Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

Image

1 . Con Suối Mùa Xuân


Thế là tôi đã mất Mỹ Khuê Thật dễ dàng như khi tôi được nàng. Tình yêu đến và đi không có báo trước, không giống như những chuyến máy bay chở hành khách có ghi rõ nhật kỳ, ghi giờ hạ cánh và cất cánh. Chúng tôi bắt đầu yêu nhau một cách tình cờ. Hôm đó nàng bế cháu nhỏ con của người anh, đứng trước cổng. Thấy tôi, nàng hỏi:

- Anh Tịnh này, anh xem có dễ thương không?

Tôi nhìn nàng, nhìn đứa cháu. Nàng mặc chiếc áo dài mới màu xanh thêu hoa. Có đánh tí hồng nơi má. Nên tôi hỏi lại:

- Cô định hỏi ai dễ thương?

Nàng đỏ mặt không nói. Tôi yêu nàng lúc đó.

Tôi nuôi tình yêu không phải chỉ bằng đôi mắt nhìn và bằng vòng tay ôm. Tôi còn yêu bằng những sự tinh nghịch dí dỏm như vừa rồi. Tâm hồn tôi không chịu được sự bằng phẳng. Tôi sợ những con đường tráng nhựa chạy thẳng tắp, rộng rãi và có nhiều bóng mát ở trên đầu. Ở bên dưới là hai lề đường song song chạy theo nhau không dám trái ý. Thật là chán nản. Tôi ưa sự đột ngột, bất ngờ. Như một con suối nhỏ chảy len giữa khe đá, trốn dưới một lùm cây rồi bất ngờ chảy vọt ra, hát róc rách bên một chòm hoa dại. Có tình yêu, tâm hồn tôi nhanh nhẹn vui tươi như con suối tinh nghịch đó.

Tôi nhớ một ngày hè, Mỹ Khuê rủ tôi về trại của nàng chơi. Vườn rộng có nhiều cây mận, cây xoài, cây mẹ Qua một hồ sen, tôi lội xuống bẻ hai đóa sen trắng, trao cho nàng một, còn tôi cầm một. chúng tôi đi kẻ trước người sau giữa con đường có nhiều bóng râm. Lúc bấy giờ chính phủ Ngô Đình Diệm đàn áp chùa chiền, một ủy ban Bảo vệ Phật giáo Thuần túy ra đời thay thế cho Ủy ban Bảo vệ Phật giáo. Biết là Phật tử trung thành nên tôi nói đùa:

- Hai đứa mình cầm hoa sen đi thành hàng. Đúng là đại diện của Ủy ban Bảo vệ Phật giáo Thuần túy.

Nàng nghe câu nói bất ngờ, nhìn xuống bàn tay mình, nhìn sang tôi rồi phá lên cười một tràng dài.

Mỹ Khuê ơi, dẫu phải xa cách vĩnh viễn, kỷ niệm ngày chúng ta đại diện cho Ủy ban Bảo vệ Phật giáo Thuần túy chắc em không thể nào quên được.

Chúng tôi ngồi xuống bờ mương nước nhỏ. Những bụi khoai môn, khoai sáp soi bóng dưới làn nước đục màu vàng. Những con bọ nhỏ chạy lướt trên mặt nước. Bầy cá con khờ dại bơi gần bờ, mắc cạn, vùng vẫy chạy tao tác như một lũ học trò mẫu giáo nghịch ngợm và nhút nhát. Mỹ Khuê hỏi tôi:

- Anh Tịnh, không bao giờ anh biết buồn phải không?

- Biết chứ, tôi vội đáp.

- Thế sao lúc nào Mỹ Khuê cũng thấy anh đùa?

- Bởi vì có Mỹ Khuê bên cạnh. Không có Mỹ Khuê anh buồn. Như trước đây và sợ rằng... sau này.

Mỹ Khuê đặt một ngón tay lên môi tôi:

- Đừng nói dại.

Tình yêu làm cho con chim thích hót, con bướm thích baỵ Khi tôi nghe một con chim cất tiếng trên cành véo von là tôi đưa mắt tìm con chim bạn của nó hoặc đậu gần sát nó, hoặc đậu xa hơn một chút. Mỹ Khuê cũng thế. Tôi hay bất chợt đứng sau lưng nàng nghe nàng hát nho nhỏ những câu:

"To be alone with you

oh just, we two

oh my, my dreams come true

is to be alone with yoụ"

trong khi đôi tay sửa soạn lại tủ sách. Cũng có khi nàng trêu tôi nữa. Nàng kể chuyện hôm ngủ dậy trưa trặc cái cổ, đến phòng mạch bị Ông thầy thuốc hỏi: "Cô đã lập gia đình chưa?". Nàng giận dữ bảo tôi:

- Ông thầy thuốc hỏi vô duyên hết sức. Người ta lập gia đình chưa thì có liên quan gì đến cái cổ trặc. Thật là băm lăm một cây.

Tôi điềm tĩnh trả lời:

- Ông thầy muốn chữa mẹo đó. Tâm lý lắm.

- Nghĩa là thế nào?

- Nếu đã lập gia đình rồi thì trẹo cổ là chuyện thường. Không chữa cũng hết hoặc có chữa cũng không hết.

Nàng ngẫm nghĩ rồi cười, rồi sịu mặt nói:

- Em đau bệnh thật mà. Bao nhiêu người bạn ân cần đi mách thuốc và chạy đi mua thuốc cho em. Còn anh thì thản nhiên như không.

Giọng nàng trách thật tình và tôi thấy mình có lỗi. Tôi nói:

- Em thứ lỗi cho anh. Anh không quen làm những cử chỉ ân cần. Có lẽ tại hồi nhỏ anh phải sống cô đơn quá. Sống xa gia đình năm này sang năm khác làm một người học sinh nội trú. Cái gì cũng tự lo cho mình, sách vở, quần áo, ốm đau. anh giống như một thân cây phải tự vươn rễ ra tìm lấy chất phân chất đất cho phần mình.

- Nhưng tình yêu phải dạy anh khôn ngoan hơn.

- Anh đang bắt đầu.

Quả tình tình yêu đang dạy cho tôi không ngoan hơn. tôi gượng nhẹ với Mỹ Khuê hết sức. Tôi biết chọn những lời nói êm đềm và những cử chỉ dịu dàng. Tôi không còn giống một con sói trên rừng chỉ biết nương theo hoặc trốn tránh những luật lệ khắc khe của xã hội loài sói. Tôi không còn giống con gấu trên rừng sù sì những mặc cảm tự vệ, như con gấu có bộ lông lởm chởm khó thương. Tình yêu của Mỹ Khuê là cái lưỡi gấu mẹ liếm cho bộ lông gấu con trơn mướt, nằm rạp xuống, đẹp đẽ. Tôi hỏi Mỹ Khuê:

- Em có tin rằng khi lấy nhau em sẽ có hạnh phúc mà sống cạnh anh?

Nàng gật đầu:

- Miễn là anh yêu em.

- Yêu thì chắc chắn là có. Nhưng con gấu không nhảy Twist, không đi dạ hội mãn khóa sĩ quan và không đi picnic để chụp hình.

- Rồi em sẽ dạy anh lần. Đừng lo.

Tôi yên tâm và chỉ lo làm sao cho có thật nhiều tiền, có thật nhiều tiền. Ngoài giờ làm việc ở sở, tôi lãnh làm sổ kế toán cho mấy nhà buôn. tôi lãnh làm đơn cho văn phòng luật sự Tôi chạy áp phe mua nhà, bán xe hơi và mua xi măng giá chợ đen. Thành phố này đang bắt đầu làm đỏm. Đàn bà phải mặc váy chật và ngồi trước vô lăng nên xe hơi bán chạy. Người ta dỡ đòn tay nhà trệt để cơi lên lầu. Giá đất cất nhà vọt lên cao. Thiếu thợ nề. Xi măng biến mất ở mấy hiệu bán đồ sắt. Tôi xông xáo trong cơn sốt làm ăn của thiên hạ, hết rông xe ngoài phố đến ngồi lì ở bàn. Tóc dài ra như một anh "Rolling stones" mà không có thì giờ đi cắt. Có chút ít thì giờ nghỉ thì nhằm vào lúc tiệm hớt tóc đông khách, cứ cho xe chạy rông đi khắp phố để tìm một cái ghế trống. Tuy bận rộn như vậy nhưng mỗi chiều chủ nhật tôi vẫn không quên dành một giờ đến thăm Mỹ Khuệ Sự mệt mỏi làm tôi mất sáng kiến trong câu chuyện trao đổi với nàng. Những hàng con số dài dằng dặc, dài liên miên bất tận ở mấy cuốn sổ kế toán tôi vừa gạt một bên để đến gặp Mỹ Khuê, nó giống nhau một cách dễ sợ, như một bầy kiến đen xếp hàng dài mà đi. Khi ngồi cộng sổ thì sau lưng dãy con số, hiện lên khuôn mặt của Mỹ Khuê, ban đầu còn mơ hồ, sau đậm dần rồi linh hoạt hẳn lên như nàng đang ngồi trước mặt tôi thật. Những con số nhảy múa. Tôi lẫn lộn trong bài tính cộng, bôi đi xóa lại nhiều lần. Đích thưc tình yêu và kế toán xung khắc nhau như nước với lửa. Muốn làm tròn bổn phận đối với một bên thì phải hy sinh bên kia. cho nên khi tôi dành dụm được tám mươi hai ngàn lẻ mấy trăm đồng để chuẩn bị đám cưới thì Mỹ Khuê đoạn tuyệt với tôi. Nàng không tuyên bố ra lời. Tình yêu và thù ghét có ngôn ngữ riêng của nó, không cần phải dùng đến tiếng nói thông thường hoặc mẫu tự La Mã. Ngày nào nàng nói "Em yêu anh" khi đỏ mặt đứng bế cháu. Hôm nay nàng nói "Giã từ anh" khi tôi đến thăm mà chỉ có me ra tiếp. Me nói:

- "Con Khuê nó vừa xuống nhà bạn nó ở dưới... Sinh Trung.

Me phải chọn hơi lâu tên một địa điểm. Me hỏi về tình hình phòng vệ dân sự Ở cơ quan và tôi nói lan ra vụ chiến hạm Mađox bị tấn công ở vịnh Bắc Việt.

- Tình thế khẩn trương, chiến tranh có thể bùng nổ.

Me nói:

- Nhưng tình hình đã yên ổn rồi cơ mà. Báo chí đã bảo yên rồi.

Tôi trả lời:

- Báo chí chỉ thuật lại những việc đã xảy ra, sớm nhất là mười hai giờ sau. Khi người ta bắn nhau chí chết thì mình đi coi cải lương Út Bạch Lan và tính chuyện làm giàu. Khi người ta nghỉ bắn, đem chôn xác chết và làm lễ tuyên dương công trạng thì mình mới đọc báo biết tin và lo cuống cuồng lên lật đật đi đòi nợ và lo mua gạo, mua than, mua trứng vịt muối.

Me hỏi:

- Anh chuẩn bị mua thức ăn dự trữ chưa?

Tôi thưa rằng có mua muối, đậu phụng, mè, lạp xưởng và cá khô.

- Ừ! Mùa này là mùa cá khộ Rẻ lắm, ba chục đồng một chục con mà con nào con ấy to là tọ Anh bảo chị Ở mua về vài ba chục đem xát muối rồi phơi đi.

- Vâng ạ.

Tôi để ý thấy me không gọi thẳng tên tôi trong khi xưng hô mà chỉ nói bằng "anh".

Lần sau đến thăm thì chị Sâm ra tiếp:

- Con Khuê nó vừa đi phố gội đầu.

Đàn bà có nhiều lý do để đi phố mà lịch sự nhất là đi gội đầu. Chị Sâm nói chuyện về sinh viên hội thảo chính trị và xuống đường biểu tình. Chị nói về hoạt động của các hội đồng nhân dân cứu quốc ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn. chị nói kỳ hạn 24 tháng mười Thủ tướng Nguyễn Khánh giao quyền cho Chính phủ dân sư... Tôi nghe bằng một tai còn tai kia ngóng tiếng phanh xích lô và tiếng giày của Mỹ Khuệ Tôi nhìn chị Sâm bằng một con mắt còn con mắt kia thì chong ra cổng ngõ. Vẫn không thấy bóng Mỹ Khuê hiện về và tiếng giày quen thuộc của nàng. Chợt sau nhà có tiếng nói to của Annie (con em kế của Mỹ Khuê)

- Chị Khuê ơi, cái dĩa hát Catch a falling star của anh Phan cho chị mượn hôm trước chị đã trả chưa? Em tìm không thấy.

Có mấy tiếng suỵt khe khẽ. Tôi nhìn đồng hồ rồi cáo từ chị Sâm.

Phan là sĩ quan Hải quân cùng đeo đuổi theo Mỹ Khuê như tôi. Có mấy lần chạm trán nhau tại nhà nàng. Phan đẹp trai, nhanh nhẹn. chân bước chuệnh choạng không thẳng, ban đầu tôi tưởng là do thói quen đi đứng ở dưới tàu bị sóng đánh chao qua nghiêng lại. Sau vài lần nói chuyện tay ba thì tôi biết là tôi đã lầm một cách ngây thợ Phan khiêu vũ giỏi và đang dạy Mỹ Khuê nhảy Twist nên lúc nào anh cũng đi như trong sóng nhạc. Hải quân sống trên biển cả nhưng yên lành hơn trên đất liền. Bộ binh và không quân sống nguy hiểm hơn, những cô con gái bảo thế. Tôi kết luận: Thôi, mất Mỹ Khuê rồi. Hải quân chiến thắng mình rồi.

Hôm tôi đứng sắp hàng ở ty Bưu điện để đổi giấy bạc năm trăm, tôi thấy Mỹ Khuê bước xuống xích lô xăm xăm đi vào. Mái tóc uốn cao, robe sac màu beigẹ Giày và ví tay đồng màu. Da trắng ngà môi hồng nhạt. Chết chửa! Khi thoát ra ngoài vòng tay của tôi, sao Mỹ Khuê lại đẹp thế? Sao lại quí thế? Đôi mắt đen mở to như lúc nào cũng nhìn thấy việc thiện. Đôi cánh tay trắng muốt mà tôi đã có lần cầm lên và Mỹ Khuê khoe:

- Tay em béo đấy anh nhỉ. Và , anh xem -nàng bẻ ngược mấy ngón tay ra đằng sau- ngón tay của em, lúc đi học đánh chuyền, chả đứa nào ăn qua nổi.

Tôi lợi dụng (lần này thì những con số kế toán khôn ngoan chạy trốn hết), cầm bàn tay đó, đặt lên môi hôn. Rồi nói:

- Bàn tay này sẽ thôi chơi đánh chuyền để mà lo săn sóc cho chồng, cho con.

Nàng rút tay, tát yêu vào má tôi. Than ôi! Đó là lần khôn ngoan đầu tiên và cũng là lần cuối cùng của tôi.

Hôm nay thì tôi chỉ đứng đằng xa mà nhìn nàng, lẫn lộn giữa đám đông khiêm tốn đang lăm le tay cầm năm bảy tờ giấy năm trăm, mắt chong nhìn vào người nhân viên đổi bạc, mừng rỡ và lo lắng một cách dễ dãi đến độ đáng ghét. Mỹ Khuê bước vào. Nhiều con mắt ngửng lên, dán vào nàng. Vài người thanh niên kiểm soát lại khuy áo, hoặc đưa tay nắn lại nút ca vát. Ông cảnh sát sửa lại chiếc mũ lưỡi trai. Nàng chuẩn bị một nụ cười đợi người nhân viên đổi bạc quay nhìn lên nhưng ông này bị chìm dưới nhiều cánh tay càm tiền chỉa tới. Nàng tiêu khiển bằng một vòng mắt đưa chầm chậm quanh phòng. Uy nghi, tự tín. Như Hitler ở Stadion, ở đại hội Nurenberg. Như Napoléon ngày 20 tháng Ba năm 1815. Mắt nàng chạm phải mắt tôi. Mặt nàng héo lại, nụ cười tắt, cái nhìn thu gần. Nàng đứng im một giây rồi đi ra cửa. Tôi nghe tiếng gọi xích lô và giọng nói thủy tinh:

- Đạp lên Kho Bạc.

Giã từ Mỹ Khuê! Những ngày tháng Mười năm nay là những ngày thuận lợi nhất cho tình yêu. Trời mưa liên miên đêm tiếp qua ngày. Cảnh vật lạnh buồn qua màn mưa trắng. Giọt mưa rào rào rơi đều trên mái ngói, tạt từng luồng lên lá cây, như vừa trải qua những cơn trở mình vật vã. sợi mưa đan nghiêng một chiều, không dứt không dừng. Cảnh vật quằn quại mỏi mệt ở gần và phai mờ nhan sắc nơi xạ Người đi lại co ro lúng túng. Ai cũng vội vã mong cởi gấp chiếc áo mưa, tháo bỏ đôi giày sũng nước. Những ngày mưa như vậy thúc gấp người ta nhớ nhung người yêu. Một căn phòng khô ráo, ấm áp. Mọi cửa đều đóng kín, màn cửa hạ xuống. Không có khách đến quấy rầy, không có người phát thư gõ cửa không nhằm lúc, không có anh thu tiền rác lù lù cái mũ trên đầu, không có tiếng rao bán bánh chưng, chè bắp, lảnh lót đâm thủng vào câu chuyện, không có tiếng trẻ la lối ồn ào. Mà chỉ có người đàn ông sạch sẽ tươm tất vì không có mồ hôi dâm dấp trên trán. Và người đàn bà da mặt tươi mát. Mùi nước hoa không nồng như trong ngày nắng. Tôi tha thiết nhớ Mỹ Khuê trong những ngày mưa và nhất là những đêm khi thức giấc nghe mưa rơi cô đơn ngoài trời. Nhưng Mỹ Khuê, nàng có một quả tim bằng cẩm thạch. Để đối với tôi. Chứ còn nhìn về phía Phan thì tôi chắc nàng đang mơ màng một ngày nào làm nội tướng ông Tư lệnh đập vỡ chai rượu vào sườn tàu để làm lễ hạ thủy một chiếc tàu mới. Mỹ Khuê có nhiều tham vọng. Thích được đăng ảnh trên báo và trả lời những câu phỏng vấn. Vĩnh biệt Mỹ Khuê.

Tôi chán nản, trả lui những cuốn sổ kế toán không cộng nữa. Dẹp bỏ mọi áp phẹ Ngoài giờ đi làm, tôi ngồi hàng giờ ném ruột bánh mì cho bầy vịt của tôi. Mỗi lần thấy tôi ra hiên sau, chúng quàm quạp kêu ầm lên chạy lại đòi ăn. Con đực có chòm lông chơm chởm trên đầu mà tôi gọi tên là "con Chởm". Con mái lông vàng sạch mướt thích nhảy vào thau nước tắm mà tôi gọi là con "Công Chúa". Con vịt đen nhọ nồi hồi nhỏ đi tướt phân xanh, tôi phải nuôi riêng cho uống Ganidan để chữa bệnh và sau này tôi gọi tên là "con Ganidan". Cùng với năm, sáu con tầm thường vô danh khác, chúng bao quanh tôi, hiếng mắt, ngẩng cổ, can đảm xông tới, nhút nhát đi lui. Tôi dứ mẩu bánh nơi tay và "con Chởm" sốt ruột cắn vào cổ, vào đầu mấy cô bạn len lỏi đứng cạnh nó để chăm chăm lãnh phần cho riêng mình. Tôi nói thầm: Mỹ Khuê ơi, anh yêu em không giống như con vịt đực này đâu. Anh không nịnh đàn bà được như con gà trống, nhưng nhất định là anh không ích kỷ như con vịt đực.

Tôi la cà ở các Bar, thuộc tên hàng tá chiêu đãi viên: những Mai ly, Thu Nguyệt, Kim Chi, Kim Cúc. Tôi dở mọi thủ đoạn dối trá làm bộ chung tình để nghe các nàng kể lể tâm sự, làm ra bộ si mê để các nàng nghếch mặt kiêu hãnh, làm bộ chán đời sắp tự tử để nghe các nàng khuyên răn, dạy dỗ theo giọng Cải lương. Chán trò chơi ấy, tôi đi về miền quê Phú Ân, Đại Điền nghe chim hát và nhìn cây cỏ nở hoa. Cái gì tôi cũng lưu ý nghe và để mắt nhìn. Tiếng chó sủa, tiếng trẻ khóc, con tàu chạy hối hả. Tôi nhớ Giono có nói về "sự say mê những cái vô ích". Ừ, phải công nhận rằng khi mình làm những cái vô ích, mình thấy tâm hồn thoải mái lạ. Từ trước đến nay và nhất là trong thời gian tôi yêu Mỹ Khuê, tôi đã chỉ chăm chăm làm những việc vô ích.Những việc có ích đó, cuối cùng, chẳng những đã biến thành vô ích mà còn có hại nữa. Rõ ràng là tôi đã mất Mỹ Khuê.

Ngày lễ Quốc Khánh năm nay trời mưa, không đi chơi xa được nên tha hồ cho tôi "say mê những cái vô ích". Tôi nằm trong giường đọc "Anh hùng Xạ điêu" để hồi hộp vui chơi với chú Quách Tĩnh và cô bé Hoàng Dung, can đảm lăn xả vào mọi hiểm nguy vì biết chắc là ông Kim Dung không dám để cho mình chết. Thật chỉ có trong tiểu thuyết mới có một người sung sướng như anh chàng Quách Tĩnh này. Không muốn học võ nghệ mà các danh sư lại tìm đến tận tâm truyền thụ võ nghệ, không chạy theo tình yêu mà tình yêu cứ bám riết theo mình. Xấu trai, chậm chạp, ít thông minh, anh chỉ nhờ tính tình đôn hậu mà thành người có hạnh phúc. Cô bé Hoàng Dung thì đẹp, kiến thức rộng, quyền biến, nhiều lúc tinh quái độc ác. Nhưng mà chung tình. Họ bổ túc cho nhau một cách hoàn hảo. Tôi theo dõi mối tình lý tưởng ấy và đôi lúc tưởng tượng rằng chính tôi và Mỹ khuê đã thay Quách Tĩnh-Hoàng Dung ngồi trên lưng con Tiểu hồng mã đi lục lọi khắp cả miền Giang Nam tìm tung tích của Hồng Bắc Cái. Tôi thấy tôi cũng xấu trai, chậm chạp, và Mỹ Khuê cũng đẹp, cũng thông minh quyền biến. Chỉ tiếc là Mỹ Khuê không chung tình nên trong cuộc phiêu lưu chỉ có mình tôi thui thủi một thân. Cha chả! Buổi chiều chủ nhật thật là buồn lạ. Tôi cứ nhớ giờ này tôi ngồi ở xa lông nhà Mỹ Khuê, ngồi vào cái ghế nhất định mà tôi đã chọn một lần và sau đó tôi nhất định không chịu di dịch. Bởi vì ngồi ở đó mắt tôi được nhìn khuôn mặt của Mỹ Khuê tràn đầy ánh sáng từ cửa sổ lớn hắt vào, đồng thời tôi còn được nhìn chậu hoa lan tím nở hoa suốt bốn mùa đặt ở góc phòng. Mỹ Khuê bao giờ cũng bắt tôi đợi năm phút trước khi nàng từ phòng riêng bước ra. Màu da tráng mát và đôi mắt đầy đặn nhờ một giấc ngủ trưa yên tĩnh. Mùi nước hoa thơm ngọt khiến trông nàng ngon như một cái bánh. Đó là ý nghĩ cộc cằn mà tôi đã lỡ có. Giờ này thì chắc chắn là Phan đang ngồi vào cái ghế của tôi và Mỹ Khuê lại cứ ngon như một cái bánh. Tôi nổi giận với Gionọ Ham mê được cái vô ích là bởi vì ông đã có vợ, đã có nhà, có cây táo đầy quả trong vườn, có nhiều ly tách trong buffet. Tôi chưa có gì hết. Mới bắt đầu đã hỏng.

Tôi ngồi dậy lấy xe đi phố cho quên bớt sự bực mình. Vòm trời thấp. Gió chuyển thành lạnh. Vài bộ complet màu tối đi trịnh trọng. Những dáng đàn bà trông béo hơn những ngày trước đây. Sự nghiêm trang của thời tiết làm họ chậm chậm đếm bước. Mùa Đông đang đến, uy nghi trầm mặc như một vị quốc trưởng đạo đức và có tuổi. Tôi phải gặp nhiều người quen. Thật khó mà chào thân ái mọi người khi họ đi cả bọn. Gió lành lạnh ở vai. Tôi qua hiệu Chà, nhìn dãy áo len. Hôm nào lại phải đi mua cái áo len mới. Suốt đời chỉ toàn mặc áo len mua ở hiệu, chả có bàn tay nào đan cho mình. Giá Mỹ Khuê đợi hết mùa Đông hãy đoạn tuyệt cùng tôi thì ít nhất tôi cũng được mặc một cái áo len do bàn tay nàng đan. Phải mặc áo len dệt bày bán ngoài tiệm, thật là nỗi buồn của người đàn ông. Ở mỗi một mắc chỉ nơi chiếc áo của người yêu đan tặng, ta tưởng như còn thấy dấu vết của đôi mắt nàng nhìn, hơi thở ấm của nàng còn lưu luyến trong đó. Lạnh lẽo là mùa của nhớ nhung, của kỷ niệm, của sự trân trọng thâm hậu. Hôm qua thấy Viết và Huy mặc áo len mới tôi hỏi:

- Hai anh mà cũng mặc áo len mua sao?

Viết cười:

- Chứ anh bảo không mua thì đào ra đâu áo mà mặc?

- Đẹp trai như hai anh...

Huy hiểu ý tôi:

- Thời bây giờ con gái không chịu khó ngồi đan áo tặng người yêu. Áo của họ, họ còn phải ra hiệu mua.

Viết tiếp:

- Vả lại, có được tặng, mình cũng áy náy không dám nhận nữa.

- Chớ áy náy làm chị Người đàn ông thời nay thường mặc đến cái áo len thứ tư thú năm mới lấy vợ.

Tôi nghĩ vẩn vơ về chiếc áo len, vừa cho xe chạy xuống biển. Biển là người bạn cô đơn, của mọi người, thường trực và dễ tính. Ai nói gì biển cũng nghe, không phản đối. Trên đường Phan Bội Châu, Độc Lập, mỗi người đi đều có mục đích của họ. Tôi không nằm đúng vào mục đích của ai hết, nên tôi cảm thấy mình cô đơn và dư ra giữa đám người đông đảo.

Nước biển vàng đục. Lác đác có những bè rơm rác từ nguồn theo về, trôi phiêu lưu. Bầu trời ủ dột. Gần bờ, những con sóng đứng dựng lên, uốn cong đầu rồi đổ nhào xuống ầm ầm, toé nước tung bọt rào rào. Thât là vừa mạnh dạn vừa ngu sị Để làm gì? Y như một thằng điên. Gào to lên, nhào đập đầu xuống tự tử... nhưng có ai thèm để ý. Ở trên đường Yersin, người ta cứ thản nhiên sung sướng, tán tỉnh nhau, mời mọc nhau và người ta ngồi vào bàn ăn mỉm cười với bóng hình người yêu của họ lẫn lộn giữa những dĩa bát. Mặc kệ cho biển lồng lộn nhào lăn, gào thét. Cũng như hiện giờ Mỹ Khuê đang tiếp Phan ở phòng khách, cửa kính hạ xuống để che gió, âm nhạc rơi từng giọt nhẹ từ chiếc Hi Fi đặt ở góc phòng. Trong khi tôi ngồi độc thoại ở bãi biển màu xám này. Vắng người đi dạo. Một đoàn học sinh nội trú chạy nhảy vừa phải dưới sự trông chừng của hai sư huynh mặc áo dài đen. Một người đàn ông run lẩy bẩy từ mặt biển chạy thẳng lên bờ, chụp khăn lau rối rít và lật đật mặc quần áo. Chắc trong cuộc sống người này tham lam lắm. Không chịu bỏ sót một buổi tắm công cộng miễn phí. Từng nhóm năm ba binh sĩ mặc quân phục đi đi lại lại ở gần mép nước. Có mấy thiếu nữ ngồi ở trụ đá dưới tàn dừa nhìn ra bể. Mỹ Khuê có nghĩ rằng hiện giờ tôi ở dây không? Chắc là không. Hai người đang thủ thỉ cho nhau nghe những chuyện êm đềm.

Sương xuống mù mù, xóa nhòa đường nét của những hải đảo ngoài khơi xạ Mái tôn xám của dãy nhà dân chài nơi xóm Cồn chạy dài theo bãi cát, nằm sát mặt đất. Không thấy ánh đèn. Nhưng chắc chắn là có tình yêu trong những ngôi nhà sơ sài đó. Tình yêu không cần nệm mousse, khăn trải giường có vẽ hoa và một chồng sách dưới chao đèn.

Có tiếng chân đi loạt xoạt sau lưng tôi. Trong ví chỉ có nhiều nhất là một trăm bạc nên tôi không cần quay lại. Tiếng chân đến sát gần. Một người ngồi xuống chụp vào vai tôi.

- Anh ngồi làm gì ở đây?

Tôi giật mình quay lại.

- Annie!

Annie mỉm cười ngồi sà lại gần tôi.

- Em đến đây làm gì vào giờ này? Biển vắng và trời sắp tối.

- Anh làm như anh là thanh tra cảnh sát. Em đi xem biển nổi loạn. Cũng như anh vậy.

Tôi phì cười:

- Sao biết là "cũng như anh vậy"?

Annie mặc váy ngắn, áo len dài tay màu đỏ. Giày escarpin trắng. Tôi hỏi:

- Anh tưởng em đi Đà Lạt rồi. Ngày nào mới tựu trường?

- Mai mới có chuyến baỵ Còn tựu trường thì cũng một ngày như ở trường Việt.

- Chị Mỹ Khuê ở nhà làm gì?

- Peuh! -Annie nhún vai- nghe nhạc, nhai kẹo, chải tóc, gắt đứa ở...

- Anh bảo là giờ này cợ Có anh Phan đến chơi đằng nhà phải không?

- Cố nhiên là có. Tại anh lật đật ngắt lời em. Em chưa kể hết mà. Chị Khuê đang gắt đứa ở thì anh Phan đến.

Tôi ngồi thừ nhìn ra con đường chân trời, ngạc nhiên không biết lần thứ mấy rằng tại sao mà nó khéo thẳng như vậy. Annie lay vai tôi:

- Anh nhai kẹo này. Em biết anh thất tình phải không?

Tôi bỏ kẹo vào miệng:

- Nói nhảm. Anh hỏi chơi vậy thôi. À, Annie này, thế chủ nhật nào anh Phan cũng đến phải không?

- Nhiều hơn thế nữa. Có cả những chiều thứ năm, thứ tư, thứ sáu... enfin... những ngày trong tuần.

- Thế anh Phan đến chơi mỗi lần vậy có lâu không?

- Tùy theo. Hai giờ. Một giờ. Mười lăm phút. Ái chà, anh hỏi vẩn vơ, Annie không trả lời nữa đâu. Nói chuyện khác vui hơn.

- Chuyện gì bây giờ? -tôi ngượng nghịu hỏi lại.

Tóc Annie bay phất phơ theo gió tạt vào mặt tôi. Mùi nước hoa ngọt ngọt -à, mùi hoa violet, tôi sực nhớ ra rồi,- tỏa từ mái tóc, từ áo len.

Đôi mắt sáng. Cái mũi huếch lên một chút.

- Anh đã đọc Lolita chưa?

- Rồi.

- Anh cò thích truyện đó không?

Tôi gật đầu:

- Truyện haỵ À, mấy hôm nay anh Phan có đưa dĩa hát đến cho chị Mỹ Lhuê mượn không?

- Có. Anh kể cho em nghe truyện Lolita đi.

- Dài quá. Vả lại truyện không đứng đắn.

- Kệ nó. Truyện bắt đầu như thế nào?

Tôi gãi cằm, ngần ngừ một lát:

- Bắt đầu thì thật haỵ Như là tiếng kêu thổn thức của một tâm sự: Lolita, ánh sáng của đời tôi, lửa của... chà chà khó nói quá: "feu de mes reins... "

- Em hiểu rồi, anh khỏi cần phải dịch. Anh nói tiếp đi.

- Tội lỗi của tôi, linh hồn của tôi. Lolita: đầu lưỡi nhảy ba cái nhẹ vào vòm khẩu cái, va chạm ba lần vào răng, Lọ Lị Ta.

- Anh kể nữa đi.

- Buổi sáng nàng là Lọ Lo ngắn ngủi. Một thước bốn tám.

- Đố anh, em cao bằng Lolita chưa?

- Chắc còn thua.

- Bậy, em cao hơn. Tình yêu giữa Lolita và Humbert anh có cho là tội lỗi không?

Tôi ngạc nhiên quay nhìn thẳng Annie.

- Sao em biết?

Annie cười:

- Vì em đã đọc hết quyển Lolita rồi.

- Đó không phải là quyển truyện dành cho em.

- Người lớn đều có ý tốt ngăn ngừa như vậy. Người lớn kiểm duyệt phim ảnh và ghi rõ: "Cấm dưới 18 tuổi". Nhưng những buổi chiếu phim có khẩu hiệu cấm kỵ như thế thì khán giả đa số lại dưới tuổi 18. Lỗi đó chắc không phải do ở trẻ con. Như em. Nhưng mà thôi, em nói lạc đề. Em muốn hỏi anh điều này nhé.

- Gì?

- Humbert so với anh, ai lớn tuổi hơn?

- Cố nhiên là Humbert... lớn tuổi hơn anh nhiều.

Annie gật đầu.

- Anh trẻ hơn Humbert... Còn em thì lớn hơn Lolita... Annie ngừng lại không nói tiếp. Tôi mở to mắt nhìn Annie, ngạc nhiên vì câu hỏi vừa rồi.

- Đó là tiểu thuyết... Tôi chậm rãi nói.

Nhưng Annie không nghe tôi. Nàng đăm đăm nhìn ra chân trời xạ Sương đã xuống núi. Vài ánh đèn thuyền câu chói sáng. Dãy đèn nê ông chạy dài theo đại lộ Duy Tân, chạy vòng theo bãi biển xuống mãi đến xóm Chụt. Tôi lay vai Annie:

- Annie về đi. Tối rồi. Me và chị Mỹ Khuê đang đợi ở nhà.

- Anh có khinh Lolita không?

- Anh chưa nghĩ đến điều đó.

- Còn em thì em không trách Humbert. Ngồi trong ngục thất chờ ngày ra tòa đại hình để bị xử tử hoặc lãnh án khổ sai, người đàn ông đau khổ đó viết lại câu chuyện tình của mình và mong rằng nó sẽ in ra khi hai nhân vật chính đều đã chết. Ông ta có lương tâm.

- Ừ.

- Anh cũng là người có lương tâm.

- Có thể...

- Chị Khuê em không thích người đàn ông có lương tâm. Chị bảo: Họ chậm chạp và nhiều khi vô ích.

Tôi ngậm ngùi:

- Cũng có lẽ đúng.

Annie chợt cười rồi bẹo má tôi:

- Trông bộ anh ngớ ngẩn, đúng là anh chàng thất tình. Sao ngày xưa anh vui vẻ nhanh nhẹn thế? À, đố anh biết tại sao em gặp anh ở đây?

Tôi lắc đầu:

- Chịu.

- Em lại đằng nhà tìm anh.

-... ?

-... Thằng nhỏ ở bảo anh vừa đi xong. Em biết thế nào anh cũng lò mò ra biển. Thất tình mà. Quả nhiên thấy xe anh gác ở bờ đường.

Tôi gật đầu:

- Thầy bói đoán giỏi. Em lại tìm anh có việc gì?

- Để giã từ anh ngày mai đi Đà Lạt. Em biết anh không xuống nhà nữa, từ ngày anh thôi với chị Khuệ Tình yêu là thế đó. Anh có giận lây em không?

- Không.

- Vậy thì bắt tay em đi.

Tôi siết chặt tay Anniẹ Bàn tay mềm và ấm. Annie giữ tay tôi lại và không bỏ ra. Ngón tay trỏ và ngáo tay giữa của nàng vuốt nhẹ trên lưng bàn tay tôi, gây một cảm giác êm êm rợn rợn.

- Anh nhớ viết thư cho em nghe. Ngay tối naỵ Sáng mai anh bỏ thư ở nhà dây thép và sáng thứ Hai thì em đọc được thư anh ở tại trường.

- Sao vội vàng thế? Từ bây giờ đến tối thì có chuyện gì đâu mà viết?

- Sao lại không? anh cứ ngồi lại bàn thì sẽ biết nên viết gì. Thôi bây giờ em về.

Nàng bỏ tay tôi ra rồi bấu vào vai tôi đứng dậy. Tôi đứng dậy theo.

- Anh không chúc em điều gì sao?

- Có chứ, -tôi vội nói. Chúc em đi đường bình an, học giỏi.

- Cám ơn anh. Còn em chúc anh sức khỏe, vui vẻ. Nhé? Mon péché... mon âme.

Nàng nói xong, thoăn thoắt đi. Ánh đèn đường chiếu nghiêng xuống mái tóc tỏa sáng. Váy ngắn. Áo len dài tay màu đỏ. Nàng bước lên một chiếc xích lô đậu gần đó, quay lại giơ tay vẫy tôi. Tôi cũng giơ tay vẫy theo. Chiếc xe vun vút chạy, mất hút sau dãy phi lao thấp.

Hai tiếng cuối cùng Annie nói cho ai? Tội lỗi của tôi. Linh hồn của tôi. Thật khó mà phân biệt nàng muốn ám chỉ tôi hay chỉ nhắc lại lời của Humbert. Tôi đứng lặng, ngẩn ngơ, ngờ vực, thậm chí không tin rằng điều vừa xảy ra là có thật. Tôi đưa bàn tay lên mũi: rõ ràng là mùi nước hoa violet từ bàn tay Annie chuyển sang. Annie, cô em bé nhỏ đang ở tuổi nhai kẹo sô cô la, ngậm đầu bút chì để nghĩ làm con toán và vỗ tay xem phim "Ba người ngự lâm pháo thủ". Annie! Đôi mắt sáng long lanh như hai giọt nước treo ở đuôi lá na lá mận được nhìn qua ánh sáng của khung cửa sổ. Đôi chân mảnh, nhảy thoăn thoắt như sơn dương. Annie! Nàng đột nhiên hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong rối ren chằng chịt.

Võ Hồng
Last edited by tuvi on 01 May 2019, edited 1 time in total.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

2 . Tháng Năm Sương Mù

Tôi cầm lên phong bì thư đề tên tôi. Những chữ O không vòng kín, những chữ G bụng to è ạch như bụng của những con mối chửa đang thời kỳ đẻ. Đúng là thư của chị Hiền, chị họ tôi. Bì thư dày cộm có chỗ cứng gồ lên. Tôi hồi hộp. Bức ảnh của Thọ, người đàn ông mà chị Hiền hứa giới thiệu cho tôi. Tôi chưa gặp Thọ. Thọ làm việc cùng tỉnh với chị Hiền. Tốt nghiệp trường Quốc gia Hành chánh. Làm Ty trưởng tài chánh. Chỉ số lương 430. Khỏi bị động viên đi Thủ Đức. Đi làm bằng xe Jeep của chính phủ. Siêng đọc tạp chí Quê Hương và có chân trong Tỉnh hội Khổng học. Tự sửa lấy quạt máy và bàn ủi điện. Thật là một người chồng hoàn toàn. "Như một hạt ngọc..", chị Hiền kết luận như vậy.

Tay tôi run run khi xé phong bì. Không kịp chạy đi lấy kéo cắt. Tháo vội vàng những tờ giấy pơ-luya đầy chi chít tâm tình của chị Hiền, tôi lôi bức ảnh ra. Mặt trái. Tôi để ảnh xuống bàn, dỗ cho lòng mình bình tĩnh lại. Vội vàng để làm gì? đằng nào sự thật cũng rõ ràng ra đó, chối chạy đâu được, đổi thay gì được? Chỉ cần lật bề mặt lên là thấy ngay.

Tôi đã 32 tuổi rồi, đã biết thế nào là hy vọng quá cao và thất vọng xót xa. Tôi tập hạn chế hi vọng, lúc nào cũng chuẩn bị đón nhận những sự bất như ý thật lớn, chịu đựng những sự thiệt thòi quá mức để mong rằng sự thật không đến nỗi tồi tệ như vậy. Tôi tưởng tượng Thọ xấu như thế này, xấu như thế nọ. Bộ mặt dã thú nặng nề của Anthony Quinn. Cái trán thấp của Clark Gable. Cái môi dưới dài ra như lúc nào cũng hờm sẵn một đĩa thịt bít tết hoặc một bát phở tái gầu rắc đầy ớt, hành đặt trước mặt. Đôi tai nhỏ và mỏng nắn tròn như cái nấm mộc nhỉ, loại láu vặt.

Tôi duyệt qua một lượt những khuôn mặt người đàn ông xấu trai mà tôi đã có dịp gặp. Cố nhiên là vô tình đã chỉ chọn nhằm những người đàn ông xấu trai mà có vợ đẹp. Cũng là một lối tự khuyến khích mình, tự an ủi mình. Ngày còn đi học tôi mê sắc đẹp của cô Chi, cô con gái ông chủ nhà hàng Phương Mai. Màu da ngà không sáng lắm nhưng phù hợp với đôi mắt đen dịu dàng, đôi môi hồng nho nhỏ. Cô không bao giờ đánh phấn và bôi son. Tóc cũng chỉ vén cao lên, không uốn. Vẻ đẹp cố ý để mộc mạc làm tôi yêu mến say sưa như khi tôi say mê nhìn một búp sen trắng vươn lên giữa hồ cạnh những tàn lá màu xanh thẫm. Ngày cô lấy chồng, tôi thất vọng khi phải nhìn một người đàn ông tầm thường như hàng trăm hàng ngàn người đàn ông khác tôi cũng gặp trên đường phố mà không buồn để tâm lưu ý. Mỗi lần gặp hai vợ chồng đi phố, tôi mong tìm một nét bất mãn trên vẻ mặt, một sự phũ phàng ghẻ lạnh trong cử chỉ của cô Chi, nhưng ngược lại lòng mong của tôi, cô đi cạnh chồng tươi vui và nói chuyện với chồng âu yếm. Tôi đau xót ngấm ngầm và ghen tức như chính mình là người đàn ông bị tình phụ. Lấy một người chồng xấu xí và tầm thường, thật là một điều bất hạnh, tôi cứ nghĩ thế. Nhưng mà quanh tôi người ta vẫn cứ xây dựng hạnh phúc vững chãi trong những hoàn cảnh bất ổn như vậy. Sắc đẹp để dành cho phần đàn bà. Người đàn ông chỉ cần có tài. Nếu không có tài thì phải làm ra nhiều tiền. Tuy nghĩ vậy nhưng tôi vẫn hy vọng rằng Thọ được trên điểm trung bình.

Tôi thong thả lật tấm ảnh, nhìn vào. Người tôi chùn hẳn lại. Bao nhiêu không khí như thoát ra cùng một lúc, tôi xẹp xuống, Thọ không giống một người đàn ông xấu nào mà tôi đã nghĩ. Anh chia mỗi cái xấu một ít. Thực tế thì có gì xấu hẳn đâu? Mắt? Tai? Mũi? Miệng? Tôi không chọn được dễ dàng mỗi tĩnh từ dành cho mỗi bộ phận của khuôn mặt. Lờ mờ hết sức. Trung bình hết sức. Nhàm hết sức như hầu hết những khuôn mặt. Nhưng ghép chung chúng vào nhau thì chắc chắn là tôi không có cảm tình với một khuôn mặt như vậy.

Tôi bình tĩnh trở lại, không buồn lắm, không thất vọng nhiều. Tôi can đảm nhìn tấm ảnh thật lâu, nhìn thẳng vào những chỗ kém cỏi, khuyết điểm. Đôi con mắt không tinh thần. Môi dày. Ngoại trừ một khuôn mặt quá đẹp hay quá xấu còn thì người ta chấp nhận nhau vì quen mắt. Có những khuôn mặt mới gặp lần đầu tiên ta ghét lắm. Gặp mãi thì thấy không đến nỗi. Gần lâu thì thấy cũng thương được. Nguy hiểm hết sức là thói quen. Nó mài dũa mọi cạnh gồ ghề của cá tính con người. Rồi cái gì cũng được hết.

Tôi nhìn thật lâu khuôn mặt của Thọ, nhìn đến nỗi con mắt tôi hoa lên. Tôi lồng ảnh đó dưới mặt kính bàn viết. Phải cố gắng tập cho quen đi. Đàn ông, đâu có phải đàn ông sinh ra chỉ cốt để trang hoàng quảng cáo cho mấy tiệm chụp hình?

Tôi 32 tuổi rồi. Chưa sợ ế chồng nhưng cũng không phải là quá sớm để nghĩ đến việc hôn nhân. Lấy chồng không giống như đi mua một cái bàn chải đánh răng, đợi lúc nào cần là cứ đi ngay ra tiệm tạp hóa gần nhất. Chọn lựa. Chọn lựa. Chọn lựa. Khi đã chán chê chọn lựa, khi mình tự nhủ mình: "Thôi, lần này không chọn lựa nữa" thì lại đến lúc đàn ông không đến với mình. Xe hơi chạy vụt trước cổng, xăm xăm chạy về một cổng nào khác. Vespa, xe gắn máy không thả bớt tay ga, không bóp còi, không ngập ngừng dừng lại. Đàn ông thời bây giờ khan hiếm. Như sữa Hòn Núi thỉnh thoảng phải mua giá chợ đen. Chiến trường nuốt nhiều đàn ông. Mỗi lần mở tờ báo hàng ngày, lật sang trang tư tôi tìm những khung cáo phó. Trung úy Nguyễn Văn X... đã đền nợ nước. Thiếu úy Trần Ngọc Y... đã hy sinh. Chuẩn úy Lê Đình Z... bị tử thương. Tôi lưu ý đến những tên thân nhân của người "anh hùng" ghi ở dưới. Cha, mẹ, anh, em. Chưa có vợ. Tôi tưởng tượng một khuôn mặt rụt rè, tóc cắt cao, đường rẽ thẳng, bôi đầy bi-ăng-tin Miss Dahlia mới kéo cho tóc nằm ngoan ngoãn. Áo kaki là thẳng nếp và khi đi ngang qua nghe mùi xà phòng Evening in Shanghai. Hành quân tảo thanh mà trí óc phảng phất giọng ca Lệ Thanh, Connie Francis. Ngồi làm báo cáo giữa hai khói thuốc mơ màng nghĩ đến Blaise Cendrars, Nơbokov. Chưa có người con gái nào chít khăn để tang anh. Người yêu của anh chưa thành đàn bà . Thế là nàng còn nguyên vẹn để xông vào vòng cạnh tranh với tôi. Trong vài đoạn cáo phó, có tên những người vợ đọc lên nghe êm đềm ghi sau tên người quá cố, những là Nguyễn Thị Lệ Thu, Trần Kiều Nga,... không có tên con ghi ở sau. Địch thủ nguy hiểm! Thiếu nữ không dễ ăn qua góa phụ trẻ chưa con. Người đàn ông khó thoát lưới của những đàn bà trẻ có kinh nghiệm về tình ái. Thân hình nở nang làm mát những cặp mắt và vỗ về, nuôi dưỡng trí tưởng tượng. Đàn bà bạo dạn hơn thiếu nữ. Không biết đi lui, chẳng cần chạy chốn. Đàn ông thời bây giờ ít kiên nhẫn. Được hay không, họ nóng biết kết quả để kịp xoay sang chiến trường khác. Lối viết thư tình tẩm nước hoa và gửi đều đặn cho "nàng", lối ấy chỉ còn dành cho những cậu con trai có tật nơi mắt hoặc mắc bệnh suyễn kinh niên, bệnh hắc lào. Đàn ông bây giờ đớp đàn bà nhanh như lũ ăn cắp ở Đô thành đi Vespa giật xắc của người đi đường rồi rồ ga bỏ chạy. Góa phụ có từ ba con không đáng sợ. Họ chỉ bị đàn ông lợi dụng thôi. Khi đã tìm được một cô vợ trẻ đẹp, giàu rồi thì người đàn ông khéo đưa ông thầy bói ra để đoạn tuyệt. Chẳng hạn:

- Ông thầy Huyền linh Tử bảo anh tuổi Tý sinh tháng Giêng là phạm tháng Cô Thần. Còn em tuổi Dậu sinh tháng Sáu thì nhằm Quả Tú.

Nam phạm Cô Thần thê ly biệt.

Nữ phùng Quả Tú độc phòng trung

Thế là hết lý lẽ để bào chữa. Đàn bà chớ dại cho đàn ông biết ngày giờ sinh của mình. Để phòng khi bị phản bội.

Tóm lại, dù có tính đi tính lại thì số đàn bà vẫn thừa. Đã thế, lũ đàn ông còn sống lại nhát lấy vợ. Luật gia đình làm cho họ sợ. Từ ngày có luật ấy người con trai nào cũng nghĩ rằng mình sẽ bị cắm sừng, phải chạy tiền cấp dưỡng vợ mình và đứa con của vợ mình. Nó trở thành một ám ảnh. Bên cạnh những công thức Toán học, Hóa học, trong óc người con trai lởn vởn thêm những đẳng thức mới: vợ = cặp sừng; ly thân = năm ngàn đồng trợ cấp mỗi tháng. Hại uy tín của phụ nữ ghê lắm mà người làm luật đâu có biết. Cuộc đời quân ngũ còn làm người con trai coi thường đàn bà. Anh hùng mà! Ngày chưa đi Thủ Đức, anh Trần quanh quẩn cạnh mấy cô bạn, hết chép nhạc tặng, đến vẽ hộ kiểu gối thêu mặc dù chẳng cô nào thêu gối. Áo gối thêu máy tám chục đồng một cặp, mua bao nhiêu cũng có. Sau chín tháng ở Thủ Đức về, sau một năm lăn lộn ở chiến trường miền Tây, anh già từ da mặt đến tâm hồn. Lúc nào cũng như toan tính xuất quân ra trận, thu dọn chiến trường, ân thưởng Bảo quốc huân chương, vinh thăng Thống tướng. Quên cả đàn bà!

Tôi 32 tuổi rồi. Phải lấy chồng để chỗ cho con em kề tôi nó làm người lớn. Em Huệ đã 25 tuổi. Người giáo sư dạy nó năm kia vừa đánh tiếng đi hỏi nó. Đột nhiên tôi thành ra già đi, vì nó. Thương em, yêu em mà không khỏi có chút ít ganh tị với em. Người con gái Tây phương lấy chồng nhiều khi vì phòng tắm ở nhà quá hẹp mà chị em thì đông. Đợi hàng giờ mới đến lượt mình tắm táp, đánh răng, chải tóc. Mong lấy chồng cho xong để có được một phòng tắm rộng, sử dụng một mình. Người con gái Đông phương lấy chồng nhiều khi chỉ cốt để tránh cảnh phải ngủ chung một giường đến ba chị em. Đứa này lăn qua cạ vào lưng đứa kia, làm mất giấc ngủ lẫn nhau. Đứa nằm ngoài thò tay thò chân ra ngoài màn khiến muỗi chui vào từng bầy đốt lấm tấm cả mặt. Đập muỗi suốt đêm. Cha mẹ tôi khá giả, mỗi đứa được nằm riêng mỗi giường có nệm mút, chỉ phiền cái lược mỗi khi tìm đến để gỡ tóc là cứ biến đâu mất. Cây bút chì nguyên tử xanh để viết thư cũng vậy. Con gái lớn bốn đứa, mỗi người sản xuất trung bình bốn cái thư. Bút chì BIC lên giá hai mươi đồng một cây, mới mua đó đã thấy cạn mực, mực chảy ra từng vũng nhầy nhụa. Có lúc viết được nửa cái thư rồi vừa rảy vừa cào, chỉ thấy dấu bi hằn lên giấy. Cãi nhau rồi đổ lỗi cho nhau:

- Em mới thấy con Lan viết thư hồi nãy, viết gì đến bốn tờ giấy manh đặc sệt cả chữ. Phải dán bốn đồng bạc tem mới đủ.

- Đâu phải vì bốn tờ giấy manh đó mà hết mực? Hồi sáng chị Huệ ngồi viết hàng nửa giờ. Viết thư mà phải viết nháp trước mới tốn mực đến vậy.

- Viết nháp trước hay không là tùy đối tượng. Nếu viết cho một anh thơ ký công nhật thì tội gì tao phải viết nháp?

- Em biết rồi, chị khỏi cần nói mỉa em. Nhưng một chứng chỉ thì cũng đến làm thư ký công nhật là cùng nếu chưa bị động viên đi Thủ Đức. Chị quên rằng năm kia Công quản Chuyên chở Đô Thành cần bốn người bán vé xe mà có đến hàng chục anh tú tài đâm đơn xin.

Một cái gối ném vung tới. Một cái gối ném trả lại. Tôi phải đóng vai hòa giải. Rồi cuối cùng lại phải tự mình đạp xe ra đầu phố mua cái bút nguyên tử mới.

Quả tình là Thọ không những không đẹp mà còn thua xa mức trung bình. Mỗi lần bất chợt nhìn vào ảnh Thọ tôi đều mỏi mệt mà kết luận như vậy. Nhưng sự chán nản của tôi không đến nỗi to lớn như khi tôi nhìn bức ảnh lần đầu. Cái gì rồi cũng quen đi. Tôi còn hy vọng rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn ở trong ảnh. Trường hợp này ít khi xảy ra. Thường thì người nào cũng chỉ đẹp bằng bảy phần mười so với bức ảnh chụp bán thân của họ. Chỉ trừ bức ảnh trong thẻ kiểm tra bọc nhựa là mới thật sự khiêm tốn mà thôi. Tuy vậy tôi cũng phải mong rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn. Con người ngoài thực tế với giọng nói với nụ cười, với tia mắt nhìn, với cách đưa tay, với tư thế ngồi... thường dễ gây mỹ cảm nơi người đối diện. Tôi có một tật xất là mỗi khi nhìn những tấm ảnh quảng cáo trích ở cuốn phim đang chiếu thì không còn thích xem phim nữa. Bức ảnh khô khan, vô duyên, nhiều khi trơ trẽn nữa nếu nhìn lâu. Khi xem thẳng trong phim thì thấy cũng hình ảnh đó nhưng mà nó dịu dàng linh hoạt dễ thương làm sao. Đọc trước truyện phim, dẫu đã lo xa để dành đoạn chót không đọc đến nhưng vẫn mất hứng thú không muốn đi xem nữa. Truyện nào thì đại khái cũng như nhau, có cái khác nhau thì lại không nói được. Chẳng hạn một lời đối thoại. Chẳng hạn một cánh bướm vụt bay lên từ cái lá cỏ. Chẳng hạn một tiếng thổn thức xảy ra đúng lúc. Vâng, tôi đợi gặp mặt Thọ như đợi lúc trực tiếp ngồi trong phòng tối đem trọn tâm hồn mình thưởng thức cuốn phim lần lượt chiếu trên màn ảnh.

Tôi dành hai giờ để viết trả lời chị Hiền một bức thư không dài quá một trang. Lời lẽ thật hết sức hòa nhã vui vẻ. Ngôn từ dùng mãi biến tính đi nhiều, rốt cuộc nó không còn biểu diễn đúng cái ý nghĩa nguyên thủy của nó nữa. Nhất là những tĩnh từ và trạng từ. Tôi chọn một số chữ biến tính ấy để sự tìm hiểu của chị Hiền trượt lên chúng.

Ngày lễ Phục sinh, chị Hiền đưa Thọ đến gặp tôi. Ba tôi tiếp chị Hiền và Thọ ở phòng khách đợi tôi có đủ thì giờ trang điểm rồi lấy cớ rút lui nhường chỗ cho tôi. Ba tôi ít nói. Nhìn vẻ ngoài thì ông như không để ý đến việc gì, vật gì xung quanh ông cả, nhưng mà động hỏi cái gì ông cũng biết. Dường như chẳng có gì lọt qua được mắt ông.

Thọ ngồi không yên chỗ. Hay quay qua quay lại. Có lẽ số tuổi trên đầu còn ít chưa đủ sức nặng để làm thân Thọ đằm xuống. Như một chiếc ghe chở ít hàng hóa, cứ chao đi chao lại trên sóng. Tôi thích một người đàn ông có dáng ngồi chững chạc hơn. Má biết tính tôi nên hay nói đùa:

- Mày đúng là "con nhà lính mà tính nhà quan". Nhà nghèo mà muốn lấy chồng Tổng trưởng.

Tôi cười trả lời:

- Đâu có phải ông Tổng trưởng nào cũng có dáng ngồi chững chạc?

Có cái gì thừa nơi khuôn mặt của Thọ. Chắc là đôi môi quá dầy. Màu da tối. Tôi tưởng tượng ngay, một cách tự nhiên là khuôn mặt ấy sẽ kề sát mặt tôi và đôi môi ấy hôn tôi. Tôi rùng mình. Phải chấp nhận tình yêu với miễn cưỡng vậy sao?

Sau khi được chị Hiền giới thiệu, Thọ mở lời:

- Lễ Phục sinh cô Loan không đi nghỉ mát.

- Dạ thưa không

- Ở đây nóng.

Thọ chứng minh rằng ở đây nóng bằng cách giật giật nhiều lần vạt áo sơ mi. Tôi lại mở quạt trần. Tôi nhìn bóng tôi trong chiếc gương lớn, so sánh với bóng chị Hiền. Tôi đẹp hơn chị Hiền. Điều này làm tôi vững lòng tin tưởng vì anh Doãn chồng chị Hiền khá trai và có địa vị. Ít nhất tôi cũng hy vọng lấy một người chồng như anh Doãn.

Thọ nói chuyện thời cuộc năm châu. Loại chuyện này dễ thành nhàm và sáo như tách nước trà tôi đón nhận mỗi lần đến thăm nhà ai, tách nước do người ở bưng từ nhà sau lên. Nhàm nhưng vẫn cần phải có. Chán hết sức là những công thức. Tôi ít trả lời được gì bởi vì những điều tôi sắp nói tôi tưởng như người ta đã biết hết rồi. Mỗi ngày phải nghe nhiều lần những điều đó ở tờ báo hàng ngày, ở phần tin tức của đài phát thanh Trung ương, ở phần bình luận và câu chuyện buổi trưa, buổi tối, ở đài phát thanh địa phương. May mà ba má tôi không gặp lại giữa bữa ăn.

Chị Hiền đối thoại với Thọ chu đáo hơn tôi, do đó tôi có thể ngồi nhìn Thọ một cách tự nhiên. Tôi cố vỗ về cho mắt tôi quen với gương mặt Thọ. Chấp nhận Thọ. Người ta hay nói "Yêu nhau là cùng nhau nhìn về một hướng". Nhìn về một hướng thì có lợi là khỏi nhìn lẫn nhau, quên tìm những khuyết điểm của nhau. Nghe tiếng trẻ bán báo rao báo mới, Thọ xin phép ra cổng gọi mua tờ báo quen của anh. Còn lại trong phòng có chị Hiền và tôi, một lọ hoa lay ơn trắng, mặt ghế xa lông phủ vải hoa, rèm treo cửa màu nhạt. Và sự thoải mái dễ chịu. Tâm hồn tôi suýt chao đi, xót xa như vừa mang những vết cắt vô hình. Sự vắng mặt bất ngờ của Thọ trong giây lát làm tôi thấy nhẹ nhàng. Tôi đã ngẫu nhiên nhìn rõ được trong nếp sâu của tâm tư tôi. Tôi nên trả Thọ cho cái thành phố của chị Hiền. Phải dành lại cho tôi cái không khí thoải mái hiền hòa của căn phòng khách nhỏ này.

Sau ngày chị Hiền và Thọ đến thăm, tôi sợ người đưa thư. Tôi sợ phải gặp nét bút của chị Hiền hỏi ý kiến dứt khoát của tôi về Thọ. Tôi sợ nói sự thật, còn nói dối thì không quen. Ở nhà má không sai tôi đi chợ đi phố, khỏi phải mặc cả mua bán nên không thường nói dối. Tôi trông mong sự việc qua đi, như chưa hề có một sự gặp gỡ, chưa có một sự dự định nào hết. Tuy vậy, tôi vẫn không ngớt lẩm nhẩm sắp xếp trong óc những đoạn thư để trả lời cho chị Hiền. Thật là khó tìm cớ. Không thể bảo rằng má cứ khóc không muốn xa con. Bốn cô gái ở tuổi lấy chồng chớ đâu phải chỉ có một. Nhiều con gái ở tuổi lấy chồng, đó không phải là thứ huân chương để người mẹ hãnh diện. Lo thì lo nhưng mà vẫn chưa tìm được cớ gì để chuẩn bị. Thỉnh thoảng tôi nhớ lại cuộc hội diện với Thọ. Tức thì một không khí nặng nề ùa đến, đâm sầm bao vây lấy tôi, những bứt rứt rỉa rói như có hàng vạn mũi kim châm tới. Tôi phải vội lẩn tránh bằng cách mở đọc một đoạn truyện nào đó ở trang 3 của tờ báo hàng ngày hoặc vặn nút ra đi ô để nghe cái gì cũng được: cổ nhạc Trung phần, phụ nữ với gia đình, tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển...

Suốt ba tháng không có thư của chị Hiền. Rồi bỗng vào một lúc không ngờ hơn hết, tôi nhận được thư chị. Bức thư khá dày làm tôi hồi hộp. Mắt tôi chạy nhanh qua những đoạn thăm hỏi nhớ nhung, những đoạn nói về khí hậu và tả cảnh. Đây rồi, chủ điểm của bức thư:

.......

"À, Loan còn nhớ cái thằng khỉ Thọ không nhỉ? Nó về rồi cút luôn không đến nói gì với mình hết. Sau đó nghe nói nó đi hỏi cô Tuyết con gái ông chủ Kho Bạc ở cùng phố với mình. Cô này đẹp lắm, đỗ chứng chỉ Cử nhân Luật năm thứ hai và tính nết rất dễ thương. Chả biết tại sao cô ấy lại thương được thằng Thọ. Tháng sau đám cưới."

.....

Quả tình là con trai khan hiếm. Trên thị trường giá đàn ông con trai có thể lấy vợ tăng lên nhiều. Tôi đang lo không biết nên từ chối Thọ như thế nào thì không ngờ chính Thọ từ chối tôi trước. Người ta tranh giành nhau cả những người đàn ông xấu trai. Trên chiến trường, họng súng đen ngòm lăm lăm nhả đạn vào sọ, vào óc những người đàn ông khỏe mạnh. Ở đô thị, đàn bà nối đuôi đi vào hiệu uốn tóc, sửa da mặt, tẩy vết tàn nhang. Phải tranh giành những người đàn ông còn sót lại.

Cuộc đời chỉ đẹp trong người ngày còn cắp sách đi học. Không bận tâm lo nghĩ. Lòng tin tưởng cứ vụt phóng tới trước như con ngựa sung sức không chịu dừng chân. Thi đỗ. Làm việc nhiều tiền. Có người chồng xuất chúng. Sinh những đứa con đẹp như trong tranh vẽ. Nhưng con ngựa bất kham không chịu dừng lại ở lằn mức đó. Tôi còn tưởng tượng tôi say mê trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu, tìm tòi. Phát minh ra những công thức mới. Điều chế ra những hợp chất mới. Phải chinh phục. Phải luôn vượt lên, tiến tới. Tôi còn tưởng tượng tôi là một họa sĩ hữu danh. Một văn sĩ có tài. Một nhạc sĩ. Trí tưởng tượng chắp những đôi cánh rộng, bay mãi không biết mệt. Nhưng lần lần cuộc đời nặng nhọc và tầm thường níu kéo tôi trở lại, đè bẹp tôi xuống. Tôi không thoát khỏi nanh vuốt của nó. Phải âu lo và chỉ còn hy vọng trong một chu vi hữu hạn. Chu vi ấy càng ngày càng thu hẹp kích thước. Tôi có thi đỗ thật nhưng đỗ không cao lắm. Tôi đi làm thật nhưng công việc chỉ tầm thường ở một bàn giấy vô nghĩa. Người ta vạch sẵn những con đường cho tôi đi. Những nghị định, những qui chế, những thể lệ bao phủ tôi mỗi ngày một đầy thêm và tôi loay hoay động chạm vào chúng thường xuyên như đi giữa khu rừng rậm phải chạm vào những thân cây. Chúng tạo thành bầu trời, thành vũ trụ của tôi. Thật là thảm thương khi tâm hồn con người không bay thoát ra được cái bầu trời, cái vũ trụ bé nhỏ nghẹt thở ấy. Con đường đã vạch sẵn! Con đường đó dẫn tôi đi gặp người phát ngân viên mỗi cuối tháng, đi đến quỹ hưu bổng khi những vết nhăn chân ngỗng cày đậm lên hai khóe mắt. Con đường bất dịch. Những ước mơ, cuộc đời lý tưởng đang bỏ rơi tôi, bất lực, bơ vơ như ánh nắng mặt trời sắp bỏ lại cho đêm tối cái vũng nước hồ mọc đầy lau lác. Xa rồi buổi bình minh có ánh nắng đùa trên gợn nước, hoa dại rung rinh và lảnh lót chim ca. Tôi đã cố gắng hết sức mình. Tôi đã vội vàng. Nhưng cuộc đời dẫu của tôi mà không phải hoàn toàn tùy thuộc nơi tôi và trái đất xoay chuyển nhịp nhàng theo quỹ đạo không vì tôi mà quay chậm một ngày. Tôi đã 32 tuổi rồi. Bắt đầu ghét quyển lịch năm 30 tuổi. Lịch Paramount, lịch Toshiba, lịch Esso, lịch Chợ Lớn... tất cả đều a tòng vào nhau để vò xé tâm hồn người đàn bà. Không thể lầm lẫn được thời gian khi ở mọi bức tường, những tờ lịch mang chung một con số.

Một hôm trên đường đi làm về tôi gặp chị Trường. Từ ngày vị hôn phu của chị bị đạn chết trong cuộc hành quân Bình Lâm, tâm hồn của chị đắng lại. Chị không đi dạo phố, ít đi xi-nê. Mái tóc bin-đinh cao nghễu kiểu cách đã dỡ xuống, trở lại là mái tóc bẹt bình thường. Ba mươi sáu tuổi mới yêu được một người thì vội vã chiến trường cướp mất người yêu. Bây giờ, ngoài thì giờ trông hàng cho mẹ, chị đọc tiểu thuyết đủ loại và viết thư cho đài phát thanh yêu cầu nhạc và nghe nhạc yêu cầu. Chị nói:

- Ngày trước, mình không thích những giờ nhạc yêu cầu. Mỗi lần nghe xướng ngôn viên đọc một tràng tên thính giả yêu cầu kéo dài hàng phút đồng hồ mình phải lật đật vặn nhỏ máy phát thanh lại. Mình chỉ cần nghe nhạc. Viết thư yêu cầu nhạc mình cho là chỉ có những cô nữ sinh 15,16 tuổi ăn ở không và thỉnh thoảng là những ai muốn nhắc người yêu nhớ đến tên mình.

- Tại chị bi quan nên mới nghĩ vậy - tôi nói.

- Bi quan thì trước sau mình vẫn bi quan. Có điều từ ngày anh Nghiêm mất, mình đã thay đổi quan niệm. Ngày xưa anh Nghiêm mỗi lần gọi tên mình đều gọi cả chữ lót: Xuân Trường. Anh nói giọng Bắc. Cô xướng ngôn viên ở đài, giờ "Nhạc yêu cầu" cũng nói giọng Bắc, giọng nói ấm áp có điểm gì giống giọng của anh Nghiêm. Mình thường xuyên viết thư yêu cầu nhạc để mỗi tối thứ ba nghe một giọng nói nhắc đến tên Xuân Trường, mình tưởng tượng nghe lại giọng nói của anh Nghiêm.

Chị mơ màng đưa mắt nhìn ra xa. Một lát chị tiếp:

- Mình tuyệt vọng...

Tôi làm một cử chỉ gượng níu. Như đứa trẻ sắp trượt xuống dốc nên níu một chòm cỏ, một cành cây. Vì tôi cảm nghe như tiếng đó, tiếng "tuyệt vọng" của chị Trường vang lên trong tôi như tiếng dội nơi một hang núi thẳm sâu. Tôi đã ba mươi hai tuổi.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

3 . Hai Người Đàn Ông


Sài gòn ngày 7 tháng 6 năm 1965

Em

Chiều hôm nay trời ráng đỏ suốt cả một vùng rộng lớn ở phương Tây. Màu đỏ chói rực rỡ vào phòng tưởng như đâu đây có một đám cháy lớn. Anh đưa mắt nhìn ra sân, nhìn lên từng mảnh da trời cắt vụn bởi những cành cây và lá cây. Hàng khuynh diệp đứng lặng yên cam phận trong vị trí dành cho mình và thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Anh thu mắt nhìn về căn phòng của mình. Mấy nhân viên chú ý vào công việc, thu hẹp không gian sinh hoạt của họ trong một khoảng rất nhỏ: tập hồ sơ dưới tay, cái máy đánh chữ trước mặt. Như những hàng cây, họ cũng thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Một hiện tượng thiên nhiên như vậy thật quá đỗi thường, không xúc động được ai hết. Nhưng mà anh thì xót xa cơ hồ như ngón tay nào chạm nhẹ vào một sợi thần kinh của mình.

Anh nhớ đến em.

Lần chót em đến thăm anh, em còn nhớ không, chúng ta ngồi cạnh nhau ở dưới giàn nho trên sân thượng. Em nói:

- Chúng ta đang ngồi gần trời. Và xa cách hẳn với mọi người xung quanh. Khi nào dư tiền, anh gắng xây thêm một từng lầu nữa, một từng lầu nữa và chúng ta sẽ ngồi cao hơn, cao hơn, cho gần trời hơn. Em có cảm tưởng càng ngồi ở trên cao, tình yêu sẽ càng trong trẻo và trọn vẹn. Như không khí ở trên từng cao không còn vẩn đục vì bụi bặm, thán khí và tiếng ồn.

