CHƯƠNG 53 Anna
T. J và tôi cùng đi thang máy lên căn hộ của bố mẹ anh ấy ở tầng 12. “Đừng có mà chạm vào người em đấy nhé. Cũng đừng nhìn em với ánh mắt thiếu đứng đắn nghe chưa?”, tôi cảnh cáo.
“Thế anh có được có những suy nghĩ vô cùng đen tối về em không?”
Tôi lắc đầu. “Anh chẳng giúp em gì cả. Em đang cảm thấy khó chịu quá”.
“Mẹ anh dễ tính mà. Anh đã kể cho em nghe những gì mẹ nói về chuyện chúng mình rồi còn gì. Cứ thoải mái đi”.
Tom Callahan đã gọi vào di động của chị Sarah trong ngày đầu năm mới. Nhìn màn hình điện thoại tôi cứ ngỡ là T. J gọi nhưng khi nhấc máy, giọng Tom vang lên. Ông ấy mời tôi qua nhà ăn bữa tối vào ngày mai.
“Jane và tôi có mấy việc muốn thảo luận với cô”.
Làm ơn đừng nói về việc tôi ngủ với con trai ông bà.
“Được thôi, Tom. Mấy giờ nhỉ?”
“T. J nói nó sẽ đón cô lúc 6 giờ”.
“Vâng được. Hẹn gặp ông bà tối mai”.
Hai mươi tư giờ sau khi nhận được cuộc gọi của Tom, tôi vẫn cảm thấy nôn nao. Tôi không biết nên mang tặng Jane nến hay hoa, thế là tôi mang cả hai. Và bây giờ, khi đứng trong thang máy, tôi cảm thấy hồi hộp vô cùng. Đưa gói hoa và quà cho T. J, tôi chùi vội hai bàn tay ướt nhẹp vào vạt váy.
Cánh cửa thang máy mở ra. T. J hôn tôi an ủi: “Mọi chuyện sẽ ổn thôi”.
Hít một hơi thật sâu, tôi bước theo anh ấy.
Căn hộ ven hồ của Callahan được trang trí rất có gu với màu chủ đạo là be và kem. Một chiếc đàn piano được kê ở góc phòng khách rộng mênh mông với những bức tranh theo trường phái ấn tượng treo trên tường. Một chiếc sô pha lớn cùng với ghế đôi và vài chiếc ghế đơn cùng bộ được xếp đầy gối dựa, kê bốn xung quanh một chiếc bàn trà lớn có hoa văn cầu kỳ.
Tom chuẩn bị chút đồ uống trước bữa tối trong thư viện. Tôi ngồi lọt thỏm trên một chiếc ghế bọc da, tay cầm một ly rượu vang. T. J ngồi ghế bên cạnh. Tom và Jane ngồi đối diện chúng tôi, Jane nhấp một ngụm vang trắng còn Tom uống thứ gì đó nhìn như rượu uýt-ki.
“Cảm ơn vì đã mời tôi qua dự bữa tối”, tôi nói. “Nhà ông bà đẹp quá”.
“Cảm ơn cô vì đã đến, Anna”, Jane đáp lời.
Mọi người đều nhấp môi chút đồ uống. Căn phòng rơi vào yên lặng.
T, J - người duy nhất thoải mái - nhấp một ngụm lớn từ lon bia của anh ấy và vòng tay qua lưng ghế tôi.
“Giới truyền thông đã hỏi liệu cô và T. J có sẵn lòng mở một cuộc họp báo không.”, Tom nói. “Đổi lại, họ sẽ ngừng không làm phiền hai người nữa”.
“Em nghĩ sao hả Anna?”
Nghĩ đến việc ngồi trước đám đông để kể về câu chuyện của mình làm tôi thấy hoảng sự, nhưng thú thật tôi đã quá mệt mỏi khi phải liên tục né tránh đám phóng viên. Có lẽ nếu chúng tôi trả lời câu hỏi của họ thì họ sẽ để chúng tôi yên.
