Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 26 Aug 2018

Từ Một Bài Báo Nhỏ.

Hôm đó, tôi đang dự họp ở Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thì có điện của anh Trần Đức Chính, trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ báo Lao động gọi (anh Trần Đức Chính sau này là Tổng biên tập báo Nhà báo và Công luận, là cây bút Lý Sinh Sự nổi tiếng hiện nay). Anh cho biết: “Có anh Đỗ Văn Phú, sĩ quan của A.25 tới tòa báo, yêu cầu cho xem bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc đã gửi đăng báo. Tôi định trả lời là tôi không có quyền cho anh ấy đọc, bởi vì Tổng biên tập chưa đọc. Nhưng nghĩ lại, chuyện này để Tổng biên tập quyết định mới đúng. Vậy ý anh thế nào”? Tôi hỏi, bài viết về Vấn đề gì vậy? Anh Chính đáp: “đổi mới ở một vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nói chung là một bài vui vẻ, không có gì gay cấn”. Tôi nói: “Theo mình thì người ta đã biết và đòi được xem, nếu mình không cho xem, họ sẽ nghi ngờ, rồi suy đoán lung tung, quan hệ hai bên căng thẳng vô ích! Cứ cho họ xem đi, Chính ạ! Chuyện phải quấy rồi sẽ có dịp bàn bạc lại với nhau! Coi như mình cho họ treo một món nợ, sẽ có dịp đòi”. Anh Trần Đức Chính có vẻ miễn cưỡng: “Tùy anh. Vậy thì tôi lấy bài cho họ xem”. Tuy đã khuyên anh Chính cho cán bộ A.25 xem bài, nhưng thực bụng tôi rất băn khoăn: Vì sao bên công an lại có cách hành xử thiếu tôn trọng đối với Tổng biên tập một tờ báo đến như vậy? Chẳng lẽ, các anh ấy cho rằng tôi không biết đánh giá một bài báo tốt hoặc có hại? Chẳng lẽ một người như nhà văn Nguyên Ngọc, đã bao lần vào sinh ra tử suốt hai cuộc kháng chiến vẫn có thể bị nghi ngờ cố ý gây mất an ninh chính trị?
Tôi ra nhận công tác ở báo Lao động tháng 12 năm 1988, lúc ấy đang ồn ào vụ anh Nguyên Ngọc bị buộc “thôi giữ chức Tổng biên tập báo Văn nghệ để nhận công tác khác” bởi một quyết định của Ban Thường vụ Hội Nhà văn. Dư luận gọi đó là “một quyết định cách chức trá hình”. Không chỉ giới cầm bút mà bạn đọc cả nước đều phản ứng bởi lòng yêu quý nhà văn có tài, có tâm và tư tưởng tiến bộ. Nhiều tờ báo phản ánh ý kiến không đồng tình với Ban thư ký Hội Nhà văn. Để chống đỡ búa rìu dư luận, hai ông Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu thay mặt Ban Thường vụ Hội Nhà văn gặp gỡ Tổng biên tập các báo chí, đài phát thanh, truyền hình để trình bày nội dung Nghị quyết Ban Chấp hành Hội Nhà văn với nhận định: “Vừa qua, tuần báo Văn Nghệ đã có một số đóng góp tích cực trong công tác đổi mới, song bên cạnh đó, đã có những khuyết điểm lệch lạc nghiêm trọng. Ban chấp hành giao cho Ban Thường vụ uốn nắn, chấn chỉnh tờ tuần báo Văn Nghệ về nội dung và tổ chức nhằm nâng cao chất lượng của tuần báo theo hướng đổi mới”. Hôm đó, nhiều anh chị lãnh đạo các báo, đài yêu cầu cho biết cụ thể “những khuyết điểm lệch lạc nghiêm trọng” là gì. Ông Nguyễn Đình Thi và ông Chính Hữu thay nhau nói rất dài, nhưng chỉ nêu rõ mỗi truyện ngắn “Phẩm tiết” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, cho đó là ảnh hưởng xu hướng “hạ bệ thần tượng” của các nước phương Tây. Hai ông cho biết có một nhà thơ nổi tiếng đã tỏ ý lo ngại: “Hôm nay nói xấu Quang Trung, rồi ngày mai sẽ nói xấu Bác Hồ”. Nhiều người vẫn tỏ ý băn khoăn, vì cho rằng báo Văn Nghệ vừa qua đã làm được nhiều việc lớn mà lâu nay chưa làm được: phát hiện Nguyễn Huy Thiệp một cây bút tài năng; đưa ra ánh sáng những cường hào mới trong “Cái đêm hôm ấy đêm gì”? (của Phùng Gia Lộc kể chuyện ở Thanh Hóa), vực dậy những hoàn cảnh thấp cổ, bé họng bị áp bức “Người đàn bà quỳ” (bút ký của Trần Khắc)…
“Những khuyết điểm, lệch lạc nghiêm trọng” của báo Văn Nghệ đã không bào chữa được việc “cách chức trá hình” đối với Tổng biên tập Nguyên Ngọc. Báo Tuổi Trẻ đăng thư ngỏ của 12 nhà văn thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ Tổng biên tập đổi mới Nguyên Ngọc. Phụ bản tạp chí Cánh Én ở miền Trung ra chuyên đề ca ngợi Nguyên Ngọc đổi mới báo Văn Nghệ và lo ngại cho số phận tờ báo sẽ xuống dốc khi bản thân Tổng biên tập bị trù dập. Nhà thơ Thanh Thảo ở Quảng Ngãi, nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt gửi thư ngỏ phản đối việc cách chức trá hình đối với Tổng biên tập Nguyên Ngọc.
Sau đó ít lâu, nhà thơ Bùi Minh Quốc đến tòa soạn báo Lao Động cho tôi biết, anh đã bị Tỉnh Ủy Lâm Đồng quyết định khai trừ Đảng và cách chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng, do viết thư ngỏ và ký kiến nghị phản đối cách xử lý đối với nhà văn Nguyên Ngọc. Tôi thay mặt báo Lao Động gửi văn thư kèm theo đơn thư của nhà thơ Bùi Minh Quốc về kỷ luật khai trừ Đảng đối với anh, gửi lên Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương. Văn thư có đoạn: “Không nên khai trừ Đảng đối với một nhà thơ chiến sĩ, cả hai vợ chồng đã gửi lại đứa con nhỏ, cùng xông ra chiến trường, có những tác phẩm mạnh hơn bom đạn và người vợ đã là liệt sĩ”.
Bên an ninh đòi xem bài báo của nhà văn Nguyên Ngọc trước khi tôi đọc, phải chăng vì tôi đã có biểu hiện lệch lạc ký một văn thư như thế?
Việc “chấn chỉnh tờ báo Văn nghệ về nội dung và tổ chức” gây cơn sốt ngầm trong giới cầm bút Việt Nam một thời gian dài. Tuy nhiên, đối với nguyên Tổng biên tập báo Văn Nghệ mọi việc đã qua, anh thanh thản sắp xếp cho mình và bạn bè những cuộc thâm nhập thực tế lý thú. Riêng tôi, cũng được anh mời cùng tháp tùng về làng Thổ Tang, một làng làm kinh tế thị trường ngay giữa thời bao cấp. Làng này là quê hương của hai lãnh tụ Quốc Dân Đảng Nguyễn Thái Học, Vũ Hồng Khanh, là nơi Cô Giang tự bắn vào đầu mình để được chết theo người yêu cùng lý tưởng. Làng này dân đông đất ít, không có nhiều sản vật, nhưng cả làng đi mua sản vật mọi vùng đem về chế biến thành nhiều loại sản phẩm có phẩm chất cao, rồi bán ra khắp nước. Bà con ở đây kể: Sau khi Huế giải phóng, Thổ Tang đoán chắc, sắp tới đồng bào miền Nam sẽ có yêu cầu rất lớn phải được cung cấp lập tức là cờ sao vàng nửa đỏ, nửa xanh và ảnh Bác Hồ. Cả Thổ Tang trở thành đại công xưởng kiêm đoàn vận chuyển phân phối cờ và ảnh đáp ứng yêu cầu đột xuất của đồng bào miền Nam mà các cơ quan xuất bản và phát hành của Nhà nước chưa kịp nghĩ ra. Từ đầu tháng 4 năm 1975, quân giải phóng tiến tới đâu, đại diện Thổ Tang mang cờ, ảnh Bác Hồ tới kịp ngay sau đó. Mười năm sau đổi mới, làng Thổ Tang đã trở thành một thị trấn to đẹp. Nhà văn Nguyên Ngọc chính là người đầu tiên phát hiện điển hình kinh tế thị trường Thổ Tang. Cá nhân tôi cũng được mở mang cách nhìn cuộc sống từ những chuyến đi do anh tổ chức.
Biết đâu sự hứng thú thái quá của tôi trong cuộc tháp tùng nhà văn đã bị xem là không đủ bản lĩnh chính trị để đọc bài viết của anh? Theo gương anh trong chuyện này, tôi cũng sẽ không chấp nhận sự xúc phạm! Nhân ngày Quốc khánh, Tổng biên tập báo Lao động gửi thư mời Cục trưởng và Cục phó A.25 là Lê Kim Phùng và Khổng Minh Dụ đến dùng bữa cơm thân mật. Hôm đó, thay mặt Ban biên tập báo Lao Động tiếp khách có tôi và hai phó Tổng biên tập là anh Huy Đan và anh Phạm Văn Nhàn. Giữa tiệc vui, tôi nói: “Có chuyện này, tuy tế nhị, nhưng là anh em, đồng chí với nhau, tôi muốn được hỏi thẳng hai anh”. Cả Cục trưởng và Cục phó đều tươi cười chờ đợi. Thấy tôi ngần ngừ, Cục trưởng Lê Kim Phùng khuyến khích: “Anh em mình hiểu nhau quá có gì mà anh Công ngần ngại, cứ nói thẳng với nhau đi mà”! Cục phó Khổng Minh Dụ nói thêm “Tôi đã hoạt động khá lâu ở Bến Tre quê anh, các mẹ ở Bến Tre nhận tôi là con. Tôi rất thích tính dân Nam Bộ mình, cứ thẳng băng. Anh coi tôi như anh em đồng hương đi nha”. Tôi nói: “Hỏi chuyện này tôi cũng rất ngại. Dù vậy, cứ xin hỏi thiệt tình như anh em trong nhà! Có phải các anh đã gài đặc tình ở cơ quan chúng tôi”? Cả hai người sửng sốt nhìn tôi, rồi cùng hỏi: “Sao anh Công lại hỏi như vậy? Vì sao chúng tôi lại phải gài đặc tình vào cơ quan báo Lao Động”? Tôi nói: “Tôi biết hỏi như vậy thật là là… kỳ cục lắm, đường đột lắm, cũng có thể coi là mất lịch sự nữa. Chuyện thế này, vừa qua, nhà văn Nguyên Ngọc có gửi tới một bài báo về đổi mới ở một địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tôi chưa biết, chưa đọc bài này, nhưng các anh đã biết, và cử anh Đỗ Văn Phú đến xin đọc trước. Tôi không giải thích được, nên cứ băn khoăn, đành hỏi thẳng hai anh. Tôi không lo chuyện có đặc tình của các anh đâu, vì chúng tôi đâu có làm gì mờ ám mà phải sợ và che giấu. Chúng tôi chỉ sợ các anh chọn nhầm một anh nào đó đang có thắc mắc cá nhân, thì sẽ thiếu công tâm. Nếu các anh dựa vào cấp Ủy và các đoàn thể của báo Lao động mà chọn người làm đặc tình thì tôi hoàn toàn yên tâm”!
Cả hai người lãnh đạo A.25 đều quả quyết với tôi là không hề có điều tôi lo nghĩ, chuyện anh Phú biết có bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc và xin được đọc, có lẽ do sự ngẫu nhiên nào đó. Ở đời, đâu có thiếu những trường hợp ngẫu nhiên! (khi định viết lại chuyện này, tôi gọi điện hỏi lại anh Phú, nay đang là Ủy viên Ban biên tập phụ trách kinh doanh của báo Lao động. Anh Phú cho biết, lãnh đạo Cục phân công anh đến xin báo Lao Động cho đọc bài của nhà văn Nguyên Ngọc, nhưng nay đã qua 20 năm, anh không còn nhớ rõ nội dung bài).
Sau khi tôi hỏi chuyện cắm “đặc tình”, không khí cuộc gặp gỡ có hơi trầm lắng so với lúc đầu. Hôm sau, rút kinh nghiệm chuyện này, hai anh phó Tổng biên tập (tuy là phó, nhưng đều có thâm niên công tác lâu hơn tôi) cho rằng cách đặt vấn đề của tôi như vậy là quá “căng”, e từ nay quan hệ hai bên sẽ xấu đi! Tôi cũng thấy như vậy, nhưng không nghĩ ra cách nào tốt hơn! Tuy nhiên sau vụ này, cả hai anh Lê Kim Phùng và Khổng Minh Dụ vẫn tiếp tục gần gũi, giúp đỡ tôi và hoạt động của báo Lao Động, không chỉ như trước mà còn tốt đẹp, thân tình hơn. Trong nhiều vụ việc rắc rối, nếu hai anh ấy có định kiến không hay, thì tôi sẽ gặp khó khăn rất lớn.
Cuối năm đó, có cuộc hội nghị tổng kết công tác báo chí toàn quốc, do ông Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ chính trị phụ trách khối Tuyên - Văn - Giáo của Đảng chủ trì (cùng với các ông Trần Trọng Tân, trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương và ông Trần Hoàn, Bộ trưởng Bộ Thông tin). Tôi xin lên diễn đàn hội nghị này, trình bày chuyện cán bộ A.25 yêu cầu đọc bài báo của nhà văn Nguyên Ngọc trước Tổng biên tập, để xin hội nghị xem xét. Tôi cho rằng cách làm như vậy không hợp lý và có hại, vì gây cho cán bộ, phóng viên thắc mắc, lo lắng, xì xầm: “Tại sao cơ quan an ninh đòi duyệt bài trước Tổng biên tập”? Tôi nhận định: “Nếu đây là một cơ chế quản lý báo chí chính thức thì sẽ gây nhiều tác dụng xấu: Một là trách nhiệm và quyền hạn của Tổng biên tập báo không rõ ràng; hai là gây bất ổn tư tưởng trong cán bộ phóng viên của tờ báo; ba là gây ra sự chồng chéo trách nhiệm quản lý, đưa tới mất đoàn kết giữa Ban biên tập của báo với cơ quan an ninh. Tôi đề nghị: “Nếu tổng biên tập không đủ độ tin cậy thì nên thay người khác. Còn nếu Đảng cho rằng cần có một cơ chế để cả hai bên, tổng biên tập báo và cơ quan an ninh cùng chịu trách nhiệm, thì nên thực hiện công khai. Mỗi tòa soạn báo đều có bố trí một gian phòng cho cán bộ A.25 làm việc song song với tổng biên tập, để cùng duyệt bài, cùng chịu trách nhiệm”.
Tôi nhìn xuống thấy các đồng nghiệp cả nước chăm chú lắng nghe với vẻ đồng cảm. Ông trung tướng Dương Thông ngồi ở hàng đầu cau mày đăm đăm. Khi tôi dứt lời, chủ tọa Hội nghị, ông Đào Duy Tùng không tỏ thái độ tán thành hay phản đối mà cho nghỉ giải lao.
Gặp tôi ở bàn nước, anh Vũ Tuất Việt, Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng lôi tay tôi ra ngoài, góp ý: “Ông ơi, hôm nay hình như ông ấm đầu phải không? Hết chuyện rồi sao ông đi gây sự với cơ quan an ninh”? Tôi nói: “Mình đâu có gây sự với cơ quan an ninh! Mình chỉ kiến nghị với Bộ Chính trị để đổi mới cách quản lý báo chí, làm thế nào cho sự cộng đồng trách nhiệm hợp lý hơn, không chồng chéo, không gây hiểu lầm thôi mà”! Anh Vũ Tuất Việt vẫn chưa chịu: “Để rồi coi! Ông sẽ thấy hậu quả việc này”! Sau giờ nghỉ giải lao vào, và cho tới kết thúc Hội nghị, ông Đào Duy Tùng vẫn không đề cập đến vấn đề này.
Sáng hôm sau, khi tôi vừa bước vào cửa cơ quan báo Lao Động thì anh Phạm Văn Nhàn phó Tổng biên tập chờ sẵn, kéo tôi đi gặp riêng, hỏi: “Hôm qua, anh phát biểu ở Hội nghị tổng kết báo chí, nêu lại chuyện A.25 yêu cầu cho duyệt bài của nhà văn Nguyên Ngọc trước phải không”? Tôi ngạc nhiên: “Vì sao anh biết mà hỏi vậy”? Anh Nhàn đáp: “Anh Đức Lạc nhà mình cho biết” (Anh Đức Lạc anh ruột anh Nhàn, là Ủy viên Thường vụ Thành Ủy Thành phố Hà Nội). Anh Nhàn kể tiếp: “Tối qua, anh Đức Lạc gọi mình, kể: Sau khi rời Hội nghị Tổng kết báo chí, ông trung tướng Dương Thông trên đường về đã ghé nhà anh Đức Lạc với vẻ mặt bực tức chưa nguôi. Ông ấy kể cho anh Đức Lạc nghe nội dung phát biểu của anh, rồi nhận xét 'chưa từng thấy tay nào ăn nói láo lếu quá sức như cái tay Tổng biên tập này’”! Nghĩ cũng lạ, người đáng giận tôi là hai anh Lê Kim Phùng và Khổng Minh Dụ thì lại không hề giận. Tại sao ông trung tướng này lại giận dữ tới mức như vậy? Tôi liền gửi cho ông một lá thư:
“Kính anh Dương Thông,
Được biết anh rất khó chịu đối với phát biểu của tôi ở Hội nghị Tống kết công tác báo chí toàn quốc? Anh đã hiểu lầm là tôi công kích ngành an ninh! Cuộc Hội nghị này do đại diện Bộ Chính trị là đồng chí Đào Duy Tùng chủ trì, nhằm rút kinh nghiệm để cải tiến cơ chế quản lý báo chí sao cho phù hợp với Đổi mới. Tôi nêu vấn đề nhằm mục đích góp phần cùng với Đảng tìm ra cách làm tốt hơn, có sự phối hợp giữa người làm báo và cơ quan an ninh sao cho tốt đẹp hơn, khắc phục được sự chồng chéo, dẫm chân nhau, gây ra hiểu lầm. Anh đừng nghĩ, phát biểu của tôi ở hội nghị là nhằm phê bình cách làm việc của các anh. Rất mong được trao đổi ý kiến thêm với anh để thông cảm nhau hơn”.

Đáng tiếc là tôi không nhận được hồi âm của trung tướng Dương Thông. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ rằng giữa ông và tôi không có chút hiềm khích cá nhân nào. Khoảng cách giữa ông và tôi chỉ là một câu hỏi: “Cỗ xe báo chí trên con đường tự do, cần bao nhiêu tay lái”? Câu hỏi này chắc sẽ làm cho các quốc gia có nền báo chí tự do vô cùng kinh ngạc!
Anh Nguyên Ngọc cũng vấp bước trên con đường tự do ấy, chuyện báo Văn Nghệ chỉ là giọt nước tràn ly. Sau ngày đất nước thống nhất, nhà văn đã hi sinh cả tuổi trẻ, ấp ủ “đề dẫn tự do sáng tạo những tác phẩm xứng tầm thời đại” nghĩ rằng, đã đến lúc nói to ước mơ cao cả đó với đồng nghiệp. Anh đã nhầm! Tiếng nói của quyền lực lập tức át giọng anh: “Thời đại là thế nào hè! Thực tế của ta bây chừ là rất đẹp, có thể nói là tuyệt diệu. Tại sao các đồng chí ngại ghi chép hả? Thậm chí sao chép cũng đẹp” (lời Ủy viên Bộ chính trị Tố Hữu tại cuộc họp các nhà văn đảng viên tháng 6 năm 1979, bác bỏ Đề dẫn sáng tác văn học của Nguyên Ngọc. Trích Nhớ lại của Đào Xuân Quý).
Biểu hiện mới nhất của khoảng cách về tự do là chuyện nhà văn Nguyên Ngọc cùng các bạn ông biểu tình chống Trung Quốc gây hấn đã bị Đài Truyền hình Hà Nội xếp vào loại phản động. Tôi lại có lời khuyên gửi tới các đồng nghiệp Hà Nội ngày 01.9.2011 là: “Nên xin lỗi nhà văn Nguyên Ngọc”! Nhưng cuối cùng tôi đành chia sẻ với anh nỗi thất vọng khi bến bờ tự do còn xa tít. Nay mừng anh tròn 80 xuân, với hai phần ba thế kỷ cầm bút, cầu mong sẽ đến một ngày những bài viết đau đáu vận nước của anh vang lên trong tự do.
Bài viết Từ một bài báo nhỏ trên năm 2012 đã được Nhà Xuất Bản Tri Thức ỉn trong tập sách “Nguyên Ngọc vẫn trên đường xa”. Sách in xong, an ninh văn hóa không cho phát hành vì bài “Từ một bài báo nhỏ” và bài “Những dịch phẩm của tự do” của T/s Nguyễn Thị Từ Huy. Ông Chu Hảo giám đốc nhà xuất bản đề nghị: Tổ chức cuộc đối thoại giữa ba bên: nhà xuất bản, các tác giả và an ninh văn hóa. Sau một tuần cân nhắc, an ninh văn hóa không nhận đối thoại mà đồng ý cho phát hành quyển sách.”
Năm 2015 anh vào Sài Gòn mời một số anh em, Bùi Chát, Hoàng Hưng, Phạm Đình Trọng, Hoàng Dũng, Lưu Trọng Văn, Lê Phú Khải và tôi khởi xướng cuộc vận động thành lập Văn đoàn Việt Nam Độc lập Việt Nam. Văn đoàn đã tổ chức mạng Văn Việt được bạn đọc hâm mộ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 26 Aug 2018

Hầu Chuyện Trần Xuân Bách.

Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 - Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ”? Bác ấy mở cặp lấy danh thiếp đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”. Từ lâu tôi đã được ba người bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở Ban Dân vận Trung Ương và anh Đinh Gia Bảy Ủy viên Ban thư ký Tổng Liên đoàn Lao động VN từng làm việc dưới quyền của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều chuyện về anh Bách, “một người tài đức song toàn”. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung Ương lần thứ 7 (khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan trọng.
Xin nhắc lại một số kết luận của Nghị Quyết TƯ Trung Ương 7:
Về tình hình thế giới:
“Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thách chức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa”.
Tình hình trong nước:
… những khó khăn về kinh tế và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: Các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình”.
Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình trên, có: “Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái”.
Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc và chính sách: Xây dựng và phát huy nên dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị.

Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là nhân vật có “vấn đề”!
Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi điện thoại ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ tối, tôi đợi anh nhé”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn phó tổng biên tập đến thăm anh”? Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều anh em càng vui”!
Tôi không muốn một mình đến anh Bách vì đã có kinh nghiệm qua việc nhà văn Nguyên Ngọc gửi bài cho báo, tôi chưa đọc, nhưng cơ quan an ninh đã cử cán bộ đến yêu cầu được đọc trước! Tôi kể chuyện này với phó Tổng biên tập Phạm Văn Nhàn (hiện nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy). Anh Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh Hân rất vui vẻ nhận lời (anh Lưu Văn Hân lúc ấy là vụ trưởng Vụ báo chí, Bộ Văn hóa - Thông tin, anh Trần Hoàn là Bộ trưởng).
Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat của báo Lao Động do tài xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi báo với người bảo vệ là chúng tôi được anh Bách hẹn. Anh bảo vệ gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói “chúng tôi đến quá một người”! Anh Bách cười vui “cám ơn các anh, tôi rất vui”! Anh đưa chúng tôi lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách. Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký tên Bách Xuân, tôi hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo”? Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho một bạn đọc này thôi”. Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu, sao lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất trẻ”! Sau mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên cứu Nghị quyết Trung Ương 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.
Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng Ủy viên Bộ chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình. Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường, ban tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập, báo, chí, đài, nhà xuất bản ở Trung Ương (có lẽ các tổ viên ngày ấy chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong guồng máy hiện hành). Tổ trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Ninh, phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung Ương (đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là Trưởng ban TTVHTƯ, anh Hữu Thọ là Phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị”, anh Bùi Tín, phó Tổng biên tập báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn ở phương Tây hỏi vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế Việt Nam cũng đang có những yếu tố đa nguyên: Bên cạnh Đảng Cộng sản có Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… Mỗi giới có tờ báo nói tiếng nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ. Anh Bùi Tín nói hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mỵ dân của các chính trị gia tư sản? Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không”?
Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “Chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chính trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”.
Anh hỏi thêm về Bùi Tín, nhưng tôi chỉ gặp anh Bùi Tín hai lần mà cả hai lần đều cùng là khách được mời ăn cơm. Lần đầu tháng 5-1975, ở Sài Gòn anh Phước Sanh cán bộ báo Quân đội Nhân dân mời dự bữa cơm có sếp của anh là Phó Tổng biên tập Bùi Tín; lần thứ hai ở Hà Nội, nhà thơ Hải Như mời Bùi Tín, bác sĩ Vân B và tôi, chỉ ít lâu trước khi anh Bùi Tín đi họp báo Nhân Đạo và ở lại Pháp. Lúc ông Đào Duy Tùng chì chiết anh Bùi Tín, tôi ngồi ở hàng ghế ngay sau lưng anh.
Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: Bất cứ lúc nào, anh rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện với Bộ công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông Ủy viên Bộ chính trị mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang, Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài… Mãi sau này, tôi mới biết là mọi việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh! Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!
Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của Đảng Cộng sản VN mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 26 Aug 2018

HỎI: Tháng 6-1988, Nghị quyết Trung Ương 5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng “mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”. Đến tháng 3-1989, Nghị quyết Trung Ương 6 nhắc lại phải “mở rộng dân chủ”, “dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật”. Tháng 8-1989, Nghị quyết Trung Ương 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”.
Những kết luận nói trên, cho thấy “dân chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”, nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”?
ĐÁP: Dân chủ không hề có chỗ cho thứ tự do vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản Hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu Tuyên ngôn Độc lập nước ta, đã nhắc lại Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, nói đến các quyền tự do của con người mà “tạo hóa cho họ”. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn ban ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện thì thu hẹp.
Đại hội 6 kết luận “lấy dân làm gốc”. Dân chủ sẽ khơi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ độc đoán, quan liêu, khép kín mới là đất tốt cho những kẻ xấu lạm dụng quyền lực làm những điều phi pháp.

HỎI: Chế độ dân chủ như vừa miêu tả ở trên có toái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết Trung Ương 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?
ĐÁP: Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong Tuyên ngôn Cộng sản: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế; kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng; mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. (Lời tựa cho Tuyên ngôn của ĐCS bản tiếng Đức, 28-6-1883).
Từ một xã hội khép kín, một quốc gia đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp, không được ban hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, Đảng phải nằm trong chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội.

HỎI: Chúng ta có sợ đa nguyên chính trị sẽ làm suy yếu Đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng làm mất quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện Đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với Đảng Cộng sản?
ĐÁP: Đó chính là sự ngộ nhận của những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều. Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kỹ thuật, bùng nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, Đảng nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào? Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở thành Đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ chính trị trở đi.
Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ “đảng trị”, “toàn trị”. Nhà nước là công cụ của dân, chứ không phải là công cụ của Đảng, không phải cấp trên của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho Nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong Hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels cho rằng “hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.” Hai ông cho rằng, xã hội dân sự tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xã hội trực tiếp bắt nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị, xóa bỏ xã hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội. Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan trọng hơn là triệt tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó là chẳng những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh kinh tế thị trường.
Trong môi trường dân chủ, thượng tôn pháp luật, Đảng Cộng sản VN, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản VN có một quá trình lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành Đảng của dân tộc, không dùng quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc. Liệu có Đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân tộc mà giành được lòng dân đối với Đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong khi xã hội đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần xã hội, đa nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt Đảng trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!

HỎI: Có nên duy trì cách chỉ đạo báo chí của Ban Tư tưởng - Văn Hóa Trung Ương như hiện nay? Thực dân Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có hai lần thực hiện tự do báo chí, lần đầu sau Cách mạng Tháng Tám cho đến toàn quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30-4-1975 với báo tư nhân Tin Sáng cho đến tháng 6 năm 1981. Cả 2 lần ấy, báo chí tư nhân đều có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đổi mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí từ quyền “tự do của tập thể” sang quyền “tự do của mỗi người” như Marx, Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế hay văn học như chúng ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản yêu sách gửi Hội nghị Hòa bình Versailles?
ĐÁP: Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những quyền tự do có tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây. Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia dân chủ trên thế giới.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 26 Aug 2018

Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?”. Nội dung bài ấy tương tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngay sau đó.
Dịp Tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ luật ra khỏi Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung Ương Đảng, anh Trần Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây.
BÀI THƠ KHAI BÚT 1990
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.

Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình” cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.
Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990, anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh vẫn vui vẻ pha cà phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội nghị Trung Ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung Ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể: “Một đồng chí trong Bộ chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè hết sức lo âu, còn kẻ thù thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm sao có thể còn trong Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung Ương”? Anh Bách cho biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là quan điểm của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Chỉ có hai Ủy viên Bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” để đất nước phát triển và Đảng vững mạnh.
Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên, cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm”.
Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung Ương lần thứ 8, khóa 6, thông qua Nghị quyết có những nội dung quan trọng như sau:
… Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: Một số người hoài nghi chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước; một số cán hộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa Đảng, đòi dân chủ không giới hạn.
Hội nghị nhận định: Đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang coi nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu diễn hiến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt, quyết liệt và phức tạp.
Việc Bộ chính trị và Ban Bí thư tự phê bình và Trung Ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, Ban Bí thư được tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Trung Ương.
Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương khóa 6 đã quyết định cách chức Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung Ương, Ủy viên Ban chấp hành Trung Ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.”

Sau khi anh Bách bị cách chức, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội phải dân chủ hóa xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và thế giới dân chủ. Trong khi đó, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và nhiều người trong Bộ chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ chính trị đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp cao đi hội nghị Thành Đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin nghỉ việc.
Anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật ít lâu thì phó tổng biên tập Bùi Tín của báo Nhân Dân nhân được cử đi dự họp báo Nhân Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân thi hành kỷ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp
Sau 20 năm nhìn lại, thực tế diễn ra trên thế giới và trong nước đã cho thấy ý kiến Trần Xuân Bách là hoàn toàn chính xác.
Tình hình thế giới:
Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn niềm tin đối với các Đảng Cộng sản và cánh tả. Ở Liên bang Nga, suốt 20 năm qua, thời hậu Liên Xô, Đảng cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ giành được tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng nhân dân Campuchia khi chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị “lép vế”, nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng phong trên chính trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ 4 đang cuồn cuộn, nước Miến Điện gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân phiệt sang dân chủ.
Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí, trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày càng bị họ dồn ép: Thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta; xua hằng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy máu người Việt Nam làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa”!
Kỷ niệm 10 năm Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Chính phủ Việt Nam tuyên bố: “Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nổ lực đưa quan hệ hai nước Việt - Mỹ lên tầm cao mới.” Ngày 2-8-2012 Thượng viện Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề Biển Đông, ủng hộ Tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN - Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP).
Tình hình trong nước:
Nghị quyết Trung Ương 4 (khóa 11) nhận định “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc đã nãy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo, có đến 30% số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ chức hơn 5.000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều cuộc huy động từ 5.000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp, vì không được sự chi đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản biện bằng Nghị định 97 của Thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt Nam không khỏi hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện “thế chấp”!
Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành hiện thực, từng đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ hai thế giới. Nhưng cho đến nay, giấc mơ về quyền sỏ hữu ruộng cày và cuộc sống no đủ với hạt gạo do mình làm ra của người nông dân vẫn còn xa ngái! Bao giờ tư tưởng Trần Xuân Bách trở thành hiện thực trong cuộc sống dân tộc?
Ngày 20-5-2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở Trung Tự (Hà Nội), nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ tặng anh:
TRẦN XUÂN BÁCH
Chắc chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
- khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
Tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để 2 chữ “liên quan” đè lên cơm áo).
Trần Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh…

Câu “chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ 'liên quan' đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ trích riêng mình!
Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm tổng biên tập báo Lao Động 3 năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: Vì thời gian này tôi phải liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo. Vì tôi đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp. Nhưng mọi lý do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối cho mình một chữ “Hèn”! Anh Hải Như an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên “quyền cao chức trọng”, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thày cũ của họ đâu!
Cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống 'một thời vô luân' mà”!
Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có câu này:
“Ngày Anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì thuộc về anh đều được trả lại”
Tôi nghĩ, Trần Xuân Bách không hiểu rõ Cụ Hồ bằng Nguyễn Văn Linh. Ai thân cận với Cụ Hồ hơn Vũ Đình Quỳnh? Vậy mà Vũ Đình Quỳnh không đòi hỏi “đa nguyên” như Trần Xuân Bách, vậy mà vẫn bị đi tù! Nhà thơ Hải Như cũng đã không chính xác khi vội mừng “những gì thuộc về anh đều được trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao của Trần Xuân Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh được trao tặng, cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ nhưng tư tưởng cao cả mà Trần Xuân Bách hằng tâm nguyện và dám hiến mình, đâu đã được trả lại?!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Ông Nguyễn Hộ Ly Khai Đảng Cộng Sản.

Tháng 3 năm 1990, ông Nguyễn Hộ rời thành phố về sống ở vùng Phú Giáo, miền Đông Nam Bộ. Cuối tháng 8, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ văn Kiệt đến gặp, khuyên ông nên về Sài Gòn. Ông nói: “Phải chi anh bảo tôi sớm hai tháng thì tôi về. Bây giờ đã muộn rồi, vì Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, bí thư Thành Ủy Võ Trần Chí và các ông Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân chỉ đạo vu cáo tôi, cho rằng tôi là tên phản động, móc nối với CIA, lập Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến để chống Đảng. Họ đã đẩy tôi xuống bùn đen. Trong tình hình như vậy, tôi về thành phố làm gì. Tôi chỉ trở về thành phố khi đất nước Việt Nam có dân chủ tự do. Khoảng nửa tháng sau, ngày 7 tháng 9 trong khi ông đang bơi xuồng trên sông hái rau cho bữa cơm thì bị công an bắt, xích tay đưa về Sài Gòn giam giữ ở nhiều nơi, cuối cùng quản thúc ông tại nhà.
Tôi biết tiếng ông Nguyễn Hộ từ thời chống Pháp, khi ông là Bí thư Đảng đoàn Liên hiệp Công đoàn Nam Bộ. Năm 1960 tôi vào báo Lao Động thì ông là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Năm 1962 nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bắt đầu thực hiện bảo hiểm xã hội và giao cho Tổng Công đoàn quản lý. Ông Nguyễn Hộ làm Trưởng ban Bảo hiểm Xã hội, hai phó ban là Lương Bình Áng, Nguyễn văn Lạc (Lương Bình Áng sau tháng 5-1975 là giám đốc Sở Lao động Quảng Nam - Đà Nẵng. Nguyễn văn Lạc loạn luân, bị Lê Duẩn đòi truy tố, đã tự tử). Tôi được báo Lao Động phân công tuyên truyền hoạt động bảo hiểm xã hội nên thường tiếp xúc với ông. Tôi đã viết quyển sách “Những bài học qua một năm thực hiện Luật bảo hiểm xã hội”, nhờ ông đọc trước khi đưa cho Nhà xuất bản Lao Động. Tháng 7-1975, tôi được phân công vào Sài Gòn thành lập tờ báo Lao Động Mới, cơ quan ngôn luận của Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam. Sau đó, tôi là Tổng biên tập đầu tiên của báo Công Nhân Giải Phóng (nay là Người Lao Động) và kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của Liên hiệp Công đoàn Giải Phóng Miền Nam do ông làm Chủ tịch.
Ông là người bộc trực, gặp chuyện trái ý thì hay to tiếng. Có lần ông ủng hộ Hợp tác xã Phước Thanh (ở đường Phan Thanh Giản, nay là Điện Biên Phủ) khi cơ sở này xin phép luyện bôxít ra nhôm thỏi. Tôi góp ý với ông: Luyện nhôm không khó. Cái khó là nó tiêu hao lượng điện quá lớn, trong lúc chúng ta cần điện để làm những việc cấp thiết hơn. Thế là ông quát to, “anh đừng có mà thọc gậy bánh xe”. Nhưng sau khi nắm rõ mọi chuyện, ông tìm tôi nói lời xin lỗi.
Ông là người rất thoáng trong chuyện dùng người. Ông đưa linh mục Phan Khắc Từ làm Phó chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, vì việc này mà bị Hoàng Quốc Việt và nhiều vị bảo thủ trong Đảng phản đối dữ dội.
Chính Phan Khắc Từ đã kể với tôi: Trước năm 1975, ông nhận nhiệm vụ làm Chủ tịch ủy ban bảo vệ lao động, sau đó được ông Trương văn Khâm Ủy viên Thường vụ Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định đưa vào rừng Long Thành gặp ông Nguyễn Hộ lúc đó là Ủy viên Thường vụ Khu Ủy Sài Gòn - Gia Định phụ trách dân vận, công vận, hoa vận. Ông Từ kể: “Lúc đó, ông Nguyễn Hộ vô cùng hấp dẫn đối với tôi. Một người cao lớn, tiếng nói trầm ấm, ngồi giữa rừng sâu mà phân tích tình hình trong nước và thế giới đâu ra đó. Đặc biệt ông nói về thái độ của các tầng lớp, đảng phái, giai cấp ở Sài Gòn hết sức sáng tỏ. Tự nhiên tôi cảm nhận đây là bài giảng của một đức “tổng giám mục cách mạng”. Tôi muốn sống bên cạnh ông để được truyền thụ đức tin cách mạng. Khi nghe tôi ngõ ý như vậy, ông nói “cách mạng cần đức cha ở tại thành phố, bởi vì công việc đức cha đang làm không đảng viên nào có thể thay thế được. Đức cha cứ tiếp tục hoạt động thực tế, chính chúng tôi phải học hỏi đức cha”.
Một lần, ông triệu tập họp Ban Thường vụ Liên hiệp Công đoàn vào buổi tối và tại nhà riêng của ông ở đường Trần Quốc Thảo. Hôm đó trời nóng, nhưng tôi đang bị cảm, nên mặc áo len. Ông hỏi, cậu bịnh à, rồi quay vào trong gọi to: “Chánh ơi! Ra đây, ra đây”! Cửa phòng mở, một anh cao lớn, có bộ râu ngoách hiếm thấy bước ra. Ông Nguyễn Hộ chỉ tôi, nói “Cậu giải cảm dùm thằng cha này coi”. Chánh bước lại sờ trán tôi, bảo vén áo lên và xoa lưng tôi mấy cái rồi nói “Xong! Sáng mai bác bình phục”. Sau khi Chánh đã vào phòng, ông nói: “Nó bị Ủy ban Nhân dân quận 6 cấm hành nghề, dọa bắt. Mình đưa nó về trốn ở đây, nuôi cơm và xem nó có tài thực hay nói dóc. Thấy ra nó có tài thực đấy. Mấy cái ông duy vật nhà mình là chúa đa nghi”! Sáng hôm sau, tôi phải đi nhà thương cấp cứu, nhưng không muốn cho ông biết. Một trường hợp khác là ông Bùi Quốc Châu, người sáng tạo ra môn “Diện chẩn” (xem mặt đoán bệnh như câu ca dao: “Xem mặt mà bắt hình dong. Con lợn có béo thì lòng mới ngon”). Bùi Quốc Châu đang bị nhiều ông thầy đông y có vai vế kích bác. Ông Nguyễn Hộ mời Bùi Quốc Châu tới thuyết trình cho mình nghe “học thuyết diện chẩn”. Nghe xong, ông nói “cậu cố gắng nghiên cứu để hoàn chỉnh Diện chẩn, mình sẽ làm mọi cách giúp cậu”. Với tư cách phó bí thư Thành Ủy, Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Thành phố, ông gửi văn thư yêu cầu Sở Nhà đất cấp ngôi nhà 17B Trần Quốc Thảo để nhà phát minh Diện chẩn Bùi Quốc Châu có nơi nghiên cứu và thực nghiệm. Năm 1988 tôi ra Hà Nội, phóng viên Liên Xô Kalatnikov hỏi Sài Gòn có gì mới, tôi kể chuyện Diện chẩn của Bùi Quốc Châu cho anh nghe. Kalatnikov báo về Liên Xô, ít lâu sau Bùi Quốc Châu được mời sang Maxcơva. Từ Maxcova truyền tin sang Cu Ba. Bùi Quốc Châu được Cu Ba mời sang và phong “tiến sĩ danh dự”.
Sau khi nghỉ hưu, ông Nguyễn Hộ xin thành lập Hội Những Người Kháng Chiến Cũ nhằm mục đích “phát huy truyền thống yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đoàn kết giúp nhau trong cuộc sống”. Trong đơn xin thành lập hội, ông cho rằng đây là thực hiện quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Nhưng lãnh đạo Thành Ủy không chấp nhận việc thành lập hội mà chỉ cho ông thành lập Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ. Ông chất vấn: Vì sao Hiến pháp ghi nhận quyền lập hội mà người dân không được cho phép? Không được trả lời, ông đành phải chấp nhận thành lập Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ và xây dựng nội dung hoạt động như sau:
- Hoạt động bằng các hình thức: Tổ chức hội thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, xuất bản tờ báo Truyền Thống Kháng Chiến, nhằm các mục tiêu cụ thể như chống tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau vì đặc quyền đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ Đảng và Nhà nước.
- Xây dựng tổ chức, phát triển thành viên, thực hiện đoàn kết, tương trợ, thăm hỏi, chăm sóc gia đình anh chị em có khó khăn, thương binh, liệt sĩ.
- Kiến nghị Bộ Chính trị phải kiểm điểm định kỳ về sự lãnh đạo của mình, ai có tài có đức thì tiếp tục phát huy, ai không đủ tài đức thì phải rút lui, không cho phép “sống lâu lên lão làng”.
- Đòi phải thực hiện bầu cử dân chủ, chấm dứt hình thức bầu cử độc diễn. Đòi Quốc hội cách chức những bộ trưởng, thứ trưởng kém năng lực, thiếu trách nhiệm, đưa tới nạn đói trên 10 triệu người năm 1987, và làm cho nhân dân cả nước sống cơ cực kéo dài.
Đảng cộng sản coi những đòi hỏi kể trên đe dọa quyền lãnh đạo của mình, đã làm mọi cách để ngăn chặn: Cấm hội thảo, mít tinh, cấm ra báo, tịch thu báo Truyền Thống Kháng Chiến tại nhà in. Do có quan hệ rộng, ông Nguyễn Hộ đưa số báo thứ 3 xuống Mỹ Tho, Cần Thơ in được 20.000 tờ. Hôm anh em đưa báo Truyền Thống Kháng chiến vừa in xong về Sài Gòn, gặp lúc tôi đến nhà thăm ông. Ông đưa cho tôi 20 tờ và dặn: “Cậu mang báo ra Hà Nội phân phát cho anh em cán bộ Tổng Công đoàn và nghe góp ý, rồi phản hồi lại, để mình rút kinh nghiệm làm cho tờ báo càng ngày càng tốt hơn”.
Ngay hôm sau, Sở Văn hóa thành phố ra lệnh tịch thu báo, cấm phát hành. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, bí thư Thành Ủy Võ Trần Chí chỉ đạo kế hoạch đàn áp Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ, ra lệnh cấm hoạt động, cấm ra báo. Trước tình hình đó, ngày 21-3-1990 ông Nguyễn Hộ rời thành phố, tuyên bố “ly khai Đảng cộng sản, để tiếp tục đấu tranh thực hiện tự do, dân chủ cho nhân dân”. Lập tức những thành viên còn lại của Câu lạc bộ bị bắt giam: Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu, Lê Đình Mạnh… Trong một lần bơi xuồng hái rau cho bữa cơm chiều, ông bị cảnh sát còng tay bắt đưa về Sài Gòn. Trong thời gian bị quản thúc tại nhà, ông Nguyễn Hộ tự thấy mình hoàn toàn tự do: “Trên đầu tôi không còn bị kẹp chặt bởi cái “kiềm sắt chủ nghĩa Mác - Lê nin”. Tôi nhìn thẳng vào sự thật, dám chỉ ra sự thật. Tôi tự phát hiện cho mình nhiều điều lý thú mà bạn đọc sẽ thấy trong bài viết này”. Ông đã chấp bút tác phẩm “Quan Điểm và Cuộc Sống”, rút ra những kết luận nhức nhối về tình trạng đất nước dưới chế độ toàn trị của Đảng cộng sản. Sau đây là những tiêu đề trong quyển sách của ông:
- Dân chủ tự do là thước đo chính xác lòng trung thành của Đảng cộng sản đối với nhân dân.
- Những hệ quả khi các quyền tự do dân chủ của nhân dân bị tước đoạt.
- Đảng cộng sản Việt Nam quy chụp trấn áp những ai có ý kiến khác họ.
- Đảng cộng sản Việt Nam chống đa nguyên, đa đảng.
- Đa nguyên: Biểu hiện muôn màu của mọi sự vật.
- Dân chủ tự do phải trả giá.
- Chuyên chế, độc tài: Thách thức nghiêm trọng của dân tộc Việt Nam.
- Ý thức hệ cộng sản dẫn đến các việc đàn áp tôn giáo.
Xin trích ra một vài đoạn:
“Tôi làm cách mạng trên 56 năm, gia đình tôi có hai liệt sĩ: Nguyễn Văn Đảo, anh ruột, đại tá Quân đội Nhân dân hy sinh ngày 09-1-1966 trong trận ném bom đầu tiên của quân xâm lược Mỹ vào Việt Nam. Trần Thị Thiệt, vợ tôi - cán bộ phụ nữ Sài Gòn, bị bắt và bị đánh chết tại Tổng nha Cảnh sát hồi Tết Mậu Thân, 1968. Nhưng phải thú nhận rằng chúng tôi đã chọn sai lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì suốt 60 năm trên con đường cách mạng cộng sản ấy, nhân dân Việt Nam đã chịu sự hy sinh quá lớn lao, nhưng cuối cùng chẳng được gì, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu, nhân dân không có ấm no hạnh phúc, không có dân chủ tự do. Đó là điều sỉ nhục.”
Đầu năm 2008, ông đã dành cho anh Nguyễn Tiến Trung -Tập hợp Thanh niên Dân chủ một cuộc phỏng vấn. Ông nói:
“Không dân chủ là phản bội! Trời đất ơi! Không dân chủ là phản bội”! Ông cho rằng không thể chấp nhận chỉ “đổi mới kinh tế” mà “không đổi mới thể chế chính trị”. Ông nói: “Nếu muốn nói cải cách cho đúng nghĩa của nó thì phải toàn diện. Hiện nay chủ yếu chỉ là tập trung giải quyết kinh tế thôi, còn chính trị đã có Đảng có Nhà nước lãnh đạo. Chưa chắc đúng! Bởi vì theo quy luật, thường thường thằng cha nào có quyền trong tay thì nó luôn luôn hướng về độc tài. Nhân dân là chủ chứ không phải anh là chủ. Dân tộc Việt Nam là chủ đất nước. Không phải dân tộc Việt Nam chỉ biết có ăn thôi. Kinh tế là chỉ biết có ăn thôi! Không lẽ dân tộc này chiến đấu xong rồi chỉ biết có ăn thôi, không biết nói, không biết suy nghĩ gì hết? Không phải vậy! Anh hiểu như vậy là không đúng! Anh coi thường dân tộc anh! Không cho phép anh suy nghĩ như vậy”.
Quyển “Quan điểm và Cuộc sống” khiến ông bị bắt lần thứ 2. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã tặng thưởng cho ông Giải tự do phát biểu Hellman - Hammett.
Hàng tháng, anh Đinh Khắc Cần phó chủ tịch Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh với danh nghĩa đại diện cơ quan đến thăm thủ trưởng cũ, giúp ông những khó khăn trong đời sống. Một dịp Tết, tôi đến mừng tuổi ông. Ông đưa tôi xem tấm thiệp của Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh chúc Tết ông: “Cậu xem này, họ vẫn cứ gọi mình là đồng chí”! Tôi cười nói: “Người ta muốn chiêu hồi anh đó mà”. Ông đáp: “Mình không chiêu hồi họ thì chớ, làm sao họ chiêu hồi mình được. Chính nghĩa thuộc về mình mà”!
Ông qua đời ngày 2-7-2006 thọ 93 tuổi trong sự bùi ngùi thương tiếc của những người Việt Nam đấu tranh cho tự do dân chủ. Ông Hà Sĩ Phu đã viết câu đối viếng ông:
“Quan điểm tựa Sáu Dân mấy trận sửa sai thành quyết tử
Cuộc sống như Năm Hộ, hai lần kháng chiến để trường sinh.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Tổng Chỉ Huy Đường Dây 500 KV Vũ Ngọc Hải Phải Vào Tù.

