[center]Cánh Buồm Đỏ Thắm
- Tác Giả : Green, Alexander[/center]
Chương 1 - Lời tiên đoán
Lông-gren là thủy thủ của con tàu "s-ri-on" chở được ba trăm tấn. Anh làm việc trên con tàu đó đã mười năm và gắn bó với nó có lẽ còn thân thiết hơn là con với mẹ. Nhưng cuối cùng thì anh cũng phải rời bỏ con tàu. Chuyện xảy ra như thế này. Vào một trong những chuyến về thăm nhà hiếm hoi, anh không thấy chị Mê-ri, vợ anh, từ xa đứng trên ngưỡng cửa vẫy vẫy tay, rồi sau đó chạy tới đón anh, thở hổn hển chừng như đứt hơi. Bên chiếc giường trẻ con
-đồ vật mới trong căn nhà nhỏ của Lông-gren
-anh chỉ thấy bà hàng xóm với dáng vẻ đầy xúc động.
-Đã ba tháng rồi tôi phải chăm sóc nó đấy,-bà hàng xóm nói.
-Anh hãy nhìn con gái anh đi! Lông-gren lặng người, cúi xuống đứa trẻ tám tháng đang chăm chăm nhìn bộ râu dài của anh, rồi anh ngồi xuống, đầu cúi, tay vân vê bộ râu. Râu anh ướt đầm vì mưa.
-Mê-ri chết bao giờ hở bác?
-Anh hỏi. Người đàn bà kể lại câu chuyện buồn thảm, chốc chốc dừng lại nựng đứa bé và quả quyết rằng Mê-ri đã được lên thiên đường. Khi Lông-gren biết rõ câu chuyện thì thiên đường đối với anh chẳng sáng sủa hơn nhà chứa củi là bao nhiêu, và anh nghĩ rằng nếu như bây giờ có cả vợ anh thì ánh lửa của chiếc đèn nhỏ có thể là một niềm vui không gì thay thế được đối với người phụ nữ đã đi vào xứ sở huyền bí. Chừng ba tháng trước, người mẹ trẻ gặp phải chuyện không may. Hơn nửa số tiền Lông-gren để lại, Mê-ri đã tiêu tốn vào việc chữa chạy sau lần đẻ khó, vào việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ sơ sinh. Thêm nữa, Mê-ri lại đánh mất một số tiền tuy không nhiều nhưng rất cần cho cuộc sống của hai mẹ con. Hoàn cảnh khó khăn đó đã buộc Mê-ri phải đến nhà Mê-néc vay tiền. Mê-néc là chủ quán rượu, có một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Y được coi là kẻ giàu có. Mê-ri đến nhà y vào lúc sáu giờ tối. Gần bảy giờ, bà hàng xóm gặp chị trên đường đến thị trấn Li-xơ. Mê-ri vừa khóc vừa buồn bã kể rằng chị phải đi lên phố để cầm chiếc nhẫn cưới. Chị nói thêm rằng Mê-néc đồng ý đưa tiền cho chị, nhưng đòi chị phải yêu hắn. Mê-ri đành về không.
-Nhà cháu không còn gì ăn, bác ạ.
-Chị nói với bà hàng xóm.
-Cháu phải đi lên phố cố kiếm ít tiền, rồi hai mẹ con gắng lần hồi cho đến khi nhà cháu về. Tối hôm đó trời vừa rét vừa có gió thổi, bà hàng xóm đã không ngăn được Mê-ri đi lên phố vào ban đêm. "Cháu sẽ bị ướt, Mê-ri ạ, trời đang lất phất mưa, cứ cái điệu gió này thì trời sắp mưa to đấy!". Từ làng ven biển lên thị trấn Li-xơ cả đi lẫn về nhanh cũng mất ít nhất ba giờ, nhưng Mê-ri không nghe theo lời khuyên của bà hàng xóm. "Thôi, cháu không muốn quấy quả các bác nữa,-Mê-ri nói,-gần như nhà nào cháu cũng từng vay bánh mì, chè hay bột. Đem cầm chiếc nhẫn này là xong thôi bác ạ”. Mê-ri đi lên phố về, đến hôm sau thì lên cơn sốt cao, mê sảng. Trời đêm lạnh giá đã làm chị bị viêm phổi nặng -theo lời ông bác sĩ trên phố được bà già tốt bụng mời về cho biết. Một tuần sau, chiếc giường đôi của Lông-gren đã trống không, bà hàng xóm dọn sang nhà anh ở để chăm sóc tre. Đối với một người đàn bà góa bụa cô đơn như bà thì việc đó không khó. "Thêm nữa,-bà nói tiếp, -không có đứa bé ấy thì cũng buồn". Lông-gren đi lên phố, thôi việc, từ biệt bạn bè rồi trở về nhà nuôi nấng bé A-xôn. Khi đứa bé đi chưa vững thì bà hàng xóm còn ở lại trong nhà Lông-gren, thay thế người mẹ quá cố chăm sóc nó. Nhưng khi A-xôn đi vững, bước qua được ngưỡng cửa, thì Lông-gren quyết định sẽ tự mình nuôi dạy đứa trẻ. Anh cám ơn bà hàng xóm đã tận tình giúp đỡ anh.
