Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

KHÔNG CÓ NGƯỜI TƯ DUY, CHỈ CÓ TƯ DUY BỊ QUY ĐỊNH


Cơn mưa rửa sạch bầu trời; bụi mù treo lơ lửng lúc trước nay đã tan, bầu trời trong sáng và ánh lên một màu xanh rực rỡ. Bóng cây rõ nét và đậm sắc, và vươn cao trên đồi là một cột khói bay thẳng lên trời. Họ đang đốt một thứ gì đó và bạn có thể nghe tiếng họ. Căn nhà nhỏ nằm trên sườn đồi, nhưng khéo xây kín gió, nó có riêng một khu vườn nhỏ được chăm sóc chu đáo. Thế nhưng sáng nay căn nhà như một phần của toàn thể sự sống, và vách đá quanh nhà dường như không còn cần thiết nữa. Dây leo mọc tràn trên vách, che những tảng đá, nhưng đây đó đá vẫn lộ rõ; đó là những tảng đá tuyệt đẹp, chúng đã được bao cơn mưa rửa sạch và giờ đây mang trên mình một lớp rêu xanh xám. Bên kia vách đá là một vùng hoang dã và vùng này hầu như là một phần của khu vườn. Từ cổng vườn một con đường nhỏ dẫn đến làng, nơi có một ngôi nhà thờ cổ đã hư sụp với một nghĩa trang nằm phía sau. Ngay cả ngày Chúa nhật cũng rất ít người đến nhà thờ, nếu có thì phần lớn là người già; còn trong tuần thì không ai đến, vì làng có những thú vui khác. Một chiếc đầu máy diesel với hai toa xe, màu kem và đỏ, đi về thị trấn mỗi ngày hai lượt. Chiếc xe lửa thường đầy khách vui tươi, nói luôn miệng. Phía bên kia làng là một con đường khác vòng quanh phía tay mặt, leo lên một ngọn đồi thoai thoải. Trên con đường này bạn có khi gặp một anh chàng nhà nông mang vác vật gì, đi nhanh qua mặt bạn, miệng cầu nhầu. Trên phía kia của ngọn đồi, con đường dẫn xuống một cánh rừng rậm, chỗ mà mặt trời không bao giờ lọt qua; và đi từ ánh mặt trời chói lọi vào trong bóng cây mát rượi của cánh rừng thật như một niềm phúc lạc bí ẩn. Xem ra không ai đi trên con đường này, và cánh rừng như bị bỏ quên. Màu xanh đậm của tàng cây rậm rạp đem lại sức sống cho đôi mắt và cho tâm hồn. Người ta ngồi đây trong sự tĩnh lặng hoàn toàn. Ngay cả làn gió cũng lặng yên; không một chiếc lá rung rinh và một sự tĩnh lặng kỳ lạ ngự trị, điều mà con người không mấy thường có. Tiếng chó sủa xa xa, một con nai sắc nâu nhẹ nhàng thong thả bước ngang đường.
Ông là người đứng tuổi, đạo đức; ông muốn được cảm mến và phúc lạc. Kể từ nhiều năm nay ông thường xuyên đến tham vấn một vị thầy ở miền bắc để nghe giảng kinh sách và bây giờ ông đang về thăm lại gia đình tại miền nam.
“Có người kể tôi biết là ông thuyết giảng tại đây, thế nên tôi ở lại để tham dự. Tôi đã chăm chú lắng nghe những gì ông nói và tôi ý thức rõ về điều mà ông gọi là sự hướng dẫn hay thẩm quyền. Tôi không hoàn toàn đồng ý với ông vì con người chúng ta cần sự giúp đỡ của những ai có khả năng và khi một ai nhiệt tâm chấp nhận sự giúp đỡ thì điều đó chưa có nghĩa là họ trở thành một kẻ phục tùng”.
Dĩ nhiên chứ, nỗi lòng mong cầu được hướng dẫn sẽ làm ta rập khuôn và một đầu óc chịu rập khuôn thì không thể tìm thấy chân lý.
“Nhưng tôi không rập khuôn. Tôi không phải là người nhẹ dạ, cũng không mù quáng theo ai; mà ngược lại tôi dùng đầu óc của mình, tôi tra hỏi tất cả những gì mà thầy tôi nói ra”.
Đi tìm ánh sáng nơi người khác mà không tự ý thức về mình là mù quáng phục tùng. Tất cả mọi sự phục tùng đều là mù quáng.
“Tôi không nghĩ mình đủ sức xuyên qua được những tầng sâu của tự thể, thế nên tôi đi tìm sự giúp đỡ. Tôi kiếm ông để tìm sự giúp đỡ thì đâu đã làm tôi trở thành tín đồ của ông”.
Nếu phải nói thì thưa ông, việc thiết lập thẩm quyền là một quá trình phức tạp. Phục tùng một người khác chỉ là hệ quả của một nguyên nhân sâu xa và nếu không hiểu rõ nguyên nhân đó thì dù con người có theo ai hay không, sự thể đó chẳng có bao nhiêu ý nghĩa. Cái ham muốn được đến nơi, được tới bờ bên kia, là chỗ bắt đầu của sự tìm cầu. Chúng ta khao khát thành công, sự trường cửu, sự tiện nghi, lòng yêu thương và sự an lạc lâu dài; thì trừ phi tâm được giải phóng, nếu không thì luôn luôn có sự phục tùng một cách trực tiếp hay quanh co. Phục tùng chỉ là một hệ quả của lòng khát khao được an toàn.
“Tôi muốn tới bờ bên kia như ông nói và tôi sẵn sàng lấy mọi chiếc thuyền có thể chở tôi qua sông. Đối với tôi, chiếc thuyền không hề quan trọng mà bờ bên kia mới là thiết yếu.*”
* “Chiếc thuyền và bờ bên kia” là ẩn dụ quan trọng của việc tu hành và giác ngộ cả trong Phật giáo lẫn Ấn Độ giáo. Điều mà Krishnamurti muốn nêu rõ là “bờ bên kia" của kẻ tầm đạo hay nói đến chỉ là vọng tưởng do kẻ đó phóng chiếu ra (ND).
Cái quan trọng không phải là bờ bên kia, mà là dòng sông và bến bờ mà ông đang đứng. Dòng sông chính là đời sống, là cuộc sống hàng ngày, với vẻ đẹp phi thường của nó, với sự vui thích và niềm hân hoan, với cái xấu, niềm đau và nỗi buồn. Cuộc sống là tập hợp to lớn của những thứ đó, nó không hề là một hành lang quá độ để ta vội đi qua và ông phải thấu hiểu nó chứ không phải mãi để mắt qua bờ bên kia. Ông chính là cuộc đời này với sự khao khát, bạo lực, yêu đương, tham vọng, tuyệt vọng, sợ hãi; và ông chính là niềm khao khát được trốn chạy khỏi những thứ đó để tới với cái mà ông gọi là bờ bên kia, cái trường cửu, linh hồn, tiểu ngã, Thượng đế, vân vân… Nếu không hiểu ngộ được đời sống, không được giải thoát khỏi lòng khao khát, với tất cả niềm vui và nỗi đau của nó, thì bờ bên kia chỉ là một huyền thoại, một ảo ảnh, một ý hướng do tâm thức đang lo âu bày ra trên đường tìm kiếm sự an toàn. Thế nên phải đắp một nền tảng đúng đắn nếu không thì ngôi nhà xây trên đó không thể đứng vững.
“Tôi vốn đã lo âu mà ông còn cho thêm lo âu, ông không hề lấy bớt đi giùm tôi. Bạn tôi nói hiểu ông không phải là điều đơn giản và bây giờ tôi biết tại sao như thế. Thế nhưng tôi nghiêm túc và thật sự muốn một điều cao hơn ảo tưởng. Tôi hoàn toàn đồng ý là phải đắp một nền tảng đúng đắn; thế nhưng nhận thức được cho chính mình điều gì là đúng, điều gì sai lại là một vấn đề khác”.
Hoàn toàn không phải thế, thưa ông. Mối tranh chấp của lòng khao khát, với mọi niềm vui và nỗi đau của nó, nhất định sẽ ấp ủ sinh ra sự rối loạn, cả bên trong lẫn bên ngoài. Chỉ khi nào thoát khỏi sự rối loạn này thì tâm mới phát hiện được cái gì là chân lý. Tất cả mọi hoạt động phát xuất từ tâm rối loạn chỉ dẫn đến sự rối loạn khác.
“Làm sao tôi thoát khỏi sự rối loạn được?”
Từ “làm sao” của ông ngụ ý đi từng bước; nhưng sự rối loạn không thể được làm sáng tỏ từng bước, trong lúc phần còn lại của tâm vẫn bị rối loạn và phần được sáng tỏ lại sớm bị rối loạn trở lại. Câu hỏi làm sao soi sáng sự rối loạn chỉ sinh ra khi tâm ông cứ quan tâm đến bờ bên kia. Ông không thấy hết ý nghĩa trọn vẹn của lòng tham, của bạo lực hay bất kỳ cái gì; ông chỉ mong quay lưng với nó để tới với một cái khác. Nếu ông toàn tâm chú ý đến lòng khao khát và hậu quả khốn khổ của nó, ông sẽ không bao giờ hỏi làm sao từ bỏ nó đi. Sự hiểu ngộ lòng khao khát là một hành động toàn diện, trong lúc cụm từ “làm sao” bao hàm một dạng từng bước đạt đến sự tự do, nó chẳng qua là hành động của sự rối loạn.
“Ông nói hành động toàn diện là nói gì?”
Muốn hiểu thấu hành động toàn diện, ta phải xem xét sự khác biệt giữa con người tư duy và tư duy của người đó.
“Không phải có một kẻ đứng canh chừng, đứng trên cả người tư duy và tư tưởng của nó? Tôi thấy là có. Trong một phút phúc lạc tôi đã chứng nghiệm được tình trạng này”.
Những chứng nghiệm này là kết quả của tâm thức đã được nặn khuôn bởi truyền thống, bởi hàng ngàn loại ảnh hưởng khác. Những nguyện ngắm của một tín đồ Thiên Chúa giáo khác hẳn với linh ảnh của bên Ấn Độ giáo hay Hồi giáo, vì tất cả đều chủ yếu dựa trên sự quy định riêng biệt tác động vào tâm. Đã là chân lý thì không có sự chứng nghiệm, mà chân lý là dạng trong đó không còn có người chứng nghiệm lẫn bản thân sự chứng nghiệm.
“Ông muốn nói đó là dạng của đại định?”*
* Samadhi.
Thưa ông, không; khi ông dùng chữ đó thì ông chỉ trích dẫn sự mô tả một kinh nghiệm của kẻ khác.
“Thế nhưng cũng phải có một người quan sát nằm trên con người tư duy và tư tưởng của nó? Tôi cảm thấy một cách chắc chắn có con người đó”.
Khi bắt đầu bằng một kết luận chính là chấm dứt mọi tư duy, phải thế không?
“Đây không phải là sự kết luận suông, thưa ông. Tôi biết rõ, tôi cảm nhận sự đúng đắn nằm trong đó”.
Kẻ nói mình biết, kẻ đó không biết. Điều mà ông biết hay cảm nhận là chân lý chỉ là những điều ông được dạy dỗ. Người khác, được dạy dỗ cách khác trong xã hội của họ, văn hóa của họ, cũng nói với lòng tin như thế rằng tri kiến và kinh nghiệm của mình cho thấy không có một người quan sát tối hậu. Cả hai, ông và người đó, người tin có và người tin không, phải chăng đều cùng một hạng? Cả hai đều bắt đầu bằng một kết luận và với kinh nghiệm dựa trên sự nhào nặn có sẵn.
“Nếu ông nói cách đó thì xem ra ông muốn nói tôi sai lầm, nhưng tôi vẫn không bị ông thuyết phục”.
Tôi không tìm cách nói ông sai lầm hay thuyết phục ông bất cứ điều gì; tôi chỉ muốn nêu lên vài điều ông nên xem xét.
“Sau một thời gian đọc và nghiên cứu đáng kể, tôi nghĩ mình đã hiểu thấu suốt về vấn đề của người quan sát và vật bị quan sát. Đối với tôi thì cũng như mắt nhìn đóa hoa, tâm cũng quan sát thông qua mắt; cho nên, đằng sau tâm phải có một tự thể, nó chính là chủ thể ý thức về toàn bộ quá trình, tức là về tâm, về mắt và về đóa hoa”.
Hãy tìm hiểu vấn đề này mà không đòi hỏi ai đúng ai sai, không gấp rút, không giáo điều. Tư duy hình thành như thế nào? Đó là để ý, tiếp xúc, cảm nhận và sau đó là tư tưởng, dựa trên ký ức sẽ nói: “Đây là một đóa hoa hồng”. Tư duy sinh ra người tư duy; đó là do có quá trình tư duy mà có con người tư duy. Tư duy tới trước, sau đó là người tư duy, không phải ngược lại. Nếu không thấy thực tế này ta sẽ bị lôi vào mọi dạng của sự vô minh*.
* Krishnamurti giảng tinh yếu của thuyết vô ngã. Có hoạt động tư duy nên sau đó ta nhầm tưởng có con người tư duy. Theo Tương Ưng bộ kinh, lời của Phật là: "Như Lai chỉ dạy Xúc, Thọ, Ái, Thủ... chớ không dạy người nào Xúc, Thọ, Ái Thủ...”. Thực tế là không có con người tư duy. Trong đoạn này Krishnamurti tạm nói “người tư duy” cho dễ hiểu, chứ tác giả cũng quan niệm không có “người tư duy” (xem tiêu đề của chương này) (ND).
“Thế nhưng có một sự tách rời, một kẽ hở, dù rộng hay hẹp, giữa người tư duy và tư tưởng của nó; và không phải điều này cho thấy người tư duy phải có trước sao?”
Hãy xem. Có sự nhận thức thấy vô thường, bất an rồi sau đó có lòng khao khát được thường hằng, an toàn; từ đó tư duy đã sinh ra người tư duy rồi sau đó lại tôn người tư duy lên cao, lên mức độ của sự trường tồn. Thế nên dường như có một khoảng cách không nối được giữa người tư duy và tư tưởng của nó, giữa người quan sát và vật bị quan sát; thế nhưng toàn bộ quá trình vẫn nằm trong lĩnh vực của tư duy cả, phải thế không?
“Phải chăng ông muốn nói người quan sát không có thực, rằng người quan sát cũng vô thường như tư tưởng thôi? Tôi khó mà tin được điều đó”.
Ông có thể gọi nó là linh hồn, là Tiểu ngã hay bất cứ danh xưng gì ông muốn, nhưng người quan sát chỉ là sản phẩm của tư tưởng. Bao lâu tư tưởng còn liên hệ một cách nào đó với người tư duy, hay người quan sát đang kiểm tra uốn nắn tư tưởng, thì nó vẫn còn nằm trong lĩnh vực của tư tưởng, nằm trong quá trình của thời gian.
“Tâm tư tôi chống lại điều vừa nói biết bao! Thế nhưng, dù nó chống, nhưng tôi cũng bắt đầu thấy đây là sự thực; và nếu đây là sự thực thì thực tế chỉ có một dòng tư tưởng* chứ không có người tư duy”.
* A process of thinking.
Đúng như thế. Tư tưởng ấp ủ sinh ra người tư duy, người quan sát, người gạn lọc có ý thức hay vô ý thức, đó là kẻ luôn luôn đánh giá, lên án, so sánh. Đó chính là người quan sát, kẻ luôn luôn tranh chấp với tư tưởng, luôn luôn cố gắng lãnh đạo tư tưởng.
“Xin hãy đi chậm một chút; nhờ điều này tôi thực sự muốn xem xét lại mình. Ông vừa nói, mọi cố gắng nỗ lực, dù sang hay hèn, chỉ là kết quả của sự phân chia giả tạo, không thật giữa người tư duy và tư tưởng của nó. Thế nhưng liệu ông có chịu từ bỏ cố gắng nỗ lực? Không phải mọi nỗ lực là cần thiết để có sự thay đổi sao?”
Bây giờ chúng ta hãy đi vào điều này. Chúng ta đã thấy chỉ có dòng tư tưởng, chính nó tạo nên người tư duy, người quan sát, người gạn lọc, người kiểm tra. Giữa người quan sát và vật bị quan sát có một mối tranh chấp do bên này cố gắng khuất phục hay thay đổi cái bên kia. Sự cố gắng này là vô hiệu, nó không bao giờ tạo ra một sự thay đổi cơ bản trong tư tưởng, vì chính bản thân người tư duy, người gạn lọc là một phần của những gì nó muốn thay đổi. Một phần của tâm thức không thể chuyên hóa phần kia, bản thân nó chỉ là sự nối tiếp của cái kia. Một sự thèm khát có thể vượt thắng một sự thèm khát khác, đó là điều hay xảy ra. Thế nhưng sự thèm khát đã thắng thế lại ấp ủ một cái mơ ước khác, đến phiên nó lại trở thành người bại hay người thắng, và cứ thế mà sự tranh chấp nhị nguyên cứ tiếp diễn mãi. Quá trình này không bao giờ chấm dứt.
“Dường như ông cho rằng chỉ thông qua loại bỏ sự tranh chấp mới hy vọng có một thay đổi căn bản. Tôi chưa hiểu hết, xin ông nói rõ thêm”.
Người tư duy và tư tưởng của nó là một quá trình nhất quán, không bên nào có sự tiếp diễn độc lập; người quan sát và vật bị quan sát là không thể phân chia. Tất cả tính chất của người quan sát đều nằm trong tư tưởng của nó; không có tư tưởng thì không có người quan sát, không có người tư duy. Thực là như thế.
“Vâng, tới đây thì tôi hiểu”.
Nếu sự hiểu chỉ có trên ngôn từ, chỉ bằng trí năng thì nó không có bao nhiêu ý nghĩa. Phải có một sự chứng nghiệm đích thực của người tư duy và tư tưởng của nó trong một thể duy nhất, một sự hội nhập của cả hai. Thì lúc đó chỉ có dòng tư tưởng.
“Ông nói dòng tư tưởng là sao?”
Đó là đường đi hay hướng đi, trong đó tư tưởng vận hành: Có tính chất cá nhân hay không có tính cá nhân, có tính cá thể hay tập thể, có tính tôn giáo hay tính thế gian, tín đồ Ấn Độ giáo hay Thiên Chúa giáo, Phật tử hay tín đồ Hồi giáo, vân vân… Không có người tư duy theo kiểu Hồi giáo mà chỉ có tư tưởng được Hồi giáo quy định. Tư duy là hệ quả của sự quy định trên chính nó. Loại tư duy này nhất định phải sinh ra tranh chấp và khi có dụng công để khuất phục tranh chấp bằng các phương tiện khác nhau thì điều đó chỉ xây dựng thêm những dạng khác của sự đề kháng và tranh chấp.
“Rõ là như thế, ít nhất thì tôi hiểu thế”.
Thứ tư duy này phải chấm dứt hoàn toàn, vì nó nuôi dưỡng sự vô minh và khốn khổ. Không có thứ tư duy nào tốt hơn hay quý hơn. Tất cả mọi tư duy được sinh ra từ sự quy định.
“Hình như ông ngụ ý chỉ khi nào tư tưởng dứt bặt thì mới có sự thay đổi toàn triệt. Đúng thế không?”
Tư tưởng là thứ bị quy định. Tâm thức, kho chứa của kinh nghiệm, của ký ức, từ đó mà tư tưởng hình thành, bản thân tâm cũng bị quy định; và mọi vận động của tâm, chiếu hướng nào bất kỳ, cũng chỉ sinh ra những kết quả hạn chế. Khi tâm dụng công chuyển hóa chính mình, thì đó chỉ là xây dựng những khuôn mẫu mới, có thể khác, nhưng vẫn là khuôn mẫu. Mọi dụng công của tâm để tự giải phóng mình đều chỉ là sự tiếp nối của tư tưởng; có thể nó nằm cao hơn một bậc, nhưng vẫn trong vòng kiềm tỏa của tư tưởng, của thời gian.
“Vâng, tôi bắt đầu hiểu, xin tiếp tục”.
Mọi vận hành trong mọi kiểu của tâm chỉ tăng cường cho sự tiếp diễn của tư tưởng, với tất cả mọi đầu óc của đố kỵ, tham vọng, chiếm hữu. Khi tâm hoàn toàn ý thức về điều này, như nó hoàn toàn ý thức về một con rắn độc, thì ông sẽ thấy mọi vận hành của tâm sẽ đến một chỗ dừng*. Chỉ khi đó mới có một cuộc cách mạng toàn triệt chứ không phải chỉ tiếp nối cái cũ bằng một dạng mới. Tình trạng này không thể mô tả, kẻ nào mô tả nó là không biết đến nó.
* “An tâm” chính là vô tâm. Nơi đây ta thấy một sự tương đồng vô cùng rõ rệt với công án “an tâm” của Bồ-đề Đạt-ma khai thị cho Huệ Khả của Thiền tông Trung Quốc (ND).
“Tôi thật lòng thấy mình có hiểu, không phải ngôn từ của ông mà nội dung được bao hàm trong những gì ông nói. Liệu tôi có hiểu thực hay không, điều đó sẽ thể hiện trong cuộc sống hàng ngày”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 19 Mar 2018

“TẠI SAO ĐIỀU NÀY LẠI XẢY RA CHO CHÚNG TÔI?”


Có một cái gì gây nên một tiếng nổ lớn. Lúc đó khoảng bốn giờ rưỡi sáng và trời còn tối om. Còn hơn một giờ nữa trời mới rạng đông. Chim chóc vẫn còn ngủ trong các tàng cây và tiếng ồn dữ dội này xem ra không làm rộn đến chúng, nhưng trời vừa có chút ánh sáng là chúng bắt đầu líu lo. Một ít sương mù đọng trên mặt đất nhưng tinh tú trên bầu trời thì rất sáng. Sau tiếng nổ đầu tiên, nhiều tiếng khác tiếp theo cách khoảng; đến một giai đoạn lặng yên và rồi tiếng pháo bắt đầu nổ khắp nơi. Ngày lễ hội bắt đầu. Sáng nay lũ chim không líu lo lâu như mọi lần, chúng chỉ hót ngắn rồi vội bay tán loạn vì sợ những tiếng nổ dữ dội; thế nhưng lúc đêm về chúng lại tụ hội cũng trong những tàng cây đó, để ồn ào kể cho nhau nghe trong ngày đã làm những gì. Mặt trời đã lên đụng đến các ngọn cây, chúng ngời lên một ánh sáng nhẹ; trong sự lặng yên trông chúng thật đáng yêu với những bóng in trên bầu trời. Đóa hoa hồng đơn độc trong vườn bây giờ ướt đẫm sương đêm. Mặc tiếng ồn của pháo, thành phố vẫn thức dậy chậm rãi và ung dung, vì đây chỉ là một trong những ngày lễ hội lớn trong năm; những ngày vui chơi yến tiệc, ngày mà kẻ giàu người nghèo đem quà tặng nhau.
Chiều nay, khi trời dần tối mọi người bắt đầu tụ tập hai bên bờ sông. Họ thả trôi trên sông những chiếc đĩa bằng đất nung chứa đầy dầu với một ngọn đèn cháy bằng bấc. Họ thốt một lời cầu nguyện và để cho ngọn đèn trôi dần theo sông. Không bao lâu, hàng ngàn điểm sáng lấp lánh trên dòng nước lặng lờ tối đen. Thật là kỳ lạ khi nhìn ngắm những khuôn mặt thành khẩn rạng rỡ dưới ánh đèn mờ và dòng sông bây giờ là điều kỳ diệu của ánh sáng. Bầu trời với hàng triệu ngôi sao như nghiêng mình nhìn xuống dòng sông đầy ánh sáng và cả địa cầu như lặng yên bao trùm tình yêu thương lên con người.
Năm người chúng tôi đang ở trong một căn phòng đầy ánh sáng mặt trời: Một người đàn ông với người vợ và hai anh khác. Tất cả còn trẻ. Người vợ xem ra u buồn và đau khổ, người chồng mặt mày nghiêm trọng, không nở một nụ cười. Hai người đàn ông kia ngồi yên lặng, có chút ngượng ngùng, để cho hai người kia nói trước, nhưng sau đó họ cũng nói khi có dịp và khi sự ngượng ngùng ban đầu đã tan đi.
“Tại sao điều này lại xảy ra cho chúng tôi?”, chị hỏi. Như có một nỗi oán giận và sự bực tức trong giọng nói và dòng lệ đã tràn nơi khóe mắt chị để rồi chảy dài xuống má. “Chúng tôi thật hết lòng cho con; con trai chúng tôi rất vui tươi và tinh nghịch, lúc nào cũng đầy tiếng cười, chúng tôi rất yêu nó. Chúng tôi cẩn thận dạy con và dự định rất nhiều cho tương lai…”. Chị không thể nói tiếp nên dừng lại và lặng yên đợi sự bình tĩnh trở lại. “Xin ông tha lỗi cho, tôi bị rối loạn trước mặt ông”, chị nói tiếp, “Nhưng thật quá khổ cho tôi. Nó vừa vui chơi, cười nói và chỉ vài ngày sau là ra đi vĩnh viễn. Thật hết sức khủng khiếp, và tại sao điều này lại xảy ra cho chúng tôi? Chúng tôi sống khiêm tốn, chúng tôi biết yêu thương nhau và yêu con mình còn gấp mấy lần. Nhưng nó đã chết và cuộc đời chúng tôi chỉ là một sự trống rỗng - chồng tôi thì ở trong sở, tôi thì ở nhà. Tất cả đều xấu xí và vô nghĩa”. Có lẽ chị đã nói tiếp và nói tiếp với lòng xót xa, nhưng chồng chị đã nhẹ nhàng ngăn lại. Chị thổn thức khóc không chút kiềm chế và bây giờ chị lặng yên.
Điều này xảy ra cho tất cả chúng ta, không phải sao? Khi chị hỏi, tại sao điều này lại xảy ra cho anh chị, chắc chị không muốn nói là nó nên chỉ xảy ra cho người khác, còn mình thì đừng. Chị chia sớt nỗi đau cho những người còn lại.
“Nhưng chúng tôi đã làm gì để mang cái tội này? Nghiệp báo của chúng tôi là gì? Tại sao con tôi không được sống? Tôi vui lòng chịu hy sinh mạng sống của mình cho con”.
Có câu giải thích nào, cách biện luận khôn khéo nào hay niềm tin hữu lý nào lấp được sự trống rỗng đau thương này?
“Dĩ nhiên tôi cũng muốn được thanh thản, không chỉ trên mặt ngôn từ, không chỉ bằng hy vọng về tương lai. Thế mà tôi vẫn không có sự thanh thản. Chồng tôi cố mang lại sự thanh thản cho tôi bằng cách tin vào sự tái sinh, nhưng vô hiệu. Chồng tôi cũng khổ não; dù cho anh tin thuyết tái sinh, sự đau khổ cũng cứ còn đó. Cả hai chúng tôi đều bị đau khổ, đều bị nó dằn siết. Nó như một cơn ác mộng đáng sợ, ghê gớm”. Anh chồng lại phải nhắc nhở để vợ mình ngăn lại niềm xúc cảm đang dâng trào.
“Tôi sẽ lặng yên và lắng nghe, xin lỗi tất cả”.
“Thưa ông, chúng tôi biết quá ít về đời sống, về cái chết, biết quá ít về bản thân sự đau khổ của mình”, anh chồng nói. “Kể từ biến cố này, bỗng nhiên tôi thấy mình chín chắn hơn, biết đặt những câu hỏi nghiêm túc hơn. Trước đó, cuộc đời là một niềm vui, chúng tôi vui cười suốt ngày; bây giờ thì những thứ hồi trước từng làm chúng tôi vui thích nay trở thành vớ vẩn, tầm thường. Nó như một trận bão làm cây bật rễ và thổi cát vào đó. Không có gì giống như hồi trước nữa. Đột nhiên tôi thấy mình nghiêm nghị một cách khủng khiếp, muốn biết ý nghĩa của tất cả mọi sự và kể từ khi con trai chết, tôi tìm đọc các thứ sách về tôn giáo và triết lý nhiều hơn tất cả thời gian trước đó. Nhưng khi đau khổ thì ngôn từ chẳng làm được gì. Tôi biết rõ là niềm tin dễ dàng trở thành một thứ độc dược tác hại lâu dài. Niềm tin làm cùn nhụt góc cạnh sắc bén của tư tưởng, nhưng nó cũng xoa dịu sự đau khổ, không có niềm tin thì tâm trở thành một vết thương hở miệng, đụng đến là đau. Chiều nay chúng tôi đến tìm ông. Ông không mang lại cho chúng tôi sự thanh thản được, tôi thấy đúng thôi; nhưng chúng tôi muốn làm lành vết thương, liệu ông có thể giúp?”
“Vết thương mà chúng tôi đang có”, một trong hai người kia tiếp lời, “Không thể chữa trị bằng lời nói, bằng sáo ngữ suông. Chúng tôi đến đây không phải để kiếm thêm một niềm tin mới mà để tìm hiểu nguyên ủy của sự khổ”.
Các bạn có tin nếu chỉ biết nguyên ủy của sự khổ sẽ giải thoát ta ra khỏi cái khổ?
“Một khi tôi biết điều gì gây khổ đau trong tôi, tôi có thể chấm dứt nó. Tôi sẽ không ăn thứ gì nếu biết đó là chất độc”.
Phải chăng các bạn nghĩ là một việc dễ khi muốn trừ bỏ vết thương nội tâm? Chúng ta hãy kiên nhẫn và cẩn trọng đi vào vấn đề này. Vấn đề của chúng ta là gì?
“Vấn đề của tôi”, chị vợ nói, “Đơn giản và rõ ràng. Tại sao con tôi bị chết đi, nguyên nhân là gì?”
Liệu có lời giải thích nào mà chị chấp nhận được, dù có thoải mái cho chị trong lúc này? Chị có tự mình tìm ra được sự thật của vấn đề không?
“Tôi biết làm sao được”, chị nói.
“Đó cũng là một trong những vấn đề của tôi”, một trong hai người kia nói. “Làm sao tôi biết được sự thật trong sự tối tăm hỗn độn này, trong cái “tôi” này?”
“Nghiệp lực của chúng tôi là gì mà phải chịu đau khổ mất cái quý báu nhất trên đời?”, người chồng hỏi.
“Có lẽ tôi đủ sức chịu cái khổ con chết”, chị vợ nói thêm, “Nếu tôi có niềm an ủi biết được tại sao con tôi bị tước đi”.
An ủi là một việc, sự thật là một việc khác; cái này dẫn đi xa khỏi cái kia. Nếu bạn đi tìm sự an ủi, bạn có thể thấy nó trong những lời giải thích, trong một thứ thuốc ngủ hay trong một niềm tin; nhưng nó chỉ tạm thời chốc lát, rồi không sớm thì muộn bạn lại bắt đầu. Liệu đi tìm như thế, bạn được an ủi gì chăng? Có lẽ bạn phải thấy sự việc này trước tiên: Đó là một tâm thức tầm cầu cái tiện nghi an ủi, niềm an toàn thì tâm thức đó luôn luôn bị sầu muộn. Một lời giải thích thỏa đáng, một niềm tin tiện nghi có thể làm cho bạn yên ngủ; nhưng đó có phải là điều bạn muốn không? Liệu nó đoạn diệt được phiền não của bạn? Phải chăng phiền não có thể bị loại bỏ bằng cách ngủ quên?
“Tôi thật lòng muốn”, chị vợ nói, “Trở lại tình trạng tươi vui mà tôi đã một lần được biết - có niềm vui, có sự thích thú. Vì không làm được thế, tôi bị đau khổ giày vò, thế nên tôi phải tìm sự an ủi”.
Phải chăng bạn không muốn mặt đối mặt với những gì sinh ra đau khổ và bạn muốn trốn thoát ra khỏi nó.
“Tại sao tôi lại không nên được thanh thản?”
Vấn đề là bạn có tìm ra sự thanh thản lâu dài hay không? Có lẽ không hề có cái đó. Khi tìm sự thanh thản thì cái mà chúng ta tìm kiếm là một tình trạng mà trong đó không có sự quấy nhiễu nội tâm, bất kỳ loại gì. Có thể có một tình trạng đó chăng? Bằng nhiều cách người ta có thể xây nó lên, xây một tình trạng thanh thản, nhưng sau đó đời sống sẽ gõ cửa ngay. Tiếng gõ cửa này, sự thức tỉnh này được mệnh danh là phiền muộn.
“Ông nói thế thì tôi cũng hiểu. Thế nhưng tôi nên làm gì đây?”, chị vợ vẫn kiên trì.
Không có gì phải làm cả mà chỉ cần nhận ra sự thật trong việc này, rằng một tâm thức tìm kiếm tiện nghi thanh thản, an toàn, luôn luôn sẽ bị phiền muộn xâm chiếm. Thấu hiểu điều này tức là hành động rồi. Khi một người nhận ra mình là một tù nhân thì kẻ đó không hỏi phải làm gì, mà là một loạt hành động sẽ xảy ra, hay cũng có thể là sự bất động. Từ nhận thức lập tức có hành động.
“Nhưng thưa ông”, người chồng nói, “Vết thương của chúng tôi là thật, chúng tôi không thể cứu chữa hay sao? Không có cách chữa gì cả, chỉ có một trình trạng đắng cay tuyệt vọng hay sao?”
Tâm thức có thể nuôi dưỡng mọi dạng hình theo ý nó, nhưng tìm được chân lý từ tất cả tình trạng đó lại là một vấn đề khác. Vậy thì anh theo đuổi cái gì?
“Không ai muốn nuôi dưỡng sự cay đắng đau khổ. Dĩ nhiên có cả một thứ triết lý nói về sự tuyệt vọng nhưng tôi không muốn theo nó. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn biết nguyên nhân, biết nghiệp nào đã gây đau khổ”.
Cả hai anh chị đều muốn đi vào vấn đề này chăng?
“Dĩ nhiên là rất muốn, thưa ông. Chúng tôi có thắc mắc liên quan đến sự vận hành của nghiệp; và thật là hay nếu tất cả chúng ta cùng xem xét nó”.
Cái gì là nguyên ủy của từ “nghiệp”*?
* Karma. Người theo Ấn Độ giáo và Phật giáo thường có khuynh hướng tìm hiểu “nghiệp” khi có một điều bất hạnh xảy ra. Họ xem điều bất hạnh đó là kết quả của một hành động đã chìm trong quá khứ xa xôi. Trong nhiều trường hợp, “nghiệp” trở thành một lối ngụy biện, một khẩu hiệu để giải thích nhiều hiện tượng cá nhân và xã hội (ND).
“Nguyên ngữ của nghiệp là hành động”, người chồng trả lời, các người khác gật đầu đồng ý. “Có thể tôi nghĩ sai nhưng một cách tổng quát, nghiệp được hiểu là hành động do một nguyên nhân quyết định. Tương lai được định đoạt bởi một hành động đã qua, ta gặt những gì đã gieo. Trong quá khứ tôi đã làm cái gì đó, bây giờ tôi phải trả giá hay nhờ đó mà tôi thụ hưởng. Con tôi chết sớm thì cũng vì một nguyên nhân bí ẩn nào đó trong đời cũ. Đó là những dạng khác nhau của một quy luật chung duy nhất”.
Tất cả mọi thứ sinh ra và hình thành thông qua một chuỗi những nguyên nhân và hệ quả, đúng thế không?
“Đây là điều xem ra đúng thật”, một trong hai người kia nói, “Tôi có mặt trên đời này là do cha mẹ tôi và do những nguyên nhân trước nữa. Tôi là kết quả của những nguyên nhân nằm xa vô tận trong quá khứ. Tư tưởng và hành động, cả hai đều là kết quả của những nguyên nhân khác nhau”.
Phải chăng hệ quả và nguyên nhân tách rời lẫn nhau? Có hay không một khoảng hở, dù ngắn dù dài, một khoảng thời gian giữa chúng? Phải chăng nguyên nhân cũng như hậu quả là cố định? Nếu nguyên nhân và hậu quả cứng đờ thì tương lai đã được định đoạt rồi; và nếu thế thì con người không có tự do, thì con người đã bị buộc chặt trong một khe rãnh đã bị quy định sẵn. Không phải thế, như bạn có thể quan sát trong đời sống hàng ngày, nơi mà mọi tình huống liên tục tác động lên đường đi của mọi sự vận hành. Luôn luôn có sự vận động để thay đổi, có khi tức khắc, có khi từng bước.
“Đúng thế, tôi cũng thấy vậy và đó là điều giúp tôi vô cùng, tôi vốn là người được dạy dỗ để biết sự quy định theo kiểu một nguyên nhân, một kết quả. Nhờ thế mà tôi thấy chúng ta không phải là kẻ nô lệ của quá khứ”.
Tâm không nhất thiết bị ràng buộc trong sự quy định của nó. Hệ quả của một nguyên nhân không nhất thiết phải theo đuôi nguyên nhân đó, nó có thể được xóa sạch. Không có một địa ngục vĩnh viễn. Nguyên nhân và kết quả không hề cứng nhắc, cố định; cái kết quả biến thành nguyên nhân cho một kết quả khác. Ngày hôm nay do ngày hôm qua hình thành và ngày mai thì do ngày hôm nay. Thật như thế, không phải hay sao? Thế nên nguyên nhân và kết quả không hề tách rời, đó là một quá trình nhất quán. Một phương tiện sai trái không thể sử dụng cho một cứu cánh đúng đắn, vì phương tiện đã là cứu cánh; cái này dung chứa cái kia. Trong hạt đã chứa sẵn toàn bộ cái cây. Nếu ta thật sự cảm nhận chân lý trong điều này, thì tư tưởng đã là hành động, không có chuyện tư duy đi trước và hành động theo sau với vấn đề không thể tránh khỏi của nó là làm sao bắc được chiếc cầu nối giữa hai bên. Sự ý thức toàn diện về nguyên nhân và kết quả như một thể thống nhất đặt một dấu chấm hết cho tác giả của mọi nỗ lực, tức là cho cái “tôi” lúc nào cũng lo toan phải trở thành một cái gì đó bằng nhiều phương tiện khác nhau.
“Ông vui lòng cho biết suy nghĩ về nghiệp”, người chồng hỏi*.
* Rất nhiều người tìm đến Krishnamurti để mong ông cho một thông tin về kiếp trước kiếp sau, họ vốn nghĩ ông là một thánh nhân, có thấu thị, có thần thông. Nhưng Krishnamurti không bao giờ đáp ứng điều này, như ta thấy rõ trong bài này (ND).
Điều này hoặc là đích thực, hoặc hư vọng. Điều đã đích thực thì không cần diễn giải và điều được diễn giải thì không đích thực. Người diễn giải trở thành người phản bội vì nó chỉ nêu ý kiến của nó mà ý kiến thì không đích thực.
“Sách vở cho rằng mỗi người trong chúng ta bắt đầu đời mình bằng một số nghiệp đã được tích lũy, chúng phải được giải quyết”, người chồng nói tiếp. “Chúng tôi được nghe, trong lúc giải quyết các nghiệp lực chồng chất đó, dù trong một đời hay nhiều đời, có sự vận hành của ý chí tự do. Phải thế không?”.
Thế thì riêng ông nghĩ sao, đừng quan tâm đến thẩm quyền của sách vở?
“Tôi không nghĩ là mình có khả năng nghĩ về điều đó”.
Hãy cùng nhau xem xét vấn đề này. Đời người ta trong cuộc sống hiện tại quả thực bắt đầu với một số quy định, với nghiệp; mỗi đứa trẻ đều bị môi trường xung quanh ảnh hưởng nên nó suy nghĩ trong một mẫu hình nhất định và tương lai của nó có khuynh hướng được xác định bởi mẫu hình đó. Hoặc là nó sẽ nghe theo, trong một phạm vi nhất định, những mệnh lệnh của mẫu hình đó, hoặc đứa trẻ bứt hẳn khỏi nó. Trong trường hợp sau, phần tâm thức nỗ lực bứt phá đó cũng chỉ là kết quả của sự quy định, của nghiệp; thế nên khi bứt phá khỏi một mẫu hình thì tâm cũng chỉ tạo ra một cái khác, trong đó nó lại bị ràng buộc.
“Nếu đúng như thế, có lúc nào tâm thật sự được tự do? Tôi thấy rất rõ là phần của tâm muốn giải thoát khỏi mẫu hình và phần đang bị ràng buộc, cả hai đều bị giam hãm như trước trong một cơ cấu; phần trước nghĩ mình khác với phần sau, nhưng chủ yếu tính chất của cả hai đều như nhau ở chỗ không cái nào có sự tự do hoàn toàn. Thế thì tự do là gì?”
“Phần lớn người ta”, một trong hai người trẻ nói, “Cho rằng có một siêu linh hồn, Tiểu ngã, nó tác động lên trên sự quy định của chúng ta, xả bỏ cho ta sự quy định đó nếu ta biết sùng tín và làm những việc thiện, nếu ta biết tập trung tâm trí lên đấng Tối thượng*”.
* Quan niệm truyền thống của Ấn Độ giáo về con đường giải thoát (ND).
Thế nhưng cái thể tính, kẻ sùng tín và làm những việc thiện đó, bản thân nó cũng bị quy định; và cái Tối thượng mà kẻ đó tập trung tâm trí lên chỉ là sự phóng chiếu của thứ quy định nọ, không phải sao?
“Tôi thấy điều đó”, người chồng hăng say, “Các Thần linh, các chủ trương tôn giáo, các hình ảnh lý tưởng của chúng ta, tất cả đều nằm trong mẫu hình của sự quy định cả. Nay nhờ ông chỉ, bây giờ nó đã rõ rệt và quả nhiên như vậy rồi. Thế thì con người không còn hy vọng gì nữa hay sao?”
Nếu nhảy đến chụp một kết luận và bắt đầu suy tư từ kết luận đó, điều này sẽ ngăn cản sự hiểu ngộ và mọi phát hiện khác. Khi toàn bộ tâm thức nhận ra rằng mình đang bị trói buộc trong một mẫu hình thì điều gì sẽ xảy ra?
“Tôi không hiểu hết câu hỏi của ông”.
Anh có nhận ra rằng toàn bộ tâm thức của mình bị quy định hay không, kể cả phần được xem là siêu linh hồn, là Tiểu ngã? Anh có cảm nhận điều đó, có thấy nó là sự thực hay anh chỉ chấp nhận trên mặt ngôn từ? Điều gì đang xảy ra thực cho anh?
“Tôi không thể nói chắc chắn vì chưa bao giờ tôi suy nghĩ về điều này cho rốt ráo”.
Khi tâm nhận ra toàn bộ bản thân mình bị quy định - điều mà nó không thể nhận ra bao lâu nó còn theo đuổi sự thanh thản tiện nghi, hay lười biếng tìm cái dễ dãi - thì mọi vận hành của tâm sẽ đến một chỗ ngưng bặt; tâm sẽ hoàn toàn lặng yên, không còn ham muốn nào, không còn cưỡng bách nào, không còn động cơ nào nữa. Chỉ lúc đó mới là tự do.
“Thế nhưng chúng ta phải sống trong thế giới này, bất cứ chuyện gì ta làm, từ kiếm tiền nuôi thân cho đến những đòi hỏi tinh tế nhất của tâm, phải có một động cơ nào đó. Có thể có chăng, hành động vô sở cầu?”
Bạn không nghĩ là có sao? Hành động vì lòng yêu thương là vô sở cầu, tất cả mọi hành động khác thì có.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 19 Mar 2018

