Nguồn Cội - Dan Brown

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 34


ConspiracyNet.com
TIN NÓNG
CỘNG ĐỒNG MẠNG BÙNG NỔ CÁC CÂU HỎI

Tiếp sau vụ ám sát Edmond Kirsch, sự ủng hộ đông đảo của cộng đồng mạng đối với nhà vị lai chủ nghĩa đã bùng thành một con bão lửa đồn đoán về hai vấn đề bức thiết.
PHÁT HIỆN CỦA KIRSCH LÀ GÌ?
KẺ NÀO GIẾT ÔNG ẤY, VÀ TẠI SAO?
Liên quan đến phát hiện của Kirsch, nhiều giả thuyết đã tràn ngập Internet và bao trùm rất nhiều chủ đề - từ Darwin, đến người ngoài hành tinh, tới Sáng tạo luận và hơn nữa.
Chưa động cơ nào được xác nhận cho vụ giết người này, nhưng các giả thuyết bao gồm sự cuồng tín tôn giáo, hoạt động gián điệp kinh doanh và ghen tuông.
ConspiracyNet đã được hứa hẹn có thông tin độc quyền về kẻ giết người và chúng tôi sẽ chia sẻ với quý vị ngay khi có thêm thông tin.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 35


Ambra Vidal đứng một mình trong khoang xuồng, giữ chặt lấy chiếc áo khoác của Robert Langdon quanh người mình. Vài phút trước, khi Langdon hỏi tại sao nàng lại đồng ý cưới một người nàng vừa mới quen biết, Ambra đã trả lời rất thành thực.
Mình đâu còn lựa chọn nào khác.
Việc hứa hôn của nàng với Julián là một bất hạnh mà nàng không dám nhớ đến vào tối hôm nay, nhất là với tất cả những chuyện khác đã xảy ra.
Mình bị cài bẫy.
Mình vẫn bị cài bẫy.
Lúc này, khi Ambra nhìn hình ảnh phản chiếu của chính mình trên ô cửa sổ bụi bẩn, nàng cảm thấy một cảm giác cô đơn xâm chiếm lấy mình. Ambra Vidal đâu phải là người chìm đắm trong việc than thân trách phận, nhưng lúc này trái tim nàng cảm thấy mỏng manh dễ vỡ và phiêu du bất định. Mình đã đính hôn với một người đàn ông có can dự đến một vụ giết người tàn bạo.
Hoàng tử đã xác quyết số phận của Edmond bằng một cú điện thoại chỉ một tiếng trước sự kiện. Ambra đang bận tôi tăm mặt mũi chuẩn bị cho khách khứa đến thì một nhân viên trẻ xộc vào, hào hứng vẫy vẫy một mảnh giấy.
“¡Senora Vidall ¡Mensaje para usted!1”
1Thưa bà Vidal! Có tin nhắn gửi bà!
Cô gái rất nhẹ dạ và hổn hển giải thích bằng tiếng Tây Ban Nha rằng có một cuộc điện thoại quan trọng vừa gọi tới bộ phận lễ tân bảo tàng.
“Hệ thống nhận diện người gọi của chúng ta,” cô ấy the thé nói, “cho biết đó là Hoàng cung Madrid và vì thế đương nhiên tôi trả lời! Và đó là một ai đó gọi đến từ văn phòng Hoàng tử Julián!
“Họ gọi đến lễ tân ư?” Ambra hỏi. “Họ có số điện thoại di động của tôi mà.”
“Trợ lý của hoàng tử nói rằng ông ấy đã thử gọi vào di động của bà,” cô nhân viên giải thích, “nhưng họ không thể liên lạc được.”
Ambra kiểm tra điện thoại của mình. Quái lạ. Không hề có cuộc gọi nhỡ. Sau đó, nàng nhận ra rằng một số kỹ thuật viên đang kiểm tra hệ thống gây nhiễu di động của bảo tàng và trợ lý của Julián chắc chắn đã gọi đến trong lúc điện thoại của nàng bị vô hiệu.
“Có vẻ hoàng tử hôm nay nhận được một cuộc gọi từ một người bạn rất quan trọng ở Bilbao muốn được tham dự sự kiện tối nay.” Cô gái trao cho Ambra mảnh giấy. “Đức ngài hy vọng bà có thể bổ sung một cái tên vào danh sách khách mời tối nay được không?”
Ambra nhìn lời nhắn.
Almirante Lui s Ávila (ret.)
Armada Espanola
Một sĩ quan nghỉ hưu thuộc hải quân Tây Ban Nha ư?
“Họ để lại một số điện thoại và nói bà có thể gọi trực tiếp lại nếu bà muốn thảo luận chuyện này, nhưng cũng nhắn rằng Julián sắp có một cuộc họp nên có thể bà sẽ không liên lạc được với Đức ngài. Nhưng người gọi lưu ý rằng hoàng tử rất hy vọng đề nghị này không phải là một sự áp đặt.”
Áp đặt ư? Ambra cố kìm cơn giận. Hãy xem thử những gì anh đã bắt tôi trải qua đi?
“Tôi sẽ lưu tâm chuyện đó,” Ambra nói. “Cảm ơn cô.”
Cô nhân viên trẻ nhún nhảy rời đi như thể cô ấy vừa nhắc lại lời của Chúa vậy. Ambra trân trân nhìn lời đề nghị của hoàng tử, cảm thấy bực bội vì ông ấy nghĩ rằng hoàn toàn thích hợp để gây ảnh hưởng của mình lên cô theo cách này, đặc biệt sau khi đã ra sức vận động cô đừng có tham gia vào sự kiện tối nay.
Lại một lần nữa, anh không cho tôi lựa chọn nào khác, nàng nghĩ thầm.
Nếu nàng phớt lờ lời đề nghị này, kết quả sẽ là một cuộc đối đầu không lấy gì làm thoải mái với một sĩ quan hải quân có địa vị ở ngay cửa trước. Sự kiện tối nay đã được dàn dựng rất kỹ lưỡng và sẽ thu hút sự đưa tin chưa từng có của truyền thông. Mình chẳng dại gì lại va chạm khó xử với một trong những người bạn quyền thế của Julián cả.
Đô đốc Ávila chưa được rà soát kỹ càng hay có tên trong danh sách “ổn thỏa”, nhưng Ambra ngại rằng việc yêu cầu kiểm tra an ninh sẽ vừa không cần thiết vừa mang tính xúc phạm về chính trị. Nói cho cùng, người này là một sĩ quan hải quân có danh vọng có đủ quyền thế để nhấc điện thoại, gọi cho Hoàng cung và xin đức vua tương lai một đặc ân.
Và vậy là, trước một lịch trình nghiêm ngặt, Ambra đưa ra quyết định duy nhất trong khả năng của mình. Nàng viết tên Đô đốc Ávila vào danh sách khách mời tại quầy lễ tân và cũng bổ sung vào cơ sở dữ liệu của hệ thống hướng dẫn để có thể khởi động một chiếc tai nghe cho vị khách mới này.
Sau đó nàng trở lại với công việc.
Và giờ thì Edmond đã chết, Ambra suy nghĩ, quay trở lại với thời khắc hiện tại trong khoảng tối của chiếc taxi nước. Khi nàng cố gắng gạt bỏ những ký ức đau lòng ra khỏi tâm trí, một ý nghĩ lạ lùng chợt đến với nàng.
Mình chưa hề trực tiếp nói chuyện với Julián… toàn bộ lời nhắn được nhắc lại qua các bên thứ ba.
Ý nghĩ này đem lại một tia hy vọng nhỏ nhoi.
Có lẽ nào Robert đúng? Rằng rất có thể Julián vô tội?
Nàng suy xét một lúc lâu hơn và sau đó vội vã ra ngoài.
Nàng thấy vị giáo sư người Mỹ đang đứng một mình trên mũi xuồng, tay bám trên lan can trong lúc đăm đăm nhìn vào màn đêm. Ambra đến đó cùng ông, giật mình khi thấy chiếc xuồng đã rời nhánh chính lưu của Sông Nervión và giờ đang băng băng hướng về phía bắc dọc theo một phụ lưu nhỏ có vẻ không phải là một con sông mà chỉ là một con kênh khá nguy hiểm có phần bờ đầy bùn đất khá cao. Nước nông và phần mạn tàu sát sàn sạt khiến Ambra thấy lo, nhưng người điều khiển chiếc xuồng của họ dường như chẳng hề lúng túng, cứ lao vun vút dọc theo lối đi chật hẹp này với tốc độ tối đa, đèn pha chiếu sáng đường đi.
Nàng nhanh chóng kể với Langdon về cuộc gọi từ văn phòng của Hoàng tử Julián. “Tất cả những gì tôi thật sự biết là quầy lễ tân của bảo tàng nhận được một cuộc gọi xuất phát từ Hoàng cung Madrid. về mặt kỹ thuật, cuộc gọi đó có thể là từ bất kỳ ai ở đó tự xưng là trợ lý của Julián.
Langdon gật đầu. “Đó có thể là lý do người đó chọn cách nhắc lại lời đề nghị cho cô chứ không phải trực tiếp nói với cô. Cô có nghĩ ra ai có thể là kẻ liên can không?” Nghĩ đến câu chuyện của Edmond với Valdespino, Langdon có khuynh hướng nhắm tới chính vị Giám mục.
“Có thể là bất kỳ ai,” Ambra nói. “Ngay lúc này là thời điểm rất tế nhị ở hoàng cung. Với việc Julián giành lấy sân khấu trung tâm, rất nhiều cố vấn già cả đang tranh nhau tìm ân huệ và lấy lòng Julián. Đất nước này đang thay đổi và tôi nghĩ rất nhiều cận vệ già ra sức duy trì quyền thế.”
“Chà, cho dù là ai liên can,” Langdon nói, “chúng ta hãy hy vọng bọn họ không nghĩ ra việc chúng ta đang cố xác định mật khẩu của Edmond và công bố phát hiện của cậu ấy.”
Trong lúc nói những lời này, Langdon cảm thấy thử thách của họ thật vô cùng đơn giản.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

Ông cũng cảm nhận được sự nguy hiểm rất rõ của nó.
Edmond bị sát hại để ngăn thông tin này được công bố.
Nhất thời, Langdon băn khoăn liệu lựa chọn an toàn nhất của mình có phải là chỉ việc từ sân bay bay thẳng về nhà và để cho ai đó khác xử lý toàn bộ chuyện này không.
An toàn, phải, ông nghĩ thầm, nhưng một lựa chọn… không.
Langdon cảm thấy có nghĩa vụ rất lớn với người học trò cũ của mình, cùng với sự tổn thương về mặt đạo đức khi một đột phá khoa học lại có thể bị kiểm duyệt một cách tàn bạo như vậy. Ông cũng cảm thấy có sự tò mò rất mạnh về tri thức muốn biết chính xác xem Edmond đã phát hiện được gì.
Và cuối cùng, Langdon biết, còn Ambra Vidal nữa.
Người phụ nữ ấy rõ ràng đang rơi vào khủng hoảng và khi nàng nhìn thẳng vào mắt ông và cầu xin giúp đỡ, Langdon cảm nhận được ở nàng sự tin tưởng cá nhân và sự tự lực rất sâu sắc… nhưng ông cũng thấy những đám mây nặng nề của nỗi sợ hãi và day dứt. Còn những bí mật ở đó, ông cảm thấy vậy, tối tăm và bị giam hãm. Cô ấy đang cố tìm kiếm sự giúp đỡ.
Ambra đột ngột ngước mắt, như thể cảm nhận được những suy nghĩ của Langdon.
“Trông anh lạnh đây,” nàng nói. “Anh cần lấy lại áo khoác của mình.”
Ông mỉm cười dịu dàng. “Tôi ổn mà.”
“Anh có nghĩ anh nên rời khỏi Tây Ban Nha ngay khi chúng ta tới sân bay không?”
Langdon cười to. “Thực tế, chuyện đó có nảy ra trong suy nghĩ của tôi.”
“Xin anh đây.” Nàng chìa tay về phía lan can và đặt bàn tay mềm mại của mình lên trên tay anh. “Tôi không dám chắc những gì chúng ta đang phải đối mặt tối nay. Anh rất gần gũi với Edmond và anh ấy nói với tôi không dưới một lần rằng anh ấy đánh giá cao tình bạn của anh và tin tưởng vào quan điểm của anh nhiều như thế nào. Tôi sợ lắm, Robert, và tôi thật sự không nghĩ mình có thể một mình đương đầu với chuyện này.”
Những lời chân thật chợt vô tình bộc phát ra của Ambra khiến Langdon rất ngạc nhiên và cũng thấy chúng vô cùng quyến rũ. “Được rồi,” ông gật đầu nói. “Cô và tôi đều nợ Edmond và, thành thật mà nói, cả cộng đồng khoa học nữa, việc tìm ra mật khẩu và công bố công trình của cậu ấy.”
Ambra mỉm cười dịu dàng. “Cảm ơn anh.”
Langdon liếc về phía chiếc xuồng. “Tôi cho rằng mấy đặc vụ Cận vệ của cô giờ đã nhận ra chúng ta rời khỏi bảo tàng rồi.”
“Đương nhiên. Nhưng Winston cũng khá ấn tượng, phải không?”
“Thật phi thường,” Langdon đáp, đến giờ mới chỉ bắt đầu hiểu được sự đột phá mà Edmond đã tạo ra trong việc phát triển trí thông minh nhân tạo. Cho dù “những công nghệ đột phát độc quyền” của Edmond là gì thì rõ ràng anh ấy cũng đường đường mở ra một thế giới mới mẻ và can đảm của con người - tương tác máy tính.”
Tối nay, Winston đã chứng tỏ mình là một nhân viên trung thành với người sáng tạo ra nó cũng như là một đồng minh vô giá của Langdon và Ambra. Chỉ trong mấy phút, Winston đã xác định được một mối đe dọa trong danh sách khách mời, cố gắng ngăn cản vụ ám sát Edmond, xác minh được chiếc xe bỏ trốn, và tạo thuận lợi cho Langdon và Ambra thoát khỏi bảo tàng.
“Chúng ta hãy hy vọng Winston đã điện trước để báo với phi công của Edmond,” Langdon nói.
“Tôi chắc nó làm rồi,” Ambra nói. “Nhưng anh nói đúng. Tôi cần gọi cho Winston để kiểm tra cho chắc.”
“Khoan đã,” Langdon nói, tỏ ý ngạc nhiên. “Cô có thể gọi được cho Winston sao? Khi chúng ta rời khỏi bảo tàng và ra ngoài tầm phủ sóng, tôi cứ nghĩ…”
Ambra bật cười và lắc đầu. “Robert, Winston đâu có đặt bên trong Guggenheim. Nó được bố trí ở một cơ sở máy tính bí mật đâu đó và được truy cập từ xa mà. Thế ra anh thật sự nghĩ Edmond sẽ tạo dựng một nguồn tài nguyên như Winston mà lại không thể liên lạc được với nó bất kỳ lúc nào, ở bất cứ đâu trên thế giới à? Edmond nói chuyện với Winston mọi lúc - ở nhà, khi đi lại, khi ra ngoài đi bộ - hai bên có thể kết nối bất kỳ lúc nào chỉ bằng một cuộc điện thoại đơn giản. Tôi đã thấy Edmond nói chuyện hàng giờ với Winston. Edmond sử dụng nó như một trợ lý riêng - để đặt chỗ ăn tối, phối hợp với phi công của anh ấy, làm bất kỳ việc gì cần làm. Thực tế khi chúng tôi chuẩn bị cho buổi trình diễn ở bảo tàng, tôi nói chuyện với Winston khá thường xuyên qua điện thoại.”
Ambra thò tay vào túi chiếc áo khoác đuôi tôm của Langdon và lấy chiếc điện thoại vỏ ngọc lam của Edmond ra, khởi động máy. Langdon đã tắt nó đi lúc ở trong bảo tàng để tiết kiệm pin.
“Anh nên bật cả điện thoại của mình lên,” nàng nói, “như thế cả hai chúng ta đều tiếp cận được với Winston.”
“Cô không lo bị lần ra nếu chúng ta bật những thứ này lên sao?”
Ambra lắc đầu. “Giới chức không có thời gian để có được lệnh cần thiết của tòa án đâu, cho nên tôi nghĩ cứ mạo hiểm thôi - đặc biệt nếu Winston có thể cập nhật cho chúng ta tiến triển của Cận vệ và tình hình ở sân bay.”
Đầy băn khoăn, Langdon bật điện thoại của mình lên và nhìn nó khởi động. Khi màn hình cơ sở hiện ra, ông nheo mắt nhìn vào màn sáng và nhói lên cảm giác dễ bị tấn công, như thể ông vừa lập tức có thể bị mọi vệ tinh trong không gian định vị vậy.
Mày đã xem nhiều phim điệp viên quá rồi, ông tự nhủ.
Đột nhiên, điện thoại của Langdon bắt đầu phát ra những tiếng “ting ting” và rung lên khi cả một danh sách tin nhắn chưa nhận trong buổi tối hôm nay dồn tới. Langdon hết sức kinh ngạc khi nhận tới hơn hai trăm tin nhắn và e-mail kể từ lúc tắt điện thoại đi.
Trong khi lướt xem hộp thư, ông nhận thấy các tin nhắn đều từ bạn bè và đồng nghiệp của mình. Những e-mail đầu đều có dòng tiêu đề chúc mừng - Bài giảng tuyệt vời! Không tin nối anh ở đó! - nhưng sau đó, rất đột ngột, giọng điệu của các tiêu đề chuyển sang lo lắng và vô cùng quan tâm, trong đó có một tin nhắn từ biên tập viên sách của ông, Jonas Faukman: CHÚA ƠI… ROBERT, ANH ỔN CHỨ?! Langdon chưa bao giờ thấy vị biên tập viên uyên bác của mình sử dụng hoàn toàn chữ hoa hay dấu câu lặp thế này.
Cho tới lúc này, Langdon vẫn đang cảm thấy hoàn toàn vô hình trong bóng tối của sông nước Bilbao, như thể vụ việc bảo tàng chỉ là một giấc mơ đang tan dần.
Chuyện lan khắp thế giới, ông nhận ra như vậy. Tin tức về phát hiện bí mật và vụ sát hại tàn bạo của Kirsch… cùng với tên và gương mặt mình.
“Winston đang cố liên lạc với chúng ta,” Ambra nói, mắt đăm đăm nhìn quầng sáng từ chiếc điện thoại di động của Kirsch. “Edmond đã nhận được năm mươi ba cuộc gọi nhỡ trong nửa tiếng qua, tất cả đều từ cùng một số, đều đặn cách nhau đúng ba mươi giây.” Nàng cười khẽ. “Sự kiên trì không mệt mỏi này là một trong nhiều đức tính của Winston.”
Vừa hay, điện thoại Edmond bắt đầu đổ chuông.
Langdon mỉm cười với Ambra. “Tôi tự hỏi là ai không biết.”
Nàng chìa điện thoại cho ông. “Trả lời đi.”
Langdon nhận điện thoại và ấn nút loa. “Xin chào?”
“Giáo sư Langdon,” giọng Winston vang lên với ngữ điệu Anh quen thuộc. “Tôi rất mừng chúng ta lại liên lạc trở lại. Tôi vẫn đang cố gắng tiếp cận ngài.”
“Vâng, chúng tôi có thể thấy điều đó,” Langdon đáp, thấy ấn tượng rằng máy tính nghe hoàn toàn bình tĩnh và không hề bối rối sau năm mươi ba cuộc gọi nhỡ nối tiếp nhau.
“Có một vài diễn biến mới,” Winston nói. “Rất có khả năng cơ quan chức năng ở sân bay sẽ được cảnh báo tên ngài trước khi ngài đến. Một lần nữa, tôi nhắc ngài làm theo chỉ dẫn của tôi thật cẩn trọng.”
“Chúng tôi đang trong tay anh, Winston,” Langdon nói. “Cứ nói cho chúng tôi biết cần làm gì.”
“Việc trước tiên, thưa Giáo sư,” Winston nói,” nếu các vị chưa vứt bỏ điện thoại di động của mình, các vị cần làm việc đó ngay lập tức.
“Vậy sao?” Langdon nắm chiếc điện thoại của mình chặt hơn. “Không phải là giới chức cần có lệnh của tòa án trước khi bất kỳ ai.”
“Có lẽ là trên một chương trình cảnh sát Mỹ thì vậy, nhưng các vị đang đương đầu với Cận vệ Hoàng gia và Hoàng cung Tây Ban Nha. Họ sẽ làm những gì cần thiết.”
Langdon nhìn chiếc điện thoại của mình, cảm thấy do dự một cách kỳ lạ khi phải bỏ nó. Cả cuộc đời mình nằm ở trong đó.
“Thế còn điện thoại của Edmond?” Ambra hỏi, nghe rất lo lắng.
“Không truy vết được,” Winston đáp. “Edmond luôn lo ngại chuyện bị đột nhập và gián điệp doanh nghiệp. Đích thân ông ấy đã viết một chương trình che phủ IMEI/IMSI1 chuyên thay đổi các giá trị C2 cho điện thoại của mình để qua mặt bất kỳ thiết bị chặn GSM nào.”
1IMEI (International Mobile Station Equipment Identity - Nhận dạng thiết bị trạm di động quốc tế) là một số riêng dùng để xác định số điện thoại di động, thường in bên trong khoang pin của điện thoại, nhưng cũng có thể hiển thị trên màn hình hầu hết điện thoại khi nhập *#06# trên bàn phím.
IMSI (International mobile Subscriber Identity - Nhận dạng thuê bao di động quốc tế) dùng để xác định người dùng một mạng di động, được lưu trữ dưới dạng một trường 64 bít và được điện thoại gửi tới nhà mạng.

