Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018


Chú Thân bên chùa Tỉnh hội là một người bạn cũ học cùng lớp Sơ đẳng Phật học vơi tôi từ những năm trước một chín bảy lăm. Khi tôi được đưa ra học ở Phật học viện Quảng Nam, chú ấy được đưa vào học tại Phật học viện Nguyên Hương ở Phan Thiết. Nay các Phật học viện đều bị giải tán, chúng tôi gặp lại nhau và trở nên khá thân. Chú Thân có những tư tưởng mới mẻ, độc đáo lạ thường trong cách hiểu về thiền học cũng như về giáo lý tịnh độ. Chú là một con người bạt mạng, sống rất thực và bất cần dư luận. Chính vì vậy mà trong mắt nhiều người, kể cả vị bổn sư của chú là Thượng tọa trụ trì chùa Tỉnh hội, chú có vẻ như một kẻ hoang đàng, phá phách nhất trong những chú sa-di ở Nha Trang. Tôi thấy điều đó là bất công với chú, vì đối với tôi, chú vẫn là một người bạn trực tính, một người bạn tốt, sống hết lòng với bạn hữu. Ngoài chú Thân ra, ở chùa Tỉnh hội còn có chú Mỹ (thường gọi là Mỹ đen để phân biệt với một chú Mỹ cùng tên nhưng có nước da trắng hơn—Mỹ trắng). Chú Mỹ đen từ Sài Gòn về Nha Trang sau năm bảy lăm, cũng trở thành một người bạn mới của tôi khi tôi thường tới lui chùa Tỉnh hội để trò chuyện với chú Thân. Như vậy, từ viện Hải Đức, chùa Tỉnh hội và chùa Linh Phong, chúng tôi bốn người, tính theo thứ tự tuổi tác: chú Đức, chú Mỹ, chú Thân và tôi, kết thành bạn với nhau. Chú Đức và chú Mỹ cùng tuổi nhau và lớn hơn chú Thân bốn tuổi, còn chú Thân thì lớn hơn tôi hai tuổi.
Đúng như người ta nói, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Khi tôi rơi xuống tận cùng sự “bê tha” của đời mình vào giai đoạn đó thì tự dưng con người tôi lại thích hợp vô cùng với những mẫu người cũng trội bật về sự phóng tâm như các người bạn mới này. Dù sao, cũng phải nhìn nhận rằng, trong bốn đứa chúng tôi, tôi và Đức hợp với nhau nhiều hơn vì chúng tôi biết hối tiếc, và biết đau khổ vì sự phóng túng của mình. Những gì hai chú kia làm, tôi với Đức cũng có làm: cử tạ, đi bơi, đọc tiểu thuyết, đọc truyện kiếm hiệp, v.v... Nhưng tôi và Đức, thỉnh thoảng có ghìm cương lại, có nhắc nhau về chuyện tu học, có trao đổi với nhau về Phật pháp; còn hai chú kia thì không. Hai chú ấy không bao giờ hối hận về những gì họ làm. Và trong khi hai chú kia lúc nào cũng tỏ ra là những kẻ lịch lãm, lanh lợi, có thể thích ứng với bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của đời sống thiền môn hay đời sống thế tục thì tôi và Đức vẫn cứ là hai thanh niên tu sĩ khờ khạo, có vui chơi gì thì cũng biết cái chừng mức để dừng lại, biết hổ thẹn, và không bao giờ dám đi hết con đường phóng túng của mình.

Thực là quá sức tưởng tượng khi một tốp công an thành phố lên nói chuyện với thầy bổn sư của tôi và thông báo quyết định của họ rằng, họ cần mượn tạm dãy “nhà mới”, tức là dãy tăng phòng nằm ở vị trí cao nhất của đồi Trại Thủy, nơi có quả đại hồng chung của viện. Không biết họ có nói rõ lý do gì với thầy tôi không, nhưng tôi nghe những người trong viện bàn tán xầm xì rằng, họ lấy cớ mượn dãy tăng phòng đó để kiểm soát thành phố mà thực ra là để kiểm soát sinh hoạt của viện. Viện Hải Đức xưa kia nổi tiếng là nơi đào tạo nhiều thế hệ nhân tài của giáo hội. Đến nay, dù đã giải tán nhưng hãy còn khá đông thành phần tu sĩ trẻ ở lại. Trên hai mươi tu sĩ ở tập trung một chỗ, đối với chính quyền, quả là điều đáng ngờm. Dĩ nhiên là do họ đã quyết định trước nên thầy tôi không thể từ chối. Có thể đó là chỗ yếu của thầy tôi. Thầy chỉ còn biết thông báo lại một sự việc đã rồi cho quí hòa thượng, thượng tọa lãnh đạo giáo hội tỉnh. Và khi tin này đến tai những người trẻ trong viện, sự bất mãn hiện ra thấy rõ. Mọi người đều có vẻ qui tội cho thầy tôi đã không dám mở miệng từ chối thẳng với công an thành phố về chiếm dụng trắng trợn cơ sở của viện như thế. Trong số những người bất mãn đó, có cả tôi. Với bầu máu nóng của thanh niên, tôi đã không sao hiểu nổi rằng có những việc không thể giải quyết đơn giản bằng sự chống trả kịch liệt với bạo lực. Tôi cũng quên rằng thời điểm của những năm cộng sản mới cầm quyền tại miền Nam, không phải là lúc mà người dân, bao gồm cả những tu sĩ các tôn giáo, có thể nói chuyện tay đôi với nhân viên nhà nước—bổn phận của người dân lúc ấy là phải lắng nghe và làm theo mệnh lệnh của nhà nước đưa ra. Tôi chỉ thấy rằng việc đó thực phi lý, mà đã phi lý thì không thể chấp nhận. Vì vậy, không nhiều thì ít, trong lòng tôi cũng đã nẩy sinh một mối bất kính với chính vị thầy bổn sư của mình. Đây là điểm tối kỵ trong truyền thông sinh hoạt của Phật giáo. Khi một đệ tử đã mất đi hay chỉ phai nhạt đi niềm kính tín đối với sư phụ, điều này không có nghĩa là hắn sẽ không bao giờ thành công, nhưng hắn sẽ phải tự đi đến đích bằng những bước chân vô cùng quệnh quạng. Sư phụ dù ở xa hay gần, vẫn là một biểu tượng rất mạnh và tối cần thiết để làm chỗ nương tựa tâm linh cho đệ tử. Để tiến xa, để đạt đạo, người đệ tử cần vượt qua thầy, nhưng không bao giờ nên đốn ngã thầy. Khinh thị, bất kính là những con mọt, đục khoét dần dần để rồi đốn ngã niềm tin và ý chí của người đệ tử lúc nào chính hắn không thể ý thức được.
Những ngày kế tiếp, quí thầy ở dãy “nhà mới” phải dọn xuống các phòng phía dưới. Trai đường rộng lớn của viện phải bị chia làm hai, một nửa trước dùng làm trai đường, nửa sau còn lại, làm phòng tăng. Đâu chừng hơn nửa tháng thì công an kéo lên. Tăng sĩ và công an cùng chung sống trên một ngọn đồi. Hay có thể nói một cách ý vị hơn: Phật và Ma vương tựa lưng nhau trên một bồ đoàn. Nhưng có muốn thi vị hóa cách mấy về sự kiện này cũng không xóa nổi thực trạng đau buồn là một nửa phần trên thơ mộng nhất của ngọn đồi Trại Thủy đã bị cưỡng hiếp. Vâng, phải nói một chữ thô lậu như thế mới diễn tả chính xác được sự xâm phạm của một cái tục tằn đối với một cái ngây thơ trong trắng. Đồi Trại Thủy suốt mấy chục năm là cảnh thiền, bây giờ bắt đầu có sự hiện diện của những người thế tục thiếu thiện tâm. Chúng tôi không còn tự do đi dạo trên đỉnh đồi nữa. Con đường từ viện qua Kim Thân Phật Tổ cũng bị cắt đứt. “Nhà mới” trở thành “đồn mới”.
Còn gì để mất mát nữa chăng? Tôi tự hỏi như vậy, khi bước đi trên con đường Hoàng hôn và có cảm giác như có người từ dãy “nhà mới” đang nhìn mình, theo dõi mình.
Tôi không muốn rời khỏi phòng nữa. Ở lì trong phòng, viết văn, làm thơ, đàn ca một mình. Khi ra ngoài, tôi tìm đến các chú Đức, Mỹ và Thân để trò chuyện cho quên đi rằng có một đám mây đen đang bao phủ cuộc sống thơ mộng xưa nay của mái viện Hải Đức.

Tôi được chú Đức thông báo là phải có mặt tại chùa Linh Phong vào ngày mà thầy Trừng Hùng, nhân danh chủ hộ—tức là người đứng đầu tờ khai gia đình, hay nói cho dễ hiểu là người chủ nhà— mang tờ hộ khẩu của chùa Linh Phong cùng với các bản khai lý lịch của từng cá nhân trong chùa đến khóm Phước Bình để công an chứng nhận thay hộ khẩu mới. Có thể công an sẽ cho đòi những người tạm trú xin vào thường trú có mặt tại trụ sở Khóm hay Phường, xét xem có hợp lệ để cho vào danh sách thường trú hay không. Khóm Phước Bình ở ngay dưới chân núi, từ tam quan chùa Linh Phong có thể nhìn thấy; cho nên tôi và chú Đức chỉ việc ngồi chờ đợi ở bậc tam cấp, nếu thấy thầy Trừng Hùng bước ra khỏi trụ sở, ngoắc tay, thì cùng xuống núi để vào trụ sở Khóm. Sau một giờ đồng hồ, thầy Trừng Hùng từ trụ sở Khóm bước ra, chẳng ngoắc chẳng kêu gì. Thầy lên núi, về chùa. Sổ hộ khẩu mới đã có. Tên chú Đức và tôi cũng đã nằm trong phần danh sách thường trú của chùa Linh Phong. Chú Đức chắp tay nói đùa với tôi: “Nam mô thường trú Tăng Bảo”, như là một câu chúc mừng cho hai đứa.
Nhưng tôi chưa kịp quay về viện Hải Đức thì thầy Trừng Hùng gọi cả tôi lẫn chú Đức vào phòng khách của chùa, nhắc nhở:
“Từ nay tụi bây đã được yên ổn rồi đó. Liệu mà tu học đàng hoàng, có đi đâu xa ra khỏi Nha Trang thì cũng phải báo tao biết, xin giấy thông hành của công an cho hợp lệ rồi mới được đi. Không phải có hộ khẩu rồi muốn bay nhảy đi đâu thì mặc ý. Thằng Đức không nói làm gì, chứ thằng Khang, mi ở bên Hải Đức mà tên thì gởi ở đây, cái đó hơi lộn xộn đó nghe. Lỡ nửa đêm nửa hôm công an nó vào xét chùa, không có mặt mi thì tao ăn nói làm sao. Để hôm nào tao thưa lại với thầy bổn sư mi về chuyện này mới được.”
Tôi thưa:
“Dạ nếu công an có hỏi thì thầy nói con đang dưỡng bệnh và tu học bên Hải Đức. Hai chùa cùng trên một núi, cùng một khóm phường, chắc họ chẳng làm khó dễ chi đâu.”
“Nói như mi thì khỏe quá. Tao sợ không đơn giản như vậy thôi.”
Buổi chiều ăn cơm ở phòng ăn của viện, tôi nghe quý thầy bàn về việc lập hộ khẩu mới. Ai cũng cho rằng nhà nước cần làm hộ khẩu không phải chỉ để kiểm soát và thống kê nhân số mà còn là biện pháp ngăn chận và giảm trừ sự đi lại của nhân dân hầu đóng bít sự thông tin giữa các địa phương, sự thông tin mà họ nghĩ là bất lợi cho chính sách tuyên truyền một chiều của họ. Kiểm soát hộ khẩu cũng là cách để loại trừ những thành phần chống đối chính quyền từ nội địa hay hải ngoại có thể len lỏi trốn nấp trong các cư gia; ngoài ra, cũng qua chính sách hộ khẩu, nhà nước kiểm soát vấn đề thực phẩm của nhân dân, lấy chuyện cơm áo để sai sử, kềm chế, thưởng, phạt nhân dân theo đường lối và mục tiêu hoạch định của đảng và nhà nước.
Nghe quí thầy bàn luận tôi mới vỡ lẽ. Kiến thức sách vở của tôi lâu nay chỉ quanh quẩn trong các chủ đề văn chương, triết học, Thiền học và đạo học Đông phương... nên không làm sao tự nhiên mà thấu hiểu được những vấn đề của chính trị dù rằng trong phương diện này có những chỗ rất thực tế, cơ bản, rất dễ nắm bắt, như chuyện kiểm soát hộ khẩu chẳng hạn, chẳng có gì cao siêu khó hiểu như những vấn đề trong đạo học hay triết học. Bất chợt tôi cũng nhận ra rằng từ ngày những người cộng sản nắm lấy chính quyền của cả hai miền, tâm trí thuần phác và hướng thượng của giới tu sĩ trẻ Phật giáo, trong đó có tôi, tự dưng lại rơi xuống, dây dưa vào những vấn đề hình nhi hạ tầm thường của thế gian; tự dưng tôi bắt đầu biết chú ý vào thời sự, vào những sinh hoạt của người thế tục, trong đó có cả người dân và chính quyền. Phải chăng đến tuổi thanh niên thì con người tự dưng bắt đầu chú ý đến thời thế hay chính thời thế đã xô đẩy những người thanh niên của mọi thành phần xã hội phải buông bỏ những hoài bão, mộng mơ của họ để nhìn vào những thực trạng khổ đau của nhân tình chung quanh?
Trở lại cái chuyện rất thực tế là vấn đề hộ khẩu. Chuyện tôi “xin” vào hộ khẩu của chùa Linh Phong chẳng khác gì xin được ở tù, xin được vào cái vòng kiểm soát của nhà nước. Mà không phải chỉ riêng tôi, nhân dân cả nước đều vậy. Không có tên chính thức trong một hộ khẩu thì không mua được thực phẩm, bị coi là bất hợp lệ và không được cấp thẻ Chứng minh nhân dân (tức thẻ căn cước); không có thẻ Chứng minh nhân dân và hộ khẩu thì có thể bị bắt ngoài đường, hoặc bị bắt ngay trong nhà, trong chùa của mình nếu có công an xét hỏi. Cho nên, biết vào hộ khẩu là tự chui đầu vào vòng kiểm soát, người ta cũng phải xin vào. Không còn cách chọn lựa nào khác. Thà để nhà nước kiểm soát còn hơn không có gạo ăn, còn hơn sống trong nỗi phập phồng lo âu là có thể bị bắt bất cứ lúc nào vì tội không có giấy tờ. Trong xã hội mới, những người không có hộ khẩu, không có thẻ Chứng minh nhân dân thì thường bị coi như là những kẻ phản động, bị tình nghi tàn quân, là gián điệp của nước ngoài cài lại hoặc mới đưa vào... Những tội đó, khoan bàn đến chuyện có đúng sự thực hay không, chỉ nói đến “tình nghi" là đã coi như tù mọt gông, không có ngày trở về.
Nhưng đợt làm hộ khẩu mới của năm bảy sáu này còn có một mục đích khẩn cấp khác nữa mà nhà nước cần phải thực hiện càng sớm càng tốt, đó là việc tuyển mộ thanh niên nam nữ lên đường nhập ngũ (từ ngữ mới gọi là “đăng ký nghĩa vụ quân sự”), để sang Kampuchea làm nghĩa vụ quốc tế và để chống lại sự xâm lược của Trung Hoa mà nhà nước gọi là “quân bành trướng Bắc Kinh” hay “bọn bá quyền Trung quốc”.
Đâu chừng một tháng sau khi lập xong đợt hộ khẩu mới, toàn thể thanh niên tuổi từ mười tám đến hai mươi lăm đều phải trình diện tại các khóm phường để “học” về chính sách “nghĩa vụ quân sự”. Có giấy mời cho mỗi cá nhân gởi đến từng nhà. Tăng sĩ trẻ ở các chùa cũng nhận được giấy gọi đi học tập chính sách nghĩa vụ quân sự cũng như giấy gọi đi đăng ký nghĩa vụ quân sự. Viện Hải Đức có trên mười vị trong lứa tuổi quân sự. Các chùa chung quanh là Long Sơn, Phước Điền, có sáu vị khác. Và chùa Linh Phong, cùng chung một khóm Phước Bình, xét theo nhân số thường trú ghi trong hộ khẩu, có chú Đức và tôi. Chuyện nghĩa vụ quân sự trở thành đề tài bàn tán bất tận của thành phố Nha Trang. Giới Phật tử thường đi chùa cũng xôn xao, nhốn nháo khi nghe tin các tu sĩ trẻ cũng bị gọi đi nghĩa vụ quân sự.
Trong khi việc đăng ký (tức là ghi tên) nghĩa vụ quân sự hạn định tuổi thanh niên từ mười tám đến hai mươi lăm thì chuyện học tập về chính sách nghĩa vụ quân sự lại mở rộng ra: cả những người ở tuổi từ hai mươi sáu đến ba mươi lăm cũng phải tham dự. Vậy là hầu như gần hết nhân sự của viện Hải Đức phải có mặt tại các lớp học này. Đây là cả một chuyện động trời khi vấn đề quân sự của chính quyền mới đã không loại trừ thành phần tu sĩ các tôn giáo. Mà cũng lạ, tự dưng mọi thanh niên nằm trong lứa tuổi qui định nhận giấy mời rồi là phải lục tục kéo nhau đi, không ai dám vắng mặt, không ai dám chậm trễ—phải chăng là do ngay từ những ngày đầu tiên của chế độ mới họ đã chứng kiến hoặc bị ám ảnh từ trong tầng đáy của tâm thức về sự khắc nghiệt, vô tình một cách man rợ của một chính quyền mượn danh nhân dân nông nghiệp vốn nổi tiếng với những vụ đấu tố cha mẹ, truy bức tù hãm những người giàu có và quyền thế bằng bản án “địa chủ”, hoặc chặt đầu và chôn sống những kẻ yêu nước nhưng không cùng phe, không cùng chính kiến?
Học tập (thực ra phải nói là đến nghe thông cáo) xong, mỗi người về nhà phải tự viết một “bản thu hoạch,” tức là một bản tóm thâu những gì mình nghe được, có thể kèm theo ý kiến cá nhân của mình đối với vấn đề nghĩa vụ quân sự. (Điều hợp lý không thể chối cãi rằng khi những người nông dân tay lấm chân bùn, đùng cái vớ được vận may lớn, lên cầm bút, ngồi bàn giấy, thì ắt hẳn là phải dùng những cụm từ và câu nói quen thuộc của sinh hoạt nông nghiệp qua hình ảnh hồ hởi, hăm hở cân đong lúa má vào mùa gặt).
Sau khi nộp bản “thu hoạch về vấn đề Nghĩa vụ quân sự chống bành trướng Bắc Kinh đang có chủ tâm xâm lăng nước ta” đó, thanh niên chúng tôi được giấy mời đi khám sức khỏe. Trung tâm khám sức khỏe được dựng lên vội vàng bằng cách mượn tạm một dãy phòng của trường Vinh Sơn và giao cho một tốp y tá nghiệp dư (tức là không chuyên nghiệp, không qua trường lớp chuyên môn nào) phối hợp với Ban chỉ huy quân sự thành phố đảm trách. Sau đợt khám, trong hơn hai mươi thanh niên tu sĩ thuộc các chùa chung quanh viện Hải Đức chỉ lọt hai người vào danh sách hạng A, tức là hạng có đầy đủ sức khỏe để vào quân đội. Hai người đó là chú Mỹ và tôi. Nhưng chú Mỹ đã hai mươi bốn tuổi rồi nên cuối cùng lại có được giấy chứng nhận là Quân dự bị hạng II. Tuổi của chú ấy, nhà nước chưa cần lắm. Nhà nước đang cần nhất là tuổi gần mười tám như tôi, hay cao lắm là hai mươi. Vậy là chỉ còn duy nhất mình tôi dính vào danh sách “Trúng tuyển nghĩa vụ Quân sự hạng I”
Từ lúc có giấy chứng nhận trúng tuyển, tôi có thể nhận thấy được vẻ ái ngại, thương cảm của những người trong viện, của bằng hữu các chùa khác cũng như của các Phật tử dành cho tôi. Thầy Thông Chánh cũng bỏ qua chuyện tôi tránh mặt không nói chuyện với thầy từ nhiều ngày trước, tìm đến phòng riêng hỏi thăm, an ủi tôi. Hẳn nhiên thầy ấy, cũng như mọi người, đều nghĩ rằng, những thanh niên thế tục đúng tuổi lính còn muốn bỏ trốn huống chi một tu sĩ xuất gia từ bé như tôi làm sao có thể vui vẻ được khi chính mình bị gọi đi cầm súng. Riêng tôi, tôi không quá đau buồn và tuyệt vọng như mọi người tưởng. Dĩ nhiên tôi không ham thích, không tự nguyện đâm đầu vào quân đội, nhưng có thể nói là ít nhất, tôi cũng đã chuẩn bị trước tư tưởng để bình thản chấp nhận nghịch cảnh nào xảy đến cho mình. Biết đâu, đây lại chẳng là một trong những thử thách cam go nhưng cũng giá trị cho cuộc đời tu hành của tôi. Thử thách ấy, nghịch cảnh khó khăn ấy, không phải trong Luận Bảo Vương Tam Muội đã từng nói là phải biết chấp nhận thì mới thông suốt, mới vượt qua được đó sao! Cho nên, dù có người khuyên, xúi bỏ trốn, tôi cũng chỉ cười, lắc đầu. Tôi đâu cần phải né tránh nghịch cảnh! Tôi tin cái thử thách trước mắt sẽ nung chín ý chí và Bồ đề tâm của tôi qua những lằn lửa đạn và nỗi phập phồng mong manh giữa hai bờ sinh tử. Tôi sẵn sàng chấp nhận nó.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 29 May 2018


Biển Nha Trang vào những buổi sáng mùa hè, mặt nước phẳng lì như nước hồ thu, không gợn sóng. Chỉ đến trưa đứng bóng mới thấy sóng dồn trùng trùng điệp điệp, đẩy vào những làn bọt trắng xóa như những phiến mây mỏng rơi rớt xuống từ trời cao, có đó rồi tan biến đó, không để lại dấu vết gì sâu đậm trên mặt nước bao la.
Chúng tôi xuống bãi lúc mặt trời đã lên cao khỏi ngọn đảo lớn nhất ngoài khơi xa. Từ ngày xuất gia, hiếm khi nào tôi xuống bãi biển để tắm. Người tu ở chùa lâu năm, quen ăn bận kín đáo—áo nhật bình, áo tràng, ca sa, và cả bộ đồ vạt hò mặc trong ngày, thứ nào cũng dài, rộng, che kín tay chân và toàn thân—nên họ rất khó chịu, hoặc có thể nói thẳng rằng rất mắc cỡ, khi để lộ một phần tay trần của mình trước người lạ, nói chi cởi trần mặc quần đùi để tắm trước đám đông! Tôi chỉ có tắm ở cửa Đại (Hội An) vài lần với các chú tiểu học chung lớp hồi trước năm bảy lăm. Bãi biển cửa Đại là nơi không có nhiều người tắm như ở bãi Nha Trang, vả lại lúc đó chúng tôi còn là con nít, thế mà còn thấy e dè, ngại ngùng, huống chi xuống bãi Nha Trang vào mùa hè, đông nghịt những người là người. Nhưng từ khi kết bạn với chú Thân, chú Mỹ, tôi đã quen dần với chuyện xuống bãi tắm, ngay cả vào những giờ tụ tập cao điểm nhất của bãi biển.
Dù vậy, khi xuống bãi, tôi cũng đỏ mặt, núp núp lén lén như ăn trộm. Có cảm giác như hàng trăm cặp mắt đang đổ dồn về phía mình. Hễ xuống được dưới nước là bơi theo các chú kia ra tít ngoài khơi xa, nơi không có một móng người nào qua lại. Nơi chúng tôi bơi đến thỉnh thoảng mới có một chiếc tàu chạy ngang. Chỉ còn một phần tư đường nữa là có thể đến hòn đảo lớn nhất ngoài khơi Nha Trang. Nghe nói trước kia người Mỹ đã thiết lập đài truyền hình Nha Trang trên đỉnh cao nhất của hòn đảo này. Từ đây nhìn vào bờ, không còn thấy bóng dáng người. Tôi phỏng chừng có thể cách bờ khoảng hai cây số. Hàng ngàn người tắm chỉ còn là những đốm đen nhỏ li ti, chỗ tụ chỗ tán trên dải cát vàng chạy dài và nổi bật bên cạnh viền nước xanh biếc. Không khí ngoài khơi thật yên tĩnh. Sóng chỉ gợn nhè nhẹ, không đủ gây nên tiếng động. Chúng tôi thả mình nằm ngửa trên mặt nước, nhìn trời xanh và mây trắng giăng ngang. Nếu thú đọc sách nâng cao kiến thức của con người thì cái thú ra khơi thả mình trên mặt nước để nhìn trời mây cũng nâng tâm hồn con người đến tận những nơi chốn cao thẳm không thể tưởng được của càn khôn vũ trụ. Tôi có cảm giác như chính mình đang trôi giữa dòng mây ngang trời chứ không phải trên dòng nước trong xanh của biển. Tôi không thấy mình bé choắt hay hèn mọn trước vẻ bao la của trời biển. Tôi vui thú hòa mình trong cái bao la đó và biết rằng chính mình cũng bao la như trời biển vậy. Không những vậy, có khi tôi còn cảm thấy chính trời biển đã hòa nhập vào tâm tôi, trôi vào chính tôi, chứ không phải tôi đã hòa nhập hay trôi vào trời biển mịt mùng.
Buổi sáng đó, chú Đức và chú Mỹ về trước. Tôi và chú Thân hãy còn trầm mình ngoài khơi xa. Khi chúng tôi bơi dần vào bờ, liền cảm nhận có cái gì bất thường xảy ra trên bãi biển. Dạo thường, đến khoảng trưa mười một giờ, người tắm hãy còn đông, hôm nay bỗng dưng thiên hạ lục tục kéo về, để lại một dải cát vàng gần như trống hoang. Chúng tôi vừa lên tới bờ chưa kịp lau mình cho khô ráo thì có hai anh công an từ trên đường nhựa bước vội xuống. Một anh công an hất hàm hỏi chúng tôi:
“Các anh làm gì dưới đây?”
“Tắm biển chứ làm gì,” chú Thân đáp.
“Cho coi giấy Chứng minh nhân dân của các anh.”
Chú Thân và tôi móc giấy tờ ra đưa họ xem. Lúc đó chỉ mới có tờ biên lai chứng nhận của Chứng minh nhân dân chứ chưa có thẻ Chứng minh nhân dân chính thức. Mà giấy biên lai chứng nhận này thì đâu có hình ảnh gì. Vì vậy, hai anh công an nhìn chúng tôi với vẻ ngờ vực. Họ hỏi tiếp:
“Các anh còn giấy tờ gì khác không? Có giấy đăng ký Nghĩa vụ quân sự không?”
Chúng tôi đưa giấy ra. Cả tôi và chú Thân đều được xếp hạng II của quân dự bị, có giấy tờ chứng nhận đầy đủ. Tuần trước, khi tôi đang trong tư thế sẵn sàng chấp nhận vào bộ đội nếu bị gọi đi thì có một anh công an đến điều tra kỹ lý lịch của gia đình tôi, biết ba tôi trước năm bảy lăm làm công chức cao cấp cho chính quyền Cộng hòa nên không tuyển tôi vào quân đội nữa, xếp tôi vào hạng II thay vì hạng I trúng tuyển. Có thể nói một cách lạc quan: dù đối với chính quyền mới, ba tôi bị loại bỏ và bị coi như kẻ thù cần bị trừng phạt thì chính cái quá khứ của ông cũng đã vô tình bảo vệ được tôi và một người anh kế tránh khỏi việc đi quân đội dưới chế độ cộng sản. Nhưng ở khía cạnh khác, nếu coi chuyện nghĩa vụ quân sự là một thử thách cho cuộc đời hành đạo của mình thì quả là tôi đã mất một cơ hội. Một cuộc đời mà lúc nào cũng êm đềm, bình an, chỉ gặp toàn may mắn, không gặp chút khó khăn nào hết, thì chẳng biết có làm nên được việc lớn gì không. Tôi từng tự hỏi với mình nhiều lần như vậy.
“Các anh là thầy tu đấy à? Sao ăn bận cái gì thế này?” anh công an lấy hai ngón tay gắp chiếc áo nhật bình của chú Thân lên.
“Phải, chúng tôi là tu sĩ Phật giáo.”
“Chùa ở đâu? Sư cụ đi đâu mà để các anh đi chơi thế này?”
“Chúng tôi đi tập thể thao chứ chơi gì!” chú Thân đáp.
Thấy chú Thân không phải loại dễ ăn hiếp, anh công an lườm một cái rồi lại xuống giọng:
“Thôi được, các anh về ngay dùm cho, chúng tôi có lệnh tảo thanh vùng bờ biển này.”
Lên đến đường nhựa, chúng tôi thấy khách bộ hành hay xe chạy trên đường cũng bị chận lại, xét hỏi, hướng dẫn đi ngõ khác, không cho xuống bãi biển. Tôi nói nhỏ với chú Thân:
“Chắc họ bắt lính?”
“Không phải đâu. Một là có ông quan lớn nào của họ xuống đây nghỉ mát, hai là... họ đang lo bãi cho mấy người Tàu đi bán chính thức đó.”
“Là sao?”
“Thì tàu tấp vô đây, người nào đã nộp đủ vàng và có giấy tờ hợp lệ thì công an cho xuống, lên tàu. Tàu chạy đi đâu thì chạy, miễn ra khỏi nước là được rồi.”
“Tàu lớn hả?”
“Cũng thường thôi. Nghe nói mấy chuyến trước mỗi chuyến khoảng năm, sáu trăm người, nằm ngồi chẹt cứng như cá hộp.”
“Sao chú biết rành quá vậy?”
“Tại có mấy người Tàu Phật tử quen của chùa cũng đi theo cách đó.”
“Vậy rồi họ đến đâu?”
“Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Mã Lai hay Nam Dương, Nhật Bản... bất cứ nơi nào.”
“Rồi họ được các nước đó cho lên bờ... sinh sống?”
“Chứ sao. Cho nên nhiều người đã chịu nộp vàng cho nhà nước để ra đi. Làm chuyện này Nhà nước có hai cái lợi: một là tống bớt người Tàu ra khỏi nước, đỡ lo vấn đề nội gián cho Bắc Kinh; hai là... thu vàng vô. Chu cha, chú biết không, mỗi đầu người ra đi phải nộp mười cây vàng lận đó.”
“Vậy mà người ta cũng rán kiếm cho có đủ vàng mà đi chứ không chịu ở lại há!”
“Chứ sao. Ra ngoài, họ có thể tìm được một đời sống tự do hơn. Ông Hồ nói: ‘không có gì quí hơn độc lập tự do’ mà. Chú biết không, không phải chỉ có người Tàu mới đi thôi đâu, người Việt mình cũng đi nữa đó. Họ làm hôn thú với mấy gia đình nghèo người Tàu để cùng đi. Có người đút lót tiền cho công an để làm giấy tờ giả chứng minh mình là người Tàu, rồi chịu đóng vàng cho công an để được đi.”
“Khiếp thật! Cái giá của tự do đắt quá.”
“Chú có muốn đi không?” bất ngờ chú Thân hỏi tôi. “Tôi hả? Không biết nữa. Lâu nay đâu có biết là có cái chuyện đi như vậy thì làm gì có chuyện muốn hay không muốn. Còn bây giờ biết rồi, có muốn cũng đâu có đi được, vàng đâu? Tụi mình làm gì có đủ điều kiện đó. Hơn nữa...”
“Có điều kiện đó chứ. Này nhé, chú tìm một cô Tàu nào đó nhà khá khá một chút, cưới cô làm vợ, rồi chú sẽ được đi mà. Ha ha.”
