Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

Image

Đối Diện Cuộc Đời


Jiddu Krishnamurti
Nguyễn Tường Bách biên dịch


Jiddu Krishnamurti (1895-1986), là một tác gia và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần. Các chủ đề bao gồm (nhưng không giới hạn): mục đích của thiền định, mối quan hệ giữa con người và phương cách để tạo nên sự thay đổi xã hội tích cực trên phạm vi toàn cầu.
Giáo pháp của Krishnamurti không hề dễ hiểu, dễ tiếp thu, chủ trương của ông làm nhiều kẻ tầm đạo bất mãn. Chỉ nội sự phê phán của ông về thẩm quyền tôn giáo đã đụng chạm đến quyền lợi của những bậc thầy non tay. Do đó quan niệm của ông bị rất nhiều người chống đối. Thế nhưng, nếu đọc kỹ với một tâm hồn thực sự dò tìm, ta sẽ thấy Krishnamurti phải là một con người hiếm hoi nhất trong cõi nhân sinh.
Đạo khả đạo, phi thường đạo (Lão Tử)
Nhà Xuất Bản Phương Đông

“Tôi quả quyết rằng, chân lý là một miếng đất phi đạo lộ và bạn không thể tới với nó bằng con đường nào cả, không bằng tôn giáo nào, không bằng giáo phái nào cả. Đó là quan niệm của tôi, điều mà tôi giữ vững một cách tuyệt đối và vô điều kiện…
(Krishnamurti)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

Lời người dịch

Image
Tác phẩm bạn đọc đang cầm trên tay là tập hợp một số đoạn nhật ký và bài nói chuyện của Krishnamurti trong gần 60 năm cuộc đời diễn giảng của ông.
Trong số các vị đạo sư tâm linh xưa nay thì ta có thể xem Krishnamurti là con người quyết liệt nhất khi nói về điều được mệnh danh là chân lý, là sự thật. Nghe tiếng ông là một người minh triết và giác ngộ, nhiều người tìm đến để xin nghe giảng thuyết về chân lý, nhưng không ít người bị thất vọng. Lý do giản đơn là, Krishnamurti không bao giờ chịu nhượng bộ, không bao giờ giảng những lời đạo lý chung chung, không bao giờ cho những an ủi khích lệ thông thường, kể cả đối với người bệnh đang nằm chờ chết hay với cha mẹ đang đau khổ mất con. Vì đối với ông, một nửa mẩu bánh mì còn là bánh mì nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật. Và sự thật thì lại “không có con đường nào dẫn đến”.
Những người đến nghe ông giảng thường được ông giải thích một cách rạch ròi rằng, tất cả những tầm cầu tưởng chừng như rất đạo đức của họ chẳng qua đều là biểu hiện của một tâm thức thèm khát thành tích, mong chờ ân sủng, tìm kiếm sự an toàn và tiện nghi nội tâm. Tất cả những thứ đó đều là biểu hiện của một cái “tôi” ranh mãnh đang chờ chực trong tâm, muốn được thăng hoa, muốn được giác ngộ. Những tâm thức như thế không bao giờ tìm thấy được điều gì cả, hoạt động của chúng chỉ sinh thêm rối loạn cho mình và cho người. Krishnamurti phân tích cho thấy những tầm cầu đó đều xuất phát từ cái đã biết, từ truyền thống, từ tri thức, từ quá khứ. Chúng chỉ dẫn đến một dạng hình khác của một khuôn khổ có sẵn, chúng không thể tiếp cận với một cái tinh khôi mà ngôn từ không thể mô tả.
Vì những lẽ đó người ta không thể dùng bất cứ cái gì đã biết để tiếp cận chân lý, ngược lại con người phải tự giải phóng ra khỏi mọi sự ràng buộc của tâm, nhất là khỏi tri thức, kinh nghiệm và lòng ham thích mong đợi. Do đó Krishnamurti cho rằng chỉ một sự tự do tâm linh tuyệt đối mới có cơ may để tâm đến với một tình trạng mà ông gọi là “không thể đo lường”. Ổng cho rằng ta phải thoát khỏi mọi thẩm quyển - thẩm quyền chính trị, xã hội cũng như tôn giáo - thoát mọi quy định, mọi truyền thống. Và cuối cùng con người phải thoát cả gánh nặng của kinh nghiệm, của tri thức, của quá khứ.
Cái “tôi” là một sản phẩm của quá khứ, khi vắng bóng nó thì sẽ có một tình trạng “thiêng liêng” phi thời gian xuất hiện. Khi ta nằm yên trong tình trạng “đang là”, không thấy phải trở thành một cái gì khác, khi đó thời gian sẽ ngưng bặt. Thời gian chỉ có đối với những ai muốn trở thành. Khi con người an trú trong tình trạng hiện thực của chính mình, không tìm cách kiểm soát hay điều khiển tâm, khi chỉ có tâm vận hành mà không có người làm chủ tâm, khi đó sẽ xuất hiện một thứ năng lượng to lớn, khi đó “trí thông minh”, “lòng yêu thương” sẽ hoạt động một cách hồn nhiên. Đó là điều mà ngôn từ hay gọi là “giác ngộ” nhưng phần lớn con người không bao giờ thật sự biết đến.
Giáo pháp của Krishnamurti không hề dễ hiểu, dễ tiếp thu, chủ trương của ông làm nhiều kẻ tầm đạo bất mãn. Chỉ nội sự phê phán của ông về thẩm quyền tôn giáo đã đụng chạm đến quyền lợi của những bậc thầy non tay. Do đó quan niệm của ông bị rất nhiều người chống đối. Thế nhưng, nếu đọc kỹ với một tâm hồn thực sự dò tìm, ta sẽ thấy Krishnamurti phải là một con người hiếm hoi nhất trong cõi nhân sinh. Đó là người khi đã nói thì chỉ nói chân lý toàn vẹn, xuất phát từ một lòng từ bi vô hạn. Đọc tác phẩm này ta thấy trí huệ phi thường của ông thỉnh thoảng lóe lên khi nghe ông mô tả về thiên nhiên và con người. Còn lòng từ bi của ông thì quá rõ vì ông chỉ tha thiết mong một điều, đó là con người phải được giải phóng ra khỏi mọi dạng của nô lệ, nhất là ách nô lệ tâm linh, nô lệ truyền thống, nô lệ vào quy định xã hội và quá khứ đã chết. Vì lẽ đó, Krishnamurti được mệnh danh là “thầy của các vị thầy”. Thiết tưởng không còn danh hiệu nào chính xác hơn đáng được dùng cho ông.
Cách nói chuyện của Krishnamurti cũng phản ánh rõ rệt tinh thần tự do đó. Như bạn đọc sẽ thấy, ông hay dùng cụm từ “phải chăng là?”, ông hay đặt câu hỏi cho người nghe hơn là nêu lên những khẳng định. Ồng muốn đưa người nghe vào một tình trạng chủ động tìm kiếm chứ không muốn họ chấp nhận những gì ông nói, vì nếu không người nghe lại rơi vào tính chất thẩm quyền vốn bị ông bác bỏ ngay từ đầu.
Trình bày nhận thức từ một tình trạng phi thường của tâm, Krishnamurti phải dùng ngôn ngữ thông thường để diễn tả ý tưởng của mình. Đó là cái khó của ông, dù ông nói bằng tiếng Anh hay tiếng Ấn Độ. Người dịch cũng cảm nhận điều đó một cách rõ rệt vì tác giả cũng như dịch giả đều phải sử dụng những từ thông thường như trí thông minh, lòng yêu thương, cái toàn thể, sự tự do, sự rối loạn, sự suy đồi, sự ngăn nắp… để nói những tình trạng của tâm con người dưới cách nhìn của một người giác ngộ. Những từ ngữ đó hẳn phải có một nội dung sâu xa hơn hẳn điều mà người đọc (và người dịch) thường hiểu. Do đó, muốn hiểu một phần những gì Krishnamurti nói, ta cần có một cái tâm chủ động dò tìm, vừa có xác quyết về một điều thiêng liêng trong vũ trụ, vừa sẵn sàng bác bỏ mọi dạng thẩm quyền chỉ tìm cách nô lệ hóa con người.
Mong rằng người dịch không hiểu quá sai Krishnamurti, mong tác phẩm này không đi quá xa những gì tác giả nói và nhờ đó mà mang lại cho người đọc một vài manh mối về điều mà ta gọi là sự thật.
Nguyễn Tường Bách
Tháng 2.2004
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, thomas1960

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

ĐẠO KHẢ ĐẠO, PHI THƯỜNG ĐẠO*


*Nguyên văn Anh ngữ “Truth is a pathless land” (Chân lý là miếng đất không có đường đến), thông điệp quan trọng nhất của Krishnamurti. Tựa đề này được dịch giả phóng dịch bằng câu đầu tiên trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử (ND).
Dòng tu Ngôi sao phương Đông* được thành lập năm 1911 để báo hiệu sự xuất hiện của vị đạo sư cho toàn thế giới. Krishnamurti được cử làm thủ lĩnh của giáo hội. Ngày 2 tháng 8 năm 1929, vào ngày khai mạc buổi tập hợp hàng năm Star Camp tại Ommen, Hà Lan, Krishnamurti đã giải thể dòng tu với sự hiện diện của ba ngàn thành viên. Sau đây là toàn văn của bài nói của ông, được trình bày trong dịp này.

*The Order of the Star in the East.
Sáng nay, chúng ta sẽ nói về sự giải thể của Dòng tu Ngôi sao. Nhiều người sẽ vui thích về điều này và nhiều người khác sẽ rất lấy làm buồn. Vấn đề không phải là vui hay buồn, vì sự giải thể là điều không tránh khỏi, như tôi sẽ giải thích với các bạn sau đây.
Có lẽ các bạn còn nhớ câu chuyện này. Ngày nọ quỷ sứ đi chơi với một người bạn, trên một con đường nọ. Từ xa họ thấy một người, cúi xuống nhặt dưới đất một cái gì đó, cầm lên ngắm nghía và bỏ vào túi. Người bạn hỏi quỷ sứ: “Ông ta giữ trong túi cái gì thế?”. Quỷ sứ đáp: “Ông ta giữ một mảnh của chân lý”. “Thế thì chuyện này đối với anh thật phiền rồi đấy”, người bạn nói. “Không, hoàn toàn không”, quỷ sứ trả lời, “tôi sẽ đề nghị ông ta hãy tổ chức cho nó (chân lý) thành định chế đi”.
Tôi quả quyết rằng, chân lý là một miếng đất phi đạo lộ và bạn không thể tới với nó bằng con đường nào cả, không bằng tôn giáo nào, không bằng giáo phái nào cả. Đó là quan niệm của tôi, điều mà tôi giữ vững một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Chân lý, điều vốn là vô biên, phi điều kiện, không thể tiếp cận, thì dù ở trong chủ trương nào, cũng không thể tổ chức được; không nên thành lập một tổ chức nào cả để hướng dẫn hay ép uổng con người đi trong một đường hướng riêng biệt. Nếu bạn hiểu điều này rồi, thì bạn sẽ hiểu, thật là điều bất khả nếu ta muốn tổ chức một niềm tin. Niềm tin là một điều thuần túy cá nhân và bạn không thể cũng như không được phép tổ chức nó. Nếu bạn cứ làm thì niềm tin sẽ chết, sẽ xơ cứng; nó sẽ trở thành tín ngưỡng, giáo phái, tôn giáo, được dùng để áp chế người khác. Thế nhưng đó lại là điều mà trên toàn thế giới ai cũng cố làm. Chân lý sẽ bị thu hẹp lại và trở thành trò tiêu khiển cho kẻ yếu đuối, cho những ai buồn phiền bất mãn.
Chân lý không thể hạ thấp từ trên đi xuống; mà ngược lại mỗi người phải chịu khổ nhọc vươn mình lên trên. Bạn không thể kéo đỉnh núi xuống với lũng sâu được. Nếu bạn muốn lên tới đỉnh, bạn phải vượt qua lũng, phải leo lên những mỏm đá dựng, không được sợ những bến bờ hiểm nguy. Bạn phải tự mình vươn tới chân lý, nó không thể được “gia giảm” hay tổ chức chu đáo cho bạn. Lòng yêu thích lý tưởng thường thì nhờ có tổ chức mà được giữ vững, thế nhưng tổ chức chỉ đánh thức được những mối quan tâm nông cạn. Một mối quan tâm mà không được sinh ra từ lòng yêu quý chân lý, không vì nó mà ra, mà do tổ chức hình thành nên, thì loại quan tâm đó không có giá trị. Tổ chức sẽ trở thành một thứ khuôn phép, trong đó thành viên sẽ khép mình một cách thoải mái. Họ sẽ không còn hướng về chân lý, không còn hướng về đỉnh núi, mà họ sẽ tự chôn mình trong một tổ ấm dễ chịu, đặt mình vào đó, hay để tổ chức đặt vào một chỗ và nghĩ rằng, qua đó tổ chức sẽ đưa mình đến chân lý.
Thế nên đó là lý do thứ nhất mà theo tôi Dòng tu Ngôi sao phải giải thể. Thế nhưng chắc là các bạn sẽ thành lập những Dòng tu khác, các bạn sẽ gia nhập những tổ chức khác để đi tìm chân lý. Tôi không muốn gia nhập bất cứ nhóm hội nào có tính chất tâm linh cả, xin bạn hiểu cho. Thí dụ tôi có thể sử dụng một công ty hội đoàn, nó chuyên chở tôi đi London; đó lại là một hội có tính chất hoàn toàn khác, thuần túy cơ giới, như nơi gửi thư hay đánh dây thép. Tôi có thể sử dụng một chiếc xe hơi, đi du lịch bằng tàu thủy, đó là những thiết bị hoàn toàn cơ giới, chúng không hề có gì là tâm linh cả. Tôi xin nhấn mạnh lại, rằng không có tổ chức nào có thể đưa con người đến lĩnh vực tâm linh được cả.
Nếu có một tổ chức nào được thành lập vì mục đích này, nó sẽ trở thành một cây nạng chống, một sự yếu đuối, một sự bó buộc và nó chỉ làm mỗi người thêm què quặt, sẽ ngăn cản người đó trưởng thành và không phát huy được cái độc đáo của mình, cái độc đáo mà ta phải có trong sự phát hiện chân lý tuyệt đối và phi điều kiện. Đó là một lý do nữa làm tôi quyết định phải giải thể Dòng tu mà tôi đang lãnh đạo. Không có ai thuyết phục tôi đến với quyết định này.
Đây không phải là một hành vi có tính khoa trương biểu diễn, vì tôi không muốn có tín đồ và tôi nói điều này một cách thực lòng. Khi bạn theo chân một người khác, thì bạn sẽ không còn theo đuổi chân lý. Liệu bạn có chú tâm nghe những gì tôi nói hay không, đối với tôi không hề quan trọng. Trên đời, tôi muốn làm một điều nhất định và tôi sẽ làm nó với lòng chú tâm không suy giảm. Đó là mối quan tâm cốt tủy và duy nhất: Giúp cho con người được tự do. Tôi mong được giải phóng con người ra khỏi mọi tù ngục, mọi sợ hãi; và tôi sẽ không thành lập tôn giáo nào, trường phái nào, càng không nêu lên một lý thuyết hay triết lý nào. Hiển nhiên bây giờ bạn sẽ hỏi, thế thì tại sao tôi lại đi khắp thế giới và liên tục thuyết giảng. Tôi xin trả lời: Chắc chắn là không phải vì tôi muốn có đệ tử, không phải vì tôi có một nhóm đặc biệt của những tín đồ đặc biệt. (Có nhiều người mong ước được khác với đồ đệ mình, dù cho sự khác biệt đó có thể buồn cười, vô nghĩa và tầm thường! Tôi không muốn hỗ trợ cho sự vô nghĩa đó). Tôi không có đệ tử, không có thị giả, trên bình diện thế gian lẫn bình diện tâm linh.
Tôi cũng chẳng màng đến tiền bạc hay yêu thích một đời sống tiện nghi. Nếu thích cuộc đời tiện nghi, tôi đã không đến cư trú tại các vùng lều trại hay trong một xứ mưa gió! Tôi nói thẳng thắn để cho rõ một lần luôn. Tôi không muốn mỗi năm lại cứ nhắc lại câu chuyện trẻ con này.
Có một ký giả báo chí phỏng vấn tôi, ông ấy cho rằng việc giải thể một tổ chức là một việc làm cao cả, từ bỏ một tổ chức với hàng ngàn thành viên. Ông nói, đối với ông đó là điều vĩ đại lắm. Rồi ông ấy hỏi: “Sau đó ông làm gì, ông sống như thế nào? Ông không có môn đệ, mọi người không có ai nghe ông nói nữa!”. Nếu chỉ có năm người thôi, chịu nghe và chịu sống, chịu ngoảnh mặt nhìn về phía vô cùng, thì cũng đủ rồi. Được lợi lộc gì khi có hàng ngàn người, những người không hiểu ngộ gì cả, họ nằm cứng đờ trong thiên kiến của mình, không chịu muốn cái mới mẻ, chỉ muốn làm sao cái mới phải phục vụ cho cái tự ngã cằn cỗi và trì trệ của mình? Khi tôi dùng chữ nặng nề như vậy, xin đừng hiểu lầm tôi; tôi không thiếu lòng cảm thông với các bạn đâu. Nếu bạn đến một nhà giải phẫu để nhờ mổ xẻ, thì không phải là ông ta giúp bạn bằng cách phải mổ xẻ, kể cả phải làm bạn đau đớn ư? Cũng thế, không phải vì thiếu tình cảm chân thật với các bạn mà tôi phải thẳng thắn và thành thật, ngược lại thì đúng hơn.
Như đã nói, tôi chỉ có một mục đích duy nhất: Giải phóng con người, khuyến khích con người tìm đến tự do, giúp con người phá bỏ mọi hạn chế, vì chỉ điều đó mới mang lại cho con người sự an lạc vĩnh viễn, mới đưa con người đến sự thực chứng phi điều kiện* của tâm.
*Unconditioned realization.
Vì tôi được tự tại, phi điều kiện, là toàn thể - không phải một phần, không phải tương đối, mà là toàn thể chân lý, là điều miên viễn - nên tôi mong ước, những ai tìm nghe tôi cũng được tự tại; không phải rồi để theo tôi, không phải do tôi mà xây dựng một cái lồng, để thành tôn giáo, thành giáo phái. Ngược lại họ phải được tự tại thoát khỏi mọi lo sợ - khỏi lo sợ của tôn giáo, lo sợ không được cứu vớt, lo sợ thiếu tính chất tâm linh, lo sợ không được yêu thương, lo sợ cái chết, lo sợ cả về sự sống. Như một nghệ sĩ vẽ một tấm hình, anh vẽ chỉ vì anh yêu thích việc vẽ họa, vì đó là một biểu hiện của tự thân anh, vì đó là hạnh phúc, là sự sung sướng của anh, thì cũng thế, tôi làm việc của tôi chứ không phải vì tôi muốn được một cái gì từ phía người khác.
Các bạn đã quen với thẩm quyền* hay không khí của thẩm quyền và tin rằng sẽ được thẩm quyền hướng dẫn trên con đường tâm linh. Bạn nghĩ và hy vọng, một người khác có năng lực phi thường - như nhờ một phép lạ - sẽ đưa bạn vào một thế giới của sự tự do vĩnh cửu, nơi sẽ có an lạc. Toàn bộ đời sống của bạn cứ dựa trên thẩm quyền đó.
*Authority. Từ này là một từ trung tâm trong tư tưởng của Krishnamurti, được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm này. Theo tác giả, thẩm quyền có thể có trong lĩnh vực chính trị, quan hệ xã hội, truyền thống hay tôn giáo, là nơi mà con người đặt niềm tin vào đó, dùng nó để làm nơi trốn chạy cho mình, là nơi mang lại sự an ổn nội tâm. Theo tác giả thẩm quyền nguy hại nhất là thẩm quyền tâm linh, của các tôn giáo, của các định chế, tổ chức của tôn giáo (ND).
Các bạn đã nghe tôi giảng từ ba năm nay, mà không có thay đổi gì cả, chỉ trừ nơi một số ít người. Bây giờ bạn hãy phân tích những gì tôi nói, bạn hãy nghiêm khắc đi, để nhờ đó mà bạn có thể hiểu tôi tận gốc rễ. Nếu bạn đi tìm một thẩm quyền có thể đưa dẫn bạn đến cõi tâm linh thì tự động bạn sẽ xây dựng một tổ chức nằm quanh thẩm quyền đó. Thế nhưng, chỉ vừa bắt đầu xây dựng một tổ chức mà bạn tin là nó sẽ giúp thẩm quyền đó để đưa bạn đến với tâm linh, thì bạn đã bị cầm tù trong chiếc lồng đó rồi.
Khi tôi nói điều này một cách thẳng thắn như thế, bạn đừng nghĩ là vì tôi cứng rắn, thô bạo, vì quá hào hứng với mục đích của mình, mà bạn nên nghĩ là tôi muốn bạn hiểu những gì tôi nói. Vì chính lý do đó mà các bạn có mặt hôm nay và thật là phí thì giờ nếu tôi không cắt nghĩa thật rõ ràng minh bạch.
Mười tám năm qua, các bạn đã chuẩn bị cho biến cố này, cho sự xuất hiện của vị giáo chủ. Mười tám năm, các bạn đã tổ chức, đã đi tìm một người sẽ mang đầy niềm vui cho tim óc bạn, người sẽ chuyển hóa cho trọn đời bạn, người sẽ cho bạn một tri kiến mới; người sẽ giúp bạn lên một bình diện mới của đời sống, cho bạn một niềm hăng say mới, người sẽ giải phóng bạn - và bây giờ bạn thấy, điều gì xảy ra! Hãy suy gẫm, hãy tự kiểm tra và hãy phát hiện, niềm tin đó đã làm bạn thay đổi như thế nào - không phải những sự khác biệt nông cạn trong việc đeo những hàm tước*, một điều vớ vẩn và vô nghĩa. Một niềm tin như thế có quét sạch những điều cỏn con trong cuộc sống không? Sau đây là cách duy nhất để đánh giá: Liệu bạn đã tự do hơn không, trưởng thành hơn, đáng lo ngại hơn không cho mọi loại tập thể, thứ được xây dựng trên cái hư vọng, cái vặt vãnh? Trong mặt nào, các thành viên của tổ chức Ngôi sao này đã thay đổi?
*Thành viên trong Dòng tu cũng chia thành chức vụ, đeo hàm tước (ND).
Như tôi đã nói, các bạn đã chuẩn bị cho tôi từ mười tám năm nay. Liệu bạn tin tôi là đạo sư của thế gian hay không, đối với tôi không khác gì nhau cả. Điều đó thật rất không quan trọng. Từ lúc gia nhập tổ chức, bạn đã đem tình cảm và năng lực, toàn bộ hay một phần, để thừa nhận Krishnamurti là giáo chủ: “Toàn bộ” là ở những kẻ toàn tâm toàn ý tìm đạo, “một phần” là ở những ai chấp nhận những sự thực nửa vời của chính họ.
Các bạn đã chuẩn bị mười tám năm và các bạn hãy cứ xem đi, bao nhiêu chướng ngại vẫn đang ngăn chặn bạn, còn bao nhiêu phức tạp, bao nhiêu chuyện vớ vẩn. Các thành kiến của bạn, các nỗi lo sợ, các thứ thẩm quyền, các nhà thờ mới và cũ của bạn - tất cả, tôi xin nói, đều là những chướng ngại cho sự hiểu ngộ. Tôi không thể nói rõ hơn được nữa. Tôi không muốn các bạn sẽ đồng tình với tôi. Tôi không muốn các bạn nghe theo tôi. Tôi chỉ muốn các bạn thấu hiểu những gì tôi nói.
Sự hiểu ngộ này là cần thiết, vì niềm tin đã không chuyển hóa bạn, nó chỉ làm bạn thêm rắc rối, và vì bạn không chịu nhìn sự vật đúng như nó là. Bạn cứ muốn mình có thần thánh - các thần thánh mới thay cho thần thánh cũ, tôn giáo mới thay cho cũ, hình thức mới thay cho cũ - mà tất cả đều là vô giá trị, tất cả đều là sự ngăn ngại, tất cả đều là sự kiềm tỏa, tất cả đều là nạng chống cả. Thay vì hệ thống giá trị tâm linh cũ bạn thay vào đó hệ thống giá trị tâm linh mới, thay vì đi lễ kiểu cũ bạn đi lễ kiểu mới. Tất cả các bạn đều bị lệ thuộc trong mặt tâm linh vào một người khác, trong hạnh phúc thì vào một người khác, trong giác ngộ thì vào một người khác nữa. Và mặc dù các bạn đã chuẩn bị cho tôi từ mười tám năm nay, nhưng khi tôi nói, rằng tất cả mọi thứ này đều không cần thiết, rằng phải dẹp tất cả qua một bên và hãy trong chính mình mà tìm sự giác ngộ này, tìm sự phước lạc này, sự thanh lọc này, sự bất hoại* này của tâm, thì không có một ai trong số các bạn chịu làm cả. Có lẽ ít thôi, nhưng rất rất ít.
* Incorruptibility.
Thế thì tại sao ta lại còn cần một tổ chức?
Tại sao lại còn những người giả dối, giả nhân giả nghĩa đi theo tôi, theo sự “hiện thân của chân lý” này? Xin hãy nghĩ rằng, tôi không nói những lời nặng nề hay thiếu thân thiện với bạn, thế nhưng chúng ta đã ở trong một tình trạng mà các bạn phải thấy vấn đề như chúng thực là. Năm ngoái tôi đã nói là sẽ không nhân nhượng. Khi đó chỉ có rất ít người chịu lắng nghe. Năm nay tôi đã làm cho nó hoàn toàn sáng tỏ. Tôi không biết mấy ngàn người trên khắp thế giới - thành viên của Dòng tu - đã chuẩn bị cho tôi mười tám năm qua, thế nhưng họ vẫn không chịu lắng tai nghe tôi một cách toàn diện và tuyệt đối những gì tôi nói.
Thế thì tại sao ta lại còn cần một tổ chức?
Như tôi đã nói, mục đích của tôi là giải phóng con người một cách tuyệt đối, vì tôi đoan quyết rằng, cái đạo duy nhất chính là sự bất hoại của tâm, vì nó là phi thời gian, nó là sự hòa hợp giữa lý tính* và tình yêu. Đó là chân lý tuyệt đối, phi điều kiện, đó chính là bản thân đời sống. Vì thế tôi muốn giải phóng con người, vui tươi như cánh chim trong bầu trời trong, không phiền toái, độc lập, hào hứng trong sự tự tại. Và tôi, kẻ mà các bạn đã chuẩn bị từ mười tám năm qua, nói rằng bạn phải thoát khỏi những thứ này, khỏi mọi rắc rối, khỏi mọi vướng mắc. Muốn thế bạn không cần một tổ chức được xây dựng trên một niềm tin tâm linh. Người ta cần một tổ chức để làm gì cho năm hay mười người trên thế giới, cho những người hiểu ngộ, những kẻ biết cố gắng để rũ bỏ tất cả những điều vớ vẩn đó? Và cho những người yếu đuối thì cũng chẳng có tổ chức nào có thể giúp họ để tìm ra chân lý, vì chân lý nằm trong mỗi con người; nó không xa cũng chẳng gần; nó luôn luôn có đó.
* Reason.
Mọi tổ chức không thể giải phóng các bạn. Không có người nào khác từ bên ngoài có thể giải phóng các bạn; không một buổi hành lễ hay một sự cúng dường nào có thể giải phóng các bạn; cũng như không bằng cách họp nhau trong một tổ chức hay lao mình vào trong công việc, chẳng có gì có thể giải phóng các bạn. Bạn dùng cái máy đánh chữ để viết một lá thư chứ bạn không đặt cái máy đó lên bàn thờ và cầu nguyện nó. Thế nhưng bạn làm chính điều đó khi tổ chức đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của bạn. “Tổ chức có bao nhiêu thành viên?” - đó là câu hỏi đầu tiên mà mọi phóng viên báo chí đều hỏi tôi. “Ông có bao nhiêu đệ tử? Theo con số đó mà chúng tôi đánh giá liệu những gì ông nói là đúng hay sai”. Tôi không biết bao nhiêu. Tôi không quan tâm. Như tôi đã nói, dù chỉ có một người duy nhất được giải phóng cũng đủ cho tôi.
Một lần nữa, chắc hẳn các bạn hình dung rằng, chỉ có một số người nhất định mới có cái chìa khóa mở ra Vương quốc của An lạc. Không ai có cái chìa khóa đó cả. Không ai có thẩm quyền được sở hữu nó. Chiếc chìa khóa chính là tâm bạn. Chính trong sự phát triển, thanh lọc và sự bất hoại của chính tâm bạn thì trong đó là Vương quốc của Miên viễn.
Các bạn sẽ thấy, cấu trúc mà bạn đã xây dựng lên là vô nghĩa biết bao, trong đó bạn tìm sự trợ giúp từ bên ngoài, bạn cho nó là sự tiện nghi, niềm hạnh phúc; sức mạnh của bạn phải lệ thuộc vào người khác. Tất cả những thứ đó bạn có thể tìm thấy nơi chính mình.
Thế thì tại sao ta lại còn cần một tổ chức?
Các bạn đã từng nghe ai nói là mình đã tiến bộ được như thế nào, tâm linh ở mức độ nào. Trẻ con thay! Không phải chính bạn thì ai có thể nói, nội tâm bạn đẹp hay xấu? Không phải chính bạn thì ai có thể nói liệu bạn bị thoái hóa hay không? Các bạn chưa coi trọng đúng mức những điều này.
Thế thì tại sao ta lại còn cần một tổ chức?
Tuy nhiên những ai thực sự muốn hiểu ngộ, những kẻ tìm kiếm cái miên viễn, vô thủy vô chung, sẽ cùng nhau đi trên con đường này với lòng quyết tâm cao độ, họ sẽ trở thành mối đe dọa cho tất cả những gì không cốt tủy, không đích thực, cho những cái bóng giả hiệu. Và họ sẽ tập hợp nhau lại, họ sẽ là ngọn lửa vì họ hiểu ngộ. Chúng ta phải hình thành một tập hợp như thế, và đó là mục đích của tôi. Trên cơ sở của sự hiểu ngộ đích thực này thì nơi đó sẽ có tình bạn đích thực. Trên cơ sở tình bạn đích thực - điều mà các bạn dường như không biết - thì sẽ có hợp tác đích thực của từng người. Và điều đó xảy ra không vì thẩm quyền, không vì cứu rỗi, không dựa trên sự hy sinh cho điều gì cả mà vì bạn đã hiểu ngộ nên bạn có khả năng sống trong sự miên viễn. Đó là cái vĩ đại hơn mọi niềm vui, hơn mọi hy sinh cúng dường.
Đó là những lý do mà sau hai năm đắn đo suy nghĩ tôi chọn quyết định này. Nó không đến từ một động lực bất chợt. Không ai thuyết phục tôi làm điều này. Trong việc này tôi không để cho ai thuyết phục tôi. Kể từ hai năm nay, tôi ngẫm nghĩ nhiều, chậm rãi, cẩn trọng, kiên nhẫn, và bây giờ tôi quyết định giải thể Dòng tu mà tôi là người đứng đầu. Các bạn có quyền thành lập những tổ chức khác và chờ đợi nơi những người khác. Điều đó không làm tôi để ý bao nhiêu, cũng ít ỏi như chẳng bao giờ tôi muốn thiết lập những chiếc lồng và tìm cho chúng những vật trang trí. Điều quan tâm duy nhất của tôi là, giải phóng con người một cách tuyệt đối và vô điều kiện.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, thomas1960

