Nguồn Cội - Dan Brown

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 59


Khi Robert Langdon lục tìm vài khu vực cuối cùng trong thư viện của Edmond, ông cảm thấy hy vọng của mình nhạt dần. Bên ngoài, tiếng còi cảnh sát càng lúc càng to hơn trước khi đột ngột dừng ngay phía trước Casa Milà. Qua mấy ô cửa sổ nhỏ xíu của căn hộ, Langdon nhìn rõ những chóp đèn cảnh sát xoay tròn nhá lên.
Chúng ta bị kẹt ở đây rồi, ông nhận ra vậy. Chúng ta cần mật khẩu bốn mươi bảy mẫu tự đó, nếu không sẽ chẳng có cách gì thoát ra.
Rủi thay, Langdon vẫn chưa thấy một quyển thơ nào.
Các giá sách trong khu vực cuối cùng ở sâu hơn phần còn lại và có vẻ lưu giữ bộ sưu tập các sách nghệ thuật khổ lớn của Edmond. Khi Langdon hối hả men theo bờ tường, lướt nhìn các tiêu đề, ông thấy những cuốn sách phản ánh niềm đam mê của Edmond đối với những gì lập dị và mới mẻ nhất trong nghệ thuật đương đại.
SERRA… KOONS… HIRST… BRUGUERA… BASQUIAT… BANKSY… ABRAMOVIX…
Bộ sưu tập đột ngột chất dứt ở một loạt sách nhỏ hơn và Langdon dừng lại với hy vọng tìm được một cuốn thơ.
Chẳng có gì.
Những cuốn sách ở đây đều là những bình luận và phê bình về nghệ thuật trừu tượng, và Langdon nhận ra một vài tiêu đề mà Edmond đã gửi cho mình để nghiên cứu.
BẠN ĐANG NHÌN GÌ?
TẠI SAO ĐỨA CON 5 TUỔI CỦA BẠN LẠI KHÔNG THỂ TÌM ĐƯỢC CÁCH GÌ ĐỂ SỐNG QUA NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI
Mình vẫn đang cố sống qua được thứ đó, Langdon nghĩ thầm, nhanh chóng di chuyển tiếp. Ông bước qua một khoang nữa và bắt đầu xem xét khu vực tiếp theo.
Sách nghệ thuật hiện đại, ông trầm ngâm. Thậm chí chỉ liếc qua, Langdon đã có thể thấy rằng nhóm này dành riêng cho một giai đoạn sớm hơn. Ít nhất chúng ta đang quay ngược thời gian… về với thứ nghệ thuật mà mình hiểu được.
Mắt Langdon di chuyển nhanh dọc theo các gáy sách, tiếp nhận những tiểu sử và danh mục chi tiết về các nhà Ấn tượng, Lập thể và Siêu thực, những người từng làm cho thế giới kinh ngạc giai đoạn 1870 và 1960 bởi thứ nghệ thuật định nghĩa lại hoàn toàn.
VAN GOGH… SEURAT… PICASSO… MUNCH… MATISSE… MAGRITTE… KLIMT… KANDINSKY… JOHNS… HOCKNEY… GAUGUIN… DUCHAMP… DEGAS… CHAGALL… CÉZANNE… CASSATT… BRAQUE… ARP… ALBERS…
Khu vực này kết thúc tại một khoang kiến trúc cuối cùng, và Langdon di chuyển qua đó, nhận thấy mình ở trong khu vực cuối cùng của thư viện. Những tập sách ở đây có vẻ dành riêng cho nhóm những nghệ sĩ mà Edmond, với sự có mặt của Langdon, thích gọi là “trường phái của những tay da trắng chán ngắt” - về cơ bản là bất kỳ thứ gì có trước trào lưu hiện đại chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XIX.
Không như Edmond, chính ở đây Langdon cảm thấy như ở nhà nhất, được bao bọc bởi những bậc Tổ sư.
VERMEER… VELÁZQUEZ… TITIAN… TINTORETTO… RUBENS… REMBRANDT… RẠPHAEL… POUSSIN… MICHENLANGELO… LIPPI… GOYA… GIOTTO… GHIRLAND AIO… EL GRECO… DŰRER… DA VINCI… COROT… CARAVAGGIO… BOTTICELLI… BOSCH…
Mấy bước còn lại của giá sách cuối cùng bị một chiếc tủ kính với một chiếc khóa nặng trịch choán hết. Langdon nhìn qua kính và thấy một chiếc hộp da trông rất cũ bên trong - một lớp vỏ bảo vệ một cuốn sách cổ rất lớn. Văn bản bên ngoài hộp không dễ nhìn, nhưng Langdon vẫn nhìn được đủ để giải mã tiêu đề tập sách bên trong.
Chúa ơi, ông nghĩ thầm, lúc này đã nhận ra tại sao cuốn sách này lại được khóa lại, tránh xa bàn tay của khách khứa. Có lẽ nó đáng giá cả một gia tài.
Langdon biết có một vài ấn bản cổ quý giá của nghệ sĩ huyền thoại này vẫn còn tồn tại.
Mình không ngạc nhiên khi Edmond đầu tư thứ này, ông nghĩ, nhớ lại rằng Edmond từng nhắc đến nghệ sĩ người Anh này như là “nhân vật tiền hiện đại duy nhất có trí tưởng tượng.” Langdon không đồng ý, nhưng ông chắc chắn mình hiểu sự yêu mến đặc biệt của Edmond dành cho nghệ sĩ này. Cả hai đều được cắt ra từ cùng một tấm vải.
Langdon khom người và chăm chú nhìn qua kính đọc dòng chữ khắc mạ vàng trên chiếc hộp: William Blake toàn tập.
William Blake, Langdon ngẫm nghĩ. Nhân vật Edmond Kirsch của thế kỷ XIX.
Blake là một thiên tài có phong cách riêng - một danh nhân có số lượng tác phẩm lớn với phong cách vẽ tân tiến đến mức một số người tin ông ấy nhìn thấy tương lai trong mơ. Những hình minh họa tôn giáo đấy biểu tượng của ông ấy mô tả thiên thần, ác quỷ, Satan, Chúa, những sinh vật huyền bí, những chủ đề trong kinh thánh và một đền thờ các vị thần xuất phát từ những ảo giác tâm linh của chính ông.
Và cũng như Kirsch, Blake thích thách thức Thiên Chúa giáo.
Ý nghĩ này khiến Langdon đột ngột đứng lên.
William Blake.
Ông hít một hơi thảng thốt.
Việc tìm thấy Blake trong rất nhiều nghệ sĩ tạo hình khác khiến Langdon quên mất một sự thật quan trọng về thiên tài thần bí này.
Blake không chỉ là một họa sĩ và người minh họa…
Blake còn là một thi sĩ sáng tác nhiều.
Nhất thời, Langdon cảm thấy tim mình bắt đầu đập rộn. Rất nhiều thơ của Blake tán thành những ý tưởng cách mạng vô cùng khớp với các quan điểm của Edmond. Thực tế, một số cách ngôn được biết đến nhiều nhất của Blake - những câu trong các tác phẩm “độc địa” như Cuộc phối ngẫu của thiên đàng và địa ngục1 - gần như có thể do chính Edmond viết.
1 The Marriage of Heaven and Hell
MỌI TÔN GIÁO LÀ MỘT
KHÔNG CÓ TÔN GIÁO TỰ NHIÊN
Giờ Langdon nhớ lại mô tả của Edmond về dòng thơ yêu thích của anh ấy. Cậu ấy nói với Ambra đó là một “lời tiên tri.” Langdon biết không có nhà thơ nào trong lịch sử có thể được coi là nhà tiên tri hơn William Blake, người mà vào những năm 1790 đã đặt bút viết hai bài thơ hắc ám và gở miệng:
NƯỚC MỸ MỘT LỜI TIÊN TRI
CHÂU ÂU MỘT LỜI TIÊN TRI
Langdon có cả hai tác phẩm này - các bản tái hiện lại rất đẹp các bài thơ viết tay của Blake và có minh họa đi kèm.
Langdon nhìn chằm chằm vào chiếc hộp da lớn bên trong tủ.
Những ấn bản gốc 'các lời tiên tri' của Blake được xuất bản dưới dạng các văn bản có minh họa kích thước lớn!
Tràn trề hy vọng, Langdon khom người trước tủ, cảm thấy cái hộp da rất có thể chứa đựng những gì ông và Ambra đến đây tìm kiếm - một bài thơ có một dòng tiên tri bốn mươi bảy mẫu tự. Câu hỏi duy nhất lúc này là liệu Edmond có đánh dấu đoạn thơ yêu thích của mình không.
Langdon đưa tay và kéo tay nắm tủ.
Khóa.
Ông liếc về phía cầu thang xoắn ốc, tự hỏi liệu mình có nên chạy lên gác và đề nghị Winston tìm kiếm tất cả thơ ca của William Blake hay không. Tiếng còi đã bị thay bằng tiếng rù rù xa xa của cánh quạt trực thăng và những giọng nói la lối trong khu vực cầu thang bên ngoài cửa nhà Edmond.
Họ ở đây rồi.
Langdon nhìn chiếc tủ và nhận thấy sắc xanh lục thấp thoáng của lớp kính UV hiện đại loại chuyên dụng cho bảo tàng.
Ông cởi phăng áo khoác của mình, áp nó lên kính, xoay người và không chút do dự, thúc khuỷu tay vào tấm kính. Với một tiếng rắc khẽ, cửa tủ vỡ vụn. Rất cẩn thận, Langdon thò tay qua những mảnh kính lởm chởm, mở khóa cửa. Sau đó, ông kéo cửa mở ra và nhẹ nhàng nhấc chiếc hộp da ra.
Dù Langdon chưa đặt chiếc hộp xuống sàn, ông đã cảm thấy có gì đó không ổn. Nó không đủ nặng. Toàn tập tác phẩm của Blake dường như chẳng nặng chút nào cả.
Langdon đặt chiếc hộp xuống và cẩn thận nâng nắp hộp lên.
Đúng như ông lo sợ… rỗng không.
Ông thở hắt ra, trân trân nhìn chiếc hộp trống trơn. Cuốn sách của Edmond ở chỗ quái nào rồi?!.
Langdon định đóng hộp lại thì chợt nhận ra thứ gì đó được đính bên trong phần nắp - một cái thẻ bằng ngà được chạm nổi rất đẹp.
Langdon đọc nội dung trên thẻ.
Sau đó, hoàn toàn không tin nổi, ông đọc lại.
Vài giây sau, ông phóng lên cầu thang xoắn ốc về phía tầng mái.

Lúc đó, trên tầng hai Hoàng cung Madrid, giám đốc an ninh điện tử Suresh Bhalla đang di chuyển nhanh qua căn hộ riêng của Hoàng tử Julián. Sau khi định vị được chiếc két số trong tường, anh nhập mã số chính dùng cho các trường hợp khẩn cấp.
Chiếc két bật mở.
Bên trong, Suresh nhìn thấy hai chiếc điện thoại - một chiếc điện thoại thông minh an toàn thuộc về Hoàng tử Julián và một chiếc iPhone mà, theo anh suy luận, chắc chắn là đồ của Giám mục Valdespino.
Anh vớ lấy chiếc iPhone.
Mình thật sự làm việc này sao?
Một lần nữa anh nhớ lại tin nhắn từ monte@iglesia.org. tôi đã bẻ khóa các tin nhắn của Valdespino. ông ta có những bí mật nguy hiểm. hoàng cung cần truy cập vào hồ sơ sms của ông ta. ngay bây giờ.
Suresh tự hỏi không biết những tin nhắn của Giám mục có thể hé lộ những bí mật gì… và tại sao người báo tin lại quyết định cảnh báo Hoàng cung.
Có lẽ người báo tin đang cố bảo vệ hoàng cung khỏi tổn hại chăng?
Tất cả những gì Suresh biết là nếu có thông tin nguy hại cho hoàng gia thì công việc của anh là tiếp cận được nó.
Anh đã cân nhắc việc xin lệnh khẩn cấp của tòa, nhưng những rủi ro quan hệ công chúng và sự chậm trễ khiến cho việc đó trở thành thiếu thực tế. May thay, Suresh có sẵn những phương pháp thận trọng và thích hợp hơn nhiều.
Cầm chiếc điện thoại của Valdespino, anh bấm nút Home và màn hình sáng lên.
Bị khóa bằng mật khẩu.
Không sao.
“Này, Siri,” Suresh nói, giơ chiếc điện thoại lên miệng mình. “Mấy giờ rồi?”
Vẫn ở chế độ khóa, chiếc điện thoại hiển thị hình đồng hồ. Trên màn hình đồng hồ này, Suresh thực hiện một loạt lệnh đơn giản - tạo ra múi giờ mới cho đồng hồ, yêu cầu chia sẻ múi giờ qua SMS, cho thêm một ảnh và sau đó, thay vì cố gửi tin nhắn, anh bấm nút Home.
Cách.
Điện thoại đã được mở khóa.
Trò bẻ khóa đơn giản này là nhờ YouTube, Suresh nghĩ thầm, cảm thấy ngạc nhiên vì người dùng iPhone đều tin mật khẩu của họ sẽ đem lại cho họ quyền riêng tư.
Bây giờ, với toàn quyền truy cập vào điện thoại của Valdespino, Suresh mở ứng dụng iMessage, đinh ninh rằng mình sẽ phải khôi phục lại những nội dung đã bị xóa của Valdespino bằng cách dùng mẹo để phần sao lưu iCloud tái tạo lại thư mục.
Quả nhiên, anh thấy lịch sử tin nhắn của Giám mục hoàn toàn trống trơn.
Ngoại trừ một tin nhắn, anh nhận ra vậy và nhìn thấy một tin nhắn duy nhất gửi đến nhận vài tiếng trước từ một số bị chặn.
Suresh bấm mở nội dung và đọc tin nhắn ba dòng. Nhất thời, anh nghĩ mình bị ảo giác.
Chuyện này không thể là sự thật!
Suresh đọc lại tin nhắn. Tin nhắn là bằng chứng tuyệt đối về sự dính líu của Valdespino đến những hành động lừa dối và phản bội không ai nghĩ tới.
Đấy là còn chưa nói đến sự ngạo mạn, Suresh nghĩ, sững sờ vì biết rằng vị tu sĩ có tuổi lại chủ quan như vậy khi trao đổi một tin nhắn như thế này qua kênh điện tử.
Nếu nội dung này bị công khai…
Suresh rùng mình trước khả năng đó và lập tức chạy xuống nhà tìm Mónica Martin.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 60


Khi chiếc trực thăng EC145 rà thấp phía trên thành phố, Đặc vụ Díaz đăm đăm nhìn xuống cả vùng đèn sáng bên dưới. Dù giờ đã muộn, anh vẫn thấy lấp loáng màn ảnh truyền hình và máy tính ở đa số các ô cửa sổ căn hộ, vẽ cho thành phố một màn xanh lam nhạt.
Cả thế giới đang theo dõi.
Điều đó khiến anh thấy bồn chồn. Anh cảm nhận được buổi tối nay đang quay cuồng vượt khỏi tầm kiểm soát, và anh sợ cuộc khủng hoảng đang gia tăng này sắp tiến tới một kết cục đáng ngại.
Trước mặt anh, Đặc vụ Fonseca hét to và chỉ xa xa phía trước. Díaz gật đầu, nhìn thấy mục tiêu của họ ngay tức thì.
Khó mà nhầm được.
Thậm chí từ xa, cả đám ánh đèn cảnh sát màu xanh quay rối rít khó mà nhầm được.
Chúa giúp chúng con.
Đúng như Díaz lo sợ, Casa Milà đông nghịt xe cảnh sát địa phương. Giới chức Barcelona có phản hồi tức khắc trước manh mối nặc danh ngay sau thông cáo báo chí của Mónica Martin từ Hoàng cung.
Robert Langdon đã bắt giữ hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha.
Hoàng cung cần sự giúp đỡ của công chúng để tìm họ.
Một lời dối trá thớ lợ, Díaz biết. Chính mắt mình nhìn thấy họ cùng rời khỏi Guggenheim.
Trong khi kế hoạch của Martin phát huy tác dụng thì nó cũng khởi động một trò chơi cực kỳ nguy hiểm. Tạo ra một cuộc săn người công khai bằng việc kéo giới chức địa phương vào cuộc là rất nguy hại - không phải chỉ cho Robert Langdon, mà còn cả cho hoàng hậu tương lai, người lúc này rất có khả năng bị vướng vào giữa hai làn đạn của một đám cảnh sát nghiệp dư địa phương. Nếu mục tiêu của hoàng cung là giữ cho hoàng hậu tương lai được an toàn thì đây hoàn toàn không phải là cách làm vậy.
Tư lệnh Garza sẽ không bao giờ cho phép tình hình này leo thang đến vậy.
Việc bắt giữ Garza vẫn là một bí ẩn với Díaz, người chắc chắn tin rằng những cáo buộc với vị tư lệnh của mình đều là sự thêu dệt giống như những gì nhằm vào Langdon.
Tuy nhiên, Fonseca lại nhận cuộc gọi và mệnh lệnh.
Mệnh lệnh từ trên cả Garza.
Khi chiếc trực thăng đến gần Casa Milà, Đặc vụ Díaz xem xét khung cảnh phía dưới và nhận ra không có chỗ an toàn để hạ cánh. Đại lộ rộng rãi và quảng trường góc phố ngay trước tòa nhà đông nghẹt xe truyền thông, xe cảnh sát và những đám đông hiếu kỳ.
Díaz nhìn xuống mái nhà nổi tiếng của tòa nhà - một hình số tám nhấp nhô với các lối đi dốc và các cầu thang uốn lượn phía trên tòa nhà để giúp khách tham quan có được những góc nhìn đường chân trời đẹp mê hồn của Barcelona… cũng như các góc nhìn xuống hai cái giếng trời toang hoác của tòa nhà, mỗi giếng sâu đến chín tầng nhà phía sân bên trong.
Không có chỗ đáp ở đó.
Ngoài những ụ nhô lên và những khe mái bằng, phần sàn mái còn được bảo vệ bằng những ống khói Gaudi ngất ngưởng trông giống những quân cờ chỉ có thể thấy trong tương lai - những người lính gác đội mũ được cho là đã gây ấn tượng với nhà làm phim George Lucas đến mức ông ấy sử dụng chúng như hình mẫu cho đội quân xung kích hung hăng trong Star Wars.
Díaz quét mắt nhìn các tòa nhà kế cận để tìm các vị trí hạ cánh khả dĩ, nhưng ánh mắt anh đột nhiên dừng lại trước một cảnh tượng bất ngờ trên nóc Casa Milà.
Một bóng người nhỏ nhắn đứng giữa những bức tượng đồ sộ.
Đứng vững bên một lan can gần rìa mái nhà, người đó mặc đồ trắng, được chiếu sáng rõ nhờ ánh đèn của giới truyền thông rọi ngược lên trên từ quảng trường phía dưới. Lập tức, cảnh tượng này gợi cho Díaz nhớ đến lúc nhìn thấy giáo hoàng đứng trên ban công tại Quảng trường St. Peter, nói chuyện với các tín đồ của mình.
Nhưng đây lại không phải giáo hoàng.
Đây là một phụ nữ xinh đẹp trong bộ váy trắng rất quen thuộc.

Ambra Vidal chẳng nhìn thấy gì qua quầng sáng chói mắt từ những ánh đèn của giới truyền thông, nhưng nàng có thể nghe rõ tiếng một chiếc trực thăng đang đến gần và biết thời gian không còn. Tuyệt vọng, nàng nhoài người ra ngoài lan can và cố hét to với đám đông nhân viên truyền thông phía dưới.
Những lời của nàng tan biến trong tiếng ầm ầm đinh tai nhức óc của động cơ trực thăng.
Winston đã dự đoán rằng giới truyền thông dưới phố sẽ chĩa thẳng máy quay của họ lên trời ngay khi phát hiện Ambra ở rìa mái nhà. Thực tế, mọi việc diễn ra đúng y như vậy, nhưng Ambra biết kế hoạch của Winston đã thất bại.
Họ không nghe nổi một từ mình nói!
Mái nhà Casa Milà cao vượt hẳn bên sự hỗn loạn và giao thông ồn ào phía dưới. Và giờ tiếng trực thăng có nguy cơ nhấn chìm mọi thứ hoàn toàn.
“Tôi không bị bắt cóc!” Ambra lại hét to, gắng tập trung âm lượng to hết sức có thể. “Tuyên bố từ Hoàng cung về Robert Langdon là không chính xác! Tôi không phải là con tin!”
Cô là hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha, Winston nhắc cho nàng nhớ lúc trước. Nếu cô dừng được cuộc săn đuổi người này, giới chức sẽ ngừng tay. Tuyên bố của cô sẽ tạo ra tình trạng bối rối hoàn toàn. Không ai biết phải theo lệnh nào.
Ambra biết Winston nói đúng, nhưng những lời của nàng chìm nghỉm trong tiếng động cơ phía trên đám đông ồn ào.
Đột nhiên bầu trời bùng lên tiếng rít ầm ầm. Ambra thu mình lại từ phía lan can khi chiếc trực thăng nhào tới gần hơn và đột ngột dừng lại, lơ lửng ngay trước mặt nàng. Cửa bên hông máy bay mở toang, và hai gương mặt quen thuộc đăm đăm nhìn nàng - hai Đặc vụ Fonseca và Díaz.
Trước sự hãi hùng của Ambra, Đặc vụ Fonseca nâng một thiết bị gì đó lên, nhắm thẳng vào đầu nàng. Nhất thời, những ý nghĩ lạ lùng nhất vụt qua trong tâm trí nàng. Julián muốn mình chết. Mình là một phụ nữ vô sinh. Mình không thể sinh con nối dõi cho anh ấy. Giết mình là cách duy nhất để anh ấy thoát khỏi vụ đính hôn.
Ambra loạng choạng lùi lại, tránh khỏi cái thiết bị trông đầy hăm dọa kia, một tay cầm chặt chiếc điện thoại di động của Edmond còn tay kia vươn ra để giữ thăng bằng. Nhưng khi nàng đặt chân ra phía sau, phần sàn dường như biến mất. Trong khoảnh khắc, nàng chỉ cảm thấy một không gian trống rỗng nơi nàng cứ ngỡ là nền xi măng rắn chắc. Thân mình nàng vặn vẹo khi cố lấy lại thăng bằng, nhưng nàng thấy mình trượt nghiêng xuống một đợt cầu thang ngắn.
Khuỷu tay trái nàng nện xuống xi măng, và khuỷu tay còn lại cũng đập mạnh xuống chỉ một khắc sau đó. Dù vậy, Ambra Vidal chẳng cảm thấy đau. Toàn bộ sự chú tâm của nàng đã hướng vào cái thứ vừa văng ra khỏi tay nàng - chiếc điện thoại di động bằng ngọc lam quá khổ của Edmond.
Chúa ơi, không!
Nàng chết sững nhìn chiếc điện thoại lê trên sàn xi măng, nảy văng xuống các bậc thang về phía mép khoảng không dụng đứng cao chín tầng nhà dẫn xuống phần sân trong của tòa nhà. Nàng xô tới chiếc điện thoại, nhưng nó biến mất phía dưới hàng rào bảo vệ, rớt thẳng xuống khoảng trống.
Kết nối của bọn ta với Winston…!
Ambra nhoài theo nó, đến ngay hàng rào vừa lúc chiếc điện thoại của Edmond rơi xuống phía sàn đá rất trang nhã của tiền sảnh, nơi nó vỡ tan thành cả cơn mưa kính và kim loại lấp loáng kèm một tiếng đanh gọn.
Chớp mắt, Winston biến mất.

