Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

NƠI NÀO CÓ SỰ CHÚ Ý THÌ NƠI ĐÓ LÀ THỰC TẠI


Mây bao phủ các ngọn đồi, che lấp những đỉnh núi phía sau. Trời mưa suốt ngày, cơn mưa bụi không làm ướt đất và trong không gian phảng phất một mùi thơm dễ chịu của hoa nhài và hoa hồng. Ngoài đồng, hạt đã bắt đầu chín. Giữa những tảng đá nơi loài dê tìm thức ăn, là những bụi cây thấp, thỉnh thoảng có một thân cây già cỗi sần sùi. Một con suối nằm cao trên phía đồi, một ngọn đồi luôn luôn nở hoa, hè cũng như đông, cho dòng nước chảy xuống chân hồ và vang lên một âm thanh khả ái. Suối chảy xuyên qua một khu vườn trồng cây, và biến mất sau cánh đồng rộng mở nằm sau làng. Một chiếc cầu nhỏ bằng đá vuông bắc qua dòng suối do dân làng đang tự xây, dưới sự hướng dẫn của một ông kỹ sư trong làng. Ông là một người đứng tuổi và dễ mến, họ làm việc một cách thong thả khi ông có mặt. Thế nhưng ông vừa đi vắng thì chỉ có một hai người làm tiếp, số còn lại để dụng cụ và thúng mủng xuống, ngồi quanh chuyện trò với nhau.
Dọc theo con đường cạnh bờ suối có một dân làng đi đến, ông dẫn theo cả chục con lừa. Chúng trở về từ thị trấn gần đó với những chiếc bao tải rỗng không. Những con lừa này có những cặp chân nhỏ nhắn, thanh mảnh; chúng đi nước kiệu khá nhanh, bây giờ thì chúng dừng chân và gặm cỏ xanh mượt hai bên đường. Chúng trên đường về nhà mà chẳng cần ai dẫn đường chỉ lối. Dọc theo con đường chỗ nào cũng có một miếng đất canh tác nhỏ, một ngọn gió nhẹ đong đưa giữa những hàng ngũ cốc còn non. Từ trong một ngôi nhà nhỏ vang ra một giọng phụ nữ trong sáng, chị đang hát; giọng hát khiến mắt bạn đẫm lệ, không phải vì tiếng hát gợi nhớ xa xăm, mà vì vẻ đẹp thuần túy của tiếng hát. Bạn ngồi dưới một ngọn cây, trời và đất hòa nhập vào người bạn. Ngoài tiếng hát và màu đất đỏ là sự tĩnh lặng, một sự tĩnh lặng hoàn toàn mà trong đó mọi đời sống đang vận động. Bây giờ thì đom đóm đã bay giữa các tàng lá và bụi cây. Trong bóng tối đang dần lên, những con đom đóm sáng rõ; thật đáng kinh ngạc vì ánh sáng do chúng phát ra. Trên một tảng đá tối nhờ nhờ, ánh mờ nhẹ và lấp loáng của một con đom đóm đơn côi đã giữ cho cả vùng không gian này đầy ánh sáng.
Anh còn trẻ và rất nghiêm túc, cặp mắt sắc và sáng. Mặc dù đã quá ba mươi mà anh vẫn chưa lập gia đình; nhưng hôn nhân và tình dục không phải là điều quan trọng, anh nói thêm. Là một người có học thức, anh có cái cứng cỏi trong bộ điệu, trong bước đi. Anh không đọc quá nhiều sách vở mà chỉ một số sách có nội dung nghiêm túc, và anh cũng đã suy tư về nhiều thứ. Anh là nhân viên trong một cơ quan của Nhà nước và lương cũng rất khá. Anh thích những trò chơi ngoài trời, nhất là môn quần vợt mà anh thuộc hạng giỏi. Anh không ham xem phim, cũng không có nhiều bạn thân. Anh kể thêm là kiên trì tập thiền định mỗi ngày hai buổi sớm tối, mỗi lần cả tiếng đồng hồ. Sau khi nghe nói chuyện buổi tối hôm trước, anh muốn đến để thảo luận về nội dung và ý nghĩa của phép thiền định. Lúc còn nhỏ, anh đã quen theo cha vào một căn phòng nhỏ để ngồi thiền, lúc đó thì anh chỉ ngồi được mươi phút là nhiều, và cha anh cũng không lấy thế làm phiền. Căn phòng này chỉ có đơn độc một bức tranh trên tường và trong nhà không ai được vào phòng đó, ngoại trừ vào để ngồi thiền. Cha anh không khuyến khích cũng không ngăn cản anh trong việc thiền định, ông cũng không bao giờ chỉ cho anh cách thiền định như thế nào, hay về điều gì sẽ sinh ra, nhưng anh thì từ còn nhỏ đã thấy thích thiền định. Về sau, khi học đại học, anh khó giữ được giờ giấc nhất định trong ngày; nhưng sau đó, khi đã có công ăn việc làm, mỗi ngày anh đều thiền định sớm tối, mỗi lần một tiếng và bây giờ thì anh không chịu đổi bất cứ điều gì trong đời cho hai tiếng đồng hồ đó.
“Thưa ông, tôi đến đây không phải để tranh biện, không phải để bênh vực điều gì, mà chỉ để học hỏi. Mặc dù đã đọc về nhiều phép thiền định dành cho nhiều tính khí khác nhau và cũng đã tìm được một cách để kiểm soát tư tưởng, tôi cũng không dại mà vội tin rằng mình đang thực hiện được phép thiền định chân chính. Tuy nhiên nếu tôi không lầm thì phần lớn những ai đáng tin cậy đều khuyên nên kiểm soát tư tưởng, có lẽ đó là điều cốt tủy của thiền định. Tôi cũng thực hành đôi chút phép du-già*, xem nó là phương tiện để làm tâm lắng dịu; các phép thở đặc biệt, tụng đọc kinh kệ, vân vân… Tất cả những thứ này là để nhập môn cho bản thân tôi và có thể nó không quan trọng lắm. Vấn đề ở đây là, tôi thực sự ham thích hành trì thiền định, nó thật là sống chết đối với tôi và tôi muốn biết thêm về nó”.
* Yoga.
Khi nói phép thiền định lập tức ta nói về người thiền định. Khi hành trì điều mà anh gọi là thiền định, thì người thiền định khác với phép thiền định, đúng thế không? Tại sao lại có sự khác biệt, tại sao có khoảng cách giữa hai cái? Đó là điều không thể tránh khỏi hay khoảng cách giữa hai cái có thể nối lại được? Nếu không hiểu thấu một cách chính xác cái đúng hay cái sai của sự phân biệt giả tạo này thì kết quả của cái được mệnh danh là thiền định cũng chỉ tương đương như thứ được tạo ra bởi một cái máy an thần, cái được dùng để cho tâm được yên. Nếu mục đích con người là làm tư tưởng phải bị khống chế, thì bất cứ hệ thống hay loại ma túy nào tạo ra được kết quả mong muốn đó cũng được coi như đạt yêu cầu.
“Nói thế thì trong một lúc ông bác bỏ tất cả những phép tu du-già, các hệ thống truyền thống về thiền định đã được tập luyện và truyền bá qua nhiều thế kỷ bởi các bậc thánh và các vị tu khổ hạnh. Không lẽ tất cả các vị đó đều sai lầm cả sao?”
Tại sao họ lại không thể sai lầm? Tại sao lại có lòng dễ tin như thế? Phải chăng ta nên có một sự cẩn trọng đúng mức để tìm hiểu tất cả vấn đề của thiền định? Anh chấp nhận vì hăng say muốn có kết quả, muốn thành công, anh muốn “đến đích”. Muốn hiểu thiền định là gì, ta phải biết tra vấn, hỏi han; một sự chấp nhận đơn thuần sẽ hủy hoại sự tra vấn. Anh phải tự mình thấy cái hư vọng là hư vọng, thấy cái đích thực trong sự hư vọng, và thấy cái đích thực là đích thực, vì không ai có thể bày cho anh biết điều này. Thiền định là phương thức của cuộc sống, nó là một phần của đời sống hàng ngày, và sự phong phú cũng như vẻ đẹp của cuộc sống chỉ có thể được thấu hiểu thông qua thiền định. Nếu không hiểu quy mô toàn thể của cuộc sống, và những phản ứng hàng ngày từ khoảnh khắc này qua khoảnh khắc khác thì thiền định trở thành quá trình của sự tự thôi miên. Cốt tủy của thiền định chính là thấu hiểu những vấn đề của đời sống hàng ngày. Anh không thể đi được xa nếu anh không biết bắt đầu ở chỗ rất gần.
“Tôi hiểu điều này. Người ta không thể leo lên đỉnh núi nếu trước đó không lội qua thung lủng. Trong đời sống hàng ngày tôi đã nỗ lực dẹp bỏ những chướng ngại hiển nhiên như thèm muốn, khao khát, vân vân…; và tôi cũng ngạc nhiên thấy mình vứt bỏ được mọi thứ của thế gian. Tôi thấy rõ và trân trọng một điều là ta phải đặt một nền móng chân chính, nếu không thì không xây dựng một công trình trên đó. Tuy nhiên thiền định không phải chỉ là vấn đề uốn nắn lòng ham muốn và mê say. Hiển nhiên mọi mê say phải được chế ngự, phải được kiểm soát, nhưng phải chăng thưa ông, thiền định là một điều cao hơn thế nữa? Tôi không dẫn chứng ý hay lời của thẩm quyền nào mà tôi thật sự cảm nhận thiền định là một điều gì to lớn hơn nhiều so với việc xây dựng một nền móng vững chắc”.
Có thể; nhưng ngay tại bước khởi điểm thì nơi đó đã là cái toàn vẹn*. Không phải là ta xây dựng một nền móng vững chắc trước, rồi sau đó xây dựng phía trên; hay trước hết hãy giải phóng mình ra khỏi lòng thèm muốn rồi sau đó sẽ “đến đích”. Ngay tại bước khởi điểm đã là cái chung cuộc. Không có khoảng cách nào phải vượt qua cả, không cần leo trèo, không có điểm đến. Thiền định tự nó là phi thời gian, trong tình trạng phi thời gian thì không có con đường nào dẫn đến đích. Không có chỗ bắt đầu, không có chỗ chấm dứt. Thế nhưng vấn đề không phải là ngôn từ, nó cứ mãi là ngôn từ nếu anh không tự dò tìm và không tự thấu hiểu cái đích thực và cái hư vọng trong thiền định.
* The totality.
“Tại sao điều này lại quan trọng thế?”
Người thiền định là kẻ kiểm tra, kẻ dò xét, kẻ có những dụng công “đúng” và “sai”. Kẻ đó là cái trung tâm và từ trung tâm đó, nó dệt nên một mạng lưới của tư tưởng; và chính tư tưởng lại sinh ra kẻ đó; tư tưởng đã sinh ra khoảng cách giữa người tư duy và tư tưởng. Nếu sự chia cắt này không chấm dứt thì cái gọi là thiền định chỉ tăng cường thêm cho cái trung tâm, tăng cường cho người chứng nghiệm cứ nghĩ rằng mình khác với những gì được chứng nghiệm. Người chứng nghiệm luôn luôn mong ước sẽ được thêm kinh nghiệm; mỗi kinh nghiệm lại tích lũy thêm cho những kinh nghiệm đã qua, rồi chính cái đã qua lại định đoạt, lại hình thành kinh nghiệm đang có. Thế nên tâm cứ mãi bị chính mình quy định. Cho nên kinh nghiệm và tri thức không phải là những nhân tố giúp ta giải thoát như nhiêu người vẫn nghĩ.
“Tôi sợ rằng tôi không hiểu những gì ông nói”, anh nói một cách hoang mang bối rối.
Tâm chỉ tự do khi nó không bị quy định bởi kinh nghiệm của chính mình, bởi tri thức, bởi lòng kiêu căng, bởi sự thèm muốn; và thiền định chính là xả bỏ tâm khỏi những thứ đó, khỏi mọi hoạt động và tác động* lấy mình làm tâm điểm.
* Influences.
“Tôi công nhận tâm phải giải phóng khỏi mọi hoạt động lấy mình làm tâm điểm nhưng tôi không hiểu hết điều mà ông gọi là tác động”.
Tâm của anh chính là kết quả của tác động, đúng không? Từ thời còn nhỏ tâm của anh đã bị tác động do thực phẩm anh ăn, do thời tiết khí hậu nơi anh ở, do cha mẹ của anh, do sách vở anh đọc, do môi trường văn hóa nơi anh học hành, vân vân… Anh được dạy dỗ phải tin tưởng cái gì, không được tin tưởng cái gì; tâm anh là kết quả của thời gian, mà thời gian là ký ức, là tri thức. Tất cả mọi kinh nghiệm đều là một quá trình lý giải của quá khứ, của cái đã biết, và do đó không thể giải phóng khỏi cái đã biết; đó chỉ là một dạng được điều chỉnh của cái đã là. Tâm chỉ tự do khi sự tiếp nối này ngưng bặt.
“Thế nhưng làm sao ta biết chắc là tâm ta sẽ được tự do?”
Cái mong ước muốn được chắc chắn, muốn được an toàn chính là khởi điểm của sự trói buộc. Chỉ khi nào tâm không bị vướng vào mạng lưới của sự an toàn, tâm không tìm cầu cái chắc chắn, thì nó mới ở trong một trạng thái của khám phá.
“Đúng là tâm luôn luôn muốn được an toàn trong mọi tình huống và bây giờ tôi thấy tại sao sự mong ước đó là một trở ngại”.
Điều quan trọng là ta phải cho chết đi mọi thứ mà ta đã tích lũy, vì mọi thứ tích lũy này chính là cái tự ngã, cái “tôi”. Nếu không chấm dứt những thứ tích lũy này thì sẽ cứ còn mong ước được an toàn, thì sẽ có sự tiếp nối của quá khứ.
“Tôi bắt đầu thấy, thiền định không hề giản đơn. Kiểm soát tư tưởng so ra còn dễ dàng, và cúng lạy hình tượng, tụng đọc kinh kệ chỉ làm cho tâm thêm buồn ngủ; còn thiền định đích thực xem ra công phu và gian khổ hơn tôi tưởng tượng nhiều”.
Thật ra nó không phức tạp, tuy nhiên gian khổ thì có thể. Anh thấy không, chúng ta không chịu xuất phát từ cái đang là, cái đang hiện tiền, từ cái chúng ta đang suy tư, đang thực hiện, đang mong ước; mà chúng ta xuất phát từ những giả định hay với ý hướng của mình, với cái không có thực và do đó chúng ta bị dẫn đi lạc lối. Muốn bắt đầu với cái hiện tiền chứ không với cái giả định, chúng ta cần sự chú ý sắc sảo và mọi suy tư không bắt nguồn từ cái hiện tiền đều là một sự xao nhãng. Do đó thật là quan trọng phải hiểu điều gì đang hiện tiền cả bên trong lẫn xung quanh chúng ta.
“Phải chăng linh ảnh* là thực tại hiện tiền?”
* Linh ảnh: Vision. Trong nhiều tôn giáo, linh ảnh về Thượng đế, về các đấng Chí tôn được xem là “thực tại đích thực” (ND).
“Thực tại hiện tiền” sao được? Hãy xem. Nếu anh là tín đồ Thiên Chúa giáo, linh ảnh của anh sẽ theo một mẫu mực nhất định; nếu ta là tín đồ Ấn Độ giáo, là Phật tử, là tín đồ Hồi giáo thì đều có những mẫu hình khác nhau. Anh có linh ảnh về Chúa hay Krishna, nó dựa trên sự quy định của anh; chính sự giáo dục, nền văn hóa mà anh từng sống đã tạo nên, đã xác định những linh ảnh của anh. Cái gì là cái có thực: Linh ảnh của anh hay tâm của anh đã bị đúc khuôn? Linh ảnh chính là hình ảnh chiếu rọi của một truyền thống có sẵn, của cái đã hình thành nên cơ sở của tâm. Sự quy định này, chứ không phải hình ảnh được chiếu, mới là cái có thực, là cái hiện tiền. Muốn hiểu cái hiện tiền thì đơn giản thôi, nhưng nó trở nên khó do sự yêu ghét của chúng ta, do sự lên án của chúng ta, do ý kiến và đánh giá của chúng ta về những cái hiện tiền đó. Thoát khỏi những trạng thái khác nhau của sự đánh giá đo lường tức là thấu hiểu cái đang hiện tiền, cái đang là.
“Ông muốn nói là chúng ta không bao giờ nhìn trực tiếp sự vật mà luôn luôn xuyên qua thành kiến và ký ức, xuyên qua truyền thống và kinh nghiệm dựa trên những truyền thống đó. Dùng chữ của ông, chúng ta không bao giờ ý thức về chính mình trong trạng thái đang thực là. Một lần nữa, tôi công nhận ông có lý. Thực tại hiện tiền là điều duy nhất quan trọng”.
Hãy xem toàn thể vấn đề một cách khác. Sự chú ý là gì? Khi nào thì anh chú ý? Có lúc nào anh thực sự chú ý vào một vật gì chưa?
“Tôi chú ý khi tôi quan tâm đến một điều gì”.
Phải chăng quan tâm là chú ý? Khi anh quan tâm đến vật gì, điều gì xảy ra trong tâm anh? Anh đang quan tâm nhìn đến những con thú đang đi qua; sự quan tâm đó là gì?
“Tôi bị lôi cuốn bởi điệu bộ, màu sắc, hình dáng của chúng, tất cả đều nổi bật trên nền cỏ xanh”.
Phải chăng có sự chú ý trong mối quan tâm này?
“Tôi nghĩ có”.
Một đứa trẻ đang say mê với một món đồ chơi. Anh gọi đó là sự chú ý chăng?
“Không phải thế sao?”
Món đồ chơi thu hút sự quan tâm của đứa trẻ, nó chiếm trọn tâm trẻ và đứa trẻ yên lặng, hết lăng xăng; nhưng nếu ai lấy mất món đồ chơi thì nó ồn ào, la khóc, vân vân… Đồ chơi trở nên quan trọng vì chúng giữ cho trẻ được yên lặng. Người lớn cũng thế thôi. Nếu họ bị tước đi những thứ chơi đùa - như niềm tin, tham vọng, sự ham muốn quyền lực, sự tôn thờ Thần thánh, tôn thờ Nhà nước, sự bảo vệ cho một lý tưởng - thì họ cũng bị bất an, mất mát, rối loạn; thế nên trò chơi cho người lớn cũng rất quan trọng. Có sự chú ý không khi món đồ chơi thu hút tâm? Đồ chơi chỉ là sự phân tán xao nhãng, đúng thế không? Đồ chơi trở thành tuyệt đối quan trọng chứ không phải tâm vì tâm đã bị đồ chơi chiếm giữ. Muốn hiểu sự chú ý là gì chúng ta phải nhìn đến cái tâm chứ không phải các món đồ chơi của tâm.
“Các món đồ chơi, như ông gọi tên, giữ chặt ý thích của tâm”.
Các món đồ chơi giữ chặt ý thích của tâm có thể là một vị đạo sư, có thể là một hình ảnh hay bất cứ hình tượng gì do tay người hay tâm người nặn ra; và sự giữ chặt ý thích của tâm bởi một món đồ chơi được gọi là sự tập trung. Phải chăng sự tập trung đó chính là sự chú ý*? Không phải sự tập trung kiểu đó chỉ là sự thu hẹp tâm hay sao? Liệu đó là sự chú ý?
* Tập trung: concentration, chú ý: attention.
“Như tôi từng tu tập sự tập trung thì đó là cuộc đấu tranh làm sao giữ tâm cố định vào một điểm để loại bỏ tất cả những tư tưởng khác, loại bỏ tất cả sự phân tán khác”.
Phải chăng đó là sự chú ý khi có sự đề kháng chống sự phân tán? Hiển nhiên là sự phân tán sẽ sinh ra khi tâm hết thích món đồ chơi và khi đó sẽ có một mối tranh chấp, đúng thế không?
“Chắc rồi, vấn đề là ta phải đè bẹp sự phân tán”.
Anh có thể chú ý được chăng khi có sự tranh chấp diễn ra trong tâm?
“Tôi bắt đầu hiểu những gì ông muốn hướng đến. Xin nói tiếp”.
Khi món đồ chơi thu hút tâm, khi đó không có sự chú ý; cũng không có sự chú ý khi tâm đấu tranh để được tập trung bằng cách loại bỏ sự phân tán. Khi còn có một đối tượng của sự chú ý thì lúc đó có sự chú ý không?
“Phải chăng ông đang ám chỉ một điều duy nhất, thay vì dùng từ “đồ chơi” thì dùng từ “đối tượng”?”
Đối tượng hay đồ chơi, có thể là vật bên ngoài, nhưng cũng có thứ đồ chơi nội tâm.
“Vâng, ông đã liệt kê một ít. Tôi biết điều này”.
Có một thứ đồ chơi quy mô hơn, đó là duyên cớ*. Có sự chú ý không nếu có một duyên cớ cần chú ý đến?
* Motive.
“Ông nói duyên cớ là sao?”
Một sự bức xúc phải hành động; một nỗi thúc giục phải hoàn thiện chính mình, xuất phát từ lo ngại, ham muốn, tham vọng; một nguyên nhân hướng dẫn sự tìm cầu; một nỗi khổ làm anh phải tìm cách trốn chạy, vân vân… Có sự chú ý không nếu có vài duyên cớ bí ẩn đang vận hành?
“Nếu tôi bị buộc phải chú ý vì đau khổ hay vui sướng, vì lo ngại hay mong được ân thưởng, thì không có sự chú ý. Vâng, tôi thấy rõ ông muốn nói gì. Vấn đề rất rõ ràng và tôi đang hiểu kịp ý ông”.
Thế nên sẽ không có sự chú ý nếu ta tiếp cận bất cứ vật gì trong cách này. Và ngôn từ, danh tính có dính líu gì đến sự chú ý không? Thí dụ, có bao giờ ta biết nhìn mặt trăng mà đừng gọi tên nó không, hay là danh từ “mặt trăng” cứ luôn luôn can thiệp vào cái nhìn của ta? Có bao giờ ta biết lắng nghe điều gì với sự chú ý không, hay là tư tưởng của ta, cách diễn dịch của ta cứ luôn luôn can thiệp vào sự lắng nghe? Có bao giờ ta thực sự biết chú ý không? Điều hiển nhiên là sự chú ý không có duyên cớ, không có đối tượng, không có đồ chơi, không có tranh đấu, không có ngôn từ diễn đạt. Đó là sự chú ý đích thực. Nơi nào có sự chú ý thì nơi đó là thực tại.
“Nhưng thật là bất khả lúc nào cũng có một sự chú ý như thế’, anh kêu lên. “Nếu làm được thì không còn vấn đề gì nữa”.
Mọi dạng khác của “sự chú ý” đều chỉ gây thêm vấn đề, không phải sao?
“Tôi thấy đúng thế, nhưng ta làm được gì?”
Khi anh đã thấy mọi sự tập trung lên đồ chơi, mọi hành động xuất phát từ duyên cớ, bất cứ điều gì, chỉ gây thêm nguy hại và khốn khổ, thì khi nhìn cái hư vọng này sẽ thấy sự thực; và sự thực sẽ có hành động riêng của nó. Tất cả điều này chính là thiền định.
“Nếu được phép, thưa ông, thì tôi xin nói là đã chân thành lắng nghe và đã hiểu một cách thực sự nhiều điều ông đã giải thích. Điều đã được thấu hiểu sẽ có hệ quả của nó, không cần sự can thiệp của tôi. Hy vọng sẽ còn có dịp gặp ông lần nữa”.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

CUỐI ĐỜI NHÌN LẠI


Trong hai thập niên cuối cùng của đời mình, Krishnamurti tiếp tục chia thời giờ cho Ấn Độ, châu Ầu và Mỹ; ông nói chuyện trước công chúng, nói chuyện trong nhóm nhỏ và gặp nhiều cá nhản.
Một dấu ấn quan trọng là các cuộc gặp gỡ tại Saanen, Thụy Sĩ. Được thực hiện suốt hai mươi lăm năm, các buổi này có lẽ là tiêu điểm quan trọng nhất của công trình mang tính quốc tế của ông.
Cuộc đời Krishnamurti với trên sáu mươi năm luôn luôn xuất hiện trước công chúng; chỉ trừ một giai đoạn ngắn bị đau ốm và nghỉ dưỡng sức, các cuộc nói chuyện và gặp gỡ của ông tiếp diễn cho tới ngày mất tại Ojai, California, trong tháng 2 năm 1986. Trong mọi thời kỳ, thông điệp của ông chủ yếu là điều mà ông đã nói trong những năm xưa: “Chân lý là mảnh đất không có đường đến”; mỗi chúng ta đại diện cho toàn thể loài người và mỗi người phải tự là ánh sáng soi đường cho mình đi, thoát khỏi mọi thẩm quyền. Để trao truyền thông điệp đó, Krishnamurti đã giảng giải các đề tài không hề thay đổi như về tư tưởng, thời gian, khổ, cái chết, không gian, sự tĩnh lặng và sự thiêng liêng. Trong các bài giảng cũng như bài viết, ông có nhắc đến - có khi có vẻ miễn cưỡng vì sợ rằng người ta hiểu sai - nguồn suối nội tại của việc làm đời mình.
Krishnamurti có một văn phong tôn giáo hết sức phù hợp với thế kỷ hai mươi. Trải rộng từ nét nên thơ đến độ chính xác một cách tỉ mỉ, văn phong này chuyển tải những tầm nhìn và những dạng biến thiên khác nhau của chúng, mà ngôn ngữ đạo học trước đây không thể phù hợp. Từ đầu cuộc đời cho đến lúc cuối, những bài nói chuyện của ông - thật đáng chú ý về quy mô và mức độ bao quát - luôn luôn là một quá trình bàn bạc chung.
Khi Mary Lutyens, một trong những người viết lại tiểu sử của Krishnamurti, xin ông cho biết cốt tủy của giáo pháp mình thì ông nhận lời và cho một trang đúc kết “Cốt tủy của giáo pháp Krishnamurti”*, và trang này sẽ bắt đầu phần cuối của cuốn sách này. Sau đó là những bài giảng tại Ojai, California; Saanen, Thụy Sĩ; Brockwood Park, Anh; New Delhi, Ấn Độ.
* The core of Krishnamurti’s Teaching.
Phần này của cuốn sách thể hiện công trình của thập niên cuối cùng của cuộc đời ông. Những đề tài này cũng chính là những đề tài của buổi ban đầu, ở đây chỉ có một sự chuyển biến về cách phát biểu, điều này xác nhận lại tầm quan trọng của giáo pháp Krishnamurti suốt tất cả thời gian của ông.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

CỐT TỦY CỦA GIÁO PHÁP KRISHNAMURTI


Cốt tủy của giáo pháp Krishnamurti được chứa trong tuyên bố của ông năm 1929 khi ông nói: “Chân lý là mảnh đất không có đường đến”*. Người ta không thể đến đó thông qua tổ chức nào, thông qua niềm tin nào, thông qua giáo điều nào, tu sĩ hay lễ nghi, cũng chẳng thông qua tri kiến triết học hay kỹ thuật tâm lý nào cả. Con người phải tìm thấy nó nhờ tấm gương của mối liên hệ, nhờ sự thấu hiểu nội dung của chính tâm thức mình, nhờ quan sát nhưng lại không bằng phép phân tích của trí năng hay sự chia chẻ nội tâm. Con người đã xây dựng trong thâm tâm mình nhiều hình tượng để được cảm giác an toàn, những hình tượng có tính chất tôn giáo, chính trị hay cá nhân. Điều này biểu hiện ra ngoài thành biểu tượng, ý niệm, niềm tin. Gánh nặng của những thứ này chế ngự trong cách tư duy, trong các mối quan hệ cũng như trong đời sống hằng ngày của con người. Những điều đó chính là nguyên nhân của các vấn nạn của chúng ta, tại vì chúng chia cắt người và người trong mọi mối hên hệ. Cách cảm nhận của con người về cuộc sống đã được hình thành bởi những chủ trương vốn định hình trong tâm não của con người. Nội dung của ý thức con người chính là ý thức đó. Nội dung này là chung cho tất cả loài người. Cá thể riêng lẻ chỉ là danh xưng, là hình dạng và là lớp văn hóa nông cạn mà con người thu được từ môi trường xung quanh. Tính chất vô song của mỗi cá thể không nằm trong cái nông cạn đó mà trong sự tự do hoàn toàn từ nội dung của ý thức.
* Xin xem chương đầu tiên, tại đó câu “Truth is a pathless land” được phỏng dịch là “Đạo khả đạo, phi thường đạo” (ND).
Sự tự do không phải là một phản ứng; tự do không phải là sự chọn lựa. Con người làm như thể mình có tự do khi nó được chọn lựa. Tự do là sự quan sát thuần túy vắng bóng một ý định; tự do không phải nằm ở đầu cuối của sự tiến hóa mà là bước đầu tiên của sự hiện hữu của con người. Qua quan sát, người ta bắt đầu phát giác mình thiếu sự tự do. Trong cuộc sống hàng ngày, tự do được tìm thấy trong sự tỉnh giác vắng bóng cái lựa chọn đắn đo.
Tư tưởng chính là thời gian. Tư tưởng do kinh nghiệm, do tri thức sinh ra, những thứ đó không rời khỏi thời gian. Thời gian là kẻ thù nội tâm của con người. Mọi hành động của chúng ta đều dựa trên tri thức và do đó trên thời gian, thành thử con người luôn luôn là nô lệ của quá khứ.
Khi con người bắt đầu ý thức về sự vận động của chính ý thức mình, con người sẽ thấy sự cách ly giữa người tư duy và tư tưởng, người quan sát và vật bị quan sát, người chứng nghiệm và kinh nghiệm. Con người sẽ phát hiện sự cách ly đó là một vọng tưởng. Lúc đó thì sẽ có sự quan sát thuần túy, đó sẽ là một cái nhìn không vướng chút bóng tối nào của quá khứ. Tầm nhìn phi thời gian này sẽ sinh ra một sự thay đổi toàn triệt trong tâm.
Sự phủ định hoàn toàn là cốt tủy của sự khẳng định. Khi phủ định tất cả những điều mà không phải là lòng thương yêu - như dục lạc, vui thú - thì sẽ xuất hiện lòng thương yêu với lòng từ bi và trí thông minh của nó.
London, 21.10.1980
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