“Cuộc họp báo có được truyền hình không?”, tôi hỏi.
“Không. Tôi đã nói với họ đây sẽ chỉ là họp báo kín. Họ sẽ sắp xếp một trung tâm báo chí nhưng không truyền hình”.
“Nếu đám phóng viên đồng ý sẽ không làm phiền nữa thì tôi đồng ý”.
“Con cũng thế”, T. J đáp.
“Bố sẽ thu xếp việc này”, Tom nói. “Còn điều này nữa Anna ạ. T. J cũng biết việc này, tôi đã nói chuyện điện thoại với luật sư về hãng cho thuê thủy phi cơ. Mặc dù cái chết ngoài mong muốn của viên phi công là lý do gây nên vụ đắm máy bay, nhưng việc chiếc xuồng cứu hộ không được trang bị đầy đủ thiết bị phát tín hiệu cấp cứu là một sai lầm không thể chấp nhận, vấn đề kiện tụng rất phức tạp và tòa án sẽ phải quyết định số tiền bồi thường. Nhưng hãng máy bay đó muốn thỏa thuận với cô và T. J, đổi lại cô sẽ không kiện họ”.
Đầu óc tôi quay cuồng. Tôi vẫn chưa hề nghĩ gì đến khiếu nại và kiện tụng. “Tôi không biết phải nói gì nữa. Tôi nghĩ là mình cũng không nên kiện cáo gì”.
“Vậy tôi khuyên cô nên đồng ý thỏa thuận. Sẽ không có phiên xét xử nào cả. Cô phải cung cấp lời khai, nhưng cô có thể làm việc đó ở ngay Chicago này. Bởi vì tôi đang thuê cô trong lúc máy bay đắm nên luật sư của tôi có thể thu xếp vụ thỏa thuận giúp cô”.
“Vâng. Vậy thì tốt quá”.
“Chắc cũng phải mất vài tháng, thậm chí lâu hơn, nhưng chắc chắn sẽ có kết quả”.
“Được thôi”.
Alexis và Grace cùng ăn bữa tối với chúng tôi. Mọi người đều tương đối thoải mái khi ngồi xuống bàn ăn, sau khi đã uống thêm một chầu, và mặc dù không ai nói muốn uống thêm nhưng tất cả đều rót thêm ly thứ hai cho mình.
Jane dọn ra món thịt thăn bò, rau củ nương, và khoai tây phủ bột bánh mì. Alexis và Grace nhìn trộm tôi rồi cười khúc khích. Tôi giúp Jane dọn bàn ăn, bày ra bánh táo ăn kèm với kem tráng miệng.
Khi tôi chuẩn bị về, Tom đưa cho tôi một cái phong bì.
“Cái gì vậy, thưa ông?”
“Một tờ séc. Chúng tôi vẫn nợ cô tiền công gia sư”.
“Ông bà đâu có nợ gì tôi. Tôi đã dạy được buổi nào đâu”. Tôi cố đưa lại phong bì cho ông ấy.
Ông ấy lịch sự từ chối. “Jane và tôi thực lòng mong cô nhận số tiền này”.
“Tom, làm ơn”.
“Cầm lấy đi Anna. Như thế chúng tôi sẽ thấy vui hơn”.
“Vâng, tôi nhận”. Tôi nhét phong bì vào túi.
“Cảm ơn vì mọi thứ”, tôi nói với Jane.
Tôi nhìn vào mắt bà ấy. Không nhiều bà mẹ sẵn lòng tiếp đón cô bạn gái hơn con trai mình đến cả chục tuổi một cách nồng hậu như vậy, và cả hai chúng tôi đều biết điều đó.
“Cô đừng bận tâm, Anna. Thỉnh thoảng hãy ghé qua nhà chúng tôi chơi”.
T. J vòng tay ôm chầm lấy tôi khi cửa thang máy vừa đóng lại. Tôi thở phào, dựa đầu vào ngực anh ấy “Bố mẹ anh thật tuyệt vời”.
