Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 28 Aug 2018

2. Hội nhập quốc tế sâu rộng, bị tấm gương của nhiều nền báo chí tự do tương phản làm cho báo chí Việt Nam lộ rõ sự lạc hậu rất tệ hại trước trào lưu dân chủ, nhân quyền. Một đất nước có hơn 800 tờ báo mà luôn luôn bị các tổ chức nhân quyền quốc tế lên án là không có tự do báo chí. Hiện có gần trăm tờ báo của các Đảng bộ tỉnh, thành phố in ra đem phát không, rồi đem bán ve chai. Nhà báo cộng sản lão thành, ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền Ban Tuyên huấn Trung Ương Đảng đã phải kêu lên trong quyển sách ông viết có tựa đề “Kính gửi Mẹ và Quốc hội”: Xin cho được tự do báo chí bằng với thời đô hộ của thực dân Pháp!
3. Tự do kinh tế đã tạo ra lớp doanh nhân đông đảo. Càng ngày càng có nhiều con em của người có tiền được gửi đi du học ở các nước tiên tiến. Xã hội Việt Nam đang hình thành một từng lớp trí thức trung lưu có yêu cầu cao về quyền được thông tin kịp thời, chính xác, đa dạng. Lớp người này phải tìm đến các nguồn thông tin của báo, đài nước ngoài, các tờ báo mạng, các blog. Họ sẽ là lực lượng ngày càng lớn mạnh đòi hỏi một nền báo chí tự do. Trong bài viết “Vì sao đạo đức băng hoại”, tôi cho rằng đạo đức cách mạng xung khắc với “Đổi mới”. Nay lại xin nói: Báo chí cách mạng cũng xung khắc với Đổi mới!
4. Để thoát khỏi sự kềm kẹp tự do báo chí, một phong trào viết blog xuất hiện. Các địa chỉ blog được đông đảo người đọc tin cậy tìm đọc như Blog Osin của nhà báo Huy Đức. Tiếp theo đó là các mạng xã hội, một luồng gió tự do từ các blogger, từ mạng xã hội, như Facebook của Hương Trà (Cô Gái Đồ Long), Nhạc sĩ Tuấn Khanh…, đang thổi bùng lòng khát khao quyền được thông tin của nhân dân từ lâu bị bưng bít, khiến cho nỗi bức xúc căng lên. “Đây chính là một thứ quyền lực thứ năm”. (Thế giới phẳng, Thomas L. Friedman).
“Hoàn toàn có tự do, nếu đi đúng lề đường bên phải”!
Nói như vậy không khác nào bảo hãy vào nhà giam đi, ở trong đó sẽ tha hồ mà tự do!
Có lẽ, trong công cuộc “Đổi mới” ở Việt Nam, báo chí là một ngành vận hành theo chiều ngược, tức là càng ngày càng bị siết lại.
Giữa năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng truyền đạt ý kiến Bộ Chính trị, gồm mấy ý lớn sau đây:
- Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước.
- Kiên quyết đình chỉ các cơ quan báo chí không chấp hành đúng pháp luật, không thực hiện đúng tôn chỉ mục đích.
- Việc xem xét xử lý sai phạm của các cơ quan báo chí phải được thực hiện đồng bộ giữa xử lý kỷ luật về chính quyền đi đôi với xử lý kỷ luật về Đảng, xử lý người trực tiếp có sai phạm gắn với xử lý trách nhiệm của người đứng đầu và người có liên quan.
Từ tư tưởng chỉ đạo ấy mà có sự lựa chọn Bộ trưởng. Ông Lê Doãn Hợp là mẫu người thích hợp. Ông này ăn nói thô bạo không cần giữ ý: “Tổng biên tập là người của Bộ Thông tin và Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo”. (Nhà thơ Hoàng Hưng gọi đây là dòng ý nghĩ đen). Ông tuyên bố sẽ quản lý chặt cả báo mạng và các blog cá nhân. Là người chỉ huy đạo quân chữ nghĩa của một đất nước ngàn năm văn hiến, nhưng ông ăn nói không cần chọn từ ngữ chuẩn xác, cứ nói văng mạng như một kẻ vô học. Trong cuộc “giao lưu trực tuyến với nhân dân”, ông Bộ trưởng đã giải thích quản lý báo chí là: “Quản một cách có lý, bao gồm cả đạo lý và nguyên lý. Đạo lý là ủng hộ người tốt, răn đe người không tốt. Nguyên lý là tạo hành lang cho người ta hành động”.
Nhiều ý kiến trên mạng cho rằng ông nói nghe thật dốt nát và buồn cười.
Sự “quản lý” của ông Hợp theo tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị đã làm cho báo chí cách mạng Việt Nam mấy năm qua có nhiều biểu hiện không bình thường.
- Vụ báo chí Nhật Bản đưa tin Công ty PCI của họ hối lộ quan chức Việt Nam Huỳnh Ngọc Sĩ, sau mấy tuần lễ, báo chí Việt Nam vẫn im như thóc không dám đưa tin vì chưa có lệnh Tuyên huấn! Bạn đọc châm biếm hỏi: “Phải chăng công khai sự thật tức là đi ra ngoài hành lang của ông Lê Doãn Hợp”?
- Vụ khởi tố nữ phóng viên Lan Anh của báo Tuổi Trẻ là mở đầu đánh vào nhà báo chống tiêu cực, đối tượng từ lâu được khuyến khích và bảo vệ. Bị dư luận phản đối dữ dội, vụ án phải đình chỉ, phóng viên Lan Anh thoát nạn. Năm 2008, vụ án khởi tố hằng loạt phóng viên của nhiều tờ báo đưa tin về vụ tham nhũng ở PMU 18 với tội danh “làm lộ bí mật nhà nước và lợi dụng quyền tự do dân chủ”.
- Cũng như Lan Anh, các nhà báo trong vụ án này đều là những người trung thành với “lý tưởng làm báo cách mạng”, quyết lôi bọn tham nhũng ra ánh sáng, làm trong sạch bộ máy Đảng và nhà nước. Nhà báo Nguyễn Việt Chiến ra trước tòa vẫn khăng khăng rằng mình không có tội mà chỉ có quyết tâm chống tham nhũng. Các ban biên tập báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên và nhiều đồng nghiệp của họ đã hăm hở viết bài bảo vệ họ. Việc làm đó đã bị dập tắt ngay lập tức. Tất cả báo chí cả nước im phắc cùng một ngày. Tiếp theo là án tù ngồi cho người không tự biết mình có tội (Nguyễn Việt Chiến), tù treo cho người biết nhận tội (Nguyễn Văn Hải). Tiếp theo nữa là tước quyền hành nghề của các phó tổng biên tập, tổng biên tập của các báo Thanh Niên, báo Tuổi Trẻ, những người đã viết bài hoặc duyệt bài bảo vệ những người bị bắt. Nhà báo Uyên Vũ cho rằng vụ tước quyền hành nghề của bảy nhà báo một lúc có thể so sánh với vụ Nhân văn - Giai phẩm, chỉ có điều khác xưa là họ không bị “đấu tố” và “ném đá” bởi các đồng nghiệp!
- Phó Tổng biên tập Bùi Thanh của Tuổi Trẻ, một nhà báo đầy “lý tưởng cách mạng” bị cách chức trong vụ này đã ngơ ngác hỏi “Vì sao?”, khi nhìn các đồng nghiệp tử tế và trong sáng của mình bị xe cảnh sát đưa vào nhà giam. Ông lại tiếp tục ngây thơ khi viết trên blog: “Đừng nản lòng, hãy vì những trang báo sống động ngày mai, vì bạn đọc của mình”! Trong khi đó, trả lời câu hỏi “Liệu vụ án này có làm sa sút ý chí chống tham nhũng của các nhà báo”? Ông Đinh Thế Huynh Ủy viên Trung Ương Đảng, chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, kiêm Tổng Biên tập báo Nhân Dân tỉnh bơ trả lời: “Làm sao lại có thể sa sút được! Bởi vì chống tham nhũng là một kênh của báo chí cách mạng”!
Có hai nhận định đáng lưu ý về vụ này là:
- Nhà báo Huy Đức cho rằng vụ án cho thấy các nhà báo Việt Nam không có nghiệp vụ báo chí để tiến hành điều tra độc lập mà chỉ dựa vào cơ quan điều tra và tin rằng đó là tư liệu hoàn toàn chính xác. Vụ án cũng cho thấy tư pháp Việt Nam bất cập khi kết tội các nhà báo viết bài bởi động cơ trong sáng không vụ lợi và tin chắc rằng tư liệu mình có trong tay là sự thật.
- Ký giả Trần Tiến Dũng cho rằng vụ án này là “Dấu chấm hết của báo chí lý tưởng”, bởi nó đã đánh vào những nhà báo tự nguyện làm công cụ của Đảng để thực hiện lý tưởng cách mạng! Ngẫm ra nhận định này không phải không có cơ sở. Thực tế cho thấy tham nhũng đã xâm nhập vào các cấp cao nhất của guồng máy Đảng và Nhà nước khiến cho họ không có cách nào khác là phải bẻ gãy những cây bút công cụ đang chĩa vào chính những ông chủ!
Năm 2008, báo chí Việt Nam vốn ngoan ngoãn với chức năng công cụ, đã bị trừng phạt nặng nề: 6 cơ quan báo chí bị cảnh cáo, 252 trường hợp bị khiển trách, 15 nhà báo bị thu thẻ hành nghề, trong đó có 2 tổng biên tập, 4 phó tổng biên tập, 6 nhà báo bị khởi tố, 2 nhà báo vào tù.
Mới đây, nhà báo, văn nghệ sĩ lại bị trấn áp với tội danh mới, “tội yêu nước”! Đó là vụ ông Nguyễn Trung Dân, phó Tổng Biên tập báo Du Lịch Việt Nam, bị cách chức, thu thẻ nhà báo vì đăng tin bài chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Một số nhà báo, văn nghệ sĩ bị bắt, bị thẩm vấn và gây khó khăn trong cuộc sống vì đã tham gia biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm đảo biển Tổ quốc. Đạo diễn Song Chi, một blogger có nhiều bài viết mạnh mẽ đã phải rời đất nước xin tị nạn chính trị ở Na Uy, được nước này tiếp nhận như là một guest writer (khách văn). Bà Song Chi cho biết sau khi bị bắt vì tội biểu tình chống Trung Quốc bà bị gây khó không thể làm việc được.
Đây quả là một bi kịch của “báo chí cách mạng” Việt Nam!
Mới đây nhà báo Nguyễn Chính trong bài viết “Báo và Blog và Bầu trời” kể rằng 15 năm trước khi ông nói báo Nhân Dân là tờ báo mà nhân dân ít đọc nhất đã bị ông Đinh Thế Huynh, chủ tịch Hội đồng Khoa học báo Nhân Dân, bực dọc vặn lại: “Nói thế là không được! Xin hỏi anh Nguyễn Chính, đó là nhân dân nào”? Nay ông Huynh đã lên tổng biên tập và kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác. Nhưng báo Nhân Dân thì vẫn giữ vững kỷ lục là tờ báo ít nhân dân mua nhất! Nhà báo Trương Duy Nhất cho rằng không chỉ báo Nhân Dân không có người đọc mà nói chung ngày nay “đọc báo giấy chán bỏ mẹ”! Bạn đọc Việt Nam, nhất là số người có học, đang tìm thông tin trên các mạng xã hội, các blog.
“Đọc báo giấy chán bỏ mẹ”! Đó chính là hậu quả của cách quản lý “hoàn toàn có tự do nếu đi đúng lề bên phải” của ông Lê Doãn Hợp! Hậu quả đó được giảng viên Đại học Sư phạm kiêm nhà báo Hà Văn Thịnh miêu tả như sau: “Còn nếu quý vị có ai đó đã từng viết báo sẽ biết là rất nhiều câu chữ người ta đọc qua điện thoại cho tôi, và chúng phải có. Vấn đề là ‘lách' như thế nào để rồi người đọc hiểu đến đâu là câu chuyện quá dài. Nói là bồi bút thì cũng phải, không sai. Thế nhưng cần phải lật ngược vấn đề rằng có ai ăn lương hiện nay mà không từng một lần làm bồi bút”?
Chao ơi, có đau đớn không, khi chính sách của Đảng cầm quyền từng được tung hô “quang vinh muôn năm” lại biến những người cầm bút của báo chí cách mạng vốn được giao thiên chức “xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng” trở thành những tên bồi bút! Và càng đáng sợ hơn là người ta có thể nói ra điều nhục nhã đó một cách thản nhiên. Vậy thì người đọc của dân tộc anh hùng này đang đi theo cái định hướng để trở thành những tên bồi gì đây?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 28 Aug 2018

Điều 19 của ICCPR?
Năm 1946 khi phải chấp nhận chính phủ liên hiệp đa đảng, Hồ Chí Minh định nghĩa “Dân chủ là người dân được mở miệng”. Đó chính là tự do ngôn luận. Điều mà cách đây hơn 150 năm, ông Robert Lowe, chính khách người Anh đã miêu tả cụ thể: “Chúng ta nhất định phải nói lên sự thật, đúng như chúng ta thấy, không sợ mọi hậu quả, nhất định không cung cấp chỗ ẩn náu thuận tiện cho những hành vỉ bất công hay áp chế mà phải lập tức giao chúng cho sự phán xét của thế giới.” Hiến pháp đầu tiên năm 1946 do quốc hội có 70 đại biểu Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội và Quốc Dân Đảng đã ghi nhận tinh thần đó. Luật Báo chí hiện hành cũng có ghi nhận tuy không thật cụ thể: “Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”. Vậy thì tại sao thực tế vận hành của báo chí Việt Nam lại không phải như vậy? Tại sao cứ tiếp tục rập khuôn theo thứ báo chí phản thông tin của Lê nin mà ngày nay chính đồng bào Nga của ông cũng kiên quyết từ bỏ? Tại cuộc họp của Hội đồng Nhân quyền hồi tháng 5/2009 có hằng chục đại diện các quốc gia đề nghị Việt Nam thực hiện một phần, hoặc phù hợp, hoặc trùng khớp với Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, như: Gia tăng sự độc lập của truyền thông, cho phép ra báo tư nhân, dỡ bỏ hạn chế internet…, tất cả đều bị Việt Nam bác bỏ. Lạ thay, Việt Nam là quốc gia đã ký cam kết gia nhập Công ước Quốc tế này từ ngày 24 tháng 9 năm 1982! Tại sao vậy? Xin hãy đọc kỹ nội dung điều 19 của Công ước này xem nó chứa đựng những gì nguy hiểm đến nỗi các nhà lãnh đạo Việt Nam phải kiên quyết chối bỏ?
Điều 19
1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.
2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.
3. Việc thực hiện những điều quy định tại khoản 2 của điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó có thể dẫn đến một số hạn chế nhất định, tuy nhiên những hạn chế này phải được pháp luật quy định và cần thiết để:
- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác;
- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng.
(“Các văn kiện quốc tế về quyền con người”, do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người biên soạn, Nhà Xuất bản TP Hồ Chí Minh phát hành năm 1997, trang 117).
Bạn đọc Việt Nam có thấy Điều 19 có gì đáng sợ? Tôi thấy nó rất cao quý, tin ở con người, tôn trọng con người và tạo điều kiện cho con người đóng góp trí tuệ cho cuộc sống. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn hô hào tìm những biện pháp “đi trước đón đầu” trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, trong khi đó lại từ chối không chịu đi kịp những vấn đề của dân chủ, nhân quyền, không chịu thực hiện tự do báo chí, điều mà Thomas Jefferson đánh giá là “Công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ của con người, nâng con người lên trở thành có lý trí, phẩm hạnh và mang tính xã hội”!
Khi tôi chép vừa xong điều 19 thì bạn tôi điện thoại cho hay, báo Dân Trí vừa đưa tin: Sở Giáo dục Quảng Nam buộc thôi việc cô giáo dạy văn cấp 3 Nguyễn Thị Bích Hạnh, bởi cô đã chỉ cho học sinh cách tự học, tìm tòi phân tích thông tin trên các trang web của talawas, Tiền Vệ. Như vậy là “quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức” ở điều 19 đã không được chấp nhận!
Có phải lý do chính là “không để tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước”? Có lẽ toàn dân Việt Nam đều đồng ý với Bộ Chính trị là phải ngăn chặn mọi hành vi “gây tổn hại lợi ích đất nước”. Nhưng tại sao tất cả các quốc gia tiên tiến, hiện đại trên thế giới đều thực hiện điều 19 ấy mà vẫn không bị “gây tổn hại lợi ích đất nước” của họ? Dân tộc ta kém thiên hạ điều gì chứ lòng yêu nước thì đâu có thua ai? Nếu luật pháp Việt Nam chưa đủ chặt chẽ để ngăn chặn các hành vi “lợi dụng chi phối” ấy thì chúng ta nên gấp rút hoàn thiện luật pháp để thực thi cho được Điều 19, sẽ tốt hơn gấp trăm lần cấm đoán! Hay là chúng ta sợ mình không đủ lý lẽ chống lại sự ngụy biện xuyên tạc của kẻ xấu? Trong lịch sử không có chính nhân quân tử nào lại sợ kẻ xấu cả! Ngụy biện xuyên tạc là hành vi mờ ám, chỉ cần soi ánh sáng của sự thật vào là nó sẽ vỡ vụn ngay. Chẳng lẽ chúng ta sợ những ý kiến phản biện? Tôn trọng ý kiến khác biệt thì phải chấp nhận tranh luận, để tìm ra chân lý! Người lớn, cấp cao chịu làm như vậy không hề hạ thấp mình mà càng được “khẩu phục tâm phục”. Nếu như vụ Bauxite được cho công khai tranh biện trên tất cả các báo thì trí tuệ Việt Nam được nhân lên, mọi ngờ vực tan biến và uy tín của lãnh đạo sẽ nâng cao, rất cao. Tại sao Bộ Chính trị không làm như vậy?
Bộ Chính trị của khóa 10 này đã có những hành xử rất đáng lo ngại. Các vị chẳng những không coi trọng nguyện vọng của người dân mà còn nhiều lần bỏ ngoài tai những góp ý, kiến nghị của các bậc đại công thần, đại trí tuệ của chế độ, những người mới hôm qua còn là những bậc thầy cao không với tới đối với họ như Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt. Đáng nói hơn là những kiến nghị của các cụ được nhân dân cả nước đánh giá là rất sáng suốt, hết lòng vì nước vì dân. Hàng ngàn trí thức, hàng vạn người dân hưởng ứng những lá thư tâm huyết của Đại tướng, vậy mà các vị vẫn phớt lờ. Cách hành xử đó tồi tệ và độc đoán nhiều lần so với việc các vua Trần, vua Nguyễn bác bỏ “Thất trảm sớ” của Chu Văn An, “Tám điều cấp cứu” của Nguyễn Trường Tộ.
Mặc dù vậy, tôi vẫn không muốn tin câu nói này của Frederick Douglass có thể đang ám những người lãnh đạo của nước Việt Nam đã trải qua 64 tuổi “dân chủ”: “Trong các quyền con người, quyền biểu tỏ ý kiến là nỗi kinh hoàng của các hôn quân bạo chúa, là thứ quyền mà chúng phải ra tay triệt hạ đầu tiên.”
Tôi vẫn cứ muốn tin rằng thời của bạo chúa đã qua từ lâu rồi và chính Đảng Cộng sản Việt Nam từng tự hào góp phần chôn vùi nó ở đất nước này! Tôi vẫn muốn tin rằng nhân dân ta đang thực sự xây dựng một chế độ “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Tôi vẫn muốn tin rằng từ Dân chủ trong câu trên có ý nghĩa thực chất chứ không phải để làm cảnh. Nhưng đã có quá nhiều sự thật nhơ nhớp xếp đầy trí nhớ tôi, giờ đây thêm sự thật Bauxite khổng lồ sặc mùi máu mê của những con bạc, lộ nhiều toan tính gian manh, lại đầy nghi vấn âm mưu “cõng rắn”! Làm sao tin được đây?
“Không có tự do báo chí thì sẽ chẳng còn gì ngoài sự tồi tệ” (Albert Camus). Nếu Đảng tự tin rằng mình đang nắm được chân lý và rất trong sáng trước nhân dân thì hãy đường hoàng thực hiện tự do báo chí. Đó là lửa thử vàng, là cơ sở tạo niềm tin nơi nhân dân.
(Tôi viết bài này với bút danh Thiện Ý gửi đăng trên Talawas nhân ngày 21-6 ngày báo chí cách mạng của nước Việt Nam cộng sản năm 2009).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 29 Aug 2018

