Nguồn Cội - Dan Brown

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 74


“Nhanh lên! Cô Vidal… Giáo sư Langdon… đến đây nhanh lên!”
Langdon và Ambra lao bổ lên cầu thang hầm mộ trong khi những tiếng thét tuyệt vọng của Đức cha Bena vẫn tiếp tục. Khi họ lên đến bậc thang trên cùng, Langdon xộc ra tầng điện thờ nhưng lập tức bị chìm nghỉm trong một màn tối đen.
Mình không nhìn được!
Khi ông nhích dần tới trong bóng tối, mắt ông căng ra để thích nghi với quầng sáng của những ngọn đèn dầu phía trước. Ambra đến bên cạnh ông, cũng nheo nheo mắt.
“Đằng này!” Đức cha Bena hét lên tuyệt vọng.
Họ di chuyển về phía tiếng hét, cuối cùng cũng thấy vị tu sĩ ở chỗ rìa tối om của quầng sáng tràn ra từ buồng cầu thang. Đức cha Bena đang quỳ gối, phủ phục phía trên cái bóng thẫm đen của một thân người.
Chỉ một lát họ đã đến bên Bena, và Langdon giật nảy người khi thấy thân hình Đặc vụ Díaz nằm trên sàn, đầu bị vặn biến dạng. Díaz nằm sấp, nhưng đầu anh ấy bị vặn 180 độ về phía sau, khiến cho đôi mắt vô hồn của anh ấy nhìn thẳng lên trần nhà thờ. Langdon rúm lại hãi hùng, lúc này đã hiểu sự hoảng loạn trong những tiếng thét của Đức cha Bena.
Một cảm giác sợ hãi lạnh buốt chạy khắp người ông, và ông đứng bật lên, đưa mắt khắp khoảng tối tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu chuyển động nào trong nhà thờ rộng như lòng hang này.
“Súng của anh ấy,” Ambra thì thào, chỉ vào bao súng rỗng không của Díaz. “Nó đã biến mất.” Nàng nhìn xoáy vào bóng tối quanh họ và gọi lớn, “Đặc vụ Fonseca?!”
Trong khoảng tối gần đó, đột nhiên có tiếng bước chân ràn rạt trên gạch men và tiếng cơ thể va chạm trong một cuộc vật lộn dữ dội. Sau đó, đột ngột đến giật mình, tiếng súng nổ đinh tai vang lên ở cự ly gần. Langdon, Ambra và Đức cha Bena đều bật ra sau, và khi tiếng súng vọng khắp điện thờ, họ nghe thấy một giọng nói đau đớn hối thúc—”¡Corre!” Chạy đi!
Tiếng súng thứ hai vang lên, kéo theo một tiếng huỵch nặng nề - chính là âm thanh không lẫn đi đâu được của một cơ thể va chạm với sàn nhà.
Langdon đã nắm lấy tay Ambra và kéo nàng về phía những khoảng tối mịt mùng gần bức tường bên của điện thờ. Đức cha Bena sát sau họ chỉ một bước chân và giờ cả ba thu mình dán lấy tường đá lạnh trong im lặng tuyệt đối.
Mắt Langdon quét khắp khoảng tối trong khi cố hiểu những gì đang xảy ra.
Kẻ nào đó vừa hạ sát Díaz và Fonseca! Kẻ nào ở trong này với bọn ta? Và bọn họ muốn gì?
Langdon chỉ có thể hình dung ra một câu trả lời hợp lý duy nhất: tên sát nhân đang ẩn trong bóng tối của Sagrada Familia không đến đây để giết hai đặc vụ Cận vệ ngẫu nhiên… hắn đến vì Ambra và Langdon.
Kẻ nào đó vẫn đang tìm cách vô hiệu hóa phát hiện của Edmond.
Đột nhiên, một ngọn đèn pin lóe sáng ở giữa sàn điện thờ, chùm sáng lia tới lui theo một vòng cung rộng, di chuyển về phía họ.
Langdon biết họ chỉ có vài giây trước khi chùm sáng đèn lia tới họ.
“Lối này,” Đức cha Bena thì thào, kéo Ambra men dọc theo tường theo hướng ngược lại. Langdon bám theo thì ánh đèn lia tới gần hơn. Đức cha Bena và Ambra đột ngột ngoặt gấp sang phải, biến mất vào một lối mở trong đá, và Langdon vọt vào theo sau họ - lập tức chúi nhủi trên một đợt cầu thang không nhìn thấy. Ambra và Đức cha Bena vẫn leo tới trong khi Langdon lấy lại thăng bằng và tiếp tục bám theo họ, nhìn lại đằng sau thấy chùm sáng đèn xuất hiện ngay bên dưới, soi tỏ mấy bậc thang dưới cùng.
Langdon cứng đờ trong bóng tối, chờ đợi.
Anh đèn vẫn ở nguyên đó một lúc lâu, sau đó bắt đầu sáng dần lên.
Hắn đang tới lối này!
Langdon nghe thấy tiếng Ambra và Đức cha Bena leo lên cầu thang phía trên mình rón rén hết mức. Ông xoay người và vọt lên theo sau họ, nhưng lại chúi nhủi, va ngay phải một bức tường và nhận ra rằng cầu thang này không thẳng, mà uốn cong. Áp một tay vào tường để lần hướng, Langdon bắt đầu đi lượn vòng lên trên theo một đường xoắn ốc, nhanh chóng hiểu ra mình đang ở chỗ nào.
Cầu thang xoắn ốc nguy hiểm khét tiếng của Sagrada Familia.
Ông ngước mắt và thấy một quầng sáng rất mờ rọi xuống từ mấy giếng trời phía trên, vừa đủ soi sáng để cho thấy cái đường ống chật hẹp vây quanh mình. Langdon cảm thấy hai chân như bị giữ chặt, và ông chết gí trên cầu thang, chìm trong cảm giác sợ không gian kín mít của một lối thông chật hẹp.
Cứ leo lên! Tư duy lý trí của ông thúc giục ông leo lên nhưng các cơ của ông lại cứng đờ trong sợ hãi.
Đâu đó bên dưới, Langdon nghe rõ tiếng những bước chân nặng nề tiến đến từ phía điện thờ. Ông ép mình tiếp tục di chuyển, theo những bậc thang xoắn ốc đi lên nhanh hết mức có thể. Phía trên, thứ ánh sáng nhờ nhờ rõ dần lên khi Langdon đi qua một lối mở trong tường - một khoảng hở rộng mà qua đó, ông thoáng nhìn thấy những ánh đèn của thành phố. Một luồng không khí mát lạnh ập tới ông khi ông vọt qua giếng trời này và ông lại lao vào bóng tối khi lượn vòng lên cao hơn.
Tiếng bước chân tiến vào buồng cầu thang phía dưới, và ánh đèn pin nhập nhoạng quét ngược lên khoảng trống tạo thành đường ông ở chính giữa. Langdon đi qua một giếng trời nữa thì tiếng bước chân đuổi theo nghe đã to hơn hẳn, giờ kẻ tấn công ông đang đuổi tới nhanh hơn trên cầu thang phía sau ông.
Langdon đuổi kịp Ambra và Đức cha Bena, lúc này đang thở hổn hển lấy hơi. Langdon chăm chú nhìn xoáy vào đường ống trung tâm qua mép bên trong của buồng cầu thang. Khoảng trống thật sự chóng mặt - một cái hố rất hẹp hình tròn lao thẳng qua trung tâm của những gì rất giống một con ốc anh vũ khổng lồ. Không hề nhìn thấy vật cản nào, chỉ có một phần gò mé trong cao đến mắt cá chẳng có tác dụng bảo vệ gì. Langdon phải cố chống lại cảm giác nôn nao.
Ông đưa mắt nhìn lại khoảng tối của đường ống trên đầu. Langdon đã nghe nói rằng có hơn bốn trăm bậc thang trong cấu trúc này; nếu đúng vậy, không còn cách nào để họ lên tới nóc trước khi kẻ có vũ khí bên dưới kia bắt kịp họ.
“Cả hai con… đi đi!” Đức cha Beha hổn hển, bước dịch sang bên và giục Langdon cùng Ambra đi qua mình.
“Không thể như thế, thưa Đức cha,” Ambra nói, chìa tay xuống để giúp vị tu sĩ già.
Langdon thấy ngưỡng mộ bản năng bảo vệ của nàng, nhưng ông cũng biết rằng bỏ chạy ngược lên những bậc thang này là tự sát, chắc chắn chịu kết cục là những viên đạn vào lưng. Trong hai bản năng sinh tồn của động vật - chống trả hay chạy trốn - chạy trốn không còn là lựa chọn nữa.
Chúng ta sẽ không đời nào làm thế.
Để Ambra và Đức cha Bena leo tiếp, Langdon quay người, đứng chân cho vững, và hướng xuống cầu thang xoắn ốc. Bên dưới ông, ánh đèn pin bắt đầu tới gần hơn. Ông dựa lưng vào tường và thu mình trong bóng tối, đợi cho tới khi ánh sáng đèn lia tới những bậc thang phía dưới. Tên sát nhân đột ngột vòng qua đoạn cong và hiện ra - một hình thù đen sì đang chạy với cả hai tay duỗi thẳng, một tay nắm chặt chiếc đèn pin còn tay kia là khẩu súng ngắn.
Langdon phản ứng theo bản năng, bung người lên và tung mình vào không trung, hai chân duỗi thẳng về phía trước. Gã đàn ông nhìn thấy ông và bắt đầu giương súng lên vừa hay gót chân Langdon bay thẳng vào ngực hắn bằng một cú thúc rất mạnh, xô gã đàn ông vào tường buồng cầu thang.
Mấy giây tiếp theo là một sự nhập nhoạng.
Langdon ngã, nện mạnh nghiêng xuống, cảm giác đau đớn lan khắp hông, trong khi kẻ tấn công ông đổ vật ra sau, trượt chúi nhủi xuống vài bậc thang và rớt thành một đống rên rỉ. Chiếc đèn pin nảy xuống các bậc thang và lăn tới một chỗ dừng, rọi một luồng sáng xiên lên bức tường bên và soi tỏ một vật bằng kim loại nằm trên bậc thang ở giữa Langdon và kẻ tấn công.
Khẩu súng.
Cả hai người đàn ông cùng chồm tới một lúc, nhưng Langdon có lợi thế ở cao hơn và tới trước, vớ lấy báng súng và chĩa thẳng món vũ khí vào kẻ tấn công mình, lúc này vừa chết sựng lại phía dưới ông, trân trối nhìn vào nòng súng đầy thách thức.
Trong quầng sáng đèn pin, Langdon nhìn ra bộ râu muối tiêu và chiếc quần trắng hồ cứng của gã đàn ông… và ngay lập tức, ông biết đó là kẻ nào.
Tên sĩ quan hải quân từ Guggenheim…
Langdon đưa súng lên đầu gã, rà ngón trỏ vào cò súng. “Mày đã giết bạn tao là Edmond Kirsch.”
Gã đàn ông thở không ra hơi, nhưng câu trả lời của gã rất nhanh, giọng gã lạnh như băng. “Tao thanh toán nợ nần thôi. Bạn mày, Edmond Kirsch đã giết gia đình tao.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 75


