Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Image

Tác giả: Đồng Hoa

Dịch giả: Lương Hiền


Chương 1: Gió đông dữ, tình thắm lỡ (Dẫn từ bài từ “Thoa đầu phượng” của tác giả Lục Du)


Chuyên Húc ghé qua Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm Tiểu Yêu, thì thấy nàng đang ngồi thêu túi thơm bằng vải lụa đen trước hiên nhà. Những bông hoa mộc tê xinh xắn, sống động, kim tuyến lấp lánh. Tác phẩm sắp hoàn thành.

Chuyên Húc ngạc nhiên hỏi nàng khi mũi thêu cuối cùng kết thúc:

– Muội mà cũng hứng thú với mấy việc này sao?

– Một công đôi việc! Cách cầm kim khâu cũng rất quan trọng trong nghề y, nhất là khi khâu các vết thương. Chăm chỉ thêu thùa, luyện cho đôi tay linh hoạt, mềm dẻo, giúp giảm bớt đau đớn cho người bệnh.

– Còn mục đích thứ hai là gì?

Tiểu Yêu cười, đáp:

– Muội muốn tặng quà cho Cảnh.

Chuyên Húc thoáng sững sờ, lúc sau hắn mới gạn hỏi:

– Muội… muội quay lại với cậu ta?

Tiểu Yêu lắc đầu:

– Chưa đâu.

– Vậy thì… chuyện này… là thế nào?

Chuyên Húc trỏ túi thơm trên tay Tiểu Yêu.

– Lần trước đến Thanh Khâu, muội phát hiện thấy Cảnh ốm rất nặng, nếu không chữa trị kịp thời, e là không sống nổi trăm năm. Muội và chàng bây giờ chỉ là quan hệ thầy thuốc – người bệnh mà thôi.

Chuyên Húc trầm ngâm, gương mặt vô cảm, bình thản.

Tiểu Yêu bỗng thấy chột dạ, nàng gọi:

– Kìa huynh!

Chuyên Húc bật cười, dịu dàng bảo:

– Muội thêu xong cái đó, hãy thêu cho ta một cái túi thơm có hình hoa phượng, loài hoa mà cả hai chúng ta cùng yêu thích.

Tiểu Yêu hào phóng đáp:

– Vâng!

Tiểu Yêu đi thăm Cảnh, thấy chàng đang dần bình phục, nàng rất hài lòng, vui vẻ khen Hồ Trân:

– Rất tốt!

Hồ Trân thưa:

– Thời gian qua, khí sắc của Tộc trưởng đã có nhiều chuyển biến tích cực, các vị trưởng lão cứ tấm tắc khen ngợi tài năng y thuật của tôi. Tôi xấu hổ lắm, nhưng đành mặt dày đón nhận những lời khen ấy.

– Phân nửa công lao thuộc về cậu mà!

Tiểu Yêu đưa túi thơm thêu hoa mộc tê cho Cảnh, bên trong là một viên thuốc đã bọc kín hổ phách. Nàng nói:

– Viên thuốc này dùng để phòng khi nguy cấp, có thể giúp chàng duy trì sự sống trong một khoảng thời gian ngắn.

Với thân thế hiển hách và tài y thuật cao minh của mình, Tiểu Yêu cũng chỉ chế ra được một viên thuốc nhỏ xíu như vậy, có thể thấy viên thuốc này đáng quý nhường nào!

Cảnh trân trọng đón nhận và nói:

– Nàng đừng lo, ta sẽ cẩn trọng.

Tiểu Yêu thở than:

– Ngày nào chưa giải quyết triệt để, thì em vẫn chưa yên lòng.

– Phần lớn thời gian ta sẽ ở Chỉ Ấp, chỉ khi nào cần xử lý công việc của họ tộc mới về nhà.

Tiểu Yêu gượng cười:

– Thế là tốt nhất!

Không muốn nàng tiếp tục phiền lòng về những chuyện đó nữa, Cảnh hỏi:

– Nàng ở chơi Ngũ Thần Sơn có vui không?

Tiểu Yêu tươi cười:

– Cha em thời trẻ chắc chắn là một gã ham chơi, bất trị. Tài câu cá, nướng cá của cha đều khiến em bội phục. Rõ ràng là cha tinh thông mọi lối ăn uống vui chơi.

Tiểu Yêu trò chuyện với Cảnh thêm một lúc thì ra về. Tuy không muốn xa nàng, nhưng Cảnh không giữ nàng ở lại, được thế này chàng đã mãn nguyện lắm rồi.

Về đến Tiểu Nguyệt Đỉnh, nhớ lời hứa với Chuyên Húc, Tiểu Yêu bắt đầu phác họa hình hoa phượng trên vải lụa.

Chuyên Húc đến thăm nàng, thấy trong phòng bày la liệt đủ loại họa tiết về hoa phượng, hắn bật cười.

Tiểu Yêu nói:

– Muội không giỏi vẽ, huynh giúp muội một tay đi.

Chuyên Húc tỏ ra giận dỗi:

– Ta không vẽ! Muội thêu hoa mộc tê cho Cảnh có bảo cậu ta phác họa không? Muội tặng quà cho ta thì phải tự tay làm từ đầu đến cuối mới thể thiện thành ý.

Tiểu Yêu vừa bực vừa buồn cười:

– Huynh thật khó chiều! Thôi được, muội sẽ tự vẽ!

Chuyên Húc đứng sau lưng xem Tiểu Yêu phác họa, được một lúc thì không chịu nổi:

– Muội thật kém cỏi!

Hắn cầm tay Tiểu Yêu, hướng dẫn nàng cách vẽ:

– Chỗ này đưa nhẹ thôi! Cổ tay thả lỏng, mềm mại một chút. Muội đang vẽ hoa phượng chứ có phải cây phượng đâu…

Chuyên Húc vừa dạy vừa mắng. Lúc đầu, Tiểu Yêu còn cười khì khì, sau thấy hắn mắng mỏ chẳng nể nang, nàng tức khí bôi mực lên mặt hắn.

Chuyên Húc vừa né vừa cười, vẫn tiếp tục châm chọc Tiểu Yêu:

– Nhìn muội xem, từ bé đến lớn vẫn chứng nào tật nấy, không chịu nhận mình kém cỏi!

– Huynh thì giỏi giang lắm! Nhà người ta, anh trai lúc nào cũng nhường nhịn em gái, đằng này, huynh lúc nào cũng xét nét, bắt bẻ. Huynh dạy dỗ có đến nơi đến chốn không mà chê muội kém?

Hai người đấu khẩu, trêu đùa vui vẻ.

Hoàng Đế đi ngang qua cửa sổ, cũng dừng lại, mỉm cười. Ngài như lại trông thấy hai đứa trẻ nô đùa rộn ràng dưới gốc phượng năm xưa.

Từ ngày Xương Ý tử trận và con dâu ngài tự vẫn trước mặt Chuyên Húc, chỉ sau một đêm, Chuyên Húc đã già dặn hơn rất nhiều, trong mắt thằng bé ẩn chứa vẻ sắc lạnh. Nó trở nên thận trọng, kiệm lời như người lớn. Chỉ khi ở bên cạnh Tiểu Yêu, nó mới lại giống như một đứa trẻ.

Nhiều năm trôi qua, trải bao nguy nan, vẻ sắc lạnh được giấu kín, ở mọi nơi mọi lúc mọi tình huống, không ai không thấy bất cứ biểu cảm vui buồn nào trên gương mặt Chuyên Húc. Lúc nào hắn cũng ôn hòa, điềm nhiên, bình tĩnh. Nhưng khi ở bên Tiểu Yêu, hắn lại được làm một đứa trẻ tinh nghịch, vô tư lự.

Hoàng Đế thở dài, Tiểu Yêu và Chuyên Húc đều là ruột thịt của ngài, ngài đâu nỡ khiến đứa cháu nào phải chịu thương tổn. Nhưng sự đời xưa nay vốn chẳng thể vẹn toàn. Ngài âm thầm tự hỏi: Phải chăng ta đã già nua? Năm xưa, giặc càn đến chân thành, hiểm nguy rình rập tứ phía, ta nào có bồn chồn, không yên như thế này?

Hoàng Đế lại thở dài thêm một chặp, rồi cất bước, đi khỏi.

Buổi tối, Tiểu Yêu nằm trên giường, vừa suy ngẫm về Ý Ánh và Hầu, vừa mân mê viên Ngư đan tím.

Dưới ánh đèn, viên Ngư đan lấp lánh trong suốt, tỏa ra thứ ánh sáng êm dịu. San Hô vừa buông màn giúp Tiểu Yêu vừa tủm tỉm cười.

Tiểu Yêu trừng mắt với cô ấy:

– Em cười vụng gì thế?

– Dạ không, em có cười gì đâu! Em chỉ cảm thấy viên Ngư đan tím này thật quý hiếm. Trước đây, em từng thấy một viên Ngư đan màu đỏ, nhưng không được lớn và trong suốt như viên Ngư đan này.

Ta cũng từng thấy một viên Ngư đan đỏ rất bự, bự hơn cả viên này, và còn rất đẹp nữa, trong veo, không mảy may vẩn đục.

San Hô trêu chọc:

– Nếu Vương cơ thích, chị chỉ việc nói với Tộc trưởng tộc Đồ Sơn!

Tiểu Yêu lườm San Hô, San Hô le lưỡi trêu lại:

– Vương cơ nghỉ thôi, em tắt đèn nhé!

– Ừ.

San Hô tắt đèn minh châu đặt trong vỏ sò, căn phòng chìm vào bóng tối.

Tiểu Yêu vẫn cầm viên ngư đan trên tay và khép mắt lại, nhưng trong đầu nàng bỗng hiện lên câu chuyện trên biển năm xưa.

Lần đó, nàng và Cảnh ngồi bên nhau suốt đêm trên thuyền, nhưng ngoài Chuyên Húc, không ai trong đám bạn để ý đến. Phân tích kỹ mới thấy: Phong Long không mấy để tâm chuyện nam nữ, nên hẳn là hắn không nghĩ ngợi nhiều. Hinh Duyệt mải mê với Chuyên Húc, cũng không còn tâm trí nghĩ chuyện khác. Chỉ còn Hầu và Ý Ánh… Có lẽ, đêm đó, bọn họ đã lén lút gặp nhau. Thời điểm ấy, Cảnh vừa trở về chưa bao lâu, rất có thể Ý Ánh và Hầu đang giận nhau, Ý Ánh muốn chọc tức Hầu nên mới tỏ ra ân cần, dịu dàng với Cảnh như vậy.

Tiểu Yêu thở dài khe khẽ, thì ra, ngoài Phong Long, mọi người đều mang tâm tư riêng, nên không ai để ý đến sự khác lạ của ai.

Hôm đó, Hầu là người quay lại thuyền sau cùng. Hắn cưỡi cá kình, rẽ sóng, lướt đi trên biển, ngược chiều bóng tịch dương, sau đó còn lượn vòng vòng quanh thuyền, rồi ra tay giết cá kình trước mặt mọi người để moi lấy Ngư đan. Viên Ngư đan đỏ chói, lấp lánh, nhìn vào lóa cả mắt, khiến một kẻ đã chán chường ngọc quý như Hinh Duyệt cũng phải trầm trồ. Nàng ta thèm khát muốn có nó, mở lời xin xỏ, nhưng bị Hầu từ chối.

Tuy không thèm khát, nhưng Tiểu Yêu cũng lấy làm tò mò, nàng hỏi xem đó là thứ ngọc quý gì. Cảnh hiểu tâm tư nàng, mới tặng cho nàng viên Ngư đan tím này.

Trong số ba cô gái trên thuyền, chỉ có Ý Ánh từ đầu đến cuối không hề tỏ ra có hứng thú với viên Ngư đan ấy, thậm chí cô ta không buồn nhìn nó. Điều này rất lạ lùng, nhất là với tính cách của Ý Ánh. Cô ta không buồn đến xem, không phải vì không thích viên Ngư đan, mà vì cô ta biết rằng, nhất định Hầu sẽ tặng nó cho mình.

Hầu ra tay giết cá kình, đoạt lấy Ngư đan quý hiếm, hệt như cách một con trống dũng mãnh giết con mồi trước mặt con mái, để biểu thị sức mạnh và bày tỏ lòng yêu với con mái. Trong bóng tà dương rực rỡ, gã trai cưỡi cá kình lướt đi trên mặt biển, với thân hình vạm vỡ, tráng kiện, vẻ hào sảng, oanh liệt, toát lên nét nam tính hấp dẫn và quyến rũ chết người, đã khiến Ý Ánh xốn xang, mê mẩn. Kỳ thực, Hầu đang xỉ nhục Cảnh bằng một cách rất đỗi đê tiện. Hắn muốn chứng minh với người vợ chưa cưới của Cảnh, rằng hắn mạnh hơn Cảnh, và không nề hà chinh phục người phụ nữ của Cảnh.

Hầu tra tấn, hạ nhục Cảnh, nhưng không sao khiến chàng gục ngã. Hắn cũng không thắng được Cảnh trong việc tranh giành quyền lực. Vì vậy, hắn đành giương oai giễu võ với Cảnh thông qua việc chinh phục người phụ nữ của Cảnh. Người hầu thân cận của Cảnh là Lan Hương đã vì hắn mà phản bội chàng. Giờ đến cả người vợ chưa cưới của Cảnh cũng vì hắn mà phản bội chàng…

Tiểu Yêu bật dậy:

– Đồ đáng ghét!

Sáng sớm hôm sau, Tiểu Yêu vội vàng đi tìm Cảnh.

Cảnh đang định ra ngoài, vẻ mặt của Hồ Á rất khó coi.

Trông thấy nàng, Cảnh bảo Hồ Á chờ một lát, chàng đưa Tiểu Yêu vào nhà:

– Sao nàng tới đột ngột vậy? Có chuyện gì ư?

Tiểu Yêu tháo mũ che mặt:

– Em không đến tìm chàng, em đến gặp Tĩnh Dạ.

– Cô ấy ở trong phòng, ta đưa nàng đi gặp cô ấy.

– Chàng cứ đi lo việc của mình đi, em có chuyện cần nói riêng với Tĩnh Dạ.

– Vậy ta sẽ về sớm.

Tiểu Yêu mỉm cười, không nói gì, nàng quay bước vào nhà trong.

Tĩnh Dạ đang trò chuyện với Hồ Trân trong phòng. Tiểu Yêu bước vào, Tĩnh Dạ cúi chào:

– Vương cơ đến chơi? Công tử đâu rồi?

Tiểu Yêu hỏi:

– Sao vẻ mặt của Hồ Á khó coi vậy?

Đêm qua, một tên thị vệ đã lén lút bỏ thuốc độc vào thuốc uống của công tử. May có Vương cơ nhắc nhở, chúng em rất mực cảnh giác, nên kẻ đó đã thất bại. Tên thị vệ ấy uống thuốc độc tự vẫn trước khi bị đưa ra xét hỏi. Hắn lớn lên cùng Hồ Á, nên cậu ta rất khổ tâm.

Tĩnh Dạ thở dài:

– Cảm giác ấy thật đáng sợ! Lúc trước vẫn còn là bạn bè chí thân, vậy mà ngay lập tức trở mặt thành thù. Hồ Trân nói, kẻ địch nấp trong bóng tối, muốn chúng ta không được yên ổn, khiến chúng ta nghi ngờ cả những người thân thiết nhất của mình. Ơn trời, công tử vốn là người đại lượng, cậu ấy chẳng vì thế mà tỏ ra cảnh giác hay nghi kỵ người nào. Cậu ấy vẫn hết lời an ủi, động viên Hồ Á.

Tiểu Yêu sa sầm nét mặt, vậy là Ý Ánh và Hầu đã ra tay!

Hồ Trân nói:

– Tuy tôi chưa nói với bất cứ ai về bệnh tình của tộc trưởng, nhưng hai kẻ đó đâu có khờ, bọn chúng vẫn rình đến lúc tộc trưởng phát bệnh. Nhưng mấy tháng trôi qua, bệnh tình của tộc trưởng ngày một tiến triển tốt đẹp. Các vị trưởng lão cũng có thể nhận ra thì không có lý gì bọn chúng không thấy. Tôi nghĩ, vụ đầu độc đêm qua chỉ là khởi đầu.

Hồ Trân nhìn Tiểu Yêu chăm chăm. Tiểu Yêu hiểu cậu ta muốn nói gì. Nàng bảo:

– Cậu đừng lo, ta không cho bất cứ ai gây tổn thương cho bệnh nhân của ta đâu!

Hồ Trân thở phào, vái lạy Tiểu Yêu:

– Xin nhờ Vương cơ!

Tiểu Yêu nói:

– Ta có chuyện muốn nói với Tĩnh Dạ.

Hồ Trân liếc nhìn Tĩnh Dạ, rồi lui ra ngoài.

Tiểu Yêu ngồi vào vị trí chủ nhà mà thường ngày Cảnh vẫn ngồi, nàng nhìn Tĩnh Dạ chằm chằm.

Tĩnh Dạ chột dạ, hỏi:

– Vương cơ muốn ăn thịt nô tỳ ư?

– Ta sẽ hỏi cô vài câu, nếu cô không thành khẩn, ta sẽ ăn thịt cô chưa biết chừng!

Xưa nay Cảnh lúc nào cũng nhẹ nhàng, từ tốn, chưa bao giờ nặng lời với nàng, nên Tĩnh Dạ nghe Tiểu Yêu nói vậy thì thấy không thoải mái chút nào. Nhưng biết Tiểu Yêu là người rất quan trọng với Cảnh, nàng đành ấm ức đáp:

– Nô tỳ sẽ nói hết những gì mình biết.

– Vậy hãy cho ta biết, Hầu có từng tặng quà, lấy lòng hay đùa cợt, ve vãn cô không?

Tĩnh Dạ đỏ bừng mặt:

– Vương cơ nghi ngờ nô tỳ phản bội công tử? Em xin thề không có chuyện đó!

– Hãy trả lời câu hỏi của ta, Hầu có từng bỡn cợt, ve vãn cô không? Hãy nói sự thực!

Tĩnh Dạ cắn môi, một lúc sau mới gật đầu.

– Hắn có chiếm đoạt cô không?

Tĩnh Dạ rơm rớm:

– Có một lần, nhưng nô tỳ thà chết không chịu, nên hắn đã buông tha cho nô tỳ!

– Cô có rung động trước Hầu không?

Tĩnh Dạ lập tức đáp:

– Khi công tử mất tích, em luôn nghi ngờ do Hầu gây ra, sao em có thể rung động trước hắn! Lan Hương quá mê muội mới tin những lời giả dối của hắn, mới vì hắn mà không tiếc mạng sống như thế.

Nếu vậy, vì sao cô không nói với Cảnh?

Tĩnh Dạ cố nén khóc:

– Trong mắt người đời, em thật đáng nể, nhưng thực ra em chỉ là một tỳ nữ trong phủ đệ nhà Đồ Sơn. Nếu được Công tử Hầu để mắt đến, thì đó là phúc phần của em, em nào dám oán thán! Huống hồ, chuyện này… em đâu thể mở lời thưa với công tử?

Tiểu Yêu chăm chú quan sát Tĩnh Dạ, cô ấy đưa tay lên trời:

– Em xin thề, em chưa bao giờ làm việc gì có lỗi với công tử. Em… em… đã có người thương, nên không thể có tình cảm với Hầu.

– Cô yêu ai?

– Hồ Trân. Em và Hồ Trân đã cùng nhau chăm sóc công tử suốt ba mươi bảy năm, khi công tử hôn mê bất tỉnh vì Vương cơ. Em đã vô cùng hoảng sợ vì ngày ngày phải chứng kiến sự sống đang dần bỏ công tử ra đi. Nhờ có Hồ Trân luôn ở bên động viên, an ủi, em mới vượt qua được nỗi sợ hãi ấy. Huynh ấy không giống Hầu… huynh ấy không biết nói lời ngọt ngào, lúc nào cũng ngờ nghệch, khờ khạo, nhưng huynh ấy khiến em vững dạ. Ở bên huynh ấy, em biết rằng, dù trời có sập xuống, huynh ấy cũng sẽ chung vai chống đỡ với em.

Hồ Trân mà ngờ nghệch, khờ khạo? Tiểu Yêu không cảm thấy thế, cậu ta rõ là một người thông minh! Phụ nữ luôn như vậy, chỉ có họ mới chê người yêu mình ngờ nghệch, khờ khạo bằng ngữ điệu tràn đầy dịu ngọt.

Tiểu Yêu hỏi:

– Hầu còn đeo bám, làm phiền cô không?

– Dạ, không. Từ ngày công tử làm tộc trưởng, Hầu đã thôi nói những lời bỉ ổi và hành xử bỉ ổi với em. Rồi khi biết em có tình cảm với Hồ Trân, hắn cũng chẳng lấy thế làm buồn, hắn còn thưởng cho em một bộ đồ trang sức bằng đồi mồi.

Tiểu Yêu mỉm cười:

– Ta tin cô. Ta vốn không cho rằng cô sẽ phản bội Cảnh, ta chỉ muốn hỏi cho rõ mà thôi. Dù sao thì cô cũng không nên giấu Cảnh. Nhưng cô nói rất có lý, những chuyện thế này không thể tùy tiện nói ra, nhất là vào thời điểm lão phu nhân còn sống. Vì biết đâu lão phu nhân lại chẳng thưởng cô cho Hầu.

Tĩnh Dạ thở phào, đưa tay lên quệt nước mắt:

– Cảm ơn Vương cơ thấu hiểu nỗi khổ tâm của nô tỳ!

Năm xưa, vì sợ mình sẽ trở thành một Lam Mai thứ hai, Tĩnh Dạ đã không dám hé răng nói một lời nào.

Tiểu Yêu chống cằm ngẫm ngợi.

Tĩnh Dạ gọi khẽ:

– Vương cơ!

Tiểu Yêu phất tay:

– Cô đi làm việc của mình đi, ta cần suy nghĩ một chút.

Tĩnh Dạ nhẹ nhàng lui ra ngoài.

Tiểu Yêu bắt đầu phân tích tâm tư của Hầu. Lời từ chối của Tĩnh Dạ cho Hầu thấy, hắn không bằng Cảnh, hắn không thể chấp nhận điều này, nên vẫn cố tình đeo bám Tĩnh Dạ. Nhưng khi phát hiện Tĩnh Dạ có tình cảm với Hồ Trân, hắn hết hứng ve vãn cô ấy, vì nếu có thắng, thì người mà hắn thắng là Hồ Trân, không phải Cảnh.

Quả nhiên, Hầu đã chọn cách chinh phục những người phụ nữ của Cảnh, để chứng minh với Cảnh rằng hắn hơn chàng. Nếu đã nuôi dã tâm ấy, chắc chắn Hầu sẽ không buông tha Ý Ánh. Vì so với Lan Hương và Tĩnh Dạ, Ý Ánh sẽ là một minh chứng nặng ký hơn cả.

Tiểu Yêu nhớ lại mọi cử chỉ, hành động trước đây của Ý Ánh và nhận thấy, có lẽ Ý Ánh thật lòng yêu Hầu. Nhưng còn tình cảm của Hầu dành cho cô ta thì thế nào? Hắn thật lòng với cô ta, hay chỉ tìm chỗ trút giận?

Cảnh vẫn luôn tìm cách hóa giải mối oán hận trong lòng Hầu, nhưng chàng đâu biết Hầu là kẻ biến thái tâm lý. Từ việc tra tấn Cảnh, đến việc không từ thủ đoạn tranh giành ngôi vị tộc trưởng, rồi tới việc cướp đoạt người phụ nữ của Cảnh, hắn làm mọi thứ chỉ để chứng minh mình hoàn hảo hơn Cảnh. Thế nhưng, người phụ nữ luôn miệt thị hắn từ ngày hắn chào đời ấy, đã chết rồi! Hắn mãi mãi không thể chứng minh điều hắn muốn!

Tiểu Yêu thở dài, nếu mẹ Cảnh biết chàng đang phải nuốt từng giọt độc trong chén thuốc độc do chính tay bà chế ra, thì liệu năm xưa bà có đối xử với Hầu tốt hơn không? Hơn bao giờ hết, Tiểu Yêu thấu hiểu sâu sắc vì sao Cảnh không nỡ ra tay với Hầu. Nhưng Cảnh đã nhân nhượng quá nhiều, nàng không cho phép Hầu tiếp tục gây tổn thương cho Cảnh nữa.

Cảnh bước vào phòng, thấy Tiểu Yêu tay chống cằm, hàng mày dài chau lại, nàng nghiêng đầu suy nghĩ điều gì lung lắm.

Những vệt sáng lấp lánh bao phủ nàng, chiếu rọi hình hài nàng trong nửa phần sáng nửa phần tối. Một vài sợi tóc đen như mun thả dài bên má nàng, càng tôn thêm vẻ đẹp dịu dàng của gương mặt nàng. Nàng giống hệt một đóa ngọc lan e ấp hé nụ.

Cảnh lặng đi, chàng mê mải ngắm nàng. Ánh nắng ấm áp chiếu trên người nàng mà như soi rọi cả tâm can chàng, khiến chàng có cảm giác như đang đắm chìm trong men rượu ngất ngây.

Cảnh chầm chậm bước lại, Tiểu Yêu vẫn chìm trong suy tư, nên mãi khi chàng đến sát bên, nàng mới giật mình nhận ra. Nàng ngẩng lên, trông thấy Cảnh, nàng cười. Nụ cười ấy bừng nở từ trong tim nàng, dâng lên trong đáy mắt đen láy của nàng, rồi lan tỏa khắp khóe mắt, hàng mi, bờ môi nàng, gương mặt nàng trở nên rạng rỡ, khóe môi nàng uốn cong thành hình vành trăng.

Nụ cười ấy tỏa rạng, vẻ đẹp ấy khiến Cảnh mê mẩn, ngẩn ngơ. Và chàng càng hạnh phúc hơn, khi nụ cười ấy là vì chàng, dành cho chàng. Cảnh thấy lòng ngập tràn niềm hạnh phúc, chàng bất giác gọi khẽ:

– Tiểu Yêu!

Tiểu Yêu cười, hỏi:

– Sao chàng về nhanh vậy? Chàng xử lý xong công việc rồi à?

– Việc cần kíp đã xử lý xong, những việc khác tạm thời gác sang bên.

Cảnh ngồi đối diện với Tiểu Yêu:

– Nàng đang nghĩ gì vậy?

Tiểu Yêu cười, đáp:

– Có gì đâu! Con người em rất kỳ quặc, lúc thì đầu óc lơ ngơ, trống rỗng, khi thì đầy ắp những ý nghĩ đen tối. Cảnh, chàng có thể hứa với em một chuyện không?

– Nàng nói đi.

– Tin tưởng em! Dù xảy ra chuyện gì, bất kể là chuyện gì, hãy tin tưởng em!

– Ta hứa.

Tiểu Yêu thấy yên tâm hơn, nàng căn dặn:

– Dù chàng nhìn thấy gì, nghe thấy gì cũng hãy nhắm mắt lại và tự hỏi lòng mình.

– Nàng đừng lo, ta đã nhiều lần không giữ được lời hứa với nàng. Nhưng lần này ta nhất định sẽ giữ lời.

Tiểu Yêu tươi cười:

– Tốt lắm, em sẽ chờ xem.

Chiều tối hôm đó, Tiểu Yêu hỏi Chuyên Húc khi hắn ghé thăm Tiểu Nguyệt Đỉnh:

– Gần đây có phi tần nào có chuyện gì vui cần tổ chức tiệc mừng không? Ví như, sinh nhật, hay người nhà thăng quan tiến chức chẳng hạn.

– Muội định làm gì?

– Muội muốn một bữa tiệc tổ chức ngoài hồ nước, nếu có thể chèo thuyền ra giữa hồ thì càng tốt.

Chuyên Húc gọi:

– Tiêu Tiêu!

Tiêu Yêu bước vào, Chuyên Húc hỏi:

– Vương cơ muốn một bữa tiệc ngoài hồ nước, ai đứng ra tổ chức thì thích hợp?

Tiêu Tiêu thưa:

– Vương phi Phương Lôi sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, nên thường hay tổ chức tiệc tùng ven sông ven hồ. Hơn chục ngày nữa sẽ là mùa hoa hải đường nở rộ ven hồ Đại Kính. Vương phi có thể mượn cớ thưởng hoa mà bày tiệc mời khách.

Tiểu Yêu mỉm cười, gật đầu:

– Rất ổn, sẽ không ai nghi ngờ.

Tiêu Tiêu hỏi:

-Vương cơ muốn mời những ai, xin cho biết để nô tỳ sắp xếp.

– Cảnh, Phòng Phong Ý Ánh, Đồ Sơn Hầu, Ly Nhung Sưởng, những người khác ta không quan tâm, nhưng bốn người này nhất định phải mời bằng được.

– Nô tỳ đã ghi nhớ!

– Cảm ơn em!

– Vương cơ đừng khách sáo!

Tiêu Tiêu vái chào, rồi lui ra.

Chuyên Húc hỏi Tiểu Yêu:

– Ta cứ nghĩ muội không muốn thấy mặt Phòng Phong Ý Ánh. Muội định làm gì?

– Muội định làm một việc xấu, mà đã là việc xấu thì phải thực hiện lén lút, không thể nói cho ai biết.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Thôi được, nếu hôm đó ta rảnh, sẽ đến xem muội giở trò gì.

Tháng hai năm đó, Vương phi Phương Lôi bày tiệc trên hồ Đại Kính (hồ trên núi Thần Nông), mời khách khứa đến vãn cảnh núi sông, ngắm hoa hải đường.

Khách khứa khá đông, Vương phi Phương Lôi phải cho chuẩn bị 7-8 chiếc thuyền lớn nhỏ khác nhau. Vị khách nào thích ồn ào, náo nhiệt sẽ lên thuyền lớn, khách ưa thanh tịnh, yên vắng có thể ngồi thuyền nhỏ. Thuyền trôi xuôi theo dòng nước quanh co, uốn khúc, khách tha hồ thưởng ngoạn cảnh sắc núi non, sông nước và hoa hải đường rực rỡ ven hồ. Nếu khách có nhã hứng, muốn lên bờ dạo chơi, thuyền sẽ ghé vào bờ, khách men theo con đường nhỏ, đi sâu vào rừng hoa hải đường.

Danh tiếng của Tiểu Yêu giờ đây đã “lẫy lừng” khắp Đại hoang, nhưng nàng rất ít khi xuất đầu lộ diện, nên không nhiều người được thấy mặt nàng. Bởi vậy, khách khứa đến dự tiệc lần này, ai nấy đều chăm chú quan sát xem cô Vương cơ dám bỏ chạy theo một gã trai phong lưu, phóng túng trong hôn lễ của mình trông thế nào.

Vương phi Phương Lôi sai tỳ nữ thân cận mời khách khứa lên thuyền. Cô ấy còn khéo léo sắp xếp bạn bè thân thiết ngồi cùng thuyền để Tiểu Yêu không cảm thấy khó xử. Những người đi cùng thuyền Tiểu Yêu gồm: Cảnh, Phòng Phong Ý Ánh, Hầu, Ly Nhung Sưởng, Tây Lăng Thuần, vợ chưa cưới của Thuần là Cơ Yên Nhiên, Vương phi Phương Lôi và cô em gái Phương Lôi Vân.

Vương phi Phương Lôi ngồi chuyện phiếm với Ý Ánh trên giường, Phương Lôi Vân ngồi bên chị gái, cô này kiệm lời, nhẹ nhàng, lịch duyệt. Cơ Yên Nhiên cũng là tiểu thư con nhà, lúc nào cũng tươi cười đáp lễ, cô ngồi sát bên Ý Ánh. Cảnh, Sưởng, Hầu và Thuần đứng ở đuôi thuyền, vừa trò chuyện vừa câu cá. Tiểu Yêu một mình đứng tựa vào lan can, ngắm cảnh.

Trông thấy Tiểu Yêu, Sưởng thúc vào tay Cảnh. Cảnh không có phản ứng gì, Sưởng liền kéo Cảnh đến chỗ Tiểu Yêu.

Sưởng thản nhiên nói:

– Vương cơ có muốn xem xét lại người anh em này của ta không?

Tiểu Yêu tựa người vào lan can, mỉm cười không đáp.

Sưởng nói:

– Cô bỏ rơi Phong Long, bị Phòng Phong Bội hủy hoại danh tiết, bây giờ muốn tìm một người đàn ông xứng tầm cũng khó lắm. Người anh em của ta lúc nào cũng nặng lòng với cô, chi bằng hãy theo huynh ấy!

Tiểu Yêu vén tóc, cười thật tươi, nói:

– Chàng nặng lòng với tôi? Sao tôi không thấy nhỉ.

Trang phục mùa xuân mỏng manh, càng tôn thêm vẻ đẹp kiều diễm của cơ thể Tiểu Yêu. Nàng thanh tân, trong sáng, yêu kiều như những bông hoa hải đường đang khoe sắc rực rỡ trong gió xuân ven hồ kia.

Sưởng gần như nghiến răng nghiến lợi, nói:

– Cảnh phải làm gì mới chứng tỏ để cô thấy?

Tiểu Yêu cắn môi, ngẫm ngợi một lát, rồi trỏ tay lên bờ:

– Tôi muốn một cành hoa hải đường.

Sưởng định bảo: “Thế thì có gì khó” thì thấy Tiểu Yêu tươi cười, nói tiếp:

– Không được sử dụng linh lực hay phép thuật. Tôi muốn chàng phải tự tay hái hoa cho tôi, ngay bây giờ.

Sưởng chưng hửng. Việc này vốn dĩ rất nhỏ bé, rất đơn giản. Nhưng trên đời này, đâu phải việc gì nhỏ bé, đơn giản đều dễ thực hiện! Thường những việc đơn giản nhất lại là những việc khó thực hiện nhất. Sưởng hết nhìn chỗ Ý Ánh và Vương phi Phương Lôi lại nhìn sang chỗ Hầu và Thuần, sau đó lại nhìn sang các thuyền khác, cười gượng:

– Vương cơ cố ý gây khó dễ, đúng không?

Tiểu Yêu không nói năng chi, chỉ mỉm cười thật tươi, nhìn Cảnh.

Sưởng chưa kịp đưa ra lời khuyên, đã nghe “ùm” một tiếng, Cảnh nhảy khỏi thuyền, bơi về phía bờ.

Tiếng động đó khiến cả bốn cô gái bỏ dở cuộc chuyện, giật mình, đứng lên.

Vương phi Phương Lôi lo lắng, hỏi:

– Tộc trưởng tộc Đồ Sơn ư? Đã xảy ra chuyện gì?

Tiểu Yêu cười, đáp:

– Tộc trưởng muốn đi hái hoa hải đường.

Từ lúc Ly Nhung Sưởng kéo Cảnh đến bên Tiểu Yêu, Hầu vờ như vẫn đang tập trung câu cá với Tây Lăng Thuần, kỳ thực hắn vẫn âm thầm theo dõi Cảnh. Hắn nghe trọn vẹn không để lọt câu nào cuộc đối thoại giữa Sưởng và Tiểu Yêu. Hầu cũng biết Cảnh có tình ý với Tiểu Yêu, nhưng không ngờ Cảnh có thể bất chấp tất cả vì nàng.

Khách khứa trên các thuyền khác tuy không rõ vì sao Cảnh đột nhiên nhảy xuống nước, nhưng họ đều bất ngờ trước hành động kỳ lạ đó của vị tộc trưởng vốn xưa nay luôn điềm đạm, lịch duyệt trong mọi cử chỉ, hành động. Bởi vậy, mọi người đều ngừng cuộc chuyện, chăm chú dõi theo Cảnh.

Có người quen thân nào đó, gọi lớn, hỏi:

– Tộc trưởng có cần chúng tôi giúp sức không? Xin chớ ngại ngần!

Cảnh vừa bơi vừa từ tốn đáp:

– Xin cảm ơn! Nhưng tôi phải tự mình làm việc này.

Mọi người cùng xúm lại hỏi:

– Việc gì vậy thưa Tộc trưởng?

Cảnh thản nhiên đáp:

– Hái hoa.

Ai nấy đều kinh ngạc, rồi tất cả cùng cười ồ lên.

Sưởng đổ người xuống lan can, lấy tay che mắt, không dám nhìn tiếp. Hắn tức giận mắng:

– Yêu nữ kia, cô thấy hài lòng chưa?

Cảnh bơi vào bờ, chọn bẻ lấy một cành hoa hải đường đẹp nhất, sau đó bơi trở lại thuyền.

Khi chàng nhảy lên thuyền trong tình trạng ướt như chuột lột, ánh mắt của tất cả mọi người đều đổ dồn vào cành hải đường trên tay chàng. Cành mềm, lá thắm, nụ nhỏ uốn mình rung rinh, mười mấy bông hải đường ngậm sương, tỏa hương thơm ngát, cánh hoa diễm lệ, sắc hoa thắm đỏ.

Cảnh trao cành hải đường cho Tiểu Yêu, nàng mím môi cười, ngắt lấy hai bông hoa đẹp nhất, cài lên tóc. Quấn cành hoa quanh cổ tay, làm thành chiếc vòng xinh xắn.

Mọi người đều nghĩ Cảnh hái hoa để tặng Ý Ánh, nên cùng cười vang vui vẻ. Nhưng lúc này tiếng cười đùa đột nhiên vụt tắt, ai nấy đều tròn mắt nhìn Tiểu Yêu.

Ly Nhung Sưởng cười lớn:

– Anh em chúng tôi đánh cược với Vương cơ và bị thua, người thua phải đi hái hải đường mà không được sử dụng linh lực. Tôi định chơi xấu, nhưng Cảnh luôn là người biết giữ lời hứa!

Ai cũng biết Ly Nhung Sưởng xưa nay là kẻ bốc đồng, nên họ chỉ trêu đùa hắn vài câu, sau đó tản đi nơi khác.

Nhưng những người cùng thuyền với Tiểu Yêu đều biết đó không phải trò đánh cược.

Tiểu Yêu giơ tay lên, cười hỏi Cảnh:

– Đẹp không?

Cảnh gật đầu. Mấy người phụ nữ mắt tròn mắt dẹt đứng ở đằng xa trông lại, cũng không thể phủ nhận rằng, rất đẹp. Cơ Yên Nhiên thậm chí còn lén quan sát biểu cảm của Thuần, trong lòng không khỏi rầu rĩ bởi ý nghĩ: Thì ra thứ trang sức đẹp đẽ nhất trên đời không phải ngọc ngà châu báu, mà có thể chỉ là vài bông hoa dại được người yêu hái tặng.

Tiểu Yêu nói với Cảnh:

– Cẩn thận kẻo cảm lạnh, mau hong khô quần áo đi.

Nói xong, nàng vờ như không hề có chuyện gì xảy ra, yêu kiều bước đi.

Ý Ánh tái mặt, tất cả mọi người đều cảm thấy khó xử, trong khi đó, Tiểu Yêu vẫn thản nhiên thì thầm nhỏ to với San Hô ở mũi thuyền, thản nhiên thưởng ngoạn cảnh sắc.

Vương phi Phương Lôi lấy lại vẻ bình tĩnh, cười, nói:

– Xin mời quý vị tới thưởng thức mấy món ăn vặt do đầu bếp ta vời từ quê nhà đến đây chuẩn bị. Lát nữa sẽ có tiệc chính, các vị đừng khách sáo!

Ai nấy đều mang tâm trạng bồn chồn khi ngồi vào bàn, nên không cảm nhận được vị ngon của món ăn.

Hầu nhếch môi cười, chăm chú quan sát Tiểu Yêu. Nhiều năm lưu lạc chốn nhân gian, cô gái này tuy thân phận cao quý nhưng tính cách không giống các thiếu nữ quý tộc khác. Cô ta giống loài hoa anh túc mọc trên vùng đất hoang, có nét gì đó rất hoang dại, hồn nhiên, lại ngỗ ngược, bất kham, không chịu gò bó. Chả trách cô ta chẳng ngại ngần chạy theo gã lãng tử Phòng Phong Bội. Gã đã tiêu đời mà cô ta chẳng thấy buồn phiền, còn ngang nhiên chòng ghẹo Cảnh.

Đồ Sơn Cảnh, chàng công tử Thanh Khâu hoàn mỹ, xuất chúng xưa nay vẫn lạnh lùng, thờ ơ với mọi thứ, không tham vọng, không mưu cầu, chẳng màng đến cả chức vị tộc trưởng mà ai nấy đều khát khao mơ tưởng, chẳng buồn ngó ngàng đến cô gái sắc nước hương trời Phòng Phong Ý Ánh. Thậm chí, xuân dược và thuốc mê cũng chẳng thể khiến Cảnh đánh mất bản thân, mà thân mật với Ý Ánh. Vậy mà Cảnh đã phải lòng bông hoa anh túc hoang dại này, đã yêu cô ấy tha thiết và khát khao cô ấy.

Từ nhỏ Hầu đã mê đi săn, càng những con quái thú nguy hiểm hắn càng hứng thú. Bởi vì khoái cảm chinh phục càng tăng.

Một chiếc thuyền xuất hiện trên mặt hồ. Lúc đầu, không ai để ý, đến khi khách trên thuyền bước ra, mọi người mới ngạc nhiên hết sức, vì họ là Hoàng hậu Hinh Duyệt và tộc trưởng Phong Long của tộc Xích Thủy. Vương phi Phương Lôi và mọi người nhất loạt đứng lên.

Hinh Duyệt và Phong Long bay lên thuyền, Vương phi Phương Lôi cùng mọi người vái chào Hinh Duyệt. Tiểu Yêu trộm nghĩ, sắp có chuyện đau đầu rồi đây, nàng nép mình sau đám đông.

Hinh Duyệt tươi cười nói với Vương phi Phương Lôi:

– Nghe nói mọi người tới đây ngắm hoa, ta cũng muốn đến chung vui, mong là không phá hỏng bầu không khí của mọi người.

Vương phi cười đáp:

– Sự có mặt của Hoàng hậu sẽ khiến bầu không khí càng thêm sôi động.

Hinh Duyệt đưa mắt dạo quanh khắp lượt khách khứa, và dừng lại chỗ Tiểu Yêu:

– Bất ngờ quá, Vương cơ cũng tới dự kia đấy!

Tiểu Yêu không biết phải trả lời ra sao, đành thinh lặng.

Hinh Duyệt nói với Phong Long:

– Hình như đây là lần đầu huynh gặp lại Vương cơ sau hôn lễ tai tiếng đó thì phải?

Phong Long liếc nhìn Tiểu Yêu, không buồn đáp lại.

Tiểu Yêu hiểu rằng, hôm nay, Hinh Duyệt tới đây là vì nàng. Nàng hoàn toàn có thể không để tâm đến cô ấy, nhưng nàng luôn cảm thấy có lỗi với Phong Long. Nếu làm vậy có thể giúp Phong Long được hả giận, nàng sẵn sàng chấp nhận màn tố tội, bêu rếu của Hinh Duyệt.

Hinh Duyệt lại gần Tiểu Yêu, đi vòng quanh người nàng một vòng, xuýt xoa:

– Tưởng đâu Vương cơ nặng tình với Phòng Phong Bội lắm chứ, nào ngờ Phòng Phong Bội mới chết được vài tháng, Vương cơ đã tung tăng dự tiệc, vui chơi, chẳng mảy may phiền muộn, âu sầu.

Hinh Duyệt quay ra nói với Ý Ánh:

– Anh trai cô vì cô ta mà chết, nhưng hãy nhìn bộ dạng của cô ta mà xem! Ta là người ngoài mà còn thấy bất bình cho anh trai cô, phải ở đây nói cười với cô ta thế này, chắc cô khó chịu lắm nhỉ!

Hinh Duyệt tươi cười nói với Phong Long:

– Huynh nên tạ ơn ông trời, vì thật may huynh đã không rước loại đàn bà này vào nhà Xích Thủy!

Phong Long sa sầm mặt mày, không nói năng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 2: Biết đâu nguồn cội

Tiểu Yêu mở một tiệm thuốc trên con phố nhỏ trong thành Chỉ Ấp. Đây không phải lần đầu tiên, nhưng lần này không giống khi nàng mở tiệm thuốc ở thị trấn Thanh Thủy, kiếm sống dựa vào thứ y thuật nửa mùa học mót trong “Thần Nông bản thảo kinh”. Cũng không giống lần mở tiệm thuốc ở Ngũ Thần Sơn, chỉ để giết thời gian. Lần này, nàng chữa bệnh cứu người với tâm thế và năng lực y thuật của một thầy thuốc thực thụ.

Tiểu Yêu vẫn vừa chữa bệnh vừa học tập. Có điều nàng không đến lớp như lúc trước, kiến thức nơi học đường không đủ đáp ứng yêu cầu học hỏi của nàng. Tiểu Yêu nhờ Chuyên Húc cử danh y bậc nhất cung đình Hiên Viên tới dạy nàng.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Danh y giỏi nhất của ta hiện nay là Ngân, nhưng cậu ta bị câm điếc, sẽ rất khó khăn trong quá trình trao đổi.

– Không sao, muội sẽ học cách ra dấu bằng tay.

Ngân là người đam mê y thuật, hắn cảm thấy rất bất bình khi phải đến dạy Tiểu Yêu, hắn cho rằng chỉ phí thời gian mà thôi. Vì không dám cãi lệnh Chuyên Húc, Hắn đành hậm hực đến gặp Tiểu Yêu. Nhưng sau khi tiếp xúc với Tiểu Yêu một thời gian, hắn mừng thầm vì đã đến dạy nàng.

Nếu luận về chuyên môn y thuật, Tiểu Yêu không thể so bì với một người theo học nghề y từ nhỏ. Nhưng Tiểu Yêu từng lang bạt khắp nơi, từng náu thân nơi rừng sâu núi thẳm, từng nghiên cứu rất sâu về độc thuật, bởi vậy nàng đặc biệt am hiểu dược tính của nhiều loại thảo dược, vượt xa cả Ngân. Nàng có thể kể vanh vách vô số các loại thảo dược hiếm lạ và các bài thuốc dân gian quý báu, khiến Ngân có cảm giác, không phải hắn đang dạy Tiểu Yêu mà chính nàng đang truyền thụ kiến thức cho hắn.

Chỉ còn vài tháng là hết năm. Một năm mới sắp bắt đầu.

Cảnh hiện giờ tuy vẫn độc thân, nhưng vì phải gánh vác trọng trách của một tộc trưởng, mọi việc lớn nhỏ trong họ tộc đều trút lên vai chàng. Năm hết Tết đến, chàng buộc lòng phải ở lại Thanh Khâu lo liệu công việc. Tiểu Yêu dự định sau Tết, khi Cảnh đã vãn việc, nàng sẽ đưa chàng về Ngũ Thần Sơn ở vài ngày.

Cảnh đồng ý ngay tắp lự, chàng còn nửa đùa nửa thật:

– Chỉ cần Phụ vương nàng không phản đối, ta sẽ tới bất cứ khi nào người truyền gọi.

Tiểu Yêu rút một thẻ ngọc trên thư án của Cảnh, vừa viết thư cho cha vừa cười, bảo:

– Phụ vương… chắc chắn sẽ chiều ý em.

Tiểu Yêu viết thư xong, Cảnh nói:

– Gần đây, có một tin đồn lan truyền rất nhanh trong nội bộ các gia tộc lớn, không biết đã ai nói với nàng hay chưa?

– Tin gì?

– Vụ ám sát nàng năm xưa ở thung lũng hoa mai không phải do một tên mà do bốn tên thực hiện.

Tiểu Yêu hờ hững:

– Em đã biết từ lâu. Ngoài Mộc Phỉ đã bị ông ngoại xử tội, thì hình như vẫn còn ba người nữa. Hinh Duyệt nói với em, bọn họ đã bị Chuyên Húc trừng trị. Vì chuyện này, Chuyên Húc đã gây thù chuốc oán với họ Phàn, họ Trịnh.

Biểu cảm trên gương mặt Cảnh có vẻ nghiêm trọng:

– Khi nhắc chuyện năm xưa, tất cả mọi người đều băn khoăn không hiểu vì sao bốn kẻ đó bất chấp đường công danh xán lạn, bất chấp cả việc phải đối mặt với sự trừng phạt đáng sợ nhất từ Hoàng Đế và Tuấn Đế, mà ra tay giết hại nàng.

Tiểu Yêu bàng hoàng. Những lời nguyền rủa nghiệt ngã của Mộc Phỉ khi nàng sa vào trận pháp hoa mai năm đó vẫn văng vẳng bên tai, nàng đã cố quên đi nhưng không sao quên được.

Cảnh nói:

– Cả bốn kẻ đó chỉ có một điểm chung duy nhất: Bọn họ đều là những người duy nhất trong họ tộc may mắn sống sót, sau vụ tàn sát đẫm máu của Xi Vưu. Bởi vậy đã xuất hiện một tin đồn. Hiện mới chỉ rất ít người biết được tin đồn này. Nhưng tin đồn thường lan truyền rất nhanh. Ta nghĩ kẻ cố tình để lộ tin tức này, chắc chắn muốn hướng mọi thứ đến việc….

Cảnh bỗng im bặt, chừng như chàng không biết phải biểu đạt ý tứ đó thế nào.

Tiểu Yêu cười:

– Đến việc chỉ trích em là con hoang của Xi Vưu, đúng không?

Điều này vốn là cơn ác mộng đáng sợ, đeo đẳng nàng từ thuở nhỏ. Nàng đã vô cùng sợ hãi nếu một ngày sự việc được làm sáng tỏ, thậm chí không dám quay về Ngũ Thần Sơn đoàn tụ với cha. Nàng vốn nghĩ cơn ác mộng ấy đã kết thúc, nào ngờ, nó vẫn tiếp tục đeo bám, chẳng chịu buông tha nàng.

– Tiểu Yêu, đừng miệt thị bản thân như vậy.

Tiểu Yêu nhìn ra phía ngoài cửa sổ, ánh mắt nàng ngập nỗi hoang mang, lo sợ. Xưa nay, dù gặp bất cứ vấn đề gì nàng cũng không sợ hãi vì nàng luôn nghĩ ra cách để giải quyết, nhưng bây giờ, nàng không biết phải làm sao.

Cảnh nói:

– Năm đó, rất ít người biết chuyện này. Nếu họ Phàn và họ Trịnh kia biết được điều gì, thì bọn họ đã tung tin từ lâu mới phải. Vậy chỉ còn khả năng, kẻ phao tin là Phong Long và Hinh Duyệt…

Tiểu Yêu nói:

– Không phải Phong Long thì hẳn là Hinh Duyệt. Em khiến họ Xích Thủy mất mặt, họ muốn hủy hoại thanh danh của em cũng là điều dễ hiểu.

– Khả năng cao kẻ đó là Hinh Duyệt.

Tiểu Yêu lòng rối như tư vò, nàng thở dài, nói:

– Thôi, không nghĩ về chuyện này nữa. Chúng ta chẳng thể ngăn chặn tin đồn. Em là con gái của ai chỉ có mẹ trả lời được câu hỏi này. Nhưng bà không còn nữa, vậy nên cứ mặc cho bọn họ thích nói gì thì nói.

Tĩnh Dạ đứng ngoài trình báo:

– Thưa công tử, cô San Hô đã đến đón Vương cơ.

Tiểu Yêu đứng lên, cất thẻ ngọc vào tay áo:

– Em về Tiểu Nguyệt Đỉnh đây.

Cảnh tiễn Tiểu Yêu ra cổng sau.

Cỗ xe mây dân dã đã chờ sẵn ngoài cổng. San Hô cải trang thành nam giới, đứng chờ bên cạnh.

Tiểu Yêu dừng bước, ngước nhìn cây tử đằng nơi góc tường, tần ngần không muốn lên xe.

Cảnh hỏi khẽ:

– Tiểu Yêu, nàng đang lo lắng điều gì vậy?

Tiểu Yêu không nhìn Cảnh, nàng lí nhí:

– Nếu như, em chỉ nói là nếu như, mọi người đều tin rằng em là con gái của Xi Vưu mà ghét bỏ em… thì chàng…

Cảnh kéo Tiểu Yêu vào lòng:

– Đừng bao giờ hỏi ta câu hỏi ngốc nghếch ấy. Khi nàng cứu ta, nàng chỉ là nàng, không phải con gái của ai hết. Ngay từ ngày đó, ta đã quyết định sẽ đeo bám nàng bằng mọi giá.

Tiểu Yêu ngả đầu vào vai Cảnh. Cảnh vỗ về nàng:

– Đừng lo lắng, mọi chuyện rồi sẽ qua thôi.

– Vâng!

Tiểu Yêu nhoẻn miệng cười với Cảnh, nhanh nhẹn lên xe mây.

Xe mây bay vút lên không trung, một chú Huyền Điểu xuất hiện, đậu trên vai San Hô. San Hô hỏi:

– Vương cơ cần gửi thư cho Bệ hạ đúng không? Chim đưa thư đã đến.

Tiểu Yêu nắm chặt thẻ ngọc trong tay.

San Hô thấy nàng chần chừ không lên tiếng, mới gọi:

Vương cơ

Tiểu Yêu nói:

– Chưa đâu, ta vẫn chưa viết xong.

San Hô lấy làm lạ, nhưng không hỏi gì thêm, nàng giơ tay lên, thả cho Huyền Điểu bay đi.

Buổi tối, khi Chuyên Húc đến Tiểu Nguyệt Đỉnh, Tiểu Yêu vốn định kể lại chuyện Cảnh nói với nàng cho Chuyên Húc nghe, nhưng nàng chợt nghĩ, những chuyện Cảnh biết được, lẽ nào Chuyên Húc không biết. Chuyên Húc sợ nàng lo lắng nên mới không nói lại với nàng. Nếu Chuyên Húc có thể đè bẹp được tin đồn, thì mọi thứ xem như chưa từng xảy ra, và nàng không cần phải bận tâm đến nữa. Nếu Chuyên Húc không thể trấn áp được tin đồn, thì dù hắn có nói với nàng cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì.

Tiểu Yêu quyết định không đem chuyện này ra bàn bạc với Chuyên Húc. Dù sao thì nàng cũng không thể làm được gì, đành phó mặc cho Chuyên Húc và Cảnh!

Những trải nghiệm từ thuở nhỏ khiến Tiểu Yêu luôn nhìn nhận sự việc bằng cái nhìn bi quan, nàng luôn dự phòng trường hợp tồi tệ nhất có thể xảy ra. Nhưng lần này, có lẽ vì người đứng ra giải quyết mọi việc là Chuyên Húc và Cảnh, một người là Hắc Đế Bệ hạ, một người là tộc trưởng tộc Đồ Sơn, nên một kẻ xưa nay luôn bi quan như Tiểu Yêu đã phá lệ, tặng cho mình một tia hy vọng. Nàng mong rằng lời đồn sẽ bị dập tắt, và mọi thứ sẽ trở lại như xưa.

Thế nhưng, chưa đầy một tháng sau, tin đồn Tiểu Yêu là đứa con hoang của Xi Vưu đã lan truyền khắp Trung nguyên, khiến mảnh đất này lại được dịp sục sôi.

Khi ai nấy đều hay, mọi người cùng biết về tin đồn, người trong Đại Hoang lập tức chia thành hai phe, một phe tin và một phe không tin. Những người không tin cho rằng đó chẳng qua là lời đồn thổi vô căn cứ, bằng chứng xác thực nhất là: Vương cơ Hiên Viên đã tự tay giết chết Xi Vưu. Những người tin lời đồn là có thật cũng đưa ra không ít bằng chứng. Những người từng gặp Xi Vưu hồi tưởng lại dung mạo của hắn, vẽ lại chân dung hắn, và khẳng định Tiểu Yêu rất giống Xi Vưu.

Dần dần, những lời đồn đoán vu vơ, vô căn cứ đều biến thành những khẳng định chắc như đinh đóng cột. Vì họ không giải thích được tại sao Vương cơ Hiên Viên đã giết Xi Vưu lại sinh con cho hắn, nên có kẻ thậm chí suy luận rằng tên Xi Vưu hung hăng, tàn ác ấy đã cưỡng bức Vương cơ.

Dân chúng Cao Tân vì lòng kính trọng Tuấn Đế, đã lựa chọn tin tưởng vào phán đoán của ngài, rằng Tiểu Yêu là con gái của Tuấn Đế. Kỳ thực, trong lòng họ rất mực căm ghét vị Vương cơ mang đến nỗi ô nhục cho Tuấn Đế và Cao Tân. Họ thậm chí còn ước gì năm xưa Tuấn Đế đã không tìm thấy cô ta.

Dân chúng Hiên Viên vì lòng căm thù Xi Vưu, nên ngày càng tin rằng Tiểu Yêu chính là con hoang của Xi Vưu.

Xi Vưu từng thống lĩnh quân đội Thần Nông tấn công Hiên Viên, cướp đất, phá thành, giết người. Thi thể dân chúng Hiên Viên chất thành núi. Hầu như gia tộc Hiên Viên nào cũng có người chết bởi tay Xi Vưu, vì vậy họ căm hận Xi Vưu đến tận xương tủy.

Các dòng họ ở Trung nguyên cũng căm hận Xi Vưu, vì hắn tàn bạo, ngỗ ngược, giết người vô số. Hắn đã tận diệt nhiều dòng họ ở Trung nguyên, ngay cả sáu dòng họ lớn ở đất này cũng bị hắn làm cho điêu đứng, thê thảm. Nỗi nhục năm xưa nay biến thành biển hận sóng trào cuồn cuộn.

Các dòng họ lâu đời ở Hiên Viên và các dòng họ ở Trung nguyên vốn không hề có tiếng nói chung, ngoại trừ việc tất thảy đều vô cùng căm hận Xi Vưu. Hay nói cách khác, khắp nơi trên lãnh thổ Hiên Viên, ai nấy đều căm giận Xi Vưu. Sau khi hắn chết, nỗi căm hờn không được giải tỏa vì không biết trút vào kẻ nào, bọn họ chỉ chửi rủa được đôi câu. Nhưng bây giờ con gái của Xi Vưu đã xuất hiện. Nỗi căm hờn có đối tượng để trút xuống, cơn đau tưởng chừng đã ngủ yên bao năm nay lại được dịp trỗi dậy. Bọn họ dồn toàn bộ nỗi căm giận Xi Vưu lên đầu Tiểu Yêu.

Chỉ một số ít những người ở vị trí cao quý mới giữ được sự bình tĩnh và lý trí sáng suốt khi nhìn nhận sự việc này. Còn hầu hết dân thường đều ra sức xả hận. Bọn họ không có gan đi giết Tiểu Yêu, vì dù Tiểu Yêu là con gái của ai thì nàng vẫn là cháu ngoại của Hoàng Đế, nên bọn họ chỉ có thể chửi bới, nhục mạ nàng. Từ quán rượu đến quán trà, đâu đâu cũng nghe thấy những lời sỉ vả, đay nghiến. Thậm chí có kẻ còn tập trung đám đông dưới chân núi Thần Nông và hô vang khẩu hiệu: “Đứa con hoang của Xi Vưu hãy cút khỏi Thần Nông Sơn”.

Tấu chương nườm nượp bay về, xếp thành chồng cao ngất trước mặt Chuyên Húc. Có người khéo léo can gián, có kẻ thẳng thừng đề nghị, nhưng rốt lại vẫn là yêu cầu Chuyên Húc bảo toàn uy danh của mình, trả Tiểu Yêu về Cao Tân.

Tiểu Yêu cười cay đắng, vì khẳng định nàng không phải con gái của Tuấn Đế nên bọn họ mới căm hận nàng. Vậy còn đưa nàng về Cao Tân làm gì? Phải chăng bọn họ cầu mong Tuấn Đế sẽ tin vào lời đồn mà giết nàng?

Năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, nhưng Tiểu Yêu không còn nhắc đến việc sẽ cùng Cảnh trở về Ngũ Thần Sơn.

Tuấn Đế gửi cho Tiểu Yêu bốn lá thư. Thư không dài, nhưng tràn ngập tình yêu thương. Tuấn Đế không giả bộ không nghe được tin đồn, ngài chủ động nhắc đến tin đồn và động viên Tiểu Yêu chớ lo lắng.

Tiểu Yêu đặt thư của Tuấn Đế xuống dưới gối, đêm nào cũng gối đầu lên thư của cha để dỗ giấc. Nàng xem đó như một sự bảo vệ, giúp nàng chống lại những tin đồn cay nghiệt.

Ngày cuối cùng của năm cũ, Cảnh buộc phải quay về Thanh Khâu, chủ trì nghi thức cúng tế của gia tộc. Chuyên Húc bày tiệc chung vui với bá quan văn võ trên đỉnh Tử Kim.

Tiểu Nguyệt Đỉnh chỉ còn Tiểu Yêu và Hoàng Đế. Hai ông cháu vui vẻ trò chuyện bên mâm cỗ linh đình, chào đón năm mới.

Đúng vào thời khắc giao thừa, hàng vạn bông pháo hoa tung bay trên đỉnh Tử Kim, chiếu sáng cả một góc trời. Tiểu Yêu chạy ra cửa sổ, ngắm nhìn pháo hoa. Hoàng Đế cũng bước lại, đứng sau lưng nàng, chiêm ngưỡng một trời sắc màu lung linh, rực rỡ, những bông pháo hoa nở bung rợp trời rồi vụt tắt, tan biến, hệt như những giấc mộng mơ màng của nhân gian.

Giọng nói mơ hồ của Tiểu Yêu chợt vang lên giữa tiếng pháo nổ rền vang:

– Ông ơi, rốt cuộc cháu là con gái của ai?

Hoàng Đế đặt tay lên vai Tiểu Yêu, lặng thinh không đáp.

Tiểu Yêu khẽ nghiêng đầu, kiên trì chờ đợi câu trả lời. Pháo hoa rực rỡ khắp trời, gương mặt Tiểu Yêu lúc sáng lúc tối.

Rất lâu sau, Hoàng Đế mới lên tiếng:

– Cháu là cháu gái của vị vua lập ra nước Hiên Viên – Hoàng Đế Hiên Viên và Hoàng hậu Luy Tổ. Điều này không bao giờ thay đổi. Ta còn sống ngày nào, Hiên Viên mãi mãi là nhà của cháu ngày ấy!

Tiểu Yêu thở than:

– Thì ra ông cũng không biết.

Hoàng Đế ôm Tiểu Yêu vào lòng:

– Dù người khác có nói gì đi nữa, cháu mãi mãi vẫn là cháu!

Tiểu Yêu ngẩng đầu nhìn những bông pháo hoa trên trời và cười:

– Thế cũng hay, dù sao mẹ cháu đã chết, không ai biết được sự thật. Cháu khẳng định cháu là con gái của Phụ vương thì nhất định là như vậy!

Nửa đêm hôm đó, khi Tiểu Yêu đã chìm vào giấc ngủ, bỗng nàng nghe có tiếng loạt soạt, một lát sau, cửa phòng nàng bật mở khe khẽ, Chuyên Húc nhẹ nhàng ngồi xuống bên giường nàng.

Tiểu Yêu không muốn Chuyên Húc biết nàng không sao chợp mắt được vì tâm tư rối bời, nên vờ đã say giấc, nàng nằm xoay lưng về phía Chuyên Húc. Hương rượu nồng nặc tỏa ra từ cơ thể Chuyên Húc, không biết bá quan văn võ đã chuốc hắn uống nhiều cỡ nào.

Lát sau, Chuyên Húc cúi xuống, nhẹ nhàng ôm Tiểu Yêu vào lòng, thì thầm:

– Đừng sợ, ta không để bọn họ gây tổn thương cho muội đâu. Bọn họ đâu biết rằng, mọi thứ ta có đều là của muội, kể cả Thần Nông Sơn, Trạch Châu hay Chỉ Ấp… tất cả đều là của muội, không kẻ nào được phép bức muội rời khỏi đây.

Tiểu Yêu cắn môi, hẳn là các dòng họ Trung nguyên lại cằn nhằn gì đó mới khiến Chuyên Húc tức giận như vậy.

Chừng như men rượu đã bắt đầu khiến Chuyên Húc ngà ngà say, khiến hắn lẫn lộn quá khứ và hiện tại, hắn lẩm nhẩm:

– Muội đừng sợ, ta đã lớn, ta không cho phép kẻ nào gây thương tổn cho muội, ta sẽ không để muội phải đến Ngọc Sơn… Muội sẽ ở bên ta mãi mãi!

Cô ơi, cháu sẽ bảo vệ Tiểu Yêu, cô đừng đưa muội ấy đến Ngọc Sơn…

Cô ơi, cháu và Tiểu Yêu đã hẹn ước sẽ ở bên nhau mãi mãi… Tiểu Yêu, đừng đi! Cô ơi, cháu sợ….

Chuyên Húc say xỉn, thiếp đi. Nước mắt lăn dài trên má, nhưng Tiểu Yêu không biết nàng khóc vì điều gì, khóc vì thời niên thiếu đã qua, hay khóc vì bản thân nàng hiện tại.

Đêm trăng tròn đầu tiên của năm mới, Tiểu Yêu chủ động đề nghị được tới thành Chỉ Ấp xem hoa đăng, cả Cảnh và Chuyên Húc đều đồng ý.

Chiều hôm đó, Cảnh lên Tiểu Nguyệt Đỉnh đón Tiểu Yêu, chàng ăn vận giản dị. Tiểu Yêu mặc bộ đồ cũ sờn của nam giới, đội mũ che mặt. Chuyên Húc cũng cải trang thành thường dân. Rời khỏi núi Thần Nông, cả ba cùng thuê một cỗ xe bò, thảnh thơi rong ruổi trên phố phường Chỉ Ấp, hòa vào dòng người đông đúc cùng tới xem hội hoa đăng.

Tiểu Yêu hết nhìn Cảnh lại nhìn sang Chuyên Húc, phì cười, hỏi:

– Hai người thấy lúc này trông chúng ta giống gì nào?

Chuyên Húc và Cảnh nhìn nhau, Cảnh mỉm cười không nói, Chuyên Húc cười, bảo:

– Giống khi còn ở thị trấn Thanh Thủy.

Tiểu Yêu phấn khởi:

– Chính xác!

Tiểu Yêu đưa mắt quan sát đám đông đằng sau xe bò, kẻ có tiền thì ngồi xe, người ít tiền thì đi bộ. Nhưng cả người ngồi xe lẫn người đi bộ đều mặc bộ cánh mới nhất, nụ cười rạng rỡ, mãn nguyện trên gương mặt họ, sau một năm vất vả, cực nhọc. Có chú nhóc chễm chệ trên vai cha, tíu tít chuyện trò:

– Cha ơi, vào thành mua kẹo hồ lô cha nhé!

Người cha vui vẻ đáp:

– Ừ!

Nụ cười của Tiểu Yêu thoáng nét buồn bã.

Xe bò vào nội thành khi trời đã xẩm tối. Chuyên Húc nói:

– Đèn hoa còn chưa được thắp hết, chúng ta hãy kiếm chút gì bỏ bụng trước. Tiểu Yêu, muội thích ăn gì?

Ngồi xe đã lâu, Tiểu Yêu thấy toàn thân lạnh buốt, nàng co chân, cười bảo:

– Tất nhiên là món thịt nướng, thêm vài bát rượu nữa!

Chuyên Húc cười vang, nói với Cảnh:

– Lần trước, cậu bảo mời chúng tôi ăn thịt nướng, nhưng giữa đường cậu chạy mất tiêu, lần này phải bù đắp đó.

Hồi còn ở thị trấn Thanh Thủy, Cảnh hẹn mời Chuyên Húc và Tiểu Yêu đi ăn thịt nướng, nhưng sự xuất hiện đột ngột của Ý Ánh đã khiến cuộc hẹn bị hủy ngang, lần đó chỉ có Chuyên Húc và Tiểu Yêu đi với nhau.

Cảnh cười, đáp:

– Huynh vẫn nhớ sao? Được chứ!

Bàn bạc xong món ăn, cả hai bỗng sững sờ, không biết phải xoay sở tiếp ra sao. Vì một người là Bệ hạ, một người là Tộc trưởng, họ không còn là Hiên và Thập Thất của ngày xưa, nên họ không rõ con phố nào có quán thịt nướng ngon.

Tiểu Yêu mỉm cười, lắc đầu:

– Đi theo muội!

Tiểu Yêu dẫn hai người len lỏi qua các ngõ phố, tìm đến một tiệm thịt nướng. Tiểu Yêu nói:

– Trong số các tiệm thịt nướng mà muội từng ăn thì tiệm này là khá nhất, vừa sạch sẽ lại vừa ngon. Nhưng đã lâu muội không quay lại, không biết hương vị có còn được như trước.

Những quán ăn vặt mà Tiểu Yêu biết đều do Phòng Phong Bội đưa nàng đến. Trước mặt hai người thân thiết nhất của nàng, Tiểu Yêu không có ý định giấu giếm điều đó, giọng nàng phảng phất nỗi u hoài. Chuyên Húc và Cảnh đều là những kẻ thông minh tuyệt đỉnh, bọn họ lập tức đoán ra, Phòng Phong Bội từng đưa Tiểu Yêu đến chỗ này. Chuyên Húc vỗ vai Tiểu Yêu, an ủi nàng đừng nghĩ ngợi nhiều. Cảnh thầm thở dài.

Người ta chia không gian tiệm thịt nướng thành những ô nhỏ, ngăn cách bởi những tấm bình phong. Tiểu Yêu, Chuyên Húc và Cảnh là những vị khách đầu tiên, nên chọn được chỗ ngồi trong cùng, yên tĩnh, không bị làm phiền.

Ba người gọi thịt dê, thịt bò và một hũ rượu, rồi vừa ăn vừa uống vui vẻ. Lò than rực hồng, rượu nồng ấm bụng, Chuyên Húc thấy rất ngon miệng, hắn tấm tắc khen:

– Bao năm rồi mới được một bữa ngon miệng thế này. Từ nay, phải chịu khó ra ngoài ăn vặt mới được.

Tiểu Yêu vừa lật thịt trên bếp vừa càu nhàu:

– Đúng là lòng tham vô đáy! Trên đời làm gì có chuyện phàm thứ gì tốt cũng rơi vào tay huynh cả chứ!

Chuyên Húc thoáng sững sờ, hắn nhìn Tiểu Yêu đăm đăm, cười, nói:

– Ai bảo vậy? Ta cứ muốn hết tất cả đấy!

Tiểu Yêu gắp thịt vào đĩa Chuyên Húc:

– Vâng, thì của huynh tất! Dù sao thì Tiêu Tiêu và các cô gái khác phải chịu khổ chứ đâu phải muội!

Chuyên Húc cốc vào trán Tiểu Yêu:

– Miệng lưỡi lém lỉnh, không bao giờ chịu thua thiệt!

Tiểu Yêu lườm Chuyên Húc. Cảnh trỏ vào chiếc đĩa trống không trước mặt mình, mặt ủ mày chau, nói với Chuyên Húc:

– Cô ấy không ngọt nhạt với huynh nhưng chăm lo cho huynh chu đáo, với người khác thì hoàn toàn ngược lại!

Chuyên Húc bật cười, định gắp thịt, Tiểu Yêu liền chuyển miếng thịt nướng từ đĩa của Chuyên Húc sang đĩa của Cảnh. Cảnh cười, nói:

– Cảm ơn nhé!

Chuyên Húc chưng hửng, lắc đầu cười, nói với Tiểu Yêu:

– Nướng đĩa khác cho ta.

Tiểu Yêu bận rộn chế biến, thêm thắt gia vị, tay làm miệng nói:

– Huynh muốn ăn thì tự nướng lấy mà ăn, muội còn phải chăm lo cho cái miệng của muội, nếu không thì lấy đâu ra miệng năm miệng mười để cãi lại huynh?

Chuyên Húc xuống nước van vỉ:

– Ta nướng không ngon bằng muội!

Tiểu Yêu nói vậy, nhưng khi thịt chín, nàng vẫn nhường cho Chuyên Húc.

Ba người đàn ông lực lưỡng bước vào quán, hầu bàn đưa họ vào chỗ ngồi ngay cạnh bàn của Tiểu Yêu. Chuyên Húc và Cảnh ngừng chuyện trò. Ba người ở bàn bên cạnh gọi thịt bò, thịt dê, vài đĩa rau và một ít hoa quả. Vào mùa này, rau quả tươi còn đắt đỏ hơn cả thịt, dân thường không đủ tiền để mua. Tiểu Yêu sợ gây sự chú ý, khi nãy cũng chỉ gọi một đĩa dưa muối. Những người này nếu không giàu có thì hẳn cũng thuộc hàng quyền quý.

Nghe khẩu âm Hiên Viên của họ, Tiểu Yêu hỏi khẽ Chuyên Húc:

– Huynh có quen không?

Chuyên Húc gật đầu, chau mày viết lên bàn hai chữ: Tướng quân.

Tiểu Yêu le lưỡi chọc Chuyên Húc: Ai bảo huynh gọi bọn họ đến Thần Nông Sơn làm gì! Đáng đời!

Gọi món xong, bàn bên cạnh hoàn toàn im ắng, hẳn là bọn họ đã đặt cấm chế, để không ai nghe được cuộc chuyện của họ.

Tiểu Yêu làu bàu:

– Chắc chắn bọn họ đang nói chuyện bí mật gì đó!

Nàng sáp lại gần Cảnh, thẽ thọt:

– Không công bằng! Chúng ta không muốn gây sự chú ý mới không đặt cấm chế, thế mà bọn họ lại làm vậy.

Tiểu Yêu liếc xéo Chuyên Húc, cười khì khì, bảo:

– Nếu bọn họ đang nói xấu huynh ấy thì thật thú vị.

Tiểu Yêu kéo tay áo Cảnh:

– Em muốn nghe xem bọn họ nói gì, chàng có cách không?

Cảnh tủm tỉm cười:

– Không có cũng phải có!

Chàng đặt tay lên chén rượu, rượu hóa thành sương mù, sương mù thấm qua tấm bình phong và biến mất.

Tiếng trò chuyện ở bàn bên cạnh vẳng tới. Họ không nói chuyện gì nghiêm trọng, chỉ là so sánh kinh đô mới Chỉ Ấp và kinh đô cũ Hiên Viên. Nghe giọng điệu thì thấy ba người này đều là những kẻ hiểu biết. Tuy lưu luyến quê xưa vườn cũ, nhưng họ không thể không thừa nhận, dời đô đến Chỉ Ấp là hợp lý. Theo cách xưng hô của họ, Tiểu Yêu phỏng đoán, người có thứ bậc cao nhất là Đại tướng quân Ly Oán, hai người còn lại, một người là em vợ, còn một người là cháu của ông ấy.

Hết chuyện đô thành, họ nhắc đến Hoàng Đế. Một người thở than:

– Không biết có gặp được Hoàng Đế Bệ hạ không nữa.

Người khác nói:

– Chúng cháu chắc chắn không thể, nhưng chú có thể xin vào gặp Bệ hạ.

Tiểu Yêu mỉm cười nhìn Chuyên Húc, hắn viết lên bàn:

– Ly Oán là tướng quân trấn giữ Trạch Châu, từng theo ông nội đánh chiếm Trung nguyên…

Ngón tay Chuyên Húc lơ lửng trên không một lát mới viết tiếp:

– Trong trận chiến ở Ký Châu, ông ấy là tướng lĩnh dưới trướng cô Hành.

Nụ cười trên môi Tiểu Yêu vụt tắt.

Ba người ở bàn bên cạnh uống thêm mấy bát rượu nữa, sau đó, một người nói:

– Anh rể từng là bộ tướng của Đại tướng quân Vương cơ trong trận thắng ở Ký Châu, hẳn quan hệ giữa huynh và Vương cơ rất thân thiết.

Đại tướng quân Vương cơ là cách gọi đặc biệt mà các tướng sỹ thường gọi mẹ Tiểu Yêu. Nàng vờ như không bận tâm, nhưng vẫn dỏng tai nghe ngóng. Nàng chờ đợi câu trả lời của Ly Oán, nhưng ông ấy mãi không chịu lên tiếng. Rất lâu sau, ông ấy mới nói:

– Rất khó để khẳng định chúng ta đã thắng trận đó.

Đã qua mấy trăm năm, nhưng câu nói ấy vẫn thấm đẫm nỗi bi thương, khiến người bên này và người bên kia tấm bình phong đều ngậm ngùi, lặng lẽ uống cạn bát rượu.

Bầu không khí chùng xuống một hồi, tiếng một chàng trai trẻ chợt vang lên:

– Chú ơi, chú có nghe được tin đồn gần đây không? Tin đồn về Đại Vương cơ Cao Tân.

– Có nghe.

Giọng nói của Ly Oán rất mực điềm tĩnh, nhưng vẫn khiến Tiểu Yêu hồi hộp đến mức nàng nghiêng người để nghe ngóng.

– Chú và Đại tướng quân Vương cơ vốn là chỗ bạn bè thân thiết, vậy…

Chàng trai dường như cũng thấy bối rối, ngập ngừng một lát, mới nói tiếp:

– Rốt cuộc, Đại Vương cơ Cao Tân là con gái của ai?

Ly Oán không đáp lại, Tiểu Yêu căng thẳng như dây đàn. Cảnh xiết chặt tay nàng, nhưng Tiểu Yêu đã mất hết cảm giác, nàng nắm tay chàng trong vô thức.

Một người đàn ông khác lên tiếng:

– Anh rể, ba chúng ta đều là người nhà, có gì mà không nói được!

Rốt cuộc, Ly Oán cũng chịu lên tiếng:

– Ta không phải bằng hữu thân thiết của Đại tướng quân Vương cơ, Đại tướng quân Ứng Long mới là bạn bè thân thiết của cô ấy. Năm xưa, ta chỉ là một bộ tướng dưới trướng cô ấy. Ta chưa từng nói chuyện riêng với Vương cơ. Ta cũng không biết Vương cơ Cao Tân là con gái của ai.

Toàn thân Tiểu Yêu đột ngột chùng xuống, nàng cảm thấy hơi mệt. Nhưng bỗng nhiên, giọng nói của Ly Oán lại vang lên:

– Một sớm nọ, khi Tướng quân Ứng Long dẫn bọn ta đi tuần, thì nghe thấy có tiếng ồn ào, huyên náo bên ngoài doanh trại. Bọn ta chạy tới thì thấy Vương cơ và Xi Vưu đang bị quân của Xi Vưu bao vây…

Tiểu Yêu thoáng rùng mình, nàng tỏ ý không muốn nghe tiếp. Cảnh giơ tay lên định hủy phép thuật, Tiểu Yêu bỗng giữ chặt tay chàng lại, mắt nàng trừng trừng, hệt loài thú hoang chờ con mồi ở phía trước, nàng nín thở lắng nghe.

– Đám bộ hạ của Xi Vưu cãi vã ầm ỹ, ta nghe một lúc mới hiểu. Thì ra Vương cơ và Xi Vưu suốt đêm không về. Bọn họ thấy hai người về cùng nhau, lại ôm nhau khi chia tay, nên mới chất vấn Xi Vưu. Xi Vưu thinh lặng không nói. Tướng quân Ứng Long tức giận quát mắng quân của Xi Vưu. Sau đó các tướng sỹ tản mát mỗi người một hướng. Nhưng Vương cơ bỗng nhiên nói với tất cả mọi người: “Ta và Xi Vưu có tình cảm với nhau”. Ai nấy đều thất kinh, tưởng mình nghe thiếu chữ “không”. Nhưng Vương cơ dõng dạc lặp lại lần nữa: “Ta đã yêu Xi Vưu mấy trăm năm!” Giọng cô ấy nói lớn như thể muốn cả thiên hạ nghe thấy vậy!

Tiểu Yêu như bị chìm trong cơn ác mộng, nàng sợ hãi, hoảng hốt, toàn thân bất động, giọng nói của tất cả mọi người bỗng chốc trở nên mơ hồ, xa vắng.

– Vì… vì… vì sao? Xi Vưu… Xi Vưu là… tên đại ác ma kia mà!

Chàng trai trẻ lắp bắp, vẻ mặt muôn phần thất vọng, cậu ta không thể chấp nhận thần tượng của mình, Vương cơ anh hùng sẵn sàng hy sinh vì dân vì nước lại yêu Xi Vưu. Cậu ta thà tin lời đồn rằng Vương cơ đã bị Xi Vưu cưỡng bức còn hơn phải tin điều này.

Giọng nói điềm tĩnh của Ly Oán bỗng trở nên nghiêm khắc:

– Ta biết các ngươi hỏi chuyện này không chỉ vì quan tâm đến tin đồn, chắc chắn có kẻ muốn các ngươi hãm hại Đại Vương cơ Cao Tân. Nhưng các ngươi nghe cho rõ đây: các ngươi không được phép! Đại tướng quân Ứng Long và ta còn sống ngày nào, sẽ không cho phép bất cứ thế lực nào của quân đội hãm hại con gái Vương cơ!

– Nhưng mà… nhưng mà… thưa chú…

– Không nhưng nhị gì cả!

Lời nói của Ly Oán có sức nặng nghìn cân, quả không hổ danh là lão tướng nơi trận mạc.

Hai người kia lập tức vâng theo quân lệnh:

– Rõ!

Giọng nói của Ly Oán trở lại với ngữ điệu điềm tĩnh như cũ:

– Cuộc đời có muôn vàn điều đáng tiếc và tàn khốc. Các ngươi không từng trải qua, nên không hiểu. Vương cơ đã hy sinh tất cả để các ngươi không phải nếm trải những khốn khổ và cay đắng đó. Còn Xi Vưu… hắn là kẻ địch của chúng ta, nhưng hắn xứng đáng với tình yêu của Vương cơ!

Dứt lời, Ly Oán đứng lên, rảo bước ra về.

Hai người còn lại ngẩn ngơ một lúc mới bật dậy, đuổi theo Ly Oán.

Tiểu Yêu, Tiểu Yêu….

Tiểu Yêu hoang mang ngẩng lên, Chuyên Húc và Cảnh lo lắng nhìn nàng. Tiểu Yêu mấp máy môi, nhưng cổ họng nàng đắng chát, nàng không thốt được lên lời. Cảnh đưa nước cho nàng, Tiểu Yêu lắc đầu. Chuyên Húc đưa rượu cho nàng, Tiểu Yêu uống ừng ực. Rượu mạnh trôi từ cuống họng vào bụng, Tiểu Yêu cảm thấy như nàng vừa sống lại.

Trời đã tối từ lâu, đèn hoa rực rỡ phố phường, người qua người lại tấp nập. Tiểu Yêu ngồi thẳng, không nhìn Cảnh, cũng không nhìn Chuyên Húc, nàng hướng mắt ra ngoài cửa sổ.

Rất lâu sau, nàng tỏ ra bình tĩnh lạ thường, nàng khẳng định chắc nịch:

– Muội là con gái của Xi Vưu!

Chuyên Húc vội vàng an ủi:

– Dù muội là con gái của ai, muội vẫn là người thân thiết nhất của ta.

Cảnh chậm rãi nói:

– Khi hai ta gặp nhau lần đầu, nàng chỉ là nàng, không phải con gái của ai cả. Sau này, dù nàng là con gái của ai, nàng vẫn mãi là nàng.

Tiểu Yêu đứng lên, bước ra ngoài. Chuyên Húc và Cảnh đứng lên theo, Tiểu Yêu nói:

– Muội muốn yên tĩnh một mình, đừng ai đi theo muội!

Chuyên Húc và Cảnh đứng lại, nhìn theo bóng Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu vừa đi khỏi, một chú cáo nhỏ trong suốt bay ra khỏi tay áo Cảnh, biến vào bóng đêm. Chuyên Húc rảo bước ra khỏi tiệm đồ ăn, ra lệnh cho ám vệ của hắn:

– Cử thêm vài người đi theo bảo vệ Vương cơ!

Chuyên Húc lạnh lùng nói với Cảnh:

– Ám vệ của ta sẽ đưa Tiểu Yêu về Tiểu Nguyệt Đỉnh, cậu về nghỉ đi!

Chuyên Húc định quay người bước đi, bỗng nghe tiếng Cảnh hỏi:

– Bệ hạ, vì sao ngài làm vậy?

Chuyên Húc chầm chậm quay lại. Dưới bậc thềm kia là đèn hoa rực rỡ, phố xá đông vui, tiếng cười nói rộn ràng không ngớt. Nhưng trên bậc thềm, bầu không khí hoàn toàn im vắng. Không biết vì có ám vệ dùng linh khí che chắn hay vì đúng lúc ấy không có người qua lại, chỉ có Cảnh và Chuyên Húc, đối mặt nhau dưới ánh sáng của đôi chiếc đèn lồng làm từ da dê.

Chuyên Húc cười mỉa:

– Sao cậu biết?

Cảnh đáp:

– Lúc đầu, thần cho rằng việc này do Hoàng hậu gây ra. Hoàng hậu là người duy nhất muốn hãm hại Tiểu Yêu, và có đủ năng lực phát tán tin đồn. Thần nghĩ Bệ hạ cũng đang ra sức đè bẹp tin đồn. Nhưng thần sử dụng hết năng lực của mình, thậm chí phối hợp sức mạnh của cả ba nhà: Tây Lăng, Quỷ Phương và Đồ Sơn để trấn áp họ Xích Thủy và họThần Nông, nhưng vẫn không thể ngăn được tin đồn tiếp tục lan rộng. Nên thần nghĩ việc này không thể do Hoàng hậu. Lực lượng thúc đẩy việc phát tán tin đồn quá lớn! Cũng như chuyện đêm nay, bề ngoài có vẻ như từ đầu chí cuối đều là lựa chọn ngẫu nhiên của Tiểu Yêu, nhưng nếu Bệ hạ không muốn Tiểu Yêu mất hứng, thì Tướng quân Ly Oán đâu thể bước chân vào quán ăn này. Cách giải thích duy nhất là, Bệ hạ muốn Tiểu Yêu “tình cờ” gặp ba người đó.

Chuyên Húc mỉm cười:

– Phong Long từng khen cậu là người thông minh tuyệt đỉnh, ta vốn không tin. Nhưng xem ra, cậu rất xứng đáng với lời khen của cậu ta.

Cảnh nói:

– Thưa Bệ hạ, không phải Tiểu Yêu không đủ thông minh để nhìn ra, mà vì nàng không bao giờ tin Bệ hạ có thể gây tổn thương cho nàng.

Nụ cười biến mất, Chuyên Húc lạnh lùng nói:

– Ta làm vậy để bảo vệ Tiểu Yêu.

Tuy Cảnh đã đoán ra dụng ý của Chuyên Húc, nhưng chàng vẫn không khỏi bàng hoàng khi điều đó được chứng thực. Cảnh lặng lẽ lùi lại vài bước, vái lạy Chuyên Húc:

– Thảo dân xin cáo lui!

Chuyên Húc không nói không rằng, hắn lạnh lùng đứng đó, nhìn theo Cảnh bước xuống bậc thềm, hòa vào dòng người đông đúc.

Tiểu Yêu cứ mải miết theo dòng người trảy hội hoa đăng. Nàng cũng không biết mình đã đi qua bao phố lớn, bao ngõ nhỏ. Nàng như người mộng du, không biết đi đâu về đâu. Nhưng khi dừng lại trước cánh cửa cũ nát ấy, nàng chợt hiểu ra, đây chính là nơi nàng muốn đến.

Tiểu Yêu chầm chậm đẩy cửa. Lần trước, khi nàng tới đây, căn bếp đỏ lửa, thịt lừa đầy nồi, hương thơm nức mũi. Còn lần này, bếp lạnh nồi không, phòng im lửa tắt. Ông lão cụt tay, hầm thịt lừa ngon tuyệt dạo trước đã bỏ nghề rồi sao?

Tiểu Yêu vén tấm rèm vải cũ sờn, đi vào trong sân, bốn bề quạnh vắng, không ánh đèn, không thanh âm. Chỉ có vầng trăng vằng vặc trên cao, rọi xuống mảnh sân đìu hiu. Mấy chiếc bàn tiếp khách xếp chồng lên nhau nơi góc tường, bụi phủ trắng xóa.

Tiểu Yêu gõ cửa:

– Có ai không? Có ai không vậy? Bác ơi, bác ơi,…

Không ai đáp lại. Tiểu Yêu đẩy cửa phòng. Nàng thấy trên ban thờ cũ mèm có bài vị của ai đó cùng ba nén nhang cháy dở. Vậy là đã rõ, nàng biết ông lão cụt tay ấy nương náu chốn nào rồi.

Nàng thẫn thờ đứng lặng hồi lâu, rồi bước vào nhà và ngồi xuống chiếc giường gỗ.

Căn phòng cũ kỹ, đã lâu không người ở, nên có mùi ẩm mốc. Nhưng Tiểu Yêu không muốn rời khỏi đây, vì có lẽ chỉ nơi này mới thực sự chào đón nàng.

Tiểu Yêu lặng lẽ ngồi nhìn bài vị rất lâu, đột nhiên nàng cất tiếng hỏi:

– Ông bác ơi, họ bảo bác từng là tướng quân của Xi Vưu, hẳn bác rất thân thiết với Xi Vưu? Không biết bác có từng gặp mẹ cháu? Thực lòng cháu rất muốn đến gặp và trò chuyện với bác, nhưng cháu không dám! Cháu đã cố gắng tránh né mọi thứ liên quan đến Xi Vưu, nhưng bây giờ cháu không trốn được nữa. Cuối cùng, cháu cũng có đủ dũng khí để đến hỏi bác, Xi Vưu rốt cuộc là người thế nào? Ông ta có đúng là tên ác ma khốn kiếp, không chút tính người? Ông ta có bao giờ nhắc đến mẹ cháu trước mặt bác và mọi người không? Ông ấy có biết đến sự tồn tại của cháu không? Cháu có rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng bác đã đi rồi…

Tiểu Yêu dựa lưng vào tường, nhắm mắt lại, nước mắt tuôn rơi, nhạt nhòa gương mặt.

Vị tướng quân hầm thịt lừa rất cừ này là người duy nhất trên đời biết về Xi Vưu! Nàng đã để tuột mất trăm ngàn dịp có thể hỏi thăm ông ấy về Xi Vưu. Nay nàng tới thì đã muộn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 3: Hoa nở hoa tàn, người xa vắng

Ngày Hai mươi tám tháng Ba, bệnh tình của Phòng Phong Ý Ánh trở nên nguy kịch, tộc trưởng tộc Phòng Phong vội vàng tới Thanh Khâu, thăm con gái.

Vài ngày sau, các trưởng lão nhà Đồ Sơn và tộc trưởng tộc Phòng Phong cùng bố cáo thiên hạ: Phu nhân Phòng Phong đã qua đời.

Các dòng họ lớn trong Đại hoang đều cử người đến phúng viếng, nhưng không phải họ thật lòng thương tiếc Phòng Phong Ý Ánh, điều họ quan tâm là ai sẽ trở thành phu nhân tương lai của Tộc trưởng tộc Đồ Sơn. Tập tục của Trung nguyên quy định: Nếu người vợ qua đời, người chồng phải để tang vợ một năm, rồi mới được tục huyền. Thế nhưng một vài tộc trưởng các dòng họ, vì quá sốt ruột, đã sai người dò hỏi các vị trưởng lão về sở thích của Cảnh.

Lo liệu xong tang lễ, Cảnh về sống trong thành Chỉ Ấp.

Được sự cho phép của Hoàng Đế, Cảnh được phép ra vào Thần Nông Sơn thoải mái. Ngày nào chàng cũng lên Tiểu Nguyệt Đỉnh, nhưng không phải để vui cùng Tiểu Yêu, mà để chơi cờ với Hoàng Đế, theo yêu cầu của ngài. Họ chơi cờ trên một bàn cờ đặc biệt dành riêng cho Thần tộc. Bàn cờ tuy nhỏ nhưng là biểu trưng cả thế giới, giang sơn gấm vóc đều nằm trong đó. Những cuộc chiến tranh giành thiên hạ xảy ra liên miên. Vậy nên, họ thường mất mấy tháng mới chơi xong một ván cờ.

Tiểu Yêu ngồi bên cạnh vừa đọc sách y thuật vừa ngáp vặt.

Một tối nọ, cuộc cờ kết thúc.

Hoàng Đế nhìn bàn cờ, thở dài:

– Tiếc thay, chí ngươi không đặt nơi này. Nhưng cũng mừng thay, chí ngươi không đặt nơi này!

Tiểu Yêu bưng canh quả mai chua vào, ngó nghiêng bàn cờ, nhưng không hiểu gì, nàng hỏi:

– Ai thắng thế?

Cảnh đáp:

– Tất nhiên ta là người thua cuộc.

Tiểu Yêu cười thật tươi, múc một bát canh dâng lên Hoàng Đế, rồi lại múc một bát khác mời Cảnh.

Hoàng Đế đột nhiên tấm tức:

– Phong tục tập quán của Trung nguyên thật đáng ghét, để tang người đã khuất thì có ý nghĩa gì! Nếu trong lòng vẫn còn tưởng nhớ, thì dù người đời cấm cản, anh ta vẫn thương nhớ người ấy suốt đời. Nhưng nếu trong lòng chẳng mặn mà, thì dù để tang một năm hay ba năm cũng nào có ý nghĩa gì! Trước mặt mọi người anh ta cố tỏ ra đau xót, nhưng sau lưng thì vẫn vui cười, hoan hỉ. Về mặt này, ta thấy các dân tộc ở Tây Bắc tiến bộ hơn các ngươi. Người chồng qua đời, mộ còn chưa xanh cỏ, nhưng nếu người vợ muốn, vẫn có thể “động phòng hoa chúc” với người khác. Bởi vậy, ở các bộ lạc Tây Bắc thường có cảnh, buổi sáng uống rượu chia buồn, buổi tối uống rượu chung vui.

Tiểu Yêu phì cười, phun cả canh ra ngoài:

– Ông ơi, ông càng già càng hay hoài niệm quá khứ xa xưa. Người ta nói không sai: Ông lão trẻ con, ông lão trẻ con!

Hoàng Đế nhìn Tiểu Yêu, lắc đầu:

– Ta đang lo cho cháu đó, biết không?

Tiểu Yêu thoáng đỏ mặt, lầm bầm:

– Cháu có đòi đi lấy chồng đâu!

– Cháu không sốt ruột nhưng người khác có đấy! Nếu không, vì sao Phòng Phong Ý Ánh vẫn sống sờ sờ ra đó, cậu ta đã vội vã phát tang?

Tiểu Yêu liếc Cảnh, làu bàu:

– Chàng thương cô ấy nên mới làm vậy. Nếu Ý Ánh chết đi, cô ấy sẽ không phải cúng tế Thức thần nữa, và sẽ có cơ hội được thấy con trai mình trưởng thành.

Cảnh thản nhiên thừa nhận:

– Giúp Phòng Phong Ý Ánh chỉ là một công đôi việc, mục đích chính của thần là mau chóng rước Tiểu Yêu về dinh.

Tiểu Yêu trừng mắt nạt nộ Cảnh, nhưng khi chạm phải ánh mắt chàng, nàng bỗng thấy xấu hổ, nhưng hơn hết là niềm hạnh phúc ngọt ngào dâng tràn. Nàng cúi đầu, vờ tập trung vào việc uống canh, hai má ửng đỏ.

Cảnh thưa với Hoàng Đế:

– Thưa Bệ hạ, thần có lời cầu xin.

Hoàng Đế nói:

– Cho phép!

– Thần muốn đưa Tiểu Yêu đi du ngoạn.

Hoàng Đế trầm ngâm không đáp. Cảnh thưa:

– Thần biết Bệ hạ lo cho sự an toàn của Tiểu Yêu, nhưng nàng không thể suốt đời náu mình ở Thần Nông Sơn. Mấy tháng qua, Tiểu Yêu đã luyện tập bắn cung trở lại và tiếp tục điều chế thuốc độc. Nàng hoàn toàn có thể tự bảo vệ bản thân.

Hoàng Đế thở dài:

– Ta biết, chỉ có loài cừu mới chịu để người ta nhốt trong chuồng, giống chim ưng nhất định phải thả về trời xanh. Ta cũng mong cháu con của mình mạnh mẽ như chim ưng. Nhưng có lẽ vì tuổi tác đã nhiều, ta cứ luôn lo lắng khôn nguôi về chúng.

– Nếu Bệ hạ không yên tâm, ngài có thể cử thị vệ âm thầm đi theo chúng thần.

Tiểu Yêu càu nhàu:

– Ông ơi, ông đừng quên cháu từng một mình phiêu bạt khắp nơi suốt mấy trăm năm nhé! Cháu đã tự nuôi mình khôn lớn!

– Tiểu Yêu cũng cần ra ngoài hít thở không khí trong lành! Các cháu đi đi!

Cảnh vái lạy tạ ơn Hoàng Đế.

Nghe tin Tiểu Yêu sẽ đi du ngoạn với Cảnh, Chuyên Húc cực lực phản đối, nhưng Hoàng Đế đã cho phép, lại thêm Tiểu Yêu nhõng nhẽo van vỉ, Chuyên Húc không thể không thuận theo ý nàng. Tuy nhiên, hắn đặt ra điều kiện: Tiểu Yêu phải đưa Tiêu Tiêu và Miêu Phủ đi cùng.

Tháng Năm năm đó, Cảnh đưa Tiểu Yêu rời khỏi Thần Nông Sơn. Đoàn tùy tùng gồm Tĩnh Dạ, Hồ Trân, Hồ Á, Tiêu Tiêu và Miêu Phủ.

Đoàn người đi về phương Nam, đến Xích Thủy thì chuyển sang ngồi thuyền, tiếp tục xuôi xuống phía Nam, vào đến lãnh thổ Cao Tân.

Tiểu Yêu băn khoăn hỏi Cảnh:

– Chàng đến Cao Tân lo việc làm ăn hay còn mục đích nào khác?

Cảnh cười, đáp:

– Vừa đi làm ăn, vừa có dự định khác.

– Dự định gì?

– Một trong số đó là du sơn ngoạn thủy.

Tiểu Yêu bước ra mui thuyền, dõi mắt nhìn khung cảnh quen thuộc, giận dỗi nói:

– Thiếu gì nơi có cảnh đẹp, vì sao nhất định phải đưa em đến Cao Tân? Chàng không biết từ người dân đến nhà vua ở đất này đều không hoan nghênh em hay sao?

Cảnh đặt cút rượu Thanh Mai do chính tay chàng ủ vào tay Tiểu Yêu, và ôm chặt eo nàng:

– Năm đó, sau khi lễ hội mùa thu kết thúc, ngày nàng trở về, ta rất muốn đến tiễn nàng. Nhưng khi tới bến thuyền, ta chỉ có thể ngồi trong xe ngựa và sai người hầu xách làn đồ ăn đến tặng nàng. Ta mong được nhìn nàng từ xa, nhưng ta chỉ thấy Chuyên Húc, A Niệm, Phong Long và Hinh Duyệt chào từ biệt nhau, khi thuyền đã khuất bóng trên dòng Xích Thủy, ta vẫn không thấy nàng đâu. Ta biết sau chuyến đi này, nàng sẽ được khôi phục thân phận Vương cơ, không biết duyên phận hai ta sẽ ra sao, lòng ta buồn rười rượi. Nhưng ta vẫn an ủi bản thân, sẽ có ngày, chúng ta trở lại đây, và ta sẽ nói với nàng, rằng hôm đó, ta đã tới tiễn nàng.

Sống mũi cay cay, Tiểu Yêu ngả người vào lòng Cảnh, vừa nhấm nháp rượu Thanh Mai, vừa ngắm nhìn cảnh sắc hai bên bờ vùn vụt lướt qua.

Dọc đường đi, Cảnh đã giữ đúng lời hứa, họ thong thả thưởng ngoạn cảnh sắc núi non, sông nước, thi thoảng Cảnh cho thuyền cập bến, và đưa Tiểu Yêu đi thăm thú đó đây.

Tuy đã lưu lạc mấy trăm năm trong Đại hoang, nhưng Tiểu Yêu mới chỉ đi hết dải đất Trung nguyên, nàng chưa khi nào thực sự dạo chơi trên đất Cao Tân. Cảnh thì khác, từ nhỏ đã chịu sự giáo dục nghiêm khắc của nhà Đồ Sơn, để trở thành tộc trưởng tương lai, nên chàng đã theo đoàn thương lái của gia đình đi khắp mọi nơi từ rất sớm. Từ đất Cửu Lê tập trung nhiều loại sâu độc và thú dữ, đến vùng biển khơi gió mây biến đổi khôn lường, nơi nào chàng cũng từng qua. Bởi vậy, chuyến đi này, đối với chàng, chẳng khác nào về lại chốn xưa. Nơi nào có cảnh đẹp, nơi nào có đồ ăn ngon, chàng đều tường tận như lòng bàn tay. Chàng sắp xếp, bố trí mọi thứ hết sức chu đáo, Tiểu Yêu không cần phải bận tâm việc gì.

Từ ngày mẹ qua đời, đây là lần đầu tiên Tiểu Yêu cảm thấy nàng vẫn được chiều chuộng như một đứa trẻ, chẳng phải lo nghĩ điều gì, chẳng cần bận tâm việc gì, chỉ cần ăn cho thỏa, chơi cho đã.

Buổi tối, họ dựng lều trên đỉnh núi.

Tiểu Yêu cười bảo:

– Em sẽ trổ tài!

Nàng leo lên cây thoăn thoắt như loài khỉ, ngó nghiêng xung quanh, tìm nơi nghỉ ngơi thích hợp trên cây.

Cảnh lấy ra một ống ngọc, vặn mở nắp, mấy con nhện bò ra, tám cái chân của chúng thoăn thoắn leo lên các chạc cây, bắt đầu công việc.

Tiểu Yêu quan sát một hồi, nhận xét:

– Chàng định làm gì với loài nhện dệt sợi này?

Tơ sợi được dệt bởi người cá và tơ sợi của loài nhện này đều nức tiếng Đại hoang, mỏng như cánh gián, mềm như mây trôi, nước không thấm, lửa không cháy, gươm đao chặt không đứt, thuộc hàng quý hiếm.

Cảnh bay đến bên Tiểu Yêu, ôm nàng vào lòng, che chắn cho nàng khỏi những trận gió núi dữ dội:

– Ta nuôi những con nhện này từ bé, nhưng không phải để dệt sợi.

Tiểu Yêu tròn mắt nhìn đàn nhện vừa nhả tơ vừa chăm chỉ đan lưới. Chúng giống những thợ dệt khéo léo nhất thế gian, chưa hết một tuần trà, đã đan xong tấm lưới tinh xảo.

Tám con nhện bò về phía Cảnh, chàng thưởng cho chúng một giọt Ngọc tủy, chúng tỏ ra hài lòng và thủng thẳng bò vào ống ngọc.

Tiểu Yêu ngắm nhìn tấm lưới, không biết Cảnh nuôi chúng bằng thứ gì mà chúng có thể nhả ra những sợi tơ màu xanh nước biển đẹp như vậy! Tấm lưới màu xanh nước biển có hình bát quái, tám góc gắn chặt vào các chạc cây, phần giữa lơ lửng trong không trung. Các sợi tơ được dệt theo một trình tự nhất định, nên tấm lưới tuy dày đặc các mối tơ, nhưng không rối, không loạn, tạo thành hình vòng tròn cân đối, đầy đặn, bồng bềnh như sóng nước. Dưới ánh sao trời bàng bạc, tấm lưới tựa hồ một mảnh lụa màu lam tinh xảo, tuyệt mỹ.

