Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Vì Sao Tội Ác Lên Ngôi?

Suốt mấy tuần qua, báo chí trong nước đăng nhiều bài phân tích nguyên nhân của hai vụ giết người cướp của ghê rợn xảy ra cùng thời gian ở Bắc Giang và Bình Dương. Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vốn là nhà giáo, bà bức xúc “rung chuông về giáo dục nhân cách”. Nhiều vị tiến sĩ tâm lý vào cuộc. Tiến sĩ Thạch Ngọc Yến có bài viết “Thiếu vách chắn trước cơn bốc đồng”, cho rằng các vụ này có “mẫu số chung” là: Họ có một quá khứ không bình thường. Có thể là sự xáo trộn trong gia đình, là tuổi thơ bị bỏ rơi. Phó giáo sư, tiến sĩ Lê Trọng Ân có bài “Người lớn hãy làm gương”, với mở đầu “Ông bà ta dạy: Con dại cái mang. Do đó con cái hư hỏng, cha mẹ phải xem lại mình”. Nhà báo Cao Tuấn có bài “Sức mạnh kháng thể”, “khái quát hơn cái ác có vẻ như đang ẩn hiện khắp nơi”. Thế nhưng ông lại nhận định: “Nó là sản phẩm 'quái gỡ' (nhưng không nhiều) của một xã hội đang vận động đi lên - các yếu tố cũ, lạc hậu chưa mất hẳn và yếu tố mới, tiến bộ chưa định hình. Xét về mặt triết học, đây là thời kỳ chuyển tiếp không dễ dàng đối với bất cứ xã hội nào”. Lạ lùng là ông khuyên đừng “quá chú tâm truy tìm gốc rễ của những hiện tượng quái gỡ, hãy dành nhiều thời gian hơn để thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng lành mạnh”. Thật không khác nào trước con bệnh ngặt, lại khuyên thầy thuốc chớ chẩn đoán bệnh, mà hãy khuyến khích họ vui chơi chạy nhảy!
Tôi không phải nhà nghiên cứu tâm lý, nhưng có lưu tâm đến vấn đề đạo đức xuống cấp, khi nghe anh Thái Duy (tức nhà văn Trần Đình Vân tác giả “Sống như anh”) từ miền Nam trở ra Hà Nội tâm sự: “Cậu ạ, Đảng mình có trách nhiệm đã làm xuống cấp đạo đức người dân Hà Nội. Hồi tớ đi học, mỗi khi thấy đám ma từ xa, cả bọn xuống xe đạp, giở mũ cúi đầu, chờ xe đi qua. Còn nay, bọn trẻ ngang nhiên phóng xe, lại còn lớn tiếng chửi thề, tại sao xe tang đi chậm cản đường”!
Tôi nghĩ đạo đức xuống cấp bắt đầu từ chuyện lớp trẻ chửi xe tang cản đường đã phát triển dần từng năm một! Tết Nguyên đán năm 2009, Hà Nội xảy ra vụ hằng trăm người xô đạp nhau tranh cướp hoa anh đào, tôi đã viết bài “Vì sao đạo đức băng hoại?” tặng nhà thơ Hoàng Hưng và giáo sư Nguyễn Huệ Chi là hai người quan tâm vụ việc này. Gần ba năm qua, tình trạng xã hội và con người Việt Nam đã đi tới câu hỏi bức thiết hơn: Vì sao tội ác lên ngôi?
I. Đảng cộng sản đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống!
Xin đọc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx - Engels, Phần 2, “Những người vô sản và những người cộng sản” (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, năm 1974, trang 77):
“Có người sẽ bảo, cố nhiên những quan điểm tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền… đã biến đổi trong tiến trình phát triển lịch sử. Nhưng tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền vẫn luôn được bảo tồn qua những biến đổi ấy.
Vả lại, còn có những chân lý vĩnh cửu như tự do, công lý v.v… chung cho mọi chế độ xã hội. Thế mà chủ nghĩa cộng sản lại xóa bỏ những chân lý vĩnh cửu, nó xóa bỏ tôn giáo và đạo đức chứ không đổi mới tôn giáo và đạo đức; làm như thế là trái ngược với tất cả sự phát triển lịch sử trước kia?
Lời buộc tội ẩy rốt cuộc là gì? Lịch sử của tiến bộ xã hội từ trước tới nay đều diễn ra trong đối kháng giai cấp những đối kháng mang những hình thức khác nhau tùy thời đại. Nhưng dù những đối kháng mang hình thức gì đi nữa, hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước kia. Vậy không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng ý thức xã hội của mọi thế kỷ mặc dù có muôn màu muôn vẻ và hết sức khác nhau vẫn vận động trong một số hình thức chung nào đó, trong những hình thái ý thức chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối kháng giữa các giai cấp nữa.
Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với tư tưởng cổ truyền”.

Từ những năm 50 của thế kỷ 20, người Việt Nam bắt đầu được nghe, “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”. Nhà nước này sắp xếp thứ tự của “tứ dân” từ sĩ, nông, công, thương phải thay đổi: Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng; giai cấp nông dân là quân chủ lực cách mạng, nhưng lại chia thành: cố nông, bần nông, trung nông. Cố nông, bần nông là cốt cán tin cậy. Trung nông kém tin cậy hơn, chia ra trung nông lớp dưới và trung nông lớp trên. Phú nông vừa lao động vừa bóc lột, phải tước bỏ tính bóc lột của họ. Địa chủ không còn nằm trong lực lượng yêu nước mà là đối tượng phải tiêu diệt. Tầng lớp trí thức có cái đuôi là tiểu tư sản, được gọi đùa là “tạch tạch xè”, bị xem là có lập trường bấp bênh, dễ bị dao động, cần được theo dõi, uốn nắn. Thương nhân là hạng người xấu xa nhất. Giai cấp tư sản là đối tượng phải tiêu diệt, nhưng tư sản thương nghiệp, gọi là bọn mại bản phải tiêu diệt đầu tiên. Nhiều người cho rằng sự sắp xếp lại “tứ dân” như trên là đem tay chân thay thế cho bộ não của xã hội (đến nay, ở thời đại kinh tế tri thức việc gọi giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thì sự vô lý càng trở nên bức xúc)! Từ lúc ấy, “đại đoàn kết” đã nhường bước cho “đấu tranh giai cấp”, đạo đức bắt đầu đảo lộn, chữ “tố” lên ngôi thành một loại hoạt động xã hội được tôn vinh, đẻ ra thành ngữ mới “con tố cha, vợ tố chồng”!
Đạo đức cao nhất là trung thành với chủ nghĩa Marx - Lénin. Với nguyên tắc dân chủ tập trung, lãnh tụ Đảng cộng sản trở thành Thượng đế. Lãnh tụ quốc tế cộng sản đáng kính yêu hơn cả cha mẹ mình: “Vui biết mấy khi con học nói. Tiếng đầu đời con gọi Stalin” (Tố Hữu). Chữ trung, chữ hiếu truyền thống cũng thay đổi. Lời Cụ Hồ “trung với nước” bị đổi thành “trung với Đảng”. Trong cuộc chỉnh Đảng Trung Ương khóa 2, chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Có người nói, người cộng sản là vô tình, là bất hiếu. Còn lầm cộng sản có khi phải bỏ cả bố mẹ. Cái đó có hay không? Có! Người cách mạng nhất, là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hằng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến dày vò. Mình chẳng những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu theo tinh thần cách mạng rộng rãi như vậy. Gia đình to là cả nước và gia đình nhỏ, cái nào nặng, cái nào nhẹ? Người cách mạng chọn gia đình to! Đó là cách hiểu xa thấy rộng. Phải hy sinh cái nhỏ cho cái lớn. Phải hy sinh cái riêng cho cái chung” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, trang 389).
Sách Đại học (Tập 1 trong Tứ thư) viết: “Có hiếu là phải biết phụng sự vua. Có đễ là biết phụng sự người lớn”, tức là có ý dạy rằng, phụng sự vua cũng có nghĩa là có hiếu với cha mẹ, chứ không phải đòi hỏi chọn việc phụng sự vua mà bỏ cha mẹ.
Có lẽ, vì “cách mạng chọn gia đình to, hy sinh gia đình nhỏ” thể hiện triệt để tư tưởng của chủ nghĩa tập thể, cho nên “5 điều Bác Hồ dạy” không có điều nào dạy con cái phải hiếu thảo, kính yêu cha mẹ, ông bà. Bởi vì cha mẹ, ông bà của gia đình nhỏ đã được đặt trong gia đình lớn là: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”.
Trong hồi ký “Chuyện làng ngày ấy” nhà thơ Võ Văn Trực đã kể khá sinh động chuyện làng của ông phá bỏ chùa chiền, miếu mạo, tập thể hóa cả mồ mả ông bà. Tiếp theo đó, hồi ký “Cọng rêu dưới đáy ao”, Võ Văn Trực kể chuyện chính quyền, đoàn thể buộc người ta phải hy sinh mọi lợi ích riêng tư, dành tất cả cho tập thể. Con người muốn cho riêng mình thì buộc phải che giấu, nói dối (lý lịch gia đình, các mối quan hệ xã hội, báo cáo láo thành tích, những lo toan cho cá nhân, gia đình mình). Do đó, từ điển có thêm từ “khai man”, “tố điêu”.
II. Đạo đức cách mạng và cái giường Procuste.
Từ năm 1947, chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Sửa đổi lề lối làm việc” đã đề ra việc chống các bệnh chủ quan, ích kỷ hẹp hòi, cá nhân, bản vị, cục bộ và xây dựng đạo đức cách mạng. Từ đó cho tới năm qua đời, Cụ viết rất nhiều bài mở rộng tư tưởng này, tiêu biểu là bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, viết ngày 3-2-1969, và trong “Di chúc” đoạn nói về Đảng cầm quyền, cụ chỉ ra 10 bệnh của chủ nghĩa cá nhân cần phải xóa bỏ và đề ra nội dung đạo đức cách mạng gồm: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Chí công vô tư vốn là một khái niệm đạo đức cũ. Chí công nghĩa là rất công bằng; vô tư là không có lòng riêng khi làm việc chung. Khái niệm này vốn dành cho quan lại, chứ không phải cho dân thường. Với quan chức, nó cũng chỉ đòi hỏi họ chí công vô tư khi hành xử công việc, chứ không phải trong cuộc sống riêng tư. Bởi vì trong cuộc sống riêng tư, họ cũng muốn lên chức, có lương cao, bổng hậu, vợ đẹp con khôn, thành đạt.
Cụ Hồ biến ý nghĩa cụm từ này thành đạo đức cách mạng, đòi hỏi mọi người đều phải thực hiện. Thậm chí Cụ cho rằng, nhiều đảng viên không thấm nhuần tư tưởng chí công, vô tư cho nên mắc chủ nghĩa cá nhân; và phải chí công, vô tư thì mới có cần, kiệm, liêm, chính. Theo cách hiểu phổ biến thì các nội dung trên đòi hỏi con người phải triệt tiêu cái riêng, đưa cái chung, cái tập thể lên địa vị độc tôn. Trong thời chiến (mà nước ta thời chiến quá dài), mọi người dân dễ chấp nhận tư tưởng ấy, nhất là khi đặt mình giữa cái sống, cái chết ở chiến trường. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang “trước sự hy sinh, con người thật ra phải có ý thức rất cao về cá nhân mình. Đó là phút thăng hoa của con người cá nhân”.
Tuy nhiên, nếu cho rằng chủ nghĩa tập thể giúp cho Việt Nam chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì không đúng. Chính chủ nghĩa yêu nước mới là động lực chiến thắng, còn chủ nghĩa tập thể chỉ hạn chế động lực ấy. Có thể đưa ông Kim Nhật Thành của Triều Tiên làm ví dụ. Ông Kim được cả triệu quân Trung Quốc chi viện, nhưng vẫn không thắng nổi Hàn Quốc. Bởi ông ta không có Cách mạng Tháng 8, không có Hiến pháp 1946, không có Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam với lá cờ Hòa bình, Độc lập, Trung lập.
Nước Mỹ giàu mạnh, nhờ có dân chủ mà người dân có quyền ngăn chặn chiến tranh Việt Nam chỉ trong 5 năm, khi họ thấy chính phủ sai lầm. Việt Nam nghèo, lại bị cấm vận, nhưng đã kéo dài sự có mặt ở Campuchia đến 10 năm, chịu biết bao hậu quả không đáng có!
Chủ nghĩa tập thể vô hiệu hóa lợi ích và trách nhiệm cá nhân và tước mất lực lượng đại đoàn kết dân tộc ngay trong thời chiến.
Những ai từng tham gia kháng chiến chống Pháp đều biết giai thoại này: Các ông Năm Lửa, Ba Gà Mổ bảo nhau “bọn Việt Minh hội họp liên miên, cho nên còn rất ít thì giờ tìm đánh mình. Nếu họ bớt hội họp thì nguy cho mình đó”! Từ những năm 50, do lo sợ bị loại vì chủ trương chấn chỉnh tổ chức, nhiều cán bộ chỉ huy cấp khu đã rời bỏ kháng chiến như Bảy Viễn, Trịnh Khánh Vàng… Trong thời chống Mỹ, rất nhiều nhân tài bị cách chức (như Kim Ngọc), hoặc giam cầm (Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang…).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Hơn 60 năm qua, năm nào cũng có chỉ thị, nghị quyết giảm hội họp, nhưng không thể giảm được. Bởi vì, cả hệ thống chính trị đều theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, rất cần có một quyết định tập thể để khi công việc thất bại chẳng có ai phải giơ đầu chịu báng! Vinashin nuốt tiền thuế của dân trung bình mỗi đầu người hơn một triệu đồng, nhưng đâu có ai bị kỷ luật. Bauxite Tây Nguyên, dự án lớn của Đảng, nhà nước đang băm nát đường vận chuyển ở hai tỉnh, gây tai nạn giao thông nghiêm trọng, và nếu mai kia xảy ra tai họa trút bùn độc lên đầu 20 triệu nhân dân thì cũng sẽ không có ai phải hầu tòa!
Sau giải phóng miền Bắc, chủ nghĩa tập thể bóp nghẹt mọi quyền tự do cá nhân. Tuy nhiên, chỉ có giới văn nghệ sĩ phản ứng bằng vụ Nhân văn - Giai phẩm. Bởi vì đặc thù của lao động nghệ thuật đòi hỏi phải có không gian tự do cá nhân tuyệt đối mới có thể sáng tạo.
Không chấp nhận cạnh tranh, chủ nghĩa xã hội tổ chức phong trào thi đua tập thể để thúc đẩy lao động sản xuất. Đó là hình thức làm tăng dối trá theo cấp số nhân. Ở miền Bắc ai cũng đã nghe chuyện Thủ tướng Phạm văn Đồng đến thăm trại lợn hợp tác xã. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy lợn cắn nhau quá dữ dội. Thì ra, chủ nhiệm trại lợn đã có “sáng kiến” mượn lợn nuôi cá thể của các gia đình, đem nhốt chung vào chuồng hợp tác xã, để báo cáo thủ tướng về tốc độ phát triển thần kỳ của chăn nuôi tập thể, chứng minh tính ưu việt không thể chối cãi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm sa sút, lụn bại ngành giáo dục cũng là phong trào thi đua tập thể “hai tốt”.
Không có tự do báo chí, tự do ngôn luận, chủ nghĩa xã hội kêu gọi phê bình, tự phê bình để khắc phục khuyết điểm. Nhưng thực tế cho thấy chả có ai chịu “vạch áo cho người xem lưng”. Đã có giai thoại: Xin nghiêm khắc phê bình anh Hai luôn làm việc quá sức. Xin chân thành góp ý với anh Hai rằng, sức khỏe của anh Hai không phải là của riêng anh mà là tài sản quý báu của tập thể, của Đảng”. Cho đến nay, những nơi bị phát hiện tham nhũng lớn đều là nơi đang có phong trào thi đua sôi nổi, có tinh thần phê bình, tự phê bình thẳng thắn, đã nhiều năm đạt danh hiệu “trong sạch, vững mạnh”, như Đại Lộ Đông Tây của Huỳnh Ngọc Sĩ chẳng hạn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu nói nổi tiếng “muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Nhưng câu này trái với Marx, theo Marx vật chất có trước ý thức. Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cách mạng, là con người của giai cấp vô sản, mọi tính người hình thành trong lịch sử bị coi là của giai cấp tư sản, phải xóa bỏ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc đặt khuôn mẫu cho con người xã hội chủ nghĩa, giống như kiểu dùng chiếc giường Procuste (chiếc giường mà tên tướng cướp trong thần thoại Hy Lạp tra tấn nạn nhân bằng cách trói vào chiếc giường, ai dài hơn giường thì chặt bớt cho vừa, ai ngắn hơn thì kéo cho dài ra).
Thực tế đã cho thấy, đến khi phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ cũng không làm sao có được con người xã hội chủ nghĩa! Trong nhật ký ngày 18-3-1958, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết: “Bây giờ đã đến cảnh không ai dám nói thật với ai”. Năm mươi năm sau, nhà văn Nguyễn Khải, đảng viên 60 tuổi Đảng, giải thưởng Hồ Chí Minh, lặp lại lời Nguyễn Huy Tưởng như một tổng kết bản chất của chế độ trong bút ký chính trị cuối cùng: “Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật”. Như vậy có thể nói, tất cả những người ưu tú nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không có một ai thực hiện được đạo đức cách mạng. Nói dối, nghĩ một đằng, nói một nẻo chính là nguyên nhân đầu tiên, từ đó đẻ ra những tệ nạn khác làm sa đọa xã hội.
III. Đạo đức cách mạng xung khắc với Đổi mới”!
Cuối thập kỷ 80, đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, nổi bật là kinh tế và chính trị.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, ông Võ Văn Kiệt lắng nghe nhân dân, đã dám làm một việc tày đình là “xé rào”, thực hiện “hài hòa 3 lợi ích”: lợi ích nhà nước, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân người lao động. Lợi ích cá nhân người lao động là điều chỏi với chủ nghĩa tập thể! Năm 1982, khi bị ra khỏi Bộ chính trị, trở về làm bí thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh tiếp tục “xé rào” làm cho kinh tế, đời sống ở Sài Gòn tương đối dễ chịu so với cả nước.
Năm 1983, trong đợt học tập Nghị quyết Trung Ương (khóa 5), tôi được xếp vào tổ thảo luận của khối Dân vận Trung Ương do Trưởng ban Vũ Quang làm tổ trưởng. Ông Vũ Quang hướng dẫn tổ phê phán “chủ nghĩa tự do kinh tế ở Sài Gòn” đang vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, năm 1986 Đại hội 6 đã chọn “xé rào” làm tiền đề của “Đổi mới”, lấy đổi mới kinh tế làm khâu đột phá. Đổi mới kinh tế tức là trả lại tự do, dân chủ cho nhân dân, nông dân được ra khỏi hợp tác xã để nhận khoán hộ, người có vốn được đứng ra kinh doanh sản xuất và mua bán. Đổi mới kinh tế xóa bỏ những nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, tức là chọc thủng một mảng lớn chế độ toàn trị, nhưng được gọi tránh né là “chế độ quan liêu, bao cấp”.
Thật đáng tiếc, ông Nguyễn Văn Linh không ý thức được rằng “ba lợi ích” mà ông tiếp nối cách làm của Võ Văn Kiệt đã làm bật dậy sức sáng tạo của toàn dân, chính vì nó rời bỏ chủ nghĩa tập thể lỗi thời, trả lại tự do cá nhân cho người lao động. Ông khư khư định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đổi mới chính trị tương ứng với kinh tế. Ông vừa mới nghe tướng Trần Độ để cho ra Nghị quyết 05 “cởi trói cho văn nghệ sĩ, ngay sau đó đã giật mình, vội quy tội Trần Độ chệch hướng xã hội chủ nghĩa! Ông diệt sinh mệnh chính trị Trần Xuân Bách, chọn Đỗ Mười, người có “thành tích” trong một tuần đánh tan giai cấp tư sản dân tộc, làm người kế nhiệm. Ông chủ động cúi mình cầu thân với Bắc Kinh, vì cho rằng “dù có tư tưởng bành trướng, nhưng cùng là xã hội chủ nghĩa với nhau”. Đổi mới vì thế bị dẫm chân tại chỗ, đất nước bỏ lỡ nhiều cơ hội: không sớm bình thường quan hệ với Mỹ, chậm vào WTO, không dân chủ hóa xã hội, làm cho hệ thống chính trị thoái hóa, cản trở phát triển kinh tế, do vậy việc thực hiện được mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (Nghị quyết Đại hội 11) chỉ là ảo tưởng vì không tạo được điều kiện hòa giải, hòa hợp, phát huy sức mạnh dân tộc. Không đổi mới chính trị tương thích với kinh tế đã đưa tới khủng hoảng toàn diện mà nổi bật là hai tình trạng sau đây:
Một là, quyền lực nhà nước không bị kiểm soát, hạn chế, không có nền tư pháp độc lập; không có báo chí tự do, đã khiến cho đảng viên, cán bộ lợi dụng chức quyền làm giàu bất chính, nổi bật là tình trạng chiếm đoạt nhà cửa, đất đai, ghê gớm hơn là hình thành những “nhóm lợi ích” lũng đoạn chính sách nhà nước. Nhìn từng làng xã, nhìn rộng ra cả nước, ai cũng thấy những kẻ tự xưng là đày tớ của nhân dân, mở miệng là rao giảng đạo đức cách mạng, chí công vô tư, chính là những “tư sản đỏ”, sống trên luật pháp, tham nhũng từ to đến nhỏ, ăn cả tiền từ thiện cứu trợ đồng bào các vùng bị lũ lụt. Những người cơ cực, những dân đen thấp cổ bé họng, uất ức tìm mọi cách giành quyền sống trong một xã hội bất minh, bằng mọi cách “loạn cương” như lừa lọc cướp giật, giết người. Thế là hình ảnh một xã hội trung cổ được tái hiện: “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Có thể xếp song song hai dòng người sa đọa, nhưng đối chọi nhau trong bức tranh xã hội Việt Nam: Một bên là Đinh Văn Hùng Ủy viên Trung Ương Đảng, Bí thư Tỉnh Ủy Ninh Bình buôn bình cổ, trống đồng trị giá hàng triệu USD, đã “hạ cánh an toàn, đang sống trong cơ ngơi như đế vương; Nguyễn Trường Tộ, phó Bí thư Tỉnh Ủy, Chủ tịch tỉnh Hà Giang mua trinh học sinh vị thành niên, bị gái điếm chụp ảnh khỏa thân đã “hạ cánh an toàn,” đang sống trong biệt thự sang trọng. Và tiếp theo chúng là hằng ngàn, hằng vạn “đồng chí chưa bị lộ”! Bọn này ngày càng đông nối nhau theo đà sa đọa của hệ thống chính trị. Chính chúng nó là nguyên nhân làm nãy sinh những kẻ thủ ác trong dòng người thứ hai, gồm những Lê Văn Luyện (sát thủ cướp của giết chết vợ chồng chủ tiệm vàng và đứa con 8 tháng tuổi con gái lớn bị chém đứt tay), Nguyễn Hải Dương (hung thủ giết chết sáu mạng người trong một gia đình vốn đã cưu mang hắn để trả thù, cướp của) đã và đang mọc lên như nấm!
Hai là, tự do kinh tế giải phóng sức lao động sáng tạo của cá nhân, đồng thời đánh thức cho họ biết rằng mình còn có những quyền của con người vẫn còn bị tước đoạt: Đó là quyền làm chủ nhà nước, quyền được mở mồm ra nói, quyền được hội họp và lập hội để bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp. Những ông Vua Lốp mới (nhân dân Hà Nội gọi ông Nguyễn Văn Chẩn là “vua lốp”, người tự chế ra dép lốp, tái sinh lốp xe cũ như mới, bị chính quyền Hà Nội xử tù 3 lần và tịch biên tài sản) của tự do chính trị liên tục xuất hiện từ Trần Xuân Bách đến Nguyễn văn An, rồi Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày…
Chân lý đang chia đôi thành hai trận tuyến hết sức gay gắt: Yêu nước và Phản động!
Hậu thuẫn cho những người yêu nước dũng cảm là hàng ngàn người ký tên kiến nghị đòi trả tự do cho họ, gồm nhiều đảng viên, lão thành cách mạng, nhân sĩ, trí thức và nhân dân trong, ngoài nước, kể cả những người đã tham gia hằng chục cuộc biểu tình khắp cả nước từ tháng 6 đến nay. Tiếp sau đó, là hàng triệu nông dân mất đất, bị “giải phóng mặt bằng” bởi các “nhà đầu tư” cấu kết với đảng viên, cán bộ địa phương ép họ chịu đền bù đất đai với giá rẻ mạt, khiến họ hết đường sinh sống. Bên cạnh đó là hàng triệu công nhân tham gia hơn 4000 cuộc đình công bị coi là trái pháp luật, vì không có quyền chọn cho mình một tổ chức công đoàn dám bảo vệ quyền lợi đoàn viên.
Ngược lại, phía nhà cầm quyền, báo chí lề phải gọi những người kể trên là bọn phản động, nghe theo xúi giục của các thế lực thù địch chống Đảng, chống nhà nước và có âm mưu chia rẽ tình hữu nghị Việt - Trung. Nông dân bị Luật đất đai tước quyền sở hữu cá nhân (vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân), bị chặn lại với lệnh cấm khiếu kiện tập thể. Công nhân bị cấm không được phép cử Ban đại diện công nhân ở những nơi chưa có công đoàn do Đảng lập ra.
Qua hai bức tranh xã hội miêu tả khái quát, có thể nói: Tội ác tràn lan hiện nay không phải do “thiếu vách chắn trước cơn bốc đồng”, không phải “con dại, cái mang”, càng không phải “yếu tố cũ, lạc hậu chưa mất hẳn”, nó là sản phẩm mới đang sinh sôi hằng ngày do khủng hoảng văn hóa, đạo đức, nằm trong cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Việt Nam, nguyên nhân chính là hệ thống chính trị không phù hợp với nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản hoang dã. Bài thuốc chữa duy nhất cho nó là dân chủ hóa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập.
Bài trên đây được nhiều trang mạng đăng tải. Đảng cấp trên chỉ đạo Chi bộ phải kiểm thảo đảng viên Tống Văn Công vì bài viết này xúc phạm hết sức nghiêm trọng đối với các lãnh tụ từ Marx, Angels tới Hồ Chí Minh. Tại các cuộc họp kiểm thảo về vấn đề này, tôi khẳng định là mình viết hết sức trung thực, “nói có sách, mách có chứng” đề nghị chi bộ phát hiện xem tôi có bịa đặt điều gì. Cuối cùng không ai chứng minh được là tôi bịa đặt, xuyên tạc sự thật nhưng các cấp Ủy Đảng vẫn khẳng định: bài này ám chỉ xỏ xiên đối với Tổng bí thư và Tống Văn Công đã đưa ra thứ lý luận cực kỳ phản động.
Trong tình trạng văn hóa đạo đức băng hoại, Văn kiện Đại hội Đảng 11 đưa ra nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa là “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.” Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa góp ý vấn đề này. Nhà nghiên cứu Lữ Phương có bài viết “Vì sao nên nỗi”? Hưởng ứng bài viết của ông, tôi viết bài “Chúng ta đang khủng hoảng văn hóa” tiếp tục lý giải nguyên nhân văn hóa xuống cấp, đạo đức băng hoại là từ chế độ chính trị độc tài phản dân chủ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Chúng Ta Đang Khủng Hoảng Văn Hóa