Báo Lao Động ra ngày 6 tháng 5 năm 1990, có bài “Ai chịu trách nhiệm về tình tình điện hiện nay?” của nhà báo Nguyễn Minh Đức. Bài báo cho rằng miền Nam thiếu điện là do lãnh đạo ngành điện thiếu trách nhiệm, câu cuối bài “chúng tôi chờ người có trách nhiệm cao nhất của ngành điện trả lời thẳng thắn và trung thực”. Ngày hôm sau, Ban Văn hóa Tư tưởng Trung Ương Đảng mời Chủ tịch, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động cùng với Tổng biên tập báo Lao Động lên văn phòng của Ban để đối thoại với Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải. Tôi đến sớm đứng trước khu nhà để đón Chủ tịch Nguyễn Văn Tư và Phó Chủ tịch Cù Thị Hậu vì hai người này chưa từng đến đây. Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải đến sớm. Thấy ông, tôi lên tiếng chào, nhưng ông ngoảnh mặt, đi thẳng. Chủ trì cuộc họp là Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng Trần Trọng Tân. Mở đầu ông Tân tỏ ý lấy làm đáng tiếc sự việc đã đưa tới bất hòa không đáng có giữa các đồng chí, mong rằng với thiện chí xây dựng trong buổi gặp gỡ này sẽ tháo gỡ được vướng mắc, hai bên thông cảm nhau. Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải đặt câu hỏi “tại sao một Trung Ủy (chữ ông dùng có ý nói ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung Ương Đảng), có thể bị bêu riếu trên báo quá dễ dàng như vậy? Anh Công đâu có xa lạ gì đối với tôi, mới hồi đầu năm tôi đã mời anh nâng ly mừng năm mới. Tòa báo của anh cũng đâu có quá xa cơ quan Bộ Năng lượng, thế mà tại sao anh không thèm hỏi tôi một câu”? Chủ tịch Nguyễn Văn Tư đề nghị tôi phát biểu. Tôi cho rằng luật báo chí không quy định những đòi hỏi của bộ trưởng, nhưng tôi cũng nhận là mình có thiếu sót về cách cư xử với anh Hải với tư cách là những người từng có quan hệ thân mật. Bây giờ sự việc đã ra công luận, tôi đề nghị Bộ Năng lượng, hoặc là có bài tiếp thụ phê bình, nói rõ sự chậm trễ của mình do có những khó khăn, hoặc là hoàn toàn bác bỏ bài báo của chúng tôi. Chúng tôi đăng nguyên văn bài của Bộ Năng lượng và sau đó chúng tôi xin phép sẽ có bài đáp lại. Chúng ta cứ đối đáp như thế cho tới khi tìm ra sự thật. Cả hội nghị im lặng mấy phút, sau đó ông Trần Trọng Tân hỏi ý kiến ông Hải và ông Hải trả lời tán thành cách xử lý đó. Cuộc họp kết thúc.
Một tuần sau, chánh văn phòng Bộ Năng lượng thừa lệnh Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải mang đến tặng báo Lao Động hai chai rượu ngoại và một lá thư cám ơn bài “phê bình xây dựng ngành năng lượng chúng tôi”. Sau đó ít lâu, tôi có dịp gặp lại Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải, ông phân trần: “Tôi không thể công khai trả lời trên báo rằng ai phải chịu trách nhiệm về tình trạng miền Nam thiếu điện như hiện nay. Bởi vì đó là cấp rất cao, ở trên Chính phủ, nói như vậy chắc anh đã biết. Do đó, ở thời điểm này, chúng tôi đành chịu tội oan vậy, hi vọng rồi thời gian sẽ minh oan”.
Ông Võ Văn Kiệt được bầu Thủ tướng ngày 8 tháng 8 năm 1991, ngay sau đó ông bàn với Tổng bí thư Đỗ Mười việc xây dựng đường dây 500KV tải điện từ Bắc vào Nam. Có người nhắc ông về chủ trương bán điện cho Trung Quốc của nguyên Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Ông Kiệt nói, “miền Nam đang thiếu điện tại sao không nghĩ cách đưa điện vào Nam? Tôi còn làm thủ tướng thì không bao giờ bán điện ra nước ngoài, trong khi có nơi đồng bào chưa có điện”. Ông Đỗ Mười tán thành ý kiến ông Kiệt, nhưng không đưa ra bàn trong Bộ chính trị vì biết sẽ có người phản đối. Sau cuộc mật đàm Thành Đô, ông Linh chủ trương bán điện cho Trung Quốc để tăng cường quan hệ hữu nghị hai nước xã hội chủ nghĩa anh em. Nhưng đến hết nhiệm kỳ, ông vẫn chưa thực hiện được việc bán điện cho Trung Quốc, vì chưa xây dựng được đường dây tải. Lê Đức Anh cái đuôi của Nguyễn Văn Linh, nhân vật thứ 2 trong Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, kẻ có mặc cảm từng là cấp dưới của ông Kiệt nên luôn ngấm ngầm chống lại. Ngày 25 tháng 2-1992 Chính phủ quyết định xây dựng đường dây 500KV Bắc Nam dài 1487 km có 3000 trụ điện. Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải được giao nhiệm vụ như một tổng công trình sư. Ngày 24 tháng 3-1992, ông Nguyễn Hà Phan đề nghị ông Kiệt dự buổi khai mạc kỳ họp cuối của Quốc hội khóa 8, nhưng ông Kiệt từ chối, để đi ngay lên công trình đường dây 500KV. Khởi công đường dây 500KV trước kỳ họp Quốc hội đã làm mất lòng các vị lãnh đạo Quốc hội. Bà Ngô Bá Thành được ông Nguyễn Văn Linh đưa làm Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội to mồm phán, không có ý kiến của Quốc hội, sau này trụ điện đổ thì ai chịu trách nhiệm. Tháng 9-1992, tại cuộc hội nghị cán bộ tổ chức toàn quốc tại Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Linh với tư cách “cố vấn Ban chấp hành Trung Ương Đảng” đã lên án ông Kiệt “làm đường dây 500KV là một chủ trương phiêu lưu, mạo hiểm, lãng phí tiền của Nhà nước, tiêu tiền của Nhà nước để gây thanh danh cho cá nhân”. Trong tình hình như vậy, xuất hiện lá thư của giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn từ Pháp gửi về cho rằng đường dây dài sẽ tạo ra chênh lệch Vi bước sóng không thể tải điện vào Nam được. Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải trả lời bằng “phương án bù Vi bước sóng”. Ông Kiệt khẳng định, “chúng ta nhất định thành công, nếu thất bại tôi xin chịu cách chức”.
Ông Hải không biết rằng mình đang ở trong tầm ngấm của những kẻ chống chủ trương xây dựng đường dây, nói cho đúng là của những kẻ quyết chống ông Kiệt. Dịp Tết năm 1992 ông Đoàn Trung Thành tổng giám đốc Công ty Vinapol, thường trực Hội hữu nghị Việt Nam - Ba Lan báo cáo với ông Hải chủ tịch hội này, rằng quỹ của hội đã cạn. Ông Hải vừa được các công ty xây lắp đường dây báo cáo là đến tháng 3 năm 1992 vẫn chưa nhập khẩu kịp số thép cần cho việc thi công đường dây 500K. Do đó, ông Hải gợi ý ông Thành cung ứng 4000 tấn thép trong tháng 3, để kịp đáp ứng cho việc thi công Đường dây 500KV và việc này sẽ giúp Vinapol thu được 3,1 tỉ đồng tiền Việt Nam bổ sung cho quỹ hội. Các báo ở Trung Ương rộ lên phê phán vụ này là “mua bán lòng vòng làm thất thoát 3,1 tỉ đồng của đường dây 500KV”. Ông Nguyễn Văn Linh và đệ tử ruột Lê Đức Anh coi đây là dịp tốt để hạ thủ ông Võ Văn Kiệt, họ cho đây là vụ rút ruột công trình và quyết liệt đòi phải nghiêm trị. Ông Kiệt cho rằng việc làm này là sai, nhưng không có động cơ tư lợi, chỉ nên phê bình rút kinh nghiệm. Dịp đó, tôi và anh phạm Thanh trưởng ban Công nghiệp báo Nhân Dân cùng một số đồng nghiệp bàn với nhau, liệu vụ này sẽ kết cục thế nào? Chúng tôi cho rằng đây không phải là vụ tham nhũng, không phải “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điều 22 của Bộ Luật Hình sự. Anh Phạm Thanh hạ giọng thì thầm, “luật gì cũng thua ý kiến của các cụ. Ông Kiệt muốn tha, ông Lê Đức Anh quyết chém đầu, chỉ còn chờ ông Đỗ Mười ngã về phía nào. Nếu ông Đỗ Mười ngã về ông Lê Đức Anh thì Vũ Ngọc Hải phải 'bóc lịch'“. Tòa án tối cao cũng chỉ cố gắng diễn sao cho thật đẹp “bản án bỏ túi”!
Dự đoán của chúng tôi đúng nhưng chưa đủ: Ông Đỗ Mười không chỉ đứng về phía ông Lê Đức Anh mà là phải thực hiện ý của “cố vấn Nguyễn Văn Linh”. Dù đã “cho ý kiến” với ông Mười, nhưng ông Linh còn trực tiếp ra Hà Nội gặp Lê Thanh Đạo, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, cho ý kiến phải đưa ông Hải vào “khung 2” tức là vào tù. Tòa án nhân dân tối cao diễn vượt yêu cầu của ông Linh, ông Mười, ông Anh: Đưa vụ án ra xử một phiên sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, tước quyền lợi của bị cáo không được qua phiên phúc thẩm. Ông Vũ Ngọc Hải nhận ra cái gốc của vấn đề quá muộn màng: Người ta cho ông vô tù “vì họ muốn 'chơi' đường dây 500KV”! Báo Lao Động đưa đầy đủ ý kiến bào chữa sắc bén của các luật sư và là tờ báo duy nhất đăng lời phát biểu cuối cùng của ông Vũ Ngọc Hải: Tôi đã nhận khuyết điểm trước chính phủ. Còn nếu kết tội dù phải theo pháp luật. Chính vì vậy tôi đã trình bày trước tòa các yếu tố cấu thành tội phạm theo Điều 221 của Bộ Luật hình sự, tôi đều không vi phạm. Lấy chứng cứ nào để buộc tội tôi đạo diễn ra vụ này? Trong mấy ngày qua, tôi đã được khích lệ ở sự sáng suốt công minh của Hội đồng xét xử khi đưa những lời 'cung' buộc tội tôi ra cho phân tích, cuối cùng những lời 'cung' vô căn cứ đã bị phủ định. Phần còn lại, tôi hết sức tin tưởng vào Hội đồng xét xử sẽ kết luận tôi vô tội”. Lòng tin tưởng của ông vào sự công minh của luật pháp đã bị giáng một đòn nặng: 3 năm tù không cho kháng án! Tết năm 1995 ông Kiệt gợi ý ông Mười ban lệnh đặc xá mấy ngàn phạm nhân. Biết tin này, ông Linh kêu lên “đây là con bài để tha thằng Vũ Ngọc Hải”!
Sau khi ra tù, ông Hải bay vào Sài Gòn nhờ nhà báo Minh Thu mời tôi và hai nhà báo Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức gặp nhau ở quán Tip của gia đình Trịnh Công Sơn cùng nâng ly mừng với nhau như những “chiến hữu”. Tôi đến muộn, lúc tôi vừa tới, ông Hải từ thềm nhà hàng chạy vội ra đón, ôm chầm lấy, nói như reo lên: “Anh Công, được gặp nhau, vui quá!”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Hai Cuộc Phỏng Vấn.

Năm 1992, tờ báo đã tích lũy được một số tiền khá lớn, chúng tôi chủ trương trang bị máy móc hiện đại cho Xí nghiệp in Lao Động ở Hà Nội. Sau khi vay thêm tiền ở Ngân hàng Đầu tư Phát triển, tôi mời ông tổng giám đốc bữa cơm. Tôi để máy ghi âm trên bàn, rồi vừa ăn vừa trò chuyện với ông tổng giám đốc về những khó khăn trong hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển, những đề án vay tiền có kèm theo thư tay của một “ông cốp”, tệ “phết phảy” (hưởng tỉ lệ phần trăm khi thực hiện dự án vay). Tôi mở máy ghi âm chép lại cuộc trò chuyện, chuyển cho ông tổng giám đốc xem lại trước khi đăng báo. Bài báo đã gây tác động mạnh trong dư luận. Nhà báo Lý Quý Chung cho rằng bài này có thể làm mẫu cho trường báo chí khi cho sinh viên học thể loại phỏng vấn.
Tết năm 1992 (Nhâm Thân), tôi gọi điện anh Hà Nghiệp trợ lý Tổng bí thư Đỗ Mười đề nghị anh bố trí giúp tôi gặp phỏng vấn Tổng bí thư để đăng báo. Anh Hà Nghiệp bảo tôi: “Anh ơi, Tổng bí thư chỉ trả lời trong cuộc họp báo có phóng viên trong ngoài nước sau Đại hội Đảng thôi. Anh muốn Tổng bí thư nói gì cho tờ báo của Công đoàn thì anh cứ đặt câu hỏi và anh cũng viết nội dung trả lời dùm luôn. Sáng thứ Hai, anh Mười nói chuyện với cán bộ thủ đô tại Hội trường Ủy ban Nhân dân thành phố. Anh đến sớm, khoảng 11 giờ 15, chịu khó chờ anh ấy kết thúc cuộc nói, để đưa bài cho ông ấy xem lại và tôi bố trí để chụp bức ảnh anh phỏng vấn Tổng bí thư”. Quá ngây thơ, tôi cứ tưởng bở, phen này ta sẽ đưa ý kiến Tổng bí thư giải phóng cho Công đoàn thực sự là một tổ chức thay mặt và bảo vệ quyền lợi của công nhân, không phải là thân phận của một lũ “ăn theo nói leo” nữa. Tôi đã đặt vào miệng ông Tổng bí thư những lời vàng ngọc về trách nhiệm của Công đoàn tham gia xây dựng kế hoạch sản xuất, kèm theo phải có kế hoạch bảo hộ lao động, đảm bảo tiền lương tương xứng với lao động bỏ ra, tổ chức bữa ăn giữa ca đủ dinh dưỡng và hợp vệ sinh; Công đoàn phải căn cứ tình hình thực tế để chủ động đề ra biện pháp giải quyết, không nên chờ Đảng ra Nghị quyết rồi mới dựa theo đó mà lập chương trình hành động (câu này đã “phạm húy” vô cùng nghiêm trọng).
Tôi đến sớm hơn giờ hẹn 15 phút. Tổng bí thư đang nói chuyện với cán bộ Hà Nội. Tôi ngồi với anh Hà Nghiệp đến hơn 12 giờ trưa mà ông ấy vẫn chưa dừng lời! Khi rời hội trường, ông có vẻ rất mệt mỏi, ngồi phịch xuống ghế ngã bật ra sau. Anh Hà Nghiệp bố trí cho tôi ngồi một cái ghế bành ngang với ông qua chiếc bàn nhỏ. Tôi cho ngồi như vậy giống như hai chính khách ngồi đàm luận, không giống nhà báo phỏng vấn, nên chạy tìm một cái ghế khác kiểu đặt chênh chếch phía ngoài ông ấy.
Hôm sau, văn phòng Tổng bí thư gửi lại tòa báo bài phỏng vấn. Tôi đọc, không còn một chữ nào của tôi cả! Tôi đọc mà phát ngượng vì phải đứng tên bài “phỏng vấn” này: Hỏi điều mà ai cũng đã biết. Trả lời y như trích từ Nghị quyết Đại hội Đảng mà suốt năm qua mọi người đã phải nghe đi, nghe lại đến phát chán. Anh em trong ban biên tập an ủi tôi: “Có ảnh Tổng bí thư trả lời tổng biên tập ở trang bìa tờ báo Xuân là sang trọng rồi. Ngày Tết người ta chỉ xem qua chớ có ai đọc đâu. Bài này người ta gọi là loại bài “cúng cụ” mà”!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Công Đoàn Là Tổ Chức Của Ai?

