Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Như Như đứng lảng vảng ngoài bờ rào gần tam quan, không dám vào hỏi tôi, sợ gặp những người trong chùa. Tôi đang rửa tay sau giờ thọ trai, thấy được nàng, tự dưng quên mất những cố gắng phấn đấu của mình mấy ngày trước, mừng rỡ bước ra:
“Ồ, Như Như hả? Bữa nay nghỉ học sao?”
“Không, em đến chơi một chút rồi về đi học ngay. Còn sớm mà. Khang ơi... làm sao đây?”
“Làm sao nghĩa là sao? Làm cái gì?”
Mắt nàng như chực ứa lệ. Lòng tôi chùng xuống ngay, tôi hỏi:
“Sao vậy? Như Như muốn làm cái gì?”
“Không gặp Khang... em chẳng làm gì được... Không lẽ tình trạng này kéo dài mãi sao? Khang có cách gì không? Em muốn gặp Khang mỗi ngày. Nếu Khang không đến nhà em được thì... em đến đây, buổi trưa trước giờ học, em đến dưới chân núi, Khang chờ em ở đó nghe. Ở ngã tam cấp bên phải có cái bục xi măng, mình ngồi nói chuyện chút xíu rồi em đi học.”
“Không được đâu. Vậy sao học được. Hơn nữa... Coi chừng thầy Trừng Hùng biết sẽ mét lại vơi ba mẹ Như Như đó.”
“Vậy Khang nghĩ cách nào đi.”
Tôi ngập ngừng rồi nói:
“Đâu biết làm sao. Ở nhà thì Như Như bị gia đình cấm đoán... Còn ở đây... là chùa, dù không ai cấm nhưng tự mình cũng biết là không được rồi. Như Như à... muốn nói với Như Như điều này, Như Như đừng buồn nghe.”
“Có gì thì cứ nói đi. À, Khang còn mắc nợ em ba chữ gì đó đến nay vẫn chưa nói ra đó nghe. Em không có quên đâu. Bây giờ muốn nói hở, không, cho mắc nợ tiếp đó. Ủa mà ba chữ đó em đoán là đâu có làm em buồn, sao Khang lại rào trước đón sau chi. Khang muốn nói điều gì khác hở?”
Thấy nàng vô tư như vậy, tôi không cam lòng nói thẳng ra những gì mình suy nghĩ. Nhưng nàng cứ thúc dục, tôi bèn nói:
“Có lẽ hai đứa mình bồng bột... Chứ thực ra, chẳng có gì với nhau đâu... vả lại, không thể có chuyện người tu mà thương yêu như những người đời. Điều đó không đúng chút nào, và cũng chẳng ai có thể chấp nhận được.”
“Nhưng... Khang nói là nếu không tu nữa thì cũng đâu có tội gì, hoàn tục cũng tu được mà, phải không?”
“Đúng, nếu hoàn tục thì cũng tu được trong hình thức một người tại gia cư sĩ, lúc đó muốn làm sao cũng được. Đàng này, còn tu, còn ở chùa, dứt khoát là không được.”
“Vậy... vậy sao Khang không hoàn tục đi. Nếu Khang về đời, sẽ không ai ngăn cấm mình gặp nhau nữa. Ba mẹ em cũng sẽ chấp nhận chuyện hai đứa mình gặp nhau mà. Như vậy dễ dàng cho em hơn.”
Tôi buồn bã nhìn sâu vào mắt nàng, nói:
“Không được.”
“Tại sao? Khang không thương em hở?”
Tôi không đáp. Nàng giận dỗi, quay mặt nơi khác, dợm chân muốn về. Tôi lại xiêu lòng, không dứt khoát với nàng được, vội níu nàng lại, nói:
“Chỉ vì chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hoàn tục chứ đâu phải là không thương.”
Nghe tôi nói vậy, nàng vui ngay, quay lại nói:
“Có là được rồi. Thôi thì Khang không về đời cũng không sao. Với lại em quen nhìn Khang như vầy rồi, mỗi lần nghĩ đến Khang, em cũng nghĩ đến Khang như vầy,” nàng đưa bàn tay ra, làm một cử chỉ như kiểu người ta giới thiệu một món hàng, trỏ vào tôi, mắt nàng nhìn tôi thật nhanh từ đầu đến chân, “nếu Khang thay đổi... để tóc, mặc áo sơ mi, quần tây... Chắc em không thích nhiều đâu!”
Lạy Phật! Nàng nói vậy mà nói được đó! Nàng cũng muốn tôi giữ hình thức tu sĩ đầu tròn áo vuông chứ đâu phải không. Hình như trong mắt nàng, tăng phục sẽ thích hợp với dáng dấp tôi hơn và nàng chỉ quý mến, thương yêu tôi trong hình thức tăng sĩ. Vậy là trở lại y nguyên vấn đề, chẳng có gì thay đổi. Tôi phải đặt lại lần nữa:
“Nhưng người tu thì không được thương yêu kiểu như người đời. Cả hai đứa mình đều biết điều đó là không nên mà.”
“Mình đâu có thương nhau kiểu người đời,” nàng nói.
“Chứ kiểu gì?” tôi hỏi lại.
Nàng cười một lúc, rồi nói:
“Kiểu gì cũng không biết nữa, nhưng khác với người ta chứ đâu có giống. Người ta thương nhau thì đưa nhau đi phố, đi xi-nê, xuống biển... rồi người ta cưới nhau, thành vợ thành chồng, có con với nhau... Còn mình đâu phải vậy. Mình chỉ muốn gặp nhau để nói chuyện cho vui thôi. Không gặp nhau thì buồn, thì nhớ, chẳng làm được chuyện gì.”
Tôi bật cười. Nàng rõ đúng là hồn nhiên như con nít. Thử hỏi tôi còn biết nói gì thêm. Có ai đi chấp nê những ý nghĩ ngộ nghĩnh của một cô bé có tình yêu và ước muốn trong trắng như vậy! Thôi thì chỉ biết cười. Tuy nhiên, trong thâm tâm, tôi tự hỏi: liệu rằng sự giao tiếp như vậy có giữ mãi được sự trong sạch không, hay là theo thời gian, tình yêu sẽ nẩy nở theo những chiều hướng khác, cái chiều hướng phàm tục muôn thuở của mọi chúng sanh hiện hữu trên đời? Vả lại, tôi đây chỉ hơn nàng hai tuổi mà tình yêu của tôi đâu có đơn giản như kiểu nàng nói. Sách vở nói phái nữ còn trưởng thành sớm hơn phái nam trong tình yêu đôi lứa nữa mà! Có thể do ảnh hưởng nào đó từ gia đình, nàng hãy còn hồn nhiên đến tuổi mười bảy như bây giờ, nhưng không chóng thì chầy, nàng cũng sẽ hết hồn nhiên, cũng như tôi đã hết hồn nhiên từ lúc gặp nàng. Mà một khi đã mất đi tính hồn nhiên, hệ lụy trần gian rùng rùng kéo đến vây phủ, dìm đắm... không còn gì là thơ mộng nữa.
“Thôi Như Như phải đi học, nhớ nghe, ngày mai Như Như cũng đến vào giờ này,” nàng nói rồi đứng ngập ngừng một lúc như muốn tìm kiếm một cử chỉ từ giã thích hợp hoặc chờ đợi tôi nói một lời gì trước khi nàng quay đi.
Tôi quên luôn chuyện từ chối giờ hẹn và điểm hẹn của nàng. Tôi quên luôn chuyện tôi muốn nói dối với nàng rằng tôi sẽ đi xa, không thể gặp nàng nữa. Tôi đưa tay vuốt mái tóc óng mượt của nàng. Nàng cúi mặt xuống, cảm giác thật lạ chuyền trên tay tôi. Đã lâu lắm rồi, từ khi xuất gia đến giờ, tôi mới sờ đến những sợi tóc. Nhà chùa coi râu tóc là biểu tượng của phiền não nên mọi người xuất gia đều cạo nhẵn, vừa là để có hình thức phân biệt với người thế tục. Thỉnh thoảng tự răn nhắc, cảnh tỉnh mình, tôi vẫn thường theo lời Phật dạy trong kinh Di Giáo, đưa tay lên sờ hoặc xoa cái đầu trọc của mình. Tóc ngắn nằm sát da đầu càng châm chích bàn tay tôi càng nhắc nhở tôi ý thức tôi là ai. Nay bàn tay tôi chạm đến những sợi tóc thật dài và đen tuyền của nàng, tôi có cảm tưởng như sờ vào một giấc mộng huyền ảo nào của tiền kiếp xa xăm... Ôi những sợi phiền não sao mà êm mát, óng ả!
Bất chợt có tiếng cửa mở từ dãy nhà Đông. Tôi giật mình rút tay lại, giục Như Như:
“Thôi Như Như đi học kẻo trễ.”
Nàng xuống núi. Tôi đứng nhìn theo nàng một lúc rồi nói lầm bầm một mình: “Tình yêu không đơn giản như em nói đâu, em ạ.”
Buổi chiều đó, thầy tôi từ viện qua chùa Linh Phong. Thầy Trừng Hùng tiếp thầy tôi ở dãy nhà Tây. Bên nhà Tây là tổ đường, phòng khách và phòng ngủ của thầy Trừng Hùng. Tôi và chú Thể ở dãy nhà Đông. Hai thầy nói chuyện với nhau khá lâu. Một chặp, thầy tôi về. Tôi đoán có lẽ thầy tôi qua để nói chuyện trở về viện của tôi. Quả nhiên, sau khi thầy tôi xuống núi, thầy Trừng Hùng quay vào gọi tôi, nói xiên nói xỏ:
“Thầy mi dạy là mi muốn xin về lại viện để tịnh dưỡng một thời gian, ừ thì lớn rồi, muốn sao cũng được, tùy ý, đâu có ai ngăn cản được. Như thằng Đức đó, không muốn ở đây nữa, chạy theo người ta làm rẫy, ở tịnh thất cho sướng, khỏi bận rộn chi chuyện chùa! Còn mi, hồi xưa một bận, nay một bận, có khi nào chịu nổi đâu. Quen tu sướng rồi lại được thầy bổn sư chiều chuộng, đòi gì được nấy. Ở đây cực khổ quá mà. Qua bên viện rộng rãi, có phòng riêng, cơm ăn thức uống có người nấu cho, ăn rồi có người rửa chén rửa bát, cầu tiêu nhà tắm sạch sẽ, điện nước xài thoải mái chẳng lo thiếu hụt, giải trí thì có thư viện, tha hồ lấy sách lấy truyện mà đọc, lại có cả truyền hình, máy chiếu phim, sân bóng chuyền, bàn ping pong... đâu có thiếu thứ chi. Qua đó tu cho sướng chứ ở đây sao chịu nổi.”
Tôi lễ phép thưa:
“Vấn đề không phải là sướng hay khổ...”
Thầy Trừng Hùng cắt ngang:
“Thôi, khỏi nói chi cho nhiều lời. Mắt tao nhìn người đâu có sai. Đứa mô ở đây mà chịu không nổi thì mai sau cũng chẳng ra gì. Cứ ham chạy theo chỗ sướng đi rồi biết. Đứng đó chi nữa, lo sửa soạn đồ đạc mà qua viện cho rồi. À, tao nói trước, nể tình thầy Hải Tuệ, tao để mi qua đó một thời gian, sau này tình hình có lộn xộn, công an làm khó thì cả mi lẫn thằng Đức phải về đây lại, bằng không thì tao gạch tên khỏi hộ khẩu.”
Tôi không nói gì nữa, lẳng lặng rút qua nhà Đông, thu xếp đồ đạc. Chú Thể thấy tôi sửa soạn ra đi thì đến gần nắm lấy tay tôi, nói giọng cảm động:
“Chú qua đó giữ gìn sức khỏe nghe. Nói thiệt, tôi cám ơn chú nhiều lắm đó. Có thể nói là thời gian chú ở đây, tôi học được nhiều điều bổ ích. Sách chú lén đem về cho đọc cũng mở mang cho tôi rất nhiều... Bây giờ, chú đi...”
Chú nói đến đó thì nghẹn. Tôi không ngờ một chú tiểu ăn to nói lớn, hay đùa giỡn, đôi lúc chọc ghẹo tôi, lại tình cảm như vậy. Mà chú càng bịn rịn, tôi càng ray rứt, có cảm tưởng như mình hèn nhát trốn chạy, để chú ở lại chịu đựng tất cả gánh nặng và không khí u trầm của ngôi chùa Linh Phong này. Nhưng, tôi không còn cách nào khác. Tôi cần phải đi. Tôi nói:
“Thôi, chú ở lại đây tu học. Giữ lấy một chữ Nhẫn làm pháp môn. Có chuyện gì không ổn, chú qua viện tìm tôi xem tôi có giúp gì được không. Nhớ nghe.”
Tôi qua bái thầy Trừng Hùng rồi xuống núi. Chú Thể tiễn tôi ra tam quan. Nơi tam quan, tôi bỗng nhớ sực đến Như Như, nhớ chỗ hẹn và giờ hẹn mà nàng nói hồi trưa. Tôi khựng người đứng lại một lúc, chưa biết tính sao. Ngày mai và có thể liên tiếp vài ngày kế đó nữa, nàng sẽ đến đây, đứng chờ tôi giữa trưa nắng gắt... Chẳng ai có thể cam tâm để cho một thiếu nữ mới lớn đứng chờ đợi mãi mà không hiểu lý do gì người mình chờ đợi lại thất hứa. Con người tôi lại có thể đành đoạn thất hứa với nàng ư? Mặc dù khi nàng đưa ra giờ hẹn và điểm hẹn, tôi đã không lên tiếng đồng ý, nhưng im lặng, chẳng bào chữa thì xem như đã hứa rồi. Chú Thể thấy tôi đứng hồi lâu như đang có việc khó xử, bèn nói: “Chú có cần nhắn gửi ai điều gì không?”
Tôi giật mình quay lại nhìn chú. Cái chú này thật là thông minh! Chẳng gì có thể che giấu được chú.
Tôi cười thẹn, nói:
“Nếu người nhà tôi thì nói tôi qua viện. Còn bất cứ ai khác đến hỏi tôi, chú nói dùm là tôi đã đi xa, ra Huế hay Hội An chi đó, không bao giờ về lại, cũng chẳng biết địa chỉ ở đâu. Nói dùm như vậy nghe, được không?”
Chú Thể cười đáp:
“Chú yên tâm. Chuyện đó dễ thôi mà. Nhưng không phải như vậy là xong đâu chú ơi.”
Tôi lườm chú ấy một cái, rồi cười dài, bước xuống núi. Không phải như vậy là xong, tôi cũng biết vậy; nhưng biết làm cách nào khác hơn! Càng gặp Như Như, tâm tôi càng tán loạn, khó tập trung. Đôi lúc, tôi cảm thấy mình không còn là mình, không còn là một tăng sĩ tốt nữa. Tôi đang cần bồi đắp lại những gì đã mất. Hướng đi, định lực... và nhất là cái tâm trong trắng không vướng bận tình cảm và ái dục.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Như người bị rơi tuột xuống dốc núi cao với tốc lực kinh khủng, không người nào khác có thể ngăn cản hay kềm giữ nổi và chính hắn cũng không kịp bám víu vào đâu để dừng lại được. Sự phóng tâm của tôi trong vấn đề tình cảm cũng như thế. Dù tránh mặt ở viện để không gặp Như Như, tôi vẫn thấy mình yếu đuối, không tự kềm chế được nữa. Trong lúc tọa thiền, tụng kinh, niệm Phật, tâm tôi vẫn cứ tán loạn; và đã nhiều lần, tôi mơ thấy Như Như trong những giấc ngủ vô minh của mình. Trong trận chiến nội tâm, không kiểm soát được tâm lý này thì các tâm lý khác lần lượt ngã đổ theo. Tự tìm hiểu tâm mình, tôi giật mình nhớ lại rằng, tôi đã bắt đầu tuột xuống con dốc ghê tởm ấy từ ngày mang bệnh ở Hội An, về Nha Trang với tâm lý tiêu cực của một người dưỡng bệnh, để rồi dễ duôi chạy theo cảm tính, yêu thơ văn, thích nhạc, phí thời giờ để ca hát nhạc tình, hăng say tập thể thao để tăng trưởng bắp thịt... Cái dễ duôi này kéo theo cái dễ duôi khác, để cuối cùng, khi đối diện với nữ sắc, với tình cảm tự nhiên của trai gái, tôi không còn đủ năng lực để kháng cự được nữa. Tôi rơi. Phải, tôi rơi theo dòng cuốn của sự buông lung, biếng nhác. Tôi chưa biết những gì sẽ xảy đến cho đường tu của mình trong những ngày kế tiếp; chỉ cảm thấy rằng niềm tự tin vào ý chí sắt đá đã lung lay. Tôi từng khinh ngạo một số tăng sĩ đi trước mình đã dễ dàng sa ngã vào tình cảm tầm thường. Bây giờ, tôi tự xấu hổ với cái khinh ngạo đáng ghét đó. Dù rằng tình cảm giữa tôi và Như Như hãy còn trong trắng, nhưng tôi biết, nếu có điều kiện thuận lợi, sẽ không sức gì ngăn cản được sự bùng vỡ của hai trái tim nhiệt thành và lãng mạn ấy.
Mỗi lần từ suối Đổ về, chú Đức đến thăm tôi ở viện. Chú ấy có vẻ không còn vướng bận gì về Uyên em gái tôi nữa. Tôi cũng thực tình kể chú nghe về chuyện tôi lánh mặt Như Như.
“Nhưng rồi một ngày nào đó, Như Như sẽ phát giác ra chú ở đây chứ không phải là đi xa,” chú Đức nói.
“Lúc ấy thì... Có lẽ đã nguội lạnh rồi,” tôi nói.
“Hy vọng chuyện sẽ đơn giản như vậy,” Đức vừa cười vừa nói.
Tôi ngồi im một lúc, rồi bỗng hứng cảm nói luôn một mạch:
“Điều cần làm bây giờ là củng cố nội lực. Nội lực chưa đủ thì đụng chuyện là rớt ngay. Đôi lúc tôi còn tự nghi ngờ rằng sở dĩ trước đây tôi có vẻ nghiêm túc, hay có thể tạm gọi là có giới hạnh, chẳng qua là vì được bảo vệ trong một môi trường nghiêm khắc. Thực ra, nội lực làm gì có được nơi một người chỉ biết ẩn núp và được che chở bởi giới luật hay hoàn cảnh! Lâu nay tôi cứ tưởng tôi vững lắm. Tôi đã lầm. Nếu vững thì gặp Như Như tôi đâu có rung động, đâu có... tán loạn tâm ý như bây giờ. Mà chú có thấy không, tăng sĩ trẻ như chúng ta trên đường tu thường đụng phải cái mâu thuẫn này: nếu không tiếp cận cuộc đời thì không thể độ sanh, mà tiếp cận đời thì bị nhiễm đời vì nội lực chưa đủ. Chưa hết, muốn có nội lực không phải chỉ cần nỗ lực thiền định mà còn phải qua sự thử thách với thực tế cuộc đời. Không gian khổ, không chướng nạn thì làm sao kiên cường được nội lực. Nội lực ấy chỉ được chứng minh qua những hoàn cảnh trở ngại. Cho nên Luận Bảo Vương Tam Muội nói là người học đạo phải tự dấn mình vào chướng ngại. Điều này có vẻ mâu thuẫn, phải không? Trước đây tôi nghĩ điều đó có lý lắm, nhưng bây giờ tôi cũng nghi ngờ. Vì trên thực tế, hễ không có nội lực mà dấn vào là chìm ngay. Mình đâu phải thứ bèo bọt giạt trôi vô định! Có lý tưởng, có mục tiêu đàng hoàng, lại có môi trường để trau luyện nội tâm nữa, vậy mà cũng không vững được. Cho nên, có thể nói là Luận Bảo Vương ấy chỉ nói cho hàng Bồ tát, không thể áp dụng được cho Thanh văn. Ý tôi muốn nói: chuyện dấn thân vào chướng ngại để trau dồi đạo lực và độ sanh là chuyện của những hành giả tu theo Bồ tát hạnh; còn những tăng sĩ truyền thống, chăm chút giữ gìn giới luật và thể diện của tăng đoàn thì không bao giờ có thể dấn thân một cách trọn vẹn được. Một Bồ tát khi dấn thân, đặt vấn đề độ sanh trên hết, nếu nội lực chưa đủ mà bị vấp ngã thì cũng không ngại, có thể học được những kinh nghiệm đau khổ từ cuộc đời, và có thể gượng đứng dậy để tiếp tục bước đi, hình thức tăng sĩ có mất cũng không ngại, vì chỉ là bề ngoài. Vị ấy biết rằng chuyện giải thoát giác ngộ không phải chỉ dành riêng cho các người xuất gia hay các thầy tỳ kheo giữ hai trăm năm mươi giới. Đã là con người, là chúng sanh có tính Phật, thì dù mang hình thức nào, ở trong môi trường nào, cũng có khả năng giác ngộ; thế nên, chỉ kẻ nào tu Bồ tát hạnh mới có thể mạnh dạn dấn thân. Trong khi đó, các thầy tỳ kheo, hay nói chung là những người xuất gia, lúc nào cũng ca tụng Bồ tát hạnh mà chí nguyện và hành xử thì cứ lừng khừng, khập khựng, không dứt khoát mặt nào. Độ sanh là đại nguyện mang canh cánh trong lòng, nhưng dấn thân thì không dám, sợ nhiễm trần, sợ mất giới hạnh; còn đóng cửa nhập thất để hạ thủ công phu, quyết tâm thành Phật trong hiện kiếp thì lại thấy bất an, sợ không viên thành sự nghiệp lợi tha...”