I. Vì đâu nên nỗi?

Hiện nay, cả xã hội đang hết sức bức xúc trước tình trạng đạo đức băng hoại. Nhà thơ Đỗ Trung Quân viết: “Làm từ thiện cũng thích nói dối; lu loa trên truyền thông với gương mặt của 'con giả vờ' Giáo sư Tương Lai cho rằng quốc nạn tham nhũng và nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác không nguy hại bằng thói đạo đức giả. Nhà văn Võ Thị Hảo đi “Tìm thủ phạm 'ám sát' văn hiến”, đã nhận diện được: “Với cây quyền trượng trong tay, những người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến, hoặc nhanh chóng ám sát văn hiến. Mới đây, nhà nghiên cứu Lữ Phương có bài viết “Vì đâu nên nỗi, tác động văn hóa của 'đổi mới' xét như một mô thức phát triển”, đã phân tích sâu sắc cái mô thức mệnh danh 'đổi mới' nói trên rõ ràng đã không còn phù hợp nữa, mô thức đó cũng tạo ra quá nhiều hỗn loạn và mất mát trong lĩnh vực tinh thần, phá vỡ lòng tin của con người về những giá trị nhân văn phổ biến, về niềm tự trọng dân tộc chính đáng, xâm phạm đến lợi ích tối thượng của quốc gia”. Ông cho rằng có thể bị cho là động đến vấn đề nhạy cảm, nhưng nếu không dấy lên được một phản ứng thức tỉnh thì có “nguy cơ rơi vào một hình thức lệ thuộc kiểu thực dân mới nào đó về văn hóa, hoặc một cái gì tương tự tinh vi hơn, không thể loại trừ là không xảy ra”. Nhận thức sự hệ trọng của điều ông cảnh báo, tôi xin hưởng ứng bằng những ghi chép điều mình quan sát được.
Nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng văn hóa. “Văn hóa biểu hiện trong lý tưởng sống, trong các quan niệm về thế giới và nhân sinh, tín ngưỡng, đạo đức, trong lao động và đấu tranh, trong tổ chức đời sống, tạo dựng xã hội, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ. Có thể tìm thấy biểu hiện của văn hóa trong các phương thức và công cụ sản xuất, phương thức sở hữu, các thể chế xã hội, phong tục tập quán, giao tiếp giữa người và người, trong trình độ học vấn và khoa học kỹ thuật, trong trình độ sáng tạo và thưởng thức văn học nghệ thuật” (Từ điển Bách khoa Việt Nam). Cuộc khủng hoảng văn hóa bắt đầu từ sau ngày thống nhất nước nhà năm 1975, khi mọi người dân thất vọng vì những rao giảng về lý tưởng cao đẹp hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc, hòa giải, hòa hợp dân tộc đã không được thực hiện.
Với đường lối tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, Nhà nước chuyên chính vô sản đã thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội. Hàng vạn cán binh chế độ Sài Gòn cũng phải tập trung cải tạo. Cuộc xáo động quá lớn đã xua hàng triệu người, từ những nhà tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ, cho đến những người dân cày xưa kia bom đạn không đẩy nổi họ rời mảnh ruộng quê, vậy mà nay cũng kéo nhau ùn ùn vượt biển. Tiếp theo đó, 2 cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc, thúc đẩy nhanh cuộc khủng hoảng toàn diện trùm lên đất nước. Các văn kiện của Đảng cộng sản gọi đó là “khủng hoảng kinh tế - xã hội”. Lạm phát ba con số. Cả nước nhai bo bo. Truyện tiếu lâm mới, ca dao mới lan tràn, ông Trần Ta - bit đã sưu tầm thành một tập sách. Xin nhắc lại mấy câu:
“Tôn Đản là chợ vua quan.
Nhà thờ là chợ trung gian nịnh thần,
Bắc Qua là chợ thương nhân,
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.”

Và:
“Bác Hồ chết nhằm ngày trùng,
Cho nên con cháu dở khùng dở điên.
Thằng khôn thì đã vượt biên,
Những thằng ở lại toàn điên với khùng”.

Các nhà văn đã sớm thổ lộ tâm tư dằn vặt. Chế Lan Viên nhận rằng niềm tin của mình là “Bánh vẽ”. Nguyễn Đình Thi thấy mình vướng nhiều “Đồ bỏ”. Nhà thơ trẻ Phạm Thị Xuân Khải viết “Mùa xuân nhớ Bác” đăng trên báo Tiền Phong:
“Có mắt giả mù, có tai giả điếc.
Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung,
Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ,
Thoái hóa, bê tha khi dân, nước gian nan”.

Đại hội 6 của Đảng quyết định “Đổi mới”, bắt đầu là đổi mới tư duy và trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Sau đó, tuy có nói phải đổi mới toàn diện nhưng từ năm 1991 đã bị chựng lại sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Vượt qua những cấm kỵ của nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa (chấp nhận kinh tế thị trường; để nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại; thực hiện khoán 100 trong nông nghiệp…) nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, phát triển nhanh chóng. Nhân dân vui mừng, phấn khởi. Nhưng do đổi mới không đồng bộ, cho nên các căn bệnh của khủng hoảng văn hóa vẫn âm ỉ không hề dứt. Chính trị chậm đổi mới, mâu thuẫn tăng lên, khiến cho khủng hoảng văn hóa bùng phát. Tham nhũng từ là “quốc nạn” đã trở thành “ung thư”. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa làm bình phong cho “lý tưởng kiếm tiền”. “Mình vì mọi người” trở thành “tất cả vì mình”. Niềm tin giả vờ. Dân chủ, tự do, công bằng cũng đều là thứ ngụy tạo. Đày tớ của nhân dân là những kẻ hành dân. Một dân tộc từng có câu châm ngôn cao cả “Thương người như thể thương thân”, nhưng tháng 9 năm 2010, Quỹ từ thiện Anh và Viện Gallup xếp hạng chỉ số thiện nguyện của Việt Nam đứng hạng thứ 138 trên 153 quốc gia (vẫn còn vinh dự là đứng trên nước Trung Hoa của hiền triết Khổng Khâu từng dạy lấy chữ nhân làm đầu)! Sau vụ buôn lậu, ăn cắp của nhân viên Việt Nam Airlines, người Nhật chửi rủa người Việt Nam là “bọn dòi bọ”. Các nhà hàng Singapore ở phòng ăn buffet chỉ thông báo bằng tiếng Việt: “Xin lấy thức ăn vừa đủ”!
Bạn bè Nhật Bản và khách nước ngoài đã từng chứng kiến những người Việt Nam lao vào giành giật, giẫm đạp nhau, gây ra “thảm họa hoa Anh đào”. Sau lễ hội 1000 năm Thăng Long, khắp Hà Nội là những bãi rác khổng lồ, nhà văn Nguyên Ngọc viết: “Không khác nhau giữa cái diêm dúa, phô trương, ồn ĩ, xa xỉ, phản cảm, cả vô cảm nữa (trước đại lũ miền Trung) của lễ hội… với cái bừa bãi xấu xa đáng buồn ngay sau lễ hội. Cái này chỉ là tiếp tục logic của cái kia”.
Nhà thơ Trần Ái Dân viết về sa đọa đạo đức:
“Thời buổi thế này là thế nào hả trời,
Làm xịt lốp xe, đinh rải đầy đường sá.
Giữa phố đông, người rạch mặt người.
Khách tàu hỏa tha hồ ăn đá.”…
“Đến cục cứt cũng là cứt rởm.
Nông phu phải miết tay, phải ngửi kiểm tra.
Thời buổi thế này là thế nào hở trời,
Trò giữa lớp phang thày; Con nện cha trước bàn thờ tổ”…”
“Xương trâu bò thế xương liệt sĩ.
Trâu bò lên ngôi Tổ quốc ghi công”