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

ĐỐI DIỆN CUỘC ĐỜI


Jiddu Krishnamurti sinh năm 1895 tại Madanpalle, Ấn Độ, là con thứ tám trong một gia đình Bà-la-môn nghèo. Ông mất mẹ khi mới lên mười, thể chất ốm yếu và hay đau từ lúc còn nhỏ. Người cha, vốn là một công chức, khi về hưu, giao ước với bà Annie Besant, chủ tịch của hội Thần trí quốc tế*, sẽ làm việc cho hội này vì ông cũng là thành viên từ nhiều năm trước. Người cha cùng với Krishnamurti, lúc đó mới mười bốn tuổi, và thêm ba anh em nữa dọn nhà đi Madras, trung tâm của hội Thần trí.
* International Theosophical Society.
Giữa Annie Besant và Krishnamurti nảy sinh một mối liên hệ sâu sắc và đầy tình cảm. Annie Besant trở thành người đỡ đầu về mặt luật pháp cho Krishnamurti. Những nhà Thần trí tin rằng mình đã phát hiện được Krishnamurti là “vị đạo sư của thế gian*” của tương lai và họ thành lập một tổ chức mang tên “Dòng tu Ngôi sao phương Đông” với Krishnamurti là người lãnh đạo. Năm 1912 Krishnamurti chính thức được tuyên dương là “đạo sư của thế gian”. Thế nhưng năm 1929, với bài thuyết giảng tâm linh quyết liệt “Truth is a pathless land”, ông tuyên bố giải thể Dòng tu. Với hành động đó, ông từ chối mọi sở hữu về bất động sản, tiền bạc, quyền lực và mọi thẩm quyền của một vị giáo chủ.
*World Teacher.
Trong suốt cuộc đời còn lại ông du hành nhiều nơi, châu Âu, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nam Mỹ, châu Úc và New Zealand để nói chuyện với hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp và nghề nghiệp. Phần này tập hợp một số bài trong nhật ký của Krishnamurti về các buổi nói chuyện tại Ấn Độ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

KHẲNG ĐỊNH TRƯỚC, SUY TƯ SAU?


Những ngọn đồi ở phía bên kia hồ thật là tuyệt đẹp và phía sau đồi vươn lên những đỉnh núi đầy tuyết phủ. Trời mưa suốt ngày, nhưng bây giờ, như một điều kỳ diệu không ai biết trước, bầu trời đột nhiên trong vắt và mọi thứ trở nên sinh động, mừng vui và thanh thản. Những đóa hoa rực sắc vàng, đỏ và tím đậm, mang những giọt nước mưa như mang những viên ngọc quý. Thật là một buổi tối đáng yêu, đầy ánh sáng và sắc màu lộng lẫy. Mọi người túa ra đường, và dọc bờ hồ vang dội tiếng cười trẻ con. Dù có nhiều người đi lại rộn ràng, cảnh vật vẫn có một vẻ đẹp hân hoan và một niềm thanh bình kỳ lạ ngự trị khắp nơi.
Chúng tôi vài ba người ngồi trên một băng ghế trước mặt hồ. Một tiếng đàn ông, giọng cao, anh nói với người ngồi cạnh, ai nấy cũng đều nghe rõ: “Trong một đêm như đêm nay, tôi chỉ mong mình được xa lánh mọi tiếng ồn ào và sự rối loạn, thế nhưng công việc cứ giữ tôi lại và tôi thật chán ghét nó”. Vài người cho ngỗng ăn, có cả vịt và vài con chim mòng biển. Những con ngỗng trắng toát, hết sức đáng yêu. Giờ thì không còn một gợn sóng nào; và bên kia hồ, những ngọn đồi hầu như đen thẫm; thế nhưng những ngọn núi nằm sau đồi như đang đỏ rực dưới ánh mặt trời lặn và những đám mây sặc sỡ sau núi dường như say sưa sống động.
“Tôi không biết có hiểu đúng ý ông không”, người khách bắt đầu, “Khi ông nói tri thức phải được gác qua một bên mới hiểu ngộ được chân lý”. Anh trạc tuổi trung niên, từng đi nhiều nơi và là người uyên bác. Anh kể đã từng sống hơn một năm trong một tu viện và du hành qua nhiều nơi trên thế giới, từ cảng này qua cảng kia, từng làm việc trên tàu thủy, để dành tiền và tích lũy kiến thức. Anh tiếp: “Tôi không nói chỉ kiến thức sách vở đâu, tôi muốn nói thứ kiến thức mà con người hấp thụ một cách bất thành văn, tôi muốn nói các truyền thống bí ẩn nằm xa văn tự và kinh sách. Tôi đã nhúng mình vào cả trong phép tu huyền bí, nhưng cái đó đối với tôi là trò ngu xuẩn và giả tạo. Một chiếc kính hiển vi còn ích lợi hơn nhiều so với tài thấu thị của một ông thầy thấy được chuyện siêu hình. Tôi từng đọc sách của những vĩ nhân lịch sử, về lý thuyết và tầm nhìn của họ, nhưng… Có được một tâm thức hạng nhất và thêm khả năng tích lũy kiến thức, con người có thể làm nhiều điều thiện vô cùng. Thật không muốn kiểu cách, nhưng tôi có một nỗi mong ước thầm kín được cải tạo thế giới và vì thế tri thức là niềm đam mê của tôi. Từ xưa đến nay tôi là một con người đam mê trong nhiều thứ và bây giờ vẫn khao khát được biết. Ngày nọ tôi thấy ông viết về một điều mà nó làm tôi nhớ mãi; và khi nghe ông nói là ta phải thoát khỏi tri thức, tôi quyết đến để gặp ông - không phải làm tín đồ của ông mà đến vấn hỏi ông”.
Làm tín đồ, theo chân một người khác, dù có hay chữ hoặc giả quý phái đến mấy, điều đó chỉ ngăn chặn mọi sự hiểu ngộ, không phải sao?
“Thế thì ta hãy nói chuyện tự nhiên và tôn trọng lẫn nhau?”
Nếu có thể thì tôi xin hỏi ông, ông nghĩ thế nào về tri thức?
“Câu hỏi này thật hay để bắt đầu câu chuyện. Tri thức là mọi thứ mà con người thu lượm được bằng kinh nghiệm; đó là thứ mà ta tích lũy bằng sự nghiên cứu tìm tòi, thông qua nhiều thế kỷ của phấn đấu và khổ nhọc, trên nhiều tầng mức của sự nỗ lực, trong cả hai phương diện khoa học và tâm linh. Thì cũng như nhà sử học vĩ đại nhất cũng đánh giá lịch sử dựa trên trình độ và khả năng của mình, một người học trò bình thường như tôi cũng muốn biến tri thức thành hành động, mà hành động này có thể “tốt” hay “xấu”. Mặc dù bây giờ chúng ta chưa nói đến hành động, thế nhưng đó là điều sẽ không thể tránh khỏi khi nói đến tri thức. Tri thức là điều ta chứng nghiệm hay học hỏi được bằng tư duy, bằng thiền định, bằng đau khổ. Tri thức rất rộng; không phải chỉ là những điều được viết trong sách vở mà nó nằm ở trong từng cá nhân cũng như trong tập thể hay cả trong ý thức về chủng tộc của con người. Thông tin về khoa học và y học, công nghệ, kỹ thuật trong thế giới vật chất, chủ yếu đều bắt rễ trong ý thức của người phương Tây, còn trong ý thức của người phương Đông có một sự nhạy bén to lớn về những gì siêu thế gian. Tất cả những điều này cũng là tri thức, không phải bao gồm những gì đã được biết, mà những gì còn được phát hiện từng ngày. Tri thức là một quá trình cứ tăng trưởng mãi, không bao giờ chết, không có điểm kết thúc và vì thế mà có thể là cái bất tử của con người. Thế nên tôi không hiểu được ông khi ông nói tri thức phải được dẹp bỏ nếu muốn hiểu ngộ chân lý”.
Sự phân biệt giữa tri thức và hiểu ngộ* là giả tạo, thật ra nó không có; thế nhưng để nhận chân sự khác biệt giữa hai cái, ta phải thấy dạng cao cấp nhất của tư duy, nếu không sẽ sinh ra lầm lạc.
*Tri thức: knowledge, hiểu ngộ: understanding. Từ “hiểu ngộ” hay được Krishnamurti dùng nó có ý nghĩa rất sâu, cần được hiểu như “minh triết” hay “tuệ giác” (ND).
Phải chăng suy tư được bắt đầu bằng một kết luận? Phải chăng tư duy là đi từ một kết luận này qua một kết luận khác? Có tư duy không nếu tư duy là sự khẳng định? Trình độ cao cấp của tư duy không phải là sự phủ định sao? Không phải sao, tất cả tri thức chỉ là một tập hợp của nhiều định nghĩa, nhiều kết luận, nhiều khẳng định quyết đoán? Tư tưởng khẳng định vốn dựa trên kinh nghiệm, luôn luôn là kết quả của quá khứ và loại tư tưởng như thế không bao giờ phát hiện được cái mới.
“Ông cho rằng tri thức luôn luôn nằm trong quá khứ và tư tưởng bắt nguồn từ quá khứ nhất định phải che kín không cho thấy cái mà ta gọi là chân lý. Thế nhưng, nếu không có quá khứ để làm ký ức, chúng ta sẽ không nhận thức được vật này, cái mà ta nhất trí gọi là một chiếc ghế. Từ “chiếc ghế” phản ánh một kết luận được sự nhất trí chung của cảm quan, và tất cả mọi sự trao đổi sẽ chấm dứt nếu mọi kết luận không được sự chấp nhận chung. Phần lớn mọi tư duy của chúng ta đều dựa trên kết luận, trên truyền thống, trên kinh nghiệm của người khác, và cuộc sống sẽ bất khả nếu vắng bóng những khẳng định rõ ràng và hiển nhiên này. Hẳn là ông không muốn nói ta phải dẹp bỏ tất cả những kết luận, ký ức và truyền thống này?”
Mọi con đường của truyền thống dứt khoát dẫn đến sự tầm thường và một tâm thức bị trói buộc trong truyền thống không thể nhận thức được cái gọi là chân lý. Truyền thống có thể mới có một ngày, cũng có thể phải được truyền lại hàng ngàn năm. Hiển nhiên, thật là vô nghĩa nếu một ông kỹ sư dẹp bỏ kiến thức kỹ thuật mà ông đã học được từ kinh nghiệm của hàng ngàn người khác; và nếu ai tìm cách bỏ quên ký ức về những gì mình đã sống thì ta chỉ có thể nói người đó là mất trí. Thế nhưng sự tích lũy kiến thức không giúp ta hiểu ngộ được cuộc đời. Tri thức là một lẽ và hiểu ngộ là một lẽ khác. Tri thức không dẫn đến sự hiểu ngộ; thế nhưng sự hiểu ngộ có thể làm phong phú cho tri thức và tri thức có thể cung cấp thông tin cho hiểu ngộ.
“Tri thức là chủ yếu và không thể bị coi thường. Thiếu vắng tri thức thì khoa giải phẫu hiện đại không thể có và hàng trăm thứ kỳ diệu khác không thể xảy ra”.
Chúng ta không lên án cũng chẳng bênh vực cho tri thức, nhưng cần phải hiểu toàn bộ vấn đề. Tri thức chỉ là một phần của cuộc sống, không phải tất cả; và nếu phần này đòi cho mình có vị trí quan trọng tuyệt đối, như hiện nay đang có nguy cơ, thì cuộc sống trở nên nông cạn, thành một sự lặp lại cùn lụt, mà từ cuộc sống đó con người tìm cách trốn chạy bằng những trò tiêu khiển nhảm nhí hay sự mê tín với những hậu quả tai hại. Thuần túy tri thức, dù cho uyên bác và khéo léo mấy đi nữa, sẽ không giải quyết được những vấn đề của nhân sinh; phải nói là nó chỉ đem lại thêm lầm lạc và bất hạnh. Phải có một cái gì sâu xa hơn. Ta biết sân hận là điều vô ích, biết thế nhưng thoát hỏi sân hận là một vấn đề khác. Còn lòng yêu thương lại càng không phải là việc của tri thức.
Trở lại, tư duy khẳng định* hoàn toàn không phải là tư duy; đó chỉ là một sự tiếp nối được điều chỉnh của cái đã được tư duy. Hình dạng bên ngoài của nó có thể thay đổi theo thời gian, tùy thuộc nơi sự cưỡng bách và ép buộc, nhưng trung tâm của tư duy khẳng định luôn luôn là tính truyền thống. Tư duy khẳng định là quá trình của sự khép mình, và thứ tâm thức chịu khép mình thì không bao giờ được nằm ở trong trạng thái để phát hiện.
*Positive thinking. Từ này không có nghĩa “lạc quan” như trong các tác phẩm nói vê “luyện tâm”. Từ này của Krishnamurti chỉ phép suy tư đi từ khẳng định này qua khẳng định khác, bằng những khái niệm có sẵn do ký ức và kinh nghiệm tạo nên, thiếu vắng sự hồn nhiên sáng tạo (ND).
“Thế nhưng ta có thể loại bỏ tư duy khẳng định hay sao? Nó không cần thiết ở một mức độ nhất định của đời sống con người sao?”
Dĩ nhiên, nhưng nó không phải là toàn bộ vấn đề. Chúng ta đang xét liệu tri thức có trở thành chướng ngại cho sự hiểu ngộ chân lý. Tri thức là then chốt, thiếu nó chúng ta phải bắt đầu lại trong nhiều lĩnh vực nhất định của cuộc sống. Điều này đã quá giản đơn và rõ ràng. Thế nhưng liệu tri thức được tích lũy ngày càng nhiều, dù nhiều đến mấy, liệu nó sẽ giúp chúng ta thấu hiểu được chân lý chăng?
“Chân lý là gì? Phải chăng đó là miếng đất được tất cả bước lên? Hay đó là một kinh nghiệm chủ quan, riêng tư?”
Dù được mệnh danh là gì, chân lý là luôn luôn mới mẻ, sinh động; thế nhưng những từ “mới mẻ”, “sinh động” chỉ được dùng để chỉ một tình trạng không hề tĩnh tại, không hề chết, không phải là một điểm cố định trong tâm con người. Chân lý phải được khám phá tươi mới trong từng thời khắc, nó không phải là một kinh nghiệm có thể lặp lại; nó không có sự liên tục, nó là một tình trạng phi thời gian. Sự phân biệt giữa cái nhiều và cái một phải dừng lại để chân lý có thể hiện hình. Đó không phải là một tình trạng để đạt tới, cũng chẳng phải là một điểm để tâm có thể tiến tới, để tiếp cận dần*. Nếu chân lý được hiểu như là một vật có thể thủ đắc thì sự nuôi dưỡng tri thức và tăng trưởng ký ức có thể trở nên cần thiết, thì đó là cơ hội tốt cho những ông thầy guru** và các đệ tử, một kẻ biết rõ và một kẻ không biết rõ.
*Nơi đây ta dễ nghĩ đến câu “không có gì để chứng” trong Bát-nhã Tâm kinh (ND).
**Guru: đạo sư tâm linh, từ Sanskrit chỉ các vị thầy hướng dẫn trong các giáo phái tâm linh phương Đông. Trong ngôn ngữ phương Tây, guru thường được giữ nguyên không dịch, chỉ các vị sư trưởng. Có khi từ guru được dùng một cách châm biếm (ND).

“Thế thì ông chống các ông guru và các đệ tử?”
Thật không phải là vấn đề chống một điều gì, thế nhưng nên thấy rằng sự khép mình rập khuôn, mà đó chính là niềm mong ước được an toàn, với tất cả mọi sự sợ hãi của nó, thái độ đó ngăn chận con người chứng nghiệm được cái phi thời gian.
“Tôi nghĩ là đã hiểu ý ông. Nhưng thật vô cùng khó để chối từ những gì người ta đã tích lũy được. Thực vậy, có khả dĩ không?”
Từ bỏ để đạt tới thì hoàn toàn không cần chối từ. Thấy cái hư vọng là hư vọng, thấy cái đích thực trong cái hư vọng, và thấy cái đích thực là cái đích thực - đó là điều sẽ giải phóng cho tâm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

TỰ BIẾT MÌNH VÀ TỰ THÔI MIÊN MÌNH?