Tôi có 34 năm làm báo của tổ chức công đoàn. Tôi đã viết nhiều bài báo về công đoàn, có một số bài bị Tuyên huấn Đảng “bắt giò” cho là có “tư tưởng đa nguyên công đoàn”. Khi tôi nghỉ hưu, bà Hoàng Thị Khánh chủ tịch Liên đoàn Lao động TP Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động gợi ý: “Nếu anh chịu nhận làm tổng biên tập một tạp chí lý luận công đoàn thì tôi sẽ xin phép xuất bản tạp chí đó”. Tôi cười đáp: “Chị không sợ nếu tôi làm tổng biên tập thì tạp chí của chị mau bị đóng cửa?”. Sở dĩ bà tin cậy tôi là vì tôi thường nêu ra những ý kiến gây tranh cãi về tổ chức và hoạt động của công đoàn. Trong đó có câu chuyện đáng nhớ sau đây.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, tổ chức nào cũng chịu “sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản”, nhưng anh nào cũng muốn được Đảng coi mình quan trọng hơn. Đoàn Thanh niên cộng sản là “cánh tay phải của Đảng”, có nhiệm vụ giáo dục đào tạo đội quân hậu bị kế thừa cho Đảng. Công đoàn không chịu kém hơn, bởi là “trường học xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân”, giai cấp có vai trò lịch sử lãnh đạo cách mạng và là đội quân tiên phong tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng là quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng, văn hóa. Nhiều chủ tịch công đoàn ngành và địa phương đề nghị Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động làm một bản kiến nghị xin Bộ Chính trị của Đảng quy định cụ thể về vai trò, vị trí của cán bộ công đoàn trong hệ thống chính trị. Điều chủ yếu mà những người lãnh đạo công đoàn muốn là: Chủ tịch công đoàn phải đương nhiên được bầu vào Ban thường vụ Đảng Ủy. Bí thư Đảng đoàn Nguyễn Văn Tư chủ tọa cuộc họp để thông qua văn bản kiến nghị quan trọng này. Cuộc họp sôi nổi ngay từ đầu. Tôi lặng lẽ ngồi nghe và ghi chép. Khi không còn ai xin phát biểu ý kiến, ông Nguyễn Văn Tư nhìn tôi hỏi “sao không thấy anh Công có ý kiến gì cả?”. Tôi đáp: “Ý kiến của tôi chắc không thuận tai tập thể”. Ông Tư nói: “Anh không nói thì làm sao biết có thuận tai hay không? Xin mời anh phát biểu.” Tôi nói: “Nếu cho tôi được kiến nghị thì tôi kiến nghị cho chủ tịch công đoàn không vào Ban chấp hành Đảng bộ, thậm chí được ở ngoài Ban thường vụ của Đảng. Bởi vì sau khi được vào Ban thường vụ thì ta chỉ là một trong năm, bảy ông Ủy viên. Ta ở thế vô cùng thiểu số. Nếu ta cứ liên tục có ý kiến trái với số đông thì khóa tới người ta không bầu mình vào Ban chấp hành hoặc Ban Thường vụ Đảng Ủy nữa mà nếu đã đồng ý với quy định Chủ tịch Công đoàn phải là Ủy viên Thường vụ Đảng Ủy thì khi bị rớt, ắt sẽ không được bầu làm Chủ tịch Công đoàn. Bởi vậy, tốt nhất là mình xin được đứng ở ngoài, nhưng mỗi lần Ban Thường vụ, hoặc Ban chấp hành Đảng bộ họp thì họ phải mời Chủ tịch Công đoàn dự. Tại các cuộc họp đó, Chủ tịch Công đoàn nhân danh đại diện quyền lợi của tập thể công nhân phát biểu ý kiến.
Cuộc họp im lặng. Bởi đây là một ý kiến lạ tai, nhưng là của một nhà báo từng có nhiều bài viết về công đoàn được hoan nghênh. Trước đó ít lâu, ông phó tiến sĩ chính trị ở Liên Xô về làm hiệu trưởng Trường đại học Công đoàn viết bài “Công đoàn là một nghề cao quý phải được đào tạo bài bản” đăng trên tạp chí lý luận của Tổng Liên đoàn Lao động. Tôi đáp lại ông trên báo Lao Động: “Công đoàn không phải là một nghề. Công đoàn là một tổ chức do công nhân bầu ra để đại diện, bảo vệ quyền lợi của mình, nếu không làm tròn chức trách đó, khóa sau công nhân lao động sẽ không bầu nữa. Những vị cán bộ công đoàn kể cả ông chủ tịch, sau khi bị thất cử, phải trở lại với nghề cũ của mình”. Trong cuộc hội thảo “Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của công đoàn”, ông Thừa chủ tịch công đoàn ngành năng lượng đã nêu một vấn đề gây tranh cãi rất sôi nỗi. Ông nói, cái khó của công đoàn là giống như một người mà cùng một lúc phải ngồi trên hai cái ghế: Một là thực hiện chức trách “sợi dây của Đảng nối liền với quần chúng công nhân lao động”; hai là “một tổ chức đại diện, bảo vệ quyền lợi cho công nhân lao động”. Hai việc đó đâu phải lúc nào cũng phù hợp với nhau mà càng ngày càng nảy ra nhiều điều chỏi nhau chan chát, lúc đó biết phải chọn ngồi vào cái ghế nào? Chủ tọa (tức nhiên là người trong cấp Ủy Đảng) kết luận rằng: Sau khi thành lập Đảng cộng sản Bắc kỳ, ngày 28 tháng 7 năm 1929, Đảng đã thành lập tổ chức Công đoàn do Nguyễn Đức Cảnh làm chủ tịch, nhằm mục đích vận động công nhân đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Từ đó đến nay, tổ chức công đoàn luôn luôn xây dựng chương trình hành động cách mạng của mình để thực hiện Nghị quyết của Đảng. Như vậy đã rõ, công đoàn không phải cùng một lúc ngồi trên hai cái ghế cùng một cỡ và đặt ngang nhau như ông Thừa nói mà, có một cái ghế to hơn đặt lên phía trước. Tổ chức Công đoàn do ông Tôn Đức Thắng thành lập năm 1920 ở xưởng Ba Son không được công nhận là tổ chức đầu tiên trong lịch sử Công đoàn Việt Nam, bởi vì công đoàn ấy không được Đảng cộng sản lãnh đạo.
Bà Hoàng Thị Khánh nói, ý kiến của đồng chí Công nghe cũng có lý. Ông Trưởng ban Tổ chức lập tức có ý kiến bác bỏ: “Chúng ta phải căn cứ vào thực tế phong trào công nhân đang đòi hỏi những gì, nguyện vọng của cán bộ trong hệ thống công đoàn hiện nay thế nào để đáp ứng. Chủ tịch Công đoàn được bầu vào Ban Thường vụ Đảng Ủy để có tiếng nói, có vai vế trong hệ thống chính trị thì hoạt động mới đạt hiệu quả cao. Đó là đòi hỏi của phong trào và là nguyện vọng của cán bộ công đoàn chúng ta. Ý kiến của đồng chí Công chắc chắn sẽ bị 100% cán bộ công đoàn phản đối”. Nghe đến đây, tất cả mọi người dự họp nghiêng hẳn về ý kiến của ông Trưởng ban Tổ chức. Bí thư Đảng đoàn Nguyễn văn Tư kết luận theo ý kiến đó.
Sau cuộc họp, ông Trưởng ban Tổ chức rỉ tai tôi: “Tôi không nói trong cuộc họp, nhưng thấy cần nói riêng với anh Công, ý kiến của anh có tính đa nguyên đây! Chủ tịch Công đoàn đứng bên ngoài cấp Ủy là bắt đầu thoát ly sự lãnh đạo của Đảng rồi”!
Lúc ấy tôi rất khó chịu, nhưng không hình dung hậu quả từ chuyện này sẽ rất khủng khiếp cho công nhân. Từ năm 2009 đến năm 2013 có hơn 5000 cuộc đình công của công nhân bị coi là bất hợp pháp. Bởi vì theo Luật lao động thì đình công phải do Công đoàn tổ chức, lãnh đạo. Từ 25 đến 27 tháng 2 năm 2016, hơn 90.000 công nhân Công ty Pou Chen của Hàn Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh đình công. Trả lời phóng viên Tường An của Đài Á châu Tự do, chị Nga công nhân công ty này cho biết: “Công nhân chúng tôi tự động đình công không qua tổ chức công đoàn. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho tới nay chưa thực hiện vai trò bảo vệ quyền lợi công nhân như họ tuyên bố. Mặc dù hàng tháng, công nhân chúng tôi vẫn phải đóng tiền cho công đoàn hoạt động, nhưng về hiệu quả giúp đỡ công nhân thì hầu như không có gì”.
Hiện nay mức lương tối thiểu nhà nước quy định doanh nghiệp trả cho công nhân chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu. Do đó hơn 5000 cuộc đình công là để đòi tăng lương, vì lương tối thiểu chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu. Năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Tổng Liên đoàn Lao động phải “phấn đấu để hạ số vụ đình công xuống 50%”. Phía công đoàn đề nghị “để giảm 50% số vụ đình công thì phải nâng lương tối thiểu đảm bảo cho mức sống tối thiểu.” Cũng năm 2012, Đảng cộng sản Việt Nam đã có Nghị quyết 20 NQ-TW xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, phải “đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động”. Khốn nỗi, người sử dụng lao động giờ đây phần lớn là “tư bản đỏ” hoặc “tư bản thân hữu” họ gắn chặt với cán bộ các cấp của Đảng, không thể chấp nhận những chính sách làm lưng hầu bao của mình. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trả lời Tổng Liên đoàn Lao động “nếu điều chỉnh lương tối thiểu đảm bảo mức sống tối thiểu thì rất nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc ngành dệt may, da giày gia công sẽ phá sản”. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với lý luận kinh tế theo học thuyết Mác Lê nin mà từ lâu Đảng cộng sản dùng để lôi kéo công nhân theo mình vùng lên cướp chính quyền “giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân khiến họ có thể làm việc bình thường và nuôi sống những người trong gia đình họ, cùng những phí tổn cần thiết để công nhân học tập” (từ điển kinh tế, nhà Xuất bản Sự thật 1976, trang 516). Đảng cộng sản Việt Nam cố bám vào lợi thế lao động giá rẻ mà không nhận thức được nó không có tương lai cho đất nước. Có 59% doanh nhân Nhật Bản kêu rằng họ rất khó tìm được người lao động Việt Nam quản lý giỏi và lao động có kỹ năng.
Hiệp định TPP đang mở ra cơ hội cho công nhân lao động thoát khỏi thứ công đoàn công cụ của Đảng, giành quyền thành lập Công đoàn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Từ mấy tháng nay nội bộ công đoàn có nhiều phiên họp tìm hình thức mỵ dân để chống đỡ với quyền tự do công đoàn. Giữa lúc đó Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) xúc tiến việc bình chọn các quy định pháp luật tốt nhất và tồi nhất. Nhiều doanh nhân cho rằng điều luật quy định trích 2% quỹ tiền lương cho kinh phí công đoàn là tồi nhất (Luật Công Đoàn). Bởi vì khoản tiền trích 2% từ quỹ lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ người lao động là chi phí xã hội rất lớn, nhưng không mang lại hiệu quả xã hội rõ ràng. Nếu số tiền đó được chủ sử dụng lao động giữ lại thì có thể giúp tăng lương cho người lao động hoặc đầu tư cho tư liệu sản xuất giúp tăng năng suất lao động. Hơn nữa, việc yêu cầu doanh nghiệp đóng “công đoàn phí” sẽ làm giảm tính độc lập của công đoàn. Quỹ tiền lương của doanh nghiệp chiếm khoảng 20% cơ cấu giá thành sản phẩm, khi chi phí tăng thêm 2% thì giá thành sản phẩm tăng 0,4%.Về lý thuyết, công đoàn là tổ chức đối đầu với giới chủ, vậy việc buộc giới chủ đóng tiền cho một tổ chức đối đầu với mình là không hợp lý!
Tổng Liên đoàn Lao động phản ứng vô cùng gay gắt, kiến nghị lãnh đạo Đảng cộng sản ra lệnh cho Phòng Thương mại - Công nghiệp phải chấm dứt việc bình chọn này. Báo Lao Động đăng cả trang ý kiến phản đối việc bình chọn nói trên. Ông Nguyễn Văn Pha phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng: “Không thu kinh phí công đoàn thì thiệt thòi nhất là người lao động”. Nhưng nhiều người, trong đó có công nhân cho rằng: Mọi người có quyền bày tỏ nhận xét của mình về những quy định mà mình cho rằng không hợp lý. Tổng Liên đoàn Lao động thay vì phản ứng thì nên công khai báo cáo kết quả quản lý sử dụng tài chính công đoàn, vào mục đích gì, hiệu quả ra sao, để chứng tỏ quy định trên là tốt. Nhiều công nhân cho rằng “Công đoàn là của Đảng chứ không phải của công nhân. Đảng này là của những “tư bản đỏ”, “tư bản thân hữu”, “tư bản hoang dã”. Công nhân chúng ta phải đòi hỏi một công đoàn độc lập, do mình bầu ra để bảo vệ quyền lợi của mình!”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Hầu Ban Tuyên Huấn.

Làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa ngán nhất là phải hầu Ban tuyên huấn. Lâu nay khi bàn về tự do báo chí, người ta thường cho rằng vấn đề chủ yếu là được phép ra báo tư nhân. Không đúng! Sau tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản đã từng cho phép Tin Sáng và Đứng Dậy (Đối Diện của Chân Tín Nguyễn Ngọc Lan trước 1975) tái xuất bản. Nhưng cả hai tờ báo này hoàn toàn không có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Bởi vì hàng tuần họ phải đến nghe đại diện Ban Tuyên huấn của Đảng chỉ đạo: Việc nào được phép nói, và nói to hay nói nhỏ; việc nào tuyệt đối không được đụng tới, không được nói bóng nói gió. Đó là biện pháp siêu kiểm duyệt”. Vậy mà cuối cùng Đảng vẫn không yên tâm, đã cho họ “hoàn thành nhiệm vụ”. Do đó, tự do báo chí trước hết là không bị Đảng cầm quyền chỉ đạo. Suốt đời “làm báo cách mạng” tôi phải chịu sự chỉ đạo và nhiều lần phải đi “hầu ban tuyên huấn”. Xin kể vài chuyện.
Báo Xuân năm 1990, Hội Nhà báo tổ chức chấm giải báo đẹp có thưởng. Báo Lao Động được giải B, không có giải A. Ban tổ chức cho biết lẽ ra Lao Động được giải A, nhưng vì đăng quảng cáo ở trang bìa, dù là bìa phụ, làm mất tính trang nghiêm nên bị hạ xuống giải B. Tôi nói, nếu vì lý do đó thì tôi không nhận giải, vì không chấp nhận cái gọi là mất tính trang nghiêm ở đây. Sau chuyện này, phó ban Tuyên huấn Hữu Thọ đưa ra góp ý trong cuộc họp đầu năm, lấy báo Nhân Dân để so sánh, coi đăng quảng cáo như dấu hiệu chạy theo thương mại. Khi lên Trưởng ban Tuyên huấn, Hữu Thọ nhiều lần góp ý với tôi là nên đưa hai mục “Nói hay đừng” do Ba Thợ Tiện viết và “Tranh biếm liên hoàn” của Chóe ở trang nhất vào bên trong, với lý do là “phải giữ cho trang nhất một không khí trang nghiêm”. Tôi trả lời ông, bạn đọc cần nghiêm túc, chính xác, bổ ích chứ không cần trang nghiêm. Sau vụ tố cáo âm mưu diễn biến hòa bình, tôi bị cho về hưu, Hữu Thọ lại nhắc nhở Tổng biên tập Phạm Huy Hoàn điều này, hai mục trên được đưa vào trong cho tới nay.
Năm 1992 nhà báo Lưu Trọng Văn đặt câu hỏi với nhạc sĩ Trần Kiết Tường rằng “bài hát 'Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người' ông sáng tác trong hoàn cảnh nào?”. Nhạc sĩ Trần Kiết Tường trả lời: “Sở dĩ sáng tác được bài này là nhờ tôi ở ngoài Đảng.” Đọc câu này tổng thư ký tòa soạn Lý Quý Chung và phó tổng biên tập Hồng Đăng đều ngạc nhiên và thích thú, nhưng lại sợ bị quy “quan điểm, lập trường” nên chờ tôi đọc và yêu cầu, nếu tổng biên tập đồng ý thì xin cho một chữ ký dưới hai chữ “đã duyệt”.
Đọc câu trả lời của nhạc sĩ Trần Kiết Tường tôi nhớ ngay đến chuyện Ban giám khảo văn nghệ Nam Bộ thời chống Pháp do ông Hà Huy Giáp phó bí thư kiêm Trưởng ban tuyên huấn Trung Ương Cục miền Nam phê phán bài “Tiểu đoàn 307” của Nguyễn Hữu Trí đảng viên, đại đội phó, trưởng ban quân nhạc khu 8 là một bài hát lai căng cả nhạc và lời. Ý kiến phê bình vô lý đó đã khiến Nguyễn Hữu Trí rời bỏ quân ngũ về ở ẩn tại Cần Thơ quê nhà, còn Nguyễn Bính thì ra bờ sông ven Huyện Sử, mở quán bán sách báo. Ở vùng mỏ Quảng Ninh năm 1967, tại cuộc triển lãm tranh của các họa sĩ trong tỉnh, ông ủy viên Ban thường vụ Tỉnh Ủy đã to tiếng phê bình một bức tranh vẽ cây cổ thụ cành lá quấn quýt xum xuê: “Tác giả bức tranh này không quán triệt nhiệm vụ phát triển ngành than, nền kinh tế chủ yếu của tỉnh nhà. Nếu trồng toàn những cây có cành lá uốn éo cong queo thế này thì làm sao có gỗ ngay thẳng để chống lò? Tất cả các mỏ hầm lò chắc chắn phải ngừng khai thác?”. Ý kiến trên đã được tờ báo địa phương in chữ đậm và tác giả của nó được suy tôn là “vị Các - mác của tỉnh nhà!”. Nhà văn Sơn Nam, người đã từng được Ban giám khảo do Hà Huy Giáp lãnh đạo chấm giải nhất những tác phẩm “Bên rừng Cù lao Dung” và “Tây đầu đỏ”, nhưng sau 20 năm “sống trong lòng địch” đã bị “tự diễn biến” cho nên nhiều lần “nói lén” với tôi: “Ông Công này, bao giờ còn dưới sự lãnh đạo của Đảng các ông thì không thể có tác phẩm 'ra hồn' được đâu”. Do đó, tôi quyết định phải công bố ý kiến của Trần Kiết Tường.
Quả nhiên báo in bài này vừa phát hành đã bị Bộ Văn hóa Thông tin phê bình trong Bản thông báo hằng tuần, tiếp theo là Ban Tư tưởng - Văn hóa chất vấn trong cuộc họp với các Tổng biên tập do Trưởng ban Trần Trọng Tân chủ trì.
Trả lời câu hỏi tại sao lại cho đăng “ý kiến oái oăm này”, tôi đáp: Theo tôi được biết, bản nhạc này vừa ra đời đã bị Tố Hữu phê bình là Ủy mỵ không thể hiện đúng đắn tình cảm lành mạnh của nhân dân anh hùng ca ngợi lãnh tụ anh minh của mình. Trước nguy cơ bản nhạc sắp bị cấm, một số người đã đưa nó vào đêm nhạc giải trí của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cụ Hồ nghe bài hát ca tụng mình, đã rưng rưng xúc động. Một lúc sau, Cụ hỏi “chú nào là tác giả bài hát này?”. Câu hỏi ấy đã cứu bài hát khỏi bị bức tử và sau đó được xuất hiện trên các sân khấu ca nhạc nhiều hơn hẳn so với các bài ca ngợi Cụ Hồ trước kia. Tôi đã trả lời chất vấn của Ban văn hóa Tư tưởng rằng, đăng ý kiến trung thực của nhạc sĩ Trần Kiết Tường tác giả bài hát là để ngăn chặn những người lãnh đạo bảo thủ dùng quyền lực giết chết sự sáng tạo của nghệ sĩ đã từng xảy ra nhiều lần. Tôi kể từ bài “Tiểu đoàn 307” thời chống Pháp đến tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, tiểu thuyết “Mùa hoa giẻ” của Văn Linh, thơ “Trò chuyện với Thúy Kiều” của Lý Phương Liên… đã bị bức tử ở thời xã hội chủ nghĩa.
Ông Trần Trọng Tân im lặng hồi lâu rồi nói: “Tuy vậy những ý kiến này chỉ nên trao đổi trong nội bộ, chưa nên phổ biến trên truyền thông đại chúng gây những suy diễn không có lợi cho sự lãnh đạo của Đảng ta trên mặt trận văn hóa văn nghệ vốn rất phức tạp đã từng xẩy ra Nhân văn Giai phẩm”. Sau đó ông chuyển sang vấn đề khác.
Năm 1991 trong vòng một tháng báo Lao Động có 4 bài phê bình 4 vị Bộ trưởng. (Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song lem nhem giành nhà cửa; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sĩ Kiêm không nghiêm túc thực hiện sắc lệnh đổi mới ngân hàng; Bộ trưởng Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt phá rừng mà không trồng rừng bù lại; Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải chậm xây dựng nhà máy điện). Tôi được Ban Tư tưởng Văn hóa mời riêng để góp ý. Lúc này ông Trần Trọng Tân đã vào Sài Gòn làm Phó bí thư Thành Ủy. Ông Hữu Thọ lên Trưởng ban. Tôi nói, tất cả các bài báo đều rất chính xác. Nếu các Bộ trưởng không đồng ý thì xin cứ gửi bài phản biện, chúng tôi sẽ trả lời đúng quy định của pháp luật. Trưởng ban Hữu Thọ cười đáp: “Hôm nay Ban không mời Tổng Biên tập Tống Văn Công mà mời đảng viên Tống Văn Công, cho nên chúng ta không nói chuyện pháp luật mà chỉ nói về ý thức trách nhiệm của đảng viên đối với Chính phủ do Đảng mình lãnh đạo”. Tôi nói, dù chỉ xét về trách nhiệm đảng viên cũng vẫn phải căn cứ theo luật pháp chứ anh. Hữu Thọ cười, rồi thân tình nói bỗ bã theo kiểu bạn bè: “Tao hỏi mày, một Chính phủ mà chỉ trong một tháng bị mày phê phán te tua tới bốn vị Bộ trưởng thì còn đâu uy tín với trong, ngoài nước?” Tôi đáp, nếu Chính phủ chân thành tiếp thu phê bình và có cách sửa chữa tốt thì uy tín không hề giảm mà càng tăng cao, và quan trọng hơn là đất nước phát triển, nhân dân được lợi.
Trong số báo 96-97-98 năm 2012 báo Lao Động tôi có kể lại câu chuyện trên. Trong dịp gặp nhau ở Hà Nội, Hữu Thọ vui vẻ nói “tao có đọc bài mày chửi tao. Thù dai thế!”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Vu Cáo Âm Mưu Diễn Biến Hòa Bình.

