Đọc ĐI LẤY CHỒNG XA và NƯỚC MỸ LẠNH LÙNG của Huy Phương
“Phát biểu của nhà văn TOÀN PHONG Nguyễn Xuân Vinh trong buổi ra mắt sách của Huy Phương tại San José, California ngày 3/6/2006.Hôm nay, vào ngày 3/6/2006 ở Hội Trường Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc Cali, ở San Jose, chúng ta có nỗi vui mừng được đón nhà văn Huy Phương với tác phẩm “Đi Lấy Chồng Xa” của anh. Nhìn trong giấy mời chúng ta không thấy có chương trình viết như thường lệ là có một người giới thiệu tác giả và tiếp theo đó có một nhà văn lên tiếng theo để phân tích và giới thiệu tác phẩm. Vì vậy, chúng ta có thể nghĩ là ban tổ chức đã đi ra ngoài khuôn khổ đó vì Huy Phương đã là một nhà giáo, một nhà văn quân đội rất quen thuộc với chúng ta, và tác phẩm là một tuyển tập những bài anh viết cho mục tạp ghi trên báo Người Việt, chúng ta cũng đã có lần đọc, nên lần ra mắt sách này có thể chỉ là một sự giới thiệu những bài viết tiêu biểu cho ta thấy góc nhìn đặc biệt của anh khi quan sát những mảnh đời tỵ nạn mà thôi.
Sự thực theo tôi hiểu thì nhà văn, nhà báo Thanh Thương Hoàng, là người thu xếp chương trình, đã muốn tổ chức cho chúng ta một buổi chiều văn học, cho chúng ta gặp tác giả, cho chúng ta biết đến tác phẩm, và đồng thời giới thiệu một loại văn ký sự và tùy bút mà đôi khi chúng ta gọi là viết truyện phiếm, khác với lối sáng tác văn học khác, viết truyện ngắn truyện dài, hay làm thơ đủ các thể loại chúng ta đã được biết đến qua những buổi ra mắt sách có thường xuyên ở Thung Lũng Hoa Vàng được coi như là Trung Tâm Văn Học của người Việt tỵ nạn ở miền Tây Hoa Kỳ. Những bài viết của Huy Phương, mà anh gọi là tạp ghi, là những bài phiếm luận, cho đến nay chỉ có một số nhà văn, nhà báo viết được và thành công mà thôi.
Để khởi đầu, trong văn học Việt Nam, chúng ta có thi sĩ Tản Đà là người viết phiếm luận được người đọc thấy thích thú. Thường thì lối viết văn này mà ta có thể coi như là viết truyện dông dài, là rất thích hợp cho một mục được mở ra trên những nhật báo hay tuần báo, trên đó người phụ trách có thể lấy bất kỳ một tin tức nào hay một sự việc nào làm điểm khởi đầu để bàn thêm qua những những nhận xét của mình, thường thì với một lối hành văn có vẻ châm biếm, đôi khi mỉa mai, nhưng bao giờ cũng nhằm mục đích xây dựng cho xã hội chúng ta sinh sống được lành mạnh hơn lên.
Nếu bài viết có tính cách chỉ trích, bêu xấu nhau, thì tác giả không thể được coi như là viết phiếm luận. Trước năm 1975, mục phiếm luận được nhiều người biết đến là mục “Ao Thả Vịt” do Chu Tử phụ trách trên những tờ báo mà nhà văn làm chủ nhiệm. Cùng viết truyện phiếm vào thời ấy có Thương Sinh, tức là nhà văn Duyên Anh, và nhà văn Không Quân Dương Hùng Cường viết dưới bút hiệu Dê Húc Càn. Nhà văn, nhà báo Hiếu Chân cũng là một bình bút viết những chuyện phiếm thật xuất sắc trên Nhật báo Tự Do vào thời khoảng 60. Đặc biệt trên tờ báo này có mục “Đàn Ngang Cung”, đăng những bài phiếm luận và châm biếm theo thể thơ do thi sĩ Hà Thượng Nhân phụ trách.
