…
Chú Thân bên chùa Tỉnh hội là một người bạn cũ học cùng lớp Sơ đẳng Phật học vơi tôi từ những năm trước một chín bảy lăm. Khi tôi được đưa ra học ở Phật học viện Quảng Nam, chú ấy được đưa vào học tại Phật học viện Nguyên Hương ở Phan Thiết. Nay các Phật học viện đều bị giải tán, chúng tôi gặp lại nhau và trở nên khá thân. Chú Thân có những tư tưởng mới mẻ, độc đáo lạ thường trong cách hiểu về thiền học cũng như về giáo lý tịnh độ. Chú là một con người bạt mạng, sống rất thực và bất cần dư luận. Chính vì vậy mà trong mắt nhiều người, kể cả vị bổn sư của chú là Thượng tọa trụ trì chùa Tỉnh hội, chú có vẻ như một kẻ hoang đàng, phá phách nhất trong những chú sa-di ở Nha Trang. Tôi thấy điều đó là bất công với chú, vì đối với tôi, chú vẫn là một người bạn trực tính, một người bạn tốt, sống hết lòng với bạn hữu. Ngoài chú Thân ra, ở chùa Tỉnh hội còn có chú Mỹ (thường gọi là Mỹ đen để phân biệt với một chú Mỹ cùng tên nhưng có nước da trắng hơn—Mỹ trắng). Chú Mỹ đen từ Sài Gòn về Nha Trang sau năm bảy lăm, cũng trở thành một người bạn mới của tôi khi tôi thường tới lui chùa Tỉnh hội để trò chuyện với chú Thân. Như vậy, từ viện Hải Đức, chùa Tỉnh hội và chùa Linh Phong, chúng tôi bốn người, tính theo thứ tự tuổi tác: chú Đức, chú Mỹ, chú Thân và tôi, kết thành bạn với nhau. Chú Đức và chú Mỹ cùng tuổi nhau và lớn hơn chú Thân bốn tuổi, còn chú Thân thì lớn hơn tôi hai tuổi.
Đúng như người ta nói, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Khi tôi rơi xuống tận cùng sự “bê tha” của đời mình vào giai đoạn đó thì tự dưng con người tôi lại thích hợp vô cùng với những mẫu người cũng trội bật về sự phóng tâm như các người bạn mới này. Dù sao, cũng phải nhìn nhận rằng, trong bốn đứa chúng tôi, tôi và Đức hợp với nhau nhiều hơn vì chúng tôi biết hối tiếc, và biết đau khổ vì sự phóng túng của mình. Những gì hai chú kia làm, tôi với Đức cũng có làm: cử tạ, đi bơi, đọc tiểu thuyết, đọc truyện kiếm hiệp, v.v... Nhưng tôi và Đức, thỉnh thoảng có ghìm cương lại, có nhắc nhau về chuyện tu học, có trao đổi với nhau về Phật pháp; còn hai chú kia thì không. Hai chú ấy không bao giờ hối hận về những gì họ làm. Và trong khi hai chú kia lúc nào cũng tỏ ra là những kẻ lịch lãm, lanh lợi, có thể thích ứng với bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của đời sống thiền môn hay đời sống thế tục thì tôi và Đức vẫn cứ là hai thanh niên tu sĩ khờ khạo, có vui chơi gì thì cũng biết cái chừng mức để dừng lại, biết hổ thẹn, và không bao giờ dám đi hết con đường phóng túng của mình.