Trời mưa suốt đêm, kéo dài gần hết buổi sớm và bây giờ thì mặt trời đang hé rạng sau những đám mây đen và nặng. Bầu trời vắng màu sắc nhưng mùi thơm của đất ngấm đầy nước mưa lan đầy trong không gian. Ếch nhái kêu ồm ộp suốt đêm một cách bền bỉ và từng nhịp, nhưng khi rạng đông đến thì chúng lặng yên. Những thân cây thẫm đen vì mưa dầm; và những ngọn lá, được gột sạch bụi bặm mùa hè, sẽ lại sum sê xanh tốt trong những ngày tới. Những thảm cỏ cũng sẽ xanh hơn, các bụi cây con sẽ sớm nở hoa, khắp nơi sẽ hân hoan vui sướng. Cơn mưa lớn sau đợt nóng nực thật đáng đón nhận biết bao trong những ngày khô hạn này! Những ngọn núi bên kia đồi dường như không nằm quá xa, ngọn gió nhẹ từ đó thổi lại mát mẻ và trong lành. Sẽ có nhiều công ăn việc làm hơn, nhiều thực phẩm hơn, sự đói kém sẽ lui về dĩ vãng.
Một trong những con chim ưng màu nâu to lớn đảo những vòng rộng trên trời, nó không hề đập cánh mà bay lượn trong gió. Hàng trăm người đang đạp xe về nhà sau một ngày dài trong sở. Vài người vừa đạp xe vừa nói chuyện nhưng phần lớn đều giữ im lặng, rõ ràng là họ đã mệt nhoài. Một nhóm nhiều người dừng lại, xe đạp dựa người, sôi nổi bàn về một chuyện gì đó, trong lúc đó một ông cảnh sát mệt mỏi quan sát họ. Tại góc đường một số nhà to lớn đang được xây dựng. Con đường đầy những vũng nước nâu sẫm và xe cộ chạy ngang bắn nước bẩn thành những vệt đen trên áo quần người qua đường. Một người cưỡi xe dừng lại, mua thuốc lá và lại chạy tiếp.
Một cậu bé đi ngang đội trên đầu một bình dầu lửa đã cũ, nửa bình bên trong chứa một thứ chất lỏng. Hẳn cậu vừa làm việc quanh đâu đây, gần tòa nhà đang xây. Cậu có cặp mắt sáng và một khuôn mặt hết sức vui tươi; cậu ốm nhưng chắc người, da cậu thật đậm màu, cháy nắng. Cậu mặc một chiếc áo thun và khăn quấn quanh lưng, cả hai đều mang màu đất nâu đã bạc. Đầu cậu có dáng đẹp và cậu có một cái gì hãnh diện trong dáng đi - một cậu bé nhưng có công việc của một người đàn ông. Sau khi qua khỏi đám đông, cậu bắt đầu ca và đột nhiên cả bầu không khí thay đổi. Giọng cậu khá, một giọng con trai còn nhỏ, đầy khí lực và âm sắc khàn khàn; thế nhưng bài ca có nhịp điệu và lẽ ra cậu đã giữ được nhịp với bàn tay của mình, nếu một tay không phải giữ chiếc bình đựng dầu lửa. Cậu biết có ai đi theo mình nhưng quá vui nên không chút thẹn thùng và rõ là cậu không hề quan tâm gì đến sự thay đổi khác thường đã xuất hiện trong không gian. Trong không khí có một phúc lành, một niềm thương yêu bao trùm mọi vật, một sự êm ái giản đơn, không tính toán, một nét thiện mỹ vừa nở hoa.
Bỗng nhiên cậu bé ngưng hát và quay bước về phía một chòi tranh rách nát nằm cách xa vệ đường. Chắc là trời sắp mưa lại.
Người khách nói, anh giữ một chức vụ trong chính phủ, tới nay thì việc rất tốt. Vì anh hưởng được một nền giáo dục số một trong gia đình cũng như bên ngoài, anh có thể thăng tiến rất cao. Anh đã lập gia đình, có vài con. Đời anh khá vui thích vì sự thành công được bảo đảm; nhà đang ở là do anh làm chủ, anh để dành tiền cho con cái ăn học. Anh biết tiếng Sanskrit và đã quen với truyền thống tôn giáo. Anh nói, mọi thứ đều được thỏa mãn cả; thế nhưng ngày nọ anh dậy rất sớm, tắm rửa và ngồi thiền trước khi cả nhà và láng giềng thức dậy. Dù đã ngủ ngon nhưng anh không sao thiền định được, và đột nhiên anh cảm thấy một sự bức xúc ngập tràn lòng mình, tự nhủ phải dành hết cả đời còn lại cho phép thiền định. Anh không có chút ngại ngần hay nghi ngờ gì cả; mình phải dâng hết đời mình để tìm ra bất cứ những gì có thể tìm được bằng phép thiền định. Anh nói với vợ và với hai con trai, chúng đang học trung học, rằng anh phải trở thành một sannyasi*. Đồng nghiệp của anh ngạc nhiên trước quyết định này, nhưng họ cũng chấp nhận cho anh từ chức và chỉ sau vài ngày anh rời bỏ gia đình, để rồi không bao giờ trở lại.
*Tín đồ của một giáo phái nhất định tại Ấn Độ (ND).
Anh bỏ nhà ra đi cách đây đã hai mươi lăm năm. Anh tự khép mình vào một kỷ luật khắc nghiệt; hồi đó anh tự thấy thật là khó sau một cuộc sống dễ dãi và mất một thời gian lâu mới làm chủ được hoàn toàn những tư tưởng và đam mê có sẵn trong mình. Thế rồi, cuối cùng anh bắt đầu có được linh ảnh của Đức Phật, Chúa và Krishna, những linh ảnh mà vẻ đẹp làm anh mê hoặc và anh sống dài ngày như trong mộng, thậm chí anh mở rộng biên giới của thân lẫn tâm của mình, hoàn toàn xả bỏ mình vào trong tình yêu dành cho đấng Thiêng liêng. Tất cả mọi thứ quanh anh - dân làng, thú vật, cây cối, cỏ hoa - đều sinh động lạ thường, rực sáng trong sức sống và lòng yêu thương. Rồi anh trải qua những năm sau này và chạm đến được bờ bến của cái Vô cùng, anh nói, và thật là đáng kinh ngạc là anh vẫn còn tồn tại.
*Vị thần quan trọng của Ấn Độ giáo, thường được trình bày có bốn mặt nhìn ra bốn hướng (ND).
“Tôi có một số đệ tử và tín đồ, trong xứ này thì đó là điều không thể tránh khỏi”, anh tiếp lời, “Và một số trong họ xin tôi hãy tham dự một buổi nói chuyện của ông được tổ chức trong phố này, nơi mà tôi tình cờ ở lại vài ba ngày. Thật ra, để làm vui lòng lời khẩn cầu nọ hơn là đi nghe nói chuyện, tôi đã đến và hết sức bị ấn tượng với những gì ông nói về vấn đề thiền định. Ông nói, nếu không tự biết mình - thực tế biết mình chính là thiền định - thì tất cả phép thiền định chỉ là một quá trình tự thôi miên, một sự phóng chiếu của chính tư tưởng và ham muốn của mình. Tôi đã từng suy nghĩ về tất cả những điều này và bây giờ đến trao đổi với ông đây. Tôi thấy những gì ông nói là hoàn toàn đúng đắn và tôi thật bàng hoàng khi nhận ra là chính mình bị trói buộc vào trong những hình ảnh hay sự phóng chiếu do tâm mình tạo. Bây giờ tôi đã thấy rất sâu sắc phép thiền định của tôi là gì. Từ hai mươi lăm năm nay tôi bị giữ trong một ngôi vườn tuyệt đẹp do chính mình tạo nên; những người, những cảnh đều là xuất phát từ nền văn hóa riêng tư của mình và từ những gì mà tôi từng ham muốn, từng học hỏi và từng thâu nhận. Bây giờ tôi đã hiểu ý nghĩa những gì mình làm, và bây giờ tôi thấy hoảng sợ đã phung phí quá nhiều năm tháng quý báu”.
Chúng tôi yên lặng một hồi lâu.
“Tôi nên làm gì đây?”, sau đó anh tiếp lời, “Có cách nào thoát ra khỏi ngục tù mà tôi đã quây lấy cho mình? Tôi thấy những gì mình đạt được trong phép thiền định chỉ là một ngõ cụt, mặc dù mới chỉ cách đây vài ngày dường như nó mang đầy ý nghĩa sáng ngời. Nếu có muốn đi nữa, tôi cũng không thể trở lại với sự tự lừa dối, tự kích thích. Tôi muốn xé bỏ những bức màn của ảo tưởng và đến với những gì không phải do tâm trí xây dựng nên. Ông không biết về những gì tôi đã trải qua trong hai ngày vừa rồi đâu! Cơ cấu mà tôi đã cẩn trọng và khổ công xây dựng trong hai mươi lăm năm qua nay không còn chút ý nghĩa, và xem ra tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Tôi phải bắt đầu từ đâu đây?”
Phải chăng không cần bắt đầu lại gì cả, nhưng chỉ cần biết hư vọng là hư vọng, đó là chỗ bắt đầu của sự hiểu ngộ? Nếu bắt đầu lại, ta lại có thể bị vướng trong một ảo tưởng khác, có thể trong một cách khác. Điều làm ta mù quáng là lòng ham muốn được thành tựu, được đạt tới kết quả; thế nhưng nếu nhận biết rằng lòng ham muốn thành tựu vẫn nằm trong miếng đất của tự ngã thì sẽ không còn tư tưởng thành tựu. Biết hư vọng là hư vọng, biết đích thực là đích thực, đó chính là minh triết.
“Thế nhưng liệu tôi đã thực sự thấy những gì mình làm trong hai mươi lăm năm qua là hư vọng? Liệu tôi đã ý thức về ý nghĩa của tất cả những gì mà mình tưởng là phép thiền định?”
Lòng khao khát được chứng nghiệm là chỗ bắt đầu của ảo giác. Như bây giờ ông thấy, những linh ảnh của ông chẳng qua là sự phóng chiếu của tâm tư sâu kín, của điều kiện nội tại, và chính những sự phóng chiếu đó là điều ông đã chứng nghiệm. Tất nhiên đó không phải là thiền định. Chỗ bắt đầu của thiền định là sự thấu hiểu cái gốc gác, thấu hiểu cái nội tại; mà thiếu sự hiểu ngộ đó thì điều được gọi là thiền định, dù nó vui thích hay khổ nhọc, chỉ là một dạng của sự tự thôi miên. Ông đã thực hành cách chế ngự bản thân, làm chủ tư tưởng và tập trung nhìn màn diễn biến của kinh nghiệm. Đó là một sự chiếm đóng của tự ngã mà không hề là thiền định; và hành động nhận ra điều đó không phải là thiền định chính là sự bắt đầu của thiền định. Thấy cái đích thực trong cái hư vọng sẽ giải phóng tâm thoát khỏi cái hư vọng. Sự giải thoát khỏi hư vọng không do lòng ham muốn được thành tựu, nó tự đến khi tâm không còn quan tâm gì đến thành quả, đến mục đích cuối cùng. Đó là chỗ chấm dứt lòng sở cầu, và chỉ như thế thì mới có thể xuất hiện cái không thể đặt tên*.
*Không thể đặt tên: nameless. Nơi đây Krishnamurti làm ta nhớ đến câu “Danh khả danh phi thường danh” của Lão Tử (ND).
“Tôi không muốn lại tự làm mình thất vọng nữa”.
Tự làm mình thất vọng chỉ có khi hiện diện một dạng của lòng khao khát hay sự trói buộc: Sự trói buộc của một thành kiến, của một kinh nghiệm, của một hệ tư tưởng. Dù ý thức hay không ý thức, người chứng nghiệm luôn luôn tìm kiếm kinh nghiệm lớn hơn, sâu hơn, rộng hơn; và bao lâu người chứng nghiệm còn đó thì bấy lâu còn có sự lừa dối trong dạng này hay dạng khác*.
*Có sự chứng nghiệm nhưng không có người chứng nghiệm, đây là thông điệp quan trọng của tác giả và cũng là quan điểm vô ngã của đạo Phật. Độc giả có thể tham khảo thêm “Tâm kinh” để hiểu thêm về sự chứng nghiệm của đạo Phật. Kinh bắt đầu với “năm uẩn là không” (không có người chứng nghiệm) và chấm dứt với “không có gì để chứng” (chứng nghiệm cái Không) (ND).
“Hẳn tất cả những điều đó cần nhiều thời gian và lòng kiên trì lắm nhỉ?”
Thời gian và lòng kiên trì thì có thể cần thiết cho sự thành tựu một mục đích. Một người có một ước vọng, thế gian hay siêu thế gian, thì cần thời gian để đạt thành quả. Tâm là sản phẩm của thời gian và mọi tư tưởng đều là kết quả của tâm và khi tư tưởng tìm cách giải phóng mình khỏi thời gian thì hành động đó chỉ tăng cường thêm sự nô lệ của nó đối với thời gian. Thời gian chỉ tồn tại khi có một khoảng cách nội tâm giữa cái đang là và cái nên là, cái sau được mệnh danh là ý hướng, là mục đích. Ý thức được cái hư vọng trong toàn bộ hoạt động của tư tưởng tức là giải phóng ra khỏi hư vọng - một điều không hề cần đến sự dụng công, sự thực hành gì cả. Sự hiểu ngộ xảy ra tức khắc, không cần thời gian.
“Phép thiền định mà tôi đã đắm mình trong đó chỉ có nghĩa nếu nó được xem là sai trái và tôi nghĩ tôi cũng thấy nó sai. Nhưng…”
Xin đừng hỏi những câu thường tình như phải làm điều gì hay tương tự như thế. Khi cái hư vọng đã bị xả bỏ thì chỗ trống cho cái phi hư vọng sẽ tự xuất hiện*. Ông không thể tìm cái đích thực thông qua cái hư vọng; cái hư vọng không phải là viên đá lót đường cho chân lý. Cái hư vọng phải hoàn toàn dứt bặt, không phải là cái có thể so sánh với chân lý; bạo lực không thể so sánh với lòng yêu thương. Bạo lực phải ngưng để lòng yêu thương có thể xuất hiện. Sự chấm dứt bạo lực đâu phải là vấn đề của thời gian nhanh chậm. Nhận thức cái hư vọng là hư vọng chính là chấm dứt cái hư vọng. Hãy để tâm trống rỗng, đừng để cho nó tràn đầy với sản phẩm của tâm. Khi đó thì chỉ có sự thiền định chứ không phải có một thiền giả đang thiền định.
*Cách nói tương tự của Thiền sư Đạo Nguyên (1200-1253) là “Mây tan núi hiện” (ND).
“Tôi bị chiếm giữ bởi một thiền giả, bởi một kẻ tầm cầu, bởi một người vui sướng, bởi một người chứng nghiệm, đó là chính tự ngã tôi. Tôi sống trong ngôi vườn đáng yêu do tôi tự tạo và là một tù nhân trong đó. Bây giờ tôi thấy tính chất hư vọng của mọi sự - tuy còn lờ mờ nhưng tôi đã thấy nó”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

SỰ TRỐN CHẠY KHỎI CÁI ĐANG LÀ


Đó là một ngôi vườn đẹp, với thảm cỏ xanh thoáng rộng và những bụi cây nở hoa, được bao bọc bằng những cây to tàng rộng. Có một con đường chạy dọc theo một phía vườn, và người ta vẫn thường nghe thấy tiếng nói chuyện khá to, nhất là buổi chiều tối, khi mọi người trên đường về nhà. Nếu không thì thật là yên tĩnh trong vườn. Cỏ đẫm nước vào hai buổi sáng tối; và trong hai buổi đều có nhiều chim chóc nhảy tung tăng trên thảm cỏ tìm sâu. Chúng hăng say kiếm mồi tới mức dám đến thật gần không chút e dè với cả những người ngồi dưới tàng cây. Hai con chim, một xanh một vàng, đuôi vuông, với một chiếc lông dài và mềm mại chĩa hẳn ra ngoài, thường đến kiếm mồi giữa các bụi hồng. Chúng mang đúng sắc màu của những chiếc lá non và vì thế mà hầu như không thấy được chúng. Đầu chim dẹp, mắt nhỏ, mỏ đen. Chúng lượn vòng trên mảnh vườn, sà xuống bắt sâu rồi trở lại giữa những cành đong đưa của bụi hồng. Thật là một cảnh tượng dễ thương, đầy thanh bình và cảnh đẹp. Người ta không thể đến gần chúng, chúng hay sợ; thế nhưng nếu ta ngồi dưới tàng cây và không động đậy quá nhiều, ta sẽ thấy chúng đùa giỡn dưới ánh mặt trời chiếu trên những chiếc cánh vàng trong trẻo của chúng.
Cũng thường có một con chó mongoose* từ trong bụi cây dày hiện ra, chiếc mõm đỏ của nó nghếch lên trời và cặp mắt sắc bén luôn quan sát mọi động tĩnh. Trong ngày đầu xem ra nó khó chịu khi thấy có người ngồi dưới tàng cây, thế nhưng nó sớm làm quen với sự hiện diện của con người. Nó đi dọc suốt chiều dài khu vườn, không chút vội vàng, với chiếc đuôi dài quét cỏ. Có khi nó đi mé bờ cỏ, sát các bụi cây, lúc đó nó rất chăm chú, mũi phập phồng co giật. Khi cả gia đình chó đi chơi thì con chó mongoose lớn dẫn đường, con cái nhỏ hơn theo sau và sau đó là hai con nhỏ; cả đàn đi dọc một đường thẳng. Những con chó con dừng lại vài ba lần, nhưng khi con mẹ thấy chúng không theo sát mình liền quay đầu lại, thì những con chó con chạy ào theo và lại đi đúng một đường thẳng.
*Một loài chó Ấn Độ (ND).
Dưới ánh trăng, khu vườn thật quyến rũ; những tàng cây bất động, lặng yên chiếu những chiếc bóng dài và đậm trên bãi cỏ, giữa những bụi cây tĩnh mịch. Sau một buổi lăng xăng kiếm mồi và ca hát líu lo, chim chóc đã đậu lại nghỉ đêm trong bóng tối của tàng cây. Bây giờ hầu như không còn ai ở ngoài đường, nhưng cũng có khi vang một tiếng hát từ xa hay có ai thổi vài điệu sáo trên đường về nhà. Nếu không thì khu vườn hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có tiếng thì thầm rất nhẹ. Không một ngọn lá xào xạc, những ngọn cây in đậm thân cành trong bầu trời bàng bạc màu sương.
Trong thiền định không có chỗ cho sự tưởng tượng; sự tưởng tượng cần phải được hoàn toàn dẹp bỏ, vì tâm vướng vào tưởng tượng thì chỉ có thể nuôi dưỡng sự lừa dối. Tâm phải sáng, bất động, và trong ánh sáng của sự sáng sủa đó, cái phi thời gian* sẽ hiển lộ.
*Timeless.
Ông là một cụ già với bộ râu bạc; và thân hình gầy còm của ông được phủ vừa vặn bằng chiếc áo choàng của một sannyasi. Thái độ và lời nói của ông lịch sự, nhưng mắt ông chứa đầy nỗi đau - cái đau khổ của người tìm kiếm không có kết quả. Lên mười lăm ông đã bỏ gia đình và từ chối thế gian, và từ nhiều năm ông đi khắp nơi trong xứ Ấn Độ, viếng thăm các già-lam, nghiên cứu, thiền định, tầm cầu không ngớt. Ông sống một thời gian trong một già-lam của vị lãnh đạo chính trị và tinh thần, người đã tranh đấu hăng say cho nền độc lập của Ấn Độ cũng như đã lưu lại trong một già-lam khác ở phía Nam, trong đó người ta hát những bài thánh ca tuyệt vời. Trong một thiền đường mà một vị thánh đã từng sống, ông cũng sống tại đó như thế, cùng với nhiều người khác, lặng yên và tầm cầu. Tại các già-lam ở mé biển phía Đông, phía Tây, ông đã từng lưu trú, dò tìm, vấn hỏi và tranh luận. Trên vùng xa phía Bắc, giữa băng tuyết và hang động lạnh lẽo, ông cũng từng có mặt, ông từng thiền định giữa tiếng nước chảy sôi réo của dòng sông thiêng liêng*. Sống cùng với những người tu khổ hạnh, ông đã chịu khổ ải về mặt thể chất và ông cũng đã từng thực hiện những chuyến hành hương dài ngày đến các đền thờ thiêng liêng. Ông thành thạo tiếng Sanskrit và hân hoan tụng niệm khi đi từ nơi này đến nơi khác.
*Tác giả muốn nói sông Hằng (ND).
“Tôi đã tầm cầu Thượng đế bằng tất cả mọi cách kể từ tuổi mười lăm, thế nhưng tôi không tìm thấy Ngài và bây giờ tôi đã qua tuổi bảy mươi. Tôi tìm đến ông cũng như đã tìm đến những người khác, hy vọng tìm được Thượng đế. Tôi phải tìm ra Ngài trước khi chết - nếu không thì Ngài chỉ là một trong nhiều huyền thoại của con người bày ra”.
Xin phép hỏi, thưa ông, liệu ông nghĩ là cái không thể đo lường* có thể dùng tâm tầm cầu mà tìm ra chăng? Bằng cách đi nhiều con đường, bằng tính kỷ luật và tự hành hạ, bằng cúng tế và hành lễ, liệu kẻ tầm cầu có thể tới với cái miên viễn chăng? Dĩ nhiên thưa ông, cái miên viễn có hay không, điều đó không quan trọng, cũng như liệu về sau ta khám phá được sự thật về nó hay không; thế nhưng điều quan trọng bây giờ là thấu hiểu được tại sao ta tìm kiếm, và ta tìm kiếm cái gì. Tại sao ta lại tìm kiếm?
*The immeasurable.
“Tôi tìm kiếm vì nếu không có Thượng đế, cuộc đời sẽ vô nghĩa. Tôi kiếm Ngài vì đời có lo âu và đau khổ. Tôi kiếm Ngài vì tôi cần thanh bình. Tôi kiếm Ngài vì Ngài là thường hằng, không thay đổi; vì cái chết thì có còn Ngài thì bất tử. Ngài chính là trật tự, là thiện mỹ, tôi kiếm Ngài vì lý do đó”.
Đó chính là, vì thống khổ trước cái vô thường, chúng ta đeo đuổi một cách đầy hy vọng để tìm cái mà ta gọi là thường hằng. Động lực của sự tầm cầu của chúng ta là tìm sự tiện nghi trong ý niệm thường hằng, và ý niệm này được sinh ra từ tính vô thường, nó được nuôi dưỡng trưởng thành bằng niềm đau khổ của sự đổi thay liên tục. Ý hướng này là không thật, trong lúc khổ não là thật; thế nhưng dường như chúng ta không thấu hiểu tính chất của khổ não và vì thế mà cứ bám vào ý hướng, vào hy vọng được hết khổ. Thế nên trong ta sinh ra hai mặt của một bên là tình trạng có thực và bên kia là ý hướng, có mâu thuẫn triền miên giữa cái đang là và cái nên là. Động lực của mọi tầm cầu là trốn ra khỏi sự vô thường, khỏi khổ não, để đi vào được một chỗ mà tâm mệnh danh là thường hằng, là ân phước vô tận. Thế nhưng bản thân tư tưởng này cũng vô thường và nó được sinh ra từ chính sự phiền não. Cái đối nghịch - dù ta tô vẽ thế nào - chính là nhân tố tạo ra cái đối nghịch chống lại chính mình. Thế nên, sự tầm cầu của chúng ta chỉ là mong ước được thoát khỏi cái đang là.
“Phải chăng ông muốn nói chúng ta phải dứt bỏ sự tìm kiếm?”
Nếu ta lơ là không chịu chú ý để hiểu thấu cái đang là, thì sự tầm cầu, như đã nói, có lẽ hoàn toàn không quan trọng. Còn nếu tâm đã được giải thoát khỏi khổ não thì còn tìm kiếm hạnh phúc làm gì?
“Liệu tâm có bao giờ thoát khỏi khổ não không?”
Muốn kết luận liệu tâm có thể hay không thể giải thoát thì hãy dứt bỏ mọi tầm cầu mà thấu hiểu. Ta hãy tập trung toàn bộ sự chú ý để thấu hiểu cái khổ não và ta sẽ không làm được điều đó nếu cứ tìm cách trốn tránh khổ não hay tâm cứ lo tìm kiếm ai gây ra khổ. Phải có một sự chú ý hoàn toàn, đừng quanh co lo lắng.
Khi tâm hết tầm cầu, hết nuôi dưỡng lòng tranh chấp do ý muốn và lòng khao khát sinh ra, khi có sự tĩnh lặng bên cạnh sự hiểu ngộ thì lúc đó cái không thể đo lường sẽ xuất hiện.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC ĐIỀU GÌ LÀ TỐT CHO QUẦN CHÚNG?


