by bevanng » 03 Sep 2018
BỬA ĂN TRƯA DO TRƯỜNG CẤP
“Chiến lựợc lúa mỳ” đầy mưu trí của Mỹ có ảnh hưởng đến văn hóa ăn uống của người Nhật sau chiến tranh, đó là lý do vì sao có sự cung cấp miễn phí lúa mỳ và bột sữa gầy để làm bữa ăn trưa ở trường. Ngày nay, có nhiều trường học của Nhật phục vụ bữa ăn trưa bằng cơm nhưng vào thời gian đó, koppan pan (bánh mỳ được làm ở Nhật) là biểu tượng của bữa ăn trưa do trường cấp. Bột sữa gầy ban đầu được một tổ chức từ thiện của Mỹ cung cấp dưới hình thức hàng viện trợ, điều này được tán dương vì là kết quả của sự viện trợ, hơn 14 triệu trẻ em khắp cả nước nhận được lợi ích và tránh đói.
Chương trình viện trợ lương thực kết thúc sau khi Nhật giành được độc lập vào năm 1951 tại thời điểm ký kết hiệp ước hòa bình ở San Francisco. Tuy nhiên, Mỹ đã đưa vào hiệp ước hòa bình một điều khoản về “cung cấp miễn phí bữa ăn ở trường” nhằm xây dựng phong cách sống ăn uống thực phẩm làm từ sữa và lúa mỳ.
Vào thời gian đó, chương trình cấp bữa ăn trưa ở trường đang đối mặt với sự khủng hoảng, nhưng nhờ vào món quà công khai này, chương trình tiếp tục diễn ra. Thực đơn từ bánh mỳ, sữa bắt đầu trở thành phần chính của người Nhật.
Do đó, thói quen nhập khẩu nông sản từ Mỹ được hình thành. Đồng thời, tiêu thụ gạo là thành phần chính trong bữa ăn truyền thống của người Nhật bắt đầu giảm xuống đến mức đã ban hành chính sách giảm diện tích trồng lúa. Tôi nói sự kiện này là sự hủy hoại văn hóa ăn uống truyền thống của Nhật.
Cùng với sự thay đổi hoàn toàn về văn hóa ăn uống, người Nhật trở thành người tham gia không có ý thức vào những cuộc thí nghiệm lớn nhất về dinh dưỡng và sức khỏe trong lịch sử của nhân loại. Kết quả của cuộc thí nghiệm về sức khỏe của người Nhật là gì?
Sự thật rằng người Nhật trở nên cao lớn hơn nhờ tiêu thụ sữa và thức ăn làm từ sữa giàu can-xi. Chiều cao trung bình của ngưởi Nhật ngày nay so với thời điểm mà tôi được sinh ra (1935) trung bình gần 4 inch, bây giờ thanh niên Nhật có thân hình khác với thế hệ của tôi. Tuy nhiên, với thân hình đẹp hơn là một điều và khỏe mạnh, không bệnh tật, cùng với thể chất tốt, tràn đầy sinh lực lại là một lẽ khác.
Như đã đề cập trong chương 2, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh do bệnh truyền nhiễm đã giảm xuống nhanh chóng, do đó tuổi thọ trung bình ở Nhật được xếp hạng đứng đầu thế giới. Nhưng đồng thời có 600,000 bệnh nhân ung thư, 16 triệu người bị bệnh tiểu đường bao gồm bệnh tiền tiểu đường, 46 triệu người bị bệnh dị ứng, 31 triệu người bị bệnh cao huyết áp, và con số tiếp tục tăng lên. Số người bị ung thư kết trực tràng, ung thư tử cung, ung thư *, ung thư tuyến tiền liệt, v.v... ngày càng tăng lên, tất cả những bệnh ung thư này hiếm khi xảy ra ở người Nhật vào thời điểm trước chiến tranh.
Ở Nhật, những người ở độ tuổi của tôi lớn lên mà không uống sữa, có thể bạn cho rằng số người này bị loãng xương nhiều hơn so vứi số người ở bốn nước tiêu thụ sữa lớn nhất: Mỹ, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan nhưng điều đó không đúng. Có lẽ bạn đã biết, bệnh loãng xương là xương yếu do thiếu can-xi, nếu không được chữa trị sẽ dẫn đến nguy cơ gãy xương và được đề nghị uống sữa để phòng chống bệnh này.