Tiểu Yêu nghĩ mãi không ra dụng ý của Cảnh, đành hỏi:

– Chàng sẽ đem nó về may quần áo?

Cảnh cười, xiết Tiểu Yêu vào lòng và nhảy xuống. Chưa kịp thốt lên kinh ngạc, Tiểu Yêu đã thấy mình rơi xuống tấm lưới, cảm giác vô cùng dễ chịu, hệt như nằm trên một chiếc giường êm ái vậy.

Tiểu Yêu tò mò xoa vuốt, tấm lưới chẳng những mềm mại mà còn rất ấm nữa. Nàng bật cười giòn giã:

– Hồi bé chàng thật tinh nghịch khi nghĩ ra trò ngủ ngoài trời trên tấm lưới thế này. Nhưng cũng chỉ có nhà Đồ Sơn mới không tiếc tiền cho sự hưởng thụ này.

Mắt Cảnh thoáng nét u buồn và hoài niệm, chàng mỉm cười, nói:

– Mẹ và anh trai rất chiều ta!

Tiểu Yêu ngả mình trên tấm lưới, ngắm nhìn bầu trời xanh thẳm, bao la, và những vì tinh tú lấp lánh.

Từ dạo lưu lạc nhân gian, Tiểu Yêu đã phải ngủ ngoài trời vô số lần. Với nàng, ngủ ngoài trời không phải thú vui tao nhã gì, chẳng qua là vì không có nhà để ở. Trong đêm, nàng sẽ phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm rình rập, nên lúc nào cũng phải tỉnh táo và cảnh giác. Nhưng đêm nay là một trải nghiệm mới mẻ. Tiểu Yêu khẽ bảo:

– Cảnh, thời gian này em thấy mình như bé lại, ở bên chàng, em có cảm giác như ở bên mẹ khi xưa.

Cảnh giật mình ho vài tiếng, lắc đầu:

– Nàng đang khen ta đấy ư?

Tiểu Yêu trở mình, bốn mắt giao nhau, nàng mỉm cười, nói:

– Không phải em bảo chàng giống mẹ, mà là… em thấy mình lại được như thuở bé, không phải lo lắng, bận tâm điều gì, ngày nào cũng được rong chơi vui vẻ.

Nụ cười dần tắt trên môi nàng:

– Em thấy mình như đang chìm trong một giấc mơ tuyệt đẹp, nhưng chỉ e sẽ lại như trước đây, chớp mắt một cái, mộng đẹp tan biến.

Cảnh dịu dàng thơm nàng và nói:

– Đây không phải giấc mơ, chúng ta sẽ bên nhau suốt đời như thế này.

Tiểu Yêu mỉm cười:

– Vâng.

Gió núi đung đưa chiếc giường tơ nhện của họ. Họ nằm bên nhau, trong vòng tay nhau, ngắm nhìn bầu trời ngàn sao lấp lánh, những vì sao như đang mỉm cười với họ.

Hơn một tháng sau, vào khoảng cuối tháng Sáu, thuyền của Cảnh và Tiểu Yêu ra đến biển Quy Khư.

Nếu đi tiếp về hướng Đông Nam, họ sẽ vào sâu khu vực cảnh giới của Ngũ Thần Sơn. Trong suốt hành trình, Tiêu Tiêu lúc nào cũng cung kính nghe theo mệnh lệnh của Cảnh. Nhưng lúc này, nàng không thể không lên tiếng:

– Thưa tộc trưởng, nếu hai vị muốn ra biển chơi, chi bằng chúng ta hãy cho thuyền hướng lên phía Bắc, cảnh sắc Đông Hải rất đẹp. Nếu ngài cần bàn chuyện làm ăn, chi bằng hãy để tiểu thư ở đây đợi ngài.

Cảnh nói:

– Cũng được.

Cảnh ra lệnh đổi hướng, cho thuyền hướng về phía Bắc, ra biển Đông. Còn chàng, Tĩnh Dạ và Hồ Á lên thuyền nhỏ đi Ngũ Thần Sơn. Chờ khi giải quyết xong công việc kinh doanh, chàng sẽ ra Đông Hải tìm Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu đứng ở đuôi thuyền, tiễn Cảnh. Chiếc thuyền nhỏ xuôi theo hướng ngược lại, chẳng mấy chốc, nàng và Cảnh đã không còn thấy rõ nhau nữa.

Thuyền nhỏ vừa vào đến khu vực cảnh giới của Ngũ Thần Sơn đã thấy Nhục Thu giong thuyền ra nghênh đón. Cảnh cùng Tĩnh Dạ và Hồ Á lên thuyền của Nhục Thu.

Lúc sắp đến Ngũ Thần Sơn, Cảnh nói với Nhục Thu:

– Phiền đại nhân bẩm báo trước với Bệ hạ, Đồ Sơn Cảnh và Tây Lăng Cửu Dao xin được gặp ngài. Nếu Bệ hạ đồng ý, chúng tôi sẽ lên núi. Nếu ngài từ chối, chúng tôi sẽ lập tức quay về.

Nhục Thu thoáng sững sờ. Người đứng sau Cảnh nãy giờ mà ai nấy đều tưởng là Tĩnh Dạ, lúc này mới bước lên vài bước, tháo mặt nạ dệt từ tơ nhện, mỉm cười chào:

– Đã lâu không gặp đại nhân, ngài vẫn khỏe chứ?

Nhục Thu suy nghĩ một lát, bảo:

– Ta sẽ vào bẩm với Bệ hạ ngay.

Hắn lập tức kêu gọi tọa kỵ, chẳng kịp chào hỏi, thoắt cái đã biến mất giữa tầng mây.

Tiểu Yêu đứng ở mui thuyền, vẻ mặt bình thản, nhưng trong lòng thấp thỏm không yên. Cảnh vỗ nhẹ vào tay nàng, động viên nàng đừng suy nghĩ nhiều.

Chừng nửa canh giờ sau, thuyền vừa tới chân núi thì Nhục Thu quay lại.

Tiểu Yêu vẫn tỏ ra bình tĩnh, kỳ thực nàng rất mực hồi hộp. Nhục Thu mỉm cười, nói với Cảnh và Tiểu Yêu:

– Bệ hạ mời hai vị lên núi.

Tiểu Yêu thở phào, nhưng một nỗi lo sợ khác bỗng nhiên ùa tới, khiến nàng chần chừ không chịu lên xe mây. Cảnh lên trước, chìa tay ra cho nàng:

– Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu trấn tĩnh lại, nắm tay Cảnh, nhảy lên xe mây. Khoảng một tuần trà sau, xe mây dừng lại trước điện Triêu Huy của cung Thừa Ân.

Nhục Thu nói:

– Bệ hạ ở bên trong.

Cảnh nói với Tiểu Yêu:

– Nàng ở đây chờ ta.

Tiểu Yêu gật đầu.

Cảnh bước vào, thấy Tuấn Đế phóng mắt nhìn ra phía sau, chàng liền vái lạy và thưa:

– Tiểu Yêu đang chờ bên ngoài. Thần vào trước để thưa với Bệ hạ vài lời.

Tuấn Đề điềm nhiên nhìn Cảnh.

Cảnh nói:

– Thời gian trước, thần ra sức thu thập tư liệu liên quan đến Bệ hạ và Xi Vưu. Thần nhận thấy cả hai vị đều đa mưu, túc trí, đa nghi. Mẹ của Tiểu Yêu có thể che mắt cả thiên hạ nhưng tuyệt đối không thể giấu hai vị. Trừ phi có ai đó giúp bà. Thần mạo muội phỏng đoán, ngay từ lúc Tiểu Yêu vừa chào đời, Bệ hạ đã biết nàng là con gái của Xi Vưu. Chính ngài đã giúp phong ấn Trụ nhan hoa, nên hồi bé Tiểu Yêu mới trông giống ngài.

Tuấn Đế điềm nhiên nói:

– Phỏng đoán của ngươi chính xác. Chính ta và A Hành đã phong ấn Trụ nhan hoa vào cơ thể Tiểu Yêu.

Cảnh đoán “A Hành” là tên gọi thân mật của Vương cơ Hiên Viên, chàng nói tiếp:

– Người đời tưởng rằng Bệ hạ không biết chân tướng sự việc nên mới coi Tiểu Yêu như con ruột của mình, nhưng sự thật không phải vậy. Thần có thể phỏng đoán: Chính Hắc Đế Bệ hạ là người loan tin đồn khắp Đại hoang, thì không lý gì một người thông tuệ như Bệ hạ lại không nhận ra. Thần có thể đoán biết dụng ý của Hắc Đế Bệ hạ trong chuyện này, nên thần tin Bệ hạ cũng đã đoán ra.

Cảnh quỳ xuống, vái lạy Tuấn Đế:

– Thần tạ ơn Bệ hạ vì đã hết lòng thương yêu, bảo vệ Tiểu Yêu.

Cảnh là tộc trưởng tộc Đồ Sơn, theo lễ nghi, chàng chỉ cần cúi chào trước Hoàng Đế và Tuấn Đế, mà không cần quỳ lạy, nhưng hôm nay, chàng đã kính cẩn quỳ lạy ngài.

Tuấn Đế chẳng mảy may xúc động, ngài giơ tay lên, cho phép Cảnh ngồi.

– Tộc trưởng đường xa đến gặp ta, chẳng lẽ chỉ để nói mấy chuyện vặt vãnh này?

Cảnh ngồi xuống và thưa:

– Tiểu Yêu đã vô cùng đau khổ khi biết mình là con gái của Xi Vưu. Nàng luôn tỏ ra điềm tĩnh, nhưng thực chất nàng đang cố gồng mình để che giấu nỗi lòng. Thần tin Bệ hạ thấu hiểu tính cách của Tiểu Yêu. Nàng không quan tâm cha mình là bậc Đế vương hay một tên ác ma. Nàng đau lòng vì cả cha và mẹ nàng đều bỏ rơi nàng, họ chỉ để lại cho nàng sự giả dối. Nàng còn đau lòng vì Xi Vưu nữa. Xi Vưu là cha nàng, nhưng nàng không biết gì về ông ấy, ngoài những lời nguyền rủa của người đời, rằng ông ấy là tên ác ma giết người tàn bạo. Trên đời này, người hiểu rõ về cha mẹ của Tiểu Yêu chỉ còn Bệ hạ. Thần cầu xin ngài kể cho Tiểu Yêu nghe mọi chuyện xảy ra trước kia.

Ngón tay Tuấn Đế bất giác chạm vào chiếc nhẫn Bạch cốt trên ngót út của bàn tay trái, mắt ngài hướng về nơi xa xăm nào đó, vẻ mặt không lộ nét buồn vui, nhưng ánh mắt mơ màng của ngài toát lên nỗi bi thương, sầu muộn. Một lúc sau, ngài mới khẽ lẩm nhẩm:

– A Hành, nàng muốn Tiểu Yêu biết mọi chuyện? Không phải nàng vẫn mong Tiểu Yêu được sống những ngày vô lo vô nghĩ hay sao?

– Từ lúc chào đời, số phận buộc Tiểu Yêu phải sống một cuộc đời khác với A Niệm. Nay nàng đã trưởng thành, dù sự thật phũ phàng, tàn nhẫn nhường nào cũng cúi xin Bệ hạ cho nàng được biết. Chỉ sự thật mới giúp nàng giải tỏa mọi phiền muộn và được thanh thản.

Tuấn Đế hỏi:

– Con bé trưởng thành rồi ư?

Vì đẻ khó, nên sau khi sinh Tiểu Yêu, A Hành hôn mê hơn một năm. Ngài đã cho Tiểu Yêu ăn, dỗ Tiểu Yêu ngủ. A Hành, vì sao ta luôn cảm thấy Tiểu Yêu của chúng ta vẫn còn bé bỏng, cần được che chở, bảo vệ? Nhưng, con bé đã thực sự trưởng thành!

Cảnh định lên tiếng, chợt nghe Tuấn Đế lẩm nhẩm:

– A Hành, con gái chúng ta đã trưởng thành!

Lúc này Cảnh mới hay, thì ra khi nãy không phải Tuấn Đế hỏi chàng.Tuấn Đế nói với Cảnh:

– Ngươi lui ra!

Cảnh hỏi:

– Thần gọi Tiểu Yêu vào gặp Bệ hạ?

Tuấn Đế xua tay:

– Hai ngươi hãy xuống núi, thuyền sẽ đưa các ngươi đến Xích Thủy.

Nói xong, ngài đứng lên, bóng ngài lướt đi như mây trôi, lát sau đã hoàn toàn mất dạng.

Cảnh rất bất ngờ khi Tuấn Đế từ chối gặp Tiểu Yêu, chàng sững sờ một lúc, mới buồn bã bước ra.

Trông thấy chàng, Tiểu Yêu lập tức chạy đến:

– Phụ… Bệ hạ trao đổi việc buôn bán gì với chàng mà lâu vậy? Ngài… bây giờ em vào gặp ngài phải không?

Cảnh áy náy nói:

– Bệ hạ bảo chúng ta hãy xuống núi, thuyền sẽ đưa chúng ta về Xích Thủy.

Tiểu Yêu thất vọng, buồn bã vô chừng, nhưng nàng vẫn tỏ ra không hề có chuyện gì:

– Em đã nói rồi, không ai ở nơi này hoan nghênh em cả, Thôi vậy, không gặp cũng không sao, chúng ta về thôi!

Vừa xuống xe mây, Tiểu Yêu liền trông thấy một chiếc thuyền lớn khắc huy hiệu của Thanh Long Bộ đậu trên biển. Nhục Thu hóa phép ngưng tụ nước biển thành cây cầu, mời Cảnh và Tiểu Yêu lên thuyền.

Tiểu Yêu đi như chạy, nàng không muốn nán lại nơi này thêm nữa. Cảnh vừa đi vừa ngẫm ngợi, chàng không hiểu mình đã nói sai điều gì, khiến Tuấn Đế thay đổi quyết định, mà đuổi chàng và Tiểu Yêu xuống núi.

Chiếc thuyền nhanh chóng đưa Cảnh và Tiểu Yêu xuôi về hướng Tây Bắc.

Tiểu Yêu nói với Nhục Thu:

– Chúng tôi tự về, ngài chỉ cần tiễn chúng tôi ra khỏi Ngũ Thần Sơn là được.

Nhục Thu đáp ngắn gọn nhưng cương quyết:

– Lệnh của Bệ hạ là đưa các vị đến Xích Thủy.

Tiểu Yêu tức giận, gọi:

– Cảnh!

Cảnh như vừa nghĩ ra điều gì, chàng kéo Tiểu Yêu ra một chỗ, hỏi khẽ:

– Nàng muốn ra biển Đông Hải chơi nữa không?

Tiểu Yêu lắc đầu.

Cảnh nói:

– Vậy chúng ta hãy đi nhờ họ một đoạn. Người chèo thuyền đều là Thần tộc, tốc độ rất nhanh, nếu trên đường không ngừng nghỉ thì chỉ ba, bốn ngày là về đến Xích Thủy.

Tiểu Yêu buồn bã, nói:

– Em cảm thấy họ làm vậy vì sợ chúng ta nán lại trên đất Cao Tân, không chịu về, nên mới áp giải chúng ta đến tận Xích Thủy.

Cảnh trầm ngâm suy nghĩ một lát, rồi chàng trỏ đàn hải âu đang chao liệng trên mặt biển:

– Nàng nhìn kìa!

Tiểu Yêu nhìn theo hướng tay Cảnh, nàng thấy biển trời mênh mông vô tận, vạn vật tự do bay lượn, mây khói mịt mù, Ngũ Thần Sơn lúc ẩn lúc hiện. Tiểu Yêu chăm chú ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp ấy, biết đâu đây sẽ là lần cuối cùng nàng được thấy nó.

Bốn ngày sau, họ vào địa phận Xích Thủy. Tiểu Yêu nghĩ Nhục Thu sẽ cho thuyền cập bến, nào ngờ hắn vẫn tiếp tục cho thuyền ngược dòng Xích Thủy, không hề có ý định dừng lại.

Tiểu Yêu lấy làm băn khoăn, nhưng thấy Cảnh vẫn điềm nhiên như không, nên nàng cũng chẳng sốt ruột. Nàng cũng muốn xem rốt cuộc Nhục Thu định giở trò gì.

Thuyền thẳng tiến về phía thành Xích Thủy. Năm xưa, Nhục Thu từng đưa dâu qua đây. Tiểu Yêu tựa người vào lan can, nổi hứng trêu chọc:

– Không lẽ ngài vẫn để bụng chuyện tôi trốn khỏi đám cưới, nên muốn áp giải tôi về Xích Thủy, để họ trừng phạt tôi? Ngài có biết, tôi bây giờ là cái đinh trong mắt tất cả mọi người, nhà Xích Thủy chắc chắn đang mừng thầm trong dạ vì năm xưa tôi bỏ trốn đấy!

Nhục Thu đang trò chuyện với Cảnh, hắn vờ không nghe Tiểu Yêu. Cảnh mỉm cười, liếc nhìn nàng. Ánh mắt chàng khiến Tiểu Yêu trở nên bối rối, nàng quay sang hướng khác, vờ ngắm cảnh hai bên bờ.

Nguồn nước dồi dào, đất đai phì nhiêu, suốt hành trình chỉ thấy đôi bờ cây xanh lá biếc, bỗng đâu xuất hiện một vùng hoang mạc khô cằn, không một bóng cây ngọn cỏ.

Tiểu Yêu còn nhớ, lần đầu nàng và Chuyên Húc đến Xích Thủy cũng từng ngang qua hoang mạc này. Tiểu Yêu hỏi Cảnh và Nhục Thu:

– Hai người biết vì sao nơi này lại xuất hiện hoang mạc không?

Cảnh đáp:

– Nghe nói trong hoang mạc có yêu quái.

Tiểu Yêu bỗng nhiên tròn xoe mắt, nhìn trân trân về phía trước, Cảnh quay lại, và thấy Tuấn Đế. Ngài vận bộ y phục màu trắng dân dã, ngước nhìn hoang mạc mênh mông, không còn thấy vẻ uy nghiêm của bậc đế vương toát lên từ diện mạo của ngài, mà chỉ thấy vẻ tự do tự tại của một hiệp khách lãng du khắp hải hồ.

Cảnh cúi chào:

– Bệ hạ!

Tuấn Đế bước về phía Tiểu Yêu, nắm tay nàng, bay lên bờ. Cảnh vội vã theo sau.

Khi ba người lên đến bờ, Cảnh quay lại nhìn, thấy chiếc thuyền vẫn giữ nguyên tốc độ, như thể không hề có chuyện gì vừa xảy ra. Thuyền vẫn tiếp tục hướng về phía trước, thuyền viên bận rộn trên khoang, chuẩn bị xuống hàng.

Tiểu Yêu muốn rút tay về, nhưng Tuấn Đế không chịu buông. Nàng giận dỗi:

– Cha không thừa nhận con là con gái của cha thì còn nắm chặt tay con làm gì?

Tuấn Đế dắt Tiểu Yêu đi sâu vào hoang mạc. Tiểu Yêu không vùng thoát nổi, đành ngoan ngoãn theo ngài.

Lúc đầu họ còn thấy thấp thoáng mấy bụi cỏ gai, vốn là loài thực vật thường gặp trên các sa mạc, nhưng sau đó, họ không thấy dấu vết của bất cứ loài cây cỏ nào.

Tiểu Yêu ném ra một mảnh khăn lụa, mảnh khăn lập tức cháy xém, chưa kịp chạm đất đã tan thành tro bụi. Tiểu Yêu há hốc miệng kinh ngạc, lúc này nàng mới hiểu vì sao Tuấn Đế giữ chặt tay nàng không chịu buông. Nếu không nhờ ngài truyền linh lực cho nàng, chắc nàng đã bị thiêu cháy.

Tiểu Yêu băn khoăn hỏi:

– Cha ơi, cha đưa con đi đâu vậy?

Nói xong nàng mới nhận ra mình lỡ lời.

Nhưng đã không kịp đổi cách xưng hô nữa, nàng đành câm lặng.

Tuấn Đế dịu dàng nhìn nàng, ngài không trả lời câu hỏi của nàng mà nói sang chuyện khác:

– Ta là Đại hoàng tử Cao Tân, mẹ ta là người vợ kết tóc se duyên của Phụ vương. Nghe nói tình cảm của họ rất thắm thiết, tiếc thay, sau khi sinh ta, mẹ đã qua đời. Không lâu sau, một cặp chị em của Thường Hy Bộ vào cung, cha ta có được niềm vui mới. Từ nhỏ đến lớn, ta đã nhiều lần suýt chết. Và rồi, người cậu của ta đã giúp ta trốn khỏi Ngũ Thần Sơn, từ đó ta lưu lạc khắp nơi trong Đại hoang. Ta mở một tiệm rèn, kiếm kế sinh nhai. Bác cả của con đến nhờ ta sửa kiếm. Chúng ta trở thành đôi bạn chí thân khi cả hai đều không biết về thân thế của nhau…

Tiểu Yêu dỏng tai lắng nghe.

– Mẹ con là Vương cơ duy nhất của Hiên Viên, nhỏ hơn ta cả nghìn tuổi. Khi mẹ con vừa chào đời, bác cả con đã trêu đùa, bảo ta hãy làm em rể hắn. Mấy năm sau, khi ta suýt chết trong tay Hoàng hậu và mấy đứa em cùng cha khác mẹ, bác cả con đến thăm ta và đưa ra lời đề nghị chính thức: Ta và mẹ con đính hôn. Hắn phân tích cho ta hiểu, nếu lấy mẹ con, ta có thể dựa vào thân phận Vương cơ Hiên Viên của mẹ con để bảo toàn mạng sống. Hắn cũng có thể dựa vào thân phận Đại hoàng tử Cao Tân của ta để bảo vệ mẹ và các em mình. Ta đã nhận lời. Nói rằng ta và mẹ con đính hôn cũng đúng, nhưng nói rằng vì cả ta và Thanh Dương cùng lâm vào tình cảnh khốn đốn, chúng ta buộc phải liên minh với nhau cũng không sai. Khi ấy mẹ con mới vừa chập chững biết đi, còn chưa biết nói. Thực lòng, ta không bao giờ nghĩ mình sẽ cưới cô ấy. Nên ta chưa khi nào để tâm đến hôn sự đó…

Theo lời kể của Tuấn Đế, chuyện cũ bỗng trải rộng trước mắt nàng như những bức họa quyển sống động. Bao buồn vui, hợp tan khi xưa bỗng như sống lại: Bác cả Thanh Dương, bác hai Vân Trạch, bác tư Xương Ý, bà ngoại Luy Tổ, và cả người mẹ tinh nghịch, ham chơi của nàng…

Không biết trải qua bao lâu, Tiểu Yêu chợt ngửi thấy mùi cháy khét, nàng nghiêng đầu và thấy bộ y phục màu trắng của Tuấn Đế đã biến thành màu vàng, môi ngài nứt nẻ như ruộng cạn. Nàng sợ hãi gọi:

– Phụ vương!

Nàng quay đầu tìm Cảnh, thấy chàng mặt mày đỏ rực, bước đi loạng choạng, mỗi bước đều như giẫm phải sắt nung, khói nhạt bốc lên từ lòng bàn chân.

Tiểu Yêu sợ hãi, kêu lên:

– Phụ vương mau dừng lại! Nếu đi tiếp chúng ta sẽ chết mất!

Tuấn Đế quay đầu nhìn Cảnh, hỏi:

– Ngươi còn gắng gượng được không?

Cảnh gượng cười, không nói năng, chỉ gật đầu, tỏ ý chàng có thể đi tiếp. Thức thần cáo nhỏ bay ra, chau mày bất mãn, gục trên vai Cảnh, lúc này sắc mặt Cảnh mới khá lên đôi chút.

Tuấn Đế tiếp tục hành trình, Tiểu Yêu hoảng sợ:

– Phụ vương ơi, càng tiến sâu càng như thiêu đốt!

Tuấn Đế vẫn nắm chặt tay Tiểu Yêu, vừa bình thản kể lại câu chuyện cuộc đời của ngài và A Hành, vừa dắt Tiểu Yêu bay về phía trước.

Phía trước là sa mạc vô tận, phía sau cũng là sa mạc vô tận. Sức nóng thiêu đốt của sa mạc này khiến Tiểu Yêu có cảm giác như trời xanh cũng biến sắc, ánh nắng rực đỏ, sa mạc rực đỏ, vạn vật trên thế giới dường như đều bị thiêu rụi, sự sống không còn tồn tại.

Nhờ linh lực của Tuấn Đế, Tiểu Yêu không cảm nhận thấy sức nóng ngoài kia. Nhưng qua dáng vẻ thảm hại của cha nàng và của Cảnh, nàng có thể khẳng định, sức nóng ngoài kia có thể thiêu rụi mọi thứ, đốt cháy mọi sinh linh.

Thức thần trên vai Cảnh cứ nhỏ dần nhỏ dần và rồi biến mất hoàn toàn. Cảnh bất ngờ phun ra một bụm máu, lửa thiêu đốt bàn chân chàng. Tuấn Đế nắm lấy tay Cảnh, ngọn lửa lập tức bị dập tắt.

Tay trái dắt Cảnh, tay phải dắt Tiểu Yêu, Tuấn Đế vẫn giữ nguyên tốc độ, bay về phía trước. Tiểu Yêu thấy rõ từng nếp áo cha cháy thành tro. Làn da trên cánh tay ngày nứt nẻ như bờ ruộng đại hạn, máu rỉ qua từng khe nứt, nhuộm đỏ y phục của ngài.

Tiểu Yêu gào khóc:

– Cha ơi, cha là vua một nước, không thể chết ở nơi này. Cha không màng đến lê dân Cao Tân sao cha?

Tuấn Đế bước chậm lại, nhưng ngay sau đó, ngài tăng tốc bay về phía trước.

Tiểu Yêu thấy hai cánh tay ngài khô héo tựa dây leo lụi giàn, chỉ còn xương đen, không còn da thịt. Nàng kêu khóc van xin:

– Phụ vương! Phụ vương! Con xin cha hãy dừng lại! Cầu xin cha!…

Tuấn Đế như không nghe thấy lời van xin của Tiểu Yêu. Nàng đổi giọng vừa khóc vừa rủa:

– Ngài đâu phải cha tôi, chúng ta chẳng có quan hệ gì hết! Ngài buông tôi ra, vì sao giữ chặt tay tôi? Ngài buông tôi ra…

Tuấn Đế chao đảo, linh lực của ngài không đủ để truyền cho cả hai người, nhưng ngài vẫn kiên trì nắm chặt tay Cảnh và Tiểu Yêu và không ngừng tiến về phía trước.

Biểu cảm trên gương mặt ngài hoàn toàn khác trước. Ngài không còn là Tuấn Đế uy nghi lẫm liệt, gương mặt bình thản như nước, cúi trông muôn dân nữa. Lúc này, ngài hoang mang, lo sợ, cuống quít hệt như một người vừa đánh mất thứ quý giá nhất và đang nóng lòng muốn tìm lại.

Đường về cũng chẳng thấy đâu, Tiểu Yêu đã thôi ý định kêu gào, ngăn cản, nàng lảo đảo bước theo Tuấn Đế, nàng thực sự không hiểu cha đang tìm kiếm thứ gì.

Không biết họ đã đi bao xa, Tuấn Đế khuỵu xuống, Cảnh và Tiểu Yêu cùng ngã theo. May sao, lúc này linh lực của Cảnh đã khôi phục được vài phần, chàng vội nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhờ vậy nàng không bị thương. Nhưng một bên chân của Tuấn Đế đã bị thiêu cháy, dường như chỉ còn xương khô.

Tiểu Yêu lôi lọ Ngọc tủy giấu trong người, đổ xuống chân Tuấn Đế, nhưng nước Ngọc tủy chưa kịp chảy xuống chân ngài, đã bốc hơi và tan đi mất.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 4: Trời tàn đất tận vẫn bên nhau

Chiếc thuyền khắc huy hiệu Thanh Long Bộ của Cao Tân chầm chậm trôi trên dòng sông Xích Thủy,

Trong khoang, Tuấn Đế đang ngồi nghỉ trên giường. Nhục Thu và Cảnh đứng bên, Tiểu Yêu ngồi bên giường, dâng bát thuốc cho Tuấn Đế.

Uống xong, Tuấn Đế lạnh lùng nói với Tiểu Yêu:

– Sau khi ta gỡ bỏ Trụ nhan hoa ra khỏi người con, các con hãy xuống thuyền.

Tiểu Yêu quỳ xuống:

– Phụ vương vì con mà trọng thương, con muốn chăm sóc…

Tuấn Đế bực mình, cắt ngang lời nàng:

– Ta đã nói không liên quan đến con kia mà! Đây là món nợ của ta với Thanh Dương, Xương Ý và Vương cơ Hiên Viên, không liên quan đến Xi Vưu, càng không liên quan đến con! Nếu nhất thiết phải quy kết, thì thực ra ta và Xi Vưu vốn có thù oán, vì hắn từng khiến ta trọng thương.

Tiểu Yêu thấy buồn vô hạn. Lẽ nào những thương yêu, chiều chuộng thuở bé, lẽ nào việc cha liều mình bao bọc, che chở cho nàng trong sa mạc, đều chỉ vì cha nợ bác và mẹ nàng hay sao? Lẽ nào cha không hề thương yêu nàng?

Tuấn Đế lặng nhìn vết bớt hình hoa đào trên trán Tiểu Yêu, bao nhiêu xúc cảm chợt ùa về. Gương mặt đẫm lệ của A Hành khi nàng phong ấn Trụ nhan hoa cứ hiển hiện trước mắt ngài, vậy mà nay họ đã âm dương cách biệt. Ngài đặt tay lên trán Tiểu Yêu, vệt sáng màu đỏ lóe lên, vết bớt biến mất, một cành đào rực rỡ, tuyệt đẹp rớt xuống bàn tay Tiểu Yêu.

Tuấn Đế khép mắt, ra lệnh cho Nhục Thu:

– Hãy đưa họ đi.

Nhục Thu khách sáo mời Tiểu Yêu và Cảnh ra ngoài. Sau khi khấu đầu lạy cha ba lạy, Tiểu Yêu theo Cảnh rời khỏi khoang thuyền.

Ba người đứng ngoài sàn thuyền, Nhục Thu ngước nhìn nước trời một màu xanh ngắt, chung quanh vắng lặng như tờ, bèn hỏi:

– Mấy nghìn năm trước, Bệ hạ là người có linh lực cao cường nhất Đại hoang. Một nghìn năm trở lại đây, người duy nhất đủ khả năng đả thương ngài chỉ có Xi Vưu. Vậy vì sao Bệ hạ bị trọng thương? Ta không có ý dò la đã xảy ra chuyện gì, nhưng ta muốn biết, ta cần phải đề phòng những gì?

Tiểu Yêu nói:

– Không ai đả thương Bệ hạ mà là… sa mạc đó.

Nhục Thu không lạ gì vùng hoang mạc ở phía Bắc Xích Thủy. Thời trai trẻ ngông cuồng, hắn đã từng cùng bạn bè xông vào sa mạc, thách đấu xem ai có thể giết được yêu quái Hạn Bạt. Kết quả, bọn họ suýt bỏ mạng tại đó. Sa mạc đáng sợ ấy để lại ấn tượng vô cùng sâu đậm trong tâm trí hắn. Nhưng bắt đầu từ hôm qua, những trận mưa lớn liên tục trút xuống nơi ấy. Người có linh lực cao cường như Nhục Thu, dĩ nhiên cảm nhận được rất rõ sức nóng thiêu đốt của sa mạc đã biến mất hoàn toàn. Có lẽ mùa xuân năm tới, màu xanh sẽ bao phủ hoang mạc này, cỏ cây sẽ lại tốt tươi, tràn đầy sức sống.

Dù rất muốn biết sự thật, nhưng thân là bề tôi, Nhục Thu hiểu rằng hắn nên biết thân biết phận. Nghe nói Tuấn Đế không phải bị kẻ khác đả thương, Nhục Thu thở phào nhẹ nhõm, hắn vui cười trở lại:

– Không phải ta không muốn giữ hai vị, nhưng…

Hắn nhún vai:

– Tóm lại, chúng ta chia tay nhau ở đây. Ngày sau hai vị thành hôn, ta sẽ đích thân đem quà tặng long trọng đến mừng hai vị.

Lẽ ra Tiểu Yêu vẫn còn vương nỗi buồn chia ly, nhưng đã bị câu nói của Nhục Thu làm cho tan hết. Nàng khinh khỉnh bảo:

– Những là hàng quan lớn mũ cao áo rộng mà chẳng nghiêm chỉnh gì cả!

Bạch Hạc bay tới đón Cảnh, chao liệng trên không trung. Cảnh chào từ biệt Nhục Thu, ôm Tiểu Yêu, bay lên lưng hạc. Bạch Hạc kêu vang rộn rã, vút lên trời cao, len vào giữa những đám mây.

Cảnh hỏi Tiểu Yêu:

– Chúng ta về núi Thần Nông hay ra biển Đông Hải?

Tiểu Yêu nhìn túi đồ trên vai Cảnh, đáp:

– Đến Cửu Lê.

Ước nguyện duy nhất của cha mẹ nàng là được sống bên nhau trọn đời như những cặp vợ chồng bình thường khác. Xót xa thay, họ có thể ra lệnh cho toàn quân, nhưng không thể vun vén cho mình một mái ấm.

Chừng nửa ngày sau, Bạch Hạc bay đến Cửu Lê. Truyền thuyết kể rằng đất này toàn chướng khí, sâu độc, chim dữ, thú ác, sản vật khan hiếm. Cửu Lê chỉ nổi tiếng bởi hai thứ, một là Xi Vưu, hai là thuật dùng sâu độc, quả là tiếng dữ đồn xa.

Tuy đây là lần đầu Tiểu Yêu đến Cửu Lê, nhưng qua lời kể của mẹ, cảm giác của nàng về vùng đất này rất thân thuộc: Đó là trại Xi Vưu, đài tế lễ màu trắng, rừng hoa đào, ngôi nhà trúc. Nàng còn nhớ cả mảnh rèm kết từ ốc xanh treo trước cửa nhà trúc.

Cảnh từng theo đoàn thương lái của nhà Đồ Sơn đến đất Cửu Lê, nên chàng khá rành rẽ các sơn trại lớn của tộc Cửu Lê, chàng thúc Bạch Hạc bay thẳng đến trại Xi Vưu.

Tiểu Yêu nhận ra ngay đài tế lễ màu trắng. Không phải vì nó khang trang, bề thế, mà vì toàn bộ sơn trại đều là những ngôi nhà trúc giản dị đơn sơ, duy chỉ có đài tế lễ này được tạc dựng từ một khối đá trắng.

Tiểu Yêu nhảy khỏi tọa kỵ, quan sát đài tế lễ vừa quen vừa lạ ấy. Đó là một đài tế lễ cổ xưa, đã nhuốm màu thời gian. Bốn góc treo những chiếc chuông gió làm từ những mảnh xương trắng của động vật, chuông gió tinh tang trong gió. Có lẽ ngàn năm trước, cha mẹ nàng cũng từng đứng đây, lắng nghe tiếng chuông gió rộn rã, vui tai này.

Mấy thầy mo bước lại, cảnh giác nhìn Tiểu Yêu và Cảnh. Người nhiều tuổi nhất trong số họ cất giọng Trung nguyên trọ trẹ:

– Nơi này không tiếp người lạ.

Tiểu Yêu cũng đáp lại bằng giọng Cửu Lê trọ trẹ:

– Cha tôi là người Cửu Lê.

Vẻ mặt của mấy thầy mo ôn hòa hơn nhiều. Nhưng có lẽ vì bị ức hiếp quá lâu, tinh thần cảnh giác của họ vẫn rất cao độ. Thầy mo khi nãy tiếp tục hỏi bằng giọng Cửu Lê:

– Cha cô hiện ở đâu?

– Ông ấy… chết rồi.

Tiểu Yêu nhìn Cảnh, chàng tháo túi đồ trên vai, đưa cho nàng. Tiểu Yêu ôm gói đồ vào lòng:

– Tôi đưa cha mẹ tôi về đây vì tôi nghĩ họ muốn yên nghỉ ở nơi này.

Các thầy mo buồn rầu nhìn gói đồ trên tay Tiểu Yêu. Vì tộc Cửu Lê xưa nay vẫn bị coi là tộc người thấp kém, con trai sinh ra đều thành nô lệ, con gái thì thành nô tỳ. Cứ khoảng hai mươi đến ba mươi năm lại có hàng loạt các chàng trai, cô gái của Cửu Lê bị đưa đi khỏi sơn trại, bị biến thành nô lệ. Phần lớn trong số họ đều bặt vô âm tín, mãi mãi chẳng thể quay về.

Thầy mo hỏi:

– Cha cô là người của trại nào? Chúng ta sẽ cúng tế gọi hồn ông ấy, cô cứ việc rắc tro của ông ấy xung quanh sơn trại nơi ông ấy sinh sống, như vậy ông ấy sẽ được trở về với ngôi nhà của mình.

– Ông ấy là người của trại Xi Vưu, tôi nghĩ….

Tiểu Yêu đưa mắt tìm quanh, rồi trỏ tay vào rừng đào trên gò đồi ở phía Đông Nam của đài tế lễ, và nói:

– Nhà của cha mẹ tôi ở đằng kia.

Các thầy mo kinh hãi, biến sắc mặt, họ định kêu gọi sâu độc tấn công Tiểu Yêu thì một ông lão mái tóc bạc phơ quát lớn:

– Dừng tay!

– Vu vương!

Mấy thầy mo cung kính lùi lại.

Vu vương đến trước đài tế lễ, chăm chú nhìn Tiểu Yêu:

– Cô nương chắc chắn cha mẹ cô từng sống ở nơi đó chứ?

– Mẹ tôi nói, ngôi nhà trúc của cha mẹ nằm rất gần đài tế lễ, trong một rừng đào. Quanh đây, chỉ có ngọn núi kia có rừng đào.

Vu vương ngâm đọc một chuỗi dài những câu thần chú. Giọng ngài trầm bổng, du dương, ngài như đang hát một khúc ca dao cổ. Tiểu Yêu từng học thuộc bài ca dao này, nhưng nàng không biết bài ca dao có thể hát lên thành giai điệu như vậy. Nàng nhẩm hát theo Vu vương.

Vu vương dừng lại, Tiểu Yêu vẫn tiếp tục hát cho đến khi bài chú kết thúc.

Vu vương rơm rớm nước mắt, mấy thầy mo đứng sau ngài sững sờ nhìn Tiểu Yêu. Bài chú này vốn là kiệt tác do vị Vu vương kiệt xuất của Cửu Lê sáng tác. Chỉ có các Vu vương mới hát được trọn vẹn bài chú ấy.

Trước đây, khi gặp nàng, Di Mai Nhi cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, nên Tiểu Yêu không lấy làm lạ trước biểu cảm của mấy vị thầy mo. Nàng gật đầu với Vu vương, rồi bước về phía rừng đào.

Vu vương nói:

– Cô nương có biết ngọn núi đó là thánh địa của tộc Cửu Lê? Là nơi thờ phụng ngài Xi Vưu. Nghìn năm qua, chỉ có ngài và người vợ họ Tây Lăng của ngài sống ở đó.

Tiểu Yêu dừng bước. Thì ra, ở nơi này, thân phận của mẹ chỉ là người vợ của cha. Ngừng lại một lát, nàng tiếp tục bước về phía ngọn núi:

– Bây giờ thì tôi đã biết.

– Cô nương tên họ là gì?

– Tây Lăng Cửu Dao.

Tin đồn Tiểu Yêu là con gái của Xi Vưu đã lan truyền và dậy sóng khắp nơi, nhưng vì đường đến Cửu Lê xa xôi, hiểm trở, trao đổi thông tin bị hạn chế, nên người Cửu Lê không hề biết chuyện gì đang diễn ra bên ngoài. Lúc này, vị Vu vương tỏ ra muôn phần xúc động. Ngài nhìn theo bóng Tiểu Yêu và Cảnh khuất sau rừng hoa đào, và ra lệnh:

– Triệu tập tất cả các thầy mo, chuẩn bị đại lễ cúng tế.

Trước khi đến đây, Tiểu Yêu nghĩ rằng căn nhà trúc ấy hẳn đã cũ nát, xập xệ, hoang phế. Kỳ thực nó vẫn còn nguyên vẹn. Những vạt trúc quanh nhà được chăm sóc rất cẩn thận, cây lên đều tăm tắp, xanh rì. Hoa tươi mọc quanh đìa trúc, nào tường vy, khiên ngưu, thược dược, ngọc lan, lài tím… Ở sân giếng vẫn còn hai gàu nước, sợi dây vắt vẻo trên thành giếng, như chờ đợi chủ nhà trở về và kéo lên một hai gàu.

Tiểu Yêu nhẹ nhàng đẩy cửa, bước vào.

Giữa nhà có một bàn thờ và hai chiếc đệm cói. Trên tường có một bức tượng chân dung Xi Vưu được điêu khắc trên gỗ. Ông ấy khoác áo choàng đỏ, đứng trên lưng đại bàng, ngạo nghễ giữa đất trời.

Tiểu Yêu đặt gói đồ lên bàn thờ, ngước nhìn bức tượng, mỉm cười nói với Cảnh:

– Đây là cha em.

Cảnh quỳ lạy Xi Vưu ba lạy, thắp ba nén nhang.

Tiểu Yêu tựa người bên song cửa, dõi mắt ngắm rừng đào, nàng nói:

– Lúc bước chân vào nhà, em có một cảm giác rất lạ lùng, rằng chỉ cần em gọi khẽ, cha em sẽ đáp lại.

Cảnh đến bên Tiểu Yêu, kéo nàng vào lòng:

– Mệt rồi phải không?

Tiểu Yêu khép mắt lại:

– Đúng là rất mệt. Em không kiên cường như vẻ ngoài của em đâu. Em cảm nhận được hết thảy những lời nhục mạ, xúc xiểm, ánh mắt khinh bỉ và thù địch của người đời…

– Đã hơn bảy mươi năm trôi qua, nhưng mỗi khi nhìn những vết sẹo trên thân thể, ta vẫn cảm nhận rõ rệt nỗi đau đớn và tủi nhục. Còn cảm giác mới là điều tự nhiên. Chỉ khi cảm nhận được nỗi đau, chúng ta mới cảm nhận được hạnh phúc ngọt ngào, điều đó chứng tỏ trái tim của ta vẫn không ngừng đập.

– Tuy nói vậy, nhưng em vẫn mong mình có thể kiên cường hơn nữa.

– Chúng ta khóc khi buồn, lẩn trốn khi tổn thương, điều đó rất bình thường. Đôi lúc yếu mềm không có nghĩa chúng ta không kiên cường, mà chúng ta đang tĩnh dưỡng để chữa lành vết thương, tích lũy năng lượng.

Tiểu Yêu nhoẻn cười:

– Chàng nói hay lắm! Em sẽ để bản thân được thỏa sức yếu đuối!

Cảnh mỉm cười, xiết chặt tay Tiểu Yêu.

Tiếng ca du dương từ đài tế lễ vẳng tới, Tiểu Yêu hỏi:

– Có ai đó đang hát, họ làm gì thế nhỉ?

– Cúng tế. Ta nghĩ họ đang chào đón cha mẹ nàng trở về. Cách nhìn nhận về cái chết của người Cửu Lê khác với người Trung nguyên. Họ cho rằng sự sống đến từ trời, cái chết không phải là sự kết thúc, mà là sự quay về.

Tiếng ca vỗ về linh hồn người đã khuất, dẫn lối các vong hồn trở về, tiếng ca ấy buồn nhưng không bi thương.

Tiểu Yêu lặng nghe một hồi, rồi nàng hạ gói đồ trên bàn thờ xuống, đó là đất cát của hoang mạc phía Bắc Xích Thủy, trước khi rời đi, nàng đã xúc một ít đất, gói vào túi.

– Cảnh, cho em mượn tọa kỵ của chàng một lát.

Bạch Hạc sải cánh chao tới, Tiểu Yêu cưỡi trên lưng hạc.

Bạch Hạc bay lên, Tiểu Yêu nhìn về phía đài tế lễ, thấy hơn mười thầy mo trong bộ lễ phục cổ xưa trang trọng, đang ca múa trước đài tế. Họ nhìn thấy nàng trên cao, nhưng không hề để ý đến nàng, họ vẫn tiếp tục hát, tiếp tục nhảy.

Bạch Hạc bay lượn khắp dải núi sông Cửu Lê, Tiểu Yêu cởi nút gói đồ, đất cát trong rừng đào giữa hoang mạc ấy có màu đỏ chói, bởi thấm đẫm sắc đỏ của lớp lớp hoa đào rơi xuống suốt mấy trăm năm.

Tiểu Yêu vốc một nắm, xòe rộng bàn tay, mặc gió thổi bụi đất bay đi khắp nơi.

Những hạt cát thẫm đỏ như những giọt máu, hòa vào sông núi Cửu Lê.

Vu vương cùng các thầy mo vừa vái lạy vừa ca hát.

Nhiều năm sau, ở vùng núi Cửu Lê xuất hiện những cây phong lá đỏ, dáng cây khỏe khoắn, màu lá chói đỏ, dây leo vấn vít thân cây. Không rõ vị thầy mo nào đã nói rằng, máu huyết của Xi Vưu biến thành cây phong lá đỏ. Người Cửu Lê đời đời truyền lại sự tích ấy và cây phong lá đỏ trở thành cây thần của họ.

Tiểu Yêu thức giấc lúc ban trưa.

Nàng ngạc nhiên nhìn mặt trời:

– Em ngủ mê mệt như vậy ư? Sao chàng không gọi em?

Cảnh vừa bày bát đũa vừa nói:

– Đã lâu nàng không được ngủ ngon như vậy.

Một năm qua, Tiểu Yêu lúc nào cũng buồn phiền, nụ cười cũng kém tươi. Nhưng đến nay, mọi nỗi khúc mắc trong lòng đã được giải tỏa, nàng có thể kê cao gối ngủ yên, Cảnh đâu nỡ đánh thức nàng.

Tiểu Yêu ngồi vào bàn, ăn uống ngon lành.

Xong bữa, hai người cùng nhau lên núi dạo chơi. Tiểu Yêu có cảm giác nơi đây rất thân thuộc, nàng vui vẻ kể lại câu chuyện về cha mẹ nàng cho Cảnh nghe.

Họ đến đài tế lễ và thấy Vu vương đang ngồi uống trà ngải dưới gốc sồi.

Tiểu Yêu dừng bước, ngẫm ngợi một lát rồi nói với Cảnh:

– Chàng về nhà trúc trước đi, em có chuyện muốn nói riêng với Vu vương.

Cảnh không chịu:

– Nàng muốn hỏi ông ấy về sâu độc trong cơ thể nàng và Tương Liễu, đúng không?

Tiểu Yêu ngượng ngùng đáp:

– Em không định giấu chàng, chỉ không muốn chàng phải lo lắng thôi.

– Nàng không cho ta biết mới khiến ta lo lắng. Để ta đi cùng nàng, được không?

Tiểu Yêu gật đầu.

Vu vương mời Cảnh và Tiểu Yêu uống trà.

Tiểu Yêu nhấp một ngụm trà ngải, nói:

– Tôi có người bạn tên Di Mai Nhi, xin hỏi, Vu vương có biết bà ấy là người của sơn trại nào không?

– Thì ra cô nương chính là vị ân nhân am hiểu thuật dùng độc ấy. Bà ấy đã qua đời. Bà ấy là chị gái của mẹ ta. Năm xưa, lẽ ra đến lượt mẹ ta bị bắt đi làm nô tỳ, nhưng vì mẹ đã có người trong mộng và đang mang thai ta, nên bà ấy đã đi thay mẹ. Cảm ơn cô đã giúp bà ấy được bình an trở về.

Tiểu Yêu lặng lẽ đổ một cốc trà ngải xuống đất.

Vu vương nói tiếp:

– Bà ấy bảo rằng cô nương muốn biết cách giải sâu tình nhân.

Tiểu Yêu liếc Cảnh, vội vã thanh minh:

– Khi cấy sâu độc, em không biết nó có cái tên lạ lùng như thế.

Cảnh mỉm cười bảo:

– Chỉ là tên gọi thôi mà, nàng đâu cần giải thích.

Tiểu Yêu vội chữa:

– Đúng, đúng, chỉ là tên gọi thôi.

Vu vương hắng giọng, trịnh trọng nói:

– Sâu tình nhân vốn là một cặp sâu trống mái, người nam và người nữ mang sâu độc trong người sẽ kết nối với nhau về cả thể xác và tinh thần. Người này đau, người kia ắt cũng thấy đau, người này bị thương, người kia ắt cũng bị thương.

Tiểu Yêu nói:

– Những điều này tôi biết cả, còn gì nữa, thưa Vu vương?

– Trong mắt người đời, thuật sử dụng sâu độc là một tà thuật bí hiểm, độc ác. Kỳ thực, đó chỉ là cách phòng vệ được tích lũy qua nhiều thế hệ của người Cửu Lê mà thôi. Đất Cửu Lê có vô số loài sâu độc, cỏ độc, chướng khí. Để có thể tồn tại, tổ tiên đã không ngừng nỗ lực tìm hiểu về chúng và điều khiển chúng. Thuật sử dụng sâu độc nổi tiếng khắp thiên hạ bởi sự tàn độc của nó. Trên thực tế, chúng tôi sử dụng sâu độc để cứu người nhiều hơn hại người. Sâu tình nhân gắn kết hai con người với nhau, nhờ vậy, nếu người này gặp nạn, có thể dựa vào sức sống mạnh mẽ của người kia để trị thương và sống tiếp. Đó là điều tuyệt vời! Nên dù sâu độc khó nuôi khó cấy, nhưng lẽ ra vẫn có nhiều người muốn nuôi và cấy sâu độc mới phải. Nhưng vì sao, xưa nay hiếm người làm việc này?

Tiểu Yêu hỏi:

– Vì sao?

– Vạn vật không thể sinh sôi, phát triển nếu chỉ có mặt trời hoặc chỉ có mặt trăng. Phàm thứ gì trên đời cũng đều có hai mặt. Có lợi tất sẽ có hại, lợi càng lớn, hại càng nhiều, loại sâu tình nhân này cũng vậy. Sâu tình nhân có thể gắn kết những cặp tình nhân với nhau, nhưng tính khí của loài sâu này cũng sớm nắng chiều mưa hệt như tính tình của những người đang yêu vậy. Nên rất khó điều khiển chúng. Loài sâu độc này rất dễ phản kháng, một khi sâu độc phản kháng thì cả hai sẽ mất mạng. Bởi thế, nó còn một tên gọi khác là “sâu đoạn trường”.

Cảnh thất kinh nhìn Tiểu Yêu. Tiểu Yêu vội nói:

– Không đáng sợ như ông ấy nói đâu. Bảy, tám mươi năm qua, em vẫn mạnh khỏe, vô sự đó thôi.

Vu vương kinh ngạc, hỏi:

– Cô nương không cấy sâu độc vào cơ thể vị công tử này sao?

– Thưa, không.

Vẻ mặt của Vu vương rất kỳ quái, ông hỏi Tiểu Yêu:

– Có thể cho ta xem thử sâu độc trong cơ thể cô nương không?

Tiểu Yêu gật đầu.

Không thấy Vu vương thực hiện bất cứ động tác gì, có lẽ ngài đang điều khiển sâu độc trong cơ thể ngài, để quan sát sâu độc trong cơ thể Tiểu Yêu. Vu vương chau mày, lẩm nhẩm:

– Đúng là sâu tình nhân! Nhưng sao lại như vậy? “Người hữu tình nuôi sâu hữu tình, người đoạn trường, vì sâu đoạn trường ”. Sâu tình nhân khác với những loài sâu độc khác, bởi nó chỉ được cấy vào cơ thể của những cặp tình nhân thật lòng yêu nhau. Nếu người kia không phải là tình nhân của cô, thì vì sao cô lại cấy được sâu độc vào cơ thể anh ta?

Tiểu Yêu đáp:

– Có lẽ do trình độ của tôi kém xa các bậc tiên tổ của ngài, nên tôi không câu nệ việc phải nghiêm chỉnh tuân theo những kinh nghiệm của người đi trước truyền lại. Mãnh hổ là chúa tể muôn loài trong chốn rừng sâu núi cao, nhưng nếu bị nhốt lâu ngày trong chuồng, nó cũng chỉ là một con mèo to xác mà thôi. Sâu độc cũng có dăm bảy loại, bởi thế mà thuật sử dụng sâu độc cũng biến hóa vô cùng.

Vu vương lấy làm khó hiểu, nhưng rõ ràng người yêu của cô gái này chính là vị công tử đang đứng cạnh cô ấy, có những điều ngài không tiện nói thêm, đành đáp qua quít:

– Cô nương dạy chí phải. Sâu độc trong cơ thể cô nương đúng là không giống những loại sâu độc khác. Có lẽ vì cô nương và người kia có điểm gì đó khác với người thường.

Tiểu Yêu thở dài:

– Anh ta rất khác biệt!

Từ ngày cấy sâu độc, Tương Liễu cảm nhận được nàng, nhưng nàng chưa bao giờ cảm nhận được điều gì từ y.

Cảnh lo lắng hỏi:

– Xin hỏi, làm thế nào để giải độc?

Vu vương chau mày, đáp:

– Chỉ có thể cùng sống hoặc cùng chết. Không có cách nào hóa giải sâu tình nhân. Đây chính là nguyên nhân vì sao rất ít người nuôi cấy loài sâu này. Chỉ có một vài cô gái tính cách bướng bỉnh mới nuôi loài sâu này. Nhưng, họ cũng khó lòng tìm được người con trai nào bằng lòng cho cấy sâu.

Cảnh sững sờ, lát sau chàng mới từ tốn hỏi:

– Nếu một trong hai người mà chết thì người kia sẽ ra sao?

Vu vương thở dài:

– Tộc Cửu Lê có câu ca rằng: “Cây ngô đồng khăng khít bên nhau, chim liền cành chẳng rời xa nhau, loài uyên ương nguyện chết cùng nhau. ”

Cảnh hoảng hốt nhìn Tiểu Yêu, bất giác, chàng nắm chặt tay nàng.

Tiểu Yêu le lưỡi cười với chàng:

– Đừng lo lắng! Không nên tin tuyệt đối những lời Vu vương vừa nói. Ông ấy bảo rằng, chỉ những cặp tình nhân mới cấy được sâu độc vào cơ thể của nhau, nhưng em và Tương Liễu hoàn toàn không có quan hệ gì, vậy mà em vẫn cấy được sâu độc vào cơ thể y đó thôi. Ông ấy còn bảo, không có cách gì giải được loại sâu độc này, nhưng chàng nhớ không, em cấy loại sâu này vào người Chuyên Húc, chính Tương Liễu đã giải độc cho Chuyên Húc đó thôi.

Cảnh thở phào:

– Đúng vậy! Sâu độc trong cơ thể Chuyên Húc đã được giải!

Tiểu Yêu tươi cười lúc lắc cánh tay Cảnh:

– Chàng đừng buồn, trên đời này không có gì là tuyệt đối. Người xưa không thể giải độc, nhưng em thì có.

Nàng tỏ ra rất tự tin, nói với Vu vương:

– Khi nào tìm ra cách giải độc, tôi sẽ truyền lại cho ngài, coi như trả ơn tổ tiên ngài đã truyền dạy cho tôi thuật sử dụng sâu độc.

Vu vương cười ái ngại, thành khẩn nói:

– Tộc Cửu Lê vốn là tộc người thấp hèn, năng lực có hạn. Nhưng chúng tôi sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ cô nương, xin cô nương đừng nhắc chuyện ân huệ ở đây.

Đây là lần đầu tiên Tiểu Yêu được đón nhận lòng tốt từ người khác nhờ có cha nàng. Cảm xúc của nàng rất phức tạp, nàng không nỡ từ chối:

– Xin cảm ơn ngài!

Tiểu Yêu ngoảnh mặt về phía rừng đào, Cảnh hỏi:

– Nàng muốn ở lại thêm một tối không?

Tiểu Yêu lắc đầu:

– Những việc cần làm đều đã làm xong, chúng ta về thôi! Có lẽ lúc này Tiêu Tiêu đã phát hiện ra Tiểu Yêu trên thuyền là giả.

Tiểu Yêu chào từ biệt Vu vương, nàng nói:

– Vua Hiên Viên hiện nay là Hắc Đế Bệ hạ, ngài không giống vị vua trước kia. Trong mắt ngài, các dòng tộc không có sự phân biệt sang hèn, hay xuất thân cao thấp. Xin hãy cho ngài ít thời gian nữa, nhất định ngài sẽ xóa bỏ cái gọi là danh sách những tộc người thấp kém.

Vu vương cúi đầu, nói:

– Cô nương hãy bảo trọng!

Tiểu Yêu và Cảnh quay lại nhà trúc trong rừng đào, dọn dẹp sạch sẽ. Xong xuôi, nàng bảo chàng:

– Chúng ta về thôi.

Cảnh tựa lưng vào Bạch Hạc, đứng chờ bên ngoài. Chàng muốn dành cho Tiểu Yêu chút thời gian riêng tư để từ biệt cha mẹ nàng.

Tiểu Yêu đứng lặng trước bức tượng điêu khắc Xi Vưu, lúc sau, nàng khẽ nói:

– Cha mẹ, con đi đây. Xin đừng lo lắng cho con, con sẽ ổn thôi.

Nàng lao ra ngoài, nở nụ cười rạng rỡ với Cảnh, vui vẻ nói:

– Chúng ta ra biển Đông Hải tìm Tiêu Tiêu và Miêu Phủ thôi.

Tiêu Tiêu đã phát hiện ra Tiểu Yêu trên thuyền chỉ là hình nộm, nhưng nàng không rõ Tiểu Yêu đã đi đâu, đành ra lệnh cho nhà thuyền chờ ở biển Đông Hải.

Nhìn thấy Cảnh và Tiểu Yêu từ trên trời đáp xuống, Miêu Phủ bật khóc nức nở vì vui mừng, Tiêu Tiêu bình thản cúi chào Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu hí hửng ghé sát Tiêu Tiêu, cười, bảo:

– Đừng lo, nếu Chuyên Húc tức giận, ta sẽ chịu trách nhiệm.

Tiêu Tiêu không cảm ơn cũng không nói không cần thiết, nàng chỉ bình tĩnh hỏi:

– Tiểu thư muốn quay về Thần Nông Sơn hay không?

Tiểu Yêu ngắm nhìn đại dương xanh thẳm, bao la, lặng thinh không đáp. Một lúc sau, nàng mới lên tiếng:

– Ta muốn ở lại đây một đêm.

Đêm đó, lớp lớp sóng biển ào ạt xô vào mạn thuyền.

Tiểu Yêu trằn trọc mãi không ngủ được, bèn xuống giường, mặc áo khoác, rời khỏi khoang thuyền.

Gió hiu hiu, mặt trăng tròn vành vạnh lơ lửng trên cao, mặt biển lấp lánh ánh sáng, bốn bề yên ả, tịch mịch.

Chính tại nơi này, nàng đã hôn mê và nằm trong vỏ sò màu trắng suốt ba mươi bảy năm. Không ai biết Tương Liễu đã cứu nàng bằng cách nào, cũng không ai biết cơ thể nàng đã biến đổi ra sao. Mỗi khi Chuyên Húc hỏi đến, nàng đều nói rằng mình hôn mê bất tỉnh, không biết chuyện gì đã diễn ra. Kỳ thực, nàng biết rất rõ, máu của y đang chảy trong cơ thể nàng. Cũng như lúc này, khát khao đến với đại dương như sóng trào cuộn dâng trong lòng nàng. Trước kia nàng cũng thích xuống nước, nhưng cảm giác khi đó và bây giờ hoàn toàn khác nhau. Vì khi đó, biển là biển, nàng là nàng, còn bây giờ, nàng là con gái của biển cả. Nàng có thể chỉ huy cả một đàn cá, có thể nghe hiểu tiếng hát của người cá, có thể thả sức bơi lặn dưới đáy biển, và có thể bơi nhanh hơn cả cá heo.

Chỉ cần một cú nhảy, nàng sẽ được thỏa sức vẫy vùng giữa lòng đại dương. Nhưng Tiểu Yêu không muốn vậy, nàng nắm chặt tay, tranh đấu với chính mình.

Tiếng hát của người cá từ nơi tận cùng đại dương vẳng tới, khiến Tiểu Yêu rùng mình. Nàng đứng trước mũi thuyền, dõi mắt ra xa, và nàng thấy, một bóng áo trắng, tóc trắng đang lướt đi trên mặt biển dát bạc, lấp lánh, dưới ánh trăng lung linh, vằng vặc.

Y không cất tiếng, nàng cũng không mở lời, một người đứng trên thuyền, một người đứng dưới biển, cả hai cùng lắng nghe tiếng hát của người cá. Tiếng hát du dương, trầm bổng như đến từ trời cao, vang vọng khắp mặt biển bao la. Tiếng hát trong trẻo, thanh khiết, chạm đến tận tâm linh, tiếng hát ấy như tiếng gọi bạn tình trong đêm vắng, như tiếng thở than của những linh hồn bơ vơ, linh hồn dường như cũng chìm đắm trong tiếng hát ấy.

Tiếng ca tắt lặng. Tiểu Yêu khẽ nói:

– Hay quá!

Tương Liễu hờ hững đáp lại một tiếng “ừ”.

Tiếng hát của người cá là thanh âm hay nhất trên đời, nhưng không mấy người nghe được. Khoảnh khắc này, Tiểu Yêu thấy trái tim nàng và trái tim Tương Liễu ở rất gần nhau, gần đến nỗi, không gì là không thể chia sẻ. Tiểu Yêu nói:

– Cha tôi là Xi Vưu.

Vẻ cười thấp thoáng trong mắt Tương Liễu. “Tôi là con gái của Xi Vưu” và “Cha tôi là Xi Vưu” tuy cùng diễn đạt một thực tế, nhưng thái độ trong hai câu nói hoàn toàn khác nhau. “Tôi là con gái của Xi Vưu” chỉ là thuật lại, có chút buồn bực, thậm chí có vẻ oán giận. Nhưng “cha tôi là Xi Vưu” là thái độ thừa nhận, vui vẻ.

Tương Liễu nói:

– Lúc mới quen cô, tên cô là Văn Tiểu Lục, sau đó là Cao Tân Cửu Dao, bây giờ là Tây Lăng Cửu Dao, nếu sau này lại có thêm cái tên mới gồm bốn chữ nữa, e là không ai nhớ nổi tên cô.

Tiểu Yêu bật cười ha hả, nhưng nàng lập tức bịt miệng lại, ngó nghiêng xung quanh, thấy không có ai bị nàng làm cho thức giấc, mới lém lỉnh đáp trả Tương Liễu:

– Mới có ba tên gọi thôi mà, nếu ngày sau có thêm tên gọi thứ tư, thì cũng không làm khó được ngài, cứ chia mỗi cái đầu nhớ một cái tên là được.

Tương Liễu lạnh lùng nhìn Tiểu Yêu.

Nàng chẳng hề sợ hãi:

– Ngài mà ra tay là tôi hô toáng lên đấy.

Tương Liễu nhếch môi cười:

– Cần gì ta phải ra tay, sẽ có vô số người tìm cô tính sổ vì cha cô là Xi Vưu đấy!

Tiểu Yêu phì cười:

– Tôi vừa đến Cửu Lê, Vup vương ở đó giải thích cho tôi rất nhiều điều về loài sâu độc trong cơ thể chúng ta. Có câu này tôi nhớ nhất: Cặp sâu này sẽ cùng sống chết với nhau, tính mạng của ngài gắn chặt với tính mạng của tôi. Tôi mà gặp phiền phức thì ngài cũng không được yên đâu!

Tương Liễu mỉm cười nhìn Tiểu Yêu, không tỏ ra ngạc nhiên chút nào.

Người kinh ngạc lại chính là Tiểu Yêu:

– Ngay từ đầu, ngài đã biết loài sâu này là sâu gì, đúng không?

– Đúng thì sao?

– Vị Vu vương đó nói rằng, loài sâu tình nhân này giống như: “Cây ngô đồng khăng khít bên nhau, chim liền cành chẳng rời xa nhau, loài uyên ương nguyện chết cùng nhau. ” Nếu tôi chết, ngài sống sao nổi?

– Sao không đặt ra tình huống ngược lại, nếu ta chết, liệu cô có sống nổi?

Tiểu Yêu tức tối:

– Tôi đâu biết ai sống ai chết, nên tôi mới hỏi ngài. Ngài cho tôi biết đi.

Vẻ cười trên gương mặt Tương Liễu ngày càng trở nên nham hiểm:

– Làm sao ta biết được! Cô từng nghiên cứu về sâu độc, còn ta, mới nghịch chúng lần đầu. Nhưng cũng không cần sốt ruột, khi nào cả ta và cô cùng chết, chúng ta sẽ biết được đáp án thôi!

Tiểu Yêu nổi đóa, giẫm chân bình bịch:

– Ngài đã giải được sâu độc trong cơ thể Chuyên Húc, nên chắc chắn ngài cũng có cách hóa giải sâu độc trong cơ thể hai chúng ta. Lẽ nào ngài không muốn?

Tương Liễu cười tít mắt:

– Không muốn!

Tiểu Yêu mệt mỏi, hỏi:

– Rốt cuộc ngài muốn thế nào?

Tương Liễu chìm dần xuống biển:

– Ngoài việc trục lợi ra, ta chẳng có mục đích gì khác.

– Này, ngài đừng đi.

Tiểu Yêu nhảy qua lan can, định đuổi theo Tương Liễu, nhưng một đôi tay chắc nịch đã giữ nàng lại.

– Buông ra…

Tiểu Yêu quay đầu lại, thấy Cảnh, lập tức ngoan ngoãn để chàng kéo nàng vào sàn thuyền.

Tiểu Yêu dò hỏi:

– Chàng dậy khi nào vậy?

– Được một lúc rồi.

Thực ra, chàng không chợp mắt nổi. Tiểu Yêu vừa bước chân ra khỏi khoang thuyền thì chàng đã biết. Nhưng vì nghĩ rằng nàng muốn được yên tĩnh một mình, nên chàng không quấy rầy nàng.

Ngay từ đầu Tương Liễu đã biết Cảnh còn thức, y đặt cấm chế ngăn mọi người trên thuyền nghe được cuộc chuyện của y và Tiểu Yêu, trừ Cảnh.

Thấy nàng định đuổi theo Tương Liễu, Cảnh hốt hoảng chạy ra kéo nàng lại, chàng không kịp suy nghĩ điều gì khác, chàng sợ nàng sẽ biến mất.

Tiểu Yêu nói:

– Tương Liễu vừa tới đây, em hỏi y về cách giải độc, nhưng y không chịu nói.

Nỗi bất an trong lòng Cảnh vơi đi.

Tiểu Yêu buồn bã nói:

– Miệng lưỡi của y ác độc hơn em, linh lực cũng cao hơn em. Thuốc độc em làm cho y, y ăn như kẹo bột. Lần nào gặp em cũng bị y bắt nạt.

Cảnh mỉm cười hỏi:

– Nàng muốn ta giúp không?

Tiểu Yêu nghiêng đầu suy nghĩ, rồi lắc đầu:

– Giữa chàng và y là giao kèo làm ăn, giữa em và y là thù hằn cá nhân, chuyện nào ra chuyện đó.

Cảnh mỉm cười, gật đầu, tán đồng:

– Nếu mẹ ta còn sống mà nghe được câu này, chắc chắn sẽ gật gù khen ngợi: Con dâu giỏi lắm!

Tiểu Yêu phì cười, đập vào người Cảnh:

– Ai thèm làm vợ chàng!

Cảnh kéo Tiểu Yêu vào lòng, ôm riết:

– Không cho nàng làm vợ người khác!

Tiểu Yêu thoáng sững sờ, nàng ngoan ngoãn ngả đầu vào lòng Cảnh.

Cảnh ngước nhìn đại dương mênh mông, tịch lặng, khẽ nói:

– Tiểu Yêu, ngày mai chúng ta sẽ rời khỏi đây.

– Vâng.

– Nàng muốn đi đâu nữa không?

– Về Thần Nông Sơn thôi!

Tiểu Yêu chọn về Thần Nông Sơn vào buổi sáng.

Vì buổi sáng Chuyên Húc còn bận triều chính, không rảnh để mắt đến nàng.

Hoàng Đế đang cày cuốc trên ruộng thuốc, trông thấy Tiểu Yêu và Cảnh, ngài bỏ cuốc sang bên, bước lại.

Cảnh cung kính vái chào:

– Thưa Bệ hạ, thần và Tiểu Yêu đã trở về.

Hai ngươi đi từ mùa hạ đến tận mùa thu mới quay về, hẳn đã thăm thú được nhiều nơi, làm được nhiều việc.

Tiểu Yêu nghe trong câu nói của Hoàng Đế chứa đầy ẩn ý, nàng thưa:

– Ông ơi, không phải do Cảnh, cháu….

Cảnh ngắt lời nàng:

– Tiểu Yêu, ta sẽ thưa chuyện với Bệ hạ.

Cảnh biết Chuyên Húc không muốn Tiểu Yêu gặp lại Tuấn Đế, chắc chắn hắn sẽ phản đối hai người đi gặp ngài. Nếu vậy, Tiểu Yêu sẽ không có cơ hội gặp được cha. Nên Cảnh đã viện cớ đưa nàng đi ngao du sơn thủy. Chàng lừa dối hai vị Bệ hạ, đó là tội đại kỵ. Nhưng vì Tiểu Yêu, chàng bất chấp tất cả, kể cả việc phải đối đầu với hai bậc Đế vương!

Tiểu Yêu không rõ tội Cảnh lớn cỡ nào, nàng chỉ biết rằng chàng đã nói dối Hoàng Đế. Nên nàng bảo Cảnh:

– Đây là việc riêng của gia đình em! Em sẽ thưa lại với ông ngoại và Chuyên Húc!

Hoàng Đế nói:

– Tiểu Yêu nói đúng, đây và việc riêng của gia đình ta. Cậu về đi!

Tiểu Yêu mỉm cười với Cảnh, động viên chàng đừng lo lắng.

Cảnh vái chào Hoàng Đế, xin phép ra về.

Hoàng Đế rửa sạch tay, ngồi dưới hiên nhà, nhâm nhi bát trà nguội. Tiểu Yêu nửa quỳ nửa ngồi trước mặt ngài, lòng bộn bề cảm xúc, không biết phải bắt đầu từ đâu:

– Cháu… cháu đã tới hoang mạc phía Bắc Xích Thủy, và gặp mẹ cháu.

Bát trà trên tay Hoàng Đế vỡ vụn. Một lúc sau, ngài mới cất tiếng, hỏi:

– Mẹ cháu ra đi có thanh thản không?

Mắt nàng cay xè, Tiểu Yêu khẽ đáp:

– Với mẹ, tiếp tục sống sẽ chỉ càng đau khổ.

Hoàng Đế đau đớn cúi đầu, một lúc sau, ngài hỏi:

– Cháu có hận ta không?

– Thực ra, ông muốn hỏi là, mẹ cháu có hận ông không. Mẹ không nói, nhưng cháu nghĩ, trải qua bao năm tháng như vậy, hẳn là mẹ đã hiểu, Hiên Viên thay thế Thần Nông là điều tất yếu. Số mệnh của cha mẹ cháu đã được định đoạt ngay trong đêm đầu tiên họ gặp mặt. Giá như họ không rung động thì mọi chuyện sẽ khác. Nhưng họ đã rung động, và đó là số kiếp của họ. Chuyên Húc nói rằng, ông như vầng thái dương, chiếu sáng khắp mặt đất, ban sự sống cho vạn vật, nhưng càng những ai ở gần mặt trời đều sẽ bị thiêu đốt.

– Cháu có hận ta không?

Tiểu Yêu thở dài:

– Cháu không biết. Nếu cháu không bỏ trốn khỏi Ngọc Sơn, nếu cháu lớn lên trong cung, cháu nghĩ chắc chắn cháu sẽ hận ông. Nhưng cháu đã lưu lạc chốn nhân gian, từng đi bán than, kéo thuyền, buôn rượu, nuôi ngựa, từng quản lý thu chi, từng làm thầy thuốc… Cháu đã sống cuộc đời một con dân hưởng ơn mưa móc của ông, cảm nhận được sự ấm áp của ông, nên cháu không thể hận ông. Chuyên Húc từng căm hận Chúc Dung đã cướp đi mạng sống của cha mẹ huynh ấy, nhưng sau rốt, vì muôn dân Trung nguyên, huynh ấy đã bỏ qua cho Tiểu Chúc Dung. Có lẽ đúng như Chuyên Húc nói, có những người đàn ông sinh ra để chăm lo cho gia đình, có những người đàn ông sinh ra để cai quản một dòng họ. Còn ông và Chuyên Húc là những người sinh ra để chăm lo cho lê dân trăm họ. Hai người buộc lòng phải dứt bỏ tình riêng, để gây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho hàng vạn người bán than, kéo thuyền, buôn rượu… Ông ơi, thực ra ông không cần phải hỏi cháu câu hỏi đó, bởi vì dù cháu có hận ông hay không, mọi thứ đều đã xảy ra.

Tiểu Yêu đứng lên:

– Cháu đi tắm gội, thay quần áo đây. Nếu Chuyên Húc giận cháu, ông phải bênh cháu đấy! Còn nữa, ông hãy nghĩ cách giải thích với huynh ấy vì sao vùng hoang mạc phía Bắc Xích Thủy đột nhiên thay đổi. Mẹ cháu là cô ruột huynh ấy, huynh ấy có quyền được biết.

Tiểu Yêu không muốn trải qua cảm giác đau đớn xé gan xé ruột ấy thêm lần nào nữa, nên nàng mới quyết định về gặp Hoàng Đế trước, và giao lại mọi chuyện cho ông nàng giải quyết.

Giọng nói của Hoàng Đế cất lên sau lưng nàng, khiến Tiểu Yêu dừng bước:

– Năm đó, ta ép mẹ cháu ra trận, nhưng ta chỉ muốn lợi dụng nó làm cho sỹ khí của quân đội Xi Vưu giảm sút mà thôi. Đến lúc đó, ta sẽ cầm quân tấn công đối phương. Ta đâu ngờ mẹ cháu đã đánh thức năng lượng mặt trời trong cơ thể, ta càng không ngờ sức mạnh của nguồn năng lượng ấy lại đáng sợ nhường vậy. Đến khi ta phát hiện ra mẹ cháu biến thành ma quái thì đã quá muộn, dẫu ta có hối hận muôn phần thì cũng đã muộn. Tiểu Yêu, trong đời, ta đã lợi dụng vô số người, nhưng chưa bao giờ muốn hy sinh mạng sống của con gái mình cho tham vọng đế vương của ta.

Tiểu Yêu khẽ chấm nước mắt, nói:

– Cháu tin ông, Chuyên Húc chắc chắn cũng vậy.

Buổi tối hôm đó, khi Chuyên Húc đến Tiểu Nguyệt Đỉnh thì thấy Tiểu Yêu đang ngồi đung đưa trên ghế dây đu trong rừng phượng.

Vẻ mặt hắn rất đỗi nghiêm trọng.

Tiểu Yêu vờ như không thấy, nàng cười khì khì, nói với hắn:

– Ông ngoại có chuyện muốn nói với huynh đấy!

Chuyên Húc vẫn đứng đó quan sát Tiểu Yêu một hồi, chợt hắn bước lại, một tay nâng cằm nàng, một tay xoa trán nàng:

– Vết bớt hoa đào trên trán muội đâu rồi?

Tiểu Yêu trỏ cây trâm làm bằng gỗ đào nhỏ xíu cài trên búi tóc nàng:

– Ở đây.

– Sao lại như vậy? Sư phụ đã gỡ bỏ phong ấn cho muội?

Ông ngoại đang chờ huynh đấy, ông sẽ cho huynh biết mọi chuyện.

– Chờ ta ở đây!

Chuyên Húc rảo bước vào nhà trúc.

Mãi đến khuya, Chuyên Húc mới bước ra.

Tiểu Yêu vẫn ngồi đó, nàng đang nghịch lò hương nhỏ xíu hình trái bóng, dẫn dụ đám đom đóm bay qua bay lại.

Chuyên Húc bước tới, ngồi xuống vạt cỏ.

Tiểu Yêu tung quả bóng cho Chuyên Húc, hắn tung trả lại, cứ thế hai người trêu chọc đám đom đóm, trong đêm tối, những vệt sáng lung linh bay qua bay lại vun vút.

Tiểu Yêu bật cười sảng khoái, Chuyên Húc cũng cười.

Chuyên Húc nói:

– Ta xin lỗi, ta không ngờ cô Hành vẫn còn sống… Lẽ ra ta nên đi cùng muội mới phải.

Tiểu Yêu đã phải chịu đựng nỗi đau khổ tột cùng khi hay tin mẹ nàng vẫn còn sống, nhưng sau đó bà lại ra đi vĩnh viễn. Mỗi khi Chuyên Húc đau đớn tột cùng, Tiểu Yêu đều ở cạnh hắn, vậy mà những khi nàng đau đớn tột cùng, hắn đều vắng mặt.

Tiểu Yêu đùa nghịch với trái bóng, đàn đom đóm bay lượn quanh nàng:

– Không ai biết, kể cả ông ngoại và Tuấn Đế Bệ hạ cũng không dám chắc mẹ muội còn sống. Huynh đừng lo cho muội, muội không sao đâu. Trước kia muội ôm mối hận trong lòng, mỗi khi nghĩ về mẹ, muội cảm thấy trái tim mình hoàn toàn trống rỗng. Còn bây giờ, khi muội hiểu rằng cha mẹ rất thương muội, tuy họ đã đi xa nhưng mỗi khi nghĩ về họ, trái tim muội lại tràn đầy hạnh phúc và ấm áp.

Dẫu vậy, Chuyên Húc vẫn không sao tha thứ cho bản thân. Khi Tiểu Yêu lưu lạc nhân gian, hắn không ở cạnh nàng. Khi Tiểu Yêu bị yêu quái cáo nhốt vào lồng, hắn cũng không ở cạnh nàng. Khi Tiểu Yêu đến gặp mẹ, hắn cũng không đi cùng nàng. Chuyên Húc rất muốn tát vào mặt mình.

Tiểu Yêu nghiêng đầu ngó Chuyên Húc:

– Hết giận muội rồi, đúng không?

– Ừ. Ta đang giận chính mình. Trước kia thì không nói làm gì… Nhưng bây giờ, lẽ ra ta phải ở cạnh muội.

– Huynh là Hắc Đế Bệ hạ, huynh có cả núi việc phải giải quyết, đâu thể đưa muội rong chơi khắp nơi. Muội hiểu tấm lòng của huynh là đủ.

Chuyên Húc thinh lặng, nỗi buồn dâng ngập lòng hắn. Hắn đã có trong tay cả thiên hạ, nhưng hắn không thể đưa Tiểu Yêu dạo chơi khắp thiên hạ của mình.

– Chuyên Húc! – Tiểu Yêu tung quả bóng về phía Chuyên Húc, đám đom đóm xô về phía hắn.

Ánh sáng đom đóm tụ lại, gương mặt Chuyên Húc dần sáng rõ, nỗi bi thương, sầu muộn hiển hiện trên nét mặt. Chuyên Húc nói:

– Ta khao khát được như Cảnh, có thể đưa muội ngao du sông núi, buông bỏ mọi muộn sầu, và đưa muội đi gặp cô Hành.

– Chuyên Húc, không sao đâu, muội rất ổn!

Chuyên Húc lặng nhìn bầu trời cao trong vô tận, đột nhiên hắn hỏi:

– Nếu cha mẹ ta không chết, thì lúc này chúng ta đang làm gì nhỉ? Ta sẽ trở nên thế nào?

Tiểu Yêu thoáng sững sờ, nàng ngẫm ngợi một lát, nhưng không có đáp án:

– Muội không biết. Có lẽ vẫn sẽ như bây giờ, một người ngồi đu đưa trên ghế dây, một người ngồi trên thảm cỏ, vừa trò chuyện vừa trêu đùa đom đóm. Huynh nghĩ sao?

Chuyên Húc tung quả cầu trả Tiểu Yêu, nói:

– Ta sẽ giống cha mình, suốt đời chỉ yêu một người con gái. Ta sẽ thổi sáo cho nàng, bắc ghế dây đu cho nàng, kẻ lông mày cho nàng, làm son môi cho nàng. Ta sẽ đưa nàng về Nhược Thủy, và cầu hôn nàng dưới gốc cây Nhược Mộc. Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, ta cũng sẽ ở bên nàng suốt đời.

Lẽ ra đó là những lời tâm sự đầy thương cảm, nhưng Tiểu Yêu không nhịn nổi, nàng phì cười. Rồi vội vã xin lỗi:

– Muội xin lỗi, xin lỗi! Thực lòng muội không muốn cười đâu, nhưng mà… nhưng mà… muội không thể tưởng tưởng nổi… Nếu huynh trở nên như vậy, thì những người phụ nữ trên đỉnh Tử Kim sẽ ra sao? Họ phải lấy ai bây giờ?

Chuyên Húc bật cười ha hả.

Tiểu Yêu không thấy rõ biểu cảm của hắn, nhưng nghe trong tiếng cười của hắn chất chứa nỗi niềm phẫn uất, nàng vội vã tung quả bóng về phía Chuyên Húc:

– Chuyên Húc!

Chuyên Húc đón lấy trái bóng, dưới ánh sáng lập lòe của đàn đom đóm, vẻ mặt hắn vẫn hết sức điềm nhiên, hắn tươi cười, vui vẻ như thể cũng thấy rằng câu nói của mình quá ư nực cười. Tiểu Yêu thấy vậy cũng yên tâm hơn.

Chuyên Húc đứng lên:

– Ta về đây, muội nghỉ sớm đi.

Tiểu Yêu nhảy xuống đất, hỏi dò:

– Huynh không giận Cảnh chứ? Chàng vì muội nên mới làm vậy.

Chuyên Húc vừa xoay quả bóng sưởi vừa nói:

– Ta không chăm sóc muội chu đáo, đâu thể trách cậu ta.

– Huynh có trừng phạt Tiêu Tiêu và Miêu Phủ không?

– Muội hỏi như vậy, rõ ràng không muốn ta trừng phạt họ, vậy thì ta sẽ không trừng phạt.

– Muội biết huynh không giận đâu mà!

Tiểu Yêu cười thật tươi, chạy vào nhà:

– Muội đi ngủ đây, hẹn mai gặp.

– Tiểu Yêu!

Tiểu Yêu quay lại, cười tít mắt nhìn Chuyên Húc.

Hắn nhìn nàng đăm đăm, khóe môi uốn cong, rồi hắn nở nụ cười, tung quả bóng trả lại nàng:

– Hẹn mai gặp!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 5: Ngán nỗi can qua

Mùa xuân năm đó đến rất muộn, cuối tháng giêng mà tuyết vẫn chưa tan trên đỉnh Tiểu Nguyệt.

Nhưng như vậy lại rất hợp ý Tiểu Yêu, vì nàng có thể vùi một hũ rượu hoa quả dưới lớp tuyết, đến bữa thì đào lên, đổ vào chén lưu ly, hương vị rất đặc biệt, ngon hơn nhiều so với rượu ướp nhanh bằng linh lực.

Tuy có cung điện Chương Nga, nhưng phần lớn thời gian Tiểu Yêu vẫn sống trong thung lũng thuốc, cùng danh y Ngân nghiên cứu, trao đổi về y thuật. Thỉnh thoảng nàng lại cùng Ngân đến tiệm thuốc thực hành việc khám chữa.

Quan điểm về y thuật của Tiểu Yêu và Ngân rất khác nhau, nên giữa hai người thường xảy ra tranh cãi về việc lựa chọn các vị thuốc khi chữa bệnh, chốc chốc lại thấy họ hoa chân múa tay, cãi cọ um xùm.

Một ngày nọ, Tiểu Yêu tức tối kéo Ngân đến chỗ Hoàng Đế, nhờ ngài phân giải:

– Cháu công nhận phương thuốc của Ngân không sai, trái lại, hiệu quả bài thuốc của ông ấy rất tốt. Nhưng cháu và ông ấy đang nói đến những người bệnh sống ven sông, hồ. Cháu kê ra những loại thảo dược mọc quanh vùng nhiều nước. Nếu gặp may, người bệnh có thể tìm và hái được, nếu phải đi mua thì giá cả cũng phải chăng. Còn loại thảo dược mà ông ấy kê đơn mọc ở vùng núi cao, rừng sâu, người dân vùng đó buộc phải mua với giá cao.

Ngân ra dấu tay thưa chuyện với Tuấn Đế, Tiểu Yêu dịch lại:

– Chữa bệnh cứu người điều đầu tiên phải nghĩ đến là làm thế nào để có thể nhanh chóng chữa khỏi bệnh cho họ. Tiểu Yêu sử dụng phương thuốc phát huy tác dụng chậm, ngoài ra người bệnh uống loại thuốc này còn nảy sinh cảm giác chán ăn.

Hoàng Đế cười, bảo:

– Cả hai ngươi đều không sai. Đến bước này thì việc lựa chọn bài thuốc nào phù hợp không do trình độ y thuật của các ngươi quyết định, mà do hoàn cảnh gia đình của người bệnh quyết định. Nếu người đó giàu có, thì nên theo bài thuốc của Ngân. Người ta có điều kiện thì việc gì không chọn phương thuốc hiệu quả hơn. Nhưng nếu người đó nhà nghèo, thì nên dùng bài thuốc của Tiểu Yêu. Chữa bệnh là việc quan trọng, nhưng sinh kế của cả gia đình cũng quan trọng không kém. Khỏi bệnh mà cả nhà chết đói thì cũng không nên.

Ngân ngẫm ngợi một lát, đồng tình với Hoàng Đế:

– Bệ hạ dạy chí phải! Bệnh nhân của thần đều thuộc giới quý tộc, thần đã lãng quên những người bệnh không đủ tiền mua thuốc.

Tiểu Yêu cũng thưa:

– Cháu cũng quá chú trọng việc “kiếm cây thuốc ở quanh mình”.

Hoàng Đế thở dài:

– Chữa bệnh cứu người không nên gò ép trong phạm vi một bài thuốc. Ví như trường hợp hai ngươi vừa nhắc đến. Nếu người bệnh đó sống ở miền núi, thì bài thuốc của Ngân lại thành ra tiết kiệm hơn so với bài thuốc của Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu cười, nói:

– Đúng vậy! Vì thế khi kê đơn, không nên chỉ dựa vào gia cảnh của người bệnh, mà còn phải tìm hiểu xem người đó sống ở đâu. Năm xưa, cháu mở tiệm thuốc ở Cao Tân, đa số bệnh nhân là ngư dân. Đơn thuốc mà cháu kê cho bệnh nhân theo “Thần Nông bản thảo kinh” rất hiệu nghiệm, nhưng các vị thuốc đều có nguồn gốc từ Trung nguyên, không quen thuộc với ngư dân Cao Tân, và họ cũng không đủ tiền để mua. Sau đó, cháu đã thử kê đơn dựa trên các vị thuốc sẵn có nơi họ ở, thì thấy rằng nó hữu dụng hơn bài thuốc của “Thần Nông bản thảo kinh”.

Ngân lấy làm bất ngờ, ông ấy ra dấu tay:

– Không thể tin nổi, có người dám chê bài thuốc trong “Thần Nông bản thảo kinh”!

Hoàng Đế trầm ngâm một lát, đột nhiên ngài bảo:

– Thủy thổ, khí hậu ở mỗi nơi mỗi khác, một cuốn “Thần Nông bản thảo kinh” rõ ràng là không đủ, không thể đủ! Các ngươi có muốn tập hợp và biên soạn thêm vài chục cuốn “Thần Nông bản thảo kinh” nữa không?

Tiểu Yêu và Ngân cùng tròn mắt nhìn Hoàng Đế. Ngân ra dấu tay:

– Không thể nào, không làm nổi! Mấy vạn năm mới có một cuốn “Thần Nông bản thảo kinh”.

Tiểu Yêu cũng nói:

– Quá khó, không thể làm được!

Cả đời Nam chinh Bắc chiến, lập nên vô số kỳ tích, trong suy nghĩ của Hoàng Đế không bao giờ tồn tại hai chữ “không thể ”. Ngài nói:

– Ta chỉ hỏi các ngươi: Việc này có tốt đẹp không? Có đáng để bỏ công sức ra làm hay không?

– Nếu có thể tập hợp và chỉnh lý các loại thảo dược và các bài thuốc dân gian ở khắp mọi nơi trong Đại hoang thì đó sẽ là một việc vô cùng lớn lao, vĩ đại và tốt đẹp! Vì nó sẽ cứu giúp được muôn người, mọi thế hệ!

Hoàng Đế tiếp tục truy hỏi:

– Nếu đã khẳng định giá trị to lớn của việc này, thì tại sao không làm? Chỉ vì một chữ “khó” mà không dám làm hay sao?

Cả Ngân và Tiểu Yêu đều tỏ ra ái ngại. Không phải ai cũng như Hoàng Đế, dám nghĩ những điều người khác không dám nghĩ, dám làm những việc người khác không dám làm. Tiểu Yêu ngẫm ngợi một lát, hạ quyết tâm:

– Làm được bao nhiêu lợi bấy nhiêu, dù chỉ thu thập được thêm một trăm phương thuốc, tất có người sẽ được cứu nhờ nó.

Ngân gật đầu:

– Mười bài thuốc cũng là rất đáng quý!

Hoàng Đế nói:

– Tốt!

Tối hôm đó, Hoàng Đế bảovới Chuyên Húc rằng ngài muốn biên soạn sách y thuật và cần đến sự giúp sức của hắn.

Từ ngày truyền lại ngôi vị đến nay, đây là lần đầu tiên Hoàng Đế mở lời cậy nhờ Chuyên Húc, hắn nhận lời không hề do dự.

Hoàng Đế tuyển chọn hàng loạt thầy thuốc từ khắp nơi trong nước Hiên Viên, rồi lại lọc lựa trong số đó ra hơn hai mươi người giỏi nhất, triệu tập đến Tiểu Nguyệt Đỉnh.

Tiểu Yêu và Ngân phụ trách việc chuẩn bị.

Ngày nào cũng bận bịu thảo luận về y thuật với các danh y, Tiểu Yêu không hề hay biết, từ vào xuân đến nay, đỉnh Tử Kim rất mực nhộn nhịp. Đèn thắp sáng suốt đêm trong điện Càn Dương, nơi ở của Chuyên Húc. Các vị đại thần, tướng lĩnh ra vào tấp nập. Đã hơn hai tháng, Chuyên Húc chưa ghé tẩm cung của bất cứ phi tần nào.

Nhưng dẫu bận rộn, mệt mỏi đến đâu, dù mưa gió bão bùng thế nào, Chuyên Húc vẫn đều đặn đến Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm hỏi Hoàng Đế hàng ngày.

Đối với các triều thần và phi tần của hắn, thì hành động ấy khiến họ không khỏi cảm động vì nghĩ rằng “Hắc Đế Bệ hạ quả là người cháu hiếu thuận”. Nhưng trong mắt Hoàng hậu Hinh Duyệt, hành động ấy mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, khiến nàng mất ăn mất ngủ. Có lúc nàng cảm thấy chỉ mình nàng biết được bí mật của Chuyên Húc, nhưng cũng có lúc nàng tự trách mình hay suy nghĩ lung tung.

Đêm mồng Bảy tháng Ba, nữ tướng của Hiên Viên là Xích Thủy Hiến dẫn quân tấn công và nhanh chóng chiếm lĩnh đất Kinh Độ của Cao Tân nằm ở phía Nam Xích Thủy. Kinh Độ giống một con dao găm thọc sâu vào “vùng bụng Cao Tân”, đảm bảo việc cung cấp lương thực, quân nhu bằng đường thủy cho đại quân Hiên Viên, khi quân đội nước này tiến sâu vào lãnh thổ Cao Tân.

Ngay hôm sau, Hắc Đế phong Xích Thủy Phong Long làm đại tướng quân, dẫn theo ba mươi vạn quân tấn công Cao Tân.

Đã hàng vạn năm không trải qua chiến tranh, quân đội Cao Tân giống một thanh gươm báu được giấu kín dưới đáy rương. Dẫu là gươm báu, nhưng vì đã vạn năm không được mài rũa, thanh gươm ấy mất đi độ sắc bén. Trong khi đó, từ ngày lập quốc, quân đội Hiên Viên không ngừng xông pha nơi chiến trường, trải qua hàng nghìn năm rèn luyện, đội quân nước này trở nên hùng mạnh như mãnh hổ, vững vàng như bàn thạch. Tướng quân tiên phong Ngu Cương vốn là người của Hy Hòa Bộ ở Cao Tân, linh lực dồi dào, giỏi điều khiển nước, tinh thông thủy chiến, lại thông thuộc địa hình và khí hậu Cao Tân. Vì vậy dưới sự thống lĩnh của Ngu Cương, quân đội Hiên Viên đã mạnh càng thêm mạnh, chỉ trong ba ngày đã hạ được hai thành trì của Cao Tân.

Đại hoang chấn động bởi cuộc binh biến này.

Trên đỉnh Tiểu Nguyệt, Tiểu Yêu không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra, nàng chỉ cảm thấy các vị danh y kiệm lời hơn, và họ thường lơ đãng khi làm việc.

Cảnh đến thăm nàng, nàng hỏi:

– Không lẽ Chuyên Húc quên phát tiền công cho họ? Em cảm thấy họ không nhiệt tình làm việc như trước nữa!

Cảnh chưa kịp mở lời, Hoàng Đế đã hắng giọng cảnh cáo. Cảnh thinh lặng, nhưng chàng hiên ngang đón lấy ánh mắt sắc lạnh của Hoàng Đế chiếu về mình và không tỏ ra sợ hãi.

Tiểu Yêu hết ngó Hoàng Đế lại nhìn sang Cảnh, lần đầu tiên nàng nhận ra, vẻ uy nghi của Cảnh không hề thua kém Hoàng Đế. Nàng sợ hãi nhảy ra, chặn trước mặt Hoàng Đế, bảo vệ Cảnh, rồi le lưỡi, cười nịnh bợ và hỏi:

– Ông ơi, có chuyện gì vậy?

– Gái lớn là con người ta mà!

Hoàng Đế lắc đầu chán nản:

– Muốn biết chuyện gì hãy đi hỏi Chuyên Húc, ta và Cảnh không gánh nổi tội nhiều lời đâu.

Tiểu Yêu cười thật tươi, kéo Hoàng Đế ngồi xuống hiên nhà:

– Ông hãy ngồi xuống chơi cờ với Cảnh, cháu sẽ pha trà cho hai người.

Tiểu Yêu lôi bộ đồ trà ra pha, xong xuôi, nàng chạy tọt vào bếp, như thể không hề có chuyện gì xảy ra.

Mặt trời vừa ngả về Tây, Tiểu Yêu căn dặn Miêu Phủ:

– Em sai người lên đỉnh Tử Kim, báo rằng hôm nay ta vào bếp, nếu Bệ hạ rảnh rỗi, mời ngài lại dùng bữa.

Nửa canh giờ sau, Chuyên Húc có mặt. Thấy bàn ăn vẫn trống không, Tiểu Yêu vẫn thủng thẳng xay thuốc, hắn cười, hỏi:

– Nghe nói muội vào bếp kia mà, đồ ăn đâu?

Tiểu Yêu đủng đỉnh rửa tay:

– Chỉ chờ huynh đến thôi.

Tiểu Yêu vừa dứt lời, người hầu lập tức bày bốn bếp lò nhỏ gọn lên bốn chiếc bàn, đặt cạnh bếp những chiếc kìm gắp than, rồi lại tất tả chuyển những đĩa thịt mà Tiểu Yêu đã tẩm ướp lên bàn. Những dải thịt dê bày trong đĩa ngọc trắng muốt, thịt hươu thái mỏng xếp trên những chiếc lá chuối xanh mướt, ngoài ra còn có thịt hoẵng, thịt thỏ thái nhỏ chừng hai đốt tay.

Tiểu Yêu nói với Chuyên Húc:

– Ngoài các loại thịt còn có các loại nấm rừng và rau dại mới hái sáng nay. Nấm to được chọn riêng để nướng cùng thịt, nấm nhỏ bỏ vào nấu canh. Rau dại rửa qua nước cho bớt đắng rồi làm thành món trộn. Lát nữa, sẽ có canh nấm để uống, rau trộn để ăn cho bớt ngấy.

Hoàng Đế, Chuyên Húc và Cảnh lần lượt vào bàn. Tiểu Yêu trộn bột thuốc vừa xay xong vào những đĩa gia vị đã chuẩn bị sẵn, rồi chia cho Hoàng Đế, Chuyên Húc và Cảnh. Năm chiếc đĩa ngọc màu trắng hình cánh sen đựng năm loại gia vị khác nhau, ở giữa bày một đĩa tròn màu xanh ngọc bích, đựng bột cải cay.

Chuyên Húc hít hà và bắt đầu động đũa, nướng thịt hươu:

– Lần gần đây nhất được ăn thịt nướng là vào rằm tháng giêng năm ngoái, rau dại thì đã mấy chục năm không được thưởng thức. Mùa xuân năm nào cũng nhớ và thèm, nhưng việc triều chính bận rộn, đã quên đi mất.

Tiểu Yêu cười, bảo:

– Chế biến cách nào cũng không hết được vị đắng của rau dại, ăn lần đầu thường không quen, nhưng khi đã quen thì sẽ nghiện. Cháu thèm rau dại lắm, cháu nghĩ ba người cũng từng ăn loại rau này, nên quyết định đổi khẩu vị.

Thời trẻ, cơm chẳng đủ ăn, Hoàng Đế chẳng lạ mấy món rau dại. Trong khoảng thời gian lưu lạc chốn nhân gian, rau dại cũng thường xuất hiện trong các bữa cơm của Chuyên Húc. Những ngày còn ở thị trấn Thanh Thủy, vào mùa xuân, lão Mộc thường hái rau dại về nấu ăn cho đỡ tốn kém. Nên, Cảnh cũng đã quen với hương vị của loại rau này.

Bữa tối kéo dài suốt cả canh giờ, họ đã được đánh chén no say, sau đó, Hoàng Đế và Cảnh tiếp tục ván cờ dang dở.

Chuyên Húc nằm trên giường mây, ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao. Tiếng hoa rơi xào xạc bên tai, hương thơm ngào ngạt ùa tới cánh mũi. Hắn cảm thấy, khoảnh khắc đẹp nhất của đời người chính là đây. Chỉ đơn giản là sau một ngày vất vả, được cùng người mình thương ăn một bữa tối ngon lành.

Tiểu Yêu ngồi bên giường, một tay xách bình rượu, tay kia cầm hai chiếc cốc lưu ly. Chuyên Húc đón lấy chiếc cốc, Tiểu Yêu mở nắp bình rượu, rót cho hắn đầy một cốc rượu dâu đỏ sánh đã ướp lạnh, chẳng mấy chốc, những giọt nước li ti tụ lại trên thành cốc.

Chuyên Húc uống một ngụm:

– Ủ trong hầm băng đúng không? Quả nhiên ngon hơn ướp bằng linh lực.

Tiểu Yêu cười, bảo:

– Dĩ nhiên.

– Nghe Ngân nói, sau khi trở về từ chuyến du lịch năm ngoái, muội không ngừng thu thập tài liệu về thuật sử dụng sâu độc.

– Muội đã tới Cửu Lê một chuyến, nên rất có hứng thú với thuật sử dụng sâu độc.

Chuyên Húc nhìn Tiểu Yêu chăm chăm:

– Mấy năm nay sức khỏe của muội thế nào?

– Huynh ra lệnh cho Ngân kiểm tra sức khỏe định kỳ mỗi năm cho muội, lẽ nào ông ấy không báo cáo với huynh?

– Ông ấy bảo sức khỏe của muội rất tốt, nhưng ta muốn biết muội cảm thấy thế nào?

– Muội cũng thấy rất tốt.

– Sâu độc trong cơ thể muội và Tương Liễu được loại bỏ hay chưa?

– Cứ coi như loại bỏ được rồi!

Một mình Cảnh lo lắng cho nàng là đủ rồi, nàng không muốn thêm Chuyên Húc nữa.

– Sao lại là “cứ coi như”?

– Muội là người nuôi nó, cấy nó, huynh lo lắng gì chứ! Không lẽ huynh cho rằng muội sẽ bị loại sâu độc do chính muội nuôi cấy hại chết hay sao? Huynh nghe quá nhiều tin đồn thất thiệt rồi đó. Thuật sử dụng sâu độc không thần bí, đáng sợ như vậy đâu. Dù huynh không tin muội thì cũng nên tin tộc Cửu Lê.

– Ta không tin Tương Liễu. Muội nên thận trọng. Nếu y đến tìm muội, phải báo cho ta biết ngay.

Tiểu Yêu gật đầu lia lịa:

– Tuân mệnh, thưa Bệ hạ!

Chuyên Húc giơ tay lên, Tiểu Yêu rụt cổ lại, bàn tay Chuyên Húc nhẹ nhàng đỗ lại trên tóc Tiểu Yêu, ngón tay hắn lướt qua làn tóc mềm mại như nhung, dặt dìu, quyến luyến, không muốn dứt khỏi.

Tiểu Yêu nhấp rượu, hỏi:

– Ông ngoại, Cảnh và mấy vị danh y đều có gì đó rất lạ. Bên ngoài đã xảy ra chuyện gì?

Chuyên Húc ngập ngừng không đáp, bàn tay hắn đung đưa chiếc chén lưu ly, hắn như đang mải mê ngắm nghía chất rượu sóng sánh trong cốc.

Tiểu Yêu nói:

– Chỉ cần xuống núi một chuyến là biết liền, nhưng muội muốn huynh nói cho muội nghe.

Chuyên Húc uống cạn chén rượu, chống tay xuống giường, ngồi thẳng dậy. Hắn nhìn thẳng vào mắt Tiểu Yêu, nói:

– Ta đã hạ lệnh tấn công Cao Tân.

Nụ cười trên khóe môi Tiểu Yêu bỗng đông cứng lại. Nàng vốn đoán rằng, có lẽ Chuyên Húc đã làm điều gì đó liên quan đến thân thế của nàng, nào ngờ… Tiểu Yêu nghĩ mình vừa nghe lầm:

– Huynh nói lại một lần nữa xem nào.

– Ta đã hạ lệnh tấn công Cao Tân.

Tiểu Yêu bật dậy, ném thẳng cốc rượu vào Chuyên Húc.

Chiếc cốc rơi trúng trán, rượu dâu vương khắp mặt hắn.

Tiểu Yêu quay người, chạy biến. Chuyên Húc chẳng buồn lau mặt, vội vã đuổi theo nàng.

Nghe thấy tiếng động, cả Hoàng Đế và Cảnh cùng ngẩng lên. Cảnh định đứng lên, nhưng Hoàng Đế đã giữ chàng lại. Hoàng Đế đẩy Cảnh vào phòng và ra lệnh cho người hầu đóng cửa sổ lại.

Tiểu Yêu chạy về phòng mình, đóng sầm cửa lại trước mặt Chuyên Húc. Chuyên Húc đập cửa gọi:

– Tiểu Yêu, Tiểu Yêu…

Tiểu Yêu chặn cửa bằng lưng, kiên quyết không cho Chuyên Húc vào.