Câu chuyện chúng tôi trao đổi buổi sáng đó chỉ là đùa thôi, vậy mà cũng làm cho tôi phải suy nghĩ, để tâm nhiều ngày. Không phải để tâm chuyện lấy một cô Tàu rồi được ra khỏi nước—cái lãng mạn hư hỏng của tôi nếu có đủ chừng mức để đi vào đời thì nó cũng không chọn một lối đi thực tế một cách dung tục như vậy (!)—nhưng để tâm về ý nghĩa của tự do, của những chuyến tàu ra khơi... Cập vào một đất nước nào khác để bắt đầu một cuộc đời mới.
Hoàn cảnh khôn cùng nào cũng có những lối thoát của nó—như cách người xưa nói: cùng tắc biến, biến tắc thông. Chính trong sự vây khốn của nghịch cảnh, con người mới có thể tìm được lối thoát thích hợp nhất cho mình. Tìm lối thoát, giống như trốn chạy. Mà có sự trốn chạy nào là điều đáng kiêu hãnh, đáng ca ngợi đâu. Nhưng ở đây, người ta không kiêu hãnh, người ta chỉ muốn vượt thoát một hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi, không thể đối phó nổi. Người ta cũng chẳng thấy nhục nhã gì trong sự trốn chạy nghịch cảnh của mình. Ở cái thế mà họ biết không thể lướt thắng nổi, họ phải trốn chạy. Lối thoát mở ra từ đó, tự do mở ra từ đó.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương tám

Từ mấy tháng trước, khi được biết là tôi đã bình phục hoàn toàn, thầy quản chúng cắt đặt công tác cho tôi làm hàng ngày. Công tác của mỗi tăng sĩ ở viện bây giờ không giống như hồi trước năm bảy lăm nữa. Trước kia, tăng sĩ khắp các tỉnh đều phải lo tham dự các lớp học của nội điển và ngoại điển nên có làm công tác thì mỗi người cũng chỉ nhận một công tác nhỏ tốn từ mười lăm đến ba mươi phút là cao. Nay viện Hải Đức cũng như các Phật học viện khác trên toàn quốc phải bị giải tán, chúng tôi làm việc nhiều hơn. Chẳng phải đây là dấu hiệu hưởng ứng gì cái cụm từ “lao động tốt” của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chỉ có nghĩa đơn giản là tùy theo thời thế để ứng xử. Khi chúng tôi tập trung thời giờ để lo tu học thì có những bậc thầy, những bậc đàn anh của chúng tôi gánh vác hoàn toàn vấn đề kinh tế. Nay chúng tôi không đi học nữa thì phải đưa vai ra, chia xẻ gánh nặng kinh tế ấy với các bậc thầy và đàn anh kia. Vậy thôi.
Nguồn tài chánh căn bản của viện Hải Đức là vị trai Lá Bồ Đề do Thượng Tọa Thích Đổng Minh làm giám đốc. Xưởng là tài sản của giáo hội, đặc biệt là được gầy dựng nên để hỗ trợ kinh tế cho các sinh hoạt đòi hỏi nhiều tốn kém của viện Hải Đức. Ngoài sản phẩm vị trai được đồng bào khắp Nha Trang và các tỉnh miền Trung ủng hộ, xưởng còn sản xuất Hương Giải thoát, Đèn cầy Giác ngộ, Trà Đạo hạnh, Dấm Bình minh, Thuốc tẩy Phiền não... Nhưng chủ yếu vẫn là vị trai, tức là xì dầu (sau năm bảy lăm, người ta cứ gọi chung là nước tương hay nước chắm, chẳng có gì phân biệt giữa loại xì-dầu nấu bánh (bã) đậu phọng qua công thức chưng nấu và trung hòa bằng hóa chất cùng thứ nước tương đậu nành với công thức thủ công cổ truyền). Ngoài xưởng vị trai, viện Hải Đức còn có nhà in và nhà sách Hoa Sen do thầy Đức Chơn trông coi. Nhà in gần như ngưng hoạt động dưới chế độ mới (chỉ có thể in những thứ vặt vãnh chứ không in được kinh sách như xưa) nhưng hiệu sách vẫn còn phát hành các loại kinh, tượng, pháp khí... Sau năm bảy lăm, xưởng vị trai còn mở thêm các ngành sản xuất muối, đậu hủ (khuôn đậu), chao, đậu nhận, tương đậu nành, xà phòng bột, xà phòng thỏi, dệt chiếu, đan giỏ, chằm nón lá, cấy nấm rơm và nấm mèo, làm meo nấm, sản xuất rau tươi... Để tránh việc bị nhà nước nại lý do này lý do nọ mà trưng thâu xưởng này, Thượng tọa giám đốc khôn khéo thống kê toàn bộ trị giá tài sản của xưởng rồi chia tài sản này thành mấy trăm cổ phần, toàn bộ tăng ni Nha Trang và các công nhân Phật tử kỳ cựu của xưởng mỗi người đều được hưởng một cổ phần. Dĩ nhiên tôi cũng là một trong những người được chia cổ phần ấy. Và cũng từ đó, những tăng ni và Phật tử nào có cổ phần đều trở thành công nhân của xưởng vị trai Lá Bồ Đề. Công nhân ở đây cũng được chia thành nhiều hạng: có hạng làm năm ngày, có hạng làm ba ngày, hay chỉ một ngày rưỡi trong tuần. Tùy theo số giờ làm việc mà được hưởng lương. Đó là khoảng thời gian đầu tiên trong đời tôi làm việc có lương. Lương ít thôi, chừng vài trăm bạc một tháng, nhưng số lương đó hoàn toàn để tiêu riêng chứ không bị ảnh hưởng gì bởi vấn đề gạo cơm, điện nước nên kể ra cũng khá nhiều đối với tôi.
Thời gian đầu, chưa làm việc trực tiếp ở xưởng, tôi được cắt làm vườn và làm rẫy với thầy Minh Chiếu trong khuôn viên viện Hải Đức. Hàng ngày, chúng tôi dọn cỏ, trồng cây, phát hoang những khoảnh đất ở triền núi để trồng bắp đậu, cũng như trồng rau cải ở một khoảnh đất màu mỡ dưới chân núi, gần chùa Phước Điền. Có khi chúng tôi phụ thầy Huệ An, vác củi từ dưới núi lên nhà bếp. Tóm lại, thầy Minh Chiếu và tôi được cắt cử như là hai người thường trực làm việc trong viện, bất cứ việc gì ở viện cần đến. Có lúc chúng tôi phải làm việc từ sáng đến chiều tối, liên tục trong nhiều ngày, nhưng cũng có khi chúng tôi được rảnh tay, nghỉ luôn ba bốn ngày, hoặc chỉ làm rất ít giờ. Đâu được vài tháng thì bên xưởng vị trai cần thêm người, gọi tôi qua. Làm ở xưởng thì mất công mỗi ngày phải có mặt đúng giờ để nhận công tác, nhưng được cái là tăng ni thay phiên nhau nên mỗi người chỉ làm ba ngày trong tuần, những ngày còn lại được nghỉ hoàn toàn. Ở xưởng, tôi và các chú sa-di trẻ được cắt làm những việc linh tinh, tức là ngành nào cần thì chúng tôi đến phụ giúp. Có khi chúng tôi làm xà-phòng, có khi rang muối bọt, có khi làm đậu hủ, và có khi chỉ làm có công việc bỗ củi mà thôi. Với sự điều hành có phương pháp khoa học của Thượng tọa giám đốc, công nhân ở xưởng thay phiên nhau tham gia đủ các ngành sản xuất trước khi được vào chuyên môn. Thành thử, công việc nào chúng tôi cũng có thể làm được, hoặc ít nhất cũng hiểu được việc để làm khi cần thiết. Một vài tháng làm việc linh tinh không cố định, tôi được Thượng tọa giám đốc gọi vào văn phòng, cắt cho việc làm sổ sách cùng với ban thư ký tại đây. Ban thư ký lúc đó có cả thầy Thông Chánh. Công việc của tôi là công việc nhàn nhất trong những việc của hãng, kể cả những việc của toàn ban thư ký văn phòng. Tất cả tiền chi thu hàng ngày được hai đến bốn sư cô thay phiên nhau đảm trách. Cuối ngày các sư cô tính lại toàn bộ rồi đưa qua cho tôi kiểm tra lại để ghi báo cáo tổng kết vào sổ của tôi. Cuối tháng cộng sổ bốn tuần lại, báo cáo tổng kết thu chi cho ban giám đốc (cũng không cần tôi phải báo cáo nữa: tôi chỉ việc đưa cuốn sổ đó cho thầy Thông Chánh rồi thầy ấy lo chuyện họp hành, báo cáo).
Hãng vị trai dưới sự điều hành của Thượng tọa giám đốc, càng lúc càng phát triển lớn mạnh, trong khi đó, một cơ sở kinh tài khác của viện thì lại bị mất luôn cả quyền sở hữu chủ: đó là nhà in và nhà sách Hoa Sen. Quý thầy bị người ta chiếm đoạt luôn nhà in mà chẳng biết làm gì. Vì hiền lành, vì từ bi, nên cứ lặng thinh chịu để cho qua chuyện.
Nhà in Hoa Sen tọa lạc trên đường phố Độc Lập, được thành lập từ những năm đầu thập niên sáu mươi để hỗ trợ tài chánh và các công tác ấn hành kinh sách cho viện Hải Đức. Trước năm bảy lăm nhà in được giao cho thầy Đức Chơn quản lý. Sau bảy lăm, thầy Đức Chơn hãy còn đảm trách một thời gian rồi giao lại cho viện để vào Sài Gòn. Viện cử thầy Thanh Hương thay thế. Thầy Thanh Hương đang quản lý nhà in thì gặp nghịch cảnh, phải hoàn tục, bỏ nhà in lại cho cô Phật tử tên Thu coi sóc tạm. Cô Thu chỉ là một người được nhà in thuê đứng bán cho tiệm. Cô có phải Phật tử hay không và do ai giới thiệu đến làm cho nhà in thì tôi không rõ. Chỉ thấy lúc cô ngang nhiên trở thành bà chủ nhà in và tiệm sách Hoa Sen rồi thì hình như cô không muốn có bóng dáng tu sĩ lai vãng đến tiệm nữa, dù là để mua thỉnh kinh sách. Cô tiếp tăng ni một cách không vui vẻ và bán với giá cắt cổ, cao hơn cả các hiệu sách bên ngoài. Có lẽ viện cũng có tìm cách bảo trì nhà in Hoa Sen nhưng vấn đề quản lý nhà in vốn đã bị lỏng lẻo hành chánh và tài chánh từ thời trước năm một chín bảy lăm, nên chỉ với sự cố tình chiếm đoạt của cô Thu, viện đành lặng thinh mà chịu mất luôn nhà in này. Nhà in Hoa Sen mấy chục năm của viện nay trở thành nhà in của cô Thu.
Sở dĩ tôi phải nhắc những chuyện chẳng mấy đẹp đó nơi đây là để mô tả cặn kẽ cái bối cảnh vô cùng điên đảo của xã hội mới đã phát sinh bao nhiêu chuyện lộng hành, khó tin, ảnh hưởng đến đời sống của những nhà tu trên núi như chúng tôi. Tại sao những chuyện ấy chỉ dồn dập xảy ra trong vòng những năm đầu của chính quyền mới? Tịnh nghiệp đường trở thành nhà ông Điệp, nhà in Hoa Sen trở thành nhà in cô Thu... rồi dãy “nhà mới” của chư tăng trở thành đồn công an hay đồn lính! Rõ ràng là chỉ ở trong thời đại mà các vấn đề đạo đức căn bản của con người không còn được tôn trọng nữa thì sự cướp đoạt trắng trợn có thể xảy ra như chuyện thường tình.
Tôi còn được biết bao nhiêu người dân ở dưới ngọn đồi này, trên khắp đất nước này, cũng đã chịu, đang chịu những thiệt thòi vật chất còn to lớn hơn những mất mát của viện rất nhiều. Nhưng dù thế nào thì trong tôi cũng dậy lên một nỗi buồn. Nỗi buồn đó không giống như nỗi đau của những người dân thế tục—có lẽ một phần vì bản thân tôi không có tài sản vật chất để bị mất cũng như tôi đã được nhà chùa trang bị trước tinh thần vô chấp để đón nhận một cách bình thản về những còn mất, được thua, thịnh suy của cuộc đời. Đó không phải là nỗi đau buồn về sự mất mát tài sản. Đó không phải là niềm nuối tiếc muốn níu kéo hay hồi phục lại những gì đã bị chiếm đoạt. Đó là nỗi băn khoăn, âu lo về một viễn ảnh đen tối đang trùm phủ lên toàn đất nước quê hương...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Sáng chủ nhật không đi làm, tôi ngồi bên cửa sổ nhìn xuống núi tự dưng thấy vừa buồn vừa băn khoăn chi lạ. Có lẽ chuyện thầy Tuệ Sỹ bỏ viện mà đi từ hai ngày trước hãy còn làm tôi xúc động đồng thời khơi dậy trong tôi một ý tưởng, một hình ảnh đẹp của một trang sử xa xưa nào đó. Khi thực tế xã hội đã tự chứng minh một cách không thể chối cãi rằng nó đang ở trong một tình trạng hoàn toàn rối loạn, dẫn đến bao khổ đau và bế tắc cho con người, thì đó chính là lúc kẻ sĩ phải lên đường. Lịch sử cho thấy trong những lúc vận nước lâm nguy, bao thiền sư đã tạm cởi áo ca-sa khoác chiến bào để dấn thân ra trận cứu đời; khi đất nước yên bình, các thiền sư mới cởi bỏ chiến bào, trở về với thiền môn để tiếp tục cuộc sống an bần giải thoát. Điển hình nhất là Tuệ Trung Thượng Sỹ đời nhà Trần. Trong thiền môn, ông thắp sáng ngọn đèn giác ngộ, xông ướp hương thơm đạo hạnh, làm thiền tăng bình dị tháng ngày thong dong tiêu sái; khi giặc Nguyên đem quân xâm lấn, ông rời cửa thiền thân chinh ra trận, thể hiện cái thao lược uy dũng của một danh tướng Đại Việt, khiến cho quân Nguyên phải kinh hồn bạt vía. Phải chăng trong vận hành tình cờ nào đó của lịch sử, sự ra đi của thầy Tuệ Sỹ đã vẽ lại hình ảnh cao đẹp truyền thống ấy?
Không ai biết thầy ấy đi đâu. Thầy cũng thường đóng cửa nhập thất, không tiếp xúc ai nên khi thầy bỏ đi, cũng khó mà biết được thầy đi vào lúc nào. Cả viện xôn xao, rồi thành phố Nha Trang xôn xao. Nhưng quay quắt nhất vẫn là các anh công an có bổn phận kiểm soát mọi sinh hoạt giao tiếp và đi lại hàng ngày của thành phần tu sĩ trên viện Hải Đức—đặc biệt là đối với thầy Tuệ Sỹ, một thiên tài lỗi lạc và uy tín của Phật giáo cả nước. Công an cho gọi thầy quản chúng và cả thầy bổn sư của tôi (đang là chủ hộ của viện) xuống đồn công an thành phố dể hỏi cung, tự kiểm, khai báo, liên tục mấy ngày. Họ cũng thường xuyên lên viện, lục xét, thăm dò, kiểm soát, bất kể giờ giấc. Cho đến gần nửa tháng sau, khi viện nhận được một lá thư của thầy Tuệ Sỹ từ Thái Lan gởi về, mới biết là thầy đã ra khỏi nước, và từ đó, công an mới thôi không bắt thầy chủ hộ xuống đồn vấn cung nữa. Họ giữ luôn lá thư của thầy Tuệ Sỹ làm tư liệu, kết tội thầy “phản quốc, trốn ra nước ngoài”.
Tưởng rằng xong chuyện thầy Tuệ Sỹ là yên, nào ngờ lại có tin của một đạo hữu thân tín của viện cho biết nhà nước sắp mở chiến dịch “bài trừ văn hóa đồi trụy” hay “bài trừ văn hóa Mỹ-Ngụy”... Chiến dịch này, lúc ở Hội An, tôi có nghe chú Nguyện nói đến nhưng bây giờ mới thực sự biết là nó sắp xảy ra tại Nha Trang. Trong một bữa cơm, thầy tôi nhắc cho toàn thể viện biết rằng mọi sách vở nào xét thấy không thích hợp với chủ trương của nhà nước thì mỗi người tự động đem xé, đốt. Sách của thư viện trước do thầy Tuệ Sỹ trông coi thì bây giờ các thầy Minh Thông, Chơn Trí chịu trách nhiệm. Nghe đâu rằng ban văn hóa của thành phố cùng với công an khu vực sẽ lên viện lục xét tất cả các sách vở báo chí hiện có trong viện, không phải chỉ trong thư viện mà trong từng phòng riêng của mỗi người.
Nghe chuyện, một vài thầy có nêu ý kiến với thầy quản chúng rằng:
“Mình đâu cần phải đốt xé sách báo trước. Cứ để họ lên đây kiểm soát, thấy sách nào muốn tịch thu thì cứ tịch thu, sách nào thông qua thì để lại. Tội gì phải đốt xé khi mình chưa biết chắc là họ muốn loại bỏ thứ sách nào. Biết cái nào là đồi trụy theo mắt nhìn của họ?”
Nhưng lệnh của viện vẫn đưa ra là chỉ giữ lại kinh điển và sách biên khảo về Phật học, hoặc sách do nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất bản nếu có, còn ngoài ra, tất cả sách báo thế tục được in từ thời chế độ cũ đều đem đốt hết và phải đốt trước khi họ đến chứ không phải đợi họ chỉ cho thứ nào là đồi trụy rồi mới đốt. Bởi vì, theo lời thầy quản chúng nhấn mạnh, “lệnh cấm cất giữ sách báo văn hóa đồi trụy đã có từ lâu chứ không phải bây giờ mới đặt ra, cho nên, ai còn chất chứa thì coi như có tội, bị bắt ngay, chứ không phải chỉ đơn giản là tịch thu sách”.
Chưa có cái tin nào khiến tôi thấy nổi gai ốc như vậy. Tôi mường tượng cảnh một đoàn thanh niên cộng sản hăng hái đi hết nhà này đến nhà khác, hốt sách báo đem ra đầu đường, chất đống lên mà đốt, hoặc lên mặt răn dạy, chất vấn, hạch tội những người vì yêu sách mà còn cất giấu sách trong nhà... Chưa có cảnh tượng nào man rợ và phản giáo dục bằng cảnh tượng đó. Phải chăng vết cũ của bạo chúa Tần Thỉ Hoàng hơn hai nghìn năm xưa bây giờ lại được tái diễn bởi những con người thời đại vốn thường tự xưng là văn minh tiến bộ?
Cho nên khi Thượng tọa Thiện Siêu, vị viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, cùng hai thầy thị giả thực hiện việc lựa chọn sách để đem đốt, tôi không đủ can đảm đến thư viện để phụ giúp một tay dù có lời yêu cầu. Tôi né tránh, bỏ qua chùa Tỉnh hội ngồi chơi với mấy chú bên đó. Thượng tọa viện trưởng gọi chú Phùng và chú tiểu tên Đăng lên thư viện, vác mấy bao bố sách, đem xuống nhà bếp, thảy từng cuốn vào cái lò to lớn vốn có khả năng nuốt trửng một lượt nhiều khúc củi to bự như bắp vế. Hết đợt này, lại đến đợt khác, mỗi đợt hai bao. Bao nhiêu công trình tim óc của các triết gia, tư tưởng gia, sử gia, học giả, văn thi hào... trên thế giới từ ngàn năm xưa đổ lại, đã thành tro bụi trong vòng một giờ đồng hồ. Chú Phượng kể lại tôi nghe như vậy và khi nghe kể, lòng tôi bỗng thấy rưng rưng thế nào đó. Số sách của tôi bỏ lại ở Hội An cho chú Tửu, tôi đâu có tiếc, vì chú Tửu cũng yêu quí sách, tưng tiu sách, mê đọc sách như tôi vậy. Đàng này, sách không phải của tôi, nhưng tôi lại đau xót vô cùng. Suốt mấy ngày kế tiếp, hình ảnh những cuốn sách bốc lửa cứ lảng vảng trong đầu óc tôi. Những ngọn lửa ấy cũng đốt cháy luôn cả tâm tư tôi, và hình như còn làm bừng lên trong tôi một thứ lửa nào đó khiến cho dòng máu nóng trong cơ thể tôi sôi lên sùng sục. Đã có lúc trong phòng riêng, đang ngồi im nơi bàn viết, tôi bỗng thấy hai bàn tay mình nắm chặt lại như muốn bóp nát một cái gì. Và chỉ ngay sau đó, tôi giật mình như tỉnh một giấc mộng. Tôi biết từ ngày về Nha Trang, hay có thể nói rằng, từ ngày đất nước thay đổi chế độ, tâm tính tôi cũng đã thay đổi khá nhiều. Cái tính mềm mỏng, nhẹ dạ như con gái mà đã nhiều lần tôi bị thầy la, bây giờ hình như đã chuyển dần thành một cái vực lửa, hừng hực bên trong, dễ sinh bực bội, bất mãn... Tôi lấy tay vuốt lấy mặt mình, rót một ly nước lạnh, vừa niệm Phật, vừa uống vào một hớp thật đầy.
Kể cũng buồn thật. Không ai lại muốn thay đổi tánh tình như vậy, nhất là thay đổi từ chỗ ngoan ngoãn, hiền lành sang cứng đầu, hung dữ... Một ông thầy tu mà dữ dằn, sân hận nhiều thì dù có độ lượng cách mấy cũng không ai có thể tha thứ, chấp nhận được. Có thể trong mắt người khác tôi vẫn còn hiền, chưa hại gì ai, chưa làm ai bực mình khó chịu, nhưng chính tôi mới thấy trong tôi một tiềm lực kinh khiếp, cơ hồ nếu nó được tự do bùng vỡ thì sẽ không ai chịu nổi. Cũng may, tôi có thể niệm một câu danh hiệu Phật là đã trấn áp được tiềm lực dữ dội đó.
Chưa đầy tuần lễ sau, đúng vào ngày chủ nhật, công an phối hợp với ban văn hóa thành phố lên viện lục xét, kiểm kê sách báo... Tôi vắng mặt lúc đó. Khi về, nghe kể lại là họ đã lục xét khắp các phòng, tịch thu một số sách của thư viện (các sách biên khảo văn học mà quí thầy tưởng là sẽ vô hại!), một số sách từ các phòng cá nhân. Phòng tôi đã không bị lục xét, có lẽ vì không ai nghĩ đó là một căn phòng. Nhưng nếu họ có vào phòng tôi chăng nữa thì cũng không tìm thấy được gì ngoài mấy cuốn tự điển—tôi đã bắt chước chú Hải, một sư huynh của tôi, tẩu tán hết sách của mình bằng cách bao sách trong bịch ni-lông, giấu trên hàng máng xối dọc theo hông chánh điện.
Tôi tự hỏi, khi việc đọc và cất giữ sách vở bị xem như tội lỗi thì phải chăng những việc đồi bại phi luân nhất sẽ trở thành những điều cần khích lệ? Rồi đây, trên đất nước này, trong cuộc sống này, đâu sẽ là ranh giới giữa chân và giả, giữa thiện và ác, giữa đẹp và xấu?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Trước khi xuất gia tôi có vài người bạn học chung lớp nhưng cũng chẳng thân mấy nên từ khi về lại Nha Trang, tôi đã không hề gặp lại bất cứ người nào; mà cũng chẳng người bạn nào của tôi biết tôi đã về lại Nha Trang để đến thăm. Như vậy, có thể nói là khi xuất gia, không những tôi đã hầu như cắt đứt mối liên hệ thân thuộc với gia đình mà còn cắt đứt luôn tình bằng hữu với những người bạn thế tục cũ.
Cúi đầu sống theo qui tắc của viện, tôi đã quên luôn rằng mình hãy còn những người bạn ở ngoài đời, phía dưới chân núi. Khi chúng tôi còn học chung lớp với nhau, chúng tôi là những con chim non chỉ biết ca hát, và học theo những gì người lớn chỉ dạy, hướng dẫn. Bây giờ, chúng tôi bắt đầu trưởng thành, muốn góp công sức mình cho đời thì đất nước đang ở trong một hoàn cảnh mới. Hoàn cảnh đó không cần đến sự góp sức của chúng tôi, nếu có chăng thì chỉ cần sự ngoan ngoãn tuân phục của chúng tôi mà thôi. Nhiều năm xa cách Nha Trang, tôi nào biết các bạn cũ của tôi bây giờ thế nào. Họ đang tiếp tục học ở một trường đại học nào đó hay đã lăn vào cuộc sống lao động—-vốn là điều vinh quang chói lọi một cách giả trá, mai mỉa của chế độ—để kiếm sống, để tồn tại? Họ đang là những anh cán bộ, công an, bộ đội như thầy Thiện Phước, chú Sáng, chú Tân hay đang là những người thuộc con em thành phần bị chính quyền loại trừ ra khỏi cuốn sổ đỏ chói của đời sống?
Thắc mắc của tôi được giải đáp phần nào vào một buổi trưa, khi chú Đăng cho biết là có một anh thanh niên nào hỏi tìm tôi. Không gặp tôi, anh thanh niên đó đã đi vòng vòng quanh viện rồi ngồi chơi ở bậc tam cấp gần nhà bếp. Theo lời chú Đăng, tôi đến gặp anh thì biết đó là Đức—hồi nhỏ Đức có cái tật là cứ vài phút lại tự lắc cái cổ qua bên trái một cái, rồi qua bên phải một cái, xương kêu răng rắc, (giống như cách người lớn tập thể dục trong động tác vặn xương cổ), nên có đứa gọi nghịch là Đức cổ; sau này cái tật đó không biết do đâu mà hết, nhưng rồi Đức lại được mang biệt danh là Đức trọc, vì thường hay nổi hứng cạo trọc mà sự cạo trọc của anh ta hoàn toàn không có ý nghĩa gì dính dáng với sự cạo trọc của mấy sư tăng ở chùa. Đức là một người bạn học cũ của tôi ở trường trung học Võ Tánh. Tôi không bao giờ gọi Đức bằng bí danh Đức trọc cả, nhưng chính Đức lại thích được bạn bè gọi như thế (có lẽ vì cái biệt danh đó cũng thay Đức nói lên được phần nào thái độ ngạo nghễ, bất cần của anh đối với cuộc đời).
Đức ăn mặc xốc xếch, áo sơ mi đứt gần hết nút, dơ bẩn; quần ka ki xanh đã chuyển sang một màu không thể gọi tên, còn hai lai quần thì rách tươm để lộ đôi bàn chân dơ hầy bám đầy bụi đất. Mặt mày anh lem luốc, bơ phờ, mệt mỏi. Đầu tóc anh thì rối bù và trông dơ đến nỗi tôi có cảm tưởng là phải có chí bò lúc nhúc trên ấy. Người nào từng quen biết anh chắc đều có cảm nghĩ rằng đây là lúc tốt nhất để anh cạo trọc, vậy mà lúc này anh không cạo. Đứng trước mặt tôi là một Đức có tóc như ổ quạ chứ không phải Đức trọc. Dù sao, tôi cũng nhận ra anh dễ dàng là do khuôn mặt xương xương với cái mũi cao và đầy đặn như một dãy núi hùng vĩ nổi bật giữa hai hồ mắt lớn nép dưới hai gò xương mày cao với đôi hàng lông mày dày rậm. Tôi đã nhận ra Đức dễ dàng hơn là Đức nhận ra tôi, điều này không thể trách Đức được, vì đã hơn sáu năm trước, hai đứa chúng tôi gặp lại nhau có một lần lúc tôi còn là chú tiểu có để cái chỏm trên đầu. Bây giờ cái chỏm của tôi đã mất trong khi Đức thì vẫn vậy.
“Đức phải không?”
“A, Khang, Đức đây,” Đức vui mừng đứng dậy bắt tay tôi.
Tôi rủ Đức đến phòng tôi ngồi trò chuyện. Đức không nói gì nhiều về bản thân của anh ta từ khi chúng tôi chia tay nhau năm một chín bảy hai khi Đức đến viện Hải Đức thăm tôi và sau đó tôi đi Hội An. Nhưng từ Đức, tôi cũng biết thêm chút ít về tình trạng của một số các bạn học cũ của mình. Trả lời dăm ba câu hỏi của tôi xong, Đức mệt mỏi nằm xuống cái đi-văng của tôi rồi ngủ. Hình như Đức vừa bị một cú xốc nào đó chưa hoàn hồn. Anh tìm đến tôi không phải để giải bày mà để được yên tĩnh. Tôi tôn trọng anh, để anh nằm đó một mình, khép cửa nhè nhẹ rồi đi ăn trưa. Ăn xong, tôi bưng một mâm cơm vào phòng cho Đức. Thức dậy, Đức ăn, xong lại ngủ. Đến chiều thì Đức từ giã. Vài ngày sau, Đức lại trở lên viện tìm gặp tôi. Cũng như lần trước, Đức chẳng có gì để nói với tôi, chỉ đến rồi mệt mỏi nằm xuống ngủ. Khi thức dậy, Đức kể tôi nghe là Đức có tham gia một nhóm hoạt động chính trị, đa phần là giáo sư với sự hưởng ứng của sinh viên và học sinh lớp mười hai. Tổ chức bị tan vỡ, hầu như các thành viên đều bị bắt. Đức không cho biết là do đâu mà Đức thoát. Tôi nghe chuyện đó thì bỗng dưng niềm hào khí trong lòng cất lên. Tự dưng ngay lúc ấy, tôi bỗng có niềm tin rằng công việc mà Đức và những người trong nhóm anh đã làm chính là công việc lâu nay tôi băn khoăn, có nghĩ, có tìm kiếm mà vẫn mơ hồ chưa nhận ra được nó là cái gì. Với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, tôi thực tình hỏi Đức:
“Vậy bây giờ còn nhóm nào khác đang hoạt động nữa không?”
Câu hỏi của tôi có lẽ là quá ngây thơ đối với Đức. Trong chế độ mới, hai người thanh niên không nên hỏi nhau một câu như thế, cho dù đó là bạn bè, huống chi tôi và Đức là bạn bè không được thân lắm, lại xa cách nhau nhiều năm. Dù sao, Đức cũng tin là tôi thực lòng chứ không phải hỏi Đức để rồi đi báo cáo công an bố ráp. Đức nói:
“Dĩ nhiên là còn, nhưng Khang à, Khang đừng dính vô mấy vụ đó làm chi. Ý tôi nói... mấy tổ chức đó chẳng có gì đáng kể lắm đâu.”
Dù nói vậy, lúc ra về, Đức lại tặng tôi cuốn Quân Vương (The Prince) của Machiavelli. Đức không nói là tặng tôi, chỉ lặng lẽ bỏ lại trên bàn tôi. Ban đầu tôi tưởng là Đức bỏ quên, nhưng sau đó, thấy Đức không bao giờ trở lại nữa, tôi đoán là Đức tặng tôi.
Tôi không rõ Đức có muốn nói gì hay nhắn nhủ gì với tôi qua cuốn sách gối đầu giường của các chính trị gia Tây phương này không. Buổi tối cùng ngày, tôi có đọc Lời Giới Thiệu của Raymond Aron trong cuốn Quân Vương mà Đức tặng (sau này tìm đọc lại tôi mới nhớ đó là bản dịch của Phan Huy Chiêm, chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp Le Prince). Cuốn sách quả thật là khô khan, khó nuốt đối với tôi. Đọc xong lời giới thiệu rồi là tôi cất nó vào kệ sách, hầu như không bao giờ đụng tới nữa. Khoan bàn đến vấn đề nội dung cuốn sách (vì tôi có đọc đâu mà bàn!), chỉ nói đến cái tựa sách và thể loại của nó cũng đủ thấy rằng tâm hồn đơn sơ của tôi lúc ấy đã không có một chút hứng cảm nào để đọc. Nếu lúc ấy, Đức mang cho tôi một cuốn thơ thì hẳn là tôi đọc say mê hơn. Dù tôi có nhiệt huyết muốn làm một cái gì đó, hay tham gia một tổ chức nào đó để đóng góp cho quê hương, tâm tư tôi vẫn chưa sẵn sàng để đọc loại sách chính trị khô khan đó. Cũng có thể là tôi chưa liên kết được sự quan hệ giữa cuốn sách Quân Vương với thái độ và hành động chính trị của những người chí sĩ muốn làm cách mạng. Trong ý thức, hay trong cảm xúc mơ hồ của mình, tôi chỉ thấy rằng nếu có tổ chức nào vì thương yêu dân tộc đứng lên chống lại chính quyền, tôi sẽ sẵn sàng đi theo họ cho dù tôi chưa trang bị cho mình bất cứ tư tưởng, hay ý niệm, hay kiến thức gì về chính trị.
