Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

Image

1 . Bán Ngôi Nhà Cổ


La Gi là một làng xa của tỉnh Bình thuận. Tuy ở nơi đèo heo hút gió, nhưng làng trù mật vô cùng và có thể bảo đó là một làng to trong những làng to nhứt miền Trung và miền Nam, to về mặt kinh tế chớ không phải về mặt đất ruộng đâu. Làng gồm nhiều nhà ngói lâu đời khá đồ sộ, kiến trúc với tất cả tỉ mỉ và tinh xảo của kỹ thuật Việt nam. Nhà bà Hai Ngọt là một trong những ngôi nhà loại đó. Tuy nhiên, ngôi nhà ấy trông như là nhà vô chủ vì nó mang vẻ hoang phế nhiều năm rồi. Nhà to, sân rộng, vậy mà bà Hai chỉ có một mình với sáu mươi lăm tuổi trên đầu, nên mỗi ngày lo hai bận bếp núc, bà đã mệt ngất ngư, không buồn săn sóc vườn tược nữa.

Nhà đóng cửa kín mít suốt ngày, từ tháng nầy tới năm khác, cây vườn chết đi không được trồng cây khác thay thế mà cây đã lão hết rồi hồi ông Hai Ngọt qua đời, cách đây mười năm, nên mỗi năm lại có một vài cây tàn rụi, mãi cho tới bây giờ thì vườn đã trống trơn.

Vườn trống phía trên, nhưng ở dưới đất lại rậm ri những cỏ dại, nhiều khoản đất cỏ chổi mọc lên cao tới đầu người lớn và vài cây da, vài cây sao, tức loại đại thọ, mà mầm do đâu đưa tới không rõ, đã được ba, bốn tuổi rồi.

Cái đà nầy mà cứ tiến mãi theo cái nhịp ấy thì vài năm nữa vườn sẽ "lại" rừng.

Bà Hai Ngọt chỉ có một đứa con gái thôi, lấy chồng hai năm trước khi ông Hai qua đời, bà bắt rể nhưng hai vợ chồng anh Dụi ấy bỏ nhà đi tìm sanh kế ở Sài gòn nên sự suy sụp của gia đình nầy kể như là một tang thương đột ngột sau khi họ ra đi.

Bà Hai không đủ sức lực cũng không tiền thuê, mướn, người sửa sang vườn tược, bà lại hiu quạnh quá nên buồn chán rồi bỏ liều. Người ta đồn nhà đó có ma, và trẻ con đi ngang qua nhà giữa ban ngày, cũng nắm tay lại rồi đâm đầu chạy như bị ai rượt.

Cả năm, vợ chồng chị Dụi mới về quê một lần vào dịp Tết, nhưng họ không thành công ở thủ đô, nghèo vẫn nghèo hoài, nên không giúp bà mẹ suy sụp của họ được đồng nào để bà thuê người chăm nom nhà cửa, vườn trước, sân sau.

Thình lình trưa thứ Bảy tuần đó, vợ chồng chị Dụi dẫn hết con cái về thăm Ngoại, y như là về quê ăn Tết vậy.

Bà Hai Ngọt nựng cháu một hơi rồi chạy lo cơm nước, mối lo lắng lớn và độc nhứt của các bà cụ khi có con cháu về.

Chị Dụi theo mẹ xuống bếp, vừa giúp mẹ, vừa hỏi:

- Má có biết rằng nhà nước đã lập ra một tỉnh mới ở đây hay không?

- Vậy hả? Không, tao không biết. Nhưng lập ở đâu?

- Đất nầy thuộc tỉnh Bình thuận, nhưng từ nay sẽ cắt ra, biệt lập, đặt tên là tỉnh Bình tuy.

- Vậy à?

- Làng mình sẽ được lấy làm tỉnh lỵ.

- Vậy hả?

- Má có thấy gì hay không?

- Không!

- Người ta sẽ cất tỉnh đường ở đây, cất trường học lớn, nhà thương to và nhiều nhà, nhiều sở khác nữa.

- Ừ, chắc là như vậy.

- Công chức sẽ đổi về đây đông đảo, và mọi cuộc làm ăn, buôn bán sẽ thạnh vượng.

- Ừ.

- Má cũng chưa thấy gì hả?

- Thì mầy đã nói rồi.

- Con nói chưa hết. Đất, nhà ở đây sẽ lên giá.

- Ừ, phải.

- Chẳng những lên giá mà còn dễ bán nữa, chớ từ trước tới giờ, có muốn bán cũng không ma nào mua.

- À há!

- Con tính như vầy: Chúng con làm công hoài và cứ tay làm hàm nhai, không hề dư được đồng xu dính túi. Chỉ có buôn bán mới mong khá lên được. Ba nó đã thạo nghề sửa xe gắn máy lắm rồi, giờ mà lập một tiệm sơn và sửa xe gắn máy và bán đồ phụ tùng lặt vặt ở chợ Hòa hưng thì sự làm giàu nắm chắc trong tay.

- Tao cũng vái trời cho vợ chồng bây khá lên!

- Mà muốn được như vậy phải có vốn.

- Ừ.

- Má ở đây một mình hiu quạnh lắm, rủi đau ốm, ai nuôi dưỡng má. Má lên trển, ở với vợ chồng con tốt hơn.

- Ý ! tao không đi đâu!

- Không đi thì làm sao bán cái nhà nầy?

Bà Hai Ngọt há miệng, trố mắt nhìn con:

- Bán nhà. Mầy nói chơi sao chớ? Nhà của Ông Bà để lại, giữ đã mấy đời rồi, bán để họ cười cho mà thúi cái đầu.

Chi Dụi cười ngất rồì nói:

- Tại ở đây nhà quê, còn nghĩ theo xưa, chớ ở thành phố thì người ta bán nhà như là bán một con gà vậy.

- Không, tao thương mến căn nhà nầy lắm, thương mến luôn xã nầy. Tao chỉ muốn ở đây và sống gởi nạc, thác gởi xương ở đây thôi.

- Sài gòn vui lắm, má à! Còn ngày sau, má trăm tuổi già rồi, con chở về đây dễ dàng. Giàu có rồi thì muốn gì lại không được!

- Tao không ham vui. Tao chỉ thương mến quê hương thôi. Đi, tao nhớ gốc cây đa đằng miếu, tao nhớ con rạch sau nhà, tao nhớ... tao nhớ đến cái mùi đất ở đây... Không, tao không đi đâu hết. Tao cũng không bán nhà được. Tao có thể bán để cho tụi bây tiền, rồi cất chòi tranh mà ở nhưng tao thương nhà nầy lắm. Quen mắt quá đi rồi, cái thềm rêu phủ cũng quen, tấm vách bổ kho mọt gậm cũng quen, tao nghe như là cha mầy còn vô ra đâu đây. Không...

- Má tính vậy thì làm sao vợ chồng con làm ăn được?

- Tụi bây rán mà tiện tặn.

- Má cứ tưởng! Làm công thì suốt đời chỉ đủ ăn.

Chị Dụi khóc rấm rứt nhưng bà Hai Ngọt vẫn không nao núng.

Cái tin mà con bà cho bà hay quả đúng y như vậy. Con bà đi độ một tháng thì thiên hạ kéo đến xây cất lăng xăng. Làng xóm trở nên náo nhiệt, rộn rịp lạ kỳ, khác hẳn với cảnh ủ rũ của một làng hẻo lánh từ mấy trăm năm nay. Và người lạ đâu từ xứ xa tới mua đất, mua nhà một cách khủng khiếp.

Khủng khiếp là như thế nầy: ông X với bà X đang ở một ngôi nhà tổ phụ xưa hằng trăm năm mà ông bà thương mến nó y như bà Hai Ngọt đã thương mến nhà bà. Thế mà mới đầu hôm sớm mai, ông X bỗng bán ngôi nhà thân yêu đó y như là bán một con gà. Nhà đất giá đáng chừng năm chục ngàn, thế mà họ trả một tiếng hai trăm ngàn, thì còn lòng tham nào mà không bị lung lay chớ?

Khủng khiếp là ở chỗ đó. Không khéo rồi cái dịch bán nhà như bán gà, dịch của dân thủ đô truyền lây tới đây, sẽ đuổi các cụ ra chòi mà ở hết. Và khủng khiếp hơn nữa là bọn mua nhà, mua xong phá bỏ ngay, cất nhà gạch lên liền. Cái chơn trời quen thuộc, như thế, bị hủy diệt lần lần. Nếu nhà chỉ đổi chủ thì còn đỡ khổ phần nào, và chỉ có kẻ bán nhà mới buồn, đàng nầy đến cả toàn dân làng đều phải lạc hướng bởi gương mặt của làng họ biến đổi kỳ dị, họ hết nhận ra quê hương thân yêu cổ kính nữa, họ đau xót không biết bao nhiêu.

Thế rồi vợ chồng chị Dụi lại về. Lần nầy chị khóc lóc nhiều hơn và sốt ruột. Chị bảo đây là dịp may ngàn năm một thuở, không bán thì ngày kia, ai nấy đều có nhà, có đất đủ rồi, không ai thèm mua nữa, nhà đất nầy sẽ mất giá ngay. Chị khoe cảnh Sài gòn, khoe hát cải lương, khoe vườn thảo cầm, khoe đèn màu, khoe cao lâu, mì cháo, trái cây ngoại quốc, ôi thôi đủ thứ của ngon vật lạ! Bà Hai Ngọt cứ bịt tai lại không thèm nghe.

Tuần nào chị Dụi cũng về, vì cuộc xê dịch dễ dàng bởi xe đò Sài gòn - La gi chạy trực tiếp.

Phản ứng của bà Hai Ngọt khiến chị Dụi ngao ngán vô cùng. Bà ráng sức già, làm cỏ miếng vườn sạch trơn rồ trồng bông trồng kiểng, trồng rau trồngcải, và trồng cả những cây ăn trái mà chỉ có cháu ngoại bà mới mong hưởng được thôi, như mít, như xoài chẳng hạn.

Không tuần nào mà chị Dụi không chứng kiến cảnh biến đổi nơi ngôi nhà tổ phụ của chị và sanh khí đã trở lại như hồi cha chị còn sanh tiền. Bà Hai Ngọt ngầm nói rõ to lên: "Tao quyết bám níu vào đất nầy, nhứt định bỏ xương ở đây, không ai xô đẩy tao đi đâu được hết".

Người ta bảo chị Dụi đã chuộc bùa ngải để mê hoặc mẹ chị. Có lẽ đúng như thế chăng? Vì bà cụ đã cả quyết như vậy, nhưng ngày kia, người ta lại thấy nơi cửa ngõ nhà ấy có treo một tấm bảng trên viết mấy hàng chữ như vầy:

NHÀ BÁN

luôn đất

Mua xong giao liền

Bọn đầu cơ xa lạ cứ còn mua đất, còn phá nhà cũ, còn xây cất nhà mới. Tuy nhiên ngôi nhà của bà Hai Ngọt cứ trơ trơ cùng tuế nguyệt, bởi ai hỏi bà cũng đòi tới sáu trăm ngàn, khiến họ le lưỡi rồi bỏ đi.

Bà bị con gái mè nheo mãi đến nhức tai, nhức óc, treo bảng để bịt cho nó câm mồm lại để bà được yên thân, nhưng quyết tâm âm thầm thọc gậy vào bánh xe.

Việc kiến thiết tỉnh lỵ Bình tuy cứ rầm rộ tiến hành và chị Dụi cứ sốt ruột vì ngôi nhà tổ phụ của chị sao mà giống như một cô gái vô duyên không ma nào thèm đi hỏi hết.

Thình lình, đùng một cái, vì lý do quân sự, hay chính trị, hay kinh tế hay gì không rõ, chánh quyền quyết định bỏ chương trình cũ, dời tỉnh lỵ lên rừng, cách làng độ năm sáu cây số, khoét rừng để xây cất dinh thự khác. Bao nhiêu người đầu cơ đều bị việt vị hết ráo và đây đó, người ta thấy những tấm bảng rao nhà cho thuê, cảnh không bao giờ xảy ra ở thôn quê cả.

Vợ chồng chị Dụi về làng để thăm chừng tin tức, hay tin nầy thì dậm chơn, kêu trời rồi than khóc cho mộng làm giàu của anh chị bỗng dưng tiêu tan thành mây khói.

- Trời bất dung gian đảng, bà Hai cười bằng cái miệng móm xọm và nói như thế, hồn ông bà, ông vải nhà nầy linh thiêng lắm nên xui khiến nhà nước đổi ý, mà cứu vãn cái nhà nầy.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

2 . Chiếc Khăn Kỷ Niệm

Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng
(Thu dạ lữ hoài ngâm)

Không biết đi đâu nữa, Bích dừng chân lại nơi bến xe buýt để "xem chiếu bóng". Vâng, chàng thấy rằng cảnh bến xe dễ mê như một cuốn phim nhiều động tác.

Ở Sài gòn mà không có đi xe buýt vào giờ tan sở chiều thì quả thật không đáng mặt là dân Sài gòn. Giờ tan sở trưa, nhiều công nhân nhà xa nên ở lại trung tâm thành phố, còn chiều thì chim phải bay về tổ ấm vậy. Thế nên ở đó xảy ra những trận xung kích những chiếc xe cuối ngày đi về các ngoại ô xa, ngay từ lúc các xe nầy chưa đỗ bến lận. Lúc xe rà thắng, chạy rề rề thì thiên hạ đã nhào lên hãm thành, xáp lá cà với các hành khách sắp sửa xuống xe. Cửa xe hẹp quá, người lên không trôi mà người xuống cũng không lọt, thành thử chiếc xe giống như một con rắn nhỏ mà trợn trạo nuốt một con mồi quá to, bị nghẹn cứng nơi cổ họng. Các con mồi la hét inh tai, thật là vui đối với những kẻ không dùng lối xê dịch nầy, chỉ đứng đó mà ngắm với đôi mắt bàng quan như Bích.

Không gì vui mắt bằng cảnh một cô đã bước tới đất rồi mà đi không được, y như bị đá nam châm hút lại: vạt áo sau của cô ta trải lên bàn đạp và bị đến vài mươi bàn chơn đè lên đó, cô ta vùng vẫy như một con ruồi mắc lưới nhện và như con ruồi, vẫn không thoát được. Những chiếc nón lá vô phước cũng làm vui trò, hễ nó mà rủi ro rơi khỏi đầu người đội là bị ép kêu rôm rốp như bánh tráng nướng và dẹp lại, mỏng như cây quạt xòe. Cảnh trên xe còn vui hơn. Áo rằn ri lập thể đứng gần áo bà ba đứt nút, săn-đan há miếng đạp lên giày da tây bóng lộn; thanh niên ngồi, những cụ già thì phải đứng, trai cao bồi luôn luôn tìm cách chen vào giữa các thiếu nữ hiền lành, và những chiếc nón lá bề bộn và choán chỗ cứ bị người ta rủa mãi.

Bích muốn nhảy lên đi một đoạn đường để được vui thêm, vì chàng biết trên xe còn "lắm điều hay". Chàng lại rắn mắc nên hễ đi xe vào giờ đó là chàng thích lắm. Những lúc xe ngừng lại các trạm, nhả hành khách xuống không kịp, các hành khách ấy hay la lên: "Khoan, khoan, khoan chạy!" Chàng cũng la lên rằng: "Đừng có khoan, lủng xe của người ta bây giờ". Cứ đùa giỡn như vậy mãi cho tới ngoại ô, trạm chót, thì trở về, bằng phương tiện nào cũng được, là qua được một buổi chiều buồn.

Bỗng chàng thấy Tấn ở đâu chạy đến, hớt hơ, hớt hãi, tay ôm kè kè một bọc bằng giấy nhựt trình.

- Đi đâu mà vội mà vàng Chàng hỏi giỡn.

- Trễ rồi, trễ rồi, họ sắp đóng cửa.

Vừa nói, Tấn vừa nhảy vội lên chiếc xe Bình tây đang giựt chạy. Gói giấy nhựt trình rơi xuống đường nhựa, bánh ngọt trong ấy văng ra tứ tung. Bích ngạc nhiên hết sức, vội chụp lấy cái gói rách, và lượm mớ bánh rơi bỏ vào đó, đoạn cũng nhảy lên xe theo bạn chàng.

Cửa xe tự động đóng lại trên người chàng, Tấn phải đưa lưng ra mà đỡ như Hùng Hượt Hải đỡ tấm bửng đá mà Tùy Văn Đế cho hạ xuống để giết anh hùng sau cuộc thí võ, Bích mới khỏi bi kẹt.

Bích thở hổn hển và có vẻ tư lự lắm. "Lạ, chàng nghĩ, thằng Tấn nầy xưa nay ăn uống sang lắm, nay nó mắc chứng gì mà lại mua toàn bánh cắc chú thứ hạng bét như vầy cà?" Giây lát bớt mệt, chàng hỏi bạn:

- Đi đâu vậy?

- Còn mầy đi đâu?

- Đi theo mầy.

Tấn tỏ vẻ không bằng lòng, khiến Bích sanh nghi. Chàng đoán rằng nó có nhơn tình mà cô nhơn tình ấy là một ma-ri-sến nên nó biếu toàn bánh cắc chú và mới giấu giếm bạn bè. Tấn nói, sau mấy phút im lặng:

- Theo làm chi, mầy nên xuống tại trạm ngả sáu Quẹt-Đon.

- Không.

- Ai cho phép mầy đi theo tao?

- Ngộ chưa, tôi có tiền, tôi lấy vé, tôi đi đâu tùy thích tôi chớ.

- Mà đừng có theo tao.

- Bằng cớ nào chỉ rằng tao theo mầy?

Biết bạn là đứa nói liều và làm bướng, Tấn đành làm thinh, nhưng hắn tức lắm! Bích càng sanh nghi hơn, nên càng muốn theo sát hơn.

Ngã Bảy, Máy Đá, Nhà thương Chợ Rẫy. Tấn xuống nơi đây.

"À, Bích nghĩ, thì ra nó đi thăm người bịnh. Có lẽ đó là một người bà con nghèo, nên nó xấu hổ, không muốn cho ai biết cả".

Bích bỗng nghe bạn chàng đáng khinh quá. Chàng không dè mà Tấn có mặc cảm như vậy.

Tấn đi riết xuống trại 7 là trại bố thí. Trước khi bước vào trại, hắn day lại nhìn bạn rồi thở dài.

Bích đoán rằng Tấn mới vào đây lần đầu, vì hắn đi dài theo giữa hai dãy giường để tìm kiếm.

- Đây rồi, hắn nói to lên, sau một hồi lục lạo.

Cả hai đều dừng bước lại trước một cái giường kia. Con bịnh là một người đàn ông trạc năm mươi, để búi tóc, có vẻ là nông dân. Y đang nằm thiêm thiếp mà rên nho nhỏ. Nước da y vàng khè nhưng mũi y thì đỏ như trái hồng tươi chín. Tấn rờ trán người bịnh. Y mở mắt ra rồi nói:

- À, cậu ba ! Sao cậu hay tôi bịnh mà tới thăm?

- Nghe xóm nói. Tôi tìm ông để nhờ ông vét mương. Xóm họ cho biết rằng ông bịnh và vào đây. Ông đau làm sao?

- Quan Thầy nói tôi lớn tim, lớn gan, lớn đủ thứ hết.

- Có lớn lá mía không ?

- À, có.

Không hiểu sao mà cái gì cũng lớn hết.

Hai người thanh niên thì hiểu. Những dấu hiệu đó là dấu hiệu bịnh... rượu và bịnh sốt rét rừng.

- Nầy có bánh, có táo, có xí mụi, ăn đi, Tấn trao gói cho con bịnh và nói như vậy.

- Cám ơn cậu. Quan Thầy cấm ăn cơm, đói lắm !

- Có đỡ không ?

- Có. Nhưng tôi nghe trong người tôi, tôi biết rằng thế nào tôi cũng chết.

Y nói điều đó bằng giọng bình thản, không hoảng hốt, cũng chẳng tủi thân.

- Thôi, rán nằm đây rồi sẽ khỏi chớ gì, Tấn an ủi.

- Không, tôi chắc tôi chết cậu à!

Tấn thở dài mà làm thinh. Hắn đứng nán một lát rồi ra về, hứa sẽ trở lại. Ra tới sân, Bích hỏi Tấn:

- Bà con làm sao?

Tấn làm thinh giây lâu rồi đáp, đáp không ăn thua gì với câu hỏi cả:

- Hắn tên là bảy Rựa.

Chỉ có thế thôi. Luôn nửa tháng, không ai thấy bóng Tấn nơi nào cả. Bích có tìm Tấn mấy lần, nhưng tìm không gặp.

Nhưng một hôm, Tấn lại đích thân đến rủ Bích cùng đi. Một nhiếp ảnh viên theo sau anh con trai kỳ khôi nầy. Bích ngỡ họ đi chụp ảnh lạ nào. Nhưng lên tắc-xi, chàng mới hay là Tấn vào nhà thương.

Người bịnh hôm ấy hư lắm rồi. Hai chơn y thũng, sưng to lên gần bằng hai chiếc gối. Y nằm đó, hả mang ra mà thở. Thấy khách, y chỉ nhìn mà không nói được, mắt rơm rớm lệ. Người thợ nhiếp ảnh bấm nút, đèn cháy lên trong nửa giây đồng hồ, soi sáng gương mặt hấp hối kia một cách bi thảm, ghê rợn như lửa địa ngục rọi vào một hồn ma mới tới xuống Diêm đài.

Hôm sau, Tấn lại rủ Bích đi đưa đám ma người chết. Hòm chưn ngang, bôi đất sét vàng. Từ nhà xác vô tới đất chùa Phước Hiền, vỏn vẹn chỉ có hai thanh niên nầy theo sau tám anh phu đòn, họ khiêng hòm mà chạy như bay. Thế là hết chuyện. Người bà con nghèo của Tấn đã được vùi nong một nấm, rồi Tấn sẽ quên y đi, sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ.

Nhưng sau đó, một tháng qua rồi mà Tấn vẫn biệt dạng, khiến Bích lấy làm kỳ lắm. Coi bộ thì hắn không thương người bà con nghèo ấy bao nhiêu, chỉ trông cái đám ma lạnh lẽo ấy thì biết, thì sao hắn lại không nguôi, và như là trốn bởi đang buồn vì tang khó?

Bích tìm thăm bạn. Tấn tiếp khách, lặng lẽ như một ông cụ, lại mở đầu bằng câu chuyện triết lý:

- Bận bịu lắm với tình cảm, với dĩ vãng cũng khổ. Nhưng nếu dĩ vãng tan biến, thì cũng buồn.

Tấn vừa nói vừa kéo hộc tủ lấy ra một bức ảnh, ảnh ông bảy Rựa hấp hối trên giường bịnh.

- Hắn tên là bảy Rựa...

- Biết rồi.

- Tao lớn lên là thấy hắn có mặt trong làng rồi. Không vợ con, không họ hàng thân thích, hắn ăn ở chợ, ngủ ở đình. Ai thuê gì cũng làm, chôn ăn mày, đào giếng, đốn củi, tối ngày chiếc rựa trên vai nên mới mang cái tục danh ấy!

- Té ra không có bà con với mầy?

- Không. Tóm lại, con người ấy không có gì hay ho đối với tao cả.

- Vậy, sao mầy lại...

- Hắn thuộc vào chân trời quen thuộc của tao thuở tao còn bé. Tao thuộc gương mặt hắn như thuộc lòng các gốc cây trong làng. Tao phải nói rõ cho mầy nghe là làng tao tiêu thổ trong thời kháng chiến, cháy không còn một gốc cây. Khi thái bình được vãn hồi, năm 1954, tao về làng thì thấy nó minh mông, trống trải như một sa mạc. Làng tao đã bị xóa, cả trong ký ức của con người nữa. Kể từ ngày ấy tao bỗng thấy những người đồng hương sống sót và trôi giạt xuống đây, quí báu không biết bao nhiêu. Họ gợi được hình ảnh của quê tao, một vùng đất mà tao rất thương yêu. Rồi họ kế tiếp nhau mà chết hết, chỉ còn lão bảy Rựa nầy thôi; lão ta giống một lọ sứ cổ Giang tây, quí chỉ vì bao nhiêu lọ khác đều bể hết, chớ cái đẹp của chiếc lọ ấy không hơn hồi nó mới được chế tạo ra đâu. Nhưng hồi đó, còn hằng vạn chiếc, nó có giá trị gì?

- Té ra...

- Ừ, hắn là chiếc khăn mu-xoa của một giai nữ mà tao cất để làm kỷ niệm một mối tình. Nay khăn rách...

Bích thấy mũi Tấn và mắt Tấn đỏ cả lên.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

3 . Cô Hời Bán Thuốc

Ở xóm lao động ai cũng biết thầy Sanh, không phải tại vì thầy ta đẹp trai, hay có quyền thế, hay chi chi đó nữa, mà chỉ vì thầy ta chưa vợ.

Ờ, đã hăm chín tuổi rồi, có công ăn việc làm, lại con nhà nền nếp và khá giả mà mãi gần nửa đời người vẫn độc thân, cũng là một việc hiếm có đó chớ.

Dân Sài gòn tuy thờ ơ với nhau, đèn ai chỉ sáng nhà nấy thôi, chớ gia đạo ai làm sao, người ngoài cũng biết cả.

Trước hết có những chị bếp hàng xóm dòm dõ nhà mình. Họ tò mò như nhà mình là một cái thùng đựng con gì trong đó. Chị bếp nhà mình mà có việc ra ngoài là họ chụp ngay để điều tra: bên trong mấy người, đi chợ bao nhiêu v. v...

Điều tra xong, họ về báo cáo, phúc trình lại với các chủ nhà trong xóm. Các chủ nhà làm bộ không ưa nghe chuyện thiên hạ, nhưng tay thêu khăn, tai lại để ý lắng nghe những bí mật mà họ rất thích biết.

Người con trai già mà có vợ thì hóa ra một người đàn ông tầm thường. Nhưng nếu hắn còn độc thân thì, à lạ lắm thay ! Người ta đánh dấu hỏi lăng xăng, người ta hồ nghi đủ thứ, người ta lập giả thuyết lu bù.

Các bà, các cô có em, có cháu gái chưa chồng rất chú ý đến con người đó. Còn nói gì các cô em, cô cháu nầy thì băn khoăn đặc biệt về cái thằng cha kỳ dị ấy.

Vì vậy, họ biết thầy Sanh, mà biết rất rõ. Anh chàng không đẹp trai lắm, nhưng không xấu. Không ngáo, nhưng vẫn không phải là tay lêu lỏng. Chàng ta là công chức, tức là địa vị rất vững. Cha mẹ còn đủ, một người chị chưa chồng và một em gái còn bé.

Cho đến tư tưởng của thầy mà họ cũng biết được thì quả là cái tài trinh thám của dân Sài-gòn đã khá cao vậy.

Cả nhà đều sốt ruột cho cảnh độc thân của thầy ta lắm. Ông cha bà mẹ thì rất thèm ẵm cháu nội. Cô chị thì vì có hiếu nên chưa lấy chồng, sợ cha mẹ không ai phụng dưỡng.

Một hôm, nhọc quá vì nội trợ, cô chị hỏi:

- Chị hỏi thật em, tại làm sao mà em không chịu lo bề gia thất ?

- Con gái đời bây giờ làm em chán quá.

- Em đừng có vơ đũa cả nắm mà tội nghiệp người ta. Cũng có người vầy người khác. Như chị đây, không phải khuê môn bất xuất mà có hư hèn gì đâu.

- Em không nói về mặt hạnh kiểm đâu.

- Chớ em chán họ chỗ nào ? Trời, con gái bây giờ đẹp hơn con gái ngày xưa nhiều lắm chớ!

- Đành vậy. Em chán là chán về tâm hồn họ kia. Không có cô nào đủ thông minh để nói chuyện cho mình ưa nghe cả. Cô thì nói toàn chuyện xi-nê, cô khác lại không ngớt lải nhải về du lịch, phần đông bắt mình cứ nghe chuyện cải lương và hột xoàn.

- Chớ em muốn họ nói chuyện gì ?

- Thì chuyện mưa, chuyện nắng, hoặc không cần chuyện gì mà nói làm sao cho người ta ưa nghe kia, chớ hành tội người ta phải nghe mãi chuyện mình thích thì kém thông minh quá.

- Bộ em cưới họ về để cả ngày hai vợ chồng bây trò chuyện mãi với nhau à ? Chị sợ rồi bây sẽ không có lấy môt phút để mà đàm đạo.

- Càng ít ngày giờ càng cần nói cho hay. Đã hiếm dịp nói mà nói toàn chuyện cơm nếp thì khổ lắm.

Ý kiến về con gái ấy, cố nhiên cũng được bên ngoài biết. Con gái hàng xóm nghe được, giận

thầy Sanh lắm. Cũng may cho thầy là không có chứng cớ, chớ nếu có, họ dám níu thầy ta mà cự lắm. Con gái bây giờ mà !

Thầy Sanh, trước kia có bạn gái rất nhiều, bây giờ thì không còn giao thiệp với phụ nữ nào cả. Thầy ta chán họ, họ giận thầy ta. Họ chỉ giận thôi, chớ không ghét, và biết đâu lại không có người yêu thầy ?

Ngày bốn bận đi, về; còn chúa nhựt thì thầy dạo phố một mình ên.

Đó là một người con trai rất tò mò. Nhiều kẻ hay vỗ ngực tự xưng là thổ công Sài-gòn, nhưng chưa chắe đã biết Sài-gòn bằng thầy ấy.

Đố ai biết ở đường Hai-Mươi có cái gì lạ nè ? Cái gì đáng chú ý, đáng nói đến, giữa cảnh phồn hoa của đô thành nầy ? Không ai biết ? Cố nhiên rồi ! Các ông thổ công ơi, các ông thổ công chỗ nào đó vậy ? Nè nghe thầy Sanh chỉ đây:

"Trên đường Hai-Mươi, có người biến trụ rào Bịnh-viện Bình-dân ra một cây da trước miễu. Thành ra dưới chơn trụ xi-măng ấy, thiên hạ đem chất đống nào là ông táo, bình vôi, cao ngồn ngộn: vỉa hè bỗng biến thành nơi tụ tập cô hồn như các chùa hư miễu nát ở thôn quê."

Sáng chúa nhựt nào, thầy Sanh cũng ra chợ Bến-thành, rồi bắt từ đó mà đi nữa, đi đâu ? Tùy hứng.

Nhưng đi đâu cũng vẫn đi bộ, để mà xem xét.

Hôm ấy, noi theo đường Phạm-Ngũ-Lão mà ra Bồn-binh, chàng gặp một bọn người thiểu số ngồi sát vách thành "đề-bô" xe lửa.

Đó là những khách quen mắt, nếu không quen mặt, mỗi năm đến Sài-gòn độ ba, bốn kỳ. Họ là người Hời, gốc Ninh-Thuận, Bình-Thuận, vào đây để bán thuốc và bán những món nữ trang bằng mây đan nhuộm màu.

Thấy ai đi ngang, họ cũng gọi giựt ngược, rồi lấy ra khoe nào là rễ cây trị nhức mỏi, nào là thuốc cao trị tức, nào là trăm ngàn thứ lá khô gì đó.

Không, bọn ngươi nầy đã bị Sanh quan sát từ lâu rồi, và nhiều lắm rồi, họ không còn quyến rũ chàng được nữa.

Chàng nhìn sơ một lượt rồi quay mặt rảo bước. Bỗng một giọng nằng nặng kêu.:

- Chụ tạm ơi, mua thuộc ! (chú tám ơi, mua thuốc).

Tiếng kêu ở cách xa đám kia đến hơn mười thước. Chàng để ý ngay vì đó là giọng con gái, tuy là giọng nặng của tất cả các thứ người sơn cước nhưng chàng vẫn phân biệt được là tiếng gái tơ, vì vẫn có điệu trong trẻo trong cái nằng nặng ấy.

Trai thích gái là thường. Mà Sanh để tâm đến tiếng gọi cũng bởi người gọi đó sao mà ở lẻ loi một mình, chớ không chùm nhum với nhau như bọn kia.

Chàng day mặt vào vách thành rồi đứng khựng lại như bị trời trồng. "Ờ, lạ quá ! lạ quá !"

Chàng lẩm bẩm.

Cô gái Hời lẻ loi ấy sao mà trắng lạ, trắng hơn cả nhiều cô gái Sài-gòn nữa. Nước da ấy nổi bật lên màu đen huyền của bộ y phục Hời và khởi sắc thêm nhờ lu bù những vòng, kiềng, bằng mây nhuộm màu mà cô gái đeo nơi tay và nơi cổ.

Cô Hời nhìn chàng, vừa mỉm cười, vừa mời:

- Mua thuộc, chụ !

Sanh vui tươi lên, bước sấn tới nói:

- Kêu tôi bằng chú, tôi không mua.

- Chợ kêu bặng gì a ? (Chớ kêu bằng gì a ?).

- Kêu bằng anh.

- Không quen, không kêu bằng anh. (Từ câu nầy, xin không nhái giọng nặng nữa, cho bạn đọc dễ hiểu).

- Thì thôi vậy.

Sanh làm hộ toan bỏ đi, thì cô gái hỏi:

- Kêu bằng thầy được không ?

Con bé nầy quỉ quái lắm đây ! Nó biết nhượng bộ để níu khách, mà chỉ nhượng vừa đủ thôi không chịu lỗ lã.

- Cũng tạm được, chàng đáp. Nào cô bán thuốc gì đâu ! Có thuốc cảm không ?

- Không hiểu.

- Ơ... hơ... thuốc cúm ấy mà !

Sanh muốn chơi chữ để ghẹo cô gái, nhưng cô ta không hiểu bịnh cảm, thành ra chàng phải dịch ra là cúm, không còn chơi chữ được nữa.

- Thuốc cúm hả ? Ở ngoài tôi, cúm, khỏi uống thuốc. Người Anh-Nam họ dạy chúng tôi, hễ cúm thì cúng lễ và đọc thần chú là hết ngay.

- Thần chú làm sao ?

- Đọc như vầy:

Trăm lạy ông Cúm, Bà Co,

Ông ở xứ Nghệ ông mò vào đây.

Có thiêng xin hưởng của nầy,

Giúp cho tín chủ khỏi ngay tức thì.