Sau năm 1975, khi ngành báo chí ở hải ngoại bắt đầu mở rộng, nhiều nhà văn bắt đầu viết những câu chuyện có tính cách trào phúng, và khi được độc giả mến mộ, khởi đầu chọn một mục phiếm văn để viết cho những nhật báo có tầm vóc, hay những tuần báo hay nguyệt san. Đã gọi là phiếm luận thì nhà văn hay nhà báo có thể chọn bất cứ đề tài nào, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, nhưng thường thì là một chuyện xẩy ra trong xã hội đương thời, và bàn luận dưới góc nhìn của mình. Khi viết được một thời gian, những mục Ao Thả Vịt hậu 75 được độc giả để ý đến, và người phụ trách, nay là một nhà viết truyện phiếm thành danh, khi cảm thấy thoải mái, vùng chân trời chọn lựa được mở rộng nên những bài viết trở nên phong phú hơn. Trong những người viết đã được độc giả ở hải ngoại mến mộ, chúng ta phải kể đến Đặng Trần Huân và Huỳnh Văn Phú khi viết ký tên thật. Một người cũng thường xuyên viết cho mục Tạp Ghi trên nhiều báo là ký giả Lô Răng, tức là nhà văn Phan Lạc Phúc, nhưng khi viết anh hướng nhiều về thông tin hơn là bình luận. Người viết phiếm nhiều nhất và được một số đông độc giả theo dõi là nhà văn Bùi Bảo Trúc, cựu phóng viên cho đài Voice of America, trong những mục Thư Gửi Bạn Ta, đăng trên nhiều báo.
Trên những ấn bản của Saigon Nhỏ ở nhiều miền khác nhau, người viết phiếm luận hàng tuần có bút hiệu là Đào Nương, của bà chủ nhiệm Hoàng Dược Thảo, cũng được nhiều độc giả theo dõi hàng tuần. Cùng trong phái nữ, được thành công hơn cả chúng ta phải nhắc đến nhà thơ Cao Mỵ Nhân, người viết phiếm luận cho mục “Chốn Bụi Hồng” trên nhiều tờ báo và cô Kathy Trần với những bài phiếm luận hài hước và thâm thúy nhưng có tính cách xây dựng xã hội, được đăng trên nhiều tập san định kỳ.
Và sau cùng đáng kể trên hàng đầu trong những người viết phiếm luận ở hải ngoại, là người khách danh dự của chúng ta ngày hôm nay, nhà giáo, nhà văn quân đội Huy Phương. Anh gọi những bài mình viết là Tạp Ghi và vì thế Bùi Bảo Trúc là con người viết phiếm luận nhiều nhất đã tặng ngay Huy Phương danh hiệu là “người viết tạp ghi hay nhất trong làng báo hải ngoại”. Theo Bùi Bảo Trúc thì tạp ghi là một danh từ Hán Việt được kết hợp rất kỳ lạ, nửa Hán nửa Việt và nếu viết toàn chữ Hán thì dùng danh từ là Tạp Ký. Nhưng theo ý tôi thì Tạp Ký chỉ có ý nghĩa ghi lại mà không phân loại, nhưng danh từ Tạp Ghi mà người mình quen dùng từ xưa là để chỉ những bài viết về đủ mọi đề tài và có bình luận theo góc độ nhìn của người viết. Đó là loại mà những báo Hoa văn xử dụng trong những mục được gọi là Tạp Bình.
Tập sách được giới thiệu lần này là tập Tạp Ghi thứ hai của tác giả. Tập sách đầu gồm có 44 bài được Huy Phương gom lại dưới đề là “Nước Mỹ Lạnh Lùng” mới đưa ra năm 2003 đã được nhiều nhà bình luận khen ngợi và được tái bản liên tiếp hai lần liền trong những năm sau. Tập tiếp theo “Đi Lấy Chồng Xa”, mà chúng ta đang có trong tay gồm có 57 bài mới được đưa ra đầu năm nay và chưa đầy nửa năm đã được in lại cho lần giới thiệu này ở Bắc Cali. Để bày tỏ hiện tượng sách tạp ghi được ưa chuộng, nhà báo Vũ Ánh đã có nhận định là: “Ngày nay những nhà văn viết tạp ghi được kính trọng như những người sống thật với cuộc sống”. Đọc những lời nhận xét này cho ta thấy một điều hiển nhiên là những tạp ghi nói lên sự thực của bất kỳ vấn đề gì người viết được chứng kiến, hay thu lượm qua những tin tức có kiểm chứng. Nhưng khác với các phóng viên viết tin, nhà văn viết chuyện phiếm, mà ở đây ta dùng danh từ Tạp Ghi, đã bình luận, đã nhận xét, đã phê bình xây đựng nhưng không đả phá, theo góc nhìn của ông. Trong tập sách này, gồm có 289 trang, một phần những bài viết nói về chuyện trong nước, và phần còn lại nói về đới sống trên nước người. Ta thử lấy một vài bài tiêu biểu để giới thiệu văn tài của Huy Phương và biết tại sao anh là tác giả viết tạp ghi được nhiều người mến mộ.
