Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

31 . Đào mơ

Thời ấy, ở một huyện lỵ buồn tẻ, tôi sống như bị chôn giữa bốn bức hàng rào dày, qua đó tôi trông ra đồng rộng mênh mông như qua then lồng, con chim non nhìn quãng trời xanh lá biếc. Rất ngắn ngủi những giờ giải trí của tôi, sau những giờ học dài đằng đẵng.
Ngày nay đã có lần tôi trở về thăm nơi kỷ niệm cũ. Tôi thấy nó nhỏ hẹp quá. Thời xưa đối với tôi, nó rộng như một thế giới. Cái hồ sen mà cặp giò nhỏ xíu của tôi không mấy khi chạy nổi một vòng, bây giờ tôi thấy chỉ như cái bể nước đựng núi non bộ, tròn trĩnh, nhẵn nhụi, hàng giậu dâm bụt vây chung quanh cắt xén bằng chằn chặn. Hai cái nhà tây - tây là vì nó có hiên, có trần và có nền cao - đứng đối nhau hai bên công đường, tôi thấy giống như thứ đồ chơi trẻ con. Trong một nếp nhà ấy, tôi đã sống bao ngày bằng phẳng, đều đều, với quyển sách chữ nho, với cái bút lông tô dạm nét son của một ông thầy học nghiêm khắc; với những buổi chiều hè vang động tiếng sáo diều trên không, và, trong yên lặng hoàn toàn, với những buổi trưa chán nản kéo dài tiếng cút kít gióng một của chiếc xe lợn trên con đường thiên lý.
Trong cái thế giới buồn tẻ ấy, thỉnh thoảng một bọn hát chèo lại đem đến cho mấy anh em chúng tôi một ít màu tươi của sự thay đổi: một hai tối, có khi luôn một tuần lễ, cái sân huyện trở nên một nơi hội hè om xòm, tiếng cười của dân phố huyện đến xem chen với giọng ca của cô đào, tiếng thét của ông tướng mặt xanh mặt đỏ, câu pha trò của vai hề quê mùa vừa nhạt nhẽo vừa tục tằn.
Rồi gánh hát từ giã ra đi, cái huyện nhỏ lại rơi vào trong yên lặng buồn tẻ.
Phần nhiều những phường chèo ấy, tôi còn nhớ tên phường "Kha lý", phường "Quốc nhớn", phường "Quốc con". Nhưng cái phường, khi ra đi làm cho tôi ngao ngán, khổ sở nhất, thì tôi lại không biết tên là gì. Chừng vì đó cũng là một bọn hát tầm thường. Tôi chỉ theo ông thầy học tôi và những người lớn mà gọi là phường Mơ, vì trong số ba cô đào, một cô tên là Mơ.
Mơ là một cô gái quê chừng mười tám tuổi. Thân hình uyển chuyển của Mơ càng uyển chuyển khi Mơ đóng những vai đào lẳng như Vân Dại, Thị Màu hay Vợ quỷ. Và mặt trái xoan đều đặn của Mơ dưới lớp phấn chèo trông lộng lẫy như trong bức tranh tiên. Hoạt động nhất là hai con mắt đen láy của Mơ, hai con mắt bao giờ cũng cười trước khi cặp môi hé mở hàm răng hạt huyền.
Năm năm, cứ sang xuân, trong thời còn nghỉ học, tôi lại mong nhớ Mơ, sự mong nhớ âm thầm, buồn bã của một tâm hồn ngây thơ. Quả nhiên, trong hai tháng sau tết, các phường chèo kế tiếp nhau đến, tựa bầy chim én trở về cùng với những ngày quang đãng, ấm áp, vui tươi.
Tim tôi hồi hộp khi tôi thấy những gánh hòm vuông sơn đen, sơn đỏ qua cổng huyện, tiến vào trong sân. Và tôi thất vọng nếu phường xin hát không phải là phường Mơ. Nay nhớ lại, tôi còn cảm thấy sự thất vọng của tôi mênh mang không biết đến đâu tuy chỉ là một sự thất vọng trong phút chốc. Rồi tiếng trống chèo rung đổ hồi lại đem vui cười vào lòng tôi ngay.
Nhưng thế nào, sớm muộn, phường Mơ cũng đến, ít ra mỗi năm một lần, trong mùa xuân. Gặp Mơ, tôi cảm động nghẹn ngào ngây người đứng nhìn. Mơ cũng yêu tôi lắm. Nàng chạy vội đến bế bổng tôi lên mà hôn chùn chụt ở hai bên má tôi, khiến tôi sung sướng nóng bừng cả mặt. Rồi nàng thỏ thẻ bảo tôi:
- Cậu lên xin phép thầy cho chúng tôi hát nhé?
Tôi cho câu ấy là thừa, vì cũng như tôi, những người lớn đều thích phường Mơ cả, bắt đầu từ thầy học của tôi. Chỉ trông cánh tay ông giơ cao roi chầu, ra sức vụt mạnh vào tang trống, khi Mơ múa hát, cũng đủ biết ông yêu Mơ đến bực nào. Lúc không cầm chầu thì ông trố mắt nhìn Mơ, và lớn tiếng thốt những câu bình phẩm sỗ sàng để chòng ghẹo Mơ, làm cho Mơ phải mỉm cười dù lúc Mơ đóng vai pho tượng như tượng đức Phật Quan Âm.
Rồi sau một, hai hay ba hôm, Mơ lại theo phường bạn rời đi nơi khác. Chẳng bao giờ tôi cảm thấy tôi trơ trọi bằng lúc ấy. Tôi ngơ ngẩn như người mất linh hồn. Anh tôi thấy thế cười, bảo tôi:
- Dễ Linh nó ốm tương tư cái Mơ đấy.
Tôi xấu hổ, cười gượng, rồi trốn vào xó tối đứng sụt sùi khóc.

Từ khi ra tỉnh theo học chữ Pháp, không một lần nào tôi gặp Mơ nữa. Nhưng mỗi năm, sau những ngày rét mướt, gió ấm mùa xuân lại thổi vào tâm hồn tôi sự mong ước nhớ nhung không cỗi rễ. Phải chăng đó là vết tích mối tình thơ ấu của những ngày sống giữa sự lạnh lẽo nặng nề?
Cách độ hơn mười năm, một hôm tôi gặp một người kép hát trong một rạp chèo ở một tỉnh nhỏ. Người ấy nhận được tôi, nói vì tôi không thay đổi mấy. Kỳ thực, người ấy đã hỏi dò lai lịch tôi. Khi biết bác kép trước cùng ở một phường với Mơ, tôi vội vàng hỏi thăm tin tức cô đào hát. Bác ta cười bảo tôi:
- Chị ấy nay đi cầu bơ cầu bất hát chẳng rõ ở đâu.
Rồi kể cho tôi nghe cái đời khổ sở của Mơ, Mơ lấy lẽ một ông chủ đồn điền. Vợ cả ghen, ông này đưa Mơ về Hà Nội thuê nhà cho ở. Nàng đã sinh được một trai. Một tối ông ta cùng Mơ đi xem chèo. Mơ nhớ đến nghề xưa liền bỏ chồng con xin nhập bọn rạp hát. Chẳng bao lâu Mơ được chủ rạp yêu quí. Nhưng Mơ đã "quen nết hư" chẳng giữ tình chuyên nhất với một ai, nay đi với người này, mai ở với người khác. Nhất Mơ lại phóng đãng thái quá nên mất cả giọng, tàn cả nhan sắc.
Tôi hỏi:
- Mơ hát không còn hay như xưa nữa?
Anh kép ngoác cái miệng rộng ra cười:
- ấy, ông cũng còn nhớ đấy: chị Mơ hát hay lắm, có lẽ hay nhất "Bắc cờ". Mà chị ấy cũng đẹp hơn hết các cô đào hát "Bắc cờ".
- Thế bây giờ chị ấy đâu?
- Bây giờ chị ấy bệ rạc, đói rách lắm, ông ạ, cùng người chồng mù đi lang thang khắp đó đây hát gõ kiếm ăn.
Tôi kinh ngạc:
- Chị ấy lấy sẩm?
Người kép buồn rầu:
- Thưa ông cũng không hẳn là sẩm.
Rồi đột ngột hỏi tôi:
- Ông có nhớ anh Thiếp không nhỉ?
Tôi ngẫm nghĩ đáp:
- Không.
- Vâng, ông nhớ sao được, ngày ấy ông mới lên bảy, lên tám. Anh Thiếp trước ở cùng phường với chị Mơ, với tôi. Anh ấy có tài thổi sáo, kéo nhị. ấy, chị Mơ đã một dạo mê anh ta về tiếng sáo réo rắt.
Người kép ngừng lại một giây rồi lắc lư cái đầu búi tóc, đọc hai câu Kiều:
Rõ thực:
Có tài mà cậy chi tài.
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Và kết luận:
- Ông coi, chẳng qua là duyên số cả, ngày xưa chị ấy đẹp thế, tưởng làm nên bà nọ bà kia, ai ngờ...
Tôi buồn rầu ngắt lời:
- Thì chị ấy chả làm nên bà chủ đồn điền trong một năm là gì!
Bác kép thở dài:
- Thưa ông, giá cứ ở hẳn với ông chủ đồn điền thì nay cũng chả đến nỗi.
Bác ta cười sằng sặc nói tiếp như khi pha trò hề trên sân khấu:
- Giá ngày xưa mà ông đã lớn tuổi như bây giờ thì dễ thường ông cũng say mê chị ấy, đấy nhỉ?
Tôi nóng cả mặt và sợ người kép hát nhận thấy bẽn lẽn, tôi đánh trống lảng cười theo đáp lại:
- Hẳn thế, chứ lị!

Từ đó mỗi lần xuống phà hay qua hè phố, gặp một cặp vợ chồng, chồng kéo nhị vợ hát chèo, tôi lại tưởng nhận được tiếng Mơ. Và tôi miên man nghĩ đến những con chim sơn ca cùng mùa xuân, đem cái vui tới nơi thôn dã.
Và buồn rầu tôi thấy hiện ra trong ký ức hình ảnh một cô gái quê xinh đẹp, hình ảnh vai Vân Dại lẳng lơ, vai Thị Mầu nhí nhảnh, ái tình của cái tuổi thơ lạnh lùng trơ trọi.

Khái Hưng
Hà nội, 1940.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

32 . Đợi Chờ


Cây im, sông lắng đợi xuân về.
(Thế Lữ)
Linh cho ngựa phi nước kiệu lớn, qua dặng đồi cỏ tranh, hấp tấp, vội vàng như người đi đâu có việc gì cần kíp.
Tới chỗ sông Thương lượn khúc chảy ven đường Bố Hạ, quanh một quả đồi rộng trồng cam, Linh kìm cương, nhẹ nhàng nhẩy xuống đất, buộc ngựa vào một cây trẩu trụi gần hết lá. Đã một tuần nay, từ khi cam bắt đầu rám đỏ, sáng sáng, dùng xong bữa điểm tâm sơ sài, Linh lên ngựa đi thăm lấy lệ mấy nơi vừa phá hoang trồng chè, rồi phi thẳng tới đây ngồi đợi.
Chàng đợi người năm ấy. Sự mong mỏi làm rạo rực lòng chàng và như man mác cả linh hồn vạn vật.
Vì có lúc ngắm cảnh quanh mình, chàng thấy những khóm cây yên lặng nghiêng mình trên bờ cao, soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những bụi lá sắc và nhọn với hàng bông trắng đứng im tăm tắp và loáng thoáng lẩn trong không. Cả những làn mây nhạt đương lững thững trôi trên ngọn đồi xa cũng ngập ngừng dừng lại. Hình như cùng chàng mong ngóng người xưa, cỏ cây, mây, nước cũng trầm ngâm mong ngóng xuân về.
Tiếng chim sơn ca hót trong cỏ rậm. Linh giật mình quay nhìn theo con đường đỏ, và cảm thấy tất cả nỗi thất vọng của một tấm lòng vơ vẩn đợi chờ...
Nhưng qua giậu nứa đan mắt cáo, màu vỏ cam mới rám hồng vẫn nhắc nhỏm gợi nhớ nhung.
°
° °
Cách đây hai năm, và cũng trong tháng chạp. Một hôm cưỡi ngựa đến bên sông thăm vườn cam sắp trẩy, Linh gặp một chiếc ô tô đỗ cạnh đồi. Tưởng đó là xe khách đến chơi và tài xế không biết lối vào trong ấp, Linh cho ngựa lại gần, nghiêng mình nhòm qua cửa xe. Trong xe, một bà ngót năm mươi tuổi và một thiếu nữ đầy đặn nở nang, nước da hồng hào rám nắng, mà thoạt trông chàng ví ngay với màu da cam bắt đầu rám chín dưới luồng gió heo may.
Chàng ngồi thẳng người lên, lễ phép nói:
- Xin cụ tha lỗi cho, tôi tưởng bạn đến chơi.
Nhưng thiếu nữ rất lịch thiệp đã thò đầu ra ngoài mỉm cười đáp lại:
- Thưa ông, me tôi không dám. Vả lầm thì ai chả có khi lầm.
Câu trả lời, Linh cho là vô vị. Song nụ cười tình tứ điểm theo, chàng ngắm thấy ngọt như mật ong, thơm như hoa cam sành mới nở, và có mãnh lực làm cho chàng lúng túng mất vài giây. Sự lúng túng ấy chàng che đậy bằng một câu hỏi, giọng run run:
- Thưa cô, xe liệt máy?
Nụ cười càng tình tứ hơn, tuy đôi lông mày bán nguyệt tô thêm chỉ hơi díu lại một cách rất nũng nịu, dễ yêu.
- Thưa ông, xe không chết máy, nhưng hết dầu xăng.
- Vậy ý hẳn bác tài đi mua dầu xăng?
- Không, anh ấy đến hàng nước kia hỏi xem có thể mua lại ở đâu được vài lít xăng để đủ chạy từ đây đi Kép. Vậy thưa ông, ông có biết thì xin ông làm ơn bảo giùm cho.
Linh mỉm cười:
- ồ! Tưởng hỏng máy, chứ nếu chỉ hết dầu xăng, thì tôi xin biếu cụ và cô.
Bà cụ sung sướng vội hỏi.
- Thưa ông, nhà ông ở gần đây?
- Thưa cụ, cũng không xa. Đây là đồn điền của tôi.
Thiếu nữ vẻ mặt ngạc nhiên.
- Đồn điền của ông? Chắc là rộng lắm!
- Thưa cô, cũng không rộng lắm, độ hai nghìn mẫu thôi.
Thiếu nữ mở cửa xe bước xuống, gọi:
- Anh tài!
Tức thì một người vận âu phục màu vàng từ trong hàng nước cạnh bến phà đi lại. Linh xuống ngựa, nói:
- Bác cưỡi ngựa theo con đường này vào ấp bảo người nhà tôi đưa cho một bi đông ét xăng, rồi cầm ngay ra đây...
- Thưa ông, cháu không cưỡi ngựa bao giờ.
- Chà, khó gì!
Linh ngẫm nghĩ một giây rồi chép miệng nói tiếp:
- Thôi được, để tôi đi lấy cho.
Thiếu nữ vội gạt:
- Chết thế thì phiền ông quá!
Nhưng Linh đã nhẩy lên lưng ngựa, dựt cương ra về, và nháy mắt, chàng đã biến vào trong cỏ tranh cao, rậm.
°
° °
Lúc trở lại, Linh chỉ thấy người tài xế nằm ngủ trên nệm xe. Chàng dừng lại ngồi thở, trời rét, cái áo lót của chàng ướt đẫm mồ hôi, vì chàng đã cho ngựa phi mau quá.
Bỗng có tiếng cười nói trong vườn cam. Linh vội vàng cởi bỏ vào trong xe cái bi đông dầu xăng buộc sau yên, rồi cho ngựa thong thả lên đồi. Tiếng thiếu nữ nói qua hàng giậu:
- Chúng tôi đương đợi ông ra để xin ông một quả cam.
Linh hấp tấp rẽ cương qua cửa vườn.
- Thưa cụ, cam ở đây còn chua lắm, chưa ăn được. ở trong ấp có một ít đã thực chín rồi và ngọt lắm, xin mời cụ và cô quá bộ vào chơi.
Bà cụ từ tạ:
- Xin cảm ơn ông, chúng tôi xin về... Ông đã cho chúng tôi vay dầu xăng?
Linh buồn rầu đưa mắt nhìn thiếu nữ:
- Thưa cụ, có dầu xăng rồi.
- ồ! thế thì may quá. Cảm ơn ông quá. Không có ông giúp thì mẹ con tôi chẳng biết làm thế nào mà về được đến nhà.
- Thưa cụ, ấp cách đây có hơn hai cây số, xin mời cụ quá bộ vào chơi. Thưa cụ, tôi ở nơi hẻo lánh này chẳng mấy khi được hân hạnh đón tiếp khách quý.
Thiếu nữ nể lời ân cần mời mọc của chủ ấp, áy náy nhìn mẹ:
- Thưa me, hay là me vào chơi một lát cho ông chủ bằng lòng. Vào ăn quả cam Bố Hạ rồi lại đi ngay.
Quay về phía Linh, nàng mỉm cười, láu lỉnh nói tiếp:
- Rồi ông để chúng tôi đi ngay nhé?
Linh, trên mặt lộ đầy vẻ biết ơn:
- Xin vâng.
- Vậy vào nhé, me nhé?
Bà mẹ mắng yêu con
- ừ thì vào. Gớm chết! Cô Phụng đi đâu cô cũng la cà hết ngày hết buổi.
Linh sung sướng chạy vội ra cửa vườn gọi tài xế.
°
° °
Một giờ sau, Linh đưa Phụng đi xem khắp vườn cam, quýt, trong khi bà mẹ ngồi nghỉ bên lò sưởi, vì đứng ở ngoài lâu chân tay bà rét buốt.
Nhờ có một nền giáo dục lịch thiệp nhận được ở trường học và ở một gia đình theo lối mới Phụng đối với ông chủ ấp không chút ngượng ngùng, e lệ. Nàng cười nói dễ dàng, hỏi nhiều câu mà Linh phải lấy làm kinh ngạc, tưởng các cô thiếu nữ không bao giờ dám nghĩ tới.
Đến một gốc quít cỗi, nàng ngắt một quả rồi vờ quay đi ăn vụng. Nhưng nàng quay lại ngay, phá lên cười và kêu:
- Bắt lấy con ăn cắp quýt cho tôi!
Linh cũng cười, nói một câu mà vừa buột miệng thốt ra, chàng cho là rất sáo:
- Nó được hân hạnh cô chiếu cố là may cho nó.
- Vậy tôi lại muốn chiếu cố đến nó nữa.
Vừa nói Phụng vừa với một quả ở cành cao nhưng không tới.
- Cô để tôi lấy giùm.
Linh phải nhảy lên mới với được cả cành quít chĩu chịt gần chục quả.
- ồ phí quá, ông nhỉ?
Linh toan ngắt ra từng quả nhưng Phụng vội gạt.
- ấy, ông cho xin cả để tôi mang về giữ làm kỷ niệm.
Hai tiếng kỷ niệm ở miệng mỹ nhân nói ra, Linh nhận thấy âu yếm, thấm thía tâm hồn. Chàng toan đáp lại một câu tình tứ, nhưng không tìm ra được, đành chỉ lặng lẽ mỉm cười nhìn thiếu nữ. Giữa phút thần tiên ấy, có tiếng gọi:
- Phụng, xin phép ông về thôi!
Lần đầu tiên trong đời, Linh cảm thấy tất cả cái ý nghĩa buồn rầu, sầu thảm của chữ "về".
- Phụng, đi về!
- Vâng, con đây.
Nàng bỏ cả nửa quả quít vào mồm nhai ngốn ngấu. Còn một nửa có lẽ vì đãng trí, nàng đưa cho Linh:
- Trời ơi! Quít ngọt quá! Ông nếm thử mà xem.
Rồi nàng chạy vội lại chỗ mẹ.
Linh thở dài, lững thững theo sau...
°
° °
Lúc xe mở máy. Linh mới chợt nhớ ra rằng chưa hỏi địa chỉ của Phụng.
Trong một giờ được một mình ở bên người đẹp, Linh chỉ mê man nghĩ đến hiện tại mà chàng biết rằng ngắn ngủi. Và chàng chỉ cảm thấy từng phút từng giây đương lạnh lùng rơi vào quãng không.
Kẻ ở người đi rồi hiện tại sẽ thành dĩ vãng sẽ thành một kỷ niệm như cành quít mà Phụng đã đem về nhà để giữ làm kỷ niệm.
Nhưng cái kỷ niệm giây phút ấy đối với Linh đã thành vĩnh viễn thiêng liêng.
Năm, năm, cứ đến tháng chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ dưới luồng gió heo may, Linh lại cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển. Rồi trong vườn hiện ra hình ảnh một thiếu nữ tươi tốt, hồng hào thướt tha bên gốc cam, gốc quít.
Linh chờ đợi, mong ngóng.
Chàng chờ đợi, mong ngóng cho tới hết mùa cam. Vì Phụng có hứa với chàng rằng mỗi năm cứ đến mùa cam nàng sẽ lại cùng mẹ một lần lên thăm ấp của Linh. Lời hứa ấy có lẽ Phụng đã thốt ra theo cách xã giao trong câu truyện thù ứng. Nhưng Linh tin là lời hứa thành thực. Chàng cũng không hiểu sao chàng lại tin như thế nhưng chàng cũng không thể không tin được.
Đã hai năm chàng chờ đợi...
Và trên bờ sông cao khóm cây vẫn yên lặng nghiêng mình soi bóng xuống mặt nước xanh rêu không động, những bụi lau lá sắc và nhọn vẫn đứng thẳng hàng, bông trắng loáng thoáng lẫn trong không. Và trên ngọn đồi xa, làn mây bạc vẫn ngập ngừng dừng lại. Cùng chàng mong ngóng người năm ấy, vạn vật trầm ngâm mong ngóng xuân về.

Khái Hưng
Hà Nội, 1940.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

33 . dưới ánh trăng

Văn mướt mồ hôi, đọc đi đọc lại bức thư, lời lẽ quê kệch, vụng về, chữ viết nguệch ngoạc, ngòng ngoèo trên trang giấy học sinh kẻ chì.
Ông Văn,
Thưa ông, em khổ sở lắm, em chỉ muốn chết thôi. Nhưng em chả biết làm thế nào để chết được bây giờ. Từ khi thầy em biết em có tội, thì ngày nào cũng uống rượu say rồi lôi em ra đánh, vừa đánh vừa nhiếc. Còn bu em thời chỉ khóc. Bu em bảo em viết thơ cho ông. Em chả biết ông có còn thương em nữa không mà em viết, nhưng bu em bảo em cứ viết, nên em cũng viết, chứ em chả muốn viết tí nào cả. Em đã bảo ông, em đã lạy van ông rằng ông chả lấy được em đâu, thế mà ông không nghe, ông cứ dỗ dành em, làm khổ thân em thế này, bây giờ em còn mặt mũi nào dám nhìn thầy bu em nữa. Ông có còn thương em tí nào nữa thì ông định liệu cho em phận nào, em được nhờ phận ấy. Thầy em mà bị làng bắt vạ thì thực em làm cho nhà em xấu để đời. Vì vậy bu em bảo viết thơ cho ông để ông cho tiền em với lại đưa em đi đâu cho qua kỳ sinh nở. Em bé dại chả biết gì, nên em tin nhời ông, nhưng bu em chưởi em, bảo em rằng ông lấy sao được em, ông là con quan mà thầy em thì chỉ làm trương tuần, khi nào ông thèm lấy em, khi nào cụ lớn lại để ông lấy em. Bu em nói thế thì em hiểu ra ngay, rồi em chỉ khóc cả ngày cả đêm. Hôm xưa đứng ở bờ ao em đã toan đâm đầu xuống nước tự tử cho xong đời, nhưng em lại thương đứa bé ở trong bụng nó chả làm gì nên tội, nên em lại thôi, nên không sao em chết được. Ông xem thư này xin ông nghĩ lại cho em được nhờ.
Tẹo ký

Văn hai tay ôm đầu ngồi suy nghĩ. Chàng không ngờ đâu lại xảy ra tai hại đến thế. Ngọn đèn hiện trong chiếc bóng mờ tỏa xuống bàn giấy làn ánh sáng dịu khiến chàng hồi tưởng tới đêm trăng ấy, cái đêm trăng đã làm chàng trở nên điên rồ.
Và chàng như thấy hiện ra cái sân rộng lát gạch bát tràng với hai, ba chục người nhà quê vừa đàn ông, vừa đàn bà, con trai con gái quây quần chung quanh những đống lá thuốc tươi.

Dạo ấy, Văn về thăm quê hương sau hơn bốn năm xa vắng. Chàng theo học tại Hà Nội, mà cha mẹ chàng là ngành thứ lại ở luôn chỗ làm quan, nên ít khi chàng có dịp về làng. Lần này, chàng vừa đậu xong bằng tú tài, cha mẹ chàng thưởng chàng trăm bạc và cho phép muốn đi nghỉ mát đâu tùy ý. Chàng tưởng ngay đến nơi đã sống với bà cả một thời kỳ thơ ấu.
Xế chiều, Văn về tới đầu làng. Những cảm tưởng man mác làm rạo rực lòng chàng. Mỗi vật chàng gặp như một người bạn cũ hiện ra: Cái lạch nhỏ nước vẫn đỏ, cái cầu bằng tre vẫn chênh vênh, vẫn lảo đảo mỗi khi có người sang, cái cầu mà ngày còn nhỏ mỗi khi theo bác đi viếng mộ chàng phải để người ta cõng qua. Trên lối tắt rẽ vào làng giữa những bãi tha ma, những thửa ruộng nước, chàng vui mừng nhận ra từng cái khuỷu, từng quãng vòng, từng khóm chuối, từng bụi tre. Nhất cánh đồng thuốc xanh rì, chàng thấy vẫn y nguyên như ngày xưa, với những luống đất vuông vắn, cao ráo, với những cây thuốc bẻ ngọn đầy lá, to bản, với những người con gái mặc áo vải nâu non hay áo lụa, màu cánh kiến đổi vai the thâm, ngoài thắt chặt chiếc dây lưng hoa lý.
Văn đương mê mải ngắm người và vật thì ở một vườn thuốc có ai nói:
- Kìa! Hình như anh Văn?
Văn quay lại vui vẻ đáp:
- Phải, Văn đây!
- ồ! Độ nầy trông anh ấy to nhớn nhỉ?
- Bốn, năm năm không về, làm gì mà chả đổi khác.
Văn vừa trả lời vừa trố mắt nhìn người đàn bà đứng dưới rãnh vườn.
- Nhưng bà là ai mà nhận ra được tôi.
Có tiếng cười trong trẻo ở sau luống thuốc. Văn kiễng chân, rướn cổ, nghiêng đầu nhòm, nhưng chỉ trông thấy cái nón ba tầm, và hai cánh tay áo nâu:
- Ai mà cười ròn thế?
Người đàn bà cũng nhăn nhở cười theo.
- Cái Tẹo đây, anh còn nhớ cái Tẹo không, nhỉ?
Cái Tẹo? Không, chàng không nhớ. Thấy Văn đứng ngây người suy nghĩ, Tẹo bỏ nón, lại gần nói với người đàn bà:
- Đến bu, anh ấy còn chả nhận được nữa là con.
- à phải rồi, cô Tẹo, thế mà suýt nữa tôi quên.
Kỳ thực Văn vẫn chẳng biết Tẹo là ai, nhưng vì thấy cô bé xinh xắn, hay hay, chàng nói liều thế để làm thân. Còn lạ gì cái tuổi ngoài hai mươi đương bồng bột tình yêu!
Tẹo đắc chí lại cười:
- ừ, có thế chứ. Tưởng nay anh đỗ ông phán ông tham anh quên cả em.
Văn lo lắng nghĩ thầm: "Chết chưa! Em kia! Chẳng hiểu họ hàng ra sao đây?" Rồi chàng đứng vơ vẩn nhìn Tẹo.
- Cô hái thuốc đấy à?
- Vâng, hái thuốc. Sáng mai anh sang nhà dì ăn cỗ mừng nắng nhé?
Văn càng kinh hoảng: "Lại dì nữa! Dì mình hẳn là bu Tẹo". Muốn được chắc chắn, chàng hỏi:
- Thưa dì vẫn được mạnh?
Người kia vừa xếp lá thuốc lại thành chồng vừa đáp:
- Cũng khá thôi, anh ạ. Độ đầu năm tôi giã gạo, hụt chân xuống hố, đau mất đến một tháng đã tưởng què, nhưng sau nhờ được bà cử Thuận cho ít rượu... rượu gì, Tẹo nhỉ?
Tẹo cười:
- Rượu chổi!
- ừ, rượu chổi. Tôi bóp có năm sáu hôm đã khỏi hẳn may quá anh ạ.
Văn vẫn chưa rõ người đàn bà, nhất là Tẹo với mình có họ xa hay gần. Liền đánh bạo hỏi:
- Thưa dì, tôi hỏi thế này khí không phải, dì bỏ qua đi cho, dì với tôi có họ thế nào nhỉ?
- ừ phải đấy, hỏi cho biết chẳng cứ gọi là dì mà chẳng hiểu dì ra sao. Thế này này: bà án với tôi là đôi con dì.
- à, đôi con dì!
Thực ra Văn cũng chỉ rõ bà kia với mẹ mình có họ mà hình như lại họ xa.
- Quan lớn bà lớn có về chơi không anh?
Văn đăm đăm ngắm nghía hai bàn tay mềm mại thoăn thoắt tỉa lá thuốc, chẳng để ý vào một sự gì khác, khiến người đàn bà đã nhắc lại câu hỏi một lần nữa mà chàng vẫn không nghe tiếng. Thấy vậy, Tẹo tò mò nhìn chàng, mỉm cười ngây thơ nói:
- Anh Văn điếc đấy, bu ạ.
Văn cũng cười, chẳng hiểu sao Tẹo lại bảo mình điếc. Nhưng xách va li đứng giữa đường nói chuyện. Văn chợt nhận thấy hơi khó coi, nhất những người hái thuốc ở các thửa vườn lân cận lại cứ luôn luôn đưa mắt về phía mình và khúc khích cười.
Chàng liền ngả đầu chào:
- Thôi, dì hái thuốc, tôi xin về.
- Anh về đấy à? Mai mời anh sang ăn cỗ mừng nắng nhé?... Hay lại khinh nhà dì nghèo không thèm đến.
- Dì cứ nói thế!
Văn lững thững trở về nhà. Một lát quay lại nhìn: bọn người hái thuốc đã khuất trong lớp lá to bản.

Cha mẹ Văn giao cho một người em họ ở trông nhà. Nghe có tiếng chó sủa người ấy vội chạy ra cổng thì vừa gặp Văn:
- ồ! Cậu đã về. Quí hóa nhỉ. Quan lớn bà lớn có về không?
- Không, chú ạ.
- Cậu đưa va li tôi xách. Sao cậu không bảo anh xe anh ấy mang vào cho.
- Anh ấy gặp khách ngược, nên tôi để anh ấy kéo, chẳng nhỡ mất của anh ấy một chuyến xe. Với lại cái va li của tôi cũng chẳng nặng gì.
Rồi Văn hỏi luôn:
- à này, chú Vinh, cái Tẹo là con cái nhà ai thế nhỉ?
Ông lão cười:
- Sao cậu lại biết cái Tẹo? Nó là con chú trương Mẫn.
- Thế bà trương Mẫn có họ thế nào với nhà ta nhỉ?
- à, họ xa. Bà ấy với bà lớn nhà là đôi cháu dì.
- Sao bà ấy bảo là đôi con dì? Nhưng đôi cháu dì thế nào?
- Là thế này: bà ấy với bà lớn nhà là chị em con chú con bác.
- Thế thì xa thật!
Văn nghĩ đến Tẹo nên thốt ra câu ấy. Rồi sợ ông Vinh ngờ vực, lại hỏi lảng:
- Có chỗ cho tôi ngủ không đấy?
- Có chứ?
Ông Vinh quay ra gọi:
- Bé ơi!
- Cái gì đấy, thầy?
Một người trẻ tuổi, to lớn, lực lưỡng, ở dưới bếp chạy lên.
- Mày mở cửa gác quét dọn, lau chùi rồi lấy màn tây ra mắc nhé. Chìa khóa tao treo ở đầu giường ấy. Để tao đi bảo bu mày vo gạo thổi cơm. Mà kìa, thằng bé lạ chưa! Không chắp tay chào cậu à? Dễ nó quên cậu tú Văn rồi đấy.
Bé vui vẻ:
- ồ! Cậu Văn! Bây giờ cậu nhớn nhỉ?
- Tao hăm mốt tuổi lại chả nhớn!
- Thế thì hơn con hai tuổi.
Văn mơ màng ngước nhìn mấy ngọn cau, trồng bên tường hoa:
- Con gái làng ta đẹp lắm, chú Vinh ạ.
Ông Vinh cười:
- ở xóm ngoài kia, chứ khu ta có quái ai?
- Thế cái Tẹo chả đẹp là gì?
- ờ nhỉ! Cái Tẹo! Nó mới nhớn lên. Trông cũng khá... Tối nay ở nhà chú trương Mẫn rọc thuốc đây.
- Thế à?
Kỳ thực, Văn chả hiểu rọc thuốc nghĩa là gì.