– Tiểu Yêu, hãy nghe ta nói.

– Nghe gì nữa? Nghe chuyện năm xưa huynh bị bốn ông cậu dồn tới đường cùng, may nhờ Cao Tân cưu mang? Hay nghe chuyện, ông ấy nhận huynh làm đồ đệ, dạy huynh chơi đàn, ủ rượu, dạy huynh quan sát dân tình, xử lý việc triều chính, còn giúp huynh huấn luyện cả đội ám vệ?

-Muội không hiểu đâu!

– Muội không hiểu điều gì? Huynh nói đi! Những gì muội vừa nói đều là giả dối ư?

– Những gì muội vừa nói đều là sự thật, nhưng còn rất nhiều chuyện muội chưa biết. Nếu không vì ông ấy, ta và muội sẽ không trở thành trẻ mồ côi, mà nếu thế ta đâu cần ông ấy cưu mang! Muội cũng không phải lưu lạc nhân gian suốt ba trăm năm.

Tiểu Yêu sững sờ:

– Huynh nói sao? Muội không hiểu.

– Khi kể lại mọi chuyện trước kia cho muội, cô Hành đã kể rất chi tiết về cha muội, nhưng lại giấu muội những chuyện về Tuấn Đế. Có lẽ vì cô đã tha thứ cho ông ấy, cũng có lẽ vì cô muốn bảo vệ muội, nên mới không cho muội biết.

– Chuyện nào? Rốt cuộc huynh muốn nói gì?

– Muội biết vì sao bác cả bị cha muội ngộ sát không?

– Mẹ nói, bác cả muốn ông ngoại nhường ngôi, nên mẹ đã chế một loại thuốc cho bác ấy. Loại thuốc đó có thể khiến một người không thể hội tụ linh lực trong vòng vài tháng. Không may, bác cả uống nhầm loại thuốc đó, nên mới bại dưới tay cha.

– Không phải bác cả muốn ông nhường ngôi mà chính sư phụ đã thuyết phục bác ấy, cũng chính sư phụ đã đưa chai thuốc mà cô Hành điều chế cho bác cả. Khi điều chế loại thuốc ấy, cô Hành không hề biết bác cả cần dùng nó, cô Hành chế thuốc theo đề nghị của sư phụ, mục đích là giúp sư phụ ép cha mình thoái vị. Sau đó, vị Tuấn Đế ấy bị giam lỏng, cho đến khi ông ấy qua đời một cách hết sức thần bí. Vì sao xảy ra “loạn ngũ Vương”? Vì sao sư phụ tắm máu cuộc biến loạn ấy? Giờ đây đã không còn bất cứ tiếng nói hoài nghi nào về việc sư phụ trở thành Tuấn Đế. Tiểu Yêu, khi đó muội vẫn ở Ngũ Thần Sơn, nếu nghĩ kỹ, chắc chắn muội sẽ nhớ ra. Vị Tuấn Đế đời trước, người mà muội vẫn thường gọi là ông nội, đã bị sư phụ đầu độc! Năm vị Vương gia dấy loạn chính vì nguyên nhân này!

Tiểu Yêu rất muốn phủ nhận, nhưng những ký ức vụn vặt hiện ra trong đầu, khiến nàng hiểu rằng, những gì Chuyên Húc nói đều là sự thật. Nàng nhớ lại người ông Tuấn Đế của nàng. Nàng đã tận mắt chứng kiến ông qua đời, mẹ nàng đã gào khóc đau đớn và tát cha nàng.

Chuyên Húc đau đớn nói:

– Nếu không vì sư phụ, liệu bác cả có chết không? Nếu bác cả không chết, cha và mẹ muội sẽ không bị đẩy tới chỗ không thể cứu vãn!

Tiểu Yêu ngả người vào cánh cửa, mệt mỏi nói:

– Không thể hoàn toàn trách Phụ vương.

– Vậy còn cha ta thì sao? Khi phát hiện ra âm mưu của Chúc Dung, cô Hành lập tức đến cầu xin sư phụ cứu giúp, nhưng sư phụ đã từ chối!

Tiểu Yêu lắc đầu, lẩm bẩm:

– Không đâu, không thể nào!

Đó là người thầy tận tâm của Chuyên Húc, là người cha hết lòng thương yêu, chiều chuộng nàng kia mà! Không thể có chuyện cha từ chối cứu bác tư của nàng! Nhưng đó cũng là vị Tuấn Đế không nương tay với năm người em trai của mình và cả Phụ vương của mình nữa!

Chuyên Húc nói:

– Hồi nhỏ, muội từng hỏi cô Hành: “Vì sao bàn tay mẹ thiếu một ngón tay?” Cô Hành trả lời rằng: “Vì mẹ bất cẩn nên đánh rơi mất”. Sư phụ luôn đeo một chiếc nhẫn màu trắng trên ngón tay út bên trái, chắc chắn muội từng nhìn thấy. Muội có biết chiếc nhẫn màu trắng ấy làm từ thứ gì không? Đó chính là ngón tay của cô Hành! Cô Hành khóc lóc cầu xin ông ấy cứu cha ta, rồi còn tự chặt đứt một ngón tay của mình để thề độc, nhưng ông ấy… vẫn từ chối!

Chuyên Húc nghẹn ngào:

– Tiểu Yêu ơi, ông ấy đã từ chối!

Tiểu Yêu đưa tay lên giữ chặt miệng, nàng từ từ trượt xuống. Nàng còn nhớ, một ngày nọ, khi phát hiện trên bàn tay của mẹ chỉ còn lại bốn ngón tay, nàng đã hỏi mẹ: “Vì sao thiếu một ngón tay”. Mẹ tươi cười, đáp rằng: “Mẹ bất cẩn làm rơi mất”. Nàng hỏi mẹ: “ Mẹ đau không?” Mẹ đáp: “Không đau! Người đau khổ nhất bây giờ là bác gái của con và Chuyên Húc. Tiểu Yêu ngoan của mẹ, con hãy ở bên động viên anh con nhé!”

Nếu bác trai không chết, bác gái sẽ không tự vẫn, bà ngoại sẽ không ốm nặng, mẹ sẽ không phải ra trận. Có lẽ, mọi thứ, mọi chuyện sẽ hoàn toàn khác….

Chuyên Húc tiếp tục:

– Và còn cả cha muội nữa! Mãi đến bây giờ người ta vẫn truyền tai nhau câu chuyện về hai viên tướng dũng mãnh dưới trướng Xi Vưu. Một người là Thần Gió, người kìa là Thần Mưa. Muội có biết thân phận thật sự của Thần Mưa là gì không? Ông ta có tên gọi khác là Hy Hòa Nhược Nại. Ngày nay không ai biết gì về ông ta, nhưng ngàn năm về trước, ông ấy là một tay công tử hào hoa, phong nhã nức tiếng ở Cao Tân. Ông ta là đại tướng quân của Hy Hòa Bộ, cũng là bạn chí cốt của sư phụ. Vì sự việc xảy ra quá lâu, những người thời đó đều chết cả, ta không điều tra được, rốt cuộc Thần Mưa đã làm những gì. Nhưng muội thử nghĩ xem, sư phụ có khi nào vô duyên vô cớ sai phái ông ta đến bên cạnh cha muội? Có thể muội nói đúng, rằng không thể trút mọi tội lỗi lên đầu sư phụ. Nhưng… Tiểu Yêu ơi, mỗi khi nghĩ đến việc, cha ta có thể không phải chết, mẹ ta không phải tự vẫn trước mặt ta, bà nội có thể sống thêm vài năm nữa, cô Hành không phải ra trận, muội không phải xa ta, thì ta…

Hơi thở của Chuyên Húc ngày càng trở nên nặng nhọc:

– Thì ta không thể coi ông ấy là sư phụ của mình được!

Tiểu Yêu mỏi mệt khép mắt, nàng cảm thấy cổ họng mình như nghẹn lại, hơi thở khó khăn.

Chuyên Húc nói:

– Ngày trước, sư phụ thường bảo ta: “Con không cần cảm ơn ta, ta nợ Thanh Dương, A Hành và cha con”. Ta chưa bao giờ coi những lời đó là thật, thậm chí ta đã nghĩ, tấm lòng của sư phụ thật bao la. Cho đến khi lên ngôi và điều tra ra những chuyện này, ta mới thực sự hiểu, sư phụ không nói sai!

Tiểu Yêu vẫn nhớ rõ, hôm đó, trên sông Xích Thủy, nàng quỳ lạy tạ ơn Phụ vương đã cứu nàng, và người bảo rằng:

– Đây là món nợ của ta với Thanh Dương, Xương Ý và mẹ con.

– Tiểu Yêu, ta không bao giờ quên ông ấy là sư phụ của mình, nhưng ta cũng không thể quên… Tiểu Yêu, muội còn nhớ con dao găm đó?

Con dao găm bác gái đã dùng để tự vẫn?

Con dao găm ấy là cơn ác mộng hàng đêm của Chuyên Húc, nhưng ngày nào hắn cũng giắt bên mình.

– Ừ.

Chuyên Húc cười mỉa:

– Sư phụ đã tự tay rèn nó làm quà cưới tặng cha mẹ ta. Mẹ dùng nó để tự vẫn, vì mẹ hận ông ấy.

– Huynh tấn công Cao Tân vì hận ông ấy?

– Không phải! Ân oán giữa ta và ông ấy rất sòng phẳng! Nay ông ấy là Tuấn Đế Cao Tân, còn ta là Hắc Đế Hiên Viên, ta quyết định tấn công chỉ bởi vì ta là bậc đế vương.

Tiểu Yêu nói:

– Ở đó có Nhục Thu, Câu Mang, những người lớn lên cùng huynh, và còn cả A Niệm, người gắn bó với huynh từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành… Chuyên Húc, huynh có nghĩ đến cảm xúc của họ?

– Nhục Thu, Câu Mang là những người đàn ông, dù phải đứng ở vị trí đối đầu với ta, họ sẽ hiểu quyết định của ta. Còn A Niệm… có lẽ muội ấy sẽ căm ghét ta. Tiểu Yêu, ta chưa từng nghĩ đến cảm xúc của họ, cũng không bận tâm, ta sẽ gánh chịu mọi hậu quả!

– Nếu huynh không buồn quan tâm đến cảm xúc của chúng tôi thì huynh đi đi, tôi không muốn thấy mặt huynh! Từ nay về sau, huynh đừng đến Tiểu Nguyệt Đỉnh nữa!

Tiểu Yêu chạy vào gian trong, đổ người xuống giường, kéo chăn bịt đầu lại.

– Tiểu Yêu! Tiểu Yêu…!

Chuyên Húc đập cửa, căn phòng im phăng phắc. Chỉ cần đẩy mạnh là cánh cửa sẽ bật mở, nhưng hắn không dám xông vào.

Chuyên Húc mệt mỏi gục đầu vào cánh cửa, khẽ nói:

– Ta rất xem trọng cảm nhận của muội!

Chính vì coi trọng cảm nhận của Tiểu Yêu, nên hắn mới trì hoãn kế hoạch tấn công mà lẽ ra đã phải được tiến hành từ ba năm trước. Và hắn nhất quyết tìm mọi cách cắt đứt quan hệ cha con giữa Tuấn Đế và Tiểu Yêu, bất chấp hành động ấy có thể khiến Tuấn Đế nghi ngờ và đoán ra ý đồ của hắn. Sau quyết định này, là một cuộc chiến vô cùng gian nan, cam go, hao người tốn của vô số.

Chuyên Húc không dám vào phòng, nhưng cũng không muốn bỏ đi. Hắn ngồi dưới nền đất, tựa lưng vào cửa, buồn bã hướng mắt về vùng sâu tối vô tận của đêm đen.

Lúc nào hắn cũng sáng suốt và đa mưu túc trí trong mọi tình huống, nhưng lúc này, đầu óc hắn hoàn toàn trống rỗng, hắn không nghĩ được điều gì. Hắn nhớ lại những chuyện quá khứ xa xưa…

Hắn nhớ hồi nhỏ, khi mới gặp nhau, hắn và Tiểu Yêu không hề thân thiết, vui vẻ. Tuy là con trai, nhưng lúc đánh nhau, hắn thường thua nhóc Tiểu Yêu tinh quái, đanh đá. Khi ấy hắn đã hậm hực, tìm cách trả thù và tống cổ Tiểu Yêu đi chỗ khác. Nhưng dần dần hai anh em đã trở nên thân thiết hơn. Sau khi cha mẹ qua đời, đêm nào Tiểu Yêu cũng ở bên động viên, an ủi hắn. Lúc hắn gặp ác mộng, Tiểu Yêu thường hôn lên trán hắn, và hứa rằng: “Muội sẽ ở bên huynh mãi mãi”. Hắn không tin, bảo rằng: “Muội phải đi lấy chồng, rồi muội sẽ rời khỏi đây”. Tiểu Yêu vội bảo: “Muội sẽ không lấy ai khác ngoài huynh, muội không đi đâu cả.”

Từ Ngũ Thần Sơn đến Hiên Viên Sơn, rồi từ Hiên Viên Sơn đến Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu luôn ở bên hắn qua mỗi bước gian nan. Dù xảy ra chuyện gì, dù hắn có thế nào, Tiểu Yêu vẫn kiên trì đứng về phía hắn, ủng hộ hắn. Tiểu Yêu đã lấy thân mình che chắn cho hắn khi hắn bị Ngu Cương ám sát. Tiểu Yêu đã thức trắng đêm cùng hắn trong hầm tối, trong suốt chuỗi ngày hắn cai nghiện. Tiểu Yêu sẵn sàng chịu đau và cự tuyệt lời đề nghị của Kim Huyên, dùng dây thừng trói hắn lại, dù Tiểu Yêu biết rõ, chỉ cần nàng đề nghị, hắn không từ nan…

Nửa đêm, Tiểu Yêu nghĩ rằng Chuyên Húc đã rời đi, nàng mở tung cửa sổ, lặng nhìn đêm tối.

Chuyên Húc không đoán được nàng đang nghĩ gì, có phải nàng đang nghĩ về những ngày tháng trên Ngũ Thần Sơn?

Một người thu mình nơi ngưỡng cửa, một người tựa bên cửa sổ, cách nhau chỉ vài bước chân, họ cùng đắm chìm trong bóng đêm thâm u, sương giăng lạnh buốt suốt đêm trường.

Vừng đông ló rạng, Tiêu Tiêu xuất hiện giữa màn sương sớm, nàng quỳ trước nhà trúc.

Tiểu Yêu cứ ngỡ Tiêu Tiêu hành lễ với nàng, vội giơ tay, cho phép nàng đứng lên. Nhưng Tiêu Tiêu bỗng nói:

– Xin mời Bệ hạ quay về đỉnh Tử Kim, các vị đại thần đã có mặt.

Tiểu Yêu sững sờ, trong ánh sáng lờ mờ, nàng trông thấy Chuyên Húc bước ra.

Huynh ấy đã ngồi cả đêm ngoài cửa phòng nàng ư? Tiểu Yêu cúi đầu để không phải nhìn thấy hắn.

Chuyên Húc lẳng lặng lên tọa kỵ, Tiêu Tiêu vội kìm cương tọa kỵ, thưa:

– Xin Bệ hạ hãy đi rửa mặt.

Tiểu Yêu ngẩng lên, đúng lúc Chuyên Húc cũng vừa quay đầu lại. Cả hai cùng sững sờ khi bốn mắt giao nhau.

Tối qua Tiểu Yêu đã ném cốc rượu vào Chuyên Húc, hắn vội vàng nên chỉ lau quệt qua loa, những vệt trắng đỏ đan xen, gương mặt hắn lúc này mới thật “đặc sắc”. Nhưng Chuyên Húc đã quên bẵng, với bộ dạng này mà quay về đỉnh Tử Kim, ai trông thấy hắn chắc sẽ sợ chết khiếp.

Tiểu Yêu mở cửa, nói với Tiêu Tiêu:

– Vào buồng tắm lau mặt đi.

Tiêu Tiêu chưa kịp trả lời, Chuyên Húc đã rảo bước vào buồng, như thể lo sợ Tiểu Yêu sẽ rút lại câu nói ban nãy.

Trong tủ vẫn treo bộ đồ cũ của Chuyên Húc, Tiểu Yêu lấy ra đưa cho Tiêu Tiêu:

– Gian kế bên có khăn sạch trên giá gỗ.

Chuyên Húc vội vã tắm gội qua loa, thay y phục, chỉnh trang lại đầu tóc, mũ áo, bôi thuốc, rồi mới bước ra.

Tiểu Yêu đứng trong sân, nghe tiếng bước chân của Chuyên Húc, nàng quay lại nhìn, thấy vết bầm tím trên trán hắn, hẳn là do cốc lưu ly gây nên. Khi nãy gương mặt hắn lấm lem nên không thấy rõ, lúc này thì rõ mồn một.

Tối qua, vì quá tức giận, Tiểu Yêu đã ném chiếc cốc rất mạnh, Chuyên Húc chảy khá nhiều máu. Tuy hắn đã bôi thuốc, nhưng linh dược chỉ giúp vết thương lành lại, mà không thể khiến vết bầm tím tiêu tan ngay tức khắc.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Không sao đâu, vài hôm sẽ hết.

Tiểu Yêu cúi đầu, đi lướt qua Chuyên Húc, vào nhà.

Chuyên Húc đứng lặng một lúc mới quay người lên tọa kỵ, bay về đỉnh Tử Kim.

Vết thương trên trán Chuyên Húc khiến các cung nữ, phi tần trong cung Tử Kim choáng váng, hoảng sợ, cũng khiến triều thần băn khoăn, nghi ngại.

Chuyên Húc không giải thích, cũng không ai dám gạn hỏi. Ai nấy đều thận trọng dò la tin tức thông qua đám người hầu. Câu trả lời của Tiêu Tiêu là: Bệ hạ ngủ gật va đầu vào bàn.

Tất cả mọi người đều biết thời gian qua Chuyên Húc đã rất vất vả, mệt mỏi, nên ai nấy đều tin lời giải thích của Tiêu Tiêu. Duy có Hoàng hậu Hinh Duyệt thì không. Nhưng Hinh Duyệt thà tin lời giải thích ấy hơn là phải tin vào suy đoán của mình, vì sự suy đoán của nàng khiến nàng vô cùng sợ hãi.

Hoàng Đế rời khỏi phòng ngủ, thấy Cảnh vẫn ngồi ngay ngắn trên giường trúc. Chăn gối vẫn gọn gàng nguyên trạng như tối qua, chỉ có bàn cờ là khác trước, rõ ràng đêm qua Cảnh đã thức trắng đêm và một mình chơi hết nửa ván cờ.

Hoàng Đế cúi nhìn cuộc cờ, ôn tồn bảo:

– Chuyên Húc là bậc đế vương, nó cho phép Tiểu Yêu ném cốc vào nó, sẵn lòng xuống nước xin Tiểu Yêu tha thứ, nhưng nó chưa hẳn cho phép người ngoài chứng kiến tình cảnh thê thảm của nó. Từ nhỏ Chuyên Húc và Tiểu Yêu đã trải qua nhiều sóng gió, thăng trầm, đôi khi, đối với chúng ta cũng chỉ là người ngoài.

Cảnh cung kính thưa:

– Thần hiểu. Tạ ơn Bệ hạ che chở.

Hoàng Đế nói:

– Ngươi là người thông minh, nên nhớ, cứng nhắc sẽ hỏng chuyện.

Cảnh thưa:

– Thần xin ghi nhớ!

Hoàng Đế cười, bảo:

– Đi thăm Tiểu Yêu đi, rồi cùng ăn sáng.

Tiểu Yêu vừa tắm gội xong, nàng ngồi chải đầu bên song cửa. Đang vấn tóc, cài trâm thì nhìn trong gương thấy Cảnh cất bước giữa thung lũng, hướng về nơi ở của nàng. Tay chắp sau lưng, chân giẫm trên sương sớm, chàng chầm chậm lại gần song cửa nhà nàng.

Thấy chàng vẫn mặc bộ đồ cũ, Tiểu Yêu biết hôm qua chàng đã ở lại Tiểu Nguyệt Đỉnh.

– Tối qua… chàng nghỉ ở đâu?

– Ta nghỉ nhờ một đêm trong phòng Hoàng đế Bệ hạ.

Cảnh trao cho Tiểu Yêu một bó hoa hàm tiếu màu xanh lam, những cánh hoa mơn mởn còn ngậm sương đêm.

Tiểu Yêu hít hà hương hoa, ngạc nhiên vui thích:

– Thơm quá!

Nàng bỏ trâm cài xuống, trỏ tay vào búi tóc trên đầu, xoay người lại, đầu cúi thấp.

– Hoa hàm tiếu thơm lâu, hương hoa dìu dặt, thấm vào lòng người, bông hoa chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, cài tóc có vẻ không hợp. Cảnh ngẫm ngợi một lát, chọn ra một cành hàm tiếu, uốn thành nửa vòng trâm, cài lên tóc Tiểu Yêu.

– Xong rồi.

Tiểu Yêu cầm gương lên soi, cành hoa hàm tiếu uốn thành hình trăng lưỡi liềm bên phải búi tóc nàng, giống hệt một chiếc trâm ngọc hình vành trăng tuyệt đẹp. Nhưng trâm ngọc quý giá nhất trên thế gian cũng đâu thể tỏa ra được thứ hương thơm làm say lòng người thế này!

Tiểu Yêu đặt gương xuống, nói:

– Cảm ơn chàng. Không phải chỉ vì hoa này, mà còn vì… em đã gây ra nhiều phiền toái cho chàng.

Cảnh cốc nhẹ vào trán Tiểu Yêu:

– Ai từng nói với ta, muốn trọn đời bên nhau thì hãy chăm sóc nhau?

Tiểu Yêu cúi đầu, giọng buồn bã:

– Cảnh, em phải làm gì bây giờ?

– Nàng nghĩ nàng có đủ khả năng buộc Hắc đế Bệ hạ rút quân không?

Tiểu Yêu lắc đầu. Nàng rất hiểu Chuyên Húc, không ai có thể ngăn cản hắn giành lấy thứ hắn muốn.

– Vậy nàng có muốn đứng về phía Cao Tân, giúp họ chống lại Hiên Viên không?

Tiểu Yêu lắc đầu:

– Em chỉ am hiểu y thuật và độc thuật, ngoài ra em nào có tài cán gì? Vả lại, tuy không thích Chuyên Húc làm vậy, nhưng em không bao giờ giúp người khác chống lại huynh ấy.

– Tiểu Yêu, đây là chuyện của các bậc đế vương, nàng chẳng thể can thiệp.

– Nhưng một người là người thân thiết nhất của em, một người có công nuôi dưỡng em. Lẽ nào bảo em… thờ ơ nhìn họ đánh nhau sao?

– Nàng không thờ ơ mà là đau khổ.

– Đồ Sơn Cảnh!

Tiểu Yêu trừng mắt nhìn Cảnh:

– Chàng đang đùa giỡn với em đấy ư? Chàng có biết đêm qua em đã trằn trọc suốt đêm không?

Cảnh véo má Tiểu Yêu:

– Không nên lúc nào cũng nghĩ mọi việc theo hướng tồi tệ như vậy. Cuộc chiến này chẳng thể kết thúc trong vòng mười, hai mươi năm đâu. Nước Hiên Viên ngày nay không giống Hiên Viên năm xưa, Hắc Đế cũng không giống Hoàng Đế. Tuấn Đế cũng không phải Xi Vưu năm xưa.

Hoàng Đế đứng ngoài cửa, cao giọng:

– Hai người định sẽ dùng bữa hay tiếp tục thì thầm nhỏ to thế?

Tiểu Yêu ngượng ngùng, đáp:

– Ăn cơm thôi!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 6: Sầu tương tư

Cuộc chiến giữa Hiên Viên và Cao Tân đã kéo dài mười năm, trong suốt mười năm đó, hai bên chia nhau những trận thắng, thua nhất định, Hiên Viên chiếm ưu thế vượt trội, từng bước thôn tính lãnh thổ Cao Tân.

Vì đã nhiều năm sống trên đất Cao Tân nên phần lớn binh lính Hiên Viên đều học nói thành thạo tiếng Cao Tân. Chuyên Húc từng ra lệnh cấm binh sỹ sách nhiễu dân chúng, bằng không sẽ giết không tha, bởi vậy lính Hiên Viên chung sống rất mực hòa thuận với người dân Cao Tân. Hàng năm, vào mùa mưa lũ, binh lính Hiên Viên lại giúp thường dân Cao Tân sửa sang đê điều, khơi thông dòng chảy. Những ngày nông nhàn, đám lính thường đeo mặt nạ, mang theo nhạc cụ vào các thôn làng của người Cao Tân, trình diễn các điệu múa đổi mặt phục vụ bà con miễn phí.

Cuối mùa hạ năm đó, Hiên Viên đánh chiếm thành trì quan trọng của Cao Tân, thành Bạch Lĩnh, trận chiến kéo dài bốn ngày bốn đêm ròng rã, kết quả, Phong Long đã để thua Nhục Thu.

Khi nhận được tin báo, điều khiến Chuyên Húc lo lắng không phải thành trì bị mất, mà chính là Phong Long. Phong Long tuổi trẻ tráng trí hừng hực, xuất thân cao quý, lại thông minh tài giỏi, lớn lên trong tình yêu và sự ngợi ca, tôn vinh của mọi người. Tuy hắn thừa dũng mãnh nhưng lại thiếu sự từng trải, vững vàng. Trong khi đó, Nhục Thu được sư phụ hắn rèn rũa khắc khổ, từ lâu đã trở nên một kẻ khôn ngoan, mưu lược. Chuyên Húc lo rằng, thất bại lần này sẽ khiến Phong Long nhụt chí, ảnh hưởng đến sỹ khí toàn quân. Một khi sỹ khí tiêu tan, thì thất bại chỉ là chuyện sớm muộn.

Sau một hồi suy xét, Chuyên Húc quyết định sẽ đích thân đến nơi đóng quân một chuyến. Hắn sẽ không làm gì cả, chỉ uống với Phong Long vài bình rượu, chửi bới Nhục Thu vài câu, Phong Long thông minh là thế, chắc chắn hắn sẽ bình tâm trở lại.

Chuyên Húc ghé Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm Hoàng Đế thì thấy cả Tiểu Yêu và Cảnh đều có mặt ở đó.

Chuyên Húc nói với Tiểu Yêu:

– Ta phải đi xa một thời gian.

– Đi đâu?

– Ta sẽ phao tin rằng mình đến Hiên Viên, kỳ thực sẽ tới nơi đóng quân, cả đi lẫn về mất chừng một tháng.

Tiểu Yêu biết, nơi đóng quân mà Chuyên Húc nhắc đến chính là quân đội của Phong Long. Nàng trở nên bối rối:

– Có nguy hiểm lắm không?

– Nguy hiểm thì ở đâu chẳng có, ta đã vượt qua mối nguy lớn nhất, bây giờ còn gì đáng sợ nữa đâu!

Tiểu Yêu khẽ gật đầu:

– Huynh yên tâm đi đi, muội sẽ chăm sóc ông ngoại chu đáo.

– Dạo trước muội có nhắc đến một vài loài thảo dược mọc ở Cao Tân, rồi than thở không được tận mắt nhìn thấy chúng nên lo rằng ghi chép sẽ không chính xác. Chi bằng hãy cùng ta đến Cao Tân, tiện thể tìm kiếm mấy loại thảo dược đó?

– Không thích!

Tiểu Yêu đáp rất dứt khoát.

Chuyên Húc mỉm cười, nói với Cảnh:

– Có việc này ta muốn thương lượng với cậu. Có thể nói sản vật ở hai nước Hiên Viên và Cao Tân hoàn toàn khác nhau, nguyên nhân là vì hai nước xưa nay không có mối liên hệ khăng khít. Tuy rằng trước đây, hai nước cũng có sự trao đổi qua lại, nhưng chỉ hạn chế ở những vật phẩm dành cho giới quý tộc, mà không phải vật dụng cần thiết cho đời sống của toàn dân. Việc vận chuyển hàng hóa, trao đổi buôn bán giữa các vùng miền giúp cho mọi người dân đều được hưởng lợi là một việc làm hữu ích đối với toàn Đại hoang. Công việc kinh doanh của nhà Đồ Sơn diễn ra ở khắp mọi nơi, nếu luận về sự hiểu biết đối với sản vật của các vùng miền, nhà Đồ Sơn chắc chắn đứng đầu bảng. Bởi vậy, ta muốn mời cậu cùng ta đến Cao Tân một chuyến, tìm hiểu xem, chúng ta nên vận chuyển sản vật gì của Trung nguyên đến Cao Tân thì phù hợp. Nếu có thể, ngày sau ta sẽ giao trọng trách này cho nhà Đồ Sơn. Bởi vì việc lưu thông hàng hóa cần phải đáp ứng nhu cầu tự thân của người dân, ta không thể hô hào cắt cử một vài viên quan đi làm việc đó, huống hồ bọn họ chắc chắn sẽ làm hỏng việc!

Cảnh liếc Tiểu Yêu, cười đáp:

– Đây là một việc làm hết sức tốt đẹp và có lợi cho muôn dân, nhà Đồ Sơn cũng có thể kiếm lời từ việc này. Thần xin được theo Bệ hạ đến Cao Tân.

Chuyên Húc nháy mắt với Tiểu Yêu:

– Muội muốn đi cùng không?

Tiểu Yêu bực tức vì bị Chuyên Húc “nắm thóp”, nàng đanh giọng:

– Không đi, đã bảo không đi là không đi!

Chuyên Húc mỉm cười không nói, hắn cho gọi Tiêu Tiêu, dặn dò nàng chuẩn bị đồ đạc, kể cả đồ đạc của Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu kiếm cớ ra nói chuyện với Hoàng Đế, vờ như không nghe thấy.

Ngày khởi hành, Chuyên Húc cử Tiêu Tiêu đến đón Tiểu Yêu. Tiểu Yêu gói ghém đồ đạc xong xuôi từ rất sớm, Tiêu Tiêu vừa tới, hai người đã lập tức lên xe mây.

Đến Cao Tân, Chuyên Húc không vội tới nơi đóng quân, mà thong thả dạo chơi cùng Cảnh và Tiểu Yêu.

Có thể coi chuyến đi này là chuyến vi hành, nên Chuyên Húc không dẫn theo đội thị vệ hùng hậu, hắn lệnh cho Tiêu Tiêu và những người khác chỉ được phép âm thầm đi theo.

Chuyên Húc, Cảnh và Tiểu Yêu cùng cải trang thành thường dân Cao Tân. Chuyên Húc và Tiểu Yêu nói tiếng Cao Tân như người bản địa, Cảnh cũng nói rất lưu loát. Chủ quầy của tất cả các quầy hàng trên phố đều đinh ninh họ là người Cao Tân chính gốc.

Dấu tích của cuộc chiến tranh chiếm lĩnh thành trì trải qua nhiều năm tháng trùng tu, kiến thiết đã hầu như không còn nữa. Trên phố, người qua người lại đông vui, tấp nập, quán rượu quán trà rộn ràng, náo nhiệt. Tiểu Yêu không nhận thấy nơi này có gì thay đổi so với trước đây. Nếu có thì đó là vì nơi này đã sầm uất hơn lúc xưa, nàng nghe thấy giọng nói của nhiều thiếu nữ Trung nguyên đang tìm hiểu giá cả và chọn mua hàng bằng tiếng Cao Tân.

Tiểu Yêu lấy làm lạ, thì thào hỏi Cảnh:

– Sao lại như vậy?

Cảnh cười, đáp:

– Quân đội Hiên Viên đóng quân trường kỳ ở Cao Tân, nên binh lính Hiên Viên khôn nguôi thương nhớ người thân và gia đình. Bệ hạ quyết định hỗ trợ kinh phí, động viên người nhà của các binh lính đến Cao Tân an cư lạc nghiệp. Nếu không xảy ra chiến tranh, thì mỗi tháng các binh sỹ được phép về nhà ba ngày. Binh sỹ nào có con được lĩnh nhiều tiền hơn những người khác. Việc làm này của Bệ hạ không những giúp binh sỹ được yên lòng, mà còn khiến họ cẩn trọng hơn trong công việc tuần tra, canh gác, bởi vì lúc này, họ không phải chỉ canh giữ cho thành trì của người khác mà còn canh giác cho ngôi nhà của họ, gia đình của họ.

Tiểu Yêu nhìn thấy rất đông những người phụ nữ tay xách làn thức ăn, lưng địu con nhỏ thì tỏ ra ngạc nhiên hết sức:

– Con cái của họ được sinh ra trên đất Cao Tân ư?

– Đúng vậy!

Cảnh thầm nghĩ, không chỉ sinh ra ở đây, rất có thể, Chuyên Húc còn muốn chúng lớn lên và an cư lạc nghiệp trên mảnh đất này.

Cạnh bờ tường, tụi trẻ con đang xúm xít chơi chọi dế, chốc chốc lại thấy chúng la hét ầm ỹ, không thể phân biệt được trong số bọn chúng, đứa nào là người Cao Tân, đứa nào là người Hiên Viên. Tiểu Yêu nhìn bọn chúng, miệng lẩm bẩm:

– Hoàn toàn khác xa so với hình dung của em về chiến tranh.

Cảnh nói:

– Hắc Đế Bệ hạ khác Hoàng Đế Bệ hạ, Tuấn Đế Bệ hạ khác Xi Vưu, và điều quan trọng nhất là, nước Hiên Viên ngày nay khác với nước Hiên Viên lúc xưa.

Chuyên Húc không để lọt một lời nào trong mọi cuộc trò chuyện giữa Cảnh và Tiểu Yêu, nhưng kể từ lúc đặt chân lên đất Cao Tân, Tiểu Yêu luôn tỏ ra lạnh nhạt, tránh giao tiếp với hắn, nên hắn chỉ lẳng lặng lắng nghe, để mặc nàng thoải mái quan sát, tìm hiểu.

Mặt trời ngả về Tây, màn đêm dần buông.

Chuyên Húc nói:

– Lát nữa cổng thành sẽ đóng lại, ta không muốn nghỉ đêm trong thành, nếu hai người không phản đối, chúng ta hãy tìm một thôn làng nào đó ở ngoại thành nghỉ tạm.

Cảnh nhìn Tiểu Yêu, nàng lạnh lùng đáp:

– Ngài là Bệ hạ, tất nhiên phải theo ý ngài!

Họ ra khỏi cổng thành, lên xe bò, hướng về phía Nam. Trời chập tối thì họ cũng vừa tới thôn trang.

Người ta đốt một đống lửa lớn ở đầu thôn, khán thính giả vây quanh đống lửa, vô cùng náo nhiệt. Người ngồi trên đất, kẻ ngồi trên phiến đá, bọn trẻ thì trèo tót lên cây, cũng có người đứng ở mũi thuyền.

Tiểu Yêu nói với người ám vệ đang đánh xe:

– Dừng lại, chúng tôi sẽ đến đó xem sao.

Xe bò không thể lách qua đám đông chen chúc, đành dừng ở bên ngoài. Tiểu Yêu đứng trên xe, nghển cổ ngó nghiêng vào bên trong. Thì ra họ đang diễn kịch Phương Tướng. Phương Tướng Thị vốn là một vị thần thời Thượng cổ. Tương truyền, ngài là người rất giỏi biến hóa, một ngày ngài có thể biến ra hàng nghìn gương mặt khác nhau, kể cả đàn ông và phụ nữ. Sau khi chết, ngài hóa thành một chiếc mặt nạ. Người nào đeo mặt nạ này đều có thể biến hóa tùy ý. Không ai biết mặt nạ Phương Tướng trông thế nào, nhưng người ta đã khéo léo chế tác ra nhiều loại mặt nạ khác nhau, người ta đeo chúng và diễn thành đủ mọi loại người, rồi vừa hát vừa nhảy múa. Dần dần loại hình nghệ thuật này được gọi tên là kịch Phương Tướng.

Thực chất, mặt nạ là một phương tiện biểu trưng, người ta đeo mặt nạ để được giống với Phương Tướng Thị thuở xưa, có được pháp lực biến hóa vô cùng. Họ sẽ biến thành một người nào đó, và kể lại câu chuyện về người đó.

Kịch Phương Tướng lưu truyền rộng rãi trong dân gian, đa phần là những truyền thuyết về anh hùng và mỹ nhân mà cả người lớn và trẻ con đều yêu thích.

Kịch Phương Tướng đêm nay đã diễn được phân nửa, câu chuyện bắt đầu từ thời Bàn Cổ Đại Đế khai thiên lập địa. Trong câu chuyện, người ta thấy xuất hiện họ Hoa Tư thông minh, nặng tình; họ Thần Nông trung hậu, dũng mãnh; họ Cao Tân hào phóng, phong lưu; họ Tây Lăng thông tuệ, tài giỏi; họ Đồ Sơn khôn ngoan, tham tài; họ Quỷ Phương lắm mưu nhiều kế; họ Xích Thủy giỏi điều khiển nước; họ Kim Thiên giỏi nghề rèn đúc… Tất cả những dòng họ đó đã hợp sức với Bàn Cổ Đại Đế tiêu diệt mọi loài yêu quái tà ma, xây dựng lên Đại hoang. Khi ấy, người trong Đại hoang đều là người một nhà, không chia Vương tộc Thần Nông, Vương tộc Cao Tân hay Vương tộc Hiên Viên.

Khán giả xem kịch, cả người lớn và trẻ em, lúc thì cười vang sảng khoái khi xem họ Đồ Sơn khôn ngoan, tham tài diễn trò; lúc lại buồn bã lau nước mắt, thương họ Quỷ Phương yếu đuối, đa mưu; lúc thì hào hứng, phấn khích trước họ Thần Nông trung hậu, anh dũng; khi lại thở dài tiếc nuối cho họ Hoa Tư thông tuệ, nặng tình. Rồi khi xem đến đoạn họ Cao Tân hào phóng, phong lưu sẵn sàng từ bỏ mảnh đất Trung nguyên phồn hoa, giàu có, tới trấn giữ vùng Thang Cốc hoang vu, xa xôi, ai nấy đều hò reo vỗ tay không ngớt.

Tiểu Yêu cũng bị vở kịch ấy cuốn hút. Nàng mê mải xem kịch. Vẫn biết truyền thuyết một khi đã được kịch hóa, chắc chắn sẽ có sự sai khác so với thực tế, nhưng nàng tin rằng, những đức tính đáng quý của con người trong vở kịch: Trí anh hùng, tình hữu nghị, lòng trung thành, đức hy sinh là có thật.

Càng xúc động với câu chuyện trong vở kịch bao nhiêu, Tiểu Yêu càng thấu hiểu tâm tư của Chuyên Húc bấy nhiêu. Tuy chỉ là một vở kịch dân gian giữa những ngày nông nhàn, người dân Cao Tân xem chỉ để giải trí, vì được miễn phí. Họ cười đấy, khóc đấy, rồi ngày hôm sau họ vẫn tiếp tục cuộc sống lao động của họ. Nhưng, tác dụng của những vở kịch ấy là, sau những giọt nước mắt và những tiếng cười, người dân Cao Tân sẽ tiếp nhận một cách hết sức tự nhiên thông điệp mà Chuyên Húc muốn truyền đạt tới họ: Mọi người trong Đại hoang đều là người một nhà, không phân chia Cao Tân hay Hiên Viên. Dù là con dân Trung nguyên hay Cao Tân, dù là người phương Bắc hay người phương Nam thì cũng đều là con dân của Đại hoang.

Khuya muộn vở kịch mới kết thúc. Ba người không đi tiếp mà quyết định dừng chân nghỉ nơi ở ngôi làng đó.

Hôm sau, lúc lên xe bò chuẩn bị xuất phát, họ trông thấy một đám trẻ tụ tập dưới gốc đa đầu làng chơi trò đóng kịch. Không đủ tiền mua mặt nạ, chúng giã các loại cây cỏ lấy nước màu bôi lên mặt: Cậu đóng vai họ Thần Nông, tớ vào vai họ Đồ Sơn, anh Tín đẹp trai nhất, cho đóng vai họ Cao Tân. Đại Sơn giỏi bơi lặn, cho đóng vai họ Xích Thủy. Tiểu Ngư Nhi hay ốm đau dặt dẹo, lại nghĩ ra nhiều trò quỷ quái, nên rất phù hợp vào vai họ Quỷ Phương…

Truyền thuyết về các anh hùng mỹ nhân được tái diễn một cách thật ly kỳ, thú vị trong vở kịch của tụi trẻ.

Tiểu Yêu vừa xem vừa cười, cười rồi lại thở dài. Chỉ cần Chuyên Húc và Phong Long không gây ra nhiều chết chóc, thì mai kia khi lớn lên, đám trẻ này hẳn sẽ không căm ghét họ Xích Thủy, cũng không căm ghét Chuyên Húc.

Cỗ xe chầm chậm rời khỏi ngôi làng nọ, tiếng cười đùa rộn rã của đám trẻ mục đồng dần tan biến.

Tiểu Yêu chắp tay trước Chuyên Húc, biểu thị lòng kính phục:

– Sao huynh có thể nghĩ ra cách thức hữu hiệu như vậy! Ngay cả muội tối hôm qua xem kịch xong cũng thấy rất xúc động, chắc chắn họ cũng vậy.

Chuyên Húc đáp:

– Câu chuyện trong kịch Phương Tướng vốn là chuyện có thực, ta chỉ giúp bà con nhìn nhận một sự thực mà thôi.

Tiểu Yêu không thể không nói giọng châm chọc:

– Mong là việc này không đòi hỏi phải hy sinh tính mạng của ai cả.

Chuyên Húc ngước nhìn núi sông vạn dặm, nói:

– Hơn hai trăm năm sinh sống ở Cao Tân, ta từng cùng ngư dân dong thuyền ra khơi đánh cá từ lúc rạng đông và trở về khi nắng tắt. Ta cũng từng hả hê khi cùng những người bán hàng rong, những kẻ làm thuê làm mướn hy sinh những đồng bạc mồ hôi nước mắt đem đổi vài cút rượu mạnh. Ta từng cùng đám bạn đồng trang lứa đi đào củ sen, nắm tay nhau nhảy múa dưới trăng. Ta cũng từng cùng anh em binh sỹ truy quét bọn ăn cướp ăn trộm. Khi ta bị ép buộc phải rời khỏi Hiên Viên, lưu lạc trên đất Cao Tân, chính người dân nơi đây đã cưu mang và giúp ta vượt qua những tháng ngày cô độc, hoang mang ấy. Họ đều đã ra người thiên cổ, nhưng con cháu họ vẫn sinh sống trên đất này. Họ sẽ tiếp tục dong buồm ra khơi lúc rạng đông và trở về khi tắt nắng, sẽ tiếp tục hả hê mua rượu bằng những đồng tiền mồ hôi nước mắt, tiếp tục ca hát dưới trăng và theo đuổi cô gái của lòng mình, tiếp tục hy sinh để quét sạch đám thổ phỉ. Ta thấu hiểu nỗi gian truân của họ cũng như những niềm vui của họ!

Chuyên Húc quay lại nhìn Tiểu Yêu, ánh mắt hắn đầy vẻ chân thành, cảm động:

– Tiểu Yêu, tình cảm của ta dành cho mảnh đất này sâu đậm không thua kém muội đâu!

Tiểu Yêu không biết phải đối đáp ra sao. Tuy nàng từng là Vương cơ Cao Tân, nhưng nàng không am hiểu mảnh đất này. Chuyên Húc mới là người từng đặt chân tới mọi miền của Cao Tân, bước chân hắn đã in dấu trên mỗi tấc đất, mỗi dòng sông nơi này.

Chuyên Húc nói tiếp:

– Ta thừa nhận ta có tham vọng bá vương, nhưng ta cũng chỉ thuận theo thời thế, nương theo đại cục. Đại hoang thống nhất thì muôn dân thiên hạ đều được hưởng lợi. Chiến tranh khó tránh khỏi việc đổ máu, nhưng ta sẽ gắng hết sức để giảm thiểu những thương tổn, mất mát không đáng có. Ta không mong cầu muội tán đồng với cách làm của ta, nhưng chí ít muội cần thấy được những nỗ lực của ta.

Tiểu Yêu quay đầu ngắm nhìn phong cảnh bình yên miền thôn dã, một lúc sau nàng mới khẽ đáp:

– Muội hiểu.

Tuy nàng nói rất khẽ, nhưng đôi tai thính của Chuyên Húc và Cảnh đều nghe lọt cả.

Chuyên Húc thở phào nhẹ nhõm, đan tay vào nhau làm gối, hắn ngả lưng, ngước nhìn trời xanh mây trắng. Xưa nay hắn vốn lạnh lùng, điềm đạm, ít khi biểu lộ cảm xúc vui buồn, nhưng lúc này, khi nghe được mấy lời vừa rồi của Tiểu Yêu, lòng hắn hân hoan như một chàng trai trẻ, hắn nhoẻn miệng cười thật tươi.

Tiếng ca trầm vang cất lên, Chuyên Húc hát khúc dân ca quen thuộc của ngư dân xóm chài bằng tiếng Cao Tân:

“Chân miết chặt mui thuyền

Tay gác nơi đuôi thuyền

Đầu đội trời nắng lửa

Thân thấm ướt mưa tuôn

Gió cắt da cắt thịt”.



Xa xa trên dòng sông, nhà chài đang dong thuyền ra khơi đánh cá, nghe thấy tiếng hát, cũng hào hứng hò theo.

Chừng như muốn đọ giọng với ngư dân nọ, Chuyên Húc sửa giọng, cất cao tiếng hát:

“Ăn rau dại

Mặc áo tơi

Đèn thắp mui thuyền

Da dầm mưa nắng

Rạng đông cho tới đêm thâu

Cá đầy khoang, ấy biết đâu những niềm”.



Cảnh vô cùng ngỡ ngàng. Vẫn biết Chuyên Húc từng lưu lạc mấy trăm năm trong nhân gian, và trong hắn vẫn đậm chất dân dã, nhưng chàng không ngờ, đến bây giờ Chuyên Húc vẫn thể hiện diện mạo ấy. Tiểu Yêu, trái lại, không lấy thế làm lạ, vì nàng đã quen với một Chuyên Húc chân chất, quê mùa. Có lẽ, từ xưa đến giờ Chuyên Húc vẫn luôn như vậy trước mặt Tiểu Yêu, nhưng hôm nay Cảnh mới để ý thấy.

Cảnh chợt nhớ lại câu nói của Hoàng Đế: “Ta cũng chỉ là một người ngoài trong mối quan hệ giữa Tiểu Yêu và Chuyên Húc.” Bỗng nhiên, Cảnh cảm thấy lo lắng, nhưng chàng không biết vì sao mình lại có cảm giác đó. Hôn sự giữa chàng và Tiểu Yêu đã được quyết định, Chuyên Húc và Hoàng Đế đều đồng ý, và xưa nay Chuyên Húc chưa từng phản đối quan hệ giữa chàng và Tiểu Yêu.

Chiều hôm sau, họ đến nơi đóng quân của Phong Long.

Nghĩ đến lúc phải đối mặt với Phong Long, Tiểu Yêu không khỏi bồn chồn, nàng nói khẽ với Chuyên Húc:

Hay là muội thay đồ, đóng giả làm ám vệ của huynh!

Chuyên Húc nói:

– Gần hai mươi năm rồi, muội còn định tránh né đến bao giờ? Hủy hôn có gì ghê gớm đâu, Phong Long và Cảnh đều không để tâm chuyện đó thì việc gì muội phải bận lòng!

Khi nói những lời này, Chuyên Húc không hề hạ thấp giọng, vì thế, người đi phía sau là Cảnh và người vừa bước ra khỏi lán trại là Phong Long đều nghe không thiếu một chữ. Hai người tỏ ra thiếu tự nhiên, nhưng Chuyên Húc vờ như không thấy, hắn kéo Tiểu Yêu đến trước mặt Phong Long, mỉm cười, hỏi:

– Phong Long, khanh mau nói cho muội ấy biết, trong lòng khanh bây giờ còn lấn cấn chuyện hủy hôn nữa không?

Phong Long cúi đầu vái chào Chuyên Húc, rồi đứng thẳng người, đáp:

– Bây giờ, từ sáng đến tối, lúc nào thần cũng chỉ nghĩ đến Nhục Thu, kể cả trong giấc mơ.

Chuyên Húc lại hỏi Cảnh:

– Khanh có để bụng chuyện Tiểu Yêu hủy hôn không?

Cảnh nhìn Tiểu Yêu, khảng khái đáp:

– Thưa, không.

Chuyên Húc nói:

– Nghe thấy chưa? Một người đã quên chuyện đó từ lâu, người kia thì hoàn toàn không để bụng, muội đừng suy nghĩ nhiều nữa.

Tuy rất khó xử, nhưng Tiểu Yêu hiểu rằng Chuyên Húc muốn nhân dịp này giúp mọi người cởi bỏ mọi khúc mắc. Cứ cho là Tiểu Yêu có thể tránh mặt Phong Long suốt đời, nhưng Cảnh và Phong Long vốn là bạn thân, nàng không thể khiến cho họ vì nàng mà trở nên xa cách. Tiểu Yêu chào Phong Long:

– Chào đại tướng quân!

Phong Long khách sáo đáp lễ:

– Chào tiểu thư Tây Lăng.

Tiểu Yêu lùi lại phía sau Chuyên Húc và Cảnh.

Phong Long nhìn Cảnh, tò mò hỏi:

– Sao huynh theo Bệ hạ tới đây?

Vẻ ngượng ngập khi nãy đã hoàn toàn biến mất, Phong Long ứng xử tự nhiên như trước đây vẫn vậy.

Cảnh mỉm cười, đáp:

– Ta cứ nghĩ không kẻ nào trị nổi huynh, chẳng ngờ Nhục Thu đánh cho huynh thua ba trận liên tiếp, ta rất muốn đến xem thực hư thế nào.

Phong Long diễn vẻ đau khổ, kêu than:

– Bệ hạ ơi, người hãy nghe xem!

Ba người đàn ông bước vào lán trại, bắt đầu bàn việc chính sự.

Tiểu Yêu lặng lẽ bỏ về phòng tắm gội, thay quần áo. Bây giờ nàng mới dám tin Phong Long đã thực sự quên đi tất cả. Đây có lẽ chính là điểm khác biệt giữa đàn ông và phụ nữ. Thế giới của họ ngày càng mở rộng thì nhiều thứ sẽ trở nên nhạt nhòa đối với họ. Đúng như Cảnh và Chuyên Húc năm xưa từng nói, ba tháng đầu có thể Phong Long sẽ rất giận, nhưng ba năm sau, hắn sẽ không còn cảm xúc gì với chuyện đó nữa. Và đến bây giờ, khi đã là Đại tướng quân thống lĩnh cả mấy vạn quân, hắn chẳng còn màng đến chuyện Tiểu Yêu hủy hôn năm xưa nữa. Huống hồ, giờ đây nàng đã không còn là Vương cơ Cao Tân, lại mang tiếng là con gái của kẻ tàn ác Xi Vưu, không chừng Phong Long còn thấy may mắn vì đã không cưới nàng.

Chuyên Húc cử một người đến gặp Cảnh, cung cấp cho chàng mọi thông tin cần thiết, hỗ trợ Cảnh hoàn thành nhiệm vụ mà Chuyên Húc giao phó. Người đó là Kim Huyên.

Gặp lại bạn cũ, Tiểu Yêu vui mừng khôn xiết, nàng sai người bày tiệc rượu, để hai người chén thù chén tạc.

Tiểu Yêu hỏi:

– Sao cô lại ở Cao Tân?

Kim Huyên đáp:

– Bệ hạ cần người cung cấp thông tin về Cao Tân nên tôi tới đây.

Tiểu Yêu cười:

– Ta cứ nghĩ hai cô sẽ trở thành phi tần của Bệ hạ, không ngờ cả cô và Tiêu Tiêu đều vẫn tiếp tục công việc lúc xưa của mình. Cô đã đóng góp rất nhiều công sức, nếu cô muốn trở thành phi tần, chắc chắn không hề khó. Ta thấy cô đối với Bệ hạ… nên cứ nghĩ cô sẽ ở lại Tử Kim Đỉnh. Xem ra ta đã nhầm.

Kim Huyên chỉ mỉm cười nhìn Tiểu Yêu, không đáp. Nàng chậm rãi uống hết chén rượu, rồi mới cất lời:

– Tiểu thư không nhầm đâu, quả thực tôi đã nảy sinh tình cảm với Bệ hạ. Nhưng chính vì vậy, nên tôi mới chủ động rời xa ngài.

Tiểu Yêu kinh ngạc, hỏi:

– Vì sao?

– Nếu tôi không nảy sinh tình cảm với ngài, thì mọi thứ giữa tôi và ngài sẽ chỉ đơn giản là: Tôi cống hiến bao nhiêu sẽ được đền bù xứng đáng bấy nhiêu. Bệ hạ xưa nay vẫn luôn là người thưởng phạt công bằng, chỉ cần tôi làm tròn bổn phận, chắc chắn ngài sẽ không bạc đãi tôi. Nhưng khi đã nảy sinh tình cảm, con người thường không chế nổi bản thân, và sẽ mong muốn được nhiều hơn thế. Nhưng tôi hiểu rõ rằng, Bệ hạ không thể cho tôi điều đó. Vậy nên, thay vì chịu đựng nỗi sầu tương tư giằng xé, thậm chí còn có thể vì thế mà gây ra sai lầm nghiêm trọng, khiến Bệ hạ chán ghét, chi bằng hãy tránh đi thật xa khi đôi bên vẫn còn chút nghĩa tình. Với những cống hiến của mình, chắc tôi sẽ được Bệ hạ chiếu cố suốt đời.

Tiểu Yêu thở dài:

– Cô… cô… thật sáng suốt, nhưng cũng thật tàn nhẫn! Không mấy phụ nữ ở vào cảnh huống như cô mà vẫn có thể chừa cho mình một lối thoát, tìm đến với biển rộng trời cao!

– Cũng phải cảm ơn Bệ hạ vì đã chấp thuận cho tôi được đến với biển rộng trời cao! Tôi biết rất nhiều chuyện cơ mật, nếu đổi lại là người khác, hẳn sẽ phải giữ chặt tôi bên mình mới yên tâm. Vậy mà Bệ hạ sẵn sàng để tôi ra đi!

Kim Huyên lắc chén rượu, cười, nói:

– Thật khó để quên một người đàn ông như Bệ hạ! Nhưng tôi tin, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả. Thiên hạ rộng lớn, chỉ cần tôi vẫn kiên trì con đường của mình, nhất định tôi sẽ gặp được niềm hy vọng mới, nhất định sẽ có một người đàn ông xuất hiện, và khiến tôi quên đi Bệ hạ!

Tiểu Yêu nâng chén, mời Kim Huyên:

– Chúc cô sớm gặp được người đó!

Kim Huyên mỉm cười uống cạn chén rượu, rồi cáo từ. Nàng đưa Cảnh đi thu thập những thông tin cần thiết.

Ngày Mười bảy tháng Bảy, đại quân của Nhục Thu chủ động phát động tấn công.

Sau ba trận thắng giòn giã, sỹ khí bừng bừng, quân đội Nhục Thu từng bước o bế đối phương, Câu Mang đánh bại Xích Thủy Hiến.

Để tránh thế bị vây hãm, Phong Long lệnh cho Hiến rút quân. Hiến rút quân về phía bắc Lệ Thủy, hội hợp với đại quân của Phong Long.

Ngu Cương trấn giữ bờ bên kia sông Lệ Thủy. Biết Ngu Cương là người tinh thông thủy chiến, Nhục Thu không dám lỗ mãng cho quân vượt sông truy kích, bèn hạ lệnh cho đại quân dựng trại bên này sông Lệ Thủy.

Đây là trận thua thứ tư, Phong Long cảm thấy vô cùng hổ thẹn, nhưng Chuyên Húc vẫn động viên hắn:

– Bảo tồn lực lượng, bảo vệ tính mạng của binh sỹ là điều quan trọng nhất. Cương vực còn có lúc này lúc khác, người ta chết sẽ chẳng thể hồi sinh. Nếu để Hiến bị vây hãm, mất đi Hiến và đội quân cánh phải, thì đó mới là thất bại không thể cứu vãn. Chỉ cần họ còn sống thì ta tin, họ sẽ chiếm được ngày càng nhiều vùng lãnh thổ.

Phong Long cứ canh cánh trong lòng không yên vì Hiến là con cháu nhà Xích Thủy, chỉ e hắn ra lệnh cho Hiến rút quân sẽ khiến Chuyên Húc hiểu lầm rằng hắn không muốn hy sinh người nhà. Không ngờ Chuyên Húc chẳng mảy may nghi ngờ, vẫn rất mực tin tưởng, tín nhiệm hắn. Điều đó khiến Phong Long càng thêm vững tâm, và cũng hết sức cảm động. Hắn lại càng tin tưởng rằng năm xưa mình đã lựa chọn đúng đắn, Chuyên Húc đích thực là một vị vua anh minh.

Phong Long hẹn Cảnh ra ngoài đi dạo.

Đến nơi vắng vẻ, hắn nói với Cảnh:

– Năm xưa, tuy rất có cảm tình với Chuyên Húc, nhưng thấy huynh ấy sức mỏng lực yếu, nên ta cứ chần chừ việc ủng hộ huynh ấy tranh giành vương vị. May có huynh hết lời khuyên nhủ, cổ vũ, thôi thúc ta hạ quyết tâm! Cảm ơn huynh!

Ngày đó, vì muốn thúc giục Phong Long mau chóng quyết định, Cảnh thậm chí đã nói với hắn:

– Chính vì Chuyên Húc thân cô thế cô, nên huynh mới càng nên lựa chọn huynh ấy. Bởi vì nếu huynh chọn đi theo Thùy Lương hay Ngu Hạo thì đều chỉ là thêu hoa trên gấm, huynh sẽ chỉ là một trong số rất nhiều kẻ ủng hộ bọn họ. Nhưng nếu chọn Chuyên Húc, huynh sẽ là người đầu tiên, cũng là người duy nhất trong lòng Chuyên Húc.

Cảnh cười, bảo:

– Ta chỉ phân tích tình hình thực tế khi đó, còn huynh đã dựa vào con mắt nhìn người nhạy bén của mình để đưa ra quyết định.

Phong Long dõi nhìn dòng Lệ Thủy phía xa, thở dài:

– Huynh lúc nào cũng khiêm tốn như vậy! Chính huynh là người nghĩ ra kế sách tranh đoạt ngôi vị, khuyên Chuyên Húc từ bỏ Hiên Viên Sơn, chọn Thần Nông Sơn. Chính huynh đã phân tích cho ta thấy, Bệ hạ thân cô thế cô, nếu không thể tranh giành với bọn Thương Lâm ở thành Hiên Viên, thì chi bằng vờ như yếu thế, rời bỏ thành Hiên Viên, tìm đến đất Trung nguyên xa xôi, tranh thủ sự ủng hộ của các dòng họ Trung nguyên. Với sự giúp đỡ của ta và huynh, chắc chắn Bệ hạ sẽ có hy vọng. Khi đã bình ổn ở Trung nguyên, cùng với sự ủng hộ của bốn gia tộc lớn, và thân phận là cháu đích tôn của Hoàng Đế và Luy Tổ, các dòng họ ở Hiên Viên chắc chắn sẽ không phản đối kịch liệt huynh ấy kế vị. Phân tích của huynh và kế sách của huynh đã thuyết phục được ta, khiến ta quyết định ủng hộ Bệ hạ. Đến tận bây giờ, Bệ hạ vẫn cho rằng đó là kế sách của ta, khen ta là kẻ có con mắt xanh, biết nhìn ra ai mới là người anh hùng, nên lúc nào cũng dành cho ta sự tín nhiệm và lòng biết ơn. Nhờ vậy, quan hệ giữa ta và Bệ hạ xưa nay vẫn là mối quan hệ nửa là vua tôi, nửa là bạn bè. Địa vị của ta được củng cố vững chắc.

Phong Long băn khoăn hỏi:

– Cảnh, vì sao huynh không muốn tranh giành với ta bất cứ thứ gì?

Xuất thân của Cảnh và hắn ngang nhau, một người là tộc trưởng tương lai của họ Xích Thủy, một người là tộc trưởng tương lai của nhà Đồ Sơn. Trong suốt chặng đường lên ngôi của Chuyên Húc, Cảnh là người bỏ ra nhiều công sức hơn cả, nhưng Cảnh luôn giấu mình ở phía sau, đóng vai người đi theo, ủng hộ Phong Long. Phàm mọi việc đều nhường Phong Long lập công, giúp hắn thực hiện hoài bão to lớn của mình.

Cảnh đáp:

– Làm gì có chuyện ta không tranh giành? Những thứ ta nhường huynh đều là những thứ ta không muốn có. Thứ ta muốn, ta không đời nào chịu nhường cho huynh.

– Ý huynh là….

Phong Long chau mày ngẫm ngợi, một lát sau mới hiểu ra:

– Ý huynh là Tiểu Yêu?

Cảnh thở dài, nói:

– Lúc nào huynh cũng coi ta như anh trai, nhưng không phải lúc nào ta cũng là một người anh đáng kính. Đã biết huynh cảm mến Tiểu Yêu, vậy mà ta vẫn tìm cách giành lấy cô ấy ngay trong phủ đệ của huynh. Đã biết huynh muốn cưới Tiểu Yêu, nhưng ta vẫn thuê Phòng Phong Bội đi cướp dâu. Suốt đời mình ta chưa từng làm việc gì hổ thẹn, trừ hai chuyện đó, trớ trêu thay đều nhắm vào huynh.

Nhớ lại chuyện năm xưa, Phong Long chợt nổi giận đùng đùng:

– Năm xưa khi Tiểu Yêu hủy hôn, ta đã phiền muộn chán chường suốt một thời gian dài, gần như không còn mặt mũi nào gặp gỡ ai nữa.

Cảnh nói:

– Ta cứ nghĩ mình có thể từ bỏ, nhưng ta không làm được. Xin lỗi huynh!

Phong Long nhìn Cảnh chằm chằm, rồi đột nhiên bật cười:

– Ta cứ nghĩ huynh là người phong độ, rộng lượng, phàm việc gì cũng quang minh chính đại, khiến ta mỗi lần nhìn huynh đều cảm thấy hổ thẹn về bản thân. Chẳng ngờ huynh cũng chỉ là một gã ích kỷ, nhỏ mọn, nham hiểm!

– Ngày ta và Tiểu Yêu đính hôn, huynh đang bận đánh trận ở Cao Tân. Lễ vật mà ta nhận được có lẽ chính do các vị trưởng lão của họ Xích Thủy chuẩn bị, hẳn là họ vừa cất công chuẩn bị vừa ra sức nguyền rủa ta. Mấy năm nay, tuy hai ta vẫn thư qua thư lại, nhưng chưa từng nhắc đến chuyện này, cả hai đều xem như chuyện đó chưa từng xảy ra. Nhưng ta luôn hy vọng nhận được lời chúc phúc thành tâm từ huynh.

– Huynh mong mỏi đến thế ư?

– Đúng vậy. Huynh biết đấy, suốt đời ta sẽ không bao giờ có được lời chúc phúc của đại ca, vậy nên ta không muốn mất đi lời chúc phúc của huynh.

Phong Long vui như mở cờ trong bụng, vì Cảnh đã xem hắn như anh em trong nhà. Thế nhưng hắn vẫn cố ra vẻ cao ngạo:

– Ta sẽ suy nghĩ.

– Vì đã kết thân với nhau hơn ba mươi năm, nên Cảnh quá hiểu Phong Long, chàng lập tức nhận ra vẻ tinh quái, ranh mãnh trong ánh mắt Phong Long. Chàng bật cười:

– Cứ suy nghĩ thoải mái, đằng nào hôn lễ của ta và Tiểu Yêu cũng phải thời gian dài nữa mới được cử hành.

Phong Long thôi diễn kịch, hắn cười, bảo:

– Thực lòng mà nói, lúc hay tin huynh và Tiểu Yêu đính hôn, ta đã rất tức giận, vì ta không thể không nhớ lại chuyện năm xưa. Tuy nhiên, nhiều hơn cả là cảm xúc khâm phục dũng khí của huynh. Tiểu Yêu nay đã khác xưa, trước kia cô ấy là viên ngọc sáng, ai cũng muốn có được. Còn bây giờ, cô ấy là một mớ rắc rối lớn, không ai muốn đụng vào. Chí ít thì ta không đủ bản lĩnh để đụng vào. Vậy nên, cơn giận của ta nhanh chóng tiêu tan. Nhưng, dẫu vậy, ta cũng chẳng thể hoan hỉ, nên mới mặc các vị trưởng lão lựa quà mừng cho hai người.

Phong Long vỗ vai Cảnh:

– Huynh đừng lo, đến ngày huynh thành thân, ta sẽ đích thân chuẩn bị quà mừng. Chỉ cần tên Nhục Thu đáng ghét kia không thừa dịp gây sự, bắt ta phải đánh nhau với hắn, thì ta nhất định sẽ tới dự đám cưới của hai người.

– Cảm ơn huynh!

– Cảm ơn gì chứ? Nếu cần nói lời cảm ơn thì ta phải cảm ơn huynh mới đúng. Người trong thiên hạ, ai nấy đều thèm khát ngôi vị tộc trưởng của bốn đại gia tộc, nhưng trong mắt ta, đó chỉ là một thứ lao tù. Trước đây, chỉ có huynh chịu nghe ta huyên thuyên đủ điều, cũng chỉ có huynh không trách mắng ta cả gan làm loạn, không những vậy huynh còn luôn luôn cổ vũ, khuyến khích, ủng hộ ta. Đến nay, ta đã phá vỡ quy tắc của tiên tổ, làm quan trong triều, trở thành Đại tướng quân, thỏa sức theo đuổi lý tưởng của mình! Cảnh, huynh đã giúp ta có được những thứ ta thực lòng mong mỏi, khao khát. Tiểu Yêu vốn không thuộc về ta, mà dù cô ấy có thuộc về ta, nếu huynh muốn huynh cứ việc giành lấy. Cô ấy không phải mơ ước của ta, nhưng lại là báu vật mà huynh sẵn sàng đánh đổi bằng cả tính mạng của mình.

Phong Long bóp mạnh vai Cảnh, vừa cười vừa than:

– Thực ra, ta nên lấy làm mừng vì điều mà huynh mong ước giành được là Tiểu Yêu chứ không phải thứ khác. Nếu huynh cũng có lý tưởng giống ta, chỉ e một núi chẳng chứa nổi hai hổ, đến lúc ấy chúng ta khó có thể làm anh em.

Nếu là trước đây, chắc chắn Cảnh sẽ lập tức hất tay Phong Long ra, bởi chàng dị ứng với mọi hình thức tiếp xúc cơ thể. Nhưng trải qua bao vui buồn hợp tan, chàng hiểu rằng, ở vào vị thế hiện tại của hai người, đứng trước quyền thế và danh lợi, hành động ôm vai bá cổ đầy thân mật như thế này là rất hiếm hoi. Lúc này, Phong Long và chàng hoàn toàn tin tưởng lẫn nhau, nên cả hai đứng cạnh nhau ở một khoảng cách thật nguy hiểm, đủ gần để chỉ cần một đòn là có thể lấy mạng đối phương.

Phong Long và Cảnh vừa về đến khu vực đóng quân, thì thấy Ngu Cương tức tốc chạy lại bẩm báo:

– Chúng tôi tóm được một cô ả lai lịch không rõ ràng, đang lén lút trà trộn vào doanh trại. Có lẽ cô ta thuộc quý tộc Cao Tân.

Phong Long ngạc nhiên:

– Cậu chưa tra khảo cô ta sao?

Có vài vết xước trên mặt Ngu Cương, hắn ngượng ngùng đáp:

– Cô ta rất dữ dằn, tôi…tôi… Tốt hơn hết, để Đại tướng quân thẩm vấn cô ta!

Phong Long nói với Cảnh:

– Huynh cũng đang rảnh, chi bằng cùng đi với ta.

Cảnh không phản đối, theo Phong Long đến lán trại của Ngu Cương.

Từ xa đã thấy một cô gái bị trói chặt tay chân, nhưng cô ta không chịu khuất phục, vẫn liên tục phóng những mũi tên và những lưỡi dao nước ra xung quanh. Đám lính không dám giết cô ả, nhưng cũng không dám lơ là nhiệm vụ, đành tản ra bốn phía, bao vây cô ả.

Phong Long thở dài:

– Không thể là gián điệp của Cao Tân, đã bị trói gô như vậy mà vẫn gan lì vùng vẫy! Nhưng nếu cô ta không phải gián điệp, thì vì sao không bình tĩnh mà đối thoại?

Cảnh đã nhận ra người đó là ai, nhưng chàng không nói năng chi, chỉ lẳng lặng rảo bước theo Phong Long.

Phong Long sững sờ khi bước tới trước mặt cô nàng nọ. Không ngờ đám lính của hắn vừa bắt trói Vương cơ của Cao Tân. Tuy là người của Hy Hòa Bộ, nhưng Ngu Cương chưa từng gặp mặt Vương cơ.

Phong Long vội hỏi:

– Ai nhét giẻ vào miệng cô ấy?

Một tên lính đứng ra, dõng dạc thưa:

– Là thuộc hạ. Cô ta chửi mắng Bệ hạ và tướng quân, nên thuộc hạ đã nhét khăn lau mồ hôi vào miệng cô ta.

Phong Long vội vàng vung tay cắt đứt sợi dây trói bằng gân bò yêu tinh, bỏ miếng giẻ nhét trong miệng cô ả ra. A Niệm nổi cơn tam bành:

– Tên Chuyên Húc đáng ghét, đồ bạc bẽo, vong ơn bội nghĩa! Còn cả tên Ngu Cương khốn kiếp, bội phản kia nữa, mau ra đây cho ta….

Phong Long cau mày khó chịu, hắn rất muốn nhét miếng giẻ vào miệng cô ả, nhưng hắn không dám.

Cảnh đưa cho A Niệm cốc nước sạch, bảo:

– Cô súc miệng đi đã.

A Niệm thoáng sững sờ, quên cả việc chửi bới, nàng lập tức đón lấy cốc nước và ra sức súc miệng. Nghĩ tới miếng giẻ đẫm mùi mồ hôi hôi hám của tên lính xấu xa đó, nàng ước gì có thể dùng bàn chải, vệ sinh sạch sẽ miệng mình từ trong ra ngoài.

Dường như thấu hiểu được tâm tư đó của nàng, Cảnh bảo:

– Muốn chửi bới gì thì cũng phải rửa mặt, súc miệng sạch sẽ trước đã. Để ta đưa cô đi.

A Niệm nghiêng đầu nhìn Cảnh, trước mặt nàng là một gương mặt điển trai, sáng láng, vóc dáng cao gầy, ở con người ấy toát lên vẻ thanh cao, thoát tục, như suối trong giữa thung lũng, như trúc xanh trong giữa rừng già, khiến người ta có cảm giác bình yên khi ngắm nhìn.

– Ta từng gặp huynh, huynh chính là công tử Thanh Khâu, tộc trưởng tộc Đồ Sơn.

Cảnh mỉm cười gật đầu:

– Nơi đây là chỗ của nam giới, mời Vương cơ theo ta.

A Niệm ngoan ngoãn đi theo Cảnh.

Phong Long mừng thầm vì đã mời Cảnh tới. Hắn ra lệnh cho binh sỹ phải giữ kín chuyện xảy ra hôm nay!

Sau đó, hắn lập tức đi tìm Chuyên Húc, bởi vì hắn không đủ tầm thẩm tra “tên gián điệp Cao Tân” này.

Cảnh đưa A Niệm đến lán trại của Tiểu Yêu:

– Tiểu Yêu, xem ai đến này.

Cảnh vén rèm cửa, mời A Niệm vào trong. Chàng tỏ ra rất mực nhã nhặn, thái độ vui vẻ, tự nhiên, như thể hoàn toàn không có bất cứ sự đối kháng nào về lập trường giữa họ. Tiểu Yêu cũng chỉ thoáng bất ngờ, nhận thấy A Niệm đang trong tình trạng tả tơi, nàng vội sai Tiêu Tiêu và Miêu Phủ:

– Mau chuẩn bị đồ cho Vương cơ tắm gội.

A Niệm đứng yên ngoài cửa lán trại, không nói năng cũng không nhúc nhích, nàng tròn mắt nhìn Tiểu Yêu. Rõ ràng, nàng không ngờ gặp được Tiểu Yêu ở nơi này.

Cảnh ra hiệu cho Tiểu Yêu, nàng hiểu ý, lập tức đưa muối sạch Quy Khư và nước hoa Phù Tang cho A Niệm:

– Súc miệng đi đã!

A Niệm nghĩ rằng nàng nên từ chối, nhưng hình ảnh mảnh khăn đẫm mồ hôi ấy cứ ám ảnh nàng, vì vậy, sau một hồi do dự, nàng quyết định phải súc miệng.

Cảnh nhìn Tiểu Yêu đầy vẻ băn khoăn, Tiểu Yêu mỉm cười gật đầu, Cảnh vén rèm cửa, lẳng lặng ra ngoài.

Súc miệng, chải răng xong, A Niệm định bụng mắng nhiếc Tiểu Yêu thậm tệ, nhưng Tiểu Yêu đã bình thản lên tiếng trước:

– Người muội bốc mùi kìa, mau đi tắm đi.

A Niệm tiu nghỉu, cúi xuống ngửi, lập tức theo Tiêu Tiêu đi tắm.

Tắm táp và thay xiêm y xong, A Niệm trở lại căn phòng của Tiểu Yêu, nhưng nàng cảm thấy cơn giận dữ khi nãy đã hoàn toàn tan biến, cảm xúc thực sự đang trào dâng trong lòng.

Tiểu Yêu đột nhiên xuất hiện ở Ngũ Thần Sơn, cướp đi người cha yêu kính và Chuyên Húc của nàng. Nàng ghét Tiểu Yêu nên chưa bao giờ gọi Tiểu Yêu là chị. Nhưng nàng lúc nào cũng để tâm đến Tiểu Yêu. Vì nàng là Vương cơ tôn quý, nên không ai dám hỗn hào với nàng, nhưng bọn họ vẫn không ngừng bàn tán, dị nghị sau lưng nàng. Tiểu Yêu thì trái lại, không bao giờ buông lời gièm pha về nàng, cũng không cho phép người hầu đi mách tội nàng với Phụ vương. Nhưng Tiểu Yêu lại là người duy nhất dám đánh mắng nàng. Khi nàng và Hinh Duyệt xảy ra xung đột, Tiểu Yêu hết lòng bênh vực nàng, bảo vệ nàng, dạy nàng phải làm gì. Vậy nên, dần dần nàng đã chấp nhận người chị này, thậm chí nàng còn yêu mến người chị này.

Ba cha con họ cùng nhau giong thuyền ra biển, chị em họ đã trò chuyện tâm tình suốt đêm. Lúc chia tay, họ hẹn nhau mùa đông năm tới sẽ gặp lại, A Niệm còn chuẩn bị một món quà rất đẹp để tặng Tiểu Yêu.

Nhưng, Tiểu Yêu không đến!

Tiểu Yêu đột ngột biến mất, đột ngột hệt như lần đầu chị ta đến Ngũ Thần Sơn, không thèm nói với nàng một tiếng.

A Niệm ghét Tiểu Yêu, không phải vì chị ta là con gái của Xi Vưu. Bởi vì đối với người Cao Tân, Xi Vưu có đáng sợ, đáng ghét đến đâu cũng không liên quan tới họ. A Niệm ghét Tiểu Yêu vì Tiểu Yêu đã thất hứa, chị ta bỏ đi không một lời từ biệt!

Nhìn điệu bộ bình thản, điềm nhiên như không của Tiểu Yêu, A Niệm vừa đau lòng vừa tức giận. Nhìn mà xem, chị ta vẫn rất ổn đấy thôi! Chắc là chị ta đã quên hẳn lời hứa quay về Ngũ Thần Sơn vào mùa đông và dạy nàng bơi lặn.

Nếu đổi lại là Tiểu Yêu, chắc chắn nàng sẽ tỏ ra điềm nhiên, và giấu đi nỗi buồn thương hay phẫn nộ. Nàng sẽ che giấu cảm xúc đó bẳng vẻ phớt lờ, thờ ơ, lãnh đạm. Nhưng A Niệm thì khác, lúc tức giận điên cuồng, mọi cảm xúc của nàng sẽ phát tiết cả ra ngoài.

A Niệm nhiếc mắng Tiểu Yêu:

– Nhục Thu khuyên tôi không nên oán trách chị, anh ta bảo chị rất đáng thương. Nhưng nhìn điệu bộ của chị thì có lẽ không phải. Tôi mới là người đáng thương nhất. Chị đã lừa dối tôi, để trở thành chị gái tôi. Còn cả Chuyên Húc nữa, hắn…

A Niệm nghẹn ngào, hai mắt ầng ậc nước.

– Hai người là quân lừa đảo xấu xa. Tôi hận hai người!

Tiểu Yêu lên tiếng:

– Ta không hề lừa dối để trở thành chị gái của muội, ta thực lòng muốn làm chị gái muội, chỉ tại…

Tiểu Yêu muốn nói: Trời không chiều lòng người, nhưng nàng đột nhiên cảm thấy, tuy nàng rất buồn vì không còn là con gái của Phụ vương, nhưng việc trở thành con gái của Xi Vưu cũng rất tuyệt. Nếu vậy thì nàng không nên than thở: Trời không chiều lòng người.

A Niệm không hài lòng với câu nói nửa vời của Tiểu Yêu, nàng cật vấn:

– Chỉ tại gì?

– Khi ấy ta không hề hay biết cha đẻ của mình là Xi Vưu.

– Sau này biết được sự thật đó thì chị không muốn làm chị gái của tôi nữa?

Tiểu Yêu lại gần cửa sổ, phóng mắt ngắm nhìn những ngọn đồi phía xa, nàng không muốn A Niệm bắt gặp cảm xúc yếu đuối của mình.

– Không phải không muốn, mà là… A Niệm, Tuấn Đế Bệ hạ đã gạch tên ta ra khỏi gia phổ dòng họ Cao Tân và không cho phép ta mang họ Cao Tân nữa.

A Niệm há hốc miệng, không biết nên tiếp tục trách mắng Tiểu Yêu thế nào. Bị xóa tên khỏi gia phổ thì chắc chắn Tiểu Yêu không đủ tư cách quay về Ngũ Thần Sơn. Nghĩ đến ánh mắt khinh bỉ và những lời nhục mạ của đám quan lại trong triều đối với Tiểu Yêu, A Niệm chợt thấy lòng chùng xuống.

Nàng nói:

– Chị… chị không thể đến Ngũ Thần Sơn thì chí ít cũng phải nói với người ta một tiếng chứ. Người ta… người ta… cứ chờ chị mãi.

– Muội chờ ta?

Tiểu Yêu rất đỗi ngạc nhiên, lúc này nàng mới nhận ra thái độ của A Niệm đối với nàng, không phải là khinh rẻ mà là giận dỗi.

A Niệm hậm hực:

– Tôi không tới đây để tâm sự với chị đâu! Cái gã bạc bẽo Chuyên Húc kia có đến cùng chị không? Tôi muốn gặp hắn!

Tiểu Yêu bước lại, ngồi xuống cạnh A Niệm:

– Bấy lâu nay ta không hề hay biết về thân thế của mình. Sau khi biết sự thật, ta đã vô cùng đau khổ. Thì ra, ngay từ lúc ta chào đời, mọi thứ đều chỉ là giả dối. Ta chẳng hề hay biết điều gì, vậy mà người đời ai nấy đều căm hận ta, muốn lấy mạng ta! Ta không ngờ muội đã đợi ta. Ta nghĩ muội cũng sẽ giống họ, khinh thường ta, không muốn gặp lại ta nữa. Bởi vì họ đều cho rằng mẹ ta có lỗi với Phụ vương của muội. Hơn thế, cha ta lại là Xi Vưu. Ngay cả lúc này, khi đối diện với muội, ta vẫn chưa hết sợ sệt. Ta sợ muội sẽ tức giận mà thốt ra những lời khiến ta đau đớn. Ta sợ muội mắng nhiếc mẹ ta, cũng sợ muội sẽ mắng nhiếc cha ta, còn sợ muội sẽ chửi ta là đồ con hoang.

A Niệm nhìn Tiểu Yêu chằm chằm, ngập ngừng nói:

– Tôi chẳng thấy chị có biểu hiện gì là đau khổ hay sợ hãi.

Tiểu Yêu mỉm cười:

– Thuở bé sống cuộc đời không cha không mẹ, dù ta đau khổ đến mấy cũng không ai an ủi, động viên. Càng than khóc càng dễ làm mồi cho đám chó hoang. Bởi vậy, ta đã quen vùi sâu chôn chặt mọi cảm xúc xuống đáy lòng.

A Niệm trầm ngâm một lát, rồi nàng dịu dàng hỏi:

– Có phải Chuyên Húc cũng giống chị?

– Ừ.

– Có phải huynh ấy cùng từng chịu nhiều tủi cực khi ở Cao Tân, nhưng không cho muội và cha biết. Nên bây giờ huynh ấy mới tấn công Cao Tân?

– Chuyên Húc đã chịu nhiều tủi cực suốt những năm tháng ở Cao Tân, nhưng huynh ấy không tấn công Cao Tân vì nguyên nhân đó.

A Niệm vừa rối bời vừa bực bội:

– Vậy thì vì sao? Vì sao huynh ấy phải làm vậy? Muội và Phụ vương có lỗi gì với huynh ấy đâu! Vì sao huynh ấy đối xử với cha con muội như vậy?

Tiểu Yêu không biết phải đáp lại ra sao, đúng lúc ấy Chuyên Húc vén rèm bước vào, nói:

– Muội không làm gì có lỗi với ta, đây là chuyện giữa ta và Phụ vương của muội.

Tiểu Yêu thở phào, nhón gót rời khỏi lán trại, nhường không gian riêng tư cho cuộc hội ngộ sau mấy mươi năm cách biệt.

Nhìn thấy Chuyên Húc, mọi nỗi niềm trào dâng như thác lũ trong lòng A Niệm. Nàng không hề hay biết, nước mắt đã chảy thành hàng trên gương mặt mình tự lúc nào. Nàng ngồi sụp xuống, vừa khóc vừa nói:

– Muội không sao hiểu nổi! Phụ vương cũng bảo rằng chuyện này không liên quan đến muội, đó là chuyện giữa cha và huynh. Nhưng tại sao, tại sao lại không liên quan đến muội? Hai người đang đánh nhau kia mà! Sẽ có đổ máu, sẽ có hy sinh, sao lại bảo không liên quan đến muội?

Chuyên Húc nói:

– Sao sư phụ cho muội lén đến nơi này thế? Ta sẽ sai người đưa muội về Ngũ Thần Sơn.

A Niệm khóc lóc van xin:

– Chuyên Húc, đừng tấn công Cao Tân, được không? Phụ vương muội tội lắm, bạc cả đầu, sức khỏe của cha ngày một xấu đi, đi lại cũng khó khăn!

A Niệm túm lấy vạt áo Chuyên Húc, ngước nhìn hắn, nước mắt lã chã:

– Chuyên Húc, muội cầu xin huynh! Cầu xin huynh!

Trước kia, mỗi khi nàng nũng nịu van nài Chuyên Húc, thì dù chuyện có khó khăn đến mấy hắn cũng đầu chiều theo ý nàng. Nhưng bây giờ, hắn chỉ lạnh lùng im lặng.

Rất lâu sau, Chuyên Húc mới lên tiếng:

– Xin lỗi, ta không thể.

A Niệm vừa đau đớn vừa phẫn nộ, nàng quay ra cật vấn hắn:

– Nếu Tiểu Yêu vẫn còn là con gái của Phụ vương, nếu chị ấy cầu xin huynh, liệu huynh có từ chối?

Chuyên Húc bình thản đáp:

– Mười năm trước muội ấy đã từng cầu xin ta. A Niệm, quyết định của ta là quyết định của một bậc đế vương, tuyệt đối không thể vì muội hay Tiểu Yêu mà thay đổi được.

A Niệm òa khóc, nàng giận sự vô tình của Chuyên Húc, nhưng cũng cảm thấy nhẹ nhõm. Thì ra Tiểu Yêu cũng từng cầu xin Chuyên Húc. Thì ra Chuyên Húc đã từ chối chị ấy.

Chuyên Húc từng lớn lên cùng A Niệm, nên hắn không đành lòng thấy nàng như vậy. Hắn ngồi xuống, đưa khăn tay cho A Niệm:

– Ta biết muội rất giận, ta cũng biết nói như vậy thật giả dối, nhưng ta thực lòng nghĩ như vậy đó. Hiên Viên và Cao Tân xảy ra một số chuyện, ta và cha muội cũng xảy ra một số chuyện, nhưng trong lòng ta, muội vẫn luôn là A Niệm, và ta vẫn luôn là Chuyên Húc của muội. Ta vẫn sẽ thỏa mãn mọi đòi hỏi của muội, nếu như đòi hỏi ấy không can hệ đến vấn đề của hai nước.

A Niệm lấy khăn che mặt, gào khóc thảm thiết. Nàng không biết phải làm sao, một bên là Phụ vương, một bên là Chuyên Húc. Vì sao cả cha nàng và Chuyên Húc đều có thể bình tĩnh nói với nàng rằng: Chuyện này không liên quan đến nàng? Nếu không liên quan đến nàng, thì vì sao sau khi xảy ra chiến tranh, Nhục Thu không chịu thu thập tin tức về Chuyên Húc cho nàng nữa? Vì sao Chuyên Húc không viết thư cho nàng nữa? Nếu không liên quan đến nàng, thì vì sao nàng không dám mở lời xin Phụ vương cho phép nàng đến Thần Nông Sơn thăm Chuyên Húc nữa? Nếu không liên quan đến nàng, thì vì sao một người vốn xưa nay không để tâm đến bất cứ chuyện gì là mẹ nàng, khuyên nàng đừng nhớ đến Chuyên Húc nữa?

Chuyên Húc không dỗ dành A Niệm và chọc nàng cười như trước đây mỗi khi nàng khóc. Hắn ngồi xuống bên cạnh, lặng lẽ nhìn A Niệm. Ánh mắt hắn trĩu nặng u hoài và buồn thương.

A Niệm khóc suốt nửa canh giờ, tiếng khóc của nàng nhỏ dần.

Chuyên Húc hỏi:

– Muội nói sư phụ đã bạc tóc, là thật ư?

A Niệm nghẹn ngào:

– Sau khi Phụ vương tuyên bố Tiểu Yêu không còn là Vương cơ Cao Tân nữa, một ngày nọ muội đến thăm cha, thấy cha bị thương nặng, còn mái tóc thì đã bạc trắng. Những tưởng sẽ có đủ thời gian để cha từ từ dưỡng thương, chẳng ngờ huynh phát lệnh tấn công Cao Tân, khiến bệnh của cha chẳng thể thuyên giảm… Muội nghĩ vì cha quá đau lòng, nên tóc cha mới bạc trắng và sức khỏe của cha mới giảm sút trầm trọng như thế.

Chuyên Húc nói:

– Sư phụ lâm bệnh nặng như vậy, vì sao muội không ngoan ngoãn ở lại Ngũ Thần Sơn chăm sóc sư phụ, mà chạy tới đây làm gì?

A Niệm ngẩng đầu, trừng mắt nhìn Chuyên Húc, hai mắt ầng ậc nước:

– Muội không đến tìm huynh! Muội gặp Tiểu Yêu mới biết huynh cũng tới.

– Ta biết.

– Muội đến để ám sát Ngu Cương và Phong Long.

Chuyên Húc hoảng hốt, thầm cảm ơn trời Phật vì A Niệm không đến ám sát Hiến. Phong Long chắc chắn sẽ nhận ra A Niệm, vì vậy sẽ không gây thương tổn cho nàng. Ngu Cương vốn là người trung hậu, vẫn luôn canh cánh bên lòng vì có lỗi với Cao Tân, hẳn là sẽ không ra tay với một cô gái yếu đuối như A Niệm. Nhưng Xích Thủy Hiến lạnh lùng, tàn nhẫn thì không chắc, nếu cô ta ra tay hẳn là sẽ có đổ máu.

Chuyên Húc tức giận:

– Cao Tân thiếu gì tướng tài, ai mượn muội đi làm thích khách! Ta nghĩ mình cần phải viết một bức thư cho Nhục Thu, nhắc nhở hắn canh gác Ngũ Thần Sơn cẩn mật hơn nữa!

A Niệm lại bắt đầu chảy nước mắt, nàng thổn thức:

– Muội biết. Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ xưa nay vẫn tỏ ra bất mãn với cha, vì cha không chọn con gái của họ làm phi tần, mà chọn người mẹ thân phận thấp kém, lại vừa câm vừa điếc của muội, thế nên bọn họ luôn coi thường muội. Những năm gần đây, Phụ vương ngày một yếu đi, bọn họ được thể lấn lướt làm loạn, o ép Phụ vương lập người nối ngôi. Phụ vương chỉ có một cô con gái duy nhất là muội, Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ đề nghị lập muội làm người nối ngôi, nhưng Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ kiên quyết phản đối. Bọn bọ bảo muội năng lực thì kém cỏi, lại ngu dốt, bướng bỉnh, không thể gánh vác trọng trách. Bọn họ yêu cầu chọn ra trong đám cháu họ của Phụ vương một người để nối ngôi. Phụ vương không tỏ bất cứ thái độ nào thì bọn họ ngày ngày kêu gào, không để cha được yên. Bọn họ chê muội kém cỏi, đần độn, bướng bỉnh, vì vậy muội phải làm một việc gì đó để chứng minh cho bọn họ thấy. Muội quyết định tới đây hành thích Ngu Cương và Phong Long. Ngu Cương là tên phản đồ của Cao Tân, Phong Long là đại tướng quân Hiên Viên, chỉ cần giết được một trong hai người, bọn họ sẽ phải nể phục muội!

Chuyên Húc nói:

– Sau này muội không được làm những việc xuẩn ngốc như vậy nữa! Muội đừng bận tâm đến bọn Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ làm gì. Mâu thuẫn giữa họ và sư phụ đã có từ rất lâu rồi, không phải do Vương phi hay muội đâu. Đừng vì lời nói của họ mà cảm thấy day dứt, không phải vì Vương phi và muội mà Phụ vương muội ra nông nỗi này đâu.

A Niệm bán tín bán nghi:

– Đúng vậy không?

– Chắc chắn! Nhưng đúng là năm xưa sư phụ hoàn toàn có thể xoa dịu mâu thuẫn thông qua việc tuyển phi, nhưng người đã không chấp nhận.

Miệng méo xệch, nước mắt A Niệm lại bắt đầu tuôn rơi:

– Như thế chẳng phải có liên quan đến muội là gì!

– Sư phụ không chịu tuyển phi vì người không muốn nạp phi tần chứ không phải vì mẹ muội. Vì thế, chuyện đó không liên quan đến mẹ con muội, hiểu chưa?

Ngẫm ngợi một lúc, A Niệm gật đầu, nước mắt vẫn lưng tròng.

– A Niệm, muội hãy tin sư phụ, có lúc muội tưởng người đang rơi vào tình cảnh khốn đốn, nhưng thực chất người đang suy tính việc lớn đó.

Chuyên Húc trỏ tay vào đám mạng nhện bên ngoài cửa sổ, giải thích:

– Muội biết thế nào là “nhền nhện chăng tơ” không? Nhìn bên ngoài, ta tưởng như con nhện kia đang mắc kẹt giữa những sợi tơ chằng chịt, nhưng sau cùng kẻ bị mắc kẹt trong đó, rất có thể là những chú bướm bay qua bay lại.

A Niệm tỏ vẻ thấu hiểu lí lẽ ấy, nàng ngẫm ngợi một hồi, rồi đột nhiên òa khóc:

– Vì sao huynh tấn công Cao Tân? Nếu huynh không tấn công Cao Tân, muội sẽ đi hỏi ý kiến huynh và huynh sẽ nói cho muội biết phải làm thế nào. Nếu vậy, muội sẽ không cần đến đây hành thích Ngu Cương, và sẽ không bị tên lính chết tiệt ấy nhét giẻ vào miệng…

Chuyên Húc vừa vỗ về A Niệm, vừa ngẫm nghĩ: Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ chắc chắn không thể lấy lòng sư phụ. Nhưng một khi bọn họ đưa ra kiến nghị lập người kế vị, thì sư phụ không thể ngó lơ. Bởi vì đó không chỉ là vấn đề Bạch Hổ Bộ, Thường Hy Bộ hay Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ quan tâm, mà đó còn là vấn đề quan tâm của toàn bộ dòng họ Cao Tân và triều thần Cao Tân. A Niệm là người duy nhất xứng đáng nối ngôi, nhưng sư phụ chưa bao giờ bồi dưỡng muội ấy trở thành một Quân vương… Tình thế lúc này rất nguy hiểm, nếu sơ suất, sư phụ sẽ khiến Cao Tân đại loạn. Kế sách vẹn toàn nhất là kén cho A Niệm một người chồng vừa tài giỏi lại đáng tin cậy, rồi lập A Niệm làm người nối ngôi, sau đó ra sức bồi dưỡng con cái của A Niệm. Sư phụ chọn Nhục Thu ư? Lẽ nào đây chính là nguyên nhân khiến Nhục Thu tấn công quân đội Hiên Viên liên tiếp?

Chuyên Húc không hiểu sư phụ đang nghĩ gì, tuy ở bên ngài mấy trăm năm, nhưng hắn không sao nhìn thấu tâm can ngài. Cũng giống như, hắn mãi mãi không sao nhìn thấu tâm can ông nội. Có lẽ các bậc đế vương đều như vậy, không ai có thể đoán biết được tâm tư của họ.

A Niệm đã vất vả suốt mấy ngày vì muốn hành thích Ngu Cương và Phong Long. Đêm qua nàng lại không thể chợp mắt. Lúc này, sau khi đã khóc thỏa sức, mọi căng thẳng đều được giải tỏa, nàng bắt đầu thiếp đi mê man.

Chuyên Húc vẫy tay gọi người hầu, lệnh cho họ hầu hạ A Niệm nghỉ ngơi. Rồi hắn ra khỏi lán, theo sự chỉ dẫn của thị vệ, đi về phía khu rừng.

Dưới bóng tà dương, Cảnh và Tiểu Yêu đang ngồi chơi trên phiến đá bên bờ suối. Tiểu Yêu đang huyên thuyên, lảm nhảm chuyện gì đó, Cảnh chỉ mỉm cười lắng nghe. Rồi đột nhiên Tiểu Yêu, đặt một nụ hôn khẽ khàng nơi khóe môi Cảnh nhanh như chớp. Cảnh chưa kịp phản ứng, nàng đã trở về chỗ cũ, giả đò như không, miệng cười thật tươi nhìn đi hướng khác.

Chuyên Húc đạp mạnh, cành khô dưới chân hắn phát ra tiếng kêu răng rắc.

Tiểu Yêu giật mình ngoảnh lại, nhìn thấy hắn, nàng đỏ mặt:

– Kìa huynh!

Cảnh thản nhiên đứng lên, hỏi:

– Vương cơ đã đi chưa?

Chuyên Húc đáp:

– Muội ấy đang say ngủ, ta thấy muội ấy quá mỏi mệt, nên đã lệnh cho tỳ nữ dọn chỗ nghỉ ngơi cho muội ấy trong lán của Tiểu Yêu. Tiểu Yêu, đêm nay muội chịu khó ngủ chung với Miêu Phủ.

– Muội ngủ cùng A Niệm cũng được mà.

Chuyên Húc không muốn Tiểu Yêu dây dưa với A Niệm, hắn bảo:

– Không cần, ta đã sai Tiêu Tiêu chăm sóc muội ấy, muội đến chỗ Miêu Phủ đi.

Tiểu Yêu đáp:

– Vâng.

Cảnh nhận thấy Chuyên Húc hình như có tâm sự gì đó, chàng chủ động nói:

– Thần xin phép về trước.

Tiểu Yêu tươi cười, vẫy tay chào chàng.

Chuyên Húc cất bước men theo bờ suối. Tiểu Yêu đi theo hắn, đợi mãi mà không thấy hắn nói gì. Chuyên Húc vừa đi vừa trầm ngâm ngẫm ngợi.

Tiểu Yêu nóng ruột đành lên tiếng trước:

– Huynh đang nghĩ gì vậy? Có phải đang lo lắng chuyện của A Niệm?

– Ta đang lo lắng cho muôn dân trăm họ trên mảnh đất này.

Chuyên Húc thở dài:

– Sinh ra ở Hiên Viên, lớn lên ở Cao Tân, đôi lúc ta cũng không rõ mình là người Hiên Viên hay người Cao Tân. Là vua Hiên Viên, lẽ ra ta phải vui mừng khi thấy Cao Tân lâm vào tình cảnh hỗn loạn, bất ổn. Bởi đây là cơ hội hiếm có để Hiên Viên thừa cơ xông tới. Nhưng, ta không hề vui mừng chút nào. Trái lại, ta thực lòng mong sư phụ có thể nghĩ ra phương cách nào đó để xử lý ổn thỏa vấn đề nội bộ của triều đình Cao Tân, để mảnh đất này sẽ không phải chịu cảnh binh đao, khói lửa đau thương.

Tiểu Yêu chớp mắt:

– Vậy ai đang châm lửa cho cuộc chiến tang thương trên mảnh đất này đây?

Chuyên Húc bực bội, đập nàng một cái:

– Tuy ta là người châm lửa chiến tranh, nhưng cả ta và sư phụ đều biết cách khống chế, không để ngọn lửa lan rộng và gây ảnh hưởng đến thường dân vô tội. Nhưng nếu nội bộ Cao Tân lục đục, rối loạn, những kẻ tham lam kia chắc chắn sẽ không hành xử như ta và sư phụ. Lòng tham sẽ khiến bọn họ mờ mắt và sẵn sàng hủy hoại mọi thứ, miễn là bọn họ đạt được mục đích.

Tiểu Yêu thầm kinh hãi:

– Rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì?

– Nói với muội cũng chẳng ích gì, ta không muốn nói.

– Huynh… Hừ!

Tiểu Yêu tức giận, quay người bỏ đi.

– Muội đi tìm Cảnh.

Chuyên Húc giữ nàng lại:

– Không được!

Bàn tay Chuyên Húc như gọng kìm cứng ngắc, khiến Tiểu Yêu đau đớn phải kêu lên:

– Đau quá!

Chuyên Húc nới lỏng bàn tay, Tiểu Yêu xoa bóp cánh tay:

– Huynh sao thế? Thật quá đáng!

Chuyên Húc mím môi, lẳng lặng rảo bước bỏ đi.

Tiểu Yêu nhận thấy tâm trạng của hắn rất không ổn, liền vội vã đuổi theo:

– Thôi thôi, huynh không muốn nói thì thôi. Đi chậm lại, muội không theo kịp đâu!

Chuyên Húc đột ngột dừng lại. Tiểu Yêu thận trọng dò xét hắn.

Chuyên Húc hướng mắt về phía Tây Bắc, khẽ nói:

– Còn nhớ, hồi ở Triêu Vân Điện trên núi Hiên Viên, muội từng nói…

Tiểu Yêu yên lặng đón nghe vế tiếp theo, nhưng Chuyên Húc chần chừ không nói thêm. Tiểu Yêu hỏi:

– Muội đã nói gì?

Chuyên Húc mỉm cười:

– Không có gì.

Nụ cười của hắn che giấu mọi thứ, khiến nàng không đọc ra tâm tư của hắn. Tiểu Yêu nhìn hắn đầy vẻ nghi hoặc.

Chuyên Húc nắm tay Tiểu Yêu, kéo nàng đi về phía doanh trại, cười, bảo:

– Về nghỉ ngơi đi, ta không sao đâu, chỉ tại A Niệm xuất hiện đột ngột, khiến ta bất ngờ thôi.

Tiểu Yêu không chịu đi theo hắn, nàng nhìn hắn và nói:

– Muội không muốn huynh tấn công Cao Tân, nên thường mỉa mai, châm chọc huynh, nhưng điều đó không có nghĩa muội hoàn toàn không hiểu huynh. Tuy sinh ra ở Hiên Viên, nhưng huynh đã nhiều năm sống trên đất Cao Tân. Chính mảnh đất này đã nuôi dạy huynh trở thành huynh của hôm nay. Xét về mặt tình cảm, có lẽ huynh dành cho Cao Tân nhiều tình cảm hơn là Hiên Viên. Muội biết huynh đưa muội đến đây là để xóa tan những lo âu, căng thẳng trong lòng muội, huynh muốn nói với muội: Huynh không hề thay đổi. Huynh là bậc đế vương, nhưng huynh vẫn là một người đàn ông bình thường, biết buồn thương, đau khổ. Huynh từng chịu đau đớn khi mất đi cha mẹ, nên huynh sẽ không tùy tiện cướp đi mạng sống người thân của bao người khác, khiến họ phải đau khổ. Muội không biết chuyện gì sẽ xảy đến với Cao Tân, nhưng muội tin huynh sẽ ngăn cản điều tồi tệ nhất xảy ra.

Chuyên Húc chầm chậm quay đầu lại, mỉm cười nhìn Tiểu Yêu. Nụ cười của hắn khi ấy rất đỗi dịu dàng, thuần khiết, vì hắn thực sự rất vui.

Tiểu Yêu cười gượng, lắc lắc cánh tay Chuyên Húc:

– Chúng ta về thôi!

Sáng sớm hôm sau, lúc tỉnh giấc, A Niệm phát hiện ra mình đang nằm trên xe mây bay về Ngũ Thần Sơn.

Nàng không cam lòng, nàng cảm thấy Chuyên Húc không nên đối xử với nàng như vậy, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ: Có lẽ đây là cách từ biệt tốt nhất. Những gì cần nói nàng đã nói cả, những gì chưa nói đều là những điều không thể nói, hoặc giả, có nói cũng chẳng ích gì!

A Niệm đưa tay lên mân mê những sợi tơ Phù Tang trên cổ tay nàng, đó vốn là thứ vũ khí giết người mà nàng đã cất công nhờ họ Kim Thiên chế tạo giúp mình. Tối hôm qua, nàng và Chuyên Húc ở cách nhau gần đến thế, vậy mà nàng không hề nảy sinh ý định sử dụng thứ vũ khí ấy.

Đại quân của Phong Long tiến quân rất chậm rãi, đánh suốt mười năm mới chiếm được chưa đến một phần mười lãnh thổ Cao Tân. Nhưng nếu như một ngày, đại quân của Hiên Viên tấn công Ngũ Thần Sơn, liệu nàng có muốn dùng sợi tơ đó để giết Chuyên Húc?

Nàng đã yêu khi chưa hiểu gì về tình yêu, mới chớm chạm vào tình yêu, đã phải nếm trải biết bao cay đắng. Những tưởng đã nuốt trọn mọi nỗi đắng cay, chua chát vào lòng, chẳng ngờ vẫn còn những nỗi đắng cay, chua chát lớn hơn.

Nàng hồi tưởng lại mọi chuyện, và nhận ra tình yêu của nàng với Chuyên Húc, có đến chín phần cay đắng một phần ngọt ngào. Và cho đến lúc này, tất cả chỉ toàn đắng cay, chua chát. Vậy nhưng, nàng không sao dứt bỏ.