ĐỐI DIỆN CUỘC ĐỜI, CUỘC SỐNG, CÁI CHẾT VÀ SỰ TỒN SINH


Đó là một cây me già tuyệt đẹp, đầy những trái và lá non. Mọc bên bờ một con sông sâu, cây có sẵn nước và vì vậy mà phủ nhiều bóng mát cho vật và người. Dưới cây này luôn luôn có sự rộn ràng và tiếng ồn ào, giọng nói rõ to hay tiếng bò con gọi mẹ. Một sự hòa hợp tuyệt đẹp và trên bầu trời xanh hình bóng cây in đậm sắc huy hoàng. Sức sống của cây như vô tận. Hẳn cây đã chứng kiến bao điều vì qua vô số mùa hè cây vẫn đứng cạnh dòng sông và chứng kiến những gì xảy ra bên bờ. Đây là một dòng sông đáng chú ý, rộng và thiêng liêng, và khách hành hương đến từ khắp các miền trong nước để tắm trong dòng nước thánh*. Trên sông có những chiếc thuyền, lặng lẽ trôi, cánh buồm hình vuông màu đậm. Khi trăng lên, tròn đầy và hầu như mang sắc đỏ, trăng như phát ra một vệt trắng bạc trên dòng nước lăn tăn, người ta lại vui vẻ tụ họp trong làng kế cận hay trong làng bên kia sông. Vào những ngày lễ thiêng dân làng xuống bờ nước, hát những bài ca vui tươi nhịp nhàng. Mang theo thực phẩm, ríu rít vui cười, họ tắm trong dòng sông; sau đó họ đặt một vòng hoa dưới gốc cây lớn, thoa một ít tro đỏ tro vàng lên thân cây vì nó cũng thiêng liêng, cũng như mọi cây đều thiêng liêng. Cuối cùng khi tiếng líu lo cười đùa chấm dứt, ai về nhà nấy, còn một vài cây đèn vẫn cháy, do dân làng nào sùng tín để lại; những chiếc đèn có bấc nằm trong một chiếc đĩa đất sét đựng dầu, loại đèn mà dân nghèo ở làng có thể mua nổi. Ngọn cây bây giờ là tối thượng, mọi thứ đều chứa trong nó cả: Trái đất, dòng sông, con người và những vì sao. Bây giờ nó rút lại vào trong chính mình, ngủ cho đến lúc được những tia sáng của mặt trời ban mai quét tới.
* Tác giả nói sông Hằng tại Ấn Độ (ND).
Có khi người ta mang một xác chết đến cạnh bờ sông. Quét dọn xong một miếng đất gần mặt nước, họ đặt một khúc gỗ to nặng để làm nền của giàn thiêu, xong xếp gỗ nhẹ lên trên; và trên đỉnh giàn họ để xác nằm, được bọc bằng một tấm vải trắng tinh. Thân nhân gần nhất của người chết châm một ngọn đuốc vào giàn hỏa và một ngọn lửa to lớn bùng lên trong bóng đêm, soi sáng mặt nước và những khuôn mặt lặng yên của người than khóc và bè bạn buồn rầu ngồi quanh đống lửa. Ngọn cây thu nhận một ít ánh sáng và ban phát sự bình yên của nó cho ngọn lửa đang nhảy múa. Vài giờ trôi qua thì xác mới cháy hết, thế nhưng họ vẫn ngồi quanh cho đến lúc không còn lại gì cả, chỉ trừ than hồng và những tia lửa nhỏ. Giữa sự lặng yên vô cùng này, một trẻ sơ sinh bỗng lên tiếng kêu khóc và một ngày mới bắt đầu.
Ông vốn là một người có tiếng tăm. Ông nằm chết trong gian nhà nhỏ sau tường thành và ngôi vườn, nơi một thời được chăm sóc nay đã bị bỏ bê. Quanh ông là vợ và những đứa con, thêm vài người bà con gần. Lần đó, cách cả vài tháng hay có thể lâu hơn, trước khi ông chết, cả nhà cũng ngồi quanh ông và căn phòng nặng trĩu đau buồn. Khi tôi vào thì ông yêu cầu mọi người rút lui, họ đi một cách ngập ngừng, chỉ trừ một đứa trẻ nhỏ chơi đồ chơi trên sàn nhà. Khi cả nhà ra hết, ông chỉ cho tôi một chiếc ghế và chúng tôi ngồi đó một thời gian không nói tiếng nào, trong lúc tiếng động trong nhà và ngoài đường phố len tận vào phòng.
Ông nói một cách khó khăn.
“Ông biết không, đã nhiều năm tôi nghĩ về cuộc sống và nhất là về cái chết, vì tôi bị một chứng bệnh nan y. Cái chết xem ra là một điều kỳ lạ. Tôi đã đọc nhiều sách nói về đề tài này nhưng tất cả đều có vẻ nông cạn”.
Không phải mọi kết luận đều nông cạn hay sao?
“Tôi không chắc như vậy. Nếu ta tới với những kết luận nhất định, chúng thỏa ứng ta một cách sâu sắc thì chúng cũng có ý nghĩa lắm chứ. Có gì sai nếu ta đến với kết luận, miễn chúng thỏa ứng chúng ta?”
Không có gì sai với điều đó cả nhưng không phải nó vẽ nên một tâm nhìn đánh lạc hướng ta ư? Tâm có cái tài tạo nên mọi dạng hình của vọng tưởng* và để vướng mắc trong đó thì thật là không cần thiết và thiếu chín chắn.
* “Tâm như nhà họa sĩ, vẽ vời cảnh thế gian”, Kinh Hoa Nghiêm (ND).
“Tôi đã sống một cuộc đời phải nói là giàu sang và theo đuổi những gì tôi cho là trách nhiệm của mình; nhưng dĩ nhiên tôi chỉ là một con người. Dù sao cuộc đời tới đây là hết, tôi chỉ còn là một vật vô dụng nhưng cũng may là tâm tôi chưa bị ảnh hưởng gì. Tôi còn đọc nhiều và hăng say hơn bao giờ cả, muốn biết điều gì sẽ xảy ra sau khi chết. Phải chăng tôi sẽ còn tiếp tục hay không còn gì cả một khi cái thân này chết đi?”
Thưa ông, nếu được phép hỏi thì tại sao ông lại quan tâm đến những gì xảy ra sau khi chết?
“Không phải ai cũng muốn biết cả hay sao?”
Có thể họ muốn đấy; nhưng nếu ta không biết sống là gì thì làm sao biết chết là gì? Sống và chết có thể chỉ là một chuyện thôi và việc chúng ta cứ tách chia chúng ra có lẽ là nguồn gốc của mối phiền não to lớn này.
“Tôi ý thức những gì ông nói trong tất cả những lần thuyết giảng của ông, nhưng tôi vẫn muốn biết. Ông không sẵn lòng nói cho biết những gì sau khi chết sao? Tôi hứa sẽ không kể lại cho ai nghe”.
Tại sao ông lại cố gắng để biết đến thế? Sao ông không chịu để cho cái biển sinh và tử cứ là như thế, sao cứ muốn chọc ngón tay vào đó?
“Tôi không muốn chết”, ông nói, ông cầm lấy tay tôi, “Từ xưa đến nay tôi luôn luôn sợ chết và mặc dù tôi tự an ủi bằng lý trí và niềm tin, chúng chỉ là vỏ ngoài bọc trên sự thống khổ của lòng sợ hãi. Tất cả những gì tôi đọc về cái chết đều là cố gắng để thoát khỏi cái sợ đó, để tìm một lối ra, và đó là lý do mà tôi đang cầu ông cho biết”.
Có sự trốn tránh nào sẽ giải thoát tâm khỏi sự sợ hãi? Không phải sao, mọi hành động trốn chạy đều nuôi dưỡng cái sợ?
“Nhưng ông hãy nói tôi nghe, và những gì ông nói là sự thật. Sự thật này sẽ giải phóng tôi…”.
Chúng tôi ngồi yên lặng một hổi lâu. Sau đó ông lại nói.
“Sự lặng yên vừa rồi đã chữa giúp cho tôi hơn tất cả mọi lo âu tra vấn. Tôi mong được ở yên trong đó và được chết trong sự lặng yên, nhưng tâm tôi không chịu bỏ tôi. Tâm tôi trở thành thợ săn và đồng thời là kẻ bị săn đuổi; tôi bị tra tấn hành hạ. Tôi đang đau đớn thể xác nhưng không có gì so được với những gì xảy ra trong tâm. Có một sự tiếp nối của cái tôi sau khi chết? Cái tôi này, cái biết vui, biết buồn, biết nhận thức, nó còn hay mất?”
Cái “tôi” mà tâm ông hằng bám víu và cái mà ông muốn tiếp tục tồn tại là gì? Xin đừng trả lời, hãy lặng yên lắng nghe. Cái “tôi” chỉ tồn tại nhờ sự đồng hóa với tài sản, với danh xưng, với gia đình, với thất bại thành công, với tất cả những gì ông đã là và ông muốn là. Ông chính là cái mà ông tự đồng hóa với nó; ông được xây dựng lên bởi tất cả những cái đó, nếu không có chúng thì ông cũng chẳng có. Những thứ đồng hóa đó, với con người, với tài sản và ý niệm, phải chăng ông muốn những thứ đồng hóa đó sẽ tiếp tục tồn tại sau khi chết; phải chăng nó là một vật sinh động? Hay nó chẳng qua là một khối gồm những ham muốn ngược nhau, những theo đuổi, thỏa mãn và thất vọng, những thú vui ngầm chứa đầy phiền não*?
* Krishnamurti giảng “ngũ uẩn” như các thành phần cấu tạo nên dòng tâm thức mà con người tưởng nhầm có một tự ngã đứng đằng sau. Điều thú vị là tác giả không hề nhắc tới “ngũ uẩn” mà dựa trên tính chất của người đối thoại để giảng lý thuyết vô ngã. Đây là một thí dụ hay cho khả năng “đối cơ thuyết pháp” của tác giả (ND).
“Những gì ông nói có lẽ đúng, nhưng thà được biết đến vẫn hay hơn không biết gì cả”.
Thật là cái được biết hay hơn cái chưa biết không? Cái được biết thì quá ít, vụn vặt, hạn chế. Cái được biết thì đầy phiền não mà ông thì khao khát muốn kéo dài nó.
“Hãy thông cảm cho tôi, hãy từ bi với tôi, đừng cứng cỏi quá. Tôi chỉ cần biết liệu tôi có chết một cách hạnh phúc không”.
Thưa ông, đừng phấn đấu quá mức như thế chỉ để biết. Khi mọi dụng công muốn biết đã ngưng bặt thì sẽ xuất hiện một cái không do tâm tạo dựng nên. Cái chưa được biết lớn hơn cái được biết; thế nhưng cái được biết là một chiếc thuyền đi trên biển cả của cái chưa được biết. Hãy để mọi việc vận hành và cứ là như thế.
Vợ ông vừa đi vào, mang theo thức uống và đứa trẻ đứng dậy chạy ra khỏi phòng mà không nhìn đến chúng tôi. Ông nhờ vợ đóng cửa lại, đừng để cho trẻ vào lại.
“Tôi không lo lắng lắm chuyện gia đình; tương lai của vợ con tôi được bảo đảm rồi. Tôi lo cho chính tương lai của tôi. Trong thâm tâm tôi biết những gì ông nói là đúng, nhưng tâm tôi như một con ngựa đang phi nước đại, không người cưỡi. Ông có thể giúp tôi không, hay tôi là người vô phương cứu chữa?”
Chân lý là một điều kỳ lạ; ông càng theo đuổi nó, nó càng vuột ra khỏi tay ông. Ông không thể nắm bắt nó bằng bất cứ phương tiện gì, dù tinh tế hay khôn khéo đến đâu; ông không thể giữ nó trong mạng lưới tư duy của ông. Hãy thấy điều này và cứ để mọi vật tiếp diễn. Trên con đường tử sinh, ông phải đi một mình; trên con đường này không thể sử dụng cái tiện nghi của tri thức, của kinh nghiệm, của ký ức. Tâm thức phải được thanh lọc khỏi tất cả mọi sự mà nó đã thu lượm trong khi tầm cầu sự an toàn; các thần thánh, cái lễ nghĩa của tâm cũng phải trả lại cho xã hội, chỗ đã nuôi dưỡng chúng. Phải có một sự cô tịch hoàn toàn, phi ô nhiễm.
“Đời của tôi sắp hết, hơi thở của tôi đã ngắn còn ông thì đòi hỏi một điều quá khó: Rằng tôi cứ chết mà không cần biết cái chết là gì. Nhưng tôi đã được ông khai thị: Cứ để cuộc sống như thế, và có thể sẽ có phúc lạc trong đó”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 19 Mar 2018

SỰ SUY ĐỒI CỦA TÂM


Dọc theo khúc quanh dài và rộng của dòng sông là thị trấn, rất thiêng liêng và cũng rất dơ bẩn. Nơi đây sông lượn một đường cong, sức chảy của nó đập vào bờ cạnh của phố xá, thường phá vỡ những bậc cấp từ trên dẫn xuống nước, trong đó có cả bậc cấp của những ngôi nhà cổ. Nhưng dù có tàn phá trong cơn giận dữ, con sông vẫn thiêng liêng và tuyệt đẹp. Tối nay dòng sông đẹp đặc biệt, mặt trời đang lặn phía dưới thị trấn mờ tối, chìm sau ngôi tháp đơn độc, ngôi tháp như thể cái rướn người của cả thị trấn hướng lên bầu trời. Những đám mây sắc vàng ánh đỏ như cháy lên cùng với nét rực rỡ của một mặt trời đã từng du hành trên một vùng đất đẹp thiết tha xen lẫn nỗi sầu khổ. Và khi ánh quang đã phai màu thì trên thị trấn mờ tối xuất hiện một mảnh trăng non, mềm mại và tinh tế. Tại bờ bên kia, cách thị trấn một quãng xa, xuất hiện một cảnh quan say đắm như có ma lực, nhưng lại hoàn toàn tự nhiên không chút giả tạo. Dần dần mảnh trăng non lặn xuống sau mảng tối của thị trấn và ánh đèn bắt đầu xuất hiện; nhưng dòng sông thì vẫn mang ánh sáng của bầu trời đêm, là một ánh vàng rực rỡ với một sự mềm dịu khó tin. Vùng sáng này chính là dòng sông bây giờ đã có hàng trăm thuyền chài. Nhiều người đàn ông xế tuổi, gầy còm, đen đúa, đang ra sức đầy thuyền bằng những chiếc sào dài để ngược dòng đi lên, chiếc này sau chiếc kia dọc gần bờ sông; bắt đầu từ xóm chài phía dưới thị trấn, mỗi người một chiếc, có khi với một hai đứa trẻ, chống thuyền chầm chậm ngược sông, qua khỏi cây cầu dài và nặng nề. Và bây giờ thì hàng trăm thuyền chài xuôi dòng cùng với con nước chảy mau mang họ về. Họ thả lưới vào đêm để mong đánh bắt những con cá to nặng, dễ chừng cũng hai ba mươi phân; chúng bị vứt thành đống trong những chiếc thuyền lớn hơn buộc sẵn trong bờ, có con còn giãy giụa, để rồi sáng mai sẽ được đem ra chợ bán.
Những con đường trong thị trấn thường đầy những xe bò, xe buýt, xe đạp và người bộ hành, đây đó có một hai con bò. Các ngõ ngách nhỏ hẹp, hai bên là các cửa hàng với ánh sáng lờ mờ, chạy quanh co vô tận với ngõ vào ngõ ra, nay đầy bùn với trận mưa vừa qua và đầy chất bẩn của người và vật. Một trong những đường hẻm đó dẫn đến một bậc thang rộng đi xuống sát bờ sông; và trên những bậc thang đó mọi quang cảnh diễn ra. Một số người ngồi sát bờ sông, mắt khép lại, yên lặng thiền định; kế đó là một người đang hát trước một đám đông hâm mộ đứng che cả các bậc cấp khác; kế đó nữa là một người ăn xin bị bệnh hủi ngửa bàn tay tiều tụy, trong lúc một người khác trên trán thoa tro và với đầu tóc bện đang giảng thuyết. Gần đó là một sannyasi diện mạo sạch sẽ, áo dài tươm tất, ngồi bất động, mắt nhắm nghiền như đang chăm chú hành trì lâu dài và thuần thục. Một người khác khum bàn tay đang yên lặng cầu nguyện trời đất sẽ được thu liễm vào trong tay; một bà mẹ để ngực trần cho con bú, không quan tâm gì đến mọi thứ khác. Phía hạ lưu là những xác chết, được mang đến từ các làng kế cận và từ thị trấn đang mở rộng và dơ bẩn này, rồi chúng sẽ được thiêu trong những giàn hỏa to lớn cùng với tiếng lốp bốp. Nơi đây tất cả mọi thứ đều xảy ra vì đây là thị trấn thiêng liêng nhất trong mọi chỗ thiêng liêng. Nhưng vẻ đẹp của con sông lặng lờ trôi dường như xóa bỏ tất cả mọi sự hỗn loạn do con người gây ra, bên trên thì bầu trời nhìn xuống với lòng yêu thương và sự kỳ diệu*.
* Tác giả nói đến Varanasi tại Ấn Độ, thành phố thiêng liêng nhất của Ấn Độ giáo. Con sông được nhắc đến là sông Hằng, đây là đoạn sông nổi tiếng nhất. Ngày nay ai đến Varanasi cũng vẫn còn thấy những cảnh tượng bên bờ sông Hằng được tác giả mô tả trong đoạn này (ND).
Chúng tôi nhiều người ngồi chung với nhau, hai phụ nữ và bốn người nam. Một trong hai chị, có năng khiếu và cặp mắt sắc sảo, được đào tạo rất giỏi ở trong và ngoài nước; chị kia thì khiêm tốn hơn với một cái nhìn chứa nhiều phiền muộn và khẩn khoản. Trong cánh đàn ông có một người từng tham gia chính trị nhưng đã từ bỏ đảng phái từ nhiều năm nay, anh đầy sức sống và óc tầm cầu; một người khác là nghệ sĩ, rụt rè và sống nội tâm nhưng cũng mạnh dạn bày tỏ khi cần; người thứ ba là một viên chức trong bộ máy nhà nước; và người thứ tư là giáo viên rất tinh tế, nhanh miệng nở nụ cười và hăng say muốn học hỏi.
Tất cả mọi người giữ yên lặng một hồi lâu và bây giờ thì người trước kia hoạt động chính trị nói.
“Tại sao ngày nay lại có quá nhiều sự suy đồi trong mọi mặt của cuộc sống? Tôi hiểu những gì ông nói, là quyền thế chủ yếu sẽ sinh ra xấu xa và sự suy đồi. Nếu xem lại lịch sử ta sẽ thấy điều này. Hạt nhân của xấu xa và suy đồi vốn luôn luôn có trong mọi định chế chính trị và tôn giáo, như ta thấy trong các giáo hội suốt bao thế kỷ cũng như trong các đảng phái thời nay, họ hứa hẹn rất nhiều nhưng bản thân họ bị suy đồi và sinh ra chuyên chế. Tại sao mọi thứ đều giảm thiểu chất lượng theo cách thức này?”.
“Chúng ta hiểu biết rất rõ về mọi thứ”, chị phụ nữ thông thái nói tiếp, “Nhưng kiến thức xem ra không ngăn chặn được con sâu hư xấu trong lòng người. Tôi viết sách và cũng đã xuất bản một hai cuốn, nhưng tôi cũng thấy tâm ta quá dễ dàng suy thoái một khi nó đã thành thạo một việc gì. Học cách phát biểu thật hay, đào xới lên được những luận đề thú vị hấp dẫn, sử dụng thói quen viết lách, như thế là xong; ta trở nên nổi tiếng và nhờ nó mà ta có kế sinh nhai được rồi. Tôi nói những lời này không phải vì chê bai hay cay đắng do tôi thành công hay thất bại mà vì tôi thấy quá trình này diễn ra trong người khác cũng như trong chính tôi. Hình như chúng ta không thể thoát khỏi sự xói mòn do cái thành thạo và kỹ năng sinh ra. Muốn cho điều gì hình thành ta phải cần năng lực và sáng kiến, nhưng một khi đã khởi động rồi thì hạt nhân của sự suy đồi đã nằm chờ sẵn trong đó. Liệu ta có thoát ra khỏi được quá trình suy đồi này chăng?”.
“Tôi cũng thế”, anh công chức nói, “Cũng bị trói buộc trong vòng vây của sự tự hủy. Chúng tôi lên kế hoạch tương lai cho năm hay mười năm, xây dựng đê đập, các ngành công nghiệp mới, tất cả đều tốt và cần thiết cả; nhưng dù đê đập có xây dựng tuyệt đẹp đi nữa, dù thiết bị có vận hành hiệu quả đi nữa, thì mặt khác tư duy của chúng ta cứ càng lúc càng trở thành thiếu hiệu nghiệm, càng ngu đần và lười biếng. Các thứ máy vi tính và các thiết bị điện tử hơn hẳn con người trong mọi khía cạnh, thế nhưng không có người thì chúng cũng không có. Cuối cùng thực tế là chỉ có một số ít đầu óc chịu hoạt động và sáng tạo; phần còn lại trong chúng tôi chỉ sống nhờ họ, bị ruỗng nát và thậm chí còn vui thích với sự ruỗng nát”.
“Tôi chỉ là một giáo viên và tôi quan tâm đến một phương cách giáo dục khác - một cách giáo dục ngăn ngừa được con sâu phá ruỗng sinh ra trong tâm. Hiện nay thì chúng ta “giáo dục” một con người sinh động trở thành một ông công chức ngu xuẩn - cho tôi xin lỗi - với một chức vụ quan trọng và một số lương hấp dẫn, hay với món tiến công ba cọc ba đồng của một cuộc sống khốn khổ hơn. Tôi biết những gì tôi nói vì chính tôi bị dính mắc trong đó. Thế nhưng rõ ràng đây là thứ giáo dục mà Nhà nước mong muốn, vì họ đổ tiền vào trong đó và mọi cái mệnh danh là giáo dục, kể cả giáo dục của tôi, đều tăng cường và xúi giục cho sự suy đồi của con người. Có phương cách nào chấm dứt sự suy đồi này không? Xin ông hãy tin là tôi hết sức nghiêm túc với câu hỏi này, tôi không hỏi cho có chuyện đâu. Tôi có đọc một số sách gần đây về giáo dục và các sách báo đó cũng luôn luôn nói về phương pháp này hay phương pháp nọ. Kể từ khi nghe ông giảng, tôi muốn đặt vấn đề một cách triệt để”.
“Tôi là nghệ nhân nhiều ngành khác nhau và vài ba viện bảo tàng đã mua tác phẩm của tôi. Rất tiếc là tôi phải có cá tính riêng, điều mà tôi hy vọng các vị khác không phiền, vì vấn đề của họ cũng là của tôi. Trong một thời gian tôi theo ngành hội họa, sau đó quay qua gốm sứ, sau đó là tạc tượng. Rõ là có một sự bức xúc duy nhất muốn được tỏ bày trong nhiều cách khác nhau. Sự bức xúc đó là sức mạnh, là một cảm giác lạ thường, nó muốn mang sắc thể. Nó muốn thể hiện chứ không phải con người hay bất kỳ kẻ trung gian nào khác muốn. Có lẽ tôi không trình bày được rõ ràng nhưng ông biết tôi muốn nói gì. Ta phải giữ cái năng lực sáng tạo này luôn luôn sinh động, luôn luôn sẵn sàng, phải giữ nó dưới một áp lực to lớn, cũng như hơi trong lò nấu. Có những giai đoạn mà ta cảm nhận năng lực này và một khi đã nếm trải nó thì không có gì trên đời có thể ngăn ta muốn tới lại với nó. Nhưng kể từ đó thì ta quằn quại, luôn luôn bất mãn vì ngọn lửa này không bao giờ ổn định, không bao giờ hiện diện một cách hoàn toàn. Thế nên nó phải được bồi bổ, nuôi dưỡng và mỗi sự bồi bổ lại càng làm nó yếu đi, ngày càng mất đi sự trọn vẹn. Cho nên ngọn lửa tắt lịm từ từ, mặc dù cái khôn khéo và kỹ năng vẫn tiếp diễn, mặc dù ta sẽ trở nên tiếng tăm. Động tác thì còn nhưng lòng yêu thương đã biến mất, trái tim đã chết và như thế mà sự suy đồi bắt đầu”.
Dù mọi cuộc sống của các bạn khác nhau nhưng vấn đề trung tâm là sự suy đồi của tâm. Người nghệ sĩ cảm nhận nó một cách, ông nhà giáo một cách khác nữa; nhưng nếu chúng ta ý thức rõ về diễn biến nội tâm của chính mình và của người khác thì thật là rõ, già cũng như trẻ, là quả thật tâm con người bị suy đồi. Sự suy giảm chất lượng này xem ra nằm sẵn trong mọi hoạt động của bản thân tâm thức. Như một cỗ máy hao mòn trong lúc vận hành, dường như tâm cũng yếu kém đi trong hành động của nó*.
*Ở đây những người tham dự và tác giả nói đến một vấn đề sâu xa nhất của tâm, đó là khi tâm chiếu hiện thành các dạng thô nặng của vật chất thì nó càng bị mất năng lượng sáng tạo ban đầu, điều mà tác giả gọi là “sự suy đồi của tâm” (ND).
“Tất cả chúng tôi đều biết thế”, chị phụ nữ thông thái nói, “Ngọn lửa, sức sáng tạo, mờ nhạt đi chỉ sau một hai lần cố gắng hết mình, nhưng kỹ năng thì còn và thứ thế phẩm cho sức sáng tạo này theo thời gian sẽ thay thế luôn cho chính sự sáng tạo. Chúng tôi biết điều này quá rõ. Câu hỏi của tôi là làm sao giữ sức sáng tạo này còn mãi, đừng để mất sức mạnh và vẻ đẹp của nó”.
Các nhân tố của sự suy đồi là gì? Nếu ta biết rõ chúng có lẽ ta có cách chấm dứt nó.
“Liệu ta có thể nêu lên chăng những yếu tố riêng biệt một cách cụ thể?” nhà chính trị ngày trước hỏi. “Sự suy đồi có lẽ đã nằm sẵn trong tính chất của tâm”.
Tâm thức là một sản phẩm của xã hội, của nền văn hóa, trong đó nó được sinh ra và xã hội luôn luôn là một tình trạng của sự suy đồi, một tình trạng của sự tự hủy hoại từ bên trong. Một tâm thức bị xã hội ảnh hưởng phải ở trong một trạng thái ngày càng giảm thiểu chất lượng.
“Hiển nhiên và chính vì chúng tôi nhận thấy điều đó”, nhà chính trị nói, “Nên nhiều người trong chúng tôi làm việc rất cứng rắn thậm chí tàn bạo mà tôi e rằng để xây dựng nên một mẫu hình mới và cứng nhắc cho một chủ trương mà theo đó xã hội phải như thế nào mới vận hành tốt đẹp. Đáng tiếc thay có một nhóm người tệ hại nhảy ra nắm quyền lực và tất cả chúng ta đều biết hậu quả của nó”.
Không phải sao, sự suy đồi đã không tránh khỏi ngay khi một mẫu hình được nêu lên làm mực thước cho đời sống cá thể và tập thể rồi? Nếu không phải là định chế xuất phát từ quyền lực thì còn thứ định chế nào khác khi một cá nhân hay một nhóm người cho phép mình đề ra khuôn mẫu cho người khác phải theo? Giáo hội cũng đã làm điều này, bằng quyền lực của cái sợ, của sự xu nịnh và lời hứa hẹn; và vì thế mà làm con người trở thành tù nhân.
“Tôi từng cho là mình biết rõ, cũng như nhà tu sĩ cho là họ biết rõ, quan niệm sống nào là đúng đắn cho con người; nhưng bây giờ, song song với những thứ khác, tôi thấy điều đó thật vô minh ngu xuẩn biết bao. Vấn đề còn lại là, phải chăng sự suy đồi hư hỏng của tâm là số phận chung của chúng ta, không ai thoát khỏi nó?”
“Liệu chúng ta có thể giáo dục cho con trẻ”, ông thầy giáo nói, “Cho chúng biết về sự hư hỏng này không, để chúng tự tránh khỏi điều tệ hại này?”
Không phải chúng ta đang chạy quanh vấn đề này và không chịu đi vào nội dung hay sao? Chúng ta hãy cùng nhau xem xét. Chúng ta biết tâm thức của mình hư hỏng suy đồi trong nhiều cách khác nhau, tùy theo tâm ý của mỗi người. Chúng ta có thể chấm dứt điều này không? Và chúng ta nghĩ gì về từ “suy đồi”*? Hãy từ từ đi vào vấn đề. Phải chăng suy đồi là một dạng của tâm, nó được biết đến thông qua sự so sánh với một dạng trọn vẹn của tâm mà có lúc tâm chứng nghiệm được và nhớ biết đến nó cũng như hy vọng sẽ chứng thực lại? Phải chăng suy đồi là dạng của tâm khi bị thất vọng trong sự kiếm tìm thành công, tầm cầu sự chứng nghiệm, vân vân? Phải chăng tâm cố tìm và thất bại khi muốn trở thành một cái gì đó và tự thấy mình bị suy đồi hư hỏng?
* Deterioration.
“Nó chính là tất cả những thứ đó”, chị phụ nữ nói, “Nếu không phải tất cả thì ít nhất tôi cũng nằm trong một của những cái mà ông vừa mô tả”.
Ngọn lửa mà bà nói đến, nó xuất hiện trong trường hợp nào?
“Nó đến hoàn toàn bất ngờ, không có sự tầm cầu, và khi nó đi thì tôi cũng không kéo lại được. Tại sao ông lại hỏi thế?”
Nó đến khi bà không tìm kiếm nó, nó đến không phải do ý muốn được thành công của bà, cũng chẳng vì mong ước đạt được niềm vui tai hại muốn hãnh tiến của bà. Bây giờ thì nó biến mất, bà theo đuổi nó, vì nó cho bà ý nghĩa của cuộc sống mà vắng nó thì vô nghĩa, và bây giờ bà cảm nhận có một sự suy giảm trong tâm mình. Đúng thế không?
“Tôi nghĩ thế, mà không phải chỉ mình tôi, đa số người khác cũng thế. Những kẻ khôn ngoan hơn thì xây dựng một nền triết lý quanh những gì nhớ được về những kinh nghiệm đó và như thế mà bắt giữ được một số người ngây thơ trong mạng lưới của họ”.
Không phải tất cả những thứ này gợi lên một cái, mà cái này chính là yếu tố trung tâm và chủ yếu của sự suy đồi?
“Phải chăng ông muốn nói đến tham vọng?”
Đó chỉ là một mặt của cái tâm điểm đầy khía cạnh khác nhau: Sự tập trung năng lực có tính toán, vị kỷ mà năng lực đó chính là cái “tôi”, cái tự ngã, kẻ kiểm tra, người chứng nghiệm và người đánh giá mọi kinh nghiệm. Không phải đó chính là yếu tố trung tâm, yếu tố duy nhất của sự suy đồi hay sao?
“Liệu đó là hành động vị kỷ, chỉ biết lấy mình”, nhà nghệ nhân hỏi, “Nếu để thực hiện một điều trong đời mà thiếu lòng say mê sáng tạo thì không có được? Tôi thật khó tin điều đó”.
Nơi đây không có vấn đề nhẹ dạ hay tin tưởng suông. Hãy tiếp tục xét vấn đề. Tình trạng sáng tạo nói trên đến khi bạn không hề mời mọc nó, nó có đó khi tâm không khẩn cầu. Bây giờ nó đi mất và trở thành một thứ được bạn nhớ đến, bạn muốn tái tạo nó bằng nhiều phép gợi tưởng hay kích thích khác nhau. Có thể bạn chạm được chút bên lề, cái cạnh ngoài của nó nhưng như thế không đủ và bạn cứ khao khát đến nó. Thế thì, không phải mọi khao khát, dù cao đẹp đến mấy, đều là hoạt động của tự ngã hay sao? Không phải đó là mối lo âu về chính mình sao?
“Có lẽ thế thực nếu ông nhìn cách đó”, người nghệ sĩ thừa nhận, “Nhưng lòng khao khát trong dạng này hay dạng khác là động lực của mọi chúng ta, từ ông thánh khổ hạnh đến anh nông dân tầm thường”.
“Phải chăng ông nói”, ông thầy giáo hỏi, “Tất cả mọi sự học tập đều ích kỷ? Liệu mọi nỗ lực nhằm cải thiện xã hội đều là hoạt động vị ngã? Không phải giáo dục là một sự cải tiến rộng khắp, để mang lại tiến bộ trong chiều hướng đúng đắn? Khi khép mình vào một mô hình tốt hơn của xã hội, khi đó là ích kỷ sao?”
Xã hội luôn luôn là một dạng của sự thoái hóa. Không bao giờ có xã hội toàn hảo. Xã hội toàn hảo chỉ có trong lý thuyết, không có trong thực tế. Xã hội được xây dựng trên quan hệ giữa người với người, động lực của nó là ham muốn, khao khát, lòng chiếm hữu, niềm vui ngắn ngủi, lòng mong cầu quyền lực, vân vân… Bạn không thể cải thiện lòng khao khát mà lòng khao khát phải chấm dứt. Cho sự bạo lực một bộ áo văn minh bằng những giá trị nói kiểu nước đôi là không chấm dứt bạo lực gì cả. Dạy cho một cậu sinh viên hãy uốn mình theo tập thể là chỉ khuyến khích người đó bảo vệ cho sự suy đồi tâm thức. Leo những bậc thang của sự thành công, phải trở thành ông này ông nọ, kiếm được sự thừa nhận của tập thể, đó chính là cốt tủy của cơ cấu xã hội đang thoái hóa và nếu là một phần của nó thì chính là suy đồi.
“Ông cho rằng” ông thầy giáo ưu tư, “Người ta phải quay lưng với thế gian, trở thành người đi tu ẩn dật?”
So ra thì dễ dàng và thuận lợi nếu ta chỉ từ bỏ thế giới bên ngoài như nhà cửa, gia đình, danh tiếng, tài sản; thế nhưng việc từ bỏ thế giới bên trong là một điều hoàn toàn khác. Đó là từ bỏ tham vọng, quyền lực, thành tích và thật sự là không gì cả, từ bỏ mà không có một động cơ nào, không có một hứa hẹn nào về một tương lai hạnh phúc hơn. Vì người ta bắt đầu nơi chỗ sai, với những điều sai nên cứ mãi nằm trong sự rối loạn. Bắt đầu nơi chỗ đúng thì mới đi được xa.
“Phải chăng ta không được có một phương cách dứt khoát nào để chấm dứt sự suy đồi, sự vô hiệu và lười biếng của tâm?”, người công chức hỏi.
Phương cách hay kỷ luật hàm chứa một động cơ, sự tìm đến một mục đích và không phải đó đã là một hành động vị kỷ hay sao? Trở thành người đạo đức cũng là một quá trình vị kỷ, nó dẫn đến sự được nể nang. Nếu bạn bồi dưỡng trong bạn một tinh thần bất bạo động thì bạn vẫn còn bạo động, nhưng dưới một cái tên khác. Ngoài tất cả cái đó ra ta còn một dạng khác của sự suy đổi: Mọi dụng công dù tinh tế đến đâu cũng là sự suy đổi. Nói thế nhưng điều này không hể bênh vực cho sự lười biếng.
“Ôi trời, rõ là ông đang lấy đi tất cả của chúng tôi”, người công chức kêu lên. “Và khi ông lấy hết thì còn lại cho chúng tôi cái gì, không có gì cả!”
Sự sáng tạo không hề là một quá trình của sự trở nên hay thành tựu mà là một dạng sống trong đó mọi cố gắng vị kỷ hoàn toàn ngưng bặt. Nếu cái tôi cố vắng mặt thì cái tôi cứ hiện diện. Tất cả mọi dụng công của cái mà ta mệnh danh là tâm thức phải ngưng bặt, vắng bóng động cơ, vắng bóng xui khiến.
“Cái đó chính là cái chết, không phải sao?”
Cái bị chết chính là tất cả những gì được biết, chính là cái tôi. Chỉ khi nào toàn thể tâm thức lặng yên thì cái sáng tạo, cái vô danh xuất hiện.
“Thế thì ông nghĩ tâm thức là gì?”
Cái ý thức lẫn cái vô ý thức, cái ẩn mật sâu kín của trái tim cũng như những khía cạnh được đào tạo của bộ óc.
“Tôi đã lắng nghe”, chị phụ nữ nói, “Và thâm tâm tôi hiểu ngộ”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