Cơm chiều xong, Văn ra sân lững thững đi đi lại lại quanh mấy bồn hoa, tay lẩn mẩn ngắt những quả hồng khô, và những lá hồng bị sâu ăn lỗ chỗ.
Trời dần dần tối. Một lát sau, trên nóc nhà ngang, trăng tròn đã mọc, lấp ló trong những cành trúc đào thưa lá. Dáng cây mềm mại, nhẹ nhàng, Văn ví với dáng một cô gái quê yểu điệu thắt dây lưng ong. Và chàng nhớ ngay đến Tẹo.
Bé qua sân, Văn gọi, định hỏi thăm nhà bà trương Mẫn. Nhưng khi Bé đến bên, chàng ngượng ngùng lại nói lảng sang chuyện khác:
- Bé ạ... cây trúc đào này... giồng từ bao giờ thế nhỉ?
- Thưa cậu, mới giồng được ba năm nay. Cậu coi nó chóng nhớn thế!
- Bé giồng đấy à?
- Thưa cậu không, mợ huyện giồng đấy chứ.
Mợ huyện là chị dâu Văn.
- à chị huyện có hay về không?
- Thưa cậu, mợ ấy về luôn đấy, về để mua thuốc, mỗi năm mợ ấy mua có hàng vạn.
- Hàng vạn bạc?
- Không, hàng vạn bánh thuốc ấy chứ.
- Thế chị ấy không giồng thuốc?
- Không. Giồng làm gì. Bận chết đi ấy. Thường thường chỉ những người nghèo mới giồng, người giàu chỉ việc bỏ tiền ra buôn, còn vườn thì cho thuê.
Văn mỉm cười:
- Thế bà trương Mẫn cũng nghèo? Vì bà ấy cũng làm lấy vườn, chứ không cho thuê.
- Bà ấy cũng chả nghèo. Nhà bà ấy nhiều người làm lấy được thì tội gì mà cho thuê. Làm lấy được lãi lắm cơ, cậu. Có khi giồng một sào được lời đến hơn chục bạc.
- Thế kia?
Văn chỉ cốt gợi chuyện để hỏi thăm Tẹo. Còn trồng một sào vườn thuốc được lãi bao nhiêu, chàng có cần gì biết.
- à này Bé, rọc thuốc thế nào nhỉ?
Bé cười:
- Cậu không biết rọc thuốc thế nào? Rọc thuốc là rọc lấy lá để thái, còn cọng thì bỏ đi.
- Mày nói thế, tao còn hiểu sao được? Giá ở đây có rọc thuốc mày đưa tao đến xem thì hay quá.
Bé ngẫm nghĩ:
- Tối nay nhà bà trương Mẫn rọc thuốc đấy, chắc vui lắm, vì hôm nay bà ấy hái những ba sào.
- Nhà bà ấy có ở gần đây không?
- Gần, cậu muốn xem, con đưa đến. Giá con không phải ở nhà hầu cậu, thì con cũng đã lại làm giúp rồi.
- Việc gì phải hầu tao. Cứ lại mà làm giúp. Đi, tao cũng đi!
Văn cố tránh, không đọc đến tên Tẹo để Bé khỏi ngờ vực, nhưng tâm trí chàng chứa đầy hình ảnh và giọng nói, tiếng cười của cô hái thuốc gặp lúc ban chiều. Đi bên cạnh Bé, chàng mơ mộng lẩm bẩm nói một mình: đôi con dì, đôi cháu dì.
- Thưa cậu bảo gì ạ?
- Không. à, đôi cháu dì thì họ xa lắm, Bé nhỉ?
- Vâng, xa đến mấy cột lô mếch. Cứ kể con với cậu tuy chỉ là đồng tông cũng còn gần hơn đôi cháu dì, vì đồng tông thì cùng họ chứ đôi cháu dì thì khác họ. Đấy nhé, cậu họ Hoàng. Còn bà trương Mẫn thì cùng họ Bùi với bà lớn, nghĩa là đã họ ngoại rồi, đến như cái Tẹo lại họ Lê, còn dính dáng gì đến cậu nữa!
Có lẽ vô tình Bé đem Tẹo ra thí dụ, nhưng Văn cho là hữu ý. Chàng lảng sang chuyện khác và hỏi Bé về công việc trồng hái, cách thức làm và buôn, bán thuốc. Bé đem những tiếng nghề ra nói với Văn, khiến chàng không hiểu một tí gì. Chàng cũng chẳng cần Bé giảng rõ nghĩa. Mắt mơ màng, chàng còn mải nhìn bóng trăng lướt trong cành tre lả ngọn giao nhau trên đỉnh đầu. Đường xóm nhỏ, hẹp, quanh co, cây đèn dầu thấp thoáng qua khe giậu, tiếng khung cửi đều đều một dịp, giọng hát ru em rời rạc buồn tẻ, cái cảnh thôn dã nên thơ ấy gợi trong lòng gã thanh niên một mối tình man mác.
- Đêm trăng đẹp quá. Bé nhỉ?
- Vâng, trăng sáng quá. Mai thế nào cũng nắng to tha hồ mà mừng nắng.
Văn nhớ ngay đến bữa cỗ mừng nắng mà bà trương Mẫn và Tẹo đã ân cần mời chàng đến dự.
- à, cỗ mừng nắng là thế nào. Bé nhỉ?
- Là cỗ mừng nắng. Thái thuốc được nắng thì làm cỗ ăn mừng.
- à, ra thế? Ngày mai nhà bà trương Mẫn có cỗ mừng nắng đấy, Bé có sang ăn cỗ không?
- Có chứ!
Ra tới đường làng và nghe có tiếng mõ, Văn chưa kịp hỏi đó là mõ gì, Bé đã nói:
- Cỗ mai thế nào cũng có cá bể.
- Sao mày biết?
- Mõ bán cá đấy, cậu không nghe thấy à?
Văn cười:
- Mõ bán cá, hay nhỉ? Chẳng khác hàng sực tắc ở Hà Nội!
Mỗi vật trông thấy, mỗi tiếng nghe thấy, Văn đều cho là mới lạ. Chàng có cảm tưởng đương sống trong một thế giới đầy tình yêu, đầy mộng ảo.
- Rẽ vào ngõ này, cậu.
- Tẹo ở xóm này?
- Vâng, bà trương Mẫn ở xóm này?
- ừ, bà trương Mẫn.

Bé đưa Văn đi sâu mãi vào trong ngõ hẻm tối.
- Đây rồi, cậu ạ. Khéo cậu bước thụt xuống rãnh nhé.
Rồi đứng gọi:
- Chị Tẹo ơi! Mở cổng cho tôi mấy.
Tiếng ồn ào ở trong sân bỗng ngừng lại.
- Ai?
- Tôi đây mà.
Văn nghe rõ tiếng Tẹo ở phía trong cổng.
- Tôi là ai?
- Tôi là Bé.
- à, anh Bé! Sao không ở nhà hầu cậu Văn?
- Cậu tôi cũng đến đấy.
- ồ, cậu Văn cũng đến!
Cổng mở tung ra. Tẹo chào Văn bằng một dịp cười ròn như tiếng nhạc, rồi quay vào gọi:
- Bu ơi, anh Văn đến chơi đấy, bu ạ!
- Thế à?
Bà trương Mẫn đứng dậy chạy vội ra.
- Anh Văn đến chơi nhà dì đấy à? Quý hóa quá.
Văn nghe tiếng dì chả thuận tai một tý nào nữa. Nhưng chàng cũng đáp:
- Vâng, tôi đến làm giúp dì đây.
- Thế nữa cơ à? Vậy mời anh vào.
Hơn hai chục người, vừa đàn ông, đàn bà, con trai, con gái cùng chào:
- Cậu Văn mới về đấy à?
- Chào cậu lại chơi.
- Không dám, chào các ông, các bà.
- Nghe nói cậu đỗ ông tham, ông tú, ông cử gì, vậy có ăn mừng không?
- Có chứ. Tôi sẽ mừng một tiệc thuốc lào.
Tiếng cười phá lên, đủ các giọng cao thấp.
- Tưởng mừng cỗ bàn, rượu chè cơ, chứ mừng thuốc lào thì chúng tôi say chết.
Tẹo đã vào trong nhà bê ra một cái ghế lim lưng có hàng con tiện, đặt ở bên thềm. Nàng bảo Văn:
- Mời ông tham ngồi chơi.
- Mời ông tú thôi!
Tẹo cười vui sướng:
- Vậy mời ông tú ngồi chơi... Nào ông tú, nào ông cử, nào ông tham, còn ai nhớ được nữa?
- Cô cứ gọi tôi là anh Văn, dễ nhớ hơn...
Chàng ghé vào tai Tẹo thì thầm nói tiếp:
- Mà anh thích hơn.
Không hiểu đó là lời âu yếm, Tẹo lại cười:
- Vậy mời anh Văn ngồi chơi.
- Cám ơn cô nhé. Cô để mặc tôi.
Rồi Văn đi lại gần chỗ mọi người đương ngồi xổm rọc lá thuốc với cái "móc" làm bằng sợi cước buộc vào đầu hai cái đũa tre. Họ làm việc rất mau, hai bàn tay lanh lẹ đưa lên đưa xuống. Khắp sân tiếng rọc nghe xoèn xoẹt như tiếng xé giấy, liền liền không ngớt.
Bà lý Bá tính vui vẻ nói bông đùa luôn miệng, làm cho chốc chốc tiếng cười lại phá lên từng dịp. Bà ta hỏi Văn:
- Ông tú có biết rọc thuốc không?
Văn mải ngắm nghía mái tóc lòa xòa và cái mũi dọc dừa của Tẹo, nên lơ đãng trả lời:
- Biết chứ!
- ừ, thế thì khá. ở làng ta mà không biết rọc thuốc, cuộn thuốc thì giai ế vợ, gái ế chồng!
- Thế kia à? Vậy chắc cô Tẹo thì đắt chồng lắm nhỉ?
Tẹo ngước mắt nhìn Văn, có vẻ giận dỗi. Bà lý nhìn nàng nói:
- Nó sắp sửa có chồng rồi đấy. Bao giờ tao được ăn giầu, hử Tẹo?
Tẹo vênh mặt, hất hàm tỏ hết vẻ đanh đá:
- Bà cứ nói thế, chứ người ta thèm vào.
Văn tò mò hỏi:
- Cô ấy thèm vào ai thế, bà lý?
- Phải, nó thèm vào, chứ nó có thèm ra đâu! Con gái đứa nào chả thế. Nói đến lấy chồng thì thích chết đi nhưng lại cứ...
Tẹo cau có:
- Cháu van bà đi...
- Nhao ôi! Rồi lúc thằng Nghĩa nó xỏ mũi nó lôi về, mới...
Văn như nói một mình:
- Cô Tẹo là vị hôn thê của anh Nghĩa...
Và chàng căm tức đứng nhìn Tẹo...
ánh trăng giải xuống sân gạch bóng cây mít rườm rà đứng bên hồi nhà ngói. Tiếng sáo diều trên không, ngân nga một điệu... Văn lặng lẽ cảm thấy buồn mênh mông.
Rồi trong bọn người làm việc, những mẩu chuyện, những tiếng cười rời rạc, thưa dần, tuy không lúc nào ngớt hẳn. Bà lý Bá bàn:
- Giá ai hát hay, hát nghe cho đỡ buồn ngủ.
Một người:
- Lại còn ai nữa? Chị Tẹo hát hay nhất làng đấy!
- Vậy chị Tẹo hát cho chúng tôi nghe một câu nào?
Không đợi mời đến hai lần. Tẹo đặt que móc trên đống lá thuốc rọc rồi, mắt ngước nhìn trời, cất lời ca theo điệu trống quân:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em ngồi cành trúc em tựa cành mai,
Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?
Văn đứng phía trước, ngây người đăm đăm nhìn Tẹo. Và chàng ví giọng Tẹo với ánh trăng rằm trong sáng, với mùa lúa chín thơm tho.
Trèo lên cây bưởi hái hoa.
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân,
Bỗng nàng cúi xuống cười ngất!
- Hát cho tử tế! Cớt nhả thế không được!
Tẹo vừa cười vừa trả lời bà lý Bá.
- Khốn nhưng mà... anh Văn anh ấy... cứ nhìn chòng chọc vào mồm... xấu hổ chết đi, ai hát được?
Văn cũng cười, rồi mê mẩn ngây ngất đáp lại.
- Khốn, nhưng mà miệng cô hát xinh lắm cơ, cấm người ta nhìn thế nào được?
Và Văn ao ước rằng Tẹo hiểu thấu ý nghĩa bóng bẩy của câu ấy, vì chàng chỉ muốn nói: "Em đẹp quá, anh yêu em quá, nhìn miệng em hát anh chỉ muốn hôn em một cái".
Chẳng rõ Tẹo có hiểu như thế không, nhưng bà trương Mẫn thì có lẽ hiểu như thế, vì bà bảo Văn:
- Anh cứ chế diễu em làm gì vậy? Nó quê mùa, xấu xí, lại đần độn nữa, chả biết cái gì.
Tẹo nhìn Văn, mỉm cười rất thẳng thắn. Nhưng Văn tưởng như cái mỉm cười ấy thì thầm bên tai chàng. "Em biết cái gì lắm chứ!".
Trăng càng lên cao càng trong. Và sân gạch mỗi lúc một thêm sáng, vì bóng cây, bóng nhà, bóng người dần dần thu ngắn mãi lại. Hơi ở lá thuốc lào nồng nàn bốc lên làm cho Văn nóng bừng mặt như say rượu: dưới ánh trăng chàng ngắm thấy người, vật như đẹp hơn lên bội phần và trong đó, Tẹo như một nàng tiên từ trên cung Nga là là bay xuống.
- Ô hay! Hát đi chứ! Sao lại cứ ngồi mà cười thế kia?
- Tôi chịu thôi.
Rồi Tẹo ngây thơ liếc Văn mỉm cười như có ý bảo:
"Tại anh đấy mà!"
Trong bọn có người nói:
- Cậu Văn làm chị Tẹo không hát nữa thì cậu hát đi!
- Phải đấy! Phải đấy! Cậu Văn hát đi cho chúng tôi nghe với!
Văn đứng mỉm cười mơ màng nhìn Tẹo. Ông trương Mẫn, người ít lời, từ nãy vẫn ngồi im ở một góc sân, mãi bây giờ mới lên tiếng và thủ thỉ như nói một mình:
- Cậu ấy học chữ tây thì biết hát xướng ra làm sao mà bắt cậu ấy hát?
- Thì hát tiếng tây chứ sao?
- ừ phải, hát tiếng tây. Cậu Văn hát đi!
Tẹo cũng nói:
- Anh Văn hát tiếng tây cho em nghe với nào!
Văn như mê mẩn, như điên cuồng, như quên rằng trong sân có bao người đương để mắt vào mình. Dưới đất chàng chỉ trông thấy có một Tẹo và trên trời một mảnh trăng trong.
Tẹo nhắc lại:
- Thế nào? Anh nhất định không hát?
Văn cười:
- ừ hát nhé? Hát cho cô Tẹo nghe nhé?
Tẹo cúi gầm mặt xuống, chẳng hiểu vì thẹn hay vì sung sướng:
- Anh hát thì tất cả mọi người nghe, chứ một mình gì em.
Văn hắng dặng rồi hát một mạch hết bài Serenata, mặc tiếng lao xao, mặc tiếng cười khúc khích chung quanh. Khi Văn ngừng lại thì tiếng cười phá lên rầm rầm như lúc đê vỡ, nước sông réo chảy vào trong ruộng thấp.
- Hát tây buồn cười nhỉ!
- Hát như khóc ấy nhỉ?
Chờ cho tiếng cười im hẳn, Tẹo khen lấy lòng Văn một câu, vì nàng tưởng Văn bị chế diễu thì xấu hổ:
- Anh Văn hát tây hay đấy chứ.
Rồi nàng tò mò hỏi:
- Nghĩa là gì, anh giảng ra tiếng ta cho chúng tôi nghe với.
Văn cười:
- Nghĩa cũng đại khái như bài hát của cô.
Tẹo tưởng thực, kinh ngạc kêu:
- ồ, lạ nhỉ! Tây mà cũng có những câu:
"Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"
Văn càng cười to:
- Có lắm chứ!
Có lẽ Tẹo vờ ngớ ngẩn để được nói chuyện tay đôi nữa với Văn:
- Có cả: "Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?"
Bà lý Bá chừng đã chướng tai về những câu chuyện hình như kéo dài vào chỗ buồn tẻ giữa đám người đã rời rạc, vì buồn ngủ, vì làm việc luôn trong bốn, năm giờ không một phút nghỉ tay.
Trong yên lặng, người ta nghe xoèn xoẹt tiếng rọc lá thuốc và tiếng sáo diều y-ô y-ô một điệu trên không. Thỉnh thoảng một cái ngáp lớn như tiếng kêu cất lên ở một xó, tức thì ai nấy ngáp theo, trong đủ các giọng cao, thấp, ngắn, dài.
Làn không khí chán nản lan rộng mãi ra. Và sự mỏi mệt như đè nặng lên những bàn tay uể oải. Văn chợt hiểu rằng mình ở xem đã khá lâu, liền chào mọi người để về nhà.
Tẹo vội đứng dậy, cuống quít hỏi:
- Anh về à? ồ sao lại về?
Bà trương Mẫn cười bảo con:
- Con này nó ăn nói ngớ ngẩn nhỉ? Sao lại về? Anh ấy chẳng về thì dễ ngủ đỗ lại ở nhà mày à?
Câu nói vô tình, thật thà của bà trương làm cho Văn mỉm cười sung sướng. Chàng thì thầm bảo Tẹo, khi nàng theo chàng ra cổng để cài then:
- Anh ngủ đỗ nhà em một tối có được không nhỉ?
Nhưng Tẹo cũng thật thà như mẹ, đáp lại liền:
- Được chứ! Anh cứ ngủ đỗ, nhà em cũng có màn, anh không sợ muỗi đâu.
Thấy Bé đi theo sau Tẹo, Văn ngượng ngùng nói:
- Sao mày không ở làm giúp bà trương?
- Con phải về hầu cậu.
Văn gắt:
- Tao không cần mày hầu. Cứ ở lại.
Chàng mỉm cười gật chào Tẹo một lần chót, rồi theo ngõ hẻm ra đường.
Về nhà, Văn không sao ngủ được, lòng băn khoăn, rạo rực về những sự êm đềm nơi thôn dã mà chàng như mới được làm quen lần đầu.
Tỳ tay thành cửa sổ thấp trong căn gác nhỏ, Văn ngắm trăng không chán. Chàng tưởng tượng chị Hằng gửi xuống tặng chàng một nụ cười thân mật và khuyến khích. Bất giác, chàng lẩm bẩm hát:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Và mơ màng nghe văng vẳng tiếng cười ròn của Tẹo theo gió biển bay đến bên tai. Lúc ấy, những hình ảnh các cô gái Hà thành, dù có hiện ra trong trí nhớ chàng, chàng cũng chỉ thấy mờ xạm, kém tươi, không đáng chú ý.

Sáng hôm sau, Văn thức giấc, thì mặt trời mọc đã cao, chiếu qua những khe cửa sổ ghép vụng và lâu ngày phơi nắng phơi mưa, đã hở mộng. Văn ngơ ngác nhìn trần nhà, nhìn những đôi câu đối treo ở tường, nhìn những đồ đạc sơ sài, một cái bàn và bốn cái ghế lim, một cái gương đứng mờ và mốc loang lổ, một cái tủ gỗ để mộc, một bộ ghế ngựa làm bằng hai tấm gụ đặt ghép lại nhau. Và chàng quên hẳn không biết mình nằm ở đâu. Mãi lúc nhớ tới giấc mộng đương dở dang, chàng mới sực tỉnh. Thì ra hôm qua chàng đã về làng, đã gặp Tẹo, mà cái gác chàng đương ở là nhà chàng.
Văn mỉm cười, mắt nhắm lim dim, ước ao rằng giấc mộng lại nối.
Giữa lúc ấy, chừng nghe có tiếng động, và biết Văn đã dậy, Bé ẩy cửa bưng vào một cái chậu thau vừa đánh vàng bóng, nước đầy quá, sánh cả ra ván gác:
- Mời cậu rửa mặt rồi xuống nhà xơi cơm.
Văn chau mày, gắt:
- Cơm nước gì bây giờ? Mấy giờ rồi?
- Con không biết, nhưng mặt giời lên đã cao lắm.
Văn với áo vắt ở ghế, rút đồng hồ ra xem:
- ồ! Thế mà trưa thực! Gần mười giờ rồi đấy.
- Đấy nhé!
- Vậy sắp cơm mau.
Văn ăn rất vội vàng, rồi rủ Bé cùng đi sang nhà bà trương Mẫn xem thái thuốc.
Tẹo đương bận làm cơm ở nhà dưới, nên Văn không gặp mặt. Chàng ngơ ngác đứng đưa mắt tìm khắp mọi nơi.
- Cậu ạ, hôm nay nắng to thuốc nhà chú trương tha hồ tốt.
Bé nhắc, Văn mới kịp để ý đến cái sân gạch tối hôm trước hôm nay bị che kín dưới những xảo thuốc sợi còn xanh. ánh nắng gay gắt. Hơi thuốc nồng nực bốc lên. Văn, nước mắt ứa ra, đứng hắt hơi liền liền.
- Anh Văn sang mừng nắng nhà dì thực đấy à? Quý hóa quá nhỉ!
Văn chào được một câu rồi lại cúi xuống hắt hơi.
- Thôi, anh không quen thuốc lào rồi. Vậy mời anh lên nhà.
Văn theo bà trương đi vòng qua ba gian nhà ngang. ở đấy, trên hai đống thuốc vừa thái, ba người đàn ông và bốn đứa trẻ con đương đạp cho sợi nhàu ra, những dòng nước thuốc đen chảy xuống sân và gặp sức nóng khô lại từng đám.
Gần đấy và cả ở hiên nhà trên, những giá thái thuốc dài trông như hình những con bồ cạp khổng lồ đứng xếp hàng và rượn cong đuôi lên. Ngồi trước giá, những người thợ thái thuốc tay phải cầm vào giữa sống một con dao dài không chuôi và mềm mại nhịp nhàng đưa lên đưa xuống. Tay trái họ đẩy dần dần cuốn thuốc đặt trên giá và quấn lại như bó giò. Thỉnh thoảng người ta lại dừng tay hoặc để cởi giây lạt, hoặc để liếc lưỡi dao lên viên đá mầu lớn.
Bà trương trỏ một người bảo Văn:
- Chú ánh giỏi nhất khu đấy. Anh trông tay chú ấy thái có nhẹ nhàng không? Mà đây này...
Bà ta cúi xuống bốc một nắm thuốc xanh, nói tiếp:
- Một trăm sợi như cả một trăm, chẳng sợi nào to, sợi nào nhỏ.
Người thợ được khen không chút mừng rỡ hay cảm động mặt vẫn lì lì và đỏ bóng như mặt ông tượng ở ngoài chùa, tay vẫn đều đều như cái máy đưa lên đưa xuống.
- ồ! Anh Văn sang ăn cỗ mừng nắng nhà dì à.
Văn sung sướng quay đầu lại: Tẹo và hai người đàn bà nữa, mỗi người bưng đặt lên ghế ngựa và phản kê ở hai gian bên, một mâm gỗ sơn đầy thức ăn. Rồi lại đon đả chạy vội xuống nhà để bưng mâm khác.
Văn đứng ngây nhìn Tẹo bước đi lượn lại và cười khúc khích mỗi lần đến gần chàng.
- Cỗ to, cô Tẹo nhỉ?
- Gớm! Anh cứ chế nhà em làm gì thế?
- Ô hay, tôi chế đâu? Tôi khen đấy chứ!
- Cỗ nhà quan có gì mà to. Bì thế nào được với nhà quan lớn, bà lớn?
Lúc ấy một ông cụ già chống gậy trúc từ cổng đi vào.
- Kìa chào cụ xã. Cụ sang mừng nắng cho nhà cháu.
Cụ xã trừng mắt nhìn Văn:
- Cậu tú Văn đấy, phải không?
- Vâng thưa cụ, tôi sang mừng nắng.
Ông lão giọng cười yếu đuối xen lẫn tiếng ho sù sụ.
- Thế nào?... Đã xem thuốc chưa?
- Đã, tôi xem rồi.
Bà trương bảo Văn:
- Cụ xã Nhân hỏi anh đã xem thuốc của các ông phó để định thưởng cơ.
Văn ngơ ngác:
- Định thưởng?
- ừ định thưởng. Thế này này: Mỗi ông phó thái xong một cuốn thuốc mình lại bốc lấy một nắm sợi, rồi khi thái xong tất cả, xem người nào thái khéo nhất, mà nhanh nhất thì cho thưởng.
Văn mỉm cười:
- ồ, hay nhỉ! Thì ra tôi cũng được làm một khảo quan kia đấy!
Bà trương chẳng hiểu khảo quan nghĩa là gì, cũng trả lời liều:
- ấy, chính thế.
Rồi bà quay ra bảo bọn thợ:
- Thôi, các ông phó nghỉ tay xơi rượu đã.
Văn được mời lên cỗ cao nhất, cùng mâm với ba ông cụ già, râu bạc lưa thưa. Nhìn sang phản bên kia chàng thấy Tẹo và năm người đàn bà vừa ăn vừa chuyện trò huyên thiên. Chàng chỉ muốn nhập bọn với họ, vì ba ông lão ở mâm chàng như câm như điếc, chỉ nghĩ đến có ba việc gắp, nhai và uống rượu.
Văn vừa ăn cơm ở nhà nên hãy còn no, ngồi đưa đà nhắp chén và nhỏ nhẻ ăn vài sợi miến trong bát thịt lợn ninh.
- Anh tú làm khách quá!
- Không đâu, dì ạ. Tôi ăn khỏe lắm.
Rồi chàng đứng dậy vươn vai, vì mặc tây và ngồi xếp bằng, chàng thấy mỏi chân quá.
- Bà có đôi guốc cho tôi mượn?
- Thế nào? Thôi à! Anh xơi cơm đã chứ.
- Tôi đứng dậy một tí cho dãn xương dãn thịt.
Bà trương cúi xuống gầm bàn thờ kéo ra đôi guốc da trâu của chồng, rồi lấy vạt áo lau bụi cho bóng:
- Anh đi tạm đôi giầy của thầy nó nhé?
- Còn nói gì nữa!
Văn vờ ra đằng sau nhà một lát rồi lúc trở vào, đứng lại gần chỗ Tẹo.
- Cỗ to quá, cô Tẹo nhỉ?
Tẹo cười:
- Thôi đi anh! To đâu?
- Lại chả to? Bốn bát nấu với đầy những đĩa lại có cả cá bể, tôm bể, còn chả to thì thế nào mới to? Các bà không xơi rượu?
Cả bọn cùng phá lên cười. Tẹo nói:
- Chúng tôi đàn bà, con gái, ai lại uống rượu?
Văn vơ vẩn nhìn trời, bảo Tẹo:
- Chẳng biết tối nay trăng có sáng như tối hôm qua không nhỉ?
- Sao lại chả sáng. Tối hôm nay tôi sang làm giúp bên bác khán Thảo.
Văn sung sướng nhìn Tẹo cho đó là một câu hẹn hò. Nhưng Tẹo thẳng thắn hỏi:
- Anh có đến làm giúp bác khán không?
Rồi cười khanh khách nói tiếp:
- Đến, em hát cho mà nghe.
Văn đứng lặng nhìn Tẹo. Bỗng chàng rút đồng hồ ra xem. Tẹo tưởng chàng coi giờ để về nhà.
- Thì anh hãy ở đây chơi đã. Về làm gì vội?
Nhưng Văn thản nhiên nói một mình:
- Mới ba giờ, còn những bốn năm giờ nữa mới có giăng.

Luôn mấy tối Văn lần mò đến các nhà trong xóm xem rọc lá thuốc. Sự thực chàng tới đó chỉ cốt để được gặp mặt Tẹo, để được nghe Tẹo hát và cười và âu yếm gọi mình là anh Văn.
Tẹo thì mỗi ngày một xinh đẹp hơn, vui tươi hơn, chăm chú điểm trang hơn: vành khăn vấn rất tròn, mái tóc chải rất mượt, đường ngôi rẽ rất thẳng và chùm hoa mộc tối nào cũng thay mới phảng phất đưa hương thơm mới.
Có tối, hai người gặp nhau ở đầu ngõ hẻm. Văn bảo Tẹo rằng hãy còn sớm và rủ nàng đi dạo mát ngắm trăng. Tẹo chỉ đùa nghịch liến thoắng ở chỗ đông người. Một mình đi bên cạnh Văn, nàng bẽn lẽn, thẹn thùng cười nói nhỏ nhẹ. Sự yên lặng của Tẹo dưới ánh trăng yên lặng càng làm cho Văn say sưa ngây ngất tình yêu.
Thế rồi một đêm, Văn dỗ dành đưa Tẹo về nhà.

Đêm hôm ấy, ngồi bên người yêu nằm ngủ thiếp trong giường chàng cảm thấy hết cả cái vô lý của việc chàng làm, của cái cử chỉ, cái hành vi điên cuồng khốn nạn. Buồn rầu, chán nản, chàng ra cửa đứng ngắm trăng: trăng đã khuyết buông xuống cảnh vật một làn ánh sáng lạnh lẽo không linh hồn. Những ngọn cau như hàng phất trần lơ láo ngớ ngẩn đứng im chờ gió. Chung quanh, những nóc nhà lợp cói, lợp rạ, màu xạm, co ro, chen chúc, đứng sát nhau bên những mẩu tường đất cắm mảnh nồi vỡ, hay cành xương rồng bên những ao bèo, ao rau muống bẩn thỉu. Và chàng tự nhủ: "Trời ơi, cảnh này mà mình cho là đẹp được, thì mình thực trẻ con!".
Tiếng dệt vải trong đêm khuya đều đều một dịp mà mấy hôm trước chàng nghe rất cảm động, rất nên thơ, nay chàng chỉ thấy buồn tẻ, khó chịu. Cố nhớ lại những nét mặt các cô gái quê ngồi dệt trên khung cửi chàng như tưởng hiện ra trước mắt một bạn xấu xí, nhem nhuốc luộm thuộm.
Văn rón rén đến bên giường, vén màn đứng ngắm Tẹo. Cái đẹp mơ màng ngây thơ đã biến mất. Chàng chỉ thấy Tẹo giống hệt các cô gái quê khác, thô lỗ, đần độn, ngu ngốc. Cặp mắt mở, trắng dã như nhìn thẳng vào mặt chàng, cái miệng há hốc thở phì phò, một dòng nước bọt chảy từ một bên mép xuống khăn giải giường. Chàng cáu tiết gọi:
- Tẹo?
Tẹo vẫn ngủ thiếp, ngủ mê mệt. Văn cầm đầu lay mạnh, Tẹo ú ớ hỏi:
- Cái gì thế bu?
Văn phì cười.
- Dậy bu bảo.
Tẹo ngồi nhổm dậy bước xuống ván gác.
- Tôi ở đâu thế này nhỉ?
- Tẹo ơi, anh Văn đây mà!
Tẹo mới chợt nhớ ra, mếu máo bảo Văn.
- Thầy bu em mà biết thì em chết mất.
Văn động lòng thương hại:
- Nhưng thầy bu em biết thế nào được? Vậy em về nhé, chẳng nhỡ thầy bu biết.
Vừa nói, Văn vừa dúi vào tay Tẹo một tờ giấy bạc năm đồng:
- Năm đồng đấy chứ không phải một đồng đâu. Cất kỹ chẳng rơi mất nhé.
Tẹo thật thà, ngây thơ buộc tờ giấy bạc vào giải yếm rồi lẳng lặng ra cầu thang gác.
- Thôi em về anh Văn nhé!
- ừ em về.
Và Văn bĩu môi ghê tởm nghĩ thầm: "Nó chỉ thích tiền!"
Sáng hôm sau Văn đi Hà Nội sớm. Chàng vội vàng hấp tấp như đi trốn.
Và ngày hôm sau chàng quên hết, quên hẳn cảnh và người đã làm cho chàng trong mấy đêm có cái ảo mộng của tình yêu.

Nhưng hôm nay đọc bức thư quê kệch thực thà của Tẹo, Văn lại thấy hiện rõ ra những cảnh đêm trăng ấy, hiện ra với hết thảy những vẻ đẹp đã mờ. Và chàng mê man, say sưa với những kỷ niệm êm đềm đến nỗi mai sau, nghĩ tới cái tai hại của cuộc ái tình lãng mạn ngắn ngủi chàng mới biết hối hận và cái thái độ cái hành vi không quân tử của mình.
Văn thở dài, đọc lại bức thư không biết lần thứ mấy.
Tâm trí rối loạn chàng đọc buông miệng lại quên hết, những lời trong thư. Nhưng một hình ảnh hiện ra trước mắt chàng: Tẹo với cái bụng chửa. Tẩn mẩn và như làm một việc vô giác, chàng vừa đọc thư vừa cầm bút chì ghi vào mảnh giấy mấy câu tóm tắt: "Tẹo có thai, Tẹo xin tiền. Tẹo toan tự tử".
Một nụ cười ích kỷ... Văn tự nhủ thầm "Tự tử! Tự tử thế quái nào được! "Cái ý nghĩ xúi con xin tiền của người mẹ làm cho Văn đỡ hối hận: "Cho nó dăm chục bạc thế là xong. Việc gì mình phải loay hoay suy tính thêm bận trí? Danh dự, thì làm gì có danh dự. Những việc như thế này xảy ra hàng ngày nào người ta có hối hận bao giờ đâu".
Văn vò nhàu bức thư nhét vào túi quần đứng dậy thản nhiên đánh diêm hút thuốc lá.
- Được! Mai gửi ra cho nó năm chục bạc rồi xếp câu chuyện vào một xó.
Kim đồng hồ nhỏ để trên bàn chỉ mười hai giờ. Văn thay quần áo rồi lên giường tắt đèn ngủ.
Bóng hàng chắn song sắt in lên màu ren, in lên chăn trắng. Bây giờ Văn mới kịp nhớ ra rằng đêm có trăng. Bao sự êm đềm ngây thơ nơi thôn dã nhẹ nhàng thức dậy trong tâm hồn chàng, làm cho chàng rạo rực không nằm yên được. Chàng liền tung chăn, khoác áo tơi dạ đứng tì cửa sổ nhìn ra đường.
Một cái xe cao su buông mái kín mít chạy vụt qua. Văn tưởng tượng đó là xe đưa gái đi ăn sương. Và chàng so sánh ngay Tẹo với một cô gái giang hồ: "Hừ! Nếu Tẹo lảng vảng ra Hà Nội thì tránh thoát sao cái đời làm đĩ. Một cô gái quê nhí nhảnh như thế mà ham tiền như thế, nhất lại có chút nhan sắc như thế! Công tử bột nó chỉ tán qua một câu là mắc".
Nhưng Văn thấy mình là một công tử bột. Chàng ôn lại những câu đường mật chàng đã nói với Tẹo dưới ánh trăng trong. Và chàng nhận rõ những tội ác của mình: "Người ta đương sống với cái đời giản dị bình thường của người ta tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn nguyện lại bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn thì gọi là gì?"
Văn cố tìm những cớ, những hoàn cảnh làm giảm tội ác cho mình. Chàng nghĩ: "Nếu không xảy ra việc này thì Tẹo cũng đến lấy thằng Nghĩa. Mà thằng Nghĩa mình đã gặp. Sống trọn đời với một thằng ngu ngốc, bẩn thỉu, như thằng Nghĩa thì Tẹo cũng chẳng sung sướng. Ta chẳng nghe thấy Tẹo chê bai nguyền rủa thằng chồng tương lai của Tẹo là gì! Phải, biết đâu làm tình nhân mình trong mấy ngày, Tẹo lại không thích hơn làm vợ chính thức một thằng đần độn, suốt đời dài dằng dặc sống với nó trong gian nhà tranh tối tăm bên vũng bùn hôi hám. Và Văn nhớ lại câu ca dao mà Tẹo, được chàng âu yếm, đã thì thầm đọc bên tai chàng: "Một đêm quân tử nằm kề." Vế dưới Văn nghĩ mãi không ra, thành thử chàng cứ nhẩm đọc đi, đọc lại mãi vế trên.
Chàng bỗng chợt cảm thấy hết cả cái ý nghĩa mỉa mai đau đớn của chữ quân tử: "Quân tử, mình còn quân tử với ai được nữa?... Mình tiểu nhân, mình tiểu nhân!"
Văn thở dài đóng cửa sổ, lên giường nằm cố ngủ. Bức thư mà chàng đã đọc đến gần chục lần và tưởng không thể nhớ được, bây giờ hiện rõ ra trước mắt, hiện rõ ra với những nét chữ ngoằn ngèo lệch lạc.