Ở thập kỷ 80 hầu hết các báo ở Trung Ương trong đó có báo Lao Động đều được bù lỗ từ tiền của ngân sách. Ban Tài chính Tổng Liên đoàn Lao động giao khoán cho Ban biên tập báo Lao Động “định mức số tiền được phép lỗ”. Cuối năm nếu số tiền bị lỗ thấp hơn định mức thì được coi là “lãi” và được thưởng vì đã “có lãi”! Tờ báo được mua từ quỹ công đoàn, hoàn toàn không bán được ở các sạp báo ngoài thị trường.
Tôi đề nghị với Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Phạm Thế Duyệt 2 điều và được ông chấp nhận:
- Nếu báo Lao Động thoát khỏi bù lỗ thì được phép chi trả nhuận bút vượt quy định của Bộ Thông tin - Văn hóa và trả phụ cấp cho phóng viên không theo quy định của ban Tài chính Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
- Tổng biên tập có quyền sắp xếp lại nhân sự của cơ quan báo Lao Động: giảm biên chế, bãi chức vụ những người không đủ năng lực; sau khi có đủ khả năng tài chính tự trang trải chi thu thì có quyền tăng biên chế theo sự cần thiết để phát triển tờ báo
Khi tôi nhận làm tổng biên tập, tổ chức nhân sự của báo là một hệ thống thứ bậc “sống lâu lên lão làng”, hoặc “kinh qua trường Đảng”. Tất cả các trưởng ban, trưởng phòng đều là đảng viên “4 tốt”, đã học qua trường Đảng, nhưng không đủ năng lực để đảm đương chức vụ. Có những trường hợp kỳ quặc như: Anh V. là lái xe lâu năm được đề bạt làm Chánh văn phòng, anh Q. chữa morat lâu năm được đề bạt làm Tổng thư ký tòa soạn, cô B. đánh máy lâu năm được lên phóng viên đặc biệt (phóng viên có 6 bậc, trên bậc 6 là phóng viên đặc biệt ngang với bậc chuyên viên của công chức). Có ba phóng viên có năng lực hơn hẳn các trưởng ban, nhưng do chưa vào Đảng nên không được đề bạt là: Phạm Huy Hoàn, Trần Đức Chính, Nguyễn An Định. Đảng Ủy cơ quan báo Lao Động (đều là các trưởng ban, trưởng phòng) viện mọi lý do để không cho 3 người này vào Đảng vì sợ họ vượt qua mình: Anh Chính bị cho là tự cao, tự đại; anh Hoàn bị loại vì xuất thân từ gia đình tư sản; anh Định có bố theo đạo công giáo. Tôi quyết định đề bạt 3 anh này lên trưởng ban. Sau khi họ làm tốt chức trách của trưởng ban, Đảng Ủy không có lý do chính đáng để ngăn họ vào Đảng. Sau này Phạm Huy Hoàn kế nhiệm tôi. Sau khi nghỉ hưu, anh làm Tổng biên tập báo mạng Dân Trí cho đến nay. Anh Trần Đức Chính làm Phó Tổng biên tập báo Lao Động, sau đó là Tổng biên tập báo Nhà báo và Công luận, hiện nay anh vẫn đều đặn có bài trào lộng ở mục “Nói hay đừng” trên báo Lao Động với bút danh Lý Sinh Sự nổi tiếng. Nguyễn An Định là cây bút tài hoa, nhưng mất sớm. Trong số hơn 30 phóng viên đã phải loại ra 10 người không biết viết! Để anh em này yên tâm ra đi, chúng tôi nâng lương cho mỗi người lên hai bậc. Việc tinh giản bộ máy như thế này là chưa từng có. Đồng thời với việc tinh giản bộ máy, chúng tôi tuyển dụng những cây bút có nghề.
Lúc ấy Sài Gòn đã có ba tờ báo ngày và đều tỏ ra có sức sống ở thị trường hơn hẳn các tờ báo ở Trung Ương. Trong đó có tờ Tuổi Trẻ, trước năm 1981 còn là tờ báo yếu nhất (năm 1981, báo Sài Gòn Giải phóng 90.000 tờ/kỳ; Báo Phụ nữ Thành phố và Công nhân giải phóng 25.000tờ/kỳ; Tuổi Trẻ 10.000 tờ/kỳ). Sau khi báo Tin Sáng bị đình bản, các nhà báo Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Võ Văn Điểm về báo Tuổi Trẻ, biến tờ báo này trở thành tờ báo đi đầu đổi mới. Lẽ ra các nhà báo này phải được quý trọng, nhưng ngược lại Thành đoàn và ban biên tập Tuổi Trẻ thường tỏ ra không mặn đối với họ, những người xuất thân từ chế độ cũ thường bị Ban Tuyên huấn Đảng và cơ quan an ninh săm soi. Đó là thời cơ để chúng tôi “trải thảm” mời các bạn ấy về báo Lao Động. Anh Hữu Tính trưởng cơ quan miền Nam được giao nhiệm vụ tiếp xúc mời mọc các anh. Nhiều nhà báo giỏi muốn rời Tuổi Trẻ sang với chúng tôi: Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu, Huỳnh Dũng Nhân, Quang Đồng, Kim Phi, Phan Tùng. Tất cả các anh này đều yêu cầu tôi nhận thêm anh Hồng Đăng vừa rời nhiệm vụ trợ lý báo chí của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Anh em đề nghị như vậy có lẽ vì họ biết tôi có chỗ rất yếu về chính trị là không được lòng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Tôi bảo họ ở đây đang thừa cán bộ chính trị, chỉ cần người giỏi nghề như các anh. Anh Lý Quý Chung bảo: “Hồng Đăng không phải chỉ là cán bộ chính trị mà cũng rất giỏi nghề. Chúng tôi cần có anh ấy”. Anh Hoàng Thoại Châu thuyết phục tôi gần một tiếng đồng hồ để tôi tin rằng Hồng Đăng tương lai sẽ là một “ngôi sao lãnh đạo báo chí cách mạng”. Tôi miễn cưỡng nhận Hồng Đăng vì chìu ý anh em. Tôi không lường được anh này rất có ý thức lợi dụng “gót chân Achile” của tôi là bị Nguyễn Văn Linh ghét và các anh giỏi nghề đều có vấn đề về lý lịch: Lý Quý Chung là Bộ trưởng Chính phủ Dương văn Minh, Trần Trọng Thức là sĩ quan, biên tập viên Việt Tấn xã, nhà thơ Hoàng Hưng đã bị tù 3 năm, họa sĩ Chóe vừa ra tù sau 10 năm…
Bằng sự từng trải nghề nghiệp, Lý Quý Chung nhận xét theo ngôn ngữ bóng đá: “Báo Lao Động là một đội hình đẹp như mơ”! Lý Quý Chung thiết kế tờ báo Lao Động Chủ Nhật với sự góp ý của Trần Trọng Thức. Trong buổi họp trước khi in báo, ông Nguyễn Văn Dòng giám đốc Nhà in chân thành góp ý: “Tờ báo ăn khách hay không chủ yếu là do nội dung, chứ không phải hình thức Các anh chủ trương in 4 màu thì giá thành tờ báo rất cao, bán mắc, khó lòng được bạn đọc chấp nhận”. Trái lại, tất cả chúng tôi tin rằng với nội dung hấp dẫn, bạn đọc sẽ vui lòng bỏ thêm tiền để nó có hình thức đẹp, làm một bó hoa trao cho bạn đọc ngày chủ nhật.
Số báo thứ 8 ra ngày 11-3-1990 đưa tới bước ngoặt khi đăng bài “Xưởng nước hoa Thanh Hương tồn tại đến bao giờ?” nói về chuyện huy động vốn 19 tỉ đồng với lãi suất 14% trong khi sản xuất thu lãi chưa tới 2 triệu đồng/tháng của Nguyễn Văn Mười Hai. Loạt bài về nước hoa Thanh Hương đã đưa số lượng in của tờ báo tăng vọt. Lao Động Chủ Nhật thắng lớn đưa tới quyết định xuất bản ba kỳ báo/tuần, cũng rất thành công. Cả ba kỳ báo đều phát hành ra sạp trên toàn quốc với số lượng cao nhất trong các báo Trung Ương. Tôi từ chối ứng cử vào Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động, để đề cử người trẻ tuổi Hồng Đăng. Hồng Đăng đắc cử vào Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động với số phiếu rất cao. Cuối năm 1993, tôi nói với Hồng Đăng, mình rất yên tâm để nghỉ hưu vì đã có chú kế nhiệm.
Vẫn biết quyền lực làm tha hóa con người, nhưng ở trường hợp Hồng Đăng thì vừa “đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.” Sau Đại hội Công đoàn toàn quốc khoảng hai tháng, tôi vào Sài Gòn thì hôm sau, bốn anh Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu, Nguyễn Hữu Tính yêu cầu gặp riêng. Mỗi người kê một số biểu hiện không hay của Hồng Đăng. Nói chung là hách dịch, độc đoán, không minh bạch trong thu, chi. Cuối buổi gặp, anh Lý Quý Chung lại đề nghị, khi góp ý với Tám Đăng xin anh giữ kín chuyện bốn anh em chúng tôi gặp anh hôm nay. Trong “Hồi ký Không tên”, khi nhắc lại chuyện đổ vỡ của tập thể chủ chốt báo Lao Động, anh Lý Quý Chung viết “tôi cho rằng trong cương vị tổng biên tập, anh Tống Văn Công thiếu sự quyết đoán và không kịp thời chận đứng những lệch lạc trong nội bộ, khiến cho con đường phát triển độc đáo của tờ báo - một tờ báo mang tính đột phá về nghề nghiệp ở thời điểm đó - bị khựng lại giữa lúc đầy hưng phấn”. Cái lỗi “không kịp thời chận đứng” của tôi có một phần từ yêu cầu “giữ kín” của anh!
Cuối năm 1993 tôi cao hứng làm một bài thơ và nộp bài cho nhà thơ Hoàng Hưng Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ, trước khi ra Hà Nội. Trong khi làm báo Xuân, Lý Quý Chung vẫn hay gọi điện cho tôi tán chuyện. “Tán” với nhau một lúc, tôi chợt hỏi, bài thơ của mình có được Hoàng Hưng duyệt cho vào báo Xuân không? Lý Quý Chung đáp có, nhưng không phải vào báo Xuân mà là báo Tết. Ngưng mấy giây, anh hỏi thêm, anh thấy sao? Tôi nói, được vô báo Tết cũng khoái, nhưng vô báo Xuân thì khoái hơn. Chung nói, thế à? Không ngờ sau đó anh đưa bài thơ vô báo Xuân. Trong cuộc họp cuối năm, Hồng Đăng đã gay gắt phê bình Lý Quý Chung là “vô tổ chức, vô kỷ luật, tùy tiện đưa bài thơ đã được người chủ biên xếp vào báo Tết chuyển qua báo Xuân mà không xin ý kiến”. Lý Quý Chung trả lời, anh thấy không cần xin ý kiến là vì: 1/ bài đã được duyệt, tức là nội dung không có vấn đề; 2/ bài không hề kém những bài đã được chọn cho trang thơ báo Xuân. Đến đây thì Hồng Đăng nổi nóng, dùng những từ ngữ mà Lý Quý Chung gọi là “xài xể”. Sở dĩ Lý Quý Chung quá bức xúc là vì trước đó một tuần có một việc xảy ra khi Hồng Đăng đi vắng, anh Chung trực tiếp báo cáo ra Hà Nội cho tôi. Biết chuyện này, Hồng Đăng đã to tiếng phê bình anh Chung ngay giữa sân cơ quan, “từ nay ông đừng làm việc với tôi mà cứ trực tiếp với Hà Nội”!
Tết năm 1994, từ Hà Nội tôi vừa về tới Sài Gòn thì các anh Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Hoàng Thoại Châu, Nguyễn Hữu Tính yêu cầu gặp và đưa ra yêu cầu: Cả bốn người không thể cộng tác với Hồng Đăng, nếu tổng biên tập chọn Hồng Đăng thì ngay ngày mai cả bốn người xin thôi việc. Tôi gặp Hồng Đăng bàn cách hòa giải. Không ngờ vừa nghe nửa chừng, anh đứng lên nói to, “anh bảo cho bốn anh đó biết để họ yên tâm, ngay bây giờ, tôi thôi việc”! Nói xong, anh bước nhanh ra cửa. Tôi gọi giật lại, “Chú Tám, chú nên bình tĩnh cùng tôi hòa giải với anh em”. Hồng Đăng xua tay rồi đi nhanh không ngoái lại. Mồng 4 Tết, tôi phải ra Hà Nội để kịp dự cuộc họp do Ban Tư tưởng Văn hóa triệu tập. Hai hôm sau, khoảng 9 giờ tối, Hồng Đăng gọi điện thoại: “Anh ơi, tôi gọi để báo với anh một tin quá bất ngờ. Bên an ninh người ta phát hiện là ở cơ quan mình có một âm mưu chính trị diễn biến hòa bình nhằm vô hiệu hóa tôi, người mà họ cho là có vai trò 'gác cổng chính trị'! Theo cơ quan an ninh thì người chủ mưu vụ này là Lý Quý Chung”. Tôi không thể ngờ Hồng Đăng có thể phản đòn bằng cách vu khống chính trị bẩn thỉu như vậy. Dù rất tức giận, nhưng tôi cũng cố ôn tồn: “Chú Tám à, mấy anh em này vốn là những người rất quý chú. Chú cũng là người nhiều năm qua có nhận xét rất tốt về họ khi làm việc với cơ quan an ninh. Nay dù họ bất mãn, có phản ứng quá đáng, nhưng chú là người lãnh đạo, trước hết nên tự xét mình và nên rộng lượng đối với anh em, không nên đánh lại anh em bằng đòn chính trị! Tôi không thể đồng tình với chú trong chuyện này”. Hồng Đăng đáp: “Anh ơi, tại sao anh lại nói như vậy, tôi xin nhắc lại, đây là phát hiện của cơ quan an ninh. Tôi vừa mới biết đã vội báo ngay cho anh”. Tôi nói, chúng ta dừng câu chuyện ở đây để hai anh em mình cùng suy nghĩ, sau 30 phút tôi sẽ gọi lại chú. Sau này tôi mới biết, ngay hôm tuyên bố bỏ việc về nhà, Tám Đăng gọi hai anh cán bộ báo Quân Đội Nhân Dân ở bộ phận phía Nam đã nhiều năm làm công việc chữa morat cho tờ Lao Động Chủ Nhật, bàn cách tố giác “âm mưu chính trị” tới Cục 2 (từ năm 1995 là Tổng cục 2) và ông Lê Khả Phiêu, Thường trực Ban Bí thư Trung Ương Đảng và ông Nguyễn Văn Linh cố vấn Ban chấp hành Trung Ương Đảng. Từ đó đưa tới cuộc họp của Bộ Chính trị do Tổng bí thư Đỗ Mười chủ trì, đưa ra kết luận 4 điểm: “1 - Đội ngũ báo Lao Động do Tống Văn Công tập hợp không đảm bảo an ninh chính trị. 2 - Từ ngày Tống Văn Công làm tổng biên tập có nhiều loạt bài làm Bộ Chính trị không yên tâm. 3 - Báo Lao Động là cơ quan ngôn luận của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại sao Tống Văn Công đặt phòng thư ký tòa soạn ở Sài Gòn? 4- Hiện nay có tố giác đang xảy ra âm mưu diễn biến hòa bình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Dừng nói với Hông Đăng, tôi gọi điện thoại cho anh Khổng Minh Dụ, Cục phó A 25. Gia đình cho biết anh Dụ còn ở cơ quan. Tôi gọi lên cơ quan. Sau khi nghe tôi kể, anh nói, giờ này tôi còn ở cơ quan là để giải quyết những chuyện chính trị, nhưng không phải của báo Lao Động. Ở báo Lao Động chỉ là mất đoàn kết nội bộ, chứ chả có chính trị chính em gì cả. Nghe vậy tôi có phần yên tâm, nhưng lại nghĩ, Hồng Đăng có thể đã đánh động tới Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Nguyễn Văn Tư, tôi liền đến nhà ông. Ông Tư mở cửa, dưới ánh điện, mặt ông đỏ rực vẻ hết sức căng thẳng nói, tôi định gọi anh thì may quá, anh đã tới. Tôi hỏi lại, chú Tám Đăng vừa gọi cho anh phải không? Anh yên tâm, anh Khổng Minh Dụ cục A 25 vừa cho tôi biết, ở báo Lao Động chỉ là mất đoàn kết, chẳng có vấn đề chính trị chính em gì cả. Ông Tư lắc đầu, không phải từ A 25! Đây là Cục 2 tình báo quân đội, họ đã báo cáo với Bộ chính trị! Anh gọi điện ngay cho Hồng Đăng để tôi nói chuyện. Tôi quay điện thoại trên bàn ông Tư. Vợ Hồng Đăng trả lời, anh Công à, anh Tám đi vắng, sáng mai anh hẳn gọi nha. Tôi bảo, cô đi tìm chú Tám ngay, bảo anh Tư cần nói chuyện. Nghe vậy vợ Hồng Đăng vội vã gọi to, anh Tám ơi, dậy, dậy nói chuyện với anh Tư. Thì ra, sau khi bắn mũi tên “chính trị”, chú ta đi ngủ, không cần nói gì với tôi nữa. Ông Tư chỉ nói một câu: Sáng mai chú phải đến cơ quan, ngày kia, tôi với anh Công sẽ vào. Ông Tư họp cơ quan miền Nam báo Lao Động, cho biết ông đã nhận được nhiều dấu hiệu mất đoàn kết trong anh em, nên muốn được nghe ý kiến từng người. Sau hai tuần, nghe ý kiến tất cả anh em, ông Tư họp cơ quan nói rõ nhận xét của mình: Không có âm mưu chính trị nào cả mà chỉ do mất đoàn kết nội bộ. Nguyên nhân là do anh Tống văn Công quá tin tưởng, giao quyền cho anh Hồng Đăng rộng quá mà thiếu sự kiểm soát. Anh Hồng Đăng lạm quyền, độc đoán, không tôn trọng anh em, hoạt động kinh doanh ngoài tờ báo không minh bạch. Từ ngày mai, anh Công phân công lại tòa soạn, sau đó từng thành viên trong ban biên tập phải tự kiểm điểm trách nhiệm của mình về tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng hiện nay.
Tôi nói với Hồng Đăng, vì mấy anh em ở ban thư ký tòa soạn không chịu cộng tác với chú, nên tạm thời chú làm việc ở vòng ngoài, bao giờ hòa giải với nhau xong tôi sẽ đưa chú trở lại vị trí cũ. Tám Đăng phản ứng rất ngớ ngẩn, anh ạ, tôi xin nhắc anh, chức vụ của tôi là do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam bổ nhiệm đây. Tôi bảo, chức vụ của chú là do tôi đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động bổ nhiệm, phó tổng biên tập là người giúp việc cho tổng biên tập, có đúng thế không? Hồng Đăng cười gượng. Nhưng sau đó, anh ta tiếp tục xúi giục một số người thân cận gây rối. Loan truyền tin tức về cố vấn Nguyễn Văn Linh đang rất quan tâm đến người trợ lý cũ của mình bị vô hiệu hóa. Ngấm ngầm vận động anh em ký tên vào bản kiến nghị gửi lên Trung Ương Đảng yêu cầu khôi phục vai trò người “gác cổng chính trị” ở báo Lao Động. Phan Tùng trưởng ban Quốc tế (nhân vật mà trước đó 2 năm nhà văn Bùi Việt Sĩ cho là có nhân tướng phản phúc) viết lá thư hướng dẫn cô Thanh Vân nhân viên ban thư ký tòa soạn cách gài bẫy Tổng thư ký Tòa soạn Lý Quý Chung bằng bản tin về vụ Thiên An Môn. Cô Thanh Vân xem thư xong đã xé nhỏ ném vào sọt rác. Anh Trần Thức (nguyên giảng viên Trường Đại học Sư phạm Huế, lúc đó làm công việc sửa morat) nhìn thấy, đã moi từng mảnh nhỏ của lá thư, dán lại trên trang giấy, nộp cho Tổng biên tập. Tôi gọi Phan Tùng, đưa lá thư bị xé đã được dán lại, yêu cầu anh viết bản tự kiểm điểm nói rõ anh viết lá thư này nhằm mục đích gì. Phan Tùng không tự kiểm điểm mà viết bản tường trình kể rằng mình nhận nhiệm vụ do Đảng cấp trên giao nhằm phát hiện bọn âm mưu diễn biến hòa bình trong tờ báo. Tôi bảo, Phan Tùng ghi rõ tên người thay mặt Đảng cấp trên chỉ đạo anh làm việc này, tôi sẽ xem anh là người có công làm nhiệm vụ đặc biệt cho Đảng, tuy có sơ suất. Nếu anh không nói được tên người chỉ đạo thì ngay ngày mai tôi mời họp chi bộ đuổi anh ra khỏi Đảng, sau đó cho anh hưởng ba tháng lương để đi tìm việc nơi khác. Phan Tùng không thể tin rằng tôi là một kẻ có tên trong sổ đen vì âm mưu diễn biến hòa bình, lại có thể đuổi ra khỏi “Đảng quang vinh” một người có lý lịch như anh ta: Nguyên chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, con rể ông Phan Văn Dinh Tổng cục trưởng Tổng cục thuế, cánh tay phải của nguyên trợ lý báo chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh! Phan Tùng nộp bản tường trình mới khẳng định: “không thể công khai tên của đồng chí cấp trên, vì đó là nguyên tắc của Đảng”. Tôi họp đảng bộ báo Lao Động cả miền Bắc và miền Nam, chỉ trừ 3 phiếu của Phan Tùng, Tám Đăng, Tư Hạnh (vợ Tám Đăng), còn lại đều biểu quyết khai trừ Phan Tùng ra khỏi Đảng. Sau đó, Phan Tùng xin về Liên hiệp Hợp tác xã thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn kiểm tra của Ủy ban kiểm tra thuộc Tổng Liên đoàn Lao động kết luận các hoạt động kinh tế ở cơ quan báo Lao động thường trú Miền Nam do Hồng Đăng trực tiếp điều hành có 5 sai phạm nghiêm trọng: Mua bán đất Cầu Tre vi phạm luật đất đai; mua bán ở phòng kinh doanh và thu chi tiền quảng cáo không minh bạch. Đảng bộ báo Lao Động quyết định khai trừ Hồng Đăng ra khỏi Đảng và được Đảng Ủy cơ quan Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chấp nhận. Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động quyết định cách chức phó tổng biên tập và buộc thôi việc đối với Hồng Đăng. Suốt hai tháng thực hiện việc “kiểm điểm”, số đông anh em, nhất là các cán bộ chủ chốt của tờ báo quan tâm cách xử lý đối với tôi. Lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động biết điều đó nên đã luôn trấn an là “anh Công sẽ còn tiếp tục làm việc” và tổ chức thăm dò xem những ai sẽ nghỉ việc nếu tôi bị buộc phải nghỉ hưu. Ngày 9 tháng 10 năm 1994, anh Nguyễn Hữu Tính trưởng cơ quan miền Nam báo Lao Động có thư báo cáo Tổng Liên đoàn Lao động là đã có 19 người gặp anh “bày tỏ sẽ nghỉ việc ngay”. Trong đó có Lý Quý Chung tổng thư ký tòa soạn, Trần Trọng Thức trưởng ban kinh tế, Hoàng Thoại Châu (bút danh Ba Thợ Tiện), họa sĩ Chóe, Lê Xuân Tiên trưởng ban thể thao, Đinh Quang Hùng trưởng ban in ấn và phát hành báo, Lưu Trọng Văn cây bút phóng sự điều tra sắc bén. Từ danh sách này bà Hoàng Thị Khánh phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động chọn mời 4 người mà bà cho là quan trọng nhất đối với chất lượng tờ báo là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức, Chóe, Ba Thợ Tiện để “công tác tư tưởng”- Bà nói tờ báo không phải của riêng anh Tống Văn Công mà nó là của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn.
Tổng Liên đoàn Lao động vừa muốn bảo vệ tôi để giữ được những nhà báo giỏi, vừa muốn chứng tỏ đã tôn trọng các kết luận của Bộ chính trị. Phương án giải quyết được chọn là: Tôi không còn là tổng biên tập mà là “cố vấn” hoặc “phó tổng biên tập”, nhưng vẫn là người thực sự điều hành tờ báo y như trước. Các nhà báo có vai trò chủ chốt đứng đầu là Lý Quý Chung không chịu như vậy. Lý Quý Chung nói: “Chỉ thêm chữ Q. trước ba chữ tổng biên tập tôi cũng thôi việc, chứ chưa cần hạ xuống phó tổng biên tập” (thêm chữ Q. tức là “quyền tổng biên tập”).
Ngày tôi nhận quyết định nghỉ hưu, cầm vé máy bay để hôm sau về Sài Gòn, thì bất ngờ có giáo sư Nguyễn Lân Dũng đến thăm. Tôi phân trần, mình lu bu quá nên không báo cho Nguyễn Lân Dũng biết chuyện mình nghỉ hưu và về Sài Gòn. Nguyễn Lân Dũng trố mắt ngạc nhiên hỏi “vì sao”? Tôi nói, mình phải chịu trách nhiệm về nội bộ lục đục và bị tố cáo có âm mưu “diễn biến hòa bình”. Lân Dũng bảo, anh nào tố cáo bậy bạ vậy? Anh không quen với một ông Bộ Chính trị nào hay sao? Tôi nói, mình quen ít nhứt ba bốn ông chứ, nhưng để làm gì? Chẳng lẽ chạy đến xin được giúp đỡ? Dũng hỏi, anh Phạm Thế Duyệt có biết chuyện này không? Không chờ tôi trả lời, Nguyễn Lân Dũng quay chiếc điện thoại trên bàn tổng biên tập. “Thưa anh Duyệt, tôi Nguyễn Lân Dũng đây! Tôi đang ở chỗ anh Công. Tại sao anh Công nói ngày mai anh ấy về Sài Gòn, không ra nữa, anh đã biết chuyện này chưa ạ? Vâng, vâng, anh Công đang ở đây, anh Duyệt muốn nói với anh”. Tôi bước lại cầm ống nghe. Anh Duyệt hỏi, hai giờ chiều nay anh Công đến nhà mình được không? Tôi nghĩ, đến từ giã người đã đưa mình ra Hà Nội là phải lẽ. Khi anh Phạm Thế Duyệt từ chỗ là chủ tịch công đoàn mỏ Mạo Khê, do “cơ cấu” đã vọt lên làm phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động, tôi đang kiêm nhiệm phó tổng biên tập báo Lao Động phụ trách miền Nam. Tôi đã đưa anh đi thăm các tỉnh Nam Bộ và Tây Nguyên gần một tháng do đó đã nảy nở một tình thân. Dù là cấp trên, nhưng anh kém tôi bốn tuổi, tham gia cách mạng và vào Đảng đều sau tôi gần mười năm cho nên tôi cũng được anh nể trọng. Khi tôi bị Thành Ủy Sài Gòn cách chức, anh đã vào xin Thành Ủy cho chuyển tôi về cơ quan miền Nam của báo Lao Động.
Anh Phạm Thế Duyệt ra tận cổng đón tôi vào. Từ ngày anh rời Tổng Liên đoàn Lao động, làm bí thư Thành Ủy Hà Nội cho đến nay tôi mới tới nhà anh. Chỉ có hai anh em trong phòng khách, nhưng anh hạ giọng thầm thì: Bộ chính trị có một phiên họp đặc biệt về báo Lao Động. Tống Văn Công bị kết luận bốn “vấn đề”: Một là anh tổ chức nhân sự báo Lao Động làm cho cơ quan an ninh không yên tâm; hai là từ ngày anh làm tổng biên tập có nhiều loạt bài khiến Bộ chính trị lo lắng; ba là báo Lao Động, cơ quan ngôn luận cấp Trung Ương, theo nguyên tắc phải ở Hà Nội mà anh tự tiện để tòa soạn ở thành phố Hồ Chí Minh; bốn là anh có trách nhiệm trong việc để xảy ra lục đục trong cơ quan và bị tố cáo có âm mưu diễn biến hòa bình. Bộ chính trị kết luận, anh và một số anh ở báo Lao Động không đảm bảo tiêu chuẩn chính trị để tiếp tục làm báo trong giai đoạn này.
Nếu không có Nguyễn Lân Dũng đưa đến cuộc gặp Phạm Thế Duyệt thì tôi cứ nghĩ mình “về vườn” vì chuyện lục đục nội bộ! Chỉ cần một tội là để “lục đục nội bộ” cũng đủ cho tôi về vườn rồi, do đó Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động không công khai ba tội kia vì nó quá “nhạy cảm chính trị”. Về tội thứ nhất: Người ta muốn nói về hai người có vị trí trong làng báo thời Việt Nam Cộng hòa là Lý Quý Chung (Bộ trưởng Thông tin Chiêu hồi trong chính phủ Dương Văn Minh), Trần Trọng Thức cán bộ Việt tấn xã. Họa sĩ Chóe bị tù do vẽ bức biếm họa ông Lê Đức Thọ chìa răng hô (vẫu) xé toẹt Hiệp nghị Paris. Nhà thơ Hoàng Hưng đi tù vì giữ tập thơ “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm. Cả hai anh này vừa ra tù, tôi đã mời về báo Lao Động, về tội thứ 2, trong một tháng báo Lao Động có 4 bài phê bình 4 Bộ trưởng của Chính phủ (Bộ trưởng y tế Phạm Song, Bộ trưởng Bộ Năng Lượng Vũ Ngọc Hải, Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp Phan Xuân Đợt, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cao Sĩ Kiêm). Về tội thứ 3, thì phải nói tôi không hề vụng trộm đặt tòa soạn ở Sài Gòn. Người có trách nhiệm cao nhất của Đảng về tuyên huấn, báo chí là ông Nguyễn Đức Bình đã nhiều lần tới thăm Cơ quan miền Nam báo Lao Động ở 120 Nam Kỳ Khởi nghĩa, nghe tôi giới thiệu mạng thông tin kỹ thuật số (sớm nhất các báo Trung Ương) đã làm cho văn phòng Hà Nội và văn phòng Sài Gòn như ngồi chung trong một gian phòng, có thể cùng thảo luận, tranh cãi với nhau. Tội thứ tư là có trách nhiệm của tôi đối với tình trạng nội bộ đấu đá nhau. Thực ra nguồn gốc của tình trạng này có nguyên nhân chủ yếu từ sự phân biệt đối xử của Đảng đối với những người từng làm việc trong chế độ cũ, dùng họ nhưng không bao giờ tin họ! Chị Kim Hạnh nguyên Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ đã cảnh báo điều đó với tôi khi tôi nhận các anh Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức về báo Lao Động.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 27 Aug 2018