Một số người lo lắng: “Vô đạo đức đang trở thành dân tộc tính Tháng 9 năm 2010, trong lễ trao giải cuộc thi “Văn học tuổi 20” ở thành phố Hồ Chí Minh, nhà văn trẻ Hải Miên đoạt giải 3, đã phát biểu như sau:
“Chúng ta đang sống trong một thời đại đổ vỡ, nơi khủng hoảng những giá trị, những niềm tin va đập không ngừng, cùng những cách nhìn về xã hội Việt Nam trong giai đoạn những giá trị chuẩn mực thì đã cũ, còn những giá trị mới thì chưa hình thành. Sống trong giai đoạn như thế đôi khi có cảm giác không còn điều gì thiêng liêng, nguyên vẹn và có cảm giác đau đớn. Tôi nương vào chữ để mở cửa thoát hiểm cho mình”.
Có lẽ đó cũng là tâm trạng của số đông người trẻ tuổi Việt Nam có tri thức, có lương tri. Tại sao người Việt Nam sa đọa đến như vậy?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Engels, trong lời tựa cho bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản xuất bản bằng tiếng Đức năm 1883, đã viết:
“Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của bản Tuyên ngôn là: Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”.
Nhiều luận điểm trong Tuyên ngôn, sau đó chính Marx và Engels cho rằng đã lỗi thời, tuy nhiên cái “tư tưởng cơ bản” nói trên vẫn còn nguyên giá trị, nó cho ta hiểu rằng, nền kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi phải có một cơ cấu xã hội tương ứng. Nếu nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tương thích với cơ cấu chính trị chuyên chính vô sản, nhà nước toàn trị, thì nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhà nước pháp quyền (với tam quyền phân lập chứ không phải quyền lực thống nhất, phân công ba quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng), phải xây dựng xã hội công dân, thực hiện tự do, dân chủ, nhân quyền.
Do cố giữ những điều phi lý, cố tìm đường đi “chưa từng có liên lệ” mà lớp trẻ thông minh, có học, nhận ra những điều nhà cầm quyền cho rằng thiêng liêng cao cả, khi đặt vào thực tế cuộc sống sẽ hiện ra là giả dối. Giáo sư Tương Lai chỉ mới nói tới cái giả dối “thứ cấp”, chứ chưa phải cái gốc, mẹ đẻ của mọi thứ giả dối. Đó là:
- Nói chúng ta kiên trì chủ nghĩa xã hội, nhưng ai cũng thấy chủ nghĩa tư bản hoang dã đang lồ lộ, ngang nhiên.
- Nói giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, nhưng chính người công nhân cũng không thể tin được, bởi vì họ nhận rất rõ thân phận mình, đi tìm nơi xin được việc làm đã khó, khi có việc làm rồi thì nhận đồng lương chết đói, muốn đình công để đòi hỏi quyền lợi thì không thấy một tổ chức đủ tin cậy để mà gửi gắm, tự tổ chức đình công bị coi là bất hợp pháp!
- Nói đảng viên là những người lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ, nhưng sờ sờ trước mắt nhân dân là họ vui trong nhà chưa đủ, còn vui thâu đêm ở các nhà hàng bia ôm.
Có lẽ người nói về cái giả dối “gốc” sâu sắc nhất là nhà văn Nguyễn Khải, đảng viên 60 tuổi đảng, nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu, trong tùy bút chính trị cuối cùng “Đi tìm cái tôi đã mất”:
“Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy. Vẫn biết nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì, vì không một ai tin, nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người làm chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ, vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai họa, nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình”.
Làm gì để không còn những cái giả dối mà nhà văn Nguyễn Khải đã nhận ra?
II- Không phải lủng củng mà là đặt chính trị trùm lên văn hóa.
Ông Trần Trọng Tân, nguyên Trưởng ban tuyên giáo trung Ương, ngày 8-10-2010, có bài viết trên Tuần Việt Nam:
“Định nghĩa văn hóa trong dự thảo Cương Lĩnh lủng củng của ông nhắc lại Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Khóa 8, ngày 16-7-1998 định nghĩa nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có nội dung: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Max - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và phát triển phong phú, tự do và toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong cái phương tiện chuyển tải nội dung”
“… Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước.” Ông Trần Trọng Tân cho rằng “Nền văn hóa Việt Nam ở thời nào cũng có tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của thời ấy, không phải đến văn hóa xã hội chủ nghĩa mới mang tính tiên tiến và bản sắc dân tộc”. Ông đề nghị gọi tên là “Nền văn hóa Việt Nam vì độc lập tự do hạnh phúc, vì hòa bình hữu nghị”. Vấn đề không đơn giản như ông nghĩ.
Năm 1943, ông Trường Chinh viết “Đề cương văn hóa Việt Nam”, đưa ra nội dung Dân tộc, Khoa học, Đại chúng dựa theo Mao Trạch Đông thời Diên An, đề cao văn hóa công nông, tức là văn hóa phải có tính giai cấp. Sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi viết chung quyển “Một nền văn hóa mới” tuy dựa vào “Đề cương văn hóa” của Trường Chinh, nhưng dẫn giải không quá nặng ý thức hệ:
“… Nhà ở mới, cách ăn mặc mới sẽ sửa đổi cho giản dị và hợp vệ sinh mà không mất vẻ đẹp riêng của dân tộc. Ngôn ngữ mới, cử chỉ mới sẽ biểu lộ một tinh thần tự cường và trọng bình đẳng, tự do mà không kém vẻ thanh nhã. Xã giao mới sẽ giản dị hơn, thành thực hơn. Lễ nghi mới trong nhà hay ngoài xã hội cũng sẽ trang nghiêm hơn, sơ sài hơn, mạnh mẽ hơn, có ý nghĩa hơn và hợp với điều kiện sinh hoạt mới hơn…”
Nội dung Nền văn hóa mới tuy do hai nhà lãnh đạo văn hóa thời ấy viết ra, nhưng không được coi là tiếng nói chính thức của Đảng và nó chưa thực hiện được bao nhiêu thì tiếng súng kháng chiến đã nổ.
Năm 1948, tại Đại hội Văn hóa toàn quốc lần thứ 2, thành lập Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, ông Trường Chinh đã đọc bài diễn văn có tựa đề “Chủ nghĩa Marx và vấn đề văn hóa Việt Nam” đặt yêu cầu chính trị bao trùm lên nền văn hóa.
Từ năm 1950 trở đi những nguyên lý văn hóa vô sản dần dần chi phối nền văn hóa Việt Nam. Theo hai quyển hồi ký của nhà văn Võ Văn Trực (“Chuyện làng ngày ấy” và “Cọng rêu dưới đáy ao”) thì ở Nghệ An quê ông, người ta phá đình chùa, tập thể hóa cả mồ mả ông bà, sửa đổi phong tục tập quán bị coi là hủ lậu. Ở các vùng khác chưa ai viết ra, nhưng nói chung cũng na ná như vậy. Đến sau 1975, những người lãnh đạo văn hóa ở Thừa Thiên Huế còn dùng nội cung cố đô Huế làm kho giấy và cho phá bỏ Đàn Nam Giao khiến lòng dân bức xúc có nhiều câu ca dao phản đối.
Sau “Đổi mới”, với chủ trương khôi phục cơ chế thị trường, chấp nhận nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và phát triển vượt bậc. Tuy nhiên tự do kinh tế làm cho nền chính trị chậm đổi mới ngày càng bộc lộ những bất cập kéo theo những bất cập về văn hóa, giáo dục.
Năm 1992, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, trong bài “Nhìn nhận thực trạng văn hóa Việt Nam hiện nay” đã viết:
“Cuối cùng, còn một đặc trưng hết sức quan trọng nữa của khủng hoảng văn hóa ở nước ta hiện nay (nói là cuối cùng, nhu7ng về ý nghĩa lại đứng hàng đầu). Đó là sự hòa lẫn văn hóa và chính trị, trong đó chính trị vừa trực tiếp quyết định văn hóa, vừa bao trùm lên cả văn hóa. Trong các xã hội công dân, chính trị chỉ là một lĩnh vực của đời sống xã hội, chỉ tác động đến các quan hệ giữa nhà nước và người dân. Các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chịu ảnh hưởng của chính trị đến một mức độ nào đó, và đến lượt chúng, lại tác động ngược lại đối với chính trị, nhưng mỗi lĩnh vực lại có tính độc lập riêng. Đặc biệt văn hóa là lĩnh vực có tính độc lập cao hơn cả. Nhưng trong xã hội nước ta, văn hóa phụ thuộc hoàn toàn, hoặc gần như hoàn toàn vào chính trị. Nói như vậy có nghĩa là khủng hoảng văn hóa không tách rời khỏi đời sống chính trị của xã hội. Chúng tôi không bàn tới tất cả những vấn đề có liên quan tới mối quan hệ này, mà chỉ nêu bật lên một điểm: Hệ tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản từ lâu đã được nhiều người coi là giá trị chính thống của mình, nó đảm nhận vai trò “chất kết dính” xã hội, thống nhất xã hội trong một thời gian tương đối dài, nhất là trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hệ tư tưởng đó cũng đang khủng hoảng sâu sắc trước những chuyển biến sâu sắc của xã hội”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Thực trạng văn hóa Việt Nam theo nhận xét của Nguyễn Kiến Giang 18 năm trước đã không thay đổi đáng kể, bởi định nghĩa từ Nghị quyết 5, cũng như cách lãnh đạo văn hóa mà ông Trần Trọng Tân nhắc lại với ý không đồng tình, vẫn không có gì đổi khác.
Vậy nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm gì khiến cho nó không tương thích với cuộc sống của một xã hội đổi mới và hội nhập quốc tế?
1- Đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống dân tộc.
Có lẽ điều này bắt nguồn từ sự vận dụng “lý luận kinh điển”. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, trả lời câu hỏi vì sao chủ nghĩa cộng sản xóa bỏ tôn giáo và đạo đức cũ, Marx và Engels viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với chế độ sở hữu cổ truyền; không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng cổ truyền”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Gia đình to (cả nước) và gia đình nhỏ: Cái nào nặng? Cái nào nhẹ? Người cách mạng chọn gia đình to.”
Trước khi tiến hành một đợt “hành động cách mạng”, các cán bộ Đảng và các đoàn thể tiến hành công tác tuyên truyền giáo dục làm cho nhân dân tin rằng: thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp là đạo đức thiêng liêng cao cả nhất, tình cảm gia đình, thậm chí là tình mẫu tử, phụ tử đều phải đặt xuống dưới.
Đó là nguyên nhân xảy ra con tố cha, vợ tố chồng trong cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp. Khuyến khích việc “tố” như thế chẳng những trái luân thường, mà sau này còn được biết là do quá khiếp sợ, muốn tâng công với chế độ, họ bịa chuyện vu khống người ruột thịt của mình. Nói dối ở trường hợp này đồng nghĩa với tội ác.
Nhiều tác phẩm văn học cũng thể hiện quan điểm đó.
Kịch bản “Lê Văn Tám đốt kho xăng” miêu tả Lê Văn Tám lân la cầu thân với lính gác kho, dần dà được họ tin yêu coi như con em. Lợi dụng sự tin cậy của các chú lính, Tám dễ dàng xâm nhập đốt kho xăng. Gần đây, bộ phim truyền hình “Cuồng phong” có chủ đề chống tội phạm buôn ma túy. Trong phim, công an đã giác ngộ cô Phượng nhận thức được việc buôn ma túy là tội ác, sau đó giao cho cô nhiệm vụ theo dõi, gài bẫy người bạn đồng hương muốn giúp đỡ cô có tiền giúp mẹ bằng việc buôn ma túy và theo dõi tố giác người tình rất yêu cô là một tay buôn ma túy.
Để tồn tại trong một chế độ đặt ý thức hệ lên trên đạo đức truyền thống, người ta phải khai man lý lịch, mang cái mặt nạ “lập trường giai cấp” để che giấu suy nghĩ thực.
2- Văn hóa xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa Marx - Lenin thành chân lý độc tôn.
Tự do tư tưởng chỉ được phép trong vùng soi chiếu của quan điểm Marx - Lenin. Mọi tư tưởng khác với nó đều là thù địch. Phân biệt ranh giới tư tưởng thù địch rất khó, do vậy mà nhiều Ủy viên Bộ chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô, Trung Quốc lần lượt bị trở thành kẻ thù của cách mạng và bị giết. Nhiều đảng viên cộng sản cấp cao ở Việt Nam bị quy là “bọn chống Đảng”, bị tù tội cũng chỉ vì có mấy ý kiến khác Nghị quyết của Đảng. Đó là nguyên nhân khiến nhiều đảng viên cán bộ không dám nói thật ý mình, nghĩ một đàng nói một nẻo, báo cáo láo. Ông Hoàng Minh, chủ tịch Công đoàn quận 11, một đảng viên có công thời chống Mỹ, luôn luôn được đánh giá “4 tốt”, bỗng bị phát hiện trước khi tham gia cách mạng ông có theo đạo Hồi mà không khai trong lý lịch. Ông bị đuổi ra khỏi Đảng và cho về hưu.
Độc tôn tư tưởng rất trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, luôn luôn rộng mở đối với mọi tư tưởng, tôn giáo. Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo được người Việt Nam đón nhận, hợp lưu, hòa đồng, biến những điều tích cực trở thành yếu tố bản sắc văn hóa dân tộc. Người Việt gọi là “tam giáo đồng nguyên”. Đạo Cao Đài còn thoáng hơn, thờ tất cả danh nhân văn hóa thế giới.
Chủ nghĩa độc tôn tư tưởng gây ra tệ giáo điều nghiêm trọng và làm cho con người trở thành thụ động, ỉ lại, thiếu sáng tạo. Đó là nguyên nhân đưa tới chủ trương “chống tự diễn biến”, cản trở sự đổi mới của Đảng, kéo theo sự trì trệ của nhiều ngành, giáo dục, văn học, nghệ thuật…
3- Văn hóa xã hội chủ nghĩa đề cao tuyệt đối chủ nghĩa tập thể, đồng nhất chủ nghĩa cá nhân với chủ nghĩa vị kỷ và triệt để xóa bỏ.
Bảo vệ lợi ích cá nhân bị coi là vị kỷ, là xấu, cho nên nguyện vọng được hưởng thụ lợi ích chính đáng của cá nhân mình cũng luôn phải che giấu. Con người phải sống hai mặt, bên ngoài thì ca ngợi tập thể, bên trong thì toan tính cho riêng mình.
Các quyền con người đều là quyền của tập thể chứ không phải của cá nhân. Quyền tự do báo chí là quyền của đoàn thể được ra báo. Quyền hội họp là quyền của các đoàn thể đã được cho phép thành lập và chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Các đoàn thể ở chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là tổ chức dân sự, phi chính phủ (NGO) mà là tổ chức chính trị, những cánh tay nối dài của Đảng. Các đoàn thể này có chức năng tổ chức những phong trào thực hiện nghị quyết của Đảng, như phong trào thi đua tập thể, phong trào xây dựng khu phố văn hóa; phong trào dạy tốt, học tốt… Những phong trào này là nguồn sản xuất ra những báo cáo láo, tô vẽ những điển hình theo khẩu vị cấp trên.
Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” làm cho mọi sai lầm, thất thoát không thể quy trách nhiệm cho ai. Nạn hội họp lu bù chính là con đẻ của nguyên tắc “trách nhiệm tập thể”, vì cần phải họp để có quyết nghị của tập thể, mai sau hư hại không ai bị kỷ luật hoặc phải ra tòa. Vụ Vinashin không thể tìm ra người chịu trách nhiệm chính là một ví dụ của cơ chế “trách nhiệm tập thể”. Hội họp lu bù đã trở thành một yếu tố văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Có lẽ cũng là do “trách nhiệm tập thể” mà không có một cá nhân nào trong những người lãnh đạo Việt Nam chịu đứng tên trả lời thư công dân. Trong hồi ký “Nhớ Lại”, nhà thơ Đào Xuân Quý có ghi lại một thắc mắc: Trước Đại hội Nhà văn lần thứ 4, năm 1989, ông có gửi thư xin ý kiến ông Cố vấn Trung Ương Đảng Võ Chí Công về tình hình các nhà văn có quan điểm trái nhau rất nghiêm trọng. Ông Quý mong ngóng mãi mà không được ông cố vấn trả lời! Mấy năm nay hiện tượng “không trả lời” đã trở thành chuyện thường ngày: Các vị đại công thần của chế độ và có tuổi tác đáng cha chú các nhà lãnh đạo đương quyền như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên… gửi nhiều thư cho Bộ chính trị, Quốc hội, Chính phủ đều không được trả lời. Các kiến nghị của hàng ngàn trí thức cũng không được trả lời!
“Không trả lời” là một yếu tố văn hóa xã hội chủ nghĩa?
Trong nền văn hóa truyền thống ông bà ta có câu “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa” phải chăng đó là lời răn dành cho những con cháu hôm nay còn tôn thờ chủ nghĩa tập thể? “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của mọi người”, tuyên ngôn ấy của Marx, Engels từ năm 1848 đã không thành hiện thực trong các chế độ xã hội chủ nghĩa khoa học do hai ông sáng lập!
4- Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tầm thường hóa văn học, nghệ thuật, khuyến khích văn học nghệ thuật minh họa chính trị.
Cùng thời với K. Marx, nhà văn Dostoyevsky của Nga cho rằng “Cái đẹp cứu rỗi thế giới” “Không có một tác phẩm chân chính nào lại không vị nhân sinh”. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những tác phẩm có tính nhân văn, bênh vực các quyền con người đều bị cấm đoán, như “Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak ở Liên Xô; “Con nai đen” của Nguyễn Đình Thi, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm… Tác phẩm hay nhất phải là tác phẩm phục vụ kịp thời cho chính trị. Tố Hữu gọi tiểu thuyết “Hòn Đất” của Anh Đức là “hòn ngọc”, mặc dù về nghệ thuật rất non kém. Cũng theo Tố Hữu, quyển tiểu thuyết hay nhất miền Bắc là “Cái sân gạch” của Đào Vũ ca ngợi cuộc sống ở hợp tác xã nông nghiệp (sự thật là các hợp tác xã đang làm cho năng suất lúa sút giảm, khiến những người trung thực như ông Kim Ngọc tìm cách khoán chui để cứu nông dân).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

