Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướng

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướng

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Image
Tác giả : Thiên Hạ Bá Xướng

Người dịch: Vũ Như Lê


Giới thiệu

Vén bức màn chứa đầy bí mật về thành cổ Lâu Lan ngủ sâu trong lòng đất. Chôn vùi dưới vực thẳm quỷ khốc thần sầu kia, là một cỗ tên lửa ngầm tuyệt mật thời chiến tranh lạnh hay một ngôi miếu thần khổng lồ thời viễn cổ?

Cuộc hành trình thám hiểm khảo cổ gây chấn động, nguy hiểm và sinh tử bất thường nhất trong lịch sử.
Nơi ấy, nơi tận cùng của thế giới, nơi thời gian ngừng lại, người chết sống dậy, người không phải người, ma không phải ma.
Dưới vực sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, tổ chức tà ác Nấm mồ xanh một lần nữa lại xuất hiện.
Ẩn số sinh tử không lời giải, nội gián hóa yêu ma, một nền văn minh thời cổ đại chìm lún giữa thành lũy khoa học thời chiến tranh lạnh.
Những kẻ may mắn sống sót bị lạc đường dưới lòng đất, họ phải làm gì để xoay chuyển càn khôn và tìm ra chân tướng bị thất lạc thời viễn cổ?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng tuvi từ: Que Huong

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 1 : Nhiễu Động Trời Trong

Hồi thứ nhất
Tá Thanh Hoàn Hồn *


Xuồng cao su luẩn quẩn lượn trong sương mù mấy vòng, nhiên liệu của động cơ dần dần cạn kiệt, nhưng tứ bề vẫn mênh mông nước, mặt nước đen ngòm im lìm không chút động tĩnh, màn sương khí sâu hun hút dường như trải dài vô tận.

Trong dải sương lạnh mênh mang ấy, bốn người ngồi trên xuồng nhưng không thể nhìn thấy gương mặt đối phương mặc dù ở ngay sát cạnh. Cảm giác mất phương hướng khiến mọi người đều sợ tái mặt, đang định nghĩ cách thoát hiểm, thì Tuyệt đột nhiên nói:

- “Ở đây cơ bản không hề tồn tại phương hướng, bởi vì bản thân sương mù đã là điểm cuối.”

Tư Mã Khôi hiểu điểm cuối mà Tuyệt muốn ám chỉ, có lẽ mang hàm ý cái chết, nhưng sao cô lại nói vậy?

Hay nơi sâu trong đám sương mù rộng không bờ bến này, chính là vương quốc của thần chết mà các truyền thuyết Chăm Pa đã nhiều lần nhắc đến?

Tuyệt đưa cho Tư Mã Khôi chiếc máy điện đàm không dây đang cầm trong tay, rồi nói:

- “Từ lúc xuồng bắt đầu đi vào sương mù, cái máy bộ đàm này lại thu được loạt tín hiệu lai lịch không rõ ràng.”

Tư Mã Khôi cầm lầy chiếc máy từ tay Tuyệt, vừa nghe cô kể lại chuyện xảy ra lúc trước, mới biết trong lúc mọi người bổ sung trang thiết bị lần thứ nhất, Ngọc Phi Yến tìm thấy một máy bộ đàm chiến thuật không dây hiệu PRS 25/77 do Mỹ sản xuất trong chiếc Rắn đen II của đội thám hiểm Anh. Tuy ở sâu trong huyệt động cách biệt với thế giới bên ngoài, thì vật này không có chút tác dụng gì, nhưng Ngọc Phi Yến lại sợ sau khi thoát khỏi núi Dã Nhân, giữa biển cây rừng ngút ngàn mênh mông, nếu không có phương liên lạc xin cứu viện, thì e rằng cả hội cũng khó lòng đi qua nổi. Bởi vậy, bất kể hoàn cảnh gian nan đến đâu, cô vẫn cương quyết giữ chiếc máy bên mình. Có điều lúc khí mêtan bốc cháy, vỏ hộp ngoài cũng bị hư hỏng khá nặng, nên nó luôn ở trong trạng thái mở và không tắt được, chẳng biết pin còn có thể duy trì được bao lâu. Mãi đến khi mọi người trèo lên xuồng cao su, Ngọc Phi Yến mới dỡ xuống đặt bên cạnh mình. Tuyệt nghe thấy có tiếng phát ra từ chiếc máy điện đàm, hơn nữa bất kể thay đổi tần số thế nào, cũng chỉ thu được những tạp âm như thể nó được phát ra từ thế giới bên kia. Có lẽ chiếc máy điện đàm này trước đây đã bị người ta cố ý cải tiến chức năng, nó không được sử dụng để thu phát những tín hiệu thông thường, mà chỉ đặc biệt thu nhận một tần số duy nhất – tần số u hồn.

Tuyệt nhớ lại lúc mọi người bị trượt xuống đáy khe núi, bất ngờ bị sương mù dày đặc bủa vây hoàn toàn, đúng lúc nguy cấp đó thì Nấm mồ xanh dùng sóng điện và tín hiệu pháo sáng dẫn đường cho mọi người đi vào đường hầm bụng rắn, nhờ vậy cả hội mới tạm thời thoát hiểm.

Nhưng khi hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh, thì phát hiện đối phương không hề mang theo máy điện đàm, hơn nữa hắn ta cũng nói rõ chỉ sử dụng tín hiệu pháo sáng để liên lạc, giờ nghĩ lại mới thấy tình hình hiện tại vô cùng bất thường.

Tư Mã Khôi đặt ống nghe áp sát tai, chỉ nghe thấy trong đó phát ra những tạp âm “xè xè xè”, lẫn cả những tiếng nói không rõ ràng, như thể giọng của linh hồn đen tối đang lởn vởn trong sương lạnh tự lẩm bẩm một mình. Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi Tuyệt:

- “Cô có nghe được họ nói gì trong đó không?”

Tuyệt lo lắng bảo:

- “Tôi cũng không hiểu lắm, hình như đối phương muốn nói với chúng ta, trong sương mù không có phương hướng…”, cô nhíu mày nghĩ một lát, rồi nói tiếp:

- “Lúc không có sương mù, thì tín hiệu hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh lặng, nhưng chỉ cần xung quanh xuất hiện sương khí, thì sóng điện mang tạp âm lại dần dần trở nên rõ ràng hơn, không hiểu sao lại như vậy được?”

Hải ngọng nói chen vào:

- “Cái máy rách này theo chân chúng ta lúc rơi lúc đập, bị hành hạ đến khổ, không chừng ốc vít hỏng hết cả, cũng có thể là do một âm hồn mất đầu nào đấy không thể siêu thoát nổi ám vào nó, dù sao nó đã muốn kêu thì cứ mặc cho nó kêu đi, chúng ta để ý làm gì. Chỉ cần trong lòng ta tự coi mình là ông nội, thì vạn sự chỉ là lũ cháu chắt cả thôi.”

Tư Mã Khôi cho rằng tuy lai lịch của tín hiệu này rất quái dị, nhưng chắc không phải do Nấm mồ xanh phát ra, bỏi vì hắn ta không mang theo máy điện đàm trên người, ngoài ra, nếu hắn có thể liên lạc với mọi người thông qua sóng điện thì chắc chắn sẽ không mạo hiểm lộ diện và phơi bày thân thế của mình. Có thể trong sương mù còn tồn tại một vật gì khác nữa, vả lại tín hiệu chưa hẳn đã phát ra từ một chiếc máy điện đàm khác.

Tư Mã Khôi không dám khinh suất. Anh bảo Hải ngọng tập trung tinh thần giương súng cảnh giới, giữ chặt đèn trước xuồng, chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó cùng Tuyệt cẩn thận nghe lại giọng nói phát ra từ chiếc máy điện đàm thêm một lần nữa.

Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh hỏi Tư Mã Khôi:

- “Anh bảo trong sương mù còn tồn tại một vật khác, nhưng Udumbara sản sinh ra sương mù dưới lòng đất đã bị khí mêtan thiêu cháy hoàn toàn, vả lại ở nơi có nước chăc chắn sẽ không có sương mù, vậy tại sao sương khí gân đây càng lúc lại càng dày đặc hơn? Và sóng điện trong sương mù phát ra từ đâu vậy?”

Tư Mã Khôi suy đoán:

- “Đây là khí ẩm phát sinh do nước tù trong lòng hồ ngầm quá sâu tạo nên, có lẽ nó không giống với sương mù do Udumbara sản sinh.”

Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe anh Thiết Đông kể lại một vài chuyện liên quan đến thông tin liên lạc, anh lại nói với Ngọc Phi Yến:

- “Tôi chỉ biết, trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ có sử dụng một loại máy điện đàm không dây có tính năng rất ưu việt, công suất cực cao, có thể mang theo bên mình, đồng thời còn lắp đặt hệ thống cộng hưởng băng tần kép, sử dụng được ở cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất; sau khi cải tiến ống nghe, nó không chỉ thu được tất cả tần số như địa sóng, thiên sóng, thậm chí trong một vài điều kiện đặc thù, nó còn có thể thu được… những giọng nói vốn dĩ không thuộc về thế giới này.”

Ngọc Phi Yến không xa lạ với thông tin vừa được nghe, bởi vì lòng đất có khả năng hấp thụ sóng điện từ rất mạnh, cho nên ngay từ đầu những năm năm mươi, các nhà khoa học Mỹ đã lợi dụng địa sóng để tiến hành liên lạc với vong hồn những người đã khuất, có điều sau đó có thành công hay không thì cô không được biết. Lẽ nào tạp âm mà chiếc máy điện đàm không dây thu được, lại đúng là lời thì thầm của những vong hồn trong sương mù? Tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa có phải là con đường dẫn đến vương quốc của tử thần không? Chẳng lẽ màn sương đen mênh mông này chính là chiếc bóng của đôi cánh thần chết hay sao?

Tư Mã Khôi biết vương quốc thần chết trong truyền thuyết Chăm Pa, đại khái cũng giống với thành hàm oan trong quan niệm của người Trung Quốc, nhưng chẳng ai rõ cõi u minh đó rốt cục có tồn tại hay không. Bởi vậy, nhất thời anh cũng khó lòng phán đoán tình hình hiện tại cả hội đang gặp phải là gì, chỉ có thể đặt ra giả thiết:

- “Nếu tín hiệu thần bí mà chiếc máy bộ đàm không dây thu nhận được, quả thực là u hồn trong sương mù mượn âm hoàn hồn, thì giờ đây chúng ta cũng chỉ còn cách tìm hiểu xem đối phương muốn truyền đạt thông tin gì, sau đó mới biết chính xác mình đang đổi đầu với ai.”

Bụng Hải ngọng rỗng tuếch khiến đầu óc anh càng thêm phần hoang mang, anh vừa soi đèn vào sâu trong đám sương mù quan sát, vừa lầu bầu khiến nước bọt bắn tung tóe cả lên:

- “Cái nơi khỉ ho cò gáy này, nước lặng sóng, người lặng tiếng, ngay cả hồn ma chết tiệt trong rừng sâu núi thẳm cũng ôm đầy một bụng oán hờn muốn tìm người giãi bày tâm sự. Nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, tôi phải nói vài câu mới được, người ta sống trên cõi đời, người sống chẳng phải chỉ nhiều hơn kẻ chết một hơi thở thôi sao? Chết thì đã chết rồi, có gì còn phải sợ nữa chứ? Dù sao vật chất không bao giờ mất đi, lúc đầu khi ở Miến Điện, chúng ta cũng đâu có dự định còn sống trở về. Nhưng ta đã bao nhiêu ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng rồi hả? Ngay cả gà vịt thịt cá trông thế nào tôi cũng quên mẹ nó rồi, nếu phải chết thật thì cũng không thể để bụng rỗng thế này mà chết chứ?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo, thức ăn thì không đào đâu ra, nhưng tôi có cách chữa đói rất hiệu nghiệm, ở Quan Đông người ta có câu nói thế này: “Đời người như cái cối xay, lăn ra nằm ngủ hết ngay đói thèm.”

Hải ngọng uể oải đáp:

- “Thế thì cậu mau tìm cho tôi một cái giường. Từ khi chạy sang Miến Điện đánh nhau đến giờ, không ngày nào được ngủ một giấc cho thật đẫy, đúng lúc tôi đang buồn ngủ rũ mắt ra đây.
Người xưa nói quá chuẩn

- “Mất mẹ từ thuở lên ba, vẫn hơn canh bốn phải ra khỏi giường…”

Lúc này, Tuyệt “suỵt” một tiếng ra dấu cho mọi người chớ ồn ào, cô áp ống nghe vào tai rồi nói:

- “Âm thanh phát ra từ chiếc máy điện đàm càng lúc càng rõ hơn rồi đây này…”

Ngọc Phi Yến nhắc nhở Tuyệt:

- “Cô phải hỏi xem đối phương là ai trước đã, vị trí cụ thể bây giờ ở đâu?”

Tuyệt đang định liên lạc với đối phương theo ý Ngọc Phi Yến, nhưng đột nhiên Tuyệt nghe thấy động tĩnh đáng sợ gì đó phát ra từ ống nghe, mặt cô lộ rõ vẻ sợ hãi, rồi cô quẳng vội ống nghe đi như thể bị điện giật. Tuyệt kinh hoàng thì thầm:

- “Đúng là có ma thật đấy! Nó đang ở trên xuồng, mọi lời nói của chúng ta nó đều nghe thấy hết”.

Nghe Tuyệt nói mà mọi người bủn rủn toàn thân. Trên xuồng cao su làm gì có ai ngoài mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm? Xem ra trong sương mù quả thực tồn tại vật gì không sạch sẽ rồi đây,

nhưng nó lại vô hình vô ảnh, chỉ khi sử dụng máy điện đàm mới bắt được tần số u hồn đó, nếu không, cho dù vong hồn đứng lù lù ngay trước mắt, cả hội cũng không thể nào phát hiện ra.

Tư Mã Khôi ra hiệu cho Tuyệt đừng quá sợ hãi, trước tiên phải nghe hết toàn bộ nội dung của sóng điện u hồn, sau đó mới xác định được trên xuồng có ma hay không. “Yêu ma do người tạo ra, trong đại đa số trường hợp, những việc quái dị đều do con người tự nhào nặn mà thành. Nếu cô không tin, thì nó tự khắc không còn vẻ đáng sợ nữa.”

Tuy Tuyệt là người ngoài nhu trong cương, nhưng cô lại sợ ma nhất trên đời, có điều nhìn thấy Tư Mã Khôi vẫn ung dung điềm tĩnh, hơn nữa còn có ba người ngồi ngay cạnh bên, nên cũng vững dạ hơn vài phần. Cô hít sâu một hơi, nhặt chiếc ống nghe lên, cố gắng phân biệt giọng nói trong mớ tạp âm rối loạn.

“U hồn” vô hình vô ảnh, chỉ xuất hiện thông qua tạp âm sóng điện, dường như nó muốn kể cho mọi người đầu đuôi câu chuyện: Thời kỳ thực dân Anh đặt ách thống trị ở Miến Điện, bọn họ đã bỏ mấy chục năm trời để tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, mãi đến những năm bốn mươi, mới dần dần lần mò được chút manh mối, đồng thời phát hiện thêm một thông tin quan trọng: Dưới lòng đất có sương mù dày dặc do Udumbara tạo ra, chỉ có rắn bay mới vào được bên trong. Cùng lúc ấy, Miến Điện tuyên bố độc lập, quân Anh bắt đầu lũ lượt rút quân ra khỏi lãnh địa Miến Điện, tất cả tin tình báo có liên quan đến tòa thành Nhện Vàng đều rơi vào tay Nấm mồ xanh – kẻ có quan hệ rất mật thiết với quân đội Anh.

Nấm mồ xanh liền cử người lái chiếc tiêm kích vận tải do không quân Hoàng gia Anh cung cấp, chở bom địa chấn hạng nặng chứa đầy chất độc màu da cam, mạo hiếm bay vào khe sâu núi Dã Nhân trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Bọn họ hy vọng lần ra tay này có thế hủy diệt hệ thực vật rậm rạp sinh sống trong khe núi, nhưng do chuẩn bị không kỹ lưỡng, nên chuyển hành động đó cuối cùng phải hạ màn thất bại.

Nấm mồ xanh vẫn không nản lòng, hắn lại giở thủ đoạn mềm nắn rắn buông, lợi dụng và uy hiếp, giăng lưới thâu tóm một số chuyên gia khảo cổ và sinh vật có tiếng trong giới, tổ chức thành một đội thám hiểm khoa học, nằm vùng trường kỳ ở ngoại vi đề điều tra bức màn bí mật nằm sâu trong lòng khe sâu núi Dã Nhân, cuối cùng các ẩn số cũng dần dần được hé mở. Khoảng hơn một ngàn năm trước, quần thể núi Dã Nhân đã đứng nguy nga, sừng sững ở đó, chỉ thỉnh thoảng có con đại bàng khổng lồ xé mây lượn qua đỉnh núi, khiến màn sương tản ra, khi ấy mới có thể chiêm ngưỡng toàn bộ diện mạo tòa thành Nhện Vàng. Mãi đến khi lòng núi sụt lún, vua Chăm Pa phát hiện ở dưới khe sâu có một khối núi đá đen xì, cấu tạo bên trong chẳng khác nào địa cung của loài kiến, bề ngoài trông rất giống với con nhện tám chân. Trong truyền thuyết cổ đại của người Chăm Pa, vương quốc dưới lòng đất của tử thần có kết cấu hình tháp, chân tháp có một con rắn khổng lồ bốn tay bốn chân quấn thành vòng tròn. Sau khi người ta chết đi, thể xác bị nó nuốt chửng, còn vong hồn sẽ đi xuyên qua đường hầm bụng rắn để luân hồi sang kiếp khác, bởi vậy tô tem tháp cổ có mãng xà quấn quanh mang hàm ý rất đáng sợ, nó đại diện cho sự kết thúc và cái chết.

Trong lòng tòa núi đá dưới lòng đất còn lưu lại vêt tích cư trú của con người, niên đại tồn tại còn cổ xưa hơn vương triều Chăm Pa rất nhiều, nhưng lịch sử lại không hề có bất kỳ ghi chép nào liên quan đến điều này, nên chỉ có thể suy đoán: có lẽ đại hồng thủy tràn xuống lòng đất là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự diệt vong cuối cùng của bộ lạc. Theo quan niệm cổ xưa của người Chăm Pa: “Thành quách ỉún xuống lòng đất là hiện tượng khí âm nuốt khí dương, là trời muốn diệt người”, bởi vậy họ tin rằng lòng núi sụt lún là điềm báo chẳng lành, cộng thêm trong màn sương mù kỳ dị như thể ảo ảnh thành phố, vua Chăm Pa tận mắt chứng kiến cảnh mình bị chết ngay trước cửa động chứa thi hài cổ xưa, nên ông ta cho nhân giống Udumbara trồng rộng khắp thành cổ, định dùng sương mù dày đặc khó lòng xuyên qua, để chôn giấu hoàn toàn bí mật khủng khiếp kia.

Udumbara là loài thực vật ngàn năm mới xuất hiện một lần, sương mù mà nó tạo ra, được hình thành do hàng triệu triệu vi sinh vật tự thân tồn tại trong đó tụ hợp lại. Bình thường, người ta chỉ thấy nó trong trạng thái bị khô hóa, nhưng Udumbara trong tòa thành Nhện Vàng lại có thể đâm chồi nảy lộc hết năm này qua năm khác mà không hề ngừng nghỉ. Nguyên nhân có thể là do địa cung vua Chăm Pa phát hiện thấy không phải là một tòa núi đá bình thường, mà là một loại vật chất đặc biệt còn sót lại dưới lòng đất từ thời hậu kỷ Devon (là một kỷ địa chất trong đại cổ Sinh) cách đây hơn bốn trăm triệu năm. Nó vừa là khoáng vật vừa là sinh vật, sở hữu nguồn từ tính nhiệt thừa sinh vật cực mạnh, nguồn lực từ này xung đột với lực hút Trái Đất, khiến những vùng xung quanh hình thành rất nhiều “vũng mù” lớn nhỏ khác nhau.

Những vũng mù giống như cạm bẫy tử thần, nó không phải dòng sông ngầm không có lối ra, như định nghĩa địa chất học thông thường, mà là hố xoáy sinh ra do xung đột cực từ, tác động mạnh mẽ đến cơ thể con người.

Một khi đã bước vào vũng mù, thì la bàn, kim chỉ nam và các thiết bị định vị điện tử đều bị nhiễu sóng nghiêm trọng, cảm giác phương hướng và trực giác của con người cũng trở nên hỗn loạn, giống như người ta bị bịt kín hai mắt, nên không thể đi theo một đường thẳng, vậy chỉ khi có thể bố trí một tuyến chỉ hướng đủ dài, mới có thể đảm bảo cho nhà thám hiểm đi xuyên qua vũng mù an toàn.

Đội thám hiểm khoa học gọi địa cung trong lòng tòa thành Nhện Vàng là “di vật kỷ Devon”, đồng thời trong quá trình điều tra tình hình khe núi cho Nâm mô xanh, các chuyên gia vô tình phát hiện mục đích thật sự của tổ chức này, bọn họ căn bản không hề muốn đi tìm kho báu đã bị thất lạc tung tích của vua Chăm Pa.

Nếu theo truyền thuyết cổ xưa, thì tòa thành Nhện Vàng được hình dung như một con đường nối liền giữa hiện thực và hư vô, người sống tồn tại ở cõi thực, kẻ chết rơi xuống vùng hư vô. Như vậy bí mật đích thực mà Nâm mồ xanh tham vọng chạm đén, chính là vong hồn của vị thánh tăng đã bị vua Chăm Pa giết hại lúc sinh thời, và trầm luân trong vực thẳm hư vô hàng ngàn năm về trước.
____________________

* Tá thanh hoàn hồn: mượn âm thanh để hoàn hồn, người chết không nhìn thấy xác mà chỉ có âm thanh vọng tới người sống.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi thứ hai
Tín Hiệu Đứt Đoạn


Sau khi tòa thành Nhện Vàng bị Udumbara che phủ, xung quanh nó xuất hiện rất nhiều hố xoáy điện từ, kẻ nào bất hạnh phải chết ở đó, linh hồn sẽ vĩnh viễn bị nhốt chặt trong vũng mù. Năm ấy, vua Chăm Pa phát hiện thấy mật thất dưới địa cung được khắc đầy những ký tự cổ thần bí hình chân chim mai rùa, xung quanh bao bọc bởi vòng tròn tỏa sáng như sao Khuê, ông ta liền bắt vị thánh tăng làm tù binh, rồi ép xuống dưới giải mã. Sau cùng để diệt khẩu, ông ta nhốt vị thánh tăng vào mật thất và chôn sống dưới vực thẳm cùng tòa thành cổ, giờ đây thi thể ông có lẽ đã sớm tiêu hủy, nhưng vong hồn hắc ám thì mãi bị giam cầm trong mật thất như cũ.

Những ký tự cổ xưa chôn vùi nơi sâu nhất dưới đáy khe núi, đã tiết lộ chủ nhân thực sự của di vật kỷ Devon và bí mật con đường dẫn đến vương quốc thần chết. Những ẩn số này cho đến tận bây giờ, không một ai trên thế giới biết được, ngoài quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, thì chỉ có u hồn của vị lão tăng kia mới biết rõ ràng những chân tướng chôn vùi dưới thành cổ mà thôi. Nấm mồ xanh cũng muốn tìm vong hồn bị nhốt dưới mật thất trong suốt thời gian đằng đẵng mấy ngàn năm ấy.

Đội khảo sát khoa học tuy không thể nào tìm cách chứng thực được rốt cục ai là kẻ đã bước chân vào địa cung đầu tiên, trước khi vua Chăm Pa phát hiện ra di vật kỷ Devon. Nhưng vì phía sau tổ chức Nấm mồ xanh còn có sự trợ giúp ngầm của các thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, nên thành viên đội khảo sát không muốn mình trở thành con rối và vật hi sinh dưới sự xung đột của các hình thái ý thức đó, bởi vậy, họ đã lập kế hoạch cướp thời cơ hành động trước Nấm mồ xanh một bước, cả đoàn dự định sẽ tiến vào khe sâu khổng lồ trong núi Dã Nhân, phá hủy hoàn toàn tòa thành Nhện Vàng – con đường duy nhất nối liền với vương quốc Thần Chết, khiến những ẩn số đáng sợ chôn sâu dưới lòng đất kia vĩnh viễn biến mất. Có lẽ chỉ làm như vậy, họ mới có thể ngăn chặn Nấm mồ xanh chạm tay đến bí mật cổ xưa và khủng khiếp kia.

Thế là đội khảo sát khoa học không màng đến sự sống chết cá nhân, mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân trong điều kiện chưa thể loại bỏ hết những hiểm nguy rình rập dưới khe núi. Nhưng điều họ không thể lường trước được là trong hàng ngũ thành viên lại có tai mắt của Nấm mồ xanh trà trộn làm nội gián, nên kết quả là cả đoàn bị cắt đứt sợi dây chỉ hướng khi mới đi được nửa chặng đường và lạc lối giữa nơi sâu trong vũng mù hỗn loạn cực từ…

Tuyệt nghe đến đây, thì tạp âm truyền đến đột nhiên mất tín hiệu. Tất cả lại chìm vào sự im lặng đáng sợ, chiếc máy điện đàm không dây PRS25/77 bị hỏng nặng, thêm vào đó là môi trường ẩm ướt âm u cực độ, đã khiến pin bị hao kiệt rất nhanh, cuối cùng nó không thể tiếp tục trạng thái hoạt động bình thường được nữa.

Tư Mã Khôi nghe xong, chau mày nói:

- “Thông tin vừa nhận được chắc chắn không phải do thành viên đội vận tải bổ xung quân Mỹ rơi xuống gần khu vực thành cổ phát ra, mà do một phân đội khảo sát khoa học nào đó, không biết những người này đã chết thật chưa nhỉ?”

Ngọc Phi Yến khẽ thở dài một tiếng:

- “Bọn họ quá coi nhẹ những nguy hiểm trong núi Dã Nhân, nên đã khó tránh khỏi gặp phải tai nạn bất trắc, cũng giống như những con thiêu thân đâm đầu vào lửa. Cho dù bọn họ không bị đỉa Campuchia hại chết, thì cũng không thể thoát thân khỏi không gian hỗn độn không tồn tại phương hướng này được”.

Hải ngọng kinh ngạc hỏi:

- “Có đúng là vong hồn của các thành viên đội khảo sát đó đang ở trên xuồng chúng ta không hả?”

Tư Mã Khôi suy ngẫm lại đoạn thông tin vừa truyền đến từ tần sóng u hồn, bất giác rợn hết tóc gáy:

- “Xem ra trong núi Dã Nhân có ma thật đấy. Đội khảo sát bỏ mạng dưới thủy động sâu hút năm đó, cùng quân đoàn vận tải của quân Mỹ mất tích gần thành cổ, và cả lão tăng bị vây khốn dưới mật thất, tất cả vong hồn của họ đều tồn tại và lởn vởn quanh khu vực lúc họ chết. Đội khảo sát gọi khu vực đó là “vũng mù”. Còn chiếc máy điện đàm mà đội thám hiểm Anh mang theo, căn bản không thể dùng để liên lạc với con người, mà chỉ chuyên dùng để thu nhận tàn sóng ma phát ra dưới lòng đất. Tôi nghĩ thời gian chúng ta quanh quẩn trong khe núi đã khá dài, nếu không nhanh chóng tìm cách thoát thân, thì chỉ e cũng sắp biến thành những u hồn vĩnh viễn bị nhốt chặt trong không gian chết chóc này đến nơi rồi.”

Ngọc Phi Yến nói:

- “Kỳ thực u hồn xuất hiện trong máy điện đàm đã kể cho chúng ta mọi chuyện quá rõ ràng rồi còn gì. Trong núi Dã Nhân, ngoại trừ địa từ, còn tồn tại một loại sinh vật tò vô cùng mạnh mẽ. Đây chính là điểm đáng sợ của vũng mù. Trên thế giới, cho đến ngày nay, chỉ có một vũng mù được tạo thành bởi hai hố xoáy điện từ kép, là tam giác Bermuda, nhưng ngoại trừ địa từ ra, loại lực từ còn lại ở tam giác quỷ Bermuda rốt cục là gì, thì vẫn chưa có nhà khoa học nào xác định được chính xác. Sóng điện u hồn mà chiếc máy bộ đàm quân dụng thu nhận được, có nhắc đến việc tòa thành Nhện Vàng bị lún sâu xuống dưới khe núi, phần bên trong của nó là một tòa nham thạch màu đen, được các nhà khảo sát gọi là di vật kỷ Devon, bên trong nó chứa một lực từ sinh học, cộng thêm sóng điện từ do sương mù Udumbara phóng ra, khiển động sâu dưới lòng đất tích tụ và phân giải một lượng lớn vật chất tương tự như Feo03, từ đó tạo ra rất nhiều hố xoáy vũng mù lớn nhỏ khác nhau.

Trong cơ thể con người cũng tồn tại một hàm lượng nguyên tố sắt khá lớn, bởi vậy chỉ cần đi vào vũng mù, thì các giác quan sẽ dần dần trở nên tê liệt, trì trệ, cuối cùng tất cả quá trình trao đổi chất trong cơ thể đều ngưng lại, cơ thể bắt đầu rữa nát phân hủy từ trong ra ngoài, chỉ có ý thức sóng não là mãi mãi lưu giữ và giam cầm trong không gian lúc chết. Nói một cách khác, giọng nói mà máy bộ đàm thu sóng được, chỉ là một đoạn ký ức còn sót lại xung quanh tòa thành Nhện Vàng mà thôi. Nếu bảo nó là u hồn thì cũng chẳng sai, có điều, những u hồn tá thanh hoàn hồn này không hề có bất kỳ ý thức chủ quan nào, nó chỉ đon thuần không ngừng lặp đi lặp lại những trí nhớ quan trọng còn lưu lại trong vỏ não.”

Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến giải thích sự tình, tuy không thể hiểu tường tận tất cả, nhưng cũng có thể nôm na lý giải hiện tượng này. Đại khái là, sau khi cơ thể con người chết đi, ký ức của họ bị hố xoáy từ trường hút cạn, và vĩnh viễn bị niêm phong trong không gian của vũng mù. Anh hồi tưởng lại tất cả cảnh ngộ cả đoàn gặp phải từ khi bước chân vào núi Dã Nhân đến nay, rồi phỏng đoán chiếc bóng máy bay của đội thám hiểm Anh bất ngờ nhìn thấy trên bàu trời, hay thứ anh chạm trán khi bước vào tàn tích chiếc tiêm kích vận tải, ngay cả sóng điện liên lạc của quân Mỹ – mà mọi người nhận được lúc ở gần thành cổ, tất cả đều có thể liệt vào hiện tượng này. Hơn nữa, không chỉ đối với cơ thể con người, mà chỉ cần những thực tế đã xảy ra, sẽ đều bị vũng mù nuốt chửng và biến thành từng đoạn từng đoạn ký ức u hồn, nằm trong di vật kỷ Devon. Những khu vực sương khí chứa sinh vật điện từ càng mạnh, thì những di ảnh cảm nhận được càng chân thật, thậm chí chúng còn có hình có chất. Nói tóm lại, chỉ có máy điện đàm mới có thể tiếp nhận giọng nói của người chết. Nấm mồ xanh tự mình mạo hiểm xâm nhập tòa thành Nhện Vàng, cũng chính vì muốn bắt sóng một đoạn ký ức u hồn còn tồn lưu trong mật thất, đoạn ký ức đó là của vị thánh tăng đã bị quốc vương Chăm Pa chôn sống dưới thành cổ.

Tư Mã Khôi nhớ lại sau lưng Nấm mồ xanh có một cái ba lô, xem ra trong đó chắc chắn đựng mấy quả mìn chống bộ binh, và có thể còn có thiết bị cảm ứng đặc biệt nào đó, thiết bị này sẽ thu nhận sóng điện u hồn trong mật thất- Có điều, vì sao sau khi khí mêtan bùng cháy dưới lòng đất, Nấm mồ xanh lại có thể biến mất trong mật thất như không khí bay hơi được nhỉ? Khi đó, nhiệt độ do hỗn họp chất phốt pho và mêtan bốc cháy phải cao đến 5000°C, đủ sức thiêu cháy tất cả sinh vật trên đời, lẽ nào người tính không bằng trời tính, hắn đã bị ngọn lửa dữ dội thiêu thành tro bụi trong mật thất rồi sao? Cũng có thể Nấm mồ xanh không hề biến mất trong mật thất, mà hắn đã đi vào thông đạo thực sự. Nếu tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa quả thực là một thông đạo nối liền giữa hiện thực và hư vô, thì rốt cục điểm cuối của con đường ấy sẽ dẫn đến đâu? Trên đời này không thể tồn tại vương quốc của thần chết, vương quốc đó chỉ là một khái niệm trừu tượng nào đó trong hệ thống truyền thuyết của người Chăm Pa. Có lẽ, chỉ u hồn của vị thánh tăng bị giam cầm trong mật thất và Nấm mồ xanh – kẻ tung tích bất minh kia, mới biết rõ chân tướng của câu đố mà thôi.

Giờ đây, hội Tư Mã Khôi tự biết ngay cả an toàn của bản thân cũng khó lòng đảm bảo, càng lực bất tòng tâm hơn nữa trước chuỗi sự việc kỳ lạ đang diễn ra, nên đành phải tạm thời gạt nó sang một bên. Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến giải thích cặn kẽ nội dung truyền tải của sóng điện u hồn, liền hỏi:

- “Theo cô bây giờ nên làm thế nào? Chúng ta có cơ hội thoát ra khỏi vũng địa ngục này không?”

Ngọc Phi Yến mặt cắt không còn giọt máu, tuyệt vọng trả lời:

- “Cơ sự đến nước này, cô bảo tôi phải làm thế nào mới phải đây? Chỉ e chúng ta phải tính đến nước xấu nhất có thể xảy ra rồi đấy!”

Hải ngọng vẫn điềm nhiên như không:

- “Vận may đen đủi nhất cũng chính là cục diện ổn định nhất, vậy nên cô không cần lo lắng nó có thể diễn biến tồi tệ hơn nữa, Tôi thấy chúng ta đã sa chân đến bước này rồi, thì còn tính toán đến nước xấu nhất có thể xảy ra làm gì?”

Ngọc Phi Yến chán chường giải thích:

- “Chẳng cần lâu nữa đâu, anh sẽ cảm thấy toàn bộ máu trong cơ thể ngưng trệ, quá trình trao đổi chất dần dần ngừng lại, thân thể bắt đầu phân hủy từ trong ra ngoài, rồi sau cùng ngay cả cái xương mủn cũng không chừa lại. Nhưng điều đáng sợ nhất là trong toàn bộ quá trình cơ thể anh bị tiêu hủy, thì ý thức của anh từ đầu chí cuối vẫn luôn duy trì trong trạng thái tỉnh táo sáng suốt”.

Tư Mã Khôi cảm thấy thực sự không thể tiếp tục nghe thêm nữa, liền bảo Ngọc Phi Yến:

- “Thủ lĩnh này, tuy tôi chưa từng gia nhập nghề hối tử, nhưng cũng am hiểu chút ít về quy tắc thời xưa, từ cổ chí kim, bất kể là đội sơn lâm trộm mộ, hay đội thám hiểm tìm kiếm kho báu cũng vậy, kỳ thực bọn họ đều chẳng khác các đơn vị quân đội tác chiến độc lập là mấy, người chỉ huy đội ngũ phải là người có quyền uy tối thượng, anh ta bắt buộc phải thông suốt mọi chuyện, tinh tường mọi nghề. Nể mặt mười tám cụ tổ La Hán, cô tuyệt đối đừng thốt ra mấy từ: “không biết phải làm gì” trước mặt thuộc hạ của mình. Cô có biết lực sát thương tâm lý của nó đối với mọi người lớn đến mức nào không, phải ngang ngửa với sức phá nổ của trái bom địa chấn đấy!”

Mấy câu nói của Tư Mã Khôi khiến Ngọc Phi Yến giận tái mặt, mặt cô ta chuyển sắc lúc xanh lúc trắng:

- “Tư Mã Khôi! Lưỡi anh đúng là sắc bén còn hơn cả lưỡi dao đấy! Chúng ta bị cô lập trong vũng mù, không có ai đến cứu viện, lại không chuẩn bị trước vật chỉ hướng, xung quanh cũng chẳng có vật tham chiếu nào, không bó tay chịu chết thì còn biết làm gì? Vả lại… vả lại ba người các anh có lúc nào thực sự coi tôi là thủ lĩnh không hả? Từ trước đến nay mọi lời tồi nói, các anh đều đế ngoài tai, toàn tự mình muốn làm gì thì làm đấy chứ!”

Hải ngọng gật đầu cho là phải:

- “Cô nói quá chuẩn! Cô tự coi mình là cọng hành, thì còn ai muốn coi cô là tương chấm hành nữa”.

Tuyệt nhỏ giọng bảo Hải ngọng:

- “Anh bớt nói mấy câu đi không được sao? Lần nào cũng toàn đổ thêm dầu vào lửa!”.

Tư Mã Khôi không muốn để mọi người tiếp tục cãi nhau vì mấy việc không đâu, nên đành giải thích với Ngọc Phi Yến:

- “Khi nãy tôi cũng không có ý gì khác, chẳng qua chỉ muốn nhắc nhở để cô chú ý hơn thôi”.

Tư Mã Khôi vừa nói vừa tiến sát lại gần chỗ Ngọc Phi Yến đang ngồi ở phía sau đuôi xuồng, dường như anh phát hiện ra điều gì đó trên cơ thể cô.

Ngọc Phi Yến không hề lĩnh hội thiện chí của anh mà lạnh lùng đáp trả:

- “Chẳng lẽ tôi còn phải cảm ơn anh nữa sao?”, rồi cô phát hiện Tư Mã Khôi dường như bị chạm dây thần kinh nào rồi thì phải, nên hai mắt cứ nhìn chằm chằm vào cơ thể cô và từ từ bò sát lại gần. Không gian trên xuồng chật chội, không có chỗ xoay chuyển hay quay đầu, muốn trốn cũng không có nơi trốn, tim bất giác đập thình thịch, cô lo lắng hỏi:

- “Anh định làm gì vậy?”, rồi cứ nghĩ Tư Mã Khôi định giở trò sàm sỡ với mình, nên cô không kìm được liền thẹn quá hóa giận, giơ tay định cho anh một cái bạt tai, nhưng chưa kịp đáp xuống má thì đã bị Tư Mã Khôi giữ chặt lấy cánh tay rồi gạt sang một bên.

Thì ra, thứ mà Tư Mã Khôi muốn xem là vết máu dài loang lổ dính sau đuôi xuồng. Đó là vết máu của con cá sấu bị xương voi đâm thủng bụng khi nãy để lại, xác cá sấu đã sớm bị dòng nước cuốn trôi, nhưng đoạn xương bị gãy mắc vào đuôi xuồng thì vẫn còn dính rất nhiều máu, nó bám rất chắc vào túi khí phía sau.

Hải ngọng thấy vậy liền tỉnh ngộ, vội hỏi:

- “Tớ nghe nói thịt cá sấu chế thành thuốc có thể trị ho long đờm, chữa khó thở, nó… có ăn được không hả?”

Tư Mã Khôi lắc đầu bảo:

- “Không phải vấn đề có ăn được hay không, tớ đang nghĩ, trong lòng khe núi Dã Nhân có rất nhiều đỉa Campuchia, mãng xà Miến Điện, rồng Komodo và cả rắn bay tụ tập trong sương mù. Tất cả bọn chúng đều có thể sinh sống ở đây, vậy tại sao con người lại không thể sinh tồn được? Việc này nói lên điều gì?”

Đầu óc Ngọc Phi Yến rất nhanh nhạy, cô lập tức hiểu ra ý tứ của Tư Mã Khôi:

- “Anh muốn nói động vật bò sát máu lạnh không bị sinh vật từ trường dưới lòng đất làm nhiễu loạn có phải không? Nếu có thể tìm thấy những con vật thuộc họ thằn lằn, thì chúng ta có thế xác định được phương hướng sao? Nhưng nước ở đây im lìm bất động, ngay cả cá còn không thể tồn tại được nữa là”.

Bí kíp “Kim bất hoán” gia truyền của Tư Mã Khôi lấy tướng vật làm chính yếu, nội dung bao hàm cả âm dương tam cung ngũ ý, thông tỏ mọi thuật Tuần Giáp, Lục Nhâm, Bộ Đẩu, trên nối tới trời, dưới thông vô đáy, phân biệt được tạo hóa vi diệu của vạn vật, giống như có mắt thần. Tuy anh không hiểu rõ nguyên nhân hình thành nên vũng mù dưới lòng đất, nhưng lại có cách quan sát tính tương khắc âm dương của chất nước, liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô có nhận ra địa hình ở đây không?

Ngọc Phi Yến nói:

- “Tình hình thế này thì có lẽ tương ứng với địa thế khe sâu cuốn núi, còn gọi là bàn hách, là một vùng đất trũng bị xâm thực với quy mô lớn, nằm sâu trong lòng quần thể núi. Nước ngầm dưới lòng đất trào lên từ khe cốc, chảy về đây thông qua các khe núi, rồi tiếp tục đổ xuống dưới, thông qua các huyệt đá, tạo ra mạch ngầm chảy xuyên suốt thủy động. Năm đó, đội khảo sát có thể từ bên ngoài vào đây, thì nơi này chắc chắn tồn tại lối ra, nhưng do nước hồ dưới lòng đất quá rộng và sâu, nên khoảng cách giữa lối nước vào và lối nước thoát cách nhau tương đối xa, vì thế chúng ta cũng khó lòng phát hiện được bất kỳ động tĩnh nào nổi trên mặt nước; thêm vào đó, nơi đây lại chịu sự hạn chế của môi trường và địa hình, nên không thể nghe thấy tiếng nước chảy ở phía xa; nếu năm giác quan đều tê liệt hết, thì đến chết chúng ta vẫn mãi quanh quẩn ở chỗ cũ mà thôi.”

Tư Mã Khôi nghe xong liền gật đầu. Trước đây, anh cứ nghĩ bí kíp tổ tông truyền lại không có chút giá trị nào, nhưng sau khi trải qua một loạt sự kiện gần đây, anh không thể không đánh giá lại giá trị quan và thế giới quan của bản thân, Tư Mã Khôi nói với mọi người:

- “Thế thì mọi việc về cơ bản gần giống với phán đoán của tôi, nếu điêm cuôi sô mệnh của chúng ta không phải ở núi Dã Nhân này, thì chúng ta chắc chắn sẽ có cơ hội thoát hiểm.”