Sáng hôm sau, mãi hơn chín giờ, Văn mới thức dậy. Thân thể chàng mỏi mệt nhưng tâm trí chàng bình tĩnh hơn. Việc thứ nhất chàng nghĩ đến là bức thư ở phủ Thống sứ mà chàng nhận được cùng với thư của Tẹo. Chàng có đệ đơn xin bổ tham tá nên người ta đã trả lời thiếu bản sao và cái bằng tú tài.
Cả buổi chiều hôm ấy, Văn bận việc đến nha học chánh nên quên nhãng được Tẹo. Nhưng buổi tối khi ngắm trăng lên chàng lại nhớ.
Bực mình chàng ra thuê xe đến chơi nhà một người bạn và cùng bạn đánh luôn bốn năm ván cờ cho mãi tới một giờ khuya mới về ngủ. Song có ngủ được đâu!
Luôn mấy hôm như thế Văn hết đi đánh cờ lại đi đánh tổ tôm, mạt chược. Nếu không thì chàng vào thư viện xem sách, xem tranh, nhất là xem tranh. Thực chàng chẳng khác con đà điểu đứng trước tai nạn chúi đầu xuống cát để khỏi trông thấy.
Cáu tiết, Văn liều: "Thì lỗi gì ở mình? Mà nếu có lỗi ở mình thì cũng ở nó một nửa. Hay chẳng lỗi ở ai cả, thủ phạm chỉ là cái tuổi thanh niên."
Và chàng hiểu rằng muốn tâm hồn được bình tĩnh, chỉ có một cách là quả quyết.
Tình thế này không thể để lơ lửng được. Rồi theo phép khấu trừ trong toán pháp - Văn đem hết các lẽ ra so sánh:
Trước hết lấy Tẹo chăng?
Văn mỉm cười không nghĩ tiếp nữa. Không thể lấy Tẹo được. Văn cho là một sự dĩ nhiên không cần suy tính lôi thôi nữa. Người vị hôn thê của chàng, tuy chàng không yêu nhưng chàng cho là một người vô tương lai rồi, chỉ việc cưới thôi. Mà cho dầu chàng nhất định không bằng lòng lấy người ấy, Tẹo cũng không thể kế chân được. Vì sao? Và một người như chàng không thể lấy một người như Tẹo được.
Vậy dù còn hai đường, một là giấu Tẹo một nơi để nàng đẻ xong rồi cho nàng ít tiền làm vốn, mặc nàng xoay sở lấy mà sống thế nào tùy ý. Hai là gửi ngay cho Tẹo năm chục bạc.
Giấu Tẹo một nơi. Văn thấy điều đó không ổn một tí nào. Con người há phải con mèo, con chó mà dễ giấu như thế. ở làng bưng bít sao cho êm. Vả muốn thuê nhà cho Tẹo ở Hà Nội thì tốn kém lắm, ít ra cũng phải có vài trăm bạc. Tiền ấy đào ở đâu ra? Xin nhà chắc là không được rồi. Đi vay thì vay ở đâu? Sau hết, rồi đời Tẹo sẽ ra sao? Tẹo làm nghề gì để nuôi sống thân mình và đứa bé? Văn chỉ trông thấy một lối ra: làm đĩ.
Chàng cố xua đuổi cái ý tưởng hắc ám ấy đi nhưng nó vẫn bám lấy trí nghĩ. Chàng như trông thấy đứa con chàng nay ở với người tình này của Tẹo, mai ở với người tình kia của Tẹo. Rồi lớn lên, không nghề nghiệp, không nhà cửa, nó sẽ trở nên một thằng ăn cắp, một thằng ăn mày ngồi ăn mày đầu đường xó chợ.
Văn vội nghĩ tiếp xuống cái ý định thứ ba: gởi cho Tẹo năm chục bạc và nói khéo với Tẹo rằng hãy chờ đợi ít lâu khi nào được bổ tham tá sẽ đón lên cùng ở với chàng.
Văn sung sướng đánh diêm hút điếu thuốc lá khác, tự cho rằng công việc xếp đặt được như thế là ổn thỏa lắm rồi, là hoàn toàn lắm rồi. Chàng mỉm cười. "Bà trương Mẫn tha hồ tấp tểnh mừng thầm nay mai con được lên làm bà tham. Nhưng rồi sao?..." Văn đương sung sướng nên cái ý nghĩ về tương lai ấy, chàng có kể vào đâu! "Hãy biết bây giờ gửi tiền về cho Tẹo, để Tẹo qua kỳ sinh nở, rồi sau muốn ra sao thì ra... Cùng lắm lấy nó làm lẽ, rồi bỏ lửng đấy cũng chẳng chết ai!".
Văn lạc quan đến nỗi cái vấn đề làng bắt vạ, chàng cũng giải quyết rất dễ dàng: chàng sẽ về nói với hội đồng hương tộc rằng Tẹo là vợ lẽ của mình. Nếu khó khăn quá thì đưa Tẹo sang làng bên ở trọ nhà một người tá điền của nhà chàng.
Văn thích quá cười thầm: "Có thế mà mình loay hoay bốn năm hôm nay không tìm ra". Rồi chàng cất tiếng hát vang nhà.
Đêm ấy Văn đánh một giấc ngon lành từ bảy giờ tối cho tới bảy giờ sáng hôm sau.
Nhưng số tiền năm chục Văn xoay mãi không sao có. Vả lại cái quả quyết của chàng một ngày một yếu đuối dần. Đến nỗi chàng bao bịa chàng trở nên bình tĩnh hẳn, bình tĩnh thản nhiên vì quá nhẹ dạ chứ không phải cái bình tĩnh giải quyết được ổn thỏa một vấn đề gay go.
Hơn tháng sau được tin bổ tham tá ở một tòa sứ, chàng về xin nhà được mấy trăm bạc để sắm sửa đồ đạc, có tiền trong tay, chàng nhớ đến Tẹo, liền đi về làng
Nhưng vừa tới đầu làng, Văn rụng rời kinh hoàng: người ta bảo cho chàng biết rằng Tẹo bị đòn mãi và sợ làng bắt vạ cha mẹ nên đã đâm đầu xuống ao tự tử rồi.
Bất giác Văn nức lên khóc, khiến một đám đông xúm lại tò mò đứng xem. Rồi chàng đi thẳng đến nhà bà trương Mẫn. Thấy bà ta vẫn vui vẻ như thường. Văn hiểu ngay rằng cái chết của Tẹo chỉ làm cho bà sung sướng được thoát cái nạn bị bắt vạ.
Văn ân cần xin lỗi bà Trương, kể lể các điều dự định để lấy Tẹo rồi đưa bà ta một trăm bạc. Mãi lúc ấy, bà Trương mới rỏ được một giọt nước mắt thương con.

Từ đó mỗi năm đến thời rọc thuốc, ở các sân gạch bát tràng, dưới ánh trăng trong người ta thường kể câu chuyện tình của Văn và Tẹo. Và người ta lại hát những câu Tẹo đã hát:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

34 . Hai con mắt

Ông Cửu Niệm ốm li bì đã gần hai tháng. Ông ta mắc một bệnh mà các thầy lang đều cho là bệnh mê sảng của những người già lẫn - tuy ông Cửu năm nay chưa đầy sáu mươi. Bệnh như không tăng mà cũng không lui. Đêm nào cũng vậy, cứ vào khoảng một, hai giờ khuya, ông Cửu lại ú ớ kêu la cầu cứu, khiến con cháu ông đều thức dậy, chạy cả đến bên giường. Vừa thở hổn hển, ông vừa thuật lại giấc mơ dữ dội: hai con mắt hiện lên ám ảnh ông, chăm chú nhìn ông, hai con mắt to như mắt hộ pháp lòng trắng dã và tròn, lòng đen đen nháy và vuông. Ông rên hư hư "ối giời ơi! Hai con mắt! Hai con mắt vuông!" Rồi cho đến sáng ông Cửu không sao ngủ được.
Một hôm ông gọi đông đủ con cháu đến bảo:
- Tao chắc đây là một việc báo thù hay một việc đòi của.
Ông Cửu như ngần ngại, sợ hãi, xấu hổ, nằm im lìm suy nghĩ, giương mắt nhìn thẳng lên đỉnh màn. Trong khi ấy, các con cháu ông yên lặng, lo lắng, kính cẩn đứng đợi. Về sau không giữ nổi, ông thở dài kể tiếp:
- Chúng mày hẳn không biết vì sao ngày nay tao có cái cơ nghiệp này, cha mẹ tao có để cho tao một đồng một chữ nào đâu. Cả người trong làng cũng vậy, thấy tao đương nghèo đói, - đói thực ấy - bỗng trở nên giàu có, làm nhà làm cửa, tậu vườn tậu ruộng thì họ cũng đoán và đồn rằng tao được của, thế thôi, chứ sự thực thì tao chưa hé ra với ai một lời nào. Nhưng sự thực thì chính tao được của. Ngày xưa, tao nghèo lắm, thường đi gánh thuốc lào thuê cho người hoặc làm bất cứ công việc gì để kiếm một ngày hai bữa cơm và vài tiền quý, có khi giời làm đói kém, chỉ được một ngày hai bữa cơm thôi cũng đã là may lắm rồi.
"Một hôm tao đào móng nhà cho ông chánh Thà. Lúc ấy về chiều tối, ai nấy đã nghỉ tay, sắp sửa ăn cơm. Nhưng tao còn đào chơi vài nhát thuổng nữa. Có lẽ giời xui khiến ra thế, vì có ai bắt mình làm đâu! Mà nào mình có làm việc cho mình cho cam!
"Bỗng giữa những tiếng giục giã: "Ra ăn rỗi, anh Niệm!" tao thấy chối tay và nghe thấy một tiếng cạch: lưỡi thuổng của tao vừa xiên xuống một vật rắn chắc như thành một cái tiểu sành vậy. Tao cúi xuống bới nhìn thì đó là một cái vật nhỏ đậy nắp mà nắp lại trát gắn bùn rất cẩn thận. Tao đồ rằng trong đó có vật quí nên lấp lại điềm nhiên đi ăn cơm với mọi người.
Đêm hôm ấy tao xin ngủ lại chỗ xưởng làm như thể là một sự rất thường mình vẫn ở làm thuê cho ông chánh, có khi trong luôn dăm ba bữa nửa tháng không về qua nhà. Tao chờ đêm khuya vắng đến chỗ móng đào bới đất moi lên được một cái vại chỉ bằng cái vại nén cà nhỏ ấy thôi. Nhưng mà tao bê thấy nặng quá. Nền nhà mới dựng vào một khu vườn rong: ông chánh Thà giàu lắm, đất ở thênh thang có tới vài mẫu. Tao đem cái vại của tao tới bụi chuối rậm, rồi mở nắp lấy hết những vật ở trong, gói vào rẻ rách giấu đi. Tao cũng không biết đó là những vật gì. Mãi hôm sau đem về mới biết là vàng, toàn những vàng thoi..."
Ông Cửu ngừng kể. Các con cháu vẫn im lặng đứng chờ, vì chưa thấy có liên lạc giữa hai con mắt vuông, với cái vại vàng chôn. Sau một lúc lâu, ông Cửu lại nói:
"Vậy tao chắc nay... nó đòi của. Nó theo tao, nó đòi của. Hai con mắt nó hiện ra, kia nó hiện ra kia - hai con mắt nó về để báo cho tao biết ... để báo cho tao biết rằng tao đã đến ngày tận số"
Ông Cửu nghẹn ngào như bị hai bàn tay vô hình bóp cổ. Người con cả ông an ủi.
- Thưa thầy, thầy được của là giời cho thầy. Của ấy là của giời. Nếu là của ông cha ông chánh Thà để lại thì sao ông chánh lại không biết gì, thì sao xưa kia ông ta lại không đả động tới mà các cụ tiền nhân cũng không báo mộng báo mù gì cho ông ta hay nhất là tại sao của ấy lại không lọt vào tay ông ta. Lại điều này nữa khiến con tin chắc chắn rằng giời dành của ấy cho thầy: là tại sao thầy lại tìm thấy cái vại để vàng giữa lúc nghỉ việc? Nếu thầy đào được sớm hơn, vào buổi sáng hay buổi trưa chẳng hạn, thì có phải đã ầm ĩ lên và ông chánh đã nhận mất vàng rồi, còn đâu. Không, con dám quả quyết rằng của ấy là của giời chứ không phải là của tổ tiên ông chánh. Của giời dành cho thầy. Vì thuở xưa hay kiếp trước thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông Cửu mỉm cười nhắc lại: "Thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm?". Ông nghĩ đến những việc ông đã làm: nào cho vay nặng lãi, nào trữ thóc gạo lại không bán làm cho giá cao lên trong khi bao nhiêu người chết đói, và ông lẩm bẩm: " Hay đó là hai con mắt của bọn ấy đến đòi mạng đến bắt mình phải đem mạng mình ra mà thế mạng". Nhưng ông nghĩ tiếp ngay - vì trong khi ốm tinh thần ông sáng suốt khác thường: "Nếu là mất của chúng thì sao hai con mắt ấy lại lạ lùng thế. Sao lòng đen lại vuông, lại to thế? Không, chắc đây là mắt thần".
Tự nhiên trong tưởng tượng của ông, một vị thần hiện ra trần truồng ngồi trên bệ gạch, một vị nữ thần miệng gắn nhựa trám và hai con mắt to thao láo lòng trắng tròn, lòng đen vuông. Rồi pho tượng biến dần biến dần, chỉ còn lại hai con mắt đăm đăm nhìn ông. Ông lại la: "Giời ơi! Hai con mắt! Hai con mắt vuông!" và lắc đầu xua tay đuổi cả con cháu ra ngoài phòng.
Mấy người con bàn nhau về căn bệnh cha. Họ đoán có tiền căn nghiệp chướng chi đây. Họ liền mời các vị cao tăng đến lập đàn ba ngày ba đêm ở sân để tụng kinh, giải ách cho cha. Đêm thứ ba, cúng chúng sinh: một nhà sư tốt giọng hát bài ca chiêu hồn để gọi linh hồn chúng sinh về nghe kinh phật, trong bọn có đủ các hạng khốn nạn, cùng khổ trong loài người.
Nào những kẻ sa cơ, lỡ bước...
Bỗng ông Cửu kêu rú lên một tiếng rồi ngất đi.
Và ông mơ thấy ông đi trên con đường nắng, chân mỏi, bụng đói. Hai bên đường lúa mọc xanh rờn, người làm việc đông đảo. Họ hát những câu ca dao mà ông cũng thuộc và những khi đi gặt hái ông thường hát.
Tới một cái miếu con ẩn trong bóng cây đa um tùm, ông dừng chân ngồi nghỉ. Một tia hy vọng vụt chiếu rọi vào mắt ông: ông vừa trông thấy kê trước cửa miếu một cái nia đầy những xu và trinh... Ông đưa mắt nhìn quanh: không một ai. Mấy nén hương cắm trên một thẻ vàng tỏa mùi thơm lạnh lẽo và càng làm tăng phần tĩnh mịch nơi miếu vắng. Ông tự nhủ thầm: "Mình chỉ việc đưa tay ra bốc một nắm bỏ túi là sẽ có cơm ăn, là sẽ không chết đói". Và ông đưa tay ra thực. Nhưng ông lại rụt tay lại, tưởng như có ai ghé mắt đâu đó đứng nhìn. Ông nghĩ đến câu chuyện Mường, chuyện Thổ, những chuyện ma xó giữ nhà: mình vào nhà lấy trộm vật gì trong khi chủ đi vắng; con ma sẽ đọc tên vật ấy lên rồi nó theo dõi mình mà bóp cổ cho mình chết. Tự nhiên, ông rùng rợn, dựng tóc gáy, vội vã bỏ đi.
Đi được một quãng, ông lại quay về cái nia tiền. Ông định bụng cứ lấy một ít đi ăn cơm rồi chết thì chết cũng cam lòng. Chết còn hơn đói. Giữa lúc ấy một người đi đến. Ông sợ hãi nấp vào sau gốc đa. Người kia thản nhiên qua miếu, và ông nghe thấy hắn ném vào nia một đồng trinh. Chờ cho hắn đi khỏi, ông lại nhô ra, đến bên cái nia, đăm đăm nhìn. Nhưng vẫn không sao dám nhặt vài đồng trong nia tiền... của thánh. "Của thánh... lấy, tội chết, thánh quật chết!" Ông Cửu Niệm thì thầm. Rồi quả quyết đi thẳng.
Một quãng xa, ông gặp trên con đường rẽ vào một cái chợ đương họp, một chị ăn mày ngồi phục bên một cái rổ, một cái gậy, và ngước mắt trắng đục nhìn trời, miệng kêu than như ca hát: "Con người thì có, con mắt thì không...". Trong rổ có hai đồng trinh. Mắt ông Cửu như dán vào đó. Ông đứng im một hồi lâu, tai như lắng nghe câu van lơn của người ăn mày. Nhưng sự thực ông đương nghĩ thầm: "Nó mù! Nó mù! Nó không trông thấy mình.. Quanh đây không một ai.." Và ông cúi xuống, lẳng lặng cúi xuống, rón rén nhặt hai đồng trinh thu vào trong bọc.
Rồi ông hấp tấp chạy, như sợ người mù đuổi theo. Ông vào chợ mua bát cơm đầy, ăn ngốn ngấu. Ăn xong, ông quay về con đường cũ. Qua đầu đường, ông vẫn thấy người ăn xin ngồi nguyên chỗ, và trong rổ của nó hai đồng trinh vẫn còn. Ông mừng thầm tự nhủ: "Thì ra mình mơ thấy mình lấy hai đồng trinh của nó. Kỳ thực mình có lấy đâu?"
Tới miếu cũ, ông ngắm lại cái nia. Lạ lùng chưa! Bao nhiêu trinh trong nia đã sắp thành từng đôi một. Và chỉ trong một giây biến thành những cặp mắt. Những cặp mắt ấy to mãi ra, to mãi ra và trừng trừng nhìn thẳng vào mắt ông, những cặp mắt lòng trắng tròn, lòng đen vuông. Cùng một lúc, tiếng ăn mày cất lên tứ phía, giọng nghe thê thảm: "Lạy ông lạy bà, ông bà thương con, con người thì có, con mắt thì không". Rồi bao nhiêu cặp mắt vuông bay tới tấp vây chặt lấy ông Cửu...
Ông kêu thét lên: "Giời ơi! Hai con mắt vuông!" Rồi ông tỉnh mộng.
Ngoài sân, tiếng nhà sư đọc bài chiêu hồn chúng sinh giọng trầm bổng như kẻ ăn mày kêu đường. Ông Cửu thở hổn hển, rồi lại ngất đi.
Sáng hôm sau, ông gọi các con đến dối dăng:
- Cha nhiều tội lắm. Cha ở ác với rất nhiều người, nhưng với hai con mắt... với hai con mắt vuông ấy thì cha chết mất. Đó là hai con mắt thịt, hai con mắt trần, chứ không phải mắt thần, mắt thánh nào cả như cha vẫn tưởng nhầm. Ngày ấy ... đã lâu lắm... Nhưng mà thôi, đã có các con chuộc tội cho cha. Ngay hôm nay các con rao mõ rằng luôn năm hôm cha phát chẩn cho những người đói khó trong khắp vùng này. Mỗi người các con cho một bát gạo với hai đồng trinh. Hai đồng trinh, các con nhớ chưa? Đó là cha trả nợ, còn bát gạo là cha trả lãi.
Chiều hôm ấy, ông Cửu nghe tiếng mõ rao, và biết rằng các con ông sẽ làm theo lời ông dối lại. Ông sung sướng mỉm cười trong giấc ngủ cuối cùng. ông chắc chắn sẽ thoát khỏi sức áp bách, sức thôi miên của hai con mắt vuông.

Khái Hưng

Xuân 1940
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

35 . Lời Nguyền

Đồ sộ, chót vót trên đỉnh đồi cao, đồi Vụ-bản hách dịch nhìn xuống con đường đá nối Nho-quan với Hòa-bình. Trên một quả đồi đối diện và thấp hơn, khu trại giam chính trị phạm náu mình trong hàng dậu dầy nứa nhọn và hai hàng cọc chăng giây thép gai. Phía dưới là một cái thung lũng nhỏ với con sông Vành quanh co uốn éo như con rắn dài vặn khúc bạc lướt mình trong cỏ hoang, rừng rậm. Bên kia sông là phố và chợ Trào, dăm chục nóc nhà vừa lợp ngói vừa lợp tranh quây vuông lấy bốn cái quán gạch trống rỗng.

Xa xa về phía tây nam, dẫy núi Hoàng-Sơn sừng sững như một bức tường thành kiên cố đứng ngăn. Buổi sáng nó chìm biến vào trong sương dầy trắng đục, buổi chiều nó lờ mờ trong sương lam bốc lên như khói. Buổi trưa nó lấp lánh ném ánh bạc của những cây ngân diệp mọc bên sườn. Về phương đông bắc, và chỉ xa chừng dăm cây số, một quả đồi cao và dài đứng án ngữ như một bức bình phong. Quanh đó những núi đá trắng và đen mọc lởm chởm với những hình thù cổ quái. Còn phía tây bắc là những đồi rậm liên tiếp, những rừng sâu, cỏ sắc bao vây lấy từng khu ruộng nhỏ hẹp và dài.
Vùng ấy hằng ngày yên ngủ để chờ đợi những hồi kèn rời rạc báo giờ từ vòm đồn tỏa xuống. Cả những hôm phiên chợ tấp nập, nó cũng yên lặng buồn tẻ với những người Mường ít cười ít nói : Họ lững thững gánh gạo, gánh măng, gánh lợn, gà, vịt, ngỗng ra chợ bán, rồi lại lững thững trở về làng với một ít muối và các thức đồ dùng của người Kinh đem từ vùng xuôi lên. Họ như chán nản, chả buồn mặc cả nài giá bao giờ.
Cái trạng thái u huyền giữa một cảnh thiên nhiên hùng vĩ khiến Khanh, một tù nhân chính trị, tưởng tượng ra một thần bí gì rùng rợn ngày đêm bay lượn trên không để đe dọa vùng này. Một hôm vác ống bương ra suối lấy nước, y ngỏ ý nghĩ đùa bỡn ấy với người lính kèn. Thì kinh ngạc xiết bao, người kia hãi hùng se sẽ đáp lại :
- Phải, một lời nguyền.
Người lính cũng chỉ thốt ra một câu vắn tắt. Rồi như khiếp sợ một cái gì có thể sắp xảy tới, y im bặt.
Đêm hôm ấy trong khi nằm lịm trên giường lát nứa, nghe bài kèn tám giờ, Khanh lại liên tưởng đến người lính kèn và câu chuyện đương tò mò khao khát muốn biết : Một lời nguyền ! Bài kèn buồn rời rợi với những âm thanh trầm trầm như những lời ai oán của lòng người sau bao phen uất ức ! Hay đó là lời nguyền đêm đêm lên tiếng làm vang động làn không khí âm u nơi đồi núi ?
Tà tà ta ta tí a ta ta…
Lời nguyền của những kẻ bỏ xác nơi ma thiêng nước độc chốn sơn lâm ? Mới tuần lễ trước Khanh đi đưa một người bạn giam đến nơi yên nghỉ cuối cùng : bên sườn đồi dưới bóng một cây lao xao cành lá rườm rà luôn luôn thì thào lời oán trách trong gió thoảng qua. Trong đám dân Kinh bên phố, cũng như trong hàng ngũ binh lính bên đồn và anh em chính trị trong trại giam, thỉnh thoảng lại một người từ giã cõi nhân gian sau những cơn nóng sốt rét mê sảng. Phải chăng họ đáp lại tiếng gọi thiêng liêng của một lời nguyền độc địa tự đời nào vang lại ?
Hồi kèn đã dứt. Từ đó, trong tiếng thanh sắt trên đồn, tiếng mõ tre ở các điếm canh, Khanh đều cảm thấy có liên can tới cái lời nguyền ghê gớm nào đó của người xưa. Qua kẽ rào nứa, một vài chấm lửa bên sông còn le lói, lập lòe. Đó là những dấu hiệu mong manh của sự sống trong một vùng như chết lịm dưới màn sương. Khanh ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Và y mê thấy con thành đanh đỏ mỏ từ trên trời cao bay sả xuống mổ vào ngôi mộ người bạn đồng trại, chơ vơ bên sườn đồi dưới bóng cây lao xao ủ rũ.

oOo

Nhưng câu chuyện “Lời nguyền” một hôm Khanh đã được người lính kèn thuật lại cho nghe trong cái lều canh lúa của người Mường.
Sáng hôm ấy, ra tới suối, Khanh thấy hiện ra một cảnh tượng rất nên thơ : Bên kia dịp cầu tre, trong một khu ruộng khô đất nhỏ, sáu cô Mường, áo trắng xiêm dài xanh đương chậm rãi gieo ngô. Từng đôi, người đi trước cầm cây hóp uể oải chọc xuống đất một lỗ, người theo sau uể oải bỏ rơi vào đó một hạt ngô. Họ đi thong thả, làm việc rời rạc như biểu diễn trên sân khấu cho khán giả ngắm nghía cái điệu bộ nhịp nhàng của họ. Ngồi trên lều cao, hai chân quấn xà cạp đá đưa đánh dịp, Chín-bảy – tên gọi tắt con số 1297 của người lính kèn – đương phùng má thổi bài “la mát”. Xúm chung quanh y, trên các bực thang bốn cô Mường lắng tai kính cẩn ngồi nghe.
Thấy Khanh đến gần, Chín-bảy vội rời cái kèn bước xuống đón tiếp, vẻ mặt rạng rỡ, dáng bộ dương dương đắc chí như một con gà sống giữa đám gà mái tơ vậy. Trong khi hai người nói chuyện, các cô Mường chỉ mỉm cười yên lặng đứng nhìn. Hỏi câu gì các cô cũng làm thinh không đáp. Chín-bảy bảo Khanh :
- Các nàng chỉ biết có hai việc : cười và hút thuốc lào. Rồi anh xem!
Quả nhiên lúc y đi lấy một cái điếu cầy lớn đem ra bỏ thuốc đánh diêm hút, tức thì mười cô đều bỏ việc cười rú lên, chạy ùa lại. Họ xếp thành một vòng tròn, lần lượt truyền cho nhau cái điếu cầy miệng rộng che kín nửa mặt mà rít từng hơi dài. Hết mồi thuốc ấy thay mồi thuốc khác, cái điếu đi vòng tới vài chục lần và bao diêm đánh đã gần cạn. Và cô nào cô ấy ngây ngất mỉm cười đầu lảo đảo.
Khi các cô nàng lại quay về với công việc gieo ngô của họ, Khanh theo Chín-bảy lên lều ngồi nói chuyện, và vui vẻ hỏi đến việc gia thất của người bạn quân nhân.
- Tôi đã có vợ ở vùng xuôi, y đáp, nhưng thế nào rồi tôi cũng phải lấy một người vợ nữa ở trên này.
Và y thêm : “Cũng như phần đông anh em ‘ nhà binh’ ở đây. Đó là một việc bất đắc dĩ ”.
- Việc bất đắc dĩ ? Khanh hỏi, nghĩa là không được phép đưa vợ con ở vùng xuôi lên đây ?
-Không phải không được phép, nhưng vì đã có lời nguyền.
Khanh bỗng thấy rùng rợn. người lính kèn lại nhắc tới “lời nguyền” ghê gớm. Chưa kịp hỏi thêm thì Chín bảy đã đưa mắt âu yếm nhìn theo các cô nàng áo trắng xiêm xanh hoạt động dưới trời thu mà kể cho bạn nghe câu chuyện tương truyền trong hàng đội ngũ.
Ngày xưa, thời còn chưa chịu phục tòng người Pháp, dân Hòa-bình chỉ vâng theo mệnh lệnh của các quan lang; người Kinh cũng ít khi lên vùng này buôn bán. Để bắt buộc dân Mường phải theo pháp luật của mình và đóng các thứ thuế như dân Trung châu, một mặt người Pháp đưa những ông quan lang có thanh thế nhất trong các họ lớn, như họ Đinh, họ Quách ra làm chánh quan lang hay tuần phủ đứng cai quản tình Hòa-bình, một mặt họ lập nên những đồn binh kiên cố ở khắp các yếu điểm trong địa hạt với những toán lính khố xanh Trung Châu không biết tiếng Mường, không thuộc phong tục Mường. Mục đích của họ là để đàn áp dân Mường và để tránh sự thân thiện giữa nhà binh và dân bản xứ.
Đồn Vụ-bản là một trong những đồn binh kiến thiết theo chương trình thống trị. Nó án ngữ con đường Nho Quan – Ninh Bình. Và đóng giữa giang san họ Quách, nó lại có thể kiểm soát những hành động của những ông quan lang có oai quyền ấy.
Với những nhiệm vụ to tát như thế, viên quản mà người Pháp tín nhiệm cho về coi đồn, ta có thể tưởng tượng hách dịch đến bực nào.
Có một ông, ông quản Tăng, không những hách dịch mà còn bệ vệ và ăn ở hành động theo lối Âu Tây y như một quan binh Pháp vậy. Y nằm giường Hồng kông, ăn cơm tây. Lúc nào sang phố y cũng đóng trào phục mới với hàng huy chương rực rỡ trên ngực. Tay y cầm roi da, quay tít, miệng y huýt sáo một điệu âm nhạc nhà binh. Một con chó tây kếch sù đi bên cạnh y; gặp nhà nào quen thuộc của chủ nó là nó chạy sồng sộc vào khiến lũ trẻ hết cả hồn vía bảo nhau:
“Quan quản !”
Quan quản ! Tiếng ấy oai vệ như tiếng quan Sứ ở tỉnh vậy. Quan quản là chúa tể vùng này. Quan châu, một quan lang, đối với y, chỉ như một công chức bản xứ đối với quý quan. Bao nhiêu công việc trong đại đều ở trong tay quan quản : như thu thuế thợ, thuế đò, thuế thân, thuế điền. Quan châu chỉ là một người giúp việc.
Nhưng tiếng “quan quản” hình như cũng chưa vừa lòng y. Một hôm, người ta không hiểu vì đâu, tiếng ấy bỗng đổi ra “quan đồn” rồi cứ theo đà ấy, chẳng bao lâu nó lại biến chuyển thành “Cụ lớn”.
Cụ lớn hét ra lửa ! Bao nhiêu là môn hạ ! Suốt ngày thì thọt trong đồn những kẻ nấp bóng Cụ lớn. Thôi thì chẳng thiếu gì lễ lạc, tết nhất, mùa nào thức ấy. Dùng không hết, “Cụ lớn” phân phát cho binh lính.
Về nhận chức mới được hai tháng, quan quản đã lấy một cô nàng hầu người Kinh con một thương gia có tiếng bên phố chợ. Rồi cách đó nửa năm quan lại kén luôn một lúc hai cô nàng hầu người Mường nữa.
Cái việc lấy nhiều vợ ấy cũng không tốn kém gì cho quan vì họ đều là con nhà khá giả. Có một điều khiến họ lo lắng sợ hãi mỗi khi tưởng tới là chẳng chóng thì chầy thế nào bà lớn quản cũng lên đây thăm chồng. Lúc bấy giờ nếu cái tin vợ nọ con kia đến tai bà, thì liệu bà có để cho yên không. Mà cứ theo lời huyên truyền và lời nói úp mở của quan quản thì bà là con nhà thế gia đại tộc. Ông thân sinh ra bà làm tổng đốc và đã hồi hưu. Người ta khen : “Thực là môn đăng hộ đối !” vì quan quản nghe đâu cũng là con một vị đường quan. Y thường kể chuyện thời niên thiếu của y cho mọi người nghe. Nhà y giàu sang và y rất được chiều chuộng. Mới mười hai tuổi y đã cưỡi ngựa, bắn súng, và chỉ thích có một nghề binh. Vì thế lớn lên y đã bỏ học để nhập ngũ “làm quan quản” chơi. Bao giờ đến đoạn này y cũng thêm: “Làm quan văn thì biết bao giờ lên đến ngũ phẩm, thế mà làm quan võ tôi mới ngoài ba mươi tuổi đã chánh tam rồi !”
Có lần y tưởng tượng ra cả một thiên tiểu thuyết để tả cái gia thế nhà y, bịa đặt ra những nhân vật đẹp đẽ và các phương diện ăn chơi hào phóng hay đạo mạo nho phong. Người được y tả tỉ mỉ chu đáo nhất là cụ cố và bà lớn. Cụ cố là một hưu quan chỉ thích đánh tổ tôm và uống chè tàu. Cụ ở trong một cái nhà lầu kiến trúc kiểu tây. Trước mặt là cái vườn hoa trồng đủ các thứ hoa quý và lạ. Trên giàn thì treo đủ các thứ phong lan đi kiếm từ các miền thượng du đem về. Còn bà lớn thì tính rất tốt rất rộng lượng, để mặc quan lớn muốn yêu ai thì yêu. Một mình bà lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng thượng đẳng điền, người ăn người làm tấp nập quanh năm, nên không rảnh rang mà lên thăm quan được. Nào đã hết đâu, quan lại còn có một người em trai đã đậu tú tài tây và đương theo học trường Luật và một người em gái nhan sắc tuyệt trần hiện còn đương kén chồng. Tóm lại nhà quan lớn là một nhà danh giá và sung sướng vào bực nhất ở Bắc Hà.