Vọt lên các bậc thang, Langdon lao ra khỏi tháp cầu thang xông ra sân thượng của Casa Milà. Ông thấy mình ở giữa một không gian hỗn loạn ồn ào đến điếc tai. Một chiếc trực thăng đang lơ lửng rất thấp bên cạnh tòa nhà và chẳng nhìn thấy Ambra ở đâu cả.
Sửng sốt, Langdon đưa mắt nhìn cả khu vực. Cô ấy đâu rồi? Ông quên mất phần mái nhà này vốn rất kỳ quặc - phần tường chắn nghiêng… các cầu thang dốc cao… lính canh bằng xi măng… những hố sâu không đáy.
“Ambra!”
Khi ông tìm thấy nàng, ông cảm thấy vô cùng kinh hãi. Ambra Vidal đang nằm co quắp trên nền xi măng sát mép giếng trời.
Khi Langdon vọt lên và lao tới phía nàng, có tiếng đạn rít sắc lạnh véo qua đầu ông và cày tung nền xi măng phía sau ông.
Chúa ơi! Langdon khuỵu xuống và bò về phía phần nền thấp hơn khi hai viên đạn nữa bay qua phía trên đầu ông. Nhất thời, ông nghĩ những phát đạn ấy đến từ chiếc trực thăng, nhưng khi ông trèo về phía Ambra, ông nhìn thấy một toán cảnh sát túa ra từ một tòa tháp khác ở phía đầu kia của mái nhà cùng với súng ông đã được rút ra.
Họ muốn giết mình, ông nhận ra vậy. Họ nghĩ mình bắt cóc hoàng hậu tương lai! Rõ ràng chẳng ai nghe thấy những lời tuyên bố của nàng trên nóc nhà.
Khi Langdon nhìn về phía Ambra, lúc này chỉ còn cách mười mét, ông hãi hùng nhận ra cánh tay nàng đang chảy máu. Chúa ơi, cô ấy bị bắn rồi!
Một viên đạn nữa bay qua phía trên đầu ông khi Ambra bắt đầu bíu lấy hàng lan can bao quanh phần bờ dốc về phía khoảng sân trong. Nàng gắng gượng đứng lên.
“Nằm xuống!” Langdon hét lên, bò về phía Ambra và thu mình che chắn lấy thân hình nàng. Ông ngước nhìn những bức tượng lính xung kích đội mũ cao ngất ngưởng đứng rải rác khắp vành ngoài mái nhà như những người lính canh câm lặng.
Có tiếng ầm ầm đinh tai nhức óc trên đầu, và những đợt gió mạnh cuốn quanh họ khi chiếc trực thăng sà xuống và treo lơ lửng phía trên giếng thông hơi khổng lồ bên cạnh họ, chắn ngang tầm nhìn của cảnh sát.
“¡Dejen de disparar!” một giọng nói được kích âm từ phía chiếc trực thăng vang. “¡Enfunden las armas!” Không được bắn! Cất ngay vũ khí đi!
Ngay trước mặt Langdon và Ambra, Đặc vụ Díaz đang khom người bên cánh cửa hông mở toang, một chân giữ thăng bằng trên càng máy bay và một tay chìa về phía họ.
“Lên ngay đi!” anh ấy hét lên.
Langdon cảm thấy Ambra co rúm lại bên dưới ông.
“NGAY BÂY GIỜ!” Díaz hét lên át tiếng động cơ đinh tai.
Anh chàng đặc vụ chỉ về phía hàng rào an toàn quanh giếng trời, giục họ trèo lên đó, nắm lấy tay anh ấy, và nhảy một bước ngắn qua khoảng trống thăm thẳm để lên chiếc máy bay đang lơ lửng.
Langdon ngập ngừng một lúc lâu.
Díaz giật lấy chiếc loa cầm tay từ Fonseca và chĩa thẳng vào mặt Langdon. “GIÁO SƯ, HÃY LÊN TRỰC THĂNG NGAY!” Giọng anh chàng đặc vụ rền vang như sấm. “CẢNH SÁT ĐỊA PHƯƠNG ĐÃ CÓ LỆNH BẮN ÔNG! CHÚNG TÔI BIẾT ÔNG KHÔNG BẮT CÓC CÔ VIDAL! TÔI CẦN CẢ HAI VỊ LÊN MÁY BAY NGAY LẬP TỨC - TRƯỚC KHI CÓ NGƯỜI BỊ GIẾT!”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 61


Trong làn gió cuồn cuộn, Ambra cảm thấy hai cánh tay Langdon nâng bổng nàng lên và đưa về phía bàn tay chìa ra của Đặc vụ Díaz trên chiếc trực thăng lơ lửng.
Nàng đang quá choáng váng chẳng thể phản đối được.
“Cô ấy đang chảy máu!” Langdon hét to khi ông leo lên máy bay sau nàng.
Đột nhiên chiếc trực thăng nhấc bổng lên trời, tránh xa khỏi phần mái nhà nhấp nhô, để lại phía sau một tốp cảnh sát ngơ ngác, tất cả đều trố mắt nhìn lên.
Fonseca kéo cánh cửa hông đóng lại và sau đó di chuyển về phía phi công ở phía trước. Díaz lách tới bên cạnh Ambra để kiểm tra cánh tay của nàng.
“Chỉ là một vết xước thôi,” nàng ngây người nói.
“Tôi sẽ tìm bộ đồ sơ cứu.” Díaz đi về phía sau khoang.
Langdon ngồi đối diện Ambra, hướng về phía sau. Lúc này khi đột nhiên cả hai người bị bỏ riêng lại, ông mới nhìn vào mắt nàng và mỉm cười nhẹ nhõm. “Tôi mừng là cô không sao.”
Ambra khẽ gật đầu đáp lại, nhưng nàng chưa kịp cảm ơn ông thì Langdon đã nhổm về phía trước, thì thào với nàng bằng giọng đầy phân khích.
“Tôi nghĩ tôi đã tìm được bài thơ bí ẩn của chúng ta rồi,” ông reo lên, mắt ngập tràn hy vọng. “William Blake. Không chỉ có một bản tổng tập Blake trong thư viện của Edmond… mà rất nhiều bài thơ của Blake là những lời tiên tri!” Langdon chìa tay ra. “Đưa tôi cái điện thoại của Edmond - tôi sẽ bảo Winston tìm tác phẩm của Blake để lựa lấy bất kỳ dòng thơ bốn mươi bảy mẫu tự nào!”
Ambra nhìn bàn tay chờ đợi của Langdon và cảm thấy vô cùng có lỗi. Nàng đưa tay nắm lấy bàn tay ông. “Anh Robert,” nàng nói cùng tiếng thở dài đầy ăn năn, “điện thoại của Edmond mất rồi. Nó đã bị rơi ở rìa tòa nhà rồi.”
Langdon trân trân nhìn lại nàng, và Ambra thấy mặt ông trắng bệch. Tôi xin lỗi, Robert. Nàng có thể thấy ông đang cố xử lý cái tin ấy và hình dung xem việc để mất Winston giờ đẩy họ tới đâu.
Trong buồng lái, Fonseca đang quát to vào điện thoại. “Xác nhận! Chúng tôi đón được cả hai người an toàn lên máy bay. Chuẩn bị máy bay di chuyển về Madrid. Tôi sẽ liên lạc với hoàng cung và báo…”
“Đừng mất công!” Ambra hét lên với anh chàng đặc vụ. “Tôi sẽ không tới hoàng cung!”
Fonseca bịt lấy điện thoại, xoay người trên ghế và nhìn nàng. “Chắc chắn cô phải tới! Lệnh của tôi tối nay là giữ an toàn cho cô. Cô đừng bao giờ rời khỏi sự giám hộ của tôi. Cô nên lấy làm may là tôi kịp đến đây giải cứu cô đây.”
“Giải cứu ư?!” Ambra vặn lại. “Nếu đó là giải cứu, thì nó chỉ cần thiết vì hoàng cung nói toàn những điều dối trá lố bịch về việc Giáo sư Langdon bắt cóc tôi - điều các anh biết là không đúng! Có phải Hoàng tử Julián thật sự cuống đến mức ông ấy sẵn sàng hy sinh tính mạng của một người vô tội không? Đây là còn chưa nói đến sinh mạng của tôi?”
Fonseca nhìn nàng chằm chằm rồi quay mặt đi trên ghế.
Vừa hay, Díaz quay lại cùng với bộ đồ sơ cứu.
“Cô Vidal,” anh nói, ngồi xuống cạnh nàng. “Xin hãy hiểu rằng chuỗi mệnh lệnh của chúng tôi bị đứt quãng tối nay do Tư lệnh Garza bị bắt giữ. Tuy nhiên, tôi muốn cô biết rằng Hoàng tử Julián không hề liên quan gì đến tuyên bố trước truyền thông được đưa ra từ hoàng cung cả. Thực tế, chúng tôi thậm chí không thể xác nhận được rằng Hoàng tử biết những gì đang xảy ra ngay lúc này. Chúng tôi cũng không thể liên lạc được với ông ấy suốt một tiếng rồi.”
Sao cơ? Ambra trân trân nhìn Díaz. “Anh ấy đâu?”
“Hiện giờ ông ấy ở chỗ nào vẫn chưa biết,” Díaz nói, “nhưng lúc ông ấy liên lạc với chúng tôi chập tối này thì rất rõ. Hoàng tử muốn cô an toàn.”
“Nếu đúng như vậy,” Langdon nói, đột ngột thoát khỏi dòng suy tưởng của mình “thì đưa cô Vidal về hoàng cung là một sai lầm chết người đây.”
Fonseca xoay phắt lại. “Ông nói gì cơ?!”
“Tôi không biết giờ ai ra mệnh lệnh cho các anh,” Langdon nói “nhưng nếu Hoàng tử thực sự muốn hôn thê của mình an toàn thì tôi gợi ý với các anh hãy nghe tôi thật cẩn thận.” Ông ngừng lại, giọng mãnh liệt hơn. “Edmond Kirsch bị sát hại để ngăn phát hiện của anh ấy được công bố. Và bất kỳ ai ra tay với anh ấy đều sẽ không dừng trước bất kỳ việc gì để bảo đảm rằng việc này kết thúc.”
“Nó đã kết thúc rồi,” Fonseca chế giễu. “Edmond chết rồi.”
“Nhưng phát hiện của anh ấy thì chưa,” Langdon trả lời. “Bài thuyết trình của Edmond vẫn còn sống và có thể vẫn được công bố với thế giới.”
“Đó là lý do các vị đến căn hộ của anh ta,” Díaz đánh bạo nói. “Vì các vị tin mình có thể công bố nó.”
“Chính xác,” Langdon trả lời. “Và điều đó khiến chúng tôi thành mục tiêu. Tôi không biết ai tạo ra thông báo với truyền thông nói rằng Ambra bị bắt cóc, nhưng rõ ràng đó là kẻ điên cuồng ngăn chặn chúng tôi. Cho nên nếu các anh thuộc về nhóm đó - những kẻ đang tìm cách chôn vùi phát hiện của Edmond mãi mãi - thì các anh chỉ việc ném cô Vidal và tôi ra khỏi chiếc trực thăng này ngay bây giờ khi các anh vẫn còn làm được vậy.”
Ambra trân trối nhìn Langdon, tự hỏi không biết anh có mất trí không.
“Tuy nhiên,” Langdon tiếp tục, “nếu nghĩa vụ đã tuyên thệ của các anh với tư cách đặc vụ Cận vệ Hoàng gia là bảo vệ hoàng gia, bao gồm cả hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha, thì các anh cần nhận ra rằng không có chỗ nào nguy hiểm cho cô Vidal ngay lúc này hơn là một cung điện vừa tung ra một tuyên bố công khai gần như giết chết cô ấy.” Langdon thò tay vào túi và móc ra một tấm thẻ lanh được chạm nổi rất đẹp. “Tôi đề xuất các anh đưa cô ấy tới địa chỉ ở cuối tấm thẻ này.”
Fonseca nhận lấy tấm thẻ và xem xét, lông mày nhíu lại. “Thật kỳ cục.”
“Có một hàng rào an ninh bao quanh toàn bộ quần thể,” Langdon nói. “Phi công của các anh có thể hạ cánh, thả bốn chúng ta xuống, và sau đó bay đi trước khi bất kỳ ai đó nhận ra chúng ta có mặt ở đó. Tôi biết người phụ trách. Chúng ta có thể ẩn ở đó, ngắt mọi kết nối, cho tới khi chúng ta rà soát được toàn bộ việc này. Các anh có thể đi theo chúng tôi.”
“Tôi cảm thấy ở trong một nhà chứa máy bay quân sự tại sân bay an toàn hơn.”
“Anh có thực sự muốn tin một nhóm quân nhân có thể đã nhận lệnh từ chính những người vừa suýt giết cô Vidal không?”
Vẻ mặt lạnh tanh của Fonseca vẫn không chút nao núng.
Những suy nghĩ của Ambra giờ quay cuồng, và nàng thắc mắc trên tấm thẻ viết những gì. Langdon muốn đi đâu? Thái độ quyết liệt đột ngột của ông dường như hàm ý rằng mạo hiểm đánh liều vẫn hơn là chỉ việc giữ cho nàng an toàn. Nàng nghe thấy có sự lạc quan rất mới mẻ trong giọng của ông và cảm thấy ông vẫn chưa hề từ bỏ hy vọng rằng bằng cách nào đó họ vẫn có thể công bố thuyết trình của Edmond.
Langdon lấy lại tấm thẻ lanh từ Fonseca và đưa nó cho Ambra. “Tôi tìm thấy cái này trong thư viện của Edmond.”
Ambra xem xét tấm thẻ, lập tức nhận ra nó là gì.
Được gọi là “nhật ký mượn” hay “thẻ tiêu đề,” những tấm thẻ chạm nổi đẹp mắt này được những người quản lý bảo tàng trao cho các nhà tài trợ đổi lại một tác phẩm nghệ thuật đem cho mượn tạm. Theo truyền thống, cứ hai thẻ giống hệt nhau được in ra - một dùng khi trưng bày tại bảo tàng để cảm ơn nhà tài trợ, và một do nhà tài trợ giữ như là vật thế chấp cho tác phẩm người đó đã cho mượn.
Edmond đã cho mượn tập thơ của Blake mà anh ấy có chăng?
Theo tấm thẻ, cuốn sách của Edmond đã vượt vài cây số tính từ căn hộ ở Barcelona của anh ấy.
WILLIAM BLAKE
TOÀN TẬP
Thuộc sưu tập riêng của
EDMOND KIRSCH
Đem cho mượn
VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG
SAGRADA FAMÍLIA
Carrer de Mallorca, 401
08013 Barcelona, Tây Ban Nha
“Tôi không hiểu,” Ambra nói. “Tại sao một người vô thần khét tiếng lại cho một nhà thờ mượn sách chứ?”
“Không phải bất kỳ nhà thờ nào,” Langdon đáp. “Kiệt tác kiến trúc bí ẩn nhất của Gaudi…” Ông chỉ ra ngoài cửa sổ về phía xa đằng sau họ. “Và chẳng mấy sẽ là nhà thờ cao nhất châu Âu.”
Ambra quay đầu, chăm chú nhìn ngược lại về phía Bắc, qua cả thành phố. Phía xa - vây kín bởi các cần trục, giàn giáo, và đèn thi công - những tòa tháp còn dang dở của Sagrada Familia sáng rực, một nhóm tháp nhọn có nhiều lỗ trông giống những miếng bọt biển khổng lồ vươn lên trên nền đại dương hướng về phía ánh sáng.
Suốt hơn một thế kỷ, Vương cung thánh đường Sagrada Familia gây tranh cãi của Gaudi vẫn được xây dựng, chỉ độc dựa vào các khoản tài trợ cá nhân từ những người mộ đạo. Bị phe nệ cổ chỉ trích vì hình dáng sinh thể kỳ quặc và việc sử dụng “thiết kế mô phỏng sinh học” của nó, nhà thờ này lại được phe hiện đại ca tụng vì khả năng linh động về kết cấu và việc sử dụng các hình dạng “song khúc diện1” để phản ánh thế giới tự nhiên.
1Nguyên văn: “hyperboloid”
“Tôi thừa nhận nó rất khác thường,” Ambra nói, ngoảnh lại phía Langdon, “nhưng nó vẫn là một nhà thờ Công giáo. Và anh thì biết rõ Edmond rồi.”

Mình thực sự biết Edmond, Langdon nghĩ. Đủ để biết cậu ấy tin Sagrada Familia ẩn giấu một mục đích và biểu tượng bí mật vượt ra ngoài khuôn khổ Thiên Chúa giáo.
Kể từ lễ khởi công tòa nhà thờ kỳ lạ vào năm 1882, các thuyết âm mưu vẫn xoay quanh những cánh cửa mã hóa đầy bí ẩn, những cột trụ xoắn ốc lấy cảm hứng từ vũ trụ, các phần mặt tiền đầy biểu tượng, những phần chạm trổ mang tính chất toán học ma phương, và quá trình xây dụng “khung xương” ma quái rất giống với những khúc xương xoắn lấy nhau và mô kết nối của công trình này.
Đương nhiên, Langdon biết thừa các thuyết này và chưa bao giờ tin tưởng nhiều vào chúng. Tuy nhiên, một vài năm trước, Langdon rất ngạc nhiên khi Edmond tâm sự rằng anh ấy là một trong số lượng người ngày càng đông những người hâm mộ Gaudi vốn âm thầm tin rằng Sagrada Familia được sáng tạo một cách bí mật với tư cách một thứ gì đó ngoài là một nhà thờ Thiên Chúa giáo, thậm chí có lẽ còn là một đền thờ bí mật dành cho khoa học và tự nhiên.
Langdon thấy quan điểm này rất không chắc chắn, và ông nhắc cho Edmond rằng Gaudi là một tín đồ Công giáo kiên định mà Vatican rất kính nể đến mức còn ban tên thánh cho ông là “kiến trúc sư của Chúa,” và thậm chí còn tính đến việc phong á thánh cho ông. Thiết kế khác thường của Sagrada Familia, Langdon quả quyết với Kirsch, không có gì hơn một ví dụ về cách tiếp cận hiện đại độc đáo của Gaudi đối với chủ nghĩa tượng trưng Thiên Chúa giáo.
Câu trả lời của Edmond là một nụ cười bẽn lẽn, như thế anh ấy đang bí mật nắm giữ một câu đố bí ẩn nào đó mà anh ấy chưa sẵn sàng chia sẻ.
Một bí mật nữa của Kirsch, giờ Langdon nghĩ. Giống như cuộc chiến kín đáo của cậu ấy với căn bệnh ung thư.
“Thậm chí nếu đúng là Edmond cho Sagrada Familia mượn cuốn sách của anh ấy,” Ambra nói tiếp, “và thậm chí nếu chúng ta tìm được nó, chúng ta vẫn chẳng thể xác định đúng dòng thơ đúng bằng cách đọc từng trang một. Và tôi thật sự nghi ngờ việc Edmond dùng bút đánh dấu với một bản thảo vô giá.”
“Ambra?” Langdon trả lời cùng một nụ cười bình thản. “Nhìn lại mặt sau tấm thẻ xem.”
Nàng liếc nhìn xuống tấm thẻ, lật nó lại và đọc phần chữ phía sau.
Sau đó, với vẻ không tin nổi, Ambra đọc lại.
Khi mắt nàng nhìn trở lại Langdon, đôi mắt ấy tràn đầy hy vọng.
“Như tôi nói,” Langdon mỉm cười nói, “tôi nghĩ chúng ta nên tới đó.”
Vẻ phấn khích của Ambra tan biến nhanh như lúc mới xuất hiện, “vẫn còn một vấn đề. Thậm chí nếu chúng ta tìm được mật khẩu của anh ấy…”
“Tôi biết - chúng ta đã mất cái điện thoại của Edmond, nghĩa là chúng ta không có cách nào tiếp cận Winston và liên lạc với cậu ấy.”
“Chính xác.”
“Tôi tin tôi có thể giải quyết vấn đề đó.”
Ambra nhìn ông vẻ hoài nghi. “Sao cơ?”
“Tất cả những gì chúng ta cần là định vị chính Winston - cái máy tính thực mà Edmond kiến tạo. Nếu chúng ta không còn tiếp cận được Winston từ xa, chúng ta sẽ phải mang mật khẩu tới cho đích danh Winston.”
Ambra trân trân nhìn ông như thể ông hóa dại.
Langdon nói tiếp. “Cô kể với tôi Edmond kiến tạo Winston tại một cơ sở bí mật.”
“Vâng, nhưng cơ sở đó có thể là bất kỳ đâu trên thế giới này!”
“Không hề. Nó ở ngay Barcelona đây thôi. Phải là vậy. Barcelona là thành phố nơi Edmond sống và làm việc. Và kiến tạo cỗ máy thông minh nhân tạo này là một trong những dự án gần đây nhất của cậu ấy, cho nên Edmond sẽ kiến tạo Winston tại đây mới là hợp lẽ.”
“Anh Robert, cho dù anh có đúng đi nữa thì anh cũng đang mò kim đáy bể đây. Barcelona là một thành phố rộng lớn. Sẽ không thể nào…”
“Tôi có thể tìm ra Winston,” Langdon nói. “Tôi tin chắc vậy.” Ông mỉm cười và ra hiệu về phía những ánh đèn thành phố bên dưới họ. “Việc này nghe điên khùng nhưng nhìn khung cảnh Barcelona từ trên không lúc này giúp tôi nhận ra một điều…”
Giọng ông nhỏ lại khi ông nhìn ra cửa sổ.
“Anh nói rõ thêm được không?” Ambra hỏi đầy vẻ mong đợi.
“Lẽ ra tôi nên nhìn ra sớm hơn,” ông nói. “Có gì đó liên quan đến Winston - một câu đố hấp dẫn - khiến tôi băn khoăn suốt buổi tối. Tôi nghĩ cuối cùng tôi đã tìm ra rồi.”
Langdon đưa ánh mắt cảnh giác về phía các đặc vụ Cận vệ và sau đó hạ giọng, nhổm về phía Ambra. “Cô tin tôi việc này chứ?” ông hỏi khẽ. “Tôi tin tôi có thể tìm thấy. Vấn đề là tìm ra Winston sẽ không ích gì cho ta nếu không có mật khẩu của Edmond. Ngay lúc này, cô và tôi cần tập trung tìm ra dòng thơ đó. Sagrada Familia là cơ hội tốt nhất của chúng ta để làm việc đó.”
Ambra dò xét Langdon một lúc lâu. Sau đó, với một cái gật đầu đầy hoang mang, nàng nhìn về phía ghế trước và gọi, “Đặc vụ Fonseca! Xin hãy bảo phi công vòng lại và đưa chúng tôi tới Sagrada Familia ngay!”
Fonseca xoay ghế lại, trừng mắt nhìn nàng. “Cô Vidal, như tôi đã nói với cô, tôi có lệnh…”
“Đặc vụ Fonseca,” hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha ngắt lời, nhổm tới trước và nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Hãy đưa chúng tôi tới Sagrada Familia, ngay bây giờ, hoặc mệnh lệnh đầu tiên của tôi khi chúng ta trở về sẽ là sa thải anh.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 62


ConspiracyNet.com

TIN NÓNG
QUAN HỆ SÁT THỦ TÔN GIÁO!