Năm 1967, tôi đến tỉnh Quảng Ninh, được nghe câu chuyện về “ông Các Mác của tỉnh ta”. Trong cuộc triển lãm hội họa của tỉnh, ông Ủy viên Ban thường vụ tỉnh Ủy, Trưởng ban Tuyên giáo đến xem và dừng lại trước bức tranh vẽ một cây cổ thụ, đã có ý kiến chỉ đạo: “Tác giả này chưa quán triệt quan điểm lập trường của người thợ mỏ! Chúng ta đang thiếu gỗ chống lò. Nếu trồng ra toàn những cây có thân uốn éo như trong bức tranh này thì lấy đâu ra gỗ chống lò để khai thác than”?”.
Kể sao cho hết những chuyện cười ra nước mắt! Chính vì thế mà lúc cuối đời, nhà văn quân đội Nguyễn Minh Châu đã viết “Ai điếu cho nền văn học minh họa”. Nhưng đến nay nền văn học ấy vẫn còn được khuyến khích.
III- Vì sao học đạo đức Hồ Chí Minh mà không thể làm theo?
Các nhà lãnh đạo của Đảng đều thấy mối nguy của tình trạng cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, nhưng có lẽ chưa thấy nguyên nhân chính là do không đổi mới toàn diện, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội. Hoặc có thấy, nhưng lại sợ đổi mới toàn diện thì gây mất ổn định, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng
Bộ chính trị chủ trương phát động cả nước học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với mục đích đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, làm trong sạch đội ngũ Đảng và cán bộ công chức, khôi phục đạo đức xã hội. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội 11 nhận định: “Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn có hiểu hiện hình thức”. Thực tế, có thể kể hằng loạt tên tuổi những cán bộ ở tất cả các cấp, không chỉ là người học mà còn là người đứng trên bục giảng về đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng họ lại vi phạm ngay những điều chính họ vừa rao giảng, họ tham nhũng lớn hơn, nhận hối lộ to hơn, chiếm đất đai nhiều hơn. Chỉ cần giở danh sách những người phạm kỷ luật gần đây thôi đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của sự sa sút về tư tưởng đạo đức trong cán bộ trung, cao cấp: Ủy viên Trung Ương Đảng, bí thư Tỉnh Ủy Ninh Bình bị kỷ luật vì sa sút phẩm chất đạo đức, lối sống; ba Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh Ủy tỉnh Trà Vinh bị kỷ luật vì vi phạm pháp luật về nhà, đất; thành phố Hà Nội có 282 đảng viên bị kỷ luật, trong đó có lãnh đạo Tổng công ty Đầu tư - Phát triển nhà, 5 lãnh đạo cấp Sở; 3 lãnh đạo thành phố Sơn Tây, 91 đảng viên phạm pháp. Phó bí thư Tỉnh Ủy kiêm Chủ tịch tỉnh Hà Giang có lối sống sa đọa, được cảnh báo mà không sửa. Bí thư, hai phó bí thư, một Ủy viên Thường vụ tỉnh Ủy Cà Mau, Bí thư tỉnh Ủy Tiền Giang, Phó bí thư Tỉnh Ủy Thái Bình đều bị “thực hiện quy trình xử lý kỷ luật”. Đặc biệt có các vị lãnh đạo ngành tuyên huấn như Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam; Giám đốc Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cũng phải bị “thực hiện quy trình xử lý kỷ luật”. Còn ở cấp cơ sở? Có thể nói, ở đâu cũng có tham nhũng, có nơi đã bị phát hiện và những nơi còn lại có thể chỉ vì “chưa bị lộ”! Chỉ một xã An Ninh đã có đến 60 đảng viên bị kỷ luật vì ăn xén, ăn bớt tiền cứu tế người nghèo thì có thể đoán được tình trạng chung về đạo đức ở các địa phương khác trong cả nước.
Tại hội trường Quốc hội, ngày 1 tháng 11 năm 2010, đại biểu Lê Văn Cuông phát biểu ngắn, nhưng có giá trị tổng kết: “Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã được triển khai 4 năm trên phạm vi cả nước, nhưng kết quả làm theo lời Bác chưa được nhiều, trái lại có một số vấn đề bức xúc như chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, tư lợi, đạo đức xuống cấp trong một bộ phận cán bộ công chức ngày càng có biểu hiện tinh vi, phức tạp”. Ngày 30 tháng 11-2010 tại Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng, ông Trương Vĩnh Trọng Phó thủ tướng, thay mặt Ban chỉ đạo công tác này báo cáo: “Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp…”
Vì sao nhiều lần học đi học lại đạo đức Hồ Chí Minh mà số đông cán bộ đảng viên vẫn không thực hiện được?
Trước thế kỷ 20, các nhà hiền triết khoa học giáo dục đã kết luận: Việc giáo dục đạo đức không giống như giáo dục kiến thức. Sau khi học Luật giao thông, người đi đường có thể vận dụng được. Nhưng kẻ thiếu đạo đức học xong bài đạo đức, hắn vẫn tiếp tục sống vô đạo đức. Vấn đề này đã được nhân loại tranh cãi từ 2500 năm trước. Nhà giáo dục Mỹ đầu thế kỷ 20 John Dewey cho rằng, hiểu biết lý thuyết về mìn của tên trộm két sắt có thể giống hệt như hiểu biết của một nhà hóa học, nhưng hai bên hoàn toàn khác nhau về mục đích thói quen, tính cách, đạo đức, cho nên tên trộm dùng hiểu biết về mìn để phá két sắt, trộm của cải. Nhà giáo dục John Dewey khi phân tích những lý luận về đạo đức, đã nêu ra 4 nội dung như sau:
1. Cái bên trong và cái bên ngoài: Tinh thần, cái bên trong của con người và hành vi ứng xử của một con người là thống nhất, không thể chia cắt.
2. Người có đạo đức là người thực hiện nghĩa vụ một cách hứng thú.
3. Trong một xã hội dân chủ, tính cách, đạo đức của mỗi cá nhân mới là điều đáng mong đợi.
4. Có câu châm ngôn: Gieo thói quen sẽ gặt tính cách, gieo tính cách, sẽ gặp số phận.
Các nhà hiền triết giúp cho nhân loại mỗi ngày có thêm những nhận thức mới về thiên nhiên và bản thân mình. Đến đầu thế kỷ 20, Sigmund Freud phát hiện hành vi của con người không chỉ được điều khiển bởi ý thức mà nó còn bị chi phối, thúc đẩy bởi động lực của vô thức nằm sâu tận đáy tâm thức. Có thể hiểu điều ấy theo cách nói ví von nôm na của nhiều người hôm nay là “Trong con người có một phần 'con' và một phần ‘người'; phần 'người' thì lộ ra, còn phần 'con' thì bị che giấu”. Tốt thì khoe, xấu thì che mà.
Từ học thuyết của Sigmund Freud, người ta đánh giá lại cách nhìn nhận đạo đức của thế kỷ 19 “Đi qua nhanh, quay mặt không nhìn tất cả những gì là khó chịu, luôn luôn làm như không trông thấy gì: Đó là tóm tắt toàn bộ quy tắc đạo đức của thế kỷ 19” (S. Freud, của Stephan Zweig). Đó chính là thói đạo đức giả.
Bởi vậy, chúng ta có thể hiểu nguyên nhân vì sao việc tổ chức học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh ở khắp các tỉnh thành trong cả nước không thu được kết quả. Ngược lại, cách tổ chức học tập còn gây một số tác hại như sau:
1- Với quy mô tổ chức rộng khắp và kéo dài nhiều năm rất tốn kém tiền bạc, nhất là tốn nhiều thời gian quý báu. Sau mỗi đợt học tập, mỗi người được phát giấy để viết thu hoạch nộp lên ban tổ chức. Mỗi chi bộ, đảng bộ đều có cuộc họp tổng kết biểu dương khen thưởng những người viết thu hoạch sâu sắc. Sau đó những người có thu hoạch sâu sắc lại được đưa lên cấp trên dự cuộc thi thuyết trình để chọn ra người xuất sắc nhất của phường, rồi của quận, tỉnh, thành phố.
Cách làm này khuyến khích những người có khiếu nói, tô vẽ những điều do họ nghĩ ra. Những người thực sự có đạo đức thường khiêm tốn thực thà, ít nói, nhiều người còn xin không đi học vì nghĩ rằng mình đã học nhiều lần rồi, vấn đề còn lại là chưa thực hành tốt.
2- Sau một thời gian dài, hậu quả xấu bộc lộ thành “quy luật”, gây phản cảm đối với những đảng viên và người dân trung thực. Họ nhìn ra những người mồm lúc nào cũng nói làm theo đạo đức Hồ Chí Minh mà hành vi, lối sống thì ngược lại. Nhà văn, cựu chiến binh, đảng viên Phạm Đình Trọng trong bài “Ăn mày dĩ vãng” đã coi cách tổ chức cuộc vận động học tập đạo đức Hồ Chí Minh như hiện nay đã làm cho những người học trở thành “những diễn viên đang diễn vở kịch học tập đạo đức Hồ Chí Minh”. Và “Một bộ máy nhà nước tham nhũng cao giọng rao giảng đạo đức Hồ Chí Minh thì đó là sự giả dối vô liêm sỉ". Cuộc vận động học tập đạo đức Hồ Chí Minh trở thành cuộc vận động làm điều giả dối, “núp bóng ăn theo vinh quang của quá khứ để tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng.”
3- Nhà văn Phạm Đình Trọng còn có một nhận xét rất xác đáng là cuộc vận động mang “Tính hình thức, áp đặt, duy ý chí, đầy tính tôn giáo, tụng niệm. Cách công tác tư tưởng theo lối mòn xưa cũ, không thích hợp với thời đại công nghệ thông tin”.
Vì bài viết trên, đảng viên Phạm Đình Trọng một người trung thực, thẳng thắn bị kiểm điểm nặng nề, đưa tới quyết định phải ra khỏi Đảng!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

IV- Xây dựng nền văn hóa hiện đại.
Thế kỷ 18 nước Pháp sản sinh nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đề cao giá trị cá nhân con người, Con Người viết hoa. Ánh sáng tư tưởng của họ làm cho thế kỷ 18 mệnh danh là Thế kỷ ánh sáng: Nhân loại nhận ra mình có những quyền được tạo hóa ban cho. Niềm tin đó tạo ra sức mạnh và trí tuệ đưa tới cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Hai trăm năm qua, ánh sáng đó lan tỏa khắp châu Âu, châu Mỹ, trở thành nền văn hóa hiện đại của toàn nhân loại. Nhật Bản là những người châu Á đầu tiên sớm biết hấp thu nền văn hóa đó để trở nên một dân tộc có nền văn hóa hiện đại, trước khi trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại. Người Hàn Quốc, Đài Loan cũng theo hướng đó và tìm được phồn vinh về vật chất và phong phú cho tâm hồn.
Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Việt Nam ta đã bắt đầu phong trào Âu hóa, chủ yếu là tiếp thu văn hóa Pháp và Việt hóa nó, biến nó thành của mình. Lúc ấy cũng có sự tranh chấp giữa nho học với tân học, giữa một số tập tục với sinh hoạt mới, nhưng cái mới đã tỏ rõ ưu thế. Nhờ tiếp thu văn hóa hiện đại mà chúng ta có chữ quốc ngữ, có báo chí, có tiểu thuyết mới, thơ mới, kịch nói, tân nhạc, đàn ông cắt tóc ngắn, đàn bà tóc uốn, có thói quen người lớn uống cà phê, trẻ con uống sữa.
Nền văn hóa Việt Nam ngừng tiếp thu văn hóa hiện đại suốt 30 năm chiến tranh. Nói cho đúng là nó ngừng tiếp nhận những giá trị gọi là “văn hóa tư sản Phương Tây”, để bắt đầu tiếp nhận văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ở các vùng Pháp chiếm và sau này ở các đô thị miền Nam vẫn tiếp tục giao lưu, tiếp thu văn hóa phương Tây và đạt được một số hiệu quả đáng kể. Tuy nhiên, việc này không được số đông nhân dân Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo, đang sôi sục lao vào cuộc “chống Mỹ cứu nước” chấp nhận. Giữa Sài Gòn trước năm 1975 có phong trào Bảo vệ văn hóa dân tộc nhằm chống lại cái gọi là “văn hóa thực dân mới của đế quốc Mỹ”. Quyển “Người Việt cao quý” của Vũ Hạnh là tác phẩm đẻ ra từ phong trào đó.
Sau “Đổi mới”, gia nhập WTO, Việt Nam mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu, văn hóa hiện đại cũng du nhập vào đất nước ta: Công nghệ tin học phát triển như vũ bão; nhạc rock được lớp trẻ yêu thích; các họa sĩ sáng tác với nhiều phương pháp là tả thực, trừu tượng, ấn tượng, nghệ thuật sắp đặt; nhiều nhà thiết kế thời trang Việt Nam được thế giới biết tới; người mẫu thời trang là một nghề mới được xã hội hâm mộ… Cùng với nhiều hình thức văn hóa hiện đại, cũng có những xu hướng bệnh hoạn xâm nhập làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng văn hóa như phim ảnh khiêu dâm, bạo lực. Nhiều clip sinh hoạt tình dục, bạo lực ở trường học bị tung lên mạng…
Điều cực kỳ quan trọng hiện nay là chúng ta cần xác định những mục tiêu nào cấp thiết nhất để hiện đại hóa nền văn hóa Việt Nam trong thời đại mà “Thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các dân tộc” (Tuyên ngôn Cộng sản). Chúng tôi cho rằng các mục tiêu có thể tìm thấy ngay trong chủ nghĩa nhân văn từ thế kỷ ánh sáng mà tới hôm nay vẫn còn là mơ ước xa vời của người Việt Nam. Đồng thời khôi phục và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1- Khôi phục những giá trị văn hóa thiêng liêng:
Tình yêu Tổ quốc, từng tấc đất thấm máu tổ tiên và đồng bào ruột thịt là thiêng liêng. Mọi tổ chức, cá nhân dù là vĩ nhân cũng không được đặt ngang hàng vị trí đó. Các quyền sống và quyền tự do là những giá trị thiêng liêng.
Tình yêu cha mẹ, gia đình ruột thịt là thiêng liêng.
“Lửa tình yêu dù nước dâng cao bao nhiêu cũng không thể dập tắt” (Thánh kinh) phải là cơ sở của hôn nhân.
Sống và làm việc theo pháp luật và sống trong tình nhân ái là hai nét song đôi của nếp sống văn hóa hiện đại.
Những điều kể trên tưởng không có gì phải tranh cãi, ấy vậy mà nhiều năm qua đã có những ngăn cách:
- Tổ quốc phải gắn liền với xã hội chủ nghĩa? Có hay không? Câu hỏi đó đang chia rẽ Việt Nam, gây bầm giập tâm can người dân Việt Nam. Nhiều người, có cả những đảng viên cộng sản phải vào trại cải tạo vì dám nói không, chỉ có một Tổ quốc! Vì sao phải bảo vệ một tín điều không tưởng để gây chia rẽ, đau đớn đến thế? Một tín điều đã gây ra cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, nông nghiệp, đàn áp Nhân Văn Giai phẩm! Nguy hại hơn vì tin theo nó mà những người cộng sản Việt Nam khi đối mặt với kẻ thù dân tộc cứ lầm tưởng là những đồng chí thân thiết, ngược lại lắm khi nhìn đồng bào ruột thịt của mình lại e sợ đó là những kẻ thù giai cấp!
- Nền giáo dục Việt Nam đặt nội dung giáo dục ý thức hệ Marx - Lenin là trọng tâm. Trẻ vào mẫu giáo đã nghe những bài hát chính trị. Những người soạn sách giáo khoa bất cứ môn học nào cũng cố lồng chính trị vào, coi đó là một thành tích. Chị Trần Mai Liên mẹ của một học sinh ở huyện Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh, gửi cho báo Phụ Nữ điều ước đầu năm 2009 “Mong sửa đổi sách giáo khoa sao cho thiết thực. Môn giáo dục công dân dạy những lý tưởng cao xa không phù hợp với trẻ. Đối với trẻ cần phải dạy cho chúng biết yêu ông bà, cha mẹ, anh chị em và mọi người và biết sống có trách nhiệm với bản thân mình, với cộng đồng, không tham lam ích kỷ”.
2- Xây dựng con người Việt Nam tự tin, tự lập, không thụ động, ỉ lại hoặc phụ thuộc vào tập thể cộng đồng, có tư duy độc lập, luôn luôn sáng tạo, dũng cảm bảo vệ niềm tin, quan điểm của mình trước số đông, trước bạo lực.
Thân phận của mỗi người trong mối quan hệ với cộng đồng là mối suy ngẫm nghìn năm của loài người, được nung nấu suốt thời Phục hưng và bừng nở thành một sự khám phá: “Mỗi người sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền” (Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, 1789).
Vừa qua, giải Nobel Hòa Bình 2010 trở thành một thách thức lớn đối với lương tri toàn nhân loại.
Một bên chủ yếu là Trung Quốc cho rằng “Lưu Hiểu Ba là kẻ thủ ác, một tên tội phạm đang thụ án 11 năm tù vì tội kích động bạo loạn, mưu toan lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa”.
Sau đây là nội dung “tội ác” của Lưu Hiểu Ba: “Gạt bỏ khái niệm độc đoán của việc lệ thuộc vào một chúa tể hoặc một quan chức, thay vào đó, một hệ thống tự do, dân chủ, pháp trị, đồng thời tiến tới việc khuyến khích cổ vũ cho ý thức của các công dân mới, những người xem quyền con người là cơ bản và việc góp phần mình vào là một nhiệm vụ” (“Linh bát Hiến chương” do Lưu Hiểu Ba chấp bút).
Ủy ban Nobel Hòa Bình đánh giá Lưu Hiểu Ba là bậc đại hiền, một nhân cách cao cả, dũng cảm bảo vệ các quyền con người.
Các quốc gia dân chủ đều hoan nghênh sự kiện này. Báo chí Việt Nam chỉ thuật lại phản ứng của Trung quốc. Không có một người Việt Nam nào phát biểu quan điểm của riêng mình đối với sự kiện này trên báo chí trong nước. Chẳng lẽ người Việt Nam thụ động chỉ chờ nghe ý kiến của những người lãnh đạo? Dân tộc ta đang rất cần một môi trường văn hóa chấp nhận tự do tư tưởng, phản biện, tranh luận, để hình thành những cá nhân có đức tính tự tin, tự lập, tự chủ. Ngay trong chế độ này, giữa tháng ngày cay đắng nhất cũng đã từng có những con người giữ được phẩm chất ấy, như ông Kim Ngọc. Tiếc thay mẫu người ấy, phẩm chất ấy không được trân trọng, nhân lên! Càng đáng buồn hơn là những người có phẩm chất ấy đã bị trù dập đày ải! Con người Việt Nam co rúm lại!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 31 Aug 2018