NGỌN LỬA BẤT MÃN


Trong nắng mai, lá cây ngoài cửa sổ đang chiếu thành những chiếc bóng nhảy múa trên bức tường trắng của căn phòng. Một làn gió nhẹ thổi, những chiếc bóng đó không bao giờ nằm yên; chúng cũng sinh động như bản thân các chiếc lá. Vài ba chiếc lá rung động nhẹ nhàng, với ân sủng và sự êm dịu, nhưng những chiếc lá khác run rẩy dữ dội, dằn xóc và bất an. Mặt trời vừa lên cao sau ngọn đồi với khu rừng rậm. Ban ngày sẽ không nóng lắm vì có gió nhẹ thổi từ núi tuyết trên miền Bắc xuống. Vào những giờ sáng sớm này có một sự an tĩnh kỳ lạ - sự an tĩnh của trái đất còn ngủ trước khi con người bắt đầu lao vào sự nhọc nhằn. Trong niềm an tĩnh này bỗng có tiếng kêu thất thanh của loài két, chúng sự hãi bay ra ruộng hay vào rừng; có tiếng gọi khàn khàn của giống quạ và tiếng chim ríu rít; có tiếng còi xe lửa từ xa, tiếng còi hụ báo giờ của một cơ xưởng. Đó là giờ mà tâm còn mở rộng như bầu trời và còn dễ bị thương tổn như lòng yêu thương.
Con đường đông nghẹt và mọi người đi bộ trên đường không mấy quan tâm đến xe cộ lưu thông; họ vui vẻ bước qua một bên nhưng lẽ ra họ phải quay nhìn sau lưng xem cái gì phát ra tiếng ồn ào. Đó là xe máy, xe buýt và xe bò, cũng như xe kéo chở đầy ngũ cốc. Các cửa hàng bán đủ thứ hàng nhu yếu, từ chiếc kim cho đến xe hơi, tràn ra cùng với người.
Con đường này cũng dẫn qua khu phố sang trọng của thành phố, một nơi với sự cách biệt và vén khéo thường có, để cuối cùng đường dẫn ra phía làng mạc và cách đó không xa là ngôi mộ nổi tiếng. Bạn bỏ xe ở cổng ngoài, leo lên một ít bậc cấp, đi dưới cổng hình vòm và vào trong một khu vườn được chăm sóc chu đáo. Đi dọc theo một con đường cát, leo thêm vài bậc cấp, bạn lại chui qua dưới một cổng hình vòm khác với gạch men xanh, và sau đó đi vào vườn trong với một bức tường che trọn xung quanh. Thật là vĩ đại, hàng mẫu bãi cỏ xanh hấp dẫn, những hàng cây và suối nước đáng yêu. Trong bóng cây trời mát dịu và tiếng thác đổ nghe thật vui thích. Lối đi hình tròn dọc bờ tường men theo đám cỏ có đường viền với đầy hoa lá rực rỡ; và ta cũng cần một lúc lâu mới đi cho hết vòng. Đi trên lối cắt ngang bãi cỏ, bạn sẽ tự hỏi tại sao biết bao không gian và vẻ đẹp cũng như sức lao động được dành cho một ngôi mộ. Bây giờ thì bạn leo lên một loạt những bậc cấp và đến một sân thượng rộng rãi được lót bằng những phiến sa thạch màu nâu đỏ. Trên sân thượng này, nhà mồ vươn cao một cách trang nghiêm. Nhà mồ được xây bằng đá cẩm thạch mài trơn láng và chiếc quan tài đơn độc nằm bên trong cũng bằng cẩm thạch sáng lên dưới ánh sáng dịu của mặt trời đã được lọc qua những cửa sổ có lưới rèm mắt cáo. Có một cái gì cô tịch nằm trong sự bình an, mặc dù xung quanh đầy vẻ hùng tráng và mỹ thuật.
Từ sân thượng bạn có thể thấy thành phố cổ, với những kiến trúc mái vòm và các lối đi, nối với đô thị mới, với tháp xây bằng kết cấu thép dùng cho đài phát thanh. Thật là kỳ lạ khi thấy hai cái mới cũ gặp nhau và tác động của nó làm lay động cả lòng người. Dường như quá khứ và hiện tại của toàn bộ đời sống nằm trước mắt bạn như một thực tế giản đơn, không có sự can thiệp của con người kiểm tra và sự lựa chọn của nó. Chân trời xanh vươn xa ra khỏi đô thị và cánh rừng; nó sẽ mãi mãi là nó, trong lúc cái mới đã trở thành cái cũ.
Nhóm họ có ba người, tất cả còn rất trẻ, một người anh, cô em gái và một người bạn. Y phục của họ tươm tất. Chắc hẳn họ là những người được học hành đến nơi đến chốn nên họ nói nhiều thứ tiếng một cách dễ dàng; họ lại còn có khả năng bàn về những cuốn sách mới xuất bản gần đây nhất. Thật là lạ khi thấy họ ở trong một căn phòng trống trải, chỉ có hai chiếc ghế và một trong hai người đàn ông phải ngồi tạm trên sàn nhà, làm nhăn nếp gấp của chiếc quần khéo ủi*. Một con chim sẻ làm tổ ngay ở bên ngoài bỗng nhiên xuất hiện trên ngưỡng cánh cửa sổ đang mở, thấy những khuôn mặt lạ, nó vỗ cánh bay mất.
* Người ta được biết Krishnamurti thường quan tâm đến sự ăn mặc tươm tất. Giữa ông và M. K. Gandhi, lãnh tụ giành độc lập người Ấn Độ, có sự khác biệt một trời một vực về điều này (ND).
“Chúng tôi đến để xin trao đổi với ông về vài chuyện có tính cách cá nhân”, người anh nói, “Chúng tôi hy vọng không làm ông phiền. Cho phép tôi được bắt đầu ngay. Ông thấy là cô em của tôi đang ở trong một giai đoạn hết sức đáng ái ngại. Cô ấy ngại kể ông nghe nên bây giờ tôi đành phải nói. Chúng tôi rất thương nhau và hầu như không bao giờ phải xa nhau từ hồi còn rất nhỏ. Cuộc sống của chúng tôi thì không có gì đáng nói nhưng cô em của tôi thì đã hai lần lấy chồng và hai lần li dị. Chúng tôi đã cùng nhau chịu đựng. Các ông chồng thì cũng phải chăng cả, thế nên tôi đâm lo cho em tôi. Chúng tôi đi hỏi ý kiến của một nhà tâm lý nổi tiếng, nhưng cũng không xong. Chuyện đó thì cũng không cần kể hết. Mặc dù tôi chưa trực tiếp gặp ông lần nào nhưng đã biết về ông từ nhiều năm nay và cũng đọc sách viết về các bài giảng của ông, nên tôi thuyết phục em và người bạn chung của chúng tôi đi với tôi đến đây”. Anh ngập ngừng một lát rồi nói tiếp.
“Cái khó của chúng tôi là em tôi xem ra không hài lòng với bất cứ cái gì. Nói cho đúng thì không có gì làm em tôi thỏa mãn hay vui lòng được cả. Sự bất mãn trở thành tính khí của nó và nếu có gì không ổn thì nó phá bỏ tất cả”.
Không phải là một điều tốt sao nếu ta bất mãn?
“Trong chừng mực nhất định thì được”, người anh đáp, “Nhưng việc gì cũng có giới hạn, ở đây thì nó đi quá xa.
Có điều gì sai nếu ta hoàn toàn bất mãn? Cái mà ta hay gọi là bất mãn là sự không được mãn nguyện do một ý muốn không được thực hiện. Đúng thế không?
“Có lẽ thế nhưng em tôi thử làm nhiều điều quá, kể cả hai lần hôn nhân nọ và nó đều không thấy hạnh phúc với cả hai. May thay hai lần không có con nếu không thì vấn đề còn phức tạp hơn nhiều. Nhưng bây giờ thì nó phải tự nói, tôi chỉ muốn giúp cho trái bóng bắt đầu lăn”.
Sự hài lòng là gì và sự bất mãn là gì? Sự bất mãn có mang đến sự hài lòng không? Những khi bất mãn có lúc nào cô tìm thấy sự hài lòng?
“Không có gì thật sự làm tôi vui lòng cả”, người phụ nữ nói, “Chúng tôi thuộc gia đình khá giả, nhưng những thứ tiền bạc mua được cũng đã mất ý nghĩa. Tôi cũng đọc nhiều sách vở và tôi chắc chắn ông cũng biết, là chúng không đưa đến đâu cả. Tôi cũng thử theo học vài hệ tôn giáo, nhưng các thứ đó có vẻ giả tạo làm sao; và sau đó không còn gì cả. Tôi đã suy nghĩ nhiều về điều này và tôi rõ là không phải vì mình không có con mà ra thế. Nếu có con, tôi sẽ rất thương con và cho con mọi thứ nhưng chắc chắn là cái giày vò của sự bất mãn vẫn cứ còn. Tôi không sao tìm ra cách giải quyết được như phần lớn mọi người, bằng cách có những hoạt động hay thú vui khác. Nếu được như thế thì đã thuận buồm xuôi gió, thì dù cho có gió mạnh đi nữa, điều mà trong đời không tránh khỏi, thì cuối cùng ta cũng đến được khu vực bình yên. Còn tôi thì thấy mình như luôn luôn ở trong một cơn bão, không hề có một bến bờ an toàn nào. Tôi muốn tìm ở đâu đó một sự tiện nghi an toàn, nhưng như đã nói, tôn giáo đối với tôi hoàn toàn ngu ngốc, không có gì ngoài sự mê tín. Mọi thứ khác, kể cả sự tôn trọng Nhà nước, cuối cùng cũng chỉ là một cách thay thế cho cái đích thực - mà tôi lại không biết cái đích thực là gì. Tôi cũng thử giải trí bằng đọc nhiều luận đề khác nhau, kể cả triết lý tuyệt vọng của Pháp*, nhưng cuối cùng tôi vẫn trắng tay. Thậm chí tôi đã thử vài ba thứ ma túy loại mới nhất, nhưng quả thật đó chỉ là hành động cùng cực của sự tuyệt vọng. Làm như thế cũng chẳng khác nào tự tử. Bây giờ thì ông đã nghe tôi kể hết rồi”.
* Philosophy of hopelessness. Trong thời kỳ khoảng trước Thế chiến thứ hai, triết lý hiện sinh do Jean Paul Sartre chủ trương bị hiểu lầm một cách rộng rãi là “triết lý tuyệt vọng” (ND).
“Cho phép tôi nói một câu”, người bạn nói, “Theo tôi nghĩ thì mọi sự được giải quyết nếu cô tìm được một điều mà cô ưa thích thật sự. Nếu có một đam mê nào đó chiếm trọn tâm hồn và đời sống của cô thì sự bất mãn đang xói mòn cô sẽ tan biến. Tôi quen cô và anh cô từ nhiều năm nay và luôn luôn nói cái khốn khổ của cô là do cô không có một cái gì làm cô say mê cả. Thế nhưng không ai để ý lời tôi nói”.
Thế thì xin hỏi tại sao cô không tránh bị bất mãn. Tại sao cô cứ để cho sự bất mãn gặm nhấm? Và cô hiểu bất mãn là thế nào?
“Đó là một nỗi đau, một sự khắc khoải đang hành hạ và dĩ nhiên là tôi muốn thoát khỏi nó. Thế nhưng trong tôi cũng có một dạng tự hành hạ, tự muốn nằm lại trong đó. Nói gì thì nói, ta cần phải sống hạnh phúc chứ không để cho cái đau của sự bất mãn lôi kéo không ngừng”.
Dĩ nhiên tôi không khuyên cô cứ vui với nỗi đau đó hay ráng chịu nó cho qua, nhưng tại sao cô lại tìm cách trốn thoát nó bằng một việc khác thú vị hơn hay bằng một thứ thỏa mãn khác lâu dài hơn làm gì?
“Không phải đó là điều tự nhiên nhất hay sao?”, người bạn hỏi, “Nếu ông đau khổ hẳn ông muốn hết khổ”.
Chúng ta không hiểu lẫn nhau. Khi nói bất mãn là chúng ta nói điều gì? Chúng ta không đi tìm cách giải thích về mặt ngôn từ, cũng chưa tìm tòi nguyên nhân của bất mãn. Chúng ta sẽ tìm nguyên nhân của nó ngay đây thôi. Điều mà bây giờ chúng ta đang làm là hãy tìm hiểu tình trạng của tâm khi tâm bị vướng trong nỗi đau của bất mãn.
“Nói cách khác, tâm tôi hoạt động thế nào khi nó bất mãn? Tôi không biết, chưa bao giờ tôi tự hỏi điều này. Cho tôi nghĩ xem. Trước hết, xin hỏi, tôi hiểu vấn đề có đúng không?”
“Tôi nghĩ mình hiểu những gì ông hỏi”, người anh nói, “Cảm nhận của tâm thế nào khi tâm quằn quại vì bất mãn? Phải thế không?”
Gần gần thế. Một cảm nhận là một cái gì tồn tại hoàn toàn riêng, không đồng nghĩa với cái vui hay nỗi khổ của chính cảm nhận*.
* Cảm nhận: feeling. Tác giả muốn phân biệt “cảm nhận” và sự xác định vui buồn về cảm nhận đó. Thuật ngữ Phật giáo gọi hai dạng tâm thức đó là “thọ” và “tưởng” (ND).
“Như thế thì làm sao có cảm nhận được?” cô em nói, “Nếu nó không được đồng hóa với niềm vui hay nỗi khổ?”
Phải chăng sự mệnh danh “vui buồn” sinh ra cảm nhận? Có cảm nhận nào không bị mệnh danh, không bị xác định vui buồn không? Bây giờ chúng ta đi vào câu hỏi này ngay đây, nhưng xin hỏi lại, cái ta gọi “bất mãn” là cái gì? Phải chăng bất mãn tồn tại độc lập trong dạng một cảm nhận riêng hay nó liên hệ với một điều gì?
“Nó luôn luôn liên hệ với một yếu tố khác, với một thôi thúc, ham muốn hay ý thích”, người bạn nói, “Luôn luôn phải có một nguyên nhân, sự bất mãn chỉ là một triệu chứng. Chúng ta muốn đạt được cái gì và nếu không được thì chúng ta bất mãn. Tôi nghĩ đó là nguồn gốc của bất mãn”.
Đúng thế không?
“Tôi không biết, tôi chưa hề nghĩ xa như thế”, cô em đáp lời.
Cô không biết tại sao mình bất mãn? Phải chăng tại vì cô không tìm thấy một cái gì đó mà với nó cô quên cả chính mình? Và nếu quả thật cô tìm thấy một niềm vui thích hay hoạt động nào đó mà tâm cô hoàn toàn cống hiến cho nó, phải chăng cô sẽ hết khổ vì bất mãn? Phải chăng cô muốn mãn nguyện bằng cách đó?
“Trời, không phải thế”, cô em kêu lên, “Như thế thì kinh khủng quá, đó chỉ là sự ngưng trệ”.
Nhưng không phải đó chính là điều mà cô tìm kiếm hay sao? Mãn nguyện với cách đó thì cô cũng sợ mà mặt khác cô lại đang tìm cách thoát khỏi sự bất mãn, thế nên cô đang đi tìm một thứ mãn nguyện tối thượng, không phải sao?
“Tôi nghĩ mình không đi tìm sự mãn nguyện, tôi chỉ muốn thoát khỏi cái khốn khổ triền miên của sự bất mãn”.
Hai ý thích này có khác nhau chăng? Phần lớn mọi người đều bất mãn nhưng họ kiềm chế bớt bằng cách tìm một cái gì làm mình mãn nguyện. Họ cũng thực hiện được một cách máy móc và cuối cùng họ đi gieo rắc lẫn thu nhận sự cay đắng, nhạo báng, vân vân… Phải đó là điều mà cô tìm kiếm?
“Tôi không muốn nhận được sự nhạo báng và cũng không muốn gieo rắc nó, đó thật là ngu xuẩn. Tôi chỉ muốn giảm nhẹ cái khổ của sự bất ổn này”.
Sự đau khổ chỉ có khi cô chống lại sự bất ổn, khi cô muốn thoát khỏi nó.
“Ông cho rằng tôi phải nằm yên trong tình trạng này sao?”
Cô hãy lắng nghe. Cô lên án tình trạng hiện nay, tâm cô chống lại nó. Sự bất mãn là một ngọn lửa cần phải được giữ luôn luôn cháy sáng và đừng bị bóp chết bởi một ý thích hay hoạt động nào khác do phản ứng chống lại cái khổ sinh ra. Sự bất mãn chỉ sinh đau khổ khi nó bị đề kháng. Một người chỉ biết mãn nguyện, không hiểu ý nghĩa toàn vẹn của sự bất mãn là người say ngủ; người đó sẽ không biết nhạy cảm trước sự vận động toàn thể của cuộc sống. Sự mãn nguyện là một thứ thuốc an thần và tương đối dễ tìm. Nhưng muốn hiểu ngộ ý nghĩa toàn vẹn của sự bất mãn thì sự tìm kiếm cái an toàn phải ngưng bặt.
“Không cần được an toàn, tâm trạng đó khó không?”
Ngoại trừ sự an toàn vật chất, còn có sự an toàn nào khác không, có sự vĩnh viễn nào về mặt tâm thức không? Hay ở đây chỉ toàn sự vô thường? Tất cả mối liên hệ đều vô thường; tất cả mọi tư tưởng với biểu tượng, ý hướng, phóng chiếu của chúng đều vô thường. Tài sản sẽ mất và bản thân mạng sống cũng sẽ chấm dứt với cái chết, trong sự vô minh, dù cho con người có xây dựng hàng ngàn cấu trúc khôn khéo của tôn giáo và niềm tin mong vượt lên nó. Chúng ta cứ cách ly cái sống và cái chết nên cuối cùng không hiểu cả hai. Mãn nguyện và bất mãn như hai mặt của một đồng tiền. Muốn thoát khỏi cái đau của bất mãn, tâm phải chấm dứt tìm kiếm sự mãn nguyện.
“Khi đó thì cũng không còn sự thành tựu?”
Sự thành tựu cho cá nhân mình chỉ là một sự tầm cầu hão huyền. Trong thực chất của sự thành tựu này chỉ có sợ hãi và thất vọng. Cái đã đạt được sẽ trở thành tro tàn, rồi ta lại tranh đấu để đạt tới, lại bị giam hãm trong buồn phiền. Một khi đã hiểu thấu toàn bộ quá trình này, thì sự thành tựu cho mình trong mọi khuynh hướng, mọi mức độ sẽ không còn nghĩa lý gì cả.
“Khi đó thì sự phấn đấu chống lại cái bất mãn chính là bóp chết ngọn lửa của đời sống”, cô gái kết luận, “Tôi nghĩ là đã hiểu ý nghĩa của những gì ông nói”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

MUỐN THAY ĐỔI XÃ HỘI, BẠN PHẢI TÁCH RA KHỎI NÓ


Sáng nay biển lặng hơn bình thường rất nhiều vì gió hướng Nam đã ngừng thổi và trước khi gió Đông Bắc bắt đầu, biển nghỉ ngơi một chút. Cát được mặt trời và nước mặn tẩy trắng, trong gió có một mùi nồng của ô-zôn, trộn với mùi rong biển. Trên bãi bây giờ không còn ai và bây giờ chỉ mình ta với biển. Những con cua loại to, một chiếc càng to hơn chiếc kia, bò quanh chậm chạp, nhìn ngó cẩn thận, chiếc càng to huơ trong không. Cũng có những loại còng thường sống trên bãi, chúng hay chạy ào đến sóng biển hoặc lao vào trong những chiếc lỗ tròn nằm chôn trong cát ướt. Hàng trăm con chim mòng biển đang đậu, nghỉ bay, vỗ cánh và rỉa lông cho nhau. Quầng dương vừa ló lên khỏi mặt biển và chiếu một vệt vàng sáng loáng trên mặt nước biển tĩnh lặng. Dường như mọi thứ đều đợi phút giây này và khi nó đến thì nhanh biết bao! Mặt trời ngày càng lên cao trên biển, bây giờ biển yên tĩnh như một cái hổ nằm ẩn trong rừng sâu. Không một cánh rừng nào có thể kiềm chế nổi những khối nước này, chúng có khi nào chịu yên, chúng quá mạnh mẽ và to lớn; nhưng sáng nay chúng tĩnh lặng, hòa bình và mời gọi.
Dưới một tàng cây trên bờ cát và nước xanh phô diễn cuộc sống của cua còng, nước mặn và chim mòng biển. Loài chim này thân lớn, sắc đen, chúng lao đi vùn vụt, không hề thắc mắc mình sẽ đi về đâu. Chúng bay lên cây, rồi đột nhiên đi lon ton xuống đất không vì lý do gì cả. Hai ba con dừng lại một cách nóng nảy, lắc lư đầu, rồi với một sức mạnh hung hăng, chúng ào tới một miếng gỗ mà chúng đã hàng trăm lần xem xét; chúng lại xem xét miếng gỗ với sự tò mò cao độ, sau đó một giây, chúng lại bỏ. Thật là tĩnh lặng dưới gốc cây, mặc dù mọi sự vẫn diễn ra sinh động xung quanh. Không có một hơi gió lắc lư giữa các chiếc lá, nhưng mỗi chiếc lá đều chan chứa vẻ đẹp và ánh sáng ban mai. Có một sức sống mãnh liệt xung quanh ngọn cây - không phải sự căng bức đáng sợ khi phải thi triển, phải thành tựu, mà là cường độ tràn đầy được thuộc về cái toàn thể; giản đơn, cô tịch nhưng lại là một phần của địa cầu. Sắc màu của lá, của vài đóa hoa, của thân cây màu sẫm được nhân lên gấp bội lần, và những cành cây dường như mang vác cả bầu trời. Trong bóng mát của tàng cây có một điều thật là sáng tươi và sinh động không thể tin được.
Thiền định là sự gia tăng cường độ của tâm được xảy ra trong sự tĩnh lặng hoàn toàn. Tâm không phải lặng yên như một con thú vô vị, đầy âu lo hay đã bị khép mình vào kỷ luật, mà lặng yên như khối nước ôm trọn nhiều chiều sâu của mình. Sự lặng yên của nó không giống như loại yên tĩnh của mặt nước khi lặng gió. Sự lặng yên này có một sức sống và một sự vận động của riêng nó, sự vận động liên quan đến dòng chảy mặt ngoài của cuộc sống, nhưng lại không bị dòng chảy đụng đến. Cường độ của nó không phải như của một cỗ máy được chế tạo bởi những bàn tay khôn ngoan khéo léo; mà nó giản đơn và tự nhiên như lòng yêu thương, như ánh sáng, như một dòng sông đầy nước.
Ông nói mình ngập ngụa trong trường chính trị đến mang tai. Ông đã làm tất cả mọi thứ thông thường để leo lên các bậc thang của danh vọng - lui tới với những nhân vật đáng tiếp xúc, thân cận với các nhà lãnh đạo mà họ cũng đã từng leo đúng những bậc thang đó - và ông cũng leo lên khá nhanh. Ông đã được đưa ra nước ngoài trong những phái đoàn công tác quan trọng và được nhiều người trọng vọng; vì ông là người thành tâm và liêm chính, mặc dù ông cũng đầy tham vọng như những người khác. Cần nói thêm ông là người ham đọc, phát biểu một cách dễ dàng những gì cần nói. Thế nhưng bây giờ, nhờ nhiều dịp may, ông đã thấm mệt với cái trò chơi muốn giúp nước giúp nhà bằng cách tự bốc mình lên, bằng cách trở nên một nhân vật quan trọng. Ông thấy thấm mệt không phải vì ông không leo cao lên được nữa, mà vì với một quá trình tự nhiên của trí thông minh, ông đã tới với nhận thức, sự cải thiện con người không nằm nơi hoạch định, nơi hiệu quả, nơi sự tranh giành quyền lực. Cho nên ông vứt bỏ tất cả, và bắt đầu chiêm nghiệm toàn bộ cuộc sống một cách mới mẻ.
Ông hiểu toàn bộ cuộc sống là sao?
“Tôi đã dành nhiều năm để ngồi bên bờ một con sông và tôi muốn dành những năm còn lại của đời tôi để ngồi bên bờ sông ấy. Mặc dù đã ham thích đấu tranh chính trị từng giờ từng phút, tôi rời bỏ chính trường không chút luyến tiếc, và bây giờ tôi muốn cống hiến cho sự tiến bộ xã hội từ đáy lòng chứ không với tâm tính toán triền miên nữa. Điều gì mà xã hội đã cho tôi, tôi sẽ trả lại gấp mười lần”.
Xin hỏi, tại sao ông lại suy nghĩ trong cách cho và nhận?
“Tôi đã nhận quá nhiều từ xã hội, và những gì tôi đã được thì tôi phải trả gấp bội lần”.
Ông được gì từ xã hội?
“Tất cả những gì tôi có: ngân khoản của tôi, học vấn của tôi, tên tuổi của tôi. Ô, nhiều thật!”
Thực tế là ông không nhận được gì từ xã hội cả, vì ông chính là thành phần của xã hội. Nếu ông là một thực thể tách lìa nó, không dính líu với xã hội, thì ông có thể trả lại những gì ông đã nhận. Thế nhưng ông là phần của xã hội, phần của nền văn hóa, chính nó đã xây dựng thành bản thân ông. Ông có thể trả lại một số tiền vay mượn, nhưng ông trả lại được gì khi ông vẫn còn là phần của xã hội?
“Nhờ xã hội mà tôi có tiền bạc, thực phẩm, quần áo, nhà cửa, tôi phải trả lại một điều gì đó. Tôi đã hưởng lợi bằng cách thu lượm trong khuôn khổ của xã hội, và thật là vô ơn bạc nghĩa nếu tôi xoay lưng với nó. Tôi phải làm một công trình nào đó cho xã hội, công trình tốt đẹp theo nghĩa rộng chứ không phải như một người “ta đây cải tạo thế giới”“.
Tôi hiểu ông nói; nhưng ngay cả khi ông trả lại tất cả những gì đã kiếm được, liệu điều nó sẽ giải nợ cho ông không? Những gì mà xã hội mất mát cho ông thì tương đối dễ trả, ông có thể tặng lại cho người nghèo hay Nhà nước. Sau đó thì sao? Ông vẫn còn “bổn phận” với xã hội vì ông là phần của nó, ông là một trong những công dân của nó. Khi còn thuộc về xã hội thì ông còn tự đồng hóa với nó, ông là người cho đồng thời vừa là kẻ nhận. Ông gìn giữ nó, ông hỗ trợ cho cấu trúc của nó, không phải sao?
“Đúng thế, tôi đúng là người như ông nói, là phần hội nhập của xã hội; nếu không thế thì tôi không tồn tại. Vì tôi chính là phần xấu lẫn phần tốt của xã hội, tôi gạt bỏ cái xấu, duy trì cái tốt”.
Trong một nền văn hóa hay một xã hội nhất định, cái gọi là “tốt” là cái được sự thừa nhận chung, được nể nang kính trọng. Ông muốn duy trì cái được xem là cao quý nằm trong cấu trúc của xã hội, phải không?
“Cái mà tôi muốn thay đổi chính ra là mẫu hình của xã hội mà trong đó con người bị ràng buộc. Tôi nói thế với tất cả sự nghiêm túc”.
Mẫu hình xã hội là do con người tạo dựng ra, nó không độc lập với con người, mặc dù nó tồn tại khách quan và ngược lại con người cũng không độc lập với nó; cả hai tương quan lẫn nhau. Thay đổi trong phạm vi một mẫu hình là không thay đổi gì cả; nó chỉ là sự cải cách, sự điều chỉnh. Chỉ khi ta bứt phá ra khỏi mẫu hình mà không xây dựng nên một cái khác, ông mới “giúp” được xã hội. Khi còn nằm trong xã hội, ông chỉ làm cho nó thêm suy đồi. Tất cả mọi xã hội, kể cả những xã hội không tưởng tuyệt diệu nhất, đều chứa đựng trong bản thân nó mầm mống của sự suy đồi. Muốn thay đổi xã hội, ông phải đứng tách ra khỏi nó. Ông phải chấm dứt, không còn là cái mà xã hội đang là: như sự chiếm hữu, lòng tham vọng, sự ham muốn, lòng ham quyền lực, vân vân…
“Ông cho rằng tôi phải trở thành nhà tu, thành sannyasi?”
Chắc chắn không. Người đi tu chỉ từ bỏ dạng hình hiển hiện bên ngoài của thế giới, của xã hội, nhưng bên trong họ vẫn là phần của nó; người đó vẫn còn bị thiêu đốt bởi lòng ham muốn được thành tích, được đạt tới, được trở thành.
“Vâng tôi thấy”.
Vì ông đã thiêu đốt mình trong trường chính trị, vấn đề của ông không phải chỉ là sự bứt phá khỏi xã hội, mà ông phải một lần nữa trọn vẹn tới với đời sống, với lòng thương yêu, và phải biết giản dị. Nếu vắng lòng thương yêu thì dù có làm gì đi nữa, ông cũng không biết đến cái hành động toàn thể mà chỉ nó mới cứu được con người.
“Đó là sự thật, chúng tôi không biết yêu thương, chúng tôi không thật sự giản dị”.
Tại sao thế? Vì ông cứ quan tâm đến sự cải cách, đến trách nhiệm, đến sự trọng vọng, đến sự trở thành một cái gì, đến sự thay đổi từ phía này qua phía khác. Nhân danh một người khác, ông quan tâm lại chính mình, ông bị ràng buộc trong vỏ sò của bản thân ông. Ông cho rằng mình là trung tâm của trái đất tuyệt diệu này. Không bao giờ ông biết nghỉ để nhìn một ngọn cây, một đóa hoa, một dòng sông đang chảy; và nếu có dịp nhìn, đôi mắt ông vẫn đầy ngập những điều của tư duy chứ không chứa được vẻ đẹp và lòng thương yêu.
“Một lần nữa, đó là sự thật, nhưng ta phải làm gì?”
Hãy cứ nhìn và hãy giản dị!
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