HÀNH ĐỘNG TOÀN DIỆN, ĐỪNG TIẾC NUỐI


1


Tư tưởng đã xây dựng nên thế giới này, thế giới của chính trị, của kinh tế, của kinh doanh, của đạo đức xã hội và của tất cả mọi cơ chế tôn giáo. Tất cả mọi vấn nạn và mọi mong ước tìm giải pháp cho những vấn nạn đó đều nằm trong loại ý thức này, nằm trong phạm vi mà tư tưởng đã bày ra. Thế nên tư tưởng cũng cố tìm những câu trả lời cho sự rối loạn được sinh ra trong mối quan hệ cá nhân giữa chúng ta, quan hệ của chúng ta với cộng đồng. Ngay cả buổi thiền định của bạn, ngay cả Thượng đế của bạn, Chúa của bạn, Phật của bạn cũng là sáng tạo của tư tưởng, mà tư tưởng là một thứ chỉ có thể vận hành trong phạm vi của thời gian. Chúng ta cho rằng nhờ tư tưởng, nhờ ý chí, nhờ ước vọng, nhờ động cơ và sự quyết tâm, nhờ sự thay thế truyền thống cũ bằng các tôn giáo mới, chúng ta sẽ giải quyết được các vấn đề của quan hệ giữa con người.
Phải chăng sẽ có một giải pháp cho các vấn đề đó nhờ hoạt động của tư tưởng? Nếu tư tưởng không giải quyết được các vấn đề này thì cái gì mới làm được?
Ý thức là gì? Vận hành của tư tưởng là gì? Tất cả mọi phép thiền định của bạn đều nằm trong ý thức; tất cả mọi tầm cầu của bạn hướng về sự vui thích, tất cả mọi lo sợ, ham muốn, thèm khát, bạo lực đều nằm trong ý thức cả. Và tư tưởng thì cố gắng vượt lên ý thức, tìm đến cái bất khả tư nghi, cái không thể đặt tên, cái không thể biết được. Nội dung của ý thức là ý thức. Ý thức của bạn hay ý thức của người khác chính là nội dung của nó*. Nếu bạn được sinh ra tại Ấn Độ, thì tất cả truyền thống, mê tín, hy vọng, sợ hãi, lo âu, phiền muộn, lòng bạo lực, sự đòi hỏi tình dục, tâm lý xâm lược, các niềm tin, các giáo điều, các tín ngưỡng của xứ sở này là nội dung của ý thức đó. Thế nhưng nội dung của ý thức thì hết sức tương tự như nhau, dù người ta sinh ở phương Đông hay phương Tây.
* Nội dung của ý thức chính là ý thức. Điều này sẽ được tác giả nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm này. Với ý này tác giả muốn bác bỏ ý niệm của nhiều người, họ xem ý thức như là một bình chứa và nội dung ý thức là vật được chứa trong đó. Krishnamurti cho thấy không có bình chứa; nội dung của ý thức chính là ý thức, không có nội dung ý thức thì không có ý thức. Tư tưởng này của tác giả chính là tư tưởng vô ngã. Đó là con người chính là tập hợp của những hoạt động của chính nó, không có một chủ thể làm chủ các hoạt động đó. Không có hoạt động, không có các trạng thái tâm lý liên tục xếp bên nhau thì cũng chẳng có con người (ND).
Hãy nhìn ý thức của chính bạn, nếu bạn làm được. Nếu bạn sinh ra trong văn hóa tôn giáo của Thiên Chúa giáo, thì một mặt bạn sẽ tin nơi các vị cứu tinh, lễ nghi tôn giáo, tín ngưỡng, giáo điều; mặt khác lại chấp nhận sự suy đồi của xã hội, chiến tranh, đầu óc quốc gia và sự phân biệt chia cắt, những điều hạn chế sự phát triển kinh tế và chúng ngăn không cho bạn quan tâm đến những cái khác. Nội dung của ý thức bạn chính là niềm đau khổ riêng tư của bạn, lòng ước vọng, lòng lo sợ, lòng ham muốn, óc chiếm đoạt, sự đòi hỏi, nỗi cô đơn, lòng phiền muộn, sự thiếu vắng mối quan hệ với kẻ khác, tình trạng bị cô lập, lòng thất vọng, sự hoang mang, sự khốn khổ. Tất cả những điều đó đều là ý thức dù bạn sinh ở phương Đông hay Tây - với sự biến thiên, với vui buồn, với nhiều hay ít kiến thức. Không có nội dung đó thì cũng không có ý thức như ta thường hiểu.
Tất cả mọi giáo dục đào tạo đều dựa trên sự tích lũy thêm kiến thức, thêm thông tin, nhưng chúng cũng chỉ vận hành trong phạm vi nói trên. Mọi sự cải tổ chính trị dựa trên một quan niệm mới cũng chỉ là một sự phát minh nằm trong lòng phạm vi này. Thế nên con người cũng lại đau khổ, lại lo âu, lại cô đơn, lại sợ hãi về cái chết cũng như cái sống, lại hy vọng có một đấng giáo chủ nào ra đời để giải thoát họ ra khỏi khốn khổ, một vị cứu tinh mới, một chính khách mới. Trong sự tuyệt vọng này chúng ta lại vô trách nhiệm, từ sự hỗn loạn của chính mình mà tạo tác ra những bạo chúa, hy vọng họ sẽ đem lại trật tự trong phạm vi này. Đó là những điều xảy ra bên ngoài chúng ta nhưng cũng là ở bên trong. Tất cả những nhà lãnh đạo mà mình chọn đều giống chính mình; chúng ta không hề lựa chọn những ai khác hẳn với mình. Đó là bức tranh thực sự của cuộc đời chúng ta; mối tranh chấp bên trong và bên ngoài, tranh giành, đối lập lẫn nhau, một sự ích kỷ khủng khiếp.
Khi có quá nhiều phiền muộn trên thế giới thì thật là cần thiết phải tìm hiểu cho chính mình - bằng cách nghiên cứu thận trọng, chậm rãi, kiên nhẫn, từng bước - liệu có một giải pháp khác cho các vấn nạn này ngoài cách sử dụng tư tưởng. Có một hành động nào không dựa trên tư tưởng không? Có một trí thông minh nào mà nó không phải là kết quả của tư tưởng, nó không do tư tưởng dựng nên, nó không do sự láu cá, không do cạnh tranh hay giành giật mà do một cái gì hoàn toàn khác hẳn?
Muốn trao đổi, người ta không phải chỉ lắng tai nghe người đang nói mà lắng nghe cả chính hành động lắng nghe. Người ta lắng nghe như thế nào? Người ta có thực sự lắng nghe không? Con người có tự do* để nghe không, hay nó cứ luôn luôn nghe với sự vận hành ranh mãnh của tư tưởng, với sự diễn dịch hay thành kiến riêng? Người ta phải lắng nghe, nếu con người tự do, nghe cái nội dung của ý thức của một người, không phải chỉ nghe những điều ngoài bề mặt vốn khá đơn giản, mà là nghe ở các tầng sâu kín hơn của nó. Đó là nghĩa của sự lắng nghe cái toàn diện của ý thức.
* Tác giả dùng từ “tự do” (free) để nói ý không bị ràng buộc, không bị quy định bởi thành kiến, giáo điều, bởi tư tưởng bởi tri thức, bởi quá khứ của người nghe khi nghe người khác nói. Nội dung này của “tự do” là nội dung xuyên suốt tác phẩm này khi tác giả nói về “tự do”. Vì thế có lúc “tự do” cũng đồng nghĩa với “tự tại”, “giải thoát” hay cả “giác ngộ” (ND).
Làm sao ta lắng nghe và nhìn thấy ý thức của một người?
Người đang nói được sinh ra với tính cách là một người Bà-la-môn trong một xứ sở, nơi người đó thu nhận mọi thành kiến, mọi điều phi lý và mê tín, mọi niềm tin, sự phân biệt giai cấp. Nơi đó tâm hồn non nớt nọ thu nạp truyền thống, lễ nghi, tính chất giáo điều cao độ và kỷ luật kỳ lạ do chính giai cấp mình đặt định nên. Thế rồi anh đến phương Tây và lần nữa, anh ta lại thu nạp mọi thứ từ đó. Nội dung ý thức của anh là tất cả những gì được thu nạp, tất cả những gì anh đã học, chính là tư tưởng và cảm xúc của anh. Đó chính là nội dung, là ý thức của con người đó. Chính trong phạm vi này mà anh có mọi vấn nạn về chính trị, tôn giáo, về bản thân anh, về cộng đồng. Tất cả vấn nạn nằm nơi đó. Vì tự mình không giải quyết được, anh tìm đọc sách vở, tìm nơi người khác, hỏi họ phải nên làm như thế nào, nên thiền định ra sao, giải quyết làm sao mối quan hệ với vợ, với bạn gái, với cha mẹ. Anh có nên tin Chúa, tin Phật hay tin một vị thầy mới mẻ, người đến với anh và mang theo một loạt chuyện vớ vẩn? Anh đang tìm một triết lý sống mới, một quan niệm chính trị mới, vân vân…, tất cả đều nằm trong phạm vi đó.
Con người đã làm điều này từ thời kỳ vô thủy nhưng trong phạm vi (của tư tưởng) này thì không thể có giải pháp. Bạn có thể thiền định hàng giờ, ngồi trong một thế ngồi nhất định, thở theo một cách đặc biệt, nhưng bạn vẫn nằm trong phạm vi này, lý do là tại vì bạn muốn một cái gì đó với việc thiền định của bạn.
Như thế mà có cái nội dung này của ý thức: cùn nhụt, ngu xuẩn, tư duy truyền thống, xem tất cả là cảm xúc của nó. Tất cả đều chỉ là tư tưởng, nó là hệ quả của ký ức, kiến thức và của kinh nghiệm. Thế thì tâm có thể quan sát được tư tưởng không? Bạn có thể quan sát được sự vận hành của tư tưởng không?
Khi bạn nhìn xem, ai là người quan sát, kẻ đang nhìn nội dung của ý thức? Nó có khác với nội dung đó không? Đây thật là một câu hỏi rất quan trọng cần nêu lên và cần tìm ra câu trả lời. Người quan sát có khác với nội dung không và chỉ như thế mới có thể hy vọng thay đổi được nội dung và vượt lên nội dung? Hay người quan sát chính là nội dung? Hãy xem! Nếu người quan sát - cái “tôi” đang nhìn ngó - khác với vật được quan sát thì sẽ có một sự phân biệt giữa người quan sát và vật được quan sát và do đó có tranh chấp: “Tôi không được làm thế này, tôi phải làm thế kia”; “Tôi phải bỏ thành kiến này” và tôi sẽ nhận lấy một thành kiến mới; “Tôi phải bỏ Thượng đế này” và tôi sẽ có một Thượng đế mới. Thế nên nếu có sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát thì sẽ có tranh chấp. Đó là một nguyên lý, một quy luật. Thế thì phải chăng tôi quan sát nội dung của ý thức tôi như thể là một kẻ đứng ngoài, thêm vật này, đẩy vật kia đi chỗ khác? Hay tôi là người quan sát, người suy tư, người chứng nghiệm và cũng chính là vật được quan sát, được chứng nghiệm, được suy tư?
Nếu tôi nhìn nội dung của ý thức tôi như một kẻ quan sát đứng ngoài thì phải có tranh chấp giữa vật bị quan sát và người quan sát. Phải có tranh chấp và chúng ta sống trong sự tranh chấp đó, cái tôi và cái không phải là tôi, “chúng tôi” và “người khác”. Nếu tôi khác với cơn giận thì tôi sẽ tìm cách kiềm chế nó, đè nén, chế ngự, thống trị nó và như thế là có tranh chấp. Nhưng người quan sát có khác không? Hay nó chủ yếu chính là một với vật được quan sát. Sự thấu hiểu điều này là trí thông minh*. Lúc đó thì trí thông minh vận hành còn mối tranh chấp thì không.
* Intelligence. Với ý nghĩa trong tác phẩm này thì từ intelligence của tác giả cũng có thể được dịch là “tuệ giác”. Tác giả còn nhắc nhiều lần đến “trí thông minh” với ý nghĩa đặc biệt này (ND).
Thật là ngàn lần đáng tiếc nếu bạn không hiểu điều đơn giản này. Con người sống trong tranh chấp. Nó muốn được hòa bình thông qua tranh chấp. Và không bao giờ có hòa bình thông qua tranh chấp; dù cho bạn có nhiều lực lượng chống lại một lực lượng cũng mạnh mẽ khác, không bao giờ có hòa bình. Chỉ khi nào trí thông minh vận hành thì mới có hòa bình, trí thông minh sẽ đến khi người ta thấu hiểu không có sự phân biệt nào giữa người quan sát và vật bị quan sát. Khi có tri kiến thấy được sự thật này, thấy chân lý đích thực này, thì tri kiến đó sẽ mang lại trí thông minh.
Đây là một điều rất nghiêm trọng vì sau đó thì bạn thấy mình không có quốc tịch; bạn có thể có giấy thông hành nhưng bạn không có quốc tịch. Bạn không có Thượng đế. Sẽ không có một quyền lực bên ngoài lẫn thẩm quyền bên trong. Thẩm quyền duy nhất lúc đó là trí thông minh. Nó không phải là trí thông minh láu cá của tư tưởng vốn chỉ là kiến thức vận hành trong một phạm vi nhất định, và đó không phải là trí thông minh.
Thế nên đây là điều đầu tiên phải hiểu khi bạn nhìn vào ý thức mình: Sự phân biệt giữa người suy tư và tư tưởng, giữa người quan sát và vật được quan sát, giữa người chứng nghiệm và điều được chứng nghiệm là sai lầm, vì lẽ tất cả chúng đều là một. Không có người suy tư nếu bạn không suy nghĩ. Tư tưởng đã tạo nên người suy tư. Đó là điều đầu tiên phải hiểu thì mới có một trực quan thấy sự thật, nhìn thấy sự kiện rõ ràng như bạn bằng xương bằng thịt đang ngồi nơi đây, rằng không có sự khác nhau giữa người quan sát và vật bị quan sát.
Thế thì cái gì là nội dung của ý thức bạn, cái ẩn khuất lẫn cái phơi bày? Bạn có thể nhìn thấy không - và đừng dụng công gì cả?
Bạn có thể tìm thấy nó, không phải bằng cách ngồi một chỗ, mà trong các mối quan hệ của bạn. Đó chính là tấm gương mà trong đó bạn có thể thấy, không phải bằng cách nhắm nghiền đôi mắt hay bằng cách đi dạo trong rừng hay tơ tưởng theo những giấc mơ. Mà trong các mối liên hệ đang có giữa bạn với đàn ông, đàn bà, với láng giềng, với nhà chính khách, với Thượng đế, đạo sư, bạn sẽ quan sát thấy phản ứng của mình, thái độ, thành kiến, ý hướng của mình, sự dò dẫm liên tục của mình. Nội dung (của ý thức) là nơi đó. Những gì bạn đang làm chỉ là sự cần mẫn cày bừa và bạn chỉ có thể gieo hạt khi đã quan sát mối liên hệ của bạn và thấy rõ điều gì hiện đang xảy ra. Bạn có thể xét bao lâu cũng được và bắt đầu phân biệt các tính chất và khuynh hướng khác nhau, thế nhưng nếu bạn thấy người quan sát và vật được quan sát khác nhau thì nhất định bạn sẽ tạo nên tranh chấp; và do đó mà đau khổ. Nếu bạn có nội quán, thấy được sự thật là người quan sát chính là vật được quan sát thì mối tranh chấp ngưng bặt. Lúc đó thì có một dạng năng lượng hoàn toàn khác sẽ vận hành.
Có nhiều dạng năng lượng khác nhau. Có thứ năng lượng vật chất nhờ thực phẩm bổ dưỡng; có năng lượng được sinh ra bởi sự vận động cảm tính, bởi lòng cảm xúc; có năng lượng sinh ra bởi tư tưởng thông qua các tranh chấp và mức căng thẳng khác nhau. Chúng ta sống trong phạm vi này của năng lượng và chúng ta vẫn cố tìm kiếm năng lượng lớn hơn nữa, cũng trong phạm vi này, để giải quyết các vấn đề của chúng ta. Thế nhưng có một dạng năng lượng khác, hay có sự tiếp nối của năng lượng này nhưng trong một dạng hoàn toàn khác, khi tâm thức vận hành một cách toàn triệt, không vận hành trong phạm vi của tư tưởng mà vận hành một cách thông minh.
Liệu tâm có thể quan sát nội dung của nó mà không hề chọn lọc nội dung nào, không lựa ra phần nào của nội dung, không lấy riêng mảnh vụn nào, mà quan sát một cách toàn thể được không? Thế thì, làm sao có thể quan sát một cách toàn thể? Khi tôi từ Anh đến, qua eo biển và nhìn một tấm bản đồ nước Pháp, tôi thấy con đường dẫn đến Gstaad*. Tôi có thể thấy đường dài bao nhiêu dặm, có thể thấy hướng đi. Tất cả những thứ đó rất đơn giản vì nó đã được ghi trên bản đồ và tôi chỉ việc đi theo. Khi làm như thế thì tôi không nhìn đến các phần khác của tấm bản đồ; tôi biết rõ hướng mình phải đi và hướng đi đó loại bỏ mọi con đường khác. Cũng tương tự thế, một tâm thức chỉ biết tìm một hướng cho sẵn thì sẽ không thấy cái toàn thể. Nếu tôi muốn tìm một vật mà tôi cho là có thực thì hướng đi đã bị định đoạt và tôi sẽ cứ theo hướng đó và tâm sẽ không sao thấy được cái toàn thể. Bây giờ, khi tôi nhìn nội dung của ý thức mình, mà nó thì cũng như nội dung của bạn, tôi đã đặt định một phương hướng rồi - đó là tìm cách vượt lên khỏi nó**. Một sự vận động trong một phương hướng riêng biệt, tìm kiếm một thú vui nhất định, muốn làm điều nọ hoặc điều kia, sự vận động đó chỉ làm cho ta không thể thấy cái toàn thể. Nếu tôi là nhà khoa học, tôi chỉ nhìn trong một phương hướng nhất định. Nếu tôi là nghệ nhân thì cũng thế. Nếu tôi có tài nghệ hay năng khiếu gì thì tôi cũng lại nhìn trong một hướng nhất định. Thế nên tâm không thể thấy cái toàn thể và sự mênh mông của cái toàn thể nếu tâm có một sự vận động trong một hướng nhất định. Thế thì liệu tâm có thể không có hướng nào cả chăng?
* Một thành phố du lịch nổi tiếng tại Thụy Sĩ (ND).
** Nhiều người tầm đạo khi gặp Krishnamurti đều đặt câu hỏi làm sao “vượt lên được cái tâm thế tục này” (ND).

Đây là một câu hỏi khó. Xin hãy nghe kỹ. Dĩ nhiên tâm phải có phương hướng khi tôi đi từ đây về nhà hay khi lái xe, hay khi tôi phải làm một công việc gì đó có tính cách kỹ thuật; nhưng ở đây tôi đang nói về một cái tâm, tâm đó hiểu tính chất của phương hướng và do đó mà đủ khả năng thấy cái toàn thể. Khi nó thấy cái toàn thể rồi, lúc đó nó có thể vận hành theo phương hướng. Nếu tôi đã thấy toàn cảnh trong tâm thì tôi có thể nắm lấy nó trong chi tiết; thế nhưng nếu tâm tôi chỉ vận hành trong chi tiết, tôi không thể nắm bắt cái toàn thể. Nếu tôi quan tâm đến các ý kiến của mình, đến lo âu, đến những gì tôi muốn làm, đến những gì tôi phải làm, tôi không thể thấy cái toàn thể. Rõ thôi. Nếu tôi từ Ấn Độ đến với mọi thành kiến, mọi mê tín và mọi truyền thống, tôi không thể thấy cái toàn thể. Tâm có thể thoát khỏi phương hướng không? Điều đó không có nghĩa nó không có phương hướng. Nếu nó vận hành từ cái toàn thể thì phương hướng trở nên rõ ràng, rất mạnh mẽ và có hiệu quả; nhưng nếu tâm chỉ vận hành trong một phương hướng, dựa trên một khuôn mẫu đã đặt định cho nó, thì nó không thể thấy cái toàn thể.
Đó là nội dung của ý thức tôi. Nội dung này làm nên ý thức tôi. Bây giờ, liệu tâm có thể thấy cái toàn thể không? Nó có thể chỉ nhìn mà không theo phương hướng nào, không có định kiến gì, không có lựa chọn gì không? Điều này có nghĩa hoàn toàn không có người quan sát, vì người quan sát là quá khứ. Tâm có thể nhìn với trí thông minh, loại trí không được xây nên bằng tư tưởng không? Vì rằng tư tưởng là quá khứ. Hãy làm thử đi. Nó đòi hỏi kỷ luật khủng khiếp lắm; không phải thứ kỷ luật của sự đè nén, kiểm soát, bắt chước hay rập khuôn, mà kỷ luật chính là một hành động trong đó sự thật đã được nhận chân. Sự vận hành của chân lý sinh ra hành động của chính nó, mà đó chính là kỷ luật.
Liệu tâm của bạn có thể nhìn thấy nội dung của nó khi bạn nói chuyện với người khác, trong cử chỉ của bạn, trong cách bạn đi, bạn ngồi, bạn ăn, trong thái độ của bạn? Thái độ của bạn biểu thị nội dung của ý thức bạn, dù bạn đang ứng xử với một niềm vui, với một thành tích, hay về một nỗi đau, chúng đều là một phần của ý thức bạn. Nhà tâm lý cho rằng, tới nay thì con người vốn được giáo dục dựa trên nguyên lý của trừng phạt hay ân thưởng, thiên đường hay địa ngục. Bây giờ thì họ nói chúng ta chỉ nên được giáo dục dựa trên nguyên lý của sự ân thưởng thôi, chúng ta không nên bị trừng phạt nữa mà chỉ nên được tưởng thưởng thôi - điều mà kỳ thực chỉ là một cả. Khi thấy sự vô nghĩa của trừng phạt và ân thưởng ta sẽ thấy cái toàn thể. Một khi bạn thấy cái toàn thể thì trí thông minh sẽ vận hành trong mọi hành động và lúc đó thì bạn không hành xử theo ân thưởng hay trừng phạt.
Thái độ của bạn biểu thị nội dung của ý thức bạn. Bạn có thể núp sau một thái độ lễ phép, một thái độ được tập luyện rất công phu, nhưng thái độ đó chỉ có tính cách máy móc. Từ đây xuất phát một câu hỏi khác: Phải chăng tâm là một cái gì hoàn toàn máy móc hay có một phần nào đó của bộ não không hề có tính chất máy móc?
Hãy đúc kết lại những gì đã nói: Bên ngoài chúng ta, trong thế giới chính trị, kinh tế, tôn giáo, xã hội, vân vân…, loài người đang tìm kiếm. Có Thần thánh mới, có đạo sư mới, có lãnh tụ mới. Nếu bạn nhìn thật rõ, bạn sẽ thấy người ta đang vận hành trong phạm vi của tư tưởng. Tư tưởng thì chủ yếu không bao giờ tự do. Tư tưởng luôn luôn cũ vì tư tưởng là câu trả lời của ký ức bằng kiến thức và kinh nghiệm. Tư tưởng là vật chất. Đó là một thế giới vật chất và tư tưởng tìm cách trốn thoát khỏi thế giới vật chất, tìm đến một thế giới phi vật chất. Thế nhưng tìm cách trốn đến một thế giới phi vật chất bằng tư tưởng thì vẫn còn là vật chất. Chúng ta có mọi vấn đề thuộc về đạo đức, xã hội và kinh tế của mỗi cá thể và của tập thể. Cá thể là phần chủ yếu, phần thực chất của tập thể. Cá thể không hề khác với tập thể; nó có thể có những khuynh hướng khác, quan tâm khác, tính khí khác v.v… nhưng vẫn là phần nội tại của nền văn hóa mà đó chính là xã hội.
Đó là những thực tế đang xảy ra bên ngoài xung quanh chúng ta. Thực tế xảy ra bên trong chúng ta cũng rất giống như thế. Chúng ta đang tìm một câu trả lời cho các vấn đề lớn của cõi nhân sinh bằng cách sử dụng tư tưởng - tư tưởng mà người Hy Lạp đã xây dựng nên cho phương Tây, với quan niệm chính trị, với lý thuyết toán học… của họ. Tư tưởng không tìm ra được một câu trả lời và sẽ không bao giờ tìm được. Thế nên chúng ta phải đi vào toàn bộ cấu trúc của tư tưởng và nội dung của cái được gọi là ý thức. Chúng ta phải quan sát cách vận hành của tư tưởng trong các mối tương quan, trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Sự quan sát này cần có một kiến giải là, phải chăng người quan sát khác với vật được quan sát, bởi vì nếu khác thật thì tất phải có mâu thuẫn, điều phải có giữa hai hệ ý thức. Hệ ý thức chính là những phát minh sáng tác của tư tưởng, nó vốn bị quy định bởi nền văn hóa mà trong đó nó đã hình thành.
Thế thì trong đời sống hàng ngày, bạn có thể quan sát điều này chăng? Trong khi quan sát như thế bạn sẽ xác nhận thái độ của mình, liệu nó có được đặt trên nền tảng của sự thưởng phạt không, điều mà phần lớn các bạn đều mắc phải, dù thái độ đó có lịch sự hay khéo léo đến mấy cũng thế thôi. Xuất phát từ sự quan sát này, người ta bắt đầu hiểu thế nào là trí thông minh đích thực. Không phải thứ thông minh tìm kiếm được từ một cuốn sách, hay bằng kinh nghiệm; các thứ đó không hề là trí thông minh gì cả. Trí thông minh hoàn toàn không dính dáng gì đến tư tưởng. Trí thông minh vận hành khi tâm thức thấy cái toàn thể, cái toàn thể bất tận - không phải là xứ sở của tôi, vấn đề của tôi, các thần thánh bé bỏng của tôi, các phép thiền định của tôi. Mà nó thấy cái toàn thể của sự sống. Và mức độ này của thông minh thì chứa đựng một thứ năng lượng to lớn riêng của nó.
Saanen, 14.7.1974
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

2


Ta đã nói rằng thế giới bên ngoài và bên trong của chúng ta đang ở trong một tình trạng rối loạn và các nhà chính trị, các vị lãnh đạo, các giáo sĩ đang tìm cách giải quyết vấn đề của chúng ta bằng tư tưởng. Điều này đã diễn ra từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Thế nhưng người ta thấy vấn nạn này vẫn tiếp diễn: Còn mãi những cuộc chiến vô tận, chính quyền tham nhũng không nhiều thì ít, các nhà chính trị phải chịu khom lưng; và mọi ý thức hệ, mọi hệ thống lại đóng vai trò của đạo đức lẫn trí tuệ. Như thế, một cách khách quan không định kiến, không thiên vị vì ý thức hệ nào, ta thấy rõ tư tưởng có tính cách chia cắt và sự xuất sắc trong tư tưởng không nhất thiết là cao đẹp trong phương diện đạo lý.
Chúng ta thì quan tâm đến những điều mà ta phải hiểu cho thấu, phải xem xét hết sức sâu sắc, bằng phương tiện ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ. Điều này đòi hỏi chúng ta hết sức cẩn trọng, phải có thiện chí và sự nghiêm túc, sự cảm nhận về một mối liên hệ thân thiết giữa mỗi người với nhau. Nó đòi hỏi bạn và tôi cùng nhau chia sẻ việc này. Bạn chia sẻ nó không phải bằng cách lắng nghe một loạt ngôn từ, ý niệm hay chủ trương - vì vấn đề không phải là đồng ý hay không đồng ý về một số ý niệm hay chủ trương - mà thực sự nhập cuộc với một trái tim trọn vẹn, với tất cả tâm thức mình, năng lực của mình. Một mối quan tâm và sự dấn thân như thế cho thấy một lòng tha thiết to lớn, không phải chỉ về nguồn gốc của tư tưởng và cái tai hại của nó, mà cả về nguồn gốc của hành động.
Chúng ta sống bằng hành động; có lẽ chúng ta không thể né tránh hành động. Bạn có thể rút lui khỏi thế gian về sống trong một tu viện, lập thệ nguyện, nhưng đó vẫn là hành động. Có thể bạn chuyên trong một lĩnh vực đặc biệt, nó tạo cơ hội cho tài năng và sự nghiệp của bạn, đó cũng là hành động. Hành động cũng nằm trong mối liên hệ giữa bạn và người. Đời sống vận động được chính là do hành động.
Trong mọi nền văn minh hiện nay thì tư tưởng sản sinh ra hành động, mà hành động thì mâu thuẫn lẫn nhau, sinh ra tranh chấp, đối lập; và do đó mà gây nên biết bao tai hại và bất hạnh to lớn. Phải chăng hễ có sự toàn hảo trong tư tưởng thì sẽ có toàn hảo trong hành động? Hay luôn luôn có tranh chấp, mỗi khi tư tưởng dẫn đến hành động? Đó là cuộc đời của bạn và nếu bạn đã hiểu đời mình, thái độ mình, đạo đức mình, mối liên hệ của mình, sự thất vọng của mình để tìm cách làm sao cho hành động đều toàn hảo trong mọi mức độ thì lúc đó bạn sẽ phải hỏi liệu có một hành động nào mà không do tư tưởng chắp vá nên không. Tư tưởng vốn hết sức chắp vá ngay trong tự tính của nó thế mà bạn tìm cách thông qua tư tưởng để tìm một hành động không có mâu thuẫn trên mọi bình diện, không bị hối tiếc, tìm một hành động toàn vẹn, tổng quát, toàn thể. Thế nhưng ta vẫn hỏi liệu có một hành động nào tối hoàn hảo mà không dựa trên sự vận động của tư tưởng?
Tại sao tư tưởng - dựa trên nó mà ta sống, tùy vào nó mà ta xây dựng đạo đức xã hội - lại có tính chất chia cắt? Tư tưởng là vật chất*. Tư tưởng là câu trả lời của quá khứ. Nó sinh ra sự vận hành của thời gian để thành hôm qua, hôm nay và ngày mai. Tư tưởng có suối nguồn và gốc rễ trong quá khứ và vì có gốc rễ trong quá khứ nó phải tạo dựng thời gian làm sự vận động. Với tính chất riêng của nó, với chức năng và cấu trúc của nó, người ta thấy tư tưởng tồn tại chủ yếu là nhờ quá khứ. Tư tưởng sống trong truyền thống, trong kiến thức được tập thể tích lũy và bằng tất cả những kiến thức khoa học được tập hợp lại, tất cả đều từ quá khứ cả. Vì thế nó phải có tính chia cắt**. Nó có thể tự quả quyết, hoặc tưởng tượng hoặc cảm nhận rằng nó siêu việt thời gian; nó có thể hình dung ra một trạng thái phi thời gian nhưng đó vẫn chỉ là tư tưởng. Nó có thể tự nói mình đã vượt qua giới hạn của chính mình, nhưng đó vẫn là tư tưởng. Nên tư tưởng tạo quanh mình một biên giới về thời gian và đó chính là yếu tố của sự chia cắt.
* “Tư tưởng là vật chất” (thought is matter) là luận điểm quan trọng của tác giả, sẽ được trình bày rõ hơn trong phần 3 của chương này (ND).
** Tính chia cắt (divisive) cần được hiểu là sự đối lập với tính toàn thể (totality) của một trạng thái phi thường của tâm, một trạng thái nhất thể, phi thời gian của tâm giác ngộ. Vì phần lớn chúng ta không chứng nghiệm được tâm giác ngộ đó nên thường cũng không hiểu tại sao tư tưởng có tính chia cắt (ND).