Langdon làm gãy xương sườn ta.
Đô đốc Ávila cảm thấy có những đợt đau nhói mỗi lần ông ta hít vào, nhăn nhó đau đớn trong khi ngực phập phồng dồn dập, cố gắng phục hồi dưỡng khí trong cơ thể. Co ro trên mấy bậc thang phía trên, Robert Langdon trân trân nhìn xuống, lóng ngóng chĩa khẩu súng vào giữa người Ávila.
Kỹ năng nhà binh của Ávila lập tức phát huy, và ông ta bắt đầu đánh giá tình thế của mình. Nhìn ở khía cạnh tiêu cực, kẻ thù của ông ta nắm được cả vũ khí lẫn cao điểm. Ở khía cạnh tích cực, cứ đánh giá cách cầm khẩu súng rất dị thường của tay giáo sư thì gã chẳng có mấy kinh nghiệm với súng ống.
Gã không có ý định bắn ta, Ávila quyết định. Gã sẽ giữ chân ta và đợi nhân viên an ninh. Từ những tiếng la hét bên ngoài, rõ ràng nhân viên an ninh của Sagrada Famíli đã nghe thấy tiếng súng và giờ đang vội vã chạy vào tòa nhà.
Ta phải hành động nhanh.
Giữ nguyên hai tay giơ cao đầu hàng, Ávila chầm chậm quỳ gồi lên, tỏ vẻ khúm núm và khuất phục hoàn toàn.
Cứ để Langdon có cảm giác gã đang kiểm soát hoàn toàn.
Bất chấp cú ngã xuống cầu thang, Ávila vẫn cảm thấy cái vật mình giắt ở thắt lưng phía sau vẫn còn đó - cái khẩu súng gốm mà ông ta đã dùng hạ sát Kirsch ở Guggenheim. Ông ta đã nạp viên đạn còn lại cuối cùng trước khi vào nhà thờ nhưng không cần dùng đến nó, mà ra tay hạ sát một đặc vụ rồi cuỗm lấy khẩu súng hiệu quả hơn hẳn của anh ta, thứ mà rủi thay, lúc này Langdon đang nhắm vào ông ta. Ávila ước rằng mình vẫn khóa chốt an toàn, đoán rằng Langdon có lẽ chẳng biết gì về cách mở chốt.
Ávila tính toán việc thực hiện động tác với lấy khẩu súng gốm ở thắt lưng mình và bắn Langdon trước, nhưng cho dù ông ta có thành công thì Ávila đoán rằng cơ hội sống sót của mình chỉ là 50:50. Một trong những mối nguy hiểm của người dùng súng không có kinh nghiệm chính là xu hướng bắn nhầm của họ.
Nếu ta di chuyển quá nhanh…
Tiếng của đám bảo vệ đang la hét càng lúc càng gần, và Ávila biết rằng nếu mình bị bắt giữ, cái hình xăm “chiến thắng” trên bàn tay ông ta sẽ bảo đảm ông ta được thả ra - hoặc ít nhất đó là những gì Nhiếp chính vương đã quả quyết với ông ta.
Tuy nhiên, đến lúc này, với việc giết hai đặc vụ Cận vệ Hoàng gia của đức vua, Ávila không dám chắc rằng ảnh hưởng của Nhiếp chính vương có thể cứu được mình.
Ta đến đây để thực thi một nhiệm vụ, Ávila nhắc mình. Và ta cần hoàn thành. Loại bỏ Robert Langdon và Ambra Vidal.
Nhiếp chính vương đã dặn Ávila vào nhà thờ qua cổng phục vụ phía đông, nhưng Ávila lại quyết định nhảy qua hàng rào an ninh. Ta thấy cảnh sát lảng vảng gần cổng đông… và vì thế ta phải thay đổi.
Langdon đanh giọng lên tiếng, trừng mắt qua khẩu súng nhìn vào Ávila. “Mày nói Edmond Kirsch giết gia đình mày. Dối trá. Edmond không phải kẻ giết người.”
Mày nói đúng, Ávila nghĩ. Hắn còn tởm lợm hơn.
Sự thật đen tối về Kirsch là một bí mật Ávila biết được chỉ một tuần trước trong một cuộc điện thoại từ Nhiếp chính vương. Giáo hoàng của chúng ta đề nghị ngài nhắm tới nhân vật vị lai chủ nghĩa nổi tiếng Edmond Kirsch, Nhiếp chính vương nói. Những động lực của Đức Thánh cha rất nhiều, nhưng Đức cha muốn đích thân ngài thực hiện nhiệm vụ này.
Tại sao lại là tôi? Ávila hỏi.
Đô đốc, Nhiếp chính vương thì thào. Ta rất tiếc phải nói với ngài điều này, nhưng Edmond Kirsch chịu trách nhiệm về vụ đánh bom nhà thờ giết chết gia đình ngài.
Phản ứng đầu tiên của Ávila là hoàn toàn không tin. Ông ta không thấy có lý do gì để một nhà khoa học máy tính nổi tiếng đánh bom một nhà thờ cả.
Ngài là một quân nhân, Đô đốc, Nhiếp chính vương giải thích với ông ta, và vì thế ngài hiểu hơn ai hết: người lính trẻ kéo cò súng lúc lâm trận không phải là kẻ sát nhân. Anh ta chỉ là con tốt, làm công việc của những kẻ quyền lực hơn - chính phủ, các tướng lĩnh, các thủ lĩnh tôn giáo - những kẻ đã trả tiền cho anh ta hoặc thuyết phục anh ta rằng có một sự nghiệp đáng để làm bằng mọi giá.
Thực tế Ávila đã chứng kiến tình huống này.
Những nguyên tắc tương tự áp dụng với chủ nghĩa khủng bố, Nhiếp chính vương tiếp tục. Những kẻ khủng bố xấu xa nhất không phải là những kẻ tạo bom, mà là những thủ lĩnh đầy ảnh hưởng gieo rắc hận thù trong đâm quần chúng tuyệt vọng, truyền cảm hứng cho đám lính chân đất có những hành động bạo lực. Chỉ cần một linh hồn đen tối quyền uy cũng đủ để tàn phá thế giới bằng việc tạo ra sự bất bao dung tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc, hoặc sự khinh ghét trong đầu óc của những kẻ dễ bị tổn thương.
Ávila phải thừa nhận vậy.
Những vụ tấn công khủng bố nhằm vào người Thiên Chúa giáo, Nhiếp chính vương nói, đang gia tăng trên khắp thế giới. Những vụ tấn công mới này không còn là những sự kiện được vạch ra một cách chiến lược nữa; đó là những vụ tấn công bộc phát được tiến hành bởi những con sói đơn lẻ đang đáp lại tiếng gọi chiến tranh phát đi bởi những kẻ thù có sức thuyết phục của Đức Chúa. Nhiếp chính vương ngừng lại. Và trong số những kẻ thù có sức thuyết phục này, ta thấy cả gã vô thần Edmond Kirsch.
Giờ Ávila cảm thấy Nhiếp chính vương bắt đầu thổi phồng sự thật. Cho dù Kirsch có cả chiến dịch hèn hạ chống lại Thiên Chúa giáo ở Tây Ban Nha, nhưng nhà khoa học này chưa bao giờ đưa ra tuyên bố gì kêu gọi tàn sát tín đồ Thiên Chúa cả.
Trước khi ngài phản đối, giọng nói trên điện thoại bảo ông ta, hãy để ta cung cấp cho ngài mẩu thông tin cuối cùng. Nhiếp chính vương thở dài nặng nề. Không ai biết chuyện này, ngài Đô đốc, nhưng vụ tấn công giết gia đình ngài… nó được dự tính như một hành động chiến tranh chống lại Giáo hội Palmaria.
Lời tuyên bố ấy khiến Ávila sững lại, nhưng nó cũng chẳng có ý nghĩa gì; Nhà thờ lớn Seville không phải là một công trình Palmaria.
Buổi sáng vụ đánh bom, giọng nói bảo với ông ta, bốn thành viên chủ chốt của Giáo hội Palmaria có mặt trong giáo đoàn Seville với mục đích tuyển người. Họ đã bị chọn làm mục tiêu. Ngài biết một người trong số họ đấy - Marco. Ba người kia đã chết trong vụ tấn công.
Những ý nghĩ của Ávila quay cuồng khi ông ta hình dung ra chuyên gia trị liệu thể chất của mình, Marco, người đã mất một chân trong vụ tấn công.
Kẻ thù của chúng ta rất mạnh và có động cơ, giọng nói tiếp tục. Và khi kẻ đánh bom không thể tiếp cận được cơ ngơi của chúng ta ở El Palmar de Troya, hắn đã bám theo bốn nhà truyền giáo tới Seville và ra tay hành động ở đó. Ta rất lấy làm tiếc, Đô đốc. Bi kịch này là một trong những lý do những người Palmaria tìm tới ngài - chúng ta cảm thấy có trách nhiệm về việc gia đình ngài bị liên đới thiệt hại trong một cuộc chiến tranh nhằm vào chúng ta.
Một cuộc chiến tranh do kẻ nào đạo diễn? Ávila thắc mắc, cố gắng lĩnh hội những tuyên bố chấn động kia.
Hãy kiểm tra e-mail của ngài, Nhiếp chính vương đáp.
Mở hộp thư của mình, Ávila phát hiện một loạt tài liệu riêng gây chấn động vạch ra một cuộc chiến tàn bạo được phát động nhằm vào Giáo hội Palmaria đến giờ đã hơn một thập kỷ… một cuộc chiến rành rành gồm cả các vụ kiện cáo, hăm dọa tống tiền và những khoản quyên góp rất lớn cho các nhóm “giám sát” bài Palmaria như Palmar de Troya Support và Dialogue Ireland.
Ngạc nhiên hơn nữa, cuộc chiến khốc liệt nhằm vào Giáo hội Palmaria này, có vẻ vậy, lại do một cá nhân duy nhất phát động - và người đó là nhân vật vị lai chủ nghĩa Edmond Kirsch.
Ávila thấy hoang mang trước thông tin ấy. Tại sao Edmond Kirsch lại muốn phá hoại đích danh những người Palmaria?
Nhiếp chính vương bảo ông ta rằng không ai trong Giáo hội - ngay cả chính giáo hoàng - có bất kỳ ý kiến gì về lý do Kirsch lại có thái độ căm ghét riêng với người Palmaria. Tất cả những gì họ biết là một trong những người có ảnh hưởng và giàu có nhất hành tinh sẽ không ngừng nghỉ cho tới khi những người Palmaria bị tiêu diệt.
Nhiếp chính vương thu hút sự chú ý của Ávila đến một tài liệu cuối cùng - bản sao một lá thư đánh máy gửi những người Palmaria của một đối tượng tuyên bố là kẻ đánh bom Seville. Ngay dòng đầu tiên, kẻ đánh bom tự xưng là một “học trò của Edmond Kirsch.” Đây là tất cả những gì Ávila phải xem, hai nắm tay ông ta xiết chặt đầy giận dữ.
Nhiếp chính vương giải thích lý do những người Palmaria chưa bao giờ công khai bức thư này; với tất cả những tiếng xấu trên báo chí mà Giáo hội Palmaria hứng chịu gần đây - rất nhiều trong số đó do Kirsch dàn dựng hoặc tài trợ - chẳng đời nào Giáo hội mong bị gắn với một vụ đánh bom cả.
Gia đình ta chết vì chính Edmond Kirsch.
Lúc này, trong buồng cầu thang tối om, Ávila đăm đăm nhìn Robert Langdon, cảm thấy gã này có lẽ chẳng biết gì về cuộc thập tự chinh bí mật của Kirsch chống lại Giáo hội Palmaria, hay việc Kirsch đã truyền cảm hứng như thế nào cho vụ tấn công giết chết gia đình Ávila.
Langdon biết gì không thành vấn đề, Ávila nghĩ. Gã cũng chỉ là một chiến binh như ta thôi. Cả hai đều rơi vào cái hố cá nhân này, và chỉ một trong hai leo ra được. Ta có mệnh lệnh của mình.
Langdon có vị trí cao hơn ông ta vài bậc, lại đang nhắm khẩu súng một cách rất nghiệp dư - bằng cả hai tay. Dở lắm, Ávila nghĩ thầm, khẽ khàng hạ mấy ngón chân xuống một bậc thang phía dưới, đặt vững bàn chân và chăm chăm nhìn thẳng vào mắt Langdon.
“Tôi biết anh thấy khó tin được,” Ávila lên tiếng, “nhưng Edmond Kirsch đã sát hại gia đình tôi. Và đây là bằng chứng cho anh.”
Ávila xòa bàn tay để cho Langdon thấy hình xăm của mình, thứ mà dĩ nhiên chẳng phải bằng chứng tí nào, nhưng nó lại đạt hiệu quả mong muốn - Langdon nhìn xuống.
Khi sự chú ý của vị giáo sư chỉ hơi thay đổi, Ávila tung mình lên cao và lệch sang trái, theo bức tường cong mé ngoài, chuyển thân mình ra khỏi đường đạn bắn. Đúng như dự liệu, Langdon hấp tấp nổ súng - nhấn cò trước khi chỉnh lại súng theo mục tiêu đang di chuyển. Như tiếng sấm rền, phát súng vang ầm trong không gian chật chội, và Ávila cảm thấy một viên đạn sượt qua vai mình trước khi nẩy bật xuống cầu thang đá một cách vô hại.
Langdon còn đang chỉnh lại đường ngắm khẩu súng thì Ávila đã vọt ra giữa không trung, và khi bắt đầu rơi xuống, ông ta vung nắm tay đánh mạnh xuống cổ tay Langdon, khiến khẩu súng văng khỏi tay đối phương và rơi côm cốp xuống cầu thang.
Cảm giác đau buốt xé qua ngực và vai Ávila khi ông ta đáp xuống những bậc thang cạnh Langdon, nhưng lượng adrenaline trào dâng chỉ tiếp thêm sức mạnh cho ông ta. Thò tay ra phía sau, ông ta giật khẩu súng gốm ra khỏi thắt lưng. Món vũ khí này cảm giác gần như không trọng lực sau khi đã cầm khẩu súng của anh chàng đặc vụ.
Ávila chĩa khẩu súng vào ngực Langdon và kéo cò không chút do dự.
Khẩu súng rền lên, nhưng chỉ tạo ra một thứ âm thanh vỡ vụn khác lạ, và Ávila cảm thấy sức nóng bỏng rát trên tay mình, lập tức nhận ra rằng nòng súng đã vỡ toang. Được thiết kế nhằm mục đích ngụy trang, thứ vũ khí “không thể phát giác” rất mới hoàn toàn không có kim loại này chỉ dùng được cho một hoặc hai phát đạn. Ávila không rõ viên đạn của mình đã bắn đi đâu, nhưng khi nhìn thấy Langdon còn đang loạng choạng, Ávila buông súng và lao vào vị giáo sư, hai người đàn ông quần nhau dữ dội ngay gần mép cầu thang trông rất nguy hiểm.
Khoảnh khắc đó, Ávila biết mình đã thắng.
Bọn ta bằng phân về vũ khí, ông ta nghĩ. Nhưng ta có thế.
Ávila đã ước lượng cái đường ống hun hút ở trung tâm buồng cầu thang - một khoảng không chết người gần như không có sự bảo vệ gì. Lúc này, khi đang cố dùng sức đẩy Langdon lùi về phía đường ống, Ávila tì một chân vào bức tường ngoài, giúp cho mình có lực rất lớn. Dồn hết sức mạnh, ông ta đẩy Langdon về phía đường ống.
Langdon chống lại rất kịch liệt, nhưng vị trí của Ávila khiến ông ta có lợi thế hoàn toàn, và vẻ tuyệt vọng trong mắt vị giáo sư cho thấy rõ ràng Langdon biết chuyện gì sắp xảy ra.

Robert Langdon từng nghe nói rằng những lựa chọn quan trọng nhất của cuộc đời - những gì liên quan đến sự sống còn - thường cần đến một quyết định chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi.
Lúc này, bị dồn mạnh về phía gờ tường rất thấp, lưng chênh vênh phía trên một khoảng trống cao mấy chục mét, cơ thể hơn một mét tám và trọng tâm của Langdon là một nguy cơ chết người. Ông biết mình chẳng thể làm gì để chọi lại sức mạnh có được nhờ vị trí của Ávila.
Langdon tuyệt vọng liếc qua vai xuống khoảng trống sau lưng mình. Cái đường ổng hình tròn rất hẹp - có lẽ đường kính chỉ ngót hai mét - nhưng chắc chắn nó đủ rộng để nuốt trọn cả cái cơ thể rơi thẳng xuống của ông… lại còn chịu va đập vào phần lan can đá trên cả quãng đường rơi xuống nữa.
Cú rơi này thì sống sao nỗi.
Ávila bật lên một tiếng gầm từ yết hầu và chỉnh lại tư thế kẹp Langdon. Trong lúc ấy, Langdon nhận ra chỉ có thể thực hiện một động tác.
Thay vì cố cưỡng lại người này, ông sẽ hỗ trợ hắn.
Khi Ávila nâng ông lên, Langdon hụp xuống, đặt vững hai chân trên cầu thang.
Nhất thời, ông lại là chàng trai hai mươi tuổi ở bể bơi Princeton… trong cuộc thi bơi ngửa… đứng ngấp nghé ở vị trí xuất phát… lưng hướng về mặt nước… hai gối uốn cong… bụng căng lên… chờ đợi tiếng súng xuất phát.
Thời gian là tất cả.
Lần này, Langdon không nghe thấy tiếng súng nào. Ông bật lên từ tư thế lom khom, tung mình vào không khí, lưng uốn một vòng cung trên khoảng trống. Khi ông nhảy hướng ra ngoài, ông cảm thấy Ávila, đang ở tư thế sẵn sàng chống chịu hơn chín mươi cân trọng lực, bị kéo mất thăng bằng hoàn toàn do lực đảo ngược đột ngột.
Ávila buông tay rất nhanh, nhưng Langdon vẫn cảm thấy ông ta cố níu để lấy lại thăng bằng. Khi Langdon uốn người văng ra, ông cầu mong mình có thể bay đủ xa để vượt qua khoảng trống và chạm tới những bậc thang mé đối diện đường ống, ở phía dưới khoảng hai mét… nhưng rõ ràng, không phải vậy. Ở giữa không trung, khi Langdon theo bản năng bắt đầu co mình lại thành một trái bóng tự vệ, ông va mạnh vào một bề mặt đá dựng đứng.
Mình không làm được.
Mình chết rồi.
Chắc chắn ông đã va phải phần gờ bên trong, Langdon gắng hết sức chống lại cú rơi thẳng xuống khoảng trống.
Nhưng cú rơi kết thúc chỉ trong khoảnh khắc.
Gần như ngay lập tức Langdon rơi huỵch xuống một bề mặt gồ ghề cứng ngắc, đầu bị va mạnh. Lực va chạm gần như khiến ông bất tỉnh, nhưng đúng khoảnh khắc đó ông nhận ra mình đã vượt qua hẳn khoảng trống và va trúng bức tường phía xa của buồng cầu thang, rơi xuống phần thấp hơn của cầu thang xoắn ốc.
Tìm khẩu súng, Langdon vừa nghĩ vừa căng lên cố giữ cho mình tỉnh táo và biết rằng Ávila sẽ đè lên mình chỉ trong vài giây.
Nhưng đã quá muộn.
Não ông sụp xuống.
Khi cái màn đen ập tới, thứ cuối cùng Langdon nghe được là một âm thanh kỳ lạ… một chuỗi những tiếng huỳnh huỵch lặp đi lặp lại phía dưới ông, càng lúc càng xa dần.
Thứ âm thanh đó gợi cho ông nhớ đến tiếng một bọc rác quá khổ lăn lông lốc xuống một cầu trượt rác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 76


Khi chiếc xe của Hoàng tử Julián tiến đến cổng chính El Escorial, chàng nhìn thấy một hàng chướng ngại vật) quen thuộc là những chiếc xe SUV màu trắng và biết Valdespino đã nói sự thật.
Cha ta đúng là đang có mặt ở đây.
Căn cứ vào hình ảnh của đoàn tùy tùng này thì toàn bộ đội hình Cận vệ Hoàng gia của Đức vua hiện đều bố trí đến khu tư thất hoàng gia lịch sử này.
Khi thầy tu trẻ cho chiếc Opel cũ kỹ dừng lại, một đặc vụ cầm đèn pin sải bước tới bên cửa sổ, rọi đèn vào bên trong, và sững sờ bật ngược trở lại, rõ ràng không ngờ lại thấy Hoàng tử và Giám mục bên trong chiếc xe rách nát này.
“Hoàng tử!” anh ta kêu lên, bật đứng nghiêm. “Đức Cha! Chúng tôi đang đợi ngài.” Anh ta nhìn chiếc xe tả tơi. “Đội Cận vệ của ngài đâu ạ?”
“Họ cần ở hoàng cung,” Hoàng tử trả lời. “Chúng ta đến đây để gặp cha ta.”
“Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên rồi! Nếu ngài và Giám mục vui lòng rời khỏi xe…”
“Cứ mở đường đi,” Valdespino mắng, “rồi chúng ta sẽ chạy vào trong. Ta chắc Đức vua đang ở bệnh viện tu viện chứ?”
“Vâng,” anh chàng cận vệ nói, vẻ ngập ngừng. “Nhưng tôi e giờ ngài đi rồi.”
Valdespino há hốc miệng, vẻ hãi hùng.
Một cảm giác lạnh buốt siết lấy Julián. Cha ta tạ thế rồi ư?
“Không! Tôi, tôi xin lỗi!” anh chàng đặc vụ lắp bắp, thấy hối tiếc vì việc lựa chọn từ ngữ kém cỏi của mình. “Đức vua đã rời đi - ngài rời El Escorial một tiếng trước. Đức vua đem theo đội an ninh chính của mình và họ đã đi rồi.”
Cảm giác thở phào của Julián nhanh chóng chuyển thành bối rối. Rời khỏi bệnh viện ở đây à?
“Thật vô lý,” Valdespino quát. “Đức vua dặn ta đưa Hoàng tử Julián tới đây ngay mà!”
“Vâng, chúng tôi có lệnh đặc biệt, thưa Đức Cha, và nếu các ngài vui lòng, xin hãy rời xe để chúng tôi có thể chuyển cả hai ngài sang một phương tiện của Cận vệ.”
Valdespino và Julián đưa mắt nhìn nhau bối rối và ngoan ngoãn ra khỏi xe. Anh chàng đặc vụ thông báo với thầy tu trẻ rằng không còn cần đến sự phục vụ của anh ta nữa và anh ta nên trở về hoàng cung. Anh chàng trẻ tuổi đầy vẻ sợ hãi phóng vọt vào đêm tối không nói một lời, rõ ràng thở phào được kết thúc vai trò của mình trong những sự kiện kỳ quặc tối nay.
Khi các đặc vụ hướng dẫn Hoàng tử và Valdespino chui vào phía sau một chiếc SUV, Giám mục càng lúc càng thấy bồn chồn. “Hoàng thượng ở đâu?” ông ấy thắc mắc. “Các anh đưa bọn ta đi đâu?”
“Chúng tôi theo lệnh trực tiếp từ Hoàng thượng,” anh chàng đặc vụ nói. “Ngài yêu cầu chúng tôi bố trí một chiếc xe, một lái xe và đưa bức thư này cho ngài.” Anh chàng đặc vụ đưa ra một phong bì dán kín và trao nó cho Hoàng tử Julián qua cửa sổ.
Một bức thư từ cha ta ư? Hoàng tử thấy bối rối trước sự trịnh trọng này, đặc biệt khi chàng nhận thấy phong bì còn mang cả dấu sáp của hoàng gia. Ông ấy đang làm gì vậy? Chàng cảm thấy càng lúc càng lo lắng rằng mọi năng lực của vua cha có thể đang sa sút.
Đầy sốt ruột, Julián bẻ dấu niêm phong, mở phong bì, và moi một mảnh giấy thông báo viết tay ra. Nét bút của cha chàng không như thường lệ nhưng vẫn nhìn được. Khi Julián bắt đầu đọc lá thư, chàng cảm thấy sự hoang mang của mình cứ tăng lên qua mỗi từ ngữ.
Lúc đọc xong, chàng nhét mảnh giấy vào phong bì và nhắm mắt lại, cân nhắc những lựa chọn của mình. Chỉ còn một lựa chọn mà thôi, dĩ nhiên là vậy.
“Cho xe lên phía Bắc nào,” Julián bảo lái xe.
Khi chiếc xe lăn bánh rời khỏi El Escorial, Hoàng tử cảm nhận được Valdespino đang đăm đăm nhìn mình. “Cha điện hạ nói gì?” Giám mục gặng hỏi. “Điện hạ đưa tôi đi đâu?!”
Julián thở hắt ra và quay sang người bạn tin cẩn của cha mình. “Chính cha nói lúc trước rồi đấy.” Chàng mỉm cười buồn bã với vị Giám mục già cả. “Cha ta vẫn là vua. Chúng ta yêu kính ông ấy và chúng ta làm như ông ấy ra lệnh.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 77