NƠI NÀO CÓ TỰ NGÃ, NƠI ĐÓ KHÔNG CÓ LÒNG THƯƠNG YÊU


Bụi hồng nằm ngay sau cổng được phủ đầy với những đóa hoa đỏ rực, đậm mùi thơm; đàn bướm dập dìu trên những cánh hoa. Còn có cúc vạn thọ và đậu Hà Lan đang nở hoa. Khu vườn nằm cao trên bờ sông đầy ánh dương vàng rực của buổi chiều tà. Thuyền chài, dáng như những chiếc gondola*, nằm tối sẫm trên mặt sông yên tĩnh. Khu làng nằm trong rặng cây bên kia sông hẳn phải xa hơn cả cây số, thế nhưng tiếng người vẫn vang rõ qua sông. Từ cổng vườn một lối đi dẫn xuống bờ sông. Lối đi đưa đến một con đường gập ghềnh mà dân làng hay lui tới thị trấn. Con đường này chấm dứt với bờ của một dòng nước dẫn vào con sông lớn. Bờ nước này không phải bờ cát mà nặng thứ đất sét ẩm ướt, nếu chân bước sẽ lún đất. Tại đây, người ta đang muốn xây một chiếc cầu tre bắc qua dòng nước, nhưng bây giờ thì chưa, chỉ có một chiếc xà lan thô sơ lặng lẽ chở dân làng về nhà sau một ngày buôn bán ngoài thị trấn. Hai người chống thuyền chở chúng tôi qua sông, dân làng ngồi từng nhóm trong hơi lạnh buổi tối. Một lò than nhỏ được đốt lên khi trời sẫm hơn, đồng thời ánh trăng bắt đầu soi sáng. Một cô bé nhỏ đội trên đầu một chiếc giỏ đựng củi, cô đã hạ giỏ xuống sàn lúc qua sông và bây giờ thì khó mà đưa lại được lên đầu. Thật là khó cho cô bé còn nhỏ nhưng nhờ có người giúp sức, cô đã để giỏ củi cẩn thận trên cái đầu nhỏ, và nụ cười cô như lấp đầy cả vũ trụ. Tất cả hành khách leo lên bờ dốc với những bước chân cẩn thận và không lâu sau, dân làng lại tíu tít trên đường.
* Loại thuyền đáy bằng thường dùng để đi trên sông (ND).
Nơi đây là làng quê vườn ruộng và đất đai hết sức mầu mỡ với phù sa của bao thế kỷ. Vùng đất bằng phẳng, được chăm bón cẩn thận, lác đác có vài cội cây già tuyệt diệu, vươn mình về phía chân trời. Đó là những cánh đồng trồng đậu Hà Lan ngọt mang hoa trắng, cũng như lúa mì và các loại hạt khác. Trên một phía, nước sông chảy tràn, rộng và làm thành hình tròn, cao trên bờ sông là một thôn làng, đang sinh hoạt ồn ào. Lối đi ở đây rất xưa, người ta nói vị Giác ngộ* đã đi trên đó và khách hành hương cũng đã sử dụng từ nhiều thế kỷ nay. Đây là một con đường thiêng liêng, có nhiều đền đài rải rác dọc theo lối đi Thần thánh này. Những cội cây xoài và me cũng rất già, nhiều cây đang cỗi, chúng đã từng chứng kiến biết bao sự kiện. Trên bầu trời vàng rực về đêm trông chúng thật là uy nghiêm với thân cành sẫm màu và rộng mở. Xa hơn một chút là một vườn tre, đã mang sắc vàng vì tuổi tác; và trong một vườn cây ăn trái nhỏ một con dê bị buộc vào cây cất tiếng be be gọi con, chú dê con đang nhảy nhót khắp nơi. Lối đi dẫn qua một khu vườn khác trồng toàn xoài, bên cạnh là một giếng nước yên tĩnh. Có một sự tĩnh lặng đến nao lòng, và mọi sự biết đã đến thời khắc của ân phước. Địa cầu và mọi sự trong nó trở nên thiêng liêng. Đây không phải là tâm đang nhận biết sự an lạc này như một cái gì thuộc ngoại cảnh, một cái gì được nhắc lại và kể cho nhau nghe, mà đây là sự vắng lặng tất cả mọi vận hành của tâm ý. Chỉ có một cái không thể đo lường được đang hiện diện.
* Tác giả muốn nói Phật Thích Ca. Đây là một vùng xung quanh sông Hằng tại tiểu bang Bihar ở Ấn Độ (ND).
Anh còn trẻ, khoảng chừng đâu bốn mươi theo lời anh nói; và mặc dù từng nói chuyện trước công chúng với sự tự tin nhưng anh vẫn có vẻ ngượng ngập. Như nhiều người khác trong thế hệ của mình, anh đã xen vào trường chính trị, vào các tôn giáo, và với việc cải cách xã hội. Anh cho hay đã làm thơ, vẽ tranh. Vài nhà lãnh đạo tiếng tăm hiện nay là bạn của anh và anh cũng có thể đi xa trên đường chính trị; nhưng anh đã lựa chọn con đường khác, và anh nói vui lòng chịu sống trong một thị trấn miền núi xa xôi.
“Từ nhiều năm nay tôi đã có ý muốn gặp ông. Có lẽ ông không còn nhớ nhưng tôi từng cùng đi với ông trên tàu qua châu Âu trước Thế chiến thứ hai. Cha tôi rất thích giáo lý của ông, còn tôi thì trôi giạt trong trường chính trị và nhiều thứ khác. Thế rồi mong ước được gặp ông cuối cùng trở nên to lớn nên tôi không đợi lâu được nữa. Tôi muốn trải lòng ra - điều mà tôi không thể làm với ai khác vì thật là không đơn giản khi mình thảo luận với người khác. Trong thời gian sau này tôi có tham dự các buổi nói chuyện và thảo luận của ông ở nhiều nơi khác nhau, nhưng gần đây nhất tôi mong gặp riêng ông, vì tôi đang ở trong một tình trạng bế tắc”.
Bế tắc thế nào?
“Tôi thấy không thể có một sự “đột phá”. Tôi đã tập hành thiền, không phải thứ thiền làm mê hoặc, mà là tập tỉnh giác về chính tâm mình, vân vân… Thế nhưng tôi liên tục bị tật buồn ngủ, tôi cho là vì mình lười biếng, thích dễ dãi. Tôi tập nhịn ăn, đã thử nhiều cách ăn uống khác nhau, nhưng trạng thái hôn trầm này vẫn cứ đeo đẳng”.
Phải chăng đó là vì lười biếng hay vì cái gì khác? Có một sự thất vọng nội tâm sâu sắc không? Có phải tâm của ông bị các biến cố trong đời làm cùn nhụt, hết nhạy cảm? Xin hỏi, phải chăng nơi ông không có lòng yêu thương?
“Thưa ông, tôi không biết. Tôi cũng đã suy nghĩ mông lung về những vấn đề này nhưng chưa bao giờ kết luận được gì. Có lẽ tôi bị thui chột trong quá nhiều cái tốt và cái xấu. Nói một cách khác, cuộc đời đối với tôi quá dễ dàng, với gia đình, tiền bạc, với một số khả năng riêng, vân vân… Không có gì là quá khó, và có lẽ đó là vấn đề. Cảm giác sống một cuộc đời dễ dãi và luôn luôn thấy mình đủ khả năng thoát khỏi mọi tình huống, cái đó làm tôi mềm yếu”.
Đúng thật thế không? Phải chăng đó chỉ là sự mô tả về những chuyện hời hợt bề ngoài? Nếu những điều này thật sự tác động tới anh một cách sâu sắc thì anh đã sống một cuộc đời khác rồi, thì anh đã theo đuổi một con đường dễ dãi rồi. Thế nhưng anh đã không, thế nên đây có một quá trình hoàn toàn khác đã tham gia, nó làm tâm anh lờ đờ, hôn trầm.
“Thế thì đó là cái gì? Tôi không có khó khăn với tình dục, tôi thích thú với nó, nhưng tôi cũng không có sự đam mê tới mức mà tôi trở thành nô lệ cho nó. Nó bắt đầu với tình yêu và chấm dứt bằng sự thất vọng nhưng không phải tuyệt vọng. Tôi chắc chắn điều này. Tôi không bao giờ lên án, cũng không chạy theo tình dục. Đối với tôi, chỗ này không có vấn đề”.
Phải chăng sự lãnh đạm này đã phá hủy lòng nhạy cảm? Dù sao đi nữa, tình yêu có thể bị thương tổn và một khi tâm thức xây dựng một vòng phòng vệ chống lại cuộc sống thì tâm thức đó cũng ngưng yêu thương.
“Tôi không nghĩ mình xây vòng phòng vệ chống lại tình dục; nhưng tình yêu không nhất thiết phải là tình dục và thật ra tôi cũng không hiểu liệu tôi có lòng yêu thương hay không”.
Ông thấy không, tâm của chúng ta đã được tận tình khuyên bảo là hãy lấp đầy trái tim bằng những điều của trí óc. Chúng ta dùng phần lớn thời gian và năng lực để kiếm sống, để tích lũy kiến thức, vì hỏa lực của niềm tin, vì yêu nước và tôn thờ Nhà nước, vì hoạt động cải cách xã hội, vì theo đuổi lý tưởng và giá trị đạo đức, và vì những thứ khác mà tâm bị vướng buộc vào đó; thế nên trái tim bị khoét rỗng và trí năng thì ngày càng thêm xảo quyệt. Chính cái này làm cho ta mất nhạy cảm, đúng thế không?
“Đúng là chúng ta quá nuôi dưỡng phần trí năng. Chúng ta tôn thờ tri thức và con người của trí năng thì được trọng vọng, chỉ có số ít trong chúng ta là biết yêu thương theo nghĩa ông nói. Nói về tôi thì thú thật tôi không biết mình có lòng yêu thương nào không. Tôi ăn chay. Tôi thích thiên nhiên. Tôi thích vào rừng để cảm nhận sự tĩnh lặng và vẻ đẹp của nó; tôi thích ngủ dưới bầu trời khoáng đãng. Liệu những thứ đó có cho thấy tôi biết yêu thương?”
Sự nhạy cảm với thiên nhiên là một phần của lòng vêu thương; nhưng nó không phải là yêu thương. Thân ái và tử tế, làm những việc tốt, không tìm sự đền đáp cũng là một phần của lòng yêu thương; nhưng nó không phải là yêu thương, đúng thế không?
“Thế thì lòng yêu thương là gì?”
Lòng yêu thương là tất cả những thứ đó, nhưng nhiều hơn xa hơn. Thể tính toàn vẹn của lòng yêu thương là không nằm trong sự đo lường của trí năng và muốn thấu hiểu thể tính này, tâm phải rỗng rang mọi chuyện, bất kỳ chuyện đó là cao cả hay vị kỷ. Thế nhưng nếu ta hỏi làm sao để tâm rỗng rang, làm sao tránh vị kỷ, thế là ta đã phục tùng một phương pháp, mà hễ theo một phương pháp thì tâm lại bị chiếm cứ, hết rỗng rang.
“Nhưng có thể chăng, làm tâm rỗng rang mà không cần cố gắng nỗ lực gì cả?”
Mọi dụng công, dù “đúng” dù “sai”, đều hỗ trợ cho cái trung tâm, cái hạt nhân của lòng thích thành tích, cái tự ngã. Nơi nào có tự ngã, nơi đó không có lòng thương yêu. Nhưng hãy trở lại sự hôn trầm của tâm, hay lòng thiếu nhạy cảm của nó. Anh đã đọc nhiều sách, phải chăng kiến thức là một phần của quá trình sinh ra sự thiếu nhạy cảm này?
“Tôi không còn là học sinh nhưng quả thật tôi đọc rất nhiều sách và hay ra thư viện mượn sách. Tôi coi trọng kiến thức và thật không thấy tại sao kiến thức lại nhất thiết sẽ sinh ra lòng thiếu nhạy cảm”.
Anh nói kiến thức là nói gì? Cuộc đời chúng ta không phải là sự lặp lại của những gì mình được dạy dỗ sao? Có thể chúng ta tăng thêm sự hiểu biết nhưng quá trình lặp lại này cứ tiếp diễn và tăng cường cho thói quen của sự tích lũy. Anh biết gì ngoài những gì anh đã đọc và được người ta dạy dỗ cho; hay những gì anh trải nghiệm được? Những gì mà bây giờ anh trải nghiệm chẳng qua được hình thành bởi những gì anh trải nghiệm trước đó. Kinh nghiệm sau chỉ là những gì đã được biết đến, chỉ được mở rộng hay được điều chỉnh thêm, và cứ thế mà quá trình lặp lại cứ tiếp diễn. Sự lặp lại của cái tốt lẫn cái xấu, của cái cao cả lẫn cái tầm thường, rõ là chỉ làm ta mất nhạy cảm, vì tâm chỉ vận hành trong cái đã biết. Phải chăng đó là cái làm tâm anh cùn nhụt?
“Nhưng tôi không thể dẹp bỏ cái tôi biết và tất cả những kiến thức được tích lũy”.
Anh chính là kiến thức đó, anh chính là tất cả những gì anh đã tích lũy; anh chính là cái đĩa hát, nó cứ lặp lại những gì được in lên nó. Anh là lời hát, là tiếng ồn ào, tiếng líu lo của xã hội, của nền văn hóa. Có một cái “tôi” bất biến đứng ngoài tất cả những thứ tiếng này không? Tâm tự ngã đang lo âu muốn thoát khỏi sự ràng buộc của những gì nó từng thu nhặt; thế nhưng sự cố gắng muốn được giải phóng đó cũng vẫn là phần của quá trình tích lũy. Anh muốn nghe một đĩa hát khác, muốn những ngôn từ khác, nhưng tâm anh vẫn cứ cùn nhụt, thiếu nhạy cảm.
“Tôi thấy điều này một cách trọn vẹn; ông mô tả rất đúng trạng thái của tâm thức tôi. Trong thời của tôi thì tôi đã học rất nhiều văn từ của các ý thức hệ, chính trị cũng như tôn giáo; nhưng như ông nói, chủ yếu thì tâm tôi vẫn cứ y như cũ. Bây giờ thì tôi rất rõ về điều này; và tôi cũng rõ là toàn bộ quá trình này làm tâm báo động một cách nông cạn, làm tâm khôn khéo và dễ thích nghi với bên ngoài, trong lúc đó thì bên dưới của mặt nổi, tâm vẫn luôn luôn quay quanh một trục tự ngã với cái ‘tôi’”.
Ông ý thức điều này là một điều đích thực hay ông chỉ biết đến nó nhờ sự mô tả của người khác? Nếu điều đó không do ông tự mình phát hiện ra, không phải là điều mà ông vì bản thân mình mà tìm thấy, thì nó chỉ là ngôn từ chứ không phải là đích thực, mà đích thực mới là quan trọng.
“Tôi không hiểu hết những gì ông nói. Xin đi chậm thôi và nhắc lại lần nữa”.
Ông thấu hiểu thật sự điều gì hay ông chỉ thừa nhận nó? Thừa nhận là một quá trình của sự liên hệ, của ký ức, tất cả chúng thuộc về tri thức. Đúng thế không?
“Tôi nghĩ là đã hiểu ông. Tôi biết con chim này là một con két chỉ vì người ta nói với tôi như thế. Nhờ liên hệ, ký ức, tức là nhờ tri thức, sự thừa nhận, mà tôi nói ‘đây là một con két’”.
Từ “con két” đã ngăn ông không nhìn ngó đến con chim nọ, một sinh vật biết bay. Thường thường chúng ta không bao giờ nhìn ngó cái đích thực, mà ngôn từ hay biểu tượng lại đứng thế chỗ cho cái đích thực. Cái đích thực rút lui, và ngôn từ, biểu tượng trở thành cái tuyệt đối quan trọng. Bây giờ, ông đã thấy cái đích thực chưa, bất kỳ nó là gì, cái đã tách rời ra khỏi ngôn từ và biểu tượng?
“Đối với tôi thì dường như sự nhận thức cái đích thực và ý thức về ngôn từ đại diện cho nó xảy ra trong tâm một cách đồng thời”.
Tâm có thể tách rời cái đích thực và ngôn từ không?
“Tôi không nghĩ là nó có thể”.
Có lẽ chúng ta làm vấn đề khó thêm. Vật này được gọi là một cái cây; ngôn từ và sự vật không phải là hai điều tách biệt hay sao?
“Thật thì như thế, nhưng như ông đã nói, chúng ta nhìn sự vật thông qua ngôn từ”.
Ông không tách rời sự vật và ngôn từ được hay sao? Từ “lòng yêu thương” phải khác với cảm giác yêu thương, với sự yêu thương đích thực chứ.
“Nhưng, trong một cách nào đó, ngôn từ cũng là một điều tồn tại thực sự chứ?”
Vâng, trong một cách nào đó. Ngôn từ tồn tại để người ta trao đổi, cũng như để nhớ lại, để giữ chặt trong tâm một loạt những kinh nghiệm, một tư tưởng, một cảm nhận; nên bản thân tâm là ngôn từ, là kinh nghiệm, là ký ức trong dạng hình vui hay buồn, tốt hay xấu. Quá trình này xảy ra trong lĩnh vực của thời gian, lĩnh vực của cái đã biết; và mọi cuộc cách mạng trong lĩnh vực này không hề là cách mạng gì cả, nó chỉ là sự điều chỉnh của cái đã là.
“Nếu tôi hiểu ông thì ông muốn nói tôi đã làm cho tâm mình cùn nhụt, lờ đờ, mất nhạy cảm bằng cách tư duy theo thói quen hay lặp lại, trong đó cái đòi hỏi của tự ngã là một phần. Muốn chấm dứt quá trình lặp lại này, thì cái đĩa hát được in, nó chính là cái ta, phải bị phá vỡ; và nó chỉ bị phá vỡ nếu biết nhìn cái đích thực một cách không cần sự cố gắng dụng công.
Nhìn cái đích thực, cái đang là, và để cho cái đích thực tự vận hành, chứ không phải anh vận hành trên cái đích thực - vì cái “anh” chính là cơ chế lặp lại với ý kiến, đánh giá và tri thức của nó.
“Tôi sẽ cố thử”, anh nói nghiêm túc.
Khi “cố thử” chính là thêm dẩu mỡ cho cơ chế lặp lại, chứ không phải chấm dứt nó.
“Thưa ông, ông lấy đi tất cả, không để lại cái gì. Nhưng có lẽ đó là điều mới mẻ”.
Đúng thế*.
* Trong bài này Krishnamurti nói rõ hơn tất cả mọi bài khác về sự thấy biết “đích thực”, trực tiếp và cho thấy ngôn ngữ và khái niệm ngăn cản sự hiểu biết đó như thế nào. Thế nhưng khi tâm muốn thử tìm cách đến với sự hiểu biết này thì điều đó lại bị tác giả cảnh cáo ngay là “thêm dầu mỡ cho cơ chế” của ngôn ngữ và khái niệm. Điều này lại cho thấy là sự thật “không có đường dẫn đến” (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

SỰ CHIA CẮT LÀM CON NGƯỜI BỊ BỆNH


Trời vẫn còn rất sớm và còn một lớp sương mỏng che lấp các bụi cây và hoa lá. Sương cũng bám quanh các ngọn cây. Mặt trời vừa vươn lên cao sau một lùm cây, bây giờ cây cối đã trở lại yên tĩnh, vì lũ chim muông tíu tít nay đã tản đi mất khi một ngày mới xuất hiện. Động cơ máy bay đang khởi động và tiếng ồn chát chúa của chúng phủ đầy bầu không khí ban mai; nhưng chẳng mấy chốc nữa chúng sẽ bay đi nhiều nơi trong lục địa to lớn này và lúc đó thì ngoài tiếng ồn thông thường của một đô thị, mọi sự lại trở về với tĩnh lặng.
Ở ngoài đường, một người ăn xin đang hát, âm hưởng của giọng hát hay ấy mang một điều gì tiếc nuối nghe thật quen thuộc. Lẫn trong tiếng xe buýt lạch cạch và tiếng người gọi nhau ơi ới, chất giọng chưa bị khàn ấy như có một thanh âm dễ chịu và mời chào. Bạn có thể nghe anh hát mỗi sáng nếu bạn ở tại đây. Nhiều người ăn xin có những trò biểu diễn mọn hoặc cho khỉ làm trò; họ đều là những người tinh ranh, chẳng còn chút gì hồn nhiên nữa trong bộ điệu khôn ngoan và một nụ cười khéo léo. Thế nhưng người ăn xin này hoàn toàn là một loại khác. Anh chỉ là kẻ ăn xin đơn giản với một cây gậy dài, áo quần rách rưới bẩn thỉu. Anh không đòi hỏi gì, chẳng dùng cách nào để đánh lừa ai. Những người khác xin được nhiều tiền hơn anh, vì người đời thường thích được xu nịnh, thích được gọi bằng những danh xưng cao đẹp, hay thích được ân phước và lời chúc phát đạt. Người ăn xin này lại không làm điều nào trong đó. Anh chỉ xin; và nếu bạn cho, anh sẽ cúi đầu đi thẳng, không biểu lộ một cử chỉ gì cả. Luôn nhường lối cho mọi người trong suốt con đường dài và rợp bóng, anh rẽ vào một lối đi hẹp và yên tĩnh hơn ở cuối đường, rồi lại bắt đầu hát; cuối cùng anh vào trong một con hẻm nhỏ. Anh còn rất trẻ, và xung quanh anh sinh ra một cảm giác dễ chịu.
Máy bay cất cánh đúng giờ và từ từ bay lên phía trên đô thị của những mái vòm, các khu mộ cổ, và của những khối nhà cao tầng kiêu căng và xấu xí mới được xây cất gần đây. Bên kia đô thị là con sông uốn khúc và rộng mở chuyên chở một dòng nước màu xanh lục nhạt; và máy bay đang bay dọc sông, về hướng Đông Nam. Chúng tôi đã lên một độ cao khoảng sáu ngàn bộ*, cảnh đồng quê nằm phía dưới, tất cả được chia ngăn nắp thành những mảnh đất màu lục xám hình thù không giống nhau, mỗi người được sở hữu một miếng nhỏ. Dòng sông chảy quanh co qua các làng mạc, từ sông xuất đi những kênh đào thẳng và hẹp lan tỏa khắp ruộng đồng. Phía đông cách hàng trăm dặm, những ngọn núi phủ đầy tuyết bắt đầu xuất hiện, gần như siêu nhiên và phi thực trong hào quang màu hồng của chúng**. Thoạt nhìn, trông chúng như bồng bềnh trên chân trời, ta khó mà tin được đó là những ngọn núi với đỉnh nhọn hoắt và hình thể đồ sộ. Từ mặt đất với khoảng cách này thì không thể thấy chúng, nhưng trên độ cao này thì núi có thể thấy được và đẹp một cách ngoạn mục. Thật người ta không thể rời mắt khỏi chúng, cứ sợ sẽ không kịp thấy cái biến đổi nhỏ nhiệm nhất trong vẻ đẹp và sự vĩ đại của núi. Những đỉnh núi đồ sộ như lần lượt xếp hàng cái này nhường chỗ cho cái kia. Các đỉnh núi phủ hết chân trời phía Đông Bắc và cả sau hai giờ bay, chúng vẫn còn nguyên tại đó. Thật là khó tin được: những sắc màu, sự vô cùng và sự cô tịch. Người ta quên mọi sự khác - hành khách, cơ trưởng hỏi thăm khách và tiếp viên đòi vé. Đây không phải là sự say mê như đứa trẻ bị một món đồ chơi cuốn hút, hay như một nhà sư trong tịnh thất riêng của mình, hay như một tu sĩ ngồi tu bên bờ sông. Đây là một tình trạng của sự chú ý toàn diện, không chút xao lãng. Chỉ còn vẻ đẹp và sự huy hoàng của địa cầu. Không hề có người nhìn ngắm.
* Feet, đơn vị chiều dài của Anh, bằng 0.3048 m (ND).
** Khu vực này là tiêu bang Utta Pradesh ở miên Bắc Ấn Độ, các đỉnh núi nói ở đây thuộc dãy Himalayas (ND).

Là một nhà tâm lý, một nhà phân tâm học, đồng thời là một bác sĩ y khoa, ông có dáng người tròn trĩnh, đầu to, cặp mắt nghiêm nghị. Ông cho hay tới đây để nói về nhiều điều; ông sẽ không dùng thuật ngữ của ngành tâm lý và phân tâm học mà dùng những ngôn từ cả hai chúng tôi đều quen thuộc. Ông đã nghiên cứu các nhà tâm lý học nổi tiếng nhất, bản thân cũng đã được phân tích bởi một trong những vị đó, ông nắm vững các hạn chế của ngành tâm lý học hiện đại, cũng như giá trị chữa bệnh của nó. Ông giải thích, ngành này không phải lúc nào cũng thành công nhưng trong tay của những con người đúng đắn thì nó mang lại nhiều khả năng to lớn. Dĩ nhiên cũng có nhiều lang băm, nhưng đó là điều không thể tránh khỏi. Ông cũng nghiên cứu, dù không sâu sắc lắm, tư tưởng và ý niệm của phương Đông về vấn đề ý thức.
“Trong thời kỳ mà tiềm thức được phát hiện và mô tả đầu tiên tại phương Tây, thì không trường đại học nào có chỗ cho nó, không nhà xuất bản nào chịu ra sách nói về nó; thế nhưng bây giờ, chỉ hai thập niên sau, ai cũng nói về nó. Chúng tôi muốn nghĩ mình là người phát hiện ra mọi sự, và phương Đông chỉ là một khu rừng rậm đầy huyền thoại và trò ảo thuật; nhưng thực tế là phương Đông đã lên đường tìm hiểu về tâm thức cách đây nhiều thế kỷ, cái khác biệt là họ sử dụng những biểu tượng khác, với nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn. Tôi nói điều này để ông thấy là tôi rất sẵn sàng học hỏi và không hề có những định kiến thông thường về các đề tài này. Chúng tôi chuyên môn trong lĩnh vực tâm lý, chuyên giúp những người bất bình thường trở lại với xã hội, đó là trách nhiệm chính của chúng tôi. Nhưng trong một mức nào đó, tôi vẫn chưa hài lòng với công việc này, đó là một trong những điểm tôi muốn được thảo luận với ông. Phải chăng tất cả những gì chúng tôi làm được là điều đó? Chúng tôi làm hơn được gì không để giúp những người bất bình thường về lại với xã hội?”
Xã hội có lành mạnh không để mỗi người nên trở về với nó? Hay là chính xã hội thúc đẩy thêm làm cho mỗi người hết lành mạnh? Dĩ nhiên là cái không lành mạnh phải được làm sao để trở thành lành mạnh, điều đó khỏi nói; nhưng tại sao cá thể phải tự điều chỉnh mình cho hợp với một xã hội không lành mạnh? Nếu cá thể lành mạnh thì nó sẽ không là một phần của xã hội đó. Nhưng khoan nói đến sự lành mạnh của xã hội, hãy cho tôi biết ý nghĩa việc giúp đỡ các người bị lệch lạc cần phải uốn nắn vào với xã hội.
“Tôi cũng không nghĩ xã hội là lành mạnh, nó được vận hành bởi những người bất lực, ham quyền lợi, mê tín. Xã hội luôn luôn nằm trong một tình trạng của biến động. Trong cuộc chiến tranh vừa qua tôi tham gia trong việc uốn nắn những lệch lạc trong quân đội cho những ai không thích nghi với sự tàn bạo của chiến sự. Có thể họ cũng có lý của họ nhưng đây là chiến tranh và ta phải thắng. Một số trong đó cuối cùng cũng chiến đấu và sống sót, nhưng họ cũng tiếp tục cần sự trợ giúp tâm lý; đưa họ về với xã hội là cả một vấn đề”.
Giúp một cá thể trở về với xã hội mà bản thân xã hội đó có chiến tranh với chính mình, phải chăng đó là điều mà nhà tâm lý và nhà phân tích có thể làm được? Phải chăng cá thể cần phải được chữa trị để rồi sẽ giết người hay bị người giết? Nếu ta không bị giết, không bị điên, thì cuối cùng cũng sẽ bị ghép vào một cơ chế của hận thù, thèm khát, tham vọng và mê tín, điều đó có gì là khoa học?
“Tôi công nhận xã hội không được như cái nên là, nhưng ta làm được gì bây giờ? Ta không thể rút lui, ta phải làm việc trong đó, sống trong đó, chịu khổ và chịu chết trong đó. Ta không thể thành ẩn sĩ, không thể như những người tránh đời và chỉ lo đến sự cứu vớt linh hồn cho chính mình. Chúng ta phải cứu xã hội dù nó là gì đi nữa”.
Xã hội là mối quan hệ giữa người với người, cấu trúc của nó dựa trên sự cưỡng bách, lòng tham vọng, sự hận thù, lòng kiêu căng, sự thèm muốn của con người, dựa trên toàn bộ tâm lý muốn thống trị và muốn phục tùng. Nếu con người không vượt thoát ra khỏi cơ chế có tính chất hủy hoại đó, thì sự trợ giúp tâm lý có giá trị cơ bản gì? Nó chỉ làm con người lại bị suy đồi thêm nữa.
“Nhiệm vụ của một bác sĩ là phải giúp người. Chúng tôi không phải là nhà cải cách xã hội, việc này là của những nhà xã hội học”.
Đời sống là nhất quán, không thể chia cắt từng bộ phận. Ở đây chúng ta phải để ý đến mọi mặt của cuộc sống: nào là với công việc, với tình yêu, với hạnh kiểm, với sức khỏe, với cái chết và với Thượng đế của con người - cũng như cả với trái bom nguyên tử. Phải chăng chính sự chia cắt này làm con người sinh ra bệnh tật?
“Nhiều người trong chúng tôi thấy sự thể đó nhưng biết làm gì hơn được? Bản thân chúng tôi cũng không phải là con người toàn diện với một tầm nhìn toàn thể, với sự nhất quán trong động cơ và mục đích. Chúng tôi chỉ chữa trị được một phần, phần còn lại bị suy thoái; và từ đó mà thấy rằng mầm hủy hoại sâu xa đang tàn phá cái toàn thể. Ta phải làm gì? Trách nhiệm của bác sĩ là gì?”
Rõ ràng là phải chữa trị; nhưng phải chăng trách nhiệm của bác sĩ cũng là chữa trị cho xã hội một cách nhất quán? Không thể chỉ có cải cách xã hội mà chỉ có một cuộc cách mạng từ bên ngoài mẫu hình của xã hội.
“Nhưng hãy trở lại vấn đề của tôi: với tính cách là một cá thể, ta làm được gì?”
Dĩ nhiên là phải bứt phá ra khỏi xã hội; hãy tự do, không phải chỉ không bị những thứ bên ngoài ràng buộc mà còn thoát khỏi sự thèm khát, tham vọng, mong cầu thành tựu, vân vân…
“Một cuộc sống như vậy sẽ cho ta nhiều thời giờ để học hỏi và chắc chắn sẽ rất thanh bình, nhưng liệu nó sẽ không sinh ra một lối sống hời hợt và vô tích sự chăng?”
Ngược lại thì đúng hơn, sự tự do thoát khỏi mong cầu và lo âu sẽ làm cho mỗi cá thể có một trạng thái của sự hội nhập. Nó sẽ chấm dứt mọi dạng của sự trốn tránh, chúng vốn chỉ gây thêm rối loạn và mâu thuẫn. Nó mang lại cho cuộc sống một ý nghĩa sâu sắc và to lớn hơn.
“Không phải là vài cách trốn chạy cũng có lợi trong một mức độ nào đó của giới trí thức sao? Tôn giáo là một sự trốn chạy tuyệt diệu cho nhiều người, nó mang lại ý nghĩa, dù có tính chất vọng tưởng đi nữa, vì nếu không cuộc đời của họ thật buồn tẻ”.
Thì các loại phim ảnh, tiểu thuyết và ma túy cũng thế thôi; và ông muốn bênh vực cái loại trốn chạy đó hay sao? Các vị trí thức cũng có cách trốn chạy của họ, dù thô sơ hay tinh tế, và hầu như mỗi người đều có cái điều mù quáng của mình; và khi những người đó nằm ở vị trí có quyền hành, họ nuôi dưỡng thêm nhiều hiểm họa hơn ai cả. Tôn giáo [đích thực] không liên quan gì đến giáo điều và niềm tin cả, không biết đến lễ nghi và mê tín, không có chuyện cứu vớt linh hồn, tất cả thứ vừa kể đều là hoạt động của tự ngã. Tôn giáo là cách sống toàn triệt, là sự hiểu ngộ sự thực; sự thực đích thực chứ không phải là phóng chiếu của tâm.
“Ông đòi hỏi quá nhiều ở nơi một con người trung bình, kẻ chỉ muốn vui thích, kẻ cần trốn chạy, kẻ muốn thứ tôn giáo thỏa mãn cho mình, kẻ muốn có ai để phục tùng hay chống đối. Điều mà ông nói đến đòi hỏi một nền giáo dục, một trật tự xã hội hoàn toàn khác; không một nhà chính trị nào, nhà giáo dục thông thường nào có đủ khả năng có tầm nhìn đó. Tôi cho rằng con người còn phải đi qua đêm dài của thống khổ và đau xót trước khi xuất hiện một loại người biết hội nhập và minh triết. Bây giờ thì đó không phải là ưu tư của tôi. Nỗi lo của tôi là những sự tàn hoại của con người cụ thể này đây, điều mà tôi có thể và cũng đang làm thật sự, nhưng vẫn thấy quá ít trong biển khổ này. Như ông nói thì tôi cần có một tình trạng nhất quán hội nhập ngay trong chính bản thân mình, đó là một chuyện hết sức khó làm”.
“Ngoài ra còn một chuyện khác có tính chất riêng tư mà tôi xin nói với ông. Trước đây ông có nói về vấn đề ham muốn. Tôi nhận thấy mình có nhiều ham muốn thực, và dù thỉnh thoảng tôi tìm cách phân tích nó, như phần lớn các nhà phân tâm học hay làm, tôi vẫn không vượt qua được điều này. Phải nói là tôi thấy xấu hổ nhưng ham muốn vẫn còn, từ những sự ghen tức nhỏ nhặt đến những dạng phức tạp hơn nhiều, và xem ra tôi không rũ bỏ được nó”.
Tâm con người có thể thoát khỏi ham muốn không, không phải đi từng bước nhỏ mà thoát một cách toàn diện? Trừ phi con người hoàn toàn thoát khỏi nó, bằng sự hội nhập toàn diện của chính mình, nếu không thì sự ham muốn cứ tiếp diễn trong nhiều dạng khác nhau, trong nhiều lúc khác nhau.
“Vâng, tôi thấy thế. Sự ham muốn phải bị loại bỏ khỏi tâm, như một khối u ác tính phải bị hoàn toàn tách lìa khỏi thân nếu không nó sẽ trở lại, nhưng phải làm sao để loại bỏ?”
Chữ “làm sao” là một dạng khác của sự ham muốn, đúng thế không? Khi người ta tìm một phương pháp, ta muốn từ bỏ sự ham muốn để thành một cái khác, như thế thì lòng ham muốn vẫn còn vận hành.
“Câu hỏi đó thật là tự nhiên, bây giờ tôi hiểu ông muốn nói gì. Khía cạnh này của vấn đề chưa bao giờ làm tôi chú ý”.
Dường như chúng ta luôn luôn rơi vào cái bẫy này và cứ hễ bị kẹt trong đó, ta lại tìm cách thoát khỏi lòng ham muốn. Khi tìm cách thoát khỏi lòng ham muốn sẽ đặt vấn đề phương pháp, thế nên tâm không bao giờ tự do cả, cứ bị lệ thuộc vào lòng ham muốn lẫn phương pháp. Dò tìm khả năng được hoàn toàn tự do là một việc mà đi tìm phương pháp để được tự do là một việc khác. Khi đi tìm phương pháp thì nhất định người ta sẽ tìm ra một cái, dù nó đơn giản hay phức tạp. Khi đó sự dò tìm sẽ biến mất và người ta sẽ lệ thuộc vào một phương pháp, một cách thức, một phép tắc. Thế nên lòng ham muốn vẫn tiếp tục và được duy trì một cách tinh tế.
“Vâng, như ông chỉ rõ, tôi thấy điều đó hoàn toàn đúng. Thực tế là, ông hỏi liệu tôi có thật sự quan tâm đến sự từ bỏ lòng ham muốn một cách hoàn toàn. Tôi từng thấy sự ham muốn có lúc có khả năng kích thích, đó là sự thích thú. Tôi có muốn hoàn toàn thoát khỏi sự ham muốn hay không, muốn thoát khỏi cả hai mặt thích thú lẫn âu lo của nó không? Tôi thú nhận là chưa bao giờ tự đặt cho mình câu hỏi đó, cũng chưa bao giờ ai hỏi tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là không biết mình muốn hay không. Tôi cho rằng có lẽ mình yêu sự vui thú khi lòng ham muốn nổi lên và tránh né mọi chuyện còn lại. Nhưng rõ là không thể chỉ lấy phần đáng mê thích và ta phải chấp nhận tất cả nội dung của lòng ham muốn hay hoàn toàn từ bỏ nó. Tôi bắt đầu thấy ý nghĩa những gì ông nói. Đã có cái thôi thúc phải thoát khỏi, thế mà tôi cũng còn muốn giữ lại một phần. Con người chúng ta thật là phi lý và mâu thuẫn. Điều này cần phải phân tích thêm và tôi hy vọng ông đủ kiên nhẫn để đi cho hết vấn đề. Tôi thấy nơi đây có vấn đề sợ hãi. Nếu tôi không biết ham muốn, một điều cần thiết trong mọi nghề nghiệp, thì đó là bước thụt lùi; tôi sẽ không thành công, không tiếng tăm, không tiền bạc. Có một nỗi sợ thầm kín bị mất tất cả, nỗi sợ về sự bất ổn, và những nỗi lo âu khác mà chúng ta không cần nói đến ở đây. Nỗi lo sợ cơ bản này phải lớn hơn cái ý né khỏi khía cạnh phiền toái của lòng ham muốn, chứ đừng nói hoàn toàn thoát khỏi nó. Bây giờ tôi thấy rõ cơ cấu phức tạp của vấn đề và tôi không chắc là mình mong thoát khỏi lòng ham muốn”.
Bao lâu tâm còn nghĩ theo cách “thêm nữa” thì bấy lâu còn lòng ham muốn; bao lâu còn óc so sánh, mặc dù nhờ so sánh mà ta cho là mình hay, thì bấy lâu còn lòng ham muốn; bao lâu còn có một điểm cuối, còn một mục đích để thành tựu, thì bấy lâu còn lòng ham muốn; bao lâu còn một điều gì cần hoàn thiện, thí dụ cải thiện chính mình, tích lũy đạo đức, vân vân, thì bấy lâu còn lòng ham muốn. Cái “thêm nữa” hàm chứa thời gian, phải không? Nó hàm chứa thời gian để thay đổi cái đang là trở thành cái nên là, trở thành hình ảnh lý tưởng; thời gian là phương tiện để chiếm thêm, để đạt đến, để thành tựu.
“Dĩ nhiên. Muốn vượt qua khoảng cách, muốn đi từ điểm này đến điểm khác, dù đó là vật lý hay tâm lý, thời gian là điều cần thiết”.
Thời gian như là sự vận động từ chỗ này qua chỗ kia, là một sự thực vật lý có trước có sau. Thế nhưng khi muốn giải thoát ra khỏi lòng ham muốn, ta có cần thời gian không? Chúng ta nói “tôi đang thế này và phải trở thành thế kia, hay muốn biến tính chất này thành tính chất kia, điều đó phải cần thời gian”. Nhưng, thời gian là một nhân tố của sự thay đổi hay sao? Hay mọi thay đổi trong phạm vi của thời gian là không có gì thay đổi cả?
“Tôi đang bối rối chỗ này. Ông muốn nói sự thay đổi trong thời gian là không thay đổi gì cả. Như thế là sao?”
Loại thay đổi đó chỉ là sự tiếp diễn được điều chỉnh của cái đã là, không phải thế sao?
“Hãy để tôi xem có hiểu điều này không. Thay đổi từ một thực tế, lòng ham muốn, qua một hình ảnh lý tưởng lòng hết ham muốn, điều đó cần thời gian; ít nhất đó là điều mà chúng tôi nghĩ. Sự thay đổi từng bước trong thời gian theo ông là không thay đổi gì cả mà chỉ tiếp tục đắm mình trong lòng ham muốn. Vâng, tôi thấy thế”.
Bao lâu tâm còn nghĩ mình sẽ thay đổi theo thời gian, còn nghĩ mình sẽ làm cách mạng trong tương lai, thì sẽ không có chuyển hóa trong hiện tại. Đó là một điều đích thực.
“Đúng thế thưa ông, cả hai chúng ta đều thấy sự thực này. Thế thì làm gì bây giờ?”
Tâm phản ứng thế nào khi nó chạm trán với sự thực này?
“Hoặc là nó bỏ chạy hay nó dừng lại và nhìn vào sự thực này”.
Còn ông thì sao?
“Tôi e rằng cả hai. Có một sự thôi thúc tôi phải bỏ chạy, đồng thời tôi lại muốn xem xét nó”.
Liệu ông có thể xem xét gì chăng, khi có sự lo âu xen vào? Ông có thể quan sát một điều gì chăng khi ông đã có một ý kiến, một đánh giá về nó?
“Tôi hiểu ông muốn nói gì. Không phải tôi đang quan sát mà tôi đang đánh giá. Tâm tôi đang chiếu rọi ý hướng và sự lo âu của tâm trên điều này. Vâng đúng thế”.
Nói cách khác, tâm ông bị chính bản thân nó kiềm giữ, và do đó mà không ý thức được một cách giản đơn về sự kiện. Ông đang vận hành trên sự kiện và không cho phép sự kiện vận hành trên chính tâm ông. Sự kiện nói rằng thay đổi trong phạm vi thời gian là không thay đổi gì cả, sự kiện nói rằng chỉ có thể có một sự giải thoát hoàn toàn chứ không phải từng phần ra khỏi lòng ham muốn, sự kiện đích thực đó sẽ vận hành trên tâm, sẽ giải thoát tâm.
“Tôi thật tâm nghĩ rằng sự thực này đang tìm đường xuyên phá sự trì đọng trong trí tôi”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