Vài người trong nhóm chúng tôi đang ngồi trong phòng. Hai người từng bị tù nhiều năm vì lý do chính trị; họ đã chịu khổ và hy sinh để giành độc lập cho xứ sở và cũng là những người có tiếng tăm. Tên của họ thường nằm trên báo chí, và mặc dù có thái độ khiêm tốn nhưng lòng tự hào khác thường về sự nghiệp và danh tiếng vẫn nằm trong tâm họ. Họ là người học rộng và phát biểu dễ dàng nhờ đã quen nói trước công chúng. Một người khác cũng là nhà chính trị, một người cao lớn có cặp mắt sắc sảo, người có đầy những dự định và một đầu óc tiến thủ. Ông cũng từng ở tù vì cùng lý do, nhưng giờ đây ông ở trong một vị trí đầy quyền lực, dáng vẻ quả quyết và tự tin; ông biết cách vận dụng tư tưởng, vận động con người. Còn một người nữa, ông đã từ bỏ mọi sở hữu thế gian và khao khát được làm điều thiện mỹ. Hết sức thông thái và đầy thuyết phục, ông có một nụ cười chân thật và tươi vui, ông đang du hành khắp nơi trong nước, giảng giải, thuyết phục và nhịn ăn. Còn ba hay bốn người nữa cũng đang phấn khởi muốn được leo lên cấp bậc trong lĩnh vực chính trị hay lĩnh vực tâm linh, trong nấc thang của sự trọng vọng hay thực hành tâm nhẫn nhục.
“Tôi không hiểu được”, một người bắt đầu, “Tại sao ông lại chống sự hành động như thế. Cuộc sống là hành động, vắng bóng hành động cuộc sống chỉ là một quá trình của ứ đọng. Chúng ta cần những người hiến mình cho hành động để thay đổi các điều kiện xã hội và tôn giáo của xứ sở bất hạnh này. Chắc chắn ông không chống lại sự cải cách: Điền chủ phải tự nguyện cống hiến một ít đất đai của họ cho người vô sản; vấn đề giáo dục dân quê, sự cải thiện làng mạc, từ bỏ thói phân chia giai cấp, vân vân”*.
*Đây là những vấn đề quan trọng bậc nhất trong xã hội Ấn Độ của thế kỷ hai mươi mà ngày nay vẫn chưa được giải quyết. Cuộc tranh luận với các nhà chính trị này cho thấy sự khác biệt một trời một vực giữa tư tưởng của Krishnamurti và cách tư duy cũng như hoạt động của các nhà chính trị (ND).
Cải cách, dù cần thiết tới mấy, cũng chỉ nuôi dưỡng nhu cầu tiếp tục cải cách và như thế sẽ không bao giờ chấm dứt. Điều cốt yếu là phải có một cuộc cách mạng trong tư duy con người chứ không cải cách kiểu chắp vá. Nếu vắng bóng một sự thay đổi cơ bản trong tim óc con người, sự cải cách chỉ làm cho con người ngủ quên bằng cách cho họ chút thỏa mãn. Không phải điều này khá rõ rồi hay sao?
“Ồng muốn nói chúng ta không nên thực hành cải cách hay sao?”, một người khác nêu câu hỏi với một sự căng thẳng bất ngờ.
“Tôi nghĩ là anh hiểu lẩm ông ta”, một người lớn tuổi hơn nói. “Ông ta muốn nói cải cách không bao giờ mang lại sự chuyển hóa toàn diện cho con người. Thật thế, cải cách ngăn chận sự chuyển hóa toàn diện, vì nó chỉ làm con người ngủ quên bằng cách cho vài sự thỏa mãn tạm bợ. Khi phát huy thứ cải cách làm vui lòng người này, anh đã cho ông bạn láng giềng uống thuốc để được an thần”.
“Thế nhưng nếu chúng ta cố tự hạn chế trong một thứ cải cách nhất định - thí dụ sự tự nguyện cấp đất cho bẩn nông - cho đến lúc các thứ kia được thành hình, như vậy không phải lợi hơn sao?”
Ông có thể chia cắt một phần ra khỏi cái toàn thể của cuộc sống được chăng? Ông có thể xây dựng nên một hàng rào chắn quanh nó, tập trung lên nó, bỏ quên phần còn lại được không?
“Tác động lên cái toàn thể của cuộc sống thực ra chính là kế hoạch hành động của chúng tôi. Khi một chương trình cải cách đã thành tựu, chúng tôi sẽ quay qua làm cái tiếp”.
Phải chăng cái toàn thể của cuộc sống có thể được thấu hiểu thông qua cái riêng lẻ? Hay phải chăng cái toàn thể cần được nhận thức và thấu hiểu trước đã, và chỉ sau đó cái riêng lẻ mới được xem xét và biến đổi trong mối liên hệ với cái toàn thể? Nếu không thấu hiểu cái toàn thể mà chỉ tập trung lên cái riêng lẻ thì chỉ nuôi dưỡng thêm sự rối loạn và khốn khổ.
“Phải chăng ông muốn nói”, một người có giọng căng thẳng cất tiếng, “Chúng tôi không được hành động, không được thực hiện cải cách nếu trước đó không nghiên cứu tất cả vấn đề của cuộc sống?”
“Dĩ nhiên như thế là vô nghĩa”, nhà chính trị nói, “Nhưng chúng tôi không thể có thì giờ mà tìm hiểu toàn bộ ý nghĩa của cuộc đời. Điều này chỉ để dành cho những kẻ mơ mộng, cho các ông guru, cho các triết gia. Chúng tôi thì lo công việc hàng ngày; phải hành động, phải làm luật, phải điều hành, phải biến sự hỗn loạn thành trật tự. Chúng tôi quan tâm đến đê đập, tưới tiêu, nông nghiệp phát triển; chúng tôi bận với thương mại, kinh tế, với lực lượng nước ngoài. Quá đủ nếu chúng tôi quản lý tốt công việc, ngày này qua ngày khác, không để cho tai ương xảy ra. Chúng tôi là những con người thực tiễn, có vai trò, có trách nhiệm, và đem hết khả năng mình để cống hiến cho quần chúng”.
Nếu được phép hỏi thì làm sao ông biết được điều gì là tốt cho quần chúng? Ông quá coi trọng mình. Ông bắt đầu với rất nhiều kết luận, và khi ông bắt đầu với một kết luận, không kể nó là của ông hay của người khác, thì tất cả tư duy đều dừng lại. Điều mà ông tự cho mình đảm đương được mà người khác thì không, điều đó mang lại sự khốn cùng hơn là sự khốn cùng mỗi ngày chỉ có một bữa ăn; vì sự sai lầm của những kết luận này sinh ra sự bóc lột con người. Khi hăng say hoạt động phục vụ quần chúng, dường như chúng ta chỉ mang lại thêm tai hại cho họ.
“Nhiều người trong chúng tôi cho rằng mình biết rõ điều gì là tốt cho xứ sở và quần chúng”, nhà chính trị giải thích, “Phía đối lập cũng nghĩ thế; nhưng trong xứ này phía đối lập không mạnh lắm, thật may cho chúng tôi; thế nên chúng tôi sẽ thắng và sẽ làm những gì được cho là tốt đẹp và có lợi”.
Mọi phe phái đều biết, hay nghĩ mình biết, cái gì là tốt cho quần chúng. Thế nhưng cái gì đích thực là tốt sẽ không tạo nên phản kháng, trong nhà cũng như ngoài đường; nó sẽ sinh ra sự nhất trí giữa người với người; điều gì đích thực là tốt sẽ quan tâm đến con người toàn diện chứ không đến những lợi lộc hời hợt, điều chỉ có thể đưa đến tai họa hay sự khốn khổ to lớn hơn; điều tốt đẹp đích thực sẽ chấm dứt sự chia cắt cũng như sự thù địch do chủ nghĩa quốc gia và do các định chế tôn giáo sinh ra. Cái tốt đẹp đó có dễ tìm như thế chăng?
“Nếu tìm hiểu tất cả ý nghĩa của thế nào là tốt đẹp, chúng ta sẽ chẳng đi tới đâu cả, và cũng sẽ không thể hành động được. Cái cần thiết cấp thời cần hành động cấp thời, mặc dù hành động này có thể sinh ra đôi chút hoang mang”, nhà chính trị trả lời, “Hiện nay chúng tôi không có thì giờ để suy tư, để triết lý. Nhiều người trong chúng tôi bận từ sáng tinh sương đến tối khuya, chúng tôi không thể ngồi dựa ngửa để suy tư cho hết về ý nghĩa của mọi sự và mọi hành động cần làm. Quả thật chúng tôi không kham hưởng được niềm vui của sự suy tư sâu xa, chúng tôi dành niềm vui đó cho người khác”.
“Thưa ông, dường như ông muốn để xuất”, một người trong nhóm nãy giờ giữ im lặng, “Trước khi làm những gì mình cho là tốt đẹp, ta phải nghĩ về toàn bộ ý nghĩa của hành động đó, vì mặc dù trước mắt một điều gì đó có thể có lợi, nhưng lâu dài nó có thể sinh ra hậu quả tai hại. Nhưng xin hỏi, có thể có một cái nhìn sâu xa quán chiếu* vào hành động của chúng ta chăng? Trong lúc hành động người ta có thể nghĩ mình có cái nhìn đó, nhưng về sau lại khám phá là mình mù quáng”.
*Insight
Lúc hành động, chúng ta sôi nổi, hăng say, chúng ta bị một ý niệm chiếm giữ hay bị nhân cách, nhiệt tình của nhà lãnh đạo tác động. Tất cả mọi nhà lãnh đạo, từ những bạo chúa đến các nhà chính trị sùng tín nhất, đều cho rằng mình hành động vì cái tốt đẹp cho quần chúng; và tất cả đều đã dẫn đến mồ chôn. Thế nhưng chúng ta vẫn không chống nổi ảnh hưởng của họ và đi theo chân họ. Ông không bị ảnh hưởng bởi một nhà lãnh đạo như thế sao? Có thể vị đó không còn sống nhưng ông vẫn suy nghĩ và hành động theo phép tắc, công thức, quan niệm sống của người đó; hay là ông đang bị một vị mới sau này ảnh hưởng. Thế nên nếu ta đi từ một nhà lãnh đạo này qua một nhà lãnh đạo khác, thì điều đó cũng có nghĩa là ta sẽ bỏ họ khi đã đạt tới ý mình, hay khi một vị khác hứa hẹn một cái tốt đẹp hơn. Trong sự hào hứng của mình, ta đưa những kẻ khác vào trong tấm lưới của niềm tin mình, và thường thì họ vẫn cứ nằm ở đó trong lúc ta đã đến với một nhà lãnh đạo khác hay niềm tin khác. Thế nhưng, điều đích thực là tốt đẹp thì không có tính chất sinh tạo ảnh hưởng, cưỡng bách và sự thuận tiện dễ dãi. Mọi hành động không có nghĩa tốt như vừa nói thì nhất định sẽ nuôi dưỡng cho sự rối loạn và khốn khổ.
“Tôi nghĩ tất cả chúng ta phải thừa nhận là bị một nhà lãnh đạo gây ảnh hưởng, trực tiếp hay gián tiếp”, người vừa rồi nói tiếp, “Vấn đề của chúng tôi là ở đó. Biết rằng mình hưởng nhận rất nhiều lợi lộc của xã hội nhưng trả lại rất ít, và thấy sự cùng khổ khắp mọi nơi, chúng tôi thấy mình có trách nhiệm với xã hội vì thế mà muốn làm một điều gì để giảm nhẹ nỗi cùng cực này. Thế nhưng phần lớn chúng tôi thấy mình bất lực, và vì thế mà chấp nhận theo một người có nhân cách mạnh mẽ. Cuộc đời hiến dâng của người đó, lòng thành tâm rõ ràng, tư tưởng và hành động sinh động của ông đã gây ảnh hưởng to lớn lên chúng tôi và trong nhiều trường hợp, chúng tôi quy phục ông; dưới ảnh hưởng của ông, chúng tôi được đưa vào hoạt động, khi thì cho sự giải phóng đất nước, khi thì cải thiện điều kiện xã hội. Chúng tôi chấp nhận thẩm quyền chính trị và từ sự chấp nhận đó mà có hành động. Điều mà ông nói với chúng tôi ngược lại với những gì chúng tôi quen nghĩ, nó không cho chúng tôi thước đo nào để đánh giá và hành động. Chắc ông hiểu cái khó của chúng tôi”.
Chắc chắn rồi, thưa ông. Mọi hành động dựa trên một thẩm quyền của kinh sách, dù thiêng liêng đến mấy; hay thẩm quyền của một nhân sĩ, dù quý phái hay thánh thiện thế nào; đều là hành động không biết suy nghĩ và không thể tránh khỏi sự lầm lạc lẫn đau khổ. Trong xứ sở này và những nước khác, nhà lãnh đạo tạo nên thẩm quyền của mình bằng cách diễn giảng về các thứ được gọi là kinh sách thiêng liêng, mà ông trích dẫn một cách tùy tiện; hay xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, vốn đã bị quy định bởi quá khứ; hay từ đời sống khắc khổ của mình, vốn dựa trên một khuôn mẫu sao cho thánh thiện nhất. Thế nên cuộc đời của nhà lãnh đạo cũng như của người quy phục đều bị giới hạn bởi thẩm quyền; cả hai đều là nô lệ của kinh sách, phụ thuộc vào kinh nghiệm của kẻ khác. Với cơ sở này mà ông đòi cải tạo thế giới. Có khả dĩ hay không? Hay trước hết ông phải dẹp qua một bên thế giới quan mang tính chất thẩm quyền và gia trưởng, và ông tiếp cận với các vấn đề với một tâm thức sinh động, mới mẻ? Đời sống và hành động không thể phân chia, chúng nằm trong một thể tương quan, một quá trình thống nhất; thế nhưng giờ thì phải chăng ông đang chia cắt chúng? Ông nhìn đời sống hàng ngày, với tư duy và hoạt động hàng ngày, tách biệt với thứ hành động mà ông sắp làm để thay đổi thế giới.
“Một lần nữa, như thế này”, người vừa nói cất tiếng, “Làm sao chúng tôi lại có thể vứt bỏ cái ách của thẩm quyền và truyền thống được, điều mà chúng tôi đã tự nguyện và vui vẻ chấp nhận từ hồi còn nhỏ? Nó là một phần của truyền thống lâu đời của chúng ta và bây giờ thì ông xuất hiện và nói hãy dẹp qua một bên, hãy dựa vào chính mình. Qua những điều tôi đọc và nghe thì ông từng nói bản thân Atman* cũng chẳng thường hằng gì cả. Ông có thể thấy chúng tôi đang bị hoang mang như thế nào.
*Atman: Tiểu ngã. Theo truyền thống Ấn Độ giáo, Tiểu ngã là linh hồn, là tâm thức con người. Tiểu ngã là một phần của Đại ngã (Brahma) và cả hai đều trường tồn bất diệt (ND).
Phải chăng ông chưa bao giờ vấn hỏi thực sự về quan niệm sống mang đầy tính chất thẩm quyền này. Câu hỏi đích thực về thẩm quyền sẽ chấm dứt thẩm quyền. Không có phương cách hay hệ thống nào mà qua đó tâm có thể thoát khỏi thẩm quyền và truyền thống; nếu có thì hệ thống này đã trở thành cái chiếm lĩnh tất cả rồi.
Tại sao ông lại chấp nhận thẩm quyền, trong nghĩa sâu xa của từ ngữ này? Ông chấp nhận thẩm quyền, cũng như ông thầy guru cũng chấp nhận thẩm quyền, chẳng qua bởi vì muốn được an toàn, được yên tâm, được tiện nghi, được phục tùng, được đến bờ bên kia*. Ông và ông guru chẳng qua là những kẻ mong cầu được thành tựu; cả hai đều bị tham vọng lôi kéo. Nơi nào có tham vọng, nơi đó không có lòng yêu thương; và hành động vắng bóng lòng yêu thương là vô nghĩa.
*“Được đến bờ bên kia” vốn là câu quan trọng trong kinh sách ám chỉ sự giác ngộ nhưng cũng trở thành khẩu hiệu của nhiều thầy guru (ND).
“Về mặt tri thức thuần túy, tôi thấy những gì ông nói là đúng, thế nhưng trong nội tâm, bằng cảm nhận, tôi không thấy nó có thể có thực”.
Ở đây không có sự thấu hiểu bằng tri thức; vấn đề là hoặc chúng ta hiểu ngộ hoặc không. Sự phân chia con người thành những ngăn hộc riêng biệt lại là một sự vô lý khác của chúng ta. Thà hãy thừa nhận mình chưa hiểu ngộ còn hơn là cho rằng hiểu trên mặt lý luận, điều đó chỉ nuôi dưỡng lòng tự kiêu và mối mâu thuẫn giả tạo.
“Chúng tôi đã chiếm quá nhiều thì giờ của ông, thế nhưng có lẽ ông vẫn cho phép chúng tôi được trở lại?”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 12 Mar 2018

“TÔI MUỐN TÌM SUỐI NGUỒN HẠNH PHÚC”


Mặt trời nằm sau đồi, thị trấn như cháy dưới ánh chiều và bầu trời huy hoàng ánh sáng. Trong ánh hoàng hôn còn đọng, trẻ con chơi đùa và nói cười ầm ĩ; vẫn còn nhiều thời gian trước bữa cơm tối. Một tiếng chuông lạc loài vang ra từ một ngôi đền xa xa, và từ một ngôi đền đạo Hồi có tiếng gọi đã đến giờ cầu nguyện buổi chiều. Những con vẹt đã trở về từ những khu rừng thưa và cánh đồng nằm ngoài xa, bay đến đậu trên những ngọn cây có tàng dày đặc dọc theo con đường. Chúng kêu những tiếng có vẻ bực dọc trước khi nghỉ giấc đêm. Các con quạ cũng đến đậu cùng, khàn khàn tiếng gọi, cũng như còn thêm những loài chim khác, tất cả đều như ồn ào gắt gỏng. Đây là một khu vực tách biệt của thị trấn và tiếng ồn của xe cộ bị chìm dưới tiếng ríu rít khá to của chim muông; nhưng khi bóng tối tới thì chúng cũng yên dần và chỉ sau vài phút nay chúng đã lặng yên, sẵn sàng chờ đêm xuống.
Một người đàn ông đi đến với một cái gì như sợi dây thừng quấn quanh cổ. Tay ông cầm một đầu sợi dây. Một nhóm người tíu tít nói cười dưới một tàng cây, nơi loang lổ ánh sáng của một bóng đèn điện. Người đàn ông đi đến nhóm người, để sợi dây trên mặt đất. Có tiếng kêu thất thanh, mọi người bỏ chạy vì “sợi dây” là một con rắn hổ mang to tướng, đầu ngẩng cao đu đưa qua lại. Người đàn ông cười đưa ngón chân trần đầy rắn đi rồi chụp nó lại, giữ rắn ngang đầu. Dĩ nhiên người ta đã nhổ răng độc của rắn, bây giờ nó vô hại, thế nhưng mới ngó qua cũng thấy đáng sợ thật. Ông đề nghị để con rắn quanh cổ tôi và lấy làm hài lòng khi thấy tôi vuốt ve nó. Da rắn xếp vảy và mát lạnh, gợn những bắp thịt chắc nịch, mắt rắn đen và nhìn trừng trừng vì rắn không có mí mắt. Chúng tôi đi chung với nhau một đoạn, con rắn quanh cổ ông không bao giờ chịu yên mà lúc nào cũng ngọ nguậy.
Đèn đường làm những vì sao mờ và xa nhưng sao Hỏa vẫn có sắc đỏ và sáng. Một người ăn xin đi ngang, bước chậm chạp rã rời hầu như đi không nổi, quần áo tả tơi, chân quấn vải bạt, cột bằng thứ dây to. Ông cầm một chiếc gậy dài, miệng lẩm bẩm một mình và không nhìn lên khi chúng tôi đi ngang. Xa hơn một chút là một tòa khách sạn thanh nhã và đắt tiền, phía trước tòa nhà xe hơi dừng lại cho khách lên xuống.
Một vị giáo sư đại học còn trẻ, có vẻ hơi hồi hộp, có giọng nói cao và cặp mắt sáng, nói rằng ông ta từ xa đến và có một câu hỏi rất quan trọng.
“Tôi đã biết nhiều niềm vui khác nhau: Niềm vui vợ chồng, niềm vui có sức khỏe, của ý thích, của bạn bè. Vốn là giáo sư văn chương, tôi đọc nhiều hiểu rộng và yêu thích sách vở. Thế nhưng tôi thấy trong tự thân, niềm vui là cái luôn luôn thoáng qua, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất. Không có điều gì tôi biết tới mà có được một chút lâu dài và ngay cả văn chương, thú vui lớn nhất của đời tôi, cũng bắt đầu mất cái vui vững bền của nó. Tôi cho rằng phải có một cái nguồn gốc vĩnh cửu của mọi niềm vui, nhưng mặc dù ra sức dò kiếm, tôi không tìm ra được nó”.
Phải chăng tầm cầu là một hiện tượng rất dễ đưa đến sai lẩm? Bất mãn với cái hiện tại, ta đi tìm cái nằm sau nó. Đau khổ với cái hiện tại, chúng ta dò tìm trong tương lai hay trong quá khứ; và cái được tìm ra đó cũng bị héo mòn ngay trong hiện tại. Không bao giờ ta chịu dừng điều đó để tìm kiếm nội dung trọn vẹn của cái hiện tại mà luôn luôn theo đuổi những giấc mơ của tương lai; hay tìm trong ký ức đã qua của quá khứ, ta lựa cái phong phú nhất và cho nó sức sống. Ta bám víu vào những cái đã là hay từ chối nó trong ánh sáng của cái sẽ đến; thế nên hiện tại trôi qua không ai để ý đến; hiện tại chỉ là đoạn đường trung gian, đi qua càng nhanh càng tốt.
“Dù nó ở trong quá khứ hay tương lai bất kỳ, tôi muốn tìm nguồn gốc của niềm vui”, anh nói tiếp, “Ông hiểu ý tôi? Tôi không còn tìm kiếm đối tượng mà từ đó niềm vui toát ra - ý niệm, sách vở, con người, thiên nhiên - mà bản thân nguồn gốc của niềm vui, bên kia tính chất tạm thời của nó. Nếu ta không tìm ra nguồn gốc, ta sẽ bị vướng mãi trong nỗi khổ vô thường”.
Ông không nghĩ là chúng ta phải thấu hiểu ý nghĩa của chữ “tìm kiếm” sao? Nếu không thì những gì hai chúng ta nói sẽ không liên hệ gì với nhau cả. Tại sao lại có cái bức xúc phải tìm kiếm, cái khắc khoải phải tìm ra điều gì, cái cưỡng bách phải đạt tới? Có lẽ nếu chúng ta phát hiện động lực và thấy cách vận hành của nó, ta sẽ thấy ý nghĩa của sự tìm kiếm.
“Động lực của tôi thì đơn giản và trực tiếp: Tôi muốn tìm nguồn gốc trường cửu của niềm vui, vì mọi thú vui tôi biết đều chóng qua. Cái thôi thúc làm tôi đi tìm là nỗi khốn khổ khi biết rằng mình không sở hữu cái gì vĩnh viễn cả. Tôi muốn thoát ra khỏi cái nỗi lo bất an này và tôi nghĩ điều này chẳng có gì lạ. Ai biết suy nghĩ cũng tìm cái mà tôi đang tìm. Những người khác gọi nó bằng một tên khác - Thượng đế, chân lý, ân phước, tự tại, Moksha*, vân vân - nhưng tất cả chủ yếu chỉ là một”.
*Moksha: từ Sanskrit, có nghĩa “giải thoát“ (ND).
Bị trói buộc trong cái khổ não của vô thường, tâm đi tìm sự vĩnh viễn, dù nó mang tên gì cũng thế thôi; và chính sự khao khát của tâm về cái thường hằng đã sinh ra cái thường hằng, cái đối lập với cái đang là. Thực ra không có sự “tìm kiếm” gì cả, ở đây chỉ có niềm mong ước có được tiện nghi dễ chịu của sự thường hằng. Khi tâm biết mình đang ở trong một tình trạng biến hoại thì nó cố dựng lên dạng ngược lại, thế nên tâm bị lôi vào trong sự tranh chấp của nhị nguyên; và khi muốn trốn tránh ra khỏi cuộc tranh chấp này, nó lại theo đuổi một cái đối lập khác. Thế nên tâm luôn luôn bị cuốn vào bánh xe của những cái đối lập.
“Tôi ý thức được quá trình phản ứng của tâm như ông giảng; thế nhưng phải chăng người ta không nên tìm kiếm gì cả? Cuộc đời sẽ hết sức tẻ nhạt nếu không còn khám phá gì nữa”.
Bằng sự tìm kiếm, liệu chúng ta có khám phá được gì mới không? Cái mới không phải là cái ngược với cái cũ, nó không phải là cái đối lập của cái đang là. Nếu cái mới chỉ là sự phản chiếu của cái cũ thì nó chỉ là dạng tiếp tục được điều chỉnh của cái cũ. Tất cả nhận thức đều dựa trên quá khứ, nên những gì nhận thức được không phải là mới mẻ. Sự tầm cầu xuất phát từ nỗi khổ của hiện tại, thế nên cái được tìm kiếm thật ra là cái đã được biết đến. Ông tìm kiếm tiện nghi thoải mái và có thể ông sẽ tìm ra nhưng nó sẽ chóng qua, vì bản thân sự thôi thúc kiếm tìm cũng vô thường. Tất cả ước muốn - tìm nguồn vui, tìm Thượng đế hay bất cứ điều gì - đều chóng qua cả.
“Liệu tôi hiểu đúng ý ông nói không, vì sự tầm cầu xuất phát từ ước muốn và ước muốn lại là vô thường nên sự tìm kiếm là hão huyền vô ích?”
Nếu ông thấy sự thật của điều này thì sự biến hoại chính là niềm vui.
“Làm sao tôi thấy được sự thật của điều này?”
Không có “làm sao”, không có phương cách nào cả. Phương cách ẩn chứa ý niệm của sự vĩnh viễn. Bao lâu tâm còn muốn đến đích, muốn đạt tới, muốn thủ đắc, thì bấy lâu tâm còn tranh chấp. Tranh chấp thì không nhạy cảm. Chỉ có một tâm thức nhạy cảm mới thấy được sự thật. Sự tầm cầu do tranh chấp sinh ra và khi tranh chấp dứt bặt thì cũng không còn nhu cầu tìm kiếm điều gì nữa. Khi đó là ân phước.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong, thomas1960