Và do vì Đức không bao giờ trở lại, ý niệm sơ khai về một cuộc đấu tranh cũng như nhiệt huyết cách mạng của tôi dần dần lắng dịu. Tuy thế, tôi cũng loáng thoáng thấy rằng, trong tôi đã có những đổi thay lớn từ khi đất nước thay đổi chế độ. Từ đời sống êm đềm của một chú tiểu, một học sinh, chỉ biết tu học và suốt ngày tôi luyện tâm chí mình bằng những tiếng kệ câu kinh và sự thiền định, bây giờ tôi đã có thể nghĩ đến chuyện dấn thân vào một tổ chức chính trị nào đó để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Việc dấn thân như thế, tôi xem như là nghĩa vụ dẹp trừ những điều xấu ác, cũng như xưa nay, tôi cũng đã từng học theo các nhà sư đi trước, cầm chổi quét sạch lá vàng và rác rưới rơi rụng đầy ở sân chùa mỗi sáng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Có tin mới từ Sài Gòn mang ra: thầy Tuệ Sỹ bị bắt giam ở trại giam trên đường Phan Đăng Lưu, một trại giam khét tiếng của sở công an thành phố Sài Gòn (tên mới là thành phố Hồ Chí Minh). Điều này có nghĩa rằng lá thư trước đây từ Thái Lan gửi về với thủ bút của thầy ấy chỉ là ngụy tạo. Thư ấy gửi về với mục đích đánh lạc hướng mấy anh công an đang chằm hăm theo dõi thầy ấy mà thôi. Trong Sài Gòn, thầy Tuệ Sỹ đã kết hợp với một số người khác, thành lập một tổ chức chính trị gì đó, rồi bị bắt. Tin đưa về không được chi tiết lắm. Thượng tọa Đổng Minh giám đốc hãng vị trai trên đường từ Sài Gòn về Nha Trang cũng đã bị công an Hàm Tân bắt giữ một thời gian. Từ trại tù ra, có lẽ chính Thượng tọa giám đốc là người mang theo cả tin tức về thầy Tuệ Sỹ thì phải. Cũng theo lời Thượng tọa giám đốc, tình hình các chùa trong Sài Gòn có vẻ căng thẳng lắm. Chuyện mấy thầy tu bị bắt bỏ tù không phải là lạ gì trên đất nước này. Nhưng đây là lúc chuyện đó và làm xúc động tôi nhiều nhất. Có lẽ một phần vì Thượng tọa giám đốc, và nhất là thầy Tuệ Sỹ, đều là những người khá gần gũi với tôi, ít nhất cũng trong liên hệ sống chung dưới một mái viện và làm việc chung nơi hãng vị trai.
Mà sự kiện thầy Tuệ Sỹ vào Sài Gòn hoạt động chính trị ở một khía cạnh khác, đã làm tăng thêm niềm tin tưởng trong tôi rằng, ý tưởng tham gia một tổ chức chính trị nào đó của tôi trước đây rõ ràng là điều hợp lý, có chính nghĩa. Đâu phải là đến lứa tuổi thanh niên thì con người bỗng bồng bột nẩy sinh những ý niệm hơn thua, muốn thi thố tài năng và sức lực của mình! Có một nguyên nhân, không, ở đây khoan hãy nói đến nguyên nhân, cứ nhìn và nói về những gì cụ thể: cái hậu quả thống khổ cùng cực mà người dân Việt Nam đang phải gánh chịu là một thực trạng bất toàn, cần phải được điều chỉnh, thay đổi hoặc phải xóa bỏ đi.
Tôi suy nghĩ điều đó, nhưng rồi tôi lại cúi đầu xuống, tiếp tục sống an phận với sinh hoạt thường nhật của viện, vì trước mắt, tôi có còn con đường nào khác đâu. Tổ chức nào đó của nhóm giáo sư sinh viên mà Đức có tham gia, đã bị tan rã. Thầy Tuệ Sỹ mới xuống núi chưa đầy một năm đã bị bắt. Hình như chưa đến lúc, hoặc vì những tổ chức chính trị ấy chưa đủ tầm vóc để tập trung sự hưởng ứng của nhiều người.
Không khí các chùa Nha Trang và đặc biệt ở viện Hải Đức càng lúc càng trở nên buồn tẻ, ngột ngạt. Công an đã rút khỏi dãy nhà mới, nhưng giao lại cho bộ đội lên trú đóng. Mấy anh bộ đội thì dễ chịu hơn, không thèm để ý gì đến chuyện trong chùa viện như mấy anh công an trước đó. Dù sao, sự hiện diện của họ cũng không khác chi mấy về bản chất: vẫn là một hình thức của sự chiếm đoạt ngang ngược, chẳng đem lại niềm vui tươi thoải mái gì cho không khí thơ mộng của ngọn đồi này cả. Tôi chỉ còn biết tự khuây khỏa lòng mình bằng cách thường lui tới chùa Diên Thọ ở Diên Khánh, cách viện Hải Đức non mười cây số.
Từ viện ra đến đường lộ chính mất chừng năm phút, đứng đón xe lam đi Thành, chạy khoảng nửa giờ là đến chùa Diên Thọ. Nhưng thường thì tôi đi xe đạp, thấy thú vị hơn.
Chùa Diên Thọ được coi là ngôi chùa trung ương của quận giáo hội Diên Khánh. Người ta quen gọi là chùa Quận hội, hay gọi tắt là chùa Quận. Chùa này do thầy tôi trụ trì, nhưng người trực tiếp trông coi là chú Quyết, một sư huynh của tôi. Đầu tiên, tôi theo thầy tôi đến chùa Diên Thọ để lo phụ giúp chú Quyết sửa soạn cho ba ngày Tết; rồi về sau, thầy tôi còn nhiều lần gọi tôi đi theo để phụ thầy làm lễ sám hối mỗi nửa tháng cho Phật tử ở quận Diên Khánh, cho nên càng lúc tôi càng thân với chú Quyết nhiều hơn. Nhiều khi không đợi tới dịp lễ, tôi tự động đạp xe lên Diên Khánh ở chơi với chú Quyết vài hôm.
Nhưng ở chùa Diên Thọ, vui nhất vẫn là vào mấy ngày Tết. Ngoài chú Quyết và tôi, còn có chú Hải, chú Phượng, hai sư huynh khác của tôi, từ viện Hải Đức lên chơi nữa. Chỉ có dịp này huynh đệ đồng môn chúng tôi mới có cơ hội tụng kinh, trò chuyện, trao đổi và tìm hiểu nhau nhiều hơn. Ở vùng quê như quận Diên Khánh, không khí ngôi chùa không bị căng thẳng như ở các chùa Nha Trang. Chùa cũng có sân rộng, cây cao bóng mát, nên tôi thích thú vô cùng.
Chú Quyết là người rất giỏi dang, một mình chú lo chu tất mọi công việc trong chùa từ trong ra đến ngoài. Huynh đệ chúng tôi có đến đó thì cũng chỉ phụ giúp thêm mà thôi. Tuy nhiên, trong số môn đồ của thầy, tôi là đệ tử rành nghi thức tụng niệm hơn cả (theo nghi lễ Huế, tức là phải biết cả các điệu tán xắp, tán rơi, tán trạo, thỉnh...), nên mỗi khi chùa Diên Thọ có lễ lớn hoặc cần cúng quải gì thầy tôi cũng gọi tôi đi theo. Không biết với dụng ý thăm dò tâm ý hay vì lý do nào khác, đã có lần thầy cười cười nói với tôi:
“Sau này con thay thầy làm trụ trì chùa Diên Thọ này được đó.”
Thực ra tôi chưa lúc nào nghĩ đến chuyện trụ trì một ngôi chùa, dù là chỉ dự phóng cho tương lai. Các tăng sĩ trẻ tuổi như tôi hình như cũng đều như vậy. Chúng tôi xuất gia là để tìm cái gì khác chứ không phải cưu mang cái mộng làm trụ trì hay tu viện trưởng... Nói vậy không có nghĩa là xem nhẹ trách vụ của trụ trì hay tu viện trưởng như cái gì tầm thường, nhưng vì đó là những trách vụ khá nhiều ràng buộc mà tôi tự biết tâm chí cũng như sở thích của mình không thể thích hợp. Huống chi, thầy tôi có vẻ chỉ nhìn nơi khả năng ứng phó đạo tràng—tức là năng khiếu về nghi lễ, thường là bao gồm luôn cả khả năng quản lý một tự viện—của tôi so với các sư huynh để mớm thử đề nghị đó. Đó là điều chẳng có gì đáng hãnh diện. Nếu chỉ căn cứ vào khả năng ứng phó đạo tràng để đề nghị tôi trụ trì thì chẳng khác nào ngầm ý rằng tôi có khả năng làm một ông thầy làng, một ông thầy cúng! Những ông thầy đám ở nhà quê đâu có thiếu khả năng đó. Có thể tôi đã hiểu sai thiện ý của thầy tôi, nhưng dù sao thì chuyện trụ trì cũng không phải là điều thích hợp đối với tâm chí tôi lúc đó. Tôi đáp:
“Dạ... Còn chú Quyết, chú Hải, chú Phượng... Hơn nữa, con sợ con không thể trụ mãi một chỗ...”
“Bộ muốn làm đạo sĩ hành cước lang thang sao?”
Tôi cười không đáp. Tôi nghĩ là thầy tôi phải biết rằng tôi đâu có cái mộng làm vị thầy trụ trì một ngôi chùa. Và làm sao tôi có thể quên được giấc mộng khôn nguôi của chính thầy tôi đã ảnh hưởng đến tôi từ tóc nhỏ qua câu thơ bất hủ của thi sĩ Huyền Không mà thầy tôi treo ở vách gần bàn viết: “Gót đạo sĩ bốn phương trời rảo bước...” Thầy tôi đã một đời dính mắc vào các trách vụ ứng phó đạo tràng, quản lý tự viện, phải chôn chân một chỗ, không gỡ ra được, thầy đâu muốn tôi phải tiếp nối bước chân thầy theo ngả ấy. Hay là trong mắt thầy, chỉ có con đường ràng buộc đó mới có thể giữ được chân tôi với nẻo đạo? Tôi băn khoăn suy nghĩ, có niềm tin rằng xưa nay thầy tôi thường căn cứ vào tâm tính của mỗi đệ tử để chỉ dạy, có thể thầy đã nhìn thấy trước là tôi chỉ có thể thành công hay ít nhất là giữ được đạo trong cương vị một ông trụ trì, tu viện trưởng, ở trụ một chỗ để tiếp dẫn đồ chúng... Tôi đang còn nghi hoặc trong lòng nên không nói gì. Thầy tôi tiếp:
“Coi bộ trong chế độ này mình cũng khó lòng thực hiện chuyện du hóa bốn phương đó nghe. Ai ở đâu ở yên một chỗ chứ có đi đâu được. Cái hộ khẩu giữ chân người ta lại mà. À, nếu ở đây mà cho con vô được hộ khẩu thì tốt đó chứ. Sống ở đây thoải mái hơn Nha Trang, phải không? Để thầy hỏi xem người ta có lo hộ khẩu cho con ở đây được không.” Tôi thưa ngay:
“Bạch thầy không cần đâu. Con ở viện cũng quen rồi. Với lại, con cũng đã lo được hộ khẩu bên chùa Linh Phong.”
Thầy lặng thinh rồi bỏ qua chuyện đó, không bao giờ nhắc tới vấn đề lo hộ khẩu ở chùa Diên Thọ hay tương lai trụ trì gì nữa. Vậy có thể tôi đã hiểu sai ý thầy. Và bây giờ, cái tâm sinh chuyện của tôi lại nẩy sinh cảm giác là hình như thầy tôi không muốn tôi ở viện. Tôi ôn lại thời gian còn làm chú tiểu, đã có lần thầy đưa tôi qua chùa Linh Phong, rồi cho tôi đi học xa tận Hội An; bây giờ, thầy lại đề nghị tôi rời viện để lên Diên Khánh... Tôi không rõ thầy có chủ ý gì. Phải chăng trong sự xét đoán của thầy, tôi là đứa đệ tử cần phải xa thầy thật xa mới có thể nên người được?
Cái nghi vấn đó chưa kịp phai nhạt trong ý thức tôi thì một hôm, sau bữa cơm chiều ở viện, thầy bỗng gọi tôi vào phòng riêng của thầy, nói:
“Khi sáng thầy Trừng Hùng có qua đây thưa chuyện với thầy. Thầy ấy nói tình hình bây giờ căng thẳng quá, công an có đến xét chùa tối qua, họ hỏi con và yêu cầu thầy Trừng Hùng phải gọi con về ở bên đó thường xuyên chứ không thể kéo dài tình trạng vắng mặt hoài được. Nếu con muốn ở đây thì cũng phải xin phép công an bên đó, nếu không... thầy Trừng Hùng đòi gạch tên con khỏi sổ hộ khẩu. Thầy cho con biết vậy, con coi có thể tính được làm sao không?”
Tôi thưa ngay:
“Dạ không sao, bạch thầy. Thầy Trừng Hùng muốn vậy thì con phải qua đó.”
“Ừ, qua cho nó khỏe chứ không thôi lại bị rắc rối với chính quyền rồi lại bị thầy Trừng Hùng gạch mất tên trong hộ khẩu nữa. Con cứ qua đó, khi nào có việc gì cần thì về đây. Phòng và đồ đạc của con thì cứ để đó, khi nào thích thì về nghỉ ngơi. Đem theo cái gì cần thiết thôi. Bên đó bên này cũng gần chứ có xa xôi gì. Chạy qua chạy về cho vui.”
“Dạ,” tôi đáp, bụng nghĩ thầm, “bây giờ mới thiệt đúng là oan gia đường hẹp, chạy trời không khỏi nắng... Cuối cùng cũng quay trở lại với thầy Trừng Hùng đây!”
Ngay hôm sau, tôi thu tóm mùng màn, áo quần và dăm ba cuốn sách của mình để qua chùa Linh Phong, ống sáo và cây đàn ghi-ta, tôi để lại trong phòng riêng vì trước đây có nghe chú Đức nói rằng thầy Trừng Hùng đã đập bể ống sáo của chú ấy. Mặc dù ở viện tôi cũng không dám công khai đàn hay thổi sáo trước mặt thầy tôi hay các vị thượng tọa khác, nhưng có phòng riêng để cất mấy nhạc cụ đó thì vẫn tốt hơn là mang qua nộp cho thầy Trừng Hùng.
Thu xếp xong hành lý, tôi ngồi lại một lúc trong căn phòng nhỏ của mình, cảm thấy một điều gì đó vừa buồn nhẹ mà cũng vừa phấn khởi. Buồn vì xa khung cảnh đẹp đẽ của viện Hải Đức; phấn khởi vì chợt thấy chuyến đi qua chùa Linh Phong lần này không chừng lại là một nhân duyên tốt để tôi bắt đầu sắp xếp lại cuộc sống giới hạnh nghiêm túc mà gần một năm nay tôi có vẻ lơ là buông thả. Tôi mím môi tự dặn lòng: “Kể từ nay, phải lấy lại những gì đã mất.”
Rồi tôi vui vẻ lên đường. Lần này tôi chỉ đi một mình, không có thầy Thông Chánh đưa tiễn hay dẫn dắt giới thiệu, vì như đã nói, giữa tôi và thầy Thông Chánh không còn mối liên hệ thân mật như xưa nữa.
Chú Đức thấy tôi qua thì vui lắm, vỗ vai tôi, nói:
“Cha, đỡ quá, từ nay đi cúng có chú tiếp hơi, không thấy mệt nữa.”
Tôi chỉ cười. Câu chào vui của chú ấy cũng nói lên được phần nào sinh hoạt thường nhật của chùa Linh Phong rồi. Khi tôi vào phòng khách để bái thầy Trừng Hùng, thầy dặn dò:
“Thầy mi gởi mi cho tao trông coi. Từ nay mọi sinh hoạt cứ theo mấy chú ở đây mà làm. Có ba đứa thôi, thay phiên nhau tụng kinh, thỉnh chuông, quét tước dọn dẹp, nấu cơm nấu nước. Ăn uống thì ở đây kham khổ lắm, tu hành mà, có chi ăn nấy, không sướng như bên viện đâu. Ngủ nghỉ thì cũng có giường riêng như bất cứ chùa nào, nhưng không có phòng riêng như bên viện Hải Đức đâu. Ba chú ở chung dãy nhà Đông bên kia. Đúng giờ thì lên giường, đúng giờ thì thức dậy công phu khuya... Chịu được thì ở, không được thì nói cho biết để tao tính.”
Tôi thưa:
“Dạ được chớ. Sinh hoạt chùa nào cũng như nhau. Có khác chăng là khác ở cảnh chùa rộng chùa hẹp mà thôi.”
“Hẹp, dĩ nhiên là chùa này hẹp hơn bên viện rồi đó. Sao, ở hẹp không được hả? Muốn chỗ trời cao, biển rộng để vẫy vùng cho thỏa thích hả?”
Tôi lặng thinh, tự nhủ: “Đây là khóa học nhẫn nhục thứ hai, cũng diễn ra trong cùng ngôi trường nhỏ năm xưa. Nhưng lần này, ta phải quyết tâm làm cho được nhiệm vụ của mình; nhiệm vụ đó không những là phải tự thắng mà còn phải cảm hóa luôn cả ông thầy thủ cựu khó tính này nữa!”
Tự nhắc mình như vậy, tôi thấy trong lòng có nhiều hứng thú hơn. Tôi thay đổi thái độ ngay lập tức, mỉm cười, rồi lễ phép thưa với thầy Trừng Hùng:
“Con đến đây để cùng với mấy chú nương thầy tu học. Đâu có dám đòi hỏi chỗ rộng, chê chỗ hẹp. Thầy dạy sao, con theo vậy. Cái gì không đúng thì xin thầy chỉ bảo cho.”
Nghe tôi thưa như vậy, thầy Trừng Hùng mới dịu xuống, bảo chú Đức đưa tôi qua dãy nhà Đông để cất đồ đạc. Qua đến nhà Đông, chú Đức quay lại nói với tôi:
“Sao khi không đang ở bên đó mà lại chui đầu vào đây? Tôi đang tính chuyện... bỏ đây thì chú lại đến!”
“Chú tính đi chùa khác à? Vậy chuyện hộ khẩu làm sao?”
“Suỵt, coi chừng thầy ấy biết. Nếu mình lo được hộ khẩu chỗ khác thì mới bỏ đây được. Bây giờ cứ tạm thời ở đây thôi, nhưng nói thực là ở đây ngán lắm, ê ẩm lắm! Tôi sợ chú ở viện quen rồi, chịu không nổi ở đây đâu.”
“Dữ vậy sao. Tôi cũng chịu cực chịu khổ giỏi lắm chứ bộ chú tưởng... Hơn nữa, nhìn qua thấy chùa bây giờ cũng thay đổi nhiều lắm, có nhiều tiến bộ lắm. Chắc không đến nỗi nào. Chùa có điện nước, phòng ốc cho tăng chúng... vậy là thoải mái hơn mấy chùa quê quá rồi.”
“Vấn đề không phải ở chỗ chịu được cực khổ hoặc có tiện nghi tối thiểu hay không mà là... thôi, khỏi cần phải nói, để một vài ngày rồi tự khắc chú biết, ủa, tôi nhớ chú có kể là hồi xưa chú có ở đây mà?”
“Có. Nhưng bây giờ quên hết rồi. À, nhớ chứ. Nhớ là hình như thầy Trừng Hùng hơi khó tính.”
Chú Đức bật cười lên một tràng:
“Nhớ vậy là quá đủ rồi. Có chừng đó thôi chứ mấy. Nhưng bao nhiêu chuyện khác cũng sinh ra từ đó mà thôi.”
“Tôi biết chứ. Gặp thầy ấy mấy lần lúc lo chuyện hộ khẩu là biết rồi. Nhưng tôi vẫn hy vọng là tụi mình nói vô nói ra, góp ý kiến, nhiều lần, có thể thầy ấy sẽ thay đổi dần.”
“Chú nói thiệt hay nói chơi vậy? Thay đổi thầy ấy? Đừng có hòng. Thầy ấy chỉ muốn thay đổi tụi mình thôi. Trong mắt thầy ấy, tụi mình vẫn là những chú tiểu thôi.”
“Cũng được, làm chú tiểu hoài sướng chứ!”
“Nhưng chú tiểu thì phải... thôi, nói ra mệt lắm. Bây giờ phải xuống bếp nấu cơm cái đã. Bữa nay phiên tôi. Mai phiên chú Thể. Có chú nữa thì thêm một phiên há. Chú làm bếp nấu cơm được chứ hả?”
“Được. Chỉ sợ là không khéo thôi. Nấu món gì đơn giản thì không sợ.”
“Đây thì nấu đơn giản rồi, chẳng có gì rườm rà hết. Này nhé, nêm thức ăn thì thường chỉ bỏ muối hay chút đường, không bao giờ dùng bột ngọt. Chiên hay xào thì đổ chút xíu dầu cho có lệ vậy thôi, đúng ra phải nói là chiên xào thức ăn bằng nước chứ không phải bằng dầu. Thiệt đó, đổ vô chút nước cho khỏi cháy chảo, rồi nêm muối. Vậy là xong.”
“Gì kỳ vậy! À, tại chùa nghèo không có tiền mua dầu, bột ngọt chứ gì. Thì từ năm bảy lăm đến giờ mấy thứ đó khan hiếm lắm mà.”
“Không phải, dầu ăn, bột ngọt, dù thầy ấy chưa bao giờ bỏ tiền ra mua nhưng bá tánh đem cúng từ lâu nay dồn chứa lại cũng đầy cả kho ở dưới đó chứ. Nhưng thầy Trừng Hùng không cho xài. Chỉ khi nào có lễ lược, Phật tử dưới núi lên nấu nướng, lúc đó thầy mới lấy cái lọ nhỏ, chắt ra chút dầu ăn, rồi xé một tờ giấy nhỏ để sớt ra chút bột ngọt.”
“Khiếp! Tiết kiệm gì dữ vậy!”
“Cho nên mấy bà Phật tử phụ trách nấu nướng lúc nào cũng mua thêm dầu, bột ngọt đem theo để khỏi phiền thầy trụ trì phải mất công san sớt. Nhiều người không biết, tưởng chùa không có dầu và bột ngọt nên cúng cả thùng dầu bự, bột ngọt thì cúng cả ký lô, nhưng rồi thầy ấy cũng đâu cho xài.”
“Nhưng những thứ đó để trong kho hả? Để tôi lấy xài coi thầy ấy nói sao!”
“Xì, chú tưởng chú mới dám nói còn tôi thì lặng thinh lâu nay đó hả? Còn lâu. Nói thiệt, ăn chay mà không có dầu ăn với bột ngọt thấy ngán quá trời. Tôi có cằn nhằn cái vụ đó hoài đó chứ, nhưng thầy ấy nói thầy bệnh bao tử không ăn dầu, không ăn bột ngọt được. Vậy chú nói làm sao? Không lý cứ nấu đại theo ý mình để thầy ấy nhịn ăn? Mà có nấu đại cũng khó, vì dầu ăn thì thỉnh thoảng mình còn lấy ra nấu khi thầy ấy đi vắng, vì có nguyên một thùng bự nằm trong kho. Chứ bột ngọt thì thầy ấy đem cất vào tủ riêng, khóa lại, làm sao mà lấy. Cái tủ đựng ba cái đồ quý của thầy ấy đó mà.”
“Kỳ cục! Thầy ấy bệnh chứ có phải tăng chúng bệnh đâu mà bắt tăng chúng phải ăn theo, kiêng cữ dầu, bột ngọt!”
“Thì tôi cũng nói như vậy đó. Nhưng có thay đổi gì được đâu. Thầy ấy bây giờ là trụ trì mà, lại là chủ hộ nữa, mình cãi cho lắm rồi thầy đuổi ra ngoài thôi chứ có ích gì. Tôi và chú Thể đều bị thầy ấy hăm đuổi mấy lần rồi đó chứ.”
“Thiệt tình...”
Vừa lúc đó, thầy Trừng Hùng từ nhà Tây bước qua, nói:
“Chiều nay tao không ăn cơm chùa. Phải đi cúng đám, đến tối mới về tới. Mấy đứa bay lo nấu cơm ăn với nhau, khỏi để phần. Thằng Khang cũng luân phiên với mấy đứa kia nấu cơm nghe chưa.”
Nói rồi thầy ấy xuống núi. Chú Đức kéo tôi qua phía bếp:
“Chiều nay thầy ấy đi vắng để tôi đãi chú ăn bánh xèo!”
“Chú biết đúc bánh xèo sao?”
“Biết chứ, dễ thôi chứ khó gì. Chút nữa chạy ra chợ mua bột gạo, đậu hủ chiên, nấm rơm, giá, boa-rô là mình có một bữa bánh xèo ngon rồi. Tôi đãi ăn mừng chú đến chùa mới... à không, trở về mái chùa xưa!”
“Để học bài học nhẫn nhục...”
“Bài học nhẫn nhục hả? Hy vọng chú học được đó, chứ tôi thì học chẳng nổi rồi, phải bỏ ngang một ngày gần đây, chú đến thay thế tôi há.”
Giọng chú Đức có vẻ cay đắng. Tôi thấy tội nghiệp thay cho chú. Một tăng sĩ trẻ của giáo hội đang học tại Phật học viện đầy hứa hẹn, trong xã hội mới, phải chui đầu vào cái xó xỉnh này để học lại những bài học vỡ lòng của tuổi để chóp năm xưa! Thương cho chú ấy tức là cũng tự thương cho thân phận mình. Tôi thấy buồn vô hạn, nhưng tôi cũng tự dặn lòng, tôi phải vượt qua tất cả những thử thách nào đang giăng ra trước mắt. Dù có trường lớp hay không, con đường của người xuất gia vẫn là tìm cầu giải thoát giác ngộ. Hoàn cảnh xã hội đổi thay nhưng mục đích đó vẫn vậy, cái mục đích tối hậu đó dường như chẳng dính nhập gì đến các chương trình của trường lớp. Biết đâu chung sống với vị thầy thủ cựu một cách thái quá này mà có thể tìm được cái mình muốn tìm!
“À, chú Đức, tôi quên hỏi chú... Cầu tiêu ở đâu. Tôi có ở đây một thời gian hồi nhỏ rồi mà tự dưng quên mất là cầu tiêu nằm chỗ nào.”
“Cầu tiêu đó hả?... Ha ha, cầu tiêu? Danh từ gì mà nghe lạ quá, hình như tôi mới nghe lần đầu, ở đây chưa hề xài danh từ đó. Nó là cái gì vậy?”
“Đừng giỡn nữa. Tôi hỏi thiệt đó, nhà cầu đâu, phía sau bếp hả? A, nhớ rồi, hồi tôi ở đây... hình như là phải vác cuốc ra sau núi... Không, có chứ, có một con đường mòn chạy ngoằn ngoèo dẫn tới một cái hầm với miếng ván bắc ngang... Chao ôi, lại gặp cái địa ngục đó dài dài nữa rồi!” Chú Đức cười phá ra, cười tràn cả nước mắt. Chùa Linh Phong từ nhiều năm rồi vẫn chưa xây được cái cầu tiêu. Và nhà tắm cũng không nốt. Trải qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử (gần hai trăm năm từ thời mấy lập chùa) mà rồi chùa Linh Phong vẫn nhất quyết là không xây cầu tiêu và buồng tắm! Vậy là phải tắm ban đêm, đứng sau bìa núi, dội nước lạnh và run trước gió. Chú Đức nói thầy Trừng Hùng là vị trụ trì có thừa tiền để lo chuyện xây cất nhà tiêu và buồng tắm nhất, nhưng thầy đã không làm mà cũng chẳng đưa ra lý do gì về quyết định không làm đó. Và như vậy, nhiều năm nay, từ thầy trụ trì đến tăng chúng, cho đến khách thập phương, đều phải đi ra ngoài núi, nơi có một cái hầm lớn có miếng ván bắc ngang. Nhắm mắt thì sợ lọt xuống hầm, mà mở mắt thì dĩ nhiên là phải thấy, ôi, cả một cái địa ngục nhầy nhụa với hằng hà sa số sinh linh đang ngoi ngóp, quằn quại!...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương chín

Lâu lắm tôi mới được ăn lại món bánh xèo nên thấy rất ngon miệng, dù rằng chú Đức chiên bánh không phải là khéo lắm. Ăn xong thì cũng vừa khóa lễ Tịnh độ (tụng kinh A Di Đà vào tám giờ tối). Ba đứa chúng tôi (tính luôn chú Thể) tụng kinh xong, đóng hết các cửa rồi lên giường nằm đọc sách thì thầy Trừng Hùng về, gõ cửa.
“Thể! Mở cửa,” thầy ấy từ ngoài gọi lớn. Chú Thể lật đật chạy đến cửa.
“Tao nói qua mở cửa bên kia chứ không phải mở ở đây.”
Dãy nhà Tây của thầy ấy không có khóa bên ngoài, chỉ khóa được phía trong. Mỗi lần thầy ấy xuống núi trở về, muốn vào nhà Tây, nơi có phòng riêng của thầy, thì phải gọi những người bên nhà Đông băng ngang chánh điện để qua nhà Tây mà mở cửa.
Chú Thể lại lật đật chạy băng ngang cửa hông chánh điện để qua nhà Tây. Nhân cửa nhà Đông mở, thầy Trừng Hùng bước vào nhìn chúng tôi, đôi mắt trừng trừng như giận dữ. Thực ra, tánh thầy vốn nóng nảy, cúng đám mệt, về tới nơi lại phải leo hai trăm mấy chục bậc cấp mới đến chùa nên mới sinh quạu quọ, khó chịu. Chẳng phải chúng tôi có lỗi gì, chỉ vì thầy ấy đi về mệt mà thôi. Thầy hỏi:
“Hồi chiều mấy đứa bây ăn thứ chi vậy?”
“Dạ ăn bánh xèo,” chú Đức đáp.
“Tại sao vậy? tại sao không nấu cơm lại bày đặt nấu bánh xèo cho mất thì giờ?”
“Dạ... thì lâu lâu đổi món cho vui vậy mà. Mấy món như vậy thầy đâu có dùng được nên...” chú Đức nói ngang đó thì thầy Trừng Hùng ngắt lời:
“Bây ăn thì kệ bây chứ, đâu phải tao hỏi cho tao! Rồi bánh xèo ăn với thứ chi? Phải đi chợ à?”
“Dạ, chạy xuống chợ chút xíu để mua rau, mua đậu,” chú Đức đáp.
Thầy Trừng Hùng nguýt chú Đức một cái rồi bước ra, đến ngang cửa thì dừng lại:
“Có tiền không biết giữ, chỉ biết xài tào lao không à! Mà rồi có mua dầu ăn không?”
“Dầu ăn?... Dạ không. Dầu ở chùa có rồi, đâu cần mua thêm chi.”
“Dầu của chùa đâu phải để chiên bánh xèo ăn chơi. Muốn chơi, muốn xài tiền sao không giỏi mua luôn dầu!” Chú Đức cứng họng chẳng biết nói gì. Tôi nghe chuyện cũng muốn lên tiếng nhưng chưa kịp nói gì thì thầy ấy đã bỏ đi qua nhà Tây.