Trăn Trở Cùng Chủ Tịch Nước

Vào dịp Tết Tân Mão, tâm sự với bạn đọc báo Sài Gòn tiếp thị, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nhắc chuyện người thầy của mình thời đại học đã gửi gắm kỳ vọng vào anh học trò Nguyễn Minh Triết giỏi toán, nay là Chủ tịch nước, chắc chắn sẽ giải được bài toán khó của đất nước: Quốc nạn tham nhũng! Chủ tịch nói những lời ân hận: “Chống tham nhũng là mong mỏi tha thiết và chính đáng của những người dân. Nhưng cho đến hôm nay tôi tự thấy nhiệm vụ đó tôi chưa làm xong”.
Rất tiếc, ngày Chủ tịch về làm Bí thư Thành Ủy, anh Năm Tân, bạn tôi (tức Triều, cán bộ Ban Dân vận Trung Ương Cục, người thay mặt ban tổ chức Trung Ương Cục miền Nam tiếp nhận sinh viên Nguyễn Minh Triết mới từ thành phố vào bưng), rủ tôi cùng đến thăm nhà tân Bí thư Thành Ủy nhưng tôi không chịu đi. Anh nói: “Chúng mình thường xuyên cung cấp chứng cứ tham nhũng để đồng chí Bí thư quan tâm xử lý”. Tôi từ chối ngay: “Tôi không tham gia đâu. Ngày còn là Tổng Biên tập báo Lao Động, tôi đã quyết liệt chống tham nhũng, quan liêu và đã bị Ban Tư tưởng Văn hóa nhiều lần góp ý. Có lần không phải góp ý với tổng biên tập mà với “đảng viên có trách nhiệm”. Khi tôi trả lời chúng tôi làm không sai luật, đồng chí Hữu Thọ tươi cười nói khéo theo kiểu bạn bè: “Một Chính phủ mà trong hơn một tháng bị mày chỉ trích đến 4 ông Bộ trưởng thì sẽ ra sao trước dư luận quốc tế và trong nước”? (bốn Bộ trưởng bị báo Lao Động chỉ trích là Phạm Song, Bộ trưởng Y tế, Cao Sĩ Kiêm Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Vũ Ngọc Hải Bộ trưởng Bộ năng lượng, Phan Xuân Đợt Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp).
Tôi đã trả lời anh: Một chế độ chấp nhận cho báo chí liên tục chỉ trích chính phủ là một chế độ dân chủ, vững mạnh và Chính phủ tiếp thụ sự chỉ trích, sẽ đổi mới phục vụ nhân dân đắc lực hơn. Nhưng Hữu Thọ nhân danh đại diện Trung Ương Đảng không chấp nhận quan điểm của tôi. Huống hồ ngày nay, trong tay tôi không có quân, cũng chẳng có quyền, thôi tôi chẳng chơi dại! Anh Năm Tân nổi cáu: “Mày bạc nhược đến thế à? Vậy thì mày còn ở trong Đảng để làm gì”? Anh Năm Tân đã một mình tới nhà Bí thư Thành Ủy Nguyễn Minh Triết. Hai tháng sau đó, có chuyện không vui xảy ra cho anh Năm Tân: Bà Kim Em - Phó Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức quận 7 thành phố Hồ Chí Minh - gửi công văn “yêu cầu đồng chí Năm Tân rút tên ra khỏi bản đăng ký đi tham quan Hà Nội, để ở lại làm ngay bản kiểm điểm, vì theo công văn của Tỉnh Ủy Long An, đồng chí đã kích động nhân dân khiếu kiện về đất đai, chống lại chính quyền Long An” (trước khi về hưu, anh Năm Tân là Chủ tịch Liên hiệp Công Đoàn tỉnh Long An, lúc đó đã có Huy hiệu 50 tuổi Đảng, hiện giờ thì đã 60). Trước việc trớ trêu này tôi đã nói đùa với anh Năm: “Dù anh đã lớn tiếng đòi đuổi tôi khỏi Đảng, tôi vẫn cầu mong cho anh không bị đuổi ra trước tôi”!
Xin lỗi Chủ tịch, tôi đã dài dòng, để nói rằng bài toán chống tham nhũng rất khó, và thực ra nó cũng không phải chỉ thuộc trách nhiệm của Chủ tịch nước với quyền hạn chế theo Hiến pháp. Cho nên dù có tiếp tục thêm một nhiệm kỳ nữa (việc đó không thể có rồi)! Chủ tịch cũng không thể làm xong được. Do đó tôi muốn Chủ tịch cùng suy ngẫm vấn đề trọng đại này với đất nước, dù đã muộn lắm!
Trước hết tôi muốn được cùng Chủ tịch nhớ lại những ý kiến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946 do phải chấp nhận đại diện các đảng phái tham gia chính phủ liên hiệp, Hồ Chí Minh đã có những phát biểu tiến bộ:
- “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1986, tập 6, trang 271).
- Pháp luật phải trừng trị những kẻ bất liêm bất kỳ kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” (sách đã dẫn, tập 5, trang 245).
- Hồ Chí Minh cho rằng bọn quan liêu, tham nhũng “xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân, không tin cậy nhân dân, không hiểu biết nhân dân, không thương yêu nhân dân” (sách đã dẫn, tập 6, trang 112).
- Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1984, tập 4, trang 283).
- Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để cho họ đề nghị sửa chữa” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1984, tập 5, trang 297).
Hồ Chí Minh cho rằng phải có dân chủ mới chống tham nhũng được. Nhưng rất tiếc là Cụ Hồ chưa nói rạch ròi là thứ dân chủ nào? Từ sau năm 1954, Cụ Hồ chỉ nói về dân chủ xã hội chủ nghĩa. Năm 1959, Hồ Chí Minh chính thức vứt bỏ Hiến pháp 1946, ban hành Hiến pháp 1959, không chấp nhận nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, Đảng nhất định phải lãnh đạo Tư pháp. Nhiều năm qua cho thấy “dân chủ xã hội chủ nghĩa” dưới sự lãnh đạo của Đảng không thể chống nổi tham nhũng. Bởi vì nếu Đảng chống tham nhũng là tự chặt tay mình. Hãy nhìn lại cách chống tham nhũng của chúng ta, xem vì sao không thể đạt hiệu quả như các nước dân chủ.
Tham nhũng đã sang thế hệ thứ tư
Từ năm 2006, Tổng Bí thư Nông đức Mạnh cũng đã thừa nhận: “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ”. Đến nay đã qua 4 năm, năm nào ta và các cơ quan của Liên Hiệp Quốc cũng có tổng kết về vấn đề này. Xin chỉ nêu những kết luận gần nhất:
- Ngày 1-12-2010, Hội nghị tổng kết do Ban Bí thư Trung Ương chủ trì kết luận: “Hiện nay tham nhũng vẫn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp, xảy ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp. Tham nhũng chưa được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi như mục tiêu Nghị quyết Trung Ương 3 đề ra. Tham nhũng vẫn là vấn đề bức xúc, mối quan tâm lớn của toàn xã hội”.
- Ngày 6-4-2011, Thủ tướng chủ trì phiên họp tổng kết quý 1-2011 của Ban chỉ đạo Trung Ương về phòng, chống tham nhũng nhận định: “Số vụ tham nhũng được phát hiện và xử lý giảm do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thiếu quyết tâm, ngại đưa ra xử lý các vụ việc ở thời điểm nhạy cảm về chính trị”. Nhận xét như vậy có điều tốt là trung thực, nhưng bộc lộ chỗ yếu rất khó khắc phục: Đó là che giấu bớt vì sợ nhạy cảm chính trị!
Về nhận xét của quốc tế:
- Năm 2008, Chương trình Hỗ trợ Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) có một báo cáo khá chi tiết. Báo cáo nêu:
“Tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã xảy ra dưới 3 hình thức: Hối lộ còn được gọi là bôi trơn; tư nhân hóa tài sản Nhà nước trong việc thực hiện chính sách cổ phần hóa; và mua bán quyền lực”!
Báo cáo của bà Lê Hiền Đức (giáo viên hưu trí ở Hà Nội, người được Tổ chức Minh bạch Quốc tế tặng Giải thưởng Liêm Chính năm 2009) minh họa cho nhận định nói trên. Bà nói “Ở cấp nào bọn tham nhũng cũng có ô dù cả”!
- Chỉ số thứ hạng tham nhũng của Việt Nam từ năm 1997 đến nay hầu như không thay đổi. Năm 2009, Tổ chức Tư vấn rủi ro xếp ta là nước tham nhũng đứng thứ 3 châu Á, khá hơn Indonesia, Philippine, nhưng tham nhũng trong lĩnh vực bất động sản thì ta đứng trên hai nước này!
Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã rút ra kết luận: Bọn tham nhũng lộng hành khi nguy cơ bị phát hiện thấp và nếu bị phát hiện thì hình phạt nhẹ mà mối lợi thu được thì quá lớn. Cơ chế để phòng, chống tham nhũng hiệu quả cần phải có hai điều kiện thiết yếu là: tính minh bạch và khả năng kiểm soát. Từ đó người ta rút ra công thức:
Tham nhũng = Nhà nước độc quyền + Quyền quyết định của viên chức thừa hành quá rộng + Khả năng kiểm soát yếu kém.
Chúng ta có thể dùng công thức này để tìm thấy nguyên nhân bất trị của nạn tham nhũng ở nước mình. Bạn đọc Phan Châu Thành đã lần tìm và so sánh tình trạng tham nhũng qua các thời kỳ đã diễn ra như sau:
- Tham nhũng từ năm 1945-1975 gọi là thế hệ thứ nhất.
Thời ấy, kẻ tham nhũng hành động đơn lẻ, lợi dụng chức quyền chiếm trực tiếp những gì chúng ham muốn. Đội quân chống tham nhũng thời ấy rất hùng hậu bao gồm một xã hội tốt đẹp có đông đảo dân chúng có đạo đức và noi theo tấm gương cần kiệm liêm chính trong sáng của lãnh tụ.
- Từ 1976-1999, tham nhũng bước qua thế hệ thứ hai.
Bọn tham nhũng buộc mọi người phải “mua” từ công việc, chức vụ, tất cả các quyền lợi chính đáng lẽ ra người dân đương nhiên được hưởng. “Văn hóa chạy chọt” xuất hiện. Cái gì cũng “chạy” được, từ quan hệ, chức tước, đặc quyền, sở hữu đất đai, bằng cấp. Chúng chiếm đoạt những thứ không có giá trị vật chất, nhưng lại dễ dàng thu được tài sản, vật chất. Người trong các lực lượng chống tham nhũng bắt đầu tham gia tham nhũng ngày càng công khai! Tham nhũng trở thành “hiện tượng xã hội bình thường”.
Hai vụ tham nhũng vang dội là PMU 18 và Đại lộ Đông Tây cũng chỉ mới ở “trình độ” cấp hai này.
- Từ năm 2000 đến nay, tham nhũng đã sang thế hệ thứ ba. Tham nhũng thiết kế, bố trí, xây dựng và đầu tư, đằng sau mỗi đường dây của chúng là vài ông trùm chủ chốt có quyền thế rất cao. Không thể tìm ra, bắt bẻ tính bất hợp pháp của chúng. Chúng chỉ có thể bị lộ khi có một đường dây tham nhũng khác cạnh tranh, nhưng chưa chắc đã có thể đưa được chúng ra tòa.
- Tham nhũng thế hệ thứ tư xuất hiện từ khoảng năm 2005, đó là các “nhóm lợi ích” thông đồng nhau can thiệp vào hệ thống làm ra chính sách. Những nhà lý luận về kinh tế như Bà Phạm Chi Lan, ông Lê Đăng Doanh, ông Nguyễn Trung đã có nhiều bài viết nói về những “nhóm lợi ích” cài cắm ngay khi soạn thảo luật, cơ chế.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 29 Aug 2018

Xin dẫn chứng quá trình lớn mạnh của tham nhũng ở ngành đóng tàu để minh họa:
- Cách đây 17 năm, ngày 27 tháng 5 năm 1993 các báo đồng loạt đưa tin sau: Tại Quảng Ninh, cơ quan điều tra đã khởi tố bắt giam ông Ngô Đình Quý - Tổng Giám đốc Liên hiệp Đóng tàu Việt Nam - về hành vi tham ô. Khi là Giám đốc nhà máy đóng tàu Hạ Long, ông Quý bán con tàu Ăngco Vat 01, trọng tải 3000 tấn với giá 1.031.000 USD, thanh toán bằng 3 khoản: 95.700 USD; 1000 tấn thép; 200 kiện đầu lọc thuốc lá. Ông Quý bán thép được 2 tỉ tiền đồng, chỉ nộp quỹ 1,5 tỉ. Số ngoại tệ ông chỉ nộp 525 triệu đồng (tương đương 50.000USD)…
- Tối ngày 4 tháng 8 năm 2010, Cơ quan An ninh Điều tra Bộ Công an thực hiện lệnh bắt giam ông Phạm Thanh Bình - Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) - về tội cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng. Sau đó, cơ quan an ninh điều tra khám xét nơi làm việc và hai nhà riêng của ông Bình ở số 10 Ngô văn Sở và 17T6 Khu Trung Hòa, Nhân Chính. “Thiệt hại nghiêm trọng” được biết là khoảng 86.000 tỉ đồng.
Như vậy, nếu so sánh vụ án ở ngành đóng tàu năm 1993 thì thấy nó ở cấp tham nhũng thế hệ thứ hai, còn vụ Vinashin năm 2010 đã vọt lên thế hệ thứ ba, và trách nhiệm xử lý đã từ cấp tỉnh vọt lên cấp Bộ Chính trị!
Đồng chí lão thành cách mạng, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh có thơ than rằng:
“Quan tham ăn hối lộ,
Sống như bậc đế vương”

“Công lý luôn thuộc kẻ cầm quyền.
Tai họa đều đổ đầu dân đen”.

Từ năm 2010, một nhà lý luận hàng đầu của Đảng - Giáo sư Tiến sĩ Mạch Quang Thắng đã viết: “Thật đáng tiếc là cho đến nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên suy thoái một cách nghiêm trọng”!
Nguyên nhân của việc không thể ngăn chặn tham nhũng đã được nhiều nhà lý luận của Đảng phân tích khéo léo, nhưng cũng khá rõ ràng. Tiến sĩ Hồ Bá Thâm, trong bài viết “Dân chủ hóa, phân quyền hóa cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền biện chứng” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11-2009 đã viết: “Với thực tế nảy sinh tràn lan và kéo dài ngày càng trầm trọng tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu và lãng phí hiện nay trong hệ thống chính trị và trong xã hội ta, càng thấy thiếu sót lớn trong một cơ chế thiếu giám sát và kiềm chế quyền lực tệ hại như thế nào. Đó là chỗ hống và yếu kém nhất trong hệ thống tam quyền của Nhà nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và thể chế”. Hình như ông còn quá e ngại đụng chạm đến khái niệm pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một sáng tạo của Tổng Bí thư Đỗ Mười, nên đã dè dặt đưa ra giải pháp gọi là “Tam quyền phân hợp giám, gọi tắt là Tam quyền phân giám”!
Là người quan tâm đến cải cách tư pháp, chắc Chủ tịch cũng thấy việc “phân công ba quyền” đã không cân đối. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đối với trong Đảng, trước đây chỉ là Ủy viên Trung Ương, nay mới vào Ban Bí thư. Tòa án nhân dân tối cao không có quyền xem xét những luật pháp vi hiến, không có quyền mời thủ tướng ra tòa.
Trong cuộc Hội thảo do Bộ Giáo dục - Đào tạo tổ chức ngày 25-7-2010, Đại sứ Thụy Điển nói, Việt Nam có nhiều văn bản luật và nhiều tổ chức chống tham nhũng hơn Thụy Điển. Lời nói của vị đại diện một đất nước gần như không có tham nhũng cho ta nhiều suy ngẫm. Trong khi đó cuộc họp mới nhất cho tới khi tôi viết bài này là 6-4-2011, cả Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Công an đều cho rằng điều lúng túng nhất là khó phân rõ trách nhiệm của người đứng đầu! Tôi xin phép được nói thẳng rằng: Trong khi tham nhũng đã sang thế hệ thứ tư mà chúng ta còn loay hoay tìm chưa ra cách bổ sung để củng cố công cụ chống tham nhũng của thế hệ thứ nhất! Vừa qua ở Ninh Bình, ông Bí thư Tỉnh Ủy, Ủy viên Trung Ương Đảng, là kẻ đại tham nhũng, nhưng lại là cấp trên của Trưởng Ban chống tham nhũng. Nếu cơ chế chỉ sửa bằng cách giao cho Bí thư Tỉnh Ủy làm Trưởng Ban chống tham nhũng thì có hơn gì?
Từ 2.500 năm trước, nhà hiền triết Platon đã nói: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì, ở đó tôi nhìn thấy có sự cứu thoát của Nhà nước”. Học trò xuất sắc nhất của ông là Aristote, người được Karl Marx coi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại đã cụ thể hóa tư tưởng của thầy mình, cho rằng quyền lực phải chia làm 3 lĩnh vực: Lập pháp, Tư pháp và Liên hợp. Suốt 2.000 năm, những đầu óc lớn của nhân loại không ngừng tiếp tục khám phá, cụ thể hóa tư tưởng phân quyền mà hai người đánh những cột mốc lớn nhất là J. Locke và Montesquieu. Cho tới nay đã có hàng trăm quốc gia dân chủ vận dụng cách tổ chức Nhà nước theo Tam quyền phân lập và trở nên ổn định và giàu mạnh. Nội dung chủ yếu của nó như Montesquieu viết là:
“Khi mà quyền Lập pháp và Hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, người ta sợ rằng chính ông ta hoặc Viện ấy chỉ đặt ra Luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền Tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền Tư pháp được nhập với quyền Lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền Tự do của công dân. Quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền Tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa của kẻ có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”! Do đó, theo ông, “trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều phù hợp với luật dân sự”. Điều nổi bật là ông nhấn mạnh quyền Tư pháp phải nhất thiết được tách ra, độc lập với hai quyền lập pháp và hành pháp. Điều này rất quan trọng, hiện nay nhân loại coi “Tòa án là pháo đài của Tự do”! Trong thế giới văn minh, Dân chủ và Nhân quyền đã trở thành xu thế của thời đại, người ta đề cao những Chính quyền, Nhà nước nào nhằm thực hiện các mục tiêu:
- Xã hội tự do khi Chính phủ bị kiểm soát bởi luật pháp mà mục đích chính là để bảo vệ con người.
- Xã hội được quản lý bởi một chính phủ của luật pháp. Một cá nhân có thể làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm; còn quan chức chính phủ chỉ được làm những gì luật pháp cho phép.
Nếu chúng ta thực hiện tam quyền phân lập, thì như Hồ Chí Minh thời trẻ đã nói 'Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” và đúng với Karl Marx và Engels. Chúng ta đều biết, từ năm 1866, tại Đại hội Quốc tế ở Giơ-ne-vo, K. Marx đã thảo ra Chỉ thị gửi các đại biểu của Hội đồng Trung Ương lâm thời về một vài vấn đề”, đã chấp nhận đấu tranh nghị trường với các nhà nước tam quyền phân lập lúc bây giờ để đòi ngày làm 8 giờ, cấm lao động trẻ em, quy định cho lao động phụ nữ, lao động hợp tác, hội công liên và quân đội (Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Sự thật, 1974, trang 109). Nội dung chỉ thị này mở đầu cho việc Engels thành lập Quốc tế II năm 1889.
Nếu thực sự có nhà nước pháp quyền thì có thể:
- Tham nhũng đã không lặp lại ở ngành đóng tàu với mức độ lớn hơn gấp 10 lần mà không truy cứu được trách nhiệm người đứng đầu (cũng như nhiều vụ án khác).
- Không có những vụ án kéo dài như Đại lộ Đông - Tây, không có những vụ làm ngắc ngứ như vụ in tiền polime.
- Chúng ta sẽ không có vụ án bà Ba Sương do Thành Ủy Cần Thơ chỉ đạo cơ quan điều tra mà cố Thủ tướng Võ văn Kiệt không đồng tình. Và hiện nay, nhân dân cũng đang hết sức băn khoăn vì cuộc điều tra lại mà cơ quan điều tra cũng vẫn đặt dưới quyền chỉ đạo của những người cần có bản án kết tội bà Ba Sương để thực hiện một dự án đất đai đẻ ra tiền!
- Sẽ không có vụ án mới nhất, chẳng những gây phản ứng xấu trong dư luận mà còn vô cùng nguy hiểm. Đó là vụ án Cù Huy Hà Vũ, khiến nhiều đảng viên lão thành không đồng tình và nhiều người dân phản đối. Giáo sư Ngô Bảo Châu, một trí thức lớn được Đảng và nhân dân ta vinh danh là trí tuệ Việt Nam đã phải nhận xét rằng, những người thực hiện vụ án này, dù có ai đó muốn “cố tình làm mất thể diện quốc gia chắc cũng khó mà làm hơn”. Giáo sư đã tế nhị không muốn nói xa hơn, nhưng người nghe chắc chắn có nhiều cách hiểu xa! Để tránh “nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ” cũng tức là của Đảng, chúng ta cần thực hiện tam quyền phân lập, với nền tư pháp độc lập, đưa Đảng ra khỏi cái bẩy tham nhũng, lấy lại sự tín nhiệm và niềm tin của nhân dân. Từ đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng sẵn sàng và ung dung đối thoại trực tuyến, hoặc trong phòng họp rực rỡ ánh sáng văn minh với những Cù Huy Hà Vũ, để toàn thể nhân dân nhìn vào mà “tâm phục khẩu phục”. Trong khi chờ đợi có lẽ Chủ tịch nên bàn với Bộ chính trị làm một việc vô cùng quang minh chính đại là: Trả tự do ngay cho Cù Huy Hà Vũ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 29 Aug 2018