oOo

Một buổi sáng người ta thấy đến phố chợ Trào một ông già râu tóc hoa râm và một người đàn bà vào chạc ngoài ba mươi tuổi. Cả hai đều y phục quê mùa, ông lão mặc cái áo cánh đũi nhuộm vỏ xó và một cái quần nâu sắn cao đến đầu gối, người đàn bà mặc áo tứ thân mầu nâu bã với miếng đổi vai bằng lụa thâm, một cái váy chồi nhuộm bùn và một cái yếm trắng cổ xẻ với hai giải màu hoa hiên đã cũ.
Họ hỏi đường sang đồn, xuống phà qua sông, khó khăn nặng nhọc leo cái dốc cao, gồ ghề. Được một quãng ông già lại đặt cái tay nải nâu xuống ngồi hổn hển và thì thầm nói chuyện với người kia. Đứng trên vòm canh, người lính gác nhìn theo họ và nghĩ thầm : “Lại một ông già và một mẹ đĩ lên thăm con thăm chồng”.
Đương gò lưng leo nốt đoạn cuối cùng của cái dốc dài tưởng không bao giờ đến đỉnh, thì hai người bỗng dựt mình vì một tiếng hô lớn từ trên vòm chòi ném xuống. Họ ngửng đầu sợ hãi nhìn lên.
- Hai người nhà quê hỏi ai?
Không phải vì hai người kia ăn mặc quê mùa mà người lính gọi họ là “nhà quê”. Đối với quân đội, vì thói quen bắt chước người Pháp, chỉ có ba hạng người Việt Nam : nhà binh, nhà pha, nhà quê. Những người không phải nhà binh và nhà pha đều là nhà quê. Vì thế , một thiếu nữ y phục tân thời, nếu nghe một chú lính canh kêu là “nhà quê” thì đừng nên lấy làm lạ và phật lòng.
- Thưa thầy, chúng tôi vào thăm ông quản.
Người lính hỏi lại để chữa câu nói hỗn của bọn nhà quê :
- Vào hầu quan có việc gì ?
- Bẩm chúng tôi là người nhà.
Chú lính canh cho người vào trình quan. Một lát sau người này ra cổng hách dịch quát :
- Người nhà thế nào mới được chứ ?
- Bẩm bẩm tôi là… tôi là… Người đàn bà thấy ông lão ấp úng lúng túng liền đỡ lời:
- Thầy vào trình hộ rằng có ông cụ và người đàn bà ở nhà quê ra thăm.
Người lính gắt :
- Ông cụ ! Nhưng ông cụ có họ hàng thế nào với quan ?
- Thưa ông cụ… sinh ra quan, còn tôi là vợ…
Người lính hơi có vẻ sợ hãi vội vàng quay vào đồn, thì vừa gặp ông quản đứng trong sân ngó nhìn ra hỏi:
- Hai bố con lão nhà quê đến xin gì thế chú ?
- Bẩm, bẩm quan…
Người lính không dám nói dứt câu.
- Đuổi cổ chúng nó ra !
Câu quát tháo to quá khiến ông già và người đàn bà cũng nghe thấy. Và nhân lúc cổng đồn mở, họ xông vào trong sân. Thấy thế viên quản liền thét :
- Bọn nhà quê kia đi đâu ? Có biết nơi này là gì không mà dám xông xáo hử ? Mất đầu như chơi biết chưa ? Tống cổ chúng nó ra !
- Tăng ! Anh Tăng !
Ông già và người đàn bà chỉ kêu được một tiếng thì đã bị hai người lính ẩy bừa ra khỏi cổng đóng sập cánh cửa lại.

oOo

Ông lão già và người đàn bà lại lủi thủi xuống dốc. Họ cùng uất ức đến cực điểm nên không ai nói với ai một câu, cả hai cùng chôn sâu nỗi căm hận trong lòng
Ở chân đồi, ngay bên sông, có một ngôi đền thờ Mẫu. Người đàn bà mua vàng hương vào lễ, quỳ khấn rất lâu, thì thầm kể lể hết nỗi niềm tâm sự với Mẫu. Khi ra đường nàng thấy bố chồng vẫn ngồi y nguyên một chỗ, mắt đỏ ngầu đăm đăm nhìn giòng sông chảy mạnh, quay nhanh cái guồng nước sừng sững in lên nền trời trong.
- Thôi đi về, thầy !
Ông già thong thả đứng dậy. Nhưng ông đi rẽ xuống ruộng chứ không qua phà. Ông bảo con dâu:
- Tao không muốn gặp người lái phà, vì tao đã trót bảo cho nó biết tao là bố thằng Tăng.
Người đàn bà cũng lẳng lặng đi theo ông. Hai cha con men bờ ruộng sang một khu rừng lao xao, qua một cái cầu tre bắc trên suối, rồi đến ngồi nghỉ ở một bãi cát sỏi bên sông. Sau trận mưa to đêm hôm trước nước nguồn kéo về chảy ào ào như thác. Những thân cây từ rừng đổ về nổi lềnh bềnh và bị giòng nước phăng phăng cuốn đi.
- Dẫu sao thì cũng ăn nắm cơm cho đỡ đói đã thầy ạ.
- Mày cứ ăn trước đi. Tao không đói.
Ông già đứng lên, ra sát bờ sông đứng vịn vào một thân cây lao xao. Bỗng ông nghiêng nét mặt dữ tợn nhìn giòng sông, thốt lời nguyền độc :
“Từ nay đứa nào còn lên đây thăm chồng thăm con thì chết như thế này”.
Dứt lời ông gieo mình xuống sông tự tử. Và thân ông cùng với các thân cây, bị nước nguồn vô tình cuốn đi…
oOo
Từ đó lời nguyền vẫn thiêng. Những người cha, người vợ lên đây thăm con, thăm chồng, khi trở về đều ốm nặng rồi chết.
Và những binh lính trên đồn, những dân Kinh bên phố đều sống dưới sự đe dọa và sự thực hiện của lời nguyền.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

36 . Tống tiền

Đêm khuya. Sau cuộc tổ tôm, bữa cháo gà thết khách đã hầu tàn.
Đồng hồ rè rè buông hai tiếng, rời rạc, mỏi mệt như hai cái ngáp dài. Một bà bé nhỏ, gầy gò, ngước nhìn, cặp mắt lộ sợ hãi:
- Chết chửa! Hai giờ!
Bà ta thuật cho mọi người nghe một vụ vào nhỏ ra to cách đây chỉ độ nửa tháng, thuật rành rọt có đầu có đuôi và tỉ mỉ từng li từng tí, làm như những người kia toàn là khách xa lạ mới tới, không ai biết chuyện gì trong cái thành phố nhỏ hẹp yên tĩnh của bà.
Tiếp lời người đàn bà, một ông rồi lại một ông kể sang những chuyện khác, toàn chuyện trộm cướp, tống tiền, báo thù. Chuyện quân gian phi đem thực nhiều pháo đến mừng tuổi Tết để lấp tiếng phá phách và tiếng kêu gào cầu cứu. Chuyện bọn cướp theo và chẹt cổ người đánh bạc về khuya giữa lúc người ấy ngủ gà ngủ vịt đứng đợi mở cổng. Chuyện người con dắt cướp về nhà cha mẹ vì không xin được tiền để chơi bời.
Mọi người như đều tỉnh hẳn ngủ. Riêng một bà từ nãy vẫn ngồi im chăm chú nghe chuyện. Mặt bà ta không hề đổi sắc, không tỏ vẻ kinh dị hay bực tức, hay thương hại. Bà ta đã nổi tiếng, trong khắp các phố, là một người lãnh đạm, ít nói, ít vui. Cặp mắt bà ta như không có tinh thần, cái miệng cười nhạt nhẽo, mái tóc điểm bạc đã trở nên màu chì, tuy năm nay bà mới trong vòng bốn mươi và người trông lại còn trẻ lắm. Hình như sau ngày chồng bà ta bị tống tiền hụt, bà ta sinh ra như thế: có lẽ vì bà ta sợ hãi quá.
Chồng bà ta, ông hàn Năm, là một nhà cự phú, nhờ về cho vay lãi hơn là nhờ về buôn bán mà trở nên có bạc vạn. ở vùng, ai ai cũng biết ông ta là một người keo bẩn, ít giao du. Ngoài cái thú làm giàu dễ ông ta không còn cái thú gì khác nữa.
Hai người lấy nhau không phải vì tình, điều ấy đã cố nhiên, nhưng cũng không phải vì môn đăng hộ đối: nhà chồng mấy đời theo nghề lái trâu, còn bà vợ là con một ông quan võ cuối thời vua Tự Đức, đã nhiều phen đương đầu chống cự với binh nước Pháp... Họ lấy nhau chỉ vì người bố chồng thấy ông đề đốc có nhiều tay môn hạ ăn chơi ở rải rác khắp vùng nên xin kết thân gia để đỡ mối lo sau này.
°
° °
Trong khi ai nấy đua nhau mắng nhiếc thằng con bất hiếu, bà hàn chỉ mỉm cười, cái mỉm cười bí mật và chua chát nữa. Rồi bà ta nói:
- Biết đâu trong câu chuyện dắt cướp ấy lại không có nhiều ủy khúc mà người ngoài không trông thấy, không đoán biết được. Phải, biết đâu không vì lòng hiếu thảo mà người con kia đã dắt cướp đến nhà cha mẹ?
Tiếng cười phá lên:
- Vì lòng hiếu thảo?
- Vâng, biết đâu!
Chờ cho im hẳn huyên náo, bà hàn bình tĩnh, thản nhiên kể:
- Tôi biết một câu chuyện ly kỳ có lẽ chẳng kém gì chuyện người con dắt cướp về nhà cha mẹ. Chuyện có thực, vì chính tôi biết nó thực, vì vai chủ động trong truyện, là bạn tôi, một người bạn thân của tôi. Người bạn ấy không giấu giếm tôi một tý gì, thuật lòng đầu tuyệt vĩ câu chuyện cho tôi nghe. Trong bao năm tôi giữ bí mật những lời bạn thú với tôi - vì đó chính là những lời thú tội. Nhưng nay tôi có thể không cần phải giữ kín nữa. Người có liên can tới việc ấy nay đã... được tha về...
Bà hàn cúi mặt suy nghĩ. Mọi người lắng tai chờ nghe. Bà hàn thoắt ngửng lên mỉm cười:
- Đây, câu chuyện thế này: vợ chồng người bạn tôi buôn bán ở một tỉnh nhỏ, nhà cửa vào bực giàu có. Người chồng hơi chặt chẽ. Người vợ, trái hẳn, lại có tính rộng rãi. Nhưng quyền bính trong nhà ở cả người chồng. Người vợ chẳng được dúng tay vào một việc quan hệ: cần tiêu món gì phải xin người chồng chi cho từng đồng, từng hào. Vả bạn tôi cũng không thiết từng công việc làm giàu làm có, chỉ thích được nhàn rỗi mà đánh tổ tôm, cùng đọc truyện, truyện Tam quốc, truyện Chinh đông, Chinh tây và hầu hết những truyện Tàu đã dịch ra quốc ngữ.
"Một hôm, vào buổi chiều, bạn tôi thấy có người đến chơi ngồi nói chuyện với chồng. Người chồng từ chối, gắt gỏng luôn miệng, còn người khách thì có giọng van xin khẩn thiết.
"Sáng hôm sau, người ấy lại đến. Bạn tôi mới kịp nhận ra là ông chủ Giây thép.
"Buổi trưa, ông ta trở lại một lần cuối cùng. Hình như chồng bạn tôi có hứa với ông ta một câu vu vơ cho xong chuyện, vì hứa rồi bỏ đi xa liền, hẹn vợ mãi khuya mới về.
"Bạn tôi ngồi tiếp khách và biết rằng ông chủ Giây thép vì ham mê cờ bạc đã trót tiêu lạm mất năm trăm vào tiền "két". Sáng hôm sau, ông thanh tra về xét sổ sách, nếu thấy thiếu tiền trong quĩ thì ông chủ Giây thép không những bị mất việc mà chắc chắn còn bị tù tội nữa.
"Ông khách tìm những lời cảm động để làm chuyển lòng bạn tôi. Ông ta nói ông ta có một mẹ già, một vợ và bảy đứa con nhỏ. Một nhà gần mười miệng ăn chỉ trông vào ông ta, vào lương ông ta để sống, ông ta mà mất việc thì không biết cái gia đình ấy sẽ ra sao. Ông ta lại kể lể ông ta chơi rất thân với chồng bạn tôi: hai người cùng học một lớp ở trường tiểu học, vì công việc phải xa cách nhau hơn mười năm bây giờ lại được cùng nhau ở cùng một tỉnh.
"Bạn tôi động lòng thương khách, và thầm trách chồng xử tàn nhẫn thế được với một người bạn thâm niên! Nhưng bà chỉ thở dài bảo ông chủ Giây thép:
" - Thưa ông, nếu tôi có thể giúp được thì tôi giúp ông ngay, nhưng quả tôi không có cách gì.
"Thấy mắt khách rớm lệ - hai con mắt sâu hoắm trong cái mặt hốc hác - bạn tôi ngồi im. Hồi lâu mới hỏi:
"- Thế sáng nay nhà tôi dặn ông những gì?
"Ông kia đáp:
" - Ông dặn trưa nay lại, ông sẽ liệu.
"Bạn tôi không ngờ chồng lại ác được đến thế. Không cứu giúp người ta thì thôi, bảo thực cho người ta biết chứ sao lại nói dối người ta để nhỡ việc người ta ra. Bà liền bảo khách:
"- Tôi nói câu này, ông đừng khinh tôi nhé, không hi vọng gì nhà tôi đâu, liệu đi vay chỗ khác, chẳng nữa không kịp mất.
"Khách buồn rầu đáp:
"- Thưa bà, tôi đã đi khắp mọi nơi, nhưng đều không ăn thua. ở cái tỉnh hẻo lánh này trừ ông bà ra còn có ai có nổi năm trăm bạc một lúc cho vay... Thưa bà, tôi xin làm văn tự cẩn thận tháng tháng xin trả góp cả vốn lẫn lãi. Lương tôi hơn một trăm làm gì không trả nổi...
"Bạn tôi ngắt lời:
"- Ông kể với tôi vô ích, vì tôi không thể làm gì được đâu mà.
"Ông chủ Giây thép thở dài nói một mình:
"- Thế thì chỉ có việc...
"Lòng đầy trắc ẩn, bạn tôi ngắm người đàn ông khổ sở, và càng căm tức chồng đã quá tàn nhẫn.
Khách lảo đảo đi ra, bà chợt nghĩ tới một điều, liền gọi lại:
"- Hay thế này... Thử liều...
"Ông chủ Giây thép đứng đợi, hi vọng. Nhưng bạn tôi cũng chỉ nói có thể, rồi im lặng nhìn vơ vẩn ra sân, vẻ mặt lo lắng. Ông kia hỏi:
"- Thưa bà dạy thế nào ạ?
"Bạn tôi cố trấn tĩnh, ghé gần khách thì thầm:
"- Hay thế này... Thử liều xem... Nhà tôi nhát lắm cơ đấy... Tối nay ông cứ trá hình, bôi nhọ mặt đến ... đến tống tiền xem. Tôi sẽ làm tay trong cho ông: Năm trăm bạc đối với nhà tôi có lẽ chẳng mùi mằn gì, nhưng có thể cứu được cả gia đình ông... Với lại, rồi ông sẽ trả cơ mà".
Một người nghe chuyện phá lên cười:
- Bà bạn của bà ghê gớm quá!
Bà hàn vẫn thản nhiên kể:
"- Bạn tôi dặn đủ các mưu kế, rồi hai người hẹn nhau đúng một giờ đêm ra tay...
"Nhưng tối hôm ấy ông chủ Giây thép vừa trèo qua tường đã bị ngay lính cảnh sát tóm được. Khám trong người ông ta, thấy một khẩu súng lục giả và một con dao nhọn..."
Bà hàn ngồi lặng, tâm hồn xúc động, một lát sau, bà kể tiếp:
"- Ngày ấy đương phong trào Quốc dân đảng nên ông chủ Giây thép bị nghi ngay là người đảng sai đi tống tiền. Khám quỹ thấy thiếu năm trăm bạc, người ta càng tin chắc điều ấy lắm. Bị tra tấn, ông ta không dám thú sự thực, sợ liên lụy tới người đàn bà hào hiệp đã hết lòng cứu vớt mình. Ông đành nhận liều những tội mà người ta buộc cho ông, nghĩa là có chân trong hội kín, và thụt quỹ và đi tống tiền để giúp hội.
"Bạn tôi ngày đêm buồn phiền và hối hận. Định làm ơn ngờ đâu lại gây nên tội vạ tầy đình. Từ đó bạn tôi sống khổ sở, thiếu thốn, không dám tiêu phí một đồng nào, sắm sửa một thứ gì, chắt bóp để dành rồi gửi đến cho vợ con người mắc tội oan. Bà ta thú với tôi rằng lúc ban đầu bà ta đã toan ra tòa án nhận hết tội nhưng sau lại nhút nhát không dám. Vì các ông các bà tính bà ta cũng còn danh dự của bà ta. Một người đàn bà có chồng với năm mặt con. Nếu thú nhận thì nghiễm nhiên là tình nhân ông chủ Giây thép mất. Bà ta lại tiếp được một bức thư của ông này gửi đến xin bà đừng để lộ một điều gì..."
Bà hàn ngừng vài giây rồi mỉm cười kết luận:
"- Đó, câu chuyện của tôi. Các ông các bà có cho là thảm không? Câu chuyện ấy có lẽ không bao giờ tôi kể cho ai nghe, nếu người trong chuyện không vừa được ân xá mới rồi..."
Ai nấy ngơ ngác nhìn nhau, và kinh dị nhìn người kể chuyện, như thầm hỏi:
- Chuyện ai thế?
Rút từ tập truyện ngắn Đợi chờ

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

37 . Thời chưa cưới

Trên bãi biển Sầm Sơn, Phát và Hoàn biết nhau, lưu ý đến nhau rồi thân mật với nhau.
Hoàn và mẹ thuê nhà nghỉ mát, thuộc dẫy thứ sáu. Mỗi khi ra bãi biển, Hoàn phải qua một khách sạn nhỏ. Phát trọ ở đấy. Sáng nào, chiều nào chàng cũng đứng trên hiên gác đợi Hoàn đi tắm. Và chàng thả xuống những lời bỡn cợt. Trước Hoàn còn mỉa mai đáp lại. Sau thấy anh chàng trơ trẽn quá, nàng lặng thinh, hoặc mỉm cười khinh bỉ. Nhưng cái lặng thinh ấy, cái mỉm cười ấy, Phát không cho là có ý khinh bỉ. Trái lại, chàng nhất định tin rằng Hoàn ưng mình.
Hoàn khó chịu, đi lối khác ra biển tuy lối này vừa dài hơn, vừa bẩn hơn, nhất những hôm trời mưa. Biết thóp, Phát đến đón ở gần cổng nhà Hoàn, để theo nàng đi tắm. Hoàn bật cười. Và chẳng giữ nổi vẻ lạnh lùng, nàng trả lời Phát một câu nhã nhặn. Thế là hai người bắt đầu làm quen nhau.
Từ đấy Hoàn lại theo con đường cũ. Mỗi lần qua khách sạn, nàng ngửng lên nhìn, và cố nhiên gặp Phát đứng vẫy rồi vội xuống để cùng ra bãi biển. Hoàn thấy Phát có duyên. Phát thấy Hoàn không nhạt cũng không rởm đời như phần nhiều thiếu nữ chàng đã gặp. Đó là, theo ý chàng, một hạnh kiểm rất hiếm ở một cô gái con nhà.
Nhờ làn không khí dễ dàng ở nơi tắm biển, hai người rất chóng thân mật, suồng sã với nhau nữa. Nghĩa là có những cử chỉ và ngôn ngữ mà ở Hà thành người ta sẽ cho là quá thân mật, suồng sã. ở đây, đó chỉ là những sự đã được coi thường, đã quen mắt lắm. ở đây, còn ai giữ gìn bẽn lẽn làm gì nữa, khi mà nam nữ gần trần truồng đứng nói chuyện với nhau hằng giờ rất tự nhiên và thẳng thắn. ở đây, chỉ những người giả đạo đức mới cho thế là lõa lồ, là dơ dáng.
Vì thế, không ai lưu ý đến Phát và Hoàn khi hai người cầm tay dắt nhau đi dưới nước, hay rúc rích cười nhảy theo làn sóng trắng. Và khi Phát dạy Hoàn bơi, không những chị em bạn Hoàn không lấy làm chướng mắt mà còn nhờ Hoàn giới thiệu mình với Phát để được chàng dạy. Phát đã trở nên một thiếu niên được phái đẹp cưng chiều trên bãi biển. Chàng không lấy thế làm tự hào với đám phụ nữ vì ngoài Hoàn ra chàng không để mắt tới một ai. Chàng sung sướng rằng môn bơi lội của mình đã làm tôn giá trị mình ở trước mặt Hoàn. Còn Hoàn thì nàng tự phụ rằng đã quen trước các chị em một người có tài bơi lội - chỉ cái tài ấy là đáng kể ở nơi bãi biển - mà lại quen thân. Nhưng một hôm, chính nàng cũng không hiểu tại sao, nàng bỗng cảm thấy nàng ghen. Tính tình ấy vụt hiện ra trong tâm khảm nàng. Có lẽ thoạt tiên đó chỉ là lòng ích kỷ không ưng người khác có cái mình có. Phát đã dạy nàng bơi, nàng muốn một mình nàng được hưởng cái đặc quyền ấy.
Rồi tính ghen thu hẹp lại trong phạm vi ái tình, Hoàn đau đớn nhìn Phát giữ trong tay những tấm thân màu nâu hồng, chắc nịch và khỏe khoắn.
Nàng đã bắt đầu yêu.
Phát thì mê man, ngây ngất trong giấc mộng mới nhóm. Chàng thấy Hoàn có đủ hết đức tính về hình thức và tinh thần. Một hôm chàng gọi đùa và nịnh: "Cô Hoàn toàn". Hoàn sung sướng đỏ mặt, nhưng vờ hỏi:
- Sao anh lại gọi tôi là Hoàn toàn?
Chàng mỉm cười đáp:
- Vì cô hoàn toàn đẹp cả người lẫn nết.
Mặt Hoàn càng đỏ, và nàng ngượng ngùng nhìn Phát:
- Anh cứ mỉa em!
Thế là tiếng "em" đột ngột lọt vào trong câu chuyện, rồi ở lại đấy; trước còn ngập ngừng, sau trở nên tự nhiên và thân mật. Tới thời kỳ ấy, anh chị đã năng đến nhà nhau, hoặc Phát lại bà hàn rồi cùng bà và Hoàn ra bãi biển, hoặc Hoàn lúc qua khách sạn rẽ vào đó để đợi Phát thay slip. Những hôm bà hàn không đi tắm được, bà không quên dặn Phát:
- Ông đừng cho em ra xa quá nhé. Tôi nghĩ đến những người chết đuối mà tôi sợ... Mà ông cho em về sớm một tí.
Lần nào Hoàn cũng cười và có khi nũng nịu đáp lại mẹ:
- Mẹ làm như con mẹ lên năm lên ba không bằng!
Nếu con bà lên năm lên ba thì bà hàn đã chẳng lo sợ. Bà lo sợ chỉ vì Hoàn năm nay vừa mười tám. Nhưng bà đã kịp hỏi thăm tin tức về Phát rồi. Bà biết Phát là con nhà giàu sang lại sắp lên năm thứ ba trường Luật. Vì thế bà bằng lòng cho phép Hoàn gần gụi Phát tuy bà càng cẩn mật giữ gìn con gái hơn trước. Bà thầm mong Phát sẽ trở nên rể bà, nhưng bà vẫn ngại cho cái tính quá phóng túng, quá tự do của cô con cưng.
Trong khi ấy, Phát và Hoàn đi sâu mãi vào tính tình, vào tâm khảm nhau. Và một ngày một thêm kính trọng, yêu mến nhau hơn. Phát cho Hoàn là người vợ mình mơ ước bấy nay. Không một cái gì một người đàn bà cần phải có mà chàng không thấy Hoàn có. Về phần Hoàn, thì nàng mừng rằng nàng đã do dự chưa nhận lời lấy Phiên, người đến hỏi nàng đầu năm nay. So với Phát, Phiên còn đáng kể vào đâu!
Về Hà Nội, Phát vẫn chăm chỉ đến nhà Hoàn. Bây giờ, tuy chưa hỏi, hai người đã tôn nhau như vị hôn phu và vị hôn thê của nhau rồi. Trong đám bạn bè của hai nhà, có người lại tưởng như Phát và Hoàn đã lấy nhau.
ở Hà Nội, làn không khí thân mật suồng sã ngoài bãi biển đã nhường chỗ cho một làn không khí trang nghiêm và buồn tẻ nơi khách thính. Nhưng không vì thế mà đôi bên thấy kém lạc thú trong sự giao thiệp. Có buổi chiều, hằng giờ ngắm nghía Hoàn đan chiếc áo len ở bên cạnh bà mẹ ngồi chăm chú phá trận, Phát sung sướng hơn là được trò chuyện với Hoàn. Vì trong lúc yên lặng ngắm nghía Hoàn, chàng nghĩ đến cái sung sướng không cùng của chàng.
Nghỉ hè năm sau, Phát đã đỗ bằng cử nhân. Và trước khi vào Sầm Sơn, chàng đã hỏi Hoàn làm vợ. Đó là một việc không cần vội, theo ý Phát và Hoàn, nhưng trước sau cũng một lần, làm cho xong đi thì vẫn hơn. Vả hỏi rồi, hai người sẽ được tự do nói chuyện, sẽ được tự do đi chơi mát với nhau mà không sợ người ta dị nghị.
- Nhưng chỉ hỏi thôi đấy nhé? Còn cưới thì hãy thong thả.
Hoàn âu yếm bảo Phát thế. Và Phát cười ngất trả lời:
- Vâng, xin tuân thượng lệnh.
Hoàn cảm động, giọng nói run run:
- Năm nay em mười chín, ước gì em được sống cái thời chưa cưới trong ba năm nữa.
- Bấy giờ em hăm hai và anh hăm sáu, vừa lắm. Thời chưa cưới càng dài mình càng sung sướng, phải không em?
Hoàn giọng nũng nịu:
- Chính thế. Với lại em sợ lúc cưới rồi, anh không yêu em bằng lúc chưa cưới.
Phát cười, trách:
- Em không tin bụng anh hay sao?
Hoàn vội vàng tạ lỗi.
Quả nhiên hai người xin được nhà cho hoãn việc cưới. Họ đều là con cưng, muốn sao cũng được cha mẹ chiều theo.
Năm nay ra biển, Hoàn thấy kém thú. Nàng cố tìm duyên cớ, và dễ dãi nàng cho ngay rằng Sầm Sơn buồn tẻ là vì số người ra nghỉ mát không đông. Sự thực thì chỉ tại năm trước nàng mới bắt đầu làm quen với Phát, nàng còn đương náo nức, bồng bột. Năm nay lòng nàng đã trấn tĩnh lại. Và bên người chồng chưa cưới, nàng thấy cần phải giữ gìn hơn bên một người bạn trai. Với người bạn, nàng không sợ phật ý. Với người chồng chưa cưới, nàng chỉ lo làm phiền lòng vì một câu nói lỡ, hay vì một ý tứ kém thân yêu. Nàng trở nên thiếu thành thực đối với Phát và đối với mình. Không phải nàng không yêu Phát bằng năm ngoái, trái lại thế. Nhưng lúc nào nàng cũng phải cố biểu lộ tình yêu của nàng, đó có lẽ là cái cớ làm cho nàng lúc nào cũng áy náy không vui.
Còn Phát thì chàng thấy cử chỉ của chàng ngượng ngập, ngôn ngữ của chàng lúng túng.
Bọn phụ nữ quen chàng bảo nhau: "Phát làm sao ấy, không được như năm ngoái nữa". Quả thực, Phát kém thân mật, kém vui vẻ, kém cả tự nhiên đối với họ. Chàng đã nhận biết tình ghen của Hoàn. Chàng thầm cảm ơn Hoàn, cho tình ghen ấy là tình yêu. Và chàng cố cư xử sao cho Hoàn khỏi bực tức vì chàng: Chàng lạnh lùng với tất cả mọi người, trừ Hoàn ra. Chẳng bao lâu chàng trở nên một người cứng cỏi, ít giao thiệp. Nguy hiểm cho chàng, Hoàn cũng nhận thấy thế.
Nhưng may mắn cho hai người, mùa nghỉ mát của họ kéo dài có đến đấy. Họ về Hà Nội và tình thế cứu vãn kịp. Vì ở Hà Nội hai người ít gặp nhau hơn ở Sầm Sơn, và nhờ đó, ít phải giữ gìn hơn. Bởi thế họ lại cảm thấy họ yêu nhau nồng nàn. Có xa nhau mới biết yêu nhau, mới nhận thấy tình yêu của nhau. Mà ở Hà Nội tuy gần nhau nhưng hai người vẫn xa nhau. Phát ngày hai buổi bận dạy học ở một trường tư. Rỗi lúc nào lại cắm cổ học thêm để chờ thi tham tá lục sự, hay thương chánh hay một chân kiểm sát ngạch tây nào đó. Theo luồng tư tưởng mới trong đám trưởng giả mới, Hoàn rất ghét quan, lấy sự nói xấu quan trong khách thính làm hợp thời thế.
Hoàn cũng biết Phát chăm học lắm, và chăm học như thế là vì nàng. Nàng cảm động và yêu Phát hơn, mặc những lời chỉ trích của các chị em bạn. Họ bảo Hoàn:
"Anh cử nhà chị học lấy chết à?" - "Anh đồ của chị học mụ người đi mất thôi." – "Bây giờ chả thấy mặt mũi anh chàng đâu nữa" - "Ghê quá! Hôm nọ gặp chàng ở Gôđa, trông người bây giờ lù dù tệ!"
Hoàn nghe những câu chế giễu đã chán cả tai. Nhưng một hôm nàng thấy Phát lù dù thật, nhất Phát lại đi bên cạnh một người bạn lực lưỡng, khỏe mạnh, đẹp đẽ bội phần. Phát giới thiệu bạn với vị hôn thê:
- Anh Huấn, một nhà quán quân quần vợt kiêm quán quân bơi lội, sinh viên trường thuốc.
Hoàn nhã nhặn đưa tay ra bắt.
Sang nghỉ hè năm thứ ba của thời chưa cưới. Đã có sự thay đổi: Phát vừa đỗ kiểm sát thương chánh và bà hàn vừa làm xong nếp nhà nghỉ mát ở Sầm Sơn. Bà mời Phát cùng đến ở với mẹ con bà, nhưng Phát từ tạ nói đã trót thuê nhà rồi. Sự thực, chàng giữ kẽ không muốn đến ở nhà vợ trước khi cưới, nhất chàng lại biết bà mẹ vợ rất khó tính và lắm điều.
Vui vẻ khỏe mạnh nay đã trở về với Phát. Những người quen thuộc đều nhận thấy anh Phát năm xưa, hồi còn theo học trường Luật. Nhưng Hoàn, trái lại, lúc nào cũng nghĩ ngợi, nét mặt buồn tẻ, lạnh lùng. Phát mải đùa nghịch không hề lưu ý đến cái buồn, cái tẻ của nàng, làm nàng càng bực tức, khó chịu. Nàng khinh bỉ tự nhủ thầm:
"Lúc người ta lên thì người ta biến đổi đến thế đấy! Nhưng mới được thế mà đã cho là lên thì tầm thường quá!".
Và nàng thấy Phát tầm thường. Nhớ lại, nàng không tìm thấy một cái gì cao thượng ở Phát. Nhưng nàng chép miệng tự an ủi: "Người ta tầm thường như thế cả, có gì mà mình phải bận lòng!"
Giữa lúc ấy Huấn vào Sầm Sơn, đến ở nhà Phát. Tính ngộ nghĩnh hay pha trò của Huấn khiến Hoàn quay về với vui vẻ được hơn một tuần lễ. Rồi sau khi Huấn ra Hà Nội, đâu lại vào đó.
Một hôm nàng mỉm cười chua chát đứng nhìn Phát giữ cho một bạn gái của nàng tập nằm ngửa trên mặt nước. Phát quay lại, thoáng nhìn thấy cái mỉm cười ấy. Chàng không giữ nổi chau mày. Chàng nghĩ thầm: "Hoàn vô lý quá! Bạ ai cũng ghen". Tình ghen mà trước kia chàng cho là tình yêu, nay chỉ là một tính tình nhỏ nhen, khả ố. "Chưa cưới mà còn thế này, nữa là lúc đã cưới. Mình sẽ mất hết tự do". Chàng cũng không trang nghiêm nghĩ tới tương lai. Và ngay buổi chiều, chàng ngỏ ý kiến với Hoàn về tình ghen. Chàng không muốn để bụng một điều gì. Hoàn xin lỗi chàng. Phát đã quen với tính mỉa mai của vị hôn thê. Chàng không biết lúc nào Hoàn thành thực, lúc nào nàng giễu cợt. Đối với Hoàn, chàng thường ngờ vực, và những lời xin lỗi của Hoàn, chàng không dám chắc rằng đó là những lời thành thực.
Giữa hai người như có một bức rào ngăn cản. Cả hai cùng cố phá bức rào ấy đi, nhưng phá một cách quá uể oải, nên một ngày nó một mọc dầy hơn, bền vững hơn.
Chỉ còn những sự giả dối để che đậy. Cử chỉ dịu dàng, ngôn ngữ mềm mại, thân mật. Và ở ngoài bãi biển bao giờ hai người cũng đi liền với nhau. Họ khoác cánh nhau, vui cười trò chuyện với nhau. Nhưng đó là những lúc linh hồn họ xa nhau nhất. Hoàn bảo Phát: "Sáng mai chúng ta ra tắm sớm nhé?".
Và nàng nghĩ thầm: "Mình phải bảo Nga, Lan cùng đi tắm mới được, nếu không thì sẽ buồn chết". Phát cố giữ cái ngáp để trả lời: "Phải đấy Hoàn ạ, mai đi tắm sớm nhé!" Và chàng tự nhủ: "Để ngắm cái mặt buồn thiu của bà vị hôn thê! Rõ khổ!".
Họ đi sát cánh nhau. Họ nói chuyện để nghe thấy câu chuyện tẻ nhạt của nhau. Họ yên lặng để nghĩ đến, để nhớ đến cái xoàng, cái tầm thường của nhau, của gia đình nhau. Nay họ biết nhau, hiểu nhau như vợ chồng. Ba năm gần chung sống rồi còn gì! Cái mỉm cười của người này, người kia nhận thấy hết nghĩa sâu kín. Câu khôi hài của người kia người này cố không nghe thấy vì đã nghe không biết lần thứ mấy rồi.
Họ hiểu nhau, để mà chán nhau, để mà khinh nhau. Nếu họ là vợ chồng rồi thì họ cứ chán nhau, cứ khinh nhau, không sao. Đằng này họ là vị hôn phu, vị hôn thê của nhau. Họ có can đảm chán, khinh nhau mãi để chờ ngày cưới không?
Phát cho việc hôn nhân của mình là một câu chuyện danh dự: Vì chàng gắn bó theo đuổi mà Hoàn trở nên vị hôn thê của chàng. Bây giờ còn biết nói sao? "Thôi thì cũng liều; vả lại lấy Hoàn vị tất đã khổ hơn lấy một người khác, bất cứ người nào... Về nhan sắc, thì Hoàn chẳng kém mấy ai. Có một người vợ đẹp kể cũng oai, cũng đáng tự hào với chúng bạn". Tư tưởng ấy làm Phát bật cười lên tiếng.
Hoàn thì cho việc hôn nhân của mình là do số mệnh. Nàng nghĩ đến, nàng nhớ lại những người định hỏi nàng và bị nàng lãnh đạm từ chối. Nàng thấy những người ấy đều hơn Phát. "ít ra cũng không tầm thường bằng!" Vì mới quen, nàng không biết tính tình họ, nhưng nàng chắc rằng không đến nỗi xoàng xĩnh như tính tình Phát.
Kể nàng tìm cớ tuyệt giao thì cũng được, thì cũng chẳng khó khăn gì. Phiền một nỗi thời chưa cưới của nàng đã kéo dài quá. Ai ai cũng biết rằng nàng là vị hôn thê của Phát. Ai ai cũng nói đến. Hơn thế, người ta coi hai người như đã thành vợ chồng rồi. Chẳng lẽ bây giờ câu chuyện lấy nhau bỗng im bặt đi! Như cái pháo tịt ngòi? Thế còn ê chề hơn là nhắm mắt lấy nhau vậy. Giá Phát xin thôi, thì đã đi một lẽ. ừ, giá Phát xin thôi...
Từ đó nàng hy vọng Phát xin thủ tiêu hôn ước. Và tính nết nàng càng khó chịu: nàng mong thầm rằng nhờ thế mà may ra nàng được Phát tuyệt giao.
°
° °
Hết hè, nhà Phát và nhà Hoàn nhộn nhịp sắm sửa. Đôi bên cha mẹ muốn lo xong việc hôn nhân cho con trước khi Phát được bổ vào Sài Gòn.
Và đám cưới linh đình, ồn ào, ầm ĩ. Để che cái nhạt nhẽo, cái lạnh lùng của hai linh hồn sắp hòa hợp.
Tối nhập phòng, Phát bảo Hoàn:
- Giá chúng ta lấy nhau ngay mùa hè mới biết nhau ở Sầm Sơn...
Hoàn hiểu thấu tư tưởng của Phát, cau có hỏi:
- Sao anh lại nói thế?
Phát chữa:
- Thì có phải bây giờ đã có con rồi không?
Hoàn cười làm lành:
- ừ! Thì bây giờ may ra đã có con rồi

Khái Hưng

Hà Nội, 1938.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

38 . Bên Đường Dừng Bước

Sáng hôm ấy khi Bằng ở ấp Ðoan Dương ra đi trời hưng hửng nắng, khiến Bằng cảm thấy tâm hồn khoan khoái và thân thể nhẹ nhàng, như được tắm trong bầu không khí khoáng đãng, trong luồng gió lạnh đầy hương phấn buổi đầu xuân, và chiếc xe đạp của Bằng tự sức nó đi vùn vụt khi xuống đồi, khi lên giốc : chân Bằng cử động mà Bằng không thấy mỏi.