TRI THỨC PHÙ PHIẾM


Bốn người đang hát với một giọng ca thuần khiết. Nhóm người này gồm những người trầm tĩnh, có tuổi, không còn quan tâm đến sự đời, nhưng cũng không phải dạng ẩn sĩ; nói đơn giản là họ không còn bị thế gian lôi kéo. Trong những bộ quần áo đã cũ nhưng tươm tất cùng với nét mặt trang nghiêm, họ sẽ không được bạn để ý nếu gặp trên đường phố. Thế nhưng khi đã bắt đầu ca, thì nét mặt của họ lại chuyển hóa và rực sáng, như không còn bị ảnh hưởng của tuổi tác; cùng với âm vang của ngữ điệu và sự nhấn âm đầy năng lực, họ đã tạo nên một bầu không khí kỳ lạ với một ngôn ngữ rất cổ. Đó là ngôn từ, thanh âm và ý nghĩa. Tiếng vang của ngôn từ có một chiều sâu thẳm. Đó không phải là chiều sâu của một sợi dây đàn, hay của một tiếng trống mà là tiếng trầm lắng của giọng người, nghe rất sinh động cùng với ý nghĩa của ngôn từ đã trở thành thiêng liêng do thời gian sinh ra và được khéo sử dụng. Bài ca được cất lên bằng một thứ ngôn ngữ đã được mài giũa và rồi trở thành toàn hảo. Thanh âm bài ca tràn ngập cả một căn phòng lớn, xuyên qua bức vách, khu vườn, qua cả trái tim và khối óc. Đây không phải âm thanh của một ca sĩ trên sân khấu mà là sự tĩnh lặng nằm giữa hai sự vận động của âm thanh. Bạn nhận rõ thân mình bị rung theo không thể kiềm chế được bởi thanh âm của ngôn ngữ, nó nằm trong tủy của xương cốt bạn; bạn ngồi yên lặng hoàn toàn nhưng nó giữ bạn trong sự vận động của mình; nó đầy sức sống, nhảy múa, rung động và tâm bạn do nó mà hình thành ra. Đây không phải là thứ âm thanh ru bạn vào giấc ngủ mà là thứ lay động và thậm chí làm tổn thương bạn. Đó là chiều sâu và vẻ đẹp của một thứ tiếng thuần khiết, nó không liên quan gì đến sự hoan nghênh, đến tiếng tăm, đến thế gian; đó là thứ tiếng khởi từ suối nguồn của tất cả những thứ tiếng khác, của tất cả âm nhạc.
Một cậu bé trai khoảng ba tuổi ngồi ngay ngắn phía trước, không chút động đậy; lưng cậu thẳng, mắt nhắm nhưng không ngủ. Sau một tiếng đồng hồ, cậu nhanh chóng đứng dậy và ra về, không một chút bối rối ngượng ngùng gì cả. Cậu có đủ khả năng làm tất cả, vì thanh âm của ngôn ngữ đã nằm trong tim cậu.
Bạn không bao giờ cảm thấy mệt mỏi trong suốt hai tiếng này; bạn không muốn nhúc nhích và thế giới, với tất cả tiếng ồn của nó, không hề hiện hữu. Bây giờ thì tiếng ca đã dứt, âm thanh đã bặt; thế nhưng nó vẫn còn tiếp tục trong lòng bạn, và sẽ còn tiếp nữa. Bốn người nghiêng mình chào và trở lại thành bốn người đàn ông bình thường. Họ cho biết đã thực hành phép ca này hơn mười năm nay, phép này đòi hỏi một sự kiên nhẫn to lớn và một đời sống hiến dâng. Đây là một loại hình nghệ thuật đang suy tàn vì thời buổi này không mấy ai chịu hiến đời mình cho cách hát này; không kiếm ra tiền, không có tiếng tăm và ai chịu đi vào trong thế giới này? Họ nói rằng rất hân hoan được ca hát cho những ai biết đến giá trị của sự nỗ lực của mình. Sau đó họ ra đi, chấp nhận con đường nghèo khổ và bơ vơ trong một thế giới đầy tiếng ồn, sự tàn bạo và tham lam. Thế nhưng dòng sông đã lắng nghe và lặng yên.
Anh là một học giả thông thái, đến đây với vài người bạn và một hai môn đệ. Đầu anh lớn, đôi mắt nhỏ nhìn chăm chú qua cặp kính dày. Anh rành tiếng Sanskrit như người khác biết ngôn ngữ của họ, anh nói được thứ tiếng này dễ dàng; anh còn biết cả tiếng Hy Lạp và Anh ngữ. Anh nắm vững các nền triết học quan trọng của phương Đông, kể cả những biến thể của chúng, cũng thông thạo như bạn biết bài toán cộng trừ. Anh cũng học hỏi triết học phương Tây, nền triết học cổ điển cũng như hiện đại. Rất nghiêm khắc trong phép tu dưỡng cá nhân, anh đã có nhiều ngày tịnh khẩu và nhịn ăn; anh cũng đã thực hành nhiều phép thiền định khác nhau, như anh nói. So với tất cả những điều này thì anh thật là trẻ, mới cuối bốn mươi; ăn mặc giản dị và nhiệt thành. Các bạn cùng môn đệ của anh ngồi xung quanh và chờ đợi với lòng chân thành những câu hỏi vào đề. Họ là những thành viên của một thế giới gồm những người có một vốn kiến thức tổng quát, có tầm nhìn và kinh nghiệm về tâm lý - những người tin một cách chắc chắn nơi tri thức của mình. Họ không trực tiếp tham gia luận đàm nhưng lắng nghe, theo dõi những gì đang xảy ra. Về sau họ sôi nổi thảo luận với nhau, nhưng bây giờ thì họ giữ một sự im lặng đầy kính trọng trước một uy quyền cao hơn. Sau một giai đoạn im lặng, bây giờ thì anh bắt đầu nói. Không thấy có sự kiêu ngạo hay hãnh tiến nơi anh.
“Tôi xin đến để tìm hiểu, không hề có ý phô bày những gì tôi biết. Tôi biết gì ngoài những điều tôi đã đọc và đã chứng nghiệm? Học hỏi là một đức tính tốt nhưng nếu bằng lòng với những gì mình đã biết thì thật là dại dột. Tôi tới đây không với tinh thần tranh luận, mặc dù tranh luận là cần thiết khi có nghi vấn. Tôi tới để tìm kiếm, không phải để bác bỏ. Như đã nói với ông, từ nhiều năm nay tôi đã thực hành thiền định, không phải chỉ thiền định của Ấn Độ giáo hay của Phật giáo, mà cả các dạng thiền định của phương Tây. Tôi nói thế để ông thấy tôi mong được chuyển hóa tâm với mức độ như thế nào”.
Khi một tâm thức được rèn luyện theo một hệ thống, thì làm sao tâm thức đó phát hiện được những cái nằm ngoài tâm? Một tâm thức bị giam giữ trong khung cảnh của chính quy luật của nó thì liệu nó đủ khả năng tìm tòi? Phải chăng cái phải phát hiện là sự tự do trước đã?
“Tất nhiên chứ, muốn tìm kiếm và muốn quan sát thì phải có một quy luật nhất định, phải có một sự thực hành thường xuyên của một phương pháp nào đó, nếu ta muốn tìm và muốn hiểu những gì ta tìm thấy”.
Thưa ông, tất cả chúng ta đều tìm cách thoát khỏi sự khốn khổ và thử thách; nhưng sự tìm tòi sẽ ngưng nếu ta chấp nhận một phương pháp mà với phương pháp đó ta hy vọng chấm dứt sự khổ. Chỉ có sự hiểu ngộ cái khổ mới chấm dứt cái khổ, chứ không bằng sự thực hành một phương pháp nào cả.
“Nhưng làm sao có sự diệt khổ nếu tâm không được kiểm soát, không tập trung, không hướng đến mục đích? Phải chăng ông muốn nỏi quy luật là không cần thiết cho sự hiểu ngộ?”
Ta có thể hiểu ngộ được chăng, nếu thông qua quy luật, thông qua nhiều phép hành trì, tâm con người bị hình thành bởi lòng ham muốn? Không phải là tâm phải được tự do đã, thì sau đó sự hiểu ngộ mới xuất hiện?
“Dĩ nhiên, sự tự do sẽ đến ở cuối cuộc hành trình; tại chỗ bắt đầu thì con người là kẻ nô lệ của lòng ham muốn và của đối tượng của sự ham muốn. Muốn thoát khỏi sự ràng buộc của sự thích thú cảm quan, ta phải có quy định, phải thực hành nhiều phép sadhana*, nếu không tâm sẽ chìm trong sự ham muốn, bị trói buộc trong mạng lưới của nó. Nếu nền tảng của lòng chính niệm này không có thì căn nhà sẽ đổ sập”.
* Các phép tu theo truyền thống của Ấn Độ giáo hay của Kim Cương thừa Phật giáo. Từ Hán-Việt là “nghi qui” (ND).
Sự tự do là ở chỗ bắt đầu, không phải ở cuối. Sự thấu hiểu lòng tham cầu, hiểu ngộ toàn thể nội dung của nó - tính chất, nội dung và hệ quả của nó, cả hai mặt vui thích lẫn phiền não - là phải nằm ngay chỗ ban đầu. Như thế thì tâm sẽ không cần dựng lên một rào cản để rèn luyện cho chính nó chống lại lòng tham cầu. Khi đã nhận thức một cách hoàn toàn điều chuyên dẫn đến sự khốn khổ và thất vọng thì kỷ luật để chống lại nó trở thành hết cần thiết. Ai đã dành nhiều thời gian và năng lực trong việc hành trì tu tập, với tất cả mọi tranh chấp của nó, nếu người đó biết dành suy tư và chăm chú nọ để hiểu ngộ cái ý nghĩa toàn vẹn của sự khổ, thì sẽ có một sự chấm dứt hoàn toàn sự khổ. Thế nhưng chúng ta luôn bị trói chặt trong truyền thống phải đề kháng, phải rèn luyện, nên không thể thấu hiểu những bước đi của cái khổ.
“Tôi đang lắng nghe nhưng không hiểu”.
Có sự lắng nghe hay không nếu tâm còn cứ đeo bám vào những kết luận dựa trên sự khẳng định hay kinh nghiệm của mình? Rõ ràng là con người chỉ thật sự lắng nghe khi tâm không tìm cách diễn dịch những gì nó nghe trong dạng của những gì nó biết. Tri kiến chỉ ngăn chặn sự lắng nghe. Người ta có thể biết rất nhiều; nhưng muốn lắng nghe một điều hoàn toàn khác với những gì mình biết, con người phải dẹp qua một bên những gì nó biết. Đúng không?
“Nếu thế thì làm sao ta nói được đó là những điều đúng hay sai?”
Cái đúng hay cái sai không hề dựa trên ý kiến hay sự đánh giá, dù những thứ đó có khôn ngoan hay già dặn tới đâu. Muốn nhận thức cái đích thực trong cái hư vọng, hay cái hư vọng trong cái được gọi là đích thực, muốn thấy sự thực đúng như sự thực, điều đó đòi hỏi một tâm thức không bị kiềm giữ trong sự quy định của chính nó. Làm sao ta thấy được một xác quyết nào đó là đúng hay sai, nếu tâm ta đang bị tiên kiến chi phối, bị ràng buộc trong vòng kiềm tỏa của kết luận hay kinh nghiệm của chính mình hoặc của người khác? Đối với một tâm như thế thì điều quan trọng là hãy ý thức về giới hạn của chính mình.
“Làm sao khi tâm đã bị vướng vào trong mạng lưới do chính nó bày ra, thoát khỏi được bản thân nó?”
Phải chăng câu hỏi này phản ánh sự tầm cầu một phương cách mới, phải chăng nó được đặt ra để nêu lên giá trị của sự tìm kiếm và sự thực hiện một phương cách? Nói chung, khi ta thực hiện một phương cách, một phép tắc thì mục đích là để thành tựu một kết quả, đạt đến một tính chất nhất định, vân vân… Có thể thay vì vật dụng có tính cách trần tục, người ta đã bỏ nó để tìm tới một cái gọi là tâm linh; thế nhưng sự thành tựu là mục đích của cả hai thứ. Thực ra chẳng có gì khác biệt cả, chỉ khác biệt trên ngôn từ, giữa một người ngồi thiền định và thực hành một phép tu để đạt đến bờ bên kia, và một người làm việc cật lực để thỏa mãn những tham vọng thế tục. Cả hai đều là tham vọng, cả hai đều ái dục, cả hai đều lo toan cho chính mình.
“Nếu đúng thế thì làm sao lòng khao khát, lòng tham vọng, lòng ái dục được trừ diệt?”
Một lần nữa, xin nói rằng, chữ “làm sao”, tức là cái phương cách tưởng chừng như sẽ sinh ra được sự tự do, chính nó đã làm ta hết muốn dò tìm vấn đề và cản lại không cho ta thấu hiểu. Muốn thấu triệt được hết ý nghĩa của vấn đề, ta cần xem xét tính chất của sự dụng công nỗ lực. Một tâm trí nhỏ nhen cố gắng làm cho mình hết nhỏ nhen thì vẫn cứ nhỏ nhen; một tâm thức tham lam cố luyện tập cho mình được hào phóng thì vẫn cứ tham lam. Dụng công để trở thành một cái gì hay tránh thành một cái gì đều chỉ là sự nối tiếp của lòng chấp ngã. Sự dụng công này có thể tự đồng hóa mình với Tiểu ngã, với linh hồn, với Thượng đế đang nằm trong mình, vân vân…, nhưng trung tâm của nó vẫn là lòng khao khát, lòng tham vọng mà nó chính là cái tôi, với tất cả mọi tính chất ý thức được và không ý thức được.
“Thế thì ông quả quyết tất cả mọi cố gắng nỗ lực để đạt đến một kết quả, dù nó có tính vật chất hay tâm linh, chủ yếu là như nhau, trong đó lòng tự ngã là cơ bản của nó. Những nỗ lực đó chỉ tăng cường cái tôi?”
Đúng thế. Tâm thức dụng công thực hành đạo đức sẽ không còn đạo đức. Sự khiêm tốn không thể tập luyện, nếu tập luyện nó thì không còn khiêm tốn.
“Điều này rõ và chính xác. Mặt khác, chắc chắn ông không thể bênh vực cho sự lười biếng, thế thì điều gì là sự nỗ lực đích thực?”
Khi đã biết hết ý nghĩa của sự dụng công nỗ lực, với tất cả các dạng xuất hiện của nó, thì liệu ta còn cần cố ý dụng công nữa chăng?
“Ông đã chỉ rõ tất cả mọi sự trở thành, dù hay dù dở, đều là dạng tồn tại bất tử của cái “tôi”, mà cái tôi chính là kết quả của sự đồng hóa với lòng tham muốn và đối tượng của lòng tham muốn. Điều này tôi đã hiểu, bây giờ ông hỏi có còn cố ý dụng công nữa không? Tôi thấy có thể có một cách sống mà trong đó mọi sự dụng công đều ngưng bặt”.
Nếu mới chỉ thấy “có thể có một cách sống” thì thật ra chưa hiểu hết ý nghĩa của sự dụng công nỗ lực trong đời sống hàng ngày. Bao lâu còn có một quan sát viên, có kẻ tìm cách thay đổi, thành đạt, hay dẹp qua một bên những gì nó quan sát, thì bấy lâu còn sự dụng công; vì nói cho cùng, dụng công là mối mâu thuẫn giữa cái đang là và cái nên là, cái ý hướng. Khi ta thấu hiểu sự kiện này, không phải chỉ bằng ngôn từ hay bằng trí năng mà một cách sâu xa, thì tâm sẽ tự động bước vào một trạng thái của hiện hữu mà trong đó vắng bóng mọi dụng công như ta hay thấy.
“Được chứng nghiệm tình trạng này là mong cầu bức xúc nhất của mọi kẻ tầm đạo, kể cả riêng tôi”.
Điều này không thể tầm cầu, nó đến mà không cần ai mời gọi. Sự mong cầu tình trạng này sẽ hướng tâm đi góp nhặt tri thức và thực hành các phép tập luyện, xem chúng như là phương tiện để đạt đến nó - mà kỳ thực điều đó lại chỉ hình thành một khuôn phép nhằm gặt hái thành công thông thường. Tri thức là một trở ngại trên đường chứng thực tình trạng này.
“Làm sao tri thức có thể là chướng ngại được?” anh hỏi với một giọng hơi bị kích động.
Vấn đề của tri thức là phức tạp, đúng không? Tri thức là một dạng vận động của quá khứ. Biết một cái gì là quả quyết về một điều từng xảy ra. Nhưng khi quả quyết một điều gì thì ta đã chấm dứt sự hiểu thấu cái hiện tại. Nói cho cùng, cái gì là tri thức?
“Tôi biết những sự kiện khoa học, những giá trị đạo đức nhất định. Nếu không có những tri thức đó thì thế giới văn minh sẽ trở lại tình trạng man rợ, rõ là điều mà ông không thể đồng tình. Ngoài những điều đó, tôi còn biết gì nữa? Tôi biết còn có một thể từ bi vô lượng, một đấng Tối cao”.
Đó không phải là thực tại, đó là một xác quyết tâm lý của một phần tâm thức vốn đã bị quy định mà tin rằng có một đấng Tối cao. Một kẻ khác, chịu một thứ quy định khác, sẽ cho rằng đấng Tối cao đó không hề có. Cả hai đều bị ràng buộc bởi truyền thống, bởi tri thức, và chẳng ai trong đó sẽ phát hiện được sự thực của nó. Một lần nữa, điều chúng ta biết là điều gì? Chúng ta chỉ biết về những cái đã đọc hoặc đã trải nghiệm, những cái được dạy dỗ bởi các đạo sư cổ xưa, các vị guru hay luận sư hiện đại.
“Một lần nữa tôi buộc lòng phải đồng ý với ông. Chúng ta là sản phẩm của quá khứ trong mối liên hệ với hiện tại. Cái hiện tại được hình thành từ quá khứ”.
Và tương lai là sự nối dài của hiện tại được điều chỉnh. Nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đồng ý, thưa ông. Hoặc là người ta thấy sự thực, hoặc không. Khi cả hai chúng ta đều thấy sự thực thì sự đồng ý không còn cần thiết. Sự đồng ý chỉ có giữa ý kiến với nhau.
“Phải chăng ông muốn nói, rằng chúng ta chỉ biết những gì được tuyên dạy, chúng ta chỉ là sự lặp lại cái đã là; rằng kinh nghiệm, tầm nhìn và cảm khái của chúng ta chẳng qua là sự đáp lại của những gì quy định chúng ta chứ không là gì khác hơn cả. Nhưng liệu tất cả đều như vậy hay sao? Liệu Tiểu ngã cũng do chúng ta bày vẽ ra sao? Liệu nó chỉ là một sự chiếu hiện của lòng ham muốn và kỳ vọng của chúng ta hay sao. Nó không thể là sự bày đặt mà là điều nhất thiết”*.
* Qua đây ta thấy rõ truyền thống Ấn Độ giáo xem Tiểu ngã đồng thể với Đại ngã, Tiểu ngã chính là thể của Thượng đế. Khi Krishnamurti cho Thượng đế đều do tâm thức con người biến hiện, ông đã phá bỏ truyền thống của Ấn Độ giáo. Krishnamurti là một vị đạo sư mà người quý mến ông lẫn người phản bác ông đều rất đông đảo và rất mãnh liệt (ND).
Cái mà ta gọi là nhất thiết đều do tâm thức tạo ra và tâm được dạy dỗ hãy chấp nhận những gì do chính nó bày ra. Tâm của mọi người có thể được huấn luyện để chấp nhận một niềm tin nhất định, hay chấp nhận điều ngược lại và cả hai đều là con đẻ của sự quy định, của hy vọng, của sợ hãi, của lòng ham muốn được tiện nghi hay được quyền lực.
“Nghe ông nói có lý, tôi cũng phải thấy những sự thật nhất định, mà quan trọng nhất là thấy sự bối rối của chính mình. Thế nhưng còn câu hỏi là, tâm phải nên làm gì khi nó bị vướng trong mạng lưới do chính nó sinh ra?”
Hãy cứ ý thức mà không lựa chọn gì cả về những sự kiện có thể gây hoang mang; vì mọi hành động đi từ sự hoang mang chỉ sinh thêm mơ hồ rối loạn. Thưa ông, không phải là trong tâm phải chết đi mọi tri thức để tâm có thể phát hiện thực tại của cái Tối cao?
“Đây là vấn đề hết sức khó khăn. Có thể nào tôi từ bỏ tất cả những gì đã học, đã đọc, đã chứng nghiệm? Thực sự là tôi không biết trả lời sao”.
Tâm không cần thiết phải từ bỏ quá khứ hay sao, từ bỏ một cách hồn nhiên, vắng bóng mọi lý do hay sở cầu? Một tâm thức mà là sản phẩm của thời gian, một tâm thức đã đọc, đã nghiên cứu, một tâm thức đã thiền quán về những gì nó được dạy dỗ, thì tâm thức đó chỉ là sự nối tiếp của quá khứ; làm sao tâm thức đó có thể chứng nghiệm thực tại được, chứng nghiệm cái phi thời gian, cái luôn luôn mới mẻ? Làm sao nó có cơ may thăm dò được cái chưa biết? Hiển nhiên thôi, biết một điều gì, xác quyết một điều gì, đó là con đường của sự hư ảo, của sự hãnh tiến. Bao lâu con người còn dính nơi cái biết, thì nó không chịu chết, thì nó chỉ là sự nối tiếp; và điều gì còn có sự tiếp nối thì không thể nằm trong một trạng thái của sáng tạo mà trạng thái đó thì phi thời gian. Khi quá khứ không còn quấy nhiễu, thì thực tại sẽ hiện tiền*. Khi đó cũng không còn đòi hỏi phải đi tìm nó.
* Nơi đây người đọc dễ nhớ đến câu trong Kinh Kim Cương “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” [Không trụ vào đâu sẽ sinh tâm ấy] (ND).
Một phần của tâm biết rõ không có sự thường hằng vĩnh viễn, không có một nơi nào nó có thể yên nghỉ; nhưng với một phần khác của tâm, nó tập luyện bản thân mình, công khai hay bí mật tìm cách xây dựng một chỗ lưu trú của sự an toàn, của sự vĩnh cửu, tạo ra một mối liên hệ vô thượng. Thế nên ở đây có một mối mâu thuẫn triền miên, một sự đấu tranh giữa nên là và không nên là, và chúng ta sống trong tranh chấp và phiền não, là tù nhân giữa bốn bức tường do chính chúng ta xây dựng nên. Các bức tường có thể bị phá bỏ, thế nhưng tri kiến và kỹ năng không phải là công cụ đưa đến sự tự do đó.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

“Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI LÀ GÌ?”