Anh trả lời:

- Như vậy, tình yêu đòi hỏi quá nhiều tiền và tiền sẽ làm ta càng bị ràng buộc quá mật thiết với nhân loại xung quanh. Sao em không nghĩ đến một giải pháp đơn giản hơn? Là chúng ta lên ngồi ở trên một chỏm núi chẳng hạn.

Em đưa mắt tìm về một chỏm núi và anh cũng làm theo. Chính lúc đó chúng ta mới cùng để ý rằng da trời chiều nay rực rỡ một màu vàng chói lọi. Lá cây, tường nhà, mặt đường cho đến da mặt em cũng được phết lên một lớp ánh sáng vàng. Em "ồ" lên ngạc nhiên. (Em có một lối biểu diễn cảm xúc, nhanh nhẹn và háo hức, em có biết không? Tâm hồn em như một cây kim nhỏ dễ dàng rung động mà mọi sự vật xung quanh là những viên đá nam châm có hấp lực mạnh, em có biết không?) Đôi mắt mở rộng và đôi hàng lông mày dài vòng cung lên. Em nói:

- Đẹp quá anh nhỉ? Nhân loại buổi sơ khai hẳn phải chắp tay run trước một hiện tượng huy hoàng như thế này. Đêm tối lạnh lẽo hãi hùng sắp chụp lên con người và ở nơi nước Thiên đàng, Cực lạc đó đèn nến thắp lên sáng trưng rực rỡ.

Em đang bước trước anh, bỗng ngừng lại:

- Ráng này mà anh bảo nắng sao? đó là ráng mưa đó. Không ngày mai thì ngày kia, trời sẽ mưa.

- Chắc không?

- Chắc chắn lắm. Để rồi anh xem.

Thật khó có thể tưởng tượng rằng trời đang nắng to như thế mà chỉ một ngày sau là tưới xuống cơn mưa âm u ướt át. Nhưng thực tế lại đúng như lời em tiên đoán. Đêm đó nóng ngốt hết sức. Sáng hôm sau mặt trời ngủ dậy trễ. Mây đóng từng lớp dầy khiến không khí đục lại. Bầu trời thấp và buồn. Buổi trưa gió chuyển mát, mang theo hơi nước. Buổi chiều có sấm. Mưa bắt đầu từ khuya như để trốn tránh sự dò xét của người và để đủ thì giờ chuẩn bị chu đáo. Mưa đổ ào ào trên mái ngói đánh thức anh dậy. Anh đi sang phòng em, gọi em để chỉ nói có mấy tiếng:

- Trời mưa thật rồi em ạ.

Ba năm đã qua, kể từ ngày đó. Em xa cách anh, mỗi ngày mỗi xa thêm nhưng anh quyết chắc rằng cho dẫu xa cách đến mức nào thì ít nhất mỗi năm đôi lần anh phải nhớ đến em. Đó là vào những khi có ráng đỏ rực ở chân trời. Lần nào cũng vậy, có ráng đỏ là y như có mưa, cơn mưa rơi xuống quen thuộc thân tình, y như là cơn mưa của mình, do mình mà có. Bao nhiêu lần đoán đều không sai nên vào những trường hợp như vậy anh liền nhớ đến em, người đã dạy anh bài học thực nghiệm về khí tượng đó. Kỷ niệm giữa hai người thân quả là thiên hình vạn trạng: có khi là một màu hoa, một mùi hương, có khi là một giọng nói. Em ao ước chúng ta được ngồi cạnh nhau ở gần trời. Cuộc đời chỉ cho phép chúng ta thực hiện được một trong hai điều mong thôi: đó là anh cảm thấy gần trời với em trong những buổi chiều như thế nào, nhưng vĩnh viễn không chắc là có thể ngồi cạnh em được.

Hồi tưởng lại ngày chúng ta bắt liên lạc được với nhau sau rất nhiều năm xa cách, anh thấy như sự việc vừa xảy ra gần đây thôi. Ngẫu nhiêu trong một câu chuyện trao đổi với bạn quen cũ mà anh được biết rằng em hiện làm việc ở Quảng tín. Anh lại được biết rằng em đã lấy chồng và góa chồng bốn tháng sau ngày cưới. Lấy chồng thời chinh chiến thường khó lòng mà thực hiện được lời cầu chúc ghi trong danh thiếp hay trong điện tín gửi mừng "Bách niên giai lão... Loan phượng hòa minh" là tiêu chuẩn của thời bình. Chiến tranh dai dẳng tạo điều kiện cho con người bình đẳng với nhau trong niềm đau khổ. Gia đình nào cũng có những lỗ thủng lớn: hoặc là người chồng, người cha, hay người con ra đi không về. Những người đàn bà chơ vơ trong cuộc tranh đấu cam go với cuộc đời. Chiến tranh lan rộng, đời sống đắt đỏ, đi lại khó khăn, an ninh không bảo đảm... đó, những chặng cam go khúc khuỷu trên đoạn đường còn lại phải đi.

Anh được địa chỉ của em, vội vàng viết thư cho em. Em mừng rỡ trả lời. Chúng ta bấu víu vào mọi cây cọc may mắn gặp được trên dòng sông chảy xiết. Sống giữa chiến tranh là đi thuyền nan trên một dòng sông chảy xiết, có nhiều hẻm vực và đá ngầm. Thừa dịp nghĩ lễ em đến thăm anh. Chiếc ô tô nhà đậu ở trước cổng và em bước xuống. Cháu Cường cầm tay em. Em gầy đi so với ngày chúng ta chia tay. Da mặt mất đi màu trắng mát. Em vội vã giải thích khi anh ra đón trước sân:

- Xe nhà của anh Quyền, Phó tỉnh trưởng. Quyền bảo tài xế đưa em đi tìm địa chỉ của anh.

Trong ngót một giờ đầu tiên gặp gỡ, em chỉ toàn nói đến anh Quyền, về sự sang trọng của anh Quyền.

- Anh Quyền là bạn cùng khóa với nhà em. Hồi còn làm chung ở Hiến binh Gia Định, chúng em và gia đình anh Quyền ở sát cạnh nhau.

Tất cả những chi tiết về quá khứ, về cái chết của Lãm (chồng em), em lật đật kể cho anh nghe chỉ vì cần chứng minh rằng Quyền không hơn gì chồng em hết. Thế mà bây giờ Quyền sung sướng dường đó.

- Nếu nhà em đừng bị tai nạn ô tô thì bây giờ nhà em cũng làm lớn như Quyền, lớn hơn cả Quyền nữa vì nhà em có bằng cấp cao hơn.

Anh thấy tội nghiệp cho em hết sức. Nhắc đến chồng không phải vì thương xót u hoài mà chỉ vì một nỗi ấm ức không nuốt trôi được. Ấm ức mà vẫn phải ghé lại nơi gợi ra ấm ức, hỏi còn có hình phạt nào nặng hơn không?

- Nhà em vừa nhận được nghị định thăng cấp bậc đại úy thì bị tai nạn. Thật vô lý. Trời mưa... đường trơn... thắng không ăn... Chỉ có vậy. Trong giờ hấp hối, nhà em vẫn tức là sao mình không chết ngay hồi còn ở mặt trận, lại để chết chi bởi một tai nạn lưu thông tầm thường. Anh có thấy thế không?

Thành thật mà nói thì anh không thấy thế nhưng anh không nỡ trả lời vậy. Anh chỉ vừa gật đầu vừa đẩy tách trà lại gần em.

Em lại mê mải nói về vợ chồng Quyền.

- Chị Quyền bây giờ béo trắng ra. Ở đây khí hậu tốt, ăn uống sung túc lại có nhiều kẻ hầu người hạ. Chị vừa mua cái vi la ở đường Duy Tân giá tiền một triệu hai trăm ngàn.

- Chóng giàu nhỉ?

- Gặp được thời thì mau giàu lắm. Bốn đứa con của chị đều học ở trường Pháp hết.

Dù không muốn, anh cũng mệt theo câu chuyện của em. Đầu anh xoay vòng theo ba chị đầy tớ gái lúi húi lau nhà suốt cả buổi sáng. Tai anh rộn lên vì những hiệu lệnh chị Quyền ban phát cho đủ cấp gia nhân của chị.

- Bác tài đi đón em Hùng em Tuấn ở Lycée (Trường Trung học Pháp ). em Trang ở trường Soeur (Trường của các nữ tu Thiên Chúa ), ghé lại Air Việt Nam ( Hàng Không Việt Nam )để nhận hoa tươi rồi lại rước bà Bác sĩ Thọ để cùng đi dự hội nghị ban chấp hành hội Từ thiện... Chị * nhớ bôi thuốc đỏ cho em... chị bếp nhớ chiều mua thêm bơ... thằng nhỏ nhớ đi gọi bác thợ đến sửa lại cái cửa tủ lạnh...

Chị Quyền quả thật đang bơi trong sự sung túc như em nói nhưng còn em, anh muốn em được bơi trong một sự thoải mái tâm hồn. Em quên không nói chuyện về cháu Cường nếu anh không nhắc. Anh hỏi Cường đã được mấy tuổi rồi và em chợt nhớ ra là em đến đây không phải một mình. Nhưng em lại kể lể:

- Cường lên bốn rồi đó anh. Nếu còn ba cháu thì em đã cho cháu vào vườn trẻ của mấy bà Charité. Con không cha thì phải chịu thua kém người ta...

Cường không giống em một nét nhỏ nào, đó là điều thiệt thòi cho cháu. Có một người mẹ đẹp mà Cường không thừa hưởng được gì. Mấy lần em đi phố một mình gửi Cường ở nhà với anh, anh thẩn thơ dắt Cường đi trong vườn và êm đềm gợi chuyện. Có bận anh hỏi:

- Cường năm nay mấy tuổi?

- Cường bốn tuổi

- Tuổi con gì, Cường có biết không?

- Tuổi tý, con chuột

- Cường có thương má không?

- Có

- Thương ba không?

- Có

- Cường còn thương ai nữa?

- Cường thương cậu Hòa, cậu Thịnh, cậu Cang, cậu Tân...

Đứa trẻ mồ côi cha bao giờ cũng có nhiều cậu. Đó là những người có cảm tình với má nó và má nó có cảm tình. Cường cũng gọi anh bằng cậu. Chính em viết thư khoe với anh:

"Cường cứ đòi mẹ dẫn về Sài Gòn thăm cậu Thái. Lâu lâu Cường hỏi: cậu Thái có viết thư cho mẹ không?"

Anh nghĩ mông lung đến sự dối trá của những danh từ. Đến một ngày nào Cường bắt đầu hiểu biết thì cháu sẽ nghĩ sao về những chữ "cậu" mà cháu đã ban phát cho nhiều khuôn mặt. Cháu sẽ mất người mẹ của cháu cho một trong số các "cậu" đó. Cháu sẽ thù người "cậu" thắng trận và những người cậu bại trận cũng bị thù lây. Như trong việc tổng kết phân loại về kế hoạch, các vật có chung đặc tính được xếp chung vào một bộ, nhiều bộ có chung đặc tính được xếp chung vào một lớp, nhiều lớp vào một ngành.. vân vân.. họ "cậu" biến thành thù nghịch vì có chung đặc tính với người cậu thành công.

Nghĩ đến đây, anh bỗng thấy thương hại cho Cường vừa không an tâm cho mình. Đứa bé ngây thơ dịu dàng trước mặt anh đó, đứa bé vâng lời kề mũi lại gần để hôn lên má anh, đứa bé ấy một ngày kia sẽ thành chàng trai vạm vỡ tóc bỏ lòa xòa trước trán, đi giày đơ-mi-bốt và lăn xả vào đấm đá với kẻ khác để dành người yêu. Người mẹ xa cách nó, chỉ còn "mẹ" có một nửa vì một nửa tâm hồn đã dành cho "cậu".

Cường đang chạy đuổi theo một con dế. Con dế nhảy từng nhảy tới tấp, chui trốn xuống hang. Cường vạch lá, bới cỏ sục sạo tìm cho được. Khi anh đi lại can thiệp thì một càng dế đã nằm giữa hai ngón tay của cháu. Sự việc xảy ra buổi chiều làm tối đó anh không được vui. Anh đưa em đi xi-nê mà tâm hồn để đâu đâu, thậm chí quên cả việc mua theo gói kẹo mặc dù cô hàng kẹo ngồi ngay ở cửa rạp. Chúng ta đã chọn một phim ca vũ nhạc với tình tiết và lối bố cục nhảm nhí rẻ tiền. Cái gì cũng được giải quyết êm thấm, toàn hảo; những dịp may rủ nhau đến theo kiểu "trúng số độc đắc cá cặp". Cuộc đời thật nhất định không thể giống cái xã hội tô màu hồng lòe loẹt này. Anh mới thử bước một chân tới gần em mà khó khăn đã vội vàng do dự tưởng dựng lên. Dự tưởng và thực tế chắc còn cách nhau xa. Dự tưởng chắc chỉ trù liệu được một phần tư, một phần năm thực tế.

Sau khi mãn tuồng, anh đưa em đi ăn khuya ở Lạc Cảnh. Em vừa khuấy thìa vào bát cháo vừa nhắc đến những ngày kháng chiến chúng ta ăn cơm pô-pốt ( ăn cơm tập thể )ở Phú Hòa, cơm gạo đỏ và canh "toàn quốc" (nghĩa là canh chỉ toàn những nước, quơ đũa mãi mà không tìm ra được miếng thịt). Em hỏi:

- Sao lúc ấy anh thờ ơ với em thế?

Anh trả lời là tại lúc bấy giờ em đẹp và có nhiều người con trai chu tuần xung quanh em. Anh không muốn rằng trong tình yêu cũng phải lao mình vào vòng chiến đấu như trên chiến trận. Đánh giặc lớn đã mệt rồi, còn tạo thêm chi một trận giặc nhỏ cho mình.

Em cười hỏi:

- Thế sao bây giờ anh không thờ ơ với em nữa?

Anh nhìn em giây lâu không nói. Câu trả lời không thể biểu diễn bằng tiếng nói vì tiếng nói bất lực và dùng mãi hóa nhàm. Nếu không có người ngồi xung quanh thì anh đã hôn lên đôi môi em để thay câu trả lời, để cho xứng đáng với câu em hỏi, với tấm lòng tràn trề tin tưởng của em gửi trong câu hỏi. Tình yêu quả có năng lực biến đổi con người cho trở nên ngây thơ đến độ vụng khờ. Em đoán trước anh sẽ trả lời như thế nào, thế mà em vẫn cứ hỏi. Anh bâng khuâng lo lắng trước niềm tin tưởng đó của em.

Cường nó sẽ lớn. Sẽ có hai người đàn ông giành nhau xâu xé em. Em không thể bênh một người nào và lẽ phải không giống như một cái bánh có thể dùng con dao cắt chia đôi, giao cho mỗi người một nửa. Em cần tình yêu của cả hai người và em muốn giữ trọn họ trong hai vòng cánh tay của em. Nhưng em đâu có biết rằng người đàn ông cũng ích kỷ.

Về đến nhà, anh chúc em ngủ ngon rồi vào phòng mình đốt thuốc ngồi trước bàn. Anh nghĩ đến sự phi lý của đời em. Lấy chồng bốn tháng, chồng chết, với cái bào thai trong bụng. Thật vội vàng, một sự vội vàng không cần thiết và không sửa chữa lại được. Hồi còn con gái, em hay vui đùa và hay làm nũng. Bạn bè chế em.

- Đứa nào lấy mày sau này sẽ tha hồ mà khổ vì mày. Tha hồ cho mày làm nũng, bắt chồng mang nước cho mày rửa chân và cõng mày đi tiểu.

Thực tế không ngờ lại trái ngược quá xa như vậy. Cháu Cường sẽ thành đàn ông. Nó sẽ, vì danh dự mà giành em với một người đàn ông khác. Không hẳn vì tình thương mà chỉ vì danh dự.

Anh châm đến điếu thuốc thứ năm thì nghe cửa phòng xịch mở. Em hỏi:

- Sao anh chưa đi nghỉ? Khuya lắm rồi.

Anh chưa tìm ra câu trả lời. Em đi lại gần bàn. Bộ pyjama bằng tơ Thượng Hải nền đen có vẽ những đường vòng chi chít màu tím màu vàng khiến người em sặc sỡ như một loài bướm. Mùi nước hoa ngọt ngào toát ra từ quần áo. Đôi mắt đen long lanh dưới ánh đèn. Anh cầm lấy bàn tay em, trắng muốt và êm mát. Anh ôm em vào lòng. Mùi nước hoa ở mái tóc, ở cổ, ở đôi má. Đêm mùa hạ mềm và óng ả chảy vào cửa sổ bằng những gợn gió mỏi mệt. Anh hôn lên cổ em, vai em và siết chặt vòng tay. Em thở nhọc nhằn và giọng nói đứt quãng: "đừng anh... đừng...". Giọng nói mơ hồ như vừa có vừa không. Đầu anh choáng váng và đêm nghiêng nghiêng. Chúng ta quay cuồng, dần dần bay bổng lên từng cao và thoát ra ngoài hấp lực của thực thể xung quanh. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ hối hả chạy đuổi theo. Bên tai anh, tiếng em thở, tiếng đập rộn ràng của tim em. Da thịt em mềm, vội vàng nhường chỗ cho ngón tay anh chạm đến. Quên hết. Đảo lộn. Quay cuồng. Trong sự điên dại lãng quên đó, chợt tiếng gọi "Me" của Cường ở phòng bên vang lên. "Mẹ ơi! Mẹ ơi!" và tiếp theo là tiếng khóc. Em gỡ tay anh chạy về với con. Anh ngồi bàng hoàng, cầm lấy cái gương soi để nhìn lại mặt mình. Thật chưa bao giờ anh thấy một khuôn mặt tầm thường dễ ghét như vậy.

Hôm nay em lên phi cơ để trở về thành phố nhỏ của em. Chúng ta lẫn lộn ở giữa những người đưa đón và nhiều lúc anh quên mất lý do sự có mặt của anh ở nơi phi cảng này. Chúng ta phê bình những người đi lại xung quanh như những tên mất dạy. Một ông bụng bự bước vội vàng bên cạnh một cô vợ trẻ mảnh mai nhanh nhẹn. Cô vợ có dáng thẹn khi phòng đợi có nhiều gương mặt trẻ dáng chừng là sinh viên. Cô đi từng bước thật nhanh và dài để tăng khoảng cách giữa chồng và mình. Anh bảo em:

- Cô vợ trẻ ấy đang hạ quyết tâm: sẽ về xin ly dị ngay với ông chồng lắm mỡ. Nhưng...

-...?

- ... Nhưng về đến nhà thì quyết tâm bị hạ. Cái tủ lạnh, cái máy điều hòa không khí, cái ô tô, cái biệt thự...

Em gật đầu và kéo tay anh chỉ về một người thanh niên ngồi lẻ loi ở một góc phòng.

- Anh đó.

Anh chưa kịp hiểu ý em, và em mỉm cười giải thích:

- Anh không soi thấy bóng anh khi nhìn vào người thanh niên ấy sao? Con người cô độc nhìn kẻ khác sung sướng xung quanh mình.

Em lại bắt anh lục soát thân phận và hoàn cảnh mình. Không có thú vị gì hết. Từ nãy giờ anh thấy thoải mái bởi được quên mình, khỏi phải nặn ra một khuôn mặt buồn và làm nháp một số lời lẽ xót xa cho hợp với hoàn cảnh. May thay, phi cơ hôm nay không bị trễ. Anh nói:

- Thôi, em đi đường khỏe mạnh.

Anh bế Cường lên:

- Cường về ngoan với me nhé?

Cường hôn lên má anh theo lời em bảo. Nhưng giữa hai người đàn ông... Có hai người đàn ông mà chỉ một mình em. Em sẽ mất một. Ai?

Em bước lên phi cơ, mảnh dẻ như một lá cỏ. Tà áo màu vàng phất phơ. Hình ảnh của một thân bướm sặc sỡ thuộc về đêm qua. Cánh cửa phi cơ đóng sập lại. Phi cơ chầm chậm quay đầu trên piste. Chong chóng quay tít mù. Và anh xa cách em.

Vâng, cuộc đời thật nghiệt ngã và tâm hồn con người phức tạp. Chúng ta vẫn viết thư cho nhau nhưng quả tình là anh không còn giữ được niềm háo hức của buổi đầu. Phong thư mỗi ngày một nhẹ đi và trên những trang giấy chừa lề trắng mênh mông, chúng ta cứ mỗi ngày mỗi thêm lưu ý đến cảnh vật, thời tiết, nếp sinh hoạt, cả ngay đến tình hình chính trị trong nước. Em lại tha con đi từ tỉnh lỵ này sang tỉnh lỵ khác, đổi từ ngành này sang ngành kia. Anh thì cầm chân một chỗ như con đò đã gác cao mái chèo, buộc dây vào cọc.

Một hôm anh gặp thằng Hưng, một thằng bạn, ở ngay giữa quán giải khát.

- Ê! Mày vẫn còn ở Pleiku chớ?

- Vẫn ở đó như thường. Đâu có dễ mà moa rời xa nó.

- Cuộc sống vẫn thú vị?

- Rất. Moa vẫn sống hết mình, cho dù Chánh phủ bắt moa đi Côn Sơn hay về hẳn Thủ đô.

Anh nhìn thằng Hưng: mái tóc đen, rậm, cắt cao. Đôi mắt tinh nhanh có nhiều lửa. Đôi vai dày và cánh tay vạm vỡ. Miệng nói ngọt và nói không ngớt.

- Ở Pleiku moa chả buồn tí nào cả. Về đây là chỉ để thay đổi không khí chơi thôi, chớ không phải là vì moa đói.

- Đã sắp báo hỉ chưa?

- Dại gì. Moa còn phải phá làng phá xóm một thời gian dài nữa.

- Nhiều của ngon chớ?

- Không chê được.

- Mày kể tao nghe thử đi.

Hưng bắt đầu bằng hai cô bạn đồng sở. Đến một phụ nữ bán quân sự. Một dược tá. Sau đó, hắn chỉ tả sắc đẹp, nói về tuổi tác, trường hợp gặp gỡ, trình độ giao hảo mà không nói xuất xứ. Bởi vì nhiều quá, hắn lẫn lộn như người ta vẫn thường xếp lộn hồ sơ. Chợt hắn vỗ vai anh:

- À này, moa vừa "thông cảm" với một trường hợp này. Ngon lắm. Góa chồng. Còn trẻ. Đẹp. Có một đứa con nhỏ.

- Mày thông cảm đến độ nào? Dẫn đi píc níc với nhau chưa.

- Đi píc níc thì có nghĩa lý gì. Không quen nhau vẫn có thể cùng đi píc níc được. Đằng này thì còn hơn thế nhiều. À, moa có cái ảnh của "en" tặng đây.

Hưng móc ví ở túi quần và anh chợt hồi hộp lo sợ. Có phải người đàn bà đó là em không? Pleiku chính là cái thành phố nhỏ của em hiện tại. Sao anh cứ tin rằng người đàn bà đó là em. Góa chồng. Trẻ. Đẹp. Có một con nhỏ.

- Người Trung hay người Bắc? - Anh hỏi.

Mắt Hưng đang nheo lại vì hắn đang lục vào những ngăn ví chật. Đủ thứ giấy tờ làm bụng ví căng phồng lên. Thẻ căn cước bọc nhựa. Thẻ cử tri bầu Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp. Giấy chứng nhận đã tiêm ngừa dịch hạch. Một tờ biên lai gửi thư bảo đảm. Những tờ giấy bạc nhầu bẩn. Mấy tấm danh thiếp...

Hắn quay mặt lại nghếch mắt hỏi:

- Toa vừa bảo gì?

- Tao hỏi cô ấy người Bắc hay người Trung.

- À. Nghe giọng nói miền Nam.

Hắn nhét lại tất cả giấy tờ vào ví.

- Moa bỏ quên ở đâu. Chắc để trong cái ví kia. Đẹp lắm.

Hú vía. Ít nhất anh cũng còn có được một thời gian để mà nửa tin nửa nghi. Ít nhất anh cũng còn được một chút hi vọng rằng em chưa rơi vào tay một thằng đàn ông tàn bạo có kinh nghiệm như thằng Hưng. Hắn có đôi cánh tay không biết mỏi của một con bạch tuộc và đôi môi háo hức như hấp khẩu của một con sao biển. Sau khi từ giã Hưng, anh chợt thấy mình đã tối trí hết sức. Sao không dò hỏi hắn thêm vài chi tiết nữa. Chẳng hạn "en" mập hay ốm? Chừng mấy tuổi? Chồng trước làm gì? Chồng chết vào trường hợp nào? đứa con trai hay con gái? tên là gì? v.v... Nhưng dẫu cố hết sức níu vào những thoáng hy vọng, anh cũng lờ mờ cảm thấy rằng mình không thể an tâm được. Pleiku không phải là thủ đô có nhiều đàn bà góa, trẻ, đẹp, một con... thay em. Và những thằng Hưng thì phát triển nhiều trong một xã hội mỗi ngày mỗi thèm nhiều chinh phụ và góa phụ.

Em,

Thư này anh viết, có thể cuối anh sẽ không gửi cho em. Xuất phát từ những cảm xúc do một kỷ niệm ngồi nhìn ráng đỏ với em, anh nhân dịp soát lại tâm tư và thấy vẫn còn rất đỗi rụt rè trong sự dự phóng về tương lai. Anh với em không thể mãi mãi là hai con đường chạy song song mà phải như hai tia sáng hoặc là hội tụ hoặc là phân kỳ. Lấy tất cả chân tình mà nói thì anh vẫn yêu em như ngày xưa, sung sướng và khổ sở trong tình yêu đó. Gặp gỡ sum họp hay xa cách nhau dứt khoát, điều đó hiện thoát ra ngoài tầm tay quyết định của anh. Anh đang lần mò tìm đường và anh hi vọng rằng rồi sẽ được gặp em, chính em, trọn vẹn là em trên con đường mà anh đang dọ dẫm bước tới.

Anh.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

4 . Trả Thù


Phong liếc mắt vội qua trang nhất của tờ báo. Những chữ lớn in đậm nói về thời cuộc. Hôm nay tình hình thế giới cũng chỉ lục đục bình thường như hôm qua hôm kia. Ba ông hoàng thân nước Lào đánh một ván cờ quá kéo dài khiến những kẻ tò mò đã chán, bỏ cuộc dần dần. Đến nay thì những địa danh Nam Tha, Vạn Tượng, Sanh van na khet, Mương Phin.... Lẫn lộn tất cả, người bàng quan không còn nhớ rõ địa điểm nào thuộc về phe nào nữa. Những cảnh giết chóc đốt phá, những tiếng khóc đau thương trong khói lửa chỉ còn hiện ra mờ nhạt dưới hình dáng lãnh đạm của những chữ in quá quen thuộc. Ở những địa điểm khác nơi mà tình hình chưa ngã ngũ rõ ràng thì nhà báo có một số dụng ngữ lập lại: Tổng trưởng X tỏ ý tin tưởng rằng... Theo giới thạo tin thì... Người ta ước đoán.. Có lẽ.. Nhìn về phía tình hình trong nước thì chỉ một đôi vụ lường gạt nhỏ, một vài cái chết quá mức tầm thường (chẳng hạn bị tình phụ mà chỉ nhảy xuống sông tự tử rồi chết luôn). Những sự việc nhỏ xảy ra trong xã hội như được xếp đặt theo từng mùa. Một vụ tạt át xít lớn bao giờ cũng được nối tiếp nhau bằng một số những vụ tạt át xít nhỏ. Rồi như nhàm với trò chơi này, một loạt những thanh niên mê tốc độ rủ nhau lần lượt gây tai nạn trên xa lộ mới, cung cấp cho báo chí một số những tĩnh tự ghép: khủng khiếp, rùng rợn, chưa từng thấy, quá sức tưởng tượng... Rồi sau đó mọi người nghỉ ngơi và báo chí cũng dường như nghỉ ngơi theo.

Vừa đưa mắt tìm những cái đề, Phong vừa kết luận một cách thất vọng: "Chẳng có gì quan trọng".

Thật vô lý hết sức nhưng cũng như mọi độc giả khác cả bình dân lẫn trí thức, chàng thấy rằng tờ báo không xứng với giá tiền mua nó khi nó không nói đến những tin tức kinh khủng. Chẳng hạn: Cuộc đảo chính xảy ra ở nước A, xác nhà vua bị phơi giữa chợ... Động đất ở thành phố B nhà sập vùi nửa triệu người... Trong bữa tiệc linh đình của nhà triệu phú C, tất cả quan khách điều bị ngộ độc chết cả... Hoa hậu thế giới D bị tên tướng cướp... vân vân. Không biết có phải bản chất con người thường thấy mình sung sướng hơn lên khi những người xung quanh họ gặp tai ương thất bại không? Có lẽ như thế thật chăng?

Phong vừa lặng lẽ lý luận vừa lật sang trang sau. Đó là trang quảng cáo những cuộc vui, những tuồng hát, tuồng chiếu bóng. Chàng tò mò đọc qua một lượt tên các rạp, tên các tuồng, và tên những tài tử chính. Sự tò mò của chàng giống y như sự tò mò của kẻ đi xem đám cưới, xem người ta ăn tiệc, xem người ta nhảy đầm. Lý do là chàng không ở Sài Gòn mà ở tỉnh nhỏ.

Chàng lật sang trang ruột. Những truyện ngắn, truyện dài, truyện ly kỳ, truyện tò mò, sân khấu kịch trường, vườn thơ, mách luật... không phải là món ăn của kẻ vội vàng. Chàng nhìn xuống mục "Tử Vi". Bỏ đi những hình con chuột, con trâu, con cọp, con mèo... in lòe nhòe, mắt chàng đậu lại ở ô con chó. Nhà khoa học huyền bí dạy rằng:

"Có tin hay ở xa đến. Tuổi 31 gặp bạn tâm tình. Buổi chiều có hoạnh tài"

Cái điệp khúc "Có tin hay ở xa... Gặp bạn tâm tình... Có hoạnh tài..." chàng đã nghe nhiều lần, hôm nay tự nhiên làm chàng nhíu mày khó chịu. Thường mấy ngày trước những lời tiên tri đều đến làm cho chàng vui, cái vui giễu cợt. Đạo nhân bảo đừng nên ra vốn, bất lợi. Thì chàng có vốn bao giờ đâu mà ra? Đạo nhân bảo "Gặp hoạnh tài". Hoạnh tài đâu mà gặp? Đã mấy tháng nay chàng không mua vé xổ số nữa. Trước đây, kỳ nào cũng mua ít nhất hai vé. Không phải vì mong ở hoạnh tài nhưng mà vì cô bán vé số có đôi mắt đẹp. Cái thú của người độc thân là mua bán không tính toán. Ngày còn ở Huế, chỉ vì cô bán hàng tạp hóa đẹp mà hộc bàn nhà chàng đầy những viên xà bông thơm. Đứng nói chuyện vẩn vơ gì một lát rồi khi bước ra phải mua một vật gì cầm tay. Chỉ có xà bông thơm là tiện mua nhất. Ngày đổi về Phan Rang thì vì cô thu ngân ở hiệu thuốc tây mà nhà chàng đầy những hộp Kalmine, vì cô hàng sách Thanh Đạm mà phong bì thư gửi hoài không hết. Thật cũng dễ tìm biết tâm hồn của một anh chàng độc thân. Cứ nhìn trong phòng thấy món gì dư một cách khả nghi thì cứ truy nguyên ra là tìm được manh mối. Nhưng từ khi cô hàng bán vé số lấy chồng thì chàng thôi không còn mua vé số nữa. Chàng không có số được hoạnh tài. Mua bao nhiêu vé mà chưa lần nào trúng được một trăm bạc. Thậm chí có vé chàng thử đem dò đến 10 lần xổ mà tuyệt nhiên không lần nào trúng nổi 2 con số sau cùng. Vậy thì chỉ còn có mục "Tâm tình" là hơi có thú vị. Ba mươi mốt tuổi rồi mà chưa có vợ thì lẽ tất nhiên là mục tâm tình phải rất có thú vị. Nhưng đã rất nhiều ần rồi những tâm tình đạo nhân bảo gặp mà vẫn không gặp, tin hay bảo đến mà nào thấy đến.

Phong vất tờ báo xuống giường, hơi bực bội như mình vừa bị ai đùa dai.

Suốt cả buổi ngồi làm việc, chàng tưởng đã quên đi những điều nghĩ ban sáng. Nhưng không. Cứ mỗi lần ngơi công việc một chút, mỗi lần ngồi lắng lại lòng mình một chút là chàng cảm thấy có cái gì khang khác, có cái gì vương vấn trong tâm hồn. Suy nghĩ một tí, chàng nhớ ra ngay mấy điều tiên tri ở mục Tử vi. Và chàng lại nhẩn nha nghĩ đến nó. "Tuổi 31 gặp bạn tâm tình..." chàng thấy lòng gợn một niềm vui nhẹ. Bạn tâm tình? Đó là cô Khánh ở nhà đối diện vẫn mỉm cười kín đáo mỗi lần chàng bất chợt nhìn sang gặp cô đang cầm thau nước tưới hoa? Đó là cô Duyên mà chàng nhất định phải gặp đi xe đạp ngược chiều với chàng vào lúc 7 giờ 15 ở ngang ngã tư Lê Thánh Tôn - Phước Hải? Không, chắc không phải đâu. Đó là những người đã quen quá, quen đến cái độ mình không nghĩ rằng có mặt. Không, có lẽ phải là... là... là... là ai? Tìm mãi không thấy ai có thể là bạn tâm tình, Phong chợt buồn cho cuộc đời cô đơn của mình. Gặp phải trở ngại, óc chàng dừng lại một chút rồi nhẹ lướt qua mục "buổi chiều gặp hoạnh tài" như sẵn theo một cái trớn nhỏ. Nhưng hoạnh tài ở đâu mà gặp? Mình không mua vé số nữa. Mình không hi vọng gặp được của rơi vì mình không bao giờ đi bộ. Thấy mình sắp trở lại những ý nghĩ, những lý luận hồi sáng, chàng dẹp bỏ không nghĩ đến nữa, cúi nhìn xuống bàn. Đặt lên trang giấy trắng, tay chàng vẫn còn cầm bút và đầu ngòi bút cách xa nét chữ vừa viết đúng khoảng cách của một chữ. Chàng viết tiếp dòng chữ viết dở dang.

Chín giờ rưỡi tối, trái với thường lệ Phong lên xe đi phố. Đã hơn ba ngày nay, chàng không đi phố nên có nhiều món cần dùng mà không tiện đi mua chàng đã phải tạm nhịn: cà phê, xà phòng cạo râu, đôi bít tất mới, tờ Paris Mach tuần này.

Tiếng máy xe nổ nhè nhẹ, dòn dòn. Ánh đèn xe lóa xuống đường. Đi cùng chiều và ngược chiều với chàng, những chiếc xe đạp cũng rè rè tiếng nút bình điện xe quay. Tiếng rè rè vui vẻ, ánh sáng lóe ra và chạy vút tới, xuyên sâu vào bóng đêm khiến chàng nghĩ đến một đám côn trùng lượn đùa nhau trên một mặt ao đêm mùa hạ. Ban ngày xe cộ để lộ tính chất lạnh lùng của sắt thép, của máy móc, của khoa học cạnh tranh và tàn bạo. Ban đêm, nhất là ở những quãng đường vắng như đường Yersin này mà ánh điện đường bị bóng cây che khuất, những chiếc xe lướt qua không thấy hình dáng mà chỉ thấy ánh đèn vui vẻ và dịu dàng.

Chàng bỏ con đường vắng, rẽ sang đường Độc Lập. Ánh đèn nê-ông sáng trắng làm nổi những tà áo tươi và tăng vẻ tàn tạ cho những màu áo bẩn, sắc da và khuôn mặt cũ kỹ. Chàng nhìn sang hai bên đường. Những hiệu sách, hiệu máy hát, đồng hồ sáng hơn và tươi hơn cả bên cạnh những hiệu bán đồ sắt, bán gạo sầm uất, những hiệu chạp phô tù mù. Từng chặng có những hiệu cửa sắt kéo kín, khung cửa sẫm lại. Chàng dừng xe ở một hiệu sách. Không phải là vì hiệu sách quen mà chỉ vì tiện đường lề xe đậu. Những bản nhạc trình bày đủ màu treo giăng khắp chiếc phòng hẹp. Sách xếp ở ba dãy tủ kính kê sát mặt tường. Những tạp chí khổ lớn nằm trên dãy bàn giữa nhà. Chàng nhìn một lượt mấy tủ sách, đọc lướt qua tên các sách giáo khoa để cảm thấy thấm thía nỗi sung sướng của người lớn đã thoát khỏi cái nợ phải bận bịu trên trang sách học. Chàng bước lại dãy bàn. Những tạp chí ngoại quốc ấn loát mỹ thuật xếp cạnh những quyển tiểu thuyết bìa mang nhiều hình vẽ quái đản. Sau một hồi xem xét, chàng nhón lấy hai tạp chí thường kỳ chàng vẫn đọc, bước lại quầy hàng. Một người đàn ông ngồi thu ngân.

Phong ngạc nhiên, hơi khó chịu một chút khi nhìn đôi vai vạm vỡ, một cái sơ mi để hở cổ và một khuôn mặt dèn dẹt. Thường ngồi nơi đây là một người đàn bà trẻ tóc uốn cao vẻ mặt hao hao như một cô đào chiếu bóng nào đó mà chàng không nhớ tên. Mỗi lần lại trả tiền chàng thấy vui vui. Quả tình một cô thu ngân đẹp an ủi được đôi phần nỗi xót xa của người sắp mất tiền. Nhất là những khi vào hiệu thuốc Tây giá tiền thuốc có lúc cao gấp ba, gấp bốn giá tiền dự đoán. Vừa lo lắng cho sức khỏe vừa đau xót cho túi tiền không biết sẽ còn hao bao nhiêu nữa, vậy mà gặp một cô thu ngân xấu xí hay thô lỗ thì thật dễ bực mình. Người đàn ông này chắc là chủ hiệu, là chồng của người đàn bà đẹp vắng mặt. Anh ta chậm chạp cầm lấy hai tạp chí của chàng đưa, lật sau lưng nhìn giá tiền, rút tờ giấy bọc màu xanh lặng lẽ bọc lại, lấy một vòng cao su vòng quanh. Tiếp theo đó anh lấy bút chì "nguyên tử" làm con tính cộng. Sự chậm chạp làm tia mắt Phong nhìn anh ta nghiêm khắc lại. Tuy không nhìn xuống bài tín của anh ta làm nhưng chàng không quên làm con tính cộng trong óc: 38 đồng. Chàng đưa tờ giấy trăm. Anh hàng sách cầm lấy, bỏ cẩn thận vào một hộp đựng toàn giấy trăm rồi anh lấy tiền trả lại. Anh lấy một tờ giấy 50 đồng ở hộp đựng toàn giấy 50, lấy 2 đồng lẻ ở hộp tiền lẻ. Sang hộp giấy 10 đồng, Phong thấy anh lục lọi mãi một hồi. Không biết ý anh định tìm gì trong khi hộp đầy ắp những tờ giấy 10 đồng màu nhạt. Lục lọi một lát, anh chàng lấy ra hai tờ giấy 10 đồng đen đỉu nhầu nát chập với tờ 50 và hai tờ một, đưa cho Phong. Chàng giơ tay cầm lấy, đứng tần ngần. Chàng vò tiền nắm trong tay không đếm nhưng biết chắc là 72 đồng. Sao lại đến 72 đồng? 62 đồng mới phải chớ? Trong óc chàng vụt chạy nhanh như một luồng điện, ý nghĩ "Hoạnh tài". Chàng đưa mắt nhìn sang anh hàng sách. Khuôn mặt vuông và cái hàm hơi bạnh ra. Miệng rộng, môi dưới mỏng, dài hơn môi trên nên uốn cong lại. Cái môi này chàng đã gặp ở đâu một lần rồi, cái môi này đã làm chàng khó chịu ở một nơi nào rồi. Chàng cầm tiền đứng dịch lại dãy bàn bày báo hàng ngày vờ nhìn xuống đọc nhưng trí óc đuổi bắt hình bóng của cái môi cong. Cái môi... Khuôn mặt mai mái... Cái hàm bạnh... Cái môi... Chàng đẩy lui khuôn mặt ấy lần về dĩ vãng. Hôm qua? Tuần trước? Tháng trước? Chàng soát lại ký ức, tìm xem cái môi ấy của ai, chàng gặp nơi nào. Tháng trước? Tháng trước?

Chàng vụt nhớ ra rồi. Một khuôn mặt hiện ra, rõ ràng. Đúng là môi cong đó. Cũng cái hàm bạnh. Hai con mắt giảo hoạt. Một mái tóc mềm nằm an phận, vâng lời. Khuôn mặt này làm chàng khó chịu. Chàng đẩy lui ký ức vào xa hơn trong dĩ vãng để thay khuôn mặt kia bằng một khuôn mặt khác. Một mái tóc uốn cong. Đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Tà áo phất phơ và gót chân uyển chuyển. Mùi nước hoa Tabou. Tâm hồn chàng dừng lại mơn trớn cái hình ảnh đẹp kia, đồng thời cái khung cảnh gặp gỡ cũng như trải rộng ra trước mắt chàng. Đó là khung cảnh của thành phố Quảng Ngãi.

Chừng một tháng trước đây chàng nhận được giấy đi chấm thi ở Quảng Ngãi. Địa điểm này làm chàng thất vọng. Sao không đi Huế hay Đà Lạt mà lại về cái tỉnh nhỏ này? Đi bằng xe lửa thì đoạn đường có nhiều trở ngại mà đi bằng máy bay thì Quảng Ngãi không có phi trường. Hội đồng giám thị ở Trung tâm Quảng Ngãi do đó mà nhận được không biết bao nhiêu những đơn xin vắng mặt kèm theo giấy chứng của Bác sĩ. Thành phố Quảng Ngãi bé quá chỉ có hai con đường buôn bán. Cứ cách chừng năm mươi thước là có một nhà sản xuất kẹo gương mạch nha, đường phổi. Đó là ba món hàng thổ sản. Đặc điểm những thành phố nhỏ là có những sản phẩm đặc biệt của địa phương. Đô thị lớn thường không có bản sắc đặc biệt về mặt sản xuất, ở đây cũng là nhà máy sợi, nhà máy cửa, nhà máy sản xuất dụng cụ. Quảng Ngãi chỉ có một rạp hát nhỏ mà cũng không đủ người xem. Người đi phố mua sắm, mặc cả, chọn lựa một cách cần mẫn chí thú. Thiếu hẳn những người thừa lương đi tản bộ.

Sáng hôm thi Phong nhìn lên hai tấm bảng đen ghi tên các vị giám thị. Có từng mươi tên cô giáo mang nhiều tên hoa, tên chim mỹ miều. Khi người thư ký Hội đồng cầm phấn lại bảng ghi tên phòng trước mặt mỗi tên giám thị, chàng đọc được sự hồi hộp lý thú ở những người ngồi cạnh mình. Sự tò mò của các cô giáo biểu lộ dễ thấy hơn vì họ đứng cạnh nhau nên vừa chỉ chỏ vừa thảo luận nho nhỏ. Các giám thị đàn ông tỏ vẻ lãnh đạm hơn, nhưng đó là một vẻ lãnh đạm cố tạo ra. Vì có một trò rủi may đang diễn ra trên bảng đen kia. Mình sẽ giám thị với ai sáng nay? Chiều nay? Mình sẽ giám thị phòng nào sáng nay? Chiều nay? Từ phòng 1 đến phòng 7 là phòng nữ sinh. Giám thị giờ thi Toán, thi Lý hóa mà được nhằm vào phòng nữ sinh thì đỡ nhọc vì nữ sinh không bạo dạn như nam sinh. Giám thị với một cô giáo bao giờ cũng vẫn thú hơn. Chàng không có ẩn ý gì hết. Người đàn bà đẹp như một bông hoa, ở gần họ như được ngồi trước một bông hoa đẹp, thế thôi. Nhưng sáng hôm đó, cùng nhận phòng 15 với mình là một cái tên đàn ông. Phong lại ôm xấp giấy thi đi thẳng đến phòng mình. Chàng không lưu tâm xem người đàn ông cùng đến với mình là ai. Người đàn ông nào cũng giống nhau. Để bù lại buổi sáng, buổi chiều chàng giám thị với một cô. Cái tên đẹp và vẻ người thua cái tên một chút. Cô làm đầy đủ, nghiêm trang những công việc mà chàng giao cho: phát giấy thi, phát giấy nháp, so phiếu thí sinh và thẻ căn cước để nhận diện. Cô rầy những thí sinh nói chuyện, thu gọn những tờ giấy nháp thí sinh cố ý bày bừa bãi để người bên cạnh liếc xem, kéo về vị trí cũ những thí sinh ngồi sát vào nhau để hỏi bài. Đúng là một cô giáo quen nghề và đã có chồng con. Sáng hôm chàng lại giám thị với một cô. Lần này là một cô giáo quá trẻ, đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Chừng như nàng mới ra trường một hay hai năm. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Mái tóc uốn cao, cắt ngắn hợp thời trang. Tự nhiên chàng nghĩ rằng cô giáo không sung sướng ở cái tỉnh nhỏ này. Nhìn sang tên cô viết và ký ở tờ bìa đựng bài thi chàng đọc: "Lê Thị Hoàng Yến". Chàng hỏi:

- Cô Hoàng Yến dạy ở trường gần đây?

- Vâng ạ. Em dạy ở trường Nữ tiểu học.

Không phải là giọng Huế như chàng thường gặp ở các cô giáo miền Trung mà là giọng Bắc.

- Cô ra trường đã lâu chưa?

- Dạ, em dạy được ba năm.

Vài thí sinh lợi dụng tình thế bắt đầu rì rào trao đổi ý kiến khiến chàng phải đi xuống góc phòng. Viên giám thị hành lang đi đi lại lại.

- Thành phố Quảng Ngãi nhỏ quá và tẻ quá chắc không phù hợp với tuổi trẻ của cô.

Chàng nói nhưng vẫn đưa mắt nhìn xuống lớp.

- Vâng ạ. Quảng Ngãi buồn lắm nên ba em đã xin đổi về Sài Gòn. Nhưng còn phải đợi bán nhà đã.

- Nhà to lắm?

- Dạ, không to lắm. Trước đây có người trả mười hai vạn. Nhưng nay vì tình hình mà họ trả sụt đi.

Vài ngón tay giơ lên xin thêm giấy thi, nàng cầm giấy đem xuống phát cho họ. Phong nhìn đôi vai tròn, hàng orlon mỏng màu hoa bèo uốn theo thân hình. Gót chân đi thoăn thoắt nhanh nhẹn. Khi nàng trở lại bàn, chàng giao cho việc lập bản danh sách những thí sinh nộp bài. Chàng nói:

- Khi thí sinh nộp bài, cô nhớ xem bài thi có ghi số ký danh không. Nhận bài xong cô bắt họ ký và cô mới giao trả thẻ thí sinh cho họ. Coi chừng kẻo họ chưa nộp bài mà đã ra khỏi phòng. Mất bài là nguy lắm. Cô sẽ được đổi đi, không phải về Sài Gòn như ba cô xin mà về Kontum hay Pleiku đó.

Nàng mỉm cười:

- Ông cũng vậy.

- Đâu có được "cũng vậy"? Khổ nhất là tôi sẽ phải đi Côn Sơn hay Quảng Đức.

Một vài thí sinh lác đác nộp bài. Khi tiếng trống báo hiệu mãn giờ thi cả hai túi bụi vừa thu bài vừa bắt ký vừa tìm thẻ thí sinh để trả lại vừa trông chừng ra cửa kẻo có thí sinh bỏ phòng ra đi. Khi công việc đã yên ổn, khi tất cả thí sinh đã ra khỏi phòng rồi, khi kiểm lại số bài thi thấy đủ, chàng bảo:

- Thế là trót lọt buổi sáng nay. Cô có thể thở ra được rồi.

Trong khi xếp lại bài thi theo thứ tự chàng hỏi:

- Cô dạy lớp Nhất phải không?

- Thưa ông không. Em dạy lớp Ba.

- Sao ít vậy?

- Em có con nhỏ, bà hiệu trưởng cho dạy lớp nhỏ để đỡ nhọc.

Phong quay lại nhìn nàng. Có con nhỏ? Đã có chồng rồi sao? Có chồng? Loáng trong một giây, từ một hình ảnh thiếu nữ mỹ miều, chàng thấy nàng chợt biến thành một thiếu phụ cam chịu.

- Chồng cô làm gì?

- Chồng em buôn bán

- Người Bắc?

- Thưa không. Anh ấy người Huế.

- Sao cô không lấy chồng người Bắc cho gần gũi?

- Thưa ông, khi đã yêu nhau thì...

Phong không muốn nghe tiếng "yêu nhau" thoát từ đôi môi kia. Giá nàng nói "bị bắt buộc phải..." thì chàng sẽ thấy dễ chịu trong lòng hơn. Để giữ vẻ thản nhiên, chàng thấy cần phải nói đùa một câu:

- Ở thành phố nhỏ người ta mau lấy chồng. Vì không có một món tiêu khiển nào có thể bận rộn tâm trí họ được. Ở thành phố nhỏ gia đình nào cũng đông con. Người ta không dùng thì giờ để la cà ở rạp hát, ở phòng trà mà họ chỉ biết tìm thú vui trong gia đình. Có lẽ đây là một định lý: "Khi đóng cửa một giải trí trường thì người ta sẽ mở thêm được một nhà hộ sinh".

Hoàng Yến mỉm cười:

- Đó là khẩu hiệu hiện nay. Nhưng ở đây cũng còn bao nhiêu cô giáo chưa chồng.

- Chắc vì họ không đẹp bằng cô.

- Không chắc.

- Nhưng có điều này chắc: là những cô giáo chưa chồng bị hai sự thiệt thòi. Chưa chồng là sự thiệt thứ nhất và là thiệt thòi quan trọng. Thứ hai là phải dạy những lớp Nhất nhọc nhằn... Xin lỗi, chồng cô buôn bán gì?

- Nhà em mở tiệm dự trữ thuốc Âu Mỹ.

- Ở đường Phan Bội Châu?

- Thưa ông không. Ở đường Lê Trung Định

Chiều hôm sau khi các môn thi nhiệm ý: vẽ, nữ công, âm nhạc đã thi xong, có cuộc họp kiểm thảo của Hội đồng giám thị. Trên đường đi đến hội nghị chàng gặp Hoàng Yến cùng đi với một người đàn ông. Gặp nhau quá bất ngờ, chạm sát mặt nhau ở một lề đường hẹp, cả hai bên phải đứng dừng lại để chực tránh nhau. Hoàng Yến lúng túng chào chàng và phải giới thiệu người đàn ông đi với mình:

- Xin giới thiệu với ông: nhà tôi

Rồi quay sang chồng:

- Ông Phong giám thị cùng trung tâm với em.

Chàng giơ tay bắt và nhìn kỹ vào mặt người chồng khó chịu vừa thích thú vì anh không xứng với vẻ đẹp của người vợ. Một mái tóc mềm nằm rẽ hai, tuân theo một đường rẽ quá thẳng. Đôi con mắt ranh mãnh đi với cái hàm bạnh, nhiều mưu cơ và có thể tàn bạo. Cái miệng rộng. Môi dưới mỏng và dài hơn môi trên khiến có đoạn phải cong lại mới đủ chỗ. Chàng đưa mắt nhìn sang Hoàng Yến. Vẫn đôi má hồng phúng phính ngây thơ. Chàng có cảm tưởng hơi đau xót như khi nhìn một con cừu non bị vuốt sắt của một con ó hung tợn đe dọa. "Khi yêu nhau thì...", chàng nhớ lại lời nàng. Sao con cừu kia lại yêu con ó kia được nhỉ? Họ có một đứa con. Lát nữa hai người sẽ cùng nhau châu đầu trên cái nôi hay cùng chuyền tay cho nhau đứa bé mũm mĩm.

Phong thấy bực mình vẩn vơ. Suốt buổi hội nghị chàng chỉ im lặng không nói. Lúc ở nhà ra đi chàng đã chuẩn bị những ý kiến để phê bình cách tổ chức phòng thi, công việc giám thị, công việc chủ khảo... nhưng bây giờ tự nhiên chàng thấy chán không thích nói nữa. Sáng hôm sau, khi xách vali lên tàu vào Qui Nhơn, chàng giã từ không luyến tiếc cái ám ảnh không vui kia.

Hôm nay bất ngờ chàng gặp lại cái môi mỏng dài và cong vêu. Đôi mắt ranh mãnh. Mái tóc dẹt. Sự bực mình kéo nhanh đến làm chàng cơ hồ nghẹt thở. Chàng thấy khó chịu một lần thứ hai về cái khuôn mặt sung sướng không xứng đáng đó. Anh chàng này lại cũng có một người vợ đẹp và thùy mị. Vô lý. Anh chàng này lại bủn xỉn và thất lễ với mình. Chàng nhớ lại lúc nãy anh ta đã lục lọi mãi tìm cho ra 2 tờ giấy bạc bẩn để đưa cho mình. Trên mặt hộp tiền, kìa những tờ giấy mười đồng sạch sẽ, màu trắng và màu hồng minh bạch, bạc mới giấy láng dày cộm nằm xếp chồng chất thế kia. Sao anh ta thô bỉ một cách trắng trợn vậy? Sao anh ta dám coi thường mình, dám ngang nhiên chọn giấy bạc bẩn dành cho mình, chọn trước mũi mình? Anh ta đáng bị mắng. Mất 10 đồng còn quá nhẹ đối với tội vô lễ. Nhân quả cũng rõ ràng ra đó. Đầu óc bủn xỉn suy tính về những tờ giấy bạc mới cũ mà hóa ra tính lẫn tính lộn, cái lợi không thấy đâu mà cái lỗ đã rõ ràng. Nhưng dù nghĩ vậy, chàng cũng mong rằng anh ta chợt tỉnh lại để thấy rằng mình tính lầm 10 đồng và anh ta đến xin lại. Chàng sẽ rất tự nhiên mở nắm tay ra bỏ đống bạc lên bàn cho anh ta tự đếm lấy. Không đếm tiền thối lại là một cử chỉ lịch sự, vậy tiền thối dư hay thiếu không thuộc trách nhiệm của chàng. Nhưng đưa mắt tìm anh hàng sách thì thấy anh đã rời bỏ quầy hàng đi sang đứng cạnh hai thiếu nữ vừa đến. Hai màu áo hồng và hai khuôn mặt xinh xắn. Cạnh đó, cái môi dưới của anh ta cong lại một cách kệch cỡm. Hai con mắt láu lỉnh rình rập. Tất cả khuôn mặt như bị căng ra, đẩy vươn tới, chuẩn bị để vồ vào câu chuyện của hai cô kia.

Tất cả đều bất lợi cho anh ta. Phong chầm chậm bước ra cửa. Mười đồng cầm dư trong tay như gào lên "Trả lại cho anh ta đi. Của phi nghĩa. Danh dự...". Chàng phải đứng dừng lại trước một tấm quảng cáo lớn rao tên một tờ nguyệt san sắp ra đời. Vừa lơ đãng đọc những chủ trương nghệ thuật, mục đích xã hội của tờ báo, chàng vừa tự nhủ:

- Hay đem tiền vào trả cho anh ta! Nhưng mà... Trễ quá. Chẳng lẽ bây giờ.. Đáng lẽ lúc nãy...

Trong khi suy nghĩ, óc chàng nhớ cẩn thận đến câu tiên tri đọc hồi sáng "buổi chiều có hoạnh tài". Chàng suýt kêu lên: "Lần đầu tiên Tử vi nói đúng". Hoạnh tài là đây chứ gì? Vì lần nào cũng vậy, dù người ta đưa dư tiền nhiều hay ít chàng cũng đều trả lại. Có lần về đến nhà đếm lại mới thấy mình cầm dư tiền, phải lục đục đi trở lại để trả cho người ta. Nay sao tự nhiên chàng lại vò nắm trong tay? Cái gì xui vậy? Ưở, sao ngồi ở quầy hàng lại không phải là người vợ dịu dàng của anh hàng sách? sao vẻ mặt anh ta lại gợi chi đến một kỷ niệm khó chịu mà mình chưa hoàn toàn quên? Sao anh ta bủn xỉn thô bỉ đến mức là chọn những tờ giấy bạc mới cũ? đó là lòng ham mê chỉ xứng đáng với những đứa trẻ, với những bà cụ nhà quê lẩn thẩn. Sao anh ta lại vô lễ với chàng? Cho 10 đồng thì có giá trị gì đâu? 10 đồng có nghĩa lý gì cạnh vài trăm bạc chàng trả cho hàng rượu khi vui chân vào ngồi với một hai người bạn. 10 đồng có nghĩa gì cạnh một vé hát chàng đôi lúc mua mà thực tình không muốn đi xem. 10 đồng, đó chỉ là giá của một quả cam nhiều khi chua quá chàng bỏ không ăn. Phải, không ai dám tin rằng chàng tham 10 đồng của anh hàng sách, và sự thật quả là chàng không thèm tham lam thật. Có lẽ đó là "hoạnh tài" nó tự nhiên đến, bắt buộc đến theo cái luật huyền bí của nó mà mình không được biết chăng? Chớ một anh hàng sách bỏ vốn ra hàng bốn, năm chục vạn đồng sao điên rồ gì mà suy tính ham mê chi những tờ giấy bạc mới cũ để đến nỗi hóa ra lẩn thẩn tính cộng có hai con số mà đã tính sai?

Phong thấy lòng mình bớt băn khoăn một chút. Tiếng nói của Luân lý đã bớt phần gay gắt. Tuy vậy chàng vẫn còn áy náy. Trong khi đó thì chân chàng đã bước dần đến chiếc xe ghếch ở lề đường. Để dẹp hẳn sự áy náy, chàng nghĩ tiếp:

- Ta đem mười đồng này về cho thằng con nhỏ của anh coi vườn. Nó sẽ mừng lắm. Mấy hôm nay nó những ước ao đi xem phim Ấn Độ. Nó nghèo lại tàn tật. Nó cần mười đồng đó hơn là anh hàng sách vô duyên kia. Vả lại anh ta đáng bị phạt về tội vô lễ, tội bủn xỉn.

Phong thấy tâm hồn mình đã gần thanh thản. Trước khi nổ máy xe, chàng nhìn xuống đồng hồ tay.

- Mười giờ rưỡi đêm.

Cái ngày hôm nay có thể được coi như đã kết thúc vào giờ này. Những băn khoăn của lương tâm qua đi, chàng thấy lòng lâng lâng một niềm thích thú nhỏ: chàng đã muốn và đã giúp được cho Tử vi nói đúng một lần.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

5 . Mùa Hoa Xoan


Nha Trang... tháng... năm...

Chị Hoa,

Em chán quá chị ơi. Không biết học trò của chị ra thế nào chớ học trò của em sao mà chúng làm em nản lòng đến thế. Đêm đêm mình cặm cụi dưới ánh đèn, soạn bài thật đầy đủ, chấm bài thật kỹ lưỡng và lúc nằm xuống giường sắp đặt trong óc những điều sẽ giảng sáng hôm sau. Chỉ những lúc ấy là vui. Mình nghĩ đến những kiến thức ngày mai sẽ rót vào tâm trí của những đứa em của mình. Thật là phấn khởi biết bao khi mình tưởng tượng rằng sau một giờ nghe giảng dạy các tâm hồn ấy thấm nhuần những tư tưởng mới, giống tựa những mảnh đất hoang khô cằn trong phút chốc đã xanh màu búp non, lá mới, trắng, hồng những nụ hoa đầu. Ấy vậy mà khi vào lớp ngồi giảng bài thì những bực tức ở đâu dồn dập đến đẩy xa cái cảm giác êm đềm của mình như những cánh bướm yếu dù cố sức chống lại vẫn bị ngọn gió mạnh cuốn đi mất.

Học sinh họ ham chơi nhiều quá. Mình tận tụy ngồi giảng mà có một số cứ nhất định lén nói chuyện. Có lẽ tại em là cô giáo trẻ chăng? Hay tại vì em hiền lành chăng? Nếu thế thì con người quả đáng ghét thật. Họ chỉ chịu phục tùng dưới quyền lực chớ không muốn tự mình quản trị lấy mình. Chị dạy ở trường Nữ Trung học chỉ có toàn nữ sinh nên không khí nhất định là dễ chịu. Em rủi bị đưa về trường này học sinh cả nam lẫn nữ nên...

Loay hoay nghĩ một lát không biết viết tiếp "nên" gì, Liên bỏ bút xuống bàn, gạt tờ thư sang một bên. Nàng với lấy tập bài cầm bút lên sửa. Những sự bực mình không trút hết trong thư khiến cho những đường gạch đỏ dài thêm, những chữ phê to ra, nét đậm hơn. Có những bài luận chỉ đọc tên người học sinh là đã có thể gặp câu nào cũng phê chữ "bất thành cú" được. Không ai có thể tưởng tượng được sự kém cỏi, sự cẩu thả đi đến chừng mực ấy. Nhiều học sinh không làm nháp nên viết xóa nhòe nhoẹt cả bài làm. Thỉnh thoảng đọc được một bài, chữ viết sạch sẽ lời văn gọn gàng Liên cảm thấy lòng hớn hở vui như được nghe một lời mơn trớn nhẹ.

Nhìn đồng hồ thấy đã đến giờ dạy, Liên bỏ bút đứng dậy thay áo. Chiều nay nàng có hai giờ ở lớp đệ Thất. Dạy lớp nhỏ nàng thấy dễ chịu hơn cả vì học sinh tuy có ồn ào nhưng ngây thơ, vô hại. Nàng yêu những mái tóc rối, những bộ mặt thật thà phản ảnh trung thành tâm hồn của chúng. Nhiều em áo quần xốc xếch, chân đầy bụi mốc. Tuy vậy, nhìn mỗi cặp mắt mở rộng, những đôi môi hé trễ tràng, nàng có cảm tưởng rằng đó là những hấp khẩu hút tâm hồn chúng bám chặt vào lời giảng của nàng. Những sự ngứa ngáy tay chân cũng đáng tha thứ, đáng yêu. Ngồi một lát thì chợt nhớ phải xin đi tiểu. Cô giáo vừa quay lên bảng thì đã có những cùi chỏ thích vào sườn người bên cạnh. Rồi gãi đùi, rồi quơ chân tìm dép, rồi kiện nhau vì những chuyện vu vơ không dính dáng gì đến đời sống học đường hết. Chúng tưởng cô giáo có thể giải quyết được hết thảy mọi tranh chấp, giải thích được hết thảy mọi hiện tượng. Thằng Minh giọng ề à như một ông già nghiện rượu, chuyên môn đem những việc cãi cọ ở xóm Lò Heo của nó ra chứng minh ở lớp. Chứng minh gì, đố ai hiểu. Có lần nhân dạy về Nhị thập tứ hiếu, Liên hỏi:

- Các em thấy ở trong phố mình, xóm mình có những người bất hiếu không? Họ bất hiếu như thế nào?

Tức thì Minh vừa giơ tay, vừa kéo quần đứng dậy vừa lè nhè nói, không kịp đợi lịnh cô giáo.

- Thưa cô, ở xóm Lò Heo có ông thầy thuốc Bắc có người con ăn chơi "một cây". Hồi hôm ăn trộm vô cạy tủ, may có người con đi ăn chơi về khuya nghe tiếng động nên ăn trộm thất kinh chạy mất. Thanh niên dân vệ chạy rượt theo đến đền Xương Huân. Con cũng chạy theo mệt quá...

Liên phải lật đật ra hiệu cho nó ngừng lại rồi hỏi:

- Em định kể câu chuyện gì đó? Chứng minh điều gì?

Minh trố mắt nhìn lên, miệng hả ra rồi lắp bắp nói:

- Thưa cô... không có.

Rồi mỉm cười lặng lẽ ngồi xuống. Cả lớp thông minh, mau hiểu cười rộ lên. Thằng Vinh thì nhanh nhẹn hoạt bát nên dễ sinh ra ồn ào làm mất trật tự. Nhưng một khi bị điểm xấu về hạnh kiểm là từ một khuôn mặt láu lỉnh thông minh, nó chuyển ngay thành một khuôn mặt vừa đau khổ vừa đần độn. Giọng nói thanh vang lanh lảnh hằng ngày đã trở thành, trong phút chốc, rời rạc mỏi mệt. Với vẻ mặt ấy, giọng nói ấy, nó lên xin cô giáo xóa đi điểm xấu kia, miệng quả quyết là nó bị oan nhiều và hứa chắc chắn là nó sẽ tốt, từ giờ này. Lời hứa ấy Liên cũng chắc chắn là nó sẽ lập lại cho đến cuối năm, nhưng Liên vẫn không thể ghét nó được. Thằng Lai lười biếng, thằng Tú vô lễ, thằng Chuyên ngớ ngẩn... tất cả những em bé học sinh, Liên đều yêu chúng với những tật xấu của chúng. Trong nhiều trường hợp Liên còn cảm thấy rằng chính những tật xấu ấy lại, ngược lại, làm cho Liên yêu chúng hơn. Những tật xấu ấy là kết quả của sự chăm sóc thiếu sót của cha mẹ, sự thiếu sót không cố ý.

Sang đến lớp Đệ Tứ, Liên ít nhẫn nại được trước vài biểu lộ cá tính của học sinh. Một chị học sinh lớn ngồi giữa lớp che miệng nói chuyện với bạn. Liên cất giọng ôn tồn nói:

- Chị Lệ, đừng nói chuyện.

Tức thì người học sinh đứng dậy:

- Thưa cô, em đâu có nói chuyện?

Hoàn toàn là vẻ ngơ ngác và giọng nói quả quyết của người thành thật bị oan. Liên tức quá vì việc nhỏ nàng muốn cho qua bằng lời nhắc ôn tồn, không ngờ lại phải sắp mất thì giờ vào đó. Nàng phải nghiêm giọng nói:

- Chúng ta chỉ có hai người. Hoặc là chị, hoặc là tôi, nhất định phải có một trong hai chúng ta nói dối. Tôi đang giảng bài. Tôi không muốn sinh sự với chị vì tôi không có ác cảm gì với chị hết. Chúng ta không có mâu thuẫn gì với nhau về quyền lợi, về tư tưởng... mà trái lại, chúng ta cùng nhắm chung một mục đích : đó là làm sao cho chị học giỏi. Thôi được, chị ngồi xuống.

Cả lớp im lặng và Liên nghe tiếng đập của tim mình. Óc nàng rộn ràng mất đi sự bình tĩnh. Nàng cúi xuống tập giấy soạn bài, định tiếp tục giảng lại nhưng cái hứng thú bị ngắt đứt bây giờ không thể tìm lại được. Nàng cho học sinh ghi chép tóm tắt những lời giảng. Trong khi ấy, để quên sự bực bội, nàng lắng nghe tiếng gió reo vi vút ở giữa những chòm phi lao bên kia đường. Hàng bông giấy mọc ở trụ cổng nhà ai kia nở ra những chùm hoa đỏ tươi. Màu hoa đỏ yêu đời tưng bừng điểm rải rác giữa nền lá xanh giúp nàng vui vui trở lại. Mùi tanh nhạt pha vị mặn của gió biển ở ngoài khơi thổi vào, cái cảm giác mát lành lạnh của nước như quạt nhẹ vào đến tận tâm hồn. Nàng tiếp tục giảng lại bài cho đến khi bác Cai xổ kiểng bãi học.

Mấy hôm nay trời lất phất mưa, học sinh học xuất sau được nhà trường cho phép vào đứng ở sân lợp. Một số nam học sinh lớp Đệ Nhất, Đệ Nhị, lảng vảng đứng ở cửa sổ lớp học giữa lúc nàng giảng bài. Sự có mặt của những người lạ làm các nữ sinh ngồi học không được tự nhiên. Liên đã báo cho ông Giám thị biết và ông đã đến đuổi mấy bận nhưng sau đó học sinh lại trở lại. Có anh thô lỗ đứng phê bình sắc đẹp, có anh huýt sáo nho nhỏ. Những anh học sinh này thường mặc quần áo bó sát vào người trông như những cuốn chả giò, tóc chải tém và đi giày mũi nhọn. Liên đau xót khi nhìn một hai quyển vở bị xếp đôi nhét vào túi quần sau của họ, những quyển vỡ mà lúc đi học nàng trân trọng giữ gìn như những người bạn nhỏ. Mấy nữ sinh ngồi sát cửa sổ nghiêm nét mặt lại nhíu mày chú ý trong một nét đau khổ. Họ như có mặc cảm tội lỗi mặc dù họ không có lỗi gì hết. Vài cô liếc mắt một nửa nhìn xem ngoài kia người ta làm gì. Liên thấy chịu đựng không được nữa nên đi ra ngoài lớp.

- Mời các anh đi qua sân lợp để cho các em học.

Một số lớn đi dãn ra. Một số khác vẫn bất động. Có tiếng nói hỗn xược.

- Trời mưa mà, cô.

- Nhưng ở sân lợp không ướt.

Không có tiếng trả lời và cái khối người vẫn bất động. Nàng giận quá nhưng biết làm gì đây? Lại đi gọi ông Giám thị tức là tự nhận không biết đến lần thứ mấy sự bất lực của mình, sự bất lực cụ thể về hình vóc và quyền uy. Nàng nghĩ: chỉ có sức mạnh tàn bạo mới trị được những tâm hồn vũ phu kia. Giữa lúc nàng bối rối thì có tiếng giày ở phòng bên cạnh đi ra. Mấy người học sinh lẳng lặng tản hết. Thầy Phúc - vì tiếng giày vừa rồi là của thầy Phúc - nhìn nàng khẽ cúi chào rồi khiêm tốn bước vào lớp. Nàng muốn nói một lời cám ơn nhưng Phúc đã không đứng đó nữa. Phúc là một bạn đồng nghiệp cũng đổi về dạy ở đây cùng một năm với nàng. Đó là một chàng trai im lặng. Nàng lưu ý đến Phúc nhân một bữa tiệc có mời đủ các giáo chức trường công và trường tư của thành phố. Dãy ghế các cô giáo, nhất là những cô giáo đẹp thu hút được nhiều con mắt hơn hết. Một số thầy giáo trẻ ngồi chụm đầu vào nhau bàn tán ồn ào, thích cánh, vỗ vai với những con mắt ngầm ra hiệu cho nhau. Sau những diễn từ chúc từ mà người ta đoán trước được nội dung đến phần không thể thiếu được trong mọi cuộc ăn uống, - dù vui ăn vài cái bánh ngọt - là yêu cầu hát. Nhóm thầy giáo trẻ náo hoạt lên ngay:

- Yêu cầu cô Tuyết Thu hát một bài.