Tư Mã Khôi lại tiếp:

- “Khó hay dễ đều do con người tạo ra, kẻ thấy khó sẽ không nghĩ ra cách, người nghĩ ra cách sẽ không thấy khó. Có câu: ‘núi tĩnh nước động’, núi hay nước đều phân thành hai cực, nước chảy vào thuộc cực dương, nước chảy ra thuộc cực âm. Trong lòng núi không thể tồn tại nước tĩnh tuyệt đối, bởi vậy nơi dòng nước trầm lặng, nhất định là nơi đổ ra hướng cửa thoát”.

Nói đoạn, anh liền đốt pháo sáng, dùng dao cắt một miếng thịt cá sấu, thả xuống nước, cúi đầu chăm chú phân biệt chính xác hướng hòa tan của máu và nước. Do máu động vật bò sát không chịu sự ảnh hưởng của lực từ sinh vật, nên hướng chảy của máu sẽ là hướng lối ra. Dưới ánh sáng của pháo tín hiệu, anh thấy máu hòa tan vào nước giống như một làn khói đen khuếch tán giữa không khí.

Tư Mã Khôi định vị hướng nơi máu lan tỏa, cũng chính là cửa động và lấy nó làm vật tham chiếu, đồng thời cùng ba người còn lại dốc hết sức khua mái chèo, đẩy chiếc xuống tiến dần về khoảng không sâu hút phía trước. Cả hội chẳng đi được bao lâu, thì máu thịt cá sấu dính trên túi hơi đã hết sạch, vậy mà màn sương mù lạnh lẽo vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng, mọi người bắt đầu cảm thấv tay chân, đầu óc dần dần mụ mị tê buốt, ý thức cũng theo đó mà trở nên mơ hồ chấp chới.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi thứ 3.
Đào Thoát Khỏi Núi Dã Nhân


Tư Mã Khôi cắn rách đầu lưỡi buộc mình phải tỉnh táo, anh gắng sức áp chế cảm giác tuyệt vọng đang lan khắp cơ thể, chăm chú quan sát động tĩnh trên mặt nước. phát hiện thấy dưới đáy hồ sâu, dường như trôi nổi vật gì đó giống loài cá vược.

Đó là loài cá hai mắt bị thoái hóa gần như mù hẳn, sống dựa vào hợp chất ở vùng nước sâu, thân hình to có nhỏ có, con nhỏ có khi chỉ bé bằng con giun, con to thậm chí có thể nuốt chửng một người sống, chúng bị mùi máu tanh thu hút nổi trên mặt nước. Tư Mã Khôi cầm giáo mỏ vịt đâm xuyên táo mấy con vứt lên nền xuồng. Thế là mọi người lại có máu cá để phân biệt phương hướng. Không biết chiếc xuồng đã bơi được bao xa trong đêm tối, chỉ biết người nào người nấy đều mệt mỏi rã rời, lưng vai đau nhừ, đói hoa cả mắt. Đột nhiên, màn sương mù phía trước mỏng đi đáng kể, phía xa xa lộ một dải màu trắng ngoằn ngoèo, mảnh như sợi chỉ, dường như đó là một vệt ánh sáng vô cùng yếu ớt, lay động giữa khe núi thâm u, đối lập hoàn toàn với bóng tối vô bờ bến đang bao trùm bốn phía xung quanh. Cái lạnh do cảm giác đè nén tạo ra thực sự khiến người ta tê buốt tận xương tủy.

Mọi người nhìn thấy phía trước dập dềnh ẩn hiện một vạch kẻ màu trắng, dường như là đốm bụi ánh sáng, thì biết có lẽ họ đã thoát khỏi vũng mù nhiễu loạn phương hướng. Lúc này, từ cõi chết trở về, trái tim bốn người dường như nóng bừng cả lên, nhưng khi còn chưa kịp định thần nhìn rõ, thì nghe thấy tiếng nước chảy xiết ầm ầm vang dội, chiếc xuồng không nghe theo điều khiển, xoay tròn trên mặt nước và không ngừng trôi về phía trước.

Sau cơn giông tố, mấy chục dòng nước ngầm phun trào mãnh liệt trong lòng núi sâu. Mỗi dòng nước cuồn cuộn như một con bạch long khổng lồ treo mình trên vách núi cheo nứt vỡ, thế nước rung chuyển dữ dội. Dòng ngân hà giữa không trung tuôn ra từ khe núi, bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, trông hùng dũng như rồng cuộn, nghe vang rền như sấm dậy, tiếng thác đổ vọng lại giữa bầu không gian nơi thâm cốc gầm gào không dứt.

Hội Tư Mã Khôi đều không thể ngờ, chỉ cách một quãng ngắn mà thế nước lại khác biệt đến thế, cửa thoát là một thác nước khổng lồ, nhất thời chẳng ai kịp trở tay. Chiếc xuồng chưa kịp giảm tốc độ, thì đã bị dòng nước xiết cuốn phăng về phía trước, thuận thế lao mình từ trên cao xuống khe sâu phía dưới. Tư Mã Khôi cảm thấy cơ thể bay ra khỏi xuồng, trong tích tắc thời gian trời đất quay cuồng, cũng chẳng rõ đầu hay đít chúc xuống dưới, càng không dám quan sát sự hùng vĩ thần bí của quần thể dòng thác. Anh không thể xác định dưới chân thác là nước sâu hay đá nhọn, chỉ biết cố gắng bảo vệ mạng sống trước đôi cánh đang dang rộng của tử thần, hai khuỷu tay khép lại, hai chân thu trước ngực, tay ôm gióng chân, trán gục chấm gối, toàn thân co tròn thành một khối, nhào theo đà rơi.

Dưới chân thác toàn là những phiến đá trắng cứng đanh, nhưng do bị dòng nước xâm thực đục đẽo lâu ngày, khiến những phiến đá đó đều trở nên rỗng ruột. Vì bề mặt bên trên của đá đã mất đi lực đỡ từ dưới, cộng thêm nó không ngừng bị sụt lún trong suốt bao nhiêu năm qua, nên những phiến đá bị võng xuống thành một khe núi lõm sâu hình bán nguyệt. Dòng nước từ độ cao cách biệt hơn năm trăm mét đổ như bay xuống dưới, thật chẳng khác nào vạn mã phi nước đại, phát ra những âm thanh ầm ầm đến chấn động tâm kinh.

Sau khi bốn người bị rơi xuống nước, do sự tác động của xung lực, người nào cũng không tránh khỏi uống no bụng nước. Nhưng sau đó chưa kịp chạm tới đáy, thì họ đã bị lực nổi mạnh khiếp người của dòng nước kéo ngược trở lên, ngước mắt nhìn chỉ thấy rất nhiều dòng thác vắt mình nằm giữa các vách núi cao đang trút đổ từ giữa không trung xuống. Thế nước mạnh mẽ, khiến bọt nước trắng xóa bắn tung tóe khắp nơi, hơi nước tạo thành quầng sương mù mịt bao phủ khắp khu vực xung quanh, hai bên vách núi mọc um tùm những cây cổ thụ tán lá rợp trời, những phiến đá to nhỏ với đủ hình thù quái dị nằm rải rác giữa các lối đi, rễ cây và dây leo kết bện chằng chịt, thảm thực vật rậm rạp che phủ gần như hoàn toàn diện tích mặt nước.

Mọi người vừa thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, vội giãy đạp trèo lên những chiếc rễ cây nổi dưới đáy hồ, lần bò vào bờ, sau khi nôn liền ra mấy ngụm nước, mới cảm thấy đầu óc dần đần trở lại bình thường. Tư Mã Khôi thở gấp trong giây lát, chợt thấy Hải ngọng đi lại khó khăn, liền gọi Tuyệt đến xem vết thương thế nào.

Nơi núi cao rừng sâu này không bị cơn bão nhiệt đới Buddha ảnh hưởng nghiêm trọng lắm. Lúc này mưa lớn đã bắt đầu ngưng hạt, ngẩng đầu lên chỉ thấy trời xanh mây trắng, ánh nắng chan hòa. Tuyệt mở lớp băng cuốn quanh vết thương của Hải ngọng, thấy miệng vết thương chảy ra vệt máu đen, cô liền bất giác cau mày lo lắng, nếulà vỡ nội tạng thì phải tiến hành phẫu thuật ngay mới kịp, bằng không sẽ không thể nào cầm máu được.

Hải ngọng chỉ cần chưa chết thì không bao giờ chịu để miệng nghỉ ngơi, nhưng lúc này anh cũng lờ mờ cảm thấy không ổn. Trong lúc đèn gần cạn dầu, toàn thân cảm thấy lạnh giá như rơi xuống động băng, anh cứng miệng phều phào chửi rủa mấy tiếng:

- “Mả bà nó, sao cái núi quỷ tha ma bắt này lại lạnh teo teo thế nhỉ? Thực ra, loại linh dược hiệu nghiệm nhất bây giờ là mau đi tìm cho tôi một bát cháo nóng…”.

Nói xong, anh cúi xuống nhìn vết thương của mình, nhưng dường như trông nó còn nghiêm trọng hơn dự liệu rất nhiều, trong lòng không khỏi giật thót mình. Hải ngọng gắng gượng hỏi Tuyệt:

- “Sao hả? Liệu tôi có qua nổi hôm nay không?”

Tuyệt cúi đầu không đáp, Tư Mã Khôi đành phải trả lời thay:

- “Có lẽ nó không đến nỗi… tệ như cậu thấy đâu.”

Hải ngọng lắc đầu bảo:

- “Cậu không cần cho tớ uống thuốc an thần làm gì, tớ có mù đâu cơ chứ, miệng vết thương chảy ra toàn máu đen, đấy là máu chảy ra từ ruột. Mẹ cha nhà nó! Sao số mình đen đủi như cứt chó thế này nhỉ, xem ra ông trời bắt phải chết trong rừng sâu núi thẳm rôi, vùi thân dưới ba thước đất, khéo ngay cả mảnh ván mỏng che mặt cũng chẳng tìm ra, chứ nói gì đến bia mộ. Đây là cái số mệnh gì thế không biết?”

Tư Mã Khôi nghiến răng nói:

- “Chúng ta khó khăn lắm mới thoát ra được bên ngoài, cậu đừng có mà, mẹ nó chứ, lải nhải mấy lời nhụt chí ấy nữa, dẫu có phải vác, tớ cũng sẽ vác cậu trở về”.

Tư Mã Khôi muốn mau chóng tìm lối chạy về hướng bắc, liền hỏi Ngọc Phi Yen còn muốn tiếp tục đồng hành cùng mọi người nữa hay không? Bây giờ đã thoát khỏi khe sâu, rốt cục con đường hai bên khác biệt, chi bằng cứ chia tay nhau ở đây thì hơn.

Ngọc Phi Yến giận dữ mắng Tư Mã Khôi:

- “Cái đồ chết bầm, sao lúc nào anh cũng muốn xua tôi đi thế hả? Bây giờ chúng ta đều sức cùng lực kiệt, hai chân chẳng lê nổi thân, trên mình cũng không còn vũ khí, điện đàm, thuốc men, thức ăn, bản đồ gì cả. Trong hoàn cảnh lương cạn đạn kiệt, liệu ai có thể tự mình ra khỏi núi Dã Nhân được hả? Có điều, cho dù phải bỏ mạng trong rừng sâu, bị dã thú gặm trơ xương, thì cũng vẫn còn hơn bị nhốt sống dưới huyệt động dưới lòng đất chẳng bao giờ nhìn thấy mặt trời.”

Đúng lúc mọi người đang bàn bạc, thì mé chếch mỏm núi phía trái sơn khe, một đàn chim đột nhiên xáo xác bay loạn xạ, Tư Mã Khôi xuất thân từ giang hồ, tai thính mắt tinh, anh biết rừng sâu không có người, vậy mà chim lại bay hoảng loạn, chắc chắn phía xa đã xảy ra sự cố bất thường gì đó. Anh vội ngẩng đầu nghe ngóng, thì phát hiện thấy trên núi có vài bóng người hòa lẫn với đám cây rừng um tùm thành một màu, số lượng đông đúc có lẽ không dưới trăm người, tất cả đều mặc quân phục và trang bị vũ khí đầy đủ, chỉ có điều vì họ ở cách một khoảng hơi xa, nên tạm thời vẫn chưa thể biết rõ rốt cục là quân đội phe nào.

Tư Mã Khôi phát giác tình hình có biến, liền vội vàng ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt, ba người khênh Hải ngọng nấp mình vào sau một lùm cây rậm. Nhưng nhóm người Miến Điện dường như đã nhìn thấy có người trong khe núi, một loạt đạn bắn ra từ khẩu súng hạng nặng lập tức bay tới tấp như mưa sa, thân cây to bằng cổ tay không thể đỡ được luồng đạn, liền bị tróc mất một mảnh lớn, bọn họ lại từ trên cao bắn dội xuống, triển khai đội hình bao vây, nhóm quân xuyên qua rừng rậm nhanh chóng áp sát lại gần.Hội Tư Mã Khôi bị hỏa lực dày đặc áp chế đến nỗi không thể ngẩng đầu lên, chỉ cần hơi nhổm người dậy lập tức sẽ bị đạn nã lỗ chỗ như tổ ong. Thấy tiếng súng và tiếng hò hét càng lúc càng tới gần, mọi người đều ngầm than khô:

- “Đúng là mẹ kiếp, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Trong núi Dã Nhân mọc đâu ra lắm quân đội thế không biết?”

Lúc này, Tư Mã Khôi đã nghe rõ tiếng hò hét của đội quân vũ trang và nhận diện được phương thức nã bắn cũng như loại vũ khí, anh cảm thấy có vẻ quen tai, không giống với đội quân của chính phủ hay thổ phỉ, trong lòng bất giác reo lên:

- “Đám người này chẳng phải quân bang Wa thì là gì..? ”

Anh ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt không được bắn trả, rồi nấp sau thân cây hét lớn:

- “Méo duây pao pua! Méo duây pao pua!”

Trong tiếng Miến Điện, câu đó có nghĩa là “Người anh em thân thiết”, nói đơn giản thì nó ám chỉ “người mình cả mà”. Dường như tất cả người Trung Quốc vượt biên gia nhập quân đội Cộng sản Miến Điện năm đó đều học câu tiếng Miến này đầu tiên.

Nhóm vũ trang đang khép vòng vây, nghe tiếng hô của Tư Mã Khôi, quả nhiên lục tục ngừng bắn. Thấy đối phương tạm dừng hỏa lực, Tư Mã Khôi liền giơ cao hai tay biểu thị mình không có vũ khí, sau đó mới chậm rãi bước ra khỏi lùm cây đi đến trước mặt họ.

Toán người xuất hiện ở mé chếch mỏm núi quả thực là quân đội bang Wa, những người này đều là dân binh dân tộc Wa sống tập trung ở biên giới Miến Trung, bất kể già trẻ gái trai, người nào da cũng đen thùi lùi, lại rất dũng cảm thiện chiến. Tuy bọn họn không biết chữ, nhưng đại bộ phận đều biết nói thồ ngữ dân tộc Wa và khẩu ngữ Vân Nam. Quân đội bang Wa là một lực lượng vũ trang địa phương rất có uy thế, thủ lĩnh của họ từng tiếp kiến lãnh đạo tối cao Trung Hoa thời kỳ đầu Cách mạng Văn hóa, thậm chí còn tự nhận mình là hồng vệ binh bang Wa của Mao Chủ tịch, mấy năm trước cũng từng tham gia phối hợp tác chiến với quân đội Cộng sản Miến Điện.Lúc đầu, thủ lĩnh quân đội bang Wa bị quân chính phủ bắt làm tù binh ở Lashio, khi chuẩn bị áp giải mang đi xử tử cũng là vừa lúc quân đội Cộng sản giành thăng lợi trong cuộc phản công chọc thủng sào huyệt kiên cô của địch, bộ đội kéo quân vào tận Lashio, kịp thời giải cứu vị thủ lĩnh thoát khỏi họng súng của quân chính phủ. Bởi vậy hai bên đã dùng máu để gắn kết tình bạn vững bền, mỗi lần gặp nhau đều có thể gọi nhau bằng cái tên “Méo duây pao pua”.

Tư Mã Khôi còn nhớ quân bang Wa đều cư trú ở dải biên giới Miến Trung, nơi đó cách núi Dã Nhân một đoạn khá xa, sao họ lại xuất hiện giữa rừng rậm nguyên sinh cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài vậy nhỉ? Trong khi đó, toán quân bang Wa cũng cảm thấy khó hiểu về sự gặp gỡ bất ngờ với những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm ở nơi rừng hoang heo hút này, nhưng đôi bên cùng là “méo duây pao pua” thì chắc chắn không thể nào sai được.

Người cầm đầu toán quân Wa thấy tình hình của Hải ngọng có vẻ nguy cấp, liền ra lệnh cho bác sĩ quân y trong đoàn băng bó lại vết thương cho hội Tư Mã Khôi. Khi vào núi tác chiến, họ đều chuẩn bị đầy đủ các loại thuốc men dược phẩm cấp cứu và các dụng cụ phẫu thuật, có điều ông bác sĩ quân y trong đoàn cũng chỉ là ông lang vườn người bản địa, tay nghề không được cao siêu cho lắm. May mà y thuật của Tuyệt rất điêu luyện, cô lập tức dựng bệnh viện dã chiến đon giản để trị thương. Sau khi truyền máu xong, thì cái mạng của Hải ngọng cuối cùng cũng tạm thời được giữ lại.

Sau đó, hai bên liền kể cho nhau nghe đầu đuôi câu chuyện của mình. Thì ra vùng này thuộc về địa phận sườn đông nam của núi Dã Nhân, đội quân bang Wa ở sườn bắc phát hiện có vài thành phần vũ trang lai lịch bất minh, bọn người này tiến hành hoạt động trinh sát trong núi Dã Nhân lúc thời tiết khắc nghiệt, người bang Wa lại cho rằng quân chính phủ phái quân bao vây, thế là họ liền điều một đoàn quân đi theo đường vòng tiến vào núi, chuẩn bị mai phục đánh quân địch.

Hội Tư Mã Khôi trao đổi tin tình báo với người cầm đầu toán quân bang Wa, tiết lộ cho họ biết: gần đây các phần tử vũ trang và máy bay hoạt động ở vùng núi có khả năng đều là thuộc hạ của Nấm mồ xanh, mục đích của bọn chúng là truy lùng tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh mất tích mấy chục năm về trước ở núi Dã Nhân.
Xem dấu tích để lại thì có vẻ bọn chúng sẽ không gây ra bất kỳ uy hiếp gì đối với quân đội bang Wa đang chiếm cứ vùng phía bắc, trong khi đó quân đội chính phủ đang tập kết ở phía nam dãy núi cũng không có động thái muốn tiến ra bắc. Tư Mã Khôi nói bốn người các anh đều là thành viên đội du kích Cộng sản Miến Điện bị đánh tan rã, nhiệm vụ lần này của cả nhóm là phải về Bắc Kinh gấp để hồi báo trực tiếp rất nhiều tin tức tình báo quân sự quan trọng cho Mao Chủ tịch.
Thủ lĩnh toán quân bang Wa nghe Tư Mã Khôi nói có đầu có cuối, vả lại cũng vô tình trùng khớp với một vài thông tin lính trinh sát thu thập được, nên liền tin là thật. Ông chỉ để một vài người ở lại trong núi tiếp tục theo dõi tình hình quân địch, số còn lại đều rút cả về căn cứ.

Toán quân bang Wa từ biên giới Miến Lào lui về phía bắc, đoạn đường khá xa lại vất vả nên không tránh khỏi việc vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ, suốt mấy ngày liền ròng rã mới đến được vùng biên giới Miến Trung. Hội Tư Mã Khôi nghỉ ngơi mấy ngày ở căn cứ địa bang Wa, vết thương trên người La Đại Hải được điều dưỡng nên cũng dần dần có chuyển biến tốt.
Bầu trời lúc này có chút u ám, cái bóng nguy nga sừng sững của ngọn núi tuyết Gao Li Gong bị tầng mây đen nặng trĩu bao phủ. Những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm tuy đã đào thoát thành công khỏi núi Dã Nhân, nhưng trên mình mỗi người đều mang vết bỏng do chất độc màu da cam đốt cháy, hậu họa của nó để lại thật khôn lường, họ sẽ phải đón nhận kết cục gì trong tương lai. Chẳng cần nghĩ, trong lòng ai nấy cũng thầm biết rõ, bởi vậy mọi người bàn bạc xem sau này sẽ đi đâu về đâu, mỗi người đều có dự định riêng.

Ở bang Wa đang thiêu một bác sĩ chuyên môn đúng nghĩa, người bản địa thấy y thuật của Tuyệt rất giỏi, hơn nữa tính tình cô hiền hòa, dễ gần, bèn xin cô ở lại giúp họ chữa bệnh. Tuyệt thấy ở đây có rất nhiều bệnh nhân không được điều trị hiệu quả, nên cô thật lòng không nhẫn tâm bỏ đi.

Hơn nữa, gia đình Tuyệt bị liệt vào hàng phần tử bất hảo, nếu cô trở về Trung Quốc, chắc chắn sẽ làm liên lụy đến cả nhà, bởi việc năm xưa bỏ trốn khỏi Vân Nam chạy sang Miến Điện. Vì vậy, cô quyết định ở lại bang Wa giúp người dân chữa bệnh trị thương.

Tư Mã Khôi cũng đồng tình với số mệnh mà cô lựa chọn cho mình. Anh xét thấy cứ điểm của bang Wa nằm giáp biên giới Miến Trung, nên quân đội chính phủ cũng không dám khinh suất mà khởi binh vây bắt. Ở đây nơi nào cũng là vùng núi hoang vắng, tất cả các trại đều chỉ có người dân tộc Wa thuần nhất sinh sống, người ngoài không dễ gì trà trộn vào được, Tuyệt chỉ cần mai danh ẩn tích, hóa trang thành nữ binh người Wa, cố gắng không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì có lẽ ẩn trốn an toàn mấy năm ở đây cũng không có vấn đề gì. Thế là, anh không khuyên can cô nữa, chỉ dặn Tuyệt phải biết tự chăm sóc lấy mình, mọi việc đều cần thận trọng mới được.

Riêng Tư Mã Khôi, mong muốn quay lại cố hương vẫn luôn nung nấu trong đầu anh, vì đội du kích Miến Điện còn có một nhiệm vụ cuối cùng, đó là những người sốt sót phải gắng sức trở về tổ quốc, tìm cách báo tin cho những người thân của những đồng chí đã bỏ thân nằm lại nơi chiến trường đất khách. Giờ đây, nhiệm vụ quan trọng và cao cả đó được đặt lên vai Tư Mã Khôi.

Ngọc Phi Yến lại cho rằng:

- “Tuy tổ chức ngầm Nấm mồ xanh không hề có động tĩnh gì từ sau sự kiện núi Dã Nhân, như thể bọn chúng hoàn toàn bốc hơi theo mây khói vậy, nhưng trước khi chưa giải mã được mọi ẩn số bị chôn vùi dưới thành cổ Nhện Vàng, thì mọi người phải tuyệt đối cẩn thận, không thể yên tâm cho rằng mình đã bình an vô sự, nếu không sớm muộn gì tai họa cũng gõ cửa tìm đến, có trốn đến chân trời góc bể nào cũng không thể thoát khỏi sự truy sát của số mệnh. Để diệt trừ tận gốc hậu họa, chúng ta nên tìm cách quay trở lại thành Nhện Vàng, đoạt lấy đoạn sóng điện u hồn tồn tại ngàn năm trong mật thất mới được”.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi thứ 4
Viêm Não

Tòa thành Nhện Vàng còn lưu giữ một vong linh ngàn năm lởn vởn trong mật thất, nói chính xác hơn thì nó là một đoạn văn bản mật, một đoạn sóng điện cần sử dụng loại thiết bị cảm ứng đặc biệt mới có thể thu nhận được. Nấm mồ xanh đã chuẩn bị kế hoạch suốt mấy chục năm, cũng chỉ vì muốn đoạt được đoạn sóng điện u hồn bị vùi sâu dưới lòng đất đó.

Tư Mã Khôi không phải không hiểu chỉ cần đoạt được sóng điện u hồn trong mật thất, thì nhất định có thể giải mã được mọi bí mật của kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh. Nhưng việc này quả thật quá gai góc, chẳng khác gì hổ con vồ nhím chúa, bắt được mà không biết há miệng đớp vào chỗ nào. Gương mặt thật sự của Nấm mồ xanh cũng như cách hắn lẩn trốn trước mặt đội thám hiểm, đều bị che đậy kín bưng như trong thùng tôn; vả lại thành cổ vương triều Chăm Pa giờ đã chìm nghỉm xuống đầm lầy, hiện tại chẳng còn bất kỳ manh mối nào mà lần dấu vết.

Tư Mã Khôi cân nhắc nặng nhẹ, thấy rằng trước tiên vẫn nên trở về tổ quốc, hoàn thành nghĩa vụ với những đồng đội đã bỏ mình nơi chiến trận. Đối với anh, giờ đây không việc gì cấp thiết hơn trách nhiệm này.

Còn Ngọc Phi Yến, tất cả thuộc hạ của cô trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn đều mất mạng trong núi Dã Nhân, hiện tại cô chẳng biết phải đi đâu, nhưng do sự ảnh hưởng của cục diện chính trị, nên cô cũng không thể theo hội Tư Mã Khôi cùng vượt biên trốn về Trung Quốc được.

Tư Mã Khôi gợi ý cho Ngọc Phi Yến, mấy ngày nay, anh cùng toán quân bang Wa có nghe ngóng được một số tin tức trong nước, được biết vài năm gần đây những chiến hữu từ đội quân Cộng sản Miến Điện trốn về nước, đầu tiên đều bị nhốt cách ly chờ thẩm tra, mục đích chủ yếu là để đề phòng người được huấn luyện nghiệp vụ mật thám ở nước ngoài điều về nước làm nội gián, sau đó do số người phải điều tra quá nhiều, nên các quy trình cũng dần nới lỏng đáng kể. Có điều, trước khi vấn đề được điều tra rõ ràng thì không ai được phép trở về đất nước, mà phải tập trung xuống vùng nông thôn chịu quản thúc, hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng như ban đầu mọi người vẫn tưởng.

Tư Mã Khôi còn nhớ: trước đây trong đội quân Cộng sản Miến Điện có một nữ chiến sĩ, trông hao hao giống Tuyệt, cũng xấp xỉ tuổi Ngọc Phi Yến, dung mạo khá tương đồng, lí lịch của cô ấy giống với hội Tư Mã Khôi, đều là con em thành phần hữu khuynh chạy trốn ra nước ngoài, song thân sớm đã không còn, trong nước cũng chẳng có ai thân thích. Năm ngoái, cô ấy cùng bộ đội hành quân trong rừng rậm.

Đầm lầy ở khe núi là nơi cư ngụ của lũ ve hút máu, chỉ cần gặp người sống là chúng ùa đến “nhiệt liệt đón chào”, chúng chui vào da thịt nhanh như cắt, rồi luồn vào não hút máu, loại ve này tuy không đáng sợ bằng đỉa Campuchia ăn thịt người, nhưng trên mình chúng lại mang mầm bệnh “viêm màng não mủ”, xác suất truyền nhiễm sang người là một phần trăm, người nào bị lây truyền đều vô phương cứu chữa, chỉ còn cách chờ chết. Khi đó, cô ấy không may bị ve hút máu truyền bệnh, không có cách gì chữa trị được, cuối cùng đã chết, chính tay Tuyệt còn đào đất chôn cất cô ấy.

Tư Mã Khôi bảo Ngọc Phi Yến giả mạo người nữ chiến sĩ đó, dù sao sau khi về Trung Quốc cũng bị đẩy xuống một vùng nông thôn hoang vắng nào đó, chỉ cần nhớ kỹ thân phận mới của mình, cố gắng học thuộc “ba bài ca” của Mao Chủ tịch (là ba bài văn ngắn của Mao Trạch Đông, phát biêu trước khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập... lần lượt là “Vì nhân dân phục vụ”, ‘Tưởng niệm đồng chí Henry Norman Bethune” và “Ngu Công dời núi”ba bài phát biểu này đều nhằm nhấn mạnh tư tưởng của đảng Cộng sản là vì nhân dân phục vụ, không màng lợi ích cá nhân và gian khổ phấn đấu.).
Cán bộ ủy ban Cách mạng phụ trách quản giáo ở địa phương toàn là nông dân, trong mắt họ, con em thành phần hữu khuynh từ mặt khí chất cho đến dung mạo đều chẳng khác thanh niên trí thức là mấy. Làm gì có ai nhận ra cô? Cách này được gọi là “mưu cầu sinh tồn trước hiểm nguy” tuy không phải cách gì hay ho lắm, nhưng cũng không hẳn không phải một con đường sống.

Ngọc Phi Yến nghĩ đến cảnh ngộ đường cùng của mình, chỉ còn biết nghiến răng nuốt hận:

- “Đi thì đi, chỉ có điều lão quỷ nhà anh hãy nhớ cho kỹ: nếu chẳng may tôi gặp phải chuyện gì bất trắc, thì việc đầu tiên tôi làm là khai ra anh chính là kẻ chủ mưu đấy!”

Tuyệt cũng thấy kế hoạch này không khả thi, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, làm sao che giấu mãi được, huống hồ nếu cứ làm theo cái cách hồ đồ này của anh Khôi thì chắc không qua nổi cửa thẩm tra đầu tiên, vạn nhất người ta lôi hồ sơ trong thành phố ra so sánh, thì sẽ lộ chân tướng ngay, lúc ấy có mồm năm miệng mười giải thích cũng không ai tin, mà đâu chỉ một mình Phi Yến phải chịu tội, có khi cả anh Khôi cũng không tránh khỏi liên lụy ấy chứ.

Sau khi bàn bạc, Ngọc Phi Yến đành quyết định cao chạy xa bay đến Luân Đôn, cô dặn Tư Mã Khôi:

- “Ở Trung Quốc, tôi có một người chú họ chưa từng gặp mặt bao giờ, tên chú ấy là Thắng Thiên Viễn. Tuy cũng được học nghệ, nhưng con đường chú ấy lựa chọn không hề giống với bố tôi, chú ấv không hành nghề hối tử, mà đi du học ở Anh và Pháp, từng là viện sĩ trẻ tuổi nhất từ trước đến giờ ở Học viện khảo cố bảo tàng Pháp, đảm nhiệm chức vụ đội trưởng đội khảo cổ của Pháp – thường trú tại Ấn Độ, quanh năm lăn lộn ở những vùng có nhiều di tích lịch sử và giàu giá trị khảo cổ như Miến Điện, Campuchia, Việt Nam… Nghe bố tôi nói, khoảng đầu những năm năm mươi, chú ấy từng bị tổ chức Nấm mồ xanh lợi dụng, đã giải mã được một phần bí mật văn vật cổ đại, nhưng sau khi biết được âm mưu thực sự của tổ chức, chú ấy liền tìm cách trốn về Trung Quốc dưới danh nghĩa Hoa kiều, đồng thời đảm nhiệm một chức vụ quan trọng nào đó ở Bắc Kinh, từ đó đến nay chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc. Chuyến này các anh trở về Trung Quốc hãy tìm cách đi gặp chú tôi, nếu chú ấy còn sống, có lẽ sẽ biết được chân tướng chôn vùi dưới tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa. Có điều các anh phải tuyệt đối cẩn trọng, chúng ta sống thêm được ngày nào hay ngày đó, đừng có mang tính mạng của mình ra làm trò đùa nữa.”

Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý:

- “Chú cô đã là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ học, hơn nữa lại chức cao vọng trọng, sau khi về nước chắc hẳn không thể nào từ bỏ sự nghiệp dở dang được, có điều từ sau khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, phần tử trí thức của các đơn vị đa số đều bị đẩy xuống vùng nông thôn. Ở Bắc Kinh, tôi cũng có một vài mối quan hệ, sau khi trở về sẽ nhờ người giúp dò hỏi xem sao, biết đâu lại tìm ra tung tích chú ấy”.

Thế là Tư Mã Khôi bắt đầu thu xếp hành lý, thực ra ngoài hai bàn tay trắng ra thì anh cũng không còn gì nhiều mà sắp xếp, sau khi chuẩn bị qua loa, anh định khởi hành một mình.

Ai dè Hải ngọng biết được việc này, tuy vết thương vẫn chưa khỏi hẳn, nhưng anh không chịu ở lại dưỡng thương, một mực đòi theo Tư Mã Khôi về nước. Anh bảo đã chán ngấy cái đất Miến Điện này rồi, vả lại cũng rất nhớ ông bố La Vạn Sơn đang ngồi nhà đá của mình, nên một ngày anh cũng không thể ở lại thêm được nữa.

Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng đã xuống đất đi lại được, thì quay sang hỏi ý kiến của Tuyệt. Nhận được câu trả lời khẳng định từ cô, anh bèn đồng ý dẫn theo Hải ngọng về nước.

Ở ngã tư con đường số mệnh, mỗi người đều có lựa chọn riêng cho mình, nhưng mỗi ngả đường đều chứa đầy biến cố và vô tri, giống như bị ngọn núi tuyết Gao Li Gong sừng sững đứng chặn trước mặt vậy. Bốn người rốt cục đã cùng nhau trải qua những giờ khắc sinh tử hoạn nạn, lại biết rõ con đường phía trước của mình tràn đầy biến động và hiểm nguy, nói không chừng, lần chia tay này sẽ là lần chia tay vĩnh viễn, trong lúc sắp biệt ly, ai nấy đều nặng trĩu tâm sự, mọi người im lặng, chẳng ai nói với ai câu gì, hoàn cảnh hiện tại thật đúng với câu nói của người xưa “Điều duy nhất khiến ta lặng lẽ, thẫn thờ, chỉ có chia ly mà thôi”.

Tư Mã Khôi không muốn thấy mọi người thối chí, cảm nhận được bầu không khí nặng nề, anh bèn lay lay vai mọi người:

- “Thôi, các cậu đừng ủ rũ như gà mắc mưa thế nữa, chẳng phải chúng ta vẫn còn sống đây sao? Mai sau thiếu gì cơ hội gặp lại, nghĩ thế sẽ thấy tâm trạng vui vẻ hơn đấy”.

Nói xong liền vẫy tay gọi Hải ngọng lên đường, rời khỏi bang Wa, cắm đầu đi một mạch về hướng biên giới Miến Trung.

Giống với số phận của đa số những người rời khỏi Miến Điện trốn về nước, Tư Mã Khôi và Hải ngọng – ngoài việc bị kiểm tra sức khỏe, còn phải trải qua rất nhiều cuộc thẩm tra khác nữa, may mà vụ án Hạ Thiết Đông đã khép lại khá lâu, nên người ta không còn truy cứu nhiều về các vấn đề có liên quan. Nhưng tiếng tăm của Tư Mã Khôi và Hải ngọng khi còn vùng vẫy ở Miến Điện quả cũng không tầm thường, thậm chí ở trong nước người ta cũng phong thanh biết được, bởi vậy hai người họ không chỉ đơn giản bị đẩy xuống vùng nông thôn cải tạo lao động như dự liệu ban đầu, mà còn bị tống vào một xưởng sản xuất gạch ngói ở vùng ngoại ô heo hút thuộc Trường Sa để quản thúc. Ban ngày thì lao động chân tay, tối đến họ lại phải ngồi viết tường trình ở lóp học cải tạo, ghi chép tường tận, chân thực, nguyên văn tất tần tật mọi việc lớn nhỏ từng tham gia ở Miến Điện, còn về việc sau này sẽ tiếp tục bị nhốt hay được thả, đều phải do các ban ngành có liên quan thẩm tra chứng thực trước đã, đợi sau khi có kết luận mới định tội được.

Tư Mã Khôi không ngờ quá trình thẩm tra lại diễn ra nghiêm ngặt đến thế, thậm chí ngay cả viết thư cho gia đình cũng bị hạn chế, về cơ bản hoàn cảnh của hai người gần giống với trạng thái cách ly, hoàn toàn không được liên lạc với anh em bên ngoài, hiện tại người duy nhất dược phép đến thăm nom hai người chỉ có mỗi mình Hạ Cần – cô bạn học cùng lớp ngày xưa.

Mấy năm nay, bố của Hạ cần đã thăng quan làm tới chức phó tư lệnh. Sau khi cô gia nhập quân đội, thì được điều đến làm việc tại Viện y học tổng quân khu. Sau ngần ấy năm xa cách với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, giờ đây tướng mạo ba người đều thay đổi rất nhiều, nhưng tình bạn ngày xưa thì vẫn vậy. Lúc này gặp mặt, ba người họ vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, thật là trăm mối tơ lòng lẫn lộn.

Hạ Cần gạt nước mắt, trách cứ bạn:

- “Các cậu nổi tiếng quá rồi còn gì. Khi đó lấy đâu ra dũng khí mà gan to thế hả? Dám chạy đến Việt Nam, bị người ta bắt lại vẫn còn không chừa, tiếp tục trốn khỏi nông trường sang Miến Điện. Ra ngoài náo loạn bao nhiêu năm, bây giờ lại biết đường mà quay trở về cơ đấy?”

Giờ đây trở về Trung Quốc, đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản rầm rộ vẫn chưa kết thúc, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng đành phải đổi giọng với cô nàng, không dám ba hoa khoác lác nữa, mà chỉ ngậm ngùi cảm thán:

- “Cậu đừng nhắc đến mấy việc đấy nữa, hồi đó tuổi trẻ nông nổi chưa hiểu chuyện ấy mà, nên mới phạm phải sai lầm chủ nghĩa manh động, gây ra tổn thất cho cách mạng thế giới, bây giờ bọn tớ thực sự có hối cũng không kịp nữa. May mà ngựa vẫn còn dừng được cương trước bờ vực, bọn tớ biết mình sai lầm trầm trọng rồi, bây giờ có nằm mơ cũng muốn được lao vào vòng tay ấm áp của nhân dân tổ quốc, vì thế cậu mau về nói với bố cậu, thử tìm xem có cách nào kéo bọn tớ ra khỏi chỗ này không nhé!”

Hạ Cần nói:

- “Các cậu ấy à, trước tiên cứ ngoan ngoãn chịu nhốt trong này cái đã. Nếu không thì cứ việc dỡ ngói mà chui ra”. Đoạn cô nàng nhắc đến ông bố phó tổng tư lệnh của mình cứ mãi canh cánh trong lòng về tin tức của anh Thiết Đông, định sẽ dò la chỗ Tư Mã Khôi và Hải ngọng. Năm đó, anh Thiết Đông bị người ta vu oan cho là muốn hành thích Thủ tướng Chu (Chu Ân Lai (1898 – 1976), là nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thủ tướng đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.).
Bây giờ mọi việc đã được minh oan, nhưng gia đình vẫn không thể nào liên lạc được với anh ấy.

Nghe đến chuyện này, Tư Mã Khôi và Hải ngọng chững người lại một hồi lâu, lòng như bị ai dùng dao cắt vậy, nhưng cũng không dám giấu giếm sự thực, đành phải nói thật với Hạ cần, duy việc anh Thiết Đông bị quân chính phủ chôn sống thì giấu nhẹm, mà nói chệch đi thành anh bị quân mai phục bắn chết, lúc tử trận rất đột ngột nên cũng không cảm thấy đau đớn gì. Khi mới hay tin, Hạ cần kinh ngạc tột độ, cô đau khổ khóc không thành tiếng.

Tư Mã Khôi nhờ Hạ cần giúp đỡ hai người hai việc, thứ nhất là thông báo tin tức cho người nhà những chiến hữu đã ngã xuống nơi đất khách quê người, tiếp đó là đi tìm xem gia đình Tuyệt có còn ai nữa không, bây giờ họ sống thế nào.

Vốn dĩ Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng không ôm bao nhiêu hy vọng vào việc này. Sau khi Hạ cần đi, Hải ngọng lại biết ông La Vạn Sơn đã nhắm mắt xuôi tay hai năm trước vì mắc bệnh nặng, hai người lại càng thêm buồn rầu, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác ngoài việc tiếp tục khổ sở chịu đựng những ngày tháng dài lê thê trong xưởng gạch ngói buồn tẻ này. Bản tường trình không biết đã viết mấy trăm ngàn chữ, hai người càng lúc càng sốt ruột, mà thực sự chẳng thể nghĩ ra nổi chiêu nào, đành quyết định không màng đến hậu quả, tìm thời cơ chạy trốn ra khỏi xưởng làm gạch.

Xưởng gạch ngói nằm ở nơi đất hoang người hiếm, phía trong chỉ có mấy căn phòng vừa nhỏ vừa thấp, dùng làm lớp học cải tạo và quản thúc, mái nhà lợp bằng vài tấm gỗ gá vào nhau, để thông hai đầu bắc nam, đủ rộng cho mấy chục người chung sống. Phần lớn những người này đều là thành phần bị quy là hữu khuynh và thành phần tư sản, đang tiếp nhận quá trình thẩm tra, nên phạm vi hoạt động của họ tương đối tự do, buổi tối không có cảnh vệ cai quản, chỉ có một vị ủy viên cách mạng là phó chủ nhiệm Mã thỉnh thoảng soi đèn pin loang loáng đi thị sát và đôn đốc mọi người học thuộc tài liệu tuyển tập của Mao Chủ tịch.

Cường độ lao động ban ngày ở xưởng gạch ngói rất cực nhọc, mỗi ngày phải dậy từ sáng sớm tinh mơ. Phạm nhân cải tạo lao động đều được xe tải đưa từ ngoài vào nông trường cạnh đó, rồi bị nhốt làm việc ở bên trong. Tư Mã Khôi phải cùng những người này tham gia lao động, anh quan sát thấy lúc đó có một vài chiến sĩ cầm súng tuần tra đứng xung quanh.

Hải ngọng vì đang bị thương, nên được phép nghỉ trong phòng ngồi viết tường trình, không cần đi lao động, nhưng mấy hôm trước, vết thương đã gỡ đến những mối chỉ cuối cùng, áng chừng chẳng bao lâu sau cũng không thể tiếp tục hưởng thụ đãi ngộ này nữa, bởi vậy anh không dằn lòng nổi, nếu quả thực phải sống cả đời trong cái nhà lao này, thì chẳng thà quay lại Miến Điện gia nhập quân đội bang Wa cho xong. Hải ngọng lầu bầu giục Tư Mã Khôi mau tìm cách trốn ra ngoài.

Đúng lúc hai người đang bàn kế cho lần trinh sát ban đêm kế tiếp, trước tiên phải tường tận tình hình bố trí xung quanh, sau đó mới tính tiếp, thì phó chủ nhiệm Mã đột ngột đẩy cửa bước vào, ông ta lớn giọng phê bình:

- “Làm gì thầm thì như buôn bạc giả thế hả? Hôm nay hai anh viết bản tường trình đến đâu rồi?”