Sanh nghe câu thần chú thi cười ngất rồi hỏi nữa:

- Còn thuốc gì khác ?

- Lu bù thứ: thuốc tức, thuốc nhức, thuốc sốt rét, thuốc trị nọc rắn.

Kể một thứ thuốc là cô gái trình lên một cái quảu mây đựng đầy rễ xắt khúc và lá cây khô. Không thèm để ý tới lời khoe hàng, Sanh lại hỏi:

- Cô ở đâu mà vào đây bán thuốc ?

- Tôi ỏ Ray Hài.

- Ray Hài là ở đâu ?

- Ở Phan-Rang, đi sâu vô rừng.

- Sao còn trẻ quá, cô em lại phải lặn lội như vầy ? Xem đám người kia ! Họ toàn là đàn bà đứng tuổi không mà thôi.

- Cha mẹ chết hết rồi.

- Tội nghiệp dữ không. Còn chồng cô, sao không nuôi cô ?

- Tôi giá chồng.

Sanh ngạc nhiên hết sức. Cô gái chỉ độ mười tám tuổi thôi, sao lại goá chồng được.

- Giá chồng, chàng hỏi gặng lại ? Thế cô em lấy chồng được mấy năm rồi ?

Cô gái cười như chim líu lo, rồi cười ngắt nga, ngắt ngưởng giây lâu mới đáp được:

- Giá chồng là giống Chà ấy mà !

Sanh kinh ngạc quá lẽ. Cô gái Hời nầy nói tiếng Việt chưa sạch giọng nặng, và đã biết nói lái rồi. Và câu nói lái ấy lại ám chỉ đến một việc mà chỉ người thông minh và có học sử địa mới hiểu được.

Theo sử thì nước Chiêm-Thành do một ông Hoàng Ấn-Độ đi phiêu lưu dẫn theo một đoàn tàu với mấy ngàn thủy thủ, đến đó khai hóa cho dân bản xứ và lập quốc cho họ. Mấy ngàn người phiêu lưu nầy lấy vợ bản xứ và lần lần, dân ở đó bị lai giống cả, nên ngày nay người Hời quả thật có những nét Ấn-độ trên gương mặt của họ.

Cô gái tự đùa dân tộc mình một cách tài tình và cũng đã đánh trống lảng một cách tài tình. Sanh hỏi đon hỏi ren cho biết cô ta đã có chồng chưa, nhưng rốt cuộc vẫn không biết gì.

- Giống Chà thì càng đẹp chớ sao, thi chồng nó càng cưng, càng khỏi lặn lội xa xuôi...

Sanh thành thật mà nói như vậy. Nét Ấn-độ trên vẻ mặt người đàn bà, giúp người này có một vẻ dữ tợn bí mật, không dễ yêu, nhưng dễ mê và dễ bị rù quến. Và quả cô gái Hời trắng trẻo nầy hao hao giống một cô gái Ấn Độ lai Việt ba bốn đời.

Lần nầy cô bán thuốc rừng mới chịu nói thật:

- Tôi chưa có chồng.

- Vậy à. Cô em có muốn ở luôn Sài-gòn hôn ?

- Sài-gòn làm gì có rễ thuốc để đào mà bán. Ở đây lấy gì ăn ?

- Cần gì bán thuốc. Cô em lấy chồng Sài-gòn là khỏi bán gì hết.

- Lấy chồng Anh-Nam được à ? Họ có thèm mình đâu ?

- Sao lại không thèm ?

- Lúc lấy chồng chưa đuợc, thì sống làm sao ?

- Tôi nuôi cô em. Cũng như nuôi một bạn gái gặp lúc túng cùng vậy mà.

Cô gái cúi xuống đăm đăm suy tính rất lâu, đoạn thò tay vào một cái giỏ mây lấy ra một con dao rừng sáng quắc. Con dao giống hệt cái mác mà nhỏ và rất ngắn, lưỡi trông chừng bén ngót như lưỡi đoản kiếm.

Dựng đứng con dao, cán chống lên vỉa hè, cô ta hỏi:

- Thầy liệu chắc lo cho tôi được trọn không ?

- Sao lại không ?

- Tôi muốn thầy thề.

- Ờ thì thề.

Sanh cười hì hì, không tin vụ mắc lời thề bao nhiêu.

Cô gái bỗng nghiêm nghị ra, nhìn trừng trừng vào khoảng không rồi nói:

- Hôm nay, tôi bỏ rừng mẹ của tôi, ở đây luôn với một người bạn vì tin lời người ấy. Nếu người bạn đó mà gạt gẫm hoặc bỏ tôi nửa chừng thì lưỡi dao đẫm máu con vật đầu tiên tôi giết trong đời, sẽ cắm vào ngực hắn để trả thù giùm tôi sự phản bội quê rừng của tôi.

Sanh rợn người lên. Chàng ngỡ con bé bắt chàng thề, và chàng sẽ thề bậy, ông vặn họng, bà bẻ cổ gì đó. Cái nầy chính nó lại nguyền; mà nguyền cái việc nó làm được mới ghê cho chớ.

Chàng lại rùng mình mà nhìn cặp mắt xa xăm của cô ta. Hình như tất cả cái man dại của rừng rú u linh hiện về đó, mộc mạc, chân thành, nhưng hung dữ lạ kỳ quyết không dung tha một phản bội nào cả.

Nhưng nghĩ kỹ, chàng cười thầm, chế nhạo cô gái rừng: "Được, cô em à, nửa chừng ta đây quất ngựa chuối, rồi cô em mới đâm ai ?"

Nghĩ xong, chàng rủ cô gái:

- Thôi ta đi nè.

Cô Hời tươi cười trở lại, hỏi:

- Đi đâu ?

- Cô em đừng ăn nói như vậy nữa, không đẹp. Cô em phải hỏi: "Ta đi đâu hở anh" để nghe cho êm tai. À, cô em không được nói "tôi" nữa, phải xưng "em" mới được. Cũng không được dùng danh từ "Anh-Nam" mà phải nói Việt-Nam.

- Vậy à, hở anh ?

Sanh cười ngất mà rằng:

- Hễ nói "vậy à" thì phải thôi, chớ không nói "hở anh" nữa.

- Trời, rắc rối, khó khăn quá, khó còn hơn là qua các sơn khê trên núi, ở ngoài xứ em.

Sanh mê chết đi. Chàng biết gái rất nhiều nên đâm ra chán lối ăn nói của họ. Nay quen được với một cô gái Hời biết nói đùa có duyên như là "giá chồng giống chà", biết so sánh lạ lùng như là "khó hơn qua khe núi", biết nói bập bẹ tiếng Việt, thì mới lạ và thú vị biết bao !

Chàng cuối xuống xách giỏ cho người bạn mới rồi nói:

- Ta đi mua sắm vài thứ, rồi về nhà.

- Nhà anh ở xa không ?

- Không xa.

- Cỡ hú một tiếng thì nghe hay không ?

Sanh mê quýnh lên, sức muốn hôn đại cô Hời một cái. À con bé ăn nói mới ngộ nghĩnh chớ. Hú một tiếng ! Nó nói y như là còn ở trong rừng.

Chàng kêu một chiếc xích-lô máy, rồi chỉ xuống chợ quần áo cũ. Cảnh tượng thật là kỳ lạ hết sức khiến khách qua đường ai cũng quay đầu lại nhìn: một chàng trai ăn mặc âu phục lịch sư, ngồi kề một cô sơn nữ cổ đầy vòng mây. Có người đoán đó là một đôi vợ chồng rủ nhau đi chụp ảnh mà chị vợ thì trá hình như vậy cho lạ mắt.

Chàng hỏi bạn:

- Em đi xe có thích không ?

Cô Hời cười và nói:

- Thích lắm, vui lắm lắm. Ở Ray Hài chỉ có một con đuờng mòn trong rừng. Đi thì bằng xe bò, rất chậm.

- À, em tên gì?

- Em tên Chế-Bồng-Nga.

Sanh ngạc nhiên. Sao lại Chế-Bồng-Nga ? Trùng tên với một ông vua Hời.

- Thật không ? Chàng gặng hỏi.

- Tên cha mẹ em đặt ra, giả làm sao được hở anh.

- Giỏi, em dùng tiếng hở anh lần nầy trúng đa.

Vừa khen bạn chàng vừa suy nghĩ kỹ về cái tên ấy. Tên Chế-Bồng-Nga có vẻ con gái quá. Ông vua kia đặt tên như thế là bậy. Cô con gái nầy mang tên đó là hợp lắm.

- Anh muốn cho em sửa tên lại một chút cho có vẻ Việt Nam được không ?

- Được, hở anh.

Sanh cười ngất:

- Cứ "hở anh" mãi, không phải lúc nào cũng "hở anh" nghe chưa em ?

- Anh nói rằng nói như vậy là dịu, là êm.

- Tùy theo câu chớ.

Tuy rầy bạn, song chàng thích mê cái lối nói sai ấy. Nghe sao mà dễ thương lạ. Và từ đây hễ Nga nói câu gì chàng cũng lắng tai nghe, và đều ưa nghe cả, và nàng càng nói sai, chàng càng mê.

Xe tới chợ quần áo cũ, Sanh mua cho bạn hai áo bà ba, hai áo lỡ, nhiều quần và một chiếc áo dài. Chàng định sẽ đưa nó đi may thêm ở tiệm, nên chỉ mua ít thôi cho nó có mà mặc đỡ mấy ngày đầu.

Mua xong, lại kêu xe tắc-xi quanh co dạo phố, cho Nga xem Sài-gòn chơi. Trên xe, Sanh tiếp lại câu chuyện bỏ dở khi nãy:

- Nầy, anh muốn sửa tên em lại là Lê-Thị-Nga, được không ?

- Lệ-Thị-Nga là làm sao ?

Sanh xí gạt:

- Thì cũng y như Chế-Bồng-Nga vậy. Tiếng Việt Lê tức là Chế trong tiếng Hời đó.

- Tùy anh.

Đi dạo xong, họ dông tuốt xuống chợ cũ ăn cơm. Vào tiệm vừa ngồi xong, Sanh giựt nẩy mình. Một người cảnh sát đứng ngoài lề đường ngó vào lâu lắm.

Ừ, chàng nghĩ, nếu họ nói mình dụ dỗ gái tơ thì làm sao ? Khổ quá, nếu nó ăn mặc ta thì không ai để ý, đằng nầy cái bộ đồ Hời của nó như đâm vào mắt người ta thì có chết hay không? Hay là thấy chướng mắt, người cảnh sát ấy nghi nó là gái ăn chơi nên ăn mặc ba lăng nhăng, xét giấy nó thì mình khổ lắm.

Bữa ăn không ngon vì lo lắng trên, mà cũng vì bận tính kế về nơi ăn chốn ở của Nga và chàng.

Kế hoạch cửa chàng là như vầy:

"Hiện giờ trong ruột xóm Sáu Lèo, có một căn nhà lá muốn sang. Chỉ hai ngàn thôi, một tháng tiền nhà hai trăm rưỡi. Chàng sẽ dối cha mẹ là xin phép nghỉ hăm chín ngày để đi Đà-Lạt. Thế là ở với bạn được trót tháng. Rồi hết hạn hăm chín ngày đó, sẽ tính kế khác.

° ° °

Nội buổi chiều chúa nhựt đó. Sanh mua sắm đã đủ hai chiếc giường, một cái tủ nhỏ, một cái bàn con vài chiếc ghế, một cái lu. Cơm nước thì đặt họ xách, một phần ăn chín trăm, vì cô Hời nào có biết xào nấu gì.

Bốn giờ chiều là xong cả. Đôi bạn vui quá xá. Sanh dạy Nga:

- Cái bàn.

Nga lặp lại:

- Cái ban.

- Tủ kiếng.

- Tụ kiệng.

Rồi cả hai ngã ra mà cuời muốn lộn ruột, lộn gan.

Sanh nói:

- Mấy tiếng ấy chưa khó bao nhiêu. Những tiếng trừu tượng chỉ vật vô hình mớì là điên đầu. Thí dụ câu sau đây: "Anh Sanh ơi, lòng em như một sáng xuân, em nguyện dâng hết cho anh, và em thề yêu anh đến bạc đầu". Đâu em nói lại nghe coi.

- Câu ấy nghĩa là gì ?

- Không cần học nghĩa, nói cho trôi cái đã, rồi hãy hay.

Nga học năm lần là thuộc hết.

Sanh dặn:

- Hễ anh đi đâu về là em chạy lại anh mà nói câu đó, nghe chưa. Bây giờ thì nói cái nầy, dễ hơn: "Em yêu anh lắm".

- Em yệu ạnh lặm.

- Em muốn áo đẹp.

- Em muộn ạo đép.

Sanh nhìn lại Nga, và nhớ đến việc may áo. Chàng bảo:

- Đâu em ra đứng ngay trước mặt anh cho anh xem.

Nga ngoan ngoãn vâng lời.

Thân thể nàng cũng khá coi. Nhưng mặc áo may ở tiệm nào, vừa vặn hơn, chắc là sẽ đẹp thêm. Mặt mày nàng cũng khá yêu kiều. Nhưng quả thật không đẹp. Cô gái Hời, trong y phục Hời, chàng thấy đẹp quá, vì người Hời được thế là đẹp hẳn đi rồi. Nhưng bây giờ nàng làm gái Việt, mà gái Việt chỉ đến mức độ đó, chưa phải là mỹ nhân.

Dầu sao, chàng vẫn mê, mê cách ăn nói ngộ nghĩnh của Nga, mê cái tâm hồn kỳ lạ còn dấu kín trong kia mà chàng quyết tâm sẽ khám phá.

Ăn cơm chiều xong, nói bậy bạ, nói lu bù thứ một hồi là đúng chín giờ đêm.

Sanh cầm tay bạn dẫn Nga vào buồng, vừa đi vừa nói:

- Đi ngủ đi thôi, khuya rồi. Ở Ray Hài em đi ngủ lúc nào ?

- Lúc chim bay về núi.

Nghe nói ngộ nghĩnh, Sanh yêu bạn quá, ôm Nga mà hôn lên trán một cái. Nga thả trôi, không cưỡng một chút nào.

Khi hai người đến giường, Sanh ngồi xuống trước và kéo bạn theo.

Nga bịn đứng lại và nói:

- Anh phải ngủ ở ngoài chớ.

- Sao lạ vậy ?

- Có phải vợ chồng đâu và ngủ chung.

Sanh cười hề hề, ôm đại cô gái Hời mà kéo xuống giường. Cô ta vùng một cái rất mạnh, vuột ra được, rồi trong nháy mắt vói tay hất gối, lấy dưới ấy ra con dao thề khi sáng.

Nàng hầm hầm nét mặt, cầm con dao thủ thế và nói:

- Đạo giáo và phong tục xứ tôi không cho phép như vậy. Nếu anh còn như thế nữa thì anh phải chết. Hoặc nếu anh giỏi hơn thì tôi chết. Đằng nào anh cũng không phạm tới tôi được.

Sanh như thấy tất cả man rợ của rừng thiêng lại hiện về nơi mắt Nga. Đây là sự cả quyết của một tâm hồn chất phác trung kiên với lời hứa của mình và tin tưởng hết lòng nơi lời hứa kẻ khác.

Chàng đứng lên bẽn lẽn và nói:

- Anh xin lỗi em !

Ra tới ngoài, chàng thở dài. Thì ra lỗ quá. Mình nào có dè phong tục nó nghiêm khắc như vậy. Ngỡ dụ dỗ nó để qua đường, nào dè chỉ tốn tiền toi. Mình nào có dư cơm, dư tiền gì để nuôi một cô gái rừng rồi còn phải gả cô ta lấy chồng nữa ! Và, sao nó lại nói được nhiều câu tiếng Việt khó đến thế kia ?

Sanh ngồi nhìn ngọn đèn dầu, hối hận cho ác ý của mình, và bối rối cho nẻo ra của tình thế.

Chàng ngồi đó không rõ bao lâu nữa, nhưng nghe chừng đã khuya lắm.

Bỗng chàng cảm giác một sự đụng chạm nhẹ trên vai. Day lại thì thấy Nga đứng đó, bàn tay nhỏ xíu đặt trên vai chàng.

- Anh có giận em không ? Nga hỏi.

- Không, thật tình không. Tại anh quấy mà ! Nhưng thấy em bằng lòng anh nắm tay, bằng lòng anh hôn, nên anh ngỡ...

- Đó là những cái nhỏ nhỏ không hề gì. Vả lại em cũng yêu anh, em yêu anh lắm. Mà phải là và chồng kia mới được nằm chung.

Rồi nàng ôm đầu Sanh, hôn lên tóc bạn.

- Thôi, anh đi ngủ đi, nàng nhỏ nhẹ nói và kéo Sanh lại giường của chàng.

° ° °

Sanh tuy thế, vẫn chưa tuyệt vọng. Kinh nghiệm về đàn bà cho chàng biết rằng, bền chí là thành công. Huống hồ gì Nga lại yêu chàng thì...

Đạo giáo, lễ nghi, phong tục nào mà mạnh cho bằng sự kêu gọi của xác thịt ?

Ngày hôm sau, chàng đưa bạn đi xem sở thú. Nga chỉ thích bồn bông và bãi cỏ thôi. Còn thú thì nàng chê. Nàng nói:

- Anh mà thấy cọp trong rừng khi cái mình vàng rằn đen của nó rẽ đám lá xanh mà ló ra thì mới đẹp. Cọp ở ngoài em, coi rất oai. Còn cọp ở đây, sao mà như chó trong chuồng.

Chiều ra bến tàu thì Nga thích mê. Nàng chưa bao giờ thấy nước, trừ cái chuyến đầu đi xe lửa vào Sài-gòn.

Ăn kem, Nga rất ưa. Và mỗi lần Nga khen cái gì là Sanh hy vọng thêm một lần. Tình nàng sẽ nở lớn và sự cắn câu thú đô thành sẽ sâu thêm, thì ngày kia...

Đêm nào đôi bạn cũng trò chuyện tới khuya. Thỉnh thoảng Nga hát, cho Sanh nghe những bài hát gì mà điệu nhạc thì buồn như nhớ nhung vạn kỷ.

Chàng chẳng hiểu gì ráo, nhưng đinh ninh rằng đó là tiếng khóc dân Hời nhớ tiếc quê cha đất tổ mà họ phải bỏ đi, trước sự Nam tiến mãnh liệt của người mình.

Nếu tìm bạn để trò chuyện thì Sanh đã mãn nguyện rồi. Nga không bị riêng một thứ gì ám ảnh để cứ bắt người đối thoại nghe mãi thứ đó. Hơn thế, những điều nàng nói lại mới lạ đối với chàng, luôn luôn thay đổi, hôm nay chuyện ma rừng, hôm sau chuyện phù thủy, bữa kia lại chuyện rắn to, chuyện hoa lá ăn thịt thú rừng v. v...

Nhưng người con trai nầy không định cưới cô gái sơn cước làm vợ và vốn bị xác thịt xúi dục, nên ác ý buổi đầu vẫn lẽo đẽo theo chàng.

Họ sống chung được nửa tháng rồi. Cô gái Hời thì học tiếng Việt rất tiến, nhưng sự tấn công tình ái của người trai Việt không đi đến đâu cả.

Lại chết một cái là cô gái sơn lâm ấy hồn nhiên, thẳng thắn một cách lạ. Cô yêu chàng thì cô cứ để cho chàng ôm trong tay. Thay áo, cô cũng chẳng cần che giấu như người văn minh.

Như thế tính làm sao đây với sự quyến rũ ?

Có lúc Sanh định bỏ trôi tất cả, hôm nào đó, đi dạo một mình rồi đi luôn. Cho con bé trợt mỡ bò chơi. Nhưng tánh tham khiến chàng tiếc, không phải tiếc vốn đã bỏ ra, mà tiếc một người con gái dễ thưong.

Một hôm chàng nói vói Nga:

- Hay là để anh cưới em làm vợ ?

- Phải, em cũng định hỏi anh coi tại làm sao anh nói yêu em lắm, mà lại không cưới em, phong tục xứ nầy kỳ quá ! Nói yêu mà chỉ muốn việc khác thôi.

- Thì anh cưới em đây.

- Chừng nào cưới ?

- Mai cưới.

- Hứ, làm sao mau quá như vậy cho được. Em biết rồi mà !

Em đã rõ phong tục ở đây. Cưới vợ lâu lắc lắm, phải đi hỏi, đi lễ, rồi mới cưới, mau lắm cũng cả tháng.

- Ai nói với em như vậy ?

- Mấy chị đàn bà ở hai bên đây họ nói: em hỏi họ hôm trước.

- Trời, anh cấm em chơi với họ mà !

- Em chỉ hỏi có bấy nhiêu đó thôi chớ có chơi với họ đâu. Số là em ngỡ cưới vợ khó lắm nên anh không cưới em, em mới hỏi cho biết cách thức.

- Họ xí gạt em đó ; cưới vợ là như thế nầy: Anh với em rủ nhau đi ăn nhà hàng, rồi về nhà thề với nhau, rồi ở chung với nhau một ngày là thành vợ chồng.

- Lêu lêu mắc cỡ, không biết ai xí gạt ai đa !

Cả hay cười xoà rồi Sanh hôn bạn một cái đoạn bảo:

- Đâu đem kể chuyện đường rừng nào hay cho anh nghe thử xem.

- Hay thì không thiếu chi chuyện hay. Nhưng để em kể một chuyện không hay lắm, mà liên hệ đến em cho anh nghe.

Năm đó cha em dẫn em lên nguồn...

- Nguồn gì ?

- Nguồn là sông. Nhưng ngoài ấy không cứ có sông mà gọi là nguồn. Hễ đi sâu trên rừng già là họ nói lên nguồn.

- Lên nguồn làm gì ?

- Đi buôn mọi. Ba em đi bán muối, đổi lấy ngà voi và trầm, đem về bán lại cho Việt

Nam. Ừ, năm đó cha em dẫn em lên nguồn. Không biết xích mích với người trên ấy làm sao mà họ giết ba em. Em chạy vuột được, hay nói cho đúng, họ không giận em nên để em chạy. Em băng rừng tám ngày đêm, ngủ trên cây, ăn toàn trái rừng, và uống nước suối, qua nhiều khe núi lạnh mình. Khe sâu thâm thẩm dưới ấy mà chỉ có một thân cây leo bò bắc ngang qua khe, phải ôm dây ấy mà qua. Còn độ nửa ngày đường nữa thì tới đồng bằng, thì em gặp một gò mối. Một con cọp mẹ đang cho con bú sau gò mối đó. Em không biết, đi trờ tới,

nó nghe động giựt mình ngỡ ai toan bắt con nó. Nó nhảy ra chụp em.

Em té quỵ xuống vì quá sợ, nên nó chụp hụt chỉ trúng chơn thôi. May sao có mấy người thợ rừng Việt Nam nghe la chạy đến cứu em. Bây giờ còn thẹo đây

Nàng nói rồi vén ống quần lên cho Sanh thấy cái thẹo khá dài nơi chơn.

Người con trai ngắm cảnh đó một giây thì thú tánh bỗng thức tỉnh. Chàng ôm lấy bạn, nhưng lần nầy sơn nữ nhìn thấy đôi mắt đầy tia máu của Sanh thì chợt hiểu nên kinh sợ vùng ra mà chạy.

Sanh rượt theo nàng bén gót và cố sức vượt qua khỏi cô gái để ngăn nàng lấy khí giới.

Bị ngăn cản, Nga toan đánh tháo lui nhưng không được.

Sanh đã chụp được nàng rồi và hai cánh tay cứng rắn của chàng như hai gọng kềm không cho Nga cựa quậy nữa.

Vốn thấp hơn, sơn nữ dùng đầu đánh hất lên trúng càm Sanh nghe một cái cộp. Nhưng chàng trai vẫn không nao núng.

Nga nhảy dựng lên để đánh bồi thêm, liên tiếp mấy bận mà Sanh ngước tránh được cả. Thừa lúc anh chàng lo ngước tránh, Nga chuyển hết thần lực vùng ra.

Sanh bị sút tay và thấy con mồi suýt thoát, chàng vật mạnh cho nàng ngã xuống. Chàng hú hồn mà chỉ thấy bạn ngã xuống giường thôi. Lúc vật Nga, chàng chỉ lo vật cho được, quên nguy hiểm; vật xong lại sợ Nga ngã mạnh quá xuống đất, rủi chết chăng ? Nhưng may quá.

Sanh nhào lại thì bị Nga tống cho một đạp gần té ngửa. Chàng nhào tới nữa, lần nầy thủ thế nên bắt được chơn của cô gái.

Còn một giò, sơn nữ vẫn đạp lung tung. Chỉ còn một tay khó lòng mà bắt chơn kia được, Sanh bất động, thở dốc, vừa thở vừa tránh những cái đạp liên tiếp.

Giây lâu chàng liều mạng, chịu đựng và xáp bừa vào. Nga đạp được mấy cái thì Sanh đã tới sát quá, chơn co vào được mà tống ra không xa nên không còn hiệu quả nữa.

Bấy giờ tóc Sanh đã rơi xuống che khuất hết trán chàng. Mắt chàng dữ tợn một cách lạ kỳ, không dữ vì giận, muốn hạ địch thủ, mà vì dục vọng đã biến chàng thành một con thú thèm thuồng.

Nga đã đoán trước chiến lược của kẻ bạo hành, không để bị ôm cả tay nữa. Nàng lừa khéo thế nào mà Sanh chỉ ôm được thân hình nàng mà thôi.

Với hai cánh tay còn tự do, nàng ôm lại Sanh, rồi cả hai cùng ráng mà vật lộn với nhau.

Nga yếu hơn nhiều nên không mong thắng. Nàng chỉ vật cầm chừng để trườn lưng lần lên phía gốì.

Sanh sơ ý không thấy toan tính đó nên một khi kia, Nga đã tới đích, vói ngược cánh tay mà rút con dao thề.

Sanh thấy dao thì đã trễ. Chàng đang ôm Nga, hai cánh tay khép lại nơi sau lưng nàng mà bây giờ thì nàng nằm ngửa, hóa ra tay chàng bị đè xuống dưới.

Như vậy, chỉ ôm nhau vật thì mạnh thế, còn đỡ dao thì rút tay ra không kịp nữa.

Trong phút giây, Sanh thấy cái chết của mình thật vô lý hết sức. Chàng vốn không thiếu gì về xác thịt, mà tại làm sao điên cuồng trong một lúc đến phải chết dưới tay một cô gái Hời. Trời ơi, con người quả điên nhiều cơn điên khó hiểu !

Chán nản qua, chàng không còn sợ hãi nữa, nới rộng cái siết tay rồi nói:

- Anh chịu thua rồi đó. Em giết anh, anh cũng vui lòng, nhưng lảng xẹt ôi là lảng xẹt !

Nàng quát:

- Buông ra !

Sanh không riu ríu nhưng vẫn làm y theo lời bạn.

- Ngồi dậy ! Nga lại quát.

Sanh lại ngồi dậy. Không phải vì chàng quá hèn, sợ chết đến nỗi biến thành một cái máy. Nhưng đã thua rồi, buông người ta ra và ngồi dậy là phải.

- Đứng xuống đất ! Nga tiếp tục ra lịnh.

- Lùi vào vách trong !

Khi người con trai tội nghiệp nầy đứng yên sát vách trong, Nga dịu giọng nói:

- Em không muốn giết anh. Em chỉ tự vệ để ra khỏi nhà nầy đêm nay, để về rừng của em. Em không hối tiếc gì hết mặc dầu em rất muốn lấy anh. Nhưng anh quả không thật tình yêu em thì hối tiếc làm gì. Thôi anh ở lại mạnh giỏi, em đi đây.

- Khoan !

Lần nầy tới phiên Sanh quát.

- Khoan ! Anh quyết định ngăn em của anh đi, dầu phải chết.

- Tại sao anh lại muốn chết dữ vậy ?

- Vì anh đã yêu em quá rồi bắt đầu từ phút nầy.

- Yêu mà như vậy đó hả ?

- Không. Khác. Anh sẽ cưới em.

- Như thế thì em ở, nhưng anh lại phải ra khỏi đây. Nếu không làm sao em dám ngủ.

- Ra thì ra.

- Khoan đi. Anh cưới em bằng cách nào ?

- Anh thưa thật với ba má anh.

- Rủi ba má anh không bằng lòng ?

- Bằng lòng mà !

- Rủi anh đổi ý ?

- Thì em trở về rừng. Có lỗ lã gì đâu.

- Đành vậy nhưng bây giờ sẵn được thế, em buộc anh bảo đảm. Anh làm giấy hứa cưới, em mới chịu.

- Hà, hà, cưới hay không là quyền của tôi.

- Mà em yêu anh lắm rồi, bắt quyết anh phải cưới. Hai đứa yêu nhau, tại sao không cưới.

Sanh tức cười lắm. Con bé rừng rú thật thà, tin cái giấy quá xá. Thôi, chàng nghĩ,

để mình viết bậy bạ gạt nó chơi.

- Nào viết giấy !

Nga chỉ lên bàn:

- Anh ngồi lại, viết theo em đọc.

Sanh cười thầm, làm y theo. Nga đọc:

Tờ hứa cưới

Tôi là Phạm Kim-Sanh...

Chàng giựt mình hỏi:

- Sao em biết tên họ anh ?

- Thì anh nói hôm trước.

Sanh không nhớ ra đã nói tên mình. Nhưng chàng không ngại. Nga đọc tiếp:

... có dan díu với cô Lê-Thị-Nga...

Sanh nín cười muốn bể ngực. Đem ra Toà giấy nầy sẽ ăn trợt. Có cái gì chứng nó là Lê-Thị-Nga đâu. Mình cứ chối, nói nó lượm giấy ấy ở đâu không biết, thế là huề.

....Cô Lê-Thị-Nga sở dĩ hiến thân cho tôi vì tôi hứa cưới cô. Nếu tôi phụ lời, tôi sẽ bị truy tố về tội dụ dỗ gái vị thành niên.

Sanh ngạc nhiên hết sức, không viết được. À, tại sao nó nó lại biết những danh từ "hiến thân", "vị thành niên", "truy tố", v.v...

Nhưng mặc kệ. Nội cái tên Lê-Thị-Nga đủ trợt mỡ bò rồi, còn nó học ăn, học nói ở đâu

không cần biết lắm.

° ° °

Sanh kể đầu đuôi gốc ngọn cho cha mẹ và chị nghe. Chị chàng nghe xong cười ngất.

- Em thật là đồ đíên. Đùa gì mà đùa bất nhơn.

- Mà có lúc em yêu nó thật chị à. Nhứt là lúc sau cùng. Nó thì ngỡ em không yêu, nên định đi. Trong giây phút, em yêu quá, nói ra, nên nó ở lại bắt làm giấy. Bây giờ thì em không rõ em còn yêu nó nữa hay không. Cũng may là chỉ làm giấy bậy bạ thôi, chớ nếu bảo đảm bằng cái gì chắc chắn là khổ, nếu lòng mình thật không yêu nó.

- Chị muốn biết mặt con bé coi nó ra làm sao mà có lúc em yêu nó thật tình. Được không ?

- Sao lại không ?

- Mai, mười giờ sáng, em đưa nó lại đây.

- Xin đúng hẹn. Để chị xem. Cũng khá đứa, mặt mày khá đẹp, nhưng ngu lắm, tin giấy tờ lắm.

Mười giờ sáng hôm sau, chị của Sanh đang ngồi thêu áo thì Sanh bước vào, mắt lái chi, tay vói ra sau kéo tới một cô gái.

- Ô kìa, em Nga ! Cô chị kêu lên thế rồi sửng sốt. Sanh cũng chết đứng ra.

Nga cúi đầu chào, rồi liền đó xin phép ra liền, nói là để cho cả nhà liệu tính.

Khi khách ra khỏi, người chị nói:

- Thôi chết em rồi. Nó là gái trong xóm nầy, chớ Hời gì đâu mà Hời.

- Trời ơi, thật sao chị ?

- Nó là cháu bà Phủ Đẩu, ở cái nhà ngói cũ lụp xụp đằng kia.

Nhà ấy Sanh thường gọi đùa là "Hồ phụ nữ", ám chỉ đến một phim chớp bóng tên là "Lac aux dames". Trong nhà toàn đàn bà con gái không, con bà phủ, cháu bà phủ, người ăn cơm tháng. Cô nào, cô nấy cũng dạn dĩ mà chưa chồng. Có lần chàng làm quen với một cô nhưng sau chán quá, không giao thiệp nữa. Chàng không thấy mặt Nga lần nào nên mới lầm.

- Trời ơi, làm sao chị ?

- Khổ lắm, chị nhớ ra nó họ Lê thật, thì các giấy tờ đó, một khi nó đưa ra tòa, em ở tù mọt gông.

- Thôi, em cưới quách nó là yên chớ gì. Nó cũng dễ thương lắm. Được không chị ?

- Sao lại không, ở xóm này, nó không hề bị tai tìếng, lại giỏi nữ công.

° ° °

Đêm tân hôn, Sanh hỏi Nga:

- Em đùa làm chi mà kỳ vậy ?

- Nghe danh anh chán gái Việt, em mới giả làm gái Hời để nói chuyện cho anh mê. Em vốn yêu anh từ lâu, mà không được anh để ý. Chỉ có cách đó anh mới ngó em thôi.

- Còn làm sao em trá hình ?

- ...Giỏi lắm hả ? Khó gì. Em đón tụi Hời, nài mua một bộ đồ, vài gói thuớc, biết anh hay quan sát dọc đườg, em ngồi đó là anh dính.

- Còn chuyện đường rừng và cái thẹo ?

- Thì cứ cóp theo tiểu thuyết mà nói. Anh nào có biết trật trúng gì. Thẹo là thẹo chó cắn hồi em còn bé.

- À, con dao đâu ?

- Em giấu rồi.

- Đưa đây.

- Ai dại gì đưa. Có nó, ai kia mới sợ em chớ. Nè, bây giờ em là gái Việt, anh còn yêu được không ?

- Được như thường. Nội cái trò đùa của em cũng đủ tỏ bản lãnh em gớm lắm. Tâm hồn em chắc chắn rất phong phú, anh không chán hạng gái như vậy đâu

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

4 . Ma Ném Đá

Cô Hén không may mắn chút nào. Ba ngày tết, chủ cô đi tắm biển, cho cô về quê ăn Tết như mọi năm. Nhưng hôm chiều hăm bảy, cô vừa "đổ bộ" thì tối hăm chín, nhà cậu của cô bị ma ném đá.