- Yêu cầu.

- Yêu cầu chị Xuân Anh.

- Yêu cầu chị Liên hát bài "Nửa đêm ngoài phố".

- Yêu cầu cô Yến hát bài Bambino.

Những lời mời mọc, chối từ, nài nỉ kéo dài. Liên chú ý đến Phúc ngồi im lặng, bơ vơ lạc lõng. Lâu lâu nàng bắt gặp một tia mắt chàng đưa nhìn về dãy cây phượng trước sân.

Sau đó có những cuộc hội nghị hàng tháng, những cuộc chạm mặt ở hành lang trường. Lần nào Liên cũng lúng túng nhận cái chào lặng lẽ của Phúc. Sau phút lúng túng nàng có cái cảm giác êm ả được gặp một người bạn lễ độ. Im lặng không hẳn là cái thái độ mà nàng yêu thích, nhưng quả tình người im lặng làm nàng nể hơn. Nhiều lần nàng đã phải bảo với những học sinh vừa lười vừa ồn ào rằng:

- Các anh hãy nhìn một người bạn trong lớp, anh Chúng đó (nàng đợi dịp anh Chúng vắng mặt mới nói). Anh Chúng học không giỏi, không chăm nhưng được cái hay là không nói chuyện. Anh không thuộc bài bao giờ, làm bài thì kém cỏi, nhưng tôi chưa bao giờ nỡ nói nặng anh một lời. Chỉ vì cái vẻ nghiêm nghị lễ độ của anh. Nhác học không phải là ưu điểm, tất nhiên, nhưng đã nhác học mà còn mượn sự liến thoắng ồn ào để gây cho mình cái ảo tưởng là mình thông minh hoạt bát thì nguy hiểm lắm. Khi anh im lặng, người khác không biết là anh nghĩ gì, trong lúc có thể là anh không nghĩ gì hết. Chớ nói ra thì họ hiểu ngay sự dốt nát kém cỏi của mình.

Mùa hạch tấn ích, như một đe dọa, lững thững đến. Học sinh xuýt xoa lo khi thầy giáo đọc cho chép lịch thi các môn. Nhìn vẻ ngơ ngác của một vài học sinh, nhìn nét mặt uể oải của một số khác, Liên có cảm tưởng rằng tin báo hạch tấn ích vừa nhắc họ nhớ là họ đang đi học, điều mà thường ngày họ cố ý quên. Đối với một số khác thì tin ấy kinh khủng như một lời tuyên án. Riêng thầy giáo thì chuẩn bị để nhận những xấp bài, những xấp bài mỗi ngày một chồng cao trên bàn mình. Nhưng chấm bài nhiều, dẫu là một công việc nặng nhọc, cũng chưa đáng phiền bằng việc giữ sao cho học sinh khỏi lén đem bài theo khi hạch. Có người chịu khó chép đem theo hàng cuộn "phim" chữ nhỏ như kiến, có người xé cả hai ba tờ sách. Có người làm sẵn ba bốn bài ở nhà, những bài mà họ đoán trước thầy giáo sẽ ra. Có người đặt sách ở mặt ghế rồi ngồi. Công thức Toán, công thức Hóa học thì chép ở mặt bàn, ở bàn tay. Không đủ chỗ chép thì họ chép cả ngay lên đùi. Ngày hạch tấn ích thầy giáo phải đóng thêm vai trò Cảnh sát, vai trò nhân viên quan thuế kiểm soát hàng lậu. Thật là xa vời với những ngày ở trường sư phạm nàng tưởng tượng những học sinh lý tưởng của nàng say mê học hiểu, luôn luôn đòi hỏi thầy giáo cung cấp hiểu biết cho họ.

Một tối thứ bảy, Liên đi xem phim "Les canons de Navarone". Nàng lấy vé ban công để bớt gặp những người quen. Khi chọn chỗ ngồi ở phòng bán vé, nàng chọn một ghế ở mãi tận góc. Nhưng khi lững thững bước lên lầu thì không ngờ người ngồi gần lại là Phúc. Phúc chào nàng và đứng dậy nhường lối đi. Nàng cũng khẽ gật đầu chào lại. Ngồi im lặng cạnh nhau một lúc, Liên thấy sự im lặng ngượng nghịu thiếu tự nhiên quá. Hai người bạn đồng nghiệp. Ý chừng cũng nghĩ như vậy nên sau một cái tằng hắng Phúc rụt rè quay sang nàng:

- Cô thỉnh thoảng mới đi xinê?

- Vâng ạ. Chỉ khi nào có phim hay.

Im lặng.

- Hôm đi xem Pépé 1) tôi có thấy cô.

- Vâng, hôm ấy tôi có đi.

- Phim khôi hài thì nội dung nghèo nàn dù trong phim có mặt nhiều tài tử hữu danh.

Im lặng.

- Sự xuất hiện của 35 tài tử hữu danh ấy, nôn nả, rời rạc, tham lam như những tấm ảnh dán trong album.

- Tôi chỉ thích có màn vũ.

Vừa lúc ấy, chuông reo và đèn tắt. Phim đêm nay diễn xuất sắc.

Cảnh bão tố nhồi đập chiếc tàu nhỏ làm Liên khâm phục sức chịu đựng của những cơ thể mạnh. Nàng tự thấy xấu hổ vì những bước đi nhỏ nhắn của mình, vì sự yếu đuối của cơ thể mình lúc nào cũng đòi hỏi săn sóc nuông chìu. "Mình tự hào vô lối vì một chút ít hiểu biết sách vở. Mình chỉ có giá trị của một cuốn băng nhựa magnétophone. Học thuộc lòng từng đoạn sách rồi viết lại, y nguyên và nói lại cho học trò nghe, ít hơn..."

... Nghĩ tới đây nàng thấy hối hận nhớ lại đôi lần mình đã khinh khỉnh đối với một vài người học trò quê mùa dốt nát.

Phim chấm dứt, đèn bật sáng. Khi đứng dậy đợi chờ đoàn người chầm chậm bước ra, Phúc quay sang nàng:

- Phim hay...

- Vâng.

- Cô cũng nhận thấy cô đào Gia Scala đẹp thùy mị...

- Vâng. Gia Scala có một vẻ đẹp gần với chúng ta, vẻ đẹp Á Đông.

- Tội nghiệp nhất và đẹp nhất là khi cô ràn rụa nước mắt lại ngồi cạnh Gregory Peck. Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót...

Liên gật đầu nhưng không trả lời.

- ... Có lẽ đẹp hơn và bền hơn những mối tình có kết quả.

- Vâng, có lẽ vậy.

Thấm thoát mà niên khóa đã chấm dứt. Mùa nghỉ hè không còn được báo hiệu bằng hoa phượng đỏ, bằng giọng ve sầu mà bằng hoa xoan màu tím nhạt. Trên con đường nhà thờ, một dãy cây xoan chạy dài màu hoa nhũn nhặn nép giữa lá xanh. Đêm tối đi qua đây, thở mùi hoa vương nhẹ trong không khí, Liên nhớ đến những đêm trăng ở nhà quê. Màu phượng đỏ rực rỡ dành cho ngày nhập học của niên khóa mới. Sự phân chia màu hoa theo mùa, tiết kể cũng hợp lý. Màu tím nhạt đơn sơ, hương hoa thoáng đưa man mác phù hợp với nỗi niềm chia ly luyến tiếc biết bao. Còn màu đỏ rực rỡ phải làm khung cảnh cho nhiệt tình của những người bạn xưa nay gặp nhau trở lại, của tâm hồn náo nức học tập, cố gắng tranh đua. Họ xếp đặt sách vở để về quê và Liên cũng bùi ngùi sửa soạn hành lý về sống cạnh cha mẹ ở Huế. Đêm giã từ thành phố nàng đi lại mấy lần trên con đường nhà thờ để nhìn lại màu hoa xoan lấp loáng dưới ánh đèn đường và thở từng hơi dài mùi hoa man mác. Vào những lúc này nàng chợt thấy tha thiết yêu cái thành phố bé nhỏ đã dung dưỡng nàng bấy lâu nay, cái thành phố mà mới ngày nào sơ ngộ nàng thấy chán vì nó bằng phẳng quá.

... Hoa xoan rụng đi và hoa phượng lác đác nở. Khi hoa mãn khai và thành phố rực đỏ lên là lúc mà các trường khai giảng trở lại. Chín mươi ngày hè đã nối tiếp nhau trôi qua. Tiếng kiểng nhận học ở trường này chen lẫn với tiếng kiểng ở trường kia. Học sinh túa ra khắp các nẻo đường mang lại sinh khí cho các lề đường ba tháng nay vắng lặng. Liên bồi hồi trở lại mái trường xưa nhìn lại cảnh cũ. Nàng cảm thấy một niềm vui nhẹ khi sắp được gặp trở lại người bạn đồng nghiệp lễ độ của mình. Nhưng hôm lễ chào cờ nàng không thấy bóng Phúc. Suốt một tuần sau cũng vậy. Ghé lại vào phòng nhìn bảng phân phối giáo sư chỉ đạo các lớp nàng không thấy tên Phúc. Nàng lấy giọng thản nhiên gợi chuyện ông giám thị.

- Suýt nữa thì tôi tựu trường trễ. Đi thăm ông chú ở cửa Thuận về nhà bị cảm định lấy giấy chứng của bác sĩ để xin nghỉ một tuần. Nhưng sợ ngày khai giảng phiền nhà trường thành ra phải gắng vào cho đúng kỳ. Chắc thế nào cũng có giáo sư chưa đến kịp ông nhỉ?

Ông giám thị nheo nheo con mắt mỉm cười xã giao:

- May quá, năm nay giáo sư đến đủ kịp ngày.

Nàng thấy xót ở tim mình. Thế còn Phúc? Nàng muốn hỏi ông giám thị nhưng ngại không dám hỏi. Vả lại hỏi để làm gì? Phúc đến hay không đến đâu phải do câu trả lời của ông giám thị? Nàng lặng lẽ bước ra khỏi phòng.

Nửa tháng sau nhân buổi học tập thường kỳ của các giáo sư, có người vô tình nhắc đến Phúc. Chừng ấy nàng mới biết là Phúc bị đổi đi trường Phan Bội Châu ở Phan Thiết. Chừng nửa năm sau cũng nhân một buổi học tập, nàng nghe tin Phúc cưới vợ. Anh Ninh dạy sử địa bạn thân của Phúc nói:

- Phúc cưới con Thịnh. Hợp có nhớ con Thịnh không?

Hợp dạy Anh văn nói:

- Con Thịnh nào? Có phải con Kim Thịnh, con bà Cả Nghiễm ở chợ An Đông không?

- Đúng là nó.

- À, ai chứ Kim Thịnh thì moa biết lắm. Thế là Phúc đào nhằm cái mỏ rồi đấy. Thằng Phúc dạy vạn vật thảo nào giỏi về khoáng chất.

- Mày nói thế tội nghiệp nó. Nó hiền lành không có dã tâm đâu. Chẳng qua me nó và bà Cả Nghiễm cùng là bạn hồi còn buôn bán ở Nam Định cho đến hồi di cư cùng vào một lượt với nhau. Hai bà cụ hứa hẹn gả bán đâu từ hồi còn ở Nam Định cơ đấy. Chứ tính con Thịnh đua đòi nhảy nhót thằng Phúc không thích. Hôm hè tao có gặp nó mấy bận ở thư viện. Lúc được tin phải đổi về Phan Thiết tao thấy nó buồn lắm nhưng cuối cùng nó nói "Thôi đi như thế cũng được. Có lẽ nên xa Nha Trang càng sớm càng hay"

Vài khuôn mặt tò mò quay lại.

- Thế là nghĩa làm sao?

Giọng Ninh chậm rãi:

- Có lẽ anh chàng yêu ai ở Nha Trang nhưng mắc bà cụ đã bắt hứa hôn với con Thịnh rồi nên anh chàng cố quên đi, xa đi. Có lần anh chàng ngần ngừ sắp nói cho mình nghe chuyện nhưng rồi anh chàng lại giữ được không nói.

Liên có cảm tưởng như mọi con mắt đều nhìn về mình. Nhưng may đến đây, ông Hiệu trưởng cắt đứt câu chuyện và cuộc họp bắt đầu. Liên lắng tai nghe lời thuyết trình viên nhưng cứ từng chặp từng chặp nàng đưa mắt nhìn qua cửa sổ.

Cây keo nơi sân trường đầy hoa trắng. Có một cặp chim cưỡng véo von cất tiếng hát. Một con chuyền lên cành cây, đu mình bám vào một trái keo chín muộn mổ từng hồi. Mình chim đong đưa qua lại và đôi cánh xập xòe để giữ thăng bằng. Một con đi lững thững dưới đất cát, chốc chốc cất tiếng gọi. Chắc đó là con chim trống vì tiếng gọi vang lanh lảnh. Mỗi lần nghe chim trống gọi, chim mái ngừng mổ rồi trả lời bằng một giọng ríu rít nho nhỏ. Yên tâm vì bạn mình còn đó, con chim trống lại thong dong đếm bước rồi một chốc lại gọi. Một lát sau nó vù cánh bay lên cành keo đứng cạnh chim mái và sung sướng cất tiếng hót. Tiếng hót vang lảnh lót ấm áp và mơn trớn ngọt ngào có sức quyến rũ như một tiếng gọi yêu thương. Đôi chim xinh đẹp lông mướt màu trắng nhạt và đôi cánh điểm lông đen.

Liên vui lây cuộc đời hạnh phúc của đôi chim. Vạn vật vui vẻ dường ấy. Cây keo tưng bừng nở hoa kết trái. Hai con chim quấn quít gọi nhau. Nàng nhớ đến Phúc, nhớ đến lời Phúc nói với mình về cô đào Gia Scala:

"Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót... có lẽ đẹp hơn bền hơn những mối tình có kết quả". Nàng đâu có ngờ rằng đó là lời thổ lộ tâm sự cuối cùng của Phúc.

Niên khóa tiếp tục. Cuộc đời của Liên lại được gắn liền với cuộc đời của những học trò của mình. Nàng nhẫn nại làm việc, âm thầm cố gắng. Những tật xấu nhỏ của học sinh một khi đã quen đi, nàng chuyển sang khám phá những ưu điểm của họ.

Chị Cháu học đến lớp đệ Tứ mà những buổi mai nào không có giờ học là gánh hoa đi chợ bán với mẹ. Một lần nàng đi dạy về thoáng thấy Cháu gánh một cặp giỏ không đi chợ về, đi bên cạnh mẹ. Nàng sợ Cháu ngượng nên tránh xa ra, không ngờ Cháu nhanh mắt thấy nàng rảo bước tới và giới thiệu nàng cho mẹ biết để mẹ chào. Hai mẹ con vui tươi như không hề để ý đến bộ quần áo đen bạc màu của mình, đến những đôi guốc mộc, đến bộ mặt nhễ nhại mồ hôi. Người ngượng, ngược lại, lại chính là Liên. Nàng thấy mình nhàn nhã quá, mình được ưu đãi nhiều quá.

Trò Út mới học đệ Thất mà đã thay cha đi giữ rẫy. Út cầm rựa đi trong đêm tối, ngủ ở chòi cao, trong khi một số bạn cùng lớp ở giữa phố mà tối không dám đi tiểu một mình. Sự mẫn cán, sức tháo vát của nhiều em học sinh khiến Liên mến phục. Tùy theo nghề nghiệp của cha mẹ mà có em may vá, sửa xe, xay bột, làm bánh, thu hàng, bày hàng. Mỗi người học sinh có một hoàn cảnh đáng cho mình tìm hiểu mà yêu thương và giúp đỡ hơn là trách móc. Dần dần nàng tìm thấy cái vui trong tâm hồn khi ý thức được rằng mình đang làm một việc có ích. Chỉ thỉnh thoảng những lúc ngồi trông chừng học sinh làm bài, đưa mắt nhìn ra cây keo ở sân trường hay giàn hoa ở trước hiên là nàng man mác nhớ đến người bạn đồng nghiệp của mình. Nàng tưởng chừng còn nghe lại ở trong phòng học bên cạnh vang lanh lảnh tiếng giảng bài của Phúc: "Tiền cam gồm có tất cả các địa tầng, có địa khai hay không có địa khai, có nham thạch tinh thể hay không tinh thể, ở dưới tầng cam biên và cách từng này bằng một nghịch diệp"

Có những buổi tối nàng ngồi một mình ở bãi biển. Nền trời đen sẫm, chi chít sao. Mặt nước cũng đen phản chiếu ánh sáng lung linh. Trước mắt nàng những đèn thuyền câu sắp hàng chạy dài ở mãi tít nơi khơi xa. Theo một nhịp đều đặn, nước biển chao đi, rút ra xa rồi ồ ạt chạy vào bờ, đập vỡ tung vừa làm sủi bọt rì rào. Dù không ai để ý đến, dù không ai biết cho, sóng biển vẫn cứ nhịp nhàng làm cái công việc của mình, không vội vàng mà cũng không trễ nãi. Bắt đầu từ bao giờ và sẽ ngừng lại lúc nào? "Thật y như cái công việc của mình và của những người đồng nghiệp của mình". Liên nghĩ. Ai nấy đều làm việc, đều đặn chu đáo. Có kẻ để ý biết đến hay không cũng được. Như những đợt sóng kế tiếp nhau mải miết chạy vào bờ, nàng và các bạn của nàng cũng kế tiếp nhau mà dạy dỗ, uốn nắn, lớp học sinh này dạy xong thì trao qua tay người bạn khác tiếp theo không nản, không mỏi, không ngừng.

Nàng bâng khuâng nghĩ đến Phúc. Ở Phan Thiết cũng có một bãi biển vắng như đây. Không chừng vào giờ này Phúc cũng ra ngồi ở bãi biển nhìn lằn bọt trắng ngầu, nhìn con sóng nhấp nhô mà nhớ đến Nha Trang, nhớ đến nàng cũng nên. Dễ thường Phúc cũng lẩm nhẩm nghĩ như nàng. "Ở Nha Trang cũng có một bãi biển vắng... như đây".

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

6 . Dấu Chân Sa Mạc


Khi tôi bắt đầu có trí khôn thì trong những khuôn mặt người quen thuộc hoạt động lẫn lộn giữa cái thế giới âm thầm nhỏ bé của tôi, tôi nhận thấy có khuôn mặt của cô Ba Hường.
Nhà cô ở sát vách nhà tôi, ngăn cách bởi một bờ thành bằng gạch cao. Dù chưa bao giờ tôi hỏi cha tôi hay một bực trưởng thượng nào, nhưng tôi chắc chắn bức thành đó là do cô bỏ tiền xây cất lấy. Một công trình kiến trúc như vậy thật lạ đối với quê tôi, một làng nghèo mà những hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia chỉ là những hàng cây chành rành. Rào qua hai mùa mưa thì cây chành rành đổi sang màu xám xỉn, buồn nản. Những kỳ mưa to gió lớn, từng mảng rào như vậy ngã qua quặt lại khiến sân nhà nào cũng như rộng thêm ra, sáng sủa hẳn lên. Một số hàng rào khác trồng bằng cây xanh: cây táo nhơn, cây keo, cây lưỡi long. Rào như thế này khỏi tốn tiền mà còn có lợi.

Sang tháng Bảy, tháng Tám, để chuẩn bị đón những trận bão, nhà nào cũng lo chặt cây rào. Nhà có thang phải tuần tự cho hàng mươi nhà khác mượn, thậm chí phải cho mượn cả rựa nữa. Chen vào giữa tiếng rựa chặt chan chát, tiếng người nầy nói chuyện với người kia vang lanh lảnh giữa những chạng cây, lưng chừng mái nhà như những con chim trò chuyện.
Cả xóm rộn ràng hoạt động hẳn lên. Trẻ con đứng đợi lượm tổ chim, tổ chào mào tròn trịa như những cái chén, ổ dồng dộc móc đong đưa ở những nhánh keo đầy gai. Cây ngã xuống đường, người ta kéo dồn xếp lại, lôi cả sỏi đá làm bụi bay tung. Lũ trẻ reo hò đi theo sau, mừng như đám rước. Đứa thì đội lên đầu một cái tổ dồng dộc dài ngoẵng, nhọn hoắt, đứa thì lưng cõng em mà hai bàn chân xỏ vào hai cái ổ dồng dộc vừa đi vừa kéo lê lết giả như đi hia. Đó, sinh hoạt của xóm tôi liên quan đến cái hàng rào. Thành ra khi nhìn bờ thành của nhà cô Ba Hường, tôi có cảm tưởng nó là ranh giới cách biệt hẳn chúng tôi với một xã hội nào khác, với một thế giới nào xa lạ hoàn toàn. Cái bờ thành xây bằng gạch tô vôi chạy thẳng tắp của cô không gây nên một sự sinh hoạt nào hết. Qua nhiều năm tháng gió mưa, nó ngả sang màu xám. Rờ vào thấy nhám tay, cứng lỗ chỗ như đầu đinh. Cái sân rộng cũng tô bằng xi măng. Thật là cả một dinh cơ trong đó ẩn chứa nhiều sự phí phạm rõ ràng. Vì rằng ngoại trừ nhà cô Ba còn thì tất cả mọi cái sân trong xóm đều chỉ là những vuông đất tự nhiên.
Muốn làm đẹp, người ta trồng vài bụi đồi mồi, vài chậu hoa xin giống đâu đấy hay đơn giản hơn nữa là những chậu hẹ, chậu rau húng.

Cô Ba Hường góa chồng hình như đâu vào năm cô mới ba mươi tuổi. Chồng cô là người Hoa kiều, khi chết để lại cho cô nhiều ruộng nương. Cô cho tá điền làm rẽ, đến mùa cầm roi đi coi gặt. Khi lúa phơi khô giê sảy sạch sẽ, nhà rẽ chở lúa đến nạp. Sõng chở lúa đậu ở bờ sông, rồi từng người trai lực lưỡng gánh đôi bao đầy ắp no tròn chạy thình thịch vào cổng. Tiếng lúa đổ rào rào trên sân. Bụi bay mù. Nhà rẽ đong lại từng giạ, ống gạt tre gạt phắt lên miệng giạ cứa lên vỏ lúa nghe gọn, sắc làm rợn cả gáy.
Tiếng đếm dõng dạc: "một... hai... ba mươi bốn chín... năm mươi... dạ thưa cô một cò (năm chục )" rồi đếm trở lại: "một... hai..." S
au đám bụi mù, dáng cô Ba Hường đứng chống nạnh dõng dạc, quan trọng. Trong những kỷ niệm ngày thơ, tôi thèm thuồng và kính phục một dáng đứng oai vệ như vậy. Nhà tôi nghèo, lúa lên chỉ vừa đủ ăn. Mỗi lần có hàng bánh bèo, hàng bún, hàng cốm nếp đi qua cất tiếng rao

- "Ai đổi bánh bèo không?... Cốm nếp đổi lúa đây..." mà tôi lật đật chạy vào giục mẹ đem lúa ra đổi thì mẹ tôi gạt ngay:

- Lúa đâu mà đổi? Mày làm như nhiều lúa lắm.

Thấy tôi tiu nghỉu muốn khóc mẹ tôi đưa tay xoa đầu tôi rồi nói:

- Phải chi nhà mình nhiều lúa như cô Ba thì mẹ đã đổi cho con ăn.

Cô Ba Hường thật đã tượng trưng cho một nếp sống thong thả phong lưu mà mẹ tôi và tôi đều ao ước. Đã thế, cứ cách vài ngày bên nhà cô có mùi thịt nướng thơm tho đưa sang. Cô ăn thịt nhiều hơn ăn cá ăn rau. Mỗi lần bà hàng thịt đi chợ ghé ngang qua cổng, tôi thấy cô bắt cân hết thịt nạc đến thịt ba chỉ rồi thịt sườn. Lệ ở nhà quê bán thịt có tặng kèm thêm những miếng lòng heo đã luộc chín. Khi nào có tôi đứng đó, cô Ba cũng lựa một miếng gan hoặc một miếng huyết đưa cho. Nhiều khi tôi theo mẹ tôi sang chơi nhà cô, cô cho ăn thả cửa: bánh ít, chuối, mãng cầu... Những món ăn thường thường quá úng hoặc gần thiu. Khi về, mẹ tôi rầy:

- Con đừng tham ăn, xấu lắm. Đã dặn nhiều lần, ai cho cũng đừng lấy.

Rồi sau đó mẹ nói với cha tôi:

- Cho trẻ con mà cứ cho những bánh gần thiu, chuối sắp úng.

Cha tôi ung dung cười:

- Chắc cô ta không biết. Ở một mình, mua ăn không hết, thiu úng không hay.

- Sao lại không biết, không hay. Tại tánh hà tiện.

- Điều đó thì cũng có.

Trong câu chuyện giữa mẹ tôi và cô Ba Hường tôi thường nghe mẹ tôi hỏi:

- Sao cô Ba không bước đi bước nữa? Nhà cô tòa cao lẫm lớn mà ở một mình ngó đơn chiếc quá.

Cô Ba trả lời chậm rãi ngập ngừng:

- Bước đi bước nữa thì cũng được, cũng phải phép. Còn ở thế này thì được cái thong thả.

- Người ta ai cũng vậy, phàm đũa phải có đôi.

Cô Ba tỏ dáng ít hăng hái bàn đến chuyện lứa đôi. Cô hay nói tới ruộng đất, giá lúa giá nếp cao hay hạ, đập Tam Giang, đập Đồng Cháy, đập Tấn Lương, đập Giá Dện nước lên xuống mực nào, nước về đồng kịp hay không, mương cái, mương con vét sạch hay bị bèo cản... cô nói thông thạo và say mê. Lúa gòn, lúa trắng, lúa ba thóc, lúa móng chim, lúa nhe, lúa Đồng Nai... nếp tượng, nếp lùn... đất nào gieo giống nào, mùa nào sạ thứ nào... miệng cô nói cứ dẻo quánh.
Mẹ tôi làm tai nghe. Chỉ có tá điền mới lời qua tiếng lại với cô khi cô vi phạm vào mục chuyên môn của họ. Do đó cứ năm, mười bữa nửa tháng thì nghe bên cô có tiếng cãi cọ. Cô đàn áp tá điền. Họ chịu nhịn nhưng về nhà cứ làm theo ý họ. Cô đòi ruộng lại. Giằng co. Cô hăm đi kiện. Nài nỉ. Cuối cùng thì cô thắng trận. Vùng tôi ruộng đất ít mà người tá điền đông. Có người chiều nịnh cô đưa con gái tới ở cho cô sai vặt.

Năm tôi lên mười thì mẹ tôi qua đời. Cha tôi tính vốn ít nói càng trở nên lầm lì thêm.
Ông hay ngồi trầm ngâm hàng giờ ở trên võng, miệng ngậm điếu thuốc. Một con mắt nheo lại tránh khói thuốc uốn vòng bay lên. Có khi điếu thuốc cầm nơi tay cháy sém cả ngón tay ông mới chợt biết, vội vã ném nhẹ ra sân. Cửa nhà ít khi được ngăn nắp. Chuồng heo không còn vang lên tiếng heo kêu đòi ăn như trước. Nền chuồng đất cứng lại, khô trắng.
Qua hai mùa mưa, mái chuồng lủng từng mảng lớn bằng cái bát, bằng cái vung. Cha tôi thuê người dỡ xuống biến chỗ đó thành một khoảng trống làm sáng hẳn căn nhà bếp. Cùng với sự vắng mặt của mẹ tôi, trong nhà, ngoài sân, sau vườn, cũng càng ngày càng vắng thêm. Những bụi sả, bụi ớt ngã xuống mà không được thay thế. Hàng đu đủ trước kia tỏa bóng rợp quanh vại nước nay cứ chỉa mãi ngọn lên trời, nhọn hoắt cắm vài lá cọc còi. Ánh sáng chói chang thay chỗ cho màu xanh. Sự im vắng nhiều hơn tiếng cười nói.

Bên ngoại tha thiết với cha tôi và tôi hơn bên nội. Cậu Năm cứ mươi ngày thì che cái dù đen ghé lại nhà. Nơi cán dù, cậu móc ba thang thuốc Bắc cột ép vào nhau. Cậu làm thầy thuốc. Số thân chủ ít ỏi rải rác quá nên nơi chiếc áo dài xuyến đen có mụn vá. Cậu chỉ rờ đầu tôi mà không bao giờ đưa cho một món quà. Bàn tay rộng quá, chụp gọn cả cái đầu làm tôi có cảm giác ấm áp như khi đội một cái vỏ bưởi. Tuy vậy tôi vẫn thích cậu cho một trái ổi hay móc túi cho một trái táo. Trong mỗi thang thuốc đó thế nào cũng có ba trái táo đen.
Tôi nghĩ: Đáng lẽ cậu lấy thêm một trái táo ở cái thẩu của tiệm thuốc chú Năm Ngâu để dành cho mình.

Dì Mười lấy chồng xa nên đôi tháng mới ghé thăm một lần. Dì giống mẹ tôi từ khuôn mặt đến vóc dáng, đến cả giọng nói. Trong nhà Ngoại chỉ có mẹ tôi và dì là đẹp hơn cả nên dì lấy chồng trước hơn cả dì Tám, dì Chín.
Dượng Mười nhà giàu nhưng xấu trai. Cái gì cũng gượng gạo, cứng nhắc nơi gương mặt, nơi cử chỉ của dượng. Cà Lố - quê dượng - là một miền xa xôi giáp ranh với các buôn Thượng du. Nơi đây trẻ con không hề biết xe đạp là cái gì và những bộ ván đặt ở nhà bếp cũng dày đến một tấc, dài đến bốn thước. Thật là giang sơn của danh mộc. Tay chân ngượng cứng như thân cây, nét mặt thản nhiên như vỏ cây, dượng Mười quả đúng là sản phẩm của miền đất xa xôi này.
Ở đây tất cả đều thầm lặng nghiêm trang. Rừng già màu xanh tối đứng bao vây những sườn núi an phận. Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu con bò. Suối nước chảy qua khe đá. Con chim đứng hát trên cành. Và linh hồn của cả cái khung cảnh hoang sơ này là một sự im lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến miền xa, dượng Mười ít cười đùa, không biết trả lời những câu nói trêu! Chỉ khi nào chạy rượt theo bắt một con bò mộng sổng chuồng bỏ chạy hoặc cầm rựa chẻ cả một thân tre dài đánh lạt buộc rào là dượng có giá trị.
Rõ ràng là dì Mười tôi không sung sướng trong cảnh đi lấy chồng. Dì không có tướng mạo của một người cai quản giang sơn. Dì vóc người nhỏ nhắn yếu đuối. Dễ xúc động. Hình như dì có cảm tình với cha tôi nhiều hơn với dượng Mười. Có lần tôi nghe dì khóc giữa một câu chuyện trao đổi với cha tôi và chen vào những tiếng thổn thức tôi nghe được những lời rời rạc của dì:

- Em cực tâm lắm... chán lắm... chị Tư mất... anh khổ... Phải như em...

Tôi nghĩ rằng phải như dì chưa lấy chồng thì chắc chắn là dì bằng lòng lấy cha tôi.

Trái ngược với cậu tôi, bà Ngoại thì chưa thấy mặt đã thấy quà. Chân chưa bước đến cửa ngõ mà miệng đã lanh lảnh cất tiếng gọi:

- Tiến ơi! Ra lấy gói kẹo đây con.

Có bà đâu là y như có quà và có nước mắt đó. Bà lột vỏ khoai cho tôi, bà bẻ kẹo cho tôi và bà chăm chăm nhìn tôi như một con chó con. Tôi quàng tay ngang bụng bà, miệng nhai nhách nhách cả buổi và chỉ dừng lại khi nghe bà xì mũi. Ngẩng mặt nhìn lên thấy nước mắt bà chảy ràn rụa, tôi hỏi những câu thật ngu:

- Sao bà khóc vậy? Ai làm bà khóc vậy bà?

Bà thường không trả lời mà chỉ cúi xuống hôn tôi, nước mắt dây cả ra mặt.

Đoạn tang mẹ tôi xong, những người quen thúc cha tôi lấy vợ kế. Cha tôi thường ậm ừ dường như chưa chọn được đám nào. Bà Ngoại thì thỉnh thoảng cách tháng mới ghé và mỗi lần ghé đều ở không lâu. Bà moi tất cả quần áo của tôi ra kiểm soát. Những áo quần nào đứt nút, rách... bà để riêng rồi lấy rổ khâu của mẹ tôi rút kim chỉ ra ngồi vá, đính nút. Tôi hay ngồi bên cạnh xỏ kim cho Ngoại. Lâu lâu tôi thấy nước mắt Ngoại rớt trên mụn vải đang vá. Tôi nói:

- Bà Ngoại đừng khóc chớ. Ướt cái áo của con.

Ngoại ngửng mặt lên, đôi mắt đỏ và ướt đầm đìa nước mắt. Ngoại nói:

- Cha con mày có muốn ở thế này cũng không được. Phải như mày là con gái thì còn giúp đỡ được việc nhà cho cha mày. Con trai phải đi học.

Tôi thích làm con gái để được "ở thế này" như lời Ngoại nói. Chắc đó là điều Ngoại mong ước.

Có một hôm chú Giáo, - một người bạn thân của cha tôi, - thân mật nói giữa câu chuyện:

- Hay là anh đi hỏi cô Ba Hường đi. Trai góa vợ, gái góa chồng, rổ rách cạp vành, chọn lựa chi.

Tôi đưa mắt nhìn ý kiến của cha tôi, nhưng tôi thấy ông chỉ mỉm cười. Dầu vậy câu nói của chú Giáo in sâu vào óc tôi và từ đó tôi lưu ý đến sự giao thiệp giữa cô Ba và cha tôi nhiều hơn.
Tôi thấy rằng từ ngày đoạn tang mẹ tôi, hiển nhiên là cô tỏ ý thương tôi nhiều hơn trước. Chuối cô bẻ cho đều chín tới chớ không còn mang vài vết bầm đen nữa. Mãng cầu thì lành lặn chớ không nứt nẻ chảy tươm mật ra nữa. Có lần cha tôi bị cảm tôi lục tìm ve dầu mà không biết lộn ở đâu, nhà đàn ông góa vợ bao giờ cũng bề bộn, thì có tiếng cô Ba kêu tên tôi ở từ bờ thành:

- Tiến ơi.

Tôi "Dạ" chạy lại thì thấy cô giơ cao ve dầu Nhị thiên đưa qua bờ thành:

- Đem về thoa lên màng tang cho cha. Chấm vào đầu ngón tay rồi thoa dọc theo xương sống.

Tôi "Dạ", cầm lấy ve dầu xoay lưng bước đi, thì có tiếng cô dặn với theo:

- Thoa xong con nhớ đậy nút lại kẻo đổ.

Lạ nhỉ, sao cô biết là cha tôi đau và tôi đang lục tìm ve dầu? Ở nhà tôi ai cũng ít nói. Con nhỏ ở suýt soát bằng tuổi tôi và vốn là con của một người có họ xa ở mãi chợ Đồn, chợ Thứ, cha tôi đi hàng nửa ngày đường mới dắt về được thì nó còn ít nói hơn cả chúng tôi. Nó chỉ biết nấu cơm, kho cá, luộc rau và ngủ gục bên cạnh ông Táo. Kho cá thì mặn như kho nước mắm tiêu để nuôi đàn bà đẻ. Luộc rau thì nửa xanh nửa đen. Cô Ba không tỏ ra có cảm tình với con nhỏ này. Có lẽ vì con gái hay dòm ngó và bép xép. Mãi sau đó khi thấy nó có mặt cũng như không, ngồi đâu là ngồi lầm lì khiến người ta có thể lầm lẫn nó với cái cối giã hay trái bí đao thì cô mới tỏ lòng chiếu cố nó. Cô sớt những trái chuối sắp úng và những cái bánh ít gần thiu cho nó.

Từ ve dầu nhỏ nhặt dễ trao đổi cho mượn qua lại, có lần cô Ba gọi tôi đưa một nải chuối tiêu. Ở miền tôi chuối tiêu quí lắm, trái dài và mảnh uốn cong, xếp sát vào nhau nằm đài các như những ngón tay của một cô công chúa. Cô Ba nói:

- Con đem nải chuối này về cho cha. Thưa với cha: chuối tiêu ăn hiền.

Cha tôi nhận mà có vẻ miễn cưỡng. Tuy nhiên cái gì rồi cũng quen đi, việc biếu xén trao qua trả lại diễn tiến mỗi ngày một thêm đều đặn êm đềm hơn. Nhưng nhất định là tôi chưa hề thấy cha tôi bước qua ngõ nhà cô Ba. Cha tôi không hẳn là một nhà Nho nhưng ông có cái khí tiết nho sĩ, có lẽ do ở bẩm sinh. Học chữ Nho năm, bảy năm gì đó rồi chuyển sang học Quốc ngữ và chữ Pháp. Được vài năm rồi bỏ. Khi tôi lớn, thỉnh thoảng nghe ông nhắc lại vài câu chữ Pháp học hồi xưa. Chẳng hạn:

Le boeuf a une bosse sur le dos.

Je vais avec ma mère à la mare du village ((1) Con bò có một cái bướu trên lưng Tôi đi với mẹ tôi ra ao làng )

Hai mươi năm, ba bốn mươi năm sau, khi có dịp nhắc lại ngày đi học thuở nhỏ, ông đều đọc y nguyên mấy câu trên. Làm như bao nhiêu kiến thức về Pháp ngữ đã thu tóm lại để kết tinh thành mấy câu đó.

Chú Giáo lâu lâu lại nhắc:

- Sao? Anh đi cưới cô Ba Hường chớ còn đợi gì nữa?

Cha tôi chịu chuyện niềm nở hơn trước, đưa ra những thắc mắc rụt rè:

- Nhà mình nghèo hơn. Nghĩ có bất tiện...

- Cũng chẳng giàu nghèo hơn thua gì bao nhiêu.

- Sao lại chẳng bao nhiêu? Đàn ông giàu dung thứ được vợ nghèo. Đàn bà giàu thì không.

Mối cảm tình của cha tôi đối cô Ba cứ lững chững như thế, như một người đi phải chống gậy. Cho đến một hôm vô tình mà cha tôi và tôi nghe lọt một câu chuyện ở bên kia nhà cô Ba. Hôm ấy tôi theo ngồi cạnh cha tôi để moi lỗ trồng những cây cà chua ở ven rào. Bên kia bờ thành tiếng cô Ba nói chuyện với khách, giọng nói đặc biệt dõng dạc rổn rang. Chẳng biết đó là do thói quen hách dịch của người giàu có hay là biểu hiện của một tướng người đàn bà cô độc. Khách là ông hương kiểm Mót. Khi nhà nước triều đại Pétain phát triển phong trào thanh niên thể thao Ducaroy lập sân vận động An Thổ, hương kiểm Mót có lạc quyên năm mươi đồng và được thưởng hàm Phó tổng dụng. Nhưng dân xóm không mấy ai chịu gọi là ông Phó. Khi vắng mặt ông, họ vẫn gọi xách mé là hương kiểm Mót. Chỉ vì ông xuất thân làm nghề thiến heo, dốt đến nỗi cầm cây viết tập viết bốn chữ "Nguyễn Mót tự ký" mà tay cứ run khựng lên, tập cả tháng mà cầm viết cũng chưa vững. Đã vậy, "Mót" là một chữ Nôm, cách viết rườm rà phức ạp hơn chữ Hán nên người bà con đổi dùm tên ông lại là Nguyễn Thủ, bởi chữ Thủ viết đơn giản chỉ gồm ba nét ngang và một cái sổ móc câu. Sống trong thời đại không cần lập giấy khai sinh, cuộc đời thật đơn giản dễ chịu, muốn thay đổi tên họ thêm bớt tuổi tác gì tùy ý.

Câu chuyện lọt vào tai cha tôi nhằm vào đoạn hương kiểm Mót nói về một nhân vật nào đó. Giọng ông ta nhỏ lại để tăng thêm không khí tâm sự thân mật. Tôi chỉ nghe lỏng bỏng từng đoạn.

- ... Làm việc ở Huyện... về hưu... giàu... con lớn hết rồi... bao chiếm cái đầm lác ở Hội Phú...

Tiếng cô Ba vang lên rõ ràng:

- Chuyện đó tôi có nghe. Cái đầm lác của làng Diêm Điền chớ không phải của làng Hội Phú. Nhưng mà giấy tờ không phân minh. Ông ta làm Lại mục ở Huyện biết rõ tình lý nên đứng giấy xin khẩn. Nhà nước chiếu y phép tắc, cấp giấy cho khai khẩn. Bây giờ ông ta mướn đắp bờ ngăn từng khoảnh, đặt cống tháo nước và cấy được ba giạ giống rồi.

- Dạ đúng đó... (tiếng nói hạ thấp xuống) tánh tình tử tế bình dân... thương con nhà nghèo... dòng dõi làm quan to ngoài Huế...

- Chỗ đó sau này thành ruộng thuộc, cấy nếp gòn thì phải thế lắm. Cấy lúa sợ bị rùm... Mấy lần lên hầu quan tôi có gặp thầy Lại đó. Tướng người thanh cảnh.

- Dạ...

Tiếng hương kiểm nhỏ hẳn lại, tôi không nghe rõ. Chợt cô Ba cất tiếng cười:

- Đâu có. Người ta ở không vui miệng đồn chơi...

- Dạ. Cô nghĩ vậy là phải. Nhà ông Học Mười nghèo (Học là tên người ta dùng để chỉ cha tôi). Thầy Lại người quí phái...

Tiếng nói nhỏ trở lại. Một lát có tiếng cười dài của cô Ba và của hương kiểm Mót trộn lẫn vào nhau.

Cha tôi cắm cái xuổng nhỏ đang cầm trên tay xuống đất, đứng dậy. Tôi nhìn lên gương mặt thấy nghiêm trang. Ông nói nhỏ, giọng hơi run:

- Còn mấy cây, con trồng tiếp đi. Cha vô nhà lấy cái này.

Tối đó cha tôi ăn ít và sai con nhỏ ở đóng cổng sớm. Ông thắp nhiều nén hương trên bàn thờ mẹ tôi và chong đèn thật khuya. Nằm trên bộ ván, tôi chập chờn đi vào giấc ngủ với trước mắt một khoảng tối rung rinh do bóng ông in hắt lên vách. Một vài ngày sau, ông gọi riêng tôi dặn:

- Con đừng nhảy qua bên nhà cô Ba Hường nữa. Không được nhận bánh kẹo gì của cô hết.

Tôi vâng dạ và làm y theo lời. Mấy lần có tiếng cô gọi inh ỏi "Tiến ơi! Tiến ơi! Ra lấy cái này" nhưng tôi nín thinh chạy núp ở trong kẹt cửa. Sau đó cha tôi hay vác dù ra đi, có khi đi cả buổi, có khi đi cả ngày. Và hai tháng sau cha tôi cưới Dì tôi.

Dì tôi mới hai mươi tuổi, thua cha tôi đến mười bốn tuổi. Quê dì ở mãi Triều Sơn, hồi giờ chưa ai biết mặt nên hôm rước dâu cả xóm ồ ạt tới coi mặt. Đàn bà háo hức hơn hết.

Ý chừng họ trông mong được thấy một con mụ dạ xoa để cho thỏa lòng tự ái và ganh tị. Tiếc thay dì tôi lại xinh xắn. Có điều là con gái miền biển nên nước da không được trắng lắm. Mấy bà có tuổi khen ngay trước mặt cô dâu:

- Mặt mày sáng sủa. Ông Học Mười cũng khéo kén chọn.

- Ờ, con người cao ráo dễ thương. Đâu có thua mẹ thằng Tiến.

Những cô con gái hà tiện lời khen hơn:

- Ngó cũng được.

- Nước da không được trắng.

- Cái áo dài hồ thủy may vụng. Tà không úp.

Hôm đám cưới tấp nập bên nhà tôi, dường như bên cô Ba không thắp đèn. Trước hàng hiên nhà cô là một dãy lan can, thường thường tối nào chong đèn là đứng ngoài thấy rõ bộ ván gõ nơi cô hay ngồi têm trầu, cái bàn thờ ở giữa và hai bồ lúa lớn quầy chồng lên nhau. Thế mà đêm nay nhìn sang tôi thấy nhà cô chỉ còn là một khối bóng đen đặc sệt.

Sự đoạn tuyệt giữa cha tôi và cô Ba Hường tôi tin chắc là do hôm trồng cà cha tôi nghe được câu chuyện trao đổi giữa cô và hương kiểm Mót. Cố nhiên là cha tôi giàu hay nghèo không phải đợi đến hôm đó hương kiểm Mót có nói ra cô mới biết. Cô tỏ cảm tình với cha tôi tức là cô đã cân nhắc rồi. Nhưng sao đã cân nhắc, đã chấp nhận mà khi hương kiểm Mót nói chạm đến cha tôi cô không lên tiếng bênh vực mà lại chỉ cười đồng tình và đồng lõa?

Sau khi cha tôi lấy vợ, nét mặt cô Ba Hường chừng như già đi. Cũng vẫn khuôn mặt đó không gầy ốm suy hao gì nhưng mà nhìn lên thấy mất đi cái phần tinh anh rạng rỡ, như một tấm gương đã mờ mờ nước thủy. Tuy vậy cô vẫn không chểnh mảng trong việc trang điểm ăn mặc. Chân tóc trên trán chạy theo một đường cong đều đặn, bao nhiêu tóc con đều bị nhổ sạch.
Ngoại trừ mấy bà quí phái ở thành thị còn chỉ có vợ Huệ kiều và đĩ mới cạo, gọt cho chân tóc thẳng hàng như một đường vẽ như vậy. Cái trán nào cũng trở thành cao lên do ranh giới của tóc mỗi ngày một bị đẩy lui. Đôi lông mày có dấu vết nhíp nhổ. Môi đỏ màu nước cốt trầu. Nước cốt trầu có khi đóng đen cả vành môi, tôi nghĩ rằng cô phải năng mượn miếng trầu để giết nỗi cô đơn.
Mỗi khi đi đâu, cô đều cầm gọn trong tay cái hộp trầu bằng thiếc trắng. Nó nguyên là cái hộp đựng xà bông thơm. Cầm hộp trầu, đó là một sự sang trọng. Xung quanh tôi, bà Xã, bà Hương đều bỏ trầu cau rễ thuốc trong cái khăn xéo, cuốn lại, cột gút một vòng, rồi khi đi đâu dắt vào lưng quần bên hông. Cái áo dài mặc phủ ra ngoài. Do cái khăn xéo trầu, do cái túi áo đựng đủ trăm thứ mà thân hình bà nào cũng nổng ra ở khoảng giữa.
Cô Ba thường mặc áo dài tơ Thượng Hải màu xanh lục hay màu nâu non và quần lục soạn trắng. Đi dép da. Trong khi mọi người đàn ông và đàn bà đều rập khuôn như nhau trong cái áo dài đen không thay thế được, bóng dáng cô tách hẳn ra ngoài, sáng hơn, mát hơn như một đóa hoa lưu ly vượt qua lùm cỏ tối, mở tung cánh tràng làm sáng rỡ một vùng. Tiếng dép đập chanh chách dưới gót chân.

Ông Lại mục về hưu có ghé tại nhà cô năm, bảy lần. Đó là một người đàn ông mặt xương xương, cạo gọt nhẵn nhụi. Đôi vai ngang và mỏng trông như cái thẻ ngà. Lúc nào cũng đội khăn đóng mặc áo the đen và đi giày hạ. Cái dù đen cán quang dầu giương ra tròn trặn khác xa với những cái dù đen khác cán mây và mỏng trẹt.
Ông đi từng bước ngắn, thận trọng, tính toán. Thật là một phong cách quí phái dịu dàng, khác xa hẳn với lề lối thô lỗ của người vùng tôi. Thuốc lá hút không phải tự tay xé giấy quyến vấn lấy mà đã có người nhà vấn sẵn xếp thứ tự trong một cái hộp bạc dẹp ông bỏ theo túi áo ngực. Người quê tôi gọi đó là thuốc sòi. Cô Ba tiếp đãi trọng thể ở gian phòng trong, nơi có nhiều bóng tối âm u và sự trang nghiêm. Ít ai được đi lọt vào gian này, chỗ cô thờ phụng và kê cái tủ để tiền bạc. Có lần tôi đi vào đây, sợ hãi nhìn lên cái trang lớn nơi thờ ông Quan Công, khiếp đảm nhìn mặt Châu Xương có vằn đen như cọp (thú thật là hồi ấy tôi chưa thấy con cọp chỉ mới nhìn thấy trong hình vẽ) đôi mắt mở trợn trừng. Cô không dám gọi là ông Quan Công, ông Quan Thánh mà chỉ gọi là "Ông", thờ Ông, vía Ông. Sự cung kính có pha chút ít thân tình, tôi nghĩ. Vì thần thánh trở thành một vị tổ tiên của gia đình, phù trì giúp đỡ.

Nội dung sự giao tế giữa cô Ba và ông Lại mục diễn biến ra sao, tôi không được rõ. Căn cứ theo lời đồn đãi của người trong xóm thì tình hình rất đỗi bi quan. Họ bảo cô Ba bị mắc bợm. Ông Lại mục có vợ ở Huế. Nhà không quí phái quan quyền gì hết theo ông như lời hương kiểm Mót tán tụng. Bà vợ cờ bạc dông dài và mê đồng bóng, nhất định không chịu theo ông về cái huyện nhiễm sốt rét rừng này. Bao nhiêu lương tiền ông phải gửi về cung phụng cho vợ. Nhà vợ mới là nhà quan. Ông xuất thân thơ lại tầm thường chỉ nhờ tài điếm miệng mà dụ dỗ con quan làm cho có mang rồi mới được gả. Nhà vợ phải lo lót cất nhắc cho ông. Về hưu, nghèo, ông tìm kế xoay xở bằng cách xin khẩn cái đầm lác. Nhưng lấy tiền đâu mà khai khẩn? Bọn thầy cò, thập việc, lính lệ, tổng lý sưu tầm một danh sách đàn bà góa có tiền để chồng chọn. Cân nhắc nhân dạng, tình hình địa lý thuận tiện, ông chọn cô Ba Hường. Thầy cò xã Tám được ủy nhiệm bố trí. Xã Tám sai hương kiểm Mót đi nhặt tin và thả quả bóng thăm dò. Đáng lẽ theo kế hoạch của xã Tám thì công việc phải tiến hành hết sức chậm rãi bởi cô Ba có tiếng là khôn, "khôn nẻ vỏ". Xã Tám định phải nhiều lần lấy cớ nọ đến nhà để du thuyết. Không ngờ công việc thành tựu mau quá, đốt mấy giai đoạn. Lý do ít ai biết, nhưng tôi thì quyết chắc là bởi cha tôi lấy vợ.

Ông Lại mục có nghỉ đêm ở nhà cô Ba một lần. Ông ghé lại vào khoảng chín giờ tối. Cô Ba trải chiếu lên bộ ván trước hàng ba, mang gối tai bèo, gối dài và mền dạ để cho khách nghỉ. Rồi cô rút vào nhà giữa, cài cửa cẩn thận. Lệ nhà giàu ở nhà quê cất nhà hay chia ra ngăn trước mặt chạy dài theo mái hiên để tiếp khách gọi là hàng ba. Hàng ba mở ra hiên bằng một hàng song can. Khách nghỉ lại thì nằm ở hàng ba, chủ nhà có thể rút vào nhà trong có cửa nẻo cài kín, ngăn cách. Nửa khuya tôi chợt dậy bởi tiếng chó đủ loại của bên nhà cô sủa inh ỏi. Nhà đàn bà góa phải nuôi chó dữ, cái đó đã đành. Riêng cô Ba thì cô nuôi quá nhiều, một bầy có đến năm, sáu con mà mỗi con mỗi loại. Nhưng tất cả đều là chó cái, có con lùn tịt lông trắng vá nâu, đầu to mặt gãy trông như cái mặt thằng lùn rạp xiếc sinh non tháng. Đó, theo lời cô, là con chó Nhật. Có con mình dài, chân cao, bụng thon loại "chó Tây". Chó ta thì có cả vàng, vện, mực. Cả bầy chó đó sủa lẫn lộn, tiếng ong ỏng của con chó Tây, tiếng tru của con Vện già, tiếng chóc chóc của con Vàng con Mực và đặc biệt có tiếng léo nhéo như than thở của con chó Nhật. Có ánh đèn chói, tôi dậy đưa mắt qua khung cửa sổ, cái cửa sổ cao nơi đầu giường ngủ của tôi mở thẳng nhìn sang mặt nhà cô. Một quang cảnh lạ lùng hiện ra làm tôi bỡ ngỡ. Cô Ba cầm cái đèn bạch nhĩ trên tay. Chiếc áo cánh lụa bị xé toạc để hở nửa *. Tóc rơi tung khiến dưới ánh đèn mặt cô trông khác hẳn đi. Cái cổ trắng, cái ngực trắng, một khuôn mặt có từng mảng bóng tối lấp vào những chỗ trũng làm nổi bật vành môi, sống mũi, gò má.
Tôi thấy cô đẹp hơn hẳn những lúc cô đài các dưới màu áo tơ Thượng Hải đắt tiền. Áo quần che đậy kỹ quá cũng làm lu mờ đi sức hấp dẫn của một cơ thể. Tay trái cô cầm một cây song gài cửa dựng đứng, lúc mới nhìn vào tôi tưởng đó là bóng đen của một cây song can do ánh đèn phản chiếu. Trước mặt cô, ông Lại mục mặc áo vạt hò. Tóc rơi lòa xòa. Trước trán, một đường máu ri rỉ chảy khiến ông đưa tay từng chặp lên lau. Tiếng cô Ba cố hết sức nói cho nhỏ nhưng ép một lúc thì nó rổn rang trở lại:

- ...thầy là người chức tước mà thầy làm vậy. Tôi kính nể thầy, tiếp đãi trọng vọng, chiếu dài gối cao... Nhà tôi đàn bà góa, nhĩ mục quan chiêm... xóm giềng người ta biết thì còn gì danh giá của tôi...

Sự giận dữ và sợ hãi làm giọng cô hổn hển đứt quãng nhưng từng lúc cô cũng gắng chêm vào câu nói những thành ngữ, những chữ Nho hoa hòe. Nào là "trong nhà chưa biết, ngoài ngõ chưa hay"... nào là "dạ gian vô cố nhập nhân gia..." Chắc chờ trải qua một thời gian góa bụi dài cô mới có đủ thì giờ sưu tầm được một mớ dụng ngữ phong phú nói đến thân phận của mình. Ông Lại mục thì cứ im miệng đứng đó, chốc chốc đưa tay chặm vào vết thương nơi trán. Cơn buồn ngủ dìu tôi lên giường để mặc cho hai người kết thúc cuộc đàm thoại.

Sau đêm hôm đó, ông Lại mục không lai vãng đến nhà cô Ba nữa. Cả con đường này cũng không thấy dáng ông đi qua. Muốn đi về Huyện, ông phải theo ngả Bình Chánh men theo con đường tỉnh lộ, tuy phải chịu đi xa hơn và con đường nắng chang chang không có bóng cây. Không biết xuất phát từ cửa miệng nào trước mà mới hai ngày sau, người trong xóm đã chuyền tai nhau câu chuyện ông Lại mục bị cô Ba đánh toét đầu. Thật đúng là "tai vách mạch rừng". Tôi chắc tin đó phải do ông Thủ Phò người láng giềng bên tay trái của cô phát đi. Thành ra tôi tuy bất ngờ có được chứng kiến tận mắt nhưng những chi tiết ly kỳ thì phải nghe từ miệng của những người ở xa nhà cô Ba nhất, ở tận mãi cuối xóm.

- Lão đó muốn bòn rút của. Nhưng lật đật mà hư việc. Cá mới ngửi mồi mà đã muốn bắt bỏ giỏ rồi.

- Chưa cưới hỏi, chưa ăn nằm mà đã hỏi vay tiền khai khẩn đầm lác thì ai không nghi? Cô Ba khôn từ trong trứng khôn ra, đâu có dễ bị lừa.

- Làm sao biết đã ăn nằm hay chưa? Nghe nói đêm nào cũng ghìm sõng câu ở bờ sông rồi chín giờ khuya thì bò lên.

- Lão này mở ba mặt trận một lúc. Cô Ba ở đây, bà Xã Bảy Hà Bằng, bà Phó Trạy ở Quán Cau. Bà nào cũng góa cũng giàu. Cô Ba nổi ghen. Nghe nói bữa đó bị đánh nặng quá phải có người nhà khiêng xuống sõng.

- Cầm dao mà chém xối xả vào mặt vào mũi con người ta, kể thật cũng dạn đó. Nữ kê tác quái, thời bây giờ gà mái lộng quyền.

Không nghe ai giải thích bằng cách nào mà đang ngủ ở hàng ba, ông Lại mục đã khiến cô mở cửa để ông xúc phạm được thân thể cô.

Cô Ba sống những ngày âm thầm sau đó. Một ông thầy trợ giáo dạy chữ Nho ở trường nhà nước, đã lớn tuổi, đánh tiếng đi hỏi. Cô không nhận, ông này mê tài bàn và tứ sắc lắm nên cứ đầu tháng lương là đi dạy trễ. Có bữa cai trường phải đến nhà trọ lay thầy dậy rửa mặt để ra lớp. Hễ có tiền là ông thức suốt đêm đánh cho kỳ thua hết nhẵn mới chịu nghỉ. Đó là con bò sữa cho mấy tay cờ bạc chuyên nghiệp sống vất vưởng ở quanh cổng Huyện.

Cố nhiên là cô Ba không thể thưởng thức một người nghệ sĩ cỡ đó. Chánh tổng An Hải vợ nâng 15 năm không sinh đẻ, Phó tổng An Vinh vợ bỏ đi hoang đều muốn ngấp nghé hỏi cô. Nhưng cái bóng lớn của ông Lại mục bị thảm bại làm họ rụt rè không dám. Dư luận quả thật bất lợi cho cô. Sau đó còn có nhiều người nữa, nhiều nữa. Đó là những người cô gặp trên đường đi, cùng ngồi chung một chuyến xe đò, cùng ngồi ăn một quán, cùng quen lui tới thăm hỏi một nhà... ở Vũng Lấm, ở Tuy Hòa, ở Qui Nhơn... bao nhiêu người đó là đối tượng cho cô cân nhắc, chọn lựa. Cô không tin ai hết. Cố nhiên là người nào cũng nói thương cô lắm nhưng biết lấy gì bảo chứng lời nói. Lòng người ta không phải là cái bánh ít cứ lột trần lần lá là thấy rõ trắng đen. Phải chi nhà cô nghèo thì cô biết chắc là ai thương ai ghét. Người nói thương cô sợ họ chỉ thương những đôi xuyến, những hột vàng đeo nơi cổ tay, chỉ thương mười mấy mẫu ruộng. Cô không tin ai hết. Bà con, hàng xóm tá điền..., tất cả đều muốn cướp của cô càng nhiều càng hay. Bao nhiêu đất thổ trồng mía trồng bắp, trồng bông cô đem bán hết lấy tiền mua ruộng. Hồi còn mẹ tôi, tôi nghe cô giảng cho mẹ tôi rằng:

- Đám bắp, đám bông, soi mía... nhà rẽ ăn gian chị làm sao biết được? Người ta vô giữa đám bẻ bắp, lặt bông đem về nhà cất trước, liệu chị có biết không? Chẳng lẽ ngày mùa phải đi rảo giữa đám mà kiểm soát? Mà kiểm soát làm sao được? Chớ đám ruộng lúa chín nằm sờ sờ dưới tầm mắt mình. Cắt một vạt nhỏ đã thấy dấu liền. Bữa đi coi gặt cứ rảo một vòng qua bốn bờ ruộng, giỏi lắm thì bò trâu người ta đi qua có liếm vài lượm lúa là cùng. Trái bắp cây mía, đậu phộng, mè... nhà rẽ ăn trước mình.

Mẹ tôi đem câu chuyện về kể lại cho cha tôi nghe thì cha tôi nói:

- Khôn lắm thì rồi khổ nhiều. Nước quá trong không cá, người xét nét quá không bạn.

Tôi suy nghĩ về lời nói của cha tôi mỗi khi nhìn cái hiên nhà vắng tanh, cái sân chỉ có bầy chó gầm ghè hay nằm lì mỗi con một chỗ. Những khi cô lục đục một mình sau bếp hay khi cô đi vắng, tôi hay đứng nhìn sang nhà cô. Thật y như một ngôi miếu cổ. Những cây song can đứng thẳng hàng, màu gỗ vàng đục lạnh lùng, nặng nề làm tôi liên tưởng đến những cây song của một nhà tù. Khi cô đi lại thui thủi trong đó thì cô ta thật giống một tù nhân chung thân cấm cố. Ngồi ăn một mình, nhai nhóp nhép hàng giờ không vội vã bởi chẳng có việc gì làm. Đứng lên ngồi xuống một mình. Ngồi trước ngọn đèn một mình. Khi đêm chuyển sâu dần vào khuya, ánh sao hớn hở trên nền trời, bàn tay cô lần tra ba cây song can vào lỗ ngạch địa, tiếng gỗ khua chạm lục cục nghe buồn nản âm u như chính mình đứng nghe cũng đang chịu một cực hình. Hàng song can dài nhưng cô chỉ rút ba cây vừa đủ để lách mình ra vào. Tấp nập vui vẻ chăng chỉ là những ngày mùa khi có tá điền tới mời đi coi gặt hay khi sõng chở lúa khô lên đăng. Giọng nói của cô lại vang lên lanh lảnh bên cạnh giọng lễ phép trầm trầm của người tá điền. Cô lại bắt khoan bắt nhặt, chê lúa phơi còn ướt, chê lúa giê không sạch lép, bắt đổ ngọn lúa cho đứng thẳng miệng giạ, bắt gạt lúa không được hắt quá mau.

- Đổ lúa tạt nghiêng thì hột lúa đứng sững, trên mặt đầy mà giữa ruột giạ hổng. Gạt lúa hắt mau thì kết quả cũng như vậy. Có lợi cho người đong. Nhiều khi đong một trăm giạ mà có dư ra được vài giạ.

Đó là lời cha tôi giảng khi tôi hỏi nguyên do sự khó tính của cô.

- Thế muốn khỏi bị gian thì cô bắt đổ lúa đứng thẳng ngọn và gạt chậm chậm?

- Phải đổ ngọn lúa cho chảy thẳng và đổ càng chậm thì giạ lúa càng chặt chịa. Nhưng trai sõng ai dư thì giờ mà làm theo. Thành ra chủ điền buộc tá điền không được lấy lúa đong dư đem về. Đong dư có khi do cách đổ lúa cách gạt lúa, cũng có khi do đếm lầm: mới băm sáu băm bảy rồi nhảy sang băm chín. Đếm lầm - vì cố ý thì phải thừa lúc mọi người nói chuyện ồn ào, một tiếng cười nào đó nổi lên, một tiếng la ở đâu... và người ta đếm vọt lên. Nếu chủ điền bắt được thì cũng chẳng lỗi phải gì. Ai cũng có thể vì vô tình mà lộn được.

Nghe cha tôi giảng tôi mới cảm thông được những nhọc nhằn của một người đàn bà như cô phải đối phó với mọi mưu mô của người xung quanh. Một con bò sữa trước mặt mọi người và con bò đó phải tự tạo cho mình, một cách bất đắc dĩ, một bộ mặt sư tử, một lớp da cá sấu, những móng vuốt cọp beo. Để bảo vệ tài sản, quyền lợi, con người phải chịu mang một cái vỏ xấu xí dễ tởm như vậy. Bất lợi biết bao nhiêu cho khía cạnh tình cảm yêu đương? Người đàn ông chỉ thấy cô giơ vuốt ra để giữ cửa. Không còn thấy vẻ mặt dịu hiền của con nai, của con thỏ. Sau này khi dì tôi đã quen với cô thì trong câu chuyện cứ mười lần là đã hết chín lần cô đề cập đến việc khôn dại gian ngay ở đời.

- Chị tính - lời cô nói, - nhà rẽ của tôi như thế này có chịu được không nghe? Lúa cắt ở đồng gánh chạy về sân để đập, nó cho gánh chạy thẳng ra sau bếp nhà nó, đem giấu để riêng. Thế là mất của mình năm, ba gánh lúa.

- Người cắt lúa phải là bà con của nhà rẽ, - lời dì tôi.

- Phải rồi. Có khi lúa chất ngoài đồng gánh về chưa hết, nó lấy rạ phủ lên, mình không biết tưởng đã gánh về hết rồi. Lúa đổ đống chưa kịp hạo, nhiều khi nó bày mình đi ra vườn coi cái cây chuối trổ hai buồng, coi một cây cau nứt hai ngọn. Mình vác mặt đi coi, ở trong này nó xúc lúa giấu bớt.

Dì tôi tính thật thà phì cười nói:

- Chắc họa lắm mới có một người gian như vậy. Mà cho họ có giấu đi được năm giạ lúa thì cô cũng chỉ mất có ba. Ruộng chia tứ lục mà.

Cô Ba chăm chăm nhìn dì tôi tỏ ý ngạc nhiên rằng sao dì tôi lại có thể có một ý kiến ngờ nghệch nông nổi như vậy.

"Làm ăn gì được, người như thế này", chắc là cô nghĩ vậy.

- Đành là mình mất có sáu phần, nhưng mỗi thứ mỗi ít thì rốt cuộc còn lúa đâu cho mình ăn nữa. Lúa rơm lúa rạ, lúa chẻn lúa ngọn, lúa bao sân... một trăm thứ lúa một mình nhà rẽ hưởng. Của mình làm ra mồ hôi nước mắt mới mua được đám ruộng.

Dì tôi không dám phát biểu ý kiến nữa sợ làm mếch lòng cô. Tuy vậy khi về nhà, dường như không thể nín được, dì nói với tôi:

- Làm cho ra được hột lúa nhà rẽ cũng đổ mồ hôi nước mắt. Mặc kệ, cho họ gian chút ít.

Nhà tôi không giàu được bởi mẹ tôi trước đây đã hiền bây giờ đến lượt dì tôi lại còn hiền hơn. Lúa ăn may lắm là giáp hạt. Nếp thì phải mua thêm. Mỗi khi nhìn bồ lúa nhà tôi gầy nhom như cái tháp sau chùa, tôi lại liên tưởng đến bồ lúa nhà cô đầy cành hông và quầy cao lên hai lớp.

Cô Ba mang tiếng là khắc bạc. Kể ra khôn lanh như cô thì vô khối người còn khôn lanh hơn, nhưng người ta không mang tiếng là bởi họ khéo dùng lời lẽ tử tế mà che giấu sự điêu xảo của họ. Cô Ba thì không có mánh khóe che giấu. Cô như lúc nào cũng muốn nhìn rõ sự thật và nói toạc ra sự thật, trắng trợn giơ nanh vuốt ra để đối phó. Cô không tin ở thiện tâm của ai hết. Ai cũng hằm hằm chực xông vào rỉa rói cô như bầy cá trắng rỉa vào một xác chết trôi dọc bờ sông. Những người bạn mà cô còn tỏ ra tin tưởng đôi chút là mấy nhà giàu ở trong vùng. Tin nhất là ông Bang Trưởng Hải Nam, người cố vấn pháp luật của cô. Ông to béo đẫy đà lúc nào cũng mang cặp kính râm màu nâu nhạt. Những việc mua bán ruộng nương, thưa gửi kiện tụng, cô đều nhờ ông Bang Trưởng chỉ dẫn cách thức và làm giấy tờ giùm. Ông Bang Trưởng có liên hệ với người chồng Hoa kiều xấu số của cô. Giọng nói tiếng Việt lơ lớ, cái tay áo và cái ống quần quá rộng, cái cổ áo đứng cao, đó là cái hình ảnh đã ăn nằm âu yếm cô.

Người Hoa kiều nào cũng thích mặc quần áo có sọc màu lợt chạy dài. Hai người - ông Bang Trưởng và chồng cô, - cùng sinh ra, lớn lên ở một làng nhỏ nào đó ở trong đảo Hải Nam. Làng có nhiều núi ít ruộng. Ngày đói chen với ngày no. Những năm mất mùa phải vào núi đào củ ăn thay cơm. Niền Tô, - tên chồng cô, - di cư sang Việt Nam mang theo tính kiệm ước nơi quê hương, bữa cơm trưa chỉ ăn toàn cháo. Tranh sống với người Việt Nam bắt đầu bằng một chân tài phú sau tiến lên làm chủ một tiệm buôn nhỏ. Đủ mọi món hàng lẩm cẩm trong một tiệm buôn như vậy: nhang đèn, giấy vàng bạc, thùng quẹt, xà bông, mì bún, giấy quyến, rượu thuốc... Trong những thôn xóm rải rác hẻo lánh nhất của đồng quê Việt Nam, người ta thường bất ngờ gặp một tiệm buôn Hoa kiều kiểu đó. Thổ sản trong miền có gì, họ đều mua hết: đậu xanh, đậu phộng, bông, bắp, mật ong, gạc nai, mật gấu. Cho vay đầu mùa cày và tới mùa gặt thì mang bao tới giữa sân gặt đong lúa nợ. Có nhiều tá điền giữa ngày mùa, lúa vừa phơi khô giê sạch xong đã có năm, bảy chủ nợ đứng đợi sẵn với những đôi bao. Lúa nạp cho chủ điền, lúa đổ vào bao chủ nợ, chỉ còn lại trên sân một đống bụi và lúa ép. Và nong nia thúng rổ. Và chổi. Và những thân người cơ cực, chán nản chuẩn bị ngày mai lại đi vay để bắt đầu một cái vòng lẩn quẩn mới.