Dĩ nhiên cậu ấy làm vậy rồi, Langdon nghĩ. Với thiên tài tạo ra Winston, qua mặt một công ty điện thoại địa phương là chuyện dễ như ăn kẹo.
Langdon cau mày nhìn chiếc điện thoại hạ cấp thấy rõ của mình. Vừa lúc đó, Ambra đưa tay và nhẹ nhàng lấy nó khỏi tay ông. Không nói lời nào, nàng đưa nó qua hàng rào chắn và buông tay. Langdon nhìn chiếc điện thoại rơi bõm xuống làn nước đen sì của Sông Nervión. Khi nó biến mất bên dưới mặt nước, ông cảm nhận được nỗi đau mất mát, cứ trân trân nhìn lại phía sau trong khi chiếc xuồng băng băng đi tới.
“Anh Robert,” Ambra thì thầm, “chỉ cần nhớ những lời nói khôn ngoan của Công chúa Elsa hãng Disney.”
Langdon quay lại. “Sao cơ?”
Ambra mỉm cười dịu dàng. “Cứ để vậy đi.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 36


Su misión todavía no ha terminado,” giọng nói trên điện thoại của Ávila rành rọt. Nhiệm vụ của anh chưa hoàn tất đâu.
Ávila ngồi thẳng đầy chăm chú trên ghế sau chiếc Uber trong khi nghe tin tức từ ông chủ của mình.
“Chúng ta gặp một tình thế phức tạp bất ngờ” người liên hệ với ông ta nói nhanh bằng tiếng Tây Ban Nha. “Chúng tôi cần anh chuyển hướng tới Barcelona. Ngay lập tức.”
Barcelona? Ávila đã được báo sẽ tới Madrid để giải quyết thêm việc.
“Chúng tôi có lý do để tin rằng,” giọng nói tiếp tục, “hai cộng sự của Kirsch đang tới Barcelona tối nay với hy vọng tìm cách kích hoạt bài thuyết trình của Kirsch từ xa.”
Ávila cứng người. “Chuyện đó có thể sao!”
“Chúng tôi chưa dám chắc chắn, nhưng nếu bọn họ thành công, rõ ràng nó sẽ đảo ngược toàn bộ công việc vất vả của anh. Tôi cần một người hiện diện ở Barcelona ngay. Kín đáo. Hãy tới đó càng nhanh càng tốt và gọi cho tôi.”
Nói xong câu đó, kết nối bị ngắt.
Kỳ lạ là tin xấu lại tạo cảm giác rất vui mừng với Ávila. Ta vẫn được cần đến. Barcelona xa hơn hẳn Madrid nhưng vẫn chỉ là vài tiếng với tốc độ tối đa trên một siêu xa lộ vào lúc nửa đêm. Không để phí một khắc, Ávila giơ súng lên và gí vào đầu người lái Uber. Hai tay người ấy trên vô lăng căng cứng thấy rõ.
“Llévame a Barcelona1” Ávila ra lệnh.
1Đưa ta tới Barcelona!
Người lái xe thoát ở lối ra tiếp theo, chạy về phía Vitoria-Gasteiz, cuối cùng tăng tốc vào xa lộ A-1, thẳng tiến về phía đông. Hai phương tiện khác duy nhất trên đường vào giờ này là hai chiếc đầu kéo ầm ầm như sấm, lao vun vút để hoàn tất chặng đường tới Pamplona, rồi Huesca, tiếp đến là Lleida, và cuối cùng tới một trong những thành phố cảng lớn nhất ở Địa Trung Hải - Barcelona.
Ávila chắc chắn không tin vào chuỗi sự kiện lạ lùng đã đưa ông ta đến thời khắc này. Từ vực sâu nỗi tuyệt vọng thăm thẳm nhất của ta, ta vươn tới thời khắc phụng sự vinh quang nhất của mình.
Trong một khoảnh khắc u tối, Ávila vụt quay lại hố sâu không đáy đó, trườn ngang qua bàn thờ sặc sụa khói tại Nhà thờ lớn Seville, sục tìm vợ và con mình trong đống đổ nát vương đầy máu me, chỉ để nhận ra rằng họ đã ra đi mãi mãi.
Suốt hàng tuần sau vụ tấn công, Ávila không rời khỏi nhà mình. Ông ta nằm run rẩy trên đi văng, bị hành hạ bởi một cơn ác mộng bất tận dù vẫn tỉnh táo, trong đó, lũ quỷ hung hãn kéo ông ta xuống một vực thẳm tăm tối, bủa vây ông ta trong bóng đen, sự cuồng nộ và tội lỗi đến nghẹt thở.
“Vực thẳm ấy là luyện ngục,” một nữ tu thì thào bên tai ông ấy. Bà ấy là một trong số hàng trăm tư vấn viên giúp xoa dịu nỗi đau, được Giáo hội đào tạo để trợ giúp những người sống sót. “Linh hồn còn đang bị mắc kẹt trong một ngục tù tăm tối. Tha tội là lối thoát duy nhất. Con phải tìm cách tha thứ cho những người làm việc này, hoặc cơn giận của con sẽ đánh gục con.” Bà ấy làm dấu thánh giá. “Tha thứ là sự cứu rỗi duy nhất của con.”
Tha thứ ư? Ávila gượng nói, nhưng quỷ sứ đã bóp nghẹt họng ông ta. Thời điểm ấy, có cảm giác báo thù là sự giải thoát duy nhất. Nhưng báo thù ai? Chẳng hề có ai nhận trách nhiệm về vụ đánh bom cả.
“Ta nhận thấy những hành động khủng bố tôn giáo là không thể tha thứ,” nữ tu sĩ nói tiếp. “Thế nhưng, có thể sẽ hữu ích khi nhớ rằng tín điều của chính chúng ta đã từng mở ra một Tòa án dị giáo kéo dài hàng thế kỷ nhân danh Thiên Chúa của chúng ta. Chúng ta đã giết những người phụ nữ và trẻ em vô tội nhân danh những niềm tin của chúng ta. Vì chuyện này, chúng ta phải xin thế giới tha thứ và cả từ chính chúng ta. Và theo thời gian, chúng ta đã làm lành.”
Rồi bà đọc cho ông ta nghe từ Kinh thánh: “Đừng chống cự người làm ác, nếu bị ai tát má bên phải thì hãy đưa luôn má bên trái cho họ. Hãy luôn yêu kẻ thù, hãy làm điều tốt cho những người ghét mình, hãy làm phúc cho những người nguyền rủa mình và cầu nguyện cho những người ngược đãi mình.”
Đêm đó, cô đơn và đau đớn, Ávila trân trân nhìn vào gương. Người đàn ông nhìn lại ông ta là một kẻ xa lạ. Những lời của nữ tu sĩ chẳng giúp làm dịu nỗi đau của ông ta.
Tha thứ ư? Chìa má còn lại của ta ra!
Ta vừa chứng kiến cái ác không thể nào tha thứ được!
Trong cơn điên giận càng lúc càng ngùn ngụt, Ávila vung nắm tay đấm vào gương, khiến kính vỡ thành từng mảnh và gục xuống nức nở đau khổ ngay trên sàn phòng tắm.
Là một sĩ quan hải quân chuyên nghiệp, Ávila luôn là người biết kiểm soát - một chiến sĩ có kỷ luật, danh dự và tuân thủ thứ bậc chỉ huy - nhưng con người đó đã ra đi. Chỉ trong vài tuần, Ávila rơi vào trạng thái hoang mang, tìm quên lãng trong hỗn hợp mạnh của rượu và thuốc kê theo đơn. Chẳng mấy chốc, khát khao về hiệu ứng tê liệt của ông ta ngốn hết những giờ phút tỉnh táo, biến ông ta thành một kẻ lánh đời đầy thù hận.
Chỉ trong vài tháng, hải quân Tây Ban Nha âm thầm buộc ông ta nghỉ hưu. Như một chiến hạm hùng mạnh một thời giờ đây mắc lại trong một cảng cạn, Ávila biết mình sẽ chẳng bao giờ ra khơi nữa. Lực lượng hải quân mà ông ta cống hiến cả đời để lại cho ông ta một khoản tiền lương khiêm tốn vừa đủ cho ông ta sống.
Ta năm mươi tám tuổi rồi, ông ta nhận ra vậy. Và ta chẳng có gì.
Ông ta mất nhiều ngày ngồi một mình trong phòng khách, xem TV, uống vodka và chờ đợi bất kỳ tia sáng nào xuất hiện. La hora más oscura es justo antes del amanecer, 1 ông ta cứ nhủ đi nhủ lại bản thân như vậy. Nhưng câu cách ngôn xưa cũ ấy của lực lượng hải quân hết lần này đến lần khác đều không đúng. Giờ khắc tăm tối nhất không phải là ngay trước lúc bình minh, ông ta cảm thấy như vậy. Bình minh không bao giờ xuất hiện.
1Giờ khắc tăm tối nhất là ngay trước lúc bình minh.
Vào ngày sinh nhật lần thứ năm mươi chín của mình, đúng một sáng thứ năm mưa dầm dề, trân trân nhìn cái vỏ chai vodka rỗng và tờ thông báo đuổi ra khỏi nhà, Ávila thu hết can đảm tới tủ quần áo, lây khẩu súng ngắn hải quân của mình xuổhg, lên đạn và kê nòng súng vào thái dương mình.
“Perdóname 1” ông ta thì thào và nhắm mắt lại. Rồi ông ta siết cò. Tiếng nổ nhẹ hơn ông ta hình dung rất nhiều. Một tiếng cạch hơn là một phát súng nổ.
1Xin hãy tha thứ cho tôi!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

Tàn nhẫn thay, khẩu súng không nổ. Những năm tháng nằm trong chiếc tủ bụi bặm mà không được lau chùi rõ ràng đã làm hỏng khẩu súng nghi thức rẻ tiền của ngài đô đốc. Dường như ngay cả hành động hèn nhát đơn giản này cũng vượt ngoài khả năng của Ávila.
Giận dữ, ông ta ném mạnh khẩu súng vào tường. Lần này, một tiếng nổ vang động căn phòng. Ávila cảm thấy một cảm giác nóng rát xé qua đùi mình và màn sương say xỉn của ông ta tan biến trong một cơn đau đớn kinh khủng. Ông ấy khuỵu xuống sàn hét lên đau đớn và ôm chặt cái chân ròng ròng máu của mình.
Những người hàng xóm hốt hoảng đập cửa phòng ông ta, tiếng còi rít lên, và chẳng mấy chốc Ávila thấy mình ở Bệnh viện tỉnh San Lázaro của Seville, cố gắng giải thích chuyện ông ta đã tìm cách tự sát bằng cách bắn trúng chân như thế nào.
Sáng hôm sau, khi nằm trong phòng hồi sức, suy nhược và nhục nhã, Đô đốc Luis Ávila có một vị khách.
“Ông đúng là thứ chẳng ra sao,” người thanh niên nói bằng tiếng Tây Ban Nha. “Không có gì lạ khi người ta buộc ông về hưu.”
Ávila chưa kịp trả lời, gã đàn ông đã mở tung rèm cửa sổ và để cho ánh mặt trời ùa vào. Ávila che mắt, giờ có thể nhìn thấy rằng “thằng ranh ấy” khá vạm vỡ và để kiểu đầu gần như cạo trọc. Anh ta mặc một cái áo phông có gương mặt Jesus trên đó.
“Tên tôi là Marco” anh ta nói, chất giọng Andaluz. “Tôi là huấn luyện viên phục hồi của ông. Tôi đề nghị được phân công giúp ông bởi vì ông và tôi có điểm chung.”
“Quân sự à?” Ávila nói, nhận ra thái độ xấc xược của anh ta.
“Không.” Gã trai kia nhìn thẳng vào Ávila. “Tôi có mặt ở đó vào sáng Chủ nhật ấy. Trong nhà thờ. Vụ tấn công khủng bố.”
Ávila trân trối nhìn không tin nổi. “Cậu đã ở đó?”
Gã trai cúi xuống và kéo một ống quần thun của mình lên, để lộ ra một chiếc chân giả. “Tôi nhận thấy ông đã trải qua địa ngục, nhưng tôi thì đang chơi bóng đá bán chuyên nghiệp, cho nên đừng mong có sự cảm thông quá nhiều ở tôi. Tôi thuộc tuýp người Chúa chỉ giúp những ai biết giúp chính mình nhiều hơn đây.”
Ávila còn chưa biết chuyện gì xảy ra thì Marco đã nhấc ông ta vào một chiếc xe lăn, đẩy dọc hành lang tới một phòng tập nhỏ và dựng ông ta dậy giữa hai thanh xà kép.
“Việc này sẽ rất đau đớn,” gã trai nói, “nhưng hãy cố gắng đi tới đầu bên kia. Chỉ cần làm một lần thôi. Sau đó, ông có thể ăn sáng.”
Cơn đau thật không thể chịu nổi, nhưng Ávila không định kêu than với người chỉ còn một chân duy nhất, cho nên dùng hai tay để chống đỡ hầu hết trọng lực của mình, ông ta lê hết quãng đường tới đầu kia cặp xà.
“Tuyệt vời,” Marco nói. “Giờ hãy làm lại xem.”
“Nhưng cậu nói…”
“Phải, tôi nói dối đây. Làm lại đi.”
Ávila nhìn gã trai, sững sờ. Vị đô đốc đã không nhận một mệnh lệnh nào suốt nhiều năm, và lạ thay, ông ta thấy có gì đó rất mới lạ trong chuyện đó. Nó khiến ông ta cảm thấy trẻ trung… đúng như ông ta đã cảm thấy khi còn là một anh chàng lính mới tò te nhiều năm trước. Ávila quay người lại và bắt đầu lê lết trở lại đầu kia.
“Giờ hãy cho tôi biết,” Marco nói. “Ông vẫn đi dự các buổi lễ ở nhà thờ lớn Seville phải không?”
“Không bao giờ.”
“Sợ à?”
Ávila lắc đầu. “Căm giận.”
Marco phá lên cười. “Phải, để tôi đoán nhé. Đám nữ tu bảo ông hãy tha thứ cho những kẻ tấn công chứ gì?”
Ávila dừng sững lại trên xà. “Chính xác!”
“Tôi cũng vậy. Tôi đã cố. Không thể được. Đám nữ tu cho chúng ta một lời khuyên kinh khủng.” Gã kia cười.
Ávila nhìn chiếc áo Jesus của gã trai trẻ. “Nhưng xem ra cậu vẫn…”
“Ồ phải, tôi vẫn hoàn toàn là một tín đồ Thiên Chúa giáo. Mộ đạo hơn bao giờ hết. Tôi thật may tìm được nhiệm vụ của mình… giúp các nạn nhân của kẻ thù của Chúa.”
“Một sự nghiệp cao quý,” Ávila nói vẻ thèm thuồng, cảm thấy cuộc đời của chính mình thật thiếu mục đích nếu không còn gia đình hay lực lượng hải quân.
“Một đại nhân đã giúp đưa tôi trở lại với Chúa,” Marco nói tiếp. “Người đó là giáo hoàng. Tôi đã trực tiếp được gặp ngài nhiều lần.”
“Tôi xin lỗi… là giáo hoàng ư?”
“Phải.”
“Như là… lãnh tụ của Giáo hội Công giáo à?”
“Phải. Nếu ông muốn, tôi có thể sắp xếp một cuộc diện kiến cho ông.”
Ávila trân trối nhìn gã trai như thể anh ta bị mất trí. “Cậu có thể giúp tôi diện kiến giáo hoàng ư?”
Marco có vẻ khó chịu. “Tôi nhận thấy ông là một sĩ quan hải quân cao cấp và không thể hình dung được rằng một huấn luyện viên thể chất què quặt từ Seville lại tiếp cận được người đại diện của Chúa, nhưng tôi đang nói với ông sự thật. Tôi có thể thu xếp một cuộc gặp với ngài nếu ông thích. Ngài rất có thể sẽ giúp ông tìm đường trở lại, giống như cách ngài đã giúp tôi.”
Ávila tì lên mấy thanh xà, không biết phải trả lời sao. Ông ta tôn sùng giáo hoàng khi đó - một thủ lĩnh bảo thủ kiên định rao giảng về sự tôn trọng truyền thống và chánh tín tuyệt đối. Rủi thay, ngài bị chỉ trích từ mọi phía của cái thế giới đang hiện đại hóa, và có sự bất bình không nói ra rằng sớm muộn ngài cũng sẽ chọn cách nghỉ hưu khi đối diện với áp lực ngày càng tăng của chủ nghĩa tự do. “Dĩ nhiên tôi rất vinh hạnh được gặp ngài, nhưng…”
“Tốt lắm,” Marco ngắt lời. “Tôi sẽ thử sắp xếp việc đó vào ngày mai.”
Ávila không bao giờ hình dung được rằng ngày hôm sau ông ta sẽ thấy mình ngồi tận trong một thánh đường an toàn, đối diện với một vị thủ lĩnh quyền lực dạy cho ông ta bài học tôn giáo có sức thuyết phục nhất trong đời mình.
Có rất nhiều con đường đi tới cứu rỗi.
Tha thứ không phải con đường duy nhất.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 37