Tư Mã Khôi lập tức nhăn mặt kêu oan:

- “Chủ nhiệm ơi, em viết mòn mấy cái ngòi bút rồi đấy, không biết bao giờ tổ chức mới có kết luận về việc của bọn em thế.? Bây giờ đang là thời khắc nước sôi lửa bỏng để giành lấy thăng lợi toàn diện của đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản, thế mà tổ chức cứ bắt bọn em lãng phí thời giờ quý báu vào mấy việc vô giá trị này, điều ấy có thể hiện được đầy đủ chính sách mở lối thoát của Đảng và nhân dân không ạ?”

Phó chủ nhiệm Mã nghe xong liền thấy lo thay cho hai thanh niên trẻ tuổi, tư tưởng ý thức của họ quả thực có vấn đề lớn, bởi vậy lần nào gặp cũng phải giáo huấn một tràng dài lê thê. Lần này cũng không ngoại lệ, ông nghiêm mặt lên giọng cấp trên chỉ dạy:

- “Anh Khôi này, anh đừng có suốt ngày phàn nàn thế, cũng không nên đế tinh thần sa sút, ruột anh trông thế nào, tôi đều rõ cả, khúc nào mà chẳng trơn nhuồi như bôi mỡ, viết tường trình mà sai lỗi chính tả chi chít, câu trước không ăn nhập gì với câu sau. Tôi thấy chẳng ai trong lớp cải tạo nhiều lời quỷ quái bằng anh. Tôi khuyên anh nên kiên nhẫn hơn nữa, tổ chức đã sớm bắt tay điều tra vụ việc của hai anh, nhưng việc này còn can hệ đến nhiều mặt khác, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều được. Tuy rằng thành phần gia đình hai anh không được tốt lắm, vấn đề cũng tương đối phức tạp, nhưng Mao Chủ tịch đã chủ trương rõ ràng, xà chính không thẳng, xà phụ sẽ vênh, các anh không được để mình bị tiêm nhiễm những luận điệu của bọn phản động xấu xa. Cái này nói lên điều gì hả? Nói lên rằng Đảng và nhân dân không bao giờ bỏ rơi các anh cả, vì thế các anh hãy trung thực giải trình mọi việc, nghiêm khắc tự kiểm điểm tất cả lỗi lầm đã mắc phải, kiên quyết đứng về bên chiến tuyến cách mạng vĩ đại của Mao Chủ tịch, trân trọng lối thoát mà Đảng và nhân dân khoan hồng mở ra cho các anh, không nên phụ lòng Đảng và nhân dân đã ra tay cứu giúp…”

Phó chủ nhiệm Mã thấy hai người nghe một cách lơ đễnh, nên cụt cả hứng, bèn chốt hạ nốt câu cuối cùng:

- “Trong mấy ngày còn lại, các anh cố tranh thủ thời gian mà thu xếp cho xong xuôi, đến cuối tháng là phải lên đường rồi đấy!”

Hải ngọng nghe xong chết điếng cả người, nhảy dựng lên hỏi:

- “Cuối tháng là lên đường ạ? Bây giờ mới là tháng mấy? Chẳng phải bình thường đều qua mùa thu mới bắt đầu hành quyết sao?”

Tư Mã Khôi nghe tin cũng cảm thấy toàn bộ khí huyết như bị dồn ngược lên đỉnh đầu:

- “Hành quyết sau mùa thu là lịch vạn niên từ thời tiền Thanh, hơn nữa nhà nước xử tử kẻ phản đồ, từ trước đến nay có bao giờ câu nệ ngày giờ đâu, hai đứa bọn mình chắc chắn bị chụp mũ hàng địch phản quốc rồi”.

Phó chủ nhiệm Mã ngao ngán lắc đầu bảo:

- “Chỉ giỏi suy diễn linh tinh, ai bảo đem các anh ra xử bắn hả? Tôi thấy chắc cũng chỉ vài hôm nữa là có kết luận về vụ việc của các anh, đến lúc đấy còn muốn ở lì trong này không đi hả? Có điều trước khi đến lúc ấy, các anh cứ giám sát lẫn nhau đi đã, tích cực tự giác kiểm điểm, cố gắng đào thải hêt mọi chất độc chảy trong tư tưởng, tinh thần và trong huyết quản ra cho tôi”.

Tư Mã Khôi nghe ý của phó chủ nhiệm Mã dường như là hai người được thả, anh cảm thấy có chút bất ngờ, trong lòng thầm mắng lão già họ Mã, hai chữ “lên đường” mà dám mang ra sử dụng tùy tiện thế hả? Làm ông đây chết mất bao nhiêu tế bào não dùng để suy ngẫm cuộc đời.

Hai người lại dò hỏi tình hình cụ thể, thì ra việc hôm trước Tư Mã Khôi nhờ vả Hạ cần, đã được cô nàng thực hiện chu đáo, phó tổng tư lệnh Hạ đồng ý giúp đỡ. Hơn nữa, trước giải phóng, khi còn đánh nhau ở Quan ngoại, bố của Tư Mã Khôi và bố của Hải ngọng cùng phó tổng tư lệnh Hạ từng chung một đại đội, đôi bên cũng có ít nhiều mối giao tình. Đến bây giờ, sau bao nhiêu năm tháng, ninh lâu xương lợn còn phải nhừ, được người giúp đỡ thì nạn gì mà chẳng qua, vả lại kỳ thực vụ việc của hai người cũng không phải vấn đề gì to tát lắm, họ lại là con cháu của những người làm cách mạng, chỉ cần thủ trưởng nói thêm vào đôi câu, thì quá trình thẩm tra của Tư Mã Khôi và Hải ngọng liền mau chóng chấm dứt.

Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, hai người không bị quản thúc nữa, nhưng sau khi ra khỏi trại cải tạo, trên người không còn một xu dính túi, chẳng thà cứ ở lại xưởng gạch ngói lao động khổ cực vẫn hơn, chí ít ở đó không cần lo lắng một ngày ba bữa. Lúc này, hai người phải nghĩ cách giải quyết vấn đề sinh tồn, nên đành gia nhập binh đoàn sản xuất xây dựng, đến vùng hoang vắng ở Hắc Long Giang cực kỳ thưa thớt dân cư để xây dựng tổ quốc.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi Thứ Năm
Ma Trống

Hai người hợp sức nghĩ cách, tục ngữ nói rất hay:

- “Cứu người gặp nạn chứ không cứu kẻ khốn cùng”, chúng ta đều là trang nam tử hán vai năm tấc rộng thân mười tấc cao, không thể ngồi đây mà chờ Hạ Cần người ta đến cứu tế, phải nhanh chóng tìm ra cách để an cư lạc nghiệp mới được.

Có điều, cứ theo tình hình thực tế mà xét, trong khi đại Cách mạng Văn hóa vẫn chưa kết thúc, thành phần công nông binh về cơ bản vẫn làm việc theo lối mòn suy nghĩ ... một cái hố trồng một củ cải, thì không thể tìm nổi công việc nào cho ra hồn mà làm . Thêm nữa Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại lăn lộn bao nhiêu năm trong quân đội Cộng sản Miến Điện, từ trước đến nay nào hay biết pháp luật kỷ cương là thứ gì, khắp mình rặt mùi khí du kích, làm sao cam tâm đến tận Hắc Long Giang heo hút kia khai khẩn đất hoang. Chẳng còn cách nào hơn, họ đành chạy về khu Hắc Ốc sống tạm bợ qua ngày.

Vùng ngoại ô Hắc Ốc vốn dĩ là nơi tập kết của những thành phần nhàn rỗi lêu lổng dưới đáy xã hội, nó đồng thời cũng là danh từ thay thế cho thế giới ngầm bản địa. Không biết bao nhiêu lần sở công an và ủy ban cách mạng tìm cách xóa sổ ổ nhóm này, nhưng mãi đến tận bây giờ vẫn không thể triệt tiêu hoàn toàn được. Năm đó, Tư Mã Khôi từng một thời tung hoành ngang dọc nơi đây, bây giờ vẫn còn rất nhiều người quen. Ở Trung Quổc, mối quan hệ là nguồn tài sản quan trọng nhất, nếu muốn dấn thân vào xã hội, quen người tất sẽ thông đường, như vậy mới có cơ hội kiếm miếng ăn, rốt cục ai sống mà chẳng phải ăn, sinh tồn là tiền đề cho mọi hành vi xã hội, nếu không có cái ăn thì đừng nói đến kế hoạch này nọ làm gì cho mệt.

Khi đó, khu Hắc Ốc chủ yếu sống nhờ vào con đường sắt, hàng tuần đều có một chuyến tàu vận chuyển lơn sống từ Hồ Nam đến thẳng Quảng Châu, sau đó dỡ hàng xuống xếp lên xe chở đến Hồng Kông. Cả đi lẫn về tuốt tuột hết sáu ngày, trên toa tàu cần người phụ trách quét dọn và cho lợn ăn, những công việc này vừa vất vả vừa mệt mỏi, lại còn vô cùng bẩn thỉu, mà nếu lỡ gặp vận rủi, lũ lợn sống chết quyêt tâm chạy trốn, thì những người chăm sóc nó phải chịu trách nhiệm liên quan. Những công việc này từ trước đến nay chỉ thuê nhân công thời vụ, nhưng thù lao thì tương đối khá khẩm, một chuyến đi như vậy được hai mươi tệ. Khu Hắc Ốc có rất nhiều lao động tự do tranh cướp công việc này.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhờ người quen mách đường, đút lót cho ông quản lý đường sắt một tút thuốc thơm thượng hạng, nhờ vậy mới giành được công việc này. Nhưng ngay từ lần đầu tiên lên tàu làm việc, cả hai đã trợn mắt há mồm, tuy mặt đã bịt đến hai lượt khẩu trang nhưng cái mùi hôi thối nhức mũi vẫn sộc vào tận óc, tởm lợm đến nỗi tới bữa không nuốt nổi cơm, vả lại lúc vác thùng nước gạo vào toa nuôi lợn, thì trời ơi, còn khủng khiếp hơn cả bị quân chính phủ bao vây ở Miến Điện. Lũ lợn đói vừa nhìn thấy thức ăn liền sầm sập lao đến, bất luận hò hét thế nào chúng cũng không chịu dừng lại, nếu Tư Mã Khôi không nhanh chân lẹ tay thì chắc đã bị chúng xông lên giẫm chết tại chỗ rồi.

Hôm đó, hai người vất vả lắm mới cho lợn ăn xong, mệt đứt cả hơi, bò lên nóc tàu ngồi hút thuốc, Hải ngọng đột nhiên hỏi Tư Mã Khôi:

- “Cậu còn nhớ Mã trọc không?”

Tư Mã Khôi nói:

- “Đương nhiên là nhớ, có lúc tớ còn nằm mơ thấy bộ dạng ngồi trên nóc tàu hỏa của cậu ta nữa kia. Bố mẹ Mã trọc chỉ có mỗi mình cậu ta là con trai độc đinh, bên trên có sáu chị gái, gia đình cung phụng cậu quý tử như bảo vệ con ngươi chính mình, từ nhỏ chẳng để cậu ta phải làm việc gì vất vả, ngay cả đi học cũng do các chị lần lượt đưa đi đón về. Năm diễn ra phong trào Hồng vệ binh của học sinh sinh viên, nghe đồn Mao Chủ tịch sẽ đến núi Cảnh Cương thị sát, mấy triệu hồng vệ binh trên toàn quốc đều ‘rồ lên’ kéo nhau đổ về đó. Tàu hỏa chật cứng người, chẳng tìm nổi chỗ mà đặt chân. Khi ấy, Mã trọc cũng muốn đi. Bố cậu ta vừa nghe con trai nói đi gặp Mao Chủ tịch, thì thấy vinh dự quá còn gì, tưởng như cả mồ mả tổ tiên nhà họ Mã cũng sắp phun khói xanh tới nơi, nghĩ thế ông liền đồng ý cho cậu ta đi cùng hội mình. Trước khi đi còn dặn dò đủ thứ, lại cho hẳn một cặp sách trứng gà mang theo. Hội mình không len chân vào trong toa được đành phải bò lên nóc tàu ngồi. Mã trọc từ nhỏ chưa bao giờ bước chân ra khỏi cửa, càng chưa bao giờ được ngồi tàu hỏa, không biết rằng tàu còn phải đi xuyên qua lòng núi, khi đoàn tàu vừa chạy vào đường hầm, xung quanh lập tức tối thui như mực, cậu ta sợ hết hồn hết vía, quên mất mình đang ngồi trên nóc tàu lao nhanh, liền vụt đứng dậy định chạy trốn; kết quả đầu đập phải thành đường hầm. Cái chết quả là quá thảm khốc. Sau khi xuống tàu, hội mình liền quay trở lại đường hầm tìm thi thể cậu ta, cảnh tượng não óc vương vãi khắp mặt đất, có lẽ đến khi chết tớ cũng không thể nào quên được”.

Hải ngọng cũng thở dài nói:

- “Sau này mọi người mới vỡ lẽ, thì ra tin Mao Chủ tich đến thi sát ở núi Cảnh Cương chỉ là tin vịt, làm cậu Mã trọc chết, đúng là mẹ nó chứ, không đáng tẹo nào, cái thằng oắt đấy và tớ hồi nhỏ chơi khá thân với nhau, dính như hình với bóng, tớ toàn chăm sóc cậu ta”.

Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi:

- “Cậu đang tưởng chuyện trong mơ là sự thật đấy à? Sao tớ lại nhớ hồi đó cậu chuyên gia đi bắt nạt trẻ con nhỉ, cái cặp sách đựng đầy trứng gà mà Mã trọc mang theo, lúc tàu còn chưa kịp chuyển bánh, thì đã bị cậu oanh tạc mất một nửa. Rốt cục thì cậu thân thiết với Mã trọc hay thân thiết với mấy quả trứng gà nhà cậu ta hả?”

Hải ngọng vội phản ứng:

- “Tiên sư nhà cậu, cậu nghĩ thế thì còn nói làm chó gì nữa, chẳng phải bây giờ tớ đang ngồi trên nóc tàu hỏa buồn nẫu ruột tưởng nhớ đến thằng bạn cũ đây sao?”

Nói đoạn, anh trầm ngâm một lát rồi tiếp:

- “Bọn mình chịu đựng khổ cực thế này thực ra cũng chẳng thấm tháp vào đâu, nhưng cái chính là làm xong việc chỉ biết ngồi đờ đẫn trên nóc tàu, thật nghĩ mà nản, vả lại cả ngày bận tối mắt tối mũi cố kiếm chút tiền xương máu mà cũng chỉ đủ làm no cái bụng, bọn mình phải chịu cảnh này đến mùa quýt nào mới có ngày nở mày nở mặt ra được hả?”

Tư Mã Khôi gật đầu bảo:

- “Cái công việc tệ hại, bám theo xe lửa nuôi lợn cho anh em thuộc địa thực dân kia, tớ cũng chẳng muốn làm tí nào, tội nợ này đâu phải để con người chịu đựng. Tớ định sẽ đến Bắc Kinh để dò hỏi tung tích của ông Thắng Thiên Viễn, nhân tiện đi kiếm tí tiền, giải quyết vấn đề cơm áo trước mắt cái đã”.

Hải ngọng nghe đến tiền thì lập tức hào hứng hẳn lên:

- “Cậu có nơi nào kiếm ra tiền ở Bắc Kinh à?”

Tư Mã Khôi nói:

- “Năm xưa, chiếc áo khoác da chuột xích long tuấn mã mà Triệu Lão Biệt mang ra đổi chác với bọn mình, là một vật vô cùng hiếm có, suốt thời gian đi Miến Điện, tớ vẫn nhờ Hạ Cần giữ hộ, Bắc Kinh là thành phổ lớn, chắc sẽ dễ tìm thấy người mua nó.”

Nói là làm ngay, khi chuyến tàu vừa trở về Trường Sa là họ lập tức bỏ việc đến Bắc Kinh. Nhờ vào các mối quan hệ trước đây, hai người vừa dò la tin tức của ông Thắng Thiên Viễn, vừa tìm một số người thích sưu tầm bảo vật có thể mua chiếc áo lông chuột.

Năm ấy, đại Cách mạng Văn hóa tuy vẫn chưa kết thúc hẳn, nhưng Bắc Kinh vốn nổi tiếng là nơi “thế giới đa hệ”, con người trong thiên hạ có trăm phương ngàn kế mưu sinh khác nhau, kiểu gì mà chẳng tìm ra những kẻ chuyên mua bán đổi chác bảo vật nhân thời kỳ bài trừ tứ cựu(là chủ trương được đề ra trong đại Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, trong đó bốn cái cũ cần bài trừ la: tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ và tập quán cũ.), những người này rất am hiểu cái gì là xã hội, bọn họ không ai không tỏ tường cái lẽ: triều đại nào mà chẳng có khi biến động? Nếu cuộc sống lúc nào cũng thanh bình ấm no, thì đồ cổ cũng không thể lưu lạc xuống tận hang cùng ngõ hẻm, bị người ta trao đi đổi lại với cái giá bèo bọt chẳng khác gì mớ rau ngoài chợ. Có điều, thời thế chính trị biến động đến mấy thì sớm muộn gì cũng phải có ngày kết thúc, tới lúc ấy, mấy thứ cổ lỗ sĩ sẽ lập tức quay ngoắt tăng giá vùn vụt, có khi lãi gấp trăm gấp ngàn, lợi nhuận khổng lồ đến dễ dàng, chẳng khác gì từ trên trời tự dưng rơi vào mồm.

Thời xưa, người ta gọi những kẻ chuyên thu mua đồ cũ là kẻ “đánh trống con”, vì họ thường đeo một cái túi vải lớn trên lưng để đựng tiền, tay gõ vào mặt trống tròn dẹt to cỡ lòng bàn tay, vừa đánh trống vừa sục sạo khắp các ngõ ngách, phạm vi thu mua rất rộng, đồ đắt có khi là đồ cổ vàng ngọc, trang sức, tranh chữ… đồ rẻ tiền có khi chỉ là mấy cái nồi sứt bát mẻ, lông gà lông vịt vụn vặt. Nói tóm lại, chắng có thứ gì bọn họ không thu mua. Trong năm nghề tám nghiệp lưu hành ở Bắc Kinh cổ xưa, nghề này ỉuôn chiếm một phương, vì thế cho đến tận bây giờ những kẻ hành nghề thu mua vẫn rất hãnh diện với tên gọi cũ. Chỉ có điều, thời kỳ diễn ra đại Cách mạng Văn hóa họ chuyển sang hoạt động bí mật, không dễ gì lộ mặt ra ngoài, cho dù là người rất thông đường thuộc nẻo muốn tìm bọn họ cũng còn khó nữa là.

Gia thế của Tư Mã Khôi khác với người thường, cả thành Bắc Kinh có tên thu mua nào không biết anh là hậu duệ của gia tộc họ Trương, gốc gác đâu phải hạng xoàng. Muốn bán đồ tốt, bao giờ chủ nhân cũng phải kể tường tận ngọn nguồn gốc gác của nó, bởi vì mấy món này không phải từ trên trời tự dưng rơi xuống, càng không phải từ dưới đất bỗng chốc mọc ra. Nếu như tổ tiên ba đời nhà anh đều là phu khuân vác ở bến tàu, rồi một ngày anh đột nhiên mang một món đồ cổ có giá trị cực lớn đem đi bán, thì chẳng cần liếc, cũng có thể khẳng định chắc chắn nó là hàng nhái. Nhưng một người xuất thân từ gia đình giàu có danh giá thì lại khác, cho dù bây giờ người ta đã khuynh gia bại sản, nhưng không chừng, họ vẫn có thể moi móc được món đồ tốt từ một xó xỉnh ngóc ngách nào đó cũng nên, rồi mang ra chợ bán thì giá trị của nó đúng là thôi rồi.

Đúng như dự đoán, quả nhiên có mấy vị “đánh trống con” sau khi biết tin liền mời Tư Mã Khôi vào trong một ngôi nhà ở gần đầu phố bán đèn để xem hàng, một trong những vị đó có một lão sư phụ họ Lưu, tên thật là Lưu Hoài Thủy, người quen đều gọi chệch tên lão là Lưu Hoại Thủy, do lão có con mắt tinh tường thần khóc quỷ sầu nên còn được người ta đặt biệt hiệu Thủy ma trống. Tổ tiên sáu đời nhà lão Lưu Hoại Thủy đều xuất thân từ nghề đánh trổng con, thông tin này là có chứng cứ hẳn hoi, thậm chí có người còn đồn ngay từ thời Tống, nhà lão đã bắt đầu cai quản trường sinh khố (Trường sinh khố: thời Tống còn gọi là chất khố, gần giống với hiệu cầm đồ ngày nay.
), và chẳng ai ở đây có kinh nghiệm “đánh trống” dày dạn như lão.

Thủy ma trống đeo cặp kính lão, ăn mặc giản dị xuề xòa, chân đi giày vải, tay xách chiếc túi giả da kiểu cũ, trông chẳng lộ chút tông tích gì, nếu không phải người trong nghề thì ai nhìn cũng nghĩ lão đại khái là viên kế toán của một cơ quan nhà nước nào đấy. Người này từ trước đã đi lại khá thân mật với nhà họ Trương, còn những người mua khác đều do lão ta dắt mối đến, vừa nhìn thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải, bọn họ vội đến thỉnh an theo đúng quy tắc cũ, đã vậy cứ mở miệng là gọi Tư Mã Khôi một điều bát lão gia, hai điều bát lão gia.

Tư Mã Khôi biết đây chỉ là mấy lời khách sáo xã giao, chứ xã hội ngày nay làm gì còn ai coi ai là lão gia nữa, nhưng anh vẫn khiêm tốn từ chối:

- “Lưu sư phụ! Tôi không dám nhận cái danh này đâu, ông bác làm tôi tổn thọ rồi đấy!”

Lão Lưu Hoại Thủy cười cầu hòa đáp lời:

- “Từ thời ông nội tôi đã bắt đầu làm bậc tôi tớ cho nhà họ Trương, tuy xét về tuổi tác thì tôi có lớn hơn thật, nhưng xét về địa vì thì tôi ở hàng dưới, nhìn thấy lão gia không gọi bát lãogia thì còn biết gọi là gì? Thứ tự trên dưới trước sau không thể tùy tiện sắp đặt được. Chẳng hay chuyến này Bát lão gia về Bắc Kinh có mang theo món gì hay ho từ nhà ra không vậy? Nếu có thì mau bày ra cho bọn tôi được mở rộng tầm mắt”. Vì muốn kiểm thêm tí tiền, Tư Mã Khôi đã cùng La Đại Hải bịa sẵn một câu chuyện từ trước. Lúc này nghe lão Lưu Hoại Thủy hỏi, liền ra vẻ khó xử nói: “Chút sản nghiệp tổ tông nhà tôi để lại đã sớm tiêu tán từ lâu rồi, bây giờ ngay cả túp lều che nắng che mưa cũng chẳng còn, thì lấy đâu ra món gia truyền nào nữa. Có điều gia đình nhà trại chủ La Đại Hải đây lại có một món đồ lót đáy hòm đấy, các vị có nhã hứng thì cứ thử thưởng thức xem sao!”

Lão Lưu Hoại Thủy đeo cặp kính lão liếc mắt thầm đánh giá Hải ngọng, lão ta nhìn người rất tinh tường, vừa thấy khí chất và trang phục La Đại Hải vận trên người, liền khẳng định tên tiểu tử này ắt không phải hạng xoàng, có lẽ là cậu ấm con nhà quan chức nào đó, nhưng chắc chắn không phải hậu duệ của một danh gia vọng tộc thời xưa, mà cán bộ bây giờ phần lớn đều xuất thân tò thành phân công nông binh, làm gì có nổi món đồ gia truyền nào chứ? Nhưng chưa biết chừng đó là món đồ cướp được khi bài trừ tứ cựu cũng nên, nghĩ vậy lão bèn cất giọng dò hỏi:

- Chẳng hay Hải trại chủ đây, kiếm ăn ở núi nào?”.

La Đại Hải xua tay bảo:

- “Trại chủ với đầu lĩnh cái gì, hàng chục năm trước đã không còn ma nào xưng hô như vậy nữa, ông bác chỉ cần gọi tôi Hải ngọng là được rồi” .

Sau đó anh liền móc một viên ngọc trong túi quần ra, rồi tua lại nguyên văn lời thoại đã học thuộc lòng từ trước:

- “Ông bác đừng thấy bố tôi chỉ là ông nông dân chân lấm tay bùn vác súng khởi nghĩa làm cách mạng, tổ tiên tám đời chẳng có nổi bữa cơm dằn bụng mà coi thường, nói về chơi đồ cổ ấy à, chẳng dám so sánh với bậc chuyên gia lọc lõi như ông bác, nếu ông bác là phi công lái máy bay thì nhà tôi cùng lắm cũng chỉ là thằng trẻ ranh chơi thả diều. Nhưng tổ tông họ La nhà tôi, đời nào cũng toàn thiện nam tín nữ, tích cả tám đời ân đức, thì làm gì có chuyện không đế lại một hai món bảo bối trấn tà giữ nhà được chứ? Bây giờ món đồ đó truyền đến đời tôi, trong nhà quả đúng cũng chỉ có mỗi mình nó là đáng đồng tiền bát gạo mà thôi, tôi vốn dĩ cũng định di chúc lại cho con cháu đời sau, nhưng biết làm sao được, ai bảo tôi và bác có duyên với nhau làm gì, nếu bác ngắm ưng mắt thì cứ cho đại một cái giá, coi như món quà ra mắt để lấy chỗ đi lại, tôi cũng cam lòng nhịn đau mà chia sẻ nó cho bác”.

Lão Lưu Hoại Thủy lại hỏi:

- “Viên ngọc này của anh còn có truyền kỳ gì nữa không?”.

La Đại Hải nói:

- “Đương nhiên có chứ, viên ngọc này lai lịch vô cùng phi phàm đấy, nếu kể hết đầu đuôi câu chuyện cũng đủ khiến người ta phải sụt sùi rơi lệ. Năm đó khi ông bà già nhà tôi hãy còn trẻ, vẫn chưa tham gia cách mạng, cả hai chỉ là nông dân trồng lúa ở nông thôn, suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, cả đời chẳng mưu cầu điều gì ngoài việc tu nhân tích đức làm việc thiện. Có một lần, hai ông bà nhìn thấy một bà lão ăn mày từ ngoại tỉnh đến, hai tay ôm một cái gối hoa. Ông bà già tôi thấy bà lão tội nghiệp chẳng còn người thân nào trên đời, không nơi nương tựa liền động lòng trắc ẩn, quyết định đưa bà lão về nhà phụng dưỡng, hiếu kính chẳng khác gì mẹ đẻ. Có điều bà lão ăn mày từ đầu chí cuối không bao giờ tiết lộ cho ai biết mình từ đâu đến, trên người cũng không có vật gì khác ngoài chiếc gối luôn giữ khư khư bên minh như hình với bóng. Rồi bọn giặc quỷ đánh vào Trung Nguyên, ông già nhà tôi vứt bỏ cuốc cày tham gia Bát lộ quân, sau giải phóng thì cả gia đình tôi vào thành phố sinh sống, tất nhiên đưa theo cả bà lão ăn mày. Trước lúc lâm chung, bà lão trăng trối lại đôi ba câu với hai ông bà già nhà tôi rằng, các con nuôi dưỡng già bao nhiêu năm như thế, kiếp này chắc không còn cơ hội báo đáp nữa rồi, chỉ có mỗi một món trước đây già giấu kỹ trong gối, giờ để lại cho hai con mà thôi, các con phải cất giữ thật cấn thận, tuyệt đối không được làm mất đấy. Nói xong, bà lão liền từ biệt cõi đời. Ông bà già nhà tôi rất lấy làm rầu rĩ, vì người ta cho dù chẳng bị ai giám sát, nhưng làm việc gì cũng không được trái với lương tâm, không được thấy lợi mà quên nghĩa, bởi vì bất kỳ việc gì đều có trời chúng giám; như gia tộc họ La nhà tôi là gia đình tích đức, làm việc tốt không bao giờ chờ người ta trả ơn, sao bà lão ấy lại cứ nhất nhất phải để lại cho chúng tôi cái gối đó chứ? Sau khi tiễn bà lão về đất Phật, tối hôm ấy, ông bà già nhà tôi mới về nhà mở ruột gối ra xem, thì thấy bên trong lớp vỏ gấm thêu hoa kia, ngoài đống vỏ lúa mạch, thì chỉ có một viên ngọc tròn vành vạnh, cầm lên xem thì thấy nó tỏa sáng khắp cả nhà, lúc ấy mới hay viên ngọc đúng là một bảo bối, nhưng chẳng ai biết rõ lai lịch của nó. Mãi sau này ông bà già nhà tôi mới có cơ hội, mang viên ngọc đến viện bảo tàng cố Cung, nhờ một chuyên gia giám định, cuổi cùng cũng biết rõ nguồn gốc xuất xứ của nó. Khi quân liên minh tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hy thái hậu chạy trốn ra ngoài. Lão Phật gia phái sứ thần đi trước nghị hòa với bọn giặc Tây, nhưng bọn người Tây lại không dễ dàng thừa nhận viên sứ thần kia có thể đại diện cho lão Phật gia. Trong sổ chỉ huy quân liên minh có một tướng lĩnh từng diện kiến Từ Hy thái hậu, hắn ta vẫn nhớ trên đầu lão Phật gia có đội một chiếc mũ ngọc, trên đó gắn hai mươi bốn viên dạ minh châu, viên nào viên nấy tròn vành vạnh, đều như khuôn đúc, được gọi là nhị thập tứ kiều minh nguyệt. Thế là bọn chúng liền đưa ra yêu cầu cho triều đình nhà Thanh, bảo viên sứ thần đến nghị hòa phải mang theo một viên dạ minh châu làm tín vật. Từ Hy thái hậu không dám chậm trễ, lập tức gỡ một viên trên mũ xuống, lệnh cho một cung nữ thân cận bên mình mang đi, rồi sai ngự tiền thị vệ hỏa tốc cầm tín vật đến kinh thành, kết quả cô cung nữ đi được nửa đường thì chạy trốn, trà trộn vào nhân gian, từ đó lặn mất tăm mất tích. Sau việc này, Từ Hy thái hậu vô cùng tức giận, liền lệnh cho người truy bắt khắp nơi, nhưng thế nào cũng không tìm thấy viên ngọc đó nữa, “nhị thập tứ kiều minh nguyệt” cũng từ đấy khuyết mất một viên. Mãi cho đến những năm Dân quốc, lãnh chúa quân phiệt Tôn Điện Anh tiến hành vụ đào trộm mộ tai tiếng tại Đông Lăng của các hoàng đế Mãn Thanh, những lăng mộ bị xâm phạm có cả mộ Từ Hy thái hậu. Trong cỗ quan tài bằng gỗ kim tơ nam(là một loại gỗ quý, thuộc nhóm gỗ trinh nam, họ nguyệt quê, có vân gỗ màu vàng, bóng đẹp, thời xưa thường sử dụng làm đô đạc cho vua chúa.), móc ra được hai mươi ba viên dạ minh châu. Sau khi được rất nhiều chuyên gia kiểm định khảo chứng, ông bà già nhà tôi phán đoán: bà lão đã phụng dưỡng năm xưa, rất có khả năng là tiểu cung nữ chạy trốn khỏi cung, mang theo một viên dạ minh châu. Đáng tiếc là ông bà già nhà tôi thiếu hiểu biết, thêm vào đó môi trường bảo quản không được tốt, nên viên ngọc dần dần trở nên mờ tối, không còn hào quang như xưa, nên cũng chẳng còn mặt mũi nào mà đem hiến tặng cho tổ quốc, nhờ thế mới truyền đến được tay tôi. Tuy người ta vẫn nói, người sợ già, ngọc sợ ố, nhưng chí ít giá trị lai lịch của nó thì vẫn sờ sờ ra đấy, nó chính là một trong hai mươi bốn viên dạ minh châu mà nữ ma đầu Từ Hy thái hậu đã đội trên đầu năm xưa. Nếu ông bác thực sự có lòng muốn sở hữu nó, thì tôi cũng liều cắt da cắt thịt mà đem nó tặng cho bác vậy…”

Sau khi mọi người nghe xong, đều liên tiếp lắc đầu, chẳng ai buồn để mắt đến viên ngọc trên tay Hải ngọng, lão Lưu Hoại Thủy tỏ vẻ không hài lòng lắm, nói với Tư Mã Khôi:

- “Bát lão gia! Lão gia định đùa bọn tôi đấy à? Câu chuyện về hai mươi bốn viên dạ minh châu trước giải phóng đã bị người ta đồn ầm ĩ cả lên, nhưng đến tận bây giờ làm gì có ai tận mắt nhìn thấy viên nào đâu, nếu như nó thực sự tồn tại trên đời, thì chắc chắn cũng không thể có đoạn truyền kỳ giống như anh bạn của lão gia vừa kể”.

Tư Mã Khôi vốn chỉ có ý định bảo La Đại Hải kể câu chuyện này đế dò xem nước nông sâu thể nào, xem tình hình thì mấy vị đến coi hàng hôm nay có vẻ đều là những người trong nghề, không thể tùy tiện bịa đặt lung tung với họ được, thế là anh bèn lôi chiếc áo da chuột trong túi ra, trải lên bàn cho mọi người cùng chiêm ngưỡng:

- “Chỗ tôi còn một vật này nữa, có điều món đồ này hơi hiếm người biết đến, không rõ mấy bác có am hiểu xuất xứ của nó không?”

Lão Thủy ma trống vừa nghe chỗ Tư Mã Khôi còn một vật khác nữa, bèn hào hứng trở lại, lão cười hì hì:

- “Ít người biết thì càng hay chứ sao, nhóm đánh trống con chúng tôi còn có biệt danh kho không đáy, trên trời dưới đất không thứ gì chúng tôi không thu mua, lão gia cứ cho tôi xem kỹ trước đã…”

Hội Lưu Hoại Thủy thoạt nhìn chiếc áo da chuột thì đều thấy lạ, thầm nghĩ nếu muốn bán áo da thì phải đi tìm hàng bán quần áo chứ, huống hồ chiếc áo này lại được làm thủ công, đường kim mũi chỉ cũng chẳng mấy tinh xảo, tuyệt đối không phải thứ có trong nhà giàu, nhưng bọn họ càng nhìn càng kinh ngạc. Lão Lưu Hoại Thủy cầm áo trong tay, lật đi lật lại quan sát kỹ mười mấy lượt, mới nói với Tư Mã Khôi:

- “Bát lão gia, hàng này đúng là quá đỉnh, lão gia định bán giá bao nhiêu?”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi Thứ Sáu
Da Chuột Bách Niên


Lão Thủy ma trống biết chiếc áo khoác da chuột là một vật không hề tầm thường, lão ta hỏi Tư Mã Khôi: ‘Đây là chiếc áo da chuột bách niên trong rừng sâu núi thẳm, không biết Bát lão gia định giá bao nhiêu?”

Tư Mã Khôi định lùi một bước để tiến hai bước liền nói:

- “Lưu sư phụ, coi như tôi phục ông bác rồi đấy, ông bác quả là có nhãn lực hơn người, không ngờ lại nhận ra nó được làm bằng da chuột bách niên. Tôi vốn định nói nó là da của con xích long tuấn mã, nhưng xem ra không thể nào múa rìu qua mắt thợ được nữa. Thế ông bác thấy nó đáng giá bao nhiêu tiền?”

Lưu Hoại Thủy gật đầu bảo:

- “Nhìn lông và da của nó thì có lẽ nó là loại chuột lửa chuyên sống trong hang núi ở Quan Ngoại, chí ít cũng phải sống trên một trăm năm, nếu không thì không thể lột được nguyên miếng da to thế này. Trước đây vua Khang Hy ra ngoài đi săn vào mùa đông, đều phải đeo đôi găng tay da chuột lửa do sứ thần Triều Tiên Cống nạp, nên cho dù là những ngày giá tháng rét nhất trong năm thì tay vẫn ướt đẫm mồ hôi như thường, nhưng đôi găng tay ấy cũng chỉ to bằng nửa mảnh da chuột của lão gia mà thôi”.

Lão ta không vội bàn luận đến giá tiền, chỉ hỏi Tư Mã Khôi:

- “Chiếc áo da chuột này chắc hẳn phải có truyền kỳ gì đó chứ? Chẳng lẽ nó là vật tổ tiên nhà Bát lão gia để lại?”

Tư Mã Khôi biết rõ thị trường ở đây, nếu nói thẳng là vật do Triệu Lão Biệt trao đổi, thì cho dù chiếc áo khoác da chuột bách niên này có quý hiếm đến đâu, cũng vẫn chỉ là món hàng trong dân gian, không thể sánh với đôi găng tay da chuột lửa mà vua Khang Hy từng đeo. Lúc này, anh đành thuận miệng ba hoa khoác lác luôn một bài:

- “Lưu sư phụ à! Ông bác cũng biết rõ gốc gác gia đình tôi rồi đấy, chẳng giấu gì ông bác, chiếc áo khoác da chuột này đúng là cũng có chút lai lịch, nếu hôm nay không gặp được bác, thì cho dù người ta có mang long bào đai ngọc ra đổi, tôi cũng nhất quyết không bằng lòng. Nghĩ lại năm đó, thái tổ Cao hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích thời tiền Thanh lấy bảy đại hận tế trời, thu thập bộ hạ, lấy mười ba bộ áo giáp của cha để lại trang bị khởi nghĩa để chống nhà Minh, xông pha trăm ngàn trận mạc, cung tên vô tình, binh đao loạn lạc, không biết trải qua bao nhiêu trận chiến, nào là lấy Đồ Luân, diệt Ha Đạt, thôn tính Huy Phát, chinh phục Ô La, bình Diệp Hách, chém đầu tướng Ni Kham Ngoại Lan, tiêu diệt sạch liên minh chín bộ tộc Hải Tây Nữ Chân. Đó quả đúng là…”

Lão Lưu Hoại Thủy nghe đến đây thì nói chen ngang:

- “Khoan đã, Bát lão gia! Tôi phải chặn lời lão gia một tiếng, có phải lão gia định kể chiếc áo da chuột này là do thái tổ hoàng đế vô tình đi săn được trong núi, từ đó trấn hưng Quan Ngoại, nhưng cũng chính bởi người quên mặc chiếc áo này, nên mới bị đại bác của tên binh lược phó sứ, hữu tham chính nhà Minh là Viên Sùng Hoán bắn trọng thương ở dưới chân thành Ninh Viễn không? Lão gia chớ quên: chúng ta đều là người quen biết rõ gốc gác của nhau, mấy lời vờ vĩnh ấy miễn được thì xin miễn cho, theo như quan sát của tôi thì bộ lông da này được lột cách đây lâu nhất cũng không thể xa hơn thời Dân quốc được”.
Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng:

- “Tiên sư thằng cha này, gian gì mà gian từ xương gian đi, mắt còn tinh hơn cả cú vọ”. Anh biết không thể vòng vo tam quốc thêm nữa, bèn nói tuột ra sự thật: “Nó là vật được lấy từ miếu sơn thần trong lâm trường vùng Quan Ngoại, nói thế nào thì nói đây đúng là da chuột bách niên thứ thiệt đấy. Ông bác cứ xem thoải mái rồi cho một cái giá, nếu thấy thích hợp thì thôi tôi cũng thí cho ông bác, còn như không được giá thì tôi thà mang nó về làm ga trải giường cho xong”.

Lão Lưu Hoại Thủy là con cáo già lọc lõi. Từ trước giải phóng, lão ta đã bắt đầu sống nhờ vào bát cơm này, nên lão đã sớm nhận ra Tư Mã Khôi và Hải ngọng đang cần tiền gấp, lão chẳng lo chiếc áo khoác da chuột này lọt khỏi tay mình, bèn nói thẳng:

- “Chuột lửa sổng trong rừng sâu núi thẳm vốn dĩ đã là loài động vật vô cùng quý hiếm, chúng rất thích gặm nến sáp dầu thông, thông thường tuổi thọ có khi lên đến mười mấy năm. Nếu vị vương gia bối lạc thời tiền Thanh nào trong phủ có mảnh da chuột chỉ cần to bằng bàn tay, thì cũng đã mang đi giấu kỹ như bảo bối rồi. Chỉ có những con chuột lửa sống ẩn giật thành tinh cả trăm năm, mới có thể lột được một tấm da lớn và hoàn chỉnh thế này. Chiếc áo khoác của lão gia quả thực vô cùng quý giá. Nhưng không phải Thủy ma trống tôi ưa mượn gió bẻ măng, ăn chặn lúc người khác gặp khó khăn. Lão gia xin chớ quên bây giờ là thời thế nào, cho dù lão gia có mang cây đàn tì bà mà nàng Dương Quý Phi khi xưa vẫn ôm trong lòng, hay chiếc gối hình hổ phục của Tông thái tổ Triệu Khuông Dan đi nữa, nhưng lão gia cứ thử đi dò hỏi khắp Tứ Cửu thành này mà xem, ở đâu cũng chỉ tiên đồng cá con cả thôi, chẳng đắt hơn đám đồng nhôm sắt vụn là mấy. Món đồ này tuy rằng tốt thật, nhưng lại ít người biết đến nên rất khó bán được giá, người bình thường hầu như không hiểu giá trị của nó, người hiểu giá trị của nó lại chưa chắc có tiền để mua. Hai nhà chúng ta tuy rằng có mối thâm tình lâu năm, nhưng bây giờ chúng ta gặp nhau lại không đúng thời điểm. Trong cái xã hội này tình cảm đáng giá bao nhiêu tiền một cân chứ? Bởi thế nên cùng lắm tôi cũng chỉ có thể trả cho lão gia bấy nhiêu thôi…”, nói đoạn, lão ta xòe ra ba ngón tay ra, nói như đinh đóng cột: “Ba trăm đồng chẵn, không thể trả thêm, nửa cắc cũng không thêm, nếu lão gia đồng ý thí nó cho tôi, thì chúng ta cứ tiền tươi thóc thật mà trao ngay tại chỗ.”

Lúc bấy giờ, lương tháng của một công nhân bình thường chỉ có mấy chục đồng, như tiền công theo tàu hỏa nuôi lợn suốt chặng đường dài từ Trường Sa đến Quảng Đông cả đi lẫn về mới có hai mươi đồng, vì vậy ba trăm đồng nói nhiều cũng không nhiều, nhưng bảo ít cũng không hề ít. Tư Mã Khôi biết rõ chiếc áo da chuột bách niên này chắc chắn còn đáng giá hơn thế nhiều, nhưng bây giờ muốn được việc của mình nên đành phải nhịn đau để cho lão già Lưu Hoại Thủy chém một nhát, số tiền đó chí ít cũng đổi được dăm quả cà ba củ khoai vớ vẩn. Vả lại, nước xa không cứu được lửa gần, chiếc áo da chuột quý giá thì quý giá thật, nhưng đâu thể giải quyết được cơn đói trước mắt, trong tình hình này mà phải đi tìm những người mua khác thì cũng rất phiền phức. Thế là anh đành đồng ý nhượng lại chiếc áo khoác da chuột bách niên cho lão già Lưu Hoại Thủy, hai bên tiền trao cháo múc một cách chóng vánh.