Hồi sinh thời Niền Tồ hay bùi ngùi ngồi kể lại những ngày dĩ vãng của mình bên cạnh ly rượu thuốc và dĩa mực nướng:

- Pen Tồ (bên Tàu) ít có đồ ăn. Con chó sói tên lừng (trên rừng) cũng đói. Con chó sói xuống làng pắc con liếc (bắt con nít) ăn thịt. Người ta lênh tênh lừng (lên trên rừng) hái lá cây mà ăn...

Rồi Niền Tồ nước mắt rơi lã chã kể lại trường hợp mẹ y bị con chó sói cắn nát mình khi vào rừng đào củ về cho con ăn. Kể đến đây, Niền Tồ ngồi khóc hì hì như cười. Cô Ba lặng lẽ ngồi nhìn Niền Tồ khóc ngon lành như một đứa trẻ con và cô cảm thấy mình yêu mến Niền Tồ bởi cái tính hồn nhiên hơi trẻ con đó. Một người đàn ông Việt vào tuổi Niền Tồ thường không biểu lộ xúc cảm một cách lộ liễu như vậy. Không biết vì họ khô cạn tâm hồn hơn hay vì họ thích làm bộ anh hùng trước mặt người đàn bà. Vợ chồng Việt hiểu nhau quá nhiều nên họ phải cố giấu bớt những nhược điểm, cố gắng dối trá đôi chút. Niền Tồ khóc tự nhiên trước mặt vợ làm như y đang ngồi một mình hoặc như y đang đối diện với một lọ hoa vô tri hay với một con ngỗng. Cô Ba thấy y hạ mình trước mặt cô và đương nhiên là y đang cần một tình bao dung che chở. Niền Tồ làm ăn cần cù, tính toán rành mạch với người ngoài nhưng đối với vợ thì lại xuề xòa tin cẩn. Nhiều khi y ngồi nhìn cô, ngẩng cái mặt ngây ngô như một người không hề có trí khôn. Chắc những lúc ấy y suy nghĩ bằng tiếng Tàu và về những chuyện bên Tàu nên cô không hiểu gì hết trên cái khuôn mặt đó. Niền Tồ có nhiều khuyết điểm mà y không hề che giấu. Chẳng hạn cái trán và cái ống chân đầy những sẹo. Y nói: "Hồi nhỏ bị con Sát bấu gần chết". Di tích còn lại là vết sẹo to bằng nửa bàn tay nằm vắt ngang màng tang. Da ở vết sẹo láng bóng như có thoa dầu. Vết sẹo ở ống chân thì do chó nhà giàu cắn. Da túm nhăn lại. Cô Ba thấy lòng thương chồng đậm đà của mình xuất phát từ lòng thương những khuyết điểm của chồng. Niền Tồ là loại người để cho người ta thương một cách tự nhiên chớ không muốn buộc người ta kính nể. Lòng cô Ba thoải mái yên ổn hết sức bên cạnh một người chồng như thế. Không cần phải cố gắng, khỏi cần phải đối phó. Thật khó mà tìm lại một người chồng như vậy, sau Niền Tồ. Người Việt như cô đều quá khôn. Cô thấy xung quanh mình dường như mọi người đều tranh giành nhau một cách hối hả để biểu lộ cái khôn của họ, một thứ khôn hời hợt có tính chất tinh ranh bẻm mép và láu vặt. Ăn sâu dưới đáy tâm hồn là sự gian xảo và nói láo. Cô nghĩ: Có lẽ Niền Tồ cũng muốn nói láo nhưng vì số chữ Việt mà y biết quá ít nên y không biết nói láo làm sao cho gọn, cho trôi.

Trong việc tái giá, cô cũng có đặt mong mỏi nơi giới Hoa kiều. Chắc chắn rằng lấy tiếp một người Hoa kiều nữa là ổn nhất. Người Hoa kiều có một mùi riêng phảng phất nơi quần áo. Đó là tổng hợp của mùi da thuộc, mùi giấy bao gói hàng, mùi thuốc cao đơn đặt trong tủ có bỏ băng phiến. Cô sống quen thuộc với nó khiến cho, mặc dù đã rất nhiều năm góa bụa nhưng khi nghĩ đến là cô có thể mường tượng như được ngửi lại nó phảng phất đâu đây. Ở Chợ Gành, Vĩnh Lâm, chợ Giã đều có rất nhiều Hoa kiều. Họ sống trong những dãy phố có thành cao bao quanh. Trên đầu tường mảnh chai cắm tua tủa. Nhiều người Hoa kiều góa vợ nhưng chỉ chừng một năm đoạn tang là họ đã cưới vợ mới rồi. Họ không chung tình bằng người Việt. Và cưới toàn con gái chớ không chịu lấy đàn bà góa. Con gái Việt khối người thích lấy chồng Hoa kiều. Được mặc áo quần tơ lụa, được ngủ dậy trưa, được ăn thịt trong bữa cơm, được soi gương nhổ lông mày và khỏi làm dâu. Lấy chồng Việt khó có thể làm biếng được. Làm lụng đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu thốn. Những cô con gái có chút nhan sắc mà nhà nghèo đều biết cân nhắc như vậy.

Sau trận bão năm Dậu, bỗng từ đâu lưu lạc trôi về chợ Thành một chú Hoa kiều khá trai. Chú chải tóc có đường rẽ giữa chớ không chải vuốt lên như những người Hoa kiều khác. Chú đứng làm tài phú cho tiệm thuốc Bắc ông Bang Xuân. Lúc nào cũng mặc sơ-mi màu xanh da trời có cài nút măng-sét bạc chớ không chịu đánh trần một cái may-ô như các chú khác. Dì Hiếng, - tên của chú, - nhìn xoáy vào cô Ba mỗi khi cô ghé lại cân thuốc hay mua bóng đèn, hột vịt, mua dầu cù là. Hai con mắt, quỉ quái! Nó như hai mũi kiếm đâm thẳng vào mắt vào má, vào ngực cô. Mỗi lần bị nhìn như vậy, cô Ba cứ thấy đầu mình chao đi, choáng váng. Dì Hiếng trẻ hơn Niền Tồ nhiều nên nhút nhát. Chỉ có tài nhìn. Tuy vậy, sau đó cuộc đối thoại giữa hai người cũng được xảy ra, tiến lên thân mật và cô đã mường tượng thấy một ngày nào đó Dì Hiếng về chiếm cái khoảng trống nơi giường cô, đầu đặt lên cái gối thêu "Loan Phượng hòa minh" cô đã cất đi từ ngày Niền Tồ mất. Nhưng mùa đông năm đó giữa lúc sự tưởng tượng của cô phong phú mãnh liệt trong chăn ấm, khi ngoài hiên gió bấc thổi vi vút, thì có tin Dì Hiếng lén mở tủ ăn cắp tiền của ông Bang rồi trốn mất biệt. Hình ảnh người yêu bị xóa tan, bị bôi bẩn bởi hình ảnh thằng ăn trộm. Tất cả trở thành ghê tởm: đường rẽ của mái tóc, màu áo da trời, đôi mắt nhìn xoáy. Cô Ba có óc thực tế, thương đồng tiền như con nên ghét kẻ gian mặc dù cô không phải là kẻ bị mất cắp. Kẻ trộm tiền của cô, tên A tên B nào đó bấy lâu nay còn ở trong vòng tưởng tượng, hôm nay đã mượn hình ảnh của Dì Hiếng mà hiện ra rõ ràng mỗi khi cô chợt nghĩ đến. Xua đuổi không được. Thay thế không được. Cô mất hẳn Dì Hiếng.

Chừng vào năm cô 45, 46 tuổi gì đó, có một nghi vấn bao trùm lấy cô khiến mỗi lần nhìn cô tôi có cảm tưởng đang nhìn một con tằm bị bao vây trong một tổ kén chằng chịt. Người ta đồn rằng cô dan díu với một anh trai sõng vẫn thường gánh lúa đến đăng cho cô. Anh ta tên là Cược, trạc hai mươi tuổi quê ở Xóm Ngựa. Anh có cái cằm vuông, cái mũi thẳng, cái miệng nhỏ. Thật là một khuôn mặt đẹp ít khi gặp nơi những người lao động như anh. Tay chân vạm vỡ, ngực nở bụng thon. Bỏ đi cái áo vải ta đen chua mùi mồ hôi, tôi nghĩ rằng anh xứng đáng với sự dan díu đó, nếu tin đồn là đúng. Thủ Phò, - lại cũng Thủ Phò, - để mắt dòm dỏ nhiều hơn hết nên những tin xấu đều do miệng Thủ Phò phát ra. Tại sao Thủ Phò xấu miệng? Tôi cho rằng lý do là bởi cô Ba giàu còn ông thì nghèo. Chắc chỉ vì lòng ghen ghét. Ghen với sự ăn ở không mà cứ giàu có của cô và với sự may mắn của kẻ nào được cô thương. Thủ Phò toét mắt, râu ria chơm chởm như rễ tre và quần áo thì quanh năm khai mùi nước tiểu. Vợ đi buôn gà ở chợ xa, còn lão thì lãnh việc giữ con. Cả ngày nách con nằm trên võng, miệng quai quái hát câu "một mai con cá hóa rồng" và cứ từng chập thì nước tiểu của con cứ chảy rông vào quần, vào đùi lão, ban đầu âm ấm sau lành lạnh rồi lẹp nhẹp đổ ngứa. Một người như vậy thì đúng là có tài làm mật thám. Lão tin chắc rằng dù thèm khát đàn ông, cô Ba cũng không bao giờ nghĩ đến lão. Không ăn được thì lão phá vậy. Một đêm kia tôi nghe có tiếng la "Ăn trộm! Bớ làng xóm ơi, ăn trộm! Aên trộm!" Tiếp sau là tiếng chân người chạy thình thịch. Chó sủa rầm lên theo dấu chân chạy. Tiếng người la ơi ới tiếp theo. Chỉ một phút sau là cả xóm náo loạn lên. Bóng tối đen mò như đặc sệt những tiếng người và tiếng chó. Vài mồi lửa bật sáng. Thủ Phò tay cầm cây sào tre vạt nhọn chỉ về phía bờ sông:

- Nó chạy xuống ngả đó. Ngả đó.

Lão chạy trước, theo ngón tay trỏ của lão chỉ nhưng lại cứ nhằm vào hàng rào trước mặt mà đâm đầu vào. Cặp mắt toét thật tai hại. Người ta bỏ lão đứng đó loay hoay rút cái mũi cây sào bị đâm kẹt vào hàng rào, người ta bỏ chạy theo con đường hẹp dẫn xuống bến sông. Có tiếng dầm chèo khua nước loãng xoãng, vội vàng. Đuổi không kịp. Người ta xắn quần đứng lội ở mép nước nhìn một bóng đen vun vút lướt trên mặt sông. Mái dầm chặt xuống từng mảnh sáng đục. Người ta tụ họp lại quanh lão:

- "Nó" đi vào nhà cô Ba, - lời lão. Cửa ngõ cô Ba để mở.

Cử tọa tròn mắt ngạc nhiên. Những đường lông mày nhướn lên, những cái môi trên cong lại như nét vòng của những cái dấu hỏi. Cùng loạt, họ hướng nhìn về nhà cô Ba như cùng tuân theo một mệnh lệnh chỉ huy. Nhà cô sáng ánh đèn nhưng không thấy bóng cô.

- Sao đã khuya rồi mà còn để mở cửa ngõ? - Một tiếng hỏi.

- Tôi đâu có biết. Tôi cầm cái cây sào vạt nhọn nhắm đâm nó một cái. Tưởng lòi ruột rồi. Không dè nó vụt bỏ chạy.

- Có thấy rõ người không?

- Không thấy rõ nhưng dáng quen quen. Cũng người ở gần vùng đây.

Câu chuyện bàn tán ở cái vòng người tụ họp trước ngõ nhà cô và có Thủ Phò đứng làm trung tâm điểm dẫu có hăng nhưng lời lẽ vẫn chỉ xa xôi bóng gió. Ở các nhóm rải rác đôi ba người thì câu chuyện tọc mạch trần truồng hơn. Người ta quả quyết rằng không có ăn trộm ăn đạo gì hết mà chính là tên Cược đến thăm cô Ba như thường lệ.

- Đêm nào thằng Cược cũng ghìm sõng câu ở bến, cột sõng dưới bụi tre.

- Hèn chi con Vện nhà tôi cứ chong xuống bến sông mà sủa gióng một. Ở nhà cứ chửi là con chó điên. Hai người đi lại với nhau không chừng đã có con rồi, ở trong bụng.

Không ai bào chữa cho cô hết. Ai cũng cảm thấy thích thú được đoàn kết với nhau để hạ một người có của như cô.

Anh Cược bỏ nhà đi Lục Tỉnh sau đó. Lại là một cớ để người ta quả quyết rằng câu chuyện dan díu vụng trộm là có thực. Năm, sáu tháng kế theo, người ta ít gặp cô Ba đi ra ngoài. Việc đi chợ mua ăn thì cô hay nhờ dì tôi. Đứa nhỏ ở sai vặt, cô cho về xứ luôn. Ngày tháng bóng dáng cô âm thầm lướt đi từ nhà dưới, nhẹ nhàng như không dám gây tiếng động. Những người đàn bà bắt đầu đặt câu hỏi với dì tôi.

- Người ta đồn cô Ba có mang phải không?

- Đâu có? Tôi cũng không biết rõ.

- Chị còn giấu nữa. Cô ta phải nhờ chị đi chợ dùm.

- Điều đó thì có. Tôi thấy chỗ láng giềng, cô ấy nhờ thì mình sẵn tay mua dùm cho cô. Có mất công chi. Còn việc có mang có mển thì thật tình tôi không rõ.

Dì tôi tính thật thà, ít ăn ít nói ai cũng biết nên không ai giận vì không được thỏa mãn tò mò.

Bước qua mùa thu dường như cô bị bịnh nhiều. Thỉnh thoảng ở bên nhà, tôi nghe tiếng ho và tiếng rên. Một hôm tôi gặp cô đứng cách bức tường nói chuyện với dì tôi. Giọng cô nhọc nhằn và thỉnh thoảng xì mũi như khóc. Đại khái cô nhờ dì tôi ngó chừng dùm nhà, cô phải đi Qui Nhơn một thời gian để uống thuốc một ông thầy Tàu ở đó. Cô nói:

- Tôi có chứng đau bụng máu. Hồi sinh tiền, Niền Tồ có bài thuốc chữa đau bụng máu hay lắm Niền Tồ mất, cái toa thuốc thất lạc...

Cô không giữ được tiếng khóc. Dì tôi an ủi, chịu nhận trách nhiệm và cô Ba ra đi lúc nào tôi không hay biết. Có lẽ là đi rất sớm hồi trời còn mờ đất. Một đứa gái nhỏ con nhà tá điền lên ở nơi nhà ngang để coi nhà và cho bầy chó ăn. Những chậu hẹ, chậu tía tô rau húng tha hồ héo rũ. Con nhỏ lùn quá mà chậu hẹ chậu rau lại gác trên mặt bờ thành cao.

Chừng một tháng sau thì cô về. Da dẻ không tốt hơn trước mà có phần tiều tụy hơn. Đi ra đi vô trong nhà cũng choàng hầu khăn. Tôi không có dịp nghe lời giải thích. Chắc chắn là dì tôi có được nghe và cố nhiên là hàng xóm thì người ta đồng ý với nhau để giải thích cách khác, có nhiều lý thú hơn. Đó là: Cô Ba Hường đi Phan Rang, - chớ không phải đi Qui Nhơn, - để sinh. Đứa con gửi mướn người ta nuôi. Ở miền tôi, câu chuyện nào ly kỳ thì được người ta nghe và truyền đi, không cần xét xem là đúng hay sai sự thật. Chuyện nào hay thì được coi là thật. Nghe chuyện người khác là một lối tiêu khiển. Miền quê nghèo nàn không có hát bội, không có kịch nhạc nên mới chịu một tâm trạng ích kỷ kém lịch sự như vậy.

Làm sao mà biết được mọi tin tức, kể người trong xóm cũng giỏi. Đứa bé sinh ra là gái hay trai, mặt mũi giống ai, người ta kể vanh vách. Lên được hai tuổi thì nghe đâu bị trái trời chết. Có nhiều sự việc phù hợp với lời đồn: dịch trái trời làm chết nhiều con nít trong năm đó, việc trước đây cô Ba cứ vài tháng đi Qui Nhơn đôi ngày và sau này thì ở lì ở nhà không đi đâu nữa.

Sau một thời gian đồn đãi, người ta dần dần ít nhắc đến cô Ba như trước. Bởi cô già đi trông thấy. Đôi má xệ xuống mỗi ngày một nặng thêm. Mỡ làm sa bộ ngực và làm tròn cái bụng. Cô bơi trong cái áo dài hàng Thượng Hải cắt rộng phùng phình. Cuộc đời xế chiều ngã xuống vội vàng gấp gáp. Những nếp nhăn cày trên khuôn mặt. Cô chỉ còn tìm cái thú của cuộc đời trong những bữa ăn có nhiều thịt. Mùi thịt nướng ướp hành tiêu, mùi thịt xào trên lò từ bếp cô bay sang nhà Thủ Phò làm khổ y tới tấp. Cô trả thù đời như vậy, bắt đầu là thằng chó săn khốn kiếp.

Khi lớn lên, tôi đi trọ học ở tỉnh, thường chỉ ngày lễ lớn hay ngày hè mới về nhà. Mỗi khi tôi leo hái ổi cạnh bức tường nhà cô, cô thường ngẩng mặt lên êm đềm hỏi chuyện:

- Tiến mới đi học về đó hả con?

Tôi "dạ" lễ phép.

- Bữa nay con học đỗ bằng gì rồi?

Tôi nhớ đã khai cho cô nghe từ cái bằng sơ học yếu lược, bằng Ri-me (Cerlificat d'études primaires: bằng Tiểu học ), bằng Đít-lôm (Diplôme d'études primaires supérieures: bằng Cao đẳng tiểu học ), bằng...

Nghe đến tiếng "Đít-lôm" cô cười ngặt nghẽo hỏi lại rằng sao Tây đặt chi cái bằng "đít con tôm", học cái gì mà có con tôm con cua trong đó. Cô lại hỏi:

- Con đỗ nhiều bằng như vậy thì làm được ông thông ông phán chưa?

Tôi thưa rằng được. Cô gật gật đầu nhiều lần:

- Vậy là nhà có phước. Con làm được thầy Thông nhất, Thông nhì ở Huyện để cha con mừng.

Tiếng "cha con" tôi nghe cô nói nhẹ. Có một vẻ gì ngập ngừng xa xôi. Tôi nghĩ rằng liền sau tiếng đó, trong lòng cô chắc phải kèm thêm một tiếng thở dài. Giã từ vĩnh viễn những ước vọng. Đã xóa hết, chôn sâu những dự tính. Cô có vẻ lẩm cẩm, nói và nghe đều không còn tinh nhanh như trước. Da mặt đã chuyển sang màu vàng tái như màu da thuộc. Con mắt đưa chậm chạp từ vật này sang vật khác, có lúc nhìn chăm chăm vào khoảng không.

Vòng xuyến biến mất ở cổ tay. Nơi vành tai không còn kim cương lóe sáng. Cô chuẩn bị tuổi già quá sớm. Cô kêu bán bớt ruộng. Những tiếng trả giá thêm bớt nổi vọt lên trong thứ giọng lè nhè, những đoạn văn tự được dò dẫm đọc to lải nhải, ê a như tiếng đánh vần... "phu thê đồng công tạo mãi điền nhất khoảnh, tọa lạc tại Bạc Má xứ, Hòa Mai thôn... Đông cận tiểu lộ Tây cận Nguyễn Văn Phú điền, Nam cận..." Tôi tưởng tượng một ông Hương, ông Lý năm mươi tuổi nằm dài trên bộ ván, trên mũi ghếch trễ tràng một cái kính lão gọng thiếc với đôi mắt kính hình trái xoan nhỏ bằng ngón chân cái. Cái giọng ề à đó chậm rãi trịnh trọng một cách nhạt nhẽo khó chịu như ngầm giấu nhiều ác ý lừa bịp. Có nó là có kèm theo những ly rượu khề khà, kèm theo mấy câu nói nịnh không ai muốn nghe và vài tờ giấy bạc trả công nhét vội vàng trong túi áo. Nó báo hiệu sự suy sụp của một sản nghiệp như tiếng quạ báo hiệu xác chết. Trong cái đám đông ồn ào đó, tiếng người bán nói nhỏ nhất, lạc lõng, nghẹn ngào bởi vì mình là người thua trận đang cần người khác. Bởi vì bao quanh mình là những kẻ cố xâu xé mình: người mua, anh thày cò, người môi giới. Tôi xót thương cho cô Ba đang đóng vai người bại trận đó, bơ vơ lạc lõng hơn bất cứ người bại trận nào khác, bởi lẽ cô sống cô đơn. Không có ai để thở than sau đó. Không có ai để bàn tính cân nhắc trước đó. Trước mặt, sau lưng bên phải, bên trái đều là sa mạc.

Cô đi chùa đều đặn hơn trước và chấp nhận mọi điều mà trước kia cô ầm ĩ chê bai. Thực tình thì những ngày còn sung sức, cô khó tính đến mức không chấp nhận được ai hết. Cô chỉ trích thầy trụ trì, nghi thầy bòn rút của chùa để đem về bới sớt cho gia đình. Thực ra thì nhà chùa có giàu gì cho cam. Những năm mất mùa, thầy trụ trì phải ăn cơm ghé bắp. Cô chê ông đăng ông điệu lười biếng, không lo sửa sang chăm sóc vườn chùa sân chùa. Miếng ruộng sạ của chùa nằm sát con đường xóm, mỗi lần đi qua là cô lên tiếng lẩm bẩm chỉ trích, dù có ai nghe hay không. Nào là ông đăng ông điệu bỏ cỏ bỏ rác, nào là thiếu phân thiếu bổi, nào là rào dậu không kỹ. Đối với bổn đạo thì cô hiềm khích. Cô chê lễ vật của bà này ít: hà tiện; lễ vật của bà kia nhiều: nịnh thầy. Cô dò xét xoi mói từng cái bánh, từng gói trà, từng cử chỉ lời nói, từng giờ giấc đến, về. Cô giành phần lễ Phật trước, cô tranh chỗ ngồi khi thụ trai. Cô loay hoay bất mãn, gieo rắc bực dọc, hành hạ người khác và tự hành hạ mình. Con gấu hung tợn đó bây giờ đã nhu mì. Vuốt đã hết bén rồi và khí huyết cũng không còn sung mãn nữa. Con gấu mò về cửa Tam Quan, cúi nhìn xuống thân phận mình và gối đầu lên cái Chết. Tôi nhìn cô đi từng bước, từng bước nhỏ, chậm chạp, áo hàng nhuộm một màu đà. Cửa song can thường đóng kín. Có nhiều buổi xế gió nồm phe phẩy và bóng mát cắt nửa mặt sân, tôi nhìn sang nhà cô vắng lặng, nhìn bầy chó thẩn thơ con đứng con ngồi. Có khi thì chúng ôm nhau từng cặp, cạ vào nhau, mơn trớn nhau, chồm lên lưng nhau. Rồi giận dữ chúng lật nhau xuống, cắn nhau thật đau. Đáng thương bầy chó cô đơn phải bịt tai với tiếng gọi ái tình. Chúng bị ngăn cách với cuộc đời rộn ràng sinh thú ngoài kia bởi bốn bức tường gạch.

Khi tôi cưới vợ thì tóc cô đã bạc. Nhằm vào lúc cô đang đau nên cô không có sang dự đám cưới. Tuy vậy, cô cũng tỏ ra biết về vợ tôi khá nhiều chi tiết. Cô bảo:

- Nghe nói vợ con nó học hành chữ nghĩa giỏi lắm phải không con?

- Thưa cô, cũng biết vừa vừa vậy thôi, - tôi trả lời.

- Nó quê ở đâu?

- Dạ ở Sài Gòn.

- Cô nghe nói con gái Sài Gòn hay ăn hiếp chồng lắm. Cãi lộn với chồng thường cứ lấy dao đâm.

Tôi cười:

- Cũng có người hiền người dữ.

- Bữa nào con dẫn nó qua bên này chơi.

Vợ tôi đối với cô có nhiều cảm tình mặc dù bây giờ cô không còn một nét nhỏ nào của người đàn bà có nhan sắc và giàu có của thời xưa. Thỉnh thoảng vợ tôi vá dùm cho cô cái áo, hoặc cầm kéo cắt ngắn bớt mớ tóc bạc phơ. Khi thì gửi biếu cô mấy cái bánh ngọt hay mang sang một bát canh cá. Cô năng đau yếu mà số ruộng thì đã bán hết. Có ba giạ giống cúng cho chùa để lấy huê lợi phụng tự, cô cũng xin lại để bán ăn. Cô già đi nhanh chóng làm như sức khỏe cũng biết chạy xuống dốc. Trên con đường xóm lởm chởm đá và mẻ sành, cô đi lò dò từng bước, thân hình chênh vênh mỗi khi chiếc guốc sắp trượt lên những viên đá rung rinh. Đôi mắt mỏi mệt không còn đủ sức để nhìn thẳng hay ngước nhìn lên mà chỉ chăm chú nhìn vào một khoảng nhỏ dưới bước chân. Miệng lầm bầm nói chuyện một mình, nói với một bóng người tưởng tượng nào đó hoặc với cái quá khứ của chính mình. Gặp người hay gặp bò cũng mặc kệ, người hay bò phải liệu tránh ra để tìm lấy lối đi. Như thế, cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại, lạc lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng đường cuối cùng của người lực sĩ đuối sức.

Cứ cách năm, mười ngày, có người đến khiêng cái tủ, chở bộ ván, cái ghế thờ, cái bàn. Rồi đến cả những cây cột song can. Cô đứng vịn tay vào cây cột trước hiên dõi mắt nhìn theo, nước mắt chảy ròng xuống mắt. Đó là những đứa con. Đó là núm ruột. Đó là cuộc đời. Cô ngồi bệt xuống hiên nhọc mệt thở. Hai chiếc răng nanh ở hàm trên chõi dài ra bên khoảng trống đen ngòm do hàm răng cửa đã rụng hết. Bờm tóc bạc, vàng bẩn. Màu da mai mái của người bị ngộ độc. Những nếp nhăn hỗn loạn. Tôi chua xót và hối hận khi trong óc vụt có ý nghĩ rằng khuôn mặt đó đã khác xa với một khuôn mặt người bình thường. Nhiều khi nhọc mệt quá cô ngồi tựa cửa há miệng ra thở hổn hển, cặp răng nanh chõi ra như dài thêm, khoảng trống của răng đen hơn, những nếp nhăn sâu hơn, chằng chịt hơn. Hình ảnh đau thương và nhục nhã của cuộc đời người. Tôi thấy mình đang tàn nhẫn dẫu mình không phải là nguyên nhân của sự đày đọa ấy. Bất lực đứng nhìn rồi bỏ đi, thế cũng đã là tàn nhẫn rồi. Tôi nhìn xích ra một khoảng trống bên cạnh, dựng lên trong óc tôi một hình ảnh cô Ba khi còn xuân, má đầy đặn màu hồng. Vàng xuyến chói lòa ở cổ tay. Thật khó nhọc hết sức mới xua đuổi được cái hình ảnh tiều tụy của cô hôm nay, nó cứ lấn át, tranh giành, chực đè lên hình ảnh huy hoàng cũ. Bởi vì đã xa quá, những ngày sung sướng.

Cô Ba từ trần nhằm vào lúc tôi đi vắng nhà. Khi về nghe thuật lại, tôi không ngạc nhiên về những chi tiết của cái chết đó. Người ta gọi cổng mãi mà không thấy cô rục rịch đi ra. Người ta lùa tay mở chốt cửa. Người ta bước vào nhà, thấy cô ngồi bệt xuống đất đầu ghếch lên một góc tường chết cứng hồi nào không biết. Có thể là cô đang đi tìm nước uống. Có thể là cô mò đi tiểu. Không cần luật y khám nghiệm, không cần thân nhân xác nhận, Hội nghĩa táng của thôn lo việc chôn cất. Gò núi ở cuối thôn là nơi an nghỉ của mọi người không phân biệt giàu hay nghèo, không cần phải tranh giành, không cần phải xin phép ai hết. Quả tình là chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng thoải mái hơn nhiều so với những chặng đường nhọc nhằn cam go mà cô đã đi mấy năm gần đây khi già yếu và nghèo nàn, cô đơn và bị đời lạnh lùng hắt hủi. Trong những người mà hồi tuổi nhỏ tôi được biết, nhiều người đã chết, rải rác, êm thấm trong các chặng quá khứ lờ mờ của tôi, lặng lẽ như trong một buổi hoàng hôn dài: ông ngoại bà ngoại, mẹ tôi, bà thím, ông Xã Năm, ông Cửu Hai... nhưng chưa có ai làm tôi xót thương cho bằng cô Ba Hường. Không phải vì họ hàng, không phải vì cô thương tôi mà chỉ vì cái cuộc đời cô đơn lạnh lẽo đó mang nhiều mâu thuẫn: cực khổ bởi vì giàu, dại khờ bởi vì quá khôn ngoan, bị bỏ quên bởi được mến chuộng. Ngoại trừ dùng Số Mệnh để mà giải thích và an phận còn thì, nếu dùng lý trí để mà suy xét cân nhắc thì tôi chắc nhiều người cũng sẽ như tôi xót thương mãi cho thân phận người đàn bà đó không biết nên xử sự như thế nào cho phải trong cái xã hội quá nhiều ác tâm lường gạt.


Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

7 . Niềm Tin Chưa Mất

Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao, nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.

- Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức suốt đêm bên giường con không?

Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:

- Nhưng mà... lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.

- "Heo luộc" là cái gì?

Tôi ngơ ngác hỏi.

- Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.

Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng. Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.

Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ, mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày. Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư. Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên, còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm * thâm dán sát vào da như đầu của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.

- Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.

- Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều cho tao một tí mày.

Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo. Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.

Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết, lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc, gọi:

- Tộc, lên bảng.

Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy Nghĩa quát:

- Quay mặt trở lại!

Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy hỏi:

- Hồi trưa mày làm gì?

Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:

- Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá...

Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:

- ... Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác cho bà ta thì bà ta...

Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:

- Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.

Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:

- Thôi cho đi xuống.

Tộc "dạ" một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ. Những khẩu hiệu "Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy, Chăm chỉ sạch sẽ...", được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề "Lời khuyên học trò". Bắt đầu như thế này:

Trống trường vừa đánh mau mau,

Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.

Đừng nói chuyện chớ làm ồn

Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.

Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật. Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt chép thêm một đoạn "Lời khuyên học trò" (tiếp theo):

Dưa cà là của người ta

Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.

Bắt được đã phải chịu đòn

Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.

Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài "Lời khuyên..." như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:

- Mày ở dơ thế kia?

Tộc thưa liền:

- Thưa thầy con mới tắm ạ.

- Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất thế này.

Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hoi ngượng, đứng im nhìn kỹ Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:

- Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.

Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:

- Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.

Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp. Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên vách, ném đá bể ngói... mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc. Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:

- Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.

Thầy hỏi:

- Mày leo gì được?

Thì Tộc vồn vã ngay:

- Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần "nài" mà.

Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt nói:

- Nước hôi bùn quá!

Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: "Chết! Sao mày ăn nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi".

Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:

- Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.

Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:

- Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.

Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa... Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó. Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định..., hoặc nước Việt Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v... Đến giờ đọc tiếng Pháp thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là "ơ" chữ nào đọc "e", chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy, hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ "cà" chứ không nói nữa. Mà mỗi lần "cà" như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải cho anh về chỗ.

Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:

- Đố tụi mày "la ma-rơ" là cái gì?

Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:

- Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un pont... (lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một cái cầu. )

Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.

Tôi hỏi:

- Bây giờ mày ở nhà làm gì?

- Tao đi củi.

- Có còn đánh đáo nữa không?

- Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng "ngon" lắm.

Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt, mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu. Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người sau đó.

Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại, mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp. Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng. Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:

Ban Mê Thuột, ngày.... tháng.......

Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc không, Tộc "Thạnh Xương" của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là "con chuột rụt rè". Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là "con mèo khiêu khích" nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con "Bạch Tuyết". Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm. Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.

Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền. Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân... những kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi. Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.

Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột, chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.

Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết chuyện.

Nhớ ghi địa chỉ là:

Ông Trần Minh Thạnh

4I, đường Ama Trang Long

Ban-mê-thuột.

Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con ở trần và đen đỉu như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi "thằng" Tộc đi hoang đã dụ dỗ con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

8 . Lá Vẫn Xanh


Ngày này sang ngày nọ túi bụi vì công việc, chỉ thỉnh thoảng có một ngày chủ nhật rảnh, gặp một vài người bạn quen nói chuyện bâng quơ, thế mà cũng đủ để Phương phải nghe một tin không chút gì lý thú: tin tận thế.

Tin phát ra từ cuối năm 1959 và được nhiều người biết là vào dịp Tết Canh Tý 1960. Tết là dịp người ta chúc nhau khỏe mạnh, giàu sang và sinh đẻ sai. Tiếp theo là uống rượu mùi, hút thuốc lá thơm và nhá hạt dưa. Nhưng nếu chỉ làm có bấy nhiêu việc đó thì phiền lắm, phiền cho chủ nhân cứ phải nhìn mãi ảnh mình treo trên vách, phiền cho khách cứ từng chặp lén ngó đồng hồ tay. Không, người ta phải kiếm chuyện nói cho đầy ít nhất là mười lăm phút xã giao. Mọi câu chuyện hợp thời được bới ra, trong đó có câu chuyện bức thư ở Pha-ti-ma (Fatima) tiên đoán vận mệnh của trái đất, của nhân loại. Người đầu tiên nói cho Phương nghe tin này là một ông bạn có tuổi:

- Không khéo chúng ta nguy cả.

Vốn không có tính tò mò nên Phương chỉ mở to mắt ngồi đợi ông bạn tự ý nói tiếp câu khai mào bỏ dở:

- Năm 1959 đúng là năm Giáo hội mở bức thư tiên tri ở Pha-ti-ma.

Phương nhìn lên tấm lịch treo tường.

- Chúng ta hiện ở vào tháng Giêng 1960 rồi. Chắc bức thư đã được mở rồi.

- Chắc đã mở rồi nhưng chưa thấy công bố nội dung. Chắc hẳn có những sự đáng lo ngại cho vận mệnh nhân loại.

- Chắc hẳn.

Phương đáp lại như một tiếng vang. Thấy chàng không có ý sốt sắng dự đoán và tưởng tượng, ông bạn già lặng lẽ nhấp nước trà và lặng lẽ hút thuốc.

Ấy thế mà sang ngày Tết lại chính Phương là người hay nhắc đến bức thư tiên tri này nhất. Chàng còn hăng hái lý luận dự đoán nữa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học nguyên tử, sự chạy đua vũ trang của thế giới, những cuộc biểu tình, những bản kiến nghị yêu cầu đình chỉ thí nghiệm nguyên tử của các nhà khoa học và của các dân tộc văn minh khiến Phương nghĩ đến vận mệnh của thế giới một cách bi quan và thế là chàng tự ý giải thích bức thư tiên tri theo quan điểm bi quan của chàng. Những người nghe đều gật đầu suy ngẫm. Ít có vấn đề nào lại khéo gây sự đồng ý bằng vấn đề này. Không ai phản đối hết. Vì tận thế là chết cả, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn tất cả đều chết một cách bình đẳng. Không còn ai được quyền thương hại ai và lẽ tất nhiên là khỏi có ai phải bực mình vì bị người khác thương hại dùm. Thật là bình đẳng đến mức lý tưởng. Khi biết chắc không có ai được hưởng đặc quyền sống sót, mọi người cam chịu tận thế một cách bình tĩnh, bằng lòng. Nhưng... may thay, đó chỉ là những ức đoán vừa có vẻ thật, vừa có vẻ không, có điều là vừa đủ để vui câu chuyện trong ngày xuân. Chứng cớ là khi bắt tay giã từ, chủ và khách vẫn long trọng chúc nhau một lần nữa:

- Ngồi nói chuyện với bác thế mà đã lâu rồi, không dám quấy thì giờ bác nhiều hơn. Thôi thì lại xin kính chúc bác một năm đại phát tài, thăng quan tiến chức...

- Dạ, cảm ơn bác. Cũng xin kính chúc bác và quí quyến một năm mới thọ phúc khang an.

Quả thật vậy, câu chuyện tận thế, cuối cùng vẫn chỉ là câu chuyện.

Những ngày xuân êm đềm và thong thả qua đi, mang theo đi luôn những ước mong, những niềm tin dễ dãi. Cuộc sống bận rộn lại lôi kéo Phương vào một nhịp quay cuồng khiến chàng nhiều hôm quên cả bóc tờ lịch trên tường. Lặn hụp trong sự sống, quay cuồng theo sự sống, sống theo thói quen, nhiều lúc sống một cách vô ý thức khiến đôi khi ngồi bình tĩnh nghĩ lại chàng đau xót thấy rằng mình đã quên là mình đang sống. Và như thế là cái tin tận thế đã được đẩy lui vào dĩ vãng nếu một buổi chiều kia, chàng không tiện chân ghé vào nhà một chị bạn, chị Dung. Chính chị Dung ra mở cổng. Vừa bước trở vào phòng khách thì một mâm cơm ăn nửa chừng làm chàng hoảng hốt dừng lại. Dù là gia đình quen, quen đến cái độ coi như bà con, Phương cũng thấy ngượng vì mình đến thăm không nhằm lúc. Bữa cơm ăn dở dang trông hỗn độn như một bãi chiến trường, nhất là bãi chiến trường ấy lại diễn ra ở trên chiếu, giữa phòng khách. Thật vô tình mà đến ba, bốn tầng bất ổn đã kết hợp lại trong sự tổ chức cuộc ăn chiều này, ăn quá sớm so với thường lệ. Bà cụ má chị Dung giục chàng bước vào:

- Cậu Phương vào tự nhiên. Mời cậu ngồi ở xa-lông nói chuyện.

Chị Dung cũng tươi cười mời:

- Anh ngồi chơi. Bà con ở trong nhà mà. Trời nóng quá, bà má bày đặt ăn cơm trên chiếu.

Phương lật đật an ủi chị:

- Đó cũng là một cách trở bữa chị Dung ơi! Thay đổi chỗ ngồi cũng làm cho mình ngon miệng như là thay đổi món ăn vậy.

Bà cụ không muốn dài dòng, đâm ngang câu chuyện một cách thực tế:

- Lũ nhỏ này, - cụ chỉ sáu đứa cháu nội ngồi la liệt trên chiếu, - chúng nó ồn ào quá. Ngồi vào bàn ăn thì đứa kéo ghé, đứa giựt khăn bàn, đứa chồm lên, đứa làm đổ canh, đứa hụt chân ngã, phiền mình, khổ mình. Đem dọn "cha" nó xuống đất cho rảnh việc.

Phương cười to, cười ngon lành vì lối nói không kiểu cách của bà cụ. Lũ nhỏ lây cái không khí cởi mở tự nhiên, đã trở lại ồn ào, nhai cơm, húp nước canh gõ đũa vào chén, hít mũi, nói chuyện. Nhưng chị Dung thì hình như vẫn chưa tìm lại được sự tự nhiên. Chị và một miếng cơm quá nhỏ, nhai cơm mà không gắp thức ăn. Chị nhìn ra sân nheo nheo mắt. Một tay cầm đôi đũa chống hững hờ vào giữa bát cơm. Như chợt nghĩ ra một điều gì vừa ý, chị quay sang Phương:

- Lũ nhỏ này lộn xộn quá, anh thấy không? Thật là điềm tận thế mà.

Thằng cháu Thạnh chừng chín tuổi, lè nhè cướp lời:

- Cô giáo con cũng mới bảo là sắp tận thế đó, cô Năm ơi. Ghê lắm.

Chị của Thạnh, bé Điềm góp ý liền:

- Mấy đứa bạn của tao, con Gái, con Nga, thằng Ánh cũng nói sắp tận thế.

Bé Tuyết ngậm một miệng cơm đầy, lúng búng nói:

- Thầy giáo con...

Thằng Căn, đũa còn khuấy trong bát canh chưa quơ được một miếng thịt vừa ý, ngửng mặt lên:

- Bà nội à, anh xích-lô chở con đi học nói rằng tới ngày tận thế thì...

Bà cụ nạt lên một tiếng:

- Thôi im đi, tụi bay nhỏ.

Nghe tiếng nạt, lũ nhỏ gác bỏ thắc mắc cúi xuống lầm lũi ăn. Bà cụ quay lại phía Phương:

- Ai cũng nói đến ngày tận thế. Cậu Phương có sợ tận thế không?

Thật là khó trả lời vì chàng chưa hề cân nhắc kỹ xem bên sợ và bên không sợ bên nào nặng nhẹ hơn.

Chị Dung đỡ lời:

- Bà già hỏi ngộ quá. Sao lại không sợ?

Phương thấy rằng chị Dung có lý. Ừ, sợ chớ sao không sợ. Nói quách như chị Dung có phải tiện không và có phải thật thà hơn không? Sao lại tránh nói sợ khi ít nhiều mình cũng sợ thật?

Chị Dung tiếp:

- Kinh Thánh có dạy rằng khi Quỷ Vương ngự trị, khi dân Do Thái lập quốc, khi trên trời có những điềm lạ, đó là lúc tận thế.

- Tận thế nghĩa là hết sống. Chết thì càng khỏe chớ sao. Khỏi phải bận tìm kế sinh nhai.

- Nhưng chết đâu có êm ái như anh tưởng. Thiên tai xảy dồn dập. Nơi này núi lửa phun lên, nơi kia sóng thần cuồn cuộn tràn vào thành phố, nơi khác động đất...

Như được khơi nhằm mạch, óc Phương nghĩ ngay đến những thiên tai chàng đã thuộc lòng lúc đi học, những quang cảnh chàng đã từng tưởng tượng thấy: trái đất nứt ra, người vật nhà cửa đổ nhào xuống rồi đất khép lại...hỏa sơn phun khói phun tro đầy trời và tro rơi ngập cả thành phố làm chết ngạt người trong đó. Rồi sét đánh, rồi mưa lũ, gió to, nước dâng vân vân... Khắp nơi, tiếng người rú lên kinh khủng, tiếng kêu gào đau xót, tiếng khóc thảm thương trong khi Tạo hóa hoặc như vô tình, hoặc như phẫn nộ, lần lượt gieo các tai họa xuống. Các tai họa lúc thì diễn ra một mình, lúc thì đồng diễn phụ họa, lúc thì theo nhịp thong thả, lúc thì rộn rã tới tấp, nhân loại sẽ có cảm tưởng như đang dự một cuộc đại hợp tấu mà các mục trong chương trình được tuần tự trình bày.

Lúc giã từ chị Dung và bà cụ, Phương nhận những lời chào mời mà hơi thẫn thờ không để ý. Những tiếng thưa của lũ nhỏ "Thưa chú đi về...Dạ thưa chú...Chú đi về ạ..." ồn ào và có pha nghịch ngợm chỉ được chàng trả lời bằng giọng "ừ...ừ, chào mấy cháu" hết sức là hình thức. Vì ra đến ngoài đường mà những tiếng gào khóc, tiếng sét nổ, tiếng gió rít và tiếng nhà đổ, cây ngã, tiếng nước réo như vẫn quay cuồng trong óc chàng. Đến góc phố Nguyễn Hoàng - Lê quý Đôn, xe chàng suýt đâm vào hai chiếc xe đạp đi ngược chiều. Sắp sửa cáu vì mình đi đúng luật lệ, chàng chợt mỉm cười khi người đi xe đạp trái luật quay lại chào chàng. Đó là hai thiếu nữ lạ mặt nhưng đẹp. Hai màu áo đỏ giống nhau. Hai mái tóc ngắn giống nhau. Thế là từ đó trên đường về, chàng không còn nghe tiếng gào khóc, tiếng sấm sét nữa mà chỉ còn văng vẳng tiếng nũng nịu. "Xin lỗi ông, ông có làm sao không ạ". Và thay vì những ánh sáng của chớp giật, ánh trăng đỏ máu hay bóng tối ngập trời, chàng thấy màu răng trắng giữa hai khuôn môi tươi và ánh mắt long lanh ướt.

Một lần nữa, câu chuyện tận thế vẫn chỉ là một câu chuyện.

Thì bỗng một buổi trưa nọ ngồi giở tờ báo hàng ngày, Phương đọc nhằm một tin vặt:

"Sáng 7-7 tại hẻm nhỏ ngang đường Mạnh Tử (Chợ Lớn) có bà lão bán guốc vì nghe người ở nhà đọc báo bàn luận về tin một nhóm thiên văn gia Ý đại lợi tiên đoán vào ngày 14-7 là ngày tận thế nên nghe xong bà lão bỗng tái mặt rồi té bất tỉnh tại chỗ".

Chàng quay lại hỏi con:

- Hôm nay mấy tây rồi bay?

Thằng Đức nhanh nhẩu đáp:

- Mùng chín.

Bé Ngân tụt xuống ghế đi lên phòng khách. Rồi từ trên ấy tiếng Ngân vang lên:

- Mùng chín ba à, mùng chín.

Đức hỏi:

- Chi vậy ba? Ba hỏi chi vậy?

Phương quay lại nhìn con. Trên nét mặt con chàng thấy có một vẻ gì háo hức. Hình như chúng đợi một tin gì vui, chẳng hạn chúng sắp được dẫn đi xi-nê, chàng sắp đưa chúng đi mua áo hay mua dép, hoặc có tin ông bà chúng ở Lò Gốm sắp vào thăm. Chàng nhìn con giây lâu, so sánh cái tin dữ dội kia với những cặp mắt hiền lành, với tâm hồn tin tưởng ngây thơ của con. Chàng ấp úng:

- Ba hỏi cho biết vậy thôi.

- Không phải. Ba nói dối con. - Đức phụng phịu.

- Không, ba nói thật đấy.

Để tránh khỏi nói dối con nhiều nữa, chàng giục:

- Thôi, mấy đứa con học bài đi.

Chàng chăm chăm nhìn con, óc loay hoay với cái tin vừa rồi. Tận thế. Chàng lẩm nhẩm: Còn năm ngày nữa. Ừ, thật không ngờ cái tin kinh khủng này lại đến mau vậy. Từ hồi còn nhỏ đi học, chàng đã nghe người ta chuyền miệng cho nhau rằng năm 2000 sẽ tận thế. Có đại hồng thủy. Và trước sau không biết đến mấy lần chàng đã nhẩm tính xem đến năm 2000 mình được bao nhiêu tuổi. Thấy lúc ấy mình đã không còn trẻ nữa, chàng yên tâm không băn khoăn, không tiếc rẻ. Nay bỗng nhiên án tử hình được tuyên bố đột ngột. Đang làm ăn lương thiện, con người chợt được tin mình phải tội chết và chỉ trong năm ngày nữa là bị đem ra hành hình. May thay, tin đó có nhiều hi vọng là tin thất thiệt. Nhưng biết đâu? Ừ nhỉ, nhưng biết đâu? Trái đất chỉ là một hạt bụi bay lửng lơ trong vũ trụ cơ mà. Mà hạt bụi thì đâu có thể đòi hỏi cái quyền tự mình viết lịch sử cho mình? Huống chi là con người, quá nhỏ so với cái hạt bụi đó. Ồ, chúng ta thật y như là một bầy kiến cận thị, vui vẻ, ồ ạt, tin tưởng, lục cục mang những mẩu cơm, mẩu bánh, cánh dế, chân sâu để về cất trong tổ. Lũ kiến, chúng hẳn đã thảo luận cùng nhau những chương trình xây dựng tổ, chương trình tiết kiệm để qua mùa đông, chương trình phòng vệ. Chúng hẳn đang sung sướng vì nếm trước hạnh phúc ở đầu kia chương trình. Chúng đâu có ngờ đến cái bàn chân của một đứa bé tinh nghịch đứng gần đó sắp sửa giáng xuống, chà qua chà lại, biến chúng và cả họ hàng chúng thành một cục nhầy nhụa viên tròn, biến lịch sử của chúng - sao lại không gọi như thế được, - thành một chuyện huyền hoặc. Ôi! Lịch sử của con người sau ngày tận thế cũng vậy. Ai có thể tin rằng trái đất hoang vu kia đã từng là cái nôi và là ngôi mộ của hằng hà sa số con người? Rằng nơi đó con người đã xây dựng hạnh phúc và nuôi dưỡng thù hằn? Còn ai tranh giành nhau nữa không, một rẻo đất, một góc vườn? Đất rộng mênh mông đầy dẫy ra đó. Còn ai tự hào hay ganh tị vì sự chiếm hữu của mình hoặc của người khác nữa không? Xe cộ bỏ không đó, lâu đài hoang lạnh đó, vàng ngọc vung vãi ra đó bên cạnh đá sỏi. Những con gà, con vịt, nói chung là chim chóc, những con bò con cừu, nói chung là gia súc, sinh sôi nẩy nở không hạn chế đi lang thang tự do, không còn là đối tượng thèm muốn, tranh giành, cướp giấu của con người nữa. Và cây cối! Cây cối không bị hạn chế sức phát triển, sẽ khỏi phải tuân theo trật tự do ai định hết. Những cây cỏ dại được dịp để lấn áp những cây kiểng, những cây xưa nay được loài người chăm sóc nâng niu. À, nhưng rồi sẽ diễn ra một cuộc trả thù ghê gớm đây. Những con vật, những cây cối được loài người bảo vệ sẽ bị các con vật, cây cối mà loài người vốn thù ghét, hành hạ trở lại. Ồ! Những con gà, vịt, bồ câu... sẽ không được tự do sung sướng nữa đâu mà chúng bị mèo, chồn sát hại. Bụi tùng bụi cúc không bị cắt xén, uốn theo hình phượng hình lân nhưng sẽ không kịp hớn hở mà đâm chồi tự ý vì những bụi gai bụi cỏ tràn lên ăn hiếp. Phương không ngờ rằng sự lý luận, sự tưởng tượng lại mau dẫn chàng đến một ngõ kiệt như vậy. Té ra sau cuộc tận thế, thoát khỏi bàn tay và khối óc chinh phục của con người, các sinh vật vẫn không tìm thấy tự do, tự do triệt để. Chàng thất vọng. Như một chiếc phi tiễn muốn vượt không gian mà vẫn bị sức hút của trái đất kéo lại, trái đất to lớn luôn luôn có mặt để nhất định không buông thả một ý chí nào muốn vượt khỏi quyền hạn của nó, chàng thất vọng. Sự thất vọng to lớn và thành thật đến nỗi tới đây, chàng không còn biết rằng mình đã suy tư bắt đầu từ điểm nào. Khi nhớ lại rằng mình đang phải đối diện với cái Chết, cái Chết rùng rợn mặc dù là đại đồng, cái Chết sẻ đến đúng kỳ hạn, chàng tự trách là mình nghĩ vẩn vơ vô ích hết sức. Điều đáng cho chàng phải lo nghĩ là nên có thái độ như thế nào. Chàng vừa loay hoay tìm thái độ thì con chàng đã nhẹ nhàng nhắc:

- Một giờ rưỡi rồi đó ba. Sao ba chưa đi nghỉ?

Chàng vâng lời chức năng, bỏ tờ báo xuống bàn bước vào phòng riêng.

- "Còn năm ngày nữa - chàng vừa lê dép vừa tự nhủ - chưa gấp phải định thái độ".

Những ngày sau, chàng hay lưu ý xem phản ứng của những người chung quanh đối với tin tận thế đã loan trên báo. Mặc dù bản tin chỉ chiếm nhu mì có mấy dòng và được xếp bằng chữ nhỏ nhưng chàng chắc chắn rằng nhiều người đã loan truyền đi rồi. Mấy khi tờ báo đăng một tin có liên quan đến nhiều người như vậy? Nhưng sao sự sinh hoạt hình như không có gì thay đổi. Người nào cũng chăm chăm đi về cái hướng của mình định đến, vượt lên những kẻ chậm chạp hơn họ. Các hiệu ăn vẫn đông khách hàng. Cả đến những hiệu uốn tóc. Xe đạp vẫn trôi cuồn cuộn trước các trường học. Những chiếc xe nhà binh vẫn gầm thét hiên ngang. Chàng không biết nên thương hại những người vô tư kia không? HoÏ có giống những con kiến mà mình đã lẩn thẩn nghĩ bữa trước không? Hay là họ khinh ngay cái nhóm tiên tri ngớ ngẩn của xứ Ý-đại-lợi mà không thèm tin? Thật là nát óc khi muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng. Chàng đành chỉ xét đến trường hợp của riêng mình. Nếu có tận thế thật thì trước hết mình cũng không tiếc gì lắm. Cuộc đời sướng khổ đã nếm qua, chàng không thấy háo hức nữa. Có bốn ngàn bạc nợ bà Ngọc chàng chưa trả. Chết khỏi trả nợ không phải là điều mừng vì trước hay sau gì chàng cũng định trả đầy đủ cho người ta. Bạn chàng vay hai ngàn bạc đã hơn một năm nay, muốn vỗ nợ nên cố tránh mặt, lì không trả. Chàng đã mấy lần muốn viết thư mắng cho một trận rồi bỏ luôn nhưng may là rốt cuộc chàng đều nhịn không viết thư. May lắm, vì nếu viết thư mắng thì được gì? Có điều đáng để tiếc nhất là dành dụm được ba trăm ngàn đồng bạc mà bây giờ sắp không dùng đến được. Đó quả là một sự ân hận. Đáng lẽ mình đã tiêu pha cho hết, mắc nợ thêm vài trăm ngàn rồi hãy tận thế. Làm ăn chí thú và lương thiện quả không phải là thượng sách trong cuộc sống có hi vọng kết thúc bằng tận thế. Chàng muốn chuộc lại sự lầm lẫn của mình. Phải sống bất lương! Chàng có trước mặt hai ngày nữa. Thật chả bõ. Tuy vậy chàng cũng thử tìm xem mình có thể sống bất lương như thế nào. Lừa đảo? Nhưng lừa đảo để làm gì nữa trừ phi để muốn được chết cạnh một triệu bạc chẳng hạn như một thằng khùng. Ăn chơi phóng túng? Không chắc đã sung sướng khi óc mình không thoát sự ám ảnh của cái Chết. Nhưng xét cho kỹ, ăn chơi phóng túng có nghĩa là làm gì? Là cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện và đĩ thõa. Bảo rằng phải vội vã đi đánh bạc cho thỏa thích để mà chết là một chuyện ngớ ngẩn không ai có thể nhịn cười được. Còn uống rượu thì được bao nhiêu? Tửu lượng của chàng không quá một chai bia mỗi lần, sự hoang phí không quá mười lăm đồng bạc thì nói đến rượu chè chỉ là một sự mỉa mai lớn. Thuốc phiện thì chàng chưa tập hút. Những món say sưa gây được bệnh ghiền mà chàng từng nếm như rượu, thuốc lá, cà-phê, lúc mới tập đều cho ta cảm giác khó chịu hơn là thích thú. Thuốc phiện chắc cũng thế. Vậy không điên rồ gì mà đi mua những cảm giác khó chịu khi không chắc sẽ được nếm những thích thú sẽ đến sau. Đĩ thõa có lẽ là cái thú dễ dàng hơn hết. Nhưng cũng chưa chắc. Tìm một người đẹp vừa ý mình mà lại bảo là dễ dàng? Tiền dễ tạo hơn là tình nhiều. Đồng tiền không hề chọn người tạo ra nó. Xấu hay đẹp, ngay hay gian, thông minh hay ngu xuẩn không phải là tiêu chuẩn mà đồng tiền nhắm. Chớ tình yêu có con mắt hơn, đòi hỏi nhiều điều kiện hơn. Ồ! Té ra muốn chơi bời phóng túng cũng không phải là một việc dễ dàng. Sống cuộc đời đạo hạnh ai cũng khen vì ai cũng cho là khó, nhưng sống trái lại, sống trụy lạc, sống bê tha, sống điêu xảo nào đã dễ chi?

Tóm lại, cứ theo cái đà lý luận này, Phương đã sống cuộc đời rất bình thường cho đến ngày mười ba tháng bảy. Trưa hôm đó, chàng nhìn lũ con ăn uống ngon lành mà thương hại. Có lẽ nên cho chúng biết rằng ngày mai là tận thế đi. Để chúng tùy nghi mà sửa soạn lấy. Có thể lắm chớ, trẻ con cũng có những băn khoăn riêng của chúng, những nếp tâm tư mà người lớn không hiểu được. Nhưng nên nói thế nào cho chúng đừng sợ hãi đây. Thằng Đức nhút nhát hơn cả, cứ mỗi lần nghe xe chữa lửa rú lên là nó cứ xanh mặt lại. Sét nổ cũng là một mối lo âu của nó. Cả chị Hai, chị bếp nữa. Cũng cần cho chị ấy biết kẻo lỡ cuộc tận thế kéo dài chị ấy có đủ thì giờ để trách mình sao không cho biết trước. Riêng đối với chị này thì phải cho biết khéo léo thế nào để chị đừng rối trí đến nỗi bỏ quên bếp núc, bỏ đói cha con chàng. Ý đã quyết, chàng đợi lúc chị Hai lại bàn xới thêm cơm, chàng lấy giọng điềm nhiên hết sức bảo con:

- Tụi bay biết không? Có ông tiên tri Ý-đại-lợi nói rằng ngày mai tận thế.

- Tận thế là sao hở ba?

- Nghĩa là mọi người đều chết hết.

Thằng Đức reo lên:

- Thế thì sướng, khỏi phải đi học.

Sợ rằng con còn hiểu lầm giá trị của sự "tận thế" nên mới có thái độ có vẻ đùa nghịch dễ dàng, chàng cẩn thận giảng tiếp:

- Tận thế nghĩa là chết hết cả đó, không còn ai sống nữa.

Bé Ngân đang ngậm miếng cơm, mở mắt nhìn chàng giây lâu, nhìn ra chuồng bồ câu ở ngoài sân rồi hỏi:

- Thế mấy con bồ câu cũng chết hết hở ba?

Chàng không trả lời để giữ vẻ nghiêm trọng của vấn đề. Chàng đợi phản ứng của Lý vì Lý lớn hơn cả. Chàng thấy Lý vừa nhai cơm vừa suy nghĩ. Cuối cùng, nó nhìn lên chàng, nói:

- Trưa nay ba có rảnh không? Ba giảng cho con bài ngữ pháp.

Chàng nhìn ba đứa con, thất vọng như một anh hề pha trò mà không ai cười. Chàng dự trù nghe những tiếng rú kinh ngạc và sợ sệt. Chàng đã chuẩn bị sẵn những lý để trấn tĩnh, để an ủi. Hão huyền cả. Tin tận thế rơi vào trống không, không ai phụ họa. Chị Hai thì lặng lẽ lại ngồi chùi nắp soong. Nếu chị tin rằng ngày mai tận thế thì chắc chắn chị không huy động cả hàng tá nắp soong ra mà chùi cẩn thận thế kia. Tâm hồn bơ vơ, chàng đành bắt chước mọi người mà trở lại cái nhịp sống hàng ngày. Chàng nhẫn nại ngồi giảng bài ngữ pháp cho con. Chừng mười phút sau, nguồn vui trở lại. Chàng thấy rằng thái độ vô tư của lũ con mình, bình tĩnh của chị Hai mới chính là thái độ mình muốn có.

Dầu vậy, chàng cũng không thể không bắt đầu ngày mười bốn tháng bảy một cách long trọng. Lúc cầm cái bàn chải răng, chàng nói:

- "Mười bốn tháng bảy là hôm nay đây".

Và khi ngồi ở sở làm, chàng vẫn nghĩ phòng xa: Có thể có một tiếng nổ rầm rồi tất cả tối sầm lại. Hoặc nhanh hơn nữa, tiếng nổ chưa nghe mà bỗng nhiên không ai còn biết gì hết. Y như người bị sét đánh không kịp thấy chớp, không kịp nghe tiếng nổ, không kịp biết là mình như thế nào. Và thế là cáo chung lịch sử của nhân loại. Thật chưa bao giờ con người sắp dự một cuộc biến chuyển vĩ đại mà khỏi phải sắp đặt gì hết. Phương quay nhìn những người bạn ngồi cùng phòng với mình kia. Anh Sinh lách tách gõ máy chữ, chăm chỉ nghiêm trang coi như việc gõ máy là việc quan trọng nhất trong nhân loại. Chị Trang cộng một hàng số mà bôi đi xóa lại. Phải rồi, chị cứ mỉm cười thế kia còn tay trái thì cứ mân mê mái tóc: quả là chị mới uốn tóc chiều qua. Con người mâu thuẫn thật. Giá mà nổ ầm lên một tiếng rồi có ai la "Tận thế rồi, trời ơi!" thì anh Sinh sẽ không còn thấy đánh máy chữ là quan trọng nữa và chị Trang sẽ quên rằng mình mới vừa uốn tóc. Phương vừa buồn cười vừa thương hại cho con người nhỏ nhoi yếu đuối. Và chàng cũng cúi xuống trang sổ như những người bạn của mình. Nhờ công việc như vậy mà rồi giờ khắc qua như thế nào chàng cũng quên không để ý. Mãi cho đến chiều tối, lúc nằm ở ghế dài đặt trước hiên chàng mới đủ thì giờ mà nghĩ và nói:

- Có lẽ không có tận thế.

Nhưng chàng còn nghi rằng tận thế có thể để dành cho đêm nay. Ồ! Như vậy thì rùng rợn lắm. Thà để cho con người thấy rõ vận mệnh dành cho nó, giữa ban ngày. Tận thế xảy ra ban ngày sẽ có nhiều tiếng khóc, tiếng gào nhưng bớt được tiếng kêu gọi nhau, tìm kiếm nhau. Ban đêm!... Nhưng thành thật mà nghĩ, Phương thấy rằng mấy anh chàng tiên tri Ý-đại-lợi đã thua cuộc rồi. Ba phần tư thì giờ đã trôi qua, trái đất và mặt trời vẫn hòa thuận với nhau như hàng triệu triệu năm trước. Xung quanh, tiếng trẻ con đọc bài vang vang, tiếng đọc kinh tối ở nhà bên cạnh đều đều một giọng. Những bản nhạc vẫn trầm bổng phát từ chiếc máy thu thanh. Những giọng ca lả lướt yêu đương, những bức thông cáo trịnh trọng, những bản tin tức rộn ràng như nhắc chàng nhớ rằng trên mọi địa điểm của trái đất, con người đang sống, đang tiêu khiển, đang làm việc và đang hy vọng. Cái cảm giác về sự sống chung đụng này giữa mọi người trên thế giới không biết vì sao lại làm cho chàng thêm tin tưởng rằng loài người còn tồn tại. Sự tin tưởng làm chàng phấn khởi, nhất là khi nhìn bé Ngân nằm ngủ say sưa, đầu đặt trên gối, hơi thở nhịp nhàng. Nhìn một đứa bé ngủ, người ta quả có thêm sự yên tĩnh trong tâm hồn.

Lúc chàng lên giường thì những câu chuyện nhảm nhí ở một trang báo Nhi đồng choán khoảng thì giờ còn lại ngăn cách chàng với giấc ngủ. Và khi chàng chìa tay ra ngoài màn bấm vào cái nút của chiếc đèn giường, óc chàng trống rỗng, không có một ý nghĩ gì ám ảnh hết. Thật quả là không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại. Điều đó, lẽ tất nhiên sau này chàng mới nghiệm thấy.

Sáng hôm sau chàng chỗi dậy theo mặt trời. Chị Hai quét vườn, tiếng chổi lê sạt sạt. Hai con vịt hàng xóm lẻn chui rào tự lúc nào đã bắt đầu cuộc tảo thanh xung quanh vại nước. Gió thổi lao xao lay động tàu lá dừa, và cành lá na, lá mận. Màu lá xanh chứa sức sống dồi dào. Chàng ngẩng lên nhìn trời. Những vảy mây bạc viền màu hồng cũng tưng bừng sự sống. Tất cả mọi vật xung quanh chàng như cùng ca ngợi cuộc đời một cách mãnh liệt, vui say. Chàng nói lên như một lời giã từ:

- Thế là hết tận thế.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

9 . Ngày Xuân Êm Đềm


Chiều hôm ấy khi đi học về, An thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba.

- Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?

Câu trả lời của chú, An đoán trước được nhưng An vẫn thích hỏi. Còn ai vào đây trồng hoa nữa? Ba, bốn năm nay từ khi An có trí khôn, An thấy cứ gần Tết là chú Ba đi xin cây vạn thọ hoặc ở chùa Châu Lâm hoặc ở vườn thằng Kiết về trồng một hàng quanh mép sân. An không biết xem lịch vì lịch in bằng chữ nho, cuốn lịch cha nó treo ở khung cửa sổ bên cạnh cái bàn toán. An cũng không lưu ý tìm xem tháng này là tháng mấy. Đối với tâm hồn ngây thơ của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con tu hú kêu nó nghĩ đến những chùm trái * dẻ chín vàng ngọt lịm và nó nghĩ: "Tháng Ba. Mùa gặt tới". Nhìn bà hàng gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp nếp luộc hơi nóng lên nghi ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm: "Tháng Tám rồi. Sắp mưa lụt". Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo hiệu bằng dãy cúc vạn thọ.

An nhìn trìu mến dãy hoa vừa trồng. Mỗi cây đứng trong một cái lỗ khoét to bằng cái bát sứ. Cây cao hơn mặt đất không quá hai tấc và đứng gục đầu xuống, lá buông ủ rũ. An có cảm tưởng chúng nhớ đàn nhớ bầy, nhớ cái vạt đất nhỏ nơi đó người ta gieo chúng, nơi đó chúng lớn lên cạnh những anh em của chúng cùng một hoa mẹ sinh ra. Có đôi cây yếu quá tưởng như chúng không thể sống qua đêm nay. Sự lo lắng thương hại của An khiến nó thấy cái thái độ lầm lì lạnh nhạt của chú Ba là đáng ghét. Người lớn trông họ vô tâm đến tàn ác. Mấy cây hoa đau đớn ủ rũ thế kia mà họ vẫn có thể thản nhiên bỏ đứng bơ vơ một mình không săn sóc đến. Đêm đến, khi leo lên bộ ván gõ nằm ngủ, An cứ loay hoay nghĩ về mấy cây hoa đáng thương. Và mới sáng tinh sương khi bừng mắt dậy, nó đã nhảy vội ra sân thăm từng cây hoa. Mừng quá! Dù có cây thân còn cong lại chưa đứng thẳng nổi nhưng cây nào đọt cũng xanh tươi, chỉ những lá gần gốc là héo sẫm lại mà thôi. Dăm ngày sau, cây bén rễ và tới một độ nào đó An không nhớ nữa, những cây hoa lớn vụt thật mau, đâm chồi thật nhiều. Những khoảng cách giữa các cây hoa trước kia trống trải mênh mông, giờ đã bị che mất bởi tàng lá.

Cùng với sự phát triển của dãy cúc vạn thọ, cái Tết như cũng lớn dần. Manh nha từ đầu tháng Mười một với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với những rò cải, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân nhà. Cái Tết lớn lần lên với những bụi hoa, vạn thọ, cúc đại đóa, thược dược phát chồi sum suê và bắt đầu ra nụ. Càng đi sâu vào ngày tháng, cái Tết càng hiện rõ thêm, in dấu vết trên mọi cảnh mọi vật và mọi hoạt động của con người. Chữ Tết được nhắc đi nhắc lại một cách thân mến êm đềm trong mọi trường hợp sinh hoạt ở gia đình. Cha nói: "Mấy dây dưa leo chắc ra trái không kịp Tết. Bậy quá. Bị mưa làm thúi giống gieo kỳ trước". Mẹ nói: "Thằng Ba coi chừng mấy con gà thiến. Để qua nhà lão Dần chó cắn chết thì nghỉ ăn Tết đó nghe?" Ở lớp học bạn khoe với nhau: "Tết này tao được đi thăm cô tao ở Phước Lãnh... Bà ngoại vừa gởi cho mẹ tao một trái bí đao to để làm mứt Tết." Ở ngoài đường, chữ Tết len lỏi trong những câu chuyện: "Chợ Tết mà ế quá, tháng Chạp thiếu, hăm Chín lấy làm Ba mươi, chạy Tết cũng mệt... Tết năm nay ở Phú Mỹ có bài chòi..."

Thôn Quảng Đức đa số làm nghề gốm và buôn vôi thế mà sự sinh hoạt cũng hối hả theo cái đà của ngày Tết cứ sừng sững đến gần. Đồ gốm sản xuất ra, chở đò dọc đem bán ở các chợ xa: chợ Đèo, chợ Đồng dài, chợ Gò chai, chợ Gành, chợ Thứ... tiếng ốc tù-và của chủ đò thúc khách quá giang chuyển hàng cho gấp xuống đò vang lên trong đêm khuya. Càng gần Tết sự mua bán càng hối hả rộn rịp nên chợ nào cũng vãn chậm. Đò xuôi chở khách về cũng mãi khuya mới tới bến. Bến đò thành ra ồn ào rộn rịp suốt đêm. Những cây đèn chai làm bằng một đoạn tre trong tẩm dầu, cháy rực sáng cả bực sông, in ngược bóng xuống nước rung rinh, lóe đỏ cả một vùng.

Trên con đường đi xuyên qua xóm, những dáng người gánh gồng vội vã đi chập choạng theo ngọn đèn chai cầm lắc lư dưới tay. Đèn chai ở đây là một cái đèn dầu nhỏ được một nửa cái chai ụp lên để chắn gió. Tiếng chuyện trò lanh lảnh vang trong đêm, hối hả theo bước chân chuyển từ đầu xóm sang cuối xóm. Trong đêm tối mà mọi vật như xóa nhòa hết cả hình nét để tan vào bóng đen, mà mọi sinh vật đều như mỏi mệt, tiếng nói chuyện tỉnh táo rõ ràng dường giữ đủ cả sắc cạnh. Ở dưới bước chân, bóng người in đen được phóng đại ra, nằm trải xuống mặt đường, nằm vắt qua bờ rào, chập chờn di chuyển theo bước đi.

