta sẽ đi đến chỗ Xương Ý, ra sức trì hoãn Chúc Dung, đợi cứu viện của phụ vương đến, muội hãy dẫn tất cả binh sĩ ở đây rút lui ngay.”

Dứt lời Xương Phó giao binh phù cho A Hành, toan đi ngay, nhưng A Hành kéo nàng lại, chần chừ một thoáng rồi nói: “Thực ra vẫn còn một cách là tẩu và Tứ ca cưỡi Trùng Minh điểu đi ngay bây giờ, phái một chiến sĩ Thần tộc linh lực cao cường giả trang làm Tứ ca đánh lừa Chúc Dung, tuy không kéo dài được lâu, nhưng cũng đủ để hai người rời khỏi đây rồi.”

Xương Phó bình tĩnh đáp: “Nhưng năm ngàn chiến binh Nhược Thủy sẽ không thoát được, trước khi dắt bọn họ rời Nhược Thủy, ta đã kính rượu dập đầu trước Thần thụ Nhược Mộc, tổ tiên của Nhược Thủy tộc, nếu bọn họ không thể quay về, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào về nữa. Tứ ca muội cũng sẽ không vứt bỏ một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc mà bỏ chạy một mình đâu.” Xương Phó nắm chặt lấy tay A Hành, “Các tướng sĩ ở đây nhờ muội cả đấy.” Nói rồi, lập tức quay người bỏ đi.

A Hành vỗ đầu A Tệ, lẩm bẩm: “Ta biết mà, nhất định Tứ ca Tứ tẩu không chịu làm theo cách thứ hai đâu. Nếu ta bảo mày đi, chắc chắn mày cũng không chịu, ta cũng chẳng nên nhiều lời nữa nhỉ?”

A Tệ gục gặc đầu.

“Cũng tốt, dù sao Liệt Dương không ở đây, nếu chúng ta… Ít ra cũng còn Liệt Dương nuôi nấng Tiểu Yêu, có điều, không biết Liệt Dương sẽ dạy dỗ Tiểu Yêu thành ra thế nào.”

A Tệ khẽ dụi đầu vào tay A Hành, nét cười lấp lánh trong mắt. A Hành cũng phì cười, xoa xoa đầu A Tệ, nước mắt lăn dài, hạ giọng: “Cảm ơn mày.” Cùng sống cùng chết, không lìa không bỏ, nói thì dễ, nhưng chân chính thực hiện có được mấy ai? Tình nghĩa cả ngàn năm giữa Thanh Dương và Thiếu Hạo cuối cùng cũng không hơn được giang sơn xã tắc của Thiếu Hạo kia mà.

A Hành cầm binh phù bước vào doanh trại, cũng không nói rõ sự tình với tướng sĩ mà chỉ triệu tập hai viên tướng Nhược Thủy tộc, lệnh cho bọn họ lập tức dẫn binh âm thầm rút lui, hành quân thần tốc, giữa đường không được dừng lại nghỉ ngơi, kẻ nào dám trái lôi ra chém.

A Hành lại triệu tập một trăm thần tướng Hiên Viên tộc, lệnh cho bọn họ nhóm lửa thổi cơm khắp xung quanh, làm thật nhiều con rối, cho mặc quần áo như thật rồi dùng linh lực điều khiển chúng đi qua đi lại, tạo nên khung cảnh vui vẻ tưng bừng, người người mừng rỡ, đợi đến tối hẵng kết thúc.

Hơn một giờ sau, thấy mặt trời sắp lên đến đỉnh đầu, A Hành bí mật tập hợp một trăm tướng lĩnh Thần tộc lại. Nàng vốn không định nói sự thật với bọn họ, e họ kinh hoàng hoảng loạn, nhưng lại chẳng biết nên ra lệnh thế nào cho phải. Nhìn những gương mặt bừng bừng nhiệt huyết của họ, nghĩ tới việc họ cũng có cha mẹ người thân, nàng thực không muốn giấu diếm nữa.

“Sâu bên dưới lòng đất nơi chúng ta đang đứng đây đều là địa hỏa, chỉ cần chủ nhân phát động trận pháp, núi lửa lập tức bùng nổ, dải núi này sẽ bốc cháy phừng phừng, phun ra dung nham nóng bỏng làm tan chảy cả đá tảng, tọa kỵ của các người có nhanh đến đâu cũng không thoát nổi.”

Một trăm tướng sĩ Thần tộc biến sắc, ánh mắt lộ vẻ kinh hãi.

“Sáng nay ta đã nói với Xương Phó, bảo Tứ tẩu đi trước, nhưng Tứ tẩu nói dù mình giữ được mạng cũng không còn mặt mũi nào trông thấy cha mẹ người thân của các chiến binh Nhược Thủy nên quyết định ở lại, giúp Tứ ca ta trì hoãn Chúc Dung. Tuy ta nắm giữ binh phù, nhưng ta thấy mình không có quyền bắt các ngươi xông vào chỗ chết, nếu các ngươi muốn đi thì đi ngay bây giờ đi.”

Mọi người lặng yên không đáp, nhưng vẻ mặt lại dần kiên định hẳn lên.

Một thiếu niên mặt mày sáng sủa lên tiếng: “Vương cơ, lẽ nào người quên rằng Hiên Viên tộc nổi danh dũng mãnh thiện chiến ư? Chúng tôi đều là tinh nhuệ do Hoàng Đế đích thân tuyển lựa, còn năm ngàn một trăm huynh đệ ở lại đây, nếu chúng tôi bỏ chạy một mình, đừng nói sẽ không thoát được hình phạt của Hoàng Đế, mà còn trở thành nỗi ô nhục của gia tộc. Người cứ việc ra lệnh đi!”

A Hành chăm chú nhìn những nam nhi này, lần đầu tiên cảm nhận được trong cơ thể mình và bọn họ đều có chung huyết mạch Hiên Viên, vì cùng chung huyết mạch nên có thể chia ngọt sẻ bùi, cùng vào sinh ra tử. Nàng cố nén cảm xúc đang trào lên, cất tiếng: “Trận pháp lớn thế này, không thể chỉ dựa vào linh lực một mình Chúc Dung, nhất định có những người khác đang giúp đỡ hắn, nhiệm vụ của các người là tìm cho được bọn chúng rồi tiêu diệt! Tuy trận pháp đã hình thành, làm thế này không thể phá giải được, nhưng cũng giảm thiểu được phần nào uy lực của nó, giúp thêm nhiều binh sĩ có thể rút lui an toàn.”

Đoạn nàng quay sang hỏi kẻ vừa lên tiếng: “Ngươi tên gì?”

“Mạt tướng Nhạc Uyên.”

“Nhạc Uyên, ta không rành điều binh khiển tướng, ngươi lại đây định đoạt xem nên thực hiện thế nào cho hiệu quả.”

“Vì không biết những người kia ẩn nấp ở đâu, nên chỉ có thể dốc sức lùng tìm trên diện rộng thôi, hai người hợp thành một tổ, chia ra mà hành động!”

“Được, cứ vậy đi!”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 13: Thề đem máu biếc đền nợ nước (2)

Một trăm tướng sĩ nhất loạt quỳ xuống nhận lệnh. Nhạc Uyên xé một mảnh chiến bào, vội vàng lấy máu viết mấy dòng lên đó đưa cho A Hành, “Nếu tôi không thoát được, phiền vương cơ nghĩ cách giao thứ này cho cha tôi.” Những người khác thấy vậy cũng tới tấp noi theo. Chẳng ai nói với ai một lời, tất cả chìm trong không khí trầm mặc mà hào hùng, coi chết như về.

A Hành nuốt lệ, cởi áo khoác ra, gói tất cả những bức huyết thư đó lại, cột lên lưng A Tệ, “Đây là áo làm từ tơ băng tằm do mẫu hậu ta dệt thành, nước lửa không thiêu hủy được, hiện giờ ta phải tới gặp Tứ ca, giúp huynh ấy lần lữa với Chúc Dung, đợi cứu binh tới. Ta cũng không rõ mình có thoát được hay không, nhưng ta bảo đảm, những bức thư này nhất định sẽ đến tay người nhà các ngươi.”

Các tướng sĩ chia ra hai người thành một tổ, tản đi bốn phương tám hướng, khuất dạng giữa rừng cây. Bấy giờ, A Hành mới ngoảnh mặt về phía bọn họ khuất bóng, quỳ xuống, lặng lẽ dập đầu ba cái.

Những nam nhi kiêu dũng ấy là con dân Hiên Viên! Chưa bao giờ nàng kiêu hãnh vì mình là vương cơ Hiên Viên đến thế!

A Hành vơ lấy một bộ khôi giáp của binh sĩ mặc vào, đoạn quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi gặp Chúc Dung.”

A Tệ đập cánh bay vút lên, cõng nàng đến nơi Chúc Dung ước định đầu hàng.

Đỉnh núi ba bề cao chót vót, chính giữa là một khe sâu, có dòng suối uốn mình chảy qua, nếu núi lửa phun trào, dung nham chẳng mấy chốc sẽ đổ xuống đây.

A Hành bảo A Tệ: “Ta nhờ mày một việc nhé, mau bay đi đem gói thư này đến một nơi an toàn.”

Thấy A Tệ rưng rưng nước mắt, A Hành xoa đầu nó dỗ dành: “Ta biết mày không muốn, nhưng mày nhất định phải thay ta hoàn thành việc này, ta đã hứa với bọn họ rồi.”

A Tệ lưu luyến liếm tay A Hành rồi bay thẳng về hướng Tây. A Hành nhìn theo bóng A Tệ, khẽ mỉm cười, A Tệ, đồ ngốc ạ, nếu chỉ còn lại một mình, hẳn Liệt Dương sẽ cô đơn lắm, mày phải bầu bạn cùng nó nhé!

Thấy Xương Ý và Xương Phó đang ngồi trên phiến đá chơi cờ vẻ nhàn nhã, A Hành liền tiến lại: “Tứ ca, Tứ tẩu.”

Xương Phó kinh ngạc trừng mắt nhìn nàng, còn Xương Ý giận dữ hỏi: “Chẳng phải Xương Phó bảo muội dẫn quân rút lui ư?”

“Bọn họ đều là chiến sĩ đã được huấn luyện, một khi nhận được mệnh lệnh sẽ lập tức chấp hành, cần gì muội chỉ tay năm ngón.”

Xương Ý cương quyết: “Muội đi ngay cho ta.”

A Hành ngồi xuống bên Xương Ý, đặt tay phải lên đầu gối y, “Tứ ca, nếu đổi lại là huynh, huynh có đi không? Huynh đừng ép muội! Huynh có thể đuổi muội, nhưng muội sẽ quay lại, cùng lắm thì trốn đi không để huynh thấy là được chứ gì.”

Xương Ý chăm chăm nhìn A Hành hồi lâu, rồi giơ tay xoa đầu nàng, không nói gì thêm nữa.

A Hành đứng dậy nhìn sang sườn núi bên kia, chỉ thấy thấp thoáng sau bóng cây, một dàn những lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm rực rỡ tung bay trong gió, từng đội quân xếp hàng ngay ngắn đứng dưới cờ, khôi giáp lấp loáng, giáo gươm chói lọi khiến người ta chẳng dám nhìn thẳng.

Xương Ý lên tiếng: “Hôm nay vừa thấy bọn chúng ta đã biết là không ổn, đâu ra chuyện hàng binh lại hừng hực khi thế như vậy chứ? Ta cứ ngỡ rằng chúng chỉ trá hàng, nên đã cùng Xương Phó chuẩn bị sẵn cách đối phó, nào ngờ thông minh lại bị thông minh làm hại.”

Đột nhiên, một giọng sang sảng vang lên trong sơn cốc, Chúc Dung đứng trên đầu núi hỏi vọng vào: “Rốt cuộc Hoàng Đế có đến không hả?”

Xương Ý đáp: “Đại tướng quân nói vậy là có ý gì?”

Chúc Dung lạnh lùng: “Chẳng có ý gì cả, Hoàng Đế xưa nay quỷ kế đa đoan, ta chỉ muốn hỏi cho rõ ràng thôi.”

Xương Ý đáp: “Nếu đại tướng quân không muốn đợi thì chúng ta cứ tiếp nhận đầu hàng trước, khi nào phụ vương tới, ta sẽ thỉnh tội sau vậy.”

Im lặng.

Một lúc sau, Chúc Dung lên tiếng: “Đợi thêm lát nữa đi!”

Bấy giờ, trái tim đã thót lên đến cổ họng của Xương Phó và A Hành mới từ từ trôi trở xuống. Xương Phó kể với A Hành: “Chúc Dung đa nghi, cứ chốc chốc lại lên tiếng nói chuyện với Xương Ý để chắc chắn rằng chàng vẫn ở đây, hơn nữa hắn còn vận linh lực nói chuyện, buộc chàng cũng phải vận linh lực trả lời, nếu cho người khác giả mạo, hắn sẽ phát hiện ra ngay.”

A Hành đáp: “ Hắn không chỉ thăm dò đâu, mà dường như đợi mãi sốt ruột rồi, e rằng hắn cũng đang phân vân. Một mặt hắn không tin lời chúng ta, ngỡ ràng chúng ta đã phát hiện ra quỷ kế của hắn nên cố ý lần lữa, mặt khác hắn lại thầm hy vọng phụ vương sẽ đến, để kéo Người chết chung, rửa nhục cho Thần Nông quốc.”

Xương Ý nhìn quanh bảo A Hành: “Tiếc rằng cây ngọc tiêu lại để trong doanh trại, không mang theo người, muội đi chặt dùm ta một đoạn trúc.”

A Hành vội vào rừng chọn lấy một cây trúc, Xương Phó đưa chủy thủ tùy thân cho Xương Ý, chẳng mấy chốc, y đã vót được một cây trúc tiêu, cười nói: “Tuy không dám bì với Ngự Âm thuật của Yến Long, nhưng tiếng tiêu cũng là tiếng lòng, hy vọng có thể khiến Chúc Dung bớt nôn nóng.”

Nói rồi, y đặt trúc tiêu lên môi bắt đầu thổi, tiếng tiêu dìu dặt uyển chuyển, trong trẻo êm ái, như từng trận gió xuân thổi qua mặt đất khiến A Hành thấy lòng bình lặng hẳn. Nàng chợt sinh lòng kính phục Tứ ca, tiếng lòng không thể nào giả dối được, Tứ ca nàng thật sự tâm bình khí hòa, không lo không sợ nên mới cất lên được tiếng tiêu như vậy. Thường nghe nói tới lúc nguy nan mới biết được chí khí con người, khí độ này của Tứ ca thật khó ai bì kịp.

Chúc Dung mang dòng dõi vương tộc, chắc chắn từng học qua lễ nhạc, biết tiếng tiêu là tiếng lòng, tự nhiên nghe tiếng tiêu cũng hiểu được lòng kẻ thổi tiêu, nghi ngờ tiêu tan hết cả.

Xương Ý ngồi trên phiến đá chuyên chú thổi tiêu, Xương Phó ngồi bó gối lặng lẽ nghe, mắt không rời Xương Ý, ánh mắt miên man tình ý.

A Hành ngồi tựa vào gốc cây, ngước nhìn tán lá xanh um trên đầu, thần tình hoảng hốt, lúc thấy Xi Vưu, lúc lại thấy Tiểu Yêu hiện lên trước mắt.

Khúc nhạc đã dứt, núi rừng lại chìm vào tĩnh lặng, mọi người đều lặng thinh chờ đợi, có lẽ vì chờ đợi chính là tử vong, nên trước sự nặng nề của sinh mệnh, cả đỉnh núi cũng lặng ngắt như tờ, sơn cốc im phắc như chết, không một tiếng chim chóc.

Khi mọi người đợi đến phát bực, Xương Ý lại tấu lên một khúc, tiếng tiêu như mưa phùn lất phất, xoa dịu những trái tim đang nôn nóng.

Vầng dương dần ngả về Tây, cứu binh Hiên Viên vẫn chưa thấy đâu.

Xương Phó không nhịn được, hỏi A Hành: “Liệt Dương có tin được không?”

A Hành cũng hoang mang hoảng hốt, tính thời gian, đáng lẽ cứu binh phải đến từ lâu rồi mới phải. Chẳng đợi A Hành đáp, Xương Phó lại cuống quýt hỏi: “Lẽ nào phụ vương không chịu phát binh? Muội có nói với phụ vương là việc rất khẩn cấp không?”

“Xương Phó!” Xương Ý nắm tay Xương Phó, dịu dàng nhìn nàng. Xương phó chợt thấy lòng bình lặng hẳn, bao sợ hãi kinh hoảng đều tiêu tan cả, nàng quay sang nói với A Hành: “Xin lỗi, tiểu muội.”

“Thằng nhãi Xương Ý dám lừa ta!” Rốt cuộc Chúc Dung cũng nhận ra Hoàng Đế sẽ không đến, nổi giận gầm vang cả núi rừng, “Ngươi tưởng kéo dài thời gian thì có thể phá được trận pháp của ta ư? Đừng hòng! Tất cả các ngươi sẽ phải bỏ mạng ở đây! Cả ngọn núi này sẽ biến thành núi lửa, không một kẻ nào thoát được đâu!”

Đám binh sĩ kinh hoàng hoảng hốt, cả đội hình tức thì rối loạn.

Xương Ý đưa mắt nhìn Xương Phó, thấy nàng gật đầu kiên nghị, y siết chặt tay nàng lần nữa, đoạn buông ra, rút phắt trường kiếm, bước đến trước hàng quân, lướt mắt nhìn tất cả mọi người. Trước ánh mắt điềm tĩnh bình thản của y, các binh sĩ dần dần bình tĩnh lại. Một binh sĩ Thần tộc cao giọng hỏi: “Vương tử, núi lửa sẽ bùng nổ thật sao? Chúng tôi đều phải chết à?”

Tất cả binh lính đều yên lặng đổ dồn mắt về phía Xương Ý, khát vọng cầu sinh ánh lên trong mắt. Xương Ý điềm đạm đáp: “Ta không thể cho các ngươi bất cứ hy vọng gì, điều duy nhất ta có thể hứa là, ta nhất định sẽ đứng chắn phía trước tất cả các ngươi.”

Nghe vậy, các binh sĩ đều lặng đi rồi lẳng lặng ai về chỗ nấy, lòng dũng cảm dần dần át đi nỗi sợ bản năng. Chính vì có lý trí nên con người ta mới là người, là linh khí của vạn vật.

Chúc Dung đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, dưới chân là đầu lâu của mấy kẻ vừa bị hắn chém bay đầu.

Vì sợ tiết lộ tin tức ra ngoài nên Chúc Dung chỉ nói với tướng sĩ là trá hàng. Vừa rồi, nghe hắn nói núi lửa sẽ bùng nổ, tướng sĩ Hiên Viên tộc kinh hãi đã đành, tướng sĩ Thần Nông tộc cũng hốt hoảng chẳng kém. Vài ba kẻ kinh hoàng toan bỏ chạy liền bị Chúc Dung chém bay đầu, hắn giẫm lên đầu những người đó, hỏi đám binh sĩ còn lại: “Các ngươi muốn chết trong vinh quang hay muốn làm đào binh chết dưới tay ta?”

Hết thảy binh sĩ đều trợn tròn mắt nhìn Chúc Dung, thế này là lựa chọn kiểu gì đây? Chọn thế nào cũng chết cả!

Chúc Dung rống lên: “Đừng hận ta, không phải ta không cho các ngươi cơ hội sống, mà là chúng!” Hỏa đao của hắn chỉ thẳng về phía quân Hiên Viên, “Bọn chúng đã giết người thân của chúng ta, hủy diệt gia viên của chúng ta, triệt đường sống của chúng ta! Lẽ nào các ngươi quên rồi sao?”

“A…” Bị nỗi kinh hoàng dồn đến chân tường, đám binh sĩ Thần Nông tộc tựa hồ đã biến thành một bầy quái vậy khát máu, hú lên thê thiết.

Nước đã mất, nhà đã tan, giờ chỉ còn một cái mạng này thôi! Bất kể là máu của bản thân hay của kẻ địch, chỉ có máu tươi mới có thể xoa dịu được cơn phẫn nộ đang cuộn lên trong lồng ngực.

Chúc Dung đạp lên mấy chiếc đầu lâu, nhìn đám binh sĩ dưới trướng, ngửa mặt cười ha hả.

Một chiếc bóng đỏ rực xẹt ngang trời như ánh chớp, thoắt cái đã đến trước mặt.

Xi Vưu đứng trên lưng đại bàng, ngạo nghễ giữa tầng không.

A Hành tròn mắt nhìn lên trời, như không dám tin, nàng còn tưởng mình vừa bị ảo giác.

Chúc Dung lập tức cưỡi Tất Phương điểu bay tới, “Ta không cần ngươi giúp, đến từ đâu thì cút về chỗ đó đi!”

Xi Vưu cười, “Đừng nóng, ta có đến giúp ngươi đâu!”

Chúc Dung đanh mặt lại, giận dữ hỏi: “Lẽ nào ngươi định giúp Hiên Viên?”

Xi Vưu ôm quyền đáp: “Chính thế.”

Cả Thần Nông lẫn Hiên Viên đều kinh hoàng.

“Ngươi…” Chúc Dung giận đến run bắn người lên, “Ta sớm đã biết ngươi là đồ cầm thú mà! Chỉ không ngờ ngươi còn chẳng bằng cầm thú nữa, ngươi có khác gì mấy tên phản bội kia, rặt một phường hèn nhát!”

Xi Vưu đáp: “Hẳn ngươi cũng biết đám thuộc hạ của ta đều là đồ điên giống ta cả, bọn chúng chỉ thừa nhận ta, chứ không thừa nhận Thần Nông quốc, nếu ta phản bội, chúng cũng sẽ phản bội theo. Có sự hỗ trợ của chúng, lại thêm hiểu biết của ta về sơn thế địa khí, ngươi thử nghĩ xem mình còn cơ hội phát động trận pháp không?”

Nghe câu này, Chúc Dung cứng họng, Xi Vưu bẩm sinh đã rất mẫn cảm đối với địa khí, có hắn ở dây, e rằng không cách nào phát động trận pháp được, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?”

Xi Vưu thu lại nụ cười, dõng dạc nói với binh sĩ Thần Nông tộc: “Ta và Du Võng đã thề, chỉ cần y không thất tín, ta sẽ vĩnh viễn không phản bội y, đương nhiên cũng phản bội lại con dân của y. Nhưng ta cũng là một người đàn ông, ta từng thề với một cô gái Hiên Viên tộc rằng, bất kể nguy hiểm gian khó tới đâu, ta cũng sẽ bảo vệ cho nàng.” Nói rồi hắn trỏ về phía A Hành, tất cả binh sĩ trên núi dưới núi đều đổ dồn mắt về phía nàng, bấy giờ mới phát hiện kẻ mặc khôi giáp ấy là một nữ tử.

“Ta không thể thất tín với nàng, nên hôm nay ta đến đây để đồng sinh cộng tử với nàng, các người đều là những hán tử dũng cảm nhất Thần Nông tộc, nếu các ngươi nghĩ tới người con gái của mình, hẳn có thể hiểu được lời thề của một người đàn ông với người con gái mà hắn yêu thương nhất mực.”

Nói rồi Xi Vưu đặt tay lên ngực, hành lễ với đám binh sĩ Thần Nông. Mọi người đều im lặng, bầu không khí nặng nề như một trái núi, đè lên trái tim tất cả.

Chúc Dung hừ lạnh: “Một người không thể chia làm hai nửa, ta thật không hiểu ngươi làm thế nào để vửa trung với Thần Nông, vừa trung với Hiên Viên đây!”

Xi Vưu xòe tay ra, chỉ thấy trong lòng bàn tay hắn là chín cây đinh dài màu tím, “Chắc ngươi biết đây là gì chứ hả?”

Chúc Dung biến sắc, “Cửu Tinh Tỏa Linh đinh.” Vật này do Viêm hậu đời thứ ba triệu tập thợ giỏi khắp thiên hạ rèn ra, vì Viêm Đế mắc phải bệnh lạ, linh lực rối loạn, thân thể co quắp, Viêm Hậu tinh thông y thuật, muốn hóa giải đau đớn cho Viêm Đế bèn chế ra Cửu Tinh Tỏa Linh đinh, ghim những cây đinh này vào huyệt vị, có thể phong tỏa linh khí vận hành. Nhưng những cây đinh này luyện thành từ những vị thuốc có tác dụng phá hoại thần lực cực mạnh, khi ghim vào cơ thể sẽ đau đớn như bị ngàn vạn con kiếm cắn xé, khó mà chịu nổi, nghe nói Viêm Đế đời thứ ba mới bị ghim bốn cây đinh vào người đã không sao chịu nổi, thà để cho linh khí giày vò mỗi ngày, còn hơn là ghim thêm đinh vào cơ thể.

Xi Vưu đặt một cây đinh nhắm chuẩn huyệt Thiên Đột trên yết hầu, dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể, sắc mặt hắn cũng lập tức trắng bệch ra.

Tiếp đến là huyệt Trung Đình ngay giữa ngực, hắn lại dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể.

Huyệt Thần Khuyết, huyệt Hoàn Khiêu, Tất Dương quan…

Xi Vưu đau đến vã mồ hôi lạnh, sắc mặt thoắt sạm thoắt tái, khiến rất nhiều người không đành lòng nhìn nữa, chỉ mình Chúc Dung vẫn chăm chú quan sát, không hề chớp mắt.

Sau cùng, Xi Vưu đau đến không đứng nổi nữa, phải quỵ một chân xuống, nhưng vẫn gắng gượng ghim nốt cây đinh cuối cùng vào huyệt Kim Môn dưới gan bàn chân, đoạn cười nhìn Chúc Dung: “Một nửa thuộc về Thần Nông, nửa kia thuộc về ta.”

Chúc Dung đáp: “Ta không nương tay đâu, nếu còn gặp lại, ta sẽ nhắm vào nửa người không có linh lực của ngươi.”

Xi Vưu ôm quyền đáp: “Hiện giờ ta không phải Xi Vưu của Thần Nông tộc mà chỉ là một gã đàn ông đang bảo vệ người con gái mình yêu, ta cũng sẽ không nương tay với ngươi đâu.”

“Chỉ dựa vào nửa phần linh lực, nửa bên người của ngươi ấy à? Đồ điên!” Chúc Dung khinh khỉnh hừ mũi, quay người bỏ đi.

Xương Ý nhìn Xi Vưu đang tái nhợt vì đau, thần sắc phức tạp. Xương Phó hạ giọng thì thào: “Chắc hẳn giờ chàng đã hiểu vì sao tiểu muội không quên nổi hắn rồi chứ?”

Xương Ý quyến luyến nhìn Xương Phó, chẳng giữ vẻ điềm đạm ôn nhã khi trước nữa, ánh mắt chỉ còn tình ý miên man không gì ngăn nổi. Xương Phó nhoẻn cười với phu quân, dịu giọng: “Chàng đi đi!” Xương Ý cũng mỉm cười, nhảy lên tọa kỵ Trùng Minh điểu, dẫn một trăm tinh nhuệ Thần tộc từ trên không lao xuống tấn công Chúc Dung, Xương Phó suất lĩnh binh sĩ Nhược Thủy tộc từ chân núi đánh thốc lên.

Tiếng hô “giết” vang động cả sơn cốc.

Xi Vưu đáp xuống bên cạnh A Hành, thấy nàng một mực cúi gằm mặt, gọi mấy tiếng cũng chẳng thưa, bèn cười hỏi: “Ây, ta liều chết chạy đến đây, tốt xấu gì nàng cũng phải tỏ thái độ chứ.”

A Hành không đáp, chỉ lao vụt đi.

Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo không rời, vừa đuổi theo vừa hỏi: “Rốt cuộc nàng muốn thế nào? Đầu ta không thể chia làm hai được, đành nhất nhất nghe theo nàng thôi.”

A Hành cúi đầu đáp: “Đi tìm Chúc Dung.”

Xi Vưu nửa bế nửa ném A Hành lên lưng Tiêu Dao, bấy giờ mới phát hiện gương mặt nàng đầm đìa nước mắt, hắn chợt nghe lòng xao động, bèn vòng tay ôm chặt lấy nàng, khẽ hôn lên má: “Nàng khóc vì ta đấy ư? Thế này thì dẫu phải chết cũng đáng lắm.”

A Hành không nói nên lời, chỉ siết chặt tay Xi Vưu. Vừa nãy chứng kiến Xi Vưu bất chấp bị mọi người khinh bỉ, thản nhiên thừa nhận bản thân là tướng quân Thần Nông tộc lại đem lòng yêu thương một cô gái Hiên Viên tộc, còn vì lời thề với nàng mà cắm từng từng cây đinh vào cơ thể, nàng chợt nhận ra, bất luận kẻ trước mặt đây đã giết hại bao nhiêu tộc nhân của nàng, bất luận phải gánh chịu bao nhiêu gian nan đau khổ vì hắn, cũng có hề gì, thậm chí nếu phải chết ngay lúc này đây, nàng cũng chẳng còn gì hối tiếc.

Tiêu Dao bay rất nhanh, chỉ mấy cái chớp mắt đã đến được ngọn núi chính trong dãy Tuân sơn.

A hành đang lo không biết Chúc Dung nấp ở đâu, chợt trông thấy từng chuỗi bong bong do máu tươi hóa thành, từ trong rừng bốc lên.

“Bên kia kìa!”

Tiêu Dao đáp xuống, thấy trên mặt đất có năm thi thể binh sĩ Hiên Viên. Một tên tùy tùng của Chúc Dung vừa chém bay đầu một chiến sĩ Hiên Viên, còn đương kinh ngạc không hiểu sao linh lực kẻ này lại yếu đến vậy, chợt phát hiện ra hắn đã lợi dụng cái chết để biến linh huyết của mình thành tín hiệu.

A Hành liếc nhìn chiếc đầu lâu đó, liền nhận ra Nhạc Uyên, hắn đã dùng cái chết của mình để chỉ điểm cho nàng phương hướng của Chúc Dung, nàng vội quay sang bảo Xi Vưu: “Giúp ta chặn đám binh sĩ Thần Nông kia lại.” Dứt lời nàng vội bổ theo hướng Nhạc Uyên chỉ, đi tìm Chúc Dung.

Sau lưng bắt đầu vang lên tiếng vật lộn giao đấu nhưng A Hành chẳng dám ngoảnh lại nhìn, cứ lao thẳng tới trước. Ngay từ đầu, Chúc Dung hẳn đã dặn kỹ thuộc hạ cách để đối phó Xi Vưu – tập trung tấn công vào nửa bên người không có linh lực.

Xi Vưu chỉ còn lại nửa phần linh lực làm sao địch nổi bấy nhiêu cao thủ Thần tộc, A Hành không biết, cũng chẳng dám nghĩ nhiều, nàng chỉ biết cắm đầu chạy thẳng một mạch, sớm tìm được Chúc Dung chừng nào, hy vọng sống của bọn Tứ ca sẽ lớn thêm chừng ấy.

Cuối cùng, A Hành cũng tìm thấy Chúc Dung trên sườn núi quay về phía mặt trời. Hắn đang hướng về phía Thần Nông sơn, dập đầu bái lạy, đây chính là lễ tiết chính thức của Thần Nông vương tộc, lần trước nàng từng trông thấy lễ tiết này trên Tiểu Nguyệt đỉnh, lúc Viêm Đế lâm bệnh nặng, bên đống lửa, Du Võng cũng hành lễ với Viêm Đế như vậy. Nhớ lại chuyện đó, A Hành chợt thấy long chua xót, dừng sững lại.

Chúc Dung khấu bái xong bèn đứng dậy, hướng về phía Thần Nông sơn nói: “Đời này ta chỉ làm sai duy nhất một việc, là đã để Hoàng Đế lợi dụng sự căm hận của ta đối với Xi Vưu, nghe lời lão ta xúi giục mà kích động Du Võng thân chinh. Ta muốn làm Viêm Đế, muốn giết chết Xi Vưu, nhưng trước giờ, ta chưa từng nghĩ sẽ phản bội Thần Nông tộc!”

A Hành thầm nhủ, chẳng trách Chúc Dung hận Hoàng Đế đến vậy, thì ra Hoàng Đế đã lừa gạt lợi dụng hắn, thông qua đó giết hại Du Võng.

Nói đoạn, Chúc Dung ngoảnh lại nhìn A Hành: “Hạng tiểu nhân đê tiện như Hoàng Đế, làm sao hiểu được mối liên hệ huyết mạch trong gia tộc? Đó là cội rễ từ ngàn đời nay, vậy mà lão lại định dùng quan tước mua chuộc cội rễ duy nhất của ta. Ta những muốn thiêu cháy lão thành tro bụi, để cho lão biết, trong thiên hạ không phải cái gì cũng có thể mua chuộc được! Nể tình ngươi vừa nãy không đánh lén ta, cũng không quấy rầy ta hành lễ, ta tha mạng cho ngươi đấy, ngươi mau chạy đi!”

Thấy A Hành ngơ ngác, Chúc Dung cười, “Ta chính là trận pháp! Dù hiện giờ ngươi giết ta, cũng không thể ngăn ta phát động trận pháp!” Thì ra Chúc Dung lấy thân thể mình làm trận nhãn, bất kể hắn sống hay chết, cũng không thể ngăn trận pháp phát động.

Chúc Dung thúc đẩy linh lực, ngọn lửa ngũ sắc thêu trên chiến bào lập tức biến thành lửa thật, bừng bừng bốc cháy dưới chân hắn. Cả người hắn dần đỏ hồng lên, rọi sáng rực cả nửa bầu trời, không ngờ hắn đã điểm U Minh hỏa vào trong cơ thể, ngọn lửa càng cháy càng bốc cao, thấy rõ đến từng chiếc xương của hắn.

A Hành thấy đất dưới chân rung lên, vội loạng choạng lùi lại, kinh hoàng nhìn Chúc Dung. Nàng từng bị U Minh hỏa thiêu đốt nên rất hiểu cảm giác đau đớn đến tận xương tủy ấy, vậy mà Chúc Dung vẫn bất chấp lửa đỏ thiêu đốt, chẳng ngại trả giá đắt, hủy diệt cả linh thể và nhục thể để bố trí tử cục này.

Chúc Dung đứng giữa ngọn lửa ngũ sắc phừng phừng, dang hai tay cười lớn, “Cháy đi, cháy lên đi! Liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc, đây là tế phẩm cuối cùng ta dâng lên các người!”

A Hành sực tỉnh, vội quay người lao thẳng xuống núi, đồng thời Xi Vưu cũng đang xông lên núi. Lúc này, cả hai đều có chung một ý nghĩ, dù có chết cũng phải chết bên nhau.

Trên một đỉnh núi cách đó khá xa, Xương Ý và Xương Phó đang ở giữa chiến trường cũng cảm thấy đất dưới chân chấn động mạnh, nhìn ngọn lửa ngút trời bốc lên từ đỉnh núi chính trong dãy Tuân sơn, mọi người đều biết đã không còn đường thoát, trước kiếp nạn khủng khiếp ập tới, tất cả đều mất hết ý chí chiến đấu, binh khí lần lượt rời tay rơi xuống đất.

Xương Ý cưỡi Trùng Minh điểu chấp chới bay về phía Xương Phó, Xương Phó cũng loạng choạng chạy về phía y. Trong khoảnh khắc cuối cùng của sinh mạng, họ chỉ muốn được ở bên nhau.

Khí nóng bốc lên cuồn cuộn, mặt đất rung lắc dữ dội, cây cối gãy đổ, đất đá nứt vỡ, Trùng Minh điểu mỗi lúc một thêm kinh hãi, không chịu tuân theo Xương Ý điều khiển nữa. Xương Ý sốt ruột bèn bỏ luôn tọa kỵ nhảy xuống chạy bộ, vừa né tránh những khối đá rào rào rơi xuống, vừa băng qua mặt đất đang không ngừng nứt toạc ra, chạy về phía Xương Phó.

Chỉ một đoạn đường ngắn ngủi, vậy mà lúc này cơ hồ không cách nào vượt qua được.

Chợt mấy tiếng nổ rung trời chuyển đất vang lên, cả bầu trời chuyển thành màu đỏ tía, núi lửa bắt đầu phun trào, khói đen dày đặc cuộn lên như những con rồng khổng lồ, mặt đất biến thành lò lửa, dung nham đỏ rực ào ào trút xuống như nước lũ.

Giữa cảnh khói bụi cuồn cuộn, ánh lửa ngút trời, nghiêng trời lệch đất, cuối cùng Xương Ý và Xương Phó cũng quờ quạng siết chặt được tay đối phương.

Xương Phó nhoẻn cười hạnh phúc, ôm lấy Xương Ý, tựa vào lòng y.

Hai người ngoảnh đầu nhìn khói lửa ngút trời, dung nham tràn ngập khắp nơi, ánh lửa đỏ hồng, ánh sáng tím biếc, dung nham đỏ sẫm, cả đất trời bỗng trở nên tươi đẹp vô cùng.

“Trước khi lìa trần, được chiêm ngưỡng cảnh này, coi như cũng không uổng một đời.” Xương Ý ôm lấy thê tử, mỉm cười ngắm quang cảnh xung quanh.

Xương Phó vừa cười vừa trỏ dòng dung nham: “Chàng xem, bên kia có một con suối dung nham đỏ rực kìa!” “Nhìn kìa, mấy đám mây lớn kia đẹp quá, chàng bảo có giống đỗ quyên nở trên núi không?”

Trong khoảnh khắc này, có thể tực kề bên nhau, sống chết đối với họ đã chẳng còn gì quan trọng nữa.

Một thoáng sau, văng vẳng nghe thấy có âm thanh truyền lại.

Xương Ý giỏi âm luật nên rất mẫn cảm với âm thanh, y ngoảnh lại nhìn về phía thanh âm truyền đến rồi cúi đầu nhìn thê tử.

Xương Phó ngẩng đầu nhìn y: “Sao thế?”

Xương Ý cười: “Chẳng phải nàng vẫn trách ta không dám hôn nàng trước mặt mọi người ư?”

“Hở?”

Xương Ý cúi đầu hôn lên môi Xương Phó nồng nàn đắm đuối, mãnh liệt triền miên, Xương Phó bị hôn đến nỗi tim đập chân run, hai má đỏ hồng, thần trí choáng váng, đứng còn không vững, lòng ngập tràn hạnh phúc.

Xương Ý dịu giọng dặn dò: “Nàng gắng nuôi nấng Chuyên Húc, nhắn lại với tiểu muội, ta không trách Xi Vưu giết chết Đại ca nữa đâu.”

Xương Phó còn chưa kịp phản ứng, chợt thấy gáy đau buốt lên, trước mắt tối sầm, mất hết ý thức, ngất lịm trong lòng Xương Ý.

Xương Ý rút cây trúc tiêu giắt thắt lưng ra, vận linh lực thổi mấy tiếng.

A Tệ đang kêu lanh lảnh, sục sạo khắp nơi tìm A Hành, nghe tiếng tiêu lập tức bay đến. Xương Ý đặt Xương Phó lên lưng A Tệ, cởi áo ngoài, cố định nàng thật vững, đoạn bảo A Tệ: “Đi tìm A Hành đi, chỉ cần tìm thấy Xi Vưu, có lẽ các người có thể chạy thoát.”

A Tệ ngậm chặt vạt áo Xương Ý, tỏ ý rằng mình có thể chở cả Xương ý đi cùng, nhưng y chỉ lắc đầu, dùng lực đẩy A Tệ một cái, thét lên: “Mau đi đi!”

A Tệ hú lên một tiếng dài thê thiết rồi đập cánh bay lên, đi tìm A Hành.

Xương Ý đi lên phía sườn núi cao, ở đó, cả đám tướng sĩ Hiên Viên đông nghịt đang hướng về phía Hiên Viên quốc dập đầu bái lạy, y đã hứa với bọn họ, bất kể xảy ra chuyện gì, y cũng sẽ đứng ra chắn trước mặt bọn họ.

Những đám mây lửa càng tụ càng dày, chẳng bao lâu nữa núi lửa sẽ bùng nổ, nơi này sẽ ngập trong dung nham.

“Xi Vưu! Xi Vưu!” A Hành vừa gọi vừa chạy.

“A Hành! A Hành!” Xi Vưu vừa chạy vừa gọi.

Trước cảnh trời long đất lở, núi lửa phun trào, dù dốc hết linh lực, bọn họ cũng chỉ mong manh vô thường như cát bụi mà thôi. Hơn nữa họ đang ở ngay dưới miệng núi lửa, nếu còn chần chừ không đi, dẫu không bị dung nham cuốn phăng thì cũng chết vì lửa nóng.

Có điều, còn chưa tìm được người kia, họ nhất quyết chưa thể đi được.

A Hành chợt đứng lại, không chạy tìm nhớn nhác nữa, cứ chạy loạn lên thế này, biết đâu lại đang chạy ngược hướng với Xi Vưu cũng nên.

Nàng vội vã rạch lòng bàn tay, vẩy máu lên không trung, từng giọt máu lập tức biến thành từng đóa hoa đào, nở rực rỡ giữa bầu không, ánh lửa đỏ hồng cũng không át nổi sắc hoa đỏ thắm.

Xi Vưu trông thấy từng đóa từng đóa hoa đào nở rộ rồi lụi tàn, bật cười, “Dưới cội hoa đào, không gặp không về!”

Xuyên qua khói bụi, băng qua khe sâu.

Hắn trông thấy A Hành đang đứng giữa một trời hoa đào rực rỡ, mỗi lần nàng vung tay lên, lên thêm vô số đóa hoa nở rộ. Hắn vội dang tay ra, gọi lớn: “A Hành!”

Nghe tiếng gọi A Hành sáng mắt lên, nhoẻn cười tươi tắn, nhào vào lòng Xi Vưu. Lúc này, họ chẳng thể thốt lên bất cứ lời nào nữa, chỉ biết siết chặt lấy nhau.

A Hành run lẩy bẩy, nước mắt đẫm vai Xi Vưu.

Xi Vưu vuốt vuốt lưng nàng, dịu dàng an ủi: “Thôi mà, nàng đã tận lực rồi!”

Xi Vưu ôm lấy A Hành nhảy lên lưng Tiêu Dao, Họ vừa bay lên thì dung nham ào ạt tuôn xuống, phủ kín chỗ vừa đứng khi nãy, cả ngọn núi đều bốc cháy phừng phừng, nhiệt độ không khí khiến tóc tai hia người bắt đầu xoăn tít.

Xi Vưu lệnh cho Tiêu Dao bay đi tìm Xương Ý, nhưng khắp trời toàn những quả cầu lửa, khói đen, đất đá bay loạn xạ, Tiêu Dao chẳng dám bay nhanh, đành vửa thận trọng né tránh, vừa ngó quanh tìm kiếm.

Nghe thấy mấy tiếng kêu lanh lảnh vọng tới, A Hành vội bảo Tiêu Dao bay chậm lại.

Thấy A Tệ bay đến trước mặt, lại trông thấy Xương Phó đang hôn mê trên lưng nó, A Hành hiểu Xương Ý đã quyết hy sinh, bèn cuống quýt bảo Tiêu Dao: “Bay nhanh lên đi!” Tìm được Tứ ca, chắc phải đánh ngất y rồi cưỡng chế đưa đi.

Trông thấy Xương Ý đang đứng chắn trước mặt một đám người trên sườn núi xa xa, A Hành vội mừng rỡ gọi Tiêu Dao: “Ở kia ở kia, mau mau đến đó đi!”

“Tứ ca, Tứ ca!”

Nàng chưa dứt lời, thình lình miệng núi “đùng” một tiếng nổ tung, lửa bốc ngút trời, dung nham theo khói đen phụt ra.

Đứng trước thiên kiếp, tất cả sinh linh đều nhỏ nhoi như con sâu cái kiến, chỉ trong nháy mắt, hết thảy đã tan thành tro bụi, chẳng còn dấu vết. Tất cả mọi người, tất cả mọi thứ đều tan biến trong dung nham nóng rãy, chẳng còn sót lại một mảy may.

A Hành mở trừng mắt, há hốc miệng, cơ hồ không tin nổi tất cả những điều vừa chứng kiến.

Mây lửa càng lúc càng dày đặc, dần dần lan ra khắp mặt đất, nếu không lập tức rời khỏi đây, ắt sẽ nghẹt thở mà chết.

Nhưng Xi Vưu chẳng hề giục giã A Hành, chỉ lặng lẽ ôm lấy nàng.

A Hành thẫn thờ, cứ ngây ra nhìn chằm chặp nơi Tứ ca vừa biến mất, hồi lâu, trong họng mới phát ra mấy tiếng thổn thức tựa như khóc mà không phải khóc, nàng cúi xuống cởi tấm áo đang buộc chặt Xương Phó vào lưng A Tệ, ôm Tứ tẩu vào lòng, bảo Xi Vưu: “Mình đi thôi.”

Xi Vưu dùng mấy sợi dây leo quấn chặt lấy A Tệ rồi dặn Tiêu Dao mấy câu, Tiêu Dao liền quắp lấy dây leo, ngửa cổ hót vang, trong tiếng hót lanh lảnh, nó vỗ cánh bay vút lên như một cơn lốc, thẳng đến chín tầng trời, lập tức rời khỏi biển lửa nhanh như chớp.

Một giờ sau, Tiêu Dao thở hổn hển đỗ xuống Trạch Châu thành, vừa kéo vừa cõng nặng như vậy, dù là đại bàng chao liệng chín tầng trời cũng chịu không thấu.

Trên Trạch Châu thành lâu đông nghẹt người, ai nấy đều nhìn về phía Đông Nam, cười cười nói nói, vừa tò mò vừa thắc mắc, không hiểu tại sao núi lửa lại đột nhiên bùng nổ.

Vũ Sư nghi hoặc hỏi Xi Vưu: “Đó là địa bàn của Chúc Dung mà, chẳng phải hắn đã đầu hàng rồi ư?”

Xi Vưu lắc đầu: “Chúc Dung lấy thân mình làm trận nhãn, dẫn phát cho núi lửa bùng nổ, quyết tử cùng quân đội Hiên Viên.”

Tiếng cười nói lập tức ngưng bặt, tất cả mọi người đếu biến sắc, Si, thuộc hạ của Phong Bá khẽ nói: “Thật không ngờ, Hậu Thổ được người người kính trọng lại đầu hàng Hoàng Đế, trong khi Chúc Dung lại bị miệt thị là đê tiện tiểu nhân lại thà chết không hàng.”

Vũ Sư nhìn về phía Đông Nam, không nói nửa lời, chỉ lặng lẽ cởi chiếc mũ trên đầu ra. Thì ra những kẻ ti tiện hèn hạ cũng có tôn nghiêm của riêng mình, những kẻ bỉ ổi vô sỉ cũng có vinh dự của riêng mình!

Phong Bá, Si, Mị, Võng, Lượng… tất cả mọi người đều ngả mũ, trang nghiêm lặng lẽ từ biệt Chúc Dung.

A Hành ôm lấy Xương Phó, cưỡi lên lưng A Tệ, chuẩn bị lên đường.

Vừa nãy chỉ lo chạy trốn, A Hành lại cố ý che giấu nên Xi Vưu không phát hiện ra, giờ mới để ý thấy ngón út bàn tay trái nàng đã cụt tận gốc.

“Là kẻ nào gây ra?” Xi Vưu vừa xót xa vừa giận dữ.

“Tự ta.” A Hành bình thản đáp.

“Tại sao?” Xi Vưu nắm chặt tay nàng.

“Ta phải đi đây.” A Hành từ từ rút tay ra.

Xi Vưu định nói gì đó, nhưng chẳng thốt nổi nên lời. Hắn còn có thể nói gì đây? Xương Ý chết vì Chúc Dung, nhưng các huynh đệ thuộc hạ của hắn lại cung kính ngả mũ mặc niệm Chúc Dung ngay trên đầu thành.

Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.

Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.

A Hành vỗ nhẹ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh bay vút lên.

Biết không giữ được nhưng Xi Vưu vẫn không nhịn được mà đuổi theo bóng nàng, cứ thế chạy dọc theo tường thành, tựa hồ làm vậy có thể gần nàng hơn một chút. Tiếc rằng độ dài tường thành có hạn, cuối cùng hắn cũng chạy đến đầu bên kia thành lâu, chỉ có thể nhìn theo bóng nàng mỗi lúc một xa, rồi biến mất trong bóng chiều.

Ráng đỏ mây trời, ánh vàng lấp loáng, xán lạn huy hoàng, đẹp khôn tả xiết, nhưng trong mắt Xi Vưu chẳng khác nào dòng dung nham đỏ rực tuôn trào, hủy hoại tất cả.

Dung nham đỏ rực ấy, tựa như máu đỏ, chảy tràn khắp núi rừng, cũng chảy tràn khắp trái tim A Hành.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 14: Hẹn thề sinh tử mãi bên nhau (Trích trong bài Kích cổ " Gióng trống" trong Kinh Thi )

Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?

A Tệ kêu lên một tiếng, nhắc A Hành rằng đã đến Triêu Vân phong.

A Hành lòng như dao cắt, chẳng còn dũng khí nào bước vào Triêu Vân điện, nhưng tin Chúc Dung và Xương Ý cùng chết chẳng bao lâu sẽ truyền khắp đại hoang, nàng không muốn để kẻ khác thông báo tin này cho mẹ. Nếu phải báo, chi bằng để nàng chính miệng báo với bà.

Nàng ôm Xương Phó bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Luy Tổ đang dạy Chuyên Húc đọc sách. Nghe tiếng bước chân, bà mỉm cười ngẩng lên, trông thấy bộ dạng A Hành, bà liền biến sắc.

Chuyên Húc chạy nhao đến, “Mẹ, mẹ con làm sao thế? Cha đâu? Sao cha không về?”

Luy Tổ dịu giọng dỗ Chuyên Húc: “Con ra ngoài chơi đi, để người lớn nói chuyện.”

A Hành quỳ xuống trước mặt mẹ, môi run lên bần bật mà không thốt nổi nên lời. Giờ đây, cuối cùng nàng cũng hiểu được càm giác tuyệt vọng và tự trách của Đại ca khi quỳ trước mặt mẹ năm ấy.

Luy Tổ tái mét mặt, ngồi lặng giây lát, đột nhiên bà đứng phắt dậy, ôn tồn nói: “Con đi rửa mặt thay áo trước đi, để ta chăm sóc Xương Phó.”

“Mẹ…”

Luy Tổ xua tay: “Rửa mặt thay áo sạch sẽ rồi từ từ nói.”

A Hành vội vã rửa mặt rồi tới gặp mẹ. Xương Phó đã được thay y phục, đang nằm trên giường thiêm thiếp ngủ. Luy Tổ ngồi bên giường hai tay cầm chiếc áo của Xương Ý, dịu dàng vuốt đi vuốt lại.

A Hành khẽ khàng bước vào, quỳ xuống bên gối bà.

Luy Tổ khẽ hỏi: “Xương Ý anh dũng lắm phải không? Nó không bỏ lại thuộc hạ mà chạy thoát một mình chứ?”

A Hành nghẹn ngào, nói chẳng nên lời, chỉ có thể gật đầu. Luy Tổ mỉm cười, “Giỏi lắm, giống như ông ngoại nó vậy!”

“Mẹ!” A Hành nắm lấy tay bà, “Nếu mẹ đau lòng thì cứ khóc đi!”

Luy Tổ xoa đầu A Hành, dung nhan khô héo, thân tình tiều tụy, chỉ có đôi mắt là sáng rỡ, dường như tất cả sức lực còn lại đều kết tinh trong mắt, “Con ở đây trông chừng Xương Phó, tính nó cương cường, cứng quá thì dễ gãy, để ta đi thăm Chuyên Húc. Ta không muốn nó nghe ngóng tin cha nó từ miệng người khác, cha nó đã hy sinh anh dũng, phải đường đường chính chính nói cho nó biết.”

Luy Tổ cẩn thận gấp manh áo của Xương Ý lại, đặt bên gối Xương Phó rồi loạng choạng bước ra ngoài, ra đến rừng dâu, bà kéo tay Chuyên Húc, “Bà nội có chuyện muốn nói với cháu.”

Một già một trẻ lững thững thả bộ trong rừng dâu. Bước chân Luy Tổ loạng choạng, lưng còng gập xuống, nhưng bà vẫn là chỗ dựa tinh thần của tất cả đám trẻ.

“Xương Ý!”

Xương Phó vừa tỉnh giấc liền kêu thét lên, giơ tay ra chụp, nhưng chỉ chụp vào khoảng không.

A Hành đang đứng bên cửa sổ nhìn về phía Luy Tổ và Chuyên Húc, lập tức ngoảnh lại: “Tẩu tẩu.”

Xương Phó nhìn quanh, nhận ra bọn họ đang ở trong Triêu Vân điện: “Còn Xương Ý? Xương Ý đâu rồi?”

A Hành chẳng biết đáp sao cho phải. Xương Phó chằm chằm nhìn A Hành, tựa hồ đang cầu khẩn nàng ban cho mình chút hy vọng, ánh mắt ấy như một lưỡi dao nhọn, chốc chốc lại đâm vào tim A Hành khiến nàng đau đến không thở nổi, cũng không cách nào né tránh, bởi càng né tránh lại càng đau.

“Tứ ca, Tứ ca…” A Hành lúng túng, nói không nên lời.

Trông thấy chiếc áo đặt bên gối, ánh sáng trong mắt Xương Phó vụt tắt lịm, nàng nắm lấy vai A Hành lắc như điên dại, gào lên: “ Sao muội lại bỏ chạy một mình? Sao muội không cứu y? Y là Tứ ca của muội, sao muội không cứu y…” A Hành như một phiến lá vàng quay cuồng trong gió lớn, hoàn toàn không thể tự chủ, chỉ cần mạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ bị cuồng phong nghiền nát.

Xương Phó lắc lắc A Hành, thân thể chợt nhũn ra, đột nhiên nàng gục đầu vào vai A Hành, khóc ngất, “Vì sao? Vì sao…” Vì sao? Rõ ràng họ đã thề phu thê một lòng, cùng sống cùng chết, vì sao y không giữ lời thề, bỏ lại nàng một mình?

Nháy mắt trước đây thôi, y còn ôm nàng, hôn nàng, khiến nàng chìm trong hạnh phúc ngọt ngào, vậy mà giờ y đã tan xương nát thịt, tất cả đều thành mây thành khói. Nàng không tin! Xương Ý chưa chết, nhất định chưa chết!

Tiếng khóc của Xương Phó dần biến thành tiếng gào nát gan xé ruột, như một con thú đang rên rĩ khóc than. A Hành cũng không nén nổi nữa, nước mắt tràn ra như vỡ đê, nhưng nàng không dám khóc thành tiếng, đành mím chặt môi, gắng hết sức ưỡn lưng thật thẳng, không cho phép mình gục xuống.

Xương Phó khóc đến tan lòng nát ruột, bi nộ công tâm, ngất lịm đi.

A Hành không dám thả lỏng bản thân mà thương tâm khóc lóc, vội lau khô nước mắt, chăm non cho Xương Phó.

Luy Tổ dắt tay Chuyên Húc bước vào, chỉ một chốc lát ngắn ngủi, vậy mà Chuyên Húc dường như đã đột ngột lớn bổng, gương mặt bé bỏng đanh lại, nước mắt thập thò trên mi nhưng nó vẫn quật cường nín nhịn, nhất quyết không khóc, kìm nén đến nỗi đỏ bừng cả mặt.

Chuyên Húc đứng bên giường chạm tay vào mặt Xương Phó, vẻ mặt rất nghiêm trọng.

Luy Tổ bảo A Hành: “Con kể lại đầu đuôi mọi chuyện đi.”

Thấy A Hành chần chừ nhìn Chuyên Húc, Luy Tổ nói: “Hiện giờ nó là nam đinh duy nhất trong nhà ta, bất kể nó hiểu được đến chừng nào, cũng phải để nó nghe!”

Nhận ra ý tứ của Luy Tổ, A Hành chợt táo mặt: “Đại ca, còn Đại ca nữa mà!”

Luy Tổ bình thản nói: “Các con tưởng ta không biết ư? Thanh Dương là do ta sinh ra, một tay ta nuôi nấng từ nhỏ đến lớn. Hành nhi, con có thể không nhận ra con gái con không? Đó là núm ruột của con, nó cau mày hay nhoẻn miệng con đều rõ như lòng bàn tay. Vậy mà con và Xương Ý lại dám lớn gan giấu trời qua biển, nghĩ ra kế sách này.”

A Hành vội giải thích: “Mẹ, con, con… không phải tại Tứ ca, là tại con.”

“Ta hiểu nỗi khổ của các con, các con sợ ta đau lòng, sợ ta không chịu nổi, có điều các con xem thường mẹ mình quá. Hiên Viên quốc có ngày nay cũng là do ta một tay tạo dựng, tuy hiện giờ ta chẳng thể ra trận nữa, nhưng không có nghĩa là ta đã hồ đồ.”

A Hành quỳ xuống bên gối Luy Tổ, Luy Tổ quay sang bảo Chuyên Húc: “Cháu nghe cho kỹ, chỗ nào không hiểu cũng đừng hỏi, chỉ cần nhớ kỹ là được.”

A Hành bắt đầu thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi nàng phát hiện ra sự việc có điểm dị thường, phái Liệt Dương đưa thư về Hiên Viên cầu cứu, mượn binh Cao Tân, bị Thiếu Hạo cự tuyệt, cho đến khi Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, dẫn cho núi lửa bùng nổ.

Luy Tổ từ đầu đến cuối không nói một lời, còn Xương Phó chẳng biết đã tỉnh lại tự lúc nào, cứ trừng trừng nhìn lên đỉnh màn, nghe A Hành kể chuyện.

Đột nhiên, Xương Phó lên tiếng hỏi: “Sao phụ vương không hề phát binh? Nếu chiến binh Thần tộc của chúng ta nhiều hơn nữa, chỉ cần có một vị Thần tộc đại tướng tinh thông trận pháp bày trận, dù Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, chúng ta cũng không tới nỗi toàn quân bị diệt.”

A Hành nói: “Muội có thể lấy tính mạng ra bảo đảm, Liệt Dương tuyệt đối đáng tin, chiến dịch này hết sức quan trọng với Hiên Viên, nhất định phụ vương không muốn thua, chỉ cần ông nhận được tin, chắc chắn sẽ dốc toàn lực ngăn cản Chúc Dung, cách giải thích duy nhất chính là phụ vương không nhận được bức thư Liệt Dương đưa về.”

Kẻ nào dám chen ngang đoạt lấy thư tín gửi cho Hoàng Đế? Kẻ nào có thể lớn gan chừng ấy, lại có thể có năng lực ấy?

A Hành sực nghĩ ra, tức thì đau đớn trào lên cùng giận dữ, lạc giọng hỏi: “Đêm qua phụ vương nghỉ lại Chỉ Nguyệt điện ư?”

Luy Tổ đột ngột lảo đảo, ngã ngửa ra sau, A Hành vội đỡ lấy bà: “Mẹ, mẹ!”

Luy Tổ hơi tỉnh lại, liền quay sang nhìn Xương Phó khóc: “Xin lỗi con, là tại ta nuôi ong tay áo!”

Xương Phó nuốt lệ nói: “Mẹ, mẹ nói gì thế?”

Luy Tổ nước mắt vòng quanh: “Vì lỗi lầm thơi trẻ nên ta vẫn lấy làm áy náy với Đồng Ngư thị, thật không ngờ đã sai lại càng sai! Đáng lẽ ta phải nhận ra từ sớm, nếu đã phạm sai lầm, thà rằng bản thân bị trời phạt, cũng phải làm cho đến cùng, nếu năm xưa ta xuống tay tàn độc, giết phăng mẹ con Đồng Ngư thị đi, thì chẳng bao giờ có ngày này!”

Xương Phó gắng gượng bước xuống giường, quỳ xuống trước mặt Luy Tổ, khóc nức lên: “Mẹ, nếu mẹ còn tự trách bản thân nữa thì Xương Ý có chết cũng chẳng được yên lòng đâu.”

Luy Tổ ôm lấy Xương Phó và A Hành, khóc đến khàn giọng, A Hành và Xương Phó cũng lã chã nước mắt.

Chuyên Húc ngồi im một góc, nhìn mẹ, cô cô, và bà nội khóc nức nở, như hiểu mà lại không hiểu, chỉ đinh ninh nhớ lời dặn của bà, gắng nhớ lấy tất cả. Bà nội đã nói, hiện giờ cậu là nam tử hán duy nhất trong nhà, nhất định phải kiên cường.

Một cung nữ liêu xiêu chạy vào, “Vương hậu, cả đoàn người đang đến ngoài kia, họ đều mặc áo tang, chít khăn tang…”

Xem ra phụ vương đã nhận được tin nên phái người tới bẩm với mẫu hậu. A Hành nói: “Cứ nói chúng ta biết cả rồi, bảo bọn họ về đi.”