Đức chen vào:
“Vì vậy hàng tỳ kheo bên Bắc tông mình mới có vấn đề thọ thêm Bồ tát giới đó.”
“Thọ thì thọ vậy thôi. Có vẻ như để được quân bình tâm lý chứ không phải để mở đường dấn thân thực sự vào cuộc đời đau khổ. Chú thấy một thầy tỳ kheo không thọ Bồ tát giới có khác gì với một thầy có thọ không? Không. Cũng vậy thôi. Vấn đề thọ Bồ tát giới theo tôi thấy, hình như là chỉ tăng thêm giới, tăng thêm một vòng đai cố thủ cho cuộc sống phạm hạnh, chứ không phải là để nới rộng cho bước chân độ người. Những vị thọ Bồ tát giới chỉ có tăng thêm giới chứ không tăng thêm hạnh. Ý tôi muốn nói chữ hạnh nguyện chứ không phải chữ đức hạnh. Hình thức tăng sĩ vẫn là cái quan thiết mà chúng ta phải trân trọng giữ gìn. Mất đi hình thức ấy thì đời tăng sĩ không còn gì để nói nữa, cho dù có mang đại nguyện bao la như trời biển hoặc đang thực hiện việc cứu đời một cách tha thiết, vô tư...”
“Nhưng... nãy giờ chú nói để dẫn chứng hay biện hộ cho cái gì vậy?” Đức vừa cười vừa hỏi.
“Đâu có biện hộ cho cái gì đâu. Tôi chỉ cảm thấy rằng, thực ra... đôi khi chúng ta né tránh cuộc đời thì sự né tránh ấy cũng chỉ vì chiếc áo tu sĩ này thôi, chứ không phải vì hạnh nguyện nào hết. Chúng ta coi trọng hình thức xuất gia hơn là chí nguyện xuất trần. Cho nên, tăng sĩ chúng ta học hạnh Bồ tát, muốn dấn thân độ đời, vậy mà cứ khư khư giữ lấy chiếc áo, mà cố giữ chiếc áo này thì chỉ độ được người bằng sự thuyết giảng, tụng kinh, cúng đám, hay tiến bộ hơn, dạy học hoặc làm các công tác từ thiện xã hội như một số quý thầy, quý sư cô, hay các nữ tu bên Thiên Chúa giáo là cùng. Chú nghĩ ngoài những Phật sự kể trên, tăng sĩ có việc nào tích cực hơn nữa không. Những kẻ tích cực hơn, thì đã hòa nhập vào đời thực sự, không còn vết tích gì nữa. Và vì họ không còn giữ hình thức tăng sĩ, chúng ta coi như không có họ. Người đời cũng vậy, chỉ nhìn chúng ta nơi hình thức tăng sĩ. Thầy nào còn cạo đầu, còn mặc ca-sa, còn tụng kinh, thuyết pháp, thì còn tin tưởng, kính trọng; thiếu đi những sinh hoạt ấy thì coi như chẳng ra gì rồi. Mà Bồ tát vào đời thì không câu nệ hình thức, phải không? Còn câu nệ hình thức thì sẽ không làm được cái gì to lớn, không làm được cái gì thực sự ích lợi.”
“Vậy chứ theo chú, tăng sĩ còn làm cái gì khác hơn những sinh hoạt truyền thống? Và hình thức tăng sĩ chú thấy không còn cần thiết nữa sao?”
“Không, không phải vậy. Chú hiểu lầm rồi. Hình thức cần thiết chứ, nhưng không cần thiết đến độ coi nó là cái trên hết, trên cả đại nguyện lợi sanh. Tôi chỉ muốn nói rằng, đa phần tăng sĩ chúng ta chưa thực sự dấn thân cũng chỉ vì quá coi trọng hình thức mà thôi.”
“Vậy theo chú thì phải làm thế nào mới gọi là thực sự dấn thân? Và làm thế nào là dấn thân mà vẫn giữ được hình thức tăng sĩ?”
“Hiện thời, tôi quan tâm đến hạnh nguyện hơn là hình thức. Và nếu tự đặt nghi vấn cho chính mình, tôi không nói như chú: làm thế nào để dấn thân mà vẫn giữ được hình thức tăng sĩ. Tôi chỉ tự hỏi rằng, làm thế nào để dấn thân mà không đánh mất đi chí nguyện xuất trần và hạnh nguyện lợi sanh của mình. Còn dấn thân làm chuyện gì thì tôi chưa nhìn rõ được thực ra tôi muốn gì và con đường nào thực sự thích hợp cho tôi. Hơn nữa, chuyện dấn thân cũng tùy thuộc vào hoàn cảnh và thời đại mà có thay đổi. Mỗi thời mỗi khác, mỗi nơi mỗi khác.”
“Chú nói vậy là tôi biết chú có thay đổi khá nhiều trong quan niệm tu và hành đạo rồi đó. Trước đây tôi thấy chú...”
“Có vẻ bảo thủ, phải không?”
“Gần gần như vậy. Không phải đã có lần chú nói rằng tăng sĩ chỉ cần ở chùa, nỗ lực tu hành thôi, vậy là đủ rồi, không cần phải làm gì khác hơn! Chú cũng từng phê phán những người đòi cải cách hay thay đổi sinh hoạt Phật giáo hoặc muốn Phật giáo phải tích cực dấn thân, kiện toàn tổ chức này nọ...”
“Ừ, tôi đã từng nghĩ vậy.”
“Bây giờ thì khác rồi, sao vậy?”
Tôi hớp một ngụm trà nóng, không trả lời ngay. Ngoài khung cửa lưới, cành hoa hậu với mấy cái hoa tím đong đưa. Có con chim sẻ hiền lành đang chuyền trên cành. Tự dưng tôi nghĩ đến Như Như. Tôi tự hỏi, có sự can dự nào của hình bóng Như Như trong sự thay đổi quan niệm tu tập và hành đạo của tôi chăng? Tôi vẫn thường tra vấn, nghi ngờ chính mình như vậy. Và tự đáy lòng tôi trả lời: có. Nhưng ý hướng dấn thân mới nẩy sinh trong tôi không phải là để nhắm vào chuyện hoàn tục để rồi lập gia đình với một thiếu nữ nào đó (chẳng hạn Như Như) để sống một đời sống thế tục. Hình bóng Như Như, con người Như Như, có can dự vào sự thay đổi quan niệm của tôi, có xuất hiện một cách lãng mạn trong đời tôi, cũng chỉ là để đánh thức tôi ra khỏi tâm lý ù lì, bảo thủ lâu nay tôi hằng có mà thôi. Nàng đã gián tiếp dạy tôi rằng, thực ra tôi chẳng có chút nội lực đáng kể nào để có thể tự hào, kiêu hãnh, khinh ngạo những kẻ vấp ngã tình cảm trước đây mà tôi biết. Và điều này cũng đã khiến tôi thức tỉnh, thấy rằng có đọc nghìn lần đại nguyện độ sanh, tôi vẫn chỉ là bàng quan, đứng ngoài cuộc đời, ôm giữ hình thức xuất gia, để mặc cho sinh linh thống khổ... Cho nên, không phải chỉ cần ca tụng việc dấn thân độ đời thì hạnh lợi tha sẽ viên mãn. Phải dấn thân thực sự. Tôi nghĩ vậy.
Và khi nghĩ đến việc dấn thân, tôi không nghĩ đến những chương trình cứu tế xã hội, cho quà cho tiền... mà những tổ chức từ thiện từng làm. Đối với tôi, việc làm đó vẫn chỉ là ngoài da, chưa thực sự được gọi là dấn thân và nó cũng chỉ làm được nghĩa cử xoa dịu chứ không phải là giải quyết được điều gì hệ trọng của đời sống nhân quần. Dấn thân đâu phải là chỉ đi băng bó vết thương mà không biết chặn đứng những nguyên do tạo nên vết thương đó. Dấn thân cũng đâu phải là nhảy vào đời để chìm lỉm trong cuộc sống dung tục tầm thường hoặc để cho các thế lực thế tục kiểm soát, sai sử. Nghĩ đến việc dấn thân, tôi có ngay trong trí tưởng hình ảnh của những thiền sư anh hùng, mà tiêu biểu là Tuệ Trung Thượng Sĩ, và gần gũi nhất là thầy Tuệ Sỹ. Dấn thân là đem cả sinh mệnh, tính mệnh và cả bản thể của mình để thể nghiệm tính Phật trong cuộc đời huyễn mộng, chuyển hóa cái vô minh vọng tưởng của các thế lực bạo tàn, biến trần gian khổ lụy thành tịnh độ niết bàn, phụng sự những con người đau khổ trên thế gian với niềm cung kính, trân trọng và đầy yêu thương. Lý do nào con người thơ mộng hiền lành như thầy Tuệ Sỹ lại dấn thân để rồi lâm cảnh tù đày? Tất cả đều vì lòng thương yêu đối với cuộc đời.
Lòng thương yêu ấy vượt khỏi hình thức xuất gia khiến cho các tăng sĩ có thể tạm cởi ca-sa, khoác chiến bào, như từng thấy trong lịch sử. Các thiền sư Việt Nam đã từng góp mặt với đời như thế trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước. Khi quốc gia suy vong hoặc bị nạn ngoại xâm, các ngài không từ chối trách nhiệm công dân, sẵn sàng có mặt, ngay cả trên trận tuyến; khi đất nước yên bình, các ngài lại quay trở về với thảo am, với ngôi chùa xiêu vẹo dột nát ẩn mình dưới những tàng cây rậm bóng. Phải chăng lý tưởng dấn thân ấy được un đúc lâu đời để trở thành sinh hoạt truyền thống của tăng sĩ Phật giáo Việt Nam, ăn sâu trong huyết quản của những người nhà sư áo vải chay tịnh? Đâu phải chỉ có thầy Tuệ Sỹ và bốn tăng sĩ khác cùng một tổ chức ở Sài Gòn là bị cầm tù vì tội đấu tranh cho quyền sống của dân tộc. Trước đó ba năm, ngay khi cộng sản vừa mới chiếm miền Nam, đã có mười hai tu sĩ Phật giáo tự thiêu ở miền Hậu Giang. Thầy Phước Viên ở viện Hải Đức cũng về Huế tham gia một phong trào đấu tranh do Thượng tọa Thiện Tấn lãnh đạo, cùng bị tù với một số tăng ni ngoài đó. Thượng tọa Thiện Minh cũng vừa bị bắt giam năm nay vì tội lãnh đạo một lực lượng chống cộng. Những sự kiện trên không những nói lên bi nguyện lợi sanh của những nhà sư Việt Nam mà còn chứng minh rằng quốc gia đang lâm vào một thảm họa kinh khiếp đến nỗi những thiền sư áo vải, vốn không mong cầu bất cứ thứ lợi dưỡng, quyền lực hay danh vọng nào của thế gian, phải tạm gác chuông mõ kinh kệ để dấn mình hành đạo bằng những con đường thế tục.
Tôi rót thêm trà vào tách cho Đức, nói:
“Tôi chẳng biết nói sao để trả lời câu hỏi của chú. Thường thường thì sự đổi thay quan niệm sống của một người tùy thuộc vào nhiều nguyên do. Có khi vì tuổi tác và kinh nghiệm. Có khi vì hoàn cảnh xã hội. Có khi chỉ vì một chút tâm tình riêng nào đó. Nhưng tôi hỏi chú một câu nhé, khi nghe quý thầy bị cộng sản bắt bỏ tù... Chú cảm thấy trong lòng thế nào?”
“Thấy tội nghiệp quý thầy chứ thấy sao nữa,” Đức nói rồi bật cười.
“Không, ý tôi... à điều này khó nói thật. Tôi cũng chẳng biết tôi thực sự muốn hỏi chú điều gì. Để coi nào... à, ý tôi muốn hỏi là chuyện quý thầy thấy chuyện bất bình mà đứng dậy đấu tranh... Chú thấy sao?”
“Hết sức cảm dộng. Hết lòng kính phục,” Đức nói, giọng chân thật.
Tôi hỏi tiếp:
“Ngoài ra còn gì nữa?”
Đức lặng thinh, suy nghĩ một lúc:
“Tôi cũng muốn noi gương, muốn làm theo. Có điều... Cảm thấy mình bất tài, chẳng làm gì được.”
“Tôi không hỏi chuyện chú có kính phục hay noi gương làm theo. Tôi chỉ muốn biết, nếu có thể dấn thân như quý thầy ấy, có phải là có cái gì thôi thúc trong lòng chú, phải không?” tôi lại hỏi dồn. Đức cười, đáp:
“Có gì đâu. Chỉ là sự bất bình trước cái gì trái tai gai mắt, bất bình trước áp chế của bạo lực, hay là cái ước vọng đem lại an vui hạnh phúc cho số đông...”
“Đúng, đó chính là nguyên do. Nhưng tôi còn cảm thấy có một cái gì đầy hấp lực ở đàng sau, hay ở bên cạnh cái đại nguyện độ sanh nữa kia. Chú không cảm thấy cái hấp lực đó hở?”
Đức suy nghĩ một lúc, rồi lắc đầu. Tôi nói:
“Không lý nào nó chỉ là tâm lý riêng của tôi. Để tôi nói chú nghe thử xem nhé...”
Tôi đứng dậy, chống hai tay lên cạnh bàn, nhìn ra khung cửa sổ, nói tiếp, và trong khi nói, tôi cũng cảm nghe một nỗi xao động kỳ lạ cuộn lên trong lòng:
“Bên cạnh đại nguyện lợi sanh cứu đời, muốn tất cả mọi người đều được hạnh phúc, dường như kẻ dấn thân còn có cái khát khao được gánh thay tất cả nỗi khổ đau cùng cực của con người nữa. Điều này chúng ta đã đọc nghìn lần trong điều giác ngộ thứ tám của kinh Bát Đại Nhân Giác. Nhưng mới đây, khi tưởng nghĩ đến chuyện ở tù của quý thầy, tôi mới cảm thấy được cái hấp lực của khổ đau và chướng nạn... Dường như chỉ có chúng mới đánh động được toàn diện cái trường cửu bất biến của thể tính mà thôi. Phải chăng vì vậy mà một kẻ chưa hoàn toàn giác ngộ cũng có thể có được tâm vô úy? Từ suy nghĩ này, tôi lại có nghi vấn về lòng từ bi mà thầy Nhất Hạnh hay một số thầy khác đã viết. Lòng từ bi ấy, theo quý thầy, chỉ được nuôi dưỡng và được lớn mạnh thêm lên nhờ sự trực nhận thường xuyên cái đau khổ của con người, của cuộc đời. Nói vậy thì lòng từ bi ấy đã có giới hạn vì nó cần điều kiện đau khổ để tồn tại. Nếu con người không có đau khổ thì không có lòng từ bi sao? Và nếu lòng từ bi cũng mất còn theo sự đau khổ của thế gian thì lòng từ bi đó có thể vô biên, vô hạn, vô lượng được sao? Cho nên, chú đừng nói tôi điên khùng nếu tôi nói ra cái ý nghĩ này: thực ra, ngoại trừ những vị Phật và Bồ tát đã hoàn toàn giải thoát giác ngộ, cái động lực chính thu hút hành giả dấn thân vào việc tế độ là khát vọng thể nghiệm chân như Phật tính ngay trong chính cái đau khổ cùng tột mà bản thân mình gánh chịu chứ không phải là để cứu hết cái khổ cho mọi chúng sinh.”
“Nói như chú thì lòng từ bi còn có nghĩa lý gì nữa,” Đức nói.
“Sao không nghĩa lý. Chú tưởng khát vọng thể nghiệm chân như và hành vi cứu khổ là hai cái khác nhau sao? Tôi đâu có phủ nhận lòng từ bi. Tôi thấy chỉ là một. Nhưng thôi, cứ cho là hai như chú cũng được. Nếu là hai, tôi cho rằng, lòng từ bi làm khởi phát hạnh nguyện cứu đời; còn cái khát vọng thể nghiệm chân như thì đẩy xô hành giả thực hiện hạnh nguyện ấy. Thế nên, cái khổ của chúng sinh, chúng ta biết là không bao giờ hết mà vẫn cứ dấn mình vào con đường tế độ với thệ nguyện là phải cứu cho hết mới chịu thành Phật! Nghĩa là sao? Biết là đã làm, đang làm và sẽ làm một việc chẳng bao giờ có kết cục, vậy mà cứ làm! Là sao? Là vì khổ đau và mê vọng của con người, của chúng sinh, chỉ là giả tạo mà thôi; trong khi đó, chân như mới là cái thường tại. Như vậy, dấn thân cứu đời, thực ra là để trực nghiệm cái trường cửu bất biến chứ đâu phải mục đích chính chỉ là để chỉnh đốn hay cứu độ những cái chiêm bao mộng huyễn!”
“Mô Phật... Chú nói nghe cũng có lý lắm. Nhưng như vậy thì việc dấn thân cứu khổ sẽ mang một ý nghĩa khác, phải vậy không?”
“Đối với thế gian, hay nói cho đúng hơn, về mặt dụng, việc dấn thân ấy rõ ràng vẫn mang hạnh nguyện và hành vi cứu đời; chỉ trong cái bề sâu thẳm của tâm thức, hay về mặt thể, người ta biết rằng nó còn mang cả ý nghĩa truy cầu Phật tính nữa. Cho nên, bao vị cao tăng trên đất nước này, qua nhiều triều đại, đã nối bước nhau dấn mình vào con đường cứu quốc, hộ dân, bảo vệ đạo pháp. Đâu phải vị nào cũng thành công trong hạnh nguyện cứu đời. Thành công thì tốt, đất nước yên vui, nhân dân thái bình. Nhưng thất bại cũng chẳng sao. Khổ đau nào cũng sẵn sàng gánh chịu. Trước mắt, chúng ta có thầy Thiện Minh, thầy Tuệ Sỹ... Các thầy ấy đã thất bại rồi đó. Nhưng họ đang an lạc trong ngục thất, đưa thân mình ra gánh lấy tủi nhục của quê hương, lấy đại nguyện của mình ra mà rửa nghiệp cho dân tộc...”
Tôi nói ngang đó thì nghẹn. Chúng tôi im lặng một lúc. Đức nói:
“Nếu một ngày nào đó, chú lên đường... nhớ gọi tôi với nghe."
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018

Chương mười ba

Đồi Trại Thủy, đặc biệt là trên con đường Hoàng Hôn và những con đường dẫn lên viện Hải Đức, có hoa nở bốn mùa rất đẹp.
Hoa ở đây không phải chỉ nở trong những chậu kiểng trang trí trước sân chùa, quanh các thiền thất và các dãy tăng phòng, mà là hoa rừng. Hoa rừng đây cũng không phải là các loài hoa dại vô danh mọc chen nhau khắp lưng đồi. Hoa rừng đây là hoa phượng, hoa bằng lăng, hòe, mai và anh đào... Vì được trồng rất nhiều dọc theo hai bên con đường Hoàng Hôn, cũng như khắp vòng đai quanh viện, nên được coi như là hoa rừng. Chúng thay nhau trổ hoa vào mỗi mùa nhất định. Mùa hè có phượng vĩ, mùa thu có bằng lăng, mùa đông có sầu đông và hòe, mùa xuân có mai và đặc biệt nhất là anh đào. Như vậy, cứ nhìn màu hoa trổ sắc trên những chòm cây thì biết là mùa nào vừa đến; nhìn những xác hoa tơi tả rơi trên đường đồi thì biết mùa nào sắp trôi qua. Mùa hè, đồi Trại Thủy sáng lên màu cam phượng vĩ. Mùa thu, buồn lắng với màu tím của bằng lăng. Mùa đông lại tê tái ủ dột với màu vàng của hòe và sầu đông. Và mùa xuân thì rực rỡ hoa mai, nhưng nổi bật nhất vẫn là anh đào với những chùm hoa màu trắng hoặc hồng, bất thần hồi sinh từ những cành nhánh khô gầy tưởng như đã bị chìm khuất từ ba mùa trước đó. Nhìn từ xa, màu hoa kết thành từng dải, tụ lại hoặc bảng lảng tỏa ra khắp ngọn đồi. Và khi dạo bước trên đường Hoàng Hôn, khách bộ hành sẽ cảm thấy như đang dạo dưới những tán mây tuyệt sắc.