A Niệm cúi gập người, hai tay ôm mặt, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi. Trước đây nàng vẫn thường gào khóc thật to, bởi nàng biết sẽ có người nghe thấu, có người đau lòng vì nàng. Còn bây giờ, khi chỉ còn lại một mình, nàng chỉ biết âm thầm trào lệ.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 7: Thiên hạ một nhà

Sau mười ngày ở thế giằng co giữa đôi bờ sông Lệ Thủy, Nhục Thu quyết định dẫn đại quân tấn công sang bờ bên kia. Hắn cử tướng quân Thanh Liên của Hy Hòa Bộ giao chiến với Ngu Cương.

Tuy cuộc chiến giữa Hiên Viên và Cao Tân đã diễn ra mười năm, nhưng vì Ngu Cương luôn chủ động tránh né, cộng với Nhục Thu ngầm sắp xếp, nên Ngu Cương chưa bao giờ phải giao chiến với những người bạn cũ nơi quê nhà của mình. Ngu Cương vốn cho rằng, người giao chiến với hắn lần này sẽ là Câu Mang, chẳng ngờ lại là Thanh Liên, cậu bạn thân thuở nhỏ của hắn. Một bên bị bất ngờ, một bên đã có sự chuẩn bị, một bên khuôn nguôi day dứt, một bên nuôi lòng căm hận. Ngu Cương bối rối, bấn loạn, Thanh Liên dũng mãnh xông tới, thắng bại đã phân định rõ ràng.

Đội quân cánh tả của Hiến chạm trán Câu Mang. Câu Mang là đồ đệ của Tuấn Đế, bạn cùng trang lứa với Chuyên Húc, nhưng hắn luôn thích biến thành một chú bé. Bề ngoài trông hắn có vẻ hồn nhiên, ngây thơ, kỳ thực hắn xảo quyệt như hồ ly. Gặp phải người trầm tĩnh, vững vàng, linh lực cao cường như Ngu Cương, những chiêu trò của hắn trở nên vô dụng hoàn toàn, hắn như sói gặp phải hổ, chẳng nên cơm cháo gì. Nhưng đụng phải Hiến, mọi chiêu trò của hắn đều phát huy tác dụng, cộng với lợi thế thông thạo địa hình địa thế, Câu Mang đã đả thương Hiến.

Tướng lĩnh trọng thương, toàn quân thảm bại.

Câu Mang thừa thắng truy kích, hòng tiêu diệt Hiến. Ngu Cương bất chấp tất cả, xông vào trận pháp do Câu Mang bày ra.

Kế sách của Nhục Thu là dùng Hiến làm mồi nhử để dụ và tiêu diệt Ngu Cương. Bởi vậy, trận pháp đó chủ yếu được bày ra cho Ngu Cương.

Nếu là người khác, kế sách dụ khỉ này của Nhục Thu chắc chắn sẽ thất bại, nhưng vì nôn nóng muốn cứu Hiến, Ngu Cương đã mất đi sự tỉnh táo, hắn bất chấp cả kỷ luật quân đội, sẵn sàng lao thân vào núi đao biển lửa. Hắn cứu được Hiến, nhưng bản thân cũng bị trọng thương.

Lúc này, cánh quân ở giữa của Nhục Thu mới bắt đầu xuất kích, mất đi Ngu Cương và Hiến, Phong Long dù cũng mãnh đến đâu, cũng không chống chọi nổi với Nhục Thu. Huống hồ lúc này Chuyên Húc đang ở doanh trại, Phong Long không dám liều lĩnh, hắn đành ra lệnh rút quân.

Rút quân, đồng nghĩa với việc mất liền ba thành trì. Trong đó, hai thành trì bị mất vì bại trận, còn Vĩnh Châu là thành trì mà Phong Long hạ lệnh bỏ thành. Tường thành Vĩnh Châu không đủ cao, không đủ kiên cố, lương thực trong thành cũng không đủ để nuôi quân. Trong tình trạng cả hai viên tướng của Hiên Viên đều bị trọng thương, Phong Long không cho rằng việc rút quân vào thành Vĩnh Châu cố thủ là chiến lược thông minh.

Chuyên Húc bình thản đối diện với tình thế bất lợi đó, hắn nói:

– Khanh là Đại tướng quân, mọi việc trong quân đội do khanh toàn quyền quyết định.

Phong Long cắn răng ra lệnh cho toàn quân rút về thành Tấn Dương, nơi ba mặt đều là sông nước, mặc kệ Chuyên Húc có cho rằng hắn là kẻ bất tài hay không. Bởi hắn nghĩ, vẫn còn cơ hội để giành lại những vùng đất đã mất.

Đây là trận chiến thảm bại nhất của Hiên Viên kể từ khi hai nước xảy ra chiến tranh đến nay, bởi chỉ thiếu chút nữa cả Hiến và Ngu Cương đều mất mạng. Đại quân Hiên Viên tiến quân chậm chạp, thực hiện kế sách “trường kỳ đánh chiếm”, nên một lần thất bại tương ứng với ba năm đánh trận công cốc. Cộng với ba lần thất bại trước đó, tổng cộng Hiên Viên đã đánh trận công cốc năm năm.

Nhờ chiến thắng này, tiếng tăm của Nhục Thu vang khắp Đại hoang. Sau này, Chuyên Húc đã phải hạ lệnh cho người ghi chép lại thật chi tiết sách lược dùng người quỷ quyệt của Nhục Thu, buộc các tướng lĩnh trấn thủ mọi vùng đất của Hiên Viên đều phải nghiên cứu, trau dồi kỹ càng. Chuyên Húc không truy xét vì sao lúc trước Nhục Thu chấp nhận thua trận, kiên quyết không để người của Hy Hòa Bộ ra chiến trường? Vì sao hắn cử Câu Mang giao chiến với Hiến? Vì sao hắn có thể lợi dụng Hiến hãm hại một viên tướng già dặn như Ngu Cương? Rất nhiều năm sau, khi “tướng quân mặt lạnh” Xích Thủy Hiến thành hôn với Ngu Cương, tất cả mọi người đều choáng váng, nhưng họ cũng vỡ lẽ mọi chuyện. Và ai nấy đều không khỏi kinh ngạc trước con mắt tinh tường của Nhục Thu, hắn đã sớm nhận ra tình cảm giữa họ và lợi dụng điều đó.

Phong Long nổi cơn tam bành, hắn chửi Ngu Cương, chửi Nhục Thu. Nhưng chửi cũng vô dụng, thua thì vẫn thua.

Lần này may cho họ là Tiểu Yêu có mặt trong đoàn quân, y thuật của nàng đã đạt đến một tầm vóc mới, có thể nói là xuất quỷ nhập thần, Ngu Cương được cứu sống, Hiến cũng thoát tàn tật. Nếu không nhờ nàng, rất có thể Hiên Viên sẽ mất đi hai viên tướng trẻ, tài năng, dũng mãnh. Tổn thất đó, không chỉ Phong Long mà cả Chuyên Húc cũng không thể chấp nhận được.

Thất bại thảm hại, Phong Long những tưởng Chuyên Húc sẽ nổi trận lôi đình, nào ngờ nhà vua lại lựa lời động viên hắn:

– Ta sớm đã tiên liệu tình huống này. Ngu Cương là thanh gươm quý chưa được mài sắc. Sau một trận thảm bại, hắn sẽ trở nên sắc sảo, khôn ngoan hơn. Nhưng ta không ngờ Nhục Thu đã bắt được suy nghĩ của ta. Hắn kiên quyết không cho Ngu Cương cơ hội này. Đến khi hắn đồng ý cho Ngu Cương cơ hội thì cũng là lúc hắn muốn lấy mạng Ngu Cương. Sau lần chết đi sống lại này, ta nghĩ Ngu Cương sẽ hiểu ra, một khi đã chọn lựa, thì không được phép do dự, bằng không hắn sẽ hủy hoại cả bản thân mình và những người khác.

Phong Long buồn bã nói:

– Tên Nhục Thu ấy thường ngày thấy hắn lúc nào cũng cười đùa cợt nhả, chẳng nghiêm túc chút nào, vậy mà, đến lúc lâm trận, hắn lại là kẻ địch khó nhằn đến thế!

Chuyên Húc cười, bảo:

– Hắn là học trò cưng của sư phụ, nếu hắn dễ bị người ta đánh bại thì Tuấn Đế không còn là Tuấn Đế nữa.

Phong Long thầm nghĩ, Bệ hạ cũng là học trò cưng của Tuấn Đế, không biết ngài và Nhục Thu, ai tài giỏi hơn ai.

Chừng như đoán được suy nghĩ của Phong Long, Chuyên Húc nói với hắn:

– Ta không giống Nhục Thu, không thể so sánh. Cả ông nội và sư phụ đều từng dạy ta làm vua một nước thì phải thế nào. Còn Nhục Thu, từ nhỏ hắn đã dược dạy dỗ làm thế nào để trở thành một bề tôi trung thành, làm quan thì mang lại ấm no hạnh phúc cho dân, làm tướng thì bảo vệ đời sống thanh bình cho dân.

Phong Long cười khì khì:

– Bệ hạ được cả Hoàng Đế và Tuấn Đế chỉ dạy, nên chắc chắn người hơn hẳn Nhục Thu.

Chuyên Húc mỉm cười, nhìn xoáy vào Phong Long:

– Khanh đừng học theo thói bợ đỡ, nịnh hót của đám triều thần già nua trong triều.

Phong Long chẳng lấy thế làm ngượng ngùng, hắn thẳng thắn đáp:

– Thần cũng đang học cách trở thành bề tôi đắc lực của Bệ hạ.

Chuyên Húc chỉ cười, không nói thêm. Phong Long và Hinh Duyệt vốn là anh em sinh đôi. Nếu chỉ xét bề ngoài thì thấy Phong Long là kẻ thô lỗ, thiếu nhạy bén, Hinh Duyệt là người thông minh, lanh lợi. Kỳ thực, Phong Long mới là kẻ khôn ngoan, hắn hiểu rõ khi nào có thể tiến một bước, khi nào nên lùi một bước. Hinh Duyệt không thấu hiểu điều đó, nàng không biết khi nào cần giữ chặt, khi nào phải buông bỏ.

Phong Long hỏi:

– Bệ hạ dự định khi nào quay về Thần Nông Sơn? Không phải thần có ý muốn đuổi người, mà vì nơi đây là chiến trường, thần lo cho sự an nguy của Bệ hạ.

Chuyên Húc nói:

– Ta định quay về từ lâu, nhưng ta linh cảm sắp có chuyện gì đó xảy ra, nên cứ muốn chờ thêm xem sao!

Nửa tháng sau, Phong Long nhận được thư mật, Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ của Cao Tân chấp thuận đầu hàng.

Phong Long vô cùng kinh ngạc, vội đem thư đến cho Chuyên Húc. Đọc xong thư, Chuyên Húc nói với Phong Long:

– Khanh hãy viết thư trả lời, tỏ ra cao ngạo một chút, bảo rằng khanh không tin bọn họ.

Phong Long viết thư trả lời theo lệnh của Chuyên Húc.

Mấy ngày sau, sứ giả đưa mật thư tới, đòi trao tận tay Phong Long.

Phong Long xin ý chỉ của Chuyên Húc, rồi mời sứ giả vào gặp.

Viên sứ giả bước vào lán trại của Phong Long, cúi chào theo nghi lễ.

Phong Long ngồi trên ghế cao, Chuyên Húc giả làm thị vệ, đứng sau lưng Phong Long. Theo lời dặn dò của Chuyên Húc, Phong Long cố ý diễn vẻ cao ngạo, lời nói lạnh lùng:

– Không phải ta đa nghi mà là chuyện này quá kỳ lạ, khiến người ta khó lòng tin được. Nếu quân đội Hiên Viên đã chiếm được một nửa giang sơn Cao Tân, ở vào thế thượng phong, thì việc Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ đến cầu hòa là hoàn toàn hợp tình hợp lý. Đằng này, quân ta vừa thua đau, Cao Tân chiếm thế thượng phong, hà cớ gì hai bộ lại hành động như vậy? Phàm những việc bất hợp lý thì đều xuất phát từ một âm mưu nào đó!

Viên sứ giả tháo bỏ mặt nạ, thì ra đó chính là đại trưởng lão tên Mão của Thường Hy Bộ. Hồi Phong Long còn trẻ, lúc đưa hắn đến học nghề rèn binh khí ở xưởng rèn của nhà Kim Thiên, ông nội hắn đã nhờ Mão trưởng lão giúp đỡ, vì Thường Hy Bộ và họ Xích Thủy có quan hệ thông gia với nhau. Luận về vai vế, thì Phong Long phải gọi Mão trưởng lão là ông.

Phong Long sững sờ, đứng bật dậy, hắn liếc mắt về phía Chuyên Húc, thấy Bệ hạ tỏ ý tán đồng, hắn mới vững dạ. Hắn nói:

– Ông Mão, sao ông lại tới đây? Mời ngồi, mời ngồi!

Mão trưởng lão rất hài lòng về thái độ khiêm cung, lễ phép của Phong Long, ông ta cười bảo:

– Chuyện này vô cùng quan trọng, cháu không tin cũng là dễ hiểu. Có những điều không tiện viết trong thư, vì muốn xóa mối ngờ vực trong cháu, nên ta mới phải đích thân tới đây.

Mão trưởng lão vừa nói vừa đưa mắt về phía Chuyên Húc và một thị vệ khác. Phong Long vờ như không thấy, hắn tỏ vẻ chân thành, nói:

– Sẽ không có bất cứ lời nào lọt ra khỏi lán trại này, vì vậy xin ông cứ nói thẳng!

Do dự một lát, Mão trưởng lão nói:

– Thường Hy Bộ và họ Xích Thủy vốn là thông gia của nhau từ những đời trước. Năm xưa, khi Thường Hy Bộ gặp nạn, chính cụ nội cháu đã thu nhận đệ tử của Thường Hy Bộ. Chắc hẳn cháu đã từng nghe kể về biến cố xảy đến với Thường Hy Bộ, nên cũng biết về ân oán giữa Thường Hy Bộ và Thanh Long Bộ.

– Cháu có nghe sơ sơ.

– Người vợ kết tóc se tơ của Tuấn Đế đời trước, Hoàng hậu đầu tiên của Cao Tân, cũng chính là mẹ ruột của Tuấn Đế bây giờ vốn là con gái của Thanh Long Bộ. Bà ấy qua đời sau khi sinh hạ Tuấn Đế. Hai người cô thông minh, kiều diễm của ta được tuyển vào cung và được Tuấn Đế đời trước rất mực sủng ái. Người cô lớn của ta được lập làm Hoàng hậu, sinh hạ bốn Hoàng tử. Cô út của ta sinh được hai Hoàng tử và hai Vương cơ. Hai Vương cơ làm dâu Bạch Hổ Bộ. Phi tần của hai vị Hoàng tử cũng là người của Bạch Hổ Bộ. Có lẽ vì hai người cô của ta được sủng ái rất mực, nên Thanh Long Bộ luôn lo sợ các cô của ta sẽ giết Tuấn Đế. Kể từ đó, mâu thuẫn giữa Thanh Long Bộ và Bạch Hổ Bộ ngày càng trở nên sâu sắc. Nhiều năm đã trôi qua, có lẽ nhiều người không tin, nhưng sự thật là Tuấn Đế đời trước không thương yêu Tuấn Đế bây giờ (người mà khi đó vẫn còn là Đại hoàng tử), ngài dành nhiều tình cảm cho Nhị hoàng tử Yến Long hơn. Người cô lớn của ta nói với cha ta, Tuấn Đế đã quyết định lập Nhị hoàng tử làm người kế ngôi. Nhưng bi kịch đột ngột xảy đến, chỉ trong một sớm một chiều, cả Nhị hoàng tử và Hoàng hậu đều bị giam vào địa lao xương rồng. Tuấn Đế đăng cơ. Mấy năm sau, Tuấn Đế đời trước băng hà một cách bí hiểm. Hai người cô của ta tự vẫn. Nhị hoàng tử bị đuổi ra khỏi Thần tộc, mất tăm mất tích. Năm vị Hoàng tử còn lại, người bị lưu đày, người bị giam cầm. Năm vị Hoàng tử không cam chịu, đã liên minh với với Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ dấy binh làm phản. Thiên hạ gọi đó là “loạn ngũ Vương”.

Ánh mắt Mão trưởng lão chất chứa nỗi bi thương:

– Sau đó, cả năm Hoàng tử đều mất mạng, vợ con họ cũng bị chém đầu.

Phong Long nói:

– Đó là việc đã xảy ra từ mấy trăm năm trước, Phong Long thật không hiểu việc đó có liên quan gì đến chuyến đi bí mật của ông hôm nay.

– Mấy trăm năm qua, ai nhìn vào cũng cho rằng địa vị của Tứ Bộ Cao Tân là bình đẳng, kỳ thực, Tuấn Đế chỉ tín nhiệm và ưu ái Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ. Tuấn Đế chỉ có một người con duy nhất là Vương cơ. Tính tình cô ta ương bướng, ngang ngạnh, lại chẳng tài cán gì, khó mà đảm đương trọng trách. Vậy mà, dưới sự cổ vũ của Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ, Tuấn Đế đã có ý định lập Vương cơ làm người nối ngôi.

Phong Long nhìn Mão trưởng lão đầy vẻ băn khoăn, khó hiểu.

Mão trưởng lão tức giận nói:

– Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ đã toan tính rất kỹ lưỡng! Bọn họ muốn Nhục Thu trở thành phu quân của Vương cơ. Vương cơ bất tài, sức khỏe của Bệ hạ thì ngày càng giảm sút. Sau khi ngài qua đời, Nhục Thu chắc chắn sẽ nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ không thể ngồi chờ chết, để Cao Tân rơi vào tay Thanh Long Bộ. Chúng ta phải có sách lược đối phó kịp thời.

Phong Long nói:

– Cháu chưa nghe phong thanh được chuyện gì, chứng tỏ Tuấn Đế vẫn chưa quyết định. Ông hoàn toàn có thể tập trung triều thần trong triều cùng lên tiếng phản đối!

Mão trưởng lão nói:

– Chúng ta đã dâng tấu chương bày tỏ sự phản đối và được sự ủng hộ của đông đảo triều thần. Nhưng tên Nhục Thu đánh thắng hết trận này đến trận khác, tiếng tăm của hắn lừng danh thiên hạ, người người ủng hộ hắn. Giờ đây, không chỉ các đại thần trong triều đều hết lòng ủng hộ Nhục Thu kết duyên cùng Vương cơ, mà ngay cả lê dân trăm họ Cao Tân cũng mong muốn điều đó. Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ đành lực bất tòng tâm!

Đến lúc này thì Phong Long đã hoàn toàn hiểu rõ vấn đề. Hiên Viên thua thảm, vậy mà Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ vẫn đến cầu hòa, tỏ ý muốn quy hàng họ. Phong Long nói:

– Thưa ông, cháu xin được nói thẳng, tuy thực lực của Bạch Hổ và Thường Hy không còn được như trước kia, nhưng vẫn là hai Bộ lớn của Cao Tân. Nếu hai Bộ này quy hàng Hiên Viên, chỉ e triều đình Cao Tân sẽ lung lay. Ý ông thế nào?

Mão trưởng lão chần chừ không đáp, Phong Long tiếp tục:

– Xin ông cứ nói thẳng, có vậy Phong Long mới nắm rõ tình hình mà bẩm báo với Bệ hạ và xin người quyết định.

Nghe Phong Long tỏ ý rằng hắn chỉ là người truyền tin, không phải người có quyền quyết định thì Mão trưởng lão cảm thấy yên tâm hơn. Bởi vì cái ông ta muốn, Phong Long không đủ tầm để quyết định. Mão trưởng lão cắn răng, nói:

– Chúng ta sẽ giúp Hắc Đế Bệ hạ chiếm Cao Tân, đổi lại, Bệ hạ phải phong tước vị Vương gia cho người đứng đầu của hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, đồng thời cắt toàn bộ đất đai của Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ cho chúng ta.

Mặc dù đã có sự chuẩn bị về tâm lý, nhưng Phong Long vẫn không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ muốn tống khứ Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ, thậm chí toàn bộ Hoàng tộc Cao Tân ra khỏi mảnh đất này, chả trách, họ sẵn sàng đầu hàng Hiên Viên!

Mất một lúc để trấn tĩnh, Phong Long nói:

– Việc này vô cùng quan trọng, cháu phải lập tức mật báo với Bệ hạ. Trong vòng năm ngày sẽ trả lời ông.

Biết được chính xác thời gian có câu trả lời, Mão trưởng lão cảm thấy yên tâm hơn. Nhưng ông ta nhìn hai thị vệ phía sau Phong Long bằng ánh mắt đằng đằng sát khí.

Phong Long hiểu những lời Mão trưởng lão vừa nói can hệ đến vận mạng của cả hai Bộ, hắn lập tức vỗ về ông ta:

– Thực không dám giấu, hai thị vệ này vốn là người Bệ hạ cử đến. Dù cháu có muốn giấu họ thì Bệ hạ chắc chắn cũng sẽ nói với họ.

Biết họ là tâm phúc của Hắc Đế, Mão trưởng lão mới cho qua, ông ta đeo mặt nạ, ra về. Trước khi đi, vẫn ân cần dặn dò Phong Long:

– Khi nào nhận được hồi âm từ phía Bệ hạ, phải lập tức thông báo với ta.

Phong Long nhận lời. Hắn tiễn Mão trưởng lão ra đến cổng doanh trại. Mão trưởng lão không muốn gây sự chú ý, liền bảo:

– Đại tướng quân tiễn ta đến đây được rồi!

Mão trưởng lão đã đi khuất, Phong Long quay lại nhìn Chuyên Húc, hắn không giấu nổi vẻ xúc động. Chuyên Húc vẫn bình thản ngồi vào vị trí Phong Long ngồi khi nãy, tay chống cằm, trầm tư suy nghĩ.

Phong Long không dám làm phiền, cung kính đứng bên.

Một lúc sau, Chuyên Húc lên tiếng:

– Bản đồ!

Phong Long lập tức xiết chặt tay, tập trung linh lực, trong lán xuất hiện một tấm bản đồ màu lam ngưng tụ từ thủy linh. Núi sông trải rộng sống động. Chuyên Húc chăm chú quan sát bản đồ địa hình Cao Tân, hỏi:

– Khanh thấy thế nào?

Phong Long hào hứng:

– Lời quá! Nếu là Cảnh, chắc chắn huynh ấy sẽ nói, chúng ta vừa trúng mánh lớn! Giả sử chúng ta không muốn dựa vào Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ, thì sau khi Hiên Viên phải trải qua muôn vàn gian khổ mới đánh chiếm được Cao Tân, Bệ hạ vẫn phải luận công ban thưởng, phong đất, phong tước cho các gia tộc ở Cao Tân. Phong đất ban tước cho ai cũng thế cả. Chỉ cần Thường Hy và Bạch Hổ thực lòng muốn quy thuận Hiên Viên, chúng ta phong hầu cho họ cũng được! Việc này ích nước lợi dân. Điều đáng tiếc duy nhất là thần sẽ không còn cơ hội được tham gia nhiều trận đánh!

Chuyên Húc nói:

– Nếu ta nhận lời họ, thì sẽ không có phần của khanh đâu.

Phong Long cười khì:

– Sao lại không có!

Hắn trỏ tay vào bản đồ:

– Chỗ này, chỗ này và cả chỗ này nữa… đều do thần đánh chiếm được, vừa hay những mảnh đất này liền kề vùng Xích Thủy. Bệ hạ phong cho thần là tốt nhất, thần cũng chỉ cần bao nhiêu đó thôi, không dám nhận nhiều hơn.

Chuyên Húc mỉm cười, lườm Phong Long:

– Đó đều là những mảnh đất đẹp.

Phong Long làu bàu:

– Nếu không đẹp, Bệ hạ cũng không thể ban cho thần, vì nếu làm vậy, người sẽ cảm thấy mất thể diện!

Chuyên Húc tươi cười, không nói gì. Chuyên Húc vốn không e ngại chuyện bề tôi của hắn đòi hỏi quyền lợi. Thực ra, hắn rất thích thái độ thẳng thắn, bộc trực của Phong Long. Người trong thiên hạ phải được chung hưởng thiên hạ của họ chứ. Những vùng đất tốt thì nên giao cho những người tài giỏi cai quản, để nó trở nên ngày càng phồn thịnh hơn, như thế cũng là làm lợi cho hắn.

Phong Long thăm dò:

– Bệ hạ có định nhận lời không?

– Không cần phải vội, chờ thêm năm ngày nữa.

Phong Long lúc này mới hiểu. Dù Chuyên Húc sẵn sàng đồng ý, cũng nhất định phải chờ đủ năm ngày. Chờ cho tới khi bọn họ đứng ngồi không yên, Hiên Viên có thể thừa dịp mà đưa thêm một vài điều kiện. Phong Long mừng thầm vì ngay từ đầu hắn đã chọn đứng về phía Chuyên Húc.

Năm ngày sau, Phong Long báo tin cho Mão trưởng lão, rằng Chuyên Húc đã có hồi âm, nhưng yêu cầu người đứng đầu của hai bộ phải trực tiếp đến để bàn bạc.

Mão trưởng lão không vui cho lắm, nhưng vì thái độ của Phong Long rất mực thành khẩn, hắn lại nhấn mạnh nhiều lần rằng việc này vô cùng quan trọng, nên cần phải hết sức thận trọng. Mão trưởng lão thấy Phong Long nói có lý, đổi lại là ông ta, có lẽ cũng sẽ hành xử như vậy.

Dưới sự sắp xếp của Phong Long và những người đứng đầu hai bộ bí mật tới nơi hẹn.

Khi nhận ra người tiếp đón họ không phải Phong Long mà là Hắc Đế, thì họ vừa sợ hãi vừa vui mừng. Họ không ngờ Chuyên Húc bằng lòng vượt ngàn dặm xa xôi, đến gặp họ, tiếp đón họ như thượng khách. Điều này khiến họ vừa bất ngờ, hoảng sợ, vừa vững dạ, và quyết chí đi theo Chuyên Húc.

Sau khi nghị bàn xong, Chuyên Húc chấp thuận điều kiện họ đưa ra, ngày sau sẽ phong Vương cho người đứng đầu hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, cháu con của hai bộ sẽ được an cư lạc nghiệp trên mảnh đất này đời đời kiếp kiếp. Hai bộ cũng cam kết không kết thông gia với nhau, vợ cả của người con trưởng các đời phải được chọn từ các dòng họ lớn của Hiên Viên.

Sau khi hiệp ước được kí kết, người đứng đầu hai bộ và các vị trưởng lão đã thực hiện nghi thức quỳ lạy trước Chuyên Húc, tỏ rõ từ nay hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ quy thuận Hiên Viên, hiếu trung với Chuyên Húc.

Mão trưởng lão chủ động đề nghị, hai bộ lập tức xuất quân, trong ứng ngoài hợp, kết hợp với đại quân của Phong Long, tạo thành gọng kìm kẹp chặt và bóp nát đại quân của Nhục Thu.

Chuyên Húc đã khôn khéo từ chối đề nghị của Mão trưởng lão.

Mão trưởng lão thắc mắc, không biết hai bộ nên phối hợp với quân đội Hiên Viên thế nào?

Phong Long đáp:

– Các vị chỉ cần bố cáo thiên hạ: Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ tách khỏi Cao Tân, quy thuận Hiên Viên, từ nay thề hiếu trung với Hắc Đế.

Người đứng đầu hai bộ tỏ ra vô cùng kinh ngạc:

– Chỉ vậy thôi sao?

Bọn họ vốn cho rằng, một khi họ chấp thuận quy thuận Hiên Viên, chắc chắn Hắc Đế sẽ buộc họ phải xuất binh. Một mặt kiểm tra lòng trung thành của họ, mặt khác, vì họ không phải quân lính Hiên Viên, nên dù tổn thất thế nào, Hắc Đế cũng chẳng buồn bận tâm. Vì đinh ninh Hắc Đế sẽ yêu cầu như vậy, nên họ mới chủ động đề nghị phối hợp cùng tấn công quân đội của Nhục Thu.

Chuyên Húc nói:

– Chỉ cần các vị làm như vậy là đủ. Tuy rằng kể từ lúc này, các vị đã trở thành người Hiên Viên, nhưng tổ tiên của các tướng lĩnh và binh sỹ hai bộ hàng bao đời nay đều sinh ra và lớn lên trên đất Cao Tân. Nếu ra lệnh cho họ chĩa mũi gươm vào chính những người dân quê mình, chỉ e họ không bằng lòng. Vì thế, ta nghĩ rằng, nên cố gắng hạn chế tối đa việc giao tranh!

Người đứng đầu hai bộ và các vị trưởng lão vừa cảm kích vừa kinh hãi, họ đồng thanh:

– Thưa vâng! Chúng thần xin phép quay về. Hai bộ sẽ cùng bố cáo thiên hạ, từ nay về sau, Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ đều thuộc về Hiên Viên.

Chuyên Húc nói:

– Ta chờ tin tốt lành của các vị.

Ngay hôm sau, Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ tuyên bố tách khỏi Cao Tân, quy thuận Hiên Viên.

Tin tức truyền đi nhanh chóng, khiến cả Đại hoang được phen chấn động. Khi tổ tiên của dòng họ Cao Tân còn chưa lập ra nước Cao Tân, Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ đã đi theo họ Cao Tân. Đến nay, người ta vẫn lưu truyền câu chuyện cảm động về họ. Vậy mà, tình nghĩa mấy vạn năm nay đã bị hủy hoại chỉ trong một sớm một chiều.

Các dòng họ trong Đại hoang vừa xuýt xoa, than thở, vừa âm thầm theo dõi phản ứng của Tuấn Đế. Về lý, Tuấn Đế buộc phải xuất quân trừng phạt Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ. Nhưng ba mươi vạn đại quân của Hắc Đế đang rình rập ở phía Bắc Cao Tân. Nếu Tuấn Đế điều binh thảo phạt các bộ kia, Hắc Đế sẽ lập tức đưa quân xuống phía Nam. Nếu Tuấn Đế án binh bất động, điều đó có nghĩa, ngài đã thừa nhận từ nay trở về sau, Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ không thuộc về Cao Tân nữa.

Chuyên Húc cũng đang đợi phản ứng của Tuấn Đế. Hắn ở lại doanh trại quân đội đã lâu, không thể tiếp tục che giấu hành tung được nữa. Hiện Thần Nông Sơn đã có Hoàng Đế cai quản, chắc chắn sẽ không xảy ra biến động khôn lường. Chuyên Húc quyết định trống giong cờ mở để lộ hành tung của mình. Mục đích là để các đại thần của cả Hiên Viên và Cao Tân đều biết, hắn đã đích thân ra tuyến đầu trận chiến, trực tiếp giám sát và chỉ huy quân đội. Điều đó sẽ tạo nên sự uy hiếp mạnh mẽ đối với Cao Tân, và nghiêng cán cân tất thắng vế phía quân đội Hiên Viên.

Hai ngày sau, Tuấn Đế tuyên bố trừng phạt Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ. Quân đội Nhục Thu án binh bất động. Tuấn Đế quyết định đích thân cầm quân ra trận.

Và bây giờ, đến lượt bàn dân thiên hạ chờ đợi phản ứng của Hắc Đế. Tuấn Đế vẫn chưa xuất chinh, nhưng tất cả mọi người đều tin rằng, Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ sẽ bại trận. Hai Bộ đó đã tuyên bố tách khỏi Cao Tân, quy thuận Hiên Viên, vì vậy Hắc Đế không thể không cứu nguy cho con dân của mình. Bằng không, người trong thiên hạ sẽ chẳng ai có thể yên lòng mà quy thuận Hiên Viên nữa.

Một cuộc đại chiến, ảnh hưởng đến toàn Đại hoang sắp xảy ra, khiến người người lo lắng, nín thở chờ đợi.

Chuyên Húc chau mày ngẫm ngợi, hắn không cho phép bất cứ ai làm phiền mình. Hắn trầm tư, nhìn đăm đăm về phía Ngũ Thần Sơn.

Đúng vào thời khắc căng thẳng ấy, đột nhiên có tin tức truyền tới, quân đội Ngũ Thần Sơn đổi chủ soái.

Thì ra, đúng lúc Tuấn Đế mặc áo giáp, thúc tọa kỵ bay đi thì ngài bỗng chao đảo, và ngã xuống. Lúc này tướng sỹ Cao Tân mới phát hiện ra vết thương ở một bên chân của Tuấn Đế, vết thương khiến ngài đi lại rất khó khăn. Rõ ràng ngài không đủ khỏe để dẫn quân ra trận.

Vương cơ Cao Tân Ức khoác áo giáp, tuyên bố thay cha xuất chinh.

Dân chúng Cao Tân căm hận Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ phần vì họ yêu kính Tuấn Đế và thương ngài lâm bệnh nặng vẫn phải mặc áo giáp ra trận, thảo phạt cuộc phản loạn kia; phần vì xót Vương cơ liễu yếu đào tơ phải thay cha ra trận, bất chấp sự sống chết của bản thân. Nhưng những người đứng đầu tất cả các dòng họ đều cho rằng, chỉ khi mặt trời mọc ở Ngu Uyên và lặn ở Thang Cốc thì Vương cơ Cao Tân mới có thể đánh bại Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ.

Có lẽ Chuyên Húc cũng nghĩ như vậy, nên hắn vẫn án binh bất động.

Vì Chuyên Húc án binh bất động, nên Nhục Thu cũng không có bất cứ động thái gì.

Tiểu Yêu không bận tâm ai thắng ai thua, vừa nghe tin Tuấn Đế ngã bệnh, nàng muốn chạy đến Ngũ Thần Sơn ngay lập tức, bất chấp Tuấn Đế có muốn gặp nàng hay không. Nàng quyết phải vào thăm người.

Chuyên Húc lựa lời khuyên:

Muội đừng lo lắng quá. Muội không thấy màn kịch con gái thay cha ra trận có gì đó rất quen thuộc hay sao? A Niệm được sư phụ nuông chiều từ nhỏ đến lớn, sao người có thể để muội ấy cầm quân ra trận!

Tiểu Yêu nổi giận:

– Muội mặc kệ! Muội không quan tâm những toan tính của huynh, cũng không quan tâm đến mưu kế của ông ấy. Vương đồ bá nghiệp của hai người không liên quan đến muội! Muội chỉ biết, ông ấy từng nuôi dưỡng, thương yêu, che chở, bảo vệ muội. Chuyên Húc, muội không ngăn được huynh tấn công Cao Tân, thì huynh cũng đừng mong có thể ngăn cản muội đi thăm ông ấy!

Tiểu Yêu trừng mắt nhìn Chuyên Húc, như thể sẵn sàng liều mạng với hắn.

Chuyên Húc thở dài:

– Thôi được, thôi được, ta không can thiệp nữa, muội cứ đi đi!

Hắn nhìn Cảnh, Cảnh nói:

– Xin Bệ hạ yên tâm, thần sẽ đi cùng nàng.

Chuyên Húc trông theo Tiểu Yêu ngồi lên tọa kỵ của Cảnh, cả hai cưỡi Bạch Hạc, bay vút lên tầng mây, bóng họ xa dần, xa dần. Không biết vì sao, Chuyên Húc cảm thấy buồn bã vô cùng, và thế là, hắn cũng nhảy lên tọa kỵ, bay vút vào không trung, đuổi theo hai người.

Khi tọa kỵ của hắn bắt kịp Tiểu Yêu, hắn mới chợt nhận ra mình thật thiếu bình tĩnh, nhưng đành vậy!

Tiểu Yêu kinh ngạc nhìn Chuyên Húc:

Huynh đi tiễn muội đúng không? Huynh không định cùng muội đến Ngũ Thần Sơn – đấy chứ?

Chuyên húc nghiêm mặt nói:

– Chính thế.

– Huynh nên quay về thì hơn!

Hai nước đang giao tranh, Tiểu Yêu không đoán được tâm tư của Tuấn Đế, nên nàng lo lắng cho an nguy của Chuyên Húc.

– Thôi đi.

Giọng nói tuy gay gắt, nhưng vẻ mặt Chuyên Húc lại rất bình thản.

– Nếu vậy huynh hãy thay đổi dung mạo, mọi người trong Thừa Ân Cung đều sẽ nhận ra huynh.

– Muội bớt nói đi, ta biết phải làm gì.

Tuy đây là hành động bốc đồng, nhưng Chuyên Húc tin mình sẽ quay về an toàn. Biết Tiểu Yêu lo lắng cho mình, hắn thấy tâm trạng thoải mái hơn rất nhiều.

Đến Ngũ Thần Sơn, Tiểu Yêu không dám xuất đầu lộ diện, Chuyên Húc lại càng không. Vì vậy Cảnh là người đại diện xin vào gặp Tuấn Đế.

Thân phận tộc trưởng tộc Đồ Sơn quả nhiên hữu dụng, dù Tuấn Đế lâm bệnh nặng, người hầu vẫn lập tức vào bẩm báo. Không lâu sau, quan nội thị đánh xe mây tới đón họ.

Đến nước này thì Tiểu Yêu sẵn sàng đối mặt với tất cả. Bằng mọi giá, nàng sẽ không để Chuyên Húc xảy ra chuyện. Nàng nghĩ, cứ để Chuyên Húc gặp Tuấn Đế cũng tốt.

Quan nội thị dẫn đường đưa ba người đến nơi Tuấn Đế nghỉ ngơi là điện Tử Hinh. Tiểu Yêu bồn chồn trong dạ. Tuấn Đế thường xử lý chính sự và tiếp kiến các quan lại trong triều trên điện Triêu Huy. Nhưng có lẽ do tình trạng sức khỏe không được tốt, người mới phải gặp họ tại điện Tử Hinh.

Bước vào gian chính điện, nàng thấy Tuấn Đế đang nằm tựa trên giường ngọc, mái tóc bạc phơ, nếp nhăn vằn vện trên trán và đuôi mắt. Tiểu Yêu và Cảnh không quá đỗi ngạc nhiên, vì dạo trước, khi chia tay ở Xích Thủy, Tuấn Đế đã bị trọng thương. Chuyên Húc thì khác, hắn chưa từng gặp lại Tuấn Đế kể từ ngày cùng Tiểu Yêu rời khỏi Cao Tân. Tuy Tiểu Yêu có nói với hắn ngài bị thương, A Niệm cũng kể rằng sức khỏe củaTuấn Đế ngày một xấu đi, nhưng ký ức của Chuyên Húc về ngài vẫn dừng lại ở một trăm năm trước. Khi ấy ngài vẫn uy nghiêm tựa đỉnh núi cao vời vợi, khiến người ta không khỏi kính ngưỡng. Nhưng trước mắt hắn lúc này, Tuấn Đế giống như một ngọn núi vừa sụp đổ.

Chuyên Húc không tin nổi vào mắt mình, hắn nhìn ngài trân trân, quên hết cả lễ nghi.

Tiểu Yêu đang cố nghĩ cách che giấu, chợt thấy Tuấn Đế phất tay, ra lệnh cho tất cả đám người hầu ra ngoài. Trong gian điện chỉ còn lại Tuấn Đế, Tiểu Yêu, Cảnh và Chuyên Húc. Tuấn Đế chăm chú nhìn Chuyên Húc, ngài cất tiếng gọi:

– Chuyên Húc!

– Vâng.

Chuyên Húc bước về phía Tuấn Đế, vừa bước vừa hóa phép khôi phục lại dung mạo thực sự.

Tuấn Đế cười, bảo:

– Ta đang nghĩ xem làm thế nào ép con đến gặp ta, không ngờ con đã chủ động đến đây.

Chuyên Húc quỳ xuống trước mặt Tuấn Đế:

– Sư phụ, vì sao lại như vậy?

Sư phụ hắn bị trọng thương, nhưng ngài chẳng buồn gọi thị vệ, trong gian điện này, ngài vẫn coi hắn là Chuyên Húc, không hề có ý đề phòng. Và hắn cũng chỉ là đồ đệ của ngài.

Tuấn Đế cười, bảo:

– Con đã trưởng thành, nên ta phải già đi là đúng rồi, sớm muộn cũng có ngày ta phải ra đi.

Sống mũi Chuyên Húc cay xè, mắt hắn ngân ngấn nước. Hắn cúi đầu, lấy lại vẻ bình tĩnh, rồi mới ngẩng lên, mỉm cười, nói:

– Y thuật của Tiểu Yêu đã tiến bộ rất nhiều, có muội ấy ở đây, chắc chắn sư phụ sẽ khỏe lên thôi.

Tiểu Yêu quỳ xuống cạnh Chuyên Húc, thưa:

– Bệ hạ, xin cho phép tiểu nữ bắt mạch cho người.

Tuấn Đế chìa tay về phía Tiểu Yêu. Bắt mặt xong, nàng kiểm tra vết thương trên chân ngài, rồi nói:

– Tuy ngày đó, lúc ở trong hoang mạc phía Bắc Xích Thủy Bệ hạ bị thương nặng, nhưng Cao Tân không thiếu danh y, lại nhiều linh dược, chỉ cần Bệ hạ tĩnh tâm dưỡng bệnh thì đến hôm nay bệnh tình của người nếu không khỏi hẳn, cũng phải được chừng bảy, tám phần. Nhưng Bệ hạ lúc nào cũng ưu tư lo phiền, ngày lao lực đêm lao tâm, chẳng thể yên giấc. Vậy nên, bệnh tình của người không những không thuyên giảm, mà ngày càng trầm trọng. Nếu cứ tiếp tục thế này, chỉ e…

Tiểu Yêu nghẹn ngào, không thể nói tiếp.

Chuyên Húc thất kinh, hỏi:

– Ngày lao lực đêm lao tâm ư? Tiểu Yêu nói có đúng không, thưa sư phụ?

Tuấn Đế thinh lặng, ngài có thể che mắt toàn thiên hạ, nhưng không thể giấu thầy thuốc cao minh. Ngài có thể kiểm soát cảm xúc và biểu cảm của mình, nhưng sức khỏe của ngài đã phản ánh trọn vẹn nội tâm của ngài.

Chuyên Húc nói:

– Sư phụ, con có thể hiểu vì sao người lao lực, nhưng vì sao người còn lao tâm?

Tuấn Đế đáp:

– Chuyên Húc, con sẽ hiểu thôi. Khi con ngồi vào ngai vị ấy, thì thậm chí con không được phép đau lòng. Không phải vì chúng ta không biết đau lòng là gì, mà vì mọi cảm xúc đều phải được kìm nén tận đáy lòng.

Tuấn Đế cười mỉa mai:

– Thật tệ là sau khi bị thương, thì mọi nỗi đau ta khổ công cất giấu cả đời đã phơi bày hết thảy, hệt như loài ngựa bất kham bị tuột dây cương, ta chẳng thể khống chế nổi.

Ánh mắt Chuyên Húc chất chứa bi thương vì thấu hiểu. Hắn khẽ nói:

– Con hiểu.

Chừng như vô cùng mệt mỏi, Tuấn Đế khép mắt lại. Khi cả Chuyên Húc và Tiểu Yêu đều cho rằng ngài đã chìm sâu vào giấc ngủ, thì giọng nói của ngài bất chợt vang lên:

– Đêm nào ta cũng nằm mơ, những giấc mơ vụn vặt, những hình ảnh chắp nối. Có lúc ta mơ thấy mình là một anh thợ rèn, Thanh Dương cười thật tươi bước tới. Có lúc ta mơ thấy Vân Trạch và Xương Ý, chúng vẫn là những chú nhóc, giống như con hồi mới đến Cao Tân vậy. Chúng chào ta lanh lảnh: Anh Thiếu Hạo. Một đứa đòi ta dạy kiếm pháp, một đứa nài ta dạy chơi đàn. Có lúc ta mơ thấy Phụ vương của ta. Ngày ta chào đời cũng là ngày mẫu hậu qua đời. Phụ vương sợ ta không biết dung mạo của mẹ mình ra sao, người thường vẽ chân dung mẫu hậu cho ta ngắm. Một đêm nọ, ta mơ thấy cha ôm ta vào lòng, dạy ta nhận biết các loại hoa đào. Rồi ta đột ngột tỉnh giấc, sau đó không sao chợp mắt nổi. Ta ngồi ở đầu giường, nhẩm đọc tên các loài hoa đào: Đào hồng, đào trắng, đào mỹ nhân… Hơn một trăm tên gọi, ta cứ ngỡ mình đã quên sạch, nào ngờ vẫn ghi nhớ rành rẽ.

Tuấn Đế thì thào:

– Những giấc mơ đó thật đẹp, thật yên bình, khiến ta không muốn tỉnh thức, vì ta biết, nếu mở mắt sẽ chỉ thấy hiện thực thảm khốc. Giấc mơ và đời thực, chẳng cách nhau là bao, vậy mà có cảm giác như bãi bể nương dâu, vật đổi sao dời. Cũng có lúc, cả đêm ta gặp ác mộng. Ta mơ thấy Thanh Dương chết trong tay mình, hắn trừng mắt nhìn ta giận dữ, hắn nhiếc mắng ta là kẻ không biết giữ lời. Ta mơ thấy Xương Ý kêu gào thê thiết trong biển lửa: Thiếu Hạo, vì sao không cứu đệ? Ta mơ thấy máu lênh láng khắp mặt đất, năm cái đầu của năm cậu em trai bày la liệt thành vòng tròn. Ta đứng ở chính giữa. Bọn họ nhìn ta và cười. Ta mơ thấy Phụ vương tươi cười đẩy ta ngồi vào ngai vàng. Người vừa nói: Nếu con muốn, ta sẽ cho con, vừa lột bỏ mũ miện và hoàng bào, trao cho ta. Cha cào rách da thịt mình, máu tươi loang khắp người, người đưa cho ta từng miếng thịt của người, mãi cho tới khi người biến thành một bộ xương trắng, người vẫn chìa cánh tay trơ xương về phía ta, và lặp lại câu hỏi: Còn muốn nữa không, ta sẽ cho con.

Chuyên Húc, Tiểu Yêu và Cảnh đều nín lặng lắng nghe, rùng mình sợ hãi, như thể sắp có một bộ xương trắng bước ra từ gian chính điện của cung Thừa Ân, trên tay là những miếng thịt đẫm máu, bộ xương ấy vừa cười vừa hỏi: Có muốn không, ta cho cả đó.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 8: Nặng tình trong vỏ bọc vô tình

Chuyên Húc đã nhiều lần kết hôn, nhưng Tiểu Yêu chưa một lần chọn quà mừng cho hắn. Lần nào hắn cũng giúp nàng chuẩn bị rồi sai Miêu Phủ thay mặt nàng đem quà tới. Nhiều khi, Tiểu Yêu không hề biết đó là mòn quà gì.

Nhưng đây là hôn lễ của Chuyên Húc và A Niệm, Tiểu Yêu muốn tự tay chuẩn bị quà mừng cho hai người, nàng cầu mong họ được vui vẻ, hạnh phúc. Tuy nàng hiểu, Chuyên Húc có trong tay mọi thứ, chỉ thiếu những hạnh phúc giản đơn, nhưng nàng vẫn hy vọng A Niệm sẽ mang đến niềm vui cho Chuyên Húc, nhiều như niềm vui hắn mang đến cho A Niệm. Bởi vì, A Niệm không giống những phụ nữ khác.

Đêm trước ngày cử hành hôn lễ, Tiểu Yêu đang kiểm tra lần cuối quà mừng đám cưới ngày mai, thì Chuyên Húc bước vào.

Tiểu Yêu dang rộng hai tay, lấy thân mình che kín món quà:

– Không được nhìn, không được nhìn! Quà này, huynh phải chờ để cùng mở với A Niệm.

Chuyên Húc vốn chẳng hứng thú với món quà đó, hắn không buồn liếc nhìn. Hắn kéo tay Tiểu Yêu đi ra ngoài:

– Đi dạo quanh vườn Y Thanh với ta một lát.

Tiểu Yêu tủi thân:

– Huynh chẳng thèm hỏi muội tặng quà gì.

– Đúng vậy, ta không quan tâm, vì ta không cần!

Chuyên Húc rảo bước rất nhanh, Tiểu Yêu phải co cẳng chạy mới theo kịp hắn. Mãi đến khi vào vườn Y Thanh, hắn mới bước chậm lại. Tiểu Yêu nghiêng đầu nhìn hắn:

– Huynh uống rượu à? Không say đấy chứ?

– Không.

Chuyên Húc cười lạnh lùng, mai mỉa:

– Hôn lễ ngày mai không hề đơn giản, đó là lễ thành hôn của Hắc Đế Hiên Viên và Vương cơ Cao Tân. Sẽ có hàng triệu binh lính Cao Tân tập trung bên trong lãnh thổ Cao Tân và khu vực biên giới hai nước. Một ngày quan trọng như vậy, ta không được phép say!

Tiểu Yêu băn khoăn nhìn Chuyên Húc:

– Muội cứ nghĩ huynh cưới được A Niệm thì sẽ vui hơn một chút. Lẽ nào, trong lòng huynh, A Niệm cũng chẳng khác những người phụ nữ trên đỉnh Tử Kim?

– A Niệm không giống họ! Nhưng sự khác biệt đó không khiến ta muốn cưới muội ấy.

Chuyên Húc phất tay, tung một cú đấm xuống mặt nước, cột sóng trỗi cao, cuồn cuộn, bọt nước tung tóe.

Trước kia, Chuyên Húc cũng thường không vui vẻ trước mỗi cuộc hôn nhân, nhưng hắn rất biết kìm chế cảm xúc của mình, vậy mà lần này, hắn đã không kiểm soát nổi. Tiểu Yêu hỏi:

– Huynh không muốn thì vì sao vẫn nhận lời?

Chuyên Húc thình lình quay lại, nhìn xoáy vào Tiểu Yêu, nổi giận bừng bừng:

– Vì sao ta phải nhận lời ư? Tất cả mọi người đều cho rằng ta nên nhận lời đấy thôi! Muội đã bao giờ để tâm xem ta mong muốn điều gì hay chưa? Điều mà muội quan tâm chỉ là: A Niệm muốn làm vợ ta! Muội nghĩ rằng, dù sao ta cũng đã có rất nhiều phi tần, thêm A Niệm cũng không sao!

Tiểu Yêu nổi giận:

– Không phải thế chắc? Đỉnh Tử Kim có chừng ấy phụ nữ, thêm một người nữa thì đã sao? Năm xưa, muội thấy huynh hân hoan đón rước Hinh Duyệt kia mà, so với cô ấy, A Niệm có gì thua kém nào? Những thứ A Niệm mang lại cho huynh ít hơn Hinh Duyệt chắc? Muội ấy đã dâng tặng huynh cả một Vương quốc Cao Tân thái bình, yên ổn!

Mặt mày biến sắc, khuôn ngực Chuyên Húc phập phồng, hắn dồn bước về phía Tiểu Yêu:

– Ta hân hoan đón rước Hinh Duyệt khi nào? Muội nói đi, ta hân hoan đón rước cô ấy khi nào?

Tiểu Yêu lùi lại. Năm đó, nàng bỏ về Cao Tân trước khi hôn lễ của Chuyên Húc được cử hành, bởi vậy, nàng không được tận mắt chứng kiến lễ thành hôn của hắn với Hinh Duyệt. Tiểu Yêu đuối lý, nhưng vẫn ngoan cố:

– Dạo đó ở Cao Tân, có quán trà quán rượu nào không bàn tán xôn xao về hôn lễ của huynh. Ai nấy đều xuýt xoa về hôn lễ xa hoa, náo nhiệt của huynh, ai nấy đều biết huynh hân hoan, vui sướng biết nhường nào!

Tiểu Yêu đã lùi sát thanh lan can trong đình hóng gió, không còn khoảng trống nào để lùi tiếp nữa. Nhưng Chuyên Húc chưa chịu buông tha cho nàng, hắn vẫn tiến bước. Tiểu Yêu thu mình trên chiếc ghế dài, dán lưng vào lan can:

– Chuyên Húc, huynh chớ mượn rượu làm càn! Có giỏi thì ngày mai thể hiện nỗi bức xúc trước toàn thể quan khách trong Đại hoang và triều thần hai nước!

Chuyên Húc chống hai tay xuống thanh lan can, giam Tiểu Yêu trong vòng tay hắn. Hắn cúi xuống, ghé sát mặt Tiểu Yêu, dằn từng chữ:

– Muội nghe đây, mỗi lần cử hành hôn lễ, ta đều vô cùng buồn chán. Nhất là khi thành hôn với Hinh Duyệt, ta đã rất căm giận bản thân mình, và cả muội nữa!

Tiểu Yêu ngửa đầu ra sau, chuẩn bị tung cước đạp Chuyên Húc:

– Muội nói cho mà biết, huynh còn mượn rượu làm càn là muội không nể nang nữa đâu!

Chuyên Húc nhìn Tiểu Yêu trân trân, hắn từ từ cúi thấp đầu. Tiểu Yêu trợn trừng hai mắt:

– Muội đạp thật đấy!

Khi bờ môi Chuyên Húc sắp chạm vào Tiểu Yêu, hắn đột ngột ngoảnh mặt sang bên, gục đầu xuống vai nàng, thở hổn hển. Bên tai nàng vang lên nhịp thở gấp gáp, bấn loạn của hắn.

Tiểu Yêu không dám cử động, nàng dịu giọng hỏi:

– Chuyên Húc, rốt cuộc huynh làm sao vậy?

Chuyên Húc ngẩng đầu, hắn đặt hai tay lên đầu Tiểu Yêu, vò rối tóc nàng, sau đó ngồi xuống cạnh nàng:

– Muội nói phải lắm, ta thật bạc nhược! Ngày mai, ta sẽ khiến cả thiên hạ được thấy ta vui sướng, hân hoan đến nhường nào!

Nếu hắn đủ bản lĩnh, thì năm xưa đã không nhường Tiểu Yêu cho Đồ Sơn Cảnh và Xích Thủy Phong Long, để đổi lấy sự hỗ trợ của bọn họ.

Tiểu Yêu đang chỉnh trang đầu tóc, nghe thấy vậy liền quay sang nhìn Chuyên Húc. Nhưng Chuyên Húc đã quay mặt ra phía ngoài đình hóng gió, nên nàng không thấy rõ biểu cảm trên gương mặt hắn. Tiểu Yêu gõ gõ đầu ngón tay lên vai Chuyên Húc:

– Vì sao huynh tức giận như vậy? Trước đây, muội có thể cảm nhận và thấu hiểu những tâm sự của huynh, nhưng bây giờ thì không. Thôi được rồi, muội thừa nhận muội chỉ lo cho A Niệm, không nghĩ tới huynh. Nhưng muội nghĩ rằng… đối với huynh, việc thêm hoặc bớt một người phụ nữ cũng không có gì khác biệt!

– Tiểu Yêu!

Giọng nói của Chuyên Húc chất chứa sự tức giận.

Tiểu Yêu vội vàng:

– Huynh đừng như vậy! Nếu huynh thực sự không muốn cưới A Niệm, chúng ta sẽ nghĩ cách hủy hôn.

Chuyên Húc trầm ngâm một lát, cất giọng bình thản:

– Hủy hôn bằng cách nào? Mai là ngày thành hôn, cả thiên hạ đều biết điều đó, đoàn quân gồm hàng triệu binh lính đã dàn trận, sẵn sàng chờ lệnh. Nếu sơ sảy, thiên hạ sẽ đại loạn. A Niệm sẽ không bao giờ tha thứ cho ta và muội!

– Muội không cần biết! Muội không quan tâm A Niệm có căm ghét muội hay không, cũng mặc kệ đại quân hàng triệu binh lính, hay sự yên ổn của thiên hạ. Tóm lại, nếu huynh không ưng ý, muội ủng hộ huynh hủy hôn. Chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ ra cách gì đó.

Tiểu Yêu có thể hy sinh tính mạng vì Chuyên Húc, có thể chống lại cả thiên hạ vì hắn, nhưng nàng lại muốn chung sống trọn đời bên người đàn ông khác. Chuyên Húc bật cười, không rõ hắn đang buồn hay đang vui.

Tiểu Yêu đứng phắt dậy:

– Muội sẽ đi gặp Phụ vương!

Chuyên Húc giữ tay nàng, cười, bảo:

– Đỉnh Tử Kim vốn đã rất đông phụ nữ, đúng là thêm hay bớt một người cũng không hề hấn gì. Chỉ tại hôm nay ta hơi quá chén! Nhưng bây giờ… ta thấy khá hơn rồi!

Tiểu Yêu nhìn Chuyên Húc trân trân, hắn vỗ vỗ chỗ ngồi bên cạnh. Tiểu Yêu ngồi xuống, Chuyên Húc nói:

– Vẫn như những lần trước, đừng chuẩn bị quà mừng cho ta, đừng nói chúc mừng hạnh phúc, và ngày mai cũng đừng tới dự hôn lễ!

– Nếu vậy, muội phải giải thích với Phụ vương và A Niệm thế nào?

– Muội là Vương cơ bị Tuấn Đế xóa tên khỏi gia phả, muội không nên xuất hiện.

Tuy Tiểu Yêu rất yêu kính Tuấn Đế, yêu mến A Niệm, nhưng so với Chuyên Húc, thì không ai quan trọng bằng hắn. Vì vậy, nàng nói:

– Vâng, ngày mai muội sẽ trốn.

Chuyên Húc nhàn nhã ngồi tựa lưng vào lan can, ngón tay gõ nhịp trên đầu gối, từng dòng linh lực bay lên theo nhịp gõ của hắn, mặt hồ trỗi lên một “đóa hoa nước”.

Tiểu Yêu ngồi bó gối, ngẩn ngơ ngắm nhìn “hoa nước”. Rất lâu sau, nàng buột miệng hỏi:

– Huynh không lần nào thấy vui sao?

Chuyên Húc đáp ngay:

– Không.

– Muội tin nhất định huynh sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, nhất định sẽ tìm được người huynh yêu thương.

– Ta cũng rất muốn biết cảm giác được lấy người mình yêu thương sẽ thế nào. Ta muốn được một lần rung động thực sự. Ta muốn được đón nhận những lời chúc phúc của mọi người trong niềm hân hoan, hạnh phúc.

Bỗng nhiên, Tiểu Yêu thấy rất đỗi chua xót, nàng cả quyết chắc nịch:

– Chắc chắn sẽ có ngày đó.

Chuyên Húc cười, giọng nói trầm buồn của hắn tan vào màn đêm tịch mịch:

– Ta cũng nghĩ vậy. Chỉ cần ta nhẫn nại, chắc chắn sẽ chờ được ngày đó.

– Ừ. Chắc chắn vậy. Nhưng nếu ngày đó tới, huynh không được thiên vị cô ấy mà bạc đãi A Niệm.

Chuyên Húc mỉm cười âu yếm nhìn Tiểu Yêu. Nàng chọc ngón tay vào người hắn:

– Huynh cười gì thế?

Chuyên Húc cười, đáp:

– Nếu ta cưới được cô ấy, chuyện đó sẽ nghe theo cô ấy.

– Cái gì?

Tiểu Yêu thọc lét Chuyên Húc thật đau:

– Huynh…. huynh đàn ông hơn một chút được không? Sao lại nghe cô ấy? Huynh là vua một nước kia mà!

Chuyên Húc thủng thẳng đáp:

– Điều này không liên quan đến bản lĩnh đàn ông. Tóm lại, nếu cưới được cô ấy, ta sẽ nghe theo cô ấy hết. Ta sẽ không làm những việc mà cô ấy không thích.

Tiểu Yêu thấy thọc lét hắn không khiến nàng hả giận, nàng chuyển sang cấu véo:

– Vậy nếu cô ấy không ưa muội, nói xấu muội với huynh, huynh cũng nghe lời cô ấy?

Chuyên Húc cười rung cả hai vai. Tiểu Yêu tức khí, véo hắn thật đau:

– Huynh trả lời đi chứ!

Chuyên Húc chỉ nhìn Tiểu Yêu và mỉm cười, mà không đáp.

Tiểu Yêu giơ hai bàn tay lên ngang đầu, khom khom hai ngón tay cái, tạo thành hình càng cua, chuẩn bị cắp nghiến kẻ địch. Nàng nửa đùa nửa thật:

– Huynh phải nói cho rõ ràng, huynh sẽ nghe cô ấy hay nghe muội?

– Nghe cả hai, được không?

– Không được.

– Biết đâu hai người đồng quan điểm.

– Thế những lúc bất đồng thì sao?

– Biết đâu không có lúc nào như thế.

Tiểu Yêu tức phát điên:

– Chuyên Húc, hãy nói cho rõ ràng, để muội còn chuẩn bị tinh thần, biết thân biết phận cư xử để không khiến hai người ghét bỏ!

– Tất nhiên ta sẽ nghe lời… muội!

– Hừm, thế còn được!

Tiểu Yêu thở phào. Nhưng ngay sau đó, nàng thấy mình thật trẻ con, mới thế đã bị Chuyên Húc chọc cho tức quá hóa cuồng. Nhưng nhìn Chuyên Húc tươi cười, rạng rỡ, nàng lại thấy bị hắn chọc giận cũng rất xứng đáng.

Tiểu Yêu hỏi:

– Huynh thấy tâm trạng phấn chấn hơn chưa?

Chuyên Húc gật đầu.

Tiểu Yêu lại nói:

– Ngày mai, lúc nào không vui, hãy nghĩ về những thứ huynh có được. Dù huynh không thấy vui vẻ, nhưng hãy ráng làm cho A Niệm hạnh phúc!

Chuyên Húc nhìn xoáy vào Tiểu Yêu, đôi mắt nheo lại. Tiểu Yêu lập tức biện bạch:

– Không phải muội coi trọng A Niệm hơn huynh đâu, mà muội nói vậy là muốn tốt cho huynh đó… Huynh hiểu mà!

– Ừ, ta sẽ nghe muội.

Rõ ràng hắn nên đáp rằng: “Ta hứa với muội”, nhưng Chuyên Húc lại trả lời: “Ta sẽ nghe muội”. Điều này chứng tỏ hắn vẫn còn nhớ trò đùa khi nãy với Tiểu Yêu. Tiểu Yêu phì cười, đấm Chuyên Húc.

Một tay Chuyên Húc giữ chặt nắm đấm của Tiểu Yêu, tay kia gác lên lan can sau lưng nàng, hắn cười thật tươi nhìn nàng:

– Nơi muội yêu thích nhất ở Ngũ Thần Sơn là vườn Y Thanh này. Vậy, ta sẽ cho xây dựng một vườn Y Thanh giống hệt như thế này ở Tiểu Nguyệt Đỉnh để tặng muội.

Tiểu Yêu hiểu ý Chuyên Húc. Tuy mẹ nàng qua đời đã nhiều năm, nhưng Phụ vương nàng vẫn giữ gìn nguyên vẹn những nơi mẹ nàng thường lui đến. Nhưng khu vườn này sẽ không còn thuộc về Phụ vương nữa. Chắc chắn A Niệm muốn trùng tu lại theo ý mình, nếu vậy, mọi kí ức thuộc về Tiểu Yêu đều sẽ tan biến.

Tiểu Yêu đăm đắm dõi nhìn khu rừng trúc phía xa, lặng thinh không nói. Một lúc sau, nàng mới mỉm cười, lắc đầu. Không phải nàng không cảm động, nhưng nàng biết rằng Tiểu Nguyệt Đỉnh không phải nơi ở lâu dài của mình, việc gì phải tốn kém như vậy? Nàng sẽ suy nghĩ về việc xin Cảnh xây cho mình một khu vườn Y Thanh trên núi Thanh Khâu.

Chuyên Húc ngoảnh đầu lại, nụ cười vẫn nở trên môi, nhưng ánh mắt hắn hoàn toàn nguội lạnh.

Hai người lặng lẽ ngồi trong đình hóng gió rất lâu, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Lúc sau, Tiểu Yêu lên tiếng:

– Về nghỉ ngơi thôi, ngày mai huynh phải dậy sớm.

Ra khỏi đình hóng gió họ mới hay bầu trời đã ngàn sao lấp lánh, cả hai bất giác cùng bước chậm lại.

Thuở nhỏ, vào những đêm mùa hạ, sau khi tắm gội xong, Tiểu Yêu và Chuyên Húc thường ngồi trên chiếc giường gỗ kê dưới hành lang vui đùa. Đến khi thấm mệt, cả hai sẽ nằm xuống cạnh nhau, ngắm nhìn trời sao lấp lánh.

Chuyên Húc khẽ nói:

– Có lúc ta rất nhớ những ngày tháng vui sống trên Triêu Vân Phong. Tiếc là Triêu Vân Phong khi ấy không thuộc về ta, nên ta chẳng thể giữ muội ở lại.

Hắn vẫn còn nhớ rất rõ ngày cô Hành chuẩn bị đưa Tiểu Yêu đi xa, hắn đã nài nỉ cô để Tiểu Yêu ở lại và hứa chắc như đinh đóng cột: “Cháu sẽ chăm sóc Tiểu Yêu, không nề hà chuyện gì.” Nhưng cô hắn chỉ cười và bảo:

– Nhưng bây giờ cháu không giữ nổi mạng sống của mình thì làm sao bảo vệ Tiểu Yêu được. Chỉ e “không nề hà” là chưa đủ.

Tiểu Yêu thinh lặng không nói, ánh mắt thoáng nét u buồn. Mãi đến khi về tới cung điện của mình, nàng mới cất tiếng:

– Mọi chuyện đã qua rồi, giờ đây, Hiên Viên Sơn, Thần Nông Sơn và Ngũ Thần Sơn đều thuộc về huynh!

Chuyên Húc mỉm cười, mỉa mai:

– Đúng vậy, đều thuộc về ta!

Tiểu Yêu cảm thấy nụ cười của Chuyên Húc không chuyên chở bất cứ niềm vui nào. Nàng lo lắng nói:

– Hôn lễ ngày mai…

Chuyên Húc phất tay, bảo nàng hãy đi về phòng.

– Muội lo ta sẽ để xảy ra sơ suất gì hay sao? Yên tâm mà nghỉ ngơi đi. Ngày mai, hãy bảo Miêu Phủ và Tiêu Tiêu đưa muội ra biển chơi cho thỏa thích.

Tiểu Yêu trộm nghĩ, đúng vậy, từ nhỏ đến lớn, Chuyên Húc chưa bao giờ phạm sai lầm! Nàng thấy yên lòng hơn, liền gật đầu, quay người bước vào phòng.

Chuyên Húc chắp tay sau lưng, chầm chậm cất bước dưới bầu trời đêm ngàn sao tỏa sáng.

Dĩ nhiên hắn sẽ không để xảy ra bất cứ sai sót nào! Bởi vì chỉ khi hắn không phạm bất cứ sai lầm nào, Tiểu Yêu mới được thỏa sức phạm sai lầm, mới được thoải mái làm con gái của Xi Vưu, mới được tự do tự tại, hồn nhiên, vô tư lự.

Chuyên Húc thầm nhủ: Cô Hành ơi, có phải bây giờ cháu đã đủ năng lực để bảo vệ bản thân và Tiểu Yêu?

Rằm tháng Chín năm đó, Hắc Đế Hiên Viên thành hôn với Vương cơ Cao Tân là Cao Tân Ức và lập nàng làm Hoàng hậu.

Ngày thứ hai sau hôn lễ, Tuấn Đế triệu tập quần thần và tuyên bố quyết định của ngài: Sức khỏe không cho phép ngài tiếp tục gánh vác những trọng trách nặng nề của triều đình. Để không phải hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, và không phụ lòng lê dân trăm họ, ngài quyết định nhường ngôi cho Chuyên Húc.

Triều đình xôn xao, náo động trước quyết định bất ngờ ấy. Nhưng Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ đã quy thuận Chuyên Húc. Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ luôn luôn ủng hộ mọi quyết định của Tuấn Đế. Bởi vậy, quân đội Ngũ Thần của Tuấn Đế dĩ nhiên sẽ ủng hộ Chuyên Húc. Điều đó có nghĩa, quân đội Cao Tân hoàn toàn ủng hộ Chuyên Húc trở thành vua Cao Tân. Hơn nữa, ba mươi vạn đại quân của Phong Long đang đóng quân ở tại vùng Tây Bắc Cao Tân, ba mươi vạn đại quân do Ly Oán thống lĩnh đang trấn giữ ở miền Đông Bắc Cao Tân. Ngoài ra, đại quân ở Hiên Viên cũng sẵn sàng tác chiến. Vậy nên, những tiếng nói phản đối ở Cao Tân, dù mạnh mẽ, kịch liệt đến đâu cũng vô ích.

Chuyên Húc trở thành vua Cao Tân trong tư thế hiên ngang, lẫm liệt, với sự hộ tống của hàng triệu thiết kỵ.

Cuộc chiến giữa Hiên Viên và Cao Tân tới đây chấm dứt. Hai nước hợp nhất, cùng tôn Hắc Đế làm Vua.

Kể từ đó, Đại hoang rộng lớn hầu hết đều nằm dưới sự thống trị của Hắc Đế.

Nhưng, trở thành vua Cao Tân không có nghĩa một kết thúc thắng lợi, mà là một khởi đầu đầy gian nan. Trước kia, khi mới chỉ có các dòng họ ở Trung Nguyên và các dòng họ lâu đời ở Hiên Viên, những mối mâu thuẫn đã liên miên không dứt. Giờ thêm các dòng họ ở Cao Tân, ba thế lực lớn cùng tranh chấp, đối kháng, các cuộc xung đột lớn nhỏ diễn ra không ngừng nghỉ. Các đại thần không chỉ đấu đá nhau mà còn ra sức chống đối Chuyên Húc. Mệnh lệnh nhà vua ban ra vấp phải sự phản đối mạnh mẽ, nên rất khó được thực thi.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, con đường đi đến ngai vị đế vương của Chuyên Húc xưa nay chưa khi nào mưa thuận gió hòa. Từ nhỏ đến lớn, những khó khăn, gian khổ, những trở ngại đã tôi luyện nên tính cách khoan hòa, độ lượng, bản lĩnh kiên trì, nhẫn nại và trí tuệ sáng suốt ở Chuyên Húc. Hắn sẵn sàng tiếp nhận mọi sự phản đối, nghi hoặc bằng tấm lòng bao dung. Hắn kiên trì và sáng suốt giải quyết hết mối nguy này đến mối nguy khác. Đối với Nhục Thu, viên tướng Cao Tân từng đánh bại đại quân Hiên Viên, Chuyên Húc không những không trừng phạt mà còn trọng dụng anh ta, hai người qua lại rất thân thiết. Đối với những quan lại từng phản đối hắn kế vị, Chuyên Húc cũng không đàn áp, hãm hại, trái lại, những lúc nghị bàn chính sự, hắn vẫn khiêm tốn lắng nghe và tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của họ. Nhưng, đối với những kẻ nuôi lòng phản loạn, gây bất ổn ở nhiều nơi, mưu đồ thừa nước đục thả câu, Chuyên Húc sẽ thẳng tay trừng trị, trấn áp không tha.

Với sự trợ giúp của Tuấn Đế và Hoàng Đế, Chuyên Húc đã vượt qua những ngày tháng gian nan nhất sau khi lên ngôi. Giờ đây, triều thần và lê dân trăm họ đều hiểu rằng, vị vua đích thực của họ hiện nay là Hắc Đế.

Sau hôn lễ của Chuyên Húc, Tiểu Yêu ở lại Ngũ Thần Sơn một thời gian, vì nàng muốn chắc chắn bệnh tình của Tuấn Đế không còn gì đáng lo ngại.

Có lẽ vì một năm qua quá ư bận rộn vất vả, Phụ vương nàng không bị những cơn ác mộng hành hạ nữa, nên sức khỏe của ngài đã khá lên nhiều. Nhưng nếu muốn bình phục hoàn toàn, ngài không còn cách nào khác ngoài việc tĩnh dưỡng. Trước mắt thì chưa thể, có lẽ phải chờ khi ngôi vị Đế vương của Chuyên Húc thực sự vững chắc, Tuấn Đế mới yên lòng gác bỏ mọi phiền lo, dời đến Hiên Viên Sơn, chuyên tâm trị thương.

Khi nhận thấy sức khỏe của Tuấn Đế không còn đáng ngại, Tiểu Yêu quyết định quay về Trung nguyên với Cảnh, mà không chờ Chuyên Húc đi cùng.

Về đến Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu thấy nơi này vẫn không có gì đổi khác, bầu không khí hân hoan, náo nhiệt ở Ngũ Thần Sơn không hề ảnh hưởng đến Thần Nông Sơn. Tiểu Yêu thì thào bên tai Hoàng Đế:

– Hinh Duyệt không phản đối chứ?

Hoàng Đế ơ hờ đáp:

– Chắc chắn không vui vẻ gì, nhưng nó là người khôn ngoan, biết chẳng thể ngăn cản, cũng biết việc này không ảnh hưởng đến địa vị của nó. Dù sao cũng còn hơn Chuyên Húc rước A Niệm về đây.

Tiểu Yêu ngẫm ngợi và thấy như vậy cũng phải. A Niệm sống trên Ngũ Thần Sơn xa xôi. Chuyên Húc cũng chỉ mất vài năm tập trung cho vấn đề của Cao Tân. Chờ khi mọi thứ ổn định, hắn vẫn sẽ dành phần lớn thời gian cho Thần Nông Sơn. Có thể nói, A Niệm chỉ có được Ngũ Thần Sơn và danh hiệu Hoàng hậu mà không nắm thực quyền. Vì thế, muội ấy chẳng thể cướp đi mọi thứ mà Hinh Duyệt đang có.

Tiểu Yêu nói:

– Phụ vương thật sáng suốt, người biết rằng người phải ra đi thì A Niệm mới được sống một đời yên ổn.

Hoàng Đế nghiêm nét mặt:

– Rất ít người nhận ra xu hướng của thời đại. Những người sẵn sàng từ bỏ mọi thứ khi đã hiểu rõ về thế thời lại càng ít hơn. Trước đây ta từng coi thường lòng dạ và khí tiết của hắn. Tiếc là, trước khi gặp hắn, mẹ cháu đã gặp…

Hoàng Đế thở dài khe khẽ, không nói gì thêm.

Tiểu Yêu lôi ra một chiếc túi dệt từ tơ của giống tằm ngọc, đưa cho Hoàng Đế:

– Chuyên Húc bảo cháu đưa cái này cho ông. Huynh ấy bảo huynh ấy không có thời gian xem xét thứ này, nên ông hãy giữ lấy.

Hoàng Đế mở túi thì thấy bên trong là một nửa quả trứng vịt bằng ngọc. Ngài lấy ra một nửa quả trứng mà bấy lâu ngài vẫn cất giữ, ghép với nửa kia thì tạo thành một quả trứng ngọc hoàn chỉnh.

Hoàng Đế khẽ thở dài, phải mấy trăm năm sau, Hà Đồ Lạc Thư mới được ghép lại hoàn chỉnh. Người đời đồn đại rằng, ai giành được nó sẽ có cả thiên hạ, kỳ thực, người nào có được cả thiên hạ mới có được nó. Chả trách Xi Vưu và Chuyên Húc đều không màng đến!

Tiểu Yêu tò mò hỏi:

– Bên trong chứa đựng bí mật gì vậy?

– Ta nghiên cứu suốt mấy trăm năm, đã có một vài manh mối, chắc sẽ sớm biết thôi.

Hoàng Đế nhắm mắt lại, truyền linh lực vào viên ngọc. Một lúc sau, ngài mở mắt, mỉm cười, thở dài.

Tiểu Yêu hỏi:

– Ông thấy gì rồi?

– Bên trong là bản đồ Đại hoang, ghi chép rất nhiều trận pháp, có thể biến hóa thành nhiều vùng đất và miền khí hậu khác nhau, còn có cả một đoạn ghi chép của Bàn Cổ Đại Đế.

– Xem ra, thứ này đúng là di vật của Bàn Cổ Đại Đế. Ngài ấy đã viết những gì?

– Chỉ là những ghi chép về công việc đồng áng, khí hậu nào phù hợp với cây trồng nào, khá giống những ghi chép của Viêm Đế về y thuật, và cũng chưa hoàn thiện. Những trận pháp đó cũng không phải những trận pháp dùng cho việc bày binh bố trận, mà dùng để mô phỏng khí hậu của các vùng miền khác nhau, hỗ trợ cho việc nghiên cứu cây trồng vật nuôi.

Tiểu Yêu suy ngẫm một lát thì hiểu ra:

– Viêm Đế nghĩ cách để loại bỏ những đau ốm, bệnh tật của muôn dân, còn Bàn Cổ Đại Đế muốn lê dân trăm họ không bị đói khổ.

Hoàng Đế gật đầu, than thở:

– Thì ra làm thế nào giành được thiên hạ vốn không phải là bí mật. Lo cho muôn dân được no đủ, vơi bớt đau khổ, tất sẽ có được thiên hạ!

Hoàng Đế đăm đắm nhìn những thửa ruộng tăm tắp nối tiếp nhau bên ngoài cửa sổ, ngài chìm trong suy tư.

Tiểu Yêu trộm cười, vậy là ông ngoại nàng lại có việc để bận rộn rồi! Ông ngoại nàng không những muốn hoàn thành di nguyện của Viêm Đế mà còn muốn hoàn thành di nguyện của Bàn Cổ Đại Đế, truyền dạy cho người dân cách trồng trọt, để họ được no ấm, đủ đầy.

Hoàng Đế như người vừa tỉnh mộng, ngài thu viên ngọc lại:

– Cháu cười gì thế?

Tiểu Yêu cúi gập người vái ngài một vái:

– Bẩm Hoàng Đế Bệ hạ, ngài đau nỗi đau của muôn người, người trong thiên hạ sẽ không quên ơn ngài. Ngài sẽ được thần dân cúng tế và kính yêu như Viêm Đế vậy.

Hoàng Đế mỉm cười, lắc đầu:

– Ta không bận tâm đến điều đó, ta chỉ muốn dốc sức làm những việc hữu ích cho muôn dân trăm họ mà thôi.

Hơn một năm sau, Tuấn Đế dời đến Hiên Viên Sơn, ngài sống trong Triêu Vân Điện trên Triêu Vân Phong, xóa bỏ tôn xưng Tuấn Đế, đổi thành Bạch Đế. Không ai biết lý do vì sao ngài làm vậy, kể cả Chuyên Húc. Có lẽ ngài chỉ muốn được giải thoát hoàn toàn khỏi những cơn ác mộng. Cũng có lẽ vì ngài muốn người trong thiên hạ hiểu rằng, từ nay sẽ không còn vua Cao Tân nữa.

Thanh Long Bộ và Hy Hòa Bộ theo Bạch Đế đến Hiên Viên Sơn sinh sống. Chuyên Húc cắt vùng đất màu mỡ phì nhiêu vốn thuộc về Vương tộc Hiên Viên cho hai bộ này. Ngoài đất đai, hai bộ còn được nhà vua ban thưởng hậu hĩnh. Phần thưởng lớn lao mà Chuyên Húc ban tặng khiến hai bộ quá đỗi bất ngờ, họ kinh ngạc đến nỗi quên hết nỗi buồn đất khách tha hương.

Sau khi hoàn tất việc di cư, các bộ bắt tay vào chuẩn bị cho buổi tế lễ long trọng tại nơi ở mới. Sau khi bói quẻ mai rùa, viên quan phụ trách tế lễ của Thanh Long Bộ thông báo về một điềm gở. Nên sau khi được Bạch Đế cho phép, Thanh Long Bộ đề nghị Hắc Đế đổi tên cho họ. Chuyên Húc ban cho Thanh Long Bộ tên gọi mới là Thanh Dương Bộ.

Ban đầu, không ai để tâm nhiều đến tên gọi ấy, sau họ mới biết, Thanh Dương là tên người bác ruột của Hắc Đế, ông ấy từng là con trai yêu quý của Hoàng Đế, cũng là vị đại anh hùng mà Vương tộc Hiên Viên ai nấy đều yêu kính. Nghe nói viên tướng trấn thủ thành Hiên Viên là Ứng Long vô cùng sùng bái Thanh Dương, bởi vậy trước khi ban tên gọi mới cho Thanh Long Bộ, Hắc Đế đã xin ý kiến của cả Bạch Đế, Hoàng Đế, và không quên ướm hỏi ý kiến của Ứng Long. Vậy là hai bộ đã hiểu, tên gọi “Thanh Dương” ấy tượng trưng cho sự tôn trọng của Vương tộc Hiên Viên dành cho họ, đồng thời cũng là sự thừa nhận của đại tướng quân Ứng Long.

Được Ứng Long bảo vệ, che chở, họ sẽ không còn phải lo lắng trước những khó khăn, trở ngại sẽ xảy đến nơi vùng đất mới còn lạ lẫm với họ này.

Điều bất ngờ và nực cười nhất là, tuy Hắc Đế đồng ý ban cho Thường Hy Bộ và Bạch Hổ Bộ toàn bộ đất đai vốn dĩ thuộc về Thanh Dương Bộ và Hy Hòa Bộ, nhưng ngài lại phong Nhục Thu làm Đại tướng quân, trấn giữ vùng đất phong ấy. Người trong thiên hạ không ai không biết Nhục Thu vốn là con em của Thanh Dương Bộ.

Tuy quyết định đó của Hắc Đế thật thâm độc, nhưng ai cũng phải khâm phục sự khảng khái, độ lượng của ngài, khi ngài sẵn sàng trao cho Nhục Thu năm vạn đại quân. Ngài không hề nghi kỵ, không trấn áp, cũng không hề cử người đi theo giám sát.

Hắc Đế còn phong Câu Mang làm đại tướng quân, thống lĩnh quân đội Ngũ Thần, vốn là quân đội của Tuấn Đế, và giao cho hắn trọng trách trấn giữ Ngũ Thần Sơn. Câu Mang và Nhục Thu đều là học trò của Bạch Đế, hai người vốn thân thiết từ lâu, nên Hắc Đế hoàn toàn tin tưởng họ, mà không hề e ngại họ câu kết với nhau, mưu đồ bất chính.

Thanh Dương Bộ và Hy Hòa Bộ đã cảm nhận được sự biệt đãi của Hắc Đế dành cho họ.

Có thể Hắc Đế muốn bù đắp những thiệt thòi của họ khi phải rời xa quê cũ, hoặc cũng có thể vì tình cảm đặc biệt giữa Hắc Đế và Bạch Đế. Thực tế là Hắc Đế dành cho họ sự quan tâm và hậu đãi hơn hẳn Bạch Hổ Bộ và Thường Hy Bộ, là hai bộ vốn đã quy thuận Hắc Đế từ sớm. Bởi vậy, những bất mãn và ấm ức của Thanh Dương Bộ và Hy Hòa Bộ dần dần tan biến hết.

Gần như cả Đại hoang rộng lớn đều thuộc quyền thống trị của Hắc Đế, không còn nữa tình trạng chia cắt và phân tranh như trước đây.

Mọi loại sách y học quý giá của các nước đều được thu thập đầy đủ về một nơi, tiện cho việc, nghiên cứu, kiểm chứng, đối chiếu, bổ sung và hoàn thiện.

Trước kia, vì lo sợ y thuật bị tiết lộ ra bên ngoài, nên danh y các nước gần như không hề có sự giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Nhưng bây giờ, Hoàng Đế triệu gọi họ tập trung tại Tiểu Nguyệt Đỉnh, để cùng thảo luận về y thuật.

Lúc đầu, bọn họ vẫn còn e ngại, kiến thức mười phần chỉ chia sẻ năm phần. Nhưng khi Tiểu Yêu trao cho mỗi người một bộ sách “Thần Nông bản thảo kinh” đã chỉnh lý hoàn thiện, bằng một tinh thần sẻ chia hết sức quảng đại, họ nâng trên tay vật báu vô giá mà lòng bàng hoàng, kinh ngạc.

Tiểu Yêu nói:

– Các vị đều là bậc danh y hàng đầu Đại hoang, thiết nghĩ chỉ cần đọc qua một lượt sẽ biết sách này là thật hay giả. Tôi không muốn giải thích dông dài vì sao “Thần Nông bản thảo kinh” vốn đã thất truyền từ lâu, nay lại xuất hiện. Tôi chỉ muốn kể cho các vị nghe câu chuyện nhỏ của tôi.

Tất cả các danh y đều chăm chú nhìn Tiểu Yêu. Nàng thong thả kể lại:

– Khi mới tìm đến với y thuật, mục đích của tôi không phải để cứu người, mà là để giết người. Số người tôi giết nhiều hơn nhiều số người được tôi cứu. Khi ấy, tôi không mảy may nghĩ rằng người thầy thuốc xứng đáng được kính trọng, cũng không cho rằng “Thần Nông bản thảo kinh” có gì đáng trân trọng. Mãi cho đến một ngày kia, khi tôi vướng vào đau khổ, và cảm thấy chán nản với hết thảy mọi sự trên đời, thì ông ngoại tôi, Hoàng Đế Bệ hạ đưa tôi đến căn nhà, nơi mà Viêm Đế, ông tổ nghề y từng sống. Tôi tìm thấy những ghi chép của Viêm Đến xếp đầy chiếc hòm gỗ trong căn nhà ấy. Chắc hẳn các vị đều đã nghe nói về việc Viêm Đế lấy thân mình thử thuốc, ngài đã nếm hàng trăm loại thảo dược, và vì thế ngài đã trúng độc mà qua đời. Đó chính là những ghi chép về tất cả các loại thảo dược Viêm Đế từng nếm thử và những phản ứng của cơ thể khi dùng thuốc, được ngài ghi lại tỉ mỉ cho tới tận trước khi ngài qua đời.

Vẻ mặt người kể chuyện bỗng trở nên trầm buồn, u ẩn, vẻ mặt của tất cả các danh y cũng trầm buồn, u ẩn không kém.

– Tuy chỉ ghi là hàng trăm loại thảo dược, nhưng “Thần Nông bản thảo kinh” đâu chỉ đơn giản là ghi chép về một trăm loại thảo dược! Các vị đều là thầy thuốc, hẳn là đều có thể tưởng tượng ra nỗi đau đớn khi bị hàng vạn loại độc tốc xâm chiếm, cắn xé. Nhưng, trong cơn đau tột cùng ấy, Viêm Đế vẫn vừa phải xử lý việc nước, vừa kiên trì ghi chép về mọi loại thảo dược mà ngài nếm thử. Tôi chưa từng gặp Viêm Đế, nhưng tôi vừa đọc những ghi chép của ngài vừa khóc, tôi đọc suốt một đêm và cũng khóc suốt đêm. Tôi không thể nói rằng, nỗi đau khổ của tôi chẳng là gì so với những đau đớn mà Viêm Đế phải trải qua. Bởi vì, Viêm Đế là Viêm Đế, còn tôi là tôi. Nhưng có lẽ vì cảm thấu được tấm lòng bao la của bậc đế vương vĩ đại ấy, nên cách nghĩ của tôi về cuộc đời và con người đã có nhiều biến đổi. Tôi cảm thấy hổ thẹn vì trước đây mình từng xem thường “Thần Nông bản thảo kinh”, càng cảm thấy hổ thẹn hơn khi tôi có được báu vật vô giá mà không chia sẻ cho mọi người. Kể từ lúc đó, tôi mới quyết chí theo học nghề y. Tôi vừa học tập vừa hành nghề. Quầy thuốc của tôi không hề có tiếng tăm to tát gì, những người đến khám bệnh đều là thường dân áo vải. Nhưng chính nhờ tiếp xúc với họ, tôi mới dần ngộ ra và trả lời được câu hỏi này: Người thầy thuốc làm được gì cho mọi người? Người đó không chỉ giúp mọi người loại bỏ cơn đau thể xác, mà còn trả về họ một người khỏe mạnh, mang lại sự yên ấm, hạnh phúc cho cả một gia đình. Bởi vì tôi đã chữa lành bệnh cho cha của một cô gái, nên cô gái ấy không cần phải bán thân. Ngày nào cô ấy và cậu em trai cũng đặt trước quầy thuốc của tôi một giỏ hoa quả. Kể từ đó, tôi mới thực sự nghiên cứu y thuật bằng cái tâm của người thầy thuốc. Các vị đều là những bậc danh y lừng danh thiên hạ. Các vị còn nhớ vì sao mình theo học nghề y không?

Ánh mắt Tiểu Yêu như dòng nước trong veo, quét qua gương mặt từng người.

Vì muốn theo học y thuật, tôi đã thỉnh cầu Hắc Đế Bệ hạ vời cho tôi một người thày, người đó chính là danh y Ngân, ngự y của Bệ hạ. Chúng tôi vẫn thường xuyên trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Thực ra tôi có những toan tính nhỏ nhen của riêng mình. Nếu chỉ một mình tôi thì dù y thuật cao siêu đến đâu cũng có những hạn chế nhất định. Bởi vậy, tôi hy vọng, y thuật của danh y Ngân ngày càng cao minh hơn, để ông ấy có thể chăm sóc sức khỏe của Bệ hạ tốt hơn nữa. Bởi vậy, ông ngoại tôi, Hoàng Đế Bệ hạ thường xuyên phải nghe những cuộc tranh cãi giữa tôi và thầy Ngân, khi thì về một loại thảo dược, khi thì về một bài thuốc. Rồi khi ông ngoại nghe tôi nói rằng, “Thần Nông bản thảo kinh” mới chỉ ghi chép những thảo dược mọc ở vùng Trung nguyên, mà chưa ghi chép những vị thuốc có trong lòng biển, ông ngoại tôi đã nảy sinh một ý tưởng. Ngài muốn tập trung trí tuệ của tất cả các bậc danh y trong thiên hạ, để cùng chỉnh lý và biên soạn một bộ y thư, bổ sung những điểm khuyết thiếu của “Thần Nông bản thảo kinh”, cung cấp cho lê dân trăm họ nhiều vị thuốc và bài thuốc hơn nữa.

Tất cả các danh y đều kinh ngạc nhìn Tiểu Yêu. Điên rồ, thật là điên rồ! Vì sao có người nghĩ rằng họ có thể làm được điều gì cao siêu hơn cả “Thần Nông bản thảo kinh”?

Tiểu Yêu bình tĩnh nói tiếp:

– Khi ấy, tôi cũng cho rằng việc này là không thể! Ý tưởng này quá ngông cuồng. Có lẽ chỉ có Hoàng Đế Bệ hạ dám nghĩ dám làm như vậy. Tôi không đủ khí phách như ông ngoại, nên không tin mình có thể biên soạn một cuốn y thư ghi chép đầy đủ mọi bài thuốc và y thuật của toàn Đại hoang. Tôi chỉ nghĩ đơn giản là, làm được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Tuy tôi không vĩ đại như Viêm Đế, sẵn sàng dùng thân mình thử thuốc, nhưng tôi sẽ dốc sức để hoàn thành công việc này, chí ít, tôi sẽ không để bản thân phải cảm thấy hổ thẹn. Nhưng không ngờ, ngày này đã đến, các bậc danh y hàng đầu Đại hoang cùng tề tựu tại Tiểu Nguyệt Đỉnh, ngoài ra còn có các vị lương y, những người được ông ngoại cử đi khắp mọi miền trong Đại hoang để tìm kiếm, thu thập và chỉnh lý các phương thuốc chữa bệnh cứu người đang tồn tại và lưu truyền trong nhân gian. Tôi nghĩ, tâm nguyện của ông ngoại sắp trở thành hiện thực!

Tiểu Yêu thành khẩn nói:

– Mỗi chúng ta theo học nghề y với mục đích không giống nhau. Các vị có mặt ở đây đều là những bậc danh y, y thuật mang lại danh và lợi cho các vị. Nhưng danh và lợi vốn chỉ là vật ngoài thân, cuối cùng rồi cũng tan biến. Biết bao người đã đến và đi trong cuộc đời này như cánh nhạn vụt bay, như bóng câu qua thềm, mấy ai lưu lại dấu tích cho đời sau, mấy người nghĩ cho hậu thế hàng vạn đời sau? Ông ngoại tôi không chỉ ban cho quý vị một cơ hội ngàn vàng để trao đổi, học hỏi và nâng cao y thuật, mà còn mang đến cho quý vị một cơ hội tạo nên sự ảnh hưởng đến muôn đời. Rất lâu rất lâu sau nữa, thành trì dù vững chãi, hùng vỹ, nguy nga đến đâu cũng sẽ sụp đổ, các đời đế vương sẽ lần lượt ra đi, vô số truyền kỳ về các bậc anh hùng rồi sẽ bị quên lãng. Nhưng tôi tin, sách y học mà các vị biên soạn ra vẫn tiếp tục lưu truyền trong nhân gian, giúp cho vô số người cha mạnh khỏe, vô số người con rạng ngời hạnh phúc.

Tiểu Yêu đứng lên, cúi gập người, trịnh trọng vái lạy các bậc danh y:

– Mong các vị hãy chia sẻ những tri thức y thuật quý báu của các vị cho mọi người, để người trong Đại hoang, để hậu thế muôn đời được khỏe mạnh và hạnh phúc nhờ ơn phước của các vị!

Không biết Hoàng Đế xuất hiện tự lúc nào, ngài đứng đó lắng nghe, và lúc này, ngày chậm rãi cất tiếng:

– Các vị đều là những bậc học cao biết nhiều, thông tuệ hơn người, xin các vị nhớ cho, trao đi không có nghĩa là mất đi mà cùng với việc trao đi, các vị sẽ nhận lại rất nhiều.

Tất cả các thầy thuốc đều cúi nhìn cuốn “Thần Nông bản thảo kinh” trên tay, rồi ngước nhìn Hoàng Đế, sau đó nhìn sang Tiểu Yêu. Có người kinh ngạc, có người trầm tư, cũng có người xúc động, nhưng sau rốt, tất cả đều tỏ ra bình tĩnh. Rồi họ lần lượt vái lạy đáp lại thiện chí của Tiểu Yêu:

– Chúng tôi nguyện học theo y tổ Viêm Đế, tận tâm tận lực, góp sức biên soạn y thư.

Hoàng Đế mỉm cười nhìn Tiểu Yêu và các vị danh y đang trong tư thế vái lạy lẫn nhau.

Không còn bóng dáng chiến tranh, thu qua đông lại, xuân qua hè tới, tháng ngày bận rộn trôi đi rất nhanh, thấm thoắt đã mười lăm năm.

Một chiều nọ, Chuyên Húc ghé Tiểu Nguyệt Đỉnh thì thấy Tiểu Yêu và mấy thầy thuốc đang bận rộn chỉnh lý thư tịch, ngoài cửa còn có hai mươi ba vị danh y khác. Trông họ có vẻ đã thấm mệt nhưng nụ cười mãn nguyện vẫn rạng rỡ trên môi, ai nấy đều hồi hộp nhướng mắt vào trong phòng. Ngay cả Hoàng Đế dường như cũng rất sốt ruột, ngài đang thưởng trà và trò chuyện với Cảnh, nhưng chốc chốc lại ngó về phía các thầy thuốc.

Chuyên Húc dừng bước, tò mò nhìn theo.

Một lát sau thì nghe có người nói:

– Xong rồi, xong rồi! Cuốn cuối cùng đã xong!

Tất cả các thầy thuốc cùng ùa đến bên cửa, Hoàng Đế cũng đứng lên.

Tiểu Yêu ôm hai chồng sách dày cộp viết trên vải lụa đi về phía Hoàng Đế, các vị danh y theo sau nàng.

Tiểu Yêu quỳ trước mặt Hoàng Đế, dõng dạc thưa:

– Không phụ sự ủy thác của Bệ hạ, bộ sách đã được hoàn thành sau bốn mươi hai năm. Tham gia biên soạn sách có tất cả sáu mươi tám danh y, ba nghìn bảy trăm ba mươi thầy thuốc phụ trách thu thập và chỉnh lý. Các thầy thuốc của chúng ta đã đi khắp Đại hoang để tìm kiếm và sưu tầm, ba mươi tám vị đã trượt chân và bỏ mạng nơi vách núi, năm mươi người mất tích vì bão lũ, gió tuyết, sáu mươi mốt người bị quái thú ăn thịt, bị trúng độc, trúng chướng khí, và còn cả bảy vị danh y kiệt sức vì bệnh tật ngay trên bàn làm việc, lúc qua đời họ vẫn nắm chắc trong tay cây viết.

Mấy mươi năm nỗ lực, thành tựu được đổi bằng tâm huyết và thậm chí là tính mạng của vô số người. Vừa lắng nghe những lời tổng kết của Tiểu Yêu, các vị danh y vừa lặng lẽ rơi lệ. Tiểu Yêu cũng rưng rưng nước mắt. Nàng nâng cao những chồng sách trong tay:

– Bộ sách này gồm năm mươi lăm quyển, chia thành hai phần lớn: Ba mươi bảy quyển ghi chép các loại thảo dược, bài thuốc và y thuật trong Đại hoang, trình bày và phân tích về quá trình sống – chết. Mười tám quyển ghi chép những phương pháp phòng bệnh, trình bày và phân tích các phương pháp điều dưỡng âm dương. Mời Bệ hạ ban tên!

Có sự kiện trọng đại, kinh thiên động địa nào diễn ra trong Đại hoang mà Hoàng Đế chưa từng trải qua? Lập nước, chinh chiến khắp nơi, thống nhất Trung nguyên, bị ám sát, nhường ngôi… trải bao phong ba bão táp nhưng không ai thấy ngài vui hay buồn bao giờ. Vậy mà lúc này, bàn tay ngài đang run lên khe khẽ.

Hoàng Đế nhẹ nhàng mân mê chồng sách, ngài nói:

– Tuy ta chính là người triệu tập thầy thuốc bốn phương về đây cùng biên soạn ra bộ sách này, nhưng nếu không có Hắc Đế, ta chắc chắn mình không thể làm được. Nhờ có Hắc Đế, chúng ta mới có thể tập trung danh y của tất cả các dòng tộc trong Đại hoang, các thầy thuốc mới có thể đi khắp mọi nơi tìm kiếm thu thập tư liệu, và cùng nhau hoàn thành bộ sách này. Bởi vậy, Chuyên Húc à, cháu hay đặt tên cho bộ sách này đi!

Chuyên Húc đang say sưa chiêm ngưỡng bộ sách, đột nhiên nghe thấy Hoàng Đế gọi tên mình thì có phần bất ngờ, nhưng hắn không từ chối. Hắn bước đến bên cạnh Hoàng Đế, cầm cây viết mà người hầu đã chuẩn bị sẵn, trầm tư một lát, rồi đưa những nét bút khoáng đạt lên chồng sách gồm mười tám quyển: “Hoàng Đế nội kinh”, lại phóng bút trên chồng sách gồm ba mươi bảy quyển: “Hoàng Đế ngoại kinh”.

Những nét chữ khỏe khắn, rắn rỏi tuyên bố sự ra đời của bộ sách y thuật quý hiếm chưa từng có “Hoàng Đế nội kinh” và “Hoàng Đế ngoại kinh”. Tiếng hoan hô rộn rã.

Hoàng Đế thoáng bất ngờ, sau đó thì ngài bật cười sảng khoái. Bộ sách y thuật đã hoàn thành, từ nay người trong thiên hạ sẽ vơi bớt nhiều đau đớn, bệnh tật, sự an lạc của muôn dân là niềm vui của bậc đế vương! Có được một đứa cháu trai như Chuyên Húc, ấy là niềm vui của riêng Hoàng Đế!

Tâm nguyện biên soạn một bộ sách y thuật nay đã hoàn thành. Cuộc sống bận rộn miệt mài suốt mấy chục năm đã kết thúc. Tiểu Yêu cảm thấy thật tuyệt vời, vậy là cuối cùng nàng đã có thể nghỉ ngơi triệt để. Nàng cùng Cảnh đến Hiên Viên Sơn thăm Bạch Đế.

Có lẽ vì không phải lo phê duyệt tấu chương, xử lý chính sự, nên vết thương của Bạch Đế bình phục rất nhanh. Chỉ có điều, vì không được chữa trị kịp thời, nên vết thương đã để lại di chứng, khiến ngài đi lại có chút bất tiện. Tiểu Yêu cảm thấy thật đáng tiếc.

Bạch Đế ngó Cảnh một lát, cười, bảo:

– Ta đã là một ông lão hom hem, làm gì có cô gái nào chịu nhìn ta, đi lại khập khiễng một chút cũng không sao! Nhưng Cảnh thì nên chữa cho lành.

Cảnh mỉm cười, không nói năng chi. Bạch Đế cũng thôi không nhắc thêm về chuyện đó nữa.

Từ ngày chuyển đến Thần Nông Sơn, Hoàng Đế hầu như không rời khỏi Tiểu Nguyệt Đỉnh, nếu không bận tổ chức các danh y biên soạn y thư, ngài sẽ dành thời gian nghiên cứu về trồng trọt. Ngài sử dụng các trận pháp trước kia dùng để đánh trận biến hóa thành các kiểu khí hậu của các vùng miền khác nhau trong Đại hoang, để trồng đủ mọi loại thực vật, từ thảo dược, lương thực, đến cây ăn quả, và cả những giống cây trồng mà Tiểu Yêu cũng không biết là thứ gì. Tóm lại, Hoàng Đế ngày ngày bận rộn với công việc trồng trọt trên Tiểu Nguyệt Đỉnh, ngài chỉ quan tâm đến cây trồng, ruộng nương của ngài và hoàn toàn thờ ơ với mọi sự diễn ra bên ngoài.

Bạch Đế thì ngược lại, ngài không thể ở yên trên Hiên Viên Sơn, ngài thường dẫn Tiểu Yêu và Cảnh xuống núi và ở lại đó.

Bạch Để mở một tiệm rèn tại con hẻm sâu trong thành Hiên Viên. Ngài rèn tất cả mọi thứ từ nông cụ đến đồ dùng bếp núc, nhưng tuyệt đối không rèn binh khí. Tiệm rèn của ngài tuy xa xôi, vắng vẻ nhưng vì tay nghề cao, chỉ hơn chục năm đã gây dựng được tiếng tăm, hàng ngày khách đến đặt hàng nườm nượp như trảy hội. Bạch Đế niềm nở đón tiếp, thái độ thân thiện, hòa nhã, chu đáo, khiến các ông các bà đều yêu mến ông cụ đẹp lão này.

Những lúc rảnh rỗi, Bạch Đế thường tới tiệm rượu nổi tiếng, đã ngàn năm tuổi, mua nửa cân rượu, rồi ngài vừa uống rượu, vừa chơi cờ vây với ông lão giỏi tam huyền cầm, để râu dê.

Bạch Đế thường để thua ông lão râu dê, ông ta hả lòng hả dạ, thường vỗ vai Tuấn Đế và nói:

– Không phải do ông kém cỏi đâu, mà trò này người thường không mấy ai chơi được. Ông biết ai phát minh ra nó không? Là Hoàng Đế đó! Cụ tổ nhà tôi thuộc dòng dõi danh giá, nên mới học được chút ít.

Bạch Đế bật cười khoan khoái, ông lão râu dê cao ngạo vuốt chòm râu của mình.

Trước cửa tiệm rèn có một cây hòe cổ thụ, dưới gốc cây là đống củi lớn.

Cảnh đang bổ củi giúp Bạch Đế, Tiểu Yêu ngồi trên cục gỗ phẳng, hai tay chống cằm, ngẩn ngơ nhìn Bạch Đế, ông lão này thật lạ lẫm đối với nàng. Người này chính là Bạch Đế lạnh lùng, hầu như không khi nào cười, chỉ một cái đưa mắt cũng khiến triều thần kinh hồn bạt vía ư?