“Anh đã bảo với em là họ rất dễ tính mà”.
Họ cũng rất hào phóng nữa. Bởi vì đêm đó, khi mở phong bì, tôi lôi ra một tờ séc trị giá hai mươi lăm nghìn đô la.
…
Cuộc họp báo được tổ chức lúc hai giờ chiều. Tom và Jane Callahan đứng bên cạnh. Tom cầm một chiếc camera cầm tay, máy camera duy nhất được phép ghi hình tại buổi họp báo.
“Em biết thừa là họ sẽ hỏi gì rồi”, tôi nói.
“Em không cần phải trả lời những câu hỏi mà em không muốn đâu”, T. J nhắc nhở tôi.
Chúng tôi ngồi trên một chiếc bàn dài, đối mặt với cả rừng phóng viên. Tôi liên tục dậm chân vì hồi hộp, nên T. J vươn người sang, nhẹ nhàng đặt tay lên đùi tôi. Cũng may là anh ấy không để tay ở đó lâu.
Ai đó đã dán một bản đồ lớn chụp từ trên không của hai mười sáu đảo vòng san hô tại Maldives. Một chuyên viên quan hệ báo chí của một kênh tin tức được chỉ định để điều hành buổi họp báo, bắt đầu bằng cách giải thích với các phóng viên rằng hòn đảo mà T. J và tôi đã sống là hoang đảo và đã phải chịu thiệt hại lớn sau trận sóng thần. Cô ấy dùng bút la de chỉ vào đảo Malé là nơi chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình. “Bởi vì viên phi công lên một cơn đau tim bất chợt nên chiếc máy bay đã đâm xuống một nơi nào đó giữa hai hòn đảo này”.
Câu hỏi đầu tiên là từ một phóng viên đứng cuối phòng. Anh ta phải hét lên để mọi người có thể nghe rõ.
“Hai người đã nghĩ gì khi phát hiện ra viên phi công bị lên cơn đau tim?”
Tôi rướn người lên, nói vào mic. “Chúng tôi vô cùng sợ hãi khi nghĩ rằng anh ấy có thể sẽ chết và sẽ không hạ cánh nổi”.
“Hai vị có giúp anh ấy không?”, một phóng viên khác hỏi.
“Anna đã cố gắng giúp”, T. J đáp. “Phi công đã yêu cầu chúng tôi mặc áo phao, đi về chỗ ngồi và cài dây an toàn. Khi anh ấy đổ sụp xuống, Anna đã tháo dây an toàn và đến cạnh anh ấy để chuẩn bị hô hấp nhân tạo”.
“Hai người đã ở trên biển bao lâu trước khi dạt vào bờ?”
T. J trả lời: “Tôi không dám chắc. Mặt trời lặn sau khi máy bay đâm tầm một tiếng, khi chúng tôi dạt vào bờ thì mặt trời đã mọc”.
Chúng tôi trả lời tất cả các câu hỏi trong vòng một tiếng đồng hồ sau. Họ hỏi chúng tôi về mọi thứ, từ việc nguồn lương thực của chúng tôi là gì cho đến việc chúng tôi trú ẩn ở đâu. Chúng tôi kể cho họ nghe cả việc gãy xương đòn của T. J lẫn trận ốm thập tử nhất sinh của anh ấy. Chúng tôi cũng miêu tả cơn bão và kể về đàn cá heo đã cứu T. J khỏi hàm cá mập. Chúng tôi kể về cơn sóng thần, cuộc hội ngộ của chúng tôi ở bệnh viện. Họ có vẻ rất thương cảm cho những khó khăn thử thách mà chúng tôi phải trải qua, nên tôi thấy thoải mái hơn đôi chút.
Rồi một phóng viên ngồi hàng đầu, một phụ nữ quãng tầm trung tuổi với khuôn mặt cau có, hỏi: “Mối quan hệ giữa hai người khi còn ở trên hòn đảo là gì?”
“Câu hỏi này không liên quan”, tôi trả lời.