Cung nữ nọ luống cuống nuốt khan, lắp bắp thưa: “Không, không được đâu, cả Hoàng Đế cũng tới.”

Nhất thời, mọi người trong phòng đều lặng đi.

Luy Tổ căm giận quát: “Bảo ông ta cút về đi! Nói rằng ta không muốn gặp ông ta, đời này kiếp này không muốn trông thấy ông ta nữa!”

Thấy ả cung nữ kinh hãi há hốc miệng. A Hành liền đứng dậy kéo kéo tay áo ả, ý bảo ả theo mình ra ngoài, nào ngờ Xương Phó cũng đuổi theo: “Ta có lời muốn nói cùng phụ vương.”

A Hành và Xương Phó ra đến tiền điện, thấy Hoàng Đế toàn thân vận áo tang, vẻ mặt đau xót, vừa thấy A Hành liền hỏi ngay: “Mẫu hậu con thế nào rồi?”

A Hành đáp: “Mẫu hậu không khỏe lắm, đang nằm nghỉ.”

Hoàng Đế dợm bước: “Để ta vào xem.”

A Hành vội giơ tay cản ông lại, “Phụ vương, mẫu hậu không chịu được kích động.”

Hoàng Đế khựng lại, “Vậy… vậy để hôm khác.”

Đoạn ông quay ra bảo Xương Phó: “Hai trăm binh sĩ Thần tộc đều hy sinh, còn bốn ngàn chiến sĩ Nhược Thủy rút lui theo lệnh Hành nhi còn sống cả, ta đã phái người tiếp tục tìm kiếm, có lẽ còn có thể cứu thêm vài ba chiến sĩ Nhược Thủy nữa, nếu con có yêu cầu gì, cứ nói ra đi.”

Xương Phó vẻ mặt lạnh lùng, đang định lên tiếng thì bị A Hành cướp lời: “Phụ vương, ba ngày trước con đã sai Liệt Dương đem thư về bảo Chúc Dung định dẫn phát cho núi lửa mổ tung, xin người lập tức phái binh chi viện, hiện giờ Liệt Dương ở đâu không rõ, còn thư chẳng hay phụ vương có nhận được không?”

Hoàng Đế tâm niệm xoay chuyển như chớp, lập tức hiểu ngay mọi chuyện, giận đến tím mặt, nét mặt méo mó đi vì phẫn nộ, nhưng dần dà, ông lại khôi phục vẻ thản nhiên, “Chuyện này ta sẽ phái người tra xét.”

A Hành hoàn toàn mất hết hy vọng vào Hoàng Đế, nhất định ông sẽ dùng một phương pháp để trừng trị Di Bành đích đáng, nhưng đó không phải hình phạt mà nàng muốn.

Xương Phó quỳ xuống nói: “Phụ vương, tuy Xương Ý đã tan xương nát thịt, nhưng con muốn xin Người cử hành tang lễ long trọng cho chàng.”

Hoàng Đế đáp: “Ta đã định sắp xếp như thế rồi, con còn yêu cầu gì khác không?”

Xương Phó lắc đầu.

Hoàng Đế nói: “Vậy ta đi đây, nếu cần gì các con cứ phái người tới trực tiếp bẩm với ta.”

Vân Tang nấp ngoài điện thấy Hoàng Đế đã đi khỏi, mới dần theo Chu Du bước vào tiền điện. Tuy nàng đã được gả cho Thanh Dương nhưng tại Triêu Vân điện, nàng vẫn là người ngoài, bởi thế nàng chỉ một mực ru rú trong nhà, phàm việc gì cũng ra sức tránh né.

A Hành vấn an nàng, còn Xương Phó cứ ngồi ngây ra như phỗng, tựa hồ chẳng còn biết gì tới mọi chuyện xung quanh nữa.

Trước tình cảnh ấy, Vân Tang cũng xót xa vô hạn, nàng còn nhớ buổi hôn lễ mấy trăm năm trước, dưới bóng Nhược Mộc hoa đỏ thắm, Xương Phó cứng cỏi ranh mãnh, thông minh tinh quái nhường nào. Trong lòng nàng, Xương Ý và Xương Phó là đôi phu thê duy nhất khiến nàng ngưỡng mộ, khiến nàng tin rằng trên đời này vẫn tồn tại tình cảm vợ chồng son sắt, chỉ tiếc rằng trời cao quá đỗi nhỏ nhen, ghen ghét cảnh viên mãn, lại bắt bọn họ cách trở âm dương.

Vân Tang nói với A Hành: “Mấy ngày trước, ta nửa đêm mất ngủ bèn ra ngoài cho khuây khỏa, trông thấy dưới Hiên Viên sơn có ánh lửa bèn chạy đến xem, vừa khéo bắt gặp Di Bành dẫn theo mấy tên Yêu tộc vậy đánh một con Lang điểu, một tên trong số đó hình như thuộc Hồ tộc, nói cái gì muốn đoạt Phượng Hoàng nội đan của Lang điểu dâng lên cho Hồ vương trị thương. Ta nghĩ là Liệt Dương, bèn ra tay cứu nó, vốn định hôm nay muội về sẽ nói lại với muội, nhưng lúc đến đây tìm lại loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, ta thấy không tiện lắm bèn tránh đi, nào ngờ lại xảy ra chuyện lớn như vậy.”

A Hành vội hành lễ với nàng, cảm kích nói: “Đa tạ tỷ, hiện giờ Liệt Dương đâu rồi?”

Vân Tang đáp: “Ở đằng Hậu Thổ. Thương thế của Liệt Dương rất nặng, ta không giúp được nó, đành đưa đến chỗ Hậu Thổ, để Hậu Thổ trị thương cho nó.”

Vừa rồi chỉ mãi lo đến an nguy của Liệt Dương, không suy nghĩ được kỹ càng, mãi đến giờ A Hành mới phát hiện những lời Vân Tang nói có rất nhiều nghi vấn. Công lực của Liệt Dương cao hơn Vân Tang, kẻ mà Liệt Dương không đối phó nổi, nhất định Vân Tang cũng chẳng thể địch lại, cách giải thích duy nhất chính là lúc đó Hậu Thổ cũng ở đây, và kẻ cứu Liệt Dương là Hậu Thổ.

Vân Tang băng tuyết thông minh, thoạt nhìn vẻ mặt A Hành liền nhận ra ngay nàng đã đoán được sự tình, bèn thản nhiên thừa nhận, “Ta cũng biết là không giấu được muội, thực ra tối hôm đó ta ra ngoài gặp Hậu Thổ. Nghe nói Chúc Dung định đầu hàng, ta có phần nghi ngờ, bèn đi tìm Hậu Thổ gạn hỏi tình hình chiến trận, tiếc rằng khi bọn ta đến Liệt Dương đã hôn mê nên không hỏi được nó đến vì việc gì.”

Dù đến sớm thì sao chứ? Tuy Vân Tang đã gả cho Thanh Dương, nhưng đôi bên chỉ là lợi dụng lẫn nhau, dù nhận được tin từ sớm, chắc gì Vân Tang đã báo với Hoàng Đế. Thậm chí A Hành còn mừng thầm vì họ không biết, bằng không có lẽ Vân Tang sẽ nghĩ cách báo với Chúc Dung, đến chừng đó e rằng ngay cả bốn ngàn binh sĩ và Xương Phó cũng không sao thoát được.

Nghĩ đến đó, A Hành bỗng toát mồ hôi lạnh, sao bây giờ nàng lại thành ra thế này? Vân Tang và Hậu Thổ luôn thân thiết với nàng, thân là dị tộc bại trận, vậy mà họ vẫn mạo hiểm, bất chấp đắc tội Di Bành để cứu Liệt Dương, sao nàng có thể đa nghi như vậy? Nhưng nàng có thể không đa nghi ư? Nhưng dù có tốt đến mấy cũng chỉ là tư tình, đứng trước đại nghĩa, những kẻ sinh ra trong vương thất, lớn lên trong vương thất như bọn họ đều phải vứt bỏ tư tình để giữ trọn đại nghĩa.

Xương Phó đang ngồi ngây ra như phỗng đột nhiên đứng bật dậy, chạy vụt ra ngoài, A Hành vội kéo nàng lại: “Tứ tẩu, tẩu đi đâu đấy?”

“Muội không nghe thấy tiếng tiêu của Xương Ý à? Muội nghe mà xem.” Xương Phó ngưng thần lắng tai nghe, chợt cuống quýt: “Sao lại không nghe nữa rồi? Rõ ràng vừa nãy ta nghe thấy mà. Đại tẩu, A Hành, hai người có nghe thấy không?”

Vân Tang nước mắt lã chã, A Hành lòng đau như cắt, nhưng chẳng có cách nào khả dĩ khuyên giải Xương Phó, chỉ biết đặt hết hy vọng vào thời gian.

Đối với một số người, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng đối với Xương Phó, có lẽ thời gian chỉ đay đi đay lại nhắc nàng: Xương Ý đã không còn nữa!

Cũng như Viêm Đế từng nói với A Hành khi đứng trước mộ thê tử vậy, sinh mệnh đằng đẵng chỉ càng khiến nỗi đau dài ra đến vô chừng!

Hoàng Đế hạ lệnh toàn quốc để tang cho Xương Ý.

Hiên Viên quốc giờ đây đang hưng thịnh, các tộc các nước trên dại hoang đều phái sứ giả tới điếu tang, Thiếu Hạo là người thân, tuy không thể đích thân đến, nhưng cũng phái sứ giả đưa vương cơ Cửu Dao tới để tang cho bác.

Hoàng Đế cử hành tang lễ trọng thể cho Xương Ý trong Hiên Viên thành, A Hành không muốn Luy Tổ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh nên ra sức khuyên bà đừng đi, cứ ở lại Triêu Vân điện.

Sau khi nghi thức hoàn tất, tới lúc an tang, Xương Phó đột ngột yêu cầu tất cả lui ra, chỉ có người Hiên Viên tộc ở lại.

Đợi quan tài đựng đầy những vật dụng Xương Ý từng sử dụng hạ xuống huyệt, Tông Bá đang định hạ lệnh lấp đất, bỗng Xương Phó từ đầu đến cuối vẫn làm thinh đột ngột lên tiếng: “Đợi đã!”

Mọi người đều ngạc nhiên đổ dồn ánh mắt về phía nàng. Xương Phó chăm chú nhìn quan tài Xương Ý một thoáng, rồi ngoảnh lại nghẹn giọng tuyên bố: “Hôm nay, ta ở đây đau đớn tiễn đưa Xương Ý, phu quân của ta. Ở Nhược Thủy, còn hơn sáu ngàn phụ nữ cũng đang khóc lóc tiễn đưa phu quân của họ như ta. Đối với Nhược Thủy tộc chúng ta, oanh liệt hy sinh trên sa trường là hành vi hết sức vinh quang! Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được nếu người thân của mình bị người hãm hại mà chết, đó chính là xúc phạm vong linh! Là bất kính đối với người chết! Cái chết của người thân giống như móc mất trái tim chúng ta vậy, nhưng nếu họ chết vì bị người hãm hại, thì cũng giống như trái tim sau khi bị móc ra, lại bị đâm vào thuốc độc! Ngày nào chưa thể trả hận, ngày đó trái tim chúng ta còn bị ngâm trong thuốc độc!”

Nói rồi, Xương Phó trừng mắt nhìn Di Bành: “Hiên Viên Di Bành, ngươi có nghe thấy tiếng rít gào phẫn nộ của đám vong linh dưới đất, tiếng khóc than đau đớn của những phụ nữ Nhược Thủy tộc chăng?”

Di Bành hờ hững đáp: “Ta chẳng hiểu Tứ tẩu nói gì cả, xin Tứ tẩu nén đau thương, chấp nhận sự thật, đừng nói quàng nói xiên nữa.”

Hoàng Đế vội ra lệnh cho thị nữ: “Vương tử phi đau lòng quá độ, thần trí không tỉnh táo, các người còn không mau đỡ vương tử phi lui xuống.”

Đám thị nữ định kéo Xương Phó đi, nhưng các đại hán Nhược Thủy “soạt” một tiếng nhất tề rút đao ra, chắn trước mặt Xương Phó, sát khí đằng đằng.

Xương Phó cao giọng nói: “Vương cơ phát hiện ra Chúc Dung đang bày trận dẫn phát cho núi lửa nổ tung, bèn phái người đưa thư cho Hoàng Đế, thỉnh cầu ngài phái thần tướng tới phá trận, trong lúc đó, ta và Xương Ý đã phải trăm phương ngàn kế lần lữa với Chúc Dung kéo dài đến chập tối. Nếu viện binh đến kịp thì đâu có tang lễ hôm nay. Nhưng thư của vương cơ giữa đường đã bị kẻ khác đoạt mất, kẻ đó chính là hắn, Cửu vương tử của Hiên Viên!” Xương Phó chỉ thẳng vào Di Bành, tất cả mọi người đều kinh hoàng nhìn theo tay nàng.

Xương Phó chầm chậm quét mắt qua tất cả người Hiên Viên tộc, ánh mắt lạnh lùng, vẻ mặt đanh lại, khiến Hoàng Đế nhất thời cũng cứng họng, nói không nên lời.

Xương Phó lại nói: “Ta sau khi cha ta quỳ xuống dưới chân Hoàng Đế, hai tay dâng Nhược Mộc hoa cổ xưa nhất lên ngài, chấp nhận quy thuận Hiên Viên quốc, chúng ta đã trở thành con dân Hiên Viên, cũng chính là con dân của Hiên Viên Cửu vương tử, nhưng hắn lại vì thù hận cá nhân mà phản bội con dân của mình. Thân là tộc trưởng Nhược Thủy, vì vong linh của sáu ngàn tộc dân, vì nỗi đau của sáu ngàn nữ tử, ta không thể tha thứ cho hắn được, nếu tha thứ cho hắn, ta còn mặt mũi nào trở về Nhược Thủy nữa! Thân là thê tử của Xương Ý, hắn giết phu quân ta, ta càng không thể tha thứ cho hắn!” Vừa nói, Xương Phó vừa rút phắt chủy thủ giấu sẵn trong tay áo, phi thân vọt lên, dốc toàn lực, đâm thẳng về phía Di Bành. Thần khí do Thiếu Hạo rèn ra lập tức phát huy uy lực đáng sợ của mình, nhân khí hợp nhất, khí thế như cầu vồng, không gì ngăn cản được.

Di Bành đã quen nấp trong bóng tối ném đá giấu tay, đâu có ngờ Xương Phó lại dám ra tay giết mình ngay trước mặt mọi người, vội cuống quýt lùi lại, hấp tấp bày kết giới, nhưng Xương Phó đã có dự định sẵn, hắn làm sao cản nổi một đòn dốc hết toàn lực bất chấp sinh tử của nàng. Xương Phó thế như chẻ tre lao tới, tất cả chướng ngại đều bị nàng phá tan tành.

Di Bành chỉ trông thấy một vầng sáng lao tới như tên bắn, càng lúc càng gần, càng gần càng chói lọi, có tránh cũng không sao tránh nổi, hồng quang bùng nổ ngay trước mắt hắn, nhắm thẳng vào tim hắn, con ngươi hắn chợt co rút, chẳng cách nào tránh thoát, hắn đành tuyệt vọng nhắm nghiền mắt lại.

Cả thế giới tựa hồ đều tan biến, bên tai chỉ còn sự im lặng chết chóc.

Di Bành cứ ngỡ rằng tử vong sẽ rất đau đớn, nhưng lạ thay, hắn chẳng hề thấy cảm giác đau đớn khi trái tim bị đam thủng. Hắn bất giác đưa tay sờ lên ngực, tiếc rằng chẳng sờ thấy gì cả.

Thực ra Di Bành cảm thấy lâu thật lâu, nhưng Xương Phó ra tay thần tốc, một đòn sấm sét chỉ diễn ra trong một chớp mắt ngắn ngủi. Bấy giờ mới nghe tiếng Hoàng Đế quát thị vệ, Di Bành chợt mở bừng mắt ra, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình đã thấy một thân hình mềm nhũn ngả vào lòng, theo phản xạ, hắn vội đón lấy, ra là mẹ hắn, máu phun ra từ ngực bà ướt đẫm cả hai tay hắn.

Xương Phó không ngờ Đồng Ngư thị lại nhào tới, lấy thân mình đón một đòn chí mạng của nàng, bây giờ dù muốn giết Di Bành cũng đã muộn, đám thị vệ đang xúm quanh hắn bảo vệ rồi.

Từng đóa hoa máu trả giá bằng sinh mệnh đỏ đến chói chang, thắm tươi rực rỡ, nhưng trong mắt Di Bành, thế giới giờ đây chỉ còn hai màu đen trắng, thê lương tuyệt vọng.

“Mẹ, mẹ!” Di Bành gào lên thê thiết.

Hắn ôm chầm lấy mẹ, ra sức ấn lên vết thương toan cầm máu, nhưng chỉ cảm thấy thân thể mẹ lạnh dần đi.

Mẹ đã tắt thở, nhưng bà vẫn mỉm cười, chủy thủ cắm vào tim nhất định rất đau đớn, nhưng biết được con mình không bị tổn thương, dù có phải chịu đau đớn gấp nghìn lần, bà cũng cam lòng.

“Mẹ!” Di Bành gào lên thê thảm như sói hú.

Rất đông thị vệ xúm lại, dường như định giúp hắn, nhưng hắn phẫn nộ đẩy bọn chúng ra.

Cút, cút ra đi!

Hoàng Đế chạy lại, run run định bế Đồng Ngư thị lên, nhưng bị Di Bành một chưởng đẩy bật ra: “Không được chạm vào mẹ ta! Ông cũng cút ra! Ông là đồ bạc bẽo, quân vong ân phụ nghĩa, ông không xứng với mẹ ta!”

Mấy ngàn năm trước, vì hắn, mẹ đã quỳ xuống chân Hoàng Đế khóc lóc van xin, vậy mà ông ta còn quát mắng bà, nói cái gì chút tình xưa còn sót lại đã bị sự điên cuồng và ác độc của bà làm tiêu tan hết, rồi mặc cho mẹ nắm lấy vạt áo ông ta khóc lóc, Hoàng Đế lạnh lùng đá văng mẹ ra, xông xông bỏ đi.

Di Bành ôm lấy Đồng Ngư thị, vừa khóc vừa gọi như điên cuồng, “Mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi, mẹ còn chưa chứng kiến mụ đàn bà trong Triêu vân điện kia chết kia mà, chẳng phải mẹ nói sẽ không tha cho bà ta ư? Mẹ mở mắt ra đi, con nhất định sẽ giúp mẹ giết bọn chúng, giết sạch bọn chúng, không chừa một mống, con nhất định sẽ báo thù cho hai huynh…”

Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.

Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.

Hoàng Đế sầm mặt ra lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”

Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”

Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy tới trước mộ cha mẹ nhé.”

Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”

Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”

A Hành biết Hoàng Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc gia sẽ loạn.

Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.

A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra, toan kéo Xương Phó lại.

Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”

Thấy Chuyên Húc được đưa đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng, chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”

A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.

Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.

A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật, khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.

Chuyên Húc khóc ré lên gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của Đại bá vậy.

Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước, từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi người ở đó.

A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”

Xương Phó nhoẻn cười rạng rỡ, buông mình rơi xuống mộ huyệt tối đen sâu hút.

Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”

Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.

Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.

Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.

Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”

A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.

Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu nổi.

Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?

Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau, tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi. Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.” Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời, giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.” Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa, chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”

Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.

Hoàng Đế đẩy cửa ra, liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ. Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.

Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?

Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.

“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”

Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”

“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn, vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”

“Bệnh tình bà ấy thế nào?”

“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”

“Rốt cuộc là sao?”

Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”

Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.

Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song cửa.

Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.

Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở đây?”

Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.

Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.

Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc, nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo lắng.

Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.

Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.

Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói thật. Nhìn tình trạng Luy Tổ, lại nhìn dáng vẻ A Hành, y hiểu Luy Tổ e rằng chỉ còn sớm tối.

Như ý nguyện của y, cả Hiên Viên và Thần Nông đều tổn thất không nhỏ, nhưng y chẳng hề thấy vui vẻ chút nào.

Mỗi lần A Hành chìa tay ra cầm nắm gì đó, y lại trông thấy bàn tay mất đi ngón út của nàng, trái tim bất giác nhói lên, như thể ngón tay bị cắt đứt là của y vậy.

Vô vàn đom đóm múa lượn trên bãi cỏ, tỏa sáng lập lòe, tựa như vô vàn vì sao nho nhỏ lung linh, y tiện tay bắt lấy một con, nắm trong lòng bàn tay như một ngọn đèn nhỏ xíu, dưới ánh trăng mờ mờ, rất nhiều chuyện xưa chợt hiện ra.

Y nhớ lần đầu tiên gặp Xương Ý, Xương Ý còn ngượng ngập nấp sau lưng Thanh Dương, ngọng nghịu gọi “Thiếu Hạo ca ca”; nhớ lúc y, Thanh Dương và Vân Trạch uống rượu, Xương Ý đều ngoan ngoãn ngồi một bên, cặp mắt sáng rực chăm chú nhìn bọn họ; nhớ hồi nhỏ Xương Ý cầm thanh kiếm, y lại cầm tay Xương Ý, dạy Xương Ý chiêu kiếm đầu tiên, trong khi Thanh Dương đứng bên cạnh vỗ tay cổ vũ, Xương Ý cũng cười nói “Cám ơn Thiếu Hạo ca ca”; nhớ sau khi Vân Trạch qua đời, Thanh Dương bị giam ở Lưu Sa, Xương Ý cuống quýt chạy tới tìm y, khóc lóc, “Thiếu Hạo ca ca, huynh mau tới thăm Đại ca đi, Đại ca sắp chết rồi.”

Y cũng nhớ lần đầu tiên gặp A Hành, khắp người nàng toàn là máu, nằm lịm trên tế đài. Lúc bế nàng lên, lòng y chợt rung lên một cảm giác vi diệu, thiếu nữ này là tân nương của y đấy ư? Đột nhiên, y bỗng lạnh người vì sợ, suýt nữa y đã đến muộn một bước rồi.

Từ Ngọc sơn về đến Triêu Vân phong, A Hành cùng y trò chuyện thâu đêm dưới bầu trời đầy sao sáng, tuy nàng cố làm bộ tự nhiên, nhưng cứ nhấp một ngụm rượu, nàng lại đỏ bừng mặt. Có lẽ biết được vẻ thẹn thùng kia là do mình, nên y chẳng dám nhìn lâu.

Trong Thừa Hoa điện, y cùng nàng nắm tay du ngoạn, gảy đàn thưởng nhạc, trồng cây ngắm hoa, ủ rượu chuốc chén, vốn chỉ để che mắt người đời. Nhưng tiếng đàn ấy vì có nàng thưởng thức, nên mới du dương thánh thót, hoa trong vườn vì có nàng nắm tay cùng ngắm nên mới diễm lệ vô song, rượu ngon y ủ vì có nàng cùng uống cùng say nên mới đượm nồng thơm ngát. Nàng cười, nàng cau mày, nhất cử nhất động của nàng đều tươi tắn sinh động, biến cả tòa cung điện vắng lạnh mênh mông thành một ngôi nhà, y vì nàng mà vui vẻ, vì nàng mà tươi cười, tất cả đều là chân thành, quãng thời gian sớm tối bên nhau đó, tuyệt không giả dối.

Dưới Ngu uyên, trong bóng đêm tăm tối tưởng chừng nuốt trọn được tất cả, y nhắm mắt chờ chết, vậy mà A Hành đã đi rồi còn quay lại vì y, xưa nay nàng chẳng thề hẹn gì với y, vậy mà nàng vẫn không lìa bỏ. Lần ấy, tuy y ở trong bóng tối nhưng lại cảm nhận được ánh sáng, còn lần này, y đang nắm lấy ánh sáng, vậy mà chỉ cảm thấy đêm tối mịt mùng.

“A Hành!”

Y nắm lấy gấu quần xanh biếc lướt qua bên mình, định giải thích, định cứu vãn, nhưng chính y cũng chẳng biết phải nói gì. Giải thích rằng y không hề muốn Xương Ý chết ư, hay phân bua rằng y không ngờ Xương Ý lại cố chấp đến vậy, rõ ràng đã nhận được tin, có thể đi trước nhưng lại không chịu sống nhục, càng không ngờ Xương Phó lại cương liệt đến thế, quyết không sống một mình.

“Buông ra!”

A Hành ra sức giật gấu quần ra, Thiếu Hạo không nói một lời, nhưng bất kể thế nào cũng không chịu buông.

A Hành rút phắt chủy thủ ra, đó chính là thanh chủy thủ y và nàng cùng rèn làm quà kết hôn cho Xương Ý và Xương Phó, cũng là thanh chủy thủ hôm nay Xương Phó dùng để tự vẫn, trên chủy thủ vẫn còn vệt máu. Thiếu Hạo run bắn lên, vật còn đây mà người đã mất, lời chúc phúc năm ấy y đích thân rèn lên, giờ đây, chỉ còn như một lời châm chọc.

A Hành nắm chủy thủ bằng bàn tay chỉ còn bốn ngón, chủy thủ lướt qua chiếc quần, nửa ống quần lập tức bị cắt lìa. Trong nháy mắt, bóng nàng đã xa tít.

Thiếu Hạo nắm lấy nửa ống quần, bất lực thõng tay xuống.

Từ nay về sau, ân đoạn nghĩa tuyệt!

Tất cả chẳng còn cách nào cứu vãn nữa!

Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý, Xương Phó, từng người lần lượt ra đi mãi mãi, A Hành cũng kiên quyết rời bỏ y!

Trong rừng dâu, Xi Vưu đang đứng tực vào một thân cây, lặng lẽ nhìn Thiếu Hạo và A Hành.

Biết được hôm nay là ngày đưa tang Xương Ý, hắn không yên tâm về A Hành nên định tới xem thử, nào ngờ lại nghe nói Xương Phó tự vẫn. Hắn vốn không định lên Triêu Vân phong, không phải vì sợ, mà e sự xuất hiện của mình sẽ làm A Hành đau khổ, giờ đây những đau khổ mà nàng phải gánh chịu đã quá nhiều, hắn chỉ muốn xác nhận rằng nàng bình an, rồi sẽ âm thầm quay về.

Nhưng nàng chẳng hề bình an, Xi Vưu cũng chẳng đành lòng bỏ đi, đành ẩn mình giữa rừng dâu, nấp trong bóng tối bầu bạn với nàng. Nhìn đám thầy thuốc lũ lượt ra vào Triêu Vân điện, tuy không nghe được thầy thuốc nói gì, nhưng nhìn dáng vẻ A Hành, hắn cũng có thể đoán được, bệnh tình Luy Tổ nhất định không nhẹ.

Cỏ dại mọc đầy dưới nền đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.

Nàng định đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy, chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi xuống hố băng vậy.

Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn trương, quên cả thu liễm khí tức.

Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo như không khí, kéo nàng đứng dậy.

A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo, dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.

Xi Vưu ôm lấy A Hành, không nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.

A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn độc lạnh lẽo nữa.

Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt vẫn tan tác hư vô.

Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y đã hoàn toàn tắt lịm!

Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.

Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.

Hoàng Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.

Tiểu Tông Bá giục giã mấy lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn: “Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”

Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.

Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại. Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.

Tiểu Tông Bá nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”

“Nhưng còn giờ giấc…”

Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”

Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.

Hoàng Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn, khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.

Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.

Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.

Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”

A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây diễu võ dương oai chứ gì?”

A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”

Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”

“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”

“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”

A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành, hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta. Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”

A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”

Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”

“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời tặng lại cho ta.”

Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”

“Ta biết, nhưng ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”

“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”

“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ, rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”

Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”

Sống đã chẳng có gì vui, thì chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”

A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.

Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.

Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.

A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.

“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”

Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.

A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.

“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.

A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương, giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.

Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.

Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.

Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.

Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.

Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.

Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.

Mỗi lúc ăn cơm cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta, cùng mím môi cười vụng.

Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy mau, chạy mau!”

Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành, nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến mà bắt tao đây này!”

Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được, móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu ca, huynh có đau không?”

Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”

Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.

May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.

Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…

Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.

“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.

A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.

Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”

Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”

“Cửu ca, Cửu ca…”

A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.

Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.

“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.

Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.

A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!

Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!

Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…

Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.

Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.

Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?

Trong tiếng nhạc ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”

Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”

“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.

Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.

Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn lưỡi, gắng gượng đứng vững.

Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”

Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”

“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”

Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.

A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.

Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.

A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.

Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.

“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.

Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.

Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.

Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”

Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”

A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”

Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”

Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ, hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được, ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời, Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 15: Đương quyến luyến, hiệu kèn đã giục

Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong rằng nàng cũng sẽ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, vậy mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?”

Từ sau khi Du Võng bị chém đầu trước trận tiền, sĩ khí quân Thần Nông tan tác, lòng dân phân tán, liên tiếp thua trận, nhưng cái chết bi thảm của Chúc Dung đã khiến tất cả dân Thần Nông phấn chấn tinh thần, giống như đương lúc bị dồn vào đường cùng, lại nghe thấy tiếng kèn lệnh xung phong hùng dũng vậy.

Chúc Dung chẳng những đã đem thân mình thắp sáng núi lửa, mà còn thắp sáng lên vô số ý chí phản kháng của nam nhi Thần Nông. Tuy Thần Nông quốc đã tan rã, nhưng dân chúng Thần Nông còn đó. Vô số người ùn ùn từ bốn phương tám hướng đổ về, phất cao ngọn cờ chống đối, dùng máu và mạng sống để chống lại Hoàng Đế.

E rằng chính Chúc Dung cũng không tưởng tượng nổi, cái chết của hắn có thể xoay chuyển hoàn toàn cục thể đại hoang, cuộc đấu tranh của hai phe Viêm, Hoàng từ đây bắt đầu kéo dài suốt mấy trăm năm, vô số nam nhi đã khảng khái hy sinh, làm nên một trang sử bi tráng hào hùng nhất trong lịch sự Thần tộc. Đến nỗi sau này khi Chuyên Húc đăng cơ trở thành Thiên đế, cắt đứt giao lưu giữa trời và đất, đốt hết điền tịch, thì câu chuyện về cuộc đại chiến của Thần tộc vẫn còn lưu truyền giữa nhân gian.

Khác hẳn Chúc Dung, Hoàng Đế đã lường trước cục diện ngày nay, nên ông nhất quyết không dám bại, bèn lựa cách mềm mỏng để đối phó Chúc Dung. Nhưng người tính chẳng bằng trời tính, Chúc Dung lại dùng một đám cháy kinh thiên động địa thắp lên cả Thần Nông. Thần Nông hiện giờ tựa như những con suối nhỏ róc rách đang dần dần hội tụ lại thành dòng sông lớn cuồn cuộn chảy, đợi sĩ khí của chúng tụ lại rồi bùng phát, chi bằng ra tay tấn công ngay khi chúng còn chưa hoàn toàn tụ lại, nắm lấy quyền chủ động.

Hoàng Đế lệnh cho Hiên Viên Hưu và Thương Lâm tấn công Trạch Châu thành.

Hiên Viên Hưu dẫn hai vạn tinh nhuệ Hiên Viên, bày trận thế công thành, bắt đầu tấn công.

Theo thông lệ, Trạch Châu là cứ điểm quân sự quan trọng, có ưu thế về địa lý, chỉ cần tử thủ trong thành lấy tĩnh chế động là ổn. Làm vậy vừa phát huy được trọn vẹn ưu thế của tòa thành này, vừa có thể giảm thiểu thương vong, tiết kiệm binh lực. Nào ngờ Xi Vưu chơi cờ chẳng buồn tuân theo luật lệ gì hết, lại dẫn một cánh quân chừng trăm người xông ra, chính diện giao phong với đại quân Hiên Viên.

Nhờ quân số ít, hành động thần tốc, tấn công hay tập kích đều hết sức mau lẹ, lại thêm Xi Vưu khí thế dũng mãnh, tựa như mãnh hổ hạ sơn, xông xáo khi bên trái lúc bên phải, đánh cho đội hình hai vạn người của Hiên Viên rối loạn cả lên, giết liền một lúc hơn hai ngàn người. Đợi Hiên Viên Hưu kịp phản ứng, khống chế quân đội, hạ lệnh bao vây tiêu diệt Xi Vưu thì hắn đã rút trở vào thành như gió lốc.

Vừa đụng độ một trận, khí thế đã nghiêng về phía Xi Vưu, Hiên Viên Hưu nháo nhác gào lên đòi chính diện giao chiến, nhưng bất luận hắn ở trước cổng thành chửi rủa thế nào, Xi Vưu cũng chỉ cười hề hề đứng trên đầu thành nhìn xuống như đang ngắm cảnh.

Xi Vưu còn cho người đem hơn hai ngàn đầu lâu vừa chém xuống, chưa khô hết máu, xâu lại thành từng chuỗi, mỗi chuỗi trăm cái, treo trên đầu thành, máu nhuộm đỏ thẫm cả tường thành nâu xám.

Binh sĩ Hiên Viên trông thấy chuỗi đầu lâu lõng thõng trên đầu thành, không rét mà run, vừa hận vừa sợ Xi Vưu.

Những ngày này, mỗi lần Hiên Viên và Thần Nông giao tranh, số đầu lâu treo trên thành lại tăng lên, tựa như những chiếc đèn lồng lắc lư trên cao vậy, hết lớp này say lớp khác, sin sít dày đặc, ngay cả kẻ to gan nhất trông thấy cũng phải giật thót mình.

Thoạt đầu, hành vi ngông cuồng tàn nhẫn của Xi Vưu đã chọc giận binh lính Hiên Viên vốn nổi danh dũng mãnh, khiến đấu chí của họ bốc cao ngùn ngụt, quyết lấy mạng Xi Vưu, trả thù cho đồng đội. Nhưng chiến thuật của Xi Vưu biến hóa đa đoan, khi hung mãnh như hổ, lúc kín đáo như rắn, khi lại giảo hoạt như hồ ly, bất luận binh sĩ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến chừng nào, số đầu lâu trên tường thành không ngừng tăng lên từng ngày.

Cảm giác của binh lính Hiên Viên đối với Xi Vưu càng ngày càng phức tạp, thoạt đầu họ tưởng Xi Vưu là một tảng đá, chỉ cần dốc sức là có thể khiêng đi, về sau họ lại phát hiện Xi Vưu là một ngọn núi, không cách nào lay chuyển được, họ cứ ngỡ chỉ cần tìm được chiến thuật thỏa đáng, đồng tâm hiệp lực, nhất định có thể vượt qua Xi Vưu, nhưng bất luận họ trèo thế nào, dùng phương pháp gì cũng vậy, càng leo lên cao thì càng nhận ra Xi Vưu đang ở cao hơn, vả lại bất cứ lúc nào hắn đều có thể lắc mình biến thành vực sâu, khiến bọn họ từng người ngã xuống chết.

Các chiến sĩ Hiên Viên tộc từ nhỏ đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi, dân chúng hiếu chiến, tính tình dũng mãnh, kẻ càng dũng mãnh càng không biết sợ, nhưng một khi có kẻ dũng mãnh hơn khiến bọn họ sợ hãi, thì nỗi sợ hãi đó còn có sức uy hiếp hơn cả tử vong. Dù ngoài miệng họ không chịu thừa nhận, nhưng nỗi sợ hãi cũng giống như ôn dịch, chưa nảy sinh thì không sao, một khi nảy sinh rồi, liền cứ thế lan ra, không cách nào không chế.

Cứ gián đoạn như thế, chiến dịch này đã kéo dài hơn một năm. Hiên Viên Hưu tổ chức hai đợt tấn công lớn cùng vô số đợt tấn công nhỏ, hết thảy đều bị Xi Vưu đập tan. Trạch Châu thành vẫn sừng sững đứng đó, chẳng hề suy suyễn, có chăng là số đầu lâu treo trên tường thành đã tăng lên đến hơn một vạn chiếc.

Treo lủng lẳng hơn một vạn đầu lâu trước thành, Trạch Châu thành trở nên đáng sợ hơn cả Ma vực Ngu uyên, mỗi lần nhác thấy bóng áo đỏ của Xi Vưu đứng trên đầu thành, mọi người đều như thấy Ma vương xuất hiện, cần cổ bất giác lạnh buốt, tựa hồ đã bị thanh trường đao của Xi Vưu cắt mất đầu vậy.

Một sớm nắng đẹp, Xi Vưu đứng trên đầu thành vươn vai, nheo mắt nhìn vầng thái dương xán lạn một lát, đột ngột hạ lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Mở hết các cửa thành ra, dẫn mọi người cùng tấn công.”

Vũ Sư và Phong Bá mừng rỡ hô vang, chia nhau đi gọi các huynh đệ.

Binh sĩ Hiên Viên trợn mắt há miệng nhìn tất cả các cánh cửa thành lần lượt mở ra – họ vất vả giành co tại nơi này suốt một năm cũng chỉ vì mục đích ấy. Giờ đây cửa thành đều đã mở, nhưng họ lại thấy ớn lạnh.

Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao xông ra khỏi thành, quân đội Thần Nông đông như kiến cũng từ trong thành tràn ra, như một bầy dã thú bị nhốt trong chuồng lâu ngày, con nào con nấy đều dũng mãnh vô song, khiến binh sĩ Hiên Viên tộc phát hoảng, không sao chống cự nổi, đành liên tiếp thoái lui.

Chiều hôm ấy, Hoàng Đế nhận được tin Hiên Viên đại bại. Hơn tám vạn chỉ còn chưa đến bốn vạn người.

Nỗi sợ hãi nhanh chóng như ôn dịch lan ra, từ chiến trường truyền đến cả Hiên Viên quốc. Trong quân doanh, các binh sĩ đều thao thao kể chuyện, sinh động như thật, nói mỗi lần Xi Vưu giết một người, hắn đều tắm trong máu người đó, giết càng nhiều người thì linh lực càng tăng cao. Cùng với những lời đồn đại, hình ảnh Xi Vưu trong lòng binh sĩ Hiên Viên vừa là tên ác ma tàn độc hung ác, vừa là vị chiến thần không thể đánh bại.

Mất thành trì đất đai cũng chưa phải điều đáng lo nhất, Hoàng Đế e ngại nhất là nỗi kinh hoàng của binh sĩ đối với Xi Vưu. Hơn ai hết, ông hiểu rõ sức mạnh của nỗi sợ hãi, chẳng phải Thần Nông vì sợ hãi mà tan rã trong một đêm đó ư? Trước đây, Hiên Viên liên tiếp giành thắng lợi, quyết không phải vì chiến sĩ Hiên Viên thiện chiến hơn chiến sĩ Thần Nông, mà chỉ bởi bọn họ tin rằng mình sẽ thắng, hai bên giao đấu, kẻ gan dạ hơn tất thắng.

Hoàng Đế hạ lệnh, hễ phát hiện kẻ nào bàn tán về Xi Vưu, liền định tội nói nhảm dụ người, lập tức nghiêm trị, nhưng chính ông cũng biết đây chỉ là uống rượu độc giải khát, tạm thời thì hữu hiệu, còn về lâu về dài, càng cấm đoán sẽ càng khiến mọi người sợ Xi Vưu.

Chỉ chiến thắng mới có thể đập tan nỗi sợ!

Hoàng Đế phái thêm đại quân, lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng, hai phụ tá đắc lực của mình cầm quân, dẫn mười hai vạn người vây đánh Xi Vưu.

Hơn một năm sau, Hiên Viên tiếp tục đại bại, mười hai vạn quân chỉ còn lại năm vạn, bị Xi Vưu dồn đến Phản Tuyền.

Tin báo về Hiên Viên thành, Hoàng Đế thất thần đến nổi bủn rủn ngồi phịch xuống sập.

Phản Tuyền! Được Phản Tuyền thì được Trung Nguyên. Mất Phản Tuyền thì mất Trung Nguyên! Ông không thể để mất Phản Tuyền được!

Nhưng hiện giờ sĩ khí Hiên Viên đang suy yếu, trong khi sĩ khí Thần Nông lại tăng cao. Binh sĩ Hiên Viên chẳng có tình cảm gì đối với Phản Tuyền nên không có động lực tử thủ. Nhưng đối với binh sĩ Thần Nông, Phản Tuyền lại là cố hương của họ, Viêm Đế Du Võng cũng chết tại Phản Tuyền, nên đó còn là mảnh đất ô nhục của Thần Nông tộc. Con người ta vì hổ thẹn mà dũng mãnh, binh sĩ Thần Nông ắt không tiếc bất cứ giá nào để đoạt lại Phản Tuyền, rửa mối nhục khi xưa.

Đôi bên giao tranh, ai thắng ai thua dường như chỉ thoáng qua đã rõ cả rồi.

Vì binh lực không đủ, Hoàng Đế chẳng còn lòng dạ nào lo lắng Cộng Công nữa, bèn triệu hồi quân đội đang truy kích Cộng Công tăng cường cho Phản Tuyền, lại hạ tử lệnh cho Ly Chu và Tượng Võng phải tử thủ tường thành, không được ra ngoài nghênh chiến, nếu không giữ được Phản Tuyền thì cả hai đừng về nữa.

Nhưng Hoàng Đế cũng biết, đây chỉ là kế tạm thời mà thôi. Trừ khi viên đại tướng cầm quân khích lệ được sĩ khí của binh sĩ Hiên Viên, đập tan nỗi sợ hãi của họ đối với Xi Vưu. Nhìn khắp Hiên Viên quốc chỉ có hai người làm được điều này: người thứ nhất là Thanh Dương, người thứ hai là Hoàng Đế. Có điều ai cũng biết, Thanh Dương đang bị trọng thương không cách nào cầm quân tác chiến được.

Hoàng Đế bước vào Binh Khí thất trong Hiên Viên sơn, đám tùy tùng định vào theo nhưng Hoàng Đế xua tay, ý bảo họ chờ bên ngoài.

Hoàng Đế trọng võ nên Binh Khí thất được xây dựng xa hoa hơn cung điện nhiều, bố cục hình chữ nhật, ở giữa để trống, dưới đất nạm ngọc tủy của Ngọc sơn, trần nhà lại dùng thạch anh Quy khư, hai bên trái phải bày đầy những vũ khí và khôi giáp, thoạt nhìn có vẻ rất nhiều nhưng thực tế là chỉ đủ cho hai người sử dụng. Khôi giáp vũ khí bên tay trái là của ông, còn bên phải là của Luy Tổ. Những bộ khôi giáp bên trái đều được pha lẫn hoàng kim vào đúc, còn bên phải thì pha bạch ngân, lấp loáng chói lọi, một bên ánh vàng lóa mắt, một nên ánh bạc lung linh, ánh chiếu lẫn nhau, sáng rực cả phòng.

Hoàng Đế bước sang trái, quan sát kỹ từng bộ khôi giáp, mãi đến khi chọn được một bộ ưng ý. Ông tỉ mỉ lao chùi bộ khôi giáp đó, lau xong ngắm kỹ lại, mới nhận ra đó là bộ khôi giáp đầu tiên của mình.

Mấy ngàn năm trước, bản đồ lãnh thổ Hiên Viên ngày càng mở rộng, thì kẻ địch mà bọn họ phải đối mặt lại càng hùng mạnh, một đám thanh niên vừa có chút danh tiếng hi hi ha ha nói phải rèn cho ông một bộ khôi giáp ra dáng, bằng không sẽ rất mất mặt mỗi khi ra ngoài! Từng người lần lượt lấy ra những thứ bảo bối mình cất giữ bao năm nay, sau đó lại tranh cải ỏm tỏi không biết phải chọn chất liệu, màu sắc và hình dạng ra sao, chợt A Luy từ đầu chí cuối vẫn lặng thinh đột ngột lên tiếng, nói khôi giáp nên để thuần một màu vàng rực, chói lòa như vầng thái dương vậy, một khi xuất hiện sẽ giống như mặt trời ló dạng, khiến tất cả mọi người trên chiến trường đều trông thấy.

Ai nấy nhao nhao phản đối, nói nếu quá thu hút, chẳng phải sẽ trở thành đích nắm cho quân địch hay sao?

A Luy chẳng buồn cãi lại, chỉ đưa mắt nhìn ông. Ông liền mỉm cười, sang sảng tuyên bố, cứ dùng thuần một màu vàng rực như lời A Luy đi!

Mấy ngàn năm sau, bộ giáp vàng của ông đã trở thành dũng khí cho Hiên Viên tộc. Mấy lần rơi vào tuyệt cảnh, toàn quân sắp bị diệt tới nơi, nhưng chỉ cần ông mặc khôi giáp xông lên chiến trường, các chiến sĩ Hiên Viên ở bất cứ đâu cũng đều trông thấy, đều biết rằng tộc trưởng của họ không hề chùn bước, những chiến sĩ dũng mãnh can đảm nhất thế gian ấy sẽ lại theo ông chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.

Đối với tất cả chiến sĩ Hiên Viên, bộ giáp vàng ấy còn chói lọi hơn cả mặt trời, bởi nó có thể soi sáng dũng khí của họ, nhưng đối với kẻ địch, bộ giáp vàng lại là biều tượng của tử vong, ánh sáng rọi tới đâu, nỗi kinh hoàng sẽ lan tới đó.

Hoàng Đế lại quay sang nhìn một dãy khôi giáp bày đầy bên phải, phía sau mỗi bộ khôi giáp là một trận huyết chiến. Bộ giáp vàng chói lọi đến nỗi người ta nhăng mắt, bóng áo giáp bạc đứng khuất sau vầng thái dương, nhưng những kẻ từng bôn ba chinh chiến, tắm máu sa trường như họ đều hiểu cả.

Sau khi Hiên Viên lập quốc, đã mấy lần ông định bỏ đám khôi giáp bên phải này đi, nhưng đều gặp phải sự phản đối kịch liệt của Tri Mạt. Tượng Võng đứng về phía của Tri Mạt, chỉ riêng Ly Chu không lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng chẳng tán đồng. Qua đó, ông biết được địa vị của Luy Tổ trong lòng bọn họ vẫn không hề suy suyển.

Suốt ngàn năm ấy, đây là lần đầu Hoàng Đế nhìn kỹ lại những bộ giáp vàng giáp bạc của hai người.

Ông bước đến trước một tấm nhuyễn y màu bạc rất rộng, chuyện xưa lại chợt cuộn lên trong lòng, chiếc áo này không phải áo giáp, nhưng đáng sánh ngang với tất cả áo giáp ở đây.

Thụ Sa quốc và ba bộ tộc khác liên kết lại vây đánh Hiên Viên quốc, A Luy lúc đó đang có mang Thanh Dương, không thể ra trận, ông bèn phái thị vệ hộ tống nàng tránh vào tận trong núi sâu. Sau mấy ngày kịch chiến, ông rơi vào Lưu Sa trận, bị trận thế lôi kéo, bộ giáp vàng càng lúc càng nặng trịch, Ly Chu khuyên ông cởi giáp mà chạy, nhưng ông biết rõ là mình không thể. Chừng nào ông chưa cởi áo giáp, tất cả các binh sỹ còn bám vào chút hy vọng mong manh ông đem lại mà kiên trì chiến đấu, một khi áo giáp cởi ra rồi, chắc ông có thể chạy thoát, nhưng Hiên Viên tộc sẽ chấm dứt ở đây.

Trong Lưu Sa trận mù mịt cát vàng, dần dà che mờ cả ánh sáng chói lòa của áo giáp vàng. Khi tất cả mọi người tưởng như đã tuyệt vọng, chợt ông nhác thấy một vệt sáng bạc lấp lánh vụt qua chân trời. Thoạt tiên ông ngỡ ngàng mình hoa mắt, nhưng một thoáng sau, ông trông thấy A Luy vận tấm áo mềm dệt từ tơ tằm bạc, cưỡi trên Tứ Si Bạch nga (Bướm trắng bốn cánh) đã bị bịt hai mắt dẫn theo năm trăm binh sĩ mượn được từ Xích Thủy thị băng băng chạy tới.

Chỉ trong chớp mắt, toàn thân ông chợt căng tràn sinh lực, liền giơ tay hô vang, xốc lại sĩ khí toàn quân. Nhân lúc kẻ địch kinh hoàng thất thố, mà khí thế quân ta lại đang lên, ông và A Luy nội ứng ngoại hợp, cuối cùng chuyển bại thành thắng. Trận ấy không chỉ khiến Thụy Sa quốc quy thuận Hiên Viên mà còn có tác dụng răn đe, khiến các quốc gia miệt Tây Bắc không dám xâm phạm Hiên Viên nữa.

Hoàng Đế khẽ miết tay lên tấm nhuyễn giáp màu bạc, chỉ thấy lạnh thấu xương. Mới thế mà đã mấy ngàn năm rồi!

Hoàng Đế ra khỏi Binh Khí thất, men theo con đường mòn trên núi, đám tùy tùng toan đi theo đều bị ông ngăn lại: “Ta muốn đi một mình.”

Cứ dọc theo con đường mòn trong núi sẽ đến một hang động khuất nẻo có lối thông thẳng đến Triêu Vân điện, đây là thông đạo bí mật mà năm xưa khi xây điện ông đã phát hiện ra.

Phía sau Triêu Vân điện um tùm cỏ dại vì nhãng sửa sang. Hoàng Đế băng qua đám cỏ hoang lúc đầu gối, lặng lẽ đi thẳng đến sương điện.

Phượng hoàng trong sân đang nở rộ, đỏ rực cả tàng cây, từng chùm hoa rủ xuống trĩu cành, mỗi trận gió nhẹ thổi qua lại cuốn theo một cơn mưa hoa lả tả.

Trên cây mắc một chiếc đu, Cửu Dao đang đứng trên đó, vừa đu vừa gọi: “Bà ngoại, xem cháu này, bà xem, cháu đu cao hơn ngọn cây rồi này!”

Dưới hiên nhà kê một chiếc sập gỗ dâu, Luy Tổ dáng vẻ tiều tụy, mái tóc bạc trắng đang ngả mình trên sập, tựa hồ thiêm thiếp ngủ, nhưng mỗi khi nghe Cửu Dao gọi, bà lại hé môi cười.

Chuyên Húc ngồi xếp bằng dưới đất, tựa mình vào chân sập, cúi đầu đọc sách.

Chu Du và Vân Tang mỗi người bưng một chiếc giỏ trúc ngồi trên thềm đá, vừa lựa chồi non, vừa bàn xem tối nay ăn gì.

“Bác ơi, nhìn con đi”

“Ta thấy rồi, thấy rồi, con đu cao hơn ngọn cây chứ gì.” Vân Tang cười nói

“Biểu ca…”

Chuyên Húc giơ tay bịt tai, làm bộ không muốn nghe.

Cửu Dao đu lên đến đỉnh, đột nhiên buông đu nhảy xuống, ngắt một đóa Phượng Hoàng hoa trên ngọn cây, tà tà đáp xuống, được nửa chừng, bỗng cô bé vung tay ném cành hoa vào đầu Chuyên Húc, vênh vênh đắc ý.

Chuyên Húc khinh khỉnh lườm Cửu Dao, đột ngột từ dưới đất vọt lên tuốt ngọn cây, bẻ một đóa Phượng Hoàng hoa, rồi ung dung xoay người, vững vàng đáp xuống.

Cửu Dao đầy vẻ hậm hực, đang định bật lại thì A Hành ra tay can thiệp: “Không được cãi nhau! Hai đứa giỏi thế thì động tay động chân vào rừng dâu nhặt ít lá khô đi, bà thích uống canh cá hấp lá dâu.”

Cửu Dao ủ rũ gục mặt xuống, nguýt Chuyên Húc một cái, làu bàu: “Tại huynh hết.”

Chuyên Húc rất nghe lời, lập tức xách sọt chạy vào rừng dâu, còn Cửu Dao lại tức tốc chạy đến bên Luy Tổ, tấn công: “Bà ngoại, canh cá hôm nay là con nấu cho bà đấy, bà uống nhiều vào nhé.”

Vân Tang và Chu Du nghe vậy cười phá lên, Hoàng Đế cũng không nhịn được lắc đầu cười, con nhỏ này quả có tố chất làm gian thần, chuyên nịnh nọt bề trên, nói không thành có, vơ hết công lao vào mình.

Thấy mặt trời đã khuất núi, hơi ẩm dưới đất sắp bốc lên, A Hành bèn cùng Chu Du bê chiếc sập gỗ dâu vào nhà.

Cửu Dao nằm ườn trên sập, tựa vào người bà ngoại, lẩm bẩm nói gì đó. Động chân động tay? Động chân động tay nỗi gì? Bà ngoại kéo bé lại nói chuyện cơ mà!

Vân Tang đứng dậy, giũ hết những phiến lá vụn bám trên gấu váy, xách giỏ trúc bước vào sương điện, không quên ném lại một câu qua cửa sổ: “Tiểu Dao, khi nào con đi nấu canh cá?”

Cửu Dao làm mặt quỷ với Vân Tang.

Chuyên Húc đã bê sọt lá về, Chu Du đang hấp cá trong sân còn Vân Tang làm cơm dưới bếp.

Mùi khói bếp lan tỏa trong không gian – đối với Hoàng Đế lại vô cùng lạ lẫm, đã bao lâu rồi chưa ngửi thấy mùi này? Thậm chí ông còn chẳng biết nhà bếp trong cung ở đâu nữa. Nhưng đối với Hoàng Đế, thứ mùi này cũng rất thân quen, trước đây, tất cả những thứ này đều gắn bó với ông hằng ngày, ông còn nhớ, chính mình đã dạy A Luy hấp cá, chứ Tây Lăng đại tiểu thư ngày ấy chỉ biết ăn, nào biết hấp cá gì.

A Hành vào bếp phụ Vân Tang, còn Chuyên Húc và Cửu Dao ngồi chồm hổm bên sập của Luy Tổ nô đùa, lấy cuống lá dâu chơi kéo co, ai thua bị búng mũi, Luy Tổ làm trọng tài, giám sát cả hai đứa.

Bóng tối dần buông, cơm chiều đã dọn, mọi người đều vào nhà, chỉ để lại một khoảnh sân vắng tanh, lặng ngắt, tối mù.

Trong phòng sáng rực ánh đèn, cả nhà đang quay quần quanh Luy Tổ.

Cánh tay Luy Tổ cử động khó khăn nên A Hành phải bưng bát bón cho bà, như cho trẻ con ăn vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, Hoàng Đế chợt thấy sống mũi cay cay, người đàn bà kia một thuở từng mặc khôi giáp, xuất lĩnh thiên binh vạn mã, oai phong lẫm liệt mà!

Dùng cơm xong, A Hành và Vân Tang lại cùng Luy Tổ uống trà nói chuyện. Chừng xuôi cơm, Vân Tang mới dắt bọn nhỏ đi rửa mặt nghỉ ngơi, A Hành và Chu Du ở lại chăm sóc Luy Tổ.

Sắp xếp cho mẹ nghỉ ngơi xong, A Hành bảochu Du đi nghỉ, còn nàng ngủ trên chiếc sập kê ở gian ngoài, phòng khi nửa đêm Luy Tổ có khó ở, nàng cũng tiện trở dậy săn sóc.

A Hành ngả người nắm xuống sập, vừa lật được mấy trang sách, chợt một làn gió thơm ngát lùa qua, mí mắt bỗng nặng trĩu, nàng lịm người đi, chẳng còn biết gì nữa.

Hoàng Đế đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, bước đến bên giường Luy Tổ.

Trướng rủ màn che, không trông rõ được nét mặt người bên trong.

Hoàng Đế đứng ngoài màn, hạ giọng nói: “Tôi biết bà đã quyết đoạn tuyệt ân tình, đành nhân lúc bà thiếp ngủ mà đến từ biệt. Hiện giờ quân đội Hiên Viên có vẻ hùng mạnh, nhưng thật sự tin tưởng được vẫn chỉ có mấy cánh quân khi xưa cùng chúng ta xông pha sa trường, tắm máu kẻ thù mà thôi, các cánh quân đầu hàng chẳng qua là thêu hoa trên gấm, chứ mong gì chúng ra tay tương trợ. Quân đội của Xi Vưu đã đến Phản Tuyền, tôi quyết định sẽ đích thân cầm quân nghênh chiến, chọn lựa cả nửa ngày mới được một bộ giáp, lại chính là bộ giáp đầu tiên các người rèn cho tôi. Bà còn nhớ năm đó mọi người đều phản đối chúng ta dùng màu vàng lóa mắt không?”

Trong người A Hành có ma lực của Ngu uyên, linh lực của Hoàng Đế vẫn chưa thể khiến nàng hoàn toàn mê mệt. Nàng sực tỉnh dậy, phát hiện chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu mở toang, bản thân lại đang ngồi lên cuốn sách ngủ mê mệt, thẻ trúc cấn vào làm ê ẩm cả mặt.

A Hành vừa toan nhỏm dậy gom đóng thẻ trúc lại, chợt ngẩng lên trông thấy một bóng người hắt lên tường. Nàng giật thót mình, vội vận lực vào bàn tay, nín thở, rón rén tiến đến, nào ngờ lại trông thấy phụ vương đang đứng trước ngay giường mẹ nàng, hình như còn chăm chú nhìn bà qua lớp rèm sa dày.

A Hành sửng sốt, không hiểu sao phụ vương nửa đêm lại lẻn vào tẩm cung của Luy Tổ, bèn len lén núp sau lớp màn che, âm thầm quan sát.

Hoàng Đế mỉm cười, khẽ lẩm bẩm một mình: “Bọn họ làm sao hiểu được, một kẻ muốn sở hữu hào quang chói lọi, ắt chẳng sợ bị thương vì ánh hào quang đó. Còn sắc màu gì chói lòa rạng rỡ hơn được ánh thái dương đây?”

Ánh mắt Hoàng Đế đầy kiên định, nhưng giọng điệu lại rất dịu dàng, như đang thổ lộ với người mình thương mến: “Thống nhất Trung Nguyên, quân lâm thiên hạ là chí nguyện từ nhỏ của tôi, nếu kiếp này chẳng được sinh ra trên Thần Nông sơn, chỉ mong rằng được chôn xác ở Phản Tuyền.” Hoàng Đế tiến lại gần, đưa tay ra, tựa hồ định vén màn lên. Lần này ly biệt, rất có thề là chia cắt muôn đời! Nhưng đột nhiên cánh tay ông khựng lại nửa chừng, vẻ mặt càng lúc càng lạnh đi, sau cùng, ông rụt phắt tay về. Thân hình thoáng cái đã ra đến ngoài sân, hai cánh cửa sổ từ từ khép lại sau lưng.

Ngoảnh đầu lại, chỉ trông thấy gió thổi trướng sa, cánh màn lay động, ánh trăng mờ ảo xóa nhòa hết thảy thời gian đằng đẵng vô tình, bóng người trên giường thấp thoáng, tựa hồ vẫn như năm ấy.

Hoàng Đế đang bàng hoàng ngơ ngẩn, chợt buông miệng: “ A Luy, ta đi đây.” Hệt như mấy ngàn năm trước, mỗi lần từ biệt ra chiến trường.

Trùng Minh điểu, mãnh cầm hàng đầu đại hoang đáp xuống, Hoàng Đế nhảy lên lưng Trùng Minh điểu, bay vút lên, biến mất sau làn mây.

A Hành liêu xiêu bước đến bên giường, phụ vương nàng đang định cầm quân xuất chinh, quyết một trận tử chiến với Xi Vưu.

Nàng yếu ớt khép chiếc vỏ sò đựng đầy dạ minh châu lại, ngồi thần người ra.

Đã mấy năm rồi nàng chưa gặp Xi Vưu, cũng chẳng nhắc nhỏm gì đến hắn, nhưng hắn vẫn luôn ở trong đáy lòng nàng, ngày đêm kề cận bên nàng.

Trước khi Tứ tẩu tự vẫn còn trối rằng Tứ ca không còn hận Xi Vưu nữa, nhưng mẹ nàng biết Đại ca đã chết, nàng sợ mẹ gặp Xi Vưu sẽ lại kích động. Bởi thế, lần trước khi Xi Vưu đến tìm, nàng đã nài nỉ hắn đừng lên Triêu Vân phong nữa.

Mấy năm nay, có nàng chăm sóc, những tháng ngày cuối đời của mẹ thật thực bình lặng yên ổn.

Nàng cũng cố không màng đến cuộc chiến của Xi Vưu và Hiên Viên, chỉ biết rằng hắn liên tiếp thắng lợi.

Nhưng hiện giờ, phụ vương nàng lại định cầm quân xuất chinh, giao tranh với Xi Vưu!

A Hành đột ngột đứng bật dậy, nhanh nhẹn bước ra ngoài đánh thức Chu Du, dặn ả săn sóc cho Luy Tổ.