Bổ củi xong, Cảnh đến ngồi bên cạnh Tiểu Yêu:

Tiểu Yêu lẩm bẩm:

– Sao có thể biến thành một người hoàn toàn khác như vậy? Nếu Nhục Thu và Câu Mang nhìn thấy cảnh tượng này, chắc bọn họ sẽ sợ chết ngất!

Cảnh nói:

– Có lẽ ngài chỉ trở lại là bản thân mình mà thôi. Người mà bác Thanh Dương của nàng quen biết có lẽ là người như vậy chăng!

Có lẽ vậy. Hiên Viên Sơn đâu thiếu rượu ngon, rượu quý, việc gì người phải uống thứ rượu cay chát ấy. Chắc hẳn không phải vì người yêu thích hương vị của loại rượu đó. Có lẽ vì trong rượu có những kỉ niệm mà người muốn lưu giữ. Tiệm rượu ấy đã ngàn năm tuổi thật ư? Cha và bác cả từng uống với nhau ở đó thật ư?

Tiểu Yêu thở dài:

– Em cứ lo cha ở Hiên Viên Sơn không quen, nhưng xem ra, em lo thừa rồi. Chúng ta không nên ở lại đây làm phiền cha nữa, ngày mai chúng ta về thôi.

Về đến Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu chợt nhận ra mình chẳng còn việc gì để làm, cảm thấy có chút hụt hẫng, nàng bàn với Cảnh:

– Chàng thấy em đến Trạch Châu mở một tiệm thuốc được không?

Cảnh đáp:

– Chi bằng đến thành Thanh Khâu mở tiệm thuốc.

– Nhưng Trạch Châu ở gần, Thanh Khâu ở xa, đi về trong ngày không tiện.

– Nếu nàng sống ở Thanh Khâu thì thành Thanh Khâu sẽ gần hơn.

– Hả? Em đến Thanh Khâu?

Tiểu Yêu chưa kịp hiểu.

Cảnh tủm tỉm:

– Phủ Đồ Sơn ở Thanh Khâu đã tu sửa, bài trí xong xuôi, chúng ta có thể cử hành hôn lễ bất cứ lúc nào.

Hai má Tiểu Yêu bỗng ửng đỏ. Cảnh xiết tay nàng, rủ rỉ:

– Tiểu Yêu, chúng ta làm đám cưới nhé! Kể từ dạo đính hôn, ta luôn trông ngóng đến ngày thành thân.

Trong lòng Tiểu Yêu tràn ngập dư vị ngọt ngào, nàng khẽ gật đầu.

Vậy là ngay buổi tối hôm ấy, Cảnh đã bàn bạc với Hoàng Đế và Hắc Đế về ngày thành hôn.

Cảnh không biết phải diễn đạt thế nào, nhưng trực giác mách bảo, Hoàng Đế sẽ vui vẻ gả Tiểu Yêu cho chàng, nhưng Hắc Đế thì không.

Lẽ ra điều này là không thể, vì năm xưa, khi Cảnh và Tiểu Yêu không thể liên lạc với nhau, chính Hắc Đế đã giúp đỡ họ, nhờ vậy Cảnh mới có thể viết thư cho Tiểu Yêu. Sau khi Tiểu Yêu đến Thần Nông Sơn, cũng chính Hắc Đế giúp họ gặp nhau hết lần này đến lần khác ở Thảo Ao Lĩnh. Có thể nói rằng, nếu không nhờ ngài, Cảnh và Tiểu Yêu không thể đến với nhau.

Cảnh cũng từng tĩnh tâm phân tích chuyện này. Thái độ của Chuyên Húc thay đổi từ dạo Ý Ánh mang thai và Tiểu Yêu bị trọng thương. Có lẽ vì chàng đã khiến Tiểu Yêu quá đau lòng, và trong mắt Chuyên Húc, Cảnh không thể sánh với Phong Long, chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, tài ba, lại chưa vợ. Nhưng Chuyên Húc vẫn đồng ý cho họ đính hôn. Cảnh chỉ có thể kỳ vọng rằng, thời gian sẽ giúp Chuyên Húc thấu hiểu tấm lòng của chàng dành cho Tiểu Yêu. Chàng quyết không phạm sai lầm như trước nữa.

Quả nhiên, khi Cảnh đề nghị cưới sớm, cả Hoàng Đế và Hắc Đế đều bật cười. Có điều, Cảnh cảm thấy, Hắc Đế không lấy gì làm vui vẻ.

Hoàng Đế nói:

– Hai ngươi đính hôn đã nhiều năm, cũng nên cưới đi thôi. Của hồi môn của Tiểu Yêu ta đã lo liệu cả. Chỉ cần nhà Đồ Sơn hoàn tất mọi bề là có thể cử hành hôn lễ bất cứ lúc nào.

Cảnh thưa ngay:

– Đã chuẩn bị đâu vào đấy, ví thử ngày mai cử hành hôn lễ cũng được.

Hoàng Đế và Hắc Đế đều bật cười, Tiểu Yêu đỏ mặt, thẹn thùng. Cảnh vội chữa:

– Ngày mai… ngày mai thì chắc chắn không kịp, ý của thần là… mọi thứ đã chuẩn bị xong cả.

Hoàng Đế hỏi Hắc Đế:

– Ý cháu thế nào?

Hắc Đế mỉm cười:

– Hãy để viên quan Đại tông bá xem xét ngày lành tháng tốt trong năm là những ngày nào đã.

Tiêu Tiêu nhận lệnh lui ra, chừng nửa canh giờ sau, Tiêu Tiêu mang theo câu trả lời của quan Đại tông bá về.

Hắc Đế đọc một lượt rồi đưa cho Hoàng Đế. Hoàng Đế xem xong thì đưa cho Cảnh. Tiểu Yêu cố nhịn, nhưng không nhịn nổi, nàng sáp lại gần Cảnh, xem cùng chàng.

Hoàng Đế hỏi Cảnh:

– Cậu thấy ngày nào hợp lý?

Cảnh tỏ ra hết sức bình tĩnh, thưa:

– Một tháng nữa e là không kịp, chi bằng hãy chọn ngày rằm tháng Năm, tức là ba tháng nữa.

Hoàng Đế nói:

– Ngày đó rất hợp lý.

Cảnh và Tiểu Yêu cùng hướng về Chuyên Húc, chờ đợi câu trả lời.

Ánh mắt Chuyên Húc lướt qua Cảnh và Tiểu Yêu, trôi đến tận đâu đâu không rõ. Hắn mỉm cười, lẩm nhẩm nhắc lại:

– Ngày rằm tháng Năm?

Cảnh thưa:

– Vâng.

Chuyên Húc thinh lặng rất lâu, chừng như đang suy ngẫm điều gì lung lắm. Đúng lúc Cảnh bồn chồn không yên, thì giọng Chuyên Húc chợt vang lên, rõ ràng, mạch lạc:

– Ngày đó rất đẹp, cứ quyết định vậy đi!

Cảnh như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, chàng vái lạy Hoàng Đế và Hắc Đế:

– Tạ ơn hai vị Bệ hạ!

Hoàng Đế liếc Chuyên Húc, trêu chọc:

– Muốn cảm ơn hãy cảm ơn Tiểu Yêu. Ông cháu ta không nỡ gả nó cho cậu nhưng vì trong mắt nó, trong lòng nó đều chứa đầy hình bóng cậu, nên ta mới chiều nó, đồng ý gả nó cho cậu.

Cảnh bật cười, quay sang vái Tiểu Yêu:

– Cảm ơn tiểu thư chịu lấy ta!

Tiểu Yêu vừa ngượng vừa bực:

– Mấy người thật chẳng ra sao!

Nói đoạn, vội vã chạy ra ngoài.

Tiểu Yêu cảm thấy hai má nóng ran, tim đập rộn ràng, nàng không muốn quay lại đó nữa, bèn men theo con đường nhỏ ven suối, đi lên vạt đồi san sát những gốc phượng.

Nàng bước vào rừng phượng, thấy cỏ non mơn mởn, hoa bay rợp trời, cánh hoa phủ kín chiếc ghế dây đu. Tiểu Yêu lấy tay áo, gạt rơi những cánh hoa, ngồi lên chiếc ghế. Đu đưa một lúc thì thấy bình tâm trở lại.

Chuyên Húc đi xuyên qua rừng phượng, tiến về phía nàng. Tiểu Yêu cười, hỏi:

– Cảnh đâu?

Đang bàn bạc chi tiết với ông nội về hôn lễ.

Chiếc ghế rất rộng, đủ chỗ cho hai người. Tiểu Yêu vỗ vỗ sang bên cạnh, gọi Chuyên Húc ngồi xuống đó.

Hai người vai kề vai trên chiếc ghế dây đu, cùng ngắm nhìn rợp trời hoa đỏ, hoa bay rào rào, gió càng lớn, trận mưa hoa càng dữ dội, những trận mưa hoa ngắt quãng, lúc có lúc không.

Trong lòng Tiểu Yêu có niềm vui, hạnh phúc của tháng ngày bình an, yên ổn hiện tại, nhưng cũng có cả những nỗi buồn vương chẳng thể nói nên lời.

Từ gốc phượng trên Triêu Vân Phong đến cơn mưa hoa trên Tiểu Nguyệt Đỉnh, suốt chặng đường gian nan ấy, Tiểu Yêu và Chuyên Húc lúc nào cũng sóng bước bên nhau, nương tựa vào nhau. Dù xảy ra bất cứ chuyện gì, họ đều biết rằng người kia luôn ở cạnh mình. Nhưng ba tháng nữa, nàng sẽ đi lấy chồng. Tuy Thanh Khâu cách Thần Nông Sơn không xa, nhưng nàng và Chuyên Húc cũng phải vài tháng mới gặp được nhau một lần. Nàng đã có Cảnh, còn Chuyên Húc thì sao? Rồi đây, mỗi lúc hắn đau khổ, ai sẽ ở bên cạnh? Uống rượu say, hắn biết huyên thuyên với ai đây?

Tiểu Yêu hỏi:

– Huynh đã tìm được người phụ nữ huynh muốn cưới làm vợ chưa?

Chuyên Húc chìa tay đón lấy một cánh hoa phượng, hắn lặng ngắm cánh hoa nằm giữa những ngón tay, mỉm cười, không nói, vẻ mặt buồn ảo não.

Tiểu Yêu an ủi:

– Trước sau cũng sẽ gặp được thôi!

Tuy nói vậy, nhưng nàng không dám chắc chắn. Chuyên Húc đã trải qua bao gian nguy, trắc trở; bao âm mưu thâm độc, bao tham lam, thèm khát, đã gặp đủ loại phụ nữ, Tiểu Yêu không tưởng tượng nổi, người phụ nữ nào có thể khiến trái tim băng giá của hắn rung động.

Chuyên Húc cài cánh hoa lên tóc mai của Tiểu Yêu, hỏi:

– Nếu tìm được người phụ nữ ấy, có phải ta nên giữ cô ấy thật chặt bên mình?

– Tất nhiên rồi!

Tiểu Yêu đáp chắc nịch:

– Nếu gặp được thì phải giữ cho thật chặt.

Chuyên Húc lặng ngắm Tiểu Yêu, rồi bật cười.

Ngày thành thân của Tiểu Yêu và Cảnh đã được quyết định, nhà Đồ Sơn và nhà Tây Lăng rộn ràng chuẩn bị cho đám cưới.

Cuối tháng ba, Chuyên Húc có chuyến công cán đến vùng Đông Nam, tất nhiên hắn sẽ ở lại Ngũ Thần Sơn một thời gian, cả đi lẫn về cũng mất chừng một tháng.

Trước khi đi, Chuyên Húc nói với Tiểu Yêu:

– Ta để Tiêu Tiêu ở lại với muội.

– Không, huynh cứ đưa cô ấy theo.

– Tiểu Yêu, bên cạnh ta không thiếu thị vệ tài giỏi hơn cô ấy.

Tiểu Yêu rất cố chấp:

– Không, huynh hãy đưa cô ấy đi theo, cô ấy là phụ nữ, có cô ấy, nếu cần che giấu thân phận cũng dễ dàng hơn. Và điều quan trọng nhất là cô ấy rất trung thành với huynh.

Chuyên Húc đành chịu:

– Vậy ta sẽ cử vài ám vệ thông minh, lanh lợi bảo vệ muội.

Tiểu Yêu phì cười:

– Huynh đừng lo lắng hão nữa! Bây giờ đã là khi nào rồi? Huống hồ bên cạnh muội còn có ông ngoại, làm gì có kẻ nào cả gan động đến muội!

Tiểu Yêu ngượng nên không nhắc đến Cảnh. Nay nàng đã là đại tiểu thư nhà Tây Lăng, lại sắp trở thành phu nhân tộc trưởng tộc Đồ Sơn, nàng không nghĩ có kẻ nào dám liều mạng giết nàng như Mộc Phỉ năm xưa. Cha nàng ra tay rất tàn độc, nên số cô nhi còn sống sót rất ít. Tất nhiên, vẫn có những kẻ dù không nuôi mối hận dòng họ bị tiêu diệt, nhưng vẫn căm ghét nàng. Tuy vậy, bọn chúng chẳng dám đắc tội với hai vị Bệ hạ, và với hai gia tộc lớn: Nhà Tây Lăng và nhà Đồ Sơn.

Tiểu Yêu nói:

– Người phải thận trọng là huynh đó. Tuy hai nước hợp nhất đã lâu, và mấy năm gần đây không còn nhiều cuộc nổi loạn như trước kia, nhưng nguy hiểm vẫn luôn rình rập.

– Nguy hiểm thì ở đâu chẳng có, kể cả khi ta giam mình trên đỉnh Tử Kim, thì vẫn sẽ có kẻ tới ám sát ta. Muội đừng lo, ta rất giỏi ứng phó với nguy hiểm, chắc chắn sẽ bình an trở về trước hôn lễ của muội.

– Ừ.

Tiểu Yêu khẽ gật đầu.

Chuyên Húc đi vắng, Tiểu Nguyệt Đỉnh trở nên vắng vẻ, may mà Cảnh viện cớ tới bàn việc đám cưới, nên ngày nào cũng ghé thăm Tiểu Yêu.

Cảnh và Hoàng Đế ngồi chơi cờ, thưởng trà dưới mái hiên.

Miêu Phủ nhẩm tính thời gian:

– Hết hôm nay sẽ chỉ còn bốn mươi chín ngày nữa là tiểu thư đi lấy chồng. Phải mau nghĩ xem còn thiếu thứ gì không, nếu để vài bữa nữa, e là không kịp chuẩn bị.

Tiểu Yêu bịt miệng Miêu Phủ lại, ra dấu “suỵt!”, bắt nàng yên lặng.

– Em đừng gây chuyện nữa, hai vị trưởng lão phụ trách tổ chức hôn lễ của nhà Đồ Sơn đã bị em hành hạ khổ sở lắm rồi.

Miêu Phủ ú ớ kêu lên, nhưng thấy không hiệu quả, đành im miệng.

Quan nội thị bước tới, vái lạy Hoàng Đế, bẩm báo:

– Hoàng hậu Thần Nông Hinh Duyệt xin vào gặp, nói rằng tới chúc mừng tiểu thư sắp kết hôn và gửi quà mừng.

Hoàng Đế hỏi Tiểu Yêu:

– Cháu muốn gặp không?

Tiểu Yêu nhớ lại ngày nàng và Chuyên Húc mới chân ướt chân ráo đến Thần Nông Sơn. Hinh Duyệt là cô bạn gái thân thiết đầu tiên của nàng. Hai người từng ngủ chung giường, dắt tay nhau rong chơi khắp nơi. Nhưng khi Hinh Duyệt trở thành chị dâu của nàng thì hai người bỗng nhiên trở nên xa cách. Và khi nàng bỏ trốn khỏi đám cưới với Phong Long, thì hai người đã hoàn toàn trở mặt. Mấy năm qua, hai người chưa từng gặp gỡ lần nào.

Tiểu Yêu nói:

– Cô ấy là Hoàng hậu, cô ấy chủ động đến, bày tỏ thiện chí, cháu cũng không nên làm cao. Huống hồ, cháu là người có lỗi với Phong Long và nhà Xích Thủy trước.

Hoàng Đế căn dặn quan nội thị:

– Cho Hoàng hậu vào.

Huynh Duyệt bước vào, quỳ lạy Hoàng Đế.

Hoàng Đế ôn tồn nói:

– Đứng lên đi! Người một nhà, đừng khách sáo. Ta đang chơi cờ với Cảnh, cháu tìm Tiểu Yêu mà trò chuyện. Nơi đây chẳng có gì ngoài hoa cỏ, theo Tiểu Yêu đi ngắm hoa đi.

Nhìn xuống bàn cờ, biết mình đang làm hỏng nhã hứng của Hoàng Đế, Hinh Duyệt vội thưa:

– Ông cứ chơi cờ tiếp đi ạ, cháu nói chuyện với Tiểu Yêu một lát rồi về.

Tiểu Yêu đưa Hinh Duyệt ra ngoài. Hinh Duyệt vừa đi vừa nhìn Cảnh, tuy vẫn đang ngồi trước mặt Hoàng Đế, nhưng ánh mắt Cảnh bám riết lấy Tiểu Yêu. Hinh Duyệt thấy tâm trạng của mình rất đỗi phức tạp, vừa ngưỡng mộ, vừa nhẹ nhõm.

Khi Hoàng Đế và Cảnh đã xa khỏi tầm mắt, Hinh Duyệt lên tiếng:

– Chúc mừng muội.

Tiểu Yêu cười, nói:

– Chỉ chúc mừng suông không được đâu, phải có quà mới xong.

Hinh Duyệt phì cười:

– Không thiếu! Ta đã sai người đem quà mừng đến cung Chương Nga. Có lẽ thị nữ của muội đang kiểm đếm từng món. Muội muốn biết là quà gì không?

– Không cần đâu, quà của Hoàng hậu chắc chắn là những món quý giá.

Cả hai đều cố gắng thể hiện thiện chí, nhưng mối quan hệ một khi đã rạn vỡ thì khó có thể trở lại như lúc xưa. Họ nói hết mấy câu khách sáo đó thì thấy rằng không còn gì để nói nữa.

Tiểu Yêu vắt óc cũng không nặn ra điều gì để tiếp tục cuộc chuyện, còn Hinh Duyệt thì tâm trí như đang du ngoạn chín tầng mây. Hai người men theo con đường nhỏ hướng lên đỉnh núi, lặng lẽ cất bước. Mãi tới khi lên đến đỉnh núi, Hinh Duyệt mới giật mình nhận ra, họ đã im lặng suốt nửa canh giờ.

Đã kịp thích nghi với bầu không khí im lặng, Tiểu Yêu thư thả ngồi lên phiến đá, sảng khoái đón nhận những cơn gió lồng lộng thổi qua.

Hinh Duyệt đột nhiên lên tiếng:

– Ta rất mừng khi biết muội thành hôn với Cảnh.

Tiểu Yêu ngửa đầu ra sau, cười thật tươi, thẳng thắn đáp:

– Muội cũng rất vui.

Nhìn nụ cười rạng rỡ của Tiểu Yêu, Hinh Duyệt bất giác cũng bật cười. Vậy là lần này, Tiểu Yêu sẽ kết hôn với một người đàn ông khác, đi khỏi Thần Nông Sơn, rời xa… Chuyên Húc!

Đứng trên đỉnh núi, có thể trông thấy bóng Tử Kim Đỉnh thấp thoáng trong màn mây. Hinh Duyệt hướng mắt về phía Tử Kim Cung, nói thật lớn:

– Ta chúc muội và Cảnh mãi mãi hạnh phúc, ân ái mặn nồng!

Tiểu Yêu chắp tay lại, bày tỏ sự cảm ơn. Rồi nàng nghiêng đầu nhìn Hinh Duyệt, hỏi:

– Làm Hoàng hậu thì có gì vui?

Hinh Duyệt cười, đáp:

– Ta có được mọi thứ ta mong muốn, vui hay không vui ta cũng không thể nói cho rõ ràng, chỉ biết rằng, ta rất mãn nguyện.

Tiểu Yêu cười, bảo:

– Muội cũng nên chúc mừng chị!

Hinh Duyệt chăm chú nhìn Tiểu Yêu, rồi thành thực nói:

– Bởi vì đã giành được, nên điều ta sợ hãi nhất là bị mất đi. Kẻ nào muốn cướp của ta, ta quyết không tha kẻ đó.

Tiểu Yêu thầm thở dài, may mà Phụ vương nàng để A Niệm sống ở Ngũ Thần Sơn, nên muội ấy sẽ không bị cuốn vào cuộc tranh giành, đấu đá trên đỉnh Tử Kim. Tuy nói vậy, những người tham gia tranh cướp và bị tranh cướp đều là vợ Chuyên Húc. Nếu cần phải than vắn thở dài thì huynh ấy phải là người than vắn thở dài chứ không phải nàng.

Tiểu Yêu đứng lên, đón cơn gió núi, nàng dang rộng hai tay, gào lên thật lớn: A a aaaaaa!

Tiếng nàng vang vọng giữa những triền núi. Cảnh rảo bước tới, kéo Tiểu Yêu sát vào người mình, rồi mới cúi chào Hinh Duyệt.

Hinh Duyệt nói với Tiểu Yêu:

– Thấy không, mới có nửa canh giờ mà huynh ấy đã vội vã đi tìm muội. Tiểu Yêu, muội thật may mắn! Hãy gắng trân trọng và giữ gìn!

Tiểu Yêu cảm thấy lời nói của Hinh Duyệt đầy hàm ý, nhưng nghĩ kỹ thì không thấy có chút ác ý nào. Nàng mỉm cười đáp lại:

– Vâng.

Hinh Duyệt nói:

– Ta về trước chào ông, hai người cứ thong thả!

Nói xong, không chờ Cảnh và Tiểu Yêu đáp lời, Hinh Duyệt đã vận linh lực, bay vút xuống chân núi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 9: Hồn mộng chẳng nguôi yên

Bước sang tháng tư, tức là chỉ còn cách hôn lễ của Cảnh và Tiểu Yêu một tháng nữa, theo tục lệ, hai người không được gặp nhau. Cảnh phải trở về Thanh Khâu để thử lễ phục, kiểm tra mọi việc, đảm bảo cho hôn lễ tiến hành suôn sẻ, sau đó, việc còn lại của chàng là: Chờ ngày nghênh đón Tiểu Yêu.

Phủ đệ nhà Đồ Sơn được tu sửa hoàn toàn. Khu vườn, nơi sau này sẽ trở thành ngôi nhà của Cảnh và Tiểu Yêu đã được thiết kế và xây dựng theo ý muốn của Tiểu Yêu: Tiểu Yêu thích ăn vặt, vì thế trong vườn sẽ có một nhà bếp. Tiểu Yêu thích uống rượu Thanh Mai, nên trên đồi sẽ trồng vài cây thanh mai. Tiểu Yêu thích nước, nên một hồ nước đã được xây dựng để dẫn nước từ suối nước nóng đổ vào…

Mặc dù Việt trưởng lão đã suy tính rất chu đáo, nhưng khu vườn này là mái ấm của Cảnh và Tiểu Yêu, bởi vậy chàng yêu cầu rất cao. Chàng đã tự mình bài trí lại toàn bộ đồ đạc trong nhà. Thấy chàng hào hứng, hăm hở bày biện, Việt trưởng lão đành để chàng tự lo liệu.

Ngày Hai mươi tháng Tư, Hồ Lung báo tin, Đồ Sơn Chấn ốm nặng, không ăn uống được gì, hễ tỉnh lại là gào khóc đòi cha.

Hồ Lung, anh em ruột của Hồ Á, đều là tâm phúc của Cảnh. Từ ngày Đồ Sơn Chấn chào đời, cậu ta chịu trách nhiệm bảo vệ Đồ Sơn Chấn. Tuy vô cùng căm ghét Ý Ánh và Hầu, nhưng Hồ Lung không hề ghét bỏ Đồ Sơn Chấn, trái lại rất thương cậu bé.

Cảnh không đành lòng chứng kiến Ý Ánh bị thức thần hút kiệt linh lực và tinh huyết cho đến chết, đã nghĩ ra kế, để Ý Ánh giả ốm và giả chết, sau đó âm thầm đưa Ý Ánh rời khỏi Thanh Khâu.

Trước kia Ý Ánh vốn là người ham vui, ưa náo nhiệt, nên không bỏ qua bất cứ buổi tiệc tùng, gặp gỡ nào. Cô ấy có bạn bè khắp các gia tộc, từ vùng Tây Bắc đến miền Đông Nam, rất nhiều người quen biết cô ấy. Nhưng giờ đây, Ý Ánh rất sợ gặp người khác. Nghĩ tới nghĩ lui, Cảnh nhận thấy chỉ có thị trấn Thanh Thủy là nơi Ý Ánh có thể yên ổn nương thân. Vì vậy, chàng đã sắp xếp đưa Ý Ánh đến thị trấn Thanh Thủy.

Tuy không phải tiếp tục dâng linh lực và tinh huyết cho thức thần, nhưng Ý Ánh đã lấy thân mình cúng tế thức thần, nên nguyên khí của cô bị thương tổn nghiêm trọng. Dù gắng sức bồi bổ, tĩnh dưỡng, cô cũng chỉ có thể sống đến lúc bé Chấn trưởng thành. Vì không muốn Ý Ánh cảm thấy buồn bã tuyệt vọng mà tìm đến cái chết, và cũng muốn bé Chấn được ở bên mẹ, nên hàng năm, mỗi mùa xuân hạ, Cảnh đều sai Hồ Lung đưa bé Chấn đến thị trấn Thanh Thủy ở ba, bốn tháng. Năm nay chàng cưới vợ, nên đã căn dặn Hồ Lung chờ đến cuối thu mới đưa bé Chấn trở về. Nhưng không ngờ, bé Chấn đột ngột ốm nặng.

Hồ Lung là người cẩn trọng, tin tức chắc chắn không thể là giả. Còn hơn hai mươi ngày nữa mới tới lễ thành hôn của chàng, đi một chuyến đến Thanh Thủy hẳn là không làm lỡ việc. Nhưng Cảnh cảm thấy bồn chồn không yên, linh tính mách bảo chàng không nên đi. Có điều bé Chấn tuy không phải con trai chàng nhưng lại là cháu ruột chàng. Huống hồ trong lòng bé, chàng chính là cha đẻ của bé. Nếu bé có mệnh hệ gì, chắc chắn Cảnh sẽ không thể tha thứ cho bản thân.

Ngẫm ngợi một lát, Cảnh quyết định đưa Hồ Trân đi cùng, đồng thời ra lệnh cho U dẫn theo tất cả các ám vệ.

Đây là lần đầu tiên Cảnh yêu cầu đội ám vệ hộ tống đông đúc như thế. U thoáng sững sờ, nói:

– Tháng sau là lễ thành hôn, nếu tộc trưởng đã có dự cảm không hay về chuyến đi này thì tốt nhất không nên đi.

Cảnh hỏi:

– Nếu bé Chấn xảy ra chuyện, liệu ta và Tiểu Yêu có thể tổ chức hôn lễ được không?

U cúi người thưa:

– Tôi đã hiểu! Xin tộc trưởng yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ đưa người bình an trở về. Chúng tôi tồn tại là để thực thi những nhiệm vụ như thế này.

Trước lúc lên đường, Cảnh viết cho Tiểu Yêu một lá thư, nói rõ lý do vì sao chàng phải đến Thanh Thủy, động viên nàng đừng lo lắng, vì đã có đội ám vệ đi theo bảo vệ chàng, và hứa sẽ nhanh chóng quay về Thanh Khâu.

Tờ mờ sáng hôm sau Cảnh mới đến thị trấn Thanh Thủy.

Ý Ánh ngồi bên giường, mặc áo đen, trùm khăn che mặt, cô ta ăn vận kín mít, hầu như chỉ để lộ đôi đồng tử như hai làn thu thủy ra ngoài.

Cảnh hỏi:

– Bé Chấn thế nào rồi?

Ý Ánh như người mất hồn, trỏ tay về phía chiếc giường, không nói gì thêm. Hồ Trân bước lại, bắt mạch cho bé. Cảnh cúi cuống, dịu dàng gọi:

– Chấn ơi, cha đến rồi này!

Trong cơn mê man, bé Chấn mở mắt, trông thấy Cảnh, bé òa khóc nức nở, vòng tay ôm Cảnh, giọng nấc nghẹn:

– Cha ơi, con khó chịu lắm, có phải con sắp chết không?

Cảnh ôm bé vào lòng:

– Đừng khóc, đừng khóc! Con phải mạnh mẽ lên, cha mời thầy thuốc tốt nhất đến chữa bệnh cho con. Khi nào con khỏe lại, cha sẽ đưa con ra biển chơi.

Bé Chấn yếu ớt nói:

– Con muốn thấy biển rộng.

Cảnh và bé Chấn cùng ngóng đợi Hồ Trân, Hồ Trân chau mày, đặt tay cậu bé xuống, kiểm tra tiếp đầu lưỡi và mắt. Thấy vẻ mặt tối sầm của Hồ Trân, Cảnh mỉm cười nói với bé Chấn:

– Con ngoan, ngủ một lát đi.

Bé Chấn chừng như cũng rất mệt và buồn ngủ:

– Vâng, con ngủ đây, cha ở bên con nhé.

– Ừ. Cha ở đây.

Cảnh đặt tay lên trán bé, bé Chấn chìm vào giấc ngủ sâu.

Lúc này Cảnh mới hỏi Hồ Trân:

– Là bệnh gì?

– Thưa, không phải bệnh mà bé bị trúng độc.

Cảnh lo lắng tới mức không buồn tra xét nguyên nhân, chàng vội hỏi:

– Có giải được không?

Hồ Trân lấy làm hổ thẹn:

– Đây là loại độc hồ sáo[1] , kẻ hạ độc rất xảo trá, tôi không giải nổi, nhưng tiểu thư Tây Lăng thì có thể. Có điều, e là không kịp…

[1] Hồ sáo: một loại cỏ dại, cây cao chừng 1,5 mét, mọc thành bụi, thuộc họ cỏ tai hổ, hoa hình chuông, màu tím hồng hoặc màu vàng, rất độc.

Ý Ánh từ nãy đến giờ vẫn thinh lặng, lúc này đột nhiên lên tiếng:

– Hồ Trân, y thuật của cậu tiến bộ rất nhanh, đã nhận ra được loại độc hồ sáo này. Thực ra, không cần nhọc công tìm kiếm Tây Lăng Đông Lăng gì cả, trực tiếp đòi thuốc giải từ kẻ hạ độc là xong!

Cảnh nói:

– Đúng thế. Nhưng kẻ hạ độc là kẻ nào? Cô có manh mối gì không?

Ý Ánh trỏ vào mình:

– Ngay trước mặt chàng đó.

Hồ Trân thất kinh, lập tức đứng chắn trước mặt Cảnh, phẫn nộ:

– Hổ đói không ăn thịt con, vì sao cô nỡ hạ độc con trai mình?

Cảnh kinh ngạc nhìn Ý Ánh, không tin vào mắt mình.

Ý Ánh cười, nói:

– Những người chàng cử đến đây kẻ nào kẻ nấy khôn ngoan như loài hồ ly, nếu không dùng loại độc hiếm gặp này, khiến chàng tưởng bé Chấn sắp nguy, thì sao “mời” được chàng đến đây.

Cảnh lạnh lùng nói:

– Giờ ta đến rồi, cô mau giải độc cho bé Chấn đi.

Ý Ánh thoáng sững sờ, cười, hỏi:

– Sao chàng không hỏi vì sao thiếp dụ chàng đến đây?

Cảnh bóp mạnh hai cánh tay của Ý Ánh, kéo cô ta đến sát bên giường:

– Mau giải độc!

Vì quá tức giận, giọng chàng trở nên vô cùng lạnh lùng, gương mặt tuấn tú lúc nổi trận lôi đình, trông thật đáng sợ.

Ý Ánh mệt mỏi đổ người xuống giường, ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt ngân ngấn:

– Chàng thật lòng lo lắng cho bé Chấn ư?

Cảnh lạnh lùng quát:

– Mau giải độc!

Cảnh ghì mạnh hơn nữa, khiến Ý Ánh run lên bần bật.

Ý Ánh gắng gượng đáp:

– Thuốc giải nằm trong tay kẻ ép thiếp hạ độc.

Cảnh buông tay, Ý Ánh ngã sóng soài ra đất, chàng gọi lớn:

– Đồ Sơn Hầu!

Hầu bước vào, vẻ cười giễu cợt, hắn thờ ơ nói:

– Con trai ta trúng độc, ta là cha nó còn chưa thấy sốt ruột, cậu em quý hóa cuống quít gì thế?

Cảnh hỏi:

– Rốt cuộc huynh muốn gì?

– Những tên hầu cận của ngươi ở thị trấn Thanh Thủy đều đã bị….

Hầu làm động tác cắt cổ.

Đám ám vệ của ngươi cũng đã bị tóm. Bên ngoài căn phòng này hiện chỉ còn người của ta. Chỉ cần ta hô một tiếng, hàng vạn mũi tên sẽ xuyên qua tim ngươi.

Hồ Trân không tin, gọi lớn:

– Hồ Lung, Hồ Lung, Hồ Lung đâu! Hồ Linh, Bí Đao ơi… U, U đâu….

Nhưng không một ai đáp lại. Hồ Trân phẫn uất:

– Hầu, ngươi đừng quên những lời thề độc trước liệt tổ liệt tông! Nếu ngươi dám hãm hại tộc trưởng, ngươi sẽ phải đền tội!

Như thể vừa nghe câu chuyện hài hước nhất trong số những câu chuyện hài hước, Hầu bật cười ha hả:

– Phải đền tội ư? Ngươi nghĩ ta sợ chết hay sao?

Cảnh hỏi Hầu:

– Muốn giết tôi thì vì sao chưa ra tay?

Hầu nheo mắt cười giễu cợt:

– Từ nhỏ đến lớn, tất cả mọi người đều bảo rằng ngươi tài giỏi hơn ta. Bất kể ta có làm gì đi nữa, ngươi vẫn hơn ta. Lần này, ta muốn một trận quyết đấu công bằng. Cái chết sẽ quyết định ai là kẻ mạnh hơn trong hai chúng ta!

Cảnh nói:

– Điều kiện của tôi là, hãy tha cho Hồ Trân.

Hầu cười, bảo:

– Hắn là tình nhân của ả người hầu của ngươi đúng không? Được, ta đồng ý tha cho hắn, để cô ả không phải rơi nước mắt.

Hồ Trân kêu lên:

– Không được, không được! Tộc trưởng chớ nhận lời hắn…

Hầu phất tay, Hồ Trân lập tức lăn ra đất, bất tỉnh. Hầu xòe bàn tay, cười tít mắt, nói:

– Cuối cùng thì ta đã có thể trò chuyện thoải mái với em trai yêu quý của mình.

Cảnh hỏi:

– Quyết đấu công bằng?

– Đúng vậy, sẽ quyết đấu cho đến khi một kẻ chết đi, kẻ sống sót đương nhiên là kẻ mạnh hơn. Không ai có thể nghi ngờ kết quả cuối cùng! Dù mẹ có sống lại và chứng kiến đi nữa, cũng phải thừa nhận, đúng không?

Cảnh trừng mắt nhìn Hầu, ánh mắt chất chứa nỗi bi thương.

Hầu cười hỉ hả:

– Từ bé đến lớn, lúc nào mẹ cũng bênh ngươi, thiên vị ngươi. Dù ta có làm gì cũng không bằng ngươi. Đồ Sơn Cảnh, ngươi nợ ta một lần quyết đấu công bằng.

Nỗi bi ai trong mắt Cảnh ngày càng thẳm sâu hơn, chàng nói:

– Vì đây là một cuộc đấu công bằng, và huynh đã chọn phương thức thi đấu, nên tôi sẽ là người chọn địa điểm.

Hầu cười khinh khỉnh:

– Được!

– Vậy thì tôi nhận lời với anh!

– Thuốc giải đây.

Hầu ném về phía Ý Ánh một viên thuốc, sau đó quay lưng bỏ đi.

Cảnh lẳng lặng đi theo hắn. Từ nhỏ đến lớn, đã không biết bao lần chàng đi theo Hầu như thế. Chàng theo anh trai đi chơi, theo anh trai đi học, theo anh trai đi săn, theo anh trai đến chào bà nội… Có lẽ hai anh em họ năm xưa chẳng thể ngờ, đến một ngày họ phải quyết sống chết một phen với nhau.

Hai người cưỡi tọa kỵ rời khỏi thị trấn Thanh Thủy. Cảnh chọn khu đất bỏ hoang bên bờ sông Thanh Thủy:

– Tôi chọn chỗ này.

Hầu nói:

Vừa có sông lại có núi, làm nơi yên nghỉ của ngươi được đó!

Hầu làm động tác: Xin mời!

Sương khói mù mịt sau lưng Cảnh, dần tỏa lan khắp vùng đất hoang. Hầu chế nhạo:

– Loài cáo luôn như vậy, không bao giờ dám đối diện trực tiếp với kẻ địch. Cháu con của giống loài này muôn đời không thay đổi được tật xấu đó!

Hầu đưa tay lên bắt quyết, thủy linh tụ lại thành một con mãnh hổ màu lam, mãnh hổ lao đi giữa màn sương trắng xóa.

Hổ dữ lao đến vồ mồi, chú cáo chín đuôi màu trắng náu mình trong màn sương mù dày đặc, vội vã lăn một vòng né tránh.

Hầu cười vang:

– Cảnh, ta biết ngươi nhận lời quyết đấu vì muốn kéo dài thời gian, ngươi hy vọng bọn U sẽ đến kịp. Tháng sau là ngày trọng đại của ngươi, ngươi muốn sống sót trở về để làm chú rể, nhưng ta nói cho ngươi biết, không bao giờ có chuyện đó!

Hầu thúc mãnh hổ xông tới cắn xé cáo chín đuôi. Từ nhỏ Hầu đã rất giỏi chém giết, tiêu diệt đối phương, rõ ràng mãnh hổ đáng sợ hơn cáo chín đuôi rất nhiều, mấy lần ngoạm được cổ cáo. Nhờ có sương mù dày đặc, cáo chín đuôi mới có thể may mắn thoát thân.

Hầu cười cợt:

– Cháu con của loài cáo không phải chỉ có mình ngươi đâu.

Nói đoạn, linh lực trào lên, mãnh hổ màu lam biến thành màu trắng, hổ trắng lẩn mình vào đám sương mù.

Trong đám sương mù trắng xóa ấy bỗng xuất hiện rất nhiều cáo chín đuôi, chúng hết vọt sang trái lại vọt sang phải, khiến hổ trắng tức khí vọt theo, vồ mồi, nhưng không tóm được chú cáo nào. Con hổ mệt quá thở hồng hộc, thân hình của nó cũng dần thu nhỏ lại.

Hầu biết đây là mê thuật của Cảnh, những con cáo chín đuôi ấy toàn là giả, nếu tiếp tục đuổi bắt kiểu này, linh lực của hắn sẽ đến lúc cạn kiệt. Hầu lập tức nhắm nghiền mắt lại, hổ trắng cũng nhắm mắt theo.

Khi mắt không thấy gì thì mọi trò mê thuật sẽ trở nên vô dụng. Cáo chín đuôi nhảy nhót tưng bừng bên cạnh, nhưng hổ trắng vẫn im lìm bất động, nó náu mình trong màn sương dày đặc, đôi tay vểnh lên cảnh giác.

Hầu mừng thầm vì đã đả thương cổ họng và cánh tay của Cảnh, khiến Cảnh không thể hát và không thể đàn lên những thanh âm mê hoặc. Người đời chỉ biết công tử Thanh Khâu với tài đàn và giọng hát tuyệt đỉnh đã trở thành giai thoại đẹp trong dân gian, nhưng không biết rằng, đó là những mê thuật mà Cảnh dày công tu luyện từ nhỏ. Nếu bây giờ Cảnh thi triển mê thuật âm thanh thì có lẽ Hầu sẽ phải bịt cả hai tai lại. Khi ấy, một con hổ vừa mù vừa điếc thì làm gì nổi loài cáo chín đuôi.

Vành tai hổ trắng khẽ động đậy, nó đột ngột chồm người lao lên không trung, cứ tưởng nó muốn tấn công cáo trắng ở bên trái, nào ngờ chiếc đuôi cứng như xích sắt của nó quật thật mạnh vào chú cáo trắng ở bên phải. Cáo trắng vọt ra bên ngoài tránh né, phần thân thoát nạn, nhưng hai đuôi cáo đã bị chém đứt.

Máu huyết dồn lên cổ họng Cảnh, trào ra khóe miệng chàng. Sương mù tan đi nhiều, hổ trắng ngày càng lớn thêm.

Mất đi hai chiếc đuôi, cáo trắng không còn linh hoạt như trước nữa, thêm vào đó, màn sương cũng đã loãng dần, cáo chẳng còn chỗ náu thân, đành mặc cho hổ kia dữ dằn lao tới xâu xé. Chỉ một lát sau, cáo chín đuôi đã lại bị hổ dữ ngoạm đứt hai chiếc đuôi nữa.

Hầu nói:

Cảnh, nếu ngươi chịu thua, thừa nhận ngươi không bằng ta, ta sẽ cho ngươi được chết thoải mái.

Sắc mặt nhợt nhạt, Cảnh mím chặt môi, không nói lời nào. Hầu tiếp tục:

– Vậy ta sẽ cắt đứt từng chiếc đuôi của ngươi, khiến ngươi chết trong tột cùng đau đớn!

Hổ dữ lại ngoạm đứt một chiếc đuôi khác của cáo trắng. Cảnh vừa phải chống chịu với cơn đau tan xương nát thịt vừa phải tiếp tục chiến đấu với Hầu.

Vuốt sắc của con hổ dữ lại chém đứt một chiếc đuôi nữa của cáo trắng. Hầu quát lớn:

– Cảnh, ngươi thà bị phanh thây còn hơn phải thừa nhận ngươi thua kém ta ư?

Cảnh run lên bần bật, nhưng giọng chàng vẫn rất đỗi điềm tĩnh:

– Nếu là người anh trai thuở xưa, ta sẽ lập tức thừa nhận, bởi vì ta thua kém huynh ấy đủ đường. Nhưng bây giờ ngươi hỏi ta, ta chỉ có thể nói cho ngươi biết, ta coi thường ngươi! Ngươi chỉ là một kẻ yếu hèn, bị nỗi hận thù làm cho mù quáng, mê muội mà thôi!

Hầu nổi điên, mặt mày méo mó biến dạng, hắn gầm lên một tiếng.

Tiếng gầm của hổ dữ, hệt như tiếng sấm động, khiến núi rừng dường như cũng rung chuyển. Con hổ chồm lên, vồ lấy cáo trắng, kẹp chặt dưới móng vuốt.

Cảnh ngã vật ra đất, vết máu loang lổ khắp cơ thể.

Hầu gầm gừ:

– Bây giờ thì ai là kẻ yếu hèn, hả? Ngươi còn dám coi thường ta nữa không? Ai là kẻ yếu hèn?

Cảnh chẳng buồn lên tiếng, cũng chẳng buồn nhìn Hầu.

Con hổ dùng móng vuốt xé đuôi cáo, Cảnh đau đớn tê dại. Hầu gầm lên:

– Rốt cuộc ai mạnh hơn ai? Hãy trở lời ta! Ai mạnh hơn ai? Trả lời đi…!

Hai chân sau của con hổ kẹp chặt cáo trắng, thân trước của nó rướn cao, cặp vuốt sắc phía trước của nó chuẩn bị bổ xuống thân thể cáo trắng, chừng như muốn xé nát chú cáo nhỏ.

Bỗng, Hầu khựng lại, tiếng gầm thét tắt lịm, thân thể con hổ trắng dần tan biến.

Hầu kinh ngạc cúi xuống, nhìn thấy một mũi tên khắc hình chim uyên ương đang cắm thẳng vào ngực mình. Hắn chạm tay vào hình chim uyên ương trên mũi tên, lẩm nhẩm:

– Ý Ánh!

Hầu ngước nhìn bầu trời.

Một con Thiên mã màu trắng đáp xuống, Ý Ánh mặc váy đen, tay cầm một cây cung tinh xảo.

Vì sức khỏe suy giảm, sợ mình sẽ ngã xuống khi bắn cung, Ý Ánh đã buộc chặt thân mình vào Thiên mã. Lúc này, Ý Ánh bắt đầu cởi dây buộc, để thân thể trượt khỏi lưng Thiên mã và rơi xuống. Cô ta đứng không vững, phải dùng cung tên làm gậy chống, lảo đảo cất bước.

Hầu dán mắt vào Ý Ánh, máu từ vùng ngực nhỏ xuống, hắn nhếch môi cười:

– Đây là cây cung ta làm tặng nàng.

– Đây cũng là thứ ngươi tặng cho ta!

Ý Ánh tháo bỏ khen che mặt.

Gương mặt nàng hệt như xác khô, không da thịt, không máu huyết, đó chỉ là một mảng da khô, nhăn nhúm, bám vào phần xương cốt, chỉ duy có đôi mắt vẫn tinh anh trong trẻo hệt như thiếu nữ thuở mười sáu. Sự tương phản ấy, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy khi nhìn nàng.

Cổ họng Hầu rung lên bần bật, không biết hắn đang khóc hay đang cười:

– Nàng cứu hắn? Sao nàng lại đến cứu hắn? Nếu không tại hắn, chúng ta đâu ra nông nỗi này!

– Có lẽ ngươi nên nói, nếu không có ngươi, mọi thứ đã khác!

Ý Ánh nhìn Cảnh đang nằm dưới đất, ánh mắt phức tạp. Nàng từng hết lần này đến lần khác hãm hại chàng, nhưng chàng đã tha thứ cho nàng. Nàng từng khinh bỉ tấm lòng lương thiện của chàng và cho rằng đó là biểu hiện của sự đớn hèn. Mãi đến khi bản thân phải trải qua nỗi đau tột cùng, nàng mới hiểu, căm hận một ai đó là điều rất đơn giản, nhưng để tha thứ cho họ thì cần phải có một trái tim kiên cường, nhân hậu, bao la.

Ý Ánh lảo đảo bước về phía Hầu:

– Nhưng ta đã gặp chàng trước! Ngày hội tháng Năm năm đó, ta cùng các bạn dạo chơi trên đất Cao Tân, xem dân chúng thả hoa đăng. Ta trượt chân ngã xuống sông, ta không biết bơi, lại bị yêu tinh cỏ quấn chặt. Chính chàng đã cứu ta. Chàng chèo thuyền, đưa ta đi ngắm hoa đăng, và tìm bạn giúp ta. Nhìn chàng, ta đoán hôm đó không phải lần đầu chàng đến Cao Tân. Ta đã hỏi chàng đến Cao Tân làm gì, chàng đáp: “Để gặp một cô gái, vì nghe nói cô ấy cũng đi xem hoa đăng”. Dù đã đính hôn, nhưng không hiểu sao ta bỗng thấy hụt hẫng. Sau đó, chúng ta tìm thấy bạn bè của ta, chàng nghe họ gọi ta là “Ý Ánh”, thì tỏ ra bất ngờ và hỏi lại: “Nàng là tiểu thư Phòng Phong?” Ta nói: “Vâng”. Chàng nhìn ta chăm chú, rồi cười, bảo: “Nàng đó ư!” Nói xong, chàng dong thuyền quay lại với biển hoa đăng. Ta nghe phía xa có người gọi: “Công tử Đồ Sơn!”, chàng đáp lại họ, các bạn nhìn ta, cười râm ran. Các bạn và ta đều nghĩ rằng chàng chính là “Công tử Đồ Sơn” mà ta đã đính hôn cùng, và chàng đến đây để gặp ta. Ta dõi mắt nhìn theo chàng, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, trong lòng thầm reo vui: “Chàng đó ư!” Ta chuẩn bị của hồi môn chu đáo, hân hoan chờ ngày về nhà chàng, thì đột nhiên nhận được tin chàng lâm bệnh nặng, và hôn lễ bị hủy bỏ. Cha ta dò hỏi mới hay chàng không phải lâm bệnh mà là mất tích. Cha ta không muốn lãng phí “quân cờ” mà ông đã dày công bồi dưỡng, tôi luyện cho một kẻ đã chết, nên quyết định hủy hôn. Nhưng ta không quên được hình bóng chàng, giữa biển hoa đăng, chàng đứng trên mạn thuyền, cười thật tươi và nói: “Nàng đó ư!” Bất chấp sự phản đối của cha, ta kiên quyết mặc áo cô dâu, vượt ngàn dặm xa xôi, tìm đến Thanh Khâu. Ý nghĩ duy nhất trong đầu ta khi ấy là, ta phải tìm ra bằng được kẻ hãm hại chàng. Kẻ nào giết chàng, ta sẽ giết kẻ đó! Tuy chàng không cưới ta, nhưng ta tự xem mình là vợ chàng, hết lòng phụng dưỡng bà nội. Khi biết Đồ Sơn Hầu chính là kẻ hãm hại chàng, ta quyết tâm báo thù cho chàng, bụng bảo dạ, khi nào Hầu về, sẽ tìm cách giết hắn. Hôm đó là ngày hội hoa đăng của Tết thượng nguyên, chàng vừa hoàn tất một vụ làm ăn lớn, từ thành Hiên Viên quay về. Ta dìu bà nội ra đón chàng. Đèn hoa rực rỡ khắp phủ đệ, chàng xách một chiếc đèn thủy tinh, chầm chậm bước tới. Ta ngẩn ngơ nhìn chàng, bên tai văng vẳng câu nói: “Chàng đó ư!”

Ý Ánh đã dốc cạn sức lực khi bắn mũi tên kia, nên lúc này, nàng lảo đảo, đi không vững, mải kể chuyện, chân vướng vào bụi cỏ, Ý Ánh ngã sóng soài ra đất. Nàng chẳng buồn lau vết bùn đất bám trên mặt, mà ngẩng lên nhìn Hầu:

– Khoảnh khắc ấy, nỗi căm hận của ta bỗng hóa thành niềm vui bất tận. Ta không quan tâm chàng là ai, chàng từng gây nên chuyện gì. Chỉ cần chàng còn sống là ta thấy vui lắm rồi!

Ý Ánh dịu dàng hỏi:

– Hầu, em chỉ muốn biết, chàng có thật lòng với em không?

Hầu cười lạnh lùng, mỉa mai:

– Sắp chết rồi còn hỏi chuyện thật lòng làm gì.

Ý Ánh bò về phía trước, lồm cồm đứng dậy, nàng quay đầu lại nhìn Cảnh và nói:

– Ta bày ra cái bẫy này không phải để giết chàng mà là để giết Hầu. Trước đây, ta từng nói với chàng, ta không giống chàng, kẻ nào phụ bạc ta, ta bắt kẻ đó đền tội! Bé Chấn đã được giải độc, ta có gửi lại cho nó một bức thư, nói rõ mẹ nó đã mắc sai lầm, gây nghiệp chướng, mong nó sau này lớn lên, sẽ giúp ta trả món nợ với chàng. Cảnh, cho ta xin lỗi! Không phải chàng không tốt đẹp mà vì chàng quá hoàn mỹ! Ông trời biết ta không xứng với chàng, nên mới để ta gặp Hầu trước chàng!

Ý Ánh bước đến trước mặt Hầu, nàng ôm hắn vào lòng, thì thào bên tai hắn:

– Không cần biết chàng thật lòng hay giả dối, nhưng chàng đã hứa hai ta sẽ là đôi chim uyên ương, sống chết có nhau.

Một tay nàng ôm riết lưng Hầu, tay kia nắm chặt mũi tên, ấn mạnh về phía trước, để mũi tên xuyên qua tim Hầu, cắm vào tim nàng.

Bị một đòn chí mạng, nhưng linh khí trong cơ thể Hầu vẫn chưa tiêu tán hết, lẽ ra hắn hoàn toàn có thể đẩy Ý Ánh ra. Nhưng không rõ vì Hầu phản ứng chậm chạp hay vì hắn thật lòng yêu Ý Ánh, hắn để mặc nàng ôm hắn vào lòng. Dường như Hầu biết rõ Ý Ánh định làm gì, nên khi nàng nắm chặt mũi tên trong tay, hắn liền vòng tay qua người nàng, ôm ghì nàng vào lòng. Hắn nói với Cảnh:

– Trận quyết đấu này vẫn không công bằng, ngươi lại được người khác giúp đỡ, và người đó lại là vợ ta!

Khi mũi tên xuyên qua tim Ý Ánh, Hầu vắt kiệt chút sức tàn cuối cùng, lao về phía Cảnh, đá mạnh vào ngực chàng:

– Hãy chết cùng nhau!

Cảnh bị đá văng xuống dòng sông Thanh Thủy.

Cú đá ấy khiến linh lực của Hầu hoàn toàn tiêu tan, hắn trợn trừng hai mắt, hơi thở tắt lịm, nhưng cơ thể vẫn theo đà chồm lên phía trước, kéo theo cả hắn và Ý Ánh rơi xuống sông Thanh Thủy.

Ý Ánh xiết chặt lấy Hầu, tựa vào lòng hắn, nước mắt lã chã.

Hai con người, một mũi tên uyên ương, chìm giữa sóng nước cuồn cuộn.

Tiểu Yêu đến thị trấn Thanh Thủy khi mặt trời đã ngả về Tây.

Bãi cỏ hoang loang đầy vết máu, một con Thiên mã lang thang gặm cỏ, một cây cung uyên ương nhuốm máu, nằm im lìm trong bụi cỏ, ánh hoàng hôn dát vàng lấp lánh trên thân cung.

Nhưng, nơi đây không một bóng người..

Tiểu Yêu biết rõ Cảnh không giỏi đánh nhau với người khác. Khoảng cách giữa chàng và Hầu không khác khoảng cách giữa loài hổ và loài cáo trong rừng xanh. Nếu là trong rừng sâu, chưa chắc loài hổ đã dễ dàng tóm được loài cáo. Nhưng nếu phải chiến đấu trực diện, thì loài cáo chết chắc. Hầu đòi quyết đấu công bằng, nhưng thực chất hắn đã lợi dụng điểm mạnh của mình tấn công điểm yếu của Cảnh, dù Cảnh có nhận lời quyết đấu với hắn hay không thì chàng cũng phải chết.

Nhưng Tiểu Yêu không tin, nàng luôn nhắc nhở bản thân rằng, Cảnh vẫn còn sống! Chắc chắn chàng còn sống!

Bởi vì chỉ còn hai mươi tư ngày nữa là đến ngày chàng rước nàng về dinh, chàng không thể chết!

Tiểu Yêu đi dọc bờ sông, gào gọi không ngừng:

Cảnh, Cảnh ơi!

Nhưng không ai trả lời nàng.

Tiểu Yêu không chịu bỏ cuộc, dù giọng nàng đã khản đặc, nàng vẫn tiếp tục gào gọi. Tĩnh Dạ quỳ trước mặt nàng, vừa khóc vừa nói:

– Chúng em đã tìm khắp nơi nhưng không thấy tộc trưởng đâu.

Hồ Á và U đang đi đi lại lại giữa bãi hoang. U dừng bước trước một vạt cỏ bị quần nát. Hồ Á nói với Tiểu Yêu:

– Đây là máu của tộc trưởng, có lẽ cáo chín đuôi do linh lực của tộc trưởng ngưng tụ thành đã bị chặt đứt từng chiếc đuôi nên lục phủ ngũ tạng của tộc trưởng bị trọng thương, không gắng gượng nổi, cậu ấy đã ngã xuống chỗ này.

Hồ Á đi hết một vòng, rồi ngẩng lên nhìn U, U lắc đầu. Hồ Á nói:

– Đây là nơi cuối cùng lưu lại dấu vết của tộc trưởng. Cậu ấy bị thương nặng nên cử động rất khó khăn, di chuyển theo hướng nào cũng để lại vết tích, trừ phi…

U gật đầu. Hồ Á chỉ tay về phía sông Thanh Thủy, nói:

– Trừ phi tộc trưởng nhảy xuống sông.

Tĩnh Dạ mừng rỡ:

– Nghĩa là tộc trưởng đã thoát thân, chắc chắn cậu ấy còn sống.

Hồ Á liếc nhìn U, vẻ mặt u buồn:

– U nói là chưa chắc. Nếu tộc trưởng đã thoát thân thì hẳn là Hầu vẫn còn sống. Nhưng U đã ngửi thấy mùi tử khí của Hầu.

Hồ Á trỏ tay vào vệt máu dài kéo đến tận bờ sông:

– Đây là máu của Hầu, đến bờ sông thì máu của hắn đã không còn chút sinh khí nào, điều này cho thấy hắn đã chết.

Tiểu Yêu vừa sốt ruột vừa sợ hãi, hỏi U:

– Cô có thể ngửi thấy tử khí của Hầu, vậy… vậy còn người khác thì sao?

Hồ Á nói:

– Tộc trưởng là vua cáo, U không đủ khả năng phán đoán sự sống chết của cậu ấy.

Chợt thấy sắc mặt Tiểu Yêu tái xanh, ánh mắt hoảng hốt, chừng như sắp òa khóc, không đành lòng, Hồ Á vội bổ sung:

– Trước mắt mới chỉ có Hầu, U chưa ngửi thấy tử khí của Phòng Phong Ý Ánh.

Tiểu Yêu nói:

– Hai người khẳng định Cảnh đã rơi xuống sông.

– Tộc trưởng không thể biến mất vào không trung, khả năng rơi xuống sông là duy nhất.

– Tôi phải đi tìm chàng!

Tiểu Yêu nhảy tùm xuống sông, trong chớp mắt, thân thể nàng đã bị những đợt sóng cuốn đi.

Hồ Á gọi với theo:

– Chúng tôi đã cho mấy chiếc thuyền xuôi theo dòng nước tìm kiếm.

Tĩnh Dạ khóc lóc:

– Cứ để cô ấy đi, nếu không làm gì cả, cô ấy sẽ vỡ tung mất.

Đêm đó, ánh đèn chiếu sáng khắp mặt sông Thanh Thủy, thuyền bè kín mặt sông, có thuyền ngược dòng, có thuyền xuôi dòng tìm kiếm. Ngoài ra còn có mấy chục thủy yêu[2] thông thạo sông nước lặn xuống đáy sông tìm kiếm.

[2] Thủy yêu: Yêu quái dưới nước.

Đến nửa đêm thì càng có nhiều thuyền bè và nhiều thủy yêu lục tục đổ về thị trấn Thanh Thủy, tham gia đội cứu nạn. Thị trấn Thanh Thủy tấp nập như trảy hội.

Trời sắp sáng, đúng vào thời khắc tối tăm nhất trong ngày, cũng là thời khắc lạnh nhất trong ngày, Chuyên Húc đến.

Hắn mặc quân phục, dáng vẻ mệt mỏi, hẳn là sau khi nhận được tin dữ, hắn đã lập tức thúc tọa kỵ bay đến, chẳng kịp thay y phục.

Tiểu Yêu vẫn miệt mài tìm Cảnh dưới đáy sông, từ chiều qua cho đến tận bây giờ, nàng không hề lên bờ nghỉ ngơi. Nàng không bỏ qua tấc đất nào dưới đáy sông, từ thị trấn Thanh Thủy tìm ra tới tận cửa biển.

Thuyền cứu hộ đưa Tiểu Yêu về thị trấn Thanh Thủy, nhưng nàng không muốn bỏ cuộc, nàng định sẽ tìm kiếm từ thị trấn Thanh Thủy ngược lên phía thượng nguồn. Tất cả mọi người đều nhận thấy nàng đã sức cùng lực kiệt, nhưng không ai dám ngăn cản. Lúc nàng nhảy xuống sông lần nữa, đôi chân nàng đã run lẩy bẩy, nàng không còn đủ sức bơi lặn, nhưng nàng vẫn bám chặt lấy mạn thuyền, kiên quyết không lên bờ, như thể chỉ khi ở dưới nước, nàng mới được gần Cảnh hơn, chàng mới có thêm cơ may sống sót.

Mãi đến khi Chuyên Húc tới nơi, hắn mới vớt được Tiểu Yêu lên bờ.

Sắc mặt nàng trắng bệch, bờ môi tím ngắt, ánh mắt đờ đẫn, mái tóc ướt đầm, trùm hết lên gương mặt. Toàn thân nàng băng giá. Chuyên Húc gọi nàng, bón rượu cho nàng, nhưng nàng không hề có phản ứng. Chuyên Húc bóp má nàng, ép nàng há miệng, đổ một cút rượu nhỏ vào miệng nàng. Tiểu Yêu gập người ho sặc sụa, lúc ấy trông nàng mới giống một người còn sống.

Tiêu Tiêu lấy khăn khô lau tóc cho nàng, thổi khô áo quần của nàng bằng linh lực. Chuyên Húc quấn nàng bằng chăn ấm, định bế nàng rời khỏi đó. Tiểu Yêu tròn mắt khiếp sợ, nàng co người về phía sau, lắc đầu quầy quậy. Chuyên Húc không biết phải làm sao, đành để nàng ngồi lại bên bờ sông.

Tiểu Yêu thẫn thờ nhìn những chiếc thuyền cứu hộ qua lại tấp nập trên mặt sông. Chuyên Húc trò chuyện với nàng, nhưng nàng dường như không để tâm lắng nghe, chốc chốc lại hỏi:

– Tìm thấy chưa?

Đến trưa hôm đó sông Thanh Thủy gần như đã bị xới tung lên, nhưng không ai tìm thấy Cảnh, cũng không ai tìm được Hầu và Ý Ánh. Thứ duy nhất họ tìm được là một chiếc vòng ngọc. Đó là loại ngọc bích quý hiếm, lấp lánh, chiếc vòng khá đơn giản vì chưa trải qua quá trình gia công điêu khắc tinh xảo.

Tĩnh Dạ nhìn thấy, bật khóc:

– Tộc trưởng nói rằng tiểu thư không thích đồ trang sức, đeo vòng tay sẽ đỡ vướng víu hơn, nên đã tự mình làm ra chiếc vòng này.

Tiểu Yêu bật dậy, Chuyên Húc vội giữ nàng lại, hỏi:

– Tìm thấy ở đâu?

Ai đó rẽ đám đông bước tới, bẩm báo:

– Ở vùng hạ lưu, gần cửa biển.

Tiểu Yêu vội nói:

– Cảnh… Cảnh ở đó!

Sau khi phát hiện ra chiếc vòng, chúng thần đã cho tìm kiếm xung quanh, không bỏ qua dù chỉ là một phiến đá nhỏ, nhưng không có kết quả. Có lẽ tộc trưởng đã trôi theo dòng nước ra biển rồi.

– Vậy thì ra biển tìm đi.

Giọng nói của Tiểu Yêu như đàn căng dây, nghe sắc lạnh.

Không ai dám nhiều lời, tất cả đều khẽ nói:

– Đã tìm kiếm khu vực cửa biển.

Người nhà Đồ Sơn và người của Chuyên Húc đều đã dốc hết sức lực tìm kiếm vùng biển gần đó, nhưng biển rộng mênh mông vô tận là thế, ném cả một quả núi xuống biển chưa chắc đã tìm thấy huống chi một con người. Dưới lòng biển lại có vô số loài yêu quái biển hung hãn, dữ tợn, đám yêu quái ấy lại rất thèm khát linh khí của Thần tộc.

Chuyên Húc ra lệnh:

– Tiếp tục tìm kiếm!

– Vâng!

Đám đông dần tản mác, người lên thuyền, người xuống nước.

Ánh trăng chiếu vàng, sóng nước cuồn cuộn đổ ra biển, không ngừng nghỉ, cũng không mảy may thương xót, những ngọn sóng vô tình đâu biết đã cuốn trôi hạnh phúc của hai con người.

Tiểu Yêu vừa bước đi lảo đảo vừa nói:

– Muội phải đi tìm chàng!

Chuyên Húc khuyên can:

– Muốn tìm kiếm cũng phải ăn chút gì đó, không đủ sức thì tìm kiếm thế nào! Ngoan nào, chúng ta hãy lót dạ một chút.

Tiểu Yêu cố gắng vùng thoát khỏi cánh tay Chuyên Húc, nàng vẫn cố chấp:

– Muội phải đi tìm chàng!

Chuyên Húc liếc nhìn Tiêu Tiêu, Tiêu Tiêu lập tức rời đi, một lát sau, nàng chèo một chiếc thuyền nan nhỏ đến. Chuyên Húc ôm Tiểu Yêu bay lên thuyền.

Thuyền xuôi xuống hạ lưu, Tiểu Yêu nắm chặt vòng ngọc trong tay, thẫn thờ nhìn mặt sông, như thể muốn nhìn cho tỏ dòng nước vô tình cuốn trôi Cảnh của nàng diện mạo ra sao.

Nhờ linh lực cao cường, Tiêu Tiêu chèo thuyền rất nhanh, mặt trời ngả về Tây họ đã ra đến cửa biển. Thuyền bè tấp nập trên sông, trên biển, tất bật tìm kiếm xung quanh.

Tiêu Tiêu thả cho thuyền chầm chậm trôi theo dòng nước.

Tiểu Yêu mân mê chiếc vòng, lẩm bẩm:

– Chiếc vòng được tìm thấy ở đây đúng không?

Tiểu Yêu gượng đứng lên, nàng muốn nhảy xuống nước.

Chuyên Húc vội kéo nàng lại:

– Muội đứng còn không vững, nhảy xuống sông phỏng ích gì?

Thuyền khẽ lắc lư, Tiểu Yêu đổ người vào vòng tay Chuyên Húc, nhưng nàng vẫn muốn xuống sông, mắt nàng nhìn trân trân xuống dòng nước:

– Muội… muội… phải đi tìm chàng!

Chuyên Húc bóp mạnh cằm Tiểu Yêu, ép nàng ngẩng đầu nhìn xung quanh, hắn gần như gầm lên:

– Muội nhìn xem có bao nhiêu người đang tìm kiếm cậu ta? Bọn họ đều khỏe mạnh hơn muội, hiểu về vùng biển này hơn muội, kỹ năng tìm kiếm dưới nước thành thục hơn muội. Nếu muội xuống đó, họ sẽ mất công đi theo trông chừng, bảo vệ muội, muội sẽ gây phiền hà cho công việc của họ.

Bờ môi Tiểu Yêu run rẩy, toàn thân nàng cũng đang run lên.

Chuyên Húc ôm nàng vào lòng, dịu dàng nói:

– Tiểu Yêu, nếu Cảnh ở đó, nhất định họ sẽ tìm thấy.

Tiểu Yêu dán mắt vào những người đang tìm kiếm dưới nước, họ chia hai người một nhóm nhỏ, phối hợp nhịp nhàng, không bỏ sót một tấc sông nào.

Tiêu Tiêu chèo thuyền theo sát những người đó.

Từ bảng lảng chiều cho đến nửa đêm, những chiếc thuyền nhỏ đã vươn ra biển rộng.

Đó là một đêm không sao, không gió mát, vầng trăng vằng vặc trên cao, biển lớn hoàn toàn tĩnh lặng dưới trăng sáng. Hàng nghìn người vẫn đang miệt mài tìm kiếm Cảnh. Mỗi người đều mang theo một viên Dạ minh châu mà nhà Đồ Sơn gấp rút đưa tới, hàng nghìn viên Dạ minh châu lấp lánh tựa nghìn vì tinh túy lấp lánh dưới lòng biển khơi.

Đã hai ngày hai đêm trôi qua, tất cả những người tham gia tìm kiếm đều biết rằng không còn hy vọng, nhưng khi Chuyên Húc chưa ra lệnh, không người nào dám từ bỏ, thậm chí không ai dám ngơi nghỉ, lơ là.

Tiểu Yêu trân trân nhìn mặt biển thâm u, lẩm bẩm:

– Muội không hiểu. Trước đây, mỗi lần xảy ra chuyện muội đều biết nguyên nhân vì sao. Có khi là vì chàng quá nhân hậu mà không quyết đoán, có khi là vì muội không tin chàng, không giữ chàng thật chặt. Nhưng lần này, muội không biết muội và chàng đã làm gì sai? Chàng vội vã đi thăm một cậu bé ốm nặng, chàng không sai. Chàng cẩn thận đưa tất cả các ám vệ đi theo, làm vậy hoàn toàn đúng. Trước lúc ra đi, chàng viết thư cho muội, rất chu đáo. Chàng chấp nhận quyết đấu để kéo dài thời gian, rất sáng suốt. Vừa nhận được thư của chàng, muội lập tức đến đây, muội cũng không sai. Vậy thì sai lầm ở chỗ nào?

Chuyên Húc nói:

– Hai người đều không sai.

– Nếu muội và chàng đều không sai, thì vì sao lại có chuyện?

Chuyên Húc không trả lời được.

– Trước đây, sau mỗi sai lầm, muội và chàng đều đã sửa đổi, mọi thứ đều trở nên tốt đẹp. Nhưng lần này thì sao? Huynh làm ơn cho muội biết, muội và chàng đã sai ở đâu? Muội nhất định sẽ sửa, bất kể là lỗi lầm gì, muội đều sửa hết…

Tiểu Yêu đau đớn đổ người về phía trước, có gì đó cuồn cuộn trào lên cổ họng, suốt hai ngày không ăn không uống, nàng chẳng nôn ra được thứ gì, nhưng vẫn nôn khan khổ sở, lục phủ ngũ tạng của nàng như sắp trào hết ra.

– Tiểu Yêu ơi… Tiểu Yêu…

Chuyên Húc vuốt lưng cho Tiểu Yêu, linh lực có thể giúp cơn đau thể xác thuyên giảm, nhưng không thể làm nguôi ngoai nỗi đau trong tâm can Tiểu Yêu.

Vầng trăng lặng lẽ lặn xuống phía Tây, mặt trời từ từ xuất hiện ở phương Đông. Ánh ban mai rực rỡ, hừng Đông tỏa rạng trên mặt biển.

Một binh sỹ bước tới bẩm báo, người này có vẻ là người chỉ huy đội cứu hộ:

– Chúng thần đã tìm kiếm suốt một ngày hai đêm, nhiều binh sỹ đã ngất xỉu vì linh lực cạn kiệt. Theo Bệ hạ, chúng ta nên nghỉ ngơi một lát rồi tiếp tục hay điều động thêm người mới?

Chuyên Húc ra lệnh:

– Nghỉ ngơi một lát rồi tìm tiếp. Truyền chỉ dụ của ta, điều động thêm một nghìn binh sỹ thuộc Thủy tộc đến đây.

Người đó ngập ngừng như muốn nói điều gì đó, ngẫm ngợi một lát, anh ta cúi người thưa:

– Vâng!

Những binh sỹ đã sức cùng lực kiệt mệt nhoài bò lên thuyền, chẳng còn sức mà uống nước, họ nằm la liệt trên thuyền.

Nhiều người đã ngất lịm, chốc chốc lại nghe tiếng kêu cứu: Thầy thuốc! Thầy thuốc đâu!

Cũng có người không đủ sức trèo lên thuyền, mới trèo đến lưng chừng đã rơi tùm xuống biển, kéo hàng loạt binh sỹ khác rơi theo.

Có lẽ vì sự có mặt của Chuyên Húc, không ai dám kêu rên một tiếng. Ngã xuống nước, sắc mặt trắng bệch, nhưng họ vẫn cắn răng, gắng sức trèo lên thuyền.

Tiểu Yêu thẫn thờ nhìn họ, rồi lại đưa mắt về phía biển cả bao la, vô tận.

Biển lớn mênh mông không cùng, dù có huy động toàn bộ binh lính trong Đại hoang cũng sẽ chỉ như muối bỏ bể.

Nàng không thể tìm thấy Cảnh!

Tiểu Yêu lí nhí:

– Bảo họ đừng tìm nữa.

Chuyên Húc nói:

– Có thể Cảnh đã được nhà chài nào đó cứu vớt. Cũng có thể cậu ta gặp được người cá, và họ đã đưa cậu ta vào đất liền.

Nước mắt Tiểu Yêu như nước vỡ bờ, tuôn rơi ào ạt:

– Còn hai mươi hai ngày nữa mới đến hôn lễ của muội và chàng, nếu chàng biết tiết kiệm thời gian, thì vẫn về kịp.

Vừa dứt lời, Tiểu Yêu ngã nhào về phía trước, may mà Chuyên Húc kịp giữ nàng lại. Hai ngày hai đêm không ăn không nghỉ, lại bị nỗi đau đớn giày vò hành hạ, không chống chịu nổi nữa, Tiểu Yêu ngã ra, bất tỉnh.

Chuyên Húc nhẹ nhàng quấn chăn ấm cho nàng, ôm nàng vào lòng, ân cần chăm sóc.

Sắc mặt tái xanh, bờ môi trắng bệch, mới có hai ngày mà nàng dường như hoàn toàn đổi khác. Chuyên Húc thấy tim mình đau nhói. Hắn dõi mắt nhìn hừng đông rực rỡ nơi đường chân trời, hít một hơi thật sâu, thở ra đều đặn:

– Tiểu Yêu, mọi chuyện sẽ qua, và muội sẽ quên cậu ta!

Tiểu Yêu hôn mê suốt bốn ngày. Ngân nói sức khỏe của nàng vẫn bình thường, nhưng nàng như người lâm bệnh nặng, hôn mê mãi không tỉnh lại. Trong cơn mê man, nàng vẫn run lên vì đau đớn, nhưng nàng kiên quyết không tỉnh lại.

Chuyên Húc đứng ngồi không yên, nhưng không có cách gì, đành ngày đêm túc trực săn sóc nàng.

Tiểu Yêu tỉnh lại sau bốn ngày bốn đêm, nàng gầy rộc đi, như người vừa qua cơn bạo bệnh.

Chuyên Húc cũng mệt mỏi hốc hác. Hắn muốn đưa Tiểu Yêu về, nhưng nàng không chịu. Chuyên Húc đành ở lại Đông Hải với Tiểu Yêu hơn chục ngày.

Đêm nào Tiểu Yêu cũng chờ đợi, ngày nào nàng cũng ra biển, Chuyên Húc không can ngăn nổi, đành cử Tiêu Tiêu theo sát nàng.

Mãi đến ngày Mười một, tức là chỉ còn bốn ngày nữa là tới hôn lễ của Cảnh và Tiểu Yêu, nàng nói với Chuyên Húc:

– Muội muốn về Thần Nông Sơn.

Chuyên Húc đưa nàng về Thần Nông Sơn. Tiểu Yêu nhìn thấy Hoàng Đế liền hỏi:

– Ông ơi, áo cưới của cháu sửa xong chưa?

Hoàng Đế đáp:

– Xong rồi.

– Của hồi môn gói ghém xong chưa?

– Xong rồi.

Tiểu Yêu chừng như đã yên tâm hơn, nàng về phòng mình.

Gương mặt Hoàng Đế như tối sầm, ngài dõi mắt về phía dãy núi xa xa. Sáng nay trời vừa đổ một trận mưa, cây cỏ xanh non biêng biếc, mưa đọng lại thành những đầm nước dưới chân núi, một đàn cò trắng đang chen chân kiếm ăn.

Hoàng Đế lặng đứng rất lâu, mới hỏi Chuyên Húc:

– Cảnh chết rồi?

Chuyên Húc đáp:

– Chết rồi.

Hoàng Đế nhắm mắt đứng lặng một hồi. Trong chớp mắt, ngài dường như già đi rất nhiều. Ngài còng lưng bước vào phòng:

– Thời gian qua cháu xao nhãng chính sự rồi đó!

Chuyên Húc nói:

– Cháu không hề xao nhãng việc nước. Tuy ở lại Đông Hải, nhưng ngày ngày cháu vẫn lo xử lý chính sự. Ban ngày sai Tiêu Tiêu đi theo Tiểu Yêu, chỉ buổi tối cháu mới ở cạnh muội ấy.

Hoàng Đế mệt mỏi, nói:

– Chỉ cần cháu biết mình đang làm gì là được. Công việc làm ăn của nhà Đồ Sơn trải khắp Đại hoang. Tộc trưởng của họ đột ngột qua đời, điều này sẽ ảnh hưởng đến tất cả các dòng họ lớn. Nếu cháu xử lý không thỏa đáng, Đại hoang sẽ lâm nguy.

Chuyên Húc đứng trong vườn một lát, rồi hắn nhảy lên tọa kỵ, bay về Tử Kim Đỉnh. Hắn không buồn nghỉ ngơi mà lập tức triệu gọi mấy trọng thần và tâm phúc đến bàn việc.

Đêm Mười bốn, vầng trăng trên cao dường như đã tròn đầy, nhưng vẫn không hề có tin tức của Cảnh.

Điện Chương Nga lạnh lẽo, vắng lặng, không giống với bầu không khí của đêm trước ngày rước dâu. Nhưng đồ đạc dùng để trang trí cho ngày vui vẫn còn nguyên, không ai dám động tới, cũng không ai dám gỡ bỏ. Mọi người đều vờ như ngày mai chỉ là một ngày bình thường như bao ngày khác.

Nửa đêm, Tiểu Yêu giật mình tỉnh mộng, hình như nàng nghe thấy ai đó gõ vào cửa sổ. Nàng nhảy xuống đất, chỉ vài bước đã vọt đến bên cửa sổ. Nàng mở toang cánh cửa:

Cảnh ơi… Cảnh, có phải chàng về đó không?

Một tay cầm đèn minh châu, tay kia cầm áo choàng, Miêu Phủ bước tới:

– Tiểu thư ơi, đó chỉ là tiếng gió thổi cành cây xào xạc mà thôi.

Tiểu Yêu cảm thấy đầu óc choáng váng, nàng tựa đầu vào cửa sổ, thì thào:

– Không phải chàng sao?

Trăng sáng vằng vặc, không gian ngoài khung cửa hoàn toàn quạnh quẽ, tịch mịch, chỉ có cỏ cây, không một bóng người. Tiểu Yêu thất vọng, buồn bã hỏi:

– Miêu Phủ, vì sao ta không lần nào ta mơ gặp Cảnh?

Miêu Phủ choàng áo cho Tiểu Yêu, lại đem giày vải đến cho nàng. Miêu Phủ không biết phải trả lời ra sao, đành khe khẽ đáp:

– Em không biết.

Tiểu Yêu ngước nhìn vầng trăng, nói:

– Ta rất nhớ chàng. Nếu không gặp được ngoài đời thì gặp trong mơ cũng tốt.

Miêu Phủ thấy sống mũi cay cay. Nàng ở bên Tiểu Yêu bấy lâu nay, chứng kiến chặng đường gian nan để đến được với nhau của hai người. Cứ ngỡ họ sẽ có một kết cục viên mãn, nào ngờ tai ương lại xảy đến.

Tiểu Yêu nói:

– Có lẽ vì không tận mắt chứng kiến, nên với ta mọi chuyện dường như không phải là sự thực. Lúc nào ta cũng có cảm giác, chàng sẽ xuất hiện đột ngột. Vì sao nói chàng biến mất là biến mất liền như vậy? Vì sao không từ biệt ta? Giá như chàng chết trong vòng tay ta, thì hai ta sẽ tâm sự với nhau mọi điều muốn nói. Nhưng bây giờ thì sao? Ngày thứ nhất nhận được thư của chàng, chàng dặn dò ta phải đi ngủ sớm, không nên thức khuya đọc sách. Vậy mà hôm sau, tất cả mọi người đều nói rằng chàng đã ra đi. Không thể thế được, ta không tin. Vì sao chàng không nói với ta lời nào? Ta hận chàng!

Tiểu Yêu gào lên với trăng cao:

– Đồ Sơn Cảnh, em hận chàng!

Gió đêm man mác, trăng treo chênh chếch.

Tiểu Yêu bất lực gục đầu, nước mắt lã chã như mưa:

– Nhưng, em không đành lòng hận chàng. Vì em biết, chàng đã rất đau khổ vì không đến như đã hẹn.

Miêu Phủ lặng lẽ chấm nước mắt:

– Tiểu thư đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, đi ngủ thôi!

Tiểu Yêu bảo Miêu Phủ:

– Đi lấy gậy Phù Tang đến đây cho ta.

Không biết nàng định làm gì, nhưng Miêu Phủ cũng không dám hỏi, lập tức chạy đi.

Lúc Miêu Phủ quay lại, thấy Tiểu Yêu đứng dưới mái hiên, một chiếc thang đã được sắp sẵn ở đó. Miêu Phủ trao cho Tiểu Yêu cây gậy Phù Tang bọc một lớp ngọc thạch bên ngoài:

– Tiểu thư cầm lấy đi. Thứ gỗ này tưởng chừng không chứa lửa, nhưng thực chất bên trong đều là lửa. Tiểu thư hãy cầm vào lớp ngọc thạch bọc bên ngoài.

Tiểu Yêu bắc thang, cầm gậy Phù Tang, trèo lên mái hiên, châm lửa thắp sáng chiếc đèn lồng bự tướng treo trên cao.

Xong xuôi, nàng nhảy xuống, định dịch chuyển chiếc thang.

Miêu Phủ hiểu ý nàng, vội bảo:

– Để em.

Miêu Phủ là ám vệ do Chuyên Húc đào tạo, linh lực cao cường, nàng nhẹ nhàng xê dịch chiếc thang đến vị trí của chiếc đèn lồng khác.

Tiểu Yêu lại trèo lên, thắp lửa.

Trong đêm đen tịch mịch, Miêu Phủ phụ giúp Tiểu Yêu, một người bắc thang, một người châm lửa, thắp sáng từng chiếc đèn lồng đỏ trong cung điện Chương Nga.

Dưới hành lang, trước cửa, trong đình hóng gió, trên cầu… đèn treo ở mọi nơi, và mỗi nơi treo một kiểu đèn khác nhau: Cái thì hình tròn, cái thì hình bát giác, cái thì hình tứ giác… Chất liệu làm đèn cũng khác nhau, có cái làm bằng da dê, có cái làm bằng sợi tơ do người cá dệt, có cái làm bằng đá lưu ly, có cái làm bằng ngọc phù dung… Nhưng dù là kiểu dáng, chất liệu gì, tất cả những chiếc đèn này đều có cùng một màu sắc: Màu đỏ, màu hạnh phúc, cát tường của ngày song hỷ.

Đèn lồng lần lượt được thắp lên, khiến cho cả cung điện bừng sáng rực rỡ, điện Chương Nga bớt tịch liêu mà trở nên ấm cúng, rộn ràng hơn.

Sau khi thắp xong hai chiếc đèn lồng đỏ cuối cùng treo trước cửa cung điện, Tiểu Yêu xuống thang, ngước nhìn cung điện của nàng thấm đẫm bầu không khí hoan hỷ, nàng nói với Miêu Phủ:

– Xong rồi!

Về đến phòng nghỉ, Miêu Phủ nhìn thấy quầng thâm quanh vành mắt Tiểu Yêu, nàng lựa lười khuyên giải:

– Trời sắp sáng rồi, tiểu thư mau đi nghỉ đi!

Tiểu Yêu ngồi xuống, soi gương, bảo Miêu Phủ:

– Em chải tóc, trang điểm cho ta.

Những ngày qua Tiểu Yêu bỏ ăn bỏ uống, nói chi đến chuyện chải tóc, trang điểm. Miêu Phủ thoáng sững sờ, sau đó nàng hiểu ra ý định của Tiểu Yêu, nàng xót xa đáp:

– Vâng.

Miêu Phủ không biết cách vấn tóc cho cô dâu, việc đó chỉ những người hầu lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm mới biết. Nhưng vì Cảnh gặp nạn, những người hầu vốn được sắp xếp trang điểm cho Tiểu Yêu đã không đến nữa. Miêu Phủ giúp Tiểu Yêu vấn kiểu tóc thả lọn bồng bềnh mà nàng yêu thích, sau đó cài cây trâm Cảnh tặng lên tóc nàng.

Tiểu Yêu soi gương, tự điểm phấn tô son nhẹ nhàng cho mình.

Tiểu Yêu hỏi:

– Áo cưới của ta đâu?

Miêu Phủ mở rương, lấy ra bộ áo cưới màu đỏ thêu kim tuyến lấp lánh. Ngập ngừng gọi:

– Tiểu thư?

Tiểu Yêu xòe bàn tay, khẳng định:

– Ta muốn mặc!

Miêu Phủ cắn răng, trải rộng bộ áo váy, giúp Tiểu Yêu khoác lên người.

Sau khi Chuyên Húc dời đô đến Chỉ Ấp, cách phục sức của miền Tây và vùng Trung nguyên đã có sự giao thoa nhất định. Chiếc váy cô dâu của Tiểu Yêu chính là sự kết hợp những ưu điểm của hai phong cách thiết kế, có sự tinh tế, lộng lẫy của Thần Nông, có sự giản đơn, phóng khoáng của Hiên Viên. Khoác lên người tạo cảm giác trang trọng, hoa mỹ, mà không vướng víu, không cản trở việc đi lại.

Mặc xong bộ váy cô dâu, Tiểu Yêu ngồi yên trên giường chờ đợi, giống hệt cô dâu trẻ trong ngày về nhà chồng.

Tiểu Yêu hỏi:

– Miêu Phủ, em có biết giờ lành trong ngày là khi nào không?

– Em không.

– Liệu Cảnh có nhớ không?

– Chắc chắn cậu ấy nhớ.

– Vậy thì tốt.

Tiểu Yêu cầm cuốn sách bằng lụa ở đầu giường lên đọc, đó là sách y dược. Miêu Phủ ngẩn ngơ một lát, rồi ra ngoài bưng vào một đĩa bánh ngọt và bát canh, đặt lên chiếc bàn nhỏ bên cạnh Tiểu Yêu.

Trưa hôm đó, Hoàng Đế ghé điện Chương Nga thì thấy Tiểu Yêu mặc áo cô dâu ngồi trên giường. Chiếc váy lộng lẫy, rực rỡ đối lập hoàn toàn với hình ảnh cô gái cô đơn, lặng lẽ, ngồi đọc sách y dược.

Ngày tháng năm, ánh dương rực rỡ tinh nghịch tràn vào căn phòng, phủ lên người Tiểu Yêu, nhưng không phản chiếu bầu không khí cát tường như ý, trăm năm hạnh phúc, trái lại, căn phòng này nhuốm màu tang thương, ly biệt, một đời bất hạnh.

Tiểu Yêu ngồi đó, hàng mi dài cụp xuống, giống hệt bà ấy! Hoàng Đế như đang nhìn thấy Tiểu Yêu một mình cô độc trong căn phòng vắng, nàng già đi nhanh chóng, mái tóc xanh ngày nào giờ đã lấm tấm pha sương, dung nhan như hoa như ngọc ngày nào bỗng trở nên héo hon, tàn tạ. Bóng dáng người vợ cô độc, già nua trong điện Triêu Vân ngày nào như đan xen lồng ghép với hình ảnh cô cháu gái trước mặt. Hoàng Đế không dám nhìn tiếp, ngài đột ngột nhắm nghiền mắt lại.

Nghe thấy tiếng động, Tiểu Yêu ngẩng lên, trông thấy Hoàng Đế, nàng liền ngó ra ngoài cửa sổ, quan sát mặt trời.

Hoàng Đế vào phòng, thấy bánh ngọt và bát canh vẫn còn nguyên, liền bảo:

– Tiểu Yêu, cùng ta ăn trưa nào.

Tiểu Yêu quay lại, cầm bánh ngọt lên ăn.

Hoàng Đế ở bên Tiểu Yêu từ trưa sang chiều và đến lúc sẩm tối. Miêu Phủ mở từng chiếc đèn minh châu.

Vì Cảnh đột ngột qua đời, nên những ngày qua Chuyên Húc bận rộn tối tăm mặt mũi.

Mãi đến tối Chuyên Húc mới xong việc, hắn chẳng buồn ăn uống, vội vã ghé Tiểu Nguyệt Đỉnh.

Mấy ngày gần đây Tiểu Yêu ở miết cung điện Chương Nga, nên hắn đến thẳng đó. Tọa kỵ vẫn lơ lửng trên không trung, hắn đã nhìn thấy cung Chương Nga rực rỡ dưới ánh đèn lồng báo hỷ.

Tới gần hơn hắn mới nhận ra, đèn lồng ở khắp mọi nơi từ bậc cửa, dưới hành lang, trên cầu, trong đình hóng gió đều đã được thắp sáng. Đủ mọi loại đèn, đủ mọi kiểu dáng, tỏa rạng, báo tin vui.

Tọa kỵ đến trước cửa cung, Chuyên Húc nhảy xuống, lạnh lùng hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Tiêu Tiêu cúi người thưa:

– Bẩm, đêm qua tiểu thư đã tự tay thắp đèn.

Khi lựa chọn đồ đạc bày biện trang trí cho ngày vui, họ đã lựa chọn cho cung điện của nàng những đồ dùng tốt nhất, bởi vậy lượng dầu trong những ngọn đèn lồng này có thể đủ thắp cả chín ngày.

Chuyên Húc trầm ngâm ngắm những chiếc đèn lồng đỏ rực dưới mái hiên. Tiêu Tiêu sợ hãi nín thở.

Rất lâu sau, Chuyên Húc dần bình tĩnh lại, hắn rảo bước về phía phòng ngủ của Tiểu Yêu.

Tiêu Tiêu lập tức quỳ xuống:

– Tiểu thư đòi mặc áo cưới và trang điểm.

Chuyên Húc sững lại, sắc mặt lạnh lùng, dằn từng chữ một:

– Mặc áo cưới?

– Vâng.

Chuyên Húc không tiếp tục cất bước, nhưng cũng không quay về. Tiêu Tiêu cúi đầu sát đất, không dám nhìn Chuyên Húc, nhưng nàng nghe thấy hơi thở nặng nhọc của hắn. Tiêu Tiêu cảm thấy thân thể nàng đang run lên theo từng nhịp thở ấy.

Một lát sau, Chuyên Húc quay người, lẳng lặng nhảy lên tọa kỵ, rời khỏi điện Chương Nga.

Tiêu Tiêu ngồi sụp xuống, lúc này mới thở hổn hển, mồ hôi ướt đầm vai áo.

Tiêu Tiêu vào phòng, bẩm báo với Hoàng Đế và Tiểu Yêu:

– Hắc Đế Bệ hạ hôm nay bận chính sự, không đến được. Ngày mai ngài sẽ tới thăm tiểu thư.

Tâm tư Tiểu Yêu đang để tận đâu đâu, nàng chẳng buồn đáp lại. Hoàng Đế nhìn xoáy vào Tiêu Tiêu, không nói một lời, xua tay, bảo nàng ra ngoài.

Tiểu Yêu hỏi khẽ:

– Giờ lành đã qua rồi phải không?

Hoàng Đế nói:

– Tiểu Yêu, Cảnh không quay lại được đâu, một đời rất dài, cháu hãy quên cậu ta đi.

– Ông ơi, cháu muốn nghỉ ngơi, ông cũng về nghỉ đi.

Hoàng Đế lo lắng nhìn Tiểu Yêu. Nàng nói:

– Cháu không sao, cháu… cần có thời gian.

Hoàng Đế lặng lẽ nhìn nàng một lát, rồi đứng lên, rời gót.

Tiểu Yêu đến bên cửa sổ, ngắm nhìn vầng trăng tròn vành vạnh trên cao.

Ngày rằm là ngày trăng tròn, Cảnh chọn ngày này để thành hôn có lẽ vì muốn hôn nhân của họ được tròn đầy, viên mãn? Nhưng ai ngờ trăng đã tròn mà người chẳng được đoàn viên.

Tiểu Yêu nói với Hoàng Đế nàng cần có thời gian, nhưng sẽ phải mất bao lâu? Phải mất bao lâu mới hết đau buốt tim này?

Tiểu Yêu hỏi:

– Miêu Phủ, phải mất bao lâu ta mới hết đau buốt trái tim?

Miêu Phủ lúng túng:

– Có lẽ cũng giống khi ta bị thương nặng, thời gian đầu đau nhức dữ dội, dần dần, vết thương đóng vảy, cơn đau sẽ nguôi ngoai, rồi khi vết thương lên da non, cơn đau sẽ không còn nữa.

Tiểu Yêu gật đầu. Nàng từng nhiều lần bị thương, nàng hiểu rõ làm thế nào để hết đau.

Muốn hết đau, chỉ còn cách phải quên đi! Thời gian như cát sa mạc, có thể vùi lấp mọi thứ trong tim người.

Nhưng…

Cảnh, em không muốn!

Nếu cái giá của việc không còn đau khổ là phải lãng quên chàng, vậy thì em sẵn sàng chấp nhận khổ đau, để chàng được sống mãi trong tim em, cho tới khi sự sống kết thúc.

Em đã mặc áo cưới, cúi đầu trước trăng cao, kể từ đêm nay, em sẽ là vợ chàng!
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 10: Ngày đêm nhung nhớ, người đâu thấy

Tiểu Yêu lạy trước trăng rằm ba lạy, lúc đứng dậy, thấy con chim trắng đậu bên ngoài cửa sổ. Con chim nhỏ không lảnh lót như những chú chim khác, mà trầm tĩnh nhìn Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu chìa tay ra, chim trắng đậu xuống, nhả vào tay nàng một viên ngọc pha lê trong suốt. Tiểu Yêu cầm viên pha lê và nhận ra đó không phải ngọc pha lê thực sự, mà là một quả trứng của yêu quái cá vọng âm. Loài cá này chẳng có gì ghê gớm, ngoài khả năng ghi lại tiếng người. Nó có thể nhắc lại trọn vẹn, không thiếu một tiếng những gì người ta nói ra. Vì vậy các gia tộc lớn thường trứng của nó, luyện thành ngọc thu phát âm thanh, dùng để truyền tin tức.

Tiểu Yêu đặt viên ngọc sát bên tai, miết thật mạnh, âm thanh phát ra, Tiểu Yêu rùng mình:

– Tiểu Yêu, hãy đến Đông Hải ngay, đừng nói với bất cứ ai.

Đó là giọng nói của Cảnh.

Tiểu Yêu vội bảo:

– Cảnh, chàng nhắc lại xem nào.

Nhưng mỗi viên ngọc vọng âm chỉ ghi được một lượt âm thanh, không thể lặp lại.

Chim trắng vỗ cánh bay đi, Tiểu Yêu giật mình, túm lấy cánh tay Miêu Phủ, nói:

– Ta phải đến Đông Hải, ngay lập tức! Không được nói với bất cứ ai!

Miêu Phủ thất sắc, lắc đầu quầy quậy:

– Không, không được!

– Miêu Phủ, em giúp ta không?

Miêu Phủ ấp a ấp úng:

– Nhưng… nhưng… Bệ hạ ra lệnh cho Tiêu Tiêu canh chừng bên ngoài, em đánh không lại cô ấy…

Miêu Phủ đột nhiên im bặt, nhướng mắt ra phía cửa.

Tiêu Tiêu đứng bên ngoài, trong tay nàng là chú chim trắng khi nãy, nhưng nó đã chết.

Tiêu Tiêu cúi chào Tiểu Yêu:

– Con chim này đưa thứ gì cho tiểu thư vậy?

– Vì sao ta phải nói với cô?

Tiêu Tiêu nhìn xoáy vào Miêu Phủ, Miêu Phủ ngập ngừng, khẽ đáp:

– Một viên ngọc vọng âm.

Tiêu Tiêu hỏi:

– Nó đã nói gì?

– Tôi không nghe thấy.

Tiêu Tiêu cúi người vái Tiểu Yêu:

– Xin tiểu thư cho tôi biết viên ngọc truyền tin tức gì?

Tiểu Yêu nghiêng đầu ngẫm ngợi rồi đáp:

– Cô phải hỏi rõ ràng, đặng còn báo cáo với Chuyên Húc. Thôi được, không làm khó cô nữa. Ta sẽ nói.

Tiểu Yêu đến trước mặt Tiêu Tiêu, đặt tay lên vai nàng, ghé vào tai nàng, thì thào:

– Tiêu Tiêu, cô rất giỏi giang, nhưng nhiều lúc quá cứng nhắc. Ta phải đến Đông Hải, và sẽ không cho cô đi theo, bởi vì chắc chắn cô sẽ ngăn cản ta.

Hai mắt tối sầm, Tiêu Tiêu ngã lăn ra đất. Miêu Phụ vội đỡ lấy nàng, tròn mắt sợ hãi nhìn Tiểu Yêu.

– Còn ngây ra đó làm gì!

Tiểu Yêu sai Miêu Phủ đặt Tiêu Tiêu lên giường, đắp chăn, buông màn, nhìn như thể Tiểu Yêu đang nằm ngủ.

Tiểu Yêu nhanh chóng thay xiêm y, giục giã Miêu Phủ:

– Còn đứng ngây ra đó làm gì? Mau chuẩn bị đi!

Ngoài Tiêu Tiêu, Chuyên Húc còn cử bốn ám vệ khác bảo vệ Tiểu Yêu, nhưng chỉ có Tiêu Tiêu được phép lại gần phòng ngủ của nàng, các ám vệ khác bảo vệ vòng ngoài. Bọn họ chỉ chú tâm vào việc canh giữ không cho kẻ bên ngoài đột nhập, mà không hề hay biết Tiểu Yêu đã “bẫy” Tiêu Tiêu, Tiêu Tiêu bị Tiểu Yêu đánh thuốc mê.

Tiểu Yêu nhấn nút, mở cửa đường hầm bí mật, dẫn Miêu Phủ rời khỏi phòng ngủ của nàng. Năm xưa, dạo còn ở đỉnh Tử Kim, vì Chuyên Húc nhận nhiệm vụ trùng tu cung điện Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu đã được xem sơ đồ của nhiều cung điện, cung điện nào cũng có đường hầm bí mật, nhưng không giống nhau.

Miêu Phủ buồn thiu, vừa đi vừa nói:

– Chắc chắn Bệ hạ sẽ chém đầu em.

– Nếu vậy, Bệ hạ phải chém đầu ta trước!

Câu nói của Tiểu Yêu chẳng làm Miêu Phủ bớt sợ hơn, nàng vẫn mặt ủ mày chau.

Đi đến cuối đường hầm, đã cách xa cung điện Chương Nga, họ thấy một tàu ngựa, thì ra đây chính là nơi nuôi Thiên mã. Tiểu Yêu nói:

– Không biết trong số những người từng là chủ nhân của cung điện Chương Nga, ai là kẻ ham chơi thế này. Dù sao thì, hôm nay, người đó đã giúp ta.

Miêu Phủ chọn ra cặp Thiên mã khỏe nhất, phụ Tiểu Yêu thắng ngựa vào xe mây.

Tiểu Yêu ngồi thu mình trên xe, đưa thẻ ngọc cho Miêu Phủ:

– Đây là lệnh bài của ông ngoại ta, nó có thể giúp chúng ta ra vào Thần Nông Sơn tùy ý.

Miêu Phủ hít một hơi thật sâu, tự nhủ:

– Chết thì chết!

Sau đó, nàng thúc Thiên mã:

– Đi nào!

Thiên mã chạy lấy đà, rồi vút lên không trung.

Qua cửa phía Đông, Miêu Phủ vênh vang giơ lệnh bài lên cao, thị vệ kiểm tra kĩ lưỡng, cho Miêu Phủ đi qua.

Rời khỏi Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu thò đầu ra ngoài, nói với Miêu Phủ:

– Cảm ơn em!

Miêu Phủ ấm ức:

– Đại tiểu thư của tôi ơi, vì sao đêm hôm chị đòi đi Đông Hải bằng được? Vì sao không để Tiêu Tiêu xin phép Bệ hạ? Xưa nay có khi nào Bệ hạ không chiều theo ý chị, nếu chị muốn, chắc chắn ngài sẽ để chị đi. Việc gì phải lén lút như ăn trộm thế này?

– Ta nghe Cảnh bảo: “Lập tức đến Đông Hải, không được nói với bất cứ ai”.

Miêu Phủ kinh ngạc:

– Sao? Giọng nói phát ra từ viên ngọc ấy là của tộc trưởng tộc Đồ Sơn? Cậu ấy nói được mấy câu?

– Hai câu.

Một câu bảo nàng đến Đông Hải, một câu bảo nàng không nói với bất cứ ai.

Miêu Phủ trầm ngâm suy ngẫm, lát sau, nàng bảo:

– Vì sao không nói thêm vài câu nữa? Nếu tìm được một kẻ giỏi bắt chước giọng nói của người khác, thì hắn hoàn toàn có thể bắt chước giống y hệt giọng nói của tộc trưởng. Nhưng bắt chước tài tình đến đâu cũng không thể là thật, càng những người thân thiết với cậu ấy sẽ càng dễ nhận ra sự giả mạo. Bởi vậy nói càng ít càng tốt. Em cảm thấy chuyện này rất khả nghi. Tốt nhất, chúng ta nên quay về.

– Có thể em đúng, nhưng biết đâu vì tình hình nguy cấp, chàng chỉ nói được chừng ấy. Miêu Phủ, em có hiểu không? Dù chỉ là một phần vạn hy vọng, dù đó là một cái bẫy chăng nữa, ta vẫn phải đến đó ngay lập tức.

Miêu Phủ khẽ thở dài, vung mạnh dây cương, thúc Thiên mã bay nhanh hơn nữa. Nếu đây là cái bẫy, thì kẻ đặt bẫy quả là nham hiểm, hắn đã nắm được điểm yếu của Tiểu Yêu, hắn biết rằng, dù có nghi ngờ, nàng vẫn không chút chần chừ do dự, lập tức chạy đến Đông Hải.

Miêu Phủ thầm cầu nguyện cho một phần vạn hy vọng đó biến thành sự thực!

Cặp Thiên mã to khỏe, lực lưỡng bay vun vút không ngừng nghỉ. Vì muốn tăng sức cho chúng, Tiểu Yêu không tiếc cho chúng ăn quỳnh tương[1]lấy trên Ngọc Sơn, vậy nên chỉ đến trưa ngày hôm sau, Thiên mã đã đưa nàng tới Đông Hải.

[1] Quỳnh tương: rượu ngon, quý.

Miêu Phủ cho xe mây đáp xuống một hòn đảo, nàng ngước nhìn biển cả bao la vô tận, băn khoăn:

– Bây giờ phải làm sao?

Cặp Thiên mã mệt đến nỗi sùi cả bọt mép, chắc chắn không thể tiếp tục cưỡi chúng bay là là khắp mặt biển để tìm kiếm! Nếu chúng mệt quá không tìm thấy đất liền mà rớt xuống biển thì sẽ làm mồi cho yêu quái cá.

Tiểu Yêu trỏ tay về phía Đông:

– Đằng kia, đằng kia!

Giữa biển trời mênh mông, xanh thăm thẳm, một chiếc thuyền với cột buồm màu trắng đang xé gió lướt tới, trên cánh buồm có hình cáo chín đuôi tuyệt đẹp.

Tiểu Yêu nói:

– Ta sẽ đến đó xem sao, em nấp ở đây chờ ta.

Miêu Phủ không chịu:

– Không! Em phải đi cùng tiểu thư.

– Vậy ai sẽ trông chừng lũ ngựa? Để chúng chạy mất, mà gặp nguy hiểm, thì lấy gì thoát thân?

Không biết trả lời thế nào, ngẫm nghĩ một lát, Miêu Phủ nói:

– Tiêu Tiêu chắc chắn sẽ đuổi kịp, bọn họ linh lực cao cường, tọa kỵ bay rất nhanh, có lẽ chỉ hai, ba canh giờ là đến. Chi bằng chờ bọn họ tới rồi tính tiếp.