3- Trong nền văn hóa hiện đại, mỗi người dân phải ý thức sâu sắc mình là một công dân, chứ không phải thần dân.
Hiện nay dù đã trải qua 65 năm cách mạng, dù Hiến pháp ghi nhà nước là của dân, do dân, vì dân, cán bộ là đày tớ của dân, nhưng trong thực tế người dân vẫn bị đối xử như những thần dân. Các đày tớ của dân bày ra đủ thứ thủ tục để hành dân, để vòi của đút.
Thế nào là ý thức công dân ở một nước dân chủ? Công dân ở tư thế của người chủ nhân đất nước, có quyền ứng cử, bầu cử tự do, lập ra nhà nước theo thể chế mà mình chọn để phục vụ cho mình, hành pháp có quyền lực bị hạn chế và kiểm soát theo luật định. Chỉ có như vậy Nhà nước mới thực sự là của dân do dân, vì dân. Công dân có quyền tự do trong đó có quyền tự do báo chí, tự do lập hội phù hợp với nghề nghiệp, để bảo vệ quyền lợi của mình, trong xã hội dân sự.
Những người cầm quyền Việt Nam vẫn tiếp tục khuyến khích cách suy nghĩ theo địa vị thần dân:
- “ơn Bác, ơn Đảng… ơn Đảng, ơn chính phủ…”
Mới đây người dân Miền Trung bị lũ lụt mất cả mạng sống, tài sản, khi được tặng mấy bao mì gói vẫn khúm núm nói lên lòng biết ơn Đảng, chính phủ. Báo chí, đài truyền hình đưa nguyên văn những lời này để “định hướng công tác tư tưởng”.
- “Đảng cử dân bầu” trong tất cả các cuộc bầu cử từ Quốc hội cho đến các đoàn thể, đó là biểu hiện của nền chính trị và văn hóa của xã hội thần dân.
- Các danh hiệu “ưu tú”, “nhân dân” các nhà giáo, nghệ sĩ đều phải làm đơn “kính gửi… xin được phong tặng”. Vài năm nay nhiều nghệ sĩ ở miền Nam phản ứng không chịu làm đơn theo gợi ý. Nhiều nghệ sĩ được nhân dân hâm mộ nhưng không có “danh hiệu”, trong khi nhiều vị có danh hiệu “nhân dân” nhưng khi xuất hiện không được nhân dân vỗ tay!
4- Thời mông muội, con người luôn run sợ trước thiên nhiên. Từng bước khám phá, khuất phục, cải tạo thiên nhiên, khai thác thiên nhiên phục vụ cho mình, con người tìm cách sống hòa hợp với thiên nhiên.
Nhưng suốt quá trình công nghiệp hóa, càng ngày con người càng tàn phá thiên nhiên rất dữ dội. Đến nay, sức khỏe trái đất đang lâm nguy. Các quốc gia công nghiệp có nhiều cuộc hội họp bàn thảo, đề ra những nghị định thư, nhưng vì còn nhiều quốc gia bo bo giữ lợi ích riêng, đến nay vẫn chưa có tiếng nói bảo vệ trái đất.
Ở nước ta, nạn phá rừng được cảnh báo hằng chục năm trước và gần đây là làm thủy điện vô tội vạ. Thiên nhiên đáp trả lại bằng sự trừng phạt, lũ lụt năm sau cao hơn năm trước. Bình luận viên Đài Truyền hình Việt Nam mới đây nhận xét, mức nước ngập ở Miền Trung năm 2010 cao hơn mức ngập của “trận lũ lịch sử năm 2007”!
Các nhà máy, xí nghiệp bí mật hoặc công khai xả nước thải giết chết nhiều con sông từ Nam chí Bắc. Làng có nhiều người bị nhiễm độc chết vì bị ung thư được gọi là “làng ung thư”.
Một “chủ trương lớn” trao cho Trung quốc khai thác bauxite Tây nguyên trên nóc nhà Tổ quốc, treo cái chết bởi túi bùn độc khổng lồ trên đầu hàng chục triệu nhân dân mà bao nhiêu lời can ngăn vẫn chưa được lọt tai lãnh đạo.
Vừa qua, lễ hội ngàn năm Thăng Long để lại những bãi rác khổng lồ. Trước đây, những hội hoa anh đào, hội hoa xuân cũng đã bị dẫm đạp xâu xé, để lại những bãi rác môi trường và bãi rác đạo đức.
Bảo vệ trái đất, bảo vệ rừng, sông, biển, bảo vệ môi trường sống đang là bài học chưa thuộc của Việt Nam từ những người lãnh đạo cho tới người dân.
Bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống là một tiêu chí quan trọng của nền văn hóa hiện đại.
5- Lâu nay chúng ta nói nhiều về “đậm đà bản sắc dân tộc”, nhưng chưa ai dẫn giải thật xác đáng nội dung của nó.
Nhiều người nghĩ rằng, phục hồi các lễ hội, các tục cúng bái ở đình miếu, sáng tác nhạc theo làn điệu ca cổ là phục hồi bản sắc dân tộc. Gần đây xuất hiện khái niệm các bài hát “dân gian hiện đại”. Ca sĩ Trần Hiếu không đồng ý khái niệm này. Không ai cãi ông, nhưng cũng chẳng ai tiếp thu ý kiến ông. Tôi nhớ cách đây nhiều năm, trong một lần trả lời báo chí, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo cho rằng một tác phẩm đậm đà bản sắc dân tộc là khi nó thể hiện sâu sắc tinh thần yêu nước. Tôi rất tán thành ý kiến ông. Bài thơ mà ngày nay được xem là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc, anh hùng Lý Thường Kiệt viết bằng chữ Tàu và dùng thể thơ tứ tuyệt đời Đường của Tàu. Thế nhưng ai cũng nhận thấy bài thơ này đầy khí phách và bản sắc dân tộc. Hồi “Thơ mới” xuất hiện, các nhà nho cực lực phản đối cho rằng nó là thứ ngoại lai nghịch nhĩ. Nhờ những người đi tiên phong thời ấy như Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên… mà chúng ta có được một gia tài thơ mới đáng tự hào. Suốt 30 năm chống “văn hóa thực dân mới” làm cho văn học nghệ thuật chúng ta gần như dừng lại ở nội dung giáo điều và hình thức thể hiện của thế kỷ 19. Sau khi mở cửa, người Việt Nam mới nhận ra nền văn học nghệ thuật của mình yếu kém đến thảm hại! Sách dịch chiếm trọn tất cả các gian hàng của các nhà sách. Trên truyền hình, phim Hàn Quốc, Trung Quốc chiếm tất cả các kênh.
Có người kêu lên chúng ta đang bị xâm lăng văn hóa! Thanh thiếu niên Việt Nam đổ xô đi mua sắm thời trang sao cho quần áo, tóc tai giống y như các sao Hàn Quốc! Sau đó, hàng trăm cô gái Việt Nam xếp hàng cho một anh Hàn Quốc sờ nắn chọn lựa!
Một buổi sáng tháng 9-2012, quận Ủy đã chủ trì một cuộc họp, có mặt đông đảo các Ủy viên đảng Ủy, chi Ủy để kiểm điểm tôi. Ông Luân, Ủy viên thường vụ quận Ủy chủ trì cuộc họp phát biểu khá dài, rồi tóm lại: “Cuộc họp này nhằm 'khuyên giải' đồng chí Công dừng lại, đừng viết những bài trái Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng” và mời tôi phát biểu. Tôi nói vắn tắt: “Liên xô, Đông Âu sụp đổ là do mô hình độc tài toàn trị xô viết kiểu Stalin trái với xu thế tự do, dân chủ của thời đại. Nếu Đảng không đổi mới chính trị từ bỏ mô hình đó thì không thể tồn tại được. Từ trước đến nay, những đảng viên nói trái với Cương lĩnh của Đảng đều phải chịu trừng phạt nặng nề. Nhưng vì sự tồn vong của đất nước, tôi không sợ chết!”. Ông Thường bí thư chi bộ vui vẻ: “Tôi rất kính trọng đồng chí Công, vì tuổi đời, tuổi Đảng và sự hiểu biết đều là đàn anh của tôi. Nhưng tôi tin rằng tập thể Ban lãnh đạo của Đảng ta có đủ sáng suốt lèo lái công cuộc xây dựng và bảo vệ Đảng và đất nước. Tôi tin rằng Đảng ta không bao giờ chết và tôi cũng mong rằng đồng chí Công cũng không chết”. Ông Hùng Trưởng ban Tuyên giáo quận Ủy, một người trẻ, có lẽ ngày 30-4-75, ông còn là một nhi đồng, đứng lên giọng hùng hồn phê phán “một đảng viên được đảng giáo dục suốt 56 năm mà không chịu nghiêm túc tu dưỡng, kiên trì rèn luyện đạo đức cách mạng, do đó đã sa đọa về tư tưởng, lập trường chính trị, phát ngôn toàn là những luận điệu phản động chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội”. Chủ tọa mời đảng viên lão thành Đỗ Liệt Hùng phát biểu.
Trái với mong muốn của họ, lão thành cách mạng Đỗ Liệt Hùng chỉ nói rằng Tống Văn Công chỉ vì tha thiết xây dựng Đảng mà viết. Chủ tọa mời vợ tôi. Mọi con mắt của các quận Ủy viên, đảng Ủy viên trừng trừng nhìn vợ tôi đầy đe dọa. Vợ tôi rất nhỏ nhẹ, từ tốn, nhưng khẳng định rằng chồng mình là người rất yêu nước và rất trung thực, chỉ vì lòng yêu nước mà viết và không hề lo sợ thiệt hại cho bản thân và gia đình. Vợ tôi nói “mặc dù tôi đã khuyên, anh thoát ly gia đình đi chống Pháp khi mới 17 tuổi, đã cống hiến cả đời mình. Nay già rồi nên để mọi việc cho lớp trẻ. Nhưng anh ấy không chịu, cho rằng còn sống thì còn trách nhiệm”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

Đi Biểu Tình Chống Trung Quốc Xâm Lược.

Các mạng yêu nước kêu gọi, ngày 9-12-2012 xuống đường biểu tình chống Trung Quốc xâm lược. Điểm tập họp ở Sài Gòn là sân trước Nhà hát Lớn thành phố. Vợ chồng tôi định đúng 7 giờ sẽ lên xe tắc xi, đến nơi vừa đúng giờ. Đang chuẩn bị lên đường thì có điện thoại của giáo sư Tương Lai “cầu cứu”. Ông cho biết, rất nhiều công an không cho xe tắc xi dừng lại đón ông. Ông đã đi bộ từ khu Mỹ Khánh (giữa con đường Nguyễn Đức Cảnh, quận 7) đến đầu đường Bùi Bằng Đoàn mà không thể gọi chiếc tắc xi nào ghé vào đón anh. Tôi bảo, anh đừng gọi tắc xi, vờ như không còn muốn đi nữa. Anh đứng dưới gốc cây bên ngoài Nhà hàng Thái. Vợ chồng tôi sẽ lên chiếc tắc xi Mai Linh màu xanh, chạy quẹo qua, dừng lại, anh nhanh chóng mở cửa xe, ngồi vào chiếc ghế cạnh tài xế, rồi ta vọt.
Giáo sư Tương Lai là thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Võ văn Kiệt, sau đó là thành viên Viện IDS do giáo sư Hoàng Tụy làm Viện trưởng, tiến sĩ Nguyễn Quang A làm tổng thư ký. Ông được Lê Duẫn, Phạm văn Đồng tin cậy, cho nên ông cũng rất kính trọng các vị này. Năm 2015, ông tự xuất bản quyển “Cảm nhận và Suy tư” (vì sách không được phép xuất bản). Tôi có bài giới thiệu quyển sách này với tựa đề “Cảm nhận và suy tư của một trí thức cộng sản”, đánh giá rất cao những ý kiến của ông về sự cấp thiết phải đổi mới chính trị, đưa đất nước vào tự do dân chủ. Trong đó, tôi có góp ý với ông đôi điều về đánh giá Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Phạm văn Đồng. Ông băn khoăn về thuật ngữ “làm chủ tập thể” của Lê Duẫn: “Bởi vì nội hàm của thuật ngữ ấy theo chân ngữ thì quá hẹp. Đó là nhược điểm về chọn một thuật ngữ để diễn đạt một quan điểm. Thà chỉ nói 'làm chủ' lại rộng hơn”. Tôi đã góp ý với ông: “Đây không phải là nhược điểm về việc chọn thuật ngữ để diễn đạt một quan điểm mà chính là quan điểm của những người tôn thờ chủ nghĩa tập thể, chống lại tự do cá nhân mà Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp năm 1879 và Tuyên ngôn Nhân quyền Liên hiệp quốc năm 1948”. Triết gia, nhà văn Ayn Rand trong lời giới thiệu tác phẩm 'Cội nguồn' (Fountainhead) của bà đã viết: “Tất cả các biến thể của chủ nghĩa tập thể thực ra vẫn giữ nguyên những nguyên tắc đạo đức của tôn giáo, có điều họ thay từ Chúa bằng từ Xã hội”.
Hiện nay giáo sư Tương Lai là nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, sở dĩ công an rình sẵn, là vì nhà anh là nơi gặp gỡ những người “tích cực xây dựng Đảng”, “đòi hỏi Đảng phải thực hiện dân chủ hóa” như Huỳnh Tấn Mẩm, Lê Công Giàu, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Kim Báu, Nguyễn văn Thôn, Nguyễn văn Kết, Nguyễn Tiến An, Hạ Đình Nguyên, Kha Lương Ngãi, Lưu Trọng Văn… Nhà anh cũng là nơi anh em gặp nhau cùng thảo luận xây dựng nhiều văn kiện xúc tiến dân chủ như “Kiến nghị xây dựng Hiến pháp dân chủ” (có 72 người ký tên cho nên được gọi là Kiến nghị 72), “Thành lập Diễn đàn xã hội dân sự”…
Trở lại chuyện đi biểu tình. Chúng tôi thực hiện đúng kế hoạch, nhưng xe không thể vọt được. Giáo sư Tương Lai vừa ngồi vào xe thì hằng chục chiếc xe ba bánh của công an vây kín. Công an trên chiếc xe mô tô áp sát bên tài xế tắc xi ra lệnh: “Anh chỉ được phép chạy theo chiếc xe công an ở phía trước. Anh liệu hồn, nếu không nghe lời, tôi sẽ lôi anh ra khỏi xe đấy”. Chúng tôi động viên anh tắc xi: “Đừng sợ, họ chỉ ngăn không cho đi biểu tình, chứ chả dám làm gì mình đâu! Đích đến là Nhà hát lớn. Cố lên”! Anh tắc xi rất cố gắng, nhưng không thể nào luồn lách để vượt khỏi hơn mười chiếc xe công an o ép, bao vây. Cuối cùng, chiếc tắc xi bị dí phải chui tọt vào sân đồn công an phường Tân Phong. Rất lịch sự, họ mời chúng tôi vào nhà, rồi đưa chúng tôi lên lầu. Chỉ mấy phút sau, bộ máy phục vụ đã bày biện bánh mì, hoa quả, trà, cà phê. Ông Danh phó bí thư quận 7, ông Hồng chủ tịch Mặt trận Tổ quốc quận 7, Đảng Ủy hai phường Tân Phong và Tân Kiểng, hai Ban chi Ủy của hai khu phố nơi tôi và nơi giáo sư Tương Lai cư ngụ. Ông Sơn bí thư chi bộ khu phố của anh Tương Lai đứng lên hùng hồn thuyết lý về sự sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông nói, do Đảng được trang bị tư tưởng Marx - Lê nin và trui rèn suốt quá trình đấu tranh lâu dài… Giáo sư Tương Lai quát: “Ông đừng khoác lác những điều cũ rích. Giặc Trung Quốc cướp đảo, cướp biển, bắn giết ngư dân ta, mà ông hùa với bọn coi giặc là đồng minh ý thức hệ. Tôi khinh bọn chúng, tôi khinh ông”. Góp phần ngăn ông bí thư khoe mẽ lý luận, tôi giở “mẹo”: “Ông bạn già ơi, nếu giảng giải lý thuyết Marx - Lê nin thì đó là chuyện của chúng tôi, chứ không thể là ông! Ông có biết quyển sách mới nhất về Marx ở Việt Nam là quyển gì không nào? Nhưng thôi, ở đây không phải là trường Đảng, không phải lúc giảng Marx -Lê mà ta đang bàn tại sao lại cấm biểu tình chống bọn bành trướng Bắc Kinh xâm lược, giết hại ngư dân Việt Nam”. Ông Phó bí thư quận Ủy được thể lên tiếng: “Đúng, chúng ta tranh luận cao xa làm gì. Đảng ta chỉ thị chưa cần đi biểu tình thì chúng ta bảo nhau chưa đi. Vậy thôi! Bây giờ Quận Ủy đã chuẩn bị xe rồi. Chúng tôi xin mời hai đồng chí xuống nhà ra xe, chúng tôi xin đưa các đồng chí về nhà”. Vậy là rất lịch sự, mỗi người chúng tôi được bốn cán bộ đảng hộ tống. Giáo sư Tương Lai khôn khéo hơn tôi, khi về đến nhà, ông mở hé cánh cửa vừa đủ để len vào, rồi đóng sập cửa lại ngay, không cho một ai kịp theo vào. Tôi có tính nể nang để cả bốn ông vào theo: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc quận7, Bí thư Đảng Ủy và Chủ tịch Phường Tân Kiểng, Bí thư chi bộ khu phố. Tôi không thể ngờ là họ ngồi trò chuyện mãi cho đến 11 giờ 30, khi đã chắc chắn tôi không còn cơ hội tiếp tục xuống đường, họ mới ra về. Sau khi họ đã ra về tôi viết bốn câu thơ gửi lên mạng Bô xít kèm mấy lời: “Vì bị giữ ở đồn công an, xin gửi các bạn trong cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược ngày 9-12-2012 bốn câu thơ”.
Biển đảo ngoài kia, giặc chiếm rồi.
Trong này tham nhũng, giặc song đôi.
Cháu con nghe tiếng Vua Hùng gọi.
Tay nắm tay đi giữ biển trời.

Một Chủ nhật sau đó khoảng vài tháng, giáo sư Tương Lai đi biểu tình lại bị hằng chục xe cảnh sát bao vây, anh phải lên gian phòng của tôi ở chung cư ngồi “tị nạn”. Hai chúng tôi uống trà trò chuyện. Đến 11 giờ 30, tôi đưa anh ra cổng tìm xe tắc xi để về nhà thì thấy nhóm an ninh vẫn còn ngồi chực bên kia đường!
Nhân Hội nghị Trung Ương 8, khóa 11, ngày 30-9-2013 tôi gửi bài “Kính gửi Hội nghị Trung Ương 8, khóa 11: Đất nước đòi hỏi phải đổi mới chính trị!”. Bài này trích dẫn Cương lĩnh và các Nghị quyết của Đảng so sánh với thực tế đang diễn ra để cho thấy việc đưa Nghị quyết vào cuộc sống đã thất hại thảm hại như thế nào và từ đó phân tích nguyên nhân thất bại chính là thể chế độc tài toàn trị. Từ đó kiến nghị không nên ép Quốc hội thông qua dự thảo Hiến pháp quá lạc hậu mà nên chấp nhận bản Hiến pháp do 72 nhân sĩ trí thức soạn thảo. Bài này bị coi là dùng những luận điệu của bọn thù địch bác bỏ Hiến Pháp mới, chống Đảng. Chi bộ Đảng lại triệu tập cuộc họp kiểm điểm. Tại cuộc họp, tôi bị quy chụp là đã tự chuyển hóa, biến chất, chống Đảng rất nguy hiểm.
Kính gửi Hội nghị Trung Ương 8:
ĐẤT NƯỚC ĐÒI HỎI PHẢI ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
A. Đất nước đang lâm vào khủng hoảng toàn diện

Hội nghị lần thứ 8 của BCHTƯ Đảng Cộng sản VN sẽ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết ĐH11 và các nghị quyết TƯ, trên cơ sở đó sẽ quyết định các việc trọng đại của đất nước. Đối chiếu thực tế cuộc sống đang diễn ra so với các Nghị quyết của Đảng, xin gửi tới Hội nghị bài viết với sự trăn trở.
1. Kinh tế suy sụp, do “yếu kém nội tại, cơ cấu lạc hậu”.
… Ngay năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết ĐH11, nền kinh tế Việt Nam vấp phải khó khăn lớn nhất sau 20 năm, kể từ năm 1991. Mục tiêu tăng trưởng đề ra 7,5% chỉ đạt được 5,8%; Quốc hội đề ra mức lạm phát 7%, thực tế lên tới 19%; hơn 48000 doanh nghiệp phá sản; các tập đoàn kinh tế nhà nước được kỳ vọng là “quả đấm thép” của nền kinh tế thua lỗ nặng nhất, chỉ riêng Vinashin đã gây ra nợ 4 tỉ USD; thị trường bất động sản đóng băng; hàng trăm vụ vỡ nợ tín dụng đen; nợ xấu chiếm 15% tổng tín dụng; nhập siêu 10 tỉ USD; khả năng cạnh tranh của nền kinh tế sút giảm nghiêm trọng vì tham nhũng, lãng phí làm cho chỉ số ICOR (số đồng vốn bỏ ra để thu 1 đồng lãi) tăng vọt xấp xỉ 2 con số (chỉ số ICOR của các nước trong vùng chỉ từ 3 đến 4). Kinh tế nhà nước là gánh nặng của nhân dân, nhận vào 65% tổng tín dụng để làm ra 28% tổng sản phẩm!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