Bây giờ là mùa xuân của năm một chín bảy tám. Hoa lá mùa đông chưa mục hẳn trên lớp đất màu mỡ của những ngày đầu năm. Nhưng tôi biết có một khối u tình đã được chôn đi theo năm tháng.
Từ ngày rời chùa Linh Phong, không còn đi cúng đám suốt ngày nữa, tôi đã trở lại làm việc nơi hãng vị trai, mỗi tuần ba ngày, mỗi ngày từ tám giờ sáng đến mười hai giờ trưa. Tôi trở lại sinh hoạt bình thường, không còn đeo mang hình bóng Như Như thường xuyên và nặng nề như những tháng trước. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy gợn lên một chút buồn nhẹ trong lòng, rồi cũng trôi qua. Công việc của tôi bây giờ lại càng nhàn rỗi hơn trước, có lẽ do Thượng tọa giám đốc thương quí, cất nhắc tôi làm những công việc nhàn rỗi như vậy để có thì giờ đọc và học thêm—vì công việc tôi làm là công việc duy nhất của xưởng mà người làm có thể vừa làm việc vừa đọc sách. Công việc mới nhận này có thể nói là chẳng khác gì với công việc của các tiểu đồng ngồi canh lò luyện đan cho Thái Thượng Lão Quân trong truyện Tây Du Ký, nhưng thực tế thì nhàn hơn nhiều. Vì cái lò tôi phải ngồi canh là lò đốt bằng dầu cặn, có công tắc kiểm soát; còn nồi thì là nồi gang lớn, có nắp đậy, xiết ốc tán, trên nắp có đồng hồ đo nhiệt. Bên trong chẳng phải là thứ cao đơn hay tiên dược gì; chỉ là mấy chục cái bình sê-rum trong đó nhét đầy mạt cưa (sau khi chưng nấu ba tiếng đồng hồ, các bình này được đem vào phòng thí nghiệm, để bỏ meo nấm vào). Hễ thấy đồng hồ lên cao quá thì vặn lửa bớt xuống một chút. Đủ giờ thì tắt lò, và vì lò còn nóng, cứ để đó cho nguội, rồi sẽ có các thầy các cô trong ban làm meo nấm lo tháo ốc, mở nắp ra, đem các bình mạt cưa vào phòng thí nghiệm. Suốt nhiều ngày ngồi canh cái nồi mạt cưa ấy, tôi đã đọc được khá nhiều sách. Làm việc như vậy cho đến ngày hai mươi ba Tết, tôi được cho nghỉ để lo dọn dẹp ở viện.
Ba mươi Tết, sau khi hoàn thành những công tác tại viện, tôi theo thầy bổn sư lên chùa Diên Thọ ở Diên Khánh để cùng chú Quyết lo dọn dẹp, trang hoàng cho mấy ngày đầu năm. Nơi đây, có các nữ Phật tử ngang tuổi tôi, cũng là đệ tử của thầy tôi, đến phụ giúp công việc cho chùa. Thỉnh thoảng, các cô ấy cũng chuyện trò thân mật, vui vẻ vơi các chú ở chùa trong tình đồng đạo, đồng sư. Họ cũng có nét xinh tươi quyến rủ của nữ phái và đôi khi, có cô có ý làm quen, kết bạn với tôi mà lòng tôi cảm thấy lạnh băng, không hứng thú, không rung động. Có lẽ tim tôi cũng có điều kiện và lý lẽ riêng của nó: giống như cây rừng trên đường đồi Trại Thủy, chỉ nở hoa cho một mùa và một không gian nhất định nào đó. Cũng có thể nó khác cây rừng ở chỗ nó chỉ trổ sắc một lần rồi chết luôn. Nếu thực là vậy thì tâm tư tôi sẽ thoải mái, dễ chịu hơn, và cuộc đời tu hành của tôi may ra có triển vọng được sáng sủa hơn.
Mồng hai Tết, tôi về thăm gia đình. Hai năm rồi, những người trong gia đình tôi vẫn không thay đổi, không có tiến bộ gì hơn về chuyện sinh nhai. Cho nên không khí Tết ở nhà vẫn tiêu điều ảm đạm như hai năm trước tôi về thăm. Ba tôi lúc ấy đã trên sáu mươi. Nếu ông còn khả năng làm việc, ông cũng không chịu làm việc cho chế độ mới này. Nghe mẹ tôi nói, những người bạn văn thơ cũ của ông từ Bắc vào như Chế Lan Viên, Vũ Đình Liên, Phạm Huy Thông, Trần Thanh Mại, Trần Thanh Địch... đã đến thăm và đã có nhã ý sẽ đề bạt ông một vài công việc gì đó trong viện kiểm sát của thành phố, nhưng ông đã chối từ. Ông thà chết đói, ngồi vấn thuốc rê ở xó bếp, nhìn bâng quơ lên trời, hoặc nhìn đăm đăm vào một vết ố nào đó trên vách bếp. Anh Hậu, giáo sư trung học, đi theo toán phu kiều lộ để làm đường, chỉ kiếm được gạo ăn tiêu chuẩn (mỗi tháng chừng mười kí lô), ngoài ra, chẳng có lương hướng gì. Chị Thuần thì đi dạy các lớp bổ túc văn hóa trong khóm phường. Dạy miễn phí. Dạy để được nhà nước nhìn nhận là gia đình này sẵn sàng làm việc chứ không ai muốn ở không ăn bám xã hội. Chị Hồng, cũng là giáo sư trung học và đã từng là ca sĩ có danh một thời ở Sài Gòn vào những ngày cuối cùng của chế độ cộng hòa, tìm việc làm mãi không được, bèn trở vào Sài Gòn nhờ bạn bè kiếm việc giúp. Hiếu và Hữu, anh và em trai kế của tôi, đã tình nguyện đi kinh tế mới Nhiễu Giang sau khi trải qua bao khổ nhọc từ đoàn Thanh Niên Xung Phong, từ đủ các nghề lao động tay chân mà vẫn không đủ sống và không được nhìn nhận là công nhân chính thức, cán bộ nhà nước muốn sa thải lúc nào tùy hứng. Ba đứa em khác của tôi thì hãy còn nhỏ. Cả lô người ấy, quần tụ trong một căn nhà nhỏ để ăn Tết, tuy rằng ấm cúng thật đó, nhưng cũng se lòng làm sao. Ở nhà chỉ có trà để tiếp khách. Và có lẽ tôi là “người khách” duy nhất của gia đình trong thời gian ấy. Người ta ái ngại không dám đến thăm gia đình tôi không phải chỉ vì sợ vạ lây với một gia đình “ngụy quyền” mà còn sợ vô tình đụng chạm đến thể diện của gia đình tôi nữa—họ không muốn gây khó xử cho gia đình tôi trong việc tiếp đãi họ vào những ngày đầu năm mà theo tập tục truyền thống, ít nhất cũng phải có bánh mứt hay rượu thịt gì đó để chung vui. Tôi ngồi uống trà với ba tôi một lúc ở cái bàn gỗ duy nhất còn lại trong nhà. Chừng nửa giờ sau, tôi không chịu đựng nổi nữa, đứng dậy, có bao nhiêu tiền lương, tiền thưởng ăn Tết của hãng vị trai, tiền lì xì của thầy, tôi móc ra hết, đưa cho mấy đứa em, dặn chia hết cho cả nhà, rồi tôi về. Tôi đâu có dám đưa tiền cho ba mẹ hay các anh chị lớn của tôi. Chỉ có thể mượn danh nghĩa “lì xì” đầu năm để giúp được gia đình chừng nào tốt chừng đó. Trên đường về, tôi còn hối hận đã từng tốn tiền mua đàn, sáo, và quá nhiều sách... trong hai năm trước. Đáng ra, tôi phải sống hết sức đạm bạc và không nhu cầu như tôi đã từng như vậy từ những ngày ở Hội An. Nếp sống đạm bạc, đơn giản, không những là một phương thức để chế ngự thân tâm rất cần thiết cho những kẻ xuất trần, mà còn là cách hay để chia xẻ niềm đau với những người khổ nạn, nghèo đói trên cuộc đời. Cứ nhìn gia đình tôi thì tự khắc biết ngay dân tộc tôi, đất nước tôi hiện nay như thế nào. Hiện trạng ấy, không cho phép tôi sống theo ý thích của mình nữa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Trước khi về viện, tôi ghé thăm chú Đức ở tịnh thất của chú. Thấy tôi từ xa, Đức vui mừng bước ra đón:
“Chào thiền sư thi sĩ năm mới.”
“Xì, đừng nói vậy nghe xấu hổ quá. Mấy ngày Tết chú nằm nhà chứ không đi đâu hở?”
“Không. Chú còn có gia đình ở đây để đi thăm chứ tôi có ai đâu. Nằm nhà đọc sách thôi.”
“Vậy còn sướng nhiều. Thăm gia đình chỉ thấy lòng nặng trĩu thêm mà chẳng giúp được gì.”
“Sao vậy? Ở nhà có chuyện hả?”
“Chuyện gì đâu. Thất nghiệp đó mà.”
Đức nấu nước sôi chế trà, lấy mứt và hạt dưa ra mời tôi. Tôi buồn bã nói tiếp:
“Chẳng hiểu họ sẽ đối xử với quân nhân và giới chức của chế độ trước bằng thái độ thù hằn như vậy cho đến lúc nào mới dứt. Chú biết không, mợ tôi có ba người con gái lấy ba người chồng sĩ quan. Ba anh đều là thiếu tá. Một anh ngành Quân y, một anh Công binh Chiến đấu, một anh Không quân. Ba anh đều bị bắt đi tập trung cải tạo. Khiếp thật! Ba năm rồi, chẳng thấy về. Vậy mà ở nhà ai cũng tưởng đi chừng một, hai tuần. Cứ xét từ gia đình thân quyến của tôi thì phỏng đoán được trong cả nước ít nhất cũng phải có hàng trăm ngàn người bị bắt đi tập trung như vậy. Thực là một sự phí phạm. Chắc chú cũng biết là sĩ quan và công chức cao cấp của chế độ trước đa phần có khả năng, học thức. Giam hết họ vào tù và bạc đãi họ hàng thân quyến của họ thì đất nước này lúc nào mới ngóc đầu lên được!”
Đức góp lời:
“Đúng là một chế độ ấu trĩ, xuẩn ngốc!”
“Không phải xuẩn ngốc. Phải nói là bệnh hoạn! Đức à, máu gì chảy trong thân tôi sao mà nóng quá...”
“Thôi, nhịn đi chú ơi. Cái nghiệp của dân tộc như vậy, phải chịu thôi.”
“Nói vậy đâu được. Cái gọi là nghiệp dĩ, tức là nghiệp đã được định, đã kết thành quả thì không đổi được nhưng cái nghiệp nhân chưa gieo, hoặc mới gieo, thì đổi được chứ. Đứng vào thời điểm này mà nói, miền Nam hay cả nước lọt vào tay cộng sản là cái nghiệp dĩ của dân tộc, phải chịu, tôi đồng ý. Còn từ bây giờ về sau thì sao? Còn về chính sách cai trị của một chế độ thì sao? Cái đó lúc nào cũng có thể trở lại bước đầu và được coi như là nghiệp nhân mới gieo, hoặc sắp gieo, có thể sửa đổi được chứ. Nếu họ không muốn sửa thì người dân phải sửa. Nếu họ không muốn làm, người dân phải làm.”
Đức ngó tôi, sửng sốt, xua tay nói:
“Thôi chú ơi. Họ sử dụng bạo lực sắt máu như vậy thì dân nào mà dám hó hé. Uống trà đi. Nói chuyện khác cho khuây khỏa. À, lâu nay chú có gặp chú Thể không?”
“Không. Chú ấy sao rồi?”
“Tôi mới gặp hôm qua. Dạo này chú ấy sướng rồi.”
“Gì mà sướng?”
“Thầy Trừng Hùng cho tiền chú Thể và chú Xứng đi học kèm toán và Anh văn.”
“Cái gì? Có chuyện đó thực sao?”
“Thực, ai nói dối chú làm gì. Chú Thể khoe với tôi như vậy mà.”
“Lạy Phật! Tạ ơn đất trời đã xoay chuyển cục đá thành cái hoa. Hay quá! Nguyên do nào khiến thầy Trừng Hùng thay đổi dữ vậy?”
“Chẳng biết nữa. Có thể nghe Phật tử thân tín nào đó đề nghị. Cũng có thể do gia đình thầy ấy yêu cầu. Chú Xứng em ruột thầy Trừng Hùng từ Huế vào ở tại chùa Linh Phong mà. Lo cho em thì phải lo luôn cho chú Thể chứ.”
“Dù là vậy cũng quí hơn xưa nhiều lắm. Mừng cho chú Thể.”
“Chưa hết đâu, thầy Trừng Hùng còn có một thay đổi lớn nữa đó.”
“Gì nữa?”
Đức nói nhỏ giọng xuống:
“Chú Thể nói là thầy Trừng Hùng đang lo cho chú Xứng và cả chú Thể đi vượt biên.”
“Quá hay! Vậy là tôi tin thầy Trừng Hùng đã thay đổi hoàn toàn thành con người khác rồi đó. Chú thấy không, cách đây nửa năm thôi, tụi mình hãy còn khốn đốn với thầy ấy, vậy mà bây giờ thầy ấy cởi mở, tiến bộ... hỏi sao không mừng. Dĩ nhiên là chuyện thay đổi của thầy ấy không còn ảnh hưởng hay quan hệ gì đến tụi mình nữa, nhưng từ nay các chú ở chùa Linh Phong sẽ thoải mái nhiều.”

Nửa năm trước, tôi đang ở viện thì chú Thể từ chùa Linh Phong qua, đem theo lệnh của thầy Trừng Hùng:
“Thầy Trừng Hùng bảo chú và chú Đức bắt đầu từ đêm nay phải về ngủ tại chùa Linh Phong. Ban ngày đi đâu làm gì thì làm, ở đâu thì ở, nhưng ban đêm phải về ngủ bên đó. Chú có gặp chú Đức thì nhắn dùm chuyện đó luôn nghe. Thầy ấy còn nói mấy chú không chịu về ngủ đêm ở chùa Linh Phong thì tên các chú bị gạch khỏi sổ hộ khẩu ngay. À, thầy còn dặn là các chú phải về chùa trước tám giờ tối.”
“Được rồi. Cám ơn chú. Để tôi nhắn chú Đức. Tối nay chúng tôi qua. À, lâu nay có ai đến hỏi tôi không?”
“Có mà không.”
“Là sao?”
“Có là người đó có đến. Không là vì người đó không vào chùa, cứ lảng vảng ở bậc tam cấp một lúc rồi về, không chịu hỏi ai hết. Phải chi người đó vào chùa hỏi tôi một tiếng thì có câu trả lời rõ ràng của tôi rồi, đàng này... không chịu vào. Tôi đâu dám tự động bước ra hỏi thăm. Người đó đến chừng ba, bốn lần, rồi không thấy đến nữa.”
Kể từ đêm hôm đó, cứ bảy giờ tối, chúng tôi cùng đến chùa Linh Phong, mỗi đứa một cái đãy, mang theo cái y (ca-sa), mùng và một cuốn sách để đọc. Ba giờ rưỡi khuya, khi thầy Trừng Hùng và chú Thể tụng thời công phu, tôi và Đức rời chùa trở về viện và tịnh thất. Mấy đêm đầu chúng tôi bật đèn nê-ông bên dãy nhà Đông để ngồi đọc sách nơi cái bàn lớn. Nhưng một đêm nọ, thầy Trừng Hùng bảo chú Thể gọi chúng tôi qua dãy nhà Tây.
“Thầy bảo các chú có học hay đọc sách gì thì qua bên nhà Tây ngồi đọc nơi bàn khách cho đỡ tốn điện. Đèn nê-ông bên đó có sáu tấc thôi, đèn bên này mười hai tấc tốn điện lắm. Với lại cũng là học với đọc sách thôi sao không dồn lại một chỗ lại chia làm hai bên tốn hai cái đèn!”
Chú Thể nói mà giọng nghe có vẻ mỉa mai, buồn cười. Tôi và Đức đành theo chú, đem sách qua nhà Tây mà đọc. Thấy chúng tôi cũng có vẻ ngoan ngoãn, biết sợ, thầy Trừng Hùng được trớn, lấn lướt thêm:
“Thằng Đức đọc sách gì vậy?”
“Pháp Hoa Huyền Nghĩa,” Đức đáp.
“Còn thằng Khang?”
“Sách của... Krishnamurti,” tôi đáp.
“Là ai, sách Tây hả?”
“Không, sách bằng tiếng Việt.”
“Chứ mi mới nói chi mà kít-na kít-ni đó. Đưa tao coi. Sách này đó à? Ông này là ai, có phải Phật giáo không?”
“Không,” tôi đáp.
“Vậy sao mi đọc? Không lo đọc kinh. Bộ kinh Phật không đủ cho mi đọc hở? Bộ mi đọc hết tam tạng kinh điển của Phật giáo rồi sao?”
“Đâu phải đọc hết kinh Phật rồi mới được đọc sách ngoài! Cũng phải đọc sách này sách nọ mới mở rộng được kiến văn chứ!”
“Không có cãi! Tao nói mà mi cãi à? Không phải trong luật Sa-di nói là sa-di bọn bây không được đọc sách ngoài sao! Bọn mi học luật rồi mà không biết chuyện đó ư?”
“Biết chứ, nhưng cũng có trường hợp biệt lệ; vả lại, luật Sa-di đó cũng xưa lắm rồi, có nhiều điều cần phải sửa đổi cho hợp với thời nay thì mới ổn,” tôi nói.
“Không có biệt lệ cho ai hết. Mi học ai, học ở đâu mà nói có biệt lệ mà còn đòi sửa chữa luật? Luật của Phật nói mà mi muốn sửa à?”
“Giới thì không sửa được, nhưng luật, nhất là các oai nghi, các nghi thức sinh hoạt, đâu phải lúc nào và chỗ nào cũng giống nhau, cho nên phải tùy theo thời đại, theo hoàn cảnh mà châm chước chứ. Mà cuốn luật Sa-di Oai Nghi trích từ Bách Trượng Thanh Quy, chỉ là một cuốn nội qui sinh hoạt thôi. Nội qui ấy được đặt ra cho các thiền viện bên Tàu thời xưa, mình lấy theo đó mà thôi, có phải chính xác của Phật dạy đâu! Các Tổ đã có thể tự đặt ra luật được thì chư tăng thời nay cũng có thể thay đổi được chứ sao không.”
“Không nói nhiều. Tao hỏi bốn cuốn luật Sa-di mi thuộc hết chưa?”
“Dĩ nhiên là thuộc từ lâu rồi. Thầy cũng đã biết là trước khi rời Nha Trang ra Hội An tham dự Phật học viện ngoài đó thì con đã thuộc hết các cuốn luật rồi mà,” tôi đáp.
“Vậy đọc tao nghe từ đầu đến cuối xem,” thầy Trừng Hùng bảo.
“Tại sao thầy muốn con đọc chứ?” tôi hỏi lại.
“Cứ đọc hết đi rồi tao nói.”
“Để khi nào có giới đàn tỳ-kheo, con đọc tại giới trường cho thầy nghe,” tôi bướng bỉnh nói.
“Không, đọc tao nghe ngay bây giờ, coi mi có thuộc luật, có hiểu kinh Phật không mà đòi đọc sách ngoài,” thầy Trừng Hùng gắt.
Tôi không kềm được vô lễ, nói cứng:
“Tôi không có bổn phận phải trả bài cho thầy,” (lần đầu tiên tôi dùng chữ tôi để xưng hô với thầy ấy), “hơn nữa, học luật chủ yếu là để thực hành, chứ thực ra đâu cần phải thuộc lòng; miệng thuộc lòng mà tâm ý, lời nói, hành động chẳng có chút oai nghi, chẳng đúng chánh pháp thì thuộc lòng cũng vô ích mà thôi.”
“Mi nói xéo tao đó hả?”
“Sao thầy lại nghĩ là tôi nói xéo nói xiên? Đó là sự thực. Đến một lúc nào đó, giáo sản, giáo chế và ngay cả giáo lý cũng cần phải được cải cách, tu chỉnh cho thích hợp với hoàn cảnh và căn cơ của con người thời đại. Thầy Nhất Hạnh có ngỏ lời kêu gọi như vậy trong Đạo Phật Hiện Đại Hóa, thầy đọc rồi mà?” (tôi phải mượn oai thầy Nhất Hạnh để đánh thức thầy Trừng Hùng, vì thầy Trừng Hùng luôn ngưỡng mộ và hãnh diện đã được xuất gia ở chùa Từ Hiếu, Huế, nơi xuất gia thuở xưa của thầy Nhất Hạnh).