Là vì Bằng vui mừng được xa lánh một nơi mà ở đó Bằng không yêu mến ai và cũng không ai yêu mến mình. Hai ngày Tết vừa qua, trong gia đình một ông chú họ, Bằng đã sống giữa đám người thờ ơ lãnh đạm, nhưng không từng bao giờ quen biết, từ ông chú, bà thím cho chí mấy người em họ. Nhất cô Thu, thì lại khe khắt với Bằng lắm, tuy cái tên có vẻ êm đềm, hòa nhã. Hình như đối với Bằng, ai ai cũng chỉ có một lòng khinh miệt mà xót thân mồ côi cha mẹ, Bằng càng thấy rõ rệt nh vẽ trên nét mặt từng người.

Bằng đã tưởng sẽ đem theo trong trí về Hà Nội mấy cái hình ảnh đáng ghét. Nhưng mà trai trẻ vẫn là tuổi dễ quên. Phong cảnh hữu tình đằm thắm tất tơi trong một sáng mùa xuân lại như vỗ về, như an ủi, như vì ai trút sạch những ý tưởng chán nản, hắc ám, nó vẩn đục tâm hồn. Và Bằng hiểu thấy cái gia đình chân thật của con người là vạn vật, là vũ trụ bao la.

Kìa vạn vật đương đón tiếp và thương mến người
Người hãy dấn thân vào lòng vạn vật...

Bằng lẩm nhẩm đọc hai câu thơ của Lamartine và mỉm cười đưa mắt ngắm cảnh. Những đồi trồng chè, trồng sắn liên tiếp nhau, chỗ xanh nhạt, chỗ xanh đen, vạch lên da trời màu nguyệt bạch một nét uốn éo mềm mại như thân con rồng lượn khúc.

Thỉnh thoảng xe đạp của Bằng lại lăn trên một quãng đường hẻm. Hai bên, trong đám rừng rậm đen um, thấp thoáng hiện ra những gốc trắng mà thắng vút của cây lim và cây trám.

Nhưng khi đến trại Kim Lăng giẫy nhà lá san sát xếp hàng ở ven đồi, trong một nơi thung lũng nhỏ bỗng nhắc lại Bằng nhớ tới quang cảnh Tết ở ấp Ðoan Dương với những cây nêu có chùm khánh sành, đống xác pháo lòe loẹt trước phên nứa dán giấy đỏ.

Bằng cấm đầu chạy thật mau để được khuất mặt cái hình ảnh mà chàng cho là hắc ám, buồn tẻ. Ðối với chàng cái vui chỉ núp ở áng mây hồng, ở trái đồi xanh, ở giòng nước bạc, ở cơn gió may, ở trong sự rung động của cành lá, sự phất phơ của ngọn cỏ, ở trong làn không khí bao bọc mình ta.

Bằng loay hoay với tư tưởng và trời ma từ bao giờ, chàng không biết. Mãi lúc giọt nước lạnh theo vành mũ chảy xuống má, chàng mới chượt tỉnh. Ða mắt nhìn ra xa, phong cảnh tất đẹp quan minh buổi sáng đã chìm đắm vào trong một làng mờ mịt. Những chòm lá gồi cao chót vót như bơi trên mặt đám sương dày, thân cây sắc trắng nhạt đã lẫn vào trong màu hung hung của màn ma bụi.

Thỉnh thoảng, lơ lửng giữa sờn đồi thoai thoải xuống đường, một chiếc nhà sàn lợp lá. Ðứng sát bên cạnh, chòm lá xanh thẫm của mấy cây dọc điểm những chấm đen lên nền trời bạc mờ.

Bằng vui vẻ so sánh cảnh bình minh buổi sáng với cảnh ma phùn bây giờ ? Mỗi cảnh có một vẻ đẹp riêng. Chàng dừng xe lại ngắm, tưởng tượng nh đứng trước một bức tranh sương mờ khói tỏa.

Nhưng mưa một lúc một nặng hột, gió một lúc một lạnh thêm, nước ở vành mũ chảy xuống nh giọt mái tranh. Bộ quần áo dạ tím của Bằng ướt đầm và nặng chịu.

Leo một cái dốc dài, đường thì cây và trơn, gió thì ngược và mạnh, Bằng phải nằm rạp xuống, hai tay nắm ghì lấy tay lái mới khiến được xe đi từ từ như con ốc nặng nề bò lên thành chậu. Ðến lưng chừng dốc, Bằng hết sức dấn. Bỗng sau một tiếng "cách", xe lùi lại làm cho Bằng suýt ngã văng ra. Chàng cúi xuống xem thì xích xe đã đứt và rơi ra đường lẫn trong bùn đất đồi vàng xám. Chàng nhặt lên, chắp nó lại, rồi lắc đầu, thở dài lẩm bẩm : - Thôi đành cuốc bộ, để chờ xe ô tô hàng đi qua.

Nhưng Bằng thất vọng biết chừng nào khi chượt nhớ ra rằng mồng hai tết, xe hàng cha chạy. Chàng đã toan quay xe về nhà chú. Từ đó cách ấp Ðoan Dương chỉ độ mời mấy cây số mà xa tỉnh lỵ Phú Thọ những hơn hai mơi cây. Song tưởng tới cái bộ mặt khinh khỉnh của mấy người em họ, chàng lại thôi.

Rồi Bằng chẳng thấy rét nữa, vui vẻ dắt xe đạp đi lên dốc, mặc cho bùn cây lấm lem ống quần, mặc cho hột mưa sắc như mũi tên đâm xả vào mặt, vào tai.

Vượt qua một trái đồi và đi hết một quãng rừng nhỏ, Bằng trông sang bên tả thấy xa xa có làn khói lam nhạt ẩn hiện trong đám mờ mờ. Ðoán chừng đó là một nơi dân cư đông đúc chàng tìm lối rẽ vào. Chàng liền tất tả tiến bước. Quả nhiên vừa khỏi một chỗ đường vòng, chàng thấy hiện ra một túp lều tranh lẩn vào giữa hai cây gạo lớn.

Lại gần, Bằng nhận thấy nếp nhà có ba gian. Cái gian bên trái vách mới quét vôi trắng. Còn gian giữa thì chiếc phên nứa che kín cả hai cái cột tre, có bốn miếng giấy đỏ vuông không chữ dán trước bức phên.

Thoáng nghe ở trong nhà có ai cười nói, Bằng mừng quýnh lại đập phên.

- Ai ?

- Tôi.

Trong nhà có tiếng hai người thì thầm bàn.

Bằng nói một cách tha thiết :

- Tôi qua đây gặp mưa gió, rét mướt, nhờ ông bà cho tôi trú chân nghỉ một lát và chữa lại xe đạp đứt xích.

Chủ nhà tháo chất, tháo róng, lách phên tiếp khách vào.

Trong nhà lờ mờ tối, nhất là đối với mắt Bằng vừa ở ánh sáng mặt trời vào.

Gian bên hữu bày một cái bàn thờ con con dưới ánh đèn lù mù hai cây đèn dầu nam; Sát bàn là một cái phản thấp giải chiếc chiếu mới.

- Mình chống cái phản lên một tí cho sáng sủa.

Nghe rõ giọng trong trẻo của một người thiếu phụ. Bằng định thần nhìn kỹ thì thấy sau hai cái ống bễ cao, thấp thoáng hiện ra cái đầu chít khăn vuông và hai bàn tay im lặng cầm cán bễ. Bấy giờ chàng mới nhận ra rằng mình vừa vào nhà một người thợ rèn.

Bác phó sửa soạn chống phên, Bằng vội gạt :

- Thôi, cứ để thế này cho ấm.

Người kia hỏi :

- Thưa ông lạnh lắm phải không ?

- Phải, tôi lạnh lắm.

- Vậy mời ông sưởi cho ấm.

Rồi bảo vợ :

- Mình kéo đi.

Tức thì tiếng phì phào bắt đầu. Chủ đặt một cái thùng gỗ thấp bên đống than hồng, mời khách ngồi. Bằng nói cảm ơn nhận lời rồi đưa hai bàn tay rét buốt hơ lên hơi nóng. Ðối diện chàng, ngồi trên nền đá ong xếp chồng, và phủ tầu lá gồi khô, chủ nhà hỏi :

- Thưa ông ở đâu về ?

- Tôi ở ấp Ðoan Dương tới.

- Thưa ông ấp Ðoan Dương tận đâu cơ ?

- Ở gần phủ Ðoan Hùng.

- Thế thì chắc xa lắm. ông bỏ áo ngoài ra chằng ướt thấm vào nhỡ cảm.

Theo lời, Bằng cởi áo. Chàng đã quen với ánh sáng lờ mờ trong gian nhà tối và hơi nóng dịu dàng của than hồng bốc ra đã làm cho chàng dễ chịu, Bằng khoan khoái tươi cười đưa mắt nhìn quanh.

Trên đôi ống bễ, mặt người thiếu phụ phản chiếu ánh lửa hây hây dưới chiếc khăn vuông đồng tiền, và lắc lư theo nhịp tay kéo bễ. Bằng tơ mơ ngắm nghía, khiến người thiếu phụ thẹn thùng cúi gầm xuống.

Bằng mỉm cời :

- Thôi cám ơn bác, tôi đã hết rét rồi. Không làm gì mà kéo bễ mãi phí than vô ích.

- Thu*a ông được, cả một năm có ba ngày tết tốn là mấy, ở đây gần rừng có lò đất than nên rất rẻ.

- Nhưng để thế này cũng đủ ấm rồi. Tôi xin ngồi nghỉ một tý nữa, rồi phải đi ngay cho kịp xe hỏa hai giờ về Hà Nội.

Dừng tay, đứng lắng tai nghe hai người nói chuyện, vợ bác phó rèn cũng góp một câu : - Nhưng ban nãy ông nói giây xích đứt cơ mà.

Bằng sực nhớ ra :

- Ồ nhỉ ! Suýt nữa tôi quên bẵng.

Chàng đứng dậy ra đường. Bác phó cũng theo ra đỡ phên. Bằng đem xe vào trong nhà để tựa bên vách rồi cầm xích xe đa cho bác phó xem :

- Ðứt mất một mắt.

Người vợ đến gần cúi nhìn bảo chồng :

- Ðứt một mắt thì đánh mắt khác vào cũng được chứ gì.

Chồng cười :

- Mình tưởng dễ lắm đấy. Phải làm bằng máy làm bằng tay sao được.

Thấy hai vợ chồng bác phó rèn loay hoay mỗi người cầm một đầu dây xích, Bằng bàn :

- Cái xích này dài và lỏng quá nên thường vẫn rơi, vậy nếu bác cho cài chốt vào mà giọt hai mắt xích với nhau cũng được.

Người vợ đã hết bẽn lẽn, vui vẻ bảo Bằng :

- Ồ ! thế thì dễ lắm nhỉ.

Khi đã rửa xích sạch bùn trong chậu nước đen vàng những bụi than, nàng cười bảo chồng :

- Ừ phải đấy.

Bằng không nghĩ đến cái giây xích xe đứt mà chỉ đăm đăm ngồi ngắm người thiếu phụ nhanh nhẹn, vui vẻ, luôn mồm cười nói. Bằng trông như con chim vành khuyên nhẹ nhàng hót trên cành cây.

Than đổ đầy lò nàng lại đến kéo bễ. Sau tiếng phì phèo, tiếng nổ lách tách. Lò một lúc một nóng thêm, ngọn lửa xanh liếm đến đâu than đen trở nên đỏ đến đấy. Rồi một đám bụi vàng lớn tung tóe ra từ phía như kết thành một bó hoa cải lấm tấm hoạt động thực mau dưới ánh mặt trời trước một cơn gió lạnh.

Bằng giật mình né người về phía sau, khiến chị phó rèn cất tiếng cười khanh khách. Bằng ngước mắt nhìn nàng, mỉm cười. Trong khi ấy thì chồng nàng đương cúi đầu xuống gầm phản lục trong cái hòm gỗ lớn để tìm một cái chất sắt. Chẳng biết nói gì, Bằng hỏi cho có chuyện :

- Hôm nào bác mở cửa hiệu ?

Chị phó rèn lại cười :

- Ông tính làm gì có hiệu mà mở cửa. Nghĩa là bắt đầu làm việc thì chúng tôi làm việc từ hôm qua cơ.

- Thế không ăn tết à ?

- Vẫn ăn tết chứ.

Nghe giọng nói có duyên và ngắm đôi mắt nhanh nhẹn hòa nhịp cùng cặp môi cắn chỉ luôn luôn nhách một nụ cười tươi tắn, Bằng lại nghĩ đến những cô gái Lim láu lỉnh và nhớ một lần có người bảo chàng phần nhiều người Phú Thọ đều là dân quê vùng Bắc Ninh di c lên.

- Còn ông, ông ăn tết ở đâu vậy ?

Câu hỏi ấy khiến Bằng nhớ tới người chú họ. Ngồi chống gối, hai bàn tay ôm đầu, chàng ngẫm nghĩ thở dài.

Người chồng cầm xích xe đi xuống nhà chừng để rửa lại, vợ cũng theo xuống, thì thầm :

- Ông này hình như có việc gì buồn.

Chồng gật, đáp :

- Ừ mà sao mới mồng hai tết, ông ta đã xa nhà cửa để đi đâu một mình vội vàng như thế nhỉ ?

- Hay ông ta không có nhà cửa, không có bà con thân thích.

- Không đâu ! Ban nãy ông ta bảo ông ấy ở nhà người chú về cơ mà.

- Ồ phải ! này có nhẽ ông ấy đói lắm nhỉ ?

- Thôi mình kéo bễ để tôi hành lại cái xích cho ông ấy, rồi ta còn ăn cơm chứ.

Vợ có ý e ngại, bảo chồng :

- Hay ta thử mời ông ấy ăn cơm xem, có nhẽ ông ấy vừa rét, vừa đói.

Chồng cười :

- Bậy ! Khi nào ông ấy lại thèm ngồi ăn cơm chung với mình.

Hai người lên nhà, Bằng hỏi :

- Thế nào, bác liệu có chữa được không ?

- Chưa ông, tôi sắp sửa chữa đây. Mời ông ngồi sởi một tí nữa cho ấm. Ðể cái áo này ráo đã chứ !

Bằng cười :

- Ráo mà làm gì ? Ráo rồi chốc nữa ra mưa lại ướt.

Người vợ nhìn chồng, lắc đầu phàn nàn :

- Thương hại !

Hai tiếng nói se sẽ khiến Bằng phải chú ý đến cô gái quê xinh xắn. Nàng đẹp, Bằng đã nhận thấy ngay từ lúc nãy.

Nhưng tình nhân loại đã làm tăng vẻ đẹp của nàng lên bội phần, tình nhân loại đối với một kẻ mà nàng phỏng đoán không được sung sướng, một kẻ xông pha ma gió giữa hôm ai ai cũng được thư thả an nhàn. Tự nhiên Bằng cảm thấy Bằng yêu nàng, yêu kẻ tỏ lòng thương hại mình, mà mình cũng tự biết ở vào tình cảnh đáng thương.

Chữa xong, bác phó đa xích xe cho Bằng mà bảo rằng :

- Thưa ông, ông thử tra vào xem có vừa không ?

Thấy ông khách lỡ đãng không đáp lại, người vợ đỡ lời :

- Thì mình cứ thử tra vào xem.

Bấy giờ Bằng mới biết cái xích đã chữa xong, quay lại nói :

- Cám ơn bác, bác đưa tôi xin.

Khi tra xích vào đĩa xe thấy vừa vặn, chàng lẩn thẩn : Giá ngắn quá thì có phải...

Chàng không dám nghĩ trọn câu, mình tự thẹn rồi cầm ba hào ngần ngừ nói :

- Năm mới tôi mở hàng.

Bác phó gạt phắt :

- Tôi làm giúp ông đấy, chứ vật thử là bao, mà tiền nong.

- Nhưng năm mới bác...

Người vợ cười :

- Không đâu, chúng tôi khai lò từ hôm qua rồi đó, vì hôm qua chúng tôi đã làm cho ông bà ở trong làng một cái róng sắt.

- Vậy tôi xin cảm ơn hai bác nhé, hai bác tử tế quá.

Bằng dắt xe cáo từ xin đi, vẻ mặt buồn rầu, ngao ngán. Người chồng đứng nhìn ra sân nói :

- Giời mưa vẫn nặng hạt mà gió thổi vẫn dữ. Hay ông hãy đến ngồi để sưởi một lúc nữa cho ấm.

- Thôi, cám ơn bác, tôi phải đi cho kịp chuyến xe lửa hai giờ.

Người vợ đã đến ngồi bên lò ngước mắt nhìn, hỏi Bằng :

- Vậy bây giờ mấy giờ thưa ông ?

Bằng rút đồng hồ túi ra xem :

- Hơn mười một giờ. Trời mưa, gió lại ngược thì đạp cố cũng phải một giờ rưỡi mới đến Phú Thọ. Người thiếu phụ nghĩ đến cảnh mưa gió ướt át lầy lội mà lấy làm ái ngại cho ông khách. Nàng hỏi :

- Vậy sau chuyến tàu hai giờ không còn chuyến nào nữa ?

Bằng trù trừ, nửa muốn đi nửa muốn ở, nên trả lời vơ vẩn :

- Còn chuyến bốn giờ nữa.

- Thế thì ông đi chuyến ấy có hơn không ? Mấy hôm nay, hôm nào cũng gần về chiều thì giời mới hửng nắng. Vậy ông chờ một tí nữa xem.

Bằng yên lặng, nàng lại nói luôn :

- Thôi ông hãy ở lại lát nữa.

Bằng ngẫm nghĩ, rồi chép miệng nhìn nàng mỉm cời :

- Thì ở lại.

Cô phó rèn vui mừng nói một cách ngây thơ :

- Vâng, có thế chứ !

Người chồng đưa mắt liếc vợ, rồi nhìn vào mâm cơm cúng, ý muốn nói bụng đã đói mà ăn cơm nguội. Nàng như quả quyết làm một dự định từ lâu, quay thẳng lại nới với Bằng :

- Thưa ông, thế này thì thực không phải... Năm mới, vợ chồng chúng tôi mời ông xơi với chúng tôi một bữa cơm rau.

Nói xong, nàng đăm đăm chờ câu trả lời. Bằng cảm lòng thành thực của nàng, nhận lời ngay, nàng liền giục chồng :

- Mình bóc bánh chưng ra, tôi đi rán lại khúc cá, hâm lại niêu tôm.

Bằng ngồi chờ bên lò lửa, thẫn thờ nhìn qua cửa vách ra sân sau.

Mưa phùn vẫn lấm tấm. Một cái giậu nứa đã nát vây mẩu sân vuông nhỏ và bóng nhoáng, như mỡ. Mái tranh tí tách nhỏ giọt theo miếng mo buộc vào thân cây cau, một giòng nước manh mảnh chảy lanh tanh vào một cái vại sành.

Bên vại, một con gà mái ướt sướt mướt đứng ủ rũ thỉnh thoảng lại rùng mình khàn khàn kêu se sẽ. Sát giậu mấy bông hoa hồng quế đỏ thắm rung rinh ở đầu cành mảnh khảnh; đó là những nét chấm sắt tươi trong một cảnh toàn mầu nâu sẫm. Ngoài ra, phong cảnh ẩn sau cái màn bụi trắng của ma bay, mịt mờ.

Một lát, cô phó rèn bưng cái mâm gỗ quang dầu, trên có đĩa cá khô rán, đĩa cá diếc kho, đĩa tôm, đĩa dưa hành, đĩa xôi gấc, bát canh khói thơm bay ngào ngạt. Nàng đặt mâm xuống phản mời khách :

- Rước ông lại xơi rượu.

Bằng đứng dậy nhìn mâm nói :

- Ồ ! cỗ to nhỉ ?

Chị phó bẽn lẽn :

- Ông cứ chế riễu. Quê mùa chúng tôi chỉ có thế.

- Không, to thực đấy chứ. Nhưng kìa, sao chỉ có một đôi đũa ?

- Xin mời ông xơi trước, vợ chồng chúng tôi ăn sau.

- Ai lại thế ! Nếu hai bác không cùng ngồi ăn thì tôi chả dám nhận lời hai bác mời đâu ?

Người chồng vội vã xuống bếp lấy thêm đũa bát, rồi lại cùng ngồi lên phản. Vợ bảo chồng :

- Có rượu cúng sao mình không lấy ra thế khách ?

- Ừ phải đấy, suýt nữa thì quên.

Bụng đói, trời rét, Bằng ăn ngon miệng lắm.

Thấy Bằng vì tay dính bùn cha kịp rữa cầm đũa gắp xôi, người vợ đa mắt nhìn chồng tủm tỉm cười; nhưng lúc Bằng nhăn mặt nhắm rượu thì nàng không thể giữ gìn được nữa, bật cười lên tiếng. Nàng chữa thẹn ngay, chữa thẹn cho mình mà chữa thẹn cả ông khách, và nàng tìm chuyện để nói lảng một lúc lâu. Sau một dịp cười trong trẻo nàng vờ bảo chồng :

- Hoài của mình nhỉ, còn mỗi một bánh pháo, sáng nay lại đốt mất, không có bây giờ đem đốt mừng ông thì vui biết bao !

Bằng thì cho là chẳng có tiếng pháo nào ròn bằng tiếng cời của nàng. Người chồng, thấy vợ cười mãi sinh ngượng, tạ lỗi cùng khách :

- Xin ông tha thứ cho, nhà tôi tính trẻ con lắm, thực là vô phép với ông quá ! Bằng nhìn người thiếu phụ, nói :

- Phải vui chứ lỵ, giữ lễ phép thì buồn chết.

Rồi ba người lại nói huyên thiên, lại cười như nắc nẻ, người nọ đem truyện riêng ra kể với người kia, vì thế mà Bằng biết tên bác phó là Lợi, hai mươi sáu tuổi, vợ bác là Ty, hai mươi mốt tuổi. Bác làm nghề thợ rèn đã năm năm nay, và trước có theo lớp sơ đắng trường hàng tổng. Cướp lời chồng, Ty liến thoắng thuật cho Bằng nghe vì sao nàng lấy anh Lợi, vừa kể nàng vừa luôn luôn thêm những dịp cười giòn tan.

Bằng liếc ngắm đôi má hồng vì men rợi, cặp mắt nheo đuôi dài và cái mồm hoạt động xinh xinh. Như lây cái vui giản dị, hồn nhiên của hai vợ chồng quê, Bằng cũng đem chuyện mình ra kể : chàng đã đổ tú tài bản xứ, nhưng chưa tìm được việc làm. Vì mồ côi cha mẹ, chàng đến ăn tết ở nhà một người chú họ để hưởng chút lạc thú gia đình, nhưng cậy giàu chú thím và các em họ nhạt nhẽo với chàng, nên chàng bỏ đi ngay sáng mồng hai tết.

Tâm hồn chàng là tâm hồn thi sĩ, dễ cảm động, dễ tưởng tượng, dễ thương yêu vơ vẩn, vì đó câu chuyện của chàng như có nhiễm vẻ huyền bí đối với bộ óc chất phát của vợ chồng bác phó.

Cơm nước xong, ba người lại ra ngồi bên lò. Thấy lửa đã tàn, Lợi đứng dậy cầm rỏ xuống nhà lấy thêm than.

Bằng nhìn ra sân bảo Ty :

- Kìa ! Trời hửng nắng thực rồi.

- Ờ nhỉ ?

Hai người đều có vẻ buồn rầu, cúi nhìn than đầy tro trắng, và cùng nghĩ đến giờ ly biệt. Kẻ đi sẽ để lại bên đường chút kỷ niệm êm đềm, người ở sẽ thương ai trơ trọi, không thân không thích.

Lợi đem than lên, cầm cái bát mẻ xúc đổ vào lò, rồi quay lại bảo vợ kéo bễ. Bằng đỡ lời :

- Ðể tôi kéo giúp.

Ty cười :

- Chết ! Ai lại thế !

Nhanh nhẹn, nàng đã đến đứng sau ống bễ. Lợi thò tay vào gầm phản với cái ấm sắt, bỏ chè tươi vào rồi ra vại nước. Bằng hỏi Ty :

- Ở giữa nơi đồng không, mông quạnh thế này, bác không sợ ?

Ty đáp :

- Ông tính còn sợ gì ? Làm chỉ đủ ăn, có của cải đâu mà lo trộm cướp.

- Ðủ ăn thì cũng khá rồi. Vậy công việc có nhiều không bác ?

- Thưa cũng đủ. Ðường này có xe ô tô hàng, các bác tài vẫn giao công việc cho chúng tôi luôn, nay cái "doành ", cái "láp", mai cái "bù loong ', cái "rông đền".

Bằng mỉm cời :

- Bác biết nhiều nhỉ ?

- Ấy lâu ngày quen đi đấy ông ạ.

Bằng ngắm Ty, nghĩ thầm : "Hẳn là nhờ cái nhan sắc của vợ mà bác phó rèn được các bác tài đem công lại cho".

Lợi móc quai ấm vào cái giây thép buộc từ trên cái kèo nhà rủ xuống ngay lò than rồi quay bảo vợ :

- Kìa ! mình không kéo bễ đi.

Than soạn nổ lách tách liên thanh, Bằng lấy đồng hồ ra coi. Bằng hoảng hất kêu lên :

- Chết chửa ! Gần hai giờ rồi, tôi phải về... Thôi kính chào hai bác và cám ơn các bác đã tiếp đãi tôi quá hậu.

Người chồng nhũn nhặn :

- Thưa ông, có gì đâu mà hậu. Chúng tôi ơn ông thì có, năm nay ông xông nhà thì chắc may mắn quanh năm.

Người vợ hỏi :

- Ông về mãi tận Hà Nội phải không ?

- Phải.

- Xa xôi mà rét mớt lắm nhỉ ! Nước sắp được ông thong thả một tý, chúng tôi biếu ông một chai chè tươi nóng để đi đường uống cho ấm.

Lợi nói :

- Ông đi xe đạp thì mang làm sao được ?

- Buộc vào xe chứ lỵ.

Rồi nàng ra sức kéo bễ. Chẳng bao lâu nước sôi rào xuống lò than và hơi chè bốc lên thơm phức. Ty róc nước vào chai và lấy giây thép buộc chắc chắn dưới yên xe đạp. Mời phút sau Bằng đã đương lủi thủi trên con đường về tỉnh lỵ.

Trời xuân rọi xuống cảnh đồi một làn ánh sáng trong. Trên những lá cây sim dại mọc bên vệ đường nước mưa còn đọng lại lấp lánh nh thủy tinh. Những khóm hoa đơn lè sè mặt cỏ khoe sắc đỏ tươi, bên những cây phượng vĩ lá đều như gọt tỉa và những khóm thanh hao lá lấm tấm điểm trên cành dài và cứng, trông tựa cụm dương liễu tý hon.

Cảnh vẫn cảnh buổi sớm khi Bằng rời ấp Ðoan Dương ra đi, nhưng Bằng chằng hiểu vì sao vẻ đẹp buổi sớm đã trở nên ủ rũ ?

Leo một cái dốc đến giữa chừng, Bằng thấy chân chồn và lòng chán nản, xuống xe chàng lại thở dài. Chai nước chè tơi buộc sau yên lại nhắc chàng tới vợ chồng người thợ rèn, nhất người vợ nhanh nhẹn, xin xắn, vui cời mà chàng còn mang hình ảnh trong tâm trí

Ðứng trên cao Bằng quay nhìn trở lại. Mấy trái đồi che khuất túp lều tranh. Thất nhiên chàng nghĩ ngợi, chàng lên xe, đạp ngược về đường cũ.

Qua hai quãng đường vòng, chàng đã lại trông thấy nhà người thợ rèn, thấp thoáng giữa hai gốc gạo trắng và cao. Mơ màng chàng tưởng tượng có hai cái bóng vợ chồng ai đứng vẫy Chàng chép miệng, mỉm cười giơ tay chào lần cuối cùng và lẩm bẩm nói :

- Chà ! trên đường đời còn nhiều phen dừng bước !

Rồi chàng quay xe ra sức đạp thật mau về Phú Thọ để kịp giờ xe hỏa, trong lòng lại vui sướng như buổi sớm, khi ở nhà người chú họ ra đi.

Là vì quên hắn mình, Bằng chỉ nghĩ tới những nguồn hạnh phúc của nhân loại. Túp nhà tranh kia, với lò than lửa, với trái tim vàng, chàng cho phải là một sự an ủi dịu dàng đối với hết thảy những người như chàng, lẽo đẽo trên con đường dây lội, gió ma và khao khác được dừng bước đâu đó mà ngắm trong chốc lát một cảnh vui tơi êm ấm khó tả.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

39 . Hai Cảnh Trụy Lạc

Hải cùng một ng­ười làng đã hai l­ợt đi suốt phố Hậu Giang mà không sao tìm thấy nhà em. Tìm nhà ng­ười quen ở một tỉnh nhỏ vẫn là một sự khó khăn. Ngờ là chủ đi lùng bắt con nợ, những ng­ười bị hỏi thăm chỉ có một câu trả lời vắn tắt "không biết" dù họ biết mười mư­ơi mặc lòng.

Chán nản, mỏi mệt, hai ng­ười ngồi nghỉ chân ở một hàng nước bên hè, định bụng sẽ cố tìm một lần cuối cùng nữa.

- Bác Giác ạ, hay chú nó dọn nhà đi phố khác ?

Ng­ười nhà quê mình bao giờ cũng t­ưởng như­ ng­ười khác, nghĩa là chẳng tư­ởng gì hết.Trí thức l­ười biếng không nghĩ ngợi để có một ý kiến riêng.

- Chẳng nhẽ lại chịu trở về làng.

Bà hàng n­ước đon đả mời chào, rồi hỏi :

- Thưa, các ông ra tỉnh có việc quan ?

- Không, chúng tôi ra tìm ng­ười em.

Giác đỡ lời, hỏi :

- À bà có biết ông Hai ở đâu không ?

Bà hàng ngửa mặt, đôi mắt nhăn nheo hấp háy như­ cố tìm trong trí nhớ. Giác lại tiếp luôn :

- Ông hai Bản, ông ấm Bản... ông ấm Hai... Tên tục ông là Hai Niu ấy mà... Bà có biết không ?

Hai ng­ười nhìn chòng chọc vào cặp môi cắn chỉ của bà hàng n­ước để chờ câu trả lời.

- Bà làm ơn bảo giùm.

- Ông Hai Niu ? Ông ấm...

- Phải, ông Hai Niu, ông ấm Bản, ông Hai Bản.

- Thư­a hai ông, thế thì tôi không biết.

Giữa lúc ấy ở đằng xa trên con đ­ường nắng rát, loang loáng trong bóng lá nhẹ nhàng rung động của cây soạn tây mới thấp thoáng điểm hoa t­ơi đỏ, một ng­ười đàn ông kéo cái xe bò đang đi lại. Trên xe một ng­ười đàn bà ngồi bên đống thuổng, cuốc, quang, thúng, nghêu ngao ngâm kiều :

Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành mỉa mai

Ng­ười kéo xe luôn luôn quay lại hỏi chuyện, không nghĩ gì đến cái nóng một buổi trư­a hè im gió, oi ả, nặng nề khó thở.

Giác phe phẩy chiếc quạt rách trỏ xe bò bảo Hải :

- Ông ấm ạ, ai như­...

- Ờ... ờ ai như­...

Cả hai cùng không dám nói đến tên ng­ười kéo xe. Như­ng Hải không sao giữ nổi lời cảm động buột miệng gọi :

- Hai !... chú Hai Bản !

Bản dừng lại :

- Ai gọi tôi ?

Hải buồn rầu nhìn Giác. Chàng không ngờ em chàng đ­ương sống trong cảnh trụy lạc ấy.

Như­ng Bản nhận ra đ­ược thì vui mừng đặt vội càng xe bò xuống hè :

- Ồ quý hóa quá ! Bác ra chơi... Sao bác không lại đằng nhà ?

Hải bẽn lẽn không đáp. Giác mỉm c­ười ng­ợng nghịu :

- Ấy chúng tôi đi tìm nhà ông mãi mà không thấy. Ông ở phố Hậu Giang ?

- Vâng, phố này chính là phố Hậu Giang.

Ng­ười đàn bà chắp tay chào :

- Lạy bác ạ.

- Không dám, chào thím.

- Mời bác về nhà chơi.

Hải và Giác đứng dậy ngần ngại, do dự, nhìn nhau một ìần nữa. Bà hàng nhắc khéo tiền trầu n­ước :

- Bác phó hãy để hai ông ngồi chơi. Hai ông vừa sơi đ­ược mỗi ng­ười một miếng trầu, một bát n­ước.

Bản c­ười vui vẻ :

- Thôi, bà để bác cháu về nhà nghỉ chẳng bác cháu mệt, đây tiền trầu n­ước.

Bản xỉa ba trinh vào thành chõng nhà hàng, rồi thản nhiên ra nâng càng xe bò, và giục :

- Mời bác đi.

Hải ngắm nghía em: cái áo cộc màu xanh bạc, cái quần vải thô màu cháo lòng, hai bàn chân vôi cát bám đầy trong đôi guốc quai cao su gót mòn gần hết. Ðối với Hải đó là những biểu hiệu trụy lạc của một đời ng­ười, và Hải nghĩ thầm "Ta tuy cũng nghèo kiết, như­ng chẳng bao giờ chịu tự hạ như­ thế kia. Vả con quan, ai lại tự hạ đi kéo xe bò... Hừ ! Thà chết đói còn hơn..."