Vụ Đàn Áp Báo Chí Ở Kiên Giang.

Tết năm 1986 sang 1987 cả hai tờ báo xuân, Văn nghệ Kiên Giang và báo Kiên Giang, đều bị thu hồi, ban biên tập và những người viết bài phê bình việc xây dựng cảng Hòn Chông đều bị đình chỉ công tác, làm bản kiểm điểm, chờ xử lý. Hai tờ báo Trung Ương là Đại Đoàn Kết và Lao Động đã đưa tin này, cho rằng cách xử lý như vậy là quá nặng nề, không đúng luật báo chí. Tháng 4 năm 1987, đáp thư mời của Ban Thường vụ Tỉnh Ủy Kiên Giang, anh Đặng Ngọc Nam thay mặt báo Đại Đoàn Kết và tôi, Tống Văn Công, thay mặt báo Lao Động đã đến Kiên Giang. Chúng tôi được Ban Thường vụ Tỉnh Ủy có mặt Bí thư Lâm Kiên Trì và Phó Bí thư Nguyễn Tấn Dũng trao đổi ý kiến.
Anh Đặng Ngọc Nam và tôi cho rằng những bài đăng trên Văn nghệ Kiên Giang và Kiên Giang phê bình chủ trương xây dựng Cảng Hòn Chông rất tốn kém, nhưng không đem lại hiệu quả; các cơ quan có trách nhiệm nên xem xét lập luận của các bài báo, tiếp thu những điểm đúng, chỉ ra những điểm chưa thỏa đáng, nếu sai thì yêu cầu đăng bài đính chính. Chúng tôi đề nghị Ban Thường vụ xem “báo chí vừa là công cụ của Đảng, vừa là diễn đàn của nhân dân” như ý kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, để có cách quản lý báo thích hợp, không nên đình chỉ công tác, truy bức, quy chụp các nhà báo trong vụ này. Ban Thường vụ Tỉnh Ủy, đặc biệt là Bí thư và Phó Bí thư đều nhất trí với đề nghị của chúng tôi. Phó Bí thư Nguyễn Tấn Dũng, được Ban Thường vụ giao nhiệm vụ đưa hai chúng tôi đi ăn, nghỉ, giúp chúng tôi biết những đổi mới của thị xã Rạch Giá và tỉnh Kiên Giang. Việc xử lý hai tờ báo ở Kiên Giang tưởng đã xong ngay sau đó. Nhưng sau khi chúng tôi rời Kiên Giang sự việc lại trở nên phức tạp. Xin đọc bài viết của nhà văn Hà Văn Thùy, nguyên cán bộ báo Văn nghệ Kiên Giang, in trong tập “Hồi ký số 5 của các nhà báo cao tuổi”:
“… Lâu lắm chúng tôi mới làm được tờ Văn nghệ Kiên Giang ưng ý như vậy. Báo đẹp đầy đặn, bài vở phong phú, đầy sức sống. Mặt báo hội đủ những người viết chủ lực của phong trào: Lão tướng Năm Thạnh, rồi Anh Động, Khoa Đăng, anh bạn giáo viên Nguyễn Thiện Cân tận ngoài Phú Quốc, nhà kinh doanh Hà Văn Nam cống hiến truyện vui, cười ra nước mắt…
… Báo ra được một ngày, sáng 27 Tết có điện thoại từ văn phòng Tỉnh Ủy gọi tới, kêu anh Chín Sĩ, Chủ tịch Hội Văn nghệ lên. Lúc này có tin bảo Kiên Giang đã bị thu hồi. Chúng tôi đưa anh Chín Sĩ đi mà lòng dạ bồn chồn, nét mặt anh Chín cũng không giấu nỗi vẻ lo lắng. Cuối giờ làm việc, anh về. Nhìn anh chúng tôi biết là có chuyện! Mấy anh trên không chịu một số điểm - Anh Chín Sĩ nói - Nhưng anh Năm Trì đồng ý cho bôi đi những chỗ đó rồi phát hành”. Khỏi cần biết trúng trật, chúng tôi ngoan ngoãn lao vào bôi xóa những dòng chữ từ Tỉnh Ủy đưa về, có gạch chân. Phải nói thật là trong bụng cũng mừng thầm vì tờ báo bị không đến nỗi nào. Bọn tôi còn may mắn hơn bên anh Tư Châu, Tổng Biên tập báo Kiên Giang (cơ quan ngôn luận của tỉnh Đảng bộ). Có thể khẳng định thế này: Có sai sót về cách trình bày, những sơ hở về câu chữ nhưng cả hai tờ báo không có sai sót về chính trị! Yên tâm về nội dung báo, nhưng tôi lo lắng ở mặt khác: Tình hình xấu có thể xảy ra, trước hết là uy tín của cấp Ủy bị đe dọa và sau đó, hoạt động báo chí sẽ rất khó khăn! Điều mấu chốt là phải biết cơ chế nào đã tạo ra tình trạng trông gà hóa cuốc này? Và phải tác động vào nó thế nào để gỡ rối? Sáng hôm sau lại có điện thoại triệu anh Chín Sĩ vô Tỉnh Ủy!
… Trở về cơ quan, mặt anh Chín xạm lại. Anh im lặng nặng nề. Lúc lâu anh bước vào văn phòng nơi anh em đang bày đồ nghề dập xóa, bảo: “Thôi dẹp bỏ luôn”! Rồi quay sang nói với chúng tôi: “Ý anh Năm Trì như vậy nhưng anh Ba Hương không chịu. Ảnh nói tội báo mình còn nặng hơn báo Tư Châu. Nhưng chẳng lẽ thu hồi cả hai tờ một lúc. Vậy phải bỏ tờ này, làm gấp tờ khác thế vô”.
… Có cách nào cứu vãn tình hình? Tôi lo lắng thực sự. Không phải lo cho riêng mình! Tuy có dính cả hai tờ báo nhưng tôi tin chắc bài của tôi hoàn toàn vô tội. Tôi cũng đọc rất kỹ những bài bị coi là có vấn đề. Tôi nhớ lại vụ báo Xuân hồi năm 1982. Tờ báo tuy có sai sót không lớn, nhưng nếu bị lợi dụng suy diễn thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Chúng tôi báo với anh Hai Huỳnh, Tỉnh Ủy viên, Trưởng ban Khoa giáo, Chủ tịch Hội Văn nghệ. Anh Hai gặp đồng chí Tám Quýt, Bí thư Tỉnh Ủy khóa đó và cùng thống nhất: Để tờ báo phát hành không bàn gì thêm cho rối chuyện, sau đó sẽ kiểm điểm nội bộ. Chính quyết định tỉnh táo này đã cứu nguy một bàn thua trông thấy. Tôi tìm anh Hai. Tuy khóa này anh rút khỏi Tỉnh Ủy và cũng không còn phụ trách Hội Văn nghệ, nhưng anh vẫn lo lắng cho chúng tôi. Anh đọc kỹ hai tờ báo rồi bàn với đồng chí Tám Quýt (khóa này anh Tám Quýt là Ủy viên Thường vụ, phụ trách Dân vận) và hai người cùng vào gặp Thường trực tỉnh Ủy để bày tỏ ý kiến. Nhưng khỉ gặp anh Năm Trì đưa cho coi quyết định thu hồi báo thì còn nói gì được nữa. Anh Hai ra hiệu cho anh Tám, hai người ăn vài miếng bánh Tết rồi về. Anh trách chúng tôi “Mấy chú dốt quá, viết mà không biết lách”. Những ngày Tết nặng nề qua đi. Anh em chúng tôi có người mất ăn mất ngủ. Không có báo đọc dân chúng xôn xao. Có người mua trước được báo đem bán lại giá cao gấp chục lần. Biết rằng sau Tết có cuộc họp giải quyết tờ báo, chúng tôi chờ đợi trong lo âu thấp thỏm.
… Ngày mồng 5 Tết, cuộc họp xử hai tờ báo được triệu tập. Không thể xài chữ nào đúng hơn chữ xét xử. Một số người ngỡ ngàng với tâm trạng rờn rợn. Nói là để kiểm điểm nội bộ mà không có mặt anh em viết bài. Trong khi đó xuất hiện Ban Tổ chức tỉnh Ủy, Ban Kiểm tra Đảng, Đảng Ủy các cơ quan cấp tỉnh và công an bảo vệ nội bộ. Anh Tư Châu, Tổng biên tập báo Kiên Giang trơ trọi giữa cuộc họp, bị chất vấn, bị quy kết mà không có quyền bào chữa, không được tranh luận. Những điều anh trình bày bị coi là ngoan cố, không thành khẩn, thậm chí là chống đối. Khoảng 9 giờ một chàng trai trẻ bước vào phòng họp. Đặt cặp lên bàn, anh ta nói: “Tôi được giao trách nhiệm truyền đạt ý kiến đồng chí Bí thư tỉnh Ủy tới cuộc họp của các đồng chí”. Nói rồi anh đưa tờ giấy lên đọc. Tất nhiên không thể nhớ hết nguyên văn, nhưng sau này anh Tư Châu kể với bọn tôi:
“Trước hết, bài 'Xuân về trên cảng Hòn Chông', nói 'bây giờ Đảng ta mới biết lấy dân làm gốc' là xuyên tạc lịch sử lãnh đạo của Đảng. Còn nói: 'Dựa trên cảm hứng chủ trương xây dựng cảng Hòn Chông' là xuyên tạc sự lãnh đạo của cấp Ủy. Chúng ta làm công trình kinh tế có giá trị lớn mà lại là dựa vào cảm hứng hay sao?”
“Bài 'Phía sau người lính' là khuyến khích độc canh, trái với chủ trương phát triển nông nghiệp toàn diện của Tỉnh Ủy. Nói năng suất lúa cao như thế trên bắt nộp thêm thì sao?”
“Bài 'Gặp gỡ cuối năm' nói Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị là vật cản. Lại nói từ nhà máy đay tới công ty thủy sản. Như vậy là xúc phạm Bộ Chính trị và đả kích sự lãnh đạo của cấp Ủy. Bài 'Mùa xuân đổi mới' là nói móc Tỉnh Ủy xây dựng công trình thế kỷ, báo cáo màu hường, quan liêu”.
Truyền đạt xong những lời có gang có thép ấy, anh ta cắp cặp chào mọi người ra đi.
Ngay sau cuộc họp mồng 5, Tư Châu bị đình chỉ công tác. Cũng lúc này có đơn tố cáo Tư Châu gây mất đoàn kết nội bộ, bê bối về tài chính, được thu thập chữ ký gửi lên Tỉnh Ủy. Một đoàn kiểm tra tài chính báo Kiên Giang được thành lập cùng với quyết định ngưng công tác Ba Yến, Trưởng phòng Trị sự. Công an về tận tỉnh Thái Bình kiểm tra lý lịch anh Khoa Đăng, những việc này nhắc chúng tôi về chuyện đã xảy ra năm 1983.
Năm 83, sau khi Đài phát thanh Kiên Giang phát hai bài điều tra về phong trào thi đua dỏm của trường phổ thông cơ sở 3 Vĩnh Thanh Vân và trường mẫu giáo thị xã Rạch Giá, Phó Giám đốc, Tổng biên tập Đài, anh Ba Sáng bị đình chỉ công tác, bị gọi lên Ban Tổ chức Tỉnh Ủy, không được ra ngoài, không ai được vào thăm, quần áo lót phải nhờ người tới nhà lấy giúp. Đêm có người bồng súng gác cho ngủ! Từ cơ quan kiểm tra Đảng một tin sét đánh loan ra: Ba Sáng làm tình báo cho Nhật, khi vô Đảng không báo cáo tổ chức! Lập tức căn nhà 12 Nguyễn Đình Chiểu của anh bị cô lập hoàn toàn. Người ta tránh xa anh như tránh ôn hoàng dịch lệ. Tiếp đó là quyết định khai trừ Đảng đối anh với những tội:
- Chống đường lối của Đảng bộ địa phương một cách có hệ thống;
- Dùng Đài phát thanh đả kích sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương;
- Gây khó khăn cho phong trào xây dựng địa phương;
- Nói không đúng sự thật.
“Còn một tội rất nghiêm trọng không được ghi vào quyết định kỷ luật là nghe theo luận điệu chiến tranh tâm lý nói xấu Bí thư Tỉnh Ủy”. Nguyên do như sau:
Vốn là con nhà nòi tuyên huấn, anh Ba Sáng được Phó Bí thư Tỉnh Ủy Võ Quang Trinh giao nhiệm vụ tập họp dư luận xã hội hàng tháng báo cáo cho Tỉnh Ủy. Trong một báo cáo loại đó, anh Ba Sáng thực thà ghi: “Có dư luận nói đồng chí Bí thư Tỉnh Ủy Lâm Văn Thê trên đường về Kiên Giang, có ghé Hậu Giang uống rượu Tây, mấy ngàn đồng một chai. Chính vì việc này khiến Bí thư nổi xung và anh Ba Sáng chịu trận.
Với một cán bộ 30 tuổi Đảng, lâu năm trong ngành truyền thông đại chúng, quen biết nhiều cơ quan và nhân vật có cỡ nên cơ quan Thanh Tra Trung Ương nhiều lần đến làm việc căng thẳng cuối cùng đã xác định rõ sự vô tội của anh Ba. Vậy mà cũng phải mất 4 năm tới tháng 10 năm 1987, anh Ba Sáng mới được phục hồi Đảng tịch!
Thân phận của Dương Tôn Hưng, người viết những bài báo trên thì cay đắng hơn. Học xong tú tài, như nhiều thanh niên khác, Hưng không thể thoát khỏi quân dịch, phải lo lót để làm lính kiểng. Tới năm 1974, theo lời kêu gọi của Mặt trận Giải phóng miền Nam, Hưng trốn vào vùng giải phóng lầm quân y. Sau giải phóng, cách mạng cho Hưng đi học, học xong về công tác bên đài. Thời gian làm lính kiểng Hưng không ghi vào lý lịch. Sau sự cố mấy bài báo, anh bị đình chỉ công tác. Ít lâu sau bị bắt về tội khai man lý lịch, trước đây “là sĩ quan ác ôn”, “từng là cai ngục”. Hơn một năm trời anh bị giam ở Cầu Ván.
Và giờ đây năm 1988, chuyện cũ diễn lại. Dường như buộc tội Tư Châu về tờ báo có gì đó chưa thật sự yên tâm, những biện pháp tổ chức được khẩn cấp thi hành. Ban kiểm tra tài chính hoạt động căng thẳng hai tháng. Trong lúc đó bạn bè làm báo hỏi thăm về vụ báo bị thu hồi, về Lê Hồng Châu bị cách chức, những người có quyền có chức giải thích: Chuyện tờ báo sai sót thì có, nhưng là chuyện nhỏ, Tư Châu bị kỷ luật về tài chính! Nghe thế mọi người tránh xa Tư Châu. Mãi hơn năm sau, trong cuộc họp bàn lại về việc thu hồi báo, tội trạng của Tư Châu mới được công bố! “Có trách nhiệm để tờ báo bị thu hồi và để nội bộ mất đoàn kết”. Như vậy Tư Châu không có chuyện gì về tài chính!
Còn với Ngô Văn Tước người ta cũng có cách. Biết chẳng có thể xoay xở được gì ở anh chàng cựu chiến binh xuất thân từ gia đình cách mạng ở đất Quảng Trị nên biện pháp khác được áp dụng. Tước bị cơ quan, bị Đoàn Thanh niên kiểm điểm kỷ luật vì vạ báo. Tước cũng bị Tuyên huấn gọi lên kết những tội tầy đình: Chống lại chủ trương của Đảng! Tước khăng khăng: “Có thể bài viết của tôi chưa đạt, nhưng dứt khoát tôi không sai. Tôi cũng không chống Đảng”. Tội trạng của Tước được chuyển hướng: “Sai lầm về bài báo là rõ ràng nhưng chúng tôi không đánh giá chuyện đó nặng lắm. Cái quan trọng là cậu ta ngoan cố, không chịu nhận sai lầm, lại còn tỏ ra kiêu căng, coi thường lãnh đạo, coi thường tập thể. Nhân sự như thế không thể làm báo được”. Tước bị thải hồi về quê sản xuất. Biện pháp cuối cùng là không cho viết báo, không được công tác trong khối tư tưởng. Vậy là bắt đầu năm tháng thất nghiệp chạy ăn chạy việc của nhà báo… hại này!
“… Sau sự việc này, một số nhà báo sống rất vất vả. Tư Châu như người chết rồi, sau cú đòn báo chí. Anh hầu như không nói, thỉnh thoảng chỉ mỉm cười cay đắng. Ngô Văn Tước lang thang trên những nẻo đường Rạch Giá, chiếc xe đạp duy nhất không còn, tay ẵm con, tay xách giỏ rau kéo lê đôi dép mòn vẹt gót, đi xin việc năm lần bảy lượt đều bị bật ra, bởi có lệnh không thành văn ban xuống: “Không cho viết báo”. Đầu bạc của anh Ba Sáng bạc thêm, trong những ngày bị truy bức vu khống. Dương Tôn Hưng nằm trên nền xi măng lạnh của trại giam. Có người giữ lại những bài viết chưa in của tôi để tính! Có thể chúng tôi sẽ còn gặp chuyện này chuyện khác nhưng làm sao có thể không nói lên sự thật? Và dù có thế nào đi nữa, thì đâu có bằng nỗi khổ chồng chất mà bà con đang phải chịu đựng? Có thể từ chối nhiều điều, nhưng không thể nào không viết và càng không thể nào bẻ cong ngòi bút. Tôi đã viết bài nói lên sự nghiệt ngã đó. Do bài của tôi được đăng trên báo Văn Nghệ mà tôi bị xóa tên ở Hội Văn nghệ Kiên Giang và bị mất việc, lâm vào cảnh nghèo đói từ năm 1988 đến nay. Vì tố cáo sự nghiệt ngã đối với làng báo Kiên Giang mà tôi lâm vào tình cảnh nghiệt ngã, khốn cùng.