Tất cả chúng ta đều được nuôi dạy trong lĩnh vực của tư tưởng. Giáo dục là một sự vận hành trong tư tưởng, là sự tăng trưởng ngày càng nhiều của kiến thức, sự tinh tế hóa của tư duy. Vốn có tính chia cắt nên dù hành động gì do tư tưởng gây ra đều là sự chắp nối, đều gây nên tranh chấp. Đó là một nguyên lý. Như ta thấy trong lịch sử, con người sống trong một chuỗi dài của các cuộc khủng hoảng và các giải pháp cho chúng, bản thân các giải pháp đó lại buộc phải ấp ủ thêm những mâu thuẫn mới. Ta thấy điều này trong thế giới hiện đại. Có một vấn nạn: Tư tưởng tìm cách giải đáp cho nó và trong bản chất sâu xa của câu giải đáp thì lại sinh ra nhiều phức tạp hơn. Một quốc gia bán vũ khí cho một quốc gia khác và biết rõ rằng chúng chỉ gây thêm tai hại vân vân và vân vân…
Thế thì phải chăng tư tưởng có thể sinh ra một hành động toàn hảo, trọn vẹn, thánh thiện, không bị quy định? Đời sống chúng ta thật mâu thuẫn: Chúng ta sống trên nhiều bình diện khác nhau - bình diện kinh doanh, bình diện gia đình, bình diện khoa học, bình diện tôn giáo hay bình diện nghệ thuật - mỗi bình diện lại đối lập với cái khác, và đều được chuyên môn hóa trong một lĩnh vực riêng. Sự chuyên môn hóa đã trở thành món độc quyền và vì thế mà sinh ra mâu thuẫn và có tính hủy hoại. Tư tưởng thì tìm cách toàn hảo trong hành động của mình nên hướng về sự chuyên môn hóa và sinh thêm các mối tranh chấp, thêm sự chia cắt. Mỗi sự chuyên môn đều có một mục đích riêng tư đầy tham lam; mỗi quá trình đều muốn có sự thừa nhận khen thưởng mà những thứ đó lại gây tranh chấp, đối lập với lòng ân cần, sự chăm sóc, sự trọng thị, lòng yêu thương. Thấy như thế ta phải hỏi liệu có một hành động trọn vẹn, không do chắp vá mà thành, một hành động trong đó vắng bóng sự hối tiếc, không chứa đựng tâm thỏa mãn hay thất vọng.
Có hay không một hành động như thế? Đó là điều mà ta tự hỏi suốt cả đời, vì rằng bất cứ những gì ta làm cũng đều mang lại chút phiền muộn nhất định, một thất vọng nhất định hay một chút mãn nguyện nào đó khi theo đuổi những điều mà ta chỉ gây thêm sự chia cắt. Thế nên thật là hiển nhiên, thật có lý, thật không thể không hỏi, liệu có một hành động mà không xuất phát từ sự vận hành của tư tưởng không.
Bây giờ tôi sẽ đi vào một chuyện mà xem ra nó rất xa vời, nhưng thực tế là không. Ta cần có năng lượng. Ta có năng lượng vật lý, năng lượng của cảm xúc, năng lượng của hận thù, năng lượng của ái dục, năng lượng của niềm đam mê, và năng lượng của sự bức xúc được sinh ra từ tâm tư thất vọng, từ sự chia cắt, từ sự thiếu vắng lòng mãn nguyện. Và ta ngày càng già đi, thân thể ngày càng suy nhược, bệnh hoạn và đau đớn sẽ đến và năng lượng hao mòn dần. Phần lớn năng lượng của chúng ta đều là sản phẩm của sự tranh chấp - tôi thế này đây và tôi phải nên trở thành khác đi - hay là lòng lo sợ và thèm mong được giữ mãi một khuynh hướng có sẵn. Đó là thứ năng lượng được sinh ra từ sự thiết tha nơi một ý niệm, thí dụ một phong trào quốc tế nào đó chấp nhận hủy hoại hàng triệu người để đạt tới một điều mà họ cho là đúng. Điều này sinh ra một năng lượng khủng khiếp. Một vị thánh, người hiến mình cho một ý niệm, một hình ảnh, một tưởng tượng, một công thức, cũng có một năng lượng phi thường. Những người duy tâm có một năng lượng phi thường. Trong mọi sự chuyên môn hóa ta đều cần đến năng lượng. Bạn càng đi sâu vào chuyên môn, bạn càng cần nhiều năng lượng. Đó là điều mà ta không chỉ thấy nơi chính mình mà bên ngoài cũng thế.
Tư tưởng sinh ra năng lượng riêng của mình. Muốn sản xuất ra được một thiết bị kỳ diệu như chiếc tàu ngầm, người ta phải có năng lượng to lớn và sự hợp tác, thứ năng lượng được sinh ra do một ý niệm, do ý niệm được tổ chức. Và thứ năng lượng này - trong nghĩa sâu kín nhất của nó - là có tính hủy hoại, vì nó vốn chuyên chia cắt.
Thế thì có hay không một thứ năng lượng không hủy hoại, không chia cắt, không có tính cơ giới, không dựa trên một ý niệm hay không do lòng trung thành với một ý thức hệ? Có thứ năng lượng nào hoàn toàn không liên quan tới lĩnh vực của thời gian, với vận động của tư tưởng không?
Sống là hành động. Trong bản thân cuộc sống thì mọi mối quan hệ là hành động, là vận động trong hành động. Và vận động này, hành động này đều dựa trên tư tưởng. Hiện nay, mọi đời sống chính trị, tôn giáo, xã hội và kinh tế cũng như mọi quy ước đạo đức đều dựa trên tư tưởng mà tư tưởng thì có tính chia cắt, mâu thuẫn và sinh ra khổ đau. Có một hành động nào hoàn toàn không liên quan tới những thứ đó? Muốn tìm ra nó ta phải có năng lượng. Không phải chỉ cần năng lượng tư duy thôi, với tất cả những kiến thức được tích lũy; cũng không phải năng lượng của cảm xúc, vốn cũng được tư tưởng nhận diện và vì thế cũng là một phần của tư tưởng, mà là một thứ năng lượng có thể sinh ra một sự chuyển hóa toàn diện trong bản thân quá trình của tâm thức. Muốn dò tìm một cách rất sâu sắc liệu có một hành động không do tư tưởng vận hành mà ra, bạn cần một lượng năng lượng to lớn, không phải năng lượng đi cầu tìm một mục đích, cũng không phải năng lượng mà bạn có lúc nhắm đến một chiều hướng đặc biệt mà thứ năng lượng có thể thay đổi nội dung tâm thức bạn.
Nói một cách khác, ta biết nội dung của tâm thức mình là gì - nếu ta tỉnh thức và tỉnh giác về mọi việc, biết rõ thái độ của chính mình, biết nhìn ngó, biết lắng nghe. Thế nhưng ý muốn* thay đổi nội dung đó thì lại là một sự vận động trong một hướng riêng. Điều này không mang lại năng lượng mà lại sinh ra chia cắt. Mặt khác người ta biết nội dung tâm thức phải hoàn toàn thay đổi vì người ta không thể đi lên với cái có sẵn trừ khi ta hủy diệt chính bản thân mình. Nội dung của ý thức chính là ý thức. Do đó khi có một sự chuyển hóa hoàn toàn của nội dung thì phải có một bình diện khác tham gia, điều mà tôi sẽ không gọi là ý thức nữa. Muốn điều thay đổi này xảy ra, ta cần một năng lượng to lớn.
* Sự dụng công, cố gắng, ý muốn, mục đích là trở ngại lớn nhất trong sự dò tìm chân lý. Đây là khó khăn và mâu thuẫn lớn nhất của vấn đề mà Krishnamurti sẽ còn đề cập nhiều lần. Điều này làm ta nhớ đến nội dung của tác phẩm “Thiền trong nghệ thuật bắn cung” của Eugen Herrigel (ND).
Thế nên nơi đây con người phải thoát mọi ràng buộc về phương hướng. Xin hãy thấy ý nghĩa của điều này, cái hợp lý của điều này. Ở đây vắng bóng một sự kết luận. Mặc dù một kết luận có thể cho ta một lượng lớn của năng lượng, nhưng đó là một năng lượng vô ích. Tâm phải thoát khỏi phản ứng của tư tưởng. Tâm cũng phải thoát khỏi mọi ý niệm vì ý niệm lại sinh ra phương hướng. Tâm phải nằm ngoài mọi vận động có tính chia cắt của tư tưởng, như về quốc gia, về chủng tộc, về tôn giáo.
Liệu tâm của bạn có thoát được mọi thứ đó không? Nếu không thì bạn cứ làm những gì mình muốn - cứ trồng chuối ngược mười ngàn năm hay cứ ngồi thiền định trong một tư thế và thở cho đúng đắn thêm mười ngàn năm nữa* - bạn sẽ không bao giờ tìm thấy cái kia.
* Tác giả muốn nói các phép tu trong truyền thống Ấn Độ giáo. Phần lớn những người đến nghe tác giả giảng thuyết tại châu Âu đều là những người lớn tuổi, thực hành các phép tu, tầm cầu chân lý (ND)
Liệu tâm có thấy được các ý niệm là ngu xuẩn, là kém thông minh không? Tâm có thấy cái đích thực của điều này không hay chỉ nói ừ thì chúng là sai và đẩy qua một bên? Vì chỉ khi nào bạn thấy điều này là đúng bạn mới giải thoát khỏi nó được - chứ không phải bạn xét nó một cách thuần lý hay trên phương diện lịch sử, mà phải như thể bạn thấy một vật gì là độc hại và bạn buông bỏ nó. Nơi đây thì không có mâu thuẫn vì trí thông minh đã nhận ra thật là ngu xuẩn khi đi theo con đường của khái niệm. Liệu tâm của bạn có thoát được mọi thứ đó không?
Tại một thời điểm nhất định, bạn giải thoát tâm khỏi một vật nào đó hay bạn giải thoát tâm một cách toàn diện? Nếu cứ mỗi thời điểm bạn giải thoát tâm khỏi một vật, điều đó sẽ tốn năng lượng - khi thấy tính chất quốc gia thật là ngu xuẩn và bỏ nó đi; khi nhìn các ý niệm và thấy chúng không đưa đến đâu, chỉ mang lại tranh chấp và bỏ nó đi. Khi bạn giải thoát tâm lớp này qua lớp khác, điều đó sẽ cần thời giờ, cần sự phân tích. Người ta thường hay nói bạn cần đi từng bước, trước hết hãy xả bỏ, điều khiển thân, thở đúng cách. Không phải chỉ truyền thống xưa thôi mà nền tâm lý học hiện đại cũng nói phải đi từng bước, phân tích, bóc từng lớp vỏ. Bạn có thể mất nhiều năm cho tới chết bằng cách làm như thế. Bạn có chịu đi một quá trình cần những năm dài? Đó không phải là sự phí phạm năng lượng hay sao? Nếu có phí phạm thì làm sao tâm tự xả bỏ chính mình để có một thứ năng lượng hoàn toàn khác được, một sự hiện hữu hoàn toàn khác được? Có cách nào nhìn thấy một cách toàn thể và do đó mà giải thoát một cách trọn vẹn được không?
Nội dung của tâm thức tôi cũng là nội dung tâm thức bạn. Nội dung của ý thức bạn cũng là nội dung của ý thức tôi, chỉ thay đổi chút ít, thêm bớt chút màu sắc, thêm bớt chút công phu, thêm chút nghệ sĩ, bớt đi một chút thứ khác, nhưng không nhiều thì ít đều như nhau. Tâm biết điều này và nói: “Làm sao tôi ý thức về cái toàn thể, không phải về cái ý thức thôi mà cả về cái vô thức?” Tôi biết có thể lột từng lớp, cả phần ý thức lẫn phần vô thức; tôi biết tôi có thể đi vào trong quá trình này, mất thời giờ, phân tích và biết cái nguy hiểm của sự phân tích. Tôi làm được điều này. Đó là phương pháp truyền thống và được thừa nhận. Và tôi thấy nó cần thời gian vô tận, vì mọi bước phân tích đều phải chính xác, nếu không thì bước sau sẽ hư hỏng vì cái phân tích đi trước. Thế nên mọi phân tích đều phải trọn vẹn, đích thực và chung kết, nếu không thì tôi sẽ thua mất. Và ai là người phân tích? Không phải người phân tích chính là vật được phân tích sao? Nên tôi thấy đó không phải là cách để làm được việc.
Thế thì tôi làm sao? Tâm tôi cần làm gì khi nó đã thấy tính chất vô lý của việc này?
Quả thực tâm đã thấy thực sự tính chất vô lý đó hay tâm chỉ tưởng mình thấy vì có ai đã nói mình nghe điều này là vô lý? Hay chúng ta chỉ là những con người hàm thụ*, tức là tôi đã thừa nhận thẩm quyền của người khác khi tôi bắt chước nói điều này điều nọ là vô lý? Đó chỉ là một khẳng định về mặt ngôn từ mà không có thực tế nào cả. Loại chấp nhận này không có giá trị; nó không sinh ra sản phẩm. Thế nên tâm phải vứt bỏ thẩm quyền, dù đó là thẩm quyền của truyền thống hay thứ thẩm quyền tôi đã nuôi dưỡng từ lòng ham muốn hay lòng vị kỷ của tôi, thứ thẩm quyền quả quyết rằng tôi cũng hiểu biết. Tâm thức phải hoàn toàn vứt bỏ thẩm quyền. Thứ thẩm quyền về luật lệ đã đành mà cả thẩm quyền tâm lý của nhân vật nào đó, kẻ nói với bạn hãy làm điều này điều nọ vì bạn hiện đang bị lung lạc, hãy nghe theo ai đó để được giải thoát khỏi sự tuyệt vọng, đừng vô trật tự đứng bên ngoài vòng thẩm quyền. Trong lịch sử thì như thế đó. Hễ nơi nào thiếu trật tự thì sẽ có người nhảy dựng lên và sẽ khắc nghiệt tạo lại một loại trật tự mà chẳng qua cũng lại là sự hỗn loạn. Thế nên, liệu tâm có thể dẹp thẩm quyền qua một bên không, bởi vì nó đã thấy giá trị của thẩm quyền, ý nghĩa của nó, tính chất của nó? Dẹp bỏ không bằng cách phản ứng chống lại thẩm quyền như chúng ta hay làm, vì khi bạn chống lại một thẩm quyền thì cũng chính là bạn đang tạo ra một thẩm quyền khác. Điều đó thật rõ.
* Secondhand people.
Có thể tâm, tâm của chính bạn, thoát khỏi phép phân tích truyền thống, phép tìm cách cải thiện nội tâm mình không? Vì bạn đã thấy ý nghĩa của sự giải phóng khỏi thẩm quyền, thì không có đạo sư nữa, không có sự cứu rỗi, không có bước tiến nào nhờ phép thiền định mà tiến tới cái phi thường cả. Có cái phi thường thật, nhưng không phải nhờ con đường này. Tâm có thể dẹp hết một bên không, phủ nhận hết mà không có chút đề kháng nào không? Muốn làm được thế bạn phải nhìn. Bạn phải nhìn bên ngoài và bên trong; biết nghe âm nhạc của thế giới cũng như sự lạc điệu giữa thế giới và âm nhạc, bên trong cũng như bên ngoài vì cả hai đều là một. Chúng ta là một phần nội tại của thế giới. Muốn làm như thế ta cần năng lượng và năng lượng này không do khái niệm hoặc ngôn từ sinh ra. Năng lượng này đến với ta khi bạn thấy rõ sự rối loạn của một thứ tâm thức đang vận hành một cách máy móc trong sự vận động của tư tưởng. Thế nên trong lĩnh vực này thì đừng có niềm tin, đừng có ý niệm, đừng có chủ trương, đừng có lý tưởng, đừng có cam kết về bất cứ gì. Rồi, từ cái phủ định những cái sai trái - nhưng cũng đừng chống trả hay phản ứng gì về cái sai trái - một cách thụ động mà bác bỏ cái sai trái*, bạn sẽ có một loại năng lượng khác.
* Cách nói của Thiền tông là “Biết vọng không theo” (ND).
Chỉ giản đơn như thế. Nếu bạn muốn leo núi thì bạn phải bỏ đi tất cả mọi thứ mình mang vác tại đồng bằng, bạn phải dẹp chúng qua một bên. Điều quan trọng hơn hẳn là ta phải hiểu thấu sự ràng buộc và yếu tố thoái hóa của tư tưởng - mà nó chính là sự dính mắc, tính ham thích quyền uy, các tâm lý muốn chế ngự, lòng đam mê của cải và sở hữu - điều này quan trọng hơn hẳn việc tìm kiếm hay thực hành các lời thệ nguyện.
Phần lớn chúng ta đều dính mắc vào óc sở hữu, có thể đó là một chiếc bàn cổ vật mà bạn chăm sóc và lau chùi cẩn thận, hay đó là một ngôi nhà, một con người, một nhóm hội, một ý niệm, hay một kinh nghiệm đặc biệt nào đó. Tại sao tâm lại bị ràng buộc - nơi hình dáng tóc tai của chúng ta, nơi nỗi lo nghĩ của chúng ta? Thật có quá nhiều thứ mà ta bị ràng buộc. Tại sao? Và rồi, khi biết những thứ sở hữu này là một trong những yếu tố chính yếu làm ta suy đồi trong đời mình, ta nói: “Bỏ óc sở hữu đi, chỉ nên có vài manh quần áo thật cần thiết, đừng sở hữu, hãy thực hành nguyện không sở hữu”. Trong điều này cũng có lắm vất vả đó: “Tôi muốn thế, tôi phải từ bỏ, tôi phải thực hành thệ nguyện”. Óc sở hữu làm suy đồi, và ta nói mình phải từ bỏ óc sở hữu, và như thế thì tất cả mọi tranh chấp sẽ vướng vào đó. Hiểu thấu sự ràng buộc là quan trọng hơn hẳn sự từ bỏ sự ràng buộc.
Tại sao lại có sự ràng buộc? Không hỏi làm sao để thoát, mà hỏi tại sao tâm lại bị ràng buộc. Tại sao bạn lại bị ràng buộc vào ngôi nhà của bạn, vợ bạn, con bạn, vào phép thiền định của bạn, vào hệ thống của bạn? Tại sao? Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không bị ràng buộc?
Sự ràng buộc tạo nên một cái vướng víu trong tâm bạn; bạn liên tục phải nghĩ đến một điều gì đó. Bộ óc và tâm thức của bạn nói: “Ta phải được một cái gì choán chỗ” - bởi Thượng đế, bởi tình dục, bởi món rượu của ta; “Ta phải được choán chỗ” - bởi cái phòng bếp, hay bởi một trật tự xã hội nào đó, hay bởi nhóm hội, hay bởi bất cứ cái gì. Xuất phát từ cái đòi hỏi phải bị choán chỗ mà có sự ràng buộc, mà bị dính mắc vào điều gì đó. Tại sao tâm phải bị vướng? Điều gì xảy ra nếu tâm không bị vướng? Phải chăng nó sẽ bị lạc lối? Nó sẽ bị tan rã? Nó sẽ bị hoàn toàn trần truồng, trống rỗng? Phải chăng cái sợ bị trống rỗng đòi tâm phải được choán chỗ và vì thế mà thấy các thứ bàn ghế, sách vở, ý niệm, v.v… là quan trọng? Phải chăng xuất phát từ tâm trạng thấy trống rỗng và cô đơn, cho là mình không còn trọn vẹn mà tâm bị ràng buộc? Không có ràng buộc, tâm có thể sống, có thể đầy năng lực và sinh động, đầy chiều sâu chăng? Hiển nhiên là nó có thể.
Phải chăng lòng yêu thương là một loại ràng buộc? Nói lòng yêu thương là sự từ bỏ cũng không đúng. Nếu yêu thương là bị ràng buộc hay sự từ bỏ thì thật là khổ não, điều mà tất cả chúng ta đều biết, chúng ta không cần nói đến tâm trạng xấu xa này.
Quyền lực là một dạng khác của sự thoái hóa - quyền lực chính trị, quyền lực tôn giáo, quyền lực trong thế giới kinh doanh, quyền lực trong việc thực hành tài năng của ta. Khi bạn áp chế một người, thí dụ người đầu bếp hay người giúp việc của bạn, vợ hay chồng của bạn, bạn thấy thích thú lắm. Đó là một yếu tố khác của sự hư hỏng. Cái năng lượng này, nó vốn rất cần để mang lại một sự chuyển hóa ý thức, bị phân tán trong những cách đó cả. Bạn có thấy đó là một thực tế không, một thực tế nguy hiểm không? Đó không phải là một mối hiểm nguy tương đối mà là mối hiểm nguy toàn diện của con người.
Bây giờ nếu bạn thấy nó là một mối hiểm nguy thật sự, ví như bạn thấy cái nguy hiểm của một tảng đá đang rơi trên đầu, bạn sẽ tức thì bỏ chạy và thoát khỏi nguy hiểm. Muốn quan sát điều này, bạn cần một sự nhạy cảm nhất định, về vật lý cũng như về tâm lý, và bạn sẽ không có sự nhạy cảm này nếu bạn còn theo đuổi mọi thứ chuyện - món rượu, tình dục, làm việc quá sức. Thế nên nếu bạn thật sự nghiêm túc, nếu bạn cống hiến sự chú tâm, sự cẩn trọng, lòng yêu thương cho điều này thì bạn sẽ tự thấy là, khi không còn bị chia cắt bởi tư tưởng thì sẽ có một dạng khác của năng lượng mà đó chính là sự thông minh. Trí thông minh này không do tư tưởng xếp đặt nên. Nó không phải là trí thông minh láu lỉnh của một ông chính trị gia, một ông tu sĩ hay một nhà kinh doanh. Nó xuất phát từ sự tự do khi đã nhận chân cái sai trái, cái vọng tưởng của tất cả mọi thứ. Tâm bạn có thấy điều này một cách trọn vẹn không? Nó không thể thấy một cách trọn vẹn nếu nó có bất cứ một phương hướng nào.
Một tâm thức thông minh tác động trong lĩnh vực của tư tưởng một cách thông minh, một cách lành mạnh, vắng sự đề kháng. Nó sẽ không có cơ chế và tính chất của sự ràng buộc, không có hành động của sự dính mắc, không có sự theo đuổi quyền lực với tất cả sự phức tạp và tàn bạo của việc này. Nó thấy quá trình chia cắt của tư tưởng và nhờ thấy điều đó một cách rõ ràng, trọn vẹn mà nó có năng lực. Năng lực này chính là trí thông minh. Có năng lực này, trí thông minh này, nó có thể vận hành trong lĩnh vực của tư tưởng, chứ không phải ngược lại.
Ta có thể thấy, không hề có sự phân biệt giữa bên ngoài và bên trong mà đó là một mối liên hệ tương ứng. Ta thấy điều này và cũng thấy cần có năng lực để chuyển hóa tâm. Thế nên ta từ bỏ mọi thứ không cần thiết, mọi thứ do tâm tạo, mọi thứ có thể ấp ủ sự chia cắt và tranh chấp trong tâm. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu có một sự quan sát tâm, chứ không phải để kháng chống lại tâm. Sự quan sát này chỉ sinh ra khi người quan sát là vật bị quan sát. Người quan sát thuộc về quá khứ, là thứ do tư tưởng bày ra bằng những điều như kinh nghiệm, tri thức, ký ức, truyền thống; chúng là rường cột của người quan sát. Điều mà nó quan sát, vốn chỉ là sản phẩm của tư tưởng thì cũng chỉ là tư tưởng thôi. Sự rối loạn trên thế giới, sự khốn khổ, sự thiếu ăn, sự nghèo nàn, sự tàn nhẫn, bạo lực, sự bề bộn đang xảy ra, sự điên khùng đang xảy ra, tất cả đều do tư tưởng tạo ra cả. Và bây giờ người quan sát nói: “Ta phải thay đổi mọi thứ này” - nếu anh thông minh và biết thức tỉnh, không chỉ biết lo cho đời sống nhỏ bé của mình. Nhưng liệu người quan sát có khác gì với những gì anh quan sát không? Chính anh là kẻ được tư tưởng tạo thành cho nên anh chính là vật bị quan sát. Bây giờ, khi đã thấu hiểu điều đó, không phải trên mặt ngôn từ mà thực sự, thì mối tranh chấp sẽ ngưng bặt và tâm sẽ bước qua bên kia của giới hạn mà tư tưởng đã đặt định cho hành động.
Bây giờ bạn làm điều đó được không? Nếu không thì tại sao không? Phải chăng vì bạn thụ động, lười biếng, thờ ơ, không phải chỉ đối với nỗi lo âu, nỗi đau khổ, sự phiền não của chính mình mà đối với đau khổ của hàng triệu người khác, đối với những điều đang xảy ra ở Nga, ở Ấn Độ và ở những nơi khác? Phải chăng bạn thờ ơ với tất cả những thứ đó vì bạn đang muốn tìm kiếm Thượng đế, bạn muốn ngồi thiền định, bạn muốn thở cho đúng cách, bạn muốn giữ phạm hạnh và tiết dục, vân vân? Nếu bạn quan tâm đến toàn thể nhân loại, chứ không phải chỉ nhà láng giềng hay vợ con bạn, thì khi thấy cái toàn thể bạn mới sửa đổi được chi tiết. Thế nhưng nếu không nhận thức được cái toàn thể thì không thể đưa cái chi tiết vào đúng chỗ. Các nhà chính trị, các phân tích gia, các vị giáo sĩ, không đủ sức thấy điều này. Chỉ có bạn và tôi, nếu chúng ta hoàn toàn có ý thức trách nhiệm, biết âu lo, nghiêm túc, biết cam kết, thì mới giải quyết được vấn đề vì chúng ta đã thấy cái toàn thể; chính vì thế mà hết sức sinh động và thông minh, đồng thời cũng có khả năng vận hành ở phương diện chi tiết.
Saanen, 16.7.1974
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

3


Chúng ta đã nói về sự thấu hiểu hành động của mình, về thái độ của mình và nội dung của ý thức mình. Bao lâu chúng ta không hiểu tính chất và cơ chế của ý thức này mà từ đó ta hành động, thông qua đó mà hành vi cũng như tư tưởng của ta diễn ra, thì tôi cho rằng chúng ta cứ mãi bị lúng túng, mơ hồ, cứ mãi sống trong một cuộc chiến triền miên giữa chính ta và ngoại cảnh. Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình, một cảm giác sâu lắng về sự an lạc nội tại. Trong một thế giới ngày càng điên rồ, nơi có quá nhiều bạo lực, tàn nhẫn, dối trá và tranh chấp, chúng ta cần thiết phải hiểu vấn nạn to lớn này của cuộc đời.
Bây giờ chúng ta cần biết điều được mệnh danh là quan niệm duy vật. Quan niệm duy vật có nghĩa là xem xét cuộc sống với tính cách là vật chất; vật chất trong sự vận động và biến thiên của nó, vật chất cả trong dạng ý thức và ý chí. Chúng ta phải đi vào vấn đề để xem liệu có gì cao hơn vật chất chăng và liệu ta có thể đi xa hơn nó chăng. Đây không chỉ là một thứ tiêu khiển và nghiên cứu hàn lâm mà là một sự tra vấn sâu xa, liệu chăng tâm ý chúng ta và toàn bộ đời sống xã hội, kinh tế và tôn giáo của ta là hoàn toàn vật chất. Phải chăng tất cả mọi dạng tồn tại, kể cả ý thức và ý chí là sự vận hành và biến thiên của vật chất*?
* Như bạn đọc sẽ thấy, Krishnamurti nêu lên một quan niệm khác về “vật chất”. Theo tác giả, tất cả những gì bị quá khứ, thời gian quy định đều là vật chất cả. Điều đó có nghĩa, tư tưởng, ký ức, ý thức cũng là vật chất. Điều này cũng phù hợp với quan niệm “sáu căn” (mắt, tai, mủi, lưỡi, thân, ý) của đạo Phật. Đối tượng của sáu giác quan này (“sáu trần”) được Krishnamurti định nghĩa là vật chất, tức là không chỉ là hình thể, âm thanh… thôi mà tư tưởng (đối tượng của ý) cũng là vật chất. Trong đoạn này tác giả nói về “chủ nghĩa duy vật” là nói về vật chất trong nghĩa rộng này. Vì thế chủ nghĩa duy vật mà tác giả nói đến không liên hệ gì với duy tâm-duy vật như ta thường hiểu (ND).
Chúng ta bị điều khiển bởi sự cảm nhận - vị, mùi, xúc giác v.v…, chúng đóng một vai trò to lớn trong đời sống chúng ta. Bộ óc, nếu bạn xem xét nó, nếu bạn biết rõ hoạt động của nó, cất chứa trong các tế bào của nó ký ức, xem chúng như kinh nghiệm và tri kiến. Những gì mà những tế bào này cất chứa là vật chất; thế nên tư tưởng - khả năng suy nghĩ - là vật chất. Và bạn có thể hình dung về “cái kia” (cái khác với vật chất), hay dùng tư tưởng mà đoán chừng về “cái kia” thì nó vẫn là tư tưởng, vẫn là vật chất thôi. Chúng ta biết rõ mình sống trong một thế giới vật chất, dựa trên cảm nhận, ham muốn và xúc cảm, và chúng ta cũng xây dựng một ý thức, nó vốn cũng là sản phẩm của tư tưởng. Chúng ta phải biết điều đó, nếu ta không mơ mộng mà đi vào vấn đề một cách sâu xa và nghiêm túc; và khi biết thế, chúng ta cho là phải có một “cái khác”, một cái nằm xa hơn vật chất. Thế là tư tưởng bắt tay vào việc xem xét “cái khác” đó. Thế nhưng khi tư tưởng xem xét “cái khác” thì nó vẫn là vật chất. Thật là quan trọng phải hiểu điều này vì tâm hồn của chúng ta quá lãng mạn, tất cả mọi tôn giáo của chúng ta đều dựa trên cảm xúc và lòng mơ mộng. Sống trong lĩnh vực nhỏ hẹp của tâm duy vật, chúng ta muốn có một cái gì lớn hơn nằm bên kia. Đó thật là một ham muốn hiển nhiên. Thế nên tư tưởng mới xây dựng một cấu trúc với ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ về Thượng đế, về cái kia, về cái vô hạn, về cái phi thời gian, v.v… Thế nhưng nó vẫn là sản phẩm của tư tưởng và vì thế nó vẫn là vật chất*.
* Cũng như trong sự ồn ào ta mong có sự im lặng nhưng ta lại la hét yêu cầu chấm dứt tiếng ồn, tiếng la hét cũng vẫn là sự ồn ào (ND).
Thế nên tư tưởng tạo ra một dạng nằm ngoài, nằm trên và cho rằng dạng đó, hình ảnh đó, mẫu hình đó là phi vật chất. Thế nhưng dạng hình đó là sản phẩm của tư tưởng; hình ảnh lý tưởng đó vẫn là sản phẩm của tư tưởng nên nó vẫn là vật chất. Nếu bạn đến Ấn Độ hay bất cứ nơi nào ở phương Đông, người ta nói với bạn là họ thừa nhận điều này, thế nhưng họ vẫn cho là có một bản thể cao hơn, có một ý thức siêu việt ngự trị lên vật chất hay dung chứa vật chất trong mình - cũng như tại phương Tầy, bạn nói đến linh hồn. Họ gọi nó bằng từ Sanskrit: Atman (Tiểu ngã). Thế nhưng cái Tiểu ngã này, cái ý thức siêu việt này, linh hồn, đều là sản phẩm của tư tưởng. Tư tưởng là vật chất; dù cho vật chất vận động theo hướng nào, vào trong, ra ngoài, vươn lên khỏi bản thân nó, thì vẫn là vật chất.
Thế nên vấn đề đặt ra là: Phải chăng tâm thức có tính chất cơ giới*? Tức là, trong tâm bạn thì phải chăng tư tưởng, tình cảm của bạn, các phản ứng, lòng trách nhiệm, mối quan hệ, phương pháp, ý kiến, v.v… của bạn đều có tính cơ giới cả; tức là phản ứng dựa trên điều kiện, dựa trên ảnh hưởng của môi trường cả? Nếu đó là toàn thể tâm thức thật thì chúng ta sống trong một tù ngục vĩ đại, không sao trốn thoát được.
* Mechanical. Ở đây “cơ giới” có nghĩa tùy thuộc vào các yếu tố khác mà hình thành và vận động. Tính chất này ngược lại với hành động “hồn nhiên” của một tâm thức giải thoát (ND).
Đây là một vấn nạn của con người từ xưa nay. Con người biết mình sống bằng cảm giác, bằng ước mong của mình, bằng xúc chạm, bằng thèm muốn - dù đó là nhục dục, hay trí thức hay một cách khác nữa - và vì thế mà đặt câu hỏi “Liệu thế là hết hay sao?”. Thế là nó bắt đầu nghĩ ra thần thánh, Thượng đế vô thượng, ý thức siêu việt, vân vân và vân vân. Khi đã nghĩ ra và chiếu hiện ra một dạng hình thì con người theo đuôi nó, nghĩ rằng mình rất tâm linh, mình rất ngoan đạo. Thế nhưng sự tôn thờ cái mà nó gọi là “Thượng đế” hay chân lý chẳng qua là sự tôn thờ sản phẩm của tư tưởng, mà tư tưởng chính là vật chất. Hãy xem người ta đang làm gì. Hãy xem giáo đường, đền đài và nhà thờ làm được gì cho ta, cho mỗi người trong chúng ta. Hãy thấy sự lừa dối to lớn mà con người được mớm, mà nó cho là tâm linh phi thường. Khi người ta thấy rõ điều này một cách nghiêm túc thì đó là một cái “sốc” vì con người bị tước đi tất cả mọi ảo tưởng.
Nếu đã đi đến đây, ta sẽ bắt đầu vấn hỏi liệu có một sự vận hành nào khác với sự vận hành của tư tưởng không. Làm sao tìm ra được nó? Nếu ta cố tìm một cái gì nằm ngoài vật chất thì ta phải xem xét lý do của sự tìm kiếm đó. Phải chăng cái lý do đó là tìm cách chạy thoát khỏi tình trạng này? Lý do hàm nghĩa động cơ thúc giục. Phải chăng tất cả mọi tầm cầu của con người đều có động cơ? Nếu thế thì gốc rễ của chúng đều là sự tìm kiếm nguồn vui hay sự trốn tránh cái sợ hãi. Hay, nếu gốc rễ của chúng xuất phát từ sự bất mãn với cái đang là thì nó tự chiếu hiện lên câu trả lời của bản thân mình. Do đó muốn tầm cầu “cái khác”, tâm tôi phải vắng bóng mọi lý do, mọi động cơ.
Chúng ta đã và đang nói tâm phải chuyển hóa, không phải chỉ là sự thay đổi nông cạn mà là một cuộc cách mạng sâu sắc trong tâm mới giải quyết được những vấn đề do tư tưởng sinh ra, dù nó có tính chất tôn giáo, kinh tế, xã hội hay đạo đức. Nếu ta thật sự nghiêm túc, không bỡn cợt, không đùa giỡn với trò lý thuyết có tính chất hàn lâm hay với các thứ triết lý do tư tưởng bày ra, thì ta phải quan tâm và hoàn toàn dấn thân với vấn đề chuyển hóa nội dung của ý thức. Vì rằng nội dung là yếu tố làm nên ý thức, như ta đã nói. Ta đã nói người quan sát chính là vật bị quan sát và hễ có một sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát, giữa “tôi” và “không phải tôi” thì có tranh chấp ngay. Sự tranh chấp này chủ yếu chỉ là sự phí phạm năng lượng. Và khi bạn nhìn vào vấn đề này và thấy người quan sát chính là vật bị quan sát thì bạn loại bỏ mọi tranh chấp và bạn có một năng lượng to lớn vì nó không còn bị mất mát trong sự tranh chấp nữa.
Năng lượng này có thể nằm trong lĩnh vực của tư tưởng hay là một thứ năng lượng hoàn toàn khác với tư tưởng. Với một tâm thức còn bị đè nặng, còn bị quy định, còn bị hình thành bởi tư tưởng mang tính vật chất thì liệu có một sự vận động nào khác với sự vận động của tư tưởng không? Muốn xác định ta hãy xem nguyên nhân của sự tìm kiếm. Chỗ nào có nguyên nhân chỗ đó có thời gian. Nguyên nhân sinh ra một kết quả và kết quả lại trở thành một nguyên nhân của một cái khác. Xét điều này thực sự không khó vì nó chính là đời sống của chúng ta; nó chỉ khó nếu bạn xem xét nó như là một cái gì nằm ngoài đời sống hàng ngày của chúng ta.
Hãy nói cách khác. Cái gì là đạo lý, là đạo đức? Phải chăng đạo đức là một điều gì tạm thời? Phải chăng nó chỉ là tương đối? Hay đạo đức là tuyệt đối? Đối với chúng ta trong thế giới hiện đại này, đạo đức chỉ là tương đối và sự tương đối hầu như đang hủy hoại chúng ta. Thế nên ta hỏi: Đạo lý là gì? Có một đạo lý tuyệt đối không? Có một tâm không bao giờ sân hận trong bất kỳ trường hợp nào không? Có một trạng thái hòa bình toàn vẹn, một hòa bình tuyệt đối không bao giờ bị quấy nhiễu không? Người ta có thể sống mà hoàn toàn vắng bóng mọi thứ bạo lực không? Hay bạo lực cũng tương đối, là tâm sân hận được biến tướng thôi, v.v… Thế thì đạo lý là gì? Nếu bạn đánh tôi và tôi đánh trả; và sau đó xin lỗi nhau thì đó là tương đối. Nếu tôi có một cái cớ để ghét bạn, để không thích bạn hay hung hăng với bạn thì cái cớ này sẽ làm hành động của tôi không được toàn thiện và vì thế mà thành tương đối. Có cách nào sống mà vắng bóng lý do, vắng bóng nguyên cớ không? Vì hễ bạn có lý do thì cuộc sống lập tức trở thành tương đối. Nếu vì một lý do nào đó mà tôi yêu bạn - vì bạn làm tôi thoải mái, thoải mái về tâm lý, về vật lý, về tình dục, về đạo đức - thì đó không phải là lòng yêu thương. Chỗ nào có lý do thì hành động nơi đó phải là tương đối. Chỉ khi nào vắng bóng lý do, hành động mới thành tuyệt đối.
Hãy xem những điều diễn ra trong chính đời bạn chứ đừng xét những gì tôi đang nói. Nếu tôi lệ thuộc vào bạn, nếu tôi bị bạn lôi kéo thì sự lệ thuộc này, sự ràng buộc này có một lý do. Có thể vì tôi đang cô đơn, tôi đang buồn phiền hay tôi muốn có ai bên cạnh; tôi muốn có tình yêu thương, sự ân cần, sự chăm sóc của bạn và thế nên tôi bị ràng buộc nơi bạn. Từ sự ràng buộc này mà sinh ra một phiền não to lớn, đó là cái khổ. Vì bạn không yêu tôi, bạn chỉ chấp nhận tôi thôi, bạn chỉ cho tôi một chút thương yêu thôi và quay qua người khác, điều đó sinh ra ganh tức, bác bỏ, thù hận và mọi thứ đi kèm. Bất cứ chỗ nào có lý do thì hành động và đạo lý phải trở thành tương dối.
Tâm có thể thoát khỏi sắc thể, thoát khỏi ý niệm, thoát khỏi vật chất trong dạng lý do, để cho tâm có khả năng vượt lên chính mình không? Thực ra thì điều này rất giản đơn, chỉ có chữ nghĩa mới làm nó rắc rối. Chữ nghĩa thì cần thiết để giao lưu, nhưng nếu bạn cứ nằm mãi trong bình diện của ngôn từ thì ngôn từ hoàn toàn vô ích. Nó cũng như cứ cày bừa, mải mê cày bừa - và bạn phá hỏng đất đai nếu chỉ biết cày bừa thôi.
Đây là vấn nạn của chúng ta, điều mà ngay từ đầu ta đã cố tìm một giải pháp, đó là: Phải chăng toàn thể đời sống của ta có tính chất cơ giới? Phải chăng toàn thể đời sống của ta có tính vật chất? Phải chăng mọi dạng tồn tại, kể cả tâm lẫn ý đều là vật chất? Toàn bộ đời của bạn là như thế sao? Bạn có thể quả quyết là không phải thế, nhưng thực tế là như thế. Bị trói buộc ở trong đó, tư tưởng sáng tạo ra hình thể, ra ý niệm về cái tối thượng, ra dạng cao cả nhất của mọi sự tồn tại, ra cái cao quý nhất, ra các thượng đế thánh thần, cũng như ra những điều khác mà tư tưởng sinh ra trong thế giới này, như sự vận động to lớn của kỹ thuật. Tất cả đều là vật chất. Và khi sống bên bờ này như chúng ta đang sống, với chiến tranh, hận thù, với các nền chính trị đáng sợ - khi sống trên bờ bên này của dòng sông, bờ của vật chất, thì tâm nói, “Ta muốn qua bờ bên kia, bên đó phải có cái gì chứ đời sống này quá ngu xuẩn”. Và thực là ngu xuẩn: đến sở làm, kiếm tiền, mang một trách nhiệm, đấu tranh, giành giật, lo âu, thất vọng, băn khoăn, buồn phiền và sau đó là cái chết. Ta nói như thế là không hay, không đủ. Ta có thể nói giọng triết lý hơn, lập dị hơn hay lãng mạn hơn, nhưng ta thấy chung điều đó thật ngu xuẩn và tìm kiếm một điều gì xa hơn.
Rồi thì ta nói: “Làm sao vượt qua được con sông, qua được bờ bên kia?” và hỏi: “Ai mang ta qua bên kia được?”. Khi đặt câu hỏi đó, thì có ngay ông giáo sĩ, ông đạo sư, một vị biết chuyện sẽ nói “Hãy theo ta” - và như thế là tàn đời vì ông ấy cũng y như chúng ta thôi, vì ông ấy cũng chỉ vận hành trong phạm vi của tư tưởng thôi. Ông ta sáng tạo ra thánh Thần, ra Chúa, ra Phật, ra Krishna. Ông sáng tạo ra dạng hình và dạng hình đó cũng mang tính vật chất y như cảm giác của bạn thôi, nó chỉ là sản phẩm của tư tưởng. Bây giờ, ta đã hoàn toàn rõ chưa, ở đây không có thứ trốn chạy đầy lãng mạn, không có sự rửa tay cho sạch bằng giáo điều, không có sự tìm tòi cái tiện nghi, thoải mái và mọi thứ khác, tất cả đều chỉ dẫn ta đến vọng tưởng. Ta đã hoàn toàn rõ chưa, rằng mọi biến thiên trong phạm vi của ý thức chỉ là sự vận hành từ đối tượng này qua đối tượng khác, tất cả trong lĩnh vực của tư tưởng. Nếu rõ rồi thì tâm phải làm gì? Hay không làm gì cả?
Trước hết một cái tâm như thế phải hoàn toàn ngăn nắp*, ngăn nắp trong nghĩa vật chất đã vì nếu tâm rối loạn thì nó không thể vượt lên chính nó được. Tư tưởng là vật chất và tất cả mọi hoạt động của nó trong phạm vi ý thức đều gây nên hoang mang và rối loạn. Về mặt chính trị, tôn giáo, xã hội, đạo đức, trong các mối quan hệ, trong mọi chiều hướng, tư tưởng đều gây sự mất thăng bằng. Và đó chính là cuộc đời của bạn. Nếu không có sự ngăn nắp tuyệt đối - và tôi dùng từ tuyệt đối chứ không phải tương đối - trong lĩnh vực này thì mọi nguyên nhân nhằm thoát khỏi lĩnh vực này đều là sản phẩm của cái rối loạn. Thế nên tâm phải ngăn nắp.
* Total Order. Ý nghĩa của nó ngược với sự rối loạn (disorder). Nội dung của nó trong tác phẩm này cho phép ta hiểu “ngăn nắp” đồng nghĩa với “chân chính”, tương tự như trong “Bát chính đạo”. Thế nhưng một cái tâm “ngăn nắp” hẳn phải có nội dung sâu sắc hơn nữa mà con người “rối loạn” như chúng ta chưa bao giờ biết đến (ND).
Làm sao sự ngăn nắp này được sinh ra trên mặt chính trị, tôn giáo, xã hội, đạo đức, trong các mối quan hệ được - một sự ngăn nắp tuyệt đối, không phải chỉ ngăn nắp dễ dãi hay tương đối? Làm sao mà cái tâm vốn đã được huấn luyện, giáo dục, quy định để sống trong sự loạn động, chấp nhận sự loạn động, nay tự mang lại sự ngăn nắp cho chính mình được? Hãy nhớ rằng, nếu bạn cho rằng có một kẻ nào bên ngoài sẽ mang lại ngăn nắp cho mình, thì kẻ bên ngoài đó là sản phẩm của tư tưởng và vì thế mà nó chỉ gây thêm tranh chấp và vì thế mà thêm loạn động. Nếu bạn nghĩ rằng ý chí sẽ mang lại sự ngăn nắp thì thế nào là ý chí? “Ta sẽ làm thế này thế khác” - hãy nhìn tận mặt nó, hãy xác định nó. Nếu là người cương quyết bạn sẽ nói “Ta phải làm thế này thế khác” thì cái gì là ý chí, nhân tố tạo tác hành động? Không phải đó là sự ham muốn, một ý tưởng được nêu lên và phải đạt tới hay sao, do tư tưởng chiếu rọi thành một mục đích, một hình ảnh, một mẫu hình hay sao? Liệu tư tưởng có thể mang lại sự ngăn nắp không? Đó là cách làm của các nhà chính trị, các giáo sĩ và của tất cả những kẻ được gọi là nhà cải cách đang cố làm. Tư tưởng chỉ mang lại sự loạn động. Thế thì ta phải làm sao?
Phải chăng tâm, tâm của bạn có thể quan sát, thấy rõ sự loạn động này? Con người đang nằm trong sự loạn động. Ta thấy hoạt động của ý chí, cái này tiếp nối cái kia, có cái ước mong khuất phục sự loạn động, nhưng nó vẫn còn nằm trong lĩnh vực của loạn động. Thế nên ta tự hỏi: “Ta làm sao bây giờ, tâm phải làm gì?”. Trước hết, ta có thấy sự loạn động không? Tâm có thấy sự loạn động không, hay nó chỉ nghe mô tả của sự loạn động?* Bạn mô tả cho tôi nghe một ngọn núi, vẻ đẹp của nó, đỉnh tuyết, hình dáng của nó trong bầu trời xanh, chiều sâu bóng thẫm của nó trong khu rừng, dòng nước chảy, cây lá xào xạc, vẻ đẹp của mọi thứ. Bạn mô tả cho tôi nghe và câu chuyện nắm giữ tâm tôi và tôi sống với sự mô tả đó. Thế nhưng sự mô tả khác với cái được mô tả. Thế nên ta có thể tự hỏi: “Phải chăng sự mô tả đang chiếm giữ ta hay ta thực sự thấy sự loạn động?”. Một bên là trí năng làm việc, bên kia là thực tế. Thế thì phải chăng tâm đang quan sát sự loạn động của chính nó, tức là không cần ngôn từ, không bị vướng trong sự mô tả mà thực sự quan sát sự loạn động to lớn nọ? Tâm có thể quan sát như thế chăng? Và khi quan sát sự loạn động của chính mình, có một “người quan sát” đang nhìn ngó không, hay là chẳng có ai quan sát cả mà chỉ có sự quan sát?
* Sự khác biệt giữa sự mô tả sự vật và sự vật đích thực là một trong những điều nhắc nhở quan trọng nhất của Krishnamurti (ND).
Tôi quan sát bạn, tôi thấy bạn. Năm ngoái tôi đã gặp bạn; lúc đó gặp bạn tôi thấy vui hay không vui; bạn ca tụng tôi, sỉ nhục tôi hay chẳng quan tâm gì đến tôi. Ký ức về những điều đó còn nằm lại. Năm nay tôi gặp bạn và ký ức của tôi lên tiếng. Ký ức là quá khứ và ký ức này cũng chính là người quan sát. Hiển nhiên rồi. Liệu tâm có thể quan sát mọi thứ loạn động đó, xã hội, đạo đức v.v… điều đã do tư tưởng sinh ra không, trong đó tôi hiện hữu, đó là phần của chính tôi? Tâm có thể quan sát cái loạn động này mà không có quan sát viên không? Nếu người quan sát có mặt và nhìn ngó sự loạn động, thì ta có một sự phân biệt giữa người quan sát và vật được quan sát. Chính trong sự phân biệt này mà mối tranh chấp sẽ xuất hiện. “Ta phải kiểm soát nó, phải thay đổi nó, ta phải đè nén nó, phải khuất phục nó” v.v… Bây giờ khi không có người quan sát thì chỉ có sự quan sát. Khi đó sẽ có năng lượng để vượt qua sự loạn động.
Chỗ nào có chia cắt, chỗ đó có loạn động. Người quan sát vốn do quá khứ sinh ra, chủ yếu là nguyên nhân của sự chia cắt. Bây giờ phải chăng tâm có thể thấy điều vừa nói là đúng và quan sát sự loạn động hiện tiền của đời sống bạn, chứ không mô tả? Nó có thể thấy sự loạn động của bạn, sự thất vọng, sự lo âu, mối mâu thuẫn, những đòi hỏi ích kỷ… của bạn không? Hãy quan sát đi. Và nếu nó quan sát mà không có người quan sát thì nó đã đi xa hơn chính nó, tức là có sự ngăn nắp toàn vẹn rồi, chứ không phải ngăn nắp tương đối là điều rất chủ yếu trước khi bạn đi đến đâu. Nếu thiếu sự ngăn nắp trong thế giới vật chất, trong lĩnh vực của vật chất, trong lĩnh vực của tư tưởng, thì tâm không đủ cơ sở, không đủ nền tảng để vận hành.
Do đó phải có sự quan sát về cách hành xử*. Liệu tôi hành động dựa theo một mục đích, dựa trên điều kiện xung quanh hay không? Phải chăng hành động của tôi tùy thời hay trong bất cứ điều kiện nào cũng như nhau? Nói “như nhau” không có nghĩa nói sự sao chép từ một khuôn mẫu mà nói một thái độ không bao giờ chấp nhận sự tương đối, không dựa trên sự thưởng phạt. Hãy dò tìm cho ra, hãy quan sát nó và bạn sẽ thấy lối hành xử của mình khủng khiếp thế nào, cách bạn nhìn cái cao hơn và cái thấp hơn, tất cả những gì mình làm tệ hại ra sao. Nơi đó không hề có một phút giây nào mà bạn không có tâm lý và động cơ ham thưởng tránh phạt cả.
* Behavior.
Sau đó bạn hãy dò tìm trong mối liên hệ* trong thế giới vật chất. Mối liên hệ là quan trọng bậc nhất vì cuộc đời chẳng qua do những mối liên hệ mà thành. Mối liên hệ của bạn là gì? Bạn có mối liên hệ nào không? Mối liên hệ nghĩa là trả lời cho thỏa đáng với mọi thách thức. Nói về mối liên hệ tức là hỏi mối liên hệ của bạn với ai đó, nó có tính chất cá nhân, thân thiết hay không thân thiết lắm? Mối liên hệ đó dựa trên ý kiến, ký ức của tôi, trên thôi thúc đòi hỏi, trên ham thích tình dục của tôi? Nếu mối liên hệ của tôi đối với bạn chỉ tương đối thôi thì nó thay đổi: Hôm nay thì tôi buồn rầu, hôm sau hết buồn, hôm sau nữa thì tôi chăm sóc ân cần, qua ngày thứ ba thì tôi ghét, đến ngày thứ tư thì tôi yêu, v.v… Nếu mối liên hệ không thỏa mãn tôi, tôi sẽ đi tìm người khác. Đó là trò chơi mà ta đã tham gia từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Bây giờ thì nó còn trắng trợn hơn, còn quá mức hơn, còn tầm thường hơn chứ không gì khác.
* Relationship.
Thế nên tâm tôi phải xác định được mối liên hệ hiện thời là gì. Nếu đó không phải là một sự hài hòa toàn hảo* trong thế giới vật chất mà tôi đang sống, là một phần của chính tôi, của ý thức tôi, thì tâm thức không thể vượt qua được chính mình. Đó là lý do tại sao phép thiền định của bạn, thế ngồi của bạn, phép thở của bạn, việc bạn đi Ấn Độ để tầm cầu, tất cả đều hoàn toàn vô nghĩa.
* Complete harmony.
Thế thì phải chăng mối liên hệ của tôi là tương đối? Hay tất cả mối liên hệ đều tương đối? Hay thực chất chẳng có mối liên hệ nào cả trừ khi sự phân biệt giữa “tôi” và “bạn” ngưng bặt? Tôi liên hệ với bạn vì tôi yêu bạn, vì bạn cho tôi thực phẩm, quần áo, nhà cửa, vì bạn cho tôi tình dục, vì bạn chịu quây quần với tôi. Tôi đã tạo nên một hình ảnh tuyệt vời về bạn; chúng ta có thể giận trách nhau, hiểu sai nhau nhưng đó là điều bình thường. Thế là tôi bám chặt lấy bạn; tôi bị ràng buộc vào bạn, và trong sự ràng buộc này sinh ra một sự phiền muộn to lớn, một cái khổ to lớn, đau xót, ganh tị, đối lập. Thế là tôi tự nhủ: “Ta phải thoát khỏi cái này”. Và khi hết ràng buộc với điều này thì tôi lại dính với người khác. Và cuộc chơi lại bắt đầu. Tôi lại tự nhủ: “Thế thì mối liên hệ là gì? Có thật có mối liên hệ không? Phải chăng có thể có thực một mối liên hệ?”. Có một cái “tôi” cứ luôn luôn theo đuổi thèm khát của mình, tham vọng, mong ước, sợ hãi, mong uy tín lớn hơn, địa vị cao hơn v.v…; và cũng có kẻ khác theo đuổi mong muốn của họ. Thế thì có mối liên hệ thực sự giữa hai con người không khi mỗi người đều vận hành và theo đuổi các đòi hỏi ích kỷ, riêng tư của mình?
Trong chiều hướng này có lẽ không có mối liên hệ, nhưng có thể có mối liên hệ khi hoàn toàn vắng cái tôi. Khi cái “tôi”, trong dạng tư tưởng, không hiện hữu thì tôi lại có liên hệ ngay; thì tôi liên hệ với bạn, với cây cối, với núi đồi, với sông, với người. Điều đó có được chính là nhờ lòng yêu thương vốn không cần nguyên nhân, phải không?
Ý thức với nội dung của nó là nằm trong lĩnh vực của vật chất. Tâm không thể vươn khỏi nó trừ phi tâm có một sự ngăn nắp toàn hảo trong chính nó và khi mối tranh chấp trong sự liên hệ đã hoàn toàn ngưng bặt - điều đó có nghĩa là có mối liên hệ trong đó vắng bóng cái tôi.
Đây không phải là một sự giải thích trên mặt ngôn từ: người nói đang nói bạn nghe mình trải nghiệm cái gì, chứ không kể lể về điều đó; vì nếu không thực sự trải nghiệm thì đó là đạo đức giả, là làm một thứ bẩn thỉu.
Khi tâm đã có sự ngăn nắp và sự cảm biết về một mối liên hệ hoàn hảo thì điều gì sẽ xảy ra? Khi đó tâm không tìm cầu gì cả, nó không thể rơi vào bất cứ vọng tưởng nào cả. Điều này thật là tuyệt đối cần thiết vì tư tưởng thì phát minh ra nào là kinh nghiệm, nào là mọi loại tưởng tượng, mọi hình thái siêu việt ý thức và tất cả các thứ khác. Bây giờ thì không có khái niệm, không có dạng hình, bây giờ chỉ có hành xử và đó chính là tâm ngăn nắp và mối liên hệ toàn thể của con người. Lúc đó thì bạn đã có nền tảng*.
* Then you have the foundation.
Bây giờ ta có một vấn đề xuất phát từ điều này: Phải chăng bộ óc hoàn toàn bị quy định? Bộ óc của con người đã tích lũy hàng ngàn hàng vạn kinh nghiệm, nó được dạy dỗ bởi vô số tri thức do sách báo cung ứng, tất cả đều nằm trong não bộ. Và tư tưởng vận hành trong lĩnh vực của cái đã biết. Nó có thể phát minh ra một lĩnh vực và tự nhủ: “Ta đã nằm ngoài cái đã biết”, nhưng điều đó thật ngớ ngẩn. Cho nên tâm tôi hỏi: Phải chăng toàn bộ não bị quy định bởi kinh tế, xã hội, bởi môi trường xung quanh, bởi nền văn hóa tôn giáo mà trong đó nó sống? Phải chăng tâm, trong đó có bộ não, hoàn toàn bị phụ thuộc trong giới hạn của thời gian? Phải chăng tâm chỉ là một kẻ nô lệ thuần túy?
Đừng trả lời “phải” hay “không phải” vì nếu nói xong thì bạn cũng hết chuyện, vì nói xong thì không còn gì để ta phải dò tìm nữa. Thế nhưng một cái tâm biết tra vấn, dò hỏi, tìm tòi, không vì nguyên nhân gì, không có chiều hướng nào, sẽ tự nhủ: “Có thật là tâm hoàn toàn bị phụ thuộc và như thế thì phải chăng tâm có tính cơ giới?”. Và bạn thấy nó cơ giới thật khi nó vận hành trong lĩnh vực của tri thức, dù là tri thức khoa học, kỹ thuật hay trong truyền thống của giáo sĩ. Một khi nó cơ giới thì nó cứ lặp đi lặp lại mãi. Đó là điều hiện nay đang diễn ra - sự lặp lại ham muốn về tình dục hay các thứ khác, là thứ cứ lặp đi lặp lại. Thế nên tâm tự hỏi: “Phải chăng toàn thể những thứ này là cơ giới hay trong lĩnh vực của tâm còn có một nơi nào không mang tính cơ giới?”. Tâm có thể thoát khỏi sự tầm cầu không khi ở đâu có sự dụng công thì ở đó mọi vận hành trong dạng tư tưởng đều có tính cơ giới.
Saanen, 18.7.1974
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 21 Mar 2018