Nằm ở tầng trệt cung điện Madrid, thư viện hoàng gia là một dãy buồng trang trí rất tráng lệ nơi chứa hàng nghìn bộ sách vô giá, trong đó có cả cuốn Book of Hours của Nữ hoàng Isabella, các cuốn Kinh thánh dùng riêng của một vài vị vua, và một bộ sách chép tay bọc sắt từ thời Alfonso XI.
Garza vội vã bước vào, không hề muốn để hoàng tử một mình trên gác trong sự kiểm soát của Valdespino quá lâu. Ông ấy vẫn đang cố lý giải cái tin Valdespino từng gặp Kirsch chỉ vài ngày trước và quyết định giữ bí mật cuộc gặp ấy. Kể cả dưới ánh sáng của bài thuyết trình và vụ sát hại Kirsch tối nay ư?
Garza đi qua bóng tối mênh mông của thư viện tiến về phía cán bộ điều phối quan hệ công chúng Mónica Martin, vẫn đang đợi trong bóng tối, tay cầm chiếc máy tính bảng còn sáng của mình.
“Tôi biết ngài rất bận, thưa sếp,” Martin nói, “nhưng chúng ta có một tình huống cực kỳ nhạy cảm về thời gian. Tôi lên gác tìm ngài vì trung tâm an ninh của ta nhận được một e-mail rất đáng ngại từ ConspiracyNet.com.”
“Từ ai cơ?”
“ConspiracyNet là một địa chỉ theo thuyết âm mưu rất quen thuộc. Chat báo chí thì rất tệ, và giọng văn viết như trẻ con, nhưng họ lại có hàng triệu người theo dõi. Họ tung tin giả mạo, nhưng địa chỉ này lại rất được coi trọng trong giới thuyết âm mưu.”
Trong suy nghĩ của Garza, mấy cụm từ “được coi trọng” và “thuyết âm mưu” dường như loại trừ nhau.
“Họ phát tin đặc biệt về tình hình của Kirsch cả tối nay,” Martin nói tiếp. “Tôi không biết họ có được thông tin từ đâu nhưng địa chỉ này trở thành một đầu môi cho các blogger tin tức và những người theo thuyết âm mưu. Ngay cả các kênh phát thanh truyền hình cũng tìm tới họ để có tin đặc biệt.”
“Đi vào vấn đề đi,” Garza giục.
“ConspiracyNet có thông tin mới liên quan đến hoàng cung,” Martin nói, đẩy cặp kính trên mặt cô nhích lên. “Họ sắp công bố tin đó trong vòng mười phút nữa và muốn cho chúng ta cơ hội bình luận trước.”
Garza trân trối nhìn người phụ nữ trẻ không tin nổi. “Hoàng cung không bình luận về tin đồn giật gân!”
“Ít nhất ngài cứ xem thử, thưa sếp.” Martin chìa chiếc máy tính bảng của mình ra.
Garza giật lây màn hình và thấy mình nhìn ngay ra bức ảnh thứ hai của đô đốc hải quân Luis Ávila. Bức ảnh không có trọng tâm, như thể được chụp ngẫu nhiên, và cho thấy Ávila trong bộ đồng phục trắng đang sải bước trước một bức tranh. Trông như thể nó được chụp bởi một người tham quan bảo tàng đang cố chụp một tác phẩm nghệ thuật và ngẫu nhiên chụp được Ávila khi ông ta bước lọt vào khung hình.
“Tôi biết diện mạo Ávila,” Garza gắt, nôn nóng quay trở lại chỗ hoàng tử và Valdespino. “Sao cô cho tôi xem thứ này?”
“Xin hãy chuyển sang bức ảnh tiếp theo.”
Garza chuyển màn hình. Màn hình tiếp theo cho thấy hình phóng to của bức ảnh - lần này tập trung vào bàn tay phải của vị đô đốc vung ra phía trước. Garza lập tức nhìn thấy một dấu hiệu trên bàn tay Ávila. Có vẻ đó là một hình xăm.
Image
Garza đăm đăm nhìn hình đó một lúc lâu. Cái biểu tượng ấy ông biết rất rõ, cũng như nhiều người Tây Ban Nha, đặc biệt là những thế hệ lớn tuổi.
Biểu tượng của Franco.
Được trang trí ở nhiều nơi tại Tây Ban Nha suốt giai đoạn giữa thế kỷ XX, biểu tượng này đồng nghĩa với chế độ độc tài siêu bảo thủ của Tướng Francisco Franco, với thể chế tàn bạo ủng hộ chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa độc đoán, chủ nghĩa quân sự, Công giáo Dân tộc và chống chủ nghĩa tự do.
Garza biết, cái biểu tượng cũ này gồm sáu chữ cái, mà khi được ghép với nhau, đánh vần thành một từ duy nhất trong tiếng Latin - một từ định nghĩa rất chuẩn cho sự tự nhận thức của Franco.
Victor1.
1 Kẻ chiến thắng.
Tàn nhẫn, hung bạo, và không nhân nhượng, Francisco Franco lên nắm quyền với sự ủng hộ quân sự của Đức Quốc xã và Italy thời Mussolini. Ông ta đã giết hàng nghìn người đối lập với mình trước khi giành trọn quyền kiểm soát đất nước năm 1939 và tuyên bố mình là El Caudillo - cụm từ tiếng Tây Ban Nha tương đương với Nhà Lãnh đạo. Suốt thời Nội chiến và cho tới tận những năm đầu của chế độ độc tài, những người dám chống đối ông ta đều biến mất trong các trại tập trung, nơi ước tính có ba trăm nghìn người đã bị hành quyết.
Mô tả bản thân như là người bảo vệ “Tây Ban Nha Công giáo” và là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản vô thần, Franco có tâm tính trọng nam hoàn toàn, chính thức gạt bỏ phụ nữ khỏi nhiều vị trí quyền lực trong xã hội, không dành cho họ bất kỳ quyền gì về chuyên môn, tư pháp, tài khoản ngân hàng, hay thậm chí quyền được thoát khỏi một người chồng ngược đãi. Ông ta thủ tiêu mọi cuộc hôn nhân không được thực hiện theo giáo lý Công giáo, và bên cạnh những điều cấm đoán khác, ông ta cấm ly hôn, phòng tránh thai, phá thai và tình dục đồng giới.
Rất may, giờ đây mọi thứ đã thay đổi.
Mặc dù vậy, Garza cũng thấy kinh ngạc trước việc đất nước này quên một trong những giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử của mình mới nhanh làm sao.
Hiệp ước pacto de olvido của Tây Ban Nha - một thỏa ước chính trị toàn quốc nhằm “quên” mọi thứ đã xảy ra dưới ách cai trị nghiệt ngã của Franco - có nghĩa là học sinh ở Tây Ban Nha được dạy rất ít về nhà độc tài. Một cuộc khảo sát ở Tây Ban Nha cho thấy rằng thiếu niên dễ nhận ra diễn viên James Franco hơn là nhà độc tài Francisco Franco.
Tuy nhiên, các thế hệ lớn tuổi hơn sẽ không bao giờ quên. Cái biểu tượng kẻ chiến thắng này - giống như chữ thập ngoặc của Quốc xã - vẫn có thể gợi lên nỗi sợ hãi trong lòng những người đủ lớn tuổi để nhớ về những năm tháng tàn bạo ấy. Tới tận bây giờ, những người cảnh giác vẫn khuyên rằng những nhánh cao cấp nhất trong chính phủ Tây Ban Nha và Giáo hội Công giáo vẫn che giấu một bộ phận bí mật những kẻ ủng hộ Franco - một nhóm tín hữu bí mật gồm những kẻ theo chủ nghĩa truyền thống thề đưa Tây Ban Nha trở lại với những nhận thức cực hữu của thế kỷ vừa qua.
Garza phải thừa nhận rằng có rất nhiều người thủ cựu soi xét tình trạng hỗn loạn và đời sống tinh thần nhạt nhẽo của Tây Ban Nha đương đại và cảm thấy rằng đất nước này chỉ có thể cứu vớt được bởi một tôn giáo nhà nước mạnh hơn, một chính phủ chuyên chế hơn, và việc áp đặt những nguyên tắc đạo đức rõ ràng hơn.
Hãy nhìn đám thanh niên của các người xem! Họ hô vang như vậy. Bọn chúng đều lênh phênh vật vờ!
Những tháng gần đây, với việc ngai vàng Tây Ban Nha chẳng mấy chốc sẽ thuộc về Hoàng tử Julián trẻ tuổi hơn, có tâm lý sợ hãi ngày càng tăng trong những người theo chủ nghĩa truyền thống rằng Hoàng cung chẳng chóng thì chầy sẽ trở thành một tiếng nói nữa ủng hộ những thay đổi cấp tiến ở đất nước này. Lo ngại của họ càng tăng với việc đính hôn gần đây của Hoàng tử và Ambra Vidal - người không chỉ thuộc nhóm dân Basque1 mà còn bất khả tri một cách thẳng thừng - và là người, khi thành hoàng hậu Tây Ban Nha, đương nhiên sẽ được hoàng tử tham vấn về những vấn đề giáo hội và nhà nước.
1Người Basque là một nhóm dân tộc, sinh sống chủ yếu ở khu vực nằm khoảng cuối phía tây của dãy núi Pyrenees trên bờ biển Vịnh Biscay và nằm giữa các phần của Trung - Bắc Tây Ban Nha và tây nam nước Pháp.
Những ngày tháng nguy hiểm, Garza biết vậy. Một điểm lùi gây xung đột giữa quá khứ và tương lai.
Ngoài sự rạn nứt tôn giáo ngày càng sâu, Tây Ban Nha còn đối mặt với một giao lộ chính trị. Liệu đất nước còn tiếp tục có quân vương không? Hay vương vị sẽ bị bãi bỏ mãi mãi như đã từng diễn ra ở Áo, Hungary và rất nhiều nước châu Âu khác? Chỉ có thời gian mới trả lời được. Trên phố, những người lớn tuổi theo chủ nghĩa truyền thống vẫy cờ Tây Ban Nha, trong khi những người trẻ cấp tiến hãnh diện mặc những màu sắc bài quân chủ như tía, vàng, và đỏ - các màu cờ của nền cộng hòa cũ.
Julián sẽ thừa kế một thùng thuốc súng.
“Lúc đầu khi tôi nhìn thấy hình xăm Franco,” Martin nói, kéo sự chú ý của Garza trở lại với cái máy tính bảng, “tôi cứ nghĩ có thể nó được thêm vào bằng công nghệ số như một trò giải trí - ngài biết đấy, để khuấy động mọi việc. Các trang thuyết âm mưu đều tranh nhau lượng truy cập và một mối liên hệ với Franco sẽ nhận được lượng phản hồi lớn, đặc biệt nếu xét đến bản chất bài Thiên Chúa giáo trong bài thuyết trình của Kirsch tối nay.”
Garza biết cô gái nói đúng. Đám thuyết âm mưu sẽ phát rồ vì chi tiết này.
Martin ra hiệu về phía chiếc máy tính bảng. “Xin hãy đọc phần lời bình họ định đưa ra.”
Với cảm giác kinh hãi, Garza lướt nhìn đoạn nội dung khá dài đi kèm với bức ảnh.
ConspiracyNet.com
BẢN TIN CẬP NHẬT EDMOND KIRSCH
Bất chấp những nghi ngờ ban đầu cho rằng vụ sát hại Edmond Kirsch là tác phẩm của những kẻ cuồng tín tôn giáo, việc phát hiện ra cái biểu tượng thời Franco siêu bảo thủ này cho thấy vụ ám sát có thể còn có động cơ chính trị. Những nghi ngờ cho rằng có những nhân vật bảo thủ trong những nhánh cao nhất của chính phủ Tây Ban Nha, thậm chí có lẽ cả ngay trong chính Hoàng cung, lúc này đang giành nhau quyền kiểm soát trong bối cảnh có khoảng trống quyền lực do đức vua vắng mặt và sắp băng hà…
“Tởm lợm,” Garza gắt, cảm thấy đọc đã đủ. “Tất cả những đồn đoán này từ một hình xăm à? Chẳng có nghĩa gì sất. Ngoại trừ sự hiện diện của cô Ambra Vidal tại vụ nổ súng, còn đâu chuyện này hoàn toàn chẳng liên quan gì đến chính trị Hoàng cung cả. Miễn bình luận.”
“Sếp,” Martin nhấn mạnh. “Nếu ngài vui lòng đọc phần bình luận còn lại, ngài sẽ thấy là họ đang tìm cách gắn Giám mục Valdespino trực tiếp với Đô đốc Ávila. Họ cho rằng Giám mục có thể là một người ủng hộ Franco bí mật vẫn thì thầm bên tai nhà vua suốt nhiều năm, ngăn ngài đưa ra những thay đổi quyết liệt cho đất nước.” Cô ngừng lại. “Luận điểm này đang giành được sự chú ý rất lớn trên mạng.”
Một lần nữa, Garza thấy mình hoàn toàn không lọt tai những lời ấy. Ông ấy không còn nhận ra cái thế giới nơi mình đang sống nữa.
Tin giả giờ đây có sức nặng ngang với tin thật.
Garza nhìn Martin và cố hết sức nói thật bình tĩnh. “Mónica, đây chỉ là một chuyện hư cấu do những kẻ sáng tác tùy hứng viết blog tạo ra cho vui thôi. Tôi có thể quả quyết với cô rằng Valdespino không phải là kẻ ủng hộ Franco. Ông ấy trung thành phục vụ đức vua đã nhiều thập kỷ, và không thể có chuyện ông ấy dính líu đến một kẻ ám sát ủng hộ Franco. Hoàng cung không bình luận gì về bẩt kỳ chi tiết nào. Tôi nói rõ rồi chứ?” Garza quay ra phía cửa, nôn nóng trở lại chỗ hoàng tử và Valdespino.
“Thưa sếp, đợi đã!” Martin với tay và nắm lấy cánh tay ông ấy.
Garza dừng lại, sửng sốt nhìn xuống bàn tay cô nhân viên trẻ tuổi của mình.
Martin lập tức rụt tay lại. “Tôi xin lỗi, thưa sếp, nhưng ConspiracyNet còn gửi cho chúng ta phần ghi âm một cuộc trò chuyện trên điện thoại vừa diễn ra tại Budapest.” Cô hấp háy mắt đầy sốt ruột đằng sau cặp kính dày. “Ngài sẽ không thích thứ này đâu.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 38


Ông chủ của mình đã bị ám sát.
Cơ trưởng Josh Siegel cảm nhận rõ hai bàn tay mình run rẩy trên cần lái khi anh cho chiếc Gulfstream G550 của Edmond Kirsch chạy về phía đường băng chính tại Sân bay Bilbao.
Mình không còn điều kiện để bay, anh ấy nghĩ, biết rõ cơ phó của mình cũng bối rối không kém.
Siegel đã lái máy bay riêng cho Edmond Kirsch suốt nhiều năm và vụ sát hại Edmond đầy hãi hùng ập đến như một cú sốc ghê gớm.
Một tiếng trước, Siegel và cơ phó của anh còn ngồi trong sảnh chờ sân bay xem truyền hình trực tiếp từ Bảo tàng Guggenheim.
“Kịch bản đặc trưng của Edmond,” Siegel nói vui, thấy rất ấn tượng trước khả năng lôi kéo một đám đông lớn của ông chủ mình. Khi anh xem chương trình của Kirsch, anh thấy mình, cùng với những khán giả khác trong sảnh chờ, nhổm về phía trước, càng lúc càng tò mò, cho tới khi, thoắt cái, buổi tối trở nên hãi hùng.
Sau đó, Siegel và cơ phó của mình ngồi chết trân, theo dõi truyền hình đưa tin và băn khoăn không biết họ nên làm gì tiếp theo.
Điện thoại Siegel đổ chuông mười phút sau đó, người gọi là trợ lý riêng của Edmond, Winston. Siegel chưa bao giờ gặp anh chàng này, và mặc dù cái tay người Anh ấy có vẻ hơi giống một con vịt bầu kỳ cục nhưng Siegel đã quen với việc điều phối các chuyến bay cùng anh ta.
“Nếu anh không xem truyền hình,” Winston nói, “anh nên bật lên đi.”
“Chúng tôi xem rồi,” Siegel nói. “Cả hai chúng tôi đều bàng hoàng.”
“Chúng tôi cần các anh đưa máy bay trở về Barcelona,” Winston nói, giọng nhanh nhẹn một cách kỳ lạ nếu xét đến những gì vừa diễn ra. “Các anh hãy chuẩn bị cất cánh, và tôi sẽ liên lạc lại ngay. Làm ơn không cất cánh cho tới khi chúng ta nói chuyện.”
Siegel không rõ những chỉ dẫn của Winston có đúng với mong muốn của Edmond không, nhưng lúc này, anh rất biết ơn nếu có bất kỳ chỉ dẫn nào.
Theo mệnh lệnh từ Winston, Siegel và cơ phó làm thủ tục kê khai chuyến bay của họ về Barcelona với số lượng hành khách bằng không - một chuyến bay “rỗng”, như cách vẫn được biết đến đầy nuối tiếc trong ngành - và sau đó đẩy máy bay ra khỏi hầm chứa và bắt đầu kiểm tra các hạng mục phải thực hiện trước chuyến bay.
Ba mươi phút trôi qua thì Winston gọi lại. “Các anh sẵn sàng cất cánh chưa?”
“Chúng tôi sẵn sàng.”
“Tốt lắm. Tôi cho rằng các anh sẽ sử dụng đường băng hướng đông như thường lệ chứ?”
“Đúng vậy.” Có lúc Siegel thấy Winston chu đáo một cách thái quá và nắm thông tin tường tận một cách đáng ngại.
“Xin hãy liên lạc với đài kiểm soát và yêu cầu thông đường để cất cánh. Lăn bánh ra đầu kia của sân bay nhưng không vào đường băng.”
“Tôi cần dừng lại trên đường lăn à?”
“Đúng vậy, chỉ một phút thôi. Hãy báo cho tôi khi các anh tới đó.”
Siegel và cơ phó nhìn nhau ngạc nhiên. Yêu cầu của Winston chẳng có lý tí nào.
Có thể đài kiểm soát sẽ có ý kiến gì đó về chuyện này.
Tuy nhiên, Siegel lái máy bay đi theo rất nhiều đoạn dốc và đường dẫn về phía đầu đường băng ở rìa phía tây sân bay. Giờ anh đang lăn bánh mấy trăm mét cuối cùng của đoạn đường lăn, nơi mặt đường ngoặt chín mươi độ sang phải và nhập vào đầu đường băng phía đông.
“Winston?” Siegel nói, mắt nhìn hàng rào an ninh mắt cáo rất cao bao quanh đường chu vi địa giới sân bay. “Chúng tôi đã đến cuối đường lăn rồi.”
“Xin hãy ngừng ở đó,” Winston nói. “Tôi sẽ liên lạc lại.”
Tôi không thể ngừng ở đây! Siegel nghĩ, tự hỏi không biết Winston đang làm chuyện quái quỷ gì. Rất may, máy quay hậu cảnh chiếc Gulfstream không hiển thị máy bay nào phía sau anh, cho nên ít nhất Siegel không cản trở giao thông. Những ngọn đèn duy nhất đều là đèn trên đài kiểm soát - một quầng sáng nhờ nhờ ở đầu kia đường băng, cách xa hơn ba kilomet.
Sáu mươi giây trôi qua.
“Đây là kiểm soát không lưu,” một giọng nói léo nhéo vang lên trong tai nghe của anh. “EC346, các anh đã được dọn đường để cất cánh trên đường băng số một. Tôi nhắc lại, các anh đã được dọn đường.”
Siegel không muốn điều gì hơn là cất cánh, nhưng anh vẫn đợi lệnh từ trợ lý của Edmond.
“Cảm ơn đài kiểm soát,” anh nói.” Chúng tôi cần ngừng ở đây một phút nữa. Chúng tôi vừa có một đèn cảnh báo mà chúng tôi đang kiểm tra.
“Rõ rồi. Xin cứ gọi khi sẵn sàng.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 39


“Ở đây ư?” Người chủ chiếc taxi nước tỏ vẻ ngơ ngác. “Các vị muốn dừng ở đây à? Sân bay còn xa nữa. Tôi đưa các vị tới đó.”
“Cảm ơn, chúng tôi sẽ lên bờ ở đây,” Langdon nói, theo đúng lời dặn của Winston.
Chủ xuồng nhún vai và cho xuồng dừng bên cạnh một cây cầu nhỏ có biển đề Puerto Bidea. Bờ sông ở đây phủ kín lớp cỏ cao và trông ít nhiều cũng dễ leo lên. Ambra đang leo ra khỏi xuồng và lần mò đi lên bờ dốc.
“Chúng tôi nợ anh bao nhiêu nhỉ?” Langdon hỏi chủ xuồng.
“Không cần thanh toán,” người đàn ông nói. “Quý ông người Anh của các vị, ông ấy đã thanh toán trước rồi. Thẻ tín dụng. Gấp ba số tiền.”
Winston đã thanh toán. Langdon vẫn chưa quen hẳn khi làm việc với trợ lý máy tính của Kirsch. Cứ như có tính năng Siri sẵn vậy.
Langdon nhận thấy những khả năng của Winston cũng không có gì là lạ nếu xét đến những câu chuyện hằng ngày về trí thông minh nhân tạo thực hiện được tất cả các loại nhiệm vụ phức tạp, bao gồm cả viết tiểu thuyết - một cuốn sách như vậy đã suýt giành được giải thưởng văn học ở Nhật Bản.
Langdon cảm ơn chủ xuồng và nhảy lên bờ sông. Trước khi leo lên trên, ông quay lại phía người lái xuồng vẫn còn đang ngơ ngác, giơ ngón tay trỏ lên miệng và nói, “Discreción, por favor.”
“Sí, sí,” người chủ xuồng quả quyết với ông, bưng mắt mình lại. “¡No he visto nada!1”
1Làm ơn giữ kín nhé!
Vâng vâng! Tôi chẳng thấy gì cả!