Hôm sau, đến lượt chú Thể nấu cơm thì phát giác cơm dư ngày trước còn lại trong nồi đã bị thiêu. Cơm ngày trước là do chú Đức nấu, vì vậy chú Thể gọi chú Đức, hỏi:
“Cơm chú nấu dư hôm qua bây giờ thiêu rồi, làm sao đây chú?”
“Vậy hả? Sao mau quá vậy? Chắc tại trời nóng quá,” chú Đức nói.
“Thôi lỡ rồi, chắc phải đem đổ cho chim sóc nó ăn chứ làm sao bây giờ,” tôi góp ý vào.
Chú Đức suỵt một tiếng:
“Nói nhỏ á, thầy Trừng Hùng nghe được la chết. Lâu lâu cũng bị thiêu một lần như vầy, đem đổ ngoài bục đá kia kìa, nhưng lần nào cũng bị thầy cằn nhằn suốt buổi.”
Vừa nói đến đó thì thầy Trừng Hùng bước xuống, đứng ngang cửa bếp, hỏi:
“Chi đó? Cơm thiêu phải không?”
Chú Đức gãi đầu đáp:
“Dạ, thiêu. Chắc tại trời nóng quá.”
“Đừng có đổ hô trời nóng với trời lạnh. Tao bảo bao nhiêu lần rồi, nấu cơm phải lựa chừng, đừng bao giờ nấu dư.”
“Thì cũng lựa chừng đó chứ sao không, nhưng có bữa ai cũng ăn ít hết thì cơm phải dư. Làm sao biết được bụng dạ mọi người mà nấu cho đúng để khỏi dư.”
“Chứ không phải tại hôm qua mi đúc bánh xèo nên để cơm dư bữa trưa lại cho thiêu sao?”
“Có khi để từ trưa hôm nay đến chiều hôm sau cũng chưa thiêu nữa, chắc tại...”
“Không có chắc tại gì hết. Mi làm cơm thiêu thì đừng có chắc tại. Bây giờ đem đi đâu đó?”
“Dạ đem đổ cho chim ăn,” chú Đức đáp.
“Hừm, khỏe vậy đó hả, cứ nấu cơm nhiều cho dư, để thiêu, rồi đem đổ cho chim ăn! Chà, chùa này giàu quá há. Cơm gạo của tín thí mà phung phí vậy à?”
“Chứ bây giờ làm sao, không cho chim sóc ăn thì còn phí của hơn là đem chôn nữa.”
“Ai bảo mi là đem chôn?” thầy Trừng Hùng quắc mắt hỏi lại.
“Dạ... nếu không chôn thì đem đổ cho chim ăn,” chú Đức nói, lại tính mang cơm đi đổ.
“Khoan,” thầy Trừng Hùng gọi giật lại, “để đó, tao có biểu mi đem đổ đâu mà định đem đi.”
Chú Đức không kềm được bực mình, đặt nồi cơm trên bàn, bước ra ngoài cửa bếp. Tưởng cũng nên nhắc ở đây rằng chú Đức tuy còn là sa-di, chưa thọ giới tỳ-kheo nhưng tuổi chú khá lớn, chỉ thua thầy Trừng Hùng chừng năm, sáu tuổi. Cho nên, chỉ vì giới phẩm mà chú phải kiêng dè không dám cãi ngang với thầy Trừng Hùng chứ tính theo tuổi tác thì hai người chỉ như huynh đệ với nhau mà thôi. Tôi biết là chú ấy kềm lòng, nhịn nhục dữ lắm.
“Đứng lại, mi định đi đâu?” thầy Trừng Hùng gọi chú Đức lại.
“Có đi đâu đâu,” chú Đức trả lời, đứng lại ngang cửa sau của bếp.
Thầy Trừng Hùng nghiêm giọng nói:
“Đức, nghe tao nói nè: cơm thiêu đó mi phải ăn cho hết, không được đem đổ cho chim sóc gì hết.”
Chú Đức vùng quay lại:
“Thầy nói sao? Tôi ăn?”
Tôi cũng bất bình nói vào:
“Lỡ thiêu rồi thì đổ cho chim, chú ấy đâu có cố ý. Chuyện vậy có gì mà thầy bắt chú ấy phải ăn.”
“Không có nói tới nói lui gì hết. Tao bảo thằng Đức phải ăn cho hết mớ cơm thiêu đó!” thầy Trừng Hùng quả quyết nhắc lại.
Chú Đức hình như ức quá không nói được nên lời nữa. Tôi lại xen vào:
“Cơm đó chim sóc ăn được. Nói rằng đem đổ, thực ra là đem cho chúng nó ăn chứ không mất gì hết. Thầy bắt chú ấy ăn cơm thiêu lỡ chú mang bệnh thì ai lo? Thầy có lo thuốc men không hay để chú chạy về xin tiền gia đình?”
“Chuyện có mắc mớ gì đến mi mà mi xía vô? Tao nói với thằng Đức, tao không nói với mi. Đức, mi nghe không? Tao bảo mi phải ăn cho hết mớ cơm thiêu đó, không được đem đổ. Làm gì thì làm, mi phải ăn trước mặt tao. Có bệnh có hoạn gì tao chịu hết. Mi mà không ăn mớ cơm thiêu đó thì đừng bao giờ ngó mặt tao nữa.”
Nói rồi, thầy Trừng Hùng bỏ lên nhà trên. Chúng tôi hiểu những chữ “đừng ngó mặt tao” có nghĩa là gì. Có lẽ đó là cụm từ nhã nhặn, khiêm nhường nhất mà thầy Trừng Hùng có được thay vì dùng cụm từ “đuổi cổ ra khỏi chùa”. Những năm trước một chín bảy lăm, bọn sa-di chúng tôi không ở được chùa này có thể xin qua ở chùa khác, nhất là khi mình không có lỗi gì trầm trọng đối với thầy trụ trì hay giáo hội. Trường hợp một chú sa-di bị đuổi khỏi chùa không phải là hiếm, nhưng chú ấy có thể xin vào bất cứ chùa nào, và có thể xin thọ giáo từ bất cứ vị thầy nào khác; ngoài ra, chú ấy cũng có thể xin vào tu học tại các tu viện, Phật học viện có đông tăng chúng; hoàn cảnh như vậy không có gì bức ngặt lắm. Còn trường hợp một tu sĩ bị khai trừ bởi giáo hội địa phương hay trung ương là trường hợp rất hy hữu. Mà giáo hội Phật giáo, vì không có giáo quyền tuyệt đối nên sự khai trừ đó cũng chỉ có ảnh hưởng rất giới hạn. Như vậy, chuyện bị đuổi ra khỏi chùa, thực ra ở cỡ tuổi tôi và chú Đức thì không đáng ngại. Thậm chí lớp sa-di chúng tôi có thể tự tạo lấy một cái am tranh chứ không cần phải ở chùa. Chuyện tu học tìm cầu giải thoát đâu có quan hệ gì với chùa to, chùa nhỏ hay nhà gạch, nhà lá! Từ năm một chín bảy lăm đến nay, đã có khá nhiều thầy trẻ và các chú sa-di cỡ tuổi chúng tôi vì lý do nào đó, đi kinh tế mới, hoặc khai phá đất rẫy để tự túc sinh sống tu học. Những chòi tranh, nhà lá rải rác trên các miền rừng núi đó chẳng mang dáng vẻ gì của một ngôi chùa, nhưng không ai phủ nhận được hình thức và cương vị xuất gia của những vị chủ nhân đang sống trong đó. Dù sao, muốn có được cái am tranh trên một cái rẫy cũng phải chuẩn bị trước, và liệu rằng có xin được hộ khẩu hợp pháp ở địa phương đó hay không. Cái hộ khẩu dưới chế độ cộng sản là bùa hộ mệnh của mỗi người dân. Chú Đức đã xin được hộ khẩu tại chùa Linh Phong, nếu bất ngờ bị thầy Trừng Hùng đuổi đi, đòi gạch tên khỏi hộ khẩu thì thực là phiền. Có lẽ thầy Trừng Hùng đã nắm được chỗ nhược này.
Từ lúc nghe thầy Trừng Hùng ra lệnh và hăm dọa, chú Đức ngồi im ở bàn ăn, mặt sầm xuống trông rất tội nghiệp. Tướng tá vạm vỡ, vai u thịt bắp của chú, ai nhìn cũng thấy sợ, mà kỳ thực, chú hiền như cục đất. Thỉnh thoảng chú cũng nổi chút ngang ngạnh, cãi lại với người khác, nhưng rồi cũng dịu ngay sau đó, để rồi trở lại với nguyên trạng của một cục đất.
Phải một lúc sau, hình như là để đợi cho cơn nóng giận phẫn uất trong lòng lắng xuống hoàn toàn, chú mới đứng dậy trút cơm thiêu từ trong nồi ra một cái rá, đặt vào trong một cái thau, mang ra sau bếp, chỗ thùng phuy đựng nước. Tôi bước theo chú, hỏi:
“Chú làm gì vậy?”
“Rửa,” chú đáp.
“Rửa cơm à? Chi vậy?”
“Rửa cho bớt chất nhớt rồi để ráo nước một chút, đem vào chiên ăn.”
Tôi nghe như vậy thì cổ họng thấy nghẹn lại. Chợt nghĩ, có lẽ khi nãy chú ngồi im để nhớ đến gia đình ruột thịt với sự chăm sóc thương yêu của cha mẹ, của anh chị em, tận ngoài Huế—mấy ông thầy tu trẻ thường có cái tâm cảnh đó: một là khi bệnh nặng, hai là lúc bị hất hủi, thường hay nhớ về gia đình ruột thịt. Chú có kể tôi nghe, chỉ vì muốn sống xa gia đình cho dễ tu học nên khi Phật học viện Nguyên Hương ở Phan Thiết giải tán (vì cộng sản toàn chiếm miền Nam) chú mới ghé Nha Trang xin vào chùa Linh Phong chứ đâu phải ngoài Huế chú không có chỗ ở.
Nhìn chú cúi gằm mặt xuống rửa cơm thiêu, mặt tái xanh, mắt như rướm lệ, bất giác trong tôi bỗng trỗi dậy một niềm thương cảm vô hạn, đồng thời một niềm tin trong sạch và cao khiết cũng bừng tỏa trong tôi như một luồng sáng, trong chớp nhoáng tràn ngập khắp không gian, hay như một tiếng hét, một tiếng ca hùng tráng vươn khỏi mấy từng mây cao trên đầu núi... Tôi liền nhớ đến mấy câu thơ của thiền sư Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca do cụ Trúc Thiên dịch mà tôi thuộc lòng, cảm hứng đọc cho chú Đức nghe:
“Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Nói-im, động-tịnh, thảy an nhiên
Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững
Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh. ”

Chú Đức ngước lên nhìn tôi, cười nói:
“Cái này chẳng phải thuốc độc đâu. Ăn vào chẳng chết chóc gì, nhưng ớn quá là ớn! Ớn rùng mình đi được.”
Tôi ngồi xuống cạnh chú, nói:
“Thì mình học theo ngài Ca Diếp hồi xưa, uống cạn chén nước mả của bà già ăn mày dâng cúng.”
Chú Đức nói:
“Vẫn ớn như thường!”
Tôi lấy hai tay vốc nước rửa cơm thiêu trong thau nước của chú, đưa lên miệng uống. Chú Đức ngưng tay, trố mắt nhìn tôi. Tôi nói:
“Trong Chứng Đạo Ca cũng có đoạn nói là những kẻ hại mình, chửi mắng, dèm pha, báng bổ mình chính là thầy của mình đó. Vị thầy này dạy cho mình hạnh nhẫn nhục. Phải đón nhận những điều chua cay đó như uống nước cam lồ. Không những mình không oán mà còn phải cung kính tạ ơn vị thầy đó nữa. Chứng Đạo Ca chú từng đọc rồi. Tôi chỉ nhắc lại để chú nhớ thôi. Ở chùa này mình cần thiết phải học cái hạnh nhẫn nhục nếu không thì chịu không thấu đâu.”
“Chú uống nước cơm thiêu đó không thấy... gì hết sao?”
“Thì đọc một đoạn Bát Nhã Tâm Kinh rồi uống thôi,” tôi cười đáp, “đúng ra thì mình phải áp dụng pháp vô phân biệt quán, nhưng không cần công phu đến như vậy đâu, chỉ cần đọc bài Bát Nhã một cách chú tâm, đi sâu vào nghĩa lý là được rồi.”
Bữa cơm do chú Thể nấu đã dọn ra, đơn giản. Món đậu hủ kho và canh rau muống. Chùa có bốn người nên dọn chung một bàn, chia làm hai mâm. Thầy Trừng Hùng một mâm, ba đứa chúng tôi một mâm. Nhưng trong mâm cơm của chúng tôi hôm nay, có thêm một tô cơm thiêu chiên lại của chú Đức. Ngồi vào bàn ăn, thầy Trừng Hùng liếc qua một cái rồi nói:
“Cơm đó để thằng Đức ăn một mình. Tao không bắt thằng Khang, thằng Thể ăn.”
“Dĩ nhiên là ăn một mình chứ có kêu ai ăn phụ đâu,” chú Đức nói lầm bầm rồi bới cơm thiêu vào chén của chú. Tôi cũng kéo tô cơm thiêu về phía mình, chú Đức cố giằng lại nhưng tôi đã giành hẳn tô cơm, tự động lấy vá xúc cho mình một chén. Vậy mà tô cơm hãy còn lại gần hai chén. Thầy Trừng Hùng nói:
“Tao bảo để thằng Đức ăn một mình.”
“Chú ấy ăn không hết đâu. Con muốn ăn phụ,” tôi đáp. Thầy Trừng Hùng nguýt tôi rồi nói:
“Thôi kệ bây, muốn làm chi đó thì làm.”
Tôi chan nước tương vào chén cơm thiêu, và ăn. Dù chú Đức đã rửa bớt, cơm vẫn còn nhớt và dĩ nhiên là hôi chua rất khó nuốt. Tôi chú tâm đọc bài kinh Bát Nhã, cơm lùa vào miệng chỉ việc nhai rồi nuốt, không để cho vị giác nẩy sinh phân biệt, vô tâm vô niệm như nước chảy qua ghềnh, như mây bay qua núi... Chú Đức cũng nhăn mặt nhăn mày nuốt cơm thiêu một lúc rồi chợt ngó qua tôi, cười, hỏi nhỏ một câu:
“Khi nãy chú nói chỉ cần đọc một đoạn Bát Nhã Tâm Kinh... Vậy có phải đoạn đó là: Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm...?"
Tôi vừa mới gật đầu thì thầy Trừng Hùng la:
“Ăn cơm không có nói chuyện. Muốn nói gì thì ra ngoài đường mà nói.”
Hết chén thứ nhất của mình rồi, tôi và chú Đức lại chia nhau phần cơm thiêu còn lại. Xong chén cơm thiêu thứ hai, chúng tôi không còn bụng dạ nào để ăn thêm cơm mới nấu của chú Thể. Bữa ăn trôi qua.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Với ý niệm xem những nghịch cảnh như là ân nhân, là thầy dạy, là thử thách cần thiết cho bước đường tu tập của mình, những ngày kế tiếp, tôi đã dễ dàng chấp nhận nếp sống khô khan, khuôn thước một cách cổ lổ của chùa Linh Phong, và tôi cũng đã dễ dàng vui vẻ hòa nhập với tính ý của thầy Trừng Hùng. Tôi và chú Đức thường theo thầy Trừng Hùng đi cúng đám, từ đám cầu an, an vị Phật cho đến cầu siêu, đám tang v.v... Không có đám nào ở Nha Trang mời mà thầy Trừng Hùng từ chối. Hễ ít đám thì thầy kéo cả tôi và chú Đức cùng theo để hộ niệm, còn nhiều đám cúng chung một giờ trong một ngày thì thầy chia mỗi người lãnh một đám, không bỏ sót đám cúng nào. Tôi và Đức sành nghi lễ Huế, lại thêm có hơi giọng mạnh nên thầy Trừng Hùng rất thích. Có khi trong một ngày, thầy kéo chúng tôi đi cúng ba, bốn đám, từ sáng sớm đến tối mịt mới về tới chùa. Chỉ có chú Thể là được cắt ở chùa để lo thỉnh chuông và tụng kinh hàng ngày.
Chính trong thời gian đi tụng đám khắp Nha Trang đó, tôi có cơ hội tìm hiểu thêm về sinh hoạt thực tế dưới chế độ mới. Trong một khóa lễ ở chùa, có thể có hàng trăm thiện nam tín nữ tham dự. Nhưng con số hàng trăm người đó chỉ có mặt để tụng niệm, không phải để bày giải tâm tình và hoàn cảnh sống của họ. Khi đến nhà từng người để tụng kinh, người tăng sĩ mới thực sự lắng nghe và chứng kiến đời sống thế tục, đời sống thực tế. Có gia đình chẳng than vãn gì, nhưng mức sống kham khổ và nỗi đau tinh thần của họ cũng được phơi bày qua mức chi tiêu, sắm sửa cho một đám tang, một khóa lễ riêng tại nhà. Bao nhiêu sách vở báo chí nói về chủ nghĩa cộng sản cũng không thể đầy đủ bằng một giờ một ngày, sống dưới chế độ ấy, nhìn thấy thực trạng xã hội diễn ra trong từng bữa cơm, từng mẩu đối thoại nhỏ của những người trong gia đình. Và ngay cả những gì tôi được biết về chế độ mới qua những ngày ở chùa Long Tuyền Hội An, ở viện Hải Đức, chuyện nhà nước chiếm chùa, theo dõi tăng sĩ, bắt bớ tăng sĩ đi nghĩa vụ quân sự, chuyện đốt sách báo, chuyện sĩ quan và công chức chế độ trước bị tập trung cải tạo, chuyện nhà nước chiếm dụng nhà riêng của dân... bao nhiêu điều đó cũng chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh đời sống hiện thực của xã hội ngày nay. Cứ nhìn những bộ mặt nơm nớp lo âu của những người trên đường thì biết. Dường như người dân chung quanh tôi đã không còn cất nổi tiếng cười, thậm chí không còn mỉm được nụ cười chào nhau. Mọi người có vẻ như đang cúi gằm mặt xuống để cam chịu một gánh nặng trên vai, trên lưng. Với kiến thức nông cạn của một thanh niên mười tám tuổi, tôi không làm sao hiểu nổi ngoài hiện trạng là người cộng sản đang cầm quyền, đâu là những nguyên do chằng chịt liên hệ dẫn đến thảm trạng này cho đất nước quê hương; nhưng tôi có thể linh cảm được rằng, hình như dân tôi đang bị lùa dần vào một thảm họa. Cái thảm họa kinh khiếp nhất, ghê tởm nhất, mà ở đó, tất cả ý thức về đạo đức, tất cả niềm tin và hoài vọng cao đẹp, thậm chí tất cả những ý niệm về chân thiện mỹ cũng bị lột và vất bỏ đi như những cái vỏ chuôi, để lại những cái máy người cằn cỗi với những cái đầu rỗng tuếch, và với những trái tim vô hồn, vô cảm.
Cho nên chuyện người dân bỏ trốn ra khỏi nước—nhà nước mới gọi là vượt biển, vượt biên và kết tội là phản quốc —ban đầu có vẻ như chỉ dành cho những người giàu có và những người Hoa kiều đi bán chính thức, nhưng càng ngày nó càng trở nên phổ biến và trở thành giấc mộng chung của những người yêu chuộng tự do, những người muốn tìm đường cứu nước, lẫn những người muốn được yên thân hay vinh thân bằng cơ hội tiến thân dễ dàng ở các nước văn minh tự do. Ai cũng có thể đi vượt biên được miễn là có chút ít tiền để chung góp với nhau, kẻ mua lương thực, người mua xăng nhớt, hoặc đóng tàu đóng ghe. Thậm chí có người không có tiền bạc chi cả nhưng có tấm hải đồ, hoặc cái hải bàn, hay chỉ một cái ống dòm là cũng có thể được đi vượt biên. Những anh hoa tiêu trong hải quân là hạng ưu tiên số một được các nhóm vượt biển mời đi miễn phí. Sau này, có người giả xưng hoa tiêu, hoặc chỉ xưng mình là lính hải quân của chế độ cũ, là cũng được tin tưởng để giao phó công tác làm hoa tiêu cho một chuyến hải hành. Giấc mộng tự do đã tạo nên một phong trào hấp dẫn nhất, và có thể nói là quan trọng nhất trong sinh hoạt quốc gia, thu hút bao nhiêu người dân và kéo theo cả những cán bộ, bộ đội cộng sản vào. Những người cán bộ cộng sản nếu không vượt biên theo dân thì cũng bị cuốn theo dòng thác vượt biên bằng các mánh khóe, các cách làm ăn phi pháp: nào là bán bãi, nào là làm giấy tờ giả, giấy phép đánh cá, giấy phép đi biển, giấy xuất cảnh v.v... Đủ các ngõ ngách để moi móc túi tiền của những người mê vượt biên. Rồi trong sự phản diện giữa một xã hội đói thiếu gạo cơm và viễn ảnh tự do no ấm ở nước ngoài, tự dưng có một số người nẩy ra những sáng kiến lừa gạt, tráo trở vô cùng tinh tế, miễn sao thu được tiền bạc hoặc chen chân được xuống ghe tàu là quí, chẳng màng đến chuyện đạo đức thị phi gì nữa. Trong khi những cán bộ cộng sản lợi dụng sự khát khao tự do của người dân để làm tiền thì những người ấy cũng nhân danh cứu cánh tự do mà không từ bỏ bất cứ một xảo thuật gian trá, đảo điên nào để thủ lợi cho mình. Nạn nhân của chuyện lường gạt vượt biên ấy không thiếu gì. Chú Đức và tôi cũng là hai nạn nhân rất buồn cười trong giai đoạn ấy.
Vào một chiều nọ, chùa có khách từ Sài Gòn ra. Khách là một chàng thanh niên tên Tâm, cũng người Huế, đâu chừng hai mươi bốn tuổi. Không rõ do sự giới thiệu của ai, Tâm lên núi, vào chùa thăm hỏi thầy Trừng Hùng và xin được ở lại đêm. Thầy Trừng Hùng viện lẽ Tâm không có đầy đủ giấy tùy thân và giấy thông hành nên không cho.
Tâm được mời ăn bữa cơm chiều tại chùa rồi xuống núi. Trước khi rời chùa, Tâm tự động đến làm quen với Đức và tôi, rủ chúng tôi ra ngồi chơi ở bậc tam cấp trước chùa để nói chuyện cho thoải mái, rồi tự giới thiệu mình là thị giả cũ của Hòa Thượng Già Lam (tức là Hòa Thượng Thích Trí Thủ, một vị cao tăng đức độ trong nước mà ai cũng biết). Thực ra chức thị giả trong chùa chẳng là gì cả, chỉ là người hầu hạ, bưng cơm nước, quét dọn phòng ốc cho một vị thầy (thường thường là trụ trì và cao tuổi); nhưng tự xưng là thị giả của Hòa Thượng Già Lam thì cũng gây được chút uy tín đối với người lạ. Không rõ vì lý do gì, Tâm không còn mang hình thức tu sĩ nữa. Tâm cho chúng tôi biết rằng anh đã hoàn tục chừng nửa năm trước để lo chuyện vượt biên. Anh còn nói rằng hiện gia đình mẹ nuôi của anh ở Sài Gòn đang muốn tổ chức một chuyến vượt biên cho gia đình, tốn bao nhiêu vàng cũng chịu. Tâm ra Nha Trang để tìm ngõ đi. Nếu có ghe tàu và bãi tốt, Tâm sẽ mang gia đình mẹ nuôi từ Sài Gòn ra. Tất cả chi phí do gia đình ấy chịu.
“Mấy chú có quen ai ở Hà-ra hay xóm Bóng không?” Tâm hỏi.
Đức lắc đầu. Tôi thì còn đang suy nghĩ. Tâm nói tiếp:
“Nếu hai chú mà giới thiệu được một người nào có ghe đánh cá, bất cứ ở vùng biển nào, Nha Trang, xóm Bóng, Hà Ra, Ba Làng, xóm Dương, Đại Lãnh, Vạn Giả, Tu Bông... tôi sẽ cho các chú đi theo, khỏi tốn đồng bạc nào hết.”
Nghe dược chuyện ấy, cái mộng vượt biên nẩy nở thật nhanh trong tôi. Tôi không ngờ chuyện vượt biên lại đơn giản đến như vậy: chỉ cần biết người nào có ghe, giới thiệu cho người có tiền, vậy là được đi, quá khỏe! Không cần phải tìm cho ra một cái ống dòm vốn khan hiếm và đắt tiền. Không cần phải có hải bàn, hải đồ là dụng cụ chuyên môn của ngành hàng hải mà cả đời chưa hề nhìn thấy. Không cần phải là hoa tiêu. Không cần phải là tài công. Không cần phải là một anh lính hải quân (dù là anh hải quân chưa hề đặt chân xuống tàu). Không cần phải có tiền hay vàng thật nhiều—điều kiện mà tăng sĩ tu núi như tôi không bao giờ có thể hội đủ. Không cần phải là Hoa kiều. Và... không cần phải làm bộ lấy một cô gái Tàu...
Dù háo hức trong lòng, tôi cũng không nói gì. Chỉ có Đức lên tiếng:
“Anh Tâm hay là chú Khang đi vượt biên còn có lý, chứ tôi đâu có biết tiếng Anh; còn tiếng Pháp thì sơ sơ dăm ba chữ, đi làm gì.”
Tâm quay sang tôi, hỏi:
“Chú Khang biết tiếng Anh khá không?”
“Không. Có học chi nhiều đâu. Chút xíu thôi.”
“Vậy hả. Các chú đừng lo. Qua bên đó tôi dạy cho hai chú tiếng Anh. Trước năm bảy lăm tôi học Văn khoa. Tôi đi dạy kèm Anh văn từ lúc mới mười sáu, mười bảy tuổi kia,” Tâm khoe, ngưng một lúc rồi tiếp, “còn như mấy chú không có thân nhân ở nước ngoài thì tôi cũng lo được hết. Ba nuôi tôi trước làm cho tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ, hiện ông đang ở bên đó. Bao nhiêu người ổng cũng bảo lãnh, lo gì. Đi qua Mỹ tiếp tục tu học chứ ở lại với mấy ông cộng sản này làm gì chứ, phải không? Vả lại, đâu phải biết ngoại ngữ mới đi vượt biên. Thiếu gì người có học hành chi đâu, cũng đi qua Mỹ đó. Dân đánh cá cũng đi nữa mà, huống chi tụi mình là dân có ăn học.”
Chú Đức nghe chừng xuôi tai rồi, không kềm được phấn khởi, liền hỏi:
“Vậy bây giờ anh muốn hai đứa tôi đóng góp gì, anh nói lại đi? Chỉ tìm người nào có ghe tàu đánh cá thôi, phải không?”
“Ừ, tìm người có ghe nhưng phải là chỗ tin tưởng được, tức là phải có quen biết bằng cách nào đó. Rồi mấy chú cũng coi thử gia đình nào có tiền mà muốn đi thì giới thiệu cho tôi luôn. Có thêm người đi thì cũng đỡ vất vả tài chánh cho phía bà mẹ nuôi của tôi chứ. Với lại... mỗi chuyến tôi từ Sài Gòn ra Nha Trang, tốn kém dữ lắm, nào tiền xe cộ, nào ăn uống ngoài đường, thuê phòng trọ... một mình tôi tự lo, chịu sao thấu. Tôi không muốn lấy tiền của bà mẹ nuôi; chỉ muốn lo xong việc rồi mới kêu bà ấy bỏ tiền ra mua lương thực, mua bãi này nọ... Mấy chú hiểu chứ gì!”
Tôi và Đức gật gù tỏ ý hiểu, nhưng thực ra thì chúng tôi chưa hiểu ý Tâm muốn gì. Một lúc lâu, thấy là chúng tôi thực sự không hiểu, Tâm mới nói rõ ràng hơn:
“Bây giờ hai chú có bao nhiêu tiền góp trước cho tôi để tôi đi xe, đi tàu, lo công việc chung. Ngày mai tôi vào Sài Gòn nói bà mẹ nuôi đưa trước mấy cây vàng để khi đi nói chuyện mình mới gây được niềm tin cho chủ ghe. Trong thời gian tôi vào Sài Gòn, mấy chú ở ngoài này lo tìm ghe, khi ra lại, tôi sẽ theo mấy chú đến nói chuyện với người ta. Mà chuyện vượt biên này rất là nguy hiểm, mấy chú đừng tiết lộ với bất cứ ai, công an mà biết được chúng bắt mấy chú bỏ tù rục xương đó! Ngay cả với thầy Trừng Hùng, các chú cũng đừng nói chuyện này. Ông ấy có vẻ khó chịu và bảo thủ lắm, chắc chắn là không muốn mấy chú đi vượt biên đâu... À, tìm được mối ghe rồi, các chú chuẩn bị chút tiền bạc, có thứ gì bán được thì bán. Khi tôi từ Sài Gòn ra lại là cũng sắp đến ngày lên đường rồi đó. Tuy rằng người ta sẽ lo liệu mọi thứ, nhưng mình có tiền mang theo cũng tốt hơn là đi cái mạng không.”
Nghe chuyện Tâm nói thật rành mạch, hữu lý, tôi chẳng nghi ngờ gì nữa, gục gặc nói:
“Để tôi vào trong coi thử có được bao nhiêu tiền.”
Chú Đức vốn là bậc thầy của tôi trong chuyện nhẹ dạ, dễ tin, thấy tôi vào trong lấy tiền thì cũng đi theo:
“Anh Tâm ngồi chờ ngoài này nghe, để tôi với chú Khang vào trong chút rồi ra.”
Vậy là hai đứa chúng tôi gom hết tiền bạc còn sót lại trong túi áo, hộc bàn, gồm tiền lương tháng trước còn lại của hai người, cộng thêm ít tiền riêng của chú Đức do gia đình gởi cho. Cả thảy được chừng một ngàn đồng. Tiền của tôi ít hơn vì giờ làm việc của tôi ít hơn Đức, mà cũng vì tôi tiêu vào tiền sách nhiều hơn Đức. Một ngàn đồng đối với chúng tôi lúc ấy khá lớn (lương tháng của tôi chừng năm trăm đồng) nhưng nếu đem đun vào cái lò vượt biên thì chẳng thấm vào đâu. Được đi nước ngoài với cái giá đó thì còn gì may mắn hơn. Chúng tôi mang tiền ra, giao hết cho Tâm. Đức nói:
“Hiện giờ chúng tôi chỉ có bao nhiêu đó thôi. Chưa chuẩn bị trước. Lần sau anh ghé, chắc đỡ hơn.”
Tâm cầm tiền, liếc sơ một cái, ngó bâng quơ lên trời, dưới đất, rồi nói giọng cảm động:
“Mấy chú ở chùa làm gì có tiền có bạc. Tôi từng ở chùa tôi biết chứ. Tụi mình mới thực là vô sản đó. Cho nên, cầm tiền của mấy chú thấy đau xót quá. Nhưng đành phải vậy thôi, mình phải chia xẻ với nhau những đồng tiền tạm bợ này, chứ ít hôm nữa ra nước ngoài tu học, tiền này có đáng gì đâu! Mấy hôm nay chạy lo công việc, tôi nhịn đói nhịn khát, khổ như chó...” Tâm tằng hắng lấy giọng, rồi nói tiếp, “Thấy mấy chú chí tình thực tội nghiệp, tôi muốn nói thật mấy chú nghe: thực ra, bây giờ tôi đã có sẵn một chuyến vượt biên rồi nhưng gấp lắm, trong vòng tuần lễ đến mười ngày thôi. Tôi sợ vào Sài Gòn gọi mẹ nuôi tôi mà bà ấy chuẩn bị không kịp, nên mới nói mấy chú lo tìm một mối ghe khác để sẵn. Trường hợp bà ấy lo kịp, tôi sẽ nói bà cho hai chú đi luôn; còn không kịp thì... tôi với mấy chú đi. Bỏ bà ấy ở lại đi chuyến khác.”
Chú Đức xen vào:
“Vậy kỳ quá. Lỡ bà ấy không biết cách lo đi thì sao?”