4


Mối quan tâm chủ yếu của chúng ta là sự chuyển hóa, sự thay đổi triệt để của tâm thức con người. Tâm người bao gồm cả não bộ, trái tim, tất cả bộ phận như một thể bất khả phân, đó là tâm thức đã tạo nên thế giới bao quanh chúng ta, thế giới của sự thoái hóa, bạo lực, tàn nhẫn, giả dối cũng như tất cả những cơ cấu đã sinh ra chiến tranh. Chúng ta quan tâm làm sao thay đổi được nội dung của ý thức, vì nội dung đó chính là ý thức. Nếu cuộc cách mạng triệt để, sự thay đổi tâm lý này không xảy ra thì sự tranh chấp không bao giờ ngưng, đau khổ và bạo lực sẽ cứ tiếp diễn trên toàn thế giới.
Sự thay đổi không thể xảy ra nếu ta không biết nhận thức chính mình. Đây không hề là sự nhận biết về một cái tôi cao siêu hơn hay về một ý thức siêu việt nào cả, vì những thứ đó vốn cũng chỉ nằm trong lĩnh vực của tư tưởng. Bao lâu ta chưa hiểu thấu cái tự tính mình, tự tính đang hoạt động hằng ngày - nó nghĩ gì, làm gì, lòng tha thiết, cái sai lầm của nó, tham vọng của nó, mọi hoạt động vị kỷ của nó, sự tự đồng hóa mình với những điều cao quý hay thấp kém, với quốc gia hay các lý tưởng - thì người ta vẫn nằm trong vòng của cái tôi. Bao lâu ta chưa hiểu lĩnh vực nhỏ bé này, một lĩnh vực mà chúng ta biết rất ít - một lĩnh vực mà trong đó có cả ý thức lẫn vô ý thức, lĩnh vực quan tâm đến cái tôi cá thể, đến tham vọng và phản ứng riêng tư của mình mà chúng chủ yếu chính là một phần của cái toàn thể, một phần của cộng đồng, một phần của nền văn hóa trong đó nó sống - bao lâu chúng ta không hiểu nó một cách triệt để, thì bấy lâu nội dung của ý thức không thể được chuyển hóa.
“Hiểu thấu”* không phải là một việc của trí năng, của cảm xúc hay là một điều gì hời hợt. Đó là một điều xuất hiện cùng lúc với hành động và vì thế là một sự hiểu rõ hoàn toàn chứ không phải một phần. Khi hiểu tự tính của mình, ý thức và nội dung của ý thức - nhớ rằng không có ý thức nếu không có nội dung - ta sẽ thấy có hai yếu tố chính trong ta, đó là dục lạc và sợ hãi. Hai thứ đó không tách rời lẫn nhau. Chỗ nào có sự theo đuổi, duy trì, ham muốn dục lạc, chỗ đó có sự sợ hãi. Muốn hiểu thấu sự sợ hãi ta đừng quên yếu tố dục lạc.
* Understanding.
Tư tưởng là thước đo của sợ hãi. Tư tưởng là câu trả lời của ký ức mà ký ức là kinh nghiệm và tri thức được lưu giữ trong các tế bào và bộ phận của não bộ. Tư tưởng là vật chất. Toàn bộ thế giới được xây dựng bằng tư tưởng, được dựa trên tính chất, chất liệu và hoạt động của tư tưởng. Ta phải xác định phải chăng tư tưởng là nhân tố nuôi nấng sự sợ hãi. Thế thì làm sao thoát khỏi sự sợ hãi; sự giải phóng khỏi sợ hãi chỉ có thể xảy ra khi ta thấu hiểu cấu trúc, tính chất và sự vận hành của tư tưởng.
Khi quan sát hết quá trình của tư tưởng - cái đã xây dựng nên thế giới với mọi tôn giáo, mọi thánh Thần, mọi vị cứu tinh; cái đã dựng nên thế giới vật chất trong đó ta sống - ta sẽ thấy bao lâu ta còn vận hành và lưu trú ở đó, bấy lâu sự sợ hãi còn tồn tại. Sợ hãi là nguyên nhân của sự cô độc, sự mất mát, về mặt vật lý lẫn tâm lý; nó là nguyên nhân của sự ràng buộc nơi của cải, nơi tha nhân, nơi ý niệm, nơi chủ trương, nơi quốc gia, nơi gia đình. Bao lâu còn có tư tưởng vận hành trong vòng thế giới vật chất, bấy lâu còn sự sợ hãi. Nếu sống trong thế giới này, người ta đâu có quan tâm gì khác ngoài việc tìm kiếm sự an toàn, an toàn vật lý hay tâm lý. Bao lâu tâm còn tìm cầu sự an toàn vật chất, bao lâu tâm mong mỏi sự trường cửu thì bấy lâu còn cái sợ. Mặt khác bộ não chỉ có thể vận hành hiệu quả, khách quan, hợp lý nếu nó có sự an toàn tuyệt đối. Điều đó đã rõ. Khi thiếu an toàn nó sẽ tìm an toàn trong việc tin tưởng nơi thánh Thần, nơi biểu tượng, nơi ý thức hệ, nơi quốc gia, những lòng tin đó chỉ dẫn đến những hành động rối loạn tâm thần. Bao lâu tôi còn xem mình theo chủ nghĩa quốc gia của một nước nào đó, bấy lâu tôi còn hành xử một cách rối loạn, tôi chỉ gây chuyện và mang lại sự chia cắt giữa con người với nhau. Đó là một trong những nguyên nhân sinh sợ hãi. Khi bạn thấy rõ điều này, khi bạn ý thức hết về tính chất của nó, bạn có còn theo chủ nghĩa quốc gia nữa không? Nếu còn thì sẽ vẫn còn dục lạc và sợ hãi.
Nếu tâm sống trọn trong thế giới vật chất thì không có gì tồn tại ngoài tư tưởng, ý thức và ý chí. Nếu tâm ở đó thì sợ hãi tiếp diễn vì tại đó không có gì khác hơn là mong cầu sự an toàn và trường cửu. Chỗ nào có mong cầu, chỗ đó có sợ hãi.
Có nhiều loại sợ hãi ẩn trốn trong ngõ ngách của ý thức con người: loại sợ hãi có tính chủng tộc, tập thể, sợ đói kém, v.v… Có những lo âu kín đáo, những dạng hết sức tinh tế của dục lạc. Có cái sợ được ý thức hay nằm trong lĩnh vực vô ý thức, sợ chết, sợ cô độc, sợ mất việc, sợ dư luận, sợ chính cái ràng buộc của mình và sợ mất nó đi, sợ không được thành công, sợ không được ai biết đến. Liệu tất cả những nỗi sợ này có thể được nhận chân ra mà không cần phân tích không? Chúng ta đã thấy sự bất lực của phép phân tích, vì người phân tích và vật được phân tích là một. Thế thì tâm phải làm sao khi nó đã thấy rõ sự vô nghĩa, sự sai lầm của phép phân tích hay của quán xét nội tâm?
Muốn biết tâm cần làm thế nào chúng ta phải đi vào đề tài của phép thiền định*. Khi chúng ta nói thiền định, bạn hãy nghe nó như chưa nghe từ này bao giờ. Thiền định là gì? Ta không nói về cách thiền định. Điều này không quan trọng gì cả vì một khi bạn hiểu thiền định là gì thì nó sẽ xảy ra một cách rất tự nhiên, như bạn hít thở. Bạn có thể học hỏi lẫn nhau ý nghĩa thực sự của thiền định không? Sách vở đã viết quá nhiều về nó. Nhiều người thực hành thiền định dựa trên một hệ thống nào đó - phép Thiền Zen hay nhiều dạng biến thiên và phương pháp khác của Ấn Độ giáo. Tất cả đều bao hàm một mục đích cần phải đạt tới thông qua sự điều khiển**. Sự điều khiển bao hàm có một người điều khiển. Và phải chăng người điều khiển khác với vật được điều khiển? Các nhóm tập luyện thiền định, với triết lý và hệ thống của họ, đều nói: “Hãy điều khiển tư tưởng bạn!”. Tư tưởng thì đi lang mang và sự lang mang đó chỉ phí năng lực; vì thế mà họ nói tư tưởng phải bị nắm giữ lại một cách tuyệt đối, phải đưa vào khuôn khổ, phải bị khuất phục để theo một điều được gọi là giác ngộ, Thượng đế, chân lý, cái không tên, hay bạn muốn đặt tên gì cũng được. Hiển nhiên là điều đó bao hàm một người điều khiển. Thế thì ai là người điều khiển? Người đó có khác gì trong tính chất, nội dung với cái mà nó cho rằng mình sắp sửa điều khiển không? Đây thật là điều rất quan trọng phải thấu hiểu.
* Meditation. Trong đoạn này Krishnamurti công kích các phép thiền định truyền thống mà chủ yếu là phép kiểm soát thân tâm của Ấn Độ giáo. Còn quan niệm “đối cảnh vô tâm” hay “tâm cảnh nhất như” mà tác giả nói đến cũng chính là nội dung phép Thiền của vùng Đông Á (ND).
** Control.

Tôi muốn nêu rõ rằng ta có thể hoàn toàn sống trong đời sống hàng ngày mà không có chút điều khiển nào cả, ngược lại mọi truyền thống, ngược lại mọi lời khuyên răn, ngược mọi hành xử của bạn về xã hội và đạo lý. Sống một cuộc đời tuyệt đối không có sự điều khiển tức là bạn phải hiểu thấu một cách hết sức sâu xa ai là người điều khiển và cái gì là vật bị điều khiển, vì đó chính là một phần của thiền định. Phải chăng người điều khiển khác với những gì nó điều khiển, khác với tư tưởng? Có người cho rằng người điều khiển là khác, vì nó là một tự thể cao hơn, vì nó là một phần của ý thức siêu việt, rằng nó là cốt tủy của giác tính hay là cốt tủy của quá khứ vốn đã tích lũy biết bao tri thức. Nhưng thế thì người điều khiển vẫn nằm trong phạm vi của tư tưởng; và dù tư tưởng đó có vươn cao tới mấy thì nó cũng vẫn ở trong lĩnh vực của thời gian và của sự đo lường.
Bạn có thấy điều này là đúng không? Không phải chỉ là sự chấp nhận trên mặt ngôn từ hay sự hiểu biết bằng trí năng mà hiểu thấu sự thực là, tất cả mọi thánh thần, của Thiên Chúa giáo hay Ấn Độ giáo, tất cả đều do tư tưởng phát minh ra cả. Tư tưởng có thể chiếu hiện chính nó ra mọi mức độ, ra mọi ảo tưởng và khi tư tưởng nói có một tự thể cao hơn nó thì đó cũng chỉ là tư tưởng thôi và do đó “tự thể siêu việt” đó chỉ là vật chất.
Khi bạn thấy người điều khiển chính là vật bị điều khiển thì toàn bộ quan niệm về phép thiền định sẽ thay đổi. Thiền định có nghĩa là sự xả bỏ ý thức, không còn nội dung. Chỉ lúc đó tâm và não mới có thể hoàn toàn vắng lặng. Sự vắng lặng tuyệt đối này - chứ không phải tương đối - là cần thiết để quán sát. Để quán sát chứ không phải để kinh nghiệm*! Không phải thứ kinh nghiệm mà ta đã biết, tư tưởng thì luôn mong có thêm kinh nghiệm, kể cả những kinh nghiệm của trạng thái khác, của bình diện khác. Tâm chúng ta đã đầy ngập bởi thế giới này và những kinh nghiệm của nó, chúng đã nhàm chán, chúng bị hạn chế, bị gò bó hạn hẹp và do đó mà chúng ta muốn có những kinh nghiệm hoàn toàn khác. Bây giờ, muốn trải nghiệm ta lại cần tri thức. Nếu tôi không có tri thức, tôi có thể trải nghiệm được không? Tôi đã từng có kinh nghiệm ngắm một ngọn núi, biết vẻ đẹp của nó, những mảng tối sáng, màu xanh thẩm khả ái của những buổi sáng sớm, biết mọi cảm nhận của một điều gì phi thường và tuyệt diệu. Kinh nghiệm này không thể có nếu ta không có mối liên hệ với quá khứ. Do đó trải nghiệm như thế bao hàm sự nhận thức về quá khứ. Còn tâm thì bây giờ muốn trải nghiệm một điều gì siêu việt hơn. Thế nhưng muốn cảm nhận điều này, tâm phải có nó trước đã. Vì thế mà nó không hề siêu việt gì cả, nó vẫn là sự chiếu hiện của tư tưởng.
* Quán sát: observe; kinh nghiệm, trải nghiệm: experience. Quán sát là nhận thức hồn nhiên trong thực tại. Kinh nghiệm là cảm nhận có sự can thiệp của quá khứ. Nếu dựa trên ngũ uẩn của đạo Phật, quán sát bao hàm “sắc và thọ”, còn kinh nghiệm cần thêm “tưởng” (ND)
Thiền định là cái mà trong đó không có kinh nghiệm. Trong đó không có yếu tố thời gian, yếu tố bao hàm sự vận động và dụng tâm. Dụng tâm lại đồng nghĩa với sự tác ý. Liệu tâm có thể tự xả bỏ mình ra khỏi thời gian, ra khỏi sự dụng tâm và sự vận động không, nếu được thì đó là tư tưởng đến lúc ngưng bặt? Đây là toàn thể vấn đề.
Chúng ta cần tri thức để thực hành một việc nào đó; để nói một ngôn ngữ ta cũng cần tri thức; để lái một chiếc xe, ta cần tri thức; để làm bất cứ cái gì, ta đều cần tri thức. Trong thiền định, tri thức có vai trò gì? Hay nó không có vai trò gì cả? Nó không có vai trò gì cả vì tri thức chỉ là sự tiếp nối của quá khứ, nó vẫn là sự vận hành của thời gian. Thế thì phải chăng tâm có thể tự tháo gỡ mình ra khỏi quá khứ và tìm đến một lĩnh vực của chính nó, nơi mà tư tưởng không tiếp cận đến? Tới nay thì chúng ta chỉ vận hành trong lĩnh vực của tư tưởng được biểu hiện bằng tri thức. Phải chăng có một phần, một nơi khác của tâm, nó bao gồm cả bộ não nhưng lại không bị chạm đến bởi mối tranh chấp của con người, đau khổ, lo âu, sợ hãi và bởi tất cả mọi thứ bạo lực, mọi thứ chuyện do tư tưởng con người sinh ra? Sự phát hiện lĩnh vực đó chính là thiền định.
Điều này cũng phát hiện cho thấy tư tưởng sẽ đến chỗ ngưng bặt nhưng khi cần thiết nó cũng sẵn sàng vận hành trong lĩnh vực của tri thức. Chúng ta cần tri thức, nếu không thì ta không thể vận hành, nếu không ta không thể nói, không thể viết, v.v… Tri thức cần thiết để vận hành và sự vận hành trở nên điên đảo khi một trạng thái lại biến thành một yếu tố quan trọng nhất, tức là khi có tư tưởng “tôi” xen vào. Thế nên tri thức là cần thiết nhưng thiền định lại phát hiện, tìm đến, quán sát một lĩnh vực mà trong đó không có sự vận động của tư tưởng. Hai thứ này có thể sống chung với nhau được không, hài hòa với nhau, hàng ngày?
Các phép tu du-già* thật ưu việt để giữ thân được lành mạnh. Nhưng thông qua đó bạn không bao giờ đến được với cái kia, không bao giờ! Vì nếu bạn coi chúng quá quan trọng, bạn sẽ không coi trọng việc tự hiểu bản thân mình, điều mà ta phải quán sát, phải tỉnh giác, phải chú ý mình đang làm gì, từng mỗi lúc trong đời mình. Đó là hãy chú ý bạn nói như thế nào và nói điều gì, bạn nghĩ gì, bạn hành xử như thế nào, bạn có bị ràng buộc không, bạn có lo sợ không, bạn theo đuổi bất kỳ thứ dục lạc nào không, v.v…, hãy tỉnh giác hết về sự vận hành của tư tưởng. Nếu được thế và quả thật bạn nghiêm túc về điều này thì hẳn bạn đã thiết lập một mối quan hệ đúng đắn. Rõ ràng thôi. Nếu mọi việc xung quanh chúng ta rối loạn, nếu thế giới đang bị phân chia như hiện nay, thì các mối quan hệ trở nên vô cùng quan trọng. Khi có sự thiết lập một mối quan hệ toàn thể, một mối quan hệ trọn vẹn - không phải chỉ giữa bạn và tôi mà là mối quan hệ nhân sinh với toàn thể thế gian - thì khi đó bạn có một cơ sở cho thiền định.
* Yoga exercises.
Từ chỗ này bạn sẽ tiến đến phép hành xử, hành xử như thế nào. Nếu hành xử của bạn căn cứ trên dục lạc hay tiếng khen thì đó không phải là hành xử. Đó chỉ là sự theo đuổi dục lạc và từ đó mối lo sợ sẽ phát sinh. Mối quan hệ, phép hành xử và sự ngăn nắp trật tự là tuyệt đối hệ trọng nếu bạn muốn đi vào vấn đề thiền định. Nếu bạn không đặt cơ sở này thì bạn cứ tha hồ làm điều gì bạn muốn, cứ trồng chuối ngược, cứ tập thở ra hít vào trong vạn năm sắp tới và cứ tụng niệm chữ này qua chữ khác nhưng thiền định sẽ không xảy ra. Nếu bạn có tiền bạn có thể đi Ấn Độ. Nhưng tôi không biết bạn đi đến đó làm gì, bạn sẽ không tìm thấy sự giác ngộ ở đó. Giác ngộ là ngay nơi chỗ bạn đang là. Và mỗi vị trí bạn đang là, bạn hãy thấu hiểu chính mình. Khi đã thiết lập điều này rồi, xây dựng cơ sở của sự ngăn nắp rồi - không phải một trật tự cơ giới mà là sự ngăn nắp của một đức hạnh liên tục từ lúc này qua lúc khác, nó không theo một mẫu hình nào cả, không phải là trật tự của cái đã có, không phải là quy định của đạo đức xã hội vốn chẳng đạo đức gì cả - thì bạn có thể đi vào vấn đề tìm tòi thiền định là gì.
Thiền định là một tính chất của tâm lúc tâm hoàn toàn vắng lặng. Không phải là thứ vắng lặng được tạo, không phải là trạng thái do ý muốn của tư tưởng sáng chế ra mà là một sự vắng lặng đến một cách tự nhiên khi bạn đã thiết lập sự ngăn nắp, mối liên hệ và phép hành xử*. Sự vắng lặng là cần thiết. Nếu tâm tôi cứ nói thầm như phần lớn các tâm thức khác, thì công nhận trong câu chuyện ríu rít đó cũng có một giai đoạn của sự yên tĩnh. Giữa hai lần phiếm luận có thể có một giai đoạn yên tĩnh. Thế nhưng đó không phải là vắng lặng. Vắng lặng không phải là do vắng tiếng ồn mà thành; không phải do vắng sự tranh chấp mà thành. Sự vắng lặng chỉ đến khi nội dung của ý thức đã được hiểu thấu một cách trọn vẹn và bị bỏ lại đằng sau, tức là khi người quan sát và vật bị quan sát là một và khi không hề có người điều khiển. Khi không có người điều khiển - điều này không có nghĩa là bạn sống một cuộc đời vô kỷ luật, người quan sát, thì hành động sẽ xảy ra tức thì và sẽ sinh ra một số lớn năng lượng.
* Nơi đây người đọc dễ liên tưởng đến Giới, Định, Huệ trong phép tu học của đạo Phật (ND).
Thiền định có nghĩa là xả bỏ ý thức, làm nó không còn nội dung và điều này chỉ xảy ra khi bạn quan sát ý thức và nội dung của nó mà không có người quan sát. Bạn có thể nhìn vợ mình, chồng mình, con trai con gái mình hay nhìn đỉnh núi mà không có người quan sát không? Người quan sát là quá khứ. Khi còn người quan sát thì nó buộc phải diễn dịch những gì nó quan sát trong quan niệm của quá khứ; do đó nó chính là tác giả của thời gian. Nó phân biệt vật được quan sát và người quan sát. Trong điều đó thì chỉ có tranh chấp. Còn khi có sự quan sát mà không có người quan sát thì không có tranh chấp, không có quá khứ; khi đó chỉ có tình trạng thực trước mắt và bạn sẽ đủ năng lượng để bước qua nó. Hãy làm đi và bạn sẽ thấy*.
* Đoạn văn này làm ta nhớ đến câu “thấy năm uẩn đều không, vượt tất cả mọi khổ ách” của Tâm kinh (ND).
Thiền định có nghĩa là tập hợp năng lượng. Bạn đã thiết lập một sự ngăn nắp, mối liên hệ, phép hành xử; do đó bạn không bị phân tán năng lượng trong phạm vi này. Năng lượng đó là cần để nhìn mà không có người quan sát và để bạn đủ năng lượng vượt khỏi. Với năng lượng không bị phân tán này, tâm sẽ thấy có một lĩnh vực không được tư tưởng đụng đến. Vậy nhưng tất cả những điều này lại cần một sự chú tâm và kỷ luật to lớn. Đây không phải là một trò chơi cho người còn sơ cơ non nớt. Thiền định cần đến một kỷ luật tuyệt đối. Từ kỷ luật có nghĩa phải học tập - không phải kiểm soát, phục tùng, bắt chước và rập khuôn. Kỷ luật chính là học tập. Xuất phát từ chữ discipline (kỷ luật) mà sinh ra chữ disciple (học trò), người sẵn sàng học tập theo lời thầy. Thế nhưng ở đây không có học trò lẫn thầy giáo mà chỉ có hành động học tập, lúc nào cũng học tập. Và điều này cần một sự chú tâm to lớn, một năng lực to lớn, để bạn thường xuyên tỉnh giác và do đó bạn không tạo ra vọng tưởng. Thật là dễ tạo vọng tưởng; chúng tự đến khi bạn theo đuổi, đòi hỏi, ham thích một sự trải nghiệm. Sự ham muốn chuyên sinh vọng tưởng.
Tất cả những điều này bao hàm một tâm thức hết sức nghiêm túc, một trái tim đầy yêu thương, không bao giờ bị thương tổn lòng yêu thương. Con người chúng ta từ nhỏ đã bị thương tổn. Cha mẹ xúc phạm chúng ta, trong thế giới kinh doanh chúng ta cũng bị thương tổn. Chúng ta bị thương tổn trong mọi phía và khi bị xúc phạm, chúng ta không biết yêu thương. Thế thì làm sao một tâm thức bị thương tổn lại có thể thoát khỏi tất cả những sự xúc phạm đó vốn là một phần của ý thức? Khi bạn nhìn vào đó, bạn sẽ thấy, thật hoàn toàn và dứt khoát có thể xả bỏ tất cả mọi sự thương tổn và do đó có thể yêu thương, có thể có lòng trắc ẩn. Có lòng trắc ẩn tức là có tình cảm với tất cả mọi thứ, không phải giữa hai người với nhau, mà với tất cả mọi con người, với tất cả mọi thứ trên trái đất, với mọi sinh vật, với cỏ cây, với mọi thứ mà địa cầu chứa đựng. Khi có lòng trắc ẩn như thế, chúng ta sẽ không còn bóc lột trái đất như hiện nay ta đang làm và chúng ta cũng sẽ không có chiến tranh.
Đối với một tâm thức nghiêm túc, biết hiến dâng trọn vẹn, biết ưu tư thì thiền định là một cái phi thường, một cái vô cùng vô tận. Trong thiền định tâm sẽ phát hiện ra không gian. Có không gian bị giữ lại trong một căn phòng và có không gian ở ngoài. Tư tưởng kiến tạo cái “tôi” làm nên một không gian nhỏ hẹp mà trong đó nó vận hành. Tư tưởng tạo nên - vì bị xúc phạm và bằng mọi lý lẽ - tất cả những bức tường mà nó bị giam giữ trong đó. Có không gian nhỏ hẹp đó và cũng có không gian mà tư tưởng tạo ra bên ngoài bản thân nó. Nhưng có không gian nào mà không có giới hạn, không có biên độ và vì thế cũng chẳng có trung tâm? Đó là điều mà thiền định phải tìm cho ra.
Khi nào còn một trung tâm, cái tôi hay khái niệm về tôi, với tất cả những ràng buộc của nó, thì cái trung tâm đó còn sinh ra một lĩnh vực bao quanh mình. Nơi nào có trung tâm, nơi đó phải có biên độ. Biên độ có thể được nới rộng nhưng nó vẫn bị giới hạn bởi không gian mà trung tâm đó đã sinh ra. Thiền định có nghĩa là đến với cái không gian mà trong đó không có trung tâm; do đó không có phương hướng, không có thời gian. Nếu không có thiền định, không đến được với cái mà ta không thể dùng tư duy để nhận biết, không thể diễn đạt bằng lời, cái không có thời gian, cái không có sự tiếp nối, thì cuộc đời thật rất vô nghĩa. Bạn có thể có nhiều tiền hay không có tiền; bạn có thể ham mê của cải, ham mê vợ con, bạn bè hay bạn thờ cúng một Thượng đế riêng tư và nhỏ bé của bạn vốn được tư tưởng vẽ ra, thế nhưng khi bạn còn sống thì bạn còn đau khổ, phiền não, lo âu và đối diện với bạo lực. Và những thứ đó rõ ràng là vô nghĩa. Chỉ khi nào bạn đến với không gian đó - chứ đừng phát minh nó, đừng lên kế hoạch cho nó, đừng cho nó ra đời bởi bất cứ hệ thống nào - thì lúc đó đời bạn mới có một cảm nhận phi thường về vẻ đẹp và ý nghĩa.
Saanen, 28.7.1974
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