Mồ côi cha mẹ, và chịu không nổi mợ dâu, cô Hén trôi nổi lên Sài gòn, đi ở mướn. Bốn năm sau, nhớ xứ quá, và hận cũ đã nguôi, cô mò về làng. Thấy cháu chồng đã khá, đeo vàng đỏ tay, quần là áo lụa, người mợ dâu cũng nể nên quên cái tội nó đã cuốn gói ra đi, tiếp đãi nó như là một đứa cháu thân yêu. Vả mỗi lần về nó không quên mua quà Sài gòn về biếu cậu mợ bộn bàng, nào là cam Tàu, hồng khô, hàng ny-lông màu sắc sặc sỡ cho con của mợ, nên mợ phải xem nó là thượng khách vậy. Cô Hén khỏi làm gì động tới móng tay sơn đỏ của cô, ăn no rồi đi dạo xóm, tới bữa ăn lại về ních một bụng rồi lại đi nữa, đôi bữa không về vì cô ta rất được hoan nghênh ở mọi nơi, ai cũng cầm cô lại ăn cơm hết.

Đi xa về tha hồ nói khoác. Mà cô Hén không nói khoác họ cũng mê tít đi. Nội cái vụ đèn xanh, đèn đỏ, nội cái vụ vòi nước phun lên trời, nội cái vụ thang lầu rạp chiếu bóng mình đứng trên ấy, tự nhiên nó bò lên, mình khỏi phải leo bước nào cả, toàn là chuyện thật, thật đúng trăm phần dầu, nội những thứ huyền hoặc ấy cũng đủ làm cho người làng say sưa như nghe chuyện cổ tích, chuyện thần tiên.

Tối hăm chín, Hén ở nhà để phụ giúp với mợ Tư nấu bánh tét, chớ không lẽ năm cùn tháng tận rồi, nhà ai cũng bận rộn mà cứ ngồi lê mãi.

Hồi bảy giờ rưỡi, thình lình một tiếng đá rơi lên ngói kêu lên chát chúa. Mợ của Hén rủa: "Quân dịch vật, ban đêm mà cũng bắn giàn thun cho bể ngói của người ta hết".

Cậu của Hén cũng có mặt ở dưới nhà bếp, chỉ làm thinh thôi, nhưng châu mày suy nghĩ. Trẻ con bắn giàn thun bằng sỏi nhỏ cỡ bằng ngón tay cái. Sỏi ấy rơi xuống ngói rồi thì lăn đi, kêu rổn rổn, nghe như cả mái ngói đều bể hết, nhưng không sao cả. Trong trường hợp nầy, tiếng chạm rất ngắn, nghe thì đoán biết ngói bể nhưng chỉ bể một vài tấm thôi rồi cái vật rơi ấy nằm yên nơi chớ không lăn xuống dốc mái nhà, chứng tỏ rằng nó nặng lắm.

Không biết bao lâu sau - vì không ai chờ đợi một tiếng đá rớt thứ nhì nữa nên không ai phỏng độ thời gian - bỗng cái tiếng đá thứ nhì ấy lại kêu lên, chát chúa. Mợ của Hén đã thả xong mười lăm đòn bánh tét vào nồi. Lúc bấy giờ đang có mặt hai bà hàng xóm, tới đó để gởi bánh tét vào nồi nhà nầy, theo tục lệ ở thôn quê, người nghèo chỉ gói một, hai đòn, nấu tốn công, tốn củi nên đem gởi vào nồi của các gia đình khá giả. Mợ Tư vội bước ra cửa sau chưởi: "Mẹ tiên nhơn cha, dòng họ cha nó! Đẻ con hổng biết dạy thì đóng trang mà thờ, chớ sao lại để đêm hôm lại còn bắn giàn thun lên nhà người ta!" Mợ Tư chưởi thật to, vì mợ đoán thằng bé bắn giàn thun có thể ở xa, cách năm bảy nhà gì lận, chớ không chưởi đủ cho người khít rào nghe như những lần mợ mất gà.

"... tiên tằng cố tổ bà nội cha bây, ăn no rồi ở không phá làng phá xóm! Mai nầy bây rước ông bà bây về, tao còn chưởi nữa, tao chưởi cho ông bà bây ngồi không yên trên bàn thờ..."

- Thôi!

Cậu Tư nạt vợ rồi nói tiếp để giải thích:

- Không phải con nít bắn giàn thun đâu. Tiếng kêu của ngói bể, là tiếng đặc biệt của đá chọi vô nhà.

Cậu Tư nói như vậy và nghĩ rằng có kẻ chọi nhà cậu, vì lý do gì chưa biết. Nhưng cả nhà đều nghĩ ngay đến ma và ai cũng kinh sợ đến cực độ.

Hai bà gởi bánh tét, không nói không rằng gì, vụt chạy bay đi. Mợ Tư, Hén và bốn đứa con nhỏ của cậu mợ, không ai bảo ai, lật đật đóng các cửa lại rầm rầm, làm như ma sẽ bị cửa đóng vào nhà không được, như loài người vậy, rồi họ xúm xít nhau quanh bếp lửa nấu bánh tét là nơi sáng sủa nhứt nhà bếp. Cô Hén đã rời thôn xóm từ lâu, quen sống trong ánh sáng nên sợ hãi hơn hết, sợ còn hơn mấy đứa bé nhứt, con của cậu mợ cô. Cậu Tư làm thinh, đoạn mở cửa nhè nhẹ, rồi thoát ra ngoài. Mợ Tư gọi cậu một tiếng, không nghe cậu đáp, mợ càng sợ thêm, chạy vội đi đóng cửa, phó mặc cho ma quỉ nó ăn tươi nuốt sống cậu mặc cậu. Ai bảo cậu bướng!

Thình lình đá lại rơi trên ngói. Cả nhà ôm nhau rồi ngã lăn cù. Bấy giờ nghe tiếng xôn xao quanh nhà, khiến mấy đứa bé khủng khiếp khóc ré lên. Nhưng mợ Tư thì yên dạ. Đó là tiếng của người trong xóm, có lẽ do hai mụ gởi bánh tét báo động, họ tụ lại để xem cho rõ thật hư. Đá lại rơi trên ngói, lần nầy đến hai viên một lượt.

- Đó, nó đó!

- Chắc chắn là ma!

- Ừ, chú Tư hiền khô, ai mà oán thù chú!

- Giỏi chọi nữa thử coi!

Tức thì một cục đá rơi xuống ngói.

Bấy giờ cả làng đều có mặt, đèn đuốc sáng trưng. Đàn bà họ sợ ma lắm, nhưng cũng rất ham coi ma. Nhưng để cho chắc khỏi bị ma ăn thịt, họ đốt đuốc lên và đi coi ma đông từng đoàn năm bảy người.

Cậu Tư không thể rình được nữa vì cậu đứng nơi sân, ai cũng thấy cậu hết. Tức mình, cậu vô nhà lấy áo để đi mời ủy viên cảnh sát. Nhưng cậu vừa ra tới cửa ngõ thì gặp ủy viên cảnh sát cũng vừa tới nơi.

- Gì đó chú Tư?

- Có ai chọi đá.

Cậu Tư vừa nói vừa mở cổng và thiên hạ nối gót ủy viên cảnh sát, tràn vào sân. Mợ Tư đã mở cửa nhà trên, thắp đèn sáng lên, ông ủy viên cảnh sát chưa kịp ngồi thì một viên đá lại rơi xuống ngói và ngoài kia thiên hạ lại la rần rần.

- Nó chọi đã bao lâu rồi?

- Độ trên nửa tiếng đồng hồ, non một tiếng.

- Mấy cục hết thảy?

- Gần mười lăm cục.

- Chú có nghi cho ai không?

- Không!

Ông ủy viên cảnh sát bóp trán rồi vụt hỏi:

- Còn con Hén đâu? Nghe nói nó mới về phải không?

Mợ Tư đáp hớt:

- Dạ, nó mới về, đang ở ngoài sau. Dạ, ông cảnh sát, tôi nhớ ra rồi.

- Nhớ gì? Ông ủy viên cảnh sát mừng rỡ hỏi.

- Nó tuổi dần. Hồi nó còn nhỏ, thầy coi nó có số quến ma.

Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư bật cười, trong khi đó thì mợ Tư gọi Hén giựt giọng, giọng hằn học lắm. Ngày tư ngày Tết mà con nhỏ mắc dịch nầy về đây báo hại mợ ăn Tết không yên! Mợ hận nó lắm, quên mất mớ quà nó biếu, mớ quà đã giúp mợ tử tế với nó. Hén lấp ló nơi cửa buồng, ông ủy viên cảnh sát hét:

- Hén, ra đây tao biểu.

Hén ríu ríu vâng lời, mặt cắt không lấy được giọt máu.

- Dạ!

- Hai bữa rày có thằng nào chọc ghẹo mầy và mầy cự hay không?

- Dạ không!

- Nói thật tao nghe, hễ nói láo là tao bắt giam liền. Có hay không?

- Dạ, chắc chắn là không!

Cậu Tư có một người con gái thứ ba đã đi lấy chồng. Thằng con trưởng nam của cậu đã chết lúc sắp cưới vợ. Còn lại ở nhà chỉ có mấy đứa bé xấu như ma.

Ông ủy viên cảnh sát lại hỏi cậu Tư:

- Không ai oán thù vợ chồng chú chớ?

- Quả thật không, ông à.

- Có bao giờ có ai hỏi mua cái nhà nầy hay không?

- Dạ cũng không.

- Kỳ lạ, kỳ lạ !

Hai người đàn ông, không ai tin rằng có ma cả. Nhưng một cậu con trai xồng xộc chạy vào nhà, tay cầm viên đá. Hắn xin bà chủ nhà một miếng vôi ăn trầu. Đó là trò chơi cổ điển mà ai cũng biết cả nên không ai ngạc nhiên và hắn được thỏa mãn.

Hắn bôi vôi trên cục đá rồi trở ra sân, hắn quát lên thật to:

- Nè, ma có giỏi thì vụt trở vào sân cục đá bôi vôi này thử coi!

Nói đoạn hắn tung đá ra thật mạnh. Bao nhiêu người trong sân đều hoảng, chạy đi tìm chỗ núp, mái hiên, tàng cây, v.v... Ai quen thân với chủ nhà thì chạy vô nhà, lúc ấy đã đông nghẹt. Không đầy hai phút đồng hồ thì một hòn đá rơi đánh phịch trên sân đất. Thiên hạ lại đổ ra sân, đèn đuốc sáng trưng trở lại nơi đó. Và kinh dị thay! Người ta lượm được một cục đá bôi vôi mới, vôi còn ướt mèm. Ông ủy viên cảnh sát có học tới lớp nhứt hồi Pháp thuộc, có đọc báo, đọc sách, và từ đầu chí cuối câu chuyện, không bao giờ nghĩ đến ma, thế mà ông cũng bắt đầu nao núng. Bận nầy ma vụt đá vào vách bổ kho, chớ không ném lên mái nhà nữa. Tung đá chạm vào vách kêu ầm dễ sợ hơn nhiều lắm.

Ông ủy viên cảnh sát gục gặt đầu rồi lặng lẽ mỉm cười. Ông suy luận như thế này: muốn vụt đá vào vách, phải vụt ngang. Mà đá nặng, vụt ngang phải đứng gần. Kẻ ném đá thừa dịp thiên hạ vào hết bên trong sân, mới xáp lại gần hàng rào mà làm như vậy được. Trước hắn còn nhát nên đứng xa, và chỉ có thể tung lên cao cho đá rơi xuống ngói thôi.

Ông ta bước ra sân và hô lớn như công khai tuyên bố:

- Rõ ràng là ma! Như vậy vụ nầy không thuộc quyền hạn của tôi nữa. Thôi, tôi đi về đây!

Lời công bố của đại diện chính quyền địa phương nặng cân lắm, nên thiên hạ càng tin rằng đó là ma. Ma cứ tiếp tục vụt đá vào vách bổ kho rầm rầm, hết vách bên tả đến vách bên hữu. Mỗi lần một cục đá bay vào nhà là người hiếu kỳ bu lại giành nhau để đem về làm kỷ niệm, đợi vài hôm coi đá còn hay không, hay cũng là đá ma nữa ? Nếu ma ném đá thâu đêm thì bọn tò mò nầy cũng dám thức suốt một đêm lắm để coi chơi và bàn tán, mặc dầu họ đã mệt mỏi lắm rồi vì bấy giờ cũng gần sang canh hai, tức là trên mười giờ đêm. Từ lúc ông ủy viên cảnh sát ra đi tới giờ, đã non một tiếng đồng hồ và ma làm xôm tụ hơn nhiều, đá bay vào vách tới tấp khiến khách hiếu kỳ đông là thế mà người nào cũng giữ được một cục, không còn giành giựt nhau nữa.

Thình lình nghe ai la lớn ngoài hàng rào:

- Nó đây rồi. Mầy chạy đàng trời không khỏi tao.

Tức thì hàng chục tia đèn bin ngoài kia chỉa thẳng vào nơi phát lên tiếng la ấy. Người ta nhận ra đó là giọng của một anh dân vệ trong làng. Thiên hạ lại đổ xô nhau ra khỏi sân, giành nhau để đi qua cửa ngõ hẹp té. Cậu Tư nhảy rào đi tới nơi trước thiên hạ, vì cậu tức ấm ách, muốn biết mặt mũi "con ma" ấy ra sao và nhứt là muốn biết lý do đã xui khiến nó phá nhà cậu.

Dân vệ do ông ủy viên cảnh sát bí mật điều động và cho đi rình, đã tóm được thằng Ngọt với một cục đá trong tay. Đó là đá xanh trải đường, đường quê lâu đời, nước mưa chảy xiết, gặm mòn đất, để lòi ra hàng trăm, hàng ngàn cục, muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu. Cả làng đều kinh ngạc: Thằng Ngọt vẫn được tiếng là một công dân tốt trong đám công dân tốt trong làng, nó siêng năng, giỏi giắn, con nhà tử tế và tương đối khá giả. Nhà nó với nhà cậu Tư lại rất thân nhau. Nó cũng sắp đi hỏi vợ và rất mê con Họn xinh đẹp mà nó sắp hỏi thì không thể bảo rằng nó "muốn" con Hén không được rồi làm xằng. Vả con Hén năm nay đã hăm ba tuổi, lớn hơn nó đến bốn tuổi lận?

Ông ủy viên cảnh sát truyền lịnh giải tán bọn hiếu kỳ, kể cả dân vệ nữa, vì ông muốn điều tra mật, chỉ cho cậu Tư theo ông về công sở thôi.

Thằng Ngọt không sợ hãi, không hối hận, tỉnh khô như thường, có vẻ lương tâm an ổn lắm. Vả ông ủy viên cảnh sát không có hành hung nó mà, trái lại, khi nãy còn ngăn dân vệ toan làm dữ với nó là khác.

Lời lẽ ôn tồn, ông hỏi:

- Cháu nè, muốn nhẹ tội, cháu nên khai thật, tất cả sự thật. Nếu thấy rõ thiện chí của cháu, bác có thế làm êm, tha luôn cháu nữa. Bằng như mà cháu còn dối trá thì bác giải tòa vụ nầy.

Ngọt do dự lâu lắm trong sự im lặng, đoạn trịch thượng hỏi lại:

- Thưa bác ủy viên cảnh sát, cháu không biết bác chú ý tới điều nầy hay không, là từ mấy năm nay, mỗi lần chị Hén về làng, là làng ta mất đi ít lắm là một cô gái?

Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư giựt nẩy mình. Quả đúng như vậy ! Tiếng gọi của thị thành réo rắt lắm, và gái quê, những cô gái nghèo khổ, cực nhọc, cô nào cũng có mộng ra thành cho sung sướng tấm thân. Hén là tượng trưng của xa hoa, của đời sống dễ dàng ở các châu thành lộng lẫy, hơn thế, nó lại quyến rũ gái làng ra đi. Và họ dám đi là nhờ có nó dìu dắt. Những thôn nữ bỏ làng ấy, đôi cô không bỏ hẳn, những cô còn cha mẹ, bà con trong thôn ổ, thỉnh thoảng lại về, nhưng không cô nào còn can đảm lấy những anh nông dân trong làng mà họ đã thấy là cùi đày, lam lũ quá.

- Thưa bác và chú, mấy hôm nay, chị Hén qua lại với con Họn rất thường và cháu cảm nghe như Họn đã đổi thái độ đối với cháu. Cháu phải tự vệ, cho dẫu rồi phải vào tù. Cháu quyết làm cho chị Hén sợ ma, ra đi ngay, trước khi kịp dụ dỗ con Họn, hoặc bị mợ Tư sợ cái tuổi quến ma của chị ấy mà tống cổ chỉ đi ngay. Chỉ có thế thôi.

- Nhưng còn cục đá bôi vôi? Cậu Tư hỏi.

- Thưa chú, đó là việc thách đố ma cổ điển, cháu biết họ sẽ thách như vậy, nên mang vôi theo sẵn trong mình. Họ quên coi hình thù cục đá ném ra, để mà so sánh với cục đá ném vô.

Cả hai người lớn đều nghĩ nhiều về sự hao hớt dân làng và nhìn cậu con trai nầy, thương xót không biết bao nhiêu. Lâu lắm, ông ủy viên cảnh sát hỏi chủ nhà:

- Chú tính sao? Bãi nại được không?

- Được, miễn cha mẹ nó bồi thường thiệt hại cho tôi. Hằng trăm tấm ngói bể chớ ít sao?

- Còn con Hén?

- Xin cho nó ăn Tết. Nhưng tôi sẽ cấm nó ra khỏi nhà.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

5 . Con Tám Cù Lần

Mặc dầu nó cù lần, con tám Cù Lần là hy vọng cuối cùng của tôi (Lời một người nội trợ )

Từ hôm đầu năm tới bây giờ, tôi đã thay đổi người làm năm lần rồi. Tôi nghe nói bên Âu Mỹ, công ăn việc làm nhiều lắm, nên người đi ở lấy rất mắc và chỉ có bực triệu phú mới dám thuê người thôi, nên tôi cũng không khổ lắm mà phải làm một mình đủ thứ việc trong nhà, ngặt trẻ con đông, tôi không làm sao mà quán xuyến cho hết công việc.

Con Tám Cù Lần là đứa độc nhất không biết rằng ngoài gia đình tôi, còn rất nhiều người hoạt động trong đủ thứ ngành, ngành nào cũng cần nhân công, cho đến mấy ông thầu khoán mà cũng tuyển mộ phụ nữ để phụ với thợ nề, tuy họ trả lương không cao hơn tôi, trên hai ngàn đồng mỗi tháng mà không cho ăn, ở, áo quần như tôi, nhưng phụ nữ họ vẫn thích đi làm phu lương thấp hơn là đi ở. Họ không đá động tới nhân phẩm, tới gì hết ráo, nhưng tôi biết rằng ai cũng sợ nội trợ cả, chính các bà nội trợ là tôi đây mà còn sợ, huống hồ gì là người chưa có gia đình: làm nội trợ rất tối tăm và rất buồn, chưa kể nhọc không tưởng tượng được.

Nếu như mấy năm trước thì tôi không thể nào nhận con Tám Cù Lần cả.

Các cháu cho nó cái tục danh ấy, và tục danh được trường sanh, vì tả rất đúng con Tám.

Các bạn có bao giờ thấy con Cù Lần chưa? Tôi không có gặp nó trong rừng sâu như đàn ông đã gặp mà chỉ thấy một con Cù Lần người ta bắt về nuôi mà thôi. Nó nhỏ cỡ bằng con mèo, nhưng lông màu giống màu lông chó phèn. Đôi mắt nó lờ đờ và như lim dim ngủ suốt ngày, có xô đuổi nó, nó cũng không buồn biết tới. Khi nào cần xê dịch lắm, nó mới dời chỗ, mà nó phải bỏ ra một tiếng đồng hồ để đi lối một thước tây. Ấy, con Tám là hình ảnh trung thành của con Cù Lần, có kêu gọi nó thì phải đợi mười phút sau mới nghe nó lên tiếng, và đợi thêm mười lăm phút nữa mới thấy mặt nó, mặc dầu nhà tôi, từ trước ra tới sau bếp chỉ dài có 15 thước tây thôi.

Nó cũng chẳng biết làm gì hết ráo, trừ lặt rau và rửa chén. Vậy mà tôi quí nó lắm, vì dù sao nó cũng đỡ tay cho tôi phần nào. Chẳng hạn, tôi dạy nó lau gạch trong một tuần lễ thì nó đã lau sạch được nền nhà, một mình nó, khỏi phải kiểm soát nữa. Giặt giụa thì hơi khó thật đó Nhưng chắc dở lắm nó cũng làm được sau một tháng học tập. Sáu tháng nữa là tôi có thể nghỉ ngơi một ngày vài tiếng đồng hồ.

Người mình cứ tin rằng đi rừng mà gặp con Cù Lần thì ba năm làm ăn ngóc đầu không lên, nhưng ngày mà một người bà con đưa con Cù Lần nầy tới đây, tôi sung sướng vô cùng. Dĩ nhiên là ngày đó nó chưa mang tên Cù Lần nhưng tôi đã nghĩ ngay đến danh từ Cù Lần lúc thấy mặt con bé thôn nữ quá chậm chạp này.

Bỗng dưng đùng một cái, cái hy vọng cuối cùng của tôi, một đêm kia, xin nghỉ việc.

Tôi choáng váng gần như là nghe ba các cháu tỏ ý muốn đoạn tuyệt với tôi. Năm đứa con thơ, mà đứa lớn hơn hết mới có bảy tuổi, đứa bé hơn hết mới được có sáu tháng thì các bạn tính coi.

Thật là tin sét đánh vì con tám Cù Lần không có tánh ngồi lê đôi mách, không ưa đánh đôi đánh đọ với bạn đồng nghiệp của nó cùng khu phố - vả lại cũng còn leo heo vài đứa thôi, đứa nào cũng tật nguyền cả - thì làm sao mà nó biết tin tức về sinh kế ở đô thành hiện giờ mà muốn "thoát ly". Các bà nội trợ ở xóm nầy, chắc không ai dụ dỗ nó làm gì, trái hẳn với thói phần đông của các bà, vì ai thấy cái tướng Cù Lần của nó cũng phát ngán, đâu có chuyện quyến rủ một người làm giỏi, hoặc kha khá.

- Mầy xin thôi thiệt sao Tám? Tôi gạn hỏi nó một cách ngớ ngẩn như vậy, và nó thật thà đáp:

- Dạ thiệt cô à!

- Ai nặng nhẹ mầy, ai ăn hiếp ăn đáp mầy?

- Dạ, không có ai cô à.

Tôi nghĩ tới các cháu, khi hỏi câu trên. Chúng nó không ác, nhưng chúng nó có thể vô tình làm phật lòng con bé hiền lành nầy.

- Mầy thôi để đi làm cho Huê kỳ hả?

Con Tám ngơ ngác nhìn tôi mà không đáp, và tôi hiểu ngay rằng không phải thế. Không, nó không hề hay biết gì hết về sự đổi thay mấy tháng nay: công việc nhiều, người làm ít. Nó thật thà, dốt nát, và không có đi đâu cả, trừ theo tôi đi chợ rồi về.

- Chớ mầy thôi rồi đi đâu, làm gì?

- Dạ, cháu nhớ ốc gạo.

- Nhớ ốc gạo?

Bây giờ tới phiên tôi ngẩn ngơ nhìn nó. Con bé nầy nó trêu tôi sao mà? Ai lại nhớ ốc gạo!

Kể về thú vật thì chính mắt tôi đã thấy những thằng bé chăn trâu, chăn bò, nhớ trâu bò, khi chủ chúng nó bán những con vật ấy. Chính mắt tôi lại đã thấy những bà cụ ở thôn quê sa nước mắt mỗi lần chú chệt mua heo xách cây cần vòng bằng mây đến bắt chơn cho heo của các cụ té rồi trói gô lại khiêng đi. Người da trắng xem chó là bạn thân, nhưng xứ ta, chó chỉ đứng vào hàng thứ ba trong nỗi nhớ niềm thương của thiên hạ thôi. Và những loài vật được loài người thương nhớ, chỉ có bốn loại ấy, trong xã hội ta. Tôi có nghe vài người nói nhớ gà, nhưng họ nói nghe ra không tha thiết lắm. Nhưng ai lại nhớ ốc gạo bao giờ. Loài ốc gạo ở dưới nước, nội cái đặc tính ấy của giống vật đó đủ chỉ rõ rằng ta không có lý do mà nhớ nó. Nó có gần gũi như mèo, hay tệ lắm như chuột đâu. Con dơi coi vậy mà thỉnh thoảng còn vào nhà thăm ta, chớ ốc gạo thì lạnh như nước rạch mà chúng sống trong ấy!

- Theo pháp luật thì mầy với tao, cả hai phải báo với người kia hay trước mười lăm ngày, nếu muốn thôi nhau, mầy có biết không? Tôi hỏi.

- Dạ không.

- Không thì nên biết đi. Tao có quyền cho mầy thôi việc ngay bây giờ, miễn là phải trả công không cho mầy cái mười lăm ngày mà mầy được biết số phận, để đi tìm việc khác, còn mầy thì không, bởi mầy có thể không có việc mà vẫn khỏi đói nhờ 15 ngày lương đó, còn tao thì cỡ tao được nhận tiền bồi thường của mầy, tao cũng bị thiệt hại bởi công việc bị ngưng trệ thình lình. Mầy hiểu không?

- Dạ hiểu.

- Vậy thì mười lăm ngày nữa mầy mới nghỉ việc được.

Tôi không thích giữ một người buồn, nhưng chưa tìm được người, biết sao!

Con Tám Cù Lần nhẫn nại chiu số phận, nhưng nó giống hệt một đứa con gái đau tương tư.

Tôi đưa nó đi Thảo Cầm Viên, đi coi Cải lương, đi xem đèn màu Sài gòn ban đêm. Không ăn thua gì cả. Nó mê những thứ ấy thì quả có mê thật đó, nhưng không nguôi được mối tình ốc gạo của nó, khiến tôi đâm nghi rằng nó nói láo, chớ thật ra là nó sầu tình, thằng nhơn tình của nó có lẽ nhắn nó về.

Hồi nó vô làm với tôi, nó nói rằng ở dưới không yên. Tôi tin rằng nó nói thật, và vẫn còn tin. Như vậy sao nó lại cứ nằng nặc đòi về chỗ thiếu an ninh?

- Tại sao chị lại đòi về dưới ấy chi Tám? Thằng Công, thằng con lớn nhất của tôi hỏi con Cù Lần như vậy.

- Vì tới mùa ốc gạo rồi.

- Tới mùa thì sao?

- Chị phải về đi xúc ốc gạo.

- Ốc gạo sống ở đâu chị?

- Ở dưới rạch.

- Làm sao mà xúc chị?

- Thì đợi nước ròng lấy rổ xuống dưới ấy mà xúc chớ.

- Xúc chi vậy chị?

- Xúc để bán.

- Bán bao nhiêu một con chị?

Tới đây, tôi sực nhớ ra là bà bán rượu lậu ngoài đầu ngõ tôi, bả bán ốc gạo luộc làm đồ nhắm cho bợm nhậu, một đồng bạc có ba bốn con gì đó. Ba bốn con ốc gạo với lại một chén nước mắm chanh nhỏ bằng cái * cau, mà những một đồng bạc thì kể ra cũng khá được tiền.

Tôi đợi nghe tới, xem con Cù Lần cho biết giá cả và số ốc gạo mà nó xúc được. Nhưng nó chỉ bật cười mà không đáp.

Con tôi không hỏi lại, hỏi câu khác:

- Chị xúc một ngày được mấy con?

- Mấy con thì lấy gì mà ăn. Mỗi ngày chị xúc hàng chục rổ.

- Dữ vậy lận? Mà chị bán bao nhiêu một con chớ?

- Đâu có bán con, bán con gì được. Chị bán rổ.

- Bao nhiêu một rổ?

- Chừng ba đồng bạc.

Tôi ngạc nhiên quá. Như vậy, công nó làm,bọn trung gian ăn hết và nó chỉ kiếm được khoảng ba bốn chục bạc mỗi ngày, đâu có bằng lương tháng có ăn ở và áo quần của tôi.

Hơn thế, mùa ốc gạo kéo dài cao tay lắm là hai tháng mà thôi. Có đáng gì cho nó bỏ một chỗ làm, một nơi tạm trú tốt trong lúc nó đi tìm an ninh?

- Hễ tới mùa ốc gạo là chị phải về hả? con tôi lại hỏi.

- Ừ.

- Sao vậy?

- Để bắt ốc.

Con Cù Lần trả lời sai vì nó đần, chớ không phải muốn đánh trống lấp đâu. Nó không phân biệt được hai nghĩa khác nhau của hai câu hỏi: "Về chi vậy" và "Tại sao tới mùa thì phải về".

Nhưng con tôi cũng khờ không kém, nên nó thỏa mãn được với câu trả lời ăn trớt đó, và hỏi câu khác:

- Chị về đâu chị Tám?

- Về chợ Bưng.

- Chợ Bưng có vui không chị?

- Vui lắm !

- Vui bằng Sài gòn không chị?

- Vui hơn.

- Có xi-nê không chị?

Con Cù Lần không biết xi-nê là gì, nhưng đáp bừa:

- Có

- Chợ Bưng ở đâu chị?

Tôi nín thở, để nghe nó trả lời. Đó là cái chợ xép ở xó quê nào, làm gì mà có xi-nê. Nhưng con Cù Lần không bao giờ nói láo, nên tôi tin rằng ở quê hương nó có xi-nê, và đợi nghe coi nó cho biết ở đâu, để mình bớt dốt địa lý nước nhà, bởi cái chợ có xi-nê ấy hẳn phải quan trọng lắm, tôi không có quyền không biết.

Con Cù Lần mù chữ. Nhưng tôi lại hình dung được rõ ràng cái chợ Bưng, qua lời tả của nó, như là nó đã thấu đáo khoa tác văn, chương miêu tả. Nghe xong, tôi mới hiểu vì sao mà nó nhớ ốc gạo.

- Nè, em biểu xe đò nó ngừng lại ga Tân hiệp nha.

- Ừ !

Thẳng Công không hề biết ga Tân hiệp ở đâu cả, nó cũng không hay rằng nhà ga ấy đã được phá hủy rồi vì đường thiết lộ Sài gòn-Mỹ tho đã bị bỏ từ lâu, nay nhà ga biến thành một địa danh. Nó cũng chẳng định đi chợ Bưng, nhưng nó nghe lời chỉ nẻo như là nó muốn xuống dưới ấy một chuyến.

- Ừ!

- Đó, con đường đi chợ Bưng ở trước mặt ga Tân hiệp.

- Xuống xe ở đó rồi đi bộ sao?

- Chớ đâu có xe mà đi, mà có, đi cũng hổng được, vì là đường đất.

- Đi mỏi chân hôn chị?

- Hồi đó thì không, bây giờ thì mỏi.

- Bây giờ chị già rồi, như bà ngoại vậy hả?

Con Cù Lần cười ngất rồi đính chánh:

- Hổng phải. Hồi đó có xe lửa, họ đi buôn bán đông, đi đường chung với nhau vui nên hổng biết mỏi. Bây giờ đường vắng đi ngán lắm. Mà có cái nầy, còn ngán hơn.

- Gì ?

- Ma!

- Ý, ẹ, ghê quá! Ma trong rừng hả?

- Đâu có. Xứ chị hổng có rừng. Chỉ có bưng mà thôi.

- Bưng là cái gì?

- Là đồng lầy.

- Ma ngoài đồng?

- Ừ, ma ngoài đồng, ma trên gò é. Con đường đất ấy đi ngang qua một cái gò, gò cao, nên họ chôn người chết ở gò cho khỏi bị nước ngập.

- Ma nhiều hôn chị?

- Bao nhiêu cái mả thì bao nhiêu ma.

- Mà có mấy cái mả?

- Có cả trăm cái.

- Ý, ẹ !

- Đi ngang qua đó giấc hừng đông, giấc chạng vạng, và nhất là vào giờ đứng bóng thì ai cũng phải chạy, và ai cũng bị nó rượt theo sau, nó rượt nà, tiếng chơn của nó mình nghe đùi đụi.

Quả đúng như tôi đoán. Cứ theo lời con Cù Lần thì chợ Bưng chỉ là một cái chợ xép, mười giờ đúng là tan chợ. Chợ cất bằng gỗ, lợp lá. Hai bên chợ leo heo vài tiệm tạp hóa. Rồi thì nhà dân.

Nhưng con Cù Lần không ở tại chợ đâu. Nhà nó cất trong xóm trong, phải qua ba con rạch mới tới xóm.

Thằng Công không đồng ý:

- Vậy mà chị nói vui bằng Sài gòn !

- Ừ, vui bằng.

- Em có thấy gì vui đâu?

- Em hổng biết chớ đi chợ vui lắm, đi ga cũng vui lắm.

- Vui cái khỉ khô.

- Vui chớ. Đi chợ hồi ba giờ khuya, đi qua nhà chị em bạn, hú họ, họ ra vầy đoàn với mình, chín, mười chị, lại hổng vui sao?

- Sao lại phải đi chợ khuya?

- Đi chợ ngoài đường lộ, chớ có phải đi chợ Bưng đâu.

- Sao lại có chợ Bưng mà hổng đi?

- Ở đó thiếu đồ. Mỗi tháng phải đi chợ lớn ngoài đường lộ một lần. Khuya hai giờ, thức dậy nấu cơm ăn, lại hổng vui sao?

- Ăn cơm sao lại vui?

- Nấu cơm vui. Muốn nấu cơm, phải nhúm lửa, mà lửa thì vui.

- Lửa vui?

- Ừ, ở dưới tối, nên hễ sáng là vui. Ở dưới lạnh, có lửa ấm thì vui. Em mà thấy lửa chiều mưa thử coi.

- Lửa chiều mưa làm sao?

- Chiều mùa mưa, ai làm ngoài ruộng, hay đi đâu cũng về nhà hết rồi ăn cơm ở nhà bếp, quanh lò lửa, đông đủ cả nhà, vui lắm.