“Thực có điều đó sao? Thầy Nhất Hạnh mà có ý làm chuyện đó sao? Ừ mà nếu có thì cũng đúng. Thầy Nhất Hạnh học rộng hiểu nhiều, có thể và có quyền làm chuyện đó; còn mi, mi chỉ là thằng điệu thôi, phải lo trau dồi bốn cuốn luật, học chữ Hán, đọc kinh... đọc suốt đời cũng chưa hết kinh Phật, làm sa-di suốt đời chưa chắc nên thân, bày đặt đòi cải cách cái gì!”
“Tôi không có đòi cải cách. Tôi nói vậy chẳng qua chỉ muốn nhắc thầy biết rằng, tôi không có bổn phận phải đọc kinh luật kiểu trả bài cho thầy nữa. Tôi có mặt ở đây không phải để thầy dạy những bài học vỡ lòng của thời còn chú tiểu đâu.”
“Vậy thì đi khuất mắt tao, đừng bao giờ bén mảng đến chùa này nữa, đừng có bất cứ liên hệ gì với chùa này nữa,” thầy Trừng Hùng dằn từng tiếng.
Tôi hiểu ý thầy muốn hăm dọa tôi về chuyện hộ khẩu. Cãi lời thầy thì thầy sẽ đến công an khóm phường xin gạch tên tôi. Điều này trước đây tôi rất sợ, bỗng dưng lúc này, tôi đâm liều, nói:
“Thầy cứ nói thẳng ra là thầy muốn gạch tên tôi khỏi sổ hộ khẩu đi, phải vậy không? Đâu cần phải nói úp mở! Thưa thầy, nếu thầy làm vua của cả cõi Ta bà này thì một ngày nào đó thầy cũng phải từ bỏ nó để giải thoát; nói chi cái tên ghi trong một cái hộ khẩu! Thực ra... tại sao tôi phải dính vào cái chùa này chứ? Tại sao mỗi đêm tôi phải xách mùng từ viện qua đây ngủ chứ? Nói cho cùng thì cũng chỉ vì bảo vệ cho một cái tên mà thôi. Bây giờ tôi không cần cái tên đó nữa. Thầy cứ mặc tình bôi xóa, gạch tẩy gì đó thì cứ làm.”
Nói rồi tôi đứng dậy, rời khỏi bàn, bước ra sân. Tôi còn nghe tiếng thầy Trừng Hùng nói với phía sau:
“Ừ giỏi, đi luôn đi. Ngày mai mi sẽ không còn cái tên ở hộ khẩu chùa này nữa.”
Nghe vậy, tôi càng mạnh dạn đi luôn xuống núi, trở về viện. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nói nhiều và ngang ngạnh nhất để bày tỏ quan niệm, bày tỏ sự bất mãn của mình đối với cung cách giáo dục của thầy Trừng Hùng.
Khoảng bốn giờ rưỡi khuya hôm ấy, chú Đức đến gõ cửa phòng tôi. Đức nói đêm trước chú tính chạy theo tôi nhưng bị thầy Trừng Hùng ngăn cấm.
“Chú liều quá, lỡ ông ấy làm thiệt thì phiền lắm. Có cứng thì cũng phải cứng đúng lúc, khi nào có hộ khẩu chỗ nào đó cho yên thân đã rồi mới bỏ hộ khẩu ở chùa Linh Phong được.”
“Tôi nghĩ là đúng lúc để nói điều đó rồi. Còn chờ đến bao giờ nữa. Thầy ấy cứ lấy cái hộ khẩu để kiểm soát, hăm dọa mình hoài. Làm vậy chẳng khác gì mượn oai chính quyền để chèn ép huynh đệ trong chùa mà thôi.”
“Thì biết vậy rồi, nhưng mình cũng phải ẩn nhẫn một chút chứ, chú từng nhắc tôi điều đó mà! Ẩn nhẫn. Chưa phải lúc đâu. Gắng giữ cái hộ khẩu cho đến khi có hộ khẩu khác hoặc ít nhất cũng phải đến lúc làm xong cái giấy chứng minh nhân dân chứ không thì phiền lắm. Ra đường công an nó hỏi tới là dính vô tù ngay.”
“Vô tù cũng được có sao đâu. Tôi muốn vào tù để tu một thời gian.”
“Thôi đi chú à. Đừng có đùa như vậy có ngày bị tù thực đó.”
“Tôi đâu có đùa. Không phải rằng hiện tại chúng ta cũng đang bị tù sao? Chú không thấy cái hộ khẩu cũng là một hình thức tù đày à? Có vô tù thì chẳng qua cũng chỉ là chuyển hộ khẩu thôi, có khác gì đâu chứ!”
“Ừ thì bản chất cũng có vẻ giống nhau đấy, nhưng dù sao, ở ngoài vẫn thoải mái hơn ở tù mà. Gắng thêm một thời gian đi. Tối nay qua đó ngủ lại. Nhịn ông ấy cũng giống như tránh voi, chẳng hổ mặt đâu. Ông ấy cũng đáng tuổi sư huynh mình mà. Hồi nãy trước khi tôi rời chùa, ông ấy có kêu tôi lại nói chuyện.”
“Nói cái gì vậy?”
“Nói rằng: từ nay mấy đứa bây muốn làm chi dó thì làm, tao không nhắc nhở kiểm soát chuyện học hành hay đọc sách báo chi nữa; nhưng nói thằng Khang buổi tối qua đây ngủ.”
“Vậy thì cũng đâu có gì đổi thay đâu.”
“Có đó chứ. Chuyện học, đọc sách, ông cho mình tự do rồi đó, không kiểm soát nữa. Mình chỉ về đó để ngủ đêm cho khỏi phiền chuyện hộ khẩu mà thôi.”
“Trời đất! Cái quyền tự do học và đọc sách là cái quyền của tôi, tôi phải có cái quyền đó, thầy ấy đâu có cho tôi được. Nói điệu đó sao nghe giống mấy ông cộng sản quá. Cứ cấm ngặt mọi thứ rồi lâu lâu nới ra một chuyện nhỏ, coi như là đã cho người ta cái quyền tự do rồi vậy!”
“Thôi thì người ta cho mình được cái gì thì cứ hưởng cái đó, từ từ rồi được thêm cái tự do khác. Nhịn thêm một thời gian đi. Thầy ấy nói vậy là đã nhường chú một bước rồi đó, chú nhường lại một bước cũng đâu có sao, phải không? Hơn nữa, không lẽ chú đành để tôi đi một mình sao! Mỗi tối xách mùng qua đó ngủ mà không có chú đi chung để trò chuyện, tôi thấy chán lắm đó.”
Cuối cùng, tôi cũng xiêu lòng. Và đêm hôm đó, tôi lại cùng chú Đức đem mùng qua chùa Linh Phong ngủ. Không bị ràng buộc bởi chuyện tập trung tại nhà Tây để học và đọc sách, tôi và Đức thấy không cần thiết phải đến sớm; vì vậy, thay vì đến chùa Linh Phong trước tám giờ như trước đó, chúng tôi đến trước mười giờ đêm—giờ mà theo người ta nói, công an bắt đầu các cuộc lùng xét, kiểm tra hộ khẩu. Đến chùa vào giờ đó, chúng tôi không bao giờ giáp mặt thầy Trừng Hùng. (Từ chín giờ tối, thầy ấy có thời khóa trì tụng thần chú Chuẩn Đề trong phòng riêng đâu chừng một giờ đồng hồ trước khi ngủ. Thời khóa ấy được thầy tinh tấn gìn giữ, không bao giờ bỏ qua—và có thể nói đây là đức tính cao quí duy nhất có được nơi thầy ấy đến nỗi dù đã nhiều lần bất bình, tỏ vẻ cứng đầu, nói nghịch ý thầy ấy, tôi vẫn luôn luôn dành phần quí kính thầy ấy về cái hạnh tinh tấn này). Chúng tôi chỉ cần gõ cửa bên nhà Đông, chú Thể mở cho chúng tôi vào giăng mùng ngủ. Ba giờ rưỡi khuya, khi chú Thể thỉnh đại hồng chung thì chúng tôi rời chùa. Thầy Trừng Hùng chỉ biết được chúng tôi có mặt tại chùa qua lời trình của chú Thể. Nhưng một đêm nọ, chúng tôi gõ cửa nhà Đông như thường lệ thì chú Thể mở hé cánh cửa, ló đầu ra nói:
“Mấy chú ơi, thông cảm cho tôi nghe. Tôi không dám để mấy chú vào. Thầy Trừng Hùng dặn đến chín giờ tối thì đóng cửa, khóa kỹ, không cho ai vô nữa. Thầy nói mấy chú đến trước giờ đó thì cho vô, không thì thôi. Nếu mấy chú đến trễ mà tôi cho vô thì thầy ấy đuổi cổ tôi ra khỏi chùa.”
“Không sao đâu, tôi hiểu mà, chú cứ đóng cửa đi. Thầy Trừng Hùng có hỏi thì nói có chúng tôi đến, ngủ ngoài hiên này cũng được,” tôi nói với chú Thể.
Thế là chúng tôi bẻ mấy nhánh táo nhơn mọc đầy phía sau núi, làm chổi quét sơ thềm hiên phía sau của nhà Đông, giăng mùng ngủ dưới đất. Chú Thể ló đầu ra cho chúng tôi mượn chổi, lại còn cung cấp giây cho chúng tôi nối thêm mà mắc mùng vào mấy trụ hiên to lớn của dãy nhà Đông. Thềm hiên này hướng về phía biển, có gió lồng lộng suốt đêm. Không có chiếu, chúng tôi phải dùng sách cùng với đôi dép để chận cho chân mùng khỏi bị gió tốc lên. Hai tháng đầu, kể ra cũng khá thú vị khi được nằm ngoài hiên nhìn ngắm trăng sao trước khi ngủ; nhưng mấy tháng liên tiếp theo đó thì trời đã vào đông, thỉnh thoảng lại có một đêm mưa, chúng tôi thường bị mưa tạt ướt sũng cả mùng màn và áo quần, phải chạy băng trong mưa, vòng qua mé hiên trước của nhà Đông mới khỏi bị ướt thêm và mới tránh bớt được những cơn gió lạnh cắt. Dù vậy, chúng tôi vẫn cứ run lên cầm cập. Ngay cả các phương pháp tập trung hữu hiệu nhất cũng không chế ngự được cơn run lạnh ấy. Chúng tôi đứng co ro như vậy mà chờ sáng. Có lần đứng nấp mưa dưới mái hiên, Đức nói: “Đôi lúc thấy mình giống như bọn trẻ mồ côi. Xa gia đình mà rồi ở chùa lại chẳng được yên thân tu học.” Tôi lặng thinh, chẳng biết nói gì để an ủi chú. Chú ấy lớn hơn tôi những sáu tuổi mà tình cảm gia đình hãy còn nặng lắm. Hễ có chuyện gì buồn tủi thì lại nhắc đến gia đình ruột thịt. Có lẽ vì gia đình chú ở xa hơn gia đình tôi.
Dù sao, chính nhờ thời gian ngủ ngoài hiên một cách tự do và có vẻ như chẳng còn liên hệ gì đến những người trong chùa, chúng tôi dần dần cảm thấy không cần thiết phải có mặt ban đêm ở cái hiên sau của nhà Đông nữa. Tôi cứ việc ngủ lại bên viện Hải Đức và chú Đức thì cứ việc ngủ lại ở tịnh thất của chú. Chuyện mang mùng đi ngủ đêm đã chấm dứt và câu chuyện về hộ khẩu cũng không còn được nhắc đến một cách nghiêm trọng nữa ngoại trừ khi có đợt bầu cử; lúc đó, chúng tôi được chú Thể thông báo phải qua chùa Linh Phong lấy thẻ cử tri từ thầy Trừng Hùng để đi bầu.
Cũng không thể quên được là sau đó một thời gian ngắn, có lần chú Thể bị thầy Trừng Hùng đánh bằng roi khá nặng tay, phải chạy xuống núi, không dám quay trở lại. Nguyên do gì thì chẳng biết. Tôi chỉ nghe chú Đức kể lại là chú Thể bỏ chùa Linh Phong, lang thang và ngủ đêm ở thềm hiên chùa Tỉnh hội, đói khát nóng lạnh chẳng ai hay biết. Cuối cùng, vì chẳng biết phải đi đâu và cũng vì sợ bị gạch tên khỏi sổ hộ khẩu, chú Thể đã quay trở về với thầy Trừng Hùng...
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 30 May 2018


Ôn lại những chuyện xảy ra tại chùa Linh Phong thời gian gần nhất, tôi sung sướng nghe được tin thầy Trừng Hùng cuối cùng cũng đã thay đổi. Ít ra cũng phải có người hoặc một hoàn cảnh đặc biệt nào đó làm lung lay cái khối sắt ấy. Tôi hứng cảm nói với Đức:
“Chú thấy chưa, thầy Trừng Hùng có thể thay đổi được thì suy ra, cái nghiệp khổ đau của dân tộc này cũng cơ hội chuyển hóa được. Tôi tin rằng với tấm lòng cùng trải ra một cách chân thành và tha thiết với quê hương, có ngày người dân sẽ rửa nghiệp được cho cả nước.”
Đức nhìn tôi một lúc rồi nói:
“Chú dạo này sao hay nhắc đến chuyện quê hương, dân tộc, với rửa nghiệp... quá há? Tôi e có ngày chú không thèm làm thi sĩ hay thiền sư nữa mà sẽ làm chí sĩ đó!”
Tôi cười, từ giã Đức để về viện. Đức tiễn tôi một đoạn, rồi bỗng nói:
“Có người hỏi thăm là Tết này chú có về Nha Trang thăm chùa và gia đình không.”
“Ai vậy?”
“Như Như chứ còn ai nữa. Tội nghiệp cô ấy, cứ nghĩ là chú đi Hội An.”
“Như Như đâu có gặp chú Thể, làm sao nghĩ ra được là tôi đi Hội An?”
“Tôi nói. Chú cũng có dặn tôi nói vậy, không nhớ à? Tôi đành phải nói dối với cô ta chứ sao.”
Tôi thở dài, và bỗng dưng lại nghe quặn lên một mối đau nhẹ trong lòng.
“Tôi đâu còn biết phải làm sao,” tôi nói với Đức.
“Làm vậy là đúng rồi chứ làm sao nữa. Có điều chỉ tội nghiệp cho Như Như. Trông cô ta buồn lắm. Mỗi lần thấy tôi đến là mắt cô ta như chực khóc. Thấy tôi thì nhớ chú đó mà.”
“Vậy chú đã trả lời Như Như thế nào?”
“Trả lời cái gì? À, trả lời chuyện chú về Nha Trang ăn Tết đó hả? Trả lời là không biết.”
“Ừ, vậy đi. Không biết gì hết. Để cô ấy chôn luôn tôi đi, như tôi đã chôn cô ấy vậy.”
“Nói gì nghe thấy ghê quá! Chôn! Nói quên nghe được hơn chứ.”
Tôi cười ruồi, không nói, đi thẳng về hướng viện. Vừa đi tôi vừa nghĩ: đâu thể quên được cái không thể quên; chỉ có thể chôn lấp nó bằng gió bão thời gian và đất cát không gian mà thôi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 31 May 2018

Chương mười bốn

Nhớ năm xưa khi tôi chưa xuất gia, cứ đến ngày Phật Đản, tôi và các em nhỏ thường theo ba mẹ đến chùa Tỉnh hội dự đại lễ, xem văn nghệ, rồi đi xem đoàn xe hoa của các công sở, hay các đơn vị quân đội đủ mọi binh chủng trong toàn thành phố, rước kiệu Phật đi khắp các đường lớn. Cờ Phật giáo giăng đầy các ngã đường. Lễ đài và tôn tượng đức Phật Thích Ca Đản Sanh được dựng lên khắp nơi. Mỗi căn nhà có người theo Phật đều là có giăng cờ, treo đèn. Ra đường là thấy ngợp cả rừng cờ năm màu của Phật giáo. Chuyện trang hoàng cờ xí đèn hoa để mừng ngày Phật Đản ấy chỉ là hình thức thôi, nhưng dẫu sao cũng là thứ hình thức cần thiết khiến người con Phật cảm thấy ấm lòng vì có cơ hội để biểu lộ được phần nào niềm kính tín của mình đối với một bậc thầy, một người cha cao cả của nhân loại. Niềm kính tín đó được giữ gìn, được tiếp nối từ nhiều đời, trở thành tập tục truyền thống của một dân tộc vốn có số lượng Phật tử đông đảo trên bảy mươi phần trăm dân số cả nước.
Mấy năm tôi mới xuất gia, đất nước thuộc chế độ Đệ nhị Cộng hòa, lễ hội Phật Đản cũng không vì hoàn cảnh chiến tranh mà bị ngưng trệ hay bỏ qua được, cả người theo Phật lẫn những người không theo Phật đều thích đến chùa hay ra các đường phố lớn để chờ đón đoàn xe hoa rước Phật. Trên các đường hướng về chùa Tỉnh hội, người đi dự lễ nườm nượp. Từ tam quan chùa Tỉnh hội, người ta phải chen nhau, nhích từng bước một qua khoảnh sân rộng để được đến gần lễ đài chính và khu vực chính điện. Còn đường Hoàng Hôn, đường Bình Minh và con đường từ Kim Thân Phật Tổ qua viện Hải Đức thì gần như ngập tràn những người là người. Cả ngọn đồi Trại Thủy lúc ấy là một đồi người.
Vậy mà từ ngày người cộng sản chiếm cả nước, những lễ hội Phật Đản cũng như Chúa Giáng Sinh trong nước đều bị trực tiếp hoặc gián tiếp ngăn cấm. Trực tiếp bằng cách nói thẳng với các nhà chùa, nhà thờ là không được tổ chức lớn; gián tiếp thì cho công an đến các chùa, các nhà thờ vào dịp lễ lớn, lấy cớ giữ an ninh trật tự cho ngày lễ nhưng thực ra là để ngăn cản người đến dự lễ; hoặc tinh vi hơn, tổ chức họp các tổ dân phố, tổ chức những ngày lễ gì đó chẳng mấy quan trọng của Đảng hay của địa phương, tổ chức ngày lao động “dâng Bác, dâng Đảng”, đúng ngay ngày lễ Phật Đản và Giáng Sinh để làm giảm bớt số lượng tín đồ tham dự. Nhà nước cố tình can thiệp và có lệnh cấm tụ tập đông người như vậy thì dân làm sao dám đi dự lễ hội. Nhà nước kỳ thị tôn giáo thì dân làm sao dám xưng mình là Phật tử hay tín đồ Thiên Chúa giáo. Vào ngày lễ Phật Đản, các vị sư tăng, sư ni cũng phải e dè không dám giăng cờ xí, không dám tổ chức lớn; có vị còn yêu cầu Phật tử thay nhau đến chùa trong nhiều ngày, đừng đến dồn một ngày quá đông sẽ bị công an dòm ngó, bắt bớ. Chùa còn không dám giăng cờ treo đèn thì ở các tư gia, các ngã đường, làm gì còn có chuyện trang hoàng cúng dường Phật Đản.
Như vậy đó, từ năm một chín bảy lăm đến một chín bảy tám là bốn ngày Phật Đản tiêu điều. Người ta chỉ thấy ở chùa Tỉnh hội giăng hai giây đèn màu kèm theo hai giây cờ Phật giáo chạy dọc theo mái cong của chùa tạo thành hình một chiếc thuyền đơn sơ một nét. Ở viện Hải Đức còn kém hơn: cũng một giây đèn màu, một giây cờ vải, tạo thành hình một đường thẳng vẹt với chiều dài khiêm tốn theo bề ngang của ngôi chánh điện cổ. Về hình thức, đại lễ Phật Đản chỉ khác với ngày thường ở hai sợi giây đèn và cờ đó mà thôi. Còn về nội dung, tức là phần hành lễ, ở viện cử hành vào giờ công phu, bốn giờ khuya, cử hành vào giờ đó thì Phật tử tham dự cao lắm là mười người mà là những người ở quanh xóm chùa chứ chẳng ở đâu xa. Rồi buổi trưa mười hai giờ có thêm một lễ trai tăng cúng Phật. Sau giờ thọ trai, chư tăng đi nhiễu quanh Phật ba vòng rồi cử hành lễ. Sau lễ ấy, cửa chính điện mở suốt ngày để Phật tử nào muốn vào lễ bái thì vào. Bên chùa Tỉnh hội, cơ sở trung ương của Giáo hội tỉnh, cũng chỉ tổ chức được lễ Phật Đản như thế là cùng. Trừ những năm còn nhỏ tuổi chưa xuất gia, tôi vốn không ham thích gì đám đông lễ hội. Vậy mà khi cái lễ hội truyền thông không được tổ chức, tôi lại cảm thấy buồn, thấy thiếu vắng thế nào đó trong lòng. Nhất là năm nay, việc cử hành lễ Phật Đản ở viện Hải Đức lại bị công an thành phố có lệnh cấm với văn bản hẳn hoi chứ không phải chỉ ra lệnh bằng miệng như mấy năm trước: cấm tụ tập đông người, chỉ được treo đèn kết hoa trong khuôn viên chánh điện, về việc an cư kiết hạ của chư tăng thì chờ sự duyệt xét của cấp trên (chẳng nêu rõ là cấp trên nào) mới được tổ chức. Thông thường thì lễ an cư kiết hạ của chư tăng được tổ chức ba tháng hè, từ ngày rằm tháng tư (tức ngày lễ Phật Đản) đến ngày rằm tháng bảy (tức là lễ Vu Lan). Trong ba tháng đó, chư tăng tập trung một chỗ để cùng tu tập và trao đổi kinh nghiệm hành đạo, không ra khỏi chùa ngoại trừ khi có việc gấp nhưng phải có sự đồng thuận của đại chúng.