“Xì, bà ấy có tiền thì lo gì, trước sau gì cũng lọt thôi. Có bọn mình là khổ, là khó thôi, được cơ hội thì phải nắm lấy, tại sao phải bỏ. Cho nên, tôi mới nghĩ ra cách này: nếu mẹ nuôi tôi không kịp đi chuyến này, tôi xin bà ấy một ít vàng cho phần tôi. Còn phần hai chú, ở ngoài này cố chạy sao cho đủ, thiếu thì tôi bù thêm cho.”
Tôi hỏi:
“Mỗi người cần bao nhiêu?”
“Mỗi người ba cây,” Tâm đáp.
Đức bật cười lên ha hả, rồi nói:
“Tôi với chú Khang làm gì có được số đó!”
Tôi hỏi:
“Ba cây là bao nhiêu vậy?”
“Là ba lượng vàng đó,” Đức đáp, “một lượng có mười chỉ, một chỉ có mười phân. Khi nãy mình gom tiền của hai đứa mới được có một phân, mong gì gom đủ sáu cây!”
Tâm nói:
“Đó là nói cái giá chính thức mà khách muốn đi phải có thôi, chứ hai chú ở chùa thì tôi biết chứ, làm gì có vàng như người ta. Nhưng vì tôi là người đứng lo tổ chức, tôi có thể xin cho hai chú được, miễn là hai chú cố gắng gom hết những gì mình có thể gom, được bao nhiêu cũng quí, rồi tôi nói với người ta. Tôi dàn xếp cho hai chú được mà. Ủa, chứ bộ hai chú không xin được chút nào từ gia đình hết sao? Gia đình hai chú ở đâu?”
Đức nhìn tôi, thấy tôi im lặng, bèn nói:
“Gia đình tôi ở Huế. Còn gia đình chú Khang thì ở đây. Nhưng... Có đi thì cũng tự túc lo đi chứ ai mà nhờ vả gia đình làm gì. Thời buổi này gia đình nào cũng gặp khó khăn...”
“Dĩ nhiên là ai cũng gặp khó khăn rồi. Nhưng nghe mấy chú muốn đi ra nước ngoài, chắc chắn là gia đình cũng túm vén chút ít chi đó cho mấy chú chứ. Ai lại chẳng muốn con mình được ra nước ngoài tu học nên danh nên phận. Phải không chú Khang? Nhà chú ở gần đây hả?”
Tôi nói:
“Tôi không có thói quen xin tiền gia đình. Không phải vì gia đình đang gặp khó khăn vào thời buổi này, mà ngay cả những năm trước một chín bảy lăm nữa kia, tôi cũng không muốn lấy tiền của gia đình gởi cho, huống chi lại mở miệng xin. Chuyện vượt biên, nếu may mắn có cơ hội đi thì đi, không có thì thôi, tôi không mơ ước chuyện đó điên cuồng đến độ phải phiền đến gia đình hay cầu cạnh người nào khác.”
Đức nói:
“Ừ, phải rồi. Ba cây cho mỗi người thì không cần phải bàn tán nhiều, mất công. Chắc chắn là tôi và chú Khang không có khả năng. Hơn nữa, chuyến đó gấp quá, lo chuyến khác đi. Như anh Tâm đã nói khi nãy, tôi và chú Khang sẽ lo tìm mối ghe, còn anh lo chuyện tổ chức này nọ. Vậy dễ cho chúng tôi hơn.”
Tâm nói:
“Nói như mấy chú thì khỏe quá. Thực ra khi người ta đã có mộng vượt biên thì có cơ hội là chụp ngay, biết chuyến nào là tốt, chuyến nào là xấu mà chọn lựa! Chuyến nào đến trước thì lo chuyến đó.”
“Nhưng đây không phải là cơ hội. Không có đủ tiền đi thì coi như chẳng có cơ hội gì. Còn mộng vượt biên hả? Cái mộng đó mới đến với chúng tôi từ khi anh đề cập đến chuyện vượt biên không cần tốn nhiều tiền, chỉ cần lo mối ghe thôi... Lâu nay chúng tôi có mơ ước gì chuyện vượt biên, cứ nghĩ đó là chuyện của người ta thôi,” Đức nói giọng buồn.
Tâm đổi giọng:
“Đã nói các chú cố gắng lo hết mình, được bao nhiêu thì được. Thiếu thì tôi bù đắp hoặc tìm cách dàn xếp với người ta. Bây giờ phải coi nhau như anh em, được thì cùng đi, không thì cùng ở lại. Tôi lo phần tôi, hai chú lo phần hai chú, cứ chuẩn bị trước đi, có bao nhiêu gom bao nhiêu, có thứ gì bán được thì bán, gom tiền lại để đó. Khi tôi đến gọi mấy chú đi, là có sẵn, khỏi mất công quýnh quáng chạy lo nữa. Tôi hứa là dàn xếp cho cả hai chú mà.”
Vậy rồi Tâm từ giã chúng tôi, xuống ga tàu hỏa trở vào Sài Gòn.
Khi chúng tôi quay vào trong, thầy Trừng Hùng gọi lại hỏi:
“Nãy giờ hai đứa mi ở đâu vậy? Nói chuyện gì với thằng Tâm phải không?”
“Dạ thì chú Tâm kể chuyện mấy chùa trong Sài Gòn đó mà,” Đức đáp.
Thầy Trừng Hùng cảnh cáo:
“Cái thằng Tâm đó không phải là người có thể tin được. Nhìn qua thì thấy cao ráo bảnh trai lắm, nhưng con mắt lươn liếc dọc liếc ngang, cái miệng thì nói dẻo đeo, cứ một chốc lại liếm môi như thế thì chẳng phải là người ngay thẳng. Ngó mặt hắn là tao thấy ngay là thằng đểu. Tụi bây liệu hồn mà kết bạn kết bè với hắn.”
Dù thầy Trừng Hùng nói vậy, chúng tôi vẫn không nghe. Tôi phác vẽ một chương trình tu học, làm việc cũng như con đường đến xứ Phật sau khi ra được nước ngoài cho chú Đức nghe, và nó cũng mau chóng trở thành ước mơ khôn nguôi của Đức. Ước mơ đó làm mờ cả những phán đoán của chúng tôi. Trong tuần lễ kế tiếp, chúng tôi thực sự gom hết vốn liếng tài sản của mình để chờ đợi Tâm. Vốn liếng có bao nhiêu đâu, cũng là tiền lương mới lãnh của tháng này cộng thêm tiền bán cây đàn ghi-ta của tôi cất trong phòng riêng bên viện Hải Đức, cùng với chiếc xe đạp mới của chú Đức—chiếc xe đạp mà chú nói là của gia đình từ Huế gởi tiền vào cho chú mua. Cộng hết tiền lương của chúng tôi với tiền bán đồ chỉ hơn ba chỉ vàng một chút, chú Đức nói tôi biết như vậy. Trong mấy ngày đó, tôi đi tìm lại các bạn học cũ ở xóm cầu Hà-ra, xóm Bóng, và cả những bạn học cũ ở thành phố Nha Trang mà tôi hy vọng sẽ cho tôi được chút manh mối gì về những ông chủ ghe nào đó. Tôi còn đi ra Vạn Giả, đến chùa Linh Sơn và Giác Hải gặp các bạn tu của mình để nhờ tìm mối... Các bạn ở chùa Linh Sơn có hứa giới thiệu cho tôi một vài chủ ghe của xóm chài gần chùa. Ngoài ra còn hứa nếu có chuyến vượt biên nào mời một ông thầy theo để cầu nguyện thì sẽ giới thiệu tôi. Kể từ đó tôi biết thêm rằng tu sĩ không tiền như tôi cũng có giá trị lớn trong một chuyến vượt biên như anh chàng hoa tiêu hay tài công vậy, chỉ tại nhiều người không dám mời tu sĩ đi vì nghĩ rằng tu sĩ không cần vượt biên. Người ta nghĩ rằng tu hành thì ở đâu cũng được, bon chen ra nước ngoài để đấu tranh, để làm giàu hoặc hưởng thụ văn minh làm gì!
Quả nhiên đúng tuẫn lễ sau, Tâm trở lại. Lần này Tâm có vẻ gấp gáp lắm, bảo chúng tôi đưa ngay tiền để anh đi nói chuyện với người ta; được thì anh sẽ quay trở lại gọi chúng tôi chuẩn bị đi, không được anh cũng mang tiền về đưa trả cho chúng tôi giữ, chờ lo chuyến khác. Anh vỗ mấy cái nơi lưng quần của anh, nói:
“Tôi có mang vàng theo đây, còn của mấy chú đâu?” Đức lôi nguyên một gói tiền từ trong túi áo rộng rinh của chú ra, đưa cho Tâm:
“Chỉ được bao nhiêu đó thôi, nhưng chúng tôi cũng đã gắng hết sức rồi.”
Tâm cầm gói tiền, không đếm, nhét vào lưng quần, nói: “Có thể khuya nay khởi hành rồi. Bây giờ tôi đi nói chuyện với họ. Được là tôi quay về báo các chú biết liền. Tối nay đừng có ngủ nghen, mất công tôi gọi cửa lắm đó.” Rồi Tâm xuống núi mang theo gói tiền nhỏ chứa cả một trời hy vọng của hai đứa chúng tôi. Tôi và Đức nghe lời Tâm dặn, thức trắng đêm đó. Cảnh đồi núi sáng vằng vặc dưới ánh trăng đêm ấy bỗng dưng khiến lòng tôi dậy lên một niềm xao xuyến như thể mình sắp sửa phải từ giã đất nước trong vài giờ sắp tới...
Đang ngồi im, bất chợt Đức mở miệng nói:
“Khang à, nếu người ta chỉ đồng ý cho một trong hai đứa thôi thì chú hãy đi đi, tôi ở lại cho. Tôi nghĩ chú ra nước ngoài có tương lai hơn tôi, được chuyện hơn tôi nhiều. Hơn nữa, chú có người chị ruột bên Mỹ, lại có nhiều thầy, nhiều bạn quen. Còn tôi, ra ngoài đã không người thân, lại chẳng quen thầy nào bên đó... ”
“Không, gặp trường hợp chỉ có chỗ cho một người, chú cứ đi đi. Đâu cần phải có thân nhân hay bạn bè ở nước ngoài. Người ta sống được thì mình sống được. Tôi mà ra được bên ngoài cũng không có ý nhờ vả bà chị hay bạn bè gì cả, vậy thì cũng như chú thôi. Ra được rồi là lo liên hệ với các chùa bên Pháp, Mỹ hay bất cứ ở nước nào. Tôi tin các chùa đó sẽ giúp chú. Đừng ngại. Tôi nghĩ là chú nên đi trước nếu cơ hội này chỉ dành cho một người. Tôi quen biết nhiều người ở Nha Trang, tôi sẽ tìm cách đi sau. Có mấy thầy ở Vạn Giả hứa giúp tôi mà.”
Chỉ bàn với nhau trước vậy cho dễ tính vậy thôi, chứ chúng tôi cứ hy vọng sẽ được đi hết cả hai. Khi Đức đồng ý với tôi rồi, chúng tôi hết chuyện nói, im lặng ngó xuống đường. Xe cộ đã thưa thớt. Thỉnh thoảng mới có chiếc xích lô uể oải chạy ngang. Chúng tôi ngồi đó thật lâu. Đức đã đốt khá nhiều điếu thuốc. Sương khuya lạnh hắt qua những làn gió nhẹ khiến đôi lúc tôi phải rùng mình.
Rồi gà gáy. Rồi tàu hỏa kéo còi, xùng xịch chạy ngang chân núi. Rồi ngựa xe tấp nập. Rồi mặt trời mọc. Anh Tâm mang hy vọng xuất dương của chúng tôi đi luôn, không bao giờ trở lại. Tôi và Đức không cần phải nhường nhau chuyến đi đó nữa.
Sau này một thầy ở Sài Gòn ra ghé viện Hải Đức, có kể chuyện về Tâm cho tôi nghe. Mẹ nuôi của Tâm thực ra chỉ là một góa phụ yêu thương Tâm như một tình nhân trẻ chứ không phải như con nuôi. Nhưng cuối cùng thì bà lại gả con gái của bà cho Tâm. Tâm đã mượn danh nghĩa là “thị giả của Hòa Thượng” để gạt không biết bao nhiêu tăng sĩ và bao nhiêu người Phật tử tín tâm khác trong Sài Gòn. Không còn làm ăn được bằng nghề dụ dỗ người vượt biên tại Sài Gòn, Tâm ra Huế, rồi Nha Trang để tìm mối mới... Nhưng cuối cùng thì Tâm cũng tạm chấm dứt những cuộc lường gạt để cùng gia đình vợ vượt biên qua tới Nhật. Tôi tự nghĩ, con người có nhiều sáng kiến lừa đảo như Tâm ra ngoài chắc bon chen với xã hội văn minh chẳng thua kém ai, chứ khờ khạo như tôi và Đức mà ra nước ngoài làm gì nhỉ! Những người chậm chạp, ít bén nhạy như chúng tôi không những vô dụng cho xã hội mà còn làm cản trở bước tiến văn minh của nhân loại nữa không chừng. Thôi thì cứ an phận làm thầy chùa núi, sớm tối ê a kinh kệ, học hạnh nhẫn nhục bên cạnh vị thầy cố đô bảo thủ, biết đâu lại chẳng là môi trường tốt nhất để giữ gìn đạo hạnh, và thay vì đi chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ, hãy tiến đến xứ Phật ngay trong chính bản tâm mình!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương mười

Dần dần, thầy Trừng Hùng đã thay đổi thái độ với tôi. Tôi không còn là một chú sa-di hư hỏng trong mắt thầy nữa. Trước khi rời viện Hải Đức qua chùa Linh Phong, tôi đã chuẩn bị tư tưởng “làm lại cuộc đời” nên cái gì thầy ấy muốn sửa, muốn uốn nắn, tôi đều chiều theo, vì thực ra, sự uốn nắn của thầy tuy rằng cổ hủ, nhưng nó cũng có cái lý của nó, huống chi, thầy ấy có đi sai giới luật đâu. Những sách triết học, văn chương, tiểu thuyết tôi mang từ viện Hải Đức qua đọc, thầy xé đốt cả, tôi giận lắm, nhưng rồi tôi cũng mỉm cười. Tôi biết thầy ấy đốt hoặc tịch thu sách của tôi là để bắt tôi quay trở về chuyên tâm trong việc tu học Phật Pháp; như vậy là thầy ấy có thiện ý chứ không phải như sự đốt sách trước đây của các cán bộ văn hóa cộng sản. Trên bề mặt, việc đốt xé sách vở của cộng sản và của thầy Trừng Hùng đều cùng là một hành động—hành động khiến tôi rất bất bình, nếu không nói là thấy rất căm phẫn trong lòng. Thế nhưng, lúc này, tôi đã biết im lặng chịu đựng tất cả để chiều theo ý thầy, theo hướng giáo dục của thầy. Sách vở của tôi trên bàn học chỉ còn có cuốn sưu tập do chính tay tôi chép những đoạn kinh hay, những câu thiền kệ và một cuốn kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật bằng Hán văn. Khi chung quanh tôi, những vật sở hữu biến dần, biến dần, để lại một cái bàn trống và cuốn kinh Kim Cang, tự dưng tôi thấy trong lòng thư thả hơn, ít vướng bận hơn. (Thời gian đó tôi có cái tật là thích cho đồ. Thứ gì của tôi mà có người nói thích là tôi cho người ấy món đó. Nói vậy để thanh minh cho thầy Trừng Hùng: không phải cái bàn của tôi trống trơn là do thầy ấy đốt xé, tịch thu cả). Và tôi đã nhanh chóng quay trở lại với chính tôi của những năm trước một chín bảy lăm. Ngoan ngoãn. Dễ sai bảo. Nghiêm trang. Tinh tấn. Thầy Trừng Hùng khó tìm ra một lỗi nào để la trách hay bắt bẻ tôi nữa. Thỉnh thoảng có một đoạn kinh luật gì có vẻ khúc mắc, thầy lại gọi tôi hỏi ý kiến. Điều này chứng tỏ thầy không còn tị hiềm với chuyện học của tôi như hồi xưa nữa. Nếp sống của chùa Linh Phong bình lặng, buồn tẻ, bây giờ tôi lại thấy hòa hợp với mình một cách dễ dàng. Trong tôi không còn nẩy sinh bất mãn, bực dọc hay ý niệm chống kháng lộ liễu nào. Bao ý tưởng bung xung, xao động vì hoàn cảnh đau thương của đất nước, vì những áp chế bất công của chính quyền mới đối với nhân dân và xã hội, bao nhiệt huyết cuồn cuộn trào dâng từ hình ảnh các thiền sư đời xưa tuốt gươm xông trận chống xâm lăng, và từ tấm gương gần nhất là thầy Tuệ Sỹ dấn thân hoạt động chính trị chống lại chính quyền để phải sa vòng tù tội... đều lắng dịu cả. Tôi bây giờ thực sự là một sơn tăng, chỉ có mặt nơi phố thị là để tụng niệm, còn thì suốt ngày đêm quẩn quanh trên ngọn núi bít bùng cây cỏ cùng với một vị thầy và hai chú sa-di vốn không thiếu nét khắc khổ, đày đọa trên những khuôn mặt trẻ tuổi.
Nhưng cuộc đời tu hành đâu có để cho những ông thầy tu cứ ngồi ù lì thụ động một chỗ rồi cuối cùng thành Phật. Dường như phải có những chông gai, khổ nhọc nào đó trên bước đường tu tập thì mới trui luyện và làm tăng trưởng được tâm Bồ đề. Không có thành quả nào vẻ vang mà lại chẳng trải qua những thử thách cam go. Chuyện tôi có đạt được thành quả nào trên lộ trình hướng đến giải thoát hay không thì chưa biết, nhưng cam go thử thách thì chắc chắn là phải gặp. Nhiều người đi trước đã dạy tôi như thế. Nhưng có thể nói là tôi chưa trải qua thử thách nào đáng kể từ khi mới xuất gia đến giờ. Nếu hai năm trước nhà nước bắt tôi cầm súng đi Kampuchea làm “nghĩa vụ quốc tế” hay ra biên giới phía Bắc đánh với quân “Trung quốc anh em”, thì có lẽ thử thách lớn đã đến với tôi rồi. Mà chuyện đó có xảy ra thì tôi vẫn còn hy vọng có ngày quay về chùa, vì đã được thầy tôi hứa chấp nhận cho thí phát làm tăng trở lại. Nhưng nó đã không xảy ra. Có lẽ con ma nghịch cảnh biết rằng nó sẽ không thắng được tôi bằng cách đó nên muốn tấn công tôi ở mặt khác.
Chú Đức có quen một gia đình Phật tử người Huế, lập nghiệp tại Nha Trang. Gia đình này có mở một tiệm giải khát. Bà chủ tiệm cũng là Phật tử thuần thành nhưng quá bận rộn việc nhà và việc buôn bán nên ít khi đi chùa. Chỉ có người em gái của bà, tuổi trạc ba mươi ngoài, là thường lên viện Hải Đức, thỉnh thoảng có lên chùa Linh Phong. Cô này có cái tên rất thực thà và rất thích hợp với phái nữ: Nữ. Tôi và Đức quen gọi cô Nữ bằng chị. Có lần gặp tôi, chị Nữ nói:
“Hôm nào chú Khang theo chú Đức xuống nhà tôi chơi. Chú thiệt khó ghê, chẳng chịu đi đâu. Bà chị tôi muốn gặp chú mãi mà không được. Mỗi lần chú Đức đến nhà chơi, bà chị cứ hỏi sao không rủ chú Khang cùng đi cho tôi biết mặt với.”
Tôi thắc mắc:
“Sao bà chị của chị lại muốn gặp tôi?”
“Là vì chị ấy nghe nói chú là con của bác Đàn. Chú không biết liên hệ giữa gia đình tôi với gia đình chú sao?”
“Liên hệ thế nào? Tôi có nghe gia đình nói gì đâu.”
“Hồi hai chị em tôi còn nhỏ xíu, lúc đó chú chưa ra đời đâu, mẹ tôi là * nuôi của hai chị lớn của chú. Hai chị em tôi theo mẹ đến ở luôn tại nhà ba me chú. Lúc đó nhà chú còn ở Huế. Ở Vỹ Dạ, gần ngã ba Đập Đá chứ đâu.”
“Vậy à? Tôi đâu có biết.”
“Cho nên bà chị tôi cứ bảo tôi mời chú xuống nhà chơi. Nghe ba me chú lại có người con đi tu, bà ngạc nhiên lắm, muốn biết chú đó mà.”
Một hôm xuống phố mua sách, trên đường về chùa, chú Đức bất thần kéo tôi ghé vào một căn nhà. Tôi đứng lại, cằn nhằn:
“Đi đâu vậy?”
“Vô đây một chút đi. Nhà quen mà, vô thăm người quen, uống miếng nước rồi về,” Đức cười nói.
Tôi theo Đức vào. Đây là căn nhà đúc ba gian, có lầu. Ba cánh cửa sắt đóng im ỉm. Đức bấm chuông, một chặp thì có một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi ra mở cửa.
“A, mời vào trong,” người đàn bà nói.
“Chào chị, khỏe không?” chú Đức tự nhiên chào.
“Chào chú... A, đây là...?” người đàn bà hỏi.
“Chú Khang mà chị muốn gặp đó,” Đức nói.
“A, chú Khang, chao ôi, lâu quá, nghe nói về chú nhiều lắm mà hôm nay mới được gặp.”
Đức đùa:
“Nghe nói xấu nhiều lắm bây giờ mới biết đó hả?”
“Đâu có, chú nói giỡn! Mời vào ngõ này, chú Đức mời chú Khang lên nhà khách rồi tôi lên sau nghe. Nữ nó đi lên viện Hải Đức rồi, chắc chiều mới về.”
Té ra người đàn bà ấy là chị ruột của chị Nữ, tên Cầm. Chúng tôi bước vào gian nhà phía phải, ngang qua một phòng đầy bàn ghế xếp chồng lên nhau, chị Cầm giải thích là bàn ghế đó sẽ bày ra đầy sân vào buổi tối cho khách đến ăn chè, giải khát. Rồi chúng tôi đi ngang qua một nhà bếp bày biện ngay dưới đất vì cần rất nhiều lò. Ở vách trái của gian bếp này có một cánh cửa thông vào nhà khách của gian giữa. Chúng tôi vừa vào đến gần cánh cửa đó thì bắt gặp một thiếu nữ đang đứng quạt một lò than. Chị Cầm nói: “Chào mấy chú đi con.”
Tôi nghe tiếng thiếu nữ chào chú Đức:
“Chào chú.”
Khi thân hình đồ sộ của chú Đức bước sang một bên, không còn che tôi nữa, tôi và thiếu nữ ấy mới bắt gặp nhau. Nàng ngó sửng, quên cả chào hỏi tôi, tay ngưng làm việc, cứ đứng đó nhìn. Tôi cũng không rõ sao lúc đó tôi cũng đứng ngây người ra đó, nhìn nàng, kinh ngạc, không biết làm gì. Trong khi chú Đức bước vào nhà khách rồi, tôi vẫn còn đứng lại nơi cửa bếp. Có lẽ cái phút giây đó, cái khoảng thời gian thực tế mà tôi đứng dừng lại đó, chỉ là một khoảnh khắc thôi, nhưng tôi tưởng chừng đó là một giấc mộng dài, trong đó, cả vũ trụ như ngưng thở, các hành tinh như ngừng xoay, và thời gian cũng đứng dừng lại để chúng tôi nhìn thấy nhau với bốn con mắt kinh ngạc. Chúng tôi có quen biết gì nhau đâu. Tôi chỉ mới gặp nàng lần đầu thôi. Nhưng quả thật từ ngày xuất gia đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi thấy lòng mình chao động mạnh trước một thiếu nữ. Phải, chao động. Không phải rung động. Rung động thì có thể lướt qua được, có thể lãng quên được. Còn chao động thì không. Khi người ta cảm thấy đất trời chao đảo, ngửa nghiêng, trên đầu và dưới chân, người ta sẽ không thể nào quên được ấn tượng mạnh mẽ ấy.
Không rõ chị cầm có thấy có biết gì về hiện tượng trời đất rung chuyển không, chỉ thấy chị lên tiếng:
“Như, chào chú Khang đi con,” rồi quay sang tôi, cười nói, “con gái út của tôi đó chú. Nó tên Như Như.”
Bấy giờ, Như Như mới chào tôi, không phải lối chào lễ phép của kẻ dưới đối với người trên bằng cách cúi đầu, hay của Phật tử đối với tăng sĩ bằng cách chắp tay, mà bằng một nụ cười. Hai má nàng ửng hồng lên bên lò than nóng. Tôi có thể nhìn thấy mồ hôi rịn nơi má nàng làm ướt mấy sợi tóc mai. Đôi môi hồng vừa mỉm một nụ cười tươi như hoa đã vội khép lại thành trái tim nhỏ xíu, xinh xắn nép dưới bờ mũi cao và đầy đặn. Đôi mắt lớn và sáng long lanh của nàng lúc ấy mới chịu cúi xuống, nhìn bâng quơ dưới đất chứ không ngước nhìn tôi nữa. Tôi có cảm giác là dường như cho đến giây phút ấy nàng mới biết e thẹn là đã cùng tôi trao đổi một tia nhìn xô lệch cả vũ trụ. Và khi nàng cúi xuống, tôi thấy hàng mi của nàng cong lên với một đường nét diễm tuyệt. Nét cong ấy trong cái nhìn của tôi, là sự sung mãn, căng đầy của sức sống như đường cong hùng tráng của một bãi biển dậy sóng; hay như sự mềm dẻo, uyển chuyển, nhu thuận của lá cỏ, của tơ trời, của dáng mây bềnh bồng trên cao xanh; hay như nét mơ màng yểu điệu của vành trăng lưỡi liềm trong trời đêm thượng tuần.
Tôi bước vào phòng khách. Chị Cầm ngồi tiếp chuyện chúng tôi. Một lúc thì Như Như mang khay trà ra. Nàng rót trà từ một bàn khác rồi đem từng tách đến cho khách. Đem trà cho chú Đức, nàng nói:
“Mời chú dùng trà.”
Đem trà cho tôi, nàng chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhoẻn miệng cười với tôi. Khi nàng quay lưng, tôi mới thấy mái tóc thề của nàng buông dài tới ngang lưng, óng ả, bồng bềnh, mơ mộng, như một con thác đổ xuống ghềnh đá cao, như một rừng mây nhẹ tênh ở lưng trời. Khi nãy gặp nàng dưới bếp, tôi đã không nhìn thấy mái tóc ấy, có lẽ vì nàng vấn cao lên để lo việc bếp núc. Tôi đang bâng khuâng dõi mắt nhìn theo dáng nàng bỗng nghe chị Cầm lên tiếng:
“Nó tên là Như Như, con gái út của tôi đó chú Khang à.”
Câu này khi nãy chị ấy đã nói rồi, chẳng hiểu sao bây giờ lại nói nữa. Chắc vì thấy tôi ngó theo con gái của chị. Tôi giật mình, lúng túng nói:
“Thấy giống đứa em gái của tôi.”
Chú Đức cũng lanh miệng nói vớt cho tôi:
“Ừ giống đó chứ. Giống Uyên, phải không?”
Tôi liền gật đầu dù rằng tôi biết rất rõ em gái tôi và Như Như chẳng có gì giống nhau như chú Đức nói—có chăng chỉ là giống ở mái tóc và nước da thật trắng.
Chị Cầm mời chúng tôi ở lại dùng cơm trưa:
“Ở lại dùng cơm cho vui, để Như Như nó nấu mời mấy chú. Nó giỏi lắm, nấu chay nấu mặn gì cũng biết.”
Nhưng tôi nhất quyết từ chối. Chúng tôi từ giã, chị Cầm đưa chúng tôi ra cửa. Như Như cúi đầu chào chú Đức, và lại chào gởi theo tôi bằng một nụ cười khó hiểu.
Về đến chùa Linh Phong, tôi lấy giấy bút ra viết ngay mấy dòng thơ ghi lại niềm rung động lãng mạn đầu tiên trong đời xuất gia của mình:
“Mắt biếc như sao rung trời tạnh
Tóc huyền như suối động sông êm
Chếnh choáng ta về cô phong đảnh
Bụi đường lãng đãng cuốn theo tim.”

Khi ghi đến hai chữ “như” ở hai câu đầu, tôi nghe lòng bâng khuâng nhè nhẹ. Và tôi mỉm cười một mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Đâu chừng nửa tháng sau lúc đến nhà chị Cầm, khi niềm rung động (không cần thiết chút nào cho người tu) đã lắng dịu trong tôi, chị Nữ lên chùa Linh Phong tìm gặp thầy Trừng Hùng. Lúc đó tôi đang trì tụng kinh Kim Cang nên không biết chị ấy đến chùa có việc gì (khóa tụng kinh Kim Cang là do tôi phát nguyện tụng vào lúc hai giờ chiều mỗi ngày, mục đích là để đào sâu thêm nghĩa lý của Bát Nhã mà cũng là cách để phá trừ những mê chấp vọng tưởng của mình từ khi gặp Như Như; khóa lễ này không nằm trong thời khóa thường ngày của sinh hoạt chùa). Khi tôi tụng kinh ra, thầy Trừng Hùng gọi tôi bảo:
“Mi biết nhà chị Nữ không, biết chứ hả? Khi nãy chị Nữ lên mời chùa mình xuống tụng kinh cầu an cho một ông cụ nào đó kế bên nhà. Chú mi thay mặt chùa xuống đó tụng kinh Thủy Sám. Tụng và cầu nguyện cho đến khi nào ông cụ đó khỏe được mới thôi.”
Tôi nghe vậy thì giật mình, run lên, mà đồng thời cũng thấy náo nức kỳ lạ trong lòng—nỗi náo nức không chút từ bi, không kể gì đến cơn bệnh của một ông cụ nào đó, vì nó có vẻ như muốn lấy việc xuống núi này như là cơ hội để được gặp lại một thiếu nữ kiều diễm. Từ nửa tháng nay, sau khi gặp Như, tâm hồn tôi dậy lên những xao động nhè nhẹ. Tôi biết ngay điều này có nghĩa là gì. Tôi đã tìm cách trấn áp nó bằng cách tọa thiền, tụng kinh, niệm Phật, trì chú nhiều hơn, và nhất quyết không chịu đi cùng chú Đức khi chú ấy rủ tôi đến nhà chị Nữ; nên bây giờ, nghe thầy Trừng Hùng giao phó công việc, tôi lại thấy do dự, khó xử. Nội tâm tôi mâu thuẫn: nửa muốn từ chối, nửa muốn đi. Không muốn đi, vì đi thì sẽ đối diện Như Như, làm sống lại niềm rung động dào dạt mà tôi đã phấn đấu dùng nhiều công phu để dẹp bỏ. Còn muốn đi là vì tôi chưa hề từ chối chuyện xuống phố tụng kinh khi được giao phó hay được mời, và cũng vì ở tận đáy sâu của lòng mình, tôi biết tôi cũng muốn có cơ hội nhìn lại Như Như, với đôi mắt mơ mộng, nụ cười hồn nhiên, và với mái tóc thề quyến rủ ấy. Tôi chẳng biết có nên quyết định đồng ý ngay công tác của thầy Trừng Hùng giao phó hay không. Ngập ngừng một lúc, tôi đành tự nhủ: “Thôi thì cứ xuôi theo hoàn cảnh nếu thực sự là không có nguyên do hợp lý nào để từ chối.” Rồi tôi nói với thầy Trừng Hùng:
“Sao chỉ một mình con đi thôi?”
“Vì tao với thằng Đức còn thay nhau đi nhiều đám tang khác trong suốt tuần tới. Thằng Thể thì phải ở lại coi chùa. Mình đâu có đủ người mà kéo nhau dồn vào một chỗ. Hơn nữa, trường hợp tụng kinh cầu an dài lâu như chỗ này đâu cần phải đi đông người, mình mi đủ rồi.”
