CHƯƠNG 2 BAY CAO
Ngày 24 tháng 8 năm 1979
Chiếc áo khoác dầy và nhớp nháp mồ hôi đang chạm vào từng lỗ chân lông trên người tôi. Bụng tôi quặn thắt vì lo sợ. Các ngón tay tôi nóng bừng lên như thế chúng đang được nung chảy trên bếp lò. Tôi muốn nhắm chặt mắt lại nhưng cảm giác hồ hởi, cuốn hút xen lẫn sợ hãi khiến tôi cứ dán chặt mắt vào ô cửa làm bằng thủy tinh Plexi. Tôi đã nghiên cứu tỉ mỉ từng đặc điểm của Bay Area(2) trong suốt 18 năm qua.
(2) Bay Area: Còn gọi là San Francisco Bay Area, là vùng bao quanh San Francisco và Vịnh San Pablo.
- Mình đang bay đấy sao? - Tôi tự hỏi, lòng không khỏi ngạc nhiên thích thú.
Chiếc Boeing 727 đột ngột lộn vòng sang phải, tôi bị trượt khỏi ghế ngồi và chắc mẩm rằng mình sẽ văng khỏi máy bay. Quá hoảng sợ, tôi nhắm chặt mắt lại. Không sao. Mình không sao. Mình vẫn ổn. Chúa ơi, thật không thể tin được, mình đang bay, đang bay thật rồi! Tôi có thể cảm nhận rõ mình đang bị cuốn đi. Mấy ngày nay tôi không tài nào ngủ được vì quá phấn khích bởi rốt cuộc mình cũng được gia nhập vào lực lượng Không quân Hoa Kỳ, thế nên giờ đây đầu óc tôi cứ lờ đờ. Khi tiếng gầm của động cơ máy bay êm dần thì tôi mới bắt đầu thả lỏng người. Khi cả cơ thể tôi đã thực sự thư giãn, tôi bắt đầu ngẫm xem mình đã bay được bao xa.
Những ngày sống vất vưởng trong ga-ra tối om, lạnh lẽo ở nhà mẹ, tôi chưa từng dám mơ rằng một ngày nào đó điều này sẽ trở thành sự thật. Thời gian ấy, tôi biết mẹ có thể sẽ giết tôi, nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn không hề lo sợ. Chỉ có điều tôi đã từ bỏ mọi hy vọng.
Nhưng vào ngày 5 tháng 3 năm 1973, ngay sau ngày mẹ đẩy tôi ngã xuống cầu thang thì các thầy cô giáo của tôi đã gọi điện cho cảnh sát; và ngay lập tức họ đã giải thoát cho tôi. Tôi được tự do. Dẫu lòng khấp khởi hạnh phúc vì thoát khỏi cuộc sống ngục tù, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cảm nhận rõ một sự trống trải trong tâm hồn. Trải qua nhiều lần xét xử tại tòa án địa phương, tôi luôn cảm thấy rằng chính Mẹ đã vứt bỏ tôi, rằng tôi là đứa con hư đốn và tồi tệ bị gia đình ghẻ lạnh và chối bỏ. Khi cô Gold - nhân viên xã hội, đồng thời là thiên thần may mắn của tôi - thông báo rằng tôi sẽ không bao giờ nên liên lạc với Mẹ hay các con của bà thêm một lần nào nữa, tôi cảm thấy tim mình như vỡ vụn ra từng mảnh.
Kể từ đó, tôi luôn bị ám ảnh với việc tìm ra câu trả lời cho quá khứ của mình. Mặc dù vẫn luôn hoảng sợ mỗi khi nghĩ đến mẹ, nhưng tôi vẫn luôn muốn tranh đấu để chứng minh rằng tôi xứng đáng với tình yêu thương của bà và xứng đáng là một thành viên trong gia đình bà.