Rồi từ đấy, anh sống cuộc đời cô đơn của người góa vợ, tập trung tất cả ý nghĩ, há vọng, tình cảm và kỷ niệm của mình vào đứa trẻ. Mười năm sống nay đây mai đó chỉ đem lại cho anh một số tiền rất nhỏ. Anh bắt đầu làm việc. ít lâu sau, trong những cửa hiệu trên phố đã thấy bày bán những đồ chơi do chính tay anh khéo léo làm ra, những chiếc thuyền nhỏ, xuồng máy, thuyền buồm một boong, hai boong, tàu thủy, tàu tuần dương, tóm lại tất cả những gì anh đã gần gũi, những gì trong khi làm việc đã phần nào thay thế cho anh cuộc sống ồn ào ngoài cảng, thay thế được lao động đầy thơ mộng của những chuyến đi biển. Bằng công việc đó, Lông-gren đã kiếm tiền để hai bố con có thể sống một cách tằn tiện. Vốn là người ít giao du, sau khi vợ mất, Lông-gren lại càng trở nên kín đáo, ít cởi mở hơn. Vào những ngày lễ, thỉnh thoảng người ta thấy anh trong quán rượu, nhưng anh không bao giờ ngồi mà chỉ vội vàng uống một cốc rượu ngay tại quầy rồi ra về, đáp lại lời thăm hỏi của mọi người một cách vắn tắt: "xin chào", "tôi đi nhé", "vâng", "không", "cũng thường thôi". Anh không thích tiếp khách. Khi có khách, anh khéo léo tỏ ý muốn họ về bằng những lời nói bóng gió xa xôi hay những cớ do anh tưởng tượng ra. Những lúc ấy, khách chỉ còn cách là nghĩ ra một lý do nào đó để cáo từ. phần anh cũng không thăm ai, vậy là giữa anh và dân làng có cái gì lạnh lùng ngăn cách. Nếu như việc làm đồ chơi của anh phụ thuộc nhiều vào công việc của dân làng thì quan hệ như thế có thể đem lại cho anh nhiều khó khăn. Thức ăn dự trữ và các thứ hàng cần thiết anh mua trên thị trấn-Mê-néc không thể khoe khoang được rằng Lông-gren đã mua hàng ở cửa hiệu của y, dù chỉ là một bao diêm. Anh tự mình làm mọi việc trong nhà và tỏ ra rất chịu khó nuôi dạy con gái, một việc vốn phức tạp, không phải của đàn ông. A-xôn đã lên năm tuổi.
Khi em ngồi trên đùi Lông-gren, chăm chú mân mê chiếc áo gi-lê hay ngộ nghĩnh hát những bài ca thủy thủ, Lông-gren thường dịu dàng cười với con, ngắm nghía gương mặt hiền lành, lanh lợi của con. Qua giọng hát con trẻ, những bài hát ấy gợi nhớ đến con gấu thắt đai xanh đang vụng về nhảy múa. Vào thời gian đó có một chuyện xảy ra bao trùm bóng đen lên cả hai bố con. Dạo ấy là đầu mùa xuân, thời tiết còn khắc nghiệt như mùa đông, nhưng theo một kiểu khác. Khoảng ba tuần liền, gió bấc từ phía biển thổi mạnh về miền đất lạnh. Thuyền đánh cá được kéo lên bờ, xếp thành dãy dài trên bãi cát trắng tựa như vây lưng những con cá khổng lồ. Không ai dám đi biển lúc tiết trời như thế. Trên con đường duy nhất ở làng chẳng mấy khi gặp người nào rời khỏi nhà. Cơn lốc lạnh lẽo từ những ngọn đồi ven biển thổi thốc vào chân trời trống trải, biến không trung thành một trò tra tấn khắc nghiệt. Suốt từ sáng đến tối, khói tỏa trên những mái nhà dốc đứng trong làng Ca-péc-na.