“Ngẫm Nhân Sự Cớ Chi Ra Thế” (Nguyễn Gia Thiều)

Biết tôi đang làm thủ tục nghỉ hưu, nhà văn Nguyễn thị Ngọc Hải góp ý: “Anh nên bàn với anh em báo Lao Động cho tiếp tục sinh hoạt Đảng ở chi bộ cơ quan, với điều kiện không dự những buổi họp bàn công việc. Nếu chuyển về địa phương, anh sẽ mất rất nhiều thời gian hội họp”. Lúc này Tổng bí thư Đỗ Mười đang kêu gọi hướng về cơ sở, xây dựng cơ sở vững mạnh. Tôi nghĩ, mình nên cùng sinh hoạt với cơ sở Đảng ở địa phương để biết rõ “sức khỏe” của Đảng, của chế độ.
Hai vợ chồng tôi gom góp tiền tiết kiệm xin hóa giá ngôi nhà nhỏ xíu diện tích 30m2 bên cạnh chùa Thiện Hạnh, đường Đinh Tiên Hoàng. Phòng nhà đất quận 1 bảo con hẻm trước nhà tôi theo quy hoạch sẽ mở rộng 10 mét. Do đó, nếu muốn được hóa giá, chúng tôi phải viết bản cam kết khi nào mở rộng hẻm thì tự nguyện để cắt sâu vào sân 3 mét, tức là gần mất cái sân nhỏ dưới giàn hoa ti gôn! Ngày 20 tháng 6 năm 1996, chúng tôi treo bảng rao bán nhà, lập tức được nhà bên cạnh mua ngay và cho chúng tôi được ở lại 3 tháng. Khi tôi viết những dòng này, 25 năm đã qua, con hẻm ấy vẫn còn y như cũ. Đây là một nét minh họa tình trạng quy hoạch treo làm khổ nhân dân cả nước mấy chục năm qua.
Sau đó, các con chúng tôi cho mảnh đất ruộng 200 mét ở phố 4, phường Tân Kiểng, quận 7 để xây ngôi nhà mới. Dò hỏi bà con quanh vùng, được biết: Nếu xin giấy phép xây dựng thì phải lót tay và chầu chực không biết đến bao giờ. Tất cả bà con ở đây đều xây chui, không có giấy phép. Anh bạn trẻ tên là Cường đã xây ngôi nhà bên cạnh miếng đất của tôi, truyền kinh nghiệm: Khi có đoàn kiểm tra tới thì đưa cho họ một phong bì “trà nước”, vậy là sẽ được “thông cảm” cho tiếp tục thi công. Tôi tìm đến nhà anh Tư trưởng ấp (lúc này chưa gọi là khu phố) hỏi ý kiến. Anh Tư bảo cứ làm như bà con là được, vì từ khi anh làm trưởng ấp tới nay, chưa có ai xây nhà có giấy phép cả!
Tháng 10 năm 1997 chúng tôi ký hợp đồng với ông thầu Thạnh (ở quận 10). Công việc suôn sẻ khoảng hai tuần thì một buổi trưa, thầu Thạnh tới. Ông cho xem “Biên bản đình chỉ thi công” do ông Dương văn Gấu, chủ tịch Phường Tân Kiểng ký. Tôi hết sức lo lắng, vì lần đầu tiên trong đời mình đã làm một việc không đúng pháp luật. Thầu Thạnh bình thản nói: “Tôi báo tin là để anh chị biết có chuyện như vậy thôi, chứ không có gì đáng lo đâu. Tôi nhận thầu xây nhà khắp thành phố này và nhiều tỉnh khác nữa, ở đâu cũng vậy thôi. Chiều nay, tôi sẽ giải quyết xong, sáng mai tiếp tục thi công bình thường. Anh chị đừng lo lắng”! Tôi ngạc nhiên hỏi: “Anh định giải quyết cách nào”? Ông Thạnh đáp: “Anh chị cứ yên tâm. Xong việc, tôi sẽ kể đầu đuôi với anh chị”. Suốt buổi chiều lòng bứt rứt tôi ngồi chờ tin ông thầu Thạnh. Khoảng 5 giờ chiều, thầu Thạnh gõ cửa, bước vào với nụ cười và báo tin sáng mai tiếp tục thi công bình thường và đảm bảo từ nay cho tới khi hoàn thành công trình, sẽ không còn bị dòm ngó gì nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi anh làm sao xong chóng vánh như vậy. Thầu Thạnh vui vẻ kể: “Tôi đến trụ sở phường, gặp thằng Nguyễn Hoài Phong phụ trách quản lý đô thị, đưa cho nó cái phong bì nặng, vậy là xong”. Tôi vẫn thắc mắc: “Biên bản đình chỉ thi công là do Chủ tịch Dương Văn Gấu ký mà”? Thầu Thạnh nói với giọng miệt thị: “Tôi chẳng cần biết thằng Dương Văn Gấu mặt tròn hay méo! Chỉ cần đưa thằng Nguyễn Hoài Phong cái phong bì nặng, cho cha con nhà nó chia nhau”. Tôi hiểu ra: Thầu Thạnh đến báo chuyện bị lập biên bản đình chỉ thi công, không phải vì lo sợ việc xây dựng bị ách tắc mà chỉ là để tôi biết ông đã phải chi “một phong bì nặng” ngoài hợp đồng. Dù vậy, lòng tôi vẫn áy náy không yên: Mình là một cán bộ, đảng viên suốt đời trau dồi đạo đức cách mạng, nay lại theo đuôi quần chúng, xây nhà không xin giấy phép! Còn đau hơn nữa khi được biết, chỉ cần bỏ ra một phong bì nặng thì cái chính quyền cách mạng ở cơ sở dễ dàng “cha con nhà nó chia nhau”, vứt bỏ luật pháp! Đây chỉ là chuyện cá biệt hay đã là hình ảnh thu nhỏ của cả nước?
Nhà xây xong, tôi chuyển sinh hoạt Đảng về nơi ở mới. Mấy tháng sau, chi bộ khu phố đến kỳ Đại hội. Biết tôi là nhà báo, anh Ba Lợi (nguyên phó chủ tịch huyện, sau khi về hưu được bầu làm bí thư chi bộ khu phố) gợi ý tôi đọc tham luận tại Đại hội. Tôi nhận lời, đọc bản tham luận có nội dung: Mọi sai trái, vi phạm luật pháp xảy ra ở địa phương không phải vì quản lý lỏng lẻo. Từ chuyện lấn chiếm lòng lề đường, đến đá gà ăn tiền, đánh bạc, xây nhà không giấy phép… đều có sự thỏa thuận ngầm giữa cán bộ phụ trách với người dân bằng một khoản lót tay nhỏ, hoặc lớn. Khi tôi dứt lời, thật bất ngờ cả hội trường vỗ tay hoan nghênh. Tôi ngước nhìn, ông Dương Văn Gấu đang ngồi trên Đoàn chủ tịch Đại hội, mặt bợt bạt. Lúc nghỉ giải lao, một đồng chí mái tóc muối tiêu, đến bắt tay tôi, tự giới thiệu: “Tôi là Xuân bí thư chi bộ khu phố 3, là khách mời của Đại hội chi bộ khu phố 4, tôi rất tán thành bài phát biểu của đồng chí. Lâu nay ai cũng biết, nhưng lờ đi như không biết”. Nghe vậy, tôi chột dạ: “Vậy là mình động vào tổ ong rồi”! Ít lâu sau, tôi được biết, bí thư Xuân thích bài phát biểu của tôi là vì anh cũng đã từng bị anh Nguyễn Hoài Phong vòi tiền khi làm giấy tờ đất đai và xây nhà. Bí thư Xuân mua được miếng đất ruộng rất lớn với giá rẻ, anh nhờ Phong giúp thủ tục chuyển “mục đích sử dụng” thành đất thổ cư. Phong bảo, muốn được giải quyết chuyện này phải qua một đường dây gồm rất nhiều người, do đó bí thư Xuân phải trao tay đợt đầu 300 triệu đồng. Bí thư Xuân không chịu, vì cho rằng mức vòi vĩnh đó quá đáng. Sau đó, bí thư Xuân tìm được người có máu mặt làm môi giới, bán đất cho Công ty HA. Công ty này ngay lập tức thực hiện dự án xây dựng chung cư trên khu đất ruộng ấy. Bí thư Xuân cho biết, Công ty HA đã phải chi một khoản tiền lớn để mua “đường dây gồm nhiều người”, trong đó tức nhiên có phần của Phong.
Bên cạnh nhà tôi, anh Thông người láng giềng mới, vừa xây xong nhà (cũng không giấy phép, nhưng không bị đình chỉ thi công, vì anh luôn có mặt kịp đưa phong bì). Gặp tôi ở trụ sở Phường, anh khoe đã tới kho bạc quận nộp phạt về việc xây nhà không giấy phép và đã đóng thuế trước bạ xong. Tôi hỏi “kinh nghiệm” của người đi trước. Anh cười đáp, cũng không có gì phức tạp lắm đâu, anh cứ đặt trên cặp giấy tờ một phong bì chừng vài trăm, thì nó sẽ chạy nhanh, xong sớm. Phong đứng cạnh đấy nghe chuyện, đã thân mật gợi ý tôi: “Bác ạ, mai cháu có việc đến hai nơi đó. Bác đưa tiền nộp phạt, tiền thuế và các giấy tờ, cháu đi đóng thuế dùm bác, không cần phong bì đâu”. Sở dĩ Phong tử tế như vậy vì anh đã biết tôi là một đảng viên lão thành, giúp tôi để “làm hòa” chuyện đã cầm “phong bì nặng”.
Hai tháng sau, trong cuộc họp thường kỳ, bí thư chi bộ báo tin: Đảng Ủy phường gửi anh Nguyễn Hoài Phong, một cán bộ xuất sắc phụ trách quản lý đô thị, xuống cho chi bộ khu phố chúng ta bồi dưỡng kết nạp vào Đảng! Bí thư nói thêm ý nghĩa của việc này: “Đó là Đảng Ủy giúp chúng ta có điều kiện thực hiện được chỉ tiêu phải phát triển một đảng viên mới trong nhiệm kỳ này như Nghị quyết Đại hội chi bộ đã ghi”. Cả chi bộ đều tỏ ra vui mừng đối với việc này, chỉ riêng tôi băn khoăn: Một anh nhận “phong bì nặng” bán rẻ luật pháp lại là cán bộ xuất sắc của phường ư? Mình có thể giơ tay tán thành cho một kẻ lợi dụng chức quyền, tham nhũng vào Đảng ư? Nhưng dính với anh ta còn có cả phó bí thư đảng Ủy kiêm chủ tịch phường Dương văn Gấu nữa thì làm sao đây? Suốt cuộc họp lòng tôi rối bời vì chuyện này.
Tan cuộc họp, tôi hẹn gặp anh Căn, trung úy quân tình nguyện Campuchia, người tôi quen đầu tiên khi về đây, để trao đổi chuyện này. Nghe tôi kể xong, anh Căn nói ngay: “Tôi xin anh hãy im lặng trong chuyện này, vì hai lý do. Một là, chuyện như anh kể không phải cá biệt, ở đâu cũng có, ngày nào cũng có. Có lẽ vì đồng lương cán bộ thấp quá? Anh nghĩ xem, lương Nguyễn Hoài Phong chỉ vài trăm ngàn, anh ta có vợ, có con, làm sao mà sống? Hai là, chuyện đưa phong bì đâu có làm biên nhận, vậy không có bằng có buộc tội được! Nếu đưa chuyện này ra là anh tuyên chiến với cả Đảng Ủy, Ủy ban phường này, có thể là cả quận này, thành phố này. Chắc chắn anh thua và phải bán nhà mà đi”.
Anh Căn, một trung úy về hưu, đang ngày ngày ngồi bên vệ đường bán thuốc lá kiếm thêm để sống. Ý kiến của anh hoàn toàn vô tư. Vợ tôi nói, anh Căn nói đúng đấy! Đây là sản phẩm của “cơ chế” nói cho đúng là của chế độ. Chống Nguyễn Hoài Phong không giải quyết được gì, mà chỉ làm rối tung lên, rối tung ngay cả cuộc sống của chính mình”! Tôi chợt nghĩ, hay là gửi thư báo cho anh Phạm Thế Duyệt, đang là thường trực Bộ chính trị, người tôi quen thân, xem anh ấy có ý kiến gì? Tôi đem ý định này bàn với mấy người bạn, người nào cũng cười ngất: “Ông ơi, đừng phí công vô ích! Các vị ấy họ có thông tin còn nhiều hơn ông gấp trăm lần”!
Hôm chi bộ thông qua lý lịch và đơn xin vào Đảng của Nguyễn Hoài Phong, tất cả những người phát biểu ý kiến đều khen anh ta là một cán bộ tốt, chịu khó, đi sâu, đi sát, giải quyết kịp thời những vướng mắc của nhân dân về nhà đất. Anh Chín Thành, một trong hai người giới thiệu Nguyễn Hoài Phong vào Đảng đọc lý lịch của mình trước chi bộ, tôi nhận ra anh là bạn đồng ngũ từ năm 1950 ở Đại đội Thông tin Liên lạc Bộ tư lệnh Phân liên khu miền Tây Nam Bộ thời chống Pháp. Sau cuộc họp, tôi kéo anh Chín Thành ra ngoài để nhận đồng đội: “Tôi với anh là đồng ngũ mà qua nửa năm sinh hoạt chung chi bộ, chẳng nhận ra nhau! Đố anh nhớ tên ông đại đội trưởng của tụi mình”? Anh Chín Thành cười đáp: “Làm sao quên được! đại đội trưởng Đặng Ngọc Tấn”! Tôi đem chuyện cái “phong bì nặng” kể cho anh Chín Thành nghe để xem ý anh thế nào. Lạ thay, anh Chín Thành không hề ngạc nhiên: “Cậu ơi, với đồng lương chết đói, nó phải kiếm chác chút đỉnh để sống mà”! Anh còn thân tình tỉ tê: “Tiếc quá, lúc mình còn làm bí thư đảng Ủy xã Tân Thuận Tây, sao cậu không về! Nếu cậu về lúc đó, mình sẽ cấp cho cậu vài ba trăm mét đất làm nhà đỡ tốn tiền mua”.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, chao ơi, ông bí thư đảng Ủy một xã đã có thể cấp đất cho đồng đội cũ một cách dễ dàng vậy sao! Mấy ngày sau, đồng chí út Kỷ đảng viên trong chi bộ (nguyên phó chủ tịch huyện Nhà Bè) mời tôi đến nhà chơi. Trò chuyện với anh, tôi mới biết tất cả những đồng chí lão thành cách mạng ở chi bộ này đều được chia đất. Họ so kè với nhau, bới móc nhau, anh này bảo anh nọ được miếng đất rộng hơn mình. Anh nọ bảo anh kia lấn ranh đất của mình. Có hai cặp ở sát nhau, tranh chấp ranh đất, đến nỗi coi nhau như kẻ thù. Nhiều lần họ đưa nhau ra chi bộ yêu cầu phân xử. Anh Út Kỷ mời tôi tới nhà là để kéo tôi về phe anh, giành một phiếu trong cuộc họp chi bộ sắp tới. Để nghe cả hai phía, tôi ghé thăm anh Lê Duyên Hải đảng viên, nhà bên cạnh Út Kỷ. Tôi không cần gợi chuyện, Lê Duyên Hải đã dắt tôi ra đầu nhà xem bức tường đầu hồi bị nứt một đường dài. Anh cho biết, do bên Út Kỷ đào móng gần sát, gây chấn động mạnh làm nứt. Anh đã yêu cầu anh Út Kỷ cho thợ sửa vết nứt, nhưng bị từ chối với lý lẽ: Móng nhà của Út Kỷ đào bên đất của Út Kỷ, vậy tại sao Út Kỷ phải chịu trách nhiệm về tường nhà Lê Duyên Hải bị nứt?! Nghe chuyện tranh chấp đôi co giữa hai đảng viên cộng sản sao mà giống như hai đứa trẻ lên ba! Trong chi bộ có chuyện lủng củng của đôi vợ chồng anh Tám Mon, chồng có huy hiệu 60 tuổi đảng, vợ huy hiệu 50 tuổi đảng. Họ lục đục nhau liên miên chỉ vì chị chê anh: “Chồng người ta khôn ngoan biết chạy chọt, cho nên được nhà cao, đất rộng, còn ông quá đụt, cho nên nhà ở trong hẻm lại hẹp, không có sân”. Đôi lần họ đòi đưa nhau ra tòa ly dị. Chi bộ hòa giải không xong, nhưng chỉ khi bí thư chi bộ dọa: “Hai đồng chí đưa đơn ra tòa là làm mất tư cách đảng viên, không xứng đáng với vinh dự 60, 50 tuổi đảng”. Nghe vậy cả hai đều sợ, ra tòa xin cho rút đơn, không ly dị nữa!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 29 Aug 2018