…
Thực là quá sức tưởng tượng khi một tốp công an thành phố lên nói chuyện với thầy bổn sư của tôi và thông báo quyết định của họ rằng, họ cần mượn tạm dãy “nhà mới”, tức là dãy tăng phòng nằm ở vị trí cao nhất của đồi Trại Thủy, nơi có quả đại hồng chung của viện. Không biết họ có nói rõ lý do gì với thầy tôi không, nhưng tôi nghe những người trong viện bàn tán xầm xì rằng, họ lấy cớ mượn dãy tăng phòng đó để kiểm soát thành phố mà thực ra là để kiểm soát sinh hoạt của viện. Viện Hải Đức xưa kia nổi tiếng là nơi đào tạo nhiều thế hệ nhân tài của giáo hội. Đến nay, dù đã giải tán nhưng hãy còn khá đông thành phần tu sĩ trẻ ở lại. Trên hai mươi tu sĩ ở tập trung một chỗ, đối với chính quyền, quả là điều đáng ngờm. Dĩ nhiên là do họ đã quyết định trước nên thầy tôi không thể từ chối. Có thể đó là chỗ yếu của thầy tôi. Thầy chỉ còn biết thông báo lại một sự việc đã rồi cho quí hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo giáo hội tỉnh. Và khi tin này đến tai những người trẻ trong viện, sự bất mãn hiện ra thấy rõ. Mọi người đều có vẻ qui tội cho thầy tôi đã không dám mở miệng từ chối thẳng với công an thành phố về chiếm dụng trắng trợn cơ sở của viện như thế. Trong số những người bất mãn đó, có cả tôi. Với bầu máu nóng của thanh niên, tôi đã không sao hiểu nổi rằng có những việc không thể giải quyết đơn giản bằng sự chống trả kịch liệt với bạo lực. Tôi cũng quên rằng thời điểm của những năm cộng sản mới cầm quyền tại miền Nam, không phải là lúc mà người dân, bao gồm cả những tu sĩ các tôn giáo, có thể nói chuyện tay đôi với nhân viên nhà nước—bổn phận của người dân lúc ấy là phải lắng nghe và làm theo mệnh lệnh của nhà nước đưa ra. Tôi chỉ thấy rằng việc đó thực phi lý, mà đã phi lý thì không thể chấp nhận. Vì vậy, không nhiều thì ít, trong lòng tôi cũng đã nẩy sinh một mối bất kính với chính vị thầy bổn sư của mình. Đây là điểm tối kỵ trong truyền thông sinh hoạt của Phật giáo. Khi một đệ tử đã mất đi hay chỉ phai nhạt đi niềm kính tín đối với sư phụ, điều này không có nghĩa là hắn sẽ không bao giờ thành công, nhưng hắn sẽ phải tự đi đến đích bằng những bước chân vô cùng quệnh quạng. Sư phụ dù ở xa hay gần, vẫn là một biểu tượng rất mạnh và tối cần thiết để làm chỗ nương tựa tâm linh cho đệ tử. Để tiến xa, để đạt đạo, người đệ tử cần vượt qua thầy, nhưng không bao giờ nên đốn ngã thầy. Khinh thị, bất kính là những con mọt, đục khoét dần dần để rồi đốn ngã niềm tin và ý chí của người đệ tử lúc nào chính hắn không thể ý thức được.
Những ngày kế tiếp, quí thầy ở dãy “nhà mới” phải dọn xuống các phòng phía dưới. Trai đường rộng lớn của viện phải bị chia làm hai, một nửa trước dùng làm trai đường, nửa sau còn lại, làm phòng tăng. Đâu chừng hơn nửa tháng thì công an kéo lên. Tăng sĩ và công an cùng chung sống trên một ngọn đồi. Hay có thể nói một cách ý vị hơn: Phật và Ma vương tựa lưng nhau trên một bồ đoàn. Nhưng có muốn thi vị hóa cách mấy về sự kiện này cũng không xóa nổi thực trạng đau buồn là một nửa phần trên thơ mộng nhất của ngọn đồi Trại Thủy đã bị cưỡng hiếp. Vâng, phải nói một chữ thô lậu như thế mới diễn tả chính xác được sự xâm phạm của một cái tục tằn đối với một cái ngây thơ trong trắng. Đồi Trại Thủy suốt mấy chục năm là cảnh thiền, bây giờ bắt đầu có sự hiện diện của những người thế tục thiếu thiện tâm. Chúng tôi không còn tự do đi dạo trên đỉnh đồi nữa. Con đường từ viện qua Kim Thân Phật Tổ cũng bị cắt đứt. “Nhà mới” trở thành “đồn mới”.
Còn gì để mất mát nữa chăng? Tôi tự hỏi như vậy, khi bước đi trên con đường Hoàng hôn và có cảm giác như có người từ dãy “nhà mới” đang nhìn mình, theo dõi mình.
Tôi không muốn rời khỏi phòng nữa. Ở lì trong phòng, viết văn, làm thơ, đàn ca một mình. Khi ra ngoài, tôi tìm đến các chú Đức, Mỹ và Thân để trò chuyện cho quên đi rằng có một đám mây đen đang bao phủ cuộc sống thơ mộng xưa nay của mái viện Hải Đức.