Lão Lưu Hoại Thủy ngoác rộng cái mồm cười sung sướng như bắt được vàng, lão ta bảo người khác tản đi trước, rồi mới hỏi thăm xem mấy năm nay sau khi rời Bắc Kinh Tư Mã Khôi đi đâu, cuối cùng lão xem đồng hồ rồi thảng thốt:

- “Ái chà! đã chiều rồi cơ à, hai vị lão gia đã dùng bữa ở đâu chưa? Nếu chưa, thì hôm nay lão Lưu tôi xin được mời cơm, chúng ta đến quán Thiên Hứng làm đĩa gan xào nhé!”

Hải ngọng gạt ngang:

- “Mấy cái thứ nội tạng ấy thì có gì ngon cơ chứ? Ông già nhà tôi trước đây hay đi họp ở Bắc Kinh, lúc về nhà kể rằng trình độ nấu nướng của mấy tay đầu bếp trong khách sạn Kinh Tây khá ổn, ăn cũng vừa miệng. Tôi cứ tơ tưởng mãi chuyện này, đâu phải chỉ một hai ngày, bây giờ khó khăn lắm mới đặt chân được tới đât Bắc Kinh, hay là Lưu sư phụ dẫn anh em tôi đến đó một chuyến cho mở mang tầm mắt?”.

Lão già họ Lưu chần chừ đáp:

- “Khách sạn Kinh Tây là nơi để tiếp đãi các bộ trưởng đến họp hành, dân thường chúng ta ăn cơm chẳng phải chỉ để cho no cái bụng thôi sao? Cần gì đến tiêu chuẩn cao thế, vả lại ăn gan xào và ăn nội tạng là hai việc khác nhau, nếu lão gia không đến quán Thiên Hứng ăn thử món gan xào, thì cũng coi như uổng phí chuvến đi đến Bắc Kinh này đấy!”

Tư Mã Khôi còn đang nóng lòng muốn dò hỏi một số chuyện tò Lưu Hoại Thủy, vừa hay lại có thể trò chuyện nhân lúc ăn uống, bèn nói:

- “Thôi, đi Thiên Hứng làm gì cho xa xôi, tôi thấy ngay ở đầu ngõ có một quán xào thập cẩm, chúng ta cứ đến đó ăn để ứng phó chốc lát với cái dạ dày là được rồi.”

Thế là ba người liền kéo nhau ra đầu ngõ, vào một tiệm ăn nhỏ ở ven đường, gọi hơn một cân dạ dày xào, lão Lưu Hoại Thủy vẫn mơ tưởng đến việc tìm hiểu xem Tư Mã Khôi có còn báu vật gia truyền nào nữa hay không, bèn vừa ăn vừa dò hỏi, nhưng Tư Mã Khôi không để ý đến, mà hỏi ngược lại:

- “Lưu sư phụ, nghe nói sau giải phóng, ông bác vẫn nhúng tay làm mấy vụ cạo đỉnh cho người ta, có thật vậy không hả?”

Lão Lưu Hoại Thủy cười hì hì đáp:

- “Bát lão gia nắm bắt thông tin cũng nhanh nhạy thật đấy, nói thế cũng phải…”

Hải ngọng nghe không hiểu đầu cua tai nheo, bèn hỏi:

- “Cạo đỉnh gì thế? Lưu sư phụ! Ông bác mang quả kính lão to tổ bố này… đi cắt tóc cho con người ta ấy à?”

Lão Lưu Hoại Thủy vừa nói vừa kéo tay áo, rồi làm động tác như đang lấy xẻng cào đất:

- “Cạo đầu thì cạo chứ sao, có điều cái tôi cạo không phải là đầu người, đội khai quật khảo cổ chuyên môn đi cạo đầu cho mồ mả, tôi làm chân thợ xẻng cho các bậc chuyên gia đó, cũng coi là một tay bay có tiếng đấy!”

Tư Mã Khôi thấy đã hỏi đúng người đúng việc, bèn tiếp tục dò la:

- “Thế ông bác có biết một vị Hoa kiều mới từ Pháp về, tên là Thắng Thiên Viễn không? Ông ta là chuyên gia khảo cổ sa mạc và điền hoang. Sau khi về nước, có lẽ ông ta….”

Nào ngờ, Tư Mã Khôi mới hỏi được một nửa, thì lão Lưu Hoại Thủy đã bảo: “Ông chủ Viễn à? Tôi quen quá đi chứ, ông ấy không phải người tầm thường đâu, nói thế nào nhỉ….cái nắm xương già này của tôi cũng do ông ấy cứu về đấy!”

Thì ra hội lão Lưu Hoại Thủy đều là những bậc cao thủ độc môn do tổ tông truyền lại, có kẻ giỏi làm hàng giả, có kẻ giỏi trộm mộ, giám định đồ cổ cũng là một cái tài. Bọn họ hiểu sơn kinh, tường thủy pháp, nhờ vào kinh nghiệm phong phú, họ chỉ cần đi lòng vòng trên đồng hoang, đứng lại nhìn mấy cái, bốc nắm đất lên hít vài hơi là có thể phán đoán dưới đất có cổ mộ hav không, ngay cả xẻng Lạc Dương cũng không cần dùng đến (xẻng Lạc Dương là loại xẻng đặc dụng, một loại công cụ khao cô học, phần đầu là một đoạn sắt hình lòng máng, cạnh sac bén, dưới có cán cầm, cán có thể nối dài, dùng để đào giếng hoặc đào sâu lấy mẫu đất ) .
Sau giải phóng, nhóm người này đương nhiên khó lòng lọt lưới pháp luật, tất cả đều bị cơ quan công an tóm cổ nhốt vào nhà đá chờ định tội, một số tên phạm tội nghiêm trọng đều bị chính phủ xử bắn.

Năm 1953, giáo sư Thắng Thiên Viễn về nước, ông liên tiếp chủ trì một số hoạt động khai quật khảo cổ, nhưng trợ thủ có kinh nghiệm lại quá ít ỏi, không tiện điều động xử lý công việc. Ông bèn viết báo cáo xin phóng thích một số phạm nhân có tình tiết phạm tội tương đối nhẹ, cho họ cơ hội lấy công chuộc tội, phục vụ nhân dân. Thế là hội lão Lưu Hoại Thủy liền được thả ra khỏi trại giam, bọn họ luôn đi theo giáo sư Thắng Thiên Viễn làm trợ thủ và công nhân thời vụ. Sau này, rất nhiều nơi học theo chính sách này, mời một loạt các cao nhân thời cũ vào đội khảo cổ trợ giúp công tác khai quật, nhưng theo quy định có liên quan, những người này không được phép chuyển đổi thành nhân viên chính thức, tất cả đều do Cục lao động nhất loạt quản lý và được trả công theo chế độ đãi ngộ như nhân viên tạp vụ lo trà nước điếu đóm.

Khi đại Cách mạng Văn hóa của giai cấp vô sản bùng nổ toàn diện, tuyệt đại đa số cán bộ và thành phần trí thức làm việc trong các bảo tàng và vụ viện đều bị đẩy xuống vùng nông thôn cải tạo tư tưởng, chỉ có những công chức bệnh tật già yếu mới được giữ lại đơn vị cũ. Hội lão Lưu Hoại Thủy vì thuộc thành phần giai cấp công nhân, toàn bộ hồ sơ trước đây đều bị hỏa hoạn thiêu cháy, nhờ vậy mới thoát nạn, đồng thời được sắp xếp làm công tác quét dọn nhà vệ sinh trong thành phố. Bọn lão che giấu thân phận thật sự, cúp đuôi làm người, lén lút mua bán đồ cổ.

Chính bởi vậy, lão Thủy ma trống mới không quên ân nghĩa sâu nặng của giáo sư Thắng Thiên Viễn. Theo lời kể của lão, giáo sư Thắng Thiên Viễn là người có tư tưởng phóng khoáng, hòa đồng với mọi người, tuy thân là bậc lãnh đạo, lại từng đến Việt Nam, Ai Cập. Là chuyên gia khảo cổ tầm cỡ quốc gia, nhưng ông không bao giờ tỏ ra hống hách với cấp dưới. Nhiếp ảnh, khiêu vũ, sưu tầm, cưỡi ngựa, săn bắn… thú vui nào ông cũng yêu thích, chơi cái gì cũng kiệt xuất, làm cái gì ra cái nấy, lại không đạo đức giả như những bậc trí thức bình thường khác, cũng không ưa mặc đồ tây, đeo đồng hồ đắt tiền, phong thái lúc nào cũng nho nhã ung dung, bởi vậy hội lão vẫn ngầm gọi giáo sư là ông chủ Viễn. Nhưng lúc ông chủ Viên cùng đội khảo cổ ra hiện trường làm việc, thì lão Lưu tận mắt chứng kiến giáo sư phăng phăng vượt núi băng rừng bằng chân đất, mùa hè không gạt mồ hôi, mùa mưa không giương ô che, bất luận điều kiện làm việc gian khổ thê nào, ông cũng không hề nhíu mày lấy một cái, nên không ai là không kính phục ông.

Có điều, năm 1963 thì ông chủ Viễn không còn nữa. Đôi lúc nghĩ đến việc này, trong lòng lão lại thấy rầu rầu, muốn tìm chỗ không người gạt trộm nước mắt.

Tư Mã Khôi nghe lão Lưu Hoại Thủy nói rất khó hiểu, cái gọi là “không còn nữa” là ám chỉ đã chết hay là mất tích? Người đang sống sờ sờ sao tự nhiên lại không còn nữa? Anh bèn hỏi: “Ông bác có biết tường tận những chuyện liên quan đến ông chủ Viễn không?”
Lão Lưu Hoại Thủy nhớ lại đoạn ký ức đáng sợ, gương mặt phút chốc trầm hẳn xuống. Lão ra quầy phục vụ gọi thêm chai Nhị Oa Đầu và hai cốc bia. Sau khi uống ừng ực vào bụng, khuôn mặt già nua của lão liền đỏ phừng phừng, lúc này mới bắt đầu bật loa rè:

- “Năm đó ông chủ Viễn đã căn dặn việc này là bí mật quốc gia, lẽ ra tôi không được phép tiết lộ, nhưng Bát lão gia đâu phải người ngoài, giữa chúng ta làm gì có chuyện nào không thế nói được? Lão gia xem ma trống tôi sống đến ngần này tuổi đầu, lúc trẻ gan dạ liều mạng, thường xuyên chui xuống hầm mộ lật nắp quan tài, cả đời làm bạn với đống xương người, có chuyện quái lạ nào tôi chưa từng gặp? Nhưng chuyện xảy ra năm 1963 thực sự quá sức tà mị, đến tận bây giờ thỉnh thoảng hồi tưởng lại, cho dù giữa ngày hạ chí cũng vẫn lạnh toát mình mẩy…”

Tài nghệ và nhãn lực của lão Lưu Hoại Thủy quả thực có điểm hơn người, không những thế lại có tuyệt kỹ phác họa cha truyền con nối. Cái gọi là phác họa, tức là dùng giấy bút phác thảo sơ qua các bức bích họa hay phù điêu cổ, thông thường những kẻ giỏi làm đồ giả cổ đều biết kỹ thuật này, vẽ làm sao phải toát ra được cả hình dáng và thần thái của vật, đủ làm người khác nghĩ giả là thật, đôi lúc các bức bích họa trong địa cung huyệt mộ hoặc các bức họa màu trên nắp quan tài, sau khi đột ngột tiếp xúc với không khí sẽ nhanh chóng chuyển từ nét tươi tắn rõ ràng sang mờ mịt ảm đạm. Lão Lưu Hoại Thủy có bản lĩnh phục hồi nguyên dạng những bức họa mờ mịt đường nét trên giấy vẽ.

Cũng chính bởi tài năng đó nên giáo sư Thắng Thiên Viễn vô cùng xem trọng lão. Mỗi lúc ra ngoài làm việc, giáo sư thường dẫn lão theo làm trợ lý cho mình. Cuối hè năm ấy, đúng lúc thời tiết nóng bức đỉnh điểm, lão Lưu Hoại Thủy cùng đội khai quật khảo cổ – do giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đầu, đang làm việc trong động đá ở núi Mạch Tích thuộc tỉnh Cam Túc thì đột ngột nhận được lệnh của cấp trên, yêu cầu giáo sư Thắng Thiên Viễn cùng mọt trợ lý lên xe quân sự rời khỏi vị trí, không được phép hỏi đi đâu cũng không được phép hỏi đi làm việc gì, lúc ra đến cửa đã thấy xe chờ sẵn ở bên ngoài.

Giáo sư Thắng Thiên Viên liền gọi Lưu Hoại Thủy đi cùng, hai người vội vàng mang theo những vật dụng càn thiết, lên chiếc xe Zeep quân dụng mà quân đội cử đến đón. Đoạn đường xe băng qua toàn là đường hầm và đường núi quanh co, càng đi càng thấy hoang vu hơn, cuối cùng xe đi vào bên trong một ngọn núi lớn, ven đường không còn nhìn thấy nửa bóng người nào nữa.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi Thứ Bảy
Máy Bay Iliushin


Giáo sư Thắng Thiên Viễn phát hiện hai bên đường giăng đầy biểu ngữ, khẩu hiệu của quân giải phóng. lúc ấy mới biết đây là con đường quân sự chuyên biệt.

Điều khiến người ta bất ngờ hơn là, điểm tận cùng của con đường không dừng lại ở chân núi, mà dừng lại trong lòng một ngọn núi cách mực nước biển chừng hai ngàn mét bên trong có vài hầm phòng không cỡ lớn. Sau khi xuống xe. hai người được sắp xếp nghỉ ngơi tại một hầm phòng không, đồng thời ngồi đợi những thành viên khác của đội khai quật khảo cổ đến đông đủ. xung quanh chỗ nào cùng là khu vực giới nghiêm quân sự, canh phòng hết sức cẩn mật, không đuợc phép tùy tiện đi lại.

Giáo sư Thắng Thiên Viễn đành ờ lại trong hầm, không thể quan sát tình hình bên ngoài, ông chỉ biết thầm đoán mò:

- “Hay bộ đội công trình đào được ngôi cổ mộ nào đó khi thông đường hầm? Nhưng sao trước đây không hề nghe thấy tin tức gì về vụ này nhỉ?”

Chừng một ngày trôi qua, những thành viên còn lại lần lượt tề tựu đông đủ, phần lớn các thành viên đều bị điều động bất thường từ các cơ quan đơn vị khác nhau, giữa họ không hề có mối quan hệ ràng buộc nào, cũng không ai hay nội tình chi tiết của nhiệm vụ lần này, người nào người nấy đều lộ sắc mặt hồ nghi, khó hiểu.

Trước tiên, mọi người phải để lại toàn bộ đồ đạc tùy thân ở hầm phòng không, đồng thời đăng ký lĩnh các trang thiết bị và công cụ cần thiết, sau đó tất cả được dẫn ra khỏi hầm. Vừa ra khỏi hầm, họ đã thấy trong núi sâu không hề có ngôi mộ cổ nào, mà chỉ có một sân bay quân sự chuyên dụng được xây dựng trên đỉnh núi, đường bay và kho máy bay đều ngụy trang kín đáo, quy trình cất cánh và hạ cánh được thực hiện ngay trên núi. Vừa lúc này, mọi người nhìn thấy một chiếc máy bay vận tải chiến thuật không quân – do Liên Xô chế tạo của hãng Ilyushin, đang đỗ trên đường bay đợi lệnh, xem ra mục tiêu mà đội khai quật khảo cổ cần đến rõ ràng cách đây rất xa.

Lão Lưu Hoại Thủy trong lòng luôn cảm thấy bất an. Trước đây có lần lão được nghe giáo sư Thắng Thiên Viễn kể lại, mỗi lần động binh trên không, chí ít phải có hai chỉ huy quân khu cùng ký cam kết thực hiện mệnh lệnh, thì máy bay mới được xuất phát. Không biết lần này đội khảo cổ rốt cục bị điều đến nơi nào? Sẽ phải đối mặt với nhiệm vụ đặc biệt gì? Có điều, cơ sự đã đến nước này, lão cũng không thể nghĩ nhiều hơn, đành theo đoàn lên máy bay. Gương mặt tất cả hành khách ngồi trong khoang đều toát lên vẻ căng thẳng, lo âu, không ai to nhỏ với ai câu nào, cả máy bay lặng phắc như tờ.

Trước đây, lão Lưu Hoại Thủy chưa bao giờ ngồi máy bay, nên khó tránh khỏi cảm giác thắc thỏm, lão bèn hỏi giáo sư:

- “Ông chủ Viễn này, nghĩ khi Bắc Kinh vẫn còn gọi là Bắc Bình ấy mà, có một chiến đấu cơ của bọn Nhật rơi xuống ngay gần cầu Lô Câu. Anh em bọn tôi cứ thấy chỗ nào náo nhiệt là sà đến, nên nghe tin một cái liền vội vàng đua nhau chạy ra xem sự lạ, và cũng vì chuyện này mà bị bọn hiến binh Nhật quát cho một trận nên thân, suýt chút nữa còn bị bọn chúng tóm cổ mang đi xử bắn. Khi ấy, tôi còn tận mắt chứng kiến, mấy tên tiểu quỷ trong bụng máy bay bị ngã nát bét chẳng còn hình dạng gì cả. Con chim sắt đang chở chúng ta bây giờ đúng là to hơn chiên đâu cơ của bọn Nhật nhiều, nhưng liệu nó có mang nổi ngần này người không vậy? Ngộ nhỡ đang bay trên cao mà đột nhiên động cơ chết máy, thì chẳng phải cả lũ đều bị rơi xuống hết à?”

Trước khi lên máy bay vài ngày, giáo sư Thắng Thiên Viễn được triệu tập tham gia một cuộc họp bí mật, như ông đã biết mục tiêu hành động của đội khai quật khảo cổ lần này, nên quay sang an ủi lão Lưu Hoại Thủy, ông bảo: “Ở Trung Quốc có rất nhiều điều cấm kỵ ví dụ điều húy kỵ của dân đi biển là không được nói từ chìm khi đang trên tàu, kỳ thực ở nước ngoài người ta cũng thế, đi máy bay cũng kiêng không nói đến hai từ rơi xuống, còn mãi tận bây giờ ngành hàng hải nước Anh vẫn không dám nhắc đến con tàu Titanic, vì e sợ nói nhiều sẽ gặp phải thảm họa tương tự như con tàu đó. Tất cả những điều này đều xuất phát từ ám thị cá nhân sản sinh do tác động tâm lý. Tuy rằng trên thế giới không tồn tại nơi nào tuyệt đối an toàn, nhưng chỉ cần suy nghĩ của anh hướng đến mặt tốt đẹp của vấn đề, thì sẽ không thấy lo lắng nữa. Loại máy bay này do Liên Xô chế tạo, nó là máy bay vận tải hai động cơ với một cấu trúc kim loại, một tầng cánh, một bộ phận đuôi thông thường, cơ cấu ba bánh đáp. Nó cho phép đạt tầm nhìn tốt hơn khi chạy trên đất và hạ cánh, trang bị hai động cơ diesel ACh-31, vì thế xác xuất xảy ra sự cố là rất thấp. Máy bay có hai động cơ, nên nếu bị hỏng một chiếc thì chiếc còn lại vẫn có thể tiếp tục hoạt động bình thường, vả lại khi nãy tôi có gặp anh phi công lái máy bay. Vị cơ trưởng của chiếc Ilyushin này là một phi hành gia lão luyện, từng tham gia cuộc chiến tranh viện trợ Triều Tiên chống Mỹ, kinh nghiệm bay rất dày dạn, hơn nữa điều kiện thời tiết hôm nay cũng rất tốt, trời trong nắng ấm, chiếc Ilyushin-12 này lại được kiểm duyệt rất nghiêm ngặt trước khi cất cánh, tuyệt đối không thể xảy ra sai sót gì đâu.”

Thế là, không lâu sau, chiếc Ilyushin-12 nhận lệnh cất cánh, động cơ diesel hai kỳ lao vùn vụt khỏi đường bay rồi hòa mình vào không trung. Lúc này, lão Lưu Hoại Thủy mới nghe được một tin, cũng không rõ có chính xác hay không, đại khái là có phân đội trắc họa nào đó nhận lệnh tìm kiếm một dòng sông cổ đã mất tích nhiều năm về trước, nằm trong địa phận viền tây nam của sa mạc Lopnor, đồng thời phải trắc họa bản đồ quân sự một cách tuyệt đối chuẩn xác, vì khu vực đó vô cùng phức tạp, đến giờ vẫn chưa được đo vẽ trên bản đồ, có thể nói nó là vùng mù trên bản đồ địa lý. Giáo sư Thắng Thiên Viễn rất am hiêu lịch sử Tây Vực cũng như địa lý cổ đại, bởi vậy ông cũng bị điều đi tham gia lần hành động này. Ngoài ra ông còn có nhiệm vụ theo đoàn đánh giá các di tích lịch sử dọc đường đi, nếu cần thiết còn phải áp dụng những biện pháp khai quật mang tính giải cứu kịp thời. Thời gian gần đây, các thế lực phản động trong và ngoài nước hoành hành dữ dội, ngay gần khu vực cấm địa quân sự mặt phía bắc sa mạc, phát hiện một số phần tử khả nghi hoạt động khá thường xuyên. Để giữ bí mật với thế giới bên ngoài, đồng thời cũng nghĩ đến sự an toàn của các thành viên trong đội, nên cấp trên mới quyết định sử dụng máy bay đưa đội khảo cổ đến nơi quy định.

Lão Lưu Hoại Thủy phấp phỏng không yên, mỗi lần máy bay rùng lên một nhịp, toàn thân lão lại đầm đìa mồ hôi lạnh, lão gắng kiềm chế cảm giác choáng váng đưa mắt nhìn ra tầng không qua ô cửa sổ nhỏ. Chiếc Ilyushin-12 đang bay với tốc độ 340km/h, xuyên qua Ngọc Môn Quan, Cam Túc, hướng sang phía tây bắt đầu đi vào không vực của sa mạc Kumtag, Tân Cương. Qua ô cửa sổ máy bay, chỉ nhìn thấy bầu trời xanh trong như ngọc, mặt đất trải dài những cồn cát vàng miên man đến vô tận, đụn cát nhấp nhô như những vạt sóng, tầng tầng lớp lớp nếp gấp ánh lên màu vảng kim chói lóa dưới cái nắng gay gắt phản chiếu của mặt trời.

Có lẽ đúng là ghét của nào trời trao của ấy thật, chuyện phải xảy ra, sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra, chiếc Ilyushin-12 đang bay trên bầu trời đột nhiên rung chuyên dữ đội, thân máy bay bắt đầu nghiêng sang một bên, không ngừng lắc lư chao đảo, đèn cảnh báo màu đỏ trong khoang máy bay liên tục nhấp nháy, như một điềm báo chẳng lành, rồi một loạt âm thanh rền vang như sấm dội ầm ầm truyền đến, nó tiếp xúc với phần trên của máy bay tạo ra tiếng va chạm “két két két”.

Mọi người đều đang thắt chặt dây an toàn, nhờ vậy mới không ngã gãy cổ, giáo sư Thắng Thiên Viễn thấy tình hình không ổn, bèn vội vàng hỏi viên phi công:

- “Máy bay xảy ra chuyện gì thế hả anh?”

Viên cơ phó Dương Tam Hỉ cho biết:

- “Ilyushin – 12 đang bay trên không trung thì gặp phải sự cố bất ngờ, hiện tại đã hoàn toàn mất kiểm soát, có khả năng chúng ta sẽ bị rơi xuống bất cứ lúc nào.”

Mọi người đều phát hiện thấy tình hình bất ổn, phía trên máy bay lại phát ra những âm thanh ầm ầm, nghe như tiếng sấm vần vũ, nhưng lúc này bầu trời vẫn trong xanh như mới được gột rửa, không trung thăm thẳm tựa ngọc bích, thì sao có thể xuất hiện sấm lớn? Bên ngoài khoang vẫn không dứt vang lên những âm thanh giống tiếng rạn nứt của kim loại, dường như giữa trời cao có một vật gì rất to lớn rơi trúng nóc máy bay và đang tìm cách xé rách lớp vỏ thép để chui vào trong.

Các thành viên trên máy bay run lẩy bẩy. Tuy thỉnh thoảng cũng có những chiếc máy bay đen đủi vì đâm phải đàn chim trời mà bị rớt xuống đất; nhưng vị trí hiện tại cua Ilyushin-12 đang ở vùng trên không cách rất xa mặt đất, không khí tương đối loãng, nên đừng nói những loại chim thông thường mà ngay cả loài chim ưng tuyết, một mãnh điêu vô cùng to lớn sống ở Himalaya, cũng không dám liều mình đâm sầm vào con chim sắt quân sự ở giữa bầu trời này được; còn nếu quả thật tồn tại một thứ gì đó thì rốt cục nó là quái vật phương nào mà có sức khỏe phi thường như thế?

Ilyushin-12 cũng được trang bị dù để đề phòng tình huống xấu xảy ra, trong khoang máy có lắp đặt ba lô dù bộ binh chuyên dụng, nhưng lúc này không ai dám liều mạng mở dù nhảy ra khỏi cửa thoát hiểm. Mọi người đành phải ở nguyên vị trí và nghe theo số trời định đoạt. Chiếc Ilyushin-12 mất kiểm soát, giống như con thuyền chấp chới trước sóng dữ bị nước đánh lúc dềnh lên lúc chìm xuống, những cú rung lắc dữ dội khiến cơ thể ai nấy đều vật vã nghiêng ngả, đầu óc quay cuồng choáng váng, chân tay mềm nhũn, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, có người không chịu được liền nôn mửa từng hồi, người khác khắc chế nổi nỗi sợ hãi bằng cách nhắm nghiền hai mắt, hai hàm răng va vào nhau lập cập như xả súng.

Cuối cùng, trong tiếng ầm ầm sắc nhọn kích thích mạnh mẽ đến vỏ não, tất cả hành khách trên máy bay đều ngất xỉu. Nhưng khoảnh khắc sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, dường như chỉ một vài giây thậm chí còn ngắn hơn, rất nhanh sau đó, mọi người đều lần lượt tỉnh lại. Lúc này, chiếc Ilyushin bắt đầu rơi tự do; không biết từ lúc nào cánh quạt bên trái máy bay bén cháy, cột khói đen bốc cao ngùn ngụt. Lúc này, trời đã chuyển sang trưa, mặt đất khô rang không một giọt nước, nhiệt độ lên đến bốn mươi năm mươi độ C; từ trên cao nhìn xuống chỉ thấy sa mạc Kumtag bao la bát ngát, dải cát vàng chuyển màu đỏ quạch dưới ánh mặt trời chói chang. Chiếc máy bay mất kiểm soát đang xuyên qua những lớp sóng nóng bỏng, lao vùn vụt xuống sa mạc.

Cơ trưởng họ Đinh, tên đầy đủ là Đinh Đắc Căn, ông nguyên là học viên khóa III của Học viện không quân Đông Bắc, hiện là sư đoàn phó Sư đoàn vận tải độc lập không quân, thời kỳ tiếp viện Triều Tiên kháng chiến chống Mỹ, ông từng lái chiếc chiến đấu cơ MiG-15, nhiều lần trực tiếp giao chiến với bọn lính dù Mỹ trong đại chiến thứ thế giới thứ hai. Ông không chỉ có kinh nghiệm bay dày dạn, mà tố chất tâm lý cũng rất vững vàng.

Cơ trưởng Đinh Đắc Căn phát hiện động cơ diesel của cánh quạt và bộ phận cất cánh bên trái bị hỏng, không thể tiêp tục bay lên cao được nữa, nên độ cao càng lúc càng hạ thấp. Ông lập tức quyết định mạo hiểm hạ cánh xuống sa mạc. Lúc này, máy bay đã vượt qua một dải núi cát lơn, tận cùng tầm nhìn lộ ra lòng sông cổ nhuốm màu đỏ cam, từ trên không nhìn xuống, phàng phất giống một vết rạn nhỏ chạy ngoằn ngoèo bất quy tắc, nổi lên trên biển cát vàng mênh mông. Do thảm thực vật sinh tồn ở đây khá đông đúc, vả lại xung quanh lại có vô số cồn cát trải dài nhấp nhô tương đối kiên cố, nên dòng sông thủy chung chưa bị dòng cát vàng di động che lấp hẳn. Trước khi mạch nước hoàn toàn cạn kiệt, có thể nó đã từng là ốc đảo chuyển tiếp giữa sa mạc và hồ muối, cũng có thể là di chỉ của một dòng chảy cổ đại nào đó; nhưng đến ngày nay, tất cả những gì còn sót lại chỉ là những triền cát vàng hoang lương ngút ngàn tầm mắt, và không còn chút ý nghĩa nào đối với các lữ khách lầm đường lạc bước trên sa mạc, và cũng có thể chỉ trên bản đồ quân sự có kích thước siêu lớn mới nhìn thấy sự tồn tại của nó.

Trong khi cơ trưởng Đinh Đắc Căn và cơ phó Dương Tam Hỷ chưa kịp quan sát kỹ, thì chiếc Ilyushin-12 đã mang theo cột khói đen sì chúi đầu xuống lòng chảo sông khô cạn, với độ cao và tốc độ khiến các phi hành gia không thể làm gì hơn với bàn lái, thậm chí còn không kịp tiến hành điều chỉnh động cơ, chỉ biết cố gắng giảm tốc độ lại một cách tối đa. Chiếc máy bay chao đảo nghiêng ngả, rồi đâm sầm xuống lòng sông cổ.

Cát vàng, cỏ khô um tùm cùng với những vết rạn khô nẻ trên lòng chảo, vô tình trở thành lực ma sát khiến tốc độ trượt của máy bay được cản lại đáng kể, chỉ có điều động cơ cánh quạt và bộ phận cất cánh đều bị cát mắc vào. Theo quán tính, thân máy bay vẫn lao mạnh vê phía trước, tạo thành một rãnh trượt dài sâu hoắm trên lòng sông. Đồng chí đoàn trưởng điều khiển hạ cánh vô cùng chuẩn xác, thao tác hợp lý, nên tuy tiếp đất có hơi nặng nhưng máy bay không hề bị bốc lửa hay cháy nổ, chiếc Ilyushin-12 hoàn toàn bình an vô sự.

Những thành viên may mắn sống sót, lũ lượt dìu nhau chui ra ngoài khoang. Lúc này, ánh mặt trời gay gắt ban ngày đã dịu nhạt hơn, khắp nơi chỉ còn những quầng nhiệt lay lắt sót lại. Lòng chảo sông khô cạn và dải cát sa mạc chạy dài hai bên không hề tồn tại bất kỳ dấu tích nào của sự sống. Nền trời trong vắt xanh thẳm, bầu không trung không có một sợi gió, không gian tĩnh lặng tràn ngập sự chết chóc và cái nóng như thiêu như đốt khiến người ta tưởng chừng không thể chịu đựng nổi.

Lão Lưu Hoại Thủy đến tận bây giờ vẫn còn cảm thấy khiêp sợ khi nghĩ đến tình cảnh lúc đó, cũng may cơ trưởng lúc đó là ông Căn nên cả đoàn mới giữ được tính mạng. Sau này, nghe người ta nói lại, lão mới biết loại bay Ilyushin-12 do Liên Xô chế tạo, có hai nhược điểm chí mạng về mặt thiết kế, một trong số đó là thùng chứa nhiên liệu chính được bố trí ở phần đáy bụng máy bay, đồng thời không thể tiến hành bơm xăng trên không, và trong sa mạc cũng không thể kỳ vọng vào bộ bánh hạ cánh, khi máy bay phải bắt buộc hạ cánh, nên chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng cọ sát dữ dội do tiếp xúc với đất cát. Bất luận có thể tiếp đất bình an hay không, chỉ cần thùng xăng bị hư hỏng một chút, đồng thời ma sát tạo ra tia lửa nhỏ thôi, cũng đủ đế toàn bộ chiếc máy bay bốc cháy rồi phát nổ. Chỉ những người có trình độ kỹ thuật và lòng dũng cảm xuất chúng, mới có thể phản ứng một cách thần tốc và mạo hiểm trước tình hình gấp gáp và phức tạp như thế, chứ người thường thì làm sao có thể bình tĩnh xử lý được biến cố chết người đó.

Chiếc Ilyushin-12 buộc phải hạ cánh gấp, tuy chưa bị bốc cháy, phát nổ, nhưng quá trình va chạm khiến các thành viên trên máy bay không tránh khỏi chết chóc, thương vong. Viên cơ phó không may đã hi sinh khi làm nhiệm vụ, lúc đó nhân viên liên lạc thử dùng máy bộ đàm quang học không dây phát tín hiệu bắt liên lạc với bộ chỉ huy, hy vọng có thể tìm được viện trợ từ bộ đội giải phóng đồn trú ở khu vực gần đây, do máy bay vừa mới bay vào địa phận sa mạc Kumtag, Tân Cương, nên có lẽ vị trí hiện tại cách Ngọc Môn Quan không xa lắm. Nhưng sau khi nhân viên trắc họa đi theo đoàn định vị lại, mới phát hiện tọa độ hạ cánh chẳng ngờ lại là 40 độ 52 phút 29 giây vĩ bắc, 91 độ 55 phút 22 giây kinh đông.

Anh nhân viên trắc họa kinh ngạc ngẩn người, bởi vi tọa độ không thể nào sai sót, mà căn cứ vào số liệu thì điểm Ilyushin-12 hạ cánh đang nằm ở khu vực không có người sinh sống giữa sa mạc Kumtag và sa mạc Lopnor, cách vị trí dự tính ban đầu đến cả trăm cây số. Điều đó cũng có nghĩa là: trong khoảnh khắc ngắn ngủi mà mọi người mất đi ý thức, chiếc Ilyushin-12 đã bay xuyên qua sa mạc Kumtag theo hướng từ đông sang tây. Biến cố xảy ra vào lúc chính ngọ, tức là khoảng 12 giờ 30 phút, tất cả những ai đeo đồng hồ, đều phát hiện thời gian trên đồng hồ của mình vĩnh viễn dừng lại ở giây khắc đó.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi Thứ Tám
Đáp Xuống Sa Mạc Kumtag


Do đồng hồ và các thiết bị đo thời gian đều bị hỏng, nên mọi người hoàn toàn mất căn cứ đế phán đoán thời gian một cách chuẩn xác, chỉ có thể dựa vào đồng hồ sinh học cơ thể con người để phân tích tình hình. Sau khi nối liên lạc được với bộ chỉ huy, mới biết thời gian chiếc máy bay bị mất tích trên không vực sa mạc chí ít cũng phải kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Ilyushin-12 rốt cục đã xảy ra sự cố gì trong quá trình bay? Nó gặp phải vật gì giữa tầng cao muôn trượng ấy? Trong thế giới quan của chủ nghĩa duy vật, không một luận cứ khoa học tuyệt đối nào có thể giải thích hoàn toàn thỏa đáng cho một hiện tượng.

Sự cố hàng không quái dị năm đó, mãi sau này người ta vẫn không thể suy đoán được nguyên nhân thực sự của nó, mà chỉ có thể tạm thời loại trừ nhân tố thời gian. Trong các báo cáo, các nhà khoa học đã đưa ra một dự đoán mang tính khả năng: Năm 1949, có một chiếc máy bay đi từ Trùng Khánh đến Urumqi, bị mất tích trên hành trình bay; khoảng mười năm sau, có người thấy xác nó xuất hiên ở phía đông sa mạc Lopnor, toàn bộ nhân viên và hành khách trên chuyến bay đều chết hết, chiếc máy bay này cũng đột ngột thay đổi lộ trình và bị rơi xuống khu vực mà nó căn bản không thể nào đi qua.

Những sự cố tương tự như vậy còn xảy ra vài lần nữa và chính vì vậy mà các nhà khoa học suy đoán lúc chiếc Ilyushin-12 gặp phải sự cố trên không, cũng là lúc trời trong vạn dặm, đồng thời xuất hiện chuỗi âm thanh giống như tiếng sấm rền, điều đó có nghĩa là dòng không khí nhiễu động đã va chạm vào nhau hình thành các huyệt khí, còn gọi là nhiễu động khí hay nhiễu động trời trong . Nhiễu động khí xuất hiện do các luồng không khí nhiễu động đâm vào nhau tạo nên các vũng xoáy dao động cực lớn. Nó không tồn tại dưới dạng vật chất, cũng không có hình dạng hữu hình, nên không thể nào tiên liệu trước được, các phi hành gia càng không thể dùng mắt thường mà phán đoán sự xuất hiện của nó một cách chính xác được.

Có thể ở trên không vực rộng lớn khoáng đạt, như vùng sa mạc Kumtag, sa mạc Lopnor hay sa mạc Taklamakan, đều tôn tại vùng nhiễu động khí, và các thành viên trên máy bay đều cảm thấy khoảnh khắc mình bị mất ý thức, dường như chỉ kéo dài trong tích tắc ngắn ngủi, nhưng có khả năng cảm nhận đó chỉ là ảo giác, còn trên thực tế, khoảng thời gian ấy đủ để không khí trên cao đẩy chiếc Ilyushin-12 dạt xa đến tận vùng cực tây của sa mạc Kumtag.

Giáo sư Thắng Thiên Viễn có kinh nghiệm rất phong phú về thám hiểm sa mạc, ông là chỉ huy trưởng đội khai quật khảo cổ. Ông nhận định điểm hạ cánh hiện tại cách viền tây nam của sa mạc Lopnor không xa lắm, nhờ vào các thiết bị và bản đồ mang theo, nên vẫn có thể đi bộ đến khu vực dự định và tiếp tục chấp hành nhiệm vụ. Bởi thế, ông hạ lệnh: chỉ những thành viên bị thương và tổ lái ở nguyên vị trí chờ cứu viện, còn lại những thành viên khác vẫn tiếp tục lên đường.

Lãnh đạo cấp trên trả lời điện báo bằng chỉ thị:

- “Về cơ bản, các đồng chí đánh giá tình hình hiện tại tương đối chính xác, quyền chủ động vẫn nằm trong tay các đông chí, trong sa mạc có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm, tổ chức mong các đồng chí tự tìm cách khắc phục”.

Sau khi giáo sư xác nhận mệnh lệnh của cấp trên, ông bố trí cho các thành viên bị thương ở lại đợi, rồi khoác trang thiết bị dẫn đoàn tiến vào sa mạc mênh mông, nhưng khi xuyên qua vùng Đại Sa Bản, họ gặp phải thời tiết khắc nghiệt khiến chuyến hành động này buộc phải dừng lai giữa chừng. Giáo sư Thắng Thiên Viễn cũng không may mắc bệnh nặng ngay trên sa mạc, nên trở về Bắc Kinh không lâu thì qua đời. Chuỗi sự việc đó phải chăng chỉ là sự ngẫu nhiên? Hay là điều tất yếu? Tất cả còn phải xem anh đứng ở góc độ nào để lý giải nó, có thể trong cõi u minh quả thực tồn tại một sức mạnh vô hình đáng sợ nào đó đang muốn ngăn cản con người làm rõ lại quãng quá khứ đã sớm biến mất dưới lớp cát sa mạc hàng ngàn năm về trước.

Còn lão Lưu Hoại Thủy, do bị gãy xương sườn khi chiếc Ilyushin-12 tiếp đất, nên không thể cùng đoàn tiếp tục hành động, bây giờ nghĩ lại vẫn thấy số mình hên vô cùng. Lão nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng:

- “Xem ra kiếp này lão Lưu tôi không có phước được ngồi máy bay rồi. Từ nay về sau, cho dù có người kề súng vào sau gáy ra lệnh, tôi cũng không dám ngồi lên con chim sắt đó thêm lần nào nữa đâu.”

Lão Lưu Hoại Thủy cũng nhận ra tâm sự của Tư Mã Khôi, bèn nói:

- “Bát lão gia, tôi thấy hình như nhị vị lão gia rất quan tâm đến chuyện của ông chủ Viễn, giữa các vị có mối giao tình gì à? Nếu thật thế, thì tôi đây cũng vừa hay có một con đường đi được đấy!”

Dưới sự quan tâm của các vị lãnh đạo cấp quốc gia, năm trước ngành khảo cổ đã tổ chức thành công công tác khai quật khu mộ Tiểu Hà. Khu mộ này nằm trong sa mạc Lopnor, cách vùng hạ lưu sông Khổng Tước chừng 60km về phía Nam. Các nhà khảo cổ đã khai quật được một lượng lớn văn vật quý giá, cùng một thi thể phụ nữ từ thời Hán được bảo toàn nguyên vẹn. Phát hiện về xác ướp hai ngàn năm trước đã gây chấn động đến cả thể giới. Các hãng báo lớn như nhật báo Nhân dân, nhật báo Quang Minh, báo Giải phóng quân… đều giật tít chữ thật to ngay trên trang nhất, cùng với bức ảnh chụp xác ướp. Yì thế ngay từ khi khai xuân năm nay, người ta lại tiếp tục phóng thích hàng loạt thành phần có quyền lực trong giới học thuật phản động, đồng thời tạm thời phục hồi chức vị cho họ, chỉ có điều tội danh trước đây vẫn không được xóa bỏ, một trong số họ có nhà khảo cổ kiêm địa chất học Tống Tuyển Nông. Trước đây, giáo sư Tống Tuyển Nông là đồng nghiệp với giáo sư Thắng Thiên Viễn, ngoài đời hai người còn là bạn rất thân, nhưng giờ đây không có ai gọi giáo sư Tống Tuyển Nông theo hàm hiệu học vị, mà vì ông bị hói đầu, nên mọi người đều gọi ông bằng biệt hiệu bác Nông địa cầu.

Bên mình giáo sư Thắng Thiên Viễn có một cuốn sổ công tác, luôn được cất giữ bí mật, không cho ai biết, bên trong ghi chép toàn bộ các sự kiện trọng yếu trong cuộc đời hoạt động thám hiểm và khảo cổ của mình. Trước lúc nhắm mắt xuôi tay, giáo sư đã mang cuốn sổ được niêm phong kín trong túi hồ sơ đặt trên giường bệnh, đưa cho Lưu Hoại Thủy, và bảo lão hãy trao nó lại cho ông Nông địa cầu, đồng thời giáo sư còn dặn dò lão tuyệt đối không được mở ra xem trộm.

Lúc đó, bác Nông địa cầu lại đi công tác ở Cam Túc, khi trở về thì người bạn thân đã từ giã cõi đời. Sau này, Lưu Hoại Thủy đem cuốn sổ ghi chép giao tận tay bác Nông địa cầu, lúc giáo sư giở trang đầu tiên, lão có liếc mắt nhìn trộm, chỉ thấy bên trong viết bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”, cũng không rõ bốn chữ đó ngầm ám chỉ điều gì, chỉ thấy giáo sư Nông địa cầu biểu lộ nét mặt rất đỗi kinh ngạc:

- “Cái ông Viễn này, đúng là gan to coi trời bằng vung…”, nói đoạn ông vội vàng lướt mắt từ đầu đến cuối một lượt, đọc xong liền châm lửa xé từng trang ra đốt ngay trước mặt lão, cả cuốn sổ cháy thành tro bụi.