Trong các cuộc họp chi bộ khu phố 4, tôi để ý anh Lê Ngọc Tưởng, nguyên Ủy viên Ban thường vụ quận Ủy quận này từ sau tháng 5-1975. Anh là người có những ý kiến công tâm, xác đáng. Anh Lê Ngọc Tưởng xin nghỉ hưu trước tuổi, lập Hợp tác xã Chiếu Cói xuất khẩu, giải quyết việc làm cho hơn 100 lao động nghèo trong khu phố. Chi bộ coi anh như một điển hình tiên tiến trong thời kỳ mới. Khoảng tháng 3 năm 2001, xảy ra chuyện căng thẳng giữa anh với Quận Ủy và UBND quận 7. Chuyện bắt đầu khi Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Nam sắp chấm dứt hợp đồng thuê nhà xưởng của Hợp tác xã Chiếu Cói vào ngày 30-9-2001, nhưng không chịu thanh lý hợp đồng mà gửi thư cho UBND quận, xin thuê lại, hoặc mua trực tiếp với chính quyền quận. Anh Lê Ngọc Tưởng đề nghị UBND quận 7 xử lý vụ này. Quận không đồng ý phân xử mà yêu cầu anh Tưởng nếu không thỏa thuận được với Công ty Kim Nam thì khởi kiện để tòa án phân xử. Anh Lê Ngọc Tưởng thay mặt HTX Chiếu Cói đưa đơn lên tòa án Quận7 ngày 8-5-2002, nhưng đơn kiện bị ngâm đến 14-10-2002, mới trả lại đơn với lý do “giá trị hợp đồng thuê nhà xưởng trên 50 triệu đồng, vượt thẩm quyền xét xử của tòa án quận”. Anh Lê Ngọc Tưởng phải gửi đơn lên tòa án thành phố. Gần hai tháng sau, tòa án thành phố lại chuyển đơn kiện về cho tòa án quận, với lý do: “Ở thời điểm ký hợp đồng thuê nhà, Công ty Kim Nam chưa đăng ký kinh doanh”. Tòa án quận lại yêu cầu anh Lê Ngọc Tưởng phải có văn bản cam kết “không tranh chấp nhà đất với nhà nước” trước khi tòa xử Công ty Kim Nam. Sở dĩ có yêu cầu đó là vì sau khi anh Lê Ngọc Tưởng nộp đơn kiện Công ty Kim Nam thì UBND quận đã ra quyết định thu hồi khu nhà đất nói trên. Thay mặt HTX Chiếu Cói anh Lê Ngọc Tưởng gửi đơn khiếu nại với UBND quận, cho rằng việc quận ra quyết định thu hồi đất của HTX đang thuê của nhà nước là trái thẩm quyền, yêu cầu UBND quận rút quyết định, Ủy ban Nhân dân quận không đồng ý rút lại quyết định. Anh Lê Ngọc Tưởng lại gửi đơn khiếu nại lên UBND thành phố Hồ Chí Minh. Nay, trước yêu cầu của tòa án quận, anh Tưởng thay mặt HTX nêu rõ: “Không tranh chấp đất với nhà nước, chỉ yêu cầu thu hồi đất đúng luật”. Thế nhưng, ngày 7-5-2003, tòa án quận ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, với lý do “cần đợi UBND TP HCM giải quyết khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất của UBND quận”. Anh Lê Ngọc Tưởng nhận định: Tòa án quận tạm đình chỉ vụ án không phải vì tuân thủ pháp luật mà chỉ để tạo điều kiện cho Công ty Kim Nam chiếm giữ trái phép nhà xưởng của HTX Chiếu Cói. Vì sao họ ưu ái Công ty Kim Nam? Đó là điều phải hiểu ngầm chứ không thể có văn bản. Anh Lê Ngọc Tưởng tiếp tục gửi nhiều đơn cho rằng việc khiếu nại về thu hồi đất hoàn toàn không dính đến nội dung vụ kiện Công ty Kim Nam không thanh lý hợp đồng, tiếp tục chiếm dụng nhà đất của hợp tác xã một cách phi pháp.
Để đối phó lại, ngày 24-7-2003, UBND quận gửi báo cáo lên UBND TP HCM, có những đoạn như sau: “UBND quận đã có công văn trả lời bà giám đốc Công ty may Kim Nam dự kiến sử dụng phần đất này làm công trình phúc lợi cho quận”, do đó ý kiến của ông Lê Ngọc Tưởng cho rằng quận can thiệp vào hợp đồng kinh tế với Công ty Kim Nam là không có cơ sở. Và “thực chất ông Lê Ngọc Tưởng cố tình không thực hiện quyết định của UBND TP đồng thời không chấp hành quyết định thu hồi đất của chủ tịch UBND quận”.
Anh Lê Ngọc Tưởng và các xã viên Hợp tác xã Chiếu Cói đặt câu hỏi: Các ban ngành của Thành phố Hồ Chí Minh và quận 7, đùn đẩy, cố trì hoãn không chịu xử lý khiếu nại, tiếp tục để Công ty Kim Nam chiếm dụng nhà đất là nhằm mục đích gì? Câu trả lời phải được lý giải bằng một bài toán: Khu đất 1AB đường Trần Xuân Soạn có diện tích 2500 m2, có 3 mặt tiền, tính theo giá nhà nước sẽ là 13.250.000.000 đồng. Nếu tính theo thời giá thị trường sẽ là 75.000.000.000 đồng. Khoản chênh lệch này có sức mạnh đổi trắng thay đen ghê gớm trong cuộc tranh chấp mà tình trạng pháp lý không minh bạch. Bài toán này làm cho hơn 100 con người thấp cổ bé họng của HTX Chiếu Cói phấp phỏng lo âu!
Như sét đánh, cuộc đấu bỗng chuyển sang khúc quanh mới: Anh Lê Ngọc Tưởng thủ lĩnh của HTX Chiếu Cói từ chỗ là người khiếu nại, tố cáo bỗng nhiên trở thành người bị khiếu nại, “bị cáo”! Công an phường Tân Thuận Tây gửi giấy mời ông Lê Ngọc Tưởng đúng 14 giờ ngày 2 tháng 2-2004 đến công an phường để “hỏi một số việc có liên quan đến ngôi nhà 29M”. Sau đó, ngày 16-2, chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra quận Ủy, gửi “thư mời đồng chí Lê Ngọc Tưởng đến để trao đổi một số vấn đề có liên quan đến đơn khiếu nại của công dân đối với đồng chí”. Ngày 20 tháng 2 thường trực Quận Ủy và UBND quận do bí thư Quận Ủy Nguyễn Hoàng Năng chủ trì “gặp và làm việc” với đảng viên Lê Ngọc Tưởng. Ngày 23-2 quận Ủy ra Thông báo 568-TB kết luận cuộc họp. Điều 3 của Thông báo này viết: “Việc thực hiện thương lượng giao nhà 29M và nhận tiền (200 triệu) của đồng chí Lê Ngọc Tưởng và bà Vinh là bất hợp pháp và yêu cầu đồng chí Lê Ngọc Tưởng trả lại tiền cho bà Vinh” Trong buổi làm việc nói trên, bí thư quận ủy Nguyễn Hoàng Năng đã to tiếng khi anh Lê Ngọc Tưởng tố cáo ông ta dùng hồ sơ giả để kết tội mình. Ông Nguyễn Hoàng Năng, nguyên là bí thư Thành đoàn thanh niên cộng sản HCM, loại người leo nhanh lên nấc thang quan chức không phải do tài năng mà do “cơ cấu”. Bí thư Thành đoàn thì đương nhiên phải được là Ủy viên Thành Ủy, như giám đốc các sở, ban ngành quan trọng. Do được hưởng quyền lợi béo bở không cần công sức, tài năng cho nên đấy là con đường rất tốt của những kẻ cơ hội. (Hiện nay Nguyễn Hoàng Năng là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh).
Tôi đã được anh Lê Ngọc Tưởng cho xem hai văn bản gốc về việc anh trả lại ngôi nhà 29M. Đúng là bản mà bí thư Nguyễn Hoàng Năng dùng để làm việc với anh Lê Ngọc Tưởng là bản bị sửa chữa ngày, tháng, năm, và xóa bỏ ý kiến ghi nhận của cán bộ quản lý hôm giao nhà. Tôi gợi ý anh Lê Ngọc Tưởng đưa đơn kiện bí thư Nguyễn Hoàng Năng vì ông ta đã dùng tài liệu giả để kết tội anh. Anh Lê Ngọc Tưởng không kiện, có lẽ vì anh có kinh nghiệm về vụ kiện giám đốc Công ty Kim Nam tốn công sức mà chẳng đi đến đâu. Cũng có thể là do trong vụ này anh Lê Ngọc Tưởng tự thấy mình cũng không hoàn toàn chính đáng và trong sạch? Bởi vì theo quy định của Quận Ủy và UBND quận thì những cán bộ nào được cấp đất đủ để xây biệt thự thì phải trả lại gian nhà đang ở trong các khu tập thể. Thực ra quy định như vậy chỉ là để báo cáo lên cấp trên, tỏ ra Quận Ủy, UBND quận này quản lý nhà đất rất chặt chẽ, cán bộ đảng viên ở đây rất liêm khiết. Và hàng trăm cán bộ, đảng viên quận này sau khi được cấp đất không có một ai trả lại nhà. Nhưng họ không có ai bị lôi ra bôi nhọ như anh Lê Ngọc Tưởng, vì tất cả đều ngoan ngoãn, không có ai dám gây khó cho lãnh đạo quận!
Anh Lê Ngọc Tưởng nêu câu hỏi thắc mắc với quận Ủy: “Tại sao vụ bà giám đốc Công ty Kim Nam chiếm dụng tài sản hợp pháp chính đáng và rất lớn của hơn 100 xã viên HTX Chiếu Cói thì UBND quận 7 không giải quyết, bảo phải đưa ra tòa xử; còn vụ này, chỉ có 200 triệu đồng giữa hai cá nhân thì lại được Quận Ủy và cả UBND quận do bí thư Quận Ủy đích thân chủ trì lên tiếng đòi tiền hộ cho bà Vinh? Câu hỏi không được trả lời, bởi vì mục đích của họ là nhằm đánh gục uy tín của Lê Ngọc Tưởng thủ lĩnh của hơn 100 xã viên HTX Chiếu Cói, dám đương đầu với lãnh đạo quận!
Ngày 31 tháng 8 năm 2004, Ủy ban kiểm tra Thành Ủy TP HCM đưa ra kết luận đồng ý với quận, chỉ thị phải tổ chức kiểm điểm đảng viên Lê Ngọc Tưởng. Khi chi Ủy triệu tập chi bộ họp kiểm điểm, anh Lê Ngọc Tưởng cảm thấy mình đang bị cả một hệ thống Đảng và chính quyền trù dập. Do đó anh đến cuộc họp với lá đơn xin ra khỏi Đảng. Cả chi bộ bối rối. Vốn rất quý anh, tôi gặp riêng anh, khuyên nên rút đơn: “Ra Đảng trong tình hình này không làm tăng thêm sức mạnh đấu tranh mà chắc chắn sẽ làm cho anh và hơn 100 con người lao động nghèo của HTX Chiếu Cói lâm vào thế yếu hơn! Vì vậy chúng ta nên tiếp tục ở trong Đảng, đoàn kết nhau kiên trì đấu tranh làm cho chân lý được sáng tỏ”! Mặc dù khuyên anh Lê Ngọc Tưởng như vậy, nhưng trong lòng tôi vang lên những câu của nhà thơ Bùi Minh Quốc:
“Đồng chí - tiếng ấm nồng máu đỏ,
Sao có lúc vang lên lạnh rợn thế này?
Đồng chí, dao đã nằm ém nhẹm dưới lòng tay!
Và mọi ngã đường đã giăng cạm bẩy.”

Năm 2015, giáo dân giáo xứ Thuận Phát (cũng là những xã viên Hợp tác xã Chiếu cói trước đây) làm đơn xin Chính quyền quận 7 trả lại cho nhà thờ Thuận Phát ba phòng học nằm trong khuôn viên nhà thờ để con em học giáo lý. Quận Ủy quận 7 không chấp nhận. Đảng viên lão thành Lê Ngọc Tưởng gửi thư kiến nghị Quận Ủy nên trả lại ba phòng học cho giáo xứ, bởi vì giáo dân là công dân, được trả lại phòng học, họ sẽ thấy chính quyền này là của mình. Quận Ủy (gồm những người mà 40 năm trước, khi Lê Ngọc Tưởng là Ủy viên Ban Thường vụ Quận Ủy thì họ còn là những đứa trẻ được ông đưa vô Đội thiếu nhi quàng khăn đỏ để giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa) không trả lời thư mà cho công an đến nhà chất vấn ông: “Vì sao một lão thành cách mạng mà theo đuôi quần chúng giáo dân lạc hậu chống lại nghị quyết của Đảng”?
Tôi cho rằng tình trạng khu phố 4, phường Tân Kiểng, quận 7 nơi tôi cư ngụ là sự thu nhỏ hiện trạng của cả nước: Đảng độc quyền, thoái hóa tham nhũng, đàn áp những người trung thực.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Niềm Tin Cạn Kiệt.

Tiến sĩ Matt Killings Worth, người có nhiều công trình nghiên cứu các nước cộng sản Trung và Đông Âu cho rằng “Chế độ cộng sản tồn tại ở Tiệp Khắc hơn 40 năm là một chế độ mà ở đó niềm tin được giả định đóng vai trò trung tâm. Đến năm 1968, niềm tin mà Prague đặt vào Moscou đã hoàn toàn bị xói mòn khi quân đội khối Hiệp ước Warsawa xâm lược nước này”. Như vậy là niềm tin cộng sản tồn tại ở đây 20 năm và khi đã “hoàn toàn bị xói mòn” nó vẫn tiếp tục tồn tại thêm 20 năm nữa bằng sức mạnh của cảnh sát, mật vụ. So sánh với chế độ cộng sản Tiệp Khắc và Đông Âu thì niềm tin cộng sản ở Việt Nam theo tôi nghĩ, vững mạnh hơn rất nhiều, bởi vì nó không phải là “giả định” mà đã “mọc rễ” trong lòng số đông người Việt Nam!
Đó là niềm tin mà thực dân Pháp đã tạo ra cho Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản: Lãnh đạo cuộc nổi dậy Tháng Tám 1945. Thay dân tộc nói lời thề Độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững nền độc lập ấy”. Mỹ viện trợ hơn 80% chiến phí cho Pháp nhằm ngăn chặn làn sóng Đỏ. Nhưng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản không hô hào “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” mà kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Xin nhắc lại một đoạn trong hồi ký “Con rồng Việt Nam” của cựu hoàng Bảo Đại do Nguyễn Phước Tộc xuất bản ở Paris năm 1990. Cuối tháng 10 năm 1948 tại Cannes, cựu hoàng Bảo Đại gay gắt bảo Cao Ủy Đông Dương Léon Pignon: “Vậy thì chính nước Pháp đã củng cố vị trí cho Hồ Chí Minh, cho đến ngày mà quý quốc hiểu thấu được những yêu sách của họ. Hơn nữa, nếu chính phủ Pháp có đoạn giao với 'Bác Hồ’, chính là bởi lý do sự đòi hỏi về độc lập và thống nhất của họ nhiều hơn là vì lý do họ là cộng sản quốc tế. Không còn giải pháp nào khác, nước Pháp đành phải quay sang tôi, hy vọng rằng tôi sẽ dễ dàng thỏa hiệp hơn họ, nhưng nước Pháp lại vấp phải sự đòi hỏi của tôi y như họ vậy. (trang 333 và 334). Vài ngày sau, Bảo Đại lên Paris gặp tân thủ tướng Henri Queuille, nhắc lại với ông này câu chuyện đã nói với Léon Pignon. Thủ tướng Henri Queuille nghe xong đã tỏ đồng tình: Hoàng thượng rất có lý, nhưng cần phải chú trọng đến hiện tình nước Pháp, và chính chỗ đó mới là điều rắc rối. Chúng tôi sắp mở một hội nghị bàn cãi về Đông Dương trước Hội đồng. Tôi không dám chắc là đạt được đa số, vì tôi vừa bị phe cộng sản phản đối, không chịu nghe gì nếu không nói đến Hồ Chí Minh, lại vừa bị phe De Gaulle kịch liệt bỏ ngoài tai khi đem sáp nhập xứ Nam Kỳ vào Việt Nam, bởi họ coi như bỏ rơi một phần đất đai của Pháp. Bảo Đại liền mặc cả: Thưa thủ tướng nếu tôi lấy được phiếu của Đảng Cộng hòa Dân chủ cho ngài thì ngài có đền đáp lại tôi sự trở về của Nam Kỳ cho nước tôi? Henri Queuille cười láu lỉnh, bảo không dám hứa. Bảo Đại gặp hai người thân cận của De Gaulle là Guillain de Benouville và Terrenoire bàn tiếp chủ đề này. Ông Terrenoire được coi là tai mắt của De Gaulle khen Bảo Đại nói rất hợp lý, 'nhưng tôi còn phải gặp Đại tướng, chỉ Đại tướng mới có quyền quyết định'. Hai hôm sau, ông ta xác nhận với Bảo Đại: Đại tướng không chịu, không thể bỏ một phần đất của lãnh thổ quốc gia Pháp. Xứ Nam Kỳ là đất thuộc địa từ 1884, đây là đất Pháp. Đây chính là điểm quan trọng nhất mà Đại tướng tỏ ra rất cứng rắn, không gì lay chuyển được”.
Cho đến ngày phải rời khỏi Việt Nam, chính phủ Pháp vẫn chưa chịu trao đầy đủ quy chế của một quốc gia độc lập cho chính quyền Bảo Đại! Năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm có đủ quy chế của một quốc gia độc lập, nhưng lại do người Mỹ (quốc gia đã chi hơn 80% chiến phí cho Pháp tái chiếm Việt Nam và Đông Dương) trao cho và chi phối mọi chính sách đối nội, đối ngoại. Đó chính là “tử huyệt” của Việt Nam Cộng Hòa và đường lối chiến tranh Việt Nam của Mỹ. Chẳng những thế, hai cuộc chiến tranh còn tạo ra niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản VN gắn kết như một chiến lũy vững chắc, ngăn chặn làn sóng dân chủ, nhân quyền tràn vào.
Quý 2 năm 2012, nguyên phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình phát hành quyển hồi ký, có đoạn như sau:
“Tình hình thế giới cũng như trong nước đã tác động đến tư tưởng tình cảm của nhân dân ta. Bên cạnh một số đông dù có những lo lắng này khác vẫn tin rằng những gì nhân dân ta đã làm là hết sức đúng đắn, cần phải tiếp tục con đường đã lựa chọn với những điều chỉnh và giải pháp phù hợp, cũng có không ít người hoang mang giảm lòng tin, bi quan tiêu cực, thậm chí chống đối”.
Bà Bình không nhận thấy còn có một loại người thứ ba, họ cũng giảm niềm tin, thậm chí không còn chút niềm tin nào, nhưng họ không hoang mang, mà biết rõ nguyên nhân của tình trạng thối nát, tham nhũng là do không chịu đổi mới chính trị, cố duy trì chế độ toàn trị để giữ độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tuy tỏ ý không đồng tình với những người hoang mang, giảm lòng tin, nhưng chính bà Bình lại hé lộ sự suy giảm lòng tin của chính mình khi đặt ra câu hỏi: “Và đến bao giờ chúng ta mới có được một xã hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh”? Thật ra, niềm tin bắt đầu suy giảm từ những người có điều kiện nhìn ra thế giới văn minh, cảm nhận thân phận của dân tộc mình trong ngục tù của chế độ cộng sản toàn trị. Tướng Trần Độ và nhà lãnh đạo Công hội đỏ Nguyễn Hộ là hai người có hành động quyết liệt khi nhận ra chân lý tự do, dân chủ. Nhà văn Nguyễn Khải âm thầm chịu đựng khi niềm tin cạn kiệt, nhưng đã để lại “Đi tìm cái tôi đã mất” có sức công phá mạnh mẽ đối với sự dối trá nhân danh sự thật và niềm tin. Bộ chính trị Đảng cộng sản tổ chức cuộc vận động “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là nhằm “ăn mày dĩ vãng” (ý của nhà văn Phạm Đình Trọng) khôi phục niềm tin đang cạn kiệt.
Triết gia Osho cho rằng: “Thời điểm mà mà bạn tin một cái gì đó thì bạn cũng bắt đầu dừng tìm hiểu. Tin là một thứ độc hại nhất hủy hoại trí thông minh của con người. Tất cả mọi tôn giáo đều dựa trên niềm tin; chỉ có khoa học là dựa trên sự nghi ngờ”.
Đảng cộng sản một mặt cho rằng học thuyết, đường lối chính trị của mình là khoa học tiên tiến nhất thời đại, nhưng trong thực tế thì lại khuyến khích đảng viên và nhân dân xây dựng niềm tin tôn giáo đối với Đảng và lãnh tụ. Nhân dân ta sống trong bầu khí quyển tuyên truyền suốt nửa thế kỷ mọi sinh hoạt xã hội đều bị chính trị hóa, làm cho người dân mất dần khả năng suy nghĩ độc lập, ngày ngày tụng niệm giáo điều “niềm tin”. Tuy nhiên có hai hiểm họa cứ mỗi ngày một phình to lấn át xô đổ niềm tin vào Đảng cộng sản già cỗi đã cạn kiệt: Giặc nội xâm tham nhũng do Đảng đi đầu và giặc ngoại xâm là bọn bành trướng Bắc Kinh. Về hiểm họa tham nhũng thì tôi đã có dịp “trăn trở cùng Chủ tịch nước” đã kể ở trên. Còn hiểm họa ngoại xâm thì Đảng cộng sản Việt Nam cố bưng bít. Một cán bộ lãnh đạo “báo chí cách mạng” như tôi mà không hề hay biết chuyện bị mất Hoàng Sa năm 1956 và 1974. Sau hòa nghị nhục nhã ở Thành Đô, người ta buộc nhân dân phải quên cuộc xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc năm 1979. Họ che giấu chuyện ngư dân bị bắn giết, bị cướp tàu đòi tiền chuộc. Bộ phim Hoàng Sa nỗi đau Việt Nam của André Menras Hồ Cương Quyết làm cho đến nay vẫn chưa được chiếu.
Đặc biệt là những cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược năm 2009 bị đàn áp dã man. Đạo diễn Song Chi sau khi bị bắt bớ trù dập đã phải xin tị nạn chính trị ở Na Uy. Khi nhận thức hai hiểm họa nói trên đang kiềm hãm sự phát triển của đất nước, tôi quyết định phải lên tiếng đòi Đảng Cộng sản phải đổi mới chính trị bằng bài viết “Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ” với bút danh Thiện Ý đăng trên mạng Talawas ngày 19-9-2009. (Trước đó, ngày 17-9-2009 các mạng Diễn Đàn, Viet-Studies đã đăng bản thảo chưa hoàn chỉnh).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Đối Mới Đảng, Tránh Nguy Cơ Sụp Đổ!