Một bữa An thấy chú Ba hí hoáy nắn một vật gì trông tựa cái lưỡi cày mà bằng đất sét. Chú lấy mũi dao liếc thật nhẵn mặt. Chỗ tay cầm cũng được gọt thật đều. An hỏi:

- Chú làm cái gì vậy?

- Tao làm cái bàn ủi.

- Làm bàn ủi để chi vậy chú?

- Để ủi quần áo chớ chi.

Giọng nói của chú lơ đãng. Trong giọng ấy còn có vẻ tự phụ vì chú nheo mắt ngắm nghía ra dáng bằng lòng lắm. Rồi chú nói chậm rãi tiếp theo, như nói với cái bàn ủi chứ không phải nói với An:

- Mốt tới phiên lò ông Hương Lạc đem gởi nung. Chín rồi lấy ra đem ngâm nước. Thế là giặt quần áo để sẵn đó. Đem đặt bàn ủi lên lò than nóng rồi cứ vậy mà ủi lên mặt quần áo. Quần áo dầu cũ mà trông như mới.

Cũ mà trông như mới! Thật là kỳ diệu, An nghĩ. Nó nhìn xuống cái áo cũ nó đang mặc, tưởng tượng rằng cái áo ấy sẽ mới và nó ngó sang cái bàn ủi một cách khâm phục. Cái bàn ủi ấy được mang đi nung, điều ấy quả có thật. Chính mắt An nhìn nó chuyển từ màu xám của đất phơ sang màu hồng nhạt của đất nung. Cũng lại chính tai An lắng nghe tiếng "boong boong" khi cầm nó lên để gần tai, cung ngón tay gõ nghe thử. Nhưng chắc chắn là An chưa hề thấy chú Ba dùng nó để ủi cái áo của chú cho từ cũ hóa "như mới". Có lẽ chú đã lén thí nghiệm nhưng bị thất bại nên sau đó chú không tuyên bố gì ráo.

Ngày hăm sáu tháng chạp phiên chợ Hôm, mẹ nói:

- Hôm nay An có đi chợ Tết không con?

An vội vàng như sợ ai kịp phản đối.

- Dạ có. Lát nữa thằng Tòng lại rủ con đi.

Tòng là bạn học lớp Tư của An. Vì sao mà quen thân nhau, An cũng không nhớ rõ vì nhà Tòng ở mãi tận Hội Tín đi học khác đường mà tính tình thì hai đứa không giống nhau. Cha Tòng làm thầy phù thủy. Có lần nó rủ An đến nhà chơi thấy gian nhà giữa đầy những tượng, những hình ông thần, ông tướng, những cờ những đèn, trống chiêng, thanh la, não bạt khiến An sợ khép nép không dám vào. Cha Tòng có một cái trán quá cao. Nhìn gần thấy chân tóc mọc nên An biết trán cao là vì tóc bị cạo. Sau này lớn lên được biết nhà Tòng vừa làm phù thủy vừa hát bội, - hai nghề này có họ hàng với nhau vì hò hét điều động âm binh cũng là một cách hát bội, - nên cha Tòng phải để trán cao mà đội cái mão. Lúc Tòng lớn, Tòng nghỉ học sớm và kế nghiệp cha. Cái trán của Tòng cũng được cạo lên thật cao và chân đi chữ bát. Lúc nói chuyện là hai tay vung vẩy như múa. Đó là kết quả của nghệ thuật tiêm nhiễm vào cuộc đời.

An thay quần áo xong thì Tòng đến. Tòng mặc quần trắng và áo cụt lụa màu hồ thủy. Những nếp gấp làm hai ống quần lép lại và gãy ra làm ba. Tòng đội một cái khăn lông màu vàng nghệ có chạy sọc xanh đỏ. Úp lên trên khăn lông là cái mũ kaki. Trông Tòng nửa giống như một chú nhỏ ở trong tranh vẽ, nửa giống như một tên lính Tàu thời cổ. Chắc Tòng chịu ảnh hưởng của những tấm tranh màu treo la liệt trên tường nhà nó.

Đường xuống chợ có nhiều chỗ lõm thấp xuống, đó là khi con đường đi sát cạnh những cái bàu nước. Mỗi bàu nước mang một tên bí mật: bàu ông Chì, bàu ông Lôi. Mỗi lần đi qua một cái bàu, An khép nép đi sát vào Tòng vừa liếc mắt xuống mặt nước đầy rong, ấu xanh um. Những gốc tre già xám đen, những thân cây sung cong vẹo in bóng xuống mặt nước làm cho các tên ông Chì, ông Lôi được trùm trong một không khí rùng rợn. Người đi và người về tránh nhau trên con đường hẹp. Lũ trẻ con đi chợ về trên tay thế nào cũng có những món đồ chơi, hoặc con gà cồ bằng đất, khi thổi ở lỗ khoét ngang hông thì cất tiếng gáy "côô...côô" hoặc con "chút chít" khi kéo ra đẩy vào thì phát ra tiếng kêu chút chít. Nhiều đứa hãnh diện cầm những ghim pháo tre, những bó pháo thăng thiên đi cạnh mẹ.

Đến gần chợ thì nghe tiếng mua bán xì xào vang lên. Thỉnh thoảng có tiếng pháo tre nổ "đùng" khiến trái tim của hai đứa như nhảy cởn lên. Không ai bảo ai mà cả hai đều rảo bước.

Đến đây rồi, chợ Hôm! Những dãy lều mái bằng tranh rạ cột tre yếu ớt sắp chạy từng dãy. Có nhiều hàng bày bán ở giữa trời, như hàng trái cây, cá mắm. Hai cây đa to tỏa bóng mát cả một khu chợ. Lá đa dày san sát ở trên từng cao làm thành một vòm xanh lao xao cử động. Tiếng rì rào vừa phát tự dưới đất nơi người ta buôn bán trao đổi vừa phát tự trên cao do gió lay cành lá. An gặp chị Thắm bày bán đồ gốm ở gần gốc đa. Chị Thắm ở cạnh nhà An, hàng ngày vẫn sang giếng nhà An xách nước nhưng sao hôm nay trông chị lạ hẳn đi. Có lẽ vì chị mặc áo dài và đi guốc chăng? Hay vì đặt chị giữa cái khung cảnh lạ mà người chị trông cũng lạ đi. Những đồ gốm: ấm, chậu, hỏa lò, lon, vò, cây đèn, v.v... hàng ngày vì quá quen mắt An coi như không có giá trị gì nữa, coi như những đồ chơi vô nghĩa, thế mà người đến xem xét trả giá tấp nập. Chị Thắm đóng vai trò một cách rất nghiêm trang, từ chối rất quyết liệt, thách giá rất chắc chắn. Cái ấm cái chậu bỏ lăn lóc ở xung quanh hè nhà chị Thắm, thỉnh thoàng An lỡ đi vô ý đá phải ngã lăn, nay thấy người mua mặc cả giá từng đồng, móc túi đếm từng tờ bạc để trả và cuối cùng nâng niu xếp lên rổ bưng đi. Tòng nói:

- Tụi mình ra hàng pháo coi.

Hai đứa cầm tay nhau đi. Hàng pháo ồn ào nhất nên không mất công tìm. Nó ở cách biệt ra một góc chợ xa những hàng khác vì tiếng nổ không ai ưa, nhất là những người đi chợ hầu hết là đàn bà. Bác bán pháo là một người đàn ông vạm vỡ. Chỉ bán có pháo tre và pháo thăng thiên, bác đựng trong một cặp bồ lớn. Một số pháo bày làm mẫu được dàn trên một chiếc chiếu nhỏ. Người mua pháo bắt đốt thử. Bác tháo ở gắp tre lấy một chiếc pháo, bóc giấy (miếng giấy xanh đỏ dán đè lên ngòi) rồi đặt lên một tấm gạch cách xa bác một sải tay. Bác cầm cây hương cháy châm lên ngòi. Ngòi pháo xì khói, bác quay mặt sang một bên và một tiếng nổ "đùng" rền lên, chát tai. Xác pháo là một vòng nan tre bị cháy xém bay tung lên cao rồi rớt xuống.

Hàng hoa quả không hấp dẫn bằng ngày thường vì không có những miếng mít múi vàng óng ả, những trái mãng cầu nứt gai chảy mật, những quả ổi thơm, những trái xay, trái sim, trái đát. Hôm nay người ta chỉ bày bán những nải chuối xanh mà chuối xanh thì trẻ con không thích vì không ăn ngay được. Trẻ con không có tính kiên nhẫn đợi chờ. Ngày thường mẹ đi chợ về An lật rổ ra coi mà thấy bí thấy rau thấy cá là An ghét lắm. Kẹo, mít, bánh rán... mới là những món An hoan nghênh. An và Tòng đưa nhau sang hàng thịt cá. Thật đáng thương hại cho những bà hàng này quanh năm phải bán y một món không thay đổi. Áo quần thì đen đủi, món hàng thì tanh tưởi, thật không có một vẻ Tết vẻ xuân nào cả. Chẳng bù với hàng bánh mứt họ bày bán trong những cái quả sơn quang dầu đỏ thắm trông vui như những đám cưới. Các cô bán mứt đều xinh, tóc vấn trần chải dầu dừa láng mượt, áo dài vải trang đầm bó sát người.

Kề ngang hông chợ là dãy phố Hoa kiều. Đó là tiệm chú Năm Heo và tiệm ông Ngâu. Khách vào ra đa số là đàn ông đi mua rượu, tranh sơn thủy, chén bát, nho táo. Tiệm chú Năm Heo bán thuốc bắc. Những người đến cân thuốc xách đu đưa những gói thuốc bước ra khỏi tiệm, mặt trông buồn giữa cái khung cảnh nhộn nhịp của ngày xuân vui. Chọn ngày Tết để đau bệnh thật là không phải lúc.

Đi loanh quanh một lát hai đứa đã bắt đầu chán. Chợ ngày Tết khi chưa tới xem thì thấy háo hức là thế nhưng đi lại đôi vòng chúng đã khám phá hết mọi bí mật. Sự thỏa mãn có pha một ít chán chường như khi đọc một cuốn truyện cổ tích được người ta quảng cáo là hấp dẫn nhưng đọc xong một lượt thấy không còn thèm thuồng nữa. An nhìn trở lại khung cảnh chợ. Những dáng người đi lại chen lấn, cúi xuống lựa chọn mặc cả, những tiếng xì xào, ngay cả đến bóng rợp của cây đa cao An đều thấy quen thuộc hết.

Ngày hăm bảy tháng Chạp chú Ba đi hái lá me và trái me về giã nhỏ ngâm nước chùi đồng. Công việc thật nặng nhọc vì những bộ lư đèn ở ba bàn thờ tổ đều to lớn bề bộn. An cũng xen vào công việc cho vui nhưng chỉ chùi được những cái hộp thau mặt nhẵn. Nắp lư hương có hình con lân con phụng bị chú Ba hắt hủi nhất vì những kẹt khó chùi. Người đầy tớ phải lau dọn săn sóc thật khó có thể đồng quan điểm với người thợ đúc khéo tay và người chủ nhà yêu mỹ thuật. Việc quét nhà cuối năm cũng không kém nặng nhọc. Chú Ba bắc thang leo lên rầm cao, cầm cái chổi có cán dài để quét bụi và mạng nhện ở mái nhà. Chú bịt đầu bằng một cái áo đen cũ. Lúc bước xuống thang, mặt chú mốc thếch vì bụi trông lạ hẳn và như già đi.

Mẹ lo rim mứt. Hết chảo này đến chảo khác, mẹ ngồi trở mứt, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt dừa... mà không hề la mỏi. Có đêm An mơ màng ngủ mà hễ chợt dậy là vẫn thấy mẹ ngồi cạnh chảo mứt cầm đũa đảo qua đảo lại. Tiếng nước đường sóng sánh. Hình như cả đêm mẹ không ngủ. An nghĩ: chỉ có mình là sung sướng nhất, chẳng phải làm gì hết. Thế mà lại được ăn nhiều nhất. Những miếng mứt vụn An ăn từ hồi còn dẻo. Khi mứt khô vớt ra nia phơi thì An vét chảo ăn đường. Chỗ nào có An là có cặp tay phá khuấy và cái miệng ăn không ngớt.

Ngày hăm chín gói bánh tét. Lại cũng chỉ mẹ và chú Ba là bận rộn. Những đòn bánh to bằng bắp vế thế mà cũng do mẹ thoăn thoắt sắp lá, đong nếp, đổ đậu xếp nhân thịt, gói, buộc lạt. Chú Ba ngồi cạnh phụ tay. Cha trông vậy mà cũng dở. Cứ đi lên đi xuống ngó chừng và nói vô ích làm mẹ mất công trả lời. Chẳng hạn:

- Đừng buộc chặt tay quá kẻo bánh không chín đều. Hôm đám giỗ ông nội bánh bị sống ...

Cha bỏ lửng câu thì mẹ nói:

- Nhớ rồi.

Chẳng hạn:

- Còn dư nếp đủ gói một đòn nữa. Thế là một, hai, ba, bốn... đúng mười hai đòn cả thảy.

Mẹ nghe cha nói, miệng vừa cắn một đầu sợi lạt một tay cầm đầu kia xiết cho chặt vừa đưa mắt nhìn xuống số đòn bánh tét mà cha vừa đếm. Quả cha đếm không sai, nhưng số bánh không nhờ cha đếm mà tăng thêm. Cha chỉ làm được một việc mà An thích: đó là chôn một cột trụ giữa sân để chong cây đèn gương. Có lẽ cha cũng sẽ sai chú Ba đào lỗ chôn nếu chú Ba không bận tay. Cái đèn hình lục lăng, tối thắp lên sáng cả sân, đứng làm bạn với An khi nó phải trèo lên nằm ngủ trên chiếc ván gõ rộng ở nhà trên.

Những ngày mùa đông, gió mưa lạnh trời tối đen như mực mà một mình nằm ở nhà trên rộng mênh mông thật là cô đơn. Lắm lúc An có cảm giác rờn rợn rằng thân mình đã tan ra để lẫn mất vào bóng đêm. Khổ nhất cho An là khuya chợt thức buồn đi tiểu mà lò mò mãi trong bóng tối không biết cửa ở về phía nào để mở. Trẻ nhỏ nằm ngủ trên bộ ván rộng thì tha hồ mà quay. Đến chừng tỉnh giấc nhắm chừng mò ra cửa nhưng lại cứ đi xông ngược vào bàn thờ. Rờ chỗ nào cũng thấy những bàn những ghế. Sao mà lắm bàn lắm ghế vậy? Đêm nay nằm nhìn ra cửa sổ thấy ánh đèn sáng. An vui quá không muốn ngủ nữa. Ở dưới nhà ngang còn nghe tiếng lục cục của mẹ làm việc. Hồi chiều chú Ba làm thịt một lần hai con gà cồ thiến và ba con vịt. An lẽo đẽo theo đứng một bên để nhìn, An hỏi:

- Sao giết gà vịt một lần nhiều vậy chú?

- Chớ mày muốn để sáng mồng Một sát sinh hả? Làm thịt bữa nay để cúng hai bữa.

An nhìn dòng máu đỏ chảy từ cái vết cắt ở cổ chảy ròng ròng xuống cái bát, nhìn những cặp mắt mở to rồi mờ dần yếu dần cho tới lúc nhắm hẳn. Cái chết đến im lặng, nhẹ nhàng như một trò chơi dễ. An thấy thương hại cho con gà cồ oai vệ, cho con vịt hiền lành. An chép miệng:

- Tội nghiệp mấy con gà, con vịt hở chú? Chú giết nó không sợ nó báo oán sao?

Chú Ba quay phắt lại liền:

- Thằng này dóc tổ. Tao thấy xào nướng bưng lên là mày gắp liền tay. Mày ăn thì nó báo oán mày chớ mắc gì đến tao?

An thấy chú Ba nói cũng có lý nên định bụng thôi lần này không ăn thịt gà thịt vịt nữa. Nhưng ý định đó An quên ngay khi chú Ba rửa ráy xong bưng rổ gà vịt đi mất và nó thẩn thơ đi tìm xem chuyện khác.

Sáng mồng Một tiếng pháo nổ rầm rầm làm An choàng tỉnh dậy. Hỏi chú Ba thì là pháo ở tiệm khách Tụn. Nhìn vào bàn thờ thấy đèn sáp thắp sáng trưng và cha đã khoác áo chỉnh tề đứng khấn rì rầm. Trông cha uy nghiêm thật phù hợp với cái không khí nghiêm trang nơi đây. Để tăng thêm vẻ đường bệ, mọi cử chỉ của cha đều chậm chạp: rót rượu, châm nước, đốt hương, sửa nến. Cha đọc từng hàng chữ nho: "Đại Nam quốc, Phú Yên tỉnh, Tuy An phủ, An Sơn tổng..." chú Ba đem pháo tre ra đốt. Chú thích pháo nhưng nhát không dám cầm cây hương đốt mà phải cầm một thanh củi dài có đầu lửa đỏ. Mười tiếng nổ đùng liên tiếp, tiếng nào tiếng nấy bưng tai. Mẹ nói:

- Pháo năm nay hay.

An ngạc nhiên. Trông bộ mẹ lục đục suốt ngày như chỉ biết chú ý đến công việc làm thế mà không ngờ mẹ cũng lưu ý đến tiếng pháo vui chơi. Cha tươi cười vì câu nói của mẹ ngầm ý bảo: năm nay làm ăn có hy vọng khá vì pháo nổ chắc tiếng. Cả thôn Quảng Đức chỉ có chú khách Tụn đốt pháo dây còn thì các nhà khác chỉ đốt pháo tre, có nhà mươi tiếng, có nhà ba tiếng, năm tiếng.

Vừa bảnh mắt đã có mấy tay cầm cái xóc dĩa chia nhau từng chặng trải chiếu trên con đường xóm. Lũ trẻ con bâu quanh liền. Chú Ba bôn chôn ra mặt khi nghe tiếng bốn đồng tiền rủng rẻng của hàng xóc dĩa tổ chức ngay ở góc rào nhà. Chú ham đánh xóc dĩa và ích-xì hơn ăn mứt ăn bánh. Chú cứ đi ra đi vô như người mất hồn. Khổ cho chú hơn nữa là ở ngoài góc rào tiếng lũ nhỏ cứ reo lên :

- Bán chẵn này.

- Lạy trời ra cái lẻ nữa đi.

- Đặt bên chẵn một tiền rưỡi.

- Lẻ! Lẻ! Coi chừng nhà cái chạy làng.

Đường cái vang lên tiếng guốc. Nghe tiếng guốc có thể đoán biết được người mang. Tiếng guốc lỏng cỏng gõ vội vàng là tiếng chân của một đứa bé mới tập đi guốc lần đầu. Tiếng guốc chậm chạp thỉnh thỏang dừng lại là tiếng guốc của người mẹ, người chị đi kèm lũ trẻ. Tiếng gõ chắc chắn nện mạnh trên nền sỏi là tiếng guốc của người đàn ông. Con đường sỏi đá gập gềnh làm nhiều đứa nhỏ đi trượt guốc cứ phải tụt lại đằng sau đứng sửa. Lắm đứa đã chán với cái trò chơi đi guốc rồi nên cặp guốc lại cầm ở tay và đi chân đất như thường ngày. Lối đi này thoải mái dễ chịu hơn cả.

Đường cái rộn rịp nhưng nhà cửa thì vắng vì cửa ngõ cửa ra vào nhà ai cũng đóng im ỉm hoặc mở he hé. Xóm làng thành ra mang một vẻ uể oải giả dối. Vì ở đằng sau cánh cửa đóng là cả một sự hoạt động rộn rịp.

Gần trưa, cha An tiếp những ông khách lễ mễ trịnh trọng trong những cái áo dài đen và cái quần trắng. Những ông nhà nông mà thường ngày mặt mày không lúc nào khỏi đầy bụi bặm, râu ria tua tủa, áo vải to dày cộm thấm đầy mồ hôi, hôm nay mặc áo quần mới trông trẻ và đẹp ra. Nhưng An không thích nghe tiếng chân ghế kéo chạm vào mặt đất khi khách sắp ngồi và khi khách đứng dậy sửa soạn ra về. Những câu chuyện trao đổi giữa cha mẹ và các người khách cũng vậy. Toàn nói những thứ gì An không hiểu, thế mà họ cũng cười với nhau một cách thích thú thành thật. Những lúc này An tỉ tê theo gợi chuyện với chú Ba. Những điều An hỏi, chú Ba đều trả lời được hết:

- Sao đánh xóc dĩa, chị Lượm đặt tiền lại quay thành một vòng ở dưới chiếu hở chú? Sao không đặt một ụ như người ta?

- Hễ nó ngồi bên phía chiếu lẻ mà nó muốn đặt chẵn thì nó đặt tiền quay thành một vòng. Nếu nó để thành ụ, thành đống thì tức là nó đánh lẻ.

- Sao chị ấy không đặt sang bên chiếu chẵn cho nó tiện?

- Tại ngồi xa nó với tay không tới.

- Họ chúc Tết "bách niên dai lão" là sao hở chú?

Chú Ba vừa nhai miếng cốm vừa nói:

- "Dai" lão là sống dai.

An hết thắc mắc, vói tay vào dĩa lấy một miếng cốm ăn theo chú. Đây là phần bánh mứt mẹ sớt vào một dĩa lớn dành cho chú. Trong số những vò, hũ, chum... bỏ trống ở nhà bếp, chú chọn một cái vò để cất dĩa bánh mứt vào đó. Khi đi chơi về, hoặc vào trưa, hoặc lúc khuya, chú mở vò bưng dĩa ra lấy ăn. An chia phần với chú và ăn thấy ngon hơn là khi ăn chung với cha mẹ.

Ngày mồng Hai cha nói:

- An có muốn theo cha xuống núi Một thăm ông Cửu Nghiệp không?

An mừng quýnh trả lời vội vàng:

- Có.

Ông Cửu Nghiệp giàu nhất vùng và nhà ông xây hai từng. Suốt một phủ Tuy An chỉ có bà Cửu Phần và ông Cửu Nghiệp là ở nhà lầu mà thôi. Ông là chỗ bạn thân của cha nên mỗi khi đi ra tỉnh tiện đường ông đều ghé nhà. Cha tiếp ở nhà trên, ngay gian giữa. Hôm nay theo cha, An mặc áo dài đen cẩm nhung. Sự trịnh trọng này do một ngẫu nhiên may mắn mà có được. Số là xấp hàng cẩm nhung cha đưa may cắt thế nào mà rốt cuộc còn dư lỡ cỡ một đoạn. Tính toán đủ lối vẫn không có cách nào dùng được cả nên cuối cùng mẹ đề nghị: để may cho thằng An cái áo dài. Đó là cái áo dài đầu tiên của nó. Bước ra đường, An được lũ trẻ trầm trồ nhìn. Hơi ngượng một chút nhưng mà thầm thích thú. Con đường hôm nay không chỉ có những người đi rong chơi mà còn có nhiều người đi làm ruộng. Người ta đã cởi bỏ bộ quần áo mới như còn nuối tiếc nên vẫn cố giữ hoặc một cái quần hoặc một cái áo vải mới. Thân người nửa mới nửa cũ hóa ra màu cũ trông tàn tạ thêm. Cày cuốc ngự trên vai.

Đi qua khỏi xóm thì tới cánh đồng Hòa Mai. Ruộng đang mùa cày bừa trông thấp hẳn xuống. Vài đám mới cấy, bụi lúa cắm như chân hương vàng vọt. An thường quen mắt với đồng lúa mướt màu xanh, lá lúa gợn sóng hoặc cánh đồng lúa chín vàng hạt lúa nặng làm gục đầu thân lúa nên trông cánh đồng hôm nay có vẻ trần truồng. Con đường ruộng, từng chặng, nhầy nhụa những khối bùn do các cô thợ cấy ném lên khiến An phải đi rón rén cẩn thận. Đưa mắt nhìn quanh sang các xóm làng bao quanh cánh đồng, An thấy chỗ này chỗ kia có từng đoàn người đi, màu áo đen trên điểm nón trắng. Thỉnh thoảng nhô lên cái ô đen. Nó lẩm nhẩm lẫn lộn không biết đó là Hòa Tú hay Hòa Chiểu, phía kia là Hà Yến hay Trường Xuân. Cha chỉ một xóm trước mặt, nói:

- Núi Một kìa.

Đó là ngọn núi thấp nằm dài, mình mang đầy cây cối xanh um. Dưới chân núi các nông trại chia nằm rải rác từng nhóm. Theo tay cha chỉ, An chú ý nhìn vào khu vườn nhà ông Cửu Nghiệp xanh um màu tàu chuối tàu cau. Thân cau trắng mốc đứng vươn lên thành hàng song song. Nỗi vui được thấy cảnh lạ làm An quên nghĩ đến con đường còn lại phải đi. Thoáng mới đó mà đã giã từ con đường ruộng để bước lên con đường đá đánh vòng đai núi Một. Những bụi gai thấp, những chùm táo nhơn thưa, những thân chuối rậm rạp xanh mướt trông quen thuộc.

Bước vào vườn chuối, An thấy êm mát vì ánh sáng lọc qua lá chuối non đổ xuống xanh xanh. Thân chuối bụ bẫm đứng cao vút như muốn vượt theo thân cau. Ở vườn nhà, chuối thấp hơn và thân cau cũng gầy hơn. An nghĩ thầm: "Cái gì của ông Cửu Nghiệp cũng oai". Những cây mít mang trên mình đầy trái. Trái lớn quây quần dưới gốc còn rải rác trên thân cây là những trái hạng vừa nằm thưỡn dài trông như những cái * chảy. Bưởi cam cũng không thiếu. An thèm thuồng cái địa vị của người con ông Cửu Nghiệp được sống giữa những món ăn ngon này. Sao ở nhà nó lại chỉ có toàn những lúa và nếp thế? Có lần nó thỏ thẻ so bì với mẹ:

- Nhà con Bông làm kẹo nên nó sướng hơn con. Kẹo bể là nó ăn. Véo chỗ kẹo dẻo nào cũng bỏ vào miệng được. Nhà mình thì chỉ toàn lúa nếp. Lúa ăn không ngon. Sao mẹ không làm nghề kẹo có sướng hơn không.

Mẹ cười mà không trả lời.

Tiếng chó sủa ồ ồ làm An giật mình. Tiếp theo, tiếng sang sảng vang trong nhà:

- Có đứa nào ra coi chó, bay.

Đúng là tiếng của ông Cửu Nghiệp, giọng chậm rải của người giàu không cần vội vàng. Người ở là một anh lực điền ra mở cổng. Ba con chó cao to như ba con bê nhảy xồ ra khiến An bấu vào áo cha. Cha vẫn đứng yên nhìn vào anh lực điền đang lấy tay gãi sau ót lí nhí thưa:

- Dạ thưa thầy xuống dưới này.

- Ờ! Có ông Cửu ở nhà không?

- Dạ có.

Cha ung dung bước vào khiến ba con chó đứng dạt ra. An bước theo, lây cái can đảm của cha. Ông Cửu Nghiệp ra đứng trước hiên vái chào. Ông đội khăn nhiễu đen, mặc áo xa-tanh màu lam dệt bông to, chân đi giày Gia Định. Cha cúi xuống chắp tay vái trả lại. Ông Cửu quay lại xoa đầu An và nói:

- Con đi xa có mỏi chân không? Để bác mừng tuổi cho con.

Ông móc túi lấy một cắc bạc trắng tinh đặt vào lòng bàn tay An. An lúng túng không biết nên làm sao. Chợt nhớ tới cha và ông Cửu chào nhau lúc nãy, nó chắp tay cúi xuống vái. Lát sau khi đã bình tĩnh lại nó thấy ngượng vì cái vái vô duyên. Đáng lẽ phải nói "Con cám ơn bác".

Cha và ông Cửu ngồi ở một cái bàn tròn trên xếp đầy những đồ dùng mà thoáng nhìn An đoán là rất quí, rất đắt tiền. Bộ bình trà có chạm rồng nổi mạ vàng. Ve rượu bằng thủy tinh trong suốt có một cái bầu rất thon và cái vòi nhỏ uốn cong dịu dàng. Ly rượu toàn viền vàng. Cái điếu thuốc lào khảm xà cừ với cần trúc uốn dài cong vút. Hộp trầu, khay kỷ, dĩa bánh mứt, tất cả đều choáng lộn hoặc màu xanh đỏ óng ánh xà cừ hoặc màu vàng quí phái hoặc màu trắng muốt nõn nà. An ngồi ở cái trường kỷ tay mân mê những chỗ chạm trổ hình rồng hình phụng. Quả hồng tàu ông Cửu cho, nó nắm mà không ăn. Nó cứ đưa mắt nhìn cái nhà rộng thênh thang với cái trần cao trong bày biện toàn những đôn, lọ, sạp, ghế. Nó nhìn lại ông Cửu thấy ông bé quá so với cái nhà. Để che nắng che mưa chắc chắn ông Cửu không cần một cái nhà to như vậy. Nó chợt thấy khâm phục con người nhỏ nhắn mà có thể tạo tác ra một công trình to lớn dường ấy. Ở đằng bàn tròn, ông Cửu và cha chuyện trò tương đắc. Khói thuốc tỏa ra bao vây chỗ hai người khiến trông họ như ngồi sau đám sương mờ mờ đục.

Khi cha đứng dậy cáo từ, ông Cửu nài ở lại nhưng cha lấy cớ ngày Tết có khách đợi ở nhà nên không chịu. An lãnh thêm hai trái cam ông Cửu cho, cúi đầu chào và theo bén gót cha. Ông Cửu đi tiễn đến mãi đầu đường mới trở lại. Khi còn lại hai cha con, An nói:

- Cha hẹn cho con coi lầu ông Cửu Nghiệp mà con không thấy lầu đâu cả.

- Thì nhà lầu đó.

- Nhà lầu gì vậy? Phải leo lên trên lầu mới gọi là lầu.

- À quên! Tao tưởng mày biết rồi. Nhưng mà... cũng vậy đó thôi, cũng như hai cái nhà chồng lên nhau.

Về đến nhà đôi chân An mỏi nhừ. Tuy vậy nằm nghỉ một lát rồi An lại nhập bọn với lũ trẻ và như thế là ngày mồng Hai nhẹ nhàng trôi qua. Mồng Ba cũng vậy. Ngày mồng Bốn cúng tiễn ông bà. Giấy tiền, giấy vàng bạc chất đầy nia to, chú Ba vừa đốt vừa nheo mắt tránh khói khiến cái miệng méo xệch. Chú lấy một xấp giấy vàng bạc phết hồ lên lưng từng tờ đem dán vào cái cối xay, cái cối giã, mấy cái chày, cái thúng, cái giếng, cái ngõ, cây mít... không biết có qui chế nào ghi rõ món nào phải dán không nhưng cứ xem vẻ mặt của chú khi cầm tờ giấy vàng bạc dính đầy hồ đứng lưỡng lự trước chuồng heo và cây ổi là An đâm nghi. Hình như chú phải kiếm cho ra món để dán kỳ hết xấp giấy vàng bạc. Được tờ giấy vàng bạc dán lên mình, mấy đồ vật tầm thường như có thêm linh hồn và đang dự vào một cuộc sống huyền bí. Trong lễ cúng tiễn, bao nhiêu pháo còn lại đều đốt hết. Bảy, tám đòn bánh tét cũng đem chất đầy ghế. An nhìn ánh lửa thiêu vàng mà bùi ngùi. Phải một năm sau mới gặp trở lại, một năm trọn vẹn vì cuộc hành trình mới vừa khởi đầu. An thấy buồn chán nản.

Tuy vậy, tháng ngày cứ nhẫn nại và lặng lẽ đi qua, như một lũ nhỏ cầm tay nhau đi vòng, đi mãi rồi thế nào cũng gặp lại chỗ cũ. An lớn lên dần và cái thôn Quảng Đức cũng già nua dần đi. Những ngày Tết nối tiếp nhau theo cái tốc độ chậm chạp của nó nhưng khi ngoái nhìn trở lại trong dĩ vãng, tính nhẩm số tuổi thì An lại thấy chúng đi mau. Mỗi lần Tết đến hoa cúc vạn thọ lại nở trước sân nhà, tiếng đồng tiền xóc dĩa lại rủng rẻng khắp ngõ xóm. Ngồi lần lại ký ức, An thấy yêu mến hết sức cái Tết năm đó An theo cha xuống thăm nhà ông Cửu Nghiệp. Ông Cửu Nghiệp là hình ảnh của sự sung túc, của cuộc đời an nhàn lý tưởng trong những ngày bé thơ của An. Sau đó chừng mười năm khi An lớn lên và phải đi học xa. An sống xa dần cái khung cảnh êm đềm ngày xưa và những người quen thuộc cũ. Một lần đột nhiên hỏi về ông Cửu Nghiệp, An nghe cha nói một cách bùi ngùi:

- Ông Cửu về ở trên Đồng Tranh từ năm kia. Nghe nói bây giờ túng lắm. Bà Cửu phải làm hàng xáo.

An tự xét:

- Ông Cửu giàu như vậy mà sao lại nghèo mau vậy?

- Vì mấy vụ kiện vẩn vơ, chuyện tranh giành ruộng hương hỏa tuyệt tự đáng lẽ có thể thu xếp ổn thỏa nhưng vì tức khí lại bị hương lý và lũ nha lại xui nguyên giục bị nên cứ theo kiện mà sạt nghiệp.

- Còn cái nhà lầu?

- Sở vườn đem thục để chạy kiện rồi đoạn mãi luôn. Cái nhà lầu bán cho chú khách Lê ở Hàng Dao. Ông Cửu phải về ở trên Đồng Tranh là quê của bà Cửu.

An buồn như nghe tin chẳng lành xảy đến cho người thân thích của mình.

Ngày chiến tranh bùng nổ, cái nhà lầu của ông Cửu Nghiệp bị phá hoại. Vôi gạch đổ xuống từng đống. Nền xi măng chú khách Lê cho người ta gặt nhờ để đạp lúa. Mỗi ngày gặt, được một giạ lúa cho thuê sân. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm đềm nay không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng thôi. Lâu lâu khi có dịp, An ra đầu xóm đứng nhìn về chân núi Một. Chòm lá chuối lá cau xanh ngắt của vườn ông Cửu Nghiệp còn đó. Những thân cau vẫn một màu trắng mốc đứng vươn lên từng hàng song song. An tưởng tượng thấy ở nơi cái vườn sum sê hoa lá ấy những con chim sẻ vẫn say mê mổ thóc rụng, những con chích chòe vẫn nhí nhảnh chuyền trên cành lá lục lọi tìm sâu, những con chiền chiện vẫn mải miết tước lá cau lấy sợi về làm tổ. Ở dưới các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn khoai sáp, lũ cá sặt cá rô vẫn tinh nghịch đớp mồi và lũ châu chấu cào cào vẫn xòe cánh mỏng màu lúa non mà bay sè sè trong nắng. Sự sinh hoạt của cảnh vật vẫn bình thản êm đềm, nhưng còn đâu nữa ông Cửu hào hoa và ngôi nhà lộng lẫy?

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

10 . Áo Em Cài Hoa Trắng


Tôi được đi học chậm hơn mọi đứa trẻ khác . Sáu tuổi mà vẫn chưa ôm sách tới trường . Nguyên do vì má tôi đau bệnh dai dẳng, má không muốn tôi sống xa cách, dù mỗi ngày chỉ bốn năm giờ đồng hồ . Khi má tôi phát bệnh thì bác sĩ đã cho ba tôi biết là má tôi sẽ không sống lâu thêm được quá hai năm . Má không được nghe điều đó nhưng tự xét sức khoẻ của mình, má biết là con đường đi của má không còn dài lắm . Mặc kệ những lời trấn an liên tiếp của ba tôi, má giữ một thái độ cam chịu và chờ đợi .

Thấy tôi cứ lêu bêu quấn quít cạnh mẹ, ba tôi có lần gắt:

-- Em phải để cho con nó học chớ . Bằng tuổi nó người ta đã vào lớp tư rồi . Trẻ con lên bốn tuổi, người ta đã cho vào ấu trĩ viên để chúng vừa chơi vừa học .

--Học sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ đến đích một lượt . Đứa bốn tuổi học một năm bằng đứa năm tuổi học sáu tháng . Đứa năm tuổi học sáu tháng bằng đứa sáu tuổi học ba tháng .

--Anh biết rõ điều đó . Nhưng nó đã sáu tuổi rồi mà chưa đi học được tháng nào .

--Thôi, để em dạy con .

Má tôi gom những miếng bìa cứng, cắt thành từng mảnh vuông to bằng bàn tay . Má vẽ lên đó những cái vòng tròn, những cái hình mà má gọi là lưỡi câu , cái gáo, con cá . Má chỉ cái vòng tròn và bắt tôi gọi bằng O, cái lưỡi câu bằng i, cái gáo bằng q, con cá bằng e . Lưỡi câu là cái tôi không hề biết nên tôi hỏi lại :

--Lưỡi câu là cái gì vậy má ?

Má tôi ngạc nhiên bởi câu hỏi . Má nhìn tôi giây lâu rồi đưa bàn tay mềm mại vỗ lên đầu tôi . Má nói :

--Ờ ! Con chưa biết cái lưỡi câu . Đó là mô.t cái kim nhọn bẻ cong lại, nơi đầu người ta móc một con mồi vào .

--Con mồi là con gì, má ?

--Là con trùn, con dế hoặc nhiều khi là miếng bánh, miếng cơm, những món mà con cá nó thích ăn .

--Móc con mồi vô cái kim chi vậy ?

--Để đem thả xuống nước . Con cá thấy mồi, mừng quá, lật đật bơi lại táp . Miệng cá dính vào cái kim, người ta giật lên, cá không chạy trốn được, người ta bắt nó .

Tôi chỉ nhìn xuống hình vẽ con cá trên một mảnh bìa cứng (chữ e của má tôi đó) hỏi lại má tôi :

--Người ta bắt con cá này phải không má ?

Má tôi mỉm cười, gật đầu . Tôi lại hỏi:

--Má có đi bắt những con cá bằng cái kim uốn cong như vậy không ?

--Có . Hồi nhỏ má có đi bắt như vậy . Người ta gọi là đi câu .

--Sao má không cho con đi bắt ?

--Khi nào rảnh, vào ngày chủ nhật hay ngày lễ, ba con sẽ dẫn con đi câu một lần .

Tôi lắc đầu:

--Không, con muốn má dẫn con đi . Con không muốn ba dẫn .

--Má bệnh, má đâu có đi được ?

--Thì hôm nào má mạnh má dẫn con đi .

Má tôi "ừ" và lặng lẽ nhìn tôi . Một lát, thấy từ nơi khoé mắt của má có hai giọt nước mắt chầm chậm ứa ra, lăn dài chạy xuống cằm . Tôi không hiểu tại sao điều tôi yêu cầu có thể làm má tôi buồn như vậy . Sau này lớn lên, ngồi nhớ lại tôi mới hiểu . Một người đã đoán biết được ngày chết gần kề của mình mà phải hứa với con một điều mình biết chắc không thể nào thực hiện được ! Không những không thực hiện được việc dẫn con đi câu cá, cả đến việc được ngồi cạnh con trước những tấm bìa cứng này cũng không còn kéo dài được bao lâu nữa .

Tôi học không được bao nhiêu chữ . Bởi ngồi với tôi chừng một lát thì má phải nằm nghỉ . Tôi sung sướng nằm theo, cạnh má, tay cầm xấp "bài học" xếp xếp như người ta đánh bài . Tôi nói với má:

--Nằm học khoẻ hơn, má há ?

--Ừ .

--Sao ở trường học họ không cho học trò nằm ngửa mà học ?

--Nằm ngửa ra, tụi nó ngủ quên hết .

Tôi gật đầu, ờ ờ .

Dù khi tôi ngồi cạnh hay nằm cạnh, má cũng hay lấy bàn tay rờ đầu tôi, vuốt ve lên má, lên cằm, lên tai tôi . Dường như để xác định rằng tôi có hiện diện đó thực, tôi, vật quí báu nhất do má tạo ra và má sắp bỏ lại trên cõi trần này .

Ba tôi bắt gặp mấy lần lối học "nằm ngửa" này của tôi . Ông kiểm soát lại xem có chữ nào còn sót lại trong khối óc ưa nằm ngửa đó không và rõ ràng là một tư thế như vậy làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột đâu hết . Ông nghiêm sắc mặt bảo tôi:

--Ngồi dậy mà học .

Tôi líu ríu ngồi dậy .

--Lại nơi bàn mà học .

Tôi líu ríu đi lại bàn .

--Sắp lên bảy tuổi rồi mà học chưa hết hăm bốn chữ cái . Bằng tuổi mày, người ta đều học lớp tư .

Má không phân biệt cho tôi chữ nào đực, chữ nào cái .

Tôi đoán chữ i, chữ t gầy gò là đực , chữ o, chữ a mập mạp là chữ cái .

Thường thì tôi nghe lời ba tôi lại bàn ngồi ngay ngắn, nhìn xuống mặt chữ và lẩm nhẩm gọi tên nó . Má tôi im lặng để nhường tiếng nói cho ba tôi .

Một hôm tôi ngoan ngoãn nghe lời ba líu ríu lại bàn thì má tôi cất tiếng :

--Thôi, cho con đi chơi .

Tôi không biết nên nghe lời ai . Nghe lời má thì tôi sướng quá rồi, nhưng ba tôi còn đứng đó . Mà ba tôi thì không nghiêm khắc nhưng ông biết bắt người ta vâng lời . Tôi biểu lộ sự lưỡng lự bằng cách vẫn đi bước tới nhưng bước chậm lại .

Má tôi giục :

--Con chạy ra ngoài chơi đi con .

Tiếng ba tôi:

--Thôi, cho con đi chơi .

Tôi nghe lời ba, đi rẽ ra phía hành lang . Vừa bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng nói của má tôi:

--Anh đừng làm cho con sợ .

--Anh không muốn vậy, nhưng phàm uốn tre thì phải uốn khi nó còn là măng . Anh tập cho con biết nghe lời phải .

--Phải uốn dịu dàng!... Em biết là em quấy khi giam giữ con ở cạnh mình mà không chịu rời nó ra cho nó đi học . Nhưng anh ơi, em đâu có còn sống được nhiều ngày tháng ? Bác sĩ nói với anh là bệnh em sẽ chữa khỏi . Anh đừng tin . Em biết sức khoẻ của em mà . Vì vậy mà em muốn sống quây quần bên cạnh con những ngày chót của đời em .

Tiếng má tôi khóc nấc lên làm tôi bàng hoàng . Tôi đi trở ngược lại và qua khung cửa mở, tôi thấy ba tôi cầm tay má tôi . Má tôi lấy khăn lau nước mắt:

--Con nó nhút nhát vì từ nhỏ đến giờ nó chỉ sống cạnh em . Gần như không tiếp xúc với những trẻ con khác . Vậy anh đừng làm cho con sợ . Anh phải thương con bằng tình thương của anh và thay em mà thương con bằng tình thương của người mẹ . Bổn phận thứ hai nặng hơn bổn phận thứ nhất .

Má tôi ngậm một chéo khăn mù-soa như để ngăn chận tiếng nấc .

Những tấm bìa cứng tỏ ra bất tiện mỗi khi tôi muốn nhìn lại gương mặt của một chữ . Cứ lật lên, bỏ xuống, loay hoay kiếm hoài . Đôi khi miếng bìa mang chữ cái tôi muốn kiếm lại không nằm trong "bộ bài" đó mà nằm lạc ở một nơi nào khác . Ngày nào cũng có dịp để lục tứ tung mền gối với mục đích tìm chữ . Rất tốn thì giờ . Bởi vì kiếm chữ thì không ra mà lại gặp toàn những thứ mình không định kiếm . Chẳng hạn hòn bi . Rõ ràng là hôm kia tôi ngồi bắn bi một mình ở ngoài mái hiên, thế mà buổi chiều ra mái hiên để tìm bắn tiếp thì một hòn biến đâu mất . Chạy kiếm sáng con mắt, chẳng chỗ nào có . Má tôi đưa hai đồng sai chị bếp ra hiệu sách mua cho tôi hòn bi khác . Bây giờ khi tìm chữ mà học thì lại thấy hòn bi đó nằm dưới tấm "ra" . Chẳng hạn tìm thấy cái móc tai . Hôm qua ba tôi ngứa tai, tìm cái móc tai nhưng không thấy, ông la vang cả nhà . Bây giờ không tìm thì nó lại nằm tô hô ra đó . Nhưng tôi không chịu nhặt đem đi cất ngay để trưa về đưa cho ba đâu . Tôi phải dùng nó để móc tai tôi cái đã . Công việc đó làm tôi say mê và khi tôi chịu rời nó ra thì bên phòng ăn đã nghe tiếng muổng nĩa rổn rảng .

Má tôi nhận thấy sự bất tiện của phương pháp học bài trên bìa cứng nên một hôm đưa tiền cho chị bếp sai ra hiệu sách mua cho tôi một cuốn vần .

A! Có cuốn sách mới chính hiệu là học trò đây! Tôi giành lấy quyển sách . Nhìn xem cái bìa thấy có vẽ hình hai đứa con nít đang lật mở cuốn sách . Tôi nói:

--Học cuốn sách phải cần có hai đứa không má ? Con học có một mình thì học sao được ?

--Má sẽ cùng học với con .

--Nhưng má đâu phải là con nít ? Đứa con gái này lớn hơn thằng kia một chút . Chắc là chị của thằng kia . Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị gái như vậy .

Má gật gật đầu:

--Ừ . Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị như vậy . Nhưng mà thôi, đưa sách đây má lật dạy cho con . Đây, cái lưỡi câu đây . Lưỡi câu là chữ gì ?

Tôi lật đật nói liền như sợ có ai tranh nói trước :

--Chữ i .

--Giỏi lắm . Chữ i dùng để viết đi học, đánh bi . Con coi hình vẽ thằng nhỏ đi học . Vài hôm nữa con cũng ôm cặp và xách ve mực đi học như nó vậy . Còn thằng này thì ngồi đánh bi . Hai đứa nhỏ này đang chạy thi .

Tôi vội lật qua trang sau để xem có món gì lạ trong đó . Tôi la to lên:

--A! Con cá! Con cá đang bơi .

--Tên con cá là gì con biết không ?

Tôi lắc đầu:

--Không .

--Cá thu . Con cá thu có chữ u .

Chữ o thì thật dễ nhận ra . Má tôi chỉ hình vẽ một chùm trái cây rồi hỏi:

--O chùm ... chùm gì ?

Tôi nói liền:

--Chùm ruột .

Má bật cười:

--Chùm nho chớ sao lại chùm ruột ?

Tôi cười ồ theo . Tôi quen kêu chùm ruột chớ ít nói chùm nho . Trên lối đi ngoài vườn có đến ba, bốn cây chùm ruột . Mùa hè, trái lòng thòng từng chùm .

Má chỉ hình con ve sầu (dạy chữ e) rồi hỏi tôi con gì .

Tôi nhìn xuống hình, nhíu mày suy nghĩ một lát rồi nói :

--Con dán .

Má lại cười . Rõ ràng là sự học vẫn làm cho mẹ con tôi vui vẻ .

Có một trang vẽ làm cho má ủ dột nét mặt . Đó là trang dạy chữ ê vẽ hình một con dê mẹ cho dê con bú và con bò mẹ cho bò con bú . Con dê mẹ có bầu sữa thật lớn và đứng lom khom . Nó có một chùm râu nơi cằm nên không ra dáng một bà mẹ . Con bò cái trông dễ thương hơn . Nó quay lại nhìn con bú . Đôi con mắt trìu mến hiền từ, như mắt má tôi vẫn nhìn tôi khi tôi ngồi trong lòng má .

Học đến chữ q "con nhỏ quét nhà " thì bịnh của má tôi phát nặng trở lại . Bác sĩ cấm không cho tôi được vào phòng má . Ba tôi âu lo, mỗi ngày gương mặt mỗi héo dần đi . Trong phòng má bước ra, ba đi thẫn thờ hoặc bước vội vã, và dường như ba không còn thấy sự hiện diện của tôi nữa, của chị bếp, của chị Năm giúp việc, của căn nhà, của mọi vật xung quanh . Có lẽ chỉ còn thấy sự hiện diện của cái cửa để bước ra, của cái bàn để đi tránh . Tôi buồn bã cô đơn, đem cuốn sách vần ra nhìn mặt chữ, nhìn hình vẽ . Lật xuôi lật ngược, đọc ngược đọc xuôi, nhưng cứ đến trang "con bé quét nhà" là dừng lại . Trang bên cạnh có vẽ con khỉ trèo cây . Chẳng biết chữ gì đó, đọc như thế nào và sự tích làm sao . Chắc phải hay lắm, thú vị lắm bởi một con khỉ thì không thể chán như hai trái đu đủ hay như cái lư đồng . Nhưng ai đọc cho tôi ? Ai giải thích cho tôi ? Thật ra thì ba tôi có thể chỉ cách đọc, chị bếp có thể chỉ cách đọc, nhưng tôi không muốn ai chen vào sự học của tôi để thay thế má tôi hết . Tôi chỉ tin ở má tôi thôi . Tôi chỉ an tâm thoải mái bên cạnh má tôi thôi . Đôi lúc ba tôi đi ngang cạnh tôi, đứng dừng lại, nhìn tôi ngồi trước trang sách . Tôi phải đọc vội những chữ u chữ e và đưa tay lật liền về những trang đầu sách . Khi vội quá không kịp lật ra trang trước thì tôi đưa bàn tay lại che cái hình con khỉ . Đáng lẽ ba tôi để ý tìm hiểu vì sao nhưng dáng ba mệt nhọc bơ phờ nên ba đứng dừng lại một chút rồi bỏ đi luôn . Tôi không muốn ba tôi nhìn đúng vào trang con khỉ trèo cây . Tôi sợ ba hỏi chữ gì rồi bày cho đọc luôn . Không! Tôi Để dành chữ đó cho má tôi . Tôi muốn nhìn đôi môi xinh xắn của má tôi đọc, ngón tay trắng thon của má tôi chỉ và tai tôi nghe giọng nói dịu dàng của má tôi phát âm tiếng đó . Tôi muốn má tôi kể cho tôi nghe về chuyện con khỉ đó như má kể chuyện con ve đi vay gạo của con kiến trong bài học chữ e, con tò vò nuôi con nhện trong bài học chữ t, đời sống của chúa sơn lâm, con sư tử giữa rừng Châu Phi trong bài học chữ s . Nhưng than ôi! Điều ao ước đòi hỏi của tôi không thể thực hiện đươc. Má tôi từ trần trong kỳ bệnh tái phát đó, má vĩnh viễn lìa bỏ tôi . Cuốn vần quốc ngữ chứng kiến sự ra đi đành đoạn của má . Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn trang bên kia thì má tôi mất . Con đường chỉ đóng ngăn cách hai trang như là con đường phân ranh giữa sự còn và sự mất, sự Sống và sự Chết của má tôi .

Má mất được hai tháng thì ba tôi dẫn tôi xuống trường Tiểu học Lai Đức xin cho tôi học lớp Năm . Cô giáo bắt dùng một cuốn sách vần khác không có vẽ hình con khỉ . Càng hay . Hình con khỉ nên chỉ để dành riêng cho má tôi và tôi thôi . Tôi không muốn ai dính dự vào đó hết . Hãy để cho nó giữ vẹn sự bí mật đối với tôi cũng như sự bí mật bao quanh má tôi từ khi má mất . Tôi không biết bây giờ má tôi ở đâu . Hài cốt thì chắc chắn là nằm ở nghĩa trang thành phố, dưới ngôi mộ đắp vun lên, xây đá, quét vôi trắng và phía trước có tấm bia ghi rõ tên má . Hàng chót của tấm bia ghi tên tôi, đứa con trai độc nhất của má mà người khắc bia ghi là: Trưởng nam phụng tự . Cái thân xác của má còn đó nhưng linh hồn thì phiêu lãng ở cõi nào ? Tôi không tin là cái linh hồn đó bị tiêu diệt đi được .

Từ ngày má mất, ba tôi dịu dàng với tôi nhiều hơn trước, mặc dù sự học của tôi không theo kịp nổi những đứa cùng tuổi . Ba tháng học của một thằng sáu tuổi kết quả bằng một năm học của một đứa lên bốn tuổi, điều má tôi nói có thể đúng, nhưng những đứa sáu tuổi lại không chịu ngừng học để đợi tôi, để cho tôi theo kịp . Chúng nó cứ học như điên và tôi phải vừa học theo vừa trả nợ liên miên . Trả nợ hồi lên bốn, trả nợ hồi lên năm, trả nợ hơn nửa năm lên sáu . Ba tôi khuyên:

--Con cứ yên tâm mà học . Chẳng cần phải vội chi . Lớp Năm, lớp Tư con thua chúng bạn nhưng lên lớp Ba, lớp Nhì con sẽ bằng, lên lớp Nhất con sẽ hơn . Con đường học vấn còn dài lắm .

Tôi nói thầm:

--Con cám ơn Ba, nhưng con sẽ cố gắng học để mau cho bằng chúng bạn . Con chỉ thua chúng bạn ở lớp Năm, bằng chúng bạn ở lớp Tư và lên lớp Ba con sẽ hơn . Con phải làm vui lòng má con, làm sao cho má khỏi phải hối hận là bởi má mà con đi học chậm trễ thua sút con người ta .

Tôi đã giữ lời hứa, dù đó là lời hứa âm thầm . Tôi đã can đảm ngồi lại bàn học lâu hơn những đứa bạn tôi, bị thúc đẩy bởi lòng yêu thương má tôi tha thiết không nguôi . Lâu lâu, tôi lén mở cuốn sách vần cũ, cuốn vần đầu tiên của chúng tôi . Hai đứa nhỏ vẫn cứ chạy thi hoài, chạy suốt đêm suốt ngày không biết mệt . Thằng nhỏ vẫn ngồi bắn bi, bắn bi mà y như cầm hòn bi dứ vào miệng con cá phi đang lừ mắt nhìn . Trang sau có thằng nằm ngủ miệng há ra để vớt những chữ o trên tay, và dưới tấm hình người ta biên là ngáy o o .

A! Cái chùm nho mà ngày xưa tôi kêu là chùm ruột! Từ ngày má mất, chị Năm và chị bếp tị nạnh nhau lười biếng tưới cây . Cây chùm ruột cạnh giếng thì còn tươi tốt trái bâu đầy cành, còn mấy cây chùm ruột đứng ở góc rào thì thiếu nước nên bị đói trông thấy . Lá mỏng đi và hay xếp quặp lại . Rầy bám đen thân cây như có ai rảy bột than lên đó .

Tôi lật thêm vài trang . Con dê mẹ còn đứng khom lưng, con bò mẹ vẫn quay mặt âu yếm nhìn con dê đang say sưa bú . Tôi nhớ đến nét mặt buồn của má tôi lần đầu tiên khi má lật trang này . Má ơi, hôm nay thì con biết tại sao má buồn như vậy . Má muốn đem má so với con bò mẹ đó . Con bò mẹ còn nhiều ngày tháng để âu yếm nhìn con nó, còn má thì sắp sửa phải vĩnh viễn xa con . Con nhớ buổi sáng đó má nhìn lâu bức hình rồi má thở dài . Má quay mặt đi nơi khác . Con hỏi má:

--Con bò con nó bú hết sữa thì lấy đâu để người ta làm sữa bò, hở má ?

Con đợi lâu không thấy má trả lời . Khi má quay lại thì con thấy mắt má đỏ và ươn ướt . Con còn dại không hiểu là má đang khóc . Con hỏi:

--Sao mắt má đỏ vậy má ?

Má nói:

--Có hột bụi nó rớt vô mắt má .

Má ơi, hôm nay coi lại hình con bò mà con nhớ má quá chừng . Con muốn được ngồi cạnh má và được má nhìn bằng đôi mắt âu yếm như đôi mắt của con bò cái nhìn con nó vậy .

Nghĩ tới đây, nước mắt tôi lặng lẽ trào ra . Tôi không muốn khóc mà! Tôi chỉ muốn nhớ tới má tôi thôi, nhớ đôi môi xinh xắn, ngón tay trắng thon và giọng nói dịu dàng . Tôi lật thêm vài trang . Đến trang con bé quét nhà và con khỉ trèo cây thì cơ hồ mắt tôi không còn nhìn rõ hình vẽ nữa . Màng nước mắt đã dày và những hình vẽ chập chờn rung rinh .

Mỗi lần mở cuốn vần ra coi, tôi sợ ba tôi bắt gặp . Tôi thường đợi lúc nào ba đi vắng . Tôi không muốn bị ba phê bình là đa cảm uỷ mị . Hồi má còn và thấy tôi lớn đầu mà còn quấn quít bên mẹ, ba tôi tỏ ý lo rằng sau này lớn lên tôi thiếu mạnh dạn can đảm . Chính vì lẽ đó mà mặc dù rất chìu chuộng má tôi, có nhiều lần ba tôi phải la lối gay gắt .

Quyển sách vần, tôi cất kỹ trong tủ sách của tôi . Hễ lật coi xong là len lén đem cất dưới đáy tủ . Thế nhưng có hôm vì bạn tới chơi bất ngờ hay có việc gì đó hốt nhiên xảy đến, tôi lật đật quên dẹp nó . Và rồi tôi cũng quên bẵng nó nữa . Tuổi nhỏ có trí nhớ rất dai nhưng dễ lơ đễnh lộn xộn . Khi mở cặp học bài, bỗng thấy cuốn vần nằm trong đó . Lần đầu tiên, tôi kêu chị bếp:

--Chị có bỏ quyển vần cũ trong cặp của em phải không ?

Chị lắc đầu:

--Không .

Tôi nói:

--Vậy thì chắc chị Năm .

Tôi kêu chị Năm và lặp lại câu hỏi . Chị Năm dài dòng hơn:

--Từ sáng đến giờ chị đâu có vô phòng em mà bỏ ? Ai bỏ đó chớ, chị bỏ thì chị nhận liền .

Chắc chị Năm nghi chị bếp bỏ . Và chắc chị chưa nghe rõ câu hỏi, chưa biết bỏ cái gì, bỏ vô đâu và bỏ như vậy thì có hại gì . Chắc chị đang nghĩ "kẻ đó" đã làm một điều lỗi, và chị muốn đổ riệt cho chị bếp . Tôi không muốn hỏi dài dòng thêm . Một cái chạng cây ổi nơi đó tôi ngồi núp dưới bóng lá để nghe con chim kêu chích chích đối với tôi thích thú hơn những chuyện đôi co .

Một lần sau lại cũng bỏ quên quyển vần và cũng lại tìm thấy trong cặp . Lần này tôi bận làm toán đố, không kịp điều tra .

Một buổi sáng nọ tôi đang mê ngủ thì chợt giật mình thức dậy . Nhìn ra cửa sổ thấy ánh sáng ban mai còn mờ mờ . Bên phòng ba tôi có tiếng lục đục . Ba có thói quen dậy sớm . Một lát sau có tiếng cửa mở nhẹ, rồi tiếng dép của ba đi về nhà sau . Chợt tôi nghe tiếng ba tôi hỏi:

--Đứa nào đem bỏ quyển vần Quốc Ngữ của em vô đây ?

Tôi lo quá khi nghe ba tôi nhắc đến quyển vần Quốc Ngữ . Đúng rồi, chiều qua tôi lật ra coi rồi bỏ quên không dẹp . Chắc chị bếp tánh hay làm ẩu, lấy đặt vào một nơi nào mà ba tôi không bằng lòng . Đặt lên đầu tủ lạnh, trên mặt tủ búp - phê chẳng hạn . Tính ba tôi sạch sẽ mà quyển vần thì lem luốc rách rưới .

Tiếng chị bếp:

--Dạ thưa ông, cháu đó .

--Quyển sách của em mà, sao đem quăng vô đây ?

--Dạ cháu thấy cuốn sách rách bìa, bỏ rớt dưới sàn gạch phòng ăn . Cháu tưởng em nó bỏ . Cháu lượm quăng vô giỏ để hồi nào nhen lửa . Cuốn sách vần cũ mà, thưa ông .

--Ừ, cuốn vần cũ chớ sao ?

--Em học lên tới lớp Nhất rồi, còn dùng cuốn vần đó chi nữa .

Một khoảng im lặng hơi dài . Tôi nghĩ rằng ba tôi bỏ đi chỗ khác không trả lời chị bếp . Nhưng không . Vẫn nghe tiếng ông nói ở chỗ cũ:

--Em nó giữ để lâu lâu nó mở ra coi . Kỷ niệm của má nó đó mà . Lần sau hễ thấy em nó bỏ lạc chỗ nào thì nhớ lượm lên đem bỏ vô cặp cho em .

--Dạ .

Tiếng dép ba tôi đi lên nhà trên . Tay nắm cửa phòng tôi quay nhè nhẹ và cửa phòng mở nhè nhẹ . Tôi vội vàng nhắm mắt giả vờ ngủ . Ba tôi lại gần giường đúng nhìn tôi giây lâu rồi nhẹ mở cái cặp của tôi đặt quyển vần vào trong . Ông đóng cặp lại rồi rón rén bước ra khỏi phòng . Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại sau lưng .

Tôi cảm động muốn kêu lên: "Má ơi! Ba không nghiêm khắc với con như má hằng lo sợ hồi má còn sống . Ba uốn nắn con nhẹ lắm, nhẹ hơn uốn cây măng non . Ba quý trọng những giờ phút quấn quít cạnh nhau của mẹ con ta, hồi xưa và cả bây giờ và mãi mãi sau này nữa, má có biết không ?" Tôi rất yên tâm bởi không bị cản trở trong việc thỉnh thoảng ngồi nhớ má tôi, nhớ những ngày cũ êm đềm cạnh má, sự hồi tưởng bâng khuâng mà khi lớn lên tôi coi như những cuộc hành hương lặng lẽ về Quá Khứ có má hiện diện, về Đất Thánh của tâm hồn tôi .

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

11 . Người Thứ Ba


Từ ngày Phú đau, Long đến thăm lần này là lần thứ hai. Anh không ngờ bệnh Phú có thể phát triển đến mức trầm trọng nhanh như vậy. Lần đầu tiên đến thăm Phú, cách đây chừng nửa tháng. Phú còn ngồi tiếp anh ở giường. Vẻ măït có vẻ xanh xao, hốc hác, nhưng Phú còn mời anh một điếu thuốc và chính Phú cũng tự tay chăm thuốc hút, hít từng hơi khói ngon lành. Hai người bạn còn trao đổi với nhau những tin tức xa gần về tình hình trong nước. Khi bắt tay giã từ. Long chúc Phú chóng bình phục và Phú tươi cười nhận lời chúc. Không ngờ hôm nay đến thăm thì Phú chỉ nằm ẹp trên giường, nằm dán sát xuống nệm như không còn chiều dầy nữa. Một cái chăn mỏng đắp ngang thân mình. Đầu đặt nghiêng trên gối. Treo ở đỉnh màn là một chai serum được nối liền bằng một dây cao su vào mũi tiêm cắm thủng vào da đùi. Sérum chảy rất chậm làm phồng mảng đất nơi mũi tiêm. Nhìn phương pháp trị liệu rắc rối, tự nhiên Long thấy choáng váng: bệnh tình Phú đã trầm trọng như vậy sao? Anh đứng yên ở đầu giường. Nguyệt, vợ Phú cất tiếng nói khẽ vào tai chồng.

- Anh Long đến thăm mình.

Phú chỉ gật đầu. Vừa lúc ấy chị Sen bưng lên một ly mà anh đoán là nước cam, trong đó có cắm một ống hút. Nguyệt đưa tay đón lấy, rồi vừa nâng đầu chồng vừa đặt một đầu ống vào miệng. Mực nước ở ly vơi đi rất chậm. Chợt Phú sặc lên mấy tiếng. Nguyệt vội vã bỏ ly nước ra, rồi bằng cả hai tay vuốt ngực cho chồng. Tiếng ho sặc nhẹ như tiếng nấc của một đứa trẻ. Khi Phú nằm im trở lại, nàng lấy khăn lau miệng cho chồng, rồi cầm khăn khe khẽ chặm vào mắt. Có lẽ Phú đã khóc, nhưng vì đứng ở sau thành giường, Long không nhìn thấy. Nguyệt chặm nước mắt nhiều lần như vậy.

Từ nãy giờ, Nguyệt chỉ nhìn anh có một lần khi anh bước vào nhà. Vì bận lo lắng cho chồng, điều ấy đúng rồi, nhưng Long còn nghĩ rằng có lẽ vì nàng tự thấy mình tiều tụy. Chưa bao giờ anh gặp Nguyệt trong bộ áo quần nhàu nát như hôm nay. Tóc không chải kỹ, lòa xòa trước trán. Da mặt xanh mướt và mắt sâu xuống. Môi không tô son, nhợt nhạt.

Đứa con gái của Nguyệt lên bốn tuổi bước lại gần giường. Nó đưa bàn tay bụ bẫm lên cầm tay ba. Nguyệt nói:

- Con xuống nhà chơi với chị Sen, để ba nghỉ.

- Sao ba cứ nghỉ hoài rứa?

Giọng Huế nhè nhẹ thốt ra từ đôi môi nhỏ, nghe ngộ nghĩnh như tiếng nói riêng của búp bê. Nguyệt không trả lời con, với tay lấy ly nước cam rồi lại đặt một đầu ống hút vào miệng chồng. Long đưa mắt nhìn cảnh âu yếm đó mà xót xa nghĩ đến thân phận mình. Anh cũng có đau bệnh nhiều bận, nhưng chỉ tự mình săn sóc cho mình. Người làm của anh chỉ biết nấu cháo và pha sữa. Nếu cần ăn cam thì cũng tự tay anh bóc vỏ lấy. Tiêm thuốc đã có y tá. Lạ thật, thế mà không hiểu sao anh đã lành bệnh được. Có ai đoán trước ý muốn của anh để chiêu đãi anh như thế kia đâu? Ai chọn bác sĩ, ai chọn thức ăn, ai đoán là anh đang lạnh, đang nóng để mà tùy nghi đắp chăn hay vặn quạt? Khi đau nặng sợ chết, anh cũng có khóc đôi lần, nhưng rồi cũng phải tự mình đưa tay lên lau nước mắt. Thế mà anh vẫn sống được, lạ thật!

Có nhìn cách Nguyệt săn sóc chồng, anh mới chợt thấy rằng anh đã sống liều lĩnh mà không biết "Đáng lẽ mình đã phải chết từ lâu rồi, từ lâu rồi". Ý nghĩ này lại làm anh xót xa thương cho thân phận mình, nhất là vì Nguyệt, chính Nguyệt sinh ra để săn sóc âu yếm anh chứ đâu phải để săn sóc Phú? Đáng lẽ anh và Nguyệt đã cưới nhau, nếu không có Phú chen vào. Phú là người tình địch của anh, người tình địch thắng trận. Phú có địa vị hơn anh, nên gia đình Nguyệt chọn Phú. Như mọi người con gái Huế khác, Nguyệt chỉ khóc. Và nói với người yêu chiến bại:

- Em không bao giờ quên anh.

Ồ, một người con trai, cho dù mới hai mươi lăm tuổi cũng đâu có dễ tin ở một lời hứa hẹn không bảo đảm như vậy. Nhưng vì không có cách nào khác, anh đành tạm nhận lời an ủi và nói lại, không quả quyết lắm:

- Anh cũng thế.

Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau, hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.

Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh. Đôi đường sắt vẫn nối anh với Huế như tâm hồn anh vẫn nối liền với Nguyệt bằng những ý nghĩ vừa mãnh liệt vừa nhọc nhằn. Anh thấy lại Nguyệt dưới mọi khuôn mặt. Nũng nịu âu yếm, khi anh bẻ tặng nàng một đóa ngọc lan có con sâu nằm nấp dưới đài hoa. Rạng rỡ tươi vui, khi nàng vươn vai hai tay chèo thuyền thoi lướt vùn vụt trên sông An Cựu. Mơ mộng êm đềm, khi ngồi bên anh nàng phác họa những dự tính tương lai.

Tàu chạy sâu vào đêm tối. Đến đây anh có cảm tưởng mình bị cắt đứt với dĩ vãng. Đêm tối là hình ảnh của cuộc đời mà anh đang đi tới. Ở Huế như chỉ có ban ngày với hoa phượng, với nắng với tình yêu.

Tàu qua đèo Cả vào mười hai giờ khuya. Long đau đớn nghĩ rằng giờ này là giờ hợp cẩn. Nguyệt nằm trong cánh tay của Phú, kết thúc giai đoạn hạnh phúc mà anh đã bắt đầu. Anh sẽ ít đau khổ nếu Phú là một người lạ mà một không hề quen biết. Đằng này không, Phú là bạn học của anh. Biết quá rõ về một người bạn để phải tưởng tượng rằng Nguyệt nằm trong tay người bạn ấy, anh thấy định mệnh đối với mình thật tàn ác. Anh muốn hét to lên, phẫn nộ, nhưng sợ ngượng, không dám. Anh nghĩ: nếu mình nhảy ra khung cửa tàu, lao xuống triền núi để cho nát tan khối óc, nơi đó những hình ảnh tưởng tượng cứ hiện ra, nối tiếp một cách tàn nhẫn. Nhưng anh vẫn ngồi im lặng. Sách vở bảo rằng tự tử là hèn nhát. Khi tàu dừng lại ở ga Ninh Hòa, anh thở dài tự nói với mình:

- Thực tế thì phải có can đảm lắm mới tự tử được. Thành thật mà nói thì sau đó anh đã quên được Nguyệt. Anh yêu vẩn vơ người này người khác. Tình yêu như một món ăn chớ ai bảo rằng họ chỉ ăn được một món này mà nhất thiết không thể ăn món kia. Chỉ khi nào tâm hồn cô đơn, khi một tình yêu cũ chấm dứt mà chưa có tình yêu mới bắt đầu, khi làm ăn thất bại.. là anh nhớ tới Nguyệt để mong tìm một hình ảnh êm đềm mà an ủi.

Hai năm sau, anh trở về thăm Huế. Cảnh vật như xưa, nhẫn nại trong sự bất biến. Dòng sông vẫn trôi lặng lẽ, những mái tóc vẫn chảy dài trên vai áo những cô gái. Long bắt gặp tâm hồn mình yêu thương man mác, buồn vui nhẹ nhàng như hai năm trước. Nhìn lại cảnh cũ, anh quên mất hiện tại. Những kỷ niệm êm đềm ngày xưa như có năng lực xóa mòn những cạnh góc gồ ghề nơi tâm hồn anh hôm nay. Anh tìm thăm Nguyệt. Phải chọn một giờ mà anh tin chắc là Phú đi làm vắng.