Tôi còn cố gắng tránh né thêm:
“Hay thầy để chú Đức xuống đó tụng kinh cầu an còn con theo thầy đi mấy đám tang kia?”
Thầy Trừng Hùng ngập ngừng một lúc rồi nói:
“Không được.”
“Sao vậy thầy?” tôi hỏi lại.
“Đã nói không được. Tao quen đi đám tang với thằng Đức rồi. Hơn nữa... nghe chị Nữ nói là gia đình họ muốn mời chú mi, xuống mấy người cũng được nhưng phải có chú mi. Ai mà biết ý họ muốn gì. Họ thích ai thì mời người đó thôi.”
“Mình đâu nhất thiết phải chiều theo ý họ trong chuyện đưa người xuống làm lễ” tôi nói cho có.
“Dĩ nhiên là vậy, nhưng... mi cứ đi đi. Tại sao phải từ chối chứ? Dạo này mi cũng đâu còn làm ở hãng vị trai nữa.” Tôi không biết nói gì. Im lặng chấp nhận. Còn chuyện tôi không còn đi làm ở hãng vị trai nữa là do từ hơn hai tháng nay, sau khi Giáo hội tỉnh họp, đã quyết định giao cho chùa Linh Phong và chùa Phước Điền công tác “ứng phó đạo tràng” thay cho các chùa của thành phố Nha Trang, đặc biệt là viện Hải Đức. Điều này có nghĩa là chùa Linh Phong và chùa Phước Điền không được từ chối bất cứ khóa lễ tụng niệm nào tại tư gia do Phật tử thỉnh cầu nếu không có lý do thật chính đáng. Phật tử Nha Trang khi cần tổ chức khóa lễ nào tại nhà mình, có thể đến bất cứ chùa nào trong thành phố để mời chư tăng, nhưng nếu chư tăng tại chùa đó không rảnh, có quyền giới thiệu họ đến chùa Phước Điền hoặc chùa Linh Phong; và trong trường hợp này, tăng chúng của một trong hai chùa ấy phải chia nhau đảm nhận, không lý do gì để từ chối nữa. Công tác “ứng phó đạo tràng” ấy coi như là công tác của hãng vị trai giao phó. Như vậy, giống như quý thầy ở chùa Phước Điền, cả thầy Trừng Hùng lẫn chú Đức và tôi đều được coi như là công nhân có lãnh lương của hãng vị trai dù chẳng có ngày nào trong tuần chúng tôi có mặt tại hãng. Công tác này khá nặng nề cho tăng chúng ở chùa Linh Phong, chiếm khá nhiều thời giờ của chúng tôi lẫn chú Thể—vì trong khi thầy Trừng Hùng, chú Đức và tôi xuống núi đi tụng niệm, một mình chú Thể phải đảm trách tất cả những công tác và khóa lễ tại chùa—nhưng thầy Trừng Hùng thì có vẻ thích nhận công tác ấy, vì nếu không thích, thầy đã từ chối ngay trong buổi họp của Giáo hội tỉnh chứ không ai có quyền ép buộc được thầy phải nhận. Với công tác ứng phó đạo tràng vừa nói, đôi khi tôi có cảm tưởng mình cùng tăng chúng của chùa Linh Phong đang đóng vai trò của những ông thầy cúng, thầy đám. Dầu sao, tôi cũng tự an ủi rằng nếu chúng tôi không đảm nhận, cũng sẽ có một chùa khác đảm nhận, và họ cũng sẽ chịu phần thiệt thòi y hệt. Tinh thần “chịu thay” không cho phép người tăng sĩ từ chối những khổ nhọc để trút gánh nặng qua cho kẻ khác.
Thấy tôi im lặng, biết là tôi đã chấp nhận, thầy Trừng Hùng dặn dò thêm:
“Tụng mỗi ngày trọn một bộ Thủy Sám, chia làm ba khóa, mỗi khóa một quyển. Ngoài ba khóa tụng Thủy Sám đó, thấy rảnh lúc nào có thể tụng thêm kinh Phổ Môn lúc nấy, chứ ở không dưới đó làm gì.”
“Vậy có nghĩa là...”
“Là ở lại đêm dưới đó, tụng kinh suốt ngày đêm, cho tới khi nào ông cụ khỏe được mới về.”
“Chao ôi!” tôi sửng sốt tưởng chừng như thầy Trừng Hùng nói đùa.
“Chao ôi gì mà chao ôi! Bộ làm vậy không được sao? Bộ mi không muốn cứu độ ông cụ bệnh hoạn ấy sao?”
“Muốn chứ, nhưng đâu có nghĩ là phải ở lại đêm dưới đó. Với lại tụng kinh gì mà suốt ngày đêm, sợ tụng một mình không đủ hơi đó chớ.”
“Tụng nhỏ nhỏ thôi, ai biểu mi tụng lớn làm gì. Chủ yếu là thành tâm cầu nguyện cho người ta chứ ông ấy bệnh tám năm nay rồi có nghe được gì đâu.”
“Nhưng... Còn chuyện ở lại đêm thì sao? Công an địa phương đó có cho phép không?”
“Đã lo liệu hết rồi. Người ta nói được là được, mi cứ đi, lo thành tâm cầu nguyện. Đó với đây có xa xôi gì, lỡ công an có xét hỏi thì nói ở chùa này xuống tụng kinh giúp cho người ta chứ sao đâu.”
Vậy là xong. Tôi phải đi. Không có lý do nào để từ chối. Không cần phải do dự, ray rứt, ăn năn, tự trách gì hết. Đó là chùa sai tôi đi, đâu phải tự tôi đâm đầu xuống đó. Vậy là năm giờ chiều, tôi xếp ca sa, quần áo để thay, cho vào dãy, và một cuốn kinh Thủy Sám cầm tay, xuống núi.
Trong khi lần bước xuống trăm bậc cấp của chùa Linh Phong, tôi tự nghĩ: nếu ái dục là một trong những chướng ngại to lớn của người xuất gia thì rõ ràng trong Luận Bảo Vương Tam Muội có nói rằng, người học đạo phải tự dấn mình vào chính những chướng ngại đó để tìm thấy con đường giải thoát, để khai mở trí tuệ giác ngộ... Chính sự chống đối và phá hoại sẽ là điều trợ duyên và tác thành cho sự nghiệp cao cả.
Có thể tôi đã không hiểu đúng tinh thần của Luận Bảo Vương Tam Muội. Cũng có thể tôi chỉ tự dối mình, tự biện minh cho sự hăm hở xuống núi này của mình bằng cách viện dẫn kinh điển. Dẫu sao, cái hiểu ấy cũng trấn an tôi được phần nào. Ít nhất tôi cũng tự biết được là tôi đang dấn mình vào một chướng ngại.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Lần trước đến nhà chị Cầm, tôi đã vào gian nhà phía phải rồi được mời vào phòng khách ở gian giữa. Nay tôi được biết thêm là gian trái của căn nhà lầu ba gian của chị Cầm là do chồng chị nhường cho gia đình người anh ruột. Và ông cụ bị bệnh tám năm cần được tụng kinh cầu nguyện ấy chính là anh chồng của chị cầm. Như vậy, Như Như gọi ông ấy bằng bác ruột.
Tôi ngồi ở phòng khách, nghe chị Nữ cùng gia đình bệnh nhân trình bày về tình trạng của ông cụ. Như Như đem nước mời tôi. Áo thun màu cam nhạt bó sát người, bỏ trong quần cao bồi màu xanh nhạt. Dáng linh hoạt, vui vẻ. Lại cười nhẹ. Lại bâng khuâng. Lại chớp mắt và cố gắng định tâm.
“Thôi, để tôi qua thăm ông ấy rồi tụng kinh cầu nguyện ngay bên đó,” tôi đứng dậy nói, muốn mau chóng bước ra khỏi gian nhà có hình bóng Như Như để tâm tư được định tĩnh mà cầu nguyện.
Người bệnh tên là Điềm. Ông nằm liệt giường gần tám năm. Gia đình phải khổ nhọc chăm sóc mọi thứ. Một tuần nay, ông bỗng mê man, không ăn nổi, chỉ uống được nước. Xót thương ông, tôi cầu nguyện và tụng một thời kinh rất chí thành, hoàn toàn không bị xao lãng.
Nhưng khi trở về lại bên nhà chị Cầm, đón nhận ly nước đá chanh từ Như Như, tâm tôi lại xao động, lăng xăng, ngây ngất nhìn theo dáng nàng uyển chuyển bước qua bước lại. Tôi không ngờ lòng mình yếu đến thế. Tôi tự hỏi, phải chăng vì định lực của tôi chưa đủ để giữ tâm thanh tịnh trước nữ sắc, hay chỉ vì sắc dục là một mãnh lực kinh khiếp có thể đánh vỡ tan tành công phu của một người vốn có trái tim mẫn cảm và nhẹ dạ như tôi?
Nghỉ ngơi ăn cơm tối xong, tôi lại qua nhà ông Điềm tụng thêm một thời kinh.
Xong thời kinh dài gần hai giờ đồng hồ này thì đã quá mười giờ đêm. Chị cầm gọi Như Như, nói:
“Con lên lầu lo chỗ cho chú Khang nghỉ ở cái giường nệm sau bàn Phật nghe.”
Như Như mau mắn làm công việc ấy rồi trở xuống, thưa:
“Xong rồi mẹ.”
Chị Cầm nói:
“Vậy con đưa chú đi nghỉ, khuya rồi, bảo mấy đứa ở trên đó đừng ồn ào, có chú Khang ở lại đó.”
Như Như cười với tôi, nói:
“Đi, chú...”
Tôi bước theo Như Như lên lầu. Nàng đi trước, cứ một khúc ngoặc trên đường đi là dừng, quay lại, chờ tôi, cười, bước tiếp. Một người đưa đường nhẫn nại, dễ thương. Lạy Phật, sao lại đặt con vào hoàn cảnh này! Sao lại có một chúng sanh vừa đoan trang lại vừa nhí nhảnh như vầy?
Ở gian giữa, phòng phía trước nhìn xuống đường, được dành riêng làm nơi thờ Phật và tổ tiên. Đàng sau bàn thờ Phật có một cái giường sắt nhỏ lót nệm—hình như là loại giường sắt thường thấy ở các bệnh viện lớn của thành phố—đã được Như Như trải ra (drap) trắng, trên đó có một cái gối lớn, áo gối cũng màu trắng nhưng có thêu một nhánh hoa hồng với ba cái hoa. Như Như nói, giọng tự nhiên:
“Nghỉ ở đây. Còn phòng tắm thì nằm ở phía này,” nàng hướng dẫn tôi bước đến một căn phòng đang bật đèn sáng, “có khăn tắm sẵn ở đây,” trỏ vào hai cái khăn một lớn một nhỏ treo ở sau cánh cửa, “đồ thay ra bỏ vô cái thau đó để sáng mai Như Như giặt,” ngưng một lúc, nàng nói tiếp, “cần cái gì cứ hỏi Như Như nghe.”
“Cám ơn Như Như,” tôi nói.
Thay vì nói “không có chi”, nàng ngước nhìn tôi, cười, rồi vui vẻ chúc:
“Ngủ ngon nghe.”
Như Như đi vào căn phòng ngủ rộng sát bên hông gian thờ Phật. Trước khi khép nhẹ cánh cửa, nàng lại ló đầu ra, nhìn xem tôi còn đó không; thấy tôi, nàng lại nhoẻn miệng cười lần nữa rồi rút vào sau cánh cửa. Tôi quay trở về chỗ nằm, lấy bộ đồ sạch trong đãy ra để đi tắm. Đang trên đường từ hành lang hướng về phòng tắm, bỗng thấy Như Như mặc cái váy ngủ từ phòng nàng bước ra. Cái váy ngủ bằng lụa mềm với những cánh bông nhỏ xíu đủ màu, dài phủ tới chân. Tóc Như Như xõa dài, có vẻ cùng vạt áo mỏng tung bay theo dáng bước yêu kiều của nàng. Trông nàng lúc ấy như một tiên nữ giáng trần hay như nàng Bạch Tuyết trong truyện cổ tích thần thoại. Tôi chẳng hiểu nàng bước theo tôi làm gì, nên đứng lại chờ đợi. Bước đến gần tôi, Như Như vừa vén tóc mai, vừa nói, hơi nhón về phía tôi để khỏi phải nói lớn tiếng:
“Nước trong cái xô màu đỏ là nước nóng Như Như mới nấu khi nãy. Còn cái xô không màu xanh là để pha nước lạnh từ trong vòi. Muốn Như Như pha không? Tại Như Như không biết chú Khang thích nước ấm cỡ nào.”
“Thôi được rồi, để pha. Không phiền Như Như đâu. Như Như đi ngủ đi.”
Tắm xong, tôi đứng trong phòng tắm giặt luôn bộ đồ vừa mới thay ra của mình vì rất ngại để Như Như giặt dùm. Từ ngày xuất gia đến giờ, chưa có bàn tay người nữ nào đụng vào áo quần của tôi. Chuyện Như Như lo nước tắm, dọn giường ngủ cho tôi, đã là chuyện tuy rằng khiến tôi thấy ấm áp thế nào đó trong lòng, nhưng phần khác lại làm tôi thấy xấu hổ, khó chịu, như có cái gì chướng chướng. Giặt xong tôi chẳng biết phơi ở đâu, đành móc nguyên bộ đồ vạt hò vào cái móc áo, máng luôn trên sợi dây kẽm giăng ngang ở góc phòng tắm.
Chiếc nệm của giường tôi nằm là loại thật mềm, nằm xuống là cả người bị lún sâu, đồng thời nệm lại lấp ngang trên mặt, trên người mình như đất phả trên huyệt mộ. Với loại nệm này thì chẳng làm sao có thể ngồi ngay lưng mà thiền tọa hay niệm Phật trước khi ngủ. Thôi thì nằm thiền cũng được. Từ một con mắt còn ló khỏi vùng nệm chăn trắng, tôi thấy cái trần nhà cũng trắng lên như vậy. Chung quanh tôi là một vùng trắng sáng nhờ nhờ như hình ảnh quá khứ nào đó của một căn phòng trong bệnh viện. Nằm một lúc, tôi có cảm giác như chính mình bị lún, bị chìm xuống một thế giới thấp nhất, trong đó chỉ là những hình ảnh, những cảm xúc mơ hồ, lộn xộn, cái này chồng lên cái kia, nhào lộn lên nhau, đẩy xô nhau, khiến cả thân và tâm tôi lúc thì chết cứng, lúc thì quay cuồng trong một trạng thái hỗn mang quái dị...
... Cái gối này, sao mà phưởng phất hương thơm gì lạ quá! Chắc là hương tóc của Như Như. Ô, nhà ngươi tán tâm thất niệm rồi! Tập trung tư tưởng lại coi nào. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. Áo gối có thêu ba cái hoa hồng. Lại thất niệm nữa rồi. Thất niệm một chút cũng được đâu có sao! Ôi nàng tiên dịu dàng với mái tóc đen nhánh tung bay nhịp nhàng theo áo lụa mỏng. Án ma ni bát di hồng. Lúc nãy chính nàng đã trải chăn và đặt cái gối của nàng ở đây. Lò xo dưới cái giường sắt này kêu quá. Như Như bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Chắc là mười sáu. Cao lắm là mười bảy.
Nàng có nước da thật trắng. Đôi mắt nàng có vẻ buồn. Hình như không phải buồn, mà là mộng mơ. Phải rồi, người ta nói tuổi đó nhiều mộng mơ lắm mà. Nam mô A Di Đà Phật. Xe cộ trên đường đã hết. Có tiếng nói chuyện thì thầm của ai ở phòng ngủ bên kia, cách đây một cái vách. Bên kia vách là phòng ngủ của Như Như. Có lẽ nàng cũng đang nằm thao thức như mình. Này, những ý niệm lăng xăng nãy giờ đều là vọng tưởng hết, ngươi không biết sao? Ngay cả câu niệm Phật cũng là vọng tưởng. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô Như Như tiên nữ giáng trần với nụ cười dễ thương và đôi mắt sầu mộng. Dẹp hết, dẹp hết, đừng nghĩ bậy nữa. Niệm Phật đi, rồi ngủ! Ô, nếu phải dẹp hết vọng niệm, vọng tưởng, thì dẹp luôn cả câu niệm Phật chứ. Dấy lên bất cứ ý niệm nào cũng đều là vọng niệm cả mà. Thôi đừng bày đặt lý luận. Niệm Phật đi. Nam mô A Di Dà Phật. Không cần phải dẹp câu niệm Phật thì cũng không cần phải dẹp những hình ảnh, những ý niệm về một tiên nữ, về một cô gái tên Như Như. Ô Như Như xinh đẹp... xin nàng hãy đến bên tôi, hãy nói tôi nghe nàng thích những gì... Ồ không, xin nàng hãy dang ra xa, đề tôi tĩnh tâm niệm Phật. Nam mô A Dí Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Tôi thức dậy thật sớm theo thói quen hàng ngày ở chùa. Và thay vì ngồi thiền trên giường, tôi ra trước bàn thờ Phật. Ngồi thiền trên chiếc nệm mềm lũn ấy lưng tôi sẽ cong như lưng tôm. Vừa ngồi vào chỗ, tôi nhớ ngay rằng đêm qua trước khi ngủ, tôi hoàn toàn thất niệm và đã chìm vào một giấc ngủ đầy những mộng mị thế tục.
Như Như dọn bữa điểm tâm cho tôi. Đặt cái mâm nhỏ lên bàn, nàng không nhìn tôi, hỏi:
“Đêm qua ngủ được không?”
“Được,” tôi ngập ngừng một lúc rồi hỏi, “còn Như Như thì sao?”
Như Như cười đáp:
“Sợ chú Khang lạ chỗ ngủ không được thôi chứ Như Như thì ngủ ở nhà mình mà, đâu có sao. Nhưng tối qua cũng hơi khó ngủ một chút.”
Chẳng rõ nàng có hàm ý gì khi nói câu ấy không, chứ tôi thì chấp nê lắm, nghe nàng nói vậy thì liền nghĩ bậy nghĩ bạ, và thấy vui nhẹ trong lòng.
Sau bữa điểm tâm, tôi qua nhà ông Điềm tụng thời kinh sáng. Lúc quay về, tôi thấy bộ đồ vạt hò của mình phơi trong buồng tắm tối qua đã được ủi và xếp ngay ngắn, đặt ở chân giường nằm của tôi. Tôi thở dài: “Cuối cùng thì áo quần của mình cũng có bàn tay phụ nữ đụng chạm đến rồi.” Tôi quay ra trước bàn Phật, lựa một cuốn sách trong tủ, ngồi đọc. Bỗng thấy có dáng người đi nhè nhẹ vào chỗ chiếc giường nệm rồi lại có vẻ như rón rén bước ra. Tôi nhớm người nhìn thì thấy Như Như đang cầm chiếc áo nhật bình nâu của tôi. Nhật bình là loại áo dài để tăng sĩ mặc đi đường. Tôi vội đứng dậy bước tới Như Như, hỏi:
“Như Như đem áo này đi đâu vậy?”
“Đi giặt.”
“Không, không cần đâu. Như Như để đó đi.”
“Để Như Như giặt cho,” nàng nói dứt khoát như vậy rồi vắt chiếc áo dài của tôi lên vai, tự tiện mang áo đi.
Tôi đứng lại, thấy mình yếu xìu. Lâu nay tôi có tiếng là ông thầy tu trẻ khó tánh, nghiêm nghị, mấy người Phật tử lên viện Hải Đức hay chùa Linh Phong phải kiêng dè, không dám cười đùa hoặc nói lớn tiếng trước mặt tôi và dĩ nhiên là nếu tôi nói gì, họ không dám cãi lại. Vậy mà Như Như có nể sợ gì tôi đâu. Tôi bảo để áo đó mà nàng cứ việc mang đi. Lại tự động quyết định giặt áo đó cho tôi nữa chứ. Lém lỉnh quá nhỉ! Nhưng... thôi, không sao, tôi chẳng chấp nhất làm gì. Cái lém lỉnh kia rất dễ thương và có cái gì đó rất thân mật, gần gũi.
Vậy đó, suốt ba ngày ba đêm tôi ở lại, Như Như lo cơm nước, chỗ ngủ, giặt ủi áo quần, lau nền đất, tìm sách cho tôi đọc và gọi tôi xuống phòng khách xem truyền hình khi có chương trình gì nàng cảm thấy hay (dù rằng thực tình chẳng có chương trình nào hay đối với tôi ngoài chương trình ngồi cạnh Như Như). Có khi nàng đến ngồi sát bên tôi trên cùng cái xa-lông để xem truyền hình. Phim vui, nàng cười rất hồn nhiên, đôi lúc níu lấy vai tôi, rồi giật mình co rút lại, e thẹn. Lạy Phật, xin cho con được vô tư như nàng... Chứ không thì trái tim con sẽ bật khỏi lồng ngực này ngay.
Tối hôm ấy, trong bóng đêm, có dáng người nho nhỏ đến bên giường tôi, đặt nhẹ một bàn tay lên trán tôi như cách một người mẹ thăm bệnh con. Người ấy cúi xuống hôn nhẹ lên trán tôi. Tôi bừng mở mắt, thấy rõ ràng đó là Như Như, cũng với chiếc áo ngủ dài bằng lụa mỏng với những bông hoa nho nhỏ đủ màu sắc. Thấy tôi nhìn, nàng rút lại và vội vã biến nhanh trong bóng đêm. Tôi ngồi choàng dậy, chạy ra đến cửa phòng, nhìn hai bên, không thấy ai cả. Trở về lại chỗ nằm, tôi không rõ cảnh vừa rồi là chiêm bao hay thực tế.
Buổi sáng, Như Như vào dọn dẹp, tôi buột miệng hỏi: “Như Như à, hồi tối... hồi tối...”
“Hồi tối sao?” Như Như hỏi giọng rất tự nhiên.
Tôi nói trớ đi:
“Hồi tối ngủ được không?”
“Được, cám ơn. Còn chú Khang thì sao?”
“À, trời nóng quá ngủ hơi khó.”
“Trời nóng? Lạnh như vậy mà chú thấy nóng à?”
“Ừ, nóng. Chắc tại cái nệm...”
Khi Như Như ra khỏi phòng, tôi mới dám xác định rằng chuyện tối qua chỉ là giấc mơ. Tôi tự trách: “Dù mộng hay thực tế, cũng chẳng nên nói hay hỏi lại Như Như điều đó. Nàng vô tư như vậy mà. Nói với nàng chi. Hơn nữa, cho dù có một thực tế lãng mạn như vậy thì cũng phải coi như chỉ là một giấc mơ thôi.”

Tôi đã tụng xong ba lần bộ kinh Thủy Sám mà ông Điềm vẫn còn mê man. Tôi nghĩ, tình trạng này làm gì ông có thể gượng ngồi dậy nổi, chứ đừng nói chuyện hết bệnh! Mà ông ấy chưa hết bệnh không lý tôi cứ ở mãi bên bờ vực chướng ngại này để chết đắm chết đuối trong “thung lũng tình yêu” thơ mộng hay sao? Huống chi trong ba ngày liên tục ở nhà Như Như, dù rằng công việc tụng kinh đã chiếm khá nhiều thì giờ, dù rằng có Như Như đem lại nhiều niềm vui và rung động, tôi vẫn thấy nhớ chùa. Ngôi chùa Linh Phong chật hẹp, thiếu tiện nghi, khô khan, buồn tẻ... nhưng đối với tôi, vẫn là nơi chốn của mình. Khi người thế tục xem ngôi chùa là nơi để họ đến lễ Phật, cầu nguyện, tìm không khí tĩnh tâm... thì tôi lại thấy cái đẹp và ích dụng của ngôi chùa nằm ở chỗ khác. Tôi có tâm ý hẹp hòi trong chuyện tiếp xúc với đời và quan niệm sinh hoạt trong cửa thiền nên coi ngôi chùa chỉ đơn giản là “thế giới của thầy tu”, nơi đó, các tu sĩ bơi lội như cá trong nước, tung bay như chim trên trời. Thong dong tự tại, không gì vướng bận. Và cái thế giới đó chỉ đúng nghĩa khi vắng bóng hoàn toàn những người thế tục lai vãng. Còn nhìn thấy người thế tục ăn uống, nói cười, sinh hoạt... thì không làm sao có thể có được không khí thoát tục! Nói vậy không có nghĩa là cửa chùa không mở rộng để đón tiếp khách thập phương. Tôi chỉ thấy rằng thực ra, không khí chùa có vẻ “chùa” nhất là khi tất cả khách thập phương đều ra về, để lại mấy ông thầy tu trọn vẹn trong thế giới xuất trần biệt lập của họ. Cho nên, dù thế nào đi nữa, tôi vẫn nhớ chùa Linh Phong sau ba ngày chìm ngập trong cơn mê, hay ảo giác tình yêu.
Tôi nói riêng với chị Nữ:
“Tám năm nay ông Điềm nằm hệt giường, không bác sĩ hay đông y sĩ nào chữa trị nổi, nay ông ấy hấp hối rồi gia đình mới xin làm lễ cầu an, làm sao hết bệnh được! Xem cách ông ấy thở, tôi nghĩ là tụng trăm bộ Thủy Sám cũng chẳng thay đổi được gì.”
Chị Nữ nói:
“Tôi đã thưa với thầy Trừng Hùng rồi, tình trạng của ông ấy không phải là bệnh nữa mà là... sắp chết. Chắc chắn là phải chết. Nhưng... Chẳng hiểu sao chết cũng không xong. Dĩ nhiên là gia đình mong ông được sống khỏe mạnh, ai lại mong ông chết bao giờ; nhưng trong trường hợp này, không ai muốn ông ấy phải chịu đựng dài lâu cơn đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần như vậy. Nếu ông ấy còn tỉnh táo được chắc chắn ông cũng muốn chết đi để khỏi phiền vợ con. Tám năm rồi còn gì. Ông đã muốn chết từ năm đầu tiên mà gia đình còn muốn níu kéo, chịu đựng, chăm sóc ông cho đến hôm nay. Tôi thưa mà thầy Trừng Hùng không hiểu mới bảo chú cầu an đó chứ. Thực ra thì cầu siêu mới phải.”
Tôi nói:
“Vậy bây giờ tôi về chùa thưa lại chuyện đó với thầy Trừng Hùng để xin thầy đổi thành cầu siêu thay vì cầu an.”
“Thôi chú cứ ở lại đây đi, để tôi lên chùa thưa với thầy ấy,” chị Nữ cản tôi lại.
“Sao vậy?” tôi hỏi.
“Tôi sợ trong thời gian chú rời ở đây, ông Điềm chết không có ai tiếp dẫn, tội nghiệp cho ông và vợ con,” chị Nữ đáp.
Thì ra là vậy. Tôi không có lý do nào để từ chối nữa, đành ở lại để tình cảm mặc sức nẩy nở. Ôi, sao lại đày đọa chi trái tim nhạy cảm của tôi vậy! Nếu thầy Trừng Hùng hay chú Đức gánh công việc này có phải là hay hơn nhiều không! Nhè đứa con trai yếu lòng, dị cảm như tôi mà đẩy vào cái thế giới thơ mộng như vầy thì còn mong gì giải thoát!
Như Như nghe tôi đòi về chùa thì nhấp nhổm, ngồi không yên. Đến khi thấy tôi đồng ý để chị Nữ lên chùa thay thì nàng vui vẻ trở lại. Làm như là tôi sẽ không bao giờ rời khỏi căn nhà này vậy!
Đến chiều, chị Nữ từ chùa trở về, thấy tôi, chị liền nói:
“Có thầy Trừng Hùng đạp xe xuống đó chú. Thầy muốn đến thăm ông Điềm rồi mới quyết định bảo chú tụng kinh gì.”
Thầy Trừng Hùng thăm ông Điềm và nói chuyện với vợ con ông xong, trở lại nhà chị Cầm, nói riêng với tôi:
“Bắt đầu tối nay chú tụng kinh Địa Tạng để cầu siêu cho ông Điềm, tụng cho đến khi nào ông ấy đi thì cho người lên báo tôi biết.”
Tôi góp ý:
“Tụng kinh Kim Cang được không thầy? Vì theo con biết thì...”
“Biết gì mà biết. Tao bảo tụng kinh Địa Tạng thì cứ tụng kinh Địa Tạng.”
Tôi chưa chịu thua:
“Tụng kinh Địa Tạng cũng sẽ kéo dài thêm nhiều ngày y hệt như tụng Thủy Sám thôi. Nếu gia đình người ta yêu cầu mình cầu siêu cho ông ấy đi sớm thì tụng kinh Kim Cang, chắc chắn một khóa lễ chưa đầy một giờ đồng hồ là ông ấy đi ngay.”
“Mi mà biết cái chi. Tụng kinh Địa Tạng!”
Nói rồi thầy Trừng Hùng giao tôi cuốn kinh Địa Tạng thầy mang theo sẵn. Vậy là tôi lại ở thêm ba ngày ba đêm, tụng kinh Địa Tạng. Ông Điềm vẫn chẳng thay đổi gì. Chết không xong, sống cũng không xong. Ông chưa đầy sáu mươi tuổi mà trông già xọm như ông cụ chín mươi. Mắt ông nhắm nghiền mà miệng thì há lớn. Mỗi lần thở vào là cả bộ ngực xương xẩu của ông rướn lên, đẩy thốc đầu cổ về phía đầu giường. Tôi có cảm tưởng là dù cả thân thể ông cố gắng lấy hơi như vậy, cũng chẳng có không khí nào vào được phổi ông cả. Cơn hấp hối của ông làm tôi xúc động mạnh mẽ. Nếu ông ấy là người thân của tôi, chắc chắn tôi cũng không mong gì chuyện kéo dài tuổi thọ của ông thêm nữa. Thêm một khắc sống như thêm một kiếp đọa đày. Vậy đó, mà ông vẫn cứ sống. Bà Điềm và cô con gái lớn lại nói chuyện riêng với tôi:
“Thầy thấy đó, ông ấy kéo dài tình trạng như vậy là tám năm rồi. Mười ngày nay thì ông thở mạnh như vậy mà lại mê man không biết gì. Thầy coi có cách nào... Cầu siêu độ thực sự cho ông. Ý tôi muốn nói thầy tụng kinh gì để ông được ra đi thanh thản. Chúng tôi thương ông lắm, nhưng không muốn ông kéo dài sự đau khổ này.”
Tôi nói:
“Nếu gia đình thực sự yêu cầu chuyện đó, tôi sẽ làm. Vậy bây giờ gia đình hãy chuẩn bị. Tôi dặn trước, trong khi tôi tụng kinh ở bàn Phật, nếu thấy ông ấy đi thì một người đến báo cho tôi biết để tôi đến làm lễ tiếp dẫn tại giường nằm của ông, còn những người khác phải bình tĩnh, đứng chung quanh giường niệm Phật A Di Đà. Không ai được khóc.”
Gia đình bà Điềm nghe tôi nói vậy thì xôn xao cả lên, như thể chuyện ông Điềm sẽ chết là chuyện bất ngờ lắm vậy. Bà Điềm khóc ngay trước mặt tôi. Tôi an ủi bà, chờ bà lắng dịu xúc động, dặn dò bà thêm lần nữa rồi bắt đầu tụng kinh Kim Cang theo ý tôi, không tụng kinh Địa Tạng theo lời dặn của thầy Trừng Hùng nữa. Thực ra tôi có kinh nghiệm gì về việc tụng kinh đâu. Tôi chỉ học được điều này từ thầy bổn sư tôi mà chưa bao giờ áp dụng. Kinh nghiệm ứng phó đạo tràng hơn bốn mươi năm của thầy tôi dĩ nhiên là đáng tin tưởng hơn thầy Trừng Hùng. Trường hợp một người sống dở chết dở, thầy tôi dạy là vì nghiệp chướng còn nặng nề, tâm thức còn lưu luyến đắm nhiễm thế gian, hoặc có điều gì chưa thực hiện được nên mới cố gắng bám víu vào ngay cả cái thân thể suy kiệt tàn hơi nhất để mong tồn tại. Gặp trường hợp đó, chỉ tụng kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa là tâm người ấy thức tỉnh ngay, buông xả hết mọi tham luyến để chuyển kiếp. Có người cho rằng thực ra chú tâm cầu nguyện thì kinh nào cũng linh nghiệm như nhau cả. Trên lý thuyết, điều đó rất hợp lý; nhưng trên thực tế, qua kinh nghiệm thực hành của nhiều đời tăng lữ để lại thì khác. Mỗi bệnh có mỗi thứ thuốc thích hợp là vậy.