MỘT MỐI LIÊN HỆ VỚI THẾ GIỚI


1


Chúng ta là thế giới. Thế giới là bạn và tôi, thế giới không hề tách rời bạn và tôi. Chúng ta đã tạo nên thế giới này - thế giới của bạo lực, của chiến tranh, của sự phân biệt tôn giáo, của tình dục, của lo âu, hoàn toàn thiếu vắng mối trao đổi giữa mỗi người với nhau, thiếu vắng lòng trắc ẩn, lòng trọng thị đối với người khác. Trên thế giới bất cứ ở nơi nào, con người tức là bạn và mọi ai khác, cũng đều phiền não; chúng ta lo âu, phập phồng không biết điều gì sẽ xảy ra. Tất cả mọi sự đều trở nên bất ổn. Khắp nơi trong thế giới con người đều sống trong đau khổ, sợ hãi, lo ngại, bạo lực, bất an và bất ổn về mọi thứ. Giữa tất cả chúng ta có một mối liên hệ. Chúng ta chính là thế giới, là cơ bản và nền tảng của nó. Thế giới chính là bạn và bạn là thế giới. Nếu hiểu rõ điều này một cách rạch ròi, sâu sắc, đừng mơ hồ, đừng bằng trí năng mà hiểu một cách đích thực thì chúng ta sẽ thấy vấn đề của mình là một vấn đề của toàn cầu. Đây không phải là vấn đề của riêng tôi hay riêng bạn mà là vấn đề của cả loài người.
Thế nên vấn đề của ta đặt ra là một vấn nạn của loài người trên bình diện toàn cầu, vấn nạn đó là một con người như bạn phải sống trong một thế giới đang bị phân liệt. Khi nói đến mối liên hệ, ta nói đến mối liên hệ giữa người với người. Khi bạn đã thấu hiểu mối liên hệ này bạn có thể đến sát gần hơn nữa, thí dụ mối liên hệ giữa bạn và hàng xóm, giữa bạn và vợ hay chồng bạn, giữa bạn và con cái bạn, v.v… Nếu không có một cảm nhận toàn cầu, bao quát về toàn thể loài người, thì bạn chỉ sống trong những khía cạnh riêng lẻ, với tính cách là một người Mỹ hay người Âu, một người theo chủ nghĩa xã hội, một người theo Ấn Độ giáo hay Phật giáo - hay như mọi phân biệt mà con người đã bày ra. Vấn đề mà ta quan tâm là con người, nó chính là bạn. Bất cứ nơi nào bạn đến thì con người cũng đang phiền não, lo sợ, con người cũng đang cố tìm cho ra đâu là chân lý - có Thượng đế không, có gì thiêng liêng không, phải chăng có một sự vĩnh cửu hay chết là hết và có cách nào giải thoát ra khỏi sợ hãi, có cách nào hết khổ hay không.
Trong sự xem xét của chúng ta, ở đây không có thẩm quyền, không có người dạy và người được dạy, không có đạo sư lẫn học trò; do đó không có thẩm quyền nào cả. Không có thẩm quyền trong thế giới tâm lý, thế giới tâm linh. Bạn đừng đi theo người nói* hay đừng chấp nhận những gì ông ta nói. Thật là tốt nếu ta có một sự hoài nghi to lớn, nhưng sự hoài nghi này cần được giữ bằng một sợi dây và bạn phải tự biết lúc nào phải buông lỏng nó, lúc nào phải siết chặt nó. Khi xem xét vấn đề bao quát này của cuộc sống, bạn và tôi phải hết sức minh bạch và thấu hiểu rằng nơi đây không có thẩm quyền, một người biết và một người không biết. Hãy cùng nhau xem xét vấn đề. Còn nếu bạn không đủ khả năng để xem xét thì đó là một việc khác. Liệu bạn có theo đuổi được việc nghiên cứu này một cách chú tâm, một cách nhất quán là tùy nơi bạn. Nếu bạn không đủ năng lượng, ý thích, lòng kiên trì cần thiết thì bạn sẽ tạo nên một thẩm quyền. Nếu bạn lười biếng, thiếu tinh tấn thì bạn trao thẩm quyền cho ai khác. Còn nếu bạn phóng túng trong cuộc sống và thấy ai khác có giới luật thì bạn tôn người đó lên thành thẩm quyền. Thế nên, xin nhắc, chúng ta cùng nhau xem xét mà không cảm nhận gì cả về một thẩm quyền, tức là nơi đây ta có tự do để quan sát. Vì rằng một trong những lý do của xã hội phân liệt mà ta đang sống này là: chúng ta là những kẻ quy phục; chúng ta thừa nhận có thẩm quyền tâm linh, chấp nhận những ông truyền thừa, những vị giáo sĩ, những nhà phân tích, xem họ là người hướng dẫn ta trong lĩnh vực tâm linh. Chúng ta là kẻ bất lực khi để cho ai thay mình tìm điều gì nơi bản thân chúng ta. Dường như ta không đủ sức để xem xét chính mình và truy cứu cho thật rốt ráo vấn đề toàn thể của nhân sinh - mà đó chính là bạn. Nếu ta cùng nhau nghiên cứu xem xét nó, và bỏ hẳn vấn đề thẩm quyền, chỉ có sự tự do nhìn ngắm, thấy cái vẻ đẹp của nó thì giữa bạn và tôi có một mối liên hệ.
* speaker. Có lúc Krishnamurti không tự xưng là “tôi” mà là “người nói” (ND).
Trong con người và trong xã hội loài người, một trong những nguyên nhân cơ bản của sự phân liệt, của sự hư hỏng này là do thiếu hẳn một tâm thức tôn giáo*. Tôn giáo tức là sự tích lũy tất cả năng lượng của bạn để xem xét sự thực; để xác định nó, để tiến đến một dạng của tâm hay dạng của ý thức mà trong đó có một sự thực, nó không phải là một loại do tư tưởng phát minh ra. Một trong những nhân tố của sự phân liệt là sự thiếu vắng hoàn toàn tâm thức tôn giáo, và một nhân tố khác là sự thiếu vắng của đạo đức** - không phải đạo đức của Thiên Chúa giáo, của Ấn Độ giáo, hay thứ đạo đức cho phép được làm tất cả; mà đạo đức bao hàm sự ngăn nắp, một sự ngăn nắp xuất phát từ gốc rễ. Đó không phải là sự ngăn nắp dựa trên một mẫu hình, hay cho tiện lợi với môi trường xung quanh, mà là sự ngăn nắp tự động đến với ta khi bạn hiểu tính chất của sự loạn động và sự ngăn nắp này là một cái gì sinh động thật sự.
* Religious spirit.
** Morality.

Thế giới đang phân liệt này chính là tâm bạn. Bạn chính là cốt tủy của xã hội; bạn là nền tảng của xã hội trong các mối liên hệ của bạn. Và chỗ nào không có mối liên hệ thì chỗ đó có sự phân liệt. Thế thì mối liên hệ là gì? Mối liên hệ là cơ sở của đời sống chúng ta, là nền tảng của xã hội, và khi nào chưa có sự thấu hiểu sâu sắc về điều này và chưa có sự chuyển hóa trong mối liên hệ này, thì khi đó chúng ta chưa thể đi vào câu hỏi của thiền định, về tôn giáo là gì, chân lý là gì, v.v… Đó chính là nền tảng mà trên đó chúng ta phải đứng vững một cách dứt khoát.
Ta phải hiểu rõ thế nào là có một mối liên hệ chân chính, mối liên hệ xác đáng. Từ xác đáng* có nghĩa là đúng như thực tế đòi hỏi. Mối liên hệ là gì? Liên hệ với một ai đó tức là gì - trên mặt vật lý, trên mặt tình dục, trên mặt tâm lý, trên mặt cảm xúc, trên mặt trí năng và trên một mặt mà người ta đặt tên là lòng yêu thương? Nếu tất cả tính chất và cấu trúc của mối liên hệ chưa được hiểu một cách rõ ràng và được trải nghiệm hàng ngày thì thực hành thiền định là hoàn toàn nhẹ dạ, vô bổ, vì lúc đó thiền định chỉ là một sự trốn chạy phù phiếm. Khi bạn chưa thiết lập mối liên hệ chân chính giữa mình và người khác, điều rất căn bản của cuộc sống, thì việc thực hành thiền định cũng trở thành sự thoái thác cái hiện thực, nó sẽ dẫn đến mọi dạng điên đảo, những kết quả tiêu cực.
* Accurate.
Cái gì là mối liên hệ hiện thực giữa chúng ta với nhau trong đời sống hàng ngày? Nếu bạn xem xét điều này thật kỹ và đừng sợ sệt, hãy nhìn điều gì xảy ra. Bạn sẽ có một hình ảnh về chính mình, đúng thế không? Bạn có một hình ảnh, một ý niệm, một hình dung về chính bạn, và người mà bạn liên hệ cũng có hình dung của người đó, hình ảnh của người đó về chính họ. Xin hãy nhớ, bạn đang nhìn ngó chính mình, chứ không phải chỉ nghe những lời này thôi đâu. Ngôn ngữ chỉ là tấm gương và tấm gương trở nên vô dụng nếu bạn tự nhìn ngắm mình. Thế nên bạn cũng như người khác, đàn ông cũng như đàn bà, con trai cũng như con gái, chồng cũng như vợ, v.v…, mỗi con người đều có một hình ảnh, một kết luận, một ý niệm về chính bản thân mình.
Nếu bạn ở chung với ai đó dù một tuần hay một trăm tuần, bạn cũng đều tạo ra một hình ảnh về người đó, và người đó cũng tạo ra một hình ảnh về bạn. Thực tế là như thế. Bạn có lo ngại khi nhìn hình ảnh này không? Cái hình ảnh đã được xây dựng sau nhiều ngày, nhiều năm, sau nhiều biến cố như trách móc, vui thú, tiện nghi, sợ hãi, thống trị, sở hữu, ràng buộc, v.v… Mỗi người có một hình ảnh về người khác. Đó là một thực tế. Thế mà bạn gọi đó là mối liên hệ. Đó chỉ là mối liên hệ giữa hai hình ảnh, giữa hai ý niệm. Đúng thế không? Bạn không cần phải đồng ý với người đang nói, bạn cứ nhìn vào thực tế này. Những hình ảnh này, ý niệm hay kết luận này, tất cả đều là ký ức cả mà mỗi người đều xây dựng nên, được gìn giữ trong bộ não. Và chúng tác động phản ứng lẫn nhau dựa lên những hình ảnh đó. Bạn từng bị xúc phạm và sự xúc phạm này là một ký ức được giữ trong não và chính nó sẽ phản ứng. Thế nên mối liên hệ của chúng ta là không hề từ thực tại đích thực mà từ ký ức. Nếu bạn có gia đình, bạn đã có sẵn một hình ảnh về vợ bạn, và vợ bạn cũng xây dựng một hình ảnh về bạn. Những hình ảnh này, những ý niệm này là những thứ như trách móc, những lời phê bình tầm phào, những sự xúc phạm, những thú vui, những tiện nghi, ký ức về tình dục, tất cả đều tham gia. Và mối liên hệ được thiết lập giữa hai hình ảnh giả tạo này của kỷ ức; nó không hiện thực; và do đó nó luôn luôn là sự chia cắt và tranh chấp. Nếu bạn từng bị xúc phạm trong mối liên hệ này, thì kẻ bị xúc phạm chính là hình ảnh bạn nghĩ về mình.
Tôi tự hỏi bạn đang thực sự quan sát điều này trong chính bạn hay chỉ đang lắng nghe người nói và đồng ý với người nói. Ở đây ta có hai thực tế khác nhau. Nếu bạn đồng ý với người nói thì điều này không có mấy ý nghĩa. Bạn có thực sự thấy mình tạo nên một hình ảnh về chính mình và những thứ xúc phạm nọ hiện hữu cũng chỉ vì có hình ảnh này?
Thế là trong mối liên hệ giữa con người, sự xúc phạm đã có chỗ đứng. Hình ảnh bị xúc phạm. Nếu bạn không cứu chữa hình ảnh này một cách hoàn toàn thì mối mâu thuẫn cứ mãi tồn tại. Có những sự xúc phạm đã qua và bạn có thể sẽ nhận thêm cái mới. Trong quá khứ bạn từng bị xúc phạm; rủi thay nó đã xảy ra từ thời thơ ấu - trong trường tiểu học, trung học, trong gia đình. Suốt đời con người bị thương tổn, và vì ta bị thương tổn, ta xây một bức tường quanh ta để chống trả, để không bị thương tổn nữa. Và khi xây một bức tường quanh ta, sự chia cắt phân biệt liền xảy ra. Bạn có thể nói “Ta yêu em”, nhưng đó chỉ là ngôn từ vì nơi đây có sự phân biệt.
Có cách nào ta hoàn toàn không bị xúc phạm không? Điều này không có nghĩa là hãy xây một bức tường chống trả để không ai đụng được tới bạn, mà hãy sống không cần đề kháng, điều đó mới có nghĩa không bao giờ bị xúc phạm.
Bạn biết bị xúc phạm có nghĩa gì không? Khi một đứa trẻ bị so sánh với một đứa khác thì đó là một sự xúc phạm. Mọi sự so sánh đều làm thương tổn cả. Mọi dạng của sự bắt chước, rập khuôn đều xúc phạm, không phải chỉ phiến diện thôi mà sâu xa trong tâm. Và khi ta bị thương tổn thì từ đó sẽ sinh ra bạo lực. Không bao giờ bị thương tổn là điều khả dĩ không? Làm sao ứng xử với sự thương tổn đã qua và tránh sự thương tổn về sau? Chúng ta thử tìm xem.
Khi bạn nói “Tôi bị xúc phạm” thì cái “tôi” bị xúc phạm đó là gì? Bạn nói: “Ông xúc phạm tôi” - bằng ngôn từ, bằng cử chỉ, bằng sự vô lễ, v.v… - thì xúc phạm là gì? Không phải người bị xúc phạm chính là hình ảnh mà bạn nghĩ về mình ư? Hãy xem thử đi! Hình ảnh này là một trong những yếu tố mà xã hội, giáo dục và môi trường xung quanh đã sinh ra trong bạn. “Bạn” là hình ảnh, ấn tượng, danh tính, thể hình, tính cách, phong cách, v.v… Tất cả những cái này là bạn, là hình ảnh, là ấn tượng, cái mà bạn đang là. Và hình ảnh này bị xúc phạm. Bạn có một tổng luận về chính mình, rằng bạn là thế này thế kia, và khi tổng luận này bị quấy nhiễu, bạn thấy mình bị xúc phạm. Thế thì bạn có thể sống mà không có tổng luận nào không, không có hình ảnh, không có ấn tượng gì về mình cả? Khi nào bạn có hình ảnh về mình, khi đó bạn còn bị xúc phạm triền miên. Bạn có thể đề kháng, bạn có thể xây một bức tường chắn quanh mình, nhưng khi có bức tường quanh bạn, khi bạn rút lui thì đã có một sự chia cắt và nơi nào có chia cắt, nơi đó có tranh chấp - như giữa người Ả Rập và người Do Thái, như người theo Hồi giáo và Ấn Độ giáo, người theo phe xã hội và người không theo phe xã hội. Bất cứ nơi nào có chia cắt thì luật tự nhiên là nơi đó có tranh chấp.
Thế thì không bao giờ ta khỏi bị xúc phạm cả chăng? Điều đó có nghĩa phải có một tâm hồn hồn nhiên, một tâm hồn không thể bị thương tổn. Thật là quan trọng phải xác định xem ta có thể sống như thế trong đời sống hàng ngày. Vấn đề không phải là bỏ đời đến một tu viện hay một cộng đồng nào đó, nơi bạn nhất trí về mọi điều với nhau, tìm một chỗ mà ai cũng ủy mỵ sướt mướt; mà ngay trong thực tại của đời sống hàng ngày, phải xác định liệu bạn có thể sống mà không có một hình ảnh về mình và do đó không bao giờ bị xúc phạm, tức là không bao giờ có tranh chấp, không bao giờ có sự phân biệt chia cắt về tâm lý. Chúng ta đang thử tìm điều đó. Chúng ta đang xem xét liệu có thể sống theo cách này chăng.
Trước hết hãy ý thức là ta có hình ảnh nọ. Khi tôi có một hình ảnh về bản thân mình và nó bị xúc phạm, còn vợ tôi cũng có một hình ảnh về chính nàng và nàng bị xúc phạm thì làm sao giữa chúng tôi có một mối liên hệ được? Thế thì có thể đừng có hình ảnh không, tức là khỏi bị xúc phạm không? Ta đã bị xúc phạm trong quá khứ rồi và ta đã chống trả, xây quanh mình một bức tường, lo ngại bị xúc phạm thêm, do đó mà rút lui, tự cô lập. Làm sao giải quyết những sự xúc phạm đã qua? Phải chăng bạn sẽ phân tích tại sao mình bị tổn thương, nguyên nhân của sự xúc phạm? Bạn muốn đi vào vấn đề này bằng óc phân tích hay sao?
Hãy xét truyền thống chuyên phân tích. Chúng ta đã chấp nhận phép phân tích như một phần của đời sống. Nếu bạn không phân tích được chính mình, bạn sẽ đi tìm chuyên gia. Hãy xem quá trình của phép phân tích là gì? Đó là nơi có người phân tích và vật bị phân tích. Hãy nhìn ngay sự chia cắt phân biệt ở đây. Không phải người phân tích chính là vật bị phân tích hay sao? Thế cho nên bạn tạo ra một sự chia cắt giả tạo giữa người phân tích và vật bị phân tích, nhưng thực tế người phân tích chính là vật bị phân tích. Cho nên có một sai lầm căn bản trong quá trình của phép phân tích. Trong quá trình phân tích bạn cũng lấy thời gian - ngày, tháng, năm - để chơi trò chơi của mình và bồi bổ cho nhau trong những cách thức đặc biệt của bạn, về mặt tài chánh cũng như tình cảm và các chuyện liên quan khác. Khi đã nhận ra sai lầm căn bản của quá trình phân tích, làm sao con người xả bỏ được mọi sự xúc phạm đã qua cũng như mọi sự có thể đến trong tương lai?
Người nói và bạn cùng nhau chia sẻ vấn đề này, để cùng nhau tìm hiểu liệu trong đời sống này ta có thể sống mà không bao giờ bị một sự xúc phạm nào không, vì chỉ sau đó bạn mới hiểu thế nào là lòng yêu thương.
Sự xúc phạm và sự xu nịnh chỉ là một, phải không? Cả hai đều là những dạng khác nhau của sự xúc phạm. Bạn được xu nịnh và bạn lấy làm thích và người xu nịnh sẽ biến thành thân thích của bạn. Đó là một cách khác của việc thừa nhận hình ảnh nọ. Một dạng thì bạn ưa thích, dạng kia bạn không ưa thích. Chúng ta đang nói về những gì không ưa thích, tránh làm sao không bị xúc phạm; nhưng chúng ta cũng sẽ nói về cái kia, cái vui thích, tiện nghi, thoải mái đối với hình ảnh mà ta có về mình. Cả hai đều chỉ là một. Thế thì tôi phải thế nào, con người phải thế nào để khỏi bị xúc phạm? Để đi vào câu hỏi này chúng ta cần phải chú tâm.
Chú tâm* là sao? Nếu bạn biết chú tâm có nghĩa gì thì vấn đề có thể được giải quyết. Có lúc nào bạn hoàn toàn chú tâm vào một việc gì chưa? Một sự chú tâm hoàn toàn, trong đó không có một trung tâm nào, từ đó bạn chú ý**? Nếu có trung tâm của sự chú ý thì có ngay một sự phân biệt chia cắt. Hãy nói một cách khác. Bạn biết rõ mình đang ý thức về gì. Ta đang ý thức về cây cối mà ta đang ngồi dưới gốc, ý thức về thân cành, màu sắc của thân cành và sự rậm rạp của nó, về lá cây, về bóng sẫm, về tất cả thiên nhiên và vẻ đẹp của nó***. Rồi bạn ý thức mình đang ngồi trên mặt đất, màu sắc của những tấm thảm, ý thức về chiếc máy phóng thanh. Và bạn có ý thức về tất cả những thứ này, chiếc máy phóng thanh, tấm thảm, trái đất, màu sắc lá cây, chiếc áo màu xanh, v.v… mà không chút lựa chọn không? Chỉ nhìn ngắm mà không lựa chọn, đánh giá gì cả, chỉ nhìn thôi.
* Attend/attention.
** There is no center from which you attend. Đây là điểm then chốt: chú ý nhưng không có người chú ý, không lựa chọn, đánh giá, không chấp nhận, không từ chối (ND).
*** Chú thích của nguyên bản: Các cuộc nói chuyện tại Ojai diễn ra trong một vườn sồi.

Nếu bạn có thể nhìn mà không đánh giá, không chọn lựa gì cả, chỉ quan sát thôi thì trong sự quan sát này không có người quan sát. Khi mà người quan sát bắt đầu đánh giá phân biệt, cái ưa thích và cái không ưa thích, “Ta thích cái này, ta không thích cái kia” thì lúc đó có sự chia cắt. Thế nên chỉ có sự chú tâm đích thực nếu không có một thể tính nào đó nói “Ta đang chú tâm”. Xin nhớ, hiểu điều này thật là quan trọng. Vì rằng, nếu có sự chú tâm thật, khi có một sự tỉnh giác mà trong đó không có lựa chọn, không có đánh giá, chỉ đơn thuần sự quan sát thôi, thì bạn sẽ thấy mình không bao giờ bị tổn thương nữa, và những sự tổn thương đã qua bây giờ đã biến mất. Nhưng khi có người quan sát xuất hiện thì người quan sát bị thương tổn lập tức.
Cho nên khi có sự chú tâm hoàn toàn thì không có sự thương tổn. Liệu có ai cho rằng người nói này là kẻ điên hay kiêu căng ngạo mạn thì xin cứ nói. Khi nghe những lời này và hoàn toàn chú tâm vào nó, thì không có sự thương tổn đã qua lẫn thương tổn sẽ tới, vì không có thể tính nào đang quan sát cả. Xin nhớ, điều này rất quan trọng, vì khi còn có sự phân biệt, thì còn tranh chấp mâu thuẫn. Thật là quan trọng khi xét sự sợ hãi, sự vui thích, lo âu hay cái chết, ta phải thấy khi nào còn có sự phân biệt giữa người quan sát, người chứng nghiệm, người suy tư với tư tưởng, thì buộc phải có tranh chấp, mâu thuẫn, chia cắt, phiến diện và vì thế mà có sự phân liệt. Bây giờ bạn có thể quan sát cây cối, quan sát chính mình, nhà hàng xóm, quan sát cuộc đời một cách hoàn toàn chăm chú không*? Khi đó thì bạn có thể quan sát với sự chú tâm trọn vẹn hình ảnh mà bạn có về chính mình không? Và khi bạn chịu chú tâm trọn vẹn, liệu lúc đó có còn một hình ảnh nào không?
* Sự chú ý này chính là thái độ quan sát của Krishnamurti về thiên nhiên và con người trong các bài của phần “Đối diện cuộc đời”. Qua những mô tả của tác giả trong phần này, ta có thể cảm nhận cách nhìn của một người giác ngộ về sự vật như thế nào (ND).
Khi không còn hình ảnh, ấn tượng, kết luận nào cả thì mối liên hệ giữa hai con người là như thế nào? Bây giờ thì mối liên hệ của chúng ta dựa trên sự chia cắt phân biệt, điều này hẳn đã rõ. Anh ta đến sở làm, nơi mà anh đã cư xử với đồng nghiệp rất tàn bạo, đầy tham lam và ham muốn; rồi anh về nhà và nói với vợ: “Này em, em đáng yêu biết bao”. Có mâu thuẫn trong cuộc đời của chúng ta và do đó cuộc đời chúng ta là một cuộc đấu tranh triền miên, và vì vậy mà không có mối liên hệ. Có mối liên hệ đích thực giữa người và người tức là không còn bất cứ hình ảnh gì; không có ấn tượng, không có kết luận. Và điều này thật là phức tạp vì bạn có ký ức. Bạn có thể xả bỏ ký ức về những điều xảy ra ngày hôm qua không? Tất cả đều tùy thuộc vào đó. Lúc đó thì mối liên hệ sẽ ra sao giữa hai con người mà không ai còn hình ảnh nữa? Bạn sẽ tự thấy điều này lúc bạn không còn hình ảnh. Lúc đó có thể là tình yêu thương.
Người ta có thể sống như thế, thực sự trong đời sống hàng ngày; không có phân biệt, tức là không có chiến tranh, không có tranh chấp.
Ojai, 3.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