Nói xong, Langdon hối hả leo lên dốc, băng qua một đường tàu hỏa, và nhập với Ambra ở rìa một con đường làng im vắng hai bên là những cửa hàng trông rất lạ.
“Theo bản đồ,” giọng Winston vang lên trong loa điện thoại của Edmond, “các vị đang ở giao lộ Puerto Bidea và tuyến đường thủy Río Asua. Các vị sẽ thấy một bùng binh nhỏ ở trung tâm thị trấn chứ?”
“Tôi thấy rồi,” Ambra đáp.
“Tốt lắm. Chỉ cần qua khỏi bùng binh, các vị sẽ thấy một con đường nhỏ có tên Beike Bidea. Cứ theo đó mà đi tính từ trung tâm làng.”
Hai phút sau, Langdon và Ambra đã rời khỏi khu làng và rảo bước theo một đường quê vắng vẻ có những điền trang bằng đá nằm hên hàng mẫu đồng cỏ um tùm. Khi họ tiến sâu hơn vào vùng quê này, Langdon cảm thấy có gì đó không ổn. Mé phải họ, phía xa, bên trên một đỉnh đồi nhỏ, bầu trời rực sáng trong vòm sương ô nhiễm ánh sáng.
“Nếu đó là đèn sân bay,” Langdon nói, “thì chúng ta đang cách rất xa đây.
“Sân bay cách vị trí các vị hơn ba kilomet nữa.” Winston nói.
Ambra và Langdon giật mình nhìn nhau. Winston đã bảo họ chỉ mất tám phút đi bộ thôi mà.
“Theo hình ảnh vệ tinh Google,” Winston tiếp tục, “sẽ có một cánh đồng rộng bên phải các vị. Trông có khả năng băng qua không?”
Langdon lướt nhìn đồng cỏ bên phải họ, hơi chạy dốc lên về phía có ánh đèn sân bay.
“Chúng tôi chắc chắn là có thể leo lên được, Langdon nói, “nhưng hơn ba kilomet sẽ mất…”
“Chỉ cần leo lên đồi thôi, thưa Giáo sư, và cứ làm đúng theo chỉ dẫn của tôi.”
Ngữ điệu của Winston rất nhã nhặn và vẫn rất vô cảm, nhưng Langdon nhận thấy mình vừa bị khiển trách.
“Làm tốt lắm,” Ambra thì thào, trông đầy vẻ ngạc nhiên lúc nàng bắt đầu leo lên đồi. “Đó là câu gần với cáu kỉnh nhất mà tôi từng nghe được từ Winston đây.”

“EC346, đây là kiểm soát không lưu,” giọng nói vang lên rõ lớn trong tai nghe của Siegel. “Các anh hoặc phải rời đường lăn và cất cánh, hoặc trở lại hầm chứa để sửa chữa. Tình trạng của các anh thế nào?”
“Vẫn đang xử lý,” Siegel nói dối, liếc mắt nhìn máy quay chiếu hậu. Không có làn bay nào - chỉ có ánh đèn lờ mờ của đài kiểm soát phía xa. “Tôi chỉ cần một phút nữa thôi.”
“Rõ. Báo tin cho chúng tôi nhé.”
Cơ phó vỗ lên vai Siegel và chỉ ra ngoài qua kính chắn gió.
Siegel nhìn theo ánh mắt của cộng sự nhưng chỉ thấy hàng rào cao phía trước máy bay. Đột nhiên, phía bên kia dãy rào chắn, anh nhìn thấy một cảnh tượng rất ma quái. Cái quái gì thế nhỉ?
Trên cánh đồng tối đen phía ngoài hàng rào, hai cái bóng như ma trơi hiện dần ra từ trong bóng tối, trèo lên đỉnh một quả đồi và tiến thẳng về phía máy bay. Khi những bóng người lại gần hơn, Siegel nhìn thấy vệt đen kẻ chéo rất dễ phân biệt trên chiếc váy trắng mà anh đã nhìn thấy lúc trước trên truyền hình.
Có phải chính là Ambra Vidal không nhỉ?
Ambra từng có dịp bay cùng Kirsch và Siegel luôn cảm thấy tim mình hơi run rẩy khi mỹ nhân quyến rũ của Tây Ban Nha ở trên khoang. Anh không tài nào hiểu được nàng đang làm việc quái gì trên một đồng cỏ bên ngoài Sân bay Bilbao.
Người đàn ông cao ráo đi cùng Ambra cũng đang mặc đồ đen trắng rất trịnh trọng và Siegel nhớ rằng ông ấy cũng là một phần trong chương trình tối nay.
Giáo sư người Mỹ Robert Langdon.
Giọng Winston đột ngột trở lại. “Anh Siegel, giờ các anh sẽ thấy hai người ở bên kia hàng rào và hẳn nhiên các anh sẽ nhận ra cả hai người.”
Siegel nhận thấy phong thái của anh chàng người Anh điềm tĩnh đến phát sợ.
“Xin hãy biết cho rằng tối nay có những tình huống mà tôi không thể giải thích hết được, nhưng tôi sẽ đề nghị các anh làm theo những lời khuyên của tôi nhân danh ngài Kirsch. Tất cả những gì các anh cần biết ngay lúc này là làm theo.” Winston ngừng lại chỉ một lát rất mau. “Chính những kẻ đã sát hại Edmond Kirsch lúc này đang tìm cách giết Ambra Vidal và Robert Langdon. Để bảo vệ họ an toàn, chúng tôi cần sự hỗ trợ của các anh.”
“Nhưng… dĩ nhiên rồi,” Siegel lắp bắp, cố gắng xử lý thông tin vừa rồi.
“Cô Vidal và Giáo sư Langdon cần lên máy bay của các anh ngay bây giờ.”
“Ở ngoài này ư?!” Siegel hỏi lại.
“Tôi biết rõ vấn đề kỹ thuật đặt ra do một bản lược khai hành khách có sửa đổi, nhưng…”
“Anh có biết vấn đề kỹ thuật đặt ra do một hàng rào an ninh cao hơn ba mét vây quanh sân bay không?!”
“Tôi biết,” Winston nói rất bình thản. “Và, anh Siegel, tôi nhận thấy anh và tôi đã cùng làm việc với nhau chỉ mới vài tháng, nên tôi cần anh tin tưởng tôi. Những gì tôi sắp gợi ý với anh chính là những gì Edmond muốn các anh làm trong tình huống này.”
Siegel lắng nghe đầy hoang mang trong khi Winston phác thảo kế hoạch của mình.
“Những gì anh đang gợi ý không thể làm được!” Siegel tranh luận.
“Ngược lại,” Winston nói. “hoàn toàn khả thi. Cú thúc của mỗi động cơ là hơn sáu nghìn tám hăm kilogram, và phần mũi nhọn của các anh được thiết kế để chịu được hơn một nghìn một trăm hai mươi kilomet…”
“Tôi không lo ngại về yếu tố vật lý,” Siegel gắt. “Tôi lo về vấn đề pháp lý và về chuyện giấy phép phi công của tôi sẽ bị thu hồi!”
“Tôi hiểu chuyện đó, anh Siegel,” Winston thản nhiên đáp lại.
“Nhưng hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha đang gặp nguy hiểm chết người ngay lúc này. Hành động của anh ở đây sẽ giúp cứu mạng cô ấy. Tin tôi đi, khi sự thật hé lộ, anh sẽ không nhận được lời khiển trách đâu, mà anh sẽ nhận được huân chương hoàng gia từ đức vua đấy.”

Đứng trong đám cỏ sâu lút, Langdon và Ambra ngước nhìn lên hàng rào an ninh cao ngất được chiếu sáng trong ánh đèn pha của chiếc máy bay.
Theo đề xuất của Winston, họ bước lùi khỏi hàng rào vừa hay động cơ chiếc máy bay gầm lên và máy bay bắt đầu lăn tới trước. Thay vì theo khúc quanh của đường lăn, chiếc máy bay tiếp tục tiến thẳng về phía họ, vượt qua vạch sơn an toàn và lăn hẳn lên phần đường đệm trải nhựa. Nó chậm lại lăn từ từ, nhích dần nhích dần tới hàng rào.
Lúc này, Langdon có thể thấy phần mũi nhọn của máy bay gióng thẳng với một trong những cột chống thép nặng chịch của hàng rào. Khi phần mũi nhọn chắc nịch ấy nối với cây cột dọc, động cơ máy bay hơi rồ lên một chút.
Langdon đinh ninh phải giằng dai thêm một chút, nhưng rõ ràng hai động cơ Rolls-Royce và chiếc máy bay nặng bốn mươi tấn vượt xa sức chống chịu của cột hàng rào này.
Kèm theo tiếng kim loại rít lên, cây cột nghiêng về phía họ, lôi theo cả một khối nhựa đường lớn bám chặt lấy chân nó hệt như khối rễ của một cái cây bị quật ngã.
Langdon chạy lại và nắm lấy phần hàng rào đổ, kéo nó xuống đủ thấp để ông và Ambra có thể vượt qua. Lúc họ bước lên phần đường nhựa, cầu thang máy bay được mở ra và một phi công mặc đồng phục vẫy họ lên khoang.
Ambra mỉm cười nhìn Langdon. “Vẫn còn nghi ngờ Winston à?”
Langdon không còn lời nào nữa.
Khi họ khẩn trương leo lên cầu thang và chui vào khoang trong, Langdon nghe thấy phi công thứ hai trong buồng lái đang nói với đài kiểm soát.
“Vâng, đài kiểm soát, tôi đã nghe,” người phi công nói, “nhưng radar mặt đất của các anh chắc đã xác định sai. Chúng tôi chưa rời đường nối. Tôi nhắc lại, chúng tôi vẫn ở ngay trên đường lăn. Hiện giờ đèn cảnh báo của chúng tôi đã tắt và chúng tôi sẵn sàng cất cánh.”
Cơ phó đóng mạnh cửa khi cơ trưởng cho động cơ Gulfstream đảo ngược, đưa máy bay nhích lùi lại, tách khỏi chỗ hàng rào đã bị võng xuống.
Sau đó, chiếc máy bay bắt đầu cua rộng vào đường băng.
Ngồi đối diện Ambra, Robert Langdon nhắm mắt lại một lúc và thở phào. Động cơ gầm to bên ngoài và ông cảm nhận được áp suất tăng tốc khi máy bay lao vun vút dọc đường băng.
Chỉ vài giây sau, chiếc máy bay lao vút lên bầu trời và chao nghiêng gấp về phía đông nam, xuyên qua màn đêm hướng về Barcelona.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 40


Giáo trưởng Yehuda Köves lao ra khỏi phòng làm việc của mình, băng qua vườn và lách ra khỏi cửa trước nhà mình, theo bậc thang xuống hè.
Mình không còn an toàn ở nhà nữa, vị giáo trưởng tự nhủ, tim ông đập thình thịch. Mình phải tới giáo đường.
Giáo đường Phố Dohány không chỉ là thánh đường cả đời của Köves, nó còn là một pháo đài thực sự. Những chướng ngại vật, hàng rào thép gai, và lực lượng bảo vệ 24/24 của giáo đường gợi nhớ lại rất rõ lịch sử bài Do Thái kéo dài của Budapest. Tối nay, Köves cảm thấy mừng vì có giữ chìa khóa của một tòa thành trì như vậy.
Giáo đường chỉ cách nhà ông mười lăm phút - một quãng đi bộ bình yên Köves vẫn thực hiện hằng ngày - nhưng tối nay, khi ông bắt đầu đi dọc theo Phố Kossuth Lajos, ông chỉ cảm thấy sợ hãi. Cúi thấp đầu, Köves cẩn trọng nhìn khắp một lượt những khoảng tối trước mặt khi ông bắt đầu hành trình của mình.
Gần như lập tức ông nhìn thấy gì đó khiến ông lo lắng.
Một bóng đen ngồi thu lu trên một chiếc ghế băng bên kia phố - một người đàn ông vóc dáng vạm võ mặc quần bò xanh và đội chiếc mũ bóng chày - hững hờ bấm chiếc điện thoại thông minh của mình, gương mặt râu ria của anh ta được chiếu sáng rõ nhờ quầng sáng của chiếc điện thoại.
Anh ta không phải người khu vực này, Köves biết vậy, và rảo bước.
Người đàn ông đội mũ bóng chày ngước lên, nhìn vị giáo trưởng một lúc, sau đó quay lại chiếc điện thoại của mình. Köves rảo chân. Sau một dãy nhà, ông lo lắng liếc lại phía sau mình. Ông thấy hoang mang khi người đàn ông đội mũ kia không còn trên ghế băng nữa. Gã băng qua phố và đang đi trên vỉa hè ngay sau Köves.
Hắn bám theo ta! Chân vị giáo trưởng già nua bước nhanh hơn và hơi thở của ông gấp gáp. Ông tự hỏi việc rời khỏi nhà của mình có phải là một sai lầm nghiêm trọng không.
Valdespino nhắc mình ở trong nhà! Mình đã quyết định tin ai vậy?
Köves đã định đợi người của Valdespino tới và hộ tống ông ấy tới Madrid, nhưng cuộc điện thoại đã làm thay đổi mọi thứ. Những hạt giống ngờ vực u tối đang nảy mầm rất nhanh.
Người phụ nữ trên điện thoại đã cảnh báo ông: Giám mục đang cử người tới không phải để đưa ông đi, mà là loại bỏ ông - giống như ông ta đã loại bỏ Syed al-Fadl. Sau đó, cô ấy đưa ra bằng chứng thuyết phục đến mức Köves phát hoảng và bỏ chạy.
Giờ đây, khi rảo bước trên hè, Köves sợ ông có thể không tới được giáo đường an toàn. Gã đàn ông đội mũ vẫn đằng sau ông, theo Köves ở khoảng cách khoảng năm mươi mét.
Có tiếng rít chói tai xé qua không khí ban đêm và Köves nhảy dựng lên. Ông thở phào nhận ra tiếng động đó là của một chiếc xe buýt thành phố phanh lại một trạm dừng ngay phía cuối dãy nhà. Köves cảm thấy như thể chính Chúa đã gửi chiếc xe tới nên ông rảo chân về phía nó và len lên xe. Chiếc xe buýt chật cứng toàn sinh viên đại học và hai người trong số họ lịch sự nhường chỗ cho Köves ở phía trước.
“Köszönöm,” vị giáo trưởng thở hổn hển không ra hơi. Cảm ơn.
Thế nhưng, chiếc xe buýt chưa kịp lăn bánh thì gã đàn ông mặc quần bò đội mũ đã chạy hết tốc lực theo sau xe và vừa kịp lên được xe.
Köves cứng người, nhưng gã đàn ông đã đi lướt qua ông mà chẳng thèm nhìn rồi chiếm một chỗ ở phía sau. Nhìn hình ảnh phản chiếu qua kính chắn gió, vị giáo trưởng thấy gã đã quay lại với chiếc điện thoại của mình, rõ ràng đang mải mê với một trò chơi video gì đó.
Đừng hoang tưởng nào, Yehuda, ông tự mắng mình. Anh ta đâu có quan tâm đến ngươi.
Khi chiếc xe buýt đến trạm dừng Phố Dohány, Köves ngong ngóng nhìn những ngọn tháp của giáo đường chỉ cách đó vài dãy nhà, nhưng ông không dám rời khỏi sự an toàn trên chiếc xe buýt chật cứng.
Nếu ta xuống xe, và người kia theo ta…
Köves vẫn ngồi yên trên ghế, quyết định rằng có lẽ ông ấy an toàn hơn khi ở giữa đám đông. Ta có thể đi xe buýt một lúc để lấy lại nhịp thở, ông nghĩ, mặc dù giờ ông ao ước giá như đã đi vệ sinh trước khi đột ngột rời khỏi nhà.
Nhưng chỉ một lát sau, khi chiếc xe rời khỏi Phố Dohány, Giáo trưởng Köves mới nhận ra sai lầm kinh khủng trong kế hoạch của mình.
Hôm nay là tối thứ Bảy, và hành khách đều là lũ trẻ.
Giờ Köves nhận ra rằng tất cả mọi người trên chiếc xe này gần như đều chắc chắn sẽ xuống ở cùng một chỗ - một trạm dừng nữa, ngay trung tâm khu Do Thái của Budapest.
Sau Thế chiến thứ II, khu vực này bị bỏ mặc trong đổ nát, nhưng những công trình đổ nát giờ lại là trung tâm của một trong những khung cảnh các quán bar sôi động nhất châu Âu - “những quán bar đổ nát” nổi tiếng - những hộp đêm hợp thời ngay trong những tòa nhà đổ nát. Vào dịp cuối tuần, từng tốp sinh viên và khách du lịch tụ tập ở đây để tiệc tùng trong bộ khung đầy vết bom đạn của những nhà kho phủ kín hình vẽ graffiti và các tòa nhà cũ kỹ, giờ đây được trang bị hệ thống âm thanh hiện đại nhất, đèn chiếu nhiều màu và nghệ thuật chiết trung.
Quả nhiên, khi chiếc xe phanh lại ở trạm dừng kế tiếp, tất cả sinh viên lũ lượt kéo xuống. Gã đàn ông đội mũ vẫn ngồi ở phía sau, vẫn mải mê với chiếc điện thoại. Bản năng mách bảo Köves ra khỏi xe nhanh nhất có thể, và vì thế ông gượng đứng lên, khẩn trương theo lối đi giữa hai hàng ghế và bước xuống giữa đám đông sinh viên trên phố.
Chiếc xe rồ máy để rời đi, nhưng rồi đột ngột dừng lại, cửa xe rít mở cho hành khách cuối cùng ra - chính là gã đàn ông đội mũ. Köves cảm thấy mạch đập của mình tăng vọt lần nữa, nhưng gã đàn ông không hề để mắt đến Köves dù chỉ một lần. Thay vào đó, gã xoay lưng lại phía đám đông và bước nhanh theo hướng ngược lại, vừa đi vừa gọi điện.
Hãy thôi tưởng tượng mọi việc nào, Köves tự nhủ, cố gắng thở bình tĩnh.
Chiếc xe buýt rời đi và đám đông sinh viên ngay lập tức bắt đầu di chuyển về phía các quán bar. Để an toàn, Giáo trưởng Köves đi cùng với họ càng lâu càng tốt, thậm chí còn rẽ trái bất ngờ và đi bộ ngược lại phía giáo đường.
Chỉ còn vài dãy nhà nữa, ông tự nhủ, bỏ qua cảm giác nặng trịch ở đôi chân và áp suất ngày càng tăng trong bàng quang.
Các quán bar đổ nát đều đông nghẹt, khách khứa náo nhiệt của họ tràn cả ra đường. Xung quanh Köves, tiếng nhạc điện tử rộn ràng, mùi bia tỏa lan trong không khí, quyện với mùi hương ngòn ngọt của xì gà Sopianae và bánh nướng bỏ lò Kürtőskalács.
Lúc đến gần góc phố, Köves vẫn có cảm giác kỳ lạ rằng mình đang bị theo dõi. Ông đi chậm lại và thêm một lần liếc mắt về phía sau. Ơn Chúa, gã đàn ông mặc quần bò đội mũ không thấy ở đâu cả.
Trong một lối vào tối om, cái bóng lom khom vẫn bất động suốt mười giây trước khi cẩn thận nhìn qua bóng tối và đi về phía góc phố.
Khéo lắm lão già, gã nghĩ thầm và biết mình vừa kịp hụp xuống để tránh bị nhìn thấy.
Gã đàn ông kiểm tra lại ống tiêm trong túi. Sau đó, gã bước ra khỏi bóng tối, chỉnh lại chiếc mũ bóng chày và hối hả bám theo mục tiêu của mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 41