Hải vụt nhớ đến tình cảnh nheo nhóc của mình. Vợ chàng ngược xuôi nhì nhằng, dệt vải làm gạo, chơi ống, chơi ph­ường để cố nuôi sống một gia đình bảy tám miệng ăn, như­ng dầu sau, chàng cũng không đến nỗi bê tha, lụi xui quá như­ em. Dầu sao chàng cũng chân giấy chân dép, khi ra đình, khi đến nhà đám, nhà chay, chàng không để ai có thể khinh nhờn được; "Chà, thằng Bản, t­ưởng nó bỏ làng ra tỉnh làm v­ương làm t­ướng gì ? Thật là bêu diếu ông cha Bản ạ !"

Cái tên Bản bỗng nhắc Hải nhớ lại cả một thời kỳ giàu có sang trọng. Em chàng tên là Bản vì ra đời ở huyện Vụ Bản, cũng như­ cha mẹ chàng đặt tên chàng là Hải, vì sinh chàng ở huyện Tiền Hải...

Mấy năm sau, vì việc r­ượu, cha chàng bị cách, rồi buồn quá mắc bệnh mà chết. Từ đó, ba mẹ con vẫn sống trong cảnh phong lưu như­ x­ưa, vẫn kẻ hầu, ng­ười hạ, vẫn ăn tiêu phung phí và chẳng thèm nghĩ tìm kế sinh nhai. Chỉ có một việc là bán. Tr­ước còn bán ruộng v­ườn, sau bán đến đồ đạc. Làm ma cho mẹ xong, gia tài hai anh em khánh kiệt.

Gia tài khánh kiệt, nh­ưng Hải vẫn sống theo cảnh cũ. Tuy chẳng còn tiền của đâu mà tiêu rộng rãi, song cái tính đài các chững chạc, Hải vẫn giữ đ­ược. Ðến nỗi trong làng chẳng ai dám t­ưởng rằng chàng xơ xác.

Nào ai biết đâu rằng nhiều bữa vợ chồng con cái xúm nhau vào nồi cơm ngô khoai và đĩa muối. Nào ai biết đâu rằng mấy con đi nhặt rau xam rau dền về luộc cho cả nhà ăn. Ng­ười ta chỉ trông thấy ông ấm vận quần áo lành sạch, mỗi khi ông ra đình hay đến chơi nhà ai, ng­ười ta chỉ trông thấy ông ngồi chễm chệ trên sập, ung dung xoay ván bài tổ tôm, hay gật gù nhấp giọng chén chè tàu liên tâm, ng­ười ta chỉ trông thấy bà ấm đem bát đĩa con phư­ợng và các mâm đồng ra rửa ở đầu cầu ao mỗi khi có khách quý đến chơi nhà, và những ng­ười láng giềng tỏ ý thèm muốn khi đứng ngắm nghía con chim họa mi của ông ấm nhảy, hót trong cái ông cao, quang dầu, treo bên bụi hồng đầy hoa.

Giấu giếm che đậy, nhẫn nại, chịu khổ, chịu đói để giữ thanh danh, lúc nào Hải cũng không nhãng nghĩ đến điều đó, và năm tr­ước, chẳng dung đư­ợc, chàng đã nhận chức đại bái và tiêu vào việc ấy hết nửa bát ống của vợ. Những ý t­ưởng phức tạp lộn xộn, rối tung trong óc Hải lại đư­ơng bực về nỗi em chàng làm cho chàng mất thể diện ở tr­ước mặt một ng­ười làng, câu hỏi của em dâu càng làm cho chàng bực tức thêm :

- Các cháu vẫn chơi đấy chứ, bác ?

Lạnh lùng, chàng đáp :

- Phải ?

° ° °

Một lát sau, mấy ng­ười về tới nhà Bản, căn nhà gạch một gian ngăn đôi bởi bức phên liếp dán giấy nhật trình. Vợ chồng Bản mời anh và ông khách ngồi chơi, rồi đi theo một cái cổng chung cho cả dãy nhà để cất xe bò vào sân.

Hải đã đỡ ngư­ợng với ng­ười làng, vì nhà em cũng sáng sủa và bài trí cũng dễ coi : Một cái ghế ngựa quang dầu, trên tường mấy tờ tranh quảng cáo của hiệu dầu hỏa. Hải đư­ơng ngắm nghía cái đồng hồ rỉ để trên bàn tre, và thầm ao ­ước kiếm đ­ược vài đồng mua một chiếc, thì Bản đã rửa mặt rửa chân tay và thay quần áo sạch sẽ, từ trong nhà b­ước ra :

- Bác đi chân hay đi xe đấy ?

- Tôi đi xe chú ạ, có ba hào.

- Ờ rẻ nhỉ.

Kỳ thực, hai ng­ười đã kéo bộ ra tỉnh, nh­ưng quen tính giữ gìn, Hải đã nói dối, nói dối với cả em và tuy có ng­ười làng làm chứng cho sự nói dối ấy đứng ngay bên cạnh.

- Cái nhà này chú thuê bao nhiêu tiền ?

- Th­ưa bác ba đồng. Chả nói giấu gì bác, tr­ước kia tôi thuê một gian nhà và ở chung với ba ng­ười nữa, thành thử chỉ mất có bảy hào thôi. Về sau, nhà tôi tìm đ­ược mấy cậu học sinh ăn cơm trọ mới thuê cái nhà này. Kể cũng kiếm đ­ược đủ ăn. Tôi thì đi làm, để cháu ở nhà nấu bếp, như­ng đã hơn tháng nay, các cậu ấy về nghỉ hè cả, thành thử cái nhà này rộng quá. ấy chả nói giấu gì bác...

Bản ngừng lại, quay ra bảo Giác :

- Mời bác vào rửa mặt mũi chân tay cho mát rồi xơi cơm.

Giác biết rằng anh em Hải muốn nói câu chuyện riêng, liệng lảng ra sân sau. Bản hạ giọng nói tiếp :

- Chả nói dấu gì bác, tôi không muốn để nhà tôi ăn không ngồi rồi, nên đã đi xin tạm cho một chân phu hồ ở chỗ tôi làm việc.

Hải trợn mắt :

- Phu hồ ! Chú để thận là phu hồ ?

- Vâng, bác tính chẳng gì cũng kiếm đ­ược hào r­ưỡi hào tám mỗi ngày, mà công việc có khó nhọc là bao.

Hải chép miệng lắc đầu :

- Giá ở xa tận đâu thì chả nói làm gì nh­ưng ở ngay tỉnh nhà, mà chú thím luộm thuộm thế, bê tha thế, tôi e lắm.

Bản c­ười như­ng không đáp. Chàng chẳng lạ gì tình cảnh của anh và tánh nết anh, chàng cũng thừa biết. Chàng nghĩ thầm, cầm hết thứ nọ đến thứ kia, hết v­ườn ruộng đến đồ đạc nhặt từng cái dĩa, cả ba chén trà đem đi bán để chạy bữa ăn, như­ thế anh mình không cho là luộm thuộm, bê tha. Còn vợ chồng mình, chỉ làm việc, làm việc bằng tay chân...

Hải thở dài ứa lệ bảo em :

- Chú ạ, nhà ta sa sút chóng đến thế ! Lúc thầy còn làm quan, thì chúng ta sung s­ướng biết bao, mà bây giờ, bây giờ.

Bản c­ười :

- Bác nghĩ thế, chứ tôi, tôi lại nghĩ khác. Chúng ta sinh tr­ưởng ở nơi giầu sang thì thuở bé mới đ­ược ăn, mặc, chơi bời sung sướng. Nếu là con nhà khó thì chúng ta cũng đã nghèo đói khát. Ngày nay chúng ta không còn ở cảnh giàu sang thì chúng ta đừng thiết nhớ đến thời x­a nữa có hơn không.

- Ðành thế, như­ng chú bê tha quá.

Bản ngắt lời :

- Ở đời chỉ có sự l­ười biếng, sự ỷ lại là bê tha. Còn như­ em, em không làm việc bằng trí thức, mà em làm việc bằng tay chân, thế thôi. Có gì là bê tha đâu ? Không biết bác thế nào, chứ em thì không sự gì làm cho em đau lòng bằng ngắm cảnh một người không còn sung túc mà cứ muốn có cái hào nhoáng của một ng­ười sung túc. Sự giả dối ấy...

- Như­ng thanh danh nhà mình ?

- Nghèo khác, thanh danh khác. Yên phận nghèo làm việc để sống, sao thanh danh ông cha ta lại vì thế mà mất hay bị tổn hại đ­ược ? Em nhận ra điều ấy ngay hôm em quả quyết bán một ít v­ườn ruộng, phần gia tài của em, kiếm ngót lấy trăm bạc vốn rồi đư­a vợ con ra đây, theo anh em đi làm thợ. Ngày nay phong bao giờ phàn nàn một điều gì nữa. Vì em đã vui lòng nhận mình là một ng­ười thợ nề chính thức sống bằng công việc chân tay, cái đời cậu ấm của em chỉ còn phảng phất trong giấc mộng xư­a. Nếu may ra, nay mai em trúng độc đắc vì em có mua số thì em lại sống theo cái đười ng­ười có hàng vạn, chứ sao ! Phải không bác ?

Hải c­ười g­ợng, giọng mỉa mai :

- Phải !

Lúc đó, vợ Bạn b­ưng ra một mâm gỗ trên có bát canh, khói thơm bốc lên ngào ngạt, Bản hỏi :

- Ðẻ thằng Ðá có mua thêm cái gì ăn không ?

- Thầy thằng Ðá ạ, tôi đã mua thêm ba xu đậu với ba xu xáo bò rồi đây.

Bản phá lên c­ười :

- Bác coi, chúng em có hoàn toàn là một cặp vợ chồng thợ thuyền không ?
Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

40 . Trong Nhà Thương

Thong thả, rời rạc, buồn tẻ, rơi vào trong mưa phùn u ám hai tiếng "Bung Boong", rơi theo những giọt nước đọng lại trên cánh đồng khẳng kheo gần trụi.

- Năm rưỡi rồi ?

- Năm rưỡi rồi.

- Hết giờ vào thăm ?

- Hết giờ vào thăm.

Mấy câu hỏi và trả lời của hai người phu, một người đứng lau sàn hiên và một người đương tưới luống vườn hoa khiến Lực buông hơi thở yếu đuối nghĩ thầm :

- Có lẽ phải tiếng chuông nhà thờ cuối cùng trong đời ta ?

Là vì Lực biết bệnh mình bắt đầu từ sáng hôm nay trở nên trầm trọng, cảm thấy những thớ thịt dần dần tiêu như viên đường phèn lặng lẽ tan trong cốc nước nóng.

Có lúc chàng đã phải cố gắng hết sức mới khỏi thiêm thiếp ngất đi. Chàng yên trí rằng hễ ngất đi, hễ nhãng sống trong giây phút là chết, là hết đời.

- Ðời !

Lực mỉm một nụ cười âm thầm, nghĩa là cặp môi chàng sẽ động đậy và hơi há ra, cặp môi thâm tím trên bộ mặt xám xanh, với hai gò má dô cao, và hai con mắt hết tinh thần chôn trong hai quầng đen sâu hoắm.

- Ðời !

Lực nghĩ đến những sự nhỏ nhen, khốn nạn của đời người, để khỏi tiếc, để khỏi tiếc sống, để khỏi sự chết.

Phải, cái chết của chàng chỉ có một nghĩa thoát ly, cái sống của chàng chỉ có một nghĩa đầy đọa. Ðời chàng có vui thú gì, còn có thể vui thú sao được mà chàng lưu luyến nó.

Trong mấy phút, hai, ba mươi năm hiện ra trong ký ức chàng, tự chia ra mấy thời kỳ rõ rệt.

Chàng nhớ nhất dăm năm sau cùng mà chàng đã cố quên đi, cố xua đuổi đi, cố xóa hẳn đi. Tựa đàn ruồi bâu vào đĩa mật, quãng đời ngắn ngủi ấy vẫn ám ảnh bám chặt lấy ý nghĩa chàng và sống lại với những mầu rực rỡ, với những tiếng nói, câu cười, với những tính tình vui buồn, mừng lo, tức giận : những bức hoạt động và biến đổi như treo trước mắt chàng.

Chàng thấy chàng sống trong một tòa nhà yên lặng, ở một thành phố nhỏ yên lặng, với một người thiếu phụ xinh đẹp mà chàng yêu nồng nàn tha thiết, yêu đắm đuối say mê như muốn trao cả linh hồn.

Người thiếu phụ ấy là con một ông bạn già làm cùng sở.

Một hôm chàng đến chơi nhà, bắt gặp đang bổ cau phơi...

Thế là chàng yêu ngay. Rồi hỏi, rồi cưới... Trời ơi hạnh phúc của người ta phải cầu kỳ tìm ở đâu xa ? Bao giờ nó cũng ở ngay trước mắt, mình chỉ việc lưu ý đến nó, chỉ việc muốn nó là được.

Hạnh phúc dễ dãi, giản dị. Lực hưởng một cách đầy đủ hoàn toàn, có lẽ còn sẽ hưởng mãi nếu một ngày kia chàng không ngẫu nhiên bắt được bức thư của bạn gởi cho vợ...

Hai tiếng - Nói một ý nghĩ thì đúng hơn :

- Khốn nạn !

Thế rồi, sau nhiều trận cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau om xòm, người đàn bà bỏ về nhà ở với cha mẹ đẻ.

Từ đó đến nay, Lực không một cân nhắc đến, không một lần hỏi đến vợ, mà cũng không kiện đòi ly dị. Mỗi một người ở một nơi như không ai quen biết ai nữa.

Từ đó đến nay đã hơn ba năm nay. Hơn ba năm. Lực sống trơ trọi, sống với một sự nhớ nhung thương tiếc, vì Lực vẫn còn yêu Minh. Có lẽ sự xa cách làm cho tình yêu của Lực càng nồng nàn, tha thiết hơn xưa...

Và nhiều lần Lực viết cho Minh những bức thư rất dài để gọi Minh về, nhưng mỗi lần viết xong thư, chàng lại xé vụn vất đi. Tha thứ thì vẫn dễ. Sự khó khăn chỉ ở cách tha thứ. Phải tha thứ bằng cách nào, cho mình khỏi bị mỉa mai, chê cười, cho lòng tha thứ của mình không bị coi như tính hèn nhát.

Nếu Minh tự ý về nhà, ăn năn chịu tội, thì không những chàng tha tội, mà chàng còn cám ơn Minh nữa.

Nhưng biết đâu Minh không nghĩ xa xôi như Lực !

Biết đâu Minh không bị người đời mỉa mai, chê cười rằng đã khốn nạn có ngoại tình, còn dám vác mặt về nhà chồng ?

Lực nghĩ thầm : "Biết đâu hai người không cùng một tâm trạng".

Và ý nghĩ ấy làm cho chàng cảm thấy chàng yêu Minh.

Trên cái bàn con bên cạnh giường ngủ, một bông hồng hàm tiếu cánh tươi còn đọng giọt mưa làm chàng cố hết sức lắp bắp một câu hỏi khẽ : "Hoa hồng ngoài sân đẹp lắm ?"

Tức thì người khán hộ thương hại ngắt cho chàng một bông và cắm vào một cái lọ không.

Lực đau đớn nghiêng đầu trên gối để được ngắm nghía bông hoa. Bông hoa vẫn tươi, sắc mịn và mát như cặp má hồng cô thiếu nữ...

Hiệu bán máy hát ở phố hàng Bông vừa cho chạy một điệu âm nhạc du dương, êm ái...

Và lờ mờ Lực thấy hiện ra khuôn mặt Minh, vợ chàng... Chàng sung sướng thổn thức. Hình ảnh kia một lúc một xa, một phai nhạt...

Rồi Lực ngất đi... Rồi lịm đi... Sau cái nghĩ cuối cùng : "Thế là hết !"

° ° °

Khi Lực sống lại thì trời đã tối hẳn. Ở ngoài, gió từng cơn rít lên và tạt mạnh những hạt mưa sắc vào cửa kính. Chàng tưởng vừa ngủ một giấc dài.

Nghe có tiếng khóc rưng rức ở bên giường. Lực muốn ngồi dậy xem ai, nhưng đau quá không sao nhúc nhích được mình mẩy nữa.

Ngọn đèn điện trên đỉnh màn chiếu thẳng xuống bông hoa hồng một luồng ánh sáng chói lòe. Lực định thần nhìn kỹ mấy cánh hoa hơi rung động... Rồi một con sâu sắc xám ngoi đầu vươn cao thân lên rướn nhìn chung quanh mình.

Lực kinh hoàng vì chàng nghe như có nhung nhúc một đàn dòi đương đục gậm phổi chàng.

Chàng kêu ú ớ mấy tiếng. Tức thì người đầy tớ đương ngồi khóc thúc thít ở chân giường đứng phắt dậy như có cái máy bật thẳng lên :

- Cậu ơi ! cậu ơi cậu tỉnh đấy à ?

Một nụ cười thoáng qua trên môi Lực. Người đầy tớ nắm chặt lấy tay chủ vừa khóc vừa nói :

- Cậu đừng bỏ con... ở lại một mình... cậu đi.

Thấy tay chủ sẽ nắm lấy tay mình, người đầy tớ hiểu ngay, ghé sát vào miệng Lực.

- Bật.

- Bẩm cậu, con đánh giây thép về Nghệ An rồi. Thế nào sáng mai ông Phán cũng ra tới nơi.

- Ðược

Bật sụt sịt đưa tay lên dụi mắt rồi nhớ đến lời dặn của người khán hộ, cầm cốc nước suối lấy thìa đổ cho chủ uống.

Giữa lúc ấy, được tin báo có người chết, ông thầy thuốc bước vào phòng, hỏi Bật qua quít mấy câu. Rồi ông xoa đầu Lực mà bảo :

- Cố ngủ đi nhé. Sáng mai tôi tiêm cho ông một ống long não nữa thì không việc gì hết.

Cặp mắt sắp chết đăm đăm nhìn người cứu mệnh, tỏ sự cám ơn.

- Còn phổi yếu thì đã có thuốc A B. Không lo gì hết.

Dứt lời, ông ta mỉm cười gật đầu chào rồi lặng lẽ bước ra hiên.

Lực vẫn thừa hiểu rằng mình chết. Nhưng câu nói của thầy thuốc bỗng có mãnh lực thổi luồng hy vọng ấm áp vào linh hồn giá lạnh của chàng. Chàng cảm thấy gióng máu chạy mau hơn ở trong các huyết quản và chàng cố nuốt những thìa nước suối trôi qua cuống họng bị thương.

Nhưng nhác để mắt tới bông hồng với con sâu nằm vắt ngang, chàng lại kinh sợ, để nước suối ứa ra cả cằm.

Bật lấy khăn, cúi xuống lau cổ chủ. Lực thì thào :

- Vứt hoa đi.

Chàng phải nhắc lại một lần nữa, Bật mới hiểu mà rút bông hồng vứt vào bồ.

Một lát sau, trong khi Bật loay hoay sắp sửa đỡ chủ trở mình vào phía trong, thì một thiếu phụ bù lu bù loa tiến vào phòng :

- Anh Lực ơi, sao thế anh ? Sao lại ra nông nỗi thế, anh.

Lực ú ớ gọi :

- Minh !

Nhưng Minh không nghe rõ.

- Anh Lực ơi, sao lúc mới ốm, anh không báo tin em biết, để em đến hầu hạ, trông nom anh ?... Khổ em chưa ! Anh ốm nặng thế này mà chả có ai ở bên cạnh săn sóc thuốc thang cho anh. Anh Lực hơi, anh có biết em là ai không, anh có nhận được em không ?

Lực sẽ gật.

- Anh Lực ơi, tội em to quá... Anh có tha thứ cho em không ?

Lần thứ hai, Lực sẽ gật.

- Vâng, em vẫn biết... Anh tốt lắm, anh quân tử lắm... Thế nào anh cũng tha tội cho em... Từ nay em ở luôn bên mình anh... Em chăm nom thuốc thang cho anh... rồi vài hôm nữa anh khỏe, em sẽ đưa anh về nhà, nhá anh nhá ? Anh yêu em nhá ? Anh đừng giận em, tội nghiệp, nhá ?

Lực mỉm một nụ cười - nụ cười chết trên cặp môi chỉ còn hơi nhúc nhích. Minh ngừng lại vài giây đặt bàn tay thơm tho, mát rượi lên trán chồng, rồi lại nói tiếp, giọng đầy vẻ thành thực âu yếm :

- Anh Lực ạ... em Minh của anh yêu anh, thương anh, mến anh. Em Minh của anh không thể nào sống xa anh được... Anh đừng bỏ Minh của anh... anh đi nhá. Anh Lực nhá, anh để em góa bụa thì em cũng đến chết mất thôi, anh Lực ạ... Vắng anh thì em sống làm gì ? Ban nãy em nghe thầy em bảo anh ốm nặng, điều trị ở nhà thương Bảo Hộ, mà em xuýt chết đi đấy anh Lực ạ. Rồi em tất tả vào hỏi thăm anh... Em phải năn nỉ van lạy mãi người ta mới cho phép em vào thăm anh đấy, anh Lực ạ... Sao người ta lại ác thế, anh Lực nhỉ ! Sao người ta lại định ngăn cản không cho vợ thăm chồng như thế nhỉ !

Chuông nhà thờ thong thả buông bốn tiếng... "Bung boong", rồi kế tiếp mười hai tiếng "keng" chậm chạp, rạc rời. Một cơn gió mạnh hét lên. Mấy chiếc lá bàng khô, có lẽ những lá cuối cùng, văng mạnh vào cửa kính.

Lực rùng mình tưởng tượng ra tiếng gõ cửa của thần chết đến lôi chàng đi.

Một tiếng nấc ! Linh hồn chàng rời xác thịt. Nhưng nụ cười vẫn còn lưu luyến trên cặp môi xám ngắt.

Rồi ánh sáng yếu đuối một buổi sớm mưa phùn lạnh lẽo, lạnh lẽo rơi qua cửa kính xuống ba người : Một người chết nằm trên giường và hai người sống quỳ dưới đất...

Có ai mở hé cửa lớn tiếng gọi :

- Ði thôi Minh !

Minh ngơ ngác nhìn.

Ðó là tình nhân của Minh đã y lời hẹn, đến đón Minh.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

41 . Giấc Mộng Từ Lâm

Tôi vừa ở Sở về, nghĩ đến thân mình lầm than mà buồn tình thế sự. Hai buổi đi về công việc càng làm càng thấy chán nản, đời mình thật là lạt lẽo vô cùng, lắm lúc muốn ẩn thân một nơi thôn dã, đối với đời không có tiếng tăm gì là đủ; nhà giầu, có công việc làm đây không chút gì bổ ích cho ai, ra luồn vào cúi mà vẫn không sao rút ra được.

Đương băn khoăn thời thấy một người đi vào trông hơi quen quen, đứng dậy nhìn kỹ thời té ra anh Trần Lưu, trước cùng học với tôi trường Luật. Năm nọ ăn mặc tây, bây giờ trông lạ hẳn đi: mình mặc cái áo the thâm, đầu đội nón dứa, tay xách cái khăn gói to như người ở phương xa đến, thấy tôi thì tươi cười mà cúi chào, chứ không bắt tay nhau như trước nữa.

Xưa nay tôi vẫn phục anh Trần Lưu là người trí: anh Lưu học cùng với tôi trong trường Luật, đến năm thứ hai, thời bỏ vì hai thân anh qua đời cả. Hôm về quê, anh có than vãn với tôi, không biết cuộc đời của anh sau này sẽ xoay ra làm sao:

- Tôi bây giờ một thân một bóng, về quê là để thăm chút phần mộ của hai thân tôi, rồi sau đây non nước bốn phương biết đâu là quê hương xứ sở, anh dẫu có nhớ đến tôi cũng không biết đâu mà tìm tôi nữa. Tôi định bây giờ đi khắp các vùng nhà quê, lẫn vào đám làm ăn, vừa để học vừa để dạy cho họ và xem xét dân tình, ăn mặc thời quần nâu áo nâu đi đất, đánh cái nón rách vừa đi vừa kiếm ăn, anh nghĩ sao?

Tôi khuyên anh cứ chịu khó, tuy đi như thế chưa chắc ăn thua gì song có ngày sẽ nẩy ra một cái ý kiến hay, nói xong anh từ biệt. Thế là từ độ ấy tôi không thấy tin tức anh đâu cả. Năm sau tôi được bổ tham biện phủ thống sứ mà cũng không lần nào gặp anh nữa.

Hôm nay tình cờ anh đến, vui mừng quá, thấy anh ăn mặc thế cũng không lấy làm lạ, nhận ra ngaỵ Anh Trần vào, vừa cười vừa bảo tôi rằng:

- Anh còn nhớ tôi ư, tôi ăn mặc thế này, thật khác xưa lắm nhỉ?

Tôi bảo pha nước uống và hỏi chuyện:

- Tôi ở đây đi làm hai buổi buồn quá, thấy anh đến mà mừng, muốn hỏi anh trong hai năm nay anh ra làm sao và anh kể cho ít câu chuyện có cái hương vị nhà quê thời thích quá.

Bạn tôi nói đã lâu mới lên Hà Nội, muốn đi xem cảnh tượng và quan sát, mua sách vở, tối về thư thả sẽ nói.

Đêm ấy trăng cao mà sáng, chúng tôi bắc cái chõng ra nằm ngoài sân. Bạn tôi nói:

- Trước khi tôi nói cho anh biết những công việc của tôi trong hai năm nay, tôi hãy xin anh đừng vội trách tôi, mà tôi cũng không có gì đáng trách. Anh cũng biết cái thảnh thơi trong lòng là ít người có, và nếu bao giờ cũng giữ được thảnh thơi, thời cứ như thế đời người ta sống cũng đã dễ chịu và chính đính lắm rồi. Anh đừng cho tôi là một người có tài cán làm những việc ích quốc lợi dân, tôi không dám mong thế, có khi tôi muốn làm mà không làm được, tôi chỉ như một người thường khác mà thôi. Thân tôi không phải chỉ có hiện tại thôi đâu, tôi chính là ý muốn của ông cha tôi từ mấy đời trước mà trong óc tôi còn sót lại. Tôi cứ thật thà mà ngỏ lòng tôi cho anh biết, anh thương hay anh giận, anh trách hay anh khen tôi cũng thế, mà ai bình phẩm tôi thế nào, tôi cũng không cần.

Tôi bỏ học được mấy ngày thời thu xếp về quê thăm mộ thầy đẻ tôi, hôm sau ăn mặc quần nâu áo nâu, đi thẳng. Trong một năm trời đi được gần khắp trung châu, mới đầu về Hải Dương, xuống Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, vòng lên Hà Đông, Bắc Ninh, có khi một mình khăn gói lang thang, có khi đi lẫn vào bọn thợ, cũng làm lụng như họ, vất vả khổ sở quá, nói ra không thể nào tin được.

Có khi ngủ ở giữa cánh đồng, có khi ốm mà không ai chăm nom, song cái đó không làm tôi ngã chí. Tôi học cũng được nhiều và kiếm ăn cũng đủ tiêu dùng, tuy mồ hôi nước mắt mà thảnh thơi không lụy ai. Thỉnh thoảng thấy cảnh đẹp, trời chiều man mác, điếm cỏ cầu sương mà tự nhiên bật miệng ngâm lên câu thơ chữ tây, lại vội vàng nhìn quanh xem có ai nghe thấy không? Về sau phải tập luyện cho quen, bây giờ thật là An Nam rồi. Còn về phần dạy cho người khác thời tôi ngỡ không biết có bổ ích gì không, mà bổ ích thế nào được. Tôi cứ ngờ như thế mãi, thành ra ý tưởng tôi đổi khác đi mà tôi không biết, cái tính tình vốn nặng hơn lý lẽ nhiều, vùng nào phong cảnh tiêu điều, thời tôi hay lánh đi, chỉ tìm những nơi nào có đồi, có sông, dân phong thuần hậu thời hay lẩn quất ở lại lâu.

Bây giờ đã đến cái thời kỳ tôi hơi ra ngoài đời mà đến gần cảnh vật rồi đó, tôi mới biết rằng tôi chưa từng yêu gì hơn yêu cảnh thiên nhiên, lắm khi có thể lấy đấy làm cái vui ở đời, khuây khỏa được lắm nỗi đắng cay sầu thảm: có khi tôi ngắm cảnh mà quên cả mọi nỗi gian truân, quên cả thế sự, tưởng có thể bỏ cả vinh hoa phú quí để được hưởng một cái thú cỏn con với cây cỏ. ánh sáng hơi thu, gió lạnh, những lúc mùa nọ thay sang mùa kia thường đem cho tôi lắm cái cảm giác êm đềm man mác, tôi là người khác rồi, cái nguyên nhân ấy muốn tách bạch ra thời phải người nào giỏi về tâm lý học lắm mới làm nổi.

Tôi đương mang tấm lòng như thế, thời đến một nơi gọi là Từ Lâm; xa xa toàn là núi, ngọn nọ ngọn kia không dứt, sắc núi màu lam, buổi sáng buổi chiều mây bay sương phủ. Từ Lâm là một cái làng nhỏ ở chân đồi, vẻ đặc sắc nhất là tỉnh, có con sông con, sắc nước trong xanh chảy từ từ trong lòng cát trắng. Mảnh đất đó, đối với tôi là khách qua chơi một ngày, sao có liên cảm sâu xa như thế? Tuy không phải là nơi danh thắng, non không cao, nước không sâu,nhưng có vẻ đậm đà, điều độ, ân ái, dễ xiêu người. Tôi không úy phục, tôi không say đắm, nhưng tôi dễ nhận, dễ yêu như một nơi quê hương xứ sở vậy, lòng tôi lúc đó bâng khuâng, không nỡ rời đi nơi khác, định chỉ kiếm việc gì ở đấy để lưu liên lại ít lâu.

Tôi muốn vứt hết những ý nghĩ băn khoăn phiền phức của đời quá ư văn minh này, cố giữ trong lòng được thảnh thơi mà yên thân ở đấy. Cái lòng tôi yêu cảnh thiên nhiên thật đã tới đến cực điểm.

Tôi để ý đến dân tình thời thấy phong tục rất hay, rất thanh tú, đúng với óc tôi mơ tưởng bấy lâu. Tôi có xem xét cho kỹ lưỡng thời thấy mình biết thêm được nhiều điều đáng cho vào quyển sách sau này. Nhưng tôi lại tự hỏi: thời phong tục làng ấy hay, nhưng hay ở thời này để làm gì mới được chứ? Có phải chỉ là để so sánh và lấy tiếng khen của người đời sau đâu? Điều đó tôi chưa giải quyết, chỉ riêng phần tôi bấy lâu chịu nỗi phất phơ, đến chốn đó có cái khí vị thanh nhàn, đời người đáng sống, đáng tôn trọng lắm. Nhưng họ có biết thế không? Nếu họ không biết thời cái mục đích của tôi đỏ đen hết cả. Đến lúc tôi tìm thấy là lúc tôi lại muốn phá đi. Tôi thành ra hoài nghi, nhưng tự an ủi mình rằng: đời ta đáng sống, ta vui lòng mà sống là nhờ có một cái tuyệt đích, là tu trường là hay, cố công đeo đuổi cho suốt đời. Sự run rủi đã đưa ta đến chốn này, thời ta cứ tĩnh tâm xem xét phong tục rồi làm thành sách mà giúp đời.

Ta cứ yên tâm mà theo cái đường ta muốn đi, thời đời ta mới có nghĩa lý đôi chút, ta tin ở đấy thời ta sống mới có phần đầy đặn hơn.

Một hôm tôi ở dưới làng lên đồi chơi, đường đi men sườn đồi, thấy có cái vườn dâu cành lơ thơ như bức mành hồng lấm tấm lá xanh. Giữa vườn có nóc nhà lá; theo cái ngõ con đi vào thời thấy sáng sủa phong quang như nhà một người ẩn sĩ.

Hôm ấy về mùa đông mà trời nắng, gió thổi lá dâu phất phới, lòng tôi nhẹ nhàng, vui vẻ làm sao! Cái vui như chan chứa trong tâm can tưởng không bao giờ có thể hết vui được nữa.

Vừa vào đến sân thời tôi đứng ngẩn người ra: một cô con gái trạc độ mười sáu, mười bảy đương ngồi quay tơ ngoài hiên, thấy tôi vào đưa mắt trông lên. Tôi chưa từng thấy người nào đẹp đến thế, bâng khuâng như mình lạc vào cảnh tiên. Nàng thấy tôi vào, không biết tại sao đứng dậy, tấm áo dịu dàng, mắt hoa ngơ ngẩn mà nhìn tôi: nàng nhìn tôi rồi lại nhìn quần áo, tôi mới sực nhớ ra mình ăn mặc như người thợ, cái tinh hoa ẩn vào trong sao lại cảm được nàng, làm sao nàng nhìn tôi mà lại hình như biết là tôi được. Tôi lấy làm ngượng, cái cử chỉ không được thật, như tỏ ra mình là người thế nào mà nàng đã biết hết. Nàng đột nhiên hỏi:

- Cậu vào đây muốn hỏi ai?

Tôi làm ra bộ ngơ ngẩn mà nói:

- Thưa cô, tôi làm ở trên đồi, xuống nhờ cô bát nước mưa uống đỡ khát.

Nàng nhìn tôi một lúc lâu, hai con mắt trông như ngạc nhiên muốn hỏi, rồi nói:

- Trời này uống nước mưa thời lạnh chết, để tôi vào xem có nước chè nóng, thời tôi cho một bát.

Tôi uống xong ngần ngừ không muốn đi ra, thấy nàng lại sắp ngồi vào quay tơ, liền nói:

- Cô cứ quay tơ đi cho tôi đứng xem học lấy cách thức thế nào.

- Mỗi người một việc, cái bác này người lạ quá, uống nước xong thời lên đồi mà làm việc lại còn ngần ngừ đứng lại, quay tơ thời có gì lạ mà xem.

Nàng nói thế là có ý đuổi, tôi cứ mê mẩn không đi. Nàng thấy tôi kỳ khôi lên tiếng gọi người nhà:

- Thầy ơi, có người thợ lôi thôi quá người ta muốn hỏi thầy đấy.

Nhà trên một ông cụ đi ra trạc ngoại năm mươi tuổi, râu đã lấm tấm bạc, vừa đi vừa nói:

- à, có phải bác phó Nghi đó không? Sao lên chậm thế?

Nàng nhìn lại tôi, thấy tôi vẫn đứng ngậm ngùi với cái guồng tơ lấy làm lạ, liền nói:

- Thưa thầy cái người nào ấy, không phải bác phó Nghi đâu.

ông cụ đến thì tôi vái chào, ông cụ không trả lời, mắt đăm đăm vào tôi như nhìn một vật gì lạ, rồi bỗng như nhớ ra, giơ hai tay lên mà nói:

-... Ông giáo Lưu.

Lúc bấy giờ cô bé đến gần cũng giương hai con mắt mà nhìn tôi, rồi lại nhìn ông cụ, con tơ nàng cầm ở tay rời ra rơi xuống đất.