Cuối năm 2011, Đảng và Chính phủ đề ra chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế để cứu vãn: Tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và hệ thống thể chế tài chính, giải quyết nợ xấu; tái cấu trúc đầu tư công. Diễn đàn Mùa thu 2012 ở TP Vũng Tàu nhận định: “Những nguy cơ mang tính cơ cấu và hệ thống đang đe dọa nền kinh tế”. Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng “Cần phải đổi mới về cải cách đất đai, tiếp theo là cải cách doanh nghiệp Nhà nước theo nghĩa thị trường; sau đó là cải cách ngân hàng Nhà nước một cách quyết liệt; tất cả phải công khai, minh bạch”. Cam kết với WTO phát triển nền kinh tế thị trường, nhưng thực tế dùng nhiều biện pháp hành chính và ngắn hạn, nhiều loại giá cơ bản phi thị trường. Các nhóm lợi ích bất chính đang là lực cản của tái cơ cấu nền kinh tế, chi phối chính sách ngày càng trắng trợn. Diễn đàn kinh tế mua thu năm 2013, ở Huế, Viện trưởng Trần Đình Thiên mở đầu tham luận, cho rằng “Kinh tế thế giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam không nằm trong quỹ đạo đó. Những “điểm đen” như nợ xấu, sở hữu chéo trong các ngân hàng vẫn còn nguyên, tái cơ cấu kinh tế nhà nước vẫn nằm trên giấy. Kinh tế vẫn trong lộ trình “xuống đáy” và nằm bẹp ở đấy”. Giáo sư Võ Đại Lược đề nghị bán các doanh nghiệp nhà nước như bia, rượu, nước giải khát, đất đai của Tổng công ty Thương mại Hà Nội lấy tiền làm việc có ích.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng mục tiêu đưa Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không thể nào đạt được. Cho đến nay Việt Nam chỉ có nền công nghiệp gia công và là bãi thải công nghiệp của các nước.
Cuối năm 2013, vốn đầu tư nước ngoài có tăng lên so với hai năm trước, đã đem lại nhiều hy vọng cải thiện cho kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề như ông Bùi Quang Vinh, bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư thừa nhận “những yếu tố kết cấu bên trong, những yếu kém nội bộ” vẫn chưa được giải quyết! “Yếu tố và kết cấu” đó là gì? Phải chăng đó là điều mà nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị: Trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân và tư nhân hóa, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước?
2. Giai cấp công nhân sống dưới mức sống tối thiểu 60%!
Hơn 20 năm qua, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng. Họ là những nông dân nghèo khó nhất rời đồng ruộng đến các khu kinh tế công nghiệp tìm việc. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam năm 2013, có 15 triệu người lao động làm công ăn lương, có 7,9 triệu đoàn viên công đoàn, ở khu vực vốn đầu tư nước ngoài có hơn 1,7 triệu người. Hai mươi năm qua có ba lần cải cách chế độ tiền lương, nhưng lương tối thiểu cho đến nay vẫn chỉ đáp ứng được 60% mức sống tối thiểu của người lao động. Luật Lao động cho doanh nghiệp được phép buộc công nhân làm thêm 300 giờ/năm. Các chủ doanh nghiệp căn cứ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định để trả cho công nhân. Do đó hình ảnh của giai cấp công nhân hiện nay, theo báo cáo của Viện nghiên cứu Công nhân, Công đoàn: Có 94% công nhân phải làm thêm ca, thêm giờ mà vẫn không đủ sống; có 26,5 % nam công nhân và 31,8 % nữ công nhân suy dinh dưỡng; có 19,2 % công nhân thiếu máu; 70% thiếu iốt; có 20% công nhân bỏ một bữa ăn trong ngày. Công nhân coi được làm thêm giờ như một ân huệ. Nhiều ông chủ doanh nghiệp phạt công nhân bằng hình thức không cho làm thêm giờ! (ông Thee Hong Bae ở Công ty Yujin Vina TP HCM cắt tăng ca vĩnh viễn đối với công nhân Dương Văn Tam để phạt anh về “tội” sau đình công, mọi người đã đi làm mà 2 ngày sau anh mới có mặt! Cán bộ quản lý doanh nghiệp thường kiếm cớ để phạt hoặc làm nhục công nhân: Ngày 20-5- 2013, ở Công ty Yujin Vina TP HCM anh Hậu lúc tan ca không xếp vào hàng, đã bị ông quản lý Chu bóp miệng, nắm cổ áo lôi đi; tháng 7-2013, anh HVT ở Prex - Vinh Nghệ An bị cán bộ quản lý ném phế phẩm vào mặt và đè đầu dúi vào máy; ngày 18-7-2013 các chị Đặng Thiên Trang, Chu Thị Vân nghỉ phép quá 1 ngày đã bị quản lý Công ty dệt may Thái Dương TP HCM phạt trừ lương và phụ cấp 700.000 đồng)!
Từ năm 1995 đến nay đã xảy ra hơn 5000 cuộc đình công, có những cuộc huy động hơn 10.000 công nhân (như ở Công ty Keyhing Toys Đà Nẵng năm 2005, Công ty Pouchen Biên Hòa năm 2010). Tất cả các cuộc đình công đều bị coi là bất hợp pháp, vì không có công đoàn lãnh đạo. Những người được công nhân đình công cử làm đại diện đối thoại với chủ, sau khi ổn định đều bị sa thải mà không được các cơ quan chức năng bảo vệ! Cách đây 5 năm, Viện Khoa học Xã hội thực hiện cuộc điều tra tại 24 doanh nghiệp, cho thấy có 84% người lao động không thấy công đoàn có vai trò giải quyết tranh chấp. Báo cáo của Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại Đại hội 11 Công đoàn Việt Nam nhận khuyết điểm: “Công đoàn cơ sở chưa lãnh đạo được đình công theo quy định của pháp luật, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, ngừng việc tập thể, đình công còn bị lúng túng”. Chỉ cần đọc bài “Công nhân đồng loạt đình công đòi quyền lợi” trên báo Công An Nghệ An ngày 20-7-2013 cũng đã có thể hình dung tình cảnh khốn cùng, bị chà đạp nhân phẩm của giai cấp công nhân hiện nay. Bài báo kể trong một ngày tỉnh Nghệ An có 2 cuộc đình công ở Công ty Prex Vinh và Công ty May Hanosimex. Bài báo kể một số chi tiết: Bắt làm thêm giờ mà trả lương rất bèo, tổng thu nhập trung bình là 1650000 đồng/ tháng, nhiều công nhân bị bị ném phế phẩm vào mặt. Có người “yêu cầu quản lý không nên có thái độ như vậy” lập tức bị đuổi việc, công nhân bấm thẻ chấm công sớm 30 giây, bị trừ cả ngày công, 1900/ 2500 công nhân đã vào công đoàn, nhưng gửi kiến nghị lên, công đoàn không trả lời; chủ doanh nghiệp yêu cầu công nhân đình công cử đại diện đối thoại, nhưng cuộc đình công hồi năm ngoái, cả 8 người được cử làm đại diện đối thoại với chủ sau đó đều bị đuổi việc, cho nên lần này không ai dám nhận làm đại diện!
Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội kiên trì quan điểm “Nếu điều chỉnh lương tối thiểu đảm bảo ngay như cầu tối thiểu thì rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dệt may, da giày gia công sẽ phá sản”. Quan điểm này rất trái trên với thực tế (thời gian qua có nhiều cuộc đình công ở các doanh nghiệp dệt may, da giày gia công đều được chủ doanh nghiệp giải quyết yêu sách tiền lương mà họ không hề bị phá sản) và trái với lý luận: “Giá trị sử dụng của thứ hàng hóa đặc biệt sức lao động là ở chỗ nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Do đó người sử dụng lao động phải trả mức lương tối thiểu không chỉ đủ nuôi sống bản thân người lao động mà còn phải có dư để nuôi sống gia đình anh ta, đảm bảo tái sản xuất sức lao động” (Marx, Engels T23, trang 252). Ý kiến chưa thể tăng lương tối thiểu đủ mức sống tối thiểu giống như đại diện nhóm lợi ích của các ông chủ tư bản hoang dã. Thế mà tại sao họ không bị khiển trách? Ngành dệt may da giày gia công còn được cho “ưu tiên” làm thêm giờ!
Từ năm 1930 cho đến trước “Đổi mới”, những người cộng sản Việt Nam luôn luôn lấy khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ để vận động công nhân. Tại sao ngày nay, sau 28 năm “Đổi mới”, trong khi Tổ chức Lao động Quốc tế đòi ngày làm 7 giờ, tuần làm 5 ngày, tức 35 giờ/tuần thì Nhà nước Việt Nam lại có chính sách bảo trợ chủ doanh nghiệp buộc công nhân làm thêm 300 giờ, nhưng thực tế còn cao hơn nhiều, với đồng lương chết đói? Tại sao chúng ta thừa lao động, nhất là lao động giản đơn mà không buộc các doanh nghiệp dệt may, da giày gia công là những ngành sử dụng lao động giản đơn giá rẻ, nếu thiếu nhân công thì phải tuyển dụng thêm, cấm họ buộc công nhân làm thêm giờ và đòi họ phải trả lương theo hợp đồng thỏa thuận với người lao động?
3. Nông dân khiếu kiện, tự tử và bắt đầu dùng súng!
Sau “Đổi mới”, nông dân đã đưa đất nước từ thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới. Nhưng có nghịch lý là từ đó đến nay cuộc sống của nông dân ngày càng khốn khó. Đặc biệt là nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất nước, chưa bao giờ sống khổ như bây giờ: Được mùa rớt giá, càng làm càng lỗ; mỗi năm buộc phải đóng từ 30 đến 40 loại phí; học vấn thấp nhất; nhắm mắt xếp hàng cho người Đài Loan, Hàn Quốc chọn vợ để cứu gia đình; sang Campuchia bán thân; đóng phí rất nặng để đi xuất khẩu lao động, bị đánh đập, cưỡng hiếp. Mới đây, báo Tuổi Trẻ đăng tình cảnh lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở Malaysia phải trốn chui trốn nhủi vô cùng thê thảm. Nhiều năm qua, nông dân bị thu hồi đất không được đền bù thỏa đáng, phải cơm đùm cơm nắm đi khiếu kiện lên quận, rồi lên tỉnh, lên Trung Ương, nằm chờ chực ngoài vườn hoa, trên vỉa hè và bị đuổi đánh tàn tệ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

Cuối cùng tức nước vỡ bờ, nông dân đã nổi dậy, lúc đầu là tự thiêu, tự tử để tỏ sự phẫn uất một cách bất lực, sau đó là nổ súng hoa cải trong vụ nông dân Đoàn Văn Vươn để chống lại lệnh cưỡng chế đất ở huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Tiếp theo đó là những phát súng sát thương của nông dân Đặng Ngọc Viết nhằm vào năm quan chức ở Trung tâm phát triển Quỹ đất của thành phố Thái Bình vốn không có oán thù với riêng anh mà là để bắn vào chế độ ruộng đất bất công, phi lý, chống lại lợi ích giai cấp nông dân của anh.
Từ rất lâu, những nhà khoa học và cán bộ quản lý gắn bó với nông dân đã phát hiện những nguyên nhân chủ yếu nhưng không được Đảng lắng nghe. Gần 20 năm, giáo sư Võ Tòng Xuân nhiều lần lặp đi lặp lại câu hỏi “Bao giờ nông dân mới giàu”? Và ông tự trả lời, nông dân không thể thoát nghèo, bởi đầu ra của hạt lúa bị Hiệp hội lương thực độc quyền thao túng. Giáo sư Đào Thế Tuấn nói: “Nghịch cảnh thay nông dân từng là quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc, cũng là người lặng lẽ âm thầm khởi xướng công cuộc đổi mới, nhưng lại ít được hưởng lợi nhất sau đổi mới!”; và “nông dân thiếu chủ quyền về đất đai, mất đất mà không có ai bênh vực”. Đáng lo thay, nông dân là bộ phận yếu thế nhất trong xã hội, không có quyền mặc cả trên thị trường không được tham gia quyết định giá cả nông sản, vì thiếu nghiệp đoàn nông dân. Nguyên chủ tịch tỉnh An Giang, ông Nguyễn Minh Nhị phân tích nguyên nhân các chi tiêu không đạt được, đã cho rằng: “Nói những điều to tát như tạo nền kinh tế bền vững, tái Cấu trúc, tăng GDP không bằng có những chủ trương, quyết sách, hành động sát thực tế để nông dân có đất canh tác, có đời sống ấm no, sung túc bền vững”. Ông phân tích “Thời kháng chiến chúng tôi, những cán bộ, đảng viên cùng với nông dân có chung một lợi ích. Sau khi cầm quyền, chúng tôi với nông dân bắt đầu có sự phân chia, “tuy một mà hai”. Sự phân chia dễ thấy là chúng tôi - tức chính quyền bắt đầu ra lệnh, ngay như tổ chức Đảng, các đoàn thể cũng ra lệnh được. Nông dân từ chỗ là chủ sở hữu đất, chủ sở hữu ruộng, sau khi cải tạo xã hội chủ nghĩa thì đất là sở hữu nhà nước. Có độc lập rồi bỗng dưng mất hết hai cái quyền sống còn là quyền sở hữu ruộng đất và quyền sản xuất. Rồi họ dắt díu nhau lên Sài Gòn, Bình Dương làm công nhân, lại tiếp tục bơ vơ giữa các khu công nghiệp, vắt sức với đồng lương bèo bọt…”. Mang nỗi niềm của người mắc nợ nông dân, ông đi Đài Loan, Malaysia, Thái Lan để quan sát và ngạc nhiên kêu lên: “Nhìn cách họ tổ chức sản xuất nông nghiệp mà phát thèm. Nhà nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học phối hợp rất chặt chẽ, trong đó nhà nông ở vị trí trung tâm, được nhà nước và doanh nghiệp lo cho từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Thái Lan có công ty tổ chức sản xuất nông nghiệp lo cho cả đầu vào cả đầu ra. Chính phủ hỗ trợ chính sách rất rõ ràng”. Tiến sĩ Đặng Kim Sơn Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nông nghiệp cho rằng “nông dân, nông thôn bị lấy đi quá lớn so với được trả lại”. Mới đây, trên báo Nông nghiệp Việt Nam, nhà văn của nông dân Nguyễn Khắc Trường, tác giả “Mảnh đất lắm người nhiều ma” nổi tiếng, có bài viết về tình trạng nông dân ngày nay. Bài viết có những điểm rất đáng quan tâm: Nông dân xưa chất phác nền nếp lắm. Làng xóm xưa thanh bình lắm. Nông thôn bây giờ chẳng những nghèo về vật chất mà còn nghèo tinh thần. Nay không chỉ có trộm cướp mà còn có người nghiện hút, tình làng nghĩa xóm phai nhạt. Cái gốc của nông dân là ruộng đất mà giờ người ta không còn yêu quý đất nữa! (thực ra họ không còn yêu đất chỉ vì đất không còn là của họ nữa mà là của “toàn dân”). Ông so sánh với vài nước xung quanh và cho rằng nông dân Trung Quốc khổ hơn ta, nhà cửa họ lụp xụp hơn, mặt họ sầu não hơn. Nhưng nông dân Thái Lan thì sướng hơn, giàu có hơn nông dân ta. Ông kết luận: “Nói theo nghĩa nào đó nông dân chưa thực sự bước ra khỏi vũng bùn”!
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi đã tự hào viết câu thơ: “Nước Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”! Cớ sao qua 68 năm, đất nước của hơn 90% nông dân từng rũ bùn đứng dậy sáng lòa, họ lại phải trở lại chìm sâu hơn trong vũng bùn!
4. Khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh thứ 2 châu á!
Trong báo cáo chính trị lần thứ 11 có nêu: “Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Tuy nhiên, sau Đại hội Đảng lần thứ 11, khoảng cách giàu nghèo đã tăng tốc. Hai giai cấp lớn của xã hội là công nhân và nông dân chính là nguồn bổ sung cho số người nghèo đang phình to này. Theo Tổng cục Thống kê năm 2008 khoảng cách giàu nghèo là 8,9 lần; năm 2009 tăng lên 9,2 lần.
Gần đây báo chí phát hiện nhiều chuyện “lương khủng” ở các tập đoàn, công ty nhà nước. Vụ lương khủng ở TP HCM khoảng cách thu nhập của cán bộ lãnh đạo và công nhân hơn 200 lần. Dư luận cho rằng vụ này chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Trong những năm kinh tế đất nước sa sút, số người siêu giàu (có tài sản 30 triệu USD) vẫn cứ tăng nhanh: Năm 2010 có 100 người; năm 2011 tăng lên 170 người nhanh thứ hai châu Á. Ngày 15-9-2013, nhiều tờ báo đưa tin: Công ty tư vấn tài sản Wealth - X và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS cho biết: “Mặc cho nền kinh tế Việt Nam đang lâm vào khó khăn, số người siêu giàu của nước này vẫn tăng gần 15% so với năm trước, từ 170 lên 195 người với tổng tài sản 20 tỉ USD. Trong khi đó Việt Nam có khoảng 8,1 triệu dân nghèo đói phải tìm đến cái chết để thoát khổ đau”. Xin nêu hai trường hợp người nghèo đi tìm cái chết mà nguồn tin trên đã nói đến:
Tháng 4-2012, chị Lê Thị Ngọc Nhãn ở khóm 2, phường 1, TP Cà Mau, trước khi tự tử đã gửi cho Trung tá Diện bức thư, có đoạn: “Sau khi cháu chết rồi, xin chú giúp cho các con của cháu được vào cô nhi viện. Cháu xin đội ơn chú đời đời”.
Tháng 5-2013, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở xã An Xuyên, TP Cà Mau, trước khi treo cổ, đã viết bức thư gửi chính quyền: “Xin các cấp chính quyền thấu hiểu hoàn cảnh không có lối thoát của gia đình chúng tôi hiện nay, đồng ý cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi có thể sống những ngày còn lại”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