“Robert…?” một giọng nói thì thào.
Langdon cố gắng đáp lại, nhưng đầu ông nện thình thịch.
“Anh Robert…?”
Một bàn tay mềm mại chạm vào mặt ông, và Langdon chầm chậm mở mắt ra. Nhất thời mất phương hướng, ông nghĩ mình đang mơ. Một thiên thần mặc đồ trắng đang bay lượn phía trên mình.
Khi Langdon nhận ra gương mặt nàng, ông cố nở một nụ cười yếu ớt.
“Ơn Chúa,” Ambra nói, thở phào. “Bọn tôi nghe thấy tiếng súng.” Nàng phục bên cạnh ông. “Cứ nằm yên đi.”
Khi nhận thức của Langdon phục hồi, ông cảm thấy một nỗi sợ hãi đột ngột trào lên. “Cái gã tấn công…”
“Gã xong rồi,” Ambra thì thào, giọng nàng rất bình thản. “Anh an toàn rồi.” Nàng ra hiệu về phía mép đường ống. “Gã bị ngã. Tít xuống bên dưới.”
Langdon căng người lĩnh hội cái tin này. Tất cả từ từ trở lại. Ông cố xua tan cái màn sương trong đầu óc mình và kiểm tra các vết thương, sự chú ý của ông chuyển tới cảm giác giật nhơm nhóp bên hông trái và đau buốt trong đầu. May thay, chẳng có gì bị gãy cả. Tiếng bộ đàm cảnh sát vọng lên từ dưới cầu thang.
“Tôi vừa… bao lâu…”
“Vài phút,” Ambra nói. “Anh tỉnh tỉnh mê mê. Chúng ta cần đưa anh đi kiểm tra.”
Rất cẩn thận, Langdon nhấc người ngồi dậy, dựa vào tường cầu thang. “Chính là gã sĩ quan… hải quân,” ông nói. “Là cái gã…”
“Tôi biết,” Ambra gật đầu nói. “Kẻ đã sát hại Edmond. Cảnh sát vừa xác minh danh tính gã. Họ đang ở dưới chân cầu thang cùng với cái xác, và họ muốn lời khai từ anh, nhưng Đức cha Bena bảo họ không ai được lên đây trước khi đội y tế tới, giờ họ sẽ tới đây bất kỳ lúc nào.”
Langdon gật gật, đầu vẫn nện thình thịch.
“Có lẽ họ sẽ đưa anh tới bệnh viện,” Ambra bảo ông, “nghĩa là anh và tôi cần nói chuyện ngay bây giờ… trước khi họ đến.”
“Nói… về việc gì?”
Ambra nhìn Langdon, vẻ lo lắng. Nàng ghé xuống sát tai ông và thì thào, “Robert, anh không nhớ à? Chúng ta đã tìm được rồi… cái mật khẩu của Edmond: “’Mọi tôn giáo u tối tiêu vong và khoa học lành mạnh thống trị'.”
Mấy lời của nàng xuyên qua màn sương như một mũi tên, và Langdon bật thẳng dậy, tâm trí u tối của ông vụt sáng láng.
“Anh đã đưa chúng ta đến đích này rồi,” Ambra nói. “Tôi có thể làm nốt phần còn lại. Anh nói anh biết cách tìm ra Winston. Địa điểm phòng máy tính của Edmond? Cứ cho tôi biết nơi cần đến, và tôi sẽ làm phần còn lại.”
Ký ức của Langdon giờ ào ạt quay trở lại. “Tôi biết rất rõ.” Ít nhất mình nghĩ mình có thể đoán ra.
“Nói tôi nghe.”
“Chúng ta cần vượt qua thành phố.”
“Đi đâu?”
“Tôi không biết địa chỉ,” Langdon nói, giờ loạng choạng đứng lên. “Nhưng tôi có thể đưa cô…”
“Ngồi xuống đi, Robert, xin anh!” Ambra nói.
“Phải, cứ ngồi xuống,” một giọng đàn ông vang lên, ông ấy hiện ra trên những bậc thang bên dưới họ. Đó là Đức cha Bena, đang lê bước trên cầu thang, thở không ra hơi. “Nhân viên cấp cứu y tế đến đây rồi.”
“Con rất ổn,” Langdon nói dối, cảm thấy choáng váng khi dựa người vào tường. “Ambra và con cần đi bây giờ.”
“Các con sẽ không đi xa được đâu,” Đức cha Bena nói, chầm chậm leo lên. “Cảnh sát đang đợi. Họ muốn có lời khai. Thêm nữa, nhà thờ bị truyền thông bao vây rồi. Ai đó đã tiết lộ cho báo chí các con ở đây.” Vị tu sĩ đến bên cạnh họ và mỉm cười mỏi mệt với Langdon. “Nhân tiện, cô Vidal và ta rất mừng thấy con không sao. Con đã cứu mạng chúng ta.”
Langdon cười. “Con thì lại rất chắc là cha đã cứu bọn con.”
“Chậc, dù thế nào thì ta cũng chỉ muốn con biết rằng các con sẽ không thể rời khỏi giếng cầu thang này mà không đụng với cảnh sát đâu.”
Langdon cẩn thận đặt tay lên lan can đá và ngó ra, chăm chú nhìn xuống. Cảnh tượng khủng khiếp trên mặt đất dường như rất xa xăm… thân thể rúm ró của Ávila được soi sáng bằng vài quầng đèn pin trên tay các sĩ quan cảnh sát.
Khi Langdon ngó xuống cái đường ống xoắn ốc, lại một lần nữa ông nhận thấy cái thiết kế hình ốc anh vũ rất tinh tế của Gaudi, ông vụt nhớ đến website của bảo tàng Gaudi dưới tầng hầm nhà thờ này. Cái địa chỉ trực tuyến này, mà Langdon có ghé xem không lâu trước đó, nổi bật với cả loạt mô hình theo tỉ lệ rất ấn tượng của Sagrada Familia - được thể hiện chính xác bằng các chương trình CAD và máy in 3-D cỡ lớn - mô tả quá trình tiến triển kéo dài của công trình, từ khi đặt móng cho tới lúc hoàn thành sắp tới của nhà thờ, ít nhất vẫn còn một thập kỷ nữa.
Chúng ta từ đâu đến! Langdon nghĩ. Chúng ta đang đi về đâu?
Một ký ức vụt đến với ông - một trong các mô hình ngoại thất của nhà thờ. Hình ảnh ấy đọng lại trong trí nhớ thị giác của ông. Đó là một nguyên mẫu mô tả hiện trạng xây dựng nhà thờ và được đặt tiêu đề “Sagrada Familia hôm nay.”
Nếu mô hình đó được cập nhật thì có thể có một lối ra.
Langdon đột ngột quay sang Bena. “Thưa cha, cha làm ơn nói lại một lời nhắn từ con tới một người bên ngoài được không?”
Vị tu sĩ tỏ ra bối rối.
Khi Langdon giải thích kế hoạch của mình nhằm ra khỏi tòa nhà, Ambra lắc đầu. “Robert, không được đâu. Trên đó làm gì có chỗ nào cho…”
“Thực tế,” Đức cha Bena xen vào, “có đây. Nó sẽ không ở đó mãi, nhưng thời điểm này thì Langdon nói đúng. Những gì anh ấy đề xuất là có thể.”
Ambra tỏ ra ngạc nhiên. “Nhưng Robert… kể cả nếu chúng ta thoát ra được mà không ai thấy thì anh có chắc rằng anh không cần tới bệnh viện không?”
Langdon không chắc chắn lắm vào thời điểm này. “Tôi có thể tới sau nếu tôi thấy cần,” ông nói. “Ngay lúc này, chúng ta còn nợ Edmond chuyện kết thúc những gì chúng ta đến đây để thực hiện.” Ông quay sang Beha, nhìn thẳng vào mắt ông ấy. “Con cần rất thành thực với cha, thưa Đức cha, về lý do chúng con đến đây. Cha biết đây, Edmond Kirsch bị giết tối nay để ngăn anh ấy công bố một phát kiến khoa học.”
“Phải,” vị tu sĩ nói, “và qua giọng điệu giới thiệu của Kirsch, có vẻ anh ta tin phát hiện này sẽ hủy hoại nặng nề các tôn giáo trên thế giới.”
“Chính xác, đó là lý do con cảm thấy cha nên biết rằng cô Vidal và con đến Barcelona tối nay nhằm cố gắng công bố phát hiện của Edmond Kirsch. Chúng con đã có thể làm được điều đó. Nghĩa là…” Langdon ngừng lại. “Khi đề nghị sự giúp đỡ của cha ngay lúc này, về cơ bản con nhờ cha giúp loan đi khắp thế giới những lời của một người vô thần.”
Đức cha Bena đưa tay đặt lên vai Langdon. “Giáo sư,” ông ấy bật cười nói, “Edmond Kirsch đâu phải người vô thần đầu tiên trong lịch sử tuyên bố rằng 'Chúa đã chết’ cũng đâu phải là người cuối cùng. Cho dù anh Kirsch đã phát hiện ra điều gì thì chắc chắn nó sẽ được tranh luận về mọi phương diện. Ngay từ buổi đầu, tri thức nhân loại đã luôn tiến hóa, và ta không có vai trò ngăn trở sự phát triển đó. Tuy nhiên, từ quan điểm của ta, chẳng bao giờ có một sự tiến bộ về tri thức nào lại không bao gồm Chúa.”
Nói xong, Đức cha Bena mỉm cười trấn an cả hai và đi xuống cầu thang.
Bên ngoài, đợi trong buồng lái chiếc trực thăng EC145 vẫn đỗ nguyên, phi công càng lúc càng lo lắng nhìn đám đông bên ngoài hàng rào an ninh của Sagrada Familia liên tục tăng lên. Anh ấy không nghe tin gì từ hai đặc vụ Cận vệ bên trong và định dùng bộ đàm gọi thì một người đàn ông nhỏ thó trong bộ áo choàng đen xuất hiện từ trong vương cung thánh đường và tiến lại chiếc trực thăng.
Người đàn ông tự giới thiệu là Đức cha Bena và nhắc lại một lời nhắn chấn động từ bên trong chuyển ra: cả hai đặc vụ Cận vệ đã bị giết, và hoàng hậu tương lai cùng Robert Langdon cần di tản ngay lập tức. Cứ như thể chuyện này vẫn chưa đủ gây thảng thốt, vị tu sĩ còn nói với viên phi công chính xác nơi anh ấy sẽ đón hành khách của mình.
Không thể được, phi công nghĩ bụng.
Thế nhưng lúc này, khi anh vọt lên phía trên những ngọn tháp của Sagrada Familia, anh ấy nhận ra rằng tu sĩ nói đúng. Ngọn tháp lớn nhất của nhà thờ - một tháp trung tâm bằng đá nguyên khối - vẫn chưa được xây dựng. Bệ móng của tháp là một bề mặt hình tròn bằng phẳng, nép sâu giữa cụm tháp, như một khoảng trống giữa một cánh rừng tùng bách.
Phi công định vị chiếc trực thăng tít cao phía trên bệ móng, và cẩn thận hạ thấp trực thăng xuổng giữa các ngọn tháp. Khi chạm đất, anh nhìn thấy hai bóng người từ một cầu thang xuất hiện - Ambra Vidal đang đỡ Robert Langdon bị thương.
Viên phi công nhảy ra và giúp cả hai vào trong.
Khi anh thắt đai an toàn cho họ, hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha gật đầu mệt mỏi với anh.
“Cảm ơn anh rất nhiều,” nàng thì thào. “Anh Langdon sẽ cho anh biết nơi cần tới.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 78


ConspiracyNet.com
TIN NÓNG
GIÁO HỘI PALMARIA ĐÃ GIẾT MẸ EDMOND KIRSCH?!

Người đưa tin monte@iglesia.org của chúng tôi đã tiếp nhận được một tiết lộ bom tấn nữa! Theo tài liệu độc quyền được ConspiracyNet xác minh, Edmond Kirsch đã nhiều năm tìm cách kiện Giáo hội Palmaria vì “tẩy não, điều khiển tâm lý, và hành xác” được cho là do cái chết của Paloma Kirsch - mẹ đẻ của Edmond - hơn ba thập kỷ trước.
Paloma Kirsch được cho là một thành viên tích cực của Giáo hội Palmaria, người đã cố thoát ra nhưng bị làm nhục và ngược đãi về tâm lý bởi các bề trên, và đã tự treo cổ trong một phòng ngủ tu viện nữ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 79


“Đích thân nhà vua,” Tư lệnh Garza thốt lên lần nữa, giọng ông ấy vang khắp kho vũ khí của cung điện. “Tôi vẫn không thể hình dung được rằng lệnh bắt giữ tôi lại đến từ chính Đức vua. Sau tất cả từng ấy năm tôi phục vụ.”
Mónica Martin đặt một ngón tay giữ im lặng lên môi và liếc mắt qua những bộ giáp về phía lối vào để bảo đảm những người lính canh không nghe thấy. “Tôi đã nói với ngài, Giám mục Valdespino rất được Hoàng thượng tin dùng, và đã thuyết phục Hoàng thượng rằng những cáo buộc tối nay chống lại ông ta là hành động của ngài, và rằng bằng cách nào đó ngài đang mưu hại ông ta.”
Ta trở thành con cừu tế thần của Đức vua, Garza nhận ra như vậy, luôn thấy ngờ rằng nếu Đức vua buộc phải chọn giữa tư lệnh Cận vệ Hoàng gia là mình hoặc Valdespino, ông ấy sẽ chọn Valdespino; hai người là bạn chí cốt, và những mối liên hệ tinh thần luôn lấn át những mối liên hệ công việc.
Cho dù vậy, Garza vẫn không thể không cảm thấy rằng có gì đó trong lời giải thích của Mónica không hoàn toàn hợp lý. “Câu chuyện bắt cóc,” ông ấy nói. “Cô nói với tôi rằng đó là lệnh từ Đức vua phải không?”
“Vâng, Hoàng thượng gọi trực tiếp cho tôi. Hoàng thượng hạ lệnh cho tôi công bố rằng Ambra Vidal bị bắt cóc. Hoàng thượng dựng lên câu chuyện bắt cóc nhằm cứu vãn danh dự cho hoàng hậu tương lai - để làm dịu bớt thực tế là cô ấy bỏ đi cùng một người đàn ông khác.” Martin nhìn Garza vẻ khó chịu. “Tại sao ngài lại chất vấn tôi chuyện này chứ? Nhất là giờ ngài biết Hoàng thượng đã gọi cho Đặc vụ Fonseca cũng với câu chuyện bắt cóc y hệt chứ?”
“Tôi không tin nổi Hoàng thượng lại mạo hiểm một cách rất sai lầm khi cáo buộc một công dân Mỹ có tiếng tăm về tội bắt cóc,” Garza phản bác. “Hẳn là ông ấy…”
“Điên rồi?” cô ấy ngắt lời.
Garza im lặng trân trân nhìn.
“Tư lệnh,” Martin khẩn khoản, “xin nhớ rằng Hoàng thượng rất yếu. Có lẽ đây chỉ là một trường hợp đánh giá sai lầm chăng?”
“Hay là một khoảnh khắc vụt sáng,” Garza nêu ý kiến. “Khinh suất hay không thì hoàng hậu tương lai hiện vẫn an toàn và đã có tung tích, trong tay của lực lượng Cận vệ.”
“Chính xác.” Martin nhìn ông ấy vẻ cẩn trọng. “Vậy điều gì khiến ngài bực bội chứ?”
“Valdespino,” Garza nói. “Tôi thừa nhận tôi không thích ông ta, nhưng linh cảm mách tôi ông ta không thể đứng sau vụ sát hại Kirsch, hay bất kỳ diễn biến nào còn lại.”
“Sao lại không chứ?” Giọng cô gay gắt. “Bởi vì ông ấy là một tu sĩ ư? Tôi hoàn toàn tin chắc Tòa án dị giáo của chúng ta đã dạy chúng ta vài điều về việc Giáo hội sẵn sàng bào chữa cho những biện pháp quyết liệt. Theo ý kiến của tôi, Valdespino luôn tự cho mình là đúng, tàn nhẫn, cơ hội chủ nghĩa và cực kỳ giấu giếm. Tôi bỏ sót gì chăng?”
“Đúng vậy,” Garza gắt, giật mình vì thấy mình đang bênh vực Giám mục. “Valdespino đúng là tất cả những gì cô nói về ông ta, nhưng ông ta cũng là người coi trọng truyền thông và phẩm giá trên hết. Đức vua - vốn gần như không tin tưởng ai cả - đã rất tin Giám mục suốt nhiều thập kỷ nay. Tôi thấy rất khó tin rằng người được Đức vua tin cẩn lại phạm vào hành động dối trá mà chúng ta đang nói đến.”
Martin thở dài và rút điện thoại di động của mình ra. “Tư lệnh, tôi phải phá bỏ niềm tin của ngài vào Giám mục, nhưng tôi cần ngài xem thứ này. Suresh đã cho tôi xem.” Cô ấy bấm vài nút và đưa điện thoại của mình cho Garza.
Màn hình hiển thị một tin nhắn văn bản dài.
“Đây là ảnh chụp màn hình một tin nhắn văn bản Giám mục Valdespino nhận được tối nay,” cô ấy thì thào. “Xin hãy đọc đi. Tôi bảo đảm nó sẽ thay đổi suy nghĩ của ngài.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 80