Sau này, vì tò mò nên Lưu Hoại Thủy có vài lần dò hỏi về nội dung cuốn sổ, nhưng bác Nông địa cầu miệng kín như bưng, không tiết lộ nửa lời, đã thế lần nào giáo sư cũng cảnh cáo lão:

- “Việc này thuộc phạm trù cần bảo mật tuyệt đối, những việc không nên hỏi thì tốt nhất anh chớ hỏi nhiều, những việc không nên nhìn thì hãy tránh nhìn, càng biêt nhiều thì anh càng gặp nhiều nguy hiểm hơn thôi.”

Lưu Hoại Thủy không muốn chuốc họa vào thân, nên đành dập tắt ý định đó, từ đó trở đi, lão không tìm hiểu sâu thêm về việc này nữa.

Sau khi đại Cách mạng Văn hóa bùng nổ, bác Nông địa cầu cũng không thể thoát tội, giáo sư bị đẩy xuống vùng nông thôn tham gia cải tạo lao động, mãi đến mùa hè năm nay mới được trả về và bố trí vào một đội trắc họa để chủ trì công việc. Nhiệm vụ chủ yếu của phân đội này là tìm kiếm các quặng vàng ở Tân Cương, suốt dải chiều dài từ cực tây sa mạc Lopnor đến vùng Đại Sa Bản trên sa mạc Kumtag, trước đây từng là sông Sa Bản huyền bí. Trong lịch sử có hai dòng Sa Bản chảy ở hai đầu nam bắc, một dòng quấn quanh thành cổ Lâu Lan, ven sông là những hồ muối đan cài hình xương cá và địa mạo Nhã Đan với đủ hình thù kỳ quái(Địa mạo Nhã Đan: một hình thái điển hình của địa mạo phong thực, bề mặt đất đá bị gió bào mòn.) .
Còn dòng thứ hai bắt nguồn từ núi A-erh-chin, nó là dòng sông ngầm đi xuyên qua núi cát. Trong nhiều tài liệu địa lý miêu tả mạch núi thế sông, các học giả cho rằng sông Sa Bản ở hai đầu nam bắc là một dòng sông chảy thông suốt, nhưng trên thực tế, đó là hai dòng sông tách biệt không hề liên quan với nhau.

Do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, hạn hán ngày càng trở nên trầm trọng, nên dòng sông ngầm cũng dần dần bị dòng cát cuồng loạn chạy trên sa mạc nuốt chửng. Theo các ghi chép địa lý cổ, lòng chảo sông Sa Bản lắng đọng bụi vàng, dưới lòng đất thậm chí còn có một mỏ vàng rất lớn, nhưng nơi này lại thuộc khu vực trắng trên bản đồ, một năm bốn mùa gió cát lũng đoạn không dứt. Do điều kiện vô cùng khắc nghiệt, vì thế có muốn tiến hành công tác trắc họa từ trên không cũng không được, mà chỉ những chuyên gia tinh thông địa lý thời tiền Tần thì mới có thể dẫn đội quân trắc họa tìm kiếm mỏ vàng đã bỗng dưng biến mất từ nhiều năm trước. Trước mắt, mọi người phải xác định được vị trí tương đối, xác định các thông số đo lường có liên quan như kinh độ, vĩ độ, địa hình cụ thể, độ cao so với mực nước biển của sông Sa Bản; sau đó các phân đội khác nhau như địa lý thăm dò, vật lý thăm dò, khoan thăm dò mới có thể đi sâu tìm hiểu các thông số chi tiết.

Giáo sư Nông địa cầu là chuyên gia có kiến thức rât uyên bác và rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Trước Cách mạng Văn hóa, giáo sư kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, ông không chỉ am hiểu lịch sử Tây Vực cổ, mà còn là chuyên gia về lĩnh vực địa chất, sinh vật và hoa học. Tuy nhiên phần lớn hiểu biết đó chỉ dừng lại ở nhưng nghiên cứu trên sách vở, nói suông thì còn được chứ khi phải thực chiến trên trận địa, bước chân vào sa mạc Gobi giữa gió cát vần vũ, thì ông cũng cảm thấy ớn người. Nghe nói, phân đội mà giáo sư Thắng Thiên Viễn phụ trách năm 1963, cũng từng dự định tiến vào vùng ven sông Sa Bản, bây giờ giáo sư Nông địa cầu phải tiếp tục thực hiện nốt nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thành khi đó.

Trước giải phóng, lão Lưu Hoại Thủy từng nhiều lần vào sâu trong đại sa mạc Hồi Cương, giúp các nhà thám hiểm Anh tìm kiếm thành cổ Viên Sa làm bao nhiêu chuyện thất đức,(Thành cổ Viên Sa: Là tòa thành cổ có niên đại sớm nhât được phát hiện ở Tân Cương. Nó được xây dựng cách đây hơn hai ngàn năm, ở thôn Đại Hà Diên, huyện Vu Điền.)
Thậm chí còn bán đứng bảo vật quốc gia, sau khi bác Nông biết chuyện, liền bảo lão làm trợ thủ cho mình, cùng ông đến sa mạc Lopnor.

Tuy hiện giờ lão Lưu Hoại Thủy cũng chỉ nhận được đãi ngộ của nhân viên tạp vụ, nhưng với lão, lương lậu bao nhiêu có quan trọng gì đâu, lão cũng không kỳ vọng vào hai mươi mấy đồng bèo bọt ấy. Dưới khẩu hiệu: “công nông binh lãnh đạo tất cả”, thì cái mác giai cấp công nhân vô tình trở thành chiếc ô che chắn vô cùng an toàn cho lão, giúp lão nẫng được không ít món hời. Lão từng đổi được một chiếc bình gốm hoa quý giá thời Nguyên Thanh bằng một xe ba bánh rau cải thảo, ban đêm ngủ mơ vẫn còn thấy sướng, thế thì lão tội gì mà lao đầu vào sa mạc Gobi chịu khổ.

Thông qua một số kênh nội bộ, lão biết được một tin trong thời gian cải tạo lao động, bác Nông địa cầu vẫn không ngừng viết báo cáo gửi cho cấp trên, mà nguyên nhân khiến giáo sư viết đơn đề nghị cấp trên cho phép dẫn đoàn tiến vào sa mạc Gobi thì lại có liên quan đến cuốn sổ công tác của giáo sư Thắng Thiên Viễn, mà ông từng đọc trước đây. Bởi vậy, lão Lưu Hoại Thủy phỏng đoán lần hành động này tuyệt đối không chỉ đơn giản là trắc họa sông Sa Bận, nhưng nội tình cụ thể thế nào thì lão chưa dò hỏi sâu sát được.

Có điều, lão cũng không dám đắc tội quá đáng với giáo sư Nông địa cầu. Vì trong thời điểm này, ai cũng sợ xanh mặt nếu bị vạch trần hoặc kiểm điểm, ngộ nhỡ giáo sư lại khai tuốt tuột mọi hành vi phản quốc từ trước đến giờ của lão, thì cho dù không đủ chứng cứ cũng vẫn khiến lão vào nhà đá như chơi, thậm chí nếu hành vi đó còn hệ lụy đến các vấn đề khác, thì có khi đến mười cái đầu cũng phải chuyển nhà ấy chứ. Bởi thế nên lão cứ kiếm cớ lần lữa hết ngày này sang ngày khác, dền dứ mãi không chịu lên đường.

Hôm nay, lão gặp được Tư Mã Khôi liền thanh minh minh đã có tuổi, chỉ sợ cái thân già này nếu phải chui vào sa mạc thì chắc chẳng có ngày lê nổi chân ra, trong khi đó Tư Mã Khôi lại là chân truyền Kim Điển, tinh thông cổ thuật tướng vật, có thể đảm nhiệm phần công việc này. Nên chỉ cần là người mà lão đứng ra đảm bảo, thì giáo sư Nông chắc chắn sẽ lác mắt kinh ngạc. Vả lại, theo quy định quốc gia, mỗi ngày đi công tác ở bên ngoài đều được lĩnh một đồng tiền trợ cấp, như thế một tháng đã có ba mươi đồng, cộng thêm với lương hàng tháng hai mươi tám đồng, số tiền đó đối với người bình thường thì cũng không phải ít ỏi gì. Lão Lưu Hoại Thủy còn hứa hẹn, nếu Tư Mã Khôi và Hải ngọng chấp nhận đi thay lão chuyến này, thì cá nhân lão sẽ tình nguyện trả thêm ba trăm đồng nữa để biểu thị lòng cảm ơn.

Tư Mã Khôi không thể xác định trong cuốn sổ ghi chép – mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, có manh mối gì liên quan đến Nấm mồ xanh hay không, nhưng bây giờ người duy nhất có thể lý giải nội tình, e rằng chỉ có một mình giáo sư Nông mà thôi. Thế nhưng theo lời lão Thủy ma trống thì do việc này can hệ đến một số điều lệnh bảo mật, nên chắc chắn rất khó moi được thông tin từ cái miệng kín như bưng của giáo sư địa cầu, xem ra việc này đúng là dục tốc bất đạt.

Vả lại, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng cảm thấy tiếp tục sống những ngày lang thang tạm bợ ở khu Hắc Ốc cũng chẳng có ý nghĩa gì, nên nhân cơ hội này có thể ngắm nhìn phong cảnh đại sa mạc Gobi cũng không phải ý tồi. Tư Mã Khôi cũng đọc vị được lão Thủy ma trống dường như rất nóng lòng muốn tìm người thay mình chịu trận chứ không lão đã chẳng chìa ngay tiền ra cửa miệng, trước mắt đúng là cơ hội thấy gió thì phải bẻ măng, lúc này không đá đít lão cáo già ấy một cú, thì còn đợi lúc nào nữa? Thế là anh bèn ra điều kiện: “Lưu sư phụ ạ, tôi cũng niệm tình hai gia đình chúng ta tòng qua lại thân thiết bao nhiêu đời nay, nên sao có thể ngồi yên không giúp ông bác việc này được? Nhưng cái giá khi nãy ông bác vừa đưa ra không được thỏa đáng lắm. Bởi vì lời ngoài ý trong của ông bác, tôi đọc vị được hết rồi. Cái chuyến công tác mà ông bác vừa nói đấy, chỉ cần sơ sẩy một chút thôi là cái mạng nhỏ của tôi sẽ chu du đến Quỷ Môn Quan ngay tức khắc, và nếu thế thì món tiền ba trăm bạc của ông bác cũng chẳng đến được tay bọn tôi. Bây giờ thế này, tôi và Hải ngọng mỗi người ba trăm đồng, ngoài ra, còn phải cộng thêm chiếc áo khoác da chuột bách niên mà tôi vừa bán cho ông bác lúc nãy. Nấu ông bác không chấp nhận coi như tôi chưa nói gì, vì dù sao thì chỗ tôi chẳng bao giờ hét hai giá, thiếu một đồng cũng không xong. Thời thế bây giờ tìm ếch ba chân mới khó, chứ có cả đống hai chân ngồi đầy đường mặc cho ông bác tha hồ lựa chọn, bác nghĩa thấy ai vừa mắt thì cứ việc đến mà thương lượng với họ.”

Lão Lưu Hoại Thủy nghe xong thì răng hàm nghiến vào nhau ken két, nói:

- “Bát lão gia, phen này đến lượt tôi bái phục lão gia sát đất, chiêu lột da ngược này của lão gia cũng độc thật đấy!”

Tư Mã Khôi đáp lời:

- “Lưu sư phụ đánh giá tôi cao quá rồi, vả lại, cái từ lột da ngược nghe cũng không được nhã nhặn cho lắm. Tôi gọi chiêu này là vỏ quýt dày có móng tay nhọn, cao nhân hữu tắc cao nhân trị. Tôi và bác sau này còn phải học hỏi nhau nhiều, chúng ta cùng cố gắng tiến bộ nhé!”

Hải ngọng ngồi một bên mặt mày hớn ha hớn hở nói:

- “Lưu sư phụ, chúng tôi đâu nỡ ép uổng người già? Nhưng thời thế này, tình cảm đáng giá bao nhiêu tiền một cân chứ? Đến tận hôm nay, Hải ngọng tôi mới biết, mẹ nhà nó, thế nào gọi là cháy nhà hôi của, nên được hay không thì ông bác cứ nói một câu cho thật thống khoái xem nào. Mấy cái đĩa xào này coi như tôi mời ông bác. Chúng ta mua bán không thành thì vẫn còn tình cảm, coi như kêt bạn với nhau ấy mà. Nếu bây giờ ông bác có việc gấp phải đi thì cứ mau đi đi, đợi sau khi ông bác đi khuất, chúng tôi sẽ tìm một cái bốt điện thoại nào đấy, đến lúc đó, tôi sẽ nhấc điện thoại lên và nói:

- “À lố, có phải sở công an đó không? Tôi muốn báo án, có một phần tử xấu tên là Lưu Hoài Thủy. Người này nhân cơ hội bài trừ tứ cựu để hành nghề đánh trống con trên phố, lấy một xe ba bánh cải thảo để đối lấy văn vật. Rõ ràng là hắn ta ôm nỗi bất bình với chế độ chủ nghĩa xã hội, mầm mống phản động quá rõ rệt, lại còn trà trộn vào đội khảo cổ làm công nhân thời vụ. Nếu như các anh không tin, thì có thể bắt hẳn trước để thẩm vấn, sau đó vào nhà hắn lục soát. Nếu quả thực có việc như vậy, thì nên chém cứ chém, nên bắn cứ bắn, không cần phải nhẹ tay với hắn làm gì, nguyên tắc làm việc của các đồng chí chẳng phải tuyệt đối không xử oan người tốt, cũng tuyệt đối không được lọt kẻ xấu hay sao?”

Lão Lưu Hoại Thủy vừa nghe đã sợ tái mặt, không dám ho he thêm câu gì; hơn thế nữa, lão cũng không thể tìm đâu ra người nào phù hợp với nhiệm vụ lần này hơn Tư Mã Khôi, nếu thay bằng người khác, có khi ngay cả cửa giáo sư Nông cũng không qua nổi. Vì thế lão đành nén đau thương chấp nhận điều kiện của Tư Mã Khôi, rồi đích thân dẫn hai người đi tìm giáo sư Nông địa cầu.

Giáo sư Nông là người có gương mặt tròn trịa, toát lên vẻ hiền từ, cộng thêm cái đầu hói quá nửa, trông không khác gì quả địa cầu mô hình. Ông đeo cặp kích cận, gọng bị gãy được chắp nối bằng vài vòng dây chun quấn qua loa. Ông vừa bị đấu tố ở Đại học Bắc Kinh, nhà cửa vẫn còn niêm phong, nhưng vừa về đến đơn vị đã vội bắt tay vào công việc không dám chậm trễ. Giáo sư đang bận bịu sắp xếp các vật dụng cần thiết cho chuyến đi sắp tới, thấy mọi người đến, ông vội ra mở cửa chào đón rồi nghe lão Lưu Hoại Thủy giới thiệu sơ qua tình hình.

Lưu Hoại Thủy mạo nhận Tư Mã Khôi và Hải ngọng là đồ đệ của mình, lúc này sư phụ đang ra sức ca tụng học trò, ngoại trừ giới thiệu hai người đã được học qua những kỹ nghệ gì, đặc biệt còn gán thêm một loạt phẩm chất đạo đức cao đẹp cho họ, nào là quang minh chính trực, thật thà ngay thẳng, nào là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, trọng lễ hiểu nghĩa, không vụ lợi…

Giáo sư Nông địa cầu nhìn Tư Mã Khôi và Hải ngọng một lượt từ đầu đến chân như thầm đánh giá. ỏng tỏ ra hoài nghi hỏi lại:

- “Cổ lý tướng vật là một lĩnh vực vô cùng uyên thâm, về tác dụng thực tế, nó còn hữu dụng hơn sơn kinh thủy pháp rất nhiều, chỉ có điều lai lịch của nó thật ít giả nhiều, tôi chưa bao giờ tiếp xúc với môn này, vì thế cậu nói các cậu am hiểu, tôi cũng không có cách gì phán đoán thật giả. Nhưng tôi từng nghiên cứu vê đáy biển giang hồ sử dụng trong xã hội cũ: người xưa có nói Kim Điến là tương, lục lâm là tướng, tương tướng gọi chung là văn võ, hai thứ này không bao giờ tách bạch hẳn ra. Cậu đã tự nhận mình là chân truyền của Văn Võ tiên sinh, thì nhất định rất thông thạo đáy biển, vậy trước tiên tôi hỏi cậu, thế nào là giang hồ? Tính danh của giang hồ tự hiệu là gì?

Tư Mã Khôi thầm nghĩ:

- “Đúng là nhìn bề ngoài không thể ngờ lão hói này lại hiểu về “Mắt đáy biển giang hồ” đến vậy, thì ra trong giới quyền lực học thuật phản động bị quần chúng cách mạng lật đổ, cũng có vài nhân vật ra hồn đấy chứ”.
Nửa bộ Kinh Kim Cương ... Ngũ Hồ Tứ Hải này, Tư Mã Khôi có ngủ mơ mà đọc ngược từ dưới lên thì cũng vẫn trôi chảy như thường, thể là anh bèn ứng đáp:

- “Nhãn là giang, khẩu là hồ, họ Giang tên Long tự Nguyên Trực là dòng chính, họ Hồ tên Trường tự Ưu Long là dòng nhánh”.

Bác Nông địa cầu lại hỏi tiếp:

- “Họ Nhật Nguyệt tên là gì?”

Tư Mã Khôi lại đáp:

- “Họ Nhật tên Tôn, tự Khai là bậc tử chân, họ Nguyệt tên Đường, tự Vệ là bậc đại hiền”.

Anh nghe thì biết giáo sư dường như biết không nhiều lắm, trong lòng thầm nghĩ: không cần đợi ông bác hỏi, hôm nay tôi sẽ cho nhà ông mở rộng tầm mắt, để biết thế nào gọi là “đáy biển” đích thực. Nghĩ vậy, anh bèn đọc tuột ra một lèo: “Giang hồ nhật nguyệt là cửu châu, bát đại thần tiên vượt cửu châu, trong cửu châu đều là anh em huynh đệ, trên dưới tam đẳng đều là chốn bạn bè, Nam Kinh chìm tôi không sợ, Bắc Kinh hạn tôi không lo, anh có Kim Ngân chồng Bắc Đẩu, tôi có ngón nghề vượt xuân thu, ban ngày không lo quân tử mượn, ban đêm không sợ tiểu nhân dòm, ngón nghề của tôi độc chiếm ngao đầu lưỡng đóa kim hoa, tam nguyên cập đệ, tứ quý phát tài ngũ tử đăng khoa, lục họp đồng xuân, thất tinh củng chiếu, bát bảo hoàng lương tản, cửu căn kim ngọc đới, thập toàn phú quý. Muốn hỏi ngón nghề này nặng bao nhiêu, hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi.. .”( Hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi: trong đáy biển giang hồ, số hai tượng trưng cho nhật nguyệt hoặc đất trời; mười ba là chỉ mười ba tỉnh của Trung Quốc, bao gồm phía nam bảy tỉnh, phía bắc sáu tỉnh; năm tiền bốn phân rưỡi chỉ trong bốn biển năm hồ chỉ lấy một nửa.)

Giáo sư Nông địa cầu xưa nay là người có con mắt rất tinh tường, nhìn người khá chuẩn, thấy mấy câu trong nghề không làm khó được Tư Mã Khôi, bèn hỏi tiếp vài câu về phong vật trong đại sa mạc cổ Tây Vực.

Tổ tiên Tư Mã Khôi từng tòng quân dẹp loạn Tân Cương thời mạt Thanh, lập công hiển hách với triều đình; thêm nữa, anh cũng nghe Văn Võ tiên sinh nói qua không ít những chuyện gia môn thời cũ, nên ứng đáp tự nhiên, làu làu như cháo chảy.

Giáo sư Nông địa cầu vui mừng hớn hở ra mặt nói: “Cậu quỷ ma lanh này khá lắm, tôi nhận!”, rồi quay sang hỏi Hải ngọng:

- “Còn cậu cao to lực lưỡng này… có bản lĩnh hoặc sở trường gì không? Tôi thấy cậu có khí chất anh dũng, cơ thể lại cường tráng hơn người, chẳng khác nào lạc đà trên sa mạc, đúng là nòi cầm súng làm lính đây, nếu cõng thiết bị máy móc cho đội khảo cổ chúng ta, chắc chắn không thành vấn đề đâu nhỉ, thôi thì thu nhận cả hai cậu nhé!”.

Từ khi bắt đầu bước chân vào cửa, Hải ngọng đã ngang nhiên kéo ghế ra ngồi, nhìn thấy trên bàn có thuốc lá anh cũng không khách sáo, móc luôn một điếu ra châm lửa hút. Lúc này nghe thấy bác Nông địa cầu nói vậy thì lấy làm không hài lòng lắm, anh vừa phì phèo nhả một ngụm khói thuốc, vừa nói:

- “Sở trường hả? Còn phải xem lão đồng chí bác muốn chỉ về mặt nào đã, tôi thấy cơ thể cao to không thể coi là sở trường được, rốt cục nó chỉ là thứ do cha mẹ sinh ra, chẳng có gì đáng gọi là kỹ thuật. Nếu nói về sở trường mang tính kỹ thuật, thì tôi đây quả thật cũng có vài món, có điều bình thường không muốn tiêt lộ ra ngoài, ví dụ như chuyện hút thuốc này chẳng hạn, Hải ngọng tôi rất khoái hút thuốc, từ loại thuốc rẻ tiên hai xu một bao cho đến loại thuốc Bạch Kim Long nổi tiếng Nam Dương, chưa loại nào tôi không hút qua. Hơn nữa, tôi có thể nhả liền tám ngụm khói thành hình tròn, luồn vòng tròn nhỏ vào trong vòng tròn lớn. Ngoài ra, tôi còn luyện được cả tuyệt kỹ châm thuốc, bất luận điều kiện hoàn cảnh thế nào dù mưa rơi hay đạn xả, đi ngựa, đất rung hay núi lở, vượt núi hay xuyên rừng, đều không hề ảnh hưởng đến mức độ hoàn hảo của tuyệt kỹ, tôi có thể hút thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, cũng có thể châm thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, mà từ trước đến giờ chỉ cần một que diêm châm thuốc, bất kể mưa to gió lớn đến đâu, chỉ cần châm là cháy, tuyệt đối không bao giờ phải sử dụng đến que thứ hai. Ông bác cảm thấy món sở trường này của tôi thế nào hả?”

Giáo sư Nông địa cầu không thích những bậc hậu sinh thật thà như đếm, gọi dạ bảo vâng, vì nếu một người chỉ biết ở nhà vâng lời mẹ cha, đi học vâng lời thầy cô, ra công tác vâng lời lãnh đạo, thì sẽ không biết cách ứng phó linh hoạt, không có chủ kiến riêng, mất tính sáng tạo và sự dũng cảm dám độc lập đối đầu với khó khăn. Xã hội phức tạp như thế, ai nói tiền bối, lãnh đạo, thầy cô lúc nào cũng chính xác tuyệt đối? Làm sao có thể kỳ vọng những loại người này sẽ tạo ra thành tựu kỳ diệu gì cho tương lai? Bởi thế ông không hề ghét bỏ những ngôn từ cử chỉ ngạo mạn của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, ngược lại còn đánh giá họ rất cao.

Giáo sư nói ngay trước mặt Lưu sư phụ:

- “Hai thằng ranh lêu lổng này chắc không dễ quản đâu, nhưng tôi thu nhận hết, bây giờ cái chúng ta thiểu thốn nhất chính là nhân lực, chỉ cần họ nhiệt huyết với công việc khảo cổ, theo đuổi lịch sử, thì việc điều tra lí lịch và tiếp nhận đều không thành vấn đề gì cả”.

Lưu Hoại Thủy tìm được Tư Mã Khôi và Hải ngọng đi thay mình, thì coi như đã bàn giao xong nhiệm vụ, lão như thể trút bỏ được gánh nặng, vội vàng quay người cáo từ. Giáo sư tiễn lão Thủy ma trống một quãng, khi trở về phòng liền trịnh trọng căn dặn hai người:

- “Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là lãnh đạo trực tiếp của hai cậu, các cậu là trợ thủ và cũng là học trò của tôi, nhất định phải nghe lời tôi phục tùng theo sự sắp xếp của tôi, cố gắng học hỏi các kiến thức nghiệp vụ, đã hiểu chưa?”

Hải ngọng trợn mắt nói:

- “Ái chà! Vừa mới đây thôi mà đã lên mặt rồi đấy à? Ông bác mắc bệnh chủ nghĩa quan liêu hay chứng nghiện làm lãnh đạo thế hả? Có điều từ nay bọn tôi là người có tổ chức, có lãnh đạo hẳn hoi, thì đương nhiên ăn phải có quy củ, nói cũng phải có quy củ, làm việc càng phải có quy củ hơn, có đúng thế không? Nhưng tôi nói thế này bác Nông ạ, nghe bên ngoài đồn đại, người ta bảo ông bác là cựu cán bộ hành chính bậc mười ba, tuy bị chụp mũ và chịu mấy lần đấu tố, nhưng sau khi trở về thì vẫn ngồi văn phòng ỉàm việc như cũ, đi đâu cũng có xe hơi đưa đón, đít xe còn nhả phè phè khói trắng. Thế những người làm việc dưới trướng của ông bác, chí ít cũng phải hưởng tí đãi ngộ cấp chính quy, hưởng lương bậc mười bảy chứ nhỉ? Nếu không thì quá là bôi nhọ tổ quốc chủ nghĩa xã hội của chúng ta, và cái mặt làm lãnh đạo của ông bác rồi còn gì?”

Tư Mã Khôi nói:

- “Tiên sư Hải ngọng, đã cóc hiểu gì thì đừng có múa mép linh tinh, lãnh đạo với không lãnh đạo cái gì? Đó chỉ là thời kỳ làm việc dưới sự thống trị của công cuộc cải tổ lại con đường chủ nghĩa sai lầm đơn vị hồi đó giống như một cây đại thụ, chúng ta đều là những con khỉ leo lưng chừng cây, ngẩng đầu lên thì ngắm đít thủ trưởng, cúi đầu xuống thì gặp mặt cấp dưới ngó nghiêng trái phải nhìn đâu cũng thấy toàn là tai mắt. Bây giờ con đường sai lầm đó đã bị phê phán từ khuya rồi, từ nay về sau chúng ta và bác Nông không phải người ngoài xa lạ, chắc ông bác không đến nỗi bắt chúng ta nằm rạp dưới gốc cây ngửi đít đâu mà sợ”.

Hải ngọng phản đối:

- “Tớ chỉ cần được hưởng luơng bậc mười bảy, thì cho dù có phải nhìn đít lãnh đạo thì cũng có sao đâu? Vả lại, lãnh đạo người ta cũng không thể cởi truồng mà trèo cây được, chí ít cũng phải mặc cái quần lót chứ?”

Bác Nông địa cầu dở khóc dở cười, đành lắc đầu bất lực nghĩ thầm: đem theo hai tên tiểu tử bất hảo này bên mình thật chẳng biết là phúc hay là họa, rốt cục nhiệm vụ lần này rất đặc biệt, đó là tiến vào miền đất xa xôi vùng Tây Bắc, nơi ấy thuộc khu vực không có người ở, rộng hơn hai trăm cây số vuông, nằm trong sa mạc Lopnor, nó vĩnh viễn bị bao trùm bởi tấm mạng che chết chóc đầy kinh hoàng, ngay cả cỏ cây, chim chóc, muông thú đều không thể sinh tồn. Ở đây, ngoại trừ gió cát và thiên tai, thì chỉ có những truyền thuyết ngàn năm, những ẩn số ngàn năm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 2 _ Cát Lún Bốc Hơi


Hồi Thứ Chín
Nông trường khai hoang số 34


Từ sau khi bước vào thế kỷ hai mươi đến nay, một biến động dữ dội chưa từng có trước đây đã diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, thời kỳ này chính là niên đại tràn ngập mâu thuẫn, xung đột và cải cách, đồng thời cũng là niên đại hủy hoại nền văn minh xã hội nghiêm trọng nhất.

Chỉ trong thời gian mười mấy năm ngắn ngủi, đã liên tiếp diễn ra hai cuộc đại chiến thế giới, tổng số người chết lên tới con số trăm triệu; dư âm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam và chiến tranh lần thứ tư ở Trung Đông vẫn chưa kết thúc. Đối với thế giới mà nói, năm 1974 vẫn là một năm tanh nồng mùi máu.

Đầu thu năm ấy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng giáo sư Nông địa cầu bước chân vào dải đất ven triền tây của đại sa mạc. Sa mạc Lopnor mênh mông rộng trên hai trăm cây số vuông, nằm kẹp giữa bồn địa Tháp Lý Mộc và sa mạc Gobi, tỉnh Cam Túc, phía bắc giáp với sa mạc Kuruktag, phía nam giáp với núi A-erh-chin. Nơi đây từng là yết hầu trọng yếu của con đường tơ lụa nổi tiếng một thời, trong lòng nó từng tồn tại cổ quốc Lâu Lan phồn thịnh bậc nhất trong các nước Tây Vực. Bây giờ bóng dáng của đoàn lạc đà đã dần dần xa khuất, tiếng chuông lảnh lót rung theo từng bước chân lạc đà đều bị cuồng phong thổi tan tác, tất cả chỉ còn lại một miền cằn khô hoang tàn với dải cát vàng trải dài miên man.

Phía đông bắc sông Khổng Tước từng là cơ sở thực nghiệm “kinh thiên động địa”(Thực nghiệm kinh thiên động địa: chỉ cuộc thử nghiệm hạt nhân đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 1964.), vì đại bộ phận khu vực đông bắc hoang mạc, bao gồm cả thành cổ Lâu Lan thời đó đều bị quy hoạch thành khu cấm địa quân sự, không ai được tự tiện lui tới, nếu chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Phía cực nam xa xôi của sa mạc là đường viên của biển cát Kumtag, do chịu ảnh hưởng của những nhân tố có lợi như nước tuyết tan chảy trên núi A-erh-chin, nên khu vực lân cận vẫn tồn tại một vài vùng hỗn hợp trồng trọt hoặc chăn nuôi du mục. Trạm bổ xung cuối cùng trước lai phân đội trắc họa tiến vào sa mạc, chính là nông trường khai hoang số 34, đó là vùng đất nằm nhô ra ở giữa Nhược Khương và Baxkorgan.

Năm đó, bộ đội giải phóng Tân Cương là quân dã hiến Tây Bắc, cũng chính là quân đoàn dã chiến số 1, sau khi các cuộc chiến tranh với quy mô lớn nối tiếp nhau kết thúc dưới lời kêu gọi của các vị lãnh đạo quốc gia, khu vưc này được phục hồi, phát triển và kiến thiết sản xuất để trở thành vùng trọng điểm. Đến tận bây giờ, những nơi này vẫn để lại rất nhiều nông trường đặt tên theo phiên hiệu của đơn vị bộ đội khai hoang. Nông trường khai hoang số 34 được xây dựng ở Baxkorgan là một trong số đó. Khu vực tiếp giáp gần nó nhất là sườn tây nông trường Thắng Lợi của huyện Nhược Khương, hai bên cách nhau khoảng 180 km theo đường chim bay.

Tuy Nông trường khai hoang số 34 được gắn mác đoàn thể, nhưng vì khu vực này có xu hướng sa mạc hóa ngày càng nghiêm trọng, nên khi mới bắt đầu thì còn nhìn thấy chút hy vọng, nhưng sau nhiều năm đấu tranh không ngừng nghỉ với gió và cát, cuối cùng mọi người cũng phải thừa nhận nơi này không phù hợp để khai khẩn nông điền, thế là hàng loạt nông trường viên lũ lượt rút xuống phía đây chỉ còn sót lại mấy chục hầm cát sơ sài, già trẻ gái trai cộng lại không đến trăm khẩu quy mô của nó cùng lắm cũng chỉ tương đương với đơn vị xây dựng chế độ liên cấp – cấp trực thuộc của chế độ xây dựng kiến thiết binh đoàn.

Thành viên chủ yếu ở Nông trường số 34 là thanh niên trí thức và gia quyến của các quân nhân đến khai khẩn và định cư lâu dài. Công việc hàng ngày của họ chủ yếu là sửa chữa và bảo vệ trạm bơm. Căn nhà hai tầng nho nhỏ phía trước chính là trạm bơm số 9, đó là căn phòng tử tế duy nhất ở Nông trường khai hoang số 34, đồng thời cũng là công trình kiến trúc tiêu biểu ở vùng ven sa mạc này.

Kết cấu địa chất ở đây không phù hợp để đào kênh ngầm như ở các bồn địa ven vùng thường thấy, nhưng nhờ có trạm bơm cũng có thể hút được mạch nước ngầm nằm rất sâu dưới lòng đất, chất lượng nước tốt ngoài sức tưởng tượng, uống vào ngọt mát thanh khiết, trong những ngày hạn hán thiếu nước, dân du mục bản địa chẳng quản đường xá xa xôi vất vả, vẫn đến đây lấy nước.

Từ nơi cao nhất trên nóc trạm bơm số 9, nơi có cắm một lá cờ đỏ, vươn tầm mắt nhìn về hướng nam sẽ những dãy núi trọc trải dài đến tận chân trời, và màu tuyết trắng chấm phá trên những ngọn núi cao. về hướng bắc sa mạc Kumtag rộng mênh mông vô tận, phía đông toàn là bãi hoang sa mạc, địa mạo xen kẽ phức hợp theo chiều sâu bao gồm sa mạc, hoang mạc, câu cốc, hồ muối. Tên cổ của dải địa mạo này là Hắc Long Đôi, hay còn gọi Đại Sa Bản. Khu vực này quanh năm bị gió lạnh miền bắc sa mạc hoành hành, thiên tai liên tục xảy ra, nên trong vòng vài trăm cây số không hề tồn tại bất kỳ dấu tích nào của sự sống. Ngay từ thời Hán Đường xa xưa, người ta chỉ có thể sử dụng lạc đà làm phương tiện di chuyển chủ yếu, và khó có thể đi xuyên qua biển cát tử thần rộng mênh mông đó. Bởi thế từ trước đến nay con đường ấy được coi là con đường kinh hoàng, không ai dám lui tới. Trong ‘Đường thư(sử ký thời Đường), người xưa còn gọi nó là “vùng đất gió độc quỷ ác”.

Trên đường đến Tân Cương, Tư Mã Khôi từng nhiều lần hỏi bác Nông địa cầu về những chuyện có liên quan đến thành cổ của vua Chăm Pa và Nấm mồ xanh, nhưng giáo sư luôn luôn né tránh trả lời. Sau khi các thành viên khác đều tới Nông trường khai hoang số 34, giáo sư bèn bảo mọi người tập trung ở trạm bơm số 9 để họp bàn bí mật.

Cấp dưới của giáo sư chỉ có bốn người, ngoài Tư Mã Khôi và Hải ngọng ra, còn có đội trưởng liên lạc phụ trach nối máy điện đàm không dây, tên là Lưu Giang Hà. Anh ta là một quân nhân trẻ tuổi mắt to mày rậm, vốn là trẻ mồ côi, con của một liệt sĩ thuộc Lữ đoàn 359 tiến quân vào Tân Cương, sau đó được cặp vợ chồng trong đội lạc đà nhận nuôi dưỡng và mang về Baxkorgan. Từ nhỏ anh ta đã cùng cha mẹ nuôi đến khu du mục Ba Châu, Mông Cổ cắt lông cừu kiếm sống. Anh ta cũng biết cưỡi ngựa săn bắn, giàu kinh nghiệm hành quân trên sa mac và hiểu rất rõ về địa hình và khí hậu ở khu phụ cận sa mạc Kumtag.

Người còn lại là thành viên đội trắc họa, tên là Thắng Hương Lân. Cô nàng tuy còn khá trẻ nhưng kiến thức và lòng dũng cảm đều hơn người, trước đây đã từng theo đoàn khảo cổ ba lần vào sâu trong sa mạc Tengger ở Nội Mông, hoàn thành nhiệm vụ trắc họa địa hình đặc biệt. Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thấy Thắng Hương Lân rất quen mắt, dường như đã gặp ở đâu rồi thì phải, sau này qua giáo sư Nông giới thiệu, mới vỡ lẽ cô gái trước mặt chính là con gái của giáo sư Thắng Thiên Viễn, cũng là em họ của Thắng Ngọc, trách gì ánh mắt, thần thái có nét hao hao giống nhau, chỉ có điều Thắng Hương Lân xuất thân tù gia đình trí thức cao cấp nên thiếu đi chút di-gan, nhưng lại thêm vào phần thân thiện, còn khí chất can trường, cùng sự tinh nhanh thì không hề thua kém Thắng Ngọc.

Hồi đó, có bà con họ hàng ở nước ngoài thì không phải chuyện gì vẻ vang cho lắm, bởi vậy nên Tư Mã Khôi không kể về Ngọc Phi Yến cho Thắng Hương Lân nghe còn Thắng Hương Lân căn bản cũng không biết mình còn có một người chị họ ở mãi tận nước Anh xa xôi. Cô mất bố từ nhỏ, nên ký ức về người cha rất nhạt nhòa. Tuy không tiếp tục theo nghề khảo cổ của bố, do bị mẹ ngăn cấm nhưng vẫn có thể coi cô vừa là học sinh vừa là trợ thủ đắc lực của bác Nông địa cầu.

Tư Mã Khôi cảm thấy việc này có gì đó không ổn, bèn hỏi giáo sư Nông: tôi thấy tổ chức phân đội trắc họa của chúng ta chỉ là đội quân nhiều thành phần, lại tập trung tạm thời, người thì là phần tử trí thức, người là nhân viên kỹ thuật, người là quân nhân, tất cả cũng chỉ có năm người, với lực lượng này mà xông pha vào sa mạc liệu có mỏng quá không?

Bác Nông địa cầu gật đầu xác nhận:

- “Bây giờ nhân lực trong nhóm chúng ta đúng là có hơi thiếu thật, nhưng trước khi vào sa mạc, chúng ta còn đón thêm mấy phân đội khoan thăm dò điều từ Karamay, Tân Cương đến, tổng cộng tất cả cũng đến vài chục đầu người. Có điều, tôi phải nhấn mạnh lần nữa với các cậu, lần hành động này sẽ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn ngoài dự liệu, thậm chí còn nguy hiểm đến cả tính mạng, nếu bây giờ có người muốn rút chân ra khỏi đoàn thì vẫn còn kịp, tôi tuyệt đối không ngăn cản.

Ông đợi một hồi, không thấy ai lên tiếng, bèn kể tình hình thật sự:

Căn cứ vào địa lý cổ mô tả, vòm trời được chia ra làm bốn cực, đại khái muốn nói ngoại trừ hai cực Nam, Bắc trên thế giới ra, còn có hai cực trên và dưới; điểm cực trên là đỉnh Chomolungma còn vực sâu giống như hắc động nằm bên dưới sa mạc Lopnor chính là cực dưới lòng đất. Nó tồn tại trong sự lặng lẽ bất diệt của vạn cổ từ khi xuất hiện đất trời vạn vật, nhật nguyệt chưa bao giờ chiếu đến được nơi đó. Tháng 4 năm 1901, nhà thám hiểm lừng danh người Thụy Điển – Sven Anders Hedin, đã phát hiện ra một tòa Phật tháp nằm sâu dưới lòng sa mạc, người ta khai quật được một cuốn kinh cổ, trong đó có nhắc đến “cực vực”. Kinh văn viết bằng tiếng Phạn, đã mô tả cực vực là một cơn ác mộng bất tận, nhưng đáng tiếc thay, vị trí cụ thể của nó thế nào thì cho đến tận ngày nay vẫn chưa ai khảo chứng được.

Khi giáo sư Thắng Thiên Viễn theo đuổi công tác khảo cổ thám hiểm ở các nơi như bán đảo Đông Dương, ông đã phát hiện thấy một số manh mối cụ thể liên quan đến cực vực. Năm 1953, khi trở về tổ quốc, giáo sư đã báo cáo thực trạng vấn đề phát hiện được. Một phân đội trắc họa, căn cứ vào những manh mối do giáo sư cung cấp quả nhiên đã tìm thấy một huyệt động nguyên sinh được hình thành vào thời kỳ đá đông kết dưới một vùng nào đó ở phía tây nam sa mạc.

Đến năm 1955, Liên Xô đưa đoàn chuyên hàng loạt thiết bị khoan thăm dò hạng nặng sang Trung Quốc. Miệt mài suốt ba năm, cuối cùng nhờ vào kết cấu thiên nhiên của huyệt động nguyên sinh, họ đã đào được một đường ngầm dài gần mười ngàn mét, trực tiếp thông sâu xuống lòng đất. Người Liên Xô quen hình dung vực sâu dưới lòng đất là kính viễn vọng địa cầu, ý muốn nói đường hầm này giống như chiếc kính thiên văn giúp con người nhìn xuyên thấu mọi vật chất nằm trong tâm Trái Đất bởi vậy con đường ngầm dẫn đến cực vực, được đặt tên là “kính viễn vọng Lopnor”.

Cuối năm 1958, việc đào kính viễn vọng Lopnor cuối cùng cũng được hoàn thành, lúc đó có một đội khảo sát liên hợp Liên Trung bất ngờ mất tích trong lúc đi xuyên qua đường ngầm để tiến hành công tác thăm dò. Sau khi mọi liên lạc bị cắt đứt, mãi đến tận bây giờ, người ta vẫn không tìm thấy bất kỳ thi thể nào của thành viên trong đội, nên chỉ có thể phỏng đoán họ đã không may gặp nạn. Sau đó, môi quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu rạn nứt, trước khi đoàn chuyên gia Liên Xô rút lui, họ kiếm cớ cố tình dùng thuốc nổ phá hủy đường hầm, đồng thời tiêu hủy một lượng lớn các tài liệu và số liệu quý giá. Mọi bí mật mà người Liên Xô phát hiện được dưới lòng bị vĩnh viễn vùi sâu dưới cực vực kính viễn vọng Lopnor; trong khi đó, với năng lực và trang thiết bị của chúng ta thi không thể tiến hành khoan thăm dò khai quật ở độ sâu như vậy được; giờ đây đống đổ nát nằm sâu dưới lòng đất kia đã sớm bị gió cát nuốt chửng.