Chạy đến chỗ Vân Tang, chỉ thấy trên chiếc giường ở gian ngoài có một tấm chăn cuộn lại, nhưng chẳng thấy Vân Tang. A Hành không kịp nghỉ ngợi nhiều, đi thẳng vào gian trong, thấy Chuyên Húc và Tiểu Yêu đang nằm cạnh nhau say giấc nồng. Nàng hiện tại vớ tấm áo choàng quấn lấy Tiểu Yêu, cưỡi lên Lang điểu do Liệt Dương hóa thành, bay thẳng đến Phản Tuyền.

Từ sau khi rời khỏi Ngu uyên, trong cơ thể của Liệt Dương đã ngưng tụ ma lực, tuy tốc độ không bì được với Tiêu Dao, nhưng cũng hơn xa các loại tọa kỵ khác.

Đại quân Xi Vưu đóng bên ngoài Phản Tuyền, giằng co với đội quân của Hoàng Đế trong Phản Tuyền thành.

Trong trướng đèn đuốc sáng trưng, mấy viên đại tướng Thần Nông, cả Tứ vương cơ Mộc Cận đều có mặt.

Nghe Phong Bá, Vũ Sư báo cáo tình hình hằng ngày xong, Xi Vưu lên tiếng: “Nhất định Hoàng Đế không bỏ được Phản Tuyền, giờ Thanh Dương đang trọng thương, không thể ra trận, cả Hiên Viên quốc chẳng còn đại tướng nào đủ sức đối đầu với ta, theo ta đoán, chắc Hoàng Đế sẽ cầm quân thân chinh ra trận.”

Vũ Sư làm thinh không nói, Phong Bá lộ vẻ đăm chiêu, chỉ mình Mộc Cận hào hứng: “Vậy chúng ta có thể báo thù cho Du Võng ca ca rồi.” Sực nghĩ đến Hoàng Đế không như các bậc đế vương khác, ông ta từng Nam chinh Bắc chiến, một tay gây dựng nên đế quốc Hiên Viên hùng cường, nỗi hứng khởi của Mộc Cận vụt tắt lịm, thay vào đó là sợ hãi, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu: “Ngươi có chắc đánh bại được Hoàng Đế không?”

Xi Vưu cười nhạt: “Sáng mai cô về Thần Nông sơn đi, đây không phải chỗ cho cô du ngoạn đâu.”

Mộc Cận bất mãn lườm Xi Vưu, nửa giận dữ nửa nũng nịu phản bác: “Ta đâu có du ngoạn? Ta tới giúp ngươi mà, không được sao? Lẽ nào ta không phải con dân Thần Nông? Ngươi đừng tưởng ta là con gái thì không chiến đấu được, ta nói ngươi hay…”

Xi Vưu ngáp dài, vươn vai đứng dậy, “Nửa đêm rồi, đi ngủ thôi!” Nói rồi hắn rảo chân bước vội ra ngoài.

Mộc Cận phùng mang trợn mắt, tức tối nhìn theo bóng Xi Vưu, đột nhiên, gương mặt nàng dần đổi sang vẻ bi ai, trên sa trường sống nay chết mai, nàng giận hắn làm gì chứ?

Nàng quay vào trướng rửa mặt đi nằm, nhưng trằn trọc mãi không sao ngủ được. Từ sau khi Du Võng chết đi, nàng vẫn mong ngày đoạt lại được Phản Tuyền, vậy mà giờ đây Xi Vưu sắp giao chiến với Hoàng Đế tại Phản Tuyền, nàng lại đâm ra lo sợ, lỡ, lỡ như… Xi Vưu thua thì sao?

Trên sa trường, thua, tức là chết.

Mộc Cận trở dậy, ngẩng ra một thoáng, đoạn chẳng buồn khoác áo ngoài, chỉ quàng một chiếc áo choàng, lặng lẽ ra ngoài.

Xi Vưu đã có lệnh nên quanh trướng của hắn không hề có thị vệ canh giữ, Mộc Cận có thể dễ dàng lẻn vào.

Xi Vưu đang nhắm nghiền mắt, ngủ say trần tấm da hổ, Mộc Cận đỏ bừng mặt, cắn môi, nhẹ nhàng cởi áo ra, mon men lại gần hắn.

Vừa đến gần, đột nhiên Xi Vưu vươn tay túm lấy cổ nàng bóp nghẹt, mở bừng mắt ra.

Nhận ra Mộc Cận nửa người lõa lồ, Xi Vưu chợt sững ra, vội phát tán hết linh lực trên tay, lạnh lùng cảnh cáo: “Đừng tùy tiện lại gần ta, vừa nãy nếu ta phát lực rồi mới mở mắt thì cô chết chắc.”

Nào ngờ, Mộc Cận lại nhào đến nắm lấy tay Xi Vưu, gần như quỳ xuống bên hắn, “Ngươi còn nhớ không? Hồi nhỏ, ta toàn hùa theo mọi người, lấy đá ném ngươi, chửi ngươi là cầm thú, yêu quái.”

Xi Vưu rút tay lại, lạnh nhạt hỏi: “Nửa đêm nửa hôm cô chạy đến đây để nói chuyện này đấy à? Nếu muốn xin lỗi thì khỏi đi, ta chẳng quan tâm các ngươi nói ta gì đâu.”

“Bấy nhiêu năm nay, ta hết lần này đến lần khác tỏ bày, lẽ nào ngươi vẫn không hiểu lòng ta? Thực ra, hồi ấy ta không hề ghét ngươi, thậm chí còn thấy ngươi thật lợi hại, có thể điều khiển được muôn thú, chẳng qua ta hậm hực vì ngươi chưa bao giờ chịu lấy lòng ta. Ta là vương cơ, dung mạo đẹp đẽ, ai nấy đều phải chiều chuộng tâng bốc, chỉ mình ngươi một mực lạnh lùng với ta. Ta nuốt không trôi cục tức đó, bèn đầu têu bọn họ chửi rủa miệt thị ngươi. Thuở ấy ta còn quá nhỏ, đâu hiểu được rằng thật ra trong lòng ta rất muốn làm thân với ngươi, giờ có hối hận cũng muộn rồi.”

Mộc Cận cởi nốt manh áo cuối cùng, dán sát mình vào Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nài nỉ: “Mấy trăm năm rồi, ta đâu phải kẻ ngốc, ta biết ngươi không yêu ta, ta cũng chẳng dám hy vọng gì, nhưng ta rất sợ, sợ sau này không còn cơ hội nữa, sợ rằng ta sẽ hối hận. Một đêm thôi mà, chỉ một đêm nay thôi, sáng mai ta sẽ quay về Thần Nông sơn, nếu ngươi thắng trận thì coi như chưa có chuyện gì xảy ra, nếu ngươi thua trận, ta sẽ ghi nhớ mãi đêm nay, không còn gì hối tiếc…”

Chẳng hiểu do sợ hãi hay ngại ngùng, toàn thân Mộc Cận cứ run bắn lên, nước mắt chảy thành dòng. Dưới sự dẫn dắt của bản năng phụ nữ, chẳng cần ai chỉ dạy, nàng khiêu khích quấn lấy Xi Vưu như rắn nước, thân hình mềm oặt tưởng chừng không có xương, làn da nõn nà như mỡ đông, hơi thở thơm ngát tựa hoa lan, thì thầm bên tay Xi Vưu: “Xi Vưu, chỉ một đêm, một đêm nay thôi mà!”

Hương thơm dìu dịu, người ngọc trong tay, tình mềm như nước, Mộc Cận tin rằng lần này Xi Vưu không thể cự tuyệt nàng.

Nào ngờ Xi Vưu nắm lấy hai vai nàng kiên quyết đẩy ra, đoạn đứng phắt dậy quơ lấy một chiếc áo phủ lên mình nàng, đưa mắt khinh khỉnh nhìn xuống Mộc Cận bên dưới.

Tình cảm tha thiết chân thành của Mộc Cận bị đập vỡ tan tành, nàng ngẩng đầu trừng trừng nhìn Xi Vưu, mặt chan hòa nước mắt, nhưng chẳng còn dũng khí thử lại nữa.

Xi Vưu lạnh lùng nói: “Để ta phái thị vệ lập tức đưa cô về Thần Nông sơn.”

“Khỏi cần!” Mộc Cận đứng phắt dậy, lảo đảo chạy ra khỏi trướng.

Xi Vưu ngồi lặng, chẳng hiểu đang nghĩ gì, nét mặt trơ trơ, không mừng không giận, không lo không sợ.

Hắn cầm tấm áo đỏ gắp vuông vắn dưới gối lên, nhẹ vuốt ve như đang ấu yếm da thịt tình nhân.

Lại một người rón rén tiến vào, Xi Vưu bực bội dùng tinh lực hất ra, “Sao cô còn đến nữa?”

“Xi Vưu.” A Hành ngã ngửa ra sau, may mà Xi Vưu chỉ định đẩy Môc Cận ra ngoài chứ không có ý làm nàng bị thương, nghe tiếng A Hành, hắn cuống lên, vội lao tới đỡ A Hành trước khi nàng ngã xuống.

Xi Vưu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Hành, là nàng thất đấy ư?” Mấy năm không gặp, nay lại bất ngờ gặp gỡ, khiến hắn cứ ngỡ mình đang nằm mộng.

A Hành cũng mừng mừng tủi tủi, chăm chú nhìn Xi Vưu như mới gặp lần đầu, hồi lâu mới cụp mi xuống, cười hỏi: “Vừa rồi chàng nói ai còn đến nữa? Nửa đêm có cô nào tìm đến chàng à?”

Xi Vưu nửa cười nửa không: “Chẳng phải nàng đấy ư!”

A Hành lườm hắn, khẽ nói: “Ta mắt kém không nhìn rõ, nhưng Liệt Dương tinh mắt đã trông thấy Mộc Cận quần áo xốc xếch chạy ra từ trướng của chàng!”

Thấy Xi Vưu toan giải thích, A Hành lắc đầu, tỏ ý không cần nhiều lời: “Nếu là Mộc Cận, chàng cũng đừng gò bó kiêng dè nhiều thế làm gì. Đôi khi, ta cũng hy vọng chàng có thể ở bên Mộc Cận.”

“Nếu không phải vì ta, nàng cũng chẳng cần mạo hiểm nửa đêm lẻn vào trại địch. Nàng có hối hận không?”

A Hành không đáp, chỉ dựa vào lòng hắn.

Xi Vưu quàng tay ôm chặt lấy nàng: “Bất kể xảy ra chuyện gì, trong lòng ta cũng chỉ có một mình nàng thôi, lúc trước đã thế, bây giờ là thế, sau này vẫn thế.”

A Hành khẽ nói: “Phụ vương ta đã quyết thân chinh ra trận rồi.”

Xi Vưu đáp: “Ta biết, đó là kế hoạch của ta, ta muốn ép Hoàng Đế phải đích thân nghênh chiến với ta tại Phản Tuyền. Ông ta đã giết Du Võng tại đó, ta phải báo thù cho Du Võng.”

“Chàng không sợ thua phụ vương ta ư? Mấy ngàn năm nay, ông ấy chưa bao giờ thua cả!”

“Quả thật, ta có thể thua, nhưng ta không sợ. Ta giết người thì người giết ta, đó vốn là đạo trời, nếu ta thắng, ta còn sợ hơn!” Xi Vưu nâng cằm A Hành lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Nếu ta chết đi, nàng đừng oán phụ vương nàng, nếu Hoàng Đế chết, mong nàng cũng sẻ tha thứ cho ta, đây chỉ là trận quyết đấu công bằng của hai nam tử mà thôi.”

Khóe mắt A Hành chợt đỏ hoe, “Ta lên tới đây gặp chàng, mà chàng lại nói với ta rằng chàng nhất định phải giết phụ vương ta ư?” Nói rồi nàng đẩy phắt Xi Vưu ra, quay người định đi.

Xi Vưu vội kéo nàng lại, “Khó khăn lắm chúng ta mới gặp được nhau, từ lần gặp trước đến giờ là bao nhiêu năm rồi? A Hành, nàng đành lòng đi như thế sao?”

A Hành lộ vẻ thê lương, không bảo đi, cũng chẳng bảo ở.

Nhìn bộ dạng của nàng, Xi Vưu vô cùng xót xa, chần chừ một thoáng rồi hỏi: “Ta cả đời ngang dọc phóng khoáng, chẳng còn điều gì nuối tiếc, nhưng có một điều ta canh cánh mãi, chết đi cũng không buông xuống được: trong lòng nàng, rốt cuộc ta là gì đây? Thiếu Hạo…”

A Hành quay phắt lại, ôm ghì lấy hắn, “Không được nói đến chuyện chết!” Vòng tay càng siết chặt, nước mắt thấm ướt cả vạt áo hắn.

“Thôi, được rồi, được rồi, không nhắc tới hắn nữa, dù sao ta cũng là dã thú, không để ý những chuyện đó.” Xi Vưu cúi đầu hôn A Hành, thì thào bên tai nàng, “Thật ra, nàng mạo hiểm tới đây tìm ta, đã đủ chứng minh nàng không đành bỏ ta rồi.”

A Hành kéo Xi Vưu ra ngoài trướng, “Còn một người nữa cũng tới gặp chàng đấy.” Xi Vưu ngỡ ngàng không hiểu, nhưng cũng chẳng hỏi nhiều.

Giữa khu rừng vắng vẻ, Liệt Dương đang canh giấc cho Tiểu Yêu, thấy hai người tiến lại, nó liền chủ động bay vút đi. A Hành bồng Tiểu Yêu trao cho Xi Vưu, Xi Vưu ngoài miệng không để ý, nhưng thấy Tiểu Yêu giống đúc Thiếu Hạo, cũng chẳng vui vẻ gì, không muốn đón lấy bé.

A Hành cứ ấn Tiểu Yêu vào lòng hắn, thấy cô bé đang say ngủ, A Hành lay lay bé: “Thúc thúc sắp ra chiến trường rồi, con từ biệt thúc thúc đi.”

Tiểu Yêu miễn cưỡng mở mắt ra nhìn Xi Vưu, gọi một tiếng “thúc thúc” đoạn lại ngáp dài nhắm nghiền mắt, hai tay ôm lấy cổ Xi Vưu, ngả đầu vào ngực hắn ngủ tiếp.

A Hành định gọi nữa, nhưng Xi Vưu đã ngăn lại: “Đừng gọi nữa, gọi dậy nó lại quấy khóc.”

A Hành khẽ thở dài, đành mặc cho Tiểu Yêu ngủ.

Xi Vưu tinh minh sắc sảo, há chẳng sinh nghi, bèn mượn ánh trăng quan sát kỹ dung mạo Tiểu Yêu. Vì Tiểu Yêu rất giống Thiếu Hạo nên Xi Vưu xưa nay chẳng nhìn kỹ bé bao giờ, lần này mới phát hiện ra giữa trán bé lờ mờ một dấu hoa đào, lòng chợt rung động, vội hỏi: “A Hành, Tiểu Dao có phải con ta không?”

A Hành mở miệng toan đáp, nhưng chợt nén lại, nhoẻn cười ranh mãnh: “Chàng phải sống, chàng sống thì sẽ biết nó là con ai.”

Tuy không nhận được câu trả lời như ý, nhưng hắn còn mừng hơn biết được bất cứ đáp án nào, bởi A Hành muốn hắn sống!

Xi Vưu tay phải ôm Tiểu Yêu, tay trái vòng ra kéo A Hành vào lòng.

A Hành một tay ôm eo hắn, tay kia nắm tay con gái, dựa vào lòng hắn. Ánh trăng chênh chếch chiếu xuống cánh rừng, dịu dàng tỏa sáng cho ba người bọn họ.

Nàng xiết bao hy vọng khoảnh khắc này kéo dài vĩnh viễn.

Tiếc rằng mây tía dễ tan, mộng đẹp mau tỉnh.

“Ra là ngươi, Cao Tân vương phi, Hiên Viên vương cơ! Ngươi là đồ dâm phụ, không biết xấu hổ!” Mộc Cận cưỡi tọa kỵ Tuyết nhạn từ trên trời đáp xuống, rít lên the thé đầy phẫn nộ, “Xi Vưu, sao ngươi có thể cùng ả… Ngươi thích ai chẳng được, nhưng ả là vương cơ Hiên Viên, lại đã thành hôn rồi mà!”

A Hành lặng thinh không đáp, chỉ vội vàng vận linh lực giăng cấm chế, để Tiểu Yêu không nghe được động tĩnh gì, nhưng Xi Vưu lại vô cùng phẫn nộ: “Cút về Thần Nông sơn ngay!”

Mộc Cận căm hận đáp: “Giờ ta sẽ đi nói cho bọn Phong Bá, Vũ Sư biết, để xem có bao nhiêu tướng sĩ Thần Nông chịu chấp nhận con dâm phụ Hiên Viên này?”

Dứt lời, Mộc Cận ngoay ngoắt người chạy vụt đi, Xi Vưu xòe tay, vận linh lực, toan hạ sát chiêu nhưng A Hành kịp níu lại: “Cô ấy là nghĩa nữ của Viêm Đế, nghĩa muội của Du Võng mà!” Đoạn cất tiếng gọi Mộc Cận, “Vương cơ, cô nghe tôi nói đã.” Nhưng Mộc Cận tính tình xốc nổi, lời khuyên nhủ nào lọt tay cho được.

“Mộc Cận, đứng lại.”

Bỗng một tiếng quát vang lên lanh lảnh, Mộc Cận đang vừa buồn, vừa hận cũng khựng lại, nghi hoặc nhìn quanh, “Vân Tang tỷ tỷ?”

Thấy Vân Tang lững thững bước ra, Mộc Cận trỏ A Hành, bừng bừng giận dữ tố cáo: “Thì ra ả yêu nữ quyến rũ Xi Vưu là con dâm phụ đã có chồng con đề huề nay.”

Vân Tang lạnh nhạt đáp, “Ta biết lâu rồi, Phong Bá và Vũ Sư cũng không để tâm chuyện Xi Vưu thích ai đâu.”

“Nhưng những bách tính Thần Nông bị Hiên Viên đốt phá cửa nhà, giết hại người thân lại để tâm! Tỷ tỷ, tỷ mang nặng trọng trách, cam chịu gả đến Hiên Viên là vì cái gì? Các chiến sĩ Thần Nông đổ máu chiến đấu ở đây là vì cái gì? Tất cả bách tính Thần Nông đều mong Xi Vưu đánh bại Hoàng Đế, gây dựng lại Thần Nông, vậy mà hắn lại lén lút ở bên con dâm phụ Hiên Viên này! Ta nhất định phải công bố điều này cho tất cả các binh sĩ, để cả Thần Nông được biết!”

“Mộc Cận, đại chiến sắp tới rồi, nếu hiện giờ muội công bố chuyện này cho cả thiên hạ, khiến sĩ khí Thần Nông tan tác, bị Hoàng Đế đánh bại, dẫu muội được hả giận, nhưng còn Thần Nông thì sao? Muội làm thế là muốn tốt cho Thần Nông ư?”

Thấy Mộc Cận sững người, Vân Tang khẽ thở dài: “Trong mắt muội, không đúng thì là sai, không yêu thì là hận, không phải bạn thì là thù, nếu mọi chuyện thất sự đơn giản như vậy thì tốt biết bao! Nhưng nhiều khi đúng sai không phân rõ được, yêu hận phức tạp, vừa là bạn cũng vừa là thù. Nghe lời tỷ, ngoan ngoãn về Thần Nông cố gắng tu luyện đi, sớm muộn sẽ có ngày muội hiểu những lời ta nói hôm nay.”

Mộc Cận là người bộc trực, tính tình xốc nổi, nhưng từ nhỏ phục nhất là Vân Tang. Lúc này, tuy nàng không cam tâm, chỉ muốn ngay lập tức ra tay trừng phạt ả dâm phụ Hiên Viên quyến rũ Xi Vưu, nhưng nàng cũng hiểu trận quyết chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu sắp đến không thể làm càn. Nàng đành trừng mắt lườm A Hành, đoạn nhảy lên lưng Tuyết nhạn, bay thẳng về Thần Nông sơn.

A Hành hành lễ cảm tạ Vân Tang: “May mà có tẩu, Đại tẩu đi theo muội ư?”

Vân Tang đáp: “Tọa kỵ của ta không đuổi kịp Liệt Dương, ta đi trước muội mà lại đến sau.”

A Hành ngỡ ngàng không hiểu, nàng vốn tưởng rằng Vân Tang phát hiện hành tung quỷ dị của mình, bèn bám theo đến đây, nhưng nghe ý tứ hình như không phải, lẽ nào Vân Tang cũng tới gặp Xi Vưu?

Vân Tang tiến lại mấy bước, đối diện với cả hai người, hạ giọng nói: “Mấy ngày trước, ta lên tới Cao Tân một chuyến, thấy Nặc Nại đã chìm đắm trong rượu thuốc đến mê loạn cả thần trí. Đêm nay ta tới đây gặp Vũ Sư, nghe nói y là trợ thủ đắc lực, là đại tướng tâm phúc của ngươi.” Vân Tang dùng giọng trần thuật nhưng ánh mắt lại không rời Xi Vưu, như vừa đặt câu hỏi, vừa tìm đáp án trong mắt hắn.

Xi Vưu cười, nhưng ánh mắt lại khóe lên sắc lạnh: “Đánh trận cần một lượng lớn binh khí, Cao Tân là đồng minh của Hiên Viên, dù Thần Nông có tiền cũng không thể mua binh khí từ Cao Tân được. Vũ Sư chẳng những thần lực cao cường, mà còn giỏi rèn binh khí, may mà có y, chúng ta mới có nguồn cung cấp binh khí dồi dào. Hiện giờ, y đúng là trợ thủ đắc lực của ta.”

Tựa hồ đã tìm được đáp án vừa ý trong mắt Xi Vưu, Vân Tang như trút được gánh nặng: “Vậy thì tốt.” Liền sau đó, sắc mặt nàng chợt đổi sang bi thảm, mắt ầng ậng nước, nhưng trước khi nước mắt kịp rơi, nàng đã quay ngoắt người, rảo bước bỏ đi. “Ta đi đây, A Hành, muội cũng mau đi đi, nấn ná ở đây đối với muội hay Xi Vưu đều quá nguy hiểm.”

A Hành nói nhỏ: “Ta phải đi rồi.” Xi Vưu khẽ khàng đặt Tiểu Yêu vào lòng A Hành, đoạn hôn lên trán nàng.

Bốn mắt nhìn nhau, Xi Vưu và A Hành lặng thinh, nhưng ánh mắt quyến luyến chẳng nỡ rời, ngay sau đó, cả hai không hẹn mà cùng nhoẻn cười. Nếu từ đây phải biệt ly, bọn họ đều mong đối phương ghi nhớ nụ cười của mình.

A Hành ôm lấy Tiểu Yêu nhảy lên lưng của Liệt Dương, bay xa dần. Nâng giơ cánh tay Tiểu Yêu lên vẫy vẫy Xi Vưu, thì thầm bên tai bé: “Tiểu Yêu, từ biệt cha đi con.”

Tiểu Yêu mơ màng mở mắt nhìn Xi Vưu.

A Hành vẫn đứng quay mặt về phía Xi Vưu, hắn tiễn nàng, nàng cũng tiễn hắn, hai người mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ dần đi trong mắt nhau, dần dà, trong mắt cả hai chỉ còn một trời tịch mịch.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 16: Đào rụng tơi bời, người ly biệt

“Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”

Đối diện với đại quân dũng mãnh thiện chiến, hung tàn hiếu sát của Xi Vưu, binh sĩ Hiên Viên không khỏi nhụt chí, cả Phản Tuyền chìm trong không khí nặng nề chết chóc. Ly Chu và Tượng Võng đã phò tá Hoàng Đế suốt mấy ngàn năm, từng trải vô số trận chiến, lần đầu tiên gặp phải tình huống này, nghĩ đủ mọi cách cũng không vực dậy được sĩ khí.

Vầng dương đằng Đông vừa nhô lên, ánh sáng chan hòa mặt đất, Phản Tuyền thành sừng sững cao ngất như được phủ một lớp phấn vàng, tỏa hào quang nhàn nhạt.

“Xem kìa! Cái gì kia?” Đám binh sĩ xôn xao kinh ngạc.

Dưới ánh nắng rực rỡ, chân trời phía Tây dường như đang đùn lên một vầng mây ráng bảy màu.

Vầng mây ráng từ từ bay lại gần, bây giờ mọi người mới trông rõ là một con chim cực lớn, bộ lông sặc sỡ đủ màu, đầu có mào, mỗi bên mắt có hai con ngươi, chính là Trùng Minh điểu, được xưng tụng là đệ nhất mãnh cầm của đại hoang.

Nhìn “đám mây ráng” bay có vẻ lững lờ nhưng thực tế tốc độ của Trùng Minh điểu rất nhanh, mọi người vừa nheo mắt toan nhìn cho kỹ, chợt thấy trên lưng Trùng Minh điểu cũng đang cõng một vầng dương, tỏa ánh vàng rực chói mắt. Vầng dương này cùng vầng dương đằng Đông phản chiếu lẫn nhau, tự như trên bầu trời xuất hiện hai mặt trời, tỏa sáng chói lòa khiến mọi người không mở nổi mắt.

Ly Chu và Tượng Võng tỉnh ra trước nhất, mừng rỡ đưa mắt nhìn nhau, cùng giơ tay lên hoan hô. Là ông ta! Gã thiếu niên từng thề trước mọi người, nhất định sẽ đưa Hiên Viên rời khỏi mảnh đất cằn cỗi ấy lại khoác áo giáp lên rồi!

Trùng Minh điểu lượn vòng phía trên Phản Tuyền, Hoàng Đế mình vận giáp vàng, oai phong lẫm liệt đứng sừng sững trên không, đưa mắt nhìn xuống bên dưới.

“Hoàng Đế, Hoàng Đế!”

Tựa hồ vầng dương ló dạng xua tan hết mây mù, sự xuất hiện của Hoàng Đế khiến cả Phản Tuyền thành bừng lên sức sống.

Giọng nói ôn hòa của Hoàng Đế thong thả vang lên: “Hiên Viên quốc từng được gọi là Hiên Viên tộc, nằm ở phía Tây Bắc đại hoang, đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn. Hồi trẻ tới Trung Nguyên du ngoạn, chỉ vì nói giọng Hiên Viên mà ta luôn bị người ta khinh miệt, thậm chí mua món nữ trang có giá một chút cho cô gái mình yêu quý cũng bị nghi là ăn cắp. Mấy ngàn năm trước, ta đã đứng trên Hiên Viên sơn hỏi tổ tiên các người có dũng khí theo ta ra khỏi Hiên Viên sơn hay không, bọn họ đều đồng thanh đáp: “có.” khí thế ngất trời! Vì câu trả lời của họ nên bây giờ các ngươi mới có Hiên Viên quốc, không phải lo miếng cơm manh áo, dù đi đến bất cứ đâu, hễ nói giọng Hiên Viên, đều được người ta trọng nể! Kẻ yếu chỉ biết khóc than cho hiện tại, còn kẻ mạnh sẽ đổ máu tranh đấu cho tương lai! Các ngươi là kẻ yếu hay là kẻ mạnh?”

Hết thảy binh sĩ đều bừng bừng nhiệt huyết, tựa hồ sự anh dũng khí thái của tổ tiên ngàn năm trước lại đang rần rật cháy lên trong lồng ngực họ.

Hoàng Đế đáp xuống đầu thành, giọng rền vang như sấm: “Hôm nay ta lại hỏi các ngươi, có dũng khí tử thủ Phản Tuyền không?”

“Có!” Tiếng hô đồng thanh rung chuyển cả núi rừng, chấn động đất trời, vang xa tít tắp.

Phong Bá phóng mắt trông về phía Phản Tuyền, chặc lưỡi than, “Chẳng trách lão ta hùng bá một phương, ta cứ ngỡ lão chỉ giỏi giở âm mưu, nào ngờ dương mưu của lão còn bài bản hơn, mới có mấy câu mà xoay chuyển hoàn toàn cục thế, từ cầm chắc thất bại đổi ngay thành thắng bại khó đoán.”

Vũ Sư chỉ huy một tốp thợ khiêng đống binh khí vừa rèn lại, ưu tư hỏi: “Xi Vưu đâu rồi?”

Phong Bá liếc vào trướng lớn: “Đang ngủ!”

“Ầm ĩ thế này mà vẫn ngủ được à?”

Phong Bá cười, “Nếu huynh ấy muốn ngủ thì dù có đút đầu vào miệng cọp cũng không tỉnh đâu.”

Si đáp: “Khi nãy vừa tỉnh, hỏi “Hoàng Đế đến rồi à?”, ta đáp “Phải”, huynh ấy lại ngủ tiếp.”

“Vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào đây?” Vũ Sư hỏi.

“Nhóm lửa nấu cơm đi, à, thêm nhiều thịt vào nhé, cả gia vị nữa. Mẹ nó chứ, trời cao đất rộng cũng không bằng cơm nóng canh sốt!” Khép lại vạt áo choàng, Phong Bá bắt đầu đi tuần, cũng như mọi ngày hắn vừa đi vừa cười tít mắt chào hỏi mọi người. Bốn huynh đệ Si Mỵ, Võng Lượng đang căng thẳng vì tiếng hô vang từ phía quân Hiên Viên đưa lại, nhưng thấy Xi Vưu vẫn trở mình ngủ tiếp, Phong Bá thì nhơn nhơn cười đùa, họ cũng phá lên cười theo.

Không khí thoải mái lan nhanh chẳng kém gì căng thẳng, các binh sĩ thấy bọn họ vẫn thản nhiên như thường, liền tự động ai vào việc nấy, chẳng mấy chốc lại ngửi thấy mùi thức ăn thơm nức mũi, mọi người vừa cười nói vừa uống bát canh thịt nóng hổi, người nóng bừng lên, áp lực do Hoàng Đế gây ra bất giác tiêu tan đâu hết.

Sau khi đến Phản Tuyền, Hoàng Đế cũng chẳng thay đổi chiến thuật, chỉ lo cố thủ thành trì, bất kể Vũ Sư nửa đêm mưa gió dẫn quân đánh lén hay Phong Bá đột ngột kéo binh tập kích như vũ bão, Hoàng Đế vẫn phòng thủ thật vững, mưa đến đất ngăn, gió về cây cản.

Cuộc chiến này đã kéo dài hơn hai năm, song phương đều kiệt quệ rồi.

Hiên Viên là một quốc gia hoàn chỉnh, lương thảo được cung ứng đầy đủ, binh sĩ lại ở trong thành, có thể cố thủ, còn Thần Nông đã mất nước, lương thảo lúc có lúc không, binh sĩ phải đóng trại giữa đồng hoang, sĩ khí cũng dần dần giảm sút.

Nhưng Xi Vưu chẳng hề lưu tâm chuyện đó, hắn lấy dạ dày của một con yêu thú làm thành một quả cầu, mỗi lúc không phải ra trận, hắn lại cùng cả đám huynh đệ Si Mỵ Võng Lượng chơi đá cầu, quả cầu nặng như một hòn núi nhỏ bị họ đá bay đi bay lại trên không, muốn đá trúng ai thì đá trúng người đó.

Phong Bá vẫn thả sức thích làm gì làm nấy nên tâm tình thoải mái như thường, chẳng hề bị ảnh hưởng, chỉ có Vũ Sư hơi bồn chồn, bèn kéo Phong Bá tới gặp Xi Vưu, hành lễ hỏi: “Tại hạ có một việc không hiểu, xin thỉnh giáo đại nhân.”

Vũ Sư xuất thân từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia. Cũng như Tây Lăng Thị, Xích Thủy Thị là thị tộc từ thời thượng cổ, chỉ xem trọng dòng dõi chứ không để tâm quốc gia, không thuộc về bất cứ quốc gia nào, nhưng lại được tất cả các quốc gia coi trọng, xem như danh gia vọng tộc. Xích Thủy Thị gia phong nghiêm cẩn, giáo dục con cháu rất nghiêm khắc, tuy Vũ Sư đã bị trục xuất khỏi gia tộc, còn bị trừng phạt nặng nề, thành ra xấu xí tật nguyền, nhưng vẫn giữ nề nếp từ nhỏ, lời nói cử chỉ hết sức khiêm tốn lễ độ. Đám huynh đệ của Xi Vưu đa phần lỗ mãng, thoạt đầu thấy rất khó chịu, còn sinh ra mâu thuẫn, phải nhờ Phong Bá đứng ra hòa giải, nhưng sống chung lâu ngày, mọi người lại sinh lòng kính phục vị tướng quân ăn nói lễ độ, hành xử chu đáo, giỏi hô mưa gọi gió, lại giỏi nghề rèn binh khí này.

Xi Vưu vốn cũng là kẻ thô lỗ, nhưng được Viêm Đế rèn cặp mấy trăm năm, tạm xem như thông văn hiểu võ, hắn chiếu theo lễ tiết Thần Nông, cùng Vũ Sư chia nhau ngồi xuống, bây giờ mới lên tiếng: “Mời tiên sinh cứ nói.”

Vũ Sư nói: “Hai quân giao tranh, càng kéo dài càng bất lợi cho chúng ta, hiện giờ sĩ khí đã có phần giảm sút, nếu còn kéo dài, e rằng sẽ đến lúc Hiên Viên ồ ạt tấn công.”

Xi Vưu cười hỏi: “Tiên sinh có thượng sách gì chăng?”

Vũ Sư than: “Thật hổ thẹn, tại hạ vắt óc nghĩ mãi chẳng tìm được kế sách gì. Hoàng Đế quả là tướng tài thiên cổ, hành quân bày trận rất nghiêm mật kỹ càng. Hiện giờ chỉ còn một cách duy nhất là nhân lúc quân tâm chưa tan rã hẳn, phải tìm biện pháp vực dậy sĩ khí, sau đó dốc toàn lực công thành, dù sao Phản Tuyền cũng là cố hương của chúng ta, chắc sẽ nắm được năm phần thắng.”

Phong Bá lên tiếng: “Phản Tuyền dễ thủ khó công, nếu chủ soái đổi lại là kẻ khác, có lẽ chúng ta còn có cơ lợi dụng, nhưng hiện giờ Hoàng Đế đích thân cầm quân, có thể nói là vững như thành đồng, lỡ dốc toàn lực tấn công mà thất bại, bóng đen từ trận thất thủ Phản Tuyền lần trước sẽ tiếp tục ám ảnh quân sĩ, đến chừng đó, áo giáp vàng của Hoàng Đế sẽ trở thành phướn chiêu hồn, bùa đòi mạng của chúng ta đó.”

“Nhưng cứ giằng dai thế này, chúng ta còn thảm hơn. Nếu đánh, may ra còn chút cơ hội, nhược bằng không đánh, có lẽ sẽ bị tiêu diệt toàn quân.”

Phong Bá cười hì hì nhìn Xi Vưu, “Này, ta nói huynh đó! Tuy Hoàng Đế lợi dụng Phản Tuyền nhãn, bày cái gì Thất tinh trận chuyên để đối phó huynh, khiến huynh xông pha mấy lần chưa được, nhưng huynh định bó tay chịu trói thật ư?”

Xi Vưu trả lời qua quýt: “Vậy ta lại dẫn quân công thành.” Nói là làm, hắn lập tức đi điểm binh, tấn công Phản Tuyền thành.

Nửa ngày sau, Xi Vưu hậm hực quay về, mặt nặng như chì, khiến tất cả im re không ai dám nói với hắn một câu, không khí trong doanh trại càng thêm nặng nề bức bối.

Đến tối, tướng sĩ coi quản lương thảo lại đến báo sắp cạn lương, mà lương thảo mới còn chưa đến, hiện giờ buộc phải thắt lưng buộc bụng, nếu mỗi người chỉ ăn lưng lửng dạ, thì may ra còn kéo dài được bảy ngày nữa.

Lương thảo không đủ, e rằng tướng sĩ có anh dũng đến mấy chăng nữa cũng chẳng đánh trận nổi, việc này ngay đến Phong Bá cũng phải tái mặt.

Tám ngày sau, giữa canh khuya.

Binh sĩ Thần Nông tộc đang nhịn đói nằm ngủ, chợt các chiến sĩ đi tuần phát hiện có quân sĩ Hiên Viên xuất hiện phía sau doanh trại của họ, từng tên nối đuôi nhau từ trong rừng đi ra.

Té ra, Hoàng Đế lợi dụng khoảng thời gian hơn hai năm này, ngoài mặt giao chiến với Xi Vưu, bên trong lại ngầm sai người đào một đường hầm, đầu ra chính là ngọn núi mà quân đội Thần Nông vẫn xem như bức bình phong.

Đợi tới khi thời cơ chín muồi, sĩ khí Thần Nông đã tan tác cả, lương thảo cũng cạn kiệt, bấy giờ Hoàng Đế mới phái quân tinh nhuệ đi suốt đêm theo phong đạo vòng ra phía sau doanh trại Thần Nông.

Quân tinh nhuệ đánh lén từ phía sau, đại quân từ Phản Tuyền thành tấn công trực diện.

Tiếng la thảm xé toang màn đêm yên tĩnh.

Quân lính Thần Nông đang đói bụng, lại bị bất ngờ, trở tay không kịp, lập tức thua tơi tả, bỏ chạy tứ tán. Phía trước là Phản Tuyền thành, hàng ngàn hàng vạn binh sĩ Hiên Viên đang xông tới, phía sau là quân tinh nhuệ của Hiên Viên được trang bị kỹ càng, sát khí đằng đằng, bên trái là dòng Tế thủy cuồn cuộn sóng, bọn họ đành men theo cánh phải, chạy vào Phản Tuyền sơn cốc.

Thấy sơn cốc địa thế quanh co, khó mà truy kích, tướng sĩ Thần Nông đều thở vào nhẹ nhõm, nhưng họ đâu có ngờ Hoàng Đế đã nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình Phản Tuyền, sớm đoán được khi bị hai mặt giáp công, Thần Nông tộc chỉ có thể chạy về hướng này, bởi vậy đã tập trung tất cả binh lực của Thần tộc bày trận đợi sẵn.

Vì trận chiến này, Hoàng Đế đã phải thao luyện hơn một năm, bảo đảm mấy trăm tướng sĩ Thần tộc có thể tức tốc vào vị trí, phát động thế công.

Tiếng trống trận vang rền như sấm dậy lên từ hai vách núi, khiến tướng sĩ Thần Nông sợ vỡ mật, tuyệt vọng hoàn toàn.

Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu, từ trên trời đáp xuống: “Xi Vưu, ta cho ngươi một cơ hội để bảo toàn tính mạng cho binh sĩ, hoặc ngươi lập tức quy hàng, thề trung thành với Hiên Viên, hoặc ngươi lặp tức tự vẫn, bất kể ngươi chọn đường nào, ta cũng sẽ đối xử tốt với tất cả tướng sĩ.”

Hoàng Đế buông ra những câu ly gián lòng người trong tình cảnh này thật hiểm độc vô cùng, nào ngờ Xi Vưu chỉ ngẩng đầu cười hỏi: “Nếu ta không chọn đường nào cả thì sao?”

Hoàng Đế thoạt nhìn đã nhận ra kẻ kia là Phong Bá giả trang, liền biến sắc mặt, Phong Bá nhìn nét mặt Hoàng Đế cũng biết đã bị vạch trần, bèn cởi phăng hồng bào, biến lại nguyên hình, cười nói: “Trong lúc ngươi đuổi theo Xi Vưu giả này, chắc Xi Vưu thật đã tiến vào Phản Tuyền thành rồi.”

Hoàng Đế mặt sạm như tro, năm xưa ông ta bảo Thanh Dương đóng giả làm mình để dụ địch, đến hôm nay Xi Vưu lại lấy chính gậy ông đập lưng ông. Hoàng Đế cứ ngỡ Xi Vưu đã trúng kế mình, nào ngờ mình phải trúng lại kế của hắn.

Trong Phản Tuyền thành đã xảy ra đại biến, trước thế công như vũ bão của Xi Vưu và Vũ Sư, chỉ trong thời gian uống cạn tách trà, Phản Tuyền thành binh mỏng lực yếu liền đổi chủ. Khi ngọn cờ vàng của Hiên Viên tộc bị hạ xuống, thay vào đó là ngọn cờ đỏ phấp phới giữa không trung, cả dải đồng hoang im phăng phắc. Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc đều không thể tin được rằng Phản Thành đã lại bị mất! Phản Thành cũng đã lại quay về!

Hoàng Đế không hổ là Hoàng Đế, chỉ một thoáng đã trấn tĩnh lại ngay. Tuy Xi Vưu đã chỉ huy tướng sĩ Thần tộc và Yêu tộc khống chế Phản Tuyền thành, nhưng đại quân Nhân tộc bị Xi Vưu dùng làm mồi nhử vẫn còn ở trong sơn cốc.

Hoàng Đế vận linh lực để tiếng nói vang đi thật xa: “Xi Vưu, chỉ cần ta hạ lệnh một tiếng, đỉnh núi hai bên sơn cốc này sẽ đổ sụp, mấy vạn tướng sĩ bị ngươi dùng làm mồi nhử đều phải vùi thây tại đây.”

Tiếng nói như sấm rền, xua tan nỗi tuyệt vọng trong lòng tướng sĩ Hiên Viên, đánh tan niềm hân hoan của tướng sĩ Thần Nông.

Xi Vưu cưỡi đại bàng, chớp mắt đã tới trước mặt Hoàng Đế, “Vậy chúng ta quyết một trận sinh tử ngay tại đây đi!”

Tấm áo choàng của Phong Bá bay vụt lên, cả trời vần vũ gió mây, khiến người ta cơ hồ không đứng vững nổi.

Tượng Võng quăng đôi đũa trúc trong tay ra, đũa trúc vừa gặp gió liền dài ra, biến thành một khu rừng trúc san sát, ngăn cuồng phong lại.

Vũ Sư đứng trên đầu thành Phản Tuyền, dựa vào Phản Tuyền thủy linh ngưng tụ trong thành làm thành mưa lớn, mực nước Tế thủy chẳng mấy chốc đã dâng lên, một khi nước dâng cao quá mặt đê, tướng sĩ Hiên Viên ngoài thành sẽ chôn thây dưới đáy nước.

“Ly Chu!” Hoàng Đế thét lớn, mấy ngàn năm sánh vai chiến đấu bên nhau, đôi bên vô cùng ăn ý, ông ta chẳng cần hạ mệnh lệnh gì, tự khắc Ly Chu sẽ hiểu.

Ly Chu đứng ngay lối vào sơn cốc, ngoảnh mặt về phía Tế thủy, hai chân dang ra, biến thành trụ đất, cắm sâu xuống đất, hấp thu thổ linh từ lòng đất, đất vàng nổi lên, nước dâng đến đâu, bờ đê cũng dâng cao theo đến đấy.

Trận chiến giữa hai đại Thần tộc đến giờ mới thật sự mở màn.

Hoàng Đế và Xi Vưu đứng giữa chừng không, trừng trừng nhìn nhau.

Hoàng Đế vung tay phát động thế công, lập tức vách núi hai bên đứt gãy, đá tảng rào rào đổ xuống, Si Mỵ Võng Lượng đã đợi sẵn, dẫn một đám quân sĩ Yêu tộc xông ra, thoắt ẩn thoắt hiện như quỷ mỵ, lần lượt đá văng từng viên đá tảng như đá cầu. Nhờ luyện tập hơn một năm, tất cả đá đều nhắm trúng vào Hiên Viên tộc, chuẩn hơn cả tên bắn.

Nhưng dù vậy, vẫn còn không ít đá tảng rơi xuống, đè chết khá nhiều quân Thần Nông, họ nháo nhào chen lấn xông ra khỏi sơn cốc, liền đụng phải đám binh sĩ Hiên Viên cuống cuồng tràn vào sơn cốc vì sợ nước dâng, đôi bên lập tức lao vào nhau chém giết.

Xi Vưu và Hoàng Đế kịch chiến trên không, bóng đại bàng đen tuyền và Trùng Minh điểu rực rỡ thoắt phân thoắt hợp, Hoàng Đế dùng một ngọn kim thương, Xi Vưu cầm một thanh trường đao, đao thế của Xi Vưu khi mở rộng, lúc thu lại, hóa thành một con mãnh hổ lộng lẫy đủ màu, thương pháp của Hoàng Đế lại nhanh nhẹn dứt khoát, hóa thành một con giao long vàng rực.

Giao long cùng mãnh hổ giao đấu, thoạt đầu khó phân cao thấp, về sau, Hoàng Đế dù sao cũng dựa vào mưu kế mà xưng hùng chứ không phải nổi danh vì võ nghệ, nên thần lực không bì được Xi Vưu, dần dà bị linh lực của Xi Vưu bao phủ, chiêu đòn càng lúc càng chậm, động tác của giao long cũng càng lúc càng chậm theo, mấy lần đã bị mãnh hổ cắn, tuy vẫn vùng vẫy giằng ra được, nhưng thân hình mỗi lúc một nhỏ lại.

Hoàng Đế biết linh lực của mình không bì được Xi Vưu, chỉ có thể tốc chiến tốc thắng. Giao long bèn cố ý để lộ sơ hở, mãnh hổ vừa cắn vào bụng nó, lập tức giao long quẫy đuôi đập thẳng vào mình mãnh hổ, mãnh hổ nhảy lên tránh thoát, giao long thừa cơ quay lại cắn trả, nhưng vừa ngẩng đầu lên, chợt trông thấy từ phía chân trời đằng Tây bắn vọt lên một luồng sáng chói mắt.

Giao long bất giác khựng lại, để lộ sơ hở, liền bị mãnh hổ ngoạm trúng chỗ bảy tấc trên mình.

Giao long đau đớn gầm lên, ngửa đầu ra sau, nhưng cặp mắt vẫn đau đáu nhìn về hướng Tây, từ khóe mắt, hai hàng linh lệ trong veo ứa ra.

Xi Vưu cũng cảm thấy hướng Tây có vẻ khác thường, nhìn phản ứng của Hoàng Đế, hắn càng thêm kinh ngạc, vội ngoái đầu nhìn về hướng Tây, thấy luồng sáng chói lọi kia đang bao lấy một con chim phượng trắng bạc chao liệng cuối trời Tây, ánh sáng từ từ nhạt đi, dường như cánh phượng kia cũng mòn mỏi chết dần.

Xi Vưu biết, nhất định Hiên Viên quốc đã xảy ra chuyện, nhưng còn chưa hiểu rốt cuộc là chuyện gì, chợt nghe thấy bên dưới có kẻ rú lên thê thiết: “Vương hậu qua đời rồi!”

Xi Vưu sững người, mẹ A Hành chết rồi ư?

Hoàng Đế vẫn giữ vẻ thản nhiên, vờ như đang vốc toàn lực chiến đấu với Xi Vưu, nhưng trong lòng lại cuộn trào bão tố.

Suốt mấy ngàn năm, trải vô vàn trận đánh, mỗi lần rời vào tình huống nguy cấp nhất, ngoảnh đầu lại, ông đều trông thấy bóng giáp bạc kia, lần nào như lần ấy, đều chuyển nguy thành an. Nhưng lần này ngoảnh lại, ông chẳng hề thấy bóng giáp bạc của nàng, thay vào đó, lại trông thấy cái chết của nàng.

Đáng lẽ ông nên thấy nhẹ nhõm mới phải, chẳng phải ông vẫn muốn thoát khỏi nàng từ lâu đó sao?

Từ sau khi Hiên Viên lập quốc, cùng với sự ổn định của Hiên Viên quốc, ông càng ngày càng ghét nghe đám khai quốc công thần hở ra là nói: “Chỉ sợ vương hậu không đồng ý.”; ghét nghe người các tộc xì xào sau lưng rằng ông phải dựa vào một người đàn bà mới đạt thành đại nghiệp; ghét phải nhẫn nhịn tính tình cương liệt không khoan nhượng của nàng, sự thông tuệ sắc sảo của nàng… Ông cứ ngỡ rằng mình chẳng hề có tình cảm với nàng, rằng mình cưới nàng chỉ để hoàn thành hùng tâm tráng chí, vì nể tình nàng tương trợ mà ban Triêu Vân điện cho nàng. Nhưng, trong khoảnh khắc chứng kiến cánh phượng kia lìa trần, ông chợt nhận ra, từ nay về sau, dù ông có ngoái lại bao nhiêu lần chăng nữa, cũng chẳng còn bóng giáp bạc chạy đến bên cạnh, sát cánh chiến đấu cùng ông, đồng sinh cộng tử. Giao long không kiềm được mà rơi lệ, từng giọt lệ vàng óng do linh lực kết thành, thoắt đến thoắt đi, không tâm không tích, ngay bản thân ông cũng chẳng hiểu đó là vì lẽ gì.

Ông đã sớm biết nàng chẳng còn được bao lâu, đáng lẽ ông phải lấy nhẹ nhõm…

Linh lực của Hoàng Đế và Xi Vưu giao kích khiến bầu trời vần vũ mây đen, sấm sét ùng oàng, mưa to gió lớn xối xả trút xuống. Mãnh hổ ngoạm chặt chỗ bảy tấc trên mình giao long, bất kể nó vùng vẫy quằn quại ra sao cũng không nhả. Thân mình giao long từ từ thu nhỏ lại, Hoàng Đế đứng trên lưng Trùng Minh điểu thấy vậy liền tái mặt, thân hình lảo đảo muốn ngả.

Chỉ cần thêm một đòn nữa, Hoàng Đế sẽ phải bỏ mạng. Chợt trước mắt Xi Vưu hiện lên gương mặt bi ai cùng cực của A Hành, lòng hắng bỗng nhói lên, đao thế lập tức biến đổi, mãnh hổ nhả giao long ra, giao long liền cuống cuồng bỏ chạy, nào ngờ mãnh hổ há to cái miệng đỏ lòm như chậu máu, cắn một nhát, thân mình giao long đứt làm đôi.

Ngọn kim thương trong tay Hoàng Đế gãy đôi, Hoàng Đế phun ra mấy búng máu, rớt khỏi lưng Trùng Minh điểu.

Xi Vưu mỗi tay cầm một đoạn kim thương, vung tay ném ra, hai ngọn đoạn thương cắm phập vào ngọn núi, hóa thành hai đỉnh núi hình dạng như ngọn nến, đối diện với Phản Tuyền thành, dáng nghiêng nghiêng như tế bái.

“Du Võng, lễ vật ta dâng lên ngươi nhân ngày giỗ đây!” Xi Vưu cao giọng thét lớn.

Trong tiếng thét của Xi Vưu, sĩ khí quân Thần Nông chợt tăng vọt, trong khi quân Hiên Viên bại trận tan tác như núi đổ. Phong Bá và Vũ Sư xuất lĩnh binh sĩ Thần tộc tấn công hai bên trái phải, Si Mỵ Võng Lượng dẫn binh sĩ Thần tộc ùa theo truy kích tiêu diệt ngót năm vạn quân Hiên Viên tộc. Ly Chu và Tượng Võng dốc sức cố ngăn sự truy sát của Phong Bá và Vũ Sư, nhưng Tế thủy cắt ngang đường, không cách nào dẫn quân lội qua song chạy về biên giới Hiên Viên được, mắt thấy toàn quân sắp bị tận diệt đến nơi, chợt một con thanh long bơi lại, kê đầu lên một bờ Tế thủy, đuôi vắt sang tận bờ bên kia, sống lưng rộng rãi như một cây cầu xanh ngắt, thanh long bảo Tượng Võng: “Bước trên người ta mà qua sông.”

Té ra là Ứng Long mất tích bấy lâu, Tượng Võng chẳng kịp cám ơn, vội cõng Hoàng Đế bị trọng thương đang hôn mê, dẫn các binh sĩ còn lại qua sông, Ly Chu cùng các chiến sĩ còn lại đoạn hậu.

Tuy Vũ Sư có tài hô mưa không ai bì nổi nhưng trước mặt loài rồng được xưng là vương của Thủy tộc, y cũng đành chịu bó tay. Bất kể y dấy lên sóng to gió mạnh đến đâu, Ứng Long đều có cách ứng phó.

Nhờ Ứng Long bất ngờ ra tay tiếp cứu nên Hiên Viên tộc mới bảo toàn được hơn một vạn chiến sĩ. Trong trận chiến Phản Tuyền lần này, có thể nói Hiên Viên tộc đã thảm hại.

Trong Phản Tuyền thành râm ran tiếng cười tiếng nói, mọi người đều uống tràn lan, mừng thắng lợi.

Chỉ riêng Xi Vưu một mình đứng trên đầu thành, dõi mắt trông về cuối trời Tây.

Vũ Sư và Phong Bá dìu nhau loạng choạng bước lên thành lâu, Phong Bá hỏi Xi Vưu: “Huynh như vậy là sao hả? Kẻ nào không biết còn tưởng là chúng ta thua nữa đó.”

Vũ Sư cũng đã say đến bảy tám phần, lè nhè hỏi: “Đến giờ ta vẫn chưa hiểu chuyện này rốt cuộc là sao nữa, rõ ràng chúng ta đã lâm vào đường cùng, nói thực, ta đã nghĩ lần này thua chắc, vậy mà giờ lại có thể ngồi trong Phản Tuyền thành uống rượu.”

Xi Vưu đáp: “Vừa đúng lúc, để ta dẫn ngươi đi gặp Hình Thiên tướng quân!”

Một đại hán cao chừng một trượng bước ra, Xi Vưu giới thiệu: “Đây chính là đại tướng quân phụ trách lương thảo của chúng ta, vì tướng quân luôn ở hậu phương nên các ngươi không có cơ hội gặp mặt.”

Hình Thiên hỏi Xi Vưu: “Ta thật không sao chịu nổi ngươi nữa, may mà lần này ta đích thân áp tải lương thảo, giờ gặp nhau ở đây, ta phải hỏi cho ra lẽ mới được, rốt cuộc ngươi định làm gì vậy? Mọi người đều biết chiến sự ở Phản Tuyền liên quan tới sinh tử của Thần Nông, chúng ta ở hậu phương thà nhịn ăn nhịn uống cũng phải gom đủ lương thảo, vậy mà ngươi khi thì bảo ta đưa ít đi, lúc lại bảo ta đưa chậm lại, lần này rõ ràng ta đã nghĩ ra cách, mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà ngươi lại bảo ta tạm thời giấu cả đi.”

Vũ Sư kinh ngạc hỏi thất thanh: “Chúng ta có lương thảo ư?”

Hình Thiên hừ mũi: “Tuy chúng ta đã mất nước nhưng còn dân, còn đất, chỉ còn người Hiên Viên không tới quấy phá, thứ gì nên trồng cây thì trồng cây, thứ gì nên thu hoạch thì thu hoạch, vẫn tích trữ được chút lương thảo. Lần này biết không thể thất bại trong chiến dịch Phản Tuyền nên mỗi ngày chúng ta chỉ ăn một bữa cơm, để dành lương thảo đưa ra chiến trường. Ta còn đi cầu khẩn Đồ Sơn Thị, gia tộc giàu có nhất trong Tứ thế gia, Viêm Đế từng có ơn cứu mạng chủ mẫu của họ, nên Đồ Sơn Thị tặng cho chúng ta một ít lương thảo, xem như báo đáp. Ngày sau thì không dám nói chắc, nhưng lúc này, ta không thể để binh sĩ đói được.”

Vũ Sư và Phong Bá đều trợn tròn mắt nhìn Xi Vưu, Vũ Sư ngỡ ngàng hỏi: “Sao huynh không cho các chiến sĩ ăn no?”

Hình Thiên phẫn nộ: “Nếu chẳng phải năm xưa Viêm Đế đinh ninh dặn ta nghe lời ngươi, ta đã tìm tới hỏi tội ngươi rồi.”

Xi Vưu biết tình tình Hình Thiên thẳng thắng bộc trực, bèn nhẫn nại giải thích: “Xưa nay Hoàng Đế cầm quân, không nổi tiếng vì dũng mãnh, mà vang danh nhờ mưu lược. Ông ta rất quý trọng binh lực, luôn muốn sắp sẵn mọi chuyện, đánh một đòn dứt điểm, trận Phản Tuyền lần trước chính là một ví dụ. Lần này nếu Hoàng Đế lấy cứng chọi cứng với chúng ta, thì cũng chỉ năm ăn năm thua, đôi bên lưỡng bại câu thương, Cao Tân sẽ được hưởng lợi, Hoàng Đế không đời nào chịu như vậy. Thế nên, ông ta lợi dụng việc quân đội Hiên Viên được cung ứng đầy đủ, cứ giằng dai kéo dài để tiêu hao sinh lực chúng ta, đợi chúng ta hoàn toàn suy kiệt, ông ta chỉ cần cất tay là dẹp tan, đó là kế sách thứ nhất. Những viên đại tướng bình thường trù tính được đến bậc này hẳn đã vừa ý rồi, nhưng Hoàng Đế lại rất cẩn thận, còn phái binh sĩ đào đường hầm để trước sau giáp kích, kẹp chúng ta vào giữa, đó là kế sách thứ hai. Đến đây, có thể coi như cầm chắc thắng lợi nhưng Hoàng Đế vẫn chưa vừa lòng, lại điều động Thần tộc bày trận thế tại Phản Tuyền sơn cốc, quyết không để xảy ra điều gì sơ sót.”

Vũ Sư tán thưởng: “Quả là lợi hại, hết kế này đến kế khác đan cài vào nhau!”

Phong Bá gật đầu: “Kế sách thứ nhất là quan trọng nhất, có điều Xi Vưu còn lợi hại hơn, rõ ràng Hình Thiên đã mượn được lương thảo từ Đồ Sơn Thị, vậy mà Xi Vưu vẫn hạ lênh giấu lương đi, để Hoàng Đế ngỡ rằng lương thảo của chúng ta đã cạn kiệt, bấy giờ mới chịu dốc toàn lực tấn công ta. Bằng không chúng ta đâu thể dễ dàng tiến vào Phản Tuyền thành như vậy?”

Xi Vưu nói: “Không thể nói là ta giỏi cầm quân hơn Hoàng Đế được, ta chỉ có ưu thế là nghiên cứu được tất cả các trận chiến của ông ta suốt mấy ngàn năm nay, còn ông ta lại chỉ có thể quan sát những trận chiến của ta trong thời gian này mà thôi, nên ta hiểu về ông ta hơn ông ta hiểu về ta nhiều. Bởi vậy, ta biết ông ta sẽ không tấn công trực diện một cách tùy tiện như thế, bèn nghĩ cách phối hợp với ông ta, lấy gậy ông đập lưng ông. Thực ra, trận chiến này, Hoàng Đế đã thua chính bản thân mình.”

Vũ Sư và Phong Bá cùng bật cười: “Huynh cần gì phải khiêm tốn? Đây cũng là nhờ huynh khéo léo ứng phó được tất cả những kế sách của ông ta. Ít ra chúng ta cũng không ai biết được huynh bày ra trò đá cầu là để thao luyện binh sĩ, nếu không có bọn Si Mỵ Võng Lượng cùng các huynh đệ Yêu tộc giỏi đá cầu, chẳng hiểu sẽ có bao nhiêu chiến sĩ phe ta phải bỏ mạng nữa.”

Chỉ mình Hình Thiên cố chấp lắc đầu: “Xi Vưu, nếu Viêm Đế còn sống, nhất định không tán thành cách làm này của ngươi đâu. Để dụ Hoàng Đế vào tròng, ngươi chẳng nề để tướng sĩ nhịn đói nhịn khát, nếu những binh sĩ hy sinh kia được ăn thêm chút thịt thà, biết đâu họ lại có sức chiến đấu, không đến nỗi phải chết. Ngươi còn chính tay đẩy họ vào trận thế của Hoàng Đế để làm mồi nhử, ngươi có biết bao nhiêu binh sĩ đã bị đá đè chết không? Mấy ngàn người đó!”

Thấy Xi Vưu lặng thinh, Hình Thiên lại nói: “Để giành thắng lợi, ngươi không tiếc bất cứ thủ đoạn nào cả, lần này ngươi hy sinh tướng sĩ, lần sau ngươi định hy sinh ai đây?”

Thấy Phong Bá toan nói gì đó, Xi Vưu liền giơ tay ngăn lại. Hắn bình thản đối diện với Hình Thiên: “Ngươi từng theo hầu sư phụ, hẳn biết rõ lai lịch xuất thân của ta. Trong mắt ta không có đúng sai đạo nghĩa, cũng chẳng có lễ nghĩa liêm sỉ, chỉ biết giở mọi thủ đoạn để sinh tồn mà thôi. Nếu bất mãn, ngươi cứ việc ra đi, nhưng nếu ngươi muốn ở lại thì phải tuyệt đối trung thành, bằng không…” Xi Vưu cười lạnh lẽo, “Lang vương thường cắn chết con sói phản bội rồi quẳng cho bấy sói xé xác ăn thịt, có điều hình phạt của nó vẫn chưa hung tàn bằng ta đâu.”