Bất chấp con đau đang lan khắp cơ thể mình, Robert Langdon vẫn cảm thấy hưng phấn một cách kỳ lạ, gần như phấn khích, khi chiếc trực thăng ầm ầm bốc lên: khỏi mái Sagrada Familia.
Mình vẫn sống.
Ông cảm nhận được lượng adrenaline tăng lên trong máu mình, như thể tất cả những sự kiện trong một tiếng qua giờ cùng lúc ập đến ông. Cố gắng thở chậm hết mức, Langdon hướng sự chú ý của mình ra ngoài, về phía cái thế giới bên ngoài cửa sổ trực thăng.
Khắp xung quanh ông, những ngọn tháp nhà thờ đồ sộ vươn lên trời, nhưng khi trực thăng bốc lên cao, nhà thờ tụt thấp xuống, nhòa vào cái mạng lưới đường phố sáng đèn. Langdon đăm đăm nhìn xuống những khối nhà của thành phố, không hẳn là những hình vuông và chữ nhật thường lệ mà đúng hơn là những hình bát giác mềm mại.
L’Eixample, Langdon nghĩ. Vùng mở rộng.
Ildefons Cerdà, kiến trúc sư có tầm nhìn xa trông rộng của thành phố, đã mở rộng tất cả các giao lộ tại quận này bằng cách đẽo bỏ các góc của những khối nhà vuông vức để tạo thành các trung tâm mua sắm nhỏ, với tầm nhìn tốt hơn, khí lưu tăng lên, và thừa không gian cho các quán cà phê ngoài trời.
“¿Adónde vamos?1” viên phi công hét lớn qua vai.
1Chúng ta đi đâu đây?
Langdon chỉ hai khối nhà phía Nam, nơi một trong những đại lộ rộng nhất, sáng nhất và được đặt tên phù hợp nhất của thành phố cắt chéo qua Barcelona.
“Avinguda Diagonal,” Langdon hét to. “Al oeste.” Phía Tây.
Không thể bị bỏ qua trên bất kỳ tấm bản đồ Barcelona nào, Avinguda Diagonal cắt qua toàn bộ chiều rộng của thành phố, từ tòa cao ốc bên bờ biển siêu hiện đại Diagonal ZeroZero tới những khu vườn hoa hồng cổ kính của Công viên Cervantes - một món quà rộng mười mẫu được tặng cho nhà tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha, tác giả của Don Quixote.
Viên phi công gật đầu xác nhận và cho máy bay liệng về phía Tây, bám theo đại lộ chạy xiên hướng Tây tới vùng núi. “Địa chỉ?” viên phi hỏi vọng lại. “Tọa độ?”
Mình không biết địa chỉ, Langdon nhận ra như vậy. “Cứ bay tới sân bóng đá.”
“¿Bóng đá ư?” Anh ấy dường như ngạc nhiên. “FC Barcelona à?”
Langdon gật đầu, tin chắc rằng viên phi công biết chính xác cách tìm địa chỉ của câu lạc bộ bóng đá Barcelona lừng danh, tọa lạc tại địa điểm cách vài kilomet nữa trên trục Avinguda Diagonal.
Viên phi công mở van tiết lưu, giờ bám theo đại lộ với tốc độ tối đa.
“Anh Robert?” Ambra hỏi khẽ. “Anh không sao chứ?” Nàng chăm chú nhìn ông như thể có lẽ vết thương ở đầu ông làm cho phán đoán của ông suy giảm. “Anh nói anh biết tìm Winston ở đâu mà.”
“Tôi biết,” ông trả lời. “Đó là nơi tôi đưa chúng ta tới.”
“Một sân bóng đá ư? Anh nghĩ Edmond tạo ra một siêu máy tính ở một sân bóng à?”
Langdon lắc đầu. “Không, sân bóng chỉ là một địa điểm dễ cho phi công định vị thôi. Tôi quan tâm đến tòa nhà ngay bên cạnh sân bóng - Khách sạn Princesa Sofía cơ.”
Ambra tỏ ra bối rối. “Robert, tôi không chắc anh có tỉnh táo không. Làm gì có chuyện Edmond tạo dựng Winston bên trong một khách sạn sang trọng. Tôi nghĩ chúng ta nên đưa anh tới một bệnh xá.”
“Tôi ổn mà, Ambra. Tin tôi đi.”
“Vậy thì chúng ta đang đi về đâu đây?”
“Chúng ta đi về đâu à?” Langdon xoa xoa cằm vẻ bông đùa. “Tôi tin đó là một trong những câu hỏi quan trọng Edmond hứa trả lời tối nay.”
Nét mặt Ambra nửa ngạc nhiên nửa bực bội.
“Tôi xin lỗi,” Langdon nói. “Để tôi giải thích nhé. Hai năm trước, tôi ăn trưa với Edmond tại câu lạc bộ tư trên tầng mười tám của Khách sạn Princesa Sofía.”
“Và Edmond mang một siêu máy tính tới bữa trưa à?” Ambra phì cười gợi ý.
Langdon mỉm cười. “Không hẳn. Edmond đi bộ đến ăn trưa, kể với tôi cậu ấy ăn tại câu lạc bộ đó gần như hằng ngày vì khách sạn rất tiện - chỉ cách phòng máy tính của cậu ấy vài khối nhà. Cậu ấy còn tâm sự với tôi rằng cậu ấy đang tiến hành một dự án trí thông minh nhân tạo tiên tiến và cực kỳ phấn khích về tiềm năng của nó.”
Ambra trông đột nhiên phấn khởi hẳn. “Chắc chắn đó là Winston!”
“Tôi cũng nghĩ đúng như vậy.”
“Và vậy là Edmond đưa anh tới phòng thí nghiệm của anh ấy!”
“Không.”
“Anh ấy nói với anh nó ở đâu à?”
“Rất tiếc, cậu ấy giữ bí mật chuyện đó.”
Vẻ lo lắng vụt trở lại trong mắt Ambra.
“Tuy nhiên,” Langdon nói, “Winston đã bí mật nói cho tôi biết chính xác nó nằm ở đâu.”
Giờ trông Ambra rất bối rối. “Không thể có chuyện đó.”
“Tôi cam đoan với cô đúng như vậy,” Langdon mỉm cười nói. “Thực tế anh ấy đã nói với cả thế giới rồi.”
Ambra còn chưa yêu cầu giải thích thì phi công đã thông báo, “¡Ahí está el estadiol1” Anh ấy chỉ tới sân vận động khổng lồ của Barcelona phía xa.
1 Sân vận động kia rồi!
Nhanh thật, Langdon nghĩ, đưa mắt nhìn ra ngoài và quét một đường từ sân vận động tới Khách sạn Princesa Sofía gần đó - một tòa cao ốc nhìn xuống một quảng trường rộng trên Avinguda Diagonal. Langdon bảo viên phi công bay qua sân bóng và đưa họ bay lên cao phía trên khách sạn.
Vài giây sau, viên phi công đã bay lên cao vài chục mét và lơ lửng phía trên khách sạn nơi Langdon và Edmond tới ăn trưa hai năm trước. Cậu ấy bảo mình phòng máy tính của cậu ấy chỉ cách đây hai khối nhà.
Từ góc nhìn trên cao này, Langdon bao quát toàn bộ khu vực quanh khách sạn. Đường phố ở khu này không thẳng như ở xung quanh Sagrada Familia và các khối phố tạo thành đủ loại hình thù thuôn và không đều nhau.
Nó phải ở đây.
Càng lúc càng không chắc chắn, Langdon sục tìm các khối nhà ở mọi hướng, cố gắng định vị cái hình dạng độc đáo mà ông có thể hình dung trong trí nhớ của mình. Nó đâu rồi?
Mãi cho tới khi ông đưa mắt lên phía Bắc, cắt qua vòng tròn giao thông ở Cung điện Pius XII, thì Langdon mới cảm thấy có hy vọng. “Đằng kia!” ông gọi phi công. “Làm ơn bay tới khu vực có cây cối kia!”
Viên phi công chao nghiêng mũi trực thăng và di chuyển chéo một khối nhà về phía Tây Bắc, và giờ bay lơ lửng bên trên khoảng cây cối nơi Langdon đã chỉ. Chỗ cây cối này thực tế là một phần của một khu đất rất rộng có tường bao.
“Anh Robert,” Ambra hét to, giờ nghe rất chán nản. “Anh đang làm gì vậy? Đây là Cung điện Pedralbes! Làm gì có chuyện Edmond tạo ra Winston bên trong…”
“Không phải ở đây! Đằng kia cơ!” Langdon chỉ quá qua tòa cung điện về phía khôi nhà ngay sau đó.
Ambra nhổm tới trước, chăm chú nhìn xuống cái nguồn cơn cho sự phấn khích của Langdon. Khối nhà đằng sau cung điện được hình thành nhờ bốn đường phố sáng đèn, phân cắt tạo ra một ô vuông chạy theo hướng Bắc-Nam như một viên kim cương. Tì vết duy nhất của viên kim cương là biên giới góc dưới bên phải của nó uống cong một cách vụng về - lệch lạc do một đường nhấp nhô - tạo thành đường chu vi cong queo.
“Cô có nhận ra cái đường chạy răng cưa kia không?” Langdon hỏi, tay chỉ vào cái trục lệch lạc của viên kim cương - một đường phố sáng đèn vạch rõ trên nền tối đen của quần thể cung điện cây cối um tùm. “Cô nhìn thấy đường phố có chỗ vấp nho nhỏ trên đó chứ?”
Ngay lập tức, sự bực tức của Ambra dường như tan biến, và nàng nghiêng đầu để nhìn xuống chăm chú hơn. “Thực tế, cái đường đó rất quen. Sao tôi lại biết nhỉ?”
“Cứ nhìn toàn bộ khối nhà xem,” Langdon giục. “Một hình kim cương với một đường riềm lạ lùng ở góc dưới bên phải.” Ông chờ đợi, cảm thấy Ambra sẽ sớm nhận ra. “Cứ nhìn hai cái công viên nhỏ trong khối nhà này xem.” Ông chỉ vào một công viên hình tròn ở chính giữa và một công viên hình bán nguyệt bên phải.
“Tôi cảm thấy hình như mình biết nơi này,” Ambra nói, “nhưng tôi không tài nào…”
“Hãy nghĩ về nghệ thuật,” Langdon nói. “Nghĩ về bộ sưu tập của cô ở Guggenheim. Nghĩ về…”
“Winston!” cô hét lên, và quay về phía ông vẻ không tin nổi. “Hình dáng của khôi nhà này - nó chính là hình dạng chân dung tự họa của Winston ở Guggenheim!”
Langdon mỉm cười với cô. “Đúng như vậy.”
Ambra lần trở lại cửa sổ và chăm chú nhìn khối nhà hình viên kim cương. Langdon cũng đăm đăm nhìn xuống, mường tượng ra bức chân dung tự họa của Winston - bức vẽ có hình thù kỳ dị đã khiến ông bối rối kể từ lúc Winston chỉ cho ông xem đầu giờ tối nay - một tặng vật vụng về tôn vinh sự nghiệp của Miró.
Edmond đề nghị tôi tạo ra một bức chân dung tự họa, Winston đã nói vậy, và đây là những gì tôi nghĩ ra.
Image
Langdon đã quyết định rằng cái hình nhãn cầu nổi bật gần trung tâm của tác phẩm - yếu tố chính cho sự nghiệp của Miró - gần như chắc chắn chỉ rõ chính xác vị trí nơi Winston hiện diện, cái nơi trên hành tinh này mà từ đó Winston nhìn thế giới.
Ambra rời mắt khỏi cửa sổ, trông vừa hứng khởi vừa sửng sốt. “Bức chân dung tự họa của Winston không phải là một tác phẩm của Miró. Đó là một bản đồ!”
“Chính xác,” Langdon nói. “Bởi lẽ Winston không có thân thể và hình hài thể chất nên dễ hiểu là chân dung tự họa của anh ta sẽ có liên quan đến vị trí của anh ta hơn là hình dạng thể chất.”
“Nhãn cầu,” Ambra nói. “Đó là một bản sao của Miró. Nhưng chỉ có một con mắt, cho nên có lẽ đó là thứ đánh dấu vị trí của Winston chăng?”
“Tôi cũng đang nghĩ tương tự.” Langdon ngoảnh sang phi công và bảo anh ấy cho trực thăng hạ xuống một lúc tại một trong hai công viên nhỏ trong khối nhà của Winston. Viên phi công bắt đầu hạ độ cao.
“Chúa ơi,” Ambra thốt lên, “Tôi nghĩ tôi biết tại sao Winston chọn bắt chước phong cách Miró rồi!”
“Thế ư?”
“Cung điện chúng ta vừa bay qua phía trên chính là Cung Pedralbes.”
“¿Pedralbes?” Langdon hỏi. “Đó chẳng phải là tên của…”
“Vâng! Một trong những bức phác thảo nổi tiếng nhất của Miró. Winston có lẽ đã nghiên cứu khu vực này và tìm thấy một mối liên hệ địa phương với Miró!”
Langdon phải thừa nhận, sự sáng tạo của Winston thật đáng kinh ngạc và ông cảm thấy phấn khởi một cách lạ lùng trước triển vọng kết nối lại được với trí thông minh nhân tạo của Edmond. Khi trực thăng hạ thấp xuống, Langdon nhìn cái bóng đen thẫm của một tòa nhà lớn tọa lạc ở đúng cái vị trí nơi Winston vẽ con mắt.
“Nhìn kìa…” Ambra chỉ tay. “Đó phải là nó.”
Langdon căng mắt để nhìn tòa nhà bị những thân cây lớn che khuất cho rõ hơn. Thậm chí từ trên không trung, trông nó đã thật ghê gớm.
“Tôi không nhìn thấy ánh đèn,” Ambra nói. “Anh có nghĩ chúng ta vào được trong không?”
“Chắc có người ở đó,” Langdon nói. “Edmond chắc phải có sẵn nhân viên, đặc biệt vào tối nay. Khi họ nhận ra chúng ta có mật khẩu của Edmond… tôi nghĩ họ sẽ tranh nhau giúp ta kích hoạt bài thuyết trình.”
Mười lăm giây sau, chiếc trực thăng chạm xuống một công viên hình bán nguyệt rộng rãi ở rìa phía Đông khối nhà của Winston. Langdon và Ambra nhảy ra, và chiếc trực thăng bốc lên cao ngay lập tức, lao về phía sân bóng, nơi nó sẽ đợi thêm chỉ dẫn.
Khi hai người vội vã băng qua công viên tối om về phía trung tâm khu nhà, họ vượt qua một đường phố nội bộ nhỏ, Passeig dels Tillers, và di chuyển vào một khu vực trồng cây rất dày. Đằng trước, bị cây cối che lấp, họ nhìn thấy bóng dáng một tòa nhà đồ sộ và rộng lớn.
“Không có ánh đèn,” Ambra thì thào.
“Và có hàng rào,” Langdon nói, cau mày khi họ đến một hàng rào an ninh bằng sắt rèn cao ba mét bao quanh toàn bộ quần thể. Ông nhìn qua các chấn song, không thể nhìn được gì nhiều của tòa nhà bên trong khuôn viên như rừng này. Ông cảm thấy bối rối khi không hề thấy ánh đèn.
“Đằng kia,” Ambra nói, chỉ xuôi theo hàng rào khoảng hai mươi mét. “Tôi nghĩ có một cánh cổng.”
Họ hối hả men theo hàng rào và thấy một khuôn cửa quay rất đường bệ, đã được khóa chặt. Có một hộp thoại điện tử, và Langdon còn chưa kịp cân nhắc các lựa chọn của họ thì Ambra đã bấm nút gọi.
Đường dây đổ chuông hai lần và kết nối.
Im lặng.
“Xin chào?” Ambra nói. “Xin chào?”
Không có giọng nói nào vọng qua loa - chỉ có tiếng u u rất đáng ngại của một đường dây đã thông máy.
“Tôi không biết các vị có nghe được tôi nói không,” nàng nói, “nhưng đây là Ambra Vidal và Robert Langdon. Chúng tôi là bạn bè tin cẩn của Edmond Kirsch. Chúng tôi ở bên anh ấy tối nay lúc anh ấy bị giết. Chúng tôi có thông tin cực kỳ hữu ích cho Edmond, cho Winston, và tôi tin là cho tất cả các vị.”
Có một tiếng xạch.
Langdon lập tức đặt tay lên khuôn cửa quay, lúc này chuyển động dễ dàng.
Ông thở phào. “Tôi đã nói với cô là có người ở nhà mà.”
Hai người hối hả đẩy qua khuôn cửa quay an ninh và đi qua chỗ cây cối về phía tòa nhà tối đen. Khi họ tới gần hơn, đường nét của phần mái bắt đầu định hình trên nền trời. Một cái bóng bất ngờ hiện rõ - một biểu tượng cao tới hơn bốn mét rưỡi dựng trên đỉnh mái.
Ambra và Langdon dừng sững lại.
Thế này không đúng, Langdon nghĩ, trân trối nhìn cái biểu tượng không lẫn vào đâu được phía trên họ. Phòng máy tính của Edmond lại có một thập tự khổng lồ trên nóc sao?
Langdon bước thêm vài bước và thoát ra khỏi đám cây cối. Khi làm vậy, toàn bộ mặt tiền của tòa nhà hiện ra, và đó là một cảnh tượng đáng ngạc nhiên - một nhà thờ Gothic cổ kính với một ô cửa sổ hoa hồng rất lớn, hai tháp chuông đá và một khuôn cửa duyên dáng được trang trí những hình đắp nổi các vị thánh của Công giáo và Đức mẹ Đồng trinh Mary.
Ambra đầy vẻ kinh hãi. “Anh Robert, tôi nghĩ chúng ta vừa đột nhập vào khuôn viên của một nhà thờ Công giáo. Chúng ta đến nhầm chỗ rồi.”
Langdon nhận ra một tấm biển đằng trước nhà thờ và bắt đầu cười. “Không, tôi nghĩ chúng ta ở đúng chỗ rồi.”
Cái cơ sở này từng xuất hiện trên thời sự vài năm trước, nhưng Langdon không hề nhận ra nó lại ở Barcelona. Một phòng thí nghiệm công nghệ cao được xây dựng bên trong một nhà thờ Công giáo bỏ đi. Langdon phải thừa nhận nó dường như là điện thờ tối thượng cho một nhân vật vô thần bất kính khi xây dựng một chiếc máy tính vô thần. Khi ngước nhìn lên tòa nhà thờ giờ đã không còn hoạt động, ông cảm thấy ớn lạnh vào giây phút nhận ra sự tiên liệu khi Edmond lựa chọn mật khẩu của anh ấy.
Mọi tôn giáo u tối tiêu vong & khoa học lành mạnh thống trị.
Langdon kéo sự chú ý của Ambra tới tấm biển.
Nó ghi:
TRUNG TÂM SIÊU ĐIỆN TOÁN BARCELONA
CENTRO NACIONAL DE SUPERCOMPUTACIÓN
Ambra ngoảnh nhìn ông với vẻ không tin nổi. “Barcelona có một trung tâm siêu tin học bên trong một nhà thờ Công giáo ư?”
“Chính thế.” Langdon mỉm cười. “Nhiều khi sự thật còn lạ lùng hơn cả viễn tưởng.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 81