Năm đó giáo sư Thắng Thiên Viễn không được phê chuẩn tham gia lần hành động ấy, nhưng ông vẫn không từ bỏ, mà dốc sức tìm lại manh mối, đồng thời dự đoán có khả năng cực vực Lopnor còn có một lối vào khác Vì muốn điều tra rõ nguyên nhân việc đội khảo sát liên hợp Liên Trung lại gặp nạn năm đó, nên cấp trên đã đồng ý cho giáo sư dẫn đoàn tiến vào sa mạc. Nhưng năm 1963 đội khảo cổ do giáo sư dẫn đầu đã không may gặp nạn trên không, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi khí hậu khắc nghiệt, nên lần hành động này lại buộc phải ngừng lại. Đến lúc chết, giáo sư Thắng Thiên Viễn vẫn không thể tự mình tìm ra lời giải cho ẩn số kính viễn vọng Lopnor, nên đành lặng lẽ ghi chép lại toàn bộ dữ liệu vào cuốn sổ công tác cá nhân. Rồi trước lúc lâm chung, ông nhờ Lưu sư phụ trao cho giáo sư Nông địa cầu bảo quản. Căn cứ vào các quy định có liên quan, thì hành vi này vi phạm rất nghiêm trọng đến kỷ luật tổ chức, nên giáo sư Nông địa cầu đành phải thiêu hủy nó ngay khi xem xong.

Nhưng nhiêu năm sau, đại Cách mạng Văn hóa bung nổ, thiên hạ đại loạn, nơi nơi đều xảy ra phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân, công trình kính viên vọng Lopnor cũng mau chóng bị lôi ra ngoài ánh sáng, và những thành viên có tham dự vào kê hoạch này cũng đều bị vu oan là nội gián Liên Xô. Có điều, vì cấp trên của giáo sư Nông địa cầu khá tin tưởng ông, nên trong lúc nước sôi lửa bỏng đã bố trí cho ông xuống vùng nông thôn xa xôi, lấy cớ đưa đi cải tạo lao động để ngầm bảo vệ ông.

Mãi đến năm nay, bác Nông địa cầu mới được phục hồi chức vụ, thủ trưởng ra chỉ thị cho ông tiếp tục công việc của giáo sư Thắng Thiên Viễn, dẫn đoàn tiến vào sa mạc Gobi, khám phá mọi bí mật đang ẩn kín dưới kính viễn vọng Lopnor, đồng thời tìm kiếm tung tích các thành viên bị mất tích trong đội khảo sát liên họp Liên Trung năm đó. Thế nhưng do trở ngại về địa hình, nên mọi dữ liệu và điều kiện cung cấp cho chuyến hành động này đều vô cùng hạn hẹp, nên đành tiến hành công việc giống như mọi công việc khảo cổ hoặc trắc họa bình thường khác.

Bác Nông địa cầu còn nói rõ:

- “Điều kiện hạn hẹp cũng không đáng lo lắm, nhưng việc đặc biệt phải làm theo cách đặc biệt. Tổ chức đã cho phép tôi dẫn đoàn chứng tỏ cũng rất tin tưởng tôi, các thành viên trong đội thám hiểm tât cả đều do tự tay tôi lựa chọn, thà thiếu nhân lực cũng nhất quyết không cho kẻ ngoại đạo tham gia, nếu M^gthì thà tôi quay về ngồi nhà đá còn hơn. Nếu lỡ xảy ra vấn đề gì trong quá trình hành động, thì Tống Tuyển Nông tôi xin đứng ra lãnh mọi trách nhiệm”.

Tuy cấp trên đã phê chuẩn đề nghị của giáo sư, nhưng nhân sự ở các đơn vị sau Cách mạng Văn hóa đều bị điều động liên tục, rất nhiều các ban ngành rơi vào tình trạng kẻ ngoài ngành quản lý người trong ngành, thậm chí một số đơn vị còn không có người quản lý, bởi vậy giáo sư không thể tìm được người thích hợp, đúng lúc đó thì Tư Mã Khôi và Hải ngọng tình nguyện đi thay Lưu Hoai Thủy. Giáo sư Nông nhận thấy Tư Mã Khôi thông hiểu cổ thuật, đó chính là kế sách thần kỳ giúp họ hộ mệnh hồi thiên; hơn nữa, anh và Hải ngọng từng nhiều năm chiến đấu ở Miến Điện, lại có kinh nghiệm trinh sát, thân thủ nhanh nhẹn, hành sự quyết đoán, đúng là một người có thể địch mười người, nhưng điều quan trọng nhất là cả hai đều rất tháo vát linh hoạt, biết tùy cơ ứng biến, được sự trợ giúp của họ còn đáng tin cậy hơn nhiều lão Lưu Hoại Thủy của đội khai quật khảo cổ, bởi thế giáo sư đặc biệt kỳ vọng vào họ.

Giáo sư Nông địa cầu cũng nghe họ kể qua về lý do hai người gia nhập đội khảo cổ, có điều kiến thức về lịch sử Miến Điện hay Campuchia của ông đều có hạn, và ông cũng không đi sâu nghiên cứu thành cổ vua Chăm Pa, nên không thể giúp gì cho họ được.

Trước mắt, tất cả thông tin mà giáo sư có thể tiết lộ cho mọi người chỉ đến chừng ấy, những việc còn lại đều thuộc phạm trù bảo mật, chỉ khi cả đoàn vượt sông tiến vào cực vực Lopnor, thì ông mới có thể nói rõ việc bố trí bước tiếp theo như thế nào được.

Thắng Hương Lân cũng biết trước đôi chút nội tình, cô nàng tỏ ý nhất quyết đi theo đội thám hiểm đển cùng, anh chàng Lưu Giang Hà cũng thể hiện rõ quyêt tâm:

- “Cấp trên đã sắp xếp để tôi làm nhân viên liên lạc và hướng đạo cho đội thám hiểm, nghĩa là rất tin tưởng vào tôi. Huống hồ ngoại trừ mấy vị bô lão sống ở vùng du mục, thì chỉ có tôi từng đi qua Đại Sa Bản. Tôi khá thông thuộc tình hình khu vực này, hành quân trong sa mạc sợ nhất là lạc đường, tiếp đến là sợ gió cát, thứ ba là sợ mất nguồn nước, những vấn đề này tôi đều có thể ứng phó, không có tôi dẫn đường, chắc chắn đội thám hiểm không thể đến được địa điểm quy định, vả lại tiểu đội ta cũng không thể thiếu nhân viên thông tin được.”

Tư Mã Khôi lại nghĩ sự việc không đơn giản như thế, trước đây khi còn ở Miến Điện, anh từng nghe kể về “kế hoạch kính viễn vọng địa cầu”, cái gọi là “kính viễn vọng địa cầu” thực ra là chỉ một huyệt động sâu hàng chục ngàn mét, gần như vực không đáy, nếu đem khe núi Dã Nhân sâu hơn hai ngàn mét ra mà so sánh với độ sâu của vực thì chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, chẳng trách lão Lưu Hoại Thủy chưa gì đã vội đánh trống thu quân; thì ra lão giáo sư hói này muốn tổ chức một đội cảm tử đi sâu xuống thế giới dưới lòng đất, không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là cuộc hành trình xuống địa ngục đi tìm thần chết
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Hồi thứ Mười

Đèn Cacbua


Tư Mã Khôi nghe giáo sư Nông địa cầu nói mà trong đầu nảy sinh hàng loạt nghi vấn, kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào năm đó rốt cục là loại kết cấu gì? Nếu nó nằm ở độ sâu cách bề mặt Trái Đất hàng chục ngàn mét, thì địa áp sẽ rất mạnh, không khí cũng không thể lưu thông, bởi vậy chắc chắn không một loài sinh vật nào có thể sống sót dưới điều kiện môi trường ấy. Vậy làm cách nào để vào trong đó bây giờ? Rốt cục điểm tận cùng của nó thông đến đâu? Bên trong nó tồn tại vật gì? Sự cố hàng không kỳ lạ xảy ra năm 1963 có liên quan gì đến nó không? Vì sao các chuyến hành động thăm dò khoa học này lại do các chuyên gia về khảo cổ sa mạc như giáo sư Tống Tuyển Nông hay giáo sư Thăng Thiên Viễn đảm nhiệm vị trí chỉ huy?

Bác Nông địa cầu đã biết rõ lai lịch quá khứ của Tư Mã Khôi, cũng biết rõ động cơ tham gia đội khảo cổ của anh không đơn thuần, nhưng vụ kính viễn vọng Lopnor này can hệ quá sâu đến nhiều vấn đề khác, nên khi thời cơ chưa chín muồi, giáo sư không muốn tiết lộ thêm tin tức bởi vậy ông không thể trực tiếp trả lời mọi thắc mắc của anh mà chỉ có thể nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng:

- “Tôi hy vọng các cậu có thể tin tưởng tôi vô điều kiện, hơn nữa phải tin đến cùng, tới thời điểm cuối thì mọi ẩn số tất sẽ có lời giải đáp thôi”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng nửa tin nửa ngờ lời giáo sư, họ hiểu rất rõ kính viễn vọng Lopnor là nơi vô cùng nguy hiểm, chuyến khảo cổ này đâu phải chuyến viếng thăm nhà bố mẹ vợ, bởi chỉ cần sơ xảy một chút là hết đường về quê mẹ ngay. Nhưng nghĩ lại, đã đến cơ sự này,

Nếu nói không đi nữa, e cũng đã muộn, vả lại nguyên nhân khiến giáo sư Thắng Thiên Viễn thoát khỏi sự khống chế của Nấm mồ xanh trở về Trung Quốc phải chăng có liên quan đên việc ông phát hiện ra manh mối của cực vực dưới lòng đất? Có lẽ đằng sau loạt sự kiện này tồn tại một mối liên kết ràng buộc nào đó. Tư Mã Khôi nhận định khả năng này rất lớn, xem ra dẫu biết rõ phía trước là biển lửa nhưng anh vẫn phải nhắm mắt liều mạng mà nhảy qua.

Hải ngọng vẫn mơ tưởng đến khoản lương bậc mười bảy, anh hỏi bác Nông địa cầu khi nào mới đổi thành tiền mặt? Ngộ nhỡ bọn tôi được “Tổ quốc ghi công” thi món đó tính toán thế nào?

Tư Mã Khôi nói: sự việc đã đến nước này thì anh em ta cố mà nghĩ theo chiều hướng tốt, nếu có thể sống sót mà quay trở về, chưa biết chừng khi đó hai anh em ta lại nổi tiếng ngang ngửa với xác ướp phụ nữ Mã Vương Đôi ở khu mộ Tiểu Hà ấy chứ, lúc bấy giờ đảm bảo ảnh chân dung của anh em ta phải đăng tải trên trang nhất tờ Quang Minh nhật báo, Nhân dân nhật báo, báo Giải phóng quân rồi trở thành nhân vật giật tít đấy.

Hải ngọng dường như rất tin tưởng vào khả năng việc này trở thành sự thực, anh bàn bạc rôm rả:

- “Nếu đã được đăng tải trên báo giấy, thì đài phát thanh Nhân dân Trung ương kiểu gì mà chẳng nhào đến săn tin nhỉ. Cái mặt của Hải ngọng tớ cuối cùng cũng có ngày được chường ra trước mặt quần chúng nhân dân, tha hồ mà vinh hiển với tổ tông nhé. Đến lúc đó, tớ nghĩ là tớ sẽ mang tất cả phương tiện truyền thông đến trước mộ tế bố tớ, đê ông già nghe cho thật rõ…”

Tư Mã Khôi chê bai:

- “Cậu lại nghĩ ra cái quái quỷ gì thế? Chỉ cần đốt vài quyển báo cho ông già nhà cậu xem là ổn chứ gì? Trên trời dưới đất có ai xách đài ra mộ cho ma nghe chưa hả?”

Hải ngọng phân trần:

- “Cậu biết rồi còn nói, ông già nhà tớ chỉ là nông dân chân đất, sau khi tòng quân được tham gia mấy bận lớp xóa mù, nhưng về cơ bản vẫn không phải nòi đọc sách, cả đời số chữ cụ thuộc chẳng biết có được nửa đấu hay không, nếu tớ mà đốt báo thật, thì không khéo ông già còn chẳng biết xoay ngang xoay ngửa thế nào cho phải mà đọc ấy chứ…”

Bác Nông địa cầu thấy hai người càng nói càng hoang đường liền vội chen ngang, ý tứ rất thâm thúy:

- “Chỉ cần các cậu có suy nghĩ cầu tiến đó là được, còn chuyện trở về… thì đợi sau khi trở về nói tiếp cũng chưa muộn”. Liền sau đó giáo sư bắt đầu quy hoạch tuyến đường tiến vào sa mạc, đồng thời phân công cho những người còn lại kiểm đếm trang thiết bị và dụng cụ.

Lưu Giang Hà một mình điều chỉnh chiếc bộ đàm quang học không dây. Thắng Hương Lân cầm bảng kiểm đếm đang kiểm lại những thiết bị cần mang theo để tránh trường hợp bị thất lạc mất món nào. Do đội thám hiểm chuẩn bị tiến sâu xuống lòng đất, nên thiết bị chiếu sáng tât nhiên là dụng cụ không thể thiếu.

Thời đó trong nước có rất ít mũ sắt và mũ leo núi chuyên dụng, dụng cụ bảo hộ thường dùng khi xuyên sơn xuống động chỉ có mũ cối đan bằng lá liễu, mà công nhân mỏ than thường đội khi xuống giếng quặng. Dù vậy, chiếc mũ đó cũng có những ưu điểm nhất định, có thể duy trí chiếu sáng trong một thời gian dài, độ xuyên thấu và cự ly của chum sang rất ưu việt, thậm chí còn khiến người ta nảy sinh ảo giác nếu không có vật cản phía trước, chùm sáng này cổ thể trực tiếp rọi đến tận tâm Trái Đất.

Ngoài đèn quặng ra, đội thám hiểm còn chuẩn bị một số thiết bị chiếu sáng đặc biệt khác, đó là đèn cacbua. Đây là sản phẩm của thời đại thiếu thốn vật tư, hình thù của nó hơi giống với quả lựu đạn cán gỗ cầm tay dưới cùng là cán, bên trên là thân đèn, hoạt động theo nguyên lý sản sinh và đốt cháy axêtylen theo nhu cầu bổ sung nước vào cacbua canxi, bên trong sẽ xảy ra phản ứng hóa học, bốc lửa màu trắng bạc ánh lên như tuyết; nếu nồng độ khí cacbonic xung quanh quá cao, thì ánh lửa bên trong thân đèn sẽ lập tức chuyển thành màu xanh biếc. Chính vì vậy, nó không chỉ có tác dụng cung cấp ánh sáng nhu thông thường mà còn có tác dụng đo lường chất lượng không khí.

Tư Mã Khôi đứng bên nhìn một hồi lâu, đột nhiên nói với Thắng Hương Lân:

- “La bàn đa năng DME 62 loại quân dụng, máy ảnh Hải Âu K205 chống lóa với thấu kính đơn, kính viễn vọng Chim Ưng độ phân giải cao 8×40… xem ra cũng khá đầy đủ đấy nhỉ, nhưng sao không thấy có vũ khí nào nhỉ? Không phát gì cho chúng ta à?

Thắng Hương Lân giải thích:

- “Trong năm chúng ta, chỉ có đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lý lịch quân nhân, nên theo quy định thì chỉ mình anh ấy được phép sử dụng súng khi chấp hành nhiệm mà thôi. Với lại, trên biển cát sa mạc đó trên không chim bay, dưới không thú chạy, mang theo súng cũng có ý nghĩa gì đâu?”

Hải ngọng sốt ruột cãi:

- “Không có súng thì không vững dạ chứ sao, chí ít cũng phải phát cho bọn tôi khẩu súng lục K54 chứ? Nghĩ lại tuyệt kỹ bắn súng của Hải ngọng tôi ngày trước ấy à, chỉ cần vung tay một cái là có con ưng lìa đời, mà chỉ bắn đầu chứ không bao giờ bắn đít nhé bắn chim sẻ không bắn tan xác mà phải để nguyên con nếu không thì sao có thể gọi bản lĩnh thứ thiệt…”

Tư Mã Khôi bài xích:

- “Trại chủ Hải ngọng, cậu có kiến thức cơ bản về quân sự không hả? Súng lục thì làm được cái trò gì? Ngay cả khẩu súng trường bán tự động K56, mà đội trưởng Lưu Giang Hà khoác trên lưng, cũng chỉ sử dụng trên sa mạc được thôi, còn khi thực sự bước xuống kính viễn vọng Lopnor ấy à, môi trường dưới lòng đất vô cùng phức tạp, dơi chuột, rắn rết, kiến bọ và cả những tên nội gián Liên Xô vẫn chưa chết hẳn nữa, có quỷ mới biết chuyện gì sẽ xảy ra, nên không găm mấy cây gậy phun đạn trong tay sao được. Tớ thấy nếu gặp nguy hiểm, thì chắc chắn sẽ xảy ra ở cự ly gần, hơn nữa tốc độ cực nhanh, loại vũ khí chúng ta cần bắt buộc phải tôc độ chuyển đổi ứng chiến nhanh, nhả đạn nhạy, tốc độ bắn cao, tỷ lệ xảy ra sự cố thấp, còn khẩu sung trường bán tự động K56 không thể xoay chuyển được trong không gian nhỏ hẹp, còn lực bắn của súng lục lại không đủ mạnh, khó lòng tạo ra hỏa lực cần thiết áp chế đối phương, những loại này đều không phù hơp với nhu cầu tác chiến của chúng ta, loại tốt nhất bây giờ phải là súng xung phong hoặc súng trường đột kích. Tớ nghe nói trong nước có sản xuất hàng loạt kiểu súng xung phong rừng rậm hạng nhẹ. Tuy tên gọi như thế, nhưng nó không chỉ thích hợp sử dụng khi hành quân trong rừng mà còn có thể tác chiến ở vùng sơn địa, đường hầm, xóm ngõ. Nếu có khẩu xung phong rừng rậm phòng thân, thì bất cứ nơi nào trên đời tớ cũng dám xông vào hết.”

Hải ngọng phản bác:

- “Thằng ranh nhà cậu đang nằm mơ đấy hả, lại còn, mẹ nó chứ, muốn đòi cả súng xung phong nữa cơ đấy? Phát luôn cho cậu một đôi cỗ xe tăng chẳng phải thực tế hơn sao? Mà cái khẩu xung phong rừng rậm hạng nhẹ cậu vừa nói đấy, tuy bắt đầu được nghiên cứu từ những năm 60, nhưng mãi đến tận bây giờ vẫn đang trong quá trình tiếp tục nghiên cứu, chứ đã thấy mặt mũi nó đâu, hay là anh em ta cứ đợi thêm một vài năm nữa cho nó ra lò rồi hãy khởi hành vào sa mạc nhỉ?”

Thắng Hương Lân sớm nhận ra Tư Mã Khôi va Hải ngọng không giống thành viên đội khảo cổ. Lúc này, hai người tranh cãi kịch liệt vì vụ mang theo súng gì, cô nàng không khỏi lo lắng:

- “Sao hai gã này giống bọn buôn lậu vũ khí thế nhỉ, khi nãy còn chụm đầu bàn kế đòi lên báo Nhân dân nữa chứ, đầu óc họ rốt cục đang nghĩ gì thế không biết?”, cô nàng có hảo ý khuyên can:

- “Thôi, các anh đừng ngồi đó cãi nhau nữa, sắp đên giờ xuất phát rồi, vẫn còn nhiều việc quan trọng phải làm lắm đấy!” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư

Ai ngờ, Hải ngọng tóm ngay lấy câu này như thể chết đuối vớ cọc, anh dài miệng trách móc:

- “Tôi bảo cô em đồng chí này, cô em nói thế là sai quan điểm rồi đấy, mọi người họp bàn kiểu gì mà chẳng anh một câu tôi một tiếng thảo luận. Khi nãy ông bác Nông hói phát biểu, tôi có nói gì đâu, có muốn nói cũng nhịn không nói, thế mà bây giờ đến lượt tôi phát biểu ý kiến thì các đồng chí lại bảo bận đi giải quyết các công việc khác là sao? Tôi thấy nếu còn tiếp tục phát triển tình thế gió ngược chiều này, thì đội ngũ của chúng ta sẽ mau chóng biến thành đội ngũ nằm dưới ách thống trị độc tài của ông bác Nông hói đấy. Bây giờ, cuộc họp lớn không đến lượt quần chúng nhân chúng tôi phát biểu, cuộc họp nhỏ cũng không cho chúng tôi phát biểu, chẳng lẽ phải đợi đến khi tuyến tiền liệt phát viêm thì mới đến lượt quần chúng nhân dân chúng tôi à?

Hương Lân chưa bao giờ gặp phải hạng người múa mép giảo hoạt đến mức ấy, cô nàng bị Hải ngọng chọc cho tức điên:

- “Anh vừa lên báo, vừa lên đài phát thanh, thế mà gọi là quần chúng nhân dân à? Tôi thấy trước tiên anh phải xác định rõ xem hướng bắc nằm ở đâu rồi hãy phát biểu nhé!”

Hải ngọng bị cô nàng nói cho cứng cả họng, lúc này Tư Mã Khôi đột nhiên lóe lên một ý, bèn nói với Hải ngọng:

- “Không đến phiên cậu nói cũng đúng thôi, ai bảo cậu đã không có thành tích nổi bật lại không có lý lịch nổi bật, có mỗi, mẹ nhà nó, cái eo là nổi bật nhất thôi. Tớ thấy cậu đừng ngồi đó đấu võ mồm với cô em nữa, chúng ta mau tìm đại đội trưởng Mục xin súng đi!”

Thực ra Tư Mã Khôi không hề để ý người khác nhìn nhận thế nào về vấn đề vũ khí. Có thể trong sa mạc Lopnor quả thật không hề có vật sống, nhưng không có nghĩa là không có vật chết, nghe nói ở đó có rất nhiều thành cổ mộ địa, thần bí khó lường, chỗ nào cũng chôn toàn xác khô ngàn năm, nên mang theo khẩu súng chí ít cũng có tác dụng trấn quỷ trừ tà. Dù sao thì cái việc ngu ngốc đùa giỡn tính mạng, trong khi hai tay trống không, người như Khôi đây nhất quyết không làm.

Nông trường khai hoang số 34 thuộc thể chế quân sự chuẩn hóa, nên ngoài việc sản xuất nông nghiệp ra thì còn gánh vác nhiệm vụ bảo vệ tuần tra; bởi vậy ở được phân phát các loại vũ khí tiêu chuẩn và bãi tập bắn, bộ đội thường xuyên hợp tác với dân binh triên khai các buổi huấn luyện quân sự. Chỉ huy đại đội bộ đội ở đây là đại đội trưởng Mục, anh là quân nhân chuyên nghiệp, năm nay tầm bốn mươi tuổi, khi quân giải phóng tiến vào Tân Cương tiễu phỉ, anh đã từng lập được chiến công, cơ thể anh vạm vỡ, rắn chắc chẳng khác gì khẩu pháo bộ binh dựng trước Tượng Môn, nói chuyện cũng trực diện, thẳng thắn như pháo bắn. Lần này, anh được cấp trên cử đến để đàm nhiệm công tác an toàn bảo mật, tất cả các loại vật tư ở đây đều do anh phụ trách phân phối, điều động.

Lúc trước, Tư Mã Khôi cứ nghĩ đại đội trưởng Mục ở lại nông trường khai hoang làm việc, mãi đến khi họp giáo sư Nông địa cầu mới cho họ biết anh sẽ tham gia hành động cùng đội thám hiểm, thế là Tư Mã Khôi bèn rủ Hài ngọng đến thẳng chỗ đại đội trưởng hỏi xin vũ khí.

Khi đến nơi, thấy đại đội trưởng Mục đang ngồi trong phòng lau súng, anh tháo rời các linh kiện của khẩu súng lục K54, nhẹ nhàng cẩn thận như khi nàng dâu mới bước qua ngưỡng cửa nhà chồng. Đại đội trưởng đang tỉ mỉ lau chùi từng bộ phận súng, ngẩng đầu lên thì thấy hội Tư Mã Khôi và Hải ngọng bước vào, bèn hỏi:

- “Chuyện gì thế? Vào mà không hô báo cáo là sao? Có chuyện gì mà các đồng chí xông bừa vào đây thế hả?”

Tư Mã Khôi biết nếu cứ mở mồm thẳng thừng đòi sung thì chắc chẵn sẽ hết trò diễn với bố đại đội trưởng này, thế là anh bèn vòng vo nói:

- “Cũng chả có chuyện gì đâu, nghe nói trước đây ông anh là lão tướng, từng tiễu phỉ trong sa mạc, lại còn hưởng ứng lời hiệu triệu vĩ đại của trung ương Đảng và Mao Chủ tịch, tình nguyện an cư lac nghiệp ở cái vùng chó ăn đá gà ăn sỏi này để khai khẩn đất hoang; vì bảo vệ bình yên vùng biên cương tổ quốc mà sẵn sàng cống hiến tuổi thanh xuân quý giá, rồi hết tuổi thanh xuân của mình lại còn cống hiến thêm cả con cháu đúng là một tấm gương chói sáng, anh em bọn tôi đang định tìm cơ hội học hỏi ông anh tí chút đây…”

Đại đội trưởng Mục thấy lạ liền nói:

- “Chuyện gì thế nhỉ? Nói năng vòng vo khách sáo quá! Các đồng chí mồm mép giảo hoạt lắm, thô thiển như tôi thì có khỉ gì đáng để các đồng chí học hỏi chứ?”

Tư Mã Khôi nói:

- “Ông anh kể cho bọn tôi nghe câu chuyện chiến đấu tiễu phỉ ở Tân Cương đi, nghe nói truy kích bọn phỉ ở sa mạc là kinh hồn bạt phía nhất à? Lúc đó bộ đội nhà mình sử dụng những loại vũ khí nào? Còn bọn thổ phỉ dùng loại súng nào hả ông anh?”

Hải ngọng sốt ruột không chờ thêm được nữa, bèn thò miệng chen ngang:

- “Đồng chí đại đội trưởng, đừng khiêm tốn nữa, kinh nghiệm chiến đấu và chiến thuật cụ thể đợi sau này từ từ kể cũng không muộn, hay là đồng chí cứ trực tiếp phát mấy khẩu sung ống thật ra đây cho bọn tôi mở rộng tầm mắt xem thế nào là đạn tươi sung thật đi!”.

Đại đội trưởng Mục nghe đến đây mới vỡ lẽ:

- “Ồ, tôi cứ thấy các đồng chí đầy một miệng lời hay chữ đẹp, hóa ra là muốn đòi súng đòi đạn. Chết tiệt, có chuyện gì thì cứ viêc nói thẳng ra, tổ chức bảo tôi phải giúp đỡ công việc của các đồng chí, phải cung cấp hướng đạo, lạc đà, lương thưc nước uống, còn phải phát cho mỗi người một tấm thảm lông để tránh rét, nhưng không thấy nói đến việc phải cung cấp súng ống đạn dược, vả lại dân khảo cổ toàn thành phần trí thức, đã bao giờ cầm súng bắn thật chưa hả?”

Hải ngọng nói:

- “Đồng chí đại đội trưởng coi thường bọn tôi quá đấy, đừng nói bắn súng, ngay cả máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh thì Hải ngọng tôi cũng lái mấy lần rồi đấy. Tôi thấy khẩu này của anh chẳng phải là khẩu bán tự động K54 sao, hay là cho tôi mượn bắn vài phát nhé? Đương nhiên nếu có khẩu xung phong kết hợp súng trường kiểu tự động K63 thì càng hay.”

Đại đội trưởng Mục nghiêm nét mặt:

- “Các đồng đủ tinh, đã đòi làm tướng rồi đấy hả?”.
Đại đội trưởng Mục vốn định gạt phắt ngay lập tức, nhưng rồi lại nghĩ: đội khảo cổ suy cho cùng đều là những đồng chí được cấp trên cử xuống triển khai công tác, bởi vậy anh cũng không muốn đắc tội với họ, thế là bèn ra vẻ khó xử:

- “ Chết tiệt, lại còn đinh bốc phét với tôi nữa hử, ngay cả máy bay tiêm kích của Anh mà đồng chí cũng biết la á? Đúng lúc tôi đang có khẩu súng lục vừa mới tháo dời, nếu đồng chí lăp lại được như cũ trong vòng hai phút , thì tôi sẽ lập tức phát súng ống đạn dược cho, nhưng nếu không lắp được thì chớ nói thêm chuyện gì nữa, cứ việc đến tư đâu thì xéo về chỗ đấy cho tôi nhờ!”

Xưởng công binh Miến Điện có thể sản xuất hàng nhái súng lục K54, năm đó Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều từng sử dụng nó. Họ tham gia vào đội đặc vụ quân đội Cộng sản Miến Điện suốt bao nhiêu năm, đừng nói bản thân trải qua hàng ngàn cuộc chiến đấu, mà phải nói từ sáng đến tối không bao giờ rời tay súng. Nhờ đó, hai người đã rèn luyện thành thục bản lĩnh: “lắp súng trong vòng mười bước”, ví dụ đang ngồi tháo súng lục bảo dưỡng ở doanh trại trong núi, thì kẻ địch đột nhiên bao vây tấn công, lúc bấy giờ phải lập tức dùng quần áo vơ tất cả linh kiện súng lục vào, rồi vừa chạy vừa lăp súng, chạy đến bước thứ mười một thì khẩu súng trong tay nhất định phải lắp xong và sẵn sàng lên quy lát ngăm bắn. Bởi vậy Hải ngọng căn bản không thèm để ý đên thời gian quy định ngắn dài, anh kéo lào rào linh kiện khẩu súng lục K54 về phía mình, rồi nhoáng cái đã lắp hoàn chỉnh.

Đại đôi trưởng Mục thậm chí còn chưa kịp nhìn đồng hồ, trong lòng quá đỗi kinh ngạc:

- “Sao cậu làm được vậy?”,
Rồi đại đội trưởng không thể nuốt lời, đành tìm mấy khẩu súng săn mà dân du mục bản địa dùng để săn dê vàng.

Tư Mã Khôi vừa nhìn đã liên tục lắc đâu, đây đều là những khẩu súng trường đời cũ tịch thu của bọn thổ phỉ, nay được cải tiến lại, có khẩu rãnh xẻ nòng súng đã bị mài mòn,có khẩu thì không biết ống ngắm đã bay mất đằng nào. Anh nói với đại đội trưởng Mục:

- “Mấy thằng cha cổ lỗ sĩ này dùng từ hồi tiễu phỉ hả ông anh? Chắc bọn loạn binh Nga lưu vong sang Tân Cương để lại sau cách mạng Tháng Mười chứ gì, có khi tuổi đời của nó còn cỗi hơn cả tuổi ông bác Nông hói trong đoàn khảo cổ bọn tôi ấy nhỉ, loại súng này căn bản không thể sử dụng được nữa, bây giờ ngay cả đạn của nó cũng khó kiếm lắm. Hay là ông anh đôi cho bọn tôi loại vũ khí tiêu chuẩn mà chiến dịch bây giờ hay dùng nhé!”

Đại đội trưởng Mục thẳng thừng từ chối, anh nói:

- “Chuyện này không có đất thương lượng, bây giờ cho các đồng chí khẩu súng đó đã là ngoại lệ hi hữu lắm rồi, khắp khu vực sa mạc rộng lớn này, bao nhiêu năm nay có bóng dáng tên phỉ nào bén mảng đến nữa đâu. Trong vòng mấy tram dặm quanh đây, ngay cả nửa bóng ma còn không nhìn thấy nữa là, vì thế toàn thể thành viên trong đội không cần mang theo vũ khí. Tôi và đội trưởng liên lạc mang theo súng chẳng qua chỉ để đề phòng bất trắc mà thôi, còn thành viên bình thường như các đồng chí thì chỉ cần làm tốt công tác tự vệ cá nhân là ổn rồi.”

Tư Mã Khôi và Hải ngọng bất lực không biết làm gì hơn, trong lòng nghĩ thầm:

- “Dù sao thì mang theo cây gậy phun lửa cũng còn đỡ hơn phải xiết không hai nắm đấm”. Hai người đành rút lui chờ đợi cơ hội khác đồng thời chọn lựa hai khẩu súng trường kim hỏa đời cũ, trông không khác gì khẩu súng thần công, đã thế đạn lại còn là loại thuốc súng không khói, tìm khắp chỗ mọi nơi mới moi ra được hai mươi mấy phát, còn trong số bấy nhiêu viên này có sử dụng được tất hay không, lại là chuyện khác.

Rạng sáng ngày hôm sau, khi ánh mặt trời đầu tiên nhảy nhót trên nông trường, thì đã có ba người hướng đạo được điều từ khu du mục đến. Họ dắt theo một đoàn lạc đà lớn, trên lưng chất đầy nước uống, lương thực và các loại thiết bị, rồi dẫn mọi người tiến vào sa mạc Gobi. Đầu tiên, đội khảo cổ phải men theo sa mạc Kumtag, hẹn gặp phân đội thăm dò vật chất mỏ dầu đến từ Karamay, sau mới cùng nhau vượt Đại Sa Bản.

Lộ trình mấy hôm đầu, đa số đều băng qua vùng sa mạc với địa thế thoai thoải, thi thoảng mới gặp một cồn cát. Do nơi đây quanh năm chịu sự hoành hành của hàn phong bắc sa mạc, nên những hồ muối khô màu đen xám đọng thành lớp vỏ cứng, chắc đều bị những hạt cát nhỏ bào mòn, trở nên sáng bóng như mặt gương, giẫm chân lên trên chỉ nghe thấy phát ra những tiếng lạo xạo, khiến mỗi bước đi của lữ khách càng thêm phần nhọc nhằn.

Đứng trên vùng đất hạn hán mênh mông, hướng tầm mắt nhìn ra bốn phía, thấy xung quanh vô cùng yên ắng buồn tẻ, hầu như không hề có chút biến hóa nào, đến đâu cũng chỉ khiến người ta cảm thấy hoang lương đến ngạt thở. Nếu lỡ có ai bị lạc đường ở đây, thì có lẽ họ sẽ bị bốc hơi mất tăm mất dạng, giống như giọt nước rơi xuống sa mạc nóng bỏng, không bao giờ có thể tìm thấy được nữa.

Nhưng Tư Mã Khôi từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói: trong miền sa mạc không hề có dấu tích của sự sống này, đã từng sản sinh ra một nền văn minh cổ xưa vô cùng rực rỡ huy hoàng, cổ quốc giàu có phồn thịch bậc nhất các Tây Vực đó tồn tại như một thần thoại, để rồi sau đó cũng biến mất như một thần thoại. Nó không khác gì đóa trà mi, lặng lẽ úa tàn nơi tận cùng thời gian.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 11
Hoang Mạc

Mọi người theo đoàn lạc đà di chuyển trên sa mạc bỏng rát. Đối mặt với sa mạc thoáng đạt không bờ bến, tựa hồ như vạn vật trên đời đều không còn tồn tại, tận cùng trời đất chỉ còn lại biển cát cháy mênh mang.

Suốt dọc đường đi, gió cuốn bụi tung, ban đêm trải tẩm thảm lông tựa bên cạnh lạc đà ngủ thiếp đi, đói thì uống nước muối, gặm lương khô, ban ngày nhiệt độ trên sa mạc lên tới hơn 40°c, làn sóng khí nóng bỏng như muôn hun sấy con người thành xác khô. Lúc thực sự không thể chịu đựng được cái nóng như rang, cả đoàn lại thu mình ẩn dưới bóng râm của những cồn cát, nghỉ ngơi ít phút. Khi màn đêm buông xuống, nhiệt độ lại đột ngột hạ rất nhanh, không khí lạnh lẽo đến mức chân tay cóng gan phổi tê tái, đầu óc đau nhức, thực không thể nói hết những nỗi nhọc nhằn gian nan trên chuyến hành trình vào sa mạc này.

Năm ngày sau, cuối cùng đoàn lạc đà cũng vượt sa mạc Gobi thành công, tiến gần đến vùng ven Đại Sa Bản hiểm nguy khác thường. Địa hình địa mạo bắt đầu xuất hiện nhưng biến đổi nho nhỏ, sa mạc ở đây phân bố không đồng đều, có nơi cát nông chỉ mỏng vài centimet, dưới nền cát là tầng đất rắn chắc, do chịu sự chia cắt của hàn phong bắc sa mạc, nên hướng nam bắc xuất hiện rất nhiều rãnh cát, khe cát, hố cát.

Lúc này vừa sang thời khắc hừng đông, vầng thái dương đỏ au như nhuốm máu, bắt đầu nhô cao dần từ sau lưng, đường chân trời phía đông tựa hồ bị ai xé rách, hở ra một miệng yết thương màu đỏ tươi. Tận cùng sa mạc mênh mông bỏng giãy xuất hiện một dải vật thể lồi hẳn lên, xem ra có lẽ là những cồn cát trải dài tít tắp. Nó đứng sừng sững đơn độc giữa lòng sa mạc hoang vu, nhưng khi đoàn lạc đà ngày càng đến gần, thì thấy dưới sự phản chiếu của những vầng mây hồng lững lờ bay khắp trơi, những núi cát, cồn đất nhấp nhô đó như được khoác tấm áo choàng mạ vàng diễm lệ, trước mắt mọi ngươi nó bỗng dưng biến thành một tòa thành trì nguy nga lộng lẫy với sắc vàng pha biếc, như thể là bóng dáng của cổ quốc Tây Vực phồn hoa năm xưa lại một lần nữa xuất hiện giữa nhân gian. Ảo ảnh xuất hiện vừa thê lương vừa mỹ lệ tuyệt trần.

Trong lúc cả đoàn còn ngẩn người ngắm nhìn cảnh sắc sa mạc, thì anh hướng đạo lưng đeo súng săn đột nhiên dừng đoàn lạc đà lại, rồi bảo với bác Nông địa cầu: đi tiếp về phía trước sẽ tiến vào địa phận Hắc Long Đôi. Dải đất này gió độc quỷ ác liên tục hoành hành, đến đâu cũng chi thấy trời u đất tối, gió lớn cấp tám giật dữ dội màn đêm kéo dài lê thê, cho dù là ban ngày cũng không nhìn rõ đường, đừng nói xe cộ không thể đi vào được, mà ngay cả lạc đà cũng rất dễ bị kinh động. Hơn nữa, trọng lượng của lạc đà rất nặng, chỉ cần giẫm phải hố cát thì sẽ trượt chân rơi xuống khe cát lún mà mất mạng như chơi, vì thế đoàn lạc đà chỉ có thể tiễn đội thám hiểm đến đây, không dám đi sâu hơn nữa.

Hội Tư Mã Khôi thấy vậy, đành phải dỡ lương thục và trang thiết bị trên lưng lạc đà xuống. Ba anh du mục hướng đạo vẫy tay chào tạm biệt mọi người, rồi dắt lạc đà quay đầu trở về. Sáu người còn lại – do giáo sư Nông địa cầu dẫn đầu, lại tiếp tục chuyến hành trình. Trước khi xuất phát, mọi người chỉnh trang lại tư trang hành lý. Mỗi người đều có một ba lô vải buồm, cuốn thảm buộc lên nắp ba lô, bên cạnh dắt dao săn. bình nước, dây thừng dài, lương khô đủ cho năm sáu ngày đường. Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà còn phải vác theo chiếc bộ đam quang học không dây nữa. Có thứ thành tựu khoa này, lúc trở về mọi người sẽ nhờ nó để tìm kiếm cứu viện.

Theo phương án đã định, giáo sư Tống Tuyển Nông sẽ dẫn nhóm tiến vào vùng ven Đại Sa Mạc để tụ họp với phân đội khoan thăm dò và vật lý thăm dò mỏ dầu, được điều đến từ Karamay. Phân đội này có cả kỹ sư, nhân viên kỹ thuật chuyên môn, họ phụ trách tìm kiếm các thiết bị khoan đào hạng nặng ở dưới lòng đất do người Liên Xô để lại, đồng thời lấy mẫu đá trong đó. Hầu hết trang thiết bi vật tư chủ yếu và bổ sung của đội thám hiểm đều do hai phân đội này phụ trách mang vác, sau khi hai bên hợp nhất, thì giáo sư Nông địa cầu vẫn đảm nhiệm vai trò chỉ huy.

Từ lúc rời khỏi nông trường khai hoang số 34 đến giờ đội khảo cổ vẫn liên tục giữ liên lạc với phân đội khoan thăm dò Karamay bằng máy điện đàm không dây, nhưng có lẽ do hàm lượng bụi muối chứa trong gió cát làm nhiễu sóng nên tín hiệu rất chập chờn, thông tin cuối cùng thu nhận được là phân đội khoan thăm dò đã đến được khu vực quy định từ hai ngày trước.

Giáo sư Nông địa cầu thấy đoàn lạc đà đã đi khá xa, bất giác hồi tưởng lại chuyến khảo sát di tích lịch sử trên sa mạc Gobi năm đó. Ông quay sang Tư Mã Khôi, kể với giọng đầy cảm thán:

- “Lần này, sở dĩ chúng ta có thể thuận lợi xuyên qua sa mạc Gobi rộng mênh mông là đều nhờ hướng đạo và đoàn lạc đà. Nhớ năm đó, tôi và mấy đồng chí nữa đi điều tra thăm dò thành Vu Nê, thủ phủ nước Piqan (Nước Piquan: phiên âm Hán Việt là nước Thiện Thiện, thường được mọi người biết đến với cái tên Lâu Lan.) rồi bị lạc đường ngay trong biển cát sa mạc Gobi. Tình hình lúc đó đúng là vô cùng đáng sợ, dầu hết, nước hết, xe cộ và điện đài đều bị hỏng, bốn phía xung quanh rặt một vùng đất hạn nứt nẻ như mai rùa, trải dài cả vạn dặm, đừng nói đi bộ bằng hai chân, chứ ngay cả chim muông chắp thêm đôi cánh cũng không thể bay thoát được. Khi ấy, tôi thấy trên trời có một đốm đen rất nhỏ, dường như là loài chim nào đó, mãi đến khi lại gần mới phát hiện thì ra đó là chú chim sẻ nhỏ. Có thể con chim này sau khi bay vào sa mạc Gobi rộng lớn thì bị lú lẫn, nó đội cái nóng bốn năm mươi độ mong tìm một noi có bóng râm để dừng chân, nhưng tìm mãi mà không thấy. Lúc đó, có lẽ xuất phát từ bản năng mưu cầu sinh tồn, nó không còn biết sợ người nữa, nó lao thẳng về phía tôi, vừa nhào xuống cái bóng dưới chân tôi thì liền nằm im bất động, tôi dốc mấy giọt nước cuối cùng bón cho con sẻ nhỏ sắp chết, nhưng vẫn không thể cứu sống nổi nó. Trước tự nhiên bao la và tàn khốc, sinh mệnh luôn luôn nhỏ bé và yếu ớt như thế đấy…”

Lúc này mọi người đã chỉnh trang hành lý đâu vào đấy và sẵn sàng bắt đầu chuyến hành trình. Bác Nông địa cầu vừa đi vừa tiếp tục huyên thuyên với Tư Mã Khôi:

- “Cuốn lịch sử đời Đường -‘Đường thư’ gọi hai khu vực nguy hiểm nhất trên con đường tơ lụa cổ xưa này là Bạch Long Đôi và Hắc Long Đôi, từ trước đến nay lúc nào cũng rình rập gió nóng và ác quỷ, trên trời không có chim bay, dưới đất không có thú chạy, cả con người và súc vật không ai dám đi qua. Từ kinh nghiệm bản thân tôi trải qua mà xét, thì những lời người xưa nói không hề khoa trương hư cấu chút nào đâu”.