Những ngày trước lễ Phật Đản, nghe tin viện Hải Đức phải chờ công an duyệt xét việc an cư kiết hạ, tăng chúng và Phật tử Nha Trang xôn xao cả lên. Các thầy trẻ bày tỏ sự bất mãn ra mặt với ban giám đốc, đặc biệt là đối với thầy bổn sư của tôi, vì ai cũng cho rằng thầy tôi ngoài chức giám sự thay mặt viện trưởng coi sóc mọi sinh hoạt của viện, còn là một chủ hộ chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi sinh hoạt của viện trước chính quyền, thì phải thay mặt cả viện để phản đối chính quyền về sự ngăn cấm an cư kiết hạ, một truyền thống lâu đời nhất của Phật giáo (lâu hơn cả lễ Phật Đản vì tục an cư kiết hạ có từ thời Phật còn tại thế). Nói thì nói vậy, chứ thực ra, đứng vào địa vị của thầy tôi, sẽ không vị thầy trẻ nào dám phản đối chính quyền một câu vào thời điểm căng thẳng đó. Thầy tôi im lặng chịu đựng sự chê trách nặng nề của chư tăng. Có vị cho rằng thầy tôi nhu nhược, hèn nhát. Tôi không dám có ý kiến gì trong việc bình phẩm thầy tôi, nhưng cũng như các thầy trẻ khác, tôi rất bất mãn về chuyện nhà nước can thiệp vào chuyện sinh hoạt nội bộ của chư tăng.
Một thầy trẻ lên tiếng trong buổi họp chúng được tổ chức trước lễ Phật Đản vài ngày:
“Chỉ tại mình xin nên họ mới thấy là họ có quyền cho phép. Mình đừng xin xỏ gì cả thì đâu có xảy ra chuyện cấm đoán hay chờ duyệt xét! Tổ chức lễ Phật Đản là tập tục lâu đời, họ hạn chế hay cấm đoán đã là quá quắt lắm rồi, nhưng cũng có thể nhân nhượng được đi, vì lễ Phật Đản có liên hệ đến số đông quần chúng ngoài viện, có thể nại cớ không muốn tụ tập đông người; còn an cư kiết hạ là chuyện nội bộ, chuyện thường lệ của viện, đã có từ lâu đời, thời nào cũng vậy, sao phải xin phép chứ?”
Thầy tôi giải thích:
“Có thầy Phước Châu biết mà, họ đã có lệnh trước đó là muốn tổ chức bất cứ lễ gì cũng đều phải làm đơn xin phép nhà nước trước, có sự chấp thuận của chính quyền hẳn hoi rồi mới được cử hành. Mình đâu có thể lặng thinh tự ý hành lễ được. Còn chuyện an cư kiết hạ tôi đâu có xin phép, họ tự đưa ra lệnh cấm theo đơn xin phép tổ chức lễ Phật Đản mà thôi. Hơn nữa, họ nói để chờ duyệt xét chứ có nói là cấm an cư kiết hạ đâu. Có thể họ sẽ có thông báo trước hoặc trễ lắm là vào ngày Phật Đản.”
Dù thầy tôi giải thích như vậy, cũng không ngăn được những lời gièm pha to nhỏ sau buổi họp. Giữa tăng chúng và ban giám đốc tự dưng lại có một khoảng cách rất khó chịu vì chuyện ấy.
Buổi sáng trước lễ Phật Đản một ngày, tôi có công tác dọn vệ sinh quanh thiền thất của Thượng tọa Thiện Siêu, viện trưởng. Tôi đang ngồi nhổ cỏ thì Thượng tọa từ thiền thất bước ra, xăn tay áo cùng ngồi xuống, nhổ cỏ giúp tôi. Mùa an cư kiết hạ năm một chín bảy sáu, vào những ngày tôi mới từ Hội An về, Thượng tọa có gọi tôi lên thiền thất, dạy tôi đôi điều về việc tu tập, rồi cho tôi tiền mua thuốc trị bệnh. Hôm sau, có lẽ do Thượng tọa giới thiệu sao đó mà đích thân Hòa thượng Từ Quang xuống phòng khách của viện, cho người gọi tôi đến, huấn thị đôi điều rồi cũng cho tôi tiền mua thuốc trị bệnh. Tôi lạy hòa thượng, không dám nhận thì ngài dạy:
“Sách xưa nói trên cho dưới không được chối từ mới gọi là kính. Chú bệnh thì phải lo chạy chữa. Thân không bệnh tật thì tham dục dễ sanh, nhưng cứ bệnh tật hoài thì làm sao an ổn mà tu tập được, cầm đi,” rồi hòa thượng nắm lấy bàn tay tôi, dúi tiền vào, trở về thiền thất.
Cái ân tình của các bậc cao tăng dành cho, tôi đâu dễ quên được. Lúc ấy, tôi đứng nhìn theo vóc hạc của vị hòa thượng già mà muốn rơi lệ. Cử chỉ nắm tay dúi tiền ấy, sao mà tình cảm lạ! Cái tình đó bao la và cảm động đến độ nó khiến tôi e sợ sẽ không làm được gì nên chuyện trong đời tu của mình để đáp ứng niềm kỳ vọng của các ngài.
Thoắt cái đã hai năm trôi qua. Bây giờ, cũng đã đến mùa an cư, Hòa thượng Từ Quang bệnh nặng ở Phú Yên, không vào Nha Trang được, mà chuyện an cư năm nay lại gặp ngăn trở, tôi cảm nghe bùi ngùi và ấm ức thế nào đó trong lòng.
Thượng tọa viện trưởng lặng lẽ nhổ cỏ, không nói gì. Tôi có cảm tưởng là ngài cũng buồn bã về chuyện chính quyền ngăn cấm an cư kiết hạ. Một lúc lâu, ngài hỏi tôi:
“Con nay khỏe hẳn chưa? Hết bệnh chưa?”
“Bạch thượng tọa, con đã khỏe,” tôi đáp.
Ngài im một lúc rồi bắt chuyện vui vẻ:
“Nhổ cỏ cũng là một pháp môn tu đó, chú có thấy vậy không? Người ta nói nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Câu ấy cũng ứng dụng được vào chuyện tu hành, dẹp trừ phiền não. Cỏ cũng giống như phiền não, nhất là loại cỏ cú như vầy có ai chăm bón đâu mà chúng cứ sinh sản, tràn lấn khắp đất vườn. Phải chịu khó nhổ từng cọng, và phải nhổ tận gốc, không thể lấy đất đá chèn lấp hay chôn sâu xuống là yên chuyện. Chôn xuống nó càng bén rễ thêm mà thôi.”
Tôi nghe vậy thì giật thót người, tưởng như ngài đã đọc được tâm niệm của mình. Tôi không nói gì, chỉ im lặng khắc ghi lời dạy đơn sơ mà quí giá ấy. Lời ngài giống như một lời cảnh cáo cho việc tu tập của suốt đời tôi.
Đúng ngày Phật Đản, tin tức chính xác về sự duyệt xét vấn đề an cư đã được thầy quản chúng thay mặt thầy tôi, thông báo cho cả viện: công an thành phố có văn thư ra lệnh cấm tổ chức an cư kiết hạ trong năm nay vì tình hình an ninh chính trị của cả nước. Tin này làm cho đại chúng thêm bất mãn, và thầy tôi càng bị châm biếm, gièm pha nhiều hơn. Không khí viện thật căng thẳng. Dù vậy, lễ Phật Đản vẫn được viện quyết định tổ chức đơn giản vào buổi trưa, sau đó tăng chúng của viện mặc nhiên tự giác tịnh tu trong ba tháng hè mà không cần hình thức kiết giới hay các nghi lễ thường lệ hàng ngày của mùa an cư.
Suốt buổi sáng ấy, tôi đến đâu cũng nghe những lời xầm xì, bàn tán về thầy tôi. Nhiều thầy trẻ đã gọi thầy tôi bằng hai chữ rất gọn: “chủ hộ”, thay vì gọi là “thầy giám sự”, “thầy trụ trì” hoặc gọi bằng đạo hiệu. Gọi một vị cao tăng như vậy chứng tỏ lòng họ không còn chút kính trọng nào nữa. “Chủ hộ” là từ mới có tại miền Nam sau năm một chín bảy lăm để chỉ một người làm chủ cái hộ khẩu (tức là tờ khai gia đình). Điều này làm tôi buồn lòng không ít. Buồn không phải chỉ vì thầy tôi bị xúc phạm mà còn vì sự bất kính với các bậc trưởng thượng chứng tỏ cái tôn ty trật tự của nhà thiền đã bị lung lay khá nhiều theo hoàn cảnh mới của đất nước. Khi những người cán bộ cộng sản ngang tuổi tôi nạt nộ, xỉ vả và gọi một vị hòa thượng già hay một cụ già đáng tuổi ông cố của mình bằng một tiếng “anh” thì đã có dấu hiệu của sự suy đồi văn hóa rồi. Và một khi trong mắt người cán bộ cộng sản, nhà chùa hay nhà thờ chỉ là những căn nhà (hộ), còn vị các sư trụ trì hay cha xứ chỉ là những “anh” chủ nhà chịu sự giám sát và cai quản của mình thì tôn giáo, biểu tượng của đạo đức quốc gia, đã không còn nền móng vững chắc để nuôi dưỡng và bảo vệ cái chân thiện mỹ của dân tộc nữa. Không rõ do đâu, từ sách vở hay từ lời dạy của một nhân vật nào mà tôi lại ý thức rất sớm về hiện tượng trên và chính điều đó làm tôi giật mình, cảm thấy mình và đồng bào đang ngồi trên một chiếc xe hư thắng bị tuột dốc mà người lái thì lại say sưa trong giấc mơ đầy huyền thoại... Tự dưng trong tôi nẩy sinh một ước muốn, một thôi thúc. Tôi muốn làm một cái gì đó để đánh thức anh tài xế, hay ít ra, cũng phải tìm được một cách thế nào đó để chận đứng chiếc xe lại. Cái thôi thúc ấy khiến lòng tôi nóng như lửa bỏng. Nhưng rồi tự xét lại mình, tôi biết, dù đã mười chín tuổi, tôi cũng chỉ là một chú tiểu ngây ngô bất tài. Ở viện này, tôi chỉ lớn hơn ba chú tiểu là Đăng, Thắng và Lịch. Tôi biết làm gì đây, biết đóng góp gì đây? Và có ai thấy cần thiết phải tiếp nhận sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi không?
Nơi chiếc bàn nhỏ ở hiên phòng khách, thầy tôi đang ngồi với một chồng sổ sách trước mặt, nhưng mắt thầy lại buồn bã, nhìn xa xăm ở đâu. Tôi không rõ những lời đàm tiếu của các thầy trẻ kia có đến tai thầy không. Tôi hy vọng là nếu có, thầy cũng không cần quan tâm. Tôi bước nhẹ đến gần chỗ thầy ngồi. Thầy ngước lên gục gặc đầu, rồi nhìn xa, hướng chân mây. Một lúc thì thầy nói:
“Nếu thầy nhớ không lầm thì cách đây chừng bảy hay tám năm, lúc đó con mới xuất gia thì phải... ừ, khoảng năm một chín bảy mươi. Lúc đó viện còn là viện Trung Đẳng Phật học, Hòa thượng Trí Thủ còn làm giám viện. Hòa thượng từ Sài Gòn về thăm viện nửa tháng. Con còn nhớ không?”
“Dạ nhớ, bạch thầy,” tôi đáp.
Thầy tôi gật gù nói:
“Hòa thượng cho gọi riêng con đến đảnh lễ tại phòng khách này, nhớ không?”
“Dạ nhớ. Hòa thượng còn bảo con thắp nhang bàn tổ,” tôi nói.
“Đúng rồi. Con biết tại sao lại bảo con đi thắp nhang bàn tổ không? Hòa thượng muốn nhìn tướng, muốn xét xem oai nghi của con đó. Khi con lui ra, Hòa thượng bảo sao con biết không? Bảo thầy cho con theo Hòa thượng vào Sài Gòn, ở gần Hòa thượng làm thị giả mà tu học tại tu viện Quảng Hương Già Lam. Tu viện đó do Hòa thượng lập nên, đông tăng chúng lắm. Các thầy các chú ở tu viện đều được đi học. Lúc ấy, thầy thấy con còn nhỏ, nên đã xin phép Hòa thượng cho con được ở lại viện này. Thầy còn hứa với Hòa thượng là sẽ cho con vào hầu Hòa thượng khi nào con trưởng thành. Vậy mà bây giờ... không được nữa.”
Tôi nghe nói chuyện đi xa, nhất là vào Sài Gòn, thì tự dưng toàn thân rúng động lên, như thể ở miền đất phía Nam xa xôi ấy có cái gì đó rất thân thiết, rất cuốn hút, đang chờ đợi tôi. Nhưng, không hiểu sao thầy tôi lại nói là không được nữa. Tôi nóng lòng hỏi:
“Bạch thầy, sao không được ạ?”
“Vì... vì cái gì đâu! Hòa thượng vẫn ở trong đó, nhưng cái chính quyền này, đi đâu cũng phải xin giấy thông hành, ở đâu cũng phải có hộ khẩu. Làm sao con đi được chứ! Tháng trước, thầy Thiện Vinh đi đâu vắng ba đêm, vậy mà họ gọi cả thầy lẫn thầy ấy xuống đồn công an thành phố vấn cung, làm tự kiểm suốt cả tuần. Rồi họ cho người thay nhau lên viện kiểm tra, dò xét... Họ còn hăm dọa bắt giam nếu có ai đi vắng cách đêm mà không xin phép họ trước. Cứ như vậy thì ai ở đâu ở yên đó, chẳng muốn đi đâu nữa. Đâu phải mình sợ họ, mình chỉ sợ phiền những người khác trong viện thôi.”
“À, con tưởng lý do nào khác chứ lý do đó thì...”
Tôi nói chưa dứt câu thì thầy tôi cắt ngang:
“Thôi, khỏi bàn nữa. Có thể sau nầy sẽ có lúc người ta dễ dãi hơn về vấn đề đi lại, cư trú, lúc đó hãy tính.”
Câu chuyện ngang đó thì ngưng. Nhưng tôi nghĩ, rõ ràng là thầy tôi không phải chỉ muốn nói với tôi ngần ấy. Hình như thầy còn cố tình gợi ý cho tôi đi xa. Trước đây tôi từng có ý nghĩ là thầy tôi không muốn tôi ở gần thầy. Bây giờ ý nghĩ đó quay trở lại. Tôi đoán đâu có sai. Thầy tôi muốn tôi đi xa. Mà tôi cũng vậy, tôi muốn lên đường. Nơi đây, đối với tôi bây giờ, dù vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, nhưng tù túng quá.
Tôi định quay bước đi thì thầy tôi gọi lại nói:
“Con có tiếc là trước kia không được thầy cho theo Hòa thượng vào Sài Gòn không?”
Tôi thưa:
“Dạ không, ở đâu con cũng tu học được.”
“Dĩ nhiên ở đâu cũng tu học được nhưng có chỗ thích hợp cho mình vào giai đoạn này, có chỗ thích hợp cho mình vào giai đoạn kia. Con có biết tại sao lúc đó thầy chưa muốn cho con đi không?”
“Dạ không,” tôi đáp.
“Vì lúc đó con mới xuất gia, chưa được trui luyện chút nào cả, vào Sài Gòn con sẽ bị tập nhiễm theo hoàn cảnh xô bồ trong đó để rồi hư thân như nhiều thầy trẻ khác.”
Tôi cúi đầu thầm cám ơn thầy, và tôi cũng tự xấu hổ biết rằng cho đến bây giờ, dù đã qua tám năm tu học, tôi vẫn chẳng được gọi là có trui luyện chút nào. Tôi đâu quên rằng tôi đã bị lạc hướng một thời gian để mơ mộng hình bóng Như Như đến nỗi tán loạn tâm ý, không thiền định được. Thầy tôi đâu biết rằng nếu bây giờ có điều kiện vào Sài Gòn, tôi cũng sẽ lên đường với một tâm chí chưa được thuần thục không hơn gì những ngày chập chững mới vào tu cả. Tôi vừa mới nghĩ vậy thì thầy tôi lại tiếp:
“Không phải thầy nói bây giờ con đủ bản lãnh, không còn sợ ngoại cảnh lôi kéo nữa. Ai cũng có chỗ yếu của mình, nhưng nếu biết rõ đó là chỗ yếu thì cái yếu sẽ thành mạnh... Thực ra, điều thầy muốn nói với con, không phải ở chỗ yếu hay mạnh,” thầy tôi ngưng một lúc, rồi tiếp, giọng trầm xuống, “yếu với mạnh không quan trọng; quan trọng là còn. Mà theo cách thầy nhìn, chỉ có phương Nam mới thích hợp với con mà thôi. Tiếc thay! Cái nhỏ bó cái lớn! Ồ, chuông báo giờ hành lễ rồi à? Thôi, đi.”
Tôi quay trở về phòng mà cứ thắc mắc câu cuối của thầy: “Tiếc thay! Cái nhỏ bó cái lớn!”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 31 May 2018


Không có cách gì để thông báo cho Phật tử biết là công an ngăn cấm việc tụ tập đông người nên vào giờ cử hành lễ Phật Đản chính thức, ở viện cũng có khá đông người tham dự. Trong buổi lễ, đang đứng chắp tay hướng về Phật, tự dưng tôi cảm giác rằng có một người nào đó đang nhìn tôi từ phía sau; và cái nhìn ấy phải kèm theo một nhu cầu tha thiết lắm mới khiến toàn thân tôi rùng lên, ớn lạnh... Tôi không dám quay nhìn. Xong lễ, tôi cúi mặt, vội vàng trở về phòng, thay y áo. Vừa thay xong chưa kịp nghỉ ngơi, đã có tiếng gõ cửa, ban đầu hơi gấp; nhưng sau đó thì từng chập ba tiếng như e dè, hồi hộp. Tôi đến bên cửa, hỏi nhỏ:
“Ai vậy?”
Bên ngoài không có tiếng đáp, hoặc có một tiếng thốt lên nho nhỏ đã bị loãng đi trong tiếng người rộn rịp quanh thềm chánh điện. Tôi mở cửa: trước mặt tôi là Như Như. Trong một thoáng ngỡ ngàng chưa biết phải nói gì, tôi thấy đôi mắt tươm lệ của nàng ngước nhìn tôi, vừa mừng rỡ, vừa hờn trách. Giọng nàng rung rung, chỉ thốt lên được một tiếng:
“Khang...”
Tôi đứng im nhìn sững nàng một lúc khá lâu, rồi mới sực ý thức rằng cái hình bóng mà tôi ngỡ đã chôn đi với thời gian đang hiện hữu sờ sờ trước mắt và không chỉ hiện hữu như một hình bóng trong tâm tưởng, mà là một con người bằng xương bằng thịt, sinh động, kiều diễm một cách sáng ngời và rực rỡ trong chiếc áo dài trắng tinh tuyền và làn tóc óng như mây buông trên bờ vai nhỏ... Tôi run lên lẩy bẩy, vụng về nói:
“Như Như mới đến chơi?”
“Hôm nay lễ Phật Đản mà. Em thấy Khang tụng kinh lúc nãy nên sau lễ, em theo Khang đến phòng này. Đây là phòng riêng của Khang đó hở?”
“Ừ, phòng riêng. Như Như vào đi,” tôi nói rồi mở toang cả hai cánh cửa lớn ra.
Như Như khẽ bước vào, đưa mắt nhìn quanh phòng một lượt. Tôi kéo chiếc ghế dựa duy nhất trong phòng đến cho nàng, rồi tôi ngồi xuống ở đi-văng. Như Như vén nhẹ vạt áo dài sau, nhưng vẫn tần ngần chưa chịu ngồi, nàng nhìn dáo dác ra ngoài cửa như tìm kiếm hay ngó chừng ai. Tôi nhớ sực đến thực tế rằng nàng từng bị gia đình cấm ngặt chuyện giao tiếp với tôi. Tôi hỏi:
“Như Như đi với ai vậy?”