Quả nhiên, tôi tụng chưa được nửa phần kinh Kim Cang thì ông Điềm thở hơi cuối cùng. Gia đình áp dụng đúng lời dặn dò của tôi, không ai khóc lóc hay níu kéo gì ông ấy, cả nhà cùng đứng quanh giường niệm Phật theo tôi.
Sau khi lo xong một số việc cần thiết để chuẩn bị cho một đám tang, tôi quay trở lại nhà chị Nữ. Thầy Trừng Hùng cũng vừa được gia đình mời xuống. Thấy tôi, thầy nói giọng hãnh diện:
“Thấy chưa, tao bảo cứ làm theo tao thì việc chi cũng xong.”
Tôi im lặng, xếp ca sa vào dãy. Rồi tôi lên lầu, lấy áo nhật bình để chuẩn bị về. Như Như bước theo tôi:
“Về chùa hở?”
“Ừ, về. Xong việc rồi.”
“Nhưng mẹ nói là chú Khang còn ở lại đưa đám tang bác Điềm nữa mà.”
“Thôi, chuyện đó có thầy Trừng Hùng và chú Đức rồi.”
“Vậy hở...” giọng Như Như có vẻ nghẹn ngào.
Trong khi tôi khoác áo dài, Như Như nói:
“Sao thấy buồn quá.”
“Ừ thì bác Điềm mất thì phải buồn chứ sao không.”
“Không phải. Bác mất cũng buồn nhưng Như Như còn buồn chuyện khác nữa... Khi nào rảnh nhớ xuống chơi nghe. Như Như bận lo việc nhà với đi học không có lên chùa được. Nhớ xuống thăm Như Như thường xuyên chứ không Như Như buồn lắm đó.”
Tôi ngạc nhiên quay nhìn Như Như.
Những lời của nàng làm sống lại tình cảm vừa mới chôn sâu trong đáy lòng tôi. Tuần lễ vừa qua, mỗi ngày trông thấy Như Như, nghe tiếng nói tiếng cười của Như Như, trò chuyện với Như Như, được Như Như lo từng bữa cơm, từng ly nước giải khát, lo luôn cả chuyện dọn dẹp, giặt giũ...Tình cảm của tôi đối với nàng hẳn nhiên là phải nẩy nở, không gì ngăn cản được. Nhưng ngay từ những phút cuối cùng chứng kiến sự ra đi của ông Điềm, tự dưng bao niềm rung động trong tôi lắng xuống thật sâu; và tôi ngỡ là sau khi tôi rời căn nhà này, tất cả mọi thứ sẽ đi vào quên lãng. Vậy mà không phải.
Một tuần lễ cùng sống chung trong một căn nhà, chàng thanh niên tu sĩ từng trau luyện các pháp môn định tâm quán tưởng còn phải rung động, xiêu lòng, thử hỏi một thiếu nữ mới lớn như nàng làm sao khỏi sinh bịn rịn, xao xuyến! Tôi thấy mắt Như Như rưng rưng ngước nhìn tôi. Và bởi cái nhìn lưu luyến dễ thương ấy của Như Như, tôi xúc động dưa bàn tay của mình lên, tính vuốt má an ủi nàng thì Như Như cũng đưa một bàn tay của nàng lên, áp chặt tay tôi vào má nàng. Và nước mắt nàng bỗng chảy thành dòng. Tôi luýnh quýnh rút tay lại:
“Có sao không Như Như?”
Nàng lắc đầu rồi buông tay tôi ra. Tôi nói:
“Đừng khóc nữa.”
Tôi vén vạt áo nhật bình của mình lên, chậm nước mắt cho nàng, rồi vội vã giã từ:
“Về nghe. Thầy Trừng Hùng đang chờ ở dưới.”
Như Như bước theo tôi mấy bước rồi đứng lại ở cầu thang, nói gởi mấy lời:
“Nhớ xuống chơi với Như Như nghe.”
Thầy Trừng Hùng chờ tôi để cùng về bằng xích lô do chị Cầm gọi. Tôi nói thầy cứ về trước, tôi muốn đi bộ về một mình. Cả nhà lao xao tưởng tôi giận hờn chuyện gì.
“Chú Khang à, mấy đứa nó đi gọi xích lô rồi, chú ngồi một chút là có xích lô về đó,” chị Cầm nói.
Tôi phải gượng cười vui cho họ yên tâm, giải thích đôi lời cho biết. Thầy Trừng Hùng cũng nói thêm cho tôi:
“Thôi để chú ấy đi bộ. Chú ấy thích như vậy. Ở chùa có xe đạp mà chú ấy có chịu lấy đi đâu. Đi bộ hoài. Thể dục như vậy cũng tốt. Được rồi, đi đi.”
Tôi chào mọi người thêm một lần nữa rồi bước thẳng. Thực ra, trong trường hợp này, tôi không có ý tập thể dục gì cả. Tôi chỉ muốn bước ra khỏi căn nhà ấy thật nhanh để cho những cảm xúc, những tâm tình và ảo tưởng của một tuần qua đồng lúc rơi rớt lại phía sau lưng, hay ít nhất cũng sớm phôi pha, không vướng víu gì tôi nữa...
Vậy mà đã bước đi một đoạn khá xa, tim tôi vẫn còn bập bùng, xao động. Tôi đã tụng kinh Kim Cang để giải nghiệp cho ông Điềm, nhưng tôi chưa biết phải làm gì để giải thoát khỏi vòng dây tình ái đang nhẹ nhàng quấn lấy mình bằng những sợi tóc mềm và óng ả như tơ của Như Như.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương mười một

Sáng hôm sau, thầy Trừng Hùng và chú Đức thu xếp y áo xuống nhà chị Cầm để lo việc mai táng cho ông Điềm. Chú Đức bảo tôi làm ơn phải làm cho trót, tụng kinh suốt tuần rồi sao bây giờ lại từ chối đi đám tang. Tôi chỉ cười. Không đi. Mà hình như đến phút chót, thầy Trừng Hùng cũng không có ý muốn cho tôi đi thì phải. Không biết có phải vì thầy đã nhìn thấy thái độ thân mật hay bịn rịn gì đó giữa tôi và Như Như qua hai lần thầy đến nhà trước đây hay không? Thôi đàng nào tôi cũng thầm cám ơn nếu thực sự thầy có ý ngăn cản tôi vì chuyện đó. Tôi không đi là tốt. Càng gặp Như Như nhiều chừng nào, tâm tôi càng vọng động chừng nấy. Và tôi sợ đến một lúc nào đó, tôi sẽ không còn khả năng kiểm soát tôi được nữa.
Dù đã tự thức tỉnh mình như vậy, trong thời gian thầy Trừng Hùng và chú Đức xuống nhà chị Cầm, tôi đã đứng ngồi không yên. Suốt ngày đó, tôi không màng ăn uống. Để chú Thể tụng kinh hay làm gì thì làm, tôi lang thang quanh núi, rồi ngồi lặng hàng giờ nơi bậc tam cấp, nhìn bâng quơ xuống núi. Như Như ơi! Tôi thầm gọi tên nàng nhiều lần. Và tôi không ngờ bóng dáng nàng lại hiển hiện trong tâm tưởng tôi một cách rõ ràng, sâu đậm như vậy. Bất cứ lúc nào tôi nghĩ đến nàng thì nét mặt, đôi mắt, môi cười của nàng, dễ dàng hiện ra, sờ sờ trước mắt. Lâu nay tôi thuần thục bao nhiêu trong pháp quán tưởng niệm Phật thì nay cũng nhuần nhuyễn bấy nhiêu khi áp dụng cho hình ảnh Như Như. Chỉ khác nhau là khi quán tưởng đức Phật, tâm tôi an lành, thanh thản, trong sáng; còn bây giờ, nghĩ tưởng đến Như Như, tôi thấy tim mình thắt lại, bất an, không thở được, không làm gì được. Với trái tim quằn quại nhung nhớ hình bóng Như Như, tôi chợt nẩy sinh một ước muốn. Tôi ước có mặt Như Như ngay tại đây, lúc này, để nói với Như Như một câu thôi. Câu gì nhỉ? Tôi tự hỏi lại tôi. Tôi sẽ nói: “Như Như ơi...” Nói vậy đủ rồi, chẳng cần nói gì hơn thế. Và tôi ngồi im dưới mái tam quan, nơi bậc tam cấp, bắt đầu gọi tên Như Như, hết tiếng này đến tiếng khác, liên tục nối nhau, y hệt như tôi từng niệm Phật. Như Như, Như Như, Như Như, Như Như... Tôi đọc tên nàng hàng giờ như vậy và tự nhiên có niềm tin rất vô lý rằng nàng sẽ đến với tôi—dù tôi thừa biết nàng bận rộn suốt ngày để giúp mẹ, chẳng đi đâu rời khỏi nhà ngoại trừ đi học; huống chi hiện nay, nàng và gia đình đang bận rộn chuyện đám tang của ông Điềm, không có lý do nào chính đáng để tin rằng nàng sẽ đến đây. Vậy mà tôi cứ tin nàng sẽ đến.
Quả nhiên, ô kìa, dưới chân núi... Lạy Phật, lạy chư Bồ tát, sao các ngài chiều ý đứa con hư đốn này quá vậy. Rõ ràng trên chiếc xe gắn máy vừa dừng dưới chân núi là Như Như và chị Nữ. Như Như chở chị Nữ đến đây! Chị Nữ đứng lại giữ xe dưới chân núi, dặn dò Như Như gì đó, rồi Như Như một mình leo cấp hướng về chỗ tôi ngồi. Tôi run bấn lên, vừa tin mà cũng vừa không tin cái thực tế đang diễn ra trước mắt. Như Như mặc áo sơ mi lụa trắng, với quần tây màu đen. Màu trắng đen của học sinh, cũng là màu cho những ngày tang. Nàng càng tiến đến gần, tôi càng hồi hộp, tim đập nhanh thình thịch. Dốc quá cao, nàng lên nửa đường thì ngừng lại một chốc, ngó lên, bắt gặp tôi nhìn xuống. Nàng mừng rỡ, cười thật tươi và bước thật nhanh lên. Đến lúc đó, tôi mới hoàn hồn, đứng dậy, ngập ngừng một lúc, rồi bước vội xuống một đoạn để đón nàng giữa đường. Còn cách nhau khoảng bốn năm bậc cấp, tôi và nàng cùng ngừng lại, nhìn nhau. Như Như đặt tay lên ngực nàng. Có lẽ nàng mệt, không nói nên lời được. Tôi nói trước:
“Nghỉ một chút đi rồi hãy nói. Ai leo trăm cấp này cũng mệt như vậy hết. Ngồi xuống đó đi,” nói rồi tôi bước xuống thêm mấy bậc cấp.
Như Như không chịu ngồi, đứng đó ngước nhìn tôi, nói với giọng trách móc:
“Đâu có mệt. Hồi hộp thôi. Không biết sao gặp chú lại thấy hồi hộp quá à. Sao không xuống nhà? Chờ hoài không thấy đâu hết.”
“Đã nói trước rồi mà. Đâu có xuống được, có thầy Trừng Hùng với chú Đức...”
“Như Như đâu cần biết mấy thầy đó. Như Như muốn gặp Khang thôi.”
Nghe nàng gọi tôi bằng tên, tôi vừa thấy tức cười, vừa thấy vui trong lòng. Quả là nàng muốn thành bạn tôi đây mà. Trong khi những người khác nhìn tôi như một thầy tu thì nàng chỉ nhìn tôi như một người bạn. Tôi vỗ về nàng:
“Thôi để khi nào có dịp sẽ xuống nhà Như Như chơi.”
“Bây giờ xuống đi. Thấy ngồi chơi ở ngoài này chứ có bận gì đâu.”
“Đâu có được, còn phải coi chùa, thỉnh chuông, tụng kinh buổi tối... À, Như Như lên đây có việc gì vậy?”
“Đáng lẽ chị Hương chở dì Nữ đi đó, mà Như Như giành đi. Dì Nữ nói là thầy Trừng Hùng bảo lên dặn Khang thỉnh tượng đức Địa Tạng để lập bàn thờ bên nhà bác Điềm. Tại thầy tưởng dưới nhà có nên không mang theo. Dì Nữ chờ dưới kia kìa.”
“Biết rồi. Thôi Như Như lên chùa rồi đưa tượng cho, với lại lên cho biết chùa chứ.”
Chúng tôi cùng sóng bước lên chùa. Đến bậc cấp cuối cùng dưới mái tam quan, tôi lại dừng một lúc để Như Như nghỉ lấy hơi.
“Mệt lắm hở?” tôi hỏi.
Như Như cười, không nói. Mồ hôi rịn chảy trên trán và dưới hai mai tóc của nàng. Tôi móc cái khăn tay trong túi áo của tôi ra, đưa nàng.
“Lau mồ hôi đi.”
Nàng cầm khăn tay của tôi, nhìn một thoáng, rồi cười, đưa lên chậm trán, má và dưới cằm, sau gáy. Thấy nàng tự nhiên như thế, tôi vui và rung động vô cùng. Và bất chợt, tôi nhìn thấy một vùng mồ hôi thấm ướt làn áo lụa mỏng ở giữa ngực nàng, vết mồ hôi loang quanh hột nút nhỏ xíu thứ hai. Chỉ một khoảnh nhỏ thôi, nhưng chẳng hiểu sao, nó khiến tôi chú ý và Như Như đã bắt gặp mắt tôi nhìn vào chỗ ấy, nàng đưa tay kéo cổ áo, nhấc lên một tí cho vải khỏi dính sát vào người, rồi thả ra, đồng thời cúi xuống nhìn nơi ngực mình, một phản ứng tự nhiên như là muốn kiểm soát lại cổ áo của nàng có đủ kín đáo không. Trong một khoảnh khắc nhanh chóng, theo hướng nhìn của Như Như, tôi loáng thoáng nhìn thấy một vùng da trắng muốt dưới cổ áo nàng. Tôi nghe rạo rực cả cơ thể và nỗi khát khao vô bờ từ lâu bị đóng chặt của mình cũng bừng bừng sống dậy. Có lẽ đó là giây phút đầu tiên trên đời, tôi thực sự hiểu được thế nào là mãnh lực của dục vọng. Tôi rùng mình, chớp mắt, cố gắng không nghĩ bậy bạ. Trong khi đó, hình như nàng cũng vừa bắt gặp cái nhìn và sự mất bình tĩnh của tôi, nên có vẻ e thẹn, hơi nghiêng người sang chỗ khác, mặt cúi xuống. Tôi nói với nàng:
“Thôi vô trong nghe. Để lấy tượng cho Như Như đem về kẻo ở nhà chờ đợi.”
Tôi dợm bước đi thì Như Như níu áo tôi lại, đưa trả tôi cái khăn tay. Tôi tính cầm nhưng nghĩ lại cái khăn đó có thấm mồ hôi và chút mùi hương của Như Như e không tiện, bèn nói:
“Như Như cất xài luôn đi.”
“Đâu có được. Đâu phải của em. Với lại em không muốn chia tay đâu. Người ta nói tặng khăn tay sẽ xa nhau đó.”
Vậy là tôi phải cười xòa và cầm lại cái khăn tay của mình, cất vào túi áo. Nhưng đồng lúc, tôi cũng phát giác rằng Như Như đã xưng “em” với mình. Tiếng “em” đó bồi thêm trong tôi một trăm lần xúc cảm mạnh mẽ hơn, khiến tôi cơ hồ muốn ngã quỵ...
Bên trong, chú Thể đang loay hoay nấu bữa cơm chiều. Tôi và Như Như lên chánh điện. Trên đó có cái tủ kinh lớn, bên trên có bức ảnh đức Địa Tạng lồng kiếng, gắn vào một cái giá gỗ. Tôi bưng nguyên cái giá xuống đặt trên cái bàn gần đó, lấy khăn lau bụi. Như Như giành cái khăn:
“Để em lau cho.”
Tôi không rời chiếc khăn, nàng dùng cả hai bàn tay để gỡ tay tôi. Ba bàn tay quấn lấy nhau. Rồi bốn bàn tay đan nhau. Chiếc khăn rơi xuống đất. Không ai giành chiếc khăn lau nữa. Chúng tôi đứng yên như vậy, nắm tay nhau. Một lúc, nàng lên tiếng, giọng nhỏ nhẹ, tình cảm:
“Tay Khang ấm quá.”
“Tay Như Như nhỏ xíu,” tôi nói.
“Tay Khang cũng vậy, tay con trai gì mà ngón thon và dài như con gái, bàn tay mũi viết hở? Khang có viết văn làm thơ gì không?”
Lúc nàng hỏi vậy, tự dưng tôi lại giật mình, buông tay nàng ra, thấy xấu hổ đã cầm tay nàng với ý niệm thương yêu xằng bậy. Tôi cúi xuống lượm chiếc khăn lau, tiếp tục lau khung tượng vừa nói lảng sang chuyện khác:
“Dì Nữ chờ Như Như ở dưới, phải nhanh lên không thôi bị la đó.”
Như Như chẳng giành khăn lau với tôi nữa, đứng nhìn tôi làm việc. Rồi nàng vén tóc mai, hỏi:
“Khang đi tu hồi nào vậy, mà tại sao phải đi tu?”
Tôi phì cười đáp:
“Tu hồi mười một, mười hai tuổi. Đã nói với Như Như rồi mà.”
“Vậy Khang tu được mấy năm rồi? Chắc cũng sáu, bảy năm gì rồi phải không?”
“Cũng đâu đó.”
Ngưng một lúc, nàng tiếp:
“Vậy rồi... Khang tính đi tu luôn hở?”
Tôi cười nói:
“Dĩ nhiên khi đi tu không ai nghĩ là chỉ tu một thời gian. Tu là phải tu luôn chứ.”
“Vậy lỡ một lúc nào đó mình không muốn tu nữa thì sao?”
“Ý Như Như nói là không muốn ở chùa làm thầy tu nữa đó hở?” thấy nàng gật đầu, tôi tiếp, “trường hợp không muốn làm thầy tu nữa thì về nhà, tiếp tục tu bằng hoàn cảnh khác, tu kiểu dì Nữ vậy đó. Trong Phật giáo không có vấn đề bắt buộc như vầy như kia. Tự nguyện đi tu, tự nguyện hoàn tục. Tu sĩ hay cư sĩ tại gia cũng tu được cả.”
“A vậy thì hay đó chứ,” nàng reo lên.
“Hay mà cũng không hay,” tôi nói.
“Sao vậy?” nàng ngưng cười, hỏi lại.
“Được quyền tự do chọn lựa hoàn cảnh tu là tốt, nhưng không gì ràng buộc thì lại dễ bỏ ngang chí hướng ban đầu.”
“Bỏ ngang nửa chừng cũng đâu có sao, vì vẫn tu được mà, Khang vừa nói khi nãy đó.”
“Ừ thì biết vậy rồi, nhưng bỏ ngang thì còn gì để nói nữa chứ,” tôi nói đến đó thì lòng chùng xuống.
Như Như cầm một cuốn kinh lên, lật lật mà mắt liếc nhìn tôi, hỏi:
“Vậy... Có khi nào Khang nghĩ đến chuyện...”
“Xong rồi, Như Như phải xuống nhanh kẻo dì Nữ đợi,” tôi cắt ngang.
Như Như không chịu đi, còn rán hỏi thêm:
“Mấy người đi tu... người ta có được quyền thương yêu không vậy Khang?”
“Không,” tôi đáp.
“Không? Vậy đối với em thì sao? Khang không có chút tình cảm gì hết hở?”
“À... có chứ. Giống như anh em vậy đó.”
Nàng nhìn sâu vào mắt tôi dọ xét. Tôi ngó lơ, nhìn khung tượng vừa lau xong, nói:
“Thôi xong rồi. Cái giá gỗ này nặng lắm lại thêm cả khung kiếng nữa, Như Như bưng không nổi đâu. Như Như cứ đi tay không, để bưng xuống dưới đó cho.”
Như Như làm mặt buồn, lẳng lặng không nói một tiếng, bước nhanh ra khỏi chánh điện. Trong khi chờ nàng mang giày, thấy nét mặt buồn dàu dàu của nàng, tự dưng lòng tôi xao xuyến trở lại. Nét buồn, giận, chỉ làm tăng thêm vẻ đẹp của nàng mà thôi. Tôi mang vội đôi dép, bước nhanh để kịp theo nàng. Ra đến sân, tôi gợi:
“Như Như!”
Nàng không quay lại, nhưng đứng im chỗ cổng tam quan, chờ đợi. Tôi bước đến, đứng cạnh nàng, cả hai chúng tôi cùng lặng thinh nhìn xuống núi. Trong phút chốc, tôi quên tất cả mọi kinh điển, giới luật, công phu thiền định, danh hiệu Phật, thần chú, hạnh nguyện, pháp môn... Tôi chỉ thấy mình đang hiện hữu trên đời, như một chúng sanh phàm phu, như một chàng trai thế tục biết rung cảm, biết ích kỷ, và biết khát khao chiếm hữu cái gì mình yêu thích. Tôi, một chàng trai ở tuổi sung mãn nhựa sống đang đứng bên cạnh một thiếu nữ thanh xuân yêu kiều. Không còn một bức vách hữu hình hay vô hình nào ngăn cản tôi nữa. Tôi run run nói: “Hồi nãy ngồi ở tam cấp này nhìn xuống núi là nhớ Như Như đó.”
Nàng im lặng không nói. Một lúc lâu mới lên tiếng:
“Đi tu rồi đâu có thương yêu ai đâu mà nhớ.”
Biết nàng còn giận, tôi cười nói tiếp:
“Là con người, ai lại chẳng biết thương yêu. Có điều là biểu lộ hay che đậy mà thôi.”
Nàng đổi vui, quay qua tôi hỏi:
“Vậy khi nãy Khang ngồi đây lâu không?”
“Hơn tiếng đồng hồ.”
“Chỉ ngồi không vậy đó?”
“Đâu có ngồi không. Cũng bận rộn chuyện tưởng nhớ và cầu nguyện đó chứ.”
“Cầu nguyện gì vậy?”
“Cầu nguyện Như Như đến đây để nói với Như Như vài lời, à, nói ba chữ thôi.”
“Vậy nói đi.”
“Ừ... không biết sao quên mất. Khi nãy nhớ lại rồi, bây giờ quên nữa.”
Nàng cười vui. Tôi thấy mắt nàng sáng lên một cách thông minh và lãng mạn. Nàng nói:
“Khang nói là chỉ muốn nói ba chữ thôi, phải không? Em biết rồi. Em có nghe tụi bạn trong lớp nói ba chữ, hay ba cái hoa, hay ba con số một hai ba, có nghĩa là gì.”
“Nếu ai cũng biết vậy thì chắc không phải. Như Như đoán sai rồi. Ba chữ này chưa nói ra thì không ai đoán được. Mà ba chữ tụi bạn Như Như nói là gì vậy?”
“Thôi, em không nói đâu, kỳ lắm.”
“Ấy chết, dì Nữ ngoắc kìa,” tôi chỉ xuống núi.
Như Như có vẻ quíu lên, hối thúc:
“Nói đi, nói ba chữ gì của Khang đi, rồi em về.”
“Thôi, để bữa khác nhớ lại sẽ nói. Bây giờ về kẻo dì Nữ la. Đi.”
Nàng dùng dằng một lúc rồi cũng bước đi trước, tôi ôm khung tượng theo sau. Hơn nửa đường, tôi bỗng nhớ lại những gì muốn nói. Tôi gọi nàng lại:
“Như Như, nhớ rồi, đứng lại một chút để nói cho nghe ba chữ ấy.”
Nàng vừa dừng chân đã quay lại, nhón chân lên, nói nhỏ vào tai tôi:
“Thôi đừng nói ra nữa, để dành đi. Em biết Khang muốn nói gì rồi. Bữa nào gặp lại Khang nói em nghe.”
Nói rồi nàng cười khúc khích, tiếp tục bước. Được một đoạn ngắn, nàng quay lại nói:
“Thường ngày Khang đều ở chùa chứ không đi đâu, phải không?”
“Có khi chẳng đi đâu, nhưng có lúc đi tụng kinh cho người ta cả ngày. Hỏi chi vậy?”
“Em sẽ tìm lúc rảnh để lên đây chơi. Khang cũng vậy nghe, khi nào rảnh nhớ xuống nhà em.”
Xuống chân núi, tôi chờ Như Như ngồi cầm tay lái rồi đặt khung tượng vào giữa, sau lưng nàng, để chị Nữ ngồi phía sau giữ. Chờ hai người đi khuất tôi mới trở lên núi. Bước chân tôi bỗng nghe nhẹ tênh. Thoắt cái tôi đã lên đến tam quan. Tôi đứng lại nơi bậc cấp mà khi nãy tôi và Như Như cùng đứng. Quay nhìn xuống núi, nhớ lại tất cả thái độ và lời nói của Như Như. Nàng đã mười bảy tuổi rồi mà sao đôi lúc thật là trẻ con. Tôi mỉm cười một mình. Tôi thích cái trẻ con ấy của nàng.
Tôi bước vào chùa. Chú Thể từ nhà Tây bước ra, thấy tôi, chú vừa cười vừa nói:
“Cô nào vậy? Cô nào đến mà trông chú có vẻ lăng xăng vậy? xưa nay đâu thấy chú lăng xăng như vậy bao giờ!”
“Nói tầm bậy. Cháu chị Nữ chứ ai. Bữa giờ tụng kinh dưới đó thì quen vậy thôi. Nhưng mà cô ấy đến để thỉnh tượng Địa Tạng đó mà.”
“Thôi đi chú ơi. Hôm qua đến giờ thấy chú khác thường là tôi biết ngay chú có chuyện rồi.”
Tôi thầm nghĩ: “Chú này thiệt lém! Mới mười lăm, mười sáu tuổi mà sao tinh mắt quá. Nhưng cũng tại mình không giấu được sự xung động tình cảm. Kiểu này không phải chỉ mình chú Thể biết, sẽ còn nhiều người khác biết nữa chứ chẳng phải chuyện đùa chơi!”
Chúng tôi cùng ăn chiều. Bữa ăn đáng lẽ không nói chuyện, nhưng chú Thể lại vui miệng nói:
“Mấy ngày chú xuống nhà chị Nữ tụng kinh, có chị Lan chạy lên hỏi chú mấy lần đó.”
“Cái gì? Chị Lan nào? Tôi đâu có quen ai mà hỏi.”
“Chú không biết chị Lan à? Cái chị người Tàu con bà chủ hãng nước đá chứ ai.”
Nói hãng nước đá thì tôi nhớ ngay căn nhà lầu bốn tầng nằm đối diện cổng phụ của chùa dưới chân núi, nhưng vẫn chưa biết được Lan là cô gái nào. Hôm trước có lần thầy Trừng Hùng sai tôi qua đó để lấy xe đạp cho thầy—xe đạp thầy thường gởi bên nhà ấy thay vì vác lên núi—lúc đó tôi có gặp mấy cô gái ngồi nói tiếng Tàu xí xô xí xào, đâu biết ai là ai. Thấy tôi im lặng, chú Thể nói tiếp:
“Chú không biết thực à? Ái chà, cái chị này tức cười lắm. Chị ta cũng lăng xăng như chú khi nãy vậy. Lên đây hỏi chú mà lại không biết tên chú. Tôi hỏi chú nào, chị ấy nói: ông thầy trắng trắng đẹp trai đó. Tôi tưởng chị ấy hỏi thầy Trừng Hùng, nhưng không phải. Chị ấy tả chú, hiền, ít nói, hay mắc cỡ như con gái... mà đẹp trai! Nói vậy thì hết nước rồi. Chị ấy tưởng tôi là con nít không biết gì, muốn nói sao thì nói chẳng mắc cỡ gì hết trơn. Rồi đòi gặp chú. Tôi nói chị muốn nhắn gì thì nhắn lại, chị nói không có gì, chỉ hỏi thăm vì lên mấy lần không thấy. Chắc chị muốn rủ chú đi vượt biên bán chính thức đó. Chuyện đó phải gặp riêng chứ. Nè, nếu chị ấy đề nghị chú kết hôn để được theo chị ra khỏi nước thì cứ nhận lời đại đi, qua bên kia rồi tính, cả gia đình bà chủ hãng nước đá đang lo thủ tục đi đó. Chị Lan chú không biết hả? Cái chị đâu chừng mười tám, mười chín tuổi, lâu lâu đem gạo đem dầu lên cúng, ghi tên là hãng nước đá Đức Thanh, chú có tiếp đó mà. Cái chị có khuôn mặt hao hao giống cô gì em gái của chú đó!”
“À, vậy thì có biết. Nhưng, thôi mệt quá chú ơi. Ăn cơm cho xong đi. Bây giờ có cho đi chính thức cũng không đi nữa, nói gì bán chính thức.”
Chú Thể cười ha hả. Tôi cúi xuống ăn, thầm nghĩ: “Một Như Như đủ cho mình chết đuối trong biển sinh tử rồi, còn Lan liếc gì nữa!”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Đã có khi, tôi nhìn cuộc đời và tất cả những sinh hoạt của thế gian, chỉ là một giấc mộng, hay như một kịch trường, trong đó, mọi thứ đều giả tạo, không thực; nếu có tham dự vào đó, cũng chỉ là tham dự một trò chơi lớn. Cái nhìn đó ảnh hưởng từ kinh điển Phật giáo, điển hình là kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật mà tôi thường tụng đọc. Nhưng khi đi vào thực tế, dợm chân bước vào cuộc chơi thơ mộng của tình yêu, tôi thấy, thực ra tình yêu không phải là một trò chơi. Hay nói đúng hơn, tình yêu là một trò chơi mà người tham dự không có quyền đùa giỡn, coi thường. Người ta có thể gán cho cuộc đời, hay cho tình yêu, bất cứ tính chất nào—mộng, huyễn, bào, ảnh, lộ, điện...—đều được cả, nếu thực sự người ta thấu suốt được bản chất vô tự tính của mỗi sự thể; nhưng khi đó chỉ là quan niệm, là sự hiểu biết ở bề mặt, thì những đợt sóng trên mặt đại dương, hay những người yêu nhau trên đời, vẫn cứ là những thực tại, những sự thể có thực. Những thực thể ấy có đời sống của chúng. Dù hữu hạn, ngắn ngủi, nhưng rõ ràng là chúng cũng có những rung động thể xác và tâm hồn; cho nên, chúng biết khao khát, biết nhớ nhung, biết hờn giận, biết chiếm hữu và biết đau khổ...