Nhờ manh mối nữa từ monte@iglesia.org, chúng tôi vừa biết rằng kẻ sát hại Edmond Kirsch là thành viên của một phái Thiên Chúa giáo bí mật, cực kỳ bảo thủ được biết đến là Giáo hội Palmaria!
Luís Ávila tuyển dụng trực tuyến những thành viên Palmaria suốt hơn một năm qua, và tư cách thành viên của hắn trong tổ chức tôn giáo - quân sự gây tranh cãi này cũng giải thích hình xăm “kẻ chiến thắng” trên bàn tay hắn.

Image
Cái biểu tượng thời Franco này được Giáo hội Palmaria dùng thường xuyên. Theo tờ báo quốc gia của Tây Ban Nha El Pais, giáo hội này có “giáo hoàng” riêng của mình và đã phong cho một vài nhà lãnh đạo tàn bạo - bao gồm Francisco Franco và Adolf Hitler - là các vị thánh!
Không tin chúng tôi ư? Hãy tra cứu thử xem.
Tất cả bắt đầu với một cảnh tượng huyền bí.
Năm 1975, một người môi giới bảo hiểm tên là Clemente Domínguez y Gómez tuyên bố đã thấy một cảnh tượng trong đó ông ấy được đích thân Chúa Jesus phong làm giáo hoàng.
Clemente lấy tên thánh là Gregory XVII, ly khai khỏi Vatican và bổ nhiệm các hồng y của mình. Mặc dù bị La Mã phủ nhận, nhưng vị tân giáo hoàng đối cử này thu nạp được hàng nghìn đệ tử và số tiền rất lớn giúp ông ta xây dựng một nhà thờ như pháo đài, mở rộng đoàn linh mục của mình trên thế giới và tôn phong cho hàng trăm Giám mục Palmaria trên toàn thế giới.
Giáo hội Palmaria ly giáo vẫn hoạt động cho tới ngày nay từ tổng hành dinh cấp thế giới của họ - một quần thể có tường bao, biệt lập gọi là Núi Chúa Đức Vua Christ tại E1 Palmar de Troya, Tây Ban Nha. Phái Palmaria không được Vatican tại Rome công nhận, nhưng vẫn tiếp tục thu hút những người Công giáo bảo thủ đi theo.
Sẽ sớm có thêm tin về giáo phái này, cũng như bản tin cập nhật về Giám mục Antonio Valdespino, người có vẻ cũng can dự vào âm mưu tối nay.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 63


Tốt lắm, tôi thấy rất ấn tượng, Langdon nghĩ.
Với mấy lời cứng rắn, Ambra vừa buộc tổ lái chiếc trực thăng EC145 thực hiện một cú vòng rộng và hướng trở lại phía Vương cung thánh đường Sagrada Familia.
Khi chiếc máy bay lấy lại thăng bằng và bắt đầu lao vùn vụt ngang qua thành phố, Ambra hướng về Đặc vụ Díaz và đề nghị cho sử dụng điện thoại di động của anh ấy. Anh chàng đặc vụ Cận vệ miễn cưỡng đưa ra. Ambra lập tức khởi động trình duyệt và bắt đầu lướt xem các tiêu đề tin tức chính.
“Chết tiệt,” nàng thì thào, lắc lắc đầu vẻ thất vọng. “Tôi đã cố nói với truyền thông anh không hề bắt cóc tôi. Nhưng chẳng ai nghe thấy tôi nói cả.”
“Có lẽ họ cần thêm thời gian để đăng chăng?” Langdon nêu ý kiến. Chuyện này xảy ra chưa đầy mười phút trước mà.
“Họ có đủ thời gian mà,” nàng trả lời. “Tôi đang xem các video clip chiếc trực thăng của chúng ta lao đi khỏi Casa Milà đây này.”
Đã có rồi sao? Đôi khi Langdon cảm thấy thế giới bắt đầu quay quá nhanh quanh trục của nó. Ông vẫn còn nhớ những lúc các “bản tin đặc biệt” được in trên báo và phát tới tận cửa nhà mình vào sáng hôm sau.
“Nhân tiện,” Ambra nói với vẻ hài hước, “có vẻ tôi và anh là một trong những tin thời sự được theo dõi nhiều hàng đầu thế giới đây.”
“Tôi biết tôi không nên bắt cóc cô mà,” ông nhăn nhó trả lời.
“Không đùa chút nào đâu. Ít nhất chúng ta cũng không phải là tin số một.” Nàng đưa điện thoại cho ông. “Anh nhìn cái này xem.”
Langdon nhìn màn hình và thấy trang chủ Yahoo! với mười tin “Theo dõi nhiều” đứng đầu. Ông nhìn tin nhiều người theo dõi nhất ở trên đầu:
“Chúng ta từ đâu đến?” / Edmond Kirsch
Rõ ràng, bài thuyết trình của Edmond đã truyền cảm hứng cho mọi người trên khắp địa cầu tìm kiếm và thảo luận chủ đề này. Edmond sẽ rất vui, Langdon nghĩ, nhưng khi ông bấm vào đường dẫn và thấy mười tiêu đề đầu tiên, ông nhận ra mình đã nhầm. Mười câu chuyện hàng đầu cho cụm “chúng ta từ đâu đến” đều là những chuyện nói về Sáng tạo luận và người ngoài hành tinh.
Edmond sẽ rất kinh hãi.
Một trong những lời khoa trương khét tiếng nhất của anh chàng cựu sinh viên của Langdon diễn ra tại một diễn đàn công khai có tên Khoa học & Duy linh, nơi Edmond trở nên phát điên với những câu hỏi của cử tọa đến mức cuối cùng anh ấy phải giơ hai tay lên trời và vừa rời khỏi sân khấu vừa hét lên: “Làm sao mà loài người thông minh lại không thể thảo luận về nguồn gốc của mình mà không đề cập đến tên Chúa và những sinh vật lạ chết tiệt chứ!”
Langdon tiếp tục lướt nhìn màn hình điện thoại cho tới khi ông thấy một đường dẫn CNN Live có vẻ vô thưởng vô phạt với tiêu đề “Kirsch đã phát hiện được gì?”
Ông bật đường dẫn và giữ điện thoại để Ambra cũng nhìn được. Khi đoạn video bắt đầu chạy, ông bật to âm lượng và cùng Ambra chụm đầu lại để họ đều có thể nghe được đoạn video trong tiếng ầm ầm của động cơ trực thăng.
Một phát thanh viên CNN xuất hiện. Langdon đã xem các chương trình phát sóng của cô ấy nhiều lần trong những năm qua. “Lúc này chúng tôi có thêm nhà sinh học vũ trụ từ NASA, Tiến sĩ Griffin Bennett,” cô ấy nói, “người có một vài ý kiến liên quan đến phát hiện chấn động bí ẩn của Edmond Kirsch. Chào mừng ông, thưa Tiến sĩ Bennett.”
Vị khách - một người đàn ông để râu đeo cặp kính đen gọng thép - gật đầu ủ rũ. “Cảm ơn cô. Trước hết, tôi xin nói rằng cá nhân tôi quen biết Edmond. Tôi vô cùng kính trọng trí thông minh, sức sáng tạo và cống hiến của anh ấy cho sự tiến bộ và đổi mới. Việc anh ấy bị ám sát là một đòn khủng khiếp đối với cộng đồng khoa học và tôi hy vọng vụ giết người hèn hạ này sẽ giúp củng cố cộng đồng tri thức cùng đoàn kết đứng lên chống lại những mối đe dọa từ sự cuồng tín, lối suy nghĩ mê tín và những kẻ dùng đến bạo lực, chứ không phải sự thật, để thúc đẩy niềm tin của mình. Tôi chân thành hy vọng những lời đồn đại rằng tối nay có những người đang cố gắng hết sức nhằm đem phát hiện của Edmond đến với công chúng là sự thật.”
Langdon liếc nhìn Ambra. “Tôi nghĩ ý ông ấy nói đến chúng ta.”
Nàng gật đầu.
“Có nhiều người cũng đang hy vọng điều đó, thưa Tiến sĩ Bennett,” phát thanh viên nói. “Và ông có thể tiết lộ xem ông nghĩ nội dung phát hiện của Edmond có thể là gì được không?”
“Là một nhà khoa học vũ trụ,” Tiến sĩ Bennett tiếp tục, “tôi cảm thấy mình cần mở đầu những gì mình nói tối nay bằng một tuyên bố khái quát… điều mà tôi tin Edmond Kirsch sẽ trân trọng.” Người đàn ông quay nhìn thẳng vào máy quay. “Khi nói đến khái niệm sự sống ngoài Trái Đất,” ông ấy bắt đầu, “đã tồn tại cả mớ khoa học hắc ám, thuyết âm mưu và những điều viễn tưởng rành rành. Để cho chính xác, tôi xin nói điều này: Những vòng tròn trên cánh đồng là lừa đảo. Các đoạn video giải phẫu sinh vật lạ là hình ảnh dàn dựng. Sinh vật lạ chưa làm hại gì đến một con bò nào cả. Đĩa bay Roswell là khinh khí cầu thời tiết của chính phủ gọi là Dự án Mogul. Các kim tự tháp khổng lồ do người Ai Cập xây dựng mà không hề có công nghệ của sinh vật lạ. Và điều quan trọng nhất là tất cả mọi câu chuyện bị người ngoài Trái Đất bắt cóc từng được báo cáo đều hoàn toàn là nói dối.”
“Làm sao ông dám chắc, thưa Tiến sĩ?” phát thanh viên hỏi.
“Lôgic đơn giản,” nhà khoa học nói, có vẻ khó chịu khi quay lại phía phát thanh viên. “Bất kỳ dạng sống nào tiến bộ đủ để du hành bằng năm ánh sáng qua vũ trụ giữa các vì sao sẽ chẳng học được gì từ việc thăm dò trực tràng của những nông dân ở Kansas cả. Những dạng sống này cũng chẳng cần biến hóa thành bò sát và thâm nhập vào các chính phủ để chiếm lấy Trái Đất. Bất kỳ dạng sống nào có công nghệ để du hành tới Trái Đất sẽ chẳng cần ngón bịp hay mưu mẹo quỷ quyệt để thống trị chúng ta ngay tức thì.”
“Chà, nghe đáng ngại đấy!” phát thanh viên bình luận kèm tiếng cười bối rối. “Và điều này liên quan thế nào đến những suy nghĩ của ông về phát hiện của Kirsch?”
Người đàn ông thở dài thườn thượt. “Quan niệm mạnh mẽ của tôi là Edmond Kirsch sẽ công bố rằng anh ấy đã tìm thấy bằng chứng đáng tin cậy cho thấy sự sống trên Trái Đất bắt nguồn từ vũ trụ.”
Langdon lập tức thấy nghi ngờ, biết rõ Kirsch cảm nhận thế nào về chủ đề sự sống ngoài vũ trụ trên Trái Đất này.
“Rất thú vị, điều gì khiến ông nói vậy?” phát thanh viên hối thúc.
“Sự sống từ vũ trụ là câu trả lời hợp lý duy nhất. Chúng ta đã có bằng chứng không thể tranh cãi rằng vật chất có thể được trao đổi giữa các hành tinh. Chúng ta có những mảnh vỡ của sao Hỏa và sao Kim cùng với hàng trăm mẫu vật từ các nguồn không xác định, tất cả củng cố cho ý tưởng rằng sự sống đến qua những viên đá vũ trụ dưới dạng vi khuẩn, và cuối cùng tiến hóa thành sự sống trên Trái Đất.”
Phát thanh viên gật đầu chăm chú. “Nhưng chẳng phải thuyết này - vi khuẩn đến từ vũ trụ - đã từng nổi bật suốt nhiều thập kỷ mà không hề có bằng chứng đó sao? Ông nghĩ một thiên tài công nghệ như Edmond Kirsch có thể chứng minh một giả thuyết như thế này, có vẻ như là thuộc lãnh địa sinh học vũ trụ hơn là khoa học máy tính, bằng cách nào.”
“Chà, có một lôgic rất vững vàng,” Tiến sĩ Bennett đáp. “Các nhà thiên văn học hàng đầu đã cảnh báo trong nhiều thập kỷ rằng hy vọng duy nhất của con người để sinh tồn lâu dài sẽ là rời khỏi hành tinh này. Trái Đất đã đi được nửa vòng đời của nó và cuối cùng mặt trời sẽ phình ra thành một ngôi sao đỏ khổng lồ và nuốt chửng chúng ta. Thế tức là, nếu chúng ta sống sót được qua những đe dọa gần hơn nữa như một vụ va chạm tiểu hành tinh lớn hay một vụ nổ tia gamma quy mô lớn. Vì những lý do này, chúng ta đã thiết kế những tiền đồn trên sao Hỏa để cuối cùng chúng ta có thể tiến vào không gian sâu thẳm trong cuộc tìm kiếm một hành tinh sống mới. Không cần nói thì ta cũng biết đây là một công việc lớn lao, và nếu chúng ta tìm ra cách đơn giản hơn để bảo đảm sự sinh tồn của mình thì chúng ta đã thực hiện ngay lập tức.”
Tiến sĩ Bennett ngừng lại. “Và có lẽ có một cách đơn giản hơn. Sẽ ra sao nếu bằng cách nào đó chúng ta đóng gói được bộ gen người vào những viên nén nhỏ xíu và gửi hàng triệu viên vào không gian với hy vọng một viên có thể bén rễ, gieo mầm sự sống của con người lên một hành tinh xa xôi? Công nghệ này vẫn chưa có, nhưng chúng ta đang bàn đến nó như một lựa chọn khả dĩ cho sự sinh tồn của con người. Và nếu chúng ta tính đến chuyện 'gieo mầm sự sống,’ thì tất lẽ dĩ ngẫu là một dạng sống tiến bộ hơn có thể cũng đã tính đến điều đó.”
Giờ Langdon thấy nghi ngại không biết Tiến sĩ Bennett sẽ đi đến đâu với giả thuyết của ông ấy.
“Với điều này trong đầu,” ông ấy tiếp tục, “tôi tin Edmond Kirsch có thể đã phát hiện được một dấu hiệu gì đó của sinh vật lạ - là vật lý, hóa học, hay số hóa thì tôi không biết - chứng minh rằng sự sống trên Trái Đất được gieo mầm từ vũ trụ. Tôi cần đề cập rằng Edmond và tôi từng có một cuộc tranh luận về chuyện này vài năm trước. Anh ấy không hề thích giả thuyết vi khuẩn vũ trụ bởi vì anh ấy tin, cũng như nhiều người, rằng chất liệu di truyền không thể sống nổi trong nhiệt độ và bức xạ chết người sẽ gặp phải trong hành trình dài tới Trái Đất. Về mặt cá nhân, tôi tin rằng hoàn toàn khả thi để bao kín 'những hạt mầm sự sống' này trong các khoang bảo vệ chống bức xạ và bắn chúng vào không gian để đưa người đi khắp vũ trụ theo một hình thức tạo nguồn gốc sự sống từ vũ trụ có công nghệ hỗ trợ.”
“Được rồi,” phát thanh viên nói, trông có vẻ bồn chồn, “nhưng nếu ai đó phát hiện được bằng chứng rằng con người đến từ một vỏ hạt gửi tới từ vũ trụ thì khi ấy điều đó có nghĩa là chúng ta không hề đơn độc trong vũ trụ.” Cô ấy ngừng lại. “Mà, đáng kinh ngạc hơn nhiều…”
“Vâng?” Tiến sĩ Bennett mỉm cười lần đầu tiên.
“Nó có nghĩa là bất kỳ ai gửi các khoang đó sẽ phải… giống như chúng ta… loài người.”
“Phải, cũng là kết luận đầu tiên của tôi.” Nhà khoa học ngừng lời. “Rồi Edmond trao đổi thẳng với tôi. Anh ấy chỉ ra những sai lầm trong cách nghĩ đó.”
Câu này khiến phát thanh viên không chú ý. “Vậy niềm tin của Edmond là bất kỳ ai gửi những 'hạt mầm' này đều không phải là con người? Làm sao có thể như vậy được, nếu các hạt mầm, xin nói như vậy, là 'công thức chế biến' cho việc nhân giống loài người?”
“Con người chưa chín hẳn đâu,” nhà khoa học trả lời, “nói theo đúng lời Edmond như vậy.”
“Sao cơ ạ?”
“Edmond nói rằng nếu cái giả thuyết khoang hạt này là sự thật thì công thức chế biến được gửi tới Trái Đất có lẽ chỉ mới dở chừng lúc này - vẫn chưa hoàn chỉnh - nghĩa là con người chưa phải 'thành phẩm' mà thay vào đó mới chỉ là một giống loài trung gian đang tiến hóa thành gì đó khác… gì đó rất lạ lẫm.”
Phát thanh viên CNN trông vô cùng bối rối.
“Edmond cho rằng bất kỳ dạng sống tiến bộ nào đều sẽ không gửi công thức tạo loài người nhiều hơn là gửi công thức tạo tinh tinh.” Nhà khoa học cười khùng khục. “Thực tế Edmond quy kết tôi là một tín đồ Thiên Chúa giáo thiếu thực tế - đùa rằng chỉ có một tư duy tôn giáo mới có thể tin rằng con người là trung tâm của vũ trụ. Hoặc là sinh vật lạ sẽ gửi đường không bộ DNA 'Adam and Eve' hình thành trọn vẹn vào vũ trụ.”
“Chà, thưa Tiến sĩ,” phát thanh viên nói, rõ ràng không thấy thoải mái với hướng mà cuộc phỏng vấn đang diễn ra. “Thật là được mở mang nhiều khi trò chuyện với ông. Xin cảm ơn ông đã dành thời gian.”
Đoạn clip kết thúc và Ambra lập tức ngoảnh sang Langdon. “Anh Robert, nếu Edmond phát hiện ra bằng chứng cho thấy con người mới là một giống loài xa lạ tiến hóa dở chừng, thì khi đó sẽ làm nảy sinh một vấn đề còn lớn hơn nữa - chính xác chúng ta đang tiến hóa thành gì?”
“Đúng,” Langdon nói. “Và tôi tin Edmond đã nói đến vấn đề đó theo một cách hơi khác - như một câu hỏi: Chúng ta đang đi về đâu?”
Ambra có vẻ thảng thốt khi đi trọn một vòng. “Câu hỏi thứ hai của Edmond từ buổi thuyết trình tối nay.”
“Chính xác. Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu? Rõ ràng, nhà khoa học NASA mà chúng ta vừa xem nghĩ Edmond nhìn lên bầu trời và thấy câu trả lời cho cả hai câu hỏi.”
“Anh nghĩ gì vậy, Robert? Đây là những gì Edmond đã phát hiện ư?”
Langdon cảm nhận được lông mày mình nhíu lại đầy nghi ngờ khi ông cân nhắc các khả năng. Giả thuyết của nhà khoa học, dù rất thú vị, dường như quá chung chung và khác biệt hẳn với tư duy sắc bén của Edmond Kirsch. Edmond thích những gì đơn giản, rõ ràng và kỹ thuật. Cậu ấy là một nhà khoa học máy tính. Điều quan trọng hơn, Langdon không thể hình dung nổi Edmond sẽ chứng minh giả thuyết như vậy thế nào. Khai quật được một khoang hạt cổ ư? Phát hiện được một tín hiệu truyền dẫn lạ chăng? Cả hai giả thuyết đều sẽ lập tức là những đột phá, nhưng phát hiện của Edmond lại tốn thời gian.
Edmond nói cậu ấy làm việc với thứ này hàng tháng trời.
“Hẳn nhiên tôi không biết,” Langdon nói với Ambra, “nhưng linh cảm tôi mách bảo phát hiện của Edmond chẳng liên quan gì đến sự sống ngoài Trái Đất. Tôi thật sự tin cậu ấy đã phát hiện ra gì đó hoàn toàn khác.”
Ambra trông có vẻ ngạc nhiên, và sau đó là tò mò. “Tôi đoán có một cách duy nhất để tìm ra.” Nàng ra hiệu ra phía ngoài cửa sổ.
Trước mặt họ là những ngọn tháp lấp lánh của Sagrada Familia.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 64