“Hai vị có nhận thức về luật giới hạn tuổi khi quan hệ thể xác của bang Illinois không?”, bà ta hỏi.
Tôi còn không thèm chỉ ra rằng hòn đảo đó không thuộc địa phận bang Illinois. “Tất nhiên là tôi biết”. Trong trường hợp có người không biết, bà ta quyết định khai sáng cho họ.
“Bang Illinois cấm các mối quan hệ thể xác với người dưới mười bảy tuổi, trong trường hợp liên quan tới công chức như giáo viên thì độ tuổi này được nâng lên mười tám”.
“Chúng tôi không phá luật nào cả”, T. J nói. “Đôi khi nạn nhân bị buộc phải nói dối”, bà phóng viên tấn công. “Đặc biệt là nếu bị lạm dụng”.
“Không có sự lạm dụng nào hết”, T. J nói.
Câu hỏi sau đó của bà ta nhắm thẳng vào tôi. “Cô nghĩ những người dân Chicago sẽ nghĩ gì khi phải đóng thuế để trả lương cho một giáo viên bị tình nghi có hành vi quan hệ thể xác không đúng mực với một học sinh?”
“Không có bất cứ hành vi quan hệ thể xác không đúng mực nào hết”, T. J hét lên. “Sao nói mãi mà bà không hiểu vậy?”
Mặc dù tôi đã biết trước họ sẽ hỏi về mối quan hệ của chúng tôi nhưng tôi vẫn cảm thấy lo sợ vì có khả năng họ sẽ cho rằng chúng tôi nói dối, hoặc sẽ nghĩ tôi ép buộc T. J. Mối nghi ngờ nhanh chóng lan ra giữa các phóng viên. Tất cả mọi người đã đọc câu chuyện của chúng tôi chắc chắn đều sẽ nghi ngờ hành động và sự chân thực của tôi. Thêm nữa, chắc chắn sẽ vô cùng khó khăn để tìm được một ngôi trường trong quận này chấp nhận thuê tôi về dạy, vậy nên có lẽ sự nghiệp của tôi sẽ phải dừng ở đây thôi.
Sau khi não phân tích xong câu hỏi của bà ấy, tôi chỉ còn biết xô ghế chạy ra phòng vệ sinh nữ. Tôi mở toang cánh cửa, thụp xuống dựa vào bồn cầu. Trước buổi họp báo tôi không ăn gì nên mặc dù dạ dày cuộn lên nhưng tôi không nôn được. Có tiếng ai đó mở cửa.
“Em ổn thôi, T. J ạ. Em sẽ ra ngay đây”.
“Là tôi, Anna”, một giọng nữ vang lên.
Tôi bước khỏi phòng vệ sinh. Jane Callahan đứng đó với vòng tay rộng mở khiến cho tôi cảm thấy bà ấy như mẹ mình. Vì thế, tôi lao vào vòng tay ấy, khóc nức nở. Đến khi tôi ngưng khóc, Jane đưa cho tôi một tờ giấy ăn và nói: “Giới truyền thông bao giờ cũng muốn thổi phồng sự việc để hút khách. Tôi nghĩ một bộ phận công chúng sẽ hiểu câu chuyện của cô”.
Tôi lau nước mắt, “Tôi cũng hi vọng thế”.
T. J và Tom đang đứng đợi chứng tôi phía ngoài. T. J đưa tôi ngồi xuống ghế và ngồi xuống bên cạnh tôi.
“Em ổn chứ?” Anh ấy vòng tay qua ôm tôi, và tôi gục đầu lên vai anh ấy.
“Em đỡ rồi”.
“Mọi việc rồi sẽ ổn thôi, Anna ạ”.
“Có thể”, tôi nói.