Tư Mã Khôi nghe có đôi chỗ không hiểu, liền hỏi:

- “Gió độc thì chắc là muốn ám chỉ thiên tai do bão cát mang đến, thế còn quỷ ác là muốn ám chỉ điều gì vậy? Có phải trong sa mạc hoang lương bao người mất tích này tồn tại quỷ dữ không ạ?”
Vì trong các tài liệu ghi chép cổ xưa, chỉ cần hình dung đến sự đáng sợ và nguy hiểm của sa mạc, người ta lại nhắc đến đến mấy từ: gió nóng ác quỷ hoặc phong tai quỷ nạn. Nghe nói những loài gia súc lớn miệng thanh mắt tịnh như lạc đà thì có thể nhìn thấy ma quỷ. Khi đi vào vùng Đại Sa Bản, chúng thường vô duyên vô cớ sợ hãi đến phát cuồng, không thể khống chế bắt chúng tập trung một chỗ, nên chúng rất dễ chạy lạc. Lẽ nào lạc đà quả thực có thể nhìn thấy những thứ trong sa mạc mà mắt người không thể nhìn thấy?

Đột nhiên bị Tư Mã Khôi hỏi về việc này, giáo sư nhất thời khó lòng đưa ra được câu trả lời chính xác:

- “Quỷ dữ à… những sự kiện này không được ghi chép rõ ràng trong lịch sử, quả thật không dễ giải thích một cách rạch ròi. Theo lý giải của cá nhân tôi, có lẽ đó là cách người xưa đặt tên cho những hiện tượng siêu nhiên trái với bình thường.”
Ông suy nghĩ một hồi, cảm thấy mấy lời giải thích vừa rồi không thể coi là lý luận được, bèn lấy một dụ chứng minh:

Trước đây, trong núi sâu thuộc huyện Nghĩa ở Giang Tô có một ngôi miếu tên là miếu Tinh Tinh, có lẽ nó đuơc xây dựng từ cuối thời Thanh, hương khói lúc nào cũng nghi ngút không dứt. Vì sao người ta lại gọi nó là miếu Tinh Tinh? Nghe nói vì bên trong đỏ thờ một khối thiên thạch.

Năm 1953, cách mạng gang thép diễn ra với quy mô lớn, nhà nhà đều quyên đồng góp sắt để chế tạo súng ống, đạn pháo, máy bay và chi viện cho Triều Tiên chống Mỹ. Khi đó có người nói bên trong khối thiên thạch chứa thành phần kim loại, nên chính phủ quyết định dỡ ngôi miếu ra, đào khối thiên thạch đang được chôn dưới lòng đất lên. Nhưng thời đó, tư tưởng mê tín của bà con ta vẫn rất nặng nề, khiến đội thi công chế tạo gặp khá nhiều trở ngại. Cấp trên liền cử Nông địa cầu tôi dẫn theo nhóm làm việc đến điều tra trước. Sau khi nghe ngóng khắp nơi trong thôn ngoài ngõ. rồi lại hỏi một số người già cao tuổi thì mới biết: hóa ra người bản địa cho rằng bên trong khối thiên thạch tồn tại thứ gì đó, có lẽ là một vị tiên đắc đạo, nhưng trên đời làm gì có chuyện hoang đướng như vậy? Tôi lại đi dò la thêm mấy người nữa, kết quả sự việc lan truyền càng trở nên tà mị, thậm chí có khá nhiều kẻ tận mắt chứng kiến còn thề thốt rằng: họ đã nhìn thấy người chết nằm bên trong khối thiên thạch, vả lại không chỉ có một mà có đến hai người liền, một người lớn và một trẻ nhỏ. Cậu bảo thế thì làm sao bọn tôi dám kinh động đến, chỉ có kẻ nào chán sống, thích tự chuốc phiền phức mới dám đụng đến nó mà thôi. Có điều vì sao trong khối thiên thạch ở miếu Tinh Tinh lại xuất hiện người chết? Hai người đã chết đó rốt cục là ai? Tổ công tác tiếp tục hỏi người dân địa phương, thì gương mặt người nào người nấy đều có vẻ như là đại nạn sắp giáng xuống đầu đến nơi, không ai dám nói thêm gì nữa. Đối mặt với chuỗi nghi vấn, thông qua thảo luận, tổ công tác đã quyết định bất luận gặp khó khăn gì, cũng phải tìm cách xác minh chân tướng sự việc. Nếu muốn bài trừ tư tưởng mê tín phong kiến của bà con, thì phải bắt tay hành động từ cội nguồn gốc rễ, nghĩa là phải khai quật khối thiên thạch lên để tiến hành điều tra triệt để. Thế là, đợi sau khi công việc vệ sinh kết thúc, tổ khai quật phải đối mặt với khối thiên thạch to như cỗ máy ủi. Vừa nhìn thấy khối thiên thạch, ai nấy đều há hốc miệng kinh ngạc, bởi vì bên trong khối có rất nhiêu vật chất trong suốt hình hổ phách, dưới ánh đèn chiếu rọi, có thể nhìn thấy hai tử thi, người chết ăn vận trang phục thời Hán, một cái xác là phụ nữ, cái xác còn lại là đứa trẻ mà cô ôm trong lòng. Mọi người cảm thấy rất đỗi kỳ lạ, không ai lý giải nổi; thiên thạch là thiên thể từ trên trời rơi xuống, sao bên trong lại có một thi thể nữ thời Hán? Lúc đó sự lo lắng đã biến thành nỗi hoảng sợ, mọi người liền dùng vải buồm đậy khối thiên thạch lại, bí mật vận chuyển về phòng thí nghiệm để tiến hành giải phẫu, rồi thông qua nghiên cứu phân tích cuối cùng cũng đạt được bưóc đột phá quan trọng, gỡ rối được mọi nghi hoặc. Thì ra, khối thiên thạch đó căn bản không phải vật từ trên trời rơi xuống.

Chuyện ấy xảy ra từ nhiều năm trước, có lẽ là thời nhà Hán, có một thiếu phụ vừa mới sinh em bé xong, liền bế con về nhà thăm mẹ đẻ, dọc đường phải đi ngang qua một ngọn núi lửa, không may lúc hai mẹ còn đến nơi cũng là lúc núi lửa phun trào. Người phụ nữ ấy và đứa trẻ bị bùn đất nham thạch chảy ra lấp vùi và bọc kín giống như khối hổ phách. Bùn đá chịu tác động nhiệt cao từ dòng nham thạch, nên trở thành thứ vật chất trong suốt, không gian bên trong luôn ở trạng thái đóng kín, bởi vậy hình hài hai mẹ con nhà nọ ngàn năm vạn kiếp vĩnh viễn giữ nguyên được dung mạo như lúc ban đầu. Sau đó, bị núi lửa phun lên trời, biến thành một tiểu hành tinh lơ lửng xung quanh Trái Đất, mãi đến đời nhà Thanh chuyển hóa thành một khối thiên thạch, rơi trở lại mặt đất.

Tư Mã Khôi nghe xong thì không tin nội dung câu chuyện, anh nói:

- “Đây chính là phát hiện vĩ đại của ông bác đấy à? Nếu khi nãy ông bác bảo đội khảo cổ khai quật đuơc bao cao su Đường Minh Hoàng đã sử dụng trong một ngôi mộ cổ nào đó, nói không chừng tôi còn tin là thật, chứ lai lịch của miếu Tinh Tinh thì tôi biết rõ hơn ông bác nhiều, ở đấy làm gì có thi thể người chết nào”.

Giáo sư Nông địa cầu giải thích:

- “Câu chuyện tôi vừa kể chẳng qua là lấy một ví dụ để so sánh mà thôi, không cần truy xét nó là thật hay là giả. Tôi chỉ muốn các cậu thông qua câu chuyện này hiểu được tính tất yếu của việc chứng thực, bởi vì có một số hiện tượng khảo cổ, trong quá trình khai quật luôn mang đến cảm giác thần bí mạnh và không dễ giải thích theo căn cứ khoa học. Thế nhưng theo càng đi sâu nghiên cứu, thì những bức màn bí mật dày nặng đó sẽ dần dần được vén mở, cho dù ẩn số có phức tạp đến đâu, thì cuối cùng chân tướng sự việc chắc sẽ lộ diện trước mặt chúng ta…”

Tư Mã Khôi sợ giáo sư lại bắt đầu bài giảng dài vô tận của mình, nên vội giả vờ buộc lại dây giầy, cố ý tụt lại phía sau đoàn.

Đại đội trưởng Mục và đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà đi trước dẫn đường, họ đưa đội thám hiểm tiến sâu dần vào sa mạc, người xưa có câu:

- “Núi nhìn ngỡ gần mà chạy chết ngựa”
Từ lúc bắt đầu hừng đông, mọi người đã nhìn thấy phía trước có một số núi cát hay gò đất nhấp nhô trùng điệp trong lòng đại sa mạc Gobi rộng ngút ngàn tầm mắt, nhưng vì chỉ dựa vào hai cẳng chân lê từng bước trê sa mạc nên đến tận khi màn đêm gần buông xuống, đoàn khảo cổ mới đặt chân lên được mảnh đất Đại Sa Bản.

Tình hình thời tiết không ngờ lại tốt ngoài mong đợi, không hề xuất hiện cát lún hay gió nóng như trong truyền thuyết. Lúc này tầng không tựa hồ một tấm kính khổng lồ trong suốt, vòm trời xanh biếc và sâu thẳm, Đại Sa Bản đang chìm vào giấc ngủ dưới ánh trăng đêm. Cả vùng sa mạc khô hạn mênh mông bị bức màn trời bủa vây, màn sương bạc trải lấp lánh khắp nơi, trong vắt như nuớc. Những gò đất quanh năm bị cát bụi phủ dầy, giờ đây bât ngờ lộ ra như một kỳ tích.

Tuy mọi người đều thường xuyên hoạt động ở ngoài trời, nhưng chưa bao giờ họ được chứng kiến một bầu không tinh không lấp lánh chi chít sao trời làm choáng ngợp tưởng đến như vậy, nên ai nấy đều bất giác ngẩng nhìn ngắm bầu không gian.

Tư Mã Khôi đưa mắt quan sát dải thiên hà, thấy trăng sao mây gió trong vắt; giữa cái thăm thẳm tĩnh lặng kia dường như đang ẩn giấu một điều gì khủng khiếp ghê gớm; bầu không khí yên ắng chết chóc bủa vây tứ phía cũng tràn ngập những tín hiệu nguy hiểm, khiến lòng anh bỗng trào lên dự cảm chẳng lành. Anh bảo mọi người:

- “Ngọn núi cát dưới chân mọi người lẽ ra phải là nơi tụ hợp với phân đội khoan thăm dò Karamay, nhưng sao nhìn ngó nãy giờ, vẫn không thấy nửa bóng người nào quanh đây thế nhỉ?”.

Trong lòng đại đội trưởng Mục cũng dấy lên cảm giác bất an khó tả, lương thực và nước uống mọi người mang theo chỉ đủ duy trì một vài ngày trên sa mạc, nếu không gặp được phân đội khoan thăm dò thì mọi người sẽ lâm vào tình cảnh vô cùng nguy khốn, anh sốt ruột liếc mắt nhìn đồng hồ, miệng bắt đầu chửi rủa:

- “Chết tiệt thật! Phân đội khoan thăm dò Karamay đã đến nơi trước rồi cơ mà? Chẳng lẽ chết hết cả lũ rồi sao?” – Mắng xong, anh lại quay sang ra lệnh cho đội trưởng liên lạc mau chóng dùng máy điện đàm quang học không dây thử liên lạc lần nữa với phân đội khoan thăm dò.

Lưu Giang Hà vội làm theo lệnh, nhưng chiếc máy điện đàm quang học không dây cứ im thin thít như thóc đổ bồ, anh chàng lo lắng đến nỗi mồ hôi ra đầm đìa cả đầu tóc.

Giáo sư Tống Tuyển Nông nhẫn nại an ủi:

- “Đồng chí Hà đừng sốt ruột quá, cứ thử lại mấy lần xem sao”.

Lúc này Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân giơ ống nhòm quan sát xung quanh, sắc mặt có chút khác lạ, bèn hỏi cô có nhìn thấy phân đội khoan thăm dò Karamay qua ống nhòm không?

Thắng Hương Lân lắc đầu bảo:

- “Hình như chẳng có ai trên sa mạc này cả, nhưng tôi cứ cảm thấy một vài chỗ có gì đó bất ổn thì phải.”.


-
Hải ngọng cũng nói với Tư Mã Khôi: “Lúc mới leo lên núi cát, hình như tớ cũng nhìn thấy thứ gì đó đang động đậy ở phía xa, nhưng trong chớp mắt đã không thấy đâu nữa; cậu bảo trong cái ổ cát này có thể có thứ gì đó không sạch sẽ không nhỉ?”

Tư Mã Khôi trong lòng biết rõ tình hình rất bất thường, bèn nửa ngồi nửa quỳ trên mặt đất, quét ánh mắt nhạy bén như loài ưng của mình ra khắp bốn phía xung quanh. Sa mạc tĩnh lặng đến mức, ngay cả cái kim rơi xuống cũng có thể nghe rõ mồn một, dõi tầm mắt ra xa anh thấy không có vật gì che cản, ngay cả nửa cái bóng ma cũng không nhìn thấy, tất cả đều rơi vào trạng thái im lìm bất động, ngoài cát ra thì không hề tồn tại bất cứ thứ gì.

Lúc còn ở nông trường khai hoang, Hải ngọng từng nghe người ta nói: Đại Sa Bản vốn là một ngọn núi bình thường bị cát hoang mạc bao phủ, lớp cát che nhiều thành cổ huyệt mộ phía dưới. Có hàng trăm người từng bước chân vào Đại Sa Bản rồi bị lạc đường, những chưa hề thấy ai sống sót trở về. Tất cả bọn họ đều bị dải sa mạc khủng khiếp đó nuốt chửng, và có lẽ do xương cốt họ bị vùi nơi sa mạc, thi thể họ bị chìm dưới biển cát, đến bây giờ những kẻ đã chết ấy vẫn không được yên nghỉ nên vùng này mới thường xuyên xảy ra những chuyện quái dị như thế. Anh cũng bắt đầu nghi ngờ: có khi phân đội khoan thăm dò Karamay đã gặp ma trên sa mạc rồi cũng nên, nếu không mấy chục người đang sống sờ sờ như thế, sao nói biến mất là biến mất ngay được?

Thắng Hương Lân khẽ nhíu mày:

- “Các anh là người trong đội khảo cổ, mà lại đi tin trên đòi này có ma à?”

Tuy Tư Mã Khôi cảm thấy khu vực gần đây có điều bất thường, nhưng quan sát hồi lâu vẫn không thấy gió lay cỏ động, thần kinh đang căng như dây đàn mới hơi chùng xuống, anh quay sang nói với Thắng Hương Lân:

- “Hàng bao năm trước, chị Tường Lâm (chị Tường Lâm: là nhân vật chính trong tác phẩm “Chúc Phúc” của nhà văn Lỗ Tấn) đã đặt câu hỏi: trên thế gian này rốt cục có tồn tại linh hồn hay không? Nhưng cha đẻ của chị là ông Lỗ Tấn còn không đưa ra được đáp án chính xác nữa là”.

Đúng lúc này Hải ngọng đột nhiên giật mạnh người Tư Mã Khôi, chỉ tay về phía xa trên sa mạc và nói :

- “Cậu xem kia là cái gì, tớ đoán ngay cả ông Lỗ Tấn chắc hẳn cũng chưa bao giờ nhìn thấy thứ đó đâu”.

Hội Tư Mã Khôi nghe Hải ngọng nói đều bất giác hít ngược một hơi lạnh. Họ nhìn theo hướng tay Hải ngọng chỉ, lúc này ánh trăng sáng vằng vặc, tầm nhìn vô cùng thoáng đạt, chỉ thấy trên sa mạc có một vật thể đen lù lù, nó đứng thẳng chầm chậm di chuyển, chỉ có điều vì khoảng cách ở khá xa nên không nhìn rõ chân tay hình dáng của nó.

Mọi người vừa kinh ngạc vừa hoảng hốt, định thần nhìn lại, lông tóc khắp người dựng ngược cả lên; bời vì điều khiến người ta cảm thấy kinh dị nhất là chiếc bóng đó chỉ là chiếc bóng, chứ không phải bất kỳ vật thể nào bị chắn ánh sáng đổ bóng xuống mặt đất, nơi nó đi qua không hề để lại dấu vết trên sa mạc.

“Bắt buộc phải có vật thể gì đó chắn ánh sáng, thì vật thể chính mới có thể để lại bóng trên mặt đất – kiến thức cơ bản này người nào cũng biết, nhưng trong sa mạc, dưới sự phản chiếu của ánh trăng lạnh lẽo và ngàn vạn ngôi sao lấp lánh, trên trời không có chim bay, dưới đất không có thú chạy, ngoài cát ra cũng chỉ có cát, trong điều kiện không hề có bất kỳ thực thể nào, thì làm sao trên mạc lại xuất hiện chiếc bóng?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 12
Bích Họa


Đại đội trưởng Mục quanh năm lăn lộn giữa dải sa mạc Ngọc Môn, Cam Túc với bọn thổ phỉ, thế nhưng cũng chưa từng gặp sự việc nào quái dị thế này. Anh hoạt động lâu năm trong quân ngũ nên chí khí rất vững, không tin những chuyện tà mị. Anh nhận định chắc chắn có nội gián quân địch đang lẩn khuất trong bóng tối ngầm bám theo đội thám hiểm, nên khẩu súng trường tự động K56 lập tức được giương cao lên trời, bắn vài phát chỉ thiên để thị uy. Bóng đen vờn vũ phía cồn cát trước mắt càng lúc càng tiến đến gần, đại đội trưởng ngắm chuẩn mục tiêu bắn thêm vài phát vài phát. Khẩu K56 có âm thanh phát nổ rất đặc biệt, có thể nói là độc nhất vô nhị trên thế giới, giữa biển cát sa mạc mênh mông hoang lạnh, âm thanh đó nghe vang dội chát chúa.

Tuy đại đội trưởng bắn trúng mục tiêu, nhưng bóng đen ma quỷ trên mặt cát dường như hoàn toàn vô cảm. Luồng đạn tiêu chuẩn dành cho họng súng 7,62 ly tự không hề phát huy được chút tác dụng nào, bóng đen vẫn chập chờn lúc ẩn lúc hiện, rồi nhẹ nhàng lóe lên môt cái, xong đột nhiên biến mất tăm ngay trước mắt mọi người, phía trước chỉ còn lại những triền cát trải dài ngút ngàn, cả sa mạc rơi vào trạng thái yên ắng đến hãi hùng.

Đại Sa Bản căn bản không hề có bất kỳ dấu tích nào của sự sống, đừng nói đến vết chân lang sói, mà e rằng ngay cả loài chuột cát cũng không thể tồn tại, huống hồ lúc này ánh trăng đang chiếu sáng vằng vặc, tầm nhìn lại vô cùng thoáng đạt, thậm chí cảnh vật trông còn rõ ràng hơn cả ban ngày lúc những làn sóng nhiệt nóng bỏng đang bốc hơi ngùn ngụt hay khi cát bụi tung bay mù mịt cõi trời, nên nếu trong sa mạc quả thật xuất hiện một thứ gì đó, thì người ta không thể nào không trông thấy thực thể thực sự của nó.

Lúc này mọi người ai nấy đều há miệng kinh ngạc, không thể giải thích được những gì mình vừa tận mắt chứng kiến. Họ thà tình nguyện tin rằng đó chẳng qua là những ảo giác phát sinh do cơ thể chịu quá nhiều áp lực và vất vả, chứ không ai muốn nghĩ họ đã gặp phải ác quỷ trong dải sa mạc khủng bố này; bởi nếu nghĩ như vậy không biết sẽ dẫn tới những hậu quả gì.

Đúng lúc này, cả đoàn đột nhiên phát hiện thấy một chuỗi âm thanh nghe “soạt soạt” vang lên từ ngay mé bên cạnh, làm ai nấy đều phải gắng nhịn nỗi sợ hãi đang trào dâng mà ngẩng đầu lên nhìn. Họ chỉ thấy cách đó khoảng mấy chục mét, lại có một bóng đen như thể âm hồn đang đứng sừng sững giữa sa mạc, nó cao bằng tầm cao của con người, thấp thoáng ẩn hiện, nhìn từ phía xa thấy nó uốn éo bất định. Không khí giữa đêm sâu trên sa mạc phút chốc trở nên u ám ma mị, trong khi đó từ nơi xa thẳm trong biển cát yên ắng, cũng bắt đầu văng vẳng truyền lại ám thanh não nùng nghe như tiếng khóc than réo rắt ai oán của cô hồn dạ quỷ; tiếng khóc nghe thực đến nỗi mọi người ai nấy đều cảm thấy tim gan bỗng dưng lạnh ngắt.

Tuy mỗi thành viên đội thám hiểm đều mang theo súng, nhưng với tình hình này, mọi người thực sự không biêết trước mắt nên làm gì mới phải; bởi vì thứ xuất hiện trên cồn cát trông nhẹ bẫng như làn sương mỏng, căn bản không hề tồn tại thực thể, dường như nó là vong hồn của kẻ năm đó mất tích trên sa mạc vậy.

Giáo sư Nông địa cầu cũng cảm thấy tình hìn không ổn, ông chăm chú quan sát tứ phía xung quanh một hồi lâu, cuối cùng cũng phát hiện ra vài phần chân tướng. Gương mặt có chút biến sắc, ông bảo mọi người không được manh động:

- “Các cậu không nên để luận điệu chủ nghĩa duy tâm tiêm nhiễm quá liều, trên thế giới này làm gì có ma quỷ? Tôi thấy, cảnh tượng chúng ta đang nhìn thấy trước mắt có lẽ là một hiện tượng dị thường rất hiếm xảy ra trên sa mạc; đây cũng là lần đầu tiên trong đòi tôi được tận mắt chứng kiến đấy!”

Hải ngọng tỏ vẻ không tin, anh nói:

- “Ông bác đừng cố kiếm cớ an ủi bọn tôi, bọn tôi đều sẵn sàng tâm lý cả rồi, sa mạc này không còn là vùng trời giải phóng nữa đâu… ”

Giáo sư Nông địa cầu lại tiếp tục nói rõ nguyên do ... đêm nay trăng sáng như gương, mấy chục năm nay tôi chưa từng thấy đêm nào trăng lại trong sáng đến thế, sáng đến mức dường như nó sắp rơi xuống mặt đất đến nơi vậy; nhưng nếu dùng mắt thường quan sát kỹ thiên thể, thì sẽ phát hiện xung quanh mặt trăng có những quầng sáng như thể những sợi tơ lún phún quấn quanh. Theo quan điểm của ngành dự báo khí tượng học, thì: “trăng quầng nôi gió, trời cuồng dừng dông”. Nếu dựa trên luận cứ này mà suy đoán, thì rõ ràng đêm nay ở sa mạc sẽ nổi gió lớn. Khu vực Đại Sa Bản là vùng ranh giới tiếp giáp giữa sa mạc Kurutae và sa mạc Lopnor, ở đây một năm ba tram sáu mươi ngày thì chí ít phải có hơn ba trăm ngày bị bão cát hoành hành, hơn nữa trước khi cơn cuồng phong bão cát với quy mô kinh người tràn đến, thường xuất hiện hiện tượng “phong dẫn”, nghĩa là cơn lốc xoáy với quy mô nhỏ, nó gồm nhiều khối cát nhỏ giống như một cơn lốc, tụ tán bất định. Dưới ánh trăng, chúng ta đương nhiên không thể nhìn thấy được hình dạng của nó, chỉ thấy giống như hồn ma thoắt ẩn thoắt hiện, hình thù lúc to lúc nhỏ, trông không khác gì phi thực thê hữu hình mà vô chất, kỳ thực đó chỉ là một hiện tượng đặc biệt do cát và gió tạo ra.

Hội Tư Mã Khôi lúc này mới vỡ lẽ, không ngờ trên đời còn có loại quái phong ma quỷ dường vậy, nhưng không kịp đợi giáo sư giải thích chi tiết thì cường độ hoạt động của bão cát bỗng chốc gia tăng đến chóng mặt, rồi chỉ nghe thấy tiếng gió ầm ù cách đó khoảng một dặm phảng phất giống tiếng sóng biển xô bờ, sau đó mấy cột cát đen giống như những cơn lốc nhỏ cuốn bay lên giữa tầng không. Thế gió càng lúc càng mạnh, tuy chưa đến mức quỷ khóc thần sầu, nhưng tai nghe tiếng rít ai oán rền ri cũng đủ khiến người nào người nấy đựng hết tóc gáy.

Ở nơi cao trên cồn cát có hàng cọc bằng gỗ hồ dương bị phong hóa mục nát, tuy những cọc gỗ này đã chết khô cả ngàn năm, nhưng vẫn sừng sững và trầm lặng giữa dòng sông cát vàng, ngày lại ngày nhẫn nhục chịu đựng cuồng loạn của bão cát. Ấy vậy mà chúng cứ đứng yên bất động, thân hình khô kiệt của chúng đã chứng kiến vật đổi sao dời từ bao thế hệ nay, cũng chính bởi sự tồn tại của chúng mới khiến khung địa hình của Đại Sa Bản cố định được thế này. Mọi người định nương nhờ mấy thân cây mục để tránh bão cát, nhưng vừa định đến gần mấy hàng cọc gỗ lùn thấp, thì bỗng luồng gió nóng nổi cơn thịnh nộ cuốn tung cát bụi lên cao, rồi lại giống như một quầng mây vàng vùn vụt sà sát mặt đất. Giữa lúc cơn gió dữ lộng hành, trời đất như quay cuồng xoay chuyển tòa núi cát lừng lững trước mắt trong chớp mắt đã hóa thành cát bụi bay mù mịt khắp không trung.

Theo phân loại của ngành khí tượng học thì dải Đại Sa Bản thuộc khu vực khô nóng nắng rát, quanh năm bão cát không dứt, mùa đông có bạch phong, mùa xuân có hắc phong, đến hai mùa hè và mùa thu thì chuyển thành nhiệt phong. Cái khô hanh nóng bỏng đã khiến lớp đất bị sa mạc hóa nghiêm trọng, lữ khách đi giữa sa mạc chỉ cảm thấy trước mắt chỉ toàn một dải u tối, trời không giống trời, đất không giống đất, không thể phân biệt rõ ràng ranh giới giữa ban ngày và ban đêm. Tiếng gió vù vù quét qua tai, giống như tiếng sào thét phẫn nộ và bi ai của cô số vong hồn bị vùi lấp dưới biển cát từ ngàn vạn năm, đã khiến người ta nghe mà rùng rợn tim gan.

Nhờ ba lô hành lý cõng nặng trĩu trên lưng nên mọi người mới không bị cuồng phong cuốn lên. Họ cũng phát hiện những cọc gô mục có thể gãy lìa bất kỳ lúc nào, nên không dám tiếp tục dừng chân ở nơi cao. Cả hội lôi kéo nhau, vừa đi vừa ngã dúi ngã dụi, khó nhọc lê từng bước chân qua mấy cồn cát, đưa mắt nhìn xung quanh qua lớp kính chắn gió. thấy những nơi gió nổi lên, cát vàng giống như một dòng sông ầm ào tuôn chảy, ai vô phúc rơi xuống, chắc sẽ bị dòng sông cát ấy nhấn chìm.

Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe nói: ngay cả lông ngỗng cũng không thể nổi trên dòng sông cát chảy; lúc đó anh còn cho rằng quá nửa chỉ là truyền thuyết do người đời bịa ra, nhưng đến tận hôm nay, khi thân lâm vào cảnh này, anh mới biết sâu trong hoang mạc mênh mông thực sự tồn tại một nơi vừa kinh dị vừa đáng sợ đến dường này, con người di chuyển giữa luồng gió nóng và dòng sông cát rộng vô bờ bến, cũng không khác gì lội giữa dòng sông ngập bùn. Những hang động, khe rãnh nhấp nhô gần đó đêu bị dòng cát che phủ, khiến lữ khách hoàn toàn không hề hay biết tình hình nguy hiểm đang rình rập dưới chân, nên ngộ nhỡ giẫm phải lớp vỏ rỗng hoặc lăn xuống cát, sẽ lập tức bị bão cát nuốt chửng, cho dù có người đi ngay bên cạnh thì cũng không thể cứu được.

Năm đó, khi giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đoàn vượt Đại Sa Bản, cũng vì xảy ra quá nhiều thương vong chết choc – do các thành viên bị rơi xuống khe cốc, nên hành động đó mới buộc phải dừng lại giữa chừng. Giờ đây, đội thám hiểm bất ngờ trạm chán với bão cát và cát lún, nên không ai còn tâm trạng tiếp tục tìm kiếm tung tích của phân đội khoan thăm dò Karamay quanh địa điểm mà lẽ ra họ phải đứng đợi đoàn khảo cổ từ trước nữa. Bây giờ, tất thảy mọi người chỉ có thể tự lo cho an toàn bàn thân; dưới sức ép khiến người ta không kịp thở của phong áp, đoàn người dò dẫm từng bước giữa lòng sông cát để tiến về phía trước, và chỉ cần bị ngã mà chậm trễ giây lát sẽ bị dòng cát chôn sống tức thì.

Mức độ nóng bức khô hanh của Đại Sa Bản thật ngoài sức tưởng tượng, nhiệt độ cao nhất có khi lên đến 45°C, ban ngày khi gió nóng quét qua tầng địa biểu, nhiệt độ thậm chí tiệm cận 70°C, lượng mưa cực nhỏ, dường như chẳng bao giờ nhìn thấy giọt mưa nào rỏ xuống. Một năm bốn mùa bão cát không dứt, cuồng phong tha hồ lộng hành, cát lún xảy ra liên miên với mật độ cao, cát bụi tung bay mù mịt, trời đất hỗn độn xoay vần, biển cát vô biên, khiến người ta không thể phân biệt nổi phương hướng, mọi cảm giác của cơ thể con người đều bị cát bỏng nuốt chửng. Vũ điệu nhảy múa khắp trời của cát bụi khiến thị giác mệt mỏi đến cùng cực. Sự thay đổi rõ rệt duy nhất trong sa mạc mênh mông chỉ là những cồn cát to nhỏ nhấp nhô nối tiếp nhau, chúng chằng chịt như bàn cờ, hình thái phức tạp đa dạng, bên dưới dòng cát phủ là những ngọn núi đất, tầng đất bị sa mạc hóa nghiêm trọng. Hố cát, rãnh cát dày đặc chi chít, bề mặt lại có dòng cát tuôn chảy như sông, nên lữ khách khó lòng nhận định địa hình và chỉ cần bước nhầm một bước là lập tức sa chân xuống dòng cát lún, chính vì vậy tốc độ di chuyển của cả đoàn vô cùng chậm chạp.

Sáu người đi không tới một dặm đã cảm thấy mệt muốn đứt hơi, vừa đi họ vừa thở hổn hển, ngực như muốn vỡ tung.

Đột nhiên mọi người phát hiện thấy dưới cồn cát có vũng xoáy với lớp cát bề mặt chuyển động không ngừng, giáo sư Nông biết khả năng bên dưới sẽ là một hang động giống như phễu cát, nên ông vội giơ tay vẫy bảo mọi người phải tăng tốc mau trốn vào trong lánh nạn.

Hội Tư Mã Khôi vừa lăn vừa bò, dường như mọi người đều bị dòng cát tuôn chảy bất tận trực tiếp đẩy xuống dưới hố. Đó là một khe cốc được hình thành do luồng gió nóng chia cắt sau nhiều năm, độ sâu lên đến mười mấy mét, dưới đáy tích đầy cát vàng đắp đống như cồn, không biết nền cát này còn sâu bao nhiêu nữa.

Tư Mã Khôi là người đầu tiên giãy giụa thoát khỏi đống cát vùi lấp, giơ tay phủi hết cát bụi trên người. Anh thấy trước mắt tối đen như mực, không thể phân biệt nổi rốt cục mìn rơi xuống chỗ nào, bèn sờ tìm đèn cacbua châm lửa sáng rồi giơ cao lên nhìn xung quanh. Cát từ trên vẫn tuôn ào ạt xuống đỉnh đầu, những người khác cũng lũ lượt nhỏm dậy và kéo những người còn lại ra khỏi đống cát.

Công việc chủ yếu của đại đội trưởng Mục là phụ trách công tác bảo vệ an toàn, điều anh canh cánh nhất trong lòng chính là sự an nguy của giáo sư, vì thế vừa trèo ra khỏi đống cát, đại đội trưởng liền lập tức gọi Tư Mã Khôi bảo anh mau giơ cao đèn nhìn xem có ai bị thương không.

Tư Mã Khôi xách đèn soi tứ phía xung quanh, những người khác hầu như đều bình an vô sự, chỉ có Hải Ngọng bị ngã hơi đau, cậu ta bò ra đất liên mồm rống réo chửi thề, còn giáo sư Nông thì toàn thân dính đầy đất cát, ông quay lưng về phía mọi người ngồi im bất động cạnh đống cát.

Thắng Hương Lân trông thấy cảnh ấy, thầm thấy giáo sư có vẻ không ổn, cô nàng lo lắng hỏi:

- “Giáo sư! bác có sao không ạ?”

Giáo sư Nông im lặng không đáp, toàn thân bất động, rồi ông đột ngột quay người lại, giơ tay nắm chặt lấy ngọn đèn cacbua mà Tư Mã Khôi đang cầm. Đèn cacbua chiếu sáng dựa trên phản ứng đốí cháy hóa học, một khi van đèn bị bịt lại thì ánh sáng trong thân đèn sẽ lập tức dập tắt, nên trong phút chốc không gian dưới hố cát chỉ còn bóng tối bủa vây.

Tư Mã Khôi không ngờ giáo sư Nông lại ra tay như vậy, nên cũng thấy hơi hoảng hồn, ngón tay chạm vào cò súng, sẵn sàng lên quy lát, đồng thời hỏi ngay:

- “Bác Nông, bác làm sao thế?

Giáo sư Nông địa cầu dùng tay dập ngọn lứa trong đèn cacbua, nhỏ giọng nói:

- “Cậu thử dùng mũi ngửi xem dưới hố cát có mùi gì?”

Tư Mã Khôi hít sâu một hơi. kinh ngạc hỏi:

- " Mùi lưu huỳnh phải không ạ?”

Giáo sư nói:

- “Không phải lưu huỳnh, mà là mùi diêm tiêu dùng trực tiếp để chế tạo thuốc nổ đen, trong tầng đất cùa hố cát này có khả năng hàm chứa chất diêm tiêu, trong khi không khí ở đây lưu thông không tốt, chỉ cần chạm phái một tia lửa, sẽ lập tức xảy ra cháy nổ nghiêm trọng”.

Mọi người nghe xong đều thất kinh, bởi không ngờ tầng đất dưới Đại Sa Bản lại chứa chất diêm tiêu, nên trốn xuông hố cát lánh nạn thật chẳng khác chi chui vào thùng thuốc nổ, hoàn cảnh hiện tại trở nên vô cùng nguy hiểm. Bây giờ, mọi người tạm thời không thể thuận lợi tụ hợp với phân đội khoan thăm dò đến từ Karamay; với tình trạng thiếu thốn lương thực và trang thiết bị như hiện tại, thì thật khó triển khai các bước hành động tiếp theo, chỉ còn nước liên lạc với đoàn lạc đà ở nông trường khai hoang và ngồi chờ họ đến ứng cứu.

Thế nhưng chiếc bộ đàm quang học không dây, mà Lưu Giang Hà khoác trên lưng, lại bị đứt dây lúc rơi xuống hố cát anh chàng đội trưởng ủ rũ báo cáo tình hình.

Đại đội trưởng Mục nổi giận lôi đình, anh nóng giận mắng té tát đội trưởng Lưu Giang Hà một cách không nể nang:

- “Ranh con, cậu làm cái trò gì thế này! Tôi thấy chân tay mặt mũi cậu có chỗ nào xây xát tím tái đâu, thế mà có cái thứ quan trọng nhất lại để hỏng được hả? Câu mà không chữa cho nó lành lại được, thì cứ chống mắt lên xem tôi xử lý cậu thế nào”.

Tư Mã Khôi cất đèn cacbua đi, chuyển sang dùng đèn halogen, nghe đại đội trưởng mắng chửi anh chàng đội trưởng hơi nặng lời, bèn lựa cách giải thoát cho anh chàng:

- “Mao Chủ tịch đã dạy chúng ta rồi còn gì ... Muốn phấn đấu thì phải chịu hi sinh, chuyện người chết cũng là điều thường tình. Đấy, ngay cả chết chóc, thương vong, hi sinh còn là chuyện thường tình, thì trong khi đấu tranh cách mạng, có lỡ hỏng mất cái máy bộ đàm không dây, âu cũng không phải chuyện gì to tát lắm; với lại đứt dây thì vẫn có thể nối lại được mà, việc này trước đây tôi cũng từng thử làm rồi, chỉ cần chắp hai đầu dây lại với nhau, rồi tìm lấy đoạn băng dính dán chặt nó lại, thế là cái máy hoạt động bình thường được ngay, còn khuya mới đến hồi vứt rác”.

Lúc này, giáo sư Nông cũng được Thắng Hương Lân dìu đứng dậy, ông nói với đại đội trưởng Mục:

- “ Các cậu trẻ tuổi có ai là không phạm sai lầm đâu, bảo cậu ấy lần sau cẩn thận hơn một chút là ổn mà, giếng cát là nơi không an toàn, tuyệt đối không phải nơi để dừng chân lại lâu, tôi thấy chúng ta nên mau chóng rời khỏi nơi này đã, sau đó sẽ tìm cách sửa lại cái máy cũng không muộn.”
Nói xong, ông phân công cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng đi trước dò đường, dẫn đội rời khỏi khu vực nguy hiểm phân bố các mạch quặng diêm tiêu.

Lúc này trên mặt đất cát lún vẫn hoạt động không dứt. vì né tránh thời tiết nóng bức khác thường, nên đội thám hiểm đành phải men theo khe cát mà tiến sâu vào trong. Cả đội định tìm một nơi tương đối an toàn để nghỉ ngơi chốc lát, đồng thời sửa lại chiếc máy điện đàm, sau đó cầu cứu đội lạc đà nông trường cử người đến giúp.

Nước uống và lương thực mà cả đội mang theo rất ít ỏi, chỉ đủ duy trì cho nhu cầu sinh hoạt trong vài ngày, một khi mất liên lạc với thế giới bên ngoài, thì cả đội sẽ vào cảnh khốn cùng, bởi vậy người nào người nấy vô cùng lo lăng, hơn nữa phải tồn tại trong khe cát ngột ngạt, bức bối này càng khiến người ta thêm hoảng loạn.

Tư Mã Khôi đeo đèn quặng trên đầu, anh xách khẩu thần công đi trước dò đường, nhưng trước mắt chỉ thấy cát, khe cát; chúng đều được hình thành do núi đất vỡ vụn dưới lòng Đại Sa Bản, địa thế dốc thoai thoải theo chiều Nam Bắc, phần đa đều bị cát lún chẹn tắc. Anh tìm thấy mấy động cát liên tiếp, nhưng không cái nào có vẻ kiên cố khả dĩ cả, bởi dường như bất kỳ lúc nà chúng cũng sẵn sàng bị cát lún cuốn theo luồng gió nóng chôn vùi dưới đất sâu.

Tư Mã Khôi thấy thế cũng không dám dừng lại mà tiếp tục tiến về phía trước. Chợt anh phát hiện nơi tận cùng của khe cát dài tít tắp có một vài ụ tường đất cao thấp không đồng đều, dưới chân tường hiện ra một cái động hoang phế đã bị cát vàng vùi lấp mất quá nửa, trong động mịt mùng làn khí màu đen, phảng phất tỏa ra mùi tử khí mục nát; từ ngoài nhìn vào không thể biết rõ nó là thành trì hay huyệt mộ.

Tư Mã Khôi cúi thấp người chui vào, ngẩng đầu soi đèn halogen thì thấy phía trong động rất vuông vắn, bốn mặt là cửa, ba mặt lát đá, mái vòm uốn cong thành hình tròn, trên bức tường đất ở nơi sâu nhất còn có một vài bức bích họa cổ với màu sắc vô cùng rực rỡ. Nội dung các bức bích họa đều mô tả phong cảnh, cuộc sống ở Tây Vực, và cảnh đập vào mắt nhất trong bức tranh là hình ảnh một lạc đà vàng và một con lạc đà bạc đang cắn xé nhau, thân thể hai con đều bê bết máu, cảnh tượng vô cùng tàn khốc; ngoài ra còn có một con lạc đà với hai cánh trên lưng đang bay xuống đỉnh ngọn núi cao vút chìm trong ,mây trắng, điều kì lạ là cổ con lạc đà này lại mọc một cái đầu người vô cùng kì dị. Không biết những bích họa đó được chôn cất dưới lòng đất bao nhiêu niên đại mà màu sắc vẫn tươi tắn dường vậy, trong huyệt mộ hoang phế bị gió cát xâm lấn ăn mòn, nó vẫn mê hoặc lòng người bởi những ẩn số ngàn năm.
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 13
Vương Lăng


Những người còn lại cũng lục tục kéo nhau chui vào động, bất ngờ phát hiện trên vách tường còn lưu lại tàn tích của một vài bức bích họa, hơn nữa nội dung lại vô cùng ly kỳ – con lạc đà bay có cánh trên lưng lại mọc thêm một cái đầu người ở cổ, nó đang là là đáp xuống đỉnh núi cao ngất chọc thủng tầng mây, mắt dõi nhìn trận ác đấu quyết liệt của lạc đà vàng và lạc đà bạc.

Hội Tư Mã Khôi chưa bao giờ nhìn thấy bức vẽ nào nhuốm đầy màu sắc Tây Vực cổ đại đến thế, nên không khỏi cảm thấy nội dung trong bức bích họa quá đỗi thần bí, trong lòng ai nấy đều có chút rờn rợn.