“Với một đứa bạn học. Em bảo nó ngồi chờ ở ngoài... Ôi may mắn sao nó lại rủ em đi chùa này để rồi tình cờ gặp lại anh...” nàng nói đến đó thì nước mắt chảy thành hai dòng, giọng đổi thổn thức, “Khang ơi... Có phải anh từ Hội An mới về không? Hay là lâu nay anh ở đây? Anh tránh mặt em, anh không thương em... phải không?”
Tôi ấp úng không biết trả lời sao. Ban nãy tôi hãy còn lo ngại những người qua lại trước thềm chánh điện sẽ nghe thấy hoặc dòm ngó chúng tôi; bây giờ, nghe tiếng nức nở của Như Như, tôi không kềm được thương cảm, đứng dậy, bước đến gần nàng, đưa ngón tay trỏ trái lên, chậm nhẹ những giọt nước mắt của nàng. Khuôn mặt nàng đã gầy đi khá nhiều so với những lần gặp gỡ trước đây. Trong một phút se lòng nghĩ đến nỗi đau khổ mấy tháng nay của nàng, tôi lại quên đi tất cả những lý tưởng, những hoài bão, những cao vọng ngất trời của một kẻ xuất trần, đặt nhẹ tay mình lên vai nàng, vỗ về trong im lặng. Nàng quay mặt qua, áp má nàng lên tay tôi, kềm tay tôi giữa má và vai nàng. Nước mắt nàng nhỏ từng giọt, từng giọt xuống lưng bàn tay tôi. Một lúc lâu, nghe chừng nàng đã nguôi nguây, tôi nâng má nàng lên, rút tay về. Tôi trở lại chỗ đi-văng, nói dối:
“Có đi xa đó chứ. Đi Hội An. Mới về lại hơn tuần nay. Dì Nữ không nói với Như Như à?”
“Dì Nữ hả? Dì đâu nói chi. Trước đây lúc thì nói anh ra Huế, lúc thì nói anh ra Hội An. Chẳng biết đâu là thực. Dì ấy đâu có nói thẳng với em, chỉ nói với mẹ thôi, nhưng cố ý cho em nghe để em không mong gặp anh nữa. Bây giờ... gặp lại anh, em không để anh bỏ đi lặng lẽ không lời từ giã như vậy nữa đâu... Anh ác lắm,” nàng lại khóc, “anh nói thực đi, Khang à, đâu phải anh không thương em. Em biết mà. Nếu anh không thương em, anh đâu cần phải làm như vậy...” nàng nghẹn ngào một lúc rồi nói tiếp, “mà nếu anh thương em, anh cũng đâu cần phải làm như vậy chứ. Thương nhau đâu có tội lỗi gì đâu! Em nghĩ chỉ có làm khổ nhau thì mới là điều tội lỗi thôi.”
“Ừ... anh có lỗi với Như Như. Nhưng anh không biết làm gì khác. Không lý anh lại tránh cái lỗi này để chọn một cái lỗi khác to lớn hơn,” tôi nói.
Nghe tôi xưng tiếng “anh” đầu tiên kể từ ngày quen nhau, mặt nàng bỗng đỏ ửng lên, và miệng nàng nở một nụ cười duyên dáng, nói ngay:
“Em biết từ nay sẽ không có gì ngăn cản hai đứa mình được nữa đâu.”
“Sao vậy?” tôi hỏi.
Nàng nhún vai nói:
“Đâu có ai ngăn cản được sự thật. Người ta thường nói vậy mà. Nếu em thực tình, anh cũng thực tình, thì không gì ngăn trở được nữa.”
Nàng nói câu đó với giọng tự tin và lạc quan lắm. Tội nghiệp Như Như! Nàng không biết rằng từ cửa chùa, tôi được giáo dục cho một cách nhìn cuộc đời qua đó, tất cả những gì gọi là giả trá hay ngay cả những gì gọi là chân thực, cũng đều là những hư thực được diễn ra trong một giấc mộng. Cho dù có những lúc tôi mê mờ quên mất cái căn nguyên huyễn mộng ấy, nhưng trước sau gì rồi sự vật cũng trở về với bản chất nguyên ủy của chúng.
Có dáng người con gái khe khẽ bước tới gần phòng tôi mà không dám lên tiếng, cũng không dám bước vào. Từ trong phòng nhìn ra, tôi không thấy mặt người ấy vì bị cái trống lớn che khuất. Nhưng tôi cũng đoán được người ấy là bạn của Như Như. Tôi nói nhỏ:
“Có lẽ bạn Như Như muốn về đó.”
Như Như vén lại tóc mai, lau vội chút nước mắt sắp sửa ráo ở khóe mắt, quay nhìn ra ngoài:
“Đúng rồi, con Giang bạn học cùng lớp của em đó. Nó giới thiệu em đi chùa này chứ em đâu có biết. Khang chờ em ra nói chuyện với nó một chút nghe.”
Nàng ra ngoài. Hai người bàn nói gì đó một lúc khá lâu Như Như mới quay trở vào.
“Em phải về. Con bạn em có việc phải về nhà trước hai giờ rưỡi. Em muốn ở lại chơi với anh đến chiều vì em chưa nói hết được những gì em muốn nói, nhưng bỏ nó về một mình thấy kỳ quá. Mai mốt em lên thăm anh, ở chơi lâu hơn, bù lại những ngày không gặp anh... À, em đã được nghỉ hè rồi. Em sẽ tìm cách đến đây với anh thường xuyên hơn. Chắc anh không đi đâu hở? Ủa, em quên hỏi lại anh cho chắc: anh sẽ ở đây luôn chứ không đi Hội An nữa, phải không? Hay là anh ghi địa chỉ chùa ở Hội An cho em đi... lỡ mai này anh có bỏ đi nữa thì em cũng biết ngõ mà tìm.”
“Thôi, ghi làm chi. Có đi Hội An nữa đâu mà ghi,” tôi nói, nhưng nàng cứ nài ép, cuối cùng tôi phải ghi địa chỉ chùa Long Tuyền xuống.
Khi tôi trao nàng mẩu giấy ghi địa chỉ, nàng nắm lấy tay tôi, cầm một lúc rồi hơi nhón chân lên, nói một câu thật nhỏ giọng vào tai tôi:
“Em nhớ Khang ghê vậy đó,” rồi nàng quay đi, nhưng đến cửa thì quay lại nói, “còn điều này nữa, em muốn dặn Khang: nếu gặp dì Nữ, Khang đừng nói em có đến đây nghe. Giả đò như em chưa biết Khang ở đây, vậy tốt hơn. Em về.”
Từ cửa sổ lặng lẽ nhìn theo, tôi thấy nàng và cô bạn học vượt qua đám đông, đi xuống bậc tam cấp ở phía trước chánh điện, rồi khuất sau bức vách đá nơi trụ cờ. Tà áo trắng của nàng thướt tha trong làn gió nhẹ. Lòng tôi lại rộn rã, không yên. Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng... Người ngỡ đã quên lâu, nhưng người vẫn bâng khuâng... Ôi, bao nhiêu pháp quán tưởng, bao nhiêu công phu thiền định, cũng tiêu tan theo tà áo lụa mỏng manh ấy. Dù cố gắng mấy, tôi vẫn không sao tẩy xóa được nàng bằng pháp quán bất tịnh. Pháp quán ấy đối với tôi bây giờ, chẳng qua chỉ là lấy tính chất dơ nhớp phủ lên, hoặc gán ghép cho cái trong sạch. Nó không còn công hiệu nữa. Nàng đã hiện diện trước mắt tôi, ngự trị trong lòng tôi, một cách thanh khiết, băng trinh và cao đẹp. Tôi khép cửa, bâng khuâng đứng lặng một mình trong phòng hồi lâu, bỗng xúc cảm ngâm lên một đoạn thơ của thầy Tuệ Sỹ:
“Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.”
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 31 May 2018


Thật là uổng công tôi xa lánh nàng nửa năm trời, trở về viện để tìm không khí u tịch mà tịnh dưỡng thân tâm, gần gũi thầy bổn sư là bậc cao đức... Cuối cùng, chỉ một lần gặp gỡ trở lại, nàng đã đánh quỵ tôi bằng nước mắt, bằng nụ cười và bằng niềm hy vọng hồn nhiên của nàng. Quả thật tình yêu giống như cây rừng cỏ dại— tôi từng ví như vậy—càng chôn sâu, nó càng bén rễ. Không có thứ đất cát hay gió bão nào có thể chôn lấp nó được.
Lần gặp gỡ ấy, vì chung quanh thềm chánh điện còn có nhiều người khác dòm ngó, lại có bạn của Như Như đứng ngoài chờ đợi, tôi và nàng chỉ trao đổi với nhau trong một khoảng cách ngập ngượng và trong một thời gian gấp rút; hoàn cảnh ấy, thời gian ấy, chưa đủ cho chúng tôi bắt nhịp trở lại với nhau để cảm thông và để có thể nói hết cho nhau được những gì mình muốn nói. Cho nên, từ lúc nàng về, tôi rơi trở lại vào trạng thái ngơ ngẩn, khật khùng của những ngày tháng trước đây lúc còn ở chùa Linh Phong. Có thể nói tôi đã suy sụp như một người bệnh nan y, không chú tâm vào được chuyện gì khác; đôi lúc tôi tưởng tôi không còn đủ sức để chờ đợi nàng thêm được nữa. Tôi muốn mặc áo vào, tự động xuống nhà nàng. Nhưng rồi tôi cũng cố gắng kềm lòng. Giữ lời hứa với nàng là không để cho gia đình nàng biết. Và tôi cứ ngồi thừ trong phòng hoặc quanh quẩn trước thềm chánh điện để chờ đợi nàng. Từng giờ, từng ngày trôi qua. Dù nàng đã hứa là vài hôm nữa sẽ đến thăm, tôi vẫn cứ ngóng nhìn, chờ đợi nàng ngay từ buổi tối cùng ngày và liên tục trong những ngày kế tiếp.
Tôi không ngờ là phải một tuần sau, vào giờ chỉ tịnh buổi trưa, nàng mới đến. Ngày ấy là ngày thường, quanh khu vực chánh điện và tháp trống vắng vẻ, không người qua lại. Tăng chúng của viện đang nghỉ trưa.
Đã một tuần trống vắng trôi qua! Một tuần ấy, đối với tôi là cả một thời gian đằng đẳng với bao nhung nhớ quắt quay hệ lụy. Cho nên, vừa nghe tiếng gõ cửa, tôi biết ngay đó là nàng. Mở cửa ra, trông thấy nàng, tôi run lên lẩy bẩy... Nàng im lặng bước một bước đến gần tôi hơn, ngước nhìn tôi với một chút ngập ngừng, rồi nàng ôm chầm lấy tôi. Tôi cũng quàng hai tay quanh dáng nhỏ của nàng. Chúng tôi ôm lấy nhau lần đầu tiên. Không âm thanh nào cần thiết được cất lên. Không sự giải thích hay mô tả cần thiết nào được mở ra. Chỉ có tiếng đập của hai trái tim va vào nhau, nghe như những bước chân lãng mạn của một cặp tình nhân nắm tay nhau trôn chạy đến một miền đất xa lạ nào đó không còn bóng dáng của con người và những ước lệ xã hội...
Tôi quên mất là bao nhiêu phút đã trôi qua. Chỉ nhớ là một lúc lâu, tôi giật mình nhớ sực là chúng tôi ôm nhau như vậy rất nguy hiểm vì cánh cửa phòng của tôi không đóng. Nếu lỡ có người nào đó bắt gặp thì thật là xấu hổ không những cho cá nhân chúng tôi mà còn cho cả viện nữa. Tôi gỡ nhẹ tay nàng ra, bước đến cửa, mở hẳn hai cánh ra. Như Như lúc đó như mới hoàn hồn, đặt một tay lên ngực, lúng búng nói:
“Khang ơi, em phải về ngay bây giờ. Ở nhà đã biết là hôm Phật Đản em đi với Giang đến đây, gặp anh. Có một người nào đó cũng đi chùa này vào hôm ấy, nói lại với dì Nữ... Em bị la mắng dữ lắm... Ôi, em chẳng biết phải làm sao. Thừa lúc ở nhà ngủ trưa, em lẻn đến đây với anh một chút thôi để anh khỏi trông. Anh cho em địa chỉ ở đây đi, để em viết cho anh, được không? Không hả? Sao vậy? Anh sợ quý thầy khác bắt được thư em, phải không? Trời ơi, tại sao em không được tự do như những đứa bạn em chứ? Ô, có lẽ... Chỉ tại vì anh không phải như những người con trai khác. Vì anh không muốn hoàn tục. Anh luôn luôn muốn trở thành một thầy tu tốt, có danh vọng... phải không?”
“Không, Như Như à, đừng nói mỉa mai anh như vậy. Chỉ vì anh không muốn hoàn tục, thế thôi. Chẳng phải vì danh vọng hay cái gì khác.”
“Nhưng, em biết là anh yêu em mà, phải không? Anh nói đi, nói thực em nghe đi, anh có yêu em không?”
Tôi lắp bắp nói nhỏ:
“Có.”
“Vậy mà anh vẫn không biết được anh phải làm gì sao? Em đang khổ sở với sự cấm cản, la trách của gia đình đây, anh không biết sao?”
Tôi buồn bã quay nhìn ra cửa sổ, nói:
“Anh biết, bởi vậy đã có lần anh nói với em: chúng ta chỉ bồng bột thôi... Chúng ta không nên... Chúng ta không thể... Và anh đã phải phấn đấu với chính anh để dẹp bỏ cái điều không thể ấy.”
“Nhưng anh đâu có dẹp bỏ được. Anh lánh mặt em, hơn nửa năm rồi, mà cuối cùng thì sao? Dì Nữ đã nói cho em nghe hết sự thực về chuyện ấy mấy ngày trước. Và dì còn lấy điều đó để xỉ vả em, cho rằng anh đã quyết tâm quên em mà em không biết xấu hổ, cứ đâm đầu vào... Ôi, đáng lẽ nghe được chuyện ấy, em nhục nhã không bước ra khỏi nhà nữa, nhưng không được... Vì em không sao chịu đựng nổi sự thiếu vắng anh. Khang à, dù anh có đánh giá em thế nào đi nữa, em vẫn muốn nói với anh rằng... em muốn gặp anh, muốn nhìn thấy anh mỗi ngày. Em khùng quá hả! Em thực tình không biết phải làm sao. Thôi, thì gặp anh được lúc nào, em vui lúc ấy.”
“Như Như à... nếu mình có thể coi nhau như anh em, có lẽ sẽ dễ chịu hơn.”
“Đó là cách giải quyết của anh đó à? Cho dù chuyện ấy có thể làm được đi, nhưng gia đình em, và những người khác, cũng không bao giờ chấp nhận được cái tình anh em đó của hai đứa mình. Anh chỉ giỏi cái tài tìm cách né tránh sự việc thôi chứ không trực tiếp giải quyết được nó.”
Lời nàng làm tôi giật mình, tự thấy xấu hổ. Nàng đã đúng. Tôi không ngờ nàng còn nhỏ mà có nhận xét sắc bén như vậy. Tôi chỉ biết né tránh, chẳng có chút sáng suốt, đởm lược hay bản lĩnh nào để giải quyết được êm thắm chuyện tình cảm của hai chúng tôi. Yêu vẫn yêu, tu vẫn tu. Đàng nào cũng hết lòng, đàng nào cũng muốn thành tựu. Mà hai lãnh vực đó chỉ có thể song hành với nhau được trong một vài tông phái Phật giáo ở Nhật Bổn hay Tây Tạng, chứ không thể nào được chấp nhận trong hai tông phái Phật giáo chính thống ở Việt Nam này. Tự dưng trong một phút bốc đồng vì cái quyền lợi tình cảm ích kỷ, nhỏ bé của riêng mình, tôi muốn điên tiết, muốn gào thét to lên với mọi người rằng: Tại sao? Tại sao Phật giáo Việt Nam không giống Phật giáo Nhật Bản hay Tây Tạng? Tại sao thầy tu không được yêu đương! Tại sao tôi không thể yêu một người rất đáng yêu! Tại sao bắt tôi phải chọn lựa chỉ một cái trong hai cái mà tôi rất mê thích!
Thấy tôi buồn bã, Như Như đổi giọng:
“Khang, anh giận em hở? Em xin lỗi nghe. Em nói chọc anh vậy thôi, chứ em không có ý bắt anh phải như vầy như kia. Em biết anh là người tu từ nhỏ, anh đâu có giống những người thanh niên khác, ở chùa đâu có dạy anh chuyện giải quyết vấn đề tình cảm và anh cũng đâu có kinh nghiệm gì để giải quyết. Em hiểu anh. Thực ra, như có lần em đã nói với anh, em muốn anh lúc nào cũng như vầy, trang nghiêm, hiền lành, thật thà, khờ khờ khạo khạo...” nàng cười khúc khích một lúc rồi tiếp, “anh là một ông thầy tu đẹp, dễ thương. Em thích nhìn anh như vậy. Em đâu có đòi hỏi anh phải hoàn tục hay phải... cưới em... Chỉ tại mọi người cấm cản em, không cho em gặp anh, không cho em tiếp xúc anh, nên em mới nghĩ đến những phương cách xa hơn để có thể có được anh mỗi ngày mà thôi.”
Nàng bước đến gần, đưa một tay lên, vuốt ngực tôi. Tôi gỡ tay nàng, nói:
“Không sao. Anh không giận Như Như đâu. Anh chỉ buồn là mình quá nhu nhược...”
“Tức là không đủ mạnh để cắt đứt tình cảm với em, phải không?”
“Không phải vậy. Nhu nhược là không đủ can đảm chọn lựa. Như Như có biết không... Có khi anh thấy anh say mê em như từng say mê con đường giải thoát vậy. Khốn nỗi, hai thứ đam mê ấy lại tách làm hai hướng đối nghịch.”
Như Như ngước nhìn sâu vào mắt tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên nàng thực sự hiểu được sự dằn vặt của tôi. Nàng chỉ có mỗi con đường yêu đương để bước, bị trở ngại thì có thể tìm con đường khác. Khó khăn của nàng, đau khổ của nàng, còn có thể lấy thời gian mà rửa sạch được. Còn tôi, cả hai cách chọn lựa đều có thể kéo theo suốt đời mình nỗi dằn vặt âm ỉ ở tận cùng cái chiều sâu mang mang hun hút của tiềm thức, của vô thức hay bất cứ ngõ ngách u u minh minh nào đó của tâm hồn...
Bỗng Như Như giật mình, nhìn đồng hồ, nói mau:
“Thôi, Khang ơi, em phải về kẻo nhà biết được là chết! Ủa, cái cầu thang gì vậy?”
“Cầu thang lên gác đó mà.”
“Có ai ở trên đó không?” Như Như hỏi giọng ái ngại. “Dĩ nhiên là không. Phòng này của anh thì trên gác đó cũng của anh, đâu có ai ở được.”
“Em lên coi một chút được không?”
“Thôi, khi nào coi cũng đâu có muộn. Bây giờ về kẻo bị la.”
“Anh nói cũng đúng. À này, em hỏi anh một câu, anh trả lời thực nghe. Suýt nữa em lại quên chuyện quan trọng nhất mà hôm nay em muốn nói.”
“Ừ, nói đi.”
“Nhưng anh đừng có hiểu lầm em nghe.”
“Thì nói đi, chưa nói sao hiểu lầm hay hiểu đúng được.”
“Em muốn đến đây, ở lại chơi tại phòng anh một ngày một đêm, được không?”
Tôi nghe vậy thì run bấn người lên, lúng búng nói:
“Ơ... như vậy kỳ quá... mà nguy hiểm nữa. Lỡ ai biết được...”
“Hồi nãy đến đây, em biết ngay là có thể được. Phòng anh nằm riêng biệt như vầy, có ai biết em đến đâu.”
“Nhưng... trong giới luật có nói...”
“Đó, anh hiểu lầm em rồi. Bộ anh nghĩ em bậy bạ lắm hả? Em có xúi anh phạm giới phạm luật gì đâu mà anh nói chuyện giới luật. Em muốn đến chơi với anh như em đã từng đi với con Giang bạn em ra Ninh Hòa ở lại đêm nhà nội nó vậy. Em chỉ muốn được gần anh, nói chuyện với anh, tâm sự với anh suốt ngày suốt đêm cho thỏa. Em đâu còn cách nào khác đâu. Anh chiều em đi mà. Ừ đi, ừ nhanh để em về kẻo trễ.”
“Ừ. Nhưng... bao giờ? Anh sợ quá! Hay để suy nghĩ lại đi,” tôi vẫn chưa đủ can đảm để chấp nhận cái đề nghị hấp dẫn đó của nàng.