Lượng can-xi mà người Nhật uống hằng ngày khoảng 550mg, so với năm 1950 gấp hai lần. Lượng canxi uống vào tăng gấp đôi trong 60 năm, nhưng số người Nhật bị bệnh loãng xương ngày càng tăng lên. Người thời xưa không uống sữa nhưng họ cứng cáp hơn người thời nay, họ thật sự là “những người có xương sống”. Có người nói rằng “Vào thời gian đó, tuổi thọ trung bình ngắn nên ít người bị bệnh loãng xương”. Tuy nhiên, số trẻ em bị gãy xương do té nhẹ cũng ngày càng tăng lên.
Can-xi có nhiều chức năng ngoài tạo xương và răng. Một lượng nhỏ can-xi tìm thấy trong máu và tế bào góp phần làm bình thường hóa các chức năng của cơ thể như cơ, dây thần kinh. Do đó, khi cơ thể thiếu can-xi, thường dễ bị kích thích, tinh thần không ổn định. Tôi sẽ bàn vấn đề này sau nhưng đây là một yếu tố kết hợp với sự dung nạp lượng đường tinh luyện dư thừa góp phần gây ra trạng thái dễ bị kích thích, thiếu kiểm soát cảm xúc. Vấn đề do thiếu can-xi gây ra có mối quan hệ khắn khít với chất lượng của bữa ăn hằng ngày. Để tạo ra sự thay đổi cơ bản, điều khẩn thiết là phải có chế độ ăn uống không phụ thuộc vào thực phẩm có nguồn gốc từ động vật và phù hợp với quy luật tự nhiên như được diễn giải trong chương trình Shinya Biozyme. Một người không thể mong đợi một sự thay đổi lớn chỉ bằng cách đơn giản là đề nghị một chế độ ăn kiêng.
Tôi đã viết rất nhiều trong cuốn sách bằng tiếng Nhật và trong cuốn The Enzyme Factor về vấn đề sữa và sản phẩm làm từ sữa. Sữa bán trong cửa hàng chứa đầy chất oxi hóa. Trước khi được vào quy trình chế biến, sữa chứa rất nhiều thành phần tốt. Ví dụ: nó chứa nhiều loại enzyme, những loại này phân giải lactose, lipase phân giải chất béo và một loại enzyme có trong tế bào động vật để phân giải protein. Sữa ở tình trạng tự nhiên cũng chứa lactoferrin, nó được biết là chất chống oxi hóa, chống viêm, chống lây truyền và tác dụng miễn dịch.
Tuy nhiên, sữa bán trong các cửa hàng đã bị mất tất cả những đặc tính tốt trên thông qua quá trình chế biến sản xuất. Quy trình chế biến sữa theo những công đoạn sau đây.
Đầu tiên, một máy hút sữa được kẹp vào núm * con bò để vắt sữa ra, tạm thời đựng trong các thùng chứa, sữa tươi được tập hợp trong các nông trại, sau đó được chuyển sang thùng chứa lớn hơn, nơi đó được làm đồng nhất. Thực tế việc làm đồng nhất là đồng nhất chất béo được tìm thấy trong sữa tươi.
Sữa tươi chứa khoảng 4% chất béo nhưng hầu hết chất béo bao gồm những hạt phân tử tồn tại như những giọt nhỏ. Vì lượng chất béo rất nhỏ đó dễ dàng nổi lên trên bề mặt nếu sữa tươi để ở dạng nguyên chất, chất béo đó trở thành một lớp kem nổi trên bề mặt. Khi còn bé, tôi đã uống một hoặc hai hộp sữa, tôi còn nhớ đã thấy một lượng kem trắng dưới nắp chai. Khi sữa không được đồng nhất, một lượng nhỏ chất béo sẽ nổi trên bề mặt trong suốt quá trình vận chuyển.
Bây giờ một máy được gọi là máy làm đồng nhất được sử dụng và một lượng nhỏ chất béo bị phá vỡ thành mảnh nhỏ. Sản phẩm cuối cùng của quá trình này là sữa được đồng nhất. Tuy nhiên, khi quá trình đồng nhất xảy ra, chất béo được tìm thấy trong sữa tươi gắn chặt với oxy thay đổi thành chất béo bị hydro hóa, chất béo trong quá trình đồng nhất sữa không tốt cho cơ thể.