2


Tất cả đời sống của chúng ta đều dựa trên tư duy. Mọi hành động của chúng ta đều là kết quả của tư tưởng, hoặc là từ quá khứ xa xôi hay từ các đòi hỏi trực tiếp của môi trường xung quanh. Tư tưởng hướng dẫn toàn bộ đời sống của chúng ta. Tư tưởng chia cắt chúng ta trong quốc gia, đẳng cấp, trong tôn giáo, hệ phái, tín ngưỡng - với tất cả giáo điều, nghi thức. Tư tưởng đã xây dựng nên Nhà thờ - Thiên Chúa, Tin lành, Ấn Độ giáo cũng như những cơ cấu tổ chức và phương tiện thông tin của các tôn giáo phương Đông. Tôi cho rằng đó là một sự thật không thể bác bỏ.
Tư tưởng là gì? Tại sao nó lại trở thành nhân tố cực kỳ quan trọng trong đời sống của chúng ta? Giáo dục của chúng ta, mối liên hệ của chúng ta đều dựa trên tư tưởng, trên hình ảnh, trên những cấu trúc của ngôn từ. Tất cả những thứ đó đều do tư tưởng làm thành. Đâu là lý do làm tư tưởng có sức bền bỉ, liên tục và có tính chia cắt như vậy?
Khi xem xét tại sao tư tưởng lại trở nên cực kỳ quan trọng như thế, chúng ta cũng phải đi vào vấn đề của ý thức. Ý thức được lấp đầy bởi tư tưởng và bởi những điều của tư tưởng. Dù đó là ý thức hay vô thức, nói cho cùng thì đó vẫn là vận hành của tư tưởng, xuất phát từ quá khứ, gặp gỡ hiện tại và sinh thành tương lai. Tất cả đều là sự vận hành của tư tưởng. Sự vận hành bao hàm thời gian. Tư tưởng bao hàm sự đo lường. Thế nên tư tưởng là một sự vận động, thời gian và đo lường. Quá trình của tư tưởng là gì? Tự tính và cấu trúc của tư tưởng là sao? Cuộc đời của chúng ta là: Chúng ta hành động, chúng ta sống dựa theo những mẫu hình nào đó đã được xếp đặt sâu xa bởi tư tưởng, một cách có ý thức hay vô ý thức. Xem ra thật vô cùng quan trọng phải hiểu cho được tư tưởng vì nó là yếu tố chia cắt con người trên phương diện quốc gia, địa lý, dựa trên niềm tin của họ, phù hợp với giáo điều của họ. Tư tưởng đã xây dựng nên toàn thể cấu trúc ký ức để tạo ra “tôi”, ra “bạn”, tạo ra tự ngã, tạo tính cách riêng của con người, v.v…
Chúng ta đang xét xem liệu có một thứ ý thức khác, thứ không được xác lập bởi tư tưởng và do đó ta phải xét cái ý thức hiện có, cái được lấp đầy bởi mọi thứ của tư tưởng. Nguồn gốc của tư tưởng là gì? Tại sao tư duy, tư tưởng lại có tính chất phiến diện? Tư tưởng phát xuất từ đâu? Tự tính của ý thức là gì và tại sao ý thức này lại được lấp đầy bởi sự vận động của tư tưởng? Ta phải tự mình phát hiện ra cái khởi thủy của tư tưởng.
Phải chăng tư tưởng là phản ứng của ký ức? Ký ức là tri thức được tích lũy, xem như kinh nghiệm. Khi đã có một kinh nghiệm, tri thức về kinh nghiệm đó được gọi là ký ức và phản ứng của ký ức là tư duy. Thế nên nguồn gốc của tư tưởng là quá khứ. Tư tưởng phát xuất từ quá khứ. Nếu xem xét, bạn sẽ thấy tất cả mọi sự trong đời đều dựa trên quá khứ, gốc rễ của chúng ta là nằm trong quá khứ. Tri thức là quá khứ do đó không có tri thức của tương lai hay của hiện tại. Chỉ có tri thức của hiện tại nếu có một sự hiểu thấu trọn vẹn đâu là cấu trúc và tự tính của quá khứ và cho nó ngưng bặt.
Thế nên tư tưởng là phản ứng của sự vận động trong quá khứ. Quá khứ được cất giữ trong bộ não, được xem là kinh nghiệm, là tri thức. Và tại sao tư tưởng lại có tính chất phiến diện? Tại sao tư tưởng lại xây dựng nên sự chia cắt giữa người với người - sinh ra tín đồ Thiên Chúa, tín đồ Phật giáo, người theo chủ nghĩa xã hội, người theo chủ nghĩa tư bản, người có đạo, người không có đạo, v.v…? Có một hành động nào, không dựa trên tư tưởng, không có tính chất chia cắt phân biệt, không phiến diện, trong đó không có hối tiếc, phiền não, đau khổ không? Quá trình có tính phiến diện được thấy rõ trong đời sống hàng ngày thông qua cái “tôi”, cái “bạn”, cái “chúng ta”, cái “những người khác”, thông qua người theo đạo Thiên Chúa, người không theo đạo Thiên Chúa, vân vân và vân vân. Một khía cạnh khác của tư tưởng cũng có thể nghĩ đây đó là Thượng đế thế nhưng Thượng đế cũng vẫn là sản phẩm của mặt phiến diện đó thôi.
Tư tưởng lấp đầy ý thức của ta bằng những mặt phiến diện của nó rồi cũng chính tư tưởng nói: “Ta phải vượt lên sự phiến diện, ta phải tìm sự giác ngộ, ta phải tìm thấy Thượng đế, ta phải tìm thấy chân lý, ta phải đạt đến Niết bàn”, bạn muốn mệnh danh cái đích đó thế nào cũng được. Một cái phiến diện đang tìm cách hiểu cái toàn thể - cái được xem là chân chính, lành mạnh, thiêng liêng - tất cả những gì mà từ “toàn thể” bao hàm. Thế nên cái phiến diện đang tìm cách nắm lấy hay tiến tới với cái được xem là toàn thể. Do đó mà cái phiến diện thực hành thiền định, nó điều khiển kiểm soát, nó cố theo một hệ thống để đạt tới cái đó, thế nhưng cái phiến diện đó cũng vẫn là vận động của thời gian, là cái phiến diện được đo lường.
Tại sao tư tưởng là một cái phiến diện? Tại sao nó trở thành cái phiến diện? Tại sao tư tưởng phân biệt tôi và bạn, chúng ta và chúng nó, người theo đạo Phật, theo phe chủ nghĩa xã hội? Tư tưởng không thấy được cái toàn thể sao? Tư tưởng có thể tự thấy mình phiến diện không? Hay nó không bao giờ thấy chính nó, thấy bản thân giới hạn của nó, thấy những hoạt động phiến diện của nó và do đó mà không bao giờ thấy cái toàn thể?
Bây giờ hãy bảo lưu vấn đề này và chúng ta sẽ trở lại theo một cách khác.
Ta có thể thấy rõ không, rằng ý thức của chúng ta chính là nội dung của ý thức? Nội dung của ý thức làm nên bản thân ý thức. Nếu bạn là tín đồ Thiên Chúa giáo thì nội dung của ý thức bạn, tất cả niềm tin, các tín điều, mọi lễ nghi, các phản ứng, những ràng buộc, những lo âu sợ hãi, những buồn phiền, các cảm hứng, những hình ảnh mà bạn có về chính mình và về người khác, mọi kết luận xác quyết, mọi thành kiến của bạn, tất cả những điều này là nội dung của ý thức bạn. Thực sự là thế. Ý thức của bạn là do những điều mà nó chứa đựng tạo nên. Và nội dung của ý thức lại được lấp đầy bởi những điều của tư tưởng - những tri thức bài bản, những tri thức do kinh nghiệm mang lại, những tiên kiến, v.v… Thế nên ý thức của bạn là có tính chất phiến diện. Và trong lĩnh vực này mà ta lại cố tìm thực tại, chân lý, bằng cách tự bành trướng mình ra, cố ra khỏi phạm vi của mình.
Bạn đang chấp nhận những ngôn từ của tôi thôi hay bạn đang quan sát bản thân mình, soi rọi nội dung của chính ý thức mình và thấy nó quả thật đang được lấp đầy bởi mọi điều mà bạn đã tích lũy? Cũng không phải chỉ là những điều bạn đã tích lũy mà là mọi điều của những thế hệ trước đã gìn giữ - những truyền thống, những cách hành xử. Tất cả những thứ này là ý thức bạn và vì nó phiến diện nên có tính chia cắt, nên luôn luôn nằm trong mối tranh chấp. Tư tưởng cảm nhận được điều này và tự nhủ “ta phải vượt lên” - bằng thiền định, bằng kiểm soát, bằng sự chế ngự, bằng mọi cách nhằm mở rộng ý thức. Đó là trò chơi mà ta luôn luôn thực hành, vừa ôm giữ nội dung của chúng, ta vừa muốn vượt lên nó.
Thế nên tư tưởng không thể thấy cái toàn thể vì bản thân nó là phiến diện. Nếu tư tưởng có thể thấy cái toàn thể thì nó đã là cái toàn thể rồi, nó chẳng cần cố gắng trở thành cái toàn thể nữa - cái toàn thể vốn lành mạnh, không chia cắt phân biệt, chân chính và thiêng liêng. Thế nhưng nó không được như thế. Rồi người quan sát cũng phiến diện, nó nói: “Ta biết rõ mọi giới hạn của tư tưởng ta”. Người quan sát này là quá khứ và quá khứ, vốn đã phiến diện, biến mọi hành động thành phiến diện. Quá khứ là tri thức, kinh nghiệm, tất cả mọi thứ mà con người đã tàng trữ từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Và ta cứ nghĩ con người tiến bộ được là nhờ tri thức. Ta cần vấn hỏi phải chăng tri thức là phương tiện tiến bộ mặc dù nhiều giáo sư và chuyên viên cho rằng nó đúng là phương tiện vì tri thức xuất phát từ quá khứ. Sự vận động của tư tưởng là thời gian và ta cho rằng thời gian sẽ làm ta tiến bộ, phát triển, trưởng thành, nhưng thời gian cũng phiến diện luôn.
Có hai loại thời gian: Thời gian vật lý, thời gian tiếp nối lẫn nhau của một chiếc đồng hồ - ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai - và thời gian tâm lý của “ta sẽ là”, một ngày mai có tính chất tâm lý, lúc đó thì tôi đã giác ngộ rồi, tôi đã toàn hảo rồi. Nhưng phải chăng có thực một thứ thời gian tâm lý hay chẳng qua đó chỉ là do tư tưởng bày ra? Chúng ta đang tìm cách xác định liệu có thứ hành động không dựa trên quá khứ và vì thế không có tính chất chia cắt. Có một thứ hành động trọn vẹn, hoàn toàn, không bị vướng trong tấm lưới của thời gian không?
Sau khi đã thấy hành động, vận hành đang diễn ra trên thế giới - và trong chúng ta vì chúng ta là thế giới - ta muốn biết liệu có một hành động không dựa trên một kết luận nào (vì kết luận là vận động của tư tưởng), không dựa trên một khái niệm nào (vì nó lại là phiến diện), không dựa trên thành kiến nào, một hành động mà trong từng giây phút là hoàn toàn, trọn vẹn, để trong hành động này không thể có hối tiếc, phiền muộn, đau khổ. Bạn không muốn tìm ra một hành động như thế sao? Chúng ta sống với những loại hành động đầy khổ não, luôn luôn ẩn chứa mầm bất ổn, hối tiếc - “Tôi ước ao đã không làm điều đó”. Ta biết loại hành động vốn mang lại hối tiếc, phiền não, lo âu, thất vọng, v.v… và ta muốn tìm xem liệu có một loại hành động mà nó là trọn vẹn, hoàn toàn, cùng với nó không có sự hối tiếc, không có sự ô nhiễm nào đi kèm. Tôi cho rằng đó là điều mà trí thông minh trong con người đòi hỏi và khi không tìm ra nó, ta nghĩ ra những thể tính bên ngoài - như nếu tôi tiếp cận được với Thượng đế thì tôi sẽ biết được thế nào là hành động trọn vẹn. Tư tưởng sẽ không bao giờ tiếp cận được Thượng đế vì Thượng đế chỉ là phát minh của bản thân nó! Theo cách như thế mà ta đã đi tìm liệu có một hành động toàn thể, trọn vẹn, chân chính, lành mạnh, hợp lý và do đó mà thiêng liêng?
Tại sao tư tưởng đã phát minh ra một hình ảnh lý tưởng? Lý tưởng chính là cái đối nghịch với cái đang là*. Lý tưởng thì nằm trong tương lai và cái đang là lại chính là hiện thực. Người ta không biết hành xử ra sao với cái hiện thực, làm sao thấu hiểu nó, làm sao vượt lên được nó và do đó không sao hiểu được nó, người ta mới chiếu hiện ra một hình ảnh lý tưởng, một cái tưởng tượng, một cái không phải hiện thực. Thế nên có một sự chia cắt phân biệt giữa cái đang là với cái lý tưởng, và vì thế mà có tranh chấp. Tư tưởng, vốn phiến diện, không thể hiểu thấu cái gì là hiện tiền trong hiện tại. Nó nghĩ là nó hiểu được bằng cách tạo ra một hình ảnh lý tưởng và mải chạy theo hình ảnh đó, và vì thế mà mang lại thêm sự tranh chấp. Thế nhưng nếu ta có khả năng nhìn hiện tại, cái thực có, cái đang là, mà không vướng vào một nguyên tắc gì, một lý tưởng gì, không có người quan sát hiện diện, mà người này chính là quá khứ, thì người ta gặp gỡ cái hiện tiền.
* What is.
Bạn có thể thấy cái đang là mà không thành kiến, không đánh giá không? Bạn có thể thấy cái đang là mà không có sự hiện diện của người quan sát không, kẻ chính là quá khứ? Hãy giả định bạn đố kỵ với người khác, bạn nhìn lòng đố kỵ đó như thế nào? Bạn đang xem xét nó với tính cách của một quan sát viên đang xem, của một kẻ đứng ngoài lòng đố kỵ nọ? Bạn nhìn nó như thể là bạn là một cái gì tách rời khỏi lòng đố kỵ, nhưng thực là bạn chính là lòng đố kỵ*. Bạn không hề là người quan sát, một kẻ khác biệt; bản thân người quan sát chính là lòng đố kỵ. Thế nên người quan sát chính là vật bị quan sát. Xin nhớ điều này thực là quan trọng cần phải hiểu thấu. Khi bạn đã nắm được sự thật là, người quan sát chính là vật bị quan sát thì cái được mệnh danh là vật bị quan sát sẽ có một thay đổi toàn triệt. Điều ngăn cản một sự thay đổi toàn triệt của cái đang là chính là sự can thiệp của người quan sát, của một cái quá khứ. Khi đã hiểu điều này thì mọi tranh chấp biến mất.
* Không có một chủ thể làm chủ các dạng tâm lý mà các dạng tâm lý xếp bên nhau, vận động theo thời gian làm ta lầm tưởng có một chủ thể riêng biệt (ND).
Chúng ta đã được giáo dục để chịu rập khuôn với sự chia cắt phân biệt giữa người quan sát và vật được quan sát, trong đó người quan sát luôn luôn tìm cách chế ngự vật được quan sát. Người quan sát nói: “Ta đố kỵ, ta phải tìm cớ để đố kỵ là có lý; nếu ai cũng không đố kỵ thì điều gì xảy ra trong xã hội?”. Tôi tự trấn áp mình, tôi làm cho hữu lý, tôi bào chữa, tất cả đều là một quá trình của sự tranh chấp. Xuất phát từ sự tranh chấp này ta có mọi dạng của bạo lực. Tuy nhiên thực tế đích thực là người quan sát chính là vật bị quan sát. Và khi đó thì ngưng bặt mọi phân biệt chia cắt. Khi chỉ có sự quan sát về sự vật thì sự vật sẽ có một sự chuyển hóa toàn triệt. Thế thì người ta có thể sống một cuộc đời trong đó không có bất kỳ mối tranh chấp nào không? Tức là phải hoàn toàn chân chính*. Đó là những người mất thăng bằng, những người bị nhiễu loạn, những ai còn nằm triền miên trong sự tranh chấp.
* That is to be perfectly sane. Từ “sane” cũng có thể được dịch là “ngăn nắp” [như trong một chương trước] (ND).
Ta muốn tìm một cách sống, trong đó không có tranh chấp, trong đó tư tưởng - vốn là sự vận động trong thời gian để sinh ra đo lường, vốn chuyên chia cắt phân biệt - nay đã tự thấy giới hạn của mình và chỉ vận hành tại chỗ thật sự cần thiết và hoàn toàn không đi vào lĩnh vực của tâm lý. Tư tưởng đã tạo nên tâm lý, các trạng thái tâm lý mà đó chính là tôi, là tự ngã của tôi. Và vì tư tưởng phiến diện nên cái được nó tạo nên, cái tôi, cũng phiến diện nốt. Khi tư tưởng nói: “Ta phải hội nhập với cái toàn thể thì đó là điều bất khả. Liệu tư tưởng có thể tự mình nhận biết, chính mình chỉ là sự phiến diện và điều gì mình tạo nên cũng là phiến diện cả? Nó có nhận biết được chăng có một thứ hành động không phiến diện, điều mà chỉ xảy ra khi kẻ quan sát chính là vật bị quan sát, điều sẽ thể hiện bằng cách, cái được gọi là “cái đang là” sẽ có một sự chuyển hóa triệt để?
Ý thức chúng ta là đầy ngập những điều của tư tưởng và vì thế mà cũng bị phiến diện. Có hay không một loại ý thức không phiến diện và tư tưởng có thể tìm thấy nó chăng? Có hay không một loại ý thức không bị xếp đặt bởi tư tưởng? Chúng ta chia chẻ vũ trụ ra thành “tôi” và “bạn”, thành “chúng tôi” và “những người kia”, thiện và ác. Chúng ta chia chẻ, tức là tư tưởng đã chia chẻ. Và bây giờ tư tưởng lại tự hỏi: “Có hay không loại ý thức không do ta xây dựng nên?”. Bây giờ thì làm sao một con người như bạn lại có thể tìm ra được một thứ ý thức như thế được? Người ta đã thử làm từ hàng ngàn năm nay. Không phải bây giờ ta mới làm đâu. Con người đã cho rằng phải có một loại ý thức khác với loại ý thức này. Và nó lại nghĩ tiếp: “Ta phải điều khiển tư tưởng; phải có một hệ thống mà trong đó tư tưởng được điều khiển và khi tư tưởng đã được điều khiển, được giữ chặt thì may ra ta có thể biết đến cái kia là gì”. Và đó chính là toàn bộ nền tảng của thiền định: Kiểm soát tư tưởng. Thế nhưng con người không hỏi cái nào là nhân tố điều khiển. Thật ra nhân tố điều khiển vẫn chính là tư tưởng thôi.
Muốn tìm ra, muốn đến với một cái không do tư tưởng dựng nên, ta phải hiểu chỗ mà tư tưởng đóng vai trò tri thức và chỗ mà tư tưởng hoàn toàn không có chỗ đứng; tìm hiểu nhưng không đè nén nó. Tư tưởng xuất hiện với tính chất tri thức trong hoạt động nông cạn hàng ngày: Lái một chiếc xe, làm việc trong xưởng, viết lách. Ta chỉ có thể cho tri thức một chỗ đứng đúng đắn khi bạn hiểu hết tính chất của tư tưởng. Tâm lý của tôi, cái “tôi”, được tư tưởng dựng nên - đạo đức của tôi, khí chất, mong ước, tham vọng, các tính chất riêng biệt của tôi, kinh nghiệm của tôi khác hẳn kinh nghiệm bạn. Tất cả những điều đó đều là kết quả của tư tưởng. Tư tưởng dưới dạng tri thức thì nên có, nhưng tư tưởng không nên có chỗ trong tâm lý. Tức là, tâm thức này, toàn thể cấu trúc này của tâm lý có nên ngưng bặt chăng? Chỉ lúc đó thì mới có một dạng hoàn toàn khác của ý thức xuất hiện - điều mà bạn không bao giờ tìm thấy nếu chỉ bằng thiền định*.
* Thiền định nói ở đây là phép kiểm soát tư tưởng. Còn Thiền định “đích thực“ thì đã được tác giả trình bày trong chương trước (ND).
Tất cả mọi thứ do tư tưởng dựng lên đều là thực tại. Thế nhưng tư tưởng không tạo nên ngọn núi hay cây cối, và chúng cũng chính là thực tại. Tất cả những thánh thần, những nghi lễ, tất cả những chuyện tào lao do tư tưởng bày ra trong thế giới, cũng là thực tại - chiến tranh là một thực tại, giết người là một thực tại, sự bạo lực, sự tàn tệ, lòng nhẫn tâm, sự phá hủy, là một thực tại do tư tưởng làm ra, do tư tưởng dựng nên. Ngọn núi, cây cối, dòng sông, vẻ đẹp của bầu trời cũng là một thực tại, nhưng không do tư tưởng sinh ra. Niềm tin cũng là một thực tại sinh ra bởi tư tưởng nhưng nó là tâm thần hỗn loạn. Tính hỗn loạn tâm thần cũng là một thực tại. Và chân lý không phải là thực tại. Tư tưởng không bao giờ tiếp cận được chân lý. Đâu là mối liên hệ giữa thực tại và chân lý?*
* Thực tại: reality, Chân lý: truth. Chúng ta có thể nói điều gì có tác động thì điều đó là “thực tại”. Do đó mọi thứ do tư tưởng bày ra, kể cả giấc mơ, cũng là thực tại. Còn “chân lý” là cái “toàn thể”, điều mà thính giả/độc giả đang chờ đợi Krishnamurti nói đến nhưng cũng là điều mà không mấy người hiểu ngộ (ND).
Chúng ta đã xem xét tính chất của tư tưởng. Chúng ta đã nói tư tưởng là một quá trình vật chất, là vật chất, vì nó được cất chứa trong não, là phần của tế bào mà tế bào là vật chất. Thế nên tư tưởng là quá trình mang tính vật chất trong thời gian, trong sự vận động. Và bất cứ điều gì do sự vận động sinh ra đều là thực tại cả - một tinh thần hỗn loạn cũng như những cái mà ta gọi là phiến diện đều là những thực tại cả. Một cái đang hiện hữu cũng là thực tại, thí dụ chiếc máy phóng thanh này. Và thiên nhiên cũng là một thực tại. Thế thì điều gì là chân lý? Tư tưởng, vốn là phiến diện, bị ràng buộc trong thời gian, lan man vô bổ, tàn bạo, có thể tìm được chân lý không khi mà chân lý là cái toàn thể, là cái thiêng liêng? Nếu nó không tìm được thì đâu là mối liên hệ giữa tư tưởng, giữa thực tại và cái được gọi là chân lý?
Bạn biết rằng, tất cả những thứ này đòi hỏi phép thiền định. Đó mới là thiền định đích thực, chứ không phải thứ do các ông đạo sư guru nhập cảng vào xứ sở này. Ý thức, mà ý thức chính là nội dung của bản thân nó, có bao giờ mở rộng ra được để bao gồm luôn ý thức của chân lý không? Hay cái ý thức này của tâm lý, của cái tôi với tất cả dung lượng của nó phải ngưng bặt mới tiếp nhận được cái gì là chân lý. Ta phải tìm cho ra cái gì là tự tính của tâm lý, cái mà do tư tưởng làm nên. Cái “tôi” là gì - cái phù phiếm, kiêu căng, lòng tham muốn thành tựu - cái làm người ta đeo bám khủng khiếp như thế? Tính chất của nó là gì? Nó xuất hiện như thế nào? Vì nó sờ sờ ở đó nên cái khác không thể có. Nếu tôi còn ích kỷ, khi cái trung tâm tâm lý còn đó thì chân lý không thể nào xuất hiện vì chân lý là cái toàn thể.
Thế thì cái tâm - tức là tất cả mọi cảm quan, mọi cảm xúc, mọi ký ức, mọi thành kiến, mọi nguyên tắc, mọi mục đích, mọi kinh nghiệm, tất cả những thứ đó, chúng chính là tâm, là tôi - tất cả những cái đó làm sao ngưng bặt nhưng vẫn tác động được trong thế giới này? Có khả dĩ không?
Muốn biết thì ta phải đi rất sâu vào trong các vấn đề của sự sợ hãi, vào trong vấn đề hết sức phức tạp của sự vui thú lẫn trong vấn đề của phiền não cũng như xem phiền não có thể chấm dứt được không. Người ta sống với phiền não từ thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác. Người ta không thể dứt được phiền não. Và muốn biết thì ta cũng phải đi vào vấn đề của sự chết và lòng yêu thương. Vì tất cả những thứ này là tấm lưới đan bện của cái tôi. Vì thế đây là một điều cực kỳ nghiêm túc, không phải là chuyện đùa chơi. Người ta phải đánh đổi cả đời mình để mong hiểu ngộ được nó. Muốn sống trong thế giới này một cách toàn vẹn, chân chính, vô tâm, chứ không trốn tránh, không lánh mình vào tu viện hay hội đoàn tôn giáo nào, mà sống ngay tại đây, trong thế giới điên khùng, thác loạn và chết chóc này, nơi đầy những sự hư hỏng, nơi mà nền chính trị chia tay với đạo lý. Sống trong thế giới này một cách chân chính, vô tâm, vô ngã là một sự thử thách to lớn. Điều đó đòi hỏi một cái tâm biết suy nghĩ một cách tinh tế, chính xác, khách quan, với mọi giác quan luôn luôn tỉnh thức, không bị mờ đục bởi chất rượu hay bởi vận tốc hay bất cứ những thứ gì tương tự. Bạn phải có một cái tâm hết sức lành mạnh; và khi nó bị mờ đục vì khói thuốc, vì rượu thì không còn một cái tâm lành mạnh nữa, tất cả những cái đó hủy hoại tâm, làm tâm cùn lụt.
Ojai, 4.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

3


Nếu chỉ có một người hiểu ngộ được một cách toàn triệt vấn đề của sợ hãi và giải quyết được nó, không phải ngày mai hay một ngày nào khác mà tức khắc bây giờ thì người đó đã tác động được lên toàn bộ ý thức của nhân loại. Đó là một thực tế hiển nhiên. Như chúng ta đã nói, ý thức của bạn không hề là vật sở hữu riêng tư của bạn mà nó là kết quả của thời gian, của hàng ngàn biến cố, kinh nghiệm, chúng được xây nên bởi tư tưởng. Ý thức này nằm trong một sự vận động liên tục. Nó giống như một dòng chảy, một con sông rộng lớn mà bạn là một phần. Thế nên ở đây không có sự chuyên biệt hóa, và nếu đi sâu vào vấn đề, bạn sẽ thấy không hề có tính cá thể. Có thể bạn không thích điều này, nhưng hãy xem. Một cá thể tức là một tự thể nào đó, nó không bị phân chia, không thể phân chia, không bị phiến diện, không bị chẻ ra từng mảnh mà là một tự thể toàn vẹn. Nhưng tiếc thay phần lớn chúng ta bị chia chẻ, phiến diện, phân chia, cũng như mọi sự việc trên thế giới - đau khổ, lo âu, thất vọng, khốn cùng, phiền muộn, sợ hãi.
Vì vậy mà chúng ta cùng nhau nghiên cứu vấn đề của sự sợ hãi và xem thử nó có thể chấm dứt được không. Chúng ta đang cùng nhau chia sẻ. Sự sợ hãi có thể rất ít nhưng cũng có thể là một gánh nặng to lớn. Có thể là sợ hãi mất việc làm, sợ bị thất bại, sợ chết, sợ không được yêu thương, sợ phải cô đơn, sợ sự cô lập, sợ bị bất ổn, sợ phải phụ thuộc, sợ làm sai quấy, sợ phải chạy theo đám đông, sợ bị bỏ rơi. Bạn quá biết cái sợ là gì. Về mặt tâm lý không ai có thể thoát khỏi sự sợ hãi. Cái sợ đè nặng tâm người, làm tối sầm mặt người. Người ta không biết làm sao với những thứ sợ hãi này, vì vậy mà ta trốn chạy vào trong bạo lực, sự tàn nhẫn, sự kiêu ngạo và cay đắng.
Nguyên nhân cơ bản của sự sợ hãi là gì? Hãy tự nhìn mình. Hãy sử dụng ngôn ngữ như một tấm gương mà khám phá chính nỗi sợ hãi của mình để rồi khi quan sát, bạn hãy tìm ra gốc rễ của nó; không phải cành không phải lá, không phải cái sợ hãi thông thường mà nguyên nhân cơ bản của cái sợ. Bởi vì nếu có cái sợ hãi về tâm lý, về nội tâm thì mọi hành động đều bị méo mó và sẽ không còn có một sự quan sát tinh tế và rõ ràng được nữa.
Gốc rễ của sự sợ hãi là gì? Phải chăng là vì ta không tìm được sự an toàn trọn vẹn, về mặt tâm lý, về mặt nội tâm? Vì không được sự an ổn hoàn toàn, trọn vẹn. Phải chăng đó là điều mà ta luôn luôn tìm kiếm, về một điều thường hằng, vĩnh viễn, một điều chung quyết? Phải chăng đó là nỗi lo không được sống? Trước hết hãy xem có một sự an toàn về mặt tâm lý không; vì có thể ta đang tìm sự an toàn nội tâm mà lại tạo ra sự bất ổn ở thế giới bên ngoài. Thế nào là sự an toàn, về mặt tâm lý, nội tâm? Ta muốn gì khi nói đến an toàn, vững chắc, trường cửu, không bị lung lay, kiên cố, không ai lay chuyển được, không ai phá hư được? Phải chăng đó là điều mà bạn tìm kiếm trong mối quan hệ với nhau? Đã có tri thức đầy đủ và dựa lên các tri thức đó ta sẽ có an toàn chăng? Điều đó có nghĩa tìm kiếm sự thường hằng, tìm kiếm điều không bao giờ bị thay đổi, tức là tìm kiếm sự vĩnh viễn trong nghĩa là cho thời gian một dấu chấm hết.
Phải chăng thời gian là một trong những yếu tố của sự sợ hãi? Có thứ thời gian của chiếc đồng hồ, thời gian của ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai. Thời gian cơ học là cần thiết, nó có đó. Có thời gian tâm lý không? Có một ngày mai cho tôi, cho bạn không, nói về mặt tâm lý? Nếu không thì có một nỗi sợ to lớn. Nếu bạn phải đụng độ với thực tế là không có ngày mai về mặt tâm lý thì nền tảng của bạn bị lung lay; vì ngày mai bạn có nhiều vui thú hơn, ngày mai bạn sẽ tốt đẹp hơn, ngày mai bạn sẽ thành tựu công việc, ngày mai bạn sẽ hết sợ hãi. Có một ngày mai về mặt tâm lý không?
Ngày mai hàm nghĩa thời gian. Ngày mai bao gồm tư tưởng mà bản thân tư tưởng là phiến diện; chính nó là kẻ bày ra thời gian về mặt tâm lý, trong đó bạn đi từ cái đang là đến cái phải là. Phải chăng thời gian chính là một yếu tố của sự sợ hãi? Thời gian có thật nhưng liệu có thời gian tâm lý không: Cố gắng để trở thành một điều gì? Hay là sợ không được hiện hữu? Cái đòi hỏi triền miên của sự tự biểu lộ này là gì, của cái tôi muốn được phát biểu, cái “tôi” và cái “bạn”, cái tự ngã? Hãy nắm lấy vấn đề này, vì đó chính là đời của bạn, và nếu bạn hiểu ngộ điều này và thoát khỏi sợ hãi thì bạn đã mở cửa đi vào thiền giới.
Cái “tôi” là gì khi nó nói: “Tôi phải là thế này thế nọ”, “Tôi phải thiền định”, “Tôi phải tìm được Thượng đế”, “Tôi phải thực hiện”, “Tôi phải hạnh phúc”, “Tôi phải cô tịch”, “Tôi phải thành tựu”, “Tôi phải biết cái này cái kia”? Cái tôi đó không phải là danh tánh, ông A ông B; không phải dạng hình, tức dạng hình của thân thể mà bạn thấy trong gương; hay mọi ký ức được tích lũy, hay mọi khái niệm về chính bạn, hình ảnh của chính bạn, cái hình ảnh đã nói: “Tôi phải hay hơn bạn nhiều”. Không phải những thứ đó đều do tư tưởng tạo nên hay sao? Mà tư tưởng thì phiến diện và hoạt động của nó không phải chỉ là cái “tôi” mà cái phiến diện đó còn tạo mọi thứ xung quanh bạn, như các quốc gia khác nhau, các giai cấp khác nhau, các cuộc chiến tranh và mọi thứ kèm theo. Và tư tưởng là một quá trình có tính vật chất trong thời gian. Tư tưởng là phản ứng của ký ức, của kinh nghiệm, của tri thức được chất chứa trong não.
Thế nên cái “tôi” mà chúng ta hằng đeo bám chỉ là một vọng tưởng. Đó có lẽ là gốc rễ của sợ hãi, đeo bám vào một cái gì không có thực. Có một cái tôi ảo tưởng, được tưởng tượng ra, nó chỉ là hình ảnh, là biểu tượng, là ý niệm, do tư tưởng theo thời gian mà xây dựng nên nhưng bản thân tư tưởng lại là quá trình vật chất, là sự đo lường. Và cái tôi này, biết sự hiện diện của mình là vô cùng bấp bênh, trong tận đáy cùng có lẽ là nguyên nhân cơ bản và sâu xa của sự sợ hãi. Điều đó không có nghĩa là nếu bạn không có cái “tôi” thì bạn không thể sống trong thế giới. Mà ngược lại*.
* Khó tìm thấy một đoạn văn nào nói về tính “vô ngã” một cách sáng tỏ đầy sự thuyết phục và lòng từ bi như đoạn này của tác giả (ND).
Bây giờ bạn có thể xem xét sự vận động của thời gian không? Thời gian là sự vận động. Chấm dứt sự vận động này là cho thời gian một dấu chấm hết. Đó là một trong những yếu tố chính của thiền định, để cho thời gian ngưng bặt, về mặt tâm lý. Cho nên sự sợ hãi sâu xa là do sự vận động của tư tưởng trong thời gian, mà tư tưởng là một quá trình vật chất, nó nghĩ ra một cấu trúc giả tạo được mệnh danh là “tôi” và khi đã tạo ra nó thì đeo bám vào nó. Tư tưởng đeo bám vào một khía cạnh do bản thân nó tạo ra và chính tư tưởng cũng chỉ là một mặt phiến diện. Có sự sợ hãi trong mối liên hệ, vì trong mối liên hệ chúng ta mới tạo nên hình ảnh của bạn và tôi. Người đàn ông và đàn bà ai cũng có một hình ảnh về người kia, một ấn tượng, một biểu hiện được thời gian xây dựng nên, của nhiều ngày, nhiều năm hay của một giờ. Và mối liên hệ của họ là mối liên hệ của hai hình ảnh đó. Hãy xét và bạn sẽ thấy thực tế đó. Chúng ta đeo bám vào một hình ảnh, một ấn tượng và sợ sẽ mất hình ảnh đó đi. Thế nên chúng ta cần phải nhìn lẫn nhau một cách hoàn toàn khác nếu không còn hình ảnh nữa.
Chúng ta đã dùng ngôn từ để mô tả bằng tính chất, thể tính, cấu trúc của cái mà ta gọi là sợ hãi. Bây giờ, đã biết lời mô tả không phải là vật được mô tả, liệu bạn có thể không nhìn vào lời mô tả mà hãy nhìn vào thực tế không? Bạn có thể xem xét được không? Tức là bạn biết quan sát không?
Thật hết sức quan trọng khi ta phải tập cách quan sát. Có một nghệ thuật quan sát. “Nghệ thuật” ở đây có nghĩa đưa sự vật vào đúng chỗ của nó, đưa sự vật về đúng chỗ mà nó thuộc về. Bạn có thể quan sát cái được gọi là sợ hãi không? Bạn là người quan sát có khác gì với vật được quan sát không? Khi bạn cáu kỉnh, đố kỵ hay ganh tị hay thế nào bất kỳ, bạn có khác với cảm giác mà ta mệnh danh là “ganh tị” không? Hay chính bạn là sự ganh tị? Cho nên người quan sát là vật được quan sát. Nói một cách khác, phải chăng người suy tư khác với tư tưởng của nó? Hay nói cách khác nữa, phải chăng người chứng nghiệm khác với kinh nghiệm? Nếu không khác thì tại sao bạn còn đi tìm sự chứng nghiệm? Nếu không có sự khác biệt giữa người quan sát và vật được quan sát thì thực tế là chỉ có vật được quan sát. Chỉ có tư duy, không có người tư duy khác với tư tưởng.
Bạn mong có sự chứng nghiệm. Bạn thấy nhàm chán với những chứng nghiệm mà bạn đã có, những kinh nghiệm tình dục hàng ngày, cái này, cái khác và cái khác nữa, nên bạn muốn biết thêm những chứng nghiệm khác nữa - chứng thực về Thượng đế, về giác ngộ, về Chúa Jesus, về ý thức của Krishna. Và bạn lại không bao giờ chịu hỏi ai là người chứng nghiệm và liệu nó có khác với những gì được chứng nghiệm không. Bạn muốn chứng nghiệm ý thức của Krishna hay ý thức của Chúa Jesus, hay cái gì khác, nhưng muốn chứng nghiệm cái đó thì bạn phải nhận biết nó, đúng không? Tức là bạn phải từng biết nó rồi. Vì thế người chứng nghiệm là vật được chứng nghiệm.
Bạn có thể nhìn sự sợ hãi mà không có người quan sát không? Vì bạn chính là sự sợ hãi, sợ hãi không khác gì với bạn cả. Khi bạn tức giận, phải chăng cơn giận khác với bạn? Nếu bạn cho là khác, thì bạn đang cố điều khiển nó, bạn đang cố kiềm chế nó, đang muốn làm cái gì với nó. Thế nhưng nếu người quan sát là vật bị quan sát, bạn không thể làm gì cả với nó, bạn chính là nó. Vì vậy hãy quan sát sự sợ hãi mà không có người quan sát.
Khi quan sát người ta nhận thấy cái sợ không hề khác với người quan sát. Nếu người quan sát là vật được quan sát thì có một sự thay đổi căn bản trong cái được quan sát. Nếu có một sự phân biệt giữa người quan sát và vật được quan sát thì sẽ có tranh chấp liền trong sự chia cắt phân biệt đó. Tôi sẽ nói, tôi phải thoát khỏi nó, phải điều khiển nó, hay tự hỏi tại sao mình lại không nên sợ, tại sao mình lại không nên có những hành động vì nỗi sợ hãi này. Luôn luôn có mâu thuẫn đối kháng, chia cắt và vì thế mà có tranh chấp - một điều thật phí phạm năng lượng. Ta phí năng lượng khi có tranh chấp, khi tìm cách điều khiển, khi trốn chạy, khi đi tìm ai đó để họ chỉ cho cách thoát khỏi cái sợ. Nếu bạn không phí năng lượng - và điều này chỉ xảy ra khi người quan sát là vật được quan sát - thì bạn sẽ có năng lượng to lớn đó mà chuyển hóa cái đang là. Sự quan sát thuần túy nhất chính là năng lượng, nó sẽ chuyển hóa cái đang là. Hãy nắm nó đi và bạn sẽ thấy mình hoàn toàn xả bỏ nỗi sợ hãi tâm lý.
Nếu bạn đã nghe những lời này với tất cả tâm hồn thì cứ mỗi khi bạn ngủ dậy bạn đều tự tại không hề biết sợ. Điều đó có nghĩa bạn đã lắng nghe. Đây là vấn đề của bạn và tuyệt đối cần thiết phải giải quyết, không phải vào ngày mai mà ngay tức khắc. Tức là khi bạn nhận thức điều gì thì bạn hành động tức khắc và sự nhận thức đó chỉ khả dĩ khi người nhận thức là vật được nhận thức vì lúc đó bạn có hoàn toàn đầy đủ năng lượng. Quan sát trọn vẹn chỉ khả dĩ khi không có người quan sát - người quan sát là quá khứ. Khi có sự chú tâm hoàn toàn trong sự quan sát thì điều được quan sát sẽ có một sự chuyển hóa toàn triệt. Bạn hiểu không? Hãy làm đi!
Ojai, 10.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