“Không, phải quyết định ngay bây giờ, vì cuối tuần này, con Giang lại đi Ninh Hòa. Hôm qua nó có tới rủ em, đã được ba mẹ chấp nhận rồi. Bây giờ anh đồng ý thì em sẽ qua nói riêng với nó là em không đi. Nhưng nói với gia đình thì em nói em đi với nó... Anh hiểu không?”
“Không. Nói gì lòng vòng mà nói nhanh quá, chưa hiểu kịp.”
“Trời ơi, thiệt tình anh đó. Nói tóm lại là em được gia đình cho đi Ninh Hòa chơi nhưng em không đi Ninh Hòa, em lén đến đây với anh, ở chơi một đêm, đến chiều tối hôm sau, em về. Hiểu chưa, ông anh khờ?”
“Hiểu. Nhưng...”
“Không có nhưng nhị nữa. Này nhé, đúng bảy giờ tối ngày thứ sáu, em đến đây. Anh mở cửa sẵn cho em, đừng để em gọi hay gõ cửa lâu nghe.”
“Ừ. Nhưng, Như Như à. Về nhà em cũng phải suy nghĩ kỹ lại xem em có nên làm vậy không. Anh sợ...”
“Anh có tin em không?”
“Tin.”
“Anh có khinh em không?”
“Không.”
“Vậy là được rồi. Mục đích của em là được gần anh, nói chuyện vơi anh suốt ngày suốt đêm. Anh đừng nghĩ cái gì xa hơn để rồi sợ hãi. Anh nói muốn coi em như em gái thì hãy coi như em gái xem nào. Còn em, em tự hiểu em muốn gì mà. Em đâu có sợ, sao anh phải sợ chứ? Nhớ nghe, tối thứ sáu, bảy giờ. Hôm nay là thứ ba, còn một, hai, ba ngày nữa. Bây giờ em phải về. À, nếu tám giờ mà chưa thấy em đến thì biết là có trở ngại, đừng đợi em nữa. Em sẽ đến vào dịp khác.”
Nói rồi, nàng nhón lên hôn tôi nơi má. Tôi đỏ mặt cúi gằm đầu xuống. Nàng cười khúc khích rồi quay đi. Tôi bỗng nhớ sực một điều, gọi nàng lại hỏi:
“Gặp trường hợp ở đây có trở ngại thì sao?”
“Em lên, thấy trở ngại thì em về, đến nhà một đứa bạn gái khác, hoặc về nhà nói là hủy chuyến đi Ninh Hòa. Vậy nghe. Em về đây.”
Tiễn nàng một đoạn, tôi đứng lại ở thềm chánh điện. Nhìn theo dáng nàng vội vàng xuống núi, tôi thấy tội nghiệp cho nàng, và tôi vừa cười vừa lẩm bẩm: “Người nhỏ nhắn, hiền lành như vậy mà tính toán với ứng biến sao lanh quá!” Và tôi cũng cảm thấy ái ngại thay cho nàng. Nàng đâu phải hạng gái hư thân mất nết. Đối với tôi, tâm hồn nàng, cả con người nàng, sạch như băng tuyết. Vậy mà nàng đã phải sắp đặt mọi chuyện, dối cha mẹ, gạt bạn bè, để được gần tôi, chỉ để nói chuyện, và để đỡ nhớ. Điều này là do đâu và vì ai? Phải chăng do gia đình, do ước lệ xã hội? Hay chỉ vì do tôi, một kẻ xuất gia tham lam, chưa đủ nội lực và bản lãnh để quyết định chọn lựa một trong hai mối đam mê điên cuồng của mình?
Khi tôi quay vào phòng, nghĩ lại chuyện nàng sẽ đến vào tối thứ sáu, bỗng thấy toàn thân rung lên. Một nỗi rạo rực rất phàm tục, bốc dậy phừng phừng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Bụi Đường - Vĩnh Hảo

Postby bevanng » 31 May 2018

Chương mười lăm

Lão già từ đâu không biết, đột nhiên xuất hiện ngay trong phòng tôi, tự tiện kéo ghế, ngồi vào bàn viết. Lão ngồi hướng ra phía cửa sổ. Tôi đang nằm ở đi-văng, không thấy được mặt mũi lão ra sao. Tôi ngồi bật dậy, dụi mắt nói:
“Chào bác, bác... kiếm ai vậy?”
“Tôi đó à? Tôi có kiếm ai đâu. Chỗ nào có cậu thì chỗ đó có tôi, cần gì phải kiếm tìm chứ.”
Lão quay mặt lại, tôi giật mình. Cái mặt lão thấy mà khiếp, lại xuất hiện vào ban đêm, khiến tôi không sao khỏi rùng mình. Một cái mặt đầy những thẹo và vết nám. Giống như một vùng đất bị cày phá bởi đạn bom. Đôi mắt tinh ranh liếc tôi một cái rồi nhếch một nụ cười nham hiểm.
“Cậu tưởng tôi già lắm sao? Cậu bao nhiêu tuổi thì tôi bấy nhiêu năm, hà cớ gì phải gọi tôi bằng bác nghe khách sáo quá!”
“Ồ, thực vậy sao? Anh bằng tuổi tôi thôi à?”
“Vậy mà trông tôi già quá, phải không? Ừ thì tôi không được may mắn như cậu. Ở đâu cậu cũng được người ta quí chuộng, ưu đãi, yêu thương, nên cậu vui vẻ, tự tin, tự hào, tự tôn, tự cao, tự đắc, tự mãn, vênh mặt lên, mặt cậu phải trẻ trung, sáng sủa; còn tôi hả, ôi, có ai thèm ngó tới đâu. Người ta chỉ muốn nhìn những con người có cái bề ngoài dễ nhìn như cậu thôi. Rồi người ta đẩy tôi vào bóng tối, sống như một con chó hoang ghẻ lở. Ngay cả cậu nữa, không phải cậu đã giật mình khi nhìn cái bản mặt gớm ghiếc của tôi sao!” “Ô, đừng nói vậy... thực ra, đó cũng chỉ là bề ngoài; tính chất bên trong mới là quan trọng.”
“Cậu chỉ nói cho có, nói để an ủi, chứ thực ra, ngay cả cái gọi là tính chất bên trong của tôi cậu cũng khinh thường nốt. Cậu chỉ biết có cái tâm Phật, chỉ biết tìm kiếm và kính trọng cái tâm Phật mà thôi. Thôi, tôi không cần lời an ủi, khích lệ gì của cậu đâu. Chẳng thà cậu cứ nói chuyện với tôi một cách thành thực.”
“Thành thực đến mức nào anh mới vừa ý đây?”
“Mức nào à? Thành thực mà cũng có mức độ nữa sao?”
“Ý tôi không muốn nói vậy. Anh bắt bẻ từng chữ thì làm sao có thể trao đổi, có thể hiểu nhau được chứ.”
“Ha ha ha. Cần gì phải trao đổi mới có hiểu biết! Chẳng phải tôi tỏ biết cậu từ tận nguồn căn đến những ngọn ngành chi li của đời cậu sao?”
“Tôi không biết anh là ai, sao anh lại biết tôi?”
“Cậu không biết tôi à? Cậu biết đấy chứ. Đã nhiều lần cậu trông thấy tôi rồi mà. Cậu từng xua đuổi tôi rồi mà. Có điều cậu chỉ thấy cái gáy, cái lưng của tôi, còn xua đuổi thì cậu chỉ xua đuổi cái bóng của tôi mà thôi.”
“Hừm, nói gì khó hiểu quá. Thực ra, anh là ai, anh muốn gì?”
“Còn phải hỏi! Tôi đến đây là để mặc cả với cậu cái chuyện ấy.”
“Chuyện gì? Tôi không quen chuyện buôn bán hay mặc cả gì đâu nghe.”
“Hứ, cậu không quen với cậu không biết, mà thực ra, cả đời cậu là một cuộc mặc cả liên tục với những giá trị hảo-ố, thanh-trọc, vinh-nhục, đắc-thất, thiện-ác, chân-giả, thực-mộng, phật-ma, thiên đàng-địa ngục, niết bàn-sinh tử...”
“Ừ thì những người xuất gia như tôi ắt phải biết phân định được những giá trị sai biệt của những cái đó chứ.”
“Phân định để chọn lựa, chẳng phải là một cuộc mặc cả hay sao? Cho nên, tôi mới gặp cậu để thương lượng cái chuyện ấy.”
“Chuyện gì? Nói thẳng đi, không cần phải úp mở.”
“Ô là là, bình tĩnh, bình tĩnh, đừng có vội vàng hấp tấp. Cái chuyện đó nói ra cả tôi và cậu đều khoái. Nhưng để trong lòng, đừng nói thẳng ra thì còn khoái hơn.”
“Đừng có điên, chuyện gì thì nói ngay, đừng làm mất thì giờ tôi như vậy.”
“Còn chuyện gì nữa! Cái chuyện mà hiện nay cậu ngày đêm suy nghĩ, tưởng nhớ, mộng mơ, thèm khát, mong đợi và muốn chiếm hữu đó.”
“À, chuyện giải thoát giác ngộ...”
“Không, không phải, cậu đừng có vờ vĩnh, cậu đừng có tự dối lòng như thế. Đối với cậu bây giờ, giải thoát giác ngộ đâu có nghĩa lý gì chứ. Cậu chỉ muốn hưởng thụ những cảm giác êm đềm của tình ái, của dục lạc mà thôi.”
“Nói bậy! Thực ra anh là ai? Anh muốn gì?”
“Tôi muốn nói chuyện với cậu về Như Như.”
“Hả? Anh... anh biết cô ta à?”
“Hố hố, giờ này cậu mới biết hỏi câu đó thì có muộn lắm không! Trong khi cậu hãy dè dặt như một anh chàng quân tử trượng phu phong nhã lịch sự từng bước ngại ngùng và ngập ngừng bước đến với nàng thì tôi đã chạy vù đến ngay cái đích cuối cùng của khát vọng chiếm hữu.”
“Nghĩa là... nghĩa là sao? Anh đã làm gì cô ấy?”
“Làm gì ư? Cậu không tưởng tượng được nổi sao? Cậu kém nhạy cảm đến vậy sao? Ô, cậu tiếc rẻ, phải không? Ha ha, rõ ràng là vừa nghe vậy là cậu tiếc ngẩn tiếc ngơ. Này nhé, tôi nói cậu nghe, cậu hiểu chiếm hữu là gì chứ hả? Ừ, tôi đã chiếm hữu nàng. Tôi đến gần nàng, không nói một lời tán tụng xưng dương, không cần phải tập trung thiền định, không cần phải đếm hơi thở ra vào, không cần phải nhắm mắt nhắm mũi niệm Phật, tôi vuốt tóc nàng, tôi hôn lên đôi mắt sáng như sao của nàng, tôi hôn lên đôi môi màu hồng non của nàng, rồi tôi cởi chiếc áo dài trắng của nàng, rồi tôi cởi bỏ hết những gì nàng đeo mang trên người ra, rồi tôi xiết chặt lấy nàng, chúng tôi hòa nhập với nhau làm một. Hừ, cậu đừng có cười khẩy với tôi như vậy. Cậu không tin à? Cậu tưởng rằng tôi xấu xí như vầy thì Như Như sẽ không chấp nhận tôi sao, và cậu tưởng rằng nàng có thể từ chối sự hòa nhập đồng nhất với tôi sao? Cậu lầm rồi. Thực ra, Như Như không phải chỉ là người yêu của cậu thôi đâu. Cô ta còn là người yêu của tôi từ những tiền kiếp xa xôi lắm rồi. Khà khà, tóm lại là cuối cùng, chúng ta đã là người đồng cảnh, chúng ta đã có cùng một đối tượng, thú vị quá, phải không? Chỉ có một điều khác thôi là tôi đã chiếm hữu nàng, còn cậu thì hãy còn bận bịu đóng vai trò quân tử, bụng thì muốn mà ngoài mặt thì làm bộ nghiêm trang, mực thước, phấn đấu dằn co với ba cái lý lẽ và hoài vọng cao xa.”
“Vậy bây giờ anh muốn gì?”
“Thấy chưa, chính cậu tự mở miệng mặc cả với tôi rồi đó.”
“Tôi đâu cần mặc cả, tôi chỉ hỏi anh đến đây kể những chuyện đó cho tôi với mục đích gì, và chuyện đồng nhất giữa anh và nàng có can hệ gì đến tôi mà anh phải nói chứ?”
“Can hệ chứ sao không? Chẳng phải cậu cũng yêu Như Như và muốn được đồng nhất với nàng hay sao? Cậu trả lời đi, ở đây chỉ có cậu và tôi thôi, không cần phải e dè sự bàn tán, dị nghị của thiên hạ, hãy nói một chữ thôi, cậu muốn được thể nhập vào Như Như, muốn cùng với Như Như làm một, có không?”
“Có.”
“Vậy thì đây là yêu cầu của tôi: chốc nữa Như Như đến đây, ở lại đêm với cậu, và sẽ ở mãi cho đến tối hôm sau, phải vậy không? Trả lời đại đi, rồi tôi mới nói tiếp, tôi biết hết rồi mà giấu giếm gì. À, phải, cậu đã gật đầu công nhận. Nàng đến một thân một mình như thế lại chịu ngủ đêm ở đây chứng tỏ rằng nàng sẵn sàng chấp nhận chuyện đồng nhất với cậu làm một rồi. Cậu đừng có bào chữa. Thực ra, cậu cũng biết là nàng chỉ lấy cớ được gần cậu để nói chuyện thôi chứ thực ra, nếu cậu làm điều gì xa hơn cái mục đích đó thì nàng cũng chấp nhận thôi.”
“Đủ rồi, anh nói tiếp đi, đừng nói vòng vo làm gì.”
“Này nhé, nàng đã tự nguyện hiến dâng và cậu cũng muốn tiến đến sự thể nhập toàn vẹn với nàng, vậy thì, tôi nhắc cậu, ngay từ phút nàng đặt chân đến, cậu phải tự động gác bỏ hết mọi thứ, lột bỏ hết mọi thứ, không những chỉ lớp áo quần thô sơ ma bố mà cậu từng hãnh diện khoác mặc mà ngay cả những thứ gọi là giá trị tinh thần mà lâu nay cậu mặc chồng lên từng lớp trên người, cũng phải lột hết, vứt hết: nào là niềm tự trọng, nào là sự hổ thẹn, nào là ý hướng thanh cao, nào là phạm hạnh thanh tịnh, nào là lý tưởng xuất trần, nào là chí nguyện đạp đất vá trời, nào là tư tưởng dấn thân cứu đời, nào là hoài bão giải thoát... Có vất hết những thứ ấy thì cậu mới có thể có được sự đồng nhất với nàng.”
“Tưởng gì chứ phương cách để đồng nhất, để thể nhập thì tôi biết.”
“Cậu nói cậu biết à? Không, cậu không biết gì cả. Cậu chỉ học được phương cách thể nhập trên lý thuyết thôi. Và cái khát vọng thể nhập đó vì được nuôi lớn và tràn ngập trong cậu nên đôi lúc cậu đã tưởng rằng cậu có thể thể nhập vào bất cứ cái gì cậu muốn. Mà thực ra, trên thực tế, cậu chưa hoàn toàn thể nhập vào bất cứ cái gì cả. Bởi vì tâm cậu còn đeo mang nhiều thứ lắm. Cậu có quá nhiều lý tưởng, quá nhiều hình ảnh, quá nhiều biểu tượng, quá nhiều những ngôn từ và ý niệm chọn lọc. Đi đâu cậu cũng mang theo cả lô những thứ ấy. Chúng bò lổn ngổn, lảng ngãng trong cậu. Vướng bận như thế thì làm gì có sự đồng nhất, làm gì có thể thể nhập vào Như Như!”
“Nhưng, tại sao anh khuyến khích tôi làm chuyện ấy? Tôi làm chuyện ấy thì có lợi gì cho anh? Và tại sao tôi lại cần thiết phải thể nhập vào một Như Như mà anh đã từng chiếm hữu, từng thể nhập?”
“Xí, cậu rõ là một thằng ngốc. Cậu nhìn lại mình xem, tôi nói có sai đâu, cái đầu của cậu đầy ắp những ý niệm phân biệt, chọn lọc. Cậu hãy còn tôn thờ sự băng trinh, ghét bỏ sự ô uế. Cậu hãy còn khao khát cái quyền ưu tiên, đố kỵ sự thừa hưởng muộn màng. Ý niệm về thời gian và không gian hãy còn xếp hàng từng lớp từng dãy trong đầu cậu. Cậu tưởng rằng có kẻ nào thể nhập với Như Như rồi thì nàng sẽ hết trong sạch sao? Cậu tưởng rằng có kẻ nào thể nhập với nàng trước thì cậu sẽ là người đến sau sao? Đã nói là thể nhập thì làm gì còn có sạch-dơ, trước-sau, còn-mất! Cậu là một thằng ngu! Cậu chỉ biết chìm đắm trong những ngôn từ rỗng! Còn cậu hỏi nếu cậu thể nhập với Như Như thì tôi có lợi gì đâu mà đến đây khuyến khích? Thì đây, tôi xin trả lời: tôi để ý cậu bao năm rồi, thấy cậu chưa bao giờ thực sự hạnh phúc. Cuộc đời cậu đấy à, từ nhỏ đến giờ, không, phải nói là từ vô lượng kiếp đến giờ, chỉ đuổi bắt ảo ảnh và đạt được những cái ảo ảnh. Có khi chính cậu cũng biết chúng là ảo ảnh, nhưng rồi cậu cũng không tìm được cái gì chân thật để thay thế. Trước mắt cậu là cả một vũ trụ mộng huyễn vô thường. Chính vì vậy mà cậu vừa hăm hở tìm kiếm mà cũng vừa khăng khăng chối từ bất cứ cái gì có được trong tầm tay. Như vậy làm sao có được hạnh phúc chứ! Mà cậu tưởng cái hạnh phúc của cậu không ảnh hưởng gì tới tôi sao? Thế thì cậu cũng chưa hiểu được một tí gì về cái lý nhân duyên, về tương sinh tương diệt, tương tức tương nhập cả. Cậu cứ thể nhập trọn vẹn với Như Như đi, cứ hạnh phúc trọn vẹn với Như Như đi, thì tôi và cả vũ trụ này sẽ hạnh phúc ngay.”
“Được rồi, anh nói nhiều quá. Bây giờ anh về đi cho tôi được yên.”
“Cậu đã hứa gì với tôi đâu mà bảo tôi về?”
“Anh muốn tôi hứa gì chứ?”
“Chính tôi là người tìm kiếm và đem Như Như đến cho cậu. Cậu chỉ có một cơ hội này thôi để chụp bắt lấy cái gì cậu từng mơ ước. Cho nên, cậu phải hứa với tôi là sẽ vứt bỏ hết tất cả ngôn từ và ý niệm nào không dính nhập đến Như Như để có thể hòa nhập với nàng làm một. Như vậy mới không bõ công tôi sắp đặt và tạo dựng. Cậu phải biết rằng nàng là một thực thể. Tôi nhắc lại, MỘT THỰC THỂ. Cái thực thể đó là thực thể CHỈ KHI NÀO CẬU ĐỒNG NHẤT TOÀN VẸN VỚI NÓ. Không có sự đồng nhất ấy thì cả vũ trụ này đều là mộng huyễn chiêm bao. Cậu nên nhớ điều ấy. Như Như đến với cậu đêm nay là thực. Thôi, tôi đi. Như Như sắp đến rồi đó. Cậu tắt đèn trước đi, như vậy tốt hơn.”
Không chờ tôi hành động, hắn tự ý vói tay, tắt đèn rồi lủi thật nhanh, thoắt cái đã mất dạng trong bóng đêm. Tôi thở phào. Nói chuyện với hắn sao mệt quá. Hắn làm thần kinh tôi căng thẳng, nhức nhối, và tim tôi đập mạnh một cách bất thường. Tôi định đứng dậy đi rửa mặt thì Như Như mở cửa bước vào. Trong bóng tối, tôi nhận ra ngay đó là nàng với chiếc áo dài trắng hôm dự lễ Phật Đản.
“Như Như, em đến thật đó sao?”
“Chứ còn gì nữa. Anh không mong đợi em à?”
“Có. Nhưng... Có khi anh ngờ đó chỉ là một giấc mộng.”
“Em là thực đây, để em đóng cửa lại rồi mình nói chuyện há.”
“Em có gặp ai trên đường đến đây không?”
“Không, không ai cả.”
“Em đến đây. Đưa tay em cho anh.”
“Anh vẫn chưa tin là em đến thực à?”
“Anh tin rồi, em đến thực. Em là Như Như.”
Nàng ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc đi-văng. Tôi choàng nhẹ cánh tay lên vai nàng, kéo nàng vào sát vào mình. Da thịt nàng mềm, mịn qua lớp lụa trắng. Nàng ngoan ngoãn tựa đầu vào vai tôi. Tóc nàng ngai ngái mùi hoa sứ với sương đêm. Tôi khẽ hôn lên mái tóc ấy. Nàng nắm lấy bàn tay tôi, nói:
“Anh có nhớ là anh còn nợ em ba chữ chưa nói ra không?”