Giám mục Valdespino lén liếc nhìn nhanh Julián, người vẫn trân trân nhìn mông lung ra ngoài cửa sổ chiếc xe mui kín hiệu Opel khi nó lao theo Đại lộ M-505.
Anh ta đang nghĩ gì? Valdespino thắc mắc.
Hoàng tử đã im lặng suốt gần ba mươi phút, gần như chẳng nhúc nhích ngoại trừ thỉnh thoảng theo phản xạ lại thò tay vào túi để lấy điện thoại, chỉ để nhận ra rằng chàng đã cất nó trong két an toàn của mình.
Ta cần giữ anh ta trong bóng tối, Valdespino nghĩ, lâu hơn thêm, một chút
Ớ ghế trước, thầy tu trẻ từ nhà thờ vẫn đang lái xe theo hướng về Điền trang Hoàng tử, mặc dù chẳng mấy lúc Valdespino sẽ cần thông báo với Hoàng tử rằng chỗ ẩn dật của chàng không phải là đích đến của họ.
Julián đột ngột từ cửa sổ ngoảnh lại, vỗ vỗ lên vai thầy tu trẻ. “Làm ơn bật đài lên,” chàng nói. “Ta muốn nghe thời sự.”
Người đàn ông trẻ chưa kịp làm theo thì Valdespino đã nhổm tới trước và đặt một bàn tay rắn chắc lên vai anh ta. “Chúng ta cứ ngồi yên lặng chứ nhỉ?”
Julián ngoảnh lại phía Giám mục, rõ ràng rất khó chịu khi bị lấn lướt.
“Thần xin lỗi,” Valdespino nói ngay, cảm thấy sự mất niềm tin đang tăng lên trong mắt Hoàng tử. “Muộn rồi. Chỉ toàn chuyện tào lao. Thần thích im lặng suy ngẫm.”
“Ta vẫn suy ngẫm nãy giờ,” Julián nói, giọng đanh lại, “và ta muốn biết chuyện gì đang xảy ra trên đất nước của ta. Chúng ta hoàn toàn tự cách ly mình tối nay và ta bắt đầu băn khoăn liệu đây có phải là một ý hay.”
“Đó là một ý hay,” Valdespino quả quyết với chàng, “và thần rất biết ơn sự tin tưởng ngài dành cho thần.” Ông ấy bỏ tay khỏi vai thầy tu trẻ và ra hiệu về phía hệ thống thu thanh. “Làm ơn bật kênh thời sự lên. Có lẽ Đài María Espana nhỉ?”
Valdespino hy vọng kênh Công giáo toàn thế giới này sẽ hòa nhã và khéo léo hơn hầu hết các kênh truyền thông khi nói về những diễn biến phiền phức tối nay.
Khi giọng của phát thanh viên phát ra qua hệ thống loa rẻ tiền trên xe, anh ta đang nói về phần thuyết trình và vụ ám sát Edmond Kirsch. Tất cả các kênh trên thế giới đều đang nói về sự việc này tối nay. Valdespino chỉ hy vọng tên của ông ta sẽ không xuất hiện trong bản tin.
Rất may, chủ đề lúc này có vẻ là những mối nguy hại của cái thông điệp bài tôn giáo mà Kirsch rao giảng, đặc biệt là mối đe dọa do ảnh hưởng của anh với giới trẻ ở Tây Ban Nha. Để lấy làm ví dụ, kênh này bắt đầu phát lại một bài giảng Kirsch trình bày gần đây tại Đại học Barcelona.
“Nhiều người trong chúng ta ngại gọi mình là vô thần,” Kirsch nói rất bình thản trước các sinh viên. “Nhưng vô thần không phải là một triết lý, vô thần cũng không phải là thế giới quan. Vô thần chỉ đơn giản là sự thừa nhận những điều hiển nhiên.”
Vài sinh viên vỗ tay tán đồng.
“Cái thuật ngữ 'vô thần',” Kirsch nói tiếp, “thậm chí chẳng cần tồn tại. Làm gì có ai cần phải tự nhận mình là một người 'phi chiêm tinh' hay 'phi giả kim' đâu. Chúng ta không có từ ngữ để chỉ những người vẫn nghi ngờ rằng Elvis còn sống, hay những người băn khoăn rằng sinh vật lạ vượt qua thiên hà chỉ để quấy rầy đám gia súc. Vô thần chẳng là gì khác hơn những tiếng ồn mà những con người duy lý tạo ra khi có những tín điều tôn giáo phi lý.”
Số lượng sinh viên vỗ tay tán thưởng tăng lên hẳn.
“Nhân tiện thì cái định nghĩa đó không phải của tôi,” Kirsch nói với họ. “Những lời ấy thuộc về nhà khoa học thần kinh Sam Harris. Và nếu các bạn chưa đọc thì các bạn cần phải đọc cuốn sách Thư gửi một dân tộc Thiên Chúa giáo của ông ấy.”
Valdespino cau mày, nhớ lại sự xôn xao mà cuốn sách của Harris, có tiêu đề Carta a una Nación Cristiana trong tiếng Tây Ban Nha, tạo ra và lan rộng khắp Tây Ban Nha, mặc dù nó được viết cho người Mỹ.
“Bằng cách giơ cao tay,” Kirsch nói tiếp, “có bao nhiêu người trong các bạn tin vào bất kỳ vị thần cổ đại nào đó dưới đây: Apollo? Zeus? Vulcan?” Anh ấy ngừng lại, sau đó bật cười. “Không một ai trong số các bạn à? Được rồi, vậy có vẻ là tất cả chúng ta đều là những người vô thần kính trọng những vị thần ấy.” Anh ấy ngừng lại. “Tôi thì đơn giản là chọn tiến xa thêm một vị thần nữa.”
Đám đông vỗ tay to hơn.
“Thưa các bạn, tôi không hề nói tôi biết một sự thật rằng không hề có Chúa. Tất cả những gì tôi nói là nếu có một thế lực thần thánh đằng sau vũ trụ thì thế lực ấy sẽ cười như điên trước những tôn giáo chúng ta tạo ra nhằm cố định nghĩa nó.”
Tất cả mọi người cười ồ.
Lúc này, Valdespino thấy mừng là Hoàng tử đã đề nghị được nghe đài. Julián cần nghe thứ này. Sức cuốn hút ma quái của Kirsch là một bằng chứng cho thấy rằng những kẻ thù của Đức Chúa không còn ngồi án binh bất động nữa, mà rất tích cực tìm cách lôi kéo người ta rời xa Chúa.
“Tôi là một người Mỹ,” Kirsch nói tiếp, “và tôi thấy vô cùng may mắn được sinh ra ở một trong những quốc gia phát triển về công nghệ và tiến bộ về tri thức nhất trên Trái Đất. Và vì thế tôi thấy rất lo lắng khi một cuộc thăm dò gần đây cho thấy rằng một nửa đồng bào tôi tin thật rằng Adam và Eve có tồn tại - rằng một vị Chúa quyền năng đã tạo ra hai con người trọn vẹn hình hài, đơn thương độc mã tạo ra dân số của toàn bộ hành tinh này, sinh ra tất cả các chủng tộc khác nhau, mà không gặp vấn đề cố hữu nào của tình trạng lai giống gần.”
Thêm nhiều tiếng cười.
“Ở Kentucky,” anh ấy tiếp tục, “mục sư Peter LaRuffa công khai tuyên bố: 'Nếu ở đâu đó trong Kinh Thánh, tôi tìm được một đoạn nói rằng 'hai cộng hai bằng năm/ thì tôi sẽ tin điều đó và chấp nhận như một sự thật'.”
Lại thêm những tiếng cười.
“Tôi đồng ý, cười rất dễ, nhưng tôi cam đoan với các bạn, những tín điều này kinh khủng hơn là buồn cười rất nhiều. Nhiều người tán thành những tín điều ấy là những nhà chuyên môn có học, sáng láng - các bác sĩ, luật sư, giáo viên, và trong một số trường hợp, là những người khao khát được vào những cơ quan cao nhất ở đó. Tôi từng nghe Nghị sĩ Hoa Kỳ Paul Broun nói, Tiến hóa và vụ nổ Big Bang là những điều dối trá từ hố sâu địa ngục. Tôi tin Trái Đất khoảng chín nghìn năm tuổi, và nó được tạo ra trong sáu ngày như chúng ta đã biết'.” Kirsch ngừng lại. “Thậm chí đáng ngại hơn nữa, Nghị sĩ Broun còn ngồi trong ủy ban Khoa học gia đình, Vũ trụ và Công nghệ, và khi được hỏi về sự tồn tại của một hóa thạch cả triệu năm tuổi, câu trả lời của ông ấy là 'Các hóa thạch được Chúa đặt ở đó để kiểm chứng đức tin của chúng ta'.”
Giọng Kirsch đột nhiên trở nên khẽ khàng và ủ rũ. “Chấp nhận sự ngu dốt là tạo sức mạnh cho nó. Chẳng làm gì khi những nhà lãnh đạo của chúng ta tuyên bố những điều phi lý chính là tội tự mãn. Để cho các trường học và nhà thờ của chúng ta dạy những điều giả dối rành rành cho con cái chúng ta cũng vậy. Đã đến lúc hành động. Khi nào chúng ta loại bỏ được giống loài có suy nghĩ mê tín của mình thì chúng ta mới có thể nắm bắt được tất cả những gì trí tuệ của chúng ta đem lại.” Anh ấy ngừng lại và tiếng suỵt giữ im lặng vang lên trong đám đông. “Tôi yêu nhân loại. Tôi tin trí tuệ về giống loài chúng ta có tiềm năng vô hạn. Tôi tin chúng ta sắp bước vào một kỷ nguyên khai sáng mới, một thế giới nơi tôn giáo cuối cùng cũng triệt tiêu… và khoa học thống trị.”
Đám đông òa lên những tiếng vỗ tay cuồng nhiệt.
“Lạy Chúa,” Valdespino gắt lên, lắc đầu khó chịu. “Tắt ngay đi.”
Vị thầy tu trẻ tuân lệnh và ba người lái xe trong im lặng.

Cách đó hơn bốn mươi kilomet, Mónica Martin đang đứng đối diện anh chàng Suresh Bhalla thở không ra hơi, người vừa lao vào và đưa một chiếc điện thoại di động cho cô ta.
“Chuyện dài lắm,” Suresh thở hổn hển, “nhưng cô cần đọc tin nhắn này mà Giám mục Valdespino đã nhận.”
“Khoan đã.” Martin suýt đánh rơi chiếc điện thoại. “Đây là điện thoại của Giám mục à?! Làm thế quái nào anh…”
“Đừng hỏi. Cứ đọc đi.”
Martin lo lắng đưa mắt nhìn chiếc điện thoại và bắt đầu đọc tin nhắn hiện trên màn hình. Chỉ mấy giây, cô ta cảm thấy mình tái nhợt.
“Chúa ơi, Giám mục Valdespino…”
“Nguy hiểm,” Suresh nói.
“Nhưng… chuyện này không thể có! Cái người gửi tin nhắn cho Giám mục là ai?!”
“Số được bảo vệ,” Suresh nói. “Tôi đang tìm cách xác minh.”
“Và tại sao Valdespino lại không xóa tin nhắn này?”
“Không biết,” Suresh nói thẳng toẹt. “Bất cẩn? Ngạo mạn? Tôi sẽ cố phục hồi lại những tin nhắn khác, và cũng thử xem tôi có thể xác minh được Valdespino nhắn tin với ai không, nhưng tôi muốn cho cô biết tin tức này về Valdespino ngay; cô sẽ phải đưa ra tuyên bố đây.”
“Không, tôi sẽ không làm!” Martin nói, vẫn còn choáng váng. “Hoàng cung sẽ không công khai thông tin này!”
“Không, nhưng sẽ có người khác làm.” Suresh nhanh chóng giải thích rằng động cơ của việc tìm chiếc điện thoại của Valdespino là một gợi ý qua thư điện tử trực tiếp từ monte@iglesia.org - người cung cấp tin vẫn đang cấp tin tức cho ConspiracyNet - và nếu người này hành động đúng như đã định thì tin nhắn của Giám mục sẽ không là vấn đề riêng tư được mấy lúc nữa.
Martin nhắm mắt lại, cố gắng hình dung ra cái bằng chứng không thể tranh cãi rằng một Giám mục Công giáo có quan hệ thân cận với đức vua Tây Ban Nha lại trực tiếp can dự vào hành động dối trá và giết người tối nay.
“Suresh,” Martin thì thào, từ từ mở mắt ra. “Tôi cần anh tìm ra cái người cung cấp tin 'Monte' này là ai. Anh có làm được việc đó cho tôi không?”
“Tôi có thể cô.” Giọng anh ấy nghe không nhiều hy vọng lắm.
“Cảm ơn anh.” Martin trả lại anh ấy chiếc điện thoại của Giám mục và đi vội ra cửa. “Và gửi cho tôi ảnh chụp màn hình tin nhắn đó!”
“Cô đi đâu đây?” Suresh gọi với theo.
Mónica Martin không trả lời.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 65

La Sagrada Familia - Vương cung thánh đường của Thánh gia - chiếm trọn cả một khối phố ở trung tâm Barcelona. Bất chấp dấu ấn đồ sộ của nó, tòa nhà thờ này dường như lơ lửng không trọng lượng trên mặt đất, một quần thể những ngọn tháp lộng gió dễ dàng vươn lên bầu trời Tây Ban Nha.
Rối rắm và nhiều lỗ như tổ ong, những ngọn tháp có chiều cao khác nhau, tạo cho nhà thờ dáng vẻ của một tòa lâu đài cát kỳ dị được dựng lên bởi những người khổng lồ tinh nghịch. Một khi hoàn tất, ngọn cao nhất trong số mười tám tháp nhọn sẽ đạt độ cao chóng mặt và chưa từng có tiền lệ là khoảng một trăm bảy mươi mét - cao hơn cả Đài tưởng niệm Washington - khiến cho Sagrada Familia thành nhà thờ cao nhất thế giới, vượt hẳn cả Vương cung thánh đường St. Peter của Vatican đến hơn ba mươi mét.
Phần thân của nhà thờ được che chắn bởi ba mặt tiền đồ sộ. Về phía Đông, phần mặt tiền rực rỡ mô tả Chúa giáng sinh vươn lên như một khu vườn treo, trổ ra cây cối, động vật, hoa quả và con người với rất nhiều màu. Đối lập hoàn toàn, phần mặt tiền chủ đề Khổ hình ở phía Tây là bộ xương khổ hạnh bằng đá thô ráp, được kiến tạo giống với hệ gân và xương, về phía Nam, phần mặt tiền chủ đề Vinh hiển uốn éo vươn lên trên thành một mớ hỗn độn toàn quỷ sứ, tượng thần, các tội lỗi và thói xấu, cuối cùng nhường chỗ cho những biểu tượng cao quý hơn của quá trình thăng thiên, đức hạnh và thiên đường.
Hoàn chỉnh cho phần chu vi là rất nhiều mặt tiền nhỏ hơn, các trụ tường, và các tháp, hầu hết đều được bao bọc trong một thứ vật liệu như bùn, tạo hiệu ứng rằng nửa dưới của công trình đang tan chảy hoặc bị đẩy từ dưới đất lên. Theo một nhà phê bình có tiếng, nửa dưới của Sagrada Familia giống như “một thân cây mục ruỗng nơi mọc lên cả một quần thể những tháp nấm rối rắm.”
Ngoài việc trang trí cho nhà thờ của mình bằng những hình tượng tôn giáo truyền thống, Gaudi còn đưa vào vô số những đặc điểm gây chú ý phản ánh sự sùng kính thiên nhiên của mình - những con rùa đỡ các cột chống, những cái cây mọc lên từ các mặt tiền, và thậm chí những con ốc và ếch nhái bằng đá khổng lồ leo trèo bên ngoài tòa nhà.
Bất chấp phần ngoại thất kỳ dị, người ta chỉ có thể nhìn thấy điều ngạc nhiên thật sự của Sagrada Familia sau khi bước qua ngưỡng cửa nhà thờ. Một khi đã ở bên trong điện thờ chính, du khách luôn đứng sững sờ khi mắt họ leo lên những cột trụ như những thân cây nghiêng ngả và uốn éo vươn cao tới sáu mươi mét lên chỗ có vô số mái vòm lơ lửng, nơi những bức tranh gây ảo giác với những hình kỷ hà lơ lửng như một cái tán bằng pha lê treo trên những cành cây. Việc sáng tạo một “rừng cột,” như Gaudi tuyên bố, là để khích lệ tư duy trở về với suy nghĩ của những con người tìm kiếm tâm linh đầu tiên, những người mà với họ, rừng chính là ngôi nhà thờ của Chúa.
Không có gì đáng ngạc nhiên, tác phẩm Nghệ thuật Mới hoành tráng của Gaudi vừa được ca tụng hết lời lại vừa bị chê trách thậm tệ. Được một số người ca ngợi là “suy cảm, thiêng liêng và đầy chất sống,” nó lại bị những người khác chế nhạo là “thô thiển, khoe khoang và dung tục.” Tác giả James Michener mô tả nó là “một trong những công trình trông kỳ lạ nhất trên thế giới,” còn tạp chí Architectural Revieiv gọi nó là “con quái vật thần thánh của Gaudi.”
Nếu tính thẩm mỹ của nó lạ lùng thì ngân sách của nó còn lạ lùng hơn. Hoàn toàn do các khoản quyên góp cá nhân tài trợ, Sagrada Familia không hề nhận được sự hỗ trợ tài chính bằng bất kỳ hình thức nào từ Vatican hay giới lãnh đạo Công giáo thế giới. Mặc dù có những thời kỳ gần như phá sản và có những lúc công việc bị đình trệ, nhà thờ này vẫn cho thấy một ý chí sinh tồn gần giống thuyết Darwin, đã từng kiên cường chịu đựng cái chết của kiến trúc sư trưởng, một cuộc nội chiến dữ dội, những vụ tấn công khủng bố của những kẻ vô chính phủ Catalan và thậm chí cả việc khoan đào một đường hầm tàu điện ngầm gần đó đe dọa khiến cho phần nền mà nhà thờ tọa lạc bị mất ổn định.
Đương đầu với nghịch cảnh lạ thường, Sagrada Familia vẫn đứng vững, và tiếp tục mọc lên.
Suốt thập kỷ qua, số phận của nhà thờ đã cải thiện đáng kế, ngân sách của nhà thờ được bổ sung bởi tiền bán vé với hơn bốn triệu du khách một năm bỏ ra số tiền hậu hĩnh để tham quan công trình hoàn thành dang dở này. Giờ đây, khi đã công bố ngày hoàn thành dự kiến vào năm 2026 - kỷ niệm 100 năm ngày mất của Gaudi - Sagrada Familia dường như được truyền cho một sinh lực mới, những ngọn tháp của nó vươn lên trời với niềm hy vọng và sự khẩn trương mới.
Đức cha Joaquim Bena - vị tu sĩ già nhất và cũng là tu sĩ cai quản Sagrada Familia - là một ông già tám mươi tuổi vui tính đeo cặp kính tròn trên gương mặt tròn luôn mỉm cười với thân hình quấn trong áo choàng. Ước mơ của Đức cha Bena là được sống đủ lâu để chứng kiến thánh điện huy hoàng này hoàn thiện.
Tuy nhiên, tối nay, bên trong văn phòng của mình, Đức cha Bena không cười. Ông thức khuya lo việc của nhà thờ, nhưng cuối cùng lại đeo dính lấy chiếc máy tính của mình, hoàn toàn bị cuốn theo tấn kịch đáng buồn đang diễn ra ở Bilbao.
Edmond Kirsch bị ám sát.
Hơn ba tháng qua, Đức cha Bena đã tạo dựng được một tình bạn mong manh và không chắc thành công với Kirsch. Anh chàng vô thần bạo miệng khiến Đức cha Bena sửng sốt bằng việc đích thân tìm tới với một đề xuất dành một khoản quyên góp rất lớn cho nhà thờ. Số tiền chưa từng có tiền lệ và có tác động tích cực rất lớn.
Đề xuất của Kirsch chẳng là gì, Đức cha Bena đã nghĩ vậy, nghi ngờ có sự gài bẫy. Phải chăng đó là một mánh quảng cáo để gây chú ý? Có lẽ anh ta muốn gây ảnh hưởng đến việc xây dựng chăng?
Đổi lại khoản quyên góp của mình, nhà vị lai chủ nghĩa nổi tiếng chỉ có một đề nghị.
Đức cha Bena lắng nghe, không dám tin. Đó là tất cả những gì anh ta muốn ư!
“Đây là một vấn đề cá nhân với tôi,” Kirsch nói. “Và tôi hy vọng cha sẵn lòng chiếu cố đề nghị của tôi.”
Đức cha Bena là người cả tin, nhưng lúc đó ông cảm thấy mình đang khiêu vũ với quỷ sứ. Đức cha Beha thấy mình cố tìm kiếm trong mắt Kirsch một động cơ kín đáo nào đó. Và rồi ông nhìn thấy nó. Đằng sau vẻ quyến rũ vô tư lự của Kirsch bừng bừng một nỗi tuyệt vọng mệt mỏi, đôi mắt trũng sâu và thân hình gày gò của anh ấy gợi cho Đức cha Bena nhớ lại những ngày tháng mình sống ở trường dòng và làm việc như một cố vấn cho các nhà tế bần.
Edmond Kirsch bị bệnh.
Đức cha Bena tự hỏi phải chăng người đàn ông này sắp chết, và phải chăng khoản quyên góp này có thể là một nỗ lực đột ngột nhằm sửa chữa lỗi lầm với Chúa mà anh ta vẫn luôn phỉ báng.
Sự tự cao tự đại nhất lúc sống trở thành điều đáng sợ nhất khi chết.
Đức cha Bena nghĩ về tác giả Phúc Âm Thiên Chúa giáo đầu tiên - Thánh John - người đã hiến trọn đời để khuyến khích những người không có niềm tin tôn giáo trải nghiệm vinh quang của Chúa Jesus. Dường như là một kẻ không có niềm tin tôn giáo như Kirsch muốn tham gia vào việc sáng tạo ra một đền thờ Chúa Jesus, sau đó phủ nhận mình rằng mối liên hệ đó vừa trái với giáo lý vừa ác nghiệt.
Thêm vào đó, Đức cha Bena còn có vấn đề về nghĩa vụ chuyên môn là giúp gây quỹ cho nhà thờ và ông không thể hình dung được việc thông báo với các cộng sự của mình rằng món quà khổng lồ của Kirsch đã bị từ chối vì lịch sử vô thần công khai của anh chàng ấy.
Cuối cùng, Đức cha Bena chấp nhận các điều kiện của Kirsch, và hai người bắt tay nhau nồng ấm.
Đó là ba tháng trước.
Tối nay, Đức cha Bena xem bài thuyết trình của Kirsch tại Guggenheim, mới đầu cảm thấy phiền muộn bởi giọng điệu bài tôn giáo của anh ta, sau đó lại thấy hấp dẫn khi Kirsch nhắc đến một phát hiện bí mật, và cuối cùng kinh hãi khi chứng kiến Edmond Kirsch bị bắn gục. Sau đó, Đức cha Bena đã không tài nào rời khỏi máy tính của mình, bị thu hút bởi những gì đang nhanh chóng trở thành một màn kính vạn hoa quay cuồng của những thuyết âm mưu cạnh tranh nhau.
Cảm thấy bị áp chế, giờ Đức cha Bena ngồi yên lặng trong thánh điện như cái lòng hang, một mình trong “khu rừng” cột trụ của Gaudi. Tuy nhiên, những hàng cây bí ẩn chẳng giúp tâm trí đang quay cuồng của ông bình tĩnh lại mấy.
Kirsch đã phát hiện được gì? Ai muốn anh ấy chết?
Đức cha Bena nhắm mắt lại và cố gắng dẹp bỏ những suy nghĩ của mình, nhưng những câu hỏi ấy vẫn cứ trỗi dậy.
Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu?
“Chúng ta từ Chúa mà ra!” Đức cha Bena nói lớn. “Và chúng ta về với Chúa!”
Lúc nói vậy, ông cảm thấy những lời của mình vang dội trong lồng ngực với sức mạnh khiến cả thánh điện như rung lên. Đột nhiên, một quầng sáng chói rọi thẳng vào ô cửa sổ lắp kính màu phía trên mặt tiền Chúa chịu khổ hình và rải xuống bên trong vương cung thánh đường.
Kinh hãi, Đức cha Bena đứng lên và hấp tấp chạy về phía cửa sổ, toàn bộ nhà thờ lúc này náo động khi quầng sáng từ trên trời rọi xuống dọc phần kính màu. Khi ông lao vọt ra cửa chính nhà thờ, Đức cha Bena thấy mình bị một cơn cuồng phong ầm ầm ập tới. Phía trên ông về bên trái, một chiếc trực thăng to tướng đang từ trên trời hạ dần xuống, đèn pha rọi của nó chiếu sáng rực phần mặt trước của nhà thờ.
Đức cha Bena ngỡ ngàng nhìn trong khi chiếc máy bay chạm xuống khu vực bên trong hàng rào thi công ở góc Tây Bắc của quần thể và giảm dần động cơ.
Khi gió và tiếng ồn lắng xuống, Đức cha Bena đứng ở cửa chính của Sagrada Familia và nhìn bốn bóng người ra khỏi máy bay, hối hả đi về phía ông. Hai người đằng trước có thể nhận ra ngay tức thì qua chương trình phát sóng tối nay - một là hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha, còn người kia là Giáo sư Robert Langdon. Theo sau họ là hai người đàn ông lực lưỡng trong bộ áo cộc có gắn phù hiệu chữ lồng.
Nhìn cảnh này, Langdon có vẻ chẳng hề bắt cóc Ambra Vidal. Khi vị giáo sư người Mỹ tiến lại, cô Vidal có vẻ ở bên cạnh ông ấy hoàn toàn theo ý cô ấy.
“Đức cha!” người phụ nữ gọi kèm cái vẫy tay thân thiện. “Xin thứ lỗi cho sự xâm nhập ồn ào của chúng con ở nơi thiêng liêng này. Chúng con cần nói chuyện với cha ngay. Rất quan trọng.”
Đức cha Bena mở miệng trả lời nhưng chỉ có thể gật đầu vì cái nhóm người không mời mà đến này đã đến trước mặt ông.
“Chúng con xin lỗi, thưa Đức cha,” Robert Langdon nói kèm một nụ cười khiến người khác nguôi giận. “Con biết tất cả việc này có vẻ rất lạ lùng. Cha biết chúng con là ai chứ?”
“Dĩ nhiên rồi,” ông gượng nói, “nhưng ta nghĩ…”
“Thông tin sai đấy,” Ambra nói. “Mọi thứ đều ổn, con bảo đảm với cha.”
Vừa lúc ấy, hai nhân viên an ninh canh bên ngoài hàng rào bao quanh chạy vội qua cánh cửa quay an ninh, hốt hoảng trước sự xuất hiện của chiếc trực thăng. Mấy người bảo vệ nhìn thấy Đức cha Bena và chạy băng về phía ông.
Ngay lập tức, hai người đàn ông mặc áo cộc đính chữ lồng xoay người và đối diện với họ, duỗi tay ra dấu hiệu quen thuộc “dừng lại.”
Mấy người bảo vệ dừng sững lại, thảng thốt, nhìn về Đức cha Beha chờ chỉ dẫn.
“¡Tot està bé!” Đức cha Beha hét lên bằng tiếng Catalan. “Tornin al seu lloc.” Mọi thứ ổn! Trở về vị trí của các con đi.
Đám bảo vệ nheo mắt nhìn nhóm người không mời mà đến, đầy vẻ do dự.
“Són els meus convidats,” Đức cha Bena lên tiếng, giờ rất kiên quyết. Họ là khách của ta. “Confio en la seva dỉscreció.” Ta trông cậy vào sự cẩn trọng của các con.
Mấy người bảo vệ bối rối rút lui qua lối cửa quay an ninh để tiếp tục tuần tiễu vành ngoài.
“Cảm ơn cha,” Ambra nói. “Con rất biết ơn.”
“Ta là Đức cha Joaquim Bena,” ông ấy nói. “Làm ơn cho ta biết chuyện này là thế nào.”
Robert Langdon bước tới và bắt tay Bena. “Đức cha Bena, chúng con đang tìm một cuốn sách hiếm thuộc sở hữu của nhà khoa học Edmond Kirsch.” Langdon chìa ra một tấm thẻ rất đẹp và đưa nó cho ông. “Tấm thẻ này cho biết cuốn sách đang cho nhà thờ này mượn.”
Mặc dù có phần sửng sốt trước sự xuất hiện đầy kịch tính của nhóm người này nhưng Đức cha Bena nhận ra tấm thẻ bằng ngà ngay lập tức. Một bản sao y hệt của tấm thẻ này đi kèm với cuốn sách mà Kirsch đã trao cho ông vài tuần trước.
Tuyển tập William Blake.
Điều kiện về khoản quyên góp lớn của Edmond dành cho Sagrada Familia là cuốn sách của Blake được trưng bày tại hầm mộ của vương cung thánh đường.
Một đề nghị kỳ lạ, nhưng là một cái giá rất nhỏ phải trả.
Một yêu cầu thêm nữa của Kirsch - ghi rõ ở mặt sau tấm thẻ lanh - là cuốn sách luôn mở sẵn ở trang 163.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 66