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

THÚ VUI, THÓI QUEN VÀ SỰ KHẮC KHỔ


Con đường đưa khách về phía Nam của thị trấn ồn ào, trải dài với hầu như bất tận những dãy nhà mới xây. Con đường đầy xe buýt, xe con, xe bò và hàng trăm người đi xe đạp, họ từ sở về nhà sau một ngày dài làm những việc quen thuộc, những công việc mà chẳng ai thích làm. Nhiều người dừng xe bên vệ đường, ghé chợ mua rau cải đã héo. Khi chúng tôi đi qua ranh giới của thị trấn thì nơi đó đầy cây cối um tùm ở hai bên đường, mới được một trận mưa nặng hạt làm sạch bóng. Mặt trời đang lặn phía bên mặt, một quả cầu lửa vĩ đại nằm trên những ngọn đồi xa. Vài con dê đang nhởn nhơ giữa các hàng cây và đám trẻ con đang đuổi bắt nhau. Con đường rẽ cong qua một ngôi tháp có từ thế kỷ thứ mười một, tháp màu đỏ cao nghễu nghện giữa các phế tích Hindu và Mogul*. Rải rác đây đó là các ngôi mộ cổ và một lối đi có mái vòm như kể lại một thời vàng son đã xa xưa.
*Hindu: thuộc về Ấn Độ giáo, Mogul: thuộc về Hồi giáo mà thời thịnh trị nhất là thời đại Mogul trong thế kỷ thứ XVI (ND).
Xe dừng lại và chúng tôi đi bộ dọc theo con đường. Một nhóm bộ hành từ ruộng nương kéo về nhà, tất cả đều là phụ nữ. Và sau một ngày làm việc vất vả, họ cất tiếng hát một bài ca du dương. Trong miền quê an lành này giọng hát của họ như vươn xa, sáng rõ, ầm vang và vui tươi. Khi chúng tôi đến gần, họ thẹn thùng dứt tiếng hát nhưng lại tiếp tục sau khi chúng tôi đi qua.
Đèn đêm sáng lên giữa những ngọn đồi thoai thoải và cây cối in đậm nét trên nền trời sẫm tối. Trên một mỏm đá khổng lồ, sừng sững những bờ tường loang lổ của một pháo đài xưa. Một vẻ đẹp lạ thường che phủ cả một vùng hoang dã; nó nằm quanh chúng tôi, tràn ngập trong từng góc xó của đất đai, trong cả ngõ ngách thầm kín của tim óc chúng tôi. Chỉ có lòng thương yêu* đang ngự trị, không phải chia ra thành lòng thương yêu Thượng đế và lòng thương yêu con người; lòng thương yêu không thể chia cắt. Một con cú lớn yên lặng bay trong ánh trăng, và một nhóm dân làng có trình độ học thức đang bàn cãi ồn ào, xem có nên đi phố xem phim hay không; họ hiếu động chiếm luôn cả nửa con đường.
*Lòng thương yêu: love. Trong tất cả các bài giảng, Krishnamurti thường nói đến “lòng thương yêu” và sử dụng từ “love”. Như độc giả sẽ tự thấy, “lòng thương yêu” mà tác giả nói đến là một trạng thái tâm thức khi con người tỉnh giác nhận thức hiện tại, không để cho quá khứ và tư tưởng tác động lên. Vì thế “lòng thương yêu” không có nghĩa yêu thương thông thường mà là một tính chất của tâm thức mà con người bình thường của chúng ta không có. Trong nhiều trường hợp “lòng yêu thương” đồng nghĩa với “từ bi” hay “giác ngộ” (ND).
Thật là vui được ở dưới ánh trăng mềm mại, bóng trăng chiếu trên mặt đất sắc và rõ. Một chiếc xe tải lạch cạch đi tới, thổi những tiếng còi hăm dọa, rồi sớm qua, để lại cho ngôi làng không khí dễ thương của buổi tối và sự cô tịch mênh mông.
Anh ta là một thanh niên khỏe mạnh và đầy suy tư, mới chừng ba mươi và làm việc trong một cơ quan của chính phủ. Anh không bực gì lắm về công việc của mình, anh kể, và nếu tính cho công bằng, thì anh cũng có lương bổng kha khá và một tương lai hứa hẹn. Anh có gia đình, con trai lên bốn mà anh định mang theo đến đây nhưng mẹ nó sợ phiền.
“Tôi đã nghe ông nói chuyện một đôi lần”, anh nói, “Và tôi xin phép đặt một câu hỏi. Tôi có vài thói quen xấu, chúng làm phiền tôi lắm, tôi muốn từ bỏ chúng. Từ vài tháng nay tôi muốn dứt bỏ chúng nhưng không được. Tôi phải làm sao đây?”
Hãy xem xét thói quen và đừng phân chia chúng thành tốt hay xấu. Sự nuôi dưỡng thói quen, tập quán, dù tốt đẹp hay đáng kính, chỉ làm tâm cùn nhụt. Khi nói thói quen tập quán là ta nói gì? Hãy cùng nhau suy nghĩ, đừng dính mắc nơi sự định nghĩa.
“Thói quen là một hành động lặp đi lặp lại”.
Phải chăng khi đó có một động lực sinh ra trong một chiều hướng nhất định, có thể vui thích hay không vui thích, có thể được ý thức hay không được ý thức, có tư tưởng hay không có tư tưởng. Đúng thế không?
“Thưa ông, đúng thế”’.
Nhiều người thấy cần cà phê buổi sáng, không có thì bị nhức đầu. Có thể mới đầu thân thể không đòi hỏi, nhưng dần dần nó quen với mùi vị dễ chịu và sự kích thích của cà phê và bây giờ thì nó khổ vì không có.
“Thế nhưng cà phê là cần thiết”.
Ông nói cần thiết là sao?
“Thực phẩm tốt cần thiết cho sức khỏe tốt”.
Đúng thôi; thế nhưng cái lưỡi đã quen với thứ thực phẩm có một vị riêng biệt, thế nên thân có cảm giác mất mát và bất an khi nó không có được cái đã quen. Phải chăng sự đòi hỏi một loại thực phẩm nhất định cho thấy một thói quen đã thành hình, thói quen dựa trên thú vui và ký ức về thú vui đó.
“Nhưng làm sao bỏ được một thói quen dễ chịu. Bỏ thói quen khó chịu thì tương đối dễ, nhưng vấn đề của tôi là bỏ những thứ dễ chịu”.
Như tôi đã nói, chúng ta không xét thói quen dễ chịu hay khó chịu, hay tìm cách từ bỏ chúng, mà đang thử thấu hiểu bản thân thói quen là gì. Chúng ta thấy rằng thói quen được hình thành khi có một thú vui và có yêu cầu được tiếp tục thú vui đó. Thế nên thói quen dựa trên thú vui và ký ức về thú vui. Một kinh nghiệm mới đầu không dễ chịu có thể dần dần trở nên dễ chịu và biến thành thói quen “cần thiết”. Bây giờ chúng ta hãy đi xa hơn một chút về vấn đề của ông. Vấn đề của ông là sao?
“Trong số các thói quen với tôi, thì sự ham mê tình dục đã thành thói quen mạnh mẽ và đòi hỏi phải được thỏa mãn. Tôi đã tìm cách chế ngự nó bằng cách giữ kỷ luật cho bản thân, bằng cách ăn kiêng, thực hành nhiều bài tập khác nhau, vân vân, cho dẫu tôi chống lại nhưng thói quen vẫn cứ tiếp diễn”.
Có lẽ trong cuộc sống, ông không có chỗ thoát khác, không có một ham thích khác với một động lực hẳn hoi. Có thể ông thấy nhàm chán với công việc mà không ý thức điều đó; và đối với ông, tôn giáo chỉ là hình thức nghi lễ được lặp lại, là một loạt những giáo điều và niềm tin vô nghĩa. Nếu nội tâm ông bị ngăn trở, bị hoang mang thì tình dục là chỗ giải phóng duy nhất cho ông. Với nội tâm tỉnh giác, biết thấy cái mới trong công việc, thấy cả cái mới trong những điều vô lý của xã hội, tìm ra cho mình ý nghĩa đích thực của tôn giáo - thì đó là điều sẽ giải phóng tâm khỏi bị nô lệ vào bất cứ thói quen tập quán nào.
“Tôi thường quan tâm đến tôn giáo và văn chương, thế nhưng tôi không rỗi cho những thứ đó vì suốt ngày bận bịu với công việc. Thật ra thì tôi cũng không chán công việc nhưng tôi cũng thấy hoạt động kiếm kế sinh nhai không phải là tất cả và cũng như ông nói, có lẽ tôi phải có thời gian cho một sự quan tâm to lớn và sâu sắc hơn, biết đâu nó giúp tôi bỏ được cái thói quen đang làm tôi phiền bực”.
Như đã nói, thói quen là sự lặp lại một hành động được ưa thích, do ký ức kích thích và do hình ảnh mà tâm gợi lên. Sự tiết dịch nội tuyến và hệ quả của nó; thí dụ cái đói, không phải là thói quen, mà chỉ là quá trình thông thường của thể chất. Thế nhưng khi tâm nuông chiều cảm quan, được kích thích bởi ý nghĩ và hình ảnh, thì thói quen sẽ hình thành. Thực phẩm là cần thiết nhưng khi ta đòi hỏi phải có một món ăn đặc biệt thì đó là do thói quen. Khi đi tìm sự vui thích trong ý nghĩ và hành động, dù tinh tế hay thô thiển, tâm chỉ đòi sự tiếp diễn, đó chính là nuôi dưỡng thói quen. Một hành động lặp lại, thí dụ đánh răng buổi sáng, cũng trở thành thói quen nếu ta không ý thức về nó. Chỉ sự chú tâm mới giải phóng tâm ra khỏi thói quen.
“Thế ông muốn nói ta phải bỏ tất cả những thú vui?”
Không, thưa ông. Bây giờ chúng ta không tìm cách bỏ hay đạt điều gì cả; chúng ta đang tìm cách thấu hiểu sự vận hành của thói quen, cũng như thấu hiểu vấn đề của thú vui. Có nhiều tu sĩ, nhiều người học phép du-già, nhiều bậc thánh, các vị đó phủ nhận thú vui; họ tự hành xác mình, bắt tâm phải chống trả lại, phải lãnh đạm với mọi dạng của thú vui. Thật là một thú vui khi nhìn vẻ đẹp của một ngọn cây, một đám mây, ánh trăng trên mặt nước, hay của con người; mà nếu phủ nhận thú vui này tức là phủ nhận cái đẹp.
Mặt khác, cũng có nhiều người loại bỏ cái xấu và đeo bám vào cái đẹp. Họ chỉ muốn ở yên trong khu vườn dễ thương do họ xây nên, rũ bỏ tất cả tiếng ồn, mùi hôi và sự tàn bạo xảy ra bên kia bức tường. Họ cũng thành công đó, nhưng ông không thể dứt bỏ cái xấu và chỉ giữ lấy cái đẹp mà không trở nên cùn nhụt, vô cảm. Ông phải đủ nhạy cảm để biết đau khổ cũng như biết vui thích chứ không phải tránh một điều và tìm một điều khác. Cuộc đời gồm cả cái chết lẫn lòng yêu thương. Biết yêu thương là có thể bị thương tổn, là nhạy cảm; còn thói quen chỉ nuôi dưỡng cái vô cảm, thói quen hủy hoại lòng yêu thương.
“Tôi bắt đầu cảm nhận cái đẹp mà ông nói đến. Đúng là tôi tự làm mình cùn nhụt và ngu đần. Tôi cũng thường thích đi dạo trong rừng, nghe chim muông líu lo, quan sát nét mặt của con người trên đường phố, và tôi cũng thấy đã để cho thói quen hành hạ mình. Thế nhưng lòng yêu thương là gì?”
Lòng yêu thương không phải chỉ là thú vui, một sản phẩm của ký ức; lòng yêu thương là cường độ cao của sự bị thương tổn* và của vẻ đẹp, tình trạng này sẽ bị loại bỏ nếu tâm xây tường che quanh tự ngã của mình. Lòng yêu thương chính là đời sống và cũng là sự chết. Phủ nhận cái chết và bám vào sự sống tức là phủ nhận lòng yêu thương.
*Vulnerability.
“Tôi thật bắt đầu có cái nhìn sâu sắc vào những điều này và vào bản thân tôi. Thiếu vắng lòng yêu thương, cuộc sống sẽ trở thành máy móc và thuần túy chỉ là thói quen tập quán. Công việc trong sở của tôi thật là máy móc và thực tế đời tôi cũng thế thôi. Tôi bị lôi vào trong một guồng máy to lớn của sự lặp lại và sự nhàm chán. Tôi đã ngủ quên và bây giờ phải tỉnh dậy”.
Khi nhận thức sâu xa rằng mình ngủ quên thì đó đã là sự tỉnh thức, không cần có ý muốn tỉnh thức nữa. Hãy đi xa hơn một chút nữa. Phải chăng không có cái đẹp nếu thiếu sự khắc khổ?
“Tôi không hiểu ông nói gì”.
Sự khắc khổ không nằm trong hành động ngoại cảnh: Ở trần đóng khố hay mặc áo nhà sư, ăn mỗi ngày một bữa, sống ẩn dật viễn ly*. Những sự giản đơn đầy kỷ luật đó, dù cho hà khắc tới mấy, nó cũng chưa phải là sự khắc khổ; đó chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài nhưng bên trong lại thiếu vắng một sự vững chãi. Sự khắc khổ chính là sự đơn giản của một tình trạng cô tịch nội tâm, là sự đơn giản của một cái tâm đã được gột sạch khỏi tranh chấp mâu thuẫn, khi tâm không còn bị vướng trong ngọn lửa của thèm muốn, kể cả thèm muốn cái cao cả nhất. Vắng bóng sự khắc khổ này, thì không thể có lòng yêu thương và vẻ đẹp chính là do lòng yêu thương mà thành.
*Các phép tu khổ hạnh thông thường tại Ấn Độ. Krishnamurti hay công kích những hình thức tu hành của Ấn Độ giáo, vì thế trong đời, ông cũng bị nhiều người rất ghét (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

“ÔNG THAM GIA HỘI BẢO VỆ THÚ VẬT KHÔNG?”


Mặt trời sáng rực trong bầu trời và một ngọn gió nhẹ từ biển thổi về. Trời ban mai còn rất sớm, chỉ có ít người ngoài đường và xe cộ lưu thông chưa nhiều. May thay hôm nay trời sẽ không quá nóng, nhưng khắp nơi đầy bụi, thứ bụi rất mịn và đeo bám, vì cả mùa hè này không mưa. Trong công viên nhỏ và được chăm sóc cẩn thận này, bụi nằm dày trên cây; thế nhưng dưới bóng mát, dọc theo những cây con là một dòng nước mát mẻ, được dẫn về từ một chiếc hồ trên núi xa. Ngồi trên ghế bên cạnh dòng nước này thật là vui thích và thanh bình - một nơi đầy bóng mát. Trong ngày, công viên sẽ đầy trẻ con với các bà giữ trẻ; có nhiều người đi làm trong công sở cũng sẽ ra đây. Tiếng nước chảy giữa các bụi cây như một lời chào mời dễ chịu; chim chóc đập cánh bên cạnh dòng nước, tắm nước và vui thích kêu chiêm chiếp. Những con công to lớn ra vào giữa các bụi cây, bệ vệ oai nghiêm. Trong những vũng sâu đầy nước trong trẻo là những con cá vàng khá lớn. Mỗi ngày trẻ con đến ngắm và cho chúng ăn, chúng cũng hân hoan như những con ngỗng trắng bơi lượn trên một hồ nước không sâu lắm.
Rời công viên nhỏ bé, chúng tôi đi xe dọc theo một con đường ồn ào và bụi bặm đến một ngọn đồi đá và leo lên một con đường có bậc dẫn đến ngõ vào khu vực thiêng liêng của một đền thờ cổ. Ở phía Tây, khách có thể nhìn thấy một khoảng rộng của cái hồ xanh, hồ nổi tiếng với những trận thủy chiến lịch sử; và phía Đông là những ngọn đồi thấp, cằn cỗi trong bầu trời mùa thu, nhưng chứa đầy những nỗi nhớ yên tĩnh và hạnh phúc. Phía Bắc là những ngọn núi dựng đứng, nhìn xuống đồi và thung lũng nóng nực. Ngôi đền nằm trên núi đá nay đã trở thành phế tích, nó vốn bị sự tàn bạo của con người phá hủy. Những chiếc cột đá cẩm thạch đổ nát - bị nước mưa bao thế kỷ bào mòn nay dường như trong vắt - dáng nhẹ, hao gầy nhưng trang nghiêm. Ngôi đền vẫn là một công trình toàn hảo, khi ta đến gần và yên lặng ngắm nhìn. Một cánh hoa nhỏ sắc vàng, rực sáng trong ánh nắng mai, mọc từ kẽ nứt dưới chân một cột đá lộng lẫy. Ngồi trong bóng mát của một trong những cây cột này, ngắm nhìn những ngọn đồi yên lặng và vùng hồ nằm xa, ta chứng nghiệm được nhiều điều nằm ngoài toan tính của tâm.
Một buổi sáng nọ, leo lên đồi đá, chúng tôi thấy một nhóm nhiều người quanh ngôi đền. Những dàn máy quay phim khổng lồ, các tấm chắn, các phụ tùng linh kiện, tất cả đều mang thương hiệu của một hãng phim tiếng tăm, và những chiếc ghế làm bằng vải bạt xanh với tên họ in sẵn lên trên. Dây điện nằm ngổn ngang trên mặt đất, giám đốc lẫn nhân viên kêu nhau ơi ới, và các diễn viên chính đang trang điểm, rối rít với các người phụ trách trang phục. Hai người đàn ông, mặc áo choàng của tu sĩ kinh viện, đang đợi đến lượt mình được gọi, và các bà ăn mặc tươi tắn cười nói rúc rích. Họ đang chụp một tấm hình.
Chúng tôi ngồi trong một căn phòng nhỏ. Xuyên qua cửa sổ mở, thảm cỏ xanh và bóng mượt trong nắng mai hắt một ánh sáng xanh dịu lên chiếc trần trắng của phòng. Mang nữ trang đắt giá, đôi giày cao gót loại tốt, và với một chiếc áo sari hẳn rất đắt tiền, bà cho hay mình đứng đầu trong một tổ chức bảo vệ thú vật. Con người đối xử tàn tệ với thú vật, đánh đập chúng, cắt đuôi chúng, đâm chích chúng bằng gậy gộc nhọn sắc, gây ra những điều kinh khủng không thể nói hết. Thế nên phải có luật pháp bảo vệ và cuối cùng, dư luận xã hội, vốn có nhiều ý kiến khác nhau về việc này, cần phải được tuyên truyền vận động, vân vân…
“Tôi đến đây để xin ông giúp cho công việc quan trọng này. Nhiều nhân sĩ tiếng tăm khác cũng đã lên tiếng sẵn sàng ủng hộ, và thật là phải lý nếu ông cũng tham gia với chúng tôi”.
Bà nghĩ rằng tôi nên tham gia hội của bà?
“Nếu ông tham gia thì thật là một sự hỗ trợ lớn, ông thấy sao?”
Bà nghĩ là các định chế chống lại sự tàn bạo của con người sẽ mang lại lòng yêu thương chăng? Bằng pháp luật, bà nghĩ sẽ mang lại tình huynh đệ của con người?
“Nếu ta không làm những gì mình cho là tốt, thì điều gì sẽ xảy ra? Cái tốt không thể xảy ra bằng cách ta rút lui khỏi xã hội; ngược lại, chúng ta phải hợp tác, từ người lớn nhất đến người bé nhất thì mới được”.
Chắc rồi, chúng ta phải hợp tác với nhau, điều đó quá hiển nhiên; nhưng hợp tác không có nghĩa là đi theo một kế hoạch của Nhà nước, theo lãnh tụ của một đảng phái hay phe nhóm, hay của bất cứ một thẩm quyền nào khác. Hợp tác với nhau vì sự sợ hãi hay vì mong được tuyên dương không phải là hợp tác. Sự hợp tác đến một cách tự nhiên và dễ dàng khi chúng ta yêu thương những gì mình đang làm; khi đó hợp tác là một điều vui sướng. Nhưng phải chăng muốn yêu thương thì trước hết hãy dẹp bỏ tham vọng, sự tham lam ganh tị?
“Muốn dẹp bỏ tham vọng cá nhân ta cần hằng thế kỷ và trong thời gian đó thì thú vật đang chịu thống khổ”.
Không có cái “trong thời gian đó”, chỉ có cái bây giờ. Bà muốn người ta yêu thú vật và yêu kẻ đồng loại là con người, đúng không? Bà muốn người ta chấm dứt sự tàn bạo, không phải trong tương lai mà ngay bây giờ. Nếu bà tính chuyện tương lai thì lòng thương yêu không hiện diện. Xin hỏi, cái bắt đầu đích thực của mọi hành động là gì, là lòng yêu thương hay là khả năng tổ chức?
“Tại sao ông lại tách lìa hai cái này?”
Thật có sự tách lìa trong câu hỏi vừa nêu không? Nếu hành động xuất phát từ chỗ thấy cần phải làm một việc nhất định và với khả năng tổ chức, thì hành động đó dẫn đến một hướng hoàn toàn khác nếu so với hành động do lòng thương yêu tạo nên và cũng với khả năng tổ chức. Khi hành động xuất phát từ sự thất vọng, hay từ lòng ham muốn quyền lực, thì dù hành động có xuất sắc đến mấy, hệ quả của nó cũng sẽ chỉ là sự rối loạn và sẽ tạo nên đau khổ. Hành động vì thương yêu thì không phiến diện, không mâu thuẫn hay chia cắt; nó có một hệ quả toàn phần, trọn vẹn.
“Tại sao ông lại nêu đề tài này lên? Tôi đến để hỏi xem liệu ông có vui lòng giúp cho công việc của chúng tôi, còn ông thì lại tra vấn về nguồn gốc của hành động? Vì sao?”
Xin hỏi, nguồn gốc mối quan tâm của bà là gì khi thành lập một tổ chức bảo vệ thú vật? Tại sao bà lại tích cực như vậy?
“Tôi nghĩ, vấn đề thật rõ. Tôi thấy thú vật bị ngược đãi khủng khiếp, và tôi muốn giúp, bằng luật lệ hay các phương tiện khác, để chấm dứt sự tàn bạo này. Tôi không biết mình còn động lực nào khác ngoài điều này. Có thể có”.
Tìm ra nó không phải là quan trọng sao? Khi đó thì bà có thể giúp cho thú và người trong một ý nghĩa to lớn hơn, sâu sắc hơn. Phải chăng bà thành lập tổ chức để trở thành một nhân sĩ, để thực hiện một tham vọng, hay để trốn chạy khỏi một sự thất vọng?
“Phải nhận là ông rất nghiêm túc, ông muốn bàn đến tận gốc rễ của vấn đề, phải thế không? Tôi là người rất thẳng thắn. Trong một chừng mực nào đó thì tôi rất có tham vọng. Tôi muốn người ta biết mình là một nhà cải cách; tôi muốn thành công, không muốn thất bại não nề. Mỗi người đều phấn đấu trên chiếc thang thành đạt và tiếng tăm. Tôi nghĩ điều đó là bình thường, rất con người. Tại sao ông lại chống nó?”
Tôi không chống nó. Tôi chỉ muốn chỉ ra rằng, nếu động lực của bà không thật sự là bảo vệ thú vật, thì bà sử dụng nó như một phương tiện cho sự tăng thượng của bà, điều mà ông lái xe bò cũng đang làm. Ông ta làm điều này một cách thô thiển, tàn bạo; trong lúc bà và những người khác làm một cách tinh tế, khôn ngoan hơn. Tất cả là thế. Bà đâu có chấm dứt sự tàn bạo, khi mà sự dụng công của bà trong việc chấm dứt tàn bạo vẫn còn mang lợi cho bà. Nếu qua việc bảo vệ thú vật mà bà không thỏa mãn tham vọng của mình hoặc không trốn chạy ra khỏi thất vọng hay đau khổ của mình thì chắc bà đã kiếm phương tiện khác để được bù đắp. Những điều này cho thấy bà hoàn toàn không quan tâm đến thú vật, xem chúng chỉ là phương tiện vì thành đạt cá nhân.
“Thế nhưng mọi người ai cũng làm thế cả, cách này hay cách khác. Tại sao tôi không nên?”
Đúng thôi, đại đa số mọi người làm vậy. Từ nhà chính trị cao cấp nhất đến ông xã trưởng, từ ngài giám mục đến ông tu sĩ làng, từ nhà cải cách xã hội vĩ đại nhất đến nhân viên thừa hành, mỗi người đều lấy danh nghĩa của xứ sở, của nghèo nàn, của Thượng đế, dùng làm phương tiện lấp đầy cho ý niệm, hy vọng, ảo vọng của mình. Ông ta là trung tâm, ông muốn có quyền lực và vinh quang, thế nhưng luôn luôn ông làm trong danh nghĩa của quần chúng, danh nghĩa của sự thiêng liêng, danh nghĩa của kẻ cùng khổ. Vì lý do này mà trên thế giới luôn luôn có một tình trạng hỗn loạn đáng sợ và đầy đau khổ. Những người này không phải là kẻ mang lại hòa bình cho thế giới, chận đứng sự bóc lột, ngăn cản sự tàn bạo. Ngược lại, họ chịu trách nhiệm về những thất vọng và khốn cùng to lớn hơn.
“Tôi thấy sự thật của điều này, tất cả những gì ông nói là đúng; nhưng cũng phải nói là thật thích thú khi có quyền lực trong tay, và tôi cũng như người khác, không chống nổi sự cám dỗ”.
Chúng ta không để người khác nằm ngoài cuộc thảo luận của mình được hay sao? Nếu bà cứ so sánh mình với người khác, thì ta chỉ biện hộ hay lên án những gì mình làm và khi đó thì bà không suy tư gì cả. Bà đang bênh vực mình bằng cách lấy một vị trí và như thế thì chúng ta sẽ không đi đến đâu.
Bây giờ, đã ý thức được phần nào về những gì mà cả sáng nay ta đã nói, bà không nghĩ là có một cách giải quyết khác về tất cả sự tàn bạo này, về tham vọng con người, vân vân?
“Thưa ông, qua cha tôi, tôi đã nghe rất nhiều về ông và tôi đến một phần vì tò mò, phần khác vì nghĩ ông có thể gia nhập với chúng tôi nếu tôi đủ sức thuyết phục. Nhưng tôi nhầm. Xin hỏi ông: Làm sao tôi có thể quên được chính mình, đối với bên ngoài cũng như nội tâm, và thật sự biết yêu thương? Dù sao đi nữa, là người Bà-la-môn, tôi có một cuộc sống tôn giáo từ trong huyết quản; thế nhưng tôi đã rời bỏ quá xa nhận thức tôn giáo đến nỗi tôi không nghĩ có lúc nào mình trở về được với nó. Tôi cần phải làm gì? Lẽ ra tôi không nên nêu câu hỏi này một cách nghiêm túc như thế và tiếp tục cuộc sống giả tạo của mình, nhưng liệu ông có thể nói điều gì đó để nó nằm trong tôi như một hạt giống và sẽ nẩy mầm?”
Đời sống tôn giáo không phải là điều để ta vực dậy; bà không thể làm sống lại thứ đã qua và đi mất. Hãy để cho quá khứ cứ bị chôn vùi, đừng tái tạo nó. Bà hãy ý thức là mình đang quan tâm đến chính mình và hoạt động của mình phục vụ cho tự ngã. Đừng giả vờ, đừng lừa dối chính mình. Hãy biết cái thực tế là mình có tham vọng, mình đang tìm kiếm quyền lực, địa vị, tiếng tăm, rằng mình phải trở thành người quan trọng. Đừng bào chữa với mình lẫn với người khác. Hãy đơn giản và trực tiếp chấp nhận chính mình. Và lòng yêu thương có thể đến bất ngờ, lúc bà không tầm cầu nó. Chỉ lòng yêu thương mới rửa sạch được những đeo đuổi xảo quyệt từ những góc cạnh thầm kín của tâm. Lòng thương yêu là lối ra duy nhất khỏi sự thất vọng và đau khổ của con người, chứ không phải là những tổ chức, định chế mà con người sắp đặt.
“Thế nhưng làm sao một cá thể, dù cho nó đang có lòng thương yêu, kham nổi những công việc nếu không có tổ chức và hành động của tập thể? Muốn chấm dứt sự tàn bạo, ta cần sự hợp tác của số đông người. Làm sao thực hiện được điều này?”
Nếu bà thực sự cảm thấy lòng yêu thương là nguồn gốc đích thực của hành động, bà hãy nói điều này với người khác và bà sẽ tập hợp được một ít người có cùng chung cảm nhận. Cái ít sẽ lớn lên thành cái nhiều, nhưng điều đó đừng nên là nỗi bận tâm của bà. Bà chỉ nên quan tâm đến lòng yêu thương và hành động trọn vẹn của nó. Chỉ hành động trọn vẹn này của mỗi cá thể mới làm cho một thế giới hoàn toàn mới có thể xuất hiện.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