Mà cũng có thể không.Sáng hôm sau, tôi đọc những bài báo về cuộc họp báo ngày hôm qua. Không đến nỗi tệ như tôi tưởng, nhưng cũng chẳng tốt đẹp gì. Những bài báo không đặt nghi vấn về khả năng sư phạm của tôi, nhưng nhắc đi nhắc lại luận điểm của bà phóng viên cau có khi cho rằng gần như chẳng có trường học nào trong quận chịu thuê tôi làm giáo viên. Tôi đưa cho chị Sarah đọc khi chị ấy bước vào phòng. Chị ấy chăm chú đọc rồi thở dài.
“Thế em định làm gì bây giờ?”, chị Sarah hỏi.
“Em sẽ đến nói chuyện với Ken”.
Ken Tomlinson, một giáo viên kỳ cựu đã có hơn ba mươi năm giảng dạy trong hệ thống trường công của bang Illinois, và đã là hiệu trưởng trường tôi dạy được sáu năm nay. Những cống hiến của ông dành cho sinh viên và sự hỗ trợ tận tình của ông đối với giáo viên khiến Ken trở thành một trong những người đáng kính nhất trong quận. Ông chẳng mấy khi để tâm đến những chuyện tào lao, nhưng lại là người kể chuyện cười về những chủ đề nhạy cảm duyên dáng nhất mà tôi từng biết.
Một vài ngày sau buổi họp báo, tôi bước vào văn phòng của ông lúc hơn 7 giờ sáng một chút. Ông ấy ra tận cửa để đón tôi.
“Nhóc, cô không biết là tôi vui đến mức nào khi gặp lại cô đâu”. Ken ôm tôi thật chặt. “Chào mừng cô đã trở về”.
“Tôi nhận được tin nhắn của ông trên điện thoại của chị Sarah. Cảm ơn ông vì đã gọi điện”.
“Tôi muốn cô biết rằng chúng tôi luôn nhớ đến cô. Tôi đoán là cô cần thêm chút thời gian trước khi đến gặp tôi”. Ken ngồi xuống đằng sau bàn còn tôi ngồi đối diện ông. “Tôi nghĩ mình biết lý do tại sao hôm nay cô lại đến đây”.
“Ông đã nhận được cuộc điện thoại nào chưa?”
Ông gật đầu. “Cũng có vài cuộc rồi. Một vài phụ huynh muốn biết xem liệu cô có quay lại dạy ở trường không. Tôi rất muốn nói với họ điều tôi thực sự nghĩ về những lo lắng vớ vẩn của họ, nhưng tôi không thể”.
“Tôi biết mà, Ken”.
“Tôi rất muốn để cô quay lại với công việc cũ, nhưng tôi đã thuê người khác hai tháng sau khi máy bay của cô bị đắm, đó cũng là lúc tất cả chúng tôi mất hết hi vọng về việc cô còn sống sót”.
“Tôi hiểu. Dù sao tôi cũng chưa sẵn sàng để quay trở lại với công việc”.
Ken vươn người về phía tôi, chống hai khuỷu tay lên bàn. “Mọi người luôn thích nghĩ xiên nghĩ xẹo mọi việc. Đấy là bản chất con người. Hãy tĩnh tâm một thời gian, để mặc dư luận tự lắng xuống”.
“Tôi sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì hại tới học sinh cả, Ken ạ”.
“Tôi biết điều đó, Anna. Tôi không bao giờ nghi ngờ cô”. Ông bước về phía tôi. “Cô luôn là một giáo viên tốt. Đừng để bất cứ ai lung lay niềm tin ấy”.
Hành lang sẽ đầy giáo viên và học sinh trong vài phút nữa, và tôi thì không muốn bị để ý. Tôi đứng lên, nói: “Cảm ơn ông, Ken. Điều đó rất có ý nghĩa với tôi”.
“Thỉnh thoảng quay lại đây chơi nhé, Anna. Chúng tôi đều rất mong gặp lại cô”.
“Vâng, tôi sẽ còn quay lại”.
…
Thông tin về buổi họp báo lan nhanh như một trận cháy rừng, chẳng mấy chốc mà câu chuyện của chúng tôi thu hút sự chú ý của độc giả toàn cầu. Thật không may, đa phần các thông tin đều sai lệch, bị thêm mắm dặm muối, và thậm chí còn không hề có chút nào sự thật.