Thấy Hình Thiên phẫn nộ trợn trừng hai mắt, Vũ Sư ngỡ hắn định tấn công Xi Vưu, nào ngờ hắn trừng trừng nhìn Xi Vưu một hồi rồi quay phắt đi, “Ta chỉ trung thành với Viêm Đế thôi.”

Phong Bá và Vũ Sư định nói thêm gì đó, nhưng Xi Vưu đã xua tay, “Ta muốn ở lại một mình.” Hai người đành lui xuống.

Xi Vưu đứng trên đầu thành, dõi mắt về phía trời Tây.

Mẹ A Hành qua đời rồi!

Đến giờ hắn vẫn nhớ như in nỗi đau chết nửa cõi lòng lúc Viêm Đế qua đời, huống chi A Hành vốn gắn bó với Luy Tổ, nhất định sẽ còn đau đớn hơn.

Hắn chỉ hận không thể bay ngay đến Triêu Vân phong, nhưng đến rồi hắn phải nói gì đây? Ta đánh bại cha nàng, giết chết mấy vạn tộc nhân của nàng ư? Dùng đôi tay dính đầy máu tươi này ôm lấy nàng an ủi ư?

Tiêu Dao đậu xuống đầu thành, nghiêng đầu nhìn hắn như đang hỏi: Ngươi làm gì thế?

Xi Vưu cười nói: “Ta đang nhớ A Hành.” Nụ cười bất lực vô chừng, khác hẳn vẻ lãnh khốc bên ngoài.

Tiêu Dao lườm hắn rồi kêu lên một tiếng, khẽ vỗ cánh như thể muốn bay đi.

Xi Vưu liền nhảy lên lưng nó, “Nào thì đi!” Bất kể ra sao cũng phải tới trông thấy nàng, mới có thể yên tâm.

Đã tảng tảng sáng, nhưng trong Triêu Vân điện vẫn vắng lặng như tờ, tưởng chừng nghe được cả tiếng lá rơi, hồ như tất cả mọi người đều đang say ngủ.

Xi Vưu tìm từ tiền điện đến sương điện cũng chẳng thấy A Hành, đang lo lắng chợt thấy một bóng người chớp lên, hắn vội vàng lẩn đi.

“Xi Vưu.” Vân Tang gọi giật hắn lại, “A Hành đang ở trên đỉnh núi.”

Xi Vưu đang định đi, chợt nghe Vân Tang hỏi: “Nghe nói ngươi hiện giờ thiếu thốn lương thảo, sắp không duy trì được nữa ư?” Tốc độ của Tiêu Dao quá nhanh, lại đến trước cả khi tin thắng bại truyền về Hiên Viên thành.

Xi Vưu ngoảnh lại đáp: “Chiến dịch đã kết thúc, Hoàng Đế bị trọng thương, Thần Nông thu lại Phản Tuyền rồi.”

Sắc trời vẫn còn lờ mờ, Vân Tang lại đứng quay lưng về phía ánh sáng nên không trông rõ được nét mặt, hồi lâu, nàng mới hỏi: “Tiếp sau đây, ngươi định thế nào?”

“Đợi thu hồi được toàn bộ lãnh thổ Thần Nông, buộc Hoàng Đế đầu hàng, ta cũng hoàn thành lời hứa với hai đời Viêm Đế, trả hết ơn nghĩa, chừng đó ta sẽ giao lại binh quyền, chuyện về sau là của Thần Nông vương tộc các người.”

“Vậy còn ngươi?”

“Ta sẽ dắt A Hành vĩnh viễn rời đi.”

Vân Tang trỏ con đường mòn tít tắp sâu trong rừng dâu, “Ngươi men theo con đường này sẽ gặp A Hành, đêm qua mẫu hậu vừa qua đời, hiện giờ muội ấy đang vô cùng thương tâm, ngươi đừng khiến muội ấy bị kích động, cũng đừng nhắc tới chiến dịch.”

“Đa tạ”

Xi Vưu men theo con đường mòn đầy cỏ dại, thẳng lên tận đỉnh núi. A Hành đang ngồi bó gối trên sườn núi. Nghe tiếng bước chân, nàng liền ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu, nàng cũng chẳng nói chẳng rằng, chỉ hơi nhích người ngồi lùi vào trong một chút. Xi Vưu bèn ngồi xuống sát bên nàng.

Phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mây tía lững lờ tựa một dải lụa, rực rỡ mỏng tan như khói, vầng dương vẫn chưa ló dạng.

Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành, thấy gương mặt nàng vừa tái nhợt vừa gầy vò, trong ánh sáng nhàn nhạt đầu ngày, dường như trông rõ mồn một mạch máu xanh ngắt dưới làn da, hắn chợt xót xa khôn xiết, liền quàng tay ôm lấy nàng.

A Hành tựa đầu vào vai hắn, nước mắt lã chã: “Xi Vưu, từ nay về sau ta chỉ còn một thân một mình thôi, ta không còn mẹ, cũng không còn ca ca nữa.”

Xi Vưu an ủi: “Thanh Dương còn đó, sao nàng lại bảo chỉ còn một thân một mình?”

Nỗi bi ai trong lòng quặn lên, A Hành khóc nức: “Đại ca đã chết lâu rồi, trong trận Phản Tuyền lần trước, chính chàng đã lầm lẫn lỡ tay đánh chết Đại ca. Ta vốn đã sắp đặt mọi chuyện, quyết từ bỏ tất cả để ra đi cùng chàng, làm Tây Lăng Hành, không làm Hiên Viên Bạt nữa, Đại ca và Thiếu Hạo đều hứa sẽ giúp ta, Tứ ca cũng ủng hộ hai ta. Nhưng sau khi Đại ca qua đời, mẫu hậu và Tứ ca không còn chỗ dựa, ta không thể bỏ thân phận Cao Tân vương phi được nữa. Vì bảo vệ cho mẫu hậu và Tứ ca, ta buộc phải mượn sức Thiếu Hạo, để Thanh Dương tiếp tục “sống.” Tứ ca cũng đem lòng hận chàng, cấm ta và chàng ở bên nhau…”

Qua những lời nghẹn ngào nức nở ngắt quãng của A Hành, Xi Vưu mới hiểu ra đầu đuôi mọi chuyện, thì ra, hạnh phúc của hắn đã bị hắn chính tay đánh mất. Trong lúc hắn hôn mê ở Bắc Minh, A Hành vừa phải gánh nỗi đau tang tóc, vừa phải lo lắng bảo hộ cho mẫu hậu và Tứ ca. Nỗi xót xa vô hạn trào dâng trong lòng, chợt một ý nghĩ lóe lên, nếu A Hành không hề thay lòng, chỉ vì bảo vệ mẹ với Tứ ca mới cùng Thiếu Hạo…

“Vậy Tiểu Yêu là… là… con gái ta ư?” Xi Vưu bỗng cảm thấy tim đập thình thịch, ngay cả lúc giao đấu sinh tử cùng Hoàng Đế, hắn cũng không căng thẳng và sợ hãi đến vậy.

A Hành đánh hắn mấy cái, khóc lóc hỏi ngược lại: “Vậy chàng tưởng nó là con ai? Tên nó là Tiểu Yêu, ẩn ý nhắc tới hoa đào, khi ấy chàng sống chết không rõ, bị kẻ thù săn lùng khắp đại hoang, ta còn có thể làm sao đây?”

Xi Vưu vừa mừng rỡ lại vừa buồn bã, hắn có con gái, cuối cùng hắn cũng có con gái thật rồi! Nhưng hắn chưa ngày nào làm tròn trách nhiệm người cha, ngược lại còn vì sát nghiệp của mình, hại con gái từ khi sinh ra đã rơi vào nguy hiểm. Hắn dịu dàng ôm lấy A Hành, thì thầm bên tai: “Xin lỗi nàng, cho ta xin lỗi.”

A Hành phải gánh vác trọng trách, xưa nay vẫn gắn nén bi thương vào lòng. Đại ca chết, không dám khóc, sợ mẹ và Tứ ca đau lòng; Tứ ca chết, không dám chết, sợ mẹ và Tứ tẩu thêm đau lòng; giờ đây, cuối cùng nàng cũng vứt bỏ mọi cố kỵ, mặc cho đau thương tràn ra như nước vỡ bờ, vùi đầu vào vai Xi Vưu khóc thảm thiết.

Xi Vưu cũng chẳng khuyên giải, chỉ ôm chặt lấy nàng, khẽ vỗ vỗ lưng nàng, như thể đang an ủi một đứa bé.

A Hành vừa khóc vừa nói: “Từ nhỏ đến lớn, ta luôn thích ra ngoài chơi, chuyện gì cũng dám làm, bởi ta biết, dù xảy ra chuyện gì, chỉ cần chạy về Triêu Vân điện, sẽ có mẹ và các ca ca ở đó. Nhưng tới khi phát hiện ra gia đình là thứ quý giá nhất, thì đã chẳng còn gì nữa cả. Đại ca đi rồi, ta còn mẹ và Tứ ca, Tứ ca đi rồi, ta chỉ còn mẹ, chỉ cần mẹ vẫn còn sống thì ta vẫn còn gia đình. Hiện giờ mẹ cũng đã đi rồi, ta đã chẳng còn gia đình nữa…”

Xi Vưu cúi đầu hôn lên tóc mai nàng, “Nàng quên ngôi nhà trong núi Cửu Lê mà nàng tự tay bài trí rồi ư? Chúng ta có gia đình của chúng ta. Tuy bấy nhiêu năm nay nàng chưa hề quay lại, nhưng hàng năm ta đều ở đó sửa sang, cây mướp trong vườn đã leo đầy cả giàn rồi; ta còn đào một cái giếng, nước giếng mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát, ngày hè nóng nực, bỏ dưa vào giỏ rồi thả xuống giếng ướp lạnh, ăn vào mát lạnh cả người, phải rồi, ta còn bứng một góc tường vi từ Thanh Khâu quốc đem trồng trong vườn, hoa nở ra đẹp như ráng chiều vậy, nàng có thể ngắt lấy chế thành son môi…”

A Hành nước mắt rưng rưng, cảnh tượng lúc Luy Tổ lâm chung lại hiện ra trước mắt.

Mẹ nắm lấy tay nàng dặn dò: “Hành nhi, tuy ta mất đi, nhưng đổi lại, con có thể được tự do. Nếu con thật sự yêu Xi Vưu, thì đi theo hắn đi.” Nàng kinh ngạc nhìn mẹ, ấp úng mãi không nói nên lời. Mẹ nàng cười yếu ớt: “Đồ ngốc ạ, con tưởng đến giờ ta vẫn không nhận ra tâm sự của con ư? Chỉ cần Xi Vưu có thể cho con một gia đình, chăm sóc tốt cho con, thì nó là con rể của ta. Hiện giờ, điều duy nhất ta còn chưa yên lòng, là con đấy!”

Nghe Xi Vưu miêu tả, A Hành tựa hồ trông thấy căn nhà nhỏ thấp thoáng giữa bóng hoa đào, khu vườn rau cạnh nhà, từng ngọn non loăn xoăn xanh mướt từ giàn mướp rủ xuống, giếng đá xanh trước nhà, cái gầu nằm lăn lóc bên miệng giếng, hoa tường vi hồng thắm nở đầy quanh giếng, từng chùm từng cụm, đẹp như ráng chiều…

Dường như mẹ cũng trông thấy căn nhà mới của nàng, đang đứng trước nhà hân hoan mỉm cười.

Mẹ ơi, con có thể tự do đi cùng Xi Vưu thật ư?

Mẹ gật gật đầu với nàng, rồi bóng xa dần, lẫn vào giữa bong hoa đào, vẻ mặt thanh thản, chẳng còn gì vướng bận.

A Hành ngẩng đầu nhìn Xi Vưu, nước mắt chan hòa, chợt khóe môi nàng lại nở nụ cười rạng rỡ, vui mừng nói: “Mẹ nói kể từ giờ ta đã tự do rồi, mẹ bảo mẹ bằng lòng nhận chàng làm rể.”

Xi Vưu sững ra, như không dám tin, một thoáng sau, mới lộ vẻ mừng rỡ như điên cuồng, lắp bắp hỏi: “Mẹ nàng, mẹ nàng… thật… thật…”

A Hành gật đầu.

Xi Vưu xưa nay vẫn cho rằng mình không thể được người thân của A Hành chấp thuận, nên luôn ngang ngược tuyên bố không để tâm, ngờ đâu được người thân thừa nhận và chúc phúc lại có thể làm người ta yên lòng, khiến niềm hạnh phúc càng tăng lên gấp bội. Xi Vưu mừng đến nỗi nói không nên lời, chỉ biết ngẩn ra nhìn A Hành, cười ngây ngô.

Chân trời đằng đông chợt bừng lên, A Hành liền ngoảnh lại nhìn, khẽ lẩm bẩm: “Chàng xem, mặt trời mọc kìa, một ngày mới lại đến rồi.”

Vầng mặt trời đỏ ối như ngọn lửa cháy rực nhô lên khỏi bể mây cuồn cuộn, rọi sáng cả đất trời, khiến vạn vật cũng thành ra rạng rỡ.

Xi Vưu ôm chặt lấy A Hành: “Về sau, ngày ngày chúng ta sẽ cùng nhau ngắm mặt trời mọc nhé?”

A Hành nhoẻn cười, gật đầu. Chẳng rõ nhờ ánh nắng của mặt trời, hay vì hơi ấm của đối phương, cả hai đều thấy thân mình nóng bừng lên.

Nhìn vào đôi mắt sáng long lanh của A Hành, Xi Vưu máy môi toan nói với nàng: chiến dịch đã kết thúc, nhưng lời ra đến miệng lại không thốt lên nổi. Lúc này đây, hắn chỉ muốn ôm lấy nàng, yên lặng ngắm nhìn vầng dương chiếu rọi khắp nơi.

Ráng đỏ như lửa phủ ngập chân trời, đỗ quyên đỏ như lửa nở đầy sườn núi, hai người yên lặng ngồi trên đỉnh núi, tựa vào nhau, xung quanh là nắng mai tực khói, là hoa dại rực rỡ, thân mình cả hai tựa hồ đã ngưng kết lại thành đá núi, chỉ khi gió sớm thổi qua, mới thấy tà áo nhẹ bay bay.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Tây Lăng Hành, sau này nàng định làm gì?”

Tây Lăng Hành, cái tên tượng trưng cho hạnh phúc và tự do ấy, đã bao lâu rổi chưa xuất hiện trong đời nàng? A Hành mơ màng như đang nằm mộng, hạ giọng thì thầm, “Ta muốn ngày ngày đều được ở bên chàng, nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, chứng kiến bọn chúng dựng vợ gả chồng, rồi cùng chàng hạnh phúc lìa khỏi thế gian này.”

Xi Vưu cười, “Nguyện vọng quá đơn giản, ta nhất định sẽ giúp nàng thực hiện!”

“Thật không?”

“Thật.”

Chợt nghe tiếng Chu Du từ rừng dâu gọi vóng lên: “Vương cơ, A Hành!”

A Hành đứng dậy, nhưng Xi Vưu vẫn nắm lấy tay nàng, quyến luyến chẳng nỡ rời. A Hành từ từ lùi lại, bàn tay cũng từ từ tuột khỏi tay hắn. Nàng dặn: “Ta phải lo liệu tang lễ cho mẹ, chàng về trước đi. Giờ này ngày mai, chàng sẽ nhận được quà ta tặng, coi như… ta đền cho chàng vì bấy nhiêu năm nay lỡ hẹn.”

Chiều hôm đó, tin tức về trận Phản Tuyền truyền đến Cao Tân, các đại thần lại được dịp đua nhau tán tụng Thiếu Hạo anh minh cơ trí, không phái binh tham chiến, bằng không đã bị vạ lây với Hoàng Đế.

Đối mặt với lời xưng tụng của quần hùng, Thiếu Hạo chỉ lặng yên không nói.

Đám đại thần thấy vậy cũng chẳng dám dông dài nữa, Thiếu Hạo bây giờ đã không còn là kẻ ôn hòa khiêm tốn, lấy lễ đối đãi với bề tôi như trước, y luôn lạnh lùng nghiêm khắc, trầm mặc kiệm lời, vui giận khó lường, thủ đoạn tàn nhẫn, quần thần mỗi lần bắt gặp ánh mắt y đều run lên sợ hãi.

Thiếu Hạo đang định cho mọi người lui ra, bỗng một tên nội thị hồng hộc chạy vào đại điện, giơ cao một phong thư trắng toát.

Thiếu Hạo khẽ phất tay, phong thư liền bay thẳng tới tay y. Giở ra đọc xong, sắc mặt y chợt trầm xuống, y trân trân nhìn phong thư, hồi lâu chẳng nói chẳng rằng.

Quý Ly xưa nay chưa hề thấy Thiếu Hạo như vậy, đánh liều hỏi: “Bệ hạ có gì căn dặn chăng?”

Thiếu Hạo đưa phong thư cho y, Quý Ly thoạt nhìn đã biến sắc mặt, là giấy tự từ hôn của Hiên Viên Bạt, nàng tuyên bố hủy bỏ hôn nhân với Thiếu Hạo, từ nay trở đi, đôi bên tự do dựng vợ gả chồng, không liên quan đến nhau nữa.

Thiếu Hạo bình thản nói: “Chuyện này có lẽ thiên hạ đều biết cả rồi, ngươi đưa cho bọn họ đọc đi, đọc xong thử trình bày ý kiến xem.”

Mấy vị đại thần xem xong, lòng vô cùng căm phẫn, nhưng không sao dò đoán được thái độ của Thiếu Hạo, nên chẳng ai dám ra lời. Quý Ly đành lên tiếng: “Tân bệ hạ, Cao Tân lập quốc mấy vạn năm nay, chưa từng nghe nói có chuyện như vậy bao giờ, chúng thần cũng không biết nên làm sao mới phải.”

Đám triều thần lao xao gật đầu, xưa nay chỉ nghe nói đế vương hắt hủi phi tử, chưa từng thấy phi tử tự động ra đi bao giờ.

Đột nhiên, một kẻ buông miệng hỏi: “Đây là ý của Hoàng Đế sao? Có phải đằng sau có âm mưu gì không?”

Thiếu Hạo đáp: “Văn thư này mới được ban bố sáng nay thôi, lúc này dù Hoàng Đế còn sống, cũng đang trên đường trốn chạy từ Phản Tuyền, không thể phát ra ý chỉ này được, trên này chỉ có dấu ấn của Vương hậu, không có dấu của Hoàng Đế, hẳn là ý riêng của Hiên Viên vương cơ thôi.”

Triều thần vội tâu: “Vậy thì không tính.”

Thiếu Hạo phán: “Các ngươi lui cả xuống, chuyện này cứ như vậy đi!” Nói rồi, y đứng dậy đi thẳng.

Cả đám triều thần ngơ ngác nhìn nhau, đều lúng túng như gà mắc tóc. Cứ như vậy đi! Là như thế nào đây? Thiếu Hạo xưa nay nói năng rất rõ ràng rành mạch, đây là lần đầu tiên bọn họ nhận được một mệnh lệnh mơ hồ thế này, thật không biết phải chấp hành ra sao nữa.

Thiếu Hạo không quay về Thừa Ân cung mà đi thẳng tới Thừa Hoa cung – phủ đệ của y thời còn là vương tử.

Đẩy cửa phòng ngủ, mọi thứ vẫn y như cũ.

Y còn nhớ, đêm tân hôn mình đã vờ say, lảo đảo đẩy cửa phòng ra. Bây giờ A Hành ngẩng phắt đầu lên, chăm chú nhìn y, tựa hồ nhìn thấu hết thảy tâm tư y.

Chiếc sập kê sát cửa sổ, ngay cạnh án thư, mỗi tối, khi y ngồi trước án thư xử lý công văn, A Hành thường nằm trên sập đọc sách thuốc.

Cửa sổ trông thẳng ra vườn hoa, hoa cỏ trong vườn đều do nàng tự tay trồng, nàng vừa nghiên cứu Thần Nông Bản Thảo Kinh, vừa mê mải thực hành, trồng ra đủ loại kỳ hoa dị thảo, nổi danh khắp Cao Tân thần tộc, ngay cả phụ vương cũng phải phái cung nhân tới xin giống hoa cỏ về.

A Hành tâm tư tinh tế, biết y thính mùi nên hằng ngày đều hái hoa tươi đặt lên án thư, khiến y luôn được dịp bất ngờ .

Hương rượu thoang thoảng trong gió đêm đưa lại, là túy hải đường do A Hành trồng, chỉ chuyên tưới bằng rượu, không thể tưới bằng nước, đóa hoa lớn mà trắng muốt, khiến người ta vừa ngửi đã say, nàng từng đùa rằng, “Đây là bậc quân tử say trong các loài hoa, có thể đặt tên là Thiếu Hạo hoa.”

Thiếu Hạo đứng dậy, ra vườn ngắt mấy cành túy hải đường cắm vào bình ngọc trên án thư, lập tức cả phòng sực nức hương thơm, khiến người ta ngất ngây chỉ muốn say.

Y ngả người nằm xuống sập, rút trong tay áo ra một chiếc hộp nhỏ bằng thủy ngọc, trong hộp đặt một ngón tay út.

Hôm A Hành không mượn được binh bèn chặt ngón tay bỏ đi, y thực sự không ngờ Xương Ý và Xương Phó lại lần lượt qua đời, từ đó trở đi, A Hành cũng chẳng trở về Ngũ Thần sơn nữa, sau này, càng không thể trở về.

Thiếu Hạo mê mệt thiếp đi giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu.

Ánh nắng chói chang, cỏ xanh mơn mởn, hoa nở rực rỡ. Thanh Dương, A Hành, Xương Ý đều có mặt, hệt như hôm Xương Ý thành hôn, tất cả túm tụm cười cười nói nói. Thiếu Hạo thấy vui vẻ vô cùng, nhưng trong lòng lại thấp thoáng một nỗi đau xót khó gọi thành tên, tựa hồ biết ngày vui ngắn chẳng tày gang vậy.

Y đem ra hết vò rượu này đến vò rượu khác do mình tự cất, còn luôn miệng giục họ uống, như sợ chậm trễ thì họ sẽ không uống được.

Thanh Dương cười bảo Xương Ý: “Tên này đổi tính rồi, trước đây muốn uống hớp rượu ngon của hắn phải nài nỉ năm lần bảy lượt mới được đấy.”

Thiếu Hạo rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương vừa nâng chén lên, chợt thấy Vân Trạch đứng dưới gốc phượng hoàng cười gọi: “Đại ca!”

Thanh Dương lập tức đứng dậy, đi về phía Vân Trạch, ba huynh đệ họ đứng dưới gốc phượng hoàng cười cười nói nói, chẳng nhìn nhõi gì đến Thiếu Hạo.

Y vội ôm vò rượu chạy tới, “Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý! Mọi người lại cùng nhau uống rượu đi, chỉ một lần này thôi mà!” Nhưng bất kể y chạy bao lâu, cũng không chạy tới được.

“Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý…”

Y đã mệt đến nỗi mồ hôi đầy đầu, mắt thấy sắp đuổi đến nơi, đột nhiên Thanh Dương rút kiếm ra chỉ thẳng vào y: “Tại sao ngươi không cứu Xương Ý? Chẳng phải ngươi đã thề rằng ngươi chính là Thanh Dương ư? Đồ tiểu nhân bội tín bạc nghĩa nhà ngươi!”

Thiếu Hạo không sao tránh né, đành giương mắt nhìn thanh kiếm cắm ngập vào tim mình, “A…”

Thiếu Hạo bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa, nằm giữa căn phòng nồng nàn mùi rượu, Thiếu Hạo nhất thời cũng chẳng biết bản thân đang ở đâu nữa, đương lúc mơ màng, y còn tưởng mình đang uống rượu với Thanh Dương, bèn trở mình gọi: “Thanh Dương, ta vừa gặp ác mộng.” Coong một tiếng, chẳng rõ thứ gì vừa rơi xuống đất, y cúi đầu nhìn, thấy trong miếng thủy ngọc xanh biếc đặt một ngón tay út, đột nhiên, cả người toát mồ hôi lạnh.

Thanh Dương không còn nữa, Vân Trạch không còn nữa, Xương Ý không còn nữa, A Hành cũng đi rồi!

Y ngơ ngác ngẩng đầu, lại chẳng hiểu rốt cuộc muốn nhìn gì, chỉ thấy một vành trắng lạnh in bóng lên rèm lụa, cô quạnh tịch liêu.

Bốn anh em Si Mỵ Võng Lượng chạy xộc vào phòng hô hoán: “Tin động trời, tin động trời đây.”

Phong Bá nghe hò hét mà ong cả óc, liền nạt: “Nếu không phải tin động trời, ta sẽ phạt mỗi tên ba mươi roi.”

Mỵ dương dương đắc ý cười nói: “Lần này huynh không phạt được bọn ta đâu, quả là tin động trời đó.”

Thấy chúng lại tiếp tục đấu võ mồm với Phong Bá, Xi Vưu bực bội quát: “Nói!”

Nghe tiếng quát, Si Mỵ Võng Lượng tức thì đứng nghiêm, Si nói: “Hiên Viên vương cơ thôi không làm Cao Tân vương phi nữa rồi.”

“Gì cơ?” Phong Bá và Vũ Sư đồng thanh hỏi.

Si nháy mắt với cả hai, như thể nói: Thấy chưa, rõ ràng là tin động trời mà, không ngoa tí nào nhé!.

Xi Vưu chống hay tay lên bàn, chồm người tới trước, nôn nóng: “Các ngươi nói lại nghe nào.”

Mỵ đáp: “Cao Tân vương phi nói mình tài hèn đức mọn, không xứng với Thiếu Hạo nên tự động từ hôn, từ nay trở đi chỉ còn là Hiên Viên vương cơ, chứ không phải là Cao Tân vương phi nữa, có thể tự do kết hôn.”

Phong Bá nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc Hiên Viên vương cơ có ý gì vậy? Giờ đang là lúc Hiên Viên cần Cao Tân nhất, vậy mà cô ta phải phá hủy mối liên minh với Cao Tân là sao?” Chợt nghĩ lại, y vụt hỏi: “Tin này công bố lúc nào?”

Si đáp: “Sáng sớm nay.”

“Thảo nào, đây nhất định không phải ý của Hoàng Đế, mà là Hiên Viên cơ tự tiện đưa ra.” Phong Bá cười với Xi Vưu, “Đúng là trời giúp Thần Nông rồi, ắt hẳn Cao Tân sẽ coi đây là mối nhục lớn, dẫu Hiên Viên vương cơ muốn rút lời lại cũng chẳng dễ dàng gì đâu.”

Xi Vưu từ từ ngồi xuống, vẻ mặt vừa bi ai lại vừa mừng rỡ. Thì ra đây chính là lễ vật A Hành tặng cho hắn – tự do của nàng!

Nhưng lúc này đây, hẳn A Hành đã biết mọi chuyện rồi?

Từ sáng, sau khi công bố hủy bỏ cuộc hôn nhân với Thiếu Hạo, A Hành vẫn ở lì trên Triêu Vân phong, thu dọn di vật của Luy Tổ, nàng đang đợi cơn thịnh nộ của Hoàng Đế giáng xuống.

Mãi đến chập choạng tối mới thấy cung nữ hớt hơ hớt hãi chạy vào thông báo: “Hoàng Đế, Hoàng Đế đến rồi!”

A Hành chậm rãi đứng dậy bước ra ngoài, nàng cứ ngỡ rằng sẽ trông thấy Hoàng Đế bừng bừng lửa giận, đứng giữa đám thị vệ dương dương tự đắc, trợn trừng mắt phẫn nộ nhìn nàng. Nhưng ra đến ngoài điện, nàng chỉ thấy Tượng Võng thúc thúc te tua thảm hại, Ly Chu thúc thúc khắp người đầy máu.

Bắt gặp ánh mắt nghi hoặc của nàng, Tượng Võng và Ly Chu đồng loạt quỳ xuống: “Xin vương cơ lập tức phái tâm phúc tới Quy khư mời Đại điện hạ xuất quan.”

A Hành nhìn vào điện, thấy đám thầy thuốc đang xúm xít tất bật quang giường: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Tượng Võng bẩm: “Chúng ta trúng kế Xi Vưu, Hoàng Đế bị trọng thương e rằng không ổn…phải mời nagy Thanh Dương điện hạ về, gặp bệ hạ lần cuối.”

Như sấm nổ giữa trời quang, A Hành chợt thấy thần trí trống rỗng, đờ người tại chỗ. Nàng không tin! Phụ vương nàng là Hoàng Đế oai phong lẫm liệt, chẳng ai dám trái ý kia mà, sao có thể nguy cấp được? Hôm qua nàng còn láng máng nghe đồn Xi Vưu bị ép đến nổi cạn lương hết đạn, sắp thất bại rồi mà.

A Hành tức tốc chạy vào đại điện, rẽ đám đông ra, xông đến bên giường, chỉ thấy Hoàng Đế hai mắt nhắm nghiền, sắt mặt tái nhợt.

“Phụ vương, phụ vương…” A Hành không kiềm được gọi ầm lên. Hoàng Đế chợt mở bừng mắt, mơ màng nhìn A Hành, mỉm cười nhẹ nhõm: “A Luy, ta biết thế nào nàng cũng đến mà, thấy nàng là ta yên tâm rồi.”

Tượng Võng và Ly Chu đứng bên nghe thấy, sống mũi bỗng cay xè, lệ tràn lên mắt. Trước là Vương hậu qua đời, rồi lại tới Hoàng Đế trọng thương, chỉ trong một đêm, Hiên Viên đã chao đảo sắp sụp đổ.

Thứ phi Phương Lôi, Tứ phi Mô Mẫu đều hay tin chạy đến, Phương Lôi đã hoảng loạn, chỉ biết khóc nức nở, còn Mô Mẫu vẫn giữ được bình tĩnh, hỏi: “Thương thế ra sao?”

Đám thầy thuốc đều nhất loạt quỳ xuống, dập đầu lia lịa, không dám lên tiếng, chỉ có một lão thầy thuốc già đánh bạo lên tiếng thưa: “Thương thế rất nặng, phải mau mau mời Đại điện hạ về thôi, nếu về nhanh, may ra còn kịp gặp mặt lần cuối.”

Nghe thấy câu đó, Phương Lôi liền ngất xỉu, Mô Mẫu cũng bủn rủn ngồi phệch xuống đất, nhất thời trong điện hỗn loạn cả lên.

A Hành nắm lấy hai cổ tay Hoàng Đế, thăm mạch cho ông, lát sau, nàng rút ngọc trâm trên đầu xuống, phong bế mạch tức vài ba nơi trên người ông, đoạn quay ra bảo Ly Chu và Tượng Võng: “Phiền hai vị thúc thúc cho tất cả mọi người lui ra ngoài.”

Tượng Võng nôn nóng thưa: “Vương cơ, chúng ta phải lập tức mời Thanh Dương điện hạ về ngay, bằng không Hiên Viên sẽ đại loạn mất.”

A Hành đáp: “Việc cấp bách hiện giờ của chúng ta là phải cứu phụ vương đã.”

Tượng Võng tính tình nóng nảy, lại là đại tướng khai quốc từng theo Hoàng Đế Nam chinh Bắc chiến giành lấy thiên hạ, trong lúc cấp bách cũng chẳng lựa lời, cứ thế nói thẳng toẹt: “Đương nhiên phải cứu bệ hạ, nhưng ngay cả những thầy thuốc giỏi nhất nước cũng đã chẩn đoán rồi, trừ khi Viêm Đế Thần Nông tái sinh, bằng không làm sao cứu được?”

A Hành hỏi: “Phụ vương trước sau trọng thương hai lần, lần thứ nhất là linh thể bị trường đao chém trúng, thoạt nhìn có vẻ nghiêm trọng nhưng cũng như đánh rắn vậy, dù chém rắn đứt làm đôi mà không trúng chỗ hiểm, thì vẫn còn cứu được. Có điều ngay sau đó, phụ vương lại trúng một chưởng vào ngực, đã thương lại thêm thương, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc, hai vị thúc thúc, con đoán có đúng không?”

Tượng Võng nghe nói tới vết thương đầu tiên liền gật đầu lia lịa, nhưng đến vết thương thứ hai, ông ta càng nghe càng lộ vẻ quái lạ, mở miệng toan nói.

Ly Chu chợt ấn vào vai Tượng Võng, kinh ngạc hỏi: “Hành nha đầu, con biết y thuật từ bao giờ thế? Tình hình khi đó đúng như con nói, thoạt đầu Xi Vưu vung đao chém linh long của Hoàng Đế, tuy linh long bị chém thành hai đoạn, nhưng Hoàng Đế vẫn tránh được, không trúng phải chỗ yếu hại. Thấy Hoàng Đế ngã từ trên tọa kỵ xuống, không còn sức tự vệ, Xi Vưu bèn đuổi theo, bồi thêm một chưởng.”

A Hành đáp: “Nói ra thì dài lắm, tóm lại hai vị thúc thúc có tin con không? Nếu để cho con an bài mọi sự thì vẫn còn cứu được phụ vương.”

Tượng Võng không nói gì, chỉ nhìn sang Ly Chu. Ly Chu liền nói: “Chúng ta không tin con thì còn biết tin ai? Con cứ tùy ý quyết định mọi chuyện đi.”

“Cần tìm một vị cao thủ tinh thông trận pháp để bày trận, sau đó con sẽ dùng linh dược giúp phụ vương điều dưỡng, nếu mọi việc thuận lợi, chắc có thể giữ được tính mạng. Linh dược con đã có đủ đầy rồi, chỉ thiếu cao thủ bày trận…”

Tri Mạt chợt bước vào nói: “Xin để vi thần bày trận.”

Tượng Võng vô cùng kinh ngạc, mừng đến nỗi thiếu điều nhảy cẩng lên: “Rốt cuộc ông cũng quay về rồi!”

Thuở nhỏ, A Hành đã lớn lên cùng những câu chuyện của Tri Mạt, theo nàng được biết, ông ta vốn thuộc tầng lớp hạ lưu ở Cao Tân khi quen biết phụ vương, ông ta rất tinh thông trận pháp, giỏi bày mưu tính kế, từng phò tá phụ vương lập ra Hiên Viên quốc, là khai quốc công thần bậc nhất Hiên Viện, được tôn vinh là Đế sư. Nhưng sau khi Hiên Viên lập quốc, ông ta và Hoàng Đế nảy sinh bất đồng, quan hệ ngày càng lạt lẽo, trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, ông đã treo ấn từ quan, ẩn cư lánh đời.

Luy Tổ rất mực kính trọng Tri Mạt nên trước mặt ông, xưa nay A Hành chưa hề coi mình là vương cơ, vội hành lễ với Tri Mạt: “Mọi chuyện xin trông cả vào bá bá.”

Theo yêu cầu của A Hành, Tri Mạt dốc hết tâm sức bày bố trận pháp, còn nàng phong ấn thân thể Hoàng Đế vào trận, tạm thời tính mạng Hoàng Đế không có gì đáng ngại, nhưng rốt cuộc có trị khỏi được hay không, còn phải trông vào y thuật của A Hành và sức khỏe của Hoàng Đế.

Nửa đêm, A Hành dỗ Chuyên Húc và Tiểu Yêu ngủ xong, vừa bước ra khỏi phòng, chợt thấy trước mắt tối sầm lại, xuýt nữa ngất xỉu. Bây giờ nàng mới sực nhớ ra mình đã không ăn không uống suốt một ngày trời, định tìm gì đó ăn đỡ, nhưng lại thấy nôn nao trong dạ, chẳng biết phải ăn gì nữa.

Nàng tìm được trong bếp nửa hũ dâu lạnh chính tay Luy Tổ làm, bèn lặng lẽ ôm vào lòng, ngồi xuống chiếc sập bên cửa sổ, nhón mấy chum đưa lên miệng, vị dâu lành lạnh man mát, chua chua ngòn ngọt tan ra trong miệng.

A Hành nhắm nghiền mắt lại, tựa như trông thấy tuyết rơi lả tả, Đại ca vận áo lam đứng giữa một trời tuyết trắng, mẫu hậu đẩy cửa sổ, nhìn mưa tuyết đầy trời, liền sai cung nữ đi hái dâu lạnh tươi rói, trong khi nàng và Tứ ca đang nằm dài ra tuyết cười đùa, chuẩn bị bắc bếp lò hâm rượu, Xương Phó mặc chiếc váy đỏ hồng, vốc tuyết ném vào đầu cả hai. A Hành bật dậy đuổi theo Xương Phó, hai người đều ngả nhào xuống tuyết.

A Hành nhoẻn miệng cười, lại nhón một vốc bia lạnh đưa lên miệng, những mong kéo dài niềm hạnh phúc ngòn ngọt chua chua ấy.

Xương Phó bị huynh muội nàng ảnh hưởng, cũng rất thích ăn dâu lạnh, ba người chẳng hề ngại rét, còn đứng ngay dưới gốc dâu, vừa cười đùa vừa hái dâu ăn. Những lúc ấy, Đại ca thường đứng xa xa nhìn lại, dẫu có bắt chuyện, y cũng chỉ ơ hờ vài câu rồi thôi. Nhiều lúc A Hành phát cáu, liền lấy tuyết ném y, tới chừng y ngoảnh đầu nhìn, nàng liền chạy đến nấp sau lưng Xương Phó, đại ca rất nghiêm khắc với nàng và Tứ ca, nhưng rất ôn hòa với Xương Phó.

Đợi Đại ca quay đi, nàng lại tiếp tục dương oai diễu võ, tay đấm chân đá với bóng lưng y, nhưng hễ y ngoái đầu là nàng nem nép, còn ngoan hơn thỏ, Xương Phó đứng bên vừa cười vừa ghẹo nàng.

A Hành cười, lại thò tay vào hũ, nhưng chỉ bốc vào khoảng không, thì ra nàng đã ăn hết nửa hũ dâu lạnh, chẳng còn sót mảy may! Bao nhiêu mộng mơ đều tan cả rồi!

A Hành lần tay vét nốt bên thành hũ, cuối cùng cũng vét được mấy mẩu vụn dính trên thành, nàng nhìn nhúm dâu lạnh còn sót lại, toan đưa lên miệng, nhưng lại tiếc rẻ không đành, ngẩn người ra nhìn một lúc lâu, mới dè dặt đưa từng mẩu nhỏ vào miệng.

Chua chua ngòn ngọt, lành lạnh man mát.

Nàng ôm lấy chiếc hũ không, nước mắt như mưa.

Xi Vưu đáp xuống giữa sân, nhìn vào thấy trong nhà tối om. Gió động song sa, phát ra những tiếng nức nở nghẹn ngào.

Xi Vưu bước lại gần bên song, tiếng động kia càng lúc càng rõ hơn, hóa ra là tiếng khóc tức tưởi.

Tiếng thổn thức đứt quãng, nhưng lại liên tục cứa vào lòng hắn.

Tay hắn đặt lên cửa sổ, chỉ cần đẩy khẽ một cái là mở được cửa sổ ra, lau khô nước mắt cho nàng, nhưng hắn quyết không dám dùng đôi tay đẫm máu này chạm tới nàng, vỗ về nàng.

A Hành áp mặt vào hũ dâu lạnh rỗng không, giọng khản đặc, “Chàng ở ngoài ư?”

“Ừm.”

“Sao sáng nay chàng không nói thực với ta?”

Xi Vưu lặng thinh.

“Ta biết chàng muốn báo thù cho Du Võng, nhưng dù sao đó cũng là người đã sinh ra ta, nuôi nấng ta.”

Xi Vưu máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào. Kẻ đả thương Hoàng Đế là hắn, hạ lệnh đồ sát binh sĩ Hiên Viên là hắn, có giải thích cũng chỉ là viện cớ, nên hắn không muốn, càng không buồn giải thích.

A Hành khẽ nói: “Chàng về đi, hiện giờ phụ vương đang trọng thương hôn mê, sống chết khó liệu, ta phải chăm sóc cho người.”

Xi Vưu vẫn bình thản đứng đó, nhưng bàn tay đặt trên khung cửa lại run bắn lên, linh khí tràn ra như nước vỡ bờ, không sao khống chế, song cửa lục lăng chạm trỗ từ gỗ đào chợt bừng lên sức sống, lá xanh mơn mởn nhú ra, vô vàng nụ hoa phấn trắng ló ra từ kẽ lá, từ từ xòe nở, chớp mắt, cả khung cửa chằng chịt cánh nhánh, rực rỡ muôn hoa.

A Hành thần người nhìn hoa đào nở đầy cửa sổ, nước mắt thánh thót rơi, nhỏ lên cánh hoa đỏ thắm.

“Mẹ, sao mẹ còn chưa ngủ?” Tiểu Yêu dụi mắt, lệt xệt bước lại. Thấy A Hành đang khóc, bé lập tức leo lên sập, ngoan ngoãn lau nước mắt cho nàng, “Mẹ đừng khóc, ông ngoại sẽ khỏe thôi mà.”

Nghe thấy tiếng bé, Xi Vưu rung động cả tâm thần, bất giác đẩy cửa sổ ra, vươn tay qua khung cửa rực hoa, toan ẵm con gái, “Tiểu Yêu.”

Nào ngờ, Tiểu Yêu lại hung hăn cắn phập vào tay hắn. Cả ngày nay nghe đám cung nhân kể lể chuyện Xi Vưu đả thương ông ngoại, Chuyên Húc còn nói Xi Vưu chính là thúc thúc áo đỏ lần trước đã cứu bé về, nên Tiểu Yêu sinh lòng căm hận Xi Vưu vô kể.

A Hành vội bế xốc Tiểu Yêu, kéo bé ra, nhưng Tiểu Yêu vẫn tay đấm chân đá, hét toáng lên: “Đồ xấu xa! Ta phải giết ngươi báo thù cho ông ngoại.”

Cánh tay Xi Vưu bị Tiểu Yêu rứt mất một miếng thịt, máu chảy đầm đìa, ướt đẫm vạt hoa đào, nhưng hắn như chẳng biết đau, cứ ngây ra nhìn đôi mắt thù hận của Tiểu Yêu, thoắt chốc, nhu tình dào dạt đều hóa thành buốt giá thấu xương, ánh mắt con gái như một thanh kiếm nhọn hoắt, khoét sâu vào trái tim hắn, khiến hắn đau đến nghẹt thở.

A Hành vừa bịt chặt miệng con gái, không cho bé la hét, vừa nhìn Xi Vưu, nước mắt như mưa, “Còn chưa đi đi? Thị vệ sắp tới bây giờ, lẽ nào chàng muốn đại khai sát giới trước mặt con gái ư?”

Xi Vưu đau đáu nhìn A Hành và Tiểu Yêu rồi cưỡi Tiêu Dao bay vụt lên chín tầng trời, để gió lạnh cứa vào rát mặt. Xi Vưu ngửa cổ nhìn trời, rống lên thê thiết như loài sói, hắn không làm gì sai, nàng cũng không làm gì sai, tại sao lại thành ra thế này?

Mất đi linh lực của Xi Vưu, hoa đào dần tàn héo rơi rụng, những cánh hoa vấy máu lần lượt lìa cành rơi xuống, như từng mảnh tim vỡ nát. A Hành ôm Tiểu Yêu trong lòng, chẳng nói chẳng rằng, chỉ thần người ra nhìn những cánh hoa.

Vân Tang, Chu Du nghe thấy tiếng kêu khóc của Tiểu Yêu, liền vội vã dẫn thị vệ chạy tới, nhưng chẳng có gì cả, chỉ thấy A Hành đang ẵm Tiểu Yêu, ngẩn ngơ ngồi giữa muôn ngàn cánh đào đẫm máu.

“A Hành, sao thế?”

A Hành chậm chạp quay đầu lại, nhìn về phía bọn họ. Thoạt trông thấy nàng, Vân Tang bỗng giựt thót mình, dung nhan A Hành vô cùng tiều tụy, ánh mắt buồn hiu hắt, dường như chỉ trong một đêm đã già sọm hẳn đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 17: Gió tung bông liễu, giang sơn ngả (Trích trong bài qua biển Linh Đinh của Văn Thiên Tường )

Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẳng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng lại ở phút giây người đó cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư?

Hơn một năm sau, nhờ A Hành dốc hết tâm sức săn sóc, cuối cùng Hoàng Đế cũng giữ được tính mạng.

Vì linh thể đã trọng thương nên Hoàng Đế bắt đầu lộ vẻ già nua, mái tóc bạc trắng, gương mặt đầy nếp nhăn, cặp mắt cũng trở nên lờ đờ chậm chạp, chỉ thỉnh thoảng khi liếc mắt mới lại thấy sắc lạnh như xưa.

Hơn một năm nay tuy có Tri Mạt bày mưu tính kế, Ly Chu, Tượng Võng phụ tá, nhưng dù sao nước không có vua cũng như rắn mất đầu, quân của Xi Vưu liên tiếp giành thắng lợi, đã thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Thần Nông.

Từ sau khi tỉnh lại, ngày ngày Hoàng Đế đều thần người nhìn bức địa đồ do thổ linh ngưng tụ lại, trầm tư suy nghĩ.

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nhón chân ghé mắt nhìn trộm qua cửa sổ, chợt Hoàng Đế ngoảnh lại, cả hai giật thót mình, soạt một tiếng, rụt đầu lại núp dưới khung cửa.

Hoàng Đế gọi: “Các cháu vào đây đi.”

Chuyên Húc và Tiểu Yêu nắm tay nhau bước tới trước mặt Hoàng Đế, Chuyên Húc chỉ bức địa đồ màu vàng đầy đủ núi non sông ngòi do thổ linh ngưng tụ thành, hỏi: “Ông nội, cái gì đây ạ?”

Tiểu Yêu nhanh miệng đáp: “Địa đồ, địa đồ của phụ vương cháu màu lam, do thủy linh ngưng tụ thành.”

Hoàng Đế giải thích cho Chuyên Húc: “Đây là địa đồ Hiên Viên quốc.”

“Con sông này tên gì?”

“Hắc hà.”

“Còn ngọn núi này?”

“Đôn Vật sơn.”

Chuyên Húc luôn miệng hỏi, còn Hoàng Đế cũng ân cần giảng giải từng vấn đề một, cậu nhóc nghe rất chăm chú, trong khi Tiểu Yêu chán nản ngáp dài, tựa vào sập gà gật ngủ.

Chuyên Húc trỏ xuống cực Đông Nam của địa đồ, hỏi: “Sông gì đây ạ?”

“Tương thủy, có điều nó thuộc về Cao Tân, cháu có muốn ngắm cảnh Tương thủy không?”

Chuyên Húc gật đầu lia lịa.

Hoàng Đế ngưng tụ linh lực, lập tức một bức tranh phong cảnh Tương thủy trải ra ngay trước mắt Chuyên Húc, non xanh nước biếc, hoa thơm cỏ lạ, quả là muôn màu muôn vẻ.

Chuyên Húc liếc trộm Tiểu Yêu, thấy cô bé đã lơ mơ ngủ, không thể cười mình được nữa, bấy giờ mới yên tâm nói thật: “Đẹp quá, đẹp hơn Tiểu Yêu mô tả nhiều, đúng là khác hẳn Hiên Viên chúng ta.”

Hoàng Đế mỉm cười: “Phải tới Trung Nguyên, cháu mới biết thế nào gọi là rừng vàng biển bạc.”

Chuyên Húc nghe nói không giấu được vẻ háo hức.

A Hành bước vào bế Tiểu Yêu lên, vẻ trách móc: “Hiện giờ thân thể phụ vương vẫn chưa hoàn toàn bình phục, người đừng lạm dụng linh lực. Chuyên Húc, về đi ngủ thôi.”

Chuyên Húc theo A Hành ra đến cửa, chợt ngoảnh lại hỏi Hoàng Đế: “Ông ơi, sáng mai cháu đến tìm ông được không?”

A Hành nhắc: “Sáng mai con phải học vẽ.”

Chuyên Húc phản bác: “Con không thích học mấy thứ đó, thích nghe ông và Tri Mạt, Ly Chu và Tượng Võng bàn bạc công việc kia.”

A Hành sững người, con trai Tứ ca lại không thích học vẽ là sao?

Chuyên Húc kéo tay áo nàng, nài nỉ: “Đi mà, cô cô.”

Hoàng Đế cũng bảo A Hành: “Ta vốn định nói chuyện này với con, nào ngờ cháu nó đã tự động nói trước. Ta muốn giữ Chuyên Húc bên mình để đích thân dạy dỗ nó.”

A Hành đưa mắt nhìn Chuyên Húc, thấy cậu nhóc vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói này. Trong mắt Chuyên Húc ăm ắp khát vọng, cậu bé nhìn nàng đầy van nỉ, luôn miệng nài xin: “Đi mà, cô cô, cô cô.”

A Hành dịu giọng: “Con đã muốn vậy thì từ mai trở đi, con sẽ theo ông nội để ông nội dạy bảo.”

Chuyên Húc mừng rỡ nắm chặt lấy tay A Hành.

Về đến tẩm điện A Hành giao Tiểu Yêu cho Chu Du chăm sóc, còn mình giúp Chuyên Húc rửa mặt thay áo. Tuy ngoài mặt Chuyên Húc chẳng lộ vẻ gì, nhưng trong lòng cậu cũng biết, cô cô thương mình hơn cả Tiểu Yêu.

A Hành đắp chăn cho Chuyên Húc, đậy chiếc vỏ sò đựng đầy Dạ Minh Châu bên giường lại, căn phòng tức thì tối om.

Nàng định quay ra, chợt Chuyên Húc cất tiếng: “Sau này lớn lên, con nhất định sẽ bảo vệ cô cô và Tiểu Yêu, cả Chu Du nữa, không để ai hà hiếp mọi người đâu!”

A Hành bật cười mà lòng không khỏi xót xa. Một đứa trẻ đang tuổi vô tư lự, vậy mà phải nếm trải nỗi đau mất cha mất mẹ, đến nỗi chỉ mong mình nhanh nhanh trưởng thành để bảo vệ những người thân cận, không muốn mất thêm một người nào nữa. Nàng ngồi xuống bên giường nhìn Chuyên Húc nhưng cậu nhóc đã nhắm nghiền mắt lại, dường như kẻ vừa rồi lên tiếng chẳng phải mình. A Hành khẽ hôn lên trán cậu, đáp khẽ: “Được.”

Đại quân Xi Vưu tiếng sát biên giới Hiên Viên thì dừng lại, Xi Vưu yêu cầu Hoàng Đế đầu hàng, chỉ cần Hoàng Đế không bao giờ tấn công Thần Nông nữa, đồng thời tạ tội với Viêm Đế Du Võng, hắn sẽ không tiến đánh Hiên Viên.

Tri Mạt cực lực khuyên Hoàng Đế nhận lời, ký hiệp ước với Thần Nông, thề không tiến đánh Thần Nông nữa để đổi lấy hòa bình. Tất cả triều thần đều cho rằng Hoàng Đế sẽ chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu, dù sao hắn cũng chỉ thu lại phần lãnh thổ thuộc về Thần Nông, chẳng xâm phạm gì đến Hiên Viên cả.

Trái với dự liệu của mọi người, Hoàng Đế không chấp thuận lời đề nghị của Xi Vưu. Ông cương quyết tuyên bố: “Muốn ta thề trước toàn thiên hạ vĩnh viễn không xâm phạm Thần Nông, tuyệt không thể được! Mộng tưởng cả đời ta chính là thống nhất Trung Nguyên, ta thà chết cũng quyết không từ bỏ giấc mộng này!”

Tri Mạt đương lúc khẩn khiết, cao giọng chất vấn: “Vậy còn bách tính Hiên Viên thì sao? Bệ hạ hãy hỏi xem bọn họ có nguyện chết vì Trung Nguyên hay không? Họ nhất định không bằng lòng! Họ chỉ muốn sống yên ổn mà thôi!”

Hoàng Đế còn phải trông cậy vào Tri Mạt, không muốn phát sinh xung đột với ông ta về vấn đề này, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi thấy ta có thể được coi là anh hùng chăng? Trong thiên hạ có mấy kẻ có thể sánh được với ta?”

Tri Mạt nhất thời không nhận ra ý của Hoàng Đế, chỉ biết thành thật đáp: “Bệ hạ chẳng những là anh hùng, mà còn là bá chủ thiên cổ! Xin bỏ qua cho thần cuồng vọng, thần thấy Phục Hy đại đế cũng không bì được với bệ hạ.”

Hoàng Đế lạnh lùng nhìn Tri Mạt: “Thần Nông nằm giữa Trung Nguyên, lãnh thổ mênh mông, sản vật dồi dào, địa linh nhân kiệt, hai đời Viêm Đế đều không ham chiến tranh, vậy mà vị bá chủ thiên cổ trong mắt ngươi như ta, tấn công Thần Nông còn khó khăn như vậy, ngươi cho rằng Hoàng Đế tương lai của Hiên Viên có thể làm được hơn ư?”

Bây giờ Tri Mạt mới hiểu ý Hoàng Đế, ông ta trầm ngăm hồi lâu, đoạn khó nhọc đáp: “Không thể.”

“Ngươi nghĩ cứ yên phận ở mãi miệt Tây Bắc có thể khiến bách tính an cư lạc nghiệp ư? Lỡ như Thần Nông tương lai sản sinh ra một vị Viêm Đế có hùng tâm tráng chí thì Hiên Viên bị diệt quốc chỉ là chuyện trong chớp mắt thôi. Nếu hiện giờ ta không nhổ cỏ tận gốc, nên đánh Thần Nông tới cùng, thì mấy ngàn năm nữa, sẽ tới lượt Thần Nông đánh chiếm Hiên Viên!”

Ánh mắt sắc bén của Hoàng Đế nhìn xoáy vào Tượng Võng và Ly Chu dưới thềm, “Các ngươi có bằng lòng theo ta thống nhất Trung Nguyên không?”

Tượng Võng và Ly Chu lập tức quỳ xuống, hệt như mấy ngàn năm trước, khảng khái đáp: “Chúng thần thề chết phò tá bệ hạ!”

Tri Mạt chăm chú nhìn Hoàng Đế, ông không hề tán thành mộng tưởng của Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế cũng là người ông tôn kính tận đáy lòng, trên thế gian này, có được mấy nam nhân can tâm xả thân vì mộng tưởng của mình đây? Lại có được bao nhiêu nam nhân ôm ấp lý tưởng vô tiền khoáng hậu như vậy?

Hoàng Đế tươi nét mặt, bước đến đứng giữa Ly Chu và Tượng Võng, cười nhìn Tri Mạt hỏi: “Ba người chúng ta đều ở đây, huynh đài, ngươi có bằng lòng ở lại, cùng chúng ta gầy dựng nên đại nghiệp oanh liệt ngàn đời chăng?”

Hơn bốn ngàn năm trước, trên Hiên Viên sơn, Hoàng Đế cũng đã hỏi Tri Mạt câu này. Vẻ mặt Tri Mạt dần dịu lại, chỉ biết lắc đầu cười khổ. Bốn ngàn măm trước, ông đã bị người đàn ông này khuất phục, bốn ngàn năm sau, ông vẫn bị người đàn ông này khuất phục. Thế nên, dù căm ghét chiến tranh, ông vẫn nguyện dốc lòng dốc sức vì ông ta. Tri Mạt lặng lẽ tiến lại, quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế.

Hoàng Đế cười lớn, đỡ cả ba dậy, tràn trề tự tin nói: “Bốn huynh đệ chúng ta nhất định sẽ có ngày bước lên đỉnh Thần Nông sơn! Đến chừng đó, sẽ uống tràn cùng mây, ôn lại chuyện xưa, cười xem thiên hạ!” Trong phút chốc, dường như tất cả tóc bạc nếp nhăn đều biến mất, Hoàng Đế lại trở thành gã thiếu niên hào tình vạn trượng, tráng chí ngút trời năm ấy.

Hiên Viên cự tuyệt đầu hàng, không những thế, còn tuyên bố sẽ thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Hoàng Đế chính tay thảo một bài hịch hơn ngàn từ chiếu cáo thiên hạ, liệt kê hơn trăm tội danh của Xi Vưu: độc đoán chuyên quyền, tàn bạo hiếu sát, chỉ vẻn vẹn hơn hai trăm năm đã tận diệt tám mươi bảy gia tộc trung thành son sắt, đời đời phò tá Viêm Đế, khiến năm ngàn ba trăm chín mươi sáu vị trung thần chết dưới cực hình, chưa kể vô số tội trạng khinh nhờn bề trên, hiếp đáp kẻ dưới nữa.

Hoàng Đế trùng trùng lo lắng, khẩn thiết hỏi: mới hơn hai trăm năm đã giết bấy nhiêu người, nếu Xi Vưu nắm giữ Thần Nông quốc, tương lai sẽ còn giết bao nhiêu người, tận diệt nao nhiêu gia tộc nữa đây? Đoạn lại khéo léo lái sang chỉ trích Du Võng ngu dốt bất tài, rõ ràng biết gian thần lộng quyền, vô số đại thần liều chết dâng sớ, xin biểm chức Xi Vưu, y đều phớt lờ, chẳng những không trị tội Xi Vưu, mà còn ngồi nhìn hết trung thần này tới trung thần khác chết thảm, quả là nhu nhược như đàn bà. Bởi thế, Thần Nông quốc mới sinh ra quân thân lục đục, lòng dân tan tác. Hoàng Đế lại giải bày gan ruột cùng thiên hạ: từ khi Hiên Viên lập quốc, ông nhất mực cần mẫn lo việc triều chính, chăm sóc cho bách tính, đối đãi với dân chúng Thần Nông quy hàng chẳng khác nào con dân của mình, Du Võng dung túng Xi Vưu làm nhục những bậc lương đống như Hậu Thổ, còn ông ta lại ban cho Hậu Thổ vinh hoa phú quý tương xứng với thân phận. Ông khẳng định mình không phải kẻ hiếu chiến, mà chỉ vì không đành lòng nhìn Xi Vưu tàn nhẫn giết choc, mới ra tay thay Thần Nông thảo phạt Xi Vưu.

Bài hịch của Hoàng Đế xuất hiện rất đúng thời điểm. Quân đội của Xi Vưu đã giành lại Thần Nông từ tay Hiên Viên, Hiên Viên không còn là kẻ xâm lược nữa, vô số quý tộc Thần Nông từng nắm giữ quyền hành da liền sẹo thì cũng quên cả đau, bắt đầu luyến tiếc quyền lực phú quý của mình, nhưng binh quyền đều nằm cả trong tay Xi Vưu, họ chẳng cách nào có được vinh hoa phú quý như xưa nữa, phải làm sao đây? Đúng lúc này, Hoàng Đế ra mặt thay bọn họ tru diệt Xi Vưu, còn hứa hẹn Thần Nông về sau vẫn là của họ, khiến họ mừng rỡ khôn xiết.

Vô số bô lão Thần Nông nhận được bài hịch tha thiết chân thành, văn hoa trôi chảy của Hoàng Đế, nghĩ lại những tháng ngày thê thảm luôn phải nơm nớp lo âu, sống nay chết mai sau khi Du Võng đăng cơ, thảy đều rơi nước mắt. Đám quý tộc Thần Nông luôn ôm hận với Xi Vưu, lại được thêm vô số thuyết khách của Hoàng Đế đi khắp nơi uốn ba tấc lưỡi du thuyết, phân tích lợi hại, khiến rất nhiều già trẻ lớn bé Thần Nông bắt đầu ngã theo Hoàng Đế, cho rằng Du Võng quả thật ngu dốt bất tài, nếu không phải Du Võng dung túng Xi Vưu, Thần Nông sao có thể diệt quốc? Nếu Thần Nông còn nằm trong tay Xi Vưu, bọn họ sớm muộn cũng sẽ mất mạng.

Tóm lại, bài hịch đã giúp Hoàng Đế được chính danh, đồng thời tàn hủy thanh danh Du Võng, chẳng khác nào một thứ độc dược.

Nhận được bài hịch yêu cầu đầu hàng của Hoàng Đế, Xi Vưu bưng vò rượu vừa uống vừa đọc, đọc đến đoạn kiệt kê tội trạng của mình, gương mặt hắn đầy vẻ cười cợt, chẳng buồn để tâm, nhưng khi đọc tới tội trạng của Du Võng, hắn sa sầm mặt xuống, bóp vỡ cả vò rượu bằng đồng trong tay.