- Đã ăn cơm mà còn nấu cái gì nữa?

- Ừ, ở dưới nhà quê luôn luôn nhúm lửa chớ không để tắt bếp như trên nầy. Mà hễ lửa có là phải nấu cái gì, thí dụ luộc khoai.

Còn sang mùa Bấc thì lửa ngủ rơm cũng vui.

- Lại một thứ lửa nữa! Nhưng em hổng thấy gì vui hết.

- Vui lắm chớ. Nè, gặt rồi thì phơi rơm ngoài ruộng. Có khi phơi lúa nữa. Phải ngủ ngoài ấy giữ lúa, giữ rơm. Gió Bấc lạnh, năm bảy chị em đốt rơm lên,vui chơi, hò hát, vui lắm mà.

- Hông, lửa đâu có vui, thằng Công nhất đinh không nhận quan điểm của con Cù Lần.

- Vậy hả? Em hổng thấy là lửa vui sao?Vậy thì nước vui.

- Nước làm gì mà vui?

- Nó không có làm gì hết. Nó chỉ dâng lên tới thềm là vui, thấy như là mình sung túc.

- Nước ở đâu mà dâng lên tới thềm?

- Ngoài đồng. Bờ nước cũng vui. Em hổng thấy cây bần mọc dựa rạch lúc chạng vạng tối. Đôm đốm nó đậu nghẹt các lá cây, các nhánh cây, nó chớp cháy rồi tắt, buồn ghê lắm!

- Buồn, sao chị nói là vui?

- Ừ buồn mà vui. Chị nghe vui mà được buồn.

- Chị nầy điên.

- Em hổng biết đâu.

Phải có nghe giọng con Cù Lần nói, mới thấy được lòng thương mến làng mạc của nó, giọng nói còn quan trọng hơn là lời nói nhiều lắm. Lại còn những lúc im lặng nữa. Ta học nhạc Tây phương, đã thấy những sự quan trọng của những chỗ im lặng, thì những lúc con Cù Lần im lặng cũng quan trọng lắm. Tôi nghe và hình dung nó đang nhìn xa về làng nó.

Thì ra nó chỉ nhớ nhà mà thôi, chớ không có nhớ ốc gạo khỉ khô gì hết. Nỗi nhớ nhà nầy được mùa ốc gạo gợi lên, thành ray rứt quá, nó chịu không thấu, khi nó thấy ốc gạo bán đầy các vỉa hè cho bợm nhậu nhắm rượu. Chắc không thể nào nó trở lên đây nữa, sau mùa ốc gạo.

Tôi thấy trước rằng tôi sẽ bùi ngùi nhớ nó, nhớ cái vùng quê mà nó tả, bởi tôi có ở thôn quê, tôi hiểu được nó và niềm thương nỗi nhớ của nó cũng cùng một loại với niềm thương nỗi nhớ của tôi, thuở tôi rời làng lên đây. Con tôi không làm sao mà hiểu được hết, vì chúng nó không biết cái tình nhớ xứ là gì. Đô thị không phải là nơi mà người ta có thể nhớ được, huống chi đô thành Sài gòn thật kém thơ mộng. Ngày mai, tôi phải cho gia đình ăn ốc gạo một bữa mới được, mặc dầu món ăn ấy rất kém vệ sinh. Con Tám Cù Lần có thể nhớ nhiều kỷ niệm nữa, do ốc gạo gợi ra, sẽ nói thêm cái gì. Mà tôi thì rất ưa nghe nó thật thà kể lể những chuyện không đâu mà có mình nó với tôi là hiểu thôi.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

6 . Bóng Ma Suối Kiết

Toàn đang mơ giấc thần tiên của một thanh niên viễn du một mình trên một quãng đường vắng, giữa đêm khuya, thì cảm giác hơi kỳ kỳ.

Cảm giác nầy đánh thức tỉnh chàng, chàng lắng nghe để xem cho biết đó là cái gì, thì ra xe lửa đang hạ tốc độ khá nhiều rồi để cho cơ thể của chàng vốn quen với tốc độ cũ suốt mấy tiếng đồng hồ, bị tốc độ nầy làm mất thăng bằng nên báo động cho tiềm thức của chàng hay, rồi kế đó tiềm thức lại báo động cho ý thức rõ.

Toàn ngồi thẳng dậy, day ra cửa mà nhìn bóng đêm dày mịt ngoài kia, khối lá xanh ở cận thiết lộ chỉ được đèn trong xe soi qua lờ mờ thôi và sau đó là tối hoàn toàn.

Đoạn day trở vào, chàng hỏi người bạn đồng hành cao niên ngồi cạnh chàng :

- Thưa ông, ga nầy là ga gì ?

- Tôi cũng không biết nữa, ông khách trả lời, tôi đi xa lắm.

Ông ấy nói giọng Huế và Toàn tin ngay là ông không biết thật chớ không phải là ông không sẵn lòng đáp một câu hỏi vô ích, vì chàng đã khai với ông ta, lúc đầu hôm, khi xe mới khởi hành ở ga Sài Gòn, rằng chàng đi Nha Trang thì có cần gì biết cái ga xép giữa truông nầy.

- Xe lửa đã rời ga Biên Hòa khá lâu rồi phải không ông ?

- Ừ, nãy giờ xe ngừng ở mấy ga rồi.

- Vậy chắc gần tới ga Suối Kiết rồi chớ ?

- Tôi thật mù tịt.

Toàn nghe lòng rộn vui, nhưng một nỗi buồn dịu nhẹ cũng đồng thời làm cho chàng nao nao trong dạ.

Chàng vui vì Suối Kiết như là cái tên của nơi hành hương mà khách mộ đạo là chàng, sắp đến nơi. Nhưng mà chàng cũng buồn vì đấng thiêng liêng Suối Kiết, thật ra, chắc chắn không còn ở đó nữa.

Chàng đứng dậy, nhìn về phía trước. Thình lình còi xe lửa hú lên, cũng y tiếng còi đầu hôm, nhưng ở ga Sài Gòn, giọng nó lại buồn nỗi buồn tiễn biệt, mà nơi đây tiếng còi sau lại nghe vui nhộn thế nầy ?

Bỗng Toàn thấy một vùng sáng ở trước đầu xe rồi xe chạy từ từ một lúc thì ngừng hẳn.

Một hành khách đứng dậy, nói to lên một mình, giọng mừng rỡ một nỗi mừng không hăng hái lắm.

- Thôi, tới Suối Kiết rồi.

Rồi ông ta xuống xe.

Trong một giây phút, một sức mạnh vô hình xô chàng bước theo hành khách đó. Biết mình có một công việc quan trọng và cấp bách ở một nơi xa kia, Toàn cố cưỡng lại với sức mạnh ấy, nhưng không thể được.

Chàng bước tới mấy bước rồi nắm chặt lưng dựa của chiếc băng trước mặt làm như bám níu như vậy không còn sợ bị gì lôi cuốn đi nữa.

Nhưng sức mạnh ấy ở chính trong chàng nên rồi chàng buông chỗ bịn ra bước tới nữa.

Ra đến cửa. Toàn còn tự vệ lần cuối cùng, nhưng có một tiếng xa xôi nhưng rất là thiết tha réo rắc kêu gọi chàng, nên chàng đành đầu hàng.

Đêm hăm ba tháng chạp ta trời tối như mực Tàu. Nếu ở nơi khác, ngửa bàn tay lên trước mặt cũng không thể thấy được chính bàn tay của mình.

Mấy ngọn đèn thắp quanh nhà ga, có vẻ bịnh hoạn và khổ sở vô cùng.

Đây là một ga xép giữa rừng, Toàn rất biết điều đó từ lâu. Phía bên kia xóm ga, sau một khu rừng, là con đường thiên lý với lữ quán Cao Văn Trạng, cất lên để đón du khách sang đi xa bằng xe hơi nhà. Chỉ ở đó là có hơi hám văn minh thôi, còn xóm ga nầy là nơi đèo heo hút gió.

Chàng lại còn biết chắc một điều nữa là nàng không còn ở đây.

Thế mà chàng cứ xuống xe, không dừng được.

Thình lình xe lửa nổi còi rồi cả đoàn xe dài thậm thượt chuyển mình lướt tới. Toàn chưa ra khỏi nhà ga chợt tỉnh, và hoảng hốt chạy theo xe, nỗ lực bám vào một thanh sắt ở một đuôi goong kia, nhưng không kịp.

Gã thụy du nầy đành buông thanh sắt ra, không chạy đua với xe nữa, và nhẫn nại chịu số phận, nhìn mười mấy goong hàng hóa bịt bùng kết ở đuôi đoàn, lướt qua nhanh chóng trước mặt.

Gã thụy du ? Vâng, đó là một gã thụy du và nói "hắn chợt tỉnh lúc nghe tiếng còi" không phải là nói quá.

Hắn hành động như một kẻ đang ngủ, đứng dậy đi mà không hay biết, đó là kẻ mắc chứng bịnh thần kinh gọi là thụy du.

Hắn bị một định kiến ám ảnh và sai khiến. Định kiến ấy là tên của ga nầy : Suối Kiết.

Thuở còn đi học, những lần nghỉ hè, đi Huế, đi Nha Trang, qua đây hắn không thèm để mắt đến cái ga quê này. Tên Suối Kiết đối với hắn là một tên làng hẻo lánh nặc danh, vâng, mặc dầu địa điểm ấy có tên, nhưng nó vẫn nặc danh như thường như một nông dân tên là Nguyễn Văn Hai, hoặc Trần Văn Ba vậy.

Hiện kim, địa điểm ấy không phải là danh lam thắng cảnh để du khách nhắc nhở đến, mà trong thời gian, nó cũng không phải là một bãi chiến trường như gò Đống Đa, như truông nhà Hồ, như bến Vạn Kiếp để sách vở phải nói đến nó và học trò phải thuộc tên nó.

Thình lình năm ngoái, lên lớp đệ nhị ở một tư thục kia, địa danh Suối Kiết bỗng trở nên vô cùng quan trọng đối với Toàn.

Đó là một lớp hỗn hợp lam nữ, đông được tám mươi tám học sinh mà quá phân nửa là nữ sinh.

Nữ sinh nào cũng có tên thơ mộng cả, nhưng sau ba tuần nhập học, giáo sư gọi đến tên một cô thì cả lớp rầm rộ mà cười.

- Hà thị Suối Kiết !

Người bình dân miền Nam rất sợ tĩnh từ "Kiết" vì nó đồng âm với một danh từ chỉ một bịnh không đẹp mắt bao nhiêu. Lắm người muốn gọi cái ga nầy là ga Suối Cát cũng vì thế.

Riêng Toàn không cười. Chàng chết lặng đến mấy mươi giây vì bị tiếng sét.

Nhưng suốt niên học, chàng không trao lời với cô gái ấy. Chàng nhút nhát, lại được giáo dục nhà luyện cho cái tính quá dè dặt nên mấy mươi lần muốn hở môi, mấy mươi lần lại thôi.

Không nói gì, nhưng mơ nhiều lắm.

Nếu cái tên Suối Kiết là đầu đề câu chuyện pha trò của bạn hữu chàng thì trái lại, nó là cái đích là hồn chàng viễn du tới, một cách nghiêm trang.

Hà thị Suối Kiết, ngoài vẻ xinh đẹp, lại có tướng sang trọng đài các thì không thể nào là dân bổn xứ của một nơi khỉ ho cò gáy như Suối Kiết. Đó là một điểm chắc chắn !

Điểm chắc chắn thứ nhì là người địa phương không bao giờ lấy tên làng mà đặt cho con. Đó chỉ có thể là thói quen của dân cư ngụ, họ đặt thế để kỷ niệm cái thời gian họ tạm trú nơi nào đó.

Mà hạng người cư ngụ ở cái xứ Suối Kiết đìu hiu quạnh quẽ chỉ có thể là một ông xếp ga thôi. Toàn suy luận như vậy, và tin rằng mình đoán đúng vì người bổn xứ Suối Kiết ắt hẳn không gởi con đi theo học trung học ở Sài Gòn.

Chàng lại đoán rằng ông xếp ga ấy gốc người miền Bắc. Hồi tiền chiến, người miền Nam rất sợ làm ở Bưu điện và sở Hỏa xa vì có thể bị thuyên chuyển đến những nơi hẻo lánh như cái đất Suối Kiết này.

Năm ngoái, cô Suối Kiết mười chín thì tức thân phụ cô là một xếp ga tiền chiến rồi vậy.

Nhưng cô Suối Kiết lại nói giọng miền Trung, giọng Quảng Nam hay giọng Bình Định gì đó chàng không rõ.

Để nói cái câu : "Hắn làm rầm rầm tôi phải cắn răng chịu, chớ không dám cằn rằn" cô ta nói : "Hén làm rèm rèm, tui phải kén ren mà chịu, không dám kèn rèn".

Chàng tưởng tượng ông xếp ga ấy bị thuyên chuyển vào Nam theo cái đà Nam tiến ngày xưa, nghĩa là đi qua miền Trung trước, rồi lấy vợ ở đó, đoạn mới đổi vào Suối Kiết. Con cái gần mẹ hơn, nên nói theo giọng mẹ.

Chàng yêu Suối Kiết kể từ năm ngoái và cái làng nặc danh ấy, cái nơi rừng rú cỏ cháy đồng khô ấy bỗng trở nên trù mật vô cùng trong trí của chàng. Đó là nơi vườn tược sầm uất, suối trong thấy đáy, dân cư đông đảo, mộc mạc bình dị mà không quê.

Cuối niên học, cả hai đều đậu tú tài I, rồi vì gia đình suy sụp, Toàn phải bỏ học để đi làm.

Sau đó, chàng có trở lại trường cũ để hỏi thăm tin tức về cô bạn đồng song mà chàng đã yêu thầm lặng thì cô ta đã đổi trường, đi học ở đâu, không ai biết cả.

Từ đó mối tình câm của chàng càng ngày càng trưởng thành lên thì niềm tiếc nhớ cứ làm cho chàng ngậm ngùi đau xót.

Suối Kiết trở thành một nơi hành hương mà đêm đêm, hồn chàng tìm đến để ngưỡng mộ nàng tiên chắc chắn không còn ở đó nữa, vì cái nghề xếp ga nầy y như nghề công chức, không thể nào ông cụ của nàng làm ở nơi đó mãi từ lúc sanh nàng ra đến nay là hai mươi năm rồi.

Hà thị Suối Kiết không còn ở Suối Kiết nhưng mà nơi tiên ngự, tiên thường để dấu gót chân lại trên các tảng đá.

Chính những kẻ hành hương chỉ đến các nơi ấy để chiêm ngưỡng trước các gót chân chứa nước mưa trong vắt, giữa rừng sâu núi thẳm ấy thôi.

Toàn xem lại đồng hồ tay thì bấy giờ đã hơn mười giờ đêm rồi. Tàu Nha Trang khởi hành hồi bảy giờ rưỡi tối ở Sài Gòn, đã vội rời cái nơi mà chắc chắn một trăm phần trăm không hề có người hành khách nào lên xe để đi đâu bằng chuyến xe đêm, từ ngày đường thiết lộ được thành lập đến nay.

Tiếng còi tàu nghe xa vắng trong rừng rồi chết lần trên dặm đường bán dạ.

Toàn nghĩ đến món hàng Tết chở trên xe, mà chàng phải bỏ cho một hiệu buôn ở Nha Trang mà đâm lo.

Đó là hàng Nhựt Bổn. Ác một cái là một hiệu buôn khác cũng cho người đi bỏ hàng Tết ở Nha Trang, cùng một chuyến xe với chàng. Hàng của họ lại là hàng Pháp, được chuộng hơn.

Trễ một chuyến tàu là hỏng một mối lớn, mà có thể mất cả sở làm nữa, khi chủ hãng của chàng biết chàng làm không tròn phận sự vì một lý do không đâu.

Vâng, chàng sẽ thú nhận nửa chừng thôi, là xuống ga để đỡ tù chơn rồi lỡ tàu chạy. Tuy là đỡ tội, chớ thật quả là quá bất cẩn, không thể tha thứ được.

Mấy ngọn đèn ở sân ga đang ngủ gục, chỉ chờ chuyến xe cuối cùng nầy để mà ngủ luôn. Ông xếp ga cũng thế. Ông ta cũng sốt ruột đợi cho hành khách ra để đóng cửa ga và được thở ra vì xong một ngày lao lực.

Hành khách chỉ có hai người mà một cứ đứng đó mãi để nhìn trời đất coi bộ muốn mọc gốc mọc rễ luôn ớ đó !

Ông xếp ga tiến đến nói :

- Xin lỗi ông, cửa ra ở đằng kia.

Giọng nói ông ta là giọng Sài Gòn, Toàn nhìn trừng trừng vào viên xếp ga cao niên nầy, không biết vì ở đây lâu năm quá mà ông nhái được giọng địa phương chăng ?

- Thưa ông, ông làm ở đây được bao nhiêu năm ?

Viên xếp ga kinh ngạc, trố mắt mà nhìn lại chàng rồi đáp.

- Hai năm, ông tìm người quen chắc ?

- Vâng tôi tìm ông xếp ga của những năm tiền chiến.

- Ồ, cái đó rất khó. Đã bao nhiêu lớp người trông coi ga nầy từ hai mươi năm nay, qua không biết bao nhiêu là biến cố. Cái ông tiền chiến ấy chắc đã về hưu từ lâu rồi.

Toàn tần ngần đứng lặng rất lâu. Tiếng còi tàu hấp hối từ nãy giờ vừa tắt nghỉ trong đêm khuya, nhưng chàng cứ còn nghe văng vẳng đâu đó và tưởng như đó là tàu cuối cùng của thế gian mang đi, không bao giờ trở lại cả, người con gái mà chàng thầm mơ.

Ngày mai sẽ có tàu Nha Trang nữa. Ngày mốt cũng thế, mà ngày kia cũng vậy. Nhưng tất cả đều không phải chuyến tàu của đêm nay. Đêm nay không bao giờ tái hiện.

Trên đời còn rất nhiều gái đẹp, nhưng không phải Hà thị Suối Kiết, người con gái của đời chàng. Người nầy không bao giờ chàng được gặp lại mà có dấu vết của nàng chàng cũng không mong tìm thấy.

Viên xếp ga ái ngại hỏi :

- Ông có quen với ai ở đây không ?

- Thưa không !

- Vậy mà không thấy ông lo. Chỉ hơi buồn thôi. Hay là ông cứ tạm nghỉ lưng ở nhà tôi. Thật không có chỗ nhưng chắc ông không chê cảnh luộm thuộm nầy.

- Cám ơn lòng tốt của ông.

Toàn lặng lẽ bước theo ân nhân của chàng và được cho mượn một bộ đồ mát và được mời ngủ trên một chiếc ghế bố, đặt ngay ở nhà ga vì nhà riêng của một xếp của một cái ga nhỏ như thế nầy thì chỉ to bằng chiếc khăn mu-xoa mà chứa nào vợ nào con ông ấy, ông ấy có tốt bụng tới đâu, cũng không thể ưu đãi khách hơn.

Nằm dài trên chiếc giường vải, Toàn lắng nghe khí lạnh của rừng thiêng thấm vào da thịt, thắm vào hồn chàng.

Cuối năm trời lạnh, mà khí hậu giữa rừng càng lạnh lắm, đành là thế. Nhưng từ đây, dù giữa mùa viêm nhiệt, trong bốn bức tường kín, có lẽ chàng cũng nghe lạnh như thế nầy.

Không phải là chàng thất vọng vì không tìm được người thương. Chàng đã biết Hà thị Suối Kiết không có ở đây rồi kia mà ! Và chàng đã xuống xe trong một lúc ngông thôi.

Nhưng cái phút ngông của con người nhiều tình cảm là đời thật đó. Hắn đã sống y hệt như thật trong những giờ điên loạn của lòng hắn. Và giờ hắn đau khổ thật sự như là cố nhân đã biệt tích.

Nhân diện đào hoa hà xứ khứ

Toàn đã chi phí vào cái ga xép nầy một số tình cảm lớn lao quá nên giờ tiếc quá nhiều cái sự mất mát không mong gỡ gạc được phần nào.

Bên kia tường, tiếng một em bé nói mơ hồ rồi ré lên khóc. Toàn bất giác lội ngược giòng thời gian, tưởng chừng như đang nghe con bé Hà thị Suối Kiết nhõng nhẽo với mẹ.

Ừ, bên kia tường là căn buồng hẹp đã chứng kiến Hà thị Suối Kiết lớn lên, đã chấp chứa những giấc mơ thơ dại của nàng.

Hồn người chưa chết như quanh quẩn đâu đây và hương của nàng cùng với hương rừng như thoang thoảng đưa qua.

Mặc kệ, chàng đã lãng phí tình cảm thì cho "vỡ nợ" luôn ấy, cứ tưởng tượng cho nhiều vào chớ đã trót xài bạc triệu, gần sạt nghiệp rồi, bây giờ hà tiện cũng chẳng đi tới đâu.

Giờ nầy, ở một nơi nào đó trong thành phố Sài Gòn, Toàn nghĩ, có một người thiếu nữ đang mơ đến nơi chôn nhao cắt rún của nàng, nơi nàng trải qua buổi hoa niên sung sướng nhất đời nàng. Nàng lắng nghe tiếng còi tàu của ngày xưa hú trong tđêm của thời gian, cách đây hơn mười năm.

Hồn nàng đang quanh quẩn ở sân ga là nơi nàng tập cỡi xe đạp lần đầu tiên trong đời nàng, hồn nàng thơ thẩn qua mấy gian buồng hẹp, nhưng thờ ơ đi qua, không thèm nhìn một linh hồn bơ vơ đang co rút ở một xó ga mà chịu cái lạnh ngoài trời và nỗi lạnh trong lòng.

Nhưng mặc kệ, miễn chàng yêu là đủ rồi, yêu nhiều như con đường sắt nầy dài vô cùng tận. Mai nầy chàng có thể mất chỗ làm. Cũng mặc kệ cái vặt ấy. Chàng không hối hận gì cả. Suối Kiết là một biến cố cần có mặt trong đời tình cảm của chàng, và dám nhỡ tàu là một hành động can đảm của kẻ biết yêu.

Gió rừng vi vu hú, từ xa đến, rồi đi thật xa, không ghé lại ga nầy giây phút nào cả, như người con gái có mớ tóc thề chảy trên vai như suối đã đi qua không ghé lại lòng chàng giây phút nào cả.

Bất giác Toàn ngước lên trời với ảo vọng nhìn theo gió. Chàng cũng đã ghé qua đây với ảo vọng tìm ai.

Gió rừng vi vu thổi.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

7 . Nàng Và Tôi

Chín giờ đêm, đang ngồi ở tiệm cà phê, tôi bỗng nghe buồn buồn nhơ nhớ ai. Nỗi nhớ cứ man mác mãi và lẩn lút mãi, khiến tôi có cảm giác rằng đó chỉ là cái buồn mà người Pháp gọi là cafard.

Tôi không nhớ quyết ai, và chỉ nhớ thương nhè nhẹ thôi, thì là gì nếu không phải là nỗi buồn vô căn cứ vào một buổi chiều chán nản nào ?

Bỗng vụt thình lình, tôi ý thức được căn nguyên của nhớ nhung nầy. Có lẽ trí tôi đã âm thầm làm việc nãy giờ để truy nã người nầy, nên bây giờ tiềm thức tôi mới thả y ra cho tôi gặp mặt.

Người đó là NÀNG.

Tôi xa nàng đã bốn tháng rồi. Nhớ chết đi được lận.

Ngày ấy tôi ra đi đúng cái lúc mà nàng xô Hiến ra. Hiến một thanh niên đẹp trai, đã có công theo đuổi nàng từ lâu và được nàng chấm đậu.

Chính tôi đã tổ chức cho hai đứa nó gặp nhau, giúp cho tình cảm của hai đứa nó tiến triển đến chỗ gặp nhau lần thứ nhì nghĩa là trên địa hạt tinh thần.

Nàng đoan trang và dè dặt lắm, nhưng tôi vẫn phải xoay thế nào cho rốt cuộc nàng vẫn bằng lòng cho chàng một buổi hẹn ở một nơi nào và vào một giờ rất là thơ mộng.

Như thế thì hai đứa chỉ còn làm cái gì sót lại phải làm mà thôi, chớ chúng nó đã hiểu thấu ruột gan nhau rồi, không còn phải dọ dẫm gì nữa cả.

Nhưng đến phút chót, tôi lại xui nàng xô Hiến ra khi Hiến choàng tay qua vai nàng rồi từ từ kéo nàng về phía chàng, kéo càng giây càng mạnh và rốt cuộc siết chặt nàng trong tay hắn.

Nàng không hề cưỡng lại.

Tôi nhìn xem hai đứa nó "mùi" với nhau, tim đập thình thình mà theo dõi từng giây, từng phút, cái đà thân mật giữa hai đứa nó.

Tôi ghen ghê lắm, ngay từ phút đầu đã muốn nhảy tới phá đám rồi, nhưng phận sự bắt buộc tôi phải cứ để vậy, phải chịu đau khổ âm thầm, phải cắn răng nhìn người mà tôi trộm yêu, nằm trên tay một tình địch.

Hiến ban đầu là bạn của tôi đấy. Tôi cũng thương mến hắn với tất cả tấm lòng tôi, nhưng mà... không, không thể để cho nàng lọt vào tay hắn !

Tôi đau, tôi xót, tôi tức tối, tôi bức rứt, mồ hôi tôi nhỏ giọt, hơi thở hổn hển mãi cho tới cái giây kia, khi mà bốn mắt của họ say đắm nhìn nhau, ót của nàng nằm trên tay hắn, đôi mắt nàng he hé chờ đón một cái hôn, và đầu Hiến từ từ hạ xuống.

Tim tôi đập mạnh hơn bao giờ cả và tôi nghe nghẹt thở ghê lắm.

Đầu Hiển hạ xuống, hạ xuống !... Chỉ còn hai phân nữa thôi là môi hai đứa nó chạm nhau. chỉ còn một phân nữa thôi...Chỉ còn có năm ly nữa thôi.

Bấy giờ tôi đã nổi xung thiên lên rồi, không cần cóc gì phận sự nữa hết, nhưng nói cho đúng ra là phận sự đã cho phép tôi can thiệp, nên tôi nhảy đến nắm lấy tay nàng và xô Hiến ra.

Phải, chính tôi đã cầm tay nàng để làm cử động ấy chớ nàng thì đang phiêu diêu trong một thế giới huyền ảo và đã nhắm mắt lại để nhận và tận hưởng cái hôn đầu trong đời con gái của nàng.

Xác thịt yếu hèn lắm đấy nhé, hay nói cho đúng ra nó mạnh ghê hồn. Nó yếu khi ta tranh đấu với ta để tránh tuột dốc, còn nó lại mạnh khi nó tuột dốc mà ta muốn níu nó lại.

Nàng đã chịu ngã trên tay chàng rồi, đã nhắm mắt lại, hé môi mà hứng cái hôn thì còn làm sao chợt tỉnh kịp lúc nữa.

Và nàng đâu còn lý do để mà chợt tỉnh : đã dám hẹn hò với trai ban đêm ở một nơi vắng vẻ thì cứ mà yêu luôn đi có phải hợp tình hơn không ?

Đã nói là phận sự đã cho phép tôi can thiệp. Nhưng cỡ phận sự không cho phép, tôi cũng bất tuân kỷ luật lúc đó, vì cơn ghen của tôi, tôi không dằn được nữa.

Phận sự ? Vâng. Nói rõ hơn là chén cơm. Và nói rõ hơn nữa, nàng chỉ là một nhơn vật của một tiểu thuyết đăng báo hằng ngày do tôi sáng tác.

Nếu hai đứa nó yêu nhau rồi thì hết chuyện, còn khỉ khô gì nữa mà nói. Mà ông chủ báo lại muốn cho độc giả của ổng tức, nên lại ngầm xúi tôi cho hai đứa nó dang ra vào cái phút mê ly nhứt trần đời ấy, thành thử phận sự chẳng những cho phép tôi can thiệp mà lại còn bắt buộc tôi can thiệp nữa.

Nhưng tôi đã cóc cần phận sự. Tôi hành động theo tình cảm. Quả tôi ghen, ghen thật sự, mặc dầu nàng chỉ là một nhơn vật tưởng tượng.

Tôi đã làm tạo hóa trong một thời gian, lấy Vô Cực mà tạo ra Nàng từ chỗ không có gì hết.

Nói cho đúng ra, tôi đã ăn cắp của nhiều người để tạo ra nàng. Tôi ăn cắp của cô Liên, một cô gái có thật, ở cạnh nhà tôi, ăn cắp của cô ấy đôi mắt đen huyền và hơi ươn ướt, đôi mắt u buồn một nỗi buồn bí mật nào, không sao đoán được, nhưng chính nhờ thế mà hấp dẫn vô song, hấp dẫn vì cái bí mật có lẽ không có, nhưng ai cũng ham khám phá.

Tôi đã ăn cắp của cô Lệ, một cô gái buôn hương quen biết với tôi, đôi môi mà khi nhoẻn miệng cười một cái thì chủ của đôi môi ấy mà có bảo tôi nhào ra giữa phố cho xe cam nhông cán, tôi cũng vâng lời.

Tôi đã ăn cắp của cô Cúc, một cô nữ thư ký của nhà báo, mái tóc Carroll Baker, một Carroll Baker Á Đông, và nhứt là tôi đã ăn cắp của cô Thuận, một nữ giáo viên xấu như ma, cái tâm hồn đẹp như một bản tình ca...

Tôi đã ăn cắp đôi chân của một nữ thực khách xa lạ kia mà tôi thường gặp tại một hiệu ăn sang trọng, đôi chơn đẹp như đôi chơn vũ nữ Âu Châu và tôi đã ăn cắp đôi bàn tay của một nữ bác sĩ nhổ răng kia.

Tôi đã ăn cắp nơi nhiều người rồi ráp những thứ ấy lại để tạo ra Nàng, thành thử

Nàng đã là một cô gái lý tưởng... đối với tôi.

Vâng, chỉ đối với tôi thôi vì có lẽ chỉ có tôi là thích đôi mắt cô Liên, đôi môi cô Lệ, mái tóc cô Cúc, đôi chân của cô thực khách lạ, đôi tay của nữ bác sĩ nhổ răng, mà tâm hồn của cô giáo xấu như Chung Vô Diệm, chớ chưa chắc người khác đã thích.

Nhưng vì chủ quan, tôi ngỡ ai cũng thích một người con gái như vậy, nên đưa Nàng ra trình diện, không dè độc giả cũng thích. Tôi sung sướng ghê mà thấy rằng khiếu thưởng thức của mình đúng.

Đó là một cô gái mà tôi đợi chờ từ hai mươi năm nay, sắp già mất rồi mà nàng chưa xuất hiện.

Sở dĩ tôi bền chí đợi chờ lâu năm như vậy là vì tôi tin chắc rằng Nàng có mặt trên đời nầy.

Tạo hóa, thứ thật, chớ không phải giả hiệu như tôi, đã tạo ra một cô Liên với đôi mắt ấy, một cô Lệ với đôi môi ấy, một cô Thuận với cái tâm hồn ấy thì tại sao không tạo ra một cô A, một cô B có đôi mắt cô Liên, đôi môi cô Lệ, tâm hồn cô Thuận ?

Vâng, chắc chắn là có NÀNG, nhưng hiếm lắm, có thể chỉ có một mẫu độc nhứt như vậy thôi và có thể đã năm con bảy cháu rồi cũng nên - vì hai mươi năm đã qua rồi kia mà - nhưng tôi cứ bền chí đợi trong ảo tưởng rằng nàng không thể bị thời gian tàn phá hường nhan.

Ban đầu, khi mới tạo nàng ra, tôi không nghĩ gì về nàng cả. Nhưng rồi nàng có đời sống tâm tưởng, ăn nói hoạt động, khiến tôi hồi hộp theo dõi nàng.

Viết cái tiểu thuyết nào, tôi cũng sống mãnh liệt với nhân vật trong đó. Tôi cũng nổi giận, cũng căm tức, băn khoăn và bâng khuâng như họ, cũng ngậm ngùi trước một cuộc biệt ly nào, và cũng phấn khởi trước một cuộc tranh đấu. Ở đoạn đầu nào tôi cũng thủ vai chủ động, nhưng đến giữa chừng, lắm khi nhân vật có cá tính mạnh quá, lại lôi kéo tôi qua những nẻo thật bất ngờ.

Nhưng riêng về tiểu thuyết ấy tôi đã sống hoàn toàn với nàng. Khi khởi viết tôi giống như một đấng tạo hóa hay một vị tiên ông, lấy lá sen kết thành hình cô ta, đoạn hà sinh khí vào hình nộm ấy, thế là cô ta cười nói, đi đứng. Về sau cô gái cứ tự cô hoạt động, tôi có điều khiển cô ta thật nhưng vẫn nương tay cho nàng được tự do phần nào.

Tôi không đủ lời để tả nàng. Tôi chỉ trình diện một thiếu nữ đẹp, có duyên, có nết, nhưng riêng tôi, tôi thấy những đức tính ấy sâu đậm hơn độc giả.

Ôi chao, làm sao mà tả cho nổi đôi môi của nàng, cái màu đen huyền diệu của đôi mắt nàng?

Tôi quen thân với nàng và hai người thường trò chuyện với nhau mỗi khuya, sau khi tôi viết xong một chương tiểu thuyết, đi lại giường nằm nghỉ. Lúc bấy giờ nàng giống như một cô đào sân khấu, hết vai rồi nên rời rạp hát, về nhà với tôi, sống với tôi chớ không sống với anh kép đóng cặp với nàng nữa.

Thế nên, rồi tôi đâm ra si nàng, và chỉ muốn để dành cho tôi thôi. Nhưng cái ông chủ báo và cái bao tử của tôi, cả hai đều âm mưu thúc giục tôi, thành thử tôi đành phải cho nàng yêu cái thằng khốn nạn đó.

Cũng đỡ khổ là tôi chỉ có một thằng đeo đuổi nàng thôi. Thằng ấy là CHÀNG. Ban cái ân huệ ấy cho nhiều thằng quá, tôi sẽ phải ghen nhiều, mệt lắm, với lại tôi có thể chậm tay, giữ không xuể, một thằng nào nó chiếm mất NÀNG thì chết.