Nhưng quá trình sản xuất sữa chưa dừng lại ở đó, trước khi đưa ra thị trường, sữa đồng nhất phải được diệt khuẩn bằng nhiệt độ để ngăn chặn sự nhân giống của những vi khuẩn khác nhau. Có bốn cách cơ bản để tiệt trùng sữa.
1. Tiệt trùng giữ ở nhiệt độ thấp (LTLT = low temperature long time). Diệt khuẩn ở nhiệt độ 144-149°F trong 30 phút. Đây là phương pháp tiệt trùng ở nhiệt độ thấp nói chung.
2. Tiệt trùng ở nhiệt độ cao (HTLT = high temperature long time). Tiệt trùng ở nhiệt độ trên 167°F hơn 15 phút.
3. Tiệt trùng ở nhiệt cao trong thời gian ngắn (HTST). Tại nhiệt độ 161,6°F khoảng 15 giây. Phương pháp tiệt trùng này được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới.
4. Tiệt trùng ở nhiệt cực cao trong thời gian ngắn (UHT). Tại nhiệt độ 248-266°F trong 2 giây (hay tại 302°F trong 1 giây).
Hầu hết phương pháp được sử dụng rộng rãi trên thế giới là tiệt trùng ở nhiệt độ cao trong thời gian ngắn và nhiệt độ cực cao trong thời gian ngắn. Tôi sẽ lặp lại điều này, enzyme rất nhạy cảm bởi nhiệt độ. Chúng bắt đầu phá hủy ở nhiệt độ 118,4°F và chúng hoàn toàn bị phá hủy ở nhiệt độ 239°F. Do đó, sự không lưu tâm về lượng thời gian, khi nhiệt độ đạt đến 266°F, enzyme sẽ hoàn toàn mất đi.
Hơn nữa, số lượng chất béo bị oxi hóa gia tăng nhiều hơn khi ở nhiệt độ cực cao và nhiệt độ thay đổi chất lượng protein trong sữa. Như lòng đỏ trứng gà khi nấu lâu sẽ dễ dàng vỡ ra thành mảnh nhỏ cũng giống như sự thay đổi xuất hiện với protein trong sữa, lactoferrin rất nhạy với nhiệt cũng bị mất.
Bởi vì nó đã bị đồng nhất và tiệt trùng nên sữa bán trong các siêu thị trên thế giới không tốt cho sức khỏe bạn.
Sữa bò trước tiên dành cho con bò. Chất dinh dưỡng được tìm thấy trong sữa bò phù hợp cho sự phát triển của con bò, điều đó cần thiết cho sự phát triển của con bò, không cần thiết cho sự phát triển của con người.
Hơn nữa, trong thế giới tự nhiên, chỉ có con vật uống sữa khi mới sinh ra, không có con vật nào uống sữa khi trưỏng thành, đó là cách tự nhiên làm việc. Chỉ có con người cố tình lấy sữa của loài vật khác đem oxi hóa rồi uống. Điều đó là chống lại quy luật tự nhiên.
Ở Nhật và Mỹ, trẻ em được khuyến khích uống sữa vào bữa ăn trưa, vì họ nghĩ rằng sữa giàu chất dinh dưỡng và tốt cho sự phát triển của trẻ. Tuy nhiên, nếu ai nghĩ sữa bò và sữa mẹ giống nhau là hoàn toàn sai lầm. Các chất dinh dưỡng được tìm thấy trong sữa bò và sữa mẹ giống nhau như protein, chất béo, lactose, sắt, canxi, phốt pho, natri, kali và vitamin được tìm thấy trong cả hai. Tuy nhiên, chất lượng và số lượng của những chất dinh dưỡng này là hoàn toàn khác nhau.
Thành phần chính protein được tìm thấy trong sữa bò được gọi là “caseine”. Tôi đã đề cập trước đó là protein này rất khó tiêu hóa trong hệ thống đường ruột con người. Hơn nữa, trong sữa bò cũng chứa chất chống oxi hóa lactoferrin giúp cải thiện chức năng hệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, số lượng lactoferrin được tìm thấy trong sữa mẹ là 0,15% trong khi sữa bò chỉ 0,01%.