I. Tổ quốc trước hai hiểm họa
Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc nội xâm. Mọi người Việt Nam yêu nước có trách nhiệm tìm đường đưa dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa đó.
Chúng ta đã từng gọi một cách chính xác “bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh là kẻ thù trực tiếp nguy hiểm”. Những hành động lấn lướt khiêu khích gần đây ở Biển Đông chứng tỏ bản chất của chúng không hề thay đổi. Ngày 2-7-2009 trả lời ký giả Mặc Lâm của Đài Phát thanh RFA, nhà ngoại giao Dương Danh Dy từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc nhận định: Trung Quốc là anh láng giềng to, khỏe, tham, lại xấu tính và “sau thời điểm 2010 trở đi chưa biết họ làm cái gì đâu. Họ kinh khủng lắm”.
Hai mươi năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức cố gắng xây dựng với Bắc Kinh mối quan hệ “đồng chí” kèm theo “16 chữ vàng” (do Giang Trạch Dân đặt ra, Lê Khả Phiêu tán thành đưa vào Tuyên bố chung tháng 2-1999): “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Mấy năm sau lại bổ sung “tinh thần 4 tốt” là “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Để tỏ lòng trung thành với mối quan hệ đó, Nhà nước Việt Nam đã bắt bớ những công dân của mình xuống đường biểu tình với khẩu hiệu “Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam”. Đó là thủ đoạn ngoại giao khôn khéo hay chỉ là sự đớn hèn? Tình trạng này còn kéo dài bao lâu? Rồi bằng cách nào để có thể thực hiện được di chúc thiêng liêng của Đức Trần Nhân Tôn: “Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”. Không làm được điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể thoát khỏi trách nhiệm trước lịch sử là đã để đất đai thấm máu cha ông lọt vào tay giặc.
Sáu mươi năm trôi qua, tham nhũng hồi ấy chỉ như ruồi muỗi, ngày nay đã trở thành hùm beo, mặc dù ở mọi cấp mọi ngành đều có cơ quan chống tham nhũng! Cứ xem chế độ tiền lương, Chủ tịch Nước cũng chưa đạt mức phải đóng thuế thu nhập, thế mà cán bộ nào cũng nhà cao cửa rộng tiêu xài hoang phí thì có thể biết tham nhũng là bệnh của cả hệ thống! Nguyên nhân nào đẻ ra tình trạng đó? Biện pháp nào để ngăn chặn đây?
Có người có thể nêu thêm hiểm họa về môi trường, nhưng thực tế cho thấy vụ Vedan và nhiều vụ khác đều là con đẻ của quan liêu tham nhũng.
Chúng ta hãy nhìn lại lịch sử 80 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam. để đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của Đảng và tìm lại sức sống cho Đảng, hòng cứu dân tộc thoát khỏi hai hiểm họa nói trên.
II. Ba thế mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
1 - Mọi đảng viên cộng sản kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh đều bắt đầu từ chủ nghĩa yêu nước mà đến với chủ nghĩa cộng sản. Bây giờ nhiều người cho đó là chọn nhầm đường, lạc đường, hoặc nặng lời hơn, có người lên án Đảng Cộng sản lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, rằng nhân dân theo Việt Minh, theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chớ không phải theo cộng sản. Có người cho rằng con đường cộng sản không phải là một tất yếu lịch sử để giải phóng dân tộc, rằng nếu…
Tiếc rằng lịch sử không cho chúng ta chữ “nếu”! Tôi thích câu nói của cựu Bí thư Đảng Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas: “20 tuổi mà không theo cộng sản là không có trái tim, đến 40 tuổi mà không từ bỏ cộng sản là không có cái đầu.” Và cũng ông ấy đã nói: “Không thể nói rằng họ (người cộng sản) đã cố tình lừa dối, rồi sau đó không chịu thực hiện. Sự thật là họ không thể thực hiện được những điều mà họ đã nhiệt liệt tin tưởng”. Dù gì thì lịch sử cũng phải ghi nhận việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám và đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến “Điện Biên chấn động địa cầu”.
Tất cả những điều ấy làm cho số đông người Việt Nam tin theo Đảng Cộng sản, từng thật lòng khi nói “ơn Bác, ơn Đảng”, thật lòng gọi hai tiếng “Đảng ta”! Tuy nhiên, vào đầu những năm 50 trở đi đã nảy mầm tai họa:
- Nhầm đồng minh thể chế, đồng minh giai đoạn, là đồng minh chiến lược, lâu dài; trong khi Bắc Kinh từ đầu đã có ý đồ bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.
- Đường lối cách mạng uốn dần theo ý thức hệ cộng sản.
Hậu quả là niềm tin của nhân dân đối với Đảng nhiều lần bị hẫng hụt. Nhà văn Đào Hiếu nhận xét: “Trừ một số tư sản mại bản, tư sản đỏ, thì đại đa số nhân dân Việt Nam đều căm ghét chế độ hiện nay”. Nếu nhận định đó là đúng thì sự sụp đổ của chế độ đã không thể cưỡng được.
2 - Chính giai đoạn “Đổi mới” đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam gượng dậy.
Ông Lê Hồng Hà, nguyên cán bộ cao cấp Bộ Công an nhận định về tình hình đất nước 20 năm qua: “20 năm qua, cuộc đấu tranh giữa một bên là Đảng Cộng sản và một bên là toàn dân Việt Nam, kết quả là dân thắng Đảng trên hai mặt trận kinh tế và tư tưởng, nhưng dân chưa thắng về chính trị, vì hệ thống chuyên chính vô sản vẫn còn nguyên.” Cũng phải nhìn lại, nếu không có những đảng viên như Kim Ngọc, Trần Xuân Bách, Trần Độ, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch thì không có “Đổi mới”. Chúng ta có thể lấy Bắc Triều Tiên, Cuba làm đối chứng cho nhận định này! Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, điều ấy không ngoa. Nhưng dùng hai chữ “Đổi mới” là thủ đoạn đánh tráo khái niệm, thực ra phải nói là “trở lại như cũ trên con đường văn minh của nhân loại”.
Chính vì chỉ “đổi mới” chứ không chịu “trở lại như cũ” cho nên những người lãnh đạo Đảng Cộng sản luôn luôn ngập ngừng, cứ 1 bước tiến lại 2 bước lùi, chỉ vì sợ bị mất độc quyền lãnh đạo. Ở đây xẩy ra cuộc đấu tranh giữa những người muốn Đổi mới toàn diện mạnh mẽ như Trần Xuân Bách, Trần Độ với lực lượng bảo thủ muốn ghìm lại, nhất là ở lĩnh vực chính trị. Dù gì thì “Đổi mới” đã trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Hệ thống chuyên chính vô sản cũng mềm đi chứ không cứng rắn được như trước. Ví dụ, trong vụ giới trí thức kiến nghị dừng dự án Bauxite Tây Nguyên, ban đầu đã có ý đe dọa, gán cho tội chịu ảnh hưởng của bọn phản động, nhưng rồi đã phải lùi lại. Một trang Web Bauxite Việt Nam có danh sách gần 3000 người ký tên trong 8 đợt kiến nghị, có hằng trăm ý kiến phản biện sắc bén, được hằng triệu người truy cập, quả là một hiện tượng chưa từng có.
Tự do kinh tế đem lại một số công ăn việc làm, cuộc sống vật chất của người dân dễ chịu hơn, bộ mặt đất nước cũng có phần thay đổi. Do đó số đông tầng lớp trung lưu và trí thức chưa quá bức xúc đòi hỏi tự do dân chủ. Công nhân đình công, nông dân biểu tình đều vì quyền lợi vật chất cụ thể chứ chưa phải đòi được tự do lập Hội, lập Công đoàn. Có tài liệu cho rằng trung bình mỗi người dân Việt Nam có chân trong 2,33 tổ chức Hội, Đoàn, làm cho họ cứ tưởng rằng mình đã được nhiều tổ chức của một xã hội dân sự bảo vệ lợi ích khi cần thiết.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam nắm chắc lực lượng quân đội và công an bằng một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ trên xuống tận cơ sở và buộc họ đồng nhất Đảng với Tổ quốc. Nhận định của ông Lê Hồng Hà rất đúng khi cho rằng không thể dùng bạo lực để lật đổ chế độ này.
Tuy nhiên ba thế mạnh kể trên đang bị “ba điểm yếu” bào mòn từng ngày. Nếu không kịp thời có giải pháp sáng suốt và mạnh mẽ để Đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam, về lâu dài nguy cơ sụp đổ khó tránh khỏi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

III. Ba điểm yếu của Đảng Cộng sản
1 - Do “ngu trung” với ý thức hệ, Đảng Cộng sản Việt Nam không rút được bài học nhầm lẫn chọn bạn đồng minh, đã tiếp tục phạm sai lầm lớn hơn ở cuộc gặp Thành Đô năm 1990, cầu hòa với Bắc Kinh trong thế yếu. Từ đó, hai kẻ thù mang mặt nạ “đồng chí”, giả vờ kết giao trên “16 chữ vàng”. (Do quá phẫn nộ trước hành động ngang ngược gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nhân dân đã nhại lại thành 16 chữ đen là “Láng giếng khốn nạn, cướp đất toàn diện, cướp biển lâu dài, thôn tính tương lai”.) Nhầm lẫn trước năm 1954 còn có thể thông cảm, nhưng từ khi Bắc Kinh liên tục gây chiến tranh biên giới với tất cả quốc gia láng giềng Ấn Độ, Liên Xô, Việt Nam mà vẫn còn cho rằng “từng là xã hội chủ nghĩa với nhau vẫn tốt hơn” thì thật là mù quáng. Năm 1974 chúng đã chiếm Hoàng Sa, năm 1984 chúng bất ngờ tập kích Lão Sơn giết chết 3700 chiến sĩ Việt Nam, năm 1988 chúng chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa, giết chết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Chúng liên tục lấn tới, lập cơ quan hành chính Tam Sa gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, liên tiếp bắn giết, cướp thuyền, bắt ngư dân chúng ta đánh cá trên vùng biển của mình. Những ai có trái tim yêu nước đều cảm nhận chúng chỉ chực chờ thời cơ để đánh úp chiếm đoạt cả Trường Sa của chúng ta!
Từ tháng 3 năm 2009 đến nay, cả nước sôi sục một phong trào đòi hủy bỏ dự án Bauxite mở đường cho hùm dữ vào nhà. Các bậc đại công thần của chế độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, các Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Văn Cương và hằng ngàn trí thức đã lên tiếng cảnh báo những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước phải thức tỉnh. Kỹ sư Doãn Mạnh Dũng, trong “Bài học bất ngờ từ Trung Quốc” đã viết: “Năm 2008, tập đoàn Tân Tạo đưa Trung Quốc vào quần đảo Nam Du xây dựng cảng than. Cũng năm 2008, Đài Loan thành công với dự án xây dựng khu luyện thép bên vịnh Sơn Dương. Cuối năm 2008, việc xây dựng nhà máy luyện nhôm Tân Rai, Nhân Cơ giúp Trung Quốc gài quả bom bùn độc trên thượng nguồn sông Đồng Nai. Nếu một ngày nào đó thực hiện kịch bản chiến tranh bất ngờ như năm 1979 họ sẽ nổ quả bom bùn đã gài sẵn ở Tân Rai làm các tỉnh miền Đông và thành phố Hồ Chí Minh chết khát. Họ chiếm Sơn Vương - Hà Tĩnh, chặn cả đường biển lẫn đường bộ từ Nam ra Bắc. Họ chiếm quần đảo Nam Du cắt đường biển quốc tế đến Việt Nam. Một tình huống vô cùng nguy khốn đang hiện ra trước mắt ta đó”!
Báo chí và người phát ngôn Việt Nam không dám nêu tên tàu Trung Quốc mà gọi là “tàu lạ”. Trong khi đó, báo mạng Hoàn Cầu thuộc Tân hoa Xã bình luận rằng: Trung Quốc nên giải quyết tranh chấp biển đảo bằng biện pháp quân sự! Vậy mà Nhà nước Việt Nam vẫn sợ mất lòng Trung Quốc, không dám đưa vụ bắt ngư dân của mình ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Dư luận trong và ngoài nước đều chê trách những người lãnh đạo Việt Nam quá ngờ nghệch đã tự chui vào thế kẹt rồi đâm ra hèn nhát trước sức ép của Bắc Kinh. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc có bài viết tựa đề “Sao bỗng dưng họ lại hèn vậy?” trong đó ông nhắc lại nhiều hành xử anh hùng của người cộng sản Việt Nam trước đây, nhưng không lý giải câu hỏi mới đặt ra.
Ở những cuộc chiến tranh cứu nước trước đây, chúng ta luôn luôn có đồng minh thân thiết và được nhiều quốc gia khác ủng hộ. Trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc 1979, chúng ta còn có đồng minh Liên Xô. Trái lại trong cuộc đối đầu với bọn bành trướng Bắc Kinh hiện nay, Việt Nam hoàn toàn không có đồng minh chiến lược! Tiến sĩ Storey chủ biên tạp chí Đông Nam Á Đương đại cho rằng: “Vấn đề Biển Đông là chủ đề nan giải” (ý nói đối với Việt Nam) và nhận định: “Các nhà lãnh đạo Ba Đình không thể dựa vào một quốc gia nào khác ngoài bản thân mình trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Không thể dựa vào Mỹ, không thể dựa vào Nga và càng không thể dựa vào khối ASEAN”. Tại sao ông nhận định như vậy? Bởi vì Cộng sản Việt Nam đã tự xếp mình là đồng minh thân thiết nhất của Trung Quốc. Khi Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tiếp Lý Nguyên Triều, Trưởng ban Tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc, cám ơn họ đào tạo cán bộ cho Việt Nam thì cơ quan an ninh Việt Nam bắt luật sư Lê Công Định. Khi Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb đến Hà Nội thì Đài Truyền hình Việt Nam phát lời thú tội của bốn nhà hoạt động dân chủ, trong đó lời khai bổ sung của Lê Công Định là có gặp nhiều quan chức Mỹ, đại sứ Mỹ cho rằng tổ chức tư pháp cần tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều tờ báo và đài truyền hình bình luận rằng, những người hoạt động dân chủ bị bắt đều có liên hệ với các thế lực thù địch chống phá Việt Nam. Các động thái kể trên đã cho thế giới hiểu rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng về phía nào trên bàn cờ khu vực và toàn cầu!
Ông Lê Tuấn Huy trong bài “Bài ngửa ở Biển Đông và bài bản về tư duy”, nhận xét rất đúng rằng: “Trong tương quan Biển Đông đã bị đặt vào thế phải tranh chấp, Việt Nam lại không có đồng minh cơ hữu lẫn đồng minh thể chế, khi mà đồng minh lớn nhất về chính trị lẫn văn hóa chính là chủ thể muốn tước đoạt biển đảo. Việt Nam cũng hầu như không có được sự hậu thuẫn của công luận thế giới trong vấn đề này và đó cũng là một phần hậu quả từ việc thiếu vắng tương tác đồng minh”. Ông nhận định: “Chần chừ, với Việt Nam lúc này đồng nghĩa với việc tiếp tục đẩy mình vào cảnh thân cô thế cô”!
Tổ quốc cấp thiết đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn giữa hai con đường: Tìm đồng minh cho dân tộc hay là giữ “đồng chí” cho Đảng. Thật ra thì bọn bành trướng Bắc Kinh đâu có xem Đảng Cộng sản Việt Nam là đồng chí. Cách hành xử trịch thượng của họ đối với ta thật sự như minh chủ đối với chư hầu! Nếu không mau chóng trả lời dứt khoát câu hỏi trên, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ càng ngày càng bị mất niềm tin của dân tộc và càng lâm vào thế kẹt.
2 - Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ thích hợp cho một xã hội có nền kinh tế công hữu và tập thể, phân phối bao cấp từ hạt gạo đến bó rau và đóng cửa với thế giới bên ngoài. Đổi mới kinh tế đã làm cho hệ thống chính trị không còn tương hợp, trở thành chiếc áo cũ rách. Các giá trị hôm qua đặt vào thực tế hôm nay hóa ra khôi hài.
Suốt 20 năm “Đổi mới”, các kỳ Đại hội Đảng cứ khất lần khất lữa việc định nghĩa “cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nội dung gì”? “vai trò vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng” có gì thay đổi? Nếu chỉ nêu mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì không có gì khác các quốc gia dân chủ, nhưng so ra mình không làm được như họ! Đến khóa 10 này, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thấy không thể kéo dài mãi, đã tìm cách giải đáp ở Hội nghị Ban Chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 6 từ ngày 14 đến 22 tháng 1 năm 2008 như sau:
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa chịu sự chi phối hởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội” (tài liệu học tập các nghị quyết Hội nghị Trung Ương 6 khóa 10, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2008, trang 33). Các nhà lý luận của Đảng quên rằng: “Quy luật kinh tế Cơ bản của chủ nghĩa xã hội ra đời và bắt đầu phát sinh tác dụng cùng với việc xây dựng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; phạm vi hoạt động của nó được mở rộng theo đà củng cố và phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tư liệu sản xuất trở thành sở hữu công cộng làm cho nền sản xuất không phải để phục vụ cho việc phát tài và làm giàu của cá nhân hay một giai cấp” (từ điển kinh tế, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1976, trang 455). Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân phát triển, xung khắc với quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội như nước với lửa, làm sao chịu được sự chi phối của nó?
Giai cấp công nhân đang nơm nớp lo bị mất việc làm. Nghe nói mình có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, họ bảo nhau: “Mấy ông này hay thiệt, vừa đại diện cho công nhân lại vừa là tư bản đỏ” Hơn 2500 cuộc đình công (chỉ tính đến giữa năm 2008) của công nhân không có sự chỉ đạo của tổ chức công đoàn do Đảng lãnh đạo, đã nói lên niềm tin của họ đang đặt vào đâu.
Nói về chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhà nghiên cứu chủ nghĩa Marx Kornai János người Hungary cho rằng: “Đảng Cộng sản Trung Quốc trình bầy ý thức hệ giả mạo khi dẫn chiếu đến chủ nghĩa Marx. Cái hệ thống mà Đảng Cộng sản ngự trị về cơ bản mang tính tư bản chủ nghĩa, vì sở hữu tư nhân đã trở thành hình thức sở hữu áp đảo, và bởi vì cơ chế điều phối chính là cơ chế thị trường”. Nhận định đó hoàn toàn đúng đối với đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do không chịu công nhận “Đổi mới” là vứt bỏ những nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội và do tiếp tục duy trì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin, Đảng đã làm cho xã hội đầy dẫy những hiện tượng thực giả lẫn lộn, nói một đằng hiểu một nẻo, đạo đức xuống cấp trầm trọng!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Nói “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, người dân thắc mắc: “Trong lịch sử chưa có ai làm chủ mà không được lãnh đạo, lại còn bị người khác lãnh đạo”!
Nói “thông qua dân chủ bầu cử Quốc hội”, người dân bảo: “Lâu nay vẫn là Đảng cử, Dân bầu”!
Nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, người dân bảo: “Quốc hội bao giờ cũng họp sau khi Đảng đã họp và đề ra nghị quyết chỉ đạo cho Quốc hội phải làm gì. Vừa qua Bộ Chính trị quyết định đại dự án Bauxite đâu có cần thông qua Quốc hội”!
Nói đảng viên cán bộ là đày tớ của nhân dân, mấy ông “hai lúa” cười: “Cả đời mình làm chủ mệt mỏi quá rồi, cầu mong mấy đứa nhỏ sau này có đứa được làm đày tớ cho cả dòng họ được nhờ!”
Nói “Sống và làm việc theo pháp luật”, “Mọi người bình đằng trước pháp luật”, người dân bảo: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa, tư pháp do Đảng lãnh đạo. Người có chức có quyền mới tham nhũng, mà có chức có quyền thì phải là đảng viên, vậy tư pháp làm sao dám xét xử tham nhũng? Hãy coi Tòa án Hà Nội, rồi Tòa án Tối cao cứ như gà mắc tóc trước vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ khởi kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thì biết tư pháp Việt Nam được độc lập cỡ nào”!
Nói chúng ta đã thực hiện tốt quyền tự do báo chí, người dân hỏi, không nghe ông Lê Doãn Hợp, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông bảo: “Phải đi đúng lề phải mới có tự do báo chí” đó sao? Mới đây ông Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Đảng giao cho nhiệm vụ vận động nhân dân phản biện các chính sách của Đảng, nhưng suốt mấy năm, Mặt trận vẫn chưa làm tốt. Xin hỏi, có cách nào để làm tốt được đây, khi mà phản biện chỉ được phép nói trong cái “vòng kim cô” của nghị quyết Đảng? Ai chẳng sợ lỡ miệng ra ngoài vòng sẽ bị thiệt thân? Các ông Nguyễn Mạnh Tường luật sư Ủy viên Trung Ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kim Ngọc Bí thư Tỉnh Ủy Vĩnh Phú, Trần Xuân Bách Ủy viên Bộ Chính trị, là những nhà phản biện dũng cảm đã bị trừng phạt như thế nào, ai chẳng biết!
Mới đây, Viện Nghiên cứu Phát triển IDS do giáo sư Hoàng Tụy làm Chủ tịch Hội đồng, Tiến sĩ Nguyễn Quang A làm Viện trưởng, đã phải tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết định 97 của Thủ tướng Chính phủ hạn chế quyền được nghiên cứu và phản biện. Ngày 15 tháng 9 năm 2009, Mặt trận Tổ quốc họp báo về Đại hội lần thứ 7, có nội dung “tăng cường đồng thuận xã hội, xây dựng đại đoàn kết toàn dân”. Làm sao đồng thuận được khi không có phản biện dân chủ mà chỉ có quyết định từ trên dội xuống?
Các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân loại tiến bộ khi vào Việt Nam đều phải co lại cho vừa cái khung xã hội chủ nghĩa. Cách hiểu, cách làm của Việt Nam trái với các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt Nam đã cam kết thực hiện. Năm nào Việt Nam cũng bị lên án vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền và bị xếp hạng vào cuối bảng của các nước trên thế giới. Phản ứng của Nhà nước Việt Nam luôn luôn là “Nhận thông tin sai lạc với thực tế Việt Nam”, hoặc “can thiệp vào nội bộ Việt Nam”, nặng nề hơn nữa là “âm mưu của các thế lực thù địch hòng chống phá Việt Nam”! Chúng ta chấp nhận hội nhập với cộng đồng nhân loại, làm bạn với tất cả các nước, nhưng lại không đồng ý với người ta về những giá trị phổ biến của nền văn minh nhân loại là: xã hội công dân, sở hữu tư nhân, nhà nước pháp quyền và chế độ dân chủ đại nghị. Chủ nghĩa xã hội thế giới đã thất bại vì phủ định những giá trị phổ biến đó, cố tìm những giá trị khác (xã hội toàn trị, công hữu, kế hoạch hóa quan liêu bao cấp, chuyên chính vô sản, dân chủ tập trung xã hội chủ nghĩa) hòng thay thế, rồi lâm vào ngõ cụt và bị sụp đổ!
Trong bài phát biểu với Hội đồng Lý luận Trung Ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 30-6-2009) ông Đặng Quốc Bảo cho rằng: “Quá trình cầm quyền với hình thức quản lý chuyên chính vô sản, với nguyên tắc tập trung dân chủ, xã hội chưa bao giờ được hưởng quyền tự do dân chủ đích thực”. Và ông lưu ý: “Nếu xã hội… họ cảm thấy áp lực chuyên chế nặng nề lắm thì không thể tránh được những biến động xấu, rất xấu có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Chính hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin đã làm suy yếu các khả năng chống tham nhũng, hiểm họa nội xâm của đất nước.
3. Nhiều người già ở Sài Gòn cho rằng tham nhũng hiện nay đã vượt xa chế độ Sài Gòn cũ. Có thể bào chữa rằng tham nhũng là vấn đề toàn cầu chứ có riêng gì mình. Vâng, nhưng tham nhũng ở các quốc gia dân chủ có nhiều thứ thuốc trị mà ta không có. Khi báo chí đưa tin Hoa Kỳ vừa bắt 44 người tham nhũng thì các ông già thạo tin bảo: “Nếu nước ta có cơ quan tư pháp độc lập như họ thì chỉ riêng quận mình thôi, số tên tham nhũng bị bắt cũng vượt xa con số của cả nước Mỹ”!
Có lẽ trên thế giới không nước nào có nhiều cơ quan có chức năng chống tham nhũng bằng nước ta. Đảng có ủy ban Kiểm tra, Nhà nước có Tổng Thanh tra, các Bộ, các ngành, các đoàn thể, ở từng cấp đều có tổ chức thanh tra, kiểm tra. Có rất nhiều nghị quyết chỉ đạo chống tham nhũng. Một Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng làm Trưởng ban Chống Tham nhũng Trung Ương. Các Đảng Ủy được nhắc nhở phải coi chống tham nhũng là trách nhiệm lớn. Thế nhưng, tham nhũng đã xảy ra ở ngay các Đảng bộ đạt tiêu chuẩn “4 tốt”, danh hiệu “Đảng bộ trong sạch vững mạnh” như: Văn phòng Chính phủ, Đảng Ủy Bộ Giao thông Vận tải, Đảng Ủy PM18, Đảng Ủy dự án Đại lộ Đông - Tây. Vì sao tham nhũng ở Việt Nam “kháng thuốc” ghê gớm vậy?
Có 3 nguyên nhân:
(a) Ở các quốc gia dân chủ họ có nền tư pháp độc lập, có thể buộc tội cả tổng thống, còn pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Tay này sao nỡ chặt tay kia!
Trả lời sao đây khi bao nhiêu vụ án lớn không nhúc nhích:
- Vụ PMU 18 còn đó mà các nhà báo viết về nó đã phải đi tù;
- Vụ PCI dù người Nhật đã khai hối lộ cho Huỳnh Ngọc Sĩ, nhưng sau nửa năm, Sĩ chỉ bị khởi tố về tội cho thuê nhà! Dư luận tin rằng Sĩ không thể nuốt trôi khối đô la khổng lồ nếu không chia cho các vị thượng cấp có liên quan trách nhiệm đối với công trình này;
- Năm 2006, cảnh sát Đức phát hiện Siemens chuyển hơn 241.000 Euro vào tài khoản ở Singapore của một quan chức Việt Nam. Đến nay cảnh sát Việt Nam chưa động đậy;
- Năm 2008, một Việt kiều bị truy tố “hối lộ 150 nghìn đô la để bán được thiết bị cho một dự án ở Vũng Tàu”. Đến nay phía Việt Nam chưa có ý kiến gì;
- v.v…
(b) Ở các nước dân chủ có hệ thống báo chí được gọi là “quyền lực thứ tư”. Báo chí “lề phải” của chúng ta luôn luôn phải chờ được phép mới dám đưa tin. Trước đây các phóng viên viết bài chống tham nhũng cứ chờ cơ quan điều tra của Bộ Công an cung cấp tài liệu. Từ khi hai phóng viên của báo Tuổi trẻ và báo Thanh niên dùng tài liệu của công an để viết bài mà vẫn bị xử tù thì những cây bút chống tham nhũng của báo chí Việt Nam càng co lại giữ mình.
Các quốc gia dân chủ đều có các đảng đối lập luôn luôn săm soi mọi hành vi sai trái của đảng cầm quyền. Do đó các đảng cầm quyền phải có nhiều biện pháp quản lý đảng viên giúp họ tránh các cạm bẫy. Còn ở nước ta, Đảng một mình một chợ, đảng viên chẳng cần giữ ý, không sợ bất cứ ai!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