Với thân phận là một đứa con nuôi, tôi sớm nhận ra rằng tôi không hề biết gì về cuộc sống trong thế giới thực. Trước đây khi là tù nhân của mẹ, cuộc sống của tôi bị chi phối hoàn toàn bởi những nhu cầu cơ bản để tồn tại. Thế nên sau khi được giải thoát, tôi thấy mình chẳng khác gì đứa bé mới lững chững tập đi. Những điều đơn giản mà tất cả trẻ con mẩu giáo đều biết, thì đối với tôi lại là trở ngại hết sức khó khăn. Sau nhiều năm thường xuyên phải ngồi trong ga-ra với tư thế tay đặt dưới mông, đầu ngửa ra sau như tù binh chiến tranh, giờ đây trông tướng tôi như bị tật. Trong thời gian còn là con nuôi, tôi đã phải tập trung học cách đi đứng thẳng người. Mỗi khi căng thẳng hoặc lo sợ điều gì đó, tôi lại nói lắp đến từng từ một. Dường như tôi chưa bao giờ nói được một câu nào cho trọn vẹn. Mẹ nuôi của tôi là bà Turnbough đã mất hàng giờ mỗi ngày để dạy tôi phát âm, giúp tôi tưởng tượng hình ảnh từng từ trôi qua miệng, liền mạch thành câu như dòng nước đổ xuống thác. Nhưng những nỗ lực không mệt mỏi của mẹ Turnbough cũng chẳng ích gì. Tôi liên tục khiến cha mẹ nuôi của mình phát cáu. Dẫu vậy, bất kỳ lúc nào gặp ai tôi cũng muốn thể hiện là mình có khả năng giao tiếp như người bình thường, nhưng rõ ràng khả năng phát ngôn đã trở thành điểm yếu của tôi.
Với điệu bộ chẳng giống ai và cách nói chuyện khập khựng ngớ ngẩn, tôi nhanh chóng trở thành tâm điểm cho người khác trêu chọc. Những lúc bị ức hiếp và dồn vào đường cùng, tôi cũng chỉ còn biết ngọ nguậy hai tay sau vạt áo, mặt đỏ gay và nước mắt lưng tròng chứ chẳng thể thốt được lời nào; bởi càng tức giận, sợ hãi, tôi càng không thể nói dù chỉ một từ.
Tôi không có bạn. Cách duy nhất tôi nghĩ mình có thể kết bạn là làm sao để họ chấp nhận tôi, vì thế tôi sẵn sàng làm những chuyện trái khoáy chỉ để được mọi người thừa nhận. Tôi cũng biết những gì mình đang làm là hoàn toàn sai nhưng sau nhiều năm bị ruồng bỏ và cô lập, khát khao được hòa nhập trong tôi trỗi dậy mạnh mẽ, đến nỗi tôi đã bất chấp tất cả. Cha mẹ nuôi đã cố gắng giúp tôi lấy lại tinh thần, chỉ bảo cho tôi biết những việc làm của tôi là sai trái và gây hậu quả nghiêm trọng như thế nào.
Tôi biết rằng muốn sống sót, tôi cần phải làm việc. Ngay từ những ngày đầu mới làm con nuôi, tôi đã biết rằng những đứa con nuôi chẳng có ý nghĩa gì cả. Con nuôi thì sẽ không được học hết cấp ba, chứ đừng nói là được vào đại học. Tôi cũng sớm biết rằng đến lúc mười tám tuổi, tôi sẽ không còn được ai bảo trợ, sẽ không có cha mẹ để dựa dẫm, và vì thế, tôi phải tự bươn chải cho cuộc sống của mình. Càng lớn thì tôi càng sợ mình sẽ bị bỏ rơi và trở thành kẻ không nhà. Tận sâu trong lòng, tôi cảm thấy thật sự lo sợ mình sẽ không đủ mạnh mẽ để có thể chọn cho mình một lối đi riêng. Lúc còn sống trong ga-ra nhà mẹ, luôn nơm nớp lo sợ, luôn bị đánh đập và bỏ đói, tôi đã tự hứa là nếu một ngày nào đó có thể trốn thoát, tôi sẽ cố gắng kiếm thật nhiều tiền để không bao giờ bị đói. Vậy nên ngay khi còn ở tuổi niên thiếu, tôi đành gạt bỏ những sở thích mà bất kỳ đứa trẻ nào trạc tuổi tôi cũng có, để tập trung kiếm tiền. Mười lăm tuổi, tôi làm nghề đánh giày. Để được nhận làm nhân viên phục vụ bàn, tôi đã khai gian tuổi. Tôi làm bất kỳ việc gì trong ít nhất là bốn mươi giờ một tuần để kiếm tiền. Năm đầu học trung học, tôi làm việc đầu tắt mặt tối trong cả sáu ngày với hơn sáu mươi giờ một tuần. Tôi còn gồng mình làm thêm một giờ mỗi tuần để kiếm thêm 2 đô-la 65 xu. Cứ như thế cho đến một lần nọ khi đang trong lớp học, tôi gục đầu trên bàn và sau đó ốm li bì vì kiệt sức thì tôi mới chịu nghỉ ngơi.