Cây thập tự cao nhất thế giới nằm ở Tây Ban Nha.
Dựng trên đỉnh núi cách gần mười ba kilomet về phía Bắc tu viện El Escorial, cây thập tự bằng xi măng đồ sộ vươn cao hơn một trăm năm mươi mét trong không trung bên trên một thung lũng cằn cỗi, nơi có thể nhìn thấy nó từ cách xa hơn một trăm sáu mươi kilomet.
Hẻm núi đá bên dưới cây thập tự - được đặt tên rất hợp là Thung lũng Những người ngã xuống - chính là nơi an nghỉ của hơn bốn mươi nghìn sinh linh, những nạn nhân của cả hai phe trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha đẫm máu.
Chúng ta đang làm gì ở đây? Julián tự hỏi khi theo nhóm Cận vệ bước ra lối đi bộ dành để ngắm cảnh ở chân núi bên dưới cây thập tự. Đây là nơi cha ta muốn gặp sao?
Bước đi bên cạnh chàng, Valdespino trông bối rối chẳng kém. “Việc này rất vô lý,” ông ta thì thào. “Cha ngài lúc nào cũng không thích nơi này.”
Cả triệu lần không thích nơi này, Julián nghĩ.
Được đích thân Franco nghĩ ra vào năm 1940, Thung lũng Những người ngã xuống được mô tả như “một hành động chuộc lỗi quốc gia” - một nỗ lực nhằm hòa giải cả phe chiến thắng lẫn bên thất bại. Bất chấp “mong ước cao quý” của nó, đài tưởng niệm này vẫn gây tranh cãi cho đến tận ngày nay vì nó được xây dựng bởi một lực lượng lao động bao gồm cả các thường phạm và tù chính trị từng chống đối Franco - nhiều người đã chết do dãi dầu mưa nắng và đói rét trong quá trình xây dựng.
Trong quá khứ, một số nghị sĩ thậm chí còn so sánh nơi này với một trại tập trung của Quốc xã. Julián ngờ rằng cha mình cũng thầm cảm thấy như vậy, cho dù ông ấy chưa bao giờ công khai nói ra. Với hầu hết người Tây Ban Nha, địa điểm này được xem như một đài tưởng niệm dành cho Franco, do Franco xây dựng - một đền thờ khổng lồ nhằm tôn vinh ông ta. Sự thật là Franco hiện được chôn cất trong đó chỉ càng làm tăng thêm ngọn lửa chỉ trích.
Julián nhớ lại có một lần mình từng tới đây - một cuộc đi chơi khác thời niên thiếu cùng với cha để tìm hiểu về đất nước mình. Nhà vua đã chỉ ra xung quanh và khẽ thì thầm với chàng, Hãy nhìn thật cẩn thận, con trai. Một ngày nào đó con sẽ kéo đổ thứ này xuống.
Lúc này, khi Julián theo đội Cận vệ leo lên các bậc thang dẫn tới phần mặt tiền đơn giản được đẽo vào sườn núi, chàng bắt đầu nhận ra nơi họ đang đi tới. Một cánh cửa bằng đồng được chạm khắc hiện ra lù lù trước mắt - một cánh cổng ngay phần trước ngọn núi - và Julián nhớ mình đã từng bước qua cánh cửa đó khi còn là một cậu bé, hoàn toàn chết khiếp trước những gì nằm phía sau.
Nói cho cùng, phép màu đích thực của đỉnh núi này không phải là cây thập tự cao ngất nghễu phía trên mà là cái không gian bí mật bên trong nó.
Được khoét rỗng ngay bên trong đỉnh núi đá granite là một cái hang nhân tạo có tỉ lệ khó đoán định. Cái hang đào bằng tay này tạo thành một đường hầm ăn sâu gần ba trăm mét vào trong quả núi, nơi nó mở rộng thành một lòng hang trống hoác, được hoàn thiện rất tỉ mỉ và trang nhã, với sàn lát gạch lấp lánh và một mái vòm có vẽ tranh cao vút chạy hơn bốn mươi lăm mét từ bên này sang bên kia. Mình đang ở bên trong một quả núi, cậu bé Julián nghĩ. Chắc là mình đang mơ!
Còn giờ đây, sau nhiều năm, Hoàng tử Julián trở lại.
Đến đây theo mệnh lệnh của người cha đang hấp hối của ta.
Khi cả nhóm đến gần cánh cửa sắt, Julián ngước nhìn tượng Đức mẹ đau khổ bằng đồng trông rất khắc khổ phía trên cánh cửa. Bên cạnh chàng, Giám mục Valdespino làm dấu thánh, dù rằng Julián nhận thấy động tác đó là do cảm giác lo lắng nhiều hơn là đức tin.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 82


ConspiracyNet.com

TIN NÓNG
NHƯNG… NHIẾP CHÍNH VƯƠNG LÀ AI?

Lúc này, bằng chứng xuất hiện chứng minh rằng sát thủ Luis Ávila nhận lệnh giết người trực tiếp từ một nhân vật ông ta gọi là Nhiếp chính vương.
Danh tính Nhiếp chính vương vẫn là một bí ẩn, mặc dù tước hiệu của người này có thể cung cấp một số manh mối. Theo trang dictionary.com, một “Nhiếp chính vương” là người được bổ nhiệm để trông nom một tổ chức trong khi thủ lĩnh của tổ chức ấy bị mất tư cách hoặc vắng mặt.
Từ Khảo sát Người dùng của chúng tôi “Nhiếp chính vương là ai?” - ba câu trả lời hàng đầu của chúng tôi lúc này là:
1. Giám mục Antonio Valdespino thay thế cho Đức vua Tây Ban Nha đang ốm nặng
2. Một giáo hoàng Palmaria tin rằng mình là đức thánh cha hợp pháp
3. Một sĩ quan quân đội Tây Ban Nha tuyên bố hành động nhân danh vị tổng tư lệnh đã bị mất năng lực của đất nước, Đức vua
Sẽ có thêm tin khi chúng tôi nắm được!
#NHIẾPCHÍNHVƯƠNGLÀAI
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 83


Langdon và Ambra lướt nhìn mặt tiền của ngôi nhà nguyện lớn và thấy lối vào Trung tâm Siêu điện toán Barcelona ở đầu phía Nam của chính điện nhà thờ. Ở đây, một tiền sảnh bằng kính Plexiglas cực kỳ hiện đại đã được lắp ở phía ngoài phần mặt tiền mộc mạc, khiến cho nhà thờ có dáng vẻ pha trộn của một tòa nhà được xây giữa các thế kỷ.
Trong một khoảnh sân ngoài gần lối vào có một bức tượng bán thân cao gần bốn mét mô tả đầu của một chiến binh thời xa xưa. Langdon không thể hình dung được cái hiện vật này làm gì trên địa phận của một nhà thờ Công giáo, nhưng nhờ biết Edmond nên ông khá chắc chắn rằng nơi làm việc của anh sẽ là một chỗ đầy những điều mâu thuẫn.
Ambra đi vội tới lối vào chính và bấm nút gọi bên cửa. Khi Langdon nhập hội với nàng, một máy quay an ninh phía trên xoay về phía họ, quét qua quét lại một lúc khá lâu.
Sau đó cánh cửa rè rè mở ra.
Langdon và Ambra nhanh chóng lách qua lối cửa để vào một tiền sảnh rất rộng được hình thành từ phần hiên ban đầu của nhà thờ. Đó là một căn phòng đá khép kín, sáng lờ mờ và trống trơn. Langdon cứ đinh ninh sẽ có ai đó xuất hiện đón họ - có lẽ là một nhân viên của Edmond - nhưng gian sảnh vắng tanh.
“Không có ai ở đây ư?” Ambra thì thào.
Họ nhận ra những giai điệu thiêng liêng, dìu dịu của thứ âm nhạc nhà thờ thời trung cổ - một tác phẩm hợp xướng phức điệu dành cho giọng nam nghe hơi quen quen. Langdon không thể nhớ được nó nhưng sự hiện diện hết sức kỳ lạ của âm nhạc tôn giáo trong một cơ sở công nghệ cao với ông dường như là một sản phẩm của khiếu hài hước bông đùa của Edmond.
Sáng rực ngay trước mắt họ trên bức tường của sảnh, một màn hình plasma cực lớn là nguồn sáng duy nhất trong phòng. Màn hình đang chiếu những gì chỉ có thể mô tả là một dạng trò chơi máy tính nguyên thủy nào đó - từng nhóm chấm màu đen di chuyển loanh quanh trên một bề mặt màu trắng, giống như từng đám bọ bò lung tung không mục đích.
Không hoàn toàn là không mục đích, Langdon nhận ra như vậy và giờ đã biết các mô thức.
Cấp số do máy tính tạo ra rất nổi tiếng này - được biết là Sự sống - được phát minh vào những năm 1970 bởi một nhà toán học người Anh là John Conway. Các chấm đen - gọi là các tế bào - di chuyển, tương tác và tái sinh dựa trên một chuỗi các “quy tắc” đã xác định trước do người lập trình nhập vào. Luôn luôn như vậy, theo thời gian, được chỉ dẫn bằng “những quy tắc ước hẹn ban đầu” này, các chấm bắt đầu tự tổ chức thành các nhóm, chuỗi và mô thức tuần hoàn - những mô thức tiến hóa, trở nên phức tạp hơn và bắt đầu trông tương tự với các mô thức thấy trong tự nhiên đến kinh ngạc.
“Trò chơi Sự sống của Conway,” Ambra nói. “Tôi đã thấy một cỗ máy số hóa nhiều năm trước dựa trên thứ này - một sản phẩm hỗn hợp được đặt tên là Máy tự động tế bào.”
Langdon thấy rất ấn tượng, vì bản thân ông đã nghe nói đến Sự sống chỉ vì người phát minh ra nó, Conway, từng dạy tại Princeton.
Những hợp âm hợp xướng lại lọt vào tai Langdon. Mình cảm thấy như đã nghe bản này rồi. Có lẽ là một bản Thánh nhạc Phục hưng chăng?
“Anh Robert,” Ambra nói và chỉ tay. “Nhìn kìa.”
Trên màn hình hiển thị, những nhóm dấu chấm đang di chuyển tất bật đã đảo chiều và đang tăng tốc, như thể chương trình lúc này chạy ngược vậy. Chuỗi chuyển động tua ngược càng lúc càng nhanh, quay ngược thời gian. Số lượng các dấu chấm bắt đầu giảm dần… các tế bào không còn phân chia và nhấn lên mà tái kết hợp… các cấu trúc của chúng càng lúc càng đơn giản cho tới khi chúng chỉ còn lại một nửa, vẫn tiếp tục hợp nhất… mới đầu còn tám, sau đó là bốn, rồi hai, tiếp đến…
Một.
Một tế bào duy nhất nhấp nháy chính giữa màn hình.
Langdon cảm thấy ớn lạnh. Nguồn gốc của sự sống.
Cái chấm đó chớp tắt, để lại một khoảng trống - một màn hình màu trắng trống trơn.
Trò chơi Sự sống kết thúc và phần nội dung lờ mờ bắt đầu hiện ra, càng lúc càng rõ hơn cho tới khi có thể đọc được.
Nếu chúng ta thừa nhận một Nguyên tắc Đầu tiên, tư duy vẫn khát khao được biết nó đến từ đâu và nó xuất hiện như thế nào.
“Là Darwin,” Langdon thì thào, nhận ra ngay cách diễn đạt hùng hồn của nhà thực vật học huyền thoại cho chính cái câu hỏi mà Edmond Kirsch vẫn đặt ra.
“Chúng ta từ đâu đến?” Ambra nói đầy phấn khích, miệng đọc dòng chữ.
“Chính xác.”
Ambra mỉm cười với ông. “Chúng ta sẽ đi tìm chứ?”
Nàng ra hiệu về phía không gian có trụ đỡ ngay bên cạnh màn hình, có vẻ như nối với nhà thờ chính.
Khi họ bước qua sảnh, màn hình tái khởi động lần nữa, lần này trình chiếu một tập hợp các từ ngữ xuất hiện ngẫu nhiên trên màn hình. Số lượng từ tăng lên liên tiếp và hỗn độn, với những từ mới xuất hiện, biến đổi hình thái, và kết hợp thành một chuỗi những cụm từ rất khó hiểu.
Image
… tăng trưởng… chồi tươi mới… các nhánh xinh đẹp…
Khi hình ảnh ấy mở rộng, Langdon và Ambra nhìn thấy các từ ngữ xuất hiện dưới hình dạng một cái cây đang lớn dần.
Gì thế này?
Họ chăm chú nhìn như bị hút vào hình đồ họa đó và tiếng của các giọng hát chay29càng lúc càng to xung quanh họ. Langdon nhận ra rằng họ không hề hát bằng tiếng Latin như ông nghĩ, mà bằng tiếng Anh.
29Nguyên văn: a cappella voices. A cappella là phong cách hát không cần nhạc đệm, thường áp dụng trong âm nhạc tôn giáo. Những người nghệ sĩ sẽ dùng giọng hát của mình kết hợp, hỗ trợ cho nhau bằng hòa thanh, bè phối để tạo nên nhạc điệu.
“Chúa ơi, các từ trên màn hình,” Ambra nói. “Tôi nghĩ chúng khớp với tiếng nhạc.”
“Cô nói đúng,” Langdon tán thành, mắt nhìn những đoạn mới xuất hiện trên màn hình và được hát lên cùng lúc.
… bởi những nguyên tắc tác động chậm chạp… chứ không phải bởi những hành vi huyền diệu…
Langdon lắng nghe và nhìn, cảm thấy bối rối một cách lạ lùng trước sự kết hợp của các từ ngữ và tiếng nhạc. Phần nhạc rõ ràng là lễ nhạc, nhưng phần lời thì lại rất ngẫu nhiên.
… các sinh vật… sống mạnh mẽ nhất… chết yếu ớt nhất…
Langdon dừng sững lại.
Mình biết bài này!
Edmond từng dẫn Langdon tới một buổi biểu diễn bài này vài năm trước. Có tiêu đề là Missa Charles Darwin, đây là một bài thánh ca theo phong cách Thiên Chúa giáo trong đó nhà soạn nhạc tránh dùng phần lời tiếng Latin truyền thông và thay thế bằng các trích dẫn từ cuốn Về nguồn gốc giống loài của Charles Darwin để tạo thành một sự sắp xếp cạnh nhau buồn da diết của các giọng ca mộ đạo hát về sự tàn nhẫn của sàng lọc tự nhiên.
“Thật kỳ lạ,” Langdon nhận xét. “Edmond và tôi đã cùng nghe bài này một thời gian trước - cậu ấy rất mê nó. Thật trùng hợp được nghe lại.”
“Không trùng hợp đâu,” một giọng nói quen thuộc vang lên từ hệ thống loa trên đầu. “Edmond dạy tôi phải đón chào khách khứa đến nhà mình bằng cách trình diễn một chút âm nhạc mà họ thích thú và cho họ thấy gì đó thú vị để thảo luận.”
Langdon và Ambra sững sờ nhìn hệ thống loa như không tin nổi. Giọng nói vui vẻ chào đón họ là giọng Anh rất rõ rệt.
“Tôi rất vui các vị tìm được đường tới đây,” giọng nói nhân tạo quen thuộc lên tiếng. “Tôi không có cách gì liên hệ được với các vị.”
“Winston!” Langdon reo lên, ngạc nhiên cảm thấy mình lại nhẹ lòng hẳn khi kết nối lại được với một cỗ máy. Ông và Ambra nhanh chóng kể lại những gì đã xảy ra.
“Rất mừng được nghe lại giọng các vị,” Winston nói. “Giờ cho tôi biết, chúng ta đã có được những gì chúng ta tìm kiếm chưa?”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 84