Chỉ huy cận vệ Diego Garza chạy như bay trở lại phía khu căn hộ, vẫn cầm chắc chiếc máy tính bảng của Mónica Martin.
Máy tính bảng có phần ghi âm một cuộc gọi điện thoại - một cuộc trò chuyện giữa một giáo trưởng Hungary tên là Yehuda Köves và một nhân vật tố giác nào đó trên mạng - và nội dung gây sốc của đoạn ghi âm cho Tư lệnh Garza một vài lựa chọn quý giá.
Cho dù Valdespino thật sự có đứng sau âm mưu giết người mà kẻ tố giác này tuyên bố hay không thì Garza vẫn biết rằng khi đoạn ghi âm được công khai, uy tín của Valdespino sẽ bị hủy hoại vĩnh viễn.
Ta phải cảnh báo Hoàng tử và ngăn ông ấy trước hệ quả.
Valdespino phải bị đưa ra khỏi cung điện trước khi câu chuyện này bung ra.
Trong chính trị, sự sáng suốt là tất cả - và những kẻ buôn bán thông tin, dù chính đáng hay không, đều sắp xơi tái Valdespino. Rõ ràng, Hoàng tử không nên bị nhìn thấy ở gần giám mục dù ở bất cứ đâu vào tối hôm nay.
Điều phối viên quan hệ công chúng Mónica Martin đã quyết liệt khuyên Garza khiến Hoàng tử đưa ra một tuyên bố ngay lập tức, nếu không muốn thấy nguy cơ bị xem là có liên can.
Cô ấy nói đúng, Garza biết. Chúng ta phải đưa Julián lên truyền hình. Ngay bây giờ.
Garza lên đến đỉnh cầu thang và hổn hển di chuyển dọc theo hành lang tới căn hộ của Julián, mắt nhìn chiếc máy tính bảng trên tay mình.
Ngoài hình ảnh dấu xăm thời Franco và phần ghi âm cuộc điện thoại của vị giáo trưởng, kho dữ liệu đầy sức hăm dọa của ConspiracyNet rõ ràng sẽ bao gồm một tiết lộ thứ ba và cũng là cuối cùng - một chuyện gì đó mà Martin cảnh báo sẽ gây khích động nhất.
Một chòm sao dữ liệu, cô ấy gọi như vậy - mô tả những gì rốt cuộc là một tập hợp các mục dữ liệu linh tinh và dường như ngẫu nhiên hoặc những thông tin không đáng tin cậy mà đám người theo thuyết âm mưu được khuyến khích phân tích và kết nối theo những cách thức có nghĩa để tạo ra các 'chòm sao' khả dĩ.
Bọn họ chẳng khá gì hơn đám ham mê Hoàng đạo! ông ấy nổi cáu. Thêu dệt những hình thù động vật từ sự sắp xếp ngẫu nhiên của các vì sao!
Rủi thay, những mục dữ liệu của ConspiracyNet được hiển thị trên máy tính bảng trong tay Garza có vẻ lại được trình bày đặc biệt rõ ràng để kết hợp thành một chòm duy nhất, và từ quan điểm của hoàng cung thì đó không phải là thứ tốt lành.
ConspiracyNet.com
Vụ ám sát Kirsch
Những gì chúng tôi biết cho đến giờ

• Edmond Kirsch chia sẻ phát hiện khoa học của ông với ba thủ lĩnh tôn giáo - Giám mục Antonio Valdespino, Allamah Syed al-Fadl và Giáo trưởng Yehuda Köves.
• Kirsch và al-Fadl đều đã chết. Giáo trưởng Yehuda Köves không còn trả lời điện thoại ở nhà riêng của ông và có vẻ đang mất tích.
• Giám mục Valdespino còn sống và khỏe mạnh. Lần cuối cùng được nhìn thấy đang đi bộ qua quảng trường về phía Hoàng cung.
• Kẻ ám sát Kirsch - được xác định là đô đốc hải quân Luis Ávila - có những dấu hiệu trên cơ thể người kết nối ông ta với một nhóm những kẻ ủng hộ Franco siêu bảo thủ. (Phải chăng Giám mục Valdespino - một người bảo thủ nức tiếng - cũng là kẻ ủng hộ Franco?)
• Và cuối cùng, theo các nguồn tin nội bộ Guggenheim, danh sách khách mời của sự kiện đã chốt, nhưng kẻ ám sát Luis Ávila lại được bổ sung vào phút cuối cùng theo đề nghị của một ai đó bên trong Hoàng cung. (Nhân vật tại hiện trường thực hiện đề nghị đó là hoàng hậu tương lai Ambra Vidal.)
ConspiracyNet rất cảm ơn những đóng góp tiếp theo đây của tổ chức giám sát dân sự monte@iglesia.org trong câu chuyện này.
¡Monte@iglesia.org ư?
Garza cho rằng cái địa chỉ e-mail này chắc chắn là giả.
Iglesia.org là một trang web Công giáo Phúc âm nổi bật ở Tây Ban Nha, một cộng đồng trực tuyến gồm các tu sĩ, tín đồ, và sinh viên hết lòng với những lời răn dạy của Chúa Jesus. Người cung cấp thông tin dường như đã đánh tráo tên miền để các luận điệu có vẻ như khởi phát từ iglesia.org.
Rất khôn khéo, Garza nghĩ, biết rằng Giám mục Valdespino rất được các tín đồ Công giáo sùng đạo đứng sau địa chỉ này kính trọng. Garza tự hỏi liệu có phải “cộng tác viên” trực tuyến này cũng chính là người cung cấp thông tin đã gọi cho vị giáo trưởng hay không.
Khi tới cửa căn hộ, Garza tự hỏi ông ấy phải cung cấp tin tức này cho Hoàng tử như thế nào đây. Ngày hôm nay bắt đầu khá bình thường và đột nhiên như thể hoàng cung vướng vào một cuộc chiến với những bóng ma. Một kẻ cung cấp tin tức giấu mặt tên là Monte ư? Một chuỗi các mục dữ liệu ư? Vấn đề tệ hơn nữa là Garza vẫn không có tin tức gì về tình trạng của Ambra Vidal và Robert Langdon.
Xin Chúa phù hộ chúng con nếu báo chí biết được những hành động ngang ngạnh của Ambra tối nay.
Vị tư lệnh bước vào mà chẳng hề gõ cửa. “Hoàng tử Julián?” ông ấy gọi, đi vội vào phòng khách. “Thần cần nói chuyện riêng với ngài một lát.”
Garza đến phòng khách và dừng sững lại.
Căn phòng trống trơn.
“Don Julián?” ông ấy gọi, xoay lại phía nhà bếp. “Giám mục Valdespino?”
Garza lục soát toàn bộ căn hộ, nhưng Hoàng tử và Valdespino đều đã biến mất.
Ông ấy lập tức gọi vào số di động của Hoàng tử và giật mình khi nghe thấy tiếng điện thoại đổ chuông. Âm thanh rất nhẹ nhưng nghe thấy rõ, đâu đó trong căn hộ. Garza gọi lại cho Hoàng tử và nghe thấy tiếng chuông bị chặn lại, lần này nơi phát ra âm thanh dẫn tới một bức tranh nhỏ trên tường, vị trí mà ông ấy biết đang che giấu két trong tường của căn hộ.
Julián khóa điện thoại của mình trong két ư?
Garza không tin nổi rằng Hoàng tử lại bỏ điện thoại của mình vào một đêm khi mà thông tin liên lạc cần thiết như vậy.
Và ông ấy đi đâu chứ?
Giờ Garza thử gọi vào số di động của Valdespino, hy vọng vị giám mục sẽ trả lời. Trước sự ngạc nhiên sững sờ của ông ấy, lại thêm một hồi nhạc chuông bị chặn nữa vang lên trong két âm tường.
Valdespino cũng bỏ điện thoại của mình sao?
Cảm giác hoảng hốt tăng lên, Garza trợn mắt vọt ra khỏi căn hộ. Trong vài phút tiếp theo, ông ấy chạy dọc hành lang đồng thời gọi to, tìm kiếm cả trên gác và dưới nhà.
Họ không thể bốc hơi vào không khí được!
Cuối cùng khi Garza ngừng chạy, ông ấy thấy mình đứng thở hổn hển dưới chân cầu thang lớn rất tráng lệ của Sabatini1. Ông ấy gục đầu thất bại. Chiếc máy tính bảng trong tay giờ đã tắt, nhưng trên màn hình đen kịt, ông ấy có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của bức tranh trên trần nhà ngay phía trên đầu.
1 Francesco Sabatini (1722-1797), kiến trúc sư người Ý ở thế kỷ XVIII, làm việc tại Tây Ban Nha.
Cái nghịch lý thật chua chát. Bức tranh là kiệt tác vĩ đại của Giaquinto - Tôn giáo được Tây Ban Nha bảo vệ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 42


Chiếc phản lực Gulfstream G550 bay lên độ cao lưu thông, Robert Langdon ngây người trân trân nhìn ra ngoài ô cửa sổ hình bầu dục và cố gắng định thần. Hai tiếng qua như một cơn cuồng phong cảm xúc - từ cảm giác run bắn khi xem bài thuyết trình của Edmond bắt đầu hé mở tới kinh hãi đến thắt ruột khi chứng kiến anh ấy bị sát hại thật rùng rợn. Và bí mật về bài thuyết trình của Edmond dường như chỉ càng thêm sâu khi Langdon suy ngẫm về nó.
Edmond tiết lộ bí mật gì?
Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đang đi về đâu?
Những lời nói của Edmond trong tác phẩm điêu khắc đường xoắn ốc lúc chập tối nay văng vẳng trong tâm trí Langdon: Thầy Robert, phát hiện mà em có được… nó trả lời rõ ràng cả mấy câu hỏi này.
Edmond tuyên bố đã giải quyết được hai bí mật lớn nhất của cuộc sống, thế nhưng, Langdon tự hỏi, làm sao tin tức của Edmond lại có thể mang tính chất tàn phá nguy hiểm đến mức ai đó tìm cách giết anh ấy để giữ im lặng được?
Tất cả những gì Langdon biết chắc chắn là Edmond có nhắc đến nguồn gốc của loài người và số phận của nhân loại.
Edmond đã phát hiện ra nguồn gốc chấn động gì?
Số phận bí ẩn gì?
Edmond dường như lạc quan và vui với tương lai, cho nên có vẻ không chắc rằng dự đoán của mình là điều gì đó mang tính chất tận thế khải huyền. Vậy Edmond có thể dự đoán điều gì khiến giới tăng lữ lo ngại đến vậy chứ?
“Anh Robert?” Ambra xuất hiện cạnh ông cùng một tách cà phê nóng. “Anh vừa nói linh tinh đây à?”
“Tuyệt quá, vâng, cảm ơn cô.” Langdon nhận tách cà phê với vẻ biết ơn, hy vọng một chút cà phê có thể gỡ những suy nghĩ rối như tơ vò của mình.
Ambra ngồi xuống đối diện ông và tự rót cho mình một ly vang đỏ từ một cái chai chạm nổi rất đẹp. “Edmond mang theo cả tủ Château Montrose trên máy bay. Có vẻ thật tiếc nếu bỏ phí.”
Langdon chỉ mới thử rượu Montrose một lần, trong một hầm rượu vang bí mật cổ xưa ngay bên dưới Trinity College Dublin, khi ông ở đó nghiên cứu bản thảo gốc được chú giải nhan đề Cuốn sách của Kells.
Ambra giữ ly rượu vang của mình bằng cả hai bàn tay, và khi nàng đưa ly lên môi, nàng chăm chú nhìn Langdon qua vành ly. Lại một lần nữa, ông thấy rất kỳ lạ là nét duyên dáng tự nhiên của người phụ nữ này khiến ông tan biến mọi nghi ngờ.
“Tôi đang suy nghĩ,” nàng nói. “Lúc trước, anh có nói rằng Edmond đã tới Boston và hỏi anh về những câu chuyện Sáng tạo thế giới khác nhau phải không?”
“Phải, khoảng một năm trước. Cậu ấy rất quan tâm đến những cách thức khác nhau mà các tôn giáo lớn trả lời cho câu hỏi 'Chúng ta đến từ đâu?'“
“Vậy thì rất có thể đó là một xuất phát điểm tốt cho chúng ta chăng?” nàng nói. “Liệu chúng ta có thể làm sáng tỏ những gì anh ấy đang tiến hành không?”
“Tôi rất sẵn lòng bắt đầu từ đầu,” Langdon đáp, “nhưng tôi không chắc có gì để làm sáng tỏ. Chỉ có hai trường phái tư tưởng về chuyện chúng ta từ đâu đến - quan niệm tôn giáo cho rằng Chúa tạo ra con người với đầy đủ hình hài và mô hình của Darwin trong đó chúng ta thoát thai từ lớp bùn lầy nguyên thủy và cuối cùng tiến hóa thành con người…”
“Vậy nếu Edmond phát hiện ra khả năng thứ ba thì sao?” Ambra hỏi, đôi mắt nâu của nàng vụt sáng. “Nếu đó là một phần phát hiện của anh ấy thì sao? Nếu anh ấy chứng minh được rằng loài người không hề sinh ra từ Adam và Eve cũng không phải từ quá trình tiến hóa của Darwin thì sao?”
Langdon phải thừa nhận rằng một phát hiện như thế - một câu chuyện khác hẳn về nguồn gốc loài người - sẽ rất chấn động, nhưng đơn giản là ông không tài nào hình dung được nó có thể là gì. “Thuyết tiến hóa của Darwin đã được xác lập rất vững chắc,” ông nói, “bởi vì nó dựa trên sự thực quan sát được về mặt khoa học và đã chứng minh rõ ràng các sinh vật tiến hóa và thích nghi với môi trường của mình theo thời gian như thế nào. Thuyết tiến hóa đã được chấp nhận rộng rãi bởi những tư duy sắc bén nhất trong khoa học.”
“Vậy sao?” Ambra nói. “Tôi từng đọc những cuốn sách cho rằng Darwin hoàn toàn sai.”
“Những gì cô ấy nói rất đúng,” Winston xen vào trên điện thoại, lúc này đang được sạc điện trên chiếc bàn giữa hai người. “Hơn năm mươi đầu sách đã được xuất bản chỉ riêng trong hai thập kỷ qua.”
Langdon quên mất là Winston vẫn hiện diện cùng họ.
“Một số cuốn sách trong số này bán rất chạy,” Winston nói thêm. “What Darwin Got Wrong… Defeating Darwinism… Darwin's Black Box… Darwin on Trial… The Dark Side of Charles Dar…” 1
1 What Danvin Got Wrong (Những gì Darwin sai) xuất bản năm 2010 của triết gia Jerry Fodor và nhà khoa học nhận thức Massimo Piattelli-Palmarini; Defeating Darwinism by Opening Minds (Đánh bại chủ nghĩa Darwin bằng cách mở rộng tư duy) và Darwin on Trial (Darwin ra tòa) đều của tác giả Phillip E. Johnson xuất bản lần lượt năm 1997 và 1991, Darwin’s BlackBox: The Biochemical Challenge to Evolution (Hộp đen của Darwin: Thách thức sinh hóa cho quá trình tiến hóa) của Michael Behe xuất bản năm 1996, The Dark Side of Charles Darwin (Mặt tối của Charles Darwin) của tác giả Jerry Bergman xuất bản năm 2011.
“Đúng vậy” Langdon ngắt lời, biết rõ về số lượng sách rất lớn tuyên bố phủ nhận được Darwin. “Thực tế hồi trước tôi đã đọc hai cuốn trong đó.”
“Và rồi sao?” Ambra thúc giục.
Langdon mỉm cười nhã nhặn. “Chậc, tôi không nói được về tất cả số sách đó, nhưng hai cuốn tôi đọc thì căn bản lập luận từ quan điểm Thiên Chúa giáo. Một cuốn đi xa đến mức cho rằng cơ sở hóa thạch trên Trái Đất cũng do Chúa bố trí sẵn 'để kiểm chứng lòng tin của chúng ta.'“
Ambra cau mày. “Được rồi, vậy là mấy thứ đó cũng không lay chuyển được suy nghĩ của anh.”
“Không hề, nhưng chúng làm tôi thấy tò mò, và vì thế tôi đã hỏi ý kiến của một giáo sư sinh học Harvard về mấy cuốn sách.” Langdon mỉm cười. “Vị giáo sư thế nào lại chính là Stephen J. Gould quá cố.”
“Sao tôi không nhớ tên người đó nhỉ?” Ambra hỏi.
“Stephen J. Gould,” Winston nói ngay. “Nhà cổ sinh vật học và sinh học tiến hóa nổi tiếng. Lý thuyết của ông ấy về 'cân bằng ngắt quãng' giải thích một số khoảng trống trong cơ sở hóa thạch và giúp hỗ trợ mô hình tiến hóa của Darwin.”
“Gould chỉ cười,” Langdon nói, “và bảo tôi rằng hầu hết các sách bài Darwin đều được xuất bản bởi những nơi đại loại như Viện Nghiên cứu quá trình sáng tạo thế giới - một tổ chức mà theo các tài liệu thông tin của chính họ, xem Kinh thánh như một hồ sơ bằng văn bản không thể sai về sự thật khoa học và lịch sử.”
“Nghĩa là,” Winston nói, “họ tin rằng những bụi cây cháy biết nói, rằng Noah thừa sức chứa đủ tất cả các giống loài đang sống chỉ trên một con thuyền duy nhất và rằng người biến thành những cột muối. Không phải là cơ sở vững vàng nhất cho một đơn vị nghiên cứu khoa học rồi.”
“Đúng vậy,” Langdon nói, “nhưng vẫn có một số cuốn sách phi tôn giáo tìm cách hạ bệ Darwin từ quan điểm lịch sử - buộc tội ông ấy đánh cắp thuyết của mình từ nhà tự nhiên học người Pháp Jean-Baptiste Lamarck, người đầu tiên đề xuất rằng các sinh vật tự biến đổi để thích ứng với môi trường của chúng.”
“Mạch tư duy đó rất không phù hợp, thưa Giáo sư,” Winston nói. “Chuyện Darwin có mắc lỗi đạo văn hay không thì không có quan hệ gì đến tính xác thực của thuyết tiến hóa cả.”
“Tôi không dám tranh luận chuyện đó,” Ambra nói. “Mà như vậy là, anh Robert, tôi cho rằng nếu anh hỏi Giáo sư Gould, 'Chúng ta từ đâu đến?' ông ấy chắc chắn sẽ trả lời rằng chúng ta tiến hóa từ vượn.”
Langdon gật đầu. “Tôi đang diễn giải đây, nhưng cơ bản Gould quả quyết với tôi rằng trong giới khoa học thực sự chẳng hề đặt ra bất kỳ câu hỏi gì về quá trình tiến hóa đang diễn ra. Theo kinh nghiệm, chúng ta có thể quan sát được quá trình đó. Ông ấy tin rằng, câu hỏi hay ho hơn là: Tại sao quá trình tiến hóa lại diễn ra? Và nó bắt đầu như thế nào?”
“Ông ấy có đưa ra câu trả lời nào không?” Ambra hỏi.
“Tôi chẳng hiểu được câu trả lời nào cả, nhưng ông ấy có chứng minh quan điểm Hành lang Vô tận.” Langdon ngừng lại, nhấp thêm một ngụm cà phê.
“Phải, một minh họa rất hữu ích,” Winston xen vào trước khi Langdon kịp nói. “Nó như thế này: Hãy tưởng tượng bạn đang đi trong một hành lang dài - một hành lang dài đến mức không thể thấy bạn xuất phát từ đâu hay sẽ đi tới đâu.”
Langdon gật đầu, cảm thấy rất ấn tượng trước kiến thức quảng bác của Winston.
“Khi đó, phía xa đằng sau bạn,” Winston nói tiếp, “bạn nghe thấy tiếng của một trái bóng nảy lên. Chắc chắn là khi bạn quay lại, bạn thấy một trái bóng đang nảy dần về phía mình. Nó nảy lại càng lúc càng gần hơn, cho tới khi nó nảy qua bạn, và cứ thế tiếp tục, nảy ra xa và mất hút.”
“Chính xác,” Langdon nói. “Câu hỏi không phải là: Có phải trái bóng đang nảy không? Bởi vì rõ ràng, trái bóng đang nảy. Chúng ta có thể thấy điều đó. Câu hỏi là: Tại sao nó lại nảy? Nó bắt đầu nảy như thế nào? Phải chăng có ai đó đã đá trái bóng? Đó có phải là một trái bóng đặc biệt đơn giản là biết tự nảy không? Liệu trong hành lang này có những quy luật vật lý khiến cho trái bóng không có lựa chọn nào khác là nảy mãi mãi không?”
“Quan điểm của Gould là,” Winston kết luận, “cũng như với quá trình tiến hóa, chúng ta không thể nhìn đủ xa vào quá khứ để biết quá trình này bắt đầu như thế nào.”
“Chính xác,” Langdon nói. “Tất cả những gì chúng ta có thể làm là quan sát nó đang xảy ra.”
“Dĩ nhiên,” Winston nói, “việc này cũng tương tự như thách thức hiểu biết về Vụ nổ Lớn. Các nhà vũ trụ học đã vạch ra những công thức rất súc tích để mô tả vũ trụ mở rộng trong bất kỳ Thời gian cụ thể nào - 'T' - trong quá khứ hay tương lai. Tuy nhiên, khi họ thử nhìn lại khoảnh khắc lúc Vụ nổ Lớn xảy ra - nơi T bằng không - mọi tính toán đều sai bét, cho thấy những gì dường như là một đốm nhiệt lượng và tỉ trọng vô cực rất bí ẩn.”
Langdon và Ambra nhìn nhau, đầy ấn tượng.
“Lại chính xác,” Langdon nói. “Và vì tư duy con người không được trang bị để xử lý 'vô cực' tốt cho lắm nên hầu hết các nhà khoa học hiện giờ đều thảo luận về vũ trụ chỉ với những thời điểm sau Vụ nổ Lớn - trong đó T lớn hơn giá trị bằng không - giúp đảm bảo rằng tính toán không trở nên bí hiểm.”
Một trong những đồng nghiệp ở Harvard của Langdon - một vị giáo sư vật lý rất uy tín - đã phát ngán với các sinh viên chuyên ngành triết học tham dự buổi hội thảo Nguồn gốc Vũ trụ của ông ấy đến mức cuối cùng ông ấy trưng một tấm biển trên cửa phòng học của mình.
Trong lớp học của tôi, T > 0.
Với tất cả yêu cầu khi T = 0,
Xin mời ghé Khoa Tôn giáo.
“Thế còn thuyết Panspermia1?” Winston hỏi. “Quan niệm cho rằng sự sống trên Trái Đất được gieo mầm từ một hành tinh khác nhờ một sao băng hoặc bụi vũ trụ? Thuyết Panspermia được coi là một khả năng có giá trị khoa học để giải thích sự tồn tại của sự sống trên Trái Đất.”
1Thuyết nguồn gốc sự sống từ vũ trụ.
“Cho dù thuyết đó đúng,” Langdon nêu ý kiến, “thì nó cũng không trả lời được xem lúc đầu sự sống bắt đầu trong vũ trụ như thế nào. Chúng ta chỉ mới trì hoãn vấn đề, phớt lờ nguồn gốc của trái bóng nảy và chưa giải quyết câu hỏi lớn: Sự sống từ đâu mà ra?”
Winston im lặng.
Ambra nhâm nhi ly rượu vang của mình, có vẻ thích thú với màn đối đáp qua lại của họ.
Khi chiếc Gulfstream G550 đạt độ cao và giữ thăng bằng, Langdon nhận thấy mình đang hình dung về những gì có ý nghĩa đối với thế giới nếu thực sự Edmond tìm ra câu trả lời cho câu hỏi từ lâu: Chúng ta từ đâu đến?
Thế nhưng, theo Edmond, câu trả lời đó chỉ là một phần của bí mật.
Cho dù chân lý có là gì thì Edmond cũng đã bảo vệ mọi chi tiết phát hiện của mình bằng một mật khẩu khó xử lý - một dòng thơ duy nhất gồm bốn mươi bảy mẫu tự. Nếu mọi thứ đều theo đúng kế hoạch, Langdon và Ambra sớm muộn sẽ tìm ra nó bên trong căn nhà của Edmond ở Barcelona.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 43