Nhiều lúc ngẫm nghĩ, tôi cũng cảm thấy tự hào vì mình vẫn có thể xoay xở cho cuộc sống của mình, nhưng chẳng hiểu sao cảm giác trống rỗng và lạc lõng vẫn cứ len lỏi trong lòng. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy ganh tị với bọn con trai cùng tuổi đang mải mê hẹn hò với những cô nàng váy ngắn xinh xắn, vung tiền như giấy và lái những chiếc xe bóng loáng ngoài kia. Tôi ganh tị với cuộc sống may mắn, đủ đầy của họ.
Bất cứ khi nào cảm thấy hơi chán nản thì tôi sẽ vùi mình vào công việc nhiều hơn. Tôi càng gồng mình chú tâm vào những việc đang làm thì mong muốn được trở thành một thanh niên bình thường trong tôi cũng dần biến mất. Và quan trọng hơn, ý nghĩ luôn nung nấu trong tôi là phải tìm cho ra câu trả lời về quá khứ giờ đây dường như đang ngủ yên.
Với tôi, làm việc đồng nghĩa với sự yên bình trong tâm hồn.
Mùa hè năm 1978, ở tuổi mười tám, tôi quyết định bỏ học để phấn đấu hơn nữa cho sự nghiệp trở thành nhân viên bán xe ô tô đạt doanh số cao nhất. Nhưng chỉ vài tháng sau, sau một cuộc suy thoái ảnh hưởng đến toàn bang, tôi cay đắng nhận ra mình chỉ là một gã thanh niên không bằng cấp, không nghề nghiệp và số tiền tiết kiệm của tôi cũng nhanh chóng tiêu tan. Cơn ác mộng tồi tệ nhất của tôi đã thành hiện thực. Tất cả những kế hoạch được cân nhắc cẩn thận cùng sự đánh đổi không gì bù đắp được của tôi chẳng mấy chốc đã tan thành mây khói. Vì không có bằng cấp gì nên tôi chỉ có thể làm phục vụ tại các cửa hàng thức ăn nhanh. Tôi biết rằng tôi sẽ không đạt được điều gì nếu gắn bó với những công việc như vậy trong suốt quãng đời còn lại của mình.
Hồi còn làm tù nhân của Mẹ, tôi luôn mơ ước mình sẽ làm được điều gì đó cho bản thân. Mẹ càng la mắng, nguyền rủa và nhẫn tâm để tôi một mình nằm bất động trên sàn nhà bao nhiêu thì tôi càng có sức mạnh để tranh đấu cho sự sống còn của mình bấy nhiêu. Tôi luôn tự nhủ rằng một ngày nào đó Mẹ sẽ thấy! Một ngày nào đó, tôi sẽ khiến mẹ phải tự hào về tôi. Nhưng những dự đoán của Mẹ không sai, tôi đã thất bại thảm hại. Chính vì thế tôi căm ghét bản thân mình đến tận xương tủy.
Khoảng thời gian thất nghiệp bắt đầu giày vò tôi. Đầu óc tôi không lúc nào thôi suy nghĩ. Tôi nghĩ mẹ nói đúng. Có lẽ tôi luôn là kẻ thua cuộc và tôi đáng bị đối xử như vậy. Vì quá hoang mang vẻ tương lai mịt mù của mình nên chẳng đêm nào tôi được thẳng giấc. Tôi sục sạo trong đêm tối để vạch ra bất kỳ kế hoạch nào có thể giúp tôi sống sót. Trong chuỗi ngày dài u ám đó, chẳng hiểu sao tôi bỗng nghĩ đến cha tôi nhiều hơn.