4


Tại sao tâm tư con người cứ muốn chạy theo lòng ham thích? Chúng ta không bàn chuyện nên hay không nên có sự thích thú mà tìm hiểu tự tính của lòng ham thích, vì con người dường như triền miên theo đuổi sự ham thích. Tại sao lại có một yêu cầu lớn lao về sự vui thú, về hành động dễ dãi nhất, về cách sống tiện nghi nhất, sự theo đuổi không chỉ có tính chất vật lý, những vui thú cảm quan thôi mà còn những dục lạc tâm lý? Và vui thú tối hậu là Thượng đế, là giác ngộ. Sự vui thú là gì? Phải chăng nó là mặt bên kia của đồng xu sợ hãi? Phần lớn con người không ai ưa sợ hãi, không biết giải quyết ra sao với sự sợ hãi và liên tục theo đuổi sự vui thú.
Thông qua văn hóa, truyền thống, thói quen, môi trường, v.v…, một phần của não bộ chúng ta trở nên có tính cơ giới. Phải chăng sự vui thú có tính cơ giới? Phải chăng đó là sự lặp lại của loại khoái cảm nào đó của ngày hôm qua, hoặc là nhục dục hoặc thứ khác, nó đã trở thành ký ức và chúng ta theo đuổi ký ức trong dạng khoái cảm? Chúng ta cũng đã quan tâm đến sự chuyển hóa của tâm thức con người. Chúng ta không thể sống mãi như đang sống. Phải có một sự thay đổi triệt để trong tâm hồn chúng ta, trong toàn bộ cách sống và do đó thật là quan trọng phải tìm hiểu tại sao con người cứ mãi bị ràng buộc trong việc theo đuổi dục lạc.
Hãy xem thử vấn đề. Ngày hôm qua xảy ra nhiều điều đầy vui thú, những điều mà bạn hết sức yêu thích. Việc đó được ghi nhận trong óc, nó trở thành ký ức. Rồi tư tưởng tự nhủ: “Ta phải có nó nhiều hơn nữa”. Sự theo đuổi của hôm nay và ngày mai là một sự lặp lại của một điều đã chấm dứt, điều được tư tưởng đánh giá là vui thú. Rõ rệt đó là một điều có tính cơ giới.
Thế nào là sự khác biệt giữa sự vui thú, lòng vui thích và niềm vui*? Ta có ba thứ: Sự vui thú, lòng vui thích và niềm vui. Bạn có thể nuôi dưỡng sự vui thú - sở thích, tất cả những hoạt động thuộc về giác quan. Bạn có thể nuôi dưỡng lòng vui thích được không? Hay bạn có thể nuôi dưỡng niềm vui được không? Niềm vui đến mà không ai mời, bằng vài bất ngờ lạ lùng. Bạn thấy mình hạnh phúc một cách bất ngờ, lạ thường, không thể nói được. Thế là tư tưởng tham gia vào và tự nhủ: “Ta phải có thứ đó nhiều hơn”. Lúc mà tư tưởng xen vào với cái được gọi là niềm vui, cái không được mời mọc, thì nó biến thành sự vui thú. Do đó nó trở thành cơ giới.
* Sự vui thú: pleasure; lòng vui thích: enjoyment, niềm vui: joy.
Đời chúng ta là như thế, một cách sống được lặp lại liên tục, triền miên làm lại những điều đã một lần xảy ra, những điều đã chết được làm cho sống lại bằng tư tưởng và ta theo đuổi nó xem như sự vui thú. Bạn có thể nhìn thấy một cái gì tuyệt đẹp, cây cối, những đám mây và ánh sáng. Nhưng khi tư tưởng hiện đến và bảo: “Cái này đẹp thật” thì đã hết. Bạn có thể nhìn ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của thế giới này, với tất cả xúc cảm của mình và không để cho tư tưởng xen vào không? Lúc đó lòng vui thích hiện diện một cách trọn vẹn, thế nhưng khi tư tưởng kéo vào thì nó trở thành sự vui thú và trở thành cơ giới. Xin nhớ, điều này đòi hỏi một tâm ý hết sức sinh động, tỉnh giác, chú ý. Các bạn hãy thử nghiệm liền đi, ngay lúc chúng ta đang nói đây. Hãy nhìn cây cối, ánh sáng mặt trời, vẻ đẹp của những ngọn đồi, bóng in của chúng và trò đùa nghịch của bóng in dọc trên sườn đồi, trong những lũng sâu. Thật là một niềm vui. Bạn có thể nhìn ngắm chúng mà không để tư tưởng xen vào và cũng dừng tại đó, không muốn kéo dài thêm không? Điều gì có sự kéo dài thì điều đó sẽ mang tính cơ giới. Cái có sự chấm dứt thì cũng có sự bắt đầu mới mẻ. Hãy nắm lấy điều này.
Bây giờ thì bạn đã có cái trực nhận* đúng vấn đề. Xin nhớ hãy nhìn thật cẩn thận. Bạn có sự trực nhận, phải chăng cái nhìn này là sản phẩm của tư tưởng? Bạn đã tìm thấy một điều gì. Điều đó nghĩa là, khi có trực nhận bản chất của sự vật và hành động từ tầm nhìn đó thì điều đó không mang tính cơ giới. Trực nhận hay trí thông minh không phải là sản phẩm của tư tưởng; đó là hành động phi cơ giới. Hễ bất cứ khi nào tư tưởng nắm lấy khoảnh khắc của niềm vui thì nó biến thành cơ giới. Bạn đã thấy điều này. Nhận thức được điều này là trí thông minh, phải không? Bạn có thể luôn luôn hành động theo trí thông minh này, chứ không theo sự vận hành lặp lại của tư tưởng không? Bạn có thấy sự khác nhau không?
* Insight.
Thế là ta thấy sự vận động của lòng vui thú, dựa trên ham muốn, sự ham muốn đang mang dạng xúc cảm. Khi nhìn ngắm cây cối, trời mây, trăng sao, thì đó là một cảm quan to lớn nếu bạn nhìn với tất cả giác quan của mình. Rồi tư tưởng xen vào. Chỗ nào có cảm quan cộng với tư tưởng thì chỗ đó có một sự ham muốn,. Tức là cảm quan, hoạt động của những giác quan ở mức cao nhất cộng với tư tưởng, ta sẽ có ham muốn*. Bạn có thấy điều này không? Bạn thấy nó bằng cách nào? Bạn thấy nó vì trí thông minh của bạn đang quan sát. Trí thông minh này không phải là sản phẩm của tư tưởng.
*Sensation: cảm quan; desire: ham muốn. Độc giả nào hiểu khái niệm “Ngũ uẩn” của đạo Phật có thể thấy mối liên hệ rõ rệt nơi đây. Cảm quan chính là “Thụ” trong Ngũ uẩn, là cảm giác do giác quan mang lại. “Tưởng” là giai đoạn “xen vào” của tư tưởng và “Hành” chính là sự phân biệt, ham thích hay bác bỏ, là giai đoạn mà Krishnamurti gọi là “ham muốn”. Quan niệm chính thống của đạo Phật cũng khuyên hành giả nên dừng lại tại giai đoạn “Thụ” đừng để rơi vào “Tưởng” vì sau đó lập tức ta sẽ đến giai đoạn “Hành” (ND).
Bạn đã bao giờ tìm hiểu xem tại sao con người đau khổ, cả vật chất lẫn tinh thần, tại sao lại có nước mắt? Những phiền não lo âu này là gì? Có lúc nào nó sẽ hết không hay đó là một sự vận hành triền miên từ lúc khởi thủy của con người cho đến lúc chấm dứt? Ta có bắt buộc phải sống chung với nó không?
Những thứ tôn giáo có định chế, dựa trên thẩm quyền và niềm tin, chưa bao giờ giải quyết được vấn đề này. Thiên Chúa giáo cho rằng có một người đã chịu khổ hình vì bạn và bạn thì cứ tiếp tục phạm tội. Ấn Độ giáo và Phật giáo thì có những cách giải thích riêng của họ. Cứ thế mà con người sống với phiền não từ thời thượng cổ đến bây giờ. Có thể hết khổ chăng? Nếu cái khổ không chấm dứt thì cũng không có lòng từ bi, lòng yêu thương. Chúng ta nghĩ khổ não là cần thiết, cũng có thể chúng ta nghĩ khổ không mang lại giải pháp; và vì thế chúng ta phải trốn chạy khỏi nó. Và chúng ta tạo ra một mạng lưới tuyệt diệu của sự thoát khổ.
Phiền não là gì? Cái mà ta gọi là phiền não chính là đau khổ, ham muốn, cô đơn, cảm giác bị cô lập, tuyệt vọng, thiếu thốn mối liên hệ. Con người đã sống với cái điều to lớn này và thậm chí đã nuôi dưỡng nó vì con người không biết làm sao để giải quyết nó. Chúng ta đang tìm hiểu liệu có thể chấm dứt phiền não hay không vì nếu không hết phiền não thì không thể có yêu thương. Khi có yêu thương, phải chăng bạn sẽ chịu phiền não cho người khác? Khi có yêu thương phải chăng phiền não còn hiện diện? Bạn có thể có thiện cảm, lòng tốt, lòng rộng tâm, sự chia sẻ nhưng tình yêu thương là một điều gì hoàn toàn khác, một mức độ hoàn toàn khác, một điều mà ta chỉ có thể đến với nó khi phiền não chấm dứt.
Có sự đau buồn khi một người bạn “yêu thương” chết đi. Bạn cảm thấy cô đơn tột độ khi bạn mất một người mà mình rất cần thiết. Khi bạn thấy mình không leo lên được bậc thang của thành công, khi một người mà mình nghĩ rất yêu thương không còn trở lại, khi niềm tin của bạn bị tiêu tan, trong đó bạn tin nơi một sự an toàn giả tạo; khi cha hoặc mẹ hoặc con cái của bạn lìa bỏ cõi đời, khi đó có sự đau khổ.
Điều gì thực sự xảy ra khi bạn đau khổ? Không phải là một vấn đề thuộc về sinh hóa hay thể chất mà đó là một vấn đề tâm lý, nó xót xa, sâu sắc, quằn quại hơn nhiều. Bạn có thể rơi lệ, có thể trốn chạy, không dám nhìn đến nhưng đau khổ luôn luôn có đó. Đau khổ thuộc về số phận của loài người, ai cũng biết đến nó. Chúng ta trốn chạy nó, hợp lý hóa cho nó, biện minh cho nó, hay tự nói ai cũng khổ nên ta cũng phải chịu khổ thôi. Hay bạn là người chịu ảnh hưởng của tôn giáo, bạn sẽ nói đó là việc làm của Thượng đế. Tất cả những điều này đều chỉ là phương cách để trốn chạy khỏi cái đang là, tức là sự đau khổ. Thế nhưng nếu bạn không trốn chạy, tức là nếu không có sự hợp lý hóa, không tránh né, không biện minh mà chỉ cứ dừng lại với cái toàn thể của phiền não, không có một chút vận hành nào của tư tưởng, thì bạn sẽ có tất cả năng lượng để thấu hiểu điều mà bạn gọi là sự đau khổ.
Nếu bạn dừng lại và không chút suy tư nào với cái được mệnh danh là phiền não, thì cái phiền não đó sẽ có một sự chuyển hóa. Nó sẽ biến thành một cảm xúc mãnh liệt*. Ý nghĩa căn bản của phiền não là lòng cảm xúc mãnh liệt. Nếu bạn trốn chạy khỏi phiền não, bạn sẽ mất đi tính chất này của phiền não, tức là lòng cảm xúc tột độ, nó hoàn toàn khác với sự đam mê hay vui thú. Khi bạn có một cái nhìn nội quán vào trong phiền não và ở lại với nó một cách toàn vẹn, không có một chút tư tưởng nào khởi lên, thì từ đó sẽ nảy sinh một ngọn lửa hiếm có của lòng cảm xúc cao độ. Và bạn phải có lòng cảm xúc này, nếu không thì bạn không sáng tạo gì được cả.
* Passion.
Xuất phát từ lòng cảm xúc cao độ này, lòng từ bi* sẽ đến. Từ bi chính là lòng cảm xúc đối với tất cả mọi vật, tất cả mọi người. Khi đó sẽ có chấm dứt sự khổ và chỉ khi đó bạn mới bắt đầu hiểu thế nào là lòng yêu thương.
* Compassion.
Thế nên ta cần một cái nhìn nội quán sâu sắc và trực tiếp vào trong sự sợ hãi, vào trong các mối liên hệ, vào trong toàn bộ cấu trúc và tính chất của tư tưởng vốn nuôi dưỡng sự sợ hãi, kẻ chạy theo lòng vui thú, cần cái thấy sâu sắc vào trong sự diệt khổ. Nếu bạn thấy được trong tất cả những thứ đó, bạn sẽ có đủ thông minh để chuyển hóa mọi hoạt động có tính cơ giới trở thành một điều gì khác phi cơ giới. Đừng bỏ đi và đừng tìm cách nghĩ ngợi về nó. Bạn không còn thời giờ nữa đâu! Nếu bạn nghĩ về những điều vừa nói thì tư duy của bạn sẽ trở thành thói quen, máy móc, và trống rỗng. Còn bạn đang ngồi tại đây thì chia sẻ điều này, nó đang xảy ra ngay tại đây. Nó phải xảy ra ngay bây giờ, nếu không nó sẽ không bao giờ xảy ra vì tư tưởng sẽ ngăn chặn lại. Tư tưởng không bao giờ thấy sâu sắc và trực tiếp. Hãy thấy trực tiếp những gì chúng ta vừa nêu lên, đồng thời biết rằng những lời mô tả không phải là vật được mô tả, điều này phải xảy ra ngay tức thời bây giờ. Nếu bạn chia sẻ được điều gì thì bây giờ bạn đang chia sẻ đây.
Ojai, 11.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

5


Chúng ta đã gán cho cụm từ lòng yêu thương thật nhiều ý nghĩa, đa số là ý nghĩa của cảm xúc. Khi dùng chữ này, biết tất cả những phức tạp của chữ này, hiểu ý nghĩa của chữ này, chúng ta hãy cùng nhau xem xét cấu trúc và tính chất của cái mà ta gọi là yêu thương.
Lòng yêu thương là sự thèm muốn hay sự vui thú*? Thèm muốn là gì và nó phát sinh như thế nào? Nó đơm hoa kết trái ra sao? Gốc rễ nó là gì? Cái gì xuất hiện thành hiện thực? Xem ra đối với phần lớn chúng ta thì yêu thương liên hệ gắn bó với sự thèm muốn - có tính chất nhục dục hay tâm lý, sinh lý hay tâm linh. Đối tượng của thèm muốn thì thay đổi nhưng gốc rễ của nó thì như nhau. Vậy thì sự thèm muốn xuất hiện thế nào trong mỗi chúng ta?
* Lòng yêu thương: love; sự thèm muốn: desire; sự vui thú: pleasure.
Các tôn giáo có niềm tin, các tôn giáo có thẩm quyền mà thực chất chẳng phải tôn giáo gì cả, họ nói rằng muốn phụng sự Thượng đế bạn phải giải thoát khỏi sự thèm muốn. Các vị tu sĩ, các vị sannyasis Ấn Độ tìm cách khuất phục thèm muốn và trong quá trình đè nén này họ tự đồng hóa mình với một hình ảnh, với một danh xưng, và tự nghĩ như thế là mình đã giải quyết xong vấn đề. Trong thâm tâm họ bị sự thèm muốn đốt cháy nhưng họ đè nén chúng bằng lễ nghi, bằng kỷ luật, bằng mọi hình thức của sự rập khuôn, sự nỗ lực. Đây là một vấn đề lớn cho những ai muốn nghiêm túc đi tìm liệu có chân lý hay không, vì sự thèm muốn ấp ủ sinh ra vọng tưởng. Sự thèm muốn dẫn đến kinh nghiệm và khi bạn bám giữ vào kinh nghiệm thì nó trở thành ảo giác. Như thế chúng ta đã đồng hóa lòng yêu thương với sự thèm muốn rồi.
Phải chăng thèm muốn là một sự cảm nhận - tức là hoạt động của cảm giác cộng với tư tưởng? Cảm giác cộng với tư tưởng sinh ra thèm muốn. Đây là một sự thực đối với bạn hay chỉ là một khái niệm được nêu lên? Bạn có thể nhìn một vật với tất cả mọi cảm quan của bạn không? Và trong cái nhìn này sau đó bạn chấm dứt và không để cho tư tưởng xen vào cảm quan hay không? Đó là khi bạn nhìn cây cối, ngọn núi, mặt người, mặt hồ rung động không ngớt, với tất cả cảm xúc của bạn, với tai mắt và thần kinh của bạn, bạn có thể hoàn toàn nhìn ngắm thôi và không cho phép tư tưởng xen vào, can thiệp không? Nếu thế thì cảm nhận của bạn là trọn vẹn, còn nếu tư tưởng can thiệp vào trong cảm nhận đó thì nó sẽ trở nên phiến diện. Thế nên sự thèm muốn là phiến diện.
Rủi thay hay may thay - điều này tùy vào bạn - chúng ta đã đồng hóa sự thèm muốn với điều mà người ta gọi là yêu thương. Phải chăng yêu thương là sự thèm muốn? Phải chăng yêu thương tức là ràng buộc? Khi bạn bị ràng buộc vào một thứ gì thì bạn chính là thứ đó. Khi bạn tự đồng hóa mình hoàn toàn với một thứ gì thì bạn chính là thứ đó. Tại sao lại có thôi thúc phải đồng hóa, phải bị ràng buộc? Tại sao một người bị ràng buộc vào một người khác? Không phải sự ràng buộc sẽ sinh ra sợ hãi hay sao, sợ bị mất cái mình đang bị ràng buộc? Khi bị ràng buộc bạn dễ trở thành ghen tị, sợ hãi, lo âu, những điều đó hẳn thật hiển nhiên. Bạn bị ràng buộc do sự thiếu thốn, sự cô đơn của chính mình. Và xuất phát từ sự thiếu thốn cô đơn đó, một cảm giác không được đầy đủ, mà bạn bám víu nơi người khác. Như vậy ràng buộc là lòng thương yêu sao? Hễ nơi nào còn có sự ràng buộc, nơi đó còn sự lợi dụng. Mà chúng ta lại dùng chữ thương yêu để bao trùm tất cả. Và thương yêu cũng là ghen tị hay sao?
Tất cả những điều nói trên sẽ không còn là ràng buộc nếu bạn đã thấu hiểu rằng sự trống rỗng trong lòng bạn không bao giờ được lấp đầy bởi một cái gì khác. Bạn phải xem xét điều này. Bạn không cần phải trốn chạy, chỉ cần toàn tâm quan sát nó. Khi đó bạn sẽ thấy sự cô đơn ra đi hoàn toàn. Khi đó sẽ không có sự ràng buộc ấy nữa. Có lẽ sau đó người ta sẽ muốn biết yêu thương là gì. Trong sự ràng buộc có sợ hãi, lo âu, có thù ghét, có mọi tranh chấp trong mối liên hệ và hễ có tranh chấp thì có thể có yêu thương không? Hễ có tham vọng thì có thể có yêu thương không? Khi bạn xả bỏ hết tham vọng, lo âu, ràng buộc và hiểu một cách sâu sắc ý nghĩa và nội dung của lòng vui thú, lòng thèm muốn, thì có thể bạn sẽ tới với điều kỳ lạ mang tên là yêu thương. Và xuất phát từ đó mà có lòng từ bi. Lòng từ bi là dạng cao tột của trí thông minh. Khi bạn có lòng từ bi và do đó có trí thông minh, bạn sẽ làm đúng công việc vào đúng thời điểm của nó. Tôi hy vọng là bạn đang theo kịp tôi, không phải chỉ trên ngôn từ thôi, mà thực tế trong trái tim bạn, trong tâm thức bạn, bạn đang thực hành điều đó.
Và còn có câu hỏi, chết là gì. Thật là kỳ khi nói vấn đề này trong một buổi sáng dễ thương như hôm nay nhưng nó là một phần của cuộc sống. Nếu không chịu đi sâu vào trọn vẹn ý nghĩa của chữ này, không biết nó bao hàm những gì, bỏ qua không để ý đến nó, trốn chạy nó, tránh né nó, không nói về nó, tức là chia cắt cuộc sống, vốn là một sự vận động toàn vẹn. Chúng ta phải đi vào câu hỏi này. Không phải chỉ cho những bậc lớn tuổi mà cả cho người trẻ; tất cả chúng ta đều vướng vào đó. Thế thì sống là gì và chết là gì? Khi chúng ta nói sống, nói cuộc sống hàng ngày tức là ta muốn nói gì? Đó là một nỗ lực, một cuộc đấu tranh, một sự tranh chấp, sự vui thú, lo âu, nỗi bất an, sợ mất việc hay muốn được việc, kiếm một việc làm tốt hơn, v.v…, liên tục đấu tranh, liên tục nỗ lực, chỉ là sợ hãi và lo âu, thỉnh thoảng có chút niềm vui - đó là đời của ta, nếu bạn thành tâm tự xét. Đó là cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta bám víu vào cuộc đấu tranh thường trực này và gọi nó là đời sống.
Như thế thì chết là gì? Là chấm dứt cái được mệnh danh là sống ư? Đó là một sự chấm dứt về mặt sinh học? Hay chấm dứt dòng chảy vĩ đại này mà con người đã tạo nên bằng sự tranh chấp, phiền não, đau khổ, lo âu? Xin hãy nhớ chúng ta đang nói về chính đời bạn, chứ không phải mô tả cuộc đời của người đang nói hay của ai khác. Điều ta đang quan tâm là đời của chính bạn, cuộc sống hàng ngày của bạn. Nếu không có một sự chuyển hóa toàn triệt trong đời sống hàng ngày này thì ta cứ tiếp tục tạo thêm khổ não cho chính mình và cho người khác, điều mà đang tiếp diễn trước mắt. Nhưng chết là gì?
Có cái chết thuộc về sinh lý xảy ra vì tai nạn, vì bệnh tật. Thân, cơ thể tàn tạ và cuối cùng là chấm dứt. Thân có trí thông minh riêng của nó nhưng chúng ta đã hủy hoại trí thông minh đó bằng rượu, ma túy, bằng gắng sức và đấu tranh liên tục. Với những loại ma túy khác nhau và các chất hóa học, thuốc men chúng ta đã hủy hoại trí thông minh nội tại của cơ thể và vì thế thân phải chết do bị căng thẳng và sử dụng thường trực.
Có thể nào cơ thể, dụng cụ sinh học với bộ não của nó, không bao giờ bị hư hỏng chăng? Bộ não của ta khi già đi thì bị xuống cấp. Bộ não có thể trẻ mãi không già và không xuống cấp chăng? Nếu liên tục bị cọ xát, bị gắng sức, tranh đấu, về sinh lý cũng như về tâm lý thì đương nhiên bộ não phải xuống cấp. Có thể có một cách sống không dụng công cố gắng và do đó mà não cứ mãi trẻ trung, tươi thắm, sinh động, sáng suốt được chăng? Có thể! Người ta có ý thức hay không về cuộc đấu tranh liên tục hàng ngày trong bản thân mình - cố trở thành cái gì đó, cố bắt chước, cố rập khuôn, cố đạt lý tưởng, mà tất cả chúng đều là những quá trình có tính cơ giới cả? Bạn có biết, có ý thức về những gì bạn đang làm không? Khoan hỏi cách dừng lại, cách cắt bỏ cái nhịp điệu máy móc này mà hãy ý thức về nó thôi, không lựa chọn, chỉ nhìn nó thôi, vì rằng nếu bạn chỉ vừa dụng công thì lập tức bạn đã hủy hoại nó rồi. Bạn có thể quan sát mà đừng lựa chọn sự vận động cơ giới của bộ não không, hay một phần của não đã được nuôi dưỡng từ thế kỷ này qua thế kỷ khác để chỉ tác động một cách cơ giới không? Chỉ cần ý thức về nó, đừng cố sửa đổi gì cả, đừng cố điều chỉnh gì cả, vì nếu cố điều chỉnh thì sẽ có tranh chấp. Như chúng ta đã nói, ở đâu có nhị nguyên, có khác biệt giữa người quan sát và vật được quan sát, thì nơi đó phải có mâu thuẫn tranh chấp. Nơi không có người quan sát, chỉ có sự quan sát thì chỗ đó không có tranh chấp.
Trong ngày nếu bạn hoàn toàn tỉnh giác về mọi vận động cơ giới, về cách bạn tư duy, về sự thèm muốn, thì buổi tối khi đi ngủ, ngược với quan niệm của các nhà khoa học, bạn sẽ không có mộng mỵ. Tâm, bộ não sẽ yên tĩnh vì mọi vấn đề, mọi hoạt động của bạn đã được giải quyết ban ngày rồi, nếu bạn chú tâm, nếu bạn tỉnh giác. Nên khi bạn đi ngủ thì có sự thanh bình; bộ não có thể có vận động nhưng là một sự vận động êm đềm, không phải là sự vận động xáo trộn, lo âu. Do đó bộ não sẽ tự tìm thấy sự ngăn nắp, nhờ thế mà nó vẫn trẻ trung, tươi thắm. Nó không thể trẻ trung, tươi thắm, sáng suốt, nếu có bất cứ sự tổn thương nào. Khi không có sự tổn thương thì bộ não cũng không có sự đề kháng.
Ngoài sự chấm dứt của thể chất thì chết là gì? Nó là cái gì mà bạn sợ quá như vậy? Phải chăng đó là sự chấm dứt của kinh nghiệm bạn? Sự chấm dứt của tri thức bạn? Sự chấm dứt của tất cả mọi chuyện mà bạn đang bị ràng buộc về mặt tâm lý? Về mặt sinh lý, khi cái chết đến thì mọi thứ ràng buộc bạn sẽ ngưng lại. Bạn không thể mang theo nhà cửa, bàn ghế, sách vở của bạn nữa, kể cả ông đạo sư của bạn - liệu đó là nhà thuyết giảng Thiên Chúa giáo, Tin lành hay ông đạo sư người Ấn Độ. Thế thì chết là gì mà con người hoảng sợ tới như vậy? Họ sợ rằng có một cái gì sẽ ngưng lại, một cái gì bên trong, nội tại sẽ chấm dứt.
Vì biết rằng có một cái gì sắp ngưng lại nên ta muốn yên lòng, ta mới nghĩ phải có một sự tiếp diễn. Các người theo Ấn Độ giáo thời xưa cho rằng, phải có sự tiếp nối, đó là điều mà nọ gọi là sự tái sinh. Họ nói rằng bạn sẽ được sinh ra lại trong đời sau phù hợp với những gì bạn làm trong đời này. Nếu bạn biết hành xử đúng đắn, khiêm tốn, đạo đức thì trong đời sau của bạn sẽ tốt đẹp hơn và sau một loạt những lần tái sinh, tùy vào hành xử của bạn mà bạn sẽ tới với nguyên lý tối thượng. Đây thật là một lý thuyết nghe ra rất dễ chịu và hàng triệu người tin vào đó. Quan niệm của người Phật tử thì cho rằng đời sống là một dòng chảy liên tục, một sự vận động liên tục, và khi nó hiển thị thì có một sự hội tụ được sinh ra mà trở thành “tôi” hay “bạn”, những thứ này chịu sự thay đổi trong thời gian, trong sự vận động. Và dĩ nhiên người theo đạo Thiên Chúa cũng có niềm tin của mình về sự phục sinh, họ tin rằng những vị thánh Thần sẽ sống lại sau cái chết của thân xác.
Chúng ta đang nói về những điều khác hẳn. Xin hãy lắng nghe vì bạn sẽ thấy, nếu bạn thực sự thấu hiểu điều này thì sẽ có một vận động phi thời gian, một trạng thái phi thời gian. Trước hết, chúng ta đã nói thế giới là bạn và bạn là thế giới. Cơ bản của nội tâm con người là sợ hãi, lo âu, phiền não, thất vọng, không có hạnh phúc, thỉnh thoảng có chút niềm vui. Về mặt tâm lý đó là một sự vận động liên tục, dù con người ở đâu thì cũng chỉ là một dòng chảy đó thôi. Chỉ là một dòng chảy thôi nên bạn là thế giới và thế giới là bạn. Đó là một thực tế hiện tiền. Bạn có thể có tính khí khác nhau, năng khiếu khác nhau, khả năng khác nhau, phong cách khác nhau, nhưng tất cả đều chỉ là phản ứng của nền văn hóa mà bạn đã sống trong đó. Thế nhưng dòng chảy cơ bản thì vẫn là một*.
* Ta có thể hình dung như một biển thức mênh mông đang vận hành, trong đó “mỗi người” được ví như một đợt sóng nhỏ (ND).
Do đó không có con người riêng tư. Nếu đã là con người riêng tư thì phải bao gồm một cái gì toàn thể, một thể tính bất khả phân còn bạn thì không phải là một thể tính bất khả phân. Bạn bị phân chia, bị tách rời từng mảnh; vì thế thực tế bạn không phải là một con người riêng tư, bạn không phải bất khả phân. Bạn hoàn toàn trở thành riêng biệt trong nghĩa trọn vẹn của chữ này nếu bản thân bạn là sự trọn vẹn, trong đó không có hành động phiến diện nào cả. Từ trọn vẹn* có nghĩa lành mạnh, chân chính, thiêng liêng. Bạn là thế giới và thế giới là bạn và bạn hoàn toàn nằm trong dòng chảy liên tục này. Nhưng khổ não có thể đoạn diệt, lo sợ có thể được chấm dứt - không phải ngày mai mà ngay bây giờ; lúc đó thì bạn thoát khỏi dòng chảy - không phải bạn thoát đâu mà có một sự hiển thị** nằm ngoài dòng chảy hay được giải thoát ra khỏi dòng chảy vì dòng chảy này chính là thời gian.
* Whole.
** Manifestation.