BỊ QUY ĐỊNH* VÀ THÔI THÚC MUỐN ĐƯỢC GIẢI THOÁT


*Conditioning. Đây là từ mà Krishnamurti sử dụng thường xuyên. Theo tác giả con người “bị quy định” vì nó sinh ra và trưởng thành trong một truyền thống, cấu trúc và điều kiện xã hội nhất định với những giá trị, mực thước, thẩm quyền có sẵn. Trong một nghĩa sâu hơn, hễ con người còn mang nặng kinh nghiệm, ký ức, quá khứ là đã bị quy định. Sâu hơn nữa, có con người tự ngã là đã bị quy định. Thế nên thực tế là tất cả mọi người đều bị quy định. Theo Krishnamurti một tâm thức không bị quy định là dạng tâm thức hồn nhiên, tươi mới, phản ứng tỉnh giác và tức thì. Một tâm thức như thế chính là dạng của thiền mà Thiền tông hay nói đến (ND).
Thật là một cuộc đi dạo vui thích. Con đường từ nhà đi xuyên qua ruộng nho và nho cũng vừa bắt đầu chín; những chùm nho sum sê mọng nước sẽ cho nhiều rượu vang đỏ. Ruộng nho được chăm sóc cẩn thận, không có cỏ dại. Sau đó là một mảnh ruộng thuốc lá dài và rộng được trông nom tuyệt vời. Sau cơn mưa, mảnh ruộng bắt đầu trổ hoa màu đỏ hồng, thanh nhã gọn gàng; mùi thuốc lá tươi thoang thoảng vốn khác hẳn với vị đậm đặc của thuốc đã hong, nhưng bây giờ trở nên hăng hơn trong mặt trời nóng bức. Lúc này, những cành dài mang hoa thuốc lá phải bị cắt bỏ để cho lá thuốc màu xanh bạc, bây giờ đã khá lớn còn phải lớn hơn nữa, sum sê hơn nữa trong mùa thu hoạch. Sau đó lá thuốc sẽ được xếp lại, phân loại, buộc chặt, và treo thành chuỗi trong khu nhà dài nằm sau tòa nhà chính, chúng được hong khô mà chẳng cần mặt trời xuyên đến, chỉ cần gió nhẹ ban chiều là đủ. Cánh đàn ông cùng đám bò làm lụng trong mảnh ruộng thuốc lá này, họ xới những luống cày giữa các hàng cây thuốc thẳng và dài để giẫy cỏ. Đất được cày bừa và bón phân cẩn thận, thế nên cỏ dại tuy cũng mọc um tùm như thuốc lá, nhưng sau những tuần làm việc, không còn một sợi cỏ dại nào cả.
Con đường đi dạo dẫn qua vườn cây trái như đào, lê, hồng, mận, quýt và các loại khác, khắp nơi trái chín trĩu thân cành. Vào chiều tối, trong không khí thoảng một mùi hương thơm ngọt và ban ngày thì toàn tiếng vo ve của ong. Qua khỏi vườn cây, con đường dẫn xuống một đoạn dốc đưa vào một khu rừng dày kín. Ở đây, ngay dưới chân là một vùng đất mềm với lá úa của nhiều mùa hè đã qua. Dưới bóng cây, trời mát lạnh vì mặt trời không sao chiếu qua được các tàng lá rậm rạp, đất lúc nào cũng ẩm ướt và tỏa ra một vị ngọt, thoát ra mùi của đất mùn. Biết bao nhiêu là nấm, phần lớn đều là loại không ăn được. Đâu đó cũng có thứ ăn được nhưng bạn phải biết kiếm; thường thường chúng rút lui nằm ẩn dưới một ngọn lá cùng màu. Khách đi trong rừng sớm hái chúng đem ra chợ bán hay mang về nhà.
Hầu như không có chim chóc trong khu rừng này, nó vươn dài hàng dặm bên những ngọn đồi thoai thoải. Rừng hết sức yên lặng, ngay cả tiếng gió xào xạc chen lá cũng không. Thế nhưng luôn luôn có một loại vận động trong thứ rừng này, thứ vận động này là một phần của sự yên tĩnh mênh mông; nó không hề gây nhiễu và dường như nó gia nhập vào sự an tĩnh của tâm. Cây cối, côn trùng, loài dương xỉ tán rộng không hể tách biệt, những cái được thấy từ bên ngoài; chúng là một phần của sự tĩnh lặng này, nội tại và ngoại cảnh. Kể cả tiếng ồn của một chiếc xe lửa xa xa cũng được hàm chứa trong niềm tĩnh lặng này. Hoàn toàn vắng bóng sự đối kháng và tiếng sủa của một con chó, cầu khẩn thiết tha, dường như chỉ tăng thêm cho sự tĩnh lặng.
Sau cánh rừng là dòng sông uốn lượn dễ thương. Sông không quá rộng, không hùng vĩ nhưng đủ rộng để sinh ra một không gian mà tinh mắt mới thấy được bóng người bên kia sông. Dọc hai bên bờ đều là cây, phần lớn là bạch dương, dáng cao và oai vệ, lá rung rinh trong gió. Nước sông sâu và lạnh, lúc nào cũng chảy. Thật tuyệt vời khi nhìn ngắm sông, sống động và sung mãn làm sao. Một người câu cá ngồi một mình trên chiếc ghế thấp, với chiếc túi dã ngoại bên cạnh, trên đùi là tờ báo. Dòng sông mang lại niềm vui thích và thanh bình, dù cá xem ra biết tránh không cắn câu. Dòng sông bao giờ cũng sẵn đợi, dù nếu nơi đây có chiến tranh và người chết; sông luôn sẵn dạ nuôi đất và người. Thật xa là những ngọn núi phủ tuyết và vào một buổi tối trời trong, khi mặt trời chiều đã hạ, những đỉnh núi kiêu kỳ nhìn xa như những đám mây đầy nắng.
Chúng tôi ba bốn người ở trong phòng, ngoài cửa sổ là một thảm cỏ rộng, lấp lánh. Bầu trời tái xanh cuồn cuộn nhiều đám mây nặng nề.
“Liệu có bao giờ tâm có thể tự giải phóng mình ra khỏi những điều kiện mà trong đó nó đã bị quy định”, người đàn ông hỏi, “và nếu thế thì tình trạng của tâm không bị quy định là tình trạng gì? Tôi đã nghe những cuộc nói chuyện của ông trong một thời gian vài năm qua, và cũng suy tư nhiều về nó, thế nhưng tâm tôi dường như không bứt ra được khỏi truyền thống và ý niệm đã ghi sâu từ thời thơ ấu. Tôi biết mình đã bị quy định như mỗi người khác. Từ thời trẻ con chúng tôi đã được dạy phải khép mình - khi thì bị dạy dỗ bằng roi vọt, khi bằng tình cảm và khuyên bảo nhẹ nhàng - cho đến khi sự khép mình trở thành bản năng và tâm đâm ra sợ cái bất an nếu không được khép mình”.
“Tôi có cô bạn lớn lên trong môi trường Thiên Chúa giáo”, anh nói tiếp, “và dĩ nhiên cô nghe nói đến tội lỗi, hỏa ngục, hạnh phúc của thiên đường, và các thứ khác. Sau khi trưởng thành và suy tư rất lâu, cô từ bỏ hệ thống tư tưởng của Thiên Chúa giáo. Thế nhưng bây giờ ở tuổi trung niên, cô lại thấy mình tin nơi ý niệm về địa ngục, và lây cái sợ về nó. Còn tôi thì mặc dù gốc gác hoàn toàn khác, nhưng tôi cũng như cô, có cái sợ là không được khép mình với cái chung. Tôi thấy tính chất vô nghĩa của sự khép mình, nhưng không thể xả bỏ được và dù có thể bỏ được thì có lẽ tôi lại làm điều đó với một kiểu khác - chẳng qua chỉ là khép mình vào một khuôn mẫu khác”.
“Đó cũng là vấn đề của tôi”, một trong các bà nói, “tôi rất rõ mình bị buộc chặt vào truyền thống trong nhiều cách khác nhau; nhưng phải chăng tôi không thể bứt ra khỏi sự câu thúc hiện nay mà không bị sa vào một cái khác? Có nhiều người cứ trôi dạt từ một nhóm tôn giáo này qua một nhóm khác, luôn luôn tìm cầu nhưng không bao giờ thỏa mãn; và khi đã thỏa mãn đi nữa họ cũng thấy buồn tẻ đáng sợ. Điều có thể xảy ra cho tôi nếu tôi tìm cách bứt ra khỏi sự quy định hiện nay là: Nếu không biết rõ, chắc tôi sẽ bị lôi kéo đến một khuôn mẫu sống khác”.
“Thực tế là”, người đàn ông nói tiếp, “phần lớn chúng tôi không ai nghĩ cho sâu xa về tâm của mình, xem nó bị hình thành thế nào bởi xã hội và nền văn hóa trong đó chúng ta đang sống. Chúng ta không ý thức về sự bị quy định của chính mình và cứ thực hiện, phấn đấu, hoàn thành hay chán nản trong chính khuôn mẫu của xã hội đang có. Đó là số phận của phần lớn chúng ta, kể cả của các nhà lãnh đạo chính trị và tinh thần. Có lẽ không may cho tôi là đã tìm nghe nhiều buổi nói chuyện của ông và nỗi đau của sự vấn hỏi bắt đầu. Trước đây một thời gian tôi không nghĩ sâu về chuyện này lắm, thế nhưng đột nhiên tôi tự thấy mình nghiêm khắc hơn. Tôi tự kiểm nghiệm nhiều và nhận ra nhiều điều mà hồi trước tôi không để ý đến. Nếu mọi người không chê tôi lắm điều thì tôi xin nói thêm một chút về vấn đề của sự qui định”.
Nghe những người khác cho hay họ cũng quan tâm sâu sắc về vấn đề này, anh nói tiếp.
“Sau khi nghe và đọc những điều ông nói, tôi đã nhận ra mình bị qui định như thế nào; cũng như thấy là ta phải thoát khỏi những qui định đó - không phải chỉ những qui định của cái tâm nông cạn mà cả trong phần vô thức. Tôi nhận thấy sự cần thiết tuyệt đối phải làm thế. Vấn đề hiện nay là: Tôi đã bị qui định từ hổi còn nhỏ đồng thời tôi lại có một ước ao to lớn mình được thoát khỏi sự qui định đó. Thế nên tâm tôi bị vướng vào sự tranh chấp, một bên là ý thức về sự bị qui định, bên kia là cái thôi thúc phải thoát. Đó là vấn đề hiện nay. Tôi nên giải quyết như thế nào?”
Phải chăng sự thôi thúc được giải thoát tâm ra khỏi qui định cũng do một khuôn mẫu khác của sự đề kháng và qui định sinh ra? Khi đã ý thức về cấu trúc hay khuôn khổ mà trong đó ông đã trưởng thành thì bây giờ ông muốn thoát khỏi nó; thế nhưng phải chăng chính sự mong ước tâm được giải thoát, chính nó lại quy định tâm theo một cách khác? Khuôn mẫu cũ đòi ông phải khép mình vào một thẩm quyền, và bây giờ ông lại tạo ra một khuôn mẫu mới đòi ông không được khép mình; thế nên ông có hai khuôn mẫu, chúng mâu thuẫn lẫn nhau. Bao lâu trong ta còn tranh chấp nội tâm, bấy lâu ta còn bị quy định.
“Tôi biết khuôn mẫu cũ là rất vô lý và xơ cứng, phải thoát ra khỏi thôi, nếu không tâm tôi sẽ đi vào con đường ngu xuẩn đó”.
Hãy kiên nhẫn và xét kỹ hơn. Khuôn mẫu cũ buộc ông phải khép mình và vì nhiều lý do khác nhau - sợ bị bất an, vân vân - ông phải khép mình. Bây giờ vì những lý do khác nữa, thế nhưng cũng chẳng qua vì sợ hãi và cầu an, ông thấy ta không được khép mình. Không phải vậy sao?
“Đúng thế thôi, không nhiều thì ít. Nhưng cái cũ là ngu xuẩn, tôi phải thoát khỏi sự ngu xuẩn”.
Thưa ông, tôi xin nói rõ là ông không chịu lắng nghe. Ông cứ đòi cho rằng cái cũ là xấu và muốn cái mới. Vấn đề hoàn toàn không phải là có hay không có cái mới.
“Nhưng đó là vấn đề của tôi, thưa ông”.
Thật không? Ông nghĩ thế nhưng hãy xem. Đừng cứ để cho tư tưởng lôi kéo mà ông hãy lắng nghe.
“Tôi xin nghe”.
Vì nhiều lý do khác nhau mà con người chịu khép mình một cách không tự giác: vì ràng buộc, sợ hãi, muốn được ngợi khen, vân vân. Đó là một mặt. Thế rồi có người thấy ta phải thoát khỏi sự quy định và do đó mà sinh ra đòi hỏi đừng rập khuôn. Ông hiểu tôi chứ?
“Vâng, điều đó rõ”.
Thế thì có khác nhau căn bản giữa ý muốn rập khuôn và khao khát giải thoát khỏi sự rập khuôn không?
“Xem ra là có, nhưng tôi không biết rõ. Còn ông thấy sao?
Thật là không nên nếu tôi nói ông nghe và ông chấp nhận. Phải chăng ông nên tự mình thấy liệu có một sự khác biệt căn bản giữa hai điều xem ra đối ngược này?
“Làm sao tôi tìm ra nó được?”
Bằng cách đừng lên án cái này và theo đuổi cái kia. Tình trạng của tâm ra sao khi nó khao khát sự tự do không bị khép mình, từ chối sự rập khuôn? Đừng trả lời cho tôi mà hãy cảm nhận nó, hãy tự mình chứng nghiệm trạng thái này của tâm. Ngôn từ là cần thiết để thông tin trao đổi, nhưng ngôn từ không phải là sự chứng nghiệm đích thực. Nếu ông không thực sự chứng nghiệm và hiểu ngộ trạng thái này của tâm, thì nỗ lực giải thoát của ông chỉ dẫn đến sự hình thành của khuôn mẫu kia. Phải thế không?
“Tôi chưa hiểu hoàn toàn”.
Đúng thôi, không dứt khoát chấm dứt một cách toàn triệt cơ chế đã sinh ra mẫu mực, khuôn đúc, dù nó tốt hay xấu, thì chỉ là sự nối tiếp trong một khuôn mẫu được điều chỉnh, trong một quy định mới.
“Tôi hiểu về mặt ngôn từ nhưng không thực sự cảm nó.
Đối với người đang đói, sự miêu tả thức ăn là vô dụng, người đó muốn được ăn.
Có cái thôi thúc phải rập khuôn và cũng có cái thôi thúc được tự do. Dù hai cái xem ra không giống nhau, nhưng phải chăng chúng thực ra giống nhau một cách cơ bản hay không? Nếu chúng cơ bản là giống nhau thì sự theo đuổi cái tự do của bạn là vô ích, vì bạn chỉ đi từ cái khuôn mẫu này qua khuôn mẫu khác, một cách vô tận. Không có quy định nào là lịch sự hơn hay tốt đẹp hơn, mọi khuôn mẫu đều là khổ não. Lòng khao khát được vẫn là hay không còn là*, lòng khao khát đó là nhân tố ấp ủ mọi quy định và điều cần hiểu ngộ chính là lòng khao khát này.
*The desire to be or not to be. Ở đây ta nhớ đến ý nghĩa của “hữu ái” và “vô hữu ái” của đạo Phật (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