IV. Nêu bốn câu hỏi, trước khi nêu giải pháp
1- Ông Lý Quang Diệu cho rằng năm 1975, Sài Gòn có tiềm lực kinh tế ngang với Băng Cốc, nhưng 20 năm sau Sài Gòn tụt hậu so với Băng Cốc (thủ đô của Thái Lan) 20 năm. Vì sao? Có phải chỉ vì Băng Cốc có nhiều chính sách khuyến khích phát triển công thương nghiệp tư bản, trong khi đó Sài Gòn ra sức cải tạo công thương nghiệp tư bản? Nhìn rộng ra tại sao tất cả các nước theo chủ nghĩa xã hội đều nghèo đói so với các nước phát triển tư bản? Nhiều nhà lý luận Mác - Lê sang các nước tư bản phát triển thừa nhận rằng ở các nước này có nhiều “xã hội chủ nghĩa” hơn Liên Xô, Đông Âu! Cứ xem hai quốc gia bị chia cắt là Đức và Triều Tiên, bên theo chủ nghĩa xã hội thì nghèo đói, bên phát triển tư bản chủ nghĩa thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh. Nước ta từ khi “Đổi mới”, tức là từ bỏ những nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa tự do kinh tế thì sức sản xuất có được giải phóng đôi chút, đời sống nhân dân có từng bước cải thiện.
Như vậy làm sao có thể nói đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa là ưu việt? Lê nin từng cho rằng trong cuộc cạnh tranh “ai thắng ai”, chiến thắng sẽ thuộc về bên nào có năng suất lao động cao hơn. Nếu chủ nghĩa xã hội có năng suất cao hơn thì đâu đã bị “hạ gục” (chữ của Tổng thống Mỹ Obama)? Có phải chế độ công hữu triệt tiêu động lực cá nhân trong lao động sáng tạo làm cho năng suất lao động xã hội sa sút?
2- Ngày nay, toàn thế giới đều biết trước đây ở Liên Xô, chính quyền Xô - viết đã thủ tiêu hằng vạn cán bộ cao cấp, hằng triệu dân lành, cấm phát hành nhiều tác phẩm tiến bộ và đày ải các tác giả của nó, kể cả những người đoạt giải Nobel. Ở Trung Quốc, Đại Cách mạng Văn hóa vô sản đã giết hằng triệu người, trong đó có cả Chủ tịch Nước, nhiều Ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng và các nhà văn hóa lớn. Ở Campuchia, Đảng cộng sản (từng là đồng minh của Đảng cộng sản Việt nam trong thời chống Mỹ) đã gây ra họa diệt chủng chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Tất cả các Đảng cộng sản ở Đông Âu, Cu ba, Bắc Triều Tiên đều có những trang sử đen về nhân quyền. Ở nước ta cũng đâu có thiếu những ngày tháng nhắc tới không khỏi nhói đau: Cải cách ruộng đất; chống Nhân văn - Giai phẩm; cải tạo công thương nghiệp ở miền Bắc; chỉnh đốn tổ chức; thanh trừ bọn xét lại chống Đảng; cải tạo tư sản miền Nam và những cán binh của chính quyền Sài Gòn, gây ra cảnh hàng triệu người vượt biển, một thảm họa “thuyền nhân”! Có phải vì ý thức hệ cộng sản, độc quyền tư tưởng, triệt tiêu tư duy độc lập tự do sáng tác, phát minh, lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến bộ, coi lập trường giai cấp, một khái niệm rất mơ hồ là nền tảng đạo đức, từ đó đẻ ra tình trạng tay phải chặt tay trái, đồng chí giết nhau, Lương - Giáo nghi kỵ, con tố cha, vợ tố chồng?
3 - Qua hơn 20 năm đổi mới, một lớp doanh nhân (Đảng muốn gọi tránh, chứ đúng ra phải gọi đúng tên là giai cấp tư sản) đã hình thành, trong đó có khá đông đảng viên cộng sản và con em họ.
Dù cho rằng phải đổi mới nội dung cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng đổi mới thế nào cũng không thể vượt khỏi các nguyên lý của nó. Trước “Đổi mới”, chỉ cần diễn đạt khác các với các nguyên lý giáo điều chút xíu đã bị lên án là xét lại, chống Đảng, đã phải đi tù. Đó là “tội” của các đồng chí Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang. Đổi mới đến mức không còn các nguyên lý cũng tức là từ bỏ chủ nghĩa xã hội! Đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ Đại hội 6 đến nay thực sự đã từ bỏ hết các nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì Marx và Engels đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản phải xóa bỏ buôn bán, xóa bỏ chế độ sản xuất tư sản, xóa bỏ ngay cả giai cấp tư sản nữa” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Sự Thật năm 1974, trang 70) và “giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước” (sách trên, trang 78).
Vậy nếu không phải là từ bỏ vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sách lược, cho phép giai cấp tư sản tồn tại trong “giai đoạn quá độ” thì có nghĩa là rồi đây Đảng sẽ có chính sách “từng bước một đoạt lấy” như đã từng làm trong quá khứ? Nhưng lần này liệu những đảng viên cộng sản (số rất đông) và con em họ, những “tư sản đỏ” có chấp nhận chính sách đó hay chống lại? Và toàn dân Việt Nam liệu có đồng ý thực hiện cái chính sách từng kéo lùi Sài Gòn tụt hậu 20 năm so với Băng Cốc? Nếu tính chung cả nước ta thì sự tụt hậu và nỗi đau đớn do chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin gây ra còn ghê gớm hơn nhiều!
4 - Vậy thì vì lý do gì Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam quyết kiên trì chủ nghĩa xã hội?
Rốt lại, chỉ vì hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa bảo vệ quyền lãnh đạo độc tôn của Đảng Cộng sản Tháng 7 năm 2009, ông Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội, có 4 bài viết và trả lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam, nêu những tiêu đề: “Giờ là lúc phải đổi mới toàn diện”; “tôi mong lãnh đạo quốc gia có tầm nhìn của Lý Quang Diệu” (Ông Lý Quang Diệu từng có ý kiến cho rằng việc hoạch định chính sách phát triển đất nước đừng để ảnh hưởng của ý thức hệ); “Dân là gốc, pháp luật là tối thượng”; “Dân là gốc thuộc phạm trù vĩnh viễn, Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử”; “Không ai độc quyền chân lý”, “Qua tranh luận, thử thách trong cuộc sống có khi phải thay đổi nhận thức tới 180 độ”. Những ý kiến trên đây của ông Nguyễn Văn An gợi ra nhiều điều quan trọng cho nội dung đổi mới toàn diện.
Thiết nghĩ, đổi mới toàn diện cần theo những nguyên tắc sau đây:
“Đổi mới phải phù hợp với trào lưu thời đại của nhân loại ở thế kỷ 21; phải có tác dụng tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải đổi mới tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội và chính trị”.
1 - Đổi mới Đảng, từ bỏ ý thức hệ cộng sản sẽ là phép màu san bằng rào cản, hòa giải hòa hợp với 3 triệu đồng bào ở nước ngoài, những người yêu nước, có tri thức, có tấm lòng, nhưng không tán thành chủ nghĩa cộng sản và bị ám ảnh rất nặng nề bởi nỗi oán hận từ quá khứ. Từ đây sẽ không còn những cuộc biểu tình chống đối chính quyền trong nước, ngăn cản bà con muốn về xây dựng quê hương. Từ đây các em sinh viên ưu tú du học ở các nước tiên tiến, tiếp thụ các lý tưởng dân chủ không còn nỗi bức xúc, quay ra hoạt động chính trị đối lập với Nhà nước rồi lâm vào cảnh tù tội oan uổng.
Sức mạnh toàn dân tộc sẽ tăng lên gấp bội giúp cho Sự nghiệp canh tân đất nước có hiệu quả hơn bao giờ hết. Lịch sử sẽ ghi nhận hành động dũng cảm triệt để đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là mở ra con đường đại phúc cho dân tộc!
2- Đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên, liệu sự chọn lựa này có làm mất quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (sau khi đã là Đảng của dân tộc) hay không? Đã đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên thì không nên tính toán hơn thiệt Là một Đảng lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc, rồi chủ xướng đổi mới, cuối cùng dám từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để tự biến mình hoàn toàn thành Đảng của Dân tộc. Vậy thì trong tâm tưởng người Việt Nam yêu nước còn có thế lực nào đáng gửi gắm niềm tin là có đủ tài, đủ đức lãnh đạo đất nước hơn một Đảng như thế?
3- Khi đã có cương lĩnh đề ra mục tiêu và nội dung đổi mới, Đảng sẽ định một lộ trình thật khoa học để từng bước thực hiện sự nghiệp trọng đại này một cách chắc chắn.
Nhà thơ Thanh Thảo cho rằng: Nên trở về với Hiến pháp 1946, đó là Hiến pháp tiến bộ và dân chủ nhất tù’ trước tới nay ở Việt Nam; nên trở về với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, là đảng của người lao động cũng là của nhân dân Việt Nam. Như vậy không phải tạo ra đảng mới nào cả mà vẫn là mới so với hiện nay. Nên khôi phục lại hai Đảng Xã Hội và Dân Chủ đã từng có, để tập hợp những người trí thức yêu nước và giữ vai trò phản biện dân chủ.
Tuy nhiên, có nhiều người cho rằng nên từ thực tế hôm nay mà tìm lối ra thích hợp hơn là quay lại cái cũ. Ví dụ, bắt đầu luật hóa Điều 4 để sự lãnh đạo của Đảng không là đảng trị. Xây dựng luật bầu cử đảm bảo quyền tự do ứng cử bầu cử của nhân dân, để Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, hệ thống chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân. Xây dựng một hệ thống tư pháp độc lập để Chính phủ điều hành việc nước bằng pháp luật và chịu sự giám sát của nhân dân theo pháp luật. Cuối cùng khi đến lúc đủ điều kiện sẽ soạn lại Hiến pháp theo đúng tinh thần Dân chủ Cộng hòa, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân và phù hợp với lương tri của đa số các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam có thể theo cách của Đảng Xã hội Pháp hồi 1920. Những người muốn đảng trở thành đảng của dân tộc và những người muốn giữ nguyên Đảng Cộng sản tách nhau ra thành hai đảng. Sau đó, tổ chức trưng cầu ý dân bằng một cuộc bỏ phiếu kín chọn đảng lãnh đạo từ hai đảng này. Đảng không được nhân dân chọn làm lãnh đạo sẽ trở thành đảng đối lập. Tôi muốn nhắc lại bài học của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia trước đây để càng thêm tin tưởng việc triệt để Đổi mới Đảng:
Khi chấp nhận hình thức Chính phủ Liên hiệp, Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia đã mở đại hội đề ra cương lĩnh mới, tuyên bố từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đổi tên đảng thành Đảng Nhân Dân Campuchia (bỏ từ Cách mạng với ngụ ý trở thành đảng của dân tộc). Đại diện Đảng Cộng sản Việt Nam dự đại hội này là ông Lê Đức Anh, nguyên cố vấn cho đảng bạn, đã tức giận cho rằng “chưa thua mà đã cuốn cờ (ý nói cờ cộng sản) lúc ấy, thế và lực của Đảng Nhân Dân Campuchia rất yếu so với Đảng Bảo Hoàng của Ranariddh được uy tín của Sihanuck và Nhà nước Vương quốc yểm trợ. Vậy mà từ vị thế chia đôi quyền lực Nhà nước (2 ông thủ tướng, 2 ông Bộ trưởng cho tới các cấp dưới…) Đảng Nhân Dân Campuchia đã vươn lên sau mỗi nhiệm kỳ và ngày nay hoàn toàn ở thế thượng phong so với các đảng đối lập.
Đảng Cộng sản Việt Nam có những ưu thế tuyệt đối mà Đảng Nhân dân Campuchia ngày ấy không thể sánh. Do đó giải pháp triệt để đổi mới Đảng, từ bỏ chủ nghĩa xã hội, trở thành đảng của dân tộc, không hề là phiêu lưu mà là một hành động sáng suốt, bắt đúng nhịp của thời đại, đáp ứng đúng nguyện vọng của dân tộc, nhất định Đảng sẽ cùng Dân tộc đồng hành tới tương lai vô cùng xán lạn.
Bài trên được đăng trên mạng Diễn Đàn ngày 17-9-2009. Lập tức báo Quân đội Nhân dân (ngày 19-9-2009) đăng bài “Mưu đồ thâm hiểm sau lời góp ý” của Tâm Việt (nghe nói là một phó tổng biên tập). Sau khi khẳng định “mục tiêu hết sức thâm độc toát lên từ bài góp ý đó là hạ bệ Đảng cộng sản Việt Nam”, “cắt xén và cố tình xuyên tạc những yếu tố lịch sử, để phục vụ cho ý đồ chính trị đen tối”, Tâm Việt kết luận: “Sự tàn bạo và xảo trá chưa bao giờ là hệ giá trị của văn minh nhân loại. Mưu đồ xấu xa đằng sau những lời 'góp ý' của những người tự cho là có 'thiện ý' đó nhất định sẽ bị vạch trần. Không khó để những người Việt Nam nhận rõ chân tướng và mưu đồ đen tối của họ.” Bài của Tâm Việt làm cho người đọc nghĩ người viết là một kẻ trong lực lượng thù địch ở nước ngoài.
Tôi bàn với nhà thơ Hoàng Hưng, tình thế này đòi hỏi mình phải công khai danh tính. Hoàng Hưng chấp bút bài “Về tác giả bài viết Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, đăng trên Talawas, cho biết đó là nhà báo Tống Văn Công đang ở trong nước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Hoàng Hưng - Và Tác Giả Bài Viết “Đổi Mới Đảng Để Tránh Sụp Đổ”!