Nhưng những ngày gió bấc ấy lại làm Lông-gren thích ra khỏi căn nhà nhỏ ấm cúng hơn là vào những ngày mặt trời tỏa ánh vàng xuống mặt biển và làng Ca-péc-na. Lông-gren đi đến chiếc cầu nhỏ dựng trên những hàng cọc dài, rồi đứng ở tận cuối cầu mà ngậm tẩu hút thuốc dưới trời gió rét. Anh nhìn những con sóng bạc đầu nối tiếp nhau đang dữ dội tràn vào bờ tung bọt trắng xóa, những đợt sóng chạy ầm ầm lan khắp vùng chân trời dông bão đen ngòm, hệt như một đàn quái vật hung dữ đang lồng lộn trong cơn tuyệt vọng tìm đến một niềm an ủi xa xôi. Những tiếng ầm ào, từng loạt cột nước dựng lên và cả những luồng gió tưởng như thấy được đang vằm nát xung quanh-từng đợt một thật đều, thật mạnh,-làm dịu lại tâm hồn đau đớn của Lông-gren, giảm đi nỗi buồn da diết, như đưa anh vào giấc ngủ thật say.
Có lần, vào một trong những ngày ấy, đứa con trai mười hai tuổi của Mê-néc tên là Khin trông thấy chiếc thuyền của bố buộc dưới cầu bị sóng xô vào chân cầu chực làm vỡ mạn thuyền, bèn về nói lại với bố. Trước lúc cơn bão kéo đến, Mê-néc quên kéo thuyền lên bờ cát. Y lập tức chạy ra ngoài biển và nhìn thấy Lông-gren đang đứng hút thuốc tận cuối cầu, lưng quay về phía y. Trên bờ biển, ngoài họ ra, không còn ai. Mê-néc ra đến giữa cầu, bước xuống con nước như đang sôi sục và tháo dây buộc thuyền. Y đứng trên thuyền, tay lần mái chèo. Bỗng y lỡ đà không kịp bíu vào cái cọc tiếp theo. Cùng lúc đó, một cơn gió mạnh ập đến quay ngược mũi thuyền ra phía biển. Bây giờ thì dù có vươn cả người, y cũng không thể với tới chiếc cọc gần nhất nữa. Sóng gió chao đảo chiếc thuyền, cuốn nó vào không gian chết chóc. Thấy thế, Mê-néc định nhảy xuống nước để bơi vào bờ, nhưng quyết định của y đã quá muộn, bởi vì con thuyền đã trôi ra một quãng xa ngoài phía cuối cầu, nơi nước sâu sóng to chắc chắn sẽ dìm y chết. Khoảng cách giữa Lông-gren và Mê-néc đang bị cuốn ra ngoài xa lúc ấy chỉ chừng mười xa-giên . Có thể cứu được Mê-néc, bởi vì ngay chỗ Lông-gren đứng có một cuộn dây to treo ở đấy. Người ta để sẵn cuộn dây ở đó để phòng khi thuyền về bến gặp sóng gió khó vào bờ thì ném nó xuống thuyền.
-Lông-gren!-Mê-néc kinh hoàng kêu lên.
-Sao anh cứ đứng yên như phỗng thế kia? Ta đang bị cuốn đi đây này! Ném dây xuống đi!
Lông-gren im lặng, thản nhiên nhìn Mê-néc đang luống cuống trong thuyền. Chỉ có khói thuốc là tỏa ra nhiều hơn trên chiếc tẩu của anh. Anh chậm rãi bỏ chiếc tẩu, như để nhìn rõ hơn điều đang xảy ra.
-Lông-gren!-Mê-néc kêu cứu. -Nghe thấy ta gọi chứ? Ta sắp chết đến nơi rồi, cứu ta với!