Gần một thập kỷ sau khi bắt đầu, “trang web đen” vẫn là một bí ẩn đối với đông đảo người dùng trực tuyến. Không thể truy cập được qua các cơ chế tìm kiếm truyền thống, vùng đất ma quỷ hung hiểm này của World Wide Web cung cấp đường truy cập ẩn danh tới cả danh mục khó tin toàn những hàng hóa và dịch vụ phi pháp.
Từ bước đầu rất khiêm tốn là làm chủ Silk Road (Con đường tơ lụa) - chợ đen trực tuyến đầu tiên chuyên bán ma túy phi pháp - trang web đen phát triển thành một mạng lưới rất rộng gồm các địa chỉ trái phép buôn bán vũ khí, ấn phẩm khiêu dâm trẻ em, những bí mật chính trị và thậm chí cả các tội phạm có thể thuê được, bao gồm gái mại dâm, hacker, gián điệp, khủng bố và sát thủ.
Hằng tuần, trang web đen chủ trì hàng triệu giao dịch, và tối nay, bên ngoài những quán bar đổ nát của Budapest, một trong những giao dịch ấy sắp được hoàn tất.
Gã đội mũ bóng chày và mặc quần bò xanh lén di chuyển theo Phố Kazinczy, vẫn núp trong những khoảng tối trong khi lần theo con mồi của mình. Những nhiệm vụ như thế này là nguồn sống của gã trong vài năm qua và luôn được thương thảo thông qua một loạt mạng lưới rất thịnh hành - Unfriendly Solution, Hitman Network và BesaMaha.
Dịch vụ cho thuê sát thủ là một ngành có giá trị cả tỷ đô la và đang phát triển mỗi ngày, về cơ bản nhờ sự bảo đảm của trang web đen này đối với những giao dịch ẩn danh và thanh toán không thể truy vết thông qua Bitcoin. Hầu hết những vụ việc thành công đều liên quan đến gian lận bảo hiểm, quan hệ đối tác làm ăn xấu, hoặc những vụ hôn nhân bất thường, nhưng lý do căn bản thì chưa bao giờ là mối lo của người tiến hành công việc cả.
Không hỏi han, gã sát thủ suy tưởng. Đó là nguyên tắc bất thành lời giúp công việc của mình vận hành.
Công việc tối nay là vụ gã mới nhận vài ngày trước. Ông chủ ẩn danh thuê gã với giá 150.000 euro để theo dõi nhà của một vị giáo trưởng già và duy trì “liên lạc điện thoại” phòng trường hợp cần tiến hành hành động. Hành động, trong trường hợp này, nghĩa là đột nhập vào nhà người đó và tiêm cho ông ấy một liều muối kết tinh, gây tử vong tức thì do trụy tim thấy rõ.
Tối nay, ngoài dự kiến, vị giáo trưởng lại rời nhà lúc nửa đêm và bắt một chuyến xe buýt thành phố để tới một khu vực rất trụy lạc. Gã sát thủ đã bám đuôi ông ấy và sau đó dùng một chương trình ngụy trang đã mã hóa trên điện thoại thông minh của mình để thông báo cho ông chủ về tình hình.
Mục tiêu ra khỏi nhà. Đi tới khu vực toàn quán bar. Có lẽ gặp ai đó chăng?
Phản ứng của ông chủ gã gần như tức thì.
Giết.
Lúc này, giữa những quán bar đổ nát và những lối ngõ tối tăm, những gì mới đầu là canh gác bên ngoài đã biến thành trò chơi mèo vờn chuột chết người.
Giáo trưởng Yehuda Köves toát mồ hôi và thả không ra hơi khi lần mò dọc Phố Kazinczy. Phổi ông đau rát và ông cảm thấy như thể cái bàng quang già nua của mình sắp vỡ bung.
Tất cả những gì ta cần là một buồng vệ sinh và nghỉ ngơi một chút, ông ấy nghĩ và dừng lại giữa một đám đông tụ tập bên ngoài quán Bar Szimpla - một trong những quán bar đổ nát nổi tiếng nhất và lớn nhất Budapest. Những vị khách quen ở đây là một tập hợp rất phong phú đủ mọi lứa tuổi và nghề nghiệp nhưng chẳng ai nhìn đến vị giáo trưởng già lần thứ hai.
Ta sẽ dừng lại chỉ một lát thôi, ông ấy quyết định rồi tiến về phía quán bar.
Từng là một tòa nhà bằng đá rất tráng lệ với những ban công duyên dáng và các ô cửa sổ cao, Bar Szimpla lúc này là một cái vỏ xiêu vẹo phủ kín tranh graffiti. Khi Köves di chuyển qua mái cổng rộng rãi của tòa nhà đồ sộ một thời này, ông đi qua một khuôn cửa có ghi một lời nhắn đã được mã hóa: EGG-ESH-AY-GED-REH!
Ông ấy phải mất một lúc mới nhận ra rằng cụm từ đó chẳng có gì hơn là cách đánh vần theo âm vựng cho từ egészségedre trong tiếng Hungary - nghĩa là “Hoan nghênh!”
Bước vào trong, Köves trân trân ngỡ ngàng nhìn không gian nội thất như lòng hang của quán bar. Tòa nhà bị bỏ rơi này được xây bao quanh một khoảng sân ngổn ngang rải rác vài thứ lạ lùng nhất mà vị giáo trưởng từng thấy - một chiếc trường kỷ chế từ một cái bồn tắm, mấy tượng hình nộm đạp xe treo lơ lửng trong không trung, và một chiếc xe mui kín Trabant của Đông Đức đã mất hết nội thất, giờ dùng làm chỗ ngồi tạm thời cho khách hàng quen.
Khoảnh sân được bao kín bởi những bức tường cao trang trí bằng một mảng tranh graffiti vẽ bằng sơn xịt, những tấm áp phích thời Xô viết, vài bức điêu khắc cổ điển, và những cái cây treo tràn lên cả những ban công trong nhà chật ních khách quen đang lắc lư theo tiếng nhạc rõ to. Không khí toàn mùi thuốc lá và bia. Những cặp đôi trẻ tuổi say sưa hôn nhau ngay trước mắt mọi người trong khi những người khác kín đáo hút những chiếc tẩu nhỏ và uống những ngụm pálinka, một loại rượu mạnh chế từ hoa quả rất thông dụng được đóng chai tại Hungary.
Köves luôn thấy rất nực cười là nhân loại, dù là sáng tạo tuyệt vời nhất của Chúa, bản chất vẫn chỉ là động vật mà thôi, hành vi của họ bị đưa đẩy đi rất xa chỉ bởi việc theo đuổi những khoái lạc rất sinh sinh vật. Chúng ta vỗ về thân thể sinh vật của mình với hy vọng linh hồn của chúng ta sẽ đi theo. Köves đã mất rất nhiều thời gian khuyên nhủ những người quá sa đà vào những cám dỗ xác thịt của cơ thể - cơ bản là thức ăn và nhục dục - và với sự phát triển của tình trạng nghiện Internet cùng những thứ ma túy trá hình rẻ tiền, công việc của ông ấy mỗi ngày lại càng trở nên đầy thách thức.
Tiện nghi sinh vật duy nhất Köves cần lúc này là một phòng vệ sinh, và vì thế ông ấy thấy thất vọng khi tìm thấy một hàng có đến mười người đang đợi. Không thể đợi được, ông rón rén leo lên cầu thang, nơi người ta bảo ông ấy rằng sẽ tìm thấy nhiều phòng vệ sinh khác. Trên tầng hai của tòa nhà, giáo trưởng đi qua cả một mê cung các phòng khách và phòng ngủ kề nhau, cái nào cũng có quầy rượu nhỏ hoặc chỗ ngồi riêng. Ông ấy hỏi thăm một nhân viên phục vụ quầy rượu chỗ có phòng vệ sinh, và người ấy chỉ tới một hành lang chỉ cách đó một quãng, thấy rõ là có thể đến được qua một lối đi ban công nhìn xuống sân.
Köves nhanh chóng đi ra ban công, bám một tay lên hàng lan can trong lúc di chuyển. Trong lúc đi, ông ấy lơ đãng đưa mắt nhìn khoảnh sân đông đúc phía dưới, nơi cả một biển những người trẻ đang xoay chuyển nhịp nhàng theo tiếng nhạc rộn ràng.
Rồi Köves nhìn thấy.
Ông ấy dừng sững lại, máu trong người lạnh toát.
Ở đó, ngay giữa đám đông, gã đàn ông đội mũ bóng chày và mặc quần bò đang nhìn thẳng lên chỗ ông ấy. Chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn ngủi, mắt hai người chạm nhau. Rồi, với tốc độ của một con báo, gã đàn ông đội mũ hành động ngay, chen lấn qua khách khứa và lao lên gác.

Gã sát thủ nhảy vội lên các bậc thang, nhìn kỹ từng gương mặt gã vượt qua. Bar Szimpla khá quen thuộc với gã và gã nhanh chóng tìm đường tới được ban công nơi mục tiêu của gã vừa đứng.
Vị giáo trưởng đã biến mất.
Ta không hề bỏ qua lão, gã sát thủ nghĩ, nghĩa là lão di chuyển sâu hơn vào trong tòa nhà.
Ngước mắt về một hành lang tối tăm phía trước, gã sát thủ mỉm cười, ngờ rằng gã biết chính xác mục tiêu của mình sẽ cố gắng lẩn trốn ở đâu.
Hành lang rất chật chội và toàn mùi nước tiểu. Ở phía cuối là một cánh cửa gỗ ọp ẹp.
Gã sát thủ ầm ầm đi dọc hành lang và đập cửa.
Im lặng.
Gã lại gõ.
Một giọng trầm trầm bên trong càu nhàu cho biết buồng đã có người.
“Bocsásson meg!1” gã sát thủ xin lỗi bằng giọng nhỏ nhẹ và lại ầm ầm bỏ đi. Sau đó, gã lặng lẽ vòng lại và trở lại chỗ cánh cửa, áp tai lên lớp gỗ. Phía bên trong, gã nghe được tiếng vị giáo trưởng thì thào đầy tuyệt vọng bằng tiếng Hungary.
1Xin lỗi!
“Có ai đó đang cố giết tôi! Hắn ở bên ngoài nhà tôi! Giờ hắn đang vây tôi bên trong Bar Szirmpla ở Budapest! Xin làm ơn! Hãy giúp tôi!”
Rõ ràng, mục tiêu của gã đã gọi số 112 - số cứu nạn khẩn cấp ở Budapest tương đương với 911 ở Mỹ. Thời gian phản hồi khét tiếng là chậm chạp, thế nhưng gã sát thủ đã nghe đủ.
Liếc nhìn phía sau mình để biết chắc chỉ có một mình, gã nhắm bờ vai cơ bắp của mình về phía cánh cửa, nghiêng về phía sau và khớp đòn tấn công của mình đúng với tiếng nhạc ầm ầm.
Cái chốt cửa bướm cũ kỹ bật tung ngay cú đầu tiên. Cánh cửa mở bung. Gã sát thủ bước vào trong, khép cửa lại sau lưng mình và đối diện với con mồi.
Người đàn ông co rúm ở một góc trông bối rối và không kém phần kinh hãi.
Gã sát thủ giằng lấy điện thoại của giáo trưởng, kết thúc cuộc gọi và ném thẳng chiếc điện thoại xuống bồn cầu.
“A-ai cử anh tới?!” vị giáo trưởng lắp bắp.
“Cái hay ho trong tình huống của tôi,” gã đàn ông trả lời, “là tôi không có cách nào biết cả.”
Giáo trưởng lúc này thở khò khè, mồ hôi đầm đìa. Đột nhiên, ông ấy bắt đầu thở khó nhọc, mắt ông ấy lồi ra khi giơ tay và ôm lấy ngực bằng cả hai tay.
Thật đấy ư? Gã sát thủ mỉm cười nghĩ. Ông ta đang bị trụy tim ư?
Trên sàn nhà tắm, ông ấy quằn quại và nấc nghẹn, đôi mắt nài xin sự thương cảm khi gương mặt ông đỏ bầm và tay bấu chặt lấy ngực mình. Cuối cùng, ông ấy đập mặt - trước tiên xuống sàn gạch men bẩn thỉu, nơi ông ấy nằm run rẩy và giật giật trong khi bàng quang đang tự xả ra ướt quần, một mảng nước tiểu lúc này loang ra khắp sàn phòng.
Cuối cùng, vị giáo trưởng nằm im.
Gã sát thủ khom người xuống và lắng nghe tiếng thở. Không có tiếng gì.
Gã đứng lên, cười khẩy.
“Lão khiến công việc của tôi dễ dàng hơn dự tính rất nhiều.”
Nói xong, gã sát thủ sải bước ra cửa.