Ông chủ báo nhứt định để cho CHÀNG yêu NÀNG, tôi đành phải vâng dạ để lấy tiền mua gạo, nhưng tôi dục hưỡn cầu mưu, cứ kéo dây dưa mãi.

Tôi làm như trẻ con chơi cá lia thia, đựng mỗi con trong một bồn thủy tinh để được xem chúng nó phùng xòe đá bóng với nhau suốt ngày, chớ nếu cho chúng nó đá thật thì sẽ có một con thua chạy te, còn gì nữa mà xem.

Ông chủ báo khám phá ra rằng trò chơi ấy thế mà hốt bạc cắc vì độc giả cứ hồi hộp theo dõi mãi, nên khuyến khích tôi cho hai đứa nó đá bóng với nhau mãi.

Được nước, tôi làm tới, không phải vì tuân lệnh chủ báo, mà vì, như đã nói, tôi ích kỷ ghê hồn, si ghê hồn và ghen ghê hồn.

Tôi bắt buộc phải cho hai đứa nó yêu nhau, nhưng tức sôi gan mỗi lần CHÀNG cầm tay NÀNG.

Rồi rốt cuộc tôi bắt nàng phải xô thằng khốn nạn ấy ra, và chấm dứt tiểu thuyết đó, mặc kệ ông chủ báo nói gì thì nói.

Cái ngày mà tôi phải xa nàng là ngày đau đớn nhứt trong đời chưa hề yêu của tôi. Đó là mối tình thứ nhứt, đó là một mối tình lớn nhứt, nên niềm đau của tôi không có bờ bến.

Tôi mất ăn mất ngủ như thế đến trót ba tháng trời, thế nên đêm nay chưa cạn tách cà phê đen, tôi trả tiền rồi vội về nhà để đọc lại hết thiên tiểu thuyết đã đăng báo ấy, mà tôi cắt mỗi ngày, để dành bán cho các nhà xuất bản.

Tôi đang nằm trên một chiếc ghế bành để đọc truyện do chính mình viết ra, thì bỗng giựt mình mà nghe tiếng giày phụ nữ bước lên thềm.

Tôi ngỡ đó là cô bạn gái nào, nhìn ra thì... ồ nầy lạ : NÀNG.

Vâng, đúng là NÀNG, không khác một làn mi, một sợi tóc nào cả với đôi mắt của cô Liên, đôi môi cô Lệ, đôi chân người nữ thực khách, đôi tay của bà nữ bác sĩ nhổ răng.

Tôi đâm sợ, toan chạy trốn. Không, tôi không nhát gái đâu. Nhưng tôi ngỡ nàng là ma. Tôi nghĩ đến nàng hằng giây, hằng phút rồi bị loạn óc, thấy ảo ảnh, hay oan hồn thiếu nữ nào đoán biết giấc mơ của tôi, hiện ra để trêu tôi chơi ?

Hay là hồ ly tinh ?

- Có phải nhà nầy là nhà của nhà văn Huyền - Hoặc hay không thưa ông ? Nàng hỏi.

- Thưa phải, tôi ấp úng đáp, Huyền-Hoặc chính ơ...là... tôi. Xin mời cô vào nhà.

Nàng vào trong, tôi chỉ ghế nhưng nàng không ngồi. Giờ đã trấn tỉnh được, nhưng tôi lại run vì bị xúc động trước con người mà tôi chờ đợi đã hai mươi năm rồi.

Nàng không ngồi mà nóng nảy hỏi ngay :

- Thưa ông, cái tiểu thuyết đó sao chấm dứt đi ? Tôi tìm ông đã gần hai tháng rồi, mới được gặp đây.

Tôi sung sướng phồng mũi lên. Thật là sao đào hoa chiếu mạng. Viết tiểu thuyết rồi được gái đẹp, nữ độc giả tìm thăm là phần thưởng lớn lao hơn tiền nhuận bút nhiều lắm.

Mà gái đẹp làm sao chớ ? Đâu có phải là một cô gái đẹp thường mà tôi gặp ngoài phố. Đây là NÀNG, người tôi mơ ước đã hai mươi năm, tạo ra cho đỡ khổ, tạo rồi yêu ngay, rồi đau khổ vì Nàng.

Rươm rướm lệ hạnh phúc tôi đáp :

- Thưa cô, chuyện bị cúp ngang vì theo quyết định mới, báo chỉ đăng ba tiểu thuyết thôi, bao nhiêu cái khác phải bỏ hết. Dầu sao tôi cũng hân hạnh được cô biết đến.

Tôi đáp láo, nhưng đúng theo một tình trạng có thật trong làng báo thuở ấy.

- Nhưng kết cuộc ra làm sao, thưa ông. Chàng có lấy NÀNG không ?

Tôi mĩm cười hỏi lại :

- Cô muốn thế nào tôi sẽ chìu theo ý cô thế nấy. Nhưng xin mời cô ngồi.

Cô gái ngồi xuống trong cái dáng ngồi y hệt dáng của NÀNG mà tôi đã tả trong truyện, thật là khả ái.

- Tôi không thích họ lấy nhau. Nàng đáp.

- Hoan hô. Tôi cũng không thích cho họ lấy nhau. Thành thử chìu ý cô rất dễ dàng cho tôi.

- Thưa ông CHÀNG có thật hay không và có thể nào ông giúp tôi gặp CHÀNG được hay không ?

Hơi lo, tôi hỏi :

- Chi vậy ?

- Thú thật với ông là tôi mê CHÀNG ghê lắm, mê đến đỗi ghen, không muốn chàng lấy ai cả.

Tôi bỗng như bị ai búa lên đầu, choáng váng suýt chết ngất.

Thì ra NÀNG tìm tôi, không phải vì tôi mà vì CHÀNG.

Chua xót, tôi gượng gạo mĩm cười đáp :

- Tiểu thuyết chỉ là chuyện bịa thôi cô à.

- Nhưng mà bịa dựa theo sự thật, đôi khi rất cần sự thật. Và tôi tin chắc có Chàng trên đời nầy, nếu chàng không ở trong vòng quen biết của ông.

- Quả đúng như vậy. Tôi cũng thú thật với cô là chính tôi cũng mê nàng ghê lắm, đã tìm nàng từ lâu và may mắn hơn cô, tôi đã gặp nàng nơi cô.

Cô gái cũng thình lình bị sét đánh. Nhưng không phải là sét đánh ái tình đâu nhé. Lời nói bóng gió của tôi rõ nghĩa quá, lại đột ngột, bất ngờ quá, khiến

nàng rụng rời vì tánh cách kỳ dị của nó : tôi cao niên hơn nàng đến hai mươi tuổi.

Nàng đứng lên, lảo đảo như say rượu, rồi xin phép ra về.

- Rất tiếc ! Nàng nói.

- Rất tiếc ! Tôi lặp lại như một tiếng vang.

Đó là hai câu ngắn mà khách và chủ đã trao nhau thay lời từ giả và cảm ơn.

Tiển khách ra tới cửa tôi tần ngần đứng lặng nhìn cô gái thất thểu đi trên vỉa hè, đau xót không biết bao nhiêu cho thân phận của chúng tôi. Cả hai đứa đều là đồ điên, đã yêu một người không có thật.

Người không có thật ấy rồi cũng có, bằng cớ là tôi đã gặp NÀNG, nhưng rất trễ muộn.

Phần NÀNG, hai mươi năm sau có lẽ, NÀNG cũng sẽ gặp CHÀNG đấy chớ chẳng không đâu, nhưng bấy giờ nàng đã con đàn cháu đống rồi mà CHÀNG thì chỉ mới trưởng thành.

Cho đáng kiếp NÀNG, NÀNG nhé ! NÀNG sẽ bị cậu ấy thờ ơ, y như NÀNG đã thờ ơ với tôi hôm nay.

Dầu sao chúng tôi cũng là bạn đồng tâm, NÀNG ạ ! vì cả đôi ta đều điên, một chứng điên giống hệt nhau, cái chứng điên của kẻ si một hình bóng.
Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

8 . Phân Nửa Con Người

Tụi bây nhớ nghen, năm nay đúng ngọ tao mới cúng, mà phải cúng cho thật lớn.

- Dạ, con nhớ.

Chị Nhánh không bối rối trước cái lịnh trái đời mà cha chồng chị lập đi lập lại đã ba hôm rồi. Trái lại, chị còn sung sướng mà khỏi phải thức đêm, nhờ cái lịnh nầy. Mấy năm trước, gia đình nầy cúng cơm theo tục lệ làng anh Nhánh, đúng vào sáu giờ sáng. Nhiều làng nông nghiệp ở miền Đồng nai có lệ cúng giỗ như vậy để khách khứa ăn giỗ xong rồi còn ra đồng làm lụng.

Anh Nhánh đã khá lên rồi, không sợ tốn tiền, nhưng anh vẫn thắc mắc và cứ bàn lén với vợ:

- Lạ quá, ông già đã tới tuổi sanh tật rồi hay sao é! Sao lại cúng trưa? Mà cúng lớn làm chi vậy hổng biết nữa? Mình là ghe thương hồ, có mời khách khứa, làng xóm gì được như hồi ở trên đất liền vậy đâu?

- Ối thì già sanh tật, đất sanh cỏ chớ sao!

Chị Nhánh lo cho heo gà ăn để rồi đi chợ. Tuy nhà họ chỉ là một chiếc thuyền mà thôi, chị cũng nuôi mấy thứ gia súc đó, y như hồi còn ở làng. Heo thì sáng và chiều, chị cho nó đứng trên sạp ghe để hóng gió trong sự ngơ ngác nhìn cảnh sóng nước mênh mông, còn trời nắng gắt, hay trời mưa nó bị hạ ngục dưới khoan hầm. Gà thì chị cầm tù chung thân chúng nó trong những chiếc ống tre. Chúng ló đầu ra khỏi miệng ống để ăn và thở, cũng lớn lên được vậy, nhưng mang hình cổ quái, tròn và dài y như ống tre, để ăn thịt chớ bán không được. Được cái là thịt gà ống tre rất mềm.

Đang gặp "con nước", anh Nhánh cũng phải đậu ghe lại trước chợ ông Năm để chị Nhánh mua sắm các thứ cần dùng cho một đám giỗ. Anh căn dặn:

- Má nó mua cho lẹ, kẻo trễ con nước, chèo nước ngược khổ lắm.

Cái chợ quê ấy, hôm nay dân họ vui như có đám hát về làng. Chiếc nhà thuyền của anh Nhánh là một cảnh ngoạn mục đã rủ rê dân chúng ra bờ sông khá đông.

Trước kia, dòng họ anh Nhánh khá giả mấy đời liền. Anh thừa tự dòng máu ăn chơi của tổ tiên anh, nên sau họ suy sụp phải bán nhà, trôi nổi bình bồng trên sóng nước rồi thì giờ khá lên, anh o bế chiếc nhà thuyền thương hồ của anh như các cụ săn sóc một chậu cây cảnh. Thuyền có một từng lầu, từng lầu này là buồng của ông cụ. Mũi ghe biến thành một cái huê viên tí hon mà nhiều thứ bông hoa trồng trong những cái chậu nhỏ, khoe màu rực rỡ giữa đám ghe thương hồ xám xịt và buồn hiu khác. Vách và cửa đều được sơn xanh đỏ như ghe hầu của những ông quan địa phương thời Pháp thuộc, hay của các đại điền chủ Hậu giang cũng của thời ấy.

Hôm nay, mấy anh bạn ghe phải nhọc sức chèo ngược nước vì chị Nhánh có vội vàng bao nhiêu cũng không kịp. Nhưng họ được bù công bằng viễn ảnh bữa giỗ to trưa nay, to tương đối theo cảnh chật hẹp dưới thuyền, đủ cỗ cho lối ba mươi thực khách nhưng lại thật là khổng lồ vì trên ghe chỉ có bảy miệng ăn thôi: ông già của anh Nhánh, vợ chồng anh, hai trạo phu và hai đứa con của anh.

Anh Nhánh cầm lái, công việc này, mấy năm trưởc vốn do ông cụ làm. Hồi đó anh Nhánh còn nghèo chỉ dám mượn có một anh bạn chèo thôi, chính anh phải chèo mũi, vả anh cũng chưa đủ kinh nghiệm để lái ghe.

Cầm lái tương đối nhàn, nên anh Nhánh ngồi nghĩ vơ vẩn về cuộc đời kỳ di của anh. Năm ấy anh cưới vợ rồi ra riêng. Nhà đang khá giả bỗng suy sụp lần lần vì mấy trận thất mùa liên tiếp.

Ông cụ vốn là tay phong lưu, quen ăn xài lớn nên phải bán ngôi nhà thờ bằng cây danh mộc, rồi cất nhà tranh mà ở. Rồi nhà tranh lại cháy. Anh rước ông già về nhà riêng của anh. Nhưng anh cứ làm ăn lụi đụi mãi, bí quá lại phải bán nhà để lấy tiền sắm ghe đi buôn.

Nhờ trời ngó lại, anh trúng mối liền liền và anh công tử vườn này quyết chí làm lái thương hồ luôn cho đến trọn kiếp.

Thuyền tới Vàm Cui hồi đúng ngọ, và cô dâu đảm đang, dọn cỗ lên cho ông cha chồng cúng cũng đúng vào lúc đó.

Trong những giờ đợi con nước, Vàm Cui vui như một chợ quận, huyện nào, vì ghe thương hồ nghỉ "chơn" nơi đây đông hằng trăm chiếc. Cảnh buôn bán bằng xuồng tấp nập như ở làng vào những ngày đình đám. Không có thức ăn nào, hàng hóa nào mà thiếu cả: chè, cháo, nem, chả, món nhậu, bánh trái, thuốc, giấy, hộp diêm, dầu lửa gì cũng đủ cả.

Ông già của anh Nhánh cúng vái vội vàng rồi nhảy qua các thuyền lân cận lạ hoắt, để mời ăn giỗ: ông cụ hối hả như vậy thật trái hẳn thói quen của ông và gia lễ lắm, khiến cả thuyền đều kinh ngạc. Họ ngạc nhiên mà thấy ông mời khách trong cảnh sống chật hẹp nầy, họ lấy làm kỳ cho việc bỏ gia phong của ông. Họ đâu có dè rằng năm nay ông cụ rất có lý do mời khách và sợ thiên hạ ăn quà no rồi ăn giỗ không ngon miệng nên mới cúng tốc hành như vậy.

Ghe của sáu Nhánh đậu dựa bờ dưới bóng cây râm mát và cỗ bàn dọn trên ba chiếc chậu trải trên sạp ghe. Ba mươi thực khách kể cả người nhà, ngồi thành hai hàng, hai bên mâm cỗ dài ấy và không khí bỗng nhiên giống hệt không khí trong làng với những cuộc bàn hươu tán vượn trong mùi rượu đế, mùi vịt tiềm, mùi mì xào, mùi thịt hầm, mùi gỏi sứa.

Ông già của sáu Nhánh chỉ ngồi chấm mút để cầm khách mà thôi. Ông đã no tới cổ, no hạnh phúc được ngửi lại mùi đất liền qua cái bữa cỗ gợi nhớ làng mạc này.

Bấy giờ vợ chồng sáu Nhánh mới biết tại sao ông cụ đòi cúng vào giờ ngọ. Ông cụ rất giỏi lộ trình đường nước, biết rằng đúng ngọ là thuyền nào cũng bi kẹt tại vàm nầy và như thế mới có khách. Nhưng vợ chồng anh còn chưa biết nhiều điều khác nữa.

Nửa tiếng đồng hồ sau bữa giỗ, hằng trăm chiếc thuyền buôn chui chút nhau để qua con kinh vốn cạn từ sớm đến giờ và bấy giờ nước lên mới sử dụng được. Ông cụ ngồi cú rủ trong mui thuyền, mãi cho tới tối, mãn con nước, thuyền phải đậu lại, chị sáu Nhánh mời ông ăn cơm, ông mới giựt mình. Giữa bữa ăn, ông cụ thình lình long trọng tuyên bố:

- Tao không muốn theo ghe nữa. Vợ chồng bây có tiền cho tao chút ít để tao về làng cất chòi tao ở.

Sáu Nhánh chưng hửng rồi sanh nghi, nhìn vợ anh trừng trừng, ngỡ chị ấy thất lễ với ông già nên ổng hờn. Chị Sáu cũng tưởng mình đã sơ sót điều gì nên sợ hãi, lấm la, lấm lét.

Ông cụ ngầm hiểu được ngộ nhận của con và dâu nên giải thích:

- Tao nhớ làng, nhớ đất quá!

Sáu Nhánh muốn phụng dưỡng cha để báo hiếu nhưng anh kiếm cớ khác:

- Nhưng con còn cần tía, cần kinh nghiệm của tía.

- Mầy đã thạo đường nước lắm rồi. Từ đây xuống tới kinh Tà bang dưới miệt vườn, mầy thuộc cả hình dáng của mỗi lùm cây ở hai bên bờ các sông rạch, thì mầy đã đủ lông đủ cánh rồi đó.

- Nói thiệt với tía, con đã khá, nhưng chưa đủ tiền cất nhà ngói tía ở. Tía ở lều tranh một mình sao cho sung sướng bằng sống dưới ghe nầy mà con đã sắm đủ thứ đồ cần dùng.

- Tao không cần gì hết, miễn được về đất. Cho phải ăn chợ ngủ đình tao cũng vui.

- Đất...

- Ừ, đất, đất bạn mà tao chạy nhảy trên đó hồi còn thơ ấu, tao thương nó lắm. Tao ghiền hửi mùi đất xông lên sau mấy trận mưa đầu mùa, tao ghiền hửi mùi lúa chín, tao ghiền mùi phân chuồng. Tao muốn hưởng mùi đất vài năm trước khi theo về với ông bà.

- Tía sống một mình, con e...

- Tao sẽ bắt hai đứa con của bây về ở với tao. Sống trôi nổi như vầy hại cho chúng nó lắm. Chúng nó không có lấy một mái tranh để mà nhớ, không có một khóm rau để mà thương, chúng nó sẽ giống như những cọng rác trôi theo dòng.

- Nhưng mà...

- Nhưng vợ chồng bây còn làm ăn được thì cứ mà bay nhảy đi, nhưng rồi cũng phải về làng khi nào đủ tiền mua một mảnh vườn. Đất nước chỉ còn tồn tại được nhờ những kẻ nhớ thương nó, bám níu vào nó thôi.

- Nhưng mình sống bằng tiền, chớ có phải là bằng mùi phân chuồng đâu.

- Rồi mầy sẽ nghĩ khác, một khi mầy làm ăn thất bại, cần cái an ủi mầy. Cái đó là bụi tre làng, là vuông ruộng sau nhà, là tiếng ru con của một bà mẹ bên hàng xóm.

- Tía nói lạ, kỳ cục!

- Không có gì là kỳ cục. Rồi ngày kia mầy sẽ nghe rằng đất có hồn và hồn mầy rất gần gũi với hồn đất. Tao nhớ đất muốn chết đi lận, nhớ còn hơn là nhớ má mầy trong mấy năm đầu tang khó của bà ấy, bởi vì vợ chồng không thân thiết với nhau hơn là mình với đất. Vợ chồng chỉ ăn ở với nhau ba bốn mươi năm là cùng, đất thì nó thấy mình sanh ra, lớn lên già yếu, rồi nó lại ôm mình khi mình chết. Mình cũng thấy nó từ lúc lững chững bước đi cho tới lúc chống gậy mà lê bước. Nếu vợ chồng bây không có tiền cho tao, thì tao cũng về làng, tao ngủ đình.

Thằng Lá, con trai lớn của sáu Nhánh hỏi:

- Ông nội ơi, ở đình có bắt dế được hay không ông nội?

Ông nội cười khà, day qua xoa đầu cháu và nói một mình, mắt nhìn ở đâu xa lắm:

- Bắt dế ! Ừ, nếu không bao giờ được hưởng cái thú bắt dế thì con người như... như mất đi hết phân nửa con người.

Đoạn day lại nhìn sáu Nhánh, ông khuyên:

- Mầy không nên bắt lũ con mầy trở thành những con người phân nửa.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

9 . Bóng Ma Trường Áo Tím

Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.

Rút khăn xong, anh thả rơi đầu xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la : " Ui cha ! "

Ở mấy chiếc giường hai bên, ngườI ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế giường rắn mắc ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên. Tên ăn cắp là Ngư. Ngư hô :

- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay ngang mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để hứng lấy rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh, y như người ta chơi bóng rỗ.

Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác, Thái rượt theo mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền lạI kê đầu mà nằm.

Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn là ngườI lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.

Đó là những thầy giáo ở tỉnh, nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại trường Gia Long.

Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một trường trung học nào đó ở miền Nam.

Cuộc sống chung trong mùa tu nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không khí mười mấy năm về trước với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối, với trống điểm giờ ăn, giờ tắm, giờ nằm, vớI bóng đèn chong màu xanh xanh tỏa ánh sáng trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà trong đó các cậu thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.

Ôi, cái đời lưu trú năm xưa, xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !

Ôi, những cái đầu, tóc còn dưỡng rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm mùi thuốc rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức thư xanh, những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín trong lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.

Ôi,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên gặm mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa, nay đã đâu rồi !

Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn thắt đau, nghẹn ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những dãy nhà của trường Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường Mỹ Tho mà trong đó đã nghỉ yên quá khứ của họ.

Làm sao không ngậm ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ, họ đã hoài thai nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên

Nhưng rồi sự học tập và cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp tình cảm lại.

Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mườI mấy năm, ham nô đùa vớI nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước

Các thầy giáo hôm nay cũng rắn mắc y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến

Khi chiếc gối bay đến giường cuốI dãy thì anh Trung chụp rồI dộng vào cửa buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn vớI nhau

- Mấy thằng dịch già này, không cho tao ngủ hở bây ?

Đó là lời mắng rất hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm

- Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy cửa lận : cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách không ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp tế lương thực nè......

Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng :

- Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !

- Thùng ! anh Trinh đánh trống miệng một cái nghe ngọt xớt

- Thôi phát nầy ngủ thật đa ! Dung nói

- Khoan, để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem. Ráng nghe các cha :

- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ

- Xuất đối đi, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối vậy

- Im !

- Đèn chong sáng quá làm sao ngủ

- Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn bóng xanh như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ ngủ rồi bịnh cả đám. Biết nó làm sao hôn ? Nó chong bằng bóng trắng mà ngoài sơn dầu sơn xanh. Như vậy ánh sáng tốI hù, đứa nào ham học thì bơ.

Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò xiệc ấy, để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn lắm, nó rút bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.

Đang cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà bứơc ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời quyết ra chụp vài cậu phạt cho hả giận

Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt, anh kép ở dướI quăng anh kép đứng giữa, anh kép giữa quăng anh kép trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh Gừng. Anh ta té cái rầm, năm bất tỉnh nhơn sự, con dao đâm lủng tai trái anh ta, máu ra linh láng.

Thầy Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội thốI trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà học, học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình hươi tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.

- Rồi sao nữa ?

- Rồi áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to " Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi bây ơi ! "

Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng làm chay.

- Rồi anh Gừng có sao không ?

- Sau đó, anh ta hóa thành thi sĩ.

- Lạ không ?

- Anh ta làm thơ như vầy :

Cạo đèn bây học, lại quăng tao,

Nghĩ giận tụI bây, máu muốn trào

Hát xiệc không lương, xương lạI gãy,

Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !

Chưa chết mà bây châm lửa đốt,

Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !

Từ rày nhắn vớI quân ham học,

Vùi đầu vào sách sẽ ho lao



- Toàn vần ao không mà thôi

- Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta đã bị nóc ao mà !

- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !

- TụI bây ơi, mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím hồi đó tao đi ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm. Chúng nó may mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai trôn vo lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần. Thật là tay con gái có khác.

- Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây ơi, trời hỡi nè, đời ngườI sao mà thấm thoát, cô áo tím của tôi đã năm con bảy cháu rồi nè trời !

- Hu.....hu.....!

- Thùng !

- Các anh ơi, sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng phất đâu đây.....

- Giường cũ biết còn hay không ?

- Sao lại không. Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân đội Nhật và Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người xưa. Kìa cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều chiều đã dựa vào đó mà làm thơ.

Cây cối bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già, đang chờ người đi mất tự ngàn xưa... Ngày nào tròn trăng lại nhớ.....

- Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu.....

- Thùng !

- Tân cổ nhạc hằm bà lằng, mại dô !

- Quỉ dịch, có để người ta ngủ hay không nè ?

Bấy giờ chắc cũng đã khuya rồi, nên phần đông mòn mỏi và lời mắng cuối cùng đã bịt miệng họ được.

Tuy nhiên, những người chưa ngủ vẵn lăn qua trở lại hoài. Nhớ vợ, nhớ con ở tỉnh nhà, hay nhớ một mối chinh phục mớI ? Ừ, một dịp đi Sàigòn y như là ngày kép núi hạ san và rất có thể gặp đào giữa truông mây

Thầy giáo Lâu ngồi dậy định bước ra cửa sổ dòm sao. Thầy giáo Niệm cận giường còn thao thức, thầy kéo bạn dậy và nói nho nhỏ :

- Chưa ngủ à ? Ra đây hứng mát. Trời, tháng bảy mà sao nóng nực quá ?

Giáo Niệm là tay làm ồn nhứt trường từ hổm nay, không ai chịu nổi thầy ta cả. Mỗi đêm thầy ta đều rủ các bạn tái diễn cái trò kêu rệp ngày xưa nghe muốn bể con rái.

Thầy gác, tiếng Pháp kêu là Su-quây-dăng, nhưng hồi xưa học sinh lại kêu lầm họ là rê-pê-ti-tơ và kêu tắc là Rệp.

Đêm đêm hễ thầy gác đi rình là họ kêu than có rệp :

- Rệp mắc dịch ! Bò hoài sáng đêm !

Rồi họ đập giường rầm rầm

Giáo Niệm nô đùa dữ quá, cười muốn bể cửa kiếng nhưng ai tinh ý thì thấy trong cái quá lố ấy có ẩn hiện một hơi hướng đau thương, như là sầu quá hóa điên, cườI ra nước mắt.

Nhứt là từ lúc các bạn nhắc đến các cô áo tím cho vui thì thấy thầy ta ngậm câm, không tham gia buổi tối vui nữa.

Tiểu tiết ấy không thoát khỏi mắt quan sát của ngườI bạn thân giữa đường của giáo Niệm là giáo Lâu.

Còn một điều lạ lùng nầy nữa là từ Phong Dinh ( Cần Thơ) lên để theo học lớp tu nghiệp Anh văn mà giáo Niệm không thèm học hành gì cả. Theo chỗ dọ biết thì ngày xưa thầy rất khá Ăng lê, mà đã quên hết rồi.

- Thì nay học lại, chớ khó khăn gì đâu.

- Nhưng thầy ta như cóc cần học. Mỗi lần bà giáo người Mỹ gọi đến thầy là thầy cứ trả lời độc một câu mà thầy còn nhớ :

- I can't speak English (1)

" Tâm sự gì ? " Lâu tự hỏi thầm và ái ngại cho người bạn mới mà thầy rất mến.

Một người từ Bình Dương xuống, một ngườI từ Phong Dinh lên, chơn trời góc biển gặp nhau, lại mến nhau như bạn thâm giao đâu từ thuở ấu thời.

Đôi bạn thót lên ngồi trên đầu tủ com-mốt, rồi Lâu chỉ vòm trời đen lóng lánh sao mà hỏi bạn :

- Giống cái gì ?

- Giống sao vàng rải trên hòm sơn đen

- Ghê quá ! Sao anh lại nghĩ đến cách so sánh tang tóc như vậy ?

- Có lẽ vì liên tưởng.

- Đến cái gì ?

Giáo Lâu đặt tay lên vai bạn không nói gì, nhưng cử chỉ ấy hùng biện biết bao ! Đôi bạn thông cảm nhau một niềm thương mến sẵn sàng trao đổi nhau nghe tất cả cái gì ray rứt trong lòng họ.

Giáo Niệm cúi xuống nhìn sân trường tối om, xa xa một vừng ánh đèn vườn làm nổi bật lên cây lá trong một khoảng nhỏ....

- Trong cái im lặng bao phủ cảnh trường nầy, tôi bồi hồi tưởng nhớ năm xưa....

- Ngỡ gì, ai lại không như thế. À, hồi đó anh học trường nào ?

- Petrus Ký

- Còn tôi thì học Sở Cọp. Trường của mình nên thơ hơn trường này phảI không anh. Thuở ấy, đêm tôi dòm ra sở thú, lắng nghe tiếng thủ thỉ của dân rừng bị nhốt...

- Còn tôi thì đêm đêm dòm ra thành Ngã Bảy lúc đó còn là một cánh đồng ma, để xem đèn ma và nghe mấy chị bột khoai kêu mả tà. Ấy,quanh trường hoang vắng nên tối nào cũng có cướp cạn.

- Còn ở đây lâu đài, dinh thự nhiều quá, không đẹp gì hết.

- Tôi, tôi lại nghĩ khác. Tôi thấy ở đây rất nên thơ vì có lẽ trường này dính líu đến tôi nhiều.

Giáo Lâu đã thành công nhờ khôn khéo. Thầy ta biết nếu tra hỏi thì chắc bạn không chịu khai. Còn gợi chuyện thì tự nhiên việc nầy đưa đến việc khác, và đầu dây mốI nhợ sẽ được tháo tung ra.

Giáo Niệm đột ngột hỏi :

- Anh có biết là tôi chưa vợ hay không ?

- Không, trời ơi, đã bốn mươi hai rồi mà....

-...... Mà còn cô độc, ừ. Tôi đi lên đây, mục đích chánh là đi hành hương. Hễ có dịp vào trường Gia Long là tôi vào, không biết để chi, nhưng không thể đừng được.

Trường nầy không phảI cảnh cũ, nhưng có lẽ nó gợi nhớ nên tôi thích. Hễ nhớ là đau, nhưng lạI cứ muốn nhớ, nhớ hoài để nghe như nó còn mới hoài, mới như vừa xảy ra hôm qua đây.

Năm ấy tôi học năm thứ hai. Một hôm Chúa nhựt ra chơi nhà ngườI chịu trách nhiệm về tôi đối với nhà trường, tôi gặp Oanh, trường áo tím, cháu của nhà nầy mà tôi không dè.

Tôi còn nhát gái lắm, nên bẽn lẽn một lúc rồi bỏ đi luôn.

TốI lại về trường tôi mới thấy là tôi ngu quá. Bạn hữu trong trường đứa nào cũng có bạn gái ở ngoài cả chỉ trừ tôi thôi. Nhà quê không biết làm quen với ai, nay gặp dịp tốt lại trốn mất thì có ngốc quá hay không ?

Nhưng bây giờ mà có bạo gan tuần sau ra đó để gặp cô ấy chắc cũng sẽ ú ớ, không biết nói gì

Cô bé đẹp quá ! Áo tím làm nổi bật nước da trắng nõn của cô và cái e lệ của cô sao làm tôi điếng người đi.

Bí quá, tôi lén bạn hữu kéo anh Lưu ra góc sân và hỏi :

- Anh Chín nè, làm sao anh quen với bạn gái ?

Lưu là một học sinh rất đẹp trai. Anh ấy lại biết làm thơ nữa. Anh có một tập thơ nhan đề là " Anh Chín thi tập ", trong đó anh sưu tầm thơ của anh và của nhiều bạn gái của anh. Anh Chín là biệt hiệu cà rỡn mà bạn hữu gán cho anh và anh vui vẻ nhận lấy.

- Cái đó tùy anh, Lưu đáp. VớI mỗI người, phảI mỗi cách. Cô ấy thế nào ?

Tôi kể chuyện gặp gỡ cho anh nghe. Anh trề môi mà rằng :

- Anh thật là thằng chúa ngục, anh trốn như vậy nó khinh anh rồI thì còn mong gì.

Tôi khổ sở quá, và luôn hai ba Chúa nhựt không dám ra đó nữa.

Tuần ấy tôi xáng bịnh: sốt rét rừng. Nhà thương cứu cấp ở trường gởi tôi vào nằm điều trị trong Chợ Rẫy.

Thuở ấy công chức và học sinh đi Chợ Rẫy đều nằm chung một trại, gọi là " Nhà giàu I".

Tôi được tiêm thuốc hai hôm là hết sốt. Nhưng lệ nhà thương, sốt rét rừng cho nằm mườI lăm hôm.

Hôm thứ ba tôi ra ngoài sân, lại gốc me ngồi chơi thì lạ quá, trên băng đá dưới gốc me ấy, cô áo tím đang ngồi đan nón.

Tôi hoảng vía toan thối lui để chạy vào trại thì cô ta thấy tôi, mỉm cười chào tôi một cái. Tôi quýnh lên, đỏ cả hai tai rồi ú ớ như thằng câm.

Để cứu tôi, cô hỏi :

- Anh vào nằm đây bao lâu rồi ?

- Dạ ơ....hơ.... mười lăm

Sợ quá, đến số ngày cũng nói bậy.

- Em thì mớI có ba ngày. Anh bịnh làm sao và nằm phòng số mấy ?

Bấy giờ tôi đã hoàn hồn, bước lại gần băng mà đáp :

- Tôi nằm số bảy, trên lầu. Cô bịnh làm sao và nằm ở đâu ?

Thì ra cả hai đều sốt rét. Cô ấy nằm số 25 dưới đất. Hỏi phăng tới thì biết cô cũng học năm thứ hai, ban sư phạm, và tên là Oanh.

Oanh nói :

- Mấy tuần nay, em có ra luôn. Cậu em ngạc nhiên lắm mà thấy anh không tới. Cậu em nói anh học giỏI lắm, không lẽ lại bị phạt ở lạI ngày Chúa nhựt.

Không, không bao giờ cậu Oanh và Oanh biết lý do vì sao tôi không ra cả.

Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ của lưu trú học sinh các trường trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết hạn, rồi lắm khi thân đến suốt đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.

Oanh và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn. Đêm nào chúng tôi cũng ra hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc nhà thương phát cho.

Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.

VớI lại cái thú kéo nhau xuống nhà xác, rồI hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, chạy đến vắt giò lên cổ.

Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té, nhờ tôi đỡ kịp. Không hiểu sao kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng thắn với nhau được nữa.