5. Đạo đức xã hội băng hoại chưa từng có
Ba năm gần đây, đạo đức tiếp tục băng hoại ngày càng dữ dội! Hàng ngày báo đưa tin chém giết, trộm cướp, cưỡng hiếp xảy ra khắp mọi nơi. Người ta chém giết nhau chỉ vì những lý do lãng xẹt. Đáng lo nhất là tình trạng con cháu đánh đập, chém giết cha mẹ ông bà, anh em, vợ chồng giết nhau. “Đinh tặc” rải đinh đánh bẫy người đi xe gắn máy, để vá xe, bán ruột, vỏ xe với giá cắt cổ. Những thiếu niên ném đá lên tàu hỏa, lên ô tô như thú vui. Mới đây một nhà phê bình có bài viết tựa đề “Người Việt hung hãn”. Có những hiện tượng bất thường đang nãy sinh: Người ta “tự xử”, bởi không còn tin khả năng quản lý của chính quyền, cũng không tin công lý từ tòa án! Bắt được kẻ trộm chó, cả xóm ra tay tự xử bằng gậy gộc. Mới đây, xã Vĩnh Thành, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang vừa có “sáng kiến” lập rào làng, làm bốn cổng để chống trộm!
Nhà văn Nguyễn Khải người đầu tiên phát hiện tệ nói dối đang phát triển trong xã hội. Từ đó đến nay tình trạng nói dối bùng lên như một đại dịch, lan tràn từ trong Đảng tới các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, các đoàn thể, nay nhiễm vào trẻ con. Tại diễn đàn kinh tế mùa Thu đang diễn ra ở Huế, nhiều tham luận nói về tệ báo cáo láo khiến không thể biết đúng “bệnh”: nợ xấu bao nhiêu, thất nghiệp bao nhiêu, GDP của các tỉnh có tăng thực vậy không. Một trung tâm xã hội học vừa công bố kết quả điều tra: Trẻ học cấp 1 có tỉ lệ nói dối là 22%; trẻ ở cấp 2 có tỉ lệ nói dối 50%; cấp 3 là 64%; sinh viên đại học là 80%! Có thể hình dung được, đội ngũ cán bộ tương lai sẽ vượt xa cha anh về tài nói dối!
Có người giải thích đây là mặt trái của cơ chế thị trường. Nên nhớ rằng, trước khi thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã từng sống trong cơ chế thị trường.
Dân tộc ta nổi tiếng hiền hòa. Ông cha ta từng “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn”, “lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Thời hai cuộc kháng chiến, nhà nhà đêm không cài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Một dân tộc như vậy, nguyên nhân nào đã biến thành “ra ngõ gặp trộm cướp, giết chóc”? Như vậy, thiết nghĩ nên xem lại phương thức tổ chức quản lý xã hội đang có những gì bất cập so với các nước văn minh?
6. Giáo dục tiếp tục tụt hậu
Cách đây 20 năm nền giáo dục Việt Nam đã được nhận diện những điểm không bình thường: Trường chuyên, lớp chọn; thi cử phức tạp; nhồi nhét, không chú trọng rèn luyện tư duy sáng tạo; học thuộc lòng các bài mẫu; dạy thêm học thêm lu bù; sách giáo khoa in lại liên tục, nhưng nội dung không đổi mới; chất lượng giáo viên mỗi năm thêm sa sút; lương giáo viên không đủ sống… Có nhiều cấp Ủy Đảng chỉ thị ngành giáo dục phải soạn giáo án tuyên truyền chủ trương chính sách: đưa vào chương trình phổ thông 13 luật thuế, luật phòng chống tham nhũng…
Nhiều cuộc hội thảo huy động trí tuệ các nhà giáo dục góp ý xây dựng. Nhiều nhà giáo dục giàu tâm huyết và trí tuệ như Hoàng Tụy, Hồ Ngọc Đại, Văn Như Cương… phân tích mổ xẻ ung nhọt của ngành giáo dục, đề xuất nhiều kiến nghị như: Khuyến khích sáng tạo; coi trọng óc tưởng tượng; công bằng, dân chủ trong giáo dục; tôn trọng cá tính học sinh; phổ cập cấp tiểu học, tiến tới trung học và mở cửa đại học; chú trọng bồi dưỡng nhân tài. Tuy nhiên giáo dục cứ như cỗ xe tụt dốc! Dù cho được tăng tỉ lệ đầu tư, nhưng hiệu quả thì xuống thấp. Bằng cấp Đại học Việt Nam không được quốc tế công nhận.
Càng ngày càng có nhiều bậc cha mẹ cố tìm cách cho con đi học ở nước ngoài, ban đầu chỉ đi học cấp đại học, nay đưa đi học nước ngoài ngay từ cấp phổ thông. Xã hội đã quen với cụm từ “tị nạn giáo dục” nói về tình trạng này.
Nguyên Bộ trưởng Trần Hồng Quân nói: “Nền giáo dục hiện nay có nhiều lỗi hệ thống”. Giáo sư Văn Như Cương nói: “Tính dối trá tràn ngập nền giáo dục”.
Mới đây, Diễn đàn Kinh tế thế giới công bố bản báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013-2014” thực hiện ở 148 nước. Kết quả xếp hạng các hạng mục lớn của báo cáo cho thấy: Về chất lượng giáo dục phổ thông và đại học Việt Nam đều thua kém các nước trong khu vực Châu Á. Ở bậc tiểu học Việt Nam có tỉ lệ đi học cao nhưng chất lượng giáo dục thua kém nhiều nước trong khối ASEAN. Theo ông Trịnh Ngọc Thạch, phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thì đưa trẻ đến trường nhiều chưa nói lên được chất lượng tốt. Nói chất lượng giáo dục phải tính mấy yếu tố: Thứ nhất là chương trình có tốt không. Thứ hai là giáo viên có tốt không. Thứ ba là cơ sở vật chất có tốt không. Cả ba cái này chúng ta đều yếu kém. Bà Nguyễn Thị Bình nguyên phó chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Giáo dục năm 1976 nói: “Các tổ chức quốc tế đều đánh giá, trong chiến tranh, Việt Nam là tấm gương về giáo dục. Song bây giờ giáo dục Việt Nam hầu như xếp hạng chót. Có tổ chức còn đánh giá giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào”.
Có hai vấn đề cốt lõi: Một là, mấy chục năm qua, thầy giáo không chỉ bị đãi ngộ vật chất quá thấp kém mà quan trọng hơn, trong một xã hội chính trị hóa, người thầy không còn được coi trọng như trong xã hội dân sự trước kia. Nấc thang giá trị của thầy giáo ở dưới các cán bộ Đảng và tất cả các cán bộ đoàn thể. Hai là, nền giáo dục Việt Nam bị chính trị hóa sâu sắc, bị chỉ đạo bởi ý thức hệ, nhằm đào tạo ra những công cụ trung thành phục vụ chế độ. Giáo điều, triệt tiêu tự do tư tưởng, triệt tiêu trí tưởng tượng sáng tạo, không tôn trọng cá tính đều xuất phát từ đó. Sản phẩm của một nền giáo dục như vậy sẽ không thể hội nhập được với nhân loại hiện đại và chắc cũng không thể là nguyên khí quốc gia trong sự nghiệp hiện đại hóa. Trong thời đại toàn cầu hóa, không nên tạo ra một nền giáo dục dị biệt với thế giới. Giáo dục phải tuân theo các giá trị phổ quát của nhân loại, tự do dân chủ, bình đẳng. Những nước đi sau như chúng ta rất cần tham khảo, học theo các nền giáo dục tiên tiến.
7. Chống tham nhũng không thể từ phê bình, tự phê bình
Ngày 26-12-2011, Hội nghị TƯ 4 nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lảng phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả ở cấp cao, chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm xói mòn niềm tin đối với Đảng”. Hội nghị TƯ 4 đề ra “những việc cần và có thể làm ngay là tiến hành trong toàn Đảng tự giác, gương mẫu kiểm điểm, phê bình, tự phê bình”.
Sau gần hai năm thực hiện nghị quyết Tư 4, tình hình tham nhũng không giảm mà đang tăng lên và diễn biến rất phức tạp, đáng lo ngại:
- Ngày 5-12-2012 Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) xếp Việt Nam về kết quả chống tham nhũng tụt 11 bậc, xuống 123/182 nước.
- Từ tháng 9-2012 đến 3-2013 Tổ chức Minh bạch quốc tế tổ chức khảo sát và kết luận: 55% người dân Việt Nam cho rằng tham nhũng đang tăng, tham nhũng nghiêm trọng xảy ra ở các cơ quan chức năng, ở lĩnh vực đất đai. Điều đáng lo là chỉ có 38% người dân Việt Nam nói mình dám tố cáo tham nhũng, tỉ lệ thấp nhất so với người dân trong khu vực ASEAN (bình quân là 63%). Tại sao vậy? Rất dễ hiểu thôi, xin kể 2 vụ việc trong hằng trăm vụ việc như thế: Theo báo Người Cao Tuổi: Ở Ninh Bình có ông cựu chiến binh Đinh Văn Phiêu tố giác ông Ủy viên TƯ, Bí thư tỉnh Ninh Bình Đinh văn Hùng, tham nhũng, buôn trống đồng. Lập tức ông bị bắt đưa ra tòa xử 5 năm tù giam vì tội vu khống. Ông Lê Đăng đảng viên 60 tuổi Đảng tố cáo Thành phố Biên Hòa làm trái Quyết định 227 của Thủ tướng về quy hoạch, lập tức ông bị khai trừ Đảng. Người dân thường cứ nhìn vào đó mà liệu giữ mình!
- Mới đây các cơ quan thanh tra Việt Nam khảo sát cho biết có 70% doanh nghiệp chủ động đưa hối lộ, trong 20 vụ tham nhũng lớn nhất thì 50% xảy ra ở doanh nghiệp nhà nước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

- Ngày 18-9-2013, trong cuộc họp UBTV Quốc hội, chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nói “Không tham nhũng lấy tiền đâu mà chạy chức”? và ông đặt câu hỏi gây chấn động dư luận xã hội: “Có tham nhũng trong lực lượng chống tham nhũng không”?
Cuộc họp cho rằng rất cấp thiết phải trả lời câu hỏi: Vì sao tham nhũng không giảm mà cứ tiếp tục tăng?
Tại Hội nghị TƯ 4, TBT Nguyễn Phú Trọng nói: “Đặc biệt, có một câu hỏi lớn, rất day dứt, trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: “Vì sao công tác xây dựng Đảng được Trung Ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị rất đúng, rất hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu?. Vướng mắc chính là ở chỗ nào”?
Xin trả lời với Tổng bí thư: Có thể đoan chắc rằng, trong lịch sử không có một đường lối, chính sách nào rất đúng, rất hay lại được vận động sâu rộng mà đi tới thất bại cả! Hay, đúng thì phải sát thực tế, tạo ra được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bất cứ giải pháp nào đưa tới thất bại, hơn nữa lại là thất bại rất nhiều lần, kéo dài hàng chục năm thì cần phải thực sự cầu thị, để nhận thức rằng đó là một giải pháp sai!
Nhà nước ta đã ký kết tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng từ 1-7-2009. Công ước này là tập trung trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều quốc gia tiên tiến đúc kết nên. Trong đó, không có kinh nghiệm nào chống tham nhũng thành công từ tự phê bình, phê bình cả!
Công ước này đặt 2 điều đầu tiên cho chính sách và thực tiễn chống tham nhũng là:
(1) “Thúc đẩy sự tham gia của xã hội và thể hiện các nguyên tắc của chế độ pháp quyền”.
(2) Về “cơ quan phòng chống tham nhũng” thì điều đầu tiên là có “sự độc lập cần thiết” để “thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả và không chịu bất kỳ sự ảnh hưởng trái pháp luật nào”.
Tiếc thay cả hai vấn đề quan trọng nhất của Công ước này, đều không được Việt Nam vận dụng!
Câu hỏi của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng sẽ được trả lời không khó khăn nếu tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước đều phải đặt dưới pháp luật.
Trước khi kiến nghị các giải pháp khắc phục tình trạng khủng hoảng toàn diện kể trên, xin trích dẫn ý kiến của Engels đại diện cho K. Marx viết lời tựa bản “Tuyên ngôn” tiếng Đức năm 1883 “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. “Nền sản xuất kinh tế đa thành phần phát triển đã làm cho chiếc áo toàn trị quá chật, đòi hỏi phải thay bằng chiếc áo dân chủ”.
B. Kiến nghị các giải pháp
1. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế

Thật đáng tiếc là cho đến nay thể chế, hệ thống chính trị nước ta hầu như vẫn giữ y nguyên khuôn mẫu của chủ nghĩa xã hội kiểu xô viết. Nền móng tự do dân chủ đã có từ Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp 1946 đã không được thực hiện, phát huy. Các quyền tự do cơ bản như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội, tự do biểu tình đều khất “nợ” nhân dân suốt 68 năm! Đại hội 6 đã trả lại cho nhân dân quyền tự do kinh tế bị tước mất sau cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà người Việt Nam năng động sáng tạo hẳn lên, vượt qua đói nghèo, đạt được mức sống trung bình thấp. Tuy nhiên do chưa được đổi mới chính trị, nhân dân chưa có quyền tự do xây dựng một nhà nước pháp quyền thể chế hóa các quyền tự do. Không có nhà nước pháp quyền đúng nghĩa thì tự do kinh tế không được bảo trợ về pháp lý, bị vướng mắc bởi thể chế chính trị lạc hậu thao túng, chi phối, làm suy giảm năng lực phát triển. Tình trạng ốm yếu của nền kinh tế Việt Nam là vì vậy. Không có tự do chính trị cũng hạn chế tự do văn hóa, không thể tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhân loại, thậm chí không phân biệt thuần phong mỹ tục với hủ tục. Nhiều cán bộ chính trị tự cho mình quyền kiểm duyệt, cấm đoán tác phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy. Thiếu tự do chính trị là nguyên nhân gây hạn chế đồng thuận, chia rẽ dân tộc, bất ổn xã hội. Tình trạng khủng hoảng toàn diện của đất nước là báo động đỏ cho sự chậm trễ đổi mới chính trị.
Có người lo ngại đổi mới chính trị sẽ gây ra nguy cơ bất ổn xã hội, đe dọa quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản, nói như vậy là không tin nhân dân, hoặc coi nhân dân là “thần dân”. Đổi mới chính trị chính là tin nhân dân, tôn trọng nhân dân, cùng nhân dân thảo luận, lựa chọn, xây dựng một thể chế thực sự của dân, do dân, vì dân, điều mà Đảng cộng sản thường nêu lên như tâm nguyện cao cả nhất từ những ngày đầu cách mạng. Đổi mới chính trị sẽ loại bỏ được nguyên nhân đã làm cho các nghị quyết của Đảng suốt nhiều nhiệm kỳ cứ phải lặp đi lặp lại: “Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức” (Văn kiện ĐH 11, trang 171).
2. Không nên thông qua dự thảo hiến pháp nếu chưa đạt yêu cầu đổi mới chính trị!
Sửa đổi Hiến pháp 1992 chính là cơ hội vàng để đổi mới chính trị! Do đó, không nên tùy tiện phủ quyết những ý kiến không hợp với quan điểm bảo thủ, giáo điều mà cần tổ chức tranh luận công khai trên mọi cơ quan truyền thông.
Kiến nghị 72 nhằm xây dựng bản Hiến pháp bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, phát triển bền vững đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai, gồm 7 điểm quan trọng:
1- Lời nói đầu phải làm rõ mục tiêu đảm bảo an toàn, tự do hạnh phúc cho mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền, hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai. Quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tôn trọng ý chí dân tộc. Do đó không nên định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội cho một tổ chức chính trị. Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân tin cậy bầu chọn.
2- Mục đích thành lập Nhà nước là để bảo vệ các quyền đương nhiên của con người. Dự thảo có nhiều điểm không phù hợp với các chuẩn mực phổ quát ở các Công ước Liên Hiệp Quốc mà nhà nước ta đã gia nhập. Cụm từ “theo quy định của pháp luật” lâu nay mở đường cho việc nhân danh Hiến pháp đàn áp công dân, cần phải khắc phục. Do đó, Hiến pháp nên quy định thành lập một Ủy ban quốc gia về quyền con người.
3- Cần công nhận quyền sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng đối với đất đai, để chống tham nhũng, lộng quyền, móc ngoặc giữa cán bộ nhà nước và doanh nhân gây thiệt hại cho nhân dân, đặc biệt là nông dân, gây bất ổn xã hội.
4- Thực hiện nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập.
5- Lực lượng vũ trang trung thành với Tổ quốc và nhân dân, nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, yên bình cho nhân dân. Đó cũng chính là mục tiêu chính trị của Đảng cộng sản đặt ra cho mình từ khi thành lập. Đảng cộng sản là một thành phần trong nhân dân, không nên quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng cộng sản.
6- Bảo đảm quyền phúc quyết Hiến pháp của nhân dân.
7- Thời gian lấy ý kiến toàn dân đến kéo dài hết năm 2013, khuyến khích việc tham khảo, so sánh, thảo luận công khai để xây dựng bản Hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
Bản “Kiến nghị 72” đã được 15 đại diện trình lên Ban soạn thảo Hiến pháp của Quốc hội. Hơn 14000 người ký tên hưởng ứng, trong đó có hàng trăm giáo sư trong, ngoài nước, hàng trăm đảng viên lão thành, cựu chiến binh. Thế nhưng, 700 tờ báo và cả hệ thống truyền hình phát thanh được lệnh không đưa tin, không tranh luận công khai sòng phẳng. Trái lại, tất cả cơ quan truyền thông nhà nước còn bóp méo, xuyên tạc, phê phán, không nêu đích danh “Kiến nghị 72” mà coi đó là lập luận của một “lực lượng thù địch” vô hình, một “bọn xấu” không có địa chỉ! Thật đáng tiếc, cách làm không minh bạch như vậy lại có thể xảy ra ở một đất nước đã ký kết các Công ước của Liên Hiệp Quốc, đã từng là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 01 Sep 2018