– Chúng ta có thể chờ, nhưng Cảnh thì không.

Tiểu Yêu tháo viên ngư đan tím đeo trên cổ, đung đưa trước mặt Miêu Phủ:

– Ta sẽ bơi dưới biển, thăm dò tình hình. Nếu gặp nguy hiểm, sẽ lặn sâu xuống đáy, bọn họ không làm gì được ta đâu. Đưa em đi cùng sẽ chỉ thêm vướng chân vướng tay. Vả lại, em ở đây, ta còn có người tiếp sức, tiến thoái ổn cả. Nếu xảy ra chuyện, em có thể đi báo với Tiêu Tiêu, cũng có thể tìm quân đội Hiên Viên đóng quân ở gần đây đến ứng cứu.

Miêu Phủ không thể không thừa nhận Tiểu Yêu nói rất có lý. Nàng ủ dột bảo:

– Vậy chị hãy đi thật nhanh. Chỉ thăm dò qua loa thôi, bất kể trên thuyền đó có gì, chị cũng phải quay về bàn bạc với em trước.

– Ừ.

Lợi dụng tảng đá che chắn, Tiểu Yêu chầm chậm trườn xuống biển.

Thực ra Tiểu Yêu không cần ngư đan vẫn có thể bơi dưới nước như thường. Nhưng nàng không muốn người khác phát hiện ra điểm khác lạ trong cơ thể nàng, hơn nữa đây là món quà Cảnh tặng nàng, nàng muốn mang theo bên mình mọi nơi mọi lúc. Ngậm ngư đan tím trong miệng, Tiểu Yêu thấy lòng chua xót vô hạn, nàng khẩn cầu tha thiết: Ông trời, dù ông đày đọa Cảnh tàn khốc ra sao, ông có thể khiến chàng trọng thương hoặc tàn phế, nhưng xin ông hãy để chàng được sống.

Tiểu Yêu lặng lẽ tiếp cận chiếc thuyền nọ. Khi nàng vẫn đang băn khoăn không biết nên lên thuyền hay thăm dò dưới nước, thì một thiếu nữ áo tím nằm bò bên mạn thuyền, thò đầu xuống bảo:

– Muốn gặp Đồ Sơn Cảnh thì lên đây.

Tiểu Yêu trồi lên mặt nước, nhả ngư đan tím ra và hỏi:

– Dựa vào đâu để ta tin cô sẽ cho ta gặp Cảnh?

Cô gái áo tím xé một mảnh vải lụa trong vạt áo, ném về phía Tiểu Yêu. Tiểu Yêu đón lấy, và nhận ra nét chữ của Cảnh:

“Chàng là gió thoảng mặt hồ,

Thiếp là sen nở bên bờ, gió lay.

Gặp nhau tuy chỉ thoáng mây,

Nhưng lòng thương mến kiếp này đã trao.

Chàng là mây trắng trên cao,

Thiếp là trăng tỏ nép vào mây kia.

Yêu nhau thề chẳng xa lìa,

Sắt son gắn bó, sẻ chia ngọt bùi.

Chàng là cây lớn ngất trời,

Dây leo là thiếp, trọn đời quấn quanh.

Sánh đôi như lá với cành,

Tựa nương như thể môi răng cận kề.

Nhân gian vui lắm, buồn ghê,

Đời người tan hợp, chốn về nơi đâu?

Nguyện cùng chàng mãi bên nhau,

Không rời xa, mãi bên nhau, không rời…”

Đọc xong, Tiểu Yêu cố nén lòng để không rơi lệ, nàng bám chặt vào mạn thuyền, lật mình nhảy lên.

Cô gái áo tím đưa cho nàng một bát rượu, cười bảo:

– Người ta đồn rằng cô tinh thông độc dược, nên ta không dám dùng độc trước mặt cô. Đây là rượu Ngọc Hồng Thảo[2], người thường uống một bát có thể ngủ li bì ba trăm năm, Thần tộc uống vào chỉ nhức đầu chóng mặt, chân tay bủn rủn, ngủ một giấc là hết. Nó không phải thuốc độc, cũng không phải thuốc mê, nên không cần thuốc giải. Cô uống xong, ta sẽ dẫn cô đi gặp Đồ Sơn Cảnh.

[2] Ngọc Hồng Thảo: Tương truyền là một loài cỏ lạ, mọc trên núi Côn Luân, ăn hoặc uống nước của loại cỏ này có thể khiến người ta ngủ suốt ba trăm năm.

Tiểu Yêu cầm bát rượu, ghé sát mũi, lắc lắc, quả nhiên chỉ là loại rượu Ngọc Hồng Thảo thông thường, uống nhiều sẽ gây nghiện, nhưng nếu chỉ uống một lần thì không hại gì.

Ả áo tím nói:

– Ta không ép buộc ai bao giờ, nếu cô không bằng lòng thì quay về đi.

Tiểu Yêu ngửa cổ, tu ừng ực, uống xong, nàng bảo:

– Cảnh đâu? Đưa ta đi gặp chàng.

– Xưa nay ta luôn là người biết giữ lời hứa!

Nói xong, cô ta liền dong thuyền đi.

Gió biển ào ạt ù ù bên tai Tiểu Yêu. Tiểu Yêu thấy đầu nặng trịch, chân tay mềm nhũn, nàng nằm lên phiến gỗ, ngửa mặt nhìn trời xanh mây trắng.

Thuyền dừng giữa biển rộng mênh mông hút mắt, không biết đâu là bờ bến.

Ả áo tím bước lại, nhấc bổng Tiểu Yêu, đặt vào một chiếc quan tài bằng pha lê rất dày.

Tiểu Yêu gắng gượng, hỏi:

– Cô định làm gì?

Ả áo tím xé bỏ mảnh vải có ghi bài ca dao, ra sức giật lấy viên ngư đan tím trong cổ áo Tiểu Yêu. Tiểu Yêu đưa tay lên chống cự, nhưng nàng không sao cử động được chân tay. Ả áo tím khẽ đẩy một cái, nàng ngã nhoài sang bên. Ả áo tím giật mạnh, cướp được viên ngư đan tím, ả ghé mắt lại, quan sát, rồi cười, bảo:

– Thứ này rất đáng quý, nhưng chính vì nó quá quý giá nên dễ khơi gợi lòng tham, không nên độc chiếm một mình như thế!

Cô ta bóp mạnh, viên ngư đan biến thành những tia sáng màu tím lấp lánh, rồi tan đi trong gió biển.

Nước mắt tuôn rơi, Tiểu Yêu hỏi:

– Cảnh đâu?

Ả áo tím ghé sát quan tài, cười, đáp:

– Đồ Sơn Cảnh chết rồi! Bây giờ ta sẽ tiễn cô đến với hắn. Nước biển đang tràn vào khoang thuyền, chẳng bao lâu thuyền sẽ chìm, cỗ quan tài sẽ đưa cô xuống đáy biển. Ta chỉ là kẻ giết thuê, làm theo yêu cầu của người khác. Người thuê ta giao kèo rất rõ ràng, không được để cô chảy máu, nhưng cô phải biến mất vĩnh viễn, và không để lại bất cứ dấu vết gì, dù chỉ là một cọng tóc. Ta suy nghĩ suốt một đêm, chợt nhớ ra vùng biển đáng sợ này, và chọn được cách này.

Ả áo tím khinh khỉnh vỗ má Tiểu Yêu:

– Xem ra người đó phải căm hận cô lắm mới không cho phép dù chỉ một cọng tóc của cô còn sót lại. Nhưng phải làm vậy mới không lưu lại bất cứ dấu vết nào. Bằng không, ta chẳng được yên thân với Hoàng Đế và Hắc Đế.

Tiểu Yêu ngước nhìn nền trời thăm thẳm, nàng không hề tỏ ra giận dữ vì bị lừa gạt, cũng không sợ hãi khi sắp phải đối diện với cái chết, nhưng nàng quá đau buồn vì niềm hy vọng nay biến thành tuyệt vọng. Từ nhỏ đến lớn, nàng đã chịu bao cay đắng cơ cực, trái tim nhỏ bé của nàng lúc nào cũng bơ vơ, cô độc, nàng luôn có cảm giác mình sẽ bị bỏ rơi bất cứ khi nào. Sau khi đính hôn với Cảnh, nàng mới thấy yên lòng. Những tưởng mọi thứ đã đổi khác, nào ngờ Cảnh đột nhiên biến mất. Chàng giống hệt cha mẹ nàng, cũng vì bất đắc dĩ mà phải bỏ rơi nàng! Tương lai còn rất dài, những ngày tháng đằng đẵng ấy nàng không muốn phải vật vã trong khổ đau nữa. Nếu Cảnh đã yên giấc nơi vùng biển này, vậy nàng bằng lòng đến bên chàng, chung giấc với chàng.

Thấy Tiểu Yêu bình tĩnh một cách kỳ lạ, hoàn toàn khác với những kẻ bị ả giết trước đây, ả áo tím bỗng nhiên thấy tiếc. Ả giúp Tiểu Yêu chỉnh trang lại y phục và đầu tóc, bày tỏ sự ngưỡng mộ:

– Áo cưới của cô rất đẹp, kiểu tóc vấn cũng rất đẹp. Cô là cô dâu xinh đẹp, tộc trưởng tộc Đồ Sơn chắc chắn sẽ rất hạnh phúc khi thấy cô.

Tiểu Yêu nở nụ cười rạng rỡ:

– Cảm ơn!

Ả áo tím thoáng sững sờ:

– Cô không muốn biết kẻ nào thuê ta giết cô sao?

Tiểu Yêu không buồn nói với ả, biết để làm gì?

Ả áo tím tiếp tục:

– Ta cũng không rõ kẻ đó là ai, chỉ biết kẻ đó trả cho ta một món tiền khổng lồ, nên ta và đồng bọn mới chịu nhận. Xong vụ này, bọn ta sẽ gác kiếm, tìm nơi yên ổn để dưỡng lão.

Nước biển dâng ngập bàn chân ả áo tím, thuyền sắp chìm. Ả đậy nắp quan tài pha lê, ngước nhìn bầu trời, lẩm bẩm:

– Thật đáng ghét, lại phải hiện nguyên hình yêu quái rồi.

Nói đoạn, ả biến thành chim hải âu, bay vút lên trời cao. Chiếc áo tím rớt xuống, cháy bùng, chưa chạm mạn thuyền đã tan thành tro bụi.

Quan tài pha lê chìm xuống đáy biển.

Tiểu Yêu cảm thấy ngột ngạt, khó thở. Nhưng khi nước biển ngấm vào bên trong quan tài, thấm vào mũi nàng, nàng cảm thấy rất dễ chịu. Nàng như con cá mắc cạn, nay được trở về với biển lớn. Tiểu Yêu cười buồn, kế hoạch của bọn chúng rất hoàn hảo: Tìm vùng biển sâu nhất, không khiến nàng đổ máu, thậm chí không ra tay giết nàng, ngay cả chiếc áo tím hung thủ mặc trên người cũng bị thiêu hủy. Bọn chúng không để lại bất cứ dấu vết nào. Nhưng điều duy nhất khiến kế hoạch của bọn chúng trở nên không hoàn hảo đó là: Chúng không biết rằng nàng không thể bị chết chìm.

Rượu Ngọc Hồng Thảo khiến đầu óc Tiểu Yêu choáng váng, nàng không nghĩ ngợi được gì. Lúc chìm xuống nước, nàng tin rằng mình sắp chết. Nàng quyết định đón nhận cái chết bằng một tâm thế hết sức bình tĩnh. Nhưng đột nhiên nàng phát hiện ra mình không dễ chết như thế. Giống như một người lao mình xuống vực thẳm, ngỡ rằng sẽ tan xương nát thịt, nhưng vực thẳm ấy không có đáy, người đó cứ rơi mãi, rơi mãi… không thấy nơi bắt đầu, cũng không thấy điểm tận cùng, cứ thế kẹt ở khoảng giữa trong nỗi đau khổ vô hạn.

Nằm trong quan tài pha lê, Tiểu Yêu nhìn ra xung quanh, thấy từng đàn cá bơi qua bơi lại. Đàn cá gồm những con cá đỏ và đen xen kẽ vây quay cỗ quan tài, tò mò nhìn nàng. Tiểu Yêu đột nhiên gõ tay vào thành quan tài, hỏi:

– Các ngươi có trông thấy Cảnh không?

Đàn cá giật mình, tá hỏa giãn ra xung quanh.

Tiểu Yêu đành nằm xuống, nghĩ ngợi vẩn vơ.

Bóng chiều đổ về Tây, trời tối dần, nước biển thẫm lại, biến thành một vùng u tối, đặc quánh.

Rất nhiều loài cá có thể phát sáng trong đêm, chúng nhấp nháy bơi qua bơi lại. Ngoài ra còn có những loài phù du giống hệt loài đom đóm trên cạn, nhấp nháy thứ ánh sáng xanh lam, bồng bềnh trôi trong lòng biển. “Bầu trời” đêm dưới biển rực rỡ, xán lạn hơn nhiều bầu trời ngàn sao trên kia, bởi nó giống những cơn mưa sao băng đa sắc màu.

Không biết Tiêu Tiêu đã đến chưa? Có phải Chuyên Húc đang nóng lòng tìm kiếm nàng? Miêu Phủ hẳn là đang khóc lóc. Tiểu Yêu chợt nghĩ tới điều này: Nếu không tìm thấy nàng, rất có thể Chuyên Húc sẽ nổi trận lôi đình mà chém đầu Miêu Phủ. Nghĩ vậy, Tiểu Yêu không dám thảnh thơi nằm đó ngắm mưa sao băng dưới lòng biển nữa. Nàng ra sức đẩy nắp quan tài, nhưng không ăn thua.

Tiểu Yêu vừa đạp vừa đẩy, mãi cho đến khi kiệt sức, nắp quan tài vẫn trơ cứng, không suy suyển. Vất vả một hồi, nàng bỗng thấy đói bụng, Tiểu Yêu buồn bực nhìn nắp quan tài, vậy là kế hoạch giết người của bọn chúng vẫn rất hoàn hảo. Nàng có thể không chết đuối, nhưng chắc chắn nàng sẽ chết đói.

Tiểu Yêu lo cho Miêu Phủ, nên chỉ nghỉ ngơi một lát, lại tiếp tục ra sức phá nắp quan tài.

Đang đạp binh binh, bỗng Tiểu Yêu linh cảm có nguy hiểm, bản năng mách bảo nàng, phải lập tức thoát thân!

Nàng nhìn ra xung quanh, các loài cá đã trốn biệt từ khi nào. Biển cả lung linh sắc màu khi nãy nay chỉ còn là một màn đêm tăm tối, mịt mùng. Tiểu Yêu có cảm giác biển lớn đang rùng mình rung chuyển. Nàng chợt nhớ, hôm đó ả hải âu bảo rằng, vùng biển này rất đáng sợ. Trong đầu nàng chợt vang lên câu nói của Tương Liễu, y kể, sau khi trốn khỏi đấu trường nô lệ, y đã suýt chết trong vùng nước xoáy ngoài biển. Tuy khi đó Tương Liễu chưa mạnh như bây giờ, nhưng hắn là yêu quái biển, vực xoáy ấy phải đáng sợ nhường nào mới có thể khiến hắn suýt mất mạng như vậy.

Tiểu Yêu chưa từng gặp phải xoáy nước trên biển, nàng tưởng tượng nó giống những cơn lốc xoáy trên cạn, cuốn theo và phá nát mọi thứ nó đi qua. Thì ra, đây mới là nguyên nhân vì sao yêu quái hải âu bảo rằng, sẽ khiến nàng “biến mất vĩnh viễn, triệt để”. Và đây mới là điều khiến nàng không thể lưu lại dù chỉ một cọng tóc!

Tiểu Yêu gạn hết sức bình sinh đạp nắp quan tài, nàng muốn thoát khỏi đây trước khi xoáy nước ập đến. Nhưng nắp quan tài rất chặt, nàng không thể khiến nó suy suyển một phân. Bây giờ nàng mới hiểu, vì sao ả yêu quái phải bỏ nàng vào cỗ quan tài này.

Biển đêm tối tăm, đặc quách, sóng biển bắt đầu gầm gào, cuồn cuộn, cỗ quan tài pha lê bị cuốn theo sóng nước. Tiểu Yêu không kịp trở tay, nàng hết va sang trái lại lộn sang phải, hoa mắt chóng mặt, quay cuồng điên đảo.

Nàng nghe thấy tiếng cỗ quan tài kêu răng rắc, có lẽ nó bị xoáy nước ép cho biến dạng và vỡ nứt. Lúc này, Tiểu Yêu lại khẩn cầu sao cho cỗ quan tài càng kín, càng chắc càng tốt. Nếu xoáy nước có thể khiến một vật cứng như cỗ quan tài pha lê vỡ tan, thì chắc chắn khi thoát ra ngoài, nàng sẽ bị xoáy nước xé nát tan thành.

Xoáy nước càng lúc càng hung tợn, vòng xoáy càng lúc càng điên cuồng, bỗng rầm một tiếng, cỗ quan tài pha lê vỡ tan. Tiểu Yêu thét lên, nhắm chặt mắt lại, nhưng nàng không cảm thấy cơn đau đớn khủng khiếp khi cơ thể bị vằm nát như dự đoán.

Nàng chầm chậm mở mắt, giữa cảnh đất trời quay cuồng, đảo lộn, nàng nhìn thấy Tương Liễu trong bộ y phục màu trắng, sừng sững trước mặt nàng. Mái tóc bạch kim tung bay lồng lộng, giống hệt đôi cánh của một loài chim khổng lồ, dịu dàng che chắn cho nàng, gồng mình chống chọi với sức mạnh hủy diệt khiếp sợ của vực xoáy.

Tiểu Yêu như ngây như mộng, trân trân nhìn Tương Liễu.

Tương Liễu khẽ chau mày, rõ ràng hắn không thể tỏ ra thoải mái, dễ chịu khi đứng giữa vực xoáy kinh hoàng ấy. Huống hồ, y đang bị xoáy nước cuốn vào giữa với tốc độc chóng mặt. Nếu bị cuốn vào vùng trung tâm xoáy nước, Tương Liễu chắc chắn cũng sẽ tan xác.

Y đặt tay lên mắt Tiểu Yêu, muốn nàng nhắm mắt lại. Trong đầu nàng chợt vang lên giọng nói của y:

– Ta phải hiện nguyên hình mới đưa cô thoát khỏi đây, vì vậy, đừng có nhìn!

Tiểu Yêu gật đầu. Nàng cảm thấy một luồng sức mạnh rung chuyển kinh thiên động địa đang xé rách xoáy nước, tạo một khe hở nhỏ.

Tiểu Yêu có cảm giác họ đang thoát thân, và nguy hiểm đã biến mất. Đột nhiên nàng thấy vô cùng tò mò, nàng muốn mở mắt nhìn hình hài yêu quái của Tương Liễu. Do dự một lát, nàng tự nhủ: Chỉ một nhìn một thoáng thôi, và nàng liền mở mắt…

Mây đen tầng tầng lớp lớp hệt như cả một dải núi non trùng điệp sắp đổ ập xuống đầu họ. Giữa trận cuồng phong dữ dội, yêu quái biển chín đầu trắng tinh, trong suốt đang quần đảo, chống chọi với lốc xoáy. Biển cả gầm gào giận dữ, muốn xé xác họ, yêu quái chín đầu không hề tỏ ra sợ hãi, y bình thản nghênh tiếp mọi ngón đòn của biển cả. Từng cột sóng cao ngất ập xuống đầu yêu quái, chừng như muốn nhấn chìm y, muốn y khiếp sợ. Sóng nước tựa như những mũi kiếm sắc nhọn đâm thẳng vào màn mây, như muốn chặt đứt đầu yêu quái. Đó là cuộc đối đầu giữa kẻ mạnh nhất và trời đất. Mọi chiêu trò, mọi kỹ xảo đều trở nên vô nghĩa trong cuộc đấu ấy. Chỉ thuần túy là sức mạnh đấu với sức mạnh, cuộc đụng độ ấy khiến trời đất đổi màu, nhật nguyệt biến sắc.

Giữa gió lốc mây cuộn, sóng nước nghìn trùng, Tương Liễu chợt nhận ra hành động của Tiểu Yêu. Một chiếc đầu yêu quái quắc mắt nhìn nàng.

Tiểu Yêu lập tức nhắm chặt mắt lại, tim đập thình thịch, không phải vì sợ hãi, mà vì quá đỗi kinh ngạc. Giống như một người chưa bao giờ ra biển, lần đầu chứng kiến cảnh biển động dữ dội, hay như một người chưa bao giờ thấy núi cao, lần đầu chứng kiến cảnh núi lửa phun trào. Cảm nhận của họ khi ấy không phải là cảnh tượng đó đẹp hay xấu, mà là lòng kính phục và sợ hãi trước sức mạnh vô biên ấy.

– Ta đã bảo cô hãy nhắm mắt lại.

Giọng nói lạnh lùng của Tương Liễu vang lên.

Tiểu Yêu mở mắt thì thấy họ đang ở trên một hoang đảo. Y phục tả tơi, vết thương dày đặc trên mặt trên cổ, trông Tương Liễu thật thê thảm.

Tiểu Yêu ráng nở nụ cười, cố tỏ vẻ bình tĩnh:

– Vì tôi quá tò mò không biết chín cái đầu thì trông chúng sẽ thế nào.

– Giờ thì cô biết rồi đó.

Tương Liễu quay lưng bỏ đi.

– Tương Liễu… Tương Liễu…

Sợ y sẽ biến mất ngay tức khắc, Tiểu Yêu hốt hoảng, lao tới giữ y lại. Tương Liễu không hề né tránh, y nằm trọn trong vòng tay Tiểu Yêu. Có lẽ vì quá mệt, không đứng vững, cú va của Tiểu Yêu khiến cả y và nàng cùng đổ người xuống bãi cát.

Tiểu Yêu kinh hãi hỏi:

– Ngài bị thương nặng?

Tương Liễu đẩy mạnh Tiểu Yêu, muốn chìm xuống nước cùng thủy triều.

Tiểu Yêu ra sức xiết chặt, không cho y đi:

– Tôi xin lỗi! Tôi đã hứa không hé mắt nhìn nhưng đã không giữ lời. Tôi… tôi… Tôi thừa nhận mình quá tò mò, thật bỉ ổi! Tôi muốn biết hình hài thực sự của ngài ra sao. Tôi sai rồi, tôi đã sai…

Sóng biển ào ạt xô bờ, và lại nhanh chóng rút xuống, hai người lúc thì dầm mình trong sóng biển, lúc lại phơi thân trên bãi cát. Giọng nói của Tiểu Yêu có lúc rõ ràng, có lúc mơ hồ. Không biết Tương Liễu nghe được bao nhiêu, điều khẳng định duy nhất là y không chấp nhận lời xin lỗi của nàng. Y đẩy nàng ra hết lần này đến lần khác.

Ở lần vùng thoát tiếp theo, Tương Liễu tiếp tục đẩy Tiểu Yêu, nàng rối trí, túm lấy chân y, chồm lên, đè y xuống đất. Tương Liễu đã không còn sức để đẩy Tiểu Yêu, nhưng y vẫn cố sức giãy giụa như một chú nhóc cứng đầu, cứng cổ.

Nước biển xuất hiện những vệt máu, chắc hẳn vết thương của Tương Liễu đã toác miệng. Tiểu Yêu van nài:

– Tôi đã sai, tôi sai rồi! Ngài muốn đánh muốn trừng phạt thế nào cũng được! Nhưng xin ngài hãy nằm yên, đừng cử động!

Tương Liễu quát:

– Buông ra!

– Không buông! Trừ phi ngài hứa không bỏ đi!

Tương Liễu nổi giận, thò răng nanh ra dọa:

– Đừng ép ta ăn thịt cô!

– Ngài muốn thì cứ việc!

Tương Liễu thình lình kéo rê Tiểu Yêu về phía mình, không nói không rằng, ngoạm thẳng vào cổ nàng. Tiểu Yêu đau đớn đến nỗi toàn thân run lên, nhưng nàng kiên quyết không buông tay, trái lại, nàng thả lỏng cơ thể, phối hợp nhịp nhàng với động tác của Tương Liễu.

Tương Liễu như người lữ hành khát cháy giữa sa mạc, ừng ực tu từng ngụm lớn máu huyết. Tiểu Yêu tựa vào vai y, nhắm mắt, cảm nhận nước thủy triều dâng lên rồi lại rút xuống.

Không biết bao lâu sau Tương Liễu mới ngừng lại. Tiểu Yêu mơ màng mở mắt:

– Ngài cứ việc uống tiếp, tôi không sao đâu.

Tương Liễu ngước nhìn bầu trời đầy sao trên cao, mơ hồ hỏi:

– Cô không sợ ư? Cô nên biết yêu quái mãi mãi là yêu quái, khi bị trọng thương, yêu quái sẽ mất đi lý trí, bản năng sẽ trỗi dậy. Rất có thể tôi sẽ uống cạn máu huyết của cô và cô sẽ thành xác khô đó.

Tiểu Yêu chạm khẽ vào khóe môi còn vương vết máu của Tương Liễu, dịu dàng bảo:

– Ngài đang sợ hãi thì có!

Tương Liễu cười khẩy:

– Ta mà sợ?

– Tôi thấy hình hài yêu quái của ngài cũng đâu có tệ lắm! Ngài cũng không biến tôi thành cái xác khô!

Tương Liễu nhìn Tiểu Yêu, sa sầm mặt mày. Nhưng Tiểu Yêu không lấy thế làm sợ hãi:

– Hình hài yêu quái của ngài chỉ lớn hơn tôi chút xíu… Thôi được, không chỉ chút xíu, mà lớn hơn rất nhiều… Đầu ngài cũng chỉ to hơn đầu tôi chút xíu. Ngài cũng chỉ hơn tôi tám cái đầu… Nhưng vạn vật là do trời sinh, ai quy định rằng mỗi người một cái đầu mới là bình thường? Chẳng qua vì những kẻ chỉ có một cái đầu chiếm số đông mà thôi. Nếu những kẻ có chín cái đầu như ngài đông đảo hơn, thì có lẽ chúng tôi sẽ cảm thấy thật hổ thẹn vì mình chỉ có một cái đầu.

– Cô không có vẻ gì là mệt mỏi, sợ hãi, ta nghĩ hay là uống thêm chút máu nữa!

Vẻ mặt Tương Liễu không thân thiện chút nào, nhưng khi y cắn vào cổ Tiểu Yêu, và hút lấy máu nàng, nàng chỉ thấy hơi gai gai, nhộn nhạo, mà không hề có cảm giác đau đớn.

Tiểu Yêu nói:

– Này, này! Khi nãy tôi nói đùa vậy thôi, ngài làm thật à? Yêu quái đúng là yêu quái…

Tiểu Yêu ngất xỉu, và nàng thôi không nói nữa.

Tương Liễu ngừng lại, lặng lẽ ngắm nhìn gương mặt trắng bệch của Tiểu Yêu trong vòng tay mình.

Mùi thơm của thức ăn đã đánh thức Tiểu Yêu. Nàng mở mắt, thấy Tương Liễu đang nướng cá bên đống lửa. Cá đã chín vàng, dầu cá nhỏ tong tong xuống ngọn lửa, phát ra âm thanh xèo xèo. Tiểu Yêu lồm cồm bò tới, chống mắt nhìn món cá nướng, nước miếng trào ra:

– Tôi ăn được không?

Tương Liễu đặt cá vào vỏ sò, đưa cho nàng. Trên chiếc đĩa vỏ sò trắng muốt còn có cả món rau chế biến từ loài tảo biển màu xanh lục.

Tiểu Yêu uống vài ngụm nước, rồi bắt đầu ăn như rồng cuốn. Nàng cắm đầu cắm cổ nhai nuốt, không buồn nói một lời. Mãi đến khi đĩa cá và rau đã hết nhẵn, nàng mới tấm tắc:

– Ngon quá! Ngon quá!

– Vì cô đói quá đấy.

Tương Liễu đưa cho nàng một con ốc biển đựng món canh hải sản nóng hổi. Tiểu Yêu đỡ bằng cả hai tay, uống từng ngụm nhỏ.

Uống hết canh hải sản, nàng nói:

– Cảm ơn ngài!

Tương Liễu lạnh lùng bảo:

– Không cần. Hãy xem như đây là tiền mua máu của cô.

Tiểu Yêu bất mãn,tấm tức:

– Tôi rẻ rúng đến thế ư?

– Thế cô muốn gì?

– Tôi cảm ơn ngài vì ngài đã cứu mạng tôi. Chắc ngài không quên vì sao mình bị thương đấy chứ?

Tương Liễu cau mày:

– Không phải ta muốn cứu cô, chẳng qua ta không muốn đem tính mạng mình ra để kiểm chứng lời tay thầy mo đó nói mà thôi.

À, đúng rồi! Sâu tình nhân sống chết có đôi, nếu nàng chết, Tương Liễu cũng chẳng thể sống sót. Tiểu Yêu cười:

– Dù sao thì ngài cũng đã cứu tôi.

Tương Liễu hỏi:

– Sao cô lại bị ném xuống vùng biển đó thế?

– Có kẻ muốn giết tôi.

Tương Liễu khinh khỉnh nhìn nàng:

– Có người muốn giết cô, và thế là cô ngoan ngoãn để người ta nhốt lại?

Tiểu Yêu chăm chú nhìn đống lửa, không đáp.

Tương Liễu lại hỏi:

– Vì sao cô không chống cự?

Tiểu Yêu lí nhí đáp:

– Cảnh… đã biến mất.

Đột nhiên như nhớ ra điều gì, nàng vội hỏi:

– Đông Hải giống như ngôi nhà của ngài, ngài… ngài… có gặp Cảnh ở đó không?

Tương Liễu mỉa mai:

– Cô cho rằng ta rảnh rỗi tới mức cả ngày chỉ quanh quẩn ở vùng biển đó, chầu chực để cứu mạng người khác à?

– Không phải…. Chỉ tại tôi nghĩ rằng… thị trấn Thanh Thủy vốn là địa bàn của ngài, có thể ngài đã phát hiện ra hành vi lạ lùng của Đồ Sơn Hầu. Đông Hải tuy rộng lớn… nhưng ngài là yêu quái biển… có lẽ…

Tương Liễu lạnh lùng bảo:

– Ở đâu ra nhiều “có thể” như thế!

Tiểu Yêu cúi đầu, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.

Tương Liễu quay đi, vờ ngắm nhìn trời đất bao la, vô tận, rõ ràng y đã quay lưng lại với nàng, nhưng sao vẫn nghe rõ mồn một âm thanh từng giọt nước mắt nàng nhỏ xuống, lã chã như mưa. Nước mắt của nàng hệt như những chiếc gai nhọn, cắm thẳng vào tim y.

Tương Liễu nói:

– Đừng lãng phí thời gian vào việc khóc lóc, hãy suy nghĩ xem kẻ nào muốn giết cô.

Tiểu Yêu chợt nhớ đến Miêu Phủ, vội gạt nước mắt:

– Tôi phải về thôi, nếu không Chuyên Húc sẽ giết Miêu Phủ.

– Hắc Đế muốn giết Miêu Phủ cũng chưa chắc tìm ra cô ta.

Tiểu Yêu chợt nhớ lại, yêu quái hải âu nói rằng ả còn có đồng bọn. Miêu Phủ không đến cứu nàng, có lẽ vì đụng phải tên kia. Tiểu Yêu biến sắc mặt:

– Miêu Phủ… Miêu Phủ… chết rồi?

– Ta không biết. Lúc ta tới thì thấy thi thể của một cặp Thiên mã trên hòn đảo. Có lẽ cô ta bị tấn công, nhưng ta không thấy thi thể của cô ta.

Tiểu Yêu chưa kịp thở phào, Tương Liễu đã bồi thêm một câu:

– Cũng có thể cô ta rơi xuống biển.

Tương Liễu luôn như vậy, mới lúc trước y khiến nàng vô cùng cảm kích, nhưng ngay sau đó đã có thể khiến nàng muốn giết y. Tiểu Yêu vừa tức tối vừa lo lắng, nhưng nàng không làm gì được Tương Liễu:

– Tôi phải đi tìm Miêu Phủ, ngài hãy đưa tôi về hòn đảo đó.

– Ta cũng đang rảnh, sẽ giúp cô đi tìm cô ta.

– Ngài thay tính đổi nết, trở nên tử tế khi nào thế?

– Có điều kiện đấy.

– Tôi chỉ có một cái đầu, toan tính không giỏi bằng chín cái đầu của ngài, vụ giao dịch này tôi nghĩ nên thôi thì hơn.

Tương Liễu nhảy ùm xuống biển, định bỏ đi, điều đó có nghĩa y biết tỏng ý đồ muốn mặc cả của Tiểu Yêu. Tiểu Yêu vội vã lao xuống biển, đuổi theo y, nàng túm được một lọn tóc trắng của Tương Liễu.

Tương Liễu quay đầu, trừng mắt nhìn nàng. Tiểu Yêu cười giả lả, buông tay:

– Ngài hãy tìm giúp tôi tên yêu quái hải âu đó, tôi chấp thuận yêu cầu của ngài.

Yêu quái hải âu biết lợi dụng vực xoáy khiến nàng biến mất vĩnh viễn, chứng tỏ ả rất thông thạo vùng biển này. Bởi vậy, chỉ có Tương Liễu mới có cách tìm ra ả nhanh nhất.

Tương Liễu từ từ trồi lên, y đứng trên mặt nước, tóc trắng như mây, áo trắng như tuyết, tinh khôi không vương chút bụi trần. Ánh trăng chiếu rọi vóc dáng cao quý, thanh khiết của y. Vậy mà gương mặt y khi nhìn Tiểu Yêu lại nhuốm vẻ tà ác:

– Bất cứ yêu cầu gì cô cũng đồng ý?

Tiểu Yêu đứng trên mặt nước, nhìn thẳng vào mắt Tương Liễu:

– Chỉ cần yêu cầu đó không liên quan đến Chuyên Húc, tôi đều đồng ý.

Vì tính mạng của Miêu Phủ, nàng có thể ngã giá với cả ma quỷ, huống hồ là bây giờ, nàng đã không còn gì để mất.

Tương Liễu nói:

– Cô hãy sống tiếp! Dù Đồ Sơn Cảnh đã chết, cô vẫn phải tiếp tục sống!

Tiểu Yêu ngẩn ngơ nhìn Tương Liễu, ánh mắt nàng lướt qua y, hướng về màn đêm sâu thẳm.

Tháng năm dằng dặc, nàng phải sống trong nỗi thương nhớ vô hạn ư… Nàng sống mà không thể buông bỏ quá khứ, cảm giác đó sẽ thế nào? Có lẽ nó giống như màn đêm vĩnh cửu, không biết đến ánh sáng là gì. Tiểu Yêu không hiểu, vì sao Tương Liễu lại lo lắng cho sự sống chết của nàng?

Tương Liễu lạnh lùng đáp:

– Chẳng qua vì ta không muốn chết cùng cô thôi. Nếu cô muốn chết, thì phải nghĩ ra cách giải độc trước đã.

Đúng rồi! Mạng sống của nàng gắn liền với Tương Liễu, đúng là phải tìm ra cách giải độc mới được. Tiểu Yêu nói:

– Tôi đồng ý điều kiện của ngài, giờ thì hãy đưa tôi đi tìm yêu quái hải âu!

Tương Liễu triệu gọi tọa kỵ, đưa Tiểu Yêu bay đến vùng biển xa xôi.

Họ đã đến nơi, biển rộng mênh mông, không rõ bờ bến. Đại bàng mỏ vàng lông trắng bay suốt một đêm. Vùng biển này vẫn không có gì thay đổi. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy biển cả bao la, bát ngát. Tiểu Yêu nói:

– Biển cả quả nhiên có thể nuốt trọn mọn thứ.

Tương Liễu lạnh lùng bảo:

– Đã đến nơi.

Tiểu Yêu nhìn thấy một chiếc thuyền buồm màu nâu. Miêu Phủ nằm bất tỉnh trên thuyền. Yêu quái hải âu mặc áo đỏ, đang cãi nhau với một gã đàn ông. Gã đàn ông xoay lưng về phía Tiểu Yêu và Tương Liễu, nên nàng không nhìn rõ tướng mạo của hắn. Chỉ thấy hắn mặc bộ quần áo bằng phải thô bạc phếch, dáng người cao lớn, gầy guộc, không giống bộ dạng của một sát thủ.

– Phải giết cô ta, nếu không Hắc Đế và Hoàng Đế sớm muộn cũng tìm ra chúng ta. Ngươi muốn chết à? Ta bảo là phải giết cô ta!

Yêu quái hải âu tức phát điên, ả nổi đóa, gào thét, chừng như muốn giết quách cả tên đồng bọn trước mặt. Nhưng ả có vẻ sợ hãi, không dám ra tay.

Gã kia dường như không thích nói chuyện, mặc ả yêu quái lồng lộn thét gào, gã vẫn vờ như không nghe thấy, chỉ bình thản, đáp lại ngắn gọn:

– Không giết!

Tương Liễu thúc đại bàng trắng bay thẳng về phía chiếc thuyền, chẳng buồn che giấu hành tung.

Tiểu Yêu khẽ bảo:

– Bọn chúng chính là những kẻ giết thuê đó! Một chọi hai, vết thương của ngài thế nào rồi?

Tương Liễu liếc Tiểu Yêu:

– Hai chọi hai chứ.

Tiểu Yêu trợn mắt, không biết nên vui mừng hay nên tức giận khi Tương Liễu đánh giá cao nàng như thế.

Ả yêu quái mải tức giận, nên không phát hiện ra Tương Liễu và Tiểu Yêu đang đến gần. Nhưng gã kia thì lập tức nhận ra. Gã quay người lại, thủ thế giống hệt một con dã thú. Toàn thân gã toát ra vẻ nguy hiểm, đáng sợ. Tiểu Yêu bỗng có cảm giác ngộp thở, nàng muốn lùi lại phía sau. Nhưng Tương Liễu đâu có vừa, nguồn sức mạnh phát ra từ y khiến gã kia chỉ có thể nhìn y trân trân, Tương Liễu ép gã lùi lại phía sau.

Tương Liễu và Tiểu Yêu đáp xuống thuyền, ả yêu quái trỏ tay vào Tiểu Yêu, kêu lên kinh khiếp:

– Cô… cô chưa chết sao?

Tiểu Yêu dang rộng hai tay, xoay một vòng, cười, đáp:

– Chưa chết, và từ đầu tới chân không mảy may thương tổn.

Ả yêu quái quay sang nhìn Tương Liễu. Gã này áo trắng tóc trắng, dung mạo bất phàm, rất giống với tên yêu quái nổi danh Đại hoang. Ả tái mặt, lập tức trốn sau lưng tên đồng bọn. Nhưng dường như vẫn không thể tin nổi, ả thò đầu ra, ngập ngừng hỏi:

– Tương Liễu? Ngài là Cửu Mệnh Tương Liễu?

Tương Liễu chẳng coi ả yêu quái kia ra gì, y thậm chí không thèm liếc nhìn ả, nhưng y có vẻ khá hứng thú với gã trai đứng trước ả. Hai người như hai con dã thú, gườm gườm nhìn nhau. Cả hai đều đứng bất động, nhưng thực tế là đang quan sát để nhận biết điểm yếu của đối phương.

Tiểu Yêu thấy ả yêu quái sợ hãi nép sau lưng đồng bọn thì cười, hỏi:

– Là Tương Liễu thì sao? Không phải Tương Liễu thì sao?

Ả yêu quái đáp:

– Không thể là Tương Liễu. Cô là cháu ngoại Hoàng Đế, Tương Liễu không thể cứu cô.

Thì ra đám yêu quái vốn chẳng bận tâm đến nhân tình thế thái phức tạp của loài người mà cũng hiểu về mối quan hệ của nàng và Tương Liễu. Đột nhiên, Tiểu Yêu cảm thấy vô cùng nhàm chán, nàng không buồn trêu chọc ả yêu quái nữa, mà nghiêm mặt, nói:

– Trả tỳ nữ của ta cho ta!

Đúng lúc đó, gã thanh niên gầy gò, sắc mặt trắng bệch kia bắt đầu ra đòn tấn công, dũng mãnh như loài hổ, uyển chuyển như loài cáo. Ả yêu quái lập tức biến thành chim hải âu, bay vút lên không trung, chớp mắt đã xa lắc xa lơ, không ngờ ả sẵn sàng bỏ rơi đồng bọn của mình.

Tài bắn cung của Tiểu Yêu thừa sức khiến ả yêu quái đau đớn nhận ra: Mọc thêm đôi cánh cũng chẳng có gì ghê gớm!

Nhưng Tương Liễu bị thương nặng, nàng lo cho y, nên mặc kệ ả, tập trung sự chú ý cao độ vào gã thanh niên.

Tương Liễu và gã kia giao đấu vài chiêu, rồi lập tức tách nhau ra, trở lại trạng thái gườm gườm, rình rập. Có điều, trong khi gã kia khuôn ngực phập phồng, ánh mắt lạnh như băng, thì Tương Liễu lại tỏ ra rất thong thả, tự tại. Y mỉm cười, nói:

– Tiểu Yêu, nhận ra con thú nhỏ này không?

Tiểu Yêu cũng có cảm giác gã này rất quen, nàng quan sát gã kỹ hơn. Nghe thấy tên Tiểu Yêu, gã nọ có vẻ bất ngờ. Nhưng lúc này, gã đang nằm dưới móng vuốt của một con mãnh thú, nên không cho phép mình lơ là, sơ hở. Gã chẳng buồn để mắt đến Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu thấy gã thiếu một bên tai thì lập tức nhận ra gã là ai. Gã chính là tên nô lệ đã kiên trì chờ đợi bốn mươi năm để được tự do. Tiểu Yêu vui mừng chạy về phía gã:

– Này, sao cậu lại trở thành sát thủ thế? Tôi là Tiểu Yêu đây mà! Còn nhớ tôi không?

Tương Liễu không ngăn cản Tiểu Yêu, y giống như con thú đầu đàn để mặc con thú nhỏ của mình chơi bời nô giỡn, thỏa sức khám phá nguy hiểm. Nhưng y không hề lơ là, mất cảnh giác với gã nọ. Chỉ cần gã có ý đồ tấn công Tiểu Yêu, y sẽ giết gã ngay tức khắc.

Gã nọ cũng nhận thấy Tương Liễu sẽ không giết gã ngay, gã bèn ngoan ngoãn đứng yên, không động đậy, chầm chậm quay sang nhìn Tiểu Yêu, gắng gượng nở một nụ cười, nhưng vì gã không khi nào cười, nên nụ cười rất gượng gạo, khiên cưỡng.

Gã nói:

– Tôi là Tai Trái.

Tiểu Yêu mừng rỡ:

– Cậu dùng tên gọi mà tôi đặt cho cậu à? Còn nhớ tôi không?

Tai Trái đáp:

– Nhớ.

– Hắn không bao giờ quên nàng và người đàn ông mà nàng gọi là “Bội”.

Tiểu Yêu hỏi tiếp:

– Những năm qua, cậu sống thế nào?

– Tiền cô cho, hết rồi. Tôi đói bụng, rất đói, đói gần chết. Giết người, có tiền.

Tiểu Yêu sững sờ. Nàng xòe bàn tay ra nhẩm tính, và nói với Tương Liễu:

– Cậu ta chỉ dùng tổng cộng mười tám chữ để tổng kết những gì mình phải trải qua trong suốt mấy chục năm. Khác hẳn với tôi, nếu là tôi, tôi sẽ kể trong vòng mười tám canh giờ.

Tương Liễu phì cười, bảo:

– Cô khẳng định mười tám canh giờ là đủ cho cô? Cô nói nhiều đến mức bức một con khỉ phải đập đầu vào đá tự tử, thì ta nghĩ là mười tám canh giờ chưa đủ đâu!

Tiểu Yêu trừng mắt lườm Tương Liễu. Rồi nàng trỏ tay vào Miêu Phủ, nói với Tai Trái:

– Tha cho cô ấy, được không? Tôi sẽ cho cậu tiền.

Tai Trái thấy Tương Liễu không tỏ vẻ phản đối, lập tức chạy đến, nhấc bổng Miêu Phủ lên:

– Cho cô đấy, không lấy tiền của cô.

Tiểu Yêu kiểm tra tình trạng của Miêu Phủ. Rất may, nàng ta chỉ bị thương mà ngất đi. Tiểu Yêu cho Miêu Phủ uống thuốc, rồi đưa nàng ta vào nghỉ ngơi trong buồng nhỏ trên thuyền.

Tương Liễu tra hỏi Tai Trái:

– Vì sao ngươi không giết Miêu Phủ?

Tiểu Yêu cũng vừa bước ra:

– Đúng vậy, vì sao cậu không giết cô ấy?

Với tính cách và những gì Tai Trải phải trải qua, chắc chắn cậu ta sẽ ra tay rất lạnh lùng, tàn bạo. Nhưng vết thương của Miêu Phủ rất nhẹ.

Tai Trái đáp:

– Vì trên người cô ấy có mùi giống cô.

Tiểu Yêu ngẫm nghĩ một lát, chợt hiểu ra. Hôm đó, Bội dẫn nàng đến tiệm nước hoa của yêu quái hoa. Nàng đã mua rất nhiều loại nước hoa quý hiếm. Nàng cảm thấy rất thích thú, nên đã tự mình điều chế ra hàng chục mùi hương độc đáo, tặng cho Hinh Duyệt bốn mùi, tặng cho A Niệm bốn mùi, mùi hương nàng thường dùng thì đặt tên là “Mộng”. Sau đó thấy Miêu Phủ thích, nàng đã tặng cho Miêu Phủ. Một thời gian sau nàng thấy chán, không dùng nữa.

Tiểu Yêu xuýt xoa:

– Tôi đã bỏ dùng nước hoa lâu lắm rồi, không ngờ sau mấy chục năm mà cậu vẫn còn nhớ.

Tai Trái nói:

– Nhớ chứ!

Ngày đó, hắn vừa bẩn vừa hôi thối, ai nấy đều kinh khiếp tránh xa. Cái ôm của Tiểu Yêu là sự thân mật đầu tiên mà loài người dành cho hắn. Hắn không hiểu Tiểu Yêu định làm gì, nhưng hắn mãi mãi không quên mùi hương của nàng. Thứ hương thơm như có như không, vừa xa vừa gần ấy, nhất là vào những đêm mùa hạ, trăng sao lấp lánh.

Tiểu Yêu không thể không cảm động trước những mối duyên kỳ ngộ và sự sắp đặt khôn lường của phận số. Ai có thể ngờ, một hành động vô thưởng vô phạt của nàng hàng mấy chục năm về trước, lại cứu được mạng Miêu Phủ hôm nay.

Tương Liễu hỏi Tai Trái:

– Ai thuê ngươi giết Tiểu Yêu?

– Không biết. Hải âu nói cô ta phải giết một người khác và bảo tôi giết cô gái này.

Tai Trái trỏ tay về phía buồng nhỏ trên thuyền.

– Xong việc, Hải âu đưa tôi 10 đồng tiền. Cô ta bảo tôi có thể về quê mua một căn nhà và vài mẫu đất, cưới vợ và sinh con.

Tiểu Yêu không thể tin được, nàng trỏ tay vào mũi mình, tức giận nói:

– Cái gì? Cô ta cho cậu 10 đồng tiền? Tôi chỉ đáng ngần ấy thôi sao? Cậu bị cô ta lừa rồi.

Tai Trái cúi đầu, cắm mặt xuống bàn chân, dáng vẻ ân hận:

– Tôi không biết người đó là cô, tôi không nên nhận lời Hải âu.

Tiểu Yêu vỗ vai cậu ta:

– Không sao, không sao! Tôi và Miêu Phủ vẫn khỏe mạnh đấy thôi.

Tiếng đại bàng kêu vang trời, Quả Cầu cắp một con chim hải âu bay tới, nó vênh vang lượn vài vòng trên đầu bọn họ, còn đắc chí kêu thêm vài tiếng cho Tiểu Yêu nghe. Lúc này Tiểu Yêu mới vỡ lẽ câu nói của Tương Liễu khi nãy: “Hai chọi hai”. Thì ra, người thứ hai chính là Quả Cầu, mà không phải nàng. Thì ra, Tương Liễu xem thường nàng đến nỗi không thèm tính nàng là đồng đội của y.

Khoe mẽ xong, Quả Cầu cụp cánh lại, đáp xuống thuyền, một chân đè lên Hải âu.

Ả Hải âu run như cầy sấy, cầu xin:

– Thực tình tôi không hề biết tiểu thư Tây Lăng là bạn của tướng quân Tương Liễu. Xin tướng quân nể tình chúng ta đều là yêu quái, tha mạng cho tôi. Sau này tôi hứa không tái phạm.

Tương Liễu nói:

– Kẻ nào thuê ngươi?

– Tôi không biết. Có lẽ người đó biết rõ thân thế đặc biệt của tiểu thư Tây Lăng, nên khi tiếp xúc với tôi, người đó tỏ ra rất thận trọng. Tôi chỉ nghe được giọng nói của người đó, mà giọng nói thì rất có thể là giả.

Tương Liễu hầm hè, Quả Cầu xiết chặt móng vuốt, ả Hải âu kêu gào thảm thiết, vội vàng nói:

– Có một bài ca dao viết trên mảnh lụa, người đó bảo cứ đưa cho tiểu thư Tây Lăng đọc, cô ấy sẽ nghe lời. Nhưng tôi và Tai Trái đều không biết chữ, không biết trên đó viết gì.

Chỉ giới quý tộc mới được học hành và biết chữ. Không chỉ ả Hải âu lang bạt khắp nơi, hành nghề sát thủ, mà ngay cả một số tướng lĩnh trong triều đình Hiên Viên cũng không biết chữ.

Quả Cầu dùng mỏ bứt những sợi lông vũ trên đầu Hải âu. Ả ta kêu rên thảm thiết:

– Xin đừng, tôi không biết thật mà! Tôi không biết gì cả, xin tha mạng… xin ta mạng!

Tiểu Yêu nói:

– Không cần ép buộc cô ta. Nếu tôi toi mạng thì đúng là sẽ không thể truy xét được gì, nhưng tôi vẫn chưa chết, có rất nhiều manh mối để tìm ra hung thủ.

Tương Liễu hỏi Tiểu Yêu:

– Nghĩ ra ai rồi chứ?

Tiểu Yêu ủ dột:

– Giọng nói trong viên ngọc vọng âm là của Cảnh, bài ca dao viết trên mảnh vải là bài ca tôi hát cho Cảnh nghe. Thậm thí mảnh vải ấy là loại vải Thiều Hoa mà Cảnh yêu thích. Người muốn giết tôi chắc chắn là người biết rất rõ về Cảnh. Tôi chưa thể khẳng định, nhưng có thể suy đoán.

Quả Cầu đập cánh, hân hoan kêu lên mấy tiếng với Tương Liễu. Tương Liễu gật đầu với nó, Tiểu Yêu chưa kịp phản ứng gì, sau một tiếng kêu thảm thiết, móng vuốt của Quả Cầu đã cắm sâu vào thân thể Hải âu. Nó xoay lưng lại, tha Hải âu về phía đuôi thuyền, lẳng lặng dùng bữa.

Tương Liễu chẳng buồn chớp mắt, Tai Trái cũng thản nhiên chứng kiến cảnh tượng đó, như thể Quả Cầu vừa tóm được một con chim hải âu thông thường và ăn thịt nó vậy. Tiểu Yêu sống trong rừng hơn hai mươi năm, từng chứng kiến cảnh các loài thú ăn thịt lẫn nhau. Nàng hiểu rằng, đối với Yêu tộc mà nói, đạo lý đơn giản chỉ là: Kẻ yếu làm mồi cho kẻ mạnh. Thực ra, nếu phân tích sâu hơn, sẽ thấy rằng sự khác biệt giữa con người và yêu quái chẳng qua chỉ là, con người ăn chín, yêu quái ăn sống. Thế nhưng, khi nghe thấy thứ thanh âm phát ra từ đuôi thuyền, Tiểu Yêu vẫn không khỏi cảm thấy khó ở. Nàng nói với Tương Liễu:

– Tôi biết thế nào ngài cũng mỉa mai, khinh bỉ tôi, nhưng liệu ngài có thể bảo Quả Cầu đi chỗ khác ăn không?

Tương Liễu nhướn mắt nhìn Tiểu Yêu:

– Quả Cầu, ngươi nghe thấy không?

Quả Cầu tức tối gừ gừ vài tiếng rồi cắp Hải âu bay đi.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 11: Người xưa, nay đã khác

Người ta gỡ bỏ tất cả các vật dụng chuẩn bị cho hôn lễ trong điện Chương Nga, nơi đây như chưa từng diễn ra sự kiện gì. Không ai nhắc đến Cảnh, cũng không ai nhắc chuyện Tiểu Yêu mất tích. Tiểu Yêu khôi phục lại nếp sống trước kia. Cả Hoàng Đế và Chuyên Húc đều tỏ ra như chưa từng có chuyện gì. Nhưng Tiểu Yêu hiểu rằng, không phải vậy. Vì giờ đây, khi nàng dõi mắt về phía chân trời, trông ngóng cả ngày, cũng không thấy Cảnh cưỡi Bạch Hạc từ xa bay lại như trước kia nữa.

Số lượng thị vệ trên Tiểu Nguyệt Đỉnh đã đông hơn trước. Không biết Chuyên Húc nói gì với Tai Trái mà Tiểu Yêu đi đâu, cậu ta cũng bám theo. Cậu ta im lìm đến nỗi như không hề tồn tại. Thời gian đầu, những lúc Tiểu Yêu tưởng rằng cậu ta đã bỏ đi nơi khác, và cất tiếng gọi: “Tai Trái!” thì hoặc sẽ thấy một cái đầu nhô ra giữa lùm cây, hoặc sẽ nghe được tiếng đáp lại từ bãi cỏ hoang bên đường, hoặc sẽ thấy tay áo của cập ta thập thò sau cột nhà. Tai Trái giống như loài thú hoang trong rừng rậm, rất giỏi ẩn nấp ở mọi nơi mọi lúc.

Tiểu Yêu hỏi thăm Chuyên Húc về tình hình nhà Đồ Sơn. Chuyên Húc nói:

– Khá hỗn loạn. Đồ Sơn Chấn là người thừa kế duy nhất, nhưng các vị trưởng lão nhà Đồ Sơn đều biết Chấn không phải con ruột của Cảnh. Bọn họ ai nấy đều nuôi tham vọng, nên giở trò tranh cướp. Trong mắt các dòng họ lớn thì nhà Đồ Sơn giống như một miếng thịt bự tướng. Ai cũng muốn ngoạm một miếng. Ai cũng mong nhà Đồ Sơn càng rối loạn càng tốt, do đó bọn họ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội thêm dầu vào lửa.

Chuyên Húc không khi nào chủ động nhắc đến những việc liên quan tới Cảnh. Nhưng nếu Tiểu Yêu hỏi tới, hắn cũng không né tránh. Thái độ của hắn rất giống thái độ của người thầy thuốc đối với vết thương của bệnh nhân. Không để vết thương loét sâu thêm, nhưng cũng không che giấu. Dù biết Tiểu Yêu rất đau khổ, nhưng hắn sẽ không nề hà làm những việc cần thiết, nhằm cắt bỏ phần thịt da thối rữa nơi vết thương của nàng. Ví như, hắn biết Tiểu Yêu không thích người khác nói với nàng rằng Cảnh đã chết, nhưng khi cần nói, hắn vẫn phải nói.

Tiểu Yêu hỏi Chuyên Húc:

– Huynh có thể can thiệp vào việc nội bộ của nhà Đồ Sơn không?

– Tất nhiên là không. Nhưng liệu mấy dòng họ kia có để yên không? Tất cả bọn họ đều âm thầm nhúng tay vào việc của nhà Đồ Sơn.

Tiểu Yêu nói:

– Muội còn sống ngày nào, sẽ không để nhà Đồ Sơn sụp đổ ngày ấy.

– Muội định làm gì?

– Tuy Đồ Sơn Chấn không phải con đẻ của Cảnh, nhưng cậu bé đích thị là huyết mạch nhà Đồ Sơn. Muội nghĩ Lão phu nhân nhà Đồ Sơn sẽ không phản đối để cậu bé lên làm Tộc trưởng.

Chuyên Húc hỏi:

– Cha mẹ nó đã giết Cảnh, muội không hận sao?

Câu nói của Chuyên Húc như mũi gươm đâm thẳng vào tim Tiểu Yêu, khiến nàng lặng đi một lúc, mới trả lời:

– Nếu Hầu chưa chết, muội sẽ phanh thây hắn thành nghìn vạn mảnh. Đồ Sơn Chấn chỉ là đứa trẻ vô tội, nó không làm điều gì sai cả. Cả muội và huynh từ nhỏ đều không còn cha mẹ, hai chúng ta hiểu rõ nỗi bất hạnh của trẻ mồ côi. Huống hồ, Đồ Sơn Chấn lại ra đời trong bối cảnh chẳng mấy tốt đẹp. Đối với nó, chỉ riêng việc tồn tại trên cõi đời này đã chẳng dễ dàng gì. Nếu nó không lên làm tộc trưởng, chỉ e sẽ có kẻ ra tay trừ bỏ nó, bởi vì, dù sao nó cũng là người duy nhất đủ tư cách kế thừa ngôi vị tộc trưởng tộc Đồ Sơn. Muội không muốn một ngày nào đó, khi Cảnh trở về, sẽ không gặp được cậu bé đó nữa.

Lần này đến lượt câu nói của Tiểu Yêu khiến Chuyên Húc bị kích động mạnh. Hắn thinh lặng một lát, rồi mỉm cười, bảo:

– Thôi được, vậy ta sẽ để Đồ Sơn Chấn làm tộc trưởng tộc Đồ Sơn.

– Cảm ơn huynh.

Chuyên Húc cốc đầu Tiểu Yêu:

– Khách sáo thế! Muốn đánh đòn à?

Tiểu Yêu xoa đầu, nói:

– Đừng ỷ mình linh lực cao cường mà bắt nạt muội! Muội không thiếu cách trị huynh đâu.

– Thử xem.

Chuyên Húc thách thức.

Tiểu Yêu ỉu xìu. Những ngày qua, nàng chẳng còn hứng thú với việc điều chế các loại thuốc mê và thuốc độc.

Chuyên Húc xoa đầu nàng, bảo:

– Đừng giam mình ở Tiểu Nguyệt Đỉnh, muội sẽ sinh bệnh đó.

Tiểu Yêu cũng đã từng vì Cảnh mà đau lòng, nhưng lần đó nàng biết tìm đến công việc để giải tỏa. Còn lần này, nàng chán chường tất thảy, bỏ mặc tất thảy.

– Huynh cho cả đám thị vệ kè kè bên muội, không lẽ muội phải dẫn theo bọn họ ra phố chơi hay sao? Vả lại, có nơi nào quanh đây mà muội chưa đặt chân đến đâu.

Tiểu Yêu cười buồn:

– Đây chính là khuyết điểm của việc sống quá thọ. Đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ chẳng còn hứng thú với bất cứ điều gì.

Chuyên Húc nói:

– Hay là thế này, muội hãy mở một tiệm thuốc ở Chỉ Ấp, dành thời gian có ích vào việc chữa bệnh cứu người.

– Huynh đồng ý cho muội chạy qua chạy lại vậy ư? Muội không muốn tiệm thuốc của muội trở nên nổi tiếng không vì trình độ y thuật của muội mà vì có cả đám thị vệ vây quanh đâu.

– Tuy không yên tâm để muội chạy tới chạy lui như thế, nhưng ta càng không yên tâm để tình trạng của muội như hiện nay kéo dài thêm. Về đám thị vệ đó, ta tất sẽ có cách thu xếp ổn thỏa, muội khỏi lo. Tiểu Yêu, thời gian rảnh rỗi, hãy tập trung vào việc chữa bệnh. Năm xưa, ai từng cao giọng bảo rằng, phải theo học nghề y bằng cái tâm của người thầy thuốc chữa bệnh cứu người?

Tiểu Yêu nhớ lại, Cảnh và nàng từng bàn bạc về việc mở một tiệm thuốc trong thành Thanh Khâu. Nàng mỉm cười, nói với Chuyên Húc:

– Đồng ý, muội sẽ mở một tiệm thuốc ở Chỉ Ấp.

– Nhân tiện nàng sẽ điều tra xem kẻ nào muốn giết nàng. Nếu suốt ngày giam mình trên Tiểu Nguyệt Đỉnh, sống trong sự bảo vệ nghiêm ngặt của đám thị vệ ấy, người khác đừng hòng chạm được vào nàng, đổi lại, nàng cũng không được tiếp xúc với bất kỳ ai.

Tiểu Yêu mở một tiệm thuốc trong thành Chỉ Ấp bằng tiền tiết kiệm của mình.

Để tiện cho việc đi lại, nàng hóa trang thành nam giới, mặc đồ của nam giới. Ở tiệm thuốc, ngoài Miêu Phủ và Tai Trái, chỉ có thêm hai chàng trai được Tiểu Yêu thuê. Tiểu Yêu từng kiểm tra và khẳng định họ là dân thường, chắc chắn không phải các cao thủ do Chuyên Húc sai phái đến.

Kinh doanh tiệm thuốc không giống những ngành nghề khác, người bệnh rất quan tâm việc thầy thuốc của tiệm đó có tiếng tăm hay không. Tiểu Yêu chưa có tiếng, nên tiệm thuốc rất vắng khách. Nhưng Tiểu Yêu không lấy thế làm phiền, nàng cần mẫn hướng dẫn mấy chàng trai trẻ cách nhận biết các loại thảo dược, và bắt đầu dạy Miêu Phủ và Tai Trái học chữ.

Miêu Phủ theo hầu Tiểu Yêu đã nhiều năm, nên cũng biết được kha khá chữ. Những lúc Tiểu Yêu bận rộn với các loại thảo dược, Miêu Phủ sẽ dạy Tai Trái học chữ. Và, Tiểu Yêu sẽ nghe thấy tiếng nàng ta lanh lảnh rao giảng. Tai Trái tuy gầy gò, ốm o nhưng rất đáng sợ, lần nào Tiểu Yêu bảo Miêu Phủ hãy quan tâm, chăm sóc Tai Trái, nàng ta lại giãy nảy lên: Ai mà dám bắt nạt hắn! Nhưng Miêu Phủ thừa biết, nàng vẫn luôn bắt nạt Tai Trái.

Y thuật của Tiểu Yêu rất khá, những người chỉ đến khám chữa bệnh một lần cũng phải tấm tắc khen rằng, thuốc của anh chàng chủ tiệm lúc nào cũng cười tươi như hoa ấy quả rất công hiệu. Tiền khám chữa bệnh không hề rẻ, trong khi các loại thảo dược đều là loại thông thường, rất ít đơn thuốc kê các loại thảo dược quý hiếm. Có điều tiền khám chữa bệnh chỉ phải trả một lần, còn thuốc thì uống đến khi nào khỏi mới thôi. Thế nên, tính ra vẫn rẻ. Dần dần, bà con quanh vùng, ai nhức đầu sổ mũi, cảm sốt đều đến tìm Tiểu Yêu, từ đó, tiệm thuốc của nàng bắt đầu có đồng ra đồng vào.

Tiểu Yêu nói với Tai Trái và Miêu Phủ:

– Cuối cùng ta đã có thể nuôi được hai người.

Miêu Phủ không hiểu vì sao Tiểu Yêu coi trọng việc phải tự mình kiếm tiền như vậy. Tai Trái thì tươi cười yên lòng, vì từ nay không cần lo đói bụng nữa. Trong mắt Tai Trái, chỉ những đồng tiền của Tiểu Yêu mới đáng tin cậy, tiền của người khác đều không đáng tin.

Ngoài nỗi lo đói bụng, Tai Trái còn nỗi lo lớn hơn, đó là sự an toàn của Tiểu Yêu. Với Tai Trái, mấy tên ám vệ mà Chuyên Húc cử đến đều không phải “người mình”, và đều không đáng tin. Hắn nói với Tiểu Yêu:

– Vì sao cô không điều tra xem kẻ nào muốn giết cô?

– Tôi vẫn đang tiến hành điều tra.

Tai Trái băn khoăn nhìn nàng, Tiểu Yêu bật cười. Không biết có phải vì suốt ngày ở cạnh cô gái lí lắc Miêu Phủ, nên biểu cảm trên gương mặt của Tai Trái cũng ngày càng trở nên phong phú, ngày càng “người” hơn.

Tiểu Yêu nói:

-Kẻ đó muốn giết tôi, có thể vì lợi lộc, hoặc vì căm ghét. Nếu ai đó vô cùng căm ghét cậu, muốn cậu lập tức biến khỏi thế gian này, nhưng cậu không những không biến mất, ngược lại, cậu diễu qua diễu lại trước mắt hắn mỗi ngày, cậu sống vui vẻ, thảnh thơi. Theo cậu, kẻ đó sẽ làm gì?

Tai Trái thủng thẳng đáp:

– Tôi sẽ giết hắn.

Tiểu Yêu chán nản vỗ vai Tai Trái, tự an ủi, không sao, tiếp tục cố gắng, sớm muộn cũng có ngày Tai Trái bỏ được cái tật xấu hễ mở miệng là đòi giết người.

Miêu Phủ khinh bỉ nói:

– Kẻ đó ra tay hãm hại tiểu thư nhưng không thành công, nay thấy tiểu thư bình an trở về, chắc chắn hắn sẽ đứng ngồi không yên và sẽ theo sát mọi hành động của tiểu thư. Tiểu thư càng vui vẻ, mạnh khỏe, hắn càng khó chịu, càng sợ hãi, càng căm ghét. Chưa biết chừng hắn sẽ tiếp tục ủ mưu hãm hại tiểu thư lần nữa. Một khi hắn ra tay, chúng ta sẽ biết hắn là ai.

Miêu Phủ vênh mặt, cao ngạo nhìn Tai Trái:

– Đây chính là kế sách mà Bệ hạ gọi là “lấy tĩnh chế động”. Kẻ thô lỗ, man rợ như ngươi, chắc chắn không hiểu nổi đâu.

Tai Trái vẫn như mọi lần, thinh lặng không nói, vẻ mặt vô cảm. Nhưng Tiểu Yêu tin rằng, Tai Trái hiểu. Từng chứng kiến Tai Trái ra tay tàn bạo thế nào, vậy mà Miêu Phủ vẫn hung hăng, ngạo mạn trước mặt Tai Trái, chứng tỏ Miêu Phủ chưa bao giờ xem Tai Trái là quái vật. Tiểu Yêu mỉm cười, hắng giọng, nói khẽ với Miêu Phủ:

– Ta chưa muốn Bệ hạ biết chuyện này.

Miêu Phủ trầm ngâm một lát, cả quyết nói:

– Nô tỳ hiểu, thưa tiểu thư.

Sau cuộc tranh luận của Tiểu Yêu và Bệ hạ lần trước, Miêu Phủ hiểu rằng, nàng chỉ có thể trung thành với một người chủ.

Tiểu Yêu vỗ tay, cười, bảo:

– Thôi, ta phải vào việc đây. Chúng ta cùng chờ xem kẻ kia chịu đựng được đến khi nào.

Một chiều nọ, khi Tiểu Yêu đang khám bệnh thì Phong Long đến. Tiểu Yêu mỉm cười với hắn, tiếp tục quay sang chuyện trò với bệnh nhân. Miêu Phủ thay mặt Tiểu Yêu tiếp đón Phong Long. Tai Trái vẫn tỏ ra như không có gì khác lạ, nhưng hắn lẳng lặng thủ thế để có thể tấn công kẻ địch bất cứ khi nào.

Phong Long uống hết một bát trà, Tiểu Yêu mới khám bệnh xong. Lúc ra về, người bệnh vừa đi vừa càu nhàu tiền khám bệnh đắt đỏ. Tiểu Yêu tỏ ra là người sành sỏi trong kinh doanh, nàng tươi cười, đon đả với khách hàng, không phản bác, nhưng cũng kiên quyết không giảm giá.

Phong Long lên tiếng:

– Nếu những bệnh nhân này biết thầy thuốc khám chữa bệnh cho họ là một trong những danh y biên soạn ra “Hoàng Đế ngoại kinh” và “Hoàng Đế nội kinh”, chắc chắn họ sẽ không than phí khám chữa bệnh đắt đỏ.

Từ khi bộ sách ra đời, tất cả các thầy thuốc trong Đại hoang đều hết lời ca tụng. Tuy phần đông trong số họ không biết bộ sách đó viết gì, nhưng họ hiểu rằng, bộ sách đó giá trị hơn hẳn “Thần Nông bản thảo kinh”, là một bộ sách y dược toàn diện và có thể cứu được rất nhiều mạng người. Người ta đồn rằng, các danh y tham gia chỉnh lý và biên soạn ra bộ sách này đều là những bậc danh y với y thuật phi thường, siêu phàm. Đơn thuốc của họ giá trị nghìn vàng, rất ít người có thể mời họ khám chữa bệnh cho mình.

Tiểu Yêu nói:

– Bệnh của ông ấy không có gì phức tạp, thầy thuốc nào cũng chữa được khỏi. Đúng là tiền khám chữa tôi lấy hơi cao. Nếu ông ấy chê đắt thì lần sau đừng tìm đến chỗ tôi.

Phong Long tò mò hỏi:

– Nếu cô không định làm việc thiện giúp đời, thì hà cớ gì phải mai danh ẩn tính, và vì sao phải nâng giá khám chữa bệnh lên cao?

Tiểu Yêu đáp chẳng ngại ngần:

– Y thuật của tôi cao minh là thế, nếu lấy rẻ, người ta ùn ùn kéo đến, thì tôi ứng phó sao nổi. Vả lại, tôi không cần nuôi gia đình, nhưng các thầy thuốc khác thì có. Tôi không thể vì mục đích từ thiện giúp đời của mình mà cướp mất kế sinh nhai của người khác. Vậy tốt nhất cứ theo đúng lệ thường, kinh doanh là kinh doanh, mọi người đều có cơ hội kiếm tiền ngang nhau, mọi người đều có thể yên tâm với cuộc sống và công việc của mình.

Phong Long phì cười. Cách nghĩ của Tiểu Yêu không giống bất cứ ai, hắn không bao giờ nắm bắt được suy nghĩ của nàng. Có lẽ người duy nhất thực sự hiểu Tiểu Yêu chỉ có Cảnh, tiếc là… Giọng cười của Phong Long chợt nghẹn đắng. Hắn nói:

– Các vị trưởng lão của nhà Đồ Sơn đã chấp thuận để Đồ Sơn Chấn tiếp nhận ngôi vị tộc trưởng. Chín vị trưởng lão sẽ dạy dỗ, bồi dưỡng và phò trợ tân tộc trưởng. Trước khi cậu bé đủ sức cáng đáng trọng trách thì mọi việc lớn bé trong nhà Đồ Sơn sẽ do các vị trưởng lão nghị bàn và đưa ra quyết sách. Ta nghĩ, với sự giúp đỡ âm thầm của Bệ hạ, nhà Đồ Sơn chắc chắn sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn, cho đến lúc Đồ Sơn Chấn trưởng thành.

Tiểu Yêu đã nghe được thông tin này từ Chuyên Húc, nàng không tin Phong Long đến đây chỉ để nhắc lại chuyện đó. Nàng lặng nhìn hắn.

Phong Long tiếp tục:

– Hôm nay, ta có cuộc hẹn với mấy người bạn họ Thẩm và họ Khương. Trước kia, ta bảo sao thì họ nghe vậy, bây giờ, ta nói gì họ cũng hùa theo tung hô ý ta, ta thấy chán, bèn viện cớ, bỏ ngang. Rời khỏi chỗ hẹn, ta đi lang thang, không định đến đây, nhưng không hiểu vì sao lại rẽ vào. Ta rất buồn về chuyện của Cảnh.

Tiểu Yêu cụp mắt.

Phong Long nói tiếp:

– Hồi nhỏ cứ ngóng đợi ngày trưởng thành, vì nghĩ rằng trưởng thành đồng nghĩa với việc được tự do tự tại, được làm rất nhiều việc. Nhưng bây giờ, ta lại thường nhớ về thuở nhỏ. Thuở ấy, tình cảm giữa Cảnh và Hầu khiến ta ghen tỵ. Ta và Hầu đều là những tên nhóc hiếu động, nhưng không bao giờ chơi với nhau. Mỗi khi bị thầy giáo trách mắng, ta đều chui vào phòng Cảnh, trút giận và thao thao bất tuyệt về hoài bão lớn lao của mình. Còn cả tay quân sư đeo mặt nạ chó, họ Ly Nhung tên Sưởng ấy nữa, hắn lúc nào cũng đối đầu với ta. Mỗi lần đi chơi, hễ không có mặt Cảnh là y rằng bọn ta sẽ đánh lộn… Đám trẻ hồn nhiên vui đùa ngày ấy giờ đã thành ra thế này. Bây giờ, mỗi khi trò chuyện với ta, Sưởng lúc nào cũng ngọt nhạt, tươi cười, lễ phép, như thể ta là chủ nhân của hắn vậy. Hầu chết rồi, Cảnh cũng không còn nữa. Đột nhiên ta nhận ra quanh mình không còn người bạn nào để tụ hội, để nâng chén say sưa, để trò chuyện dông dài.

Phong Long cười buồn:

– Ta cũng không biết vì sao lại nói những lời này với cô. Có lẽ vì trước đây, mỗi khi có điều buồn bực, ta đều kiếm Cảnh để trút bầu tâm sự. Cô đừng để bụng.

Tiểu Yêu nhẹ nhàng bảo:

– Chỉ là cho huynh mượn đôi tai thôi mà, có gì phiền đâu.

Phong Long đứng lên:

– Ta đi đây. Cô… đừng quá đau buồn, ngày tháng còn dài, ta nghĩ Cảnh cũng mong cô được sống vui vẻ, hạnh phúc.

Phong Long cảm thấy mình thật lạ lùng. Tiểu Yêu từng là vị hôn thê của hắn, nàng đã bỏ trốn khỏi hôn lễ. Hắn từng nghĩ sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng, hắn từng nguyền rủa nàng và cầu mong cuộc đời nàng sẽ thê thảm, khốn khổ. Thế nhưng, khi chứng kiến nàng gặp phải bất hạnh, hắn không sao vui nổi.

Tiểu Yêu tiễn Phong Long ra cửa, hỏi:

– Sao huynh biết tôi mở tiệm thuốc ở đây?

– Ta nghe Hoàng hậu nói.

Hinh Duyệt không chỉ nhắc đến, mà còn nói rất nhiều về Tiểu Yêu bằng giọng điệu rất đỗi căm hận. Đây cũng là điều khiến Phong Long lấy làm khó hiểu. Kể từ ngày Tiểu Yêu hủy hôn với Phong Long, thái độ của Hinh Duyệt đối với Tiểu Yêu đã hoàn toàn thay đổi. Lần nào nhắc đến nàng, Hinh Duyệt đều gọi nàng là yêu tinh. Phong Long đã bỏ qua chuyện trước kia, nhưng mỗi khi nói về Tiểu Yêu, Hinh Duyệt vẫn tỏ ra vô cùng căm ghét nàng. Có lần, Hinh Duyệt còn bảo Tiểu Yêu rất giống mẹ, dâm đãng, lăng loàn, thậm chí còn nguyền rủa nàng sớm muộn cũng sẽ có kết cục thê thảm giống mẹ nàng. Phong Long chỉ nghiêm khắc phê bình Hinh Duyệt vài câu, thế mà nàng ta lập tức bỏ về. Phong Long thở dài ảo não, Hinh Duyệt nay đã là Hoàng hậu, hắn không thể quản thúc nàng như trước. Tuy họ là anh em sinh đôi, nhưng một người mang họ Xích Thủy, một người mang họ Thần Nông. Một người lớn lên ở Xích Thủy, một người lớn lên ở Hiên Viên. Hắn và Hinh Duyệt chưa bao giờ thân thiết như Cảnh và Hầu. Cũng may, ngoài mặt, Hinh Duyệt vẫn ứng xử lịch sự, nhã nhặn, không để lộ sự căm ghét của mình đối với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu quay vào, ngồi lặng lẽ, tự hỏi mình: Là Hinh Duyệt ư? Tại sao? Khi nãy Phong Long có nói rằng, bạn bè của hắn nay đã tứ tán khắp nơi, có kẻ đã chết, có kẻ còn sống, nhưng những kẻ còn sống thì khi gặp lại cũng tỏ ra hết sức ơ hờ, khách sáo, đãi bôi, không thật lòng. Tiểu Yêu cũng không hiểu, năm xưa nàng và Hinh Duyệt từng ngủ chung giường, từng phối hợp ăn ý che chắn cho đám đàn ông bàn việc lớn, từng hết lòng lo lắng cho Chuyên Húc… Vì sao bây giờ, Hinh Duyệt lại muốn dồn nàng vào chỗ chết?

Tai Trái hỏi:

– Miêu Phủ bảo hắn là Xích Thủy Phong Long, có phải hắn là kẻ muốn giết cô?

– Nếu như không phải anh ta diễn kịch quá giỏi, tôi nghĩ… có lẽ không phải.

– Là Thần Nông Hinh Duyệt ? Tôi đi giết ả.

– Đứng lại!

Tiểu Yêu giữ Tai Trái lại, nghiêm khắc nói:

– Tôi không ra lệnh thì hai người tuyệt đối không được manh động, biết chưa? Nếu không, đừng làm thị vệ của tôi nữa.

Gương mặt lạnh lùng, gỗ đá của Tai Trái thoáng nét ấm ức, hắn hậm hực:

– Đã rõ.

Không biết vì sao, Tiểu Yêu chợt hình dung ra vẻ ấm ức, hậm hực của Tương Liễu, nàng vừa thấy buồn cười, vừa thấy thương hại, nàng dịu giọng:

– Tôi sẽ xử lý chu toàn việc này. Cậu đừng lúc nào cũng nghĩ đến việc giết chóc. Thị vệ khác với sát thủ.

Tai Trái quyết liệt:

– Giết cô ta để bảo vệ cô.

Tiểu Yêu thấy đau đầu, cao giọng ra lệnh:

– Miêu Phủ, hãy giải thích cho Tai Trái hiểu sự khác biệt giữa sát thủ và thị vệ.

Miêu Phủ cười thật tươi, chạy đến trước mặt Tai Trái, bắt đầu rao giảng.

Trước ngày Chuyên Húc rước Hinh Duyệt về Thần Nông Sơn, Tiểu Yêu đã rời khỏi Tử Kim Đỉnh. Kể từ đó, nàng chưa lần nào đặt chân lên đỉnh Tử Kim.

Vậy nên, khi Tiểu Yêu trở lại và đứng trước cung Tử Kim, các cung nữ đã không nhận ra nàng. Tiểu Yêu giơ lệnh bài của Hoàng Đế cho cung nữ xem. Trong khi đám cung nữ vẫn đang tròn mắt kinh ngạc thì Miêu Phủ nói với họ:

– Cô ấy là tiểu thư Tây Lăng ở cung Chương Nga, trên đỉnh Tiểu Nguyệt.

Các cung nữ đều từng nghe kể về thân thế kỳ lạ và số phận long đong của tiểu thư Tây Lăng. Họ cũng biết rằng tiểu thư Tây Lăng được cả Hoàng Đế và Hắc Đế Bệ hạ rất mực yêu thương. Nay thấy lệnh bài của Hoàng Đế ban cho, thì biết rằng tin đồn hoàn toàn là sự thật. Bọn họ vội mở rộng cửa cung, cung kính mời Tiểu Yêu vào.

Lúc Tiểu Yêu rời đi, cung Tử Kim vẫn còn khá trống trải, hoang sơ. Vậy mà nay đã hoàn toàn đổi khác. Mỗi lối đi, mỗi cây cột đều rực rỡ, hoa lệ, mỗi nhành cây ngọn cỏ đều được chăm sóc, cắt tỉa tỉ mỉ. Cung nữ ra vào nườm nượp nhưng rất có trật tự, không ồn ào, náo động, khiến người được hộ tống ở lối đi chính cảm nhận được sự tôn nghiêm kín đáo, bước chân dường như cũng trở nên nhẹ hơn, nín thở, nhìn thẳng, vì sợ rằng chỉ một chút sơ ý có thể sẽ mạo phạm đến thiên uy.

Tiểu Yêu mỉm cười, thì ra đây chính là thứ mà Hinh Duyệt muốn.

Hôm nay là mùng Ba tháng Ba Âm lịch, Tết Thanh Minh ở Trung nguyên. Ban ngày, mọi người kéo nhau ra sông ra hồ tắm gội, tế lễ cầu phúc. Buổi tối, lại hẹn nhau nơi cảnh xuân tươi đẹp, cùng nhau gài liễu, ngắm hoa[1]. Tết thanh minh đối với người Trung nguyên cũng trọng đại như lễ hội hoa đăng mồng Năm tháng Năm của người Cao Tân.

[1] Tương truyền tập tục trồng liễu xuất hiện từ trước thời Hán ở Trung Quốc, vốn là để tưởng nhớ ông Tổ của nhà nông, thuộc họ Thần Nông, người từng dạy dân trồng cấy, gặt hái. Cũng có nơi, người dân cài những cành liễu lên mái tranh nhà để dự báo thời tiết. Ngạn ngữ của người Trung Hoa có câu: “Cành liễu xanh, mưa lất phất. Cành liễu khô, trời nắng ráo.”

Chuyên Húc thực hiện chính sách đối xử bình đẳng, công bằng với mọi dòng tộc, nên vẫn gìn giữ, bảo tồn những ngày lễ Tết quan trọng của người Hiên Viên, cũng như của Trung nguyên và Cao Tân. Mỗi dịp lễ tết, Chuyên Húc đều yêu cầu các quan viên tổ chức lễ hội theo đúng phong tục tập quán của các tộc người, và không bắt buộc dân chúng phải tham gia, tất cả đều hoàn toàn tự nguyện.

Các phi tần trong cung Tử Kim đến từ nhiều vùng miền và dòng tộc khác nhau trong Đại hoang, nên mỗi dịp lễ tết, Tử Kim Cung đều tổ chức tiệc mừng. Nhưng vì Hoàng hậu là người Trung nguyên, nên vào dịp thanh minh năm nay, cung điện Tử Kim trở nên nhộn nhịp, náo nhiệt hơn bao giờ. Vì phải tham dự yến tiệc, nên Chuyên Húc tranh thủ ghé thăm Hoàng Đế và Tiểu Yêu sớm hơn mọi khi, sau đó vội vã trở về Tử Kim Đỉnh.

Cung nữ dẫn lối đưa Tiểu Yêu vào Bách Hoa Viên.

Trong vườn, suối nước thấp thoáng, cây cối xanh tốt, cỏ mọc um tùm, trăm hoa đua nở, những lối đi nhỏ chia đủ các hướng, đình đài lầu các xinh đẹp, hoa lệ, những cây cầu duyên dáng nối tiếp nhau, mỗi bước lại thấy một cảnh sắc tuyệt đẹp. Các phi tần của Chuyên Húc, người ngồi chơi bên bờ suối, người ngồi trong đình hóng gió, một vài thiếu nữ ngồi dưới giàn hoa. Giữa vườn đặt một chiếc ghế long phượng cao chừng một thước, dành riêng cho Chuyên Húc và Hinh Duyệt. Có điều, trong khi Chuyên Húc nghiêng ngả thoải mái trên ghế, thì Hinh Duyệt lại tỏ ra rất mực nghiêm trang, đoan chính. Mọi người đang thưởng thức một vài khúc nhạc do các cung nữ diễn tấu. Nào kèn, nào sáo, nào đàn, tay áo tung bay, rực rỡ sắc màu, hệt như một vườn hoa lộng lẫy, đẹp không sao tả xiết.

Khúc nhạc kết thúc, tiếng vỗ tay vang lên rộn ràng. Bỗng một phi tần mà Tiểu Yêu không quen biết lên tiếng:

– Rằng hay thì thật là hay, nhưng nếu đem so với Hoàng hậu thì còn kém xa.

Khương phi cười, bảo:

– Thần thiếp nghe kể, Bệ hạ và Hoàng hậu gặp nhau lần đầu trên hồ Xích Thủy. Đêm đó sương mù giăng giăng, Bệ hạ vẳng nghe tiếng đàn của Hoàng hậu, liền thổi sáo hòa nhịp. Tuy chưa thấy mặt mà tiếng đàn tiếng sáo đã hòa quyện làm một. Chi bằng đêm nay, Bệ hạ và Hoàng hậu hãy tấu lại một khúc đàn sáo hợp nhất cho chúng thiếp được thưởng thức. Năm xưa hòa tấu khi vẫn là người xa lạ, nay tấu lại khúc xưa khi đã là phu thê, để thấy rằng, quả là nhân duyên do trời định.

Có phi tần hùa theo, nài nỉ Chuyên Húc và Hinh Duyệt nhận lời, có phi tần chỉ mỉm cười hờ hững, cũng có vài ba phi tần bĩu môi khó chịu. Tiểu Yêu dặn dò Miêu Phủ giữ cung nữ dẫn đường lại, tạm thời chưa thông báo vội. Nàng đứng cạnh giàn hoa, lặng lẽ quan sát.

Niềm vui dâng lên trong mắt Hinh Duyệt, nàng vừa bối rối, ngượng ngùng, nhưng cũng rất mực hân hoan, mừng rỡ, rõ ràng nàng đã sẵn sàng cho màn hợp tấu, trong khi, Chuyên Húc chỉ mỉm cười, không lên tiếng. Mấy phi tần khi nãy ra sức nài nỉ Chuyên Húc, lúc này đã nhạt thưa dần. Các phi tần khi nãy tỏ ra hờ hững, bàng quan, thì lúc này được thể, cười thầm trong dạ.

Hinh Duyệt đưa mắt khắp lượt các phi tần, rồi quay sang nhìn Chuyên Húc, tỏ vẻ giận dỗi:

– Bệ hạ bảo họ thôi đi, thiếp đâu phải cung nữ hầu đàn!

Chuyên Húc tươi cười bảo:

– Hôm nay là Tết Thanh Minh, họ muốn nghe thì hãy chiều họ, ta sẽ góp vui cùng nàng, để xem ai dám cười nàng nào.

Vẻ mặt và thái độ của các phi tần biến đổi mới phong phú, thú vị làm sao. Hinh Duyệt tươi cười rạng rỡ, cung nữ biết ý, đã chuẩn bị chu đáo đàn cho Hoàng hậu và sáo cho Bệ hạ.

Hinh Duyệt nhấc gót, khoan thai đến ngồi trước cây đàn. Chuyên Húc cầm sáo, ra đứng bên bờ suối. Hinh Duyệt bắt đầu dạo đàn, vẫn là khúc nhạc quen thuộc hai người từng hòa tấu trong lần gặp gỡ đầu tiên trên hồ Xích Thủy. Chuyên Húc thổi sáo hòa điệu. Bồn bề im phăng phắc, chỉ có bản hòa tấu rộn ràng, vang vọng. Tiếng sáo bay bổng, phóng khoáng, tiếng đàn trầm ấm, dìu dặt. Một người cởi mở, hào phóng; một người cẩn trọng, tỉ mỉ. Một người vẫy vùng ngang dọc, một người gắn bó không rời, quả là một sự kết hợp ăn ý.

Tiểu Yêu chợt nhớ lại tiếng đàn ngạo nghễ, du dương bay bổng trên hồ Xích Thủy hôm ấy. Tiếng đàn kiêu hãnh thách thức tiếng sáo, tiếng đàn mạnh mẽ o bế, truy cầu, tiếng đàn phẫn nộ. Không ngờ Hinh Duyệt đã từ bỏ tiếng đàn ấy, và lựa chọn điệu đàn này. Tiểu Yêu thở dài luyến tiếc. Tiếng thở dài của nàng tuy không lớn, nhưng vì Hắc Đế và Hoàng hậu đang hòa tấu, ai nấy đều nín thở lắng nghe, ai nấy đều sợ mình không đủ tỏ ra chuyên tâm, không đủ cung kính thưởng thức tuyệt phẩm. Trong không gian tĩnh mịch ấy, tiếng thở dài của Tiểu Yêu trở nên thật rõ rệt, thật tệ hại, thật bất kính. Cả Chuyên Húc và Hinh Duyệt đều thoáng chau mày, khó chịu, và cùng đưa mắt về phía giàn hoa.

Tiểu Yêu không hề biết rằng nàng đã quá vô ý và thất lễ, nàng thầm tự trách: Mình đúng là kẻ bất cẩn, thật không đủ tư cách tham dự những buổi lễ long trọng thế này. Nàng bước lên trước, cúi người vái chào Chuyên Húc và Hinh Duyệt. Tiểu Yêu vốn định cúi đầu xin lỗi họ, nhưng lúc ngẩng đầu lên, chợt nhớ ra chỉ có Chuyên Húc và Hinh Duyệt thấy rõ gương mặt nàng, Tiểu Yêu liền thay đổi ý định, nàng le lưỡi, làm mặt quỷ chọc Chuyên Húc và Hinh Duyệt. Thái độ bỡn cợt ấy cho thấy, nàng không hề có ý xin lỗi. Hinh Duyệt giật mình, dây đàn đứt lìa, tiếng đàn tắt lặng. Chuyên Húc nhìn thấy Tiểu Yêu cũng kinh ngạc đến mức quên thổi sáo. Vậy là tiếng đàn tiếng sáo dừng lại vừa khớp nhau, nên không gây nên sự ngạc nhiên, bất ngờ cho khán thính giả.

Chuyên Húc hỏi:

– Sao muội lại đến đây?

Tiểu Yêu cúi đầu, cung kính thưa:

– Cây đào mà ông ngoại trồng chín sớm, biết Bệ hạ và các vị nương nương đang vui lễ hội, ông sai muội mang đến mời mọi người thưởng thức.

Miêu Phủ bước lại, cung kính dâng lên giỏ đào chín. Quan nội thị đón lấy, cung kính chờ lệnh. Chuyên Húc nói:

– Đây là tấm lòng của ông nội, mọi người hãy nếm thử đi.

Quan nội thị chia cho mỗi vị nương nương một đĩa đào nhỏ.

Kể từ khi quyết định sống ẩn dật trên Tiểu Nguyệt Đỉnh, Hoàng Đế chưa bao giờ đặt chân đến Tử Kim Đỉnh, cũng chưa bao giờ gặp mặt các cô cháu dâu. Chỉ có Hoàng hậu thi thoảng được gặp ngài.

Các phi tần nghe nói là quà tặng của Hoàng Đế thì ai nấy đều ngạc nhiên, bất ngờ và hết sức vui mừng, hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu tuôn ra ào ạt, nào là nức nở khen đào ngọt, nào là rối rít tạ hơn Hoàng Đế, và cảm ơn Tiểu Yêu vì đã đem quà đến tặng. Tất nhiên, họ phải cố gắng diễn sao cho thật ấn tượng với Chuyên Húc. Thế là, khắp vườn xôn xao, yến oanh véo von, những là môi thắm má đào, mắt ngọc eo thon, xinh đẹp tuyệt trần.

Tiểu Yêu nheo mắt, mỉm cười ngắm nghía các người đẹp. Chuyên Húc vẫn giữ vẻ tươi cười, hòa nhã, nhưng trong lòng bỗng thấy hoang mang, như kẻ vừa gây ra lỗi lầm, bị Tiểu Yêu bắt quả tang.

Hắn đưa mắt ra hiệu cho quan nội thị đứng bên cạnh. Quan nội thị thông báo:

– Đêm đã khuya, kính mời các nương nương về nghỉ ngơi.

Không ai lấy làm ngạc nhiên, vì tuy Hắc Đế lúc nào cũng vui vẻ, thoải mái, hòa đồng, nhưng thực tế ngài rất lạnh lùng, ngài không ham thích những buổi tiệc tùng, hội hè. Thường vào những dịp thế này, ngài sẽ đến thật sớm và ra về thật nhanh, hoặc đến rất muộn và yêu cầu tiệc tan sớm, chưa bao giờ ngài đủ kiên nhẫn tham dự từ đầu chí cuối một bữa tiệc nào.

Các phi tần lần lượt vái chào Chuyên Húc và ra về. Chuyên Húc trao cây sáo vừa thổi cho Hinh Duyệt, mỉm cười, bảo:

– Phiền Hoàng hậu giữ giùm ta.

Tất cả các phi tần đều liếc nhìn Hinh Duyệt, sau đó vội vã cụp mắt, không để lộ bất cứ biểu cảm nào.

Hinh Duyệt cười thật tươi, trịnh trọng đón lấy cây sáo bằng cả hai tay. Nhưng nàng không thấy vui, mà thấy tức nghẹn trong cổ. Nàng muốn gào lên thật to: “Các người mù rồi à? Các người không thấy gì sao? Bệ hạ không hề yêu thương ta, ngài chỉ lợi dụng ta thôi, lợi dụng ta để đánh lạc hướng các người! Tiểu Yêu vừa đến, ngài lập tức cho tan tiệc, để từ nay về sau, mỗi khi nhớ lại buổi tiệc này, các người sẽ bỏ qua mọi chi tiết, và chỉ nhớ tiết mục hòa tấu của ngài và ta, và cả cử chỉ Bệ hạ tặng lại cây sáo này cho ta. Các người đều là những kẻ đui mù! Bệ hạ đang bảo vệ cho kẻ mà bấy lâu nay ngài vẫn luôn giấu kín! Các người phải ghen ghét, đố kỵ, căm thù ả mới phải chứ!” Nhưng Hinh Duyệt không dám nói gì, nàng chỉ có thể cúi đầu tạ ơn, rồi xin phép ra về trong tư thế đường hoàng, không chê vào đâu được của bậc mẫu nghi thiên hạ.

Vẫn biết không nên quay lại nhìn lần nữa, nhưng vì không kìm lòng nổi, Hinh Duyệt cố ý nán lại, thả bộ một vòng, vờ tìm kiếm túi thơm rơi đâu đây. Khi đến gần giàn hoa, nàng không dám bước tiếp, và vì thế không nghe rõ cuộc trò chuyện giữa Chuyên Húc và Tiểu Yêu, mà chỉ nhìn thấy họ sóng bước bên nhau ven con suối.

Hinh Duyệt thầm nhớ lại, kể từ ngày về Tử Kim Đỉnh, nàng chưa từng một lần cùng Chuyên Húc sóng bước bên nhau. Bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu, nàng luôn luôn đi sau Chuyên Húc. Nàng không biết đó là bởi sự uy nghiêm của Chuyên Húc, hay bởi nàng không dám vượt qua giới hạn, để rồi chuyện đó thành nếp quen. Hoàng hậu còn không dám sóng bước bên Chuyên Húc, thì các phi tần khác càng không dám. Có lẽ vì tất cả phụ nữ trên Tử Kim Đỉnh không ai được phép bước sóng vai bên Chuyên Húc, nên Hinh Duyệt không cảm thấy việc nàng luôn đi sau Chuyên Húc có gì đáng phiền lòng. Nhưng đêm nay, nàng đột nhiên phát hiện ra, không phải như vậy.

Chuyên Húc thủng thẳng cất bước, Tiểu Yêu lúc đi trên bãi cỏ, lúc nhảy lên phiến đá. Nhưng dù Tiểu Yêu đi nhanh hay chậm, Chuyên Húc luôn ở cạnh nàng. Tiểu Yêu giẫm lên một phiến đá xanh rêu, không may trượt chân, nàng chao đảo, chực ngã xuống suối. Chuyên Húc vội chìa tay ra giữ nàng lại. Tuy Tiểu Yêu không bị ngã xuống nước, nhưng một bên chân nàng đã trượt xuống suối, y phục ướt cả. Chuyên Húc không nề hà, hắn ngồi xuống rất tự nhiên, kéo cao gấu váy của Tiểu Yêu và giúp nàng vắt kiệt nước.

Tiểu Yêu khom lưng, một tay đặt trên vai Chuyên Húc, tay kia tháo giày. Chuyên Húc đứng lên, thuận tay, xách luôn đôi giày sũng nước giúp Tiểu Yêu. Tiểu Yêu trỏ tay ra hồ nước, không biết đang nói gì mà Chuyên Húc lắc đầu, tỏ vẻ không đồng ý. Rồi tọa kỵ của Chuyên Húc bay đến, hắn kéo Tiểu Yêu cùng ngồi lên và bay về Tiểu Nguyệt Đỉnh.

Đứng trong chỗ nấp tối tăm, Hinh Duyệt rất muốn bỏ đi, nhưng nàng dường như không còn sức lực, nàng gắng bước vài bước, nhưng bước chân loạng choạng, và rồi nàng ngồi sụp xuống đất. Cảm giác này giống hệt cảm giác hồi nhỏ, khi biết mình không phải một tiểu thư tôn quý con nhà danh giá, không sai sánh bằng, mà chỉ là một con tin trong tay Hoàng Đế, và có thể bị giết bất cứ lúc nào. Nàng vừa lạnh vừa sợ, nàng tưởng mình đã có tất cả, nhưng một chút sơ sảy cũng có thể khiến nàng mất đi tất cả chỉ trong chớp mắt.

Nàng từng nghĩ, Chuyên Húc là người đàn ông phong lưu đa tình, nàng từng lo lắng sẽ phải chịu đựng cảnh có mới nới cũ của hắn. Nhưng sau khi đến Tử Kim Đỉnh, nàng phát hiện ra, kỳ thực Chuyên Húc rất lạnh nhạt với phụ nữ, hắn dồn toàn bộ tâm trí cho việc nước, hắn chẳng mặn mà gì với nàng, cũng không mặn mà với những người phụ nữ khác. Chỉ cần nàng không gây ra lỗi lầm, thì hắn luôn giữ thể diện cho nàng, trước mặt tất cả các phi tần, hắn luôn ban cho nàng sự tôn quý của một Hoàng hậu. Nàng cứ nghĩ bản tính của hắn là như vậy, thờ ơ, lạnh nhạt, vô tình, và nàng cảm thấy vững tâm. Nhưng từ khi trong lòng nàng gợn lên mối nghi ngờ đó, mỗi ngày lại cảm thấy sợ hãi hơn. Nàng sợ rằng không phải Chuyên Húc đa tình hay vô tình, mà hắn chỉ dành trọn tình cảm cho một người.

Chuyên Húc bảo vệ Tiểu Yêu rất cẩn trọng, nàng quan sát suốt mấy chục năm cũng không phát hiện được nhiều. Nhưng mấy chục năm qua, bất kể ngày nắng ngày mưa, hắn đều ghé thăm Tiểu Yêu. Hắn cho phép Tiểu Yêu ném đồ vào mặt hắn. Hắn không hề giận nàng, trái lại, những lúc đưa tay lên chạm vào vết thương, ánh mắt hắn ngập tràn nỗi nhớ nhung khổ sở. Hắn còn sẵn sàng vén gấu váy và xách giày cho Tiểu Yêu nữa…

Đám phụ nữ trên đỉnh Tử Kim ra sức đấu đá nhau, nhưng bọn họ đâu biết, người mà Chuyên Húc dành nhiều thời gian ở bên cạnh nhất không phải là người phụ nữ trên Tử Kim Đỉnh, mà chính là Tiểu Yêu. Nàng là Hoàng hậu, nhưng cũng chỉ được gặp Chuyên Húc một tháng một lần, chỉ có Tiểu Yêu là ngày nào cũng được gặp hắn.

Năm xưa, khi kết hôn với Chuyên Húc, Hinh Duyệt từng nghĩ nàng sẽ là độc nhất vô nhị. Nàng có được sự tự tin ấy là nhờ họ Thần Nông, họ Xích Thủy và cả Trung nguyên hậu thuẫn cho nàng. Nhưng sau đó A Niệm xuất hiện, những ưu thế nàng có, A Niệm đều có, thậm chí còn nhiều hơn nàng. Của hồi môn của A Niệm là cả đế quốc Cao Tân. Tất cả mọi người đều khuyên nàng hãy chấp nhận, thậm chí anh trai nàng còn giữ trọng trách đến Ngũ Thần Sơn, gặp Bạch Đế, giúp Chuyên Húc thành hôn với A Niệm và phong A Niệm làm Hoàng hậu. Nàng không thể không chấp thuận, bởi vì nàng không có gì để cạnh tranh.

Đối với A Niệm, Hinh Duyệt vừa ghét vừa ganh tỵ, nhưng không hề sợ nàng. Vì nàng mãi mãi sống ở Thần Nông Sơn, và là một Hoàng hậu hữu danh vô thực, không tạo sự uy hiếp đối với nàng. Có lúc, Hinh Duyệt còn thầm nghĩ: Loại người như A Niệm, có trao quyền lực của một Hoàng hậu cho cô ta, cô ta cũng không biết xoay xở ra sao. Bạch Đế rất sáng suốt khi nhận ra sự kém cỏi của con gái mình và sắp đặt ổn thỏa để cô ta không bị mất thể diện. Nhưng bây giờ, Hinh Duyệt cảm thấy rất đỗi sợ hãi. Đại hoang thống nhất, vương vị của Chuyên Húc ngày càng được củng cố vững chắc, Chuyên Húc cũng ra sức nâng đỡ các dòng họ ở Trung nguyên. Vì thế, vai trò của họ Thần Nông đối với Chuyên Húc không còn quan trọng như trước kia nữa… Chuyên Húc cho phép Tiểu Yêu ném cốc vào mặt hắn, sẵn lòng vén gấu váy và xách giày cho cô ta, nhưng liệu hắn có bằng lòng trao cho cô ta tất cả những gì cô ta muốn? Nếu chuyện đó xảy ra, thì có lẽ không chỉ sự sủng ái, mà cả ngôi vị Hoàng hậu của nàng, cũng có nguy cơ bị tước mất.

Hinh Duyệt chua chát nghĩ, không cần Tiểu Yêu phải chủ động đòi hỏi, cứ theo cách ứng xử của Chuyên Húc tối nay, Tiểu Yêu vừa xuất hiện, hắn đã lập tức cho các phi tần giải tán, thì có lẽ hắn muốn trao cho Tiểu Yêu mọi thứ hắn có! Hinh Duyệt biết ý định trừ khử Tiểu Yêu của nàng rất đáng sợ, nếu bị Chuyên Húc phát hiện, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi. Nhưng nếu không trừ bỏ Tiểu Yêu, hậu quả sẽ còn đáng sợ hơn.

Kể từ dạo tham dự tiệc mừng Tết Thanh Minh trên Tử Kim Đỉnh, Tiểu Yêu vẫn luôn chờ đợi phản ứng của Hinh Duyệt, nhưng nàng không thu được bất cứ kết quả gì. Tiểu Yêu lấy làm băn khoăn, lẽ nào không phải Hinh Duyệt? Hôm đó nàng tới Tử Kim Đỉnh, đã bị Chuyên Húc giáo huấn cho một trận, lẽ nào nàng uổng công vô ích?

Cuối tháng Tư, trước khi lên đường đi thị sát Cao Tân, Chuyên Húc không quên căn dặn Tiểu Yêu tạm thời không được đến tiệm thuốc, cho đến khi hắn quay về. Nếu thấy buồn cứ việc dạo chơi quanh Thần Nông Sơn.

Tiểu Yêu phải hứa cẩn thận, và tuyệt đối không rời khỏi Thần Nông Sơn, Chuyên Húc mới yên lòng lên đường công cán.