Vì thế, tôi bị cuốn vào cơn say tình ái một cách mông muội, đến độ tôi không làm sao có thể kềm được nỗi háo hức tìm gặp Như Như. Thường thì tôi rủ chú Đức cùng đi, vì chuyện chú ấy đến thăm gia đình chị Cầm không có gì là lạ. Lấy cớ đi theo chú ấy, tôi thăm Như Như. Nhưng những lần đi chung với chú Đức, tôi và nàng chỉ có thể nhìn nhau, chào nhau, chứ chẳng nói được với nhau điều gì. Hoàn cảnh của tôi và Như Như sau ngày tang của ông Điềm, đã trở nên khác. Chúng tôi không còn tự do nói chuyện với nhau nữa. Mỗi lúc cùng chú Đức hoặc một mình đến nhà chị Cầm, tôi luôn luôn được xem như là người khách quí của gia đình, được chị Cầm hoặc chị Nữ tiếp nơi phòng khách. Như Như lúc ấy, chỉ như một đứa con nít trong nhà, có trách nhiệm bưng trà nước cho khách, vậy thôi. Mẹ ngồi nói chuyện, con làm sao dám ngồi hay nói xen vào. Dầu sao, thấy mặt nhau, cười với nhau, cũng đỡ nhớ nhau phần nào. Như Như chỉ có ở nhà buổi sáng, lo phụ giúp công việc lặt vặt cho mẹ trong khi ba và các anh chị lớn của nàng đi làm. Buổi chiều nàng đi học. Buổi tối, nàng phụ mẹ lo bán. Quả thật là khó có dịp nào để chúng tôi trò chuyện với nhau nữa. Mà hình như gia đình chị Cầm cũng lờ mờ đoán biết có cái gì không được bình thường giữa tôi và Như Như. Có lẽ đã có một sự ngăn đón nào đó mà tôi không rõ. Không nói được lời nào với Như Như trong nhiều ngày, tôi đâm quay quắt; và vào một lúc không kềm được lòng mình, tôi đã viết cho nàng một bức thư. Gởi qua đường bưu điện. Ngoài bì không đề tên người gởi, chỉ để tên người nhận là nàng. Lá thư tuy rằng đã được viết với sự thận trọng vì sợ không đến tay Như Như, nhưng dĩ nhiên là cũng không làm sao che giấu được sự liên hệ tình cảm tối thiểu nào đó giữa hai chúng tôi. Kết quả là không bao giờ tôi nhận được thư hồi âm của nàng. Mà vì không nhận, tôi đoán là gia đình nàng đã biết. Tôi xấu hổ không dám xuống nhà nàng nữa. Từ vụng dại này kéo theo vụng dại kia...
Mãi gần một tháng sau, tôi mới rủ chú Đức cùng đi. Chúng tôi đến vào giấc trưa, vừa sau bữa ăn. Chị Nữ ra tiếp chúng tôi ở phòng khách. Người bưng nước là một người anh của Như Như chứ không phải chính nàng như thường lệ. Sự kiện này tôi không nghĩ là ngẫu nhiên. Trong khi chú Đức nói chuyện với chị Nữ, ruột gan tôi nóng như đốt. Tôi cảm thấy mình có lỗi khi viết và gởi nàng lá thư kia. Có thể trong nhiều ngày qua, một mình nàng đã câm lặng chịu đựng tất cả sự la trách của gia đình mà tôi không làm sao hiểu thấu. Đang bồn chồn ngồi không yên, bỗng thấy Như Như từ gian bếp bước ra phía phòng khách. Chị Nữ ngồi quay lưng vào trong và đang mải lo nói chuyện với chú Đức nên không thấy và không biết Như Như xuất hiện. Chỉ có tôi, trong tư thế chờ đợi mới nhận ra nàng thật nhanh, và khi mắt chúng tôi giao nhau, tôi thấy được đôi mắt nhòa lệ của nàng. Như Như ôm tập đi học. Nàng vẫy tay từ giã tôi bằng cánh tay phải buông thỏng xuống chứ không dám đưa lên cao, sợ chú Đức trông thấy. Tôi giả gật đầu theo câu chuyện giữa chú Đức và chị Nữ mà thực ra là để đáp lại cái vẫy tay của nàng. Như Như quay đi. Tóc nàng bồng bềnh những nhịp buồn.
Chuyện riêng giữa tôi và Như Như, tôi đâu cho ai biết, ngay cả chú Đức là bạn thân nhất lúc đó. Vậy mà trên đường về, chú Đức lại mở miệng nói:
“Sao dạo này thấy Như Như có vẻ buồn quá hở. Mà chú Khang cũng vậy nữa. Bộ hai người giận nhau hay sao đây?”
Tôi giật thót mình:
“Sao chú biết?”
Đức bụm miệng cười:
“Sao không biết. Nhìn là biết ngay. Giấu gì được. Cái hôm đám tang ông Điềm, Như Như hỏi tôi chú Khang có xuống không, tôi nói không, cô ta buồn xo. Rồi buổi chiều thấy tôi ngồi một mình lại đến hỏi thăm, tìm hiểu về chú Khang đủ thứ chuyện. Còn chú hở, hễ không gặp được Như Như thì giống như người mất hồn. Gặp rồi là ra về tươi tắn, yêu đời. Chỉ có hôm nay là thấy lạ. Cả hai người đều buồn. Sao vậy? Có cần tôi giúp gì không?”
Tôi không đáp. Thấy tôi không muốn tiết lộ điều gì, chú Đức bắt qua chuyện khác, về tới chùa, tôi thẫn thờ ra đứng sau núi nhìn về hướng phố. Chú Đức cũng tìm đến, đứng một bên, an ủi:
“Giận hờn chi rồi cũng hết, có chi đâu mà buồn.”
“Có giận gì đâu. Chỉ tại... tại tôi viết thư gởi cho Như Như lại gởi ngay địa chỉ nhà đó qua đường bưu điện. Chắc là ba mẹ Như Như nhận thư, lấy đọc. Tôi hối hận về lá thư ấy. Tôi nghĩ là nó đã làm khổ Như Như không ít đâu.”
“Vậy bây giờ chú tính sao?” chú Đức hỏi.
“Tính sao! Chứ không phải chú ra đây để làm cố vấn cho tôi à? Còn hỏi tính sao!”
Đức cười ngặt nghẽo. Tôi cũng cười theo; một lúc, tôi nói, giọng đổi nghiêm trọng:
“Đùa với chú vậy thôi chứ tôi nghĩ, chuyện tình cảm thực ra mình chẳng nên vướng vào làm gì. Cái đó đáng ra tôi phải biết trước và phải tránh trước. Chẳng hiểu sao tôi lại dễ dãi, buông xuôi chạy theo tình cảm như vậy. Để bây giờ, tâm ý lao xao, bất định, chẳng tập trung gì được. Ngẫm lại, sự trắc trở giữa tôi và Như Như biết đâu lại chẳng là trợ duyên thức tỉnh tôi quay trở về với đời sống yên tịnh lâu nay. Tu sĩ mà nói chuyện yêu thương thì rõ là lẩm cẩm, phải không? Bởi vì rồi nó sẽ đến đâu? Chẳng đến đâu cả. Chẳng ra làm sao cả. Biết trước như vậy mà cứ nhảy vào thì rõ là điên khùng. Thầy tu mà đòi yêu thương kiểu thế tục thì tham lam quá. Chỉ tội nghiệp cho những ai không biết, lại đi yêu tu sĩ mà thôi. Tội nghiệp Như Như. Nàng hồn nhiên lắm. Thấy thương thì thương chứ đâu hiểu sâu là có nên thương một tu sĩ hay không. Nàng có biết gì đâu. Tất cả là lỗi tôi cả. Giả như tôi quyết định hoàn tục, rồi sau đó, tiến đến chuyện tình cảm với Như Như thì chẳng nói làm gì; đàng này, tôi chưa hề có ý hoàn tục. Vậy thì biểu lộ thương yêu với nàng làm gì nhỉ? Làm vậy chỉ hại cho nàng thôi.”
Nghe tôi tự trách như vậy, chú Đức bỗng sầm mặt xuống, vẻ líu tư. Một lúc lâu, Đức nói:
“Tôi cũng đang lâm vào một hoàn cảnh như chú...”
“Lạy Phật! Chú cũng biết... Chú cũng vậy nữa à!...” tôi ôm đầu ngồi xuống một tảng đá lớn gần đó.
Đức nói:
“Đáng lẽ câu đó là tôi hỏi chú chứ không phải để chú hỏi tôi đâu.”
“Là sao?” tôi ngước lên hỏi lại.
“Thì lâu nay chú nghiêm trang, ít cười đùa, suốt ngày cứ đọc kinh sách, mở miệng ra là nói chuyện thiền với Bát nhã... đôi lúc tôi thấy chú khô khan như khúc gỗ, như cục đá, nghĩ là chú sẽ chẳng bao giờ rung động. Vậy mà rồi chú biết thương, biết yêu. Tôi mới là người phải hỏi chú câu đó: chú mà cũng biết yêu sao!”
“Mô Phật, chú nhìn lại chú xem. Cái tướng của chú mà biết yêu mới là chuyện kỳ chứ tôi thì lạ gì. Tôi tuy có mê thiền, mê Bát nhã thật, nhưng cũng có khi ướt át đàn địch, ca hát nhạc tình, lại làm thơ, viết truyện... Tôi đâu có khô khan, phải không? Còn chú hả? có bài Lòng Mẹ của Y Vân, với bài gì nữa đó, à Làng Tôi, Nhớ Chùa, Từ Đàm Quê Hương Tôi... Cứ hát hoài! Bài nào cũng tha thiết nhắc đến mẹ, đến quê hương, ai mà tưởng tượng nổi trái tim chú lại đập cái nhịp khác! Suốt ngày lầm lầm lì lì, giữ gìn oai nghi tế hạnh, tướng đi hiên ngang như gấu mà hiền khô như con nai, như cục đất. Đã vậy còn xâm bốn chữ Hán Sanh Tử Đại Sự trên cánh tay nữa! Cứ theo cái cách quyết liệt đó, làm sao ngờ được chú biết rung động!”
Cả hai chúng tôi cùng cười một lúc thật lâu. Cười ra nước mắt. Chưa bao giờ chúng tôi cười nhiều như vậy.
Sau cơn cười hổ thẹn và tự cảnh tỉnh đó, chúng tôi cùng chìm vào im lặng. Và lúc ấy tôi mới thấy rõ tất cả sự lố bịch của mình trong trò chơi tình yêu mà chính mình biết trước là sẽ không có kết quả gì. Nếu tôi và Như Như càng lúc càng tiến xa hơn trong tình cảm, rồi sẽ đến đâu? Thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái? Không! Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện ấy. Tôi vẫn thường cho đó là chuyện tầm thường, dung tục, là vòng dây oan trái níu kéo con người trong khổ lụy. Trong khi trái tim tôi vô minh đòi hỏi cái quyền lợi muôn thuở của nó thì cả chí nguyện và nhiệt huyết tuổi trẻ của tôi vẫn muốn dốc trọn vào con đường giải thoát giác ngộ. Ừ thì tôi vốn nhẹ dạ, mẫn cảm, dễ xiêu lòng... nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không biết chiến đấu. Trong cuộc chiến nội tâm, tôi đã từng đánh tan tành đội ngũ của những con ma phiền não khi chúng chỉ vừa mới ló đầu ra khỏi những hang ổ u minh của chúng. Lẽ nào tôi không thắng nổi ma lực của tình yêu! Phải chăng vì quen hình dung phiền não với những khuôn mặt hung tàn, gian xảo, quỷ quyệt... tôi đã không lường được chúng có thể tấn công tôi ở một khuôn mặt, một nghi dung đoan trang, nhu mì, dễ thương... Của một thiếu nữ đương xuân? Chàng dũng sĩ quả cảm xông trận, thấy yêu ma quĩ mị thì vung gươm đâm chém chẳng chút gờm tay, nhưng thanh gươm đó làm sao có thể vũ lộng tung hoành trước những dung nhan yêu kiều diễm lệ? Một lời nói nặng, một cử chỉ vô tình tỏ vẻ không quan tâm là đã khiến cho mỹ nhân rơi lệ, hờn dỗi rồi, làm sao cất nổi thanh gươm bén! Mà những giọt lệ ấy có chất cường toan thì phải: chúng có thể làm rỉ sét vũ khí của những anh hùng trên cả trận mạc của ngoại giới lẫn nội tâm.
Tôi rùng mình nhớ lại gương thất bại của những thầy đi trước. Tăng sĩ một khi vướng vào tình cảm thì như con ngựa không cương xông vào trận địa đầy những hầm bẫy; tuy rằng có thể tự mình tung tác, muốn nằm yên hay cất vó hí vang thì tùy ý, nhưng làm sao có thể lường được những hiểm nguy nào đang chờ đón. Mà một khi đã sập bẫy thì muốn đời không cứu vãn gì được nữa... Bao nhiêu chí nguyện đội đá vá trời, liễu sinh thoát tử, đốn ngộ thiền cơ... cũng vất đi!
Tôi nói với Đức:
“Tôi đang tìm cách ra khỏi cái màn lưới ấy, chú còn chui vào làm gì! Thiệt khổ, tôi tưởng mình tôi lâm nạn, có chú ở ngoài nhắc nhở, góp ý, để tôi tìm đường thoát, nào ngờ chú cũng cùng một bệnh!”
“Bộ chú tưởng tôi mới vương vào đó hả? Đâu phải chú tìm cách thoát ra tôi mới tìm cách chui vào! Tôi còn rơi vào đó trước chú nữa kia!”
“Trời đất! Dữ vậy đó! Thực là... tiên sanh khả úy! Thôi thôi, bây giờ hai đứa cùng biết chuyện của nhau rồi, nên nhắc nhở nhau xa lánh, bằng cách nào cũng phải từ bỏ chuyện ấy mới xong, ừ mà chuyện của chú... như thế nào? Tôi cũng tò mò muốn biết chút chút cái tình sử lâm ly của chú, có vậy tôi mới sáng mắt mà cảnh tỉnh chú được chứ. Ai vậy? Chắc cũng một người nào đó trong nhà Như Như phải không? Như Như có nhiều chị quá mà! Với lại, chú cũng thương xuống nhà Như Như mà. Hẳn phải có lý do chứ?”
“Không, không có người nào dưới đó cả. Người ấy... người ấy là người chú biết rành nhất.”
“Tôi biết rành? Tôi có quen cô gái nào đâu mà biết rành! Hơn nữa, nếu tôi mà biết rành thì tôi càng không để cho chú với người đó yêu nhau đâu! Sao, ai vậy? Nói đi, giấu làm gì.”
“Đâu có giấu. Để từ từ tôi nói chứ thúc hối gì dữ vậy. Nhưng mà tôi nói trước là chuyện của tôi không giống chuyện của chú đâu nhé. Tôi chỉ đơn phương thôi, chứ có yêu nhau đâu mà chú nói nghe thấy ghê quá!”
“A, đơn phương càng tốt, càng dễ thoát. Ai vậy?”
Đức ngập ngừng một lúc, vừa cười vừa nói gọn một tiếng thật nhỏ:
“Uyên.”
“Cái gì? Uyên, em gái tôi?”
“Bởi vậy tôi mới nói là chú rành nhất về người này. Nhưng mà... Uyên không biết gì hết.”
“Chỉ mình chú thầm yêu trộm nhớ thôi!”
Đức cười ngặt nghẽo. Giọng cười thật tội nghiệp. Tôi không dám nói gì đụng chạm đến chú ấy dù rằng trong lòng, tôi không đồng ý chuyện chú ấy lấy em gái tôi làm đối tượng thương yêu. Tôi không muốn gia đình tôi nghĩ lầm rằng có tôi tán trợ chuyện tình cảm của chú ấy vì thỉnh thoảng tôi về thăm nhà, có kéo chú ấy đi cùng—lúc ấy tôi đâu có ngờ được là chú “phải lòng” em gái tôi.
Sau một trận cười ứa nước mắt, Đức trở nên đăm chiêu, đôi mắt buồn bã nhìn chăm chăm vào một điểm nào đó dưới núi. Tôi nói:
“Thôi thì quen hay lạ gì cũng vậy, phải bỏ hết. Tôi hứa với chú, mà chú cũng phải hứa với tôi nghe, dứt khoát là từ nay, bằng mọi cách, phải chôn sâu, không, phải dẹp bỏ, cái chuyện tình cảm vô ích cho việc tu học như thế. Đồng ý không?”
Đức cười nhẹ, đáp:
“Đồng ý.”
Tuần lễ sau, Đức bỏ chùa Linh Phong, qua ở chung một tịnh thất với thầy Thiện Hữu. Tịnh thất ấy cũng nằm trên đồi Trại Thủy, cách chùa Linh Phong đâu chừng một trăm mét thôi, nhưng cây cỏ mọc um tùm không có đường qua lại nên tôi có muốn đến thăm Đức thì phải xuống núi, theo đường quốc lộ đến chùa Tỉnh hội, rồi từ chùa Tỉnh hội leo gần trăm bậc cấp mới đến được khuôn viên tịnh thất ấy. Thầy Thiện Hữu có một cái rẫy ở suối Đổ. Đức theo thầy ấy vào làm rẫy, có khi cả tháng mới về lại Nha Trang. Nơi ấy, theo Đức tả thì cảnh trí thơ mộng, đẹp đẽ lắm. Nghe chú tả cảnh đẹp mà không lộ một chút buồn nào, tôi mừng. Hy vọng chú lãng quên thật nhanh mối tình đơn phương tội nghiệp của chú để chú mãi là một sa-môn phạm hạnh, trong trắng.
Phần chú ấy, coi như yên ổn. Chỉ còn tôi là lận đận, lao đao. Tôi đã thất hứa với chú Đức. Trong thời gian chú Đức vắng mặt ở Nha Trang, tôi đã... thật là xấu hổ khi nói đến điều này, tôi có đến nhà Như Như để được nhìn mặt nàng.
Và thỉnh thoảng có những buổi trưa—mà Như Như nói là cô giáo bệnh cho nghỉ học, hoặc một lý do rất hợp lý nào đó của tuổi học trò biết yêu—Như Như đến chùa tìm tôi, tôi đã mừng vui vô cùng. Khi nàng chia tay, cả tôi và nàng đều bịn rịn không muốn dứt. Nàng về rồi, lòng tôi buồn dàu dàu suốt ngày. Đêm về, tôi rơi vào nỗi nhớ nhung điên cuồng, không sao định tâm quán tưởng hay niệm Phật gì được. Tôi đã tự hỏi, không còn lối thoát nào cho ta nữa hay sao?
Thực ra, trường hợp của tôi thì khác chứ đâu có đơn giản như trường hợp của chú Đức được. Dù rằng tình cảm giữa tôi và Như Như cũng chưa phải là quá sâu đậm, nhưng trái tim tôi, như đã nói, đâu phải tim heo tim bò rao bán ngoài chợ thịt! Không thể giỡn chơi với nó được. Đâu phải chỉ nói một tiếng, hứa một lời, là xong! Không, tôi nghe thật rõ trong từng giây phút, nó vẫn còn nhảy đập những nhịp điệu dị thường khó hiểu của tiền kiếp u minh lãng mạn nào đó...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương mười hai

Được một ngày rảnh rỗi, tôi xin phép thầy Trừng Hùng qua viện. Trở về phòng riêng nơi cái gác trống hiu quạnh bên cạnh ngôi chánh điện, tôi ngồi thừ một lúc chẳng biết làm gì. Tôi nhớ đã có lúc tôi mong muốn có được một người bạn không phải là những thiện hữu tri thức thường gặp hằng ngày trong cửa chùa. Cái ước muốn đó, trong giây phút bình lặng này, tôi nhận ra rằng, chẳng qua cũng chỉ do sự thúc dục của một cái bản ngã cô đơn trong tuổi mới lớn. Bây giờ tôi đã có Như Như. Có thể coi nàng như một người bạn. Nhưng chính sự hiện hữu của nàng trong tâm tư, trong cuộc sống, lại khiến tôi cảm thấy cô đơn và hãi sợ hơn bao giờ hết. Tiếng nói, giọng cười, đôi mắt long lanh và đôi khi thật buồn của nàng vừa làm tim tôi hân hoan mở rộng, và đồng thời cũng khiến tôi băn khoăn, bỡ ngỡ, không dám tin nàng là một cái gì có thật. Nhìn sâu vào mắt nàng, tim tôi rung động biết bao, nhưng đôi khi, tôi lại có cảm tưởng như thể chính nàng là hiện thân của cả thế giới huyễn hoặc phù du, trong đó, mọi ý niệm, mọi hành động, lời nói của hai kẻ trao nhau, đều là những chuyện vờ vĩnh. Người ta giả đò yêu nhau, chiếm hữu nhau; mà thực ra, chỉ là để khỏa lấp, để xóa tan cái giới hạn nhỏ bé và mông muội của bản ngã mà thôi.
Tôi khóa cửa bước ra khỏi phòng, lang thang quanh sân chùa rồi hướng về phía dãy “nhà mới.” Trong những bước buồn bã cô tịch đó, tôi lại nhận thức được thêm điều này: khi một người đã có cảm thức sâu đậm rằng thế gian như một giấc mộng thì kẻ ấy sẽ không thể nào hiện hữu và hành xử trong thế gian đó một cách chân thực được nữa. Và điều khổ nhất cho kẻ ấy là mặc dù hắn đã có cái tiền niệm về sự chối bỏ trần gian mà lại không đủ quả cảm để phủ nhận những giấc mộng êm đềm xinh đẹp. Tôi chỉ có thể điểm mặt và thắng được những cái tham, sân, si rất đáng ghét vẫn thường nẩy sinh trong tôi mỗi ngày; những lúc ấy, tôi oai hùng, hiên ngang lắm. Nhưng rõ ràng là khi đối diện với Như Như, tôi không còn tự chủ được nữa. Nàng là hiện thân của huyễn hoặc, của chiêm bao, nhưng là thứ huyễn hoặc chiêm bao dễ thương mà trái tim u mê của tôi không có khả năng, hoặc không muốn từ bỏ.
Dãy “nhà mới” trên đỉnh đồi Trại Thủy đã được mấy anh bộ đội hoàn trả lại cho viện. Nhưng ở viện không ai muốn quay trở lại các phòng đó. Nhà mới coi như bỏ hoang.
Dù sao, sự hoàn trả dãy tăng phòng này cũng khiến tăng chúng ở viện thoải mái hơn. Con đường từ viện lên tháp sắt (cái khung tháp bằng sắt, hình ngòi bút, xây trên đỉnh cao nhất của ngọn đồi) đã được khai thông, và tăng chúng ở viện đã có thể dạo chơi bình thường trở lại bằng con đường rộng thênh thang trên đỉnh đồi dẫn đến Phật đài (Kim Thân Phật Tổ). Tôi ngồi ở chân ngọn tháp, nhìn về hướng biển Nha Trang. Màu biển xanh ấy, từ xa chỉ kéo ngang một vạch thẳng, êm mát, tưởng chừng bất động trước sự đẩy xô và trêu ghẹo bất tận của những đoàn quân gió chướng. Ôi thiên nhiên, bao giờ cũng đẹp một cách cao cả. Ngồi nhìn trời biển tịch lặng như thế một lúc lâu, lòng tôi lắng xuống, và tôi nghe một nỗi buồn nhẹ dâng lên, dâng lên, ngập cả lòng.
Nhớ lại những ngày êm đềm mới xuất gia. Đâu có lâu xa gì. Chỉ mới bảy, tám năm thôi. Nhưng con người tôi lúc ấy và con người tôi hôm nay, sao mà khác! Một thiên thần và một ác quỉ! Một chú tiểu ngoan và một thầy tăng lãng mạn! Ôi, phải chi tôi đừng trưởng thành, đừng lớn lên, đừng đánh mất cái hồn nhiên của chú tiểu Khang ngày ấy. Tôi chưa phá giới hay làm việc lỗi gì nghiêm trọng mà bỗng dưng lại tự thấy mình bây giờ giống như một trang giấy trắng bị bôi mực, bị vò nát. Có lẽ tôi sẽ thua cuộc. Tôi không đủ sức chống đỡ được nữa. Ôi những đôi uyên ương tình tứ của thế gian, có phải các ngươi chỉ có một con đường, một lối thoát duy nhất là tìm đến nhau, gắn chặt vào nhau và quấn quít lấy nhau suốt đời? Ôi những thầy tăng trẻ trung từng cất lời ca tụng lý tưởng xuất trần và trí giác vô thượng của đức Phật, phải chăng tất cả chúng ta, đến một lúc nào đó trên đời tu hành, đều phải đối diện với những chướng nạn êm đẹp xinh tươi như chướng nạn tình yêu, để rồi cùng gục ngã một cách đau thương oan uổng sao! Không, không thể nào như vậy. Đã có nhiều người vượt thoát một cách vẻ vang. Chỉ tại tôi yếu lòng mà thôi. Tôi cần phải có một vị thầy trong sạch cởi bỏ cho tôi cái gánh nặng tâm tư này. Nhưng trước hết, tôi phải đủ can đảm để thố lộ cùng vị thầy ấy những gì đã xảy ra cho tôi.
Ở Nha Trang, có khá nhiều vị cao tăng đạo hạnh. Hòa thượng Từ Quang, Hòa thượng Trí Nghiêm, Thượng tọa Thiện Siêu, Thượng tọa Đổng Minh, Thượng tọa Chí Tín... Nhưng dù sao, khi nghĩ đến thầy bổn sư, tôi vẫn thấy có cái gì gần gũi, dễ chịu cho việc bộc bạch chuyện riêng của tôi hơn. Như các vị cao tăng kể trên, thầy xuất gia từ thuở bé, một đời phạm hạnh thanh cao, xứng đáng làm gương cho những tăng sĩ trẻ. Chắc chắn thầy sẽ có cách. Tôi rời tháp sắt, xuống dãy nhà khách và tổ đường. Phòng thầy tôi ở bên hông dãy tổ đường đó.

“A Di Đà Phật, bạch thầy,” tôi chắp tay chào thầy. Thầy tôi ngồi xem kinh. Nghe tiếng tôi, thầy ngưng lại, ngước lên:
“À, mới về hả?”
“Dạ, hôm nay bên đó rảnh, con qua...” tôi nói đến đó thì ngưng, chẳng biết nói gì nữa. Tự dưng tôi thấy run bấn cả người. Từ hồi xuất gia đến giờ, chưa lúc nào tôi có ý bộc bạch chuyện riêng tư của mình với thầy bổn sư.
“Có việc gì vậy? Bệnh hả? Sao có vẻ ốm xanh vậy?” thầy tôi hỏi.
Những lời của thầy làm tôi muốn ứa nước mắt. Cả một gánh nặng trong lòng chưa biết tỏ cùng ai, nay được thầy hỏi tới, tôi muốn quỳ ngay dưới chân thầy để trình bày hết nỗi niềm. Nhưng một cái gì ngang ngạnh trong tôi bỗng vùng dậy, ngăn cản. Hình như con ma dục vọng vẫn còn muốn chiếm lĩnh và kiểm soát trận đồ do nó bày ra; nó chưa muốn buông bỏ; nó bắt tôi phải tiếp tục cưu mang cái gánh nặng ấy. Tôi mím môi một lúc, rồi thưa:
“Dạ con chỉ cảm thấy trong người không được khỏe chứ chẳng bệnh hoạn gì.”
“Bệnh bao tử còn tái phát không?” thầy tôi hỏi.
“Thưa hết rồi.”
Ngưng một lúc, thầy hỏi tiếp:
“Dạo này bên đó sinh hoạt ra sao? Nghe nói tối ngày đi cúng hoài hả?”
“Dạ, phải vậy thôi.”
Thầy tôi thở dài rồi nói:
“Sa môn ở chùa thời nay phải gánh hết tất cả mọi thứ. Đôi khi chẳng còn thì giờ để tu tập. Phải chi mình chứng Thánh thành Phật rồi mới lo làm các Phật sự thì bận bịu mấy cũng chẳng sao. Đàng này, mình dù sao cũng còn là phàm phu, cần có thì giờ tu tập chứ không phải tối ngày lo tiếp đón, phục vụ khách thập phương... Mà tiếp xúc nhiều với thiện nam tín nữ thì tâm chắc chắn phải động. Cho nên, hễ có trụ là có vướng mắc.”
“Ý thầy dạy là không trụ thì sẽ không vướng mắc?” tôi hỏi.
“Đó là do thầy nghĩ đến sự liên hệ giữa chữ vô trụ trong kinh Kim Cang với chữ trụ trì thông dụng của nhà chùa mà thôi. Nếu chỉ dựa theo nghĩa đen thì hai từ ngữ đó trái ngược nhau: một bên là không trụ, không chấp trước; một bên là bám trụ và giữ gìn. Nhưng thực ra, trong ý nghĩa rốt ráo của hai từ đó, trụ trì cũng chính là vô trụ mà thôi. Con nghĩ sao? Con thường đọc tụng kinh Kim Cang phải không? Con hiểu gì về chữ vô trụ đó?”
“Dạ con chưa bao giờ liên kết hai từ ngữ đó lại để thấy chỗ tương đồng của chúng. Nay nghe thầy dạy con hiểu rằng: nếu trụ trì là trụ trong nhà Như Lai thì trụ đó cũng chính là vô trụ, vì nhà Như Lai là nhà Không. Liễu ngộ Tánh Không tức tâm không chỗ trụ...”
“Không phải là tâm không chỗ trụ, mà là tâm không trụ vào đâu. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Có thầy dịch là nên ở chỗ vô trụ mà sanh tâm. Con thấy sao, dịch như vậy có phải không? Con dịch thử thầy nghe xem?”
Tôi lúng túng một lúc rồi thưa:
“Lâu nay con cứ đọc và tự hiểu theo nguyên văn bản Hán chứ không dịch ra. Vì bản kinh ấy rõ ràng quá rồi. Nhưng nếu dịch thử thật rõ theo tiếng Việt, con sẽ dịch như vầy: không sanh tâm bám víu hay đắm trước vào bất cứ cái gì”
“Khá lắm. Hiểu được, dịch được như vậy là đạt lý lắm rồi. Không sanh tâm đắm trước, bám víu, chứ không phải là sanh cái tâm ở chỗ vô trụ, vô trước. Vì tâm còn sanh là còn có chỗ trụ. Phải hiểu như vậy. Cho nên, thầy trở lại câu nói khi nãy: hễ còn trụ là còn vướng mắc. Theo kinh nghiệm của thầy— kinh nghiệm của một người từng làm trụ trì ba, bốn cảnh chùa và trụ ở mái viện này mấy chục năm—thầy thấy rằng ở mặt nghĩa lý lẫn thực tế hàng ngày, nếu đứng dừng một chỗ thì thế nào cũng có vướng mắc. Vậy, một khi trụ trì chỉ là trụ trì trong nghĩa đen, tức là không vào, không trụ được trong nhà Không, thì chắc chắn là hỏng cả đời. Phải không? Con có nhận thấy như vậy không?”
Tôi gật đầu nhẹ mà mồ hôi đổ khắp người. Thầy đã dạy đủ, tôi không cần phải bộc bạch gì nữa. Thầy trò tôi im lặng một lúc. Thấy không còn gì để nói, tôi cáo từ thầy để về lại chùa Linh Phong. Nhưng đi được một đoạn đường, tôi bỗng nhớ ra một vài điều muốn hỏi ý thầy. Tôi quay trở lại. “A Di Đà Phật, bạch thầy,” tôi thưa.
“Gì đó?” thầy tôi hỏi.
“Con muốn về lại viện.”
“Cứ về, con thuộc về tăng chúng của viện mà. Nhưng chuyện hộ khẩu bên đó thế nào?”
“Thầy nói với thầy Trừng Hùng dùm con một tiếng. Con không muốn ở bên đó nữa. Con cần về đây. Con cần tịnh dưỡng... Còn hộ khẩu thì chẳng qua thầy Trừng Hùng làm khó vậy thôi chứ ít khi nào công an lên chùa Linh Phong để xét hỏi. Bên đó ít người, công an đâu có để ý như ở đây. Mà nếu công an có hỏi đến thì nói con đang dưỡng bệnh bên này, họ có qua đây cũng thấy đúng là con đang ở đây, có sao đâu. Không lý họ bắt thầy Trừng Hùng hay bắt con vì chuyện đó!”
“Ừ, để hôm nào thầy nói với thầy Trừng Hùng.”
“Con muốn về đây sớm chừng nào tốt chừng đó.”
“Gì mà phải vội. Bên đó bên này có khác gì nhau đâu mà.”
“Dạ thì cũng là chùa thôi, nhưng... Có khác chứ ạ. Ở bên đó, tâm con động. Tâm con lăng xăng tưởng nghĩ đến thế tục nhiều quá... Nhân đây con muốn thỉnh ý thầy... xin dạy con phải làm sao để đối trị cái tâm lăng xăng, tán loạn?”
“Bỏ các pháp quán tưởng, tập trung thiền định.”
“Nếu đã thực hành mà vẫn không định tâm được thì sao?”
“Vô trụ,” thầy tôi đáp gọn hai chữ đó.
Tôi bái lĩnh lời dạy của thầy, trở về chùa Linh Phong. Cảm thấy gánh nặng trong lòng được cất đi hơn một nửa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 27 guests