Không quốc gia nào có nhiều đầu báo so với số dân như Việt Nam: hơn 800 tờ báo, gần một trăm đài phát thanh truyền hình cho 90 triệu dân. Ông Bộ trưởng Thông tin Truyền thông nói bộ phải chọn tổng biên tập cho các báo. Báo Tuổi Trẻ ngày 11 tháng 10 năm 2012 đăng ý kiến của ông Nguyễn Thế Kỷ phó Trưởng ban tuyên huấn Trung Ương Đảng phát biểu tại cuộc Hội thảo Đạo đức nghề báo trong khai thác và xử lý nguồn tin: “Phải nâng chất lượng đầu vào đối với sinh viên báo chí, thậm chí phải xét cả yếu tố nhân thân, tương tự với sinh viên vào các trường công an, quân đội.”
Ông muốn nhà báo phải có những tiêu chuẩn giống như cảnh sát.
Quá bức xúc trước tình trạng báo chí công cụ ngày càng bị siết chặt, tôi viết bài “Xa lộ thông tin chỉ còn lề phải”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 28 Aug 2018

Xa Lộ Thông Tin Chỉ Còn Lề Phải.

Báo chí vô sản định hình ở Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười. Năm 1920, trong thư gửi Emma Goldman, nữ chính trị gia Hoa Kỳ, Lenin cho tự do ngôn luận là một thiên kiến tư sản. Như vậy có thể hiểu báo chí vô sản tách ra khỏi trào lưu giành quyền tự do ngôn luận mà nhân loại đã đeo đuổi từ những năm 40 của thế kỷ 19.
Báo chí vô sản, theo Lenin, có chức năng tuyên truyền, giáo dục, cổ động và tổ chức phong trào hành động cách mạng thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng Cộng sản. Để làm tốt chức năng đó, báo chí vô sản phải theo định hướng tuyên truyền trong từng thời kỳ, do Ban Tuyên huấn Trung Ương Đảng chỉ đạo. Theo định hướng, tức là phải chọn sự thật nào có lợi và loại bỏ sự thật nào không có lợi cho mục đích tuyên truyền. Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục đưa tin, bài về những điển hình người tốt việc tốt nảy sinh từ phong trào thi đua trên các mặt trận chiến đấu, lao động sản xuất, học tập rèn luyện để trở thành những con người mới vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung nói trên cho thấy mấy điều:
- Đó là nền báo chí của một xã hội khép kín. Báo chí thực chất chỉ là công cụ truyền đạt mệnh lệnh từ trên (Đảng, Chính phủ) dội xuống, không có chức năng thông tin, không chấp nhận phản biện, không tự do ngôn luận.
- Các bộ biên tập không xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, không nhằm đáp ứng quyền được thông tin của bạn đọc để chuẩn bị nội dung tờ báo. Họ căn cứ vào tiến độ tuyên truyền do cấp trên chỉ đạo để lập kế hoạch minh họa bằng các bài báo. Linh mục Nguyễn Ngọc Lan viết: “Họ chỉ chịu trách nhiệm trước Đảng chứ không phải trước độc giả. Và chỉ quan tâm tới mục tiêu hơn là nội dung các bài báo.” (Nhật ký 1990, ngày 5-11)
- “Không có tự do ngôn luận thì mọi truy tìm sự thật là bất khả” (Charles Bradlaugh - nhà cải cách xã hội Anh). Báo chí vô sản tước bỏ, bóp méo và bưng bít sự thật nhằm phục vụ cho mục đích tuyên truyền. Do đó, lẽ ra là “công cụ tốt nhất cho việc mở mang trí tuệ con người” thì ngược lại nó là công cụ ngu dân!
Trong cuộc họp báo đầu tiên sau khi nhậm chức, Tổng thống Mỹ Obama nói: “Một chính phủ lấn lướt báo chí, một chính quyền không phải đối mặt với giới truyền thông cương trực và mạnh mẽ không phải là sự lựa chọn của nước Mỹ”. Đối chiếu với câu nói đó, chúng ta thấy các nền báo chí vô sản ngược hẳn lại.
Báo chí cách mạng Việt Nam theo hình mẫu báo chí vô sản của Lenin. Do đó chúng ta cùng xét xem nó đã gây những hậu quả gì cho xã hội và người đọc?
Cách mạng và sự thật
Trong các tập nhật ký, linh mục Nguyễn Ngọc Lan nhiều lần châm biếm các báo cách mạng cắt xén sự thật. Nhà xuất bản Tin (Paris) giới thiệu “Nhật ký 1988” của ông đặt câu hỏi: “Cái gì làm cho chúng ta tuy cùng một tiếng mẹ đẻ nhưng không cùng một ngôn ngữ? Cái gì làm chúng ta sợ sự thật”?
Người viết bài này luôn dằn vặt bởi câu hỏi đó.
Ở Việt Nam (cũng giống như các nước do Đảng cộng sản lãnh đạo) để buộc cỗ xe báo chí đi đúng định hướng, có đến bốn tay lái: Lái chính là Ban Tuyên huấn Đảng, 3 lái phụ là Bộ Thông tin Truyền thông, Cục An ninh Văn hóa Bộ Công an và cơ quan chủ quản tờ báo. Để làm tốt việc tuyên truyền theo định hướng, báo chí cách mạng liên tục đưa tin những người và việc điển hình xuất hiện trong quần chúng đế cổ vũ phong trào cách mạng.
Trong bài giảng về viết tin, ông Hoàng Tuấn, Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam kể: Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, khi chưa tìm ra một điển hình nông dân giỏi hưởng ứng lời kêu gọi tăng gia sản xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã cho bịa ra câu chuyện về một người nông dân gương mẫu vỡ hoang trồng khoai sắn. Không ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tin đó, đã hỏi địa chỉ người nông dân để tặng thưởng huy hiệu. Ông Tuấn đành phải báo cáo thật là mình cho bịa ra “điển hình” để cổ vũ phong trào.
Trong chiến tranh rất cần có những điển hình xả thân vì chiến thắng. Nhiều tên tuổi được báo chí loan truyền theo sự hướng dẫn của các chính Ủy và Ban Tuyên huấn Đảng đã đi vào lịch sử. Có nhiều chuyện nghe cứ lung linh như huyền thoại, nhưng không mấy ai muốn (hoặc dám) nghi vấn. Ví dụ như tại sao anh Phan Đình Giót không dùng vật gì mà lại lấy thân mình lấp lỗ châu mai?
Gần 30 năm sau chiến tranh, nhân kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng Điện Biên Phủ nhà báo Lưu Trọng Văn đã hết sức công phu sưu tầm tài liệu viết một loạt bài đăng trên 5 kỳ tạp chí Kiến thức Gia đình (phụ bản báo Nông nghiệp Việt Nam) chứng minh rằng:
- Không có chuyện Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai;
- Không có chuyện Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo;
- Cũng không có chuyện (thời chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của Mỹ) giữa trận địa pháo Nguyễn Viết Xuân hô to: “Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn”! Câu này chỉ là một câu được ghi trong nghị quyết của chi bộ đại đội pháo cao xạ!
Tất cả các chiến sĩ nói trên đều chiến đấu rất ngoan cường, hi sinh rất anh dũng, góp phần cho chiến thắng. Tuy nhiên trước lúc hy sinh tất cả họ đều không có ai làm cái việc mà sau này các nhà báo đã tô vẽ.
Những bài báo của Lưu Trọng Văn đăng trên một tạp chí ít người đọc nhưng đã làm cho ông Nguyễn Khoa Điềm, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung Ương tức giận phê phán gay gắt.
Cũng năm đó, Lưu Trọng Văn trích “Hồi ký không tên” của Lý Quý Chung, đoạn kể ông Dương Văn Minh chủ động đầu hàng như là thực hiện một nhiệm vụ cao cả, đăng trên Nhà Báo và Công Luận cuối tháng (của Hội Nhà báo Việt Nam), số kỷ niệm ngày 30 tháng 4. Báo này vừa phát hành đã bị thu hồi nhưng không cho đưa tin lý do bị thu hồi và bị đình bản. Lý do thu hồi thực sự là ở thời điểm đó chưa cho phép đề cao vai trò ông Dương Văn Minh, mà đề cao sức mạnh của các quân đoàn buộc ông Minh phải đầu hàng. (Dù đã được ông Võ Văn Kiệt đọc, ông Trần Bạch Đằng viết lời giới thiệu, quyển hồi ký này vẫn buộc phải biên tập và in lại).
Mới đây, trong cuộc góp ý kiến cho một tờ báo đang sa sút, ông Xuân Cang nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động tâm sự: Ngay khi bước vào nghề làm báo ông đã dặn mình, bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải nói cho được sự thật. Nhưng rồi thực tế đã dạy ông điều còn quan trọng hơn là phải biết cách nói sự thật. Ông kể, năm 1986 ông cho đăng bài viết của ông Lê Giản, nguyên Giám đốc Nha Công an đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, trong bài có câu “nhà đã dột từ nóc rồi”. Vì câu đó, ông bị Ban Tuyên huấn Trung Ương Đảng giũa te tua. Người ta hỏi, ông không biết nói “nóc nhà” là ám chỉ Bộ Chính trị hay sao? (thực ra nhà thơ Việt Phương là người đầu tiên có ý nghĩ này trong câu thơ “Bùn đã vấy đến chín tầng mây”. Ông đã phải trả giá bằng những năm rời khỏi bàn viết trong dinh thủ tướng để lao động cải tạo tư tưởng). May cho ông Xuân Cang, thời điểm này vừa bắt đầu “Đổi mới” cho nên ông được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thông cảm cho làm bản kiểm điểm, tránh không được tái phạm. Ông Xuân Cang kết luận: “Cho đăng bài viết đó là không biết cách nói sự thật!” Người nghe lấy làm tiếc vì ông không cho biết trước cái sự thật “nhà đã dột từ nóc rồi” thì phải biết dùng cách nói nào để không bị giũa te tua? Chẳng lẽ cách tốt nhất là… cất bút?
Trong tập “Hồi ký của các nhà báo lão thành” ở Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2003 có bài “Làm báo không dễ” của tôi đã bị cắt sửa te tua. Tôi than “có lẽ mình phải viết thêm bài 'Viết hồi ký cũng không dễ'! Ông Đinh Phong (nguyên chủ tịch Hội nhà báo thành phố Hồ Chí Minh) là người biên tập thanh minh: Ông phải thông cảm cho cái khó khăn của tôi. Khi ông Phạm Dân chủ nhiệm Câu lạc bộ Nhà báo Cao tuổi đưa bài này sang cho tôi đã có lời răn đe: 'Cậu muốn ở tù thì đăng nguyên văn bài này'! Mình phải cố cắt bỏ, sửa chữa để đăng được bài cho ông đấy”!
Bài hồi ký nói trên kể lại mấy bài báo viết những sự thật không được nhà cầm quyền bằng lòng:
Một là chuyện ông La Ngọc Toàn, chủ nhiệm hợp tác xã cơ khí Đông Tâm tham nhũng và đánh đập những xã viên dám tố cáo ông ta. Đảng bộ quận Gò Vấp bao che cho ông và giới thiệu ứng cử vào Hội đồng Nhân dân Thành phố khóa đầu tiên. Chuyện thứ hai là ông Nguyễn Văn Tài, giám đốc xí nghiệp hóa màu Tân Bình phơi nắng công nhân và cắt tiêu chuẩn gạo của họ, nhưng được Nguyễn Văn Linh bao che.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 28 Aug 2018

Nói về tác hại của việc kiểm duyệt, cắt xén sự thật, nhà văn Nga vĩ đại A. Solzhenitsyn đã viết: “Đây không chỉ đơn thuần là bóp nghẹt tự do mà là sự gắn xi vào trái tim dân tộc đó, xóa bỏ ký ức của dân tộc đó”. Vì vậy rất cần phục hồi những bài viết đã bị kiểm duyệt cắt bỏ, nếu còn có thể tìm lại.
Một lần, tôi đem vấn đề “báo chí cách mạng và sự thật” bàn với ông Trương Tịnh Đức, nguyên Ủy viên Ban Biên tập Đài Phát thanh Giải phóng và là giảng viên Trường Báo chí Giải phóng. Ông Trương Tịnh Đức kể: Sau Mậu Thân 1968, các cơ quan lãnh đạo của Mặt trận Giải phóng miền Nam không còn đất để trú đóng an toàn đã phải kéo sang ở nhờ đất nước bạn Campuchia. Ban Tuyên huấn Trung Ương Cục miền Nam đã có sáng kiến chỉ đạo Đài Phát thanh Giải phóng soạn bài tường thuật về một cuộc hội nghị đã được tổ chức rất hoành tráng ở giữa vùng giải phóng miền Nam. Lúc ấy ông Trương Tịnh Đức tỏ ý băn khoăn, làm như vậy là vi phạm quá nghiêm trọng tính chân thật của báo chí. Ông Võ Nhân Lý, giám đốc Thông tấn xã Giải phóng thuyết phục: “Ông đừng quá trung thành với lý thuyết. Trong hoàn cảnh chiến tranh chúng ta phải đặt lợi ích của cách mạng lên trên tính chân thật ông ạ. Báo chí cũng là một mặt trận mà”!
Dù ở hoàn cảnh nào, khi đã một lần đặt lợi ích lên trên sự thật thì từ đây các lợi ích sẽ có nhiều lý do để đòi phải tiếp tục được đặt lên trên sự thật. Đầu tháng 6/2009, trong cuộc hội nghị về “Định hướng thông tin”, ông Đặng Khắc Thắng, phó giám đốc Sở Thông tin Truyền thông tỉnh Nghệ An đã cho rằng: “Bảo định hướng thông tin phù hợp với lợi ích xã hội thật ra là phù hợp với ý kiến của lãnh đạo chứ không hẳn phù hợp với lợi ích của nhân dân”! Cứ xem cách chỉ đạo thông tin về Dự án Bauxite, vấn đề mà cả nước đang quan tâm hiện nay thì quả đúng như phát biểu của ông Thắng. Báo chí chỉ đăng ý kiến của những người hùa theo Bộ Chính trị, tất cả những phản biện của các nhà khoa học không báo nào đăng. Nhà thơ Bùi Minh Quốc có hai câu chua xót về tình trạng này:
“Khí trời mỗi ngày ta thở,
Bị ô nhiễm bởi bao lời dối trá!”