Tất cả mọi người đều có ý kiến riêng về hành động của tôi, họ bàn tán tranh cãi về mối quan hệ của tôi với T. J trên các diễn đàn. Người ta sử dụng hình ảnh của tôi trong các buổi trò chuyện đêm mà thậm chí tôi không có mặt, tôi cũng là nội dung của vô vàn trò đùa nên tôi chẳng còn dám xem tivi nữa. Thay vào đó, tôi thư giãn bằng cách đọc sách, nghe nhạc, những thú vui tôi không được tận hưởng hồi còn trên hoang đảo.
T. J cũng bị đem ra làm trò đùa. Họ cười anh ấy chỉ mới học đến lớp 10 nhưng chắc là đã học được đầy những thứ hay ho, bổ ích khác từ tôi.
Tôi không muốn ra ngoài đường vì lo lắng mọi người sẽ nhìn mình chằm chằm. “Anh có biết là em có thể mua được gần như mọi thứ qua mạng không?”, tôi ngồi cạnh T. J và hí hoáy dùng laptop của chị Sarah. “Họ sẽ giao hàng đến tận cửa nhà. Và em sẽ chẳng bao giờ phải ra khỏi nhà nữa”.
“Em không thể cứ trốn mãi được, Anna”, T. J nói.
Tôi đánh “nội thất phòng ngủ” vào ô tìm kiếm trên Google. “Anh có muốn cược không?”
Bệnh mất ngủ đến với tôi vài tuần sau đó. Đầu tiên tôi rất khó chìm vào giấc ngủ. Với sự đồng ý của chị Sarah, T. J thường xuyên ở lại qua đêm, và tôi lại được lắng nghe hơi thở nhẹ nhàng đều đặn của anh ấy, nhưng vẫn không tài nào thư giãn được. Sau đó thì kể cả khi đã cố gắng ngủ, tôi vẫn thương xuyên tỉnh dậy lúc hai, ba giờ sáng và thức cho đến tận khi mặt trời mọc. Tôi thường xuyên gặp ác mộng, chủ yếu là nằm mơ thấy mình bị chết đuối, khiến tôi tỉnh dậy đầm đìa mồ hôi. T. J cũng nói tôi thường xuyên khóc trong mơ.
“Có lẽ em nên đi khám bác sĩ, Anna ạ”.
Kiệt sức và xơ xác, tôi đồng ý.
“Cô bị áp lực quá mức”, bác sĩ phán. “Bệnh này rất phổ biến, Anna ạ, đặc biệt là ở phụ nữ. Những sự việc gây tổn thương đến thần kinh sẽ khiến cô mất ngủ và trở nên lo lắng, bồn chồn”.
“Vậy làm cách nào để chữa khỏi?”
“Thường thì cô sẽ vừa phải dùng thuốc vừa phải trị liệu. Một số bệnh nhân sẽ được thư giãn khi dùng thuốc chống trầm cảm liều thấp. Tôi có thể kê để giúp cô dễ ngủ hơn”.
Tôi có những người bạn phải uống thuốc chống trầm cảm và thuốc ngủ, họ kêu ca rất nhiều về phản ứng phụ của thuốc. “Tôi không muốn uống thuốc nếu không quá cần thiết”.
“Vậy cô có định đi gặp một bác sĩ trị liệu tâm lý không?”
Tôi sẵn sàng thử bất cứ điều gì miễn là có được một đêm ngon giấc. “Tại sao lại không nhỉ?”
Tôi hẹn gặp một bác sĩ trị liệu mà tôi tra được điện thoại trong danh bạ Những trang vàng. Văn phòng của cô ấy nằm trong một tòa nhà xây bằng gạch đã cũ, với những bậc tam cấp đổ nát. Tôi đăng ký với quầy lễ tân, năm phút sau thì bác sĩ mở cửa phòng và gọi tên tôi. Cô ấy có nụ cười ấm áp cùng cái bắt tay rất chắc. Tôi đoán là cô ấy ngoài bốn mươi.