…
Tôi được chú Đức thông báo là phải có mặt tại chùa Linh Phong vào ngày mà thầy Trừng Hùng, nhân danh chủ hộ—tức là người đứng đầu tờ khai gia đình, hay nói cho dễ hiểu là người chủ nhà— mang tờ hộ khẩu của chùa Linh Phong cùng với các bản khai lý lịch của từng cá nhân trong chùa đến khóm Phước Bình để công an chứng nhận thay hộ khẩu mới. Có thể công an sẽ cho đòi những người tạm trú xin vào thường trú có mặt tại trụ sở Khóm hay Phường, xét xem có hợp lệ để cho vào danh sách thường trú hay không. Khóm Phước Bình ở ngay dưới chân núi, từ tam quan chùa Linh Phong có thể nhìn thấy; cho nên tôi và chú Đức chỉ việc ngồi chờ đợi ở bậc tam cấp, nếu thấy thầy Trừng Hùng bước ra khỏi trụ sở, ngoắc tay, thì cùng xuống núi để vào trụ sở Khóm. Sau một giờ đồng hồ, thầy Trừng Hùng từ trụ sở Khóm bước ra, chẳng ngoắc chẳng kêu gì. Thầy lên núi, về chùa. Sổ hộ khẩu mới đã có. Tên chú Đức và tôi cũng đã nằm trong phần danh sách thường trú của chùa Linh Phong. Chú Đức chắp tay nói đùa với tôi: “Nam mô thường trú Tăng Bảo”, như là một câu chúc mừng cho hai đứa.
Nhưng tôi chưa kịp quay về viện Hải Đức thì thầy Trừng Hùng gọi cả tôi lẫn chú Đức vào phòng khách của chùa, nhắc nhở:
“Từ nay tụi bây đã được yên ổn rồi đó. Liệu mà tu học đàng hoàng, có đi đâu xa ra khỏi Nha Trang thì cũng phải báo tao biết, xin giấy thông hành của công an cho hợp lệ rồi mới được đi. Không phải có hộ khẩu rồi muốn bay nhảy đi đâu thì mặc ý. Thằng Đức không nói làm gì, chứ thằng Khang, mi ở bên Hải Đức mà tên thì gởi ở đây, cái đó hơi lộn xộn đó nghe. Lỡ nửa đêm nửa hôm công an nó vào xét chùa, không có mặt mi thì tao ăn nói làm sao. Để hôm nào tao thưa lại với thầy bổn sư mi về chuyện này mới được.”
Tôi thưa:
“Dạ nếu công an có hỏi thì thầy nói con đang dưỡng bệnh và tu học bên Hải Đức. Hai chùa cùng trên một núi, cùng một khóm phường, chắc họ chẳng làm khó dễ chi đâu.”
“Nói như mi thì khỏe quá. Tao sợ không đơn giản như vậy thôi.”
Buổi chiều ăn cơm ở phòng ăn của viện, tôi nghe quý thầy bàn về việc lập hộ khẩu mới. Ai cũng cho rằng nhà nước cần làm hộ khẩu không phải chỉ để kiểm soát và thống kê nhân số mà còn là biện pháp ngăn chận và giảm trừ sự đi lại của nhân dân hầu đóng bít sự thông tin giữa các địa phương, sự thông tin mà họ nghĩ là bất lợi cho chính sách tuyên truyền một chiều của họ. Kiểm soát hộ khẩu cũng là cách để loại trừ những thành phần chống đối chính quyền từ nội địa hay hải ngoại có thể len lỏi trốn nấp trong các cư gia; ngoài ra, cũng qua chính sách hộ khẩu, nhà nước kiểm soát vấn đề thực phẩm của nhân dân, lấy chuyện cơm áo để sai sử, kềm chế, thưởng, phạt nhân dân theo đường lối và mục tiêu hoạch định của đảng và nhà nước.
Nghe quí thầy bàn luận tôi mới vỡ lẽ. Kiến thức sách vở của tôi lâu nay chỉ quanh quẩn trong các chủ đề văn chương, triết học, Thiền học và đạo học Đông phương... nên không làm sao tự nhiên mà thấu hiểu được những vấn đề của chính trị dù rằng trong phương diện này có những chỗ rất thực tế, cơ bản, rất dễ nắm bắt, như chuyện kiểm soát hộ khẩu chẳng hạn, chẳng có gì cao siêu khó hiểu như những vấn đề trong đạo học hay triết học. Bất chợt tôi cũng nhận ra rằng từ ngày những người cộng sản nắm lấy chính quyền của cả hai miền, tâm trí thuần phác và hướng thượng của giới tu sĩ trẻ Phật giáo, trong đó có tôi, tự dưng lại rơi xuống, dây dưa vào những vấn đề hình nhi hạ tầm thường của thế gian; tự dưng tôi bắt đầu biết chú ý vào thời sự, vào những sinh hoạt của người thế tục, trong đó có cả người dân và chính quyền. Phải chăng đến tuổi thanh niên thì con người tự dưng bắt đầu chú ý đến thời thế hay chính thời thế đã xô đẩy những người thanh niên của mọi thành phần xã hội phải buông bỏ những hoài bão, mộng mơ của họ để nhìn vào những thực trạng khổ đau của nhân tình chung quanh?