Ra nhà thương, tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.

Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là câu chuyện học hành, là chương trình đại số, là phản động hóa học, là định lý hình học, chớ không còn là câu chuyện trăng, sao thú vị ở nhà thương.

Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí để tìm lại những ngày thần tiên khác.

Và chúng tôi đã tìm được.

Không nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. PhảI, nhưng con ngườI của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ không có gì tội lỗi hết.

Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên cũng chẳng rầy la gì, mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi tuốt, bỏ cơm trưa. Tối lại vào trường mới ăn.

Tôi hẹn với Oanh ra trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi nơi nầy nơi khác.

Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cướI nhau nên Oanh được bổ đi Sóc Trăng, còn tôi thì Bà Rịa.

Tuy cách trở, mà thơ từ qua lạI luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với nhau được.

Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh một ngày ! Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ tình yêu chưa toạI thì nó cứ càng ngày càng tăng.

Cả hai chúng tôi đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương lai.

Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao nức lắm và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi tiết đám cưới, thì bỗng được thư Oanh.

Oanh bảo tôi đừng xuống nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi luôn nếu tôi cãi lời Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phảI đình lại không biết đến bao giờ.

Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống, và đòi đình hôn lễ ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không ? Tôi ghen tức lên, rồi tôi đau xót không thể tả được.

Vài hôm sau, tôi định cứ đi đạI xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là phảI bật ngửa ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn xang, mà nghi hoặc.

Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không thương mình nữa thì thôi, đeo đuổI theo làm gì, Con ngườI bạc nghĩa ấy còn xứng đáng sao được mốI tình chung thủy của mình !

Thế rồi tôi nín đi hai tháng. Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.

Không chịu được nữa, tôi gởI thư, gửi liên tiếp mỗI ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm nàng,đủ thứ việc.

Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống là nàng sẽ chết mất.

Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang, Oanh gởI cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.

Anh Niệm ơi !

Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em không còn ở trên đờI nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh thấy mặt em được cả.

Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.

Nhưng mà suy cho cùng, nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợI gì cho em cả, mà hạI cho anh không biết bao nhiêu.

Vậy anh cứ xem là em đã chết rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng tìm được em đâu. Mà tìm làm chi, nếu anh muốn mốI tình đôi ta cứ còn chớm nở mãi mà không tàn rụng bao giờ.

Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục mà có. Tránh ích kỷ kia lạI phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao giờ anh hiểu được đâu.

Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em không ?

Nhưng em là gái mà em đã can đảm được, thì anh cũng nên theo gương em. Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồI lập gia thất. Trong đờI chắc không thiếu chi ngườI đáng yêu hơn em, anh đừng có lãng mạn lắm mà thiệt thân.

TrờI ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột tôi ! Anh ơi, em chết đây !

Dưới thư không có lời chào nào, cũng không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa hết.

Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồI đánh điện ngay cho ông Hiệu trưởng trường Sóc Trăng, vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e bị quở nếu xin nghỉ nữa.

Điện tín, tôi viết như vầy :

Trân trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh.

Ông ấy đáp :

Oanh thôi việc. Đi không để lại địa chỉ.

Hừ, thế nầy là làm sao ? Thoạt tiên, tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai, có nghén nên sợ xấu và sợ tội ( trong giáo giới ngườI ta nghiêm khắc về hạnh kiểm của giáo viên lắm ) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.

Nhưng xem kỹ lại lờI thư thì không phải vậy.

Hay là ? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để chết.

Nhưng cũng không phảI. Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2), thì dại gì nàng phảI làm như vậy.

Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu ? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.

Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó. Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.

- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi à ! Ơ.....Ơ.. trời ơi là trời, con tôi chết.

Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗI gì đối với tôi cả.

Tôi chỉ ngậm câm, khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.

Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa

Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu

Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.

Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng :

- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ.... con đến - ông cụ ngập ngừng trước tiếng "con ", ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy- hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó. Ngỡ như vậy là xong, nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.

Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.

Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy.

- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn.....

- TrờI ! Tôi kêu thầm

- Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó, ba đời liền, không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ lìên rồi mới xuất hiện trở lại.

Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng, vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.

Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên : da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.

Về sau, nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh. Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.

Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.

Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.

Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con, rồI lùi về đây.

Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó, nên trong một lúc tuyệt vọng kia, nó hủy mình

Trời ơi, bấy giờ tôi mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ.

Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng, y như ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.

Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu. Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.

Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.

- Anh thấy không. Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh, còn nghe như Oanh còn sống đâu đó. Tuổi tôi cứ chồng chất lên, nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.

Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lướI mùng "tuyn", các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.

Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giớI ma quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.

Dưới sân đen ngòm, nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.

Những bóng ma của dĩ vãng !.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

10 . Bám Níu

Trời hết mưa đã hơn nửa tháng rồi và nắng tháng chín gay gắt như là nắng hè. Thế mà trưa hôm ấy lão Nghiệm đi khắp xóm và hô: "Sửa soạn để đi hứng, bà con ơi".

"Hứng" đây là hứng cá, một động từ địa phương, đặc biệt của miền đông Nam Việt. Ở miền đông Nam Việt, nhứt là trong tỉnh Biên hòa, qua mùa nước lũ, con sông Đồng nai ứa nước nguồn, bờ sông bành trướng ra, xâm lấn đồng ruộng trong xa, cá sông thích lên để đẻ vào mùa ấy, có lẽ trên đó yên ổn hơn ở dưới lòng sông là nước lụt chảy mạnh ghê hồn.

Đẻ xong, chúng bỏ con, bỏ trứng lại, hồi cư để sống đời dọc ngang trong dòng sông rộng. Cá con tự túc trên bờ và khi mùa mưa dứt thì chúng đã lớn bằng đầu đũa rồi. Không biết do năng khiếu nào dìu dắt mà hễ những đám mưa cuối mùa đổ xuống là chúng áp nhau mà "chạy". Chạy tức là đổ xô nhau theo những con đường nước từ đồng ruộng cao chảy xuống các rạch, các sông, để tìm về những khoảng sinh tồn phong phú thực phẩm hơn, y như cha mẹ của chúng.

Dân miền đông, vào những đám mưa cuối mùa ấy, rủ nhau đặt những giỏ mây hoặc giỏ tre đan thật khít mặt, tại các "hiểm đạo" như Quan Công phục Huê dung đạo, và hứng bắt tất cả cá con đi tìm sanh lộ ấy. Họ đặt tên chung cho cá ấy (thuộc đủ loại cá sông ngọt) là cá lạc mạ. Mạ, có lẽ là tiếng "mẹ" nói trại bẹ ra, chớ bấy giờ lúa đã lớn cây rồi, còn đâu mạ nữa để mà lạc. Cá lạc mạ hỗn tạp và nhỏ quá, không có giá trị thương mãi nhưng lại là món ăn rất thích khẩu đối với nông dân nghèo. Mỗi mùa, một nông dân trong một làng quê hứng có cả thúng giạ cá lạc mạ, tức là hằng mấy trăm ngàn con. Họ kho với muối và mỡ, để dành ăn hơn chín mười ngày.

Lão Nghiêm cởi trần tư niên và người ta có cảm giác rằng da lão dày lắm vì lão chịu đựng phong sương đã hơn bảy mươi năm rồi, chỉ bằng loại y phục thiên nhiên ấy thôi. Lão có vó một tộc trưởng của thời xa xưa, rất nhiều kinh nghiệm sống và nhiều khả năng chỉ đạo như một con thú đầu đàn. Nên chi cả xóm, cả làng đều nghe theo lão, mặc dầu không có dấu hiệu trời sắp đổ trận mưa cuối cùng trong mùa, trận mưa cá chạy, trận mưa rơi xuống sau một thời gian khô hạn gạt gẫm vài tuần.

Họ rút từ trên giàn bếp xuống, những chiếc giỏ rất ít dùng ấy rồi ra đi ngay để giành đường nước. Vâng, những đường nước, trong một vùng, chỉ có hạn thôi, mà người hứng cá thì đông, phải tranh nhau mới được một đường, vì theo tục lệ cổ truyền, không ai được phép "đặt trên dòng", khi có người khác đã đặt giỏ họ rồi trên một đường nước nào đó. Nếu không có lệ nầy thì mạnh ai nấy tranh giành, đặt trên người khác, ở một đường nước chảy sẽ có cả ba bốn người giành hứng, làm sao tránh khỏi cãi vã, xô xát, đến xảy ra lưu huyết như chơi.

° ° °

Nếu cá con mới nở có năng khiếu đoán biết đám mưa nào là đám cuối mùa để mà chạy xuống sông, kẻo tháng tới, ruộng khô, chết cháy cả lũ, thì lão Nghiệm, y như cá, cũng đoán được đúng như vậy đó mà rủ thiên hạ đi hứng.

Quả thật xế lại trời mưa như cầm chĩn mà đổ thì tới tối giỏ ai cũng đầy nhóc cá lạc mạ.

Đêm nay, nhà nhà đều vui. Nhà nào cũng kho với mỡ một mớ cá con ấy để cuốn bánh tráng rau sống, chấm nước mắm ớt nhậu chơi, còn dư lại bao nhiêu họ mới kho mặn.

Cá lạc mạ non mềm nên ngon khôn tả và dân nhậu đều thỏa thích đêm đó. Dân quê miền đông họ nghèo, không có tiền mua thịt, mà cá dưới sông bị họ hủy diệt bừa bãi như thế, hằng trăm triệu con mỗi năm, hủy diệt hồi chúng còn là mầm non thôi nên chi rồi họ lại phải nhịn thèm, vì đâu còn cá để mà câu? Nhịn thèm đến cuối mùa mưa khác, chỉ ăn mắm muối qua loa vậy thôi, sau cái đêm linh đình nhậu nhẹt đó.

Tuy nói thế chớ thỉnh thoảng họ cũng kiếm được cá. Đó là vào tiết tháng giêng, tháng hai. Cũng lại lão Nghiệm nữa. Vì sáng hôm ấy, lão ta lại kêu gọi người trong xóm đi tát. "Tát" là danh từ địa phương thứ nhì của miền đông về nghề cá. Tát là tát các vũng trong rừng sâu, bấy giờ đã cạn gần hết nước, sau năm tháng nắng chan chan.

Xóm Gò Rái của lão Nghiệm là một trong năm bảy xóm hẻo lánh của làng Tân định. Đó là một làng khô cằn, một mặt nằm ven sông Đồng nai, nhưng phần lớn đất đai lại ăn sâu vào phía trong rừng, từ đầu thôn ở bờ sông vô đến cuối thôn trong rừng, xa đến mười mấy cây số. Xóm chỉ đông có mười sáu nóc gia, cỡ chiến tranh đi qua đó, hủy diệt hết xóm, cũng không phải là một tấn thảm kịch lớn. Nhưng xóm ấy lại rất cần thiết cho sự tồn tại của làng nầy, nó gồm tất cả các xóm nhỏ mới thành làng được - cũng y như làng Tân định nầy cũng rất cần thiết để thành nước Việt nam, mặc dầu nó nghèo khổ, không làm lợi trông thấy cho nước nhà và cỡ tang thương có lướt qua đó, cả làng sụp đổ hết, có vẻ cũng không sao.

Tát vũng là công việc tập thể cần ít lắm là ba người mới làm cạn thật sự một cái vũng khá lớn và khá sâu trong khu rừng nào đó, sau làng. Nhóm của lão Nghiệm gồm lão, một góa phụ bốn mươi và chú bé Ất, mười bốn tuổi. Chú bé nầy là con của một gia đình sắp sửa bỏ làng, di cư đi nơi khác, vì ở đây sanh sống khó khăn không thể tưởng tượng được. Cha mẹ nó chỉ đợi cúng giỗ ông cố nội nó, vào cuối tháng hai, là bỏ cái chòi tranh gia truyền độc nhứt để di cư.

Lão Nghiệm biết ý cá, biết ý trời mà cũng thuộc nằm lòng các ao vũng trong rừng và thuộc nằm lòng mấy con đường mòn đưa vào các ao vũng ấy. Lão lại biết cả thú rừng thích ao nào mà tránh và khuyên dân làng tránh, vì ao nào thú ưa đến uống nước là ao đó có cọp rình. Họ lên đường hồi cỏ còn ướt sương, thế mà vào tới trong ấy, mặt trời đã lên cao được bốn năm sào rồi.

Vũng mà lão Nghiệm chọn, có tên hẵn hòi. Đó là vũng Mẹ con. Ai đặt tên cho cái nơi mà một năm chưa dễ có người làng đến chơi tới hơn một lần? Có lẽ đó là bọn thợ rừng, họ đặt để làm những cái mốc không gian trên bước đường xuyên lâm của họ. Vũng Mẹ con, như tên nó đã chỉ, gồm hai vũng nằm cách nhau độ ba thước, một vũng lớn và một vũng nhỏ. Lão Nghiệm khôn quỉ, chọn vũng này để có chỗ mà chứa nước của vũng có cá. Các vũng khác, nước tát ra, lại chảy vào, vì đất chung quanh luôn luôn cao hơn, việc tát vũng thành ra một khổ sai tốn sức lao động không thể tưởng tượng được.

Họ làm việc theo lối dây chuyền: ông tộc trưởng xuống tận rún vũng, múc vũng nước bằng gàu rồi mang trao chị góa phụ đứng cách đó độ hai mươi thước, chị nầy lại chuyền gàu cho thằng bé để nó đem nước đổ xuống ao con. Vũng Mẹ, lúc còn trinh, đẹp vô cùng. Nước rừng, nằm yên hằng năm, lắng trong như mắt mèo. Dòm xuống đáy vũng thấy rõ cá lượn quanh những thủy thảo hình dung cổ quái, có cây trông giống như cội tùng già, có cây giống như cây bông cúc, có cây lại mường tượng như một con rít khổng lồ.

Lão Nghiệm đứng nơi triền vũng do dự rất lâu, không nỡ để chân xuống đó mà phá đám sự yên ổn của loài thủy tộc ẩn dật nầy, mà làm vẩn đục khối nước trong leo lẻo, mà đạp gãy bao nhiêu thủy thảo đẹp như cây cảnh non bộ của nhà giàu. Nhưng mà cái ăn tồi tàn cứ nói lên tiếng nói ưu tiên của nó và ra lịnh cho lão phá hoại cảnh thần tiên thu hẹp này.

Xa xa, nghe có tiếng người hú nhau, có lẽ nhóm nào đó đi lạc đường, tìm nhau giữa rừng sâu. Ở đây, chỉ nghe tiếng nước của vũng Mẹ ùa vào gàu và giây lát sau, tiếng nước từ gàu trút xuống vũng Con. Họ lặng lẽ làm việc, dân của cái xóm thưa người nầy gần như là hóa câm hết thảy vì họ không có nhiều dịp lắm để sử dụng cái năng khiếu tốt đẹp nhứt của loài người là ngôn ngữ. Cho đến thằng Ất mà cũng ngậm miệng, một sự lạ ít thấy vì trẻ con ham nói như ham ăn.

Đây là chuyến đi tát đầu tay của Ất, năm kia nó còn bé quá, năm ngoái nó đau ốm trong mùa tát và chỉ mới được tham dự lần thứ nhứt đây thôi, vào một công việc kiếm ăn của dân làng.

Thình lình nó la lên:

- Cá mè! Trời ơi sao lạ kỳ như vầy?

Không ai buồn đáp câu hỏi của nó mà người xa lạ thoạt nghe không thể nào hiểu được.

Chị đàn bà góa bận khiển trách lão Nghiệm:

- Ông múc nước phải coi chừng chớ, để cá chun vô gàu, thì lát nữa phải tát cái vũng Con trở lại để mót cá sao?

Lão Nghiệm giận mình sơ sót một cách không xứng đáng với tài năng của kẻ đầu đàn, nên làm thinh để nuốt hận.

Thẳng Ất lặp lại câu hỏi, không hỏi thẳng người nào, nói to lên như chỉ nói với nó thôi:

- Sao lại cá mè?

Chị đàn bà góa hỏi lại:

- Chớ mầy tưởng cá gì?

- Tui cứ tưởng ta tát cá đồng, nghĩa là cá trê, cá rô, cá lóc. Những cá sông dường như đã bị hứng hết lúc còn là cá lạc mạ kia mà, thím Bảy?

- Không. Không phải con cá nào cũng "chạy" hết trong đám mưa cuối mùa đâu. Có một mớ cố lội ngược dòng để ở lại, thím Bảy giải thích.

- Trời, sao nó ngu quá vậy? Lội ngược dòng đã khổ thân không biết bao nhiêu, lại không được hưởng cái vui chung hội mà chạy với người ta. Tệ hơn nữa, ở lại trong ao tù, chắc phải thiếu ăn và rốt cuộc có thể chết cháy khi ao vũng cạn hết.

Lão Nghiệm đã mỏi tay, mỏi lưng, đứng thẳng lên để nghỉ. Lão nhìn vào rừng trước mặt lão, như không thèm nghe hai người đồng đội nói chuyện với nhau. Chị đàn bà góa bí lối không biết đáp thế nào với thằng bé, mà có lẽ chị ta cũng nghĩ như nó nên cũng đang thắc mắc thầm. Nhưng chị ta không hỏi, vì thằng Ất đã hỏi rồi. Không có người đáp nghĩa là không ai biết đáp làm sao, còn hỏi nữa làm gì! Vả lại dân quê bận sinh kế vất vả quá, không dám thắc mắc nhiều và lâu về bài toán vô ích nào khác hơn là bài toán "ăn".

Lão Nghiệm nhìn rừng lâu lắm, rồi vụt thình lình trả lời câu hỏi của thằng Ất, trong khi thằng bé ngỡ nó đành phải bỏ trôi băn khoăn nầy như bao nhiêu băn khoăn khác của tuổi thơ mà không ai buồn giải đáp dùm nó, trong cái thế giới rừng rú chỉ gồm mười sáu nóc gia mà ai cũng lo chạy gạo trối chết.

- Chắc mớ cá lạc mạ ngu nầy không ngu lắm đâu. Sở dĩ chúng nó không "chạy" vì chúng nó thương yêu cái nơi chôn nhao cắt rún của chúng, cố lội ngược dòng, bám níu để ở lại nơi mà chúng nó chào đời.

- Ở lại để làm gì?

- Không biết để làm gì! Chỉ thương là ở lại thôi!

- Đói chết.

- Đói cũng được, miễn toại lòng thương.

Không ai nói gì nữa và cả ba đều nhìn vào rừng, sau khi nói chuyện cá với nước. Một hồi lâu, lão Nghiệm toan khom lưng múc nước trở lại, nhưng lão lại thôi, nói tiếp:

- Thuở tui còn nhỏ bằng thằng Ất, ông bà tui cũng định bỏ làng đi kiếm ăn nơi khác. Nhưng rồi họ không nỡ đi. Nhiều người khác cũng tính như vậy mà rồi rốt cuộc ai ở đâu cứ ở đó. Họ bám níu vào mảnh đất cằn cỗi nầy mà họ rất cực khổ, không biết để làm gì. Chắc họ thương làng quá, đi không đành. Mà quả có như vậy, bà con ơi! Cái ngày mà ông nội tui quyết định ở lại, tui mừng không biết bao nhiêu, tui chạy đi báo tin lành với các bụi tre ở đầu xóm, với con suối cạnh cuối thôn, và cả ngày ấy, không có gì ăn, tui cũng nghe no tới cổ vì sung sướng

- Tui sắp đi, tui cũng buồn quá! thằng Ất than, nhưng không biết làm sao!

Chị đàn bà góa nãy giờ chưa có ý kiến nào hay, xui dại thằng bé:

- Sao mầy không trốn ở lại?

- Biết có được hay không?

- Dễ ợt. Trốn đi thì ngại đường xa nước lạ chớ trốn ở lại với người cũ, ai bỏ đói mầy mà mầy lo.

- Tui thương đất nầy quá!

- Bám níu, ông bà ta đã bám níu, tao đã bám níu mới còn xóm nầy, làng nầy. Còn làng mới còn nước mình, lão Nghiệm nói.

- Làng nầy nghèo quá, ông ơi! chị đàn bà góa than.

- Ừ, nghèo lắm và ta khổ lắm. Nhưng làng nầy không có không được. Một nước phải gồm rất nhiều làng, làng nghèo, làng giàu, làng nghèo cũng cần lắm chớ bà con!

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

11 . Giấc Mơ Của Bé Phượng

Cha... ! Ba mang về nhà một chiếc bíp bự dữ, cỡ gỏ lên đầu anh Dũng một cái, đầu anh Dũng sẽ phải u một cục bằng trái cam.

Ba cứ trầm trồ chiếc bíp trong khi má trề môi mà rằng :

"Chỉ tổ ung khói cho cay mắt cả nhà".

Tuy nói thế chớ má phải nhìn nhận rằng chiếc bíp nầy đẹp.

Còn Dũng và Phượng thì chỉ lo rình để giành cái hộp.

Theo hiệp ước thì Dũng được hưởng những gì mà ba bỏ ra, chẳng hạn như hộp thuốc rời Prince Albert, hộp thuốc điếu 555, hộp đựng cà vạt, hộp xi gà v.v... còn Phượng thì trọn quyền về những món bị má bỏ lạc son, chẳng hạn như lọ nước hoa mà đã hết nước hoa rồi, chẳng hạn như hộp phấn, như hộp kẹo v.v...

Nhưng hôm nay con Phượng ăn gian, quyết xé hiệp ước đó, nhìn cái hộp đựng bíp bằng đôi mắt thèm thuồng nên Dũng phải sẵn sàng để tự vệ.

Ô, cái hộp mới đẹp làm sao chớ ! Phượng sờ tay vào đó, búng thử thì nghe biết rằng cái hộp ấy làm bằng giấy cứng. Vậy mà trông cứ giống như là bằng gỗ, một thứ gỗ màu ngà có vân màu cánh dán, xinh đẹp không thể tả.

Ba đứng lên đi thay áo. Tức thì chiến tranh diễn ra, Phượng yếu hơn anh nên dùng thứ khí giới ghê gớm là dẫy và khóc la, ba phải bỏ việc thay áo, má bỏ nấu nướng để lên họp "Liên hiệp quốc" bàn xử hai nước ương ngạnh nầy.

Phượng có lỗi rõ rệt, đáng lý thì phải đầu hàng ngay, nhưng ba muốn giải thích cho Phượng hiểu bổn phận hơn là bắt ép Phượng tuân lịnh, nên hỏi :

- Phượng, con quên lời giao kết rồi hả ?

Phượng tấm tức tấm tưởi đáp :

- Con nhớ chớ ba ! Mà con xin anh Dũng nhường con một lần.

- Có xin thật à ?

- Dạ, có thật.

- Con xin để làm gì ?

- Dạ, bí mật !

Ba, Má và cả anh Dũng nữa, đều cười ngất. Bé Phượng mới học lớp năm trường Phan Văn Trị, đã biết gì mà bí với lại mật.

Ba, má thấy hay hay nên khuyên anh Dũng.

- Thôi Dũng, con nên nhường cho em lần nầy.

Dũng cũng buồn cười cho Phượng, nên vui lòng làm cái cử chỉ đẹp đó.

Phượng cười với đôi mắt ráo hoảnh, rồi vừa ôm hộp vào lòng, vừa nói :"Cám ơn ba, cám ơn má, cám ơn anh Dũng".

Đêm ấy bé Phượng cất hộp dưới gối mà ngủ, và sáng ra thì ba, má quên mất việc ấy luôn cho đến tối hôm sau, cơm nước xong rồi, cả nhà tụ họp lại, ba lấy bíp ra hút thuốc, má mới sực nhớ đến cái hộp và hỏi :

- À Phượng à, con làm gì với cái hộp ?

Phượng lấm la lấm lét nhìn ba rồi làm thinh.

- Kìa, sao má hỏi, con không trả lời ?

- Dạ, con nuôi con chim Phượng trong đó.

Ba vẫn nghe được câu đáp rất khẽ mà Phượng đã hạ giọng thật thấp để chỉ riêng một mình má nghe thôi.

- Sao con lại nuôi con chim Phượng ? Ba hỏi.

Phượng hoảng lắm. Nó rất sợ ma nên thường bị ba mắng là không ngoan, là hay tin nhảm chuyện hoang đường. Con chim Phượng đâu bao giờ có, chắc ba sẽ mắng nó nữa. Nhưng không thể không trả lời, nó mếu máo đáp :

- Dạ, vì con thương con chim Phượng : Phượng là tên của con.

Ba cười ồ rồi hỏi :

- Ai bảo con rằng tên của con có nghĩa là con chim Phượng ?

- Má bảo.

Ông Thành thấy vợ lầm, nhưng không đính chánh, không phải sợ vợ mất uy tín trước mặt con, mà sợ Phượng mất ảo tưởng của nó. Ông muốn giải thích :"Không, tên con là một thứ hoa. Con chim Phượng là tên của con trai, con gái phải tên Hoàng, tức là con chim Phượng mái". Nhưng ông giữ miệng kịp.

Phượng sung sướng quá : Ba không mắng nó.

Đêm sau, giữa bữa ăn tối, ba hỏi :

- Con chim Phượng được bao lớn rồi đó a Phượng ?

- Dạ, nó vừa mọc cánh.

- Cho nó ăn gì ?

- Dạ, nó là chim tiên nên không cần ăn gì hết.

Ba, má nhìn nhau mà cười.

Đêm sau nữa, trước bữa ăn, ba lại hỏi :

- Cánh Phượng có đẹp không con, Phượng ?

- Dạ, đẹp.

- Nhưng hộp nhỏ quá, nó đâu có xòe cánh ra được.

- Ừ, tội nghiệp nó quá, để Phượng cho nó bay ngoài vườn cho nó thong thả.

Đêm thứ tư, suốt bữa ăn, Phượng không hề mở miệng nói một lời. Má hỏi :

- Phượng ơi, sao bữa nay con buồn hiu vậy ?

Phượng nấc lên rồi khóc mùi. Lâu lắm nó mới nghẹn ngào đáp :

- Chim Phượng bay mất rồi má à.

Ba mĩm cười, còn má kinh sợ đến buông đũa. Ba hỏi :

- Nó bay đi lúc nào ?

- Dạ, lúc con thả nó ngoài vườn, kẻo nó tù túng ở trong hộp.

- Phượng có giận nó lắm không ?

- Dạ, ơ...hơ... có, mà con vừa hết giận giờ đây. Nó phải được thong thả chớ, phải không ba ?

- Ngoan lắm. Thế Phượng có lo nó đói lạnh không ?

- Dạ không. Nó về cảnh tiên chắc phải sung sướng.

Trên giường, lúc sắp sửa ngủ, má trách ba :

- Anh hay mắng em là chỉ dạy con tin nhảm. Sao nay anh lại nuôi nấng ảo mộng của con Phượng ?

- Em lầm. Chuyện con chim Phượng không phải là tin nhảm. Đó là giấc mơ trẻ thơ. Không một người lớn nào làm nên sự nghiệp gì đáng kể, nếu thuở bé họ không mơ những giấc mơ kỳ thú như Phượng, họ không nuôi nấng những ảo ảnh huyền hoặc nào.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

12 . Cô Nhân Tình Ma Đã Biến Mất

Mầm dế, trứng dế, không biết sống tiềm tàng cách nào mà hễ mưa xuống một đám mưa đầu mùa là dế tràn ngập đồng nội ở thôn quê, tràn ngập các hang cùng ngõ hẹp, ở thành phố.

Tần nhớ ra là khi sáng, dạo đường Hàm Nghi, ghé qua chợ súc vật giây lát, chàng thấy dế loi ngoi như dòi, trong những cái lồng kính và trẻ con bu quanh các gian hàng dế đông nghẹt như xem hội.

Tần nghĩ những điều nầy khi chợt nghe tiếng dế gáy rất to, ngay dưới đầu nằm của chàng.

Cái mới lạ lỳ !

Chàng ở một khu phố rào, toàn là gạch không mà thôi, mặt phố trải nhựa, vỉa hè tráng xi măng, buồng ngủ của chàng lót gạch mà không một tấm gạch nào bể hết để cho có kẽ hở làm tổ ẩn núp cho mầm dế, thế mà tự nhiên có dế, hăm bốn tiếng đồng hồ sau đám mưa đầu.

Năm kia, không nhớ trong buồng nầy có dế hay không, chàng quên mất, còn năm ngoái, chàng ở trên Đà Lạt, về đây đã qua mùa dế rồi.

Dầu sao, nếu năm kia mà có dế, chàng cũng đã không chú ý đến nó. Năm ấy chàng có người yêu và bận yêu, mà bận yêu ai thèm để ý đến giống vật nhỏ mọn ấy.

Đây là loại dế đá, vì tiếng gáy của nó to đến điếc cả tai. Chính cái loại của con dế nầy làm chàng thắc mắc.

Dế chó, thứ nhỏ hơn nhiều, sanh ra trên khuôn bếp, ở các kẹt, xó nhà, chớ còn dế đá thì chỉ nở được trong đất ẩm, dưới cỏ ướt thôi.

Lâu lắm rồi Tần không có nghe loại dế nầy gáy nữa, vì người lớn đâu có chơi dế, nên hôm nay chàng lắng tai đón những âm thanh gần quên rồi ấy.

Tiếng dế trong lạ. Nó lên cao vút, còn cao hơn những nốt nhạc cao trong bản "Nhạc buồn" của Chopin nữa.

Thình lình Tần nghe rờn rợn sau lưng. Chàng đang nằm nghiêng, day mặt vô vách, vội nằm ngửa ra để tự vệ.

Sự xuất hiện thình lình của con dế nầy làm chàng nhớ đến những cô gái Liêu Trai, thường về đêm, không biết từ đâu, nhẹ bước tiên rón rén vào buồng của những cậu thơ sanh.

Dế, trò chơi trẻ con, và gái Liêu Trai, giấc mơ của những thiếu niên, bỗng như xô chàng thụt lùi trên giòng năm tháng !

Chàng trở về qua lối cũ, ghé lại thời niên thiếu trước hết.

Đó là thời mà người con trai mới nhổ giò, vừa bể tiếng, bắt đầu mơ yêu nhưng rất "nhát đèn".

Gái Liêu Trai là hạng gái lý tưởng của các cậu, của chính chàng. Các cậu khỏi phải tán tỉnh lời nào. Tự nhiên các nàng hiện ra, tìm các cậu, vào buồng các cậu để nghe các cậu đàn hay ngâm thơ, rồi mê tít các cậu ngay.

Về sau, cậu thơ sanh nào cũng bị hớp hồn, xanh xao, vàng vọt, ốm lên ốm xuống mà nếu không gặp các tay chơn tu già tay ấn cho một đạo linh phù thì các cậu sẽ chết lần chết mòn hết ráo.

Hậu quả của những cuộc ái ân với gái Liêu Trai là như thế đó, nhưng các cậu nào có sợ đâu, bởi gái Liêu Trai đáp đúng nhu cầu của các cậu mà các cậu chưa đủ khả năng thỏa mãn.

Lạ một điều nầy là về sau, khi trưởng thành rồi, khi đã biết gái thật rồi, họ mới bắt đầu sợ ma Liêu Trai, như chính chàng hồi nãy đây, chớ còn tuổi niên thiếu, mặc dầu là tuổi sợ ma, họ chỉ sợ các loại ma khác thôi và hằng đêm hằng mơ ma của họ Bồ.

Xác thịt tuổi ấy đang lên, mạnh bạo hơn bao giờ cả và lấn át được mọi thứ sợ hãi.

Nàng...!

Nàng của tuổi thiếu niên. Nàng không có tên, không có tuổi, mà cũng chẳng có mặt mũi hình thù. Nhưng chàng thương nhớ nàng khôn nguôi.

Đó là một người quen mà chưa biết, thân thật là thân, thân như đã quen với nhau đâu hồi kiếp trước và nhớ nhung như là nghịch cảnh đã tách rời họ với nhau không biết làm sao để tái ngộ.

Rồi nàng hiện lên, rõ rệt hơn, qua ngòi bút của nhà thơ viết bằng văn xuôi là Bồ Tùng Linh với dáng vóc yêu kiều, đôi khi có họ có tên, đôi khi biết được cả tên tuổi của cha mẹ nàng và chức tước, địa vị của thân phụ nàng nguyên là một vị đại thần. Mà cả nhà đã bị tru di tam tộc cách đây mấy trăm năm trong ngôi dinh thự hoang phế mà thơ sinh lạc bước vào, một đêm trăng kia.

Dế lại gáy to hơn khi nãy vì nó vẳng nghe ở đâu xa lắm, tiếng gáy của đồng loại nó mà chàng không nghe được vì không thính tai bằng nó.

Nàng !

Nàng cũng bắt chợt thơ sinh như nàng dế nầy.

Nàng dế nầy ?

Tần vụt ngồi dậy. Người đàn ông kinh nghiệm và thực tế nầy đang sống trở lại thời niên thiếu một cách lương thiện và sòng phẳng, nghĩa là còn đang rung động,

những rung động đầu mùa của con người, đang mơ những giấc mơ dại của ngày xanh, triền miên, triền miên...

Chàng lắng tai nghe ngóng ! Biết đâu nàng lại không là một tiểu thư ma, hiện về trong cái vỏ một con dế trước cái đã, để thử lòng chàng ?

Chắc ngày xưa nàng là một ca kỹ đã "cách giang xướng Hậu Đình Hoa", đã "bất tri vong quốc hận" và giờ đây ăn năn tội lỗi, nàng mới ca lên điệu ca sầu thảm muôn đời của loài dế.

Ừ, dế gáy, thoạt nghe thì vui, nhưng nghe một lát thì chợt thấy rằng nhạc dế buồn lắm.

Đích thị là hồn của một thương nữ mang hận nghìn đời vì đã không quan tâm đến vận nước.

Nếu là hồn oan của cô ca sĩ đương thời, ắt hồn đã ca những bản giựt gân hơn.

Từ hai năm nay, Tần cô đơn quá, bình thường chàng đã mơ mộng như con trai mới lớn lên rồi, huống hồ gì chàng vừa lội ngược thời gian.

Chàng lắng tai nghe ngóng để đoán vị trí của nàng dế. Đoạn chàng vói lấy hộp diêm trên tủ đầu nằm, trút hết diêm quẹt ra, rồi lại dở gối lấy chiếc đèn bấm mà chàng luôn luôn thủ sẵn trong buồng vào mùa mưa, đề phòng banh điện. Hễ điện banh thì chàng có đi ngoài khỏi vấp té vì lửa diêm quẹt thường thường bị gió thổi tắt bất tử lắm.