Trong suốt sáu năm làm con nuôi, tôi gặp cha không đến chục lần, và trong lần gặp cuối, ông tự hào khoe với tôi một trong những tài sản còn sót lại của ông, đó chính là chiếc huy hiệu đội cứu hỏa San Francisco trao tặng khi ông về hưu. Trước khi tiễn tôi lên xe buýt đi Greyhound, cha ngậm ngùi nói với tôi bằng một giọng khàn khàn: “David à, con hãy đi khỏi nơi này. Đi càng xa càng tốt, con đã trưởng thành rồi và hoàn toàn có thể làm được điều đó”. Đôi mắt ông ưu tư và trĩu nặng. Khóe mắt nhăn nhúm như đang ép vỡ giọt nước mắt khô khốc đã từ lâu không xuất hiện trên gương mặt người đàn ông khốn khổ này. Vai ông khẽ run lên, ông bóp chặt lấy tay tôi rồi cười nói: “Hãy làm những gì con phải làm… Đừng bỏ cuộc… Đừng bỏ cuộc như cha”.
Trong thâm tâm, từ lâu tôi đã xem cha là một kẻ nghiện rượu không nhà. Sau nhiều năm cống hiến cho ngành cứu hỏa, cứu thoát không biết bao nhiêu người khỏi những tòa nhà bốc cháy ngùn ngụt, cuối cùng cha đã không thể cứu thoát chính mình. Ngày hôm ấy, khi xe buýt vừa lăn bánh, tôi ngoái nhìn cha và không thể cầm được nước mắt. Thật sự, tôi đã luôn nghĩ về cha. Nhưng chính cuộc sống khắc nghiệt đã khiến tôi phải dồn nén những suy tư đó của mình tận sâu trong lòng. Ông vẫn luôn là một mảng vỡ của cuộc đời tôi. Mỗi khi đi ngang qua những người vô gia cư nằm co ro ở một góc tối, tôi lại hình dung đến cha. Tôi cảm thấy có lỗi với ông. Và càng cảm thấy giày vò, tôi càng biết mình không thể, không thể bỏ cuộc như cha. Đừng bỏ cuộc như cha. Câu nói cuối cùng cha nói với tôi giờ đây lại sống lại trong tôi, vang vọng, thúc giục.
Tôi nghĩ rằng cơ hội duy nhất của tôi lúc này là tham gia vào quân chủng. Thậm chí tôi còn mơ tưởng rằng tôi sẽ làm lính cứu hỏa phục vụ trong không quân, để rồi một ngày nào đó, khi trở về Bay Area, tôi sẽ khoe với cha huy hiệu của mình. Việc tôi cố gắng gia nhập vào lực lượng không quân quả là một thử thách lớn lao. Sau khi chật vật giành được chứng chỉ giáo dục tương đương (GED), tôi đã phải điền vào một đống giấy tờ cho mỗi lần tôi bị đuổi từ nhà nuôi dưỡng này đến nhà nuôi dưỡng khác, sau đó tôi còn phải giải thích lý do vì sao tôi bị chuyển đi như vậy. Mỗi khi viên sĩ quan không quân hỏi về quá khứ của tôi, tôi lại sợ hãi đến mức nói lắp bắp như một kẻ ngớ ngẩn. Sau nhiều lần lảng tránh, cuối cùng tôi đành lấy hết can đảm để đối mặt và giải thích sơ qua với vị sĩ quan đó vì sao Mẹ và tôi không còn liên lạc. Tôi thấp thỏm chờ đợi phản ứng của anh ta. Tôi biết nếu viên sĩ quan đó nghĩ tôi là một kẻ chuyên gây rắc rối, anh ta có thể từ chối đơn xin việc của tôi.
Suốt nhiều tuần liền, sáng nào tôi cũng chực chờ bên ngoài văn phòng của lực lượng không quân, đợi đến khi họ mở cửa, tôi lại vội vào trong để tiếp tục điền đầy đủ vào đống giấy tờ, tỉ mẩn nghiên cứu những bộ phim và bất cứ quyển sách hướng dẫn nào mà vị sĩ quan tuyển dụng đưa cho tôi. Tôi trở nên ám ảnh với khao khát được gia nhập vào lực lượng không quân, bởi tôi biết đó chính là cánh cửa duy nhất mở ra cuộc sống mới cho tôi.