Gần tám kilomet về phía Tây Bắc Sagrada Familia, Đô đốc Ávila đăm đăm nhìn qua kính chắn gió chiếc Uber về phía vùng ánh đèn thành phố trải rộng, lấp lánh trên nền tối của Biển Balearic xa hơn nữa.
Cuối cùng cũng tới Barcelona, viên sĩ quan hải quân già nghĩ bụng, rút điện thoại ra và gọi cho Nhiếp chính vương, như đã hứa.
Nhiếp chính vương trả lời ngay hồi chuông đầu tiên. “Đô đốc Ávila. Ngài ở đâu?”
“Vài phút bên ngoài thành phố.”
“Ngài đến đúng giờ đây. Ta vừa nhận được tin đáng ngại.”
“Xin cứ nói với tôi.”
“Ngài đã xử lý rất tốt phần đầu con rắn. Tuy nhiên, đúng như chúng ta e ngại, cái đuôi dài vẫn đang quẫy đạp rất nguy hiểm.”
“Tôi giúp được bằng cách nào đây?” Ávila hỏi.
Khi Nhiếp chính vương nói ra những mong muốn của mình, Ávila rất ngạc nhiên. Ông ta không hình dung được rằng buổi tối nay lại dẫn đến việc có thêm tổn thất sinh mạng nào nữa, nhưng ông ta không định chất vấn Nhiếp chính vương. Ta không còn là một người lính bộ binh nữa, ông ta tự nhủ.
“Nhiệm vụ này sẽ rất nguy hiểm,” Nhiếp chính vương nói. “Nếu ngài bị bắt, hãy cho giới chức thấy cái biểu tượng trên bàn tay. Ngài sẽ được trả tự do ngay. Chúng ta có ảnh hưởng ở mọi nơi.”
“Tôi không có ý định để bị bắt,” Ávila nói, liếc nhìn hình xăm.
“Tốt lắm,” Nhiếp chính vương nói bằng giọng vô hồn đến kỳ lạ. “Nếu mọi việc theo đúng kế hoạch, chẳng mấy nữa cả hai bọn họ sẽ chết, và toàn bộ việc này sẽ kết thúc.”
Kết nối ngắt.
Trong sự im ắng đột ngột, Ávila ngước mắt nhìn điểm sáng nhất ở chân trời - một nhóm tháp hình thù kỳ dị gớm ghiếc sáng rực nhờ những ngọn đèn công trường.
Sagrada Familia, ông ta nghĩ, cảm thấy khó chịu trước cái bóng đen kỳ dị. Một đền thờ mang tất cả những gì không đúng với tín điều của chúng ta.
Ávila tin rằng, tòa nhà thờ trứ danh của Barcelona là một công trình của sự yếu đuối và đứt gãy về đạo đức - một sự đầu hàng trước thứ Công giáo tự do chủ nghĩa, trâng tráo bóp méo và xuyên tạc tín điều đã hàng nghìn năm tuổi thành một thứ lai căng dị dạng giữa tôn thờ thiên nhiên, giả khoa học và dị giáo Ngộ đạo.
Có những con thằn lằn khổng lồ đang bò lên nhà thờ của Đức Chúa!
Sự đứt gãy truyền thông trên thế giới khiến Ávila sợ hãi, nhưng ông ta cảm thấy phấn chấn bởi sự xuất hiện của một nhóm thủ lĩnh thế giới mới rõ ràng cùng chung những lo lắng với ông ta và đang làm mọi cách để phục hồi lại truyền thống. Việc Ávila cống hiến cho Giáo hội Palmaria và đặc biệt cho Giáo hoàng Innocent XIV, đem lại cho ông ta một lý do mới để sống, giúp ông ta thấy được bi kịch của chính mình qua một lăng kính hoàn toàn mới mẻ.
Vợ và con ta là tổn thất của chiến tranh, Ávila nghĩ, một cuộc chiến do những thế lực của quỷ dữ phát động chống lại Chúa, chống lại truyền thống. Sự tha thứ không phải là con đường duy nhất dẫn tới cứu rỗi.
Năm đêm trước, Ávila còn ngủ trong căn hộ khiêm nhường của mình thì bị đánh thức bởi tiếng kêu rất lớn báo hiệu có tin nhắn gửi đến điện thoại di động của mình. “Nửa đêm rồi,” ông ta càu nhàu, kèm nhèm nheo mắt nhìn màn hình để xem ai liên hệ với mình giờ này.
Số ẩn.
Ávila giụi mắt và đọc tin nhắn gửi đến.
Compruebe su saldo bancario
Kiểm tra số dư tài khoản của ngài?
Lúc này, Ávila cau mày, cảm thấy nghi ngờ lại là một dạng âm mưu tiếp thị qua điện thoại gì đó. Ông ta bực bội chui ra khỏi giường và đi ra bếp để lấy một cốc nước. Lúc đứng bên bồn nước, ông ta liếc nhìn máy tính của mình, biết rằng rất có thể mình sẽ không thể ngủ trở lại được nữa cho tới khi nào kiểm tra thử.
Ông ta truy cập vào trang web ngân hàng của mình, cứ đinh ninh rằng sẽ thấy số dư ít ỏi như thường lệ - số tiền lương hưu quân đội của ông ta. Thế nhưng, khi thông tin tài khoản của ông ta xuất hiện, ông ta đứng bật dậy đột ngột đến mức làm một chiếc ghế đổ kềnh.
Nhưng không thể như thế!
Ông ta nhắm mắt lại rồi nhìn lần nữa. Sau đó, ông ta khởi động lại màn hình.
Con số vẫn thế.
Ông ta lập bập tìm con chuột, chạy xuống mục hoạt động tài khoản, và sững sờ khi thấy rằng một khoản tiền gửi ẩn danh giá trị 100.000 euro vừa được chuyển vào tài khoản của mình một tiếng trước. Nguồn gửi được đánh số và không truy vết được.
Ai làm việc này chứ?!
Tiếng điện thoại di động rung lên khiến tim Ávila đập nhanh hơn. Ông ta vớ lấy điện thoại và nhìn số người gọi đến.
Số ẩn.
Ávila đăm đăm nhìn chiếc điện thoại và sau đó nhận cuộc gọi. “¡Sí?”
Một giọng nói nhẹ nhàng đáp lại bằng tiếng Tây Ban Nha vùng Castile. “Chúc một buổi tối tốt lành, ngài Đô đốc. Tôi tin ngài vừa thấy món quà chúng tôi gửi ngài?”
“Tôi… vừa,” ông ta lắp bắp. “Ông là ai?”
“Ngài có thể gọi ta là Nhiếp chính vương,” giọng nói trả lời. “Ta đại diện cho các đạo hữu của ngài, những thành viên của giáo hội mà ngài đã tham gia hai năm qua. Những kỹ năng và lòng trung thành của ngài không hề không được biết đến, Đô đốc. Giờ chúng ta sẽ cho ngài cơ hội để phục vụ một mục đích cao cả hơn. Đức Giáo hoàng đã nêu một số nhiệm vụ cho ngài… những nhiệm vụ được Chúa gửi tới ngài.”
Giờ Ávila hoàn toàn tỉnh táo, hai bàn tay vã mồ hôi.
“Tiền chúng ta gửi ngài là khoản ứng trước cho nhiệm vụ đầu tiên của ngài,” giọng nói tiếp tục. “Nếu ngài chọn thực hiện nhiệm vụ, hãy coi đó là cơ hội để chứng tỏ ngài xứng đáng có một vị trí trong hàng ngũ cao nhất của chúng ta.” Giọng nói ngừng lại. “Có một hệ thống cấp bậc rất quyền lực trong giáo hội của chúng ta mà thế giới không nhìn thấy. Chúng ta tin ngài sẽ là một nhân vật có giá trị ở nhóm đầu trong tổ chức của chúng ta.”
Mặc dù đầy phấn khích trước viễn cảnh thăng tiến, Ávila vẫn cảm thấy đề phòng. “Nhiệm vụ là gì? Và sẽ sao nếu tôi chọn không thực hiện?”
“Ngài sẽ không bị phán xét gì cả, và ngài có thể giữ số tiền đó để đổi lại việc giữ bí mật. Như vậy nghe ổn chứ?”
“Nghe khá hào phóng.”
“Chúng ta mến ngài. Chúng ta muốn giúp ngài. Và rất thẳng thắn với ngài, ta muốn cảnh báo ngài rằng nhiệm vụ của giáo hoàng là việc khó.” Ông ngừng lại. “Nó có thể gây ra bạo lực.”
Cơ thể Ávila cứng đờ. Bạo lực ư?
“Đô đốc, các thế lực xấu xa đang trỗi dậy mạnh mẽ từng ngày. Chúa đang tham chiến, và cuộc chiến nào cũng có tổn thất. ''
Ávila vụt nhớ đến cảnh hãi hùng của vụ đánh bom đã giết chết gia đình mình. Ông ta rùng mình cố xua đi những ký ức tăm tối. “Tôi xin lỗi, tôi không biết liệu tôi có chấp nhận được một nhiệm vụ bạo lực hay không…”
“Giáo hoàng đích thân chọn ngài, Đô đốc,” Nhiếp chính vương thì thầm. “Người ngài sẽ nhắm tới trong nhiệm vụ này… là kẻ đã giết gia đình ngài.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 67


Nằm ở tầng trệt Hoàng cung Madrid, kho vũ khí là một hầm mái vòm rất đẹp với những bức tường màu thẫm cao được trang trí bằng những tấm thảm thêu lộng lẫy mô tả những trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Tây Ban Nha. Bao quanh phòng là một bộ sưu tập vô giá hơn một trăm bộ giáp chế tác thủ công, trong đó có cả chiến phục và “dụng cụ” của nhiều vị vua trong quá khứ. Bảy hình nộm ngựa cỡ như thật đứng ở trung tâm căn phòng, tạo dáng với đầy đủ trang bị lâm trận.
Đây là nơi họ quyết định cầm tù mình ư! Garza thắc mắc, nhìn khắp những món đồ chiến tranh bao quanh mình. Phải thừa nhận, kho vũ khí là một trong những phòng an ninh nhất cung điện, nhưng Garza ngờ rằng những người bắt giữ mình đã chọn cái buồng giam lịch sự này với hy vọng hăm dọa được ông. Đây chính là căn phòng mình đã được thuê.
Gần hai thập kỷ trước, Garza được dẫn vào căn phòng đường bệ này, nơi ông được phỏng vấn, kiểm tra và thẩm vấn kỹ trước khi được đề nghị đảm nhận công việc đứng đầu Cận vệ Hoàng gia.
Giờ đây chính những đặc vụ của Garza lại bắt giữ ông. Mình bị cáo buộc chủ mưu một vụ ám sát ư? Và cả mưu hại Giám mục nữa ư! Cái lôgic đằng sau những luận điệu nhằng nhịt đến mức Garza cũng không tài nào gỡ được.
Khi nói đến Cận vệ Hoàng gia, Garza là quan chức cao nhất trong cung, nghĩa là lệnh bắt giữ ông chỉ có thể đến từ một người… đích thân Hoàng tử Julián.
Valdespino đã đầu độc đầu tâm trí Hoàng tử chống lại mình, Garza nhận ra Giám mục vẫn luôn là nhân vật sống sót chính trị, và tối nay rõ ràng ông ta điên cuồng đến mức dàn dựng nước cờ truyền thông táo bạo và nguy hiểm này - một âm mưu liều lĩnh nhằm rửa sạch thanh danh của bản thân bằng cách bôi nhọ Garza. Và giờ họ nhốt mình trong kho vũ khí để mình không thể biện hộ cho bản thân.
Nếu Julián và Valdespino hợp lực, Garza biết mình sẽ thua, hoàn toàn bị thất thế. Đến thời điểm này, người duy nhất trên đời này có đủ sức mạnh để giúp Garza là một ông già đang sống nốt những ngày cuối cùng trên một giường bệnh trong khu tư gia tại Cung điện Zarzuela.
Đức vua Tây Ban Nha.
Mà trái lại, Garza nhận ra rằng, Hoàng thượng sẽ không bao giờ giúp mình nếu làm vậy đồng nghĩa với việc làm khó cho Giám mục Valdespino hoặc chính con trai ngài.
Ông ấy nghe rõ đám đông bên ngoài lúc này đang đồng thanh hô vang, nghe như mọi việc có thể sẽ chuyển sang bạo lực. Khi Garza nhận ra những lời họ đang hô, ông ấy không tin vào tai mình.
“Tây Ban Nha từ đâu đến?!” họ hô to. “Tây Ban Nha đang đi về đâu?!”
Có vẻ là những người biểu tình đã vớ lấy hai câu hỏi đầy kích thích của Kirsch như một cơ hội để lên tiếng về tương lai chính trị của vương quyền Tây Ban Nha.
Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu?
Lên án tình trạng đàn áp của quá khứ, thế hệ trẻ Tây Ban Nha không ngừng kêu gọi thay đổi nhanh hơn nữa - thúc giục đất nước mình “hòa nhập với thế giới văn minh” với tư cách một nền dân chủ trọn vẹn và bãi bỏ chế độ quân chủ. Pháp, Đức, Nga, Áo, Ba Lan và hơn năm mươi quốc gia khác đã từ bỏ vương vị của họ trong thế kỷ qua. Thậm chí ở Anh đã có sự thúc giục tổ chức trưng cầu dân ý về việc chấm dứt chế độ quân chủ sau khi đương kim nữ hoàng tạ thế.
Rất tiếc, tối nay, Hoàng cung Madrid lại ở trong tình trạng hỗn loạn, vì thế không có gì lạ khi nghe thấy tiếng hô lâm trận xưa cũ này lại được xướng lên.
Chỉ là những gì cần cho Hoàng tử Julián, Garza nghĩ thầm, khi ông ấy chuẩn bị bước lên ngai vàng.
Cánh cửa phía cuối kho vũ khí đột nhiên lạch xạch mở và một đặc vụ Cận vệ của Garza ngó vào.
Garza quát anh ta, “Ta cần một luật sư!”
“Còn tôi muốn một tuyên bố với báo chí,” giọng nói quen thuộc của Mónica Martin quát lại khi cô nhân viên điều phối quan hệ công chúng của hoàng cung bước vòng qua người lính và tiến vào phòng. “Tư lệnh Garza, tại sao ông thông đồng với những kẻ sát hại Edmond Kirsch?”
Garza trân trân nhìn cô ấy không tin nổi. Mọi người điên hết cả rồi sao?
“Chúng tôi biết ông mưu hại Giám mục Valdespino!” Martin tuyên bố, sải bước về phía ông ấy. “Và hoàng cung muốn công bố lời thú tội của ông ngay bây giờ!”
Vị tư lệnh không trả lời.
Đi được nửa phòng, Martin đột ngột xoay lại, trừng trừng nhìn anh chàng đặc vụ trẻ tuổi ở ngưỡng cửa. “Tôi nói là một lời thú tội riêng tư!”
Anh chàng đặc vụ tỏ vẻ do dự khi bước lùi lại và đóng cửa.
Martin lại xoay về phía Garza và đi nhanh nốt quãng còn lại. “Tôi muốn một lời thú tội ngay!” cô ấy hét lên, giọng cô dội lại từ vòm trần khi đến thẳng trước mặt ông ấy.
“Chà, cô sẽ không có được lời nào từ tôi,” Garza bình thản trả lời. “Tôi chẳng có gì liên quan tới chuyện này cả. Những cáo buộc của cô hoàn toàn sai trái.”
Martin bồn chồn liếc qua vai. Sau đó, cô ấy bước lại gần hơn, thì thầm vào tai Garza. “Tôi biết… tôi cần ngài nghe cho kỹ đây.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 68