Bài đầu tiên có đề là “Đi Lấy Chồng Xa”, cũng là bài dùng để đặt tên cho tập truyện. Mới nghe thì ta nghĩ đến một cảnh huống như người chị đi lấy chồng trong Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính hay trong bài hát có con chim đa đa, bay đi xa để người trong cuộc tự hỏi là sao em không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa. Người chị của tác giả hơn anh 15 tuổi, đã đi lấy chồng khi anh mới lên ba, cái tuổi đủ nhận xét để thấy người mẹ và người chị đã khóc khi phải chia tay, dù rằng gái lớn ai không phải lấy chồng, và nếu có duyên may sẽ được hưởng hạnh phúc. Sau này, đất nước chia đôi, gia đình chị lại ở phía trên miền vĩ tuyến, nên đã phải xa bố mẹ, và khi chị về được thăm quê quán thì song thân đã qua đời. Câu chuyện gợi cảm cho tác giả, nhưng điều làm anh thật sự xót xa là giờ đây nghĩ đến thân phận của những người con gái Việt Nam hiện đại, những người chị của những cậu bé lên ba của những thế hệ sau, nghĩa là cho đất nước hiện nay của chúng ta. Chỉ trong vài chục năm ngắn ngủi, cái lễ nghĩa, liêm, sỉ khi xưa trên quê hương nay không còn. Những người chị của những cậu bé thời nay đã tự mình tô lục chuốt hồng để được rao bán, như một món hàng để người ta xuất cảng chị ra nước ngoài, đem về cho chính phủ của chị một món ngoại tệ, cho cha mẹ một số tiền trả ơn trả nghĩa phải chăng. Rồi tác giả viết kết luận: “Chị như cánh lục bình rời xa con rạch cũ, lỡ trôi dạt ra tới biển Đông rồi, sẽ không bao giờ trở lại nhánh sông xưa. Thương chị, lòng tôi ray rứt không yên.” Cái tuyệt vời trong câu chuyện là tác giả đã móc nối hai cảnh ngộ, xưa và nay, hai khung cảnh chia ly của người chị đi lấy chồng gần hay lấy chồng xa, để tự người đọc nhận thấy cái xa đọa của một chính thể đã bần cùng hóa người dân, để có những người con gái tự tìm lấy một thoát ly, mong thấy một chút ánh sáng trong lúc tuyệt vọng của đói nghèo.
Câu chuyện thứ hai là câu chuyện bên xứ người, chuyện “Người Mễ Bán Hoa”. Chúng ta đã biết là hiện nay Quốc Hội Hoa Kỳ đang bàn thảo dự luật để hợp thức hóa những người di dân bất hợp pháp, mà đa số là người Mễ Tây Cơ đã bất chấp nguy hiểm, hoặc bơi qua sông La Grande ngăn cách xứ họ bần cùng và nước Hoa Kỳ là nơi họ cho là thiên đàng, dù chỉ làm lao động cũng kiếm tiền dễ dàng. Điều đáng nói là những người này họ chỉ cần kiếm được chút tiền để dành dụm tháng tháng gửi về quê nhà cho vợ con hay cha mẹ còn ở lại. Họ không có thẻ thường trú nên không có công việc làm ổn định và thường thì đứng ở gần những hiệu bán đồ xây cất như Home Depot để chờ có những người thuê làm những việc lao động nặng nhọc như khuân vác hay làm vườn. Có những người đứng ở những góc đường cầm bán những bó hoa lay vài đô la cho những người lái xe phải dừng lại để đợi những đèn xanh đỏ đổi mầu.
Phải qua bài viết của Huy Phương, khi anh nói lên những suy tư của mình, người đọc mới thấy thấm thía muốn chia sẻ với những người bán hoa chỉ mong đợi đèn đỏ cháy lâu hơn một chút nữa để có thì giờ chào khách mua hoa, nhưng buồn thay trước khi người lái xe cho được tay vào túi lấy tiền thì màu xanh, xưa nay vẫn là màu hy vọng, đã lại hiện ra để người lái xe rồ máy chạy đi còn để lại thất vọng não nề cho người còn cầm hoa đứng chơ vơ lại ở bên đường. Tác giả đã gặp cảnh này khi anh lái xe về nhà một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh. Anh đã nghĩ đến người Mễ bán hoa để kiếm thêm mấy đô la gửi về cho mấy đứa con đang chờ đợi một chút quà Giáng Sinh muộn ở quê nhà, phía Nam biên giới. Nhưng đèn xanh đã bật, những người lái xe ở phía sau bóp còi dục vì họ vội vã về nhà, cũng có những đứa con đang đợi những quà Giáng Sinh, có lẽ sang trọng hơn. Tác giả đã rồ máy phóng đi nhưng tâm tư trĩu nặng mối sầu man mác, và anh đã viết lên ý nghĩ của mình những dòng chữ cho bài tạp ghi lần tới.