Một số người cho rằng việc góp ý không có vùng cấm, nhưng không được lợi dụng góp ý để vi phạm những vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản! Xin hỏi những điều gì được gọi là “nguyên tắc cơ bản”? Nguyên tắc cơ bản phải là đảm bảo thực hiện cho được mục tiêu “của dân, do dân, vì dân” và tất cả phải thượng tôn pháp luật. Do đó, nếu chưa thống nhất được thì nên dừng lại không nên vội vàng thông qua bản dự thảo Hiến pháp còn quá nhiều bất cập, nên có thêm thời gian và không gian dân chủ để thảo luận. Bởi vì nếu vội vàng ban hành bản Hiến pháp không đạt các tiêu chuẩn tự do dân chủ phổ quát cũng tức là chưa đạt yêu cầu “đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế” mà ĐH 11 đã đề ra và hậu quả không mong muốn sẽ xảy ra cho dân tộc, cũng tức là cho Đảng cộng sản.
3. Xóa bỏ điều 4 hiến pháp là điều cấp thiết
Đất nước, nhân dân đòi hỏi Đảng từ bỏ hình thức Đảng trị trở thành Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì chấm dứt tình trạng đã kéo dài mấy chục năm nay mà nguyên UV BCT Nguyễn Văn An đã thẳng thắn và trung thực nhận định: “Bộ Chính trị là vua tập thể”. Không nên tiếp tục làm cho khẩu hiệu thiêng liêng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” để rồi Đảng “là lực lượng lãnh đạo nhà nước” nên cuối cùng quyền lực nhà nước thuộc về Đảng! Trong dân gian đã lưu truyền công khai những thành ngữ “Đảng cử dân bầu”, “mười năm phấn đấu, không bằng cơ cấu một giờ” thật là phản cảm.
Chúng ta đang hội nhập toàn cầu, Hiến pháp của các nước văn minh không ghi quyền lãnh đạo của một đảng chính trị. Nước ta, từ những ngày cách mạng còn trứng nước, Đảng chỉ có 5000 đảng viên, Hiến pháp 1946 không ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, nhưng nhân dân vẫn theo Đảng, vì Đảng có đường lối giành độc lập, tự do. Việc đưa sự độc quyền lãnh đạo của Đảng vào Điều 4 Hiến pháp đã gây rất nhiều tranh cãi. Nhiều đảng viên cộng sản từng giữ cương vị Ủy viên Trung Ương, Bộ trưởng cũng không đồng tình. Xin đừng vu cho họ tội chống Đảng, hoặc suy thoái chính trị. Tại sao họ lại chống lại Đảng mà họ đã bỏ gần hết cả đời phục vụ chứ? Bản thân tôi, một đảng viên 55 tuổi đảng, tôi cảm thấy Điều 4 là sự xúc phạm lòng tự trọng của một đảng viên. Từ khi vào Đảng, các đảng viên từng tâm niệm “phải yêu dân kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta! Liệu cách áp đặt như vậy có được nhân dân yêu mến hay không?
4. Thế nào là một nhà nước pháp quyền? Tại sao lại không chấp nhận tam quyền phân lập?
Lý do để các nhà lý luận của Đảng không đồng ý tam quyền phân lập là cho rằng đó là “dân chủ phương Tây”! Khổ quá! Các vị tìm đâu ra thứ dân chủ phương Đông chứ? Nhà sáng lập “tam dân chủ nghĩa” Tôn Trung Sơn nói hẳn rằng, dân chủ dân quyền thì phải học phương Tây, bởi vì phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm lịch sử chìm đắm trong quân quyền. Đã có nhiều nước phương Đông thực hiện nhà nước tam quyền phân lập như Nhật, Hàn quốc nâng cao quyền dân, hạn chế được tham nhũng, đất nước phát triển rất nhanh. Chính các nước này đang chìa tay giúp đỡ ta. Ta cứ công kích tam quyền phân lập là theo Tây, không sợ mất lòng những người giúp đỡ mình sao?
Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài viết “Dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp từ năm 2009, đã cảnh báo tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu phát triển là do thiếu cơ chế giám sát, kiềm chế quyền lực, “đó là lổ hổng và yếu kém nhất trong hệ thống tam quyền của nhà nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể chế”. Ông cũng băn khoăn khi “việc thực hiện ba quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Ông cho rằng lẽ ra sự lãnh đạo của Đảng là ở đường lối và đưa ra quan điểm lớn “phải làm thế nào để thực hiện cho được quyền tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không chấp nhận bất cứ sự chi phối nào ngoài pháp luật”. Đến nay, dự thảo Hiến pháp sửa đổi cũng gần như cũ: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân do Đảng cộng sản VN lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng có một thắc mắc rất có lý “đã thống nhất sao lại còn phân công”? Vừa qua, một báo cáo viên của Ban Tuyên huấn Trung Ương xuống giảng giải cho đảng viên thuộc Đảng bộ phường Tân Kiếng, quận 7, TP HCM đã giải thích: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân dân là một khối thống nhất, do đó không thể chia cắt, không thể phân lập!
Tại sao các nhà lý luận của Đảng không chịu hiểu rằng, nhà nước là công cụ để phục vụ nhân dân, do đó nhân dân muốn phân chia nó thế nào để phục vụ mình tốt hơn là quyền của nhân dân chứ?
Tại sao các chế độ dân chủ tìm đến nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập? Xin trích dẫn ra đây ý kiến của hai bậc hiền triết của nhân loại:
Từ thời cổ đại Platon quan sát các nhà nước và đi đến nhận định: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của nhà nước”. Học trò xuất sắc của ông là Aristote, người được Karl Marx coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại, đã cụ thể hóa tư tưởng của thày mình, cho rằng quyền lực nhà nước phải được chia làm ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Suốt hơn 2000 năm sau đó những đầu óc vĩ đại của nhân loại không ngừng khám phá, bổ sung, cụ thể hóa tư tưởng phân quyền. Trong đó J. Locke và Montesquieu được đánh giá đã ghi hai cột mốc lớn nhất. Cho đến nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ, giàu mạnh tổ chức nhà nước theo tam quyền phân lập, dù hình thức có đôi chỗ khác nhau, nhưng điều cơ bản, phổ quát là không đổi.
Montesquieu cho rằng: “Khi mà quyền Lập pháp và Hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, người ta sợ rằng chính ông ấy hoặc Viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền Tư pháp không tách rời quyền Hành pháp và Lập pháp. Nếu quyền Tư pháp được nhập với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân. Quan tòa cũng sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền Tư pháp nhập với quyền Hành pháp thì quan tòa có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức hay của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”. Ông đặc biệt nhấn mạnh quyền Tư pháp phải nhất thiết tách ra, độc lập với hai quyền kia.
Ngày nay, nhân loại đánh giá một nhà nước dân chủ văn minh khi thực hiện tốt các tiêu chí:
Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ các quyền con người.
Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Một cá nhân có thể làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm, còn quan chức nhà nước chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Đối chiếu những ý kiến ở trên, soi rọi vào cách tổ chức nhà nước của ta, sẽ không quá khó khăn để hiểu vì sao nhà nước chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập, nạn quan liêu, tham nhũng lan tràn không sao ngăn nỗi. Nhà nước tam quyền phân lập buộc Đảng, cũng như Nhà nước phải đặt mình ở dưới Hiến pháp và pháp luật. Tư pháp độc lập của nhà nước pháp quyền có thể gọi người vi phạm pháp luật bất cứ đó là ai phải trả lời trước tòa án. Một phó thường dân cũng như ông tổng bí thư đều bình đẳng trước pháp luật. Có người ví von việc khó chấp nhận điều này là “Không ai lấy đá tự ghè vào chân mình”. Nhưng đó chính là cách duy nhất giúp cho Đảng thoát khỏi tham nhũng, quan liêu như hiện nay, để có thể lấy lại niềm tin của nhân dân đang sút giảm nghiêm trọng.
5. Xây dựng xã hội dân sự đúng nghĩa
Khái niệm xã hội dân sự có từ thời cổ Hy Lạp, nó chỉ một phạm trù rộng lớn của đời sống xã hội bao gồm gia đình, tôn giáo, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật. Đến thời khai sáng, các nhà tư tưởng đề cao quyền tự do cá nhân trong xã hội dân sự, độc lập với nhà nước, coi xã hội có trước nhà nước, nhà nước không được lấn át xã hội dân sự. Một nhà nước được coi là văn minh, hợp pháp khi nào được thành lập bởi sự thỏa thuận của tất cả các cá nhân trong xã hội dân sự, điều đó được xác lập bằng một Hiến pháp dân chủ. Sự phân chia giữa nhà nước và xã hội dân sự được coi là đặc trưng của một thể chế chính trị thực sự dân chủ.
Trong các chế độ quân chủ, độc tài, xã hội dân sự dù bị đàn áp vẫn tồn tại, đấu tranh bảo vệ các quyền tự do của người dân bị xâm phạm. Quá trình dân chủ hóa là quá trình phát triển của xã hội dân sự từ non yếu đến mạnh mẽ. Có thể có xã hội dân sự chưa thật hoàn thiện trong một chế độ độc tài, nhưng không thể có chế độ dân chủ mà lại không có xã hội dân sự. Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Philippine, Indonesia và mới đây là Myanmar đều đi từ độc tài đến dân chủ, xã hội dân sự từ non yếu phát triển và hoàn chỉnh nhanh chóng.
Trong thể chế theo mô hình xã hội chủ nghĩa xô viết, tất cả đều Nhà nước hóa, từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, cái công cộng xóa bỏ cái riêng tư. Nhân dân chỉ còn sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất, ngay sức lao động và quyền bán sức lao động của mình cũng không còn, gia đình, tín ngưỡng cũng mất tính độc lập. Xã hội dân sự nhường chỗ cho xã hội toàn trị. Tất cả các hội đoàn đều do người của cấp Ủy Đảng cử ra làm chủ tịch, thậm chí cả Đoàn chủ tịch, Ban Thường vụ đều là đảng viên. Tất cả các hội đoàn lấy nghị quyết của Đảng làm chuẩn để soạn thảo nghị quyết của mình. Nông dân đi khiếu kiện không có thể dựa vào Hội nông dân; công nhân đình công không thể yêu cầu công đoàn lãnh đạo. Báo chí là tiếng nói của một hội đoàn nào đó, không phải tiếng nói của một con người tự do.
Đổi mới kinh tế mở ra một nửa cánh cửa của xã hội dân sự. Tuy nhiên các quyền tự do về tinh thần, tự do hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tư tưởng, ngôn luận, báo chí, tự do sáng tạo nghệ thuật vẫn chưa được thực hiện theo các giá trị phổ quát của nhân loại đã được ghi nhận trong các Công ước của Liên Hiệp Quốc và đã được Nhà nước Việt Nam cam kết gia nhập. Nhiều cán bộ cao cấp vẫn còn ngộ nhận: Cho rằng nước ta đã có hàng trăm hội đoàn cớ sao cứ bảo chưa có tự do hội họp và lập hội? Đã có hơn 700 tờ báo, tỉnh nào cũng có đài phát thanh, truyền hình cớ sao cứ kêu không có tự do báo chí, tự do ngôn luận? Năm 1938, báo Dân Chúng của Đảng cộng sản xuất bản không xin phép và được nhà nước thực dân Pháp chấp nhận. Trong chế độ thuộc địa hà khắc, xã hội dân sự Việt Nam vẫn len lỏi nảy nở. Từ năm 1920 đã có công hội của Tôn Đức Thắng. Từ năm 1930 đã có các Đảng chính trị như Quốc Dân Đảng, Đảng cộng sản Việt Nam và các hội đoàn như Hội Ái hữu, Hướng đạo; từ năm 1934 có Tự lực Văn đoàn một hội đoàn hiện đại tạo ảnh hưởng rất lớn lao về văn học và xã hội; 1937 có Hội truyền bá quốc ngữ. Trừ hai đảng chính trị, các hội đoàn đều công khai hoạt động. Chẳng lẽ nhà nước Việt Nam cảnh giác đối với nhân dân đã trải qua 68 năm làm cách mạng của mình hơn cả bọn thực dân Pháp! Chúng ta hãy nhìn ra thế giới văn minh, nhìn gần hơn là các nước quanh vùng để thương cho dân mình và mau chóng thực hiện các quyền tự do đã bị treo suốt 68 năm.
Xã hội dân sự bao trùm tất cả các mặt của đời sống xã hội cho nên nó vô cùng quan trọng. Thời đại toàn cầu hóa cho thấy con đường văn minh của nhân loại có những điểm chung giống nhau trong sự vận dụng các giá trị phổ quát, hình thành mô hình xã hội tiến bộ, phát triển, gồm có “bộ ba” không thể thiếu một, đó là: xã hội dân sự, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền.
Sau khi các mạng xã hội “lề trái” lần lượt đăng tải bài trên của tôi, Chi bộ gấp rút tổ chức họp nhận xét bài “Kính gửi Hội nghị Trung ương 8” là phản động, vì đã cỗ vũ cho đa nguyên đa đảng, phủ nhận thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Cuộc kiểm thảo chưa xong thì trên báo Lao Động có bài của Tiên sĩ Nguyễn Sĩ Dũng phó Chủ nhiệm Quốc hội bào chữa cho độ trễ trong nhận thức về cái tất yếu của những tư tưởng dân chủ đang tràn vào đất nước, kích thích tôi viết tiếp bài “Kìa! cái tất yếu đang lừng lững đi tới”. Đây là “giọt nước làm tràn ly” đối với Đảng cộng sản.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 02 Sep 2018

Kìa! Cái Tất Yếu Đang Lừng Lững Đi Tới!

1- Vì sao quốc hội không thể nhận thức được “cái tất yếu”?

Sau khi Hiến pháp được Quốc hội thông qua với số phiếu áp đảo, dư luận cả nước sôi hẳn lên. Các giáo sư, tiến sĩ Mác - Lê phân tích “Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng được Quốc hội thông qua là thắng lợi của ý Đảng lòng dân”. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói “Hiến pháp mới sẽ nói lên tiếng nói của 90 triệu đồng bào”. Báo Nhân Dân đăng bình luận “Hiến pháp (sửa đổi) - một bước tiến lịch sử”. Nhưng có sự phản ứng ngược lại. Nhà văn Võ Thị Hảo kêu lên “ngày thông qua Hiến pháp là ngày tang khốc của dân tộc”. Đảng viên Lê Hiếu Đằng, người từng bị chế độ Sài Gòn kết án tử hình tuyên bố từ bỏ Đảng. Hôm sau, đảng viên tiến sĩ Phạm Chí Dũng một cây bút bình luận thời sự chính trị xuất sắc, gửi tâm thư xin ra Đảng, bởi “sự lãnh đạo toàn diện của Đảng chỉ mang hơi thở và bóng hình của các nhóm lợi ích”. Tiếp theo, đảng viên, bác sĩ Nguyễn Đắc Diên ra Đảng nhưng hứa hẹn “khi nào Đảng thực sự hoàn lương, nắm vững ngọn cờ dân tộc vứt bỏ ngọn cờ xã hội chủ nghĩa thì tôi lại phấn đấu xin vào”. Đảng viên Nguyễn Minh Đào gần 80 tuổi đời, gần 60 tuổi Đảng cảnh báo “đất dưới chân Đảng đang rung chuyển, tôi mong Đảng hãy kịp thời hành động, đừng để quá muộn”!
Lời nói đầu Hiến Pháp mới viết rằng, Hiến pháp này “kế thừa Hiến pháp 1946”. Nếu đúng như vậy thì cũng đã đáp ứng được phần lớn đòi hỏi của số khá đông đảng viên và nhân dân rồi, vậy tại sao vấp phải phản ứng dữ dội như vậy? Không đúng! Hiến pháp 1946 và Hiến pháp mới khác nhau về ý thức hệ, cho nên không có chuyện kế thừa! Hiến pháp 1946 đề cao vai trò của nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của nhân dân, quy định nhân dân tham gia quyết định các sự kiện trọng đại của đất nước bằng quyền phúc quyết sau khi đã được Quốc hội thông qua. Hiến pháp 1946 quy định nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập, điều mà Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp năm 1879 ở Điều 16 viết: “Ở một xã hội mà quyền con người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng thì Hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Khác với Hiến pháp 1946, Hiến pháp mới quy định cho một tổ chức chính trị được quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội mà không cần phải qua bầu cử của nhân dân, quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với tổ chức chính trị ấy.
Giống như bào chữa cho việc bỏ phiếu thông qua Hiến pháp của Quốc Hội, tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội cho rằng: “Hai năm qua, những tư tưởng về chủ nghĩa lập hiến, về chủ quyền nhân dân, về quyền con người, về cơ chế kiểm soát quyền lực… đã tràn vào nước ta, thắp sáng khối óc và con tim của hàng triệu người Việt. Tuy nhiên, nhận thức về sự tất yếu như vậy nhiều khi khó đạt một cách dễ dàng. Một độ trễ nhất định của nhận thức so với thực tiễn đã đầy 'đa nguyên' của đời sống kinh tế là rất khó tránh khỏi”. Lời bào chữa của ông không giúp được “hạ nhiệt” dư luận mà trái lại đã làm cho người đọc thêm bức xúc: “Tại sao những tư tưởng khai sáng tràn vào thắp sáng được khối óc, con tim của hàng triệu người Việt mà nó lại không thể thắp sáng nỗi đầu óc, con tim của gần 500 đại biểu Quốc hội, trong đó có hơn 90% là đảng viên, và có mặt tất cả các Ủy viên Bộ chính trị của Đảng tiên phong lãnh đạo, những đại biểu ưu tú mang trí tuệ của dân tộc và thời đại”? Điều ấy gây khó cho những ai muốn bào chữa họ là những đại biểu ưu tú của nhân dân!
Mọi người đều biết “tất yếu và ngẫu nhiên” là một cặp phạm trù triết học phản ánh mối liên hệ khách quan giữa các hiện tượng trong quá trình biến đổi, phát triển của thế giới. Tất yếu là cái nhất thiết phải xảy ra trong những điều kiện nhất định, còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hay không thể xảy ra, có thể xảy ra thế này hay thế khác. Tất yếu gắn liền với những nguyên nhân bên trong, bản chất của hiện tượng, là xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Cái tất yếu mở đường đi cho nó thông qua vô số những cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên thì trở thành biểu hiện, bổ sung cho cái tất yếu. Cái tất yếu được chỉ ra trong các quy luật động học có độ xác định cao (Từ điển Bách khoa).
Nhiều học giả trên thế giới và trong nước đều khẳng định rằng, tự do, dân chủ, nhân quyền là xu thế tất yếu của thời đại mà mọi quốc gia nhanh hay chậm đều phải đi đến. Vậy nếu đi ngược lại cái tất yếu thì điều gì sẽ xảy ra? Chắc chắn phía trước tiềm ẩn nhiều tai họa!
Đại văn hào Stephan Zweig cho rằng “luôn có những con chim báo bão, sứ giả của trí tuệ, đi trước những tai họa lớn bằng sự bay của mình”. Tiếc thay tiếng chim báo bão ở nước ta không có người lắng nghe!
2- “Đến hết thế kỷ này chưa biết đã có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở việt nam hay chưa”!
Trên đây là câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi góp ý sửa đổi Hiến pháp. Ông vốn là tiến sĩ về lý luận xã hội chủ nghĩa Mác - Lê, là người đứng đầu Đảng cộng sản nhận nhiệm vụ “đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH với nhận thức và tư duy đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam” (Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Vậy câu nói của ông nên hiểu là với “nhận thức và tư duy” thế nào?
Theo lý luận Mác - Lê thì ở thời kỳ quá độ, chuyên chính vô sản phải thi hành các chính sách nhằm tạo ra “điều kiện tiên quyết của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng nên công nghiệp xã hội chủ nghĩa hùng mạnh và tiến hành hợp tác hóa kinh tế nông dân. Thời kỳ quá độ kết thúc sau khi đã tiêu diệt thành phần tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn, chủ nghĩa xã hội thắng lợi trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân” (từ điển kinh tế, nxb CTQG Liên Xô năm 1958, nxb Sự thật in lại 1962). Về thời kỳ quá độ, Đại hội 11 kết luận: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nội dung này trung thành với nguyên lý nói trên và không gây cảm giác “chuyện ấy còn lâu”.
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới bác bỏ khả năng thực hiện “quá độ xã hội chủ nghĩa” nói trên. Nhưng có lẽ sự bác bỏ có sức thuyết phục mạnh nhất là việc các nước SNG trong Liên Xô cũ và các nước Đông Âu vứt bỏ hoàn toàn lý thuyết nói trên để thực hiện nền dân chủ pháp quyền, kinh tế thị trường hiện đại và xã hội dân sự.
Nguyên nhân khiến cho chủ nghĩa xã hội không thể vượt qua được chiếc cầu “quá độ” là vì nó mang nhiều khuyết tật không thể khắc phục, trong đó có hai vấn đề lớn nhất:
Một là, chế độ độc tài toàn trị từng bước làm thoái hóa Đảng cộng sản cách mạng, vốn đặt mục đích vì lợi ích người lao động, cuối cùng lại trở thành Đảng quan liêu, đặc quyền đặc lợi, tham nhũng, đứng trên nhân dân. Tình trạng này không thể khắc phục được, bởi như nhận định của lý thuyết gia chính trị Lord Acton “Quyền lực dẫn tới tha hóa. Quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Các Đảng cộng sản đều kêu gọi đảng viên gần dân, dựa vào dân, nhưng mọi quyền lợi của họ đều do Đảng quyết định, cất nhắc, phân công cho nên không có đảng viên nào thấy cần phải dựa vào dân. Hơn nữa, những điều người dân đòi hỏi mà trái với Nghị quyết của Đảng thì họ phải nhân danh Đảng bác bỏ, thậm chí trù dập, để bảo vệ quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là “Đảng cử dân bầu”.
Hai là, chế độ xã hội chủ nghĩa triệt tiêu quyền sở hữu tài sản cá nhân tức là quyền tự do về kinh tế, khiến cho con người mất động lực lao động sản xuất và sáng tạo. “Cha chung không ai khóc”, “của chung là của chùa” khiến cho “làm thì nhác, chia chác thì siêng”. Lê Nin cho rằng quyết định cuộc đấu tranh “ai thắng ai” là ở năng suất lao động bên nào cao hơn. Nhưng kết cục, năng suất lao động ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa đều thấp, hàng hóa làm ra vừa ít, vừa kém chất lượng. Đời sống vật chất không được cải thiện, trong khi đời sống tinh thần không có tự do, nhân dân không thể mãi cúi đầu cam chịu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 16 guests