Đang theo dõi ↑ 2747%
ConspiracyNet.com
TIN NÓNG
VỀ CÁC GIÁO HOÀNG ĐỐI CỬ… NHỮNG BÀN TAY CHẢY MÁU… VÀ NHỮNG ĐÔI MẮT BỊ KHÂU KÍN…

Những câu chuyện lạ lùng ngay trong Giáo hội Palmaria.
Các nội dung đăng tải từ các nhóm tin Thiên Chúa giáo trực tuyến lúc này xác nhận rằng Đô đốc Luis Ávila là một thành viên tích cực của Giáo hội Palmaria, tham gia đã được vài năm.
Là một người ủng hộ “có danh vọng” của Giáo hội, đô đốc hải quân Luis Ávila liên tục ca ngợi giáo hoàng Palmaria vì đã “cứu vớt cuộc đời ông ta” sau giai đoạn suy sụp nặng nề do mất gia đình trong một vụ tấn công khủng bố bài Thiên Chúa giáo.
Vì chính sách của ConspiracyNet là không bao giờ ủng hộ hay quy kết các thiết chế tôn giáo nên chúng tôi đăng tải hàng chục đường dẫn ngoài về Giáo hội Palmaria ở đây.
Chúng tôi thông tin. Quý vị quyết định.
Xin hãy chú ý, nhiều tuyên bố trên mạng liên quan đến Palmaria khá sốc và vì thế chúng tôi đề nghị quý vị - những người dùng của chúng tôi - giúp sàng lọc sự thật và sự bịa đặt.
Những “sự thật” dưới đây được gửi tới chúng tôi bởi người thông tin xuất sắc monte@iglesia.org, với thành tích tuyệt vời tối nay cho thấy rằng những sự thật này là chính xác, nhưng trước khi chúng tôi đưa tin như vậy, chúng tôi hy vọng một số người dùng của chúng tôi có thể cung cấp bằng chứng bổ sung mạnh mẽ để củng cố hoặc bác bỏ những nội dung đó.
“SỰ THẬT”
• Giáo hoàng Palmaria Clemente mất cả hai nhãn cầu trong một vụ tai nạn xe hơi năm 1976 và tiếp tục truyền đạo suốt một thập kỷ với hai mắt bị bưng kín.
• Giáo hoàng Clemente có dấu chúa trên cả hai bàn tay thường xuyên rỉ máu khi ông ấy thấy ảo cảnh.
• Vài giáo hoàng Palmaria là các sĩ quan của quân đội Tây Ban Nha với những lý tưởng mạnh mẽ theo phong trào ủng hộ Don Carlos.
• Các thành viên Giáo hội Palmaria bị cấm nói chuyện với gia đình mình và vài thành viên đã chết do suy dinh dưỡng hoặc bị bạo hành.
• Các tín đồ Palmaria bị cấm (1) đọc sách của các tác giả không phải tín đồ Palmaria, (2) tham dự các lễ cưới hoặc lễ tang gia đình trừ phi gia đình họ theo đạo Palmaria, (3) tới các bể bơi, bãi biển, các trận đấm bốc, các vũ trường, hoặc bất kỳ địa điểm nào trưng cây thông Giáng sinh hoặc hình ảnh Ông già Nô-en.
• Tín đồ Palmaria tin Kẻ thù của Chúa sinh vào năm 2000.
• Các nhà tuyển mộ của Palmaria hiện diện tại Hoa Kỳ, Canada, Đức, Áo và Ireland.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 69


Khi Langdon và Ambra theo Đức cha Bena tiến về phía cánh cửa bằng đồng đồ sộ của Sagrada Familia, Langdon thấy mình, như vẫn luôn vậy, lại lấy làm lạ trước những chi tiết vô cùng kỳ dị ở lối vào chính của nhà thờ này.
Cả một bức tường toàn mật mã, ông trầm ngâm, mắt nhìn hình in nổi bật trên các phiến kim loại nguyên khối sáng bóng. Nhô ra khỏi bề mặt là hơn tám nghìn chữ cái ba chiều rập nổi trên chất đồng. Các chữ cái chạy thành những hàng ngang, tạo ra cả một mảng lớn văn tự không hề có sự tách biệt rõ ràng giữa các từ. Mặc dù Langdon biết nội dung là một mô tả về cảnh chịu khổ hình của Đức Chúa viết bằng tiếng Catalan, nhưng có vẻ nó gần với một bộ khóa mật mã của Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ hơn.
Chả trách nơi này lại gợi cảm hứng cho các thuyết âm mưu.
Ánh mắt Langdon di chuyển lên trên, leo lên phần mặt tiền chủ đề chịu khổ hình đầy chất hăm dọa, nơi cả một đám tượng điêu khắc gày gò, hốc hác của nghệ sĩ Josep Maria Subirachs trừng trừng nhìn xuống, nổi bật là hình Chúa Jesus gầy đến hãi hùng bị treo lơ lửng trên cây thánh giá được bố trí đổ nghiêng về đằng trước, tạo ra hiệu ứng sợ hãi rằng nó sắp đổ ập xuống đầu các vị khách vừa tới.
Bên trái Langdon, một bức điêu khắc hắc ám nữa mô tả Judas phản bội Jesus bằng một nụ hôn. Hình điêu khắc này, khá lạ lùng, đi kèm với một hệ thống các con số chạm khắc - một “ma phương” toán học. Edmond từng kể với Langdon rằng “hằng số huyễn phương” với giá trị 33 của ô vuông này thực tế là một chứng cứ kín đáo cho thấy thái độ sùng kính có tính chất ngoại giáo của Hội Tam Điểm dành cho Kiến trúc sư Vĩ đại của Vũ trụ - một vị thần toàn năng với những bí mật được cho là chỉ hé lộ với những người đạt đến cấp độ 33 trong Hội.
“Một câu chuyện vui,” Langdon cười đáp, “nhưng Jesus vừa hay ba mươi ba tuổi vào thời điểm chịu khổ hình là một cách giải thích chắc chắn hơn đây.”
Khi họ đến gần lối vào, Langdon nhăn mặt nhìn cái phần trang trí kinh khủng nhất của nhà thờ - một bức tượng Jesus khổng lồ, bị trói chặt vào một cây cột bằng thừng. Ông nhanh chóng chuyển ánh nhìn tới dòng chữ khắc phía trên cánh cửa - hai chữ cái Hy Lạp - alpha và omega.
“Mở đầu và kết thúc,” Ambra thì thầm, mắt cũng nhìn các mẫu tự. “Rất Edmond.”
Langdon gật đầu, hiểu ngay ý nàng. Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu?
Đức cha Bena mở một cánh cửa nhỏ trên bức tường có các mẫu tự bằng đồng, và cả nhóm bước vào, kể cả hai đặc vụ Cận vệ. Đức cha Bena đóng cửa lại sau lưng họ.
Im lặng.
Bóng tối.
Ở đó, phía đầu Đông Nam của cung thờ bên, Đức cha Bena chia sẻ với họ một câu chuyện khiến người ta sửng sốt. Ông kể lại việc Kirsch tìm đến ông và đề nghị có một khoản quyên góp lớn cho Sagrada Familia đổi lại việc nhà thờ đồng ý trưng bày bản thảo có minh họa của Blake trong hầm mộ gần mộ Gaudi.
Ngay trung tâm nhà thờ này, Langdon nghĩ, sự tò mò của ông càng bị kích thích.
“Edmond có nói tại sao anh ấy lại muốn cha làm vậy không?” Ambra hỏi.
Đức cha Bena gật đầu. “Anh ta bảo ta rằng đam mê cả đời của anh ta với nghệ thuật của Gaudi đến từ người mẹ quá cố của anh ta, người cũng rất ngưỡng mộ tác phẩm của William Blake. Kirsch nói anh ta muốn đặt tập sách của Blake gần mộ của Gaudi như một lễ vật dâng lên người mẹ quá cố của mình. Với ta có vẻ việc đó không hại gì.”
Edmond chưa bao giờ đề cập việc mẹ cậu ấy thích Gaudi, Langdon nghĩ thầm, cảm thấy bối rối. Hơn nữa, bà Paloma Kirsch đã mất trong một nhà tu kín, và dường như không chắc là một nữ tu Tây Ban Nha lại ngưỡng mộ một thi sĩ Anh quốc không chính thống. Toàn bộ câu chuyện này có vẻ giống một sự phóng đại.
“Nhưng,” Đức cha Bena nói tiếp, “ta cảm thấy Kirsch có thể đang khổ sở trong một cuộc khủng hoảng tinh thần… và có lẽ có những vấn đề sức khỏe gì đó nữa.”
“Lời chú giải phía sau tấm thẻ này,” Langdon ngắt lời, giơ thẻ lên, “nói rằng cuốn sách của Blake phải được trưng bày theo cách riêng, mở đúng trang 163 phải không ạ?”
“Đúng, chính xác là thế.”
Langdon cảm thấy mạch đập rộn lên. “Cha có thể cho con biết trên trang đó là bài thơ nào không?”
Đức cha Bena lắc đầu. “Trang đó không có bài thơ nào cả.”
“Sao cơ ạ?!”
“Cuốn sách là tuyển tập của Blake - các tác phẩm nghệ thuật và tranh vẽ của ông ấy. Trang 163 là một hình minh họa.”
Langdon nhìn Ambra lo lắng. Chúng ta cần dòng thơ bốn mươi bảy mẫu tự - không phải một hình minh họa!
“Thưa cha,” Ambra nói với Bena. “Liệu chúng con có thể xem được ngay không?”
Vị tu sĩ ngần ngừ một lát, nhưng rõ ràng nghĩ không nên từ chối hoàng hậu tương lai. “Hầm mộ ở lối này,” ông nói, dẫn họ đi xuống cung thờ bên tới trung tâm nhà thờ. Hai đặc vụ Cận vệ Hoàng gia theo ngay sau họ.
“Ta phải thừa nhận,” Đức cha Bena nói, “ta rất do dự khi chấp thuận số tiền từ một người vô thần công khai như vậy, nhưng đề nghị của anh ta muốn trưng bày hình ảnh minh họa của Blake mà mẹ anh ta yêu thích dường như vô hại với ta - đặc biệt nó lại là một hình ảnh về Chúa.”
Langdon nghĩ mình nghe nhầm. “Cha vừa nói Edmond đề nghị cha trưng hình ảnh của Chúa à?”
Đức cha Bena gật đầu. “Ta cảm thấy anh ta bị bệnh và có lẽ đây là cách anh ta cố gắng sửa chữa lại cả một đời đối lập với tôn giáo.” Ông ngừng lại, lắc đầu. “Dù vậy, sau khi xem buổi thuyết trình của anh ta tối nay, ta phải thừa nhận rằng ta không biết nên nghĩ gì.”
Langdon cố gắng hình dung xem Edmond có thể muốn trưng hình nào trong vô số minh họa về Chúa của Blake.
Khi tất cả di chuyển vào điện thờ chính, Langdon cảm thấy như thể mình đang ngắm không gian này lần đầu tiên. Mặc dù đã tới thăm Sagrada Familia nhiều lần vào những giai đoạn xây dựng khác nhau của công trình, ông vẫn luôn tới vào ban ngày, khi mặt trời Tây Ban Nha rọi qua những ô kính màu, tạo nên những gam màu sặc sỡ và hút ánh mắt hướng lên trên, lên trên mãi, tới phần tán mái vòm dường như không trọng lượng.
Ban đêm, đây là một thế giới nặng nề hơn.
Khoảng rừng cây lốm đốm ánh nắng của vương cung thánh đường biến mất, chuyển hóa thành một khu rừng rậm lúc nửa đêm toàn bóng râm và khoảng tối - một khu u ám toàn những cột trụ có sọc duỗi dài lên trời thành một khoảng rỗng đầy hung hiểm.
“Chú ý bước chân nhé,” vị tu sĩ nói. “Chúng ta tiết kiệm tiền ở những chỗ có thể.”
Langdon biết, việc chiếu sáng cho những nhà thờ châu Âu đồ sộ thế này tiêu tốn cả một đống tiền, nhưng thiết bị chiếu sáng rất tiết kiệm ở đây vẫn soi rõ đường đi. Một trong những thử thách của một mặt bằng rộng gần năm nghìn sáu trăm mét vuông.
Khi họ tới chính điện trung tâm và rẽ trái, Langdon chăm chú nhìn phần sàn thực hiện nghi lễ được tôn cao phía trước. Bàn thờ là một chiếc bàn giản tiện đến mức tối thiểu đầy chất siêu hiện đại được giới hạn bằng hai cụm đàn ống lấp lánh. Cách bàn thờ bốn hoặc năm mét phía trên có treo bức trướng đặc biệt của nhà thờ - một kết cấu trần bằng vải treo lơ lửng hay là “tán nghi thức” - một biểu tượng của sự tôn kính lấy cảm hứng từ những tán dù nghi lễ đặt trên cán để tạo bóng râm cho vua chúa.
Hầu hết các tán dù giờ là những hạng mục kiến trúc vững chắc, nhưng Sagrada Familia lại lựa chọn chất liệu vải, trong trường hợp này là một cái tán hình chiếc ô như lơ lửng một cách kỳ ảo trong không trung phía trên bàn thờ. Bên dưới lớp vải, được treo bằng những sợi dây như một chiếc dù, là hình Chúa Jesus trên thập giá.
Jesus nhảy dù, Langdon từng nghe gọi như vậy. Giờ nhìn thấy lại, ông không ngạc nhiên khi nó trở thành một trong những chi tiết gây tranh cãi nhất của nhà thờ.
Khi Đức cha Bena hướng dẫn họ tiến vào khoảng tối càng lúc càng đặc quánh lại, Langdon gặp khó khăn vì chẳng nhìn thấy gì hết. Díaz móc một cây đèn bút ra và soi sáng phần nền nhà lát gạch bên dưới chân mọi người. Dần bước đi về phía lối vào hầm mộ, giờ Langdon nhận thấy phía trên ông cái bóng nhờn nhợt của một hình trụ cao ngất ngưởng vươn lên hàng chục mét theo bức tường bên trong nhà thờ.
Đường xoắn ốc Sagrada khét tiếng, ông nhận ra vậy, chưa bao giờ dám leo lên đó.
Cái đường ống gồm những bậc cầu thang xoáy tròn cao đến chóng mặt của Sagrada Familia từng xuất hiện trong danh sách “hai mươi cầu thang nguy hiểm nhất thế giới” của National Geographic, giành vị trí thứ ba, chỉ sau những bậc thang chênh vênh của Đền Angkor Wat ở Campuchia và các bậc đá rêu phong nơi vách đá tại thác nước Vạc Quỷ ở Ecuador.
Langdon nhìn vài bậc cầu thang đầu tiên, chạy xoắn ốc lên trên và biến mất trong bóng tối.
“Lối vào hầm mộ ngay phía trước,” Đức cha Bena nói, ra hiệu về phía những bậc thang dẫn tới một khoảng trống tối tăm bên trái bàn thờ. Khi họ dần bước tới trước, Langdon nhận ra một quầng sáng vàng nhàn nhạt dường như tỏa ra từ một cái lỗ trên sàn.
Hầm mộ.
Cả nhóm đến cửa một cầu thang uốn cong nhẹ nhàng, trang nhã.
“Hai vị,” Ambra nói với các cận vệ. “Cả hai anh ở lại đây. Chúng tôi sẽ quay lại ngay.”
Fonseca có vẻ khó chịu nhưng không nói gì.
Sau đó Ambra, Đức cha Bena và Langdon bắt đầu đi xuống phía có ánh sáng.

Đặc vụ Díaz cảm thấy mừng vì có được giây phút thanh bình khi anh nhìn ba bóng người biến mất bên dưới lối cầu thang uốn lượn. Sự căng thẳng ngày càng tăng giữa Ambra Vidal và Đặc vụ Fonseca đang trở nên phiền phức.
Các đặc vụ Cận vệ không quen với những lời hăm dọa sa thải từ những người họ bảo vệ - chỉ từ Tư lệnh Garza mà thôi.
Díaz vẫn cảm thấy hoang mang trước việc Garza bị bắt giữ. Thật lạ, Fonseca lại từ chối cho anh biết đích xác ai hạ lệnh bắt giữ này hay khơi mào câu chuyện bắt cóc giả mạo.
“Tình hình rất phức tạp,” Fonseca nói vậy. “Và để bảo vệ chính cậu, tốt hơn cả cậu chẳng nên biết làm gì.”
Vậy thì ai ra lệnh? Díaz băn khoăn. Hoàng tử chăng? Dường như rất đáng ngờ là Julián lại mạo hiểm sự an toàn của Ambra bằng việc lan truyền một câu chuyện bắt cóc không có thật. Hay là Valdespino? Díaz không dám chắc liệu Giám mục có tầm ảnh hưởng đó không.
“Tôi sẽ quay lại ngay,” Fonseca càu nhàu, và bỏ đi, nói rằng anh ta cần tìm nhà vệ sinh. Khi Fonseca lần vào bóng tối, Díaz nhìn thấy anh ta móc điện thoại ra, bấm một cuộc gọi và bắt đầu một cuộc trò chuyện âm thầm.
Díaz một mình đợi trong bóng tối của điện thờ, càng lúc càng cảm thấy không thoải mái với cách hành xử bí ẩn của Fonseca.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 70


Cầu thang xuống hầm mộ chạy xoắn ốc sâu xuống đất đến ba tầng nhà, uốn cong theo một vòng cung rộng và thanh nhã, trước khi dẫn Langdon, Ambra và Đức cha Dức cha Bena vào gian buồng dưới lòng đất.
Một trong những hầm mộ rộng nhất châu Âu, Langdon nghĩ, thấy ngưỡng mộ cái không gian hình tròn rộng lớn này. Chính xác như ông còn nhớ, lăng mộ ngầm dưới đất của Sagrada Familia có một nhà tròn cao và chứa đủ số ghế cho hàng trăm tín đồ. Những cây đèn dầu bằng vàng được bố trí cách đều xung quanh chu vi gian phòng soi sáng phần sàn tranh gốm ghép thành hình các cây leo, rễ, cành, lá và những hình ảnh khác từ thiên nhiên.
Một hầm mộ là không gian “được giấu kín” theo đúng nghĩa, và Langdon thấy gần như không thể hiểu được tại sao Gaudi lại che giấu thành công một căn phòng lớn như thế này bên dưới nhà thờ. Nơi này chẳng có gì giống “hầm mộ nghiêng” của Gaudi ở Colònia Güell, không gian này là một gian buồng theo trường phái tân Gothic khắc khổ với những cây cột tạo hình lá, những vòm cung nhọn và những mái vòm được tô điểm. Không khí tĩnh lặng như chết và thoang thoảng mùi trầm.
Dưới chân cầu thang, một hốc tường sâu chạy dài về bên trái. Phần nền bằng sa thạch nhàn nhạt của nó đỡ một khối màu xám khiêm nhường, đặt nằm ngang, có những ngọn đèn bao quanh.
Là ông ấy, Langdon nhận ra vậy, mắt đọc dòng chữ khắc.
ANTONIUS GAUDÍ
Lúc Langdon đưa mắt nhìn một lượt nơi an nghỉ của Gaudi, ông lại cảm nhận được nỗi đau mất Edmond. Ông ngước mắt nhìn bức tượng Đức mẹ Đồng trinh Mary phía trên mộ, có phần bệ mang một biểu tượng không mấy quen thuộc.
Gì thế này?
Langdon nhìn cái biểu tượng lạ lùng.

