CHƯƠNG 10 GIẢI THOÁT
Suốt năm thứ hai ở trường trung học phổ thông, tôi trở nên nản chí và buồn bã. Vì phải di chuyển quá nhiều nên mỗi lần như thế, tôi chẳng bao giờ học được ở một trường quá vài tháng. Tôi bị xếp vào lớp học dành cho những học sinh chậm tiến. Trong giờ học, tôi là người đầu tiên tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi của thầy cô giáo và nghĩ ra các ý tưởng mới, nhưng rồi tôi phát hiện ra chẳng ai chịu lắng nghe tôi cả. Thế rồi tôi bỏ hết các môn học, vì tôi biết tương lai của mình nằm ngoài cổng trường học. Tôi làm việc bốn mươi tám giờ mỗi tuần với hàng chục công việc khác nhau, và tôi tin rằng không có điều gì học ở trường có thể giúp ích cho tôi trong đời sống thực này cả.
Khao khát được làm việc của tôi càng lúc càng cháy bỏng bởi tôi biết mình đã mười bảy tuổi và sẽ phải tự lập trong chưa đầy một năm nữa. Sau mỗi lần tan học, tôi chạy nhanh từ trường về nhà Alice, thay quần áo, rồi lại tức tốc chạy đến chỗ làm. Nơi làm việc của tôi có khi là một nhà hàng thức ăn nhanh hay một xưởng làm đồ nhựa, và tôi sẽ làm đến một hoặc hai giờ sáng ngày hôm sau. Sinh hoạt giờ giấc thiếu khoa học và ngủ không đủ giấc khiến tôi luôn mệt mỏi. Ở trường, tôi thường bị thầy cô thúc cho tỉnh giấc vì mãi ngáy trong lớp. Tôi bực tức vì bị những đứa bạn trong lớp cười nhạo. Mỗi khi tôi làm trong nhà hàng, có vài đứa bạn còn tỏ ra trịch thượng khi vênh váo đi vào chỉ để khoe khoang những cuộc hẹn hò, những bộ quần áo hào nhoáng, tự hào vì chúng không bao giờ phải làm việc như tôi để kiếm sống cả.
Thỉnh thoảng, vào giờ rảnh rỗi, tôi thường đến thăm thầy Tapley, là thầy giáo dạy tiếng Anh của tôi. Những lúc đó tôi hay làm thầy phát cáu với hàng loạt câu hỏi về tương lai của tôi. Thầy biết tôi đã phải đấu tranh vất vả với cuộc sống thế nào, và tôi cũng ngượng ngùng không thể giải thích nhiều hơn về lý do tại sao tôi hay ngủ gật trong lớp. Chỉ cần một lời khuyên nhẹ nhàng của thầy, tôi cũng cảm thấy như được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua những mệt mỏi.
Thỉnh thoảng, tôi cũng dành ra một ngày cuối tuần nào đó để đến thăm cha ở San Francisco. Trong suốt những năm trước đó, tôi đã gửi hàng trăm tin nhắn đến các đồn cứu hỏa khắp thành phố, nhưng cha chưa bao giờ liên lạc lại với tôi. Một buổi chiều nọ, sau khi có được một số thông tin khá chắc chắn về chỗ làm của cha, tôi lập tức gọi điện đến tìm ông. Một người lính cứu hỏa tỏ ra lưỡng lự và hơi thoái thác khi nói chuyện với tôi.
- Đây có phải là đồn cứu hỏa của cha cháu không ạ? - Tôi van nài. - Chỉ cần cho cháu biết một điều thôi, cha cháu đang làm ở ca nào ạ? - Tôi nài nỉ, giọng thiết tha.
- À... Stephen thay đổi chỗ làm việc liên tục. Bọn chú sẽ nhắn lại với ông ấy. - Nói rồi ông ấy gác máy ngay.
Tôi biết hẳn phải có chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Khi nói chuyện này với Alice, bà ấy có vẻ lẩn tránh không muốn đề cập đến.
- Cha con đang gặp rắc rối! - Tôi thẫn thờ.
- David, không phải thế đâu! - Alice trấn an.
- Không, con nghĩ chắc có điều gì xảy ra với cha con rồi. - Tôi nói tiếp. - Con đã mệt mỏi với việc phải sống trong bóng tối... phải giấu giếm những bí mật của mình... phải sống trong dối trá. Điều gì mới là tồi tệ chứ? Nếu cha con đang gặp rắc rối... - tôi ngừng một lát để lấy lại tinh thần, - thì con phải biết chứ. - Tôi dịu giọng lại rồi hôn lên trán Alice.
Tôi nhảy lên chiếc mô-tô và phóng thẳng về hướng trung tâm San Francisco. Trên đường cao tốc, tôi lạng lách trong dòng xe cộ đông đúc và cứ thế phóng nhanh cho đến khi chiếc xe đâm sầm vào con đường nhỏ cạnh Trạm 1067 - cũng là nơi cha làm việc khi tôi còn bé.
Tôi đậu xe ở sân sau của trạm cứu hỏa. Khi bước vào trong, tôi trông thấy một khuôn mặt quen thuộc nhưng có sự tàn phá của thời gian. Thoạt đầu, tôi nghĩ hẳn là cha. Nhưng khi người đàn ông nhìn tôi mỉm cười, tôi mới biết chắc đó không phải là cha, bởi cha không bao giờ cười cả.