“Nhớ.”
“Em muốn nghe anh nói. Bây giờ là thời điểm đúng nhất, thích hợp nhất để anh trả nợ em đó.”
Tôi cười:
“Ba tiếng ấy đâu cần phải nói ra nữa, hở em. Thực ra, sự có mặt của em không có bất cứ ngôn từ hay ý niệm nào có thể vói đến được.”
“Anh nói câu ấy em có cảm tưởng như đã từng nghe qua từ một người nào. Hay là chính anh đã nói với em câu ấy rồi, phải không?”
Tôi không trả lời, tự nghĩ: “Chắc là hắn. Hắn cũng đã nói với nàng như thế.” Một nỗi ghen tuông nhỏ mọn nổi dậy trong lòng khiến tôi mất vui, đánh mất ngay hứng thú được ôm nàng trong vòng tay. Tôi buông nàng ra, đứng dậy, đến bên cửa sổ, nhìn ra trời đêm. Nàng bước đến sau tôi, vòng hai tay ôm lấy tôi từ phía sau, dựa sát mặt và người nàng vào lưng tôi.
“Nếu anh và em không có thực thì màn đêm bên ngoài cũng không có thực, cái bàn này cũng không có thực, căn phòng này cũng không có thực, cả vũ trụ cũng không có thực. Anh nghĩ đúng không? Thực tại luôn có mặt. Nó chỉ là mộng huyễn khi chúng ta chối bỏ nó mà thôi. Tình yêu cũng vậy. Nó là một thực tại.”
Tôi quay người lại, ôm lấy nàng. Và chúng tôi hôn nhau trong bóng đêm. Rồi chúng tôi dìu nhau đến chiếc đi-văng. Nàng tự nguyện nằm xuống, chờ đợi. Tôi lần mò trong bóng tối, tìm con đường thể nhập, cởi bỏ hết, vứt hết tất cả những gì không dính nhập đến Như Như. Chỉ trong khoảnh khắc cúi mình xuống, tôi lập tức tan nhanh vào nàng. Chúng tôi trở thành một khối pha lê trong suốt như được kết tinh từ những hạt sương ảo diệu của đêm tối trần gian. Nhưng chỉ một lúc ngắn ngủi sau đó, tôi lại quay trở về với sự phân hai, với thế giới nhị nguyên muôn thuở của con người để rồi giật mình biết rằng tôi đã xúc phạm nàng.
“Như Như, em có sao không?”
“Không. Khang ơi, em yêu anh. Em tự nguyện mà. Thực ra, em có mất gì đâu. Muốn đời em vẫn thế. Anh không biết rằng anh với em chỉ là một thôi sao?”
“Ôi, em chỉ biết nói theo hắn. Hắn lừa chúng ta đó. Em với anh chỉ là một trên mặt bản thể thôi; còn trên thực tế, sắc thân của em, sắc thân của anh, tâm tưởng của em, tâm tưởng của anh, vẫn là hai. Em không thể nào là anh, anh không thể nào là em được. Chúng ta là những hạt sương, là những hạt bụi riêng lẻ, vô thường, bay lãng đãng trong vòm trời hữu hạn... Và anh, ôi, anh thật là xấu hổ, anh đã nghe lời xúi dục của cái tên vô lại gớm ghiếc kia để chiếm đoạt em, anh đã xúc phạm em, hủy hoại em... Như Như, tha thứ cho anh... Anh đã đánh mất nơi em cái gì đáng ra phải được trân trọng gìn giữ...”
Tôi vừa nói ngang đó bỗng thấy gã thanh niên khi nãy bước đến, đứng chình ình ngay trước mặt, bên cạnh đi-văng. Tôi ngồi vùng dậy, mặc vội áo quần vào. Trong khi đó, Như Như vẫn điềm nhiên bất động, không chút xấu hổ phơi mình lồ lộ trước sự hiện diện của nhân vật thứ ba. Tôi hét lên:
“Anh đi đâu vào đây?!” rồi tôi lấy áo quần che đậy cho Như Như. Hắn xấn tới, dùng hai tay kéo tôi nằm sấp lên người Như Như rồi còn đẩy mạnh sau lưng tôi, vừa đẩy vừa hét lớn:
“Thể nhập! Thể nhập! Cái tên quân tử ngốc nghếch! Cậu phải là một với Như Như. Vứt hết, đừng suy nghĩ gì hết! Hãy bước sâu vào, bước đến chỗ tận cùng kỳ ảo của thế giới nhất nguyên bất nhị mà lâu nay cậu tìm kiếm! Nó ở đây, ngay trước mặt cậu đó. Mau thể nhập!”
Tôi vùng vẫy, quay ngược lại, đẩy Như Như sát vào phía vách, hối thúc nàng mặc áo quần, rồi tôi đưa tay nhứ một quả đấm trước mặt hắn, hăm dọa:
“Đừng quá đáng nghe! Tôi không nhịn nữa đâu.”
Hắn không sợ, còn đưa khuôn mặt gớm ghiếc tới gần sát mặt tôi, nói chế diễu:
“Cậu sẽ chẳng bao giờ là người hạnh phúc vì lúc nào cậu cũng quay lưng, chối bỏ thực tại, và làm điều gì cậu cũng suy nghĩ kỹ, cân nhắc lợi hại, hoặc chuyện làm xong lại hối hận ăn năn. Không có cái gì được coi là toàn vẹn trong cả cuộc đời cậu cả. Ôi trời, sao cậu ngốc quá vậy! Cho đến nước này mà cậu vẫn cứ phân định rạch ròi cái biên giới giữa cậu và Như Như sao? Vậy thì ăn nói làm sao về con đường dấn thân, thể nhập, cứu độ chúng sinh một cách viên mãn. Cậu chỉ biết học nói, học suy nghĩ theo kinh điển, theo sách vở chứ chẳng bao giờ học được con đường hành dộng. Mà thể nhập là con đường hành động. Cậu không biết vậy sao? Cậu không thể làm được chuyện đó sao? Vậy thì cậu mất toi hết trơn rồi. Cậu không có khả năng đồng nhất được với nàng thì để tôi.”
Nói rồi hắn đẩy tôi qua một bên, leo lên đi-văng, nằm chụp lên người nàng. Tôi túm lấy cổ hắn, kéo ngược lên:
“Đi, ra ngoài! Không được xúc phạm cô ấy!”
Hắn cười lên một tràng, nói gằn từng tiếng trong kẽ răng:
“Tôi muốn cho cậu thấy rằng cả cậu và tôi đều có thể đồng nhất trọn vẹn với Như Như. Chỉ tại cậu phân biệt quá mà thôi. Ôi trời, biết đến bao giờ cậu mới chịu làm theo ý tôi đây. Tôi nói cậu nghe điều quan trọng này nữa: thực ra, không phải chỉ có cậu hay tôi thể nhập làm một với Như Như mà ngay cả giữa cậu và tôi cũng không có bất kỳ một sự ly cách nào cả.”
Nói rồi hắn rời Như Như, quay qua tôi, dí cái mặt thẹo của hắn sát vào mặt tôi, hai tay ôm quàng lấy cổ tôi, đè tôi xuống đi-văng. Hắn sắp sửa cúi xuống hôn tôi và muốn trở thành một với tôi, tan biến vào trong chính thể xác và tâm hồn tôi.
Tôi kinh hãi thét lên một tiếng, tỉnh giấc, cả người tôi ướt đẫm mồ hôi. Nhìn ra cửa sổ, tôi thấy trời hãy còn sáng. Chưa phải ban đêm. Nhánh hoa hậu với hai cái bông tím vẫn còn đong đưa sát khung cửa lưới ở cửa sổ. Nắng chiều lay lắt xuyên qua kẽ lá, đùa giỡn. Tôi vùng dậy, bước ra khỏi phòng: “May quá, nãy giờ chỉ là một giấc mộng.” Tôi lấy đồ đi tắm.

Tắm xong, tôi thấy thật tỉnh táo và tươi mát trong lòng, không còn sợ hãi hay ớn lạnh cái giấc mộng kinh tởm vừa qua. Ngang qua phòng khách của viện, thấy đồng hồ chỉ năm giờ chiều, tôi nhớ đến giờ hẹn bảy giờ tối nay với Như Như tại phòng. Cái hẹn này, là một sự thực, không phải là mộng nữa. Nó sắp đến với tôi rồi. Tôi phấn khởi về phòng, lau quét, dọn dẹp sơ. Rồi tôi leo lên gác trên, kiểm tra lại xem nơi đây còn cần gì nữa không, vì đêm nay, Như Như và tôi sẽ ngồi nói chuyện bên nhau, sau đó, tôi xuống đi-văng để nàng ngủ trên gác này hay ngược lại. Mà cũng có thể là hai đứa cùng nằm chung trên gác. Gác này đâu có bàn ghế hay vật dụng gì nên rộng rinh, đứa góc này, đứa góc kia, có sao đâu. Nằm nói chuyện suốt đêm, suốt ngày. Đói, tôi đi kiếm thức ăn. Có thể hai đứa ăn chung một tô cơm, uống chung một ly nước. Chẳng gì thú vị bằng.
Xong xuôi mọi sắp đặt cần thiết cho cuộc gặp gỡ thơ mộng trên căn gác, tôi ra ngồi chơi ở cột cờ. Nơi đây, đã lâu rồi, từ khi nghe thầy Tuệ Sỹ đọc câu thơ trong Đằng Vương Các Tự của Vương Bột, tôi đã không còn ngồi nhìn ngắm, theo dõi những con cò trắng bay qua cánh đồng rộng mỗi chiều. Lúc đó, tôi sợ hãi cô đơn, muốn trốn chạy cô đơn. Câu thơ ấy, hình ảnh con nhạn lẻ ấy, làm tăng thêm nỗi cô đơn trong tôi, thúc đẩy tôi tìm kiếm những gì tôi không nên tìm kiếm. Bây giờ, tôi biết tôi sắp có Như Như đêm nay, tôi không còn biết sợ cô đơn là gì. Tôi mạnh dạn ngồi đây, chờ đợi những đàn cò và con cò nghịch ngợm cô lẻ lúc nào cũng bay muộn màng phía sau. Bao rộn rã bừng dậy làm tươi mát trái tim khắc khổ vì nếp sống kinh viện của tôi, tràn lấp hết mọi hãi sợ. Tôi sẽ có Như Như đêm nay. Trong vòng hơn một giờ đồng hồ nữa, khi màn đêm buông xuống, nàng sẽ đến bên tôi. Tháp trống kia, cái tháp cổ gần trăm năm phơi mình giữa nắng sương để lắng nghe ngàn lần kinh kệ sớm chiều kia, đêm nay sẽ là nơi tình tự của đôi trẻ, sẽ như cái chuồng bồ câu, hay như cái tổ của một cặp uyên ương...
Vừa nghĩ đến đó, bất chợt, một nỗi rạo rực kỳ lạ bốc dậy trong tôi. Tôi rùng mình, nhớ lại giấc mơ ban nãy. Ôi cái gã thanh niên vô lại xấu xa kia, hắn là ai, sao lại đến quấy phá tôi trong giấc mộng vậy kìa? Cái mặt hắn thật là đáng sợ. Ngôn ngữ hắn thật táo bạo. Nhưng... hình như hắn có nét gì phảng phất giống tôi. Ừ, phải rồi, đôi mắt hắn, cái mũi hắn, cái miệng hắn, giống tôi y hệt, chỉ khác là da mặt hắn nhăn nheo đầy thẹo và hắn hay liếc dọc liếc ngang, khịt mũi, nhếch miệng, bĩu môi, liếm môi... Hắn là ai vậy? Phải chăng tôi đã bắt gặp hắn ít nhất một lần trên đời nên mới trông thấy hắn rõ ràng trong giấc mộng? Tôi không sao nhớ nổi đã gặp hắn lúc nào và ở đâu. Thôi, không cần nghĩ đến hắn nữa, Như Như sắp đến rồi. Và ô kìa, tôi nhớ rồi, tôi thật xấu hổ nhớ lại là trong giấc mơ ấy, tôi và Như Như đã làm cái chuyện bậy bạ ấy... Ô, không thể được! Không thể được! Tôi vùng đứng dậy, quay vào trong. Đi đi lại lại trước thềm chánh điện. Không thể để cho chuyện ấy xảy ra được. Điều đó, không phải chỉ vì vấn đề giới luật, mà còn một lý do khác nữa: để giữ cho cái mộng kia không bao giờ có thể trở thành sự thực. Như Như cứ đến, vâng, dù sợ hãi, tôi vẫn muốn nàng đến với tôi đêm nay, nhưng tôi sẽ cố gắng giữ sao cho cuộc gặp gỡ này là một sự thực trôi trên một giấc mộng đẹp, sẽ không có gì quá đáng và phàm tục xảy ra.
Tôi bước trở lại về phía cột cờ.
Hay là, tốt hơn hết, Như Như đừng đến. Như Như, xin đừng đến. Em sẽ bị trở ngại và em không đến được. Vậy đi, vậy sẽ tốt hơn cho chúng ta. Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé. Ô, nắng chiều sắp tắt và đàn cò trắng đang bay ngang cánh đồng ruộng xanh ngát. Và kìa, con cò ương ngạnh, kiêu kỳ, một mình bay sau kéo theo cả một khung trời cô tịch xám ngắt.
Như Như ơi, hãy đến, vâng hãy đến. Anh không chịu đựng nổi niềm cô đơn khủng khiếp này. Hãy đến, Như Như. Em đã hẹn và anh cũng đã chờ đợi ba ngày rồi. Đêm nay sẽ là đêm quan trọng nhất, quyết định cái chung cục của cuộc tình chúng ta. Anh sẽ trả lời với em ngay trong đêm nay những gì em mong đợi. Anh cũng sẽ nói với em ba chữ mà anh mắc nợ em. Tất cả sẽ được trả lời, được quyết định trong đêm nay mà thôi. Vậy thì em hãy đến. Có thể anh được em, em được anh, cũng có thể chúng ta sẽ chia tay mãi mãi để anh lại tiếp tục vỗ cánh trên vòm trời mênh mông hiu quạnh của đời anh. Đến đi Như Như, vì dù sao, cả anh và em đều sẵn sàng chấp nhận bất cứ cái giá nào cho cuộc gặp gở đêm nay.
Còn một giờ đồng hồ nữa nàng sẽ đến. Tim tôi đập bấn loạn. Lật một cuốn kinh, tôi xé trang cuối có hình vị hộ pháp, đem lên gác, dán lên vách. Tôi chắp tay bái ông hộ pháp một cái, rồi cười nói: “Ngài phải canh chừng nhắc nhở dùm tôi đó nghe. Nếu có chuyện gì đáng tiếc xảy ra nơi tháp này thì khổ cho tôi suốt đời, nhưng ngài cũng chịu trách nhiệm một phần đó.”
Còn nửa giờ đồng hồ nữa nàng sẽ đến. Tôi bắt đầu run. Như Như ơi, có phải em sẽ đến với anh đêm nay không? Phải, em sẽ đến. Anh nhớ rồi, em đã sắp đặt mọi thứ, và em nhất quyết sẽ đến, trong chốc lát nữa thôi. Rồi chúng ta sẽ nói gì, chúng ta sẽ làm gì, suốt một đêm và một ngày kế tiếp? Chúng ta sẽ ôm nhau, sẽ hôn nhau, như những cặp tình nhân mông muội của trần gian, như trong giấc mộng ban trưa mà anh đã thấy. Sau đó, chúng ta sẽ dìu nhau đến chiếc đi-văng này. Và rồi chúng ta nghe lời cái tên lưu manh kia, quấn lấy nhau, thực hiện khát vọng đồng nhất bằng xúc cảm nhục dục. Không, không thể được. Như Như, chưa bao giờ anh hiểu được anh như lúc này. Anh hiểu được rằng, anh sẽ không có một chút sức lực hay ý chí nào để cưỡng chống lại cơn đói khát dục vọng điên cuồng của anh. Anh sẽ không thể nào kềm chế được anh đâu. Nhất là trong một hoàn cảnh thuận lợi như thế này, sẽ không sức nào ngăn cản được anh, dù có cả ngàn vị hộ pháp dán đầy trên bốn vách...
Hốt nhiên, trong một khoảnh khắc bừng sáng của trí tuệ, tôi sực hiểu, sực biết rằng, cái gã mặt thẹo nham nhở kia, thực ra, chẳng phải ai xa lạ: hắn chính là tôi, là dục vọng của tôi, là cái bản ngã của tôi mà thôi. Tôi kinh hãi chộp vội cái đãy, vơ quần áo và tấm ca-sa, cây bút và tập thơ, hấp tấp nhét cả vào. Rồi tôi đóng cửa, khóa lại. Chạy.
Như những người vượt biên, trốn khỏi đất nước dưới sự kềm chế của một thế lực mà mình không đủ sức chống lại, tôi trốn ra khỏi một cuộc tình mê muội của mình. Tôi không muốn chuốc lấy thất bại. Tôi cũng không cần sự chiến thắng vinh quang nào trong cuộc tình ấy cả. Tôi chỉ muốn tồn tại.
Và tôi chạy thục mạng trên con đường Hoàng Hôn ngoằn ngoèo giữa lưng đồi Trại Thủy. Màn đêm lúc ấy đã buông. Con đường đá lởm chởm làm tôi suýt vấp té mấy lần. Khi đã cách xa căn gác của mình gần nửa dặm chim bay rồi, tôi mới dừng chân đứng lại giữa lưng đồi, thở hồng hộc.
Từ vị trí này, tôi có thể nhìn thấy ngôi chùa Linh Phong xa xa phía trái ẩn mình dưới những cây me cổ thụ và cùng một khoảng cách ấy ở phía phải là ngôi chánh điện Hải Đức với hai cái tháp vươn lên giữa những tàng cây sứ. Một trong hai cái tháp quét vôi trắng ấy là căn gác nhổ của tôi, sáng lên nhờ nhờ trong bóng đêm. Tôi bỗng bật cười lên một mình. Vô trú. Đi về phương Nam. Tiếc thay, cái nhỏ nhốt cái lớn! Chẳng phải thầy tôi đã từng ngấm ngầm dạy tôi thực hiện con đường thoát ly qua những ẩn ngữ ấy sao? Trên thực tế đời sống cũng như trong áo nghĩa của con đường giải thoát, nếu đứng dừng lại một chỗ tất sẽ có chỗ vướng mắc. Không cần thường trú, không cần tạm trú. Phải vô trú.
Giã từ ngôi viện Hải Đức thân yêu với thầy bổn sư, người cha uy nghiêm đạo hạnh đã dẫn dắt tôi từng bước trên đường học đạo và mở cho tôi con đường vô trú đêm nay.
Giã từ ngôi chùa Linh Phong và vị Bồ tát mật hạnh Trừng Hùng đã từng bảo vệ tôi, nuôi lớn chất liệu nhẫn nhục trong tôi bằng bao thử thách và sự nghịch ý.
Và em nữa, Như Như, vĩnh biệt tình em. Nếu em hiểu rằng con đường dấn thân của anh không thể khởi đầu bằng một đêm chìm đắm, có lẽ em sẽ tha thứ cho anh. Riêng anh, mỗi khi nghĩ đến nỗi đau khổ cùng tột của dân tộc, anh sẽ không bao giờ quên rằng đã nhiều lần anh cam tâm làm khổ em, và đã bỏ em đứng lại trên đồi Trại Thủy đêm nay mà không một lời giã từ hay giải thích...
Tôi vừa dợm chân bước thì tự dưng nhớ sực rằng vì Như Như đã nghịch ngợm bắt tôi phải mắc nợ nên đến tận giây phút này, tôi hãy còn ba chữ chưa kịp nói ra với nàng. Bây giờ, quyết định rời bỏ thành phố Nha Trang, tôi sẽ không sao có thể trả được cái nợ ấy. Tôi tần ngần đứng yên một lúc. Cuối cùng, hướng về phía ngôi tháp cổ, căn phòng nhỏ của tôi mà có lẽ giờ này Như Như đang tiến đến, tôi bụm hai tay lên miệng gọi lớn:
“Như Như ơi....!”
Gọi xong, tôi bắt đầu cất bước. Và khi bước đi, tôi có cảm tưởng là tiếng gọi ấy đã dội mạnh trong lòng tôi làm rung cả phần ngực phía trái. Tôi ôm ngực, lầm lũi bước vào đêm đen. Sau lưng tôi, âm hưởng của tiếng gọi ấy va vào vách núi, lan đi qua lá cỏ cây rừng như những đợt sóng trùng trùng nối tiếp nhau, lấn xô nhau, xé toang màn đêm mịt mùng để rồi vỡ nát và tan vụn dần thành những hạt bụi li ti, lãng đãng rơi vào vô cùng.
(Hết)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 33 guests