“William Blake,” Langdon nói. “ 'Mọi tôn giáo u tối tiêu vong và khoa học lành mạnh thống trị'.”
Winston chỉ dừng lại một chút xíu. “Dòng cuối cùng trong bài trường thi The Four Zoas của ông ấy. Tôi phải thừa nhận đó là một lựa chọn hoàn hảo.” Anh ta ngừng lại. “Tuy nhiên, con số bốn mươi bảy mẫu tự cần thiết…”
“Ký hiệu và,” Langdon nói, nhanh chóng giải thích mẹo dùng chữ ghép et của Kirsch.
“Quả đúng là Edmond tinh hoa,” giọng nói nhân tạo trả lời kèm một tiếng cười vụng về.
“Cho nên, Winston?” Ambra giục. “Giờ anh đã biết mật khẩu của Edmond, anh có thể khởi động phần thuyết trình còn lại của anh ấy không?”
“Dĩ nhiên là được,” Winston trả lời rất rành rẽ. “Tất cả những gì tôi cần là để các vị nhập mật khẩu bằng tay. Edmond đã lập tường lửa quanh dự án này nên tôi không trực tiếp truy cập nó được, nhưng tôi có thể đưa các vị tới phòng thí nghiệm của ông ấy và chỉ cho các vị chỗ nhập thông tin. Chúng ta có thể khởi động chương trình trong vòng chưa đầy mười phút nữa.”
Langdon và Ambra quay nhìn nhau, sự xác nhận đột ngột của Winston khiến họ sững sờ. Với tất cả những gì họ đã trải qua tối nay, khoảnh khắc chiến thắng cuối cùng này dường như đến quá đột ngột.
“Robert,” Ambra thì thào, đặt một tay lên vai ông. “Anh đã làm được. Cảm ơn anh.”
“Là nỗ lực chung mà,” ông mỉm cười.
“Liệu tôi có thể gợi ý rằng chúng ta nên di chuyển ngay tới phòng thí nghiệm của Edmond không?”, Winston nói “Ở trong sảnh đây, các vị rất dễ lộ và tôi vừa dò được một vài bản tin thời sự nói rằng các vị đang ở khu vực này.”
Langdon không lấy làm ngạc nhiên; một trực thăng quân sự đáp xuống một công viên ngay giữa thành phố lớn ắt sẽ thu hút sự chú ý.
“Hãy cho chúng tôi biết nơi cần đến,” Ambra nói.
“Giữa mấy cây cột,” Winston trả lời. “Cứ theo giọng của tôi nhé.”
Trong sảnh, tiếng nhạc thánh ca dừng đột ngột, màn hình plasma chuyển về tối đen và từ lối vào chính, một loạt tiếng lịch kịch rất to vang lên khi các chốt hãm kiểm soát tự động vận hành.
Có lẽ Edmond đã biến cơ sở này thành một pháo đài, Langdon nhận ra như vậy, đưa mắt nhìn nhanh qua các cửa sổ rất dày trong sảnh, cảm thấy yên tâm khi khu vực có cây cối xung quanh nhà nguyện vắng ngắt. Ít nhất vào lúc này.
Lúc ông nhìn trở lại phía Ambra, ông thấy một chớp sáng phía cuối sảnh, soi tỏ một khuôn cửa giữa hai cây cột. Ông cùng Ambra bước tới, đi vào và thấy mình đứng trong một hành lang dài. Có thêm những chớp sáng ở đầu kia của hành lang, dẫn đường cho họ.
Khi Langdon và Ambra bắt đầu men theo hành lang, Winston nói với họ, “Tôi tin là để đạt được mức phổ cập tối đa, chúng ta cần phát đi một thông cáo báo chí toàn cầu ngay bây giờ, nói rằng bài thuyết trình của Edmond Kirsch quá cố sắp được phát trực tiếp. Nếu chúng ta cung cấp cho truyền thông thêm một khung cửa để công bố sự kiện này thì sẽ tăng lượng người theo dõi của Edmond rất nhiều.”
“Ý kiến rất hay,” Ambra nói, sải bước nhanh hơn. “Nhưng anh nghĩ chúng ta cần đợi bao lâu? Tôi không muốn bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào.”
“Mười bảy phút,” Winston trả lời. “Thời gian đó sẽ đặt chương trình phát sóng vào ngay đầu giờ… ba giờ sáng ở đây và là giờ cao điểm trên toàn nước Mỹ.”
“Tuyệt vời,” nàng đáp.
“Rất tốt,” Winston phụ họa. “Thông cáo báo chí sẽ đưa ra ngay bây giờ và phần khởi động bài thuyết trình sẽ thực hiện trong vòng mười bảy phút nữa.”
Langdon căng lên mới theo kịp kế hoạch nhanh như điện của Winston.
Ambra dẫn đường đi trước dọc theo hành lang. “Và tối nay ở đây có bao nhiêu nhân viên?”
“Không có ai,” Winston đáp. “Edmond rất coi trọng vấn đề an ninh. Không hề có nhân viên nào ở đây. Tôi điều hành toàn bộ các mạng máy tính, cùng với đèn chiếu sáng, hệ thống làm mát và an ninh. Edmond có đùa rằng trong kỷ nguyên nhà 'thông minh' này, ông ấy là người đầu tiên có một nhà thờ thông minh.”
Langdon chỉ nghe một phần, còn đầu óc ông thì đang bận với những lo lắng đột ngột đến liên quan tới những hành động họ sắp thực hiện. “Winston, anh có thật sự nghĩ giờ là thời điểm tung ra thuyết trình của Edmond không?”
Ambra dừng sững lại và trân trối nhìn ông. “Robert, dĩ nhiên là đúng rồi! Đó là lý do chúng ta ở đây! Cả thế giới đang theo dõi! Chúng ta cũng không biết liệu còn ai khác sẽ đến và tìm cách ngăn chúng ta lại không - chúng ta cần làm việc này bây giờ, trước khi quá muộn!”
“Tôi đồng tình,” Winston nói. “Từ quan điểm hoàn toàn là thống kê, câu chuyện này đang tiến dần đến điểm bão hòa của nó. Được đo đếm bằng đơn vị terabyte dữ liệu truyền thông, phát hiện của Edmond Kirsch giờ là một trong những tin thời sự lớn nhất của thập niên này - không có gì ngạc nhiên nếu xét đến việc cộng đồng trực tuyến tăng lên theo hàm số mũ như thế nào trong mười năm qua.”
“Anh Robert?” Ambra thúc giục, mắt nàng cố tìm kiếm mắt ông. “Anh có điều gì lo lắng vậy?”
Langdon ngập ngừng, cố xác định nguồn cơn cảm giác không chắc chắn đến rất đột ngột của mình. “Tôi đoán mình chỉ thấy lo lắng cho lợi ích của Edmond ở chỗ tất cả những thuyết âm mưu tối nay - giết người, bắt cóc, âm mưu hoàng gia - sẽ làm lu mờ phát hiện khoa học của cậu ấy.”
“Đó là một luận điểm rất có cơ sở, thưa Giáo sư,” Winston xen vào. “Mặc dù tôi tin nó bỏ sót một sự thật quan trọng: những câu chuyện âm mưu đó chính là một lý do quan trọng cho thấy tại sao lại có rất nhiều khán giả trên khắp thế giới giờ đều đang theo dõi. Có đến 3,8 triệu người trong chương trình phát sóng trực tuyến của Edmond lúc chập tối nay; còn bây giờ, sau tất cả những sự kiện gay cấn suốt mấy tiếng qua, tôi ước tính rằng khoảng hai trăm triệu người đang theo dõi câu chuyện này qua các bản tin thời sự trực tuyến, mạng xã hội, truyền hình và phát thanh.”
Con số đó có vẻ khiến Langdon choáng váng, mặc dù ông nhớ rằng hơn hai trăm triệu người đã từng xem vòng chung kết FIFA World Cup và năm trăm triệu người theo dõi cuộc đổ bộ lên mặt trăng đầu tiên cách đây nửa thế kỷ khi chưa có ai có Internet và truyền hình còn lâu mới thịnh hành khắp toàn cầu.
“Ngài có thể không thấy điều này trong lĩnh vực học thuật, thưa Giáo sư,” Winston nói, “nhưng cả thế giới còn lại đã trở thành một chương trình truyền hình thực tế. Điều mỉa mai là, những người tìm cách ngăn cản Edmond tối nay đã thực hiện điều ngược lại; Edmond giờ có lượng người xem đông đảo nhất đối với bất kỳ tuyên bố khoa học nào trong lịch sử. Điều đó khiến tôi nhớ đến sự kiện Vatican lên án cuốn sách Thiên Chúa giáo và tính nữ thiêng liêng của ngài và kết quả là cuốn sách lập tức trở thành một cuốn sách bán chạy.”
Gần được là sách bán chạy, Langdon nghĩ, nhưng luận điểm của Winston có lý.
“Tăng tối đa lượng người xem luôn là một trong những mục tiêu cơ bản của Edmond tối hôm nay,” Winston nói.
“Cậu ấy nói đúng đây,” Ambra nói, mắt nhìn Langdon. “Khi Edmond và tôi suy nghĩ về sự kiện trực tiếp ở Guggenheim, anh ấy rất ám ảnh với việc tăng sự tham gia của những người theo dõi và thu hút được càng nhiều người xem càng tốt.”
“Như tôi đã nói,” Winston nhấn mạnh, “chúng ta đang dần tiến đến điểm bão hòa về truyền thông và không có thời điểm nào để tiết lộ phát hiện của ông ấy tốt hơn lúc này.”
“Tôi hiểu,” Langdon nói. “Chỉ cần nói cho chúng tôi biết cần làm gì.”
Tiếp tục đi dọc hành lang, họ gặp một vật cản bất ngờ - một chiếc thang được dựng vụng về ngang qua hàng lang như thể để thực hiện công việc sơn vẽ - khiến cho không thể nào đi tiếp được nếu không dẹp bỏ chiếc thang hay chui qua bên dưới nó.
“Cái thang này,” Langdon nêu ý kiến. “Tôi hạ nó xuống nhé?”
“Không,” Winston nói. “Edmond cố tình bố trí nó ở đó từ rất lâu rồi.”
“Tại sao vậy?” Ambra hỏi.
“Như quý vị có thể biết rồi, Edmond xem thường thói mê tín dưới mọi hình thức. Ông ấy đi qua bên dưới chiếc thang hàng ngày trên đường tới chỗ làm - một cách chế nhạo thần thánh. Hơn nữa, nếu có vị khách hay kỹ thuật viên nào không chịu đi qua bên dưới cái thang này, Edmond đều tống khứ họ ra khỏi tòa nhà.”
Lúc nào cũng có cơ sở. Langdon mỉm cười, nhớ lại chuyện Edmond từng công khai mắng ông vì “cầu may30”. Robert, trừ phi thầy là một tín đồ Druid bí mật vẫn còn gõ lên những thân cây để đánh thức chúng dậy, nếu không xin hãy vứt cái thứ mê tín ngu ngốc ấy vào quá khứ cho rồi!
30Nguyên văn, tác giả dùng thành ngữ “knock on wood”, là hành động cầu may bằng cách gõ lên đồ đạc bằng gỗ. Tục này xuất phát từ quan niệm cho rằng trong những cái cây có những vị thần may mắn có thể giúp đỡ con người nên khi cần may mắn, người ta nên gõ vào một cái cây để gọi thần cây xin trợ giúp.
Ambra dấn tới, khom người xuống và chui qua bên dưới thang. Với một chút lo lắng phải thừa nhận là phi lý, Langdon làm theo.
Khi họ qua mé bên kia, Winston hướng dẫn họ đi vòng qua một góc nhà tới một cánh cửa an ninh rất lớn có hai máy quay và một máy quét sinh trắc học.
Một tấm biển làm bằng tay treo bên trên cửa: Phòng 13.
Langdon nhìn con số khét tiếng rủi ro ấy. Edmond lại chọc tức thần thánh một lần nữa.
“Đây là lối vào phòng thí nghiệm của ông ấy,” Winston nói. “Ngoài những kỹ thuật viên được thuê giúp Edmond kiến tạo nó, rất ít người được phép tiếp cận.”
Nói xong, cánh cửa an ninh phát ra tiếng ì ì rất to và Ambra không bỏ lỡ thời gian nắm lấy tay nắm và gắng kéo cho nó mở ra. Nàng bước một bước qua ngưỡng cửa, dừng sững lại, và đưa tay lên bưng miệng há to đầy thảng thốt. Khi Langdon nhìn vượt qua nàng hướng vào điện thờ của nhà thờ, ông hiểu ngay phản ứng của nàng.
Gian phòng lớn rộng thênh thang của nhà nguyện bị choán hết bởi một buồng thủy tinh lớn nhất mà Langdon từng thấy. Khu vực quây kín trong suốt ấy choán lấy toàn bộ sàn và vươn cao tới tận phần trần cao hai tầng của nhà nguyện.
Cái buồng đó dường như được chia thành hai tầng.
Trên tầng thứ nhất, Langdon có thể nhìn thấy vài trăm tủ kim loại bằng cỡ tủ lạnh sắp xếp thành hàng giống như những dãy ghế trong nhà thờ hướng về phía một chiếc bàn thờ. Các tủ này đều không có cửa và những gì bên trong chúng đều hiện rõ mồn một. Cả mớ ma trận rối beng chằng chịt toàn những dây điện màu đỏ tươi lòng thòng buông xuống từ những mạng lưới điểm tiếp xúc dày đặc, uốn vòng xuống phía sàn, nơi chúng kết lại với nhau thành từng bó như cuộn thừng rất dày chạy giữa các cỗ máy, tạo nên thứ trông giống như một mạng lưới các mạch máu.
Hỗn loạn có trật tự, Langdon nghĩ.
“Trên sàn thứ nhất,” Winston nói, “các vị nhìn thấy siêu máy tính MareNostrum nổi tiếng - bốn mươi tám nghìn tám trăm chín mươi sáu lõi Intel nối thành một mạng InhniBand FDR10 - một trong những cỗ máy nhanh nhất thế giới. MareNostrum đã có ở đây lúc Edmond chuyển đến, và thay vì gỡ bỏ nó, ông ấy muốn hợp nhất nó, vì thế đơn giản là ông ấy mở rộng… lên phía trên.”
Giờ Langdon có thể thấy rằng tất cả những bó dây nhợ của MareNostrum đều hội tụ ở trung tâm phòng, tạo thành một khối duy nhất giống như một cái dây leo khổng lồ chạy thẳng đứng lên trần tầng một.
Khi ánh mắt Langdon ngước nhìn lên tầng hai của cái khối hình chữ nhật bằng thủy tinh khổng lồ ấy, ông thấy một hình ảnh hoàn toàn khác. Tại đây, ở chính giữa sàn, trên một bục tôn cao là một khối vuông màu xám lam bằng kim loại rất lớn - ngót nghét một mét vuông - không hề có dây nhợ, đèn nhấp nháy, hay bất kỳ cái gì của nó để cho thấy nó có thể là chiếc máy tính hiện đại mà Winston hiện đang xây dựng với hệ thống thuật ngữ khó giải đoán.
“… qubits thay thế cho các số nhị phân… các phép chồng đè trạng thái… các thuật toán lượng tử… vướng mắc và hiệu ứng chui hầm…”
Giờ Langdon hiểu tại sao ông và Edmond nói về nghệ thuật nhiều hơn là tin học.
“… kết quả là mười lũy thừa mười lăm các tính toán điểm di động mỗi giây,” Winston kết luận. “Làm cho sự hợp nhất của hai cỗ máy rất khác nhau này thành siêu máy tính mạnh nhất thế giới.”
“Lạy Chúa tôi,” Ambra thì thào.
“Thực tế,” Winston đính chính, “Chúa của Edmond.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 07 Jan 2019

CHƯƠNG 85


ConspiracyNet.com

TIN NÓNG
PHÁT HIỆN CỦA KIRSCH LÊN SÓNG CHỈ VÀI PHÚT NỮA!

Vâng, thật sự sắp diễn ra!
Một thông cáo báo chí từ khu vực của Edmond Kirsch vừa xác nhận rằng phát hiện khoa học đã được biết trước rất rộng rãi của ông ấy - bị cản trở sau vụ ám sát nhà vị lai chủ nghĩa - sẽ được truyền trực tiếp ra thế giới vào đầu giờ sáng (ba giờ sáng giờ địa phương tại Barcelona).
Số người xem đang tăng lên vùn vụt, và số liệu thống kê số người tham gia trực tuyến trên toàn cầu cao chưa từng có.
Trong bản tin liên quan, Robert Langdon và Ambra Vidal được cho là vừa bị phát hiện tiến vào khu vực Nhà nguyện Torre Girona - nơi đặt Trung tâm Siêu điện toán Barcelona, nơi được tin là Edmond Kirsch vẫn làm việc suốt mấy năm qua. Liệu đây có phải là nơi bài thuyết trình sẽ được truyền trực tiếp từ đó hay không thì ConspiracyNet vẫn chưa thể khẳng định.
Xin hãy sẵn sàng cho bài thuyết trình của Kirsch, phát trực tiếp trên ConspiracyNet.com! tại đây
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 07 Jan 2019