Nhưng Lông-gren không nói với hắn một lời nào, dường như anh không nghe thấy tiếng gào tuyệt vọng của hắn. Chừng nào chiếc thuyền chưa bị cuốn ra xa đến mức tiếng kêu cứu của Mê-néc không còn nghe thấy nữa, chừng ấy Lông-gren còn đứng yên không nhúc nhích. Mê-néc khóc rống lên vì sợ, van nài Lông-gren chạy về báo với dân chài, nhờ họ ra cứu, hứa cho tiền, rồi lại đe dọa, chửi rủa, nhưng Lông-gren chỉ bước ra thêm mấy bước đến tận sát mép cầu để không mất hút con thuyền đang bị sóng dồn lên dập xuống.
-Lông-gren!
-Anh nghe thấy tiếng gọi mơ hồ như người trong nhà nghe người gọi từ trên mái.
-Cứu tôi với! Lúc ấy, Lông-gren hít thật sâu rồi gào lên thật to để không một lời nào của anh bị mất hút đi trong tiếng gió:
-Vợ tao cũng đã từng kêu cứu với mày như thế! Hãy nhớ lại điều đó đi, chừng nào mày còn sống, đừng quên, Mê-néc ạ! Lúc đó tiếng gào im bặt, và Lông-gren trở về nhà. Khi tỉnh dậy, A-xôn thấy bố đang ngồi bên ngọn đèn gần tắt, vẻ mặt hết sức đăm chiêu. Nghe thấy tiếng con gái gọi, anh đến bên con, ôm chặt con mà hôn rồi kéo chăn đắp lại cho con.
-Ngủ đi, con yêu của bố!-Anh nói.- Còn lâu mới sáng, con ạ.
-Bố làm gì đấy?
-Bố vừa làm xong một đồ chơi xấu. Ngủ đi, A-xôn!
Ngày hôm sau, dân làng Ca-péc-na xôn xao bàn tán về chuyện Mê-néc bị mất tích. Đến ngày thứ sáu thì người ta đem Mê-néc về làng, sống dở chết dở, vẻ mặt đầy ác độc. Chuyện y kể chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp các làng lân cận. Mê-néc lênh đênh trên sóng biển cho đến chiều. Y đã phải vật lộn với sóng nước lúc nào cũng chực dìm y xuống đáy biển, cả người va đập liên tiếp vào mạn thuyền và lòng thuyền mãi cho đến khi được chiếc tàu "Lu-crê-xi-a" đi Kát-xét với lên. Bị cảm lạnh và phải sống qua những giờ phút kinh hãi cực độ, y chỉ sống thêm được hai ngày đêm nữa.
Trước khi chết y cầu mong cho Lông-gren gặp phải mọi tai họa có thể có trên đời và trong tưởng tượng. Câu chuyện về việc Lông-gren chứng kiến tai họa của Mê-néc mà không cứu giúp được tô vẽ thêm bằng hơi thở nặng nề và rền rĩ của Mê-néc, đã làm dân làng Ca-péc-na kinh ngạc. Cả làng chẳng còn mấy ai nhớ đến nỗi đau khổ nặng nề mà Lông-gren đã phải chịu đựng, và cũng chẳng còn mấy ai hết sức đau khổ về Mê-ri như Lông-gren đã đau khổ cho đến hết đời mình. Dân làng cảm thấy kinh sợ, khó hiểu về thái độ im lặng của Lông-gren lúc đó. Cho đến khi nói những lời cuối cùng cho Mê-néc, Lông-gren đã đứng lặng yên, không nhúc nhích, nghiêm nghị và trầm lặng như một người phán xét biểu lộ sự khinh bỉ cực độ đối với Mê-néc. Sự khinh bỉ ấy còn đáng sợ hơn cả lòng căm thù, và điều này mọi người đều cảm thấy. Nếu anh hét lên, vung tay múa chân hoan hỉ lộ rõ sự khoái trá khi thấy kẻ thù gặp nạn, hoặc là bằng cách nào khác tỏ rõ sự đắc thắng của mình khi Mê-néc đang tuyệt vọng, thì dân làng đã có thể hiểu được anh. Nhưng anh lại hành động khác với họ, anh đã cư xử thật lạ lùng, thật đáng kinh ngạc, và bằng cách đó anh đã đứng cao hơn những người khác. Nghĩa là anh đã làm một điều không thể tha thứ được.