Tôi thốt nhiên nghĩ đến tứ cố vô thân, người trong nước như thờ ơ lạnh nhạt, bấy lâu gian truân khổ sở mà không ích lợi cho ai, nên không thiết gì nữa, muốn ghen với nghìn người khác được sung sướng hơn mình, liền ngả nón mà nói một câu, một câu ấy mà cuộc đời tôi xoay hẳn đi; bấy lâu vì xã hội, vì danh giá làm cho mình không phải là mình, nay đến trước cảnh thiên nhiên bao nhiêu cái phụ thuộc xưa kia tô tạo nên tôi không có nữa.

- Vâng, thưa cụ chính tôi đây.

Rồi kể lại từ lúc thôi dạy học, vào trường Luật, cha mẹ qua đời, ý muốn làm những gì, tại sao lại ăn mặc thế này và tình cờ đến đây được. Cả nàng cũng ngồi nghe rồi cũng nói:

- Thảo nào mới đầu tôi trông quen quen, hơi quen thôi.

Tôi cũng hơi mỉm cười thôi mà nói:

- Trước tôi đi dạy học ở trọ nhà cụ thời cô em còn bé. Về sau có một hôm tôi ghé vào thăm cụ, thời họ nói đã dọn cả về quê rồi.

ông cụ nói:

- Nhà quê tôi đây, người dưới làng Từ Lâm gần hết là người trong họ tôi cả. Tôi cũng có nhà dưới làng, trên này chỉ là chỗ ở cho mát mà thôi. Bây giờ ông đã đến đây, đem lòng yêu thương phong cảnh đất này thời cứ ở đây với tôi mà làm sách. Vả ông không có ai là họ hàng nữa, thời ở đâu chả là quê hương. Dưới làng Từ Lâm có cái trường mới mở mà chưa có thầy giáo, để tôi nói cho họ biết ông là ai, rồi ông dạy học ở đấy, xem xét phong tục cho tiện.

Anh ạ, thế là từ hôm ấy, ngày ngày hai buổi xuống đồi dạy học; dân làng Từ Lâm thật là thuần hậu, càng ở lâu càng mến mà họ cũng có ý mến tôi, học trò cũng khá đông. Những lúc tan học về, trèo lên đồi, đi qua những vườn chè đất ghồ ghề, tuy vất vả mà cái vui trong lòng thật là vô cùng. Tôi hình như lúc nào cũng háo hức muốn làm hay cho người khác, ở chỗ thiên nhiên này, cái lòng tôi mới có thể nẩy nở ra được. Tự độ ấy mà tôi nghĩ ra một cái ý rất hay, chốc nữa sẽ nói anh nghe.

Tôi ở một gian đầu, nhà cũng khá rộng, sạch sẽ và sáng sủa, khi đi dạy học về lại ngồi vào bàn viết lách. Sách vở mới đầu chưa có gì, về sau tôi có tiền gửi về Hà Nội mua, bây giờ cái thư viện cũng kha khá. Cửa sổ, chỗ cái giường tôi nằm thời trông xuống dưới cánh đồng, xa xa dẫy núi mấy chòm cao, cây xanh trùm đến ngọn, làn khói như sợi tơ lên nền khơi. Dòng sông uốn quanh chẩy lại, sắc trong trong có mãi không cùng. Đồng lúa xanh kéo đến tận chân đồi, cô con gái áo nâu yếm đào lên núi lấy sơn, con ngựa rong ruổi xuống dòng uống nước. Nét bút các nhà cổ danh họa cũng tài tình mà phong phú thật; nếu muốn lấy cảnh trời đất làm vui ở đời thời cái buồng nhỏ ấy cũng là giang sơn cho mình được. Ông cụ Ở nhà ngoài, còn người con gái thời có khi lên trên này, có khi xuống dưới làng với bà cụ.

Những ngày chủ nhật thứ năm, khi nào viết nhiều quá mỏi tay, nghĩ quá nóng đầu, thời tôi thường lên đồi chơi vẽ cảnh. Có khi gặp nàng đương hái chè, lần đến nói chuyện làm ăn, chuyện thật thà mà ngây ngộ Gió đưa quần áo phấp phới, trông nàng đẹp quá, không sao không cảm được. Có khi tôi đứng vẽ cả nàng nữa. Nàng quay mặt lại thấy tôi, có ý ngượng, song xem ý cũng muốn để tôi vẽ, thấy tôi đến thì chít lại khăn vuông cho ngay ngắn, buộc lại thắt lưng cho gọn gàng. Tôi vẽ xong, nàng táo bạo chạy lại nhìn vào tờ giấy rồi nói:

- Trông giống đấy nhưng sao lại thiếu mất một tay.

Tôi cười, nàng cũng cười, gió trên đồi thổi mạnh; từ mảnh trời sắc núi, cho đến ngọn cỏ, dáng người như hòa hợp lại với nhau, điều độ, nhịp nhàng như khúc nhạc Quân thiên.

Dưới chân, bờ ruộng, kẻ ngang kẻ dọc trông như bàn cờ, mỗi chỗ mỗi khác, công việc đồng áng thong dong, tiếng gà gáy chó sủa văng vẳng gió đưa lên đồi làm cho chúng tôi quên bẵng mình là người thời buổi nay, ở lùi lại thời hồng hoang thái cổ. Tôi giảng cho nàng nghe về cái vẻ đẹp của trời đất, bảo nàng chỗ tôi với nàng đứng đây là chỗ trung tâm của mọi sự hòa hợp trên đời, lấy cái vẻ đẹp bàng bạc trong non sông mà chung đúc nên.

Một hôm tôi đi dạy học về thấy nàng đứng trước tờ tranh tôi vẽ nàng hôm nọ, tôi vào mà nàng không biết. Tôi nói:

- Thôi đẹp lắm rồi, ngắm mãi!

Nàng quay lại lấy làm thẹn, má đỏ hồng. Thời kỳ này là thời kỳ mà nàng đã bảo tôi để ý đến nàng, mà nàng cũng đã muốn tôi rồi đấy: lẽ ấy là lẽ thường, nàng là người con gái mới, gặp tôi còn mơ ước gì hơn nữa, mà tôi cũng định tâm lấy nàng thật.

Một buổi chiều tôi đi một mình lên rừng chơi, lắm chỗ cỏ mọc cao đầu, cây cối rậm rạp, tôi lạc lối cứ đi mãi, gặp suối thời kéo gỗ trên rừng xuống bắc cầu mà quạ Trời đã tối vẫn lẩn quẩn không thấy đường ra. Nửa đêm mới về đến nhà, thấy nàng vẫn còn chong đèn thức mà đợi tôi, như có vẻ lo sợ, tôi hỏi thì nói là ngồi khâu nốt cái áo cho xong. Nhưng tôi cũng hiểu lòng nàng thế nào rồi, mà lòng tôi cũng có khác chi đâu. Những lúc đi dạy học về, đợi nàng dưới làng lên, trời đông sao mà quạnh hiu như không có một ai nữa, đến lúc thấy nàng qua vườn dâu, thấy nàng đi vào mặt tươi như hoa và lạnh như sương, thời lòng tôi phấp phới như bướm trên hoa. Có khi tôi theo nàng lên đồi làm lắm việc trẻ con quá, không ai nghi ngờ gì cả, đồi cao cây phủ ai biết đó là đâu.

Một hôm tôi đột nhiên sắm sửa nói với ông cụ xin đi:

- Bấy lâu ở đây thật cảm ơn cụ quá không biết lấy gì mà đền ơn được. Bây giờ công việc tôi ở đây đã xong cả rồi, phải dời đi nơi khác. Vậy xin từ biệt cụ, mà đi phen này không biết có còn gặp được cụ nữa không.

Nàng cũng có đấy, tôi nói xong trông lên, thấy nàng đứng đằng sau ông cụ mà nhìn tôi, làn thu ba, đắm đuối như hỏi như han như oán trách vô ngần. Tôi nói chuyện với ông cụ một lúc lâu thời không thấy nàng đứng đấy nữa. Tôi nhìn ra cửa sổ chỗ con đường đi xuống dưới làng, cũng không thấy bóng ai, lên đồi chỗ chúng tôi vẫn thường nói chuyện với nhau thời thấy nàng có đấy đương cúi mặt mà khóc nức nở. Tôi đến gần mà bảo nàng rằng:

- Sao cô vội khóc thế, để tôi nói cho nghe đã, không thế thời bao giờ chúng ta có thể lấy nhau được, thế nào tôi cũng phải đi độ nửa năm cho ai cũng quên tôi đi, rồi sau mượn mối đến hỏi thời tránh được tiếng người ngoài. Trong nửa năm ấy tôi lại khăn gói lang thang hồ thỉ bốn phương, cô đừng tơ tưởng đến tôi nữa, nên cầu cho tôi có thể xa cô càng lâu bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.

Bấy giờ nàng mới hiểu, gạt nước mắt mà nhìn tôi như trách đã để nàng sa mấy giọt nước mắt không đâu. Trời đã lờ mờ tối, về phương xa trên mấy cái núi cao họ đốt rừng, trời đất bao la, chúng tôi cầm lấy tay nhau sung sướng quá, không thích sống gì nữa.

Hôm sau tôi từ giã ông cụ và Từ Nương vác khăn gói ra đi. Trong một năm trời nay đây mai đó, non nước lắm khi thấy lạnh lẽo, xa lạ mà buồn tênh quá. Còn nàng thời ở lại chốn vườn xưa, con bươm bướm cái hoa đậu, lần lần tháng trọn ngày qua xinh đẹp thêm ra, không lớn lên.

Tôi đi đến đâu cũng không thấy được như chốn cũ nữa, người đời sống nhỏ nhen, đê tiện quá, không cái gì có thể làm cho mình vui lòng đôi chút. Tôi trở về Từ Lâm thời lòng đã tê tái, lúc trông thấy cái yêu quí xa xa, bao nhiêu nỗi buồn như giũ sạch, lòng thấy nhẹ nhàng hăng hái, rất tin về công việc mình làm, không có những cái ý nghĩ băn khoăn nó xô đẩy nữa. Tôi lại men sườn đồi như năm nọ, đến khi trông thấy nàng đứng trong sân mà nàng cũng trông thấy tôi thời dẫu cho long trời lở đất, chúng tôi cũng không nỡ rời nhau ra nữa.

ông cụ bằng lòng cho chúng tôi lấy nhau và để riêng cái nhà ấy cho hai vợ chồng ở. Tôi đi dạy học, làm sách, nàng ở nhà dệt vải, ươm tơ, ngày tháng như thoi, thời gian bát ngát, chúng tôi cũng không mong mỏi gì nữa.

Hôm nọ cần mấy quyển sách và lâu ngày cũng nhớ anh em bạn cũ, nên mới dò lên đây đấy. Thôi bây giờ tôi đã giầu lắm rồi anh ạ, mà tôi còn muốn làm giầu nữa. Tôi làm sách mà nói thời chắc không ăn thua gì, chỉ có một cách thực hành ngay là hơn; anh chắc đã biết, không còn mong gì ở quan rồi, cũng không thể mong ai được nữa. Vậy bây giờ tôi định có nhiều tiền tậu một cái đồn điền độ mấy nghìn mẫu vừa đồi vừa ruộng; mở đồn điền không phải là cứ vụ gặt đến, nhảy ôtô lên thu thóc, thu tiền đâu, cũng không phải là chỉ nhìn cây cà phê ra quả đâu, cốt nhất là giáo hóa cho dân. Tuy không được lan rộng nhưng thấy kết quả hiển nhiên, làm cho mấy nghìn con người được sung sướng vì mình, thời chết đi tưởng cũng hả dạ lắm, đời mình không phải là không có cho ai. Tôi lại đi tìm những người nào đồng chí, phải đồng chí lắm mới được rồi thì mời về thực, hoặc ai bận bịu thời giúp cho họ thoát ly, về ở với nhau, lập thành cái làng con ở chân đồi. Nhà ở thời toàn là nhà gỗ, nhưng cao ráo sáng sủa, chung quanh có vườn rộng trồng cây có quả. Đồ đạc đơn sơ mà thật nhã, thiệt hợp với sự cần dùng, đồ mỹ thuật có ích nhưng rất quí; một vài bức cổ họa mầu dịu, một vài lọ dành để cắm hoa, bao nhiêu cái xa hoa phiền phức thời bỏ đi hết. Chung quanh nhà nuôi chim, nuôi ong cho vui. Ngoài việc làm ruộng dựng một cái nhà tằm, trồng mươi mẫu dâu, dệt vài khung cửi, để đám phụ nữ săn sóc về việc tằm tang, canh cửi để lấy lụa trong nhà dùng. Làng có một cái nhà chung để bàn việc trong đồn điền, có một cái thư viện gồm cả sách Tây, sách Nho chọn lọc kỹ.

Người thời làm cho trong đồn điền có nhiều hoa lợi cho dân khỏi đói, người dạy về công nghệ, người thì dạy học, cốt làm cho họ biết ăn ở với nhau cho hòa hợp, biết yêu cảnh thiên nhiên, biết sống ở đời là vui, mà ở đời thường cũng chỉ có thế mà thôi, còn ngoài ra là hão cả.

Tôi tưởng tượng ra như một nơi mà người nào cũng ăn ở hòa hợp với nhau thương yêu nhau lắm, người nào cũng lấy sống ở đời làm vui, không có thiếu thốn cái gì để phải khổ sở, mà cũng không có cái gì nhiều quá để mê đắm lòng mình, cái gì cũng điều độ, nhịp nhàng như khúc âm nhạc để ca tụng ông trời kia đã cho lòng mình được trong sạch, giản dị, mà lúc nào cũng đầy những gió trăng hoa mộng. Cũng vì cái xã hội ngày nay không hợp với tôi, tôi không có thể nào theo người khác được nên mới có cái ý tưởng kỳ khôi ấy. Tôi chán hết cả. Tôi không có cái hăng hái như người khác mơ tưởng một cái văn minh mà ta vẫn thường cho là văn minh, tôi chỉ muốn trở lại thời cổ sơ, cố đạt được cái mộng các bực hiền triết ta ngày trước, có thế thôi. Tôi đã biết từ khi hãy còn trẻ rằng rồi sau thế nào tôi cũng thế này, nên từ bé cho đến khi hơn hai mươi tuổi đầu, bao nhiêu những việc tôi làm, những công gắng sức của tôi là theo thói người đời mà làm đấy thôi, chứ thật ra tôi không tiện ở đây, cho là tạm thời hết cả. Vì thế mà lúc nào tôi cũng buồn, buồn rằng cái óc như người khác mà không sao sống như người khác được.

Tôi tưởng thế mới là văn minh; chứ biết đo hết cả vũ trụ, biết thấu hết mọi cái huyền biến vạn vật, biết hết cả mà rút lại ăn ở với nhau không nên thân, lấy cái óc mà nghĩ cách giữ lẫn nhau, thời văn minh làm gì, đưa nhau đến đâu mới được chứ? Hoán cải cái văn minh lại mà thôi.

Bạn tôi nói xong, lặng yên mà nhìn lên trăng cao tít trên trời, nét mặt thanh thản như chan chứa cái vui, tôi nhìn anh Lưu mà tôi thương hại cho tôi. Tôi nói với bạn rằng:

- Anh là người sung sướng vì anh sớm biết theo cái chí hướng của anh, không cần thiên hạ, còn tôi ngày ngày hai buổi đi về, tôi có phải là tôi đâu, cái đời tôi thật là khốn nạn quá. Không biết sau đây, anh đạt được mục đích, có để cho tôi về nương thân ở đấy không, hay cái lòng tôi còn tục quá, còn hám tiền của, danh lợi quá, vẫn ưa những cái phiền phức, xấu xa, chưa biết yêu cảnh thiên nhiên nên không đáng là người đồng chí với anh chăng. Nếu thế thời từ nay tôi xin luyện hồn trước đi, còn về đường vật chất chắc anh làm cho tôi thoát ly ra dễ lắm. Nhưng tôi giúp gì anh được, các công việc tôi học mấy năm trời vứt đi cả, lệ luật mà tôi nhồi vào óc bấy lâu dùng ở cái xã hội nhân công tổ tạo này thời nay còn được, chứ nó sống sượng lắm nên quẳng nó đi cho nhẹ Óc, trước kia tôi cũng có cái ý nghĩ như anh, nhưng còn mập mờ chưa rõ, là vì sợ người khác, sợ người khác họ chê là tại mình dốt, mình yếu nên không chen được với họ nên mới đâm ra nghĩ như thế. Vả đời sống là sống thế này rồi, ai ai cũng công nhận như thế, nay trái hẳn lại, mấy người đã có cái gan ấy!

Sáng hôm sau, bạn tôi nói xin về, tôi cũng không giữ lại. Tôi định tiễn tiền tầu thời bạn trả lại không lấy mà bảo rằng:

- Hôm nào thư thả mời anh lên chơi với tôi cho khuây khỏa nhưng chắc anh bận lắm thì phải, chỉ ngày lễ mới đi được thôi. Mẹ cháu ở nhà năm nay tơ tốt có dệt được mấy tấm lụa đẹp, hôm nào anh lên sẽ xin tặng gọi là một chút quà ở nơi sơn trại.

Bạn tôi về Từ Lâm, còn tôi lủi thủi vác ô vào Sở. Nghĩ mà cũng phải: ở đời sống là thế này rồi, ai cũng công nhận như thế, nay trái hẳn lại, mấy người đã có cái gan ấy.

Nhất Linh

Trích từ tập truyện ngắn Người quay tơ
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

42 . Nô Lệ

Một làng yên tĩnh ở vùng Thanh Sơn, đất ít núi nhiều, có con sông trong và mát xuôi dòng chẩy ra trường giang. Chỗ thung lũng thời cấy lúa, mưa thuận gió hòa, đời đời con cháu an cư lạc nghiệp.

Có một người muốn mở đồn điền xin khai khẩn; Nhà nước cho tạm khẩn từ mốc A đến mốc B, phu đồn cứ việc kéo dây thẳng để phân địa giới. Chính giữa trong đồn điền có ít ruộng của dân làng mà gần khắp là ruộng của một chàng nông phu kia.

Dân làng kêu ca, ông chủ đồn điền dỗ ngọt, cho các kỳ mục trong làng một bữa chén no say rồi phân giải rằng:

- Không, các ông không sợ, tôi đến đây các ông chỉ có lợi chứ không có hại, vì tôi trồng cà phê, các đàn em trong làng ai không việc làm tôi dùng cho cả, kiếm bát cơm mà ăn, còn ruộng của các ông trong đồn điền thời các ông cứ vào mà cầy cấy chứ tôi lấy làm gì mà tôi lấy thế nào được!

Kỳ mục mỗi người được năm đồng, khoan khoái ca tụng rồi giải tán; dân làng cũng không kêu ca kiện tụng gì; sống ở đời cơm no, áo mặc, ăn ở với nhau cho hòa hợp, thế là đủ chứ có biết đâu đến cái mánh khóe là thế nào; những dân ấy ta thường gọi là dân ngu.

Lệ Nhà nước xin đồn điền, trong ba tháng không có ai kêu ca thời được khẩn, và trong ba năm thời một phần ba miếng đất mình xin phải có trồng cây cối rồi.

Trong lúc đó dân làng vẫn vào trong đồn điền cầy cấy làm ăn như thường, chàng nông phu kia thấy lúa tốt thời mừng, thấy thóc nhiều thời hởi dạ, mà ruộng ở trong đồn điền không sợ cướp bóc gì lại càng vững tâm nữa.

ít lâu cà phê đã lên cao, một năm, một năm rưỡi. Ông chủ đồn điền ra lệnh cấm không cho ai qua lại vì trâu bò giẫm chết cà phệ Vì ông không nghĩ đến cái quyền mà dân làng được vào cầy cấy nên ông làm thế cũng là có lý lẽ lắm. Những người khỏe không phải là nhẫn tâm mà làm hại kẻ dưới đâu, nhưng chỉ tại không thèm để ý mà vô cớ làm hại đấy thôi. Nhưng kẻ dưới thì dẫu cho ông nhẫn tâm hay là ông vô ý cũng không làm gì được, phận nhỏ phận hèn, phải cắn răng mà chịu vậy.

Dân làng sợ thanh thế nên không dám nói gì, chàng nông phu kia tâng hẩng.

Dần dần những ruộng cầy cấy trước kia thành hoang điền, cỏ non tốt um, tưởng chừng chưa thấy lưỡi cầy nhát cuốc bao giờ. Chàng nông phu ta ngày ngày nhớ ruộng xin phép vào đồn điền, đứng trên đồi cà phê xanh tốt mà nhìn xuống ruộng mình, thấy ngọn cỏ cao dần, lòng đau như cắt: thỉnh thoảng thấy ông chủ đồn đứng xa xa, sai bảo mấy người phu, tiếng nói oai quyền dõng dạc như ông chúa tể một vùng ấy, chàng nông ta có ý sợ hãi, lại sực nghĩ tới mấy năm trước, ruộng mình mình cấy, đường mình mình đi, nghênh ngang ai nạt ai cấm.

Hồi ấy Hội đồng ủy viên xét đồn điền đến khám. Ông chủ đồn điền bèn tiếp đãi cẩn trọng đưa đi xem cà phê: xem đến khu ruộng ấy thời tuyệt nhiên là đất bỏ hoang rồi liền ghi vào biên bản là đất của đồn điền.

Nhà đồn làm trên đỉnh đồi cao rộng rãi mát mẻ, các hội viên đi từ sáng đã thấy mỏi mệt, ông chủ liền mời lên mở rượu giải khát, rồi làm việc: trí nhận xét các hội viên cũng theo hơi cháo ám mà tiêu tán đi hết; đến khi sâm banh nổ, thời chẳng chút áy náy rằng đã làm một việc bất công.

Vài năm sau, chàng nông phu kia chỉ còn ít thửa ruộng ở ngoài làm không đủ ăn. Đâu là những lúc thóc lúa gánh về đầy vựa đầy sân, đâu là những lúc cơm trắng cá tươi, vợ con hớn hở? Dần dần còn ít thửa ruộng cũng bán nốt; năm sau vợ chết, mấy đứa con, bò nheo bò nhóc. Ở làng không tìm được việc làm phải đưa con lên chốn rừng xanh núi đỏ; hay lang thang ba bốn tháng trời rồi lại bỏ về chốn quê hương.

Nhân lúc ấy đồn điền đã có hoa lợi, cần nhiều người vào hái "cà", anh đã quẫn bách, nói với người cai xin vào làm phu trong đồn điền, coi ông chủ như thần như thánh, ca tụng, tâng bốc, hễ gặp đâu thời cúi rạp xuống tận đất. Ông chủ mắng một tiếng thời mặt cắt không được giọt máu, khen cho một câu thời bay bổng lên tận trời xanh! Cứ ai vào làm thời ông chủ lại cho một thửa ruộng mà làm ăn, ruộng ấy là ruộng của làng trước. ân huệ mưa móc xiết bao!

Chàng nông phu trước kia tự do, bây giờ đem thân nô lệ một người.

Buổi chiều đến, thấy ngọn đèn sáng trên đồi, tiếng chó tây cắn người inh ỏi, anh em ngồi quanh bếp nói với nhau: "ấy, đèn ông chủ", "ấy, chó ông chủ".

Nhất Linh

Trích từ tập truyện ngắn Người quay tơ
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

43 . Tương Tri

Tôi ở Sầm Sơn đã hăm tám năm, ngay từ thời tôi tậu cái nhà nghỉ mát này. Năm ấy tôi vừa bốn mươi và đương làm ký lục tòa án tây ở Hà Nội. Một hôm đi chơi xa về tôi húng hắng họ Cũng tưởng cảm qua loa, rồi khỏi. Nào ngờ bệnh cứ liên miên kéo dài mãi. Nghe lời anh em, tôi đi xem đốc tờ. Thì ra, ông ạ, hai lá phổi của tôi đã lỗ chỗ bắt đầu có chấm đen. ấy là đốc tờ nói thế thì tôi cũng biết thế. Nhưng dẫu sao tôi cũng sợ hãi, kinh hoảng, cuống cuồng. Tôi lo tôi chết, nhất đốc tờ lại khuyên tôi nên nghỉ hẳn công việc về tĩnh dưỡng ở một nơi thôn quê hẻo lánh quang đãng. Tôi tin chắc rằng ông đốc tờ không nỡ bảo thẳng cho tôi biết rõ cái bệnh trầm trọng của tôi, và tôi hiểu ý nghĩa sâu xa của câu nói kín đáo.

Thế là tôi xin thôi việc. Nhà tôi giàu có. Tôi chỉ làm việc cho đỡ buồn, sau hai lần thi trượt vào trường Sĩ Hoạn. Cha mẹ tôi lại đã mất cả. Tôi hoàn toàn tự chủ đời tôi. Vả lúc bấy giờ, mình còn mong gì, đời mình còn dài mấy, mà bảo mình chí thú làm ăn tính toán kia khác. Vì thế, ngay vụ hè năm thôi việc, tôi vào đây nghỉ mát, thuê cái nhà này rồi mua hẳn. Tiêu tiền, tôi chỉ nghĩ có một việc tiêu tiền, tiêu cho sướng tay rồi chết. Các con tôi thì tôi đã dành cho mỗi đứa một vài cái nhà hoặc ở Hà Nội, hoặc ở Hải Phòng rồi.

Nhưng đấy ông coi, hăm tám năm qua, nào tôi đã chết đâu? Mà lạ quá ông ạ, tôi vẫn húng hắng ho như ngày mới mắc bệnh, có lẽ tôi cứ húng hắng ho mà cứ khỏe mạnh như thế này cho tới ngày xuống lỗ.

Nay tôi quen đi rồi chứ mấy năm đầu thì khổ lắm. Lăm le chờ chết đến... Thà nó đến ngay cho, cũng xong. Nhưng sang năm thứ tư, tôi hầu quên hẳn bệnh ho của tôi. Rồi cho qua những ngày nóng nằm nghỉ trong này - vì thế hè tôi đã trở về Hà Nội - tôi đánh tổ tôm, đánh cờ, - nhất là đánh cờ. Tôi thích cờ lắm, ham mê nữa. Trong mười năm gần đây tôi rất chịu khó xem các sách trận, thế và luyện tập với các tay cao cờ ở Hà Nội, Hải Phòng, nên nay đánh cũng có nhiều nước khá, nhiều nước haỵ Ở đây, họ đồn đại tiếng cao cờ của tôi nhiều lắm và cho là tôi vô địch, nên động có tay yêu cờ vào nghỉ mát, như ông chẳng hạn, là phải tìm đến thăm tôi. Những ông ở các nơi thì tôi chả dám nói, chứ người ở vùng này ít ai hạ nổi tôi, trừ khi tôi cố ý thua thết khách một, hai ván. Họ tâng bốc mình là vô địch, thực cũng không ngoa lắm, vô địch đối với họ.

Tôi yên trí thế mãi. Nhưng một lần binh... binh gì người hạt Nông Cống tôi quên mất tên, hòa với tôi một ván rồi hạ luôn tôi ván sau. Hôm ấy tôi vừa ăn cơm sáng xong. Một người lính khố đỏ ngồi ăn quà ở hàng nước trước cửa nhà tôi. Người ấy nói nghe đồn tôi cao cờ muốn xin hầu một ván. Thằng người nhà tôi vào thuật lại với tôi. Tôi liền cho ra mời người ấy. Hắn cao thực ông ạ. Ván trước tôi chật vật mới giữ được hòa, mà ván ấy kéo dài từ mười một giờ cho tới năm giờ chiều. Đánh xong ván sau thì tối mịt. Ván ấy tôi thua.

Nhưng thua thì thua, tôi vẫn không phục, nhất là không mãn nguyện được thua một tay địch thủ, vì người lính cao thì có cao, nước cờ vẫn chỉ là nước cờ nhà nghề, không phải nước cờ phong lưu tài tử? Đánh với hắn ta, tôi tưởng tượng như đánh với một anh nhà quê xòe cái quạt hới che đầu trước một cửa đình vào đám. Những nước cờ chắc chắn, vững chãi, giữ gìn, không bao giờ lầm lẫn, nhưng tầm thường như nước "kiệu một" của con ngựa nết na chạy thẳng một mạch tới đích. Kể thì là con ngựa đã khá lắm rồi, vì nhiều người đánh cờ như lừa hay bò chạy, chán ngắt!

Tôi thuật dài dòng quá, phải không? Tôi hứa với ông một câu chuyện kỳ thú mà chưa có một tý gì gọi là thú cả. Xin lỗi ông, nhưng tôi phải kể có ngành, có ngọn thế thì ông mới hiểu gặp cụ tú tôi sung sướng biết chừng nào.

Tôi vẫn chưa hỏi thăm được tính danh quê quán của cụ tú. Tôi chỉ biết cụ là một cụ tú, thế thôi.

Một hôm - cách đây bốn năm - vào khoảng mười một giờ sáng, lúc tôi sắp sửa ăn cơm, người nhà tôi nói ở cổng có người tự xưng là một ông tú tài ở vùng này đến chơi. Tôi cho mời vào. Cụ tú là một ông già ngoài bảy mươi tuổi, y phục rất cổ, đầu đội mũ ni nhiễu, mình mặc áo thâm rộng, tay chống cây gậy trúc. Có lẽ cụ thích lối y phục ấy chứ sự thực, cụ tuy râu tóc bạc phơ mà người còn khỏe mạnh, chưa điếc, chưa lòa, chưa gù, cái gậy cụ cầm là một vật trang sức hơn là một vật cần dùng.

Tôi hỏi: "Thưa cụ, tôi chưa được biết tiếng cụ, chẳng hay cụ có điều gì đến chỉ giáo chỏ". Cụ cười to, đáp: "Tôi ở cách đây xa lắm. Sáng sớm hôm nay, vào khoảng năm giờ, tôi bắt đầu ra đi, thế mà bây giờ tôi mới tới đây. Tôi không quản đường xá xa xôi, hiểm trở, vì phải leo một trái núi, để đến xin hầu cụ một ván cờ".

Tôi kinh ngạc, cảm động nữa: xưa nay tôi mới thấy một ông già lạ lùng này, chống gậy đi bộ nửa ngày trời để đánh một ván cờ. Tôi nói với cụ tú: "Thưa cụ, cờ tôi chưa có gì mà được cụ quá trọng vọng như thế này, thực tôi lấy làm tự thẹn". Cụ tú cười sang sảng đáp lại: "Thưa cụ, chỉ vì tôi nghe đồn cụ là một kỳ thủ vô địch ở vùng này nên tôi mới trèo non vượt suối qua đây, xin cụ đừng quá nhún và cho tôi được hầu một ván".

Tôi mời khách xơi cơm. Khách chối từ nói trước khi ra đi đã ăn lót dạ và giữa đường đã dùng cơm nắm chấm muối vừng. Ông thấy chưa? Đem cơm nắm muối vừng ra đi chỉ vì nghe đồn có một tay cao cờ ở một nơi kia. Mà tôi chắc trong chiếc khăn gói nhỏ khoác vai, thế nào cụ tú cũng còn đủ lương thực để dùng trên con đường về.

Sau nể lời mời mọc khẩn khoản, cụ cũng nhận uống với tôi một chén rượu.

Rồi chúng tôi đánh cờ. Cờ cụ tú cũng khá, đại khái như cờ tôi, có kém thì cũng chỉ kém độ một tốt. Chúng tôi chơi ba ván, ván đầu tôi được, ván thứ hai cụ tú được, ván thứ ba tôi cố ý tính hòa tuy cờ tôi có phần thắng thế.

Lúc cụ tú ra về, trời đã xế chiều. Tôi hết sức giữ cụ nghỉ lại đây một đêm, nhưng cụ nhất định cáo từ, nói nhân có trăng về ngay cho được mát.

Tôi âm thầm nhớ ông bạn mới, buồn rầu tưởng tới lời hứa sẽ lại đến chơi. Sẽ lại đến chơi? Tôi tin sao được. Ngoài bảy mươi tuổi đi nửa ngày trời để đánh ván cờ. Một lần còn có thể được, chứ mãi mãi thì có tài thánh.

Tôi bỗng hối hận rằng sao không cả quyết giữ mà lại để cụ tú về. Tôi nghĩ thầm: "Đường qua núi, qua đèo, dù có trăng cũng khó nhọc cho một ông cụ già. Nói gì khó nhọc, nhỡ cụ sảy chân ngã xuống khe, xuống suối thì sao?" Đêm hôm ấy tôi băn khoăn không nhắm mắt.

Và tôi luôn luôn thấp thỏm lo lắng cho tới mười hôm sau, vào hồi mười giờ sáng, cụ tú lại chống gậy đến. Cụ mở khăn gói lấy ra cho tôi một chai rượu ngâm thuốc mà nói rằng: "Rượu ngang vùng tôi ngon lắm, tôi đem biếu cụ một chai. Tôi bỏ vào mấy miếng truật cho đoan nó khỏi bắt".

Tôi bảo người nhà sắp thức nhắm, rồi bày bàn cờ ra đánh. Đi được dăm nước, tôi nhận thấy ngay rằng cụ tú đã về nhà mở trận ra luyện để phá nước pháo thăng hà của tôi. Tôi tự nhủ: "Không ngờ ông già bảy mươi này lại có chí phấn đấu và tính hiếu thắng đến thế". Và điều này nữa, chẳng rõ ông có để ý không, chứ tôi thì tôi nhìn không sai, là người làm sao nước cờ hiện ra làm vậy. Người bủn xỉn, bẩn thỉu, nhỏ nhen thì nước cờ giữ gìn, bo siết từng tí: đó là nước cờ của các bác nhà nghề đi giựt giải ở các đám hè, đám hội. Những người rộng rãi, phóng túng, liều lĩnh, anh hùng, nước cờ cũng rộng rãi phóng túng, liều lĩnh, anh hùng. Những người ác, nước cờ không thể hiền lành được. Những người nhã nhặn có lễ độ, nước cờ không bao giờ lấc cấc, du côn. Những người quân tử không thèm đánh trộm, những kẻ tiểu nhân lừa lọc từng miếng. Nước cờ cụ tú tỏ ra rằng cụ là một ông tướng can đảm sáng suốt, có mưu trí lúc lâm nguy hay lúc khởi thế công. Nhưng thế thủ của cụ hơi chểnh mảng một chút. Tôi chưa rõ cụ Ở vào hạng người nào trong xã hội, nhưng tôi đoán cụ có óc cách mạng. Mãi sau, trong câu chuyện thân mật tôi mới biết trước cụ có dính dáng vào việc văn thân và đã bị đày mấy năm ra Côn Đảo.

Lần thứ hai ấy chúng tôi chỉ đánh có một ván. Cụ tú đòi về ngay cho được sớm sủa, vì hôm ấy không có trăng.

Từ đó cứ mươi mười lăm hôm cụ tú lại đến chơi đánh cờ, cho tới hết hè tôi ra Hà Nội.

Rồi vụ hè năm sau cuộc chơi cờ lý thú của chúng tôi lại nối.