Image
Rất hiếm khi Langdon nhìn thấy một biểu tượng mà ông không tài nào nhận ra. Trong trường hợp này, cái biểu tượng là chữ cái Hy Lạp lambda… mà, theo kinh nghiệm của ông, không xuất hiện trong hệ thống biểu tượng Thiên Chúa giáo. Lambda là một biểu tượng khoa học, rất quen thuộc trong các lĩnh vực tiến hóa, vật lý phân tử và vũ trụ học. Kỳ lạ hơn nữa, nhô lên trời từ đỉnh của cái chữ lambda đặc biệt này là một thập giá Thiên Chúa giáo.
Tôn giáo được khoa học ủng hộ chăng? Langdon chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.
“Thấy khó hiểu với cái biểu tượng phải không?” Đức cha Bena hỏi, đến bên cạnh Langdon. “Anh không phải người duy nhất đâu. Nhiều người đã hỏi về nó. Nó chẳng là gì hơn một cách diễn giải độc đáo của chủ nghĩa hiện đại cho cây thập giá trên đỉnh núi thôi mà.”
Langdon nhích về phía trước, giờ nhìn thấy những ngôi sao mạ vàng mờ mờ đi kèm với biểu tượng.
Image
Ba ngôi sao ở vị trí đó, Langdon nghĩ thầm, nhận ra ngay lập tức. Thập giá trên đỉnh Núi Carmel. “Đó là thập giá Carmelite.”
“Chính xác. Xác Gaudi nằm bên dưới Đức Trinh nữ Mary Diễm phúc Núi Carmel.”
“Gaudi là một Carmelite1 ư?” Langdon thấy khó hình dung được vị kiến trúc sư theo chủ nghĩa hiện đại lại gia nhập cách diễn giải nghiêm ngặt về Công giáo của huynh đoàn thế kỷ XII này.
1 Dòng Anh em Đức Trinh nữ Mary Diễm phúc núi Cát Minh, thường gọi tắt là 'Dòng Cát Minh” hay “dòng Kín”, là một dòng tu Công giáo, được cho là do Thánh Albert sáng lập từ thế kỷ thứ XII trên núi Carmel (Israel). Dòng tu này chủ trương sống đời sống trung thành với Đức Chúa, qua lời cam kết kiếm tìm Thiên Chúa hằng sống qua đời sống chiêm nghiệm và cầu nguyện, đời sống huynh đệ cộng đoàn và đời sống phục vụ tha nhân.
“Chắc chắn là không rồi,” Đức cha Bena cười trả lời. “Nhưng những người chăm sóc ông ấy thì đúng. Một nhóm các nữ tu Carmelite sống cùng với Gaudi và chăm sóc ông ấy suốt những năm cuối đời. Họ tin ông ấy cũng sẽ biết ơn việc được thăm viếng khi đã tạ thế và họ tạo ra món quà hào phóng của nhà nguyện này.”
“Rất sâu sắc,” Langdon nói, tự trách mình đã hiểu sai một biểu tượng vô hại như vậy. Rõ ràng, tất cả những thuyết âm mưu lưu hành tối nay đều khiến Langdon bắt đầu nghĩ ra những hồn ma từ không đâu.
“Có phải đó là cuốn sách của Edmond không nhỉ?” Ambra đột nhiên lên tiếng.
Cả hai người đàn ông cùng quay lại nhìn nàng ra hiệu về khoảng tối bên phải mộ Gaudi.
“Phải rồi,” Đức cha Bena trả lời. “Ta rất tiếc là ánh sáng hơi kém.”
Ambra vội vã đi về phía hòm trưng bày, Langdon theo sau, nhận thấy rằng cuốn sách đã được chuyển tới một khu vực tối tăm của hầm mộ, bị khuất bóng bởi những cây cột chống đồ sộ bên phải mộ Gaudi.
“Bình thường chúng ta bày các cuốn sách thông tin mỏng ở đó,” Đức cha Bena nói, “nhưng ta chuyển tất cả đi chỗ khác để nhường chỗ cho cuốn sách của Kirsch. Dường như chẳng ai chú ý cả.”
Langdon nhanh chóng nhập bọn với Ambra bên một chiếc hòm giống chiếc tủ cốc có phần nóc bằng kính đặt nghiêng. Bên trong, đặt mở sẵn đến trang 163 và không dễ nhìn lắm trong thứ ánh sáng tù mù, là bản sách Tuyển tập William Blake rất lớn được đóng cẩn thận.
Đúng như Đức cha Bena đã thông báo với họ, trang sách được đề cập không phải là một bài thơ, đúng hơn là một hình minh họa của Blake. Langdon cứ thắc mắc không biết sẽ thấy hình ảnh nào của Blake minh họa Chúa, nhưng chắc chắn không phải là hình này.
Bức Thời xa xưa1, Langdon nghĩ, nheo mắt nhìn bức tranh khắc màu nước nổi tiếng năm 1794 của Blake qua bóng tối.
1 The Ancient of Days
Langdon rất ngạc nhiên vì Đức cha Bena lại gọi đây là một “hình ảnh của Chúa.” Phải thừa nhận, hình minh họa này có vẻ mô tả Đức Chúa nguyên mẫu - một ông già nhăn nheo, có râu với mái tóc bạc trắng, ngồi chênh vênh trên mây và với tay từ trên trời xuống - nhưng chỉ cần Đức cha Bena nghiên cứu thêm một chút nó sẽ tiết lộ điều hoàn toàn khác. Thực tế, nhân vật này không phải là Đức Chúa của Thiên Chúa giáo mà đúng hơn là một vị thần tên gọi Urizen - vị thần được nghĩ ra từ trí tưởng tượng phong phú của chính Blake - được mô tả ở đây là đang đo các khoảng trời bằng một chiếc com pa hình học khổng lồ, thể hiện sự kính trọng đối với các quy luật khoa học của vũ trụ.
Tác phẩm này có phong cách vị lai chủ nghĩa đến mức, nhiều thế kỷ sau, nhà vật lý vô thần nổi tiếng Stephen Hawking chọn nó làm áo bìa cho cuốn sách Chúa tạo ra các số nguyên2 của mình. Thêm vào đó, đấng tạo hóa không chịu ảnh hưởng thời gian của Blake còn nhìn xuống từ Trung tâm Rockefeller tại Thành phố New York, nơi nhà hình học cổ xưa đăm đăm nhìn xuống từ một bức điêu khắc phong cách Art Deco có tiêu đề Trí tuệ, Ánh sáng và Âm thanh3.
2God Created the Integers
3Wisdom, Light, and Sound

Langdon nhìn cuốn sách của Blake, lại băn khoăn không rõ tại sao Edmond tốn công sức như vậy để đem trưng bày nó ở đây. Phải chăng là sự hận thù thuần túy? Một cái tát vào mặt Nhà thờ Thiên Chúa giáo?
Cuộc chiến của Edmond chống lại tôn giáo chưa bao giờ giảm sút, Langdon nghĩ, ngắm nhìn nhân vật Urizen của Blake. Sự giàu có đã giúp Edmond đủ khả năng làm được bất kỳ việc gì anh ấy thích trong đời, kể cả nếu như thế nghĩa là trưng bày thứ nghệ thuật báng bổ ngay trung tâm một nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Giận dữ và thù hận, Langdon nghĩ bụng. Có lẽ chỉ đơn giản là vậy. Edmond, dù đúng hay sai, vẫn luôn đổ lỗi cái chết của mẹ anh là do tôn giáo có tổ chức.
“Dĩ nhiên, ta hoàn toàn nhận thức được rằng,” Đức cha Bena nói, “bức tranh này không phải là Đức Chúa Thiên Chúa giáo.”
Langdon ngạc nhiên quay sang vị tu sĩ già. “Ồ?”
“Phải, Edmond khá thẳng thắn về chuyện đó, mặc dù anh ta không cần phải vậy - ta rất quen với những ý tưởng của Blake.”
“Và cha không gặp vấn đề gì khi trưng bày cuốn sách?”
“Thưa giáo sư,” vị tu sĩ thì thào, thoáng mỉm cười. “Đây là Sagrada Familia. Trong những bức tường này, Gaudi hòa trộn Chúa, khoa học và tự nhiên. Chủ đề của bức tranh này chẳng có gì mới với chúng ta.” Đôi mắt ông ấy hấp háy một cách khó hiểu. “Không phải tất cả tăng lữ của chúng ta đều tiến bộ như ta, như các con đã biết, với tất cả chúng ta, Thiên Chúa giáo vẫn là một thứ đang tiến bộ.” Ông ấy khẽ mỉm cười, gật đầu về phía cuốn sách. “Ta chỉ thấy mừng rằng Kirsch đồng ý không trưng bày tấm danh thiếp của anh ta cùng cuốn sách. Với danh tiếng của anh ta, ta không chắc mình sẽ giải thích thế nào về chuyện đó, đặc biệt sau bài thuyết trình của anh ta tối nay.” Đức cha Bena ngừng lại, gương mặt ông đượm buồn. “Tuy nhiên, ta cảm thấy bức hình này không phải là những gì các con hy vọng tìm được phải không?”
“Cha nói đúng. Chúng con đang tìm một dòng thơ của Blake.”
“Tyger Tyger, burning bright'?” Đức cha Bena gợi ý. “ 'In the forests of the night'?”
Langdon mỉm cười, thấy ấn tượng là Đức cha Bena biết cả câu đầu tiên trong bài thơ nổi tiếng nhất của Blake - một sự thắc mắc mang tính tôn giáo gồm sáu khổ thơ đặt câu hỏi liệu có phải người tạo ra giống cừu ngoan ngoãn cũng chính là Đức Chúa đã tạo ra loài hổ đáng sợ.
“Đức cha Bena?” Ambra hỏi, khom người xuống và chăm chú nhìn qua lớp kính. “Cha có mang theo điện thoại hay đèn pin không?”
“Không, ta rất tiếc. Để ta mượn một ngọn đèn từ chỗ mộ Antoni nhé?”
“Nếu có thể, thưa cha?” Ambra đề nghị. “Như thế sẽ rất hữu dụng.”
Đức cha Bena hối hả bước đi.
Ngay khi ông ấy rời đi, nàng khẩn trương thì thào với Langdon, “Anh Robert! Edmond không chọn trang 163 vì bức vẽ đâu!”
“Ý cô là sao?” Chẳng còn gì khác trên trang 163.
“Đó là một sự ngụy trang khéo léo.”
“Cô làm tôi hoang mang đây,” Langdon nói, nhìn kỹ bức tranh.
“Edmond chọn trang 163 vì không thể trưng ra trang đó mà lại không đồng thời trưng ra trang bên cạnh - trang 162!”
Langdon đưa ánh mắt sang trái, xem xét trang ngay trước bức Ngày xa xưa. Trong thứ ánh sáng tù mù, ông không nhận ra được gì nhiều trên trang đó, ngoại trừ có vẻ như nó gồm toàn văn bản viết tay nhỏ xíu.
Đức cha Bena trở lại cùng với một ngọn đèn và đưa nó cho Ambra. Nàng giơ nó lên phía trên cuốn sách. Khi quầng sáng tỏa ra khắp cuốn sách mở rộng, Langdon hít một hơi thảng thốt.
Trang đối diện thực tế toàn chữ - viết bằng tay, như tất cả các bản thảo gốc của Blake - lề của nó được trang trí bằng những hình vẽ, khung và rất nhiều nhân vật. Thế nhưng, quan trọng nhất, phần văn bản trên trang đó có vẻ được thiết kế thành những khổ thơ rất trang nhã.

Ngay phía trên đầu trong điện thờ chính, Đặc vụ Díaz đi đi lại lại trong bóng tối, thắc mắc không rõ đồng đội mình ở đâu.
Lẽ ra giờ này Ponseca phải quay lại rồi chứ.
Khi điện thoại trong túi anh bắt đầu rung, anh nghĩ có lẽ là Fonseca gọi mình, nhưng khi kiểm tra người gọi đến, Díaz thấy một cái tên anh không ngờ được.
Mónica Martin
Anh không hình dung được chuyên gia điều phối quan hệ công chúng muốn gì, nhưng cho dù là gì thì cô ấy cũng sẽ gọi thẳng cho Fonseca. Anh ấy là đặc vụ trưởng nhóm này mà.
“Xin chào,” anh trả lời. “Tôi - Díaz đây.”
“Đặc vụ Díaz, tôi là Mónica Martin. Ở đây tôi có người cần nói chuyện với anh.”
Một lúc sau, một giọng nói quen thuộc mạnh mẽ vang lên. “Đặc vụ Díaz, tôi là Tư lệnh Garza. Hãy khẳng định với tôi rằng cô Vidal vẫn an toàn.”
“Vâng, thưa Tư lệnh,” Díaz thốt lên, cảm thấy mình bỗng hết sức chăm chú khi nghe thấy giọng Garza. “Cô Vidal rất an toàn. Đặc vụ Fonseca và tôi hiện đang ở cùng cô ấy và rất an toàn bên trong…”
“Đừng nói trên đường điện thoại mở,” Garza ngắt lời. “Nếu cô ấy ở một nơi an toàn, hãy giữ cô ấy ở đó. Đừng di chuyển. Tôi mừng được nghe giọng cậu. Chúng tôi đã cố gắng điện cho Đặc vụ Fonseca, nhưng không nghe trả lời. Cậu ta ở chỗ cậu không?”
“Vâng, thưa sếp. Anh ấy vừa đi thực hiện một cuộc gọi nhưng sẽ quay lại…”
“Tôi không có thời gian chờ đợi. Hiện tại tôi đang bị giam giữ, và cô Martin cho tôi mượn điện thoại của cô ấy. Nghe kỹ tôi nói đây. Câu chuyện bắt cóc, như các cậu biết rõ, là hoàn toàn giả mạo. Nó khiến cô Vidal gặp nguy hiểm lớn.”
Ngài không biết gì rồi, Díaz nghĩ, nhớ lại cảnh tượng hỗn loạn trên nóc Casa Milà.
“Tương tự cái tin tôi mưu hại Giám mục Valdespino cũng không đúng.”
“Tôi đã mường tượng rất nhiều, thưa sếp, nhưng…”
“Cô Martin và tôi đang cố gắng nghĩ cách nào tốt nhất để xử lý tình hình này, nhưng cho tới khi chúng tôi làm được, các cậu cần giữ hoàng hậu tương lai tránh khỏi mắt công chúng. Rõ chứ?”
“Dĩ nhiên, thưa sếp. Nhưng ai đã ban lệnh ra?”
“Tôi không thể nói được với cậu việc đó qua điện thoại. Cứ làm như tôi đề nghị, và giữ Ambra Vidal tránh khỏi truyền thông và mọi nguy hiểm. Cô Martin sẽ cung cấp thông tin diễn biến tiếp theo cho các cậu.”
Garza ngắt máy và Díaz đứng một mình trong bóng tối, cố gắng lĩnh hội cuộc gọi.
Khi anh thò tay vào trong áo để nhét điện thoại trở lại túi, anh nghe thấy tiếng vải sột soạt phía sau. Khi anh quay lại, hai bàn tay nhợt nhạt hiện ra trong bóng tối và nện mạnh xuống đầu Díaz.
Với tốc độ cực nhanh, hai bàn tay siết chặt lấy một bên cổ anh.
Díaz cảm thấy cổ mình bị bóp nghẹt và một luồng hơi nóng bỏng rát bùng lên trong sọ anh.
Sau đó, tất cả tối đen.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 71


ConspiracyNet.com
TIN NÓNG
HY VỌNG MỚI VỀ PHÁT HIỆN CHẤN ĐỘNG CỦA KIRSCH!

Chuyên gia điều phối quan hệ công chúng của hoàng cung Madrid, Mónica Martin, đã có thông báo chính thức lúc trước nói rằng hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha Ambra Vidal bị bắt cóc và đang bị giữ bởi vị giáo sư người Mỹ Robert Langdon. Hoàng cung yêu cầu giới chức can thiệp và tìm hoàng hậu.
Tổ chức giám sát dân sự monte@iglesia.org vừa gửi cho chúng tôi tuyên bố sau đây:
LUẬN ĐIỆU BẮT CÓC CỦA HOÀNG CUNG LÀ GIẢ MẠO 100% - MỘT ÂM MƯU NHẰM SỬ DỤNG CẢNH SÁT ĐỊA PHƯƠNG ĐỂ NGĂN LANGDON ĐẠT ĐƯỢC MỤC TIÊU TẠI BARCELONA (LANGDON/VIDAL TIN HỌ VẪN CÓ THỂ TÌM ĐƯỢC CÁCH KÍCH HOẠT VIỆC CÔNG BỐ VỚI CẢ THẾ GIỚI PHÁT HIỆN CỦA KIRSCH). NẾU HỌ THÀNH CÔNG, BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA KIRSCH CÓ THỂ XUẤT HIỆN BẤT KỲ LÚC NÀO. HÃY GIỮ KÊNH.
Thật khó tin! Và quý vị nghe thấy tin này tại đây đầu tiên - Langdon và Vidal bỏ trốn vì họ muốn kết thúc những gì Edmond Kirsch đã mở đầu! Hoàng cung có vẻ điên cuồng ngăn chặn họ. (Lại là Valdespino chăng? Và Hoàng tử ở đâu trong toàn bộ vụ này?)
Sẽ có thêm tin khi chúng tôi nhận được, nhưng xin hãy giữ kênh bởi vì những bí mật của Kirsch vẫn có thể được tiết lộ tối nay!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 72