Hải ngọng vẫn láu táu như mọi khi, anh la toáng lên:

- “Ổi! sao đầu con lừa lại gắn cái mặt người thế này? Sau khi nhìn kỹ lại, anh mới rõ thì ra con vật vẽ trên là lạc đà chứ không phải lừa, biết mình nhìn nhầm nhưng thẹn không dám thừa nhận, đành đánh thêm một câu kiểu đã đen thì trát thêm nhọ nồi cho bõ:

- “Lừa hoang sa đặc biệt nhỉ! Trên lưng còn mọc thêm hai cái bướu gì thế không biết, trông lại hao hao giống lạc đà ấy chứ, ngoại đạo như mọi người là dễ nhầm lẫn lắm đấy!”.

Lúc này, giáo sư Nông địa cầu cũng chen lên trước, nhờ ánh sáng đèn quặng trên đầu Tư Mã Khôi, ông quan sát kỹ bức bích họa, có vẻ rất chăm chú, ông ngắm nghía hồi lâu nhưng vẫn im lặng không nói gì.

Tư Mã Khôi thấy cái động này nhang nhác giống huyệt mộ, bèn quay sang hỏi giáo sư:

- “Hình như chúng ta chui vào hang mộ rồi hả bác? Con lạc đà bay trong bức bích họa là loại yêu quái gì thế?”

Giáo sư Nông địa cầu không trả lời thẳng câu hỏi, mà chỉ chậm rãi gật đầu bảo:

- “Chỗ này cũng khá vững chãi đây, chúng ta hãy nghỉ chân ở đây một lát vậy, xem có sửa được cái máy điện đàm này không.”

Mọi người lội trong cát suốt nửa ngày tròi, người ngợm mặt mũi bê bết đất cát. người nào người nấy trông như thần thổ địa, tất cả đều mệt mỏi đói khát, chỉ mong sao được nghỉ ngơi giây lát. Cả đoàn nghe lời dặn của giáo sư, theo nguyên tắc của đội khảo cổ:

- “nếu không bắt buộc thì không được chạm vào hiện vật”, nên tất thảy đều tránh xa vách tường mộ có mấy bức bích họa, tập trung ở gần lối ra vào, dỡ bỏ hành lý và súng ống trên lưng, ngồi dựa vào tường, trệu trạo gặm mấy gói lương khô cho đỡ đói.

Đại đội trưởng Mục lo cát tràn từ bên trên xuố lấp kín mộ thất, bèn dẫn Tư Mã Khôi và Hải ngọng đi tuần thị khu vực xung quanh một vòng. Họ phát hiện một cánh cửa đá dày nặng trước hố đất, bậu cửa lưu lại những vết tích cũ kỹ, không phải vết tích của những năm gần đây; rõ ràng trước giải phóng, bọn “giặc đất” đã nhanh chân mò vào trước, khoắng sạch tất cả bảo vật trong mộ cổ chỉ để lại một số bức bích họa không thể mang đi được, ngoài ra không còn thứ gì khác.

Sau khi xem xét xong, đại đội trưởng Mục quay trờ về bàn bạc với giáo sư Nông:

- Ttheo kế hoạch đã định, chúng ta phải hợp nhất với phân đội khoan thăm dò Karamay trước, sau đó mới cùng tiến xuống kính viễn vọng Lopnor thông qua địa cốc dưới lòng Đại Sa Bản. Nhưng phân đội khoan thăm dò lẽ ra đã phải đến địa điểm tập kết từ hai ngày trước, thì giờ đây lại không thấy bóng dáng đâu cả. Theo lẽ thường suy đoán, nếu họ cũng gặp phải nạn cát nóng và cát lún, thì chắc chắn họ cũng sẽ chui xuống địa cốc lánh nạn; chỉ có điều, do ảnh hưởng của thời tiết và máy điện đàm gặp sự cố nên hai bên mới không thể lạc được với nhau. Tiểu đoàn Mục phát hiện ở gần đây có mấy huyệt cát, nông sâu rất khó đoán, có lẽ nó thong với địa cốc. Anh định sẽ một mình xuống đó thám thính tình hình trước, đồng thời xem có tung tích của phân đội khoan thăm dò không, còn mọi người hãy cứ ở đây nghỉ ngơi chốc lát cho đỡ mệt, và nhân cơ hội này sửa lại máy điện đàm.

Giáo sư Nông biết đại đội trưởng Mục là một trinh sát viên lão luyện, giàu kinh nghiệm thực tế, để anh đi trước thăm dò cũng tốt, rốt cục thế vẫn còn hơn là ngồi yên trừng mắt nhìn toàn bộ thành viên phân đội khoan Karamay mất tích. Thế là giáo sư chấp nhận đề xuất của đại đội trưởng, chỉ dặn dò anh phải thật cẩn thận, không dược đi quá xa ngộ nhỡ lạc đường.

Đại đội trưởng Mục gật đầu đồng ý, rồi xách đèn quặng và súng trường chuẩn bị đi. Bỗng Tư Mã Khôi chặn anh lại, bảo:

- “Để tôi đi cùng ông anh, ngộ nhỡ gặp phải tình huống bất trắc gì thì còn có người giúp lẫn nhau.”

Đại đội trưởng Mục nghiêm nét mặt mắng:

- “Ranh con nhà cậu thì biết trợ giúp cái quái gì? Đúng là vô tổ chức vô kỷ luật! Chỉ cần bảo vệ giáo sư cho tốt là trợ giúp đắc lực nhất cho tôi rồi”. Nói xong, đại đội trưởng không ngoái đầu lại, xách khẩu súng trường bán tự động K56 chui thẳng vào hộc đá phía sau mộ thất.

Tư Mã Khỗi chửi thầm trong bụng, lão đại đội trưởng này đúng là đồ con lừa, tính khí gì mà vừa ương vừa dở, anh đành quay lại chỗ vách tường ngồi xuống gặm nốt mấy phong lương khô cho ấm bụng, rồi hướng dẫn Lưu Giang Hà cách sửa máy điện đàm. Thế nhưng mức độ hỏng hóc của chiếc máy dường như nghiêm trọng hơn họ tưởng, nếu không thay linh kiện thì không thể phục hồi lại được.

Lúc này, giáo sư Nông bảo Thắng Hương Lân phác thảo bức bích họa trong mộ thất vào sổ ghi chép, sau đó mới quay sang nói với Tư Mã Khôi:

- “Cậu đừng coi thường nơi này, nó từng là tòa vương lăng ở Lâu Lan đấy, đáng tiếc ngay từ đầu những năm Dân quốc, đã bị bọn trộm mộ khoắng sạch bách rồi. Bọn này đúng là cướp nhẵn như chùi, ngay cả mảnh ván quan tài chúng cũng không để lại, chỉ còn mỗi huyệt mộ toen hoẻn như cái hố đất và một vài bức bích họa còn sót đến ngày nay. Chỉ e chẳng mấy thời gian nữa, nơi này sẽ bị cát lún nuốt chửng hoàn toàn mất thôi”.

Tư Mã Khôi vẫn hoài nghi không tin lắm:

- “Cái hang đất tồi tàn đến mức này, bác chỉ dựa vào mấy bức bích họa nham nhở, sao dám khẳng định nơi đây từng là huyệt mộ của quốc vương Lâu Lan?”.

Đối với những đề tài khảo cổ, giáo sư Nông có thể giải thích thao thao bất tuyệt mà không biêt chán:

- “Thực ra tôi cũng giống các cậu cả thôi, đây là lần đầu bước chân đến chỗ này. Cậu nhìn xem, tuy ngôi cổ mộ bị bọn trộm khoắng sạch nhưng chẳng phải vẫn còn sót lại mấy bích họa đó sao? Bên trong những bức bích họa ẩn chứa rất nhiều thông tin lịch sử quan trọng, nên chỉ cần cứ vào cặp lạc đà kim ngân mô tả trong tranh cũng có thể phán đoán hang đất này đúng là vương lăng Lâu Lan.”

Thắng Hương Lân nghe đến đây cũng đoán được vài manh mối, cô bèn quay sang hỏi:

- “Có phải giáo sư muốn nói trong sa mạc Tây Vực, lạc đà mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt nào đó đúng không ạ?”

Giáo sư gật đầu xác nhận:

- “Lạc đà chính là con thuyền trên sa mạc. Trước đây, các khách thương muốn vượt qua con đường tơ lụa cổ, chắc chắn không thể thiếu lạc đà. Theo sử sách chép lại thì Tây Vực cổ có ba mươi sáu nước, nhưng đó chỉ là những nước thịnh vượng giàu có nhất men theo con đường tơ lụa trong một giai đoạn nhất định mà thôi. Nếu thống kê thực sự, thời Hán Đường các nước lớn nhỏ xuất hiện dọc theo con đường tơ lụa suốt chiều dài Bắc Nam, tổng cộng trước sau phải đến bốn mươi hai nước. Nhưng tới thời Lưỡng Hán Nam Bắc Triều, phía bắc bắt đầu từ Thiết Môn Quan, phía nam bắt đầu từ vùng đất lớn thuộc dải Ni Nhã, thì cũng chỉ có vương quốc Lâu Lan, tức Thiện Thiện Quốc là uy quyền nhất, mới được phép lấy lạc đà vàng tượng trưng cho địa vị tối cao. Điều này cũng giống như các bậc đế vương Trung Nguyên thường tự ví mình với chân long thiên tử vậy. Hơn nữa, trong bức bích họa còn xuất hiện hình văn võ bá quan quỳ lạy, vì thế tôi mới dám phỏng đoán đây chính là cổ mộ của quốc vương Lâu Lan”.

Tư Mã Khôi và Hải ngọng vẫn không hiểu lắm:

- “Thế lạc đà bay chuẩn bị đáp xuống đỉnh núi trong bức bích họ tượng trưng cho cái gì ạ? Vì sao nó lại mọc thêm một cái đầu người trên cổ vậy?”

Giáo sư tiếp tục giải thích: nội dung mô tả trong bức bích họa dưới cổ mộ quốc vương Lâu Lan là vô cùng thần bí, hơn nữa lại bị hủy hoại tương đối nghiêm trọng, bong tróc hết cả, nên dù tôi không biết sự tích lai lịch của nó, nhưng dựa vào kinh nghiệm cũng có thể liều đặt ra một giả thiết: có lẽ bức bích họa này có liên quan đên một truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ rất lâu đời. Lạc đà bay tượng trưng cho chân thần phán quyết nhân quả, cặp lạc đà kim ngân cắn xé lẫn nhau tượng trưng cho vị quốc vương Lâu Lan được an táng trong vương lăng nảy từng ra tay giết chết anh em ruột của mình, mà lạc đà vàng là anh, lạc đà bạc là em. Người ta thường có câu: “Một núi không thể có hai hổ, một nước không thê có hai vua”, ngọn núi này đúng là không thể dung nạp hai con mãnh hổ, nên không thể tránh khỏi việc huynh đệ tương tàn, đến cuối cùng thì sinh tử thành bại, tất cả đều do thần toàn năng toàn trí quyết định. Bức bích họa này đại khái thể hiện sự lý giải của người xưa về số mệnh.

Tư Mã Khôi nói:

- “Chà! ông quốc vương nước này hay nhỉ, dám ra tay giết chết anh em thủ túc của mình, mà sau khi chết lại còn cố tình vẽ bích họa bày trong mộ thất giải thích với đời sau: chuyện này hoàn toàn là số mệnh mà chân thần đã an bài từ trước, chứ không phải xuất phát từ ý của bản vương. Thế là ông ta rũ bỏ toàn bộ trách nhiệm, thoát khỏi tiếng xấu huynh đệ tương tàn. Đúng là đã đã ăn cắp lại còn la làng nữa cơ đấy. Nhưng hàng ngàn năm trôi qua, những huy hoàng của quá khứ cuối cùng cùng bị cát vàng chôn vùi, vương lăng Lâu Lan sớm bị bọn trộm mộ khua sạch bách, ngay cả mảnh ván quách nát cũng không tha, chỉ còn lại mấy bức bích họa lỗ chỗ như áo tơi, đến ngày này giờ này thì còn ai để ý người chết dưới mộ năm đó đã làm chuyện thất đức gì trái với lương tâm nữa chứ!”

Giáo sư Nông địa cầu nghe Tư Mã Khôi đề cập đến sống chết, trong lòng chợt trỗi dậy niềm hoài cảm, miệng nêu ra vài quan điểm của mình:

- “Sinh tử là quy luật của giới tự nhiên. Con người là loài sinh vật được an bài bắt buộc phải chết, huyệt mộ bản thân nó chỉ là phù hiệu tượng trưng cho sự an nghỉ của cái chết, nhưng ý nghĩa nội tại của nó còn vượt xa phạm trù này.
Người xưa từng coi nó là cánh cửa nối liền với sự vĩnh hằng, họ muốn mang tất cả những thứ mà lúc sinh thời được hưởng thụ vào cả trong mộ; bởi vì một người lúc sinh thời có càng nhiều thì lúc lâm chung lại mất càng nhiều. Cũng giống như vị quốc vương Lâu Lan vốn được an táng dưới mộ này cũng vậy, tuy ông ta thân là người đứng đầu một nước, trong tay nắm quyền sinh quyền sát có thể tùy ý định đoạt số mệnh của thần dân, nhưng đối mặt với đại hạn bắt buộc phải đến của chính mình thì vẫn lực bất tòng tâm. Nỗi khiếp sợ và bất lực với cái chết kỳ thực chính là một loại số mệnh mà loài người không bao giờ có thể giải thoát nổi. Đừng nói ở thời các cổ quốc Tây Vực cách đây hàng ngàn năm, mà ngay cả thời hiện đại như ngày nay, với nền khoa học kỹ thuật vượt bậc, thì vẫn có bao nhiêu người dám nói đến ‘vạn thọ vô cương’ chứ?”.

Giáo sư Nông địa cầu nói đến câu cuối cùng thì tự thấy khi nãy mình hơi lỡ lời, bèn vội vàng lảng sang chủ đề khác. Ông kể một câu chuyện đồn đại xảy ra trước giải phóng:

- Từ trước đến nay, chỉ cỏ hai đối tượng hứng thú với thành cổ huyệt mộ trên sa mạc mà thôi, thứ nhất trộm mộ, thứ hai là nhà khảo cổ. Bọn trộm mộ them nhỏ dãi vật bồi táng hậu hĩ trong lăng tẩm, còn các nhà cổ lại quan tâm đến giá trị học thuật lịch sử to lớn ẩn sâu bên trong mỗi đồ vật đó. Nghe nói, đầu những năm Dân quốc, có một số nhà thám hiểm nổi tiếng người Anh hợp tác với bọn thổ phỉ mã tặc địa phương, đã dấn thân vào dòng cát lún hàng ngàn dặm trong sa mạc Tân Cương để tìm kiếm những văn vật cổ đại. Hội người này chắc toàn hạng mũi thính như mũi chó, lúc đi ngang qua khu vực phụ cận Đại Sa Bản thì đột nhiên ngửi thấy mùi xa hoa lan tỏa trong không khí từ mảnh đất cằn hoang lương. Sau nhiều tháng tìm kiếm và khai quật, cuối cùng bọn họ cũng mở được cánh cửa đá bị đóng kín hàng ngàn năm. Nơi nào ánh mắt có thể dõi đến, nơi ấy cơ man là châu báu, bảo vật hiếm có trên đời. Xung quanh mộ sàng chất đầy vàng bạc châu báu, đếm không xuể; tất cả các loại âu vại, hòm xiểng, binh khí, mũ mão đều ánh lên sắc rực rỡ chói lóa, lung linh của ngọc ngà. Ông vua của các vị vua nằm yên nghỉ trong quan tài đeo một chiếc mặt nạ đúc bằng vàng trên mặt, nó mô phỏng y chang dung nhan của nhà vua lức sinh thời, gương mặt biểu lộ nét bi ai trong trầm mặc, phảng phất thể hiện sự bất lực của bản thân đối với số mệnh chính mình. Những kẻ trộm mộ trông thấy núi của của nả trọng mộ đều vô cùng sửng sốt, bọn chúng đã nhanh tay vơ vét sạch sành sanh.

Giáo sư phỏng đoán: các nhà thám hiểm Anh và lũ giặc đất” (Một cách gọi kẻ trộm mộ.) phát hiện ra vùng đất này là thông qua lời đồn đại của dân trộm mộ sa mạc Tân Cương. Tuy ông chưa bao giờ nhìn thấy ngọc ngà châu báu trong tòa cổ mộ đó, nhưng căn cứ theo vị trí địa lí và nội dung các bức bích họa, cộng với nhận định phân tích cá nhân, thì thấy ngôi mộ đó có lẽ thuộc về một vị tiên vương nào đó của Lâu Lan cổ. Vào thời kỳ lưỡng Tấn, Lâu Lan thay quốc chủ mới và đổi quốc hiệu thành Thiện Thiện, ngày nay người ta vẫn có thói quen gọi nước Thiện Thiện là Lâu Lan, nhưng thực tế vương quốc Lâu Lan trước thời Tấn phải thêm chữ “cổ” đằng sau mới chuẩn.

Trong thâm cốc thổ sơn dưới lòng Đại Sa Bản chính là vùng đất an nghỉ của vị quốc chủ Lâu Lan cổ từ nhiều năm trước. Ngoại hình cổ mộ giống dạng nấm đất, hai ngàn năm nay nó bị cát vàng ăn mòn xâm thực nặng nề, địa hình địa mạo biến đổi rất lớn. Những bức bích họa còn sót lại mà mọi người phát hiện thấy trong mộ thất, có mô tả một đỉnh núi cao vời vợi, kỳ thực nó chỉ là vật tượng trưng, đại diện cho Hắc Môn nằm trong mộ cổ dưới lòng đất, điểm tận cùng của nó nối liền với cực vực, cách lớp vỏ Trái Đất hàng chục ngàn mét. Kế hoạch ban đầu của giáo sư Nông địa cầu chính là hợp nhất với phân đội khoan thăm dò Karamay, rồi tìm kiếm tòa Hắc Môn nằm sâu trong Đại Sa Bản, sau đó mới nghĩ cách tiên xuống kính viễn vọng Lopnor.

Giáo sư nói với mọi người:

- “Căn cứ vào mô tả của địa phương chí Tây Vực thời Hán, Hắc Môn còn được gọi là bức tưởng chết. Nó cũng chính là yêu ma bảo vệ luật nhân quả và nuốt sống tất cả những ai có ý đồ tiếp cận nó, bởi thế khu vực đó chắc chắn hung hiểm dị thường. Bây giờ, chúng ta đã mất liên lạc với phân đội khoan thăm dò, máy điện đàm quang học không dây lại bị hỏng, nếu không sửa chữa kịp thời, thì dựa vào nguồn trang thiêt bị đội thám hiểm hiện có, căn bản không đủ khả năng quay trở về theo đường cũ, vì vậy chúng ta bắt buộc phải chuẩn bị tư tưởng để đón nhận tình huống xấu nhất. Tình huống thứ nhất, nếu chúng ta tìm thấy phân đội khoan thăm dò, cho dù tất cả bọn họ đều đã gặp nạn, thì khả năng máy điện đàm không dây và lương thực họ mang theo vẫn còn. Tình huống thứ hai, chúng ta không những không tìm thấy phân đội khoan thăm dò, mà cũng không thể sửa được máy điện đàm, thì chỉ còn cách liều chết dấn thân vào Hắc Môn dưới lòng Đại Sa Bản, căn cứ vào những ghi chép văn hiến địa lý cổ, chỗ này có lẽ có một dòng sông ngầm.”

Mọi người nghe giáo sư nói đều cảm thấy mơ hồ như ở trong sương. Cái gọi là báo ứng nhân quả, chẳng chỉ là tư tưởng mê tín thời phong kiến, cần phải loại bỏ hay sao? Thêm nữa, nhân quả dường như không phải vật gì cụ thể, sao tòa Hắc Môn lại có thể là yêu ma bảo vệ nhân quả được?
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Re: Mê Tông Chi Quốc Quyển 2 Ma Vực Lâu Lan Thiên Hạ Bá Xướn

Postby tuvi » 23 Apr 2019

Chương 14
Phân Đội Khoan Thăm Dò Karamay Mất Tích


Giáo sư Nông địa cầu ngẫm nghĩ một lát, rồi nói tiếp:

- “Cái được gọi là nhân quả kỳ thực là một loại khái niệm logic cơ bản nhất, đồng thời cũng phức tạp nhất. Tôi lấy một ví dụ đơn giản là các cậu hiểu ngay ấy mà, các cậu ai thử đặt câu với cặp từ ‘vì… nên…’ cho tôi xem nào”.

Tư Mã Khôi thấy yêu cầu của giáo sư quá dễ dàng, bèn buột miệng nói luôn:

- “Vì bác Nông không biết cũng nên”.

Thắng Hương Lân đang chuyên tâm phác họa bưc bích họa, nghe Tư Mã Khôi đặt câu, đúng là vừa bực mình vừa nực cười. Cô thật sự không hiểu vì sao giáo sư đồng ý để loại người này trà trộn vào đội khảo cổ. Cô nàng đành phải thay Tư Mã Khôi trả lời câu hỏi của giáo sư:

- “Thuyết nhân quả mà người xưa thường nói, không thể luận theo tư tưởng mê tín được, nói như quan điểm hiện nay thì nhân quả thực ra chỉ là mối liên quan logic giữa các sự kiện tiếp nối nhau.”

Giáo sư Nông địa cầu nói:

- “Hương Lân giải thích đúng lắm tất cả các sự kiện đều không tồn tại độc lập. Tính logic giữa chúng chính là bản chất của nhân quả. Nhưng nội dung thần bí trong truyền thuyết xa xưa của Tây Vực cổ rốt cục là gì, ví như bức tường núi nuốt chửng mọi sinh mệnh còn có bí mật nhân quả gì nữa, hiện tại chúng ta hoàn toàn không thể lần mò được manh mối.”

Đến tận lúc này, Tư Mã Khôi mới hiểu đại khái phương án hành động của giáo sư Nông địa cầu, cực vực nằm dưới sa mạc Lopnor, được kinh Phật hình dung là “cơn ác mộng bất tận”, còn người Liên Xô lại gọi nó là kính viễn vọng Lopnor, nói tóm lại nó chính là một huyệt động ăn sâu xuống lòng đất. Bởi vì trước khi rút lui, đoàn chuyên gia Liên Xô đã phá hủy cái giếng dựng đứng – mà họ phải dùng thiết bị khoan hạng nặng mới đào được, nên bây giờ muốn xuống đó phải tìm một con đường khác từ mặt cạnh, mà con đường ấy chính là Hắc Môn, cánh cửa đen nằm dưới long Đại Sa Bản.

Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, bèn hỏi giáo sư một vấn đề rất nhạy cảm:

- “Bây giờ chúng ta đã mất sự hỗ trợ của phân đội khoan thăm dò Karamay và chỉ có thể đi xuống lòng đất tìm dòng sông ngầm phía sau Hắc Môn. Nhưng trải qua ngàn năm bãi bể đã biến thành nương dâu, dòng sông ngầm mà sách địa lý cổ đề cập đến, bây giò có còn tồn tại dưới lòng đất nữa hay không? Sau khi đội thám hiểm xuyên qua “bức tường chết”, cũng có nghĩa là đã hoàn toàn lâm vào tình cảnh cô lập với mọi sự cứu viên, nên bất luận có tìm thấy dòng sông ngầm hay không cũng tuyệt đối không còn con đường nào có thể quay đầu lai được nữa. Bởi vì không có điện đàm để cầu cứ sự trợ giúp của hậu phương, thì không một ai có thể bước chân ra nổi sa mạc Gobi rộng mênh mang bờ bến này. E rằng đến lúc đó, chúng ta chỉ còn cách tiếp tục tiến sâu vào kính viễn vọng Lopnor, tìm máy điện đàm không dây mà người Liên Xô để lại. Tuy tôi không thể tưởng tượng kính viễn vọng Lopnor rốt cục là cái gì, nhưng mối nguy hiểm to lớn tiềm tàng bên trong nó thì sờ sờ ra đấy. Đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích năm 1958, họ đều được trang bị đầy đủ và tối tân hơn tiểu đội sáu người của chúng ta nhiều. Chúng ta, ngay cả một cái đèn halogen cường quang hẳn hoi còn không có, không khéo vũ khí và trang thiết bị mà bọn trộm mộ khoắng sạch bảo vật trong cổ mộ sa mạc Gobi thời Dân quốc mang theo, còn tối tân hơn chúng ta. Khả năng chúng ta xuống tới cực vực nắm chắc bao nhiêu phần trăm thành công? Mà cho dù xuống được đó, thì có thể trở về được nữa không? Cả hội đều rõ tình cảnh chúng ta bây giờ giống như con thuyền bơi ngược dòng, khó có thể quay đầu lại. Nhưng dù sao tôi vẫn muốn nghe lời nói thật từ chính miệng bác. Chúng ta châu châu đá voi, không thành công cũng thành nhân, thành công môt nửa cũng phải thành nhân, có đúng thế không?”

Giáo sư thừa nhận kế hoạch cụ thể còn phải đợi kết quả đại đội trưởng Mục đi trinh sát về rồi mới quyết định được, thế là ông bèn nói với Tư Mã Khôi:

- “Ai cũng bảo thời này càng nhiều tri thức thì càng dễ phản động, càng thiếu văn hóa càng dễ làm cách mạng, kỳ thực cậu nhìn nhận vấn đề như thế là hơi phiến diện đấy. Trang thiết bị và dụng cụ của đội thám hiểm tuy rất nguyên thủy lạc hậu, không thể so sánh được với khó khăn và hiểm nguy mà chúng ta sắp phải đối đầu, nhưng bất luận lúc nào ở đâu, chúng ta đều phải trước sau tin tưởng rằng: chỉ có tri thức và niềm tin mới khiến con người luôn đứng vững trên mành đất chiến thắng mà thôi”.

Tư Mã Khôi không phải hạng né tránh vất vả. sợ sệt nguy hiểm, trong sa mạc Lopnor tuy cũng gian khổ thật nhưng còn tốt chán so với điều kiện ở Miến Điện lúc xưa, khi ấy mọi người ngủ trong doanh trại giữa rừng rậm, không chừng nửa đêm bị nội gián quân địch mò vào cắt yết hầu lúc nào không hay, mỗi giờ mỗi khắc đều nơm nóp lo sợ. Thấy giáo sư Nông nói vậy, anh biết đừng hòng kỳ vọng có được bất kỳ câu trả lời thực chất nào từ miệng lão hói này. Nhưng dù gi thì anh cũng là loại chân đất không ngại đeo giày cũ, thế là anh bèn im lặng, không hỏi thêm gì nữa, chỉ lẳng lặng quay trở lại góc tường ngồi gặm hai thỏi lương khô cho ấm dạ, nhưng khắp miệng toàn là đất cát, không thể nuốt trôi miếng bánh.

Hải ngọng đưa cho Tư Mã Khôi ít nước rồi lơ đễnh bảo:

- “Sa mạc nắng nóng kinh khủng lắm, nếu cậu bị mất nước sẽ nguy hiểm đến tính mạng đấy!”

Tư Mã Khôi nói:

- “Dưới lòng đất có sông ngầm hay không còn không dám chắc có câu:

- “người có thể ba ngày không ăn nhưng không thể một ngày không uống”, chúng ta lại mang có một tẹo nước, uống ít một ngụm là tiết kiệm được một ngụm, nếu tiết kiệm được nhiều ngụm biết đâu có thể duy trì thêm hai ngày đấy!”

Anh chàng đội trưởng Lưu Giang Hà vừa bày chiếc máy bộ đàm hỏng ra đất vừa nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng:

- “Tôi từng nghe người già trong đội lạc đà kể lại rằng dưới lòng Đại Sa Bản quả thực có một biển hồ, nếu có thể tìm thấy nó thì không cần lo đến vấn đề nguồn nước nữa”.

Hải ngọng ngồi bên thấy việc này khá mới mẻ, bèn hỏi:

- “Trên sa mạc ngoài đất cát ra thì chỉ toàn hồ muối, mà cũng đều cạn đến mức độ nhất định rồi, lây đâu ra biển nữa hả?”

Lưu Giang Hà lắc đầu giải thích:

- “Biển ở chỗ chúng tôi không phải là biển thật, mà chỉ là hồ nước trong lục địa có quy mô tương đối mà thôi”.

Hải ngọng nhân cơ hội này bắt đầu khoe khoang sự hiểu biết của mình:

- “Hồ nội địa thì đã là cái gì, cậu có biết vì sao tôi tên là La Đại Hải không? Vì tôi sinh ra gần bờ biển, cả ngày ngắm biển ngắm đến phát chán lên được.”

Lưu Giang Hà chưa bao giờ bước chân ra khỏi lãnh địa sa mạc Gobi, nghe thế liền hỏi Hải ngọng:

- “Biển thật trông thế nào hả anh?”

Hải ngọng lúng túng trả lời:

- “Phải hình dung thế nào nhỉ, đương nhiên là không hề giống với biển cạn chết chóc im ắng trên sa mạc rồi. Biển lớn thực sự ấy à, mùa đông giống như đàn ông, lạnh lùng và thâm trầm, mùa hè lại giống như thiêu nữ, nóng bỏng và phóng khoáng…”
Hải ngọng nói đến đây thì hết vốn, bèn quay sang hỏi ngược Lưu Giang Hà:

- “Vì sao chỗ các cậu lại gọi hồ dưới lòng đất là biển thế hả?”

Tư Mã Khôi thấy Lưu Giang Hà không trả lời được nói:

- “Ơ! Tớ tưởng trại chủ Hải ngọng sinh ở Cáp Nhĩ Tân chứ nhỉ? Nể cậu không biết liêm sỉ dám đặt câu hỏi, hôm nay tớ sẽ cho cậu mở rộng tầm mắt. câu xem ở Bắc Kinh Hậu Hải, Bắc Hải, Thập Sát Hải, kỳ thực tất cả những biển này đều chỉ là những hồ nước rất nhỏ. Nguyên nhân người ta gọi hồ thành biển là vì thời Nguyên, vó ngựa quân Nguyên Mông in dấu chân khắp thế giới không ngừng mở rộng biên cương bờ cõi, rồi chuyển kinh đô về Bắc Kinh. Trong sa mạc Mông cổ, nguồn nước vô cùng quý giá, nên giai cấp thống trị triều Nguyên mới đặt tên cho tất cả hồ nước lớn nhỏ trong thành là biển để thể hiên sự trân trọng đối với nguồn nước. Thông thường những dân tộc du mục thiếu thốn nguồn nước, đều có thói quen gọi hồ trong lục địa hoặc dưới lòng đất là biển. Dải sa mạc Lopnor từng là một bộ phận quan trọng tạo nên con đường tơ lụa. Cậu đừng thấy bây giờ nó trở thành nơi cực hạn của thế giới mà coi thường, bởi trước đây nó từng là vùng đất tập trung nhiều hồ nước, khói sóng mờ mịt, cỏ hoa tươi tốt lắm đấy!”

Hải ngọng không tin nổi liền bĩu môi bảo:

- “Cậu bịa nó vừa thôi, cái nơi quỷ tha ma bắt này lấy đâu ra khói sóng mịt mù được chứ?”

Tư Mã Khôi ngồi không cũng buồn bực chân tay, đúng lúc có thể nhân dịp này phát huy khả năng tào lao:

- “Cậu có nhìn thấy bức bích họa đằng kia không? Bên dưới con lạc đà bay là ngọn núi, ngọn núi đấy là ngọn núi thần chôn giấu rất nhiều bảo vật đấy!”

Hải ngọng nghe thấy vậy, không giấu nổi sự hiếu kỳ, liền lập tức hào hứng hỏi:

- “Ngọn núi đó giấu bảo vật gì thế? Bây giờ có còn không vậy?”

Tư Mã Khôi nói:

- “Việc này phải nghe từ đầu mới hiểu được, có lẽ khoảng nhiều năm về trước, cụ thể là bao nhiêu năm thì tớ cũng không rõ nữa, dù sao thì thời đó vẫn còn hoàng đế ngồi trên ngai vàng, còn quần chúng nhân dân chúng ta thì vẫn chưa trở thành chủ nhân của đất nước. Ở tỉnh Sơn Đông, có nhà nuôi một con chó, con chó đó đen tuyền như mực, chỉ duy hai tai là màu trắng, nó không biết cắn sủa gì hết, rất ngoan ngoãn nghe lời chủ, cả ngày nằm rạp ở ngoài cổng giữ nhà cho chủ.

Cậu thấy có quái không, từ khi gia đình nọ nuôi chú chó kia, chưa đầy một năm thì đã làm ăn rất phát tài, không ai hãm hại nổi, rồi trở thành một hộ giàu có nhất vùng. Thì ra chú chó mà họ nuôi có lai lịch hẳn hoi, nó là vua chó trăm năm mới gặp một lần, trong cuốn khuyển kinh còn ca ngợi nó đấy ‘chó mực tai trắng là cẩu vương, chủ nhân có được nó vô lo vô nghĩ, nhà nào nuôi được loại chó này tiền chất đầy nhà ngọc để đầy kho’.

Đột nhiên, một hôm có mấy thương nhân Tây Vực râu ria xồm xoàm khắp mặt đi ngang qua, và một trong số thấy con chó nằm rạp trên phố. Người nàv bèn vội vàng lại gần quan sát kỹ, sau đó sửng sốt kêu lên: ‘Đúng báu vật thiên hạ, không biết nhà ai nuôi con chó này nhỉ? – Anh ta thấy gần đó có một tiệm hàng, bèn đến hỏi thủ quỹ trong tiệm, sau đó thì tìm đến nhà gia đình nọ, gặp chủ nhân con chó hỏi:

- Đệ mạo muội xin hỏi, không biết gia chủ có muốn bán con chó này không vậy.?

Chủ nhân con chó cười đáp:

- Nó là chó có chủ, làm sao bán đi được.

Nhưng vị thương nhân người Hồ lì mặt không những không đi, mà còn bảo chỉ cần chủ nhân đưa ra một giá, bất luận là bao nhiêu, anh ta đều có thể lấy ngay bạc trắng vàng thật ra trả ngay tức thì.

Người chủ bắt đầu bực mình, định nói vài câu để đuổi người khách kia đi, thế là buột miệng hét một giá mà ngay cả mình cũng không dám tin.

Nào ngờ thương nhân người Hồ kia nghe xong thi rất tức giận, nói: ông coi thường người Hồ Tây Vực chúng tôi, hay coi thường con chó này mà đưa ra mức giá thấp thế? Tôi đồng ý trả gấp mười số tiền ông vừa đưa ra, mà tôi cũng chỉ cần vật trong bụng con chó thôi, sau khi lấy xong thì trả lại con chó cho ông như cũ.

Chủ nhân con chó thứ nhất do hiếu kỳ, thứ hai do tham thú tiền bạc nên đã hồ đồ đồng ý, hai bên tiên cháo múc rất đàng hoàng. Sau khi lập khế ước, người chủ mới hỏi thương nhân người Hồ:

- ‘Vật trong bụng con chó sao lại đáng nhiều tiền thế?’

Vị thương nhân người Hồ vô cùng đắc ý hể hả cười nói:

- ‘Trong sa mạc Tây Vực chúng tôi, có cát phủ hàng ngàn dặm, bên dưới vùng cát lún có một nơi gọi là biển Hắc Môn. Ngọn núi thần năm đó bị chìm xuống biển, cho nên dưới lòng nước sâu không nhìn thấy đáy kia, chứa toàn là bảo vật vô giá; nhưng nước biển quái lạ này lại không hề có chút lực nổi nào, bất kỳ ai lặn xuống mò bảo vât đều bị chết chìm dưới đó. Trong bụng cẩu vương có môt viên đá gọi là cẩu bảo, chỉ cần lấy được cẩu bảo mang theo bên mình xuống biển mò ngọc, thì có thể rút lui mà không hề hấn thương tích gì.’

Thương nhân người Hồ nói xong thì cho con chó uống một viên thuốc, không bao lâu sau nó nôn ra một viên đá màu vàng nhạt. Vị thương nhân mừng vui khôn xiết, nắm chặt viên đá ngạo nghễ bước đi. Từ đó về sau con chó bắt đầu biết sủa và không khác gì những con chó bình thường, có điều gia đình nọ thì ngày càng suy bại, không thể làm ăn khấm khá được như trước nữa.”

Tư Mã Khôi nói với Hải ngọng:

- “Tên thương nhân người Hồ kia thực ra là một tay biệt bảo, cùng một giuộc với Triệu Lão Biệt mà chúng ta từng gặp ở Trường Sa ngày trước. Hắc Môn chìm đầy bảo vật hiếm có mà lão ta nói đến, theo phân tích địa hình thì có lẽ nó nằm ngay dưới cát lún trải dài ngàn dặm này, chỉ có điều khói song mù mịt thì bây giờ không còn nữa, chỉ còn lại mỗi vùng hoang mạc hố trũng khô nẻ này thôi”.

Hải ngọng nghe xong mặt mũi hớn hở, đưa tay gãi gáy bảo:

- “Thế thì cơ hội chúng ta được đăng trên trang nhất tờ Quang Minh nhật báo lại càng lớn hơn rồi, bắt đầu từ bây giờ, đi trên sa mạc tớ và cậu phải để ý một chút, biết đâu thứ đá phải dưới chân lại chính là bảo vật chìm dưới đáy biển, tuyệt đối không được cho nó là đất đá vớ vẩn mà đá bay nó đi nhé!”

Trong mắt anh chàng đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà, Tư Mã Khôi giống như nghệ sĩ xiếc dân tộc Duy Ngô Nhĩ biểu diễn tiết mục Darwaz (là một loại hình biểu diễn nghệ thuật cổ xưa của dân tộc Duy Ngô Nhĩ, tức là biểu diễn đi dây thừng trên không.), vào nam ra bắc đi đây biết đó rất trải đời, trong lòng anh chàng rất khâm phục Tư Mã Khôi nên xuýt xoa khen thật lòng:

- “Người đội kháo cổ các anh hiểu biết nhiều thật đấy!”

Tư Mã Khôi cũng không cần khiêm tốn nhận luôn:

- “Trong bụng người làm công tác khảo cổ bọn tôi không có ruột gan gì cả, chỉ toàn là học vấn thôi, chuyện lớn thì am hiểu thiên văn địa lý, chuyện nhỏ thì biết cả mắm muối dưa cà, nếu không thì làm sao nói được có đầu có cuối như thế chứ?”

Lúc này Thắng Hương Lân đã phác họa xong bức bích họa trong mộ thất, thấy Tư Mã Khôi đang mặ dày tự đánh bóng bản thân, cô không chịu được bèn nói với Lưu Giang Hà:

- “Đội trưởng Hà ơi! Anh đừng tin, anh ta nói nhăng cuội, người này ấy à, chẳng phải người của đội khảo cổ đâu, cùng lắm anh ta chỉ là anh bán hoa dạo thôi – vừa bán hoa vừa ba hoa ấy mà. Đừng thấy bây giờ anh ta nói trơn trò thì nghĩ anh ta giỏi, chứ đến lúc thực sự cần dùng đến thì anh ta chẳng trơn được cái trò gì đâu… ”

Tư Mã Khôi tức suýt nổ mũi, đang định lên cơn thì giáo sư Nông địa cầu lên tiếng:

- “Những câu chuyện về thuật biệt bảo của người Giang Nam hay thương nhân người Hồ Ba Tư, thực ra cũng không phải hoàn toàn hư cấu cả đâu. Nơi mà cậu vừa kể khi nãy kỳ thực chính là Hắc Môn dưới lòng Đại Sa Bản đấy, chỗ đó vốn là một hố động còn sót lại sau khi biển hồ dưới lòng đất khô cạn. Bức tường chết ăn thông xuống lòng đất chính là nằm ở bên trong nó, đồng thời cũng là huyệt động mà tiên vương Lâu Lan cổ đã an nghỉ trong quan tài hơn hai ngàn năm về tnrớc. Dưới ấy có rất nhiều kỳ châu dị bảo vương vãi khắp nơi, nguyên nhân khiến dân biệt bảo không dám trực tiếp mò vào hố động, chủ yếu là vì sợ bị bức tường chết chóc kia nuốt chửng”.

Nhiều năm trước. Tư Mã Khôi đã được lĩnh giáo thủ thuật quái dị của dân biệt bảo, nay nghe giáo sư Nông địa cầu nói vậy, trong đầu anh hiện lên một dấu hỏi lớn: làm sao bức tường đất trong núi sâu lại có thể ăn thịt người được? Hội chúng ta đã không phải dân biệt bảo, lại không am hiểu chút gì về phương thuật biệt bảo, thì làm sao có thể an toàn đi xuyên qua Hắc Môn được?

Lúc này đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp lạo xạo đạp trên nền cát vọng lại từ phía ngoài cử mộ, thì ra đại đội trưởng Mục đã trinh sát trở về. Mọi người lập tức chạy xô đến đón anh. chỉ thấy đại đôi trưởng toàn thân lấm lem đất đen, cũng không rõ anh đã gặp phài chuyện gì. mà dường như quay về rất vội vã. Sau khi về đến nơi, anh thở hổn hển, ngồi phịch xuống đất, nói không ra lời, đón lấy bình nước tu ừng ực liền mấy ngụm, rồi mới kể lại tình hình vừa thăm dò khi nãy:

- “Đúng là con bà nó, chết tiệt thật! Có một hố cát thông sâu vào trong địa cốc, phân đội khoan thăm dò, tụi đó….”

Giáo sư Nông thấy thần sắc hoảng hốt của đại đội trưởng Mục thì biết chắc chắn đã xảy ra biến cố gì rồi, liên gấp gáp hỏi dồn:

- “Tất cả thành viên đội khoan thăm dò Karamay gặp nạn hết rồi hả chú?”

Đại đội trưởng Mục ra sức lắc đầu bảo:

- “Cháu cũng không biết phải nói thế nào nữa, bọn họ sống không tìm thấy người, chết không tìm thấy xác, chỉ thấy bích họa của tụi đó trong địa cốc thôi ạ.”

Mọi người nghe đại đội trưởng nói mà lạnh sống lưng, nhưng không ai hiểu rõ hàm ý thực sự trong câu nói của đại đội trưởng Mục:

- “Chẳng lẽ bức bích họa cổ tồn tại hơn hai ngàn năm dưới lòng đất, lại vẽ chân dung các thành viên phân đội khoan thăm dò bị mất tích?”

Đại đội trưởng Mục nói không phải, anh không rõ tình hình lắm, vả lại bản thân cũng hơi vội, nhưng sự việc đó quả thực quá ly kỳ, dường như tất cả những gì anh tin tưởng sắt đá cả đời đều bị gột sạch hoàn toàn trong chốc lát, nên thực sự không biết phải giải thích thế nào. Đại đội trưởng mô tả đi mô tả lại mấy lần cũng chỉ toát lên được một ý:

- “Phân đội khoan thăm dò Karamay mất tích dưới lòng đất, tất cả họ đều đã biến thành bích họa hết rồi.”
User avatar
tuvi
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $57,156
Posts: 95738
Joined: 29 Apr 2006
Location: FRANCE
 
 

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 51 guests