Từ lúc ấy, không ai chào anh, không ai bắt tay hay nhìn anh một cách vui vẻ hồ hởi nữa. Anh hoàn toàn xa cách với mọi chuyện trong làng. Trẻ con trông thấy anh chạy theo đồng thanh hô: "Lông-gren dìm chết Mê-néc". Anh không thèm để ý dến những chuyện ấy. Hình như anh cũng không nhận thấy rằng khi anh xuất hiện trong quán rượu hay ngoài bờ biển thì dân chài ở đấy đều im bặt, tránh xa anh như tránh người mắc bệnh dịch hạch. Chuyện xảy ra với Mê-néc đã khoét sâu thêm sự ngăn cách giữa Lông-gren với dân làng, trước kia còn chưa sâu sắc lắm. Bây giờ khi sự ngăn cách đó trở nên sâu sắc thì hai bên đều thấy căm ghét nhau và điều này đã ảnh hưởng đến cả A-xôn. Cô bé đã lớn lên mà không có bạn bè. Hai ba chục đứa trẻ cùng lứa tuổi ở làng Ca-péc-na, khác nào chiếc bọt biển thấm nước, đã nhiễm phải định kiến thô bạo của gia đình mà cơ sở của nó là uy tín tuyệt đối của cha mẹ. Bọn chúng nhanh chóng tiếp nhận điều đó, như mọi trẻ con trên thế giới, và tẩy chay cô bé A-xôn, loại bỏ em ra khỏi môi trường của chúng. Điều này đã xảy ra một cách dần dà, bằng đe nẹt, dọa dẫm của người lớn. Họ cấm đoán bọn trẻ chơi với A-xôn, thêu dệt những chuyện méo mó để rồi cuối cùng, với đầu óc non nớt của chúng, bọn trẻ tự nhiên thấy sợ hãi trước gia đình người thủy thủ. Thêm vào đấy, lối sống cách biệt của Lông-gren làm cho mọi người càng dễ bề đơm đặt vu khống. Người ta nói rằng thủy thủ Lông-gren đã từng giết người ở đâu đó, và vì thế không được nhận làm trên tàu nữa, còn bản thân anh bây giờ trở nên cô độc u sầu vì "bị lương tâm cắn rứt". Bọn trẻ xua đuổi A-xôn nếu cô bé lân la đến chơi với chúng, chúng ném đất vào em, trêu chọc em rằng bố em đã từng ăn thịt người và bây giờ đang làm bạc giả. Lần nào A-xôn định đến gần bọn trẻ, em cũng bị cào cấu, đánh đập thâm tím, em khóc lóc cay đắng và chịu mọi biểu hiện khác của dư luận xã hội; cuối cùng em cũng không còn cảm thấy bị nhục mạ nữa. Nhưng đôi khi em vẫn hỏi bố em: "Bố ơi, sao họ không yêu bố con mình? "
-Lông-gren đáp: "Này, A-xôn, lẽ nào họ biết yêu? Cần phải biết yêu, nhưng điều này thì họ không làm được".
-"Thế nào là biết yêu hở bố? "
-"Là thế này, con ạ!"
-Anh liền bế con gái lên và hôn thật lâu vào đôi mắt đượm buồn của con, đôi mắt đang lim dim lại vì được âu yếm. Những phút chơi đùa thích thú nhất của A-xôn là vào buổi tối hay ngày lễ, khi bố em thu dọn hộp đựng hồ dán, đồ lề, các công việc đang dở dang sang một bên, cởi chiếc tạp dề ra, ngậm tẩu thuốc vào miệng rồi bế em ngồi lên đùi mình.