Tần rón rén bước xuống giường, nhẹ như một con mèo rình mồi. Thế mà nàng dế đã nghe động và nín đi.

Chắc nàng cũng đang lắng tai nghe ngóng. Bạn hay thù ? Nàng tự hỏi thế, mặc dầu nàng là ma, ắt hẳn phải biết rõ ruột gan của người trần.

Gã nầy đa tình và nhứt là đang mơ giấc mơ thần tiên của tuổi dậy thì, như thế, hắn phải là bạn rồi.

Nhưng tay hắn lại cầm một chiếc hộp diêm không, thứ ngục tù để nhốt nàng trong ấy.

Ư ! Tần định bắt nàng, nhốt trong hộp diêm, rồi để nàng trên đầu nằm hầu nàng ca gần cho chàng nghe.

Nàng sẽ hiện nguyên hình là người thương nữ bất tri vong quốc hận, sẽ thú tội với chàng để trút bớt gánh hận ngàn đời đã xướng bản Hậu Đình Hoa, rồi chàng sẽ tha thứ nàng, sẽ an ủi nàng rồi hai người yêu nhau trong sự cảm thông nghệ sĩ.

Ừ, chàng cũng là nghệ sĩ và chàng cũng đã trót bất tri vong quốc hận, à, không hẳn là bất tri, nghĩa là tri mà không thể làm nhiệm vụ.

Rồi hai đứa sẽ tái khởi hành trên đường đời với nhiệm vụ khác, của thời nầy. Họ sẽ làm những người công dân tăm tối, cố tròn bổn phận công dân, không tham vọng lớn, để có thì giờ phục vụ bộ môn nghệ thuật của họ.

Nàng lại ca trở lên và Tần thấy đó là một cuộc đùa dai của người con gái ma. Nàng chơi trò cút bắt với chàng, nín đi, và có lẽ đã đổi vị trí rồi cũng nên để chàng phải tìm kiếm. Rồi nghe im lặng lâu quá, sợ chàng bỏ cuộc, hát trở lại để ghẹo chàng.

Mà nàng đã đổi vị trí thật.

Giường của chàng, chàng kê sát tường và buồng ngủ rất hẹp. Nàng đã bò vô trong sâu, vô cái chân tường ấy.

Giường tân thời thấp quá, thật kà không biết làm sao vói tay cho tới người ngọc.

Tần cúi xuống, dòm vào dưới ấy rồi bấm đèn.

Nàng là một con dế lửa. Chắc ngày xưa nàng bự phấm và đậm son, nên dấu vết ấy kiếp nầy vẫn còn mang, đỏ bầm một màu nóng và khiêu khích.

Nàng nằm sát chơn tường như thách đố :"Có khó mới thú. Em đang ở chốn thâm cung đây, anh mà vào được mới đáng mặt anh hùng võ hiệp".

Trang anh hùng của thời vệ tinh hành động rất kém kiếm hiệp. Chàng lấy chiếc gậy trúc đùi gà, quà tặng của một người bạn vong niên, đang dựng ở góc tường, rồi thò gậy dưới giường mà quơ.

Nàng hoảng hốt nhảy đi mấy cái, rất hận con người không biết nịnh đầm nầy.

Nàng đã ra ngoài, nhưng không nhờ thế mà chàng chiếm được nàng ngay đâu.

Tần rất bừa bãi... ở trong buồng chàng. Nói cho công bình, tại chàng thiếu chỗ, nên cái buồng ngủ nầy lại vừa là kho sách, vừa là kho vật dụng.

Dưới gạch, hằng trăm quyển sách nằm la liệt, hằng đống báo, và một rương dụng cụ thợ mộc. Ấy, những ngày buồn chán quá, chàng thích chơi trò thợ mộc, đẽo những chiếc thuyền nhỏ, đóng những chiếc xe bò tí hon, hay thiết thực hơn, sửa lại một cái giá mắc áo, thay một chơn ghế gãy.

Nàng quỉ quyệt tinh ma (đã bảo nàng là gái ma mà lại!) nhảy vào giữa đống sách báo mà nằm nín khe trong đó.

Tần cũng quỉ quyệt không kém. Chàng cũng ngồi im và nín thở.

Lâu lắm, nàng ngứa môi, cất tiếng lên. Ca sĩ mà không ca thì còn biết làm gì bây giờ.

Chàng đoán : "Cô em hiện đang núp dưới mớ báo Phụ Nữ Tân Văn mà mình mở banh để sưu tầm thơ của nữ thi sĩ Manh Manh.

Tất cả có tám tập chồng chất lên nhau, vì báo đã mở ra, nên tờ báo cong chớ không nằm phẳng có chỗ trống nên cô em ẩn trú.

Nhẹ thật nhẹ, Tần đưa tay tới, chàng nín thở hơn rồi vụt thình lình chàng hất mạnh chồng báo ra rồi chụp càng bừa, chớ chưa thấy mặt nàng đâu cả.

Nàng nhảy một cái là rơi vào kẽ giữa hai chồng sách rồi gáy te te như để mỉa mai chàng.

Tần lại ngồi im để tìm chiến lược. Thấy rõ là bắt dế trong nhà, khó hơn ngoài đồng nội nhiều. Ngoài ấy trống trải, dế nhảy tới đâu ta đều thấy và đều rượt theo tới đó được. Căn buồng nầy ít bàn ghế, nhưng lại nhiều chướng ngại nho nhỏ là sách, báo, thùng, hòm, rương.

Tần lấy hai quyển sách ở hai đống sách khác, bít hai đầu khe rồi dỡ từng quyển sách một của hai chồng sách mà trong đó nàng ẩn núp.

Hai chồng sách cao ấy đối với nàng như hai bức tường kiên cố và cái khe ở giữa là một cái giếng sâu và hẹp.

Giở từng quyển chồng sách ấy, tức là làm cho cái giếng cạn lần, cạn lần, cho đến lúc mà nó đã cạn cho chàng thò hai ngón tay vào đó được là có thể bắt cóc nàng.

Hai đống sách thấp lần, thấp lần. Nàng nín khe, có lẽ để nhìn nguy cơ lù lù tiến đến.

Chỉ còn mỗi bên có bốn quyển thôi, nhưng đó là bốn quyển sách thật dày, chưa hành động được.

Tần thấy bỏ thêm hai quyển nữa. Nhưng coi chừng ! Hễ giếng cạn thì chính nàng cũng có thể nhảy ra được chớ không riêng dễ dàng cho chàng thò hai ngón tay vào.

Và rồi ! Nàng dế nhảy ra, vọt nhanh lên như tên bắn, đúng vào cái lúc mà hai quyển sách được dở ra.

Nàng nhảy, nhảy lăng xăng, và chàng chạy theo để chụp. Lạ quá người lớn kém khả năng hơn trẻ con trong những công việc của chúng nên Tần cứ chụp hụt mãi.

Chàng toát mồ hôi dầm dề mà chưa bắt được nàng dế tí hon ấy. Cũng may là nó không chạy xuống giường.

Tần đã lùi về tới thềm tuổi thơ dại, thấy mình là một cậu học sinh lớp ba ở trường làng. Chàng nghe luồng gió ban mai mát mẻ nhè nhẹ thổi lên lưng đẫm mồ hôi của chàng, chàng nghe được hơi nóng mà những tia nắng sớm đã sưởi lên ót chàng và huyền diệu thay, thấy được cả những hột ngọc sương lóng lánh trên đầu cỏ non mởn.

Bấy giờ nàng dế đã bị cầm tù trong bàn tay nắm của chàng rồi.

Không, nó không phải là Nàng nữa !

Nó dữ tợn ghê hồn. Nó đạp lên tay chàng bằng những cái cẳng đầy gai góc của nó và cắn mạnh vào lòng bàn tay chàng bằng hai cái càng bén ngót của nó khiến chàng đau điếng người, suýt mở tay ra.

Tần vội bỏ dế vào hộp diêm, lòng vui sướng y như thuở bé bắt được một con dế dữ, một con dế lửa vô địch trong làng.

Chàng đẩy nhẹ hộp diêm ra để ngắm đầu dế. Quả thật nó oai phuông lẫm liệt, cắn gỗ hộp diêm nghe rào rạo và chực thoát thân khi nó thấy ánh sáng đèn.

Vội đậy hộp diêm lại, chàng nghĩ bụng : "Sướng a ! Mai mình sẽ thách thằng Kẹo, thằng Hòn đá. Chúng nó có mỗi đứa một con dế than bạo tợn, nên làm phách quá trời. A, mà mai nầy chúa nhựt nghỉ học, mình sẽ đi đá dế hội đằng đình, mình sẽ ăn hết cả làng".

Thình lình có tiếng ca nhạc vang lên ở căn nhà đối diện.

Mộng xưa tàn vỡ
Lòng ta còn nhớ,
Những chiều sát vai, sát vai trong nhịp đàn.

Cậu bé học sinh nhà quê đang nghiền ngẫm chương trình đá dế, bỗng bị lôi đầu về thực tại.

Cái đầu khét nắng của cậu, giờ cậu thoáng nghe có thơm mùi nước hoa Bain de Champagne.

Đã lội ngược thời gian nhanh như chớp, giờ chàng lại bị dòng năm tháng cuốn xuôi theo, cũng thoăn thoắt nhanh.

Ôi hắt hiu là nhớ,
Chiều nay sao hắt hiu là nhớ
Tới chiều nào !

Cái buổi chiều nào ấy là buổi chiều chàng mơ cô gái Liêu Trai lần đầu trong đời chàng. Chiều ấy trăng mọc sớm đằng hướng đông, và trên đồi trước nhà chàng một ngôi miếu cổ trông giống như một đền đài xa xưa chứa chấp hồn ma của một tiểu thơ nào chết oan trong đó.

Tần thừ người ra, buông hộp dế rơi xuống gạch. Không, nó chỉ là con dế thôi, con vật nhỏ mà hung bạo của thời trẻ dại của chàng.

Nàng ma họ Bồ không phải là nó, mặc dầu cả hai đều xuất hiện đột ngột.

Chàng đã rời bến tuổi xanh và hiện đang ghé bến thiếu niên nhút nhát đây với những gái hồ ly khỏi tán mà cứ được.

Ôi, những giấc mộng hồ ly thần tiên của thời niên thiếu ! Nàng đâu rồi trong xiêm y rực rỡ, dưới ánh bạch lạp, đứng ngoài song viên dũ nhìn vào thơ phòng của chàng ?

Mộng ước về đâu
Chút duyên tình đầu
Nhạc cũ chìm sâu
Lắng trong hồn sầu
Đèn khuya còn sáng
Nhạc khuya thầm nhắc
Bao lần lá rơi
Lá rơi trên đường chiều.

Đoạn chót của nhạc kéo chàng ra khỏi bến thiếu niên và đẩy mạnh chàng xuôi dòng đến bờ lứa tuổi hai mươi mà nơi đó chàng đã gặp lần đầu cô gái bằng xương bằng thịt.

"Chút duyên tình đầu" ấy đã để lại nơi lưỡi chàng vị đắng cay mà mãi đến ngày nay vẫn cứ còn ngăn chàng nếm được đầy đủ ngọt bùi của cuộc đời tình cảm nào khác vì dư vị tai hại cũ năm xưa.

Bất giác Tần đưa tay bóp trái boa trên đầu giường chàng. Đèn lớn tắt phụt xuống và đồng thời, ánh sáng mờ của bóng đèn chong gợi mơ màng ánh nến bạch lạp của thời phong kiến vàng son mà thế giới rất đông đúc yêu ma.

Chàng chỉ muốn cặm sào mãi nơi bến thiếu niên với những giấc mơ hồ ly của chàng thôi.

Cô tình nhân ma đã mất rồi, mất một cách vĩnh viễn, nhưng chàng bất khuất, cứ muốn gọi hồn nàng về bằng ánh mờ nầy.

Chàng gọi nhỏ :"Em, em hồ ly tinh ơi ! Anh không sợ bị em hớp hồn, không sợ chết lần, chết mòn vì em, bởi vì trong cái chết đó, đến phút hấp hối cuối cùng, anh vẫn còn mê em, còn thấy nơi em cô tình nhân yêu dấu. Anh ưa mơ yêu em hơn là yêu thật những con người họ làm bầm dập tim anh. Em hồ ly của những giấc mơ năm cũ ! Hãy hiện về trong khói hương trầm lòng anh để bắt cả hồn lẫn xác anh đi, anh mơ được lạc vào thế giới u minh của cõi ma đây.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

13 . Tiếng Thời Gian

Từ cầu Cổ Cò vào chợ Mỹ Lương, đi đường thủy, mất ít lắm là ba tiếng đồng hồ chèo xuồng.

Gặp mùa nước đổ, nước trong Đồng Tháp Mười tuông mạnh ra, khiến cho việc chèo ngược dòng là cả một kỳ công.

Thế mà Thạnh đã ba lần đòi quay trở lại khi xuồng tiến mau trên rạch Ông Mẻ được hai phần đường rồi. Nếu không có bạn chàng khuyên dứt thì trong cuộc hành hương hôm đó, họ đã chẳng đến nơi.

Phải, đây là một cuộc hành hương thật sự. Chợ Mỹ Lương là nơi đã nghỉ yên một đoạn dĩ vãng của họ, nghỉ yên một thời thanh xuân không bao giờ tìm thấy lại nữa. Họ đã yêu ở đó, đã đau buồn vì vận nước ở đó, và đã phấn khởi làm phận sự ở đó.

Hàng trăm đám lục bình xanh đang chạy đua xuôi dòng rạch Ông Mẻ vàng khè phù sa khiến họ nhớ đến những đêm năm nào mà họ vượt đồn Cổ Cò bằng cách lội úp theo những đám lục bình cứu tinh đó.

Sao Thạnh đã gần đến nơi rồi lại còn muốn quay về ? Sự thật thì chàng đã định bỏ cuộc ngay từ lúc mới xuống xuồng, và càng đi gần tới đích chàng càng lo sợ và càng muốn thôi không đi nữa.

Cả hai người bạn đều phấn khởi lúc rủ nhau về đây. Mười năm lăn lóc trong cuộc vật lộn để giành chén cơm, họ thường nghĩ đến cái nơi cất giữ rất nhiều kỷ niệm của họ.

Và hôm qua đây, nhơn thấy cũng đỡ bê bối tiền bạc phần nào, họ đồng tình về chốn quê cũ một chuyến, để thăm lại cảnh cũ người xưa, và nhứt là để xem hòn giả sơn của chú Dầu Ía có còn hay không.

Ở chợ Mỹ Lương chỉ có độc một gia đình Trung Hoa. Chú Dầu Ía, người chủ gia đình, thích chơi cây cảnh, non bộ. Sau nhà chú, chú có đắp một hòn giả sơn rất khéo mà Thạnh chưa thấy hòn giả sơn nào đẹp bằng.

Hôm qua đây, cả hai người đều có ý về Mỹ Lương một lượt, và Thạnh hăng hái nhứt, nói là rất nhớ hòn giả sơn đó.

Nhưng thật ra, chàng chỉ bồn chồn gặp lại người kia. Cái háo hức buổi đầu lại nguôi lần lần trên đường thôn du nầy, vì một lẽ làm chàng băn khoăn mãi từ lúc bước chơn xuống xuồng.

Khi họ thấy đằng xa sông Cái Cối chắn ngang con rạch Ông Mẻ, họ nhìn về bên trái thì chợ Mỹ Lương thoáng hiện xa xa, cheo leo trên doi đất tại ngã ba sông.

Thì ra chợ Mỹ Lương vẫn còn nguyên vẹn, đó là cái chợ thôn dã hiếm hoi không bị tàn phá lúc chiến tranh.

Nước sông đổ rất mạnh, khiến Thạnh hoảng lắm, chàng mong cho xuồng cứ tiến thật chậm để lùi lại cho lâu cái lúc đến nơi.

Ngã ba sông Cái Cối.

Chợ Mỹ Lương là kiểu mẫu cổ điển của nhiều chợ xép Tiền Giang. Chợ ngó xuống sông, và hai bên hông chợ, hai dãy nhà cũng trông xuống bến. Nhưng hai dãy nhà ấy lại bị dãy nhà sàn đối diện ngăn tầm mắt lại. Con đường mòn hẹp té, nhưng ngay bon, đi thẳng giữa hai dãy nhà vừa kể trên rồi mất hút trong rặng dừa đằng xa.

Bốn dãy nhà gồm bốn mươi căn, mỗi căn bán một thứ hàng hóa giống hệt ở mọi chợ khác. Có tiệm hớt tóc, mà những giờ vắng khách, mấy anh thợ ngồi buồn gảy ghi-ta; một tiệm may, vài tiệm chạp phô, một hiệu trữ dược phẩm Âu Mỹ kiêm bán sách báo, một hiệu ba da, một hiệu bán chén và đồ gốm v.v...

Họ lên bờ và căn nhà họ tìm trước hết là hiệu thuốc bắc "Tăng-Thọ-Đường".

"Tăng-Thọ-Đường" vẫn vững như một con người được tăng thọ. Tấm bảng hiệu dựng đứng theo lối Trung Hoa, trên viết lăng nhăng một cột chữ Tàu, đã rạn nứt vì mưa nắng gió sương, nhưng chữ mạ vàng vẫn còn đọc được.

Nhà có gác, chiếc gác thấp, mái cong cong như mái chùa, và cửa song sơn đỏ, gợi nhớ hình ảnh nước Tàu ngàn xưa mà người khách trú chủ hiệu thuốc nầy thương mến nhái lối kiến trúc ấy được phần nào hay phần ấy.

Cả hai đứng lại rất lâu nơi doi đất trước ngã ba sông, bùi ngùi nhìn những mái nhà đóng rêu, bùi ngùi nhìn chơn trời quen bên kia sông. Cảnh vật như được ướp lạnh hằng bao thế kỷ, và nay mở tủ lạnh ra, nó vẫn y nguyên như cũ. Chỉ có người là khác xưa. Anh thợ hớt tóc tiệm Nam Hưng, căn nhà bìa cheo leo trên bờ sông, trẻ hơn anh thợ ngày trước nhiều. Khách của ông ta cũng trẻ hơn. Cả bọn chơi măng-đô-lin, và ca tân nhạc, họ tìm trên vách mãi mà không thấy bóng cây đờn kìm cẩn ốc của bác thợ năm đó.

Mặc dầu lo sợ, Thạnh cũng bươn bả theo bạn sau lúc đứng chiêm nghiệm ở bờ sông. Hồi hộp lắm ! Nôn nao gặp lại người xưa, mà sợ sự gặp mặt đó, sợ nhưng cứ muốn gặp gỡ ngay!

Cụp... keng... keng... cụp... keng... keng... Tiếng chày giã thuốc trong chiếc cối bằng đồng, cứ giã một cái lại nhịp hai cái trên thành cối, tiếng nhạc đều đều kéo dài từ ngàn đời rồi trong giới dao cầu Trung Hoa ấy, đã nghe rõ khi họ bước tới trước thềm Tăng-Thọ-Đường.

Người giã thuốc không phải là ông Tăng-Thọ nữa mà là một người trung Hoa còn trẻ, độ ba mươi. Ông Tăng-Thọ đầu đã bạc phơ, ngồi ngậm một chiếc điếu dài gần bốn gang tay, mắt lim dim lắng nghe tiếng nhạc chày nện trên cối.

- Ông chủ a ! Mạnh giỏi chớ, ông chủ ?

Tiếng chày bỗng ngưng nện, tiếng chim chắc chè ngưng gáy trong lồng và ông Tăng-Thọ nhảy nhổm lên. Ông đẩy cặp kiếng trắng lên cái trán hói và láng bóng, rồi trố mắt nhìn hai người khách lạ đang bước qua ngưỡng cửa.

- Ông thầy còn nhớ anh em tôi không ?

Ông Tăng-Thọ vừa bán thuốc, vừa làm y sĩ, nên họ mới gọi thế. Ông ta cười hề hề mà rằng:

- Nhớ... Mà quên... a... nhớ ít ít thôi.

- Thằng Ba với thằng Tư, hai con sâu cam thảo đây mà !

- A, nhớ dồi ! Lâu quá, anh em còn mạnh giỏi hơ. A, ngóa mừng quá mà.

Ông Tăng-Thọ mừng rối rít, hối người nhà pha trà, rồi giới thiệu với khách :

- Thằng Hinh, dể của ngóa.

Thì ra, cái người giã thuốc là rể của ông ta. Thạnh thừ người ra, không phải vì ngạc nhiên, mà vì hơi bần thần trước một chuyện phải xảy ra, đã xảy ra, nhưng khó tin vì chàng ta mơ hảo.

Phải, cô Chúi Tín (Thủy Tiên) ấy thế nào cũng phải lấy chồng và cũng phải được lấy chồng. Cô năm nay có lẽ đã gần ba mươi, đẹp người, lại con nhà khá giả thì không lý do nào cô làm gái già cho đến lúc doi đất nơi chợ nầy sụp lở.

Chàng đã yêu cô Chúi Tín ấy, một cô gái Trung Hoa đã được Việt Nam hóa một trăm phần trăm, nhưng ông Tăng-Thọ, từ khi vợ chết, cứ nghe cô đơn và muốn chọn rể người Tàu cho có bạn, thành thử hai người không lấy nhau được.

Mười năm... Không biết bao nhiêu là nước chảy dưới cầu Cổ Cò, không biết bao nhiêu là nước chảy dưới dãy nhà sàn trước chợ. Trí chàng cho biết rằng Chúi Tín thế nào cũng đã lấy chồng, nhưng lòng chàng cứ chối rằng sự ấy đã xảy ra.

Mười năm...

Bây giờ chú rể bắt đầu giã thuốc trở lại, cụp... keng... keng... cụp... keng... keng.... Ông Tăng-Thọ rót trà ra trong những cái chén nhỏ bằng ngón tay cái và mời khách. Cả ba ngồi trước một cây xi-cú mà làm thinh, để nhớ lại năm nào mà họ đã núp sau hàng dừa để xem tàu Tây rần rộ chạy qua trước chợ, bắn bậy lên mà không ghé lại bao giờ.

Thạnh nóng nảy khi nhìn thấy chủ nhà cứ uống trà từng hớp một, hỏi :

- Ông thầy à, còn hòn non bộ ?

- Hà, cố lứ còn nhớ cái hòn non bộ ấy à. Hà, bây giờ tốt lắm, tốt quá !

- Cho xem được không ông thầy ?

- Sao lại khôn lược.

Ông thầy đứng lên, đi ra sau, hai người khách theo ra bén gót.

Hòn giả sơn ấy nằm ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp, trong một cái hồ cạn thả bèo và cá lia thia.

Năm, tháng, gió, sương đã đi qua trên đó thêm mười năm nữa nên lớp rêu xanh bây giờ xanh rậm ri, đẹp không biết chừng nào. Nước cứ theo sơn khê mà đổ xuống hồ, và lão ngư phủ cứ thả cần câu, bất kể thời gian, trông hệt như ông già ở sông Vị.

Bộ giả sơn đẹp như một câu chuyện cổ tích bị lớp bụi thời gian phủ lên, càng dầy, càng hay, càng đẹp.

Bỗng tiếng người trẻ thơ lao nhao từ ngoài trước, ông Tăng-Thọ nhìn Thạnh, cười hề hề nói:

- Con Chúi Tín về đó.

Thạnh quay lại thì một á xẩm già tay bồng tay bế những bốn đứa con vừa bước vào tới nơi.

Trời ! Chàng kêu thầm lên trong bụng. Chúi Tín không còn là Chúi Tín nữa. Á xẩm nầy mới ba mươi tuổi mà răng đã bắt đầu rụng, và má hóp một cách dị kỳ. Nàng dơ không thể tưởng tượng được vì bận với lũ con.

Vừa lúc ấy thì tiếng đồng hồ con ngựa treo nơi vách nhà trên, chậm chạp gõ.

Keng... keng... keng...

Thạnh quặn thắt lòng, nghe như tiếng thời gian đang rụng, rụng từng chiếc một. Mười năm! Sinh kế đã làm chàng quên tháng ngày trôi. Nay bỗng dưng gặp lại người cũ với nhan sắc tàn phai, chàng nghe như thình lình thời gian, vốn đang ngừng chảy, vụt lướt qua một cái vù.

Keng.. keng.. keng...

Từng chiếc, từng chiếc một, thời gian rụng dần, không hối hả, nhưng chắc chắn, không một thiên tài nào chống lại nổi cả. Thạnh đã sợ cuộc gặp gỡ nầy vì chàng biết trước rằng cũng với sự rơi rụng của thời gian, sự tàn rụng của mối tình mà chàng ấp ủ tận đáy lòng, sẽ đau như ai bị tình phụ.

Kang... keng... keng...

Mỗi tiếng chuông đồng hồ, mường tượng như mỗi giọt mưa rơi trúng ngay tim chàng. Thời gian bị quên lửng, bỗng dưng nổi lên với cả chiều sâu và chiều dài của nó, minh mông như vũ trụ.

Thạnh quì bên bệ hồ, tay vuốt lên rêu xanh non mởn của bộ giả sơn : thời gian đã lướt qua đây rồi xây dựng vẻ đẹp nơi đây, nhưng sao khi lướt qua nơi kia, nó lại tàn phá nhan sắc của người đàn bà ? Chúi Tín ơi, em có biết hay không lòng anh cũng vừa sụp đổ tơi bời. Mối tình mà anh ngỡ là kiên cố trong tim anh, bỗng dưng cũng vừa tan nát hết khi thấy mặt em. Anh đã sợ điều đó, vì anh sẽ xấu hổ với anh không biết bao nhiêu, nhưng sợ mà cũng không tránh được. Bấy lâu nay anh sống với một giấc mộng, ôm nó mà ngủ mỗi đêm, và mỗi sáng khi choàng thức tỉnh, anh âu yếm nó để đủ cam đảm mà vật lộn với đời.

Keng... keng...

Giờ đây giấc mộng đã rụng theo tiếng thời gian rồi !

Dưới kia, trong lòng sông Cái Cối, nước Tháp Mười tuông tràn ra, chảy mạnh như thời gian, và những đám lục bình trôi mau trên mặt nước, không đám nào giống đám nào hết, càng không giống đám lục bình của mười năm xưa.

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

14 . Còn Lại Âm Thầm Một Thoáng Hương

Hân đứng lên, nghẹn ngào nói:

- Thưa cô, tụi em tha thiết xin cô ở lại đây vào mỗi vụ nghỉ hè, trước ngày bãi trường vài hôm, để xem lại mấy cây phượng vĩ của ta.

Cả lớp đều thấy một cục tròn như viên đạn, chạy lên chạy xuống dưới làn da cổ của Mỹ, Mỹ cố can đản vì biết rằng, hễ nàng mà khóc thì cả lớp sẽ òa lên khóc như nhà có đám ma, vì phái nữ rất dư nước mắt. Đó là kinh nghiệm của bản thân.

Một nữ sinh khác, Loan, đứng lên đề nghị:

- Thưa cô năm tới hay năm tới nữa, cô có con đầu lòng, xin cô đặt cho em ấy tên là Diễm Phượng, tụi em về sau cũng vậy.

Cả lớp rộ lên mà cười.

Mỹ cũng cười nên khí hậu đổi màu sắc tức khắc. Mỹ cười vì nàng biết chắc rằng đề nghị của Loan không phải do tinh thần cởi mở của con gái đời bây giờ chi phối, mà chỉ vì Loan còn quá ngây thơ nên mới bạo miệng về chuyện lấy vợ lấy chồng ấy, trẻ con bảy tám tuổi vẫn thường chơi trò đám cưới một cách ngây ngô, không ẩn ý, không tà tâm. Loan cũng vậy, vì Loan chỉ là học trò lớp đệ ngũ mà thôi.

Duyên, cô học trò cao niên và to lớn nhứt lớp, rất có vẻ trưởng thành, ngồi tuốt dưới băng chót nói to:

- Rất là bất tiện. Xứ nầy sẽ có một thế hệ nữ sinh mà cả lớp đều mang tên Diễm Phượng, quí vị giáo sư sẽ lầm lẫn chết. Nào là Đào Diễm Phượng, Lê Diễm Phượng, Trần Diễm Phượng, Hồ Diễm Phượng, Ngô Diễm Phượng, Đinh Diễm Phượng, Tô Diễm Phượng, vân vân lộn xộn quá đi.

Mỹ đợi nửa phút cho sự im lặng trở lại rồi nói:

- Diễm Phượng không ổn. Tiếng Phượng phải đi với tiếng Vĩ thì nó mới có nghĩa loại cây mà các em thích. Chữ Phượng một mình trong tiếng kép Diễm Phượng có nghĩa là con phượng đẹp chớ không phải là cây phượng vĩ đẹp như các em nói đâu. Nhưng con phượng đẹp lại sai văn chương vì phượng là chim trống, hoàng là chim mái, Diễm Hoàng thì có, chớ giống đực thì không nên „Diễm" chút nào.

Loan cố nài:

- Nhưng Diễm Phượng kêu lắm mà kêu nghe rất hay thì ổn hay không, em thấy không quan trọng, cốt là ta hiểu với nhau rằng Diễm Phượng là cây phượng vĩ đẹp là đủ rồi, không cần người khác tán thành là đúng hay chê là sai.

Mỹ gục gặc đầu, thầm cho rằng cô bé Loan hữu lý.

Buổi học chia tay để vĩnh biệt vị nữ giáo sư Bùi thị Mỹ nầy cứ xoay quanh cây phượng vĩ, mặc dầu sinh hoạt chánh hôm nay của lớp đệ ngũ A2 là lễ ra mắt tờ bích báo „Hoa Nắng".

Học trò lớp đệ ngũ A2 đã xin phép soạn tờ bích báo nói trên, để làm văn nghệ hè, mà cũng để gián tiếp tỏ lòng cảm mến vị nữ giáo sư của họ sắp đi vĩnh viễn, cô ấy cũng ham văn nghệ y như các em.

Chính cô ấy đã dạy các em hai trò chơi mà cô rất thích hồi còn học ở Gia Long: đề thơ trên lá khuynh diệp và ép hoa, ép lá vào một tập vở đặc biệt.

Nhặt lá rụng hong thơ sầu trong nắng là một câu thơ của ai, Mỹ không còn nhớ nữa nhưng cứ ngâm lên mỗi lần khắc thơ trên lá khuynh diệp xanh rồi đem phơi, hồi còn ở Gia Long và đã truyền cả trò chơi lẫn câu thơ cho học trò của cô.

Lớp học được trang trí bằng một cành phượng vĩ vĩ đại mà các em đã thức hồi năm giờ khuya để đi đốn rồi khiêng vào lớp, trồng giữa hai bàn dài kéo sát đầu lại với nhau. Quanh gốc phượng vĩ thật mà giả này, là một bó hoa ngọc nữ trắng, nhị đỏ gồm năm mươi mốt bông, con số đó là nữ sinh của lớp học, mỗi em đem đến một cành ngọc nữ chỉ mang một đóa hoa độc nhứt mà thôi.

Cô Mỹ lại mặc áo đỏ màu hoa phượng vĩ. Tờ bích báo „Hoa Nắng" công phu của hai tháng trường thức đêm của các em bị bỏ quên phần nào và nhơn vật chánh bất ngờ của cái buổi họp mặt cuối cùng nầy là cây phượng vĩ.

Phượng vĩ trổ hoa đúng vào mùa nghỉ hè, một giai đoạn đời học sinh rất là quan trọng vì ba tháng sau, trở lại trường cũ thì đã có vài chị bạn thôi học vì gia cảnh hoặc bị tử thần đưa sang thế giới khác rồi. Còn nói chi ở các lớp cuối một cấp như lớp đệ tứ và lớp đệ nhứt thì chắc chắn là họ không bao giờ gặp lại nhau nữa, sau buổi chia tay cuối cùng.

Hoa phượng vĩ đỏ tươi nhưng lại không tượng trưng cho niềm vui mà lại là biểu hiệu của nỗi buồn của cả một lớp người trong toàn quốc. Văn thơ của học sinh ta tràn ngập danh từ phượng vĩ khiến người lớn ngấy ra mà buồn cười, nhưng các cô cậu nói đến phượng vĩ không phải là dùng sáo ngữ đâu mà họ rất thành thật đó.

Hay tin người giáo sư việt ngữ của họ thôi dạy học sau vụ hè nầy, các nữ sinh lớp đệ ngũ đã trồng nơi sân trường năm cây phượng vĩ từ nửa tháng nay hầu kỷ niệm một niên học mà cả giáo sư lẫn học trò đều hay nói đến cây phượng vĩ.

Lạ quá, ở miền Nam, trừ thành phố Sài Gòn ra còn thì các nơi khác rất ít thấy phượng vĩ, muốn có phải cố mà trồng và hình như sân trường trung học nữ nào ở miền Nam nầy cũng được các cô học trò đa cảm trang trí bằng vài cây phượng vĩ.

- Nhá cô nhá ? Loan lại cố nài.

- Cô sẽ nhớ mãi lời các em.

*

Nghỉ hè rồi mà trời còn nắng đổ lửa nên các nữ sinh nhà ở gần trường Sĩ Nhiếp thay phiên nhau vào ngôi trường hoang lạnh để tưới năm cái cây mà họ trồng giữa mùa nắng trên một đám đất gò khô.

Năm ấy, cả năm cây đều thoát chết !

Lớp đệ ngũ A2 cũng không thiếu mất một người khi biến thành đệ tứ A2 sau vụ hè.

Đó là một lớp gồm toàn con nhà khá giả nên họ sẽ đi tới đệ nhứt hết lớp, trừ vài cô đi lấy chồng sớm, vài cô vắn số. Họ không có dịp hay chưa có dịp "bùi ngùi phượng chia ly';';, nhưng họ vẫn quý cây phượng vĩ, vì đó là cái điện cực của tình cảm học trò con gái.

Họ làm quen với người nữ giáo sư việt ngữ mới và bắt đầu thương mến cô nầy như đã thương mến cô Mỹ, nhưng cứ săn sóc năm cây phượng "của ta", ta đây là kể cả họ và người nữ giáo sư đã đi xa.