Phổi Giáo trưởng Köves căng lên vì thiếu không khí.
Ông ấy vừa thực hiện một màn trình diễn để đời.
Gần như bất tỉnh, ông ấy nằm bất động và lắng nghe tiếng bước chân kẻ tấn công mình đi khỏi trên sàn phòng tắm. Cánh cửa kẹt mở và sau đó khép lại.
Im lặng.
Köves ép bản thân đợi thêm vài giây để chắc chắn rằng kẻ tấn công mình đã xuống sảnh không còn nghe lọt nữa. Sau đó, không đợi thêm một khắc nào, Köves thở hắt ra và bắt đầu hít những hơi thở cứu mạng thật sâu. Ngay cả không khí tanh nồng của phòng tắm vẫn có cảm giác như được trời ban.
Rất chậm rãi, ông mở mắt, tầm nhìn của ông ấy lờ mờ do thiếu dưỡng khí. Khi Köves nâng cái đẩu đang giật nhoi nhói của mình lên, thị lực của ông ấy bắt đầu rõ ràng. Hết sức hoang mang, ông ấy nhìn thấy một bóng đen đứng ngay bên trong cánh cửa đã đóng.
Gã đàn ông đội mũ bóng chày đang mỉm cười nhìn xuống ông ấy.
Köves cứng người. Gã chưa hề rời khỏi phòng này.
Gã sát nhân sải hai bước dài tới chỗ vị giáo trưởng, và bằng một cái túm tay như kìm siết, gã tóm lây cổ vị giáo trưởng và vùi mặt ông ấy xuống nền gạch lần nữa.
“Lão có thể nín thở,” gã sát thủ gầm gừ, “nhưng lão không thể ngừng tim mình được.” Gã cười lớn. “Đừng lo, tôi có thể giúp lão chuyện đó.”
Một khắc sau, một châm bỏng rát xuyên vào bên cạnh cổ Köves. Một ngọn lửa nóng chảy dường như tràn xuống cổ họng rồi ngược lên hộp sọ ông ấy. Lần này, khi tim ông ấy bị tác động, ông ấy biết đó là thật.
Sau khi đã dành phần lớn cuộc đời mình cho những bí ẩn của Shamayim - nơi cư ngụ của Chúa trời và những người lương thiện đã quá cố - Giáo trưởng Yehuda Köves biết rằng tất cả mọi câu trả lời chỉ còn là một nhịp tim nữa mà thôi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 44


Một mình trong phòng vệ sinh rộng rãi của chiếc phản lực G550, Ambra Vidal đứng bên bồn rửa và để cho làn nước ấm chảy êm ái qua bàn tay mình trong lúc nàng trân trân nhìn vào gương, gần như không nhận ra chính hình phản chiếu của mình.
Mày đã làm gì vậy?
Nàng nhấp một ngụm rượu vang nữa, thèm khát có lại được cuộc sống cũ của mình chỉ vài tháng trước đây - không ai biết đến, một mình, toàn tâm toàn ý với công việc ở bảo tàng của mình - nhưng tất cả giờ đều đã không còn. Nó đã tan biến vào cái lúc Julián cầu hôn.
Không, nàng tự trách mình. Nó đã tan biến vào cái lúc mày nói đồng ý.
Nỗi hãi hùng của vụ ám sát tối nay đã dịu lại trong lòng nàng, và giờ đây tư duy lôgic của nàng đang kinh hãi cân nhắc mọi chuyện.
Mình đã mời kẻ sát hại Edmond tới bảo tàng.
Mình bị lừa bởi một kẻ nào đó trong cung.
Và giờ mình biết quá nhiều.
Không hề có bằng chứng cho thấy Hoàng tử Julián đứng sau vụ giết người đẫm máu này cũng như thậm chí là anh ấy biết về kế hoạch ám sát. Cho dù vậy, Ambra đã chứng kiến những hoạt động bên trong của hoàng cung đủ để nghi ngờ rằng toàn bộ chuyện này không thể diễn ra mà Hoàng tử không biết đến, nếu không muốn nói là còn được anh ấy ủng hộ.
Mình đã kể với Julián quá nhiều.
Những tuần gần đây, Ambra cảm thấy càng lúc càng cần phải thanh minh cho mỗi giây phút nàng ở cách xa vị hôn phu cả ghen của mình, và vì thế nàng đã chia sẻ riêng với Julián rất nhiều về những gì nàng biết liên quan đến bài thuyết trình sắp tới của Edmond. Giờ đây, Ambra sợ rằng sự cởi mở của nàng có thể quá khinh suất.
Ambra tắt vòi nước và lau khô tay, với lấy ly rượu vang của mình và uống cạn mấy giọt cuối cùng. Trong tấm gương trước mặt, nàng nhìn thấy một người xa lạ - một chuyên gia từng rất tự tin giờ đây chỉ toàn sự dằn vặt và tủi hổ.
Những sai lầm mình mắc phải chỉ trong vài tháng…
Khi tâm trí nàng quay trở lại thời gian trước, nàng tự hỏi liệu nàng có thể làm được gì khác đi. Bốn tháng trước, vào một đêm mưa ở Madrid, Ambra đang tham dự một chương trình gây quỹ tại Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Reina Soffa…
Hầu hết khách khứa đã di chuyển tới phòng 206.06 để xem tác phẩm nổi tiếng nhất của bảo tàng - El Guernica - một tác phẩm của Picasso dài chình ình hơn bảy mét gợi lại vụ oanh tạc kinh hoàng nhằm vào một thị trấn Basque nhỏ thời Nội chiến Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Ambra lại thấy bức tranh quá đau thương không tài nào thưởng lãm cho nổi - một vật gợi nhớ rất sống động về sự đàn áp tàn bạo dưới thời nhà độc tài phát xít của Tây Ban Nha là Tướng Francisco Franco từ 1939 đến 1975.
Thay vào đó, nàng chọn một mình lẻn vào phòng trưng bày yên tĩnh để thưởng thức tác phẩm của một trong những nghệ sĩ Tây Ban Nha nàng yêu thích, Maruja Mallo, một nữ nghệ sĩ theo trường phái Siêu thực đến từ Galicia với thành công vào thập niên 1930 giúp phá vỡ cái lồng thủy tinh giam hãm những nữ nghệ sĩ Tây Ban Nha.
Ambra đang đứng một mình chiêm ngưỡng La Verbena - một tác phẩm châm biếm chính trị có rất nhiều biểu tượng phức tạp - thì một giọng nói trầm trầm vang lên sau lưng nàng.
“Es casi tan guapa como tú,” người đàn ông lên tiếng. Đẹp chẳng kém gì quý cô nhỉ.
Nghiêm túc đấy chứ? Ambra trân trân nhìn thẳng về phía trước và cố không đảo mắt. Ở những sự kiện như thế này, bảo tàng nhiều lúc có cảm giác giống một quầy bar đột xuất đầy rắc rối hơn là một trung tâm văn hóa.
“¿Qué crees que significa?” giọng nói sau lưng nàng như thúc giục. Cô nghĩ nó nghĩa là sao?
“Tôi không có ý kiến gì,” nàng nói dối, hy vọng rằng việc nói tiếng Anh có thể làm cho người đàn ông bỏ đi tiếp. “Tôi chỉ thấy thích nó thôi.”
“Tôi cũng vậy,” người đàn ông trả lời bằng thứ tiếng Anh gần như không rõ trọng âm. “Mallo đi trước thời đại của bà. Buồn thay, với con mắt không được đào tạo thì vẻ đẹp bề ngoài của bức tranh này có thể ngụy trang cho cái cốt lõi sâu xa hơn bên trong.” Anh ta ngừng lại. “Tôi hình dung một phụ nữ như cô chắc chắn lúc nào cũng gặp phải vấn đề như thế.”
Ambra lầm bầm. Mấy lời như thế này mà thật sự có tác dụng với phụ nữ sao? Nặn ra một nụ cười lịch sự trên mặt, nàng xoay lại để 'kết liễu' người đàn ông. “Thưa ông, ông thật tốt bụng khi nói vậy, nhưng…”
Ambra Vidal sững lại nửa chừng câu nói.
Người đàn ông đang đối diện nàng là người nàng đã từng thấy trên truyền hình và trên các tạp chí trong suốt cuộc đời mình.
“Ôi,” Ambra lắp bắp. “Ông là…”
“Táo bạo thái quá chăng?” người đàn ông điển trai đánh liều. “Hay táo bạo một cách vụng về? Tôi xin lỗi, tôi sống một cuộc sống được bao bọc, và tôi không giỏi những việc kiểu thế này.” Anh ta mỉm cười và lịch sự chìa tay ra. “Tên tôi là Julián.”
“Tôi nghĩ tôi biết tên ngài,” Ambra nói với anh ta, mặt đỏ ửng khi nàng bắt tay Hoàng tử Julián, đức vua tương lai của Tây Ban Nha. Anh ta cao hơn nàng hình dung với đôi mắt dịu dàng và nụ cười đầy tự tin. “Tôi không biết ngài sẽ đến đây tối nay,” nàng nói tiếp, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. “Tôi hình dung ngài là một người thuộc tuýp Prado1 nhiều hơn - ngài biết đây, Goya, Velázquez… phái cổ điển.”
1Bảo tàng Prado là bảo tàng nghệ thuật ở Madrid, Tây Ban Nha, trưng bày các tác phẩm nghệ thuật châu Âu từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIX, với hơn 5.000 bức vẽ, 2.000 bản in, 1.000 đồng xu và huy chương, 700 tác phẩm điêu khắc và gần 2.000 tác phẩm nghệ thuật khác, trong đó có hơn 1.300 bức tranh của Diego Velázquez, Francisco Goya và các họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha khác.
“Ý cô là bảo thủ và lỗi thời chứ gì?” Anh ta cười vui vẻ. “Tôi nghĩ cô nhầm tôi với cha tôi rồi. Mallo và Miró luôn là những nghệ sĩ tôi yêu thích.”
Ambra và Hoàng tử trò chuyện vài phút và nàng thấy ấn tượng với kiến thức nghệ thuật của anh ta. Cũng phải, anh chàng này lớn lên trong Hoàng cung Madrid, nơi sở hữu một trong những bộ sưu tập đẹp nhất Tây Ban Nha. Có thể anh ta có hẳn một tác phẩm El Greco bản gốc treo trong phòng trẻ của mình ấy chứ.
“Tôi nhận ra việc này có vẻ trơ tráo,” Hoàng tử nói, chìa cho nàng một tấm danh thiếp dập nổi màu vàng, “nhưng tôi sẽ rất thích cô cùng tôi dự một bữa dạ tiệc vào tối mai. Số trực tiếp của tôi trên thiếp. Chỉ cần cho tôi biết là được.”
“Ăn tối ư?” Ambra đùa. “Ngài thậm chí còn không biết tên tôi mà.”
“Ambra Vidal,” anh ta trả lời không chút do dự. “Cô ba mươi chín tuổi. Cô có bằng về lịch sử nghệ thuật của Đại học Salamanca. Cô là giám đốc Bảo tàng Guggenheim ở Bilbao của chúng ta. Gần đây, cô trình bày về vấn đề gây tranh cãi xung quanh Luis Quiles, người có tác phẩm nghệ thuật mà tôi phải thừa nhận rằng phản ánh rất sinh động những sự đáng sợ của cuộc sống hiện đại và có thể không thích hợp cho trẻ em, nhưng tôi không dám chắc mình có đồng ý với cô rằng tác phẩm của ông ấy giống với của Banksy hay không. Cô chưa từng kết hôn. Cô không có con. Và trông cô rất tuyệt vời khi mặc đồ đen.”
Quai hàm Ambra như rớt xuống. “Chúa ơi. Cách thức này có thật sự hiệu quả không nhỉ?”
“Tôi không dám có ý kiến,” anh ta mỉm cười nói. “Tôi đoán chúng ta sẽ tìm ra thôi.”
Như được ra hiệu, hai đặc vụ Cận vệ Hoàng gia xuất hiện và hộ tống Hoàng tử rời đi, tới nhập với một số khách VIP.
Ambra cầm chặt tấm danh thiếp trên tay và cảm thấy có gì đó mà nàng không hề cảm thấy trong nhiều năm. Bồn chồn. Một vị Hoàng tử vừa đề nghị mình hẹn hò sao?
Ambra từng là một thiếu nữ vụng về và những cậu trai từng mời cô hẹn hò luôn cảm thấy bọn họ có quan hệ bình đẳng với nàng. Nhưng sau này, khi sắc đẹp của nàng bừng nở, Ambra đột nhiên thấy đàn ông như bị lép vế trước sự hiện diện của nàng, lóng ngóng, ngượng nghịu và hoàn toàn cung kính một cách thái quá. Tuy nhiên, tối nay, một người đàn ông quyền thế đã mạnh bạo thẳng tiến tới chỗ nàng và nắm thế kiểm soát hoàn toàn. Điều đó khiến nàng cảm thấy mình thật nữ tính. Và trẻ trung.
Ngay tối hôm sau, một tài xế đón Ambra tại khách sạn của nàng và đưa nàng tới Hoàng cung, nơi nàng thấy mình ngồi cạnh Hoàng tử cùng với hai tá khách khứa nữa, nhiều người trong số đó nàng nhận ra qua các trang xã hội hoặc chính trị. Hoàng tử giới thiệu nàng là “người bạn mới đáng yêu” của chàng và khéo léo gợi ra một cuộc trò chuyện về nghệ thuật để Ambra có thể tham gia trọn vẹn. Nàng có cảm giác rằng mình đang được thử vai thế nào đó, nhưng kỳ lạ thay, nàng thật sự chẳng hề bận tâm. Nàng cảm thấy tự mãn.
Kết thúc buổi tối, Julián kéo nàng ra bên và thì thào. “Tôi hy vọng cô thấy vui. Tôi rất mong được gặp lại cô.” Chàng mỉm cười. “Tối thứ Năm thì sao nhỉ?”
“Cảm ơn anh,” Ambra trả lời, “nhưng tôi sợ rằng tôi sẽ bay về Bilbao vào buổi sáng.”
“Vậy thì tôi cũng sẽ bay,” chàng nói. “Cô đã bao giờ tới nhà hàng Etxanobe chưa?”
Ambra bật cười. Etxanobe là một trong những trải nghiệm ăn tối được mong đợi nhất ở Bilbao. Là một địa chỉ ưa thích của những người đam mê nghệ thuật trên khắp thế giới, nhà hàng tự hào với cách bài trí tiên phong và thực đơn đa dạng khiến cho thực khách có cảm giác như thể họ được ngồi trong một khung cảnh do Marc Chagall1 vẽ.
1Marc Chagall (1887-1985), nghệ sĩ Nga-Pháp gốc Do Thái, được xem là “nghệ sĩ Do Thái tinh túy của thế kỷ XX,” “người sống sót cuối cùng của thế hệ hiện đại chủ nghĩa đầu tiên của châu Âu”, “nghệ sĩ Do Thái xuất chúng trên thế giới”. Ông tạo ra các tác phẩm hầu như với tất cả vật liệu nghệ thuật, bao gồm các bức tranh minh họa sách, kính màu, sân khấu, gốm sứ, thảm và in mỹ nghệ. Ông là tác giả các ô cửa sổ kính màu của nhà thờ lớn Reims và Metz, ô cửa sổ mang tên Hòa bình tại trụ sở Liên Hợp Quốc, và các ô cửa sổ Trung tâm Y tế Hadassah (cơ sở Ein Karem) ở Jerusalem, Israel. Ông cũng vẽ các bức tranh quy mô lớn, bao gồm một phần trần Nhà hát Paris.
“Thế thì thật tuyệt,” nàng nghe thấy mình nói vậy.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