Du Võng là kẻ trung hậu nhân từ nhất mà Xi Vưu từng thấy: khi Chúc Dung truy sát hắn, là Du Võng chẳng nề nửa đêm tới khẩn cầu Viêm Đế thu hồi mệnh lệnh tru diệt Xi Vưu; khi tất cả mọi người trên Thần Nông sơn đều chửi rủa hắn là cầm thú, là Du Võng đứng ra bênh vực hắn, la rầy bọn họ; khi Xi Vưu hắn nổi giận đánh bị thương tất cả mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, là Du Võng suốt đêm đuổi theo, ở bên hắn mấy ngày mấy đêm; khi Xi Vưu cô độc phẫn nộ ở cấm địa Thảo Ao lĩnh, là Du Võng trộm rượu đem lên núi cho hắn.

Suốt mấy trăm năm, Du Võng tự hồ một vị huynh trưởng ôn hòa nhẫn nãi, đã khiến cho một kẻ hung hăng tàn bạo như Xi Vưu cảm nhận được thế nào là tình người.

Sau khi Viêm Đế qua đời, vô số người từng tấu trình lên Du Võng, ngay cả Vân Tang cũng e ngại Xi Vưu một tay nắm giữ bình quyền, sợ rằng sau này sẽ soán ngôi đoạt vị, chỉ mình Du Võng chưa hề nghi ngờ mảy may.

Tuy ngoài miệng chưa từng thừa nhận, nhưng trong lòng Xi Vưu, Du Võng chính là huynh trưởng của hắn, là người duy nhất khiến hắn tin rằng trên đời này thật sự còn có thiện lương. Vậy mà giờ đây, vị quân vương thiện lương nhân hậu, một lòng lo lắng cho bách tính Thần Nông lại bị Hoàng Đế đảo lộn đen trắng, thả sức vu khống như vậy.

Phong Bá lẩm bẩm: “Sao đọc bài hịch này, ta lại thấy mình đúng là tội nặng như núi thế nhỉ? Cứ như là gian thần tặc tử soán vị đổi ngôi ấy.”

Vũ Sư giải thích: “Đó là nguyên nhân vì sao bậc đế vương thông minh dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể dựa vào vũ lực mà lập quốc được. Vũ khí chỉ chinh phục được thân thể, văn tự và ngôn ngữ mới chinh phục được con người.

“Chúng ta tính sao đây? Lẽ nào định đầu hàng Hoàng Đế?”

Vũ Sư xuất thân thế gia, đương nhiên hiểu rõ mấy chuyện tranh quyền đoạt lợi, bèn nói: “Đám chư hầu quý tộc Thần Nông vừa hận vừa sợ chúng ta, hiện giờ dù chúng ta từ bỏ binh quyền, chúng cũng suy bụng ta ra bụng người, đời nào chịu tin tưởng, sớm muộn ắt sẽ giết sạch chúng ta mà thôi. Huống hồ, nếu quy hàng Hoàng Đế, ông ta nhất định sẽ chém đầu Xi Vưu để lấy lòng đám quý tộc Thần Nông. Chúng ta đã lâm vào đường cùng rồi, chỉ còn cách duy nhất là đánh bại Hoàng Đế mà thôi. Đến khi giành được thắng lợi, chúng ta có thể muốn gì nói đó, kẻ thất bại chẳng có tư cách lên tiếng, những gì được lưu truyền cho hậu thế, đều là tiếng nói của người thắng cuộc.”

Phong Bá lại hỏi: “Lỡ như thất bại thì sao?”

“Thì chúng ta sẽ vĩnh viễn là quân gian thần tặc tử theo lời Hoàng Đế.” Vũ Sư nhìn Xi Vưu, lòng đầy thấp thỏm, chẳng rõ hắn đang nghĩ gì.

Phong Bá chợt vỗ đùi đánh đét: “Mẹ nó, không thể để tiếng thơm ngàn đời thì lưu tiếng thối muôn thuở cũng hay, dù gì ông đây cũng sảng khoái mà sống, mặc xác kẻ khác nói gì!”

Bọn Si Mỵ Võng Lượng đua nhau hùa theo: “Phải rồi, phải rồi.”

Phong Bá trịnh trọng bảo Xi Vưu: “Xưa nay ta hành sự không thẹn với lương tâm, mà đầu hàng chính là nhận sai, dù có giết ta, ta cũng nhất định không đầu hàng Hoàng Đế. Ta đã theo huynh mấy trăm năm, Du Võng đối với chúng ta ra sao, ta đều ghi nhớ trong lòng, chúng ta quyết không thể để Hoàng Đế nhục mạ huynh đệ mình như vậy được. Xi Vưu, huynh hạ lệnh đi!”

Xi Vưu đưa mắt nhìn tất cả huynh đệ đi theo mình, bọn họ đang lũ lượt quỳ xuống, chăm chú đổ dồn ánh mắt về phía hắn.

Đối mặt với tám mươi mốt cặp mắt rừng rực nhiệt huyết, cam nguyện vì mình mà hiến dâng tính mạng, Xi Vưu bật cười lớn, tiếng cười phảng phất vẻ bất lực và chua xót. Hắn dõi mắt nhìn về hướng Hiên Viên quốc, một lúc lâu sau mới cao giọng ra lệnh: “Chuẩn bị toàn lực tấn công Hiên Viên quốc, chừng nào Hoàng Đế chịu đầu hàng, tạ tội với Du Võng, bấy giờ mới ngừng tấn công.”

Quân đội của Hiên Viên liên tiếp thất bại trước đại quân của Xi Vưu.

Chẳng những Hiên Viên và Thần Nông chiến hỏa liên miên mà Cao Tân cũng chẳng được thái bình. Trung Dung bị giam trên đảo hoang bỗng nhiên biến mất, mấy tháng sau, đã thấy y tự xưng vương ở mé Tây Cao Tân, tuyên bố thảo phạt Thiếu Hạo.

Binh lực Thần tộc của Cao Tân có tổng cộng bốn bộ, Thanh Long bộ là đích hệ của Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ đã quy thuận Thiếu Hạo từ lâu, còn hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ do hai anh em Trung Dung nắm giữ, sau khi Tuấn Đế đời trước qua đời, Thiếu Hạo sợ hai bộ này dấy binh nổi dậy nên ra sức thanh trừng bọn họ. Nhưng quan hệ mắc míu phức tạp mấy vạn năm, nào phải một sớm một chiều mà cắt đứt được ngay, lúc này dưới sự hiệu triệu của Trung Dung và mấy vương tử khác, lấy cái chết đáng ngờ của Tuấn Đế làm cớ dấy binh, hai bộ này liền tuyên bố chỉ thừa nhận Trung Dung, không thừa nhận Thiếu Hạo. Thiếu Hạo đụng phải nội loạn, đành kết minh với Hiên Viên Hoàng Đế, hứa hẹn sẽ chi viện binh sĩ Thần tộc cho Hiên Viên khi cần, cùng nhau thảo phạt Xi Vưu, tiếc rằng Hiên Viên vẫn thất bại liên tiếp, không cách nào cứu vãn được.

Xi Vưu thế như chẻ tre, một đường đánh thẳng đến Hắc thủy. Trong Hiên Viên thành, khắp nơi đều là bách tính chạy nạn, lòng dân hoang mang, râm ran đồn đại rằng đại quân Xi Vưu chẳng mấy chốc sẽ đánh đến Hiên Viên thành.

Trong Thượng Viên cung, Tri Mạt, Ly Chu, Tượng Võng, mấy cận thần bên cạnh Hoàng Đế, cùng Hiên Viên Hưu, Hiên Viên Thương Lâm, mấy viên đại tướng đang bàn bạc kế sách đối phó với Xi Vưu, Hoàng Đế ngả người trên sập, Chuyên Húc đứng bên cạnh, đều đang bình thản lắng nghe.

Hiên Viên Hưu và Hiên Viên Thương Lâm đều không dám hỏi thẳng Hoàng Đế, cứ liên tục ra hiệu cho Ly Chu, Ly Chu đành tâu: “Chúng thần nhiều lời như vậy, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn phải trông vào bệ hạ.”

Bấy giờ Hoàng Đế mới chậm rãi nói: “Từ sau trận Phản Tuyền, chúng ta thất bại liên tiếp là lẽ thường, bởi binh bại như núi đổ, thủ đoạn của Xi Vưu lại nham hiểm độc ác. Chẳng những binh sĩ sợ hắn, mà ngay cả các ngươi từ sâu thẳm đáy lòng cũng sợ hắn, trong các ngươi kẻ nào dám nói mình không sợ Xi Vưu?”

Ánh mắt Hoàng Đế quét qua khắp lượt những kẻ có mặt trong điện, Tượng Võng đỏ bừng mặt, bọn Hiên Viên Hưu nhất loạt cúi gầm đầu, Hoàng Đế lại nói: “Hiện giờ cách duy nhất để xoay chuyển cục thế là phải đánh thắng một trận, có vậy mới chấn hưng được sĩ khí, giải trừ được nỗi sợ hãi trong lòng các ngươi.”

Mọi người nghe nói đều gật đầu hưởng ứng, Tri Mạt tâu: “Nhưng muốn thắng được, cần có một viên đại tướng không sợ Xi Vưu.”

Mọi người trong điện lại nhìn nhau, ai nấy đều ngẩn người ra, các đại tướng có thể cầm quân trong Hiên Viên tộc đều ở đây cả rồi.

Quen biết đã lâu, Hoàng Đế hiểu Tri Mạt trầm mặc kiệm lời nhưng lời nói ra luôn có ẩn ý, bèn xua tay ra hiệu, “Các ngươi lui xuống trước đi.”

Trong đại điện chỉ còn lại Tượng Võng, Ly Chu và Tri Mạt.

Hoàng Đế lại quay sang bảo Ly Chu: “Nói cho Tri Mạt biết chuyện của Trung Dung đi.”

Thấy Ly Chu đưa mắt nhìn Chuyên Húc, Hoàng Đế lại phán: “Không cần kiêng kỵ nó.”

Ly Chu bắt đầu thuật lại: “Nhiều năm trước, Tuấn Đế qua đời, Thiếu Hạo hạ lệnh giam cầm Trung Dung, Hoàng Đế liền sai ta bí mật liên hệ với Trung Dung, dốc sức giúp hắn truyền tin ra ngoài. Sau khi Hoàng Đế bị Xi Vưu đánh trọng thương, việc đầu tiên ngài giao phó cho ta, chính là bằng mọi giá giúp Trung Dung vượt ngục. Chúng ta đã hy sinh hơn một trăm cao thủ tuyệt đỉnh được huấn luyện từ nhỏ mới có thề giúp y trốn thoát. Sự việc về sau các ngươi đều đã biết, Trung Dung dấy binh tự lập làm vương. Có lẽ Thiếu Hạo cũng đoán được chúng ta âm thầm giúp đỡ Trung Dung, nên cực chẳng đã mới phải từ bỏ thế trung lập, kết minh với chúng ta, hứa sẽ cho mượn binh sĩ Thần tộc, cùng đối phó Xi Vưu.”

Tượng Võng và Tri Mạt biết Hoàng Đế đa mưu túc trí nên tuy bất ngờ nhưng không đến nổi kinh ngạc, chỉ riêng Chuyên Húc rúng động nhìn ông nội, thì ra đi một nước cờ lại phải tính toán nhiều năm như vậy, con cờ kẻ khác vứt bỏ vẫn có thể trở thành tuyệt chiêu của mình.

Hoàng Đế bình thản nói: “Hiện giờ nhìn bề ngoài Hiên Viên có vẻ rất gay go, nhưng thực ra cũng chưa có gì đáng ngại. Xi Vưu cương mãnh thật đấy, nhưng cương quá thì dễ gãy, mãnh quá lại dễ tổn thương. Tốc chiến tốc thắng thì ăn thua nhau ở chỗ quân đội dũng mãnh, nhưng kháng chiến trường kỳ phải trông vào quốc lực tài phú. Dù sao Thần Nông cũng đã mất nước, bách tính ly tán, tiền tài tập trung cả trong tay đám quý tộc, mà bọn này đa phần đều quy thuận chúng ta, chỉ còn lại mấy tên cứng đầu cứng cổ chủ trương tự lập, cũng chẳng chịu hợp tác với Xi Vưu, bởi vậy Xi Vưu không lấy đâu ra được nguồn tài lực lâu dài. Hắn am tường binh pháp, hắn cũng hiểu việc này nên luôn dùng thủ đoạn đẫm máu để đẩy nhanh tiến độ, trận nào trận nấy đều muốn đánh nhanh thắng nhanh là vì vậy.”

Bấy giờ người trong đại điện mới phần nào hiểu được Xi Vưu, thì ra sự hung tàn hiếu sát của hắn là có nguyên nhân, đồng thời cũng là một cách dùng binh.

Hoàng Đế lại nói: “Xi Vưu nhờ hung tàn mà đánh bại Hiên Viên, nhưng cũng khiến thiên hạ kinh hãi, quân đội và bách tính Hiên Viên đều căm hận hắn, chúng ta chỉ cần đánh thắng một trận, vãn hồi lại nhân tâm đang rối loạn, tức thì có thể xoay chuyển tình thế, biến thù hận thành sĩ khí. Chỉ một trận thắng thôi!”

Mấy người trong đại điện vốn đã tuyệt vọng, nghe những lời này lại thấy hy vọng le lói, kích động dồn mắt về phía Hoàng Đế.

Hoàng Đế nhìn Chuyên Húc, mỉm cười nói: “Số mệnh con người nói đến cùng, đều do tự mình quyết định cả. Lần trước ta thua, thật ra không phải thua Xi Vưu, mà là thua trước tính cách của mình. Lần này nếu Xi Vưu thua, cũng không phải là thua ta, mà là thua trước tính cách của hắn đó thôi.”

Chuyên Húc thầm kinh sợ, hiểu rằng Hoàng Đế đang dạy bảo mình, cậu nhóc bèn nhẩm đi nhẩm lại, nghiền ngẫm lời dạy của ông.

Tượng Võng ồm ồm cất tiếng: “Vừa rồi ông định ám chỉ viên đại tướng nào không sợ Xi Vưu?”

Tri Mạt đáp: “Ứng Long, xin bệ hạ phái người mời Ứng Long về.”

Ly Chu chen vào: “Đã phái rất nhiều người đi rồi, nhưng y đều từ chối.”

Tri Mạt giải thích: “Các ông không phái đúng người, Yêu tộc trọng nghĩa khí, Ứng Long cũng vì thế mà rời bỏ Hiên Viên, muốn mời y quay lại, tự nhiên cũng phải bắt đầu từ đây, ông nên nhờ vương cơ đi mời Ứng Long về mới được.” Nói rồi, Tri Mạt thầm kinh ngạc, nói về thu phục nhân tâm, trong thiên hạ không ai hơn được Hoàng Đế, chuyện ông ta nhìn thấu được, lẽ nào Hoàng Đế lại nhìn không ra? Tại sao Hiên Viên liên tiếp thất bại, lũ lụt khắp nơi mà Hoàng Đế không vời Ứng Long?

Bắt gặp ánh mắt hờ hững của Hoàng Đế, Tri Mạt lập tức cúi đầu, chỉ nghe Hoàng Đế nói: “Ứng Long đúng là mãnh tướng, nhưng thân phận của y không hợp làm chủ soái, không thể khiến ba quân cúi đầu tuân theo. Chúng ta nhất định phải tìm một người vừa danh chính ngôn thuận, lại vừa có thể khiến Ứng Long kính phục để làm chủ soái.”

Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.”

“Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.”

Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã cũng là tướng tài thiên bẩm.

Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt. Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.”

Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục được vương cơ đây?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.”

Tri Mạt làm thinh không đáp.

Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi. Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên Viên quốc rồi ư?

Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ.

Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.”

Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?”

A Hành lắc đầu: “Không có.”

Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh dùng máu viết thành đó.”

A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt.

Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc.

A Hành định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung, bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết.

Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này.

A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến.

Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn, họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ.

Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái gọi là nhân thế vô tình.

A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.”

“Cha cháu đâu?”

“Đi đánh trận rồi.”

“Thế còn mẹ?”

Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.”

A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư?

Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh.

“Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa.

Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?”

“Một nửa đề dành cho mẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.”

Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.”

“Thật không?”

“Thật mà.”

Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến.

A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa?

Nhìn đám người trên sườn núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay, mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”

A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.”

“Thần dùng bức thư kia dẫn dụ vương cơ tới đây, vốn đã chuẩn bị rất nhiều lời để thuyết phục, nhưng giờ lại chẳng thốt nổi ra miệng. Xưa nay thần vẫn không ủng hộ bệ hạ tấn công Thần Nông, hay nói khác đi là không ủng hộ khát vọng thống nhất Trung Nguyên của bệ hạ, bởi vậy trước trận Phản Tuyền lần thứ nhất, thần đã rời khỏi Hiên Viên thành, ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn. Nhưng sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế lâm nguy, thần lại quay về Hiên Viên thành, giúp bệ hạ chèo chống Hiên Viên, không phải vì nể tình cũ giữa đôi bên, mà vì những người dân đang sống trên mảnh đất Hiên Viên này. Vương hậu đã dốc hết tâm sức, giúp bệ hạ lập nên Hiên Viên quốc này, không phải chỉ vỉ bệ hạ, mà bởi vương hậu cũng giống như thần, đều muốn xây dựng một nơi mà dân đen, dân lưu lạc và Yêu tộc bị kỳ thị hắt hủi đều có thể sống bình đẳng cùng nhau. Dưới sự mỗ lực của mọi người, cuối cùng Hiên Viên quốc đã thật sự trở thành một nơi như thế. Có lẽ vương hậu hối hận vì đã yêu bệ hạ, nhưng thần tin rằng, xưa nay bà chưa hề hối hận vì tất cả những gì đã bỏ ra cho Hiên Viên quốc.”

A Hành rút bức huyết thư trong ngực áo ra: “Sao bá bá lại có thứ này? Năm đó, con vốn định đích thân đem những bức thư này tới tay người nhà bọn họ, nhưng Tứ tẩu đột ngột qua đời, rồi mẫu hậu lại ngã bệnh, con đành phải phái thị vệ đi đưa giùm.”

Tri Mạt cười bình thản, nhưng nét mặt lại thê lương khôn xiết: “Đó là thư con trai thần gửi lại, lúc đó thần đang ẩn cư tại Đồng Nhĩ sơn, nên địa chỉ nó ghi cũng là Đồng Nhĩ sơn.”

A Hành sững người, mắt long lanh nước: “Bá bá.”

Tri Mạt vỗ vai nàng, “A Hành, khắp Hiên Viên quốc đâu đâu cũng có những chiến sĩ giống như con trai ta. Có lẽ cha của đứa nhỏ kia cũng vậy, có điều y còn bất hạnh hơn, chẳng có cơ hội để lại cho người thân một phong thư vĩnh biệt nữa. Ít ra, ta còn biết được con trai mình chết tại Tuân sơn, có thể đi Tuân sơn bái tế, nhưng đứa nhỏ này ngay cả cha mình hy sinh ở chốn nào cũng không biết. Nếu cuộc chiến này cứ thế kéo dài, sẽ còn bao nhiêu người cha phải hy sinh? Còn bao nhiêu người mẹ phải ôm hận chết đi? Còn bao nhiêu đứa nhỏ phải chết đói? Con đã là mẹ, hẳn cũng hiểu được nỗi lòng người mẹ, không thể bảo vệ cho con mình, không thể trông thấy con mình lớn lên bình an, đồi với người làm mẹ, là điều tàn khốc đến độ nào.”

“Phải làm sao mới có thể chấm dứt chiến tranh?”

“Đã đi đến bước này, chỉ còn cách lấy chiến tranh để chấm dứt chiến tranh thôi. Bá bá biết con chất chứa rất nhiều nỗi khổ trong lòng, càng biết con không muốn cầm quân đánh trận, nhưng ta tin nếu vương hậu còn tại thế, chứng kiến thảm cảnh hiện giờ, cũng sẽ nói rằng: con là vương cơ của Hiên Viên, những đứa trẻ này, những người mẹ này đều là con dân của con, con có trách nhiệm phải bảo vệ họ.”

A Hành nhìn cô bé trong lòng mình, lặng thinh không đáp. Trước mắt nàng lại hiện lên dáng hình cùng gương mặt khẳng khái quyết tử của Nhạc Uyên, rồi bóng dáng ấy dần dần tan nhòa ra, hòa lẫn với bóng dáng một nam tử không rõ mặt mày, đó là cha của cô bé, y đang nhìn nàng đầy cầu khẩn.

Tri Mạt giơ tay ẵm lấy cô bé đang thiêm thiếp trong lòng A Hành: “Chuyện này cứ để thần lo, vương cơ nên đi làm những việc mình không thể không làm đi.”

A Hành lặng lẽ nhìn đám người bần hàn khốn khổ nhan nhãn khắp sườn núi, ánh mắt toát lên vẻ bi thương khôn tả xen lẫn tuyệt vọng cực cùng. Tri Mạt cũng chẳng giục giã nàng. Một hồi lâu sau, A Hành rảo bước chảy thẳng xuống núi, mới nghe tiếng Tri Mạt gọi với đằng sau: “Ứng Long đang ở Hà thủy.”

A Hành bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Hoàng Đế đang dạy Chuyên Húc học, bài hịch chính là một đoạn hịch ông viết gửi Xi Vưu cũng như toàn thiên hạ.

Mặt trời đang chính ngọ mà không phơi phóng, chính là để lỡ thời cơ, cầm dao mà không cắt, chính là để lỡ thời điểm thuận lợi, cầm búa mà không công phạt, kẻ xấu sẽ tràn đến. Mạch nước nhỏ mà không ngăn chặn, sẽ hội tụ thành sông suối, đốm lửa nhỏ mà không dập, sẽ bùng lên thành ngọn lửa ngút trời, cái mầm mới nhú mà không trừ, ngày sau sẽ trở thành cây đại thụ.

Chuyên Húc hỏi: “Vậy vẫn phải động võ ư? Hôm qua ông dạy cháu rằng: lấy đức thu phục thiên hạ mới là thượng sách, không nên tùy tiện động võ kia mà?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, đáp: “Có lúc chiến tranh đã nổ ra thì chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa, cách duy nhất để chấm dứt chính là dùng vũ lực để kiềm chế vũ lực, dùng chiến tranh để chấm dứt chiến tranh.”

A Hành bước đến trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương ủy thác cho Tri Mạt bá bá tới thuyết phục con ư?”

“Phải.”

“Con bằng lòng cầm quân ra trận không phải vì phụ vương, phụ vương có ngày hôm nay đều là tự làm tự chịu! Nếu Hiên Viên chỉ là của riêng phụ vương thì dù nó có bị hủy diệt cũng chẳng liên quan gì đến con hết. Tiếc rằng Hiên Viên quốc không chỉ thuộc về một mình phụ vương, mà còn là tâm huyết cả đời của mẹ, cùng những người như Tri Mạt bá bá, còn là của vô số chiến sĩ Hiên Viên đã hy sinh, hơn nữa, còn là của toàn thể trăm họ Hiên Viên.”

Hoàng Đế đáp: “Ta hiểu.”

“Khi Tứ ca bị vây ở Tuân sơn, con van nài Thiếu Hạo cho mượn binh, ngỡ rằng y sẽ nể mặt Đại ca mà chấp thuận, nào ngờ y vẫn cự tuyệt. Sau đó… hẳn phụ vương cũng biết rồi, Xi Vưu đã đến, tuy hắn có lòng muốn giúp con, nhưng chỉ có thể cho con một nửa sức mạnh của hắn mà thôi. Cuối cùng quân sĩ Hiên Viên tộc để cứu những huynh đệ khác đã dốc hết tâm sức, chẳng nề hy sinh bản thân. Lúc bấy giờ con mới hiểu được ý nghĩa thật sự của huyết mạch thân tộc, của gia quốc tử dân: chính là dù ta không biết ngươi, nhưng ta nguyện chết để bảo hộ cho ngươi! Mới đây, con vừa biết được Nhạc Uyên, con trai duy nhất của Tri Mạt bá bá cũng hy sinh ở Tuân sơn. Khắp Hiên Viên quốc, đâu đâu cũng có những binh sĩ như Nhạc Uyên vậy, nếu Hiên Viên quốc bị diệt, người nhà của họ sẽ phải lầm than khổ sở, người già không ai phụng dưỡng, trẻ nhỏ chẳng chốn nương nhờ. Trước đây, con không hiểu được tại sao Tứ ca lại cam tâm chịu chết, chẳng phải Tứ ca rất yêu Tứ tẩu đấy sao? Lẽ nào huynh ấy nhẫn tâm bỏ lại Chuyên Húc vẫn còn trứng nước? Nhưng hiện giờ con đã hiểu tâm trạng Tứ ca rồi, Nhạc Uyên cùng các huynh đệ bọn họ không phụ con, con cũng không thể phụ lòng bọn họ!”

Nói đoạn, nàng quỳ xuống trước mặt Hoàng Đế, “Phụ vương, con sẽ bảo hộ Hiên Viên cho Người, đổi lại, Người có thể bảo vệ Chuyên Húc không?”

Hoàng Đế nghiêm trang đáp: “Ta xin thề trước giang sơn xã tắc, không để bất cứ ai làm hại Chuyên Húc, ta sẽ dốc lòng dạy dỗ nó, những gì con bảo vệ, ngày sau đều thuộc về Chuyên Húc tất cả.”

Được lời này của Hoàng Đế, A Hành chẳng còn gì vướng bận, nàng kính cẩn dập đầu ba cái rồi dắt Chuyên Húc đi thẳng ra ngoài.

Tiểu Yêu đang chán nản ngồi đánh đu một mình, trông thấy mẹ và Chuyên Húc tiến lại, liền sáng mắt lên, nhảy ngay xuống chạy về phía hai người.

A Hành hai tay dắt hai đứa nhỏ, “Chúng ta đi thăm bà và bác đi.”

Dọc đường đi, mặc cho Tiểu Yêu ríu ra ríu rít, Chuyên Húc chỉ cắn môi làm thinh. Đến trước mộ, Chuyên Húc và Tiểu Yêu đều quỳ xuống dập đầu hành lễ.

A Hành ôm lấy Chuyên Húc, dặn dò: “Bà không muốn chôn ở Hiên Viên, trước lúc chết có trăn trối, muốn được đưa về chôn ở Thanh Long Chi Thủ, quê cũ của bà. Nhưng bà là vương hậu, ông nội con không chấp thuận đưa về an táng ở quê nhà. Có lẽ cô cô cũng không kịp thực hiện tâm nguyện này của bà, con giúp cô cô được không? Sau này, nếu con có thể làm chủ, nhớ đưa bà nội về chôn tại Thanh Long Chi Thủ, bất kể kẻ khác ngăn cản thế nào, cũng không được hợp táng ông nội và bà nội[1].”

[1] Lăng mộ của Hoàng Đế nằm ở vùng Trung Nguyên xưa, căn cứ theo ghi chép “Luy Tổ thánh địa bỉ” thời đường, Luy Tổ được chôn ở Thanh Long Chi Thủ, nằm trong địa giới nước Thục xưa, theo lời trăn trối trước lúc lâm chung, mộ phần của Hoàng Đế và vương hậu cách nhau ngàn dặm. Sau này, cháu là Chuyên Húc sửa lại hành cung của Hoàng Đế thành Luy Hiên cung, ngàn đời cúng tế, để Luy Tổ được hưởng mọi thứ tôn quý nhất.

Chuyên Húc nghiêm trang gật đầu: “Vâng, con nhất định sẽ thực hiện tâm nguyện của bà nội, quyết không để ông nội và bà nội hợp táng.”

A Hành lại ôm Tiểu Yêu vào lòng: “Tiểu Yêu, mai mẹ sẽ dẫn con đến một chỗ này.”

“Đến đâu cơ?”

“Nơi mẹ từng sống. Ở đó có rất nhiều đào, đẹp lắm, bốn mùa đều nở hoa rực rỡ.”

“Ca ca đi cùng chứ?”

“Ca ca có việc của ca ca không thể đi cùng con được.”

“Vậy mình đi bao lâu hả mẹ?”

A Hành không đáp, chỉ mỉm cười nói: “Các con đi chơi đi, mẹ muốn ngồi lại với bà và bác một lát.”

Tiểu Yêu làm mặt quỷ với Chuyên Húc rồi tung tăng chạy đi hái hoa. Chuyên Húc vẫn ngồi yên tại chỗ, “Cô cô phải cầm quân ra trận thật ư?”

“Ừm.”

“Nguy hiểm lắm phải không ạ?”

“Ta không biết nữa.”

“Không đi không được ư?”

Thấy A Hành lắc đầu, Chuyên Húc rớm rớm nước mắt, “Sao cô cô phải đưa Tiểu Yêu đi? Không để muội muội ở lại đây được ư? Con sẽ chăm sóc cho muội ấy mà.”

A Hành đặt hai tay lên vai Chuyên Húc: “Ta biết con là một vị ca ca tốt! Nhưng con còn nhỏ, nhiệm vụ bây giờ của con là học tập, ông nội đã thề trước giang sơn xã tắc rằng sẽ chăm sóc cho con, ta không phải lo cho an nguy của con nữa. Thân thế Tiểu Yêu khác với con, sau này có thể sẽ có rất nhiều người muốn giết nó, e rằng còn liên lụy cả đến con, nên ta phải đưa nó đến một nơi tuyệt đối an toàn.”

“Con không sợ liên lụy đâu.”

A Hành cười, dỗ dành Chuyên Húc: “Nhưng hiện giờ ngay cả năng lực bảo vệ mình con cũng chưa có, làm sao bảo vệ Tiểu Yêu cho được. Chỉ can đảm thôi thì không đủ đâu con.”

Chuyên Húc siết chặt nắm tay, lồng ngực nhỏ bé phập phồng mãnh liệt, hồi lâu mới nghẹn giọng hỏi: “Vậy bao giờ muội muội có thể trở về?”

“Chắc là nhanh thôi.” A Hành trầm ngâm giây lát rồi gượng cười: “Khi nào con có đủ năng lực bảo vệ nó.”

Chuyên Húc cúi đầu, buồn buồn, “Con hiểu rồi.” Dứt lời, cậu nhóc nhanh chóng quẹt tay lau khô nước mắt, quay ngoắt người chạy đi.

Tiểu Yêu đứng giữa đồng hoa vẫy tay với Chuyên Húc, “Ca ca, ở đây này.”

Chuyên Húc chạy đến bên cô bé: “Muội thích hái hoa gì? Để ta hái cho.”

Tiểu Yêu nghiêng đầu, ngạc nhiên nhìn cậu nhóc. Xưa nay, Chuyên Húc rất khắc khổ, không mấy khi chịu chơi cùng bé, vậy mà hôm nay lại đòi hái hoa cho bé là sao?

Chuyên Húc bực dọc hỏi: “Rốt cuộc có thích hái hay không nào?”

“Có, có!” Tiểu Yêu nắm lấy tay Chuyên Húc, “Muội thích loại hoa hồng thế này này, muội muốn tết một miện hoa.”

Chuyên Húc hái được rất nhiều hoa, tết cho Tiểu Yêu một chiếc miện hoa, còn giúp cô bé đội lên nữa.

Tiểu Yêu cười hì hì hỏi, “Huynh không nỡ để muội đi chứ gì?”

Chuyên Húc lườm cô bé: “Ta chỉ mong muội đi sớm cho khuất mắt!”

Tiểu Yêu gỡ món trang sức lông hồ ly vẫn đeo ở lưng ra, đây là đuôi hồ ly do tên xấu xa Xi Vưu chặt, mẹ thấy bé cả ngày cứ cầm vung vẩy, bèn tìm một miếng ngọc hoàn, làm thành trang sức cho bé đeo.

“Cái này tặng huynh đấy.”

Chuyên Húc lặng lẽ nhận lấy, giơ tay vuốt vuốt lớp lông hồ ly mềm mại. Cậu biết Tiểu Yêu rất thích vật này, nên định trả lại cho bé. Tiểu Yêu nghĩ đi nghĩ lại, vẫn tiếc rẻ không nỡ cho, cuối cùng đành dặn: “Đợi khi nào muội về, huynh phải trả lại cho muội nhé. Muội chỉ cho huynh mượn chơi thôi, huynh nhớ không được làm hỏng đâu đấy.”

Chuyên Húc phì cười, cũng chẳng định trả lại cho Tiểu Yêu nữa, bèn đeo luôn vào thắt lưng, chạy lại tìm cô cô. Tiểu Yêu chạy theo sau, luôn miệng liếng thoắng: “Huynh đừng làm hỏng, đừng làm mất đấy nhé, phụ vương muội nói đây là cái đuôi Cửu vĩ hồ, hiếm lắm đấy.”

Chuyên Húc đang chạy chợt khựng lại, Tiểu Yêu liền hỏi: “Sao huynh lại dừng?” Đoạn cô bé nhìn theo ánh mắt Chuyên Húc, thấy mẹ mình đang ngồi lặng trước mấy nấm mộ.

Trên mộ nở đầy hoa dại đủ màu, đẹp tươi rực rỡ, nhưng lại toát lên vẻ thê lương vô hạn. Trong khung cảnh ấy, bóng dáng mẹ bé càng đơn độc xót xa. Tiểu Yêu bỗng thấy lòng mình nghẹn ứ những xúc cảm chẳng thể gọi thành tên. Bé toan gọi Chuyên Húc, nhưng chạm phải ánh mắt cậu, cảm giác nghẹn ứ trong lòng ngực bé càng thêm mãnh liệt, không dám cất tiếng nói nữa, tựa hồ chỉ cần lên tiếng, nước mắt sẽ lập tức tràn ra. Bé đành khẽ khàng nắm lấy tay áo Chuyên Húc.

Hồi lâu Chuyên Húc cắn môi nói: “Không có gì, chúng ta qua đó đi.” Dứt lời cậu nhóc kéo Tiểu Yêu chạy về phía cô cô, Tiểu Yêu đặt miện hoa lên đầu A Hành, thỏ thẻ: “Cái này con và ca ca cùng làm, tặng cho mẹ đấy.” A Hành mỉm cười, vòng tay ôm cả hai vào lòng.

Quay về Triêu Vân điện, sau khi thu xếp xong cho Chuyên Húc và Tiểu Yêu, A Hành liền tới gặp Vân Tang.

Luy Tổ dùng uy quyền của vương hậu nghiêm cấm thế lực của Hoàng Đế đặt chân vào Triêu Vân điện, nên từ khi Vân Tang gả tới Hiên Viên, cũng được Luy Tổ coi như con gái trong nhà, đối đãi không khác gì A Hành. Nhưng sau khi Luy Tổ qua đời, không còn sự bảo hộ của bà, Hoàng Đế lại thảm bại tại Phản Tuyền, Hiên Viên tộc đang từ vị thế của người chiến thắng vẻ vang thoắt đã đổi sang thành kẻ chiến bại, sắp lâm vào cảnh nước mất nhà tan, thái độ đối với Vân Tang cũng chuyển từ thương hại thành đề phòng. Hiện giờ, mỗi lúc ra vào Vân Tang đều bị thị nữ giám thị, cả ngày nàng chỉ nhốt mình trong đại điện, gảy đàn, nuôi tằm, dệt lụa, vẽ tranh.

A Hành đến tìm đúng lúc Vân tang đang đùa giỡn với bầy bướm, từng đôi bướm rực rỡ đủ màu phấp phới bay giữa rừng dâu, lượn vòng quanh thiếu nữ áo trắng như mây, tựa hồ trăm hoa tụ lại vờn múa quanh nàng, vô cùng mỹ lệ.

A Hành lặng ngắm hồi lâu mới lên tiếng: “Muội chẳng học được thuật điều khiển côn trùng của mẫu hậu, nhưng tỷ lại học được toàn bộ thế này, nhất định mẫu hậu sẽ vui lắm đó.”

Vân Tang chạnh nhớ thời thiếu nữ, khi còn sống trên Triêu Vân phong, bấy giờ A Hành còn là đứa bé lẫm chẫm tập đi, cả ngày luôn miệng bập bẹ gọi tỷ tỷ tỷ tỷ, nàng cũng hết lòng thương yêu A Hành như em ruột, có điều bây giờ chẳng thể nào trở lại như năm xưa được nữa. Vân Tang không nén được tiếng thở dài, “Hai ta vốn là đôi tỷ muội thân thiết, tiếc rằng muội lại là vương cơ Hiên Viên, ta lại là vương cơ Thần Nông.”

“Có một việc muội vẫn chưa cho tỷ hay. Thực ra tỷ không thể trở thành Đại tẩu của muội được, bởi Đại ca muội đã chết trong trận Phản Tuyền lần thứ nhất.”

Vân Tang kinh ngạc trừng mắt nhìn A Hành, như không dám tin. Trái lại, A Hành thở vào nhẹ nhõm, như vừa trút được gánh nặng, “Cuối cùng muội cũng nói ra được bí mật bao năm nay chôn giấu trong lòng rồi.”

Một lúc lâu thật lâu, Vân Tang mới chấp nhận được sự thật này: “Mẫu hậu có biết không?”

“Biết. Trước lúc lâm chung, mẫu hậu còn dặn đi dặn lại, bảo muội lựa lúc thích hợp nói cho tỷ biết. Mẫu hậu nói tỷ mãi mãi là con gái của người, người và Viêm Đế đều mong tỷ được hạnh phúc.”

Vân Tang thẫn thờ nhìn từng đôi bướm bay qua bay lại, trầm ngâm không nói.

A Hành lại nói: “Đại ca muội đã không còn, tỷ không thể nào trở thành vương hậu tương lai của Hiên Viên, tiến tới can dự vào triều chính được. Chi bằng tỷ đi đi, đừng gắng gượng chịu khổ ở lại Hiên Viên nữa, nhân lúc còn có thể chạy được, tỷ hãy cao chạy xa bay, càng xa càng tốt.”

Nước mắt Vân Tang lăn dài trên má, “Muội không hiểu đâu, có những chuyện đã định sẵn từ khi chúng ta sinh ra rồi, dù có chạy tới đâu, cũng không thể giũ bỏ được dòng máu trong người mình.”

Nỗi tê tái trong lòng A Hành từ từ dâng lên từng chút một, dần dà lan khắp toàn thân, giá buốt đến tận xương tủy. Một hồi lâu, nàng nới lên tiếng: “Muội hiểu lắm chứ, nên muội mới nhận lời phụ vương cầm quân ra trận.”

Vân Tang chợt quay phắt lại trừng trừng nhìn A Hành, ánh mắt đầy kinh hoàng, phẫn nộ và khinh miệt, sau cùng, tất cả đều biến thành bi ai khôn xiết.

A Hành né tránh ánh mắt Vân Tang, đứng dậy: “Chúng ta từ biệt ở đây, tỷ nhớ bảo trọng.”

“Đợi đã.” Vân Tang đưa mắt nhìn bầy bướm bay qua bay lại từng đôi từng đôi, song song chắp cánh, thong thả nói: “Ta luôn bị giám thị, khi trước còn có thể nhờ Hậu Thổ truyền đạt tin tức, nhưng sau khi phụ vương muội bị thương, liền phái Hậu Thổ tới tận Thụ Sa quốc, mấy tháng nay rồi ta chắng có tin gì về gã cả. Ta có chút chuyện muốn nói với Xi Vưu, muội đưa giùm ta một phong thư cho hắn được không?”

A Hành nhẹ nhàng đáp: “Tỷ vừa nói rồi đấy thôi, muội là Hiên Viên vương cơ, tỷ lại là Thần Nông vương cơ.”

Vân Tang cười buồn, “Muội xem qua nội dung đi, rồi hẵng quyết định.”

Nói rồi nàng rút ra một mảnh khăn lụa, chấm phấn trên cánh bướm viết: “Nếu hắn làm loạn, cứ…” Bàn tay nàng run bắn lên, hồi lâu không cách nào viết tiếp. A Hành ngạc nhiên nhìn Vân Tang, một lúc thật lâu sau, Vân Tang mới dụng lực mắm môi viết tiếp: “Cứ giết hắn đi!” chữ “giết” trong rối loạn vô cùng.

Vân Tang đưa mảnh khăn lụa cho A Hành, “Có tám chữ thôi, muội xem có thể đưa giùm không?” Ta không hề tiết lộ cơ mật gì của Hiên Viên, chỉ là chút chuyện trong nội bộ Thần Nông tộc, có một viên tướng có chút vướng mắc với ta, ta sợ Xi Vưu nể tình ta mà không thể hạ sát thủ.”

A Hành thẳng thắn: “Được, muội sẽ kêu Chu Du đưa thư này đến tận tay Xi Vưu.”

Chưa nói dứt câu, A Hành đã thấy Chu Du từ trong rừng dâu liêu xiêu bước ra, chân đi loạng choạng, tựa hồ sắp ngã tới nơi, nhưng cặp mắt vẫn trừng trừng nhìn xoáy vào nàng.

A Hành than thầm trong bụng, nàng cứ nghĩ có bầy bướm của Vân Tang bảo hộ, chẳng còn sợ bất cứ kẻ nào rình mò nghe lén, ngờ đâu lại quên khuấy mấy trăm năm trước, Chu Du từng vâng lệnh Đại ca bày thảo mộc trận trên Triêu Vân phong để bảo vệ cho mẫu hậu.

“Đại ca mà vương cơ nói là ai? Nếu Thanh Dương điện hạ biết vương cơ nhận xằng Đại ca, nhất định sẽ nổi giận. Chừng nào về, điện hạ quyết không bỏ qua cho vương cơ đâu.”

A Hành nghẹn ứ trong cổ họng, hồi lâu không thốt nổi nên lời, Vân Tang định đáp thay nhưng A Hành đã giơ tay ngăn lại, tỏ ý để mình chính miệng nói ra. Nàng nhìn Chu Du, chậm rãi nói: “Thanh Dương đại ca ta, đã chết rồi.”

Chu Du đờ người ra, một hồi lâu sau mới lẩm bẩm như tự nói một mình: “Thanh Dương điện hạ chết rồi ư? Điện hả bảo nô tỳ trông nom Triêu Vân điện, chờ ngày quay về kia mà, nô tỳ vẫn đang đợi, sao điện hạ có thể không về được? Không, không phải, vương cơ nói dối!”

Chu Du vừa lẩm nhẩm nói, vừa run bắn lên, cả người đổ sập xuống, A Hành và Vân Tang phải đỡ lấy ả, “Chu Du, Chu Du…”

“Nô tỳ làm sao thế này? Sao đột nhiên lại mất hết khí lực, không đứng vững được?” Chu Du đặt tay lên ngực, “Sao lồng ngực đau như cắt thế này? Bị thương rồi ư? Nhưng nô tỳ đâu có giao đấu với ai…”

A Hành đặt tay lên cổ tay Chu Du, lòng chợt rung động, sững sờ nhìn ả.

Vân Tang thấy Chu Du đau đến nỗi run lên bần bật, còn A Hành cứ sững ra hồi lâu chẳng nói năng gì, cuống quýt giục: “Rốt cuộc Chu Du làm sao thế? Sinh bệnh phải không?”

“Chu Du không sinh bệnh, cũng không bị thương, chỉ là…” A Hành nghẹn giọng ánh mắt đầy xót xa.

“Chỉ là sao?” Vân Tang gặng.

“Chỉ là đau lòng… thương tâm mà thôi.”

“Đau lòng ư? Thương tâm ư? Nô tỳ… Nô tỳ chỉ là khúc gỗ, làm sao có thể đau lòng, thương tâm được? Thiếu Hạo và Điện hạ đều nói nô tỳ không biết thế nào là thương tâm, có lần nô tỳ tò mò bèn năn nỉ điện hạ dùng pháp thuật để nô tỳ cảm nhận được thương tâm, nhưng điện hạ nói mình không thể. Điện hạ còn bảo không biết thương tâm là tốt, cả đời khỏi phải thương tâm… các người đều nhầm cả rồi!” Chu Du đẩy A Hành và Vân Tang ra, lảo đảo đứng dậy, giật lấy mảnh lụa của Vân Tang từ tay A Hành, “Muốn nô tỳ đưa thứ này đến cho Xi Vưu hả? Nô tỳ đi ngay đây.” Ả vừa nói vừa liêu xiêu quay đi.

“Chu Du, đại ca không thể quay về được nữa đâu, từ nay ngươi được tự do, nếu ngươi muốn rời khỏi Triêu Vân phong…”

“Suỵt!” Chu Du quay phắt lại, đặt ngón trỏ trên môi, ra hiệu cho A Hành im lặng, “Nô tỳ không tin vương cơ đâu, Thanh Dương điện hạ nhất định sẽ về! Tuy vương cơ là muội muội của điện hạ, nhưng vương cơ đâu hiểu được điện hạ. Vương cơ có biết, lúc Vân Trạch điện hạ chết đi, Đại điện hạ đã phẫn nộ thế náo không? Vương cơ có biết, lúc vương cơ thành hôn, điện hạ đã đau khổ thế nào không? Vương cơ có biết, khi vương hậu tức giận thành bệnh, điện hạ đã tự trách ra sao không?”

Thấy A Hành nghẹn lời, Chu Du càng nói càng hậm hực: “Vương cơ chẳng biết gì hết! Vương cơ chẳng hiểu gì về Thanh Dương điện hả cả, dựa vào cái gì mà dám nói điện hạ sẽ không quay về? Mấy ngàn năm nay, nô tì đã bầu bạn bên điện hạ. Từ khi còn là một khúc gỗ nằm trong ngực áo điện hạ, nô tỳ đã theo người đi khắp trời Nam đất Bắc, về sau tu thành hình người, lại luôn luôn kề cận bên ngài, tất cả hành động cử chỉ, mừng giận buồn vui của điện hạ nô tỳ đều hiểu. Xưa nay Thanh Dương điện hạ đã nói là làm, chưa từng thất tín, chỉ có kẻ khác không phải với điện hạ, chứ điện hạ chưa từng có lỗi với ai, điện hạ bảo nô tỳ đợi thì nhất định sẽ về.” Nói rồi, Chu Du giận dữ ngoảy đầu đi thẳng.

“Chu Du!” A Hành gọi với theo.

“Gì cơ?” Chu Du hằm hằm ngoảnh lại, sắc mặt trắng bệch, đôi mày nhíu chặt, hiển nhiên vẫn chưa nguôi đau đớn trong lòng.

A Hành trầm mặc một hồi, khẽ lắc đầu, “Không có gì, Ngươi nhớ chăm lo cho Chuyên Húc, chừng nào đại ca về, nhất định sẽ khen ngươi!”

Chu Du nhoẻn cười tươi tắn, “Nô tỳ biết rồi!” Nói đoạn gật đầu lia lịa, loạng choạng đi thẳng.

Vân Tang đăm đắm trông theo bóng lưng Chu Du, cảm thán: “Nha đầu ngốc, thì ra cô ấy đối với Thanh Dương… Chúng ta không nhận ra đã đành, ngay bản thân cô ấy cũng không ý thức được. Muội nói xem, hiện giờ cô ấy có hiểu được tình cảm của mình dành cho Đại ca muội không?”

“Đại ca đã không còn, hiểu hay không hiểu có ý nghĩa gì nữa đâu.” Nói là nói vậy, nhưng A Hành vẫn lã chã hai hàng nước mắt. Có lẽ, Đại ca đã hiểu cả, nhưng lại mặc cho Chu Du mơ mơ hồ hồ, cũng bởi trách nhiệm trên vai Đại ca quá nặng nề. Có lẽ Đại ca cũng mong đến một ngày nào đó, mình có thể đặt gánh nặng trên vai xuống, dắt Chu Du ngao du khắp trời Nam đất Bắc, giống như khi bọn họ mới gặp nhau vậy. Nếu không thể có một ngày như thế, Đại ca thà rằng Chu Du vĩnh viễn chẳng bao giờ nhận ra, vĩnh viễn không hiểu thế nào là thương tâm, nhưng Đại ca không biết rằng, cuối cùng Chu Du cũng chẳng tránh khỏi thương tâm.

“Chu Du cứ đợi mãi như thế ư? Mộc yêu bọn họ hình như cũng sống lâu như Thần tộc vậy.”

“Muội không biết, muội chỉ biết rằng Chu Du rất vâng lời Đại ca. Năm xưa, ở ngoài Ngu uyên, cô ấy suýt nữa đã bị Ngu uyên nuốt chửng, nhưng đại ca bảo cô ấy đợi nên cô ấy cứ đợi như thế, không di không dịch một bước chân.”

Chờ đợi suốt ngàn vạn năm, tự mua dây buộc mình, thời gian đằng đẵng như ngưng kết lại trong khoảnh khắc chia tay, mãi mãi dừng ở phút giây người đó chuẩn bị cất bước ra đi, còn đương đinh ninh dặn dò, thiết tha nhắn gửi, nhìn bề ngoài cứ ngỡ là si ngốc, nhưng đó chẳng phải một dạng thông minh đấy ư? Vân Tang khẽ thở dài, lặng lẽ đi thẳng vào rừng dâu, bầy bướm vẫn lượn quanh mình nàng, như một đóa hoa nở rộ, từ từ khuất bóng trong rừng dâu xanh mướt.

Sáng hôm sau, A Hành dẫn Tiểu Yêu lên Ngọc sơn.

Mấy trăm năm trước khi vội vã cùng Thiếu Hạo rời khỏi Ngọc sơn, nàng chẳng hề nghĩ sẽ có ngày mình quay lại nơi này, hơn nữa còn dắt theo con gái của nàng và Xi Vưu.

Được quay lại Ngọc sơn, A Tệ có vẻ rất cao hứng, vừa nhảy nhót vừa kêu líu ríu. Cung nữ ra đón nồng nhiệt hoan nghênh A Tệ, nhưng lại ngăn Liệt Dương lại, “Tiểu công tử, xin hãy dừng bước.”

Thấy Liệt Dương ngẩn người, A Hành mím môi cười, “Tỷ tỷ không nhận ra ư? Đây là Liệt Dương đó.”

Cung nữ trợn tròn mắt nhìn Liệt Dương, lắp bắp hỏi: “Liệt Dương, sao mày lại tu thành người lùn thế này?”

A Hành nghe nói phá lên cười, A Tệ cũng lăn ra cười ngặt nghẽo, Liệt Dương tức tối liền biến lại nguyên hình, bay vút lên cành cây.

Cung nữ hạ giọng thì thào với A Hành: “Vẫn nóng nảy như xưa nhỉ.”

Tiểu Yêu nhìn Đông ngó Tây, thỏ thẻ hỏi: “Mẹ bảo ở đây khắp nơi đều có hoa đào kia mà? Sao con không thấy?”

A Hành cũng không ngờ, lần này trở lại Ngọc sơn, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi.

Ngọc sơn mấy trăm năm trước bốn mùa nở rợp hoa đào, đình đài lầu các thấp thoáng dưới bóng hoa, cỏ non ngút mắt, hoa rơi lả tả, đi giữa khung cảnh đó, chẳng khác nào lọt vào tranh vẽ. Còn Ngọc sơn hiện giờ chẳng có lấy một bông hoa đào, chỉ có những cây đào rậm rì xanh um.

Nếu chỉ vậy còn đỡ, dù gì A Hành cũng nghe nói, lúc Viêm Đế qua đời, Ngọc sơn đổ tuyết lớn, núi xanh chưa già, vì tuyết rơi mà bạc trắng mái đầu. Nhưng dung mạo của Vương mẫu…

Vương Mẫu năm xưa tóc xanh tha thướt, hoa dung nguyệt mạo, cặp mắt trong veo lạnh lùng như nước, đứng dưới cội hoa đào ngoảnh đầu trông lại, quả là đẹp hơn đào lý, lạnh tựa băng sương, vậy mà giờ đây chỉ còn là một bà lão tóc trắng như bông, dung nhan tiều tụy, ánh mắt tịch liêu.

A Hành sững sờ nhìn Vương Mẫu trong khi Tiểu Yêu cười hì hì chạy lại bên cạnh bà, như quen thuộc từ lâu, níu áo bà ríu rít hỏi: “Bà ơi, hoa đào đâu rồi? Mẹ cháu bảo ở đây có rất nhiều hoa đào.”

Vương Mẫu đáp: “Hoa đào tàn cả rồi.”

Tiểu Yêu hành lễ với Vương mẫu theo lời A Hành, rồi cùng các cung nữ đi chơi, để lại A Hành cùng Vương Mẫu tản bộ trong vườn đào. A Hành lên tiếng: “Lần này con lên Ngọc sơn có hai việc.”

Vương Mẫu làm thinh không đáp. Đột nhiên, A Hành đổi giọng gọi, “Dì Mi.”

Vương Mẫu lạnh nhạt cười, “Trước lúc lâm chung, mẫu hậu ngươi mới chịu nhắc đến chuyện năm xưa hả?”

“Thực ra con đã biết từ lâu, hồi đó nán lại trên Tiểu Nguyệt đỉnh mấy ngày, bá bá đã kể hết cho con chuyện của các vị rồi.”

Vương Mẫu nghe đến đó chợt run bắn lên, dừng sững lại. A Hành gắng lấy can đảm nói tiếp: “Bá bá nói, ông vẫn luôn hoài niệm những tháng ngày ba người ở bên nhau, đó là quãng thời gian vui vẻ nhất, thoải mái nhất trong đời bá bá.”

Sắc mặt Vương Mẫu trầm xuống, bà thong thả đi tiếp, chẳng tỏ vẻ gì.

A Hành lại nói: “Trước lúc lâm chung, con hỏi mẫu hậu có muốn đi Ngọc sơn một chuyến không, nhưng mẫu hậu chỉ lặng thinh, sau đó dặn con giao thứ này lại cho dì.”

A Hành mở gói lấy ra một chiếc áo tơ vàng nhạt trao cho Vương Mẫu, bên trên còn đặt một người gỗ nho nhỏ đẽo bằng gỗ dâu. Vương Mẫu chẳng buồn đón lấy, chỉ lạnh lùng đưa mắt nhìn, năm xưa Luy Tổ quyết dứt áo ra đi, mấy ngàn năm nay chưa từng ngoảnh lại, giờ có muốn ngoảnh lại cũng muộn rồi!

Vương Mẫu không tiếp nhận, A Hành cũng chẳng biết làm sao, đành đặt người gỗ xuống đất. Người gỗ vừa tiếp được hơi đất, lập tức lớn bổng lên, biến thành một thiếu nữ xinh đẹp, dung mạo giống hệt Vương Mẫu mấy ngàn năm trước, nhưng thần thái khí độ lại khác hẳn. Cặp mắt thiếu nữ đen láy linh hoạt, nét cười rạng rỡ trên môi, mái tóc dài búi thành hai búi trên đầu, dùng tơ vàng quấn quanh, từng sợi từng sợi tơ vàng lòa xòa rủ xuống, vô cùng hoạt bát xinh đẹp.

A Hành khe khẽ hát lên khúc ca dao xưa cũ mẹ nàng truyền dạy.

Thiếu nữ nhẹ nhàng xoay một vòng, bắt đầu nhảy múa, tay áo dài phấp phới, tà áo bay bay, tư thế hết sức uyển chuyển.

Vương Mẫu sững người nhìn cảnh tượng trước mắt.

Chiếc áo tơ vàng của thiếu nữ còn mới tinh, vậy mà ống tay đã bị toạc một mảng, mỗi lúc khiêu vũ, cánh tay giơ lên, ống tay áo lại rẽ làm đôi, để lộ cánh tay trắng nuột như tuyết.

Vương Mẫu còn nhớ, sáng hôm ấy tay áo mình bị cành cây cào rách, bà vụng đường kim chỉ nhưng A Luy lại rất thạo khâu vá, đã hứa sẽ vá giùm bà.

Tiếc rằng điệu múa ấy bà vĩnh viễn không bao giờ múa xong, buổi hoàng hôn ấy, cũng vĩnh viễn không bao giờ trở lại.

Khúc ca dứt, thiếu nữ cũng múa xong, lập tức biến thành tro bụi, tan đi theo gió, tự như lớp lớp chuyện xưa đều bị cuồng phong vô tình cuốn đi, chẳng còn tăm tích.

Cả cánh rừng chợt lặng phắc, nghe rõ mồn một tiếng gió thổi qua tàng cây.

Vương Mẫu bỗng phá lên cười ngặt nghẽo, cười đến chảy cả nước mắt, “Thế này là gì đây?”

A Hành đáp: “Xin lỗi! Mẹ con bảo con nói lại với người một câu ‘xin lỗi’!”

Vương Mẫu tắt hẳn tiếng cười. A Luy là nữ tử kiêu ngạo nhất mà bà từng gặp, xưa nay chưa hề biết cúi đầu, dù đánh gãy răng cũng cười mà nuốt cả răng lẫn máu, nàng Tây Lăng Luy kiêu ngạo đến cơ hồ độc đoán ấy, bây giờ ở đâu?

Vương Mẫu trầm mặc hồi lâu, lại hỏi: “Sao mẹ ngươi không tự đến mà nói?”

A Hành đáp: “Con không biết, có hỏi, mẹ con cũng chỉ làm thinh. Khi đã ngã bệnh, bà vẫn chính tay xe tơ dệt lụa, may chiếc áo này, bảo con giao lại cho dì.”

Vương Mẫu đứng lặng, ánh mắt dán chặt vào A Hành, nhưng dường như lại đang xuyên thấu qua nàng, quay ngược về mấy ngàn năm trước.

A Luy đã hứa vá lại áo cho bà, nhưng không làm được, mấy ngàn năm sau, lại đưa đến một chiếc áo tự tay dệt nên. Nỗi canh cánh trong lòng bà cả ngàn năm nay, há chẳng phải là nỗi canh cánh trong lòng A Luy ư?

Vương Mẫu chợt mỉm cười, nụ cười đã không còn vẻ sắc sảo, thay vào đó, lại thêm phần bình thản. “Trông bộ dạng ta bây giờ xem, bà ấy khăng khăng không lên Ngọc sơn là phải.” Nói rồi Vương Mẫu nhận lấy chiếc áo, rảo bước ra khỏi rừng đào.

A Luy khăng khăng không chịu gặp, Vương Mẫu lại kiên trì giữ gìn dung mạo, mong mỏi có thể gặp lại một lần, hai người khác tình mà chung một dạ, đều vì một chữ “si”. Đây có lẽ là hồi ức đẹp đẽ cuối cùng của họ, nên bà không những muốn ghi khắc mãi mãi, mà A Luy cũng không nỡ nào phá hỏng.

Vương Mẫu đứng trước vách núi, ngắm ráng chiều như khói tỏa, tịch dương tựa gấm thêu.

Ba huynh muội nắm tay nhau ngao du năm ấy, có hai người đã lìa trần. Để giờ đây, dưới bóng tà dương đỏ sẫm, chỉ còn trơ lại mình Vương Mẫu.

A Hành bước đến cạnh Vương Mẫu. Có lẽ vì gút mắc trong lòng đã được cởi bỏ, nét mặt Vương Mẫu cũng hòa dịu đi nhiều, chỉ còn nét buồn phảng phất giữa đôi mày là không sao xua tan được, “Ngươi còn chuyện gì nữa?”

“Con định giao con gái cho dì. Nhờ dì bảo hộ cho nó.”

“Cha nó là quốc vương Cao Tân, mẹ lại là vương cơ Hiên Viên, kẻ nào dám đụng đến nó?”

“Tên cháu là Tiểu Yêu.” A Hành viết hai chữ đó lên bàn, “Nó vốn không phải là vương cơ Cao Tân.”

Vương Mẫu ngạc nhiên hỏi: “Là con của Xi Vưu ư?”

A Hành gật đầu.

Vương Mẫu cười nhìn A Hành, ánh mắt đượm vẻ cảm thông, “Ngươi biết không? Năm xưa ta biết rõ Xi Vưu mới là kẻ xông vào địa cung Ngọc sơn, đánh cắp Bàn Cổ cung, nhưng ta cứ thuận nước đẩy thuyền, giữ ngươi trên Ngọc sơn sáu mươi năm, thực ra là cố ý phá hỏng hôn ước giữa ngươi và Thiếu Hạo, tác thành cho ngươi với Xi Vưu.”

“Sau này con cũng đoán vậy.”

“Nếu không có ta nhúng tay vào, chắc ngươi và Thiếu Hạo sẽ đến được với nhau, cũng chẳng dẫn tới tình cảnh hôm nay.”

“Xưa nay con chưa từng hối hận vì đã yêu Xi Vưu. Đời này có thể gặp được chàng là may mắn của con.”

“Ta sẽ chăm sóc cho Tiểu Yêu, có điều, ta rất mong ngươi sẽ cùng Xi Vưu tới đây đón nó.”

A Hành vội hành lễ cảm tạ Vương Mẫu. Nàng gọi Tiểu Yêu lại, đinh ninh dặn dò bé phải nghe lời Vương Mẫu, chăm chỉ luyện tập, không được ham chơi.