CÁI TRỐNG RỖNG* NỘI TÂM


*Void. Từ này được dịch là “sự trống rỗng” hay “Tính Không” tùy theo nội dung câu chuyện (ND).
Cô đội trên đầu một chiếc giỏ to, một tay giữ cho khỏi rơi; cái giỏ hẳn phải nặng lắm nhưng trọng lượng của nó không hề làm lệch bước cô đi. Cô giữ thăng bằng một cách tuyệt vời, cô bước đi nhẹ nhàng và có nhịp. Tay cô mang vòng phát nhẹ tiếng kêu leng keng, chân mang giày xăng-đan đã cũ. Chiếc váy sari của cô đã rách và bẩn vì đã mặc quá nhiều. Thường thì cô có nhiều bạn cùng đi, ai nấy đều đội giỏ cả, nhưng hôm nay cô chỉ một mình trên con đường gập ghềnh. Mặt trời chưa đến nỗi quá nóng và trên bầu trời xanh nhiều con chim kên kên lượn những vòng rộng, cánh không hề vỗ. Dòng sông chảy yên lặng dọc bên đường. Thật là một buổi sáng rất bình an, và cô gái cô đơn với chiếc giỏ trên đầu dường như là tâm điểm của cái đẹp và ân sủng; tất cả mọi sự dường như hướng về cô và nhận cô làm một phần sự tồn tại của chính mình. Cô không phải là một đơn vị tách rời, mà là một phần của bạn và tôi, và của cây me kia. Cô không đi trước mặt tôi mà lại là tôi đang đi với chiếc giỏ trên đầu. Đây không phải là ảo giác, là cái tự nghĩ, cái mong ước và sự tự đồng hóa được bày vẽ ra, nếu có thì thật là xấu hết chỗ nói, mà là một chứng nghiệm tự nhiên và tức thì. Vài bước chân cách ly giữa chúng tôi đã biến mất; thời gian, ký ức và khoảng cách không gian, những điều do tư tưởng sinh ra, đã hoàn toàn biến mất. Chỉ còn một cô gái này chứ không có tôi đang nhìn cô. Và cũng còn một đoạn dài nữa mới đến phố chợ, chỗ mà cô sẽ bán những đồ đựng trong giỏ. Buổi tối cô sẽ về lại dọc theo con đường này, qua cầu tre nhỏ về tới làng, và sáng mai mới ra lại với chiếc giỏ đầy.
Anh rất đứng đắn, độ tuổi trung niên nhưng anh có một nụ cười vui thích và cũng còn rất khỏe mạnh. Ngồi xếp bằng trên sàn, anh nói tiếng Anh một cách ngập ngừng. Anh hơi bẽn lẽn vì đã học đại học và đậu bằng thạc sĩ nhưng đã nhiều năm nay anh không nói tiếng Anh và do đó quên đi cũng nhiều. Anh đọc một số kinh sách bằng tiếng Sanskrit, những từ Sanskrit hay được thốt ra trên môi anh. Anh cho biết tới đây để đặt vài câu hỏi về sự trống rỗng nội tâm, sự trống không của tâm. Rồi anh bắt đầu ca bằng tiếng Sanskrit và căn phòng tức khắc tràn ngập bởi một sự cộng hưởng sâu lắng, thanh tịnh và thấm đượm. Anh tiếp tục hát một hồi và thật là hân hoan khi được nghe anh hát. Khuôn mặt anh ngời sáng lên với ý nghĩa của mỗi từ trong câu hát, anh dò tìm nội dung những từ đó với một tình thương yêu. Anh không có chút giả tạo nào, anh quá đứng đắn đến nỗi không biết làm bộ tịch.
“Tôi rất vui mừng được ca những bài sloka* này trước mặt ông. Đối với tôi những bài ca này có ý nghĩa sâu xa và chứa đầy vẻ đẹp; tôi đã thiền định từ nhiều năm nay và những bài ca này là suối nguồn của sự hướng dẫn và sức mạnh. Tôi đã tập mình đừng dễ bị xúc động thế nhưng những bài ca sloka này làm tôi dâng trào nước mắt. Âm hưởng của từ ngữ, với nội dung phong phú của nó tràn đầy tim tôi và cuộc đời không còn vất vả và thống khổ nữa. Cũng như mọi người khác, tôi đã biết khổ; biết đến sinh tử và niềm đau của cuộc sống. Vợ tôi đã chết và sau đó tôi từ bỏ cuộc sống êm ấm của gia đình, và bây giờ tôi hiểu ý nghĩa của thái độ tình nguyện chấp nhận nghèo khổ. Tôi kể để cho ông hiểu thôi. Tôi không bị thất vọng, không cô đơn, hay tương tự như thế. Tâm tôi thấy vui thích trong nhiều thứ, nhưng cha tôi thường kể về các cuộc nói chuyện của ông, và một người quen khuyên tôi nên tìm gặp ông, và vì thế mà tôi đến đây”.
*Thơ hay kệ bằng tiếng Sanskrit, thường gồm hai câu, mỗi câu 16 âm (ND).
“Tôi muốn nghe ông nói về sự trống rỗng vô lượng” anh nói tiếp, “Tôi có cảm nhận về sự trống rỗng đó, và tôi cảm giác đã chạm đến biên giới của nó trong những lần đi hành cước và thiền định”. Sau đó anh trích đoạn một bài ca sloka để giải thích chứng nghiệm của mình.
Cần phải nói rằng, thẩm quyền của một ai khác, dù to lớn tới mấy, cũng không chứng minh kinh nghiệm của anh là đúng hay sai. Chân lý không cần phải được chứng minh bằng hành động, nó cũng không lệ thuộc vào bất cứ thẩm quyền nào; thế nên hãy dẹp qua một bên tất cả thẩm quyền và truyền thống và hãy tự mình tìm ra chân lý cho chính mình.
“Điều đó thật là khó cho tôi vì tôi bị ngâm trong truyền thống - không phải truyền thống của thế gian mà trong giáo pháp của Gita, của Upanishad*, vân vân… Có đúng là tôi nên bỏ đi cả hay sao? Tôi sẽ là người vô ơn bạc nghĩa không?”
*Gita, viết tắt của Bhagavad-Gita (Chí tôn ca) và Upanishad (Những bài thuyết giảng) là kinh sách then chốt của Ấn Độ giáo (ND).
Trong việc này không hề có vấn đề biết ơn hay vô ơn; chúng ta đang nói về việc khám phá cái đúng hay cái sai của sự trống rỗng mà anh nói đến. Nếu anh đi theo đường của thẩm quyền và truyền thống, những thứ đó là tri thức, thì anh chỉ chứng nghiệm những gì anh muốn chứng nghiệm, được thẩm quyền và truyền thống hỗ trợ. Nó không phải là một sự phát hiện mới mẻ; thứ đó đã được biết tới, một vật cần được anh nhận biết và chứng nghiệm. Thẩm quyền và truyền thống có thể sai lầm, chúng có thể chỉ là những ảo giác đầy tiện nghi. Muốn khám phá sự trống rỗng nọ là đích thực hay hư vọng, hay liệu nó chỉ là một sự bày vẽ của tâm, tâm phải thoát khỏi mạng lưới của thẩm quyền và truyền thống.
“Liệu có lúc nào tâm thoát được khỏi mạng lưới đó chăng?”
Tâm không thể tự giải phóng mình, vì mỗi cố gắng tự giải phóng của nó chỉ dệt nên một mạng lưới khác mà trong đó nó lại bị ràng buộc. Sự tự tại không phải là cái đối nghịch của bất cứ cái gì, tự do không phải là tự do thoát khỏi một cái gì đó, đó không phải là tình trạng được cởi trói. Chính bản thân niềm mong ước được tự tại nuôi dưỡng cái tù ngục. Tự tại là dạng của sự tồn tại mà dạng đó không phải được sinh ra từ ước mong được tự tại. Khi tâm thấu hiểu được điều này và thấy cái hư vọng trong thẩm quyền lẫn truyền thống, thì cái hư vọng sẽ tự tan rã.
“Có thể tôi bị xui khiến khi đọc sách, hay khi suy tư về những điều trong sách; ngoài ra thì từ hồi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận mơ hồ, như mơ, về một cái trống rỗng. Trong tôi luôn luôn có một sự gợi biết về nó, một cảm nhận bâng khuâng; và khi lớn lên, khi đọc các sách tôn giáo tôi còn thấy cảm giác này còn mạnh hơn, sinh động hơn, chắc chắn hơn. Tôi cũng bắt đầu thấy những gì ông nói. Hầu như tôi hoàn toàn bị lệ thuộc vào sự miêu tả về những chứng nghiệm của người khác, như được ghi lại trong kinh sách. Tôi có thể từ bỏ sự lệ thuộc này vì thấy cần thiết phải làm, nhưng liệu tôi có sống lại được cái cảm nhận độc đáo, thanh tịnh nằm ngoài mọi ngôn từ được không?”
Cái được làm sống lại không phải là cái sinh động, cái mới; đó chỉ là ký ức, một thứ đã chết, và anh không thể thổi sự sống vào trong cái đã chết. Sống lại và sống trong ký ức chỉ là sự nô lệ của sự tự kích thích, và một cái tâm mà lệ thuộc vào sự kích thích, dù ý thức hay không ý thức, thì chắc chắn sẽ cùn nhụt và trở thành vô cảm. Làm sống lại chỉ là kéo dài thêm sự thất vọng. Quay về quá khứ đã chết trong cơn khủng hoảng đang xảy ra là đi tìm một khuôn mẫu để sống, điều này chính là sự hủy hoại. Điều mà anh cảm nhận là tuổi thanh niên, hay chỉ mới ngày hôm qua thôi, điều đó đã qua, đã mất; nếu anh bám giữ vào quá khứ thì anh chỉ ngăn chặn sự chứng nghiệm tươi tắn của cái mới mẻ.
“Như ông thấy, tôi thật sự nghiêm túc và đối với tôi có cái thôi thúc phải hiểu ngộ và hòa nhập được vào Tính Không* đó. Tôi cần làm gì?”
*Kể từ đây từ “Void’ được dịch là Tính Không vì đã đi vào nội dung đích thực của triết học Tính Không.
Người ta phải xả bỏ tâm thức của những cái đã biết; tất cả tri thức mà ta đã tích lũy được phải dứt bặt thì mới mong nhận được ảnh hưởng của tâm đang sống động. Tri thức luôn luôn nói về quá khứ, nó là một quá trình của quá khứ và tâm phải thoát khỏi quá trình đó. Nhận thức là một giai đoạn của quá trình tri thức, đúng thế không?
“Thế là sao?”
Muốn nhận thức một vật, anh phải biết đến nó hay phải kinh nghiệm về nó trước đó và những kinh nghiệm này được tích lũy thành tri thức, thành ký ức. Nhận thức xuất phát từ quá khứ. Có lẽ anh đã một lần chứng nghiệm cái trống không này, và khi đã có anh khao khát có nữa. Cái chứng nghiệm độc đáo đó đã đến khi anh không truy tìm nó; bây giờ thì anh đang tìm và cái mà anh đang tìm không phải là Tính Không mà là sự tái diễn của một ký ức cũ. Nếu nó phải xảy ra lại lần nữa thì tất cả ký ức về nó, tất cả tri thức về nó, phải biến mất đã. Tất cả mọi sự tầm cầu phải ngưng bặt, vì sự tìm kiếm luôn luôn dựa vào mong ước được chứng nghiệm.
“Thật sự ông muốn nói là tôi không được phép tìm kiếm? Nghe thật là điều khó tin!”
Động cơ của sự tìm kiếm thường đáng biết hơn bản thân sự tìm kiếm. Động cơ thâm nhập, dẫn dắt và hình thành sự tìm kiếm. Động cơ của lòng sở cầu của anh là được chứng nghiệm cái chưa biết, được nhận thức ân sủng và tính chất vô hạn lượng của nó. Tâm sở cầu này sinh ra người chứng nghiệm, kẻ mong ước sự chứng nghiệm*. Người chứng nghiệm đi tìm sự chứng nghiệm to lớn hơn, bao trùm hơn và quan trọng hơn. Khi tất cả mọi kinh nghiệm khác đã hết hấp dẫn, người chứng nghiệm nóng lòng tìm Tính Không; vì thế mà có người chứng nghiệm một bên và bên kia là vật được chứng nghiệm. Thế nên mối tranh chấp nhị nguyên đã hình thành giữa hai cái, người theo đuổi và vật bị theo đuổi.
* “Tâm sở cầu sinh ra người chứng nghiệm” chứ không phải “người chứng nghiệm có tâm sở cầu”. Xin độc giả chú ý, đây là chỗ cần hiểu rõ: “Tâm sở cầu” tạo nên trong dòng tâm thức một chủ thể mà ta mệnh danh là “người chứng nghiệm”. Không có tâm sở cầu thì cũng không có người chứng nghiệm (ND).
“Tôi hiểu rất rõ điều này, vì nó chính là tình trạng hiện nay của tôi. Giờ thì tôi thấy mình đang bị ràng buộc trong một mạng lưới do mình tự tạo”.
Đó cũng là tình trạng của mọi kẻ tầm cầu khác thôi, không phải của riêng những ai đi tìm Thượng đế, Tính Không, vân vân… Mỗi ai có tham vọng và khao khát, kẻ đi tìm quyền lực, địa vị, tiếng tăm, mỗi ai yêu lý tưởng, mỗi ai sùng bái sự đạt đạo, mỗi ai xây dựng một vương quốc ảo tưởng - tất cả họ đều bị ràng buộc vào trong cùng một mạng lưới. Thế thì khi anh đã hiểu thấu toàn bộ ý nghĩa của sự tầm cầu, anh còn tiếp tục tìm kiếm Tính Không nữa không?
“Tôi hiểu nội dung sâu kín của câu hỏi của ông và tôi cũng đã chấm dứt sự tìm kiếm”.
Nếu quả thật như thế thì tình trạng của tâm phi sở cầu như thế nào?
“Tôi không biết, câu chuyện đối với tôi mới mẻ đến nỗi tôi phải cố tập trung hết sức mình và quan sát. Cho tôi vài phút trước khi tiếp tục”.
Sau khi nghỉ một lát, anh tiếp.
“Tôi nhận ra thật hết sức vi tế, thật khó khăn nếu không cho người chứng nghiệm, người quan sát hiện diện. Hầu như không thể cấm tư tưởng tạo tác ra người tư tưởng; thế nhưng hễ có người tư tưởng, có người chứng nghiệm thì rõ phải có một sự chia cắt với cái được chứng nghiệm và như thế là có tranh chấp với nó. Và bây giờ ông lại hỏi, thế thì trạng thái của tâm vắng bóng tranh chấp nhị nguyên thì như thế nào?”
Tranh chấp nhị nguyên hiện diện khi sự thèm muốn lấy dạng của người chứng nghiệm và theo đuổi cái phải được chứng nghiệm; vì cái phải được chứng nghiệm đó chẳng qua cũng do sự thèm muốn hình thành nên.
“Xin hãy kiên nhẫn với tôi, hãy từ từ để tôi hiểu những gì ông đang nói. Sự thèm muốn không những chỉ tạo nên người chứng nghiệm, người quan sát, mà còn sinh ra những cái phải được chứng nghiệm, vật bị quan sát. Thế nên ái dục là nguyên nhân của sự tách rời giữa người chứng nghiệm và cái được chứng nghiệm; và đó là sự phân biệt ngầm chứa tranh chấp nhị nguyên. Bây giờ ông hỏi trạng thái của tâm phi nhị nguyên, không bị ái dục lôi kéo thì sao? Nhưng làm sao trả lời câu hỏi này nếu bây giờ không có người quan sát cái chứng nghiệm vắng bóng ái dục này?”
Khi anh ý thức về sự khiêm tốn của mình, không phải sự khiêm tốn chấm dứt ư? Có còn đạo đức nữa chăng khi anh cố tình thực hành đạo đức? Kiểu làm như thế chỉ tăng cường cho hoạt động vì tự ngã của mình, nó là kẻ chấm dứt đạo đức. Lúc mà anh ý thức mình đang hạnh phúc, lúc đó anh chấm dứt sự hạnh phúc. Tình trạng của tâm thế nào khi nó không bị ràng buộc bởi ái dục? Ý muốn tìm ra nó cũng là một phần của ái dục, nó sinh ra người chứng nghiệm và vật bị chứng nghiệm, không phải sao?
“Đúng vậy. Câu hỏi của ông là một cái bẫy cho tôi nhưng tôi cám ơn ông đã nêu lên. Tôi thấy thêm tính chất vi tế của ái dục”.
Đó không phải là cái bẫy mà là câu hỏi tự nhiên và không thể tránh khỏi mà anh đã tự hỏi mình trong lúc nói chuyện. Nếu tâm không hết sức cảnh giác, tỉnh táo, thì nó sớm bị ràng buộc trong mạng lưới của ái dục của chính nó.
“Câu hỏi cuối cùng: Tâm có khả năng thật sự thoát khỏi mọi ái dục tìm kiếm chứng nghiệm không, điều sẽ xóa bỏ ranh giới giữa người chứng nghiệm và vật được chứng nghiệm?*”
*Khi ranh giới giữa người chứng nghiệm và vật được chứng nghiệm được xóa bỏ thì sẽ có tình trạng phi thường mà tác giả nói về cô bé đội giỏ trong phần đầu của bài này (ND).
Anh hãy tự mình tìm ra. Nếu tâm hoàn toàn tự tại thoát khỏi mọi cấu trúc của ái dục thì tâm đâu có khác gì Tính Không?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

VẤN ĐỀ CỦA SỰ TÌM KIẾM


Một buổi sáng tinh sương của một ngày ngập nắng, trong trẻo, sáng sủa và mặt hồ không biết nghỉ bây giờ cũng lặng yên, nước hồ nhẹ nhàng liếm bờ hồ trắng. Hầu như không có một chuyển động nào của mặt nước lớn rộng, thứ nước mang một màu xanh thẫm, dường như có ai thêm chất màu nhân tạo vào đó. Có một cái gì lấp lánh trong hồ và một niềm hân hoan, nó xanh hơn bầu trời xanh, già dặn đậm đà niềm vui. Tuần trước nước hồ còn dữ tợn và đe dọa, với một sức chảy có thể kéo người ta xa ra; mà bây giờ thì không gì ngoài sự yên tĩnh, chỉ còn rì rầm chuyển động. Gió đã tự biến mất sau nhiều ngày thổi mạnh và nay một ngọn thoảng nhẹ cũng không. Hơi khói của một chiếc tàu chạy xa trên hồ hầu như vươn thẳng lên bầu trời không một đám mây. Cảnh vật yên tĩnh tới mức người ta có thể nghe tiếng của một chiếc xe lửa, ít nhất cũng còn xa vài dặm, đang đi đến gần sát bờ đá thấp nhìn xuống hồ. Tiếng ồn uể oải bây giờ đã lớn lên thành tiếng rống và chẳng bao lâu, đất rung lên khi chiếc xe lửa chở hàng chạy ngang, nó kéo theo cả hàng trăm toa sắt bằng một đầu diesel mạnh mẽ phía trước. Người lái xe vẫy tay, miệng mỉm cười. Chẳng mấy chốc chiếc xe lửa đã ra khỏi tầm mắt và hồ xanh lại rơi vào yên tĩnh, về phía bắc cách vài dặm, ta có thể thấy từng hàng dừa được vun bồi chu đáo, với thảm cỏ xanh, đó là nơi mà thị trấn ghé chân xuống cạnh hồ; nhưng tại chỗ này thì rất an bình. Hàng trăm chim mòng biển đang dừng chân trên bãi. Một con rõ đã bị gẫy cánh, nó đứng riêng một mình với chiếc cánh rũ; gần đó là một con khác nằm chết, cát đã phủ gần hết thân. Một con chó lớn đi đến, một con vật dễ thương dưới ánh mặt trời và cả đàn chim liền tung bay ra hồ, lượn nửa vòng lớn, rồi lại đậu trên bãi, cách xa con chó. Con mòng biển gãy cánh kêu thảng thốt kéo lê cánh đi về phía hồ; con chó thấy chim nhưng không thèm chú ý, bỏ đi săn những con còng vừa bò ra từ lớp cát ướt.
Anh làm việc trong công sở, là một người trang trọng, hết sức nghiêm túc, với cặp mắt sáng, đứng đắn, miệng tươi cười. Giá sinh hoạt lên, anh nói, đời sống ngày càng đắt đỏ tới mức tiền lương không kham nổi. Mặc dù còn rất trẻ, chỉ mới ba mươi, anh đã lo âu về tương lai, vì anh có trách nhiệm - không con nhưng anh có vợ và mẹ già phải lo lắng.
“Mục đích của cuộc đời, của cuộc sống đều đặn, lặp đi lặp lại này là gì?”, anh đột nhiên hỏi. “Xưa nay tôi luôn luôn muốn tìm một cái mới, một cái khác: Tôi đã đi làm lúc còn đi học, kiếm niềm vui với vợ tôi, muốn mang lại một thế giới mới bằng cách gia nhập đảng phái chính trị - mà không lâu sau đó tôi lại rút ra vì thấy nó cũng như một tôn giáo có tổ chức, có định chế như mọi thứ khác; và bây giờ thì tôi tìm kiếm Thượng đế. Thật ra tôi không phải là người bi quan nhưng trong cuộc sống điều gì cũng làm tôi buồn chán. Chúng ta tìm kiếm, cứ tìm kiếm luôn nhưng dường như không tìm ra gì cả. Tôi đọc những sách mà người có trình độ ai cũng đọc thế nhưng những thú vui hàn lâm sớm trở nên tẻ nhạt. Tôi phải tìm cho ra, đời tôi cũng không còn dài. Tôi muốn nói chuyện thật nghiêm túc với ông vì tôi cho rằng ông có thể giúp tôi trong sự tầm cầu”.
Chúng ta có thể đi vào vấn đề được gọi là tầm cầu này một cách chậm rãi và kiên nhẫn được chăng? Có những kẻ tự nhận họ đã tìm và đã tìm thấy, hài lòng với những gì họ tìm được, họ đã có cái phần thưởng cho họ. Anh nói anh đang tìm kiếm. Anh có biết tại sao mình tìm kiếm không và muốn tìm kiếm những gì?
“Như mọi người khác, tôi tìm kiếm nhiều thứ, phần lớn những thứ đó cũng đã qua đi; nhưng như một căn bệnh không có thuốc chữa, sự tầm cầu vẫn cứ tiếp diễn”.
Trước khi đi vào toàn bộ vấn đề chúng ta tìm gì, hãy tìm hiểu thử từ “tìm kiếm” là gì. Tình trạng của tâm thế nào khi nó tìm kiếm?
“Đó là một tình trạng nỗ lực của tâm để thoát ra một hoàn cảnh đau khổ hay mâu thuẫn và tìm một hoàn cảnh khác dễ chịu thoải mái hơn”.
Phải chăng một tâm như thế là tâm tìm kiếm? Tâm kiếm cái gì thì nó sẽ tìm ra cái đó nhưng những gì nó tìm ra chính là sự biến hiện* của chính tâm. Phải chăng đó là sự tầm cầu đích thực, khi sự tầm cầu phải nhắm đến một mục đích? Phải chăng mọi sự tìm kiếm phải có một mục đích nhất định hay có sự tìm kiếm vô sở cầu? Tâm có thể tồn tại không nếu không có sự vận động của sự tìm kiếm? Phải chăng cái mà ta cho là tìm kiếm chỉ là những phương tiện khác để tâm trốn chạy khỏi chính nó? Nếu đúng như thế thì cái gì là động cơ làm tâm trốn chạy? Nếu không thấu hiểu hết nội dung của tâm tìm kiếm, thì sự tầm cầu không có ý nghĩa gì cả.
*Projection. Khái niệm thế giới là “sự biến hiện” của tâm được nói đến rất nhiều trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, nhất là Duy thức tông trong Phật giáo. Theo tác giả, tầm cầu đích thực là “sự tầm cầu mà không có người tầm cầu”. Đề tài này sẽ còn được tác giả nói đến rất nhiều trong tập sách này (ND).
“Thưa ông, tôi ngại những điều này quá phức tạp đối với tôi. Ông có thể đơn giản hóa được không?”
Hãy bắt đầu với những gì ta biết. Tại sao anh đi tìm và anh tìm gì?
“Người ta tìm nhiều thứ trên đời: hạnh phúc, an toàn, sung túc, sự vĩnh cửu, Thượng đế, một xã hội không tranh chấp mâu thuẫn, vân vân”…
Tình trạng mà anh đang sống và cái cuối cùng mà anh tìm kiếm, không phải cả hai đều là sự sáng tạo của tâm* hay sao?
* Creation of the mind. Đây là ý niệm mà Krishnamurti nhắc đi nhắc lại. Tất cả mọi sự ta hay nói đến, kể cả những điều tưởng như siêu thế gian như Thượng đế, Niết bàn, giác ngộ... đều chỉ là sự sáng tạo của tâm. Từ này cũng có thể được dịch là “do tâm bày vẽ ra” (ND).
“Thôi thưa ông, đừng làm vấn đề thêm khó. Tôi biết là mình đang khổ và cần phải tìm một con đường thoát, tôi muốn đạt tới một tình trạng vắng bóng sự khổ”.
Thế nhưng cái mà anh tìm kiếm vẫn cứ là sự biến hiện của một cái tâm không muốn bị khổ sở; đúng không? Và có lẽ không có cái đó đâu, cái đó có lẽ chỉ là huyền thoại.
“Nếu đó là huyền thoại, thì phải có cái gì là thật chứ và tôi phải tìm cho ra nó”.
Chúng ta đang cố hiểu ngộ nội dung đích thực của sự tầm cầu, vấn đề chưa phải là đi tìm cái “thực có”. Chúng ta sẽ đến với chuyện đó thôi. Nhưng bây giờ thì ta quan tâm đến ý nghĩa của sự tầm cầu, ta hãy hiểu hết nội dung của từ ngữ này.
Khi thiếu hạnh phúc thì anh tìm hạnh phúc, đúng không? Người thì thấy mình có hạnh phúc nếu có quyền lực, địa vị, danh tiếng, kẻ khác thì thích sức khỏe hay tri thức, kẻ khác nữa thì cần Thượng đế hay một Nhà nước lý tưởng, một ý hướng toàn hảo, vân vân… Một người mê thích chuyện thế gian, người đó theo đuổi để được thỏa mãn, trong đó có sự tàn nhẫn, thất vọng, lo âu, tất cả có thể được bọc dưới những danh từ hoa mỹ. Thì cũng thế, anh cũng chỉ muốn được thỏa mãn lòng mong ước của mình, dù đó là cái nghe ra cao cả nhất. Khi anh đã biết mục đích của sự tầm cầu là gì, thì xin hỏi, như thế là sự tầm cầu chăng?
“Đúng là tầm cầu chứ. Thượng đế hay ân sủng, làm sao mà ai biết được trước đó, đó là những điều phải được tìm ra”.
Làm sao anh tìm thấy được điều mà anh không hề biết? Anh biết hay đúng hơn là tưởng mình biết, Thượng đế là gì. Những gì anh biết là tùy thuộc vào sự quy định hay vào kinh nghiệm của anh, mà bản thân kinh nghiệm cũng dựa vào sự quy định mà có; thế nên dựa vào đó mà anh định nghĩa Thượng đế, xong rồi anh lại tìm cách “khám phá” cái mà tâm anh đã chiếu hiện ra. Rõ ràng đây không phải là tầm cầu, là tìm kiếm, mà anh chỉ theo đuổi cái mà anh đã biết. Sự tầm cầu đích thực sẽ chấm dứt ngay khi anh biết, vì biết là một quá trình của thừa nhận mà thừa nhận là một hành động của quá khứ, của cái được biết rồi.
“Nhưng tôi tìm kiếm Thượng đế, dù Ngài có mang tên này hay tên khác”.
Anh tìm Thượng đế cũng như người khác tìm vui thú bằng cách uống rượu, bằng cách có thêm quyền lực, vân vân… Tất cả đều là những lý do không hề xa lạ, tất cả đều được dựng nên. Mục đích, lòng sở cầu sinh ra cái mà con người hướng đến. Phải chăng ta có thể gọi là tìm kiếm nếu nó xuất phát từ một lòng sở cầu?
“Tôi nghĩ là bắt đầu hiểu những gì ông nói. Xin nói tiếp”.
Nếu anh thật sự nghiêm túc, thì khi anh thấy điều đó trong cái gọi là “tầm cầu”, ở đó chẳng có gì là tìm kiếm cả, anh sẽ từ bỏ nó ngay. Thế nhưng nguyên nhân của lòng cầu mong vẫn còn đó. Có thể anh sẽ dẹp bỏ mẫu hình A, sự tầm cầu một cái gì do tâm chiếu hiện; nhưng anh lại quay qua mẫu hình B, là ý niệm trong đó anh không được phép theo A; và nếu không phải là B thì là C, N hay Z. Thâm tâm anh chưa hiểu hết vấn đề của sự tìm kiếm, nên lòng anh cứ chạy từ khuôn mẫu này qua khuôn mẫu khác, từ ý niệm này qua ý niệm khác, từ ông thầy guru này qua ông thầy guru khác. Tất cả đều chỉ là sự vận hành trong mạng lưới của cái đã biết.
Bây giờ, liệu tâm cứ giữ vô sở cầu được chăng? Còn tâm hay không, còn người sở cầu hay không nếu không có sự vận hành của lòng sở cầu? Tâm lượn từ vận động này qua vận động kia, mãi mãi thăm dò, mãi mãi tìm kiếm, mãi mãi vướng trong mạng lưới của kinh nghiệm đã qua. Sự vận hành này luôn luôn hướng tới cái “thêm”: Nhiều kích thích hơn, nhiều kinh nghiệm, tri thức rộng hơn và sâu hơn. Người đi săn luôn luôn chiếu hiện ra thành vật bị săn. Tâm còn tìm kiếm nữa không, một khi nó đã hiểu ý nghĩa của toàn bộ sự tầm cầu? Và khi tâm không tìm kiếm, thì có còn người chứng nghiệm một biến cố nào nữa không?
“Theo ông, người chứng nghiệm là thế nào?”
Bao lâu còn kẻ tầm cầu và vật được tầm cầu, bấy lâu còn người chứng nghiệm, kẻ nhận biết, và đó là trung tâm của mọi hành động vì tự ngã. Từ trung tâm này mà sinh ra mọi hoạt động, dù chúng tinh tế hay thô thiển như: Mong được giàu có và quyền hành, sự rập khuôn phải thỏa mãn với cái đang là, lòng thôi thúc tìm đến Thượng đế, lòng mong muốn cải cách, vân vân…
“Tôi thấy được sự thật mà ông nói đến. Tôi đã tiếp cận mọi sự không đúng cách”.
Thế thì phải chăng bây giờ anh đang tiếp cận “đúng cách”? Hay là anh đã hiểu rằng mọi tiếp cận, đúng cách hay không đúng cách, đều là hoạt động vì tự ngã cả, tất cả các cách đó đều chỉ tăng cường, một cách tinh vi hay lộ liễu, cho người chứng nghiệm.
“Tâm thật láu lỉnh biết bao, vận động của nó thật lẹ làng và vi tế biết bao để tự giữ vững bản thân nó. Tôi đã thấy vấn đề rất rõ”.
Khi tâm đã ngưng bặt sự tìm kiếm vì nó đã hiểu hết nội dung của lòng tầm cầu, thì không phải là những tường vách do tâm xây dựng quanh mình bị đổ vỡ hay sao? Và không phải khi đó tâm sẽ vô hạn lượng, sẽ là cái chưa biết hay sao?*
* Tác giả nói “sẽ là cái chưa biết” chứ không nói “sẽ chứng nghiệm cái chưa biết" vì nếu nói “chứng nghiệm” là còn hàm chứa một “người chứng nghiệm”. Lúc “là cái chưa biết” thì tâm chính là sự giác ngộ chứ không có người nào giác ngộ cả (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 18 Mar 2018