CHƯƠNG 86


Khi Hoàng tử Julián bước qua khuôn cửa sắt để vào trong ngọn núi, chàng có cảm giác khó chịu rằng mình có thể không bao giờ thoát ra được.
Thung lũng Những người ngã xuống. Ta đang làm gì ở đây?
Không gian đằng sau ngưỡng cửa rất lạnh và tối tăm, chỉ được chiếu sáng bằng hai cây đèn pin điện. Không khí toàn mùi đá ẩm ướt.
Một người mặc đồng phục đứng trước họ cầm một chuỗi chìa khóa kêu xủng xoảng trong đôi tay run bắn của anh ta. Julián không lấy làm ngạc nhiên vì quan chức thuộc Cục Gia sản Quốc gia này có vẻ lo âu như vậy. Có đến nửa tá đặc vụ Cận vệ Hoàng gia sắp thành hàng ngay sau lưng anh ta trong bóng tối. Cha ta ở đây. Rõ ràng vị quan chức tội nghiệp này bị triệu tập đến lúc nửa đêm để mở khóa ngọn núi thiêng của Franco cho Đức vua.
Một đặc vụ Cận vệ nhanh nhẹn bước tới. “Hoàng tử Julián, Giám mục Valdespino. Chúng tôi đang đợi các ngài. Xin mời theo lối này.”
Viên đặc vụ Cận vệ dẫn Julián và Valdespino tới một cánh cổng bằng sắt rèn rất đồ sộ trên có khắc một biểu tượng rất đáng ngại của Franco - một con đại bàng hai đầu dữ tợn gợi nhớ đến hình tượng Đức Quốc xã.
“Đức vua ở cuối đường hầm,” viên đặc vụ nói, ra hiệu cho họ đi qua cánh cổng đã được mở khóa và hé mở một phần.
Julián và Giám mục đưa mắt nhìn nhau dò hỏi rồi bước qua cổng, hai bên có một cặp tượng điêu khắc kim loại đầy hăm dọa - hai thiên thần của cái chết, tay nắm chặt những thanh gươm được tạo hình giống thập giá.
Lại thêm những hình ảnh tôn giáo - quân phiệt của Franco, Julián nghĩ khi chàng và Giám mục bắt đầu cuộc đi bộ dài của họ vào lòng núi.
Đường hầm trải dài trước mắt họ được bài trí trang nhã chẳng kém gì phòng khiêu vũ của Hoàng cung Madrid. Với sàn lát đá cẩm thạch đen được mài nhẵn bóng và phần trần tạo vòm cao vút, hành lang lộng lẫy được thắp sáng bằng những đèn treo tường tạo hình như những ngọn đuốc, với số lượng dường như vô tận.
Tuy nhiên, tối nay, nguồn sáng trong hành lang còn ấn tượng hơn. Hàng chục bồn đốt lửa - những chậu lửa được sắp xếp như đèn đường băng - cháy rừng rực, tỏa thứ ánh sáng màu cam suốt dọc đường hầm. Theo truyền thống, những bồn lửa này được đốt lên chỉ khi có những sự kiện lớn, nhưng việc Đức vua đến đây lúc đêm muộn rõ ràng cũng đủ tầm vóc để đốt chúng lên rồi.
Với bóng phản chiếu ánh lửa nhảy nhót trên sàn bóng loáng, tiền sảnh đồ sộ có một không khí gần như siêu nhiên. Julián cảm nhận được sự hiện diện ma quái của những linh hồn buồn khổ đã đục đẽo lên đường hầm này bằng tay, cuốc chim và xẻng luôn sẵn sàng, quần quật hàng năm ròng bên trong quả núi lạnh lẽo này, đói khát, rét cóng, nhiều người bỏ mạng, tất cả đều để tán dương Franco, kẻ để mộ phần nằm sâu ngay trong quả núi này.
Hãy nhìn cho thật kỹ, con trai, cha chàng đã dặn. Có ngày con sẽ kéo đổ thứ này xuống.
Làm vua, Julián biết mình có thể không có thực quyền để phá hủy công trình hoa lệ này, nhưng chàng phải thừa nhận mình thấy ngạc nhiên là người dân Tây Ban Nha lại chấp nhận nó tồn tại, đặc biệt là khi xét đến sự háo hức của đất nước này muốn gác lại quá khứ tối tăm của mình để tiến vào thế giới mới. Thế nhưng, vẫn còn những người ao ước những gì xưa cũ, và hằng năm, vào dịp kỷ niệm ngày mất của Franco, hàng trăm kẻ ủng hộ Franco nay đã có tuổi vẫn đổ về nơi này để bày tỏ sự kính trọng với ông ta.
“Don Julián,” Giám mục nói khẽ, không để những người khác nghe lọt, khi họ tiến sâu hơn trong hành lang. “Ngài có biết tại sao cha ngài lại triệu chúng ta tới đây không?”
Julián lắc đầu. “Ta lại hy vọng ông biết cơ đây.”
Valdespino bật ra một tiếng thở dài nặng nề khác thường. “Thần chẳng mảy may biết gì.”
Nếu Giám mục không biết những động cơ của cha ta, Julián nghĩ thầm, thì chẳng còn ai biết nữa.
“Thần chỉ hy vọng nhà vua ổn,” Giám mục nói với vẻ trìu mến lạ lùng. “Một vài quyết định của ngài gần đây…”
“Ý ông là giống như việc triệu tập một cuộc họp bên trong lòng một quả núi khi mà lẽ ra cha ta cần ở trên giường bệnh phải không?”
Valdespino mỉm cười dịu dàng. “Nếu là ví dụ thì đúng vậy.”
Julián tự hỏi tại sao đội Cận vệ của Đức vua lại không can thiệp và từ chối đưa một vị vua đang hấp hối ra khỏi bệnh viện để tới cái nơi quái gở này. Nhưng mà các đặc vụ Cận vệ đều được đào tạo để tuân lệnh mà không thắc mắc, đặc biệt khi yêu cầu đến từ tổng chỉ huy của họ.
“Tôi không cầu nguyện ở đây đã nhiều năm,” Valdespino nói, mắt chăm chú nhìn sảnh đường được thắp sáng bằng lửa.
Julián biết rằng đường hầm nơi họ đi qua không chỉ là hành lang duy nhất tiến vào lòng núi. Nó còn là chính điện của một nhà thờ Công giáo được công nhận chính thức. Phía trước mặt, Hoàng tử đã bắt đầu có thể thấy những hàng ghế dài.
La basílica secreta31, Julián từng gọi nơi này như vậy khi còn là một cậu bé.
31Nhà thờ bí mật
Được đục rỗng từ một núi đá granite, điện thờ sơn son thếp vàng ở cuối đường hầm này là một không gian lòng hang, một vương cung thánh đường ngầm dưới đất lạ lùng với phần mái vòm đồ sộ. Được đồn là có tổng diện tích rộng hơn cả Nhà thờ St. Peter ở Rome, lăng mộ ngầm dưới đất này tự hào với sáu nhà nguyện riêng biệt bao quanh bàn thờ rất cao của nó, được tính toán bố trí đúng ngay bên dưới cây thập tự trên đỉnh núi.
Khi họ đến gần điện thờ chính, Julián đưa mắt nhìn cái không gian rộng lớn này, cố tìm cha mình. Tuy nhiên, nhà thờ có vẻ như vắng vẻ hoàn toàn.
“Đức vua đâu?” Giám mục gặng hỏi, giọng đầy lo lắng.
Giờ Julián cùng chung lo lắng với Giám mục, sợ rằng lực lượng Cận vệ bỏ mặc Đức vua một mình ở cái nơi vắng vẻ này. Hoàng tử nhanh chân di chuyển tới trước, ngó nhìn vào một bên cung thờ ngang rồi tiếp đến bên kia. Chẳng thấy bóng dáng ai cả. Chàng hấp tấp tiến vào sâu hơn, vòng quanh mé bên bàn thờ và tiến vào hậu cung.
Chính ở đây, ở nơi sâu nhất của ngọn núi, cuối cùng Julián cũng thấy cha mình và dừng sững lại.
Đức vua của Tây Ban Nha hoàn toàn một mình, phủ kín trong những tấm chăn nặng trịch và chìm lún trong một chiếc xe lăn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 07 Jan 2019

CHƯƠNG 87


Bên trong điện thờ chính của nhà nguyện vắng vẻ, Langdon và Ambra theo giọng nói của Winston đi vòng quanh chu vi của chiếc siêu máy tính hai tầng. Qua lớp kính nặng nề, họ nghe thấy tiếng rung đều đều phát ra từ chiếc máy đồ sộ bên trong. Langdon có cảm giác rất lạ rằng họ đang nhìn vào một cái chuồng ngắm một con thú bị nhốt kín.
Theo lời Winston, âm thanh đó được tạo ra không phải bởi thiết bị điện tử mà bởi vô số những chiếc quạt ly tâm, thiết bị tản nhiệt và các bơm làm mát bằng chất lỏng cần để giúp cho cỗ máy không bị quá nóng.
“Trong đó thì điếc tai,” Winston nói. “Và lạnh cóng. Rất may, phòng thí nghiệm của Edmond nằm trên tầng hai.”
Một chiếc cầu thang xoắn ốc không có trụ đỡ sừng sững phía trước, được gắn với bức tường ngoài của cái buồng kính. Theo chỉ dẫn của Winston, Langdon và Ambra leo lên cầu thang và thấy mình đứng trên một bục kim loại phía trước một cánh cửa kính quay.
Trước sự thích thú của Langdon, cái lối đi đầy chất vị lai chủ nghĩa này để vào phòng thí nghiệm của Edmond được trang trí như thể nó là một căn nhà ngoại ô vậy - hoàn chỉnh với một miếng thảm chùi chân có lời chào, một chậu cây giả và một chiếc ghế dài nho nhỏ phía dưới có một đôi dép lê đi trong nhà, mà Langdon buồn rầu nhận ra chắc chắn là của Edmond.
Phía trên cánh cửa treo một thông điệp được đóng khung.
Thành công là khả năng đi từ một thất bại này tới một thất bại khác mà không mất hết sự nhiệt thành.
- WINSTON CHURCHILL
“Lại thêm Churchill này,” Langdon này, chỉ cho Ambra thấy.
“Câu trích dẫn Edmond yêu thích,” Winston xen vào. “Ông ấy nói nó định nghĩa cho sức mạnh lớn nhất của máy tính.”
“Máy tính ư?” Ambra hỏi.
“Vâng, các máy tính vô cùng bền. Tôi có thể hỏng cả tỷ lần mà không hề thất vọng. Tôi đã bắt tay thực hiện nỗ lực lần thứ một tỷ của mình trong việc giải quyết một vấn đề với nguồn năng lượng hệt như lần đầu. Con người thì không thể làm được như thế.”
“Đúng,” Langdon thừa nhận. “Tôi thường bỏ cuộc sau cố gắng lần thứ một triệu.”
Ambra mỉm cười và tiến về phía cánh cửa.
“Nền bên trong bằng kính,” Winston nói khi cánh cửa xoay bắt đầu tự động vận hành. “Cho nên làm ơn tháo bỏ giày.”
Chỉ vài giây, Ambra đã cởi xong giày của nàng và bước chân trần qua cánh cửa đang xoay tròn. Khi Langdon theo sau, ông nhận thấy tấm thảm chùi chân của Edmond có một thông điệp rất khác thường:
KHÔNG CÓ CHỖ NÀO GIỐNG NHƯ 127.0.0.1
“Winston, cái thảm đó? Tôi không hi…”
“Máy chủ địa phương,” Winston trả lời.
Langdon đọc lại tấm thảm. “Tôi hiểu rồi,” ông nói, dù không hề nhìn và tiếp tục đi qua cánh cửa xoay.
Khi Langdon bước lên sàn kính, ông cảm thấy một thoáng không lấy gì làm chắc chắn. Đứng trên một bề mặt trong suốt với chân đi tất quả là khiến người ta mất hết tinh thần, nhưng phát hiện thấy bản thân đang lượn lờ ngay bên trên chiếc máy tính MareNostrum dưới nhà còn gây cảm giác luống cuống gấp đôi. Từ chỗ trên này, việc nhìn ngắm đội hình những cái giá rất trang nghiêm bên dưới gợi cho Langdon nhớ đến việc nhìn xuống hố khảo cổ Tây An nổi tiếng của Trung Quốc ngắm đội quân đất nung.
Langdon hít một hơi thật sâu và ngước mắt nhìn không gian kỳ dị trước mặt mình.
Phòng thí nghiệm của Edmond là một không gian chữ nhật trong suốt choán hết bởi khối vuông màu xám lam bằng kim loại mà ông đã thấy trước đó, bề mặt bóng loáng của nó phản chiếu mọi thứ xung quanh. Bên phải khối vuông, ở một đầu gian phòng, là một không gian văn phòng siêu đẹp với một chiếc bàn hình bán nguyệt, ba màn hình LCD rất lớn và những bàn phím đủ loại được đặt trên phần mặt bàn bằng đá granite.
“Khu vực kiểm soát nhiệm vụ,” Ambra thì thào.
Langdon gật đầu và liếc mắt về phía đầu đối diện của gian phòng, nơi những chiếc ghế tựa, một chiếc ghế dài và một chiếc xe đạp tập thể thao được bố trí trên một tấm thảm phương Đông.
Một cái hang siêu điện toán của con người, Langdon thầm nghĩ, cảm thấy ngờ rằng Edmond hẳn luôn chui vào cái hộp kính này khi thực hiện dự án của mình. Cậu ấy đã phát hiện được gì trên đó chứ? Sự do dự ban đầu của Langdon đã lắng đi và giờ ông cảm thấy sự tò mò mang tính tri thức ngày càng tăng - cái cảm giác khao khát được biết xem những bí mật gì đã được hé lộ ở đây, những bí mật gì đã được phơi bày bởi sự kết hợp của một bộ óc thiên tài và một cỗ máy hùng mạnh.
Ambra đã bước nhẹ qua sàn tới khối vuông đồ sộ và đang sửng sốt đăm đăm nhìn cái bề mặt xám lam bóng loáng của nó. Langdon tiến đến chỗ nàng, bóng cả hai phản chiếu trên mặt ngoài sáng bóng của khối vuông.
Đây là một chiếc máy tính ư! Langdon băn khoăn. Không như cỗ máy dưới nhà, thứ này hoàn toàn im lặng - chậm chạp và vô hồn - một khối kim loại nguyên khối.
Cái sắc xanh xanh của cỗ máy khiến Langdon nhớ đến một siêu máy tính những năm 1990 có tên “Lam Thẫm,” từng khiến cả thế giới sững sờ vì đánh bại đương kim vô địch cờ vua thế giới Garry Kasparov. Kể từ đó, những tiến bộ trong ngành công nghệ điện toán gần như không tài nào lĩnh hội được.
“Các vị có muốn nhìn bên trong không?” Winston lên tiếng qua mấy chiếc loa phía trên.
Ambra thảng thốt nhìn lên trên. “Nhìn bên trong khối vuông này à?”
“Tại sao không chứ?” Winston trả lời. “Edmond sẽ rất hãnh diện được chỉ cho các vị xem sự vận hành bên trong nó đây.”
“Không cần đâu,” Ambra nói, hướng ánh mắt về phía văn phòng của Edmond. “Tôi muốn tập trung vào việc nhập mật khẩu. Chúng tôi thực hiện việc đó thế nào đây?”
“Sẽ chỉ mất vài giây thôi và chúng ta vẫn có hơn mười một phút trước khi có thể khởi động. Cứ nhìn ngắm bên trong đi.”
Trước mặt họ, một tấm bảng bên cạnh khối vuông đối diện văn phòng của Edmond bắt đầu trượt mở, lộ ra một ô thủy tinh dày. Langdon và Ambra đi vòng qua và áp mặt vào ô cửa trong suốt.
Langdon đinh ninh sẽ nhìn thấy một mớ dây nhọ và đèn nhấp nháy dày đặc nữa. Nhưng ông lại chẳng thấy thứ gì kiểu đó cả. Trước sự ngỡ ngàng của ông, bên trong khối vuông tối om và trống không - hệt một căn phòng nhỏ bỏ trống. Thứ duy nhất bên trong có vẻ như là từng cuộn hơi ẩm màu trắng bốc lên không khí như thể căn phòng chính là một chiếc tủ lạnh có thể vào trong được. Tấm bảng dày bằng Plexiglas tỏa ra khí lạnh đến kinh ngạc.
“Chẳng có gì ở đây,” Ambra nói.
Langdon cũng chẳng nhìn thấy gì nhưng vẫn cảm nhận được một xung động lặp đi lặp lại rất nhẹ phát ra từ bên trong khối vuông.
“Cái nhịp đập rất chậm đó,” Winston nói, “là hệ thống làm lạnh pha loãng ống xung động. Nghe giống như quả tim người vậy.”
Phải, chính thế, Langdon nghĩ thầm, cảm thấy khó chịu với sự so sánh đó.
Rất chậm rãi, những bóng đèn đỏ bên trong bắt đầu chiếu sáng những gì trong khối vuông. Mới đầu, Langdon chỉ nhìn thấy màn sương trắng và không gian trơ trụi - một gian buồng hình vuông trống không. Sau đó, khi ánh sáng tăng lên, có gì đó lóe lên trong không gian phía trên sàn, và ông nhận ra có một hình trụ kim loại khó hiểu từ trên trần buông xuống giống một nhũ đá.
“Và thứ này,” Winston nói, “là những gì khối vuông phải giữ lạnh.”
Cái thiết bị hình trụ buông từ trên trần xuống dài khoảng một mét rưỡi, bao gồm bảy vòng tròn đặt nằm ngang, càng lên trên càng giảm dần về đường kính, tạo thành một cây cột gồm nhiều tầng đĩa gắn liền với nhau nhờ những thanh rất mảnh chạy dọc. Không gian giữa các đĩa kim loại bóng loáng đó là một mớ lưa thưa những dây nhọ thanh mảnh. Xung quanh toàn bộ thiết bị này lởn vởn một làn hơi ẩm lạnh lẽo bốc lên.
“E-Wave,” Winston tuyên bố. “Một đột phá - nếu quý vị bỏ qua cho cách chơi chữ ấy - vượt xa D-Wave của NASA/Google.”
Winston nhanh nhẹn giải thích rằng D-Wave - “chiếc máy tính lượng tử” phôi thai đầu tiên của thế giới - đã mở ra một thế giới mới mẻ về sức mạnh của máy tính mà các nhà khoa học vẫn đang phải vật vã tìm cách nắm bắt. Điện toán lượng tử, chứ không phải sử dụng một phương pháp lưu trữ thông tin nhị phân, tạo ra việc sử dụng các trạng thái lượng tử của các hạt ở cấp độ hạ nguyên tử, dẫn đến đột phá phi thường về tốc độ, sức mạnh và độ linh hoạt.
“Chiếc máy tính lượng tử của Edmond,” Winston nói, “về mặt cấu trúc không hề khác với D-Wave. Điểm khác biệt là khối vuông kim loại bao bọc máy tính. Khối vuông được bọc lớp osmium - một nguyên tố hóa học hiếm siêu nặng giúp cải thiện hẳn khả năng che chắn từ, nhiệt và lượng tử và tôi ngờ rằng còn góp phần vào khiếu thích kịch tính của Edmond nữa.”
Langdon mỉm cười, vì chính ông cũng có suy nghĩ tương tự.
“Trong mấy năm qua, trong khi Phòng nghiệm Trí tuệ Lượng tử của Google sử dụng các loại máy như D-Wave để tăng cường kiến thức của máy thì Edmond lại bí mật vượt qua tất cả mọi người bằng chính cỗ máy này. Và ông ấy làm việc đó nhờ sử dụng một ý tưởng táo bạo duy nhất…” Winston ngừng lại. “Cơ chế lưỡng viện.”
Langdon cau mày. Hai viện của Quốc hội ư?
“Là bộ não hai thùy,” Winston tiếp tục. “Bán cầu trái và phải.”
Là trí não hai ngăn, giờ thì Langdon nhận ra. Một trong những điều khiến con người có sức sáng tạo là hai nửa của não bộ có chức năng hoàn toàn khác nhau. Não trái thiên về phân tích và ngôn ngữ, trong khi não phải thiên về trực giác và “thích” hình ảnh hơn ngôn từ.
“Bí quyết,” Winston nói, “là Edmond quyết định tạo ra một bộ não nhân tạo mô phỏng não bộ con người - tức là, được chia thành bán cầu trái và phải. Thế nhưng, trong trường hợp này, nó là cách bố trí tầng trên - tầng dưới thì đúng hơn.”
Langdon bước lùi lại và ngó qua sàn nhìn cỗ máy đang chạy ù ù dưới nhà rồi nhìn trở lại cái “nhũ đá” im lìm bên trong khối vuông.
Hai cỗ máy khác biệt kết hợp làm một - một trí não hai ngăn. “Khi buộc phải làm việc với tư cách một khối duy nhất,”
Winston nói, “hai cỗ máy này chấp nhận các cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề - do đó trải qua những kiểu xung đột và thỏa hiệp tương tự như xảy ra giữa các thùy của não người, làm gia tăng rất lớn khả năng học hỏi, sáng tạo của trí tuệ nhân tạo, và, theo nghĩa Ị nào đó… cả nhân tính nữa. Trong trường hợp của tôi, Edmond cho tôi những công cụ để tự dạy cho mình về nhân tính bằng cách quan sát thế giới quanh mình và bắt chước theo những đặc tính của con người - hài hước, hợp tác, đánh giá giá trị và thậm chí cả nhận thức về đạo đức.”
Thật phi thường, Langdon nghĩ. “Vậy chiếc máy tính kép này về cơ bản chính là… anh phải không?”
Winston bật cười. “Chà, cỗ máy này là tôi cũng không khác gì bộ não vật chất của các vị chính là các vị. Quan sát bộ não của chính các vị trong một cái bồn, quý vị sẽ không nói, 'Thứ đó chính là tôi' đâu. Chúng ta là tổng hòa những tương tác diễn ra bên trong cơ chế mà.”
“Winston,” Ambra xen vào, lúc này đang tiến lại phía khu vực làm việc của Edmond. “Còn bao nhiêu thời gian cho tới lúc khởi động?”
“Năm phút bốn mươi ba giây,” Winston trả lời. “Chúng ta chuẩn bị chứ?”
“Phải, xin mời,” nàng nói.
Tấm chắn trên ô cửa sổ quan sát từ từ trượt về vị trí, và Langdon quay về đứng cùng Ambra trong phòng thí nghiệm của Edmond.
“Winston,” nàng nói. “Căn cứ vào tất cả công việc của anh ở đây với Edmond, tôi ngạc nhiên là anh lại không hề biết tí gì về phát hiện của anh ấy.”
“Xin nói lại, thưa cô Vidal, thông tin của tôi được chia ngăn và tôi có dữ liệu giống như cô có,” anh ta đáp. “Tôi chỉ có thể đưa ra một phỏng đoán dựa trên kiến thức.”
“Và đó là gì?” Ambra hỏi, ngó nghiêng quanh văn phòng của Edmond.
“Chà, Edmond nói rằng phát hiện của ông ấy sẽ 'thay đổi mọi thứ,’ Theo kinh nghiệm của tôi, những phát hiện có khả năng biến đổi nhất trong lịch sử đều dẫn đến những mô hình được chỉnh sửa lại của vũ trụ - những đột phá như sự phủ nhận mô hình Trái Đất phẳng của Pythagoras, thuyết nhật tâm của Copernicus, thuyết tiến hóa của Darwin, và việc phát hiện ra thuyết tương đối của Einstein - tất cả đều đã làm thay đổi mạnh mẽ thế giới quan của nhân loại và cập nhật mô hình vũ trụ hiện tại của chúng ta.”
Langdon ngước nhìn chiếc loa trên đầu. “Vậy là anh phỏng đoán Edmond đã phát hiện được gì đó gợi ý về một mô hình vũ trụ mới phải không?”
“Đó là một suy luận hợp lý,” Winston đáp, tốc độ nói nhanh hơn. “Mare-Nostrum hóa ra lại là một trong những máy tính 'mô phỏng' tuyệt nhất trên thế giới, chuyên về những mô phỏng phức tạp, nổi tiếng nhất là 'Alya Đỏ' - một quả tim người áo, hoạt động đầy đủ và chính xác đến tận cấp độ tế bào. Dĩ nhiên, với việc bổ sung thêm một câu phần lượng tử gần đây, thiết bị này có thể mô phỏng các hệ thống phức tạp hơn cả triệu lần so với các cơ quan ở người.”
Langdon hiểu khái niệm nhưng vẫn không tài nào hình dung được Edmond có thể mô phỏng được cái gì để trả lời các câu hỏi Chúng ta đến từ đâu? Chúng ta đang đi về đâu?
“Winston?” Ambra gọi lại từ chỗ bàn làm việc của Edmond. “Chúng ta bật thứ này bằng cách nào?”
“Tôi có thể giúp cô,” Winston trả lời.
Ba màn hình LCD lớn trên bàn nhấp nháy hoạt động vừa khi Langdon đến bên cạnh Ambra. Khi những hình ảnh trên màn hình hiện rõ, cả hai cùng thảng thốt bước lùi lại.
“Winston… hình ảnh đó là trực tiếp à?” Ambra hỏi.
“Vâng, dữ liệu trực tiếp truyền về từ các máy quay an ninh bên ngoài của chúng tôi. Tôi nghĩ các vị biết rồi. Họ đến cách đây vài giây.”
Các màn hình hiển thị cho thấy thấy một góc nhìn từ trên cao lối vào chính của nhà nguyện, nơi một tốp cảnh sát đã tập hợp, đang nhấn nút gọi cửa, thử mở cánh cửa, liên lạc qua bộ đàm.
“Đừng lo,” Winston trấn an họ, “họ sẽ không bao giờ vào được đâu. Và chúng ta còn chưa đầy bốn phút nữa tới lúc khởi động.”
“Chúng ta nên khởi động ngay lúc này,” Ambra thúc giục.
Winston điềm tĩnh trả lời. “Tôi tin Edmond mong muốn chúng ta đợi và khởi động vào đầu giờ sáng, như đã hứa. Ông ấy là người giữ lời. Hơn nữa, tôi đang theo dõi sự tham gia của khán giả toàn cầu và số người xem của chúng ta vẫn đang tăng. Trong bốn phút tới, với tốc độ hiện tại, cử tọa của chúng ta sẽ tăng 12,7 phần trăm, và, tôi dự đoán, tiến gần đến mức tối đa.” Winston ngừng lại, giọng nghe ngạc nhiên một cách vui vẻ. “Tôi phải nói rằng, bất chấp tất cả những gì đã truyền cảm hứng cho buổi tối nay, có vẻ như công bố của Edmond đã được đặt giờ tối ưu. Tôi nghĩ ông ấy sẽ vô cùng biết ơn cả hai người.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 07 Jan 2019