Tiểu Yêu từ nhỏ đã bạo dạn không sợ người lạ, được đi chơi thế này, bé mừng còn không hết, nghe mẹ dặn dò, bé vừa gật đầu lia lịa, vừa náo nức chực nhảy chân sáo đi chơi. A Hành ôm bé vào lòng, khẽ gọi: “Tiểu Yêu…” rồi nghẹn lời, chẳng biết nói thêm gì nữa, nhưng ánh mắt vẫn bịn rịn không nỡ rời Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu ngạc nhiên hỏi, “Mẹ?”

A Hành sửa lại quần áo cho bé, đoạn nắm lấy ngọc đồng đeo trên cổ bé, “Con nhớ lời ta dặn rồi chứ?”

“Nhớ rồi, phải luôn đeo bên mình, bên trong có một thứ rất quan trọng.”

A Hành ôm choàng lấy Tiểu Yêu, siết mạnh. Tiểu Yêu vừa kêu khẽ, “Mẹ, đau con” vừa ngọ ngoạy vùng vẫy, A Hành liền buông bé ra, “Đi chơi đi.”

Tiểu Yêu tung tăng chạy theo Vương Mẫu, được vài bước, chợt bé ngoảnh lại dặn, “Mẹ mau mau tới đón con nhé, ca ca còn đang cầm đuôi hồ ly của con.”

“Ừm.” A Hành nói chẳng nên lời, đành gật đầu.

Liệt Dương từ trên cành đáp xuống, biến thành hình người, “Đi được chưa?”

A Hành bảo Liệt Dương: “Ngươi ở lại đây đi, trông nom Tiểu Yêu giùm ta, nếu ta không về nữa, ngươi đợi chừng nào thiên hạ thái bình hẵng cho nó hạ sơn.”

Liệt Dương cười lạnh, “Đừng mơ! Nếu sống thì cùng sống, chết thì cùng chết!”

“Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” A Hành quỳ xuống trước mặt Liệt Dương, “Ta buộc phải giao việc khó khăn nhất lại cho ngươi đây, lẽ nào ngươi đành lòng để A Tệ thay ngươi gánh vác ư?”

Liệt Dương không đáp, chỉ chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng nhưng trong đôi mắt xanh biếc lại lấp loáng ánh lệ.

A Hành ầng ậng nước mắt, đứng dậy bảo A Tệ: “Chúng ta đi thôi.”

A Tệ rưng rưng nhìn Liệt Dương, từ từ bay lên, để lại một mình Liệt Dương lẻ loi đứng đó bất động. Liệt Dương không hề ngẩng lên nhìn bọn họ, chỉ một mực cúi gằm mặt xuống, dán mắt vào mũi chân. Chúng cứ ngỡ suốt đời suốt kiếp này sẽ là người một nhà, sống chết có nhau, dẫu chết cũng chẳng có gì đáng sợ, nào ngờ đâu, lại còn có lúc buộc phải sống.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 18: Vì chưng nạn nước, mang khôi giáp (Trích trong bài Thoái tướng thi của Tào Hàn)

Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau này vẫn như thế.

Xi Vưu dẫn quân Tây tiến, liên tiếp phá châu kì, vượt qua Hắc hà, đánh thẳng đến Đôn Vật sơn. Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, mắt thấy Hiên Viên mất nước chỉ còn là sớm muộn, bách tính trong Hiên Viên thành lại bắt đầu khăn gói chuẩn bị chạy nạn, tướng sĩ cũng nháo nhác cả lên.

Hiên Viên Bạt lâm nguy thụ mệnh, lĩnh binh xuất chinh khiến tướng sĩ xôn xao bàn luận, quần thần nhao nhao phản đối, ngay cả Tượng Võng và Ly Chu cũng vì thế mà toát mồ hôi hột, chẳng hiểu sao Hoàng Đế và Tri Mạt lại khăng khăng ủng hộ Hiên Viên Bạt.

Hoàng Đế chuẩn bị cho Hiên Viên Bạt một bộ áo giáp tốt nhất, được cải tạo từ hai bộ giáp của ông và Luy Tổ, ánh vàng ánh bạc hòa lẫn vào nhau, “Con mặc áo giáp lên đi, dùng uy nghiêm của mình mà chấn nhiếp tướng sĩ và kẻ địch!”

Tang tảng sáng, tướng sĩ đã đứng đông nghịt bên dưới Hiên Viên thành, trật tự đợi lệnh chủ tướng.

Nhìn Hiên Viên Bạt vận khôi giáp bước lên đài, Tri Mạt vẫn thấy thấp thỏm không yên, liệu cô gái này có làm được như cha mẹ mình chăng? Cô có thể cứu vãn nổi Hiên Viên quốc mà cha mẹ mình gây dựng nên không?

Theo lời Hoàng Đế, Hiên Viên Bạt vung kiếm lên, lập tức tướng sĩ bên dưới cao giọng hô vang, nhưng tiếng hô ấy chỉ mang tính nghi thức, chẳng có nhiệt tình hay khí thế gì cả.

Hiên Viên Bạt lại vung kiếm, tiếng hô bên dưới có to hơn, nhưng vẫn chẳng có chút khí thế hay nhiệt tình nào hết.

Tượng Võng và Ly Chu lo lắng nhìn Hoàng Đế, hiện giờ đổi chủ soái hẵng còn kịp, nói cho cùng đâu cứ phải mặc khôi giáp của Hoàng Đế và Luy Tổ là có được lòng can đảm của Hoàng Đế và cơ linh của Luy Tổ.

Hiên Viên Bạt trầm mặc nhìn xuống dưới đài, từng gương mặt dưới kia hoặc non nớt, hoặc căng thẳng, hoặc ngỡ ngàng, hoặc lo sợ, nhưng dù có sợ đến đâu chăng nữa, họ vẫn cầm vũ khí lên, chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Lần đầu tiên, nàng thật sự hiểu được nguyên nhân vì sao mẹ mình ân đoạn nghĩa tuyệt với cha, nhưng chưa bao giờ hối hận về việc hi sinh tất cả, cùng Hoàng Đế sáng lập nên Hiên Viên quốc.

Đột nhiên Hiên Viên Bạt giơ tay gỡ mũ giáp ra, mái tóc đen dài lập tức xõa tung, phất phơ giữa ánh nắng mai nhàn nhạt. “Ta là nữ nhân, dù giấu mặt dưới chiếc mũ này, các người vẫn biết ta là nữ, là một người phụ nữ giống như mẹ, như vợ, như muội muội, như con gái các người vậy, đáng ra phải đứng phía sau để các người bảo vệ, chứ đâu lại đứng trước mặt các người, chỉ huy các người tấn công một đội quân toàn những nam nhân còn hung mãnh tàn nhẫn hơn cả các người.”

Tướng sĩ dưới thành đều im phăng phắc, tỏ vẻ tán thành. Tượng Võng giậm chân giận dữ, “Con bé này điên thật rồi…” lão chỉ hận không thể xông ngay lên đài, cứu vãn cục diện.

Trí Mạt níu Tượng Võng lại, “Đừng nóng.”

Hiên Viên Bạt bắt đầu cởi khôi giáp, vừa cởi vừa ném cả xuống đất, vàng đá va nhau, phát ra tiếng lanh canh chói tai, phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng.

Thoắt chốc, dưới ánh nắng mai vàng nhạt, chỉ còn một nữ tử vận tấm áo chẽn xanh ngắt, đứng trên đài đôi diện với mấy vạn tướng sĩ.

“Các người tưởng ta muốn đánh trận lắm ư? Không hề! Nhưng phụ thân ta đã thua Xi Vưu, huynh trưởng của ta cũng thua Xi Vưu, chính là vì nam nhi các người liên tiếp thua hết trận này sang trận khác, nên ta mới buộc phải đứng ở đây. Ta không muốn ra trận, nhưng ta sợ quân Thần Nông đánh thốc đến tận Hiên Viên thành, Hiên Viên thành là nhà của ta, ta không muốn mất nhà! Ta không muốn con gái ta bị người ta khinh khi lăng nhục, không muốn cháu trai ta phải quỳ gối trước kẻ thù, không muốn phần mộ của mẹ ta bị kẻ khác giày xéo. Hôm nay các người cười nhạo ta, nhưng ta nói cho các người hay, kẻ địch đã đánh đến cửa rồi, nếu các người còn thua thêm trận nữa, thì mẹ các người, vợ các người, muội muội các người sẽ phải bước lên đây giống như ta vậy! Nam nhân các người đã không thể bảo hộ nữ nhân chúng ta, dù chúng ta có phải cần kim thêu lên, cũng quyết bảo vệ quê hương và con cái mình!”

Hiên Viên Bạt bi thương nhìn xuống tướng sĩ bên dưới, tất cả tướng sĩ đều thẹn đỏ cả mặt, lồng ngực phập phồng dữ dội.

Hiên Viên Bạt lại phóng mắt nhìn trăm họ đang xúm đông xúm đỏ quanh cửa thành, vận linh lực sang sảng nói: “Đồng Nhĩ quan thất thủ, các người chạy về Tỏa Vân quan, Tỏa Vân quan thất thủ, các người lại rút về Hắc hà… Các người chạy mãi, chạy đến tận Hiên Viên thành, giờ còn chưa đánh mà các người đã định chạy, các người định chạy đi đâu nữa đây? Tiếp tục chạy sang phía Tây là đến hoang mạc Qua Bích, các người cùng đường rồi! Hiên Viên, Thần Nông, Cao Tân đều có chiến loạn, trong thiên hạ chẳng còn nơi đâu yên bình cả, nếu Hiên Viên thành bị phá, các người sẽ trở thành những kẻ lưu vong, nước mất nhà tan, dù chạy đến đâu cũng không tìm được chốn dung thân, vĩnh viễn bị người ta kỳ thị và lăng nhục.”

Đám dân đen khoác tay nải đều đều lộ vẻ buồn rầu, hoang mang.

Hiên Viên Bạt lại chỉ những chiến sĩ Hiên Viên đã xếp thành đội hình, “Hiện giờ bọn họ sắp lên đường, lao ra trước đầu đao mũi kiếm, chính là để giữ cho các người một mảnh đất yên bình, không phải trốn chạy nữa, nhưng các ngươi lại không hề tin tưởng họ. Ngay cả các người còn không tin họ, vậy họ chiến đấu vì cái gì? Họ dựa vào cái gì để khiến kẻ thù sợ hãi đây?”

Hiên Viên Bạt lại quay ra cao giọng chất vấn các tướng sĩ, lệ nóng nhòa mi: “Các người đánh trận này chính là đứng ngay trước cửa bảo vệ cho mẹ già, vợ dại, tỷ muội, con cái của các người, nếu các người thua trận, kẻ địch phá cửa xông vào, các người có quyết tử chiến đến cùng, thề không lùi bước chăng?”

“Có!” Nỗi hổ thẹn, giận dữ, bi ai, phẫn nộ, tất thảy đều hòa thành dũng khí, các tướng sĩ đồng thanh hô vang, chấn động cả đất trời.

Hiên Viên Bạt chăm chú nhìn dân chúng tụ tập đông nghẹt hai bên cửa thành một lượt, đoạn phi thân lên ngựa, “Xuất phát!” Nói rồi nàng ra roi phi lên trước, tất cả các tướng sĩ lũ lượt theo sau, vó ngựa rầm rập, bụi tung mù mịt, tiến thẳng về phía mặt trời lên, khiến buổi bình minh xán lạn rực rỡ cũng nhuốm phần bi tráng.

Dân chúng hai bên đường đăm đăm nhìn theo đại quân xa dần, rồi lần lượt từng người bắt đầu trở vào thành, kẻ đang gói ghém cũng dỡ đồ đạc xuống khỏi lưng ngựa, đặt trở vào chỗ cũ, bác thợ rèn quát đồ đệ lắp lại bếp lò, đoạn vừa vung búa lên vừa cao giọng rao: “Mọi người phải tự bảo vệ lấy gia đình mình, ai có thể cầm gươm cầm kiếm cứ đến đây lấy binh khí đi, không mất tiền, không mất tiền đâu!”

Tri Mạt rưng rưng lệ, gật gật đầu cười, quay sang bảo Ly Chu và Tượng Võng, “Con nhỏ A Hành chẳng cần mượn oai danh Hoàng Đế và Luy Tổ làm gì, nó chính là tiểu vương cơ của Hiên Viên chúng ta, là con gái, là tiểu muội của mỗi nhà, tất cả tướng sĩ sẽ tử chiến để bảo vệ nó! Bảo vệ nó cũng chính là họ đang bảo vệ cho tiểu muội, con gái của mình đó!”

Hoàng Đế bước lên đài, cúi xuống nhặt bộ khôi giáp A Hành vứt lăn lóc dưới đất, phóng mắt trông ra đám bụi hồng mờ mịt cuối trời, lòng ngổn ngang trăm mối, vừa kiêu ngạo, vừa xót xa, lại vừa hổ thẹn, nhưng chỉ trong nháy mắt, hết thảy những tình cảm yếu đuối đó đều bị khát vọng chinh phục Trung Nguyên quét sạch.

Ông ngoảnh sang lệnh cho Ly Chu: “Chúng ta chuẩn bị xuất phát thôi.”

“Vâng!”

Ly Chu quỳ xuống nhận lệnh, Tri Mạt kinh ngạc ra mặt, còn Tượng Võng ngỡ ngàng nhìn Hoàng Đế và Ly Chu. Xuất phát? Xuất phát đi đâu?

Tin Hiên Viên Bạt cầm quân truyền tới Thần Nông tộc. Si Mỵ Võng Lượng đều cười ngặt nghẽo, bỉ bai Hiên Viên quốc đã hết người, sắp sửa mất nước tới nơi, phải để một người đàn bà lĩnh binh ra trận.

Vũ Sư cũng thắc mắc không hiểu, Hiên Viên vẫn còn mấy vị lão tướng khai quốc đó, sao họ lại để Hiên Viên Bạt cầm quân?

Phong Bá góp lời: “Đừng có coi thường Hiên Viên Bạt, Hoàng Đế xưa nay tinh minh mưu trí, ông ta chọn Hiên Viên Bạt, nhất định là có cái lý của ông ta. Chẳng phải bấy nhiêu người tới vời Ứng Long đều không được, nhưng ả ta chỉ nói một tiếng, Ứng Long đã nhận lời đấy sao?

Vũ Sư lộ vẻ đắc ý, “Vậy chúng ta quyết chiến ở Đôn Vật sơn, để xem ta và Ứng Long ai tài ngự thủy hơn?”

Đôn Vật sơn nhiều sông hồ, có Hà thủy, Hắc thủy, cùng mười mấy dòng sông lớn nhỏ khác, Ứng Long là vua của Thủy tộc, có bản lĩnh ngự thủy trời sinh, nhưng trong trận chiến lần trước, vì chủ soái nên y không phát huy được hết năng lực của mình. Lần này Hiên Viên Bạt và Ứng Long quan hệ không tầm thường, nhất định sẽ trọng dụng y.

Mọi người đều đổ dồn mắt về phía Xi Vưu, đợi hắn định đoạt.

Một hồi lâu Xi Vưu ra lệnh: “Lui!”

“Gì cơ?” Ai nấy đều nhốn nháo bất mãn, vất vả bấy nhiêu năm, bao nhiêu huynh đệ phải đổ máu, đã đánh đến tận cửa nhà Hoàng Đế, chỉ cần vượt qua Đôn Vật sơn là có thể đánh thẳng vào Hiên Viên thành, sao lại có thể lui được? Dù bọn họ có bằng lòng thì những chiến sĩ đổ máu chiến đấu phía sau họ cũng nhất định không chấp nhận.

Xi Vưu lạnh lùng lừ mắt nhìn khắp lượt, bấy giờ các tướng mới khôi phục được trật tự. Xi Vưu giải thích: “Tướng sĩ Hiên Viên hiện giờ như bầy sói bị dồn đến đường cùng, Đôn Vật sơn là bức bình phong cuối cùng của Hiên Viên, một khi thất thủ, cũng đồng nghĩa với quê hương bản quán của chúng sẽ bị chúng ta giày xéo, người thân bị chúng ta giết hại, vì cha mẹ vợ con mình, bọn chúng không được phép thất bại.”

Vũ Sư phản bác, “Thì chúng ta ra lệnh không được làm hại thường dân, đồng thời tuyên bố nếu tướng sĩ Hiên Viên nào đầu hàng nhất định sẽ đối đãi thật hậu, dần dà làm tiêu giảm ý chí của Hiên Viên tộc, khiến chúng không thể tử chiến.”

Phong Bá im lặng nghĩ thầm, Xi Vưu vốn chấn nhiếp được đám binh lính Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến, là nhờ vào thủ đoạn tàn nhẫn hung mãnh, nhưng cũng chính vì thế mà khiến tướng sĩ Hiên Viên hận hắn thấu xương, cừu hận đã nổi lên, lẽ nào mấy mệnh lệnh giả nhân giả nghĩa kia có thể hóa giải được sao?

Xi Vưu trỏ những căn lều trại đằng sau, nói tiếp: “Ngươi cho rằng họ dựa vào cái gì mà liều chết viễn chinh? Đừng đem mấy thứ nhân nghĩa trung hiếu ra đây, đối với bọn họ, bất luận Hoàng Đế hay Viêm Đế, miễn có thể cho họ cơm no áo ấm thì tức là minh quân. Bọn họ chiến đấu không phải vì Viêm Đế, cũng không phải vì chúng ta, mà là vì mối thù với Hiên Viên, Hiên Viên đã giày xéo quê hương họ, giết hại người thân họ, nên họ phải báo thù! Họ dốc lòng phò tá ta, chính là vì ta có thể báo thù cho họ!”

Vũ Sư cũng là người sáng dạ, thoạt nghe đã hiểu nỗi khổ của Xi Vưu. Nếu Xi Vưu lệnh cho quân lính không được làm hại người Hiên Viên tộc, e rằng đám người lòng đầy oán hận này sẽ lập tức quay sang nương nhờ kẻ cho phép họ báo thù.

Xi Vưu lại nói: “Những giống chim nhỏ, để bảo vệ tổ và chim non, có thể đánh lui được cả diều hâu, cớ gì chúng ta cứ nhất định phải giao chiến với Hiên Viên ngay trước cửa ngõ nhà chúng. Chi bằng lùi lại xa xa một chút, đợi chiến ý của chúng suy giảm, bấy giờ tấn công càng dễ.”

Phong Bá và Vũ Sư sực hiểu ý Xi Vưu. Hiện giờ Hiên Viên giống như một kẻ bừng bừng lửa giận, dốc hết sức bình sinh tung ra một cú đấm, bọn họ lắc người tránh né, để đối phương đánh hụt, chính là đã phong tỏa nhuệ khí của đối phương.

Trận đầu tiên, Hiên Viên Bạt lệnh cho Ứng Long xuất chiến.

Không phụ sự kỳ vọng của mọi người, Ứng Long ra trận đã đẩy lui được được quân đội của Xi Vưu, khiến Xi Vưu phải rút lui ba lần, lui đến tận Ký Châu.

Tướng sĩ Hiên Viên hừng hực khí thế, hân hoan cổ vũ, nhưng Ứng Long quan sát địa hình Ký Châu lại tỏ vẻ lo lắng vô cùng.

Y tấu lên Hiên Viên Bạt: “Thần cảm thấy Xi Vưu lui quân không phải vì sợ giao chiến với ta ở Đôn Vật sơn, mà là muốn quyết chiến với chúng ta tại nơi này, đây mới là nơi quân Thần Nông có thể phát huy uy lực cao nhất.”

Hiên Viên Bạt tán thành, “Địa hình này quả là bất lợi cho ta.”

Ứng Long đề xuất: “Chúng ta có thể rút lui theo hướng Tây Nam hơn hai trăm dặm.” Y trỏ địa đồ, “Nơi đây lợi cho chúng ta hơn.”

“Nếu hạ lệnh lui quân là trúng kế của Xi Vưu, tướng sĩ vì nước mất nhà tan mới bùng lên khí thế chống giặc, lỡ sĩ khí ấy tan tác cả, Xi Vưu sẽ nhất định thừa cơ truy sát. Ngươi quên lời thề của chúng ta trước toàn thể tướng sĩ khi xuất phát rồi ư? Chúng ta chỉ có một con đường là liều chết xông lên, quyết không lùi bước, đánh bại Xi Vưu thôi.”

Sĩ khí dẽ tan mà khó tụ, nghĩ đến điểm này, Ứng Long giật thót người, gật đầu, “Thần hiểu.”

Chợt nghe bên ngoài thùng thùng tiếng trống trận, một tên lính truyền tin hớt hải chạy vào: “Thần Nông sắp tấn công rồi.”

Hiên Viên Bạt đưa mắt nhìn khắp lượt tướng sĩ xung quanh, bình thản đáp: “Thì đánh đuổi chúng về.”

Ứng Long sai người rúc kèn xung trận.

Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hiên Viên và Thần Nông đã giao chiến suốt mười năm, chết mấy chục vạn người, tướng sĩ hai bên đều mang nặng thù nhà nợ nước, chỉ hận không thể lập tức ăn tươi nuốt sống đối phương.

Si Mỵ Võng Lượng giăng mây mù khắp chốn, trắng xóa cả vùng Ký Châu hoang dã, chẳng ai nhìn rõ được lối đi. Tướng sĩ Thần Nông đều đã được huấn luyện, lấy tiếng chiêng trống của Xi Vưu làm hiệu, tiến lui công thủ đều đâu vào đấy, trong khi đại quân Hiên Viên lạc giữa đám sương mù, chẳng biết đâu là phương hướng nữa, tức thời bị tướng sĩ Thần Nông đuổi tận giết tuyệt.

Ứng Long liền lênh cho Ly Oán, kẻ chuyên gọi gió, nổi gió lên xua tan mây mù. Nhưng trận gió của Ly Oán đụng phải Phong Bá, chẳng khác nào làn gió xuân Giang Nam hây hẩy đụng độ với cơn gió bắc cuồng nộ ngoài Mạc Bắc, Ly Oán chẳng xua tan được mây mù đã đành, còn bị thương dưới tay Phong Bá.

Ứng Long không quan sát được chiến trường, chỉ lên tục nghe thấy tiếng rú thảm thiết của tướng sĩ Hiên Viên, cuống quá toan đánh chiêng thu quân. Các tướng sĩ chưa hề qua huấn luyện, không thể dựa vào tiếng chiêng mà phán đoán được phương hướng rút lui, thậm chí còn có thể đụng độ với quân mình, tử thương vô số, nhưng ít nhất cũng tránh khỏi cảnh toàn quân bị diệt.

Thấy y chuẩn bị đánh chiêng, hiên Viên Bạt chợt ngăn lại: “Đợi đã, ngươi giúp ta làm một trận mưa phùn lâm thâm đi.”

“Hơi mưa sẽ khiến mây mù thêm dày đặc, tướng sĩ phe ta càng khó tác chiến.”

Hiên Viên Bạt liền đưa cho y một gói phấn, “Hòa phấn này vào nước mưa, Phong Bá sẽ phải nổi gió lên, đến chừng đó, mây mù tự khắc tiêu tan.”

“Nhưng tướng sĩ của chúng ta trúng độc thì sao?”

“Ta đã cho giải dược vào cơm nước của họ từ trước rồi.”

Ứng Long theo lời Hiên Viên Bạt, chuẩn bị làm mưa, Vũ Sư ngửi ngửi, phát hiện thấy thủy linh trong không khí có vẻ khác thường vội thốt, “Lạ thật, mây mù giăng kín thế này, quân Hiên Viên đã khốn đốn lắm rồi, sao chúng còn định làm mưa?”

Xi Vưu phóng mắt về phía Tây Nam thấy A Hành vận áo xanh ung dung đứng trên lưng A Tệ, vội hạ lệnh: “Trong mưa có độc, Phong Bá, mau nổi gió lên.”

Phong Bá vâng lệnh nổi gió, xua tan hết mưa phùn cùng sương mù.

Thoạt trông thấy đường, A Hành lập tức cầm tù và, vừa thổi vừa xông lên phía trước, tướng sĩ Hiên Viên trông thấy một nữ tử yếu đuối xông xáo dẫn đầu, nỗi hổ thẹn át hẳn niềm hoang mang do sương mù đem lại, họ nhất loạt xông lên theo nàng.

Thế trận của Thần Nông lập tức bị sĩ khí vô tiền khoáng hậu xé tan, Xi Vưu đành đánh chiêng thu binh. Tướng sĩ Hiên Viên đuổi theo truy kích, nhưng đến gần bãi cỏ, chợt A Hành ra lệnh ngừng lại, thu quân quay về.

Si Mỵ Võng Lượng chửi với theo: “Ả đàn bà thối tha, sao không đuổi nữa đi?”

A Hành quay lại, nửa cười nửa không đáp: “Ta chưa ngu đến mức đưa chân giẫm lên lưỡi đao đâu.” Tất cả cây cỏ nơi này đều nằm trong phạm vi khống chế của Xi Vưu, chỉ cần hắn thúc động linh lực, toàn bộ sẽ biến thành đao kiếm.

Giữa màn sương mù, Xi Vưu thắng, đem quân truy kích, A Hành thắng. Mỗi bên tử thương hơn ngàn người, xem như hòa.

Võng hậm hực nhìn theo bóng A Hành, gãi đầu lầm bầm: “Sao ả biết Đại ca thi thuật với đám cỏ này nhỉ?” Chợt gã vỗ đùi đánh đét, quay sang hỏi Xi Vưu, “Sao huynh biết ả hạ độc vào nước mưa? Trên đời được mấy ai tinh thông dược tính đến thế.”

Phong Bá trước đây từng gặp A Hành, biết nàng từng là tình nhân của Xi Vưu, vừa rồi khi mây mù tan đi, trông thấy người dẫn đầu tướng sĩ Hiên Viên truy sát bọn họ chính là nàng, gã tức thời ngây ra, bây giờ mới hay nàng là Hiên Viên vương cơ, cũng là Cao Tân vương phi, bất giác gã đưa mắt nhìn về phía Xi Vưu, thấy rõ mồn một vẻ đau đớn lóe lên trong mắt hắn.

Xi Vưu chẳng buồn đáp lời Võng, đứng phắt dậy bỏ đi. Mỵ thì thào nhỏ như tiếng muỗi kêu: “Ta nghe đồn Xi Vưu và Hiên Viên Bạt có tư tình thật đó.”

Phong Bá lần đầu tiên nổi giận, hầm hầm cảnh cáo: “Sau này kẻ nào còn dám nói bậy, ta sẽ chém đầu kẻ đó.”

Phong Bá ra ngoài tìm Xi Vưu, thấy hắn đang ngồi một mình trên cao, lặng lẽ trông về phía doanh trại Hiên Viên.

Trời đã ngả tối, mưa tuyết bắt đầu trút xuống, nhưng hắn chẳng hề có ý định tránh đi, cứ ngồi thẫn thờ ngóng nhìn căn lều trại đằng xa, mặc cho tuyết đổ đầy người. Trong đêm tối, gió sắt se, tuyết lả tả, ánh đèn trước doanh trại leo lét phản chiếu sơn hà tan tác, bóng lưng Xi Vưu cũng toát lên vẻ tĩnh mịch thê lương vô hạn, khiến Phong Bá không khỏi cảm khái trước nỗi bất lực của kẻ kiêu hùng.

Gã bước đến sau lưng Xi Vưu, cười cười rút ra một vò rượu, “Sao huynh lại ngồi đó? Đến đây, đến đây, uống rượu nào! Ai gục trước kẻ đó là rùa đen!” Nam nhân thường nói ít làm nhiều, thà đổ máu chứ không rơi lệ, Phong Bá không phải là kẻ biết an ủi, Xi Vưu cũng chẳng phải người dễ dàng thổ lộ tâm can, gã chỉ có thể cùng Xi Vưu say túy lúy một trận mà thôi.

Cả hai nốc rượu như nước lã, chẳng mấy chốc Phong Bá đã say đến bảy tám phần, đùa cợt hỏi: “Nghe nói các cô nương Cửu Lê đều xinh đẹp đa tình, đợi chiến tranh kết thúc, đệ phải tới kiếm cô vợ mới được.”

Xi Vưu lắc đầu, lại hớp một ngụm rượu, “Đệ thì không được, con gái Cửu Lê không thích người đẹp, chỉ ham người biết hát thôi.”

“Ai bảo huynh đệ không biết hát?” Phong Bá hắng giọng rống lên loạn xạ, làm Xi Vưu bò lăn ra cười.

Xi Vưu thẫn thờ nhìn vào màn đêm, thoáng trầm mặc, đoạn cất giọng hát.

“A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam.

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi.

Các anh em

Một mai ta chết đi rồi

Đường nàng đi đó, xin vùi xác ta

Dù nàng đi khắp gần xa

Đều ngang qua nấm mộ ta bên đường.”

Tiếng ca thê lương vô hạn văng vẳng lan xa, giữa cảnh sông núi tiêu điều, quốc gia nghiêng ngả này lại càng khiến người ta rung động. Phong Bá tỉnh hẳn rượu, sững sờ nhìn Xi Vưu, hồi lâu mới hỏi: “Khúc tình ca tuyệt như vậy, phải hát đáp lại thế nào?”

Xi Vưu hờ hững đáp: “Có hai cách hồi đáp, một cách là: “Nếu ta không quên được bóng ngươi, ta sẽ tự móc mắt mình ra; nếu ta không quên được dáng ngươi, ta sẽ tự khoét tim mình ném đi”; cách thứ hai là…” Xi Vưu ngập ngừng không nói, chỉ đăm đăm ngóng về phía ngàn ánh đèn sáng rực đằng xa.

Mưa hắt hiu, gió hắt hiu, trời đất ủ ê, non sông quạnh quẽ, Phong Bá chợt cảm thấy anh hùng khí đoản, nhi nữ tình trường, giáo vàng ngựa sắt mấy trăm năm cũng mệt mỏi quá rồi. Đợi cuộc chiến này kết thúc, bất kể là thua hay thắng, gã cũng phải kiếm cho mình một cô gái, cùng sống vui vẻ một đời thôi.

Giữa cảnh mưa gió tiêu điều, chợt một giọng ca lanh lảnh từ đâu đó cất lên:

“Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh

Vấn vít dây mây quấn quýt cành

Cây níu chặt mây, mây quấn quýt

Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình.

Vào sinh ra tử bạn cùng nhau

Sống chết bên nhau đến bạc đầu

Cây chết mây còn còn quấn quýt

Cây còn mây chết chẳng rời nhau.”

Phong Bá dỏng tai nghe hồi lâu, chỉ toàn nghe thấy cái gì sống sống chết chết, cảm giác không lành, nhưng Xi Vưu lại tươi cười rạng rỡ, vỗ vai Phong Bá, “Về kêu các huynh đệ lại cùng uống đi.” Có vẻ tâm trạng đã khá lên nhiều.

Phong Bá chẳng hiểu mô tê gì, nhưng đã biết, Xi Vưu đã đợi được câu trả lời mà hắn muốn. Phong Bá vừa đi vừa ngoảnh lại trông, chỉ thấy non sông tiêu điều, mưa gió hắt hiu, khói lam mờ mịt, đèn lửa lập lòe.

Giữa thời loạn lạc này, tìm đâu ra chốn bình yên?

Nhưng sống giữa thời loạn này, có được một người thấu hiểu lòng mình, cùng sống cùng chết thì dẫu phải da ngựa bọc thây, say khướt sa trường, cũng coi như không uổng một đời.

Thần Nông và Hiên Viên đã giao chiến mấy bận, đôi bên đều có thương vong, mà vẫn chưa phân thắng bại.

Xi Vưu quỷ kế đa đoan, bày đủ mưu mẹo thật giả mạnh yếu để dụ địch giết địch. Trong mắt kẻ khác, những kế sách ấy đều được coi là tuyệt diệu, nhưng A Hành chỉ thoáng nhìn là phát hiện ra ngay. Có điều, A Hành cũng chẳng làm sao chế ngự được Xi Vưu, bất kể nàng làm gì, hắn thoạt trông là đoán được ngọn nguồn, lập tức phản ứng lại.

Đôi bên là hai địch thủ hiểu nhau nhất dưới gầm trời này, nhắm mắt cũng đoán được chiêu đòn của đối phương. Cứ đánh mãi về sau, không chỉ bọn họ, mà cả tướng sĩ cũng nhận ra, trận chiến này không thể phân thắng bại bằng mưu kế được, họ buộc phải dựa vào thực lực bản thân, quyết một trận sống mái. Nhất định trận đánh đó sẽ rất ác liệt, dù bên nào thắng đi chăng nữa, cũng chẳng tránh khỏi thương tổn nặng nề.

Nỗi lo âu đè nặng trong lòng tướng sĩ, ngay cả Phong Bá ngày thường vẫn hi hi ha ha cũng sa sầm mặt mày, chỉ mình Xi Vưu là nhàn tản ung dung, giữa mày mi thấp thoáng vẻ ngông cuồng bất chấp mọi thứ. Phong Bá thật sự không sao hiểu được, theo gã thấy, Xi Vưu phải là kẻ bi thương nhất mới đúng.

Thăm dò suốt mấy tháng, cuối cùng Ứng Long hào hứng báo cáo với Hiên Viên Bạt, tuy một dải Ký Châu hoang dã chẳng có sông ngòi gì trên mặt đất, nhưng sông ngầm lại rất nhiều, y đã tìm được một kế sách tuyệt diệu, có điều cần một vài tướng sĩ Thần tộc biết khống chế thủy linh giúp đỡ.

Hiên Viên Bạt đáp: “Ngươi tiếp tục chuẩn bị đi, ta sẽ tìm mấy tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy.”

Nàng viết thư cho Hoàng Đế, xin ông nhờ Thiếu Hạo phái binh.

Cao Tân lắm sông ngòi, có không ít tướng sĩ Thần tộc giỏi ngự thủy, Thiếu Hạo đã hứa với Hoàng Đế sẽ cùng Hiên Viên đối phó Xi Vưu, đổi lại Hoàng Đế sẽ không tiếp tay cho Trung Dung ở mạn Tây Nam tự lập làm vua. Hiện giờ chính là lúc Thiếu Hạo thực hiện lời hứa.

Mấy ngày sau, Hiên Viên Bạt và Ứng Long đang bàn việc trong trướng, bỗng thị vệ dẫn theo một người vén rèm bước vào, kẻ vừa tới từ đầu đến chân đều mặc đồ trắng, chính là phục sức của Cao Tân vương tộc. Hiên Viên Bạt thoáng cau mày, lẽ nào Thiếu Hạo chỉ phái một người này đến thôi ư? Ứng Long cũng ngấm ngầm thở dài thất vọng, từ trên người kẻ mới đến, y chẳng cảm thấy linh lực mạnh mẽ gì cả.

Người đó thưa với Hiên Viên Bạt: “Tại hạ Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây có chuyện muốn nói riêng với vương cơ.”

Hiên Viên Bạt lạnh nhạt: “Ngươi tới đây là để trợ giúp Ứng Long tướng quân, mọi sự cứ nghe theo tướng quân điều khiển.”

Hình như kẻ đó lặng lẽ thở dài, dung mạo y đột ngột biến đổi, ngũ quan đoan chính, nhưng ánh mắt lại lạnh lẽo vô chừng, đứng nguyên tại chỗ mà đã toát lên khí độ bất phàm, không giận mà uy.

Chính là Cao Tân Thiếu Hạo!

Ứng Long kinh ngạc, lập tức đứng phắt dậy, cuống quýt hành lễ.

Thiếu Hạo chỉ bình thản hỏi: “Tướng quân thấy ta có thể trợ giúp được chăng?”

Ứng Long ghe hỏi gật đầu lia lịa. Tuy người trên đại hoang Cộng Công là Thủy thần, nhưng trong mắt Ứng Long, Thiếu Hạo mới là kẻ ngự thủy giỏi nhất thiên hạ, có điều Thiếu Hạo quá nổi danh ở những phương diện khác, nên người đời đã quên khuấy mất rằng, y cũng tu luyện thủy linh.

Hiên Viên Bạt nhìn xoáy vào Thiếu Hạo: “Bệ hạ không bận công vụ trong nước ư?”

“Trung Dung cũng không phải là đại họa gì, chẳng qua ta không muốn giết hại lẫn nhau, tiêu hao binh lực để Hoàng Đế rung đùi ngồi hưởng lợi, nên mới tốn chút thời gian thu phục quân đội của hắn đó thôi. Hiện giờ Xi Vưu mới là mối họa lớn nhất, nếu hắn còn thắng thêm một trận nữa, ắt Cao Tân nguy mất.”

“Đa tạ bệ hạ đích thân tới tận nơi trợ giúp, có điều đây là doanh trại Hiên Viên, tuy bệ hạ là quốc vương Cao Tân, nhưng cũng phải tuân theo quân lệnh.”

“Ta nói rồi đấy thôi, ta tên Tử Thần, phụng mệnh bệ hạ tới đây, mọi sự xin nghe vương cơ điều khiển.”

“Ứng Long sẽ trao đổi với ngươi, ngươi cứ nghe lệnh y là được.” Hiên Viên Bạt đứng dậy toan đi.

“A Hành.” Thiếu Hạo giơ tay nắm lấy nàng kéo lại.

“Mạt tướng sực nhớ ra mình còn có việc chưa làm.” Ứng Long lập tức cúi đầu, rảo chân bước ra ngoài.

“A Hành.” Thiếu Hạo chẳng biết nói gì, nhưng cứ một mực nắm lấy A Hành không buông.

A Hành rút ra một tấm khăn lụa, bên trên đầy chữ viết bằng máu: “Bệ hạ mô phỏng nét chữ của ta, gọi Xi Vưu tới Tuân sơn cứu ta và Tứ ca ư?”

Thiếu Hạo nhìn những hàng chữ giàn giụa máu kia, bất giác lại đưa mắt về phía ngón tay út bị cắt cụt của nàng, thân mình khẽ run lên.

Thấy y không phủ nhận, A Hành mỉm cười: “Cảm ơn bệ hạ. Thực ra, ta đâu còn oán hận bệ hạ nữa. Nói cho cùng, bệ hạ cũng chẳng phải Đại ca ta, ta cầu bệ hạ cứu Tứ ca, đúng là đã làm khó bệ hạ rồi.”

“Ta đã thề sẽ săn sóc nàng và Xương Ý, là ta không giữ trọn được lời thề với Thanh Dương, nàng oán hận ta cũng phải.”

A Hành thở dài, “Thuở còn thiên thiếu, chúng ta cứ ngỡ rằng chỉ cần mình muốn thì chuyện gì cũng có thể làm được. Về sau mới biết, chúng ta không thể nào giũ bỏ được gia tộc và xuất thân của mình. Bệ hạ là Cao Tân Thiếu Hạo, nhưng chẳng thể cứu nổi người mà mình muốn cứu, ta là Hiên Viên Bạt, nên người ta không muốn giết mà vẫn không thể không giết. Có những chuyện thực lòng rất muốn làm, nhưng chẳng thể không làm. Đến ta còn như thế, nữa là bệ hạ, những chuyên bệ hạ không thể làm, hay không thể không làm, hẳn còn nhiều hơn ta.”

Xưa nay Thiếu Hạo chỉ mong A Hành lượng thứ, vậy mà đến hôm nay, khi A Hành đã cảm thông và thấu hiểu cho nỗi khổ của y, y lại chẳng hề thấy vui mừng, ngược lại càng thêm bi ai chồng chất. Thanh Dương và y đều muốn bảo vệ A Hành, để nàng không trở nên như bọn họ, nhưng cuối cùng, A Hành vẫn trở thành một người như họ. Nếu Thanh Dương còn sống, trông thấy A Hành vận khôi giáp, cầm kiếm xông trận, hô hào thiên quân vạn mã, chẳng hiểu sẽ đau đớn đến nhường nào.

Bọn họ bảo hộ được cho cả thiên hạ, nhưng lại không thể che chở nổi người thân cận nhất bên mình!

“A Hành…”

Khóe mắt nét mày A Hành toát lên vẻ mệt mỏi khôn cùng, nàng cúi mặt nhìn xuống tay Thiếu Hạo: “Buông tay đi, tuy ta không còn hận bệ hạ nữa, nhưng chúng ta cũng chẳng thể quay về được ngày xưa đâu. Chính vì quá hiểu bệ hạ, nên ta biết rõ chúng ta vĩnh viễn không thể làm bằng hữu được, ai bảo bệ hạ là Cao Tân Thiếu Hạo, còn ta lại là Hiên Viên Bạt!”

Thiếu Hạo lạnh buốt cả cõi lòng, toàn thân rời rã, bàn tay từ từ thõng xuống.

A Hành vén rèm lên, đi thẳng.

Đêm đã khuya, trừ những binh sĩ đi tuần, còn lại mọi người đều chìm trong giấc ngủ.

A Hành dẫn theo A Tệ đi khảo sát thực địa, trên sườn núi lác đác mấy ngôi nhà hoang, có lẽ chủ nhân đã bỏ mình trong chiến hỏa, hoặc chạy nạn từ lâu, bỏ lại vườn không nhà trống. A Hành lại gần, trông thấy cội đào trong sân đã nở hoa rực rỡ, những đóa hoa đào rung rinh đùa trước gió xuân, chỉ không biết người trồng giờ đã nơi đâu?

Thì ra, thấm thoát đã đến mùa hoa đào tự lúc nào, Ký Châu cách Cửu Lê không xa, hẳn hoa đào ở Cửu Lê cũng đang nở rộ, chẳng hiểu có còn rực rỡ như năm cũ?

A Hành chợt nảy ra một ý, bèn bảo A Tệ: “Chúng ta đi Cửu Lê.”

Cả thôn bản vắng tanh vắng ngắt, thỉnh thoảng mới bắt gặp vài ba thiếu nữ trang điểm lộng lẫy đang thẫn thờ ngồi trên hiên nhà, chẳng một ai đi dự tết Khiêu Hoa.

A Hành tiến vào sơn cốc, thấy hoa đào đã nở đầy sườn núi, nhưng lời ca tiếng hát bặt tăm. Nàng ngỡ ngàng không hiểu, những thiếu niên thiếu nữ ấy đi đâu cả rồi? Chẳng phải vào ngày này, họ vẫn vây quanh đống lửa, ca hát tỏ tình ư?

Chợt nghe tiếng ca văng vẳng đưa lại, A Hành bèn lần theo giọng ca mà tìm tới.

“Canh một em thổi tắt đèn

Lên giường nằm đợi chàng tìm đến thăm

Canh hai đảy cửa ngắm trăng

Chong chong mắt ngóng mà không thấy chàng

Canh ba xé rách trướng màn

Cởi bỏ quần áo chẳng mang thứ gì

Canh tư kẹt cửa ngoài kia

Vội vàng xuống đón chàng thì ở đâu

Canh năm gió mát đầy lầu

Chờ suốt đêm trắng nào đâu thấy chàng

Chỉ mong chàng ở chiến trường

Mau đánh thắng trận, giong cương quay về.”

Người đang ngồi dưới gốc đào cao giọng hát hóa ra là một phụ nữ tóc mai bạc trắng. Trông thấy A Hành, chị ta cười: “Cô là người nơi khác tới xem tết Khiêu Hoa của chúng tôi ư? Mấy năm nữa cô hẵng tới, hiện giờ đàn ông đều ra trận cả rồi, mấy năm nữa mới về.”

A Hành dè dặt hỏi: “Chị đợi tình lang bao năm rồi?”

“Mười sáu năm.”

A Hành lặng người đi. Những thi thể vô danh phơi đầy đồng hoang kia, có lẽ đã bị mưa gió dòi bọ róc rỉa chỉ còn trơ xương trắng, nhưng trong lòng những người con gái, họ vẫn là tình lang rất mực thương yêu. Tháng tháng năm năm, năm năm tháng tháng, những người con gái ấy đã đợi đến bạc cả tóc mai, còn những nắm xương khô kia vẫn phơi đầy nội cỏ, dãi nắng dầm mưa, mặc cho vó ngựa giày xéo.

Bắt gặp ánh mắt xót xa của A Hành, người phụ nữ bỗng quát lên: “Chàng sẽ về! Chàng nhất định sẽ về mà…” Càng về sau, giọng chị ta càng nhỏ lại, dần dần chuyển thành lẩm nhẩm một mình: “Chiến tranh sẽ kết thúc, nhất định sẽ kết thúc thôi! Cuộc chiến giữa Thần Nông và Hiên Viên sắp kết thúc rồi, chàng nhất định sẽ về…”

A Hành chợt lạnh buốt cõi lòng, thì ra, chốn đào nguyên ngoài cõi thế này trở nên tiêu điều hoang vu như vậy đều là do bọn họ! Đối với bách tính hai tộc, ai thắng ai thua cũng chẳng có gì quan trọng, quan trọng nhất là chiến tranh mau mau kết thúc, để dân chúng được an cư lạc nghiệp.

Nàng nghiêm trang hứa với chị ta: “Phải rồi, chiến tranh nhất định sẽ kết thúc thôi.”

A Hành băng qua rừng đào, đi thẳng ra sau núi, tế đài trắng toát vẫn sừng sững giữa rừng hoa.

Cỏ xanh mơn mởn, cánh đào tả tơi, A Hành bước lên thềm đá thẳng tới tế đài, dưới chân dày đặc những cánh hoa rơi. Thấy một chiếc chuông gió bằng xương thú nằm chơ vơ dưới đất, nàng liền cúi xuống nhặt lấy, treo lại lên mái hiên.

Khẽ rung chuông, những âm thanh tinh tang êm ái lại vang lên.

Sáu mươi năm đằng đẵng trên Ngọc sơn cũng trôi qua trong những tiếng tinh tang thế này, rõ ràng đã động lòng, nhưng lại thà chết không thừa nhận; để hắn lại bản Xi Vưu, dứt áo ra đi trong những tiếng tinh tang thế này; sống giữa bản Đức Ngõa cách đó không xa, rõ ràng vẫn canh cánh lo cho hắn, nhưng lại không chịu đối diện với lòng mình…

Tinh tang tinh tang, tinh tinh tang tang…

Tiếng chuông vẫn thế, mà thấm thoát đã mấy trăm năm. Dung nhan nàng vẫn như xưa, nhưng cõi lòng đã già cỗi mệt nhoài rồi.

A Hành đứng lặng hồi lâu, vừa định quay về, chợt trong khoảnh khắc ngoảnh đầu, nàng bỗng thấy cả đất trời như ngưng đọng lại…

Giữa ngợp trời hoa bay, Xi Vưu một thân áo đỏ như máu đang đứng giữa rừng đào bên dưới tế đài, lặng lẽ đợi nàng, tựa hồ một ngọn núi sừng sững, mãi mãi không bao giờ thay đổi, trước kia là thế, bây giờ cũng thế, sau này vẫn như thế.

Xi Vưu cười rạng rỡ, dang tay ra với nàng, A Hành cũng nhoẻn cười theo, chạy xuống tế đài, băng qua cả trời hoa bay lả tả, hướng về phía Xi Vưu.

Hai bàn tay đan chặt vào nhau, cả hai nhìn nhau cười.

Sao sáng đầy trời, hoa như gấm đoạn, đều không sánh được với nụ cười chếnh choáng gió xuân, ngây ngất sông núi của hai người

Xi Vưu dắt tay A Hành chầm chậm xuyên qua rừng đào, đi về phía căn nhà sàn của họ.

Giậu trúc trước nhà vẫn ngay ngắn thẳng lối, bên trên nở đầy tường vi đỏ thắm, sơn trà trắng muốt, khiên ngưu xanh biếc, đỗ quyên vàng rực… Hồ lô và mướp đã bắt đầu leo lên chiếc giàn bắc ngay giữa mảnh sân. Thùng gỗ nằm lăn lóc trên bệ đá cạnh giếng, nước chảy ra thành vũng, ướt đẫm cả khoảnh đất bên dưới, mấy chú chim nhỏ đang đứng châu đầu uống nước trong vũng, trông thấy người cũng chẳng hề sợ hãi, ngược lại còn ngẩng cổ gù gù.

Vén bức màn bích loa lên, mọi thứ trong nhà đều được sắp xếp gọn gàng đâu vào đấy, sạch sẽ ngăn nắp. Tấm rèm lụa thiên thanh bên cửa sổ như sắc trời xanh biếc sau mưa, hoa đào đỏ thắm bên ngoài ánh lên song sa, chẳng khác nào một bức tranh lụa tuyệt mỹ.

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng bỗng nghe nghẹn ứ, bấy nhiêu năm nay, hắn đã trông nom ngôi nhà này chu đáo biết bao.

Xi Vưu mỉm cười ôm lấy A Hành, hôn lên trán nàng.

Trúc phượng vĩ rì rào, hoa đào bay lất phất, hai người ngồi tựa vai nhau, hút Ca tửu chung một cần trúc, hệt như mấy trăm năm trước.

Hai người đều không nói một lời, như sợ trò chuyện cũng làm lãng phí thời gian vậy, họ chỉ đắm đuối nhìn sâu vào mắt nhau không nỡ rời, tựa hồ trong nháy mắt nữa thôi, tất cả sẽ tan thành tro bụi.

A Hành đưa tay cởi áo Xi Vưu, hắn chỉ mỉm cười nhìn nàng, không hề cử động, thỉnh thoảng mới nhấc tay lên phối hợp cùng nàng. Đợi toàn bộ quần áo trên người đã được cởi bỏ hết, hắn mới đẩy nàng ngã ra, nghiêng người cầm cần rượu từ từ khều áo nàng từng chút, cần trúc mỗi lúc một chênh chao, rượu vương ra cả người A Hành, Xi Vưu bèn cúi xuống, hôn lên những ngấn rượu loang.

Rên rỉ, quấn quýt, triền miên. Trong gian nhà nho nhỏ này, chẳng có Hiên Viên, chẳng có Thần Nông, chỉ có hai người yêu nhau say đắm, cùng chung hưởng niềm khoái lạc cổ xưa nhất, giản đơn nhất, nhưng cũng mãnh liệt nhất, dài lâu nhất trên thế gian này.

Nửa đêm, cả hai cùng tỉnh giấc.

Ánh trăng trong len qua song cửa, A Hành đắm đuối ngắm nhìn Xi Vưu, ngón tay khẽ vuốt ve gương mặt hắn, như muốn ghi khắc tất cả vào tâm khảm.

Xi Vưu mỉm cười nhìn A Hành, thấy mắt nàng long lanh lệ, hắn bèn quàng tay siết chặt nàng vào lòng.

Ngón tay nàng vô thức vạch từng chữ lên ngực hắn, “Cây chết mây còn, còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau.”

Thoạt đầu, Xi Vưu chưa nhận ra A Hành đang viết chữ, tới chừng nhận ra rồi, hắn bèn tập trung cảm nhận, phát hiện nàng cứ viết đi viết lại một câu đó.

Xi Vưu nắm lấy tay nàng đưa lên miệng hôn nhẹ, rồi hai đôi bàn tay lại đan cài vào nhau.

A Hành lim dim mắt nhìn Xi Vưu, hắn mỉm miệng cười, cả hai lại quấn riết lấy nhau, như muốn hòa tan đối phương vào thân thể mình, hòa mình vào thân thể đối phương, đòi hỏi và dâng hiến mãnh liệt đến gần như điên dại.

Cuối cùng, hai người đều sức cùng lực kiệt, nhưng vẫn dán chặt lấy nhau không rời.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Con gái đâu rồi? Có an toàn không? Nàng biết đấy, kẻ thù của ta trong thiên hạ rất nhiều.” Đây là lần đầu tiên Xi Vưu tỏ ra quan ngại về kẻ thù.

“Đang ở trên Ngọc sơn, có Vương Mẫu bảo vệ, còn có cả Liệt Dương trông nom.”

Bấy giờ Xi Vưu mới yên tâm, “Vậy ổn rồi.”

Ánh trăng hắt lên vách tường đỏ lòe, A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, hỏi: “Gì thế?”

Xi Vưu nhấc tay lên, cây cung treo trên tường liền bay vèo tới tay hắn, ánh đỏ tan đi, chỉ còn to bằng lòng bàn tay. Ra là Bàn Cổ cung, vậy mà lại bị Xi Vưu tùy tiện treo trên vách một căn nhà sàn bỏ hoang.

A Hành khẽ bật cười: “Chàng còn chưa chịu quăng đi à?”

Xi Vưu cầm lấy cung, giơ lên săm soi dưới ánh trăng, “Tuy ta đã thử giương vô số lần mà chẳng thấy phản ứng, nhưng ta vẫn cảm giác nó không phải phế vật, chỉ là chưa khám phá ra cách dùng đó thôi.”

Hồi còn trên Ngọc sơn, A Hành từng nghe qua câu chuyện về Bàn Cổ cung, chính là cây cung Bàn Cổ tạo ra để tìm kiếm người con gái mình yêu thương. Nhưng chẳng hiểu sao Bàn Cổ không hề dùng đến nó, mà chỉ liệt nó vào hạng nhất trong số các thần binh rồi giao cho Ngọc sơn Vương Mẫu cất giữ.

A Hành cầm lấy cây cung từ tay Xi Vưu, chợt trông thấy trên cánh cung dường như có khắc chữ, thầm nghĩ chữ quá nhỏ không sao nhìn rõ, thì cây cung đã lớn vụt lên, “Trên cánh cung khắc chữ này.”

Xi Vưu chăm chú nhìn, thấy trên cánh cung khắc những hoa văn gấp khúc, vừa giống nòng nọc, lại giống hình trang trí, nhưng chẳng giống chữ chút nào.

“Đây là văn tự đã thất truyền, nghe đồn là chú ngữ để tế trời đất, may mà Tứ ca thích thưởng ngoạn cổ vật nên ta cũng lõm bõm được vài ba chữ.”

Xi Vưu tò mò hỏi: “Khắc chữ gì vậy?”

A Hành nhỏm dậy, nằm úp sấp, chống khuỷu tay lên ngực Xi Vưu, săm soi từng chữ thật lâu, đoạn ngập ngừng đọc: “Dĩ tâm hoán tâm.”

Bốn chữ này vô cùng đơn giản, hẳn không có nghĩa gì khác. Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ trầm ngâm suy nghĩ.

A Hành đặt cây cung sang một bên, khẽ nói: “Có lẽ Bàn Cổ cung là do Bàn Cổ tạo ra thật, có điều lời đồn rằng bất kể thần ma, bất kể sinh tử, bất kể xa gần, đều có thể gặp lại người mình yêu thương nhất chắc là đồn nhảm.”

Xi Vưu cười: “Mặc kệ Bàn Cổ cung là thật hay giả, bốn chữ này cũng rất đúng. Nếu thật sự hiểu được thế nào là “dĩ tâm hoán tâm”, hẳn Bàn Cổ không để mất người ông ta yêu nhất.”

Trong tiếng nói cười, ánh nắng ban mai đã rọi vào bên cửa.

Dù trân trọng, mê mải, lưu luyến, níu kéo đến đâu chăng nữa, một đêm này cuối cùng cũng phải trôi qua.

A Hành ngồi dậy, mặc lại áo bước ra.

Xi Vưu chẳng nói nửa lời, chỉ lặng ngắm nàng.

Ra đến cửa, A Hành chợt ngoái lại: “Phía sau chàng là Thần Nông, là các huynh đệ không tiếc máu xương chiến đấu cho chàng, là Viêm Đế và Du Võng, còn sau lưng ta là Hiên Viên, là vô vàn cô nhi quả phụ, là ca ca và cháu của ta. Ta sẽ dốc hết toàn lực, cũng xin chàng đừng hạ thủ lưu tình, nếu không, ta sẽ rất căm hận bản thân mình.”

“Nàng biết ta không thể mà.” Xi Vưu nhỏm người dậy, chiếc áo đỏ đắp ngang eo, mái tóc điểm màu xõa trên chiếu, ánh mắt chất chứa đau thương nhưng nụ cười vẫn ngông cuồng như cũ.

Sáng sớm, đến lượt Phong Bá đi tuần, nhưng Vũ Sư lại đòi đi cùng, còn kéo theo cả bọn Si Mỵ Võng Lượng.

Lên đến đỉnh núi, cả bọn bắt gặp Hiên Viên Bạt và Xi Vưu kẻ trước người sau bay lại, tọa kỵ của Xi Vưu bay rất nhanh, nhưng hắn vẫn bám theo sau, cách Hiên Viên Bạt một khoảng không xa không gần. Với tu vi của mình, Hiên Viên Bạt chắc chắn cũng nhận ra Xi Vưu đang ở phía đằng sau, nhưng chẳng hề phản ứng.

Sắp đến doanh trại, Xi Vưu chợt tăng tốc bay vụt lên, ngang với Hiên Viên Bạt, đoạn vươn tay kéo nàng lại, hôn lên môi nàng. Hiên Viên Bạt cũng chẳng phản kháng, ngược lại còn ôm chặt lấy Xi Vưu. Chỉ thoáng qua trong một khắc, rồi nàng lập tức buông hắn ra, bay thẳng về phía doanh trại Hiên Viên, nhưng đã đủ khiến bọn Si Mỵ Võng Lượng tròn mắt kinh ngạc.

Võng lắp bắp hỏi: “Thế, thế này là sao? Bọn họ yêu nhau, vậy trận này làm sao đánh được!”

Si tính tình nóng nảy, lập tức nhảy vọt lên, chắn trước mặt Xi Vưu và Hiên Viên Bạt, giận đến đỏ mặt tía tai, chất vấn Xi Vưu: “Ta cứ ngỡ chỉ là đồn nhảm, nào ngờ lại là thật, chẳng trách các người đánh mãi vẫn không phân thắng bại! Huynh định giải thích thế nào với mọi người? Huynh làm vậy có phải với những hán tử Thần Nông thề chết phò tá huynh không, có phải với Du Võng thật lòng đối đãi huynh không?”

Xi Vưu vốn ưa mềm không ưa cứng, lạnh lùng cười vặn lại: “Ta cần gì phải giải thích với các người? Ta có lỗi với họ hay không, đến lượt ngươi bình phẩm đấy à?”

Đúng lúc Ứng Long dậy sớm đi tuần gần đó, nghe động bèn lần tới, vừa khéo nghe hết những gì Si nói.

Si trỏ Hiên Viên Bạt, quát hỏi Xi Vưu: “Còn chẳng phải huynh tư thông với ả?”

Ứng Long nổi giận quát: “Nếu ngươi còn dám nói xằng nữa, chúng ta sẽ không khách khí đâu!”

“Ta không nói xằng, chúng ta đều tận mắt chứng kiến cả, vừa rồi bọn họ còn ôm hôn nhau, phải không Vũ Sư?”

Ứng Long đua mắt nhìn Tử Thần, sực nghĩ tới chuyện vương cơ tự động từ hôn Thiếu Hạo, lòng đầy nghi hoặc, nhưng chẳng dám lên tiếng hỏi. Ly Oán bên cạnh nôn nóng: “Tâu vương cơ, bọn chúng nói có đúng không? Vương cơ và Xi Vưu… thật sự… thật sự có tư tình sao?”

Tướng sĩ Thần Nông tộc đi theo Phong Bá cũng xôn xao chất vấn Xi Vưu, nhưng dù bọn họ hỏi gì đi chăng nữa, hắn vẫn một mực làm thinh không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A Hành, ánh mắt vô cùng phức tạp, có lo lắng, có mong đợi, có giễu cợt, còn có cả xót xa.

Xi Vưu không phải quân tử, nhưng xưa nay hành sự luôn quang minh chính đại, ngay cả lúc tàn sát toàn thành, cũng thẳng tay kiên quyết, chưa từng che giấu bản tính tàn nhẫn. Ta tàn sát đó, thì sao nào? Ta tàn nhẫn với kẻ thù đó, làm sao? Chỉ riêng tình cảm với A Hành, xưa nay hắn vẫn luôn giấu giếm như ăn vụng vậy.

Dưới sự truy vấn của mọi người, A Hành đã mấy lần toan phủ nhận, nhưng ánh mắt Xi Vưu cứ như xoáy vào lòng, nàng đã khiến hắn chịu ủy khuất mấy trăm năm nay, lẽ nào đến thời khắc cuối cùng này cũng không thể quang minh chính đại thừa nhận hắn ư? Xi Vưu vốn không quan tâm tới người đời, nhưng hắn rất để tâm tới việc mình có được đường đường chính chính hay không.

Trong chớp mắt, A Hành liền hạ quyết tâm, thản nhiên tuyên bố: “Ta và Xi Vưu đúng là có tư tình.” Giọng nàng không lớn, nhưng tất cả mọi người đứng đó đều kinh ngạc sững sờ, tưởng như mình nghe lầm, ngay cả Xi Vưu cũng ngỡ đó là ảo giác do chờ đợi suốt mấy trăm năm mà ra.

“Ta đã yêu chàng suốt mấy trăm năm nay rồi!” A Hành cao giọng lặp lại lần nữa, như muốn công bố trước toàn thiên hạ.