Người u già ra mở cổng. Anh vào ngồi ở xa lông, sau khi nói tên mình cho u già. Mươi phút sau cửa phòng mở. Không phải Nguyệt đi ra mừng rỡ chào anh mà Nguyệt nằm trên giường. Khuôn mặt nàng quá trắng, trên đó đôi mắt đen trông càng thêm đen. Môi chợt hé một nụ cười. Tóc xõa trên gối. Nguyệt nói:

- Anh lại ngồi cái ghế xa lông này cho em nhìn rõ mặt anh. Em không đi ra được. Em vừa sinh được một tuần. U già ơi, vén cao giùm cái màn cho tôi.

Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon, lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt. Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em...

Nàng im lặng. Long thấy đôi mắt nàng sáng long lanh và liền đó hai giọt nước mắt lăn trên gò má.

- ... Em tìm địa chỉ anh để viết thư cho anh nhưng hỏi không ra. Em biết anh giận em lắm. Nhưng em làm gì được? Em chỉ biết nhớ anh và cầu mong cho anh gặp một người yêu đẹp hơn em, giỏi hơn em. Anh đã cưới vợ chưa?

- Chưa.

Long phải đằng hắng to mới nói được một tiếng "chưa" ngột ngạt.

- Anh có giận em nhiều lắm không?

- Có

Nguyệt khóc thành tiếng

- Phải. Thà anh nói thật như thế để em yên tâm. Người con gái nào cũng phụ tình khi đi lấy chồng.

Long loay hoay sắp sửa đứng dậy. Nguyệt vội nói:

- Anh đi sao? Hai năm đằng đẵng mới gặp, anh ngồi với em thêm một lát. Anh có việc gì bận không?

- Không

Long lắc đầu.

- Vậy anh ngồi với em cho đến mười một giờ. Anh bây giờ đen hơn xưa một chút. Công việc làm ăn của anh ra thế nào?

- Tầm thường. Chắc thua xa chồng em.

- Anh đừng mỉa mai em, tội nghiệp. Em thật lòng với anh mà.

Long cũng tự thấy mình tàn nhẫn. Anh chọn một câu nói êm đềm hơn:

- Anh vẫn mong em được sống trong hạnh phúc

- Thực tế thì không được như vậy đâu. Nhưng mà thôi, mỗi người có một số mệnh.

Khi Long đứng dậy cáo từ, Nguyệt nói:

- Anh cho em biết địa chỉ của anh.

- 54 Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.

Nguyệt gật đầu:

- Em nhớ rồi. Số nhà của anh gấp đôi số nhà của em.

Long bước ra đến bên hiên thì Nguyệt gọi giật lại:

- Anh ơi.

Long quay lại, đứng đợi nàng hỏi, nhưng nàng chỉ nhìn chăm chăm mà không nói. Một lát nàng bảo:

- Thôi, anh đi. Nhớ viết thư cho em.

Bức thư trao đổi sau đó, tuy vậy, do Nguyệt viết. Nàng có mặc cảm rằng mình phạm lỗi nên thư viết rất thiết tha. Long trả lời ngắn hơn vì tự ái, nhưng trong thâm tâm anh vẫn tính nhẩm mong ngày thư của nàng đến. Anh cũng tham lam về tình cảm như mọi người khác. Dù vô vọng cũng muốn được yêu. Vả lại có gì đáng gọi là vô vọng đâu? Cuộc đời dành cho con người nhiều sự bất ngờ. Một ngẫu nhiên nhỏ có thể định đoạt trở lại một cuộc dàn xếp tưởng như là bất di dịch. Long nghĩ vẩn vơ đến đó rồi thôi. Cuộc đời bận rộn vì công việc mưu sinh, anh chỉ dành chừng hai giờ mỗi khi có thư Nguyệt đến để đọc thư và viết trả lời. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, bỗng nhiên Phú được lệnh đổi vào Sài Gòn. Hai người đàn ông gặp nhau, vui vẻ một cách cố gắng. Họ thỉnh thoảng rủ nhau đi dạo phố, mời mọc nhau ăn uống. Cả hai dùng nhiều tiếng cuời, nhiều lời pha trò ồn ào để cố đánh tan tiếng nói của sự bất bình âm ỉ nơi lòng họ. Cả hai đều muốn tỏ ra độ lượng. Dần dần quen di, sự cố gắng không còn thấy khó khăn nữa. Họ gần trở về với thái độ bằng hữu vô tư ngày nhỏ thì chợt xảy ra căn bệnh hiểm nghèo của Phú hôm nay.

Long ái ngại nhìn bạn mình nằm thiếp đi. Trước hôm đau, Phú chạy lo giúp cho anh được hai sở thầu quan trọng. Phú nói:

- Xong hai sở này, cậu phải nghỉ một thời gian để lo việc vợ con. Không có vợ trong nhà thì làm được bao nhiêu cậu tiêu vung hết bấy nhiêu.

Giọng Long trầm trầm:

- Mình cũng biết vậy.

- Đã biết thì phải lo giải quyết chớ

- Nhưng giải quyết đâu phải dễ?

- Nhưng sao cậu cứ cho là khó? Tôi đã giới thiệu cô Mỹ cho cậu, cậu đã bằng lòng, thế mà cậu không chịu xúc tiến gì hết.

- Ờ thì mình bằng lòng, nhưng biết cô ấy có chịu không, ông cụ có chịu không?

Phú "xì" một tiếng, nhíu mày rồi gật đầu:

- Thôi được rồi. Chủ nhật mình đến thưa giùm với ông cụ cho.

Chủ nhật chưa đến thì Phú ngã bệnh.

Một người bạn đến báo tin "Phú đã mất hồi ba giờ khuya hôm qua", Long bàng hoàng như vừa bị say sóng. Anh không ngờ rằng Phú có thể chết nhanh như vậy, mặc dù vài hôm trước anh cũng đã từng nghĩ: "Nếu Phú chết?"

Tâm hồn anh như chao đi, bị tràn ngập trong khoảnh khắc bởi những cảm giác gì rất đỗi mơ hồ. Có phải đó là cảm giác buồn? Không rõ ràng. Phải nói rằng đó là những cảm giác rất phức tạp mà anh sợ không dám phân tích rõ. Có len lỏi một chút gì bằng lòng chăng? Long lắc đầu cố xua đi cái ý nghĩ xấu xa vừa chớm nở đó. Không, anh phải buồn thành thật. Anh nhớ lại những cử chỉ tốt bụng Phú đã từng đối với anh. Phú thành thật và cởi mở. Phú không có ác ý. Phú vẫn coi anh là một người bạn và tìm mọi cách để giúp anh. Riêng anh, anh phải tự khinh mình về những ý nghĩ thù hằn, ghen tỵ mà anh đã từng có. Đứng trước một người chết, lòng tự ái không có tiếng nói nữa. Đối với người đã giã từ cuộc sống để ra đi mãi mãi, giũ hết mọi ghét thương, lo âu, mừng giận, anh thấy lòng thương tràn đầy. Phải, đến giờ này Phú không còn nữa. Phú bị xóa đi khỏi cuộc sống, Phú chỉ còn trong kỷ niệm, mơ hồ như vừa có vừa không. Phú thất bại trong cuộc đấu lớn, cuộc chiến đấu cuối cùng, chiến đấu chống sự chết. Nghĩ đến một ngày nào đó mình cũng sẽ chung một số phận như vậy, Long hết lòng thương người bạn chiến bại của mình.

Anh muốn đến thăm Nguyệt ngay để an ủi nàng và để giúp nàng một tay trong việc tang ma, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, rồi thôi. Gặp lại Nguyệt trong giờ này thật không nên. Thật khó mà giữ được vẻ tự nhiên khi cả hai cùng cảm thấy quá khứ của hai người dễ hiện lên lẫn lộn với hiện tại. Anh muốn tôn trọng sự thuần khiết của niềm đau xót Nguyệt dành cho chồng. Anh đợi sang ngày hôm sau, khi đã phát tang mới mang lễ đến phúng viếng. Nguyệt và Phú có nhiều họ hàng ở Sài Gòn, nên anh không làm Nguyệt sẽ lúng túng trong việc ma chay.

Khi anh đỗ xe bước vào nhà thì tiếng nhạc cử ai vang lên. Phường bát âm ngồi ở trước hiên gồm lúc nhúc những kèn, nhị và trống. Anh hồi hộp không phân biệt được ai. Tiếng nhạc báo hiệu cho gia chủ biết rằng có khách đến viếng. Tức thì ở sau bức màn trắng lao xao có tiếng người di chuyển. Một người nhận lễ vật của anh đặt vào khay bưng để lên bàn thờ. Quan tài của Phú kê trên bộ ngựa cao đặt giữa nhà. Vòng hoa dựng chung quanh. Trên tường treo la liệt liễn đối, nét chữ màu đen buồn bã. Anh nhìn giây lâu chiếc quan tài đựng thi thể của bạn. Giã từ tất cả những khuôn mặt người, những đồ vật quen thuộc và ánh sáng mặt trời. Phú đã đi vào màu đen của đôi mi mắt nhắm của nắp ván thiên đậy lại, rồi mai này và vĩnh viễn, của lòng đất âm u.

Giọng kèn, giọng nhị kể lể bên tai, nức nở sụt sùi. Trước mặt anh, xế bên tay phải quan tài, Nguyệt ngồi bệt xuống đất để chuẩn bị đáp lễ. Áo tang trắng lụng thụng. Một cái mấn trắng chụp trên đầu. Long chầm chậm quỳ xuống lễ. Rập theo nhịp của anh, Nguyệt cũng thong thả cúi đầu lễ trả. Anh hồi hộp không dám nhìn Nguyệt. Anh cảm thấy bao nhiêu con mắt tò mò của lũ người đến xem đám và sau lưng mình, làm nóng cả tai và cổ.

Lúc anh đứng dậy để bước ra khỏi chiếu, Nguyệt tiến đến theo lệ để cảm tạ. Nàng nói gì anh không nghe rõ. Anh chỉ thoáng nhìn qua, chợt bắt gặp đôi mắt đen của nàng và dưới cái ấn trắng, da nàng trắng rực rỡ như sáng hẳn lên. Long bàng hoàng như mình vừa qua một giấc mơ ngắn. Màu da mặt ấy bên cạnh màu vải trắng kia chính là màu quen thuộc của Nguyệt khi nàng còn là học trò, mặc áo dài trắng và xõa tóc bên vai. Chính Nguyệt đã yêu anh với màu trắng đơn sơ ấy. Mấy năm nay anh toàn gặp nàng trong những hàng áo ni lông màu hoa sặc sỡ khiến nàng vẫn gần anh mà không hiểu vì sao anh vẫn thấy cách xa. Nay đột nhiên anh thấy lại nàng mộc mạc như xưa, anh xúc động như mình vừa bắt gặp lại tuổi thơ của mình. Anh muốn hỏi lên: "Thế mà đã sáu năm rồi sao?"

Nhưng tuổi thơ, có thật là mình bắt gặp lại được tuổi thơ hay đó chỉ là một ảo ảnh thoáng qua, anh chua xót nghĩ. Thực tế thì sáu năm đã ghi lại những nét quá đậm trong tâm hồn của Nguyệt, của anh. Lấy gì mà xóa được? Tình yêu đâu còn hồn nhiên trong suốt? Khi gặp trở ngại, anh thấy mình yêu thật nhiều, yêu đến độ mình sẵn sàng đạp phăng tất cả để chinh phục tình yêu đó. Nay trở ngại đã mất thì anh bắt đầu lúng túng và hoài nghi. Có lẽ Nguyệt cũng nghĩ như anh vậy. Nhìn kỹ vào đôi mắt của nàng, anh thấy có hai dòng nước mắt đang chảy từ từ xuống má. Đúng rồi, nàng đang hoài nghi như mình.

Nàng đang xót xa nghĩ rằng nàng sắp nhận một nỗi khổ mới, nỗi khổ âm ỉ, khác xa với nghĩ của nàng trong một đoạn thư nàng viết cho anh, trước đây:

"- Được biết anh quen với Ngãi, em vui lắm. Ngãi là bạn học của em ở Đồng Khánh đó. Anh cưới Ngãi đi nhé. Rồi ngày hè em sẽ vào thăm anh, thăm Ngãi. Bộ ba chúng ta sẽ đi phố, đi biển, tha hồ vui. Bộ ba! Anh ơi, sao anh với em cứ phải đóng vai bộ ba mãi vậy anh? Sao số chúng ta lại khổ vậy? lúc nào giữa anh và em cũng hoặc chồng em hoặc vợ anh. Sao số chúng ta lại khổ vậy?

Hôm nay, một sự hiện diện bộ ba không còn nữa, nhưng không đơn giản như hai người từng nghĩ, thoáng trong một phút, anh chợt nhận thấy giá trị không ngờ của nó. Khi đóng vai nạn nhân, Nguyệt và anh đều cảm thấy mình có giá trị nhiều hơn, mặc dù bị trở ngại mà vẫn được yêu, điều ấy không phải dành cho mọi người bình thường.

Có pha thêm một chút đắng, vị ngọt của tình yêu mới làm cho người ta đam mê như khi đam mê hương vị của cà phê. Từ hôm nay, hai người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ dàng, tầm thường, anh thấy mình nhẹ nhõm một cách chán ngắt khi không còn phải vận dụng trí óc để đối phó. Trước mắt anh không còn một đối thủ xứng đáng để cho anh phải gắng sức mà chỉ còn phảng phất một cái bóng, một cái bóng không mất, không bao giờ mất.[/scroll]

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

12 . Lạnh Tuổi Thơ


Xe Giang vừa từ đường Nguyễn Hoàng rẽ sang đường Hồng Bàng thì đã có tiếng reo to của hai đứa con: Hào và Thủy. Như phục binh nằm nấp sẵn, vừa thoáng thấy bóng chàng là thằng Hào nhảy ra vồ, rồi chạy rượt theo xe. Và như đã có ám hiệu trước, bé Thủy nghe tiếng xe nổ lạch bạch và tiếng vồ thì lật đật chạy vù một mạch từ nhà ra đón chàng, chạy bất kể những chỗ lồi lõm của chức năng đường cát. Khi xe dừng lại ở sân thì hai đứa con đã chạy theo kịp, đứng hai bên, thở hổn hển. Câu chàng hỏi đầu tiên bao giờ cũng là:

- Chị Hằng đi học về chưa?

Thủy đáp liền:

- Rồi.

Hào thì nói loanh quanh dài dòng hơn. Chỉ vì chị Hằng bao giờ cũng có chuyện ăn hiếp nó nên hễ hỏi tới Hằng là lúc nào nó cũng phải cố tìm để kèm theo câu trả lời, một câu than phiền nào:

- Chị về rồi. Chị ăn hết trái cam rồi. Chị không cho con.

Thủy phụ họa theo:

- Chỉ cho con có một tép.

- Chỉ cho con có một tép.

- Chị cốc vào đầu con. Giang dắt hai con đi vào nhà. Chàng không lưu ý lắm đến những chuyện bi bô của hai con. Chàng vui mừng vì cả gia đình họp mặt đầy đủ. Tạm gọi là đầy đủ vậy thôi vì đầy đủ thế nào được khi gia đình thiếu mất một người vợ, một người mẹ. Từ ngày Bảo mất đi, gia đình của chàng bỗng thấy thu nhỏ lại hết sức. Cái gia đình bốn cha con này xúm quanh nhau, đều đặn như bốn cái chân của một chiếc ghế, bốn cái ghế của một bộ xa lông. Trừ những giờ đi làm, đi học, còn thì bốn cha con cứ quây quần bên nhau.... Buổi sáng, họ chia nhau bốn cái bàn chải đánh răng, chuyền tay cho nhau hộp perlon, thay phiên nhau sì sụp trong hai thau nước và lau mặt bằng bốn cái khăn mặt treo thành một dãy. Tiếp theo là bốn mẩu bánh mì đặt cạnh bốn tách sữa.

7 giờ kém 10 phút, Giang xách xe đi làm, Hằng đạp xe đi học, Hào và Thủy còn nhỏ phải ở nhà tự học vừa coi chừng nhà. Hào làm toán và tập chép bài. Thủy tập đánh vần. Trưa 11 giờ, chiều 5 giờ, Giang kiểm điểm lại cái gia đình nhỏ của mình, vui mừng được sum họp. Những buổi Hằng đi học về chậm là chàng lo lắng vì sợ xe cộ. Những bữa chàng đi làm lỡ phải về chậm thì chắc khỏi ai lo. Vì Hằng mê mải đọc truyện, Hào mê mải chơi. Chỉ có Thủy là thẫn thờ đứng ở cửa đợi ba về. Vẻ mặt buồn vì cô đơn. Chàng nhớ lại mới ngày nào, Bảo cũng hay đứng ở cửa đợi chàng như thế.

Ngồi vào bàn ăn, Hào hỏi:

- Đố ba biết hôm nay ăn món gì?

Thủy nhanh miệng trả lời:

- Cốt lét nấu với cà.

Hằng tiếp theo:

- Đúng, cốt-lết nấu với cà.

Ba chị em phá ra cười ầm ĩ.

Số là bà nấu bếp vụng về, cứ lần nào Giang quên dặn đi chợ mua món gì, nấu món gì là bà trở về món cố hữu của bà: cốt lết nấu với cà. Lâu thành thói quen, nên mỗi khi nhắc tới cái tài của bà bếp là ba chị em tranh nhau la lên:

- Cốt lết nấu với cà.

Bốn cha con đã ngồi vào bốn ghế mà bàn ăn vẫn mới chỉ có khăn bàn, 12 giờ rồi. Thủy lãnh ngồi ở ghế cạnh ba để ba vuốt ve cho. Má mất hồi Thủy mới lên ba, Thủy thiếu những cái vuốt ve của má nên mỗi lần được ba vuốt tóc, vuốt lưng, nắm tay thì Thủy mỉm cười sung sướng lắm. Thủy sợ chị Hằng và anh Hào ganh tỵ nên thỉnh thoảng hay liếc nhình về hai người

Bà bếp dọn bàn. Những món ăn không thay đổi. Hằng than phiền:

- Con chán quá. Con không muốn ăn nữa.

Hào cũng bắt chước:

- Con cũng chán quá, con không muốn ăn nữa.

Thủy nhìn sang ba, ngầm ý hỏi không biết nên bỏ chén đũa xuống bàn để "chán quá" như chị và anh hay nên cứ cầm bát đũa như ba. Giang bảo:

- Các con chịu khó ăn đi. Aên cốt cho bổ chớ đâu chỉ cốt cho ngon. Này, có thịt bò này, rất bổ. Có tôm này, cũng rất bổ... Ồ! Có cả rau nữa, đại bổ, đại bổ.

Thủy nói:

- Thôi ăn đi chị Hằng, ba nó bổ mà.

Hằng nhíu mày, nạt:

- Mày biết cái gì!

Thủy mở to mắt nhìn ba, miệng mếu xệu. Ba phải ôm lấy đầu Thủy, hôn vào tóc mà nói:

- Chị Hằng giỡn đấy. Thủy biết chớ sao không biết.

Hào chêm vào:

- Nó mà biết cái gì. Có ba ở nhà, nó làm nũng đó. Khi ba chưa về, chị Hằng nạt nó và đánh nó, nó không dám khóc.

- Đừng nạt và đánh em. Em có làm cái gì sai thì dạy em. Các con cũng biết nếu còn má thì em đâu có khổ. Hồi hai đứa con bằng nó, má còn sống, má săn sóc cho hai đứa con.

Không biết trả lời sao, Hằng "xì" một tiếng và Hào "xịt" một tiếng. Giang và cơm, nhai ngon lành rồi mời:

- Thôi, mời các bạn ăn đi.

- Con không ăn

- Con không ăn

Giang vừa nhai cơm vừa chậm rãi nói:

- Bà Thứ (tên bà nấu bếp) không phải là bếp chuyên môn thì nấu món ăn làm sao cho thật khéo được. Nhà không có má, không ai coi chừng nhà, ba phải mượn bà Thứ vì bà thật thà, hiền lành. Ba có thể thuê người nấu ăn khéo hơn, nhưng khi cha con ta đi vắng hết, lỡ phải kẻ gian họ dọn đồ đạc đi mất hết thì làm sao?

Nhưng Hằng đã không nghe mà đang cầm lên tập truyện để coi tiếp. Hào cũng không nghe mà đang lắp lại cái bánh xe cao su. Thấy con lơ đãng hết, Giang hỏi to:

- Nghe chưa?

Cả ba giật mình.

- Các con muốn ăn ngon thì các con phải chịu khó đi kiếm về đây một bà dì ghẻ. Bà dì ghẻ sẽ coi sóc sự nấu nướng cho thật ngon cho các con ăn.

- Nhưng bà dì ghẻ hay đánh lắm - Hằng vội vã nói.

Thủy ngây thơ tiếp:

- Bà dì ghẻ có ghẻ.

Ba cha con cười ầm lên vì lời nói ngớ ngẩn của Thủy

- Thì các con phải lựa lấy. Một là chịu ăn không ngon, hai là tìm về một bà dì ghẻ để được ăn ngon. Ai thích ăn ngon?

Hào giơ tay:

- Con.

Thủy giơ tay theo:

- Con

Hằng lắc đầu:

- Thôi, thà con chịu ăn không ngon. Con không muốn có dì ghẻ.

Thủy cũng nói:

- Con không muốn có dì ghẻ.

Hằng dõng dạc ra lệnh:

- Thôi ăn đi bay. Kệ nó, ăn không ngon cũng được.

Hào nói theo :

- Ăn đi bay.

Thủy cũng nói:

- Ăn đi bay.

Cả ba hăng hái ăn. Món ăn không đến nỗi dở, khi ba chị em ăn hăng hái.

Ăn tráng miệng xong, Giang bắt ba con vào phòng, xếp mỗi đứa một giường cho chúng nghỉ trưa với mình. Nhưng Hào và Thủy không thể nghiêm trang nằm đợi ngủ mà phải chính giấc ngủ lôi cuốn chúng bằng một sức mạnh chúng không thể cưỡng lại được. Ví dụ ngủ đang giữa bữa cơm. Ví dụ ngủ giữa hai trang sách mở, ngủ khi bị rầy, ngồi thút thít một mình ở góc giường. Nhưng bảo nằm song song mỗi đứa mỗi giường thì nhất định chúng lén quay mặt đối nhau rồi khúc khích cười với nhau. Sợ bị rầy, thế nào cũng có một đứa lên tiếng giả bộ rầy đứa kia:

- Im đi, để ba ngủ.

Rồi chính đứa đó lại nằm còng queo lại rúc rích cười. Đứa kia không chịu thua cũng vội nằm sấp xuống giường, úp mặt vào gối mà lưng và bụng thì rung lên vì những trận cười không dám cho thoát ra miệng nên phải đẩy lui vào ngực vào bụng. Không nỡ rầy con, Giang cứ để mặc, gắng nhắm mắt ngủ. Nhưng vừa mơ màng thì chàng chợt bị giật mình vì một tiếng "éc" không biết của đứa nào không kìm giữ được phải bật lên. Thế là hai đứa bị đuổi ra phòng khách và chàng phải khóa trái cửa lại. Những điều này, khi còn Bảo, chàng không thấy bao giờ xảy ra. Bây giờ có xảy ra chàng mới để ý rằng trước kia đã không hề có. Tìm hiểu một chút, chàng thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà sự thể lại xảy ra khác nhau, ngày trước và bây giờ. Không, phải có một sự xếp đặt kín đáo và dịu dàng của Bảo, lũ con mới "biến đi đâu mất" không quấy rầy giấc ngủ trưa của chàng. Tự nhiên, cũng như mỗi lần nghĩ đến người vợ hiền ngày xưa, chàng thoáng nghe như có một tiếng thở dài nhẹ đâu đây, như có một bóng mát đổ xuống mau, như mơ hồ có một tiếng giã từ, như có một giọt nước mắt sắp rưng rưng. Có thật hay tưởng tượng. Mông lung man mác quá, chàng không tìm hiểu nữa.

Buổi tối ăn xong, Giang lại nằm im ở đi văng và gọi Hào lại nằm một bên, Thủy nằm một bên. Ba cha con nói chuyện bâng quơ. Giang hỏi con về những trò chơi trong ngày. Thế là không biết để tai mà nghe ai nữa. Hào tranh phần nói và Thủy cũng không kém. Có điều Giang hỏi đứa nào chơi cái gì thì bao giờ chúng cũng báo cáo công việc của đứa kia. Thủy nói:

- Ba ơi, anh Hào chạy ra đường chơi cả buổi không chịu học... Anh chơi với thằng Ngọc. Hai đứa cởi trần ra rồi chạy rượt nhau. Hào vừa cười vừa cướp lời:

- Ba ơi, còn con Thủy xé lá dừa nhà mình buôn bán với lũ con Cúc, con An, rồi xả rác ngoài sân.

- Ba ơi, còn anh Hào...

Cuộc "hội báo" biến thành cuộc cãi vã nhau. Hằng, cả hai đá nhau, thụi nhau, và đá nhằm cả vào sườn của người cha nằm giữa. Người cha bị bắt buộc phải hiền lành hết sức, trở lại đóng vai trò hòa giải như thường lệ:

- Không được đánh.

- Nó đánh con trước.

- Mày đánh tao trước.

- Thôi, tao đứng dậy để chúng bây đánh nhau cho rộng chỗ.

Vừa nói, Giang vừa ngồi dậy. Thủy đu vào tay níu theo. Hào cũng quàng hai tay kéo cổ Giang xuống vừa thét lên: Không cho đi. Không cho đi. Cột con bò này lại"

Hằng đang ngồi may áo đầm cho búp bê ở bàn, quắc mắt sang đi văng:

- Thằng Hào hỗn đấy hả? Mày nói ba là con bò hả?

Giang cười:

- Tao là con bò thiệt, tụi bay ơi. Mà là con bò cái.

Câu khôi hài bất ngờ và có vẻ ngộ nghĩnh khiến ba đứa con cười ồ lên một loạt.

- Chớ sao. Ba là con bò cái, còn ba đứa bay là ba con bò con. Ba đi làm nuôi mấy đứa con thì cũng như con bò cái cho mấy con bò bú sữa.

Hào hỏi:

- Nhưng mà ba đâu có sữa?

- Ba đâu có * giống con bò? Thủy tiếp theo.

- Là ba nói ví dụ như vậy.

- Ví dụ là cái gì, hở ba? Là cái * hả?

Nghe câu hỏi ngớ ngẩn của Thủy, Hằng phá ra cười. Thấy chị cười, Thủy cười theo rồi sục vào ngực Giang như một con bò con sục vào * mẹ.

Tám giờ, Giang ngồi dậy, lại bàn viết. Chợt ở ngoài cổng có tiếng chó sủa và tiếng giày dép lê trên đường, cạnh rào. Tiếng một đứa trẻ:

- Nhé, mợ nhé, mợ nhớ mua cho con một cái xe đạp trẻ con đấy nhé?

- Ờ.

Tiếng một đứa trẻ khác:

- Còn mợ mua cho con một cái nón có bao ni lông vẽ hoa nhé. Cái nón cũ con xơ cả vành rồi.

- Ờ.

Tiếng nói im lặng nhường cho tiếng guốc dép, tiếp theo là tiếng người đàn bà giục:

- Bước nhanh lên một tí, các con. Họ sắp hát rồi đấy.

Giang hỏi các con:

- Lũ con Vinh, con Chi nó đi đâu với mợ nó?

- Đi coi cải lương - Hằng trả lời.

Hào nhăn mặt, vẻ nài nỉ:

- Ba không cho lũ con đi cải lương lần nào hết. Lũ con Chi, con Vinh đi luôn với mợ nó.

- Chúng nó có mợ chúng nó dẫn đi.

Thủy chen vào:

- Con biết rồi. Mợ nghĩa là má.

- Thủy giỏi, biết mợ là má. Các con không có má thì ai dẫn đi. Ba bận luôn, các con thấy đó, dẫn đi gì được.

Hằng ngừng tay khâu, ngẩng lên hỏi:

- Thế chị Hương đâu có má mà chị đi coi hát luôn. Chị đến rủ con hoài.

- Có dì ghẻ nó dẫn đi.

Hào phân bì.

- Sướng hơn lũ con.

Hằng nhún vai:

- Thôi đi mày ơi. Dù có cho đi đi nữa thì lúc mặc quần áo vào ba cũng nổi xung mà la lên.

Giang phì cười:

- Ai không nổi xung cho được. Con coi, trong ba đứa, chỉ có mình con là biết tự lo mặc quần áo lấy, còn ông Hào thì thôi, áo đứt nút, quần mất nịt, giày mỗi thứ chỉ còn một chiếc.

- Tại bà Thứ không đính nút cho con.

- Thì tại bà Thứ chớ ba đâu có nói tại con. Bà ta vụng và chậm mà lại. Đặt trước quên sau, đặt sau quên trước mà lại. Hằng nhắc:

- Ba quên chưa kể phần con Thủy.

- À, còn phần con Thủy. Aùo đầm cả ba cái đều dơ, nhét vào một xó nào không đưa giặt, đến hồi đi, mở toang mấy va-li, lục tung mấy tủ mà kiếm không ra áo. Rồi may ô của nó, bà Thứ bỏ lộn sang của ba. Rồi...

Thủy tiếp lời, thú vị như khi đọc một bài học thuộc lòng:

- ... Rồi móng tay chưa cắt.. Rồi tóc chưa kịp chải.

- Đúng lắm. Đúng lắm.

Giọng Hằng hơi dỗi:

- Nói theo ba thì ở Nha Trang đây không có đứa nhỏ nào đi coi hát hết.

- Nhưng những đưa đi coi hát, chúng đều có má dẫn đi.

- Chị Hương đâu có má?

- Kìa! Ba vừa nói rằng nó có dì ghẻ. Dì nó lo mua quần mua áo, mua giầy mua dép, dẫn đi uốn tóc, chỉ bảo cho người ở sắp dọn ngăn nắp. Khi đi đâu, có dì nó săn sóc cho. Ba nó chỉ có việc đưa tiền. Còn ba, cực chưa! Con có nhớ mấy lần ba phải dẫn con đi len lỏi vào giữa chợ Đầm để lựa mua áo cho con và cho mấy em không? Con có còn nhớ lần ba mua pyjama cho con Thủy, ba đã nói rõ ràng là mua cho con gái, thế mà cô hàng cứ đưa pyjama con trai, rồi nằng nặc nói rằng đó là của con gái và ba không biết cứ mua lầm đó sao.

Hào hỏi mau:

- Thế sao ba không kiếm dì ghẻ như ba chị Hương?

- Ủa! Hồi trưa ăn cơm, mấy người nói không muốn có dì ghẻ cơ mà!

Hào "à.. à" vừa gật đầu chữa thẹn. Mọi người im lặng. Chợt Hào nhảy bám vào lưng ba, kề miệng vào tai ba nói nhỏ. Ba lắng tai nghe một lát rồi cười to lên. Hằng và Thủy đồng thanh hỏi:

- Nó nói cái gì thế ba?

- Cái gì hở ba?

Ba vẫn cười to:

- Tụi bây biết nói cái gì không? Nó nói: Ba ơi, kệ nó, dì ghẻ cũng được.

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

14 . Những Bí Mật Của Anh Đỗ Cúc


Chừng như không giữ được nhẫn nại nữa, thầy Tri nghiêng đầu nhìn tôi rồi giơ hai tay lên trời:

- Sao trò ngu thế? Làm luận như trò thì đi thi đỗ thế ...chó nào được? Văn chương gì mà khô như bã mía thế?

Thấy thầy ngừng lại không nói tiếp, hai tay vẫn giơ lên và cái đầu vẫn nghiêng, tôi ấp úng:

- Dạ!

Tiếng "Dạ" ngu si chỉ được tôi nói khẽ hết sức cũng làm cho cả lớp bật cười lên. Tôi đưa mắt nhìn xuống lớp. Hai hàng nữ sinh ngồi ở hai bàn đầu rúc rích cười làm tôi ngượng quá. Tôi cảm thấy máu rần rần chạy lên hai tai. Thầy Tri cúi gần tôi ôn tồn giảng:

- Muốn cho bài luận hay thì mình phải thêm thắt vào. Ai chẳng biết cây phượng trước trường trò rụng lá trơ cành? Nhưng trong bài luận trò phải nói, chẳng hạn: "Cây phượng trước trường sum xê lá xanh và hoa đỏ. Từng đàn chim đậu trên cành cất giọng hót véo von"

Tôi lại "dạ" và cả lớp lại "ồ" lên cười.

- Có phải trò nghe chim hót véo von không?

Tôi nặn óc để cố nhớ lại xem có lần nào tôi nghe chim hót véo von không, nhưng tuyệt nhiên không nhớ. Hình như mỗi lần ra chơi tôi chỉ nghe học trò la ồn ào mà thôi, mà bài luận thầy lại ra "Tả cảnh sân trường vào giờ ra chơi". Tôi nghĩ: Giá có con chim nào đậu ở trên cành phượng - thực tế thì khó có thể vì cậy phượng bị lũ học trò trèo phá bẻ gãy cành, tước rụi cả lá thế kia thì có chim nào thèm đến đậu - mà cho rằng có chức năng chim nào đậu nhằm trên cành phượng mà muốn véo von hót thì lũ học trò nô đùa cũng đủ cho nó sợ hãi mà bay đi. Nếu không bay thì thế nào nó cũng bị lũ học trò tranh nhau lấy đá ném hoặc lấy ná cao su bắn. Lũ học trò cứ mươi đứa là đã có vài đứa thủ ná cao su đi học. Chúng đến trường sớm rồi rủ nhau đi lang thang ở dãy cây rậm gần nhà dây thép (1 ) để tìm bắn trái keo, bắn trái bàn, bắn trái me. Hết mùa trái thì gặp gì chúng cũng bắn không gặp gì chúng cũng bắn: bắn vào trụ đèn, bắn vào cổng nhà người ta, bắn vào lề đường. Khổ thân tôi, tôi biết tìm đâu cho ra một tiếng chim "véo von" trên cây phượng "cành lá sum sê" tưởng tượng này?

Tiếng thầy Tri giục:

- Sao? Trò trả lời đi.

- Thưa thầy ... dạ.. con chim không có hót ạ.

Cả lớp lại cười lên một lần nữa. Thầy nhìn chằm chặp vào tôi, nhìn sát vào mặt tôi như tôi là con vật lạ. Tôi lo lắng đứng đợi và tôi chợt có cảm tưởng rằng hai tai tôi đang dài ra, dài ra như hai tai của con bò. Chợt thầy đứng dậy kéo cánh tay tôi lôi ra đứng trước cửa lớp rồi chỉ ra trước mặt:

- Đó, trò thử nhìn ra bể đi. Rồi trò tả cho tôi một câu xem trò có trông thấy gì không.

Chao ôi, thấy thì tôi thấy đủ thứ. Nào là những rặng cây me, cây keo, cây bàng... nào là nhà ông Phó Sứ, ông Lục Lộ, lại là sân ten-nít... Xa hơn là bãi cát, là biển, là núi, là trời.

- Thưa thầy con có phải tả mấy cây keo và nhà ông Phó Sứ không ạ?

- Không cần. Trò chỉ tả biển thôi.

Tầm mắt tôi giã từ những hàng cây xanh và dãy nhà ngói đỏ mà đóng hẹp lại ở mặt biển. Tôi nhìn thật kỹ, còn óc thì loay hoay xếp chữ này cạnh chữ kia cho thành một câu. Cuối cùng tôi thưa:

- Biển nằm im lặng, màu xanh lợt hơn màu xanh của núi.

Thầy nghe, bĩu môi ngẫm nghĩ rồi vừa kéo tôi vào ra hiệu cho lại chỗ ngồi vừa nói:

- Thôi, cũng tạm được. Nhưng chưa hay.

Thầy quay mặt nhìn xuống lớp, hỏi:

- Trò nào tả hay hơn?

Đỗ Cúc giơ tay, đứng dậy. Không đợi thầy cho phép, anh đằng hắng giọng hai lần rồi nói:

- Xa xa những làn sóng biếc nhấp nhô lượn trên bãi cát vàng. Tiếng gió rì rào thổi trên ngọn lá thùy dương như một bản nhạc êm êm bất tuyệt.

Những anh lớn ngồi ở mấy bàn sau xuýt xoa ầm lên như có ai dí lửa vào chân. Tiếng xuýt xoa chạy nhanh đến mấy bàn đầu. Thấy thầy giáo mỉm cười, cả lớp thừa cơ để ồn ào lên ngay:

- Hay quá

- Hay quá thầy ạ.

- Văn sĩ đấy.

Tôi cũng nhận thấy anh Cúc tả hay thật, nhưng tôi cứ băn khoăn là không biết anh tìm ở đâu ra được những cây thùy dương mà tả vậy. Và thùy dương là cây quái gì? Ở bãi bể tôi chỉ thấy có mấy cây keo xương xẩu và mấy bụi tre lá dày một cách thô tục mà thôi. Còn "bản nhạc êm êm bất tuyệt" anh nghe ở đâu vậy?

Nhưng khi anh Cúc đắc thắng ngồi xuống thì quả tình tôi cảm thấy tương lai về văn chương của tôi mờ mịt một cách tuyệt vọng. Sao tôi dốt thế kia? Và tôi thẹn thùng hết sức khi nghĩ đến câu tả cảnh của tôi vừa rồi "biển nằm im... màu lợt hơn màu núi...". Giá lúc nãy tôi đừng nói ra câu ấy vẫn hơn. Thà chịu để cho thầy Tri cốc một cái vào đầu còn hơn đem câu văn dở của mình ra để các bạn đem so sánh với câu hay của anh Cúc. Tôi đưa mắt nhìn sang Đỗ Cúc.

Thành thật mà nói thì anh không có vẻ gì thông minh xuất chúng cả. Trái lại thì có. Anh chậm chạp, chậm chạp đến mức nặng nề. Anh cao hơn tôi một cái đầu. Đôi bàn tay to, dài ngoẵng vì tay áo vừa chật vừa ngắn. Lúc bấy giờ chúng tôi đi học đều mặc áo bà ba ngắn, quần và áo đồng màu, riêng anh Cúc thì lúc nào cũng mặc áo rằn quần trắng. Cổ áo không phải thứ cổ kiềng như chúng tôi mà là cổ cao, giống như cổ áo dài. Trông anh thành ra ngây ngô, nhất là với cái đầu tóc cắt đơ mi cua.

Đỗ Cúc học giỏi đủ các môn, nhưng giỏi nhất là môn luận. Lắm lúc tôi thành thật đau khổ vì không tự giải thích được nổi do đâu mà con người ấy lại ăn nói văn hoa được đến thế. Tả đêm trăng thì anh có "hàng trăm hàng ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước". Tả ngôi chùa làng thì anh khéo xếp thế nào cho có một khóm trúc mọc ngay ở hông chùa để anh viết: "Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ". Có lần thầy ra: "Tả chị đầy tớ gái nhà anh". Chúng tôi mừng rằng Đỗ Cúc phen này hết đường mà văn hoa. Một chị đầy tớ chớ đâu phải là một cô tiểu thư, một nàng công chúa? Nét mặt thế nào cũng không đẹp, áo quần thì không thể sang, và cử chỉ lời nói chắc chắn là không thể uyển chuyển, dịu dàng, ngon ngọt. Chúng tôi hí hửng đợi sự thất bại của anh. Ấy thế mà hôm trả bài, Cúc vẫn đứng đầu với điểm 8 và thầy lại gọi anh lên đọc bài của mình. Thì ra sau khi tả những nét xấu xí của chị, Cúc khéo đặt chuyện rằng chị ấy chết chồng. Và để cảm thương cho nàng "tiết phụ" này, anh kết luận "Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu". Lúc anh đọc đến đó, tôi liếc nhanh sang thầy Tri thì thấy thầy gật gật đầu mỉm cười ra dáng thích thú lắm. Hỡi ôi! tôi biết đào đâu cho ra những dòng văn chương êm đềm như thế để làm vui lòng thầy Tri, để làm bằng lòng các vị giám khảo trong cuộc thi tiểu học sắp tới? Tôi chán nản nhìn ra khung cửa sổ, nhìn mảnh trời xanh cao vút. Hy vọng về văn chương đối với tôi xa quá, khó vươn tới như mảnh trời xanh sáng đẹp kia.

Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng. Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực, chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.

Nửa năm lớp Nhất tôi thay nhà trọ đến ở chung với anh Nên cùng học lớp Nhất với tôi. Anh Nên có một người chị năm ấy chừng 20 tuổi. Chị Cẩm - tên người chị của anh Nên - cả ngày cứ nằm trong phòng đọc tiểu thuyết và đợi người phu trạm, cứ chừng một tuần ghé lại trao cho chị một bức thư. Nhận được thư, chị vội vã vào phòng đóng kín cửa lại. Khi lũ em gõ cửa mời ăn cơm, chị uể oải bước ra, xì mũi liên tiếp vào khăn mùi xoa và hai mắt đỏ. Thấy nhiều lần như vậy, tôi hỏi u già. U bảo:

- Cô Cẩm nhận thư của cậu Khang đấy.

- Thế sao nhận thư chị Cẩm lại khóc?

- Vì cậu Khang hiện ở bên Tàu. Xa lắm.

Nhìn tôi ngẩn ngơ chưa hiểu, u hạ giọng, nói nhỏ:

- Cậu Khang thương cô Cẩm, nhưng tía cậu không chịu đi hỏi cô Cẩm cho cậu. Tía cậu bắt cậu về Tàu để cho hai bên xa nhau. Tía cậu Khang là ông Bang Chín, hiệu Đồng Thạnh ở xế cửa nhà mình đấy. Tôi gật đầu ra dáng hiểu và u già cũng thôi không nói nữa. Ngoài những lúc sụt sùi khóc khi đọc thư - và khi viết thư trả lời, tất nhiên, chị Cẩm còn khóc khi đọc tiểu thuyết nữa. Nhiều lần tôi thấy chị nước mắt ròng ròng ngồi trước một trang sách mở. Tay chị luôn luôn vò một chiếc mùi soa nát nhàu. Tôi lý luận rằng những quyển tiểu thuyết kia hẳn có liên hệ bà con gì với những bức thư gửi đến và gửi đi của chị. Một hôm tôi cầm một quyển tiểu thuyết chị vô tình đặt ở bàn học của tôi, mở ra xem. Đó là một tập gồm những đoản thiên tiểu thuyết bìa đã gãy nhàu và mực in đã nhòe vì mồ hôi tay. Truyện đầu tiên nhan đề là "Thu sang lá rụng người về bơ vơ". Tôi tưởng chừng vừa nghe lại một giọng nhạc quen thuộc. Giọng nào nhỉ? Con người thô lỗ văn chương là tôi, đâu có lý tôi đã được hân hạnh có nhiều kỷ niệm về văn chương đến thế? Trong khi óc loay hoay tìm kiếm, tôi lật vội để tìm tên của cái truyện thứ hai "Lệ ai tầm tã bến Giang Châu". Tôi lật tiếp. Những cái tên truyện vang lên du dương: "Em ơi! Hẹn nhau mùa lá rụng...", "Tóc xanh ai nỡ nhuộm mái sầu...".. "Duyên em trao trọn về chàng"... Bên cạnh những tên truyện êm đềm ấy, tên các tác giả cũng êm đềm chẳng kém. Những là Lệ Thùy, Mộng Hoàng, Huyền Thao, Hoài Giang Thủy ... y như những tiếng nhạc đệm nhỏ, vang nhè nhẹ bên cạnh bản nhạc chính. Chợt tôi vùng la to lên: "Đỗ Cúc!". Phải rồi, cái giọng nhạc quen thuộc đó là giọng của người anh hùng văn chương của lớp tôi, anh Đỗ Cúc vậy. Bên tai tôi như văng vẳng vang lên giọng đọc của anh: "...Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ... nàng từ chiếc bóng song the... Gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu..."

Thế là từ đó tôi bắt đầu làm quen với thứ văn chương loại Đỗ Cúc. Tôi đã tìm ra được bí mật của anh rồi. Cái nguồn văn chương lâm ly của anh là những quyển tiểu thuyết đượm nhiều nước mắt này. Tôi lật nhìn những bức tranh vẽ. Hầu hết là những hình thiếu nữ mắt mơ màng, tóc chải theo lối kỹ nữ Trung Hoa, có cài trâm và xiêm y dài thườn thượt. Các cô hoặc đứng tựa cành mai, cành liễu hoặc ngồi trước án thư, nhưng dù ở cảnh nào người họa sĩ cũng không quên vẽ một mặt trăng vào đó. Những bức hình này chắc đã an ủi chị Cẩm nhiều lắm vì dễ thường đã nhiều lần chị tưởng tượng rằng chính đó là hình ảnh của chị, cô gái Trung Hoa đau khổ. Sao lại không? Yêu một người Trung Hoa, người ấy hiện giờ ngồi nhớ chị tại xứ Trung Hoa, xứ Trung Hoa với những địa danh đẹp như Tô Châu, Hàng Châu, Dương Tử.. thì chị đã, một nửa là cô gái sầu mộng của Trung Hoa rồi còn gì nữa? Thật chị có đủ yếu tố để đẫm mình vào những trang sử lâm ly này vậy.

Từ ngày biết được xuất xứ những câu văn êm đềm của Đỗ Cúc, tôi nhìn anh bằng con mắt ít khâm phục hơn. Mỗi lần thầy Tri gọi anh lên đọc một đoạn văn của anh mà thầy thích là tôi mường tượng thấy tập tiểu thuyết của chị Cẩm với những chữ nhòe mực vì mồ hôi tay, với những hình cô gái Trung Hoa. Nhưng Đỗ Cúc, anh dường như không bao giờ có thể tin rằng bí mật của anh đã bị tôi khám phá ra rồi. Chứng cớ là mỗi lần thầy kêu anh đọc bài luận, anh vẫn bước đi một cách dõng dạc, cố ý ngừng lại từng đoạn để đợi nghe chúng tôi xuýt xoa khen. Chứng cứ nữa là anh đã dùng thứ văn chương ấy để viết một bức thư tình, các bạn có thể tin được không?

Việc xảy ra như thế này:

Sáng hôm ấy trước giờ vào lớp, thằng Tiến nhặt được một bức thư của ai đánh rơi ở gần bục thầy ngồi. Chúng tôi chạy ùa lại xem. Thằng Chút ồn ào và quấy nhất lớp giật lấy bức thư vừa lo to:

- Để tao đọc cho tụi bây nghe.

Cả lớp nhao nhao lên: "Phải đó. Phải đó. Để nó đọc".Và Chút mặt hí hửng, dõng dạc đọc:

Gác vọng nguyệt, một ngày Mạnh Đông.

Kính thưa Quý nương

Tiếng thằng Hy ồn ào chận lại:

- Cha chả! Văn chương mùi mẫn thế!

- Mạnh Đông là cái thá gì thế bay? Tao chẳng hiểu.

- Quý nương là đứa nào vậy?

- Im! Im! Để nó đọc tiếp.

Cánh thư trước kính gửi Quý nương, đến nay vẫn chưa có hồi âm, lòng vãn sinh thật muôn phần đòi đoạn. Ôi! một ngày mong đợi coi bằng ba thu. Chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió"

Một tiếng "huýt" thét lên và thằng Phin la theo:

- Úi dào! Hay quá! Ai viết mà hay thế bay?

- Ai viết thế nhỉ? Đỗ Cúc hở?

Chợt tiếng một anh la lên "Thầy đến! Thầy đến!". Chúng tôi lật đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư, nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc. Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm, nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.

- Chắc chắn là thằng Cúc. Lúc Chút đọc thư nó cứ ngồi ỳ ra đó không chạy lên ồn ào với tụi mình.

- Thằng Cúc đứt đuôi đi rồi. Văn nó chớ còn ai vào đây nữa.

- Nhưng còn quý nương là ai?

Mọi khuôn mặt trầm ngâm lại suy nghĩ.

- Chẳng lẽ lại con Nga - thằng Đạo nói. Con Nga đẹp quá, chắc Cúc chẳng dám đâu.

- Thế thì Minh Ngọc - thằng Gương ngắt lời.

- Vô lý. Tao nghi là con Trâm.

- Trâm là con ông Án sát. Nó sợ tù không dám rớ vào đâu.

- Thế thì chị Tám vậy.

Nghe đến tên chị Tám chúng tôi đều cười ồ lên. Chị Tám là một chị bạn cũng lớn xác và cũng vụng về như Cúc vậy. Chị đen và có cặp mắt lé. Không ai bảo ai mà chúng tôi cùng ngầm đồng ý rằng quý nương của Cúc là chị Tám. Chúng tôi kể cũng khá ích kỷ. Dù trong ký ức đoán, chúng tôi cũng không cho phép Cúc được động chạm đến những cô bạn xin đẹp của lớp chúng tôi như Trâm, Minh Ngọc, Nga.

Câu chuyện bức thư tình quả có làm cho chúng tôi thích thú vì được chế giễu Cúc - len lén thôi vì chúng tôi sợ Cúc đánh - nhưng không vì thế mà Cúc suy giảm tài văn chương. Những bài luận của anh cứ tiếp tục được thầy khen. Anh cứ đều đặn lên đọc văn anh cho chúng tôi nghe, những đoạn văn có đủ mây trôi lững lờ, trăng soi huyền ảo, có khóm trúc, có hoa xưa, có chim có bướm. Và cuối năm, Cúc đỗ đầu ở kỳ thi tiểu học. Ngày lễ xướng danh, ông Công Sứ trao tặng thủ khoa một cuốn tự điển Larousse nặng. Thủ khoa Cúc cong lưng, cúi đầu, giơ hai tay lên đón nhận. Ông Công Sứ giơ tay bắt. Anh túng lúng đưa hai tay ra nắm tay ông, khiến quyển tự điển rơi đánh "rầm" xuống thềm. Chúng tôi bất giác cười rộ lên, nhưng vừa lúc ấy bắt gặp đôi mắt lườm của thầy Tri, chúng tôi vội vàng vỗ tay thật mạnh theo lời thầy đã dặn trước.

Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ. Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:

- Đỗ Cúc !

Người đàn ông ấy đứng dừng ngay lại và miệng cười.

- Anh Vinh, nếu tôi không lầm.

Cái giọng nói khàn khàn, cái cách nói hoa hòe, đúng là Đỗ Cúc thật. Hai bàn tay siết chặt và tự nhiên tôi quay ngược chiều trở lại, đi theo chiều của anh Cúc.

- Lâu quá mới gặp lại anh - tôi nói. Nhà anh ở đường nào?

- Cũng gần đây thôi. Đường Phan Đình Phùng. Tiện thể mời anh ghé lại tệ xá chơi cho biết. Bây giờ anh đã vợ con chưa?

- Đã

- Tôi cũng vậy. Mà chắc hơn anh ở chỗ nhiều con. Sáu đứa. Nuôi con mệt ngất ngư.

Tôi lẻn đưa mắt sang anh. Áo quần hơi cẩu thả. Chắc là vì anh nuôi mệt "ngất ngư" nên không có thì giờ săn sóc cho mình. Tóc vẫn cúp đơ mi cua.

Đi qua hai phố thì tới nhà anh. Anh tháo chốt cổng đợi tôi bước vào, liền đóng lại.

- Để mấy đứa khỏi chạy ra đường.

Anh nói một cách thản nhiên như không cốt cho tôi nghe. Tôi cười thầm, ngầm nhủ: con người cẩn thận. Không hẹn mà cái nút mực có đính lò xo và cây bút chì buộc dây của anh hiện ra trong óc tôi. Hai đứa con nhỏ của anh ở trong cửa chạy xổ ra ôm lấy chân anh. Rồi hai đứa khác nghe tiếng reo cũng chạy vụt ra. Lấp ló trong nhà là hai người con lớn. Thật là trật tự, quy củ. Anh vui vẻ bảo:

- Mấy con chào chú đi.

- Lạy chú ạ

- Lạy chú ạ

Loáng một giây, anh đã đứng giữa bầy con sáu đứa của anh. Người con lớn đã đứng cao bằng anh và giống anh như đúc. Cũng vẻ mặt hơi nặng nề và, lạ chưa, cũng cái đầu cắt đơ mi cua. Tôi hỏi:

- Cháu lớn đã được mấy tuổi rồi?

- Mười tám.

- Hử? Mười tám tuổi?

Anh lúng túng giảng giải:

- Tôi đỗ tiểu học xong thì thầy tôi bắt cưới vợ ngay. Thành ra đã có con lớn.

Tôi lật đật tìm một câu nói cho anh đỡ ngượng vừa để xí xóa vẻ ngạc nhiên vụng về của tôi vừa rồi.

- Có con sớm được nhờ. Anh vậy mà sung sướng.

Một người đàn bà ở dưới bếp đi lên. Anh giới thiệu:

- Nhà tôi.

Chị Cúc trông già hơn anh nhiều mặc dù anh cũng đã khá già. Thân mình chị to gấp đôi anh. Có đặc biệt là hai cổ tay của chị đeo đầy vàng. Tôi nghĩ liền: Chắc chị này là con một ông Chánh tổng, phó tổng gì đó, nhà giàu. Có vậy thì thầy anh mới bắt anh cưới vợ sớm.

Từ giã đoàn thê tử bề bộn của anh, tôi đưa mắt nhìn gian phòng. Đồ đạc bày biện quá đầy đủ. Có cả xa lông đệm lò xo, có cả ghế bàn mặt đá, sập gụ, tủ chè, tủ rượu. Những vật nhỏ anh đều sắp đặt đủ đôi. Bên này cái lọ thì bên kia đối diện lại cũng phải là cái lọ, đối, phúng, trướng dàn khắp mặt tường, đa số là những bức người ta đi khao ông cụ thân sinh anh khi được vinh thăng cửu phẩm, bát phẩm. Một cái ná Thượng du và một túi tên lạc loài giữa rừng câu đối. Sự hoang dã của non cao, sự tàn bạo của chém giết không ăn nhịp với những dòng chữ nho hòa nhã ca tụng tài đức của chủ nhân. Thấy tôi quan sát, anh nói:

- Tôi mới đặt mua cái tủ lạnh. Vài bữa họ chở tới.

- Nhà anh có nhiều tiện nghi quá.

- Ồ! Có gì đâu

Anh nhũn nhặn mỉm cười. Nhũn nhặn thật sự, vì tôi thấy mọi vật bày biện ở đây đều thở ra một cách mệt nhọc, cái không khí sung túc no đủ.

Bắt đầu là anh. Anh trông béo ra, đôi má phúng phính khiến đôi mắt càng nhỏ lại. Tới đây tôi thấy cần được giải thích thêm về sự sung túc hiện tại của anh. Tôi hỏi:

- Gặp anh mừng quá quên hỏi điều này: Bây giờ anh làm ở đâu?

Anh lại lúng túng, khiến tôi thấy mình vụng về lần nữa. Cuối cùng anh nói:

- Vì tôi chỉ có bằng tiểu học nên tôi phải dạy một lớp tiểu học ở cách đây mười cây số. Trước đây vài mươi năm, bằng tiểu học có giá trị, bây giờ thì gần như vô nghĩa. Tiếc quá, thầy tôi lúc bấy giờ không cho tôi học thêm.

Tôi an ủi anh:

- Làm sao mà các cụ ngờ được. Nhưng anh như thế này là sung sướng lắm rồi.

Anh tươi nét mặt trở lại và đưa mắt nhìn vào một góc phòng. Tôi đoán chắc anh đang tưởng tượng vài hôm nữa anh kê tủ lạnh ở chỗ ấy. Ngồi nói chuyện với tôi mà hai tay anh không để yên. Hết nghiêng đầu soi lên mặt bàn để tì gạt một vết bụi, đến sửa lại cái gạt tàn thuốc đặt hơi lệch. Có lúc anh chợt đứng dậy vội vã khiến tôi giật mình, tưởng chừng có đứa con nào suýt ngã, anh vội chạy đến đỡ. Nhưng không. Anh chỉ đi lại chỗ tủ chè xếp lại mấy cành hoa giả mà một cơn gió nào đó đã xô lệch. Thật là sự chi ly cẩn thận của Đỗ Cúc. Bỏ đi sự chi ly này thì không chắc anh còn là anh nữa.

Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm. Sáu tiếng "lạy chú ạ" vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa khúc "nhạc" quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất phong phú của mình. Anh nói:

- Nuôi con đông mệt ngất ngư thật, nhưng nhiều lúc cũng vui.

Lúc vui đó chắc là lúc này đây. Bước ra khỏi cổng, tôi tiện tay đóng cửa lại và móc chốt dùm anh. Tôi nói:

- Để lũ nhỏ khỏi chạy ra đường.

Anh thú vị siết chặt tay tôi qua song cửa và đôi mắt cười híp lại.

Tối hôm ấy ăn cơm xong, tôi bảo vợ tôi:

- Chiều nay anh vừa gặp một sự ngạc nhiên. Đố em đoán xem sự ngạc nhiên gì.

Vợ tôi vờ suy nghĩ rồi hỏi ngay:

- Ngạc nhiên gì vậy?

- Anh gặp Đỗ Cúc

- Đỗ Cúc là cái gì?

- Em không nhớ Đỗ Cúc sao? Đỗ Cúc là người bạn học hồi lớp nhất với chúng mình đó.

Vợ tôi nhíu mày suy nghĩ. Tôi giúp nàng mau nhớ ra bằng cách giảng giải rõ thêm:

- Đỗ Cúc là người bạn làm luận hay ở lớp mình đó, anh bạn áo rằn, anh bạn...

Vợ tôi "à" lên một tiếng to, ngắt đứt câu nói của tôi:

- À, em nhớ ra rồi, cái anh học trò dở hơi đó phải không?

Dở hơi? Sợ vợ tôi lầm với một người nào khác, tôi lại nhẫn nại giảng giải nữa:

- Cái anh mà thầy Tri hay bắt đọc văn cho chúng mình nghe đấy. "Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ" và "Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia..."

- Biết rồi, em biết rồi mà. Thì cái anh chàng dở hơi đấy chớ còn ai vào nữa. Cái anh chàng mỗi lần đi lên bảng là hai tay đong đưa như đàn bà đi chợ ấy, em còn lạ gì.

Thì ra mỗi người nhìn anh Cúc với một con mắt khác, nhận ở anh Cúc một nét đặc biệt khác. Vợ tôi lưu ý đến đôi tay đong đưa của anh.

- Thế anh ta bây giờ ra thế nào ?

- Oai lắm. Những sáu đứa con. Và xem chừng giàu.

- Anh gặp anh ta ở đâu?

- Ngay giữa phố, anh có ghé lại cho biết nhà và anh ta hứa chủ nhật tuần sau đến thăm chúng mình.

Tôi kể lại những điều nghe thấy buổi chiều ở nhà anh Cúc. Nhân chuyện anh Cúc, chúng tôi nhẩn nha nhắc lại những kỷ niệm vui vẻ ngày cùng học ở trường Sông Cầu. Vợ tôi nhảy từ chị bạn này sang chị bạn kia, từ thầy giáo sang bác cai trường, từ cầu Thị Thạc sang phố lầu chú Chấn Thạnh. Tôi đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi một cách mệt nhọc. Nàng đúng là con chim non nhí nhảnh như đã nhiều lần tôi phê bình. Nhưng lần này sở dĩ tôi không muốn đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi là vì tôi còn đang vấn vương với anh bạn Cúc mà tôi vừa gặp. Khi những cảnh dĩ vãng đã chuyển hết rồi, con chim nhỏ là vợ tôi đã đứng yên, tôi đột ngột hỏi:

- Em còn nhớ bức thư tình của anh Đỗ Cúc mà thằng Chút đã đọc to trong lớp không?

- Có nhớ

- Không biết anh ta viết bức thư ấy định gửi cho ai. Lúc bấy giờ bọn anh cố khám phá mà chịu không đoán ra được ai. Anh ta khôn, chỉ viết "Thưa quý nương" thì đố ai mà biết được.

Vợ tôi ngồi ngẫm nghĩ giây lâu rồi bỗng phá ra cười. Tôi hỏi:

- Em cười gì vậy?

- Đố anh biết Đỗ Cúc viết cho ai?

- Đã bảo rằng bọn anh chịu, đoán không ra. Bọn anh nghĩ là anh ta viết cho chị Tám.

- Lầm. Anh ta viết cho em đấy.

Tôi ngạc nhiên:

- Thật sao?

- Em đâu có nói đùa?

- Thế anh ta không sợ ba em à?

- Nào em có biết. Hôm thầy Tri giao cho anh ta phát vở luận, em vắng mặt. Anh ta giữ vở em lại. Hôm sau anh ta trả vở cho em kèm theo một phong bì. Anh ta bảo: "Chị Nhạn ở lớp nhì nhờ đưa giùm phong thư cho chị". Nhạn là bạn của em nên em nhận. Về đến nhà mở ra mới biết là thư của anh ta. Thư bắt đầu bằng "Thưa quý nương". Em đọc mà chẳng hiểu gì hết. Em chỉ nhớ mấy câu hay hay...

- Ồ! Đỗ Cúc thì viết hay phải biết - Tôi ngắt lời - Em còn nhớ mấy câu hay ấy chứ?

- Lâu quá, có hơi quên. Hình như là "đài gương soi đến dấu bèo"... và... "những khi trăng soi bóng lẻ gió rít đầu cành..." hay là cái quỷ quái gì đó. Em sợ quá về đưa ngay cho ba xem.

- Chết Đỗ Cúc mất rồi!

- Ba đọc xong, xé đi, rồi bảo em từ giờ anh ta có đưa giấy tờ gì thì vất trả lại. Nếu anh ta không nghe thì lên mách thầy giáo.

- Em có mách lần nào chưa?

- Chưa. Lần sau anh đưa một cái thư nữa, cũng bảo là của chị Nhạn nhờ đưa, nhưng em nghe lời ba, ném lại. Cái thư lọt vào kẽ bục bàn thầy. Anh ta lật đật cúi xuống moi lấy nhưng không được. Sàn gạch hoa thì trơn mà em vất mạnh nên không ngờ cái thư chạy qua mãi phía bên kia bục. Anh ấy hì hục đẩy bục đi, nhưng bục nặng không xê dịch được. Đôi tai và mặt anh ta đỏ như lên, bộ điệu lúng túng trông cũng tội. Vừa lúc ấy các anh ồn ào đến nên Cúc lật đật đi xuống chỗ ngồi. Và thế là anh Tiếp bắt được cái thư và anh Chút mới đọc oang oang giữa lớp.

- Tội nghiệp cho Đỗ Cúc - tôi chép miệng

- Nhưng may cho em. Hôm làm bài luận "Tả nỗi buồn khi xa nhà ra tỉnh trọ học" em nhớ câu văn của Đỗ Cúc trong thư nên viết ngay vào bài: "... những khi trăng soi bóng lẻ, gió rít đầu cành...", thầy Tri khen, cho 8 điểm. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót em được 8 điểm luận.

Hai chúng tôi cười to vì sự thành công bất ngờ về văn chương này.

- Lúc nãy anh bảo rằng chủ nhật anh ấy đến thăm chúng mình?

- Ừ

- Anh ấy đã biết rằng anh có vợ rồi?

- Biết rồi, chính anh nói. Anh còn cho biết rõ ràng vợ anh là cô Trâm xinh tươi cùng học lớp nhất ngày xưa.

Vợ tôi không tỏ ra quan tâm đến lời nói nịnh của tôi mà vẫn điềm nhiên hỏi:

- Anh ta có ngạc nhiên không ?

- Hình như cũng... có hơi ngạc nhiên.

Vợ tôi nheo mắt nhìn ra sân một hồi rồi quay sang tôi:

- Em chắc chủ nhật này anh ấy không đến đâu.

- Vô lý. Việc gì mà không đến? Tôi vội vã hỏi lại.

- Em chắc anh ấy ngượng.

- Có gì mà ngượng. Chuyện trẻ con mà. Bây giờ ai nấy cũng đều lớn cả rồi, mà anh ấy có những sáu đứa con. Em cứ chuẩn bị nhà cửa cho đẹp đẽ hơn một chút nữa đi, để chủ nhật chúng ta đón anh ấy. Nhà anh ta giàu lắm, em nhớ cho, chớ không nghèo như chúng mình đâu.

Ngày chủ nhật đến, tôi không dám đi đâu hết. Trái với thường lệ, tôi dậy sớm và ăn điểm tâm vội vàng như những ngày đi làm. Tôi mặc áo quần cẩn thận và ra ngồi ở phòng khách đợi. Tôi biết tính Cúc siêng năng, chu đáo, nên tôi cho rằng anh ta sẽ đến sớm lắm. Nhưng 9 giờ.. rồi 10 giờ. Có tiếng bánh xe ô tô rít lên, rẽ vào con đường xóm tôi, nhưng xe chạy thẳng. Có tiếng phanh xe xích lô lách cách, nhưng xe đậu ở nhà đối diện. 11 giờ... 12 giờ. Vợ tôi thỉnh thoảng ở nhà ngang đi lên, bảo tôi:

- Đó, em nói có sai đâu.

Tôi chịu không biết nên trả lời thế nào cho phải.

Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều làm tôi lắng tai ngóng chờ.

Khi điện đường bật sáng, khi tiếng đũa bát vang lên ở phòng ăn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng đón anh Đỗ Cúc nữa. Quả anh không đến thật như lời vợ tôi đã đoán. Tôi uể oải đứng dậy thay áo thì chợt có tiếng chuông reo ở cổng và tiếp theo, tiếng con Nu sửa ầm lên, anh Cúc đến. Không những anh đến một mình đủ để trái với dự đoán của vợ tôi - mà có cả chị Cúc và một đoàn sáu người con . Hôm nay anh mặc bộ tuýt xo vàng và thắt cà vạt. Những nếp gấp lộn xộn nhất hằn lên áo, và hai vai xệ xuống. Đôi tay và lưng cứ ngọ ngoạy trong chiếc áo hơi rộng. Nhìn anh không có vẻ thoải mái, tôi có cảm tưởng rằng chiếc áo đấy xa lạ với anh. Với một chút son ở đôi môi và mái tóc chải ngăn nắp, chị Cúc trông được mắt hơn bữa đầu tôi gặp. Tuy vậy, đôi chân mày nhổ chừa lại còn quá nhỏ khiến mắt chị thành ra to thêm.

Tôi vừa ra đón thì anh chị đã vội vã chào trước:

- Chào bác ạ - Chào bác ạ. Hôm nay chúng tôi đến hầu thăm hai bác.

Mấy đứa con, như sáu cái máy, phụ họa theo:

- Lạy bác ạ, lạy bác ạ.

Tôi lúng túng khi nhận tiếng xưng hô lễ mễ. "Bác", tiếng gọi mới già nua làm sao! Vì thành thật mà nói thì nhìn lại anh Cúc, tôi cứ tưởng chừng tôi xa anh không quá 5-7 năm, nhất là nhìn cái đầu tóc đờ mi cua, tôi thấy anh không khác mấy với những ngày đi học. Thế mà thay vì tiếng "anh" nhẹ nhàng đơn sơ, anh đã gọi tôi bằng "bác". Chắc là do anh chịu ảnh hưởng của vợ anh thôi. Chắc là đứng bên cạnh người đàn bà bệ vệ ấy, anh bị bắt buộc thấy mình già đi, đứng đắn lại, chớ hôm một mình gặp tôi giữa phố anh vẫn gọi là "anh"

Khi vợ tôi ở nhà ngang bước lên thì một loạt những tiếng "chào bác, lạy bác", lại hòa tấu một lần nữa. Vợ tôi tỏ ra lúng túng gấp đôi tôi vì sự trịnh trọng mà gia đình anh Cúc đã dành cho mình.

Khi anh chị Cúc đã ngồi yên ở ghế và lũ con xếp một hàng ngay ngắn ở đi văng thì cuộc đàm thoại xã giao bắt đầu. Chị Cúc nói trước:

- Cái phòng khách của hai bác chắc một bề 4 thước một bề 7 thước.

Vợ tôi trả lời, giọng không quả quyết lắm:

- Vâng, hình như thế ạ.

- Bác nên cho xây thêm một tấm "đan" ở đằng trước cho mát. Tấm "đan" chạy dài suốt cả mặt tiền.

- Vâng ạ. Xây thêm được một tấm "đan" thì mát hơn nhiều.

Chị Cúc nhìn một lượt phòng khách của tôi rồi giơ một ngón tay - đến đây tôi mới kịp để ý rằng bàn tay chị đeo đến ba, bốn chiếc nhẫn mà chiếc nào mặt cũng to, cũng đồ sộ - chỉ vào một góc phòng.

- Bác cho đắp hai cái trụ chỗ này. Đặt hai chậu hoa thược dược hay hoa cúc vào đấy thì đẹp.

- Vâng ạ - Vợ tôi khẽ gật đầu tuân lệnh.

- Chẳng tốn bao nhiêu đâu.

- Vâng ạ.

- Mà trông đẹp ra.

- Vâng.

- Vậy để hôm nào em đưa đến giới thiệu cho bác một người thợ nề quen. Anh ta làm việc cẩn thận mà tính công lại rẻ.

- Vâng ạ. Cám ơn ... bác.

Đã đến lúc tôi phải giải nguy cho vợ tôi. Con chim non cứ "vâng ạ, vâng ạ", chịu nhận mọi sự xây cất trong khi nhà này là nhà thuê. Tôi đằng hắng to:

- Xin mời hai.. bác xơi nước.

Dù cố gắng nói thật to, thế mà tiếng "bác" như cũng ngượng ngùng, chỉ vang lên nhè nhẹ yếu ớt. Vợ tôi lại chỗ tủ ăn lấy sáu trái cam phân phát cho sáu người con anh Cúc. Tôi mời:

- Các cháu ăn cam đi.

Rồi quay sang anh Cúc:

- Cháu lớn học đến lớp mấy rồi?

- Dạ thưa bác, cháu "hược" ở lớp đệ tam.