CHƯƠNG 88


Chưa đầy bốn phút, Langdon nghĩ, buông người xuống chiếc ghế lưới bên bàn làm việc của Edmond và hướng mắt về ba màn hình LCD lớn choán hết phần cuối gian phòng này. Trên màn hình, dữ liệu an ninh truyền thực tiếp vẫn đang hiển thị, cho thấy cảnh sát đang tập hợp quanh nhà nguyện.
“Anh có chắc họ không vào được không?” Ambra thúc bách, bồn chồn di chuyển đằng sau Langdon.
“Tin tôi đi,” Winston trả lời. “Edmond rất chú ý đến an ninh.”
“Thế nếu họ cắt điện vào tòa nhà thì sao?” Langdon vặn.
“Nguồn cấp điện riêng,” Winston thản nhiên trả lời. “Thừa đủ các thùng được chôn ngầm. Không ai can thiệp được vào thời điểm này. Tôi cam đoan với các vị.”
Langdon thấy nhẹ người. Winston vẫn đúng trên mọi mặt trận tối nay… Và kiểu gì cậu ấy cũng có sự ủng hộ của chúng ta.
Ngồi ngay chính giữa chiếc bàn hình móng ngựa, Langdon hướng sự chú ý tới cái bàn phím khác thường trước mặt mình. Ít nhất nó cũng có gấp đôi số lượng phím bình thường - bộ số và chữ truyền thống được bổ sung thêm vô số ký hiệu mà thậm chí ông không nhận ra. Bàn phím này được chia ra ở chính giữa, mỗi nửa lại được bố trí ở góc độ rất an toàn so với nửa kia.
“Hướng dẫn một chút ở đây chứ?” Langdon hỏi, chăm chú nhìn số phím khó hiểu.
“Sai bàn phím rồi,” Winston trả lời. “Đó là điểm truy cập chính của E-Wave. Như tôi đã nói, Edmond giấu kín bài thuyết trình này trước mọi người, kể cả tôi. Bài thuyết trình phải được kích hoạt từ một máy khác. Xin hãy đi sang phải. Hết đường đến tận cuối.”
Langdon nhìn sang bên phải mình, nơi có nửa tá máy tính không có giá đỡ được sắp thẳng hàng dọc theo chiều dài chiếc bàn. Khi ông lăn ghế về phía đó, ông ngạc nhiên thấy rằng mấy máy đầu tiên khá cũ và lỗi thời. Lạ thay, ông càng tiến xa thì dường như các máy càng cũ.
Không thể thế này, ông nghĩ thầm, đi lướt qua một hệ thống IBM DOS màu be trông rất vụng về chắc phải từ vài thập kỷ trước. “Winston, những máy này là gì thế?”
“Các máy tính thời niên thiếu của Edmond,” Winston nói. “Ông ấy giữ lại chúng như một cách nhắc nhở về gốc rễ của mình. Nhiều khi, vào những hôm khó khăn ở đây, ông ấy sẽ bật chúng lên và chạy các chương trình cũ - một cách để kết nối lại với những điều kỳ diệu mà ông ấy cảm nhận được với tư cách là một cậu bé khi khám phá quá trình lập trình.”
“Tôi thích ý tưởng đó đây,” Langdon nói.
“Cũng như cái đồng hồ Chuột Mickey của ngài vậy,” Winston nói.
Giật mình, Langdon liếc nhìn xuống, vén ống tay áo khoác lên để nhìn chiếc đồng hồ cổ lỗ ông đã đeo từ khi nhận được nó lúc còn là một cậu bé. Việc Winston biết về đồng hồ của ông thật đáng ngạc nhiên, mặc dù Langdon nhớ gần đây đã từng kể với Edmond về việc đeo nó như một lời nhắc nhở hãy luôn trẻ trung trong suy nghĩ.
“Robert,” Ambra nói, “gạt thị hiếu thời trang của anh sang bên, liệu chúng ta có thể nhập mật khẩu được chưa? Ngay cả con chuột của anh cũng đang vẫy gọi - cố gắng thu hút sự chú ý của anh.”
Đúng vậy, bàn tay đeo găng của Mickey giơ cao trên đầu, ngón trỏ chỉ gần như thẳng đứng. Ba phút nữa là tới giờ.
Langdon nhanh chóng lướt dọc chiếc bàn, và Ambra tiến tới phía ông tại chỗ chiếc máy tính cuối cùng trong cả loạt - một cái hộp màu nấm trông thô kệch với khe đĩa mềm, một modem điện thoại 1.200 baud1, và một màn hình lồi 12 inch phình ra đặt trên cái trụ.
1Đơn vị tốc độ truyền dữ liệu
“Máy Tandy TRS-80,” Winston nói. “Chiếc máy đầu tiên của Edmond. Ông ấy mua hàng đã qua sử dụng và tự dạy mình ngôn ngữ BASIC khi ông ấy được khoảng tám tuổi.”
Langdon rất vui thấy rằng chiếc máy tính này, bất chấp việc giống như một con khủng long, đã được bật và đang ở chế độ chờ. Màn hình của nó - một màn hiển thị đen và trắng nhấp nháy - sáng lên cùng với một lời nhắn đầy hứa hẹn, hiện ra với phông chữ đầy răng cưa.
XIN CHÀO EDMOND:
XIN MỜI NHẬP MẬT KHẨU:
Sau cụm từ “mật khẩu,” một con trỏ màu đen nhấp nháy chờ đợi.
“Nó đấy à?” Langdon hỏi, cảm thấy như thể mọi việc quá đơn giản. “Tôi chỉ việc nhập nó vào đây à?”
“Chính xác,” Winston trả lời. “Một khi ngài nhập mật khẩu, máy tính cá nhân này sẽ gửi một tin nhắn 'mở khóa' đã được xác thực tới phần đã được niêm phong trong máy tính chính có lưu bài thuyết trình của Edmond. Khi đó tôi sẽ có quyền truy cập và có thể điều hành nguồn vào, sắp xếp để chiếu nó vào đầu giờ sáng và đưa dữ liệu tới tất cả các kênh phân phối chính để tiếp sóng trên toàn cầu.”
Langdon ít nhiều hiểu lời giải thích này, nhưng khi ông chăm chú nhìn cái máy tính thô kệch và modem điện thoại, ông cảm thấy bối rối.
“Tôi không hiểu, Winston, sau toàn bộ việc lập kế hoạch của Edmond tối nay, tại sao cậu ấy lại giao phó hết toàn bộ bài thuyết trình của mình cho một cuộc gọi điện thoại gửi đến một modem từ thời tiền sử thế?”
“Tôi xin nói rằng như thế Edmond mới là Edmond,” Winston đáp. “Như các vị biết, ông ấy rất mê kịch, biểu tượng và lịch sử. Và tôi ngờ là ông ấy thấy vô cùng vui vẻ khi vận hành được chiếc máy tính đầu tiên của mình và dùng nó để khởi động công trình vĩ đại nhất cuộc đời ông ấy.”
Rất đúng, Langdon ngẫm nghĩ, nhận ra đó đúng là cách Edmond nhìn nhận sự việc.
“Hơn nữa,” Winston nói thêm, “tôi ngờ rằng Edmond có lẽ đã gặp những điều bất ngờ, nhưng dù thế nào thì vẫn có lý khi sử dụng một máy tính cổ lỗ để 'bật công tắc’. Những nhiệm vụ đơn giản thì cần dụng cụ đơn giản. Và nếu khôn ngoan về mặt an ninh thì việc sử dụng một bộ xử lý chậm chạp bảo đảm rằng sẽ không bao giờ xảy ra việc truy cập trái phép vào hệ thống.”
“Anh Robert?” Ambra thúc giục phía sau ông, bóp vai ông như khích lệ.
“Vâng, rất xin lỗi, tất cả ổn rồi.” Langdon kéo bàn phím Tandy lại gần mình hơn, sợi cáp cuộn chặt của máy giãn ra như một sợi dây điện thoại quay tay cũ kỹ. Ông đặt các ngón tay của mình lên các phím nhựa và nghĩ đến dòng văn bản viết tay mà ông và Ambra đã phát hiện được trong hầm mộ ở Sagrada Familia.
Mọi tôn giáo u tối tiêu vong và khoa học lành mạnh thống trị.
Đoạn cuối tuyệt hay trong thiên trường thi của William Blake The Four Zoas dường như là lựa chọn hoàn hảo để mở khóa phát hiện khoa học cuối cùng của Edmond - một khám phá mà anh ấy tuyên bố sẽ làm thay đổi mọi thứ.
Langdon hít một hơi thật sâu và cẩn thận gõ dòng thơ, không có các khoảng dãn cách và thay thế ký hiệu “và” bằng chữ ghép et.
Khi ông kết thúc, ông nhìn lên màn hình.
XIN MỜI NHỢP MẬT KHẨU:
Langdon đếm số dấu chấm - bốn mươi bảy.
Hoàn hảo. Chẳng thấy gì cả.
Langdon đưa mắt nhìn Ambra và nàng gật đầu với ông. Ông với tay và gõ phím quay lại.
Lập tức, máy tính phát ra một tiếng xì uể oải.
MẬT KHẨU KHÔNG ĐÚNG.
XIN THỬ LẠI.
Tim Langdon đập như trống làng.
“Ambra… tôi gõ rất chuẩn! Tôi dám chắc vậy!” Ông xoay chiếc ghế của mình và nhìn lên nàng, đinh ninh nhìn thấy gương mặt nàng ngập nỗi hãi hùng.
Thay vào đó, Ambra Vidal chăm chú nhìn xuống ông với một nụ cười thích thú. Nàng lắc đầu và cười to.
“Giáo sư,” nàng thì thào, tay chỉ bàn phím của ông. “Phím caps lock của anh vẫn bật kìa.”

Thời điểm đó, sâu trong lòng một quả núi, Hoàng tử Julián đứng sững sờ, trân trân nhìn qua vương cung thánh đường ngầm, cố hiểu cái cảnh tượng khó hiểu trước mắt mình. Cha chàng, Đức vua của Tây Ban Nha, ngồi bất động trên một chiếc xe lăn, được đặt ở khu vực riêng tư và hẻo lánh nhất của thánh đường này.
Với vẻ khiếp hãi, Julián xộc đến bến cạnh ông ấy. “Cha?”
Lúc Julián đến bên, nhà vua từ từ mở mắt, rõ ràng đang thức dậy sau một giấc chợp mắt. Vị vua ốm yếu cố nở một nụ cười thư thái. “Cảm ơn con đã đến, con trai,” ông ấy thì thào, giọng rất yếu.
Julián quỳ trước chiếc xe lăn, thấy thở phào vì cha mình vẫn còn sống nhưng cũng thấy thảng thốt trước việc ông ấy đã suy nhược nhiều đến thế nào trong vài ngày qua. “Thưa cha? Cha ổn chứ?”
Đức vua nhún vai. “Khỏe như mong đợi,” ông ấy trả lời với thái độ hài hước đến ngạc nhiên. “Con thì sao nhỉ? Ngày hôm nay của con đầy… sự kiện.”
Julián chẳng biết trả lời sao. “Cha làm gì ở đây vậy?”
“Ồ, ta mệt mỏi với bệnh viện và muốn một chút không khí thôi mà.”
“Vâng, nhưng… ở đây sao?” Julián biết cha mình luôn rất ghét mối liên hệ mang tính biểu tượng của đền thờ này với sự ngược đãi và thiếu khoan dung.
“Bệ hạ!” Valdespino gọi, hấp tấp vòng qua bàn thờ và tiến về chỗ họ, thở không ra hơi. “Trời đất ơi!”
Đức vua mỉm cười với người bạn nối khố của mình. “Antonio, chào ông.”
Antonio ư? Hoàng tử Julián chưa bao giờ nghe cha mình gọi Giám mục Valdespino bằng tên thật của ông ấy. Ở nơi công khai, sẽ luôn là “Đức cha.”
Việc Đức vua bỏ qua nghi thức dường như khiến Giám mục bối rối. “Cảm ơn… bệ hạ,” ông ta ấp úng. “Bệ hạ khỏe chứ?”
“Rất tuyệt,” nhà vua trả lời, cười rất tươi. “Ta đang ở trước mặt hai con người ta tin tưởng nhất trên đời này.”
Valdespino đưa mắt lo lắng nhìn Julián rồi lại hướng về nhà vua. “Bệ hạ, thần đã đưa con trai người tới gặp người như được yêu cầu. Thần để hai người nói chuyện riêng được chứ?”
“Không, Antonio,” nhà vua nói. “Đây sẽ là một buổi xưng tội. Và ta cần tu sĩ của mình ở bên cạnh.”
Valdespino lắc đầu. “Thần không nghĩ con trai người mong người giải thích những hành động và ứng xử của người tối nay đâu. Thần tin chắc người…”
“Tối nay ư?” Nhà vua cười. “Không, Antonio, ta đang thú thực một bí mật ta đã giữ kín với Julián suốt cả đời nó.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 39 guests