Mỗi đứa trẻ mới sinh khác nhau yêu cầu số lượng và tỷ lệ chất dinh dưỡng cũng khác nhau. Đối với người trưởng thành thì sao?
Cung cấp lactoferrin là một ví dụ. Lactoferrin trong sữa bò phân hủy trong axit dạ dày, vì vậy kể cả nếu bạn uống sữa chưa bị xử lý bởi nhiệt độ, lactoferrin cũng sẽ bị phá hủy trong dạ dày. Điều này cũng giống như lactoferrin được tìm thấy trong sữa mẹ. Một đứa trẻ mới sinh có thể hấp thụ được lactoferrin từ sữa mẹ vì dạ dày của chúng chưa hoàn toàn phát triển và chỉ có rất ít axit được bài tiết trong dạ dày, lactoferrin không bị phá hủy. Nói cách khác, sữa mẹ không dành cho người lớn tuổi.
Một vấn đề khác là mọi người có cùng chung một đặc điểm là không đủ enzyme lactase để phân hủy lactose. Hầu hết mọi người có đủ lượng enzyme này khi còn là một đứa bé ẵm trên tay, nhưng càng lớn sẽ càng giảm. Khi những người này uống sữa, họ kinh nghiệm được triệu chứng tiêu chảy, đó là kết quả của cơ thể không có khả năng tiêu hóa lactose. Những người hoàn toàn thiếu lactase hoặc có ít enzyme thì được xem là không chịu được lactose. Một ít người hoàn toàn không hấp thu lactose, nhưng 90% người châu Á, 75% Hispanics, American Indians, African American, 60% người Mediterranean và 15% người Bắc Âu thiếu lượng enzyme này.
Lactose là một dạng đường chỉ tồn tại trong sữa của loài động vật có *. Sữa chỉ cho đứa trẻ mới sinh, mặc dầu nhiều người trưởng thành thiếu lactase khi họ mới sinh, tất cả những đứa trẻ khỏe mạnh có đủ cho nhu cầu của chúng. Hơn nữa, số lượng lactose trong sữa mẹ là khoảng 7% với sữa bò là 4,5%.
Khi mọi người còn là một đứa trẻ, được bú sữa mẹ giàu lactose, nhưng mất dần enzyme khi họ trưởng thành, tôi tin rằng theo quy luật tự nhiên thì sữa không phải là thứ cho người trưởng thành nên uống.
Nếu đơn giản chỉ vì bạn thích uống sữa, tôi mạnh mẽ đề nghị bạn nên giới hạn hay chỉ uống sữa mà chưa bị đồng nhất và tiệt trùng ở nhiệt độ thấp. Trẻ em và người lớn, nếu ai không thích uống sữa thì đừng nên uống.
“Uống sữa đơn giản là không làm cho cơ thể bạn tốt lên”.
Đối với người Nhật và những người ở nước khác không quen dùng sữa. Ngoài bệnh không dung nạp đường sữa, tôi đã quan sát thấy số bệnh nhân bị vấn đề với đại tràng khó chữa trị như viêm loét đại tràng hay bệnh Crohn, v.v... từ 30 - 40 tuổi ngày càng tăng lên. Những bệnh nan y này có liên quan đến tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc từ động vật như sữa, sản phẩm làm từ sữa, thịt. Sở dĩ có sự nghiên cứu này vì đã có nhiều trường hợp cải thiện triệu chứng sau khi bệnh nhân thay đổi chế độ ăn uống của họ bằng cách giới hạn tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, chuyển sang chế độ ăn uống bao gồm ngũ cốc nguyên chất, rau củ quả.
Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp những người bị bệnh dị ứng như hội chứng khó chịu đường ruột, táo bón mãn tính, phân có mùi thối, viêm da dị ứng, v.v.. làm theo hướng dẫn thay đổi chế độ ăn uống từ thực phẩm có nguồn gốc từ động vật sang chế độ ăn uống hầu như là thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật, thì cho thấy dường ruột của họ dần dần được cải thiện cùng với các triệu chứng cũng được cải thiện mà không dùng thuốc.