Trở lại cái chuyện rất thực tế là vấn đề hộ khẩu. Chuyện tôi “xin” vào hộ khẩu của chùa Linh Phong chẳng khác gì xin được ở tù, xin được vào cái vòng kiểm soát của nhà nước. Mà không phải chỉ riêng tôi, nhân dân cả nước đều vậy. Không có tên chính thức trong một hộ khẩu thì không mua được thực phẩm, bị coi là bất hợp lệ và không được cấp thẻ Chứng minh nhân dân (tức thẻ căn cước); không có thẻ Chứng minh nhân dân và hộ khẩu thì có thể bị bắt ngoài đường, hoặc bị bắt ngay trong nhà, trong chùa của mình nếu có công an xét hỏi. Cho nên, biết vào hộ khẩu là tự chui đầu vào vòng kiểm soát, người ta cũng phải xin vào. Không còn cách chọn lựa nào khác. Thà để nhà nước kiểm soát còn hơn không có gạo ăn, còn hơn sống trong nỗi phập phồng lo âu là có thể bị bắt bất cứ lúc nào vì tội không có giấy tờ. Trong xã hội mới, những người không có hộ khẩu, không có thẻ Chứng minh nhân dân thì thường bị coi như là những kẻ phản động, bị tình nghi tàn quân, là gián điệp của nước ngoài cài lại hoặc mới đưa vào... Những tội đó, khoan bàn đến chuyện có đúng sự thực hay không, chỉ nói đến “tình nghi" là đã coi như tù mọt gông, không có ngày trở về.
Nhưng đợt làm hộ khẩu mới của năm bảy sáu này còn có một mục đích khẩn cấp khác nữa mà nhà nước cần phải thực hiện càng sớm càng tốt, đó là việc tuyển mộ thanh niên nam nữ lên đường nhập ngũ (từ ngữ mới gọi là “đăng ký nghĩa vụ quân sự”), để sang Kampuchea làm nghĩa vụ quốc tế và để chống lại sự xâm lược của Trung Hoa mà nhà nước gọi là “quân bành trướng Bắc Kinh” hay “bọn bá quyền Trung quốc”.
Đâu chừng một tháng sau khi lập xong đợt hộ khẩu mới, toàn thể thanh niên tuổi từ mười tám đến hai mươi lăm đều phải trình diện tại các khóm phường để “học” về chính sách “nghĩa vụ quân sự”. Có giấy mời cho mỗi cá nhân gởi đến từng nhà. Tăng sĩ trẻ ở các chùa cũng nhận được giấy gọi đi học tập chính sách nghĩa vụ quân sự cũng như giấy gọi đi đăng ký nghĩa vụ quân sự. Viện Hải Đức có trên mười vị trong lứa tuổi quân sự. Các chùa chung quanh là Long Sơn, Phước Điền, có sáu vị khác. Và chùa Linh Phong, cùng chung một khóm Phước Bình, xét theo nhân số thường trú ghi trong hộ khẩu, có chú Đức và tôi. Chuyện nghĩa vụ quân sự trở thành đề tài bàn tán bất tận của thành phố Nha Trang. Giới Phật tử thường đi chùa cũng xôn xao, nhốn nháo khi nghe tin các tu sĩ trẻ cũng bị gọi đi nghĩa vụ quân sự.
Trong khi việc đăng ký (tức là ghi tên) nghĩa vụ quân sự hạn định tuổi thanh niên từ mười tám đến hai mươi lăm thì chuyện học tập về chính sách nghĩa vụ quân sự lại mở rộng ra: cả những người ở tuổi từ hai mươi sáu đến ba mươi lăm cũng phải tham dự. Vậy là hầu như gần hết nhân sự của viện Hải Đức phải có mặt tại các lớp học này. Đây là cả một chuyện động trời khi vấn đề quân sự của chính quyền mới đã không loại trừ thành phần tu sĩ các tôn giáo. Mà cũng lạ, tự dưng mọi thanh niên nằm trong lứa tuổi qui định nhận giấy mời rồi là phải lục tục kéo nhau đi, không ai dám vắng mặt, không ai dám chậm trễ—phải chăng là do ngay từ những ngày đầu tiên của chế độ mới họ đã chứng kiến hoặc bị ám ảnh từ trong tầng đáy của tâm thức về sự khắc nghiệt, vô tình một cách man rợ của một chính quyền mượn danh nhân dân nông nghiệp vốn nổi tiếng với những vụ đấu tố cha mẹ, truy bức tù hãm những người giàu có và quyền thế bằng bản án “địa chủ”, hoặc chặt đầu và chôn sống những kẻ yêu nước nhưng không cùng phe, không cùng chính kiến?