Chị Cúc tiếp lời:

- Thưa bác, cháu lớn thế mà "hược" kém lắm ạ, "thiềng" ra ba cháu cứ tối tối kèm cho cháu.

Theo cái đà ấy, câu chuyện xã giao kéo dài một cách nhọc mệt vì chúng tôi cứ sợ nói nhằm vào những tiếng mà vợ chồng anh kiêng. Đầu đề câu chuyện thì quanh quẩn ở việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc, chơi huê chơi hụi, tăng lương, tăng thưởng ngạch trật. Trong khi nói chuyện, vợ anh Cúc cứ chăm chăm nhìn vợ tôi, còn anh Cúc hết nhìn xuống sàn nhà lại nhìn lên tường. Ý chừng anh không thể chịu được tại sao tôi lại không treo những bức trướng liễn, câu đối, hoành phi lên bốn bức tường như ở nhà anh vậy. Có một lúc vợ tôi quên mất phép xưng hô trịnh trọng, quay sang hỏi:

- À, anh Cúc, tôi nghe anh Vinh nói anh bây giờ giàu lắm.

Cúc nặng nề nhìn sang phía vợ tôi, chậm chạp nói:

- Thưa bác, bác trai bảo vậy thôi chứ tôi làm ăn cũng chỉ gọi là mát mặt.

Cách nói, lối nhìn của Cúc thật khác xa với điều vợ tôi đã dự đoán và tôi đã ngầm biểu đồng tình. Anh có ngượng gì đâu? Hình như người ngồi trước mặt anh không phải là người mà anh đã hai lần cặm cụi viết hai bức thư nồng nàn ái mộ. Nhìn anh giây lâu rồi nhìn sang vợ anh, tôi chợt nghĩ rằng anh dã được rập khuôn theo mẫu người mà tiếp xúc, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời. Anh dường như lúc nào cũng đã tự quên mình, tự xóa mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm, anh chịu ảnh hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại của vợ anh : cũng chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ những tên húy của tổ tiên. Không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ nào hết, mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động ngẫu nhiên ở đâu đây.

Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi nằm nghĩ vẫn vơ về cuộc đời của anh Cúc với những bí mật nhỏ của nó. Những bí mật ấy tình cờ mà tôi khám phá ra được hết: nguồn văn chương lâm ly của anh và bức thư tình không may mắn. Nhưng còn một bí mật cuối cùng nữa do nghề nghiệp của anh bắt tôi suy nghĩ. Đó là: không biết khi dạy học trò, anh có bắt chúng du dương theo loại "Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ.. Nàng từ chiếc bóng song the.." như anh, hai mươi năm trước không

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

14 . Hoài Cố Nhân


Một ngày đầu tháng chín năm 1942, tôi nhận được bức điện tín: "12 tháng 9 tới ga Hà Nội Stop Tìm dùm chỗ trọ Stop Hoàng Gia Lý".

Tôi cầm bức điện tín, lòng rộn ràng vì bất ngờ. Hoàng Gia Lý là bạn tôi. Vào dịp hè, tôi về quê ở Ngân Sơn. Lý ghé lại nhà thăm và ngỏ ý sang niên khóa mới theo tôi ra Hà Nội học. Ba năm nay anh học ở Huế. Tôi tưởng rằng đó chỉ là một dự định nông nổi. Người ta ai cũng có thể dự tính nhiều điều, dự tính cả những điều mà họ biết trước hơn ai là không bao giờ thực hiện được.

Tôi học chung lớp với Lý khi tôi bắt đầu học lớp Ba trường phủ. Tôi bồi hồi nhớ lại cái cảm giác lo sợ rộn ràng khi đặt bước chân đầu tiên vào trường phủ. Từ nhỏ tôi phải học ở trường xã, một cái trường bằng ngói ở mỏm đầu núi. Muốn lên đến trường phải trèo một cái dốc dựng đứng. Người chọn địa điểm này để cất trường ý chừng đã quan niệm rằng trường giáo phải ở một nơi thật thanh tịnh, cách biệt hẳn với sự sinh hoạt của mọi người xung quanh. Đây là lần đầu tiên mà làng tôi, - nói rằng cả vùng tôi thì mới đúng, - có được một cái trường Nhà nước. Trước đó, người ta học chữ Nho. Trong khi chúng tôi cắp sách đến trường học vần B ba cái trứng, L quả lê, T quay tơ... v.v... thì trong xóm vẫn có nhiều đứa nhỏ như tôi và lớn hơn, ôm sách chữ Nho và mang cả nghiên cả mực đến học các thầy đồ. Hình như bất chấp cả bánh xe tiến hóa, bất chấp cả sự thế đã đổi thay, thầy đồ vẫn sang sảng giảng Tam tự kinh, vẫn dùng roi mây, vẫn bắt quì vỏ mít và vẫn bắt học trò tưới vườn chuối cho thầy, nấu nước pha trà hầu thầy. Thầy giáo trường Nhà nước thì như vẫn còn mang nặng tàn tích của thời kỳ Khổng Mạnh xưa kia mà chưa hoàn toàn biến đổi. Thầy là cái dấu nối giữa hai thời đại, thầy mặc áo dài và mang guốc. Vì quen mắt với bàn chân dơ nên được nhìn hai bàn chân sạch của thầy, sạch đến thấy được cả gân xanh và móng chân trắng nằm gọn trên đôi guốc mộc nép giữa quai guốc da, chúng tôi có cảm tưởng rằng đó là biểu hiện đầu tiên của văn minh. Lâu lâu, vào dịp Tết, thầy đi đôi giày vải trắng thì chúng tôi mừng như chính mình được ăn diện sang trọng. Khi ông Thanh tra tới thì thầy đội thêm cái khăn đóng đen. Trông thầy thật quả là sang trọng nhất vùng.

Lúc tiễn chân ông Thanh tra xuống khỏi cái dốc ngược, lúc nghe tiếng xe ô-tô của ông Thanh tra rồ máy, lúc thấy thầy và ông cai trường hổn hển leo lên hết bực chót của cái dốc, mặt đỏ kè, mồ hôi ướt vã đầy mặt và thấm qua áo, chúng tôi thấy thương thầy hết sức. Sau này, chúng tôi được biết rằng thầy và ông cai trường sở dĩ mệt như vậy không phải là vì leo lên leo xuống cái dốc mà vì phải đẩy xe cho ông Thanh tra. Cái xe ô-tô chết tiệt phải quay mới nổ và thường thì quay mà không nổ.Ông cai trường có nhiệm vụ quay. Ông Thanh tra ngồi cầm tay lái. Quay mươi vòng không nổ thì ông cai bỏ tay quay rồi cùng thầy giáo ra sau đẩy. Thật tội nghiệp cho cái thời xa xôi mà lũ nhỏ chúng tôi mới bắt đầu tiếp xúc với văn minh cơ khí. Nhiều đứa mỗi lần nghe còi xe vang lên ở đầu cầu là rủ nhau vội vã chạy xuống dốc trường. Khi xe chạy vụt qua, các anh nhảy xổ ra giữa đường, hít lấy hít để đám bụi mù sặc mùi ét-xăng, rồi khen rối rít: Thơm quá! Thơm quá!

Sở dĩ có hiện tượng đó là vì học trò của trường đa số là lũ trẻ góp nhặt ở năm, bảy làng lân cận. Nhiều anh từ nhỏ đến giờ cha mẹ bắt chuyên môn chăn bò, anh đến trường đem theo sự u mê (danh từ thầy giáo dùng để mắng chúng tôi) và sự bướng bỉnh. Nhưng rất phong phú về trò chơi: u mê, lên đồng, nhảy lò cò, đánh mạng, đánh đáo. Có nhiều chị chuyên môn đi hái củi đến nỗi tóc cháy vàng hoe. Đi học, họ làm như đi củi, mang theo muối vò chung với lá é để giờ ra chơi chạy vào bụi bờ bứt lá dang chấm muối ngồi ăn. Một số khác vốn quen với ruộng rẫy nên mỗi khi người ta dỡ khoai, đào sắn thì họ chạy tới cả đoàn để mót, để xin. Những củ khoai lang sống nhỏ bằng ngón tay út được nhai giòn tan và nuốt ngon lành. Chúng tôi ngây thơ hơn cứ nhìn rồi bắt chước lần lần. Ngây thơ thật, vì tuy là lớp Đồng Ấu song bạn của chúng tôi có nhiều anh tuổi có đến hai mươi và lực lưỡng thì y như những nhà nông thực thụ. Đến giờ ra chơi, họ vật tay suýt làm gãy cả chân bàn. Chúng tôi thành kính nhìn những bắp thịt nổi cuồn cuộn ở cánh tay, ở cổ, nhìn màu đỏ hừng hực ở mặt, ở vành tai và ở tròng mắt. Sự quê mùa còn đọc được ở quần áo nữa. Quần thì vừa ngắn vừa chật. Áo cũng vậy. Quần áo toàn bằng vải to thế mà mẹ mua cũng không đủ nên thường may ghép đến hai màu. Nhiều khi áo xanh mà hai túi trắng. Có lúc cả áo trắng mà một tay áo lại màu xanh. Đi học thì cột một mo cơm, kèm đùm mắm.

Với cái quá khứ chung chạ bất ổn ấy, khi bước chân vào trường phủ, tôi thấy không khí trang trọng hết sức. Trường cất cạnh phủ đường, ở mãi cuối một cái sân rộng. Trên sân có trồng nhiều bồn hoa huệ sắp đặt thành những hình cân đối. Những thân cây bàng cao che rợp cả sân, trường học thành có vẻ oai nghiêm xa cách. Nhất là muốn đến trường, chúng tôi phải đi qua một trong bốn cửa thành: cửa tiền, cửa hậu, cửa tả, cửa hữu, xây cất theo kiểu cổ bằng gạch dày hàng bốn, năm thước, trên có vọng môn cao. Đi ngang qua mặt phủ đường, chúng tôi còn bị choáng ngợp vì màu trắng của cái sân rộng sạch như lau, vì hai chú lính lệ gác cửa, vì mấy khẩu súng thần công há miệng đe dọa.

Trường chia làm hai phòng học, có hai thầy, thầy Tài dạy lớp Sơ đẳng, mặc âu phục; thầy Tùng dạy hai lớp, lớp Đồng Ấu và Dự bị, luôn luôn vận áo sa đen, nhưng rất chải chuốt tươm tất. Thầy ít nói nhưng hay mỉm cười. Mắt thầy cũng cười nữa. Học trò hay thì thầm với nhau:

- Cô cháu, em họ bà Lại mê thầy Tùng.

Hoặc:

- Thầy Tùng viết thơ cho chị Dung, cháu ông thông Nhất.

Có lần tin tức ly kỳ hơn:

- Thầy Tùng đi coi hát trường ở Phú Mỹ với cô Cẩm em thầy thông Ba. Chị Oanh cháu thầy đội Lệ, nghe nói nổi ghen nên ra sông tự tử.

Có chuyện tự tử ly kỳ nên chúng tôi càng chăm chú nghe. Nhiều cái miệng tròn lại. Nhiều vẻ mặt nghiêm trang một cách khôi hài. Chúng tôi tò mò nhìn thầy Tùng: thầy vẫn ăn diện chững chạc, vẫn mỉm cười bằng mắt và bằng môi. Thành ra chúng tôi bán tín bán nghi, không biết chuyện vừa rồi là đúng hay bịa. Nhưng có điều chắc chắn là thầy Tùng hay cười, vì thầy sung sướng, thỏa mãn. Sau này, mỗi lần nghĩ đến, tôi hay trở về cái kết luận: ái tình làm cho con người tươi vui, bồng bột.

Ngoài những chuyện tình do thầy Tùng đóng vai chính, còn rất nhiều chuyện tình khác nữa mà vai chính bên nữ là các cô em hay cháu của các thầy Lại mục, thông Nhất, thông Nhì, thông Ba, đội Lệ, v.v... Tội nghiệp cho các tiểu thư phải sống ẻo lả ở một phủ lỵ quê mùa. Tâm hồn đa cảm đa sầu của các cô đẹp như những dây hoa bị cỏ mọc lây lất ở một vùng đất cát khô cằn. Nhưng quả các cô đã làm đẹp cho cái phủ lỵ quê mùa này thật. Ngày chợ phiên Thành, bên cạnh màu đen cố hữu của áo và quần của người mua bán, thỉnh thoảng lướt qua một tà áo xanh lục, một màu áo tím. Đó là hai màu mà lúc bấy giờ các cô thích mặc hơn cả. Hai màu này đã làm tươi lên những khung cảnh trong ngày thơ ấu của tôi ở phủ lỵ Tuy An.

Bạn học của tôi lẽ tất nhiên là sang trọng hơn hồi ở Ngân Sơn. Tên cũng đẹp hơn. Không còn những: Hồ Văn Láu, Ngô Đột, Trần Lía. Không còn một xâu anh em ruột cách nhau hàng năm, sáu tuổi mà vẫn cùng học chung một lớp (vì trường mới mở lần đầu) và tên của họ nối tiếp nhau như một tràng chuỗi: Nguyễn Tao, Nguyễn Tui, Nguyễn May, Nguyễn Mắn hoặc Lê Lãnh, Lê Lụa, Lê Tơ, Lê Thao. Lần đầu nghe những cái tên đẹp khiến cho mỗi lúc thầy giáo kêu đến, tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng đàn: Lê Hoàng Mai, Ngô Gia Lưu, Trần Thị Kiều Thư, Bùi Thị Niệm Nhi. Giờ tập thể thao, thầy Tài bắt mặc đồng phục: áo sơ mi ngắn, quần đùi bằng vải tám trắng - thực ra thì vàng vàng - cổ áo, vành tay áo, vành ống quần viền đỏ (!). Lại có hai đường đỏ chạy dọc ở hai ống quần nữa. Bữa mặc biểu diễn đầu tiên, sân tập như đông thêm. Lạ mắt vì mấy cái viền đỏ cứ chạy loanh quanh trước mặt, chúng tôi thấy ngượng ngượng một cách lý thú. Giữa cái rừng trăng trắng đo đỏ ấy có riêng một anh mặc một bộ cùng kiểu nhưng lại màu đen viền trắng. Vải trang đầm đen nhánh, vải tàu bay trắng tinh, đường may cẩn thận. Thầy Tài gọi:

- Hoàng Gia Lý, sao không mặc một màu cho giống anh em?

- Thưa thầy, bà nội con mới may bộ này cho con. Bà con bảo đẹp.

- Ồ, thôi cũng được.

Tôi ngạc nhiên cho mãi đến sau này: thầy là một nhân cách bao dung khó có. Chúng tôi nhìn anh Hoàng Gia Lý. Anh mặc bộ đồ quả thật đẹp, nhất là da anh trắng. Đôi mắt sáng và nét mặt rạng rỡ, thông minh. Thân Lý mảnh khảnh. Tôi lưu ý đến Hoàng Gia Lý từ đấy. Anh có một vết sẹo dài chạy dọc theo cằm... sau này quen anh, tôi thấy nó không xấu mà hình như hơi có duyên là khác. Vì khi nghĩ rằng cái sẹo ấy mất đi, tôi sẽ thấy vẻ mặt ấy không phải là vẻ mặt của Lý nữa. Nó sẽ trơ trẽn, thiếu sự đậm đà.

Hỏi anh con ai, anh trả lời:

- Cháu bà Cử Hai.

Nhà anh là một căn phố buôn bán ở con đường chính. Bà anh buôn hàng vải, khá to. Anh lại cũng có một căn nhà ở cửa Đông, nằm mé ở đồng ruộng. Nhà có vườn trồng cây mát mẻ. Lần đầu tiên đi qua nhà anh thấy ở ngõ có trồng cây bông giấy màu đỏ và có hoa tigôn bò khắp mặt rào, tôi cho là nhà anh sang trọng. Vì hoa giấy đỏ chỉ ở nhà thương mới có trồng và hoa tigôn tôi thấy bò chung giàn với dây thiên lý ở giàn hoa quan phủ. Nhưng dù có lòng mến Lý, tôi cũng không khi nào nói chuyện riêng thân mật với Lý. Chúng tôi chỉ thỉnh thoảng, khi cần, trao đổi với nhau vài câu về việc học.

Hết niên khóa, tôi lên lớp Nhì, phải ra trường tỉnh ở tận Sông Cầu để học. Mỗi lần lên lớp phải dời trường, như thế là hầu hết các bạn tôi đều nghỉ học. Vả lại, lúc bấy giờ sự học còn quí nên mãn lớp Ba có cấp bằng Sơ học yếu lược là các anh đã dư sức làm ông Lý trưởng hay ông Chánh, Phó tổng rồi.

Ra Sông Cầu tôi không ngờ được gặp lại Lý. Tôi nhớ mãi một hôm tôi ghé lại thăm anh ở nhà trọ, anh mời tôi một bát bánh canh hai xu. Từ đó, thỉnh thoảng hai chúng tôi rủ nhau đi tắm biển. Vì khờ nên có lần hai đứa đều bị hàu cắt đứt da ngón chân. Những chiều chủ nhật, hai đứa lấy đá đập trái bàng khô để lấy nhân ăn. Có bữa rủ nhau đi khèo trái keo hay hái trái tra.

Hết năm lớp Nhì A (còn gọi là lớp Nhì đệ nhất niên hay lớp Nhì nhỏ), bỗng không thấy Lý đi học nữa. Dù ngày hè tôi vẫn về nghỉ ở quê cả ba tháng, dù nhà Lý cách nhà tôi không quá bốn cây số, nhưng tôi không thân với Lý đến mức phải háo hức đi tìm thăm bạn.

Cứ như thế, tôi học cho hết năm lớp Nhì B, hết năm lớp Nhất ở Sông Cầu. Đỗ Tiểu học xong, tôi cùng một người bạn ra học ở trường Cao đẳng tiểu học Qui Nhơn. Thế là tôi không hề gặp Lý nữa.

Lâu lâu, chợt nghe trong câu chuyện với bạn bè ở quê nhà, tôi được nghe người ta nhắc đến Lý. Thoạt đầu là tin Lý thôi không đi học để về học chữ Nho. Tôi nghĩ cũng phải, vì ông của Lý là một cử nhân Hán học (ngớ ngẩn thay lý luận). Nhưng người kể chuyện giải thích:

- Lý có một người cô lấy chồng giàu ở Thạch Thành. Nhà buôn thuốc Bắc. Lý học chữ Nho để ngồi bán thuốc Bắc.

Tôi ngây thơ hỏi:

- Đi học hơn chớ? Còn nhỏ mà đi làm công?

- Không phải làm công. Cô Lý cưng Lý lắm.

Tôi ờ... ờ, không nghĩ sâu sắc thêm, không lý luận thêm. Bẵng đi một độ không biết bao lâu, chợt tôi lại ngẫu nhiên được nghe tin tức về Lý.

- Lý đi học...

- Tôi biết rồi. Lý đi học chữ Nho để bán thuốc Bắc cho nhà cô Lý ở Thạch Thành.

Người bạn tôi mỉm cười có vẻ như thương hại.

- Ai nói vậy? Lý thôi bán thuốc Bắc lâu rồi. Cô Lý cho đi học lại.

- Học ở đâu? Quá tuổi rồi.

- Lý xuống Tuy Hòa, học ở trường tư thục Bình Minh.

- À... à... Ở Tuy Hòa mà cũng có trường tư thục à?

- Có chớ. Nhưng này...

Tôi đang sắp lơ đãng thì cái giọng "nhưng này..." hơi bí mật bắt tôi lưu ý.

- Sao?

- Lý và một cô bạn học thương nhau ghê lắm.

- Cô nào vậy?

- Cô Xuân, con ông chủ khách sạn Đồng Nhơn.

- Ông Đồng Nhơn ở Sông Cầu mà!

- Ờ, nhưng đã dời về Tuy Hòa năm kia. Ở Tuy Hòa buôn bán phồn thịnh hơn.

- Chắc họ nói thêm đấy. Còn nhỏ mà!

- Họ khóc lóc với nhau. Họ thề với nhau nữa mà!

- Khóc? Thề? Chắc không có đâu!

- Mày ngu lắm.

- Kệ tao.

Câu chuyện đã kết thúc một cách hết sức ngớ ngẩn. Lý yêu và được yêu lại là một điều tự nhiên, tôi có thể tin được, vì Lý trắng trẻo xinh trai, nhưng tôi vẫn cho là người ngoài họ phóng đại. Khóc với nhau? Thề nguyền với nhau? Hơi khó tin.

Sau đó mấy năm, ngẫu nhiên tôi nhận được bức thư của một anh bạn cũ, anh Dưỡng ở từ Tuy Hòa gởi tới. Lúc bấy giờ tôi đang học ở Hà Nội. Trong thư Dưỡng nói rằng hiện đang dạy học cho trường Bình Minh ở Tuy Hòa. Bình Minh? Hừ, cái tên nghe quen quen. Trong thư trả lời, tôi bắt Dưỡng viết rõ ràng hơn về cái trường anh hiện đang dạy. Dưỡng làm theo lời tôi. Thì ngẫu nhiên thay, trường Bình Minh chính là nơi khởi đầu mối tình Xuân-Lý. Tôi nhân dịp, bắt Dưỡng kể rõ ràng hơn về mối tình này.

Sau đây là đại lược những điều Dưỡng kể:

Vào Sơn Hòa được một năm, cô Lý cho Lý học lại. Vì quá tuổi, không xin vào trường Nhà nước, nên Lý phải xuống Tuy Hòa học ở trường Bình Minh. Cùng học một lớp có Xuân, con gái ông Đồng Nhơn. Hai người yêu nhau. Ông Đồng Nhơn biết được, đánh mắng con nhiều lần, rồi ông giao cho vợ kiểm soát con. Tính ông nghiêm khắc, vợ sợ lắm, tuân lời răm rắp. Nhưng vì quá sợ mà bả trở lại che chở cho con, sợ ông đánh con nặng tay. Rốt cuộc, họ ở trong cái vòng luẩn quẩn.

Hết năm lớp nhất, Xuân ra trường Đồng Khánh ở Huế học. Lý vào Nha Trang. Họ vẫn thư từ khắng khít với nhau luôn. Hai năm sau, Lý bỏ Nha Trang ra Huế học luôn, hai người có dịp gặp lại nhau.

Trong giai đoạn này, có lần Dưỡng viết cho tôi:

- Ông Đồng Nhơn tức tối lắm khi nghĩ rằng con mình không thuộc quyền điều khiển của mình nữa. Ông định rút con về, không cho đi học nữa, nhưng bạn bè khuyên giải lại thôi. Ông có đến nhà bà cô Lý ở Thạch Thành, yêu cầu rầy la ngăn cản Lý. Bà cô chỉ hứa ậm ừ. Hai bên có cãi nhau. Tức quá ông thề không bao giờ gả Xuân cho Lý. Nhiều điều kiện "độc địa" được kèm theo để đảm bảo lời thề ấy.

Ở một căn gác trọ xa xôi giữa phố Ngõ Trạm, tôi đọc bức thư của Dưỡng, vừa ngồi vẩn vơ nghĩ đến Lý. Tôi tưởng tượng một anh chàng trắng trẻo xinh trai, hơi rụt rè. Ừ, bản chất của Lý hình như là dè dặt rụt rè lắm mà! Thế mà khi yêu thì lại cuồng nhiệt đến thế? Tiếp theo, tôi thương hại Lý vì mối tình ngang trái của anh ta. Ông Đồng Nhơn, theo lời Dưỡng, theo những sự việc nhiều người thuật lại, quả rất nghiêm khắc. Vả lại, vào trường hợp ông, ai cũng dư điều kiện để nghiêm khắc vì kẻ phải đối phó chỉ là con mình và nghiêm khắc chỉ có lợi cho mình. Tương lại của Lý chưa có gì đảm bảo là sáng sủa hơn tương lai của Xuân cả. Gia đình của Lý thì lại không hơn gia cảnh ông. Lý luận một lát, tôi thấy quả Lý đã gặp trở ngại trong tình yêu. Nhưng lạ chưa, đồng thời vẩn vơ thương hại Lý, đồng thời tôi thấy rằng Lý sung sướng. Được yêu người, được người yêu, chẳng thú vị sao? Trở lực bên ngoài chỉ làm tăng giá trị của tình yêu. Họ càng thêm sung sướng vì thấy mình thêm xứng đáng với người yêu của mình. Thật mâu thuẫn. Tôi quay ra thương hại ông Đồng Nhơn hùng hổ nhưng bất lực. Và, lạ chưa, tôi lại quay ra ghen với Lý, vì tôi chưa được hưởng một mối tình cay đắng, đậm đà như thế.

Biết được những uẩn khúc của mối tình ấy nên tôi không tin rằng Lý sẽ ra Hà Nội, mặc dù chính anh gặp tôi và nhờ tìm chỗ trọ giùm. Học ở Huế chẳng thích sao? Ngày nghỉ được gặp chị Xuân chẳng êm đềm sao. Nhưng thực tế là bức điện tín hiện nằm trong túi áo sơ mi tôi đây và tôi đang lên ga Hà Nội đón Lý đây. Tôi tự nhủ:

- Lại có những biến chuyển mới.

Tàu tới. Từ toa hạng nhì, Lý nhanh nhẹn nhảy xuống. Anh mặc sơ-mi chẽn, quần short trắng. Đôi bít tất thể thao trắng bó ống chân. Tôi ngạc nhiên thấy đôi chân vạm vỡ, trái ngược với khuôn mặt mảnh mai. Chúng tôi bắt tay nhau. Lý nói trước:

- Tôi cứ sợ anh không nhận được điện tín. Thấy anh lên đón, mừng quá!

Tôi không biết nên nói lại lời gì. Tôi cứ bị ám ảnh vì mối tình của anh, nên tự nhiên tôi coi anh như khác với mọi người; do đó, tôi có cảm tưởng rằng phải tìm những lời gì đặc biệt để trao đổi cùng anh. Túng quá, tôi phá tan sự im lặng bằng một câu nhảm:

- Ở Huế nóng lắm phải không anh?

- Tôi không biết rõ. Tôi ở Tuy An ra thẳng đây.

- A! Anh không ghé lại Huế?

- Không.

Ngừng một giây, tôi tiếp:

- Nguyễn Đức Tâm làm gì rồi? (Tâm là bạn cũ của chúng tôi)

- Làm thư ký ở Sở Đạc điền, Sông Cầu.

- Nguyễn Chín?

- Ở nhà. Nay đã đổi tên lại: Nguyễn Duy Minh.

Tôi mỉm cười một mình. Đổi tên cũng là một công việc.

Hai chiếc xe cao-su đưa chúng tôi về nhà trọ ở phố Sinh Từ. Lý bàn ngay đến việc học. Anh quyết định xin vào học lớp Seconde (1 ) trường Thăng Long. Chiếc bàn nhỏ dành cho phần anh, sáng hôm sau đã đầy những sách vở, chồng xếp tươm tất. Có lẽ, đồng thời anh cũng đã quyết định đoạn tuyệt với cái quá khứ mơ mộng thiết tha để xây dựng lại một cuộc đời cần mẫn, trong sạch. Tôi lắng nghe anh đọc những định luật hình học, những công thức hóa học mà lòng vui vẻ bâng khuâng. Phải, bâng khuâng vì nhìn anh, tôi có cảm tưởng như nhìn một con chim nhỏ vừa thoát khỏi nanh vuốt của một con ó dữ tợn. Phải, bâng khuâng vì tôi nghĩ, không biết ở ký túc xá trường Đồng Khánh, cô Xuân cũng ngồi nhẩm học công thức hóa học tươi tỉnh như anh hay úp mặt vào gối mà thổn thức? Thật rắc rối là anh Lý. Anh đem lại cho tôi không biết bao nhiêu ý nghĩ vẩn vơ. May thay, không lúc nào tôi phải suy nghĩ vẩn vơ lâu. Hoặc có lúc thì anh Hòe vụt thích thú ngâm lên hai câu Kiều, hoặc có lúc thì anh Tuy ở phòng bên chạy sang hỏi vớ vẩn. Anh Hòe ở chung phòng với chúng tôi, học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật. Anh quê ở Sơn Tây, có đặc tài ngâm Kiều. Khi anh bắt giọng lên ngâm thì dù mải mê làm toán hay mầy mò tìm một chữ Anh làm bài dịch, chúng tôi cũng đều phải lắng tai nghe. Nghe xong chưa đủ, thế nào sau đó, khoái trá, chúng tôi cũng ba hoa bàn tán về thơ hay văn. Nếu có người này biết quí thì giờ thì bao giờ cũng có một hay hai người khác quên khuấy mất điều đó để gợi ra vấn đề mà bàn nhảm. Tức quá, chúng tôi sửa lại câu Kiều anh hay ngâm:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

ra:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi gậm giường.

cho có vẻ tồi. Anh bình tĩnh ngâm câu thơ tồi đó. Thế mà chúng tôi vẫn lắng tai say mê nghe.

Anh Tuy ở phòng bên hình như chỉ ở nhà chơi không chịu đi học đâu cả. Ngồi buồn, anh hay sang phòng khác để kiếm chuyện nói nhảm. Anh làm ra bộ lừng khừng, như người mất trí. Có lẽ anh đã đọc ở một cuốn sách nào người ta tả một nhân vật có tài nhưng suy nghĩ quá thành ra lừng khừng. Nhà bác học lừng khừng trông chắc sang trọng nên anh ta cũng bắt chước cái vẻ lừng khừng ấy. Anh xăm xăm đi tới phòng chúng tôi, dừng lại, hỏi trỏng vào:

- Buồn không?

Hồ Văn Nghĩa, người Sa Đéc, nhỏ nhất trong bọn chúng tôi hay trả lời lại:

- Buồn. Đi đâu đó?

- Đi phiêu lưu.

- Nơi đâu?

- Một nơi vô định.

Thường đến đây thì Lý can thiệp:

- Nghĩa! Học đi. Đừng nói nhảm.

Có phải Lý đã lành bệnh rồi chăng?

Điều xét đoán của tôi sẽ không lầm nếu thỉnh thoảng chừng dăm ngày anh không nhận một lá thư phong bì xanh nhạt mà anh đọc một cách tha thiết say mê. Đọc xong, anh bỏ mọi công việc để ngồi trả lời ngay. Rồi vội vã thay quần áo, anh đi ra đầu ngõ để bỏ vào thùng thư. Suốt ngày hôm đó, tôi thấy anh hút thuốc nhiều hơn thường lệ, anh quen tay gạt tàn thuốc lá mặc dù ở đầu ngọn lửa không kịp có một ngọn khói thuốc lá nữa. Nhưng qua một đêm, sáng ngày hôm sau, anh lại bận bịu bên sách vở.

Một hôm nhìn thấy Nghĩa ngồi mạng một miếng rách ở vai áo. Lý nói:

- Ném nó đi. Mạng làm gì?

Nghĩa nhìn anh:

- Uổng anh. Mình chịu khó ngồi mạng một chút, mặc đỡ được vài tháng nữa.

- Làm trai phải lo những việc lớn. Ngồi tủn mủn những việc nhỏ mọn, tốn thì giờ.

Có đêm, Hòe thấy Lý ngồi châm điếu thuốc này nối theo điếu thuốc khác. Hòe bảo:

- Lý bỏ thuốc lá đi. Hút tốn lắm. Anh xem, mỗi ngày đêm một bao hết hai cắc.

- Hai cắc hay hơn, điều ấy không cần. Vấn đề là thuốc lá có đem lại cái thích gì hay không? Với tôi, thuốc là kích thích sự suy nghĩ. Hút thuốc, tôi thấy thú. Tôi không nghĩ đến hai cắc đó nữa. Mua được cái thú, hai cắc nghĩa lý gì?

Một hôm, cả phòng đi vắng chỉ còn mình tôi. Lý tâm sự:

- Có lẽ tôi thôi học anh ạ.

Tôi ngạc nhiên hỏi vội:

- Sao thế? Còn bốn tháng nữa thi. Mà anh học khá, có hy vọng đỗ lắm.

- Tôi biết vậy, nhưng sốt ruột lắm. Ngồi học bình tĩnh sao được trong khi tình hình biến chuyển bốn bên.

Tình hình biến chuyển? Quả tình hình có biến chuyển, nhưng có quan hệ gì đến lũ học sinh chúng tôi, đến anh Lý? Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở vào khoảng đầu năm 1942. Nước Pháp bại trận ở Âu châu đã mở đường cho Nhật tràn vào Đông Dương. Nhân tâm xao xuyến. Những giá trị cũ lung lay trong không khí mới. Những cô đầm cong cớn không còn nghênh ngang ở trên phố Tràng Tiền mà được thay bằng những anh lính Nhật lùn, đi lạch bạch với vỏ gươm dài lê thê. Người ta hay bàn tán đến thời sự. Nhiều người vì không ưa Pháp nên hóa ra ưa Đức và Nhật. Thật hết sức là đơn giản. Họ không cần biết Đức thế nào, Nhật thế nào. Mặc dù vậy, họ vẫn lý luận rất hăng, thương ghét ra mặt.

Lý hay vắng nhà. Nhiều bữa để phần cơm cho anh đến mãi muời giờ đêm mà vẫn không thấy anh về ăn. Tôi không muốn dò xét cử chỉ Lý, nhưng tôi vẫn thấy có bổn phận phải hỏi thăm. Nếu để mặc thì có vẻ vô tình quá. Tôi hỏi:

- Độ rày bận gì mà thấy anh hay về trễ?

Lý ấp úng:

- Có mấy vấn đề ở trường.

Tôi thường bỏ lửng không hỏi tiếp, hoặc bằng cách giả như bận việc gì, hoặc bằng cách lật đật chạy đi đâu đấy.

Nghỉ Tết năm ấy, Lý và tôi về quê ăn Tết. Tàu hỏa chạy gần tới Huế, Lý bảo tôi:

- Lát nữa tàu đậu ở Huế, tôi xuống ga có chút việc. Anh coi chừng dùm mấy cái va-li của tôi.

Tôi gật đầu, biết ngay chút việc đó là việc gì. Khi tàu chạy chầm chậm qua mặt ga Huế để sắp sửa dừng lại, tôi đưa mắt qua cửa sổ nhìn những người đứng đợi ở sân ga, đoán xem cô Xuân là ai. Người nào cũng có thể là cô Xuân vừa có thể không phải là cô Xuân. Khi tàu dừng hẳn, đưa mắt qua lại vài vòng, tôi thấy chỗ Lý đứng là một thiếu nữ mặc toàn đồ trắng. Chiếc nón lá che mặt chỉ lộ từ nửa má xuống cằm. Khi tàu huýt tiếng báo hiệu khởi hành, khi Lý đã nhảy lên tàu rồi, tôi có phương tiện để nhìn nàng kỹ hơn. Đó là một thiếu nữ chừng mười chín tuổi, gương mặt tròn. Nước da trắng phù hợp với đôi mắt hiền dịu. Màu áo, màu guốc đều trắng. Cả cái quai nón cũng trắng.

Tết xong, vào học lại chừng được nửa tháng thì một tối Lý bảo tôi:

- Tôi đã xin thôi học rồi. Ngày mai tôi vào làm ở Tòa Đại sứ Nhật Bản, phòng quân sự.

Tôi gật gù suy nghĩ một giây rồi mới nói:

- Cũng được. Anh đã nghĩ kỹ?

- Đã.

- Có đi làm anh cũng vẫn còn ở trọ tại đây?

- Chắc thế. Cũng có thể tôi sẽ không được ở đây với các anh nữa. Nhưng đó là việc sau này. Hiện giờ chưa biết.

Nửa tháng sau, nhằm bữa tối tôi đi xi-nê về khuya, - có lẽ lúc bấy giờ đã 11 giờ rưỡi, - mở căn phòng, tôi thấy Lý ăn mặc tươm tất ngồi bên cạnh một cái rương và một cái va-li lớn. Bao nhiêu sách vở trên bàn đều dọn sạch, chăn màn cũng thu xếp đâu mất.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Anh chuẩn bị đi đâu đấy?

- Tôi đợi anh từ tối đến giờ. Tôi đã phải giã từ chủ trọ và giã từ khắp các bạn bè rồi. Chỉ còn anh. Nội đêm nay tôi phải dọn sang Sở Hiến binh.

- Sao lại ở Sở Hiến binh? Anh làm ở Tòa Đại sứ chớ có làm ở Sở Hiến binh đâu?

- Họ chuyển tôi sang đó.

- Đừng chịu! Làm ở đó khổ cực.

- Tôi thấy rằng làm ở đâu cũng vậy. Miễn là họ có thể giúp đỡ mình.

- Giúp cái gì? Anh cần gì phải ai giúp?

- Có.

Nói đến đấy, Lý ngập ngừng rồi thôi. Tôi nói tiếp:

- Làm ở Sở Hiến binh đi khuya về sớm không có giờ giấc nhất định, nhọc lắm. Vả lại, còn nguy hiểm nữa.

- Điều đó tôi biết.

- Thế sao anh không từ chối? Toyo Menka, Showa Tsusho, Mitsubishi Kaisha, Yokohama Speciebank... bao nhiêu chỗ cần người. Sức như anh vào làm ở những chỗ đó thong thả, điên dại gì lại đi làm Hiến binh.

Lý lầm lỳ không trả lời. Cuối cùng, anh đứng dậy giơ tay cho tôi.

- Thôi tạm biệt anh. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Tôi cám ơn anh đã giúp đỡ tôi trong những ngày đầu bơ vơ ở Hà Nội.

- Điều đó không đáng kể.

Lý vội vã nói tiếp, như sợ tôi nói thêm:

- Tôi sẽ thỉnh thoảng ghé thăm anh. Khi có việc gì cần hỏi tôi, anh cứ lại Sở Hiến binh ở cuối đường Gambetta hoặc viết thư cũng được. À... nhưng nhớ rằng hỏi Hoàng Gia Lý thì không ai biết được đâu đấy. Bây giờ tôi là Hô-ka-Li.

- Là cái gì?

- Hô-ka-Li.

- Hô-ka-Li là cái gì?

- Là Hoàng Gia Lý, phát âm theo Nhật ngữ.

- Hô-ka-Li.

Tôi đưa tay cầm lấy tay anh mà trong óc lật qua lật lại mấy chữ Hô-ka-Li. Cái tên đã đổi rồi thì không biết cuộc đời và mối tình của anh có còn giữ vẹn như xưa không?

Từ đó, thỉnh thoảng đi phố, tôi có gặp Lý. Những khi nhìn Lý đi ô-tô hòm tôi thấy vui vui, nhưng mỗi khi thấy anh đứng trên xe nhà binh mui trần với một tốp lính là lòng tôi thấy bùi ngùi, ái ngại. Tôi cứ băn khoăn tìm hỏi không hiểu vì sao Lý lại bỏ đi làm như vậy.

Vì yêu nước? - Có thể lắm.

Vì danh vọng sự nghiệp? Cũng rất có thể?

Vì tình duyên có sự trở ngại? - Sao lại không?

Lâu lâu, Lý ghé lại nhà trọ thăm lũ chúng tôi. Anh hay đem theo quà. Có lần là những tập sách tuyên truyền về Đại Đông Á với những hình đẹp. Hồ Văn Nghĩa thích ảnh đẹp nên vồ lấy ngay. Có lần anh chỉ cho chúng tôi xem ảnh của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Chandra Bose rồi giảng cho chúng tôi nghe những bài báo viết bằng tiếng Nhật ca tụng tinh thần Quốc gia của các nhà ái quốc này. Có lần anh đem đến một cái bánh tổ làm tại Nhật Bản do quân bưu đưa sang. Anh em phòng tôi và các phòng khác chia nhau mỗi người một miếng nếm thử. Có lần anh không đem đến gì cả mà chỉ uể oải tìm chỗ nằm rồi nói:

- Mệt quá.

Chúng tôi ái ngại nhìn anh gầy đi. Nước da xanh và hố mắt sâu xuống. Nhưng sợ anh buồn nên chúng tôi không ai nỡ nói. Chỉ có Nghĩa nhỏ nhất nên hay hấp tấp nhất, nói không kịp nghĩ:

- Anh Lý ơi! Sao anh ốm dữ quá vậy? Bộ ở trong quân đội nhịn đói sao anh?

- Nói bậy mày. Lý đạp lại.

- A!... nói vậy thì chắc là tại anh ăn ngọt không được chớ gì. Tôi nghe lính của họ ăn món gì cũng ngọt lịm hết. Kho cá mà ngọt quá chè đa...

- Ăn ngọt mạnh chớ sao. Mà, tao đâu có ốm, Nghĩa?

Vừa nói, Lý vừa xắn tay áo lên đưa ra đưa vào cho nổi bắp thịt.

Gặp bữa ăn, Lý hay ở lại ăn chung với chúng tôi. Nhìn anh ăn uống vui vẻ, pha trò vui vẻ mà cảm động. Anh gắp thịt luộc chấm mắm tép cặp với rau rồi vừa bỏ vào miệng vừa nói:

- Đúng là tinh thần Việt Nam.

Hòe đùa:

- Việt Nam banzai (vạn tuế)

Tôi bùi ngùi bảo Lý:

- Thế thì chiều nay anh ở lại đây ăn cơm. Chiều nay có giả cầy nấu với mẻ đấy. Nhằm vào món anh thích.

Lý vui cười:

- Đúng lắm, tôi thích giả cầy lắm. Nhưng chiều nay không ở lại được. Thôi xin hẹn lần sau.

Ăn chưa xong bữa, chợt Nghĩa đứng dậy lấy áo khoác vào người (Nghĩa có tật ăn cơm phải ở trần) rồi lật đật chạy xuống cầu thang. Một lát sau nó rầm rập chạy lên, mở vội gói cầm tay, bày ra mấy phong bánh in.

Lý khen:

- Sang quá ta! Tráng miệng bằng bánh in đậu xanh mỡ.

Hòe giảng giải:

- Không đâu. Hôm nay thằng Nghĩa nó thết anh đấy. Ngày thường thì tráng miệng bằng thèo lèo thôi. Đêm qua nó lại đánh cò quay ăn một hơi được hai mươi tám bao Cotab đó anh Lý ơi!

- À!...

Nghĩa "à" to một tiếng như chợt nhớ ra, vội lại ngăn tủ lấy năm bao Cotab đưa cho Lý.

- À, suýt nữa tôi quên. Anh cầm năm bao thuốc về hút.

Lý mỉm cười:

- Cái món "tương tư thảo" này, mày cho bao nhiêu tao cũng nhận.

Thăm chơi xong, Lý giã từ chúng tôi. Tiếng giày anh gõ lộp cộp trên sàn gỗ, quá hiên ngang mạnh bạo so với cái thân hình mảnh khảnh. Trọng tâm người anh như đã rơi thấp xuống ngang đế giày. Đôi vai cong cong. Cái đầu hơi chồm ra trước. Tôi nhớ một bữa nào trước đây, Nghĩa nó nói với tôi:

- Anh ơi, tôi coi cái tướng anh Lý ngó lao đao quá.

Một ngày tháng Năm, tôi nhận được một bức thư của Dưỡng, trong đó có một đoạn Dưỡng viết:

"Anh có biết hiện giờ Lý ở đâu không? Xuân có gởi thư hỏi tôi, nhờ tôi viết thư hỏi thăm anh. Xuân bảo chỉ có anh là biết địa chỉ của Lý thôi. Xuân đã viết năm cái thư cho Lý rồi mà không thấy trả lời. Không biết Lý có nhận được không? Hay Lý hiện không còn ở đấy..."

Tôi dè dặt không trả lời ngay cho Dưỡng. Đợi hôm nào gặp Lý hỏi lại đã. Nếu Xuân không được tin chắc chắn là tại Lý không muốn viết đó thôi. Tựu trung, hẳn có một uẩn khúc gì đây.

Hôm Lý ghé thăm, tôi đưa đoạn thư của Dưỡng cho Lý đọc. Anh lướt qua thật nhanh, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:

- Anh đừng cho biết địa chỉ của tôi. Cứ lờ đi đừng trả lời. Nếu Dưỡng cứ nhắc đi nhắc lại thì anh cứ nói rằng lâu ngày không gặp tôi. Tôi nhờ anh điều đó.

Nói xong, anh kêu xe tay rồi vội vã chào tôi:

- Tôi cần về sở gấp để sang Gia Lâm. Lúc nãy bom ném ở Gia Lâm. Thiệt hại khá nặng.

Chiến tranh mỗi ngày mỗi tràn lấn sang Việt Nam, đã đến giai đoạn phi đội Mỹ chiếu cố đến các căn cứ quân sự Nhật ở Việt Nam, thả bom trúng đích hơn và thường xuyên hơn. Sài Gòn bị ném bom. Hà Nội bị ném bom. Tháng Mười năm 1943, tôi nghỉ học chạy tản cư về quê.

Lý tiễn chân tôi ra tận sân ga. Anh bùi ngùi nói:

- Thế là tôi bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Tôi không còn được cái thú vô tư của người đứng ngoại cuộc như các anh để thản nhiên xem người khác chém giết nhau.

- Đã chắc gì thản nhiên.

- Nhưng cũng gần vậy.

Khi tàu gần chạy, anh đưa cho tôi một phong thư và nói:

- Khi nào gặp Dưỡng, nhờ anh trao dùm thư này cho Dưỡng, để Dưỡng đưa lại cho Xuân. Có lẽ đây là cái thư cuối cùng của chúng tôi.

Khi tàu chạy, anh đứng lẫn sau những cột trụ, sau những người đi lại.[/scroll]

[scroll]Về quê chừng được một tuần, tôi đi Tuy Hòa, thăm anh Dưỡng. Tuy rằng Tuy Hòa chỉ cách Tuy An có ba mươi cây số, nhưng đã bốn, năm năm rồi tôi chưa hề đi tới. Tôi bồi hồi nhìn nhà ga khá đồ sộ, dãy bungalow tươm tất, hai hàng phố chính kiến trúc theo kiểu cổ của người Trung Hoa, nghĩa là vừa thâm nghiêm vừa nặng nề. Dưỡng ở một cái nhà nhỏ ở bên chân núi Nhạn Tháp. Đó là nhà của mẹ vợ anh. Vợ anh buôn bán. Anh dạy lớp Nhất ở trường Bình Minh. Qua lời anh nói thì học trò rất mến anh vì anh dạy giỏi, phụ huynh mến anh vì học trò đi thi đỗ nhiều. Tóm lại, nghĩa là anh bằng lòng cái công việc của anh lắm. Tuy không nghe anh nói ra nhưng tôi cũng biết rằng anh bằng lòng cả cái vị trí hiện tại của anh lắm, vị trí làm rể một người đàn bà góa tần tảo đã đến ngày muốn nghỉ ngơi, vị trí làm chồng của người vợ đảm đang mà mẫu mực là bà mẹ siêng năng, vị trí làm cha một đứa con trai mặt giống mình. Nghỉ lại nhà anh một đêm, tôi thở được cái không khí bằng lòng đơn giản của cái gia đình nhỏ này. Cái gì cũng nho nhỏ, vừa phải, thanh đạm. Không ai muốn vươn cao lên một chút, không ai dám mơ tưởng xa thêm một tí. Tôi so sánh với những tình cảm cuồng nhiệt, mâu thuẫn, xâu xé, giằng co mà tôi sắp đem ra kể với anh. Tôi cố lùi lại cái giây phút mỏi mệt ấy. Khi biết rằng không thể lùi lại hơn, tôi bắt đầu:

- Chị Xuân thôi không học ở Đồng Khánh nữa?

- Về được ba tháng nay. Bác sĩ bảo yếu cần nghỉ thêm một thời gian.

- Ở nhà làm gì?

- Trông hàng cho mẹ.

- Ba chị có thay đổi ý kiến không?

Thấy Dưỡng có vẻ không hiểu ý tôi muốn nói, tôi phải giải thích rõ ràng hơn:

- Nghĩa là đối với việc Lý-Xuân ấy, ông hiện nay thế nào?

- Như xưa và chắc mãi mãi như xưa.

Anh hít một hơi thuốc lá rồi chậm rãi tiếp:

- Ông không có ác cảm với Lý. Lý hiền lành chí thú, hình như ông cũng thương. Mâu thuẫn bắt nguồn từ hai gia đình.

- Chúng ta đang nói chuyện về Roméo và Juliette rồi.

Thấy Dưỡng không nói tiếp, tôi lấy cái thư đưa cho anh.

- Đây là bức thư Lý nhờ anh đưa cho chị Xuân. Lát nữa đi dạy học, anh ghé tạt đưa dùm cho chị ấy.

Vì mãi mười giờ mới có chuyến tàu hỏa ra Chí Thạnh, nên Dưỡng cứ đi dạy, còn tôi ngồi ở bàn đọc sách đợi đến giờ ra ga. Chừng mười một giờ, thoáng có một bóng áo trắng đi vào. Một lát, vợ anh Dưỡng ra bảo tôi:

- Có chị Xuân muốn gặp anh.

Câu báo tin đã thay lời giới thiệu vì chị Xuân đứng liền sau lưng vợ anh Dưỡng. Tôi mời chị ngồi. Chị không ngồi mà đưa liền cho tôi bức thư của Lý viết cho chị, vừa bảo:

- Anh đọc dùm bức thư này, Lý nói có lạ không?

Tôi cầm lên xem. Đại để có những ý quan trọng:

"Em quên anh đi... Một khi không yêu nhau được, cản trở đủ đường thì đeo đuổi làm chi cho khổ cả hai, khổ cả gia đình... Nhất là bây giờ anh đã tàn tật..."

Không giấu được ngạc nhiên, tôi nói to lên:

- Tàn tật?

Chị hỏi lại liền:

- Anh Lý bị tàn tật thiệt hở anh?

Tôi ấp úng không biết trả lời sao. Thì bằng một giọng tin tưởng, giọng tin tưởng đặc biệt của những người yêu nhiệt thành muôn thuở, chị nói luôn:

- Tàn tật có nghĩa là gì đối với tôi? Tôi đâu có yêu Lý vì Lý không tàn tật?

Tôi nhẹ người vì chị đã khéo tránh cho tôi khỏi phải nói dối. Tôi cúi xuống đọc tiếp. Không biết có phải vì thư viết bằng bút chì khó đọc hay vì Lý bối rối hay vì chính tôi không bình tĩnh, nên tôi đọc mà không hiểu Lý dứt khoát muốn gì. Nhưng tôi cũng không bận tâm tìm hiểu thêm vì tôi biết đại để, những bức thư tình đều hay loanh quanh như thế. Ý của người viết không chắc đã phô diễn trung thành trong những chữ. Nhiều khi còn nên hiểu trái lại. Tôi quay sang chị:

- Ý chị thế nào?

Chị không đáp lại câu hỏi của tôi. Chị nhìn thẳng vào mặt tôi mà nói:

- Anh nên khuyên giùm Lý. Tôi biết Lý mến anh và nể anh. Anh nên khuyên giùm Lý.

Ánh sáng như đọng lại nhiều hơn ở mắt chị. Thì ra nước mắt đã lưng tròng. Tôi an ủi:

- Để tôi viết thư cho Lý thử xem.

- Tôi nhờ anh. Tôi chỉ biết nhờ anh.

Lúc ấy có tiếng còi tàu huýt lên. Tôi nhìn xuống đồng hồ thì vừa đúng lúc để tôi ra ga. Chị Xuân biết ý nên đứng dậy trước:

- Thôi anh ra ga kẻo trễ tàu. Tôi cám ơn anh và xin lỗi vì đã quấy rầy anh.

Viết thư khuyên Lý? Tôi không thể làm việc thừa ấy được, mặc dầu mỗi lần nghĩ đến chị Xuân là trí nhớ của tôi quy tụ về đôi mắt ứa lệ của chị. Lý đâu có ngây thơ để cần phải được khuyên? Tôi đâu có hiểu rõ hoàn cảnh, hoàn cảnh chủ quan và khách quan của Lý để mà khuyên Lý? Lời khuyên sẽ dễ làm giảm giá trị của người khuyên nếu nó làm không đúng lúc. Tôi bình tĩnh đợi sự giải quyết của người trong chuyện.

Một ngày kia, tôi nhận được một bức thư. Nét chữ mềm mại. Tôi hồi hộp mở ra, lật đọc dòng chót để tìm tên người viết. Chị Xuân. Đại ý cũng như bữa nọ chị nói với tôi, có tha thiết thêm là ở chỗ chị đã thêm mấy đêm suy nghĩ. Không phải chỉ mấy đêm ấy thôi, tôi biết, mà chị đã từng suy nghĩ hằng mấy trăm đêm về trước rồi, có điều chị không nhớ hết đấy thôi. Chị lại khẩn thiết nhờ tôi khuyên Lý. Lạ thật! Người nào cũng chủ quan thấy điều gì mình nghĩ cũng phải là đúng và buộc người khác phải làm y theo ý mình mới gọi là đúng. Tôi hơi bực mình, không biết làm sao để vừa giúp chị, đồng thời lại vừa khỏi mang tiếng là khờ trước mặt anh Lý. Khó hết sức.

Tôi đang loay hoay thì có tin anh đã đổi vào Sở Hiến binh Sài Gòn. Sài Gòn gần Tuy Hòa hơn Hà Nội, nên tôi cho như đó là một sự may mắn. Rồi bỗng một buổi sáng kia, anh lầm lũi đi vào nhà tôi.

- Kìa, anh Lý.

- Tôi vừa về, ghé sang thăm anh.

- Anh vẫn còn làm việc ở Sài Gòn?

- Vâng, còn. Tôi xin nghỉ một tháng.

- Thú nhỉ? Tha hồ nghỉ ngơi: Độ rày trông anh khá hơn những ngày ở Hà Nội.

Câu chuyện hàn huyên qua hết phần thủ tục, chuyển sang nội dung. Lý nói:

- Người Nhật họ không thực tình đối với ta.

- Điều đó tôi đã nói với anh ngay từ hồi chúng ta còn ở Hà Nội.

- Nhưng bây giờ tôi mới biết rõ ràng đích xác.

- Thế bây giờ anh tính sao?

- Khó quá.

Tôi không muốn anh tâm sự thêm nữa để khỏi phải góp những ý kiến về chính trị mà mình không biết chắc và mình không tin chắc là đúng. Nói chuyện với Lý, tôi không muốn dùng những câu xã giao thông thường hay những lối uyển từ nói nhiều và nói hăng hái để tựu trung không nói một cái gì hết. Tôi lái câu chuyện cho chuyển sang một khía cạnh nhẹ nhàng cởi mở hơn.

- Anh em thằng Nghĩa về Sa Đéc rồi?

- Về sau anh nửa tháng.

- Ồ! Thế mà tôi cứ tưởng chúng nó gan lì lắm.

- Tụi Hòe, Xoang cũng đều về quê hết. Hà Nội độ sau này vắng vẻ lắm, buồn lắm.

Nói chuyện chừng một giờ, anh chợt ngần ngừ hỏi nhỏ tôi.

- Cái chăn hôm nọ ở Hà Nội đem về, anh có còn giữ lại đó không?

Cái chăn? Tôi hiểu rồi. Đó là cái chăn dạ của Lý hôm đi tản cư tôi dùng để gói đồ đạc đem theo. Tôi trả lời:

- Còn đó.

- Anh cho tôi xin lại. Vài bữa nữa đám cưới mà thiếu cái chăn.

Tôi ngẩn ngơ:

- Đám cưới...

Lý nói lúng túng, có vẻ ngượng ngập:

- Đám cưới của chúng tôi.

Khi tiễn anh ra cổng, tôi cứ nghĩ mãi đến "đám cưới" và "cái chăn". Oái oăm hết sức là hôm anh sang thăm tôi lại mặc bộ nỉ màu xanh rêu mà cách đây hai năm chính tôi đưa anh đến hiệu may Hàng Trống chọn hàng và đặt may cho anh. Cái cà-vạt màu xanh lục anh thắt khéo hòa hợp với màu áo. Tự nhiên tôi nhìn sang cái chăn dạ màu nâu đã cũ. Một chút nghẹn ngào dâng lên làm tôi hơi khó thở. Hạnh phúc một cuộc đời, cuộc đời của một người say mê khao khát, ôm ấp nhiều hy vọng và hứa hẹn nhiều triển vọng, hạnh phúc đó cuối cùng chịu bằng lòng xây dựng bên cạnh màu chăn dạ cũ kỹ kia sao?

Cảm tưởng của tôi đối với cuộc hôn nhân thành tựu này thật hết sức là lẫn lộn, mâu thuẫn. Vui không hoàn toàn, mừng rỡ không rõ ràng, có cái gì ngượng ngập ở đây. Tôi hỏi một vài người biết rõ nội vụ hơn hết để tin rằng việc cưới hỏi Lý nói với tôi hôm nọ là việc cưới hỏi của chính anh. Người ta đều xác nhận rằng cả hai gia đình đã bỏ mọi hiềm khích, đã hy sinh tự ái để hai người trẻ khỏi đau khổ. Mặc dù nghe rõ vậy nhưng sao tôi vẫn ngờ vực rằng sự thật sẽ không diễn ra êm đẹp dễ dàng như thế đâu, như kết cuộc của một phim chiếu bóng đâu. Cho đến khi có người láng giềng - người này là một người nhà quê biết gia đình Lý chớ không thương không ghét - kể cho tôi nghe đám rước dâu, tôi mới yên tâm mà tin. Ông ta nói rõ ràng:

- Họ gái đi ô-tô ở Tuy Hòa ra. Xuống Phố Thoại chuyển sang xe ngựa. Xe ngựa có cắm bông.

- Mấy cỗ xe ngựa?

- Bốn cỗ.

- Cắm bông gì?

- Đủ thứ: bông đào, đông điệp, bông giấy... Tôi thấy rõ ràng mà.

- Thì ai nói rằng ông không thấy? Kể tiếp đi.

- Họ gái mang giày cườm và cầm dù.

- Còn họ trai?

Ông hít một hơi thuốc lá rồi mơ màng tiếp:

- Còn thằng rể và con dâu bận áo rộng.

Đó là chi tiết mà tôi đã vô tình mong đợi.

Câu chuyện tình đã kết thúc một cách êm đẹp nên không còn ai nhắc đến nhân vật nữa. Người ta bỏ quên họ để chuẩn bị cho tâm trí vấn vương về những thắc mắc khác.

Sau nửa tháng, Lý đi Sài Gòn. Xuân ở nhà quê với mẹ chồng. Dù xa nhau nhưng chắc Xuân không buồn vì mẹ Lý tốt và các em của Lý đều tốt. Vả lại, chị còn đòi hỏi gì thêm khi trong suốt năm sáu năm thương yêu chị đã chỉ dám dự trù chia ly hơn là sum họp. Chắc Lý cũng nghĩ thế.

Sau đó, tôi nghe Lý được đổi về Nha Trang. Những người trong vùng trở lại nhắc đến Lý, nhưng lần này bằng một giọng thán phục. Số là lúc bấy giờ quân Nhật kiểm soát Đông Dương chặt chẽ hơn nên xe cộ của họ qua lại luôn. Lẽ tất nhiên Lý cùng đi với các sĩ quan Nhật, hoặc ghé lại Tuy Hòa, hoặc ghé lại Chí Thạnh, hai trung tâm thu nhặt tin tức về Lý.

Vụt đến ngày Nhật đảo chính, Lý hầu như thành nhân vật trong một thiên anh hùng ca cho cả vùng đó. Người ta truyền miệng cho nhau không biết bao nhiêu là truyền kỳ về Lý. Nào Lý bận binh phục có đeo gươm rất dài. Nào Lý đeo một hàng mề đay vàng rực cả ngực. Nào Lý đội một cái mũ nhung đỏ chói. Nào xe hơi của Lý đậu kít ở trước nhà người cô của Lý, một tên lính chạy ra mở cửa xe, Lý bước xuống lẫm liệt... đi vào.

Có người cả quyết rằng chính mình đã thấy Lý cầm gươm châm xuống đất, nói một tràng tiếng Nhật rồi trong năm phút, một đoàn tàu bay Nhật vù vù bay ra đảo lộn trên nền trời Tuy Hòa. Người khác bảo đảm là không phải tàu bay mà là một đoàn ô-tô nhà binh rầm rộ chạy ra, đậu suốt một dãy để đợi lệnh.

Có lẽ chỉ có mình tôi là hiểu nỗi khổ tâm của Lý thôi. Nhưng rồi tôi cũng lây cái vui, cái hào hứng của mọi người. Tôi thầm bảo mình:

- Dù sao, những giây phút này cũng đền bù một đôi phần những nỗi lao tâm khổ trí của Lý. Dù sao cũng vẫn còn hơn là lúc viết thư cho người yêu anh bảo hãy quên đi, quên đi vì mình đã thành người tàn tật.

Ngày khởi nghĩa, tôi đang ở Đà Lạt. Ở Đà Lạt không có việc cướp chính quyền mà chỉ là chuyển giao quyền hành chánh, nhưng nghe nói ở mấy tỉnh miền Trung châu, sự xung đột có xảy ra, nhiều nơi khá dữ dội. Tôi lo cho số phận của Lý. Khi cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ăn lan dần ra khắp miền Nam Việt Nam, tôi tản cư lận đận trên con đường Lâm Viên-Ninh Thuận. Thỉnh thoảng mỗi lần nghĩ đến thời cuộc là tôi nghĩ đến Lý, một nạn nhân tiêu biểu của thời cuộc, của thời đại.

Ngót một năm sau, khi về đến Phú Yên, tôi được nghe tin Lý vẫn còn an lành. Anh về nằm ở quê nhà. Tôi lựa một bữa rảnh rỗi ghé sang thăm. Hai vợ chồng tươi cười ra đón. Anh siết chặt tay tôi, còn chị thì miệng cười như hoa. Chị đẩy cái xe đan bằng mây, trong đó có cháu bé ngồi và dạy:

- Bé Thảo chào bác đi.

Tôi liền nói:

- "Xuân du phương thảo địa". Con này chắc là Phương Thảo đây.

Chị đỏ mặt thẹn. Anh mời tôi ngồi. Những cử chỉ: rót nước, mời nước, gạt tàn thuốc, đứng dậy, ngồi xuống hơi chậm chạp. Có lẽ đó là di tích của chiến bại. Anh không kể lại những sự việc đã xảy ra, tưởng như tôi đã biết hết rồi, anh chỉ nói đến một cách rất đơn giản vài nét của cuộc sống đơn giản hiện tại của anh. Những sự việc đã xảy ra cho anh, tôi có nghe qua, chúng không khác mấy với những điều tôi đã dự tưởng.

Rốt cuộc, tôi cảm ơn số mệnh đã cho anh sống nguyên vẹn để về ở bên vợ con. Khi anh nói chuyện với tôi, cứ một lát anh lại giật mình vì cháu Thảo hoặc đứng chồm quá trước xe, hoặc ngồi xuống hơi nặng. Có lúc miệng anh vừa nói, mắt anh vừa nhìn tôi, mà tay giơ ngang bé Thảo như che chở.

Mùa đông năm 1948, tôi ghé lại một lần ở Tuy Hòa thăm anh. Lúc bấy giờ anh lãnh một chức nhỏ phụ giúp ở Ty Cứu tế Xã hội. Anh bảo tôi:

- Cứu giúp những người khổ, đó là cái việc rõ ràng khỏi phải cân nhắc lý luận lôi thôi. Tôi tiếc không đủ năng lực để làm một y sĩ. Kẻ thù của một y sĩ có lương tâm là bệnh tật, là chết chóc, là cái chân bị sâu quảng, cái nhọt bị nung mủ, khúc ruột thừa bị sưng. Ông ta cứ cắt, cứ mổ, cứ tiêm. Lương tâm để ông ngủ yên. Lương tâm, tôi có.

Tôi nhìn quanh cái gác trọ của anh. Cũng lại những đống quần áo mắc lên thành ghế, những chồng sách để bừa bãi dưới sàn gỗ và cái gạt tàn thuốc cố hữu. Đặt anh vào cái khung cảnh này như dễ trông hơn. Có lẽ vì quen mắt hơn. Tôi thấy tội nghiệp anh.

Mùa đông năm 1949, tôi vụt nghe tin anh chết. Tin hãi hùng, tôi nghe rõ ràng mà có cảm tưởng như mình nghe lầm. Trước đây nửa tháng, có tin anh đi thăm trại tế bần rồi bị sốt dọc đường. Anh gắng lội qua sông. Đến nơi, anh nằm vùi. Gia đình được báo tin đến võng anh về, chữa thuốc Bắc nhưng mãi không mạnh. Anh được võng đi nhà thương cho bác sĩ khám. Rồi không hiểu vì bác sĩ bảo bệnh đã quá nặng hay vì thiếu thuốc, anh lại được võng tới ông thầy thuốc Bắc có tiếng chữa bệnh thương hàn. Anh chết ngay tại nhà ông thầy.

Tôi đến thăm di hài anh. Những ngón tay cong lại trông rõ đốt xương. Tôi thân ái mở tấm giấy phủ mặt. Mắt anh nhắm nghiền. Da mặt xám sậm. Tôi nghe nóng nơi mắt mình. Tôi phủ lại tấm giấy. Trên bụng anh đắp ngang cái chăn, cái chăn dạ màu nâu.

Chị Xuân và cháu Thảo ở Tuy Hòa, chưa biết tin anh chết. Có lẽ chứng kiến ngay cái chết của anh, chị sẽ ít đau khổ hơn, vì chị khỏi bị người ta thương hại thêm. Tôi dự luôn cuộc đưa đám anh. Anh yên nghỉ ở khoảng đất đầu xóm. Ngày trước, mỗi lần đến thăm anh, tôi thản nhiên đi qua khoảnh đất này. Vì không lưu ý, tôi chỉ mang máng nhớ nơi đây có lá xanh, có cây phượng cao hoa đỏ, có vài con trâu gặm cỏ mơ màng. Đi vài trăm thước nữa thì tới nhà anh. Hôm nay, anh rời nhà, ra vĩnh viễn nằm nơi đây. Giã từ Huế, Sài Gòn, Hà Nội. Giã từ người yêu, kẻ thù, giã từ đau khổ, sự nghiệp, hạnh phúc...!

Chiến tranh tàn phá con đường ô-tô, sự đi lại hoàn toàn bằng đôi chân. Lâu lâu chị Xuân bế cháu hoặc từ Long Uyên (quê anh Lý) về Tuy Hòa (quê chị) hoặc từ Tuy Hòa ra Long Uyên. Vì con đường đi bộ ngang qua nhà tôi, nên không bao giờ chị quên ghé lại nghỉ chân. Cháu Thảo trắng mũm mĩm, giống ba ở cái miệng, giống má ở đôi mắt. Cháu bụ bẫm nhưng yếu, chậm biết đi, chậm biết nói. Tôi hay bế cháu vào lòng, siết cháu thật chặt. Mỗi lần làm như vậy, tôi có cảm tưởng như ngày nào siết chặt tay ba cháu. Có nhiều lần bế cháu đến nhà tôi là cháu đã ngủ khì trên tay chị. Chị đặt cháu xuống võng.

Tôi nhìn vẻ mặt ngây thơ của cháu, nhìn bàn chân thon của chị. Bao nhiêu là trách nhiệm nặng nề Lý đã giao lại cho chị. Một quá khứ nặng đau khổ chỉ được đền bù bằng bốn năm Hạnh phúc - mà nào có hoàn toàn, - để rồi bây giờ chị lại đau khổ, cái đau khổ còn nặng gấp mấy hồi xưa vì chỉ có mình chị chịu đựng. Nỗi khổ khi con người chung chịu, ta không thấy nặng nữa. Tội nghiệp cho chị, cô đơn biết bao! Không muốn chị buồn nên không bao giờ tôi nhắc đến Lý. Chị cũng vậy. Chị nói chuyện hồn nhiên như hồi xưa, thật thà như một người em. Có lần chị dạy cháu chào tôi:

- Thảo ngoan, vòng tay chào bác nào.

Bé Thảo vòng tay lại, nhưng không cúi đầu được. Chị khuyến khích:

- Thảo cúi đầu xuống đi, ngoan đi.

Bé Thảo cố gắng nghiêng được cái đầu một tí. Chị thân mật bảo tôi:

- Cháu thấy anh lạ nên nhút nhát đấy. Ở nhà, cháu ham tập nói lắm. Cứ chiều chiều, hai mẹ con dẫn nhau ra sau vườn nhà, nhìn ra cánh đồng xa. Hai mẹ con ở đó hàng giờ...

Chị thôi không nói nữa, mi mắt chớp mau. Chợt chị mỉm cười, "à" lên một tiếng như chợt nhớ ra. Chị bế Thảo rồi cầm tay chỉ ra sân, chị nói:

- À, Thảo hát cái bài hát "Chiều chiều" cho bác nghe nào. Nào:

- Cò ơi...

Bé Thảo bập bẹ:

- bay về...

- bay về...

- phương nao...

- phương nao...

Chị vỗ tay khen. Bé Thảo vỗ tay reo. Tôi cũng vỗ tay theo như một cái máy.

Cò ơi, bay về phương nao...

Câu hát không lẽ dứt ở đó. Tôi chắc chị đã tiếp thêm bằng một câu nữa, bằng vài câu nữa buồn hơn.

Chiến tranh mỗi năm một quyết liệt, việc làm ăn mỗi ngày một khó khăn. Chị mở một ngôi trường nhỏ dạy học nuôi con, nhưng vì Tuy Hòa bị báo động tản cư luôn nên sự dạy dỗ không kết quả mấy. Thỉnh thoảng trong những ngày hội nghị giáo dục tôi gặp chị, vẫn một màu áo trắng, đôi mắt dìu dịu, buồn buồn. Nhưng đôi môi vẫn tươi, nụ cười hiền lành kín đáo. Trên khuôn mặt đó có một vẻ gì khiến người ta muốn đến gần nhưng giữ người ta lại không cho đến gần quá.

Có lần, tôi nghe tin một số thanh niên có cảm tình với chị. Điều này tất nhiên phải xảy ra, tôi không lấy làm lạ. Các thanh niên ấy đều không phải là người địa phương. Điều này cũng dễ hiểu. Những người địa phương ai cũng biết mối tình thắm thiết giữa chị và anh Lý. Ít ai muốn, hoặc có can đảm, yêu một người khi người ấy là tượng trưng cho mối tình với một người khác. Ai cũng muốn hoàn toàn chiếm tâm hồn của người mình yêu. Người ta không chỉ ghen với một người thật, người ta còn ghen với một cái bóng, một kỷ niệm. Sau đó, tôi được nghe thêm những tin tương đối đích xác hơn về người đã yêu chị. Anh ta khẩn thiết xin cưới. Tôi bâng khuâng, hơi đau đớn một chút.