Báo chí nói tiếng nói của ai?
“Báo chí là công cụ của Đảng”! Nguyên lý đó những người làm báo Việt Nam đều phải thuộc nằm lòng. Kỷ niệm ngày nhà báo Việt nam, trước một tuần, trên truyền hình HTV, ra rả bài hát tuyên truyền: Nhà báo nhà báo Việt Nam, một lòng trung thành với Đảng. Sau “Đổi mới”, ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã có sáng kiến quan trọng thêm cho báo chí Việt Nam mệnh đề thứ hai: “Là diễn đàn của quần chúng”. Một vài cán bộ báo chí quá say sưa với “Đổi mới” cứ tưởng cái “diễn đàn” của ông Linh đã hoàn toàn chấp nhận tự do tư tưởng, nhà báo có thể phản biện mọi chính sách đã ban hành. Nhầm lẫn đó khiến không ít người phải trả giá.
Trong cuộc hội nghị “quán triệt nghị quyết Hội nghị Trung Ương” (khóa 6) ở buổi thảo luận tổ, ông Bùi Tín, khi đó là phó Tổng Biên tập báo Nhân Dân kể, ông rất khó trả lời khi các đồng nghiệp phương Tây hỏi vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa nguyên? Ông Bùi Tín cho rằng Đảng nên chấp nhận đa nguyên để thực hiện dân chủ. Theo ông, thực tế Việt Nam đã có những yếu tố đa nguyên: Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội hợp tác với nhau rất tốt đẹp; Mặt trận Tổ quốc gồm nhiều đoàn thể có những tiếng nói khác nhau; các tờ báo của mọi giới, mọi từng lớp thể hiện những mong muốn rất đa dạng. Ông Bùi Tín nói dài hơn 30 phút, được toàn tổ gồm những tổng biên tập báo, đài phát thanh, đài truyền hình lắng nghe. Tổ trưởng tổ này là ông Thái Ninh, Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung Ương không ngắt lời mà có vẻ khuyến khích ông Bùi Tín. Không ai ngờ trong buổi tổng kết hội nghị, ông Đào Duy Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách cả khối Tuyên huấn, Báo chí, Văn nghệ đã cao giọng phê phán: “Thật đáng chê trách là tại cuộc họp gồm toàn cán bộ cốt cán của Đảng mà lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ thực hiện đa nguyên! Đồng chí đó không biết rằng đa nguyên là hình thức dân chủ mỵ dân của chủ nghĩa tư bản. Đòi đa nguyên được, rồi sẽ đòi đa đảng”!
Hôm đó ông Bùi Tín ngồi ở hàng ghế gần cuối hội trường rất ít người nhìn thấy ông hai tay chống cằm, mặt cúi gằm mớ tóc dài rũ xuống hai vai, không biết ông đang bực tức hay ngượng ngùng, nhưng vẻ thiểu não thì lộ rõ.
Ít lâu sau, nhân có cơ hội đi công tác sang Pháp, ông Bùi Tín đã trình bày một cách có hệ thống quan điểm của mình trong bài trả lời đài BBC Việt ngữ. Thật ra, trước đó ở trong nước đã có nhiều người từng nói những điều ông Bùi Tín nêu ra (như các ông Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, Phan Đình Diệu…).
Năm 1989, nhân dịp đi công tác ở Bắc Triều Tiên, bà Kim Hạnh tổng biên tập báo Tuổi Trẻ đã viết một bài bút ký miêu tả rất sinh động tệ sùng bái cá nhân ở đất nước này đối với lãnh tụ Kim Nhật Thành. Tờ Tuổi Trẻ đăng bài bút ký của bà vừa phát hành thì Bắc Triều Tiên lập tức gửi công hàm phản đối Việt Nam bôi nhọ lãnh tụ và nhân dân họ.
Cuối năm đó, trong cuộc hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm hoạt động báo chí do ông Đào Duy Tùng chủ trì, chuyện phản ứng của Bắc Triều Tiên được đem ra mổ xẻ - Ông Hà Xuân Trường, Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí cộng sản xin hiến kế. Ông Trường cho rằng sở dĩ Bắc Triều Tiên có cớ phản ứng bài báo của Kim Hạnh là do cơ chế quản lý báo chí của Đảng ta: “Báo là công cụ của Đảng, báo nói tiếng nói của Đảng”. Để tránh bị phản ứng kiểu này, Đảng nên thay đổi cơ chế quản lý báo chí: Đảng lãnh đạo báo chí nhưng mỗi tờ báo có tiếng nói riêng của mình, chứ không phải chỉ nói tiếng nói của Đảng”. Hình như ông Trường chưa nói hết ý mình nhưng tiếng đập bàn khá mạnh của ông Tùng đã cắt ngang lời ông. Ông Tùng với vẻ mặt giận dữ cố nén, gằn từng tiếng: “Đồng chí phụ trách cơ quan lý luận của Đảng, chẳng lẽ đồng chí quên rằng báo chí là công cụ của Đảng là một vấn đề có tính nguyên tắc? Tôi xin nhắc lại cho tất cả các đồng chí phải ghi nhớ: Báo chí là công cụ của Đảng, nói tiếng nói của Đảng! Nguyên tắc đó là bất di bất dịch, không bao giờ được phép thay đổi, không có đổi mới ở chỗ này”! Ông Hà Xuân Trường đỏ bừng mặt, im lặng. Ông Đào Duy Tùng hạ giọng: “Vấn đề của chúng ta là phải chọn những người có trình độ chính trị vững vàng làm tổng biên tập để không phạm phải những lỗi quá ấu trĩ”.
Ông Hà Xuân Trường im lặng suốt buổi họp còn lại. Trước đây, ông Trường đã một lần bị hụt chân khi cùng với các ông Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Nguyễn Kiến Giang tán thành quan điểm “xét lại hiện đại” của Tổng Bí thư Khrushchev. Tất cả các ông kia đều phải vô tù, chỉ ông Trường mau mắn xin sám hối cho nên được thăng quan tiến chức.
Lần này, Đảng không bỏ qua cho ông. Đại hội Đảng khóa 7, mặc dù ông hãy còn trẻ, khỏe hơn nhiều người khác, nhưng đã không được đề cử vào Ban Chấp hành Trung Ương và phải trao lại chiếc ghế Tổng Biên tập Tạp chí Cộng Sản cho ông Hà Đăng, dù ông này không có nhiều lý luận bằng ông.
Bà Kim Hạnh lại phạm một lỗi mới không thể tha thứ đó là đưa lên Tuổi Trẻ một tin rất cũ: Bác Hồ đã từng có vợ! Toàn thế giới đã biết chuyện này, nhưng người Việt Nam chưa được phép biết. Lần này bà bị cấm làm báo vô thời hạn! Nhưng thật đáng khen, bà đã có sáng kiến đẻ ra tờ Sài Gòn Tiếp Thị bằng cách nhẫn nại âm thầm đứng sau lưng một người khác.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội 6 Đổi mới của Đảng, Quốc hội Việt Nam xây dựng Luật Báo chí. Tại cuộc họp này, giáo sư Lý Chánh Trung, một cây bút báo chí nổi tiếng trước 1975 (với những bài viết chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đặc biệt có bài viết ca tụng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc vĩ nhân khi cụ từ trần) đề nghị cho xuất bản báo chí tư nhân, đúng tinh thần của Hiến pháp và phù hợp với xu thế mở rộng dân chủ, hội nhập. Có lẽ giáo sư không thể ngờ vấn đề ông đặt ra lại gây bực tức cho các nhà lãnh đạo của Đảng đối với ông, đặc biệt là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Người chống lại ông mạnh mẽ nhất không phải các đảng viên là đại biểu quốc hội mà là bà luật sư Ngô Bá Thành, người đồng đội của ông ở nội thành ngày nào. Cũng khoảng thời gian này, với tư cách Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật, giáo sư Trung tổ chức cho nhà văn trẻ Dương Thu Hương nói về quyển tiểu thuyết “Những thiên đường mù” đang gây xôn xao dư luận bởi động tới một đề tài cấm kỵ trước “Đổi mới”- Ông đã không ngờ, quyển sách này bị coi là vượt xa ranh giới “Đổi mới, một quyển sách chống Đảng! Giọt nước tràn ly - Giáo sư không được Mặt trận Tổ quốc đề cử vào danh sách Quốc hội khóa kế tiếp. Tệ hại hơn, đây đó râm ran rằng lợi dụng tình hình Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, một số phần tử thuộc lực lượng thứ 3 đang âm mưu diễn biến hòa bình, cụ thể là giáo sư Lý Chánh Trung tạo diễn đàn cho nhà văn phản động Dương Thu Hương chửi Đảng, rồi dùng diễn đàn Quốc hội đòi cho ra báo tư nhân. Tại Trường cán bộ cao cấp quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh đến nói toẹt câu chuyện trên nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cho các sĩ quan. Ông bộ trưởng đang hùng hồn thì bất ngờ một sĩ quan trẻ đập bàn hét lớn: “Nói láo!” rồi đứng lên rời khỏi hội trường. Lập tức cảnh vệ đuổi theo đưa anh gặp đại tá phó Hiệu trưởng. Đó là đại úy Lý Tiến Dũng, quân nhân có quân hàm thấp nhất cuộc họp, vừa mới từ chiến trường chống bọn diệt chủng Pol Pot trở về. Trả lời ông đại tá, Lý Tiến Dũng nói: “Nếu ban nãy ngồi đối diện với ông ấy, tôi đã cho một cái tát! Bởi vì tôi không thể ngồi nghe kẻ nào chửi cha mình”. Sau đó, anh cởi áo lính, đi tập viết báo. Hơn 10 năm sau, anh trở thành một cây bút chính luận sắc bén, rồi trở thành Tổng Biên tập báo Đại Đoàn Kết và nổi tiếng vì dám quyết định đăng thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu không phá bỏ Hội trường Ba Đình, sau khi đã có lệnh cấm của Ban Tuyên huấn Trung Ương Đảng (có 9 tờ báo không dám đăng lá thư này). Anh bị bãi chức tổng biên tập bởi đi không đúng “lề phải” cua ông Lê Doãn Hợp, lại còn viết bài xài xể phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung Ương Hồng Vinh là người thiếu năng lực và không có tư cách (Hồng Vinh cũng là người không cho báo Quốc Tế của Bộ Ngoại giao đăng bài của ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt chất vấn, nhưng không được Trưởng ban Tuyên huấn Nguyễn Khoa Điềm trả lời).
Trong cuộc họp Hội đồng Nhân quyền năm 2009, nhiều quốc gia yêu cầu Việt Nam cho xuất bản báo chí tư nhân đã bị Việt Nam bác bỏ. Thật ra, dù cho ra báo chí tư nhân mà vẫn phải chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Đảng Cộng sản thì cũng không thực sự có tự do báo chí, không thoát khỏi chiếc “kim cô” công cụ. Những năm vận hành của tờ Tin Sáng sau 1975 đã chứng minh điều ấy. Tin Sáng không phải là tờ báo được thông tin tự do, bởi thường xuyên phải nhận chỉ thị “định hướng”. Thế mà Đảng vẫn không yên tâm, vẫn buộc nó sớm “hoàn thành nhiệm vụ”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hồi Ký Đến Già Mới Chợt Tỉnh - Tống Văn Công

Postby bevanng » 28 Aug 2018

Nhà báo là “chiến sĩ”
Nhà báo được Đảng Cộng sản vinh danh là “những chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Vinh dự này khiến cho nhiều người không tích cực trau dồi nghề nghiệp mà chỉ cố nâng cao lập trường tư tưởng. Cứ đọc lại báo chí Việt Nam hồi Cải cách Ruộng đất và chống Nhân văn - Giai phẩm sẽ thấy các “chiến sĩ xung kích” đã bóp méo sự thật, vu khống trắng trợn như thế nào để biến hằng ngàn người dân vô tội trở thành bọn cường hào gian ác, biến ông Nguyễn Hữu Đang, nhà yêu nước lão thành (người thiết kế và chỉ đạo thi công lễ đài Ba Đình cho kịp buổi lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945), nhà báo, học giả Phan Khôi, một nhà báo lỗi lạc, nhà văn Thụy An trở thành những tên gián điệp nguy hiểm!
Những cây bút không “xung kích” theo đúng mục tiêu của Ban Tuyên huấn Đảng đều bị loại bỏ từng thời kỳ. Sau giải phóng miền Bắc, nhà báo Hiền Nhân và nhiều cây bút của Hà Nội trước kia phải cất bút. Sau khi báo Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, đội ngũ này được phân loại, chỉ cho một số ít người được tiếp tục làm báo. Chủ nhiệm báo Ngô Công Đức, Tổng Biên tập Hồ Ngọc Nhuận được mời một cách lịch sự đi làm công việc khác. Ông Nhuận được làm Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc TPHCM, nghe có vẻ sang trọng nhưng là để vô hiệu hóa cây bút báo chí sắc bén và trung thực này. Nhiều cán bộ báo chí từ “phong trào” nhưng trong quá trình làm việc tỏ ra không tuân thủ sự chỉ đạo của Tuyên huấn Đảng cũng bị loại khỏi “đội ngũ xung kích” như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Kim Hạnh, Thế Thanh…, nhà văn Nguyên Ngọc, vì viết bản “Đề dẫn” đòi mở rộng tự do sáng tác và cho đăng Nguyễn Huy Thiệp phơi bày ung bướu trong cơ thể “xã hội chủ nghĩa tốt đẹp”, phải bị bãi chức. Chỉ vì bênh vực ông Nguyên Ngọc, nhà thơ kiêm nhà báo Bùi Minh Quốc đã bị khai trừ khỏi Đảng và treo bút.
Năm 1994, làng báo Việt Nam xảy ra chuyện ầm ĩ ở báo Lao Động. Bốn cán bộ cốt cán của báo là Tổng thư ký tòa soạn Lý Quý Chung, Trưởng ban Kinh tế - Xã hội Trần Trọng Thức, Chánh văn phòng Nguyễn Hữu Tính, cây bút phiếm luận Ba Thợ Tiện (tức Hoàng Thoại Châu từng được giải nhất về thơ thời đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa) đề nghị Tổng Biên tập chọn giữa bốn người họ, hoặc ông Hồng Đăng phó Tổng biên tập, vì ông này hách dịch tới mức anh em không chịu nổi. Hồng Đăng phản công lại bằng cách bắn tin với Tổng cục 2 (Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng) rằng ở báo Lao Động có một nhóm âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”. Vậy mà Bộ chính trị sợ hãi, ra quyết định không cho một số người, trong đó có tổng biên tập tiếp tục làm báo!
Có những người đã được coi là đạt tiêu chuẩn làm báo, nhưng sau đó vì có quan hệ với người không được tin cậy thì cũng phải bị loại. Ông Nguyễn Ngọc Lan không cùng quan điểm với Đảng về vụ Phong thánh Tử Đạo thì vợ ông, bà Thanh Vân, dù đang là cây bút đắc lực của tờ Tin Quận 5 cũng phải bị sa thải. Trong “Nhật ký 1990-1991”, Nguyễn Ngọc Lan viết theo lời chị Thanh Vân: Chỗ làm vẫn cần, nhưng có quyết định cho nghỉ việc của Ủy ban Nhân dân quận và Quận Ủy. Tru di tam tộc đó mà. Ông trưởng phòng và bà phó phòng đùn đẩy nhau việc đưa tờ quyết định nghỉ việc cho nhà báo Thanh Vân, vì thấy nó kỳ cục quá, không mở miệng được. Các bạn đồng nghiệp thì được một bữa khóc.
Ông Trần Trọng Thức nhiều năm là giáo viên thỉnh giảng của khoa báo chí Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TP Hồ Chí Minh nhận xét nội dung đào tạo người làm báo như sau: Chương trình đại học báo chí không coi trọng đúng mức phần nghiệp vụ báo chí. Trong 194 đơn vị học trình, chỉ có 30 đơn vị học trình cho các môn tác nghiệp báo chí. Các thể loại thông tấn chỉ có 4 đơn vị học trình. Chính vì phải đào tạo “Nhà báo là chiến sĩ sắc bén về tư tưởng”, cho nên các học phần về triết học, chính trị Mác - Lê được đặt cao hơn các bài học về nghiệp vụ. Học viên báo chí được tuyển với tiêu chuẩn chính trị (lý lịch gia đình, quan điểm lập trường), cao hơn nghề nghiệp, cho nên có 50% học viên không có năng khiếu làm báo, có 20% số người tốt nghiệp đại học báo chí không viết được bài.
Từ sau 30/4/1975, báo chí cách mạng có gì mới?
Xin nói rằng: Có! Báo chí miền Bắc trước 1975 là hóa thân của loại truyền đơn tuyên truyền. Những sự kiện lớn như Đại hội Đảng, Kỳ họp Quốc hội, các báo chỉ được phép đăng lại đúng bản tin của Thông tấn xã Việt Nam.
Điều đặc biệt mới mẻ sau 1975 là sự có mặt của tờ nhật báo Tin Sáng và tạp chí Đứng Dậy. Mặc dù cũng phải lựa lời mà nói theo cái khuôn của Ban Tuyên huấn Đảng đưa ra, Tin Sáng có cách viết mới mẻ gần với sự thật hơn những đứa con ruột của Đảng. Đương nhiên tờ Tin Sáng có số phát hành cao hơn báo Đảng. Đó là điều chế độ không thể chấp nhận.
Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, Ban Tuyên huấn của Đảng sàng lọc những người ít gai góc, đưa về tăng cường cho hai tờ báo Sài Gòn Giải Phóng Tuổi Trẻ. Nhóm về Tuổi Trẻ nhanh chóng biến tờ báo này từ một tờ “nội san của Thành đoàn” trở thành một tờ báo thông tin đa dạng, sinh động. Sở dĩ nhóm này làm được điều đó là do có hai nhà báo giỏi là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức. Nguyên nhân thứ hai không kém quan trọng là ông Tổng Biên tập Võ Như Lanh (vào nghề từ việc làm nội san của phong trào sinh viên) đã mạnh dạn giao việc cho các anh có nghề. Trái lại, bên báo Sài Gòn Giải Phóng, Tổng Biên tập vốn là Tổng Giám đốc Thông tấn xã Giải Phóng, đương nhiệm phó trưởng ban thứ nhất Ban Tuyên huấn Thành Ủy, người từng có lý thuyết “lợi ích cách mạng cao hơn sự thật”, đâu có thể để cho các nhà báo chế độ cũ dạy mình phải làm báo như thế nào!
Tờ Tuổi Trẻ không lâu sau đã được bạn đọc vồ vập. Ban đầu bạn đọc của nó là sinh viên, học sinh, dần dần nó giành cả bạn đọc là cán bộ, đảng viên của báo Đảng, khiến báo chí cả nước nhìn vào nó để học hỏi đổi mới nội dung và hình thức. Tuy vậy những “ông thầy” ở đây vẫn không được quý trọng. Chị Kim Hạnh, Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ (sau ông Võ Như Lanh), đã từng thổ lộ: Quản lý các anh này luôn bị trên đe dưới búa. Cấp trên thì lo ngại dò xét, còn các anh thì hay đấu tranh khi có những bài bị gác không thỏa đáng. Cuối cùng số đông trong Ban biên tập muốn tòa báo khỏi bị xoi mới vì sự có mặt của các nhà báo chế độ cũ. Thế là xảy ra cuộc “di cư” của hai ông thày Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức và kéo theo họ có bảy học trò từ Tuổi Trẻ xin sang Lao Động, đưa tới sự ra đời báo Lao Động Chủ Nhật năm 1990 nổi tiếng một thời. Trước đó, báo Lao Động chỉ bán cho các tổ chức công đoàn mua bằng tiền “kinh phí”. Sau khi nhóm anh em này về, nhiều cây bút xuất sắc cũng kéo nhau về, biến Lao Động trở thành tờ báo mạnh nhất của báo chí ở cấp trung Ương của Việt Nam, tấm gương đổi mới cho báo chí cả nước. Tiếc thay nó bị nghiêng đổ bởi một lý do không đâu như đã kể ở trên.
Hai người góp phần to lớn đổi mới báo chí cách mạng Việt Nam là Lý Quý Chung, Trần Trọng Thức không được ghi nhận. Ngay ở Tuổi Trẻ những ngày kỷ niệm thành lập tờ báo cũng không ai đánh giá đúng công lao của họ.
Tuy nhiên, khi tự do báo chí chỉ là hình thức thì những cố gắng đổi mới thật ra cũng chỉ là hình thức, không có mấy thực chất. Cái được nổi bật nhất trong những năm đầu đổi mới là đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu. Tuy nhiên quan liêu, tham nhũng không hề yếu đi mà càng ngày càng mạnh lên. Sau năm 2000, báo chí lép vế dần trước tham nhũng, cho tới khi xảy ra sự kiện hai nhà báo chống tham nhũng bị bắt, bị xử tù thì thế thượng phong của báo chí chống tham nhũng đã chấm hết.
Qua 20 năm đổi mới, báo chí cách mạng Việt Nam đang đứng trước hiện trạng sau đây:
1. “Báo chí công cụ” đã làm cho những người làm báo Việt Nam càng ngày càng thụ động, không có suy nghĩ độc lập, thui chột năng lực sáng tạo. Người viết xã luận thì nhai đi nhai lại nghị quyết của Đảng, bài năm nay na ná bài năm ngoái. Người viết điều tra thì chỉ dựa vào kết luận của cơ quan công an. Một lớp nhà báo thiếu lòng yêu nghề chỉ hám chức tước, bổng lộc. Miệng thì nói phục vụ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực bụng là nhằm mục tiêu trở thành những ông “quan báo”.
Trong tình trạng đạo đức băng hoại, có không ít nhà báo móc ngoặc làm tiền, trở thành giàu có một cách phi pháp.
Từ chỗ chỉ làm công cụ của Đảng, báo chí bắt đầu làm công cụ cho các “đại gia”, bị họ sai khiến và khinh rẻ. Một phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã bị con rể bà Tư Hường (một đại gia và là bạn của nhiều nhân vật lãnh đạo cao nhất nước) tát giữa tiệc chiêu đãi mừng thành công cuộc thi Hoa hậu Thế giới. Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Đinh Thế Huynh có công văn yêu cầu phải làm rõ, xử lý nghiêm vụ này trước pháp luật để bảo vệ nhà báo. Nhưng vụ việc đến nay hơn một năm đã lặng lẽ chìm xuồng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,330
Posts: 14096
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 90 guests