Tôi lấy làm vinh dự được tác giả Thiện Ý gửi gắm việc giới thiệu nhân thân của anh sau khi bài “Đổi mới để Đảng khỏi sụp đổ” được công bố trên talawas blog. Việc công khai này đánh dấu một bước ngoặt lớn của anh trên con đường phản biện với những người lãnh đạo Đảng của mình, tổ chức mà anh gắn bó suốt 50 năm nay, và thực lòng hy vọng vào sự thay đổi của nó để nó tự cứu vãn và cứu vãn cả tương lai dân tộc.
Thiện Ý chính là Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập một số tờ báo của hệ thống công đoàn: báo Lao Động Mới (Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam Việt Nam), báo Công nhân Giải phóng (tiền thân của báo Người Lao Động, Liên đoàn Lao động TPHCM) báo Lao Động (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), cũng là ngòi bút bình luận sắc bén một thời của báo này với bút danh Thuận Lý. Xuất thân từ một gia đình cách mạng, cha là Tống Văn Thêm bút hiệu Tăng ích, tham gia Đảng Cộng sản từ 1929, dịch giả của Tạp chí Tân Trung Hoa thời kháng chiến chống Pháp, Tống Văn Công sinh năm 1932, tham gia Vệ quốc Đoàn chống Pháp (1950-1959), được giải ba cuộc thi viết truyện ngắn về miền Nam 1959, làm báo Lao Động từ 1960, huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Con đường phản biện với Đảng của đảng viên kỳ cựu Tống Văn Công bắt đầu từ thời gian sau “Đổi mới”, chủ yếu với công việc lãnh đạo báo Công nhân Giải phóng và sau đó báo Lao Động trong những cuộc đấu tranh dũng cảm chống quan liêu tham nhũng, bênh vực quyền lợi công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là trong mấy năm huy hoàng của tờ Lao động Chủ nhật mà lịch sử báo chí Việt Nam sẽ phải ghi nhận như người xung kích của báo chí “cách mạng” (đúng nghĩa là báo chí trong vòng kim cô của đường lối tuyên giáo cộng sản) đã phá rào để nói lên những tiếng nói trung thực với đời sống và “khác” với ý của lãnh đạo Đảng. Và tất nhiên anh phải trả giá, may mà cái giá cũng không quá đắt: bị cho về hưu (xem bài “Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải” của Thiện Ý trên talawas blog). Điều đáng ghi nhận là chính ở tờ báo này, Tống Văn Công đã thể hiện không “ngu trung” với ý thức hệ, thực lòng đoàn kết mọi lực lượng của dân tộc để xây dựng một nước Việt Nam mới - ở đây là một tờ báo mới (bao gồm những nhà báo đảng viên trung thực, những nhà báo tay nghề cao của Sài Gòn cũ, những cựu - tù - chính - trị của chế độ, những người trẻ có tâm huyết). Và quả nhiên là tất cả mọi người trong tờ báo cũng thực lòng đoàn kết dưới sự lãnh đạo của những đảng viên cấp tiến và có trình độ như anh, mong được dùng ngòi bút phục vụ công cuộc “Đổi mới”. Chính đó là sức mạnh khiến mọi người chấp nhận san sẻ thu nhập ít ỏi như nhau (80.000 VND/tháng vào năm 1990) say sưa làm báo như đi “làm cách mạng”. Tình cảm giữa anh Công và tôi nảy nở trong những ngày tháng không quên ấy. Tôi là một người vừa đi cải tạo vì thơ văn “phản động” về chưa bao lâu, lại được giao toàn quyền nắm trang Văn hóa - Văn nghệ của một tờ báo lớn, đó là chuyện chưa từng có và không thể hình dung (ngày hôm nay thì lại càng không thể). Nhờ sự kiên quyết của anh, báo Lao Động đã là tờ báo đầu tiên giới thiệu các nhân vật Nhân văn - Giai phẩm (Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng…), ủng hộ những khuynh hướng sáng tác mới, hiện đại còn bị kỳ thị của giới chính thống (đặc biệt trong mỹ thuật và văn học). Qua nhiều thử thách, tình đồng nghiệp giữa chúng tôi đã biến thành tình bạn, tình đồng chí.
Một thời gian dài sau khi nghỉ hưu, Tống Văn Công hầu như không xuất hiện trong đời sống báo chí, hoặc chỉ xuất hiện dưới bút danh nào đó với những bài vô thưởng vô phạt, dường như anh đã an phận thủ thường. Nhưng anh lại vẫn luôn luôn theo dõi, trao đổi bàn bạc với bạn bè thân hữu về mọi tình hình đang diễn ra trên đất nước. Những ai quen biết anh đều nghĩ sẽ đến lúc Tống Văn Công tái xuất giang hồ, không thể khác.
Không phải vì anh là anh hùng hảo hớn gì, mà đơn giản là tình hình đất nước dần dần đi đến chỗ hiểm nguy mà nếu không quá hèn nhát, quá giá áo túi cơm hay nhất quyết mũ nỉ che tai thì những người có hiểu biết, có lương tri, có tâm huyết buộc phải bước ra khỏi nơi trú ẩn an toàn để bày tỏ thái độ. Với những người đã trót mang nghiệp “ngôn luận”, im lặng trước cái sai, cái xấu, cái lỗi thời lúc này là mang tội đồng lõa không thể biện minh.
Và bắt đầu xuất hiện bút danh Thiện Ý trên talawas blog, với những bài viết rất được chú ý vì sự thẳng thắn, cái nhìn mang tính tổng quát, lập trường triệt để nhưng tỉnh táo và chân thành xây dựng của một người trong cuộc. Từ bài viết đầu tiên về khủng hoảng văn hóa đạo đức, tác giả đã nêu rõ nguyên nhân sâu xa nền tảng của nó là khủng hoảng ý thức hệ; đến bài mới nhất, anh vẫn triển khai lập luận ấy đến cùng, và mở nó ra thành cái nhìn toàn diện về thể chế. Cuối cùng việc phải đến đã đến: anh đặt thẳng vấn đề về hệ thống chính trị và tính chính đáng của đảng cầm quyền Chính ở bài này, anh quyết định công bố tên thật đằng sau cái bút danh mà anh muốn giữ vì đã quen với bạn đọc và có thể chuyển tải “thiện ý” của mình.
Anh đã giải phẫu vào cái đệ nhất yếu huyệt, gót chân Achille của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, nếu như với việc công bố bài này cùng tên thật, mặc dù đây “thiện ý”, Tống Văn Công có bị những thành phần cứng rắn trong Đảng của mình làm khó thì cũng là chuyện dễ hiểu.
Tôi là một công dân Việt Nam ngoài Đảng, nhưng nhận thức rõ rằng trong một thời gian còn dài, tương lai của đất nước, của dân tộc phụ thuộc chủ yếu vào những biến chuyển trong nội bộ đảng cầm quyền. Từ lâu tôi đã đặt câu hỏi: Ngoài những kẻ thoái hóa biến chất, đặc quyền đặc lợi đang múa tay trong bị trước tình trạng hỗn loạn của xã hội hiện nay, Đảng CSVN còn được bao nhiêu đảng viên chân chính, không bám quyền bám lợi mà thật sự nghĩ đến dân đến nước? Tại sao họ im lặng thế? Vì sợ hãi kỷ luật Đảng? Vì luyến tiếc một quá khứ oai hùng? Vì chưa tìm được lối ra? Vì lo lắng một sự sụp đổ nguy hiểm?
Bài viết mới nhất của Thiện Ý - Tống Vãn Công là một câu trả lời cho tôi. Vẫn có không ít đảng viên mang trong đáy sâu lòng mình phẩm chất của người yêu nước thực sự, và không phải không có những người nghĩ được “lối ra” khá an toàn cho cuộc “khủng hoảng” (“Khủng hoảng và lối ra” là tên một luận văn của Nguyễn Tiến Giang). Và họ đã lên tiếng, ngày càng đông, ngày càng thẳng thắn. Tôi tin rằng những ý kiến của Tống Văn Công hôm nay về căn bản đã nói đúng suy nghĩ của đa số người dân Việt Nam hôm nay cả đảng viên lẫn không đảng viên, kể cả những quan chức đang hưởng lợi từ cơ chế hiện hành nhưng có tầm nhìn xa về tương lai của con cháu họ. Và tôi vẫn chưa hết hy vọng ở sự biết lắng nghe của những người có quyền trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ít ra là một số và con số này sẽ ngày càng tăng. Nếu không, thì thảm họa cho đất nước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Chi Bộ Phường Tân Kiểng Triệu Tập Hội Nghị Bất Thường.

Hai ngày sau khi Talawas đăng bài của nhà thơ Hoàng Hưng cho biết Thiện Ý là Tống Văn Công, tôi được triệu tập đến hội nghị chi bộ bất thường. Cuộc họp có ông Danh phó Bí thư Quận Ủy quận 7, ông Luân chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Quận Ủy quận 7 dự. Tôi vừa ngồi lên ghế, thì ông An một đảng viên già từ hàng ghế đầu chạy xuống nói: “Anh Công à, cái đơn thuốc anh cho, tôi không dùng, vì tôi đã được bác sĩ cho đơn thuốc”. Tôi không kịp hiểu ông nói điều ấy là có ý gì. Vào cuộc họp tôi mới hiểu, ông muốn tỏ thái độ không nhờ cậy, không mang ơn một tên chống Đảng và do đó ông hoàn toàn có đủ tư cách để mạt sát hắn.
Ông Thường bí thư chi bộ tuyên bố lý do cuộc họp là “để góp ý với đồng chí Tống Văn Công về bài viết có tựa đề 'Đổi mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ'. Bài này có nhiều điều trái với cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng. Rất đáng tiếc là trước khi viết bài này đồng chí Công không tham khảo ý kiến của Chi Ủy. Tuy vậy nếu bài không đưa lên mạng thì không có cuộc họp này. Mời các đồng chí góp ý với đồng chí Công”.
Ông An “phát pháo” đầu tiên:
- Viết bài xuyên tạc đường lối của Đảng, lại còn trả lời đài nước ngoài mà không xin phép là vi phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm. Theo tôi chúng ta cứ chiếu theo Quyết định 47 - QĐ/TW mà xử lý thôi, có gì phải bàn. Đây là “chống phá” chứ có phải là sai phạm bình thường đâu mà góp ý!
Tôi trả lời:
Như câu mở đầu bài viết, Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: Giặc nội xâm và giặc ngoại xâm. Đó là điều thôi thúc tôi phải lên tiếng, hi vọng Đảng kịp trở về với dân tộc. Từ khi còn làm việc, tôi đã trả lời với đài, báo trong và ngoài nước, không xin phép. Các anh chị thử hình dung, khi ký giả nước ngoài hỏi, tôi bảo họ “xin quý vị chờ tôi xin ý kiến cấp trên đã, rồi sẽ trả lời quý vị sau nhé”. Người ta sẽ nghĩ thế nào về một chế độ bóp nghẹt tự do ngôn luận đến thế?
Ông Hiền phó bí thư chi bộ:
“Hồi vào Đảng đồng chí Công đã giơ tay thề suốt đời chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nay không tán thành đường lối xã hội chủ nghĩa nữa thì xin ra Đảng đi. Tại sao còn nhận Huy hiệu 50 tuổi Đảng? Việc cấp Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng cho đồng chí Công cũng là một sai lầm rất đáng tiếc.”
Tôi trả lời:
Như đã nói, tôi muốn Đảng đồng hành cùng dân tộc, từ bỏ ý thức hệ lỗi thời mà nhân loại đã vượt qua. Nếu không, sẽ nguy hiểm cho Đảng và cho cả dân tộc. Nhiều đảng viên cao tuổi Đảng đã thấy điều ấy, mỗi người có cách ứng xử khác nhau. Nhà văn Nguyễn Khải, 60 tuổi Đảng, nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên, năm 2006 đã viết tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” cho rằng chế độ xã hội theo mô hình của Stalin đã đưa tới: “Một xã hội mà công dân không có quyền sống thật, nói thật”. Nhưng ông dặn con chỉ công bố bài này sau khi ông qua đời. Cách làm của Nguyễn Khải thì an toàn cho bản thân, nhưng tỏ ra không tin Đảng biết lắng nghe và không dám vì Đảng. Người thứ hai là nhạc sĩ Tô Hải cũng hơn 60 tuổi Đảng đã viết “Hồi ký của một thằng hèn”, phủ nhận sạch trơn. Đọc bài “Đổi mới Đảng”, ông chê trách: “Tôi vô cùng thất vọng, tại sao Tống Văn Công còn cố tìm đường cho Đảng hoàn thiện để tiếp tục độc quyền lãnh đạo, lẽ ra chỉ nên tuyên bố ra khỏi Đảng và không chịu trách nhiệm gì về mọi đường lối, chủ trương của Đảng cầm quyền”. Tôi chọn cách khác hai người ấy. Tôi đã ở trong Đảng hơn 50 năm, tôi phải chịu trách nhiệm về những sai lầm của Đảng. Tôi phải nói thẳng điều mình đã nhận thức được ngay khi đang còn sống. Nếu Đảng cho rằng tôi có quan điểm sai trái không thể chấp nhận thì tôi sẵn sàng nhận kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng. Về ý kiến cho rằng quyết định cấp Huy hiệu 50 tuổi Đảng cho tôi là sai lầm. Tôi cho rằng với cách nghĩ đó thì cũng có thể nói việc kết nạp tôi vào Đảng cũng là một sai lầm và việc nhận tôi vào Vệ quốc đoàn thời chống Pháp càng là sai lầm. Dù gì thì việc cấp Huy hiệu 50 tuổi Đảng của tôi không phải là của chi bộ mà là Ban Thường vụ Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh. Do đó nếu Ban Thường vụ Thành Ủy có quan điểm giống như anh Hiến thì tôi xin nộp lại Huy hiệu ấy.
Ông Ba Náo, nguyên bí thư chi bộ, đương nhiệm Ủy viên chi Ủy:
“Hai mươi năm chiến tranh chống Mỹ cứu nước đồng chí Công được ở ngoài Bắc hưởng hòa bình. Chúng tôi hy sinh xương máu, giải phóng miền Nam cho đồng chí được trở về, vậy thì cứ ngồi mà hưởng, tại sao lại 'ăn cháo đá bát'? Tôi hỏi đồng chí: Ai giúp vũ khí cho mình đánh Pháp? Rồi ai giúp vũ khí cho mình đánh Mỹ? Vậy mà nay đồng chí nghe theo luận điệu của bọn thù địch nhằm chia rẽ hai nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nói thật, đọc bài này tôi cho rằng không phải một mình đồng chí Công viết, đằng sau đồng chí là những kẻ nào, vì toàn là những luận điệu của bọn phản động. Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa. Ta nói là của ta. Trung Quốc nói họ có chứng cứ là của họ. Hai nước láng giềng tranh chấp với nhau như vậy là chuyện bình thường, cũng như trong chi bộ mình có hai đảng viên bất hòa không nhìn mặt nhau là út Kỷ với Lê Duyên Hải. Chi bộ có hòa giải họ được đâu. Ta trải qua hàng chục năm chiến tranh, tại sao đồng chí lại đem sự phát triển nhanh của Băng Cốc so với Sài Gòn?”
Tôi trả lời:
Để chi bộ không phải lo vì có bọn phản động nào xui giục tôi phát ngôn, tôi xin kể lại một số ý kiến của các bậc “trưởng thượng” của Đảng.
Ủy viên Bộ chính trị, Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong thư góp ý với Đảng về bài học từ 20 năm đổi mới: “Lúc nào chúng ta cũng khẳng định rằng chủ nghĩa Mác - Lê nin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam, vậy tại sao chúng ta vẫn mắc sai lầm, tại sao vẫn có những giai đoạn lạc hướng? Vậy cần nghiên cứu, phân tích xem, trong chủ nghĩa Mác - Lê nin điều gì trước đây đúng nay vẫn đúng, điều gì trước đây đúng nay không còn phù hợp nữa, điều gì ngay từ trước đã có sai sót. Từ năm 1951 trở đi xu hướng tả khuynh phát triển mạnh do có sự tác động của các chuyên gia Trung Quốc. Sự sụp đổ các nước Đông Âu, sau đó là sự sụp đổ Liên Xô thì xu hướng giáo điều, tả khuynh trong Đảng lại phục hồi. Đã xuất hiện quan điểm không thuận cho Việt nam gia nhập ASEAN, bảo lưu ý kiến không tham gia năm 1995. Không ít người tự coi mình có quan điểm vững gây không ít cản trở cho sự phát triển bằng những lời phát biểu như “coi chừng chệch hướng”, “đổi mới, không đổi màu”, “hòa nhập không hòa tan”. Nhiều đồng chí mắc sai lầm tả khuynh nghiêm trọng nhưng không bị kỷ luật vẫn giữ được quyền uy vì được đánh giá là “kiên định lập trường”. Ngược lại, những người mạnh dạn đổi mới không bằng lòng với cái đã đạt được thì lại rất dễ bị chụp mũ là mất lập trường, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, ăn phải bả của chủ nghĩa tư bản bị ảnh hưởng cả sinh mạng chính trị. Về khái niệm diễn biến hòa bình cũng vậy. Các nước phương Tây điều chỉnh chính sách của họ hằng tháng, hằng năm. Không nên dùng một khái niệm chung chung trừu tượng như thế để định lượng những nguy cơ từ các nước phương Tây. Một nền kinh tế nhiều thành phần mà thành phần nhiều khuyết tật nhất, kém hiệu quả nhất lại là chủ đạo. Vậy thì nền kinh tế đó phát triển thế nào? Cấp dưới tuân theo mọi quyết đoán từ bên trên, tạo ra tâm lý lựa gió xoay chiều cốt cho được việc theo ý trên. Sự dối trá cũng khởi nguồn từ đấy.
Người thứ hai tôi muốn nhắc tới là ông Trần Độ, nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội. Ông đã viết “Nhật ký Rồng Rắn”, một di chúc chính trị: “Trên thế giới hiện nay có hơn 100 nước đã phát triển với trình độ văn minh cao. Vậy mà họ không cần đến chủ nghĩa Mác - Lê nin, chủ nghĩa xã hội với chuyên chính vô sản, độc quyền tư tưởng và độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản. Bây giờ chỉ còn lại bốn nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên Trung Quốc đã mặc nhiên giả từ chủ nghĩa Mác - Lê nin và theo chủ nghĩa thực dụng “có màu sắc trung Quốc”, được chứng nghiệm từ thời Đặng Tiểu Bình với “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột cũng tốt, miễn là bắt được chuột.” Bắc Triều Tiên buộc phải quan hệ với Nam Triều Tiên vì quá nghèo đói.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Người thứ ba tôi muốn nhắc tới là đồng chí Đặng Quốc Bảo, nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng, nguyên Trưởng ban khoa giáo Trung Ương trình bày với Hội đồng lý luận Trung Ương: “Mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu xô viết qua thực nghiệm đã thất bại. Nếu có mô hình của cái gọi là chủ nghĩa xã hội thì phải có màu sắc khác chứ không thể là mô hình lấy đấu tranh giai cấp làm động lực, lấy công hữu làm hình thức sở hữu chi phối, lấy chuyên chính vô sản làm hình thức quản lý duy nhất”
Nhà văn Nguyễn Khải 60 tuổi Đảng, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu viết “Đi tìm cái tôi đã mất” có đoạn “quả thật dân tộc Việt nam đã thắng lớn trong phong trào giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do, công bằng và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao mà phải chịu một số phận nghiệt ngã đến thế”! Ông Nguyễn Văn Trấn làm báo thời Nguyễn An Ninh, đại biểu Đảng bộ Nam Bộ đi dự Đại hội 2 của Đảng, nguyên Vụ trưởng Vụ tuyên truyền đã viết quyển “Kính gửi mẹ và Quốc hội”, trong đó có yêu cầu “xin Quốc hội cho tự do báo chí bằng chế độ thực dân Pháp”.
Xin trả lời câu hỏi: Vì sao ta phải trải qua bao nhiêu năm chiến tranh lại đem so sánh sự phát triển của Băng Cốc với Sài Gòn? Ông Lý Quang Diệu so sánh Sài Gòn và Băng Cốc ở thời điểm 30-4-1975. Xin nhớ cho, ở thời điểm đó, người miền Bắc vào Sài Gòn đã cho rằng Sài Gòn phát triển hơn rất xa Đông Âu, Liên Xô. Ông Võ Văn Kiệt đã phân tích nguyên nhân dẫn tới sa sút, khủng hoảng, tụt hậu ở thời điểm này như sau: Đại hội 4 của Đảng xu hướng tả khuynh, chủ quan duy ý chí thắng thế, đã đưa ra những quyết định về đường lối và chủ trương sai. Cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, cải tạo sĩ quan của chính quyền cũ kéo dài quá lâu, đưa dân đi kinh tế mới bằng biện pháp cưỡng bức. Đó là những nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng và ách tắc gây những thiệt hại rất lớn cho kinh tế kể từ năm 1977 trở đi. Thật đau đớn khi nghĩ lại, sự nghiệp giải phóng được hoàn thành trọn vẹn, thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác ở miền Nam vẫn còn nguyên vẹn kết cấu hạ tầng và tiềm năng về kinh tế hàng hóa, thế nhưng hằng vạn người phải bỏ nước ra đi. Hiện tượng di tản, thuyền nhân cần được nhìn nhận như những vết thương trên cơ thể đất nước, để lại những di chứng trong tâm hồn của không ít đồng bào ta”.
Nhân đây tôi muốn nói về khoảng cách giữa nền kinh tế nước ta với các nước xung quanh vẫn đang ngày một tăng sau 20 năm đổi mới. Chúng ta xây dựng, phát triển bằng tiền vốn ODA, nhưng quản lý kém và tham nhũng, nên mỗi công trình bị thất thoát từ khoảng 20 đến 30 %. Ông Trần Đức Nguyên nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Chính phủ đã phân tích trên báo mạng Tuần Việt Nam như sau: Nền kinh tế nước ta tăng trưởng kém hiệu quả. Hệ Số ICOR của nước ta tệ nhất so với các nước xung quanh. ICOR là hệ số cho biết muốn có tăng trưởng 1 đồng thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Hệ Số ICOR của nước ta trong các năm 2001-2007 là 5,2. Trong khi đó, ICOR của Đài Loan là 2,7, của Hàn Quốc là 3, của Thái Lan là 4,1, của Trung Quốc là 4. Năm nay (2009) của Việt Nam tăng lên 8, do đó hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam rất yếu kém.
Về câu chất vấn: Ai giúp vũ khí cho ta đánh Pháp, đánh Mỹ mà nay nói theo luận điệu thù địch nhằm chia rẽ hai nước xã hội chủ nghĩa anh em? Tôi xin nhắc những câu danh ngôn về sự quan hệ giữa các nước: “không ai cho không ai một cái gì”, “không có đồng minh vĩnh viễn; cũng không có kẻ thù vĩnh viễn”. Trung Quốc từng là đồng minh với Liên Xô, chống Mỹ đã chuyển sang hòa với Mỹ để chống Liên Xô. Nhật Bản bị Mỹ đánh bại, nay là đồng minh số một của Mỹ ở châu Á. Ta cũng từ chỗ coi họ là kẻ thù nhưng nay đang nâng quan hệ đối tác chiến lược với họ lên tầm cao mới. Ta cũng coi Hàn quốc là đối tác chiến lược chứ không phải bắc Triều Tiên. Sau khi giải phóng lục địa, Trung Quốc coi phương Tây là kẻ thù ngăn trở họ giải phóng Đài Loan. Họ trao súng cho ta bắn kẻ thù của họ. Giúp ta là họ tự bảo vệ bằng máu Việt Nam. Họ đã gây áp lực buộc ta ký hiệp định Genève chia đôi đất nước. Năm 1974, họ tiếp tổng thống Nixon mặc cả trên lưng chúng ta, để đổi lấy việc chiếm đoạt Hoàng Sa. Tháng 4 năm 1975, đại sứ Pháp ở Sài Gòn Jean Marie Merillon đã gặp Dương Văn Minh gợi ý, muốn cứu chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì nơi duy nhất có thể cầu cứu là Bắc Kinh. Không được ông Dương Văn Minh cầu cứu, không ngăn chặn được Việt Nam thống nhất, lập tức họ dùng Khơ Me Đỏ tấn công chúng ta trên toàn biên giới Tây Nam. Ta đưa quân cứu dân tộc Khơ Me trước họa diệt chủng thì họ đưa 600.000 quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía bắc, giết cả đàn bà trẻ con, đập phá từ cái nồi cái chén.
Trước sự sụp đổ của Liên Xô, lẽ ra phải sáng suốt chọn con đường dân chủ hóa đất nước, dựa vào sức mạnh của nhân loại tiến bộ để bảo vệ đất nước, ông Nguyễn Văn Linh do quá khiếp nhược và ngu trung với ý thức hệ lỗi thời đã cho rằng “Trung quốc bành trướng, nhưng dù sao cũng là nước xã hội chủ nghĩa”, đã vô hiệu hóa Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đi cầu hòa trong thế yếu ở hội nghị Thành Đô. Bắc Kinh đã lừa mỵ bằng “16 chữ vàng”, rồi “4 tốt”, nhưng tìm mọi cách lấn chiếm đất liền và biển đảo. Tháng 2 năm nay họ kỷ niệm 30 năm “dạy cho Việt Nam một bài học”, in sách, báo ca ngợi quân đội của họ. Họ tổ chức kỷ niệm ngày hải quân Trung Quốc, chiếu phim đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa năm 1988, giết chết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Không biết họ làm cách nào mà còn được báo Hà Nội Mới viết bài ca ngợi Hứa Thế Hữu, viên Tư lệnh chỉ huy xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Trong khi đó chúng ta hoàn toàn không dám nhắc đến sự hi sinh của các chiến sĩ bảo vệ biên giới phía bắc, tội ác của chúng ở đảo Gạc Ma! Trong con bão số 9 vừa qua, giữa lúc ba tàu hải quân Việt Nam được huy động để cứu một tàu cá Trung Quốc gặp nạn thì 17 tàu cá Việt Nam vào tránh bão ở Hoàng Sa bị tàu hải quân Trung Quốc đánh đập ngư dân và cướp sạch hải sản và ngư cụ. Mới đây, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tươi cười hứa hẹn với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hãy cùng nhau khai thác Thác Bản Giốc (trước là của Việt Nam, nay một nửa thuộc Trung Quốc) và giải quyết hòa bình biển Đông mà họ tuyên bố cả cái “lưỡi bò” gồm 80% là của họ!
“Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa”? Tôi hết sức kinh ngạc trước lời phát biểu của một Ủy viên Chi Ủy. Đây là một thiếu sót vô cùng nguy hại của công tác giáo dục đảng viên của Đảng về vấn đề cốt tử của đất nước, là những kiến thức tối thiểu để biết thiết tha yêu từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Mấy tháng qua đồng bào ở trong và ở ngoài nước sục sôi tức giận vì thái độ vô trách nhiệm của những đảng viên có chức quyền đối với chủ quyền biển đảo. Ví dụ trên báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam do Đào Duy Quát làm Tổng biên tập cho đăng lại bài của báo chí Trung Quốc tường thuật về cuộc tập trận trên Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để bảo vệ chủ quyền của họ! Thông tấn xã Việt Nam đưa tin 12 ngư dân Việt Nam đã từ Trung Quốc trở về đến Quảng Ngãi. Đúng ra phải nói là 12 ngư dân của Việt Nam bị giam trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm trái phép.
Tôi xin trình bày tóm tắt về quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. Người Việt Nam phát hiện và chiếm giữ hai quần đảo này từ lâu đời. Nhiều tài liệu lịch sử để lại chứng minh việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên các đảo này là từ thời chúa Nguyễn, vào thế kỷ 17. Từ đó cho đến ngày bị Pháp đô hộ các triều đại kế tiếp trị vì nước ta đều thực sự nắm chủ quyền và quản lý hai quần đảo này mà không hề có nước nào tranh chấp. Tại hội nghị 51 nước ở San Francisco (Mỹ) tháng 9-1951, ông Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần văn Hữu tuyên bố “chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. Tất cả đại diện các quốc gia có mặt không người nào có ý kiến khác. Hội nghị này đã ghi vào biên bản Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Ngày 18-9-1951 Bộ trưởng Ngoại Giao Trung Cộng Chu Ân Lai có ra một thông cáo ngoại giao, nhưng không nhắc gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1974, sau khi mặc cả được với Mỹ, Trung Quốc dùng vũ lực tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiếm toàn bộ Hoàng Sa. Năm 1988 Trung Quốc đánh chiếm Đảo Gạc Ma giết 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam. Năm 2007 họ đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào hệ thống chính trị của họ. Họ công bố chủ quyền chiếm 80% Biển Đông. Báo chí nước ngoài bình luận, nếu Việt Nam chấp nhận đòi hỏi của Trung Quốc thì chỉ còn biển ở ven bờ để bơi tắm, muốn ra khơi phải xin phép họ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 30 Aug 2018