Mặt trời chiếu gay gắt trên con đường gồ ghề, đầy sỏi đá và thật là vui thích được đứng trong bóng mát của cây xoài to lớn. Cư dân của nhiều làng mạc đi trên con đường này họ đội trên đầu những chiếc giỏ lớn đựng đầy rau quả, trái cây và các thứ khác đem ra chợ bán. Phần lớn trong số họ là phụ nữ, đi chân trần, nói cười luôn miệng, khuôn mặt sạm đen vì nắng gió. Họ đặt giỏ nặng xuống bên vệ đường và nghỉ trong bóng mát của cây xoài, ngồi bệt trên mặt đất và không nói nhiều như trước. Các giỏ hàng xem ra thật nặng và bây giờ thì bà này đang giúp bà kia đưa lại chiếc giỏ trên đầu và bà cuối cùng thì gần như quỳ xuống trên mặt đất mới làm được. Thế là họ lên đường, với nhịp chân đều đặn và vẻ uyển chuyển lạ thường trong bước đi, những điều mà sau nhiều năm tháng khó nhọc mới có được. Đó không phải là điều học hỏi được bằng sự tự nguyện, nó xảy ra chỉ vì cần thiết tuyệt đối phải làm. Trong số các bà có một cô gái nhỏ, chắc khoảng lên mười, cô cũng đội một chiếc giỏ trên đầu mặc dù cô nhỏ hơn các người khác nhiều. Cô luôn miệng cười và tỏ vẻ vui thích, và không nhìn thẳng phía trước như các bà lớn tuổi khác mà lại nhìn lui xem tôi có đi theo không, và chúng tôi mỉm cười với nhau. Cô cũng đi chân trần và cô cũng còn đi một đoạn đời dài.
Thật là một cảnh đồng quê khả ái, sum sê và thú vị. Những vườn xoài và những vùng đồi thoai thoải; nước chảy trong những khe cát hẹp phát ra một thanh âm dễ chịu, như thể nước được đi dạo trong vùng quê này. Những ngọn dừa như vượt cao hơn ngọn xoài; xoài thì đang nở hoa và là chỗ lui tới của loài ong rừng đang vang tiếng rù rì. Dưới những cây đa cổ bên vệ đường, bây giờ đầy tiếng ồn ào của xe bò và tiếng trò chuyện của dân làng có việc vặt đi từ làng này qua làng kia. Họ không có gì phải vội vã và ưa tụ nhau nói chuyện ở bất cứ chỗ nào có bóng mát. Chỉ có một số ít mang giày dép, số ít hơn nữa có xe đạp. Có khi họ ăn đậu phộng hay một ít hạt rang. Xung quanh họ phát ra khí lực của lòng thiện tâm dễ thương, rõ là họ không bị dính vào sự lây nhiễm của thành thị. Con đường mang dấu ấn của sự thanh bình, dù thỉnh thoảng có một chiếc xe tải chạy qua, chở đầy những bao than đá được xếp cẩu thả xem ra có thể rơi xuống đất bất cứ lúc nào; nhưng chúng cũng chẳng hề rơi. Một chiếc xe buýt chở đầy người chạy đến, tiếng còi vang lên đáng sợ. Thế nhưng cả nó cũng chóng đi mất, trả lại con đường cho dân làng - và cho hàng chục con khỉ sắc nâu đang tụ tập nhau lại, cả mẹ lẫn con. Khi một chiếc xe tải hay xe buýt lạch cạch chạy đến, những con khỉ con liền đeo bám khỉ mẹ, chúng cứ ôm chặt như thế cho đến khi khắp nơi yên hẳn rồi lại tràn ra ngoài đường, nhưng cũng không chịu xa mẹ bao nhiêu. Đầu to, mắt sáng đầy sự tò mò, chúng tự gãi mình và dòm ngó các con kia. Những con khá lớn thì chạy khắp nơi, chúng đuổi nhau băng qua con đường và dọc lên cây, luôn luôn né tránh những con khỉ già, tuy thế chúng cũng biết không nên chạy quá xa. Có một con khỉ đực rất to, trông có vẻ già nhưng vẫn còn sinh động, ngồi yên lặng cạnh bên lề đường quan sát mọi thứ. Những con khỉ khác không dám đến gần mà hễ nó bỏ đi thì cả đàn thong thả đi theo; và mặc dù chạy tứ tán nhưng luôn luôn cùng một hướng chung. Thật là một con đường với hàng ngàn sự việc xảy ra.
Anh là một người còn trẻ, đến cùng với hai người khác trạc tuổi. Gương mặt có vẻ hơi bị kích động, trán rộng, bàn tay dài và hiếu động, anh cho hay mình chỉ là một viên chức nhỏ, lương thấp, tương lai không mấy sáng sủa. Mặc dù tốt nghiệp đại học với điểm cao, anh khó khăn lắm mới kiếm được việc làm, và phải mừng là có việc. Anh chưa lập gia đình và cũng không biết sẽ lấy ai không vì cuộc sống thì khó và nuôi dạy con cái thì phải cần nhiều tiền. Thế nhưng anh hài lòng với những gì kiếm được, lương nuôi sống mình và mẹ già, mua sắm được vật dụng cần thiết. Anh nói, đến đây không phải để kể những chuyện đó mà vì một lý do hoàn toàn khác. Hai người bạn đồng hành, một trong hai đã lập gia đình, có vấn đề tương tự như anh và anh thuyết phục hai bạn hãy đến cùng anh. Cả hai đều học đại học cả, và cũng như anh, cả hai đều có một nghề nghiệp tầm thường trong văn phòng. Tất cả họ đều tươm tất, nghiêm túc và có vẻ vui tươi, với cặp mắt sáng, nụ cười cởi mở.
“Chúng tôi đến để đặt ông một câu hỏi rất đơn giản và hy vọng nghe một câu trả lời cũng đơn giản. Mặc dù tốt nghiệp đại học, chúng tôi cũng không đủ sức để phân tích một cách sâu sắc tới nơi tới chốn; nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ lắng nghe ông nói. Như ông thấy, chúng tôi không biết rõ sống để làm gì. Chúng tôi làm lung tung chuyện này chuyện nọ, tham gia hội đoàn này khác, gia nhập tổ chức cứu tế xã hội, đi họp các cuộc mít-tinh công đoàn và tất cả mọi thứ tương tự. Chúng tôi cũng rất yêu thích âm nhạc, thăm viếng đền chùa, cũng đã trầm mình trong kinh sách thiêng liêng, nhưng không sâu xa lắm. Tôi đánh bạo nói với ông những thứ đó chỉ để ông biết thêm về chúng tôi. Ba chúng tôi hầu như chiều nào cũng gặp nhau để bàn chuyện và câu hỏi xin đặt cho ông là: Mục đích của cuộc đời là gì và làm sao ta tìm ra nó?”
Tại sao các bạn lại hỏi câu này? Và nếu có ai trả lời mục đích cuộc đời là gì, các bạn sẽ chấp nhận không và chịu sống theo đó không?
“Chúng tôi đặt câu hỏi này”, người có gia đình nói, “vì chúng tôi bị hoang mang; chúng tôi không hiểu sự rối loạn và khốn khổ này do đâu ra và để làm gì. Chúng tôi muốn trao đổi về điều này với một người không bị hoang mang như chúng tôi, một người không có tính tự phụ và gia trưởng; một người chịu nói chuyện một cách bình thường, chứ không phải từ bên trên ngó xuống như thể họ thì biết hết mọi chuyện còn chúng tôi thì như học trò ngu dốt chẳng biết gì cả. Chúng tôi được nghe ông là thế nên chúng tôi tới để nghe ông nói cuộc đời có ý nghĩa gì”.
“Không phải chỉ chừng đó thôi”, người đầu tiên nói thêm, “chúng tôi muốn có một cuộc sống nhiều thành quả, một cuộc sống có ý nghĩa; nhưng chúng tôi cũng không muốn thành tín đồ, không muốn theo một chủ thuyết nào đặc biệt. Một số bạn bè của chúng tôi gia nhập các nhóm tôn giáo hay theo các nhà chính trị nước đôi nhưng chúng tôi thì không thích theo họ. Các nhà chính trị thì chỉ nhân danh Nhà nước mà theo đuổi quyền lực và các nhà tôn giáo thì để dành cho đám đông nhẹ dạ, ưa mê tín. Thế nên chúng tôi tới đây, không biết ông giúp chúng tôi được không”.
Một lần nữa, nếu có ai đủ dại dột để nói với các bạn mục đích cuộc đời là gì, bạn có chấp nhận nó không - dĩ nhiên giả định rằng nó hợp lý, nó tiện lợi và không nhiều thì ít làm bạn hài lòng?
“Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ theo”, người đầu tiên nói.
“Thế nhưng người đó phải bảo đảm là nói sự thực chứ không phải là điều bịa đặt khôn khéo nào đó”, một người khác nói thêm.
“Tôi không tin là chúng tôi đủ sức đánh giá được đúng sai”, người thứ ba nói.
Đó chính là toàn bộ vấn đề. Tất cả các bạn đều nói tâm mình bị hoang mang. Bây giờ các bạn có thể tin liệu một tâm thức hoang mang có thể tìm ra ý nghĩa cuộc đời sao?
“Tại sao lại không?”, người đầu tiên nói, “Chúng tôi hoang mang thật, không ai phủ nhận cả; nhưng nếu vì hoang mang mà không thể thấy được ý nghĩa cuộc đời thì thật là đáng tuyệt vọng”.
Dù mò mẫm tìm kiếm nhiều đến đâu, một tâm thức hoang mang chỉ có thể tìm ra cái làm cho nó thêm hoang mang; không phải sao?
“Tôi không biết ông muốn hướng tới đâu?”, người có gia đình nói.
Chúng ta không cố đi tới đâu cả. Chúng ta đang dò từng bước; và điều đầu tiên cần tìm ra là xem thử liệu tâm có thể tư duy sáng suốt hay không lúc nó bị hoang mang.
“Rõ ràng là không”, người đầu tiên trả lời nhanh, “Nếu tôi hoang mang, như hiện nay tôi đang bị, thì tôi không thể suy nghĩ rõ ràng được. Tư duy sáng suốt đòi hỏi tâm không được bối rối hoang mang. Tôi đang hoang mang nên không suy tư rõ rệt được, nhưng vấn đề là sao?”
Sự thật là bất cứ điều gì mà một tâm thức hoang mang tìm kiếm và phát hiện đều là sự rối ren cả; ông giáo chủ, ông đạo sư, mục đích của tâm đều chỉ phản ánh sự hoang mang của chính nó. Đúng thế không?
“Thật khó mà chấp nhận điều này”, người có gia đình nói.
Khó chấp nhận là do lòng tự phụ của chúng ta. Chúng ta tự cho mình là khôn ngoan, đủ khả năng giải quyết các vấn đề của con người. Phần lớn chúng ta đều ngại thừa nhận sự thật là mình bị hoang mang bối rối, vì nếu thế thì ta đối diện với sự phá sản,-với sự thất bại của chính mình, điều đó sẽ đồng nghĩa hoặc với sự tuyệt vọng hoặc với lòng nhẫn nhục. Lòng tuyệt vọng sớm dẫn đến sự cay chua, độc ác, đến những chủ trương thô thiển; nhưng nếu có lòng nhẫn nhục đích thực thì chúng ta có thể bắt đầu tìm tòi và thấu hiểu.
“Tôi có thể thấy sự thật nơi những gì ông vừa nói”, người có gia đình trả lời.
Phải chăng mỗi sự lựa chọn đều hàm chứa sự hoang mang?
“Tôi không hiểu tại sao lại như thế”, người thứ hai nói, “Chúng ta phải lựa chọn; không có sự lựa chọn tức là không có tự do”.
Khi nào thì bạn lựa chọn? Lựa chọn chỉ xuất phát từ sự bối rối, khi bạn không chắc chắn lắm. Khi có sự sáng tỏ thì không có lựa chọn.
“Đúng thế, thưa ông”, người có vợ nói, “Khi ta yêu và kết hôn với một người, thì khi đó không có sự lựa chọn. Sự lựa chọn chỉ sinh ra khi không có tình yêu, khi ta chỉ đi quanh sắm hàng. Trong một cách nói thì tình yêu là sự sáng tỏ, phải không?”
Điều này tùy khi ta nói tình yêu là nói gì. Nếu “tình yêu” bị hạn chế bởi lo sợ, ghen tuông, tham đắm thì đó không phải là yêu thương, và cũng không có sự sáng tỏ trong đó. Thế nhưng bây giờ ta khoan nói về tình yêu. Khi tâm ở trong trạng thái của hoang mang bối rối, thì sự tìm kiếm mục đích cuộc đời, và sự lựa chọn các mục đích đó thật không có giá trị gì cả.
“Ông muốn nói gì với “lựa chọn các mục đích”?”
Khi các bạn đến đây, hỏi về mục đích của cuộc đời, thì các bạn đi tìm cho mình một mục đích, một chỗ để hướng về. Rõ là các bạn đã hỏi nhiều người khác câu hỏi này, và bạn không hài lòng về câu trả lời của họ, thế nên mới đến đây. Các bạn đang lựa chọn, và như ta đã nói, sự lựa chọn là con đẻ của lòng hoang mang bối rối. Vì bị hoang mang bạn muốn được sự an toàn; và một tâm thức hướng về sự an toàn trong lúc còn hoang mang thì tâm đó chỉ tiếp tục ôm giữ sự hoang mang. Một sự xác quyết được cộng vào với hoang mang nội tâm chỉ tăng cường cho sự hoang mang.
“Điều này đã rõ”, người đầu tiên nói, “Tôi bắt đầu thấy rõ, một tâm thức hoang mang chỉ tìm thấy những câu trả lời bối rối về một vấn đề mơ hồ. Nhưng rồi sao nữa?”
Hãy đi vào việc này một cách thong thả. Tâm của chúng ta bị hoang mang bối rối và đó là một sự thực. Ngoài ra tâm cũng nông cạn, nhỏ nhen, hạn chế; đó cũng là một điều thực có, đúng không?
“Thế nhưng chúng ta cũng không hoàn toàn nhỏ nhen, có một phần khác của chúng ta không phải thế”, người có gia đình nói, “Nếu tìm ra cách để vượt qua được sự nông cạn này, chúng ta có thể phá vỡ nó”.
Đó là một thứ hy vọng dễ dãi nhưng có thật vậy chăng? Bạn có một khái niệm truyền thống cho là mình có một tự thể - cái Tiểu ngã, linh hồn, cái tinh túy tâm linh - nằm ngoài, nằm trên những thứ nhỏ nhen này, một tự thể có khả năng xuyên suốt những thứ đó. Thế nhưng một cái tâm nhỏ nhen nghĩ rằng có một phần khác của nó là không nhỏ nhen, thì nó chỉ bám giữ vào sự nhỏ nhen của mình. Khi xác quyết có một Tiểu ngã, một tự thể cao hơn, vân vân…, thì tâm hoang mang vô minh vẫn bị tiếp tục trói buộc trong tư duy vô minh của nó, đó là thứ tư duy được sinh ra từ truyền thống, được người khác dạy dỗ cho bạn.
“Thế thì bây giờ phải làm sao?”
Không phải câu hỏi này là quá hấp tấp hay sao? Có thể không cần phải làm bất cứ gì cả. Trong quá trình của sự thấu hiểu toàn bộ vấn đề, có thể có một dạng khác của sự hành động.
“Ông muốn nói hành động cần làm đó sẽ tự xuất hiện khi ta thấu hiểu cuộc đời”, người có gia đình nói, “Bây giờ theo ông, cuộc đời là gì?”
Cuộc đời là vẻ đẹp, phiền não, niềm vui và sự hoang mang bối rối; nó là cây cối, chim muông, là ánh trăng trên mặt nước; là công việc, nỗi đau và hy vọng; là sự chết, sự tìm kiếm cái bất tử; là lòng tin nơi đấng Tối cao và sự phủ nhận nó; là thiện mỹ, sự căm thù và lòng thèm muốn, sự khao khát và lòng tham vọng; là tình yêu thương và sự thiếu vắng nó; là óc phát minh và khả năng kiểm soát máy móc; là sự say mê sâu xa; là tâm thức, người thiền định và sự thiền định. Cuộc đời là tất cả. Nhưng làm sao tâm thức nhỏ nhen và rối loạn của chúng ta tiếp cận được cuộc đời? Điều đó là quan trọng, chứ không phải sự mô tả cuộc đời là gì. Từ nơi cách tiếp cận cuộc đời của chúng ta mà sinh ra mọi câu hỏi và câu trả lời.
“Tôi thấy sự rối loạn này mà ta gọi là cuộc đời là kết cuộc của chính tâm tôi”, người đầu tiên nói, “Tôi do nó sinh ra, nó do tôi sinh ra. Liệu tôi có thể tách ra khỏi cuộc đời không và tự hỏi mình làm sao tiếp cận lại nó?”
Thực tế chính bạn đã tách mình ra khỏi cuộc đời, không phải sao? Bạn không hề nói, “Tôi chính là toàn bộ cuộc đời” và chịu lặng yên; ở đây bạn lại đòi thay đổi điều này, cải thiện điều kia, bạn muốn bác bỏ, bạn muốn giữ chặt. Chính bạn, kẻ quan sát, thì muốn là một trung tâm bất động, trường cửu trong sự vận động to lớn này, và vì thế mà bạn cứ bị ràng buộc trong tranh chấp, trong phiền não. Bây giờ, bạn là kẻ bị cách ly, làm sao bạn tiếp cận với cái toàn thể nữa? Làm sao bạn tới được với cái mênh mông này, với vẻ đẹp của trái đất và bầu trời nữa?
“Tôi tới với cái tôi là”, người có gia đình nói, “Với sự nhỏ nhặt của mình, đi tìm những câu trả lời vô tích sự”.
Chúng ta nhận được những gì mình tìm kiếm. Cuộc đời của chúng ta nhỏ nhặt, tầm thường, rất nông cạn, bị thói quen ràng buộc; và Thượng đế của những đầu óc tầm thường thì cũng vớ vẩn và ngu xuẩn như những kẻ bày vẽ ra họ. Dù ta có sống trong một lâu đài hay ở làng quê, dù ta là nhân viên quèn trong văn phòng hay có quyền cao chức trọng, thực tế là tâm của chúng ta nhỏ nhen, hẹp hòi, đầy tham lam khao khát; và với thứ tâm đó chúng ta đi tìm đâu là Thượng đế, chân lý là gì, chính phủ toàn hảo là gì, và tầm cầu giải pháp cho vô số các vấn đề khác chạm trán với ta.
“Đúng, cuộc đời chúng tôi là thế”, người đầu tiên thừa nhận một cách buồn rầu, “Chúng tôi có thể làm gì?”
Hãy cho toàn thể đời sống này chết đi, không phải từng chút từng chút, mà toàn bộ một lúc. Chính cái tâm nhỏ nhen đang dụng công, đang tranh đấu, nó có mục tiêu và hệ thống, nó là cái luôn luôn cải thiện mình bằng cách trau dồi đạo đức. Đạo đức sẽ không còn là đạo đức nếu nó được trau dồi.
“Tôi có thể hiểu là ta hãy cho quá khứ chết đi”, người đầu tiên nói, “Nhưng nếu tôi cho quá khứ chết đi thì sẽ xảy ra điều gì?”
Phải chăng bạn muốn nói mình chỉ sẵn sàng cho quá khứ chết đi nếu được ai bảo đảm sẽ có một cái gì thay thế tốt đẹp cho những cái đã từ bỏ. Như thế thì không phải là từ bỏ, đó chỉ là một sự thành đạt khác. Một tâm thức nhỏ nhen muốn biết điều gì xảy ra sau đó thì chỉ tìm được những câu trả lời nhỏ nhen. Các bạn phải cho tất cả những cái đã biết chết đi để cho cái chưa biết hiển lộ.
“Mới đầu tôi đặt câu hỏi nọ một cách vô tư. Bây giờ thì tôi hiểu những gì ông đã nói và sau đây không phải là lời nói lễ độ hay chỉ trên mặt ngôn từ. Tôi nghĩ rằng mỗi chúng tôi đều cảm nhận sâu sắc sự thực của những gì ông nói, và cảm nhận này mới là điều quan trọng nhất. Xuất phát từ sự cảm nhận này, hành động mới có thể và sẽ xảy ra. Chúng tôi có được phép đến thăm ông lại không?”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

VẮNG THIỆN MỸ VÀ LÒNG YÊU THƯƠNG THÌ KHÔNG CÓ GIÁO DỤC ĐÚNG ĐẮN


Ngồi trên một cái bục, anh đang chơi một loại nhạc cụ bảy dây trước một nhóm nhỏ thính giả, họ rất quen loại âm nhạc cổ điển này. Họ ngồi trên sàn nhà trước mặt anh; phía sau anh là một nhạc cụ khác chỉ bốn dây cũng đang được trình diễn. Anh còn trẻ nhưng là bậc thầy toàn hảo của nhạc cụ bảy dây và cả loại âm nhạc này. Trước mỗi bài ca, anh đã ứng biến; sau đó là ca khúc, trong đó lại càng thêm nhiều ứng biến nữa. Bạn không bao giờ nghe được một tác phẩm nào được trình bày hai lần như nhau. Lời nhạc rất chừng mực, nhưng trong một khung cảnh nhất định thì nó có một mức độ tác động to lớn, và nhà nghệ sĩ có thể ứng biến theo ý riêng của mình, hợp với mức độ của lòng mình; và sự phối hợp, biến tấu càng phong phú thì người nghệ sĩ càng vĩ đại. Với dây đàn, ngôn ngữ không thể hiện được nhưng tất cả những người ngồi đó đều biết lời ca, và họ say sưa theo lời ca. Đầu lắc lư, với bàn tay uyển chuyển, họ giữ nhịp một cách toàn hảo, họ vỗ nhẹ trên đùi vào cuối nhịp điệu. Anh nhạc sĩ nhắm mắt và hoàn toàn bị thu hút vào trong tự do của niềm sáng tạo và trong vẻ đẹp của thanh âm; tâm anh và những ngón tay của anh nằm trong một mối liên hệ toàn hảo. Và những ngón tay của anh: Thanh thoát và nhanh nhẹn, dường như chúng có cuộc sống riêng. Chúng chỉ chịu nằm yên lúc hết bài của nhạc cảnh đó, chúng yên lặng và nghỉ ngơi; thế nhưng chúng liền bắt đầu một bài ca khác với sự nhanh nhẹn không thể tin nổi, nhưng lại trong một thứ nhạc cảnh khác. Hầu như chúng mê hoặc bạn bằng sự uyển chuyển và mau lẹ của động tác. Và những sợi dây đàn, chúng cho những thanh âm đầy âm điệu biết bao! Chúng được bấm bởi các ngón tay trái để sinh ra sức căng chính xác, trong lúc bàn tay phải gảy đàn với sự nhẹ nhàng và tự chủ của một bậc thầy.
Bên ngoài trăng sáng; bóng cây bất động; nhìn qua cửa sổ ta có thể thấy dòng sông, một dải bạc nổi lên giữa bóng tối, giữa những hàng cây im lặng trên bờ bên kia. Một điều gì kỳ lạ đang xuyên qua không gian mà không gian chính là tâm. Nó đang ngắm nhìn sự vận động đầy phúc lạc của những ngón tay, lắng nghe những âm thanh ngọt ngào, chăm chú nhìn những chiếc đầu lắc lư và nhịp tay của những người ngồi yên lặng. Bỗng nhiên người ngắm nhìn, người lắng nghe biến mất; không phải vì người đó được ru ngủ trong tiếng đàn đầy nhịp điệu mà là nó hoàn toàn vắng mặt. Chỉ còn một không gian mênh mông mà đó chính là tâm. Tất cả mọi thứ trên địa cầu và những gì thuộc về con người đều nằm trong đó cả; nhưng các thứ đó lại nằm lờ mờ ở tận viễn xứ ngoại biên. Ở trong không gian, nơi không có gì cả, thì có một sự vận hành và sự vận hành này là sự tĩnh mịch. Có một sự vận hành sâu sắc, mênh mông, không có chiều hướng, không có mục đích, bắt đầu từ những ngoại biên và với một sức mạnh không tin nổi mà tiến vào trung tâm - trung tâm nhưng hiện diện khắp chốn trong sự tĩnh mịch đó, hiện diện khắp trong sự vận hành mà vận hành là không gian. Trung tâm này hoàn toàn cô tịch, vô cấu nhiễm, không thể nghĩ bàn, cô tịch nhưng không cô lập, vô thủy vô chung. Nó tự mình toàn hảo trong chính nó, bất sinh, các ngoại biên nằm trong nó nhưng không phải là nó. Nó có đó nhưng không nằm trong quy mô của tâm thức con người. Nó là cái toàn thể, cái toàn triệt, không thể tiếp cận*.
* Trong đoạn này Krishnamurti mô tả sự chứng nghiệm của mình về thể tính cuối cùng của vũ trụ, khi con người quan sát biến mất. Câu quan trọng nhất là “không gian chính là tâm”. Những thông tin này đối với người thường là không thể nghĩ bàn. Thật vô ích cho người đọc khi bàn bạc “đúng sai” về những điều này, thế nhưng điều đáng chú ý là nó khá trùng hợp vôi nhiều mô tả của các vị đạo sư của thời quá khứ cũng như hiện đại (ND).
Nhóm của họ bốn người, tất cả đều thanh niên cùng tuổi, từ mười sáu đến mười tám. Rụt rè, họ cần được ai khuyến khích nhưng khi đã nói thì khó mà ngưng, những câu hỏi của họ đến ào ào một cách hăng say. Bạn có thể thấy họ đã bàn tất cả chuyện này với nhau từ lâu trước đó, và chuẩn bị các câu hỏi trên giấy; và sau khi một hai người bắt đầu thì họ quên mất những gì đã viết và nói một cách tự nhiên về những gì mình chợt nghĩ trong đầu. Mặc dù không phải thuộc con nhà dòng dõi nhưng họ ăn mặc tươm tất chỉnh tề.
“Thưa ông, khi ông nói chuyện với học sinh chúng tôi cách đây vài ba ngày”, người gần nhất bắt đầu, “Ông đề cập đến sự cần thiết của một nền giáo dục đúng đắn để đủ sức đối diện với cuộc đời. Tôi mong ông nhắc lại thế nào là giáo dục đúng đắn. Chúng tôi có nói chuyện với nhau về điều này nhưng không hiểu thấu đáo”.
Bây giờ các bạn có loại giáo dục nào?
“Ổ, chúng tôi đang ở trong trường cao đẳng và được dạy về những điều thông thường cho một nghề nghiệp nhất định”, anh đáp. “Tôi sẽ thành kỹ sư; bạn bè tôi thì khác nhau, người học vật lý, kẻ học văn chương, người học kinh tế. Chúng tôi phải nghe những bài giảng nhất định, đọc những sách đã định, và nếu có thì giờ thì đọc vài ba cuốn tiểu thuyết; nhưng ngoài các trò chơi thì chúng tôi dành phần lớn thì giờ cho chuyện học”.
Bạn có nghĩ như thế là đủ để được giáo dục đúng đắn cho cuộc đời?
“Từ những gì ông nói mà suy thì không đủ”, người thứ hai nói, “Nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có được và thường thường thì chúng tôi cho là được giáo dục rồi”.
Học đọc, học viết, học trau dồi ký ức và đi thi cho đậu, kiếm được vài khả năng hay kỹ xảo để tìm được một việc làm, như thế là giáo dục hay sao?
“Không phải những điều đó là cần thiết sao?”
Đúng, để kiếm tiền nuôi thân thì đó là điều cốt yếu; nhưng cuộc đời không chỉ có thế. Ngoài ra còn có tình dục, tham vọng, lòng ham muốn, tình yêu nước, sự bạo động, chiến tranh, tình yêu, cái chết, Thượng đế, quan hệ giữa người và người, tất cả đều là xã hội, và còn nhiều điều khác nữa. Bạn có được dạy dỗ để đối phó với những vấn đề to lớn này được mệnh danh là cuộc đời không?
“Ai là người dạy chúng tôi những điều đó?”, người thứ ba nói. “Giáo viên cũng như giáo sư của chúng tôi xem ra rất lãnh đạm. Trong số đó có nhiều vị rất khôn ngoan và thông thái, nhưng không ai nói một ý gì về những điều này. Chúng tôi cắm đầu mà làm cho qua và mỗi người đều hạnh phúc khi cầm mảnh bằng trong tay; tất cả mọi thứ đều trở nên khó khăn cả”.
“Ngoại trừ sự ham mê tình dục, điều tương đối rõ”, người thứ nhất nói, “Chúng tôi không biết gì cả về cuộc đời; tất cả những thứ còn lại xem ra thật mơ hồ và xa xôi. Chúng tôi nghe cha mẹ phàn nàn không đủ tiền bạc, thấy họ bị gắn chặt vào trong những nề nếp mòn cũ trong tuổi già còn lại. Thế thì ai dạy chúng tôi về cuộc đời?”
Không ai dạy bạn cả, nhưng bạn có thể học. Có một sự khác biệt khổng lồ giữa học hỏi và được dạy dỗ. Học hỏi thì đi xuyên suốt cuộc đời, còn được dạy dỗ thì chỉ vài giờ hay vài năm - và sau đó bạn sẽ lặp lại những gì được dạy cho suốt cả cuộc đời. Những gì bạn được dạy sớm trở thành tro tàn mà cuộc đời lại là một cái gì sinh động, nên cuộc đời trở thành chiến trường của những nỗ lực vô vọng. Các bạn bị ném ra ngoài đời mà không có được cái thoải mái hay ung dung để thấu hiểu nó; trước khi bạn biết điều gì về cuộc đời thì bạn đã nằm trọn trong đó mất rồi, đã lập gia đình, đã có nghề nghiệp, đã nằm trong tiếng la hét không chút thương tiếc của xã hội rồi. Ta phải học về cuộc đời từ thời còn non trẻ, không phải trong giai đoạn cuối; khi ta đã lớn lên rồi thì hầu như quá muộn.
Bạn không biết cuộc đời là gì sao? Nó bắt đầu từ lúc bạn vừa sinh ra cho đến lúc bạn chết và có lẽ sau đó nữa. Cuộc đời là một tổng thể to lớn, phức tạp; nó giống như một căn nhà mà trong đó mọi sự đều xảy ra tức khắc. Bạn yêu và ghét; bạn tham lam thèm muốn, đồng thời bạn lại thấy mình không nên thế. Bạn có nhiều ước vọng và cũng có thành công hay thất bại; chạy theo nó vì lo âu, sợ hãi và lòng nhẫn tâm; và không sớm thì muộn bạn sẽ có cảm giác tất cả chỉ là phù phiếm. Thế rồi còn có sự tàn bạo và sự khủng khiếp của chiến tranh, có thứ hòa bình do khủng bố đẻ ra; có chủ nghĩa quốc gia, có nhân danh chủ quyền dân tộc để hô hào chiến tranh; có cái chết sau một cuộc đời hay bất cứ lúc nào trong đời. Có sự tìm kiếm Thượng đế, với mọi niềm tin đối kháng lẫn nhau, có sự tranh chấp giữa các tôn giáo được tổ chức thành định chế. Có sự phấn đấu để giành và giữ một việc làm; có hôn nhân, con cái, bệnh tật, và sự chế ngự của xã hội, của Nhà nước. Tất cả những thứ đó là cuộc đời và nhiều hơn thế nữa; và bạn thì bị ném vào trong cuộc hỗn loạn đó. Thường thường thì bạn chìm trong đó, khốn khổ, mất mát; và nếu bạn sống còn và leo lên được chóp đỉnh thì bạn cũng vẫn là một phần của sự hỗn loạn. Đó là cái mà ta gọi là cuộc đời: Triền miên tranh chấp và phiền não, thỉnh thoảng có một chút niềm vui. Ai chịu dạy cho bạn điều này? Hay nói đúng hơn, làm sao bạn học hỏi được về điều này? Ngay khi bạn có khả năng hay thiên hướng, bạn sẽ bị bức xúc bởi ước vọng, bởi mong ước được tiếng tăm, với tất cả thất vọng và khổ sở của chúng. Tất cả điều này là cuộc đời, đi xa thêm nữa cũng là cuộc đời nốt.
“Cũng may là chúng tôi còn biết rất ít về tất cả cuộc tranh chấp đó”, người thứ nhất nói, “thế nhưng tất cả những gì ông nói vốn tiềm tàng trong chúng tôi. Tôi muốn thành một kỹ sư danh tiếng, tôi muốn đánh bại tất cả những người khác, thế nên tôi phải hăng say làm việc, phải quen với những người đáng quen; tôi phải vạch kế hoạch, tính toán cho tương lai. Tôi phải vạch con đường cho cuộc đời của mình”.
Đúng như thế. Mỗi người đều nói phải vạch đường đời của mình; mỗi người chỉ biết đến mình, khi thì nhân danh công việc, nhân danh tôn giáo, nhân danh đất nước. Bạn muốn nổi tiếng, ông hàng xóm của bạn cũng thế, ông hàng xóm của ông ta cũng thế nốt; ai cũng muốn thế cả, từ người cao nhất đến người thấp nhất trong cả nước. Thế nên chúng ta xây dựng một xã hội dựa trên ước vọng, ham muốn và chiếm hữu, trong đó mỗi người là đối thủ của kẻ khác; và bạn được “giáo dục” để khép mình vào xã hội phân hóa này, để ăn khớp vào cái khung xấu xa của nó.
“Thế nhưng chúng tôi làm được điều gì?”, người thứ hai hỏi. “Với tôi thì chúng tôi hoặc phải khép mình vào xã hội hoặc bị tiêu diệt. Có cách nào thoát ra khỏi nó không, thưa ông?”.
Bây giờ thì bạn được gọi là dạy dỗ để hòa nhập vào xã hội; khả năng của bạn được phát triển để tạo cho bạn một cuộc sống nằm trong khuôn khổ. Cha mẹ bạn, thầy giáo bạn, chính phủ, tất cả đều lo cho hiệu năng cũng như sự an toàn tài chánh của bạn, đúng thế không?
“Tôi không biết về chính phủ”, người thứ tư nói, “Nhưng cha mẹ chúng tôi quả thật phải trả những số tiền khó kiếm để cho tôi có bằng cao đẳng, để chúng tôi có thể kiếm sống. Nói cho cùng thì cha mẹ rất thương con cái”.
Cha mẹ biết thương con thật ư? Hãy xem. Chính phủ muốn các bạn là người chuyên trách đầy hiệu quả để điều hành guồng máy của Nhà nước, là nhà công nghiệp giỏi để giữ vững nền kinh tế, là người lính thiện chiến để tiêu diệt đối phương, không phải sao?
“Tôi nghĩ chính phủ thì làm thế thật. Nhưng cha mẹ thì biết thương yêu con cái hơn nhiều, cha mẹ nghĩ tới hạnh phúc của chúng tôi, muốn chúng tôi là những công dân tốt”.
Vâng, cha mẹ muốn bạn là “công dân tốt”, điều đó không gì khác hơn là có những ước vọng to lớn, lòng ham muốn chiếm hữu triền miên và thích thú với lòng nhẫn tâm đã được xã hội thừa nhận, được mệnh danh là sự cạnh tranh, để cho bạn và cho họ được an toàn. Anh ta được gọi là công dân tốt, nhưng liệu anh tốt thật không hay là một cái gì rất bất thiện? Bạn nói cha mẹ yêu thương bạn, nhưng họ yêu thương thật không? Tôi không thích chỉ trích cay độc. Tình yêu thương là một điều rất phi thường, thiếu vắng nó thì cuộc đời sẽ cằn cỗi. Bạn có thể sở hữu rất nhiều và ngồi trong chiếc ghế của quyền lực, nhưng nếu không có vẻ đẹp và sự vĩ đại của lòng yêu thương, cuộc sống sẽ sớm trở nên khốn khổ và rối loạn. Lòng yêu thương hàm ý rằng, kẻ được yêu thương phải được tự do hoàn toàn để lớn lên với tràn trề nội tâm của nó, phải là một cái gì to lớn hơn một cỗ máy của xã hội. Lòng yêu thương không thúc ép, dù thúc ép công khai hay bằng một sự đe dọa tinh tế nào đó như trách nhiệm và bổn phận. Nơi nào có sự thúc ép hay sử dụng quyền hành, nơi đó không có lòng yêu thương.
“Điều này không phải là loại yêu thương mà bạn tôi nói đến”, người thứ ba nói. “Cha mẹ chúng tôi yêu thương con cái nhưng không theo cách đó. Tôi có người bạn, anh muốn trở thành nghệ sĩ nhưng bố anh muốn anh phải theo con đường kinh doanh và dọa sẽ từ bỏ anh nếu anh không chịu làm theo bổn phận”.
Cái mà cha mẹ gọi là bổn phận thì không phải là thương yêu, đó là một dạng của sự ép buộc; và xã hội luôn hỗ trợ các vị cha mẹ đó, vì những gì họ làm rất đáng nể trọng. Cha mẹ lo lắng cho con kiếm được một việc làm ổn định và kiếm được tiền; nhưng với cư dân đông đúc như thế này thì có cả hàng ngàn ứng viên cho mỗi công việc, và cha mẹ cứ nghĩ con mình sẽ không kiếm sống được bằng cách vẽ tranh; thế nên họ ép con mình phải bỏ những điều mà họ cho là ý tưởng xuẩn ngốc. Họ nghĩ phải cần rập khuôn với xã hội, phải được trọng vọng đồng thời phải được an toàn. Điều này được gọi là lòng yêu thương. Nhưng thật đó là yêu thương không? Hay đó là sự lo sợ được bọc với từ “yêu thương”?
“Nếu ông nói như thế thì tôi không biết phải nói thế nào”, người thứ ba trả lời.
Có cách nào nói khác không? Những điều vừa nói có lẽ không vui, nhưng đó là một thực tế. Cái được gọi là giáo dục cho bạn rõ ràng là không hề giúp bạn đối phó với thể tính to lớn của cuộc đời; các bạn vào đời không được chuẩn bị, các bạn bị nuốt chửng trong đó.
“Nhưng ai là người dạy chúng tôi thấu hiểu được cuộc đời? Chúng tôi không có các vị thầy đó”.
Nhà giáo dục phải được giáo dục đã. Người lớn hay nói với các bạn, thế hệ mới phải xây dựng một thế giới mới nhưng họ hoàn toàn không nghĩ thế. Ngược lại, với những tư duy và toan tính to lớn, họ dùng “giáo dục” để ép các bạn vào trong khuôn mẫu cũ đã được điều chỉnh đôi chút. Dù họ có thể nói năng rất khác nhau, thầy giáo và cha mẹ, thường thì được chính phủ và xã hội hỗ trợ, tất cả đều muốn bạn phải được huấn luyện để rập khuôn với truyền thống, phải chấp nhận tham vọng và sự khao khát như lối sống hiển nhiên. Họ hoàn toàn không quan tâm gì đến một phương cách mới của đời sống, và đó là lý do tại sao tôi nói chính các nhà giáo dục cũng không được giáo dục đúng đắn. Thế hệ của người lớn đã tạo ra thế giới của chiến tranh, của đối lập và chia cắt giữa người và người; và thế hệ mới cứ hăng say đi theo vết chân cũ.
“Muốn được giáo dục đúng đắn thì phải làm sao, thưa ông?”
Trước hết phải nhìn thật rõ một sự kiện: Cả chính phủ, lẫn thầy giáo hiện nay, cũng như cha mẹ, chẳng ai quan tâm dạy dỗ các bạn một cách đúng đắn; nếu họ làm được thì thế giới đã hoàn toàn khác và sẽ không có chiến tranh. Nếu các bạn muốn được giáo dục đúng đắn, các bạn phải tự mình làm; và khi các bạn trưởng thành, các bạn sẽ thấy con cái phải được dạy dỗ đúng đắn.
“Thế nhưng làm sao tự mình giáo dục chính mình được? Chúng tôi cần ai hướng dẫn chứ”.
Bạn có thầy giáo dạy Toán, Văn chương, vân vân…; nhưng giáo dục là một cái gì sâu sắc và rộng rãi hơn hẳn việc thu thập thông tin. Giáo dục là nuôi dưỡng cái tâm sao cho hành động không còn quay quanh tự ngã; là suốt đời phải học sao cho phá vỡ được những bức tường mà tâm đã xây lên nhằm cho mình được an toàn, từ những bức tường đó sự sợ hãi được sinh ra với tất cả mức độ phức tạp của nó. Muốn được giáo dục đúng đắn bạn phải học hỏi nhiều, không được lười biếng. Hãy cứ vui với trò chơi của mình, không phải để giành phần thắng mà để vui cho mình. Hãy ăn uống đúng cách, giữ thân được khỏe mạnh. Hãy để tâm tỉnh giác và đủ năng lực làm quen và giải quyết các vấn đề của cuộc đời, không phải với tính chất của một người theo Ấn Độ giáo hay Thiên Chúa giáo mà với tính cách của một con người. Muốn được giáo dục đúng đắn, bạn phải thấu hiểu chính mình; bạn luôn luôn học bài học từ chính mình. Nếu bạn ngưng sự học hỏi, cuộc đời sẽ trở nên đáng ghét và phiền muộn. Thiếu vắng sự thiện mỹ và lòng yêu thương, bạn sẽ không được giáo dục đúng đắn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 20 Mar 2018