Tướng sĩ hai bên đều hồn phi phách tán, nghe như sét đánh ngang tai. Thiếu Hạo lo lắng nhìn A Hành, y vốn chỉ định phá hủy uy tín của Xi Vưu trước mặt đám thuộc hạ thân tín, nên mới dàn cảnh để bọn Phong Bá phát hiện ra tư tình giữa Xi Vưu và A Hành, nào ngờ Ứng Long lại lù lù xuất hiện, thành ra A Hành cũng bị kéo xuống bùn. Hiện giờ chỉ cần xử lý không ổn thỏa thì tướng sĩ Hiên Viên chẳng những không phục A Hành mà có lẽ còn khinh miệt chửi rủa nàng nữa.

Xi Vưu phá lên cười sảng khoái, không hề che giấu niềm hân hoan đắc ý toát lên từ tận đáy lòng.

Tất cả mọi người đều ngây ra nhìn hắn cười ha hả, một hồi lâu sau, Xi Vưu mới ngưng cười, nhưng vẫn âu yếm nhìn A Hành, vẻ dịu dàng lộ hẳn ra mặt. Võng lắp bắp lên tiếng: “Đại tướng quân, ngài, ngài không phải lòng ả yêu nữ Hiên Viên này đấy chứ?”

Xi Vưu đang lúc vui vẻ, bèn nháy mắt cười đáp: “Không phải lòng nàng, lẽ nào lại phải lòng ngươi?”

Võng và Lượng sắp khóc rống lên: “Nhưng ả đó là xấu xa, lẳng lơ buông thả, rõ ràng đã gả cho Thiếu Hạo, còn quyến rũ Đại tướng quân; hơn nữa lại tàn độc hiếu sát, nghe đồn ả đã chính tay đã đâm chết ca ca mình, mấy tháng nay, tướng sĩ của ta chết trong tay ả cũng đến bảy tám ngàn người rồi.”

“Thế thì sao? Bất kể thế nào, miễn là nàng, ta đều yêu.” Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành không rời mắt, cười đáp lại.

Thiếu Hạo trà trộn giữa đám người, chăm chú quan sát Xi Vưu, ánh mắt đầy phức tạp.

A Hành vừa thẹn vừa giận, trừng mắt lườm Xi Vưu rồi quay sang nói với Ứng Long và Ly Oán: “Ta biết các người muốn nghe ta giải thích và xin lỗi, cho các người một lý do để lượng thứ, nhưng ta tự thấy mình không sai, ta không cần các người lượng thứ. Người duy nhất ta cần xin lượng thứ chính là Xi Vưu, suốt mấy trăm năm nay, ta vì mẹ, vì ca ca, thậm chí vì con gái mình mà hy sinh chàng hết lần này tới lần khác. Ba năm trước, khi mẫu hậu lâm chung đã đồng ý cho ta lấy Xi Vưu, ta cũng đã hứa nhất định sẽ ở bên chàng, tiếc rằng ta lại một lần nữa phản bội lời hứa. Vì tộc nhân của mình, ta chẳng những không đi theo chàng, mà còn dẫn các người tới đây giết chàng. Từ đầu chí cuối, ta vẫn giữ tròn trách nhiệm của Hiên Viên vương cơ, chưa từng làm gì có lỗi với Hiên Viên, nhưng lại luôn có lỗi với chàng. Nếu các người còn tin theo ta thì ta sẽ cầm quân, nhược bằng không, ta sẽ giao binh quyền cho Ứng Long ngay bây giờ.”

Ứng Long lập tức quỳ xuống chân A Hành, “Mạt tướng thề chết phò tá vương cơ.”

Quân nhân trên sa trường luôn sống trước lằn ranh sinh tử, khác hẳn các đại thần trong triều, khái niệm đúng sai phải trái của họ cũng vô cùng đơn giản rõ ràng, không sai tức là đúng. Năm xưa Ứng Long bất chấp bị hủy diệt long thể cũng quyết cứu cho được thuộc hạ, chuyện này đã được truyền tụng từ lâu, uy tín của y trong quân đội rất cao, lại thêm tướng sĩ theo y đi tuần đều là thân tín, trông thấy y quỳ xuống, như nghe thấy quân lệnh, liền lũ lượt quỳ xuống theo.

Bọn Ly Oán cũng đồng thời quỳ cả xuống, “Nếu không có vương cơ cầm quân ra trận, e rằng Hiên Viên thành đã bị phá từ lâu rồi.” từ lúc cầm quân ra trận, nhất cử nhất động của Hiên Viên Bạt đều bị vô số con mắt trông vào. Huống hồ Thần Nông và Hiên Viên xưa nay vẫn kết mối thông gia với nhau, từ khi khai chiến đến nay, họ đã nghe qua rất nhiều chuyện thù nhà nợ nước khó vẹn toàn, tư tình và đại nghĩa chỉ được chọn một như vậy rồi. Hơn nữa, dân chúng hiên Viên vốn phóng khoáng, khá thoải mái trong chuyên nam nữ, nếu Hiên Viên Bạt thề thốt phủ nhận, có thể ngoài mặt họ tỏ vẻ tin tưởng, nhưng trong lòng sẽ nghi hoặc không thôi, trái lại Hiên Viên Bạt thẳng thắn thừa nhận, còn khiến họ lấy làm khâm phục.

Thiếu Hạo thầm thở dài nhẹ nhõm, một chuyện hung hiểm đến vậy, nào ngờ chính nhờ sự chân thành thẳng thắn của A Hành mà được hóa giải nhẹ như không. Lòng người có lúc phức tạp vô cùng, nhưng cũng có lúc lại rất đơn giản, chỉ đòi hỏi sự thật mà thôi.

A Hành đưa mắt nhìn Si Mỵ Võng Lượng, “Các người đi theo Xi Vưu mấy trăm năm nay, tính tình chàng thế nào, các người còn phải nghi ngờ ư? Nếu chàng bán đứng các người, hẳn Hiên Viên đã đánh sập Thần Nông sơn lâu rồi, bấy lâu chàng gánh đủ tiếng ác trong thiên hạ, chẳng lẽ vì bản thân mình hay sao? Thật uổng công chàng đã coi các người như huynh đệ!” Giọng điệu nàng đầy vẻ kiêu ngạo, đồng thời cũng nặng trĩu bi ai, khiến tướng sĩ Hiên Viên và Thần Nông bất giác đều cảm thấy thê lương bất lực.

Si Mỵ Võng Lượng thẹn đỏ mặt, lần lượt cúi gằm xuống.

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, đoạn dẫn quân đi khỏi.

Xi Vưu mỉm cười trông theo A Hành, lần đầu tiên, trước mặt mọi người, ánh mắt hắn nhìn nàng không bợn một tia u ám, chỉ chan chứa tình ý nồng nàn đắm đuối, quang minh lỗi lạc như vầng dương giữa trời kia
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 19: Sống đoàn tụ, thác ôm hoài niệm (1)

Nàng tươi cười ôm chặt lấy Xi Vưu, hệt như dây mây quấn lấy thân cây. Bất luận ra sao, cuối cùng họ cũng được ở bên nhau, sống chết giờ đây chẳng còn quan trọng nữa, cứ thế này mà vĩnh bất phân ly, cứ thế này mà thiên trường địa cửu.

A Hành đứng lặng giữa đồng hoang, hơi ngẩng đầu nhìn trời.

Giữa bầu trời xanh ngắt đầy những đám mây trắng nhởn nhơ trôi, hai cánh chim ưng đang chao liệng, lúc bay ra xa tắp, lúc lại bay trở về.

Ứng Long và Thiếu Hạo lại gần A Hành, Ứng Long toan tiến lên bẩm báo, chợt Thiếu Hạo giơ tay ra ngăn lại, tỏ ý bảo y đừng vội.

Ngọn gió vi vu quét qua đồng hoang, chẳng biết gió từ đâu đến, cũng chẳng rõ sẽ thổi tới đâu, cỏ dại cao đến thắt lưng dập dờn như sóng bể, từng con sóng xanh mướt cứ cuộn lên, không bờ không bến, tĩnh mịch thê lương.

Gió đêm thổi tung mái tóc A Hành, dây lưng nàng cũng phấp phới bay trước gió, nhưng nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ, chăm chăm ngóng nhìn cánh chim ưng sải cánh giữa trời, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ màng. Hồi lâu nàng mới phát hiện ra Ứng Long và Thiếu Hạo đứng phía sau, lập tức nét cười trên môi nhạt hẳn đi, thay vào đó là vẻ uể oải chán chường, “Có việc gì ư?”

Ứng Long vội tâu: “Thần và… Tử Thần đã chuẩn bị xong tất cả, bất cứ lúc nào cũng có thể phát động tấn công.”

A Hành gật đầu, bình tĩnh ra lệnh, “Vậy chuẩn bị tấn công toàn diện, cùng Thần Nông quyết một trận tử chiến.”

“Vâng!” Ứng Long nhận lệnh lui xuống.

Thiếu Hạo lấy làm kinh hãi. Tình cảm của A Hành dành cho Xi Vưu thế nào, y hiểu rõ hơn ai hết, vậy mà khi nàng hạ lệnh tất sát lại bình tĩnh đến nhường kia, trong lòng y chợt đầy ắp dự cảm bất tường, lo lắng hỏi: “Nàng đã nghĩ kỹ chưa? Hẳn nàng cũng biết, Xi Vưu giống như một ngọn núi vậy, hoặc là sừng sững ngẩng cao đầu hoặc là sụp đổ tan tành, tuyệt đối không có chuyện khom lưng uốn gối, lẽ nào nàng dám giết Xi Vưu thật sao? Một khi khai chiến rồi, sẽ không còn cách nào quay đầu được đâu.”

“Nếu không khai chiến, chẳng lẽ còn con đường nào khác hay sao?”

Thiếu Hạo nín lặng, chẳng biết phải đáp thế nào. Chỉ cần Hoàng Đế còn sống một ngày, nhất định sẽ không từ bỏ khát vọng thống nhất Trung nguyên, mà hễ Xi Vưu còn sống một ngày, cũng quyết không để Hoàng Đế xâm phạm Thần Nông, bôi nhọ Du Võng. Từ trận Phản Tuyền lần thứ nhất đến nay, Hoàng Đế và Xi Vưu đã giao chiến gần hai mươi năm, tổn thất mấy chục vạn người, bấy nhiêu xương trắng cốt khô ấy đã lấp kín mọi đường lui rồi.

Thiếu Hạo đứng lặng hồi lâu, bao nhiêu chuyện xưa như sống lại trong lòng, khiến y thấy chua chát khôn cùng: “A Hành, lúc nàng gả cho ta, hai ta đều ôm đầy nhiệt huyết, quyết không cam lòng làm quân cờ cho người ta xếp đặt, cứ ngỡ rằng chỉ cần trong tay có sức mạnh thì có thể làm chủ được số mệnh của chính mình. Nay ta đã thành vua của một nước, nàng cũng nắm binh mã cả nước trong tay, vậy mà sao vẫn thân bất do kỷ?”

Hồi tưởng lại hôm ấy, trong trướng lụa màn là, hai người cười nói vui vẻ, đập tay thề thốt, vậy mà chớp mắt đã xa vời như chuyện tự kiếp nào, A Hành chợt thấy khoảng cách giữa mình và Thiếu Hạo bỗng rút ngắn lại mấy phần. Nàng ôn hòa nói: “Mọi sự đâu thể như ý mình tất cả? Quan trọng nhất là bệ hạ đã trở thành Tuấn Đế, bảo hộ cho dòng sông ngân giữa nhân gian, thực hiện được nguyện vọng lớn nhất của mình rồi đấy thôi.”

“Trên đời này, nàng là người duy nhất biết được ta đã từng bước tiến lên ngai vị đó như thế nào, cũng là người duy nhất mà ta chẳng ngại ngần cùng say khướt. Dù nàng căm hận ta, ta vẫn luôn mong mỏi nàng ở lại, bởi ta không muốn từ nay về sau rượu mình ủ ra không người thưởng thức, uống say rồi cũng chẳng có ai chuyện trò.”

Gió thổi qua đồng hoang lồng lộng, cỏ cây xào xạc, hồng liễu phất phơ. Hai người cũng bị gió táp mờ cả mắt.

Trên Ngọc sơn, Thiếu Hạo áo trắng phau, cưỡi Huyền điểu bay đến. Nam tử gom đủ thần thái của non xanh nước biếc xé toạc hào quang đầy trời mà xuất hiện, kinh động tất cả mọi người, vậy mà năm tháng vô tình đã cuốn trôi toàn bộ những ôn nhu hòa nhã như nước biếc của y, chỉ còn lại vẻ lạnh lùng nghiêm nghị như non cao ngàn trượng.

Dưới bầu trời lấp lánh ngàn sao, Hiên Viên Bạt áo xanh phấp phới, chuốc chén nói cười, chẳng hề cố kỵ, thiếu nữ vô tư trong sáng ấy đã dốc hết tâm sức chỉ mong giữ chân Thiếu Hạo thêm chốc lát, bấy giờ, nàng đâu có ngờ, mấy trăm năm sau này, nàng lại phải vắt óc nghĩ trăm phương ngàn kế để thoát khỏi y.

A Hành chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thấy y càng ngày càng giống một vị đế vương dù trong lòng không nỡ, nhưng vẫn sẽ tàn nhẫn vứt vỏ tất cả, kiên định tiến thẳng tới trước. Có lẽ nàng là người cuối cùng được trông thấy Thiếu Hạo, bởi trong tương lai, có thể y sẽ trở nên như Hoàng Đế vậy, người đời chỉ biết y là Tuấn Đế nắm toàn quyền sinh sát, mà quên khuấy mất rằng, y cũng từng có một cái tên rất mực thân mật ôn hòa – Thiếu Hạo.

Thanh Dương, Xương Ý, Xương Phó… những người có thể thân mật gọi thẳng tên y đều bị chôn vùi trong quá khứ. Cùng với cái tên Thiếu Hạo.

Nhưng nàng và Xi Vưu thì không thể, bọn họ vĩnh viễn cũng không thể lãng quên những người đã sưởi ấm cõi lòng mình.

A Hành chợt trỏ về phía Cao Tân, hỏi: “Bên đó là gì vậy?”

Thiếu Hạo phóng mắt nhìn rồi thành thật đáp: “Đất đai, sông núi, con người.”

A Hành lại trỏ về hướng Thần Nông, “Vậy còn bên kia?”

Thiếu Hạo căng mắt nhìn, “Đất đai, sông núi, con người.”

A Hành tiếp tục trỏ về hướng Hiên Viên, “Bên ấy thì sao?”

Thiếu Hạo không hiểu, nhưng vận linh lực quan sát thật kỹ, “Cũng là đất đai, sông núi, con người.”

A Hành thong thả nói: “Thiên hạ này không thể chỉ có mình Cao Tân tộc, cũng không thể chỉ có Hiên Viên tộc hay Thần Nông tộc, nếu bệ hạ muốn giành được thiên hạ, trước hết phải có một trái tim có thể bao dung cả thiên hạ đã, bất kể là Cao Tân, hay là Hiên Viên, Thần Nông, đều gồm đất đai, sông núi, con người.”

Thiếu Hạo rúng động, trầm tư nghiền ngẫm lời nàng.

A Hành lại nói tiếp: “Bệ hạ đừng chỉ chăm chăm nghĩ đến dòng sông ngân mỹ lệ của Cao Tân, Hiên Viên có núi cao vạn trượng hùng vĩ hiểm trở, Thần Nông có đồng bằng ngàn dặm sản vật dồi dào, bậc đế vương quân lâm thiên hạ phải coi tất cả là con dân của mình, không phân Cao Tân, Thần Nông, Hiên Viên gì hết.”

Thiếu Hạo biến sắc, ranh giới về chủng tộc đã hình thành ngàn năm nay trong lòng y bỗng chốc đổ sụp, mở ra trước mắt cả một vùng trời đất rộng lớn thênh thang. Y vội cúi người vái A Hành một vái thật dài, đoạn đứng thẳng dậy, “Nàng lại giúp ta lần nữa, vậy mà ta chưa lúc nào làm tròn được lời hứa với nàng. A Hành, nàng đừng để ta làm kẻ thất ước chứ.”

A Hành cúi đầu, vẻ buồn bã, hồi lâu mới ngẩng đầu lên đáp: “Người người đều nói Xi Vưu vô tình, thực ra bệ hạ mới là kẻ vô tình nhất thiên hạ, trong lòng bệ hạ, quyền vị luôn luôn xếp hàng đầu, tới lúc khẩn cấp, bệ hạ có thể vứt bỏ bất cứ ai. Bởi thế, ta chẳng nên đưa ra yêu cầu gì cả, chỉ tổ làm khó bệ hạ, đồng thời khiến bản thân thất vọng mà thôi.”

Ánh mắt Thiếu Hạo đầy đau đớn, môi mấp máy toan phản bác, nhưng y chợt nhận ra A Hành đã nói lên một sự thực tàn nhẫn. Phụ vương, huynh đệ, Xương Ý, Thanh Dương, Nặc Nại, thậm chí cả A Hành, từ người thân đến bạn bè, chẳng phải đều bị y vứt bỏ đấy ư?

A Hành mỉm vười, ánh mắt thoáng vẻ khẩn cầu: “Chỉ có chuyện này, nếu có thể, xin bệ hạ dùng quyền lực của mình bảo hộ cho Tiểu Yêu. Đứa bé này có lẽ là mối nhục lớn nhất trong đời bệ hạ, nếu bệ hạ vì thế mà oán hận, xin cứ hận ta đây, đừng trút giận lên nó!”

Đáy mắt Thiếu Hạo loáng ánh lệ: “Nàng quên rồi ư, lúc nàng hôn mê, ta vẫn ngày đêm săn sóc cho Tiểu Yêu mà. Mỗi ngày sau khi bãi triều, chỉ có nó hớn hở chạy lại ôm chầm lấy ta, thấy ta cau mày, nó lại giơ bàn tay nhỏ xíu xoa xoa vuốt giãn, cũng chỉ có nó dám chê ta làm mặt nghiêm nghị rất xấu, dám nổi cáu với ta. Tiểu Yêu là người duy nhất trên Ngũ Thần sơn thật lòng đối đãi với ta, nó đã đem đến cho ta bao nhiêu hạnh phúc, chuyện khác thì ta không dám hứa, nhưng ta hứa với nàng, nó sẽ mãi mãi là con gái của ta!”

A Hành vúi mình vái thật dài, “Đa tạ bệ hạ.” Đoạn nàng thẳng người dậy, sải bước bỏ đi.

“A Hành.”

A Hành ngoảnh lại, nghiêm trang hạ lệnh, “Xin Tử Thần tướng quân lập tức đi phối hợp cùng Ứng Long tướng quân, chuẩn bị tấn công Thần Nông.”

Thiếu Hạo hiểu A Hành đã hạ quyết tâm, từ giờ khắc này trở đi, mọi lời nói ra sẽ chỉ còn là quân lệnh. Y đành khom người nhận lệnh, “Vâng!”

Từ lúc A Hành xuất chinh, Vân Tang vẫn thấp thỏm không yên.

Vì bị canh giữ nghiêm ngặt, khó mà nhận được thông tin chính xác từ bên ngoài, Vân Tang đành len lén quan sát cử chỉ lời nói của Hoàng Đế để đoán biết tình hình chiến trận.

Mấy ngày trước, nàng phát hiện ra Hoàng Đế hành tung khác lạ, tựa hồ đang bí mật trù tính gì đó, bèn đánh liều thử cầu kiến. Nếu như bình thường, Hoàng Đế sẽ lập tức triệu kiến nàng, nhưng lần này ông ta lại cự tuyệt.

Vân Tang thận trọng dò xét, cuối cùng từ lời nói của Chuyên Húc và đám cung nhân, nàng cũng nghe được tin Hoàng Đế đã rời khỏi Hiên Viên thành, không những thế, cùng đi còn có cả Ly Chu và Tượng Võng. Vân Tang không đoán được rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng nàng biết đại tướng cầm quân một khi đi khỏi, nhất định có điều không ổn.

Suy đi tính lại, nàng quyết định trốn khỏi Hiên Viên, đích thân đem chuyện này tới báo với Xi Vưu.

Nửa đêm, nàng len lén chuồn xuống núi, chạy thẳng tới Ký Châu, nơi A Hành cùng Xi Vưu đang quyết chiến.

Có điều vừa rời khỏi Hiên Viên sơn, Vân Tang lập tức bị thị vệ Hoàng Đế phái tới giám sát phát hiện. Mấy chục tên thị vệ đuổi riết đằng sau, khuyên nàng quay lại, nhưng Vân Tang vẫn một mực cự tuyệt. Đám thị vệ hết cách, đành tuân theo mật lệnh của Hoàng Đế, cưỡng chế bắt nàng trở lại.

Vân Tang cưỡi Bạch Thước, vừa đánh vừa chạy, vừa chạy vừa trốn, hướng thẳng đến Trung nguyên.

Tuy mấy năm gần đây, Vân Tang được Luy Tổ dạy bảo, thần lực tiến bộ đáng kể, nhưng dù sao cũng không chống nổi mấy chục tên thị vệ, chạy đến gần Tuyên sơn, nàng đã bị trọng thương. Bạch Thước cũng bị thương một bên cánh, khó mà bay tiếp được.

Bất đắc dĩ, Vân Tang đành đáp xuống Tuyên sơn.

Mấy tên thị vệ định thừa cơ khống chế nàng, bắt về Hiên Viên sơn. Vân Tang vừa cao giọng mắng mỏ uy hiếp chúng, vừa lấy ngón tay đào đất, trồng xuống đó một hạt dâu giống vẫn giấu trong khuyên tai, đoạn cắt cổ tay, lấy máu tưới cho cây. Hạt dâu giống này là phụ vương để lại cho nàng, lúc còn ở Triêu Vân điện, khi nhắc tới phụ vương, nàng từng đưa cho Luy Tổ xem qua, định tặng lại luôn cho bà. Luy Tổ bỏ vào kén tằm ủ thêm ba năm, lại trao cho nàng, dặn nàng luôn mang theo bên mình, gặp lúc nguy cấp thì trồng xuống đất, dùng máu tưới lên để tương thông linh lực với cây này.

Vân Tang cũng chẳng hiểu hạt dâu giống này có thể giúp gì được cho mình, chỉ đành ôm lấy hi vọng cuối cùng mà thử một lần thôi.

Được máu tươi tưới tắm, hạt dâu tức tốc nảy mầm, đâm chồi, chẳng mấy chốc đã trở thành một gốc dâu cực lớn, chu vi chừng năm mươi thước, cành nhánh đan xen chỉa ra bốn phía, như một chiếc ô khổng lồ, chu vi mỗi phiến lá cũng đến hơn một thước, giữa sắc xanh biếc lại ẩn hiện những vân đỏ, như những sợi tơ máu. Giữa kẽ lá là vô vàn chùm hoa vàng rực, đài hoa xanh ngắt, đẹp đến lóa mắt, tỏa ra hương thơm ngan ngát.

Cái cây lớn lên vùn vụt, linh khí trong trời đất cũng đồng loạt tụ lại quanh thân cây. Vô vàn cánh bướm rực rỡ đánh hơi thấy liền bay đến theo lời hiệu triệu, càng lúc càng đông, rợp cả đất trời, cơ hồ che phủ luôn cả ngọn núi này. Phấn lân tinh trên người chúng bay tứ tán, làm vẩn đục cả bầu không khí.

Đám thị vệ xưa nay đâu có ngờ mấy con côn trùng nhỏ xíu tụ tập lại thành ra khủng khiếp đến vậy. Một chút phấn thì không sao, nhưng bụi phấn dày đặc thế này khiến bọn chúng không sao thở được, dùng thần lực tiêu diệt một bầy, lại có cả đống bu đến đông nghẹt. Đám thị vệ không thể tiếp cận Vân Tang, nhưng lại sợ mệnh lệnh của Hoàng Đế, không dám bỏ đi, chỉ biết luẩn quẩn dưới núi.

Vân Tang bải hoải dựa vào thân cây, thầm nói với Viêm Đế và Luy Tổ: “Đa tạ phụ vương, đa tạ mẫu hậu.”

Luy Tổ từng dạy nàng rằng, loài vật mạnh nhất trên đời không phải là hổ, cũng chẳng phải báo hay gấu, mà chính là côn trùng. Côn trùng tuy nhỏ nhưng số lượng lại lớn vô cùng, đâu đâu cũng có, hơn nữa còn sống quần cư, chia sẻ tin tức cùng nhau, mọi chuyện trên đời đều không thể lọt khỏi tai mắt chúng.

Trước đây, Vân Tang chưa hiểu được câu nói này, nhưng hiện giờ nàng đã rõ. Gốc dâu này sinh trưởng nhờ máu nàng tưới tắm, nàng tựa vào thân dâu, tương thông cùng cây dâu, từng cánh bướm bay qua bay lại, hoặc đậu lên cành, hoặc bám vào phiến lá, chỉ cần điều khiển đàn bướm, nàng có thể biết được tất cả mọi chuyện xảy ra dưới gầm trời này.

Tuy làm vậy rất hao tổn linh lực, mà bản thân nàng đang bị trọng thương, nhưng nàng muốn biết trận chiến giữa Xi Vưu và A Hành đã bắt đầu hay chưa, nàng muốn thấy lại quê cũ Thần Nông của mình, nàng còn muốn trông thấy y!

Vân Tang ngoảnh mặt về phía Đông. Như cảm nhận được tâm ý của nàng, đàn bướm cũng lũ lượt bay về phía Đông, kết thành từng bầy đàn đông nghịt, rực rỡ tựa ráng chiều, vô cùng đẹp đẽ.

Đám mây rực rỡ bay đi, trước mắt Vân Tang cũng trải ra một dải đất mênh mông vô bờ bến.

Cảnh trí càng lúc càng quen thuộc, bay nhanh lên nào, bay nhanh thêm chút nữa đi!

Máu tươi ròng ròng nhỏ xuống, tưới tắm cho cây, Vân Tang tựa mình vào thân cây, khóe môi lộ nét cười. Sắp về đến Thần Nông rồi, là Thần Nông mà nàng sớm nhớ chiều mong, là quê hương của nàng!

Mây ráng cuộn lên cuối trời Đông, ánh vàng chói lọi ló ra, lại một bình minh nữa bắt đầu.

Mặt trời vừa ló dạng, trên dải đồng hoang Ký Châu đã dậy lên tiếng kèn hiệu lảnh lót hào hùng, tiếp đó là tiếng trống trận thùng thùng như sấm, kinh thiên động địa, xé toang bầu không khí tĩnh lặng. Tất cả tướng sĩ ai vào chỗ nấy, kết thành trận thế dưới sự chỉ huy của Ứng Long, chuẩn bị tấn công.

Si Mỵ Võng Lượng lập tức chạy đi gọi Xi Vưu: “Đại tướng quân, đại tướng quân…” Nào ngờ Xi Vưu đã rời trướng tự lúc nào, đang phóng mắt trông về phía Hiên Viên.

A Hành toàn thân vận chiến bào, đứng trên mây, hai tay cầm dùi, liên tục thúc trống, tiếng trống thì thùng, bi tráng kịch liệt, như thể đang nhắc nhở Xi Vưu, hôm nay là trận quyết chiến giữa đôi bên, phải dốc toàn lực ứng phó!

Xi Vưu lệnh cho Phong Bá và Vũ Sư: “Hôm nay Hiên Viên tất có kỳ mưu, quyết dồn chúng ta vào đường cùng, các ngươi phải dốc toàn lực ứng phó!”

“Vâng!” Phong Bá và Vũ Sư lập tức tập kết toàn quân, chuẩn bị nghênh chiến.

Ứng Long thúc động trận thế, khơi thông dòng nước, dẫn nước sông ngầm tràn lên mặt đất.

Tướng sĩ Thần Nông vừa xếp thành trận thế ngay hàng thẳng lối, chuẩn bị nghênh địch, chợt trông thấy giữa cánh đồng hoang cuộn lên vô vàn con sóng dữ, ào ào đổ ập về phía mình, không khỏi rú lên kinh khiếp.

Phong Bá và Vũ Sư lập tức dàn quân bày trận, chống lại trận thế của Ứng Long.

Cuồng phong nổi lên tứ phía, nhổ bật cả rễ đại thụ, mưa rào rào trút xuống, mù mịt cả đất trời, đá tảng bị cuốn lên, dòng chảy từ từ đổi hướng lại ập về Hiên Viên tộc.

Ứng Long thét gọi: “Tử Thần.”

Thiếu Hạo lập tức đứng vào trận nhãn, có linh lực của y điều khiển, tình thế tức thì xoay ngược, dòng nước cuộn lại đổ về phía Thần Nông tộc.

Si, Mỵ, Võng, Lượng trấn giữ bốn phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, hội tụ linh lực trời đất hỗ trợ cho Phong Bá và Vũ Sư, nhưng cả mấy người bọn họ hợp lại cũng không địch nổi thế công của Ứng Long.

Phong Bá cau mày cười phá lên: “Ứng Long tuy là Long tộc, nhưng thần lực của ta và Vũ Sư nhất định không kém gì y. Nghịch chuyển địa thế, dẫn nước sông ngầm từ dưới lòng đất lên, dựa vào linh lực của Ứng Long, quyết không thể thực hiện được, rốt cuộc là kẻ nào đang giúp y thế nhỉ?”

Nước sông cuồn cuộn mỗi lúc một nhiều, càng lúc càng thêm chảy xiết, mênh mông khắp đồng hoang, khiến cả đất trời đều trở nên âm u ảm đạm, toát lên vẻ kinh khủng khôn tả.

Phong Bá và Vũ Sư đã sức cùng lực kiệt, nhưng nước lũ vẫn cuồn cuộn đổ ập tới, tốc độ không hề suy giảm, sắp nhấn chìm cả đại quân tới nơi.

Si Mỵ Võng Lượng tuyệt vọng thét lên: “Xi Vưu, làm sao bây giờ?”

Xi Vưu cưỡi đại bàng bay đến, ngưng tụ toàn bộ linh lực, vung đao chém xuống, chỉ nghe một tiếng động long trời lở đất vang lên, cát bụi mù mịt khắp nơi. Giữa màn sương mù, mặt đất nứt ra một khe sâu thăm thẳm không thấy đáy, toàn bộ nước sông đều trút cả xuống khe, tựa như một ngọn thác khổng lồ.

Thần Nông đại quân như chết đuối vơ được cọc, đồng thanh hô vang, thị uy với quân đội Hiên Viên. Tướng sĩ Hiên Viên vừa trông thấy Xi Vưu áo đỏ phấp phới, đạp trên lưng đại bàng, uy phong lẫm liệt giữa tầng không đã sợ mất mật.

Xi Vưu phóng mắt trông xuống đại quân Hiên Viên, nhưng chẳng thấy A Hành.

“Tiêu Dao!”

Tiêu Dao hiểu ý Xi Vưu, liền biến thân thành cá. Xi Vưu đứng trên lưng Bắc Minh côn, theo thác nước rơi thẳng xuống khe sâu hun hút, chớp mắt đã mất dạng.

Thoắt chốc, mọi người thấy mặt đất từ từ nâng lên, nước sông bắt đầu đổi hướng, đổ xuống nơi địa thế thấp hơn.

Ứng Long biết Xi Vưu đang giở trò dưới lòng đất, lập tức vận toàn bộ linh lực, hóa thành vô số rắn đủ màu đủ loại, theo dòng nước lao tới. Linh xà nhanh nhẹn bơi lặn dưới nước như điện xẹt, chỉ thấy từng vệt sáng nào đỏ, nào lam, nào tím, nào vàng, nào bạc lấp loáng lóe lên, như vờn như múa, đẹp đến mê hồn. Dưới sự thúc động của linh xà, dòng nước như có sinh mệnh, bắt đầu băng đèo vượt núi, đổ ập về phía Thần Nông.

Xi Vưu ngưng tụ thổ linh, bắn ra hàng ngàn lưỡi thổ kiếm màu vàng, hàn quang lấp loáng, xuyên nước phá đất, đâm thẳng vào chỗ hiểm của linh xà, từng vệt sáng vàng liên tục lóe lên, diệt sạch đám linh xà đang dẫn dòng.

Thân mình Ứng Long chao đảo, mắt mũi ứa máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.

“Tướng quân nghỉ ngơi chút đi.” Thiếu Hạo biết Ứng Long không phải đối thủ của Xi Vưu, bèn bước lên khống chế cả trận pháp.

Dưới sự thúc động của Thiếu Hạo, nước trên mặt đất bắt đầu tụ lại một chỗ, như sóng biển phẫn nộ thét gào lao tới, toan xông qua gò đồi Xi Vưu vừa nâng lên.

Mắt thấy sóng lớn đã tràn qua gò đồi, sắp ập xuống đầu quân Thần Nông, Xi Vưu lập tức cưỡi Tiêu Dao từ dưới lòng đất vọt lên, đứng giữa không trung, hai tay kéo gò đồi cao thành đỉnh núi.

Linh lực của Xi Vưu và Thiếu Hạo đụng độ trực tiếp với nhau, nước sông biến thành năm con rồng lớn, quấn lấy đỉnh núi cao ngất, thủy long muốn đánh đổ núi, núi lại muốn đè chết thủy long.

Hai vị thần linh lực cao cường nhất thiên hạ giao chiến khiến đất rung núi chuyển, cát bay đá chạy, trời đất tối sầm, tựa hồ trời long đất lở tới nơi, thế giới sắp đến hồi hủy diệt, ngay mấy kẻ thần lực cao cường như Phong Bá, Vũ Sư cũng chẳng dám lại gần, mọi người đều hốt hoảng tránh né, cả đất trời đều biến thành chiến trường của Xi Vưu và Thiếu Hạo.

Kịch chiến hồi lâu, năm con thủy long thân mình to lù như ang nước đã riết chặt ngọn núi, khiến nó càng lúc càng nhỏ lại, sắp sụp đổ tới nơi. Xi Vưu đứng trên lưng đại bàng quát lên một tiếng, xông thẳng về phía thủy long, vận sức ném trường đao trong tay ra, trường đao biến thành một lưỡi dao khổng lồ đỏ lòe màu máu, thế như sấm sét bổ xuống, chém chết hai con thủy long. Trong tiếng rú đau đớn của thủy long, Xi Vưu cũng bị đám thủy long cuồng nộ đánh rớt khỏi lưng đại bàng, rơi thẳng xuống vực sâu, bị dòng nước xiết cuốn đi mất tích.

Bọn Ứng Long, Ly Oán đồng loạt rộ lên hoan hô trong khi bọn Vũ Sư, Phong Bá lại đùng đùng phẫn nộ, bi thương tràn lòng ngực, thét lên: “Xi Vưu!”

Tiêu Dao rít lên, lao bổ xuống vực, xông pha dưới nước, quyết tìm cho được Xi Vưu.

Thời gian nặng nề trôi qua, khi mọi người đều ngỡ rằng Xi Vưu đã chết chắc, bắt đầu rơi vào tuyệt vọng, chợt thấy hắn ngạo nghễ đứng trên lưng đại bàng vọt lên khỏi vực nước sâu, sắc mặt lạnh băng, khóe môi còn vương vết máu, lớn tiếng quát: “Nổi trống!” Hắn đánh đối phương trọng thương, đối phương cũng đả thương hắn. Nhìn khắp đại hoang hiện giờ, có thể dựa vào thần lực đả thương hắn chỉ có mình Thiếu Hạo, té ra trận này Thiếu Hạo lại đích thân tới hỗ trợ.

Xi Vưu bất ngờ đã đành, Thiếu Hạo còn kinh ngạc hơn. Y đã dốc toàn bộ linh lực kết hợp cùng trận pháp được bố trí cẩn mật, vậy mà vẫn địch không lại một Xi Vưu chỉ tùy cơ ứng biến. Tuy y và Thanh Dương thần lực cao cường nhưng vẫn phải dùng tâm pháp khống chế linh khí trong thiên địa theo ý mình, còn Xi Vưu lại như hùng ưng giữa trời cao, cá bơi trong làn nước, hòa làm một thể với thiên địa tạo hóa, đại đao vô hình, tùy ý sử dụng.

Si Mỵ Võng Lượng thúc trống thùng thùng, Phong Bá và Vũ Sư nhận lệnh toàn lực tấn công, mưa lớn nghiền nát tất cả, gió to tấn công mọi thứ, lại thêm địa hình đảo ngược khiến nước lụt tràn lan khắp nơi, phá tan trận thế của Hiên Viên tộc, tướng sĩ Hiên Viên bỏ chạy tứ tán.

Ứng Long đành biến lại nguyên hình, toan xông ra ngăn dòng nước lũ. A Hành hỏi Thiếu Hạo: “Không thể khiến nước rút trở về sông ngầm dưới đất ư?”

Thiếu Hạo sắc mặt tái nhợt, máu tươi thấm ra đỏ ngực. Vừa rồi Xi Vưu chém đứt hai con thủy long của y, hiển nhiên cũng đã đả thương y, dẫu có tái đấu, e rằng vẫn sẽ thất bại. Y lắc đầu, “Để ngăn nước lũ, Xi Vưu đã lao xuống lòng đất, nâng cao mặt đất lên, thực ra vẫn có thể hồi phục lại như cũ, nhưng vừa nãy Bắc Minh côn vì cứu Xi Vưu đã quẫy loạn dưới đó, vô tình phá hủy tất cả mạch ngầm bên dưới rồi. Địa thế bị hủy, nghịch chuyển trời đất, nhất định sẽ xảy ra nạn lớn, hiện giờ bấy nhiêu nước lũ mênh mông này chẳng biết đổ đi đâu, chỉ có thể hoặc nhấn chìm Thần Nông, hoặc nhấn chìm Hiên Viên, không phải chúng chết thì là ta chết mà thôi.”

Dòng nước lũ phía trước bị Xi Vưu nâng núi lên ngăn chặn đã đổ ngược trở lại, trong khi nước phía sau vẫn cuồn cuộn tràn ra như một con sông trên mặt đất, mắt thấy cả vùng hoang sắp hóa thành biển nước tới nơi, Thiếu Hạo vội bảo A Hành: “Nàng lập tức đem quân rút lui, ta sẽ mở một nhánh sông, dẫn nước lũ chảy ra biển.”

Ứng Long cũng khuyên A Hành: “Vương cơ, mau rút đi thôi, thần không chống chọi được lâu nữa đâu.”

Phong Bá và Si Mỵ Võng Lượng đứng trên đỉnh núi, trông thấy trận thế Hiên Viên bị nước lũ chia năm xẻ bảy, tướng sĩ bỏ chạy tán loạn, nhất loạt ồ lên hoan hô: “Chúng ta thắng rồi, chúng ta thắng rồi!”

Xi Vưu đứng lặng quan sát mọi thứ, vẻ mặt mệt mỏi khôn kham, ánh mắt chất ngất bất lực và đau đớn.

A Hành cưỡi A Tệ bay lên, phóng mắt nhìn ra xa, chỉ thấy mặt đất mênh mông nước, nhánh sông của Thiếu Hạo vẫn chưa mở xong, mà Ứng Long đã kiệt sức trước đòn hợp công của Phong Bá và Vũ Sư, Hiên Viên tộc đang dần rơi vào đường cùng.

Đưa mắt nhìn những gương mặt kinh hoàng của tộc nhân, nàng hiểu chỉ cần rút lui một lần này thôi, bọn họ sẽ thất bại liên tiếp, cứ thế cho tới ngày rút khỏi Hiên Viên sơn.

Gương mặt non nớt cố làm ra vẻ kiên cường của Chuyên Húc, dung nhan tiều tụy già nua của Hoàng Đế, bách tính tuyệt vọng bi ai trong Hiên Viên thành, vô số nam tử Hiên Viên vì nước quên thân như Nhạc Uyên, cùng vợ và con gái họ… Nàng không thể để bọn họ chết đói như mẹ của cô bé kia được! Nàng không thể để bọn Nhạc Uyên chết không nhắm mắt!

Không, quyết không thể rút lui!

Ứng Long ngẩng đầu rống lên, van nài A Hành lập tức dẫn quân rút lui.

A Hành đau đáu nhìn về phía vầng dương chói lòa, ánh mặt trời xói vào mắt nàng, nhưng nàng không hề chớp mắt, chỉ vuốt ve A Tệ, khẽ hỏi: “Giúp ta làm một việc này, được không?”

A Tệ chẳng chút do dự, gật đầu ngay.

“Mày phải sống nhé!”

Vừa dứt lời, A Hành liền nhảy khỏi lưng A Tệ, rơi thẳng xuống đất, chợt nàng ngoái đầu lại, mỉm cười: “Về Ngọc sơn tìm Liệt Dương đi.”

Trong lúc rơi xuống, A Hành đồng thời dang hai tay ra, phát tán toàn bộ nguồn sức mạnh bị phong ấn trong thân thể. Lúc này vầng dương vừa lên tới đỉnh đầu, chính là lúc năng lượng mặt trời mạnh nhất trong ngày, sức mạnh trong người A Hành cũng bùng lên như núi lửa phun trào, toàn thân tỏa sáng chói lọi.

Cảm nhận thấy khí tức của A Hành tắt lịm, A Tệ kinh hoàng ngửa cổ tru lên thảm thiết, Xi Vưu và Thiếu Hạo nghe tiếng A Tệ, vội nghoảnh lại, liền trông thấy toàn thân A Hành phát sáng rực rỡ, đồng loạt thét lên thất thanh: “A Hành, đừng!” Nhưng đã chậm một bước, bóng A Hành dần dần tan biến giữa vầng sáng chói lòa.

A Hành từ từ rơi xuống đất, tỏa ra ánh sáng chói lọi, tựa hồ mặt đất vừa có thêm một vầng mặt trời nóng bỏng, ánh mặt trời rọi tới đâu, nước lũ lập tức bốc hơi đến đó, dưới sự thiêu đốt của mặt trời, cả biển nước dần dần tan biến, đất đai từ từ khô nứt, cây cối đều héo rũ.

Si Mỵ Võng Lượng xông đến ngăn căn A Hành, nhưng vừa tới gần đã bị bỏng, vội thét lên lui lại, may mà Vũ Sư kịp thời hô mây làm mưa, cản A Hành lại giây lát, mới cứu được mạng bọn chúng.

Thoạt đầu A Hành còn có thể khống chế sức mạnh bản thân, nàng vốn chỉ định làm biển nước bên dưới bốc hơi mà thôi, nhưng tựa như con đê ngăn lũ bị phá thủng một lỗ, nước lũ cứ thế ào ào tràn sang, không sao ngăn nổi, xé toang hoác lỗ thủng ra, cuối cùng phá hủy cả con đê.

Luồng sức mạnh trong người A Hành tương thông với vầng dương trên trời, càng tuôn càng nhiều, dưới tác động của nguồn năng lượng mạnh mẽ ấy, cặp mắt nàng dần biến thành đỏ rực, thần trí bắt đầu mơ hồ.

A Hành bước tới đâu, tướng sĩ kêu gào ngã gục tới đó, nước trong thân thể họ đều bốc hơi rồi cạn kiệt nhanh chóng, chẳng mấy chốc đã biến thành xác khô.

Vũ Sư từ trên không ngã nhào xuống đất, y vốn tu luyện thủy linh, năng lượng thái dương của A Hành là khắc tinh của y, thân thể y bị trọng thương, ngay cả đi lại cũng rất khó nhọc.

Ứng Long chẳng còn trông rõ được nguyên thần của A Hành, chỉ thấy một cặp mắt đỏ ngầu như máu giữa vầng sáng chói lòa, chẳng khác nào ác ma, lướt đến đâu là phá hủy tới đó. Y vội biến thành hình người, cuống quýt thoái lui, may mà phía trước có nước cản, phía sau lại có Thiếu Hạo hỗ trợ, bằng không hẳn y cũng bị nướng chín. Ứng Long hốt hoảng hỏi Thiếu Hạo: “Đó là gì vậy? Rốt cuộc vương cơ đã biến thành cái gì?”

Thiếu Hạo thần sắc thê lương, không nói một lời, gấp rút đổi dòng nhánh sông vốn định dẫn thẳng ra biển chặn ngang trước mặt bọn họ, lợi dụng dòng nước cuồn cuộn để bảo vệ tướng sĩ Hiên Viên, đây là việc duy nhất y có thể làm cho A Hành trong lúc này.

Phong Bá đỡ Vũ Sư, trợn mắt nhìn A Hành đang từng bước tiến lại gần bọn họ, kinh hoàng hỏi Xi Vưu: “Cái gì thế kia?” Thứ pháp thuật này hùng mạnh là vậy, nhưng chẳng phân biệt địch ta, sẵn sàng hủy diệt tất cả, có phần quá vô nhân đạo.

Xi Vưu toan lợi dụng dòng nước bảo vệ tướng sĩ Thần Nông, nhưng nước đã chảy cả xuống chỗ trũng, bị Thiếu Hạo khống chế để bảo hộ binh sĩ Hiên Viên. Tuy hắn thông thạo cả ngũ linh, nhưng luận về năng lực ngự thủy, dù sao không thể bì được với Thiếu Hạo chuyên tu thủy linh, chẳng cách nào đoạt được khống chế thủy linh trong tay Thiếu Hạo.

Thấy những xác khô la liệt đầy mặt đất đều bị A Hành hun đốt đến cháy đen, tan thành tro bụi, tướng sĩ Thần Nông kinh hoàng hoảng loạn, sĩ khí tan tác, mệnh ai nấy tháo chạy.

Đám tùy tùng của Xi Vưu tuy cũng sợ hãi nhưng tất cả đều thẳng lưng ưỡn ngực, chưa được lệnh của hắn, quyết không lùi nửa bước. Si Mỵ Võng Lượng nhìn các huynh đệ xung quanh, phẫn nộ gào lên: “Rốt cuộc là thứ ma vật gì thế kia? Lẽ nào trời muốn diệt chúng ta thật ư?”

Xi Vưu cởi phăng tấm áo A Hành tặng xé nát rồi ném tung ra, từng mảnh áo bào mang linh khí của Ngọc sơn rơi xuống đất, lập tức mọc lên vô số cây đào, chẳng mấy chốc đã thành một khoảnh rừng đào xanh ngắt mát rượi, ngăn hơi nóng phả đến.

Phong Bá và Vũ Sư thấy Xi Vưu xưa nay cuồng vọng ngạo nghễ, vậy mà giờ chỉ thủ không công, cũng thầm đoán được mấy phần, vội khuyên nhủ: “Ả đã mất hết thần trí, bất phân địch ta, tiến nhập ma đạo rồi, huynh quyết đừng nể tình xưa mà nương tay.”

Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành đang từ từ tiến lại, vội hạ lệnh: “Quân đội giao cả cho các người, mau rút lui ngay đi, ta sẽ dẫn nàng rời khỏi đây.”

“Vậy chừng nào huynh quay lại? Chúng ta hẹn gặp ở đâu đây?

Xi Vưu lảng đi: “Ta vốn là kẻ thô lỗ sinh trưởng giữa núi rừng, quen thói phóng khoáng tùy tiện, cầm quân ra trận thì được, nhưng chẳng thể trị quốc an dân, đem lại thái bình cho muôn dân thiên hạ. Hoàng Đế tuy chẳng trọn tư tình, không vẹn đại nghĩa, có điều bậc quân vương đều phải vô sỉ vô tình như vậy mới có thể giữ vững ngai vị và thiên hạ, khiến bách tính an cư lạc nghiệp. Chinh chiến bấy nhiêu năm, muôn dân thiên hạ cạn kiệt lắm rồi, các người thân là con dân Thần Nông, những việc có thể làm cho Thần Nông đều đã làm cả, đánh xong trận này, nếu như còn sống thì tìm một cô vợ, sinh con đẻ cái, vui hưởng thái bình đi thôi.”

Vũ Sư Xích Tùng Tử chăm chú nhìn Xi Vưu, ánh mắt lấp loáng, cứ chần chừ muốn nói lại thôi.

Xi Vưu thản nhiên cười, “Người người đều nói Nặc Nại tướng quân của Cao Tân dung mạo xuất chúng, tài hoa cái thế, tính tình văn nhã phong lưu, là người trong mộng của vô số thiếu nữ Cao Tân, chỉ tiếc lại vì tư tình nam nữ hoang đường mà cả ngày đắm chìm trong rượu, biến thành phế nhân. E rằng các thiếu nữ Cao Tân từng mê mẩn y chẳng có ai ngờ được y lại tự hủy hoại dung mạo lẫn thân thể, ẩn náu tại Thần Nông hai mươi năm.”

Phong Bá trợn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Sư, vẻ đề phòng. Vũ Sư cũng giật nảy mình kinh hãi, biết rõ Xi Vưu thủ đoạn tàn nhẫn, y lẳng lặng nắm chặt binh khí, sẵn sàng tự vẫn bất cứ lúc nào, “Ngươi biết từ bao giờ?”

“Ta biết lâu rồi. Tuy ngươi và Thiếu Hạo tính toán rất chu toàn, biết mọi trò biến hình và dịch dung đều không thể qua được mắt ta, bèn dùng thuốc độc hủy hoại dung mạo, thân thể, lại biết rằng khí chất quý tộc được rèn luyện từ nhỏ của các người khó mà che giấu được, bèn cố tình mạo danh Xích Thủy Thị trong Tứ thế gia, Thiếu Hạo còn buộc Xích Thủy Thị phối hợp, ngụy tạo lai lịch và quá khứ của ngươi. Có điều ta xưa nay vốn tính đa nghi, ngay đến người yêu ta còn không dễ gì tin tưởng, huống hồ là ngươi?”

“Vậy vì sao ngươi không giết ta? Trái lại, hai mươi năm nay còn coi ta như huynh đệ?”

“Nếu là mấy trăm năm trước đây, một khi phát hiện ngươi lừa gạt, nhất định ta sẽ lấy mạng ngươi. Nhưng mấy trăm năm trước, khi A Hành bị ta ép rơi xuống Ngu uyên, ta mới hiểu ra một điều, không thể chỉ quan sát bằng mắt, mà phải dùng trái tim để cảm nhận, bởi vậy ta bèn cho ngươi thời gian, để phân tích xem ngươi rốt cuộc là ai. Bấy nhiêu năm nay, bất kể ngươi là Nặc Nại hay Xích Tùng Tử, ngươi cũng đã dùng kỹ nghệ rèn đúc tinh xảo của Cao Tân rèn binh khí cho quân ta, giúp tướng sĩ Thần Nông có binh khí đối phó với Hoàng Đế; lúc cầm quân tác chiến, ngươi luôn dũng cảm xông lên trước nhất, dốc hết tâm sức giúp Thần Nông đối kháng Hiên Viên. Mọi việc ngươi làm đều có lợi cho Thần Nông, tại sao ta phải giết ngươi?”

Vũ Sư lặng thinh khômg đáp, bàn tay cầm binh khí từ từ lỏng ra.

Xi Vưu cười hỏi: “Hẳn Thiếu Hạo dặn ngươi phải tìm cách khiến ta và Hoàng Đế lưỡng bại câu thương, để Cao Tân đứng giữa thủ lợi, ngươi cũng đã thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ rồi. Vừa nãy rõ ràng ngươi chẳng cần dốc hết sức lực như thế, cứ làm quấy quả rồi lẳng lặng chuồn đi là xong, nhưng ngươi lại vì cứu Si Mỵ Võng Lượng mà không ngại đối kháng với A Hành đến nỗi trọng thương. Không biết hiện giờ ngươi có còn phân biệt được mình rốt cuộc là Nặc Nại thuộc hạ của Thiếu Hạo hay là Xích Tùng Tử, huynh đệ của Xi Vưu không?”

Gần hai mươi năm, đối với Thần tộc cũng chẳng phải là dài, nếu gặp lúc thái bình thanh nhàn thì chỉ chớp mắt là qua, nhưng hai mươi năm giáo vàng ngựa sắt, chinh chiến tứ phương, sớm chiều bầu bạn, sinh tử ký thác, cùng xung phong ra trận, cùng chuốc chén say khướt, cùng bị thương, cùng cười nói… Trên thế gian này, còn quãng thời gian nào khiến người ta kích động hơn những năm tháng thiết huyết hào tình đó chứ? Còn thứ tình cảm gì sâu nặng hơn tình đồng chí sống chết có nhau?

Hai mươi năm trước, y kiên cường tự hạ độc hủy hoại dung mạo mình, hủy dung cũng chẳng có gì quan trọng, chỉ cần trong lòng ghi nhớ mình là ai thì được rồi, có điều hai mươi năm sau, lòng y đã hoàn toàn đổi khác, rốt cuộc y là ai đây? Là Xích Tùng Tử huynh đệ của Xi Vưu, hay Nặc Nại thuộc hạ của Thiếu Hạo? Vũ Sư lộ vẻ bi ai khôn xiết.

Phong Bá đã hoàn toàn bỏ hết cảnh giác, vỗ mạnh vào vai Vũ Sư, thân mật đỡ lấy y. Đúng như Xi Vưu nói, dù y là ai chăng nữa, trong lòng Phong Bá, Vũ Sư vẫn là hảo huynh đệ từng cứu mạng gã trên chiến trường vô số lần.

Xi Vưu cười, “Không chỉ mình ta biết ngươi là Nạc Nại đâu, còn có một người nữa kìa. Tuy ngươi đã hủy hoại dung mạo, tàn hủy thân thể, nhưng kể từ sau khi gặp ngươi trong hôn lễ, nàng ta vẫn luôn nghi ngờ.” Xi Vưu đưa mắt nhìn A Hành hai mắt đỏ ngầu, đã hoàn toàn biến thành ác ma, “Bất kể ngươi biến thành hình dạng gì, xấu xí đáng sợ ra sao, chỉ cần trái tim ngươi không thay đổi, thì trong lòng nàng ấy, ngươi vẫn mãi là ngươi.”

Vũ Sư ngẩn người kinh ngạc, hóa ra Vân Tang đã nhận ra từ lâu ư? Nàng vẫn biết y ở đây ư?

Bấy nhiêu tình tiết vụn vặt mơ hồ bỗng trở nên rõ ràng sáng tỏ hơn bao giờ hết.

Chẳng biết từ lúc nào, y luôn có những con bướm đêm bám theo bên người, lúc y ngồi một mình cô độc, cánh bướm đêm khẽ khàng đậu lên tay y, lặng lẽ bầu bạn với y; lúc y đi tuần đêm, cánh bướm đêm sẽ dập dờn bay lượn xung quanh, âm thầm ở bên.

Biết bao đêm dài, chất độc trên mặt cùng vết thương trên người thi nhau hành hạ, khiến y ngủ cũng vật vã không yên. Giữa lúc nửa mơ nửa tỉnh, y luôn thấy bướm đêm phấp phới bay đến, lượn vòng trong trướng, rắc bột phấn lên vết thương cho y, xoa dịu bớt cơn đau.

Như thật như ảo, như mộng như mơ…

Tỉnh giấc, mọi thứ đã tan biến chẳng còn dấu vết, chỉ còn xác thiêu thân rơi bên giường, khiến y cứ ngỡ mình đêm qua lại quên thổi tắt đèn.

Thì ra tất cả đều là thật, dù cách xa ngàn dặm, nàng vẫn dốc hết linh lực bảo vệ cho y.

Mỗi sớm mai, khi người khác khoan khoái thức dậy sau một đêm say ngủ, Vân Tang lại xanh xao tái nhợt, kiệt quệ tinh thần bước ra khỏi nga trận ư?

Rốt cuộc, nàng đã bầu bạn cùng y qua bao nhiêu đêm trường cô tịch như thế?

Y cứ đinh ninh rằng mình đang lặng lẽ bảo vệ nàng, chứ đâu có ngờ, bấy nhiêu năm nay, nàng cũng luôn lặng lẽ bảo vệ cho y mà y không hay.

Đôi dòng nước mắt lăn dài trên chiếc mặt nạ lạnh băng của Vũ Sư.

A Hành mỗi lúc một bước đến gần, vạt rừng đào phía ngoài dần dần khô héo, thân mình Xi Vưu chao đảo, sắc mặt chợt tái nhợt.

“Ta phải dẫn nàng rời khỏi nơi đây ngay, còn chần chừ nữa mọi người sẽ chết cả nút, các ngươi cũng mau rút lui đi.”

Thấy Xi Vưu sắp đi, Phong Bá liền kéo hắn lại rưng rưng: “Xi Vưu, huynh nhất định phải quay lại nhé!” Si Mỵ Võng Lượng cùng mấy chục huynh đệ nhất loạt quỳ xuống trước mặt Xi Vưu, cả vạn tướng sĩ phía sau cũng lần lượt quỳ xuống theo.

Xi Vưu chẳng nhìn bọn họ lấy nửa mắt, sốt ruột mắng: “Đến lúc đi thì phải đi thôi, đừng có lằng nhằng khóc lóc, không đáng mặt đàn ông!” Hắn đã tận lực, không phụ lời thề xưa với Viêm Đế và Du Võng, không thẹn với tám mươi mốt huynh đệ cắt máu ăn thề, không hổ với trời đất, không thẹn với lòng mình, cầm lên được thì cũng bỏ xuống được.

Xi Vưu bước tiến thẳng về phía A Hành.

A Hành đã bước đến bên ngoài rừng đào, đi đến đâu, cây cối héo tàn đến đó, khiến Xi Vưu lại phải gia tăng linh lực.

Rừng đào xanh mướt một màu, lại thêm không khí đang ấm lên, bắt đầu nảy nụ đơm hoa, từng đóa hoa đào thi nhau khoe sắc, rực rỡ như mây ráng, kiều diễm tựa môi son.

Cặp mắt đờ đẫn của A Hành chợt lay động, toát lên vẻ đau khổ khôn cùng. Thân thể nàng vốn không chịu nổi nguồn năng lượng khủng khiếp nhường này, sức mạnh hủy diệt thiên địa ấy trong lúc hủy diệt thiên địa cũng đồng thời hủy diệt luôn nàng, khiến thần trí của nàng bị phá hủy, trở thành một cái xác không hồn, chỉ biết đi trong vô thức, hủy diệt thiên địa, để rồi cuối cùng cũng bị thiên địa hủy diệt.

Nhưng, khi trông thấy ngàn vạn gốc đào xòe nở, cảnh sắc rực rỡ mà quen thuộc ấy đã đánh thức chút ý thức còn sót lại của nàng.

Dưới cả trời rợp bóng hoa bay, nàng trông thấy Xi Vưu khí độ hiên ngang đang ngạo nghễ đứng dưới cội đào đợi mình!

Nàng chẳng còn biết mình đang ở đâu, thậm chí không biết mình rốt cuộc đã ra sao nữa, chỉ thấy mừng rỡ vô hạn, như thể quay lại lần đầu gặp gỡ dưới cội hoa đào, lại đến tết Khiêu Hoa rồi dó ư? Cuối cùng nàng có thể ở bên hắn mãi mãi rồi ư?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 19: Sống đoàn tụ, thác ôm hoài niệm (2)

Thấy Xi Vưu mỉm cười, dang rộng hai tay, nàng cũng nhoẻn cười chạy thẳng về phía hắn. Nàng chẳng nhớ nổi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nữa, chỉ cảm thấy mệt mỏi vô chừng, như thể vừa bôn ba thiên sơn vạn thủy, thân thể đau như giần, tim cũng đau buốt, những muốn ngả vào lòng Xi Vưu ngủ vùi.

Nàng mỉm cười với tay về phía Xi Vưu, toan nắm lấy tay hắn, giữ chặt lấy niềm hạnh phúc này.

Nhưng nàng kinh hoàng nhận ra mặt đất dưới chân Xi Vưu đang khô nứt, làn da hắn cũng phỏng rộp lên, cả cánh tay cháy xém như xương khô.

“A Hành, không sao đâu, lại đây nào!” Xi Vưu vươn tay ra, mỉm cười tiến về phía nàng.

A Hành hốt hoảng lùi lại, là nàng! Lại chính là nàng! Rốt cuộc nàng đã biến thành thứ gì thế này?

Nàng kinh hãi sờ lên người mình, phát hiện trên đầu chẳng có lấy một sợi tóc, da dẻ cũng cháy sém nứt nẻ, khắp người không còn tấc da thịt nào lành lặn, nàng đã biến thành con quái vật xấu xí ghê tởm nhất thế gian này!

A Hành ôm lấy đầu, co rúm lùi lại, đoạn khóc lóc òa lên thảm thiết, nhưng nước mắt của nàng chưa kịp tràn ra khỏi khóe mắt đã bay hơi. Giờ đây, ngay cả khóc, nàng cũng không thể nữa rồi!

“A Hành, nàng còn nhớ ta không? Ta từng nói với nàng, nếu nàng thành ma, ta cũng sẽ cùng nàng trầm luân trong ma đạo kia mà!”

Xi Vưu ra sức lại gần nàng, nhưng nàng một mực khóc lóc né tránh.