Có những việc làm ta suy nghĩ rất nhiều và tế nhị đến độ đôi khi cũng không nên nói ra vì sợ hiểu lầm. Đó là có nên hay không đóng góp vào những chương trình cứu trợ giúp trẻ em khuyết tật, sửa chữa đình chùa, xây dựng trường học, và hàng năm đóng góp vào những quỹ cứu trợ những nạn nhân thiên tai ở bên nhà. Huy Phương nêu những vấn đề này lên trong bài tạp ghi “Con Bò Sữa Hải Ngoại”. Anh không đi đến kết luận vì là vấn đề tế nhị. Anh chỉ nêu lên những con số và đặt những câu hỏi như là: Tại sao những công tác về y tế, giáo dục, xã hội như xây trường, xây bệnh viện, làm đường, đào giếng nước, giúp đỡ người đau ốm, CS không muốn làm, trong khi lại khuyến khích việc xây khách sạn, nhà hàng, khiêu vũ trường, sân đánh gôn. Tại sao những cán bộ cộng sản và những tay nhà giầu có gửi con đi du học, chịu tốn kém hàng nghìn đô la hàng năm trong khi chúng ta gom góp từng đồng bạc hải ngoại để mua từng cuốn tập, cây viết, đôi dép cho dám học sinh nghèo. Vì sao bọn cán bộ cao cấp quyền thế trong chế độ CS có năm bẩy chiếc xe hơi đắt tiền, có nhiều ngôi nhà cho thuê, có hàng ngàn cổ phần trong những công ty lớn, thì ở hải ngoại chúng ta lại đi kêu gào xin từng tấm tôn để lợp nhà cho dân. Đây là một vấn đề rất khó xử giữa lý và tình, giữa thái độ chính trị và lòng nhân đạo. Vấn đề này đã gây nhiều tranh luận cho chúng ta, giữa những người lớn tuổi có kinh nghiệm đấu tranh chống cộng sản và lớp trẻ năng hoạt động và giầu tình thương.
Tôi đã để suốt hai ngày cuối tuần để đọc xong cuốn “Đi Lấy Chồng Xa”, vì dù thích lối hành văn của Huy Phương đến đâu tôi cũng không thể nào đọc sách thẳng một mạch vì những vấn đề anh nêu lên, những tệ nạn bên quê nhà, những điều Việt cộng bịa đặt để tuyên truyền lừa bịp, và trong cuộc sống ly hương của chúng ta bên xứ người cũng có những thảm cảnh, những xung khắc giữa các thế hệ, những điều đó chúng ta cần biết và được biết qua những nhận xét thật sâu sắc của tác giả, đôi khi niềm thương cảm của anh cũng lây sang cho tôi là người đọc, để đôi khi phải buông sách xuống khi thấy xót xa mà nghĩ đến thân phận con người còn phải sống dưới một chế độ phi nhân. Đọc xong cuốn sách, tôi vì tham lam nên tìm đọc cả cuốn tạp ghi “Nước Mỹ Lạnh Lùng” của Huy Phương. Tôi không khỏi chia xẻ cùng ý nghĩ với nhiều nhà phê bình có tầm vóc trước đây là anh viết rất chừng mực, một lối viết của một người nhân hậu, của một nhà giáo, với những nhận xét thật sâu sắc để người đọc phải suy nghĩ nhưng không khỏi chia xẻ với tác giả những nhận xét của anh.
Để kết luận tôi cũng xin có vài lời tạp bình. Tuy mới gặp Huy Phương nhưng tôi đã đọc anh từ hai năm nay vì được các bạn chủ báo ở Nam Cali ưu ái gửi lên cho đọc hàng ngày. Tên của anh cũng quen thuộc với tôi từ mấy chục năm nay. Huy là ánh sáng, và Phương có nghĩa là thơm, là tốt đẹp cũng là tên của những người thân tình, ruột thịt với tôi. Tôi đã có duyên may trước đây có những người cộng sự thân tình, bút hiệu cũng bắt đầu bằng chữ Huy, như các anh Huy Quang Vũ Đức Vinh, và Huy Sơn Dương Quang Thuận, và nay có người bạn văn là Huy Phương Lê Nghiêm Kính. Tôi cũng như anh đã nghĩ đến Huy Cận và cũng thích thơ Huy Cận để đôi khi cảm thấy: “Tai nương giọt nước mái nhà, Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.” Trong một bài phỏng vấn của Đào Vũ Anh Hùng cho đài VOA tôi cũng đã trả lời là thích thơ của Huy Cận và đặc biệt là bài “Ngậm Ngùi”. Và tôi cũng đã nói là tiếc cho Huy Cận đã không còn làm được thơ lãng mạn để làm xao xuyến những con tim thơ bé tuổi mười lăm khi nhà thơ bị nhiễm vào vùng lầy của căm thù và dối trá do bác và đảng tạo ra làm thành khổ nạn cho dân tộc. Giờ đây tôi lại đọc được những ý tưởng này trong bài cuối cùng của tập tạp ghi, bài “… Nghe Ta Buồn Buồn.” Huy Phương viết để tưởng nhớ Huy Cận.