LÒNG THÙ HẬN VÀ BẠO LỰC


Trời còn sớm; mặt trời còn cả tiếng đồng hồ nữa mới lên. Chòm sao Nam* rất rõ nét và đẹp một cách kỳ lạ trên các ngọn dừa. Tất cả mọi thứ đều lặng yên; những tàng cây bất động và đen thẩm, va ngay cả những con vật bé tí của trái đất này cũng nằm yên. Có một sự thanh tịnh và ân phước đang ngự trên thế giới còn ngái ngủ.
* The Southern Cross.
Con đường dẫn qua một đám dừa, đi ngang một cái ao lớn và sau đó là nơi có nhiều nhà ở. Mỗi nhà có một mảnh vườn, vài chỗ được chăm sóc chu đáo, vài chỗ khác bị để hoang phế. Hương hoa nhài phảng phất trong không khí, và sương mai làm mùi thơm đậm hơn. Chưa có nhà nào lên đèn và những vì sao vẫn còn rất sáng, nhưng bầu trời phía đông đã thức giấc. Một người cưỡi xe đạp vừa đạp vừa ngáp, anh ta đi ngang mà chẳng hề ngoái đầu lại. Có ai khởi động một chiếc xe hơi, chầm chậm cho máy chạy nóng và cũng có một tiếng còi sốt ruột. Đằng sau những ngôi nhà này là con đường đi ngang qua một ruộng lúa, rẽ trái, đó là lối vào thị trấn đang được quy hoạch thêm.
Một nẻo đi tách khỏi con đường, chạy dọc theo một con kênh. Dòng nước êm ả và trong vắt in bóng những ngọn dừa đứng dọc bờ kênh; một con chim lớn sắc trắng vừa có việc làm, nó đang bắt cá. Trên nẻo đi này chưa có ai, nhưng sớm ra sẽ có nhiều người, họ là dân địa phương dùng lối này để đi tắt ra đường lớn. Bên kia kênh là một căn nhà biệt lập, với một ngọn cây cao trong một khu vườn đẹp. Bình minh giờ đã đến trọn vẹn, chỉ còn sao mai là thấy được trên ngọn cây; nhưng sự yên tĩnh của đêm còn được giữ trong ngày. Một người phụ nữ ngồi trên một chiếc chiếu dưới tàng cây, chị lên dây một thứ nhạc cụ đang nằm trong lòng. Bây giờ thì chị ca một bài bằng tiếng Sanskrit; một bài ca tôn giáo sâu sắc và ngôn từ của nó thấm đượm cả không khí buổi mai, cả bầu không gian như thay đổi, ngập tràn một sự phong phú và ý nghĩa kỳ lạ. Sau đó thì chị ca một bài mà nó chỉ được ca trong buổi sáng sớm. Thật là vui thích. Chị hoàn toàn không biết có người lắng tai nghe chị, cũng chẳng quan tâm có ai biết đến không, vì chị đã bị cuốn hút hoàn toàn trong bài ca này. Chị có một giọng hát hay và trong trẻo, chị vui thích ca suốt cả bài một cách nghiêm trang từ tốn. Hầu như người ta không nghe được tiếng đàn, nhưng giọng của chị thì mạnh và vang rõ qua dòng kênh. Ngôn từ và âm thanh tràn ngập lòng người, và niềm vui của sự thanh tịnh tỏa lan.
Anh đến với vài người bạn, nhưng trong số đó rõ là có nhiều người quy phục anh. Là một người to lớn, sắc da đậm đà, thân thể cường tráng, anh có một thể lực mạnh mẽ và hẳn rất ham hoạt động thể chất. Người anh tươm tất và quần áo của anh thật là tinh khôi. Khi anh nói, môi anh dường như choán hết cả khuôn mặt; có một sự nhiệt tình nội tâm như chiếm hết con người anh; cái đầu lớn với mớ tóc dày của anh ngẩng cao đầy kiêu hãnh và quyền uy. Nụ cười anh miễn cưỡng, và bạn có thể nhận ra anh rất ít cười. Cặp mắt của anh nhìn thẳng và không chút e dè, cho thấy anh hoàn toàn tin nơi những gì mình nói. Có một cái gì sẵn sàng một cách kỳ lạ xung quanh anh.
“Tôi hy vọng ông thứ lỗi cho khi tôi đi vào vấn đề tức khắc; tôi không thích nói loanh quanh mà muốn đi thẳng vào điểm chính. Tôi cùng với một số người muốn phá bỏ truyền thống Bà-la-môn và đặt những người Bà-la-môn* vào đúng chỗ của họ. Họ đã bóc lột chúng tôi không hề thương tiếc và bây giờ đã đến phiên chúng tôi rồi. Họ cai trị chúng tôi, làm chúng tôi thấy mình hèn kém về nội tâm và biến thành kẻ phụng sự cho Thượng đế của họ. Chúng tôi sắp sửa đốt cháy các thánh Thần của họ đây. Chúng tôi không thèm chữ nghĩa của họ, nó chỉ làm hư hoại ngôn ngữ của chúng tôi, vốn cổ hơn ngôn ngữ của họ rất nhiều. Chúng tôi đang tính đánh bật họ ra khỏi vị trí cao trọng của họ và chúng tôi sẽ làm hay hơn họ, khôn ngoan hơn họ. Họ không cho chúng tôi được học tập, nhưng chúng tôi sẽ được”.
* Giai cấp cao nhất trong bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ theo truyền thống Ấn Độ giáo. Thuộc giai cấp này là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lãnh đạo tôn giáo. Trong xã hội các vị này được trọng vọng nhất và nhiều vị hết sức kiêu mạn (ND).
Thưa ông, tại sao ta lại hận thù những người khác? Ông không bóc lột ai sao? Ông không đè nén ai sao? Ông không ngăn cản người khác được học tập sao? Không phải ông đang dự định bắt người khác phải chấp nhận Thượng đế của ông và giá trị do ông đặt định sao? Cái chung giữa các ông là lòng hận thù, dù trong tâm ông hay tâm những người được gọi là Bà-la-môn.
“Tôi nghĩ là ông không hiểu vấn đề. Người ta chỉ bị đè nén một thời gian nhất định thôi. Giai đoạn này là thời kỳ bị áp bức. Thế nhưng chúng tôi đang vùng lên và sẽ vứt bỏ những quy luật của Bà-la-môn; chúng tôi có tổ chức và sẽ ra sức hoạt động để thực hiện điều này. Chúng tôi không cần Thượng đế lẫn tu sĩ của họ; chúng tôi sẽ ngang hàng hay hơn cả họ”.
Tốt hơn là chúng ta hãy thảo luận cho rốt ráo về quan hệ giữa con người với nhau. Thật là dễ khi nói những điều chung chung, khi rơi vào những khẩu hiệu, khi tự thôi miên chính mình hay kẻ khác bằng những lời nói hai lưỡi. Thưa ông, tất cả chúng ta đều là con người, dù chúng ta tự đặt cho mình những danh tính khác nhau. Trái đất này là của chúng ta, không phải trái đất của người Bà-la-môn, người Nga hay người Mỹ. Chúng ta tự làm khổ mình bằng những sự phân chia vô nghĩa đó. Người Bà-la-môn cũng không tệ hại hơn những kẻ khác đang tìm kiếm quyền lực và địa vị; thần thánh của họ cũng chẳng hư vọng gì hơn Thần thánh mà ông và người khác đang có. Vứt bỏ một hình tượng này để thay vào đó một hình tượng khác thật là hoàn toàn vô nghĩa, dù cho hình tượng đó là vật thủ công hay do tâm tạo dựng.
“Tất cả những thứ đó có thể đúng về mặt lý thuyết, nhưng trong đời sống hàng ngày chúng ta vẫn phải va chạm với thực tế. Người Bà-la-môn đã bóc lột người khác từ hàng thế kỷ nay, họ trở nên khôn ngoan quỷ quyệt và ngày nay thì giữ mọi vị trí đặc quyền đặc lợi. Chúng tôi đang tìm cách loại họ ra khỏi những vị trí này và đang hoạt động có kết quả”.
Ông không thể loại bỏ sự khôn khéo của họ được đâu và họ sẽ tiếp tục sử dụng nó cho mục đích của họ.
“Thế nhưng chúng tôi sẽ học tập, sẽ tự mình khôn ngoan hơn họ; chúng tôi sẽ đánh bại họ ngay trên sân nhà của họ, và sẽ tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn”.
Thế giới không hề tốt đẹp hơn bằng lòng hận thù và ham muốn. Không phải là ông đang mưu tìm quyền lực và địa vị, chứ đâu phải đang tạo ra một thế giới mà trong đó sự thù hận, ham muốn và bạo lực chấm đứt? Chính lòng ham mê quyền lực và địa vị đã làm hư hỏng con người, dù đó là một người Bà-la-môn hay không phải Bà-la-môn hoặc một nhà cải cách xã hội hăng say nào đó. Khi một nhóm người đầy tham vọng, mê say, tàn bạo quỷ quyệt được thay thế bởi một nhóm khác với khuynh hướng tư duy như thế thì chắc chắn sự thể sẽ không dẫn đi đến đâu.
“Ông chỉ nói chuyện ý thức hệ, còn chúng tôi làm việc thực tế”.
Thực thế sao, thưa ông? Theo ông thực tế là sao?
“Là đời sống hàng ngày, là các tranh chấp, là sự đói khát của chúng tôi. Vấn đề của chúng tôi là phải có quyền lợi, là phải giữ vững những tha thiết bức xúc của chúng tôi, là tương lai cho con cháu chúng tôi phải được bảo đảm. Muốn được thế chúng tôi phải giành quyền lực vào trong tay mình. Đó là thực tế”.
Theo ông thì sự hận thù và ham muốn không phải thực tế sao?
“Có thể, nhưng chúng tôi không quan tâm”. Anh nhìn quanh xem mọi người suy nghĩ thế nào nhưng tất cả đều kính cẩn yên lặng. Họ cũng muốn giữ quyền lợi của họ.
Không phải chính lòng thù hận là kẻ hướng dẫn cho các hành động bên ngoài hay sao? Lòng hận thù chỉ nuôi dưỡng một lòng hận thù khác; và một xã hội xây dựng trên lòng hận thù, trên lòng ham muốn, một xã hội gồm nhiều nhóm người đấu tranh lẫn nhau, mỗi phe đều chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình - một xã hội như thế luôn luôn là một cuộc chiến trong nội bộ mình và với những xã hội khác. Theo ông nói thì tất cả những gì ông hy vọng đạt được là triển vọng phe ông sẽ leo lên đỉnh, do đó mà sẽ ở trong một vị trí để lợi dụng, để áp bức, để làm việc bất thiện, như phe khác đã làm trong quá khứ. Xem ra thật là dại dột, phải không?
“Tôi thừa nhận là thế; nhưng sự việc như thế, chúng ta phải chấp nhận”.
Trong một cách nói thì thật là thế; nhưng chúng ta không nhất thiết phải nối tiếp tình trạng đó. Rõ ràng là phải có một sự thay đổi, nhưng không nằm trong khung cảnh của hận thù và bạo lực. Ông không thấy điều đó là đúng hay sao?
“Có thể có một sự thay đổi mà vắng bóng hận thù và bạo lực hay sao?”
Một lần nữa xin hỏi, liệu có thay đổi thật không nếu phương tiện được sử dụng tương tự như phương tiện đã xây dựng nên xã hội ngày hôm nay?
“Nói một cách khác, ông muốn nói sự bạo lực chỉ sinh ra một xã hội chủ yếu là bạo lực, dù cách suy nghĩ có mới mẻ đến mấy. Vâng, tôi thấy điều đó”. Một lần nữa, anh nhìn quanh các bạn.
Ông không nghĩ là, muốn xây dựng một trật tự xã hội tốt đẹp, ta phải cần phương tiện đúng đắn? Phải chăng phương tiện khác với mục đích? Liệu mục đích cuối cùng đã nằm trong phương tiện?
“Bây giờ vấn đề đã hơi rắc rối. Tôi công nhận rằng hận thù và bạo lực chỉ sản sinh một xã hội chủ yếu là bạo động và đàn áp. Đến đây như thế thì đã rõ. Bây giờ ông đòi phương tiện đúng đắn phải được sử dụng để sinh ra một xã hội đúng đắn. Thế nào là phương tiện đúng đắn?”
Phương tiện đúng đắn là hành động không xuất phát từ lòng sân hận, ham muốn, quyền lực, tham vọng, sợ hãi. Mục đích không hề rời xa phương tiện. Mục đích chính là phương tiện.
“Thế nhưng làm sao chúng tôi chiến thắng được lòng sân hận và tham muốn? Chính những tâm lý này đã thống nhất chúng tôi lại để chống một kẻ thù chung. Có một sự thích thú nhất định trong bạo lực, chính nó mang lại thành quả, nó không thể rũ bỏ dễ dàng được”.
Tại sao không? Nếu ông tự thấy rằng bạo lực chỉ dẫn đến nhiều tai hại to lớn hơn thì từ bỏ bạo lực có khó gì? Khi bạo lực chỉ là thú vui nông cạn, khi nó chỉ mang lại sự đau khổ sâu xa hơn thì tại sao ông không buông bỏ được?
“Trên bình diện vật chất thì tương đối dễ nhưng vấn đề khó hơn nhiều với những điều thuộc về nội tâm”.
Vấn đề chỉ khó khi cái thích thú nhiều hơn cái đau khổ. Nếu thù hận và bạo lực đối với ông là thích thú, ngay cả khi chúng nuôi dưỡng sự tai hại và thống khổ vô cùng, thì ông sẽ theo nó mãi thôi; nhưng ông phải ý thức điều này cho rõ chứ đừng nói là sẽ tạo nên một trật tự xã hội mới, một cách sống tốt đẹp hơn, vì nói như thế là vô nghĩa.
Những ai thích thù hận, những ai ham lợi lộc, những ai tìm kiếm quyền lực và địa vị, kẻ đó không phải là Bà-la-môn, vì một người Bà-la-môn đích thực là người đứng ngoài một trật tự xã hội được xây dựng trên những thứ này; và về phần ông, nếu ông không giải phóng khỏi sự thèm khát, khỏi chống đối, khỏi sự tham muốn quyền lực thì ông cũng không khác gì với những người Bà-la-môn hiện thời, mặc dù ông tự gọi mình bằng một cái tên khác*.
* Nơi đây ta dễ nhớ đến lời Phật trong Kinh Pháp Cú, phẩm 26 (phẩm Bà-la-môn). Trong phẩm này, Phật trình bày tính chất của người Bà-la-môn đích thực. Trích đoạn: “Thân thiện giữa thù địch/ Ôn hòa giữa hung hăng/ Không nhiễm, không nhiễm trước/ Ta gọi Bà-la-môn”. Bản dịch của Thích Minh châu (ND).
“Thưa ông, tôi tự lấy làm ngạc nhiên là tôi lắng tai nghe ông. Cách đây một tiếng, đối với tôi thật là kinh khủng nếu phải nghe những lời này, nhưng bây giờ thì tôi chịu lắng nghe và cũng không thấy xấu hổ gì cả. Bây giờ thì tôi thấy con người bị chính những ngôn từ của mình dễ dàng đánh lạc hướng như thế nào, và nhất là bởi những thôi thúc thấp kém của mình. Hy vọng rằng mọi việc sẽ khác”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

NUÔI DƯỠNG LÒNG NHẠY CẢM


Khi máy bay cất cánh thì buổi mai trời còn rất sớm. Hành khách ai cũng mặc áo choàng dày cộm vì không khí khá lạnh và sẽ lạnh hơn nữa khi chúng tôi lên cao hơn. Mặc tiếng ồn của động cơ, người đàn ông ngồi ghế bên cạnh vẫn nói. Ông bảo người phương Đông thật là xuất sắc, có đầu óc, có bề dày một nền văn hóa của nhiều thế kỷ, nhưng tương lai của họ đi về đâu? Còn mặt khác, người phương Tây thì không xuất sắc gì cả, chỉ trừ một số ít người, nhưng lại rất tích cực và sản xuất rất nhiều, họ làm việc cần cù như loài kiến. Nhưng tại sao họ lại làm ồn ào lên và chém giết lẫn nhau chỉ vì những sự khác biệt về tôn giáo và chính trị cũng như vì sự phân biệt lãnh thổ*. Họ là những kẻ khờ dại biết bao! Họ không học được gì từ lịch sử cả. Ông cám ơn Thượng đế đã cho mình là một học giả và không hề bị vướng vào những chuyện đó. Con người hiện nay đang nắm quyền lực chỉ là một nhà chính trị, chứ không phải là một con người kinh bang tế thế như mọi người hằng mong**; nhưng cuộc đời là thế. Thật là lạ, cách đây nhiều thế kỷ, một nhóm nhỏ đã mang lại văn minh cho phía Tây và một nhóm khác cho tất cả nổ tung một cách đầy sáng tạo tại phía Đông, mang lại cho cuộc đời một ý nghĩa mới hơn, sâu sắc hơn. Thế nhưng bây giờ những thứ đó ở đâu cả? Con người đã trở nên thiển cận, khốn khổ, mất phương hướng.
* Tác giả nói về “phương Đông” và “phương Tây” của bán đảo Ấn Độ. Sự “chia cắt lãnh thổ” ở đây là sự phát sinh nước Pakistan từ lãnh thổ Ấn Độ (ND).
** Tác giả muốn nói đến J. Nehru (1889-1964), Thủ tướng Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 1964 (ND).

“Nói cho cùng, khi tâm đã bị gò bó vào trong một thẩm quyền thì tâm sẽ co rút lại - đó chính là điều đã xảy ra trong tâm của người đi học”, ông mỉm cười nói thêm. “Khi bị trói buộc bởi truyền thống thì triết học mất tính sáng tạo, hết ý nghĩa. Mỗi học giả sống trong thế giới của riêng mình, nơi mà họ trốn chạy vào đó, và tâm của họ héo hon như trái cây bỏ khô héo dưới ánh mặt trời. Nhưng đời là thế thôi, đầy những lời hứa hẹn bất tận, và chấm dứt trong sự khốn khổ, thất vọng. Tất cả như nhau, thế giới của tâm cũng có cái giá của nó”.
Bầu trời đến giờ thì mang một màu xanh sáng nhẹ, nhưng mây đã đùn lên, tối và nặng, hứa hẹn mang theo một cơn mưa. Chúng tôi đang bay giữa một tầng mây trên và một tầng mây dưới; lúc trước thì trời còn sáng nhưng bây giờ không còn mặt trời, chỉ còn không gian không mây. Những giọt mưa nặng hạt từ tầng mây trên bắt đầu rơi xuống chiếc cánh bạc; khí trời lạnh và máy bay xóc nhưng chúng tôi sắp hạ cánh. Người đàn ông ngồi bên cạnh đã chìm vào giấc ngủ, miệng ông co giật, tay lắc lư bồn chồn. Trong vài phút nữa chúng tôi sẽ đi một đoạn đường dài từ sân bay, xuyên qua rừng núi và đồng cỏ xanh.
Như hai người bạn khác đi cùng, cô cũng là giáo viên, còn khá trẻ và rất nhiệt tình.
“Tất cả chúng tôi đều tốt nghiệp đại học”, cô bắt đầu nói, “Và học ngành sư phạm - điều có thể hơi không ổn với chúng tôi”, cô mỉm cười nói thêm. “Chúng tôi đi dạy trong trường của thiếu niên mới lớn, tuổi các em kéo dài cho đến trưởng thành, và chúng tôi muốn trao đổi với ông về vài vấn đề của giai đoạn thành niên, khi lứa tuổi tình dục bắt đầu. Dĩ nhiên là chúng tôi đã đọc nhiều về vấn đề này, nhưng việc đọc sách khác hẳn với sự luận bàn về đề tài này. Tất cả chúng tôi đều có gia đình, và nếu nhìn lại thì hồi đó thật hay hơn nhiều, nếu lẽ ra có ai nói chuyện cho chúng tôi nghe về các vấn đề thuộc về tình dục và giúp chúng tôi hiểu cái khó của tuổi trưởng thành. Thế nhưng chúng tôi đến đây không phải để nói về mình, mặc dù chúng tôi cũng có vấn đề riêng, thật ra ai mà không có?”
“Phần lớn thanh niên”, một cô khác nói, “Lúc đến giai đoạn khó khăn này đều hoàn toàn không được chuẩn bị, không được giúp đỡ và cũng chẳng hiểu biết gì cả; và nếu chúng có biết đôi chút về việc này thì chúng cũng bị vướng mắc và bị lôi kéo trong nhu cầu tình dục. Chúng tôi muốn giúp sinh viên đối diện với vấn đề này, hiểu biết nó, không trở thành nô lệ cho nó; thế nhưng với tất cả những thứ như phim ảnh, hình ảnh quảng cáo, và hình bìa của loại sách báo khiêu dâm, thật là khó cho cả người lớn suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc này. Tôi không phải là nhà đạo đức cũng chẳng muốn kiểu cách nhưng vấn đề thực sự là đây, và ta phải tìm cách hiểu nó và giải quyết một cách thực tiễn”.
“Đúng thế”, cô thứ ba nói, “Chúng tôi muốn sự thực tiễn, dù sao đi nữa, nhưng thật ra cũng chưa biết nhiều về nó. Bây giờ phim ảnh có sẵn, nói về tình dục, chỉ rõ từ đầu tới cuối trẻ con được sinh sản như thế nào, và tất cả mọi thứ liên quan. Nhưng đây thật là một đề tài quá to tát, nó khiến người ta có phần nào e ngại khi xử trí. Chúng tôi muốn dạy cho thiếu niên cần biết những gì về tình dục, nhưng lại không muốn đánh thức một sự tò mò thiếu lành mạnh, không muốn tăng cường ý muốn vốn đang mạnh của chúng, là hãy tìm tòi kinh nghiệm. Thật như một sợi dây thép mảnh mà ta phải bước lên trên; và các bậc cha mẹ, chỉ trừ một số ít, cũng không giúp được gì nhiều; họ chỉ lo là không còn được kính sợ. Thế nên vấn đề này không phải chỉ của những trẻ mới lớn, nó bao gồm cả các bậc cha mẹ và cả toàn thể khung cảnh của xã hội, và chúng ta không được phép bỏ qua ảnh hưởng của mặt này lên mặt kia. Thế nên đây là sự thiếu sót chung của xã hội”.
Không phải mọi vấn đề đều liên quan với nhau hay sao? Đây không phải là một vấn đề riêng rẽ và không vấn đề nào có thể tự giải quyết bởi chính nó. Thế thì đâu là đề tài mà các cô muốn nói đến?
“Vấn đề trực tiếp của chúng tôi là làm sao giúp cho thanh thiếu niên hiểu được giai đoạn trưởng thành, nhưng lại không khuyến khích chúng đi quá mức trong quan hệ với người khác phái”.
Hiện nay thì các cô giải quyết vấn đề như thế nào?
“Chúng tôi bị lúng túng, chúng tôi chỉ nói sơ sơ về việc phải kiểm soát tình cảm của mình, phải làm chủ sự ham muốn - và dĩ nhiên là không bao giờ thiếu những gương sáng, những người hùng của đạo đức học”, cô đầu tiên thốt lên. “Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải có lý tưởng, phải giữ một cuộc sống lành mạnh và biết tiết chế, tuân thủ quy định xã hội và tất cả những thứ đó. Đối với một số trẻ thì cũng có kết quả, làm cho chúng được quân bình, một số khác thì hoàn toàn không, một số khác nữa thì đâm ra lo sợ; nhưng tôi nghĩ rằng nỗi lo sợ đó sẽ giảm dần”.
“Chúng tôi xem như đó là quá trình của sự truyền giống, lấy thiên nhiên để minh chứng”, cô thứ hai thêm vào, “Nhưng nói chung thì chúng tôi bảo thủ và cẩn thận”.
Thế thì vấn đề là gì?
“Như bạn tôi nói, vấn đề là giúp sinh viên đối phó với sự ham muốn tình dục khi nó đến tuổi trưởng thành và không bị nó khuấy động quá mức”.
Phải chăng sự ham muốn tình dục chỉ sinh ra khi chàng thanh niên hay cô thiếu nữ đến tuổi trưởng thành hay phải chăng nó đã có trong một dạng tự nhiên và giản đơn trong thời gian trước khi trưởng thành? Không phải là đứa trẻ phải được trợ giúp để hiểu việc đó trong độ tuổi càng sớm càng tốt, chứ không đợi đến một thời gian nhất định của sự phát triển của trẻ?
“Tôi nghĩ là ông có lý”, cô thứ ba nói, “Rõ là bản năng tình dục biểu hiện trong nhiều cách khác nhau, cả trong độ tuổi còn nhỏ, nhưng phần lớn chúng ta không có thì giờ lẫn ý muốn xem xét nó quá sớm trước khi trẻ trưởng thành, trước khi vấn đề trở nên bức xúc”.
Nếu ta trưởng thành mà không được giáo dục đúng đắn thì rõ là ham muốn tình dục sẽ có một tầm quan trọng bậc nhất và thậm chí khó kiềm chế.
“Ông nói “giáo dục đúng đắn” là sao?”
Có sự giáo dục đúng đắn là nhờ nuôi dưỡng lòng nhạy cảm*; và lòng nhạy cảm cần được chăm bồi, chứ không phải chỉ trong một thời kỳ đặc biệt khi lớn lên mà ta gọi là trưởng thành, nhưng cần phải suốt cả đời người, không phải sao?
* Sensitivity
“Tại sao ông lại nhấn mạnh đến lòng nhạy cảm”, cô thứ nhất hỏi.
Nhạy cảm là biết xúc động, là biết ý thức cái đẹp, cái xấu; không phải sự nuôi dưỡng lòng nhạy cảm là một phần của vấn đề các cô đang nói đến sao?
“Trước đây thì tôi không nghĩ đến, nhưng bây giờ khi ông chỉ ra, tôi thấy có sự liên hệ”.
Được giáo dục đúng đắn không phải chỉ là lo nghiên cứu lịch sử hay vật lý; mà cũng là biết nhạy cảm trước những sự vật trên trái đất - trước động vật, trước cây cối, trước những dòng sông, trước bầu trời, trước tha nhân. Thế nhưng chúng ta làm ngơ trước những điều đó, hay chúng ta xem chúng như một phần của một kế hoạch, một thứ phải được học tập và tích lũy để khi cần thì dùng đến. Ngay cả khi ta mới có lòng nhạy cảm trong thời thơ ấu thì thường thường nó cũng bị hủy hoại bởi tiếng ồn ào mà ta gọi là văn minh. Thế giới của trẻ con sớm bị ép vào trong khuôn phép của sự nể sợ, của cái quy ước. Sự tinh tế, sự rung động, lòng cảm thụ trước cái đẹp, tinh nhạy với cái xấu - tất cả đều bị mất; thế nhưng dĩ nhiên cái bản năng sinh lý thì vẫn còn.
“Đúng vậy”, cô thứ ba đồng ý, “Dường như chúng ta làm ngơ tất cả những mặt này của cuộc đời. Và chúng ta lấy cớ là thiếu thời giờ, chúng ta chỉ biết chương trình giảng dạy của chúng ta, và chỉ thế thôi”.
Không phải sự nuôi dưỡng lòng nhạy cảm ít nhất thì cũng quan trọng như sách vở và bằng cấp hay sao? Thế nhưng chúng ta tôn thờ thành tích, chúng ta bỏ qua lòng nhạy cảm, nghĩ rằng nó chỉ có hại cho việc theo đuổi thành tích.
“Sự thành công không cần thiết cho cuộc sống sao?”
Một con người chỉ biết mưu cầu sự thành công sẽ ấp ủ tầm vô cảm, nó khuyến khích sự nhẫn tâm và hoạt động vị ngã. Làm sao một con người đầy tham vọng lại có thể nhạy cảm với người đời được, hay với mọi thứ khác trên trái đất này? Tất cả mọi thứ đều nên có sẵn để cho người đó được toại nguyện, được người đó sử dụng để leo lên đỉnh. Và lòng nhạy cảm là then chốt, nếu thiếu nó, ta sẽ có vấn nạn về tình dục.
“Làm sao ta nuôi dưỡng lòng nhạy cảm cho thanh thiếu niên?”
“Nuôi dưỡng” là một từ không phù hợp, thế nhưng ta đã dùng thì cứ tiếp tục dùng. Lòng nhạy cảm không phải là một cái để được thực hành; thật là không tốt nếu chỉ khuyên giới trẻ nên biết quan sát thiên nhiên, nên đọc thơ văn, và các thứ tương tự. Thế nhưng nếu bản thân các cô nhạy cảm với vẻ đẹp và với cái xấu, nếu trong các cô có một ý thức của sự tinh tế, của tình yêu, thì các cô không tin mình có thể giúp được học sinh, sinh viên biết rung động, biết ân cần chu đáo sao? Các cô thấy không, chúng ta đã che giấu hay đã làm ngơ tất cả mọi thứ này, đồng thời dung dưỡng cho mọi cách tránh né đó, thế nên vấn đề ngày càng phức tạp.
“Tôi thấy những gì ông nói là đúng nhưng cũng nghĩ là ông không hiểu hết khó khăn của chúng tôi. Lớp học của chúng tôi gồm ba bốn mươi thanh niên nam nữ, chúng tôi không thể nói riêng từng em được dù rất muốn. Ngoài ra trong một lúc mà dạy học cho chừng ấy người đã là một việc quá sức rồi và mỗi chúng tôi đều thấy mệt mỏi đồng thời sẽ mất đi mọi sự nhạy cảm mà chúng tôi đã có”.
Vậy thì các cô làm những gì? Sự ân cần, tâm hồn tế nhị, lòng rung động - tất cả những điều này là then chốt khi vấn đề tình dục cần phải được thấu hiểu. Rõ là, muốn cảm nhận vấn đề, muốn trình bày nó, muốn chỉ rõ nó trong nhiều cách khác nhau, lòng nhạy cảm phải được quy tụ nơi người giáo viên và tính chất của nó phải được truyền đạt cho giới trẻ; và khi trẻ trưởng thành, nó sẽ có khả năng giải quyết vấn đề tình dục với một sự hiểu biết rộng hơn và sâu hơn. Thế nhưng muốn tạo nên một đường lối giáo dục đúng đắn cho trẻ, các cô cũng phải giáo dục cả cha mẹ chúng, dù sao đi nữa cha mẹ là người đã góp phần tạo thành xã hội.
“Vấn đề thật là phức tạp và to lớn, ba người chúng tôi làm được gì trong mớ bòng bong này? Cá nhân thì có thể làm được gì?”
Chỉ với tính cách cá nhân mà chúng ta mới làm được cái gì. Nơi này nơi khác, luôn luôn là một cá nhân đã thực sự tác động lên xã hội và sinh ra những sự thay đổi to lớn trong tư tưởng và hành động. Muốn thực sự làm cách mạng thì hãy bước ra khỏi khuôn phép của xã hội, khuôn phép của sự chiếm hữu, lòng tham muốn, vân vân… Một sự cải cách trong khuôn phép cuối cùng thì chỉ gây thêm thất vọng và khốn khổ. Thế nhưng sự nổi loạn chống lại một khuôn phép thường thì bị lên án, và nhiệm vụ của nhà giáo dục là giúp cho giới trẻ phá vỡ được thứ khuôn phép của lòng tham chiếm hữu và mê tìm quyền lực.
“Tôi thấy là chúng tôi thật kém nếu không cảm nhận những vấn đề này một cách sâu sắc. Một trong những khó khăn chủ yếu của chúng tôi là: Tất cả chúng tôi đều là người quá trí thức nên tâm tư hầu như bị tê liệt. Chỉ khi ta thật lòng rung động thì mới làm được một cái gì”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

“TẠI SAO TÔI KHÔNG CÓ TRI KIẾN SÂU XA?”