“Tên tôi là Rosemary Miller”.
“Tôi là Anna Emerson. Rất vui được gặp cô”.
“Mời cô ngồi”. Cô ấy chỉ vào ghế sô pha và ngồi đối diện, sau đó đưa cho tôi một tờ danh thiếp. Một chiếc đèn đang chiếu sáng rực góc bàn bên cạnh ghế sô pha. Một chậu cây sung được đặt ngay cạnh cửa sổ. Những hộp giấy ăn đặt rải rác khắp mọi nơi trong phòng.
“Tôi đã theo dõi câu chuyện của cô trên các bản tin. Và tôi không bất ngờ khi gặp cô ở đây”.
“Tôi đang phải chịu đựng những đêm dài mất ngủ và chứng lo âu. Bác sĩ của tôi có khuyên tôi nên đi gặp bác sĩ tâm lý”.
“Với những gì cô đã phải trải qua thì những chứng bệnh này cũng dễ hiểu. Đã bao giờ cô đến gặp bác sĩ trị liệu tâm lý chưa?”
“Chưa”.
“Tôi muốn bắt đầu bằng việc lấy đầy đủ thông tin tiền sử bệnh của cô”.
“Vâng”.
Cô ấy hỏi về bố mẹ tôi, về chị Sarah và mối quan hệ của tôi với họ trong suốt bốn mười lăm phút. Cô ấy còn hỏi về những mối quan hệ trước đây của tôi với đàn ông, và khi tôi chỉ nói qua qua về John, cô ấy lại muốn tôi kể chi tiết hơn. Tôi thấy vô cùng bồn chồn, tự hỏi không biết đến bao giờ cô ấy mới chữa nổi bệnh mất ngủ cho tôi.
“Trong những cuộc hẹn sau tôi sẽ đề cập lại về tiền sử bệnh của cô. Giờ có lẽ chúng ta nên thảo luận về các giấc ngủ”.
Cuối cùng thì cũng đến lúc.“Tôi rất khó ngủ, gần như không thể ngủ thẳng giấc. Tôi toàn gặp ác mộng”.
“Những cơn ác mộng về điều gì?”
“Bị chết đuối. Cá mập. Đôi khi là về sóng thần. Thường liên quan đến nước”.
Có ai đó gõ cửa, cô ấy liếc nhìn đồng hồ đeo tay.
“Tôi xin lỗi nhưng chúng ta đã hết giờ”.
Cô đùa tôi chắc.“Tuần tới chúng ta sẽ bắt đầu những bài tập trị liệu cho thần kinh của cô”.
Cứ với tốc độ này chắc phải vài tháng nữa tôi vẫn không được ngủ ngon mất. Cô ấy bắt tay tôi rồi tiễn tôi ra sảnh. Khi đã ra đến bên ngoài, tôi ném ngay danh thiếp của cô vào sọt rác.
T. J đang ngồi cùng chị Sarah ngoài phòng khách khi tôi về đến nhà. Tôi nhảy ngay vào lòng T. J.
“Buổi trị liệu của em thế nào?”
“Em không nghĩ là em phù hợp với việc này”.
“Đôi khi phải mất thời gian mới tìm được đúng người giỏi”, chị Sarah nói.
“Em không nghĩ cô ấy là một nhà trị liệu tồi. Chỉ là em muốn thử thêm một vài biện pháp khác. Nếu như không có tác dụng thì em sẽ quay lại văn phòng của cô ấy”.
Tôi vào phòng mình, quay lại với một chiếc quần bó, áo phông dài tay bên dưới áo len và áo gió. Đội một chiếc mũ lên đầu, tôi ngồi xuống ghế, buộc dây đôi giày Nike đang xỏ dưới chân.
“Em định làm gì thế?”, T. J hỏi.
“Em sẽ chạy bộ một lát”.