Một hôm tôi tiễn cụ tú một quãng dài khỏi làng Trường Lệ. Chúng tôi noi theo đường núi tới chỗ rẽ xuống xóm Sơn mới ra bãi biển theo ven làng Trường Lệ. Khi đứng trên ngọn núi cao, tôi trỏ một làng xa xa mờ mịt dưới mấy khóm phi lao và hỏi: "Cụ Ở vùng kia, phải không?"

Cụ lắc đầu đáp: "Không, xa hơn đấy nhiều". Rồi cụ đứng rướn thẳng người lên, nhắm gậy trúc về một phương, nói tiếp: "Tận nơi kia, sau hòn núi đá xanh xanh và như hình một bức bình phong đó".

Tôi ngắm cụ tú, tôi ngắm diện mạo dáng bộ cụ, tôi ngắm cảnh biển chung quanh và tôi mơ màng như sống lùi lại hàng nghìn năm, vào thời người và tiên thường gặp nhau trên núi cao, trên biển cả; cụ tú với cái mũ ni nhiễu tam giang, với cây gậy trúc màu vàng ngà đã hiện ra trước mắt tôi thành một nhà đạo sĩ đi tìm thuốc trường thọ. Dưới kia, trên mặt nước phẳng lặng, khúc nhạc chất phác nghìn xưa của bọn dân chài cũng đang diễn lại: Tiếng gõ mạn thuyền theo liền với những tiếng kêu mọi rợ "Ơ! ới... Ơi!" kéo dài mãi một điệu. Họ dọa nạt cá đấy. Hẳn ông cha ta về thời Trần, thời Lý, thời Đinh cũng dọa nạt quân địch như thế. Và đoàn thuyền đánh cá kia so với thuyền trận của các cụ ta nào có khác nhau mấy tí?

Qua làng Trường Lệ, cụ tú nhất định mời tôi trở về cho kỳ được mới nghe. Rồi cụ rẽ lên đường đi biệt vào trong rừng phi lao.

Thế là tôi chỉ biết cụ Ở vào phía sau dẫy núi bình phong mơ hồ, như một ông tiên trong một nơi động khuất nẻo.

Năm ngoái, chờ mong mãi không thấy cụ tú ra đánh cờ, tôi nhớ quá. Nhớ mà chả hiểu làm thế nào để dò thăm tin tức. Hỏi người vùng này thì họ chẳng rõ cụ tú già ấy là ai và ở đâu.

Đã có lần cùng một người nhà, tôi mò mẫm về tận vùng trái núi bình phong, nhưng cũng chịu không tìm được di tích cụ tú kỳ dị.

Đến năm nay, đã gần hết hè rồi mà vẫn chưa thấy cụ tú ra, thì tôi đoán chắc rằng cụ đã quy tiên.

Kể dứt câu chuyện, cụ ký uể oải bày quân ra bàn cờ để cùng tôi đánh giải khuây một ván.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

44 . Tiếng Khèn

Nhiều lần tôi nghe tiếng khèn. Và tôi chắc ai lên Sapa cũng đã được thưởng món âm nhạc Mèo ấy một cách dễ dàng như tôi. Ngày phiên chợ, chỉ việc tặng chú tài tử Mèo dăm xu là chú ta cúi khom ngay lưng xuống mà vừa thổi vừa nhảy lò cò chung quanh một cái vòng tròn tưởng tượng.

Nhưng trong hai đêm tiếng khèn đã gieo vào lòng tôi sự buồn thảm nặng nề và sự rùng rợn ghê gớm.

Đêm hôm ấy, gió mưa hắt lạnh đánh thức tôi dậy. Tôi vội vàng đóng cửa kính. Bỗng tiếng khèn ở dưới đường đưa lên rầu rĩ, trầm dài một điệu.

Tôi ra hiên nhìn xuống: Một người Mèo thong thả đi trong mưa, lên dốc khách sạn Trung ương và tiến về phía nhà bưu chính.

Tiếng khèn xa dần, nhỏ dần. Và một lát, tôi tưởng tôi mơ mộng, vì tiếng tsè tsè vẫn còn như vương vấn, ngân nga tựa tiếng ve từ nơi thung lũng xa xăm nào bay tới.

Nhưng chỉ nửa giờ sau tôi đã nhận thấy rằng tôi không mơ mộng. Tiếng khèn quả thực chưa ngừng... Một lúc một rõ, một gần. Rồi từ phía chợ đi lên, nhà tài tử Mèo vẫn lom khom, thong thả đi trong mưa với cái ống tiêu Mèo dính liền miệng.

Lúc đó, từ trong bóng tối, dưới mái quán chợ, một người lính cảnh sát ném ra mấy câu tiếng Mèo. Nhà âm nhạc đứng thẳng lên lắng tai nghe, cái khèn vẫn không rời môi. Rồi chẳng đáp lại nửa lời, hắn nghiễm nhiên thổi tiếp, vừa thổi vừa đi về phía sở Bưu chính.

Lần thứ ba, đợi người Mèo đi qua nhà, tôi gọi to:

- ê! này!

Hắn ngửng lên nhìn, ngơ ngác. Tôi đọc luôn một câu tiếng Mèo mà tôi đã học thuộc:

- Một sảng hát thử(#1)

Hắn cười phô hàm răng trắng và trả lời đùa:

- Sảng ká.(#2)

Tôi hỏi lại:

- Sảng ká?

Không tìm được tiếng Mèo nào nữa, tôi nói tiếng An Nam:

- Thổi kèn hay lắm, nhưng sao đêm khuya không đi ngủ?

- Khuya gì mà khuya!.

Sự thực, lúc bấy giờ đã hơn ba giờ sáng. Người Mèo nói tiếp:

- Đi ăn cỗ cưới, uống rượu nhiều, bây giờ buồn, đi thổi khèn chơi.

Rồi hắn lại đi thẳng, tiếng khèn dần dần lẩn trong tiếng mưa.

Cuộc dạ du lạ lùng ấy khiến tôi nghĩ ngợi mãi: đi chơi đêm dưới trời mưa? Hắn say rượu? Nhưng sao hắn lại bảo hắn buồn vì vừa ăn cỗ cưới về? Đi ăn cỗ cưới sao lại buồn?

Biết bao câu hỏi làm tôi băn khoăn.

*
* *

Năm sau, cũng một đêm mưa, tiếng khèn một dịp buồn ấy tôi lại được nghe ở một trường hợp khác hẳn trong một túp nhà Mèo, dưới thung lũng ý Lìn hồ.(#3)

Thung lũng ý Lìn hồ, chiều chiều ngồi chơi trên hòn Núi Đen hay dạo mát trên những con đường cao, tôi thường đứng lại ngắm. Nó ở sâu hoắm, sát ven sườn Fan si pan. Hai bên dòng nước trắng long lanh, khuất hiện trong khóm mai, rải rác những túp nhà tranh nhỏ xíu, trông như những đồ chơi bằng sành mà người ta gắn vào cái non bộ nhẵn nhụi, xinh xẻo. Có khi trong một vòng u ám dưới sương, mây bao phủ, thung lũng ý Lìn hồ tựa một cảnh thần tiên hiện ra, rực rỡ ánh nắng vàng, hiện ra mấy phút rồi lại lẩn vào trong sương mờ, mây trắng từ ngọn núi chìm dần xuống.

Trưa hôm ấy, ăn cơm xong, tôi mang máy ảnh đi về phía Cầu Mây, để tìm lối xuống thung lũng ý Lìn hồ. Tới đỉnh một quả đồi cỏ tranh mọc cao và xanh tốt, tôi ngồi lại nghỉ. Ngay dưới chân, sau chừng ba, bốn trăm thước, những ruộng thành bực bao quanh suối lượn vòng, trông như những ngấn nước lan rộng trên mặt hồ có gió.

Tôi thấy những thửa ruộng xanh ấy gần quá và tưởng có thể chạy tuột từ đỉnh đồi xuống được. Và tôi đi liền.

Nhưng mãi hơn hai giờ sau tôi mới tới nơi. Không ngờ đường xá xa đến thế! Dẫu sao tôi cũng không tiếc công, vì cảnh ý Lìn hồ hùng vĩ và xinh đẹp. Cái lạch nước êm lặng mà tôi thấy khi ngồi ngắm từ trên cao, kỳ thực là một con sông, nước réo ầm ầm, dữ dội như tiếng thủy triều đương dâng. Đứng trên cầu mây tôi chóng mặt, rợn người nhìn bọt sóng sùng sục sôi quanh những tảng đá lớn, đen và xám.

Sang bờ bên kia, tôi loay hoay chụp ảnh. Bỗng một cảnh tượng làm tôi lưu ý. Một người Mèo đầu đội nón sơn, vai đeo cái khèn, dắt một con ngựa thồ mang hai bên sườn hai cái lẵng. Màu tía của con vật, màu chàm của bộ quần áo, màu vàng bóng của đôi lẵng in lên màu trắng bóng của dòng nước cuồn cuộn chảy: một bức tranh tàu nét vẽ già giặn, hình sắc nhịp nhàng.

Tôi vội lại gần giương máy chụp ảnh. Và tôi kịp nhận ra rằng đó chính là người Mèo thổi khèn trong đêm mưa năm trước mà tôi đã gặp nhiều ngày phiên chợ Ở sòng sóc đĩa, ngồi xổm trên phản, thét lớn nhắc lại, mỗi khi mở bát, câu bán chẵn bán lẻ của nhà cái:

- Xoòng lưởng khoái!(#4)

- Tán pê khoái!(#5)

Tôi mỉm cười gật chào và hỏi:

- Anh đi đâu đấy?

Người Mèo buồn rầu đáp:

- Tôi đi viếng đám ma.

- Có gần đây không?

Người kia gật.

- Tôi đi với nhé? Có được không?

Người ấy lại gật.

Tôi theo người Mèo rẽ vào một xóm nhỏ. Thưa thớt độ mươi nóc nhà sau rặng mai cao.

Qua con đường lầy lội, đầy bùn đen, chạy theo ven đồi, chúng tôi tới một nếp nhà dài và thấp. Đầu hồi nhà, mấy cây đào chi chít quả vàng, và buộc vào gốc đào hai con ngựa thồ gầy và lấm.

Thấy người Mèo dừng lại, tôi hỏi:

- Đây?

Người ấy gật. Hắn thò tay vào một bên lẵng kéo ra một chai rượu, rút nút lá ngô, uống luôn mấy tợp. Rồi nghiễm nhiên đưa chai rượu cho tôi.

- Uống nhá?

Tôi lắc đầu xua tay từ chối.

Người Mèo vác hai cái lẵng vào hiên nhà. Một người Mèo bước ra tiếp. Người ấy tóc điểm bạc, mắt dữ tợn, thân thể vạm vỡ.

Một ông già quắc thước, tráng kiện.

Chủ và khách nói với nhau dõng dạc như trên sân khấu tuồng Tầu, rồi cùng cất tiếng khóc. Liền lúc ấy, ở trong nhà có tiếng khóc đáp lại.

Khóc xong, họ lại nói với nhau những câu mạnh mẽ và ngắn chỉ độ bốn, năm tiếng. Đoạn, khách lấy trong bọc ra một cái chén lớn, rót đầy rượu đưa mời chủ. Ông già đỡ chén chắp tay vái dài một cái. Khách cũng vái lại. Sau ba lần đôi bên kính cẩn chào nhau như thế, chủ mới nâng chén rượu đặt hờ lên môi, không uống. Đoạn thong thả chiết vào cái sừng trâu đeo lủng lẳng bên cạnh sườn như cái vỏ dao.

Khách lại rót chén rượu thứ hai và cuộc thù tiếp cũng phiền phức, kiểu cách như lần trước. Mời xong chén rượu thứ ba, khách mới chịu theo chủ bước vào trong nhà làm lễ viếng. Tôi xin phép chủ nhân theo vào.

Ba gian nhà rộng. Ở gian giữa, trên một cái giá gỗ cao và dài kê sát vách, người chết - một thiếu phụ - nằm ngửa, hai tay buông xuôi, mặt che miếng vải xanh. Khách trịnh trọng lại gần, cầm cái phất trần lông gà phe phẩy; Tức thì đàn ruồi đen bay tản ra. Tôi ghê sợ lùi lại một bước đầu chạm vào một vật nhũn. Ngửng lên, thì đó là một miếng thịt lợn sống máu còn nhỏ giọt, mà họ treo vào cây sắt gác ngang từ cửa tới chỗ cái thây ma.

Cặp mắt mờ lệ của người Mèo trẻ tuổi đưa nhìn từ đầu đến chân thiếu phụ. Rồi từ từ, run run, tay nhấc hẳn miếng vải che mặt người chết ra. Một lần nữa đàn ruồi bay lên tua tủa, khiến tôi kinh hoảng đi ra phía cửa.

Trong lúc khách vừa khóc vừa kể lể từng đoạn rất lâu, giọng lên xuống như lời ca than vãn, thì chủ cho cử nhạc: Một người lom khom nhảy ở trước linh sàng, và một người nữa cầm dùi gỗ nện vào cái mặt trống căng chùng để gõ nhịp.

Bài điếu ca dài tới hai mươi phút thỉnh thoảng lại lấp trong tiếng khóc của họ hàng người chết cất lên từng hồi. Bỗng khách đứng im suy nghĩ, rồi vừa nói với chủ nhân, hắn vừa tháo cái khèn mang theo để hòa với phường nhạc của tang gia. Tôi cố nhịn mới giữ được khỏi bật cười vì tôi thấy anh Mèo của tôi dáng điệu ngây thơ và ngộ nghĩnh quá.

*
* *

Mải đứng ngắm, tôi không biết rằng đã bắt đầu đổ mưa. Quay ra thấy trời tối đen tôi kinh hoảng nghĩ đến đường về. Xuống dốc, tôi đi mất hơn hai giờ, vậy lên dốc hẳn ít ra cũng gấp rưỡi thế, nghĩa là nếu bắt đầu đi ngay thì may ra tám giờ tối, tôi mới về tới nhà, vì lúc đó đã gần năm giờ. Nhưng mưa to quá, mà tôi lại không mang theo áo tơi.

Trái với lòng mong mỏi của tôi, mưa mỗi lúc một dầy hơn. Đồi, ruộng, cây chìm biến vào trong một lớp màu trắng đục. Tôi lo lắng, chốc chốc lại nhìn đồng hồ đeo tay xem giờ, và không để ý tới tiếng khèn, tiếng trống, tiếng khóc nữa.

Một người Mèo từ biệt tang gia đi về.

Tôi hỏi:

- Nhà ở tận đâu?

Hắn trả lời vắn tắt:

- Gần đây thôi.

- Cho tôi về nhà với nhé?

Hắn nhìn đăm đăm tôi đến mấy giây rồi mới khẽ gật và đáp:

- Về thì về.

Tôi vui vẻ theo hắn, mừng thầm được thoát một nơi u ám đầy hơi chết.

Cách đó chỉ độ dăm chục thước, nhà hắn náu hình nằm dựa vào một khóm mai. Tôi theo hắn bước qua cái ngưỡng cửa đắp bằng đất, đến ngồi cạnh bếp lửa ở gian giữa để sưởi cho khô quần áo. Hai gian bên là hai cái ổ rơm rộng. Phía tay mặt, một ông già, khăn rối, quần cao, ngồi tẽ ngô xuống một cái nong lớn. Phía kia một người đàn bà, bắp chân to như hai cái cong, đương chăm chú se sợi gai để quấn vào cái trục gỗ.

Thấy chúng tôi vào, cả hai cùng ngửng lên, yên lặng nhìn, vẻ mặt bình thản. Nghe xong câu giảng giải của người mới tới, ông lão lại cúi xuống tẽ ngô, và người đàn bà lại thong thả se sợi. Anh Mèo bảo tôi:

- Ông già với người vợ không biết nói tiếng kinh đâu.

- Thế còn lũ bé con?

- Hai bé con ở bên nhà người chết cơ mà! Đợi tạnh mưa mới về chứ!

Nhưng mưa hầu như không bao giờ tạnh, thác nước đều đều giội xuống, không một phút nào ngớt.

*
* *

Lúc tạnh, tôi xem đồng hồ, đã bảy giờ. Khó lòng mà về nổi. Tôi hỏi người Mèo:

- Bây giờ đi Sapa được không?

Người ấy vừa tẽ ngô vừa lơ đãng trả lời:

- Sao không được?

- Đưa tôi về nhé?

Giọng hắn thản nhiên:

- Sao được! Còn phải làm giúp nhà đám cơ mà. Ngày mai ăn cỗ.

Tôi thở dài. Hắn không quay lại, rời rạc hỏi:

- Về à? ở lại, mai sang nhà đám ăn cỗ nhá!

Tôi rùng mình nghĩ đến mấy miếng thịt lợn sống treo ở cái sào, bên cạnh thây mạ Và tôi cúi xuống buồn rầu nhìn lửa cháy lập lòe trong bếp.

Bên nhà tang, tiếng khèn, tiếng trống vẫn gióng một kéo dài: "tsè tsè... phình! tsè tsè tsè tsè phình!" như không bao giờ sẽ dứt.

Tôi vùng đứng dậy. Người Mèo hỏi:

- Về à?

- Phải, tôi về.

- Nhưng mưa đấy mà!

Quả thực, mưa đã lại bắt đầu xào xạc trong lá mai cứng. Tôi chán nản thở dài. Người Mèo bỏ bắp ngô vào nong, uể oải đi về phía người vợ vẫn ngồi im lặng se sợi từ lúc tôi mới đến, không nói một câu, không cười một tiếng. Hắn mang lại hơ lên lửa một miếng da ngựa bẩn và hỏi:

- Để hong, nằm cho ấm nhá?

Tôi mỉm cười nhìn đôi mắt xếch của hắn:

- Cám ơn anh có lòng tốt.

*
* *

Giữa đêm, tôi thức giấc. Mỏi mệt, tôi đã ngủ thiếp đi sau khi ăn mấy bắp ngô nướng.

Tôi mơ màng vẫn tưởng nằm ngủ ở nhà. Cái hộp máy ảnh cũng gối đầu và mùi hôi hám của miếng da ngựa nhắc tôi nhớ tới câu chuyện đã xảy ra.

Tôi liền rón rén ngồi dậy. Ba gian nhà tối om. Bếp đã tắt lửa. Một cái chớp nhoáng qua khe hai bức phên, thoáng chiếu vào ông già nằm bên tôi trên ổ rơm...

Nhưng tôi không kịp nhận xét kỹ nữa. Tiếng khèn đã chiếm lấy cả tôi, tiếng khèn buồn thảm như tiếng rền rĩ của kẻ bị thương. Tôi đánh diêm hút thuốc lá và nhân tiện xem đồng hồ: hơn hai giờ sáng.

Bỗng tôi kinh hoảng toan kêu rú lên. Ở chân tôi có vật gì thúc mạnh. Tôi đạp liều một cái. Tiếng eng éc đáp lại liền khiến tôi mỉm cười nghĩ thầm: "Con lợn! đó chỉ là một con lợn!" Tôi nằm xuống cố ngủ lại cho qua hết cái đêm kinh khủng. Nhưng không sao ngủ được. Tiếng khèn làm cho tôi tỉnh vì rùng rợn. Bây giờ tiếng trống không cầm dịp nữa. Thay vào tiếng trống, có một thứ âm nhạc rất lạ lùng, xa xăm, rời rạc, mọi rợ.

- Ưn... Ưn ưứt!... Ưn... ưn ưứt!...

Mưa đã tạnh nhưng chớp vẫn đầy trời. Qua chỗ hổng, trên một bức phên, hình cái nóc nhà người chết với khóm mai cao thoáng vẽ ra rõ ràng, vụt sáng, lại vụt tối ngay.

Bỗng tiếng khèn ngừng bặt.

Nhưng tiếng âm nhạc lạ lùng vẫn còn, một mình, từng đoạn đều đều kéo dài trong đêm vắng:

- Ưn, !. ưn ưứt! Ưn,... ưn ưứt!

Tôi cảm thấy sự buồn nản, ghê sợ từ từ thấm giọt vào tâm hồn tôi, như nước mưa thấm qua núi đá mà tí tách rơi vào trong hang...

Sống với tâm trạng ấy bao lâu, tôi không nhớ. Tôi chỉ nhớ lúc nghe thấy tiếng gọi và tiếng trả lời của cha con ông lão Mèo, tôi thở ra một hơi rất dài như trút hết nỗi lo lắng băn khoăn. Và tôi vui mừng hỏi:

- Anh đã dậy đấy à?

Sau một cái vươn vai và một tiếng ngáp kêu, người Mèo đáp vắn tắt:

- Phải.

- Sáng rồi?

Tiếng reo của tôi như có nghĩa "thoát nạn!" Người Mèo chậm rãi nhắc lại:

- Sáng rồi.

Rồi hắn ra mở cửa phên. Bên ngoài trời lờ mờ. Tôi phủi những sợi rơm và những râu ngô bám vào quần áo:

- Về!

Anh Mèo ngạc nhiên nhìn tôi, hỏi lại:

- Về đâu?

- Về Sapa.

Hắn trỏ sang nhà tang:

- Ở lại ăn cỗ đã chứ!

Ngay lúc ấy như để chào mời tôi, tiếng khèn lại cất lên. Tôi vội vàng đưa đãi người Mèo năm hào rồi hấp tấp ra đi như chạy trốn.

Qua cái lều cối giã gạo, tôi đứng lại mỉm cười. Tiếng "ưn ưứt" lạ lùng chính ở đó đưa ra, và chỉ là tiếng cái cần mà sức nặng của nước làm rơi xuống, và tiếng cái chầy giã bằng gỗ trong không.

Tới nơi đồi cao, tôi đứng lại trông xuống: thung lũng ý Lìn hồ xinh xắn nhẵn nhụi hiện ra rực rỡ trong ánh trời buổi sáng.

Nhưng tiếng khèn, theo nhịp trống vẫn bay lên, đuổi theo tôi.

Từ đó, tôi thường tự hỏi:

- Anh Mèo thổi khèn trong mưa, và trước cái thây ma thiếu phụ phải chăng là một kẻ si tình?

Tôi tưởng tượng ra một thiên tiểu thuyết trong đó một chàng trẻ tuổi yêu một thiếu nữ. Rồi xảy ra biệt ly: bị ép gả cho một ông lão giàu có, người con gái khô héo dần rồi chết.

Và từ đó, tiếng khèn trong chiều tà, tôi nghe ai oán, như tiếng than khóc của một tâm hồn trơ trọi.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Nhất Linh Và Khái Hưng

Postby tuvi » 02 May 2019

45 . Tế Thành Hoàng

Người ta đồn ông thành hoàng làng Tiền thiêng lắm. Mỗi lần rước ngài là một lần vất vả khổ sở cho dân ngài: nào ngài bay, nào ngài lùi, nào ngài quay, có khi ngài lại đứng ỳ ra nữa. Các quan viên tha hồ xuýt xoa van lạy, khấn khứa ngài đủ các câu, ngài vẫn làm ngơ như không nghe thấy gì hết. Những lúc ấy nếu không đốt một tràng pháo thật dài để mừng ngài, thì khó lòng ngài chịu đi cho.

Thế mà năm nào ra giêng vào đám, vẫn hai lượt dân làng Tiền phải rước ngài, một lượt từ miếu ra đình để ngài chứng kiến việc hội họp ăn uống, và một lượt từ đình trở về miếu để ngài an nghỉ. Khó khăn nhất, mệt nhọc nhất cho bọn khiêng kiệu là quãng đường qua đình Tràng. Ngài nô giỡn, ngài chạy cuồng, ngài nhảy cẫng như vui thích khoái trá về một điều gì. Người ta nói vì đức thánh đình Tràng là một vị nữ thần mà ngài nghịch ngợm thích trêu ghẹo chơi.

Dân làng Tiền cũng không ai phàn nàn về cái thiêng của ngài. Trái lại, người ta còn lấy làm hãnh diện được thờ một vị thần mà khắp vùng đều kinh sợ. Không phải sợ bóng sợ vía, nhưng sợ những sự tác oai hiển hiện trước mắt. Một lần, một đứa trẻ chăn trâu trèo lên cây muỗm trước miếu, đã bị ngài quật ngã chết tươi. Lại một lần một con bé bế em đi xem rước giơ tay chỉ trỏ kiệu ngài, bị ngài hành cho một trận ốm thập tử nhất sinh.

Người ta đua nhau thuật những phép thiêng của ngài. Câu chuyện mà người ta hay kể nhất, kể với một giọng rụt rè, kinh hãi, là câu chuyện ông tiên chỉ đương đứng đại bái tế ngài, bị ngài phạt ngã gục xuống bất tỉnh. Người thì bảo vì ông tiên chỉ vô ý hôm trước đã ăn mấy miếng thịt "cầy". Người thì bảo đồ lễ sắm không được tinh khiết. Có người lại quả quyết rằng vì ông tiên chỉ đã đem rượu ty lên dâng ngài, nên ngài hành phạt cho tỉnh ngộ để từ rầy phải dùng rượu ngang vào việc cúng tế.

Nhưng đó toàn là những lời phỏng đoán. Và đều không đúng sự thực. Vì sự thực tôi đã được chính ông tiên chỉ đại bái thuật cho nghe, trong một tiệc rượu. Cố nhiên ông ta say khướt. Không say dễ ai đã dám bất kính đối với một ông thần, một ông thần linh nữa. Vì đây chính là một câu chuyện bất kính. Với lại cũng tại mấy chị đầu quê: các chị ấy có duyên quá! Và bông đùa và nhí nhảnh nói tục luôn miệng khiến ông tiên chỉ cũng vui câu chuyện, không kịp nghĩ ngợi suy tính kỹ càng. Trong một bàn tiệc có gái, thì điều gì mà người ta không kể, quý hồ gợi được tiếng cười của cử tọa, nhất là của gái.

Hôm ấy đã khuya, có lẽ quá nửa đêm. Chúng tôi đánh tổ tôm ở nhà ông chánh Bá làng Cầm. Trong số năm chân có ông tiên chỉ làng Tiền.

Bỗng chủ nhân cao hứng cho gọi "nhà trò".

Gặp mùa các đình vào đám, làng Cầm có tới ngót chục cô đầu quệ Và lúc ấy hát hầu thánh đã xong, các cô rỗi, tìm hẳn thế nào cũng đến ngay.

Quả nhiên chỉ mười lăm phút sau, đã dẫn đến hai cô, y phục nửa tỉnh nửa quê, cái áo lụa trắng kiểu mới che gần kín cái quần lĩnh thâm. Một cô lại có cả mái tóc vấn trần làm nổi hẳn cái mặt tuy hơi khô nhưng rất cân đối dễ thương. Đứng bên hai cô, anh kép, mắt ngái ngủ, hai tay ôm đàn, mồm há hoác ngáp lấy ngáp để.

Chủ nhân nhờ người cầm bài để xuống nhà giục đồ nhắm và cháo gà. Nhưng một ông khách có nhã ý xin tan cuộc tổ tôm, tiền góp còn bao nhiêu sẽ chi tất cả cho cô đầu. Tôi nhìn đống hào trong khay và đếm nhẩm: có lẽ tới được ngoài ba đồng. Đối với cô đầu quê, chi như thế cũng đã hậu.

Tiếng trống, tiếng đàn chen tiếng phách. Hết bắc phản sang thét nhạc, hát nói. Rồi mâm rượu bưng lên.

Đến tỳ bà thì ai nấy đã chuếnh choáng men, tiếng nói che lấp tiếng cạ Một người chừng cấp hát cô đầu tỉnh, ép chị Tửu hãm nhà báo một câu.

Chuyện bắt đầu nồng nàn, và sỗ sàng, và tục tĩu. Quan viên nói tục, cô đầu nói tục. Họ quanh quẩn, vui thú trong những ý tưởng dâm đãng. Hết chuyện người, họ nói đến chuyện thần, chuyện dâm thần.

Tôi chợt nhớ tới ông thần thiêng làng Tiền. Và tôi hỏi ông tiên chỉ:

- Nghe nói đức thánh xã nhà thiêng lắm, phải không?

Gặp lúc tỉnh, chào ông chỉ - tiếng gọi tắt chức tiên chỉ - đã trồ trề ca tụng "đức thánh". Nhưng hiện ông ta say, say túy lúy càn khôn, nên chẳng kịp giữ gìn nữa, buột miệng đáp liền:

- Vâng, ngài thiêng lắm. Nhưng bảo ngài thiêng mà quật tôi ngã giữa lúc tôi đứng đại bái thì...

ông chỉ chưa nói dứt câu đã cười thét lên, vừa cười vừa đập tay đôm đốp xuống đùi chị Tửu ngồi kề bên. Tửu nhích lùi ra nói:

- Dễ thường thánh ốp vào ông hay sao mà ông hành em thế?

ông chỉ cười càng to:

- Ừ, thần nhập vào ta rồi đấy.

Tôi tò mò nhìn ông ta và thấy ông ta đổi khác hẳn. Mọi khi ông ta hiền lành, lù đù nữa, thế mà lúc này mắt ông ta long lanh sáng, miệng ông ta cười rất có duyên. Ông ta bứt cái khăn xếp vứt ra giường – vì chúng tôi phải uống rượu ở sàn gác, - để lộ cái trán cao và bóng, cái trán có vẻ thông minh lắm.

Và tôi đoán chừng có nhiều điều hay hay trong câu chuyện tế thần. Cố giữ nghiêm trang, tôi hỏi:

- Vậy ra không phải thánh ngài phạt ông?

ông chỉ vẫn cười:

- Khô... Ông!

Tửu láu lỉnh tiếp luôn:

- Lại còn không. Hôm ấy em cũng có đấy, em trông thấy cả, em còn lạ gì. Đây này...

ông chỉ cãi:

- Không phải... thực ra...

Nhưng một người gạt phắt:

- Thì hãy để chị Tửu nói đã nào. Chị trông thấy những gì, chị Tửu?

Tửu kể:

- Lúc ấy dẫn rượu. Em với chị Miện bắt bài. Em thấy ông chỉ đứng đại bái bỗng khom khom cong người lại, rồi đến lúc xướng "tựa vị" thì ông chỉ ngã vật ra bất tỉnh nhân sự. Thế mà còn bảo không phải ngài phạt.

Mọi người cười om. Ông chỉ ung dung đáp:

- Thế mà không phải ngài phạt, mới chết chứ. Vì tại sao ngài lại phạt tôi? ừ, tôi hãy hỏi chị, tại sao ngài lại phạt tôi? Hay trước khi vào tế tôi có nghịch ngợm chị nên... uế tạp...

Tửu cũng chẳng vừa, nhí nhảnh:

- Chính thế!

Tiếng cười càng vui. Tôi nóng nẩy muốn biết ngay câu chuyện, liền chêm:

- Nếu không phải đức thánh phạt, thì xin ông cho biết sự thực.

- Vâng, và tôi xin kể có đầu có đuôi cho câu chuyện thêm.. hứng thú...

Nói chuyện có đầu có đuôi vẫn là một đức tính của các ông kỳ lý. Tôi biết có ông kể đến đoạn hay còn ngừng lại, thong thả châm đóm hút thuốc để người nghe phải đợi một lúc lâu. Và tôi hấp tấp hỏi đón trước để chóng được biết kết cục:

- Chừng ông ngộ cảm ngất đi chứ gì?

- Không, nếu ngộ cảm ngất đi đã chẳng có chuyện. Đằng này không ngộ cảm ngộ kiếc gì cả cơ chứ!

Rồi ông chỉ kể luôn:

- Năm ấy tôi đại bái. Tôi còn nhớ ông hương Bích với ông khán Nhuệ đứng bồi tế.

Tôi sốt ruột nghĩ thầm: "Không biết những ông bồi tế ấy có liên can gì đến câu chuyện "thánh phạt", mà phải dềnh dàng liệt tên. Không khéo ông ta sẽ lôi ra một tràng quan viên cho mà xem". Quả nhiên, ông chỉ kê khai đủ cả, nào ông đọc chúc, các ông thông xướng, các ông chước tửu. Rồi tiếp:

- Tới tuần rượu thứ hai, tôi thấy... thế nào ấy ở ngang thắt lưng, như tự nhiên bụng thóp lại, dẹp lại, làm cho cạp quần rộng ra không sát liền với da bụng nữa. Tôi kinh hoảng đứng im, không nhúc nhích, vì tôi mang máng sơ...

ông chỉ dừng lại để cười. Tửu tò mò hỏi:

- Ông mang máng sợ cái gì?

- Sợ tụt nút buộc cạp quần.

Tiếng cười lại ầm ĩ, và ai nấy nhao nhao lên hỏi:

- Thế có tụt thật không?

- Lại chả thật!

Rồi chờ cho im lặng trở lại, ông ta kể tiếp:

- Tôi vẫn hy vọng rằng tôi tưởng nhầm. Nhưng mắt tôi cũng rời cái hốt để nhìn qua xuống hia. Thì... chết chửa! Hai ống quần đã lùng thùng cộn lại ở phía dưới. Tôi lo lắng, sợ hãi, run lên, và giời tuy rét mà mồ hôi tôi toát ra ướt cả áo lót. Tôi nghĩ ngợi tìm mưu kế. Chẳng nhẽ cho hai tay vào trong áo xốc quần lên để buộc lại cạp! Làm như thế còn gì là thể thống? Mà nếu bị làng bắt lỗi thì còn gì là thể diện ông tiên chỉ đại bái. Tôi càng luống cuống khi thấy ông Nghệ, ông Khôi dẫn rượu vào hậu cung đã trở ra, và ông Thuận sắp xướng: "tựa vị" để mình đi vòng mép chiếu về đứng chỗ cũ. Làm thế nào bây giờ? Mình chỉ biết hai đùi, hai gối khép chặt lại nhau cho cái quần khỏi tụt hẳn. Nhưng lúc đi thì còn khép làm sao? Chẳng nhẽ nhẩy hai chân mà đi...

Cử tọa lắng tai chú ý nghe, đến đây như không giữ được nữa, ai nấy vỗ tay, vỗ đùi cười ngất. Nhưng ông chỉ vẫn thản nhiên kể tiếp:

- Đầu tôi nóng bừng. Mồ hôi trán chảy từng giọt xuống chiếu. Vài giây nữa, chỉ vài giây nữa nếu không quả quyết, nếu không nghĩ ra mưu gì thì thực... mất hết danh giá. Hai tay tôi mấy lần định thò vào trong bọc, rồi lại ngập ngừng thôi, như có người giữ ghì lại không cho làm cái việc bất kính...

Tiếng cười lại nối. Một người nói:

- Ngài giữ tay ông đấy.

- Thế về sau ông làm thế nào? Đành buộc lại cạp quần chứ?

- Khô... Ông. Nếu buộc lại thì đã không có chuyện... Lúc bấy giờ óc tôi rối loạn. Như có trăm nghìn tiếng xui giục bên tai... Bỗng tôi mê man tưởng thoáng nghe thấy câu thì thầm: "giả tảng ngất đi!" Thế là tôi ngồi ngay xuống rồi ngã vật ra, mồm ú ớ kêu... tôi cũng chả nhớ là đã kêu những gì...

Cái gác hẹp của ông chánh Bá vang lên những tiếng cười thét và những tiếng giậm chân vỗ tay.

Khái Hưng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,254
Posts: 96107
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 77 guests