Rồi tiếp theo, chiến tranh kết liễu. Tôi giã từ Phú Yên.

Một ngày kia, giữa giờ dạy Hán văn, tôi giảng về chữ Xuân. Khi phân tích cách viết, tôi nhớ đến cái con dấu mà anh Lý hay dùng đóng vào ở mọi quyển sách của anh. Con dấu tròn khắc sáu chữ Nho:

Tam nhân nhật

Hoài cố nhân

Dù không hỏi Lý nhưng tôi biết chắc "Tam nhân nhật" là chữ Xuân phân tích ra. "Hoài cố nhân" thì ai cũng hiểu là "Nhớ người xưa". Tôi bảo học sinh:

- Để dễ nhớ cách viết chữ Xuân, tôi kể nhanh cho các anh chị em nghe một mẩu chuyện này. Tôi có một người bạn. Anh ta quen một người tên Xuân. Để nhớ mãi người này, anh thuê khắc một con dấu trên ghi mấy chữ "Tam nhân nhật, Hoài cố nhân". Anh đóng con dấu ấy vào mọi quyển sách của anh. Tam, nhân, nhật, ghép lại thành chữ Xuân...

Tôi lên bảng viết từng chữ đơn rồi ghép lại.

Học sinh, vì lớp lớn, lao nhao hỏi:

- Rồi sao nữa thầy?

Tôi cắt ngang câu chuyện bằng cách bảo:

- Anh bạn tôi chết rồi.

Mọi người tự nhiên im lặng.

Khi Lý chết. Tôi còn giữ một quyển sách nhỏ của Lý. Tôi không đưa trả lại cho gia đình Lý vì quyển sách mang đầy những con dấu "Tam nhân nhật, Hoài cố nhân", tôi muốn giữ làm kỷ niệm của Lý, của cả chị Xuân nữa. Quyển sách ấy Lý mua hồi còn ở Hà Nội. Có lẽ lúc bấy giờ xa người yêu anh càng nhớ nhiều nên cứ cách mười trang là anh đóng một con dấu.

Tôi đâu có nhiều thì giờ để năng nhớ đến Lý. Chỉ thỉnh thoảng khi nào mở sách ra là lòng lại bồi hồi nhớ đến người bạn xưa.

Một hôm, tôi ghé lại thăm anh Lợi, một bạn cũ ở Tuy Hòa vào, vừa cất một cái nhà xinh ở xóm Đồng Dưa. Câu chuyện bắt đầu bằng sự xây cất nhà cửa. Với những chuyển mạch rất tự nhiên và vô tình, câu chuyện đưa về thành phố Tuy Hòa. Tôi vụt hỏi:

Chị Xuân bây giờ làm gì ngoài đó?

- Xuân nào?

- Xuân-Lý đấy.

Bạn tôi cười to:

- Anh này mê ngủ hả? Chị Xuân nào còn ở Tuy Hòa?

- Chớ đi đâu?

Thấy tôi nghiêm trang hỏi, anh thôi không mỉm cười chế nhạo nữa. Anh thân mật nói:

- Lấy chồng rồi. Lấy chồng năm 1953 rồi.

Tôi không cười được mà cũng không buồn được. Hình như tôi đã chuẩn bị từ lâu để nghe câu trả lời ấy.

Chớ sao? Cuộc đời cực nhọc trong khói lửa chiến tranh đâu phải là một dạ hội có rượu ngon, thuốc lá, âm nhạc, đối với những người đàn bà góa trẻ, đẹp, yếu, có học thức như chị? Không ai trách chị được, chị chỉ đáng thương mà thôi. Đáng thương nữa là Lý, tôi nghĩ tiếp, nhưng tôi kịp thấy tôi đã nghĩ sai. Lý không có gì để đau khổ. Anh đã chết rồi nghĩa là đã giải thoát rồi. Nếu tôi có một ý nghĩ đau đớn về anh, chung qui cũng chỉ vì cái con dấu với hàng chữ Nho kia. "Tam nhân nhật, Hoài cố nhân"

Số mệnh oái oăm sắp đặt để người hoài cố nhân không phải là anh mà là chị Xuân. Đáng lẽ chị Xuân mới là người đóng cái con dấu "hoài cố nhân" trên những trang sách của chị đọc.

Óc tôi như vụt lóe sáng vì tôi chợt thấy rằng chữ Lý tên của anh cũng có thể phân tích ra thành những đơn tự. Đó là: Thập bát tử. Tự nhiên tôi như thấy cái con dấu lồ lộ mấy chữ:

Thập bát tử

Hoài cố nhân

Nhưng than ôi, cũng lại số mệnh oái oăm đã cản tay chị Xuân không cho chị đóng con dấu ấy nữa. Chị có thể âm thầm nghĩ đến anh giữa hai cái mỉm cười với người hiện tại, nhưng nào chị có quyền ghi bằng một nét cụ thể trên trang giấy trắng.

Còn lại người thứ ba. Là tôi. Tôi không khắc một con dấu bằng đồng mà bằng câu chuyện tình nhỏ này. Ở một nơi xa xôi nào, nếu có vô tình chị đọc đến, chị cũng không nỡ trách tôi

Võ Hồng
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Tuyển Tập Truyện Ngắn Võ Hồng (Con Suối Mùa Xuân)

Postby tuvi » 01 May 2019

15 . Ngày Xưa (1)


Tiếng còi tàu thét lên. Tôi nắm tay ông Vũ.

- Thôi, xin ông bà ở lại mạnh giỏi. Tôi ...

Tôi nghẹn ngào không thể nói tiếp. Tôi quay nhìn bên cạnh: bà Vũ nước mắt ràn rụa gượng mỉm cười nhìn tôi. Cạnh bà, Bảo Loan đứng im lặng. Tay nàng nắm chặt chiếc mùi soa trắng. Tôi nhìn vào đôi mắt nàng long lanh dưới ánh sáng mờ của những bóng điện sân ga.

Ông Vũ bình tĩnh cầm tay tôi siết mạnh:

- Anh về quê tạm lánh một thời gian, chừng nào tình hình yên ổn thì lại ra. Có lẽ tôi cũng sắp đặt cho nhà tôi và con Loan nó vào Hà Đông...

Bà Vũ như sợ tôi quên, nên nhắc lại một lời mà mấy hôm nay bà căn dặn tôi mãi:

- Anh nhớ xem báo, thấy tình hình hơi yên ổn thì ra ngay. Nhớ viết thư cho chúng tôi luôn.

Tôi chỉ biết vâng dạ vì không có lời gì có thể diễn được tấm lòng của tôi lúc bấy giờ. Lòng tôi đang tràn ngập hình ảnh của Bảo Loan và ý nghĩ về Bảo Loan mà tôi có dám nói ra đâu? Ít nhất tôi cũng muốn nói rằng "Thôi em về..." để nghe nàng thẫn thờ đáp lại "Anh đi..." và tiếp theo là một tiếng thổn thức.

Nhưng thế mà tôi đành im lặng.

Quanh chúng tôi, những người chạy loạn hấp tấp, hối hả mang vác giỏ, xách va-ly, gồng gánh đùn nhau lên toa. Thỉnh thoảng tiếng hành khách kêu hú nhau làm chúng tôi giật mình tưởng như nghe tiếng còi báo động ban đêm. Thật chỉ mới một tuần nay thôi, mới qua hai lần bị bom nổ mà người dân Hà Nội như đã nếm từ lâu lắm mùi vị thật của chiến tranh chết chóc.

Chợt tiếng còi tàu thét, rồi tiếng kèn sếp-ga tu tu. Tôi vội vã cúi chào một lượt ba người thân yêu rồi lùi lại, bước chân lên bàn đạp toa tàu. Tàu xình xịch chạy.

Không có ai vẫy tay trên sân ga. Không có những kẻ nhàn tản chứng kiến cảnh đón đưa của những người thiên hạ.

Xình xịch... xình xịch... Tàu chạy chậm lướt qua mặt ba người thân yêu của tôi kia. Bóng họ ngã xuống đường, gãy ngoằn ngoèo qua những chỗ cao thấp, lồi lõm của sân ga và đường tàu nối tiếp. Bóng những trụ đèn cao cũng ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo. Tôi lo sợ rằng tương lai của tôi và mối tình giữa tôi và Bảo Loan cũng đang ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo như thế.

Điều tôi lo sợ không phải là không căn cứ. Những người chạy loạn, tạm chia tay nhau để đợi ngày trở lại. Tôi thì khác hơn, tôi ra đi mà không mong ngày trở về. Đối với đa số người khác, tản cư, chạy loạn chỉ là một giai đoạn bất trắc đến xáo trộn cuộc sống của họ trong một thời gian, với tôi, hình thức chạy loạn, là tản cư nhưng nội dung làm tôi đau đớn làm sự đổ vỡ của tương lai mình dự định.

Độ ấy tôi có mộng đi du học Nhật Bản. Lúc bấy giờ tổ chức trao đổi sinh viên giữa Đông Dương và Nhật Bản bắt đầu phát triển, Viện Văn hóa Nhật Bản ở Hà Nội đang sửa soạn gởi tiếp một số sinh viên trao đổi Việt Nam sang Nhật tiếp theo chuyến trước đã đến Nhật rồi. Tôi đang vận động để được lựa đi chuyến này. Có nhiều hy vọng được lựa nên tôi đã chuẩn bị chuyến đi.

Trong khi chờ đợi, chiến tranh Mỹ Nhật đột nhiên đi vào độ quyết liệt. Tàu chiến Hoa Kỳ đã xuất hiện ở ven bể Trung Hoa, đánh đắm nhiều tàu Nhật Bản. Từng loạt phi cơ phóng tháo Hoa Kỳ liên tiếp thả bom xuống ngay thành phố Tokyo. Từ thế công, quân đội Nhật đã phải chuyển sang thế cầm cự. Sự giao thông giữa Đông Dương và Nhật Bản đã gặp nhiều trở ngại, việc gởi tiếp một đoàn sinh viên trao đổi sang Nhật và một đoàn sinh viên Nhật sang Đông Dương đã thành khó khăn. Viện Văn hóa Nhật thu hẹp bớt phạm vi. Tôi bắt đầu mất hy vọng.

Ngày 10 và 14 tháng 10 năm 1943, phi cơ Mỹ thả bom xuống Hà Nội. Lệnh tản cư đưa ra. Những chuyến tàu chở người tản cư kéo hàng hai mươi toa rầm rộ chạy suốt đêm. Tôi không thể còn ở lại Hà Nội nữa. Gởi lại tất cả đồ đạc, gởi lại cả một hy vọng rộng rãi về tương lai, tôi xách va-ly nhỏ lên ga Hà Nội, lên tàu xuôi Nam.

Tôi nhớ rõ, ngày 16 tháng 10, một buổi chiều xám, lạnh. Xung quanh mọi vật đen và buồn. Dãy bóng đèn trong toa hạng nhì cũng sợ, cũng buồn không chịu sáng.

Tôi về quê làm gì đây? Để tránh cái chết, nhưng tôi tiên giác rằng chính về quê là để chết, để chết dần tâm hồn của mình. Mấy năm hao phí tâm lực, tiền tài, kết quả chỉ là một cái mộng không thành. Trong khi ấy xung quanh tôi, những người bạn thực tế hơn đã thành ít nhất là những ông phán trẻ. Họ đã thuê được những căn nhà sáng sủa, có đèn điện, có xa-lông, có bàn viết, có những người vợ rất quê và rất giàu nên dáng dấp làm ra vẻ quí phái điểm trang. Những đám cưới linh đình có nhiều tiếng dội. Những ông láng giềng của tôi đã bắt đầu nói chuyện so sánh. Mỗi lần phải nghe những câu chuyện giàu sang, chức tước ấy, tôi thấy thương cho gia đình tôi. Gia đình những người bạn thực tế của tôi kia, họ hả hê, vinh hiến biết bao nhiêu. Gia đình tôi không chừng cũng buồn vì thấy tôi sao chỉ dự định những chuyện viễn vông gì mà không làm một ông phán danh giá như vậy. Tôi buồn nữa vì điều dự định về tương lai của tôi đã thất bại thì mối lương duyên của tôi ở Hà Nội cũng không thành. Tôi đã nghĩ khi nào có địa vị hẳn hoi tôi sẽ cưới Bảo Loan mà tôi yêu và đã yêu tôi. Nhưng hôm nay tương lai còn dành phần gì cho tôi nữa? Cả những nỗi buồn dồn dập ấy lại kèm thêm những mối lo. Tôi lo không biết người Pháp sẽ làm phiền tôi ngày nào. Lúc ấy người Pháp săn lùng ráo riết những người có cảm tình với Nhật Bản. Họ sợ những sự hoạt động về chính trị. Tôi không có khuynh hướng chính trị, nhưng biết người Pháp có hiểu rõ như thế không? Tôi có thể bị tình nghi lắm. Ngày ở Hà Nội tôi đã bị Mật thám vào nhà trọ dò la. Thành ra tôi không buồn đi đâu cả, không muốn tin ở một ngày mai nào. Tôi còn lo cho gia đình tôi nữa, vì nếu tôi có bề gì thì gia đình tôi sẽ bị liên lụy theo. Tôi lo từng ngày một, buồn từng giờ một. Đôi lúc tôi giận mình sao có chi những cái mộng ngông cuồng như vậy để hại cho sự an nhàn của tâm tư. Tôi có cảm tưởng rằng sống mười năm lo lắng buồn phiền như thế ấy, tôi có thể giảm bớt đi một vài tuổi thọ. Tôi không bao giờ yên tâm, tôi luôn luôn lo lắng, tôi giật mình vì từng tiếng chó sủa trong đêm, vì từng tiếng người ồn ào ban ngày. Tôi sống trong sự khủng hoảng lớn về tinh thần. Giữa lúc đảo điên ấy, cuộc đời xui tôi gặp Vân. Thu Vân.

Một buổi xế mát không nhớ rõ là ngày nào, tôi đến nhà anh Thái chơi như thường lệ. Thái là bạn học cũ. Ở quê nhà, tôi còn được ngót mười người bạn cũ, bạn học từ hồi mới ê a chữ Quốc ngữ. Hầu hết những người bạn này bỏ học sớm, chỉ có Thái cùng tôi đeo đuổi học lâu hơn. Thái hiểu tôi, đồng ý với tôi ở nhiều điểm trong quan niệm sống nên chúng tôi thường nói chuyện với nhau. Nhà Thái lại ở giữa xóm, sát con đường giao thông qua lại nên là nơi tôi thường lui tới để giết thì giờ. Do sự thuận tiện ấy mà rất nhiều lần Thái biến thành vật hy sinh của tôi. Mỗi lúc tôi buồn, giận hoặc thắc mắc về một vấn đề gì tạp nhạp hay quan trọng, tôi đều đến để bắt Thái nghe.

Lần này đến chơi nhà Thái, tôi không đem theo một sự thắc mắc nào cả. Tôi vui vẻ theo con đường mòn giữa hai dậu hoa bìm rồi bước vào cổng sau.

Tôi lên tiếng gọi to trước khi vào cửa:

- Thái ơi, Thái có nhà không?

Không nghe tiếng trả lời. Tôi gọi to hơn rồi ngang nhiên bước vào phòng khách. Không có ai cả. Thì chợt ở nhà ngang có tiếng mẹ Thái nói sang:

- Anh Diệp qua chơi. Mời anh vô đây.

Tôi bước vào cửa vừa sắp nói một câu ba hoa theo thường lệ - mẹ Thái vốn vui tính - thì chợt ngạc nhiên im lặng: ngồi ở tràng kỷ đối diện với tôi kia là một thiếu nữ mặc áo hồng. Tôi thấy ngượng, mất bình tĩnh. Người thiếu nữ chừng cũng ngượng và mất bình tĩnh như tôi. Nàng loay hoay không biết có nên chào tôi hay không. Tôi giúp nàng thoát cơn bối rối bằng cách quay sang hỏi mẹ Thái:

- Thái đi vắng hở thím?

- Nó vừa đi coi nhổ mạ để sáng mai cấy đám ruộng Cây Duối.

- Thái làm ruộng? Thư sinh hôm nay nhất định làm ruộng?

- Kìa, bữa trước anh có hứa chắc là phen này anh cũng về quê nhà làm ruộng như thằng Thái kia mà.

Tôi đành cười xí xóa. Quả thật, bữa nọ tôi và Thái có ngồi bàn tính với nhau cả hai về làm ruộng thử xem sao.

Bên kia, người thiếu nữ lại loay hoay như định nói gì. Nàng đứng dậy. Mẹ Thái quay sang:

- Con cứ ngồi chơi. Anh Diệp đây mà, chắc con biết...

- Dạ...

Ba người lại im lặng, không ai biết nên nối tiếp câu chuyện như thế nào cho không khí đỡ ngượng. Mẹ Thái mới giới thiệu tôi với nàng mà quên không giới thiệu nàng cho tôi, thành ra tôi không biết nàng là ai. Ở quê nhà, sự giới thiệu là việc thừa. Trong cái vòng giao thiệp hàng ngày vừa eo hẹp vừa thân mật của mỗi người, người ta có bổn phận phải biết nhau. Nhưng vào trường hợp tôi, tôi không biết nàng. Dễ thường nàng cũng không biết tôi. Tiếng "dạ" của nàng kéo dài không nhất thiết có nghĩa là "dạ, con có biết" mà rất có thể là "dạ, con không hề biết". Nhưng mẹ Thái đâu có tìm hiểu chi xa xôi, vơ vẩn như tôi!

Cuối cùng, tôi thấy nàng rụt rè đứng dậy:

- Thưa dì, cho con ra xe.

Mẹ Thái nhìn ra khung cửa:

- Mặt trời còn kia, còn sớm con về làm gì lật đật?

- Nhưng chần chừ một lát sợ không còn xe.

- Chẳng thiếu gì. Từ nửa tháng nay tàu bay Mỹ thả bom hụt cầu Ngân Sơn, bắn cháy xe Nhật Bổn ở Chí Thạnh thì xe đò phải chạy thâm về đêm. Con ngồi chơi lát nữa cũng chẳng muộn.

- Giờ này đi là vừa.

- Ừ thôi, tùy ý con. Kẻo lỡ xe, con lại đỗ tại dì.

Nàng cười:

- Dì cứ nói vậy, con đâu dám. Thôi con chào dì.

Tôi chợt lo rằng nàng sẽ lại chào tôi. Tôi nhút nhát, vội nhìn xuống tập sách mà lúc nãy ngồi lại bàn tôi đã tiện tay cầm lên. Tôi làm như đang chăm chú đọc. Tim đập hồi hộp. Tôi mong rằng nàng cũng hồi hộp, cũng nhút nhát như tôi để cuối cùng nàng lẳng lặng bước đi đừng chào tôi nữa. Thật tội nghiệp! Tôi đã 23 tuổi rồi, đã từng yêu mà vẫn rụt rè như cậu học sinh 16 tuổi.

Nhưng tiếng dép ngần ngừ rồi tiếng dép mạnh bạo tiến về phía tôi. Và tiếng nàng dịu dàng:

- Xin chào anh.

Tôi ngẩng lên nhìn nàng, luống cuống đứng dậy, lẩm bẩm:

- Không dám, chào cô.

Sự chạm mặt tưởng rằng đầy bỡ ngỡ khó chịu, không ngờ đã xảy ra dễ dàng tự nhiên đến thế. Tôi thấy tôi sẽ hối tiếc biết bao nếu nàng đi thẳng không chào tôi như tôi vừa mong.

Và bây giờ đến lượt tôi tiếc rằng đã không nhìn nàng kỹ hơn. Nàng như cũng thẹn nên vừa chào tôi xong đã lật đật quay đi. Thành ra tôi chỉ kịp nhận thấy đôi mắt đen trên khuôn mặt trắng xinh. Vòng quanh khuôn mặt là nền tóc nàng bỏ lửng xuống vai. Đôi vai mảnh và dáng nàng thon. Thật là hình ảnh của một nữ sinh trong trắng tin yêu cuộc đời trước mặt.

Khi nàng đi khỏi, tôi hỏi ngay mẹ Thái:

- Ai vậy thím?

- Vân, con bà tham Quế ở Sông Cầu.

- Con bà tham Quế à? Thế cô ấy là em anh Nhân?

- Ờ.

Sau một giây im lặng, mẹ Thái nói:

- Hay anh Diệp... đi hỏi con Vân đi. Nó năm nay 19 tuổi.

Tôi chỉ mỉm cười mà không trả lời khi nghe nói đến việc cưới hỏi, cưới hỏi cho mình. Đó là việc tôi đã từng nghe nhiều rồi, từ hồi còn mới 12, 13 tuổi. Những gia đình khá giả trong làng, trong hạt, hay nhìn con của nhau rồi hứa hẹn cưới gả cho nhau. Tính đến nay tôi đã trải qua khoảng sáu bảy nơi, nhưng rồi người con gái nào cũng chồng con tử tế cả, chỉ duy tôi là vẫn còn như xưa. Hôm nay lại nghe lại việc cưới hỏi! Tôi không muốn, không cố ý dự định xếp đặt một việc tương lai chắc chắn, nhưng sự êm đềm hiện tôi đang thâm cảm trong lòng xui tôi vui vẻ nói luôn:

- Vân đẹp quá, hở thím?

- Đẹp mà lại giỏi. Bánh trái khéo. May vá, đan thêu thạo. Công việc trong nhà mình nó lo, bà tham khỏi phải thò tay vô một việc gì cả.

Nghe nàng quán xuyến được tất cả những công việc phiền phức vô vị trong nhà, lòng tôi thấy tin yêu, cảm động. Tôi đã nhọc mệt với những sự lộng lẫy của cuộc đời phù hoa ngầm chứa giả dối và đốn hèn, nên hôm nay gặp một thiếu nữ có cái sắc thái của người thanh lịch mà lại ấp đượm tinh thần thuần hậu, chịu khó của các bậc mẹ hiền ngày xưa, tôi bỗng thấy lòng rào rạt một niềm mến thương ấm áp. Hôm nay đây, tôi hồi tưởng lại lúc bắt đầu gặp nàng, tôi còn cảm thấy sự êm ả vô cùng khi tưởng thấy nàng nhanh nhẹn, vui vẻ và nhẫn nại làm các công việc trong bếp núc, trong vườn tược, trong cửa nhà.

Mẹ Thái cho tôi biết thêm rằng nàng học hành giỏi và tánh nết dịu dàng. Bà tỏ ra rất tán thành việc tôi đi hỏi nàng. Người đàn bà hiền lành muốn mọi việc đều thu xếp một cách hiền lành. Ý bà muốn tôi nói ngay rằng tôi yêu nàng lắm. Tôi nói:

- Thím xem thử, cháu đi hỏi chị Vân thì bà tham có chịu không?

Bà cười ngay:

- Chắc chịu. Tôi làm mối cho.

Tôi lại cười. Quả thật, tôi chưa có một quan niệm rõ rệt gì về tương lai của tôi, quả thật, tôi chưa định thu xếp cuộc đời của tôi như thế nào cả. Tôi còn phải sống vô định vì tôi chưa biết mình phải làm cuộc đời của mình như thế nào. Bảo Loan hiện còn ở Hà Nội hay tản cư về một vùng quê nào ở Hà Đông? Ngày tôi sắp lên tàu, nàng muốn khóc mà không thể khóc được, muốn nói mà không biết nói sao. Ngồi giữa gia đình, chúng tôi chỉ nhìn nhau im lặng. Trong cái nhìn ấy, tôi thấy như nàng muốn nhủ tôi nhớ ngày về và đợi cho tới cái ngày về. Tôi cũng trả lời và nhủ lại như thế bằng mắt nhìn. Bảo Loan yêu tôi, trong sạch và tin tưởng bằng mối tình đầu của nàng. Cho đến ngày chia tay, nàng chưa hơn 17 xuân xanh. Trong khi thế sự chưa rõ như thế nào, tôi không có quyền dứt tình trước. Suốt trong buổi nói chuyện, nghĩ đến Vân là tôi thấy Bảo Loan. Tôi thấy tôi bối rối. Mặc dù cái không khí êm đềm do Vân mang lại cho tôi lúc ấy. Tôi vẫn cảm thấy là rất hiền hòa, tươi mát. Tôi không thể nghĩ ngợi gì cho sâu sắc hơn. Tôi giã từ mẹ Thái vui vẻ một cách thành thực.

- Thím nhớ làm mối dùm cho cháu? Cháu thế nào cũng đi hỏi cưới chị Vân.

Những ngày tiếp theo, tôi hay nghĩ đến Vân. Tôi có đủ thì giờ để nghĩ đến nàng vì lúc ấy tôi không phải làm một việc gì cả. Tôi nghĩ vẩn vơ, chắp nối những hình ảnh êm đềm trong ấy có nàng sống cạnh bên tôi. Tôi nghĩ đến một đôi vợ chồng trẻ đi ô-tô về Sông Cầu thăm quê ngoại. Tôi tưởng tượng thấy từng quãng đường ô-tô sẽ đi qua, nào đường phố Thoại chạy ra chân núi Đá Trắng, dài và thẳng, lát toàn đá trắng, nào đèo Dốc Găng xe phải nhấn ga ba bận mới leo nổi con đường dốc đứng dựng ngược như lên trời. Nào dốc đường uốn cong hình chữ S bẻ trẹo người, ngồi trên xe thấy thành phố Sông Cầu nằm dưới chân núi ẩn dưới dừa xanh và thân ái tiếp nước bể xanh! Tôi nghĩ đến Vân để ru lòng mình. Tôi yêu nàng như yêu một bóng hình nào trong tiểu thuyết. Vân đối với tôi còn xa quá. Nàng ở tận Sông Cầu! Mấy khi nàng vào Tuy An để thăm dì nàng? Vào Tuy An tôi còn không biết tìm dịp nào để gặp nàng, để kết thân với nàng, huống chi là ở tận Sông Cầu xa cách! Tính tôi vừa hay e dè, vừa lại không chịu khó. Tình thì chỉ nhàn nhạt, thanh thanh. Tìm mọi dịp để gặp một người, yêu nồng nàn say đắm một người là điều tôi chưa hề làm và chắc là suốt đời tôi không bao giờ làm. Như vậy tôi linh cảm Vân chỉ là một cái bóng đẹp đi qua thôi. Không chắc có một dịp nào để chúng tôi yêu nhau. Tôi tự hỏi sao không có một ai đứng ra giúp chúng tôi kết chặt mối thương yêu. Nhưng tôi lại tự hỏi thế tôi có chắc chắn rằng mối thương yêu đó là điều sở vọng suốt đời của tôi chăng? Tôi không tin tôi nữa, tôi lẫn lộn quá khứ với hiện tại, tôi ngờ vực tương lai. Tôi trở nên rụt rè. Tôi đặt Vân vào địa vị cũ của nàng: "Một bóng đẹp đi qua, còn lưu hương lại".

Chừng nửa tháng sau.

Có một buổi mai, người phu trạm ghé đưa cho tôi một bưu kiện. Không thấy ghi địa chỉ người gởi, nhưng nhìn nét chữ tôi biết là của Bảo Loan. Từ ngày xa cách, chưa bao giờ Bảo Loan viết thư cho tôi. Kể cả từ ngày yêu nhau, Bảo Loan cũng chưa bao giờ viết một mảnh thư nào cho tôi cả. Bảo Loan ngây thơ, nàng cầm tay tôi, nàng ôm mặt khóc, nàng thề yêu tôi suốt đời... mọi biểu hiện tình yêu đều chân thực và hồn nhiên như lá cây đong đưa theo gió, như chùm hoa rực rỡ đầu cành.

Tôi lần xé phong bì.

Đó là quyển Bướm Trắng của Nhất Linh. Không phải sách mới, Bảo Loan mua tặng, mà là quyển sách cũ tôi mua từ năm ngoái vẫn xếp trong rương sách. Lúc tản cư về quê, bao nhiêu va-ly, rương sách, chăn màn và một số quần áo tôi đều gởi lại hết.

Cầm lên quyển sách, tôi tự hỏi vì sao Bảo Loan lại gởi cho tôi. Bình thường, dù sách hay báo, nàng cũng đều chọn thứ mới xuất bản để gởi. Một cách để báo tin là nàng vẫn khỏe mạnh và đang nghĩ đến tôi.

- Hay là nàng tự ví lòng nàng như lòng yêu của Thu, yêu đau đớn và thấy cái thú được đau đớn khi yêu?

- Hay là nàng muốn dặn mình đừng chán nản đau khổ như anh chàng Trương, đừng quá suy nghĩ...

- Hay là...

Tôi đang sắp sửa đưa ra một chuỗi "Hay là..." nữa thì có tiếng chó sủa ngoài hiên. Nhìn ra thì, ngạc nhiên chưa, Vân và mẹ Thái lững thững đi vào.

Em gái tôi tiếp ở phòng khách, tôi không bị quấy rầy. Chắc em tôi đã trả lời theo thường lệ:

- Dạ anh tôi vừa mới chạy đâu đấy thì phải...

Chúng tôi đã giao hẹn trước với nhau: có ai hỏi tôi thì em cứ trả lời vu vơ một mực như trên. Nếu là khách tôi muốn nói chuyện thì tôi ra tiếp, đồng thời giải thích sự mâu thuẫn vừa rồi một cách tự nhiên:

- Vừa chạy sang hàng xóm có tí việc. Về rồi mà em tôi nó tưởng chưa. Xin lỗi ông...

Như vậy, đỡ bị quấy rầy vì những ông khách nhàn nhã. Nhưng khách hôm nay là cô Vân, tôi muốn ra tiếp lắm. Nhưng tự nhiên bỗng thấy rụt rè. Tôi đã lén nghĩ về Vân, đã có những tưởng tượng không đoan trang về nàng. Nếu tôi chìa mặt ra chào thì thế nào mẹ Thái và Vân cũng đọc được những ý nghĩ thầm kín của tôi. Không, ngượng lắm, tôi không thể ra tiếp được.

Óc đang bối rối, tôi mở quyển Bướm Trắng đưa mắt nhìn đọc:

"...Trương hiểu ý:

- Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em một lúc, một lúc thôi

Thu vẫn để yên chiếc khăn tay che miệng, nàng như người bị thôi miên, thong thả giơ bàn tay phải cho ra cho Trương nắm lấy. Trương nắm rất nhẹ lấy bàn tay Thu, bàn tay mà trước kia chàng chỉ nhìn trộm trên nền chăn trắng".

A, đây rồi, tôi nhớ lại rồi, anh chàng Trương băn khoăn đau khổ của tôi, sống không hy vọng, yêu trong tuyệt vọng, tìm quên và tự dối mình. Tôi lại đọc tiếp:

"Thu khẽ nói:

- Thôi, em đi về thôi.

Khi Thu đi ngang qua, chàng đã toan cầm lấy tay một lần nữa rồi hôn Thu, nhưng chàng cố giữ được. Chàng nói:

- Em cho anh xin chiếc khăn tay của em.

Thu không đưa truyền tay chiếc khăn cho Trương, nàng đặt vội chiếc khăn trên mặt ghế rồi ra đi.

Nghĩ đến chiếc khăn của Thu, Trương với cầm lấy vò nát trong hai bàn tay rồi đưa lên miệng. Chàng vừa cắn mạnh vào chiếc khăn vừa thầm nói với Thu, rưng rưng muốn khóc:

- Em Thu, em còn yêu anh làm gì. Khổ anh lắm".

Đau xót như thế sao? Thật có khác chi mối tình đau xót của tôi?

Tôi lại mải mê đọc tiếp.

Một lát sau, có tiếng guốc dép va xuống nền gạch, tiếng nón lá chạm lộp cộp vào vách. Tôi biết rằng khách ra về. Tôi lại đứng ở khung cửa sổ nhìn ra. Mẹ Thái và em tôi đi trước. Vân nhẹ nhàng đi sau. Đến đầu cổng, nàng quay đầu đảo nhìn một vòng qua sân, qua hiên. Ánh nắng tràn chiếm lấy mặt nàng, khiến cho vẻ mặt sáng rỡ lên. Nàng nhíu một mắt như nũng nịu với ai. Tôi say sưa nhìn theo gót chân uyển chuyển lòng vụt xôn xao, rào rạt như đang nghe tiếng nhạc trổi vang lúc đèn chiếu bóng bật sáng, phim vừa dứt. Tự nhiên háo hức, tôi khe khẽ hát lại điệu hát quen thuộc tôi thường hát ba năm trước:

Điệp khúc đẹp nhất của cuộc đời

Là điệp khúc ta hát lúc hai mươi tuổi

Là điệp khúc ta không bao giờ quên

Vì cuộc đời chỉ có một mùa xuân.

Từ đó, tôi thường đến chơi nhà Thái hơn, mong vẩn vơ rằng sẽ gặp lại nàng ở nhà Thái. Nhưng nàng không thấy đến. Lần nào tôi cũng nói chuyện về nàng. Mẹ Thái bao giờ cũng khuyến khích tôi đi hỏi nàng ngay, còn tôi thì chỉ nói và dự định.

Một hôm, mẹ Thái cho tôi hay rằng bà Tham Quế có ý định muốn gả nàng cho một cậu lục sự Tòa án Phú Yên. Cậu lục sự trẻ, nhà giàu, quê ở Nha Trang. Nghe đến đây tôi thấy như nàng đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Một lục sự Tòa án là cả một danh vọng đối với người đàn bà như bà Tham. Ngoài danh vọng ra, còn có sự giàu có. Trẻ tuổi là để dành phần Vân. Tôi thấy đã đủ cả rồi. Thấy Vân đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Tôi hỏi:

- Thế ý chị Vân thế nào, hở thím?

- Nghe nói nó không bằng lòng. Nó không thích anh Nhã - tên cậu lục sự, mà anh Nhã thì yêu nó lắm.

- Thế còn bà Tham?

- Bà Tham thì muốn gả. Bà cố ép. Bà rất chiều chuộng anh Nhã. Nó thì tỏ hẳn là không thích. Mỗi lần anh Nhã đến nhà thăm là nó bỏ đi chơi hoặc gắt đứa ở, rầy la em, làm phiền trong nhà.

- Nhưng anh Nhã nhất định không vì thế mà thôi yêu chị?

- Anh có biết anh Nhã?

- Dạ không, đó là cháu đoán vậy thôi.

Im một hồi, mẹ Thái tiếp:

- Anh không hỏi ngay thì mất.

Tôi cười.

- Nhưng bà Tham có gả cho cháu đâu?

Mẹ Thái định nói gì, nhưng nghĩ sao lại thôi.

Suốt ngày hôm đó, tôi cứ loay hoay về việc Vân. Nàng sắp đi lấy chồng rồi. Vội vã lấy chồng sao? Tôi lo nghĩ quá, miên man nghĩ đến việc tương lai của tôi.

Từ ngày yêu Bảo Loan, tôi chưa dám chắc chắn rằng một ngày kia thế nào chúng tôi cũng lấy nhau. Tôi thấy tôi chỉ lấy được nàng khi nào tôi có một địa vị rực rỡ giữa xã hội. Không phải rằng nàng tham danh vọng. Cũng không phải rằng ông bà Vũ, thầy mẹ nàng bắt buộc. Nàng thành thật yêu tôi và thường tỏ ý muốn cùng tôi sống giữa quê nhà. Nhưng tôi không thể không nghĩ đến tuổi trẻ của nàng. Nàng có thể sau này thấy các bạn bè sung sướng sang trọng mà thay dần ý nghĩ, như vậy rất có hại cho sự sống yên vui. Tôi không thể không nghĩ đến đại gia đình của nàng. Gia đình có nhiều cánh sang trọng, xa hoa, nếu tôi không sang trọng xa hoa bằng thì tôi làm sao chịu được? Mặc dù Bảo Loan yêu tôi và chỉ muốn lấy tôi, mặc dù thầy mẹ Bảo Loan đã xem tôi như con, tôi cảm thấy là phải có điều kiện mới lấy nàng được. Bảo Loan nói lấy nhau rồi về quê tôi mà ở, nhưng Bảo Loan, nàng liệu có thể ở được không? Nàng còn trẻ non thế kia, công việc ở quê nhà không thành thạo, tính không thể chịu khó, như vậy sống sao được giữa quê nhà. Nghĩ rằng nàng sẽ vụng về, nàng sẽ bỡ ngỡ, sẽ khó chịu với những công việc, với cái hoàn cảnh lạ mà nàng phải sống, tôi thấy tôi không thể lấy nàng được. Nàng quả khó mà tìm được hạnh phúc với tôi. Cuộc du học dự định đã chắc chắn là không thành, mối hy vọng về tương lai đã chắc chắn là không đạt được, giữa tôi và Bảo Loan đã có một hố xa cách. Hiện nay đường giao thông lại bị nghẽn, sự đi lại bất tiện, cuộc thế giới chiến tranh chưa biết đến bao giờ mới dứt. Tôi thấy tôi càng ngày càng xa dần Bảo Loan của tôi.

Trong khi ấy thì tôi càng ngày đi dần đến sự quyết định phải lập gia đình. Bấy lâu nay lấy cớ còn đi học, tôi đã đẩy lùi sự quyết định, nhưng nay thì không còn cớ gì nữa rồi. Tôi phải nghiêm chỉnh nghĩ đến việc lập thân, nghĩ đến một cách rất thiết thực, trong cái cảnh huống thất bại hiện tại của tôi. Tôi phải trở lại sống êm đềm, hiền hòa trong một nơi nào của quê nhà, với một người vợ hiền thảo, dịu dàng, coi sóc mươi mẫu ruộng, dăm sào vườn. Vui vẻ cùng vườn ruộng là cái kế cuối cùng của tôi. Tôi thoảng nhớ đến cuốn tiểu thuyết LA MAISON của Henry Bordeaux đến CON ĐƯỜNG SÁNG của Hoàng Đạo. Tôi nhớ đến tâm trạng của vai chính trong hai chuyện ấy, cái tâm trạng gần giống tâm trạng tôi hiện tại. Nhưng cô Thơ của tôi là ai? Tìm người bạn tri kỷ hiểu mình ở giữa quê nhà là điều khó. Người hiểu mình ấy phải gồm có cả dáng điệu thanh lịch và tính hạnh thuần mỹ, như vậy càng khó tìm hơn. Tôi tiên cảm một cách lo lắng rằng không bao giờ có cả.

Vụt nhiên, tôi gặp Vân. Tôi không bao giờ ngờ rằng có một người như thế giữa quê nhà khô khan, không thể ngờ rằng tôi gặp được nàng giữa lúc hoàn cảnh tôi đang cần một người như nàng. Vân thích ứng hoàn toàn với mọi điều sở vọng của tôi. Nhà nàng có nề nếp, nàng khéo léo và chăm chỉ, quán xuyến mọi việc trong nhà. Nàng có học, có thể hiểu những ý tôi nghĩ, những điều tôi làm. Nàng thanh lịch và dịu dàng, nàng là người độc nhất tôi có thể yêu, có thể cưới trong hoàn cảnh hiện tại. Nàng có thể đem lại cho tôi mối hạnh phúc đơn giản mà tôi còn có thể mong mỏi sau những đổ vỡ, thất bại. Chỉ có nàng, chỉ có thể là nàng, tôi đã xét rõ, đã nhận rõ như thế rồi.

Nhưng cưới Vân? Phải cưới nàng ngay? Phải quyết định một việc quan trọng cho suốt cả cuộc đời? Trong khi tôi chưa có thì giờ để quen nàng. Để hiểu nàng. Để yêu nàng. Không, tôi phải tìm hiểu nàng để quyết định một điều quan trọng. Tôi phải gặp nàng, phải hỏi ý kiến nàng. Nhưng lạ kìa, sao tôi càng thúc giục tôi đi đến sự quyết định chừng nào thì lòng tôi càng như muốn lưỡng lự chừng ấy. Tôi có tin chắc rằng hy vọng của tôi đến đây là cùng không? Tôi có nhất quyết rằng Bảo Loan đến đây là đã chia rẽ cùng tôi không? Tôi không muốn nghĩ vậy, tôi sợ cái ý nghĩ đau đớn ấy. Dù rằng tôi đã lo nghĩ và buồn phiền nhiều về việc chung thân của tôi và Bảo Loan, tôi cũng muốn bấu víu vào cái ý nghĩ êm đềm rằng chúng tôi chưa hẳn là tuyệt vọng. Nhưng tôi lại không thể không nghĩ đến Vân bởi đã đến lúc phải nhìn vào sự thật. Tôi chỉ có thể tìm ở nàng, người vợ thích hợp nhất trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi phải gấp tìm hiểu nàng, chung chia ý kiến cùng nàng. Tôi phải gặp nàng và yêu nàng. Sợ lại phải cố gạt bỏ cái ý nghĩ ấy để không nỡ quên Bảo Loan, không muốn quên Bảo Loan, tôi đứng dậy đi ra ngoài trời. Tôi nhìn lên trời rộng và cao. Tôi nói thầm trong thâm tâm tôi:

"Cô Vân ơi! Cô vào Tuy An đi để tôi có dịp gặp cô và hiểu cô. Để cô yêu tôi và tôi yêu cô, để chúng ta kết thành một đôi vợ chồng xứng đôi, đẹp lứa".

Vân không vào Tuy An bao giờ cả.

Nửa tháng sau, vụt nghe tin nàng đã đi lấy chồng. Mẹ Thái nói:

- Cả nhà không ai chịu cả, không ai nỡ ép. Chỉ một mình bà Tham quyết định. Hôm nay thì lễ cưới xong rồi.

Tôi bàng hoàng. Vân lấy chồng nhanh như vậy sao? Trong lòng tôi, tôi muốn nói một câu gì, muốn nói một điều gì, phải nói cho hả một ý nghĩ gì đang quay cuồng trong óc, đang vươn lên chặn lấy cổ họng. Tôi nói:

- Vân đi lấy chồng rồi. Ừ, Vân vậy mà đã lấy chồng rồi.

Nói xong, tôi không hiểu tại sao tôi lại nói chi vậy, nói vậy để làm gì, nói vậy có ý nghĩa gì. Câu nói rơi vào cái im lặng của ngoại cảnh, và cái trống không của lòng tôi. Vì lòng tôi lúc ấy tự nhiên bỗng trống không một cách tiêu điều lạ. Tôi thấy mình thiếu quá, trơ trọi quá, tôi không biết mình đang cần một sự đầm ấm gì và mình đã làm mất một cái gì. Có cái gì bỗng nhiên thiếu mất trong tôi.

Thấy tôi lặng im đột ngột, mẹ Thái nhìn tôi giây lâu rồi tiếp:

- Vân hay nói đến anh, làm bà Tham tưởng rằng hai người đã quen nhau lắm. Vân nói với người này người nọ về anh. Hình như anh có viết thư từ gì cho Vân?

Tôi trả lời ngay :

- Không có gì hết. Cháu chỉ gặp Vân một lần ở ngay nhà thím...

- Anh Nhã như cũng có biết việc này, việc Vân biết anh.

Tôi mỉm cười:

- Có biết hay không thì cũng... vô ích. Vì chẳng có gì hết.

Tôi đổi câu chuyện, không muốn nói về Vân nữa vì quả thật tôi không biết mình nói gì. Sau một hồi ba hoa về việc này, việc nọ, tôi cáo từ mẹ Thái ra về. Tôi để dành việc Vân cho riêng tôi, tôi phải một mình nghĩ ngợi về nàng.

Vân đi lấy chồng rồi.

Tôi gợi lên hình ảnh của nàng. Tôi thấy ngay màu áo hồng nhạt, đôi vai nhỏ và mái tóc cặp lửng lơ bỏ trễ bên vai. Tôi nhìn lên mặt nàng nhưng không thấy một nét rõ ràng nào cả. Tôi ái ngại nói trong lòng:

- Ta cùng nàng còn chưa rõ mặt.

Ý nghĩ này làm tôi thêm buồn. Tôi tưởng tượng hiện giờ nàng như thế nào. Tôi thấy nàng trong vô cùng hình ảnh lộn xộn, thấy nàng quay cuồng trong một hoàn cảnh gì rối loạn, buồn não, trong ấy có một ngôi nhà cổ cột to và nặng, có những bàn thờ đầy ắp vẻ nghiêm trang, có những người bằng lòng, vui vẻ hời hợt đến vô tư. Tôi bắt chợt gặp ngay hai chữ "Gia phong" và hả lòng thấy rằng, chữ ấy diễn tả đúng cái cảm giác lạnh và nặng mà tôi đang cảm về nàng, về cái hoàn cảnh của nàng.

Tôi không biết mình phải buồn như thế nào, không biết mình đang nghĩ gì và nghĩ như thế nào, mà chỉ thấy là tôi buồn một cách ngẩn ngơ. Nhưng tôi lại tự nhủ ngay: "Xong rồi, việc ấy đã xong rồi"

Tôi tìm cách tự khuyên mình. Tôi có chắc sẽ đi cưới Vân đâu? Tôi có điều kiện gì để đi cưới nàng? Tôi chưa làm một công việc gì để sống tự lập cả, tôi còn là một người học trò sống ghép theo gia đình. Như vậy thì tôi cưới nàng làm sao được? Cưới nàng thì tôi có cách gì để tạo hạnh phúc cho nàng? Tôi không có gì hết. Chồng Vân hơn tôi, đủ điều kiện hơn tôi. Anh ta làm ông lục sự, nghĩa là đã chắc chắn một cuộc sống đầy đủ trong một căn nhà riêng biệt thuê tại tỉnh. Hai người có thể hợp sức lại mà gây dựng, hai gia đình chung sức lại mà gầy dựng cho đôi vợ chồng son. Nhà Nhã giàu, nghe nói vậy. Bà Tham thì chiều chàng rể. Cái hạnh phúc phải có, nó đang chờ để ấp ủ hai tâm hồn đang rủ rỉ cạnh nhau. Hạnh phúc ấy đáng lẽ là của tôi. Nhưng tôi vội lắc đầu không muốn nghĩ tiếp. Tôi muốn tưởng tượng cho thấy Nhã dễ tưởng tượng thêm rằng hai bạn trẻ hiện đang làm gì. Tôi không thể tưởng tượng được. Vì tôi chưa hề biết Nhã. Tôi cảm thấy xa xôi rằng không biết mặt Nhã cũng đỡ nhiều cho sự đau đớn của tôi vì nó đã tránh được cho tôi những sự tưởng tượng tàn nhẫn.

Tôi nhớ đến lời nói của mẹ Thái:

- Vân buồn, khóc nhiều và nhiều lúc nói muốn chết!

Tôi thương cho nàng, nhưng lại tự nhủ ngay: "Rồi nàng lại quên đi những việc ấy. Đám cưới nào cũng có xảy ra những việc tâm tình cay đắng. Cuộc đời dàn xếp tất cả. Mối buồn có bao giờ vĩnh viễn đâu".

Tôi lại bình tâm. Chợt tôi thấy lòng mình lành lạnh, nhàn nhạt: tôi thấy Vân không bao giờ là của tôi đã đành, tôi còn thấy rằng nàng sẽ vui vẻ sung sướng. Có khó chi? Nàng sẽ sinh con, sẽ làm một bà lục sự oai vệ để rồi làm một bà Tham tương lai, cũng tính toán, cũng thu xếp có nề nếp, khôn ngoan như mẹ nàng hiện tại. Tôi muốn quên nàng ngay. Muốn vậy, tôi nghĩ đến Bảo Loan. Bảo Loan hiện đang nghĩ đến tôi vào giờ này cũng nên. Bảo Loan cùng tôi còn có tương lai. Chúng tôi còn có thể yêu nhau mãi, lấy nhau được. Tại sao tôi lại thất vọng ngay? Không, tôi còn Bảo Loan của tôi. Chớ Vân... tôi lại nghĩ đến Vân, rồi lại trở về cái ý nghĩ êm đềm và chua xót. Tôi thấy tôi mất Vân, điều này vô lý vì nàng có phải của tôi đâu mà gọi rằng mất, nhưng sao, tôi cứ cảm chân thật rằng tôi đã mất nàng, đã mất một niềm hạnh phúc, một người vợ xứng đáng với hoàn cảnh và tâm trạng của tôi hiện tại. Tôi lo cho ngày mai hậu. Còn ai?

Chợt nghĩ rằng Vân đi lấy chồng là một việc dĩ vãng, một việc nhất định, rằng tôi có nghĩ đến nữa cũng không có ích gì, tôi lắc đầu, lắc đầu: "Quên đi". Tôi nói trong óc tôi rằng: "Quên đi. Quên Vân đi". Nhưng cùng trong lúc ấy, tôi cảm rằng còn nằm lại, nép chặt cái ý nghĩ man mác: "nhưng quên Vân... buồn lắm".

Tôi khó mà quên Vân thật, nhất là trong lúc ấy tôi không phải bận bịu về một công việc gì cả. Thỉnh thoảng dì nàng lại nói chuyện nàng với tôi, và tôi cứ mê mải nghe chuyện nàng để thoang thoáng biết rằng nàng đã yêu tôi thật. Tôi muốn tìm gặp nàng một lần ở một nơi nào, nhưng không có dịp nào cả. Tôi muốn ra Sông Cầu để gặp mặt nàng, nhưng rồi tôi lại không đi. Đôi khi, tôi lại tự hỏi: "Thế tôi có chắc chắn rằng nàng đã yêu tôi thật không?". Cứ như thế, tôi sống trong những ý nghĩ tương phản với một mục đích vô định kèm theo những bất an về chính trị, những dày vò về thân phận. Tôi không biết phải đợi một cái gì sẽ đến cho đời mình. Tôi để ý xét từng mảnh tâm trạng của tôi, tôi ghi những tâm trạng phức tạp đó dưới dạng những trang nhật ký. Tránh chữ "Nhật ký" quá nhàm tôi pha thêm một chút mơ mộng để gọi đó là tập NGÔI SAO NHỎ.

Sau ngày đảo chánh 9-3-45, tôi ra nhà thương Sông Cầu dưỡng bệnh. Bệnh không nặng, nhưng cứ đi. Thường chỉ vào giờ khám bệnh và tiêm thuốc, tôi mới ở nhà thương, còn ngoài ra, tôi đi chơi ở các nhà quen. Lâu lắm mới trở lại Sông Cầu thành ra yêu Sông Cầu quá! Yêu từ con đường nhỏ thanh tịnh có cây bàng xanh và hàng dãy cây keo cao tít. Yêu bãi bể Sông Cầu có những cây dừa cong cong, cây me đồ sộ, cây tra trái xanh vừa chát vừa chua. Sông Cầu đã ấp ủ ba năm ngây thơ của tôi, khi tôi còn là một cậu học trò bé nhỏ ngây thơ, học hai năm lớp Nhì và một năm lớp Nhất. Ở Sông Cầu, có những người tôi quen miệng gọi bằng cậu bằng mợ, bằng chú bác, bằng anh em.

Ngoài những buổi chiều ngồi ở bãi biển một mình, tôi thường ở chơi nhà Huyền Đáng, lúc đó độ mười bốn tuổi, tôi xem như cô em nhỏ. Nhà Huyền Đáng ở trước mặt chợ, tôi thường ra đứng ở hiên xem chợ đông. Ngày nhỏ tôi đã ở dãy nhà đối diện cũng nhìn ra chợ, cũng đứng xem chợ đông. Bây giờ xem chợ là như xem lại một kỷ niệm êm đềm của ngày còn thơ.

Trong những bóng áo tha thiết, tôi còn mong tìm thấy bóng áo của Vân. Nhưng bóng áo màu hồng, mình tìm mà không thấy. Nghĩ ra, mới biết là mình ngơ ngẩn thật. Một năm rồi có lẽ, bóng hồng còn đâu nữa mà tìm? Áo hồng đơn sơ ngày nào dễ thương nay đã rách rồi, đã quăng vào một xó nào trong tủ áo, trong rổ may. Vân đã thay bao nhiêu cái áo khác, màu đẹp hơn, hàng quý hơn, nàng đâu còn nhớ, còn giữ lại làm chi cái áo màu ngày xưa. Cũng như lòng nàng! Và cũng như tấm thân của nàng.

Tôi không tìm thấy màu áo cố hữu, vừa lại phải nghĩ đến sự thật chua chát kia, lòng buồn mấy ngày hơn.

Nhưng một buổi chiều, khi đi chợt đến góc đường nhà buôn Chấn Thạnh, bạn tôi chỉ một người mặc áo trắng đi từ ngã biển lên chợ, đi thoăn thoắt mà bảo khẽ tôi.

- Chị Vân kia.

Tôi thấy lạnh trong tim.

Vân mặc áo trắng. Không kịp nghĩ ngợi xa xôi, tôi lại nhà Huyền Đáng, nhìn ra chợ. Bóng người áo trắng là Vân đi lượn qua chợ mấy vòng rồi mất hút. Không biết nàng có thấy tôi không. Chắc có thấy.

Lúc lên đèn, tôi nói chuyện thân mật cùng Huyền Đáng:

- Ngày xưa, đã có một lần anh suýt cưới cô Vân đấy Huyền Đáng ạ. Nhưng chưa kịp thì anh Nhã cưới trước mất. Không biết bây giờ cô Vân, à không, chị Vân có sung sướng lắm không? Giá hôm nào chị ấy lại nhà Huyền Đáng chơi thì anh sẽ nói rằng anh chúc chị sống thật vui vẻ. Chị ấy có quen với em?

Huyền Đáng ngây thơ trả lời:

- Có. Có quen.

Nhưng Vân không đến nhà Huyền Đáng.

Tôi trở lại Sông Cầu sống những ý nghĩ êm đềm về ngày thơ ấu, nhưng lại phải sống thêm những ý nghĩ chua xót của ngày thành niên. Tôi tự hẹn hôm nào thật khỏe, sẽ lên nhà bà Tham thăm. Thăm Nhân - anh Vân - vì tôi quen Nhân hồi còn nhỏ ở Sông Cầu này và sau này khi Nhân đi Hà Nội. Nhưng cũng là một dịp để bà Tham biết tôi là ai, tôi, người đã làm bà giận, dễ thường là ghét trong những ngày bà ép Vân lấy chồng, và nghi nàng đã yêu "phải" tôi.

Tôi cũng muốn nhìn thấy mặt nàng nữa. Lạ thật! Biết rằng gặp cũng vô ích, việc đã xảy qua, ván đã ghép thành thuyền, thế mà cũng vẫn mong gặp!

Điều dự định nhỏ nhoi, hiền lành ấy vẫn lại không thành. Bệnh tôi chưa lành hẳn thì có tin tôi cần đi Đà Lạt. Tôi không muốn đi, quyết định ở Sông Cầu, nhưng thầy thuốc khuyên rằng bệnh tôi ở khí hậu nóng khó chữa. Nếu đổi khí hậu thì không chữa cũng khỏi, mà khí hậu tốt nhất thì không đâu bằng Đà Lạt. Nghe lời khuyên, tôi mới thuận đi.

Trước khi lên đường, tôi đến nhắn cùng Huyền Đáng:

- Hôm nào gặp, em nói với Vân rằng anh tiếc chưa có dịp để gặp Vân. Nhưng mong Vân sẽ luôn luôn vui vẻ để sống bên cạnh người chồng mà mẹ Vân đã chọn cho Vân.

Tôi căn dặn mãi để Huyền Đáng nhớ nhắc lại lời ấy cùng nàng.

Một buổi chiều tôi lên ô-tô đi, xe từ thành chầm chậm chạy trên đường sỏi xuống phố. Hai bên đường là ruộng lúa. Tôi nhìn sang bên tay mặt. Nhà Vân ở trong vườn dừa xanh kia. Sau cái cống bằng gỗ sáo, qua bờ dậu bằng keo xanh xén thẳng, tôi tự hỏi không biết nàng đang làm gì, không biết nàng có ngờ rằng tôi đang nghĩ đến nàng mà từ giã nàng chăng?

Những ngày ở Đà Lạt khiến tôi bớt nghĩ đến Vân. Tôi trở lại say mê với công việc và hứng thú của riêng mình. Cuộc sống đã theo một nhịp điệu khác.

Một buổi chiều cuối tháng Năm, mưa giông vừa tạnh. Mặt trời hé nắng vàng vàng, không khí nhẹ và trong, mát rười rượi, kích thích đến tim óc. Tôi mở cửa ra ban công nhìn sang rừng thông. Tôi để ý nhìn những thân cây thông cao, vỏ nứt nẻ, cành sần sùi, cong quẹo một cách mỹ thuật không ngờ. Dưới chân cây, cỏ dại mọc dày, cao, lá thon thon vươn lên quá đầu gối. Thân cây đứng song song nhau, cành chìa dọc ngang, lá đan dày um tùm. Tôi nhìn ra xa hơn. Hồ Đà Lạt nằm im, mặt nước xanh phản chiếu đồi núi và rừng thông xanh. Màu xanh và sự im lặng, cảnh bao la của núi rừng và không khí mát mẻ như kim châm vào da, tất cả đã nhẹ nhàng đưa óc tôi liên tưởng đến phong cảnh xứ Phần Lan tôi đã nhiều lần tưởng tượng thấy qua trang sách mở. Vấn vương trên phong cảnh, tôi còn nghe phảng phất giọng nhạc của Jean Sibélius, người nhạc sĩ đã như hô hấp được cái hương vị của rừng thông âm u liên tiếp, của hồ nước lặng màu ngọc bích, của cảnh sắc đặc biệt xứ Phần Lan.

Tôi đang mơ màng tưởng tượng thì chợt vang lên tiếng chim hoàng oanh hót. Tôi đưa mắt tìm xem chim đậu ở đâu. Mỗi lần nghe tiếng chim hoàng oanh là tôi phải nghĩ đến những cây bàng lá xanh mướt. Vòm trời xanh có mây trắng nhẹ như bông. Đà Lạt có chim hoàng oanh là điều tôi không bao giờ ngờ. Nhưng kìa, trên một cành thông gãy, có một chiếc hoàng oanh nhỏ đang mổ vỏ thông tìm mồi. Mổ nhanh nhanh một hồi rồi lại nhảy sang cành khác, hót véo von. Mình chim thon thon, lông mướt, màu vàng nghệ, thật hòa hợp với giọng hót ấm áp.

Óc tôi vụt nhiên thấy êm ả lạ lùng: tôi nhớ đến Huyền Đáng. Lúc ở Sông Cầu, mỗi lần nghe Huyền Đáng nói tiếng Nhật Bản - tiếng "Masu và Desu" mỗi lần nhìn đôi môi của Huyền Đáng nói lên tiếng ấy là tôi nghĩ ngay đến con chim hoàng oanh. Nhiều lần rồi, tôi nhắc lại cái cảm tưởng đó:

- Huyền Đáng ạ, đi đâu cho xa bao nhiêu... hễ nghe hoàng oanh hót là anh nhớ đến em liền.

Hôm nay nghe hoàng oanh hót, tôi nhớ ngay đến Huyền Đáng thật. Tôi vào mở ngăn kéo tìm một món quà gì để gởi cho em. Tôi lấy tập bưu ảnh, ghi vào lưng tờ đầu: "Gởi em Huyền Đáng. Con chim hoàng oanh của anh" rồi ký tên.

Từ nãy giờ nghĩ đến Huyền Đáng, nhưng trong lớp sâu thẳm của tâm tư, tôi có nghĩ đến Vân. Vì hoàng oanh nhắc Huyền Đáng, Huyền Đáng nhắc Sông Cầu và Sông Cầu nhắc tôi nhớ đến Vân. Huống chi, điều tôi nhờ Huyền Đáng nhắn thăm nàng hộ, biết Huyền Đáng đã nói chưa. Biết nàng đã rõ rằng tôi cũng yêu nàng như nàng đã yêu tôi chưa? Nhưng sợ lại phải trở lại những ý nghĩ tôi hằng nghĩ về nàng, tôi cầm bút lên viết thêm ở lưng tấm ảnh.

- Em nhớ nói lời thăm chị Vân khỏe mạnh và vui vẻ hộ anh.

Sự sống rộn rịp ở Đà Lạt quả đã xua tôi bớt nghĩ về Vân. Hơn nữa, tôi thấy có nghĩ cũng vô ích, nàng đã có chồng rồi. Lúc đầu nàng tỏ ra không thuận lấy Nhã, nhưng đã cưới nhau rồi, nghĩa là nàng đã thuận rồi. Huống chi, đã mấy tháng ăn ở cùng nhau, xấu hay tốt cũng đã thành quen, thành thuận. Thêm vào đó, sự rủi may không chừng đã tạo ra một đứa con. Nó trưởng thành để vài dăm tháng nó ra đời. Cây đã lỡ trồng xuống đất rồi thì càng ngày rễ càng đâm nhiều, càng bám chặt xuống đất. Tôi không nên, không có quyền nghĩ đến Vân nữa.

Thỉnh thoảng một tuần hay nữa tháng, hoặc có việc hoặc không, tôi đi Phan Rang hoặc Phan Thiết, Djiring, Sài Gòn. Cách sống luôn luôn thay đổi thành ra thú vị, không chán. Lần cuối cùng đi Sài Gòn, vào khoảng tháng bảy, tôi ghé lại nhà hàng Charner mua sắm một ít đồ đạc. Lúc ra về, đi qua dãy tủ kính hàng lụa, chợt thấy một xấp lụa Bom Bay ( Hàng tơ lụa mỏng thượng hạng, sản xuất tại Ấn Độ ) màu hồng nhạt. Tôi nhớ ngay màu áo của Vân mặc hôm gặp tôi lần đầu. Tần ngần một lúc, tôi lại bảo cắt ba thước rồi vội vã ra xe. Ngồi lên xe, tôi tự hỏi không biết nên dùng ba thước lụa hồng ấy để làm gì.

Ba thước lụa ấy, lúc về Đà Lạt, tôi xếp vào một góc va-ly. Khi Đà Lạt tản cư, tôi đi với chiếc va-ly ấy xuống Trạm Hành, Dran. Ngày Pháp tấn công, phá vỡ phòng tuyến, tràn ùa vào nội địa lâm viên thì tôi ở Cầu Đất đi thẳng Tháp Chàm, không đủ thì giờ dừng lại Dran trong năm phút để mang va-ly theo.

Chiếc va-ly mất. Ba thước lụa hồng không biết về tay ai. Thành ra dù có tìm hỏi suốt đời, tôi cũng không thể hiểu được tôi đã mua ba thước lụa ấy định để làm gì.

Tôi đã sống với lý trí. Tôi đã làm trọn cái bổn phận là không nghĩ đến Vân nữa. Trong tầm mắt nhìn, và tầm suy nghĩ của trí óc tôi lúc ấy, lẫn lộn quay cuồng nhiều hình bóng người, nhưng tuyệt nhiên không có hình bóng của Vân. Trang sách đã lật qua rồi. Bao nhiêu rạo rực đã lắng xuống. Tôi thong thả lật sang trang khác của đời tôi.

Tháng 4 năm 1946, sau ngót nửa năm lận đận trong vùng chiến địa Lâm Viên - Ninh Thuận, tôi đáp ghe về Phú Yên. Ngày 11 tháng 6 năm 1947, tôi cưới vợ, vợ tôi là người bạn thân của tôi, người có cùng những ý nghĩ cảm xúc giống tôi, người đã cùng tôi chia xẻ những đau khổ hiểm nguy trên bước đường tản cư lận đận. Chiến tranh như đã một ngọn lốc thổi, nàng phiêu lưu trong một cuộc hành trình không định hướng.

Mới như ngày hôm qua, phòng học sáng sủa của trường Couvent des Oiseaux còn vang tiếng gót giày của nàng. Cuộc đời êm đềm biết bao giữa những lời văn đẹp, những tưởng tượng uyên thâm của Descartes, Shakespeare hay César, giữa những đáp số của bài toán, những công thức của hóa học. Những giờ nhãn rỗi, nàng cho trôi theo điệu nhạc cổ điển, những bản thánh ca, trên chiếc dương cầm mà nàng âu yếm như một người em.

Thế rồi Nhật đảo chính, trường học đóng cửa.

Thế rồi cuộc Cách mạng Tháng 8 bùng nổ, cuộc chiến tranh trường kỳ bắt đầu. Đà Lạt bị phong tỏa, Đà Lạt phải tản cư, gia đình nàng cũng bắt đầu phân tán, người già được ở lại, người trẻ phải ra đi. Ban đầu ra đi là cái thú, cái thú được nếm chút ít gian khổ, hiểm nguy, cái thú của người ngồi mãi trong ô-tô muốn được đi bộ, của người phải mang giày cả ngày được đi chân đất, thong thả, nhẹ nhõm trong mười phút đầu. Cũng y như thế, trong vài tháng đầu chiến tranh đã quyến rũ mọi người như một tình nhân mới. Quả thật, chiến tranh có đem lại cho người ta cái thú vị say sưa, người nhỏ thì thấy mình bỗng lớn hẳn lên, người lớn tuổi thấy mình trẻ lại. Những bộ quân phục gabardine màu phân ngựa, những đôi ghết đen quá rộng hoặc quá dài, những thanh gươm Nhật đẹp nhưng vô ích và hơi vướng, những khẩu súng lục lủng lẳng ngang sườn... đó là hình ảnh quen thuộc trong những ngày ấu trĩ của chiến tranh. Giữa màu xanh, giữa màu đen nghiêm nghị và đầy sát khí ấy, len lỏi màu trắng của những chiếc áo blouse ( Áo choàng trắng ) của những chiếc mũ vải trắng điểm tươi một chữ thập đỏ. Chàng chỉ huy mặt trận, nàng băng bó thương binh, thật còn sự hòa hợp nào bằng? Còn lý tưởng nào hơn nữa? Tình yêu cổ điển - vì còn gì cổ điển hơn sự sống và tình yêu - được tinh thần mạo hiểm và lòng hy sinh tô điểm thêm, đã như men rượu mạnh làm say mọi người. Với một số học sinh bấy lâu học hiểu văn minh Hy La kỹ hơn lịch sử cuộc Nam tiến, với một số lớn thanh niên, trung niên bấy lâu coi tình yêu và tiền bạc là mục đích của cuộc đời thì chiến tranh lần này đã mở những cánh cửa mới cho căn phòng tù hãm mà bấy lâu nay đôi mắt họ đã phải quen nhìn. Đối với một số khác, lòng yêu nước trở thành một món trang sức hợp thời và giá rẻ.

Tội nghiệp cho người bạn gái của tôi!

Chiến tranh càng kéo dài, nàng càng đi xa dần, xa dần thành phố Đà Lạt thân yêu của nàng. Hết hy vọng trở về cuộc sống êm đềm với gia đình, nàng phải phó thân cho số mệnh. Một mình bơ vơ giữa súng đạn, nàng vẫn cam chịu đựng, vừa tìm mọi lẽ để vui sống. Nhưng dù can đảm, vui sống, nàng cũng đau đớn lòng thấy rằng những mối hy vọng tương lai của mình đã bị chiến tranh tàn phá mất rồi.

Có khác chi tôi?

Sau mấy đêm trắng suy nghĩ cân nhắc, tôi quyết định cưới nàng.

Không phải trong những hồi trằn trọc, tôi không nghĩ đến Bảo Loan. Không, tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm. Cho đến ngày chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tôi còn viết thư được cho Bảo Loan. Những ngày ở Đà Lạt, cuộc đời tươi lại, tôi đã chuẩn bị một cuộc viễn du ra Hà Nội để xin thầy mẹ Bảo Loan cho cưới. Tôi giấu không cho Bảo Loan biết dự định ấy để dành cho nàng một sự bất ngờ êm đềm. Nhưng thời cuộc lại diễn biến tới tấp, bao nhiêu biến cố lại liên tiếp xảy ra. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, cuộc chiến tranh bộ phận kéo dài, cắt đứt con đường giao thông Nam Bắc. Thư từ không đến tay chúng tôi nữa. Cuộc sống bị xáo trộn nhiều hơn trước nữa. Những sự suy nghĩ, buồn phiền lại trở lại dày vò tôi.

Không! Tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm![/scroll]

[scroll]Bảo Loan là đối tượng quan trọng trong sự cân nhắc cuối cùng của tôi. Trên bàn cờ giữa giờ chung cuộc, Bảo Loan là con xe, con pháo quyết định. Nhưng tôi phải đau đớn mà phụ lòng Bảo Loan thôi vì trong tình thế hiện tại tôi không thể nào tạo hạnh phúc cho Bảo Loan được, tạo thứ hạnh phúc mà Bảo Loan đang cần. Tôi đành phụ lòng Bảo Loan vậy!

Tâm hồn tôi đã yên ổn trong nếp sống hiền hòa. Cùng vợ tôi, tôi đã đóng hẹp lại cái khung hy vọng của đời chúng tôi. Chúng tôi đã xây lưng lại Dĩ Vãng.

Chừng nửa năm sau, khi đã chan hòa cuộc sống của mình vào nhịp sống chung của mọi người xung quanh, tôi lần lượt được nghe những tin tức về Vân. Tin do bạn gái hoặc bạn trai, người lạ hoặc người quen nói mà tin nào cũng không làm cho tôi vui lòng. Tin Vân và chồng không thuận nhau. Tin Nhã về Nha Trang. Tin Vân được người này yêu, người kia yêu. Tin Vân yêu người này, người nọ, người kia. Tôi không biết có nên tin hẳn những tin ấy không, nhưng dù không biết, tôi cũng cứ giận sao nàng lại có những hành vi như vậy. Tôi ghét nàng. Tôi không muốn nghĩ đến nàng nữa.

Có một buổi chiều ở trường Lục quân Trung học Ngân Sơn ra, tôi gặp Vân đi cùng hai bạn gái, gặp mà tôi không biết vì tôi không nhớ mặt nàng. Lúc về trường, bạn cũ của tôi, anh Đông nói cho tôi biết rằng người đi qua trường lúc nãy là Vân. Tôi nghe nói tên Vân, nhớ lại rằng mình vừa gặp, mà lòng buồn buồn. Tôi nhớ buổi gặp nàng, những điều dự định của tôi đối với nàng. Tôi nhớ lại ngày hôm nay tôi đã có vợ rồi, tôi với nàng thành ra ngày càng xa, xa xôi đến nỗi gặp nhau mà không hề nhớ mặt.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,250
Posts: 96097
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 100 guests