Giữa người ấy và họ bắt đầu một cuộc trao đổi thư từ ngay từ trong vụ hè và cô Mỹ được cho hay tin tức về năm cây phượng mỗi tuần, y như là đó là những đứa con mà cô gởi * nuôi, người * tốt bụng lắm, không phải chỉ làm việc ăn tiền, mà có để cả tấm lòng của chị ta trong công việc.

"Cô ơi, giếng xa quá như cô biết, giếng cũng sâu quá, kéo nước thật mỏi tay, xách nước đi mỏi chân lắm, nhưng tụi em quyết cứu sống năm cây phượng "của ta".

...........................

Cô ơi, tuần rồi thật là hú vía. Cây phượng bên trái cửa ngõ nó ngủm cù đèo nhưng may quá, tụi em tưới mỗi ngày bốn bận, còn chặt tàu chuối để che cho nó nữa nên rồi nó tươi trở lại....

............................

Cô ơi, hè tới cô về chắc năm cây phượng "của ta" đã lớn lắm rồi tuy nó chưa cho được bóng mát, nhưng có thể giúp cho mát mắt người nhìn ra sân...

... Cô ơi, cô giáo sư mới, người thay thế cho cô, cũng ưa phượng lắm, cô ấy định sẽ cùng tụi em trồng thêm; nếu thế, trường "của ta" nên đổi là trường "Phượng Vĩ" là hơn. Mà có lẽ dân chúng họ sẽ gọi như vậy, chớ cái tên Sĩ Nhiếp khó nhớ, họ kêu không được.

....................................."

Những bức thư như trên cứ thưa lần, thưa lần, khiến Mỹ nghe buồn quá, mặc dầu phải trả lời thư cho học trò cũ mãi nàng rất bực mình. Thư thưa lần mà thư cũng lần lần bớt đá động đến những cây phượng vĩ ngỡ là trung tâm vũ trụ ấy.

Mỹ chỉ buồn vài tháng rồi thôi khi nhớ lại chính mình cũng đã bạc tình với những cây khuynh diệp của trường Gia Long mấy năm trước và cũng đã quên được vài người nữ giáo sư mà nàng nguyện sẽ nhớ trọn đời.

Con người ai cũng bận sống. Sống ở đây, không phải chỉ có nghĩa là tìm sinh kế, mà là tìm học, thương, ghét, giận, yêu, bao nhiêu thứ ấy sao mà đông đúc thêm hoài, khó lòng mà trung kiên được với những tình cảm vụn vặt của tuổi thiếu niên.

Những bức thư buổi đầu, Mỹ hiểu được giữa dòng và thấy được sự cà nanh của em nầy đối với em khác: các em tranh giành tình thương của người thầy học cũ.

Nhưng những bức thư về sau, giọng các em bình thản hơn nhiều. Mỹ biết đó là dấu hiệu tiền phong của sự nhạt phai tình cảm của các em rồi vậy. Người ta chỉ bình thản được, hết ghen được khi nào người ta bớt thương và hết thương mà thôi.

*

Bốn mùa mưa nắng đã qua rồi và Mỹ không còn nhận được thư của những người bạn trẻ ở trường "Phượng Vĩ" nữa.

Nàng không bội ước, đặt tên cho đứa con gái đầu lòng là Diễm Phượng, mặc dầu cha nó cả quyết cản ngăn vì cái nghĩa không ổn của danh từ. Không bội ước, không phải vì Mỹ nuôi nấng ảo tưởng nào đâu. Nàng biết rằng các em học trò cũ của nàng chỉ tiếp tục tưới năm cây phượng vĩ ấy trong suốt hai mùa nắng rồi thôi, vì cây đã mạnh rồi, mà nhứt là vì các em cũng bận "sống".

Không bội ước vì nguyền xưa "còn một chút nầy" nàng là người độc chất còn nhớ được lời nguyền, các em còn lâu lắm mới nên gia thất và chừng ấy "Diễm Phượng" đã bị bao cái tên khác cướp mất chỗ rồi, chẳng hạn tên một người yêu vắn số, tên một người yêu không cưới được em nào, vì trắc trở nào đó - người độc nhứt là nàng không có quyền bỏ trôi luôn thệ ước xưa.

Mỹ không nuôi nấng ảo tưởng nào cả nhưng vẫn nuôi dự định về Chợ Búng một chuyến để thăm lại cố nhân, cố cảnh.

Sài Gòn - Chợ Búng là một lộ trình chỉ tốn vài mươi đồng bạc xe mà thôi nhưng nàng không còn một phút hoàn toàn là của nàng để đi cái chuyến đi dự tính ấy.

Năm nay nàng đã đi được rồi đây. Mỹ chuẩn bị rất nhiều ngày, quà cho bạn cũ chẳng có gì đáng kể đâu, mà chuẩn bị tấm lòng, cho bõ cái tội ít thư từ với các em ngay cả năm đầu cũng vậy.

Đến cái tuổi nào đó trong đời con người, tự nhiên người ta đâm ra lười viết thư; các em chắc không hiểu cái điểm đó và chắc đã giận nàng lắm.

Mỹ đi Bình Dương hai tuần trước ngày bãi trường, mong thấy lại được nguyên vẹn cái khí hậu của ngày ấy bốn năm về trước với mầu sắc, mùi vị, âm thanh cũ, thay đổi theo mùa chớ không phải tháng nào cũng có thể nghe trong gió mùi bông bưởi, tháng nào cũng thấy màu lá mạ non đâu.

Xuống xe đò tại đầu con ấp lộ trải đá đỏ đưa vào trường, nàng đứng đó, lòng rộn vui khi thấy cái quán bánh bèo bì Mỹ Liên ở cạnh đầu lộ vẫn còn buôn bán như xưa.

Cái quán này tàng trữ kỷ niệm của thầy trò họ mấy năm trước. Khách sang của quán nầy là dân Sài Gòn, nhưng khách quen của quán là học trò trường nữ trung học Sĩ Nhiếp và giáo sư của họ.

Mỹ đếm bước trên đường đá đỏ mà ở hai bên nhà cửa vẫn còn đủ số. Ngôi nhà đồ sộ của ông cụ chơi non bộ vẫn cứ đặc biệt với pho tượng cẩm thạch một cô gái khỏa thân, lối trang trí sân nhà của Âu châu mà xứ ta rất là hiếm có.

Rồi tim Mỹ đập thình thình khi thấy dạng hàng dừa quen thuộc ớ đàng xa.

Hàng dừa nầy trồng ở bờ một con rạch con; sang tới bên kia rạch còn phải qua một thửa ruộng bắp nữa mới tới trường.

Đây là hàng dừa danh tiếng đối với nữ sinh Sĩ Nhiếp, nhứt là cây dừa thứ năm.

Cây dừa thứ năm nhìn rạch, soi bóng xuống mặt nước. Một nếp nhà xinh xắn núp bóng cây dừa thứ năm ấy. Đó là nhà riêng của một nữ sinh, học trò của nàng, em nầy nhà ở xa đây, cha mẹ em là người có của nên mới mua cho em nếp nhà đó để em đỡ nhọc đi, về, mỗi ngày hai buổi đường xa.

Cây dừa thứ năm nổi danh tức khắc vì bạn đồng song của cô chủ nhà tí hon và cả giáo sư của cô nữa, thường ghé nghỉ chơn nơi đây, núp nắng, đụt mưa, nói chuyện khào.

Cảnh vật y hệt như cảnh năm nào, nhưng Mỹ hơi lo lo vì cùng lúc ấy, nàng thấy có khói lam quyện lấy mái tranh của nếp nhà "cây dừa thứ năm", thấy bóng dáng người lớn và trẻ con.

Nàng mau bước tới đó, nhìn vào nhà thì bao nhiêu gương mặt lạ ở trong đó đều nhìn lại nàng. Mỹ đẩy cổng bước vào sân, một con chó vện núp đâu đó, sủa lên thình lình. Nàng hỏi một đứa bé ra sân đuổi chó:

- Em nè, cô Diệu, nữ sinh trường đàng kia, còn ở đây chớ ?

- Thưa cô không. Cô ấy đã đi lấy chồng năm ngoái. Nhà nầy đã bán lại cho ba má em.

- Lấy chồng về đâu em ?

- Dạ em không biết.

- Thôi cám ơn em nhé.

Mỹ vội trở gót rồi ra tới cổng, nàng thẫn thờ đứng lặng hồi lâu. Giờ nầy, nếu Diệu còn theo học ở trường Sĩ Nhiếp thì hẳn Diệu đang ngồi trong lớp. Thế nên Mỹ không định ghé qua nhà Diệu trước, nhưng mà phải ghé vì người lạ trong nhà khiến nàng đâm nghi có "tang thương" qua đây. Quả có "tang thương" thật, "tang thương" đối với nàng ấy, chớ đi lấy chồng là một điều tốt đẹp cho cô tú tài I Diệu.

Mỹ băn khoăn tự hỏi không biết năm nay Diệu có tự học để thi nốt bằng tú tài hay chăng, và nhứt là băn khoăn về cái chốn xa mà có lẽ Diệu đã đến ở vì chồng em ấy sinh sống ở đó, Định Tường chăng ? Hay Kontum ?

Mà biết đâu lại chẳng là Sài Gòn.

Ai cũng bận sống nên có thể cùng ở một thành phố với nhau mà Diệu không tới thăm nàng được. Thời kỳ trăng mật có thể kéo dài một năm, mà trong thời kỳ ấy người con trai con gái sẵn sàng quên tất cả để hưởng hạnh phúc riêng của họ.

Mỹ lặng lẽ bước qua chiếc cầu gỗ dẫn vào ruộng bắp, mặt ngước lên nhìn cái cây chết trơ cành, đứng giữa ruộng từ không biết bao nhiêu năm rồi mà chưa ngã. Cho đến cái cây chết nầy mà cũng còn đây, chơn trời quen thuộc xưa không thay đổi chút nào cả.

Từ nãy giờ, nàng cố tránh "thấy" ngôi trường, để dành cho chính mình, không phải sự ngạc nhiên, bởi nàng biết rằng không có gì thay đổi bao nhiêu, mà một cuộc thưởng ngoạn khoái mắt vào phút chót. Ngôi trường Sĩ Nhiếp là cây đinh của cuộc đi chơi hôm nay, cái đích của cuộc hành hương, nếu muốn nói lớn lối.

Mỹ chỉ dạy ở đây có hai năm, nhưng cũng đã quá thân lắm rồi với ngôi nhà gạch xinh xắn ấy, với cái bối cảnh sau trường: một bãi tha ma và bên kia bãi tha ma là một khu rừng.

Đó là một người bạn gần như thân, người bạn ấy lại che chở những người bạn rất thân đang chuẩn bị thi tú tài đôi và đang dọn lòng để vĩnh biệt người bạn chung ấy.

Mỹ đã để lại nơi nầy một phần tấm lòng nàng và mang theo những mảnh lòng thơ dại của các em nhỏ dễ thương, gói trong hình bóng rộng lớn và mơ hồ của ngôi trường mà nàng quyết chỉ "thấy" vào phút chót mà thôi.

Mỹ ngước lên và nàng được thấy.

Có ai đốt lửa trại giữa ban ngày ngoài sân trường. Không, đó là năm cây phượng vĩ đã lên bông, cả năm cây đều lớn như thổi y như học sinh qua cái tuổi mười hai và cả năm cây đều cháy bừng bừng.

Mỹ lại dừng bước, tim đập thình thịch trong lòng ngực nàng. Nàng xúc động đến ứa nước mắt nhưng lòng lại rộn ràng, vừa muốn chôn chân nơi đó để nhìn đuốc phượng, lại vừa nôn nao tới trường để gặp lại những cô bạn mà chắc có cô đã cao hơn nàng đến nửa cái đầu. Các em đã trồng năm cây phượng vĩ, không phải là sự tình cờ đâu. Số học sinh trong lớp đệ ngũ A2 răm ấy là 51. Không lẽ trồng đến năm mươi mốt cây ? nên họ chọn số 5 làm biểu tượng vậy.

Mỹ cố tự trấn tỉnh rồi mau bước đến cổng trường.

Nàng gặp nơi sân, chị gác-dan ngày trước. Chị ta kiêm luôn chức vụ lao công và đang ngồi chồm hổm mà nhổ cỏ. Chị ta bỏ việc ngước mặt lên nhìn người khách lạ giây lát rồi đứng lên gọi:

- Cô !

- À chị Tư ! Mạnh giỏi !

- Trời, lâu quá cô mới về đây ! Cô cũng mạnh giỏi ?

- Cám ơn chị. Ở đây có gì thay đổi hay không ?

- Dạ không cô à.

- Để tôi đi thăm các lớp một lát rồi sẽ nói chuyện với chị nhiều hơn.

Vào giờ nầy, học sinh lớp nào cũng đang học. Trên lý thuyết thì như vậy chớ thật ra, các em đang nghe giáo sư kể chuyện cổ tích, hoặc đang làm giặc trong lớp. Còn có bốn hôm nữa là trường làm lễ phát phần thưởng thì còn học tập gì, và các em đã nghỉ chơi như vậy cả tuần, cả tháng rồi, tùy lớp. Biết thế, Mỹ vẫn giữ lễ độ đi thăm ông hiệu trưởng trước, để rồi xin phép ghé qua các lớp mà nàng đã dạy học năm xưa, nhứt là lớp đệ ngũ A2, à quên, lớp đệ nhứt A2.

Khi Mỹ gõ cửa văn phòng ông hiệu trưởng, cửa nầy vốn không đóng, thì nàng thấy ông ấy là người lạ, trẻ hơn ông hiệu trưởng ngày trước nhiều. Mỹ đã liếc sơ vào mấy lớp nàng đi ngang qua và thấy giáo sư toàn người lạ.

- Mời cô vào.

Ông hiệu trưởng nói to lên, và Mỹ vừa bước vô văn phòng vừa xưng tên:

- Thưa ông hiệu trưởng, tôi là Mỹ, nguyên giáo sư trường này cách đây bốn năm.

- Vậy à ? Hân hạnh. Mời cô ngồi.

Mỹ ngồi lên chiếc ghế đặt trước bàn viết của ông Hiệu trưởng và hỏi:

- Thưa ông, chắc đã có nhiều cuộc thuyên chuyển.

- Người cũ không còn ai hết. Mấy ông và mấy cô dạy học ở đây hiện nay, chưa ai tới đây quá hai năm.

- Thế ra, tôi sẽ không còn gặp đồng nghiệp cũ nào hết ?

- Chắc là như vậy.

- Nhưng tôi cũng xin phép ông đi thăm mấy lớp mà tôi đã dạy qua.

- Xin mời cô. Cô thứ lỗi cho vì cô phải đi một mình, tôi bận chuẩn bị cho thật chu đáo lễ phát phần thưởng.

- Không hề gì, ông hiệu trưởng cứ làm việc. À lớp đệ ngũ, à không, lớp đệ nhứt A2 nằm về hướng nào, thưa ông hiệu trưởng ?

- Lớp đệ nhứt A2 ? Không, không có lớp đó.

- Sao lại không, thưa ông ?

- Lớp ấy đã bị giải tán rồi.

Mỹ chết sững giây lát rồi ấp úng:

- Các em... đã... làm gì ?

- Không, các em không có làm gì tội lỗi hết. Chẳng, có hai mươi lăm em rớt tú tài I rồi thôi học, một em thì điên đang được điều trị, hai em qua đời...

- Trời !

- Ừ, một lớp học, đi tới cuối chu kỳ là hao hụt hết năm bảy học sinh vì họ yểu tử. À hai em qua đời, tám em đi lấy chồng, bốn em đi làm, còn lại mười một em thì các em ấy lại xuống Sài Gòn để theo học lớp đệ nhứt ờ dưới ấy.

- Trời !

- Chắc cô buồn lắm nhưng đời các lớp học là thế, biết sao.

Mỹ tần ngần đứng lặng hồi lâu rồi xin phép ông hiệu trưởng để đi. Nàng thất thiểu bước xuống sân, quên thăm mấy lớp khác mà tuy học trò không gắn bó nhiều với ràng, chớ giữa thầy trò vẫn có tình mà tình chưa phai nơi lòng vài em.

Nàng lủi thủi đi trên sân, quên cả chị gác-dan nhổ cỏ có lẽ cũng đang đợi nàng trở ra. Người nữ lao-công ấy là nhơn chứng độc nhứt còn sót lại của những năm nàng bắt đầu vào đời ở đây. Nhưng đó là một nhân chứng thờ ơ, quả chị ta có mừng đón nàng, nhưng nàng biết chị ta xem cuộc ở, đi, còn, mất, của các giáo sư, các lớp học, không dính dáng mảy may đến chén cơm của chị, không ghét ai mà cũng chẳng thương ai.

Tới ruộng bắp, Mỹ xây lưng lại để nhìn lần cuối cùng cái nơi không còn mang dấu vết nào cả của một đoạn đời của nàng.

Không còn gì hết !

Hay là còn, đó là hình bóng xa mờ của những em bé áo dài trắng, đầu đội nón lá, đi trên các bờ ruộng quanh trường, đó là hình bóng của những cánh diều vào mùa gió, những cánh diều đã được nói đến rất nhiều trong tờ bích báo "Hoa Nắng".

Bỗng một mùi phân chuồng thoang thoảng đâu đây. Mỹ nhìn lại thì thấy cái chuồng bò nơi góc ruộng bắp ngày xưa vẫn còn. Cái chuồng bò này chỉ có nàng và vài nữ sinh thi sĩ chú ý mà thôi.

Mùi phân chuồng thơm chớ không hôi đâu. Nó thơm hương đồng áng, hương của một nông trại hẻo lánh nào, hương ấm của một gia đình nông dân đủ ăn.

Tự nhiên Mỹ nhớ đến hai câu thơ mà tên tác giả vụt thoát khỏi ký ức nàng vì nàng đang bị xúc động mạnh:

Về đây rồi nhạt dần duyên sắc,
Còn lại âm thầm một thoáng hương.

Mấy đoạn đời qua của nàng chỉ còn lại ảo ảnh, kể cả đoạn đời gần nhất nầy nữa ?

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Bình Nguyên Lộc

Postby tuvi » 03 May 2019

15 . Cái nết đánh chết cái đẹp

Đầu đuôi câu chuyện cũng tại cuộc thi ăn ảnh của báo Gió Mùa cả.

Sanh và Mai yêu nhau được đôi bên cha mẹ bằng lòng và dự bị làm lễ hỏi, thì đùng một cái có người thứ ba xen vào, làm trục trặc cả bộ máy, y như là một hột cát rơi giữa những trái khế của động cơ đồng hồ.

Hôm ấy Sanh đến thăm Mai như thường lệ, thì thấy trên bàn có tờ Gió Mùa để úp, chưng trang bìa sau ra.

Trên bìa ôi thôi mặt là mặt. Đó là chơn dung của những bạn thanh niên thiếu nữ gởi đến dự thi: mặt thiệt có, mặt giả cũng không thiếu.

Nhưng dầu mặt thiệt cũng thêm một cái kết, một ống điếu cho oai. Mặt giả thì đeo râu quai nón, vẽ thẹo trên má cho ra vẻ tướng cướp lưu manh. Có người mặc cao-bồi, có choàng áo mưa, đeo mặt nạ cho ra tay võ hiệp anh hùng.

Bên gái thì là gái lèo, gái Hời, xẩm Thượng Hải, gái Cao-Nguyên.

Người thơ ký tòa soạn trình bày trang ảnh ấy thành bó hoa. Đóa hoa giữa, to hơn cả, là một gương mặt thiệt, đẹp như... thôi, khoan so sánh đã.

Sanh cầm tờ báo mà quên phứt người yêu bên cạnh, mắt không rời cái miệng cười làm điếng người của đóa hoa trung ương.

- Mê chết đi thôi hả ? Mai cười ranh mảnh hỏi bạn. Sanh bối rối vội bỏ tờ báo xuống mà rằng:

- Cái anh cao-bồi đó, không biết có phải là thằng Cần hay không.

- Còn ảnh giữa ?

- Ừ, đẹp đấy chớ.

- Xí, làm bộ hoài, mê chết đi còn ra vẻ thờ ơ.

Nhưng Mai không ghen, lại hãnh diện khoe:

- Con Dung đó, bạn thân của Mai đa !

- Vậy à ! Mai xấu bụng quá, có bạn đẹp như vậy mà giấu người ta.

- Ai giấu hồi nào, tại anh không gặp nó chớ. À mà kìa, may quá, nó kìa ! Ê, gió nào đưa bà lại đây ?

- Gió Mùa, Dung reo lên từ ngoài cửa ngõ, và đâm sầm chạy vô. Hai tay nặng ôm một đống báo.

- Họ biếu nhiều dữ vậy à ? Mai hỏi.

- Xuỵt, nói riêng bà nghe. Họ có biếu khỉ khô gì đâu. Dung phải xuất tiền túi ra để mua tặng bạn hữu.

Bỗng thấy Sanh, nàng giựt mình nín khe.

Sanh đứng lên, ngã đầu chào:

- Hân hạnh được biết minh tinh tương lai. Mai giới thiệu giùm anh chút.

Mai tươi cười nói:

- Sanh, người sắp xỏ mũi Mai đem về nhà hắn đó. Còn đây là Dung, bạn thân của Mai.

- Hân hạnh.

- Hân hạnh về phần em, Dung cười đẹp như một bài thơ mà nói thế. Trời, vậy mà bà giấu tôi.

- Ai giấu hồi nào, tại Dung không gặp chớ.

Mai bỗng giựt nẩy mình, khi nhận ra đó là câu trách móc và câu đáp đã xảy ra hồi nãy, giữa Sanh và nàng.

Trong giầy phút, nàng mơ màng có cảm giác rằng hai tiếng "May quá" mà nàng đã thốt ra khi nãy, khi Dung mới tới cửa, là sai. Đó là "rủi quá !" mới phải cho.

Nhưng nàng tự thẹn và thầm tự mắng ngay mình đã nghĩ quấy cho hai người bạn tốt.

Dung nói:

- Định ghé tặng bà một tập thì thấy bà đã có rồi. Thôi, để giành biếu bạn khác. Thôi chào anh chị, tôi đi đây. Anh Sanh, mong được nghe anh nói chuyện yêu chị Mai của em, vào một dịp khác.

Sanh không đáp vụ đó, mà lại nói:

- Dung đã nói là sẽ biếu báo cho bạn khác. Ở đây không có người bạn nào khác hay sao ?

- Đừng có ăn gian. Sanh và Mai chỉ là một người thôi mà.

- Đâu được. Tục ngữ Tây có nói: "Bạn của bạn tôi là bạn tôi". Tôi là bạn của bạn Dung thì không được xem là bạn của Dung sao ? Ba người mà khai trừ đi một, biến nó thành hai khối liên minh thì ai nghe cho.

- Anh già hàm quá. Thôi đây nè !

- Còn nữa !

- Một tập nữa ? Tham quá vậy à ?

- Không phải một tập nữa, mà một chữ ký dưới ảnh.

- Ký làm gì, em chưa minh tinh, minh tét gì mà !

- Rồi Dung sẽ là minh tinh. Tôi để giành chữ ký nầy mà đầu cơ về sau.

Đoạn tiếp của câu chuyện ra làm sao, ai cũng có thể đoán được.

Rất ít chung tình là cái giống đàn ông con trai. Rất ít thành kiến là con gái tân thời. Nhưng thành kiến làm chi, Sanh đã hỏi Mai hồi nào đâu mà nói hắn là chồng chưa cưới của Mai được. Chồng người ta trên tay mà có kẻ còn giám giựt nữa là, huống hồ gì chỉ chồng sắp đi hỏi.

Câu tục ngữ "cái nết đánh chết cái đẹp" ở đây sai bét hết cả.

Mai nết rất nhiều. Nhưng Dung lại rất nhiều hơn vẻ đẹp. Nàng lại lẳng hơn nên rù quến người con trai dễ như mắm nhử ruồi. Nàng dễ dãi quá trong tình yêu, nên trai nó dính lưỡi câu mới nhanh chóng.

Sau khi đã bước qua cái lằn mức bạn thân đối với Dung, Sanh nghĩ lại giựt mình, không biết phản động của Mai sẽ dữ tợn đến bực nào. Nhưng nghĩ kỹ lại thì Mai có quyền gì đâu đối với chàng nên chàng an lòng. Chỉ có hơi tội nghiệp người bạn cũ bị nhận chìm xuồng thôi.

Cái ngày mà Sanh, Dung rủ nhau đi Vũng-tàu thì ở nhà Mai, bi kịch xảy ra.

Bà phán Trước đứng chết sững bên giường con giây lâu mới kêu được đứa cháu bảo nó đi mời thầy thuốc, và sai được chị bếp đi gọi người em trai của bà đến. Bà là góa phụ nên có việc là hoảng lên.

Bà cầm cái ống không, đựng thuốc ngủ mà Mai đã uống ráo nạo, chạy lên chạy xuống từ nhà trên xuống nhà bếp, hất ngã cái bình trà, vấp cái thùng sô, mà cũng chẳng ra trò trống gì cả.

Bác sĩ đến xem qua rồi trấn tĩnh bà:

- Mới uống, chưa việc gì, bà đừng có quýnh như vậy.

Rồi vị lương y bôm rửa, cho uống thuốc nôn mửa, tiêm thuốc kích thích, một hồi thì Mai mở mắt ra để thấy cậu mình vừa bước vào.

Bà phán mếu máo nhìn em mà rằng:

- Cậu ơi, cháu nó dại quá, ngỡ không xong rồi.

- Nhưng mà xong, phải không bác sĩ ? Cậu ba hỏi.

- Ừ, làm sao lại không xong, chỉ mới uống đây mà !

- Nhưng tại làm sao vậy chị ?

Bác sĩ phản đối:

- Đừng bắt tôi nghe việc nhà. Nầy nhé, cho uống cà-phê nhiều vào. Xế chiều chúng tôi sẽ trở lại.

Khi bác sĩ ra rồi, bà phán nói:

- Cái thằng Sanh ấy, cậu biết chớ ?

- Sao lại không biết.

- Nó thương con khác, nên con nhỏ nầy mới thất tình.

- Cháu dại thiệt, cậu Ba nói. Thì mặc nó, cháu thiếu gì nơi đi nói mà lo.

Mai khóc rấm rứt:

- Theo lẽ phải thì như vậy, mà con thương anh ấy quá, không thể sống được.

- Thì bắt anh ấy về.

- Làm sao mà bắt, thưa cậu ?

- Nó đẹp lắm à, cái con đó ?

- Dạ, đẹp hơn con nhiều.

- Con cháu nhà ai, ở đâu, ra sao ?

Bà phán Trước đưa ra một tập báo Gió Mùa. Đây là một số báo khác, trong đó ảnh Dung phóng đại ở bìa với lời chú như sau:

"Kiều nữ Ngọc-Dung, tương lai màn ảnh Việt-Nam, đã được bổn báo giới thiệu với hãng phim Đồng-Nai để quay thử một đoạn ngắn, hầu kiểm soát khả năng diễn xuất của cô."

Cậu Ba vừa xem ảnh, vừa vuốt râu, mỉm cười và nói:

- Thằng Sanh đáng đánh đòn, nhưng chỉ nên đánh sơ vài roi thôi. Trai nào lại không mê gái cỡ nầy. Thuở tôi còn trẻ ấy, ơ... hơ... hừm... tôi cũng mê gái đẹp nữa.

- Cậu nó khéo nói lếu mà tháp giáo cho giặc.

- Chị và cháu đừng lo gì hết, để tôi bắt thằng Sanh lại cho.

- Liệu có được không cậu ? Mai mếu máo hỏi.

- Bảo đảm.

Cậu Ba nói xong bỏ đi ngay. Cậu không đi chuộc bùa chuộc ngãi gì hết mà chỉ đi đến hãng phim Đồng-Nai mà giám đốc là bạn của cậu để nài nỉ ông ấy hứa bậy với Ngọc-Dung một vai gì đó.

Sau sự can thiệp nầy, Dung thình lình thay đổi ngay. Một hôm đi thăm bạn, nàng đưa điều kiện ra liền:

- Anh phải tìm một căn nhà khác mới được, nhà phải xứng với danh tiếng đang lên của em. Nếu anh nghe được những lời khen tặng tài nghệ của ông Phong, nhà đạo diễn trứ danh, thì anh không còn lụm thụm như vầy nữa. À nầy...

- Gì đó em ?

- Anh nên thôi việc ngay. Báo chí mà họ đăng tin em lấy chồng làm thơ ký đánh máy thì còn gì tên tuổi em. Trời ơi, vợ ăn lương một triệu còn chồng thì hai ngàn thôi, có chết em không!

Sanh điếng người như cả một bao gạo chỉ xanh rơi xuống đầu chàng.

Trong vòng một tuần nay, Dung thay tâm đổi tánh kỳ lạ. Vào tiệm ăn, nàng huơi tay huơi chơn, nói ong óng lên. Đón tắc-xi phẩi mất hết cả buổi vì nàng nhứt định chờ xe mới, xe đẹp, chớ "thứ đồ Rơ-Nô Cách" nàng không thèm đi.

Sanh thăm nàng, nàng bắt đợi ở ngoài lâu lắm mới chịu ra tiếp. Nàng hút thuốc thơm, đi học nhảy, và hễ mỗi lần đánh rơi món gì xuống đất là nàng kêu "ốp-là!"

Buồn cười nhứt là khi nghe Dung hát, hát cả ngày trật lất cả giọng điệu, mà vẫn hát to đến ngoài đường cũng nghe.

Dung đòi tẩy cái đầu, hớt tóc theo Leslie Caron gì gì đó, Sanh không biết nữa.

Đi dạo với Sanh, Dung tỏ vẻ bực mình, và như là hơi mắc cỡ.

Không bao giờ nàng nhìn xe hơi say sưa bằng lúc nầy, say hơn cả Sanh nhìn nàng buổi đầu.

Đêm nằm lăn trở ngủ không được, Sanh ứa nước mắt, tủi cho phận mình yêu phải một cô gái khi không bay bổng lên trời nhờ tài nghệ.

Những đêm như vậy, hình bóng một người con gái dịu hiền kia lần lần hiện ra, in chồng lên hình ảnh Dung. Ôi chao ! Mai nó khiêm tốn làm sao ! nó thủ phận như một người đàn bà Việt-Nam ngày xưa, nó không dám có những tham vọng quá to, không phải vì tự biết thân mà vì không muốn có sự chênh lệch giữa đôi vợ chồng một khi có một người bay bổng lên cao.

Sáng lại, thế nào Sanh cũng tìm đến thăm Mai. Lần đầu chàng lấp ló ngoài cửa, đứng dang nắng đến ướt áo. May sao Mai nó thấy, và lạ quá, nó ngoắc chàng vô.

Kỳ thay, Mai nó vẫn tươi cười như ngày nào, không một lời trách móc, và tuyệt nhiên không hề đá động đến hôn nhơn bỏ dở.

Gần Mai sao mà nghe nó nhẹ từ thân thể thấu cả tâm trí như gần một bà mẹ hiền hay gần một đứa em gái thơ ngây.

"Nhưng môi của Mai sao hơi mỏng ? Mắt nàng lại không sâu ?

Sao nàng lại hơi mập một tí?"

Trời ơi ! Cái nết của Mai sao không đánh chết được cái đẹp của Dung cho mình nhờ ! Dung mà cả thân thể gợi thèm thuồng như một pho tượng cẩm thạch La-Ly, Dung mà đôi mắt nồng cháy lên tình yêu đắm đuối !

Sanh có báo trước là đúng năm giờ rưỡi, tan sở sẽ đến rước Dung đi xem xi-nê.

Nhưng tới nơi thì Dung đã đi rồi, không thèm để lại một lời.

Bứt rứt quá, Sanh đạp xe máy ra Sài-gòn, chạy bậy bạ vòng quanh đó, đến một lúc kia thì thấy Dung đang đi trên vỉa hè Lê-Lợi với một người đờn ông sang trọng.

Ruột đau như cắt, chàng đạp xe máy theo chầm chậm phía sau. Hai người kia đi lên rồi vào một hiệu kem.

Chịu không được nữa, Sanh đạp tới đó, đẩy xe đạp lên dựng trên lề rồi ra dấu cho Dung. Dung tái mặt, không phải vì sợ mà vì giận.

Nàng xâm xâm đi ra, nghiến răng nói:

- Trời ơi, anh làm xấu em ! Xem bộ mặt ghen tương của anh kìa ! Sao mà hủ lậu thế ? Minh tinh mà bảo đừng giao thiệp à ? Mà chết tôi nữa chớ ! Chỗ nầy mà đem xe máy rỉ triển lãm ra thì họ cười cho thúi đầu.

Ở Sài-gòn không có động đất. Thế mà Sanh nghe như vỉa hè lung lay dưới chơn mình. Chàng ríu ríu dắt xe máy đi, như một tên người nhà vừa bị mắng.

Sanh về ngay nhà Mai. Nhà đi vắng cả, trừ Mai ra.

Sanh ngồi phệt xuống đi-văng rồi ôm mặt mà khóc.

Mai bước lại gần bạn, vuốt lên đầu bạn như một người mẹ dỗ con, rồi thỏ thẻ nói:

- Bộ chủ sở anh hôm nay đổ quạu hả ? Thôi anh à, ông ấy coi vậy mà tốt bụng lắm đó, đừng buốn làm chi.

Rồi nàng ngồi xuống cạnh Sanh, không nói gì, chỉ lau lệ cho bạn thôi.

Khóc đã thèm, Sanh lấy tay ra khỏi mặt, cầm bàn tay Mai, nhìn bạn mà rằng: "Em tha thứ cho anh nhá !"

Giữa cảnh mùi đó, cậu ba bước vào cười ha hả như Đổng-Trác:

- Từ rày ráng mà giữ nó nghen. Không ai hơi đâu mà bắt giùm hoài.

Sanh cười ! Mai thì mắc cỡ mà không biết làm sao giấu mặt nên tru cái mỏ ra dài bảy thước năm, rồi méo cái miệng lại.

- Tục ngữ nói không sai mà ! Sanh như sực tỉnh, bảo bạn thế.

Mai ngơ ngác hỏi:

- Tục ngữ nào ?

- Cái nết đánh chết cái đẹp !

Bình Nguyên Lộc
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 100 guests