Bò là loài ăn cỏ trên đồng. Nhưng trong trang trại nhà máy, chúng được cho ăn bằng thức ăn cô đặc, bao gồm ngũ cấc, đậu không phải là thức ăn chính của chúng. Để tạo ra nhiều sữa, chúng được giữ trong trang trại nuôi bò và không được hoạt động hợp lý. Trong một số trường hợp, chúng được cho ăn bằng thức ăn có nguồn gốc từ động vật như bột cá hay bột sữa gầy. Cho nên, nó giống như cung cấp thức ăn nhiều calo, protein cho đứa trẻ ở nhà. Nếu bạn đặt bản thân mình vào vị trí của chúng, bạn sẽ nghĩ mình bị bệnh nếu sống như vậy. Thực tế, số lượng bò sữa mắc nhiều bệnh khác nhau như bệnh gan nhiễm mỡ, bệnh hậu sản, bệnh viêm *, bệnh rối loạn sinh sản, v.v... đã tăng lên trong 10 - 15 năm qua. Cụ thể, bệnh dạ muối khế lệch chỗ là bệnh chỉ có ở bò sữa cũng đang tăng lên.
Có lẽ nhiều người biết rằng bò tiêu hóa bằng cách nhai lại. Có tất cả bốn dạ dày. Ba dạ dày đầu tiên được xem đã phát triển từ thực quản. Dạ dày đầu tiên là dạ dày lớn nhất thực hiện chức năng phân giải từ từ cỏ khó tiêu hóa, được hỗ trợ bởi những vi sinh vật bản địa và chất lên men. Những chất lên men được tiêu hóa trong bốn dạ dày tiết ra dịch vị, sau đó được chuyển đến đường ruột. Bệnh dạ muối khế lệch chỗ còn gọi là hội chứng chướng khí trong bốn dạ dày do thức ăn cô đặc dư thừa khó tiêu ở dạ dày đầu tiên. Nhiều con bò sữa mất cảm giác thèm ăn và bỏ ăn. Lượng sữa giảm, con vật mắc nhiều loại bệnh khác nhau. Thường giải phẫu được thực hiện ở giai đoạn đầu tiên để đưa bốn dạ dày bị lệch về đúng vị trí của chúng.
Ngoài ra, bò sữa được thụ tinh nhân tạo sau khi chúng sinh chỉ 60 ngày, trong khi chúng vẫn còn tạo ra sữa mẹ.
Hiện tại, nhờ sự tiến bộ trong việc kiểm soát súc vật nuôi, 99% bò bao gồm bò thịt phải trải qua quá trình thụ tinh nhân tạo, mang thai sinh con. Thụ tinh nhân tạo là quá trình bình thường được diễn ra theo ý định của nqười nuôi bò lấy sữa, nhưng tôi cảm thấy rằng chúng ta đang thắc mắc liệu điều này có được thực tiễn chấp nhận hay không.
Sở dĩ tôi lo lắng về vấn đề này vì bò mang thai bị vắt sữa. Chúng ta đã biết rằng sữa từ bò mang thai (sữa thông thường để tiêu thụ) chứa một lượng lớn hoóc môn sinh dục.
Vấn đề về hoóc môn sinh dục của bò mang thai đã được làm rõ thông qua nghiên cứu của Ông Akio Sato là giáo sư danh dự của trường đại học cao đẳng y khoa Yamanashi. Theo Ông Sato, khi bò mang thai hàm lượng hoóc môn sinh dục (hoóc môn estrogen, progestin) tăng lên và di chuyển vào sữa, nó không thể phân hủy được trong quá trình tiệt trùng bằng nhiệt. Nói cách khác, nhiều loại sữa trên thị trường chứa một lượng hoóc môn sinh dục lớn hơn nhiều so với lượng hoóc môn trong sữa từ bò không mang thai.