- Chúa ơi, con trai! Bao lâu rồi chứ? Ta không thấy các cháu từ... Ta không nhớ từ khi nào nữa.
Tôi bắt tay chào chú Lee, người bạn lâu năm và thân nhất của cha tôi.
- Cha cháu đâu rồi ạ? - Tôi hỏi bằng một giọng lạnh lùng.
Chú Lee quay đi.
- À... Ông ấy vừa đi khỏi. Ông ấy vừa hết ca trực cháu ạ.
- Không phải, thưa chú! - Tôi nghiêm nghị. Tôi biết chú Lee nói dối, vì lính cứu hỏa thay ca vào buổi sáng, không phải vào giữa chiều như thế này. Tôi hạ giọng. - Chú Lee ạ, cháu đã không gặp cha mấy năm nay rồi, cháu cần phải biết chuyện gì đang xảy ra với cha cháu chứ.
Lee nghẹn ngào không nói nên lời. Ông đưa tay quẹt ngang mắt. Lần đầu tiên tôi thấy một người lính cứu hỏa khóc.
- Chú và cha cháu đã cùng nhau làm việc, cháu biết đấy. Chú muốn nói với cháu rằng... Cha cháu là một người lính cứu hỏa khốn khổ... Có những lúc chú nghĩ rằng chú và cha cháu không nên trở thành những người lính cứu hỏa...
Tôi có thể linh cảm được điều gì sắp xảy ra. Lòng tôi như vỡ vụn. Tôi đưa mắt kiếm tìm một vật gì đó để vịn vào, giữ cho mình khỏi ngã. Tôi mím chặt môi lại. Tôi nhìn sâu vào mắt chú Lee, tỏ ý cho chú biết tôi đã sẵn sàng để nghe tất cả sự thật.
Lee chớp mắt:
- Cha của cháu... không còn làm việc nữa. Stephen - cha cháu - đã... bị cho nghỉ hưu sớm.
Tôi thở phào nhẹ nhõm khi cố gắng kìm nén cảm xúc của mình.
- Vậy là ông ấy còn sống! Ông ấy không sao cả! Vậy thì ông ấy đang ở đâu? - Tôi nói như reo.
Chú Lee khẽ gật đầu. Chú Lee còn cho tôi hay cha tôi đã không đi làm hơn một năm nay rồi, và có những lúc cha phải lang thang ngủ ngoài đường.
- David ạ, chính là rượu. Rượu đang giết chết ông ấy. - Chú ấy nói bằng một giọng buồn bã, nhưng rành mạch.
- Vậy thì giờ cha cháu ở đâu ạ? - Tôi van nài.
- Chú không biết, con trai ạ. Chú chỉ gặp ông ấy khi ông ấy cần một ít tiền. - Chú Lee dừng một lúc để lấy giọng. Chú ấy nhìn tôi bằng ánh nhìn tôi chưa từng thấy bao giờ. - David, đừng quá gay gắt với người cha già của cháu. Ông ấy chưa từng có một gia đình thực sự. Ông ấy từng là một chàng trai trẻ khao khát cuộc sống khi lần đầu đến thành phố này lập nghiệp. Ông ấy yêu các cháu, nhưng cuộc hôn nhân kia đã hủy hoại cuộc đời ông ấy. Công việc của ông ấy cũng không thuận lợi. Ông ấy phải sống với tất cả những điều đó. Ông ấy lấy công việc làm lẽ sống cho mình. Nhưng bia rượu... Cuối cùng thì giờ phút này bia rượu lại là tất cả đối với ông ấy cháu ạ.
- Cháu cảm ơn chú, chú Lee. - Tôi bắt tay chào tạm biệt chú ấy. - Cảm ơn chú đã nói chuyện với cháu. Ít nhất là vì những chuyện chú đã cho cháu biết về cha cháu lúc này.
Chú Lee tiễn tôi ra ngoài:
- Vài ngày nữa chắc chú sẽ gặp lại cha cháu. Khỉ thật, có thể cháu sẽ giúp được ông ấy thoát khỏi tình trạng này đấy.
- Vâng ạ. - Tôi đáp. - Có lẽ thế ạ.
Hai tuần sau đó, tôi bắt chuyến xe buýt đi từ Greyhound đến khu Mission của San Francisco. Tôi chờ cha ở trạm xe buýt hơn một giờ đồng hồ. Trong lúc nhìn ngang ngó dọc, tôi tình cờ phát hiện ra một quán rượu tồi tàn. Chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác rằng cha sẽ ở đâu đó trong quán rượu này. Tôi băng qua đường và đi thẳng vào quán. Nhìn khắp một lượt, tôi nhanh chóng phát hiện ra cha đang ngồi sụp bên một chiếc bàn ở góc quán. Tôi đảo mắt nhìn quanh tìm kiếm sự giúp đỡ. Không thể tin được người ta cứ thế đi qua đi lại chỗ cha tôi ngồi mà không thèm đoái hoài, dù chỉ một chút, hoặc họ cứ ngồi yên bên quầy nhấm nháp từng ly rượu như thể cha tôi là người vô hình vậy.