CUỘC CÁCH MẠNG NỘI TÂM*


* Trong chương này, tác giả nêu lên quan niệm của mình về ý nghĩa của hoạt động chính trị tại xã hội Ấn Độ, một xã hội hết sức phức tạp với nhiều đảng phái chính trị, nhiều tôn giáo, nhiều phân chia giai cấp, nhiều thành phần xã hội (ND).
Trước khi con tàu khởi hành thì đây thật là một cảnh tượng hối hả ngược xuôi. Đoàn tàu dài được chất đầy toa, tràn ngập cả người và khói thuốc; mỗi khuôn mặt hành khách giấu kín sau một tờ báo; thế nhưng thật may là cũng còn một vài chỗ trống. Con tàu điện không bao lâu đã ra khỏi các vùng ngoại ô, xe tăng tốc chạy xuyên qua những vùng làng mạc, qua mặt cả ô tô và xe buýt trên đường quốc lộ chạy song song với đường rầy. Đây là một vùng quê tuyệt đẹp, xanh tươi, những ngọn đồi thoai thoải với vài thị trấn cũ xưa còn ghi nhiều dấu ấn lịch sử. Hôm nay là một ngày đầu xuân, ánh mặt trời sáng nhẹ, các loại cây ăn quả vừa mới hé những nụ hoa sắc hồng và trắng. Cả miền quê xanh mướt, tươi trẻ; những chiếc lá non láng bóng rung rinh trong ánh nắng. Thật là một ngày của thiên đường nhưng đoàn tàu thì đầy cả những con người mệt lử và không khí thì ngập ngụa khói thuốc. Một cô gái nhỏ ngồi với mẹ bên kia lối đi và người mẹ đang giải thích cho con không được nhìn ngó người lạ, thế nhưng cô bé không để ý gì lắm và vì vậy chúng tôi nhìn nhau mỉm cười. Kể từ đó cô xem ra thấy tự nhiên hơn, hay ngước nhìn xem thử có ai ngó mình không và mỉm cười khi ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Bây giờ thì cô đang buồn ngủ, nằm co trên ghế và bà mẹ đắp cho cô một chiếc áo.
Thật là vui thích được chạy dọc theo con đường xuyên qua những cánh đồng, nằm trong vô số vẻ đẹp và sự trong lành. Trên con đường lát đá, mọi người vẫy tay chào khi xe chúng tôi ầm ầm chạy qua. Những con bò trắng chậm chạp kéo xe chất đầy phân bón, vài ông lái xe hẳn đang hát vì miệng họ mở to; nhìn trên mặt ai cũng đoán được họ đang vui thích trong không khí mát dịu buổi sáng. Những cánh đàn ông, đàn bà trên cánh đồng đang cuốc đất, trồng cây, gieo hạt.
Tôi bước dọc lối đi, giữa hai hàng ghế, lên đến đầu tàu. Tôi đi ngang toa hàng ăn, qua khỏi nhà bếp, mở cánh cửa và đi vào trong toa chứa hành lý. Không ai ngăn tôi lại cả. Nhiều va-li được xếp ngăn nắp trên giá đựng hành lý, nhãn hành lý tung bay trong hơi gió lùa. Tôi đi ngang qua một khung cửa khác và ở đó có hai tay lái tàu. Bao quanh tôi toàn là những chiếc cửa sổ to rộng, chúng cho ta một cái nhìn không chút chướng ngại về cảnh vật đồng quê thật dễ thương. Một trong hai người đang điều khiển bộ phận điện, trước mặt anh là nhiều thứ đồng hồ. Người kia ngồi nhìn và nhàn rỗi hút thuốc, anh nhường chỗ ngồi cho tôi, lấy một chiếc ghế đẩu ngồi sau lưng. Anh nhất định đòi tôi phải ngồi và bắt đầu nêu vô số câu hỏi. Giữa các câu hỏi, anh lại dừng để chỉ các lâu đài trên đỉnh đồi, một vài tòa trong đó đã đổ nát, một vài tòa khác còn được giữ gìn cẩn thận. Anh giải thích ý nghĩa của những thứ đèn xanh đèn đỏ nọ và mỗi lần cứ đến ga là vén đồng hồ lên xem đúng giờ hay không. Chúng tôi chạy với vận tốc chừng từ 100 đến 110 km/giờ, vòng quanh các đường cong, leo lên những độ dốc thấp, qua những chiếc cầu cũng như chạy những đoạn dài và thẳng; nhưng không bao giờ quá 110 km/giờ. “Nếu trạm vừa rồi mà ông ra khỏi xe, lấy một chiếc khác”, anh nói, “ông sẽ đến một thị trấn mang tên một vị thánh nổi tiếng”. Đẩy cần máy hết mức, chúng tôi chạy ào ào qua những trạm với những địa danh của những ngày tháng xa xưa. Thế rồi chúng tôi chạy dọc theo một bờ hồ xanh biếc mù sương, chỉ vừa nhìn được thị trấn bên kia bờ. Thời xưa có một trận chiến nổi tiếng đã xảy ra nơi đây mà kết quả của nó đã định đoạt số mệnh của những người sống tại vùng này. Chúng tôi sớm đi qua chiếc hồ, leo lên khỏi lũng, bò quanh những ngọn đồi, bỏ lại đằng sau những cây ô-liu và cây bách, đến một vùng quê lởm chởm hơn nhiều. Người ngồi sau tôi gọi tên một con sông nhiều bùn khi chúng tôi đi qua, xem ra sông hơi nhỏ và quá hiền lành so với tên tuổi tiếng tăm của nó. Người kia, tay rời cần lái chỉ một hai lần trong suốt hai tiếng rưỡi đồng hồ lái con tàu, thay mặt cho cả hai xin lỗi không nói được tiếng Anh. “Nhưng không sao”, anh nói, “vì ông hiểu được thứ tiếng tuyệt vời của chúng tôi”.
Chúng tôi đến ngoại ô của thành phố lớn và bầu trời xanh đã sẩm lại vì khói mù của đô thị.
Chúng tôi ngồi trong một căn phòng nhỏ nhìn ra vùng hồ tuyệt đẹp và không khí thật yên tĩnh mặc dù lũ chim ríu rít vui đùa. Trong nhóm có một người đàn ông cao lớn, tráng kiện và cương nghị, với đôi mắt tinh mà dịu, với một lối nói chậm rãi và cân nhắc. Vì anh đang ham được nói, mọi người khác đều im nghe, thế nhưng họ cũng tham gia câu chuyện khi thấy cần thiết.
“Từ nhiều năm nay tôi tham gia chính trị và làm những gì mà tôi thật tâm nghĩ là tốt cho đất nước. Điều đó cũng không có nghĩa là tôi không tìm kiếm quyền hành và địa vị. Tôi có tìm kiếm nó thật, tôi đấu tranh chống lại kẻ khác cũng vì nó, và chắc ông cũng biết, tôi đã đạt được nó. Cách đây nhiều năm, tôi nghe đến ông lần đầu, và mặc dù nhiều điều ông nói là đúng nhưng tất cả quan niệm sống của ông chỉ làm tôi quan tâm một cách tạm thời, chưa bao giờ nó bắt rễ trong tôi. Thế nhưng, trong những năm qua, với tất cả những cuộc đấu tranh và đau xót, có một cái gì đã chín dần trong tôi; và trong thời gian gần đây lúc nào tiện thì tôi cũng tham dự các cuộc nói chuyện và thảo luận của ông. Tôi thật sự nhìn ra được những gì ông nói, chúng là phương cách duy nhất để thoát ra khỏi những khó khăn lầm lạc của chúng ta. Tôi đi nhiều nơi như châu Âu, Mỹ và cả tại Nga, tôi cũng tìm kiếm những giải pháp. Tôi cũng tham gia đảng phái và thành tâm hợp tác với các nhà lãnh đạo. Thế nhưng bây giờ tôi rút lui khỏi mọi thứ. Tất cả đều lụn bại và vô hiệu, mặc dù trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác tôi cũng có một số tiến bộ. Sau khi đã suy nghĩ nhiều về điều này, tôi bắt đầu xem xét lại từ đầu, và bản thân tôi cũng sẵn sàng tiếp thu một cái gì mới mẻ và sáng tỏ”.
Muốn xem xét, ta không được bắt đầu với một kết luận, với một lời tuyên thệ trung thành hay với một thành kiến; ta không được có ham muốn sẽ thành công, không được đòi hỏi phải có hành động tức khắc sau đó. Nếu ta kẹt vào một trong những thứ đó, sự xem xét đích thực hoàn toàn không thể xảy ra. Để xem xét từ đầu toàn bộ vấn đề của cuộc sống, tâm phải cởi bỏ hết động cơ cá nhân, bỏ mọi tâm trạng bối rối, bỏ mọi sự tầm cầu quyền lực cho bản thân mình hay cho phe nhóm, vì thực ra cả hai chỉ là một. Phải thế không, thưa ông?
“Xin đừng nói “thưa ông”! Dĩ nhiên đó là phương cách duy nhất để xem xét và hiểu ngộ mọi thứ nhưng tôi không biết có đủ khả năng làm được thế không?”.
“Khả năng” đến với sự chuyên chú trực tiếp và hồn nhiên. Muốn xem xét những vấn đề khác nhau của cuộc sống, chúng ta phải bắt đầu nhưng đừng dính mắc vào bất cứ thứ triết học nào, ý thức hệ nào, hệ thống tư duy nào hay mẫu hình hành động nào. Khả năng hiểu ngộ không phải là một vấn đề của thời gian mà nó là sự nhận thức tức khắc, phải thế không?
“Nếu tôi biết vật gì là độc hại thì tránh nó là điều rất dễ, tôi chỉ cần đừng đụng đến nó. Tương tự như thế, nếu biết mọi kết luận chỉ ngăn chặn tôi không cho xem xét được tất cả vấn đề của cuộc sống thì dĩ nhiên mọi kết luận, dù có tính cá nhân hay tập thể, đều tự rơi rụng. Tôi chẳng cần tranh đấu để thoát khỏi chúng. Không phải thế sao?
Đúng, thế nhưng một nhận thức rõ ràng về một sự kiện không phải là bản thân sự kiện. Thật sự thoát khỏi mọi kết luận là một điều hoàn toàn khác*. Một khi con người thấy mỗi thành kiến đều ngăn cản một sự xem xét toàn triệt, thì ta cố gắng nhìn vấn đề không thành kiến. Thế nhưng vì thói quen, tâm có khuynh hướng rơi lại vào óc tôn thờ thẩm quyền, vào truyền thống bắt rễ đã sâu, và ta cũng cần phải ý thức về các khuynh hướng này, đừng để chúng can thiệp vào sự xem xét của ta. Nên nhớ kỹ điều này rồi chúng ta tiếp tục câu chuyện. Bây giờ, điều gì là yêu cầu cơ bản nhất của con người?
* Nơi đây tác giả nói đến một vấn đề hết sức quan trọng, đó là sự khác biệt giữa cái biết của trí năng (intellectual) và cái biết đích thực, cái biết hồn nhiên. Nơi đây người ta dễ nghĩ đến các câu chuyện thiền, trong đó người hỏi hãy bị dính mắc vào cái biết trí năng, còn thiền sư đứng trong vị trí của cái biết hồn nhiên. Thường thì các vị thiền sư im lặng hay trả lời một cách nghịch lý, còn Krishnamurti thì sẵn lòng dùng ngôn từ giảng giải, mặc dù ông biết người nghe không mấy ai lĩnh hội (ND).
“Thực phẩm, áo quần, nhà ở; thế nhưng phân phát một cách công bằng những thứ này cho tất cả mọi người thật là một điều khó vì tính chất của con người là tham lam và muốn độc chiếm”.
Hẳn ông cho rằng con người được động viên và giáo dục bởi xã hội nên hôm nay mới có những tính chất đó? Bây giờ, hẳn ông tin là một xã hội khác, bằng pháp luật hay các thứ cưỡng bách khác, sẽ buộc con người không tham lam và độc chiếm nữa; thế nhưng nó chỉ sinh ra một phản ứng ngược lại và như thế sẽ có mối mâu thuẫn giữa một bên là cá thể và bên kia là ý hướng do Nhà nước hay do một nhóm người có quyền lực đặt định ra. Muốn có một sự phân bố công bằng về thực phẩm, áo quần hay nhà ở, cần thiết phải có một hình thái tổ chức xã hội hoàn toàn khác, không phải sao? Thực tế là quốc gia với chính phủ riêng biệt của họ, các phe nhóm quyền lực và các cơ chế kinh tế chống đối lẫn nhau, cũng như hệ thống phân chia giai cấp và các định chế tôn giáo - mọi phía đều tự cho giải pháp của mình là đúng đắn duy nhất. Tất cả những thứ này cần phải chấm dứt, điều đó có nghĩa là toàn bộ quan niệm tập quyền, do thẩm quyền xây dựng nên, quan niệm sống đó cần phải chấm dứt.
“Tôi thấy đó mới thực là một cuộc cách mạng”.
Đó là một cuộc cách mạng triệt để về mặt tâm lý và cuộc cách mạng như thế thật là thiết yếu nếu ta muốn khắp nơi trên thế giới không ai phải thiếu thốn các điều kiện vật chất cơ bản. Trái đất là của chúng ta, không phải là của Anh, Nga hay Mỹ, không phải là của tín đồ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo. Tất cả mọi thứ phân biệt này cần phải ra đi nếu chúng ta muốn có một cơ chế về kinh tế và xã hội hoàn toàn khác. Cơ chế này phải bắt đầu với ông và tôi.
“Liệu tôi có thể hoạt động chính trị để cho một cuộc cách mạng như thế xảy ra được không?”
Xin hỏi, ý ông muốn gì khi nói hoạt động chính trị? Phải chăng hoạt động chính trị, dù là hình thái gì, là tách rời khỏi sự hoạt động toàn thể* của con người hay cũng là một phần của nó?
* Hoạt động toàn thể hay toàn diện: total action. Đây là một khái niệm được Krishnamurti nhiều lần nói đến. Theo tác giả, con người hay bị “phiến diện” vì cuộc sống luôn luôn có tính chất “chia cắt”. Vì thế hoạt động của con người đều có tính chất “phiến diện”, không phải là một “hoạt động toàn thể”. Khi con người trực nhận chính mình “là nhân loại”, là cái toàn thể thì lúc đó sẽ có hoạt động toàn thể. Đề tài này sẽ được trở lại trong nhiều bài khác, nhất là trong phần cuối (ND).
“Khi nói hoạt động chính trị là tôi nói hoạt động trên bình diện của chính phủ: Làm luật, kinh tế, quản lý, vân vân…”
Chắc rồi, nếu hoạt động chính trị cách ly khỏi hoạt động toàn thể của con người, nếu không quan tâm sâu sắc đến toàn bộ cuộc sống của con người, tình trạng tâm lý lẫn đời sống vật chất, thì chỉ tác hại, chỉ mang thêm rối loạn và đau khổ; và đó chính là điều hiện nay đang xảy ra trên toàn thế giới. Với tất cả các vấn đề của mình, con người không thể tác động với toàn thể nhân cách chứ đừng trong tính cách của một thể tính chính trị, cách ly khỏi tình trạng tâm lý và “tâm linh” của mình hay sao? Một ngọn cây bao gồm cả rễ, thân, cành, lá và hoa. Một hành động mà không có tính chất toàn diện, toàn thể, thì hành động đó chỉ dẫn đến đau khổ. Thế nên chỉ có hành động toàn diện của con người mới đúng đắn, chứ không phải hành động chính trị, hành động tôn giáo, hành động kiểu Ấn Độ… Hành động mà mang tính chia cắt, phiến diện, chỉ đưa đến sự tranh chấp trong nội tâm lẫn với bên ngoài.
“Điều đó cho thấy phải chăng hoạt động chính trị là không nên?”
Hoàn toàn không phải thế. Tính chất toàn diện của hành động không ngăn cản những hoạt động chính trị, giáo dục hay tôn giáo. Nhưng chúng không được là các hoạt động riêng lẻ, chúng phải đều là thành phần của một quá trình nhất quán được phát biểu khác nhau trong những hướng khác nhau. Điều quan trọng chính là quá trình nhất quán này chứ không phải là hoạt động chính trị riêng lẻ, cho dù hoạt động đó trước mắt có lợi đến mấy cũng thế thôi.
“Tôi nghĩ là mình đã hiểu những gì ông nói. Khi đã hiểu ngộ hết về con người, hay về chính tôi, thì khi cần, sự chú ý của tôi có thể quay đến mọi hướng, nhưng mọi hoạt động của tôi thì phải nằm trong mối liên hệ trực tiếp với cái toàn thể. Hành động mà mang tính chất cách ly, từng phần, chỉ sinh ra tình trạng rối loạn, điều này từ từ tôi đã hiểu. Nhìn thấy tất cả điều này, không phải với con mắt của nhà chính trị, mà là với tính cách của một con người, thì quan niệm sống của tôi đã thay đổi hoàn toàn. Tôi không còn là người của xứ sở nào, của phe nhóm nào, của tôn giáo riêng biệt nào. Tôi cần biết đến Thượng đế cũng như cần có thực phẩm, quần áo và nhà ở; thế nhưng nếu tôi tìm một cái riêng lẻ bất cần cái khác thì sự tìm kiếm chỉ dẫn đến những dạng khác nhau của thất bại và rối loạn. Vâng, tôi thấy như vậy. Các lĩnh vực chính trị, tôn giáo, giáo dục liên hệ chặt chẽ với nhau.
“Đúng thế, thưa ông, tôi không còn là một nhà chính trị hoạt động trong một khuynh hướng chính trị nhất định. Tôi là một con người, không là một người của đảng phái nào, chẳng phải tín đồ của Ấn Độ giáo hay Thiên Chúa giáo. Tôi muốn giáo dục con cái. Chúng ta có thể nói về vấn đề này chăng?”
Một cuộc sống hội nhập và hành động chính là sự giáo dục. Sự hội nhập không xảy ra bằng cách tự ghép mình vào một khuôn mẫu, dù đó là khuôn mẫu của chính mình hay của người khác. Sự hội nhập xảy ra khi ta thấu hiểu nhiều loại ảnh hưởng tác động lên tâm; khi có ý thức về chúng mà không bị chúng trói buộc. Cha mẹ và xã hội thường tác động lên trẻ con bằng sự gợi ý, bằng những mong ước cũng như cưỡng bách tế nhị không nói hẳn ra lời, bằng cách lặp đi lặp lại các niềm tin và giáo điều. Giáo dục là, giúp trẻ con ý thức về tất cả những ảnh hưởng này, với tất cả tác động nội tại và tâm lý của chúng, giúp trẻ con hiểu ngộ mọi cách thức làm con người bị thẩm quyền chi phối, giúp trẻ con không bị ràng buộc trong mạng lưới của xã hội.
Giáo dục không chỉ là truyền đạt cho một thanh niên những cách kiếm được một nghề, mà giúp cho người đó tự phát hiện ra mình yêu mến những gì; lòng yêu thương này không thể có nếu người thanh niên chỉ đi tìm sự thành công, tiếng tăm hay quyền lực. Phải giúp cho trẻ con hiểu biết, đó mới là sự giáo dục.
Tự biết mình chính là giáo dục. Trong giáo dục không có thầy giáo lẫn điều được dạy dỗ, chỉ có sự học vấn; nhà giáo dục cũng như học trò, cả hai đều là sự học vấn. Sự tự do không có chỗ bắt đầu lẫn chấm dứt, vô thủy vô chung; hiểu như thế chính là giáo dục.
Mỗi một điều nói trên cần phải được ngẫm nghĩ sâu xa, chúng ta không có thì giờ để đi vào từng chi tiết.
“Tôi nghĩ là hiểu một cách tổng quát những gì ông quan niệm về giáo dục. Nhưng đâu là các ông thầy dạy những phương cách mới mẻ này? Các nhà giáo dục đó đâu có?”
Ông đã hoạt động chính trị từ bao nhiêu năm rồi?
“Quá lâu nên tôi không còn nhớ. Tôi e rằng chắc cũng trên hai mươi năm”.
Chắc chắn là, muốn đào tạo nhà giáo dục, ta phải làm việc cũng gian khổ như ông làm trong trường chính trị - nhưng cần sự nỗ lực to lớn hơn nhiều với một sự hiểu biết sâu sắc về mặt tâm lý. Đáng tiếc thay, xem ra không ai quan tâm đến sự giáo dục đúng đắn, đó là điều quan trọng hơn hẳn mọi yếu tố khác để mang lại một sự chuyển hóa cơ bản trong xã hội.
“Phần lớn chúng tôi, nhất là các nhà chính trị, chỉ quan tâm đến kết quả tức thời, thế nên chúng tôi chỉ suy nghĩ ngắn hạn, không có một tầm nhìn lâu dài. Bây giờ xin hỏi thêm, trong những gì mà chúng ta đã nói, đâu là điều liên quan đến sự thừa kế?”
Ông muốn nói thừa kế gì, thừa kế tài sản vật dụng hay thừa kế tinh thần?
“Tôi muốn nói thừa kế tài sản. Thú thật với ông, về “thừa kế’ thì xưa nay tôi chưa nghĩ đến loại thừa kế khác”.
Cả hai như nhau. Thừa kế tinh thần chẳng qua cũng là thứ bị quy định như thừa kế tài sản; cả hai đều hạn chế và giữ chặt tâm trong một khuôn mẫu riêng biệt của xã hội, chúng ngăn chận một sự chuyển hóa toàn triệt của xã hội. Nếu ta mong muốn có một nền văn hóa hoàn toàn khác, một nền văn hóa vắng bóng tham vọng và sự chiếm hữu, thì sự thừa kế tinh thần trở thành chướng ngại.
“Theo ông, thừa kế tinh thần là gì, nói một cách chính xác?
Đó là sự khắc ghi của quá khứ lên tâm thức còn trẻ trung; là sự bị quy định ý thức hay vô ý thức phải phục tùng, phải rập khuôn. Các phe phái chính trị thời nay làm điều này rất hiệu quả, cũng như giới Thiên Chúa giáo từng làm từ nhiều thế hệ. Các hệ phái tôn giáo khác cũng đang làm điều này, nhưng không ráo riết hay hiệu quả được như thế. Cha mẹ và xã hội đang uốn nắn tâm thức của trẻ con bằng truyền thống, niềm tin, giáo điều, kết luận, ý kiến và sự thừa kế tinh thần này ngăn chặn sự hình thành một trật tự xã hội mới.
“Tôi hiểu; nhưng ngăn chận lại dạng thừa kế này hầu như là điều bất khả, không phải sao?”
Nếu ông thật lòng thấy cần phải ngăn chặn loại thừa kế này, thì không phải là ông cần chú trọng hết sức trong việc cho con ông một thứ giáo dục đúng đắn sao?
“Xin nhắc lại, phần lớn chúng tôi đều bị vướng mắc trong những ưu tư và lo âu riêng, nên nếu có muốn cũng không thể đi vào những vấn đề này một cách sâu sắc. Chúng tôi là một thế hệ toàn những người nói cho vui hay nói một đường làm một nẻo. Vấn đề thừa kế tài sản cũng là một chuyện khó khác nữa. Tất cả chúng tôi đều muốn sở hữu một cái gì, một miếng đất, nhỏ mấy cũng được hay làm chủ một con người khác; nếu không thì chúng tôi cũng muốn có riêng ý thức hệ hay niềm tin. Chúng tôi thật không thể sửa đổi trong việc chạy theo sở hữu”.
Thế nhưng khi nhận ra sâu sắc rằng thừa kế của cải cũng tiêu cực như thừa kế tinh thần, thì ông sẽ tìm cách giúp con cái thoát khỏi cả hai dạng thừa kế. Ông sẽ dạy cho chúng biết thế nào là đủ, không hề phụ thuộc vào ơn nghĩa của chính ông lẫn của người khác, biết yêu thích công việc của mình, có niềm tin nơi khả năng của chính mình để làm những việc không mang tính chất tham vọng, không tôn thờ thành tích; ông sẽ dạy chúng có một cảm nhận liên đới trách nhiệm và nhờ đó mà biết chỗ nào ta không nên tham dự vào. Khi đó trẻ con sẽ không có nhu cầu phải thừa kế tài sản của ông. Chúng sẽ là những con người tự do ngay từ đầu, không phải nô lệ vào cả gia đình lẫn xã hội.
“Đó là một điều lý tưởng mà tôi e rằng không bao giờ thực hiện được”.
Đó không phải là lý tưởng, không phải là một điều phải được hoàn thành trong miếng đất của ảo tưởng xa vời. Sự thấu hiểu chính là bây giờ đây, không phải trong tương lai. Sự thấu hiểu là hành động. Sự thấu hiểu không hề đến trước rồi hành động theo sau; mà sự thấu hiểu và hành động là không thể phân chia. Khi ta thấy một con rắn thì ngay khi đó là hành động. Nếu trong những gì đã nói sáng nay, chân lý được thấy biết thì hành động nằm ngay trong sự nhận thức đó. Thế nhưng chúng ta quá bị vướng vào ngôn từ, vào những gì do trí năng tạo dựng, nên ngôn từ và trí năng trở thành vật cản của hành động. Cái gọi là hiểu biết do trí năng đem lại chẳng qua là nghe những lời diễn đạt suông, hay nghe những ý niệm, và loại hiểu biết đó không có giá trị, như lời mô tả một món ăn là vô nghĩa cho một người đang đói. Hoặc là ông thấu hiểu hoặc không. Thấu hiểu là một quá trình toàn diện, nó không hề cách ly khỏi hành động, nó cũng không phải là kết quả của thời gian*.
* Một quá trình toàn diện, tức thì, độc lập với thời gian chính là sự trực nhận chân lý mà tác giả sẽ còn nhắc đến trong những bài sau (ND).
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Next

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 26 guests