Học tập (thực ra phải nói là đến nghe thông cáo) xong, mỗi người về nhà phải tự viết một “bản thu hoạch,” tức là một bản tóm thâu những gì mình nghe được, có thể kèm theo ý kiến cá nhân của mình đối với vấn đề nghĩa vụ quân sự. (Điều hợp lý không thể chối cãi rằng khi những người nông dân tay lấm chân bùn, đùng cái vớ được vận may lớn, lên cầm bút, ngồi bàn giấy, thì ắt hẳn là phải dùng những cụm từ và câu nói quen thuộc của sinh hoạt nông nghiệp qua hình ảnh hồ hởi, hăm hở cân đong lúa má vào mùa gặt).
Sau khi nộp bản “thu hoạch về vấn đề Nghĩa vụ quân sự chống bành trướng Bắc Kinh đang có chủ tâm xâm lăng nước ta” đó, thanh niên chúng tôi được giấy mời đi khám sức khỏe. Trung tâm khám sức khỏe được dựng lên vội vàng bằng cách mượn tạm một dãy phòng của trường Vinh Sơn và giao cho một tốp y tá nghiệp dư (tức là không chuyên nghiệp, không qua trường lớp chuyên môn nào) phối hợp với Ban chỉ huy quân sự thành phố đảm trách. Sau đợt khám, trong hơn hai mươi thanh niên tu sĩ thuộc các chùa chung quanh viện Hải Đức chỉ lọt hai người vào danh sách hạng A, tức là hạng có đầy đủ sức khỏe để vào quân đội. Hai người đó là chú Mỹ và tôi. Nhưng chú Mỹ đã hai mươi bốn tuổi rồi nên cuối cùng lại có được giấy chứng nhận là Quân dự bị hạng II. Tuổi của chú ấy, nhà nước chưa cần lắm. Nhà nước đang cần nhất là tuổi gần mười tám như tôi, hay cao lắm là hai mươi. Vậy là chỉ còn duy nhất mình tôi dính vào danh sách “Trúng tuyển nghĩa vụ Quân sự hạng I”
Từ lúc có giấy chứng nhận trúng tuyển, tôi có thể nhận thấy được vẻ ái ngại, thương cảm của những người trong viện, của bằng hữu các chùa khác cũng như của các Phật tử dành cho tôi. Thầy Thông Chánh cũng bỏ qua chuyện tôi tránh mặt không nói chuyện với thầy từ nhiều ngày trước, tìm đến phòng riêng hỏi thăm, an ủi tôi. Hẳn nhiên thầy ấy, cũng như mọi người, đều nghĩ rằng, những thanh niên thế tục đúng tuổi lính còn muốn bỏ trốn huống chi một tu sĩ xuất gia từ bé như tôi làm sao có thể vui vẻ được khi chính mình bị gọi đi cầm súng. Riêng tôi, tôi không quá đau buồn và tuyệt vọng như mọi người tưởng. Dĩ nhiên tôi không ham thích, không tự nguyện đâm đầu vào quân đội, nhưng có thể nói là ít nhất, tôi cũng đã chuẩn bị trước tư tưởng để bình thản chấp nhận nghịch cảnh nào xảy đến cho mình. Biết đâu, đây lại chẳng là một trong những thử thách cam go nhưng cũng giá trị cho cuộc đời tu hành của tôi. Thử thách ấy, nghịch cảnh khó khăn ấy, không phải trong Luận Bảo Vương Tam Muội đã từng nói là phải biết chấp nhận thì mới thông suốt, mới vượt qua được đó sao! Cho nên, dù có người khuyên, xúi bỏ trốn, tôi cũng chỉ cười, lắc đầu. Tôi đâu cần phải né tránh nghịch cảnh! Tôi tin cái thử thách trước mắt sẽ nung chín ý chí và Bồ đề tâm của tôi qua những lằn lửa đạn và nỗi phập phồng mong manh giữa hai bờ sinh tử. Tôi sẵn sàng chấp nhận nó.