Tóm lại Hoàng Sa, Trường Sa đã được các chúa Nguyễn lập bản đồ, đưa vào hệ thống hành chánh quốc gia. Các vua Nguyễn luôn cử quân tuần tiểu, lập đồn trại bảo vệ. Hoàng Sa, Trường Sa đã thấm máu cha ông chúng ta. Đừng buông những lời xúc phạm vong linh của tổ tiên, xúc phạm lòng yêu nước của đồng bào và làm nhục Đảng cộng sản.
Ông Thường bí thư chi bộ chất vấn: “Sai lầm trong cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp thì Đảng ta đã nhận rồi. Đảng đã xác định nội dung xã hội chủ nghĩa là 'dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'. Tại sao đồng chí Công không tán thành chủ nghĩa xã hội”?
Tôi trả lời: Ngày 20 tháng 10-1956 Trung Ương Đảng ra lệnh chấm dứt cải cách ruộng đất và mở chiến dịch sửa sai. Ngày 30-10-1956 Mặt trận Tổ Quốc họp để triển khai công tác này. Tại đây tiến sĩ Nguyễn mạnh Tường Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc, người từng được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm thành viên Đoàn Việt Nam thương lượng với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt năm 1946, đã đọc một bài tham luận với mục đích tìm nguyên nhân sai lầm để tránh không bao giờ phạm lại những sai lầm tương tự. Ông phân tích ba nguyên nhân cơ bản là: Quan điểm của chúng ta về địch và ta, thù và bạn rất mơ hồ. Chúng ta tiến hành một công việc quan trọng ảnh hưởng đến sinh mạng của hằng triệu người mà bất chấp luật pháp, chỉ lấy chính trị làm thống soái. Tiến hành công việc bởi những người không có chuyên môn và không coi trọng chuyên môn. Bản thuyết trình đầy thiện chí của ông chẳng những không được lắng nghe mà còn bị quy chụp là phản động, chống chế độ, chống Đảng. Ông bị loại ra khỏi Mặt trận Tổ Quốc, khỏi biên chế. Mãi đến sau Đổi mới ông mới không còn bị quản chế. Do không khắc phục được nguyên nhân gây ra sai lầm cho nên sau đó lại xảy ra vụ đàn áp Nhân văn - Giai phẩm. Mãi tới 50 năm sau Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định tặng Giải thưởng cấp Nhà nước cho 4 văn nghệ sĩ Nhân văn - Giai phẩm mà không chính thức thừa nhận sai lầm. Sai lầm về cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội, 20 năm sau đã lặp lại ở Sài Gòn một cách nghiêm trọng hơn. Chúng ta mới từ bỏ cách làm đó sau “đổi mới”, tức là từ bỏ những nguyên lý về kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
Đảng đã định nghĩa nội dung xã hội chủ nghĩa là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.” Vâng, đó là trong khi chờ đợi các nhà lý luận đưa ra một định nghĩa mới. Bởi vì nếu chỉ định nghĩa như vậy thì hằng trăm nước khác sẽ bảo mình nói theo họ nhưng làm thì kém hơn. Hai mươi năm qua chúng ta đã từ bỏ hầu hết những nguyên lý kinh tế của chủ nghĩa xã hội và làm theo các nguyên lý kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhờ đó mà kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều nước vào đầu tư. Nhưng về chính trị vẫn giữ nguyên cơ cấu của hệ thống xã hội chủ nghĩa theo mô hình Stalin. Do đó đã đẻ ra nhiều khuyết tật khi vận hành mà tôi đã kể trong bài góp ý với Đảng. Ở đây tôi muốn kể thêm những điều vừa được đọc trong bài viết của ông Nguyễn Văn An nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội: “Ai là người có tư tưởng 'đổi mới, có tư tưởng hội nhập theo đường lối của Đảng thì người đó là 'hồng'. Như vậy 'hồng' không nhất thiết phải là đảng viên”. Nhưng xin nhìn lại hệ thống chính trị các cấp có người nào giữ trọng trách mà là người ngoài Đảng không? Kể cả ở cấp khu phố, xóm. Vì sao như thế? Nhân đang kỳ họp Quốc hội, tôi xin đọc mấy bài trên Việt Nam net (cơ quan của Bộ Thông tin - Truyền thông). Một bài có tựa đề “Muốn hết nghị gật, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo”. Nội dung bài này có những ý kiến như sau:
Ông Dương Trung quốc, đại biểu Đồng Nai nói: “Quốc hội có tới 92 % là đảng viên mà đã là đảng viên thì khi quyết định các vấn đề phải tuân thủ theo định hướng của tổ chức Đảng”.
Ông Đinh Xuân Thảo Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp nói: “Ở các nước thông qua gói kích cầu phải mấy vòng mới có được quyết định. Ta thì không! Quy định chuyển mục đích sử dụng rừng 1000 ha thì phải xin ý kiến Quốc hội, nhưng thời gian qua chuyển đổi 100.000 ha cũng chẳng cần thông qua Quốc hội”.
Ông Bùi Ngọc Sơn, giảng viên khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội nói: “Quốc hội sẽ hành động hiệu quả hơn, nếu được ấn định những quyền lực thực chất”.
Những dẫn chứng kể trên cho thấy, cấp bách phải đổi mới chính trị thì mới có thể giải quyết những ách tắc của đất nước. Đảng không phải chỉ đổi mới phương thức lãnh đạo mà phải đổi mới tư tưởng sao cho hợp với trào lưu tự do, dân chủ của nhân loại.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã khác xa chủ nghĩa tư bản ngày Marx, Engels quan sát. Nhận định chủ nghĩa tư bản đang giãy chết của Lê nin hoàn toàn sai lầm. Ngày nay, ở các nước phát triển, “lao động áo xanh” mà Marx - Engels quan sát chỉ còn khoảng 5%. Thế giới đã bước sang nền kinh tế tri thức, người lao động là những trí thức mặc áo trắng vào nơi làm việc. Các Đảng Xã hội - Dân chủ phải luôn điều chỉnh cương lĩnh chính trị để được là đại diện cho cả dân tộc, tuy vậy không phải lúc nào cũng được thắng cử.
Các Đảng cộng sản theo Quốc tế 3 thì ngay ở nước Nga cũng ngày càng bị mất phiếu, thất cử trước các Đảng theo chủ nghĩa dân tộc. Nước ta thuộc nhóm nước nghèo đang công nghiệp hóa, giai cấp công nhân phần lớn là lao động chân tay. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin không có tương lai. Đảng cộng sản Việt Nam cần phải đổi mới chính trị thực hiện tự do, dân chủ, nhân quyền theo xu thế của thời đại, từ bỏ ý thức hệ lỗi thời để trở thành Đảng của dân tộc.
Bí thư chi bộ nhiều lần muốn ngăn lại, nhưng tôi cứ phát biểu hết ý mình. Chi bộ có hơn 50 đảng viên. Năm người tỏ thái độ gay gắt đối tôi như một kẻ chống Đảng. Cô Liên sĩ quan công an đã nghỉ hưu cho rằng tôi là một người hiền hòa dễ mến, nhưng có lẽ do tuổi già, cho nên đã bắt đầu lẩm cẩm! Năm người cho rằng tôi là người nhận nhiều thông tin, muốn xây dựng Đảng. Số còn lại không tỏ rõ thái độ. Chi Ủy phân công chị Hà chi Ủy viên ghi biên bản các buổi họp kiểm điểm, nhưng chị ghi rất sơ sài. Tôi đã ghi chép đầy đủ và gửi cho nhà thơ Thanh Thảo. Từ biên bản tôi gửi, Thanh Thảo viết bài “Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa ư?” trên Bauxit Việt Nam và Blog Quê Choa của Bọ Lập ngày 30-10-2009.
Bí thư chi bộ truyền đạt chỉ thị của “cấp trên yêu cầu đồng chí Công tự đề xuất một hình thức kỷ luật vì đã vi phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm”. Tôi trả lời, tôi viết bài này với ý thức xây dựng Đảng, do đó tôi không thể tự nhận kỷ luật. Trong khi tôi đang bị chi bộ kiểm thảo, Tổng biên tập Vietnamnet Nguyễn Anh Tuấn từ Hà Nội bay vào, tặng rượu vang, hoan nghênh bài “Đổi mới Đảng” và yêu cầu tôi viết bài cho Vietnamnet. Tôi đã gửi cho Vietnamnet bài “Học và không học những gì từ Trung Quốc”, Bài này chủ yếu nhằm bác bỏ quan điểm “dù bành trướng Trung Quốc vẫn là nước xã hội chủ nghĩa anh em” của Nguyễn Văn Linh, chỉ rõ Trung Quốc đã vứt bỏ ý thức hệ Marx - Lê nin, đề cao chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bên trong thì đàn áp phong trào nhân dân đòi dân chủ (vụ Thiên An Môn), bên ngoài thì thực hiện bá quyền, bành trướng xâm lược. Ngày 25-2-2010 Vietnamnet đăng bài viết này. 11 giờ ngày 25-2-2010, nhà báo Huy Đức gọi điện hỏi nghe nói Vietnamnet đăng bài “Học và không học những gì từ Trung Quốc” nhưng tìm hoài chẳng thấy? Một giờ sau, Tổng biên tập Nguyễn Anh Tuấn cho biết, bài vừa đăng đã bị hai bộ, Bộ Ngoại Giao và Bộ Công An yêu cầu gở xuống ngay. Nguyễn Anh Tuấn gửi bài lên ông Trương Tấn Sang, Thường trực Ban bí thư Trung ương Đảng xin ý kiến và được trả lời “cắt bỏ khoảng 150 chữ thì đăng được”. 150 chữ bị cắt là lời khuyên không nên học cách đàn áp đẫm máu ở Thiên An Môn! Một bạn đọc bình luận: bài bị cắt 150 chữ phê phán Thiên An Môn giống như bị Trung quốc kiểm duyệt.
Tháng 9-2011 xảy ra nhiều vụ thảm sát ghê rợn ở cả hai miền. Báo chí “lề phải” đăng nhiều bài từ nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đến các giáo sư, tiến sĩ tâm lý phân tích nguyên nhân. Nhận thấy không ai nói đúng nguyên nhân cốt lõi của vấn đề nghiêm trọng này, tôi viết bài “Vì sao tội ác lên ngôi”? Đến nay, những nguyên nhân đẻ ra tội ác mà bài này chỉ ra vẫn không được khắc phục, do đó tình trạng bạo lực trong xã hội Việt Nam thật kinh hoàng. Mỗi ngày trên chương trình “60 giây” của HTV 9 hầu như đều có đưa tin một vài vụ giết người, đáng lo nhất là người thân, người trong gia đình giết nhau!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 11 guests