Tiểu Yêu nhận được thiệp mời của Vương phi Ly Nhung, mời nàng tham dự lễ hội hoa đăng trên núi Thần Nông nhân dịp mùng Năm tháng Năm âm lịch. Kèm theo thiệp mời là một bản vẽ hướng dẫn cách làm đèn hoa với miệng đèn ở phía dưới, không giống loại đèn hoa của Cao Tân là miệng đèn ở phía trên. Thiệp mời còn nói thêm là lễ hội này sẽ rất thú vị, vì sẽ có rất nhiều đèn hoa độc đáo, Tiểu Yêu không nên bỏ lỡ.

Vương phi Ly Nhung là người giữ thái độ trung lập, không phản đối cũng không ủng hộ Hoàng hậu, vì vậy hẳn là cô ấy sẽ không tiếp tay cho Hinh Duyệt. Hơn nữa, vì mối quan hệ thân mật giữa Sưởng và Cảnh, Tiểu Yêu và Vương phi Ly Nhung cũng khá vui vẻ với nhau. Nhưng họ không quá thân mật, nên Tiểu Yêu thấy rất bất ngờ khi nhận được thiệp mời của cô ấy.

Tiểu Yêu ngẫm ngợi một lát, quyết định sẽ tham dự, vì đã nhiều năm rồi nàng không được dự hội hoa đăng.

Chiều muộn hôm đó, Tiểu Yêu dẫn theo Tai Trái và Miêu Phủ đến nơi hẹn.

Tai Trái chưa thạo điều khiển Thiên mã, cứ bị Miêu Phủ trêu chọc hoài, dẫu vậy, Miêu Phủ vẫn nhiệt tình chỉ bảo hắn.

Tiểu Yêu ngồi trong xe mây, thấy hai người sóng vai nhau trên lưng ngựa. Tai Trái thử cầm cương, nhưng hắn xiết dây cương quá chặt, Thiên mã hí lên bực bội, xe mây chòng chành chực đổ. Miêu Phủ vừa cười nhạo vừa nắm lấy tay hắn, hướng dẫn hắn cách điều khiển. Thiên mã tăng tốc, Miêu Phủ theo đà, hơi đổ người vào lòng Tai Trái.

Tiểu Yêu ngồi phía sau, nàng thấy rõ bờ vai Tai Trái căng thẳng, tai phải của hắn đỏ ửng. Tiểu Yêu tủm tỉm cười, không ngờ một kẻ ra tay tàn độc như Tai Trái cũng có lúc bối rối, xấu hổ như thế. Bỗng nhiên, nàng thấy lòng mình ngập nỗi buồn. Nàng và Cảnh cũng từng trải qua những khoảnh khắc thẹn thùng, cũng từng bối rối, ngây ngốc như thế. Năm xưa, Cảnh từng khiến Tiểu Yêu tức giận vì nghĩ rằng chàng không thích mình, không để ý đến mình nhiều như nàng mong muốn, nên nàng từng quyết tâm cắt đứt với chàng. Nhưng sau bao chông gai, trắc trở, bao đau thương, li biệt, ngoảnh đầu nhìn lại, mới thấy những thẹn thùng, bối rối thuở ban đầu ấy đáng quý xiết bao. Đó là những kỉ niệm đầu tiên, cũng là những cảm xúc chân thành, trong trẻo nhất.

Cuối cùng họ cũng đến được điểm hẹn với Vương phi Ly Nhung.

Cảnh tượng quả nhiên rất độc đáo. Một phiến đá hình vuông khổng lồ như thể từ trên trời rớt xuống đỉnh núi nhỏ, nhìn từ xa thấy thật nguy hiểm, dường như chỉ một trận gió lớn là có thể lật đổ phiến đá xuống chân núi, kỳ thực phiến đá vẫn ở nguyên đó từ bấy đến nay. Lúc này, trên phiến đá khổng lồ thấp thoáng sau làn mây đã có khá đông người, họ đang cười nói vui vẻ, náo nhiệt.

Xe mây của Tiểu Yêu vừa đỗ xuống thì một cỗ xe mây khác cũng vừa tới. Tiểu Yêu và Hinh Duyệt, người trước kẻ sau cùng bước lại. Vương phi Ly Nhung ra đón khách, ba người khách sáo chào hỏi nhau.

Hinh Duyệt đưa mắt nhìn xung quanh, cười, bảo:

– Nơi này thật đặc biệt, làm sao em phát hiện ra?

Vương phi cười lớn:

– Núi Thần Nông trùng trùng điệp điệp, tuy sống ở đây nhưng có khi cả đời không biết đến những ngọn núi khác. Thần thiếp nhàn rỗi đi lòng vòng, và tình cờ phát hiện ra nơi này. Tiếc là Hoàng hậu không rảnh rỗi, vì có rất nhiều chốn cũng kỳ lạ, thú vị không kém.

Lời nói của Vương phi nghe tưởng hoan hỉ, vui vẻ, kỳ thực thấm đẫm cô đơn, Hinh Duyệt vờ như không hiểu, hỏi:

– Trong thiệp mời em nói chúng ta sẽ thả hoa đăng, ta đã chuẩn bị sẵn mấy chiếc đèn đẹp, nhưng nước đâu? Không có nước thì thả đèn thế nào?

Người Cao Tân sống nhờ nước, họ yêu nước kính nước, nên lễ hội hoa đăng của họ cũng được tổ chức trên sông nước. Họ thả đèn trôi theo dòng nước, để những lời nguyện cầu tốt đẹp hòa vào dòng chảy. Họ tin rằng, nếu đèn hoa không chìm thì sẽ trôi đi rất xa, điều đó có nghĩa, mọi dòng sông dòng suối trên đất Cao Tân đều sẽ nghe thấu lời nguyện cầu của họ, ước mong của họ sẽ trở thành hiện thực. Hàng năm, vào mỗi dịp lễ hội hoa đăng, hàng ngàn hàng vạn chiếc đèn được thả trôi trên sông nước, giống như trời sao rớt xuống nhân gian, khung cảnh ấy mới thật là kỳ ảo, diễm lệ. Người ta đồn rằng, cầu xin nhân duyên vào ngày này sẽ rất linh nghiệm. Tất cả các thiếu nữ quý tộc trong Đại hoang đều muốn cầu duyên. Trước khi đi lấy chồng, Hinh Duyệt, Vương phi Ly Nhung và những người khác đều đã từng cùng bạn bè đến Cao Tân thả đèn hoa.

Vương phi cười, đáp:

– Thần Nông Sơn không giống Ngũ Thần Sơn. Nếu chỉ có mấy người chúng ta ra sông thả đèn, thì chỉ một lát đèn sẽ trôi đi mất, chẳng còn gì để ngắm cũng chẳng có gì để chơi. Nên thần thiếp đã nghĩ ra một cách thả đèn rất đặc biệt.

– Như thế nào?

Vương phi gật đầu ra hiệu cho một thị nữ ở đằng xa, người đó cúi đầu nhận lệnh rồi rời đi. Vương phi trỏ tay ra bốn phía và nói với Hinh Duyệt và Tiểu Yêu:

– Xin mời nhìn xem!

Họ đang đứng trên phiến đá khổng lồ trên đỉnh một ngọn núi, bao quanh họ là biển mây mênh mông, gió thổi mây cuồn cuộn như sóng biển. Một đám thị nữ cưỡi chim hồng bay vào giữa biển mây, họ châm lửa, rồi nhẹ nhàng thả từng ngọn đèn vào giữa biển mây ấy. Hoa đăng bồng bềnh trôi trong biển mây, lắc lư chòng chành, hệt như đang trôi nổi trên mặt nước. Nhưng cũng rất khác biệt. Vì hoa đăng bồng bềnh trên mặt nước, nhưng ở đây là giữa không trung, có đèn bay cao, có đèn bay thấp, lấp lánh rực rỡ, muôn phần kỳ ảo.

Hinh Duyệt gật đầu tán thưởng:

– Quả là rất độc đáo!

Vương phi Ly Nhung cười hỏi Tiểu Yêu:

– Muội thấy thế nào?

– Rất đẹp.

– Lát nữa có nhiều đèn hơn, sẽ càng đẹp hơn.

Vương phi mời Hinh Duyệt:

– Xin mời Hoàng hậu thả đèn.

Thị nữ dắt chim hồng cung kính chờ sẵn. Hinh Duyệt nói:

– Vậy ta sẽ không khách khí.

Thị nữ của Hinh Duyệt trao cho nàng đèn hoa đã chuẩn bị sẵn, Hinh Duyệt cầm đèn, cưỡi chim hồng bay đi. Nàng nhắm mắt lại, cầu nguyện, rồi thả đèn vào biển mây.

Các phi tần thấy Hoàng hậu thả đèn, cũng lần lượt cưỡi chim hồng bay vào biển mây. Mấy nàng biếng nhác thì đứng bên mép phiến đá khổng lồ, thả đèn hoa xuống dưới. Có người khéo thả thì đèn trôi đi trong mây, có người vụng tay thì đèn lộn vòng lộn vòng rồi cháy bùng, khiến mọi người cười ồ. Tuy không mấy người tin vào truyền thuyết rằng cứ cầu nguyện là thành sự thực, nhưng nếu thả đèn thất bại, trong lòng cũng thấy khó chịu. Bởi vậy, dù là những người linh lực thấp kém cũng ráng cưỡi chim hồng, bay lên cao, thả đèn vào biển mây.

Kiểu dáng và màu sắc đèn hoa của mỗi người mỗi khác. Đèn bay cao thấp khác nhau, càng lúc càng nhiều, sắc màu rực rỡ, nào đỏ, nào xanh, nào tím, nào vàng… giống như những viên ngọc đa sắc màu được thả vào biển mây, nhấp nháy, lấp lánh, thật là bắt mắt.

Vương phi Ly Nhung hỏi Tiểu Yêu:

– Có đẹp không?

Tiểu Yêu lặng ngắm biển hoa đăng rực sáng xung quanh mình, đáp:

– Rất đẹp!

– Sưởng nhờ ta nhắn với muội, dù Cảnh sống hay chết, tâm nguyện của cậu ấy không khi nào thay đổi, cậu ấy mong muội được hạnh phúc. Dù hạnh phúc ấy không phải do Cảnh mang lại cho muội, nhưng cậu ấy luôn chúc phúc cho muội.

Tiểu Yêu rớm nước mắt, thì ra đây chính là lý do Vương phi Ly Nhung mời nàng dự hội hoa đăng. Cô ấy muốn truyền đạt thông điệp giúp Sưởng.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 12: Lỡ đem sinh tử đổi tương tư

Lúc tỉnh lại, Tiểu Yêu thấy mình nằm trên giường Thủy ngọc, chân và lưng nàng đều được nẹp gỗ nối xương, không thể cử động. Cách một tấm rèm, bóng Chuyên Húc thấp thoáng bên bàn làm việc, hẳn đang phê duyệt tấu chương.

Tiểu Yêu chỉ khẽ cử động, Chuyên Húc đã lập tức bỏ tấu chương, chạy vào:

– Muội tỉnh rồi à?

Tiểu Yêu hỏi:

– Tai Trái đâu?

– Cậu ta chỉ bị thương nhẹ, không đáng ngại.

– Muội hôn mê bao lâu rồi?

– Một ngày một đêm.

Thấy Chuyên Húc tiều tụy, hốc hác vì mình, Tiểu Yêu cười gượng:

– Lại khiến huynh phải lo lắng rồi.

– Ta không sao, ngủ một giấc là khỏe ngay thôi. Ta đã ra lệnh giam Vương phi Ly Nhung lại.

Tiểu Yêu hỏi:

– Huynh cho là cô ấy gây nên ư?

– Từ ngày vào cung, cô ấy chỉ thích du sơn ngoạn thủy, dường như không để tâm đến bất cứ việc gì, không hứng thú với bất cứ chuyện gì. Thái độ của cô ấy đối với ta cũng rất lạnh nhạt, vì vậy ta không nghĩ cô ấy gây ra chuyện này. Tối qua, sau khi Ngân kiểm tra và khẳng định tính mạng của muội không bị đe dọa, ta đã đích thân đi thẩm vấn cô ấy. Cô ấy thừa nhận chính cô ấy viết thiệp mời, cũng chính cô ấy tổ chức lễ hội thả hoa đăng, chim hồng cũng do cô ấy đích thân lựa chọn. Hai thị nữ của cô ấy vì sợ tội đã tự vẫn. Tất cả các chứng cứ đều buộc tội cô ấy. Cô ấy không thể biện minh, nên để mặc ta tùy ý xét xử.

– Vậy huynh nghi ngờ ai?

Chuyên Húc cau mày:

– Chính vì mọi chứng cứ đều buộc tội Vương phi Ly Nhung nên rất khó xác định đối tượng khả nghi. Cô ấy không gây xích mích với ai trong cung, cũng không có bạn bè, nên ai cũng có thể là người hãm hại cô ấy. Những kẻ dám lộng hành trên Thần Nông Sơn chắc chắn phải có chút thế lực. Nhưng, thử nghĩ xem, các cô gái được các gia tộc lớn chọn đưa vào cung, có người nào không khôn ngoan, thủ đoạn? Có điều…

Chuyên Húc sa sầm nét mặt, lạnh lùng nói:

– Ta đã thu hẹp được phạm vi. Lần trước kẻ đó thuê sát thủ giết muội, ta từng nghĩ, liệu có phải vì Xi Vưu? Ta bỏ ra nhiều công sức và thời gian để điều tra, nhưng xem ra không phải liên quan đến Xi Vưu. Mà là, trong cung điện này có kẻ muốn giết muội. Tuy chưa thể xác định chính xác là kẻ nào, nhưng ta nghĩ chỉ có khoảng bảy, tám người đủ khả năng làm việc này. Ta rất muốn xem kẻ đó có thể trốn tránh được bao lâu.

Chuyên Húc xiết mạnh nắm đấm, hắn cảm thấy bản thân thật đáng trách, hắn đề phòng cẩn trọng là thế, nào ngờ chính trên đỉnh Tử Kim lại có kẻ dám giết Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu khẽ hỏi:

– Theo huynh, vì sao người đó muốn giết muội?

Ngay khi biết tin Tiểu Yêu gặp nạn, hắn đã từng hỏi mình câu hỏi ấy. Chỉ cần điều tra ra nguyên nhân, sẽ biết được hung thủ là ai. Nhưng Chuyên Húc là người rõ hơn ai hết, xét ở góc độ nào đó, tất cả những người phụ nữ trên đỉnh Tử Kim đều có thể căm hận Tiểu Yêu. Nhưng đó là bí mật sâu kín của hắn. Hắn đã giấu quá lâu, lâu đến mức, hắn cảm thấy nó trở thành một phần sự sống của hắn. Hắn sẽ mãi mãi mang nặng nó trong tim, mãi mãi không ai biết được. Tất cả mọi người đều biết Hắc Đế luôn hết lòng bênh vực, bảo vệ người thân. Tất cả mọi người đều biết Hắc Đế tác hợp cho hôn sự của Phong Long và Tiểu Yêu. Tất cả mọi người đều biết Hắc Đế đã ban hôn cho tiểu thư Tây Lăng và Đồ Sơn Cảnh… Hắn chấp thuận và tác thành hôn lễ cho Tiểu Yêu hết lần này đến lần khác. Vì vậy, ngay cả bản thân hắn cũng cảm thấy tình cảm của hắn dành cho nàng thật hoang đường, không thể tin nổi.

Chuyên Húc cười lạnh lùng, mỉa mai nói:

– Không biết, có thể hắn phát hiện ra bí mật gì đó.

Tiểu Yêu mệt mỏi khép mắt lại. Hinh Duyệt và Phong Long muốn giết nàng! Một người là Hoàng hậu của Chuyên Húc, người kia là trọng thần số một của Chuyên Húc, và là người anh em thân thiết của Cảnh. Tiểu Yêu không biết nên làm thế nào. Mặc dù Chuyên Húc là đế vương, nhưng hắn không thể giết Hoàng hậu và Đại tướng quân! Huống hồ Hoàng hậu là người họ Thần Nông, con gái của Tiểu Chúc Dung. Đại tướng quân là tộc trưởng tộc Xích Thủy, một trong bốn gia tộc hàng đầu Đại hoang.

Hơn một tháng sau, với sự trợ giúp của Miêu Phủ, Tiểu Yêu đã có thể chống nạng, đi lại tập tễnh.

Tiểu Yêu viết một đơn thuốc đưa cho Miêu Phủ, căn dặn nàng sai người tìm kiếm những loại thảo dược nàng kê trong đơn. Ngoài ra, nàng còn sai Miêu Phủ chuẩn bị cho mình một tấm bia. Nàng dự định khi nào sức khỏe khá hơn, nàng sẽ tiếp tục công việc điều chế thuốc độc và tập bắn cung.

Đi lại một lúc thấy mệt, Tiểu Yêu liền nằm nghỉ trên giường trúc dưới bóng cây. Nàng vừa hóng mát, vừa dạy Tai Trái học chữ. Tai Trái là người thông minh, nên mỗi chữ, nàng chỉ dạy một lần là hắn nhớ. Có điều, Tai Trái thường không lí giải được ý nghĩa của các chữ khi ghép lại với nhau. Ví như, hắn không hiểu cụm từ “tức giận mà không dám nói”, hắn lí giải cụm từ đó thành “tức giận thì giết bỏ”. Giải thích một hồi, mệt cả người, Tiểu Yêu bỗng nghĩ, phải chăng thuở xưa, Tương Liễu cũng khiến Cộng Công đau đầu như vậy. Nghĩ thế lại thấy buồn cười.

Họ đang miệt mài dạy và học thì người hầu vào báo Hoàng hậu, tộc trưởng tộc Xích Thủy và tộc trưởng tộc Ly Nhung đến thăm Tiểu Yêu.

Ngẫm ngợi một lát, Tiểu Yêu bảo:

– Mời họ vào.

Tai Trái nhìn nàng, tỏ ý không hiểu vì sao Tiểu Yêu đồng ý gặp kẻ thù.

Tiểu Yêu vỗ vai Tai Trái, mỉm cười, bảo:

– Khi nãy cậu hỏi tôi “vờ như không biết” nghĩa là gì? Cậu sẽ được xem chúng tôi đóng kịch “vờ như không biết” ngay bây giờ đây. Cậu chịu khó quan sát và học hỏi, sẽ có thưởng!

Hinh Duyệt, Phong Long và Sưởng bước vào. Tiểu Yêu ngồi yên trên giường trúc, mỉm cười, nói:

– Muội không cử động được nên không thể vái chào Hoàng hậu, xin Hoàng hậu xá tội.

Hinh Duyệt niềm nở:

– Chúng tôi đến thăm người ốm, không phải đến để bắt muội hành lễ. Muội cứ nằm yên đó.

Miêu Phủ bày ghế mời ba người ngồi.

Phong Long cúi đầu uống trà, không hé môi trò chuyện câu nào.

Hinh Duyệt và Sưởng cười nói vui vẻ, ôn tồn hỏi thăm tình trạng sức khỏe của Tiểu Yêu ra sao, gần đây nàng thường ăn món gì, và căn dặn nàng phải chịu khó dưỡng bệnh cho thật tốt. Tiểu Yêu tươi cười đáp lại, chốc chốc lại liếc nhìn Tai Trái đứng bên cạnh. Tai Trái đứng trơ như gỗ đá, không chút biểu cảm. Tiểu Yêu thầm nghĩ: Có lẽ Tai Trái cũng đang diễn kịch “vờ như không biết”!

Hinh Duyệt cười, bảo:

– Hôm nay, ngoài việc ghé thăm muội, chúng tôi còn có chuyện muốn nhờ cậy.

– Xin đừng nói từ nhờ cậy, nghe thật nặng nề, Hoàng hậu cần gì xin cứ chỉ bảo.

Vẻ cười trên gương mặt Sưởng vụt tắt, hắn nói:

– Chính ta nhờ Hoàng hậu đưa ta đến gặp cô. Ta nghĩ hẳn là cô đã đoán ra nguyên nhân. Từ khi cô gặp nạn, chị gái ta bị giam lỏng, gia đình không nhận được bất cứ tin tức nào của chị, nên vô cùng lo lắng, đêm ngày không yên. Ta biết không có bằng chứng thì không thể thuyết phục được rằng, chị gái ta không gây ra chuyện đó. Nhưng quả thực, chị ấy không phải người như vậy. Chị gái ta sợ liên lụy đến toàn bộ gia tộc, nên chắc chắn sẽ nhận tội một mình, chắc chắn sẽ bẩm báo sự thật với Bệ hạ. Sự thật là, chính ta đã nhờ chị ấy tổ chức hội hoa đăng, mời cô đến tham dự. Ta cũng nhờ chị ấy chuyển lời tới cô, còn không quên dặn dò chị ấy, nếu có dịp hãy đưa cô đi chơi đây đó. Ta không rõ trước lúc xảy ra chuyện, chị ấy có kịp nói với cô những điều này không. Tiểu Yêu, xin hãy niệm tình bằng hữu, nói đỡ với Bệ hạ, chí ít cũng để người nhà Ly Nhung được vào gặp chị ấy.

Sưởng đứng lên, vái Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu vội nói:

– Huynh đừng làm vậy, ngồi xuống đi.

Nhưng Sưởng không chịu. Hinh Duyệt xen vào:

– Tuy ta không thân thiết với Vương phi Ly Nhung, nhưng Sưởng vốn là chỗ thân quen với anh trai ta. Ta tin những gì Sưởng nói. Ta cũng đã cầu xin Bệ hạ nương tay với vương phi, nhưng lúc ấy Bệ hạ đang tức giận, ngài không buồn nghe ta nói. Tiểu Yêu, có lẽ chỉ có muội mới thuyết phục được Bệ hạ.

Sưởng quay ra vái Hinh Duyệt một vái:

– Tạ ơn Hoàng hậu!

Thường ngày, ông chủ sòng bạc ngầm này cũng là tay phong lưu, ngông nghênh vô lối, ấy vậy mà hôm nay trông hắn hốc hác, tiều tụy làm sao. Tiểu Yêu nhìn bộ điệu thân tình thắm thiết của Hinh Duyệt, lại nhìn vẻ thờ ơ, câm lặng của Phong Long, nàng thấy không thể “diễn” tiếp được nữa. Nàng nói với Sưởng:

– Trước khi tôi gặp nạn, Vương phi đã chuyển lời của huynh đến với tôi. Huynh đừng lo lắng, tôi tin việc này không phải do Vương phi gây ra.

Sưởng mừng rỡ:

– Thật không?

– Đúng vậy. Bệ hạ không dễ bị người ta qua mặt đâu. Chỉ cần bỏ thêm chút thời gian là có thể điều tra rõ ràng mọi chuyện.

Sưởng cảm thấy yên tâm hơn:

– Cảm ơn cô!

– Tôi phải cảm ơn huynh và Vương phi mới đúng. Hai người xem Cảnh là bạn thân, nên mới quan tâm lo lắng cho tôi như vậy.

Nhắc đến Cảnh, Sưởng không khỏi bùi ngùi:

– Gia tộc Ly Nhung vì có quan hệ đặc biệt với Xi Vưu, nên từng một thời bị sa sút, suy yếu. Cảnh đã giúp đỡ ta rất nhiều. Có thể nói, Cảnh là đại ân nhân của gia tộc ta, những gì ta có thể làm, chỉ là một phần báo đáp nhỏ nhoi mà thôi.

Phong Long đột nhiên bật dậy, sẵng giọng:

– Nói xong rồi thì về thôi!

Sưởng nghĩ rằng Phong Long vẫn còn giận Tiểu Yêu chuyện nàng hủy hôn, vội vã cáo từ:

– Không làm phiền cô nghỉ ngơi, ta xin phép. Hẹn khi nào cô khỏi bệnh sẽ gặp lại.

Tiểu Yêu tươi cười giả lả, nói với Hinh Duyệt:

– Muội muốn trò chuyện thêm với Hoàng hậu một lát, hai huynh về trước đi.

Hinh Duyệt cười, bảo:

– Được chứ, đằng nào họ cũng không cùng đường với ta. Họ về thành Chỉ Ấp, còn ta về đỉnh Tử Kim.

Phong Long và Sưởng đi rồi, Tiểu Yêu nói với Miêu Phủ:

– Tai Trái ở đây là được rồi, em đi chuẩn bị chút nước hoa quả cho ta.

Miêu Phủ hiểu rằng Tiểu Yêu không muốn nàng nghe được cuộc đối thoại này, cũng là vì không muốn nàng khó xử, liền lẳng lặng ra ngoài.

Tiểu Yêu nhìn xoáy vào Hinh Duyệt.

Hinh Duyệt vẫn tươi cười vui vẻ, nhưng nụ cười của cô ta dần trở nên gượng gạo dưới cái nhìn của Tiểu Yêu.

– Sao muội nhìn ta như vậy?

Tiểu Yêu hỏi:

– Vì sao chị muốn giết tôi?

Hinh Duyệt bật cười, vờ điềm nhiên, nói:

– Muội nói gì vậy? Ta không hiểu?

Tiểu Yêu chậm rãi lặp lại câu hỏi:

– Tôi hỏi chị, vì sao muốn giết tôi?

Hinh Duyệt hốt hoảng đứng lên, bỏ chạy.

Tiểu Yêu quát:

– Đứng lại! Thần Nông Hinh Duyệt, đồ thỏ đế! Nhát gan như thế sao còn dám gây sự hết lần này đến lần khác?

Hinh Duyệt dừng bước, chầm chậm quay người lại, vẻ mặt hết sức bình thản. Cô ta nhìn Tiểu Yêu bằng ánh mắt căm hận, lạnh lùng nói:

– Nếu cô đã biết sự thật, thì sao không bẩm báo với Bệ hạ?

Tiểu Yêu hỏi:

– Tôi muốn biết, vì sao chị phải giết tôi?

Hinh Duyệt lắc đầu cười lớn. Thì ra Tiểu Yêu không hề hay biết. Sao cô ta có thể không biết kia chứ!

Đột nhiên, Hinh Duyệt thấy Chuyên Húc thật đáng thương! Đường đường là bậc đế vương, có thiên hạ trong tay, vậy mà không dám biểu lộ tình cảm với một người con gái!

Tiểu Yêu hỏi:

– Chị cười gì thế?

– Ta đang cười nhạo chính ta, và cả Chuyên Húc nữa! Cô hỏi ta vì sao muốn giết cô, thực ra ta cho cô biết nguyên nhân rồi.

Tiểu Yêu suy ngẫm một lát, nhưng nàng không nhớ ra:

– Chị nói với tôi khi nào?

– Trước ngày thành hôn của cô với Cảnh, ta đến Tiểu Nguyệt Đỉnh và đã cảnh cáo cô: Nếu có kẻ muốn cướp đoạt mọi thứ của ta, ta nhất định không ta cho kẻ đó!

Tiểu Yêu băn khoăn:

– Tôi cướp thứ gì của chị?

– Cướp gì ư? Trên đỉnh Tử Kim, người phụ nữ nào ngày ngày được gặp mặt Bệ hạ?

– Nhiều phi tần như thế, làm gì có ai ngày nào cũng được gặp Chuyên Húc.

Hinh Duyệt cười mỉa mai:

– Thì ra, cô cũng biết không có ai ngày ngày được gặp Bệ hạ! Nhưng, chỉ cần Bệ hạ ở Thần Nông Sơn, thì nhất định có một người phụ nữ ngày nào cũng được gặp ngài. Tiểu Yêu, cô ta là ai?

Tiểu Yêu sững sờ, có người phụ nữ trên đỉnh Tử Kim ngày nào cũng được gặp Chuyên Húc ư? Không lẽ Chuyên Húc đã tìm được người huynh ấy yêu thương?

Hinh Duyệt bước vài bước về phía Tiểu Yêu:

– Trên đỉnh Tử Kim, ai là người dám chống lại ý muốn của Bệ hạ? Không người nào trong số chúng ta dám nặng lời với ngài, vậy mà có kẻ dám ném cốc vào mặt Bệ hạ, khiến Bệ hạ ôm vết thương đi gặp triều thần. Tiểu Yêu, cô ta là ai?

Tiểu Yêu bàng hoàng kinh ngạc, há hốc miệng, không nói được câu gì.

Hinh Duyệt tiếp tục bước về phía Tiểu Yêu vài bước, cười lạnh lùng:

– Trên đỉnh Tử Kim, phi tần nào dám ngỗ ngược gọi tên Bệ hạ, ai dám sóng bước bên cạnh ngài? Ai dám để ngài vén gấu váy, xách giày cho mình?

Tiểu Yêu hoang mang, rối loạn:

– Là tôi thì đã sao? Có phải chị mới quen biết tôi và Chuyên Húc đâu? Lúc chị quen chúng tôi, tôi và huynh ấy đã cư xử với nhau như thế kia mà!

Hinh Duyệt nhìn xoáy vào Tiểu Yêu, ánh mắt phẫn nộ:

– Cô còn dám nói cô không cướp đoạt thứ gì của ta? Mọi thứ chúng ta không có được, cô đều có! Bây giờ mới chỉ là những thứ nhỏ bé đó, nếu một ngày kia, cô muốn làm Hoàng hậu thì sao?

Tiểu Yêu nổi giận:

– Chị điên rồi! Tôi… tôi… sao tôi lại muốn làm Hoàng hậu?

Hinh Duyệt bật cười ha hả:

– Ta điên ư? Ta thấy mình là người tỉnh táo nhất thì có! Bệ hạ coi cô như mạng sống của mình, cô cũng sẵn lòng hy sinh vì Bệ hạ! Nay Cảnh đã chết, sớm muộn cũng có ngày, cô sẽ nhận ra, Bệ hạ và cô…

– Im ngay! Im ngay!

– Im ngay!

Hai tiếng “im ngay” đầu tiên là của Tiểu Yêu, tiếng thứ ba là của Chuyên Húc. Hắn lạnh lùng nhìn Hinh Duyệt, chậm rãi bước vào.

Hinh Duyệt lạnh gáy, đã thành thói quen tự nhiên, cô ta lập tức cúi người vái chào Chuyên Húc:

– Bệ hạ!

Chuyên Húc nói:

– Ta nghĩ tám, chín là do cô gây ra, nhưng không có bằng chứng. Không ngờ, cô đã tự thú nhận.

Hinh Duyệt không hề quỳ xuống xin tha mạng, trái lại, cô ta chầm chậm ngẩng cao đầu nhìn Chuyên Húc, dáng vẻ bất chấp tất cả.

Chuyên Húc ra lệnh cho Tiêu Tiêu:

– Đưa Hoàng hậu về Tử Kim Cung, trong cung gần đây khá bất ổn, hãy cử thêm thị vệ bảo vệ Hoàng hậu.

– Vâng!

Tiêu Tiêu và hai ám vệ khác đưa Hoàng hậu, chính xác là áp tải Hoàng hậu lên xe mây, rời khỏi Tiểu Nguyệt Đỉnh.

Chuyên Húc quay sang Tai Trái:

– Ngươi hãy lui ra.

Tiểu Yêu phản đối:

– Không!

Nàng sợ hãi ở lại một mình với Chuyên Húc.

Chuyên Húc cũng không ép nàng. Hắn ngồi xuống bên giường, lặng nhìn Tiểu Yêu. Tiểu Yêu vờ nhìn sang trái, lại vờ nhìn sang phải, như thể có rất nhiều thứ thu hút sự chú ý của nàng, nàng kiên quyết không chịu nhìn Chuyên Húc. Hắn, trái lại, nhìn đang đăm đắm, như thể cả thế giới này chỉ còn lại mình nàng.

Chuyên Húc không nói câu nào, hắn có thể ngồi đó và nhìn nàng cho đến ngày trời tàn đất tận. Tiểu Yêu liếm bờ môi đã khô cứng, cười gượng:

– Hinh Duyệt hiểu nhầm rồi! Muội… muội… huynh… không thể nào! Chắc chắn là chị ấy đã hiểu nhầm!

– Nếu muội cho rằng cô ấy nói năng xằng bậy thì việc gì phải bực dọc?

Giọng nói của Chuyên Húc rất đỗi bình tĩnh, không gợn một chút bối rối.

Tiểu Yêu như vừa trút được gánh nặng ngàn cân, nàng mỉm cười nhìn Chuyên Húc. Chuyên Húc dán mắt vào nàng, trong đôi mắt hắn, ngoài hình bóng phản chiếu nhỏ bé của Tiểu Yêu, còn lại toàn là bóng đêm tăm tối, buồn bã, bi thương. Tiểu Yêu cảm thấy sợ hãi, nàng muốn chạy trốn, muốn tránh né, nhưng nàng không sao vùng thoát khỏi nỗi bi thương bất tận bao phủ khắp bóng đêm ấy. Nàng gắng gượng nở nụ cười, gắng gượng khiến mọi thứ trở lại như trước kia.

Tiểu Yêu hoang mang nói:

– Hinh Duyệt bảo muội là người phụ nữ duy nhất trên Thần Nông Sơn ngày nào cũng được gặp huynh, chị ấy sai rồi. Ngày nào huynh cũng ghé Tiểu Nguyệt Đỉnh là để viếng thăm ông ngoại. Chị ấy bảo khoảng thời gian huynh ở bên muội là nhiều nhất, cũng sai nốt, Tiêu Tiêu mới là người ở bên huynh nhiều nhất. Chị ấy bảo, chỉ có muội được phép gọi tên của huynh, cũng sai, vì còn A Niệm nữa. A Niệm cũng hay gọi huynh là Chuyên Húc đấy thôi. Còn nữa, chị ấy bảo muội dám đánh huynh, nhưng chuyện đó không thể trách muội! Huynh đột ngột tấn công Cao Tân, muội dù sao cũng từng là Vương cơ Cao Tân, muội không thể chống mắt ngồi nhìn, đúng không? Còn về chuyện vén gấu váy hay xách giày gì gì đó, thì thực ra hồi nhỏ huynh còn làm nhiều việc cho muội hơn thế nữa. Chỉ có điều giờ đây huynh đã là Bệ hạ, huynh là tâm điểm của mọi người mà thôi! Lần sau muội sẽ chú ý, không để huynh…

Giọng nói của Tiểu Yêu đang run lên, người nàng cũng đang run lên, nụ cười trên môi trở nên thật đáng thương, thật tội nghiệp. Nàng như đang cầu xin Chuyên Húc, cầu xin hắn đồng ý với những lời nàng nói, cầu xin hắn xác nhận với nàng, rằng Hinh Duyệt đã hiểu nhầm.

Nhưng Chuyên Húc không đáp lại lời cầu xin của nàng, hắn cụp mắt, không nhìn Tiểu Yêu nữa.

Tiểu Yêu cuống cuồng vơ lấy cây nạng làm bằng gỗ nhược mộc đặt ở đầu giường, nàng muốn chạy trốn.

Tiếng Chuyên Húc vang lên trầm buồn:

– Biết tin Hinh Duyệt, Phong Long và Sưởng đến Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm muội, ta đã lập tức đến đây. Ta vừa tới thì nghe thấy muội chất vấn Hinh Duyệt, vì sao muốn giết muội. Ta biết rõ câu trả lời là gì, rõ ràng ta có thể ngăn cản câu trả lời, nhưng ta đã không làm gì cả, ta để mặc cô ấy đưa ra đáp án.

Chuyên Húc thở dài đau khổ:

– Biết Hinh Duyệt là kẻ hãm hại muội, ta vô cùng tức giận. Nhưng khi nghe Hinh Duyệt chất vấn muội, ta lại thấy biết ơn cô ấy. Ta đã cất giấu bí mật quá lâu. Ta đã làm nhiều việc quá vô tình. Vì thế muội sẽ không tin, người trong thiên hạ đều không tin, và ngay cả bản thân ta cũng cảm thấy thật hoang đường. Nhưng đã có một người nhận ra! Thì ra, trong mắt người khác, ta vẫn rất tốt với muội. Hắc Đế không hoàn toàn là kẻ vô tình, vô cảm!

– Tiểu Yêu, ta cứ nghĩ ta có thể đợi, đợi cho đến khi muội quay đầu lại. Nhưng càng đợi ta càng tuyệt vọng, ta sợ hãi khi nghĩ rằng muội sẽ vĩnh viễn không bao giờ quay đầu lại. Hoặc giả muội sẽ quay đầu lại, nhưng người muội nhìn thấy không phải là ta! Muội nhìn thấy Cảnh tốt với muội, thấy Phong Long muốn cưới muội, thấy Phòng Phong Bội phong trần, thú vị. Nhưng, muội lại chỉ thấy ta giúp muội hẹn hò với người đàn ông khác, ta đồng ý để muội lấy người khác. Không những vui vẻ đồng ý, ta còn đích thân chuẩn bị của hồi môn cho muội. Và không những đồng ý một lần, ta đã hai lần chấp thuận hôn sự của muội…

Tiểu Yêu không đứng vững được nữa, nàng đổ người xuống giường, nạng gỗ trên tay rớt xuống đất, gây ra tiếng động chói buốt.

Chuyên Húc ngồi xuống, nhặt nạng gỗ, đặt bên giường, mà không đưa cho Tiểu Yêu:

– Mỗi lần thành thân, ta đều không cho muội chúc mừng ta, càng không cho phép muội tặng quà mừng cho ta. Ta là Hiên Viên Chuyên Húc, kể từ ngày mẹ ta tự vẫn qua đời, ta buộc phải lựa chọn con đường này, vì vậy, ta không thể cự tuyệt các cuộc hôn nhân chính trị, ta không có quyền nói với người khác rằng ta không bằng lòng, ta không hề vui vẻ! Điều an ủi duy nhất với ta, là muội không nói lời chúc mừng. Ta ngây ngốc cho rằng, chỉ cần muội không chúc mừng, tức là mọi cuộc hôn nhân của ta đều không nhận được sự đồng ý của muội, và vì thế nó đều không có ý nghĩa!

Chuyên Húc bật cười, nhưng ánh mắt hắn chất chứa nỗi niềm chua chát, bi thương:

– Rất nực cười, đúng không? Cả thiên hạ đều chứng kiến các cuộc hôn nhân của ta, trong khi bản thân ta, cho đến tận bây giờ, vẫn cho rằng những cuộc hôn nhân đó không hề tồn tại! Bởi vì nó không nhận được sự đồng ý của muội!

Tiểu Yêu rớm nước mắt, biểu cảm của Chuyên Húc trước mỗi cuộn hôn nhân lần lượt tái hiện trước mắt nàng.

Chuyên Húc tiếp tục:

– Hồi còn ở thành Hiên Viên, muội từng cười ta, bảo rằng ta không giống cha mẹ mình. Vì họ cả đời chỉ yêu một người, còn ta thì cưới hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác. Khi ấy, ta cũng nghĩ mình không giống họ, nhưng không phải bởi ta có nhiều phụ nữ, mà bởi, ta biết rõ ta chỉ cần muội, nhưng ta đã từ bỏ! Thậm chí ta đã mỉm cười nhìn muội và Cảnh, và nghĩ rằng, chỉ cần chúng ta được sống mạnh khỏe, vui vẻ, chỉ cần muội không phải khóc lóc đau khổ như bà nội, như mẹ muội, như mẹ ta, thì những thứ khác không còn quan trọng nữa! Bất kể ta đã có người phụ nữ khác, hay muội đã có người đàn ông khác, cũng không còn quan trọng nữa! Nhưng sau đó, ta nhận ra rằng, ta vẫn là con trai của cha mẹ ta, ta rất giống họ, ta không chỉ muốn hai ta được sống vui vẻ, khỏe mạnh, ta còn muốn được chung sống với muội! Ta mong mỗi sớm mai được cùng muội đón bình minh, mỗi chiều muộn, được cùng muội dùng bữa. Ta muốn được bắc ghế dây đu cho muội. Ta muốn trồng hoa phượng cho muội, muốn cùng muội ngắm hoa phượng nở, cùng muội thưởng thức mật hoa, Ta muốn nghe muội trò chuyện, muốn nghe muội cười, nghe muội hát…

– Đừng nói nữa!

Tiểu Yêu đau khổ nhắm mắt lại, nước mắt tuôn rơi.

Chuyên Húc ngồi xuống trước mặt nàng, hai tay đặt lên mép giường, hắn ngước lên nhìn nàng:

– Muội từng thành tâm chúc ta tìm được người con gái mà ta đem lòng yêu thương tha thiết, thì nay ta đã tìm được người đó. Tiểu Yêu, ta biết muội chưa quên được Cảnh, nhưng ta có thể đợi. Ta sẽ đợi cho đến khi muội bình tâm trở lại, đợi muội đồng ý lấy ta. Ta không cầu xin muội hãy quên Cảnh, ta chỉ mong muội dành cho ta một chút tình cảm. Một chút thôi cũng được, đủ để hai ta cùng nhau trải qua những năm tháng còn lại trong cuộc đời.

Bộ dạng khẩn cầu của Chuyên Húc thật thê thảm, giọng nói của hắn lại càng thê thiết hơn. Trong cuộc đời mình, dẫu là lúc bần hàn, bần cùng nhất hắn cũng nỗ lực hết mình để giành lấy những gì hắn muốn, chưa khi nào hắn phải hạ mình cầu xin thế này. Nước mắt trào ra như mưa, Tiểu Yêu không biết nàng đang khóc thương cho mình hay cho Chuyên Húc, họ đều là những kẻ bất hạnh trong tình yêu.

– Tiểu Yêu, đừng khóc!

Chuyên Húc muốn an ủi Tiểu Yêu, nhưng hắn không biết nên lấy tư cách gì để an ủi nàng, đành vừa phỏng đoán tâm tư nàng, vừa ra sức vỗ về:

– Tiểu Yêu đừng khóc, đừng khóc… Thực ra mọi thứ không có gì thay đổi cả. Chỉ là muội biết được ta muốn cưới muội mà thôi. Ta không ép muội phải nhận lời, ta nói rồi, ta sẽ chờ, dù phải chờ đến chết cũng không sao…

Tiểu Yêu nằm vật ra giường, òa khóc thảm thiết.

Chuyên Húc thinh lặng. Thực ra, hắn biết rằng mọi thứ đã thay đổi, bởi vì hắn muốn nhiều hơn thế. Chuyên Húc khổ sở nói:

– Tiểu Yêu, đừng căm hận ta. Ta thích muội, đó không phải là tội lỗi.

Tiểu Yêu cúi mặt xuống giường, không chịu nhìn Chuyên Húc, tiếng khóc của nàng nhỏ dần, nàng nói:

– Muội không căm hận huynh. Muội chỉ không biết phải làm sao… Huynh về đi, muội muốn được ở một mình.

Chuyên Húc chìa tay, hắn muốn xoa đầu nàng như trước kia, nhưng khi ngón tay hắn sắp chạm tóc nàng, hắn đã rụt tay về. Hắn lặng lẽ đứng lên, lê bước chân nặng nề, rời khỏi Tiểu Nguyệt Đỉnh.

Tiểu Yêu lắng nghe tiếng bước chân nặng nề chưa từng thấy của Chuyên Húc, nàng biết rằng không chỉ mình nàng tổn thương và đau khổ, Chuyên Húc còn tổn thương và đau khổ hơn nàng. Thế là nước mắt nàng lại được dịp tuôn rơi. Nàng và Chuyên Húc vẫn luôn nương tựa vào nhau. Ai ngờ, một ngày kia, họ lại làm tổn thương nhau.

Tiểu Yêu không định tránh né Chuyên Húc, vì đúng như hắn nói, việc hắn yêu nàng, không phải là tội lỗi. Nhưng nàng chưa biết phải đối diện với hắn ra sao. Vì vậy, nàng cố gắng tránh để hai người không ngồi riêng với nhau. Mỗi khi Chuyên Húc đến, Tiểu Yêu đều ở lỳ bên Hoàng Đế.

Có lẽ hiểu được tâm trạng của nàng, Chuyên Húc không ép nàng, cũng không nhắc lại chuyện hôm đó. Nhưng hắn cũng quyết không từ bỏ. Hắn vẫn như trước đây, ngày ngày đến Tiểu Nguyệt Đỉnh, ở lại một lúc, trò chuyện, uống trà với Hoàng Đế.

Dần dần, Tiểu Yêu không còn cảm thấy căng thẳng, mất tự nhiên như trước nữa. Chỉ cần hai người không nhắc đến chủ đề ấy, thì mọi thứ vẫn hệt như trước.

Một tối nọ, sau khi chuyện phiếm với Hoàng Đế, Chuyên Húc chuẩn bị ra về. Ra đến cửa, ngó thấy trăng sáng, hắn quay lại bảo Tiểu Yêu:

– Đã lâu không ra thăm rừng phượng, muội đi cùng ta nhé.

– Muội muốn đi ngủ.

Mới đầu tối, nên lý do mà Tiểu Yêu đưa ra thật khiên cưỡng.

Chuyên Húc không nói gì, hắn lặng nhìn Tiểu Yêu một lát, rồi lẳng lặng rời khỏi căn nhà, cất bước về phía rừng phượng, bóng dáng hắn mới gầy guộc, cô độc làm sao.

Tiểu Yêu nhìn theo bóng Chuyên Húc chìm vào bóng tối, nàng có cảm giác như chính mình đang chìm vào bóng tối, bỗng thấy hoang mang lo sợ, cô đơn rợp ngợp.

Tiểu Yêu ngẩn ngơ đứng đó.

Mãi lâu sau, nàng đột nhiên lao ra khỏi nhà, nhấc cao gấu váy, chạy về phía rừng phượng.

Mây che trăng sáng, dưới ánh sáng của những vì tinh tú nhấp nháy, rừng phượng rung rinh nhè nhẹ trong làn gió, hoa phượng lả tả rơi, phủ một lớp dày lên chiếc ghế dây đu.

Tiểu Yêu đứng dưới gốc phượng, vừa gập người thở dốc, vừa đảo mắt ra xung quanh:

– Chuyên Húc! Chuyên Húc…

Không có tiếng đáp lại, cũng không thấy bóng người. Chuyên Húc đã đi xa.

Tiểu Yêu chầm chậm thả người xuống bãi cỏ, hai tay ôm gối, nàng gục đầu xuống gối, thấy lòng mình buồn se sắt, nhưng cũng thấy nhẹ nhõm. Thứ mà Chuyên Húc muốn, nàng không thể trao cho hắn.

Một cơn gió mạnh ào ạt thổi tới, mây mù tan biến, vầng trăng sáng rõ, ánh trăng như dát bạc khắp mặt đất. Tiểu Yêu cảm thấy không gian quanh nàng như bừng sáng. Nàng ngẩng lên nhìn…

Dưới ánh trăng chiếu vàng, hàng ngàn vạn đóa tường vi màu trắng từ từ bung nở, mỗi bông hoa tựa như một viên ngọc quý, trong suốt, lấp lánh. Chuyên Húc đứng giữa biển hoa tường vi tinh khôi, mỉm cười nhìn Tiểu Yêu. Chuyên Húc vận linh lực, biển tường vi màu trắng cuộn sóng, trỗi về phía Tiểu Yêu. Dưới chân nàng, phủ đầy hoa.

Tiểu Yêu ngẩn ngơ ngắm nhìn, rồi nàng chìa tay đón lấy một bông hoa, ném về phía Chuyên Húc, giọng giận dỗi:

– Huynh chưa đi sao không lên tiếng?

Chuyên Húc bắt lấy bông hoa, bước đến trước mặt Tiểu Yêu, cười, đáp:

– Linh lực thì thấp kém nhưng cứ hễ nổi nóng là động chân động tay. Muội phải sửa cái tật này đi!

– Muội hỏi huynh vì sao không lên tiếng?

Chuyên Húc nhún vai, ngồi xuống cạnh Tiểu Yêu:

– Muốn dọa cho muội sợ! Tiếc là mặt trăng ló ra sớm quá. Thấy đẹp không?

Thái độ ấy của Chuyên Húc khiến Tiểu Yêu thấy lòng nhẹ nhõm hơn. Nàng đấm vào cánh tay hắn, diễn vẻ tức giận:

– Huynh gọi muội ra đây có việc gì? Chỉ để xem huynh diễn trò à?

– Ta muốn biết, ngoài Hinh Duyệt, còn kẻ nào tham gia truy sát muội.

– Huynh muốn biết thì vì sao không đi thẩm vấn Hinh Duyệt?

– Cô ta bảo không có đồng bọn, tất cả đều do một mình cô ta sắp đặt.

Thực ra, Hinh Duyệt đã trả lời câu hỏi tra khảo của Chuyên Húc bằng thái độ mai mỉa, rằng cô ta cũng mong có ai đó khác phát hiện ra bí mật của Bệ hạ, nhưng tiếc thay không ai cả! Và rằng, Bệ hạ có cảm thấy bản thân mình thật đáng thương không?

Tiểu Yêu nghĩ, Hinh Duyệt không chịu khai ra Phong Long, tức là có ý định một mình gánh mọi tội lỗi.

Chuyên Húc hỏi:

– Tiểu Yêu, Phong Long có can dự vào việc này không?

– Không đâu! Chí ít thì muội nghĩ là không. Tuy họ là anh em ruột, nhưng tính cách của hai người khác hẳn nhau. Hơn nữa, một người thuộc họ Xích Thủy, một người thuộc họ Thần Nông. Phong Long không hồ đồ như vậy đâu.

Chuyên Húc thở phào:

– Vậy thì tốt! Nếu chỉ do một mình Hinh Duyệt gây nên, thì không khó giải quyết.

Tiểu Yêu thầm thở dài, Hoàng hậu họ Thần Nông cộng với Đại tướng quân họ Xích Thủy, dù là Chuyên Húc đi nữa cũng khó bề xử lý cho ổn thỏa.

Chuyên Húc nói:

– Hầu như không ai hay biết về vụ ám sát muội lần đầu của Hinh Duyệt. Việc đó không hay ho gì, nên ta cũng không muốn vạch áo cho người xem lưng. Nhưng có quá nhiều người chứng kiến vụ ám sát thứ hai, ta buộc phải xét xử sao cho thỏa đáng. Có điều, Hinh Duyệt là Hoàng hậu, lại là con gái của Tiểu Chúc Dung, nên ta không muốn xét xử công khai, nếu không sẽ gây mâu thuẫn giữa các dòng họ ở Trung nguyên.

Tiểu Yêu cảm thấy câu nói này của Chuyên Húc có vẻ mâu thuẫn, nàng băn khoăn nhìn hắn.

Chuyên Húc giải thích:

– Ta và Ly Nhung Sưởng đã bàn tính kỹ lưỡng, Vương phi Ly Nhung sẽ đứng ra nhận tội mưu sát muội.

– Sao?

Chuyên Húc cười, bảo:

– Đừng nóng vội, để ta giải thích cặn kẽ cho muội hiểu. Vương phi Ly Nhung vốn không ham hố cuộc sống trên đỉnh Tử Kim. Nếu chấp nhận gánh tội danh này, cô ấy sẽ được dọn ra khỏi Tử Kim Đỉnh. Ngoài hai mươi tám ngọn núi chính, Thần Nông Sơn còn hơn chín mươi ngọn núi nhỏ khác. Cô ấy có thể tùy ý chọn một trong số những ngọn núi mà cô ấy thích. Bề ngoài thì có vẻ như cô ấy bị giam cầm trong lãnh cung, nhưng thực tế, cô ấy sẽ thoát khỏi những cuộc đấu đá phân tranh quyết liệt trên đỉnh Tử Kim. Cô ấy cũng không cần phải ép mình vào những quy tắc lễ nghi rườm rà phức tạp chốn cung đình. Cô ấy sẽ được thỏa sức sống cuộc đời tự do mà cô ấy mưu cầu.

– Vương phi có đồng ý không? Gia tộc của cô ấy thì sao?

– Cô ấy là người phụ nữ thông minh, cô ấy biết mình sẽ không thiệt thòi nếu chấp nhận gánh đỡ tội danh ấy. Cô ấy sẽ vừa được sống theo ý mình, lại vừa giúp ích cho gia tộc. Bởi vì, ta sẽ đền bù cho cô ấy bằng cách ưu ái hỗ trợ họ Ly Nhung. Ta nghĩ, có lẽ lúc này cô ấy đang vô cùng cảm kích kẻ đã đổ vấy tội lỗi cho cô ấy!

Tiểu Yêu phì cười:

– Không ngờ cũng có người chẳng tha thiết gì với việc được làm vợ của huynh. Thà bị đuổi vào lãnh cung còn hơn sống đời trên đỉnh Tử Kim.

Chuyên Húc cười hì hì:

– Ai cần họ tha thiết với ta đâu! Ta cầu mong chẳng được ấy chứ. Ta chỉ cần…

Tiểu Yêu ngắt lời hắn:

– Vương phi Ly Nhung đứng ra nhận tội, vậy huynh định xử lý Hinh Duyệt thế nào? Tuy cô ấy hãm hại muội hai lần, nhưng muội không hề hấn gì. Huynh chỉ cần trừng phạt cô ấy qua loa thôi, đừng làm lớn chuyện.

– Đây là việc hệ trọng, muội lại khờ khạo như thế, khỏi lo bò trắng răng đi! Tóm lại ta sẽ xử lý ổn thỏa mọi việc, rồi sóng sẽ yên biển sẽ lặng, mọi thứ vẫn diễn ra đúng trật tự, như thể chưa từng xảy ra chuyện gì. Bởi vì, ta cũng không muốn gây mâu thuẫn, không muốn khiến cho ngày càng nhiều người căm ghét muội.

Tiểu Yêu hiểu dụng ý của Chuyên Húc, hắn làm vậy, họ Thần Nông không biết đã xảy ra chuyện gì sẽ không trút giận lên nàng. Họ Ly Nhung được hưởng lợi, cũng sẽ không căm hận nàng.

Chuyên Húc tiếp tục:

– Ta nói những chuyện này, mục đích là để muội biết rằng, mọi chuyện đã qua rồi, Tiểu Yêu, từ nay về sau sẽ không kẻ nào dám hãm hại muội nữa.

Tiểu Yêu ngắt một đóa tường vi, đưa lên mũi ngửi, rồi mỉm cười, nói:

– Chuyên Húc, huynh đừng xem thường muội, muội không yếu đuối như đóa hoa này đâu. Chúng ta từng thảo luận về “khổ nạn”. Khi khổ nạn không đánh bại được ta, thì mọi khổ nạn đều là tài sản quý giá của cuộc đời ta. Chí ít thì, vụ việc của Hinh Duyệt khiến muội quyết định sẽ luyện tập bắn cung và điều chế thuốc độc trở lại.

Dưới ánh trăng, nụ cười của Tiểu Yêu trong trẻo, thanh tú hệt như tường vi trắng ngậm sương đêm. Chuyên Húc thầm nghĩ, nếu chấp nhận khổ nạn để rồi sau đó có được niềm hạnh phúc là mỗi ngày đều được như đêm nay, hai người so vai ngồi cạnh nhau, trò chuyện tâm tình, thì hắn sẵn lòng chịu đựng mọi khổ nạn trên đời.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 13: Nhớ chuyện cũ, lòng đau quặn

Kể từ khi Vương cơ Cao Tân kết hôn cùng Hắc Đế Hiên Viên, Cao Tân sáp nhập vào Hiên Viên, cùng tôn vinh Hắc Đế làm vua thì hầu như cả Đại hoang đều nằm dưới sự thống trị của Hắc Đế, chỉ trừ một vài hòn đảo nhỏ nằm rải rác ngoài biển khơi, và một nơi khác: Thị trấn Thanh Thủy, nơi đóng quân của nghĩa quân Thần Nông của Cộng Công.

Thời kỳ đầu, việc hợp nhất hai nước Cao Tân và Hiên Viên cũng gặp nhiều trở ngại. Những mối mâu thuẫn, hiềm khích nhỏ vẫn thường xuyên bùng phát thành những cuộc chiến cục bộ. Nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, Hắc Đế đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hòa nhập giữa các nền văn hóa và sự trao đổi buôn bán qua lại giữa các vùng miền, giúp cho lê dân trăm họ được vui hưởng cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp. Dù vẫn tồn tại những tiếng nói phản đối, nhưng nó quá nhỏ bé và yếu ớt để có thể gây ảnh hưởng đến cục diện và xu thế phát triển chung.

Tháng Giêng năm đó, Hắc Đế phái Tiểu Chúc Dung đi chiêu hàng Cộng Công, nhưng Cộng Công đã cự tuyệt. Trong vòng ba tháng tiếp sau đó, Chuyên Húc liên tiếp phái Tiểu Chúc Dung đi gặp Cộng Công ba lần, đưa ra những điều kiện lợi ích ngày một hậu hĩnh, hấp dẫn, thậm chí Hắc Đế còn hứa sẽ phong Cộng Công làm vua chư hầu, được phép nắm giữ binh quyền, và giao toàn bộ thị trấn Thanh Thủy và những vùng lân cận cho Cộng Công cai quản, nhưng Cộng Công đều từ chối.

Tháng Tư năm đó, Hắc Đế ra lệnh thảo phạt Cộng Công, chính thức điều binh vây bắt Cộng Công.

Xét thấy Cộng Công vốn thuộc Vương tộc Thần Nông, nên Chuyên Húc không cử các lão tướng Hiên Viên như Ứng Long, Ly Oán xuất chinh, tránh làm gia tăng mâu thuẫn giữa các dòng họ Hiên Viên và các dòng họ Trung nguyên. Chuyên Húc cũng không muốn cử các tướng lĩnh trẻ như Phong Long hay Hiến ra trận, vì như thế sẽ gây áp lực không cần thiết đối với họ. Vì vậy, Chuyên Húc quyết định cử Nhục Thu làm Đại tướng quân, Ngu Cương làm Tả tướng quân, Câu Mang làm Hữu tướng quân, dẫn quân thảo phạt Cộng Công. Tuy Cộng Cộng và Tương Liễu đều là những kẻ cứng đầu cứng cổ, rất khó đối phó, nhưng với năng lực của ba người nói trên, cộng với sự hậu thuẫn của Đế quốc Hiên Viên hùng mạnh, binh lực và vật lực đều dồi dào, Chuyên Húc tin rằng, Cộng Công chắc chắn sẽ bại trận.

Trước ngày Chuyên Húc công bố thánh chỉ, Phong Long xin vào gặp và xin được ra trận, hắn thậm chí sẵn sàng làm phó tướng của Nhục Thu, chỉ cầu được ra trận.

Xưa nay, Chuyên Húc vẫn cư xử với Phong Long khác với các triều thần khác. Hắn đỡ Phong Long đứng lên và nói:

– Phong Long, không phải vì ta cho rằng Nhục Thu tài ba hơn khanh nên mới chọn hắn mà không chọn khanh. Thực ra, nếu khanh cầm quân ra trận, thì ta càng tự tin vào chiến thắng của quân ta hơn. Nhưng khanh phải hiểu, thân thế của khanh rất đặc biệt. Tuy khanh mang họ Xích Thủy, nhưng khanh vẫn là huyết mạch của Vương tộc Thần Nông. Nếu để khanh đi dẹp Cộng Công, điều đó có nghĩa Vương tộc Thần Nông không chấp nhận hay tán đồng hành động nghĩa khí của Cộng Công! Chắc chắn chúng ta sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Nhưng, ta thì có được cả thiên hạ, trong khi khanh sẽ phải mang tiếng xấu, bị người đời nguyền rủa đó! Ta vì muốn bảo vệ khanh mới không để khanh ra trận!

Phong Long biết Chuyên Húc thật lòng lo lắng cho hắn. Chuyên Húc khiến hắn kính phục không chỉ bởi tấm lòng rộng rãi và tài năng siêu phàm của bậc đế vương, mà còn vì Chuyên Húc cũng là một người đàn ông bình thường như bao người khác. Chuyên Húc cũng biết nổi giận, biết căm hận và báo thù; cũng biết mang hơn và trả ơn. Chuyên Húc từng bước vượt qua chông gai để đi đến đích cuối cùng của con đường đế vương, và đã đứng trên đỉnh cao vời vợi của quyền lực, nếu là kẻ khác, sẽ rất dễ đánh mất bản thân, sẽ bị quyền lực làm cho mờ mắt. Nhưng Chuyên Húc không như vậy, hắn luôn ghi lòng tạc dạ công lao và sự đóng góp, giúp đỡ của người khác. Trong khi thực hiện mục đích của mình, hắn không bao giờ quên phải bảo vệ, tôn trọng và trân quý những người hắn mang ơn.

Phong Long nói:

– Thần hiểu ý tốt của Bệ hạ, nhưng trong cuộc hẹn bí mật của chúng ta năm xưa ở thành Hiên Viên, chúng ta đã giao hẹn với nhau, phải giành lấy, không chỉ Thần Nông Sơn, hay Hiên Viên Sơn, mà là cả thiên hạ! Khi đó, thần đã biết sớm muộn ngày này cũng sẽ đến! Hơn một trăm năm qua, chúng ta đã từng bước hiện thực hóa hoài bão to lớn của mình. Và bây giờ chỉ còn trận chiến cuối cùng này nữa thôi. Bệ hạ, có người đàn ông nào không nuôi hoài bão lớn lao? Nhưng trên đời này, mấy ai thực hiện được những hoài bão ấy? Không phải người đàn ông tài giỏi nào cũng có cơ hội được thống lĩnh hàng nghìn hàng vạn binh mã ra trận. Và cũng không phải vị tướng nào cũng có cơ hội chỉ huy một trận đánh quyết định sự ra đời của một đế quốc toàn vẹn và hùng mạnh. Bia miệng thế gian có gì đáng sợ đâu. Thần biết mình đang làm gì, và biết rằng mình làm vậy là đúng, thế là đủ! Thần không muốn rút lui khỏi chiến dịch cuối cùng này! Cầu xin Bệ hạ cho phép thần ra trận!

Hình ảnh cuộc hẹn bí mật trong thành Hiên Viên năm xưa chợt hiện lên trước mắt Chuyên Húc. Nhiều người cho rằng, Hoàng Đế nhường ngồi cho Hắc Đế là sự kiện quan trọng nhất trên con đường trở thành vua Hiên Viên của Chuyên Húc. Lại có người cho rằng, Bạch Đế thoái vị, Cao Tân và Hiên Viên hợp nhất là sự kiện quan trọng nhất trong đời đế vương của Chuyên Húc. Nhưng Chuyên Húc biết rằng, những sự kiện đó đều không quan trọng! Bởi đó chỉ là kết quả sau cùng sau những gian nan, trắc trở mà hắn đã vượt qua! Trong thâm tâm hắn, sự kiện quan trọng nhất ảnh hưởng đến con đường vương nghiệp của hắn xảy ra tại một căn phòng đơn sơ, trong thành Hiên Viên. Không có đao kiếm chém giết, không có ca vũ tiệc tùng, cũng không có sử quan chép lại, thậm chí không mấy người hay biết. Đó chỉ là một cuộc trò chuyện tâm giao giữa hắn và Phong Long, và một lời ước hẹn. Khi ấy, hắn là vị Hoàng tử bị thất sủng, Phong Long là tên ngỗ nghịch, phản loạn trong dòng họ Xích Thủy. Phong Long đến vội vã, đi cũng vội vã, chẳng kịp uống với nhau chén rượu, họ chỉ uống nước trắng. Nhưng khi hai cốc nước chạm vào nhau, là khi hai người đàn ông đã đưa ra lựa chọn quan trọng của cuộc đời mình. Kể từ đó đến nay, hắn chưa khi nào lưỡng lự, do dự, Phong Long cũng vậy.

Chuyên Húc hạ lệnh:

– Lập chỉ dụ mới, nay ta phong Xích Thủy Phong Long làm Đại tướng quân, Hy Hòa Ngu Cương làm Tả tướng quân, Xích Thủy Hiến làm Hữu tướng quân..

Phong Long tươi cười dập đầu:

– Tạ ơn Bệ hạ!

Chuyên Húc nói:

– Cuộc chiến lần này không giống cuộc chiến với Cao Tân năm xưa, Tương Liễu không dễ đối phó đâu, khanh hãy cẩn trọng!

Phong Long cười lớn:

– Nếu dễ dàng, thần đã không xin Bệ hạ cho thần ra trận!

Kể từ lúc quyết định cử Tiểu Chúc Dung đi chiêu hàng Cộng Công, thì mọi hành động, mọi quyết định, Chuyên Húc đều báo cáo đầy đủ với Hoàng Đế. Hoàng Đế không đưa ra bất cứ ý kiến hay nhận xét gì, như thể ngài không hề quan tâm đến chuyện đó. Nhưng, nếu là trước đây, mỗi khi Chuyên Húc bẩm báo việc chính sự, Hoàng Đế sẽ bảo: “Cháu hãy tự mình giải quyết, không cần bẩm báo với ta”. Còn lần này, ngài hoàn toàn im lặng. Có lẽ vì đây là việc mà ngài chưa kịp hoàn thành, nên ngài không thể tỏ ra thờ ơ với nó.

Tiểu Yêu ở miết bên Hoàng Đế, và những lúc bàn việc nước, Chuyên Húc chưa bao giờ có ý định tránh mặt nàng, nên Tiểu Yêu biết rõ chuyện gì đang xảy ra. Tiểu Yêu đang pha trà Khi Chuyên Húc thông báo với Hoàng Đế, hắn đã cử Phong Long làm Đại tướng quân, cầm quân tấn công tiêu diệt nghĩa quân Cộng Công. Nàng giật mình, nước sôi đổ vào tay.

Chuyên Húc vội chạy lại, nhúng cổ tay Tiểu Yêu vào nước lạnh, rồi đắp thuốc cho nàng. Chuyên Húc cáu:

– Sao lại bất cẩn như thế. Tâm trí để đi đâu vậy?

Tiểu Yêu cười gượng:

– Muội có nghĩ ngợi gì đâu.

Tiểu Yêu định tiếp tục công việc, nhưng Chuyên Húc buộc nàng đến ngồi cạnh Hoàng Đế, để hắn tự tay pha trà, và rót mời Hoàng Đế và Tiểu Yêu mỗi người một bát.

Tiểu Yêu hỏi:

– Đã tuyên đọc chỉ dụ, tức là Phong Long sắp ra trận?

– Đúng vậy, chỉ nay mai thôi.

Tiểu Yêu ngồi im lặng, bên tai nàng văng vẳng tiếng trò chuyện của Hoàng Đế và Chuyên Húc, nhưng tâm trí nàng đã trôi đi tận đâu đâu…

Cổng sau của Hồi Xuân Đường thông ra một ruộng thuốc, cuối ruộng thuốc là sông Tây Hà, xuôi theo sông Tây Hà sẽ đến sông Thanh Thủy, sóng nước Thanh Thủy cuồn cuộn đổ ra Đông Hải. Nàng cứu Cảnh bên bờ Tây Hà. Rồi nàng đuổi theo Phỉ Phỉ, đụng độ Quả Cầu, bị Tương Liễu đánh bốn mươi roi. Nàng định hạ độc Tương Liễu, nhưng người bị hại lại là Cảnh. Nàng lập giao kèo với Tương Liễu để giải sâu độc cho Chuyên Húc, nhưng không ngờ lại chuốc họa sâu độc tình nhân, tâm ý tương thông, cùng sống cùng chết…

– Tiểu Yêu!

Không biết Hoàng Đế đã rời đi từ lúc nào. Chuyên Húc đang nhìn nàng chăm chăm:

– Đang nghĩ gì vậy?

– Muội nghĩ về thị trấn Thanh Thủy.

– Ta cũng từng sinh sống ở đó, nên muội đừng lo lắng. Ta đã ra lệnh cho quan viên địa phương bố trí nơi ăn chốn ở chu đáo cho dân chúng.

Tiểu Yêu gật đầu.

Chuyên Húc hỏi:

– Muội đang nghĩ đến Tương Liễu đúng không?

Tiểu Yêu không đáp lại.

Chuyên Húc tiếp tục:

– Ta biết giữa muội và y vẫn có quan hệ bạn bè, ta cũng rất nể phục y. Thậm chí, ta còn rất kính phục Cộng Công và lòng trung thành bất biến của Tương Liễu. Nhưng nghĩa quân Thần Nông đã là quá khứ… Ta buộc phải đánh dẹp họ!

– Muội hiểu.

Tiểu Yêu biết Chuyên Húc đã cố gắng hết sức. Xét từ một khía cạnh nào đó, thì cuộc chiến này là cần thiết với Hiên Viên, đồng thời cũng là một sự giải thoát đối với nghĩa quân Thần Nông. Chuyên Húc không sai, hắn là Hoàng đế, hắn không thể không làm vậy. Nhưng nghĩa quân Cộng Công có lẽ cũng không sai.

Chuyên Húc thở dài:

– Dù ta có khâm phục Tương Liễu bao nhiêu, lập trường của ta và y cũng khác nhau hoàn toàn, vì vậy ta mong muội đừng qua lại với y nữa.

– Huynh đừng lo! Muội hiểu.

– Chính vì ngay từ đầu đã biết được điều này, nên nàng luôn luôn nhắc nhở và cảnh báo bản thân, rằng nàng và Tương Liễu mãi mãi không thể là bạn bè.

Trước ngày xuất chinh, Phong Long đến Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm Tiểu Yêu.

Lần gặp mặt gần nhất, cách đây bốn năm, khi cả Phong Long, Hinh Duyệt và Sưởng cùng lên Tiểu Nguyệt Đỉnh thăm Tiểu Yêu. Kể từ đó, Tiểu Yêu chưa gặp lại hắn, cũng không hỏi thăm tin tức về hắn. Có thể nói, đối với nàng, Phong Long gần như đã mất tích suốt bốn năm qua.

Hoàng Đế vất vả cả buổi sáng ngoài ruộng thuốc, nên lúc này ngài đang nghỉ ngơi trong nhà. Tiểu Yêu không muốn làm phiền ngài, bèn chủ động đưa Phong Long ra ngoài đi dạo. Suốt đường đi, Phong Long hoàn toàn im lặng. Tiểu Yêu nghĩ đến việc ngày mai hắn cầm quân đánh dẹp Cộng Công, nên cũng buồn chán, không muốn bắt chuyện. Hai người, không ai nói với ai câu nào, lẳng lặng đi lên tận đỉnh núi.

Tiểu Yêu nhìn thấy Tử Kim Cung thấp thoáng sau làn mây mới chợt nhớ, nàng và Hinh Duyệt cũng từng đứng ở đây. Nhưng lần đó, Cảnh đã bỏ Hoàng Đế ở nhà một mình, để đi theo nàng. Còn lần này, Cảnh sẽ không xuất hiện. Tiểu Yêu rơm rớm nước mắt, nàng vờ vén lại những lọn tóc bị gió thổi tung, đưa tay lên chấm nước mắt.

Phong Long trỏ Tai Trái, hỏi:

– Cậu ta đã cứu cô, đúng không?

Tai Trái vẫn bám theo họ, nhưng giữ khoảng cách cần thiết. Lúc này, hắn không buồn che giấu hành tung, mà ngồi chễm chệ trên cành cây, nhìn Phong Long hằm hằm.

Tiểu Yêu đáp:

– Đúng vậy, chính cậu ấy đã cứu tôi.

– May mà có cậu ta, nếu không ta đã mắc sai lầm nghiêm trọng.

Tiểu Yêu yên lặng nhìn Phong Long.

Phong Long tiếp tục:

– Hôm đó ta đã muốn giúp em gái ta. Mười tên áo đen bị cậu ta giết chính là những tâm phúc ta sai đi giết cô.

Tai Trái chen vào:

– Không phải tôi giết mà là tôi và Tiểu Yêu cùng giết.

Phong Long nói:

– Chả trách! Ta cứ thắc mắc mãi, với công lực của mười người bọn họ, lẽ nào không địch nổi một mình ngươi.

Tai Trái im lặng. Phong Long nói với Tiểu Yêu:

– Cô biết ta muốn giết cô, đúng không?

Tiểu Yêu không muốn giấu giếm thêm nữa:

– Tôi nghe được cuộc đối thoại của huynh và Hinh Duyệt. Khi ấy cả hai người đều đang bị kích động, nên không đề phòng.

– Vì sao cô không bẩm báo với Bệ hạ?

– Năm xưa, tôi khiến huynh và họ Xích Thủy bị mất mặt trước toàn thể quan khách trong Đại hoang, nhưng huynh đã rộng lòng tha thứ cho tôi. Tôi nợ huynh. Bây giờ, hai ta coi như hết nợ!

– Cô có căm ghét, khinh bỉ ta không?

Tiểu Yêu lắc đầu:

– Từ nhỏ đến lớn, huynh được sống cuộc đời vô tư lự, khổ nạn duy nhất của huynh có lẽ là không ai thấu hiểu hoài bão lớn lao của huynh, huynh bị các vị trưởng lão trong họ tộc coi là kẻ ngỗ nghịch, phản loạn. Còn Hinh Duyệt, cô ấy lớn lên giữa những cơn ác mộng. Khi những đứa trẻ khác mong muốn có được một chiếc váy mới, thì nguyện vọng duy nhất của cô ấy là được sống sót. Có những việc, chúng ta không hề muốn nhúng tay, nhưng khi đã làm, nó sẽ là gông cùm, xiềng xích, trói buộc, dày vò chúng ta suốt cuộc đời. Nhưng chúng ta không thể không làm! Tại thời điểm đó, huynh buộc phải lựa chọn giúp Hinh Duyệt. Nếu huynh vì bản thân và họ Xích Thủy, bỏ mặc Hinh Duyệt, thì tôi mới coi thường huynh.

Phong Long chăm chú nhìn Tiểu Yêu, rồi bật cười ha hả:

– Xích Thủy Phong Long ta cả đời chỉ cầu hôn một cô gái, nhưng đã bị cô ấy hủy hôn. Có điều ta không hề hối hận đã hỏi cưới cô ấy, cũng không hề hối hận đã dành cho cô ấy nghi thức rước dâu long trọng nhất của nhà Xích Thủy, bởi vì cô ấy rất xứng đáng! Tiếc là, chúng ta chỉ thiếu một chút may mắn để có thể nên vợ nên chồng.

Tiểu Yêu tươi cười lắc đầu, trỏ vào trái tim mình:

– Không phải chỉ thiếu một chút may mắn, mà là thiếu hẳn một con tim. Khi nào huynh gặp được người phụ nữ khiến huynh coi trọng cô ấy hơn cả việc đánh trận, huynh sẽ hiểu lời tôi nói.

– Lần này, ta cầu xin Bệ hạ cho ta ra trận, không phải vì quan tước, cũng không vì đất đai bổng lộc, càng không phải vì danh tiếng để đời, mà là vì Hinh Duyệt. Bệ hạ không tước bỏ ngôi vị Hoàng hậu của Hinh Duyệt, cũng không giam cầm muội ấy, nhưng ngài đã xem Hinh Duyệt như không hề tồn tại. Điều đó sẽ càng khiến Hinh Duyệt đau khổ hơn. Không có được sự tôn trọng của Bệ hạ, đám phụ nữ trên đỉnh Tử Kim chắc chắn sẽ thừa dịp cắn xé Hinh Duyệt. Mới có ba năm, nhưng ta thấy Hinh Duyệt như già đi mấy trăm tuổi. Nếu ta thắng trận này, với tính cách của Bệ hạ, chắc chắn sẽ trọng thưởng cho ta. Ta sẽ không xin ngài điều gì, chỉ xin ngài tha thứ cho Hinh Duyệt lần này.

Phong Long trịnh trọng vái Tiểu Yêu một vái:

– Đến lúc đó, xin cô hãy nói đỡ cho Hinh Duyệt vài lời. Ta xin bảo đảm với cô, sẽ cho người trông chừng muội ấy nghiêm ngặt, không để muội ấy gây nên lỗi lầm tương tự. Và thực ra, trải qua ba năm gian khổ vừa qua, ta nghĩ muội ấy chắc chắn không còn cái gan đó nữa đâu!

Tiểu Yêu thở dài:

– Mọi người đều cho rằng Bệ hạ lúc nào cũng chiều theo ý tôi. Nhưng nguyên nhân chính là vì tôi hiểu huynh ấy, nên không bao giờ đưa ra những yêu cầu mà biết chắc huynh ấy không thể chấp nhận. Giống như cuộc chiến với Cao Tân lúc trước, và chuyện lần này…

Tiểu Yêu ngập ngừng một lát, rồi tiếp tục:

– Tôi biết rõ rằng, dù tôi đề nghị huynh ấy không xuất quân đánh Cao Tân, chắc chắn huynh ấy sẽ không nhận lời.

Vì thế, năm đó khi Chuyên Húc tấn công Cao Tân, nàng đã nổi trận lôi đình, nàng mắng hắn, nhiếc móc hắn, nhưng chưa bao giờ yêu cầu hắn không được làm vậy. Và lần này, khi hắn đòi đánh dẹp Cộng Công, nàng thậm chí không có cả lý do chính đáng để nổi nóng, chỉ đành thầm lặng buồn bã.

Phong Long đột nhiên quỳ mọp dưới chân Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu hốt hoảng, vội đỡ hắn dậy. Tộc trưởng của bốn gia tộc lớn gặp vua còn không phải quỳ gối. Tiểu Yêu cuống quít:

– Phong Long, huynh mau đứng lên, mau đứng lên!

Linh lực của Phong Long rất cao cường, một khi hắn kiên quyết không đứng lên, Tiểu Yêu khó lòng lay chuyển.

Tiểu Yêu bất đắc dĩ, đành quỳ xuống theo, nàng không dám nhận nghi lễ quá ư trang trọng của Phong Long.

Vẻ mặt Phong Long buồn rười rượi, Tiểu Yêu chưa bao giờ thấy vẻ u ẩn ấy trên gương mặt của gã Phong Long đầy tự tin, kiêu ngạo. Phong Long nói:

– Ta và Hinh Duyệt là anh em sinh đôi. Có lúc ta nghĩ, nếu năm xưa, muội ấy sinh ra trước, và được đưa về Xích Thủy nuôi dạy, còn ta ở lại thành Hiên Viên, thì bây giờ muội ấy sẽ thế nào? Có lẽ muội ấy sẽ không giữ chấp niệm nặng nề như vậy, có lẽ, muội ấy sẽ không muốn lấy Bệ hạ, có lẽ muội ấy sẽ sống rất vui vẻ, hạnh phúc! Tiểu Yêu, ta xin cô, ta xin cô đấy!

Phong Long dập đầu trước Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu hốt hoảng:

– Tôi hứa, tôi nhận lời với huynh! Huynh đừng lạy nữa, xin huynh đừng lạy nữa!

Phong Long ngẩng đầu lên, nói:

– Cảm ơn!

Tiểu Yêu nói:

– Đôi lúc Bệ hạ rất cố chấp, tôi không biết ngài có chịu nghe lời tôi hay không, nhưng đến lúc đó, tôi nhất định sẽ cố gắng hết sức để cầu xin giúp Hinh Duyệt.

– Mong là thắng lợi của ta và sự giúp đỡ của cô sẽ giúp Hinh Duyệt vượt qua kiếp nạn này.

– Chúng ta đứng lên, được không? Nếu để người khác nhìn thấy cảnh tượng này, tôi sẽ chết rất thảm đó!

Phong Long hít một hơi thật sâu, như thể muốn dồn nén mọi cảm xúc vào trong lòng. Hắn trở lại là Xích Thủy Phong Long tôn quý, đầy tự tin, đầy kiêu hãnh. Phong Long đứng lên, tươi cười bông đùa:

– Sao ta cứ có cảm giác chúng ta đang thực hiện nghi thức cuối cùng của buổi lễ thành hôn năm đó nhỉ.

Tiểu Yêu nện một cú đấm vào vai Phong Long, đó là hành động thân mật giữa cánh đàn ông với nhau. Nàng nói:

– Đừng mơ, tập trung vào việc đánh trận đi.

Năm đó, khi sống trong phủ Tiểu Chúc Dung, mọi cử chỉ, lời nói của Tiểu Yêu đều rất đàn ông. Khiến đôi lúc Phong Long có cảm giác nàng là trai giả gái. Sau đó, không biết vì Tiểu Yêu ngày càng trở nên nữ tính hơn, hay vì họ ngày một xa cách, Phong Long không còn cảm giác ấy nữa. Còn lúc này, hắn vừa thấy thân thiết, lại vừa thấy buồn bã. Phong Long cười, hỏi:

– Cô có muốn chúc ta vài câu trước khi ta lên đường không?

Chúc Phong Long? Vậy Tương Liễu thì sao? Tiểu Yêu trầm ngâm một lát, lắc đầu:

– Đó là chuyện của cánh đàn ông các huynh, không liên quan đến tôi. Tôi muốn ngăn cản các huynh nhưng tôi không làm được việc đó, vì vậy, tốt nhất tôi không nói gì cả.

Phong Long cười vang, chắp tay trước Tiểu Yêu:

– Thôi được! Vậy ta đi nhé! Chờ ta thắng lợi trở về, sẽ cạn chén với cô!

Tiểu Yêu mỉm cười, cũng chắp tay chào Phong Long theo kiểu nhà binh. Phong Long rảo bước xuống núi, chẳng mấy chốc, Tiểu Yêu đã thấy xe mây vút lên không trung, bay thẳng về nơi đóng quân.

Ngày mai, Phong Long sẽ thống lĩnh hàng nghìn quân lính ra trận. Tiểu Yêu thầm nhủ: Việc đó không liên quan đến nàng. Nhưng sao lòng nàng vẫn nặng trĩu!

Trước lúc lên đường, Chuyên Húc không quên căn dặn Phong Long: Tuy phần thắng chắc chắn thuộc về quân đội Hiên Viên, nhưng Phong Long không nên nôn nóng đánh nhanh thắng nhanh. Đầu tiên, phải đánh một trận thị uy, sau đó mới áp dụng kế sách “xiết chặt vòng vây, từng bước tiêu diệt”, và tuyệt đối không được mắc bẫy Cộng Công, không được để hắn dụ vào trong núi. Quân đội của Cộng Công ẩn nấp trong rừng núi, nếu tiến vào quá sâu, sẽ khó lòng vây bắt bọn họ. Quân đội của Hoàng Đế chính là tấm gương nhãn tiền. Hoàng Đế đã nhiều lần xuất quân thảo phạt Cộng Công, nhưng đều thất bại.

Quân đội cần nguồn tiếp tế lương thực, thực phẩm và vật dụng cần thiết. Năm xưa, sở dĩ Cộng Công chọn thị trấn Thanh Thủy vì nơi này giáp Cao Tân, phía Đông lại giáp biển. Dù Hoàng Đế phong tỏa tất cả các con đường trong phạm vi Hiên Viên, thì Cộng Công vẫn có thể tìm đường sang Cao Tân, hoặc vận chuyển nhu yếu phẩm bằng đường biển. Năm xưa, Cao Tân vui mừng khi thấy tình hình nội bộ của Hiên Viên trở nên bất ổn, vì điều này có lợi cho Cao Tân, nên Cao Tân đã âm thầm hỗ trợ quân đội của Cộng Công. Nhiều gia tộc cũng vì mưu lợi mà ngấm ngầm tiến hành giao dịch với Cộng Công. Nhưng tình hình ngày nay đã khác xưa, Đại hoang hoàn toàn thuộc quyền thống trị của Chuyên Húc. Đế quốc Hiên Viên không chỉ có quân đội Hiên Viên, quân đội Trung nguyên giỏi lục chiến mà còn có quân đội Cao Tân và họ Xích Thủy giỏi thủy chiến.

Kế hoạch “xiết chặt vòng vây” của Chuyên Húc có nghĩa là phong tỏa toàn bộ đường cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội của Cộng Công cả trên đất liền và trên biển. Dù nghĩa quân Thần Nông có kiên cường, bền bỉ đến đâu, nếu như thiếu thốn lương thực thực phẩm, lại bị vây khốn mười năm, hai mươi năm, sớm muộn cũng sẽ tan rã. Chờ khi sỹ khí không còn, ý chí suy sụp, Hiên Viên sẽ thực hiện bước tiếp theo là “từng bước tiêu diệt”.

Phong Long đã quán triệt sách lược của Chuyên Húc, đánh trận đầu tiên, loại bỏ toàn bộ thế lực của Cộng Công tại thị trấn Thanh Thủy, dồn họ vào rừng sâu núi cao, sau đó thực hiện kế sách bao vây.

Quân đội Cộng Công ẩn nấp suốt một năm, thi thoảng đánh úp quân đội của Phong Long, nhưng không khi nào dám giao tranh trực diện. Hôm nay đốt trại, ngày mai bỏ thuốc độc, họ đến và đi nhanh như chớp, khiến quân đội của Phong Long cứ đến tối là lo sợ không yên, ngủ không ngon giấc.

Trong cuộc chiến với Cao Tân, Phong Long chưa bao giờ bối rối, vì hắn biết rõ mình muốn gì. Kể cả khi đánh thua Nhục Thu, Phong Long vẫn tin rằng chỉ cần bền bỉ chiến đấu, giữ vững thế trận, phần thắng nhất định sẽ thuộc về hắn! Nhưng lần này thì khác, mục đích của hắn không phải danh lợi, quyền thế, cũng không phải để thỏa mãn hùng tâm tráng trí của hắn mà là vì em gái hắn. Chiến tranh kéo dài mười năm, hai mươi năm cũng không sao, Phong Long có thể đợi, nhưng Hinh Duyệt không thể!

Trước lúc lên đường, Phong Long đã ghé thăm Hinh Duyệt và căn dặn nàng phải kiên nhẫn, dù xảy ra chuyện gì cũng phải chờ hắn đánh xong trận trở về rồi tính. Nhưng Hinh Duyệt tỏ ra rất thờ ơ, lạnh nhạt, sau đó còn bực bội bỏ về, rõ ràng nàng không buồn nghe lời khuyên của Phong Long. Phong Long lo lắng Hinh Duyệt không vượt qua nổi tao đoạn này, tinh thần sẽ suy sụp, càng sợ hãi Hinh Duyệt sẽ nghĩ quẩn làm liều, gây ra những chuyện khiến quan hệ giữa cô ấy và Chuyên Húc không thể cứu vãn được nữa thì nguy.

Vì lo lắng cho Hinh Duyệt, nên khi nhận được tin báo phát hiện quân đội Cộng Công, Phong Long quyết định cho quân lính truy kích, kết quả, bị trúng kế của Tương Liễu, quân của Phong Long thất bại thảm hại.

Tin tức truyền về Thần Nông Sơn, Chuyên Húc vừa giận vừa lấy làm khó hiểu. Tuy Phong Long tính tình nóng nảy, nhưng hắn không bao giờ xốc nổi trong những việc quan trọng. Suốt mười năm chiến tranh với Cao Tân, hắn chưa từng nôn nóng muốn lập công mà đánh bừa. Kể cả khi thua Nhục Thu, hắn cũng sẵn sàng rút quân, không vì tham công trạng mà liều lĩnh.

Chuyên Húc ngẫm mãi không hiểu vì sao Phong Long lại hồ đồ như vậy. Càng ngẫm hắn càng thấy bực bội, bực đến mức hắn nảy sinh ý định thay tướng.

Hoàng Đế hỏi:

– Cháu chắc chắn muốn thay Phong Long chứ?

Chuyên Húc không chắc chắn! Thay tướng giữa trận là hành động thiếu sáng suốt, huống hồ thân phận của Phong Long lại hết sức đặc biệt.

Nếu lúc này thay Phong Long, những kẻ tin rằng Phong Long đã thực sự bại trận sẽ nói: Hắc Đế không tín nhiệm tướng lĩnh Trung nguyên, chỉ thua một trận đã đòi thay tướng. Còn những kẻ không tin Phong Long đã bại trận sẽ nói: Tôi đã bảo rồi mà, đám tướng lĩnh Trung nguyên đó là những kẻ không đáng tin cậy, chắc chắn bọn họ đã câu kết với kẻ địch. Lúc trước Bệ hạ bị bọn họ che mắt, nay ngài đã nhận ra chân tướng.

Lửa giận trong lòng Chuyên Húc đã xẹp xuống, hắn tỏ ra bình tĩnh hơn. Hắn nói với Hoàng Đế:

– Cháu tin Phong Long, nên sẽ không thay cậu ta, nhưng cháu phải đích thân đến thị trấn Thanh Thủy một chuyến. Cháu muốn biết vì sao cậu ta tham công làm liều như vậy.

Hoàng Đế gật đầu. Tiểu Yêu đột nhiên bảo:

– Muội muốn đi cùng huynh.

Dù trong lòng rất muốn, nhưng xét đến sự an nguy của Tiểu Yêu, Chuyên Húc nói:

– Cuộc chiến này không giống cuộc chiến ở Cao Tân, rất nguy hiểm.

– Muội sẽ luôn ở cạnh huynh, huynh đủ tự tin bảo vệ được bản thân không? Nếu huynh không đủ tự tin, muội và ông ngoại sẽ không cho huynh đi.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Mồm mép tép nhảy, chỉ giỏi xảo biện. Đi thì đi!

Ba ngày sau, khi đã sắp xếp ổn thỏa mọi thứ, Chuyên Húc cùng Tiểu Yêu bí mật đến thị trấn Thanh Thủy.

Thị trấn Thanh Thủy phồn thịnh tấp nập ngày nào nay chỉ còn vườn không nhà trống. Lúc ngang qua Hồi Xuân Đường, Chuyên Húc nói với Tiểu Yêu:

– Toàn bộ dân cư thị trấn đã được di dời đến các thành phố và thị trấn lân cận, được cấp ruộng đất và nhà ở đầy đủ. Chờ khi chiến tranh qua đi, nếu muốn, họ có thể quay về quê cũ.

Tiểu Yêu lặng lẽ gật đầu.

Thị trấn Thanh Thủy trở thành một phần doanh trại quân đội, nhà cửa đều được trưng dụng. Phong Long sống trong căn nhà thuộc sở hữu của nhà Đồ Sơn, chính là nơi năm xưa Cảnh từng ở. Biết tin Chuyên Húc tới, Phong Long vội vàng ra đón, vẻ mặt buồn ủ rũ.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Khanh thật khéo chọn, đây chẳng phải là phủ đệ của nhà Đồ Sơn hay sao.

Phong Long đáp:

– Đây là căn nhà khang trang nhất thị trấn, nếu thần không ở thì cũng không ai dám ở. Sao Bệ hạ biết đây là nhà của nhà Đồ Sơn?

Chắc không ai đi bẩm báo với Chuyên Húc những chuyện nhỏ nhặt thế này, nếu không tấu chương mà hàng ngày Chuyên Húc phải đọc sẽ không đếm xuể.

Chuyên Húc nói:

– Ta từng sống ở thị trấn này vài năm, cũng khá thông thạo đường đi lối lại.

Phong Long rất đỗi kinh ngạc. Vài năm đâu phải khoảng thời gian ngắn ngủi, có lẽ chuyện đó xảy ra trước khi hắn quen biết Chuyên Húc, nếu không, hắn không thể không biết.

– Khi ấy, Bệ hạ vẫn ở Cao Tân, đúng không? Lẽ nào, ngay từ ngày đó, Bệ hạ đã có sự chuẩn bị cho cuộc chiến này?

Chuyên Húc cười, đáp:

– Chỉ một nửa vì mục đích đó thôi. Khi ấy ta chưa dám chắc mình sẽ được kế vị. Ta tò mò muốn xem những kẻ cứng đầu khiến cả ông nội và các chú của ta phải đau đầu là những kẻ thế nào. Tất nhiên, ta cũng tính đến trường hợp, nếu ngày sau ta lên ngôi và phải dẹp tan bọn chúng, thì phải làm thế nào.

Phong Long lấy làm hổ thẹn, hắn cúi đầu, nói:

– Sách lược của Bệ hạ rất sáng suốt, nhưng thần đã khiến Bệ hạ thất vọng.

Chuyên Húc bước chậm lại, vỗ vai Phong Long:

– Chúng ta quen biết nhau đã trăm năm, không thể chỉ vì một trận đánh mà khiến ta thất vọng về khanh. Ta chỉ lo khanh sẽ thấy thất vọng về bản thân.

Phong Long im lặng không nói.

Họ đến trước cổng một khu vườn, Phong Long giơ tay làm điệu bộ mời Chuyên Húc:

– Mấy ngày tới, mời Bệ hạ tạm thời ở lại đây.

Tuy biết Cảnh sống trong căn nhà này, nhưng Chuyên Húc chưa bao giờ tới đây, nên hắn không có cảm giác gì đặc biệt. Tiểu Yêu thì khác, nàng rất thông thuộc khu vườn này, vì đó là nơi năm xưa Cảnh từng sống.

Ngày mùa hạ oi nồng, dưới mái hiên treo một dãy dài những chiếc chuông gió được làm từ băng tuyết nơi cực Bắc tuyết phủ quanh năm, với đủ mọi loại màu sắc: Đỏ thẫm, xanh lục, xanh tím, trắng bạc… phối hợp hài hòa với những sắc màu lung linh rực rỡ của khối băng tuyết, và được điêu khắc thành những đóa hoa vô cùng sống động. Gió nhẹ lùa tới, hơi lạnh từ băng tuyết phả ra xung quanh, khiến cả khu vườn trong lành, mát mẻ như đang ở giữa mùa xuân. Ngoài vườn muôn hoa khoe sắc: Nào nhài, lan, xạ hương đằng, dâm bụt, nguyệt quế, chuối lửa, dành dành…

Tiểu Yêu bước qua chiếc cổng hình trăng tròn, đầy vườn hoa nở rực rỡ, cảnh sắc hệt như năm xưa. Khoảnh khắc ấy, Tiểu Yêu bất chợt có cảm giác, một lát nữa, sẽ có một trang quân tử, dáng trông nho nhã, anh tuấn, tính tình điềm đạm, ôn hòa đứng giữa vườn hoa, mỉm cười nhìn nàng.

Nhưng, người đâu thấy!

Ánh nắng mùa hạ vẫn rực rỡ, xán lạn như xưa, vườn hoa vẫn tươi thắm như xưa, nhưng chàng trai từng lặng ngắm nàng ngàn vạn lần ấy không còn nữa! Tiểu Yêu thấy tim mình nhói buốt, mắt tối sầm, nàng chao đảo chực ngã. Chuyên Húc vội chạy lại, đỡ nàng:

– Tiểu Yêu!

– Không sao đâu, muội bất cẩn nên mới bị vấp thôi.

Tiểu Yêu ra sức kìm chế, nhưng hơi thở gấp gáp của nàng không lọt được đôi tai thính nhạy của những kẻ linh lực cao cường như Chuyên Húc và Phong Long.

Chuyên Húc nhẹ nhàng hỏi:

– Cảnh từng ở chỗ này?

Phong Long chợt nhớ lại, Cảnh từng nói chàng và Tiểu Yêu quen biết từ rất sớm. Vậy có lẽ Tiểu Yêu cũng từng sống ở thị trấn Thanh Thủy. Phong Long vội bảo:

– Thần sẽ sắp xếp nơi ở khác.

Chuyên Húc đồng ý, nhưng Tiểu Yêu gượng cười, nói:

– Hãy ở lại đây.

Dẫu sao, nơi đây vẫn còn vương vấn hơi thở của chàng.

Phong Long nhìn Chuyên Húc, chờ đợi. Chuyên Húc gật đầu đồng ý. Phong Long vái chào Chuyên Húc:

– Bệ hạ đi đường vất vả, xin hãy tắm gội nghỉ ngơi một lát. Thần và các tướng lĩnh khác vừa bàn việc vừa chờ Bệ hạ ngoài phòng khách.

Tắm gội thay y phục xong, Chuyên Húc vừa ra khỏi phòng đã thấy Tiểu Yêu ngồi dưới hàng hiên, thẫn thờ ngắm nhìn vườn hoa đang khoe sắc thắm.

Chuyên Húc ngồi xuống cạnh Tiểu Yêu, hỏi:

– Cảnh sắc vẫn như năm xưa?

– Vườn hoa vẫn như xưa, nhưng dưới hàng hiên không còn những chiếc chuông gió làm từ băng tuyết Bắc cực nữa.

– Ta sẽ sai người đi kiếm và treo lên cho muội.

Tiểu Yêu nghiêng đầu, chạm phải ánh mắt Chuyên Húc, nàng lập tức tránh né, cúi đầu, nói:

– Chuyên Húc, huynh… đừng như vậy!

– Đừng như vậy là như thế nào?

Giọng nói của Chuyên Húc buồn man mác, tựa mưa bụi ngày xuân ở Giang Nam.

– Ta không thể ngăn muội thương nhớ Cảnh, nên chỉ có thể cố gắng khiến muội được vui lòng. Nếu việc thương nhớ Cảnh khiến muội vui vẻ, ta cũng sẽ giúp muội.

– Làm vậy, huynh có vui không?

– Với ta, vui hay buồn không quan trọng, quan trọng là muội vẫn ở bên ta.

– Nếu muội không bao giờ quên Cảnh, huynh sẽ vẫn như vậy?

Chuyên Húc trầm ngâm một lát, đáp:

– Tiểu Yêu, ta chưa bao giờ đòi hỏi muội phải quên Cảnh! Không ai có thể xóa nhòa ký ức. Ta hiểu rằng, cho đến lúc bạc đầu, thì Cảnh vẫn luôn sống trong tim muội, hệt như lúc cậu ấy vừa ra đi. Ta chỉ mong, muội cho phép ta ở bên muội trong những năm tháng sắp tới.

Tiểu Yêu nhìn Chuyên Húc, thở dài:

– Chuyên Húc, vì sao huynh… Vì sao lúc nào huynh cũng phải hạ mình như vậy? Vì sao huynh cố chấp như vậy? Huynh là đấng Quân vương của cả thiên hạ kia mà!

Chuyên Húc nhìn Tiểu Yêu đăm đắm, mỉm cười nói:

– Chỉ vì muội là Tiểu Yêu của ta.

Giọng nói ấm áp dịu dàng, nhưng ánh mắt đầy vẻ kiên định của Chuyên Húc khiến Tiểu Yêu hoang mang, nàng vội vã né tránh ánh mắt của hắn.

Chuyên Húc đưa tay lên vuốt những sợi tóc rối của Tiểu Yêu, rồi nói:

– Muội nghỉ ngơi đi, ta phải đi gặp Phong Long và các tướng lĩnh. Sau đó ta sẽ thị sát một vòng quanh doanh trại. Nếu chiều muộn ta chưa về, muội hãy ăn cơm trước.

Tiểu Yêu không ngẩng lên nhìn hắn, Chuyên Húc đứng dậy, nhìn khu vườn đầy hoa nở, giấu nỗi buồn xuống đáy lòng, rồi cất bước đi ra.

Tiểu Yêu vẫn ngồi dưới mái hiên, ngắm vườn hoa rực rỡ, khoe sắc dưới ánh nắng mặt trời.

Mãi cho tới khi mặt trời xế bóng.

Đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng kêu la thất thanh, Tiểu Yêu ngẩng đầu, thấy Tương Liễu đeo mặt nạ màu bạc, vận y phục tinh khôi như tuyết, đứng trên lưng đại bàng mỏ vàng lông trắng giữa hoàng hôn xán lạn, rực rỡ. Y cầm trên tay cây cung lớn màu bạc, rõ ràng y vừa bắn một mũi tên, và đang giương cung chuẩn bị bắn mũi tên thứ hai.

– Chuyên Húc! Không!

Tiểu Yêu hét lên, lao như bay ra ngoài. Khoảnh khắc mũi tên của Tương Liễu rời khỏi cây cung bạc, đầu óc nàng hoàn toàn trống rỗng, ý nghĩ duy nhất là: Chuyên Húc không được chết! Không được chết!

Nàng chạy ra ngoài cổng phủ thì thấy Chuyên Húc đang nằm dài trên đất, máu loang khắp người, đang ngẩng nhìn lên bầu trời. Tuy có rất đông thị vệ, nhưng đám thị vệ chưa kịp trở tay, Tương Liễu đã thúc tọa kỵ bay vút đi.

Chuyên Húc vận linh lực truyền thanh âm:

– Tương Liễu, ta nhất định sẽ lấy mạng ngươi!

Giữa tiếng đại bàng kêu vang trời, Tương Liễu lướt bay đi, tiếng cười ngông cuồng, ngạo mạn của y vang vọng trong không gian.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 14: Đường đời hiu quạnh, biết ngỏ cùng ai

Vì mất máu quá nhiều, nguyên khí tổn thương nghiêm trọng, nên dù Miêu Phủ đã bón cho Tiểu Yêu rất nhiều linh dược, nàng vẫn hôn mê suốt đêm. May mà đêm đó Chuyên Húc ở lại trong quân doanh, hôm sau hắn mới về phủ. Hôm sau, khi tỉnh lại, Tiểu Yêu sai Miêu Phủ trang điểm cho mình, Chuyên Húc bận việc quân, đi về vội vã, nên không phát hiện thấy điều gì khác lạ.

Tiểu Yêu uống linh dược như uống nước, nhưng vì nguyên khí bị tổn thương, nên không dễ dàng bình phục. Nàng mê mệt cả ngày, ngồi tựa dưới mái hiên, thẫn thờ nhìn những bông hoa trong vườn. Chuyên Húc tưởng cái chết của Phong Long khiến nàng nhớ đến Cảnh, nên không nghĩ ngợi nhiều, chỉ dặn dò Tiêu Tiêu và Miêu Phủ phải ở bên nàng, động viên, an ủi nàng.

Sau vài ngày tĩnh dưỡng, Tiểu Yêu dần hồi phục lại. Nhục Thu và Câu Mang cũng đã kịp chuyển lương thảo tới quân doanh. Sau khi bàn giao mọi việc cho họ, Chuyên Húc liền đưa Tiểu Yêu quay về Thần Nông Sơn.

Phong Long là tộc trưởng tộc Xích Thủy, lại là con trai của Tiểu Chúc Dung, nên cái chết của hắn khiến Chuyên Húc phải đối mặt với cục diện rất khó xử trí. Vừa về đến Thần Nông Sơn, Chuyên Húc đã lập tức tới gặp Hoàng Đế, cùng ngài bàn bạc phương cách xử lý hậu sự cho Phong Long.

Hoàng Đế nói:

– Phàm việc gì cũng tồn tại hai mặt họa và phúc. Nếu xử lý khéo léo, ổn thỏa thì họa cũng có thể biến thành phúc. Phong Long qua đời đột ngột, nếu gạt qua tình cảm cá nhân của cháu, thì việc này không tệ đối với lợi ích của cả quốc gia.

Chuyên Húc tĩnh tâm suy ngẫm một hồi, chợt hiểu ra ý của Hoàng Đế. Giữa Cộng Công và các dòng họ Trung nguyên luôn tồn tại mối dây liên hệ nhất định. Mọi chuyện sẽ không có gì đáng bàn nếu quân đội hai bên vẫn ở thế giằng co. Nhưng nếu một ngày hai bên phải quyết một trận sinh tử, chỉ e các dòng họ sẽ không có sự thống nhất về quan điểm ủng hộ. Nhưng nay, Cộng Công đã giết Phong Long, họ Xích Thủy và họ Thần Nông chắc chắn không tha thứ cho Cộng Công. Các dòng họ Trung nguyên khác tất yếu sẽ chọn đứng về phía họ Xích Thủy và họ Thần Nông. Có thể nói rằng, cái chết của Phong Long, đã khiến mối liên hệ giữa Cộng Công và Trung nguyên bị cắt đứt hoàn toàn.

Chuyên Húc vái Hoàng Đế:

– Cảm ơn ông chỉ dạy, cháu đã biết phải làm thế nào.