Hoàng tử Julián đăm đăm nhìn ra ngoài chiếc xe Opel của thầy tu trẻ, ngắm cảnh nông thôn vùn vụt trôi qua và cố gắng lý giải cách hành xử kỳ lạ của Giám mục.
Valdespino đang che giấu gì đó.
Đã hơn một tiếng kể từ lúc Giám mục lén dẫn Julián ra khỏi cung điện - một hành động rất bất thường - trấn an chàng rằng việc đó là vì sự an toàn của chính chàng.
Ông ta đề nghị mình không hỏi… chỉ tin theo thôi.
Giám mục vẫn luôn như một người chú đối với chàng, và là một người bạn tâm giao tin cậy của cha Julián. Nhưng đề nghị của Valdespino về việc lánh mặt tới khu nhà nghỉ mùa hè của Hoàng tử nghe rất đáng ngờ với Julián ngay từ đầu.
Có gì đó không ổn. Mình đang bị cách ly - không điện thoại, không an ninh, không tin tức và không ai biết mình ở đâu.
Lúc này, khi chiếc xe nhảy chồm chồm trên lối mòn dọc đường tàu gần Casita del Príncipe, Julián nhìn xuống con đường cây cối um tùm trước mặt họ. Phía trước khoảng một trăm mét về bên trái hiện ra lối vào một con đường cho xe chạy khá dài, có cây hai bên dẫn tới khu điền trang khuất nẻo.
Khi Julián hình dung về khu nhà vắng vẻ hiu quạnh, chàng chợt cảm thấy bản năng dè chừng. Chàng nhoài tới trước và đặt một bàn tay rắn chắc lên vai thầy tu trẻ ngồi sau vô lăng. “Làm ơn tấp vào kia đi.”
Valdespino quay sang, ngạc nhiên. “Chúng ta gần…”
“Ta muốn biết đang có chuyện gì!” Hoàng tử gắt lên, giọng vang to trong chiếc xe nhỏ bé.
“Don Julián, tôi nay rất lộn xộn, nhưng ngài phải…”
“Ta phải tin ông chứ gì?” Julián vặn hỏi.
“Vâng.”
Julián bóp mạnh vai anh chàng lái xe trẻ tuổi và chỉ vào một vạt cỏ trên con đường quê vắng vẻ. “Tấp vào đó,” chàng đanh giọng ra lệnh.
“Cứ đi đi,” Valdespino phản đối. “Don Julián, thần sẽ giải thích…”
“Dừng xe lại!” Hoàng tử quát lên.
Thầy tu trẻ đánh lái vào vạt đất, cho xe phanh khựng lại trên cỏ.
“Để chúng ta riêng tư một chút nhé,” Julián ra lệnh, tim đập nhanh.
Thầy tu trẻ không cần đợi bảo đến lần thứ hai. Anh ta nhảy ra khỏi chiếc xe vẫn đang nổ máy và vội vàng lẩn vào bóng tối, để Valdespino và Julián một mình ở ghế sau.
Trong ánh trăng nhờ nhờ, Valdespino trông đột nhiên đầy hoảng sợ.
“Ông nên biết sợ,” Julián nói bằng giọng quyền uy đến mức ngay chính chàng cũng thấy giật mình. Valdespino rúm lại, vẻ sững sờ trước giọng điệu đe dọa ấy - điều Julián trước đây chưa bao giờ sử dụng với Giám mục.
“Ta là Đức vua tương lai của Tây Ban Nha,” Julián nói. “Tối nay, ông đã loại đội an ninh của ta, không để ta truy cập vào điện thoại và tiếp xúc với nhân viên của mình, cấm ta nghe tin tức và không để ta liên lạc với hôn thê của mình nữa.”
“Thần thật sự xin lỗi…” Valdespino lên tiếng.
“Ông sẽ phải làm hơn thế đấy,” Julián ngắt lời, trừng trừng nhìn Giám mục, lúc này trông nhỏ bé một cách kỳ lạ trước chàng.
Valdespino hít một hơi chầm chậm và quay nhìn thẳng vào Julián trong bóng tối. “Đầu giờ tối nay, thần đã được liên lạc, thưa Hoàng tử, và được nói hãy…”
“Ai liên lạc?”
Giám mục ngập ngừng. “Phụ hoàng của ngài. Ông ấy vô cùng khổ sở.”
Ổng ấy ư? Julián tới thăm cha mình chỉ mới hai ngày trước tại Cung điện Zarzuela và thấy tinh thần ông ấy rất tốt, mặc dù sức khỏe ngày càng xuống. “Tại sao cha ta lại khổ sở chứ?”
“Rất không may, đức kim thượng đã xem chương trình về Edmond Kirsch.”
Julián cảm thấy hàm mình cứng lại. Người cha ốm yếu của chàng gần như ngủ hai mươi tư tiếng mỗi ngày và lẽ ra không bao giờ tỉnh giấc vào giờ đó. Hơn nữa, Đức vua luôn cấm để ti vi và máy tính trong các phòng ngủ hoàng cung, vì ông ấy dứt khoát coi đó là những nơi dành riêng cho việc ngủ và đọc sách - và các y tá của Đức vua thừa biết phải ngăn ông ấy tìm cách ra khỏi giường để xem màn công diễn của một nhân vật vô thần.
“Đó là lỗi của thần,” Valdespino nói. “Thần đã đưa cho Hoàng thượng một chiếc máy tính bảng vài tuần trước để người không cảm thấy bị cô lập với thế giới. Hoàng thượng học cách gửi tin nhắn và e-mail. Rốt cuộc ngài lại nhìn thấy sự kiện của Kirsch trên chiếc máy tính bảng.”
Julián cảm thấy choáng váng khi nghĩ đến cảnh cha mình, có lẽ đang ở những tuần cuối cùng của đời người, lại phải xem một chương trình phát sóng bài Công giáo gây chia rẽ và làm bùng lên bạo lực đẫm máu. Đức vua lẽ ra nên ngẫm nghĩ về rất nhiều việc phi thường mà ông đã hoàn thành cho đất nước của mình.
“Như điện hạ có thể hình dung được,” Valdespino tiếp tục, đã lấy lại được sự bình tĩnh, “Hoàng thượng có rất nhiều mối lo, nhưng ngài đặc biệt lo lắng trước tinh thần cùng những lời lẽ của Kirsch và việc hôn thê của điện hạ sẵn sàng chủ trì sự kiện. Hoàng thượng cảm thấy sự dính líu của hoàng hậu tương lai sẽ ảnh hưởng rất xấu đến điện hạ… và hoàng cung.”
“Ambra là người phụ nữ cá tính. Phụ hoàng biết điều đó mà.”
“Có thể là vậy, nhưng khi Hoàng thượng gọi, ngài minh mẫn và giận dữ hệt như thần đã từng nghe thấy suốt nhiều năm. Hoàng thượng ra lệnh cho thần đưa điện hạ tới gặp ngay lập tức.”
“Vậy tại sao chúng ta lại ở đây?” Julián vặn hỏi, ra hiệu về phía lối dành cho xe chạy của điền trang. “Phụ hoàng ở Zarzuela cơ mà.”
“Không còn ở đó nữa,” Valdespino nói khẽ. “Hoàng thượng đã lệnh cho các y tá và cần vụ của ngài mặc đồ cho ngài, đặt ngài lên xe lăn và đưa ngài tới một địa điểm khác để có thể dành những ngày cuối đời của mình trong sự bao bọc của lịch sử đất nước mình.”
Khi Giám mục nói những lời này, Julián nhận ra sự thật.
Điền trang không hề là đích đến của chúng ta.
Julián ngập ngừng quay đi khỏi Giám mục, đăm đăm nhìn qua lối xe chạy của khu điền trang, tới con đường thôn quê trải dài trước mặt họ. Phía xa, qua những hàng cây, chàng vẫn có thể nhận ra những ngọn tháp được chiếu sáng của một công trình đồ sộ.
El Escorial.
Cách đó chưa đầy một kilomet, sừng sững như một pháo đài dưới chân Núi Abantos, là một trong những kiến trúc tôn giáo lớn nhất trên thế giới - E1 Escorial của Tây Ban Nha. với hơn tám mẫu mặt sàn, quần thể này gồm một tu viện, một vương cung thánh đường, một cung điện, một bảo tàng, một thư viện và một loạt mộ phần đáng sợ nhất mà Julián từng thấy.
Hầm mộ Hoàng gia.
Cha Julián đã đưa chàng tới hầm mộ khi Julián chỉ mới lên tám, hướng dẫn cậu bé đi qua Đền thờ Trẻ sơ sinh, một dãy những phòng mai táng đầy mộ phần của những đứa trẻ dòng dõi hoàng gia.
Julián sẽ không bao giờ quên ngôi mộ “bánh sinh nhật” hãi hùng của hầm mộ - một ngôi mộ đá hình tròn rất lớn trông giống một chiếc bánh tầng màu trắng và chứa hài cốt của sáu mươi đứa trẻ thuộc hoàng tộc, tất cả đều được đặt trong các “ngăn kéo” và đặt vào hông “chiếc bánh” mãi mãi.
Nỗi hãi hùng của Julián khi nhìn thấy ngôi mộ rùng rợn này bị lu mờ chỉ vài phút sau đó khi cha chàng dẫn chàng tới thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của mẹ mình. Julián cứ ngỡ thấy một ngôi mộ cẩm thạch phù hợp với một hoàng hậu, nhưng thay vào đó, xác mẹ chàng nằm trong một chiếc hòm nặng nề đơn giản đến giật mình trong một căn phòng đá ở cuối một hành lang dài. Vua cha giải thích với Julián rằng mẫu thân của chàng hiện được an táng trong một pudridero - một “gian phòng thối rữa” - nơi xác các thành viên hoàng gia được chôn cất trong ba mươi năm cho tới khi chẳng còn gì ngoài chút xương tàn, đến thời điểm đó họ mới được cải táng với mộ phần vĩnh cửu bằng đá của mình. Julián nhớ mình đã phải thu hết can đảm để ngăn nước mắt trào ra và không đổ bệnh.
Tiếp đến, cha đưa chàng tới đỉnh một cầu thang dốc dường như chạy hun hút mãi mãi vào khoảng tối ngầm trong lòng đất. Ở đây, những bức tường và cầu thang không còn làm bằng cẩm thạch trắng nữa, mà là một màu hổ phách trang nghiêm. Cứ trên mỗi ba bậc, lại có những ngọn nến thờ hắt thứ ánh sáng chập chờn lên lớp đá vàng nâu.
Cậu bé Julián đưa tay và nắm chặt lấy rào chắn bằng dây chão cũ kỹ, cùng cha mình đi xuống dưới, mỗi lần chỉ một bậc thang… tiến sâu vào bóng tối. Dưới đáy đợt cầu thang, Đức vua mở một cánh cửa trang trí lộng lẫy và bước sang bên, ra hiệu cho cậu bé Julián đi vào.
Đền thờ của các vị vua, cha của chàng bảo vậy.
Thậm chí ở tuổi lên tám, Julián đã nghe nói về căn phòng này - một nơi của những truyền thuyết.
Cậu bé run rẩy bước qua ngưỡng cửa và thấy mình trong một gian phòng màu hoàng thổ lộng lẫy. Có hình dạng như một hình bát giác, gian phòng này tỏa ra mùi hương và dường như liên tục thay đổi trọng tâm do thứ ánh sáng chập chờn của những ngọn nến cháy sáng trên ngọn chúc đài trên đầu. Julián tiến vào trung tâm gian phòng, chầm chậm xoay người tại chỗ, cảm thấy lạnh lẽo và nhỏ bé trong một không gian trang nghiêm.
Cả tám bức tường đều có chín hốc tường sâu, nơi những chiếc quan tài đen giống hệt nhau được sắp xếp từ dưới sàn lên đến tận trần, mỗi chiếc đều gắn một biển tên bằng vàng. Những cái tên trên quan tài đều có trong các trang sách lịch sử của Julián - Vua Ferdinand… Nữ hoàng Isabella… Vua Charles V, hoàng đế La Mã thần thánh.
Trong không khí im lặng, Julián cảm nhận được sức nặng từ bàn tay yêu thương của cha đặt lên vai mình, và vẻ nghiêm trang của cái khoảnh khắc ấy tác động mạnh tới chàng. Sẽ có một ngày cha ta được chôn cất trong căn phòng này.
Không nói một lời, hai cha con lên khỏi lòng đất, rời xa cái chết và trở về với ánh sáng. Khi họ đã ra ngoài tận hưởng ánh mặt trời chói chang Tây Ban Nha, nhà vua mới cúi xuống và nhìn vào mắt cậu bé Julián tám tuổi.
“Memento mori,” Đức vua thì thầm. “Hãy ghi nhớ cái chết. Ngay cả với những người nắm giữ quyền lực ghê gớm thì cuộc sống cũng rất ngắn ngủi. Chỉ có một cách để chiến thắng cái chết, và đó cách làm cho cuộc đời của chúng ta thành những kiệt tác. Chúng ta phải nắm giữ mọi cơ hội để thể hiện lòng nhân hậu và yêu thương trọn vẹn. Cha nhìn thấy trong mắt con rằng con có tâm hồn phóng khoáng của mẹ con. Lương tâm của con sẽ là người dẫn dắt con. Khi cuộc sống u tối, hãy để trái tim con chỉ đường cho con.”
Nhiều thập kỷ về sau, Julián không cần gì để nhắc mình nhớ rằng chàng đã chẳng làm gì nhiều để biến cuộc sống của mình thành một kiệt tác. Thực tế chàng đã suýt xoay xở thoát ra khỏi cái bóng của cha mình và xác lập bản thân là con người như chính ông mong muốn.
Ta đã làm cha ta thất vọng nhiều.
Suốt nhiều năm, Julián nghe theo lời khuyên của vua cha và để cho trái tim chỉ lối đưa đường nhưng đó là một con đường quanh co khi trái tim chàng cứ khao khát về một Tây Ban Nha hoàn toàn trái ngược với của cha mình. Những giấc mơ của Julián cho đất nước yêu dấu của chàng táo bạo đến mức chẳng bao giờ có thể nêu ra cho tới khi vua cha tạ thế và thậm chí khi đó, Julián cũng không biết những hành động của chàng sẽ được đón nhận như thế nào, không chỉ bởi hoàng cung mà còn bởi cả dân tộc. Tất cả những gì Julián có thể làm là đợi, luôn mở lòng và tôn trọng truyền thống.
Và rồi, chỉ ba tháng trước, mọi thứ thay đổi.
Mình gặp Ambra Vidal.
Mỹ nhân vừa cứng cỏi vừa sôi nổi đã khiến thế giới của Julián đảo lộn. Chỉ trong mấy ngày kể từ cuộc gặp đầu tiên của họ, cuối cùng thì Julián cũng hiểu những lời của cha mình. Hãy để cho trái tim con chỉ lối đưa đường… và nắm lấy mọi cơ hội để yêu thương trọn vẹn! Tâm trạng phấn chấn khi yêu không hề giống bất kỳ điều gì Julián từng trải qua và chàng cảm thấy cuối cùng mình đã có thể thực hiện những bước đầu tiên tiên tới việc biến cuộc đời mình thành một kiệt tác.
Tuy nhiên, giờ đây, khi Hoàng tử trân trân nhìn xuống con đường phía trước, chàng ngập trong sự cô đơn và tách biệt đầy linh tính. Cha chàng đang hấp hối, người phụ nữ chàng yêu không nói chuyện với chàng; và chàng vừa trách móc người thầy tin cẩn của mình, Giám mục Valdespino.
“Hoàng tử Julián,” Giám mục khẽ giục. “Chúng ta phải đi thôi. Phụ vương rất yếu và ngài rất mong nói chuyện với hoàng tử.”
Julián chầm chậm quay sang người bạn trọn đời của cha mình. “Ông nghĩ phụ hoàng còn bao nhiêu thời gian?” Chàng thì thầm.
Giọng Valdespino run run như thể ông ấy đang sắp khóc. “Hoàng thượng đề nghị thần không được làm hoàng tử lo lắng, nhưng thần cảm thấy hồi kết đang đến nhanh hơn bất kỳ ai có thể dự đoán. Hoàng thượng muốn nói lời từ biệt.”
“Tại sao ông không nói cho ta chúng ta đang đi đâu?” Julián hỏi. “Tại sao lại phải nói dối và giữ bí mật?”
“Thần xin tạ lỗi, thần không còn lựa chọn nào khác. Hoàng thượng ra lệnh rất rõ ràng cho thần. Ngài lệnh cho thần bảo vệ điện hạ trước cái thế giới bên ngoài và trước mọi tin tức cho tới khi ngài có cơ hội đích thân nói chuyện với điện hạ.”
“Bảo vệ cho ta trước… tin tức gì chứ?”
“Thần nghĩ sẽ là tốt nhất nếu điện hạ để Hoàng thượng giải thích.”
Julián nhìn Giám mục một lúc lâu. “Trước khi ta gặp cha, có chuyện ta cần biết. Ông ấy còn minh mẫn không? Ông ấy còn sáng suốt không?”
Valdespino nhìn chàng không mấy chắc chắn. “Sao điện hạ lại hỏi vậy?”
“Bởi vì,” Julián trả lời, “những yêu cầu của cha dường như rất lạ lùng và hấp tấp.”
Valdespino gật đầu buồn bã. “Hấp tấp hay không thì Hoàng thượng vẫn là vua. Thần yêu và làm theo lệnh ngài. Tất cả chúng ta đều vậy.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 73


Đứng cạnh nhau bên hòm trưng bày, Robert Langdon và Ambra Vidal chăm chú nhìn xuống bản thảo của William Blake, được chiếu rõ nhờ ánh sáng dìu dịu của ngọn đèn dầu. Đức cha Bena đã tạm rời đi để chỉnh lại mấy chiếc ghế cho ngay ngắn, đồng thời lịch sự dành cho họ chút thời gian riêng tư.
Langdon có chút khó khăn khi đọc những con chữ bé xíu trên bản thảo viết tay của nhà thơ, nhưng phần tiêu đề lớn hơn hẳn ngay trên đầu trang thì nhìn rõ mồn một.
The Four Zoas
Nhìn những từ này, Langdon lập tức cảm thấy có tia hy vọng. The Four Zoas là tiêu đề một trong những tác phẩm thơ mang tính tiên tri nổi tiếng nhất của Blake - một tác phẩm đồ sộ được chia thành chín “đêm,” hay Chương. Các chủ đề của bài thơ, theo Langdon còn nhớ nhờ đọc hồi còn học đại học, tập trung vào sự kết thúc của tôn giáo truyền thống và sự thống trị tất yếu của khoa học.
Langdon lướt nhìn xuống các khổ văn bản, nhìn thấy các dòng chữ viết tay kết thúc lưng chừng trang giấy bằng “finis divisionem” - cụm từ tương đương với từ “Hết” được vẽ rất đẹp.
Đây là trang cuối của bài thơ, ông nhận ra vậy. Phần kết của một trong những kiệt tác mang tính tiên tri của Blake!
Langdon cúi người và nheo mắt nhìn những chữ viết tay nhỏ xíu, nhưng ông không tài nào đọc được nội dung trong ánh sáng đèn dầu tù mù.
Ambra cũng đã khom người, mặt gí sát lớp kính. Nàng lặng lẽ lướt đọc bài thơ, dừng lại để đọc to một dòng. “ 'Và Loài người từ trong lửa đỏ bước tới, lũ quỷ dữ đều bị thiêu đốt’.” Nàng ngoảnh sang Langdon. “Quỷ dữ đều bị thiêu đốt ư?”
Langdon xem xét câu đó, lơ đễnh gật đầu. “Tôi tin Blake muốn nói đến việc loại bỏ thứ tôn giáo sa đọa. Một tương lai phi tôn giáo là một trong những điều tiên tri lặp đi lặp lại của ông ấy.”
Ambra trông đầy hy vọng. “Edmond nói dòng thơ yêu thích của anh ấy là một lời tiên tri mà anh ấy hy vọng sẽ thành sự thật.”
“Chà,” Langdon nói, “một tương lai không tôn giáo chắc chắn là điều Edmond muốn. Dòng đó có bao nhiêu mẫu tự?”
Ambra bắt đầu đếm nhưng rồi lắc đầu. “Năm mươi.”
Nàng lại đọc lướt bài thơ, một lúc sau thì dừng lại. “Thế còn câu này? 'Những đôi mắt đang mở rộng của Con người nhìn thấu bề sâu của những thế giới kỳ lạ'.”
“Có thể đây,” Langdon nói, suy ngẫm về ý nghĩa của câu này. Tri thức của con người sẽ tiếp tục tăng lên và tiến hóa theo thời gian, giúp chúng ta nhìn sâu hơn vào chân lý.
“Lại quá nhiều chữ rồi,” Ambra nói. “Tôi sẽ tiếp tục.”
Khi nàng tiếp tục đọc lần xuống dưới trang sách, Langdon bắt đầu trầm ngâm đi đi lại lại phía sau nàng. Những dòng thơ nàng đã đọc cứ vang vọng trong tâm trí ông và gợi nhớ đến một ký ức xa xăm khi ông đọc thơ Blake trong một lớp “văn học Anh” ở Princeton.
Những hình ảnh bắt đầu hình thành, như thỉnh thoảng vẫn vậy với trí nhớ hình ảnh thị giác của Langdon. Những hình ảnh này gợi ra những hình ảnh mới, thành một chuỗi vô tận. Bỗng nhiên, đứng trong hầm mộ, Langdon vụt nhớ đến vị giáo sư của mình, người mà, khi lớp học đọc xong The Four Zoas, đứng trước mặt họ và hỏi những câu hỏi có từ lâu: Các em sẽ chọn gì? Một thế giới không tôn giáo? Hay một thế giới không khoa học? Sau đó vị giáo sư nói thêm: Rõ ràng, William Blake đã có sự lựa chọn, và không ở đâu hy vọng về tương lai của ông được tổng kết rõ hơn trong dòng cuối cùng của bài thơ trường thiên này.
Langdon hít một hơi thảng thốt và xoay người về phía Ambra, lúc này vẫn đang cắm cúi với bản thảo của Blake.
“Ambra - nhảy cóc xuống cuối bài thơ đi!” ông nói, giờ đã nhớ dòng cuối cùng của bài thơ.
Ambra nhìn xuống cuối bài thơ. Sau một lúc chăm chú, nàng quay lại phía ông với đôi mắt mở to và nét mặt ngạc nhiên.
Langdon đến chỗ cuốn sách cùng nàng, chăm chú nhìn xuống văn bản. Giờ khi đã biết dòng thơ ấy, ông có thể nhận ra các mẫu tự viết tay mờ mờ:
Mọi tôn giáo u tối tiêu vong & khoa học lành mạnh thống trị.
“'Mọi tôn giáo u tối tiêu vong’,” Ambra đọc to. “ 'khoa học lành mạnh thống trị’.”
Dòng thơ không chỉ là một lời tiên tri mà Edmond xác nhận, về cơ bản nó còn là lời tóm tắt cho bài thuyết trình của anh ấy đầu giờ tối nay.
Các tôn giáo sẽ mai một… và khoa học sẽ thống trị.
Ambra bắt đầu đếm thật cẩn thận các mẫu tự trong dòng thơ, nhưng Langdon biết điều đó không cần thiết. Chính nó đây. Không nghi ngờ gì. Tâm trí ông đã chuyển sang việc truy cập Winston và công bố bài thuyết trình của Edmond. Kế hoạch của Langdon nhằm thực hiện việc đó như thế nào là điều ông cần giải thích riêng với Ambra.
Ông quay sang Đức cha Bena, vừa quay trở lại. “Đức cha?” ông hỏi. “Chúng con gần như đã xong việc ở đây rồi. Cảm phiền cha lên trên tầng và bảo các đặc vụ Cận vệ gọi trực thăng được không ạ? Chúng con cần đi ngay.”
“Dĩ nhiên rồi,” Đức cha Bena nói và đi thẳng lên cầu thang. “Ta hy vọng các con tìm được những gì các con phải tới đây tìm. Lát nữa ta sẽ gặp các con trên kia.”
Khi vị tu sĩ biến mất trên cầu thang, Ambra rời mắt khỏi cuốn sách với vẻ hoảng hốt bất ngờ.
“Anh Robert,” nàng nói. “Dòng này quá ngắn. Tôi đếm hai lần rồi. Nó chỉ có bốn mươi sáu mẫu tự. Chúng ta cần bốn mươi bảy cơ.”
“Sao cơ?” Langdon bước tới bên nàng, nheo mắt nhìn bản thảo và cẩn thận đêm từng mẫu tự viết tay. “Mọi tôn giáo u tối tiêu vong & khoa học lành mạnh thống trị.” Ông đếm đến bốn mươi sáu. Ông bối rối nghiên cứu lại dòng thơ. “Chắc chắn Edmond nói bốn mươi bảy, không phải bốn mươi sáu chứ?”
“Chắc chắn.”
Langdon đọc lại dòng thơ. Nhưng phải là câu này, ông nghĩ. Mình thiếu gì nhỉ?
Rất cẩn trọng, ông rà lại từng con chữ trong dòng cuối bài thơ của Blake. Ông gần rà đến cuối thì nhìn thấy nó.
… & khoa học lành mạnh thống trị.
“Cái ký hiệu Langdon thốt lên. “Ký hiệu Blake dùng thay cho việc viết hẳn ra từ 'còn'.”1
Ambra nhìn ông lạ lẫm và sau đó lắc đầu. “Robert, nếu chúng ta thay từ 'còn'… thì dòng thơ có bốn mươi tám mẫu tự. Quá dài.”
Không đúng. Langdon mỉm cười. Đó là một mật mã trong mật mã.
Langdon kinh ngạc trước sự cố ý bóp méo tinh quái của Edmond. Anh chàng thiên tài hoang tưởng này đã dùng một mánh đơn giản trong nghệ thuật in để bảo đảm rằng ngay cả khi ai đó phát hiện ra đâu là dòng thơ yêu thích của mình thì họ cũng vẫn không thể gõ chính xác nó được.
Mật mã ký hiệu &, Langdon nghĩ. Edmond vẫn nhớ nó.
Nguồn gốc của ký hiệu & luôn là một trong những điều đầu tiên Langdon dạy trong các lớp biểu tượng học của mình. Cái biểu tượng là một dấu tốc ký - đúng ra là một bức tranh thể hiện cho một từ. Trong khi nhiều người cho rằng ký hiệu này bắt nguồn từ từ “and” trong tiếng Anh nhưng thực tế nó bắt nguồn từ từ et trong tiếng La tinh. Thiết kế bất thường của ký hiệu này là sự hợp nhất trong nghệ thuật in của các chữ cái E và T - kiểu chữ ghép ngày nay vẫn thấy được trong các phông chữ máy tính như Trebuchet, với ký hiệu “&” rõ ràng bắt chước nguồn gốc La tinh của nó.
1Trong nguyên tác tiếng Anh, tác giả sử dụng ký hiệu “&” cùng các từ “and” (tiếng Anh, gồm 3 mẫu tự), “et” (tiếng La tinh, gồm 2 mẫu tự) nhằm có được tổng số mẫu tự của dòng thơ là 46, 47 hoặc 48. Để bảo đảm giữ nguyên được yếu tố kịch tính này, dịch giả chuyển dịch ký hiệu “&” thành “còn” và “và” trong tiếng Việt để đạt số lượng mẫu tự tương ứng, dù ký hiệu này thường chỉ được hiểu tương đương từ “và” của tiếng Việt.
Langdon sẽ không bao giờ quên rằng cái tuần sau khi ông dạy lớp của Edmond về ký hiệu “&,” anh chàng thiên tài trẻ tuổi xuất hiện, mặc một chiếc áo phông có in thông điệp - Ampersand phone home! - một sự ám chỉ khôi hài đến bộ phim của Spielberg về một sinh vật ngoài trái đất có tên “ET” cố gắng tìm đường trở về nhà.
Giờ đây, đứng bên bài thơ của Blake, Langdon có thể hình dung ra mật khẩu bốn mươi bảy mẫu tự của Edmond rất rành rẽ trong đầu.
Mọitôngiáoutốitiêuvongvàkhoahọclànhmạnhthốngtrị
Edmond tinh anh, Langdon nghĩ bụng, nhanh chóng cho Ambra biết về cái mẹo khéo léo Edmond dùng để tăng thêm một cấp độ an ninh cho mật khẩu của mình.
Khi sự thật ấy trở nên rõ ràng với nàng, Ambra mới cười tươi và lần đầu Langdon nhìn thấy nụ cười của nàng kể từ lúc họ gặp nhau. “Ái chà,” nàng nói, “tôi đoán nếu chúng ta từng có nghi ngờ rằng Edmond Kirsch là một tay lập dị…”
Hai người cùng cười xòa, tranh thủ khoảnh khắc ấy để thở phào trong không gian tịch mịch của hầm mộ.
“Anh đã tìm được mật khẩu,” nàng nói, nghe đây biết ơn. “Và tôi cảm thấy tiếc hơn bao giờ hết rằng tôi để mất điện thoại của Edmond. Nếu chúng ta vẫn còn thứ đó, thì chúng ta có thể khởi động bài thuyết trình của Edmond ngay lúc này rồi.”
“Không phải lỗi của cô,” ông nói trấn an. “Và, như tôi đã nói với cô, tôi biết cách tìm ra Winston mà.”
Ít nhất mình nghĩ mình làm được, ông trầm ngâm, hy vọng mình đúng.
Khi Langdon mường tượng ra khung cảnh của Barcelona, và cái câu đố khác thường còn nằm phía trước, sự im lặng của hầm mộ bị xé tan bởi một âm thanh chói tai vang vọng xuống cầu thang.
Bên trên, Đức cha Bena đang thét gọi tên họ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 62 guests