Trời mưa liên tục suốt cả tuần; đất sũng nước, nhiều vũng nước lớn nằm dọc theo vệ đường. Mực nước dâng đầy trong các giếng, ếch nhái đang hưởng một thời kỳ tuyệt vời, chúng kêu ộp ộp suốt đêm không nghỉ. Con sông ngập bờ đang đe dọa chiếc cầu; thế nhưng nói chung những cơn mưa thật đáng mừng dù cho chúng đang gây một số thiệt hại to lớn. Bây giờ thì trời đã sáng dần, vài mảng trời xanh vừa ló dạng và mặt trời ban mai đang xua đuổi những đám mây. Chắc vài tháng nữa thì đám lá của những hàng cây vừa được gội sạch mới bị phủ bởi một thứ bụi đỏ mịn. Màu xanh biếc của bầu trời thật rực rỡ, nó làm bạn phải dừng lại trầm trồ. Không khí được lọc sạch tinh khiết và chỉ trong một tuần ngắn ngủi mà đất bỗng nhiên thắm đẫm một màu xanh. Trong ánh sáng ban mai, niềm thanh bình như hiện diện trên ruộng đồng.
Một con chim két lẻ bạn đậu trên cành khô của một ngọn cây nằm gần, nó không rỉa lông và hết sức yên lặng nhưng cặp mắt của nó chuyển động và chăm chú. Chim mang bộ lông màu xanh lục thật yêu kiều với một cái mỏ đỏ chót và cái đuôi màu lục nhạt. Bạn sẽ muốn vuốt ve nó, muốn cảm nhận màu sắc của nó, nhưng bạn chỉ vừa cử động, nó sẽ bay mất. Mặc dù chim hoàn toàn bất động, như một khối ánh sáng lục ngưng đọng, bạn có thể cảm nhận là con chim hết sức sinh động, dường như nó truyền cho cành cây khô một sức sống mà nó đang đậu trên đó. Thật là một vẻ đẹp lạ lùng đến nỗi nó như muốn làm bạn nín thở; hầu như mắt bạn không thể rời nó, cứ sợ rằng trong chớp mắt nó sẽ bay đi. Bạn đã từng thấy từng đàn chim két bay hỗn loạn hay đậu thành hàng trên dây điện hoặc tứ tán trên những ruộng lúa xanh non. Thế nhưng con chim két lẻ đơn này dường như là tiêu điểm của mọi cuộc sống, của mọi vẻ đẹp và sự hoàn hảo. Không có gì ngoài một đốm sắc lục chói lọi trên cành cây đen sẫm in nét trên bầu trời xanh. Trong tâm bạn ngưng bặt ngôn ngữ, tư tưởng; bạn cũng không hề ý thức mình không suy nghĩ. Sức sáng của nó làm nước mắt bạn dâng đầy, làm bạn phải chớp mắt - cái chớp mắt phải chăng sẽ làm chim sợ hãi bay đi! Nhưng nó vẫn đứng yên tại chỗ, bất động, mượt mà tuyệt diệu biết bao, với từng sợi lông vũ của mình. Có lẽ chỉ vài phút đã trôi qua nhưng đó là vài phút làm trọn vẹn cho một ngày, một năm và cho tất cả thời gian; những phút đó gói trọn mọi đời sống, vô thủy vô chung. Đó không phải là một kinh nghiệm sẽ được chứa trong ký ức, một vật chết được tư tưởng giữ cho sinh động vì bản thân tư tưởng đang bặt; mà đó là sự sống động toàn vẹn và vì thế mà không thể nằm cùng cái chết.
Có ai cất tiếng gọi từ ngôi nhà bên kia khu vườn và cành cây khô bỗng nhiên trơ trọi.
Nhóm họ ba người, một chị và hai anh, cả ba còn khá trẻ trong độ tuổi ba mươi. Họ đến khá sớm, ăn mặc chỉnh tề, xem ra không phải là thuộc hạng người có nhiều tiền. Khuôn mặt họ sáng láng đầy suy tư; cặp mắt trong và đơn giản, không làm dáng trí thức. Người phụ nữ là em gái của người đàn ông lớn tuổi hơn, còn anh kia là chồng của chị. Tất cả chúng tôi ngồi trên một tấm thảm có viền đỏ. Xe cộ đi lại gây tiếng ồn khó chịu và một phía cửa sổ phải đóng nhưng phía kia mở ra một khu vườn tách biệt, trong đó có một tàng cây lớn rợp bóng. Mới đầu họ hơi ngại ngùng nhưng sau một lúc thì họ nói chuyện tự nhiên.
“Mặc dù gia đình chúng tôi thuộc loại khá giả nhưng cả ba chúng tôi đều chọn một lối sống đơn giản, không nhiều kỳ vọng”, người anh bắt đầu. “Chúng tôi sống gần một làng nhỏ, đọc sách vở đôi chút và thực hành thiền định. Chúng tôi không ham giàu, vừa đủ sống. Tôi cũng khá về ngôn ngữ Sanskrit, nhưng không dám trích dẫn kinh sách một cách chính xác. Cậu em rể của tôi thì học nhiều hơn tôi, nhưng cả hai còn quá trẻ để dám nói mình là trí thức. Kiến thức tự nó cũng có rất ít ý nghĩa; nó chỉ có ích nếu hướng dẫn được chúng tôi, giữ chúng tôi trên con đường đúng đắn”.
Tôi tự hỏi liệu kiến thức có ích thật không; phải chăng nó là trở ngại thì đúng hơn.
“Tại sao kiến thức lại có thể là trở ngại được?”, anh lo ngại hỏi, “Chắc chắn là kiến thức luôn luôn có ích chứ?”.
Có ích theo cách nào?
“Có ích để tìm ra Thượng đế, để hướng dẫn một cuộc sống đúng đắn”.
Thật vậy không? Một ông kỹ sư phải có kiến thức để xây một cái cầu, để thiết kế một cỗ máy, vân vân. Kiến thức thật cần thiết cho những ai quan tâm đến quy luật của sự vật. Người y sĩ phải có kiến thức, đó là một phần của chương trình đào tạo, của cuộc sống của anh ta, không có nó anh không thể đi lên được. Thế nhưng liệu kiến thức có làm cho tâm trí được tự do để khám phá? Mặc dù kiến thức là cần thiết để đưa vào sử dụng những gì được phát hiện, nhưng trạng thái thực sự của sự phát hiện thì phải vắng bóng kiến thức.
“Thiếu kiến thức thì tôi có thể bị lạc ra khỏi con đường dẫn về với Thượng để”.
Tại sao lại không nên ra khỏi con đường đó? Liệu con đường này có bảng chỉ rõ ràng, có đích đến cụ thể hay sao? Và kiến thức là gì đối với anh?
“Với kiến thức tôi muốn nói tất cả những gì ta đã chứng nghiệm, đã tìm đọc hay được giáo dục về Thượng đế, về những gì ta phải làm, về những điều tốt đẹp ta phải tập luyện để tìm được Người. Dĩ nhiên là tôi không nói về kiến thức kỹ thuật”.
Có gì khác nhau không giữa hai điều? Nhà kỹ sư được giáo dục để biết cách đạt được những kết quả có tính vật chất bằng cách áp dụng những kiến thức tích lũy qua bao thế kỷ; trong lúc đó thì anh được dạy dỗ làm sao để đạt được những kết quả nội tâm bằng cách kiểm soát tư tưởng, nuôi dưỡng đạo đức, thực hành việc thiện, vân vân…; tất cả những thứ đó cũng là một dạng của kiến thức tích lũy qua nhiều thế kỷ. Người kỹ sư thì có sách vở và thầy giáo, còn anh cũng có những thứ của anh. Cả hai đều được dạy cho một kỹ thuật, cả hai đều có mong ước đạt thành tựu, anh thì theo cách của anh, ông kia thì có cách của ông. Cả hai đều chạy theo kết quả. Và phải chăng Thượng đế, hay chân lý là một kết quả? Và nếu là kết quả thì nó do tâm thức tạo dựng nên; và cái gì được tạo dựng cái đó sẽ bị tan rã. Như vậy thì liệu kiến thức có ích không trong việc khám phá thực tại?
“Tôi không tin là nó không cần, mặc những gì ông nói”, người chồng đáp lời, “Không có kiến thức thì làm sao bước lên được đạo lộ?”
Nếu đích đến là một cái gì tĩnh tại, nếu nó là một vật chết, bất động, thì một hay vài con đường có thể dẫn tới nó; nhưng phải chăng thực tại hay Thượng đế hay bất cứ cái gì anh gán cho nó là một nơi chốn có địa chỉ bất di bất dịch?
“Dĩ nhiên là không” người em mạnh dạn nói.
Thế thì làm sao có con đường nào dẫn đến đó? Chắc chắn thôi, chân lý không có con đường dẫn đến.
“Trong trường hợp này thì kiến thức đóng vai trò gì?” người chồng hỏi.
Các bạn là kết quả của những gì bạn được giáo dục, và chứng nghiệm của bạn được hình thành trên cơ sở đã bị quy định đó; và ngược lại chứng nghiệm của bạn lại tăng cường cho những điều được quy định sẵn hay cũng có lúc tìm cách điều chỉnh chúng. Các bạn như một cái máy hát, nó hát lên những bài ca khác nhau, nhưng vẫn là một cái máy hát; và những bài ca chính là những gì bạn được giáo dục, bởi người khác hay bởi kinh nghiệm của chính bạn.
“Vâng, thưa ông”, người em đáp, “nhưng trong tôi liệu không có một phần nào đó không do giáo dục mà ra?”
Có thực không? Chắc đó là điều mà anh gọi là Atman, là linh hồn, là tự thể cao cả, vân vân…, tất cả chúng đều nằm trong vòng những gì anh đã đọc hoặc do ai giáo huấn cho anh.
“Những gì ông nói thật là rõ và có nghĩa, người nghe phải bị thuyết phục mặc dù tâm muốn cưỡng lại”, người em nói.
Nếu các bạn chỉ bị thuyết phục thôi thì bạn chưa thấy chân lý của nó. Chân lý không phải vấn đề của sự thuyết phục hay đồng ý. Bạn có thể đồng ý hay bất đồng về một ý kiến hay một kết luận, nhưng một sự thực thì không cần ai nhất trí. Một khi bạn tự thấy những gì được nói là sự thực thì bạn không chỉ bị thuyết phục thôi mà tâm bạn sẽ có sự chuyển hóa cơ bản. Tâm sẽ không nhìn sự thực xuyên qua một tấm lọc của sự thuyết phục hay niềm tin mà tâm sẽ tiếp cận với chân lý, với Thượng đế, lúc đó vắng bóng kiến thức, vắng bóng ký ức. Ký ức là cái tôi, cái ngã, cái tự mãn, kẻ hiểu biết, kẻ được dạy dỗ, kẻ thực hành đạo lý - và chính là kẻ đấu tranh chống lại sự thực.
“Thế thì tại sao ta lại đấu tranh chống lại kiến thức?”, người chồng hỏi, “Không phải kiến thức là một phần thiết yếu của cuộc sống của chúng ta sao?”
Khi đã có sự thấu hiểu về tự tính của chính mình thì kiến thức có một chỗ đứng chính đáng; nhưng nếu vắng sự thấu hiểu đó thì sự theo đuổi kiến thức cho ta một cảm giác của cái thành đạt, của chiếm hữu; nó cũng hấp dẫn và hào hứng như mọi thành tích khác trên đời. Trong cuộc sống, có thể có người chối từ những vật dụng bên ngoài, nhưng trong cuộc chiến giành tri thức có sự hứng thú của thành tích, của người đi săn bắt được vật bị săn, nó cũng không khác gì với sự thỏa mãn của những ham muốn thông thường. Thông qua tích lũy kiến thức về cái đã là hay cái đang là, người ta không thể thấu hiểu tự tính, cái tôi, cái ngã. Sự tích lũy làm méo mó nhận thức, làm ta không thể thấu hiểu được tự tính con người trong hoạt động hàng ngày, trong các phản ứng kín đáo và ranh mãnh của nó, khi tâm thức nghiêng nặng về phía kiến thức. Bao lâu mà tâm còn bị gánh nặng của kiến thức trì kéo và bản thân nó cũng là kết quả của kiến thức thì tâm không bao giờ tươi mới, không bao giờ trong sáng.
“Cho phép tôi đặt một câu hỏi”, chị phụ nữ nói với chút hồi hộp. Chị đã yên lặng lắng nghe, ngại đặt câu hỏi có lẽ vì nể chổng; nhưng bây giờ hai người kia đang miễn cưỡng im lặng. “Tôi xin hỏi, tại sao có người thì đạt được tri kiến trực quan nội tại, nhận thức toàn vẹn, trong lúc những người khác thì chỉ thấy những mặt chi tiết mà không thể nắm được cái toàn thể. Tại sao tất cả chúng tôi lại không có thứ tri kiến đó, không có cái khả năng thấy cái toàn thể, điều mà hình như ông có. Tại sao người có người không?”
Chị có nghĩ đó là một món quà trời cho?
“Hình như thế”, cô đáp. “Tức là ân sủng này thật không công bằng, và những người khác thật quá ít cơ may được có. Tôi hy vọng không phải như thế”.
Hãy tìm hiểu xem. Tại sao chị đặt câu hỏi này?
“Lý do đơn giản và rõ ràng là tôi muốn có tầm nhìn sâu sắc như thế”. Bây giờ thì chị đã hết ngại ngùng và cũng hăng say nói chuyện như hai người kia.
Câu hỏi của chị xuất phát từ lòng ham muốn được đạt một cái gì. Chiếm hữu, thành đạt hay trở thành một cái gì bao hàm một quá trình của sự tích lũy và tự đồng hóa với những gì được tích lũy. Đúng thế không?
“Đúng thế”.
Chiếm hữu cũng bao hàm sự so sánh, phải không? Chị, người không có tri kiến này, tự so sánh mình với người có cái đó.
“Đúng vậy”.
Thế nhưng tất cả mọi so sánh như thế rõ đều là do lòng ham muốn; và phải chăng tri kiến có thể khởi xuất từ lòng ham muốn?
“Tôi nghĩ là không”.
Thế giới đầy sự ham muốn, tham vọng, chúng được thấy rõ trong sự theo đuổi không ngừng hướng đến thành tích, trong mối quan hệ giữa học trò đối với đạo sư, giữa vị đạo sư này với vị cao cấp hơn, và cứ thế mà kéo dài vô tận và thực tế cũng sinh ra nhiều thành tích nhất định. Nhưng phải chăng sự nhận thức toàn vẹn, sự tỉnh giác toàn vẹn là một thứ thành tích? Phải chăng nó dựa trên lòng ham muốn và tham vọng? Hay nó chỉ có thể sinh ra khi mọi tham muốn chiếm hữu đều ngưng bặt? Chị hiểu không?
“Tôi nghĩ là hiểu”.
Lòng ham muốn chiếm hữu dựa trên sự ngã mạn, đúng thế không?
Chị ngần ngừ và nói chậm rãi, “Sau khi ông chỉ rõ, tôi đã thấy điều đó một cách cơ bản”.
Đó là tâm ngã mạn của chị, trong nghĩa rộng cũng như nghĩa hẹp, nó làm chị đặt câu hỏi đó.
“Tôi e rằng điều đó là đúng”.
Nói cách khác, chị đặt câu hỏi này do tâm ham muốn được thành tựu. Bây giờ thì cũng chính câu hỏi này - tại sao tôi không có tri kiến sâu xa - liệu có thể nêu lên mà không có lòng tham muốn, không dựa trên tự ngã hay không?
“Tôi không biết”.
Có thể có sự dò tìm bao lâu tâm còn bị trói buộc vào một động cơ? Bao lâu tư tưởng còn xoay quanh ham muốn, ngã mạn, thèm khát thành tựu, liệu nó có thể đi được xa một cách tự do? Muốn dò tìm thực sự, tâm tự ngã phải dứt bặt.
“Ông nói, lòng ham muốn hay tham vọng, muốn là hay muốn trở thành một cái gì đó, tâm đó phải biến mất hoàn toàn, thì ta mới có được tri kiến sâu xa?”
Một lần nữa, xin nói rõ, nếu bạn muốn sở hữu khả năng này thì bạn sẽ cố tình tập luyện để chiếm được nó. Bạn, người muốn có, vẫn còn là quan trọng, chứ không phải chính khả năng. Khả năng đó chỉ xuất hiện khi tâm không có bất cứ động cơ nào cả.
“Nhưng chính ông nói trước đây, tâm là kết quả của thời gian, của tri thức, của động cơ; thế thì bây giờ làm sao có một cái tâm mà vắng bóng động cơ được?”
Hãy đặt câu hỏi đó cho chính mình, không phải chỉ trên mặt ngôn từ, hời hợt nông cạn, mà nghiêm trọng như một người đói bụng đi tìm thức ăn. Khi bạn tìm tòi, dò hỏi thì điều quan trọng là tự biết nguyên nhân của sự dò tìm của mình. Bạn có thể dò tìm do lòng ham muốn hay có thể dò tìm không vì động cơ nào cả. Trạng thái của tâm lúc thật sự đi dò tìm khả năng của nhận thức toàn vẹn là một trạng thái hoàn toàn an nhẫn, hoàn toàn yên lặng; và bản thân sự an nhẫn, sự yên lặng này đã chính là khả năng đó rồi. Không có gì để sở đắc cả*.
* So sánh với một câu trong Tâm Kinh: “...Không trí huệ cũng không chứng đạt vì không có gì để chứng" (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

CẢI CÁCH, CÁCH MẠNG VÀ SỰ TẦM CẦU THƯỢNG ĐẾ


Sáng nay dòng sông màu xám, như có sắc của chì nấu chảy. Mặt trời khổng lồ với những tia sáng nóng bỏng vươn lên vượt khỏi khu rừng đang yên ngủ, nhưng nó sớm bị những đám mây vừa dâng lên khỏi chân trời che khuất; và suốt một ngày mặt trời lẫn mây nằm trong cuộc chiến giành thắng lợi cuối cùng. Thường thì có các ngư phủ trong những con thuyền gondola đáy bằng qua lại trên sông, nhưng sáng nay vắng họ, dòng sông trở nên cô đơn. Xác của những con thú trương sình trôi ngang, vài con chim kên kên đậu trên đó để rỉa thịt. Những con chim khác cũng muốn có phần, nhưng chúng bị đuổi đi bởi những cánh chim to lớn đập phần phật, cho đến khi những con đến trước đậu trên xác đã đầy bụng. Những con quạ kêu réo giận dữ tìm cách len vào giữa những con chim kên kên to lớn và vụng về, nhưng chúng không có chút hy vọng. Ngoài tiếng ồn xao xác quanh xác con vật, dòng sông rộng và quanh co thật là thanh bình. Ngôi làng bên kia bờ đã thức dậy từ một hai giờ trước đây. Dân làng kêu nhau ơi ới, tiếng nói to mạnh của họ vang rõ trên dòng nước. Tiếng kêu như có một điều gì vui thích, nồng ấm và thân tình. Một tiếng người gọi qua sông, xuyên qua bầu trời trong và một tiếng khác đáp lại từ trên sông hay từ bờ bên kia. Thế nhưng dường như không có một âm thanh nào quấy rối sự yên tĩnh buổi sáng vốn mang cả một trời thanh bình và trường cửu.
Chiếc xe đang chạy trên một con đường gập ghềnh, ít được sửa chữa, nó tung lên một đám bụi để chúng bám đọng trên cây và trên một vài người dân làng đang đi lại trên con đường dẫn về phố chợ bẩn thỉu và xây cất lổm ngổm. Học sinh cũng đi trên đường này thế nhưng xem ra chúng không để ý đến bụi bặm, vì chúng đang mải mê cười đùa. Trên đường cái, chiếc xe qua phố chợ, băng qua đường xe lửa và không mấy chốc sau lại chạy trong cảnh đồng quê trong sạch và rộng mở. Đây thật là cảnh tuyệt đẹp, bò và dê trong đồng cỏ xanh, dưới tàng lá to lớn của các cây cổ thụ và cảnh vật hiện ra dường như bạn chưa thấy bao giờ. Đi xuyên phố chợ, với tất cả những sự dơ bẩn và nghèo khổ, dường như bạn bị tước mất đi vẻ đẹp của trái đất; nhưng bây giờ nó đã được trả lại cho bạn và bạn kinh ngạc được thấy lại cái thiện mỹ của đất trời cũng như của mọi thứ trên địa cầu. Kìa là những con lạc đà to lớn và mập mạnh, mỗi con mang một gùi lớn chứa sợi đay. Chúng không bao giờ vội vã, có một dáng đi đều đặn với đầu ngẩng cao trong gió; và trên mỗi gùi có một người ngồi trong đang thúc giục con vật vụng về tiến lên phía trước. Bạn sẽ ngạc nhiên tột độ khi thấy trên con đường này có hai con voi khổng lồ, hình thù đong đưa chầm chậm, thân khoác áo đỏ rực rỡ với chỉ thêu vàng, ngà của chúng được bọc bạc. Chúng được mang đi để tham dự một lễ hội tôn giáo, vì đã từng được huấn luyện để chuyên làm việc đó; nhưng bây giờ thì người ta dừng voi lại để nói chuyện. Thân hình đồ sộ của chúng che hết người bạn; thế nhưng chúng rất hiền, mọi sợ sệt và lo ngại đã tan biến. Bạn sờ lớp da sần sùi của nó, đầu của một cái vòi đụng đến gan bàn tay của bạn một cách mềm mại và tò mò xong lại quay đi. Người đàn ông lại la to ra lệnh cho chúng bước tiếp, và mặt đất dường nhưng rung chuyển theo với chúng. Một chiếc xe hai bánh nhỏ đi đến, do một con ngựa còi cọc kéo, chạy thẳng, nó chở bên trên một xác người được bọc bằng khăn trắng. Xác được buộc lỏng lẻo trên sàn của chiếc xe lắc lư và con ngựa chạy nặng nề trên con đường gập ghềnh, cả người lái lẫn xác cứ bị tung lên rồi rơi xuống.
Máy bay từ miền Bắc đã đến và hành khách nhẹ nhõm được ngồi nghỉ nửa tiếng trước khi cất cánh lại. Họ là các nhà chính trị và chỉ nhìn bên ngoài thôi cũng đủ biết họ là những nhân vật rất quan trọng, nghe nói họ là các vị bộ trưởng. Họ bước trên lối đi xi-măng như một con tàu đi ngang qua một kênh nước hẹp, đầy quyền uy và hoàn toàn cao hơn hẳn đám người tầm thường. Các hành khách khác ngồi phía sau, xa hẳn họ. Mỗi người đều biết chỗ ngồi của mình; nếu ai không biết sẽ sớm có người chỉ bảo cho, và đám đông đã lặng yên, ngắm nhìn những ông lớn trong hào quang của họ. Thế nhưng mặt đất vẫn xanh rì, một tiếng chó sủa, cuối chân trời là những đỉnh núi phủ tuyết, thật là một cảnh quan lạ lùng.
Một nhóm nhỏ tụ tập trong căn phòng lớn và trơ trọi, nhưng chỉ bốn người trong nhóm họ chịu nói và xem ra bốn người này đại diện cho cả nhóm. Hôm nay không có ai chuẩn bị trước mà sự việc xảy ra hết sức tự nhiên, và những người nọ cũng vui thích được như thế. Một trong bốn người, một người đàn ông cao lớn, điệu bộ tự tin, đang thốt lên những lời đối đáp nhanh nhẹn và dễ dàng. Người thứ hai thể chất không lớn bằng nhưng có cặp mắt sắc sảo và có một phong thái thoải mái. Hai người kia gầy ốm hơn. Tất cả xem ra đều là trí thức và nói chuyện rất lưu loát. Họ có vẻ khoảng chừng bốn mươi, đều từng trải và theo lời họ thì đã làm được nhiều điều muốn làm.
“Tôi muốn nói về tâm trạng thất vọng”, người cao lớn nói. “Đó là đặc trưng của thế hệ chúng tôi. Dường như tất cả chúng tôi đều lâm vào tâm trạng thất vọng, trong cách này hoặc cách khác, và nhiều người trong chúng tôi trở nên chua cay hằn học, luôn luôn chê bai kẻ khác và sẵn sàng hạ bệ họ. Hàng ngàn người đã bị loại bỏ trong các cuộc thanh lọc chính trị, hẳn chúng ta không quên con người có thể giết hại người khác bằng ngôn từ hay cử chỉ. Riêng tôi thì không hằn học, mặc dù đã phí hoài phần lớn đời tôi cho hoạt động xã hội và cải thiện cộng đồng. Như nhiều người khác, tôi cũng tham gia hoạt động đảng phái và không tìm được gì trong đó; có chăng là đi thụt lùi và dĩ nhiên chẳng có lợi gì cho tương lai. Tôi cũng từng nằm trong chính quyền nhưng điều đó không có ý nghĩa to lớn gì cho tôi. Tôi đọc cũng nhiều nhưng việc đọc sách vở không làm cho tim ta sáng láng hơn. Mặc dù lý luận lưu loát nhưng phải thừa nhận là lý trí tôi nói một đường, tâm tư tôi nghĩ một nẻo. Đã nhiều năm tôi đấu tranh với chính mình và dường như không có cách nào thoát khỏi sự tranh chấp nội tâm này. Tôi chỉ là một khối của mâu thuẫn và nội tâm tôi đang chết dần chết mòn… Tôi không định nói những điều này nhưng không hiểu sao tôi lại nói. Tại sao nội tâm chúng ta lại héo tàn đi? Điều này không xảy ra cho tôi thôi mà tôi thấy phần lớn trong xã hội đều bị như thế”.
Ông nói chết mòn, héo tàn là sao?
“Có thể người ta có một vị trí quan trọng, có thể làm việc căng thẳng và leo lên đỉnh cao, nhưng nội tâm con người đã chết. Nếu ông gọi các ông lớn trong số chúng tôi - những người mà tên tuổi họ xuất hiện hàng ngày trên mặt báo với những hoạt động hay diễn văn của họ - là cùn nhụt và ngu xuẩn, họ sẽ thấy rất kinh hoàng; nhưng cũng như bọn chúng tôi thôi, họ cũng héo tàn dần đi, nội tâm ngày càng xuống dốc. Tại sao? Chúng tôi sống một cuộc đời đạo lý, đáng trọng vọng nhưng đằng sau cặp mắt không còn một ánh lửa nào cả. Một số trong chúng tôi chưa hề làm được gì - tôi tạm nghĩ thế - mà đời sống nội tâm đã giảm thiểu đi rồi; dù chúng tôi có biết hay không, dù chúng tôi sống trong dinh bộ trưởng hay trong phòng ngủ trơ trọi của thợ thuyền, về mặt tâm linh thì chúng tôi đã đưa một chân vào nhà mồ rồi. Tại sao?”
Phải chăng chúng ta bị nghẹt thở bởi những tưởng tượng của mình, bởi sự kiêu hãnh của thành tích và thành tựu, bởi những điều mà tâm ta thấy là vĩ đại? Khi tâm thức nghiêng nặng về những điều mà nó đã tích lũy thì trái tim sẽ khô héo. Không phải là điều kỳ lạ sao khi tất cả mọi người đều lại muốn leo những bậc thang của thành công và danh vọng?
“Chúng ta được khuyến khích làm việc đó. Và tôi ngờ rằng bao lâu con người còn leo những bậc thang đó hay còn ngồi trên chóp đỉnh thì sự rối loạn sẽ không thể tránh khỏi. Nhưng làm sao con người vượt qua nổi sự rối loạn?”
Rất đơn giản, bằng cách đừng leo. Nếu ông thấy cái thang và biết rõ nó dẫn đi đâu, nếu ông hiểu rõ những nội dung sâu sắc của nó và không đặt bước lên bậc đầu tiên thì có thể ông không bao giờ bị rối loạn.
“Nhưng tôi không thể ngồi yên và chịu phân rã!”
Ông đang phân rã ngay bây giờ đây, ngay trong hoạt động không ngừng của ông; và nếu ông, cũng như nhà tu hành khổ hạnh chỉ biết ngồi yên nhưng trong nội tâm hừng hực cháy với sự thèm khát, với tất cả lo sợ của lòng tham vọng và ham thích, ông sẽ tiếp tục héo mòn đi. Không đúng sao, sự phân rã cùng đi tay trong tay với thành tích đạo cao đức trọng? Điều này không có nghĩa là con người nên làm điều bất hảo. Nhưng phải chăng ông là người rất chuộng đạo lý?
“Tôi cố gắng được như thế”.
Đạo lý xã hội chỉ dẫn đến sự chết. Theo đạo lý của người đời là chết một cách được trọng vọng. Đối với bên ngoài cũng như bên trong, ông rập khuôn theo quy tắc của đạo lý xã hội, đúng thế không?
“Chỉ khi nào đa số chúng tôi chết cả thì cấu trúc xã hội này mới tan rã. Không lẽ ông khuyến khích một xã hội hỗn loạn đạo đức?”
Tôi mà làm điều đó sao? Đạo lý xã hội chỉ là sự sợ sệt. Tham vọng, ham muốn, tự tạo ra cho mình thành tích và danh vọng, sự tàn bạo của quyền lực và địa vị, sự giết chóc nhân danh ý thức hệ hay nhân danh quốc gia xứ sở - đó là đạo lý xã hội.
“Tuy thế, các nhà lãnh đạo xã hội và tôn giáo của chúng ta cũng tuyên giảng chống lại các thứ đó”. 
Thực tế là khác, tuyên giảng là khác. Giết người vì một ý thức hệ hay vì quốc gia mình là điều đáng trọng vọng, và kẻ giết người, ông tướng nhà binh đã tổ chức giết người hàng loạt thì được nể vì và tuyên dương. Người nắm quyền lực trong tay có vị trí quan trọng trong cả nước. Người tuyên giảng và kẻ được tuyên giảng cùng ngồi trong một con thuyền, đúng thế không?
“Tất cả chúng tôi đều trong một chiếc thuyền”, người thứ hai nói tiếp, “Và chúng tôi đang phấn đấu làm được một cái gì cho nó”.
Nếu ông thấy chiếc thuyền có nhiều lỗ hổng và đang chìm nhanh, ông có chịu nhảy ra khỏi thuyền không?
“Dù vậy chiếc thuyền cũng không tệ. Chúng ta phải hàn gắn cho nó, mỗi người phải giúp một tay. Nếu ai cũng làm thì chiếc thuyền sẽ vững lái trên dòng đời”.
Phải chăng ông là người hoạt động xã hội?
“Đúng thế, thưa ông, và tôi được hân hạnh gần gũi với nhiều vị cải cách xã hội vĩ đại nhất của chúng ta. Tôi cho rằng cải cách, chứ không phải cách mạng, là con đường duy nhất để thoát khỏi hỗn loạn. Hãy xem các cuộc cách mạng khác. Thưa ông, không, những người vĩ đại thực sự là những người chủ trương cải cách”.
Ông nói cải cách là muốn nói gì?
“Cải cách là dần dần cải thiện điều kiện xã hội và kinh tế người dân thông qua nhiều biện pháp mà chúng tôi đã phát biểu; nó nhằm giảm sự nghèo đói, loại bỏ sự mê tín, chống lại sự phân chia giai cấp, vân vân…”
Lối cải cách như thế vẫn luôn luôn nằm trong khuôn mẫu xã hội hiện thời. Một nhóm người khác có thể leo lên đỉnh, một thể chế hành pháp mới có thể đưa vào thực hiện, có thể sẽ có quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp và mọi thứ tương tự; nhưng tất cả vẫn luôn luôn nằm trong khung cảnh hiện thời của xã hội. Đó là cái được gọi là cải cách, không phải sao?
“Nếu ông bác bỏ điều này thì ông chỉ có thể bênh vực cho đường lối cách mạng; và tất cả chúng ta đều biết là cuộc đại cách mạng sau Thế chiến thứ nhất đã tự lộ cho thấy là một bước thụt lùi, như anh bạn tôi đã nêu rõ, nó là kẻ sinh ra mọi dạng của khủng bố và áp bức. Về mặt công nghiệp thì cuộc đại cách mạng đó có thể ưu việt nhưng người ta không thể chỉ sống với bánh mì, và chắc chắn là chúng tôi không đi theo khuôn mẫu đó”.
Một cuộc cách mạng nằm trong khuôn mẫu, nằm trong một khung cảnh của xã hội thì không phải là cách mạng; nó có thể tiến bộ hay thụt lùi nhưng nó cũng như vấn đề cải cách, nó chỉ là một dạng được điều chỉnh của cái đã có. Dù cải cách có tốt hay cần thiết đến mấy chăng nữa, nó cũng chỉ mang lại một sự thay đổi hời hợt, đến phiên nó lại đòi hỏi những cải cách mới. Không có một điểm cuối của quá trình này, vì xã hội sẽ luôn luôn bị phân hóa trong khuôn mẫu của chính bản thân sự hiện hữu của nó.
“Thế thì thưa ông, phải chăng ông cho rằng tất cả mọi sự cải cách, dù có ích đến mấy, chỉ là một sự vá víu và không có mức độ cải cách nào có thể mang lại một sự chuyển hóa của toàn thể xã hội?”
Sự chuyển hóa toàn thể không bao giờ xảy ra trong bất cứ khuôn mẫu nào của xã hội, dù đó là một xã hội toàn trị hay xã hội được gọi là dân chủ.
“Ông gọi khuôn mẫu xã hội là thế nào?”
Khuôn mẫu xã hội là mối quan hệ giữa con người với nhau, đặt trên tham vọng, ham muốn, sự ưa thích có tính cách cá nhân hay tập thể hướng tới quyền lực, dựa trên cấp bực cao thấp, trên ý thức hệ, trên giáo điều, trên niềm tin. Xã hội như thế thường thường cũng kêu gọi tình thương, kêu gọi sự thiện mỹ; nhưng nó luôn luôn sẵn sàng giết chóc, sẵn sàng kéo ra trận. Trong khuôn mẫu đó, sự thay đổi thực chất là không thay đổi gì cả, dù cho nó tỏ ra hết sức tiến bộ. Khi bệnh nhân cần phải được mổ xẻ thật sự thì thật là dại dột nếu ta chỉ làm giảm nhẹ triệu chứng cơn bệnh.
“Nhưng ai là nhà giải phẫu?”
Ông phải tự mổ xẻ chính mình và không dựa vào bất cứ ai khác, dù xem ra chuyên viên đó thật là giỏi. Ông phải bước ra ngoài khuôn mẫu của xã hội, khỏi khuôn mẫu của sự ham muốn, thành tích, tranh chấp.
“Khi tôi bước ra ngoài khuôn mẫu thì liệu xã hội có bị tác động không?”
Trước hết hãy bước ra đi đã và xem thử điều gì xảy ra. Nếu cứ nằm yên trong khuôn mẫu và hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu ông bỏ đi thì chỉ là một cách tránh né, là một sự tìm kiếm sai lầm và vô ích.
“Không giống như hai vị này”, người thứ ba nói với giọng nhẹ và vui, “tôi không quen ông lớn nào cả; tôi giao du trong một nhóm người khác. Tôi không bao giờ nghĩ mình phải nổi tiếng, tôi dừng lại trong mức độ của tôi, âm thầm làm việc của mình. Tôi bỏ vợ, không màng gì đến vui thú nhà cửa con cái và hoàn toàn dành công việc để giải phóng đất nước mình. Tôi làm điều đó một cách hết sức thành tâm, một cách chăm chỉ siêng năng. Tôi không tìm kiếm quyền lực cho mình; tôi chỉ muốn nước tôi phải được tự do, trở thành một quốc gia thiêng liêng, có lại sự vinh quang và ân huệ mà Ấn Độ từng có. Thế nhưng tôi đã thấy tất cả những gì đã xảy ra; tôi đã thấy sự lầm tưởng, sự hào nhoáng, sự suy đồi, hoạt động phe nhóm, đã nghe giọng điệu nước đôi của nhiều nhà chính trị, kể cả những nhà lãnh đạo của phe phái mà tôi từng tham gia. Tôi không hy sinh đời mình, sở thích của mình, vợ con mình, tiền bạc mình để cho những con người tham nhũng lèo lái đất nước này. Tôi tránh có quyền lực vì hạnh phúc của đất nước, nhưng cuối cùng lại thấy những chính trị gia đấy tham vọng lại lên nắm quyền. Bây giờ tôi biết mình đã phí phạm những năm tháng đẹp nhất của đời mình và tôi thấy có lúc mình muốn tự tử”.
Những người kia im lặng, hoảng sợ vì những lời vừa nói; vì họ chính là các chính trị gia bằng xương bằng thịt.
Thưa ông, nhiều người đã uốn cong đời mình một cách sai lầm, và có lẽ họ phát hiện điều đó quá trễ, hay không bao giờ phát hiện cả. Nếu những người đó đạt đến những vị trí quyền lực cao, họ sẽ gây nhiều tai hại nhân danh đất nước; họ trở thành kẻ gây họa nhân danh hòa bình, nhân danh Thượng đế. Sự tưởng tượng vô căn cứ và tham vọng luôn luôn là kẻ thống trị đất nước, với những mức độ khác nhau của sự man rợ và tàn bạo. Hoạt động chính trị chỉ liên quan đến một phần rất nhỏ của cuộc đời; nó có tầm quan trọng của nó, nhưng khi nó lần đến toàn bộ cuộc sống như bây giờ đang xảy ra, thì nó trở thành đáng sợ, lại còn sinh ra tư tưởng và hành động suy đồi. Chúng ta trọng vọng nể nang những người có quyền, các người lãnh đạo, vì trong bản thân chúng ta cũng có sự thèm khát quyền lực và địa vị, cũng có cái ham muốn được điều khiển và phán truyền. Chính mỗi người chúng ta đã đẻ ra lãnh tụ; xuất phát từ sự rối loạn của con người, sự ham muốn, lòng tham vọng của con người mà nhà lãnh tụ được hình thành và theo chân lãnh tụ tức là theo chân lòng ham muốn, sự thúc bách và sự rối loạn của chính mình. Nhà lãnh tụ và người theo đuôi cả hai phải chịu trách nhiệm về sự đau khổ và rối loạn của con người.
“Tôi công nhận những gì ông nói là đúng, mặc dù thật khó cho tôi phải công nhận nó. Và bây giờ sau những năm đó, tôi thật không biết nên làm gì. Tôi đã thành tâm nuối tiếc, dĩ nhiên là không đi tới đâu cả. Tôi không thể quay ngược lại những gì đã làm. Tôi đã động viên hàng ngàn người, bằng lời nói bằng hành động, hãy chấp nhận và hãy đi theo chúng tôi. Nhiều người trong số đó cũng trở nên giống tôi, dĩ nhiên không ở trong hoàn cảnh cực đoan như tôi; họ đổi sự trung thành của mình từ lãnh tụ này qua lãnh tụ kia, từ đảng phái này qua đảng phái nọ, từ khẩu hiệu này qua khẩu hiệu khác. Nhưng bây giờ thì tôi đã từ bỏ tất cả, và không muốn đến gần với bất cứ ông lớn nào nữa. Tôi đã làm những điều rỗng tuếch trong những năm tháng đó; khu vườn mà tôi chăm sóc cẩn thận đã biến thành đống gạch vụn. Vợ tôi đã chết, tôi không còn ai thân thuộc. Bây giờ tôi mới thấy mình đã chạy theo thánh thần do con người bày ra: Nhà nước, quyền lực của lãnh tụ, và cái lầm lẫn tinh vi cho mình có một tầm quan trọng. Tôi thật là mù quáng và điên rồ”.
Nhưng nếu ông thật tâm thấy rằng tất cả những gì đã làm là điên rồ và vô nghĩa, chúng chỉ mang thêm bất hạnh, thì đó là sự bắt đầu của sự sáng suốt. Khi ý ông thì muốn đi về phía Bắc và bỗng nhiên khám phá thực tế là mình đang đi về phương Nam thì cái đúng nhất là phải quay về phương Bắc chứ. Không phải sao?
“Không phải quá giản đơn như vậy. Tôi đã thấy con đường mình đi chỉ dẫn đến sự khốn khổ và hủy diệt nhưng tôi không thấy một con đường khác để đi”.
Không có con đường nào đưa ta tới với cái nằm ngoài mọi con đường do con người đã xây dựng nên và đã đi. Muốn tìm ra thực tại phi đạo lộ này, ông cần thấy cái đích thực nằm trong sự sai trái, hay thấy cái sai trái là sai trái. Nếu ông nhận thức được con đường mình đã đi là sai - không bằng cách so sánh với một cái gì khác, không vì đánh giá hay do thất vọng, cũng không phải vì đạo đức xã hội phê phán, mà vì tự nó là sai - thì bản thân sự nhận thức đó đã là ý thức về cái đích thực. Ông không cần phải theo cái đúng mà chính cái đúng giải thoát ông ra khỏi cái sai.
“Nhưng tôi vẫn có cảm giác muốn tự tử và muốn chấm dứt mọi sự”.
Mong muốn được chấm dứt mọi sự là hậu quả của lòng cay đắng, của sự hoang mang nặng nề. Nếu con đường mà ông đã theo đuổi, dù nó hoàn toàn sai trái, đưa ông đến chỗ mà ông xem là mục đích của mình; nói gọn lại là nếu ông đã thành công thì hẳn ông không cảm thấy bị hoang mang, không có sự thất vọng cay đắng. Nếu ông không bắt gặp sự thất vọng này thì ông đã không bao giờ tra vấn mình làm gì, không bao giờ tự hỏi liệu mọi thứ là đúng hay sai. Nếu hồi trước ông được thì sự việc đã hoàn toàn khác hẳn. Ông đã bị cuốn theo dòng chảy của sự tự khẳng định mình và bây giờ thì nó đã bỏ ông lại chơ vơ, hoang mang, thất vọng.
“Tôi hiểu những gì ông nói. Ông muốn nói mọi dạng hình của sự tự khẳng định - trong Nhà nước, trong công tác phước thiện, trong mọi mơ ước - chỉ có thể dẫn đến sự hoang mang, đến trạng thái cằn cỗi này của tâm. Bây giờ thì tôi thấy điều này rất rõ”.
Sự nở hoa của lòng thiện mỹ trong tâm chúng ta - điều này rất khác với sự việc phải “cao đẹp” để đạt tới một thành tựu nào đó hay để trở thành một điều nào đó - là nằm ngay trong một hành động chân chính. Lòng yêu thương chính là bản thân hành động, là bản thân sự tồn tại của nó.
“Mặc dù đã trễ”, người thứ tư nói, “tôi xin phép đặt câu hỏi. Lòng tin nơi Thượng đế có giúp ta tìm được Người không?”
Muốn tìm chân lý hay Thượng đế ta không được phép có lòng tin lẫn không có lòng tin. Người tin cũng như người không tin, cả hai đều không tìm ra chân lý, vì tư tưởng của họ đã bị định hình bởi sự giáo dục, bởi môi trường xung quanh, bởi nền văn hóa và bởi chính niềm hy vọng cũng như sự lo âu, bởi niềm vui thích lẫn phiền não của họ. Một tâm thức mà không giải thoát khỏi những ảnh hưởng quy định lên mình thì không bao giờ tìm được chân lý, dù cho nó rất muốn.
“Thế thì phải chăng tìm kiếm Thượng đế là không quan trọng?”
Một tâm thức lo âu, ham muốn, thích chiếm hữu, làm sao có thể phát hiện được một cái gì nằm cao hơn nó? Nó chỉ tìm thấy những gì do bản thân nó chiếu hiện ra, chỉ tìm thấy những hình ảnh, niềm tin và những kết luận mà trong đó nó bị giam cầm. Muốn tìm điều gì là chân lý, điều gì là sai trái, tâm phải được tự do. Tìm kiếm Thượng đế mà chưa biết bản thân mình thật là một điều vô nghĩa. Tìm kiếm với một dụng tâm là không tìm kiếm gì cả.
“Có thể có sự tìm kiếm mà không dụng tâm chăng?” Nếu có dụng tâm trong lúc tìm kiếm thì mục đích của sự tìm kiếm là điều đã biết. Khi đau khổ, ông kiếm hạnh phúc; khi đó thì ông đã ngưng sự tìm kiếm rồi vì ông nghĩ mình đã biết thế nào là hạnh phúc.
“Thế thì sự tìm kiếm chỉ là một vọng tưởng ư?”
Đó là một trong nhiều vọng tưởng. Khi tâm không dụng công, khi nó tự do, không bị thúc đẩy bởi một sự ham muốn nào, khi nó hoàn toàn tĩnh lặng, thì lúc đó có chân lý. Ông không cần tìm kiếm nó; ông không thể theo đuổi nó, không thể chào mời nó. Nó tự tới.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 48 guests