Hoàng Đế thở dài:

– Không phải cháu không nghĩ ra, mà vì cái chết của Phong Long khiến cháu rối loạn. Xem ra, cháu thực sự coi cậu ta là bạn.

Chuyên Húc nhớ lại những lời của Phong Long trước khi chết mà lòng bấn loạn, cảm xúc đan xen phức tạp.

Hoàng Đế nói:

– Lúc Phong Long còn sống, thì cháu đối xử với Hinh Duyệt thế nào mặc cháu. Nhưng nay Phong Long đã chết, cháu buộc phải tử tế với Hinh Duyệt. Lát nữa về Tử Kim Cung, cháu hãy ghé thăm nó!

Trước khi qua đời, Phong Long có nói:

– Cậu ta không còn gì hối tiếc, chỉ không yên lòng về Hinh Duyệt. Cháu đã hứa sẽ chăm sóc Hinh Duyệt, để cô ấy được một đời bình an, và tất cả phi tần trong cung Tử Kim đều phải kính trọng cô ấy.

Hoàng Đế lấy làm bất ngờ, ngài thở dài:

– Phong Long cũng là người nặng tình, chả trách cậu ta tham công mà liều lĩnh. Thì ra là vì Hinh Duyệt.

– Bề ngoài thì có vẻ như Phong Long đã bị Tương Liễu giết hại, nhưng thực ra, cậu ấy đã bị Thần Nông Hinh Duyệt dồn vào chỗ chết! Nếu không vì Phong Long, cháu rất muốn… Thần Nông Hinh Duyệt!

Gương mặt Chuyên Húc vẫn bình thản như không, giọng nói của hắn cũng hoàn toàn điềm tĩnh, nhưng nỗi tức giận dồn nén trong lòng bấy lâu nay, đã được dịp bùng phát. Hắn xiết chặt nắm đấm, nện xuống bàn, tuy không phát ra tiếng động, nhưng bát trà trên bàn vỡ vụn.

Hoàng Đế bình thản nói:

– Lẽ nào cháu không có lỗi? Vì sao Hinh Duyệt muốn giết Tiểu Yêu? Nếu nó không giết Tiểu Yêu thì làm gì có chuyện Phong Long bị tình trạng của em gái o ép. Ngày cháu còn nhỏ, ta đã cho cháu chọn lựa, và cháu đã chọn “bỏ tình riêng, vì nghĩa lớn”. Từ bấy đến nay, cháu chưa khi nào khiến ta thất vọng. Nhưng riêng về chuyện của Tiểu Yêu, thì cháu khiến ta vô cùng thất vọng!

Kể từ ngày nhường ngôi đến nay, Hoàng Đế lúc nào cũng trò chuyện với Chuyên Húc bằng thái độ điềm đạm, hiền hòa. Đây là lần đầu tiên ngài nói hắn nặng lời như vậy.

Chuyên Húc nhìn ngài, thẳng thắn thừa nhận:

– Cháu biết cháu nông nổi, chỉ biết nghĩ cho mình. Kể từ ngày cha chết trận, mẹ tự vẫn, cháu luôn yêu cầu hà khắc với bản thân, chưa một ngày, chưa việc gì cháu dám xao nhãng, dám lơ là, dám xốc nổi. Trong cuộc đời mình, Tiểu Yêu là người duy nhất khiến cháu muốn ích kỷ, muốn nông nổi. Xin ông hãy ủng hộ cháu!

Hoàng Đế thầm thở than, lẽ nào ngài không thấu hiểu tâm tư của hắn? Ngài ân cần bảo:

– Nếu không xử lý chu đáo chuyện hậu sự của Phong Long, có thể cháu sẽ gây nên họa lớn đó! Hãy nhớ, cháu là vua của Đại hoang, cháu phải đặt lợi ích của toàn thiên hạ lên trên hết!

Chuyên Húc lẳng lặng vái chào Hoàng Đế và ra về.

Lúc ngang qua chiếc ghế dây đu dưới gốc cây phượng, Chuyên Húc quay đầu nhìn về phía căn nhà của Tiểu Yêu, ánh đèn vàng rọi qua khung cửa, không biết nàng đang làm gì.

Miêu Phủ vội chạy đến, vái chào Chuyên Húc:

– Tiểu thư nói muốn gặp Bệ hạ. Xin mời Bệ hạ vào gặp tiểu thư một lát.

Chuyên Húc thoáng mỉm cười, rảo bước về phía căn nhà của Tiểu Yêu. Nàng ngồi bên cửa sổ, chìa tay ra mời Chuyên Húc. Nàng rót mời hắn một chén rượu. Rồi nàng nâng chén, chầm chậm đổ xuống đất:

– Phong Long, mời huynh!

Chuyên Húc cũng đổ rượu xuống đất.

Tiểu Yêu nói:

– Trước lúc lên đường ra trận, Phong Long có đến gặp và nhờ muội một chuyện. Muội không cứu được huynh ấy, nên chỉ có thể dốc sức giúp huynh ấy hoàn thành tâm nguyện của mình.

Chuyên Húc cau mày:

– Nếu là chuyện của Hinh Duyệt thì ta đã nhận lời với Phong Long.

Tiểu Yêu thở dài:

– Đúng như muội nghĩ, tuy huynh đã hứa với Phong Long, nhưng huynh không thực sự tha thứ cho Hinh Duyệt. Trái lại, vì cái chết của Phong Long, huynh lại càng căm ghét Hinh Duyệt. Dù huynh có giữ lời hứa đi nữa, phụ nữ vốn là những người mẫn cảm, Hinh Duyệt lại là người vừa mẫn cảm vừa đa nghi, chắc chắn cô ấy sẽ nhận ra cảm xúc thực sự của huynh.

Chuyên Húc lạnh lùng bảo:

– Cô ấy nghĩ gì ta cũng mặc, ta chỉ biết sẽ giữ đúng lời hứa.

– Thực ra, muội và cô ấy có nhiều điểm rất giống nhau. Cả hai đều vì cha mẹ mà phải gánh chịu những bất hạnh. Muội bị cha mẹ bỏ rơi trên Ngọc Sơn, cô ấy bị cha đẩy đến thành Hiên Viên. Những đắng cay thuở nhỏ khiến trái tim chúng tôi ngày càng trở nên lạnh lùng, cứng rắn. Những lúc cần thiết, chúng tôi có thể biến thành những phụ nữ vô tình, cay độc. Hinh Duyệt sống dựa vào gia tộc và người thân, nhưng cô ấy không tin tưởng bất cứ ai trong số họ. Những người đàn ông xung quanh cô ấy, từ cha, anh trai, đến ông nội… đều phải gánh vác trách nhiệm và sứ mạng quan trọng. Nên cô ấy chỉ có thể dựa vào bản thân. Điều đó tạo nên tính cách nóng vội, đa nghi, cố chấp, và độc địa ở cô ấy. Muội không mong huynh có thể lập tức xóa bỏ nỗi căm giận Hinh Duyệt, nhưng muội mong huynh, mỗi lần gặp Hinh Duyệt, hãy đối xử với cô ấy bằng tấm lòng bao dung, cảm thương. Vì dù sao, cô ấy không phải sinh ra đã như vậy.

– Tiểu Yêu, muội không hề giống cô ấy! Đúng là hai người đều mang trong mình một trái tim lạnh lùng, cứng rắn, nhưng sau khi phải nếm trải những tháng năm cơ cực, cay đắng, muội biết trân trọng từng khoảnh khắc yên ấm, hạnh phúc. Bất kể sư phụ, A Niệm, hay lão Mộc, Miêu Phủ, Tai Trái dành cho muội bao nhiêu tình cảm, muội đều quý trọng và biết ơn. Còn Hinh Duyệt, cô ấy trở nên tham lam, không biết thế nào là đủ. Bất kể người khác mang lại cho cô ấy bao nhiêu điều tốt đẹp, nhưng chỉ cần làm việc gì đó không vừa ý cô ấy, cô ấy sẵn sàng phủ nhận tất cả, và cho rằng người ta phản bội mình, tệ bạc với mình! Những việc mà Tiểu Chúc Dung và Phong Long làm vì cô ấy, vẫn còn ít ư? Ngay như ta, ngôi vị Hoàng hậu tôn quý ta đã trao cho cô ấy. Cô ấy chỉ coi ta là một phần của cuộc giao dịch, nhưng lại muốn ta phải đối xử với cô ấy như với muội. Trên đời này, đâu phải chỉ có một mình cô ấy chịu đau khổ!

– Muội nói những lời vừa rồi, không chỉ vì Phong Long, mà còn vì huynh nữa. Nay Phong Long đã qua đời, chỉ còn lại một mình Hinh Duyệt trên ngôi cao Hoàng hậu. Cô ấy không gây ra chuyện gì tày đình, huynh mới có thể yên tâm xử lý triều chính. Huynh đã bỏ bao công sức mới thống nhất được thiên hạ, thì nên tận tâm mang lại cuộc sống an cư lạc nghiệp cho muôn dân. Bằng không, huynh sẽ chẳng thể yên lòng, khi ấy người khổ sở nhất chính là huynh đó!

Cảm xúc của Chuyên Húc lúc này thật phức tạp, hắn vừa thấy hạnh phúc, lại vừa thấy xót xa. Hắn lặng lẽ nhìn Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu cúi đầu, tránh né ánh mắt hắn:

– Dù là vì Phong Long hay vì chính bản thân huynh, cũng nên đối xử tử tế với Hinh Duyệt.

– Muội đừng lo, ta biết phải làm thế nào.

– Khuya rồi, huynh mau về đi. Muội không tiễn huynh đâu.

Chuyên Húc đi khỏi, Tiểu Yêu ngồi thẫn thờ như người mất hồn. Miêu Phủ đến hỏi nàng muốn đi nghỉ hay không, nàng xua tay, bảo cô ấy đừng làm phiền mình.

Tiểu Yêu chấm đầu ngón tay vào rượu, viết ra tên gọi của những dòng họ và những người từng có quan hệ ân oán, lợi ích với nhà Đồ Sơn, và nắm trong tay quyền hành lớn lao như: Họ Phòng Phong, họ Thần Nông, họ Xích Thủy, họ Quỷ Phương, Ngu Cương… Thậm chí, nàng đưa cả Tương Liễu vào danh sách.

Họ Phòng Phong: Vì chuyện của Phòng Phong Ý Ánh, chắc chắn bọn họ rất căm hận Cảnh. Nếu Cảnh chết, cháu ngoại của họ là Đồ Sơn Chấn sẽ kế vị tộc trưởng, điều đó rất có lợi cho họ. Nhưng nhà Phòng Phong có đủ năng lực để chống lại nhà Đồ Sơn không?

Tiểu Yêu giữ lại họ Phòng Phong.

Họ Thần Nông: Dù Hinh Duyệt có hận nàng bao nhiêu, cũng không điên cuồng đến mức giết hại Cảnh. Trái lại, hơn ai hết, cô ấy luôn mong Tiểu Yêu nhanh chóng trở thành vợ của Cảnh. Tiểu Chúc Dung luôn mong người dân Trung nguyên được an cư lạc nghiệp, Cảnh còn sống sẽ có lợi cho ông ấy.

Tiểu Yêu suy ngẫm một lát, rồi xóa họ Thần Nông.

Họ Xích Thủy: Nhờ có Phong Long, thế cân bằng của bốn gia tộc lớn bị phá bỏ, họ Xích Thủy trở thành dòng họ mạnh nhất. Nếu Cảnh chết, họ Xích Thủy sẽ càng lớn mạnh. Nhưng… Tiểu Yêu chợt nhớ đến vẻ bi thương của Phong Long khi hắn nhắc tới Cảnh. Và tiếng cười giòn giã của Phong Long với Tiểu Yêu trước lúc hắn lên đường ra trận khiến nàng quyết định gạch họ Xích Thủy.

Họ Quỷ Phương…

Cuối cùng, ánh mắt nàng dừng lại ở tên Tương Liễu.

Tương Liễu: Không phải không có khả năng y là kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Không ai biết Phòng Phong Ý Ánh sống ẩn dật ở thị trấn Thanh Thủy, trừ Tương Liễu. Việc y giết Cảnh có thể không mang lại bất cứ lợi ích trực tiếp nào cho y, nhưng sẽ gây cho Chuyên Húc rất nhiều rắc rối. Nếu Chuyên Húc xử lý không cẩn trọng, rất dễ xảy ra tranh chấp giữa các dòng họ. Mãi gần đây, Tương Liễu mới chịu tiết lộ thông tin, và khuyên Tiểu Yêu thà giết nhầm còn hơn bỏ sót. Với tài dùng độc hàng đầu thiên hạ của Tiểu Yêu, chắc chắn sẽ có rất nhiều tộc trưởng và trưởng lão của nhiều dòng họ phải chết một cách bất thường. Điều đó sẽ gây nên nỗi hoang mang lo sợ và sự nghi kỵ lẫn nhau giữa các dòng họ. Nếu Tương Liễu biết lợi dụng tình hình khi đó, rất có thể y sẽ biến nó thành một cuộc nội chiến đẫm mãu, mà người được lợi nhất chính là Cộng Công.

Tiểu Yêu di ngón tay trên cái tên Tương Liễu. Là ngươi ư? Là ngươi ư?

Miêu Phủ tò mò nhìn những cái tên trên bàn uống trà. Nàng không hiểu vì sao nửa đêm rồi mà Tiểu Yêu không chịu đi ngủ, vẫn còn ngồi ngơ ngẩn nhìn mấy cái tên.

Tiểu thư viết tên của bọn họ làm gì vậy?

Tiểu Yêu mỉm cười, xóa sạch những chữ viết trên bàn, khiến Miêu Phủ bỗng thấy lạnh người. Vẻ mặt của Tiểu Yêu khi ấy rất giống vẻ mặt của Bệ hạ khi ra lệnh cho Tiêu Tiêu trừ khử nàng, chỉ một câu ngắn gọn, không chút cảm xúc, nhưng can hệ đến tính mạng của vô số người.

– Tai Trái! – Tiểu Yêu gọi.

Tai Trái nhảy vào qua cửa sổ. Tiểu Yêu ra lệnh:

– Hãy đi ám sát tộc trưởng tộc Phòng Phong, nhưng đừng giết chết ông ta. Hãy thực hiện việc đó ba lần, để xem ông ta có thể điều động bao nhiêu cao thủ bảo vệ mình. Sau đó về báo với tôi.

Tai Trái không đáp, cũng không hành động.

Tiểu Yêu nói:

– Trước khi cậu về đây, tôi hứa không rời Tiểu Nguyệt Đỉnh nửa bước.

– Vậy thì được.

Tai Trái nói xong, lập tức rời đi.

Miêu Phủ rất lo lắng, nhưng nàng không đủ thời gian để bày tỏ sự lo lắng với Tiểu Yêu, nàng vội vã đuổi theo Tai Trái:

– Này, chờ tôi chuẩn bị ít đồ cho huynh đã. Nhớ nhé, tiểu thư không cần lấy mạng ông ta, vì thế huynh chớ có đến quá gần, chỉ rung cây dọa khỉ thôi, khiến ông ta cảm thấy mình gặp nguy hiểm là được…

Lát sau, Miêu Phủ dẩu môi, phụng phịu quay vào.

Tiểu Yêu cười, bảo:

– Đừng lo, Tai Trái thông minh, nhanh trí hơn em nghĩ nhiều. Chỉ cần không đụng phải…

Nụ cười trên môi Tiểu Yêu vụt tắt, chỉ cần cậu ta không đụng độ với gã đồng loại đáng sợ kia. Nhưng chắc chắn cậu ta sẽ có cách bảo vệ mình.

Miêu Phủ tức tối:

– Ai thèm lo lắng cho hắn! Ai thèm quan tâm đến kẻ hoang dã, thiếu lễ độ, thô lỗ, ngu si ấy!

Tiểu Yêu lắc đầu, có lẽ nên gọi phụ nữ bằng cái tên khác, đó là “nói một đằng nghĩ một nẻo”.

Sau hơn nửa năm tiến hành điều tra tỉ mỉ, Tiểu Yêu đã xóa hết những cái tên mà nàng lưu ý trước đó, chỉ còn lại một mình “Tương Liễu”.

Tiểu Yêu trằn trọc đêm ngày, chốc chốc nàng lại viết hai chữ Tương Liễu lên bàn, xuống nền đất, rồi ngơ ngẩn ngồi nhìn.

Thực ra, những gì cần phân tích nàng đều đã phân tích cả, hiện chỉ còn một câu hỏi quẩn quanh trong đầu nàng: Có phải chính ngươi đã gây ra chuyện đó?

Miêu Phủ rất lo cho Tiểu Yêu, nàng không biết Tiểu Yêu đang làm gì. Có lúc tiểu thư buồn tủi, hoang mang giống hệt một đứa trẻ bị bỏ rơi. Có lúc nàng sắc lạnh như thanh kiếm vừa ra lò, đang chờ để đâm vào người nào đó. Nếu là lúc khác, Bệ hạ chắc chắn sẽ phát hiện ra sự bất thường ở Tiểu Yêu. Nhưng Bệ hạ đang quay cuồng giải quyết hậu sự cho tướng quân Phong Long, nên mỗi lần ngài ghé thăm, vẻ mặt ngài rất đỗi mệt mỏi, ngài chỉ ngồi một lát rồi đi. Những lần ngài lưu lại lâu hơn đều là để bàn việc với Hoàng Đế Bệ hạ.

Tiêu Tiêu vẫn thường xuyên đến hỏi thăm tình hình của Tiểu Yêu, nhưng Miêu Phủ không dám nói, cũng không thể nói.

Nàng chỉ có một chủ nhân duy nhất là Tiểu Yêu, không được sự cho phép của Tiểu Yêu, nàng nói ra bất cứ lời nào cũng đều là phản bội Tiểu Yêu. Miêu Phủ đành báo cáo rằng mọi việc vẫn ổn.

Tiểu Yêu ngồi nghiêng trên giường, ngón tay nàng liên tục viết chữ Tương Liễu trong vô thức.

Miêu Phủ không cầm lòng nổi, bèn hỏi:

– Tiểu thư ngày nào cũng viết cái tên đó, thỉnh thoảng còn lặp đi lặp lại điệp khúc: “là ngươi, không phải ngươi”, rốt cuộc có ý nghĩa gì?

– Ta đang suy nghĩ xem có phải chính y gây ra chuyện đó. Nếu đúng là y, ta phải làm cách nào tìm ra chứng cứ?

Cuối cùng Miêu Phủ đã hiểu điệp khúc ấy có nghĩa gì. Nàng hỏi:

– Vậy nếu không phải y thì sao?

– Nếu không phải y, thì sẽ là một kẻ rất có quyền thế khác. Nhưng điều đó là không thể, vì ta đã điều tra tất cả bọn họ. Không lẽ ta để lọt kẻ nào đó?

Tiểu Yêu rất đỗi bực mình, nàng vò đầu bứt tai.

Miêu Phủ vội giữ tay nàng lại:

– Tiểu thư, tiểu thư!

Tiểu Yêu chán nản nằm xuống thì thấy Tai Trái đứng sau lưng Miêu Phủ. Không biết hắn vào phòng từ khi nào, hắn nhìn nàng chăm chú, đôi con ngươi đen láy, giống hệt cặp mắt của loài dã thú lạnh lùng, giảo hoạt.

Tiểu Yêu hỏi:

– Cậu muốn nói gì?

Tai Trái đáp:

– Không phải Tương Liễu đâu! Cô đã bỏ qua một người nắm trong tay quyền lực rất lớn.

– Làm gì có chuyện đó! Tiểu Yêu không tin, nàng chớp chớp mắt:

– Ai?

– Bệ hạ.

Tiểu Yêu bật dậy, trỏ mặt Tai Trái:

– Cậu… cậu… nói bậy bạ gì thế?

Tai Trái tỏ ra hết sức băn khoăn:

– Tôi nói sai gì sao? Bệ hạ không có quyền lực gì à? Nếu vậy thì có lẽ là tôi đã hiểu sai về quyền thế.

Điệu bộ của Tai Trái khiến Tiểu Yêu không có cách nào giận hắn. Nàng kiên nhẫn giảng giải để hắn hiểu:

– Bệ hạ là người rất có quyền thế, có thể nói là người có quyền thế lớn nhất thiên hạ. Nhưng cậu biết rõ tôi đang điều tra chuyện gì kia mà. Bệ hạ và…

Tiểu Yêu liếc Miêu Phủ, Miêu Phủ lập tức bịt tai lại, lẩn đi chỗ khác. Tiểu Yêu tiếp tục:

– Bệ hạ và Cảnh không có bất cứ ân oán gì, cũng không có mâu thuẫn về lợi ích.

Tai Trái bình thản nói:

– Họ có ân oán.

Tiểu Yêu cười:

– Cậu hiểu họ hơn tôi chắc? Cậu có hiểu thế nào là ân oán không hả?

– Tôi hiểu. Đó là tranh giành hang động tốt hơn, lãnh địa lớn hơn, nhiều con mồi hơn.

– Thôi được, đúng là rất giống kiểu tranh giành đó của loài dã thú. Vậy theo cậu, Bệ hạ tranh giành thứ gì với Cảnh?

– Mỗi độ xuân về, ngoài việc tranh giành hang động, lãnh địa, con mồi, dã thú còn tranh nhau thứ khác. Nếu các con đực cùng ưng ý một con cái, chúng sẽ quyết đấu, càng những con đực to khỏe, chúng đấu càng hăng.

Một lúc sau Tiểu Yêu mới hiểu ra ý tứ trong câu nói của Tai Trái, nàng nổi giận:

– Cậu… cậu…

– Bệ hạ và Cảnh đều yêu thích cô, nếu không ai trong số họ chịu từ bỏ, thì sẽ xảy ra quyết đấu.

Tiểu Yêu ra sức đập tay xuống giường:

– Nói năng xằng bậy! Ra ngoài!

Tai Trái lập tức nghe lệnh, ra ngoài. Tiểu Yêu nhảy xuống giường, rót một cốc nước, uống ừng ực.

Rõ ràng là những lời xằng bậy! Con người đâu thể giống dã thú.

Tiểu Yêu lắc đầu, như muốn gạt ra khỏi đầu những lời Tai Trái vừa nói.

Nhưng, những lời của Tai Trái vô hình trung đã gây tác động nhất định đến Tiểu Yêu. Bằng chứng là mỗi lúc Tiểu Yêu tĩnh tâm suy nghĩ tìm cách điều tra nguyên nhân cái chết của Cảnh, thì Chuyên Húc lại xuất hiện trong đầu nàng. Mỗi lúc như thế, Tiểu Yêu lại giật mình kinh sợ. Nàng lập tức nín thở, trấn an bản thân: Không thể nào, không thể nào, tuyệt đối không thể! Nhưng suy nghĩ vốn là thứ không thể kiểm soát, thỉnh thoảng trong đầu Tiểu Yêu lại vụt lên những cử chỉ, hành động giữa Chuyên Húc và Cảnh. Và rất nhiều chi tiết nhỏ nhặt mà nàng bỏ qua trước đó, nay được dịp tái hiện.

Lúc Phong Long hấp hối, Chuyên Húc nói với Phong Long:

– Làm vua vốn chẳng mong có bạn, càng không mong có được tri kỷ. Nhưng từ tận đáy lòng mình, ta vẫn luôn coi khanh là người bạn tri âm tri kỷ! Ngay cả người con gái ta trân quý nhất là Tiểu Yêu, ta cũng chỉ bằng lòng gửi gắm cho khanh!

Tiểu Yêu biết Chuyên Húc không ưa Cảnh. Nàng vốn cho rằng, đó là vì Cảnh từng khiến nàng đau lòng, và rằng Chuyên Húc thấy Cảnh không xứng với nàng. Chuyên Húc đánh giá cao Phong Long hơn Cảnh, và muốn nàng lấy Phong Long. Nhưng nay nàng đã biết tình cảm Chuyên Húc dành cho mình. Nên nhiều chuyện trước kia đã mang một sắc thái khác trong suy nghĩ của nàng. Nàng nhận thấy rằng, cảm nhận của nàng khác xa với thực tế, và điều đó càng thôi thúc nàng lục lại trí nhớ, để xem nàng đã bỏ qua bao nhiêu chuyện. Những ngày sau đó, Tiểu Yêu hầu như nằm dài cả ngày trên giường, và hồi tưởng những chuyện quá khứ.

Khi Phụ vương nàng công bố với toàn thiên hạ, nàng không còn là Vương cơ Cao Tân, ông ngoại nàng muốn ban cho nàng họ Hiên Viên, để nàng trở thành Vương cơ Hiên Viên tôn quý, đó là sự bảo hộ tốt nhất đối cho nàng khi ấy. Nhưng Chuyên Húc kiên quyết không đồng ý, hắn muốn nàng mang họ Tây Lăng. Đó là lần đầu tiên Chuyên Húc tranh cãi với Hoàng Đế… Khi đó, Tiểu Yêu chỉ mong được “môn đăng hộ đối” với Cảnh, nên nàng không truy xét vì sao Chuyên Húc không chịu để nàng trở thành Vương cơ Hiên Viên.



Đêm trước ngày thành hôn với A Niệm, Chuyên Húc bừng bừng tức giận, hắn đến gặp nàng và yêu cầu nàng không được tham dự hôn lễ của hắn.

Tiểu Yêu từng hỏi hắn:

– Huynh không lần nào thấy vui sao?

Chuyên Húc đáp:

– Không.

– Muội tin nhất định huynh sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, nhất định sẽ tìm được người huynh yêu thương…

– Ta cũng rất muốn biết cảm giác được lấyngười mình yêu thương sẽ thế nào. Ta muốn được một lần rung động thực sự. Ta muốn được đón nhận những lời chúc phúc của mọi người trong niềm hân hoan, hạnh phúc.

– Chắc chắn sẽ có ngày đó.

Chuyên Húc cười, bảo:

– Ta cũng nghĩ vậy. Chỉ cần ta nhẫn nại, chắc chắn sẽ chờ được ngày đó.

– Ừ. Chắc chắn vậy. Nhưng nếu ngày đó tới, huynh không được thiên vị cô ấy mà bạc đãi A Niệm.

Chuyên Húc mỉm cười âu yếm nhìn Tiểu Yêu. Nàng chọc ngón tay vào người hắn:

– Huynh cười gì thế?

Chuyên Húc cười, đáp:

– Nếu ta cưới được cô ấy, chuyện đó sẽ nghe theo cô ấy.

– Cái gì?

Tiểu Yêu thọc lét Chuyên Húc thật đau:

– Huynh… huynh đàn ông hơn một chút được không? Sao lại nghe theo cô ấy? Huynh là vua một nước kia mà!

Chuyên Húc thủng thẳng đáp:

– Điều này không liên quan đến bản lĩnh đàn ông. Tóm lại, nếu cưới được cô ấy, ta sẽ nghe theo cô ấy hết. Ta sẽ không làm những việc mà cô ấy không thích.

Tiểu Yêu thấy thọc lét hắn không khiến nàng hả giận, nàng chuyển sang cấu véo:

– Vậy nếu cô ấy không ưa muội, nói xấu muội với huynh, huynh cũng nghe lời cô ấy?

Chuyên Húc cười rung cả hai vai. Tiểu Yêu tức khí, véo hắn thật đau:

– Huynh trả lời đi chứ!

Chuyên Húc chỉ nhìn Tiểu Yêu và mỉm cười, mà không đáp.

Tiểu Yêu giơ hai bàn tay lên ngang đầu, khom khom hai ngón tay cái, tạo thành hình càng cua, chuẩn bị cắp nghiến kẻ địch. Nàng nửa đùa nửa thật:

– Huynh phải nói cho rõ ràng, huynh sẽ nghe cô ấy hay nghe muội?

– Nghe cả hai, được không?

– Không được.

– Biết đâu hai người đồng quan điểm.

– Thế những lúc bất đồng thì sao?

– Biết đâu không có lúc nào như thế.

Chiều muộn hôm đó, Chuyên Húc ghé Tiểu Nguyệt Đỉnh, thấy Tiểu Yêu biếng nhác nằm trên giường.

Hắn vén rèm, đến bên giường nàng, ngồi xuống:

– Muội làm sao thế? Gần đây cứ như người mất hồn, ông nội bảo muội không chịu ăn uống gì cả.

– Muội nghĩ về những chuyện cũ.

Chuyên Húc dịu dàng hỏi:

– Muội lại nhớ Cảnh phải không?

– Muội cũng nhớ nhiều chuyện về huynh nữa. Huynh còn nhớ không, có lần chúng ta cùng nhau dong thuyền ra biển chơi, bữa đó có cả Phong Long, Ý Ánh và Hầu. Khi ấy Hinh Duyệt vẫn là một thiếu nữ kiêu kỳ, hoạt bát… Mới đó mà… Phong Long, Ý Ánh và Hầu đã không còn nữa. Cảnh cũng bỏ muội mà đi.

Chuyên Húc sai Miêu Phủ:

– Đi lấy rượu, mang vào đây.

Chuyên Húc rót hai chén rượu. Tiểu Yêu nâng chén, uống cạn. Nàng lắc lư chiếc chén rỗng, chợt nở nụ cười, vẻ mặt nàng rất đỗi dịu hiền:

– Muội biết trong mắt huynh, Phong Long lúc nào cũng xuất sắc hơn Cảnh. Huynh luôn đánh giá thấp Cảnh, cho rằng chàng không có tầm nhìn xa trông rộng, chỉ biết kiếm tiền cho nhà Đồ Sơn, xử lý mọi việc đều bạc nhược, thiếu quyết đoán, không dẹp nổi Hầu và Ý Ánh.

Chuyên Húc nhớ lại những lời trăn trối của Phong Long, cảm thấy vô cùng khó chịu, hắn dốc cạn chén rượu, thẳng thắn thừa nhận:

– Đúng là ta từng nghĩ như vậy.

– Mọi người đều chỉ nhìn thấy muội cứu Cảnh, Cảnh theo đuổi muội, nhưng thực tế là, chính Cảnh đã cứu muội.

Chuyên Húc kinh ngạc nhìn Tiểu Yêu.

Nàng tiếp tục:

– Lúc rời khỏi Ngọc Sơn, muội chỉ là một đứa trẻ ngây ngốc, non nớt. Những chuyện xảy ra sau đó, muội đã kể cho huynh nghe nhưng không kể thật chi tiết. Không phải vì muội đã quên hết, mà vì quãng đời mấy mươi năm ấy chỉ toàn cay đắng, tủi nhục, muội không thể nói với huynh. Bị tên yêu quái cáo chín đuôi nhốt vào lồng, đánh đập, chửi bới, bị hắn ép ăn những thứ kinh tởm nhất trên đời, muội sống không bằng loài cầm thú. Khi ấy muội hận tất cả những người có thể hận. Muội hận họ bỏ rơi muội, khiến muội phải trải qua cơn ác mộng dai dẳng, kinh hoàng ấy. Muội đã sống sót, nhưng trái tim muội đầy những vết sẹo! Lần đầu tiên gặp Cảnh, muội thấy chàng nhem nhuốc, bẩn thỉu hơn cả đám ăn mày. Muội cứu chàng một cách rất tình cờ, chỉ là một cử chỉ nhón tay làm phúc, muội vốn chẳng bận tâm đến sự sống chết của chàng. Nhưng khi muội phát hiện ra những vết thương kinh hoàng trên cơ thể chàng, muội như thấy lại mình của nhiều năm về trước. Khi ấy, trong lòng muội bỗng trỗi lên một khát vọng mãnh liệt, muội mong chàng sống sót! Như thể chỉ cần chàng vượt qua được những đau thương trong quá khứ, và tiếp tục sống, thì trái tim muội cũng sẽ được chữa lành. Muội từng trải qua, nên muội rất hiểu, sau khi bị tra tấn, bị chà đạp, bị sỉ nhục tàn bạo, con người rất dễ trở nên cực đoan, lạnh lùng, đa nghi, họ không thể hòa nhã, lương thiện, và tin tưởng người khác như trước, chắc chắn không thể! Nhưng Cảnh đã làm được điều đó! Chàng khiến muội hiểu rằng, bất kể người khác đối xử với bạn ra sao, bạn vẫn có thể giữ cho trái tim mình mềm mại, đẹp đẽ. Huynh cho rằng chàng quá nhu nhược và thiếu quyết đoán khi đối phó với Hầu, nhưng nếu một ngày kia muội đột nhiên phản bội huynh, khiến huynh bị tổn thương, liệu huynh có thẳng tay trừ khử muội không?

Chuyên Húc nói chắc như đinh đóng cột:

– Không bao giờ có chuyện muội phản bội ta, càng không có chuyện muội khiến ta bị tổn thương!

– Cảnh cũng nghĩ về Hầu như vậy đó! Hầu là người anh mà Cảnh rất mực kính yêu và tin tưởng. Trước khi Hầu gây ra tội ác, Cảnh cũng giống như huynh bây giờ, tin tưởng hoàn toàn rằng Hầu không bao giờ làm tổn thương chàng. Muội vốn nghĩ, sau khi bị Hầu phản bội và làm tổn thương như vậy, chắc chắn Cảnh sẽ trở nên lạnh lùng, đa nghi, tàn bạo hơn trước, chàng sẽ thay đổi giống như muội và huynh. Nhưng chàng không như vậy! Huynh không cho rằng, đó cũng là một biểu hiện khác của sự kiên cường hay sao? Chúng ta tưởng chàng khác chúng ta, kỳ thực Cảnh đã lựa chọn phương cách của riêng mình để đánh bại những khổ nạn mà chàng gặp phải.

Chuyên Húc trầm ngâm không nói. Nếu là trước kia, thì dù hắn không đủ lý lẽ để phản bác, nhưng trong lòng hắn vẫn sẽ không tán đồng với nhận định của Tiểu Yêu. Nhưng giờ thì hắn không chắc. Một người có khả năng phân tích thời thế chuẩn xác như thế, một người hiểu thế nào là “đặt mình vào chỗ chết để tìm đường sống”, lẽ nào không biết phải trả thù thế nào sao?

Tiểu Yêu tiếp tục:

– Cảnh rất hiểu con người của muội. Muội từng nói với chàng: “Em sẽ không trao đi, và cũng không tin tưởng”. Chàng nói với muội: “Ta sẽ trao đi trước và sẽ tin tưởng nàng trước”. Trước khi chàng nói câu này, chàng đã vì muội mà làm rất nhiều việc. Thực lòng khi ấy muội rất cảm động, nhưng cảm xúc đó qua đi rất nhanh, bởi vì muội không tin! Muội cho rằng đó chỉ là tình cảm nhất thời, chàng chẳng thể tốt với muội mãi mãi! Con người là giống dễ thay đổi, hôm nay họ thực lòng với ta, không có nghĩa ngày mai họ vẫn thực lòng với ta. Huynh thử nói xem, nếu là huynh, sau đi trải qua kiếp nạn như vậy, liệu huynh có thể nói với ai đó rằng: “Ta sẽ trao đi, sẽ tin tưởng nàng trước”? Huynh có sẵn lòng thực hiện lời hứa đó không?

Chuyên Húc khẽ mấp máy môi, nhưng hắn không nói được lời nào.

Tiểu Yêu nói tiếp:

– Chúng ta giống nhau, chúng ta đều không thể làm được! Cảnh đã nỗ lực đến gần muội, nhưng muội chưa bao giờ thực sự tin tưởng chàng. Có thể nói, lúc nào muội cũng chuẩn bị sẵn cho mình đường lui. Tuy muội chưa bao giờ nói ra, nhưng muội tin Cảnh hiểu điều đó. Có thể trong mắt huynh, muội rất toàn vẹn, nhưng sự thực là, sẽ rất mệt mỏi khi phải sống với một người như muội!

Chuyên Húc bình thản nói:

– Có thể cậu ta đã hết lòng vì muội, nhưng cái mà ta nhìn thấy là, vì Phòng Phong Ý Ánh, cậu ta đã khiến muội bị tổn thương sâu sắc, đến mức hộc máu.

Tiểu Yêu thở dài:

– Đúng vậy, đúng là Cảnh cũng từng mắc lỗi. Nhưng lẽ nào muội thì không? Rõ ràng muội hoàn toàn có thể cùng chàng chung vai giải quyết việc đó, nhưng muội cố tình thờ ơ, tránh né, muội không làm gì cả, chỉ khoanh tay đứng nhìn. Muội chống mắt chờ xem Cảnh chứng minh tình yêu với muội như thế nào. Khi ấy muội còn chưa hiểu, yêu nhau thì có thể chỉ cần một người hy sinh vì người kia, nhưng muốn sống bên nhau, thì cả hai cùng phải nỗ lực không ngừng! Muội và chàng đã phạm sai lầm, nên phải chịu sự trừng phạt. Cả muội và chàng đều là những người mới yêu lần đầu, nên mắc lỗi là chuyện bình thường. Chỉ có điều, sai lầm của muội và chàng đã bị Phòng Phong Ý Ánh và Đồ Sơn Hầu lợi dụng.

Thời gian qua, Chuyên Húc không dám suy xét kỹ lưỡng những lời Phong Long nói trước khi ra đi, nhưng những lời nói đó vẫn quẩn quanh trong đầu hắn, thiêu đốt hắn. Lúc này, những cảm xúc dồn nén trong lòng được dịp bùng phát. Hắn bực mình, nói:

– Dù Cảnh có tốt đến đâu đi nữa, thì bây giờ muội nói những điều này với ta phỏng có ích gì? Dù thế nào thì Cảnh cũng đã chết.

Tiểu Yêu bóp nát cốc lưu ly trên tay, mảnh vỡ của chiếc cốc cắm vào lòng bàn tay nàng.

Chuyên Húc vội vàng kéo tay nàng lại, vừa lau sạch những mảnh vỡ, vừa xin lỗi:

– Xin lỗi, ta không biết mình làm sao nữa! Ta thấy muội không được vui, nên muốn cùng muội uống rượu giải khuây, nào ngờ… Thôi, không nhắc lại nữa. Muội muốn nói gì cứ việc, ta sẽ lắng nghe!

Chuyên Húc cúi đầu, tỉ mẩn nhặt sạch những mảnh vỡ của chiếc cốc vương trên tay Tiểu Yêu, hắn còn cẩn thận kiểm tra lại một lần nữa, rồi mới đắp thuốc cho nàng. Thực ra đó chỉ là vết thương thông thường, vậy mà Chuyên Húc khiến nó trở nên nghiêm trọng như thể Tiểu Yêu sắp gãy tay.

Tiểu Yêu chăm chú nhìn Chuyên Húc, những hình ảnh vụn vặt chợt hiện ra trước mắt nàng…

Tai Trái nói:

– Nếu các con đực cùng ưng ý một con cái, chúng sẽ quyết đấu, càng những con đực to khỏe, chúng đấu càng hăng.

Trong rừng phượng, Chuyên Húc cài hoa phượng lên tóc Tiểu Yêu, và hỏi:

– Nếu ta tìm thấy cô ấy, có phải ta nên giữ cô ấy thật chặt, không buông?

– Tất nhiên rồi!

Tiểu Yêu đáp dứt khoát:

– Nếu gặp được, huynh phải giữ cô ấy thật chặt.

Tai Trái nói:

– Bệ hạ và Cảnh đều yêu thích cô, nếu không ai trong số họ chịu từ bỏ, thì sẽ xảy ra quyết đấu.

Tương Liễu tươi cười, thủng thẳng đáp:

– Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì có vẻ cái chết của Đồ Sơn Cảnh là kết quả của cuộc tranh chấp huynh đệ tương tàn. Thực chất có kẻ đứng đằng sau muốn hãm hại Đồ Sơn Cảnh. Nếu không có sự tiếp tay của người này, Đồ Sơn Hầu không thể tới gần Đồ Sơn Cảnh.



Nước mắt Tiểu Yêu như chuỗi hạt đứt dây, rơi lã chã xuống tay Chuyên Húc. Hắn ngẩng lên nhìn và lo lắng hỏi:

– Sao vậy? Muội đau lắm à?

Tiểu Yêu không nói lời nào, nàng chỉ biết khóc.

Chuyên Húc hoảng hốt:

– Tiểu Yêu, muội đau ở đâu? Ta sẽ cho gọi Ngân ngay.

Tiểu Yêu hỏi:

– Chính huynh đã cử người đến thị trấn Thanh Thủy tiếp tay cho Đồ Sơn Hầu, đúng không?

Chuyên Húc thoáng giật mình, nhưng hắn lập tức tỏ ra như không. Nếu Chuyên Húc không nắm tay Tiểu Yêu, thì nàng sẽ không thể nhận ra biểu hiện khác lạ của hắn. Chuyên Húc hỏi:

– Vì sao muội hỏi vậy?

– Muội muốn biết sự thật. Chuyên Húc, có phải chính huynh cử người đến thị trấn Thanh Thủy tiếp tay cho Đồ Sơn Hầu?

Chuyên Húc muốn phủ nhận, nhưng tự tôn và lòng kiêu hãnh không cho phép hắn làm vậy. Hắn im lặng một lúc, rồi đáp:

– Chính là ta!

– Thì ra… là huynh!

Tiểu Yêu cứ ngỡ nàng đã trải qua nỗi đau lớn nhất trong đời, nhưng không phải, nỗi đau đớn tột cùng của con người là khi bị người thân nhất của mình cầm dao đâm vào ngực mình, moi tim mình, đập vỡ xương sống của mình, khiến lục phủ ngũ tạng của mình đau buốt, xương tủy của mình đau buốt, da thịt mình đau buốt, ngay cả mỗi nhịp thở cũng đau buốt. Những nỗi đau khổ trước kia không bằng một phần vạn nỗi đau của ngày hôm nay. Nàng đau đến nỗi nàng chỉ muốn rơi vào bóng đêm và chết đi. Tiểu Yêu nhắm mắt lại, nàng không muốn nhìn Chuyên Húc thêm một khắc nào nữa.

– Cút đi!

– Tiểu Yêu!

Chuyên Húc xiết chặt tay Tiểu Yêu, nhưng sức mạnh đáng sợ của nàng đã giúp nàng vùng thoát khỏi bàn tay hắn. Vết thương vừa băng bó khi nãy bung ra, máu nàng nhuộm đỏ tay hắn.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Trường Tương Tư (Tập 3.. Tình Xa) - Đồng Hoa

Postby tuvi » 18 May 2019

Chương 15: Lòng chưa nguôi yên

Chuyên Húc mở mắt, nhìn ra cửa sổ, thấy ráng chiều rực rỡ, trăm hoa đua nở. Lúc ấy hắn vẫn còn ngái ngủ, hắn cảm thấy khung cảnh này vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm, bỗng nhiên hắn không nhớ nổi mình đang ở đâu. Mãi tới khi nghe tiếng Huyền điểu vang vọng trong không gian, hắn mới tự nhủ: Đây là cung Thừa Ân? Thì ra hắn đang ở Ngũ Thần Sơn.

Mặc dù đã quen với khung cảnh này hơn hai trăm năm, nhưng không hiểu sao, nhiều lúc hắn cứ có cảm giác đang ở Triêu Vân Phong, chỉ cần mở mắt là được thấy hoa phượng rực đỏ như lửa, nghe tiếng Loan điểu hót vang thánh thót.

Chuyên Húc khẽ thở dài, vậy là hắn đã xa quê hơn hai trăm năm. Đường về cố hương sao vẫn xa xôi vời vợi, không biết ngày tháng năm nào hắn mới lại được ngắm hoa phượng trên Triêu Vân Phong, không biết cô gái từng nô đùa cùng hắn dưới gốc phượng giờ đây lưu lạc phương trời nào. Chắc là Tiểu Yêu lớn lắm rồi!

Có lẽ vì tự tận đáy lòng, hắn khao khát được trở về Hiên Viên Sơn, và nôn nóng muốn tìm gặp Tiểu Yêu, nên đêm qua hắn đã mơ một giấc mơ thật dài. Trong mơ, hắn tìm thấy Tiểu Yêu, nàng cùng hắn rời khỏi Ngũ Thần Sơn, trở về Hiên Viên Sơn yêu dấu, nơi đêm ngày họ hằng mong nhớ. Nhưng sau đó, hắn quyết định bỏ Hiên Viên Sơn và chọn Thần Nông Sơn. Tiểu Yêu luôn ở bên hắn suốt chặng đường dài giành lấy ngai vị Đế vương. Hắn thống nhất Đại hoang, nhưng hình như, hắn đã để mất Tiểu Yêu…

Đúng là một cơn các mộng! Chả trách hắn thấy vô cùng mệt mỏi, không muốn thức giấc.

Tiêu Tiêu bước vào, cung kính vái lạy:

– Bệ hạ, Hoàng hậu đã chờ suốt ba ngày ba đêm ngoài cửa. Thị nữ động viên mãi Hoàng hậu mới chịu đi nghỉ.

Chuyên Húc kinh ngạc bật dậy:

– Ngươi gọi ta là gì?

– Bệ hạ.

Chuyên Húc bóp trán, hàng lông mày xô lại:

– Ta là Bệ hạ? Ta là Bệ hạ từ khi nào? Hoàng hậu là…

– Tên cô ấy là Cao Tân Niệm, Vương cơ nước Cao Tân.

Thế là kí ức như nước vỡ bờ, xối xả tràn vào tâm trí hắn…

Giữa hồ Giao Trì, Tiểu Yêu trong bộ váy áo màu xanh lục, mỉm cười thẹn thùng nhìn hắn. Trên Ngũ Thần Sơn, Tiểu Yêu khoác áo choàng dài tha thướt, thêu hình Huyền điểu – đào hoa tuyệt đẹp, mỉm cười dịu dàng nhìn hắn. Trên điện Triêu Vân, Tiểu Yêu ngồi ghế dây đu, mỉm cười rạng rỡ nhìn hắn. Trước cổng phủ Thùy Lương, Tiểu Yêu lấy thân mình che chở cho hắn. Trong cung Tử Kim, Tiểu Yêu xiết chặt tay hắn và nói: Huynh làm gì muội cũng ủng hộ, chỉ cần huynh còn sống. Trong thành Trạch Châu, Tiểu Yêu giương cung bắn tên, hai người tác chiến ăn ý, mỉm cười nhìn nhau. Trên đỉnh Tiểu Nguyệt, ánh mắt nàng lạnh lùng băng giá, nàng giương cung bắn hắn. Trong rừng hoa phượng, Tiểu Yêu nằm gọn trong lòng hắn, từ từ trút hơi thở cuối cùng…

Chuyên Húc không rõ đầu hắn nhức buốt dữ dội, hay tim hắn đang tan nát, hắn chỉ biết, hắn vô cùng đau đớn, thống khổ, hắn gào lên thảm thiết, ôm đầu, đổ người xuống giường.

Tiêu Tiêu vội đỡ Chuyên Húc và gọi lớn:

– Ngân!

Thầy thuốc Ngân tức tốc chạy vào kiểm tra sức khỏe cho Chuyên Húc. Ông ta lắc đầu, ra dấu tay với Tiêu Tiêu. Tiêu Tiêu đọc to để Chuyên Húc hiểu:

– Sức khỏe của Bệ hạ không sao cả, đó là di chứng sau khi giải độc. Chờ khi Bệ hạ có thể nhớ lại thông suốt mọi sự, cơn đau sẽ tự động biến mất.

Chuyên Húc gượng dậy, hốt hoảng:

– Tiểu Yêu… Tiểu Yêu…

Ngân định ra dấu tay, nhưng Tiêu Tiêu lừ mắt cảnh cáo ông ta. Tiêu Tiêu bẩm báo:

– Tiểu Yêu chưa chết.

Chuyên Húc quỳ mọp trên giường, hai tay ôm mặt, toàn thân rung lên, cổ họng hắn phát ra thứ âm thanh kỳ quặc, như khóc như cười. Lần đầu tiên Tiêu Tiêu và Ngân thấy Chuyên Húc không kìm chế được cảm xúc như vậy, cả hai cùng sợ hãi quỳ sụp xuống bên giường, đầu cúi thấp, không dám nhúc nhích.

Rất lâu sau, Chuyên Húc mới ngẩng đầu lên, giọng hắn khản đặc:

– Vì sao ta còn sống?

Ngân ra dấu tay:

– Lượng chất độc không quá nhiều. Với tài dùng độc cao minh của Tiểu Yêu, không thể có chuyện do cô ấy sơ suất. Thần nghĩ, có lẽ cô ấy không có ý định lấy mạng Bệ hạ. Tuy loại độc mà cô ấy pha chế là kịch độc, nhưng cô ấy đã cho thần biết cách thức giải độc. Tuy Bệ hạ đã trúng độc, nhưng chỉ cần trong vòng sáu canh giờ tìm thấy Bệ hạ, là có thể cứu được người. Bằng cách, trong vòng hai mươi tư canh giờ kể từ lúc tìm thấy người, dùng nước Quy Khư thanh tẩy lục phủ ngũ tạng, là có thể giải độc hoàn toàn.

Chuyên Húc lẩm nhẩm:

– Tiểu Yêu, muội vẫn không nỡ giết ta…

Hắn không rõ mình đang vui hay đang buồn. Đột nhiên, hắn hỏi:

– Tiểu Yêu nương tay với ta, còn muội ấy thì sao?

Hắn nhai một bông hoa, Tiểu Yêu cũng nhai một bông hoa, nhưng trước đó, khi ngồi chờ hắn trong rừng hoa phượng, nàng đã ăn bao nhiêu bông hoa?

Ngân đáp:

– Lượng độc Tiểu Yêu đưa vào cơ thể cô ấy đủ để cô ấy ra đi vô phương cứu chữa.

Chuyên Húc bật dậy, Ngân vội làm dấu tay, Chuyên Húc không hiểu:

– Thế nào là không chết mà cũng không sống?

Chuyên Húc hỏi Tiêu Tiêu:

– Tiểu Yêu đang ở đâu? Ta muốn gặp muội ấy.

– Bệ hạ…

– Ta nói, ta muốn gặp muội ấy!

– Vâng!

Trên biển Quy Khư, một chiếc vỏ sò trắng muốt, được yểm bùa máu, bồng bềnh trong động pha lê. Tiểu Yêu im lìm nằm giữa những bùa chú ấy. Linh khí thủy linh bao phủ cơ thể nàng, tựa một làn khói nhẹ màu lam không ngừng trôi miên man, khiến nàng trở nên thật hư ảo. Chuyên Húc chìa tay ra, hắn muốn chắc chắn nàng vẫn tồn tại, nhưng sợ sẽ phá hỏng trận pháp, hắn đành rụt tay về, chăm chú nhìn nàng không chớp mắt.

Tiêu Tiêu nói:

– Tiểu thư trúng độc rất nặng, lúc thần tìm thấy Bệ hạ, thì cô ấy đã tắt thở. Nhưng Ngân phát hiện ra trái tim tiểu thư vẫn còn đập, dù nhịp đập vô cùng yếu ớt. Chúng thần lập tức đưa Bệ hạ và tiểu thư đến Quy Khư. Ngân cứu được Bệ hạ, nhưng không biết làm thế nào cứu tiểu thư. Sau đó, Hoàng hậu đem vỏ sò này tới, bảo hãy đặt tiểu thư vào trong đó, có thể sẽ có tác dụng. Sau vài ngày quan sát, Ngân nhận thấy vỏ sò này quả nhiên rất hữu dụng, vì nó giúp duy trì nhịp tim của tiểu thư. Ngân muốn tìm người đã bày ra trận pháp, yểm bùa lên vỏ sò này, nhưng Hoàng hậu nói, vỏ sò nằm trong kho báu của Ngũ Thần Sơn đã rất nhiều năm, Hoàng hậu cũng không rõ vị Tổ tiên nào có nhã hứng sưu tầm bảo vật này. Bạch Đế Bệ hạ cũng không hay biết, Hoàng hậu chỉ tình cờ phát hiện ra mà thôi.

Chuyên Húc hỏi Ngân:

– Tiểu Yêu có tỉnh lại không?

Ngân ra dấu tay:

– Tiểu Yêu không có ý định buông tha bản thân, lẽ ra cô ấy không thể sống sót, nhưng không rõ vì cơ thể cô ấy kháng độc tốt, hay vì nguyên nhân nào khác, mặc dù cô ấy đã ngừng thở, đã chết, nhưng điều kỳ lạ là trái tim cô ấy vẫn còn đập. Theo như tình hình hiện nay, thì có lẽ Tiểu Yêu sẽ chìm vào giấc ngủ vĩnh cửu. Thần không có cách nào khiến cô ấy tỉnh lại, nhưng có hai người có thể làm được việc đó.

– Ai?

– Một vị là Vương Mẫu ở Ngọc Sơn. Nghe nói bà ấy tinh thông trận pháp, có lẽ sẽ giải được trận pháp trên vỏ sò và giúp Tiểu Yêu tỉnh lại. Một vị nữa chính là người mà lần trước cứu Tiểu Yêu thoát chết khi thần phán đoán cô ấy đã lìa đời.

Chuyên Húc ra lệnh:

– Chuẩn bị xe mây, lập tức đi Ngọc Sơn.

Tiêu Tiêu và Ngân đưa mắt nhìn nhau. Tuy biết rằng không thể khuyên can Bệ hạ lúc này, nhưng họ không thể không lên tiếng:

– Bệ hạ vừa tỉnh lại, sức khỏe còn rất yếu, không nên đi ngay, xin hãy nghỉ ngơi một ngày rồi mai lên đường.

Chuyên Húc nhìn Tiểu Yêu đăm đắm, lạnh lùng bảo:

– Nửa canh giờ sau xuất phát!

Tiêu Tiêu cúi đầu thưa:

– Vâng!

Họ đi suốt ngày đêm không ngơi nghỉ. Đến Ngọc Sơn, Chuyên Húc để ám vệ vào thông báo, hắn muốn gặp Vương Mẫu.

Chỉ lát sau, một người đàn ông vận y phục màu đen vội vã ra đón. Người đó có cặp mắt hồ ly lúng liếng đa tình, và khi cất giọng thì thanh âm êm ái, du dương, mê hoặc lòng người, xua tan mọi nỗi mệt nhọc của đoàn khách phương xa vừa tới. Tệ Quân nói:

– Tôi và Liệt Dương đang bàn với nhau đến Thần Nông Sơn đón Tiểu Yêu về chơi, không ngờ cậu lại tới đây. Chuyên Húc, sai rồi, phải gọi ngài là Bệ hạ chứ! Ngọc Sơn vốn không quan tâm đến chuyện trần gian, tuy có nghe Bệ hạ đã thống nhất Đại hoang, nhưng không rõ thực hư ra sao. Tiểu Yêu có theo ngài tới đây không?

Chuyên Húc muốn cười, nhưng trước mặt Tệ Quân, hắn không thể giả vờ, hắn mỏi mệt nói:

– Tiểu Yêu cũng tới, nhưng… muội ấy bị ốm, ta tới Ngọc Sơn cậy nhờ Vương mẫu cứu giúp.

Tệ Quân nhìn vỏ sò màu trắng mà đám thị vệ khiêng trên vai, thu lại vẻ cười khi nãy, nghiêm nghị nói:

– Mời theo tôi.

Tệ Quân vừa đi vừa nói khẽ với Chuyên Húc:

– Lần trước khi ngài và Tiểu Yêu tới đây, Vương mẫu đã nói, người chỉ sống được vài trăm năm nữa. Mấy năm gần đây, sức khỏe Vương mẫu suy giảm nghiêm trọng, người thường mất trí nhớ. Đôi lúc không biết mình đang ở đâu. Tôi và Liệt Dương không dám rời người nửa bước. Mấy ngày trước, khi Vương mẫu đang trong trạng thái minh mẫn, người đã bàn bạc với chúng tôi về việc truyền ngôi cho đời Vương mẫu kế tiếp. Chúng tôi sợ rằng Vương mẫu sắp đi xa, nên muốn đi đón Tiểu Yêu về, để con bé được tiễn người lên đường.

Chuyên Húc thấy lòng buồn ảo não, vẫn biết sinh lão bệnh tử là vòng luân hồi tất yếu của đời người, nhưng khi phải chứng kiến những người thân quen của mình lần lượt ra đi, hắn không tránh khỏi cảm giác trống trải, thê thiết.

Tệ Quân nói:

– Lúc này Vương mẫu đang rất tỉnh táo, nên nhờ người kiểm tra tình trạng sức khỏe cho Tiểu Yêu ngay.

Vương mẫu mình hạc sương mai, gầy guộc héo hon, nhưng sắc mặt vẫn rạng rỡ. Sau khi nghe Chuyên Húc trình bày, bà lệnh cho Liệt Dương mở nắp vỏ sò. Vỏ sò màu trắng chầm chậm mở ra, Tiểu Yêu hệt như một viên ngọc trai giấu mình nhiều năm trong vỏ sò khổng lồ. Vương mẫu kiểm tra sức khỏe của Tiểu Yêu, sau đó quan sát bùa chú trên vỏ sò một lát, bà phát hiện ra, đó là trận pháp giúp duy trì mạng sống. Không biết Chuyên Húc làm thế nào có được bảo bối quý hiếm này. Vương mẫu phất tay, đậy nắp vỏ sò lại, căn dặn Liệt Dương:

– Đặt vỏ sò xuống đáy Dao Trì.

Chuyên Húc thất kinh, vội vã ngăn Liệt Dương lại:

– Vương mẫu!

Vương mẫu nở nụ cười hiếm hoi, ôn tồn bảo:

– Ta không hồ đồ đến nỗi giết người của Bệ hạ trước mặt ngài đâu. Huống hồ, Tiểu Yêu là đứa trẻ ta đã nuôi dưỡng bảy mươi năm.

Chuyên Húc thở phào:

– Người khỏe mạnh cũng không thể ở lâu dưới đáy Dao Trì, huống hồ Tiểu Yêu còn yếu như vậy… Ta không biết những năm qua Tiểu Yêu đã gặp phải chuyện gì, nhưng cơ thể nó…

Vương mẫu chợt hiểu, thì ra Chuyên Húc không hề hay biết chuyện này, không rõ vì Tiểu Yêu không muốn nói, hay vì ngay cả bản thân Tiểu Yêu cũng không hay biết. Dù là nguyên nhân gì, bà cũng không nên nhiều lời.

– Ta cũng không biết phải nói thế nào, nhưng ta chắc chắn cơ thể của Tiểu Yêu không sợ nước. Tiểu Yêu đã ngừng thở, nếu không nhờ vỏ sò này, trái tim con bé sớm đã ngừng đập. Đưa nó xuống đáy Dao Trì sẽ chỉ có lợi cho sức khỏe của nó mà thôi.

Chuyên Húc không ngăn cản Liệt Dương nữa, nhưng hắn tự mình nhấc bổng vỏ sò, đi về hướng Dao Trì. Vương mẫu trông theo Chuyên Húc, bà thấy xúc động khi nhìn dáng vẻ lo lắng, đau khổ của hắn.

Chuyên Húc đặt vỏ sò xuống đáy Dao Trì theo sự chỉ dẫn của Vương mẫu.

Vương mẫu nửa đùa nửa thật, thử lòng hắn:

– Liệt Dương có một viên ngư đan, nếu Bệ hạ không yên tâm, có thể ngậm ngư đan và xuống kiểm tra.

– Được!

Chuyên Húc không ngần ngại, nhận lấy viên ngư đan và nhảy xuống Dao Trì.

Trên bờ, mọi người đưa mắt nhìn nhau.

Nửa canh giờ sau, Chuyên Húc mới trồi lên mặt nước, bay đến trước mặt Vương mẫu, thành khẩn nói:

– Xin Vương mẫu giúp Tiểu Yêu tỉnh lại.

Vương mẫu nói:

– Ta không có cách nào đánh thức Tiểu Yêu, ta chỉ có thể phán đoán, với tình trạng như hiện nay, nó sẽ không chết. Có thể con bé sẽ ngủ hai, ba mươi năm rồi tỉnh, có thể là hai, ba trăm năm hoặc lâu hơn nữa.

Tệ Quân và Liệt Dương rất lo cho Tiểu Yêu, nhưng khi biết nàng sẽ tỉnh lại, họ thấy yên tâm hơn. Họ sống trên Ngọc Sơn, năm tháng không có nhiều ý nghĩa, đôi khi họ bế quan tu luyện cả mấy chục năm, nên họ cảm thấy hai, ba trăm năm chỉ như thoáng qua. Nhưng Chuyên Húc thì khác, hai, ba trăm năm là bao vật đổi sao dời, bãi bể nương dâu, bao nhiêu vui buồn, chia ly, thậm chí là cả cuộc đời. Vừa tỉnh lại, Chuyên Húc đã phải lặn lội ngày đêm để đến Ngọc Sơn. Lúc này, nghe bảo rất có thể mấy trăm năm nữa Tiểu Yêu cũng không tỉnh lại, hắn chao đảo, chực ngã. Tiêu Tiêu vội chạy lại đỡ hắn.

Vương mẫu bỗng nhiên không nói không rằng bỏ đi mất, Liệt Dương hóa thành Lang điểu màu trắng, đuổi theo bà.

Tệ Quân nói với Chuyên Húc:

– Vương mẫu lại đãng trí rồi. Để ta đưa ngài về nghỉ ngơi. Nhưng Ngọc Sơn vốn có quy định, không cho phép đàn ông ở lại quá lâu, nhiều nhất là ba đêm. Ba ngày sau, mời Bệ hạ rời khỏi đây.

Tiêu Tiêu bất mãn:

– Vậy ngài và Liệt Dương thì sao?

Tệ Quân chớp chớp cặp mắt hồ ly tinh quái:

– Chúng tôi không phải đàn ông, tôi là cáo, Liệt Dương là chim.

Tiêu Tiêu đỏ mặt, vội nhìn đi hướng khác.

Chuyên Húc nói với Tệ Quân:

– Xin hãy sắp xếp chỗ ở cho đoàn tùy tùng của ta, ta sẽ nghỉ ngơi bên hồ Dao Trì.

Tệ Quân thoáng sững sờ:

– Ngọc Sơn bốn mùa ấm áp như tiết xuân, thế nên ngủ ngoài trời cũng không sao cả. Cách Dao Trì không xa có một đình hóng gió, chỉ cần đặt một chiếc giường gỗ, trải chăn, căng màn là có thể nghỉ ngơi thoải mái.

Đêm khuya, Chuyên Húc không sao chợp mắt nổi, hắn ngồi trong đình hóng gió, đăm đắm nhìn về phía Dao Trì. Rồi đột nhiên, hắn ngậm ngư đan, lặn xuống đáy hồ, quyết định đi thăm Tiểu Yêu.

Vỏ sò hình chiếc quạt mở ra, mép vỏ sò dập dờn như sóng biển, dưới ánh sáng của đèn minh châu, Tiểu Yêu hệt như đang nằm nghỉ trên những con sóng màu trắng. Gương mặt nàng bình yên, an lành, khóe môi khẽ uốn cong như thể vừa mơ một giấc mơ đẹp.

Chuyên Húc lặng ngắm nàng, hắn thấy thật khó để đưa ra quyết định. Hắn có thể đi tìm Tương Liễu, nhờ y đánh thức nàng. Hắn đủ khả năng đáp ứng điều kiện của Tương Liễu, cùng lắm hắn sẽ để cho nghĩa quân của Cộng Công sống thêm vài chục năm nữa. Nhưng việc đánh thức nàng có thực sự tốt cho nàng không?

Những năm tháng qua, lúc nào hắn cũng có nàng bên cạnh. Dù xảy ra chuyện gì, nàng luôn ở sau lưng hắn. Hắn đánh thức nàng vì muốn nàng mãi ở bên hắn như trước đây. Nhưng, nếu tỉnh lại, liệu nàng có bằng lòng ở lại bên hắn không?

Hắn đã giết Cảnh!

Trước khi chết, hắn đã rất hối hận: “Ta sai rồi!” Hắn nói lời xin lỗi, không chỉ vì Tiểu Yêu, mà còn vì hắn nợ Cảnh. Tiểu Yêu bảo: “Muội tha thứ cho huynh!” Nhưng, đó là vì nàng biết rằng nàng và hắn sắp sinh ly tử biệt. Nàng không thể trả thù cho Cảnh, nên nàng đã chọn cái chết, nàng lựa chọn phương thức tàn nhẫn nhất để rời xa hắn.

Chuyên Húc biết rõ rằng, dù nàng có tỉnh lại, cũng sẽ không bao giờ chịu ở lại bên cạnh hắn. Buộc nàng tỉnh giấc trong nỗi đau khôn nguôi, chi bằng để nàng ngủ yên mãi mãi.

Tháng năm dằng dặc có thể khiến thiếu nữ như hoa trở thành bà lão nhăn nheo, héo hon, có thể khiến chàng trai hừng hực tráng trí trở thành bộ xương khô, khiến bãi bể biến thành nương dâu, khiến những thăng trầm trở thành nỗi niềm khắc cốt ghi tâm, và cũng có thể khiến những nỗi niềm khắc cốt ghi tâm trở thành ký ức.

Chuyên Húc khẽ hôn Tiểu Yêu, lòng thầm nói:

– Mong là khi tỉnh lại, muội sẽ quên đi tất cả! Dù muội muốn ngủ bao lâu ta cũng sẵn lòng đợi. Ta sẵn lòng đợi cho đến ngày muội bằng lòng cùng ta làm lại từ đầu! Một trăm năm, một nghìn năm ta vẫn sẽ đợi!

Ba ngày sau, Chuyên Húc chào từ biệt Vương mẫu, rời khỏi Ngọc Sơn.

Trước lúc ra đi, Chuyên Húc nói với Vương mẫu, nhưng thực chất là nói với Liệt Dương và Tệ Quân:

– Xin làm phiền các vị. Chờ khi ta tìm được một hồ nước có đủ linh khí cần thiết cho Tiểu Yêu dưỡng bệnh ở Thần Nông Sơn, ta sẽ đến đón muội ấy.

Về đến Thần Nông Sơn, Chuyên Húc vội vã tới thăm Hoàng Đế.

Kể từ ngày Chuyên Húc lên ngôi, đây là lần đầu tiên Hoàng Đế nổi trận lôi đình:

– Cháu có biết cháu có ý nghĩa như thế nào đối với thiên hạ này không? Nếu cháu chẳng buồn quan tâm, thì vì sao ngày đó còn lựa chọn con đường này? Năm xưa, ta đã cho cháu cơ hội để chọn lựa, chính cháu đã chọn con đường này cho mình.

Ngài nghĩ đủ mọi cách ngăn chặn Tiểu Yêu giết Chuyên Húc, nhưng chính hắn đã sai ám vệ phá bỏ mọi chướng ngại ngài sắp đặt, và tự mình nạp mạng cho Tiểu Yêu.

Chuyên Húc quỳ xuống, đáp:

– Cháu biết rất rõ cháu có ý nghĩa như thế nào với thiên hạ.

Hoàng Đế quát lớn:

– Nếu đã biết, vì sao vẫn đến gặp Tiểu Yêu?

Chuyên Húc trầm ngâm, vẻ mặt hắn nhuốm bi thương, một lát sau, hắn đáp:

– Cháu luôn cho rằng, Tiểu Yêu sẽ không vì Cảnh mà giết cháu. Trong lòng muội ấy, cháu quan trọng hơn Cảnh!

Hoàng Đế tức nghẹn, chỉ thẳng vào mặt Chuyên Húc, cánh tay ngài run lên:

– Cháu… cháu… cháu dám đem tính mạng của mình ra đánh cược, để biết trong lòng Tiểu Yêu ai quan trọng hơn ai sao?

Chuyên Húc mỉm cười:

– Thực tế đã chứng minh, Tiểu Yêu không giết cháu.

– Nhưng nó cũng không chọn cháu. Nó thà chết, nhất quyết không chịu sống bên cháu.

Chuyên Húc mím chặt môi, gương mặt vô cảm.

Hoàng Đế hít thở sâu liền mấy hơi, cố gắng kìm nén cơn giận dữ:

– Đây là lần cuối cùng, hãy nhớ cho kỹ, đây là lần cuối cùng!

Khóe môi Chuyên Húc khẽ uốn cong, hắn nở nụ cười cay đắng với Hoàng Đế:

– Trên đời này chỉ có một Tiểu Yêu mà thôi, ông muốn cháu có lần thứ hai cũng không thể nữa.

Người đời thường nói “món nợ nữ nhi”, bây giờ Hoàng Đế mới thấu hiểu câu nói đó. Ngài vốn vô cùng tức giận, nhưng thấy bộ dạng đau khổ của Chuyên Húc, ngài không khỏi xót thương hắn:

– Đứng lên đi!

Chuyên Húc lạy Hoàng Đế ba lạy rồi mới đứng dậy và ngồi xuống.

Hoàng Đế nói:

– Hãy viết thư cho Bạch Đế. Tiểu Yêu nhờ cậy Bạch Đế truyền nghề cho Tai Trái, giúp cậu ta có cuộc sống ổn định với người vợ của mình. Bạch Đế lo lắng Tiểu Yêu xảy ra chuyện, nên mới viết thư hỏi ta. Nếu không vì lo lắng Hiên Viên Sơn sẽ bất ổn khi ông ấy đi xa, ta tin Bạch Đế sẽ lập tức đến đây tìm hiểu mọi chuyện. Cháu tự mình giải thích với ông ấy đi.

– Cháu sẽ giải thích với Phụ vương.

– Xích Thủy Hải Thiên đã giúp chọn ra tân tộc trưởng tộc Xích Thủy, nguy cơ tạm thời đã được hóa giải, nhưng cháu đừng quên Xích Thủy Hải Thiên muốn gì.

– Xích Thủy Hải Thiên muốn lấy mạng Cộng Công và Tương Liễu, trả thù cho cháu trai ông ta. Sở dĩ cháu bày ra kế sách “từng bước tiêu diệt”, một là vì không muốn gây xung đột với các dòng họ ở Trung nguyên, hai là để giảm thiểu tối đa hy sinh mất mát. Nhưng nay Phong Long đã chết, kế sách đó sẽ khiến họ Xích Thủy và họ Thần Nông không vừa lòng, họ sẽ cho rằng cháu thờ ơ với cái chết của Phong Long. Trên đường về đây, cháu đã quyết định sẽ dốc toàn lực tiêu diệt quân đội của Cộng Công, đem tính mạng của bọn chúng tế bái vong linh Phong Long.

Hoàng Đế gật đầu hài lòng. Phàm những việc không liên quan đến Tiểu Yêu, Chuyên Húc đều xử lý rất sáng suốt.

Chiều hoàng hôn, ánh mặt trời như dát vàng muôn nơi, mây chiều rực rỡ.

Trên Ngọc Sơn, muôn dặm hoa đào đua nở, sắc hoa ánh lên dưới ráng chiều diễm lệ, đẹp không sao tả xiết. Một con đại bàng mỏ vàng lông trắng lao vút đi giữa hoàng hôn tuyệt đẹp. Tương Liễu đứng trên lưng đại bàng, áo trắng, tóc trắng, tung bay trong gió, đẹp tựa tiên nhân.

Tệ Quân trong y phục màu đen, lặng lẽ chờ đợi giữa rừng hoa đào. Nhìn thấy Tệ Quân, Tương Liễu nhảy khỏi lưng chim, nhẹ nhàng đỗ xuống trước mặt Tệ Quân, những cánh đào tươi thắm, lả tả trong gió.

Tương Liễu cúi chào Tệ Quân:

– Tôi đến thăm Vương mẫu, nghĩa phụ bảo tôi tới tạ ơn Vương mẫu vì đã nhiều lần tặng rượu bàn đào cho người. Rượu bàn đào đã giúp những cơn đau thường niên của nghĩa phụ thuyên giảm rất nhiều.

Tệ Quân nói:

– Vương mẫu không còn minh mẫn nữa, e là sẽ không nhận ra cậu, chi bằng nghỉ lại một tối, sáng sớm mai hãy vào gặp người.

Tương Liễu biết rõ bệnh tình của Vương mẫu, nên không tỏ ra ngạc nhiên, y lịch sự nói:

– Xin nghe theo sự sắp xếp của Tệ Quân.

– Vẫn chọn nơi cũ chứ?

– Vâng.

Tệ Quân giơ tay, mời Tương Liễu.

Tương Liễu khẽ cúi người:

– Làm phiền huynh!

Hai người so vai đi cạnh nhau. Đến nơi ở của Tương Liễu, Tệ Quân không về ngay mà lấy rượu bàn đào ra, cùng chén thù chén tạc với Tương Liễu.

Vương mẫu kết nghĩa huynh muội với Viêm Đế, nên bà dành nhiều sự quan tâm hơn cho Cộng Công. Nhưng vì Ngọc Sơn cách biệt với hồng trần, không màng thế sự, tuy Vương mẫu thường sai người mang tặng Cộng Công linh dược, linh thảo, nhưng bà không khi nào hỏi thăm những chuyện khác.

Tương Liễu nhiều lần qua lại Ngọc Sơn, là chỗ bằng hữu với Tệ Quân. Mỗi lần gặp gỡ hai người lại cùng nhau thù tạc dưới trăng, trong vườn hoa. Họ chuyện trò về những món ăn ngon, những cảnh trí đẹp, những vùng miền khác nhau. Nếu nổi hứng, họ sẽ chơi đàn, thổi sáo, hò hát, và không khi nào bàn luận chuyện thế gian.

Trời phú cho Tệ Quân giọng nói mê hoặc lòng người, ngay cả Liệt Dương cũng không dám nghe Tệ Quân hát. Sau khi biến thành người, Tệ Quân rất hiếm khi cất giọng, nhưng lần nào hát cũng khiến Ngọc Sơn náo loạn. Kể từ đó, Tệ Quân không bao giờ hát nữa. Nhưng Tương Liễu không sợ hãi, nghe nói giọng hát của Tệ Quân mê ly lạ thường, Tương Liễu liền chủ động mời Tệ Quân hát cho y nghe.

Tệ Quân nói:

– Ta là yêu quái Tệ Tệ, giọng hát có thể khiến thần trí người ta điên đảo, mê loạn đó.

Tương Liễu cười, bảo:

– Tôi là yêu quái chín đầu, rất khó có thể khiến cho cả chín cái đầu của tôi cùng lúc bị mê loạn! Nếu thật sự bị huynh mê hoặc, thì đó cũng là một sự trải nghiệm thú vị. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hổ thẹn với việc mình làm.

Chính nhờ tính cách thẳng thắn, khảng khái đó, mà Tệ Quân và Tương Liễu có nhiều sự đồng điệu. Chỉ có điều, một người xuất thế, không bị ràng buộc bởi mọi sự trong nhân gian, một người nhập thế, bị ràng buộc bởi bao điều phiền lụy. Tuy sống ở những bối cảnh khác nhau, nhưng vẫn hiểu nhau, ấy mới là mối giao tình của bậc quân tử vậy.

Khi vầng trăng chênh chếch trên đỉnh ngọn cây, Tệ Quân mới ngật ngưỡng ra về.

Khi bốn bề tịch lặng như tờ, Tương Liễu thình lình mở mắt, ánh mắt y sáng rõ, hoàn toàn tỉnh táo. Y rời khỏi phòng, lướt đi như gió về phía Dao Trì.

Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu trời xanh thẫm như ngọc, ánh trăng dát vàng khắp mặt hồ, làn nước Dao Trì lăn tăn, lấp lánh ánh bạc. Tương Liễu lặng lẽ lặn xuống hồ Dao Trì như loài cá, chớp mắt đã không thấy bóng y đâu, chỉ còn lại những dải sóng dập dềnh, bềnh bồng.

Tương Liễu bơi miết với tốc độ cực nhanh, chỉ một lát sau, y đã trông thấy vỏ sò khổng lồ màu trắng.

Bên ngoài vỏ sò có trận pháp do Liệt Dương và Tệ Quân bày ra, Tương Liễu không dám manh động. Y kiểm tra một lượt trận pháp đó, và không khỏi trầm trồ, chả trách không kẻ nào dám coi thường Ngọc Sơn. Y không có cách gì có thể nhanh chóng phá vỡ trận pháp này, muốn tiếp cận Tiểu Yêu, y buộc phải liều lĩnh xông vào. Nhưng nếu làm vậy, Liệt Dương và Tệ Quân chắc chắn sẽ phát hiện ra. Suy ngẫm một lát, Tương Liễu quyết định bày một trận pháp khác bên ngoài trận pháp của Liệt Dương và Tệ Quân. Trận pháp lập ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi thế này, chắc chắn không thể giữ chân Liệt Dương và Tệ Quân được lâu, nhưng chí ít có thể giữ họ lại bên ngoài một khoảng thời gian nhất định.

Sau khi bày xong trận pháp của mình, Tương Liễu lập tức xông vào trận pháp mà Liệt Dương và Tệ Quân bày ra để bảo vệ Tiểu Yêu. Tương Liễu vừa mở được vỏ sò và bế Tiểu Yêu lên, thì Liệt Dương và Tệ Quân cũng vừa xuất hiện ở Dao Trì, nhưng cả hai đã bị trận pháp của Tương Liễu kìm chân bên ngoài.

Tệ Quân khẩn thiết:

– Tương Liễu, xin đừng hại đến Tiểu Yêu. Bằng không ta và Liệt Dương sẽ lấy mạng cậu đó.

Tương Liễu không có thời gian để trò chuyện, y triệu gọi đàn cá ngũ sắc xây tường chắn. Đàn cá đông đảo nối đuôi nhau, chồng chồng lớp lớp, tạo thành hình vòng tròn, giống hệt một quả bóng ngũ sắc, che chắn, bao bọc Tương Liễu và Tiểu Yêu. Bên ngoài vẫn vang lên những tiếng động thình thình, đó là cuộc tấn công nhằm phá vỡ trận pháp của Tệ Quân và Liệt Dương. Nhưng bên trong, dường như là một thế giới hoàn toàn khác, yên tĩnh, tịch lặng, chỉ có Tiểu Yêu và y.

Tương Liễu ôm Tiểu Yêu trên tay, y ngồi xếp bằng trong vỏ sò, cắn rách đầu lưỡi, đem tinh huyết của cơ thể mình bón cho Tiểu Yêu. Sâu tình nhân kết nối trái tim của hai người, nên chỉ cần Tiểu Yêu còn hơi thở, tinh huyết của Tương Liễu sẽ tiếp sự sống cho nàng.

Trận pháp của Tương Liễu bị phá vỡ, Liệt Dương và Tệ Quân cùng xông vào. Liệt Dương nổi giận đùng đùng, tung một chưởng, quả cầu cá ngũ sắc tan rã, đàn cá sợ hãi bơi tán loạn, chúng nối đuôi nhau tạo nên những vệt ánh sáng đủ mọi màu sắc xung quanh Tương Liễu và Tiểu Yêu, tạo nên một cảnh sắc đẹp huyền hoặc.

Liệt Dương biết thể chất của Tiểu Yêu rất đặc biệt, thoạt nhìn tư thế của Tương Liễu và Tiểu Yêu, Liệt Dương cho rằng Tương Liễu đang hút linh khí của Tiểu Yêu để luyện công. Quá tức giận, Liệt Dương tung chưởng nện xuống lưng Tương Liễu.

Vì đang trong thời khắc vô cùng quan trọng để đánh thức Tiểu Yêu, nên Tương Liễu không dám động đậy, y đành cắn răng chịu đựng đòn tấn công của Liệt Dương. May mà Tệ Quân là người tinh ý, đã nhận ra có điều gì khác thường, mới ra tay bảo vệ Tương Liễu.

– Ngươi làm gì thế?

Liệt Dương trừng mắt nạt nộ Tệ Quân, và định bụng tiếp tục tấn công Tương Liễu.

Tệ Quân giữ Liệt Dương lại, truyền thanh âm:

– Hình như cậu ta không có ý hại Tiểu Yêu, sự sống trong cơ thể Tiểu Yêu càng lúc càng tràn đầy.

Liệt Dương vốn là yêu quái Lang điểu tu luyện nhờ nguồn sức mạnh hợp lại từ Ngu Uyên và Thang Cốc, nên khứu giác và thị giác của Liệt Dương tinh nhạy hơn bất cứ người nào trong Thần tộc, dù cho linh lực của người đó có cao siêu đến đâu. Liệt Dương thử cảm nhận, và phát hiện thấy đúng như Tệ Quân nói, sự sống trong cơ thể Tiểu Yêu đang ngày một căng tràn. Liệt Dương lẩm bẩm:

– Thật lạ lùng, chắc chẳng phải thứ gì tốt đẹp!

Tuy cằn nhằn như vậy, nhưng sợ làm ảnh hưởng đến Tương Liễu, Liệt Dương không gây ồn nữa, lẳng lặng ngoi lên mặt hồ, làm nhiệm vụ canh gác.

Chừng nửa tuần trà sau, Tương Liễu bế Tiểu Yêu trồi lên mặt nước. Y nói với Tệ Quân và Liệt Dương:

– Cảm ơn hai vị giúp đỡ.

Liệt Dương chìa tay, lạnh lùng bảo:

– Trả Tiểu Yêu cho chúng tôi.

Tương Liễu cúi đầu nhìn Tiểu Yêu, không đáp lại, cũng không nhúc nhích, để mặc Liệt Dương giành lấy Tiểu Yêu từ tay y.

Tuy cảm nhận được sự sống tràn đầy trong cơ thể Tiểu Yêu, nhưng Tệ Quân vẫn thận trọng cầm cổ tay Tiểu Yêu, vận linh lực kiểm tra sức khỏe của nàng. Quả nhiên, mọi thứ đều đã ổn định trở lại. Lẽ ra Tiểu Yêu có thể tỉnh lại ngay lúc này, nhưng có vẻ như Tương Liễu muốn nàng tiếp tục say giấc, nên đã hóa phép, khiến tâm thức nàng ngủ yên.

Tệ Quân nói với Liệt Dương:

– Huynh đưa Tiểu Yêu về nghỉ ngơi đi, có lẽ ngày mai cô bé sẽ tỉnh lại.

Liệt Dương định đưa Tiểu Yêu đi thì Tương Liễu lên tiếng:

– Khoan đã!

Liệt Dương nhướn mắt nhìn Tương Liễu:

– Cuộc chiến giữa ngươi và Hắc Đế không liên quan đến Tiểu Yêu. Nếu ngươi dám làm gì Tiểu Yêu, ta và A Tệ sẽ đi giết Cộng Công, sau đó sẽ giết ngươi!

Hiểu tính khí của Liệt Dương nên Tương Liễu không lấy thế làm phật ý. Y quay sang Tệ Quân, bình tĩnh nói:

– Hãy để Tiểu Yêu ở lại, tôi có chuyện muốn nói riêng với huynh.

Ngẫm ngợi một lát, Tệ Quân giành lại Tiểu Yêu từ tay Liệt Dương. Liệt Dương hậm hực tức giận, không nói không rằng, biến thành Lang điểu, bay đi mất.

Tệ Quân bẻ cành hoa đào, hóa phép thành một chiếc thuyền hình hoa đào xinh xắn, nhẹ nhàng đặt Tiểu Yêu lên thuyền.

Tương Liễu lẳng lặng theo dõi nhất cử nhất động của Tệ Quân. Y đứng dưới bóng trăng vằng vặc, dáng vẻ thanh cao, thoát tục, toàn thân y hệt như một khối băng tuyết được điêu khắc mà thành.

Sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho Tiểu Yêu xong xuôi, Tệ Quân mới quay ra nhìn Tương Liễu. Tệ Quân trỏ tay về phía vỏ sò màu trắng, ôn tồn bảo:

– Vương mẫu đã rất ngạc nhiên khi nhìn thấy vỏ sò đó. Ta dò hỏi đám tùy tùng của Chuyên Húc, thì bọn họ bảo đó là báu vật trong Hoàng cung Cao Tân. Đêm nay ta mới biết, thì ra vật này vốn là của cậu, nếu không, cậu không thể đánh thức Tiểu Yêu chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Có điều… Ta không hiểu, vì sao Hoàng hậu ở Thần Nông Sơn lại đồng ý che giấu bí mật này giúp cậu?

Tương Liễu đáp:

– Nhiều năm trước, A Niệm từng hứa sẽ giúp tôi một việc. Tôi nhờ cô ấy dùng vỏ sò này để giữ mạng cho Tiểu Yêu, nhưng không được cho Hắc Đế và Tiểu Yêu biết. Cô ấy là cô gái thông minh, không những biết giữ lời hứa, mà còn hiểu rằng, có một số chuyện, sau khi làm xong thì phải lập tức quên đi!

Tệ Quân thở dài:

– Bạch Đế không những bồi dưỡng được mấy người học trò xuất sắc, còn dạy dỗ nên một cô con gái thông minh.

– Tôi nghe Tiểu Yêu kể, cô ấy từng sống và tu luyện bảy mươi năm trên Ngọc Sơn, có thể thấy, các vị rất quan tâm đến cô ấy, mà không phải chỉ vì nhận lời nhờ cậy của Hắc Đế.

Tệ Quân thành thực nói:

– Ta và Liệt Dương đã nếm đủ những vui buồn sướng khổ của đời người, nếu có điều gì ở chốn hồng trần khiến chúng tôi lưu luyến, thì đó chính là Tiểu Yêu.

– Vì sao vậy?

– Ta vừa chào đời thì mẹ ta qua đời. Xi Vưu tình cờ nhặt được ta, mới đưa ta lên Ngọc Sơn. Mẹ Tiểu Yêu nuôi ta khôn lớn. Khi Liệt Dương còn là Lang điểu, Xi Vưu bắt hắn đem về làm “chim đưa tin” cho Xi Vưu và mẹ Tiểu Yêu.

– Thì ra là vậy.

Tệ Quân nheo mắt, hỏi:

– Nghe nói, ngoài đời cậu rất tai tiếng?

Tương Liễu mỉm cười, đáp:

– Đỡ hơn Xi Vưu một chút.

Tệ Quân nhìn xoáy vào Tương Liễu:

– Tiểu Yêu và cậu… chỉ là bạn bè bình thường?

Tương Liễu nhếch môi cười, nhướn mày nhìn về phía chiếc thuyền hình hoa đào, đáp:

– Người mà Tiểu Yêu ngày đêm tưởng nhớ là Đồ Sơn Cảnh.

Tệ Quân thở phào:

– Thế thì tốt.

Tương Liễu mỉa mai:

– Không ngờ tôi tai tiếng đến mức, một gã yêu quái được Xi Vưu nuôi dưỡng cũng khinh ghét tôi.

Tệ Quân lắc đầu:

– Không, ta không khinh ghét cậu, trái lại, ta rất kính trọng cậu! Trái tim cậu trong suốt tựa ngọc lưu ly, ngay cả tiếng ca của ta cũng chẳng thể khiến tâm trí cậu mê loạn, mà nếu vậy thì, danh lợi, quyền thế càng chẳng thể mê hoặc cậu.

Tệ Quân chăm chú nhìn Tương Liễu, biểu cảm trên gương mặt Tệ Quân rất phức tạp, như nhìn mà cũng như không nhìn Tương Liễu:

– Không phải cậu không tốt đẹp, mà là…

Tệ Quân thở dài ảo não:

– Dù Đồ Sơn Cảnh đã chết, ta vẫn lấy làm mừng vì Tiểu Yêu đã chọn cậu ấy.

Tương Liễu tươi cười, hoàn toàn không để bụng câu nói của Tệ Quân:

– Có việc này, xin huynh giúp cho.

Tệ Quân đáp:

– Chỉ cần ta làm được, ta sẽ tận sức.

Mối giao tình của bậc quân tử vốn không mấy khăng khít, nhưng khi họ đã hứa, thì lời hứa sẽ đáng giá ngàn vàng.

– Tôi muốn kết thúc mọi chuyện giữa tôi và Tiểu Yêu. Lát nữa, dù xảy ra bất cứ chuyện gì, cũng xin huynh đừng can thiệp.

Tệ Quân khảng khái:

– Được!

Tương Liễu khoát tay, chiếc gương Tinh tinh trong lòng Tiểu Yêu bay ra, rơi xuống tay y. Y chăm chú ngắm nhìn chiếc gương, rất lâu sau vẫn không thấy có hành động gì.

Tệ Quân giữ đúng lời hứa, lẳng lặng đứng bên quan sát.

Tương Liễu tươi cười, nói với Tệ Quân:

– Đây là gương Tinh tinh dùng để chi lại những hình ảnh trong quá khứ. Không biết Tiểu Yêu đã xóa hay chưa.

Y xoa vuốt mặt gương, chiếc gương dần hiện ra hình ảnh của Tương Liễu.

Trong căn phòng đơn sơ ở thị trấn Thanh Thủy, Tương Liễu bị thương, nằm im trên giường. Tiểu Yêu chờ đợi mãi mới có dịp trả thù Tương Liễu vì y bấy lâu nay vẫn luôn ức hiếp nàng. Nàng quệt nhọ nồi, vẽ đủ bảy con mắt lên mặt Tương Liễu, cộng với cặp mắt của y nữa thì vừa đúng chín con mắt. Nàng mỉa mai y là đồ yêu quái chín đầu.

Khi ấy, có lẽ một tay Tiểu Yêu bận cầm gương Tinh tinh, nên trong gương chỉ hiện lên cánh tay còn lại của nàng, nàng chỉ tay vào mặt Tương Liễu, khiêu khích:

– Nhìn đi, nhưng đừng tức giận, giận quá mất khôn đó!

Tương Liễu trừng mắt nhìn, ánh mắt y sắc nhọn như gươm đao. Nhưng Tiểu Yêu chẳng hề tỏ ra sợ hãi, nàng vẫn vừa chỉ tay vào mặt y vừa đếm:

– Một cái, hai cái, ba cái… tổng cộng chín cái.

Nàng tiếp tục dùng những ngón tay đen sì vẽ lên mặt Tương Liễu, chín con mắt biến thành chín cái đầu. Rồi nàng cười khoái trá, bảo:

– Tôi vẫn chưa nghĩ ra chín cái đầu thì chia nhau mọc như thế nào? Lúc nào ngài hiện nguyên hình cho tôi xem nhé!

Tương Liễu sa sầm mặt mày, nhìn Tiểu Yêu như muốn ăn tươi nuốt sống nàng, miệng y mấp máy:

– Ta sẽ ăn thịt ngươi.

Những lời đe dọa của Cửu Mệnh Tương Liễu có lẽ đã khiến không ít kẻ trong Đại hoang khiếp sợ đến vỡ mật, nhưng lúc này, gương mặt y lem nhem vết tro than, khiến những lời dọa giẫm giảm hẳn sức sát thương.



Tương Liễu xem đến đây thì bật cười không thành tiếng. Y vốn là đứa trẻ không cha không mẹ, từ lúc chào đời đã phải lăn lộn để tồn tại, y chưa bao giờ trải qua những khoảnh khắc đùa vui, nghịch ngợm. Lớn lên, tiếng ác của y đã lừng danh thiên hạ, không kẻ nào dám đùa cợt với y. Tiểu Yêu là người đầu tiên dám trêu chọc y, nhưng nàng không hề ác ý.

Tương Liễu ngẩn ngơ nhìn gương mặt lem nhem của y trong gương. Một lúc sau y mới chuyển sang đoạn ký ức tiếp theo…

Tiểu Yêu và y đã thống nhất các điều kiện trong giao kèo: Giải sâu độc cho Chuyên Húc. Y đưa nàng đến Ngũ Thần Sơn, chuyển sâu độc từ cơ thể Chuyên Húc sang cơ thể mình. Vừa xong việc thì đội thị vệ của Ngũ Thần Sơn phát hiện ra họ, để tránh đám thị vệ, y dẫn Tiểu Yêu lặn sâu xuống đáy biển.

Đáy biển mênh mông vô tận, có loài sò ngũ sắc, những loài cá nhỏ xinh đẹp, có thảo nguyên ngát xanh, những loài động vật xinh đẹp như những bông hoa, còn có những loài rong biển hình thù kỳ dị, hấp dẫn… Tương Liễu áo trắng, tóc trắng, tự do bơi lặn trong nước, mái tóc bồng bềnh theo sóng biển. Tiểu Yêu ở bên y, tò mò đưa mắt quan sát mọi thứ xung quanh.

Có thể vì đây là lần đầu tiên Tiểu Yêu khám phá ra vẻ đẹp kỳ bí, lý thú của biển cả, cũng có thể vì khung cảnh quá ư sống động, rực rỡ, mỹ lệ, nên nàng thừa lúc Tương Liễu không để ý, đã lén lôi gương Tinh tinh ra ghi lại. Khi ấy, có lẽ nàng đang bơi bên cạnh Tương Liễu, nên chỉ ghi lại được gương mặt Tương Liễu lúc nhìn ngang, mãi đến lúc cuối cùng, khi y quay đầu lại nhìn nàng, gương mặt y mới nằm trọn vẹn trong gương.

Chắc chắn Tiểu Yêu rất sợ bị phát hiện, nàng vội vã giấu gương Tinh tinh đi, khiến gương mặt Tương Liễu lúc ấy trở nên không rõ rệt, ánh mắt y mờ ảo. Mọi thứ dừng lại ở đó.



Tương Liễu còn nhớ rất rõ, lần đầu phát hiện ra đoạn ký ức này trong gương Tinh tinh, y đã vô cùng bất ngờ và kinh ngạc. Y không ngờ Tiểu Yêu lén lút ghi nhớ những hình ảnh về y, và càng không ngờ một người cảnh giác như y, lại không hề hay biết hành động lén lút của nàng. Đó là khoảnh khắc y hoàn toàn buông lỏng bản thân, và đó là cơ hội cực kỳ tốt để Tiểu Yêu có thể giết y.

Tương Liễu nhìn mình trong gương, khẽ thở dài. Cùng Tiểu Yêu đến Ngũ Thần Sơn, y ngỡ chuyện đó như mới diễn ra hôm qua. Mới đó mà đã bao nhiêu năm! Y bắt quyết, muốn xóa bỏ toàn bộ ký ức được lưu giữ trong gương Tinh tinh. Tệ Quân giữ tay y lại, tỏ vẻ kinh ngạc:

– Đây là ký ức mà Tiểu Yêu hằng giữ gìn, cậu không thể…

Tương Liễu lặng nhìn Tệ Quân, chợt nhớ lời hứa lúc trước, Tệ Quân chầm chậm buông tay.

Tương Liễu vận linh lực, từng đoạn ký ức trong gương Tinh tinh lần lượt biến mất, thời gian như quay ngược trở lại, mọi thứ dường như trở về điểm khởi đầu, nhưng ai cũng biết, trở về điểm khởi đầu là điều không thể!

Tương Liễu ơ hờ nhìn chiếc gương, trong khi Tệ Quân rầu rĩ thương tiếc.

Đến khi toàn bộ ký ức về y đã được xóa sạch, Tương Liễu mới mỉm cười, trả gương về với chủ nhân, nguyên vẹn như thể y chưa từng chạm vào.

Tương Liễu ngồi xuống bên chiếc thuyền hoa đào, lặng ngắm Tiểu Yêu đang say giấc, khẽ nói:

– Cây ngô đồng khăng khít bên nhau, chim liền cành chẳng rời xa nhau, loài uyên ương nguyện chết cùng nhau. Sâu tình nhân kết nối trái tim và sự sống của hai con người, quả thực không có cách giải độc. Năm xưa, ta có thể giải sâu độc giúp Chuyên Húc, là bởi hắn vốn không hề muốn bị cấy sâu độc vào người, và cô cũng không thực sự cấy được sâu độc vào cơ thể hắn. Còn ta, ta tình nguyện, ta muốn, ta sẵn sàng, vì vậy, cô đã thành công! Cô yêu cầu ta giải độc hết lần này đến lần khác, lần nào ta cũng trả lời rằng ta không thể. Ta biết cô không tin, nhưng ta không gạt cô, ta thực sự không giải được loại sâu độc này!

Tương Liễu cầm tay Tiểu Yêu, ngón tay y biến thành dao sắc, y vạch một hàng bùa chú trên cánh tay cả hai người, máu huyết của cả hai cuộn bay, vết cứa sâu đến tận xương.

– Tuy ta không thể giải được loài sâu độc này, nhưng ta có thể giết chúng.

Tương Liễu nhếch môi cười, nắm chặt tay Tiểu Yêu, hai bàn tay lồng vào nhau, thịt da máu huyết của hai người hòa trộn với nhau, không phân biệt được là máu huyết của ai nữa.

– Nhưng, cô cũng đừng trách ta gạt cô, vì cô có chịu hỏi ta đâu!

Tương Liễu bắt đầu niệm chú.

Cùng với tiếng ngâm đọc bùa chú của Tương Liễu, các đốm sáng màu lam lần lượt xuất hiện, từ một, hai, ba, đến vô số, giống như có hàng vạn con đom đóm đang bay lượn quanh hai người. Ánh sáng xanh lam trải khắp bầu trời đêm, phủ kín hồ Dao Trì, in bóng xuống mặt nước, tạo nên cảnh tượng lung linh, huyền ảo vô cùng.

Rồi bỗng, trên tay Tương Liễu xuất hiện một con dao găm sắc nhọn do băng tuyết ngưng tụ thành. Tương Liễu đâm dao găm vào ngực mình không thương tiếc. Tệ Quân gần như kêu lên thất thanh, nhưng đã kịp kìm chế.

Tương Liễu rút dao găm, máu tươi trào ra, muôn vàn đốm sáng li ti lửng lơ bay giữa không trung bỗng biến thành những con sâu nhỏ hút máu. Chúng tranh nhau lao vào ngực Tương Liễu, những đốm sáng dần tan biến, như thể đã chui cả vào cơ thể y.

Rất lâu sau, khi không còn đốm sáng nào, sắc mặt Tương Liễu trắng bệch, một tay y đưa lên ôm ngực, tay kia tìm linh dược. Nhưng y không tìm linh dược để trị thương cho mình, mà rắc lên tay Tiểu Yêu. Vết thương trên tay nàng nhanh chóng lành lại, như thể chưa từng xảy ra bất cứ thương tổn nào.

Tương Liễu mỉm cười, nói với Tiểu Yêu:

– Sâu độc của cô đã được giải! Từ nay về sau, chúng ta không còn bất cứ sự liên hệ nào nữa.

Tương Liễu nhẹ nhàng đẩy thuyền hoa đào đến trước mặt Tệ Quân:

– Sáng mai cô ấy sẽ tỉnh lại.

Tệ Quân đã hiểu cả. Chính vì cơ thể Tiểu Yêu và Tương Liễu cùng tồn tại sâu tình nhân, nên Tương Liễu mới cứu được Tiểu Yêu. Khi sự sống trở lại với Tiểu Yêu, Tương Liễu liền giải độc cho nàng. Kỳ thực, y làm vậy không phải giải độc, mà là dùng mạng sống của mình dẫn dụ và tiêu diệt sâu độc. Phương pháp giải độc “chết cùng chết” này, có lẽ chỉ có Cửu Mệnh Tương Liễu mới biết cách sử dụng.

Tệ Quân đưa linh dược của Ngọc Sơn cho Tương Liễu:

– Có cần ta trị thương giúp cậu không?

Tương Liễu cười, đáp:

– Cảm ơn, mấy thứ thuốc này không có tác dụng với tôi.

Tệ Quân lo lắng hỏi:

– Vết thương của cậu… Ta có thể giúp gì?

Tương Liễu điềm tĩnh đáp:

– Không cần đâu, hẳn là huynh cũng hiểu, khi phải đối mặt với đại quân của Hiên Viên thì việc thêm hay bớt một mạng sống cũng không nghĩa lý gì!

Tệ Quân im lặng.

Tương Liễu nói:

– Nhưng huynh có thể giúp được tôi việc này.

Tệ Quân lập tức nhận lời:

– Được.

– Nếu ngày sau có ai hỏi về sâu độc trong cơ thể Tiểu Yêu, xin hãy bịa ra một câu chuyện nào đó!

Tương Liễu mỉm cười, vẻ mặt nhẹ nhõm:

– Tiểu Yêu bảo, đời này kiếp này không muốn gặp lại tôi. Sau đêm nay, tôi và cô ấy sẽ không còn bất cứ mối dây liên hệ nào, và tôi cũng không muốn gặp lại cô ấy!

Tệ Quân lặng nhìn Tương Liễu một lúc mới cất tiếng rành rọt:

– Ta sẽ nhờ Vương mẫu giúp đỡ, nói là chính người đã giải sâu độc. Cậu yên tâm, chuyện đêm nay, ngoài trời, đất, chỉ có ta và cậu biết. Ta sẽ không bao giờ nói với Tiểu Yêu. Ta hứa không để sự sắp xếp của cậu trở nên vô ích!

Sắc mặt nhợt nhạt, Tương Liễu đưa tay lên ôm ngực, mỉm cười cúi đầu trước Tệ Quân. Tệ Quân không biết phải nói sao, chỉ biết cúi đầu chào lại, tỏ rằng nhất định sẽ giữ lời.

Tương Liễu ngửa mặt nhìn trời, thấy hừng đông đang từ từ nhô lên, y chao đảo đứng dậy:

– Tôi phải về thôi.

Tệ Quân từ lâu đã chẳng màng đến hồng trần thế tục, vậy mà lúc này lại cảm thấy không nỡ chia xa:

– Nghe nói chiến sự gần đây hết sức căng thẳng, lẽ nào cậu đến Ngọc Sơn chuyến này chỉ để cứu Tiểu Yêu?

Tuy Ngọc Sơn không màng đến sự phân tranh trong nhân gian, nhưng gần đây, khi Chuyên Húc quyết định dốc toàn lực tấn công tiêu diệt nghĩa quân của Cộng Công, thì Tệ Quân cũng có nghe phong thanh được đôi chút.

Tương Liễu cười, đáp:

– Tôi trốn việc đi chơi một lát đấy thôi!

Dứt lời, y vòng tay lại, mỉm cười chào Tệ Quân, rồi nhảy lên lưng đại bàng, định bay đi. Nhưng chợt nhớ ra điều gì, y phất tay áo, những bông hoa tuyết rơi lả tả giữa không trung. Hoa tuyết đậu trên vỏ sò màu trắng, vỏ sò lập tức tan chảy, bùa chú yểm trên vỏ sò biến thành máu. Lát sau, cả vỏ sò và máu đỏ cùng hòa vào sóng nước Dao Trì.

Lần này, y đã xóa sạch mọi vết dấu của mình. Giống như tuyết trắng, tuy tồn tại thực sự, đẹp đẽ, bắt mắt đấy, nhưng chỉ cần mặt trời lên cao, là lập tức tan chảy, lập tức biến mất, không để lại bất cứ dấu vết nào.

Tương Liễu nhìn Tiểu Yêu lần cuối, rồi thúc đại bàng trắng, vút bay về phương Đông, nơi mặt trời sắp lên cao.

Bình minh rực rỡ, hừng đông xán lạn, y bay đi như gió cuốn, áo trắng phần phật trong gió, dáng vẻ ngạo nghễ, bất phàm. Tệ Quân muốn nói: “Hãy bảo trọng!” Nhưng, một lời chào tạm biệt mà nặng tựa núi cao, khiến Tệ Quân không sao cất lời. Chia tay lần này, có lẽ là sinh ly tử biệt, rồi đây máu sẽ hòa nước biếc, xương sẽ vùi núi xanh, không bao giờ gặp lại. Không biết vì sao, Tệ Quân bỗng nhớ đến một bài ca dao cổ xưa. Khóe mắt rớm lệ, Tệ Quân cất cao tiếng ca bi thương, tiễn biệt Tương Liễu:

“A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thẫm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa, rải đầy cành cũng cam…

A ối à ối a

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đôi…” ( Từng thề ước _ Tô Hinh dịch thơ )
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 101 guests