Tại Etxanobe, bên những đĩa cá ngừ nướng và măng tây nấm được trình bày rất kiểu cách, Julián khai màn về những thách thức chính trị mà chàng phải đối diện khi cố gắng thoát ra khỏi cái bóng người cha đau yếu của mình, và cả về áp lực cá nhân mà chàng cảm nhận được để duy trì huyết thống hoàng gia. Ambra nhận thấy ở chàng sự ngây thơ của một cậu bé sống trong bao bọc nhưng cũng thấy những phẩm chất của một nhà lãnh đạo với nhiệt tình bỏng cháy với đất nước mình. Nàng thấy đó là một sự kết hợp đầy quyến rũ.
Đêm đó, khi cận vệ của Julián hộ tống chàng trở lại máy bay riêng, Ambra biết mình đã si mê.
Mày chỉ mới biết anh ấy, nàng tự nhắc mình. Chậm lại.
Vài tháng tiếp theo dường như trôi qua rất nhanh khi Ambra và Julián gặp nhau liên tục - ăn tối tại cung điện, đi chơi tại khu điền trang của chàng, thậm chí tới cả một buổi trình chiếu phim. Quan hệ của họ rất tự nguyện và Ambra không nhớ đã từng hạnh phúc hơn chưa. Julián lạc hậu một cách đáng yêu, thường nắm tay nàng hoặc hôn trộm một cách lịch thiệp, nhưng không bao giờ vượt quá những ranh giới lệ thường và Ambra đánh giá cao phong thái lịch lãm của chàng.
Một buổi sáng nắng ráo, ba tuần trước, Ambra có mặt ở Madrid, nơi nàng có kế hoạch xuất hiện trong một phần của một chương trình truyền hình buổi sáng nói về các hoạt động trưng bày sắp tới của Guggenheim. Chương trình Telediario của RTVE được hàng triệu người trên cả nước theo dõi trực tiếp và Ambra hơi lo sợ việc làm truyền hình trực tiếp, nhưng nàng biết sự kiện này sẽ giúp bảo tàng được cả nước chú ý.
Buổi tối trước khi diễn ra chương trình, nàng và Julián gặp gỡ ăn tối bình thường tại Trattoria Malatesta và sau đó âm thầm đi qua Công viên Retiro. Nhìn những gia đình ra ngoài đi dạo và từng đám trẻ cười đùa, chạy nhảy xung quanh, Ambra cảm thấy vô cùng bình yên, phiêu lãng trong giây lát.
“Em có thích trẻ con không?” Julián hỏi.
“Em tôn thờ chúng ấy chứ,” nàng trả lời rất thành thực. “Thực tế, nhiều khi em cảm thấy như thể trẻ con là thứ duy nhất còn thiếu trong đời mình.”
Julián mỉm cười tươi rói. “Anh hiểu cảm giác đó.”
Vào thời điểm đó, cái cách chàng nhìn nàng có cảm giác gì đó rất khác và Ambra đột nhiên nhận ra tại sao Julián lại hỏi câu hỏi đó. Một nỗi sợ hãi bóp nghẹt lấy nàng, và một giọng nói trong đầu nàng như thét lên, Nói với anh ấy đi! HÃY NÓI VỚI ANH ẤY NGAY BÂY GIỜ!
Nàng cố gắng nói, nhưng nàng không thế nói lên lời.
“Em ổn chứ?” chàng hỏi, đầy vẻ lo lắng.
Ambra mỉm cười. “Chỉ là chương trình Telediario thôi mà. Em hơi lo lắng.”
“Hít thở đi. Em sẽ thấy rất ổn.”
Julián mỉm cười thật tươi với nàng và sau đó nghiêng tới trước và khẽ đặt một nụ hôn phớt rất nhanh lên môi nàng.
Sáng hôm sau, lúc bảy rưỡi, Ambra thấy mình trong một phòng quay truyền hình, tham gia vào một cuộc trò chuyện trực tiếp thoải mái đến ngạc nhiên cùng với ba người dẫn chương trình rất quyến rũ của Telediario. Nàng thể hiện sự nhiệt thành của mình với Guggenheim đến mức nàng gần như chẳng chú ý đến các máy quay truyền hình và khán giả tại phòng thu trực tiếp, hay nhớ rằng có đến năm triệu người đang theo dõi ở nhà.
“Gracias, Ambra, y muy interesante,” người dẫn chương trình nữ nói khi phân đoạn kết thúc. “Un gran placer conocerte.1”
1Cảm ơn cô, Ambra, thật thú vị. Rất hân hạnh được gặp cô.
Ambra gật đầu cảm ơn và đợi buổi phỏng vấn kết thúc.
Rất lạ, người dẫn chương trình nữ mỉm cười duyên dáng với nàng và tiếp tục phân đoạn bằng cách quay sang nói trực tiếp với khán giả theo dõi ở nhà.
“Sáng hôm nay,” cô ấy nói bằng tiếng Tây Ban Nha, “một vị khách vô cùng đặc biệt vừa bất ngờ ghé thăm trường quay Telediario, và chúng tôi xin được mời ông ấy ra đây.”
Cả ba người dẫn chương trình đứng lên, vỗ tay khi một người đàn ông cao ráo, lịch lãm sải bước lên sân khấu. Khi khán giả nhìn thấy anh ta, họ nhảy cẫng lên, reo hò cuồng nhiệt.
Ambra cũng đứng lên, sững sờ nhìn.
Julián?
Hoàng tử Julián vẫy tay với đám đông và nhã nhặn bắt tay cả ba người dẫn chương trình. Sau đó, chàng bước tới và đứng bên cạnh Ambra, choàng một cánh tay quanh nàng.
“Cha tôi luôn là một người lãng mạn,” chàng nói, bằng tiếng Tây Ban Nha và nhìn thẳng vào máy quay để nói với khán giả. “Khi mẹ tôi qua đời, ông chưa bao giờ hết yêu bà. Tôi thừa hưởng chất lãng mạn của ông, và tôi tin khi một người đàn ông tìm thấy tình yêu, anh ta biết điều đó ngay lập tức.” Chàng nhìn Ambra và mỉm cười trìu mến. “Và vì thế…” Julián lùi lại và đối diện với nàng.
Khi Ambra nhận ra những gì sắp diễn ra, nàng cảm thấy tê liệt vì không tin nổi. KHÔNG! Julián! Anh đang làm gì vậy?
Không hề báo trước, Thái tử của Tây Ban Nha đột nhiên quỳ xuống trước mặt nàng. “Ambra Vidal, anh đang ngỏ lời với em không phải với tư cách một Hoàng tử, mà đơn giản là một người đàn ông đang yêu.” Chàng ngước nhìn nàng với đôi mắt mơ màng và các máy quay đều xoay tới để bắt cận cảnh gương mặt chàng. “Anh yêu em. Em sẽ kết hôn với anh chứ?”
Khán giả và những người dẫn chương trình đều ngây ra vì thích thú, còn Ambra có thể cảm nhận được cả triệu đôi mắt trên khắp cả nước đang chăm chú tập trung vào nàng. Máu dồn lên mặt nàng và những ngọn đèn đột nhiên có cảm giác nóng rãy trên da thịt nàng. Tim nàng bắt đầu đập loạn lên khi nàng trân trối nhìn xuống Julián, cả nghìn ý nghĩ vùn vụt qua đầu nàng.
Sao anh có thể để em vào tình thế này chứ?! Chúng ta chỉ mới gặp nhau gần đây! Có những điều em chưa kịp nói với anh về bản thân mình… những điều có thể thay đổi mọi chuyện!
Ambra không biết nàng đã đứng trong sự hoảng loạn câm lặng bao lâu, nhưng cuối cùng một người dẫn chương trình cười gượng và nói, “Tôi tin cô Vidal đang bất ngờ! Cô Vidal? Một Hoàng tử điển trai đang quỳ trước mặt cô và bày tỏ tình yêu của ngài trước toàn thế giới!”
Ambra cố lục trí nhớ tìm một cách nào đó để thoát ra thật thanh nhã. Tất cả những gì nàng nghe thấy là sự im lặng và nàng biết mình đã bị mắc bẫy. Chỉ có một cách duy nhất để có thể chấm dứt cái khoảnh khắc công khai này. “Tôi ngập ngừng bởi vì tôi không thể tin nổi câu chuyện thần tiên này kết thúc có hậu.” Nàng thả lỏng vai và mỉm cười trìu mến, nhìn xuống Julián. “Dĩ nhiên em sẽ lấy anh, Hoàng tử Julián.”
Cả trường quay vỡ òa trong tiếng hoan hô cuồng nhiệt.
Julián đứng lên và ôm Ambra trong tay mình. Khi họ ôm nhau, nàng nhận ra rằng trước thời khắc này, họ chưa từng ôm nhau lâu.
Mười phút sau, hai người ngồi ở ghế sau chiếc limousine của chàng.
“Anh có thể thấy anh đã làm em hoảng hốt,” Julián nói. “Anh xin lỗi. Anh chỉ cố tỏ ra lãng mạn. Anh có những cảm xúc rất mạnh với em, và…”
“Julián,” Ambra ngắt lời một cách dứt khoát, “em cũng có những cảm xúc mạnh với anh, nhưng anh đặt em vào một tình huống bất khả kháng ở đó! Em chưa bao giờ hình dung anh sẽ ngỏ lời nhanh vậy! Anh và em chỉ mới biết nhau. Có quá nhiều điều em cần nói với anh - những điều quan trọng về quá khứ của em.”
“Chẳng có chuyện gì trong quá khứ của em đáng kể cả.”
“Chuyện này thì rất có thể. Rất nhiều.”
Chàng mỉm cười và lắc đầu. “Anh yêu em. Sẽ chẳng vấn đề gì. Em cứ thử xem.”
Ambra chăm chú nhìn người đàn ông trước mặt nàng. Được thôi. Đây chắc chắn không phải là cách nàng muốn cuộc trò chuyện này diễn ra, nhưng chàng không cho nàng lựa chọn nào khác. “Chà, thế này đây, Julián. Khi em còn là một cô bé, em bị nhiễm một bệnh nặng khiến em suýt chết.”
“Được rồi.”
Khi Ambra nói, nàng cảm nhận được một sự trống rỗng trào dâng trong mình.
“Và kết quả là ước mơ có con của cuộc đời em… chậc, nó chỉ có thể là một ước mơ.”
“Anh không hiểu.”
“Julián,” nàng nói thẳng thừng. “Em không thể có con. Vấn đề sức khỏe lúc nhỏ của em khiến em thành vô sinh. Em luôn muốn có con, nhưng em không thể có con. Em rất tiếc. Em biết điều đó quan trọng với anh thế nào, nhưng anh vừa ngỏ lời với một người phụ nữ không thể sinh người nối dõi cho anh.”
Julián tái nhợt.
Ambra nhìn thẳng vào mắt chàng, muốn chàng lên tiếng. Julián, đây là lúc anh ôm chặt lấy em và nói với em rằng mọi thứ đều ổn. Đây là lúc anh nói với em rằng chuyện đó không sao, và rằng anh vẫn yêu em. Và rồi điều đó xảy ra.
Julián quay đi khỏi cô.
Vào cái thời khắc đó, Ambra biết nó đã kết thúc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Nguồn Cội - Dan Brown

Postby bevanng » 06 Jan 2019

CHƯƠNG 45


Bộ phận an ninh điện tử của lực lượng Cận vệ đặt trong một khu phòng không có cửa sổ dưới tầng hầm Hoàng cung. Chủ đích tách biệt khỏi doanh trại và kho vũ khí của lực lượng Cận vệ tại cung điện, trụ sở chính của bộ phận gồm một tá buồng máy tính, một tổng đài điện thoại và một bức tường màn hình an ninh. Nhân sự tám người - tất cả đều dưới tuổi ba mươi lăm - chịu trách nhiệm cung cấp các mạng liên lạc an toàn cho nhân viên của Hoàng cung và Cận vệ Hoàng gia, cũng như xử lý việc hỗ trợ giám sát điện tử cho cung điện.
Tối nay, như mọi khi, khu phòng ở tầng hầm rất ngột ngạt, nồng nặc mùi mì và bỏng ngô bỏ lò vi sóng. Các bóng đèn huỳnh quang kêu o o rất to.
Đây là nơi mình đề nghị họ đặt văn phòng của mình, Martin nghĩ. Mặc dù “điều phối viên quan hệ công chúng” về mặt kỹ thuật không phải là một vị trí Cận vệ, nhưng công việc của Martin đòi hỏi tiếp cận với những máy tính cực mạnh và một đội ngũ nhân viên giỏi công nghệ; do đó, bộ phận an ninh điện tử dường như với cô là ngôi nhà hợp lý hơn nhiều so với một văn phòng trang bị không đầy đủ trên gác.
Tối nay, Martin nghĩ, mình sẽ cần mọi thứ công nghệ có sẵn.
Suốt mấy tháng qua, trọng tâm cơ bản của cô là giúp hoàng cung duy trì truyền thông trong quá trình chuyển giao dần dần quyền lực cho Hoàng tử Julián. Không hề dễ dàng. Thời kỳ chuyển giao giữa các nhà lãnh đạo là cơ hội cho những người phản đối lên tiếng chống chế độ quân chủ.
Theo hiến pháp Tây Ban Nha, chế độ quân chủ là “một biểu tượng cho sự đoàn kết và trường tồn bền vững của Tây Ban Nha.” Nhưng Martin biết chẳng có gì đoàn kết với Tây Ban Nha vào thời điểm này. Năm 1931, nền Đệ nhị Cộng hòa đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ và sau đó cuộc cách mạng của Tướng Franco năm 1936 đã đẩy đất nước vào nội chiến.
Giờ đây, mặc dù nhà nước quân chủ tái lập được coi là một nền dân chủ tự do, nhưng nhiều người tự do vẫn tiếp tục lên án nhà vua như một tàn tích lỗi thời của một quá khứ quân sự - tôn giáo áp bức, cũng như là một sự gợi nhớ mỗi ngày rằng Tây Ban Nha vẫn đi riêng một đường trước khi có thể gia nhập trọn vẹn với thế giới hiện đại.
Việc duy trì truyền thông của Mónica Martin trong tháng này bao gồm cả những mô tả thường lệ về Đức vua như là một biểu tượng đáng kính không nắm giữ quyền lực thực sự. Dĩ nhiên, đó là một sự lừa gạt đáng kể khi mà Đức vua vẫn là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang cũng như nguyên thủ quốc gia.
Nguyên thủ, Martin suy ngẫm, trong một đất nước nơi sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước luôn gây tranh cãi. Quan hệ gần gũi của Đức vua già yếu với Giám mục Valdespino là một cái gai với những người theo chủ nghĩa thế tục và tự do suốt nhiều năm.
Và rồi lại còn Hoàng tử Julián, cô nghĩ.
Martin biết công việc của cô có được là nhờ Hoàng tử, nhưng chắc chắn gần đây ông ấy đang làm cho công việc đó khó khăn hơn. Vài tuần trước, Hoàng tử phạm phải một sai lầm tệ hại nhất trong quan hệ truyền thông mà Martin từng chúng kiến.
Trên truyền hình quốc gia, Hoàng tử Julián đã quỳ gối và có màn cầu hôn ngớ ngẩn dành cho Ambra Vidal. Cái khoảnh khắc khó chịu ấy không thể mất mặt hơn được nữa trừ phi Ambra khước từ kết hôn với ông ấy, điều mà, may thay, cô ấy đã tỉnh táo không làm.
Rủi thay, sau đó, Ambra Vidal thể hiện cô ấy là một người không dễ bảo như Julián dự liệu, và hậu quả của cách hành xử ngoài giáo trình của cô ấy trong tháng này trở thành một trong những mối lo về quan hệ công chúng rất cơ bản với Martin.
Tuy nhiên, tối nay, những hớ hênh của Ambra dường như đều được bỏ quên. Cao trào hoạt động của giới truyền thông sau những sự kiện ở Bilbao đã dâng lên đến một tầm vóc chưa từng có. Một tiếng qua, sự gia tăng nhanh chóng các thuyết âm mưu đã cuốn cả thế giới vào cơn bão, kể cả một vài giả thuyết mới liên quan đến Giám mục Valdespino.
Diễn biến quan trọng nhất là về kẻ ám sát ở Guggenheim, đối tượng được cho vào sự kiện của Kirsch “theo lệnh của ai đó trong Hoàng cung.” Mẩu tin tức nguy hại này làm bung ra cả một cơn đại hồng thủy các thuyết âm mưu buộc tội Đức vua đang nằm liệt giường và Giám mục Valdespino là chủ mưu vụ giết hại Edmond Kirsch - một thần tượng thực sự trong thế giới số và một người hùng Mỹ được yêu quý đã lựa chọn sống tại Tây Ban Nha.
Việc này sẽ hủy hoại Valdespino, Martin nghĩ.
“Tất cả mọi người, nghe đây!” lúc này Garza hét to khi ông ấy sải bước vào phòng điều khiển. “Hoàng tử Julián và Giám mục Valdespino đang cùng ở đâu đó trong cung! Hãy kiểm tra mọi dữ liệu an ninh và tìm họ. Ngay bây giờ!”
Vị tư lệnh lẻn vào văn phòng của Martin và khẽ khàng cập nhật cho cô biết tình hình của Hoàng tử và vị giám mục.
“Biến mất sao?” cô nói, đầy hoài nghi. “Và họ vứt lại điện thoại trong két của Hoàng tử?”
Garza nhún vai. “Rõ ràng chúng ta không thể theo dấu họ.”
“Ái chà, tốt hơn cả chúng ta nên tìm họ,” Martin nói. “Hoàng tử Julián cần đưa ra một tuyên bố ngay bây giờ và ông ấy cần tránh khỏi Valdespino càng xa càng tốt.” Cô thuật lại toàn bộ những diễn biến mới nhất.
Giờ đến lượt Garza trông đầy vẻ hoài nghi. “Tất cả chỉ là tin đồn. Làm gì có chuyện Valdespino có thể đứng sau một vụ ám sát.”
“Có thể không, nhưng vụ giết người dường như đã được buộc cho Giáo hội Công giáo. Ai đó vừa tìm ra mối liên hệ trực tiếp giữa kẻ nổ súng và một chức sắc nhà thờ có địa vị cao. Xin hãy xem.” Martin kéo màn hình tới bản tin cập nhật mới nhất của ConspiracyNet, trong đó vẫn ghi nguồn người tiết lộ tin là monte@iglesia.org. “Tin này lên mạng vài phút trước.”
Garza khom người xuống và bắt đầu đọc bản tin cập nhật. “Giáo hoàng!” ông ấy phản ứng. “Ávila có liên hệ riêng với…”
“Ngài cứ đọc đi.”
Khi Garza đọc xong, ông ấy bước lùi khỏi màn hình và liên tục hấp háy mắt, như thể đang cố đánh thức chính mình ra khỏi một cơn ác mộng.
Lúc đó, một giọng nam gọi tới từ phòng điều khiển. “Tư lệnh Garza? Tôi vừa định vị được họ!”
Garza và Martin vội vã tới buồng của Đặc vụ Suresh Bhalla, một chuyên gia giám sát gốc Ấn đang chỉ tay vào dữ liệu an ninh trên màn hình của mình, trên đó nhìn rõ hai hình người - một trong áo choàng giám mục mềm rủ còn người kia mặc bộ đồ rất trịnh trọng. Họ có vẻ đang đi trên một lối đi có nhiều cây cối.
“Đông viên,” Suresh nói. “Hai phút trước.”
“Họ vừa ra khỏi tòa nhà à?!” Garza hỏi.
“Khoan đã, thưa ngài.” Suresh tua nhanh đoạn phim, cố gắng theo sát giám mục và Hoàng tử trên các máy quay khác nhau bố trí cách đều trong khắp quần thể cung điện trong khi hai người đàn ông rời khỏi khu vườn và di chuyển qua một khoảnh sân bao kín.
“Họ đang đi đâu thế nhỉ?!”
Martin biết rõ họ đang đi đâu, và cô nhận thấy rằng Valdespino đã chọn một lộ trình vòng quanh rất gian xảo để giúp họ tránh khỏi tầm nhìn của các xe truyền thông trên quảng trường chính.
Đúng như cô dự đoán, Valdespino và Julián đến lối vào hành lễ phía nam của Nhà thờ lớn Almudena, nơi giám mục mở khóa cửa và dẫn Hoàng tử Julián vào trong. Cánh cửa khép lại và hai người đàn ông biến mất.
Garza im lặng đăm đăm nhìn màn hình, rõ ràng đang cố hiểu những gì mình vừa nhìn thấy.
“Báo cáo đầy đủ cho tôi nhé,” cuối cùng ông ấy nói và làm hiệu cho Martin ra ngoài.
Khi họ đã ra khỏi tầm nghe, Garza thì thào, “Tôi không rõ làm cách nào Giám mục Valdespino thuyết phục được Hoàng tử Julián theo ông ta xuất cung, hay vứt lại điện thoại, nhưng rõ ràng Hoàng tử không hề biết những cáo buộc đối với Valdespino, nếu không ông ấy đã biết tự tránh xa.”
“Tôi đồng ý,” Martin nói. “Và tôi không thích suy luận xem nước cờ cuối của giám mục có thể là gì, nhưng…” Cô ấy ngừng lại.
“Nhưng sao?” Garza hỏi gặng.
Martin thở dài. “Có vẻ Valdespino vừa nắm được một con tin cực kỳ giá trị.”

Khoảng hai trăm năm mươi dặm về phía nam, bên trong tiền sảnh Bảo tàng Guggenheim, điện thoại của Đặc vụ Fonseca bắt đầu kêu. Đây là lần thứ sáu trong vòng hai mươi phút. Khi liếc nhìn thông tin người gọi, anh ta cảm thấy cả cơ thể mình phải tập trung. “¿Sí?” anh ta nghe máy, tim đập rộn.
Giọng trên điện thoại nói bằng tiếng Tây Ban Nha, chậm rãi và thận trọng. “Đặc vụ Fonseca, như anh đã biết, hoàng hậu tương lai của Tây Ban Nha vừa có vài sơ suất đáng ngại trong buổi tối nay, tự có quan hệ nhầm với một số đối tượng và gây khó xử rất lớn cho Hoàng gia. Để không có thêm tổn hại nào nữa, rất cần các anh đưa cô ấy trở về cung càng nhanh càng tốt.”
“Tôi e rằng không thể biết vị trí của cô Vidal lúc này.”
“Cách đây bốn mươi phút, máy bay của Edmond Kirsch đã cất cánh từ Sân bay Bilbao Airport - bay đi Barcelona” giọng nói khẳng định. “Tôi tin cô Vidal ở trên chiếc máy bay đó.”
“Làm sao ngài biết vậy?” Fonseca buột miệng, sau đó lập tức thấy hối hận với giọng điệu xấc xược của mình.
“Nếu anh đang làm nhiệm vụ của mình,” giọng nói trả lời sắc lạnh, “anh cũng sẽ biết. Tôi muốn anh và cộng sự của mình theo cô ấy ngay lập tức. Một phương tiện di chuyển quân sự đang tiếp liệu tại Sân bay Bilbao cho các anh ngay lúc này.”
“Nếu cô Vidal trên chiếc máy bay đó,” Fonseca nói, “thì có lẽ cô ấy đang đi cùng giáo sư người Mỹ Robert Langdon.”
“Đúng,” người gọi nói đầy giận dữ. “Tôi không rõ làm cách nào gã này thuyết phục được cô Vidal rời bỏ an ninh và trốn cùng hắn, nhưng Langdon rõ ràng là một nguy cơ. Nhiệm vụ của các anh là tìm ra cô Vidal và đưa cô ấy về, bằng vũ lực nếu cần.”
“Và nếu Langdon can thiệp?”
Một khoảng im lặng bao trùm. “Cố gắng hết sức hạn chế thiệt hại thêm,” người gọi trả lời, “nhưng cuộc khủng hoảng này đủ nghiêm trọng để Giáo sư Langdon là tổn thất chấp nhận được.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 66 guests