Những lúc ấy, A-xôn ngồi trong vòng tay nâng niu của bố, vừa sờ mó những đồ chơi khác nhau vừa hỏi bố về công dụng của từng thứ đồ vạt ấy. Lông-gren lại có dịp kể chuyện thật lá kỳ về cuộc sống và con người. Do trước đây Lông-gren đã sống một cuộc đời nay đây mai đó, câu chuyện anh kể thường chứa đầy những sự kiện tình cờ, lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Lông-gren nói với con tên những loại dây dợ, buồm, những vật dụng trên tàu, rồi dần dần say sưa chuyển từ lời giải thích sang kể những tình huống khác nhau trong đó vai trò chính là cái tời để thả và cất neo, bánh lái, cột buồm hay một loại thuyền nào đấy, và từ những minh họa cụ thể đó anh chuyển sang kể lại những cảnh đi biển đầy phóng khoáng, kết hợp chuyện mê tín với chuyện thật, chuyện thật với các hình ảnh do anh hư cấu ra. Trong chuyện đó mới xuất hiện nào là con mèo cọp báo hiệu đắm tàu, nào là con cá bay biết nói, nếu không nghe lệnh của nó sẽ đi lạc đường, nào là những điềm báo, những hồ ma, nàng tiên cám những tên cướp biển, nói tóm lại là tất cả những chuyện hoang đường mà các thủy thủ đã kể cho nhau nghe trong quán rượu quen thuộc hay trên tàu những khi gió lặng. Lông-gren còn kể về những lần đắm tàu, về những người lạc trên đảo lạ đã trở thành man rợ đến nỗi quên cả tiếng nói, về những kho báu bí mật, về những người tù khổ sai nổi loạn và nhiều chuyện khác. A-xôn nghe bố kể có lẽ còn chăm chú hơn khi người ta nghe ông Cô-lông kể lần đầu về chuyện tìm ra châu Mỹ. "Bố kể nữa đi",-bé A-xôn nói với bố khi Lông-gren ngừng kể, vẻ mặt tư lự; rồi em thiếp đi trên ngực bố trong giấc ngủ đầy những giấc mơ kỳ lạ. A-xôn cũng rất mừng mỗi lần người buôn đồ chơi trên thị trấn về nhà Lông-gren mua hàng. Để lấy lòng Lông-gren và để mua được rẻ hơn, người lái buôn thường đem quà cho A-xôn, khi thì vài quả táo, cái bánh ngọt, khi thì nắm hạt dẻ. Thường thì Lông-gren chỉ nói đúng giá tiền thứ đồ chơi mình làm ra vì anh không thích thú gì chuyện cò kè mua bán. Nhưng lần nào người lái buôn cũng đòi bớt.
"ồ, sao lại thế ông,-Lông-gren nói,-tôi phải ngồi cả tuần mới làm được chiếc thuyền buồm đấy. Chiếc thuyền này dài năm véc-sốc, -ông cứ nhìn xem, chắc chắn lắm đấy, phần chìm lại chất lượng tốt nữa. Có thể chở được mười lăm người trong mọi thời tiết đấy".
Kết cục là tiếng đứa con gái đang khẽ hát ru quả táo đã làm Lông-gren mềm lòng, anh hết muốn tranh cãi với người lái buôn, và y cuối cùng đã mua được rẻ. Y cho những đồ chơi chắc chắn, tuyệt đẹp ấy vào làn rồi ra về, tủm tỉm cười. Mọi việc trong nhà, Lông-gren tự tay làm hết: bổ củi, xách nước, đốt lò, nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, dọn dẹp mọi thứ. Tuy vậy Lông-gren vẫn dành thời gian để kiếm tiền. Khi A-xôn lên tám tuổi, anh đã dạy con đọc, viết.
Thỉnh thoảng anh đưa con lên thị trấn. Sau đó đôi lần anh còn để con đi đến đó một mình mỗi khi cần phải vay tạm ít tiền ngoài cửa hiệu, hay đi đưa hàng. Điều này cũng ít xảy ra dù thị trấn Li-xơ chỉ cách làng Ca-péc-na vẻn vẹn bốn dặm. Nhưng vì đường đi phải qua một khu rừng thì thiếu gì cái làm trẻ con sợ sệt, chưa nói đến những nguy hiểm tuy cũng khó xảy ra vì ở gần phố xá nhưng không phải là không cần tính đến. Cho nên chỉ vào những buổi sáng thật đẹp trời, khi hai bên đường chan hòa ánh nắng, hoa cỏ tốt tươi, bầu trời vắng lặng, A-xôn không còn tâm trí đâu mà tưởng tượng đến những điều đáng sợ nữa, những lúc ấy Lông-gren mới cho con gái đi một mình lên phố.