Xi Vưu thê thiết gọi: “A Hành, đừng tránh ta, ta không sợ nàng đâu.”

Nhưng ta sợ, sợ quái vật xấu xí ghê tởm như ta sẽ thiêu đốt chàng thành tro bụi. A Hành vừa quyến luyến vô hạn nhìn Xi Vưu, vừa bi ai vô hạn lùi lại.

Nhìn bộ dạng đau khổ của A Hành, Xi Vưu cũng tan lòng nát dạ.

Yêu thương nhau sâu đậm là thế, vậy mà ngay cả đến gần cũng không thể, trên đời còn chuyện gì tàn khốc hơn thế nữa chăng?

Ánh mặt trời rạng rỡ rọi xuống rừng đào, khiến muôn đóa ngàn hoa đều rực lên lộng lẫy, nhưng dưới ánh mặt trời, năng lượng hủy diệt trong người A Hành lại càng mạnh thêm, chút ý thức cuối cùng của nàng cũng bắt đầu tiêu tán.

Dần dà, nàng đã quên hết tất thảy, quên Hiên Viên, quên Thần Nông, quên bản thân mình, quên Xi Vưu, quên tất cả mọi chuyện, chỉ đinh ninh ghi khắc một ý niệm cuối cùng: phải tránh xa nam tử dưới gốc đào kia, không được thiêu cháy hắn thành tro bụi.

A Hành xua xua tay với Xi Vưu, ý bảo hắn đừng lại gần, cổ họng phát ra tiếng gào ú ớ, nhưng không sao thốt nổi thành lời.

Xi Vưu rảo bước tiến về phía nàng, chợt A Hành quay ngoắt người, chạy vụt đi.

“A Hành!” Xi Vưu đuổi theo.

Hai bóng người một trước một sau, một nóng nảy, một lạnh buốt lướt ngang đồng hoang như gió, thoắt đã biến mất.

A Hành chạy xa dần, không khí cũng dần dần dịu đi, không còn nóng nực nữa, tướng sĩ hai bên đều thở dài nhẹ nhõm.

Phong Bá và Vũ Sư ra lệnh rút lui, Ứng Long trông thấy cũng không hề có ý tấn công. Vừa trải qua kiếp nạn hủy thiên diệt địa, quân sĩ đều kinh hồn bạt vía, đại tướng toàn bộ trọng thương, chẳng còn năng lực truy kích Thần Nông nữa.

Đột nhiên, tiếng kèn xung trận hào hùng lại nổi lên. Hiên Viên và Thần Nông đều kinh ngạc ngẩng lên, nhìn về phía tiếng kèn.

Bụi hồng cuồn cuộn, vó ngựa rầm rập, hơn một vạn quân sĩ đột nhiên xuất hiện đằng xa, người cầm đầu cưỡi Trùng Minh điểu ngũ sắc, mình vận giáp vàng, tỏa ánh hào quang rực rỡ.

Vũ Sư kinh hãi thốt: “Chẳng phải Hoàng Đế trọng thương rồi ư? Sao ông ta lại ra trận được? chẳng phải vẫn nói bảo vệ đất nước nên đã giao toàn bộ quân lực Hiên Viên cho Hiên Viên vương cơ rồi đấy sao? Sao lại còn một cánh quân?”

Bóng giáp vàng dẫn thiên quân vạn mã xông lên, hào quang chói lóa xói vào đáy mắt tất cả mọi người.

Tướng sĩ Hiên Viên tộc phấn khởi reo vang: “Hiên Viên Hoàng Đế!”

Tướng sĩ Thần Nông tộc kinh hoàng rú lên: “Hiên Viên Hoàng Đế!”

Giọng nói của Hoàng Đế cất lên, uy nghiêm mà ôn hòa, vang vọng khắp đất trời: “Các tướng sĩ Hiên Viên, đây là trận chiến cuối cùng, sau trận này, các ngươi có thể về nhà!”

Về nhà! Về nhà! Về nhà…

Giọng nói sang sảng đầy linh lực không ngừng văng vẳng giữa đồng hoang, có tác dụng cổ vũ nhân tâm hơn bất cứ hồi kèn nào, khích lệ sĩ khí hơn mọi lời đao to búa lớn.

Tướng sĩ Hiên Viên đang mệt mỏi rã rời lại được khích lệ đấu chí, vì mẹ, vì vợ, vì con gái, vì sắp được về nhà… Ai nấy đều dốc hết toàn bộ sức lực, theo Hoàng Đế xông thẳng về phía Thần Nông. Hùng phong của đội quân thiết kỵ Hiên Viên kiêu dũng thiện chiến nổi tiếng khắp đại hoang một lần nữa lại tái hiện.

Quân Thần Nông đã tổn thất quá nửa, Phong Bá, Vũ Sư, Si, Mỵ, Võng, Lượng dù bị trọng thương, khó mà chống đỡ nổi đòn phục kích được Hoàng Đế hoạch định từ lâu, tất cả đều biết trận này Thần Nông thua chắc.

Phong Bá cởi phăng áo áo choàng ra, quay sang chửi Vũ Sư: “Đồ gián điệp Cao Tân nhà ngươi, còn chưa mau cút về Cao Tân tìm Thiếu Hạo đi.”

Vũ Sư bước lên sánh vai cùng Phong Bá đối kháng Hoàng Đế, không quên quát trả: “Đợi đánh thắng trận này, ngươi có quỳ xuống cầu xin ông đây cũng không ở đâu.”

Cặp mắt Phong Bá lấp loáng ánh lệ, Si Mỵ Võng Lượng cũng phá lên cười hùa theo: “Đánh thắng trận này, chúng ta phải tới thăm phủ đệ trang nhã hào hoa của phong lưu công tử Nặc Nại mới được, nghe nói con gái Cao Tân yểu điệu lắm nha!”

“Giết!”

“Giết!”

Trong tiếng hò hét vang trời quân đội hai bên bắt đầu lao vào nhau.

Bóng đao ánh kiếm loang loáng, máu thịt tung tóe, nói là chiến đấu, chi bằng bảo là đồ sát còn đúng hơn.

Tướng sĩ Thần Nông tộc rừng người ngã xuống, từng người hi sinh.

Si, Mỵ, Võng, Lượng gục trong vũng máu.

Phong Bá bị ngọn thương vàng của Hoàng Đế đâm trúng, cả người đầy máu, ngã nhào từ trên không xuống, như một phiến lá úa mùa thu, bồng bềnh rơi xuống đất, gương mặt vẫn nguyên nét cười. Đó là điệu múa cuối cùng trong gió của gã, đến tận lúc lìa đời, gã vẫn như một cơn gió, không hề úy kỵ.

Vũ Sư bị cả trăm cây đũa của Tượng Võng bắn trúng, máu tươi phun ra, thân mình lảo đảo, nhưng mãi không chịu ngã xuống, cánh tay còn run rẩy đưa lên khiến Tượng Võng kinh hoàng lùi lại, đoạn rút thêm một chiếc đũa, bắn vào yết hầu Vũ Sư.

Thân hình Thiếu Hạo chợt nhoáng lên, đánh văng cây đũa của Tượng Võng ra, cứu lấy Nặc Nại, bế xốc y rời khỏi chiến trường.

“Ngươi đã hoàn thành nhiệm vụ, ta cũng đã cho phép ngươi rút khỏi đó, tại sao không đi? Để ta đưa ngươi về Cao Tân.”

Nặc Nại tựa hồ không nghe thấy gì, chỉ run rẩy với tay ra, như muốn làm gì đó.

Thiếu Hạo kiểm tra thương thế cho y, phát hiện kinh mạch toàn thân y đều đã đứt đoạn, không thể cứu chữa, đành đau xót hỏi: “Nặc Nại, ngươi còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành, cần ta giúp không?”

Nặc Nại nghe mà như không thấy, chỉ trân trân nhìn lên trời. Vòm không trên đầu y mênh mông bát ngát, xanh biếc một màu, dăm ba cánh bướm sặc sỡ chẳng biết từ đâu bay lại, lướt ngang bầu trời, như từng đóa hoa tươi nở rộ, phiêu phất giữa không trung.

Y giơ tay lên, gắng gượng mấy lần, cuối cùng cũng run rẩy gỡ được chiếc mặt nạ trên mặt xuống, ném qua một bên, gương mặt méo mó khủng khiếp phơi ra dưới ánh mặt trời.

Mười mấy năm nay, đã bao lâu Vân Tang đi lướt qua y, cặp mắt dán chặt vào y không chớp, bi ai phẫn nộ đan xen, như đang chất vấn: “Ngươi là ai? Là Nặc Nại từng thề bảo vệ ta, hay là Vũ Sư Xích Tùng Tử họa loạn Thần Nông?”

Y cũng chẳng rõ mình là ai, chỉ biết nấp bên dưới chiếc mặt tăm tối, né tránh ánh mắt của nàng, nhưng hiện giờ, y có thể đường đường chính chính tuyên bố với nàng, trái tim của y chưa hề thay đổi! Y muốn đối diện với nàng bằng gương mặt thật của mình!

Cánh tay Nạc Nại run rẩy với lên trời cao, từng cánh bướm lần lượt tụ lại, càng tụ càng đông, muôn màu muôn vẻ, nào trắng, nào hồng, nào lam, nào vàng… hệt như mùa xuân đã về, muôn hoa khoe sắc quanh mình y. mấy cánh bướm rực rỡ còn đậu lên cả ngón tay y. Nặc Nại đắm đuối nhìn đàn bướm, ôn nhu vô hạn, quyến luyến vô chừng.

Còn nhớ mấy trăm năm trước, lần đầu gặp gỡ bên Ao Tinh trì, nàng hồn nhiên tươi cười khuấy động mặt hồ, cũng khuấy động cả cõi lòng y; trên Đột Bích sơn, nàng phong tư phơi phới, thông tuệ tài hoa, khiến y hết lòng ngưỡng mộ, đồng thời âm thầm chua xót, tri âm khó gặp, vậy mà nàng lại là vị hôn thê của Thiếu Hạo.

Người đời nguyền rủa, máu nhuộm sa trường, bao đêm dài quạnh quẽ đau đớn, điểm tựa duy nhất của y chính là tiếng cười trong trẻo của Vân Tang bên Ao Tinh trì, là dáng nàng tha thướt trên Đột Bích sơn.

Y muốn gặp nàng xiết bao, muốn trông thấy nàng tươi cười xiết bao, nhưng hai mươi năm nay, suốt hai mươi năm nay, y luôn nấp sau mặt nạ, chẳng dám nhìn nàng lấy một lần.

Vân Tang, hiện giờ ta có thể nhìn thẳng vào nàng rồi, ta chỉ muốn nhìn nàng một lần mà thôi! Một lần cuối cùng thôi!

Có điều, ta biết chẳng thể được nữa rồi, hiện giờ nhất định nàng còn đang ở Hiên Viên sơn, Hiên Viên Thanh Dương vang danh thiên hạ là hảo nam tử, chỉ hi vọng sau này y đối xử tốt với nàng.

Vân Tang, ta không thể dựng cho nàng một căn nhà có hồ sâu núi cao, lại thất hứa với nàng rồi. Ta hứa với nàng bao nhiêu điều, dường như ta chưa làm được điều gì cả, nhưng nam tử mà nàng gặp bên Ao Tinh trì, dưới Đột Bích sơn, xưa nay chưa hề phụ nàng.

Từng cánh bướm bay về phía Nặc Nại, đậu lên tay y, ngực y, má y, đập cánh liên tục, như muốn truyền đạt điều gì đó, nhưng Nạc Nại không hiểu, y chỉ tha thiết nhìn bầy bướm, ôn nhu vô hạn, lưu luyến vô chừng.

Cuối cùng, y ôm đầy tiếc nuối, thở hắt ra một hơi, cánh tay thõng xuống, cặp mắt đã lạc thần vẫn trân trân dán chặt vào những cánh bướm dập dờn bên cạnh.

Ngàn vạn cánh bướm mỹ lệ lượn vòng quanh Nặc Nại rồi phấp phới bay lên, tựa như chua xuân rời gót, hoa rụng ngợp trời.

Trên đỉnh Tuyên sơn.

Từ lúc cuộc chiến mở màn, Vân Tang đã gắng gượng leo lên cành dâu, ngóng về phía Đông. Quanh nàng là những cánh bướm đủ màu, tầng tầng lớp lớp, đàn đàn lũ lũ như gấm như lụa, ngập trời rợp đất.

Nàng đang đợi.

Đợi khả năng thắng lợi của cuộc chiến, và cái chết của Nặc Nại. Nếu Thần Nông thắng, thân là mật thám của Cao Tân, y nhất định sẽ dấy loạn. nàng đã hạ lệnh cho Xi Vưu phải giết y.

Đợi khả năng thất bại của của cuộc chiến, và tin Nặc Nại còn sống. Nếu Thần Nông thất bại, nhiệm vụ của y cũng hoàn thành, chắc chắn sẽ rời khỏi.

Bất kể kết quả ra sao, nàng cũng tự quyết định vận mệnh cho mình. Nếu thất bại, Thần Nông quốc diệt vong, thân là Trưởng vương cơ, nàng chẳng còn mặt mũi nào sống tiếp, đành lấy thân tuẫn quốc; nếu thắng lợi, Nặc Nại bị giết, thân là kẻ đích thân hạ lệnh giết y, nàng cũng không thể sống một mình, nàng phải đi theo y.

Nhưng, nàng đâu có ngờ, tin tức nàng đợi được lại là: Thần Nông thất bại, Nặc Nại tử vong.

Nặc Nại, sao chàng không rời khỏi đó? Chẳng phải nhiệm vụ của chàng đã hoàn thành rồi ư? Sao không quay về Cao Tân?

Cách xa ngàn dặm, khi đối diện với ánh mắt ôn nhu lưu luyến của Nạc Nại đắm đuối nhìn những cánh bướm rợp trời, Vân Tang đã hiểu mọi điều y muốn nói với nàng, nhưng Nạc Nại không sao nghe được những điều nàng muốn tỏ cùng y.

Không sao, chúng ta sắp đoàn tụ rồi, thiếp sẽ thổ lộ hết với chàng bấy nhiêu tương tư trong từng ấy năm đằng đẵng.

Khi trái tim Nặc Nại ngừng đập, cánh tay thõng xuống, từng cánh bướm lũ lượt bay lên, lượn vòng quanh Nặc Nại, như những cánh hoa chất chứa bi ai bay lả tả ngập trời, đàn bướm vây quanh Vân Tang cũng chấp chới bay cả lên, như mây màu tản mác, gấm đoạn rách tan.

Vân Tang chan hòa nước mắt, nhưng khóe môi lại he hé một nụ cười kiều diễm ôn nhu vô hạn.

Nặc Nại, thiếp đến đây, thiếp sẽ đến ngay đây, đợi thiếp với!

Vân Tang dồn chút linh lực cuối cùng hóa thành hỏa cầu, ngọn lửa bùng lên từ gốc dâu, rồi lan dần lên trên, bốc cháy rừng rực, chẳng mấy chốc, cả gốc dâu đại thụ đã biến thành bó đuốc khổng lồ hình cây nấm.

Vân Tang áo trắng như tuyết, đứng giữa ngọn lửa, dáng người tha thướt, không vướng bụi trần.

Ngọn lửa ngùn ngụt mang theo linh khí từ sinh mạng của Thần Nông vương tộc, bốc cao ngút trời, dù cách ngoài ngàn dặm cũng có thể trông thấy.

Trên thế gian này, còn ai sở hữu linh khí tinh thuần nhường ấy của Thần Nông vương tộc?

Thì ra, đây chính là nguyên nhân Nặc Nại thà tử chiến sa trường chứ không chịu quay về Cao Tân.

Thiếu Hạo đỡ Nặc Nại, nâng đầu y lên, để đôi mắt mở trừng trừng của y trông về phía ngọn lửa rực rỡ cuối trời, từng cuộn khói trôi ngang trời ấy, là vì y mà nhen lên.

“Nặc Nại, ngươi thấy không? Vân Tang sợ ngươi cô đơn, tới tìm ngươi này.”

Trên Tuyên sơn, thế lửa càng lúc càng mạnh, ánh đỏ ngút trời, lung linh rực rỡ, như một tràng thịnh thế yên hỏa. Cả người Vân Tang đã bén lửa, tỏa bạch quang chói ngời tựa đóa sơn trà trắng tinh khôi.

Ngọn lửa thiêu đốt ruột gan, khiến nàng đau đớn khôn xiết.

Giữa vầng bạch quang lóa mắt, Vân Tang trông thấy Nặc Nại mình vận cẩm y, khoan thai tiến lại phía nàng, dáng dấp phong lưu, hòa hoa nho nhã, hệt như lần đầu gặp gỡ trên Ngọc sơn, bên Ao Tinh trì, dưới Đột Bích sơn.

Vân Tang mơ màng hoảng hốt, quên khuấy cả nỗi đau bị lửa thiêu đốt, chỉ thấy ánh sánh lung linh rợp trời, ngọn lửa rực rỡ ngút mắt, như dành riêng cho hôn lễ của họ. Cả đất trời chói lọi vàng son, đẹp đẽ vô chừng, hân hoan rộ rã, tựa hồ toàn thiên hạ đều đang chúc phúc cho họ. Nàng vừa mừng vừa giận, khẽ hỏi: “Sao giờ chàng mới tới? Thiếp đợi chàng mấy ngày mấy đêm rồi, chàng có biết thiếp lo lắng chừng nào không? Mọi người đều nói chàng sẽ không đến rước dâu, bảo thiếp đừng chờ đợi nữa, nhưng thiếp không tin!”

Nặc Nại chỉ cười không đáp, hai tay dang ra, dịu dàng ôm chặt lấy nàng.

Vân Tang tựa vào người Nặc Nại, thì thầm: “Chàng đã hứa xây cho thiếp một Ao Tinh trì, một Đột Bích sơn còn đẹp đẽ tinh xảo hơn cả trên Ngọc sơn nữa mà…”

Bóng dáng yêu kiều của Vân Tang chìm trong biển lửa.

Ngọn lửa càng cháy càng dữ dội, ráng tím ngợp trời, lung linh rực rỡ, từng cụm lửa đỏ tan tác như hoa rơi, diễm lệ mà thê lương khôn tả.

Chút linh khí cuối cùng từ sinh mệnh Vân Tang cũng tan biến.

Tiếng chém giết vẫn vang lại từng chập, mặt đất la liệt thi thể, lênh láng máu tươi.

Thiếu Hạo nhẹ nhàng đưa tay vuốt mắt cho Nặc Nại, cách ly y khỏi tất cả những máu me chém giết này.

Trong thế giới của họ, không nên tồn tại những thứ đó, chỉ mình Thiếu Hạo y vẫn phải dấn bước giữa bể máu tanh mà thôi.

Bằng hữu cuối cùng của y từ thời niên thiếu đã đi rồi, còn do y đích thân đưa tiễn. A Hành nói đúng, y chính là kẻ vô tình nhất thế gian này. Năm ấy, y hiểu tình cảm sâu nặng cùng nỗi hổ thẹn của Nặc Nại đối với Vân Tang, nên mới lấy cớ giúp đỡ Thần Nông, phái y tới Thần Nông làm gián điệp, há không phải là lợi dụng ư? Khi Thiếu Hạo y đang vắt óc nghĩ cách qua mặt Xi Vưu, Nặc Nại lại chủ động đề nghị hạ độc hủy dung, tự tàn hủy thân thể, y có từng phản đối chưa? Cái chết của Nặc Nại, lẽ nào không có phần của y ư? Chẳng lẽ chỉ mình Hoàng Đế vì tranh đoạt thiên hạ mà bất chấp thủ đoạn thôi ư? Chẳng phải y từng bước sắp đặt để Hoàng Đế quyết đấu với Xi Vưu thế nên Xi Vưu và A Hành rơi vào tình cảnh hôm nay, chẳng phải là do y và Hoàng Đế chung tay tạo nên ư?

A Hành chạy như bay, chẳng phân biệt phương hướng xa gần, chỉ biết dựa vào bản năng, guồng chân mà chạy.

Xi Vưu đuổi riết đằng sau.

A Hành chạy đến đâu, tức thì sông suối cạn kiệt, đất đai nứt nẻ, cây cỏ héo úa, muông thú rít gào đến đó, cả thiên địa dường như đều biến thành một lò lửa khổng lồ, ngàn dặm khô hạn, vạn dặm héo hắt.

Dân chúng dọc đường kinh hoàng la hét chửi rủa nàng, “Ác ma đến kìa, mau giết ác ma, giết ác ma!” Nói đoạn lũ lượt lấy tên bắn nàng, vung dao chém nàng, dùng kiếm đâm nàng, chỉ muốn đuổi nàng đi.

A Hành co rúm người lại, ôm lấy đầu, gào lên thảm thiết, tránh trái né phải, rõ ràng thừa sức giết tất cả bọn họ, nhưng nhất quyết không chịu trả đòn, chỉ vừa kêu la vừa bỏ chạy.

Xi Vưu lòng đau như cắt, ầng ậng nước mắt, để chấm dứt chiến tranh, để dân chúng được an cư lạc nghiệp, nàng chẳng tiếc từ bỏ cả tự do trong tầm tay với, hóa thân thành ma, vậy mà bọn họ nào có hiểu, còn hò nhau định giết nàng. Hắn vừa gạt những kẻ tấn công nàng ra, vừa tha thiết gọi: “A Hành.”

Nghe tiếng Xi Vưu gọi, A Hành chợt thấy tim nhói lên, ngơ ngác đứng sững lại, ngoảnh đầu nhìn hắn, như muốn chạy lại phía hắn. Nhưng hắn vừa đến gần, nàng liền xua tay lia lịa, vừa ngăn hắn tiến lại, vừa khóc lóc giật lùi quay người bỏ chạy.

A Hành càng chạy càng nhanh, càng chạy nhiệt độ càng tăng lên, mãi tới khi đến một vùng núi non trùng điệp, bị chấn động bởi phong cảnh trước mắt, nàng mới chậm lại.

Tế đài trắng toát, nhà sàn xanh ngắt, hoa đào đỏ thắm… Cảnh trí xung quanh toát lên cảm giác vô cùng thân thuộc, khiến nàng không sao chạy tiếp nữa, chỉ muốn dừng chân ngơi nghỉ tại đây.

Nhưng hạn hán kéo đến, hết thảy đều bị chính nàng hủy diệt. Nàng chỉ biết ngẩng đầu gào khóc van xin, đừng, đừng mà, xin đừng! Nàng không nỡ rời khỏi, nhưng càng không nỡ hủy diệt tất cả nơi đây, đành đau đớn lùi lại, chạy ra xa.

“A Hành, không sao đâu, lại đây.” Xi Vưu rạch cổ tay, máu tươi ròng ròng nhỏ xuống, thấm vào lòng đất, bảo vệ cho Cửu Lê.

Cả đất trời nhuốm màu đỏ rực, hạn hán hoành hành khắp nơi, vạn vật đều bị hủy diệt.

Chỉ riêng ngọn núi này vẫn nở rực hoa đào, thắm tươi như máu, cũng diễm lệ như máu.

Xi Vưu mỉm cười dỗ dành: “Nàng xem, hoa đào nở đẹp như vậy, nhà chúng ta vẫn yên ổn mà.”

A Hành đứng cuối rừng đào, đau đớn nghi hoặc nhìn Xi Vưu. Đào hoa nở tràn trước mắt, bóng người ngạo nghễ đứng dưới cả trời hương ngát, đều thân thuộc khôn xiết, như đang mời gọi nàng, nàng phải đến đó. Nhưng, trong đầu nàng lại vang lên một giọng nói khác, ngăn nàng bước tới.

A Hành vừa khao khát muốn bước lại, vừa sợ hãi giật lùi.

Xi Vưu đứng giữa rừng đào, bi ai chua xót nhìn A Hành đau đớn hoang mang, chỉ muốn ôm lấy nàng vào lòng, nhưng chính hắn cũng biết, mình không cách nào có thể lại gần nàng, hễ hắn đến gần, nhất định sẽ tan thành tro bụi.

Đứng ngay dưới cội hoa đào mà chẳng thể gặp nhau, ở ngay trước cổng nhà mà không thể cùng nhau chung sống. Lẽ nào, giờ đây, ngay cả ôm lấy nàng cũng chỉ là vọng tưởng sao? Lẽ nào, dù chết đi cũng chẳng thể bên nhau ư?

A Hành đờ dẫn nhìn căn nhà thấp thoáng giữa rừng đào, chiếc giếng đá kia, giàn mướp lúc lỉu kia, bức rèm xanh ngắt kia, những đóa tường vi đẹp như ráng chiều kia, dường như đều thân thiết như máu thịt nàng.

Tinh tang, tinh tang…

Tinh tang, tinh tang…

Tiếng chuông vang vọng trong óc nàng, như có thứ gì đó bên trong đang khóc lóc cào xé nàng, A Hành đau đớn ôm lấy đầu, gào lên thảm thiết, rốt cuộc đó là thừ nào đây?

“A Hành, lại đây đi, chúng ta về đến nhà rồi!”

Nam tử đứng trước cửa căn nhà sàn giữa rừng đào đang cao giọng gọi tên nàng. A Hành nghe mà chẳng hiểu gì hết, nhưng không rõ tại sao lại bị mấy tiếng “chúng ta về đến nhà rồi” hấp dẫn, dè dặt tiến về phía Xi Vưu.

Đây, đây rốt cuộc là đâu? Vì sao nàng luôn khao khát muốn chạy đến, nhưng lại không ngừng ép bản thân lùi lại.

Vì sao tim nàng lại đau như muốn vỡ tung thế này? Nàng điên cuồng đấm ngực mình, gào lên thê thiết.

“A Hành!”

Tiếng gọi dịu dàng mà bi thương khôn xiết thốt ra từ miệng nam tử kia, lại tựa như vang lên tự sâu thẳm đáy lòng nàng. A Hành chăm chú nhìn nam tử đứng giữa rừng hoa, trước căn nhà sàn, không kiềm nổi lao đến, toan nhào vào lòng hắn. Nhưng đột nhiên, một giọng nói lại vang lên từ trong tiềm thức, cảnh cáo nàng không được tới gần! Nàng sẽ hủy diệt tất cả! A Hành khoảng hốt lùi lại, cứ thế ngập ngưng lưỡng lự hoài không sao quyết định được.

Sức mạnh của A Hành càng lúc càng bành trướng, ngay đến máu rút từ sinh mệnh Xi Vưu cũng không bảo hộ nổi Cửu Lê, cả rừng đào cứ từ từ khô héo. Nhìn những cách đào rụng rơi lả tả, A Hành không kìm được thét lên, đừng mà, đừng tàn úa! Đừng tan biến!

Khi gốc đào gần nàng nhất tan thành tro bụi, A Hành cũng hạ quyết tâm, buộc bản thân không được lưu luyến nữa, nàng đăm đăm nhìn Xi Vưu, giật lùi từng bước một.

“A Hành, đừng đi, nàng sẽ không hủy diệt nơi này đâu.” Xi Vưu bi thương chìa tay ra, máu tươi từ cổ tay bị hắn thúc động ròng ròng chảy xuống, nhưng còn chưa kịp thấm xuống đất đã hóa thành khói đỏ, tiêu tan giữa chừng không.

Thân hình A Hành dần dần mờ đi, mông lung như một cuộn khói xanh nhàn nhạt. Xi Vưu sực hiểu ra, sức nóng của mặt trời thiêu hủy vạn vật, đồng thời thiêu hủy luôn cả A Hành, trái tim nàng đang từ từ tiêu tan, chẳng bao lâu nữa, nàng cũng sẽ tan thành mây khói.

Lại thêm mấy gốc đào hóa thành tro bụi, giữa màn khói đen mịt mờ, A Hành nhếch miệng, như cười như khóc, rồi đột ngột quay phắt người chạy vụt đi như gió, nàng phải rời khỏi đây ngay, sau đó sẽ tan biến vĩnh viễn.

“A Hành, đừng rời bỏ ta!” Chợt một tiếng gọi vang động cả đất trời cất lên.

A Hành nghe mà không hiểu gì cả, nhưng lại bị chấn động bởi nỗi bi ai cùng thâm tình tha thiết trong tiếng gọi đó, nàng vô thức dừng lại, ngoái đầu nhìn.

Xi Vưu thần sắc thê lương, giơ tay lên, lập tức Bàn Cổ cung từ trong nhà bay vụt vào tay, tỏa ra hồng quang chói lọi.

“A Hành, nàng còn nhớ cây cung này không? Xưa nay ta chưa từng kể nàng hay, năm đó ta lẻn vào địa cung Ngọc sơn trộm đồ, không phải vì quen thói phóng túng tùy tiện, mà là bởi nhớ nhung quá đỗi không cách nào nguôi ngoai được.”

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, từ từ giương Bàn Cổ cung lên, ngắm đúng vào tim nàng. Trên thế gian này không có mũi tên nào để phối với cung, mũi tên duy nhất có thể dùng chính là trái tim. Mười ngón liền tâm, mười ngón nắm chặt lấy cung, Xi Vưu dốc chút thần lực cuối cùng, thông qua mười ngón tay, nối liền trái tim mình vào cây cung.

Hắn vận sức kéo dây cung, cánh cung thoạt nhìn trống không, nhưng lại thấy máu tươi tí tách nhỏ xuống, cung càng giương căng, máu tuơi càng ròng ròng chảy, Xi Vưu đã đau đến tái xám mặt mày, thân mình run bắn lên, hệt như đang bị khoét tim.

Cánh cung cuối cùng cũng được giương hết cỡ, Xi Vưu đắm đuối nhìn A Hành, dịu dàng buông tay bắn ra: “A Hành, ta không để nàng xa ta lần nữa.”

Bang!

Bàn Cổ cung chợt rền vang, tỏa hào quang ngập trời, trời rung đất chuyển, cả rừng đào lả tả rụng rơi.

“Á a a a a!!!”

Giữa muôn vàn cánh đào đỏ thắm rợp trời, A Hành thét lên thê thiết, như thể lồng ngực bị xé toang, rồi một thứ gì đó cắm phập vào, nàng đau đớn ôm lấy ngực, hơi nóng rừng rực thiêu đốt ruột gan trong ngoài dần dịu lại.

Xi Vưu cũng đau đớn ôm lấy ngực, khuỵu một chân xuống đất, nhưng vẫn gắng gượng ngẩng đầu, nồng nàn tha thiết nhìn A Hành.

Dần dà, nguồn sức mạnh kinh khủng trong người A Hành từ từ tan biến, cặp mắt nàng cũng thôi đỏ ngầu, nàng bắt đầu khôi phục lại thần trí.

Đào hoa rợp trời, phấp phới lả tả, chẳng khác nào làn mưa bụi Giang Nam ôn nhu diễm lệ.

Giữa trận mưa hoa, Xi Vưu khuỵu một chân xuống đất, một tay ôm ngực, tay kia chìa ra cho nàng, dịu giọng gọi: “A Hành, lại đây nào.”

A Hành không rời mắt khỏi Xi Vưu, loạng choạng bước về phía hắn, Xi Vưu cũng gượng đứng dậy, lảo đảo tiến lại phía nàng.

Nền trời đỏ rực, mặt đất đỏ thẫm, cả đất trời nhuộm thắm màu máu, vạn vật đều hôn mê bất tỉnh, xung quanh không một tiếng động, chỉ có hai người đang liêu xiêu đi về phía nhau, tựa hồ như bọn họ đã trở thành nam tử duy nhất, nữ tử duy nhất trên thế gian này.

Hoa đào ngàn dặm đua nhau khoe sắc, cuối cùng, nàng và hắn cũng gặp nhau dưới cội đào.

Giữa rợp trời hoa nở, Xi Vưu mỉm cười ôm chặt A Hành vào lòng, siết mạnh, rối siết mạnh hơn nữa. A Hành vùi mặt vào ngực hắn, nhoẻn cười hạnh phúc, chợt nàng thấy có gì đó không ổn, nghỉ ngơi một thoáng mới phát hiện ra, nàng không nghe được tiếng tim hắn dồn dập đập nữa rồi. Lồng ngực Xi Vưu đã lạnh băng, chẳng còn nồng nàn ấm sực, dồi dào sinh lực như xưa.

A Hành kinh hoảng ngẩng lên nhìn Xi Vưu, Xi Vưu chỉ mỉm cười nhìn nàng, đáy mắt chan chứa nhu tình. Nàng dần dà vỡ lẽ, thì ra đây chính là ý nghĩa của bốn chữ “dĩ tâm hoán tâm” trên Bàn Cổ cung, hắn đã dùng trái tim mình, thay cho trái tim nàng bị sức nóng của mặt trời hủy hoại.

Xi Vưu không còn tim nữa… Xi Vưu sắp chết!

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, từ từ nhoẻn miệng cười theo hắn, đôi mắt ánh lên vẻ bình thản mà cương quyết. Cây chết mây còn còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau!

Nàng tươi cười ôm chặt lấy Xi Vưu, hệt như dây mây quấn lấy thân cây. Bất luận ra sao, cuối cùng họ cũng được ở bên nhau, sống chết giờ đây chẳng còn quan trọng nữa, cứ thế này mà vĩnh bất phân ly, cứ thế này mà thiên trường địa cửu.

Xi Vưu ôm lấy nàng, thều thào hỏi: “Còn nhớ những lời nàng nói trên Triêu Vân phong không? Nàng nói “muốn nhìn Tiểu Yêu, Chuyên Húc bình an lớn lên, nhìn bọn chúng dựng vợ gả chồng”, ta đã hứa nhất định sẽ thực hiện ý nguyện của nàng. Nếu hiện giờ chết đi, nàng sẽ phải ôm hận suốt đời, vĩnh viễn không sao yên lòng về Tiểu Yêu được. Lẽ nào nàng không muốn chứng kiến con gái chúng ta lấy chồng ư? Không muốn biết nó sẽ kết hôn với người ra sao ư?”

Thấy A Hành máy môi, Xi Vưu liền đặt ngón tay lên miệng nàng, cười nói: “Ta biết ta biết, ta còn hứa với nàng, ngày ngày đều ở bên nhau.”

A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, gật đầu.

Ánh mắt Xi Vưu thoáng vẻ giễu cợt, hắn lạnh nhạt nói: “Lịch sử trên thế gian này đều do kẻ thắng dựng nên, sau này khi Tiểu Yêu lớn lên, nghe thiên hạ nói cha nó là là một tên đại ma đầu nịnh trên nạt dưới, tàn nhẫn hiếu sát, dụ dỗ mẹ nó, nhất định sẽ đem lòng căm hận ta, thậm chí cả nàng. A Hành, nàng giúp ta một việc được không, nàng phải chính miệng nói cho Tiểu Yêu biết, cha nó rất yêu nó. Nói cho nó hay, cha nó chưa bao giờ làm bất cứ việc gì trái đạo, để nó khỏi phải hổ thẹn về chúng ta. Từ nhỏ ta đã không cha không mẹ, ta không muốn con gái ta lại phải sống cảnh không cha không mẹ nữa. Từ lúc Tiểu Yêu ra đời, ta chưa một ngày làm tròn trách nhiệm người cha, việc duy nhất ta có thể làm cho nó là giữ cho nó một người mẹ, để nó có cơ hội biết cha mẹ nó là người như thế nào, để nó khỏi phải cả đời sống trong hổ thẹn.”

A Hành ròng ròng nước mắt, lắc đầu quầy quậy, không, không, nàng không muốn sống một mình!

Xi Vưu dịu dàng nói: “Ta biết nàng sẽ rất đau khổ, nhưng nàng phải sống nhé, vì ta, vì cả con gái chúng ta nữa. Chừng nào trông thấy con gái trưởng thành, nàng nhất định sẽ hiểu sự lựa chọn hôm nay của ta, nhất định sẽ thấy dù phải đau khổ đến đâu cũng xứng đáng. Nàng nhận lời ta đi, có được không?”

A Hành đăm đăm nhìn Xi Vưu, không nói một lời, chỉ giàn giụa nước mắt. Xi Vưu run lên, giọng nói càng thêm yếu ớt: “A Hành, nhận lời ta đi!” Ánh mắt đầy vẻ khẩn cầu. Xi Vưu cả đời ngang dọc, A Hành chưa bao giờ thấy hắn lộ ra ánh mắt này, không cách nào cự tuyệt, cuối cùng đành khó nhọc gật đầu.

Xi Vưu nắm lấy tay A Hành, đặt lên ngực nàng, để nàng cảm nhận được tiếng tim đập, “Ta sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh nàng, ta đợi nàng tới tìm ta, chính miệng nói với ta, con gái chúng ta sống rất hạnh phúc. Nàng nhất định phải bảo nó ngẩng lên trời gọi mấy tiếng ‘cha’ cho ta nghe, ta chưa từng được nghe nó gọi cha…” Thân mình Xi Vưu mềm nhũn, gục vào lòng A Hành, “Chẳng biết tiếng ‘cha’ của nó sẽ như thế nào nhỉ, chắc chắn sẽ là âm thanh êm ái ngọt ngào nhất trên đời…”

“Chúng ta lập tức đi tìm Tiểu Yêu, để chàng chính tai nghe nó gọi cha.” A Hành cuống cuồng cõng Xi Vưu dậy, liêu xiêu chạy đi.

Xi Vưu khẽ bật cười, hôn nhẹ lên tai nàng, thì thầm: “A Hành ngốc, A Hành ngốc của ta…”

A Hành ngơ ngác không hiểu hắn cười gì, một thoáng sau mới sực nghĩ ra, trên Bác Phụ sơn, nàng cũng từng cõng hắn như thế này, để hắn hưởng lợi.

“Nàng ngu ngơ như vậy, dễ bị gạt như vậy, để nàng lại một mình ta chẳng yên tâm chút nào. Nhớ nhé, về sau không được dễ dàng tin tưởng bất kỳ ai…” Giọng Xi Vưu mỗi lúc một nhỏ dần, mỗi lúc một yếu dần đi.

A Hành hoảng hốt gọi: “Xi Vưu, Xi Vưu, chàng phải gắng lên, ta lập tức đưa chàng đi gặp con gái, chàng còn chưa nghe nó gọi cha kia mà.”

Xi Vưu gắng gượng đáp: “Được, ta sẽ cố gắng…” Nhưng cặp mắt đã từ từ khép lại.

A Hành cố lấy giọng hào hứng kể: “Ta đâu có ngốc, là chàng xảo trá vô lại thôi, chàng tưởng chàng gạt được ta đấy hả? Chàng không biết đâu, ta vẫn có một bí mật này, xưa nay ta chưa từng nói với chàng, thật ra kẻ bị gạt là chàng đấy, không phải ta đâu. Chàng còn nhớ lần đầu tiên hai ta gặp nhau không? Không phải là lần gặp gỡ mà ta không biết đâu, là lần đầu tiên chính thức gặp nhau đó…”

Xi Vưu rất muốn lên tiếng đáp lại nàng: Nhớ chứ, tất cả mọi thứ liên quan đến nàng, ta đều ghi khắc trong lòng, đời này kiếp này không bao giờ quên. Nhưng hắn gắng hết sức cũng không nghe được tiếng nói của mình, chỉ thấy giọng A Hành càng lúc càng xa dần, rồi từ từ tan biến.

“Đó là một buổi hoàng hôn, cả bầu trời phủ đầy mây ráng, chàng đứng giữa đồng hoang…”

Lần đầu tiên nàng gặp Xi Vưu, là một buổi hoàng hôn mây ráng đầy trời.

Hắn vận một tấm áo đỏ cũ rách, mái tóc đen dài xõa tung, nhìn hệt như dã nhân, hiên ngang đứng giữa đồng hoang, ngẩng đầu nhìn về phía xa, không trông rõ diện mạo, chỉ thấy mái tóc dài xõa tung trước gió, toát lên vẻ cuồng ngạo không để bất cứ ai vào mắt.

Phong thái ngạo nghễ như thể cả đất trời đều đang nằm dưới chân hắn, đã khiến A Hành như bị thu hút, bất giác tiến lại gần.

Trong khoảnh khắc hắn ngoảnh lại, nàng trông thấy tịch dương mênh mông, ráng chiều rực rỡ in trong đôi mắt ấy, còn có cả vẻ gì đó, vô cùng phức tạp, vô cùng mãnh liệt mà không sao hiểu được, trái tim nàng chợt khựng lại một nhịp.

Rõ ràng nàng biết Bác Phụ quốc nằm ở phía hắn ngẩng đầu nhìn vừa nãy, vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, nàng vẫn bước lại, làm bộ ngơ ngác hỏi: “Xin hỏi công tử, muốn tới Bác phụ quốc phải đi thế nào?”

Hắn hờ hững liếc nàng bằng nửa con mắt rồi nghênh ngang bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng. Nào ngờ lòng nàng đột nhiên lại thấy hụt hẫng, nàng vội đuổi theo, nắm lấy tay áo hắn. Trong khoảnh khắc ấy, tim nàng bỗng đập thình thịch như trống làng, cảm thấy mình đúng là điên rồ, chẳng hiểu vì sao cứ khăng khăng đòi giữ chân một kẻ hoàn toàn xa lạ kia chứ.

Hắn đứng thẳng lưng, chăm chú nhìn về phía ráng hồng cuối chân trời, chần chừ mãi chẳng chịu quay lại, nàng cũng nhất quyết không buông tay, đó có lẽ là khoảnh khắc dài nhất trong đời nàng kể từ lúc được sinh ra. Đúng lúc nàng hết cả kiên nhẫn, đã toan rụt tay lại thì hắn mỉm cười ngoái đầu.

Cặp mắt vẫn là cặp mắt đó, có điều thần sắc nồng nàn mê người kia đã không còn nữa.

A Hành thất vọng, nhưng không tiện nói: “Ta biết đường đi rồi”, đành phải theo tên vô lại này, dở khóc dở cười tiến vào Bác Phụ thành.

Mãi đến rất nhiều năm sau, nàng mới hiểu ánh mắt nồng nàn mê người kia của hắn là gì, cũng mới hiểu lần gặp gỡ mà nàng cứ ngỡ là đầu tiên, đối với hắn, chỉ là lần tái ngộ sau một trăm năm, thậm chí còn là lần tái ngộ không hề mong đợi.

Nếu lần đó nàng không níu kéo hắn, hẳn bọn họ sẽ lại đi lướt qua nhau. Có lẽ đời này kiếp này, cũng chẳng bao giờ gặp lại. Hắn sẽ giữ chức tướng quân Thần Nông của hắn, nàng sẽ ngồi lên ngai vi vương phi Cao Tân của nàng.

Hắn vẫn cho rằng vì mình khăng khăng theo đuổi, nên có thể biến một lần gặp gỡ vô tình thành mối duyên một đời, mà đâu có hay, người níu giữ đầu tiên, chính là nàng.

Nếu lần đó hắn không ngẫu nhiên ngoảnh lại, nàng không liều lĩnh níu kéo, có lẽ nàng sẽ vĩnh viễn không bước vào lòng hắn, có lẽ hắn sẽ mãi mãi là Xi Vưu không sợ trời không sợ đất, có lẽ sẽ không có mọi chuyện ngày nay.

Nếu có thể quay ngược thời gian, A Hành cũng chẳng biết mình liệu có lên tiếng hỏi: “Công tử, xin hỏi muốn tới Bác Phụ quốc phải đi đường nào?” nữa hay không.

“Xi Vưu, chàng nói xem, ta có nên hỏi không?”

Kẻ trên lưng lặng yên, chẳng hề đáp lại. hai tay thõng xuống trước ngực nàng. Nước mắt A Hành trào ra, nhưng nàng vẫn vờ như không biết, ra sức thúc động thần lực, truyền vào cơ thể hắn, “Ta biết chàng lại cười ta, không được cười! chàng còn cười nữa, ta sẽ ném chàng xuống vách núi luôn đấy! Để ta kể cho chàng nghe một chuyện này nữa, con bé Tiểu Yêu đó chẳng có bản lĩnh gì, chỉ hoành hành ngang ngược là không ai bằng, thật giống hệt như chàng, có lần ta dẫn con đi…”

A Hành nước mắt chan hòa, chẳng biết mình nên đi về đâu nữa, nàng cứ liêu xiêu đi mãi, gắng hết sức lực mà đi, tựa hồ chỉ cần con đường trước mặt mà còn tiếp tục, hắn sẽ vĩnh viễn ở trên lưng nàng.

“Xi Vưu, chàng xem ráng chiều ở cuối trời kia, có đẹp không? Ta thấy không đẹp bằng lần đầu chúng ta gặp nhau…”

Cuối chân trời, hào quang xán lạn, lửa đỏ rực rỡ, A Hành vừa thao thao nói, vừa liêu xiêu bước đi.

Đột nhiên chân nàng vấp phải thứ gì đó, ngã nhào ra đất, nàng khuỵu một gối xuống đất, ngẩn ngơ nhìn hồ nước đỏ lòm máu dưới chân mình. Làn nước trong hồ in bóng một nữ tử đầu trọc lóc, diện mạo xấu xí, ngớ ra một thoáng, A Hành mới nhận ra đó chính là mình, mà hồ nước đỏ lòm này lại là một vũng máu.

Nàng chậm chạp ngẩng lên, đưa mắt nhìn quanh.

Chẳng biết từ lúc nào, nàng đã ở giữa đồng hoang, từ dưới chân nàng trải đến ngút ngát cuối trời, đều ngổn ngang la liệt những thi thể tướng sĩ Thần Nông.

Si, Mỵ, Võng, Lượng.

Phong Bá.

Vũ Sư…

Xa xa đằng kia là quân đội Hiên Viên, cờ xí rợp trời, khí thế ngùn ngụt, bộ giáp vàng của Hoàng Đế dưới bóng chiều chập choạng, lại càng lấp loáng chói mắt.

A Hành thật không dám tin Hiên Viên vẫn còn có phục binh, mà phụ vương mình lại vẫn có thể cầm quân tác chiến.

Thì ra, từ sau trận Phản Tuyền lần thứ hai, Hoàng Đế nhận ra rằng, Xi Vưu thần lực mạnh mẽ, tâm tư xảo trá, ông ta không thể nào đánh bại hắn trên chiến trường.

Hoàng Đế biết trong thân thể A Hành tiềm tàng một nguồn sức mạnh đáng sợ, có thể hủy thiên diệt địa, mà Xi Vưu dường như lại có tình cảm với A Hành, trên thế gian này, chỉ mình A Hành mới có thể khắc chế thần lực của Xi Vưu, đồng thời kiềm chế hắn.

Nhưng làm sao mới có thể ép A Hành cùng Xi Vưu quyết một trận sinh tử đây?

Trên đường rút chạy về Hiên Viên sơn, cũng như Thiếu Hạo và Xi Vưu, Hoàng Đế nghe được tin A Hành đã tự động từ hôn với Thiếu Hạo, thôi không làm Cao Tân vương phi nữa, lại thêm cái chết của Luy Tổ cắt đứt mối ràng buộc của A Hành, A Hành ắt sẽ rời khỏi Hiên Viên.

Rõ ràng Xi Vưu đã nương tay, không lấy mạng Hoàng Đế, nhưng Hoàng Đế đã lệnh cho Ly Chu bồi thêm một chưởng, khiến thương thế nặng thêm, dùng tính mạng mình ép A Hành lưu lại, sau đó lợi dụng bản tính trọng tình trọng nghĩa của nàng, biến toàn bộ trăm họ Hiên Viên làm quân cờ, buộc A Hành ra trận, còn mình dẫn quân ngầm mai phục. Bất kể A Hành và Xi Vưu ai thua ai thắng, Hoàng Đế chỉ cần lựa thời cơ thích hợp, đánh một mẻ lưới, tiêu diệt toàn bộ quân đội của Xi Vưu.

Cuối cùng Hoàng Đế cũng đánh bại Thần Nông, thống nhất Trung nguyên, dân chúng hai nước rốt cuộc có thể an cư lạc nghiệp rồi!

Nhưng, Si, Mỵ, Võng, Lượng, Phong Bá, Vũ Sư…

A Hành đôi mắt trông về phía cuối trời, thì ra vầng sáng rực rỡ kia không phải ráng chiều, mà là sinh mạng của Vân Tang, gương mặt tươi cười của Vân Tang hiện ra giữa vô vàn bông pháo hoa lả tả rụng rơi, như đâng cáo biệt nàng lần cuối.

Thuở nhỏ sớm chiều bầu bạn trên Triêu Vân phong, thân như tỷ muội, cùng sẻ chia tâm sự; khi mẫu hậu lâm bệnh nặng, cả hai lại cùng hầu hạ dưới gối, nương tựa vào nhau…

“Tỷ tỷ.”

Nước mắt lã chã nhỏ xuống, A Hành chỉ muốn nhắm nghiền mắt lại, ngăn cách bản thân với hết thảy những gió tanh mưa máu, nhưng nàng không cách nào làm được, Xi Vưu đang nằm bên cạnh nàng, khóe môi nhếch lên, vẫn phảng phất nét cười ngạo nghễ ngang tàng như thế, diện mạo tươi tắn như khi còn sống, tựa hồ chỉ lát nữa thôi, hắn sẽ lại mở mắt ra, ngồi bật dậy, cười phá lên, kéo nàng vào lòng xiết chặt.

Hai tay A Hành tun rẩy vươn ra, vỗ vỗ vào má Xi Vưu, “Xi Vưu, Xi Vưu.”

Nhưng, không thể, không thể, vĩnh viễn không thể nữa rồi! Hắn sẽ mãi mãi không mở mắt ra, tươi cười gọi nàng một tiếng “A Hành” nữa.

A Hành ôm lấy đầu Xi Vưu, quỳ giữa bãi chiến trường la liệt thi thể, đau đớn gào lên với trời xanh, “A a a a a.”

Tiếng gào thê thiết lan đi giữa đồng hoang, nhưng chẳng cách nào đánh thức những thi thể im lìm ngút ngàn dưới đất kia.

Xi Vưu, sao chàng bỏ lại ta trơ trọi một mình? Sao lại buộc ta phải một mình đối diện với hết thảy những chuyện này? Giờ đây ta thần không ra thần, ma không ra ma, yêu không ra yêu, người không ra người, thiên hạ rộng lớn, nhưng làm gì có chỗ cho ta dung thân?

Mọi người đều đi cả rồi, chỉ còn mình ta vất vưởng sống tiếp, gánh vác bấy nhiêu ký ức mà sống tiếp, đau khổ biết chừng nào. Ta không kiên trì nổi đâu, ta cũng không đợi được đến ngày con gái khôn lớn, ta muốn đi theo chàng ngay bây giờ.

Trái tim trong lồng ngực như cảm nhận được nỗi bi thương tuyệt vọng của nàng, bỗng đập rộn lên, trong tiếng tim đập mãnh liệt, thi thể của Xi Vưu cũng từ từ bay lên, rồi tan ra như mây khói, biến thành vô vàn cánh đào đỏ thắm, dịu dàng vây lấy A Hành, múa lượn quanh nàng.

Xi Vưu, chàng muốn nói gì với ta?

A Hành từ từ nhắm nghiền mắt lại, ngẩng đầu lên, một tay đặt lên chỗ trái tim, một tay chìa ra.

Giữa rợp rời hoa đào bay, tựa hồ nàng có thể cảm nhận được khí tức của hắn, từng cánh đào lướt qua má, chạm vào ngón tay, chính là bàn tay dịu dàng của hắn, còn dưới tay nàng đây, trái tim thuộc về hắn, đang đập trong mình nàng.

Thình thịch, thình thịch…

Thình thịch, thình thịch…

Đột nhiên, nước mắt A Hành tuôn đầy mặt, thì ra, chàng vẫn luôn ở đây ư! Thì ra, chàng sẽ mãi mãi ở bên ta!

Nàng lẩm nhẩm: “Ta hiểu rồi, bất kể đau khổ đến đâu ta vẫn sẽ gắng sống, vì những người đã khuất, vì Tiểu Yêu, vì cả chàng nữa! Ta phải chính miệng nói với Tiểu Yêu tất cả mọi chuyện, để con biết được, cha nó chính là người anh hùng vĩ đại nhất trên đời này.” Dần dần, hoa đào mỗi lúc một nhiều thêm, bắt đầu tản đi, lan ra khắp đồng hoang, cả dải đồng hoang ngợp đầy hoa đào lả tả, phiêu phiêu phất phất, che lấp bấy nhiêu thi thể, như một trường tuyết tế.

Từng cánh hoa đào tan vào lòng đất, đột nhiên mặt đất cuộn lên như nổi sóng, từ từ chôn vùi hết thảy Si, Mỵ, Võng, Lượng, Phong Bá… Tất cả thi thể đều chỉ chìm sâu xuống lòng đất, biến mất chẳng còn dấu vết.

Chẳng bao lâu, một dải đồng hoang lại mọc lên vô số gốc đào, dần dà biến thành một cánh rừng đào xanh ngắt, phấp phới khoe tươi dưới vòm trời xanh, hiên ngang ngạo nghễ, rạng rỡ thắm tươi, căng tràn nhựa sống.

A Hành thong thả bước vào rừng đào, một tay đặt lên chỗ trái tim, một tay dịu dàng vuốt ve từng gốc đào một.

Xi Vưu, đây là căn nhà chàng kiến tạo cho ta đấy ư?

Ta sẽ ở lại đây, mãi mãi sống bên chàng, không bao giờ rời xa nữa.

Bóng áo xanh gầy gò cô lẻ liêu xiêu đi giữa rừng đào, càng đi càng xa, rồi dần khuất trong biển hoa.

Chỉ thấy ngàn vạn gốc đào thắm tươi rực rỡ, lung linh ngợp trời rợp đất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Vĩ thanh

Sau khi đánh tan Xi Vưu, Hoàng Đế cuối cùng cũng bước lên đỉnh Thần Nông sơn, thống nhất Trung nguyên.

Tuy còn tàn dư Thần Nông như bọn Cộng Công, Hình Thiên, cương quyết không chịu đầu hàng, vẫn giương cao lá cờ của Thần Nông, suất lĩnh đám tàn binh tàn tướng phản kháng Hoang Đế, nhưng đại thể đã thành, những phản kháng yếu ớt ấy chẳng thể vực dậy được Thần Nông quốc.

Thời gian thấm thoắt, năm tháng thoi đưa, chớp mắt đã mấy trăm năm. Vô số máu tươi của nam tử cùng nước mắt của nữ nhi đều tan biến theo cát bụi thời gian, dù oanh liệt hào hùng, khẳng khái bi tráng tới đâu chăng nữa, chẳng qua cũng chỉ còn lại vỏn vẹn mấy dòng trong sách sử, tất cả bị người đời quên lãng.

Có điều, ngọn gió giữa hoang mạc mênh mông ngàn dặm phía Bắc Xích thủy năm này qua năm khác vẫn rít gào quét qua đất liền. Nghe đồn, ở giữa hoang mạc, nơi không ai có thể đến được, mọc lên một cánh rừng đào rậm rì xanh ngắt, mỗi khi màn đêm buông xuống, lại thấy một bóng áo xanh thơ thẩn đi giữa rừng đào, ê a những lời không ai hiểu nổi.

Thường ngày nơi này cát yên gió lặng, thương khách qua lại rất an toàn. Có điều, mỗi độ xuân về, hoa đào nở rộ, tiết trời lại thay đổi, cát vàng vần vũ, cuồng phong gào thét như than như khóc, nhưng hễ khách lữ hành lựa theo tiết tấu trái tim mình mà đánh trống, thì có thể thuận lợi đi qua.

Vì vậy, hàng năm cứ đến mùa xuân, khi cuồng phong vần vũ, cát bụi mịt mù, trong tiếng gió gào như than như khóc, lại văng vẳng nghe thấy tiếng trống thì thùng thì thùng, mạnh mẽ như nhịp đập trái tim nam tử.

Thình thịch... thình thịch... thình thịch…

Cát vàng vần vũ, quạnh quẽ hoang lương.

Thời gian đằng đẵng, lạnh lẽo vô tình.

Nỗi nhớ ngày lại thêm tăng, đau khổ dai dẳng chẳng biết bao giờ mới dứt.

Vô vàn ngày dài đêm thâu, chỉ có hồi tưởng về chàng hết lần này sang lần khác mới có thể giúp ta kiên cường mà sống tiếp, nhưng ký ức càng rõ rệt thì nỗi nhớ càng hằn sâu vào trong xương tủy, đau đớn càng dày xéo con tim, hóa ra, bấy nhiêu lần ôm ấp triền miên, cuối cùng lại chỉ có thể sống chết đôi đàng ngóng vọng về nhau.

Từng muốn cùng chàng hân thưởng mọi âm thanh mỹ diệu nhất trên đời, nhưng khi chàng đi rồi, ta mới hiểu rằng, âm thanh mỹ diệu nhất trên đời này, chính là tiếng chàng dịu dàng gọi “A Hành”. Vậy mà giờ đây, bất kể ta khóc thương tới chừng nào, cũng chẳng thể nghe chàng dịu dàng gọi ta một tiếng “A Hành” nũa.

Từng muốn cùng chàng ngao du thiên hạ, nhưng khi chỉ còn lại một mình ta trơ trọi giữa đời, ta mới hiểu, chàng chính là thiên hạ của ta, cảnh đẹp nhất trên đời này chính là nụ cười của chàng. Tiếc rằng giờ đây, dù ta khản giọng gọi chàng, cũng chẳng cách nào thấy lại nụ cười của chàng nữa.

Chàng hay quen thói kéo ta ngã vào lòng, áp sát ngực chàng để nghe tiếng trái tim chàng sôi nổi đập trong lồng ngực. Nhưng hiện giờ, trái tim vốn thuộc về chàng, lại đang đập trong ngực ta. Rõ ràng gần trong gang tấc, sớm chiều bên nhau, vậy mà lại sống chết đôi đàng, không sao chạm tới, ta cũng chẳng thể nào nghe được tiếng trái tim chàng nữa.

Nỗi nhớ như độc thảo, ngày ngày giày vò ta, đau đớn như dao nhọn, đêm đêm đục khoét ta.

Mỗi độ hoa đào nở rộ, nỗi nhớ nhung và đau dớn của ta không sao nguôi được, thế nên…

Ta lại dấy cuồng phong vần vũ, cát bụi mịt mù, chỉ mong được nghe thấy tiếng trái tim chàng lần nữa.

Thình thịch... thình thịch... thình thịch…
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Từng Thề Ước (Tập 1 & 2) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Hậu ký

Về trận chiến giữa Hoàng Đế và Xi Vưu, những ghi chép truyền lại vô cùng hàm hồ..

Nói Hoàng Đế và Viêm Đế giao chiến bảy trận đều thắng, sau đó giao chiến với Xi Vưu, thuộc hạ của Viên Đế đánh chín trận thua cả chín.

Phe chính nghĩa của Hoàng Đế sắp bại dưới tay bè lũ Xi Vưu hung tàn ác độc, sau cùng nhờ con gái, Hoàng Đế mới có thể lập nên kỳ tích, chuyển bại thành thắng...

Nhưng chẳng rõ tại sao, Thiên nữ Bạt lại trở thành Hạn Bạt hung ác, không thể quay về Thần tộc nữa.

Theo Đại Hoang Bắc kinh trong Sơn Hải kinh ghi chép:

“Có người con gái mặc áo xanh, tên Bạt, là con gái Hoàng Đế. Xi Vưu rèn đúc binh khí chống lại Hoàng Đế .

Hoàng Đế liền phái Ứng Long tới vùng đồng hoang Ký Châu tấn công Xi Vưu. Ứng Long tích trữ thật nhiều nước, nhưng Xi Vưu lại mời Phong Bá và Vũ Sư tới, làm mưa to gió lớn.

Hoàng Đế lại lệnh cho Thiên Nữ Bạt giáng phàm trợ chiến, chặn đứng mưa gió, cuối cùng giết Xi Vưu.

Bạt vì cạn kiệt thần lực, cũng không thể quay về trời nữa, nơi nàng cư trú quanh năm không có một giọt mưa. Thúc Quân đem chuyện này bẩm lại với Hoàng Đế, Hoàng Đế bèn an trí Bạt ở phía Bắc Xích thủy.”

Về con gái Viêm Đế Thần Nông Thị, theo truyền thuyết, trên Tuyên sơn có một giống dâu, vì con gái của Viêm Đế bốc cháy tại chính gốc cây này, đuổi theo Vũ Sư Xích Tùng Tử, thăng thiên mà đi, nên được gọi là dâu Đế Nữ.

Theo Trung Sơn kinh trong Sơn Hải kinh chép lại:

“Về phía Đông năm mươi lăm dặm, có ngọn núi tên Tuyên sơn… Trên có giống dâu, bề ngang năm mươi thước, cành chẽ làm bốn nhánh, lá to hơn một thước, gỗ đỏ, hoa vàng, đài xanh, gọi là dâu Đế Nữ.”

Hết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 104 guests