Hiện tại, số người tiêu thụ lượng sữa lớn nhất là trẻ em từ 7 đến 14 tuổi, mỗi đứa trẻ tiêu thụ 320ml sữa (bao gồm sản phẩm làm từ sữa) mỗi ngày. Người ta cũng đã xác nhận sữa trên thị trường chứa 380 picogram (1 picogram bằng 1 hay lớn hơn 1 phần ngàn tỷ gram) estrone sulfate là một loại hoóc môn sinh dục estrogen. Điều này có nghĩa là trẻ em trước tuổi dậy thì đã uống trung bình 120 nanogram (120.000 picogram) estrone sulfate. Lượng này cao hơn 40 - 100 nanogram hoóc môn sinh dục (estradiol - một loại hoóc môn sinh dục estrogen) mà trẻ em trước tuổi dậy thì tạo ra. Một số phụ huynh đã thúc con uống 1/4 gallon sữa mỗi ngày và nói rằng “sữa sẽ làm cho cơ thể khỏe mạnh”. Sản phẩm làm từ sữa như pho mát, bơ, kem, yaourt, v.v... cũng được tiêu thụ rất nhiều.
Hoóc môn sinh dục chứa trong sữa và các sản phẩm làm từ sữa khác với hóa chất mà chất này hoạt động giống như hoóc môn, hay còn gọi là chất gây rối loạn nội tiết tố. Vì nó là hoóc môn thật nên tác dụng lên cơ thể mạnh hơn nhiều. Tóm lại, do tiêu thụ một lượng lớn sữa mà cho là bổ khỏe nên trẻ em trước tuổi dậy thì được cung cấp một lượng hoóc môn sinh dục dư thừa. Dĩ nhiên, những trẻ em này bao gồm cả bé trai.
Tác dụng của hoóc môn sinh dục dư thừa này lên tinh thần và thể xác của trẻ em như thế nào? Ông Sato đã chỉ ra những trẻ em này thuộc thế hệ bùng nổ dân số đầu tiên ở Nhật Bản đã được nuôi dưỡng bằng sữa ngay trước khi chúng được sinh ra (thông qua mẹ) và chúng có khả năng sinh sản thấp. Ví dụ, tỷ lệ mang thai ở độ tuổi sinh con (15-45) vào năm 2004, ở thế hệ bùng nổ dân số thứ hai thì ở độ tuổi hai mươi, cho thấy giảm 50% so với tỷ lệ ở năm 1973, cách đó hơn 30 năm. Chúng ta không thể nói nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này là do quan niệm về giá trị sống thay đổi hay do kết hôn muộn. Thực tế, có vấn đề không bình thường về sự vô sinh hay ít tinh trùng. Sữa không thể là nguyên nhân duy nhất cho mọi vấn đề này, nhưng không thể phủ nhận chế độ ăn uống theo phong cách phương Tây bao gồm sữa đã có ảnh hưởng đến sự suy giảm khả năng sinh sản.
Ngoài ra bệnh ung thư ngực, ung thư tuyến tiền liệt ung ung thư buồng trứng, ung thư tử cung, v.v… ở những nước tiền tiến đã tăng lên sau năm 1940-1950 khi bắt đầu tiêu thụ một lượng lớn sửa và sản phẩm làm từ sửa.
Thông qua việc tư vấn và chữa trị cho các bệnh nhân chống bệnh ung thư ngực, ung thư tuyến tiền liệt, tôi xác nhận những bệnh nhân này hằng ngày đã dùng sữa, pho mát, yaourt, v.v...
Khoa học dinh dưỡng ngày nay đã quan niệm trong sự hạn chế sau chiến tranh thế giới, về phía tôi, để làm một cuộc đại tu, tôi đã đưa ra chương trình Shinya Biozyme dựa trên cơ sở dinh dưỡng enzyme hiện đại. Tôi giới thiệu chương trình này cho nhiều người bao gồm những bệnh nhân đã đến phòng khám của tôi. Tôi cho rằng đã đến lúc phải nghiên cứu khoa học dinh dưỡng mới xuất phát từ quan điểm về sức khỏe của mỗi người, hoàn toàn không vì lợi ích kinh tế của những nhà sản xuất thực phẩm.
Cơ thể của bạn được tạo ra để duy trì sự khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực bằng cách làm sạch tế bào một cách tự nhiên, sử dụng những enzyme làm trẻ hóa và newzyme của bạn. Phương pháp Biozyme được thực hiện cùng với newzyme có đến 60 nghìn tỷ trong tế hào. Ngay khỉ bạn hiểu được cách để hoạt hóa những enzyme này thì bạn sẽ có một cuộc sống tràn đầy sinh lực và trẻ mãi.