Một lần, trên đường đi lên phố, cô bé A-xôn ngồi lại nghỉ và lấy miếng bánh rán để trong làn ra ăn lót dạ buổi sáng. Vừa ăn, A-xôn vừa ngắm nghía các đồ chơi mang theo: cô bé thấy vài ba thứ đồ chơi lạ, những thứ này cha cô đã làm về khuya. Trong số đó có một chiếc thuyền đua nhỏ sơn màu trắng với những cánh buồm đỏ thắm làm bằng những mảnh lụa mà Lông-gren chuyên dùng để trang hoàng cho các căn buồng trên tàu thủy lớn -thứ đồ chơi dành cho trẻ con các gia đình lắm tiền. Chắc là sau khi đẽo xong chiếc thuyền đua màu trắng, Lông-gren không biết lấy gì để làm buồm và đã tình cờ ghép vào đấy những mảnh lụa màu đỏ thắm. A-xôn mừng quá. Màu lụa thắm của những cánh buồm bé xíu đỏ rực trên tay A-xôn, dường như cô bé đang nâng niu một ngọn lửa. Đường lên phố đi qua một chiếc cầu nhỏ ghép bằng gỗ thô, dưới cầu là một con suối len lỏi trong cánh rừng. "Mình thả thử xuống nước cho nó bơi một chút xem sao,-A-xôn nghĩ, -nó có bị ướt thì mình lại lau khô được ngay thôi mà".
Cô bé đi sang bên kia cầu rồi men theo dòng suối, rẽ vào cánh rừng, khẽ khàng đặt chiếc thuyền mà cô yêu thích xuống mặt nước sát bên bờ. Cánh buồm in hình đỏ thắm trong làn nước trong veo, và tia sáng mặt trời chiếu qua lần vải lụa lung linh một màu hồng trên những hòn đá cuội trắng muốt hiện ra dưới đáy. "ông thuyền trưởng ơi, ông từ đâu đến đấy?"
-A-xôn khẽ hỏi một người trong tưởng tượng bằng giọng nghiêm trang, rồi cô bé tự đóng luôn vai thuyền trưởng trả lời: "Tôi đi từ... đi từ... Trung Hoa tới".
-"Thế ông chở cái gì thế?"
-"Chở cái gì thì tôi chả nói đâu".
-"Chà, ông bướng thật, ông thuyền trưởng ạ! Thế thì tôi lại bỏ ông vào làn vậy". Ngay khi anh chàng thuyền trưởng tưởng tượng kia vừa định ngoan ngoãn trả lời rằng mình chỉ nói đùa thôi và anh ta sắp sửa lấy ra cho xem một con voi thì bất ngờ dòng nước chảy ven bờ từ từ làm quay mũi thuyền ra phía giữa dòng, và con thuyền, y như thật, lao nhanh theo dòng suối. Cảnh tượng trước mắt cô bé đột nhiên thay đổi: con suối đối với cô bé bỗng trở thành một dòng sông rộng, chiếc thuyền nhỏ hiện ra như một chiếc tàu lớn đã ra khơi xa, còn cô bé chút nữa thì ngã xuống nước khi giơ tay ra lấy thuyền. "Chắc thuyền trưởng sợ lắm", -cô bé thoáng nghĩ vậy và chạy theo chiếc thuyền con đang lao đi vun vút; cô hi vọng đến một chỗ nào đó, con thuyền sẽ mắc lại bên bờ. Cô bé vừa chạy vừa xách theo chiếc làn không nặng lắm nhưng cồng kềnh, miệng lẩm bẩm: "Trời ơi! Sao mình lại không may thế nhỉ!..."
Cô bé cố không rời mắt khỏi con thuyền buồm xinh xắn đang lướt nhẹ trên dòng suối, chốc chốc lại vấp ngã, đứng vội lên, rồi lại chạy theo. Chưa bao giờ A-xôn vào sâu trong rừng đến thế. Cô bé bị thu hút tất cả vào ý muốn nôn nóng lấy lại được chiếc thuyền, không còn nhìn thấy gì khác nữa. Dọc bờ suối cô bé chạy là vô số những vật chướng ngại, lẽ ra phải để ý tới. Những thân cây đổ bám đầy rêu, những cái hố, những cây dương xỉ, cây tầm xuân, cây nhài, cây dẻ mọc sum suê làm vướng chân A-xôn. Dần dần cô bé thấm mệt, mỗi lúc lại phải dừng lại nhiều hơn để thở hay để gạt mạng nhện bám lên mặt. Đến một quãng rộng, lau sậy mọc đầy hai bên bờ thì A-xôn không còn nhìn thấy cánh buồm đỏ thắm nữa.