Dòng chảy này là thời gian. Thế nên bạn cần tìm hiểu liệu thời gian có chỗ ngưng bặt. Thời gian sẽ ngưng bặt khi dòng chảy không còn vận động nữa. Dòng chảy này là sự sợ hãi, dòng chảy này là sự tranh chấp mâu thuẫn, dòng chảy là các mối phiền não và tất cả những hoang mang thất vọng mà ta đã dùng tư tưởng xây dựng nên. Nên đó là dòng chảy của thời gian. Khi dòng chảy ngưng lại, thời gian đã bặt thì sẽ có một chiều kích hoàn toàn khác.
Thế nên điều mà ta sợ sẽ mất khi cái chết bất ngờ ập đến chính là cấu trúc do tư tưởng dựng lên để thành cái “tôi”, cái hình thể, cái danh tính, và những ràng buộc vào các danh sắc đó, chúng chính là đau khổ, khoái lạc, lo âu. Tất cả những cái đó là cái “tôi”, cái “bạn”. Bạn có thể cho đó là một cái tôi cao hơn, nhưng đó vẫn là sản phẩm của tư tưởng. Cho nên sự vận động mà trong đó con người bị cột chặt vào là sự vận động của thời gian, được lèo lái bởi tư tưởng. Dòng chảy này càng to lớn bao nhiêu thì khối lượng tư tưởng càng lớn bấy nhiêu. Và khi dòng chảy này, vốn là ý thức của ta với tất cả nội dung của nó, tới một chỗ dừng thì thời gian sẽ bặt và do đó sẽ có một chiều kích hoàn toàn khác. Và khi bạn thấu hiểu điều này, không phải trên mặt ngôn từ, mà thật sâu sắc và sống với nó hàng ngày - và điều đó có thể làm được - thì bạn sẽ thấy cái chết có một ý nghĩa hoàn toàn khác.
Ojai 17.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

6


Chúng ta đã bàn bạc từ hơn năm mươi năm qua, đã gặp gỡ nhau rất nhiều, đã xét không những chỉ các vấn đề riêng của họ thôi mà cả những vấn nạn chung của loài người, về sự thất vọng to lớn, về những cảnh khổ, sự mò mẫm trong bóng tối. Và qua những ngày tháng này, dần dần người ta thấy rõ nếu con người không tự chuyển hóa mình một cách toàn triệt thì không những chúng ta hủy hoại bản thân mình thôi mà cả địa cầu. Xem ra phải cần một nhóm người hoàn toàn nghiêm túc, những người biết quan tâm không phải một cách nông cạn, hay chỉ biết điều chỉnh sơ sơ cho hợp với điều kiện và môi trường xung quanh, mà thật sự sâu sắc, những kẻ biết sống một cuộc sống trọn vẹn, hoàn toàn, thanh cao, đầy sức sống và sự sáng suốt. Nếu không, ta chỉ lãng phí những năm tháng ngắn ngủi còn lại.
Chúng ta đã nói về nhiều điều khác nhau, như sự thiếu thốn mối liên hệ giữa con người với nhau; đã nói đến quá trình của tư tưởng như một sự vận động mang tính vật chất trong thời gian và nói rằng tư tưởng là hoàn toàn không phù hợp để giải quyết những vấn đề của loài người vì bản thân tư tưởng đã tạo ra chúng. Tư tưởng không giải quyết được các vấn đề đó vì tư tưởng là một mặt phiến diện, một quá trình mang tính vật chất, và là sự vận động của việc đo lường. Chúng ta cũng nói đến sự sợ hãi và sự chấm dứt nó, đến sự thấu hiểu vấn đề phức tạp của lòng vui thú và sự diệt khổ, và chúng ta cũng nói đến lòng yêu thương cũng như cái chết.
Vì chúng ta cũng quan tâm tới vấn đề rất sâu sắc của sự tồn tại, chúng ta cũng không được gạt qua một bên tất cả vấn đề của tôn giáo, của thiền định, của câu hỏi phải chăng có một cái gì thiêng liêng thánh thiện hay không.
Biết cách lắng nghe cho đúng là một nghệ thuật. Biết nhìn sự vật đúng như nó là cũng là một nghệ thuật. Và biết tìm hiểu toàn thể nội dung của ý thức con người cũng là một nghệ thuật, nó chính là kết quả của hàng ngàn năm nỗ lực của con người, của khổ đau quằn quại lo âu. Tất cả đều nằm trong chúng ta. Khi biết nhìn nó, lắng nghe tất cả nội dung của ý thức, quan sát ý thức, thì đó là hành động.
Chúng ta thảo luận với nhau về tôn giáo, vì tôn giáo là yếu tố sáng tạo của một nền văn hóa mới. Nếu không có tôn giáo thì văn hóa sẽ chết, nền văn minh sẽ bị phân liệt. Thấy thế giới như thế nào, với tất cả những sự tàn khốc của nó, bạo lực, chiến tranh, chia cắt, thù ghét giai cấp, v.v…, tất cả những điều này cho thấy sự suy đồi của tâm thức con người, chúng ta có nhiệm vụ phải tìm ra tôn giáo là gì. Phải chăng đó là một tập hợp của những niềm tin? Phải chăng là thực hành nghi lễ, lặp đi lặp lại một cách vô tận những ngôn từ mà thực ra không có ý nghĩa gì cả? Phải chăng chủ nhật hãy đi nhà thờ, đi cúng đền, hay giáo đường Hồi giáo*, và tụng vài bài, vài câu? Nếu ta tự hỏi một cách nghiêm túc, đâu là sự cần thiết của mọi niềm tin, của mọi sự khẳng định? Niềm tin, khẳng định, xác quyết đều chia cắt con người. Trong ngôi làng bé nhỏ này mà đã có đến năm sáu nhóm tín đồ Thiên Chúa. Và trên thế giới còn có nhiều sự chia cắt hơn nữa được sinh ra bởi cái gọi là tôn giáo - tín đồ Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo và vô số giáo phái của họ. Thế thì đâu là ý nghĩa của niềm tin? Hay chính niềm tin đã ngăn chặn ta không cho ta hiểu thế nào là chân lý?
* Mosque.
Phải chăng tôn giáo bị tách rời ra khỏi cuộc sống hàng ngày hay tôn giáo là một sự vận động, mang lại trật tự ngăn nắp trong đời sống của ta? Nếu quả thật tôn giáo bị tách rời ra khỏi cuộc sống hàng ngày thì nó chỉ gây thêm rối loạn, thêm mâu thuẫn.
Muốn tìm thấy ý nghĩa của tôn giáo ta phải có sự ngăn nắp trong cuộc sống của mình. Đời sống của ta bị rối loạn, mâu thuẫn, lộn xộn, phiến diện, chia chẻ; làm sao một cuộc sống như thế có ngăn nắp được? Có ngăn nắp không có nghĩa là làm theo một kế hoạch nhất định. Sự ngăn nắp chỉ đến khi ta nhận ra, hoàn toàn tỉnh giác mà không chọn lựa gì cả, về sự rối loạn của chính mình, về cuộc sống hàng ngày bị mất thăng bằng của mình. Từ sự tỉnh giác về sự rối loạn, nhưng không chọn lựa, sẽ sinh ra sự ngăn nắp; tức là nhờ sự thấu hiểu, sự quan sát đời sống hàng ngày vốn bị rối loạn. Sự quan sát đó không dựa lên trên sự kết án, sự bào chữa, sự đánh giá. Xuất phát từ tâm tỉnh giác không lựa chọn, sự ngăn nắp sẽ đến và nó là một vật sống động; do đó nó vận động liên tục. Mặc dù trong thế hệ hiện đại này đạo đức không đóng vai trò quan trọng, nhưng đạo đức chủ yếu là sự ngăn nắp. Và nếu không có ngăn nắp thì làm sao có sự sáng suốt?
Một phần của điều này chạm đến câu hỏi về thiền định; nếu không có sự ngăn nắp trong đời, nếu không có đạo đức trong hành động hàng ngày thì làm sao bạn nói đến thiền định được? Bạn có thể ngồi tréo chân từ đây cho tới cuối đời, trong mười kiếp sau hay một triệu lần tái sinh nữa, hít thở cho đúng cách như bạn học tại Ấn Độ, nhưng không bao giờ bạn đến được với chân lý vì cuộc đời bạn bị rối loạn. Do đó bạn phải đưa sự ngăn nắp vào trong đời ngay cả trước khi bạn chỉ nghĩ về thiền định; nếu bạn “thiền định” mà thiếu sự ngăn nắp thì đó là một sự trốn chạy tinh vi và vì thế không có ý nghĩa gì cả, không có nội dung gì cả. Xin hãy thấy điều này. Thiền định là điều tuyệt diệu nhất nhưng cách thiền định của bạn không phải thế. Cho nên phải có sự chân chính trong mối liên hệ, và điều này chỉ có được nếu vắng bóng sự sợ hãi. Sự ngăn nắp không do tư tưởng xếp đặt nên. Nếu nó do tư tưởng nghĩ ra thì nó chỉ gây thêm rối loạn.
Muốn tìm đến với những gì thiêng liêng nhất, thánh thiện nhất, ta phải có một cuộc đời dựa vững chắc trên sự chân chính ngăn nắp. Và điều quan trọng của mọi phép thiền định là đến với sự tĩnh lặng này. Ngay cả về mặt sinh học hay thể chất, muốn thấy mọi việc sáng tỏ, muốn nhìn cây cối, ánh sáng trên lá, màu cỏ xanh tươi và những ngọn đồi, muốn thấy chúng một cách sáng tỏ thì tâm bạn phải yên tĩnh. Nó thật là đơn giản, chỉ chúng ta mới làm cho nó phức tạp. Muốn thấy điều gì rõ ràng, muốn quan sát một sách sáng tỏ, bạn phải có một cái tâm yên tĩnh, không phải ư? Nếu bạn cứ nói luôn miệng, bạn sẽ không thấy cái cây, bạn không thấy chiều sâu của bóng cây, vẻ đẹp của thân cành. Bạn chỉ có thể thấy nó khi tâm bạn yên.
Hãy thấy sự thực của điều này, thấy cái lý của nó, rằng bạn chỉ có thể thấy vật gì một cách rõ ràng khi tâm bạn yên. Bạn không thể nghe ai nói gì với bạn nếu bạn cứ nói thầm suốt buổi. Thế nên nếu muốn nghe ai nói gì thì bạn phải im lặng. Sự yên lặng là tuyệt đối cần thiết để cảm nhận bên ngoài và bên trong. Cái bên ngoài và bên trong là một vận động duy nhất, chúng không hề khác nhau. Nó là một vận động duy nhất nhưng chúng ta đã chia cắt nó ra bên ngoài và bên trong. Khi quan sát cái bên ngoài một cách rõ ràng, bạn sẽ phát hiện cái bên trong, và sẽ thấy đó chỉ là một vận động. Muốn thấy điều này một cách rõ ràng, bạn phải nhìn, quan sát một cách yên lặng.
Chúng ta đang cùng nhau xem xét ý nghĩa và chiều sâu của thứ được gọi là tôn giáo, để xem nơi đó có cái gì không bị suy đồi, không bị xâm phạm bởi tư tưởng chăng, đó không phải là ảo giác, không phải là biến hiện của chính sự thèm khát hay kinh nghiệm của chính chúng ta, mà là một điều chưa bao giờ bị tư tưởng chạm đến, một điều hoàn toàn nguyên sơ bản lai. Và muốn đến với nó ta nói rằng phải có sự ngăn nắp trong đời sống hàng ngày, đó là cốt tủy của đức hạnh.
Phải chăng có nhiều loại tĩnh lặng khác nhau? Có sự tĩnh lặng giữa hai tiếng ồn, đó là tĩnh lặng không? Có sự tĩnh lặng giữa hai tư tưởng, đó là tĩnh lặng không? Có hòa bình giữa hai cuộc chiến tranh, đó là hòa bình không? Thế thì tĩnh lặng là gì? Phải chăng nó do tư tưởng tạo ra? Nó là cái được nghĩ ra? Phải chăng nó là cái được chế tạo ra vì bạn tưởng rằng nếu muốn thấy “thiên đường” bạn phải im lặng? Thế nên bạn nói: “Làm sao tôi im lặng đây? Hãy dạy cho tôi cách im lặng”. Xuất phát từ ý muốn đi tìm tĩnh lặng là gì, con người bắt đầu nghĩ ra hệ thống, phương pháp, phương tiện để tới với nó.
Bây giờ một khi bạn hiểu rõ điều này, bạn sẽ không bao giờ đụng đến một hệ thống nào cả; vì điều gì là điều nằm trong một hệ thống và một phép tập luyện? Lặp lại, tập luyện, tập luyện, tập luyện, điều khiển, nỗ lực dụng công, điều này lại mang tính cơ giới. Như chúng ta đã nói, một phần của não bộ chúng ta đã bị cơ giới hóa. Chúng ta đã nói tư tưởng cơ bản là vật chất vì tư tưởng là sự lặp lại hay chỉ là phản ứng, là ký ức. Và khi bạn đã sống một cuộc đời có tính cơ giới rồi và muốn siêu vượt nó bằng một quá trình cơ giới khác, thí dụ như hệ thống, phương pháp, tập luyện, thì bạn vẫn cứ mãi mang tính cơ giới thôi. Nên một khi bạn đã thấy sự thực của điều này, cái nguyên tắc lý lẽ của điều này, bạn sẽ không bao giờ tới với hệ thống, phương pháp, tập luyện nữa. Hễ cái gì được nghĩ ra, được tư tưởng xếp đặt - dù cho tuyệt đẹp, có lý, dù cũ xưa, truyền thống đến mấy - cũng chỉ làm tâm thêm tính cơ giới và cuối cùng tâm sẽ bị cùn lụt đi. Tri kiến đích thực về điều này sẽ chấm dứt yêu cầu phải có hệ thống và phương pháp.
Nếu sự tĩnh lặng không do tư tưởng xếp đặt nên thì nó là gì? Muốn nhìn sáng tỏ bạn phải yên tĩnh, muốn nghe sáng tỏ thì tâm không được nói thầm. Nếu bạn thấy sự thật của điều này thì nó sẽ tự xảy ra. Bạn không cần phải dụng công mới có thể bước vào trạng thái yên tĩnh.
Thế thì cái yên tĩnh là cái gì? Chúng ta thử xem nó bằng cách xét sự tỉnh thức. Tinh thức là gì, ý thức một điều là gì? Khi bạn đang ngồi đây, bạn ý thức về cây cối, bóng râm của chúng, ánh sáng trên lá cây, sự rung động của những chiếc lá. Nếu bạn nhìn một ngọn cây, bạn sẽ ý thức về nó. Bạn có thể nhìn mà không nói gì về nó không? Chỉ nhìn thôi, không nêu danh tính, không cho nó một tính chất, hay mô tả, chỉ quan sát thôi.
Chúng ta không bao giờ chịu quan sát đơn thuần: ta nhìn và nói: “Đẹp quá”, “xấu quá”, “có ích quá”, tùy nơi cách của chúng ta. Thế nên chúng ta không bao giờ quan sát sự vật đúng như nó là. Bây giờ bạn có thể quan sát không, thấy vẻ đẹp của toàn thể cảnh vật, tất cả các ngọn đồi, sự tĩnh mịch của chúng, bóng đậm của chúng, chỉ quan sát thôi đừng có phản ứng nào của tư tưởng, đừng có phản ứng nào của thích hay không thích? Chỉ quan sát thôi, đó là sự tỉnh giác. Hãy tỉnh giác về vũ trụ quanh bạn rồi tỉnh giác về vũ trụ trong bạn. Vũ trụ bên trong của bạn phức tạp hơn. Vũ trụ bên trong chính là toàn thể ý thức chúng ta. Và ý thức chính là nội dung của nó. Vũ trụ bên trong phức tạp hơn, tinh tế hơn; và nếu ta đủ năng lực và sáng suốt để thâm nhập thì có một chiều sâu khủng khiếp ở trong đó. Thế nên hãy tỉnh giác về cái bên ngoài, nhìn ngắm nó đi, hãy ý thức về những phản ứng của bạn về nó và sau đó hãy xả bỏ phản ứng và chỉ quan sát. Rồi cũng như thế mà đi vào vũ trụ nội tại của chính mình, đó là ý thức của bạn với tất cả nội dung của nó, những kinh nghiệm, những tri thức, những ý thích, những sợ hãi, những lo âu, những đau khổ phiền não. Hãy ý thức về nội dung to lớn này mà người ta đã tích lũy hàng ngàn năm, hãy ý thức về nó.
Liệu ta có thể ý thức một cách hoàn toàn không? Hay ta phải lấy một đoạn này sau đoạn kia, một lớp này sau lớp kia, một mặt này sau mặt kia? Nội dung của ý thức làm nên ý thức; không có nội dung thì không có ý thức, như ta đã biết. Bạn sẽ hiểu ý thức mình từng đoạn một hay có thể có sự thấu hiểu một cách toàn thể? Nội dung của ý thức bạn chính là những gì quy định bạn - như một tín đồ Thiên Chúa giáo, một nhà theo phái xã hội, bị quy định bởi khí hậu, thực phẩm, bởi tất cả những điều mà con người đã tự làm cho mình và làm cho người khác, sự riêng biệt, những niềm tin của người đó. Tất cả điều đó là ý thức. Muốn thấu hiểu những điều đó phải chăng bạn sẽ xét từng cái từng cái? Hoặc có một cách để thấy nó một cách toàn diện, một cách không cần đến thời gian?
Có một phương thức để thấy nó một cách toàn diện mà không cần phải đi từng mặt. Và điều đó khả dĩ nếu bạn hiểu được sự tỉnh giác là gì. Có sự tỉnh giác về thế giới bên ngoài bạn, nó chăm chú nhìn phản ứng của bạn đối với thế giới bên ngoài và quan sát thế giới bên ngoài mà không có phản ứng gì cả. Và hãy đi từ thế giới bên ngoài vào bên trong với tất cả nội dung của bên trong, đó chính là ý thức của bạn và hãy quan sát nó. Thoạt tiên bạn sẽ phản ứng một cách tự nhiên: “Ta không thích”, “ta thích”, “đẹp biết bao”, “thật vui thú biết bao”, “ta mong giữ được một chút của cái này cái nọ”, vân vân và vân vân. Xem xét những phản ứng này và hãy vượt lên nó. Nếu bạn vượt lên được nó thì bạn tức khắc thấy được toàn bộ nội dung.
Một phần của thiền định là: thấy bên ngoài đúng như nó là - không phải như bạn ao ước - tức là có chiến tranh, tranh chấp, thù hận, vô số những sỉ nhục và thương tổn mà con người phải chịu nhận lãnh, đau khổ, phiền não, lo âu, sự cô đơn, thiếu thốn tình yêu; cần quan sát tất cả. Sau đó điều gì sẽ xảy ra? Bạn sẽ thấy năng lượng sẽ được tập hợp, vì bây giờ đã có sự ngăn nắp, không còn sự phung phí năng lượng. Trong cuộc sống hàng ngày nếu bạn chỉ cần có sự ngăn nắp thông thường thôi, bạn đã đỡ phung phí năng lượng rồi. Chỉ nơi nào không có ngăn nắp, chỗ đó mới có phung phí năng lượng. Hễ có ngăn nắp thì năng lượng liền được tụ hội. Và với năng lượng này bạn hãy quan sát thế giới cũng như quan sát chính bạn; và hãy nhận ra thế giới bên ngoài lẫn tại đây - bên trong - thật ra nó chỉ là một vận động duy nhất. Có một sự tụ hội của năng lượng nếu có sự quan sát mà không có người quan sát. Người quan sát là quá khứ; quá khứ tức là mọi thành kiến, mọi ý tưởng, mọi kết luận, mọi phản ứng truyền thống của bạn. Người quan sát là quá khứ và người quan sát gặp gỡ cái hiện tại, cái đang là, và tìm cách diễn dịch nó theo cách quá khứ đã kết luận. Đúng thế không? Điều đó biến quá khứ trở thành tương lai bằng cách thêm sự vận động của thời gian. Bạn là kết quả của quá khứ. Đó là một thực tế. Một phần của trí não bạn là kết quả của một loạt những phiêu lưu, biến cố, sự kiện, kinh nghiệm, tri thức mà tri thức thì bao giờ cũng là quá khứ cả. Sự vận động này của quá khứ gặp gỡ hiện tại và diễn dịch hiện tại hay điều chỉnh hiện tại cho hợp với quá khứ, và do đó cho một vận động mới hướng đến tương lai. Quá khứ khi nó gặp hiện tại là một vận động; hiện tại cũng là một vận động; nếu quá khứ không đụng đến hiện tại nữa thì không có vận động, thì thời gian sẽ ngưng bặt.
Như thế thì thiền định sẽ mang lại sự ngăn nắp trong đời sống, đồng thời sẽ tập hợp một năng lượng lớn lao và chấm dứt sự tranh chấp giữa người quan sát và vật được quan sát, điều này lại sản sinh thêm năng lượng. Hễ có sự phân cách giữa người quan sát và vật được quan sát thì còn có tranh chấp. Khi bạn đang sân hận, trong lúc sân hận, trong giây phút của sân hận thì không có sự chia cắt; thế nhưng chỉ một giây sau sự chia cắt sẽ đến: “Ta không được sân hận” hay “tại sao ta lại sân hận?”. Chỗ nào có chia cắt, chỗ đó có tranh chấp. Mối tranh chấp mâu thuẫn với tất cả sự mãnh liệt của nó là một sự phung phí năng lượng. Sự tập hợp của toàn thể năng lượng chính là chỗ bắt đầu của sự tĩnh lặng.
Chúng ta sống những cuộc đời rối loạn, ý thức của chúng ta náo động, luôn luôn nằm trong sự tranh chấp, liên tục lựa chọn, bác bỏ, thừa nhận, thống trị, bị ràng buộc. Đó là một sự đấu tranh liên tục, luôn luôn sôi sục, và sự sôi sục này là năng lượng bị phung phí. Làm cho sự náo động này đến một chỗ dừng là một phần của thiền định. Chứ không phải kiểm soát và điều khiển. Lúc mà bạn điều khiển thì chủ thể nào điều khiển? Xin hãy đi vào chính bản thân mình. Chủ thể điều khiển là một phần của tư tưởng. Khi chủ thể điều khiển tìm cách kiểm soát tư tưởng thì đó là sự phung phí năng lượng. Nhưng nếu bạn đã thấy chân lý, thấy chủ thể điều khiển chính là đối tượng được điều khiển thì mối tranh chấp sẽ đến chỗ dừng lại. Điều đó có nghĩa, bạn có thêm năng lượng và năng lượng này là cần thiết, cái năng lượng toàn vẹn này, thứ không do sự cọ xát tạo ra. Sự cọ xát cũng có năng lượng của nó nhưng năng lượng ta đang nói đến không do tư tưởng sinh ra và vì thế không phải là kết quả của sự cọ xát. Thứ năng lượng này là cần thiết để đến với cái thiêng liêng, điều thiêng liêng đó chính là tâm thức tôn giáo.
Khi đó thiền định chính là rũ bỏ cho rỗng nội dung của ý thức - tức là mọi sợ hãi, lo âu, các tranh chấp trong các mối liên hệ - là chấm dứt phiền não và do đó mà xuất hiện lòng từ bi. Sự ngưng bặt của nội dung ý thức chính là sự tĩnh lặng hoàn toàn. Khi đó thứ tĩnh lặng này chứa đầy năng lượng. Nó không phải trống rỗng năng lượng. Nó không phải là thứ tĩnh lặng đang mong tìm thêm một cái gì.
Thế nên thiền định không phải là sự lặp lại chân ngôn*, không phải chỉ ngồi đó mà hít thở cho cẩn thận. Thiền định phải là một cái gì không hề mong cầu, không hề tạo dựng, không được xếp đặt. Tức là một cái không có sự đo lường. Nếu ta có thể đi xa như thế - không, không có chuyện xa gần - nếu ta đã làm được thế, thì đó chính là cái trống rỗng ấy.
* Repetition of mantras.
Xin chú ý. Các nhà khoa học nói rằng trong sự trống rỗng này có năng lượng. Chúng ta nói rằng, khi có quá trình thiền định, có sự vận động thiền định này, thì có một dạng hoàn toàn khác về ý thức được sinh ra từ một kích chiều mà trong đó có tất cả năng lượng được tập hợp bởi thiền định, bởi sự ngăn nắp trong đời sống. Bạn có tất cả năng lượng - năng lượng đang hiện diện đó. Và trong sự trống rỗng này không có vật gì. Không có vật gì cả. “Sự rỗng không” không phải là một vật. Vật tức là tư tưởng. Tư tưởng là một quá trình vật chất. Cho nên trong sự trống rỗng này không hề có tư tưởng. Và do đó không có một chủ thể chứng nghiệm đang chứng nghiệm sự trống rỗng hoàn toàn này*.
* Kinh Duy Ma Cật, phẩm Văn Thù Sư Lợi thăm bệnh, có đoạn viết “Các cõi Phật đều rỗng không” (ND).
Vẻ đẹp là gì? Nó cũng là phần của cuộc sống chúng ta. Phải chăng là bóng đậm? Là đường nét của một tòa kiến trúc? Là bức tranh? Là những nền văn hóa tuyệt diệu trên thế giới? Là những ngọn núi? Là những dòng nước chảy? Là khuôn mặt tuyệt đẹp? vẻ đẹp là gì? Liệu vẻ đẹp có còn tồn tại khi không có tâm điểm của sự tranh chấp? Khi bạn nói: “Thật là đẹp” thì có tâm trạng gì nằm sau câu đó? Tính chất, tự tính của cảm xúc, của một điều dâng trào lên là gì? Hay cái đó là cái đẹp? Hay vẻ đẹp là sự vắng bặt hoàn toàn của một người quan sát? Nếu chỉ có thuần túy sự quan sát, trong đó không có sự so đo lựa chọn, không có chia cắt, thì nơi đây phải có ý nghĩa này của vẻ đẹp. Có thể đó là cái thiêng liêng. Không phải là vẻ đẹp bên ngoài của một người đàn bà hay đàn ông. Có vẻ đẹp của đàn bà và đàn ông, vẻ đẹp của một ngọn cây, vẻ đẹp của một đường nét, của một tia nước, của sóng nước lăn tăn nhưng vấn đề là tìm ra hay đến với tính chất của sự vắng bóng hoàn toàn của bất cứ một điều gì có tính cách mâu thuẫn, tức là một điều gì trọn vẹn, hoàn toàn, lành mạnh, có lý. Một tâm thức như vậy là một tâm thức tuyệt đẹp, nó chính là tâm thức tôn giáo. Tại vì trong đó bạn đã cho toàn thể năng lực được biểu hiện.
Có một điều được xem là thiêng liêng không bị tư tưởng xúc chạm đến, nó không bị đụng đến hay bị giảm phẩm chất bởi con người với lòng thèm muốn hay sợ hãi, tranh chấp, ác tâm của họ. Và đến với nó không phải chỉ là được việc cho thiền định mà là sự chấm dứt của khổ mà điều đó cũng là chỗ bắt đầu của trí huệ. Trí huệ không phải bằng học hỏi nơi sách vở hay đến trường mà có. Khi có sự chấm dứt phiền não trong tâm bạn, trong một con người, thì xuất phát từ đó mà sinh trí huệ.
Và khi một con người tự chuyển hóa mình, khi chính bạn đã chuyển hóa mình một cách toàn triệt, chính bạn đã tác động lên cả toàn thể ý thức của cả loài người. Bạn chính là loài người, bạn là sự vận động của loài người. Đây là một thực tế đang diễn ra. Nếu bạn thay đổi, bạn tác động lên cả thế giới. Đó là trách nhiệm to lớn của bạn. Chúng ta cần cẩn thận với tất cả những thể nghiệm tâm lý, những thể nghiệm chủ quan vì chúng rất có hại.
Vì thế thiền định bao hàm một cuộc đời rất ngăn nắp và do đó rất đức hạnh, rất đạo lý. Và nó cũng bao hàm một sự thấu hiểu cái đẹp cũng như chiều sâu của nó. Nó cũng đồng nghĩa với sự rũ bỏ của một loại ý thức mà nó chính là bạn, với tất cả mọi sự ràng buộc, mọi sợ hãi, hy vọng, tuyệt vọng, sự rũ bỏ tất cả những điều đó chỉ bằng cách quan sát.
Sau đó thì bạn có năng lượng mà chỉ duy nhất nó mới phát hiện được cái miên viễn, cái không có thủy, không có chung.
Ojai, 18.4.1976
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

TÍNH TOÀN THỂ CỦA ĐỜI SỐNG


Khi quan sát những gì đang xảy ra trên thế giới, ta tự hỏi tại sao lại có quá nhiều rối loạn, tại sao người lại tiêu diệt người. Tại sao lại có những ngân sách ghê gớm như thế cho vấn đề vũ trang? Tại sao loài người lại tự chia cắt mình để thành những quốc gia riêng biệt phù phiếm? Tại sao các tổ chức tôn giáo lại có định chế, các tôn giáo lớn lại chia cắt chính mình trên toàn thế giới? Tại sao lại có một sự phân chia như vậy? Chúng ta có khuynh hướng cho rằng có một thể tính bên ngoài đã sinh ra sự hỗn loạn này, rằng “Thượng đế” hay một thể tính cao tột nào đó, đã tạo ra con người xong rồi lại bỏ rơi con người trên trái đất. Những gì con người đã gây ra thật là khó tin và đáng sợ, không phải nói về tha nhân mà ngay trong chính nội tâm mình. Tại sao trên thế giới có quá nhiều người bị bệnh tâm thần như vậy? Tại sao lại có một cuộc đấu tranh liên tục giữa hai phái nam nữ? Tại sao trong tâm người có sự rối loạn như thế, điều mà dĩ nhiên sẽ biểu lộ ra bằng sự rối loạn bên ngoài?
Đời sống của chúng ta đã tạo nên xã hội mà trong đó chúng ta đang sống. Xã hội không được tạo thành bởi những biến cố bất thường nào mà bởi cuộc sống bất thường mà ta đang sống, không phải chỉ do ta thôi mà do các thế hệ đã qua. Chúng ta có thể cùng nhau đi vào đề tài này không, suy nghĩ về nó, và không những thế mà còn sẽ đi xa hơn phạm vi của tư tưởng không? Chúng ta luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng tư tưởng được sinh ra bởi ký ức mà ký ức là kết quả của tri thức và kinh nghiệm. Và vì thế tư tưởng luôn luôn bị hạn chế, vì tri thức mãi mãi bị hạn chế, thực tế là không bao giờ có tri thức toàn vẹn về bất cứ sự vật gì. Tư tưởng, vì từ đó sinh ra, nên cũng hết sức hạn chế. Và thế giới mà chúng ta đang sống, đời sống hàng ngày của chúng ta, sự nghiệp, nỗi lo âu, nỗi sợ hãi và đau buồn của chúng ta đều là kết quả của tư tưởng chúng ta, đều là sản phẩm của hoạt động hàng ngày.
Chúng ta có thể xem đời sống như một thể toàn vẹn không, các thứ giáo dục, nghề nghiệp, ý thích, công việc, và tất cả mọi nhọc nhằn đang tồn tại trong nội tâm, những mâu thuẫn tâm lý, nỗi lo âu, sợ hãi, sự vui thú, lòng đau buồn không? Chúng ta có thể xem chúng như một thể toàn vẹn không và đừng để tư tưởng săm soi một góc cạnh riêng biệt, với một khuôn mẫu riêng biệt hay đừng đeo bám vào một kinh nghiệm riêng biệt, đừng nhìn cuộc đời từ một góc nhìn duy nhất không? Tại sao chúng ta lại sống theo cách mà chúng ta đang sống? Tại sao có quá nhiều rối loạn trên thế giới và trong mỗi chúng ta? Phải chăng sự rối loạn trên thế giới khác với rối loạn của chúng ta?
Tại sao có sự rối loạn bên ngoài và bên trong? Phải chăng đó là hai sự rối loạn tách biệt? Hay chỉ là một quá trình duy nhất? Sự rối loạn bên ngoài không hề khác với sự rối loạn trong tôi, mà nói đúng hơn sự rối loạn này là một sự vận động, nó lan ra bên ngoài và đi vào bên trong. Nó như một cơn thủy triều cứ đến và đi một cách vô tận. Chúng ta có thể bắt đầu thiết lập lại sự ngăn nắp trong đời mình được không? Vì nếu không có sự ngăn nắp thì không thể có tự do. Sự ngăn nắp hoàn toàn - chứ không phải thỉnh thoảng, không phải mỗi tuần một lần, mà trong đời sống hàng ngày - sẽ mang lại không những sự tự tại mà trong sự ngăn nắp đó sẽ có lòng yêu thương. Một tâm thức rối loạn, hoang mang, luôn nằm trong mâu thuẫn sẽ không có hay không ý thức được lòng yêu thương là gì.
Có thể có một sự ngăn nắp tuyệt đối không? Chúng ta đang dùng từ tuyệt đối trong ý nghĩa đích thực của nó, hoàn toàn, trọn vẹn, không phải một thứ ngăn nắp được trí năng mang lại, không phải thứ ngăn nắp dựa trên các giá trị, hay thứ ngăn nắp đến từ áp lực của môi trường xung quanh, hay thứ ngăn nắp vì muốn rập khuôn với một quy định hay mẫu hình nào đó. Chúng ta đang nói đến một sự ngăn nắp hoàn toàn và tuyệt đối trong đó không có đường phân ranh nào với sự rối loạn cả. Chúng ta đang tự hỏi liệu có một sự ngăn nắp mà trong đó không bao giờ có sự rối loạn nữa.
Tại sao tâm thức lại chịu chấp nhận và sống trong sự rối loạn, một tâm thức bao gồm bộ não, các phản ứng cảm xúc của ta, các phản ứng của giác quan ta? Nếu bạn tự quan sát tâm mình, tức là cuộc sống của chính bạn, nó dựa trên tâm, trên tư tưởng của bạn, trên cảm xúc, kinh nghiệm, ký ức, hối tiếc, lo ngại của bạn, thì tại sao cái tâm này, cái đã có tất cả trong ý thức mình, lại chịu chấp nhận sự rối loạn? Không phải chỉ là sự rối loạn tâm thần, chỉ chấp nhận rối loạn và sống với sự rối loạn, chỉ làm quen với rối loạn mà vấn đề là tại sao tâm lại khởi ý phân chia hai thứ, khởi ý về rối loạn và ngăn nắp, liên tục có sự điều chỉnh dàn xếp? Phải chăng đó là điều không thể tránh khỏi? Đó là tình trạng tự nhiên của chúng ta hay sao? Nếu đó là sự tự nhiên thì ta phải sống với sự tranh chấp này, trong sự rối loạn này, từ lúc mới chào đời đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Và nếu không phải là sự tự nhiên, điều mà xem ra là rõ, thì nguyên nhân của nó là gì? Cơ sở của nó là gì, nguồn gốc của tất cả chúng là gì? Phải chăng cơ sở đó tùy nơi thái độ đặc biệt của ta, sự thèm muốn riêng tư của ta?
Ta muốn tìm ra cơ sở của sự rối loạn này, nguồn gốc của nó. Muốn thế thì làm sao tiếp cận được vấn đề? Làm sao tiếp cận được vấn đề rối loạn để giải quyết được nó một cách triệt để? Cách tiếp cận của bạn là sao? Phải chăng bạn tiếp cận để tìm sự ngăn nắp từ trong sự rối loạn và do đó sự tiếp cận đã được định hướng trước? Giả định rằng tôi đang ở trong sự rối loạn và tôi có mong ước được sự ngăn nắp. Chỉ nội cái mong ước này đã quy định sự ngăn nắp phải như thế nào, trong lúc nếu tôi tiếp cận nó bằng cách tìm gốc rễ của nó thì chiều hướng của tôi không bị phân tán, bị phung phí trong các hướng của trí năng, của ngôn từ hay của cảm xúc, mà toàn bộ sự chú tâm của tôi chỉ hướng về gốc rễ của nó. Thế thì bạn tiếp cận ra sao, với tính chất là con người, sống trong thế giới này, bên ngoài và bên trong đều bị rối loạn? Chúng ta phải thật rõ về cách tiếp cận của chúng ta.
Nếu điều này đã rõ thì ta hãy cùng nhau xem nguồn gốc của sự rối loạn là gì. Phải chăng nó là một sự tự mâu thuẫn? Phải chăng sự thèm muốn đã tạo ra sự chia cắt trong chúng ta? Chỗ nào có sự chia cắt, chỗ đó có tranh chấp và tranh chấp là rối loạn. Có tranh chấp là có rối loạn dù nó chỉ là bé nhỏ hay là thứ tranh chấp sẽ sinh ra khủng hoảng to lớn. Thế nên phải chăng sự tranh chấp của chúng ta là tự mâu thuẫn, nói một đường, làm một nẻo; là có những hình ảnh lý tưởng và luôn luôn cố tập làm theo những hình ảnh đó? Phải chăng đó là sự khát khao của chúng ta muốn trở thành một cái gì? Hay sự tranh chấp này do tư tưởng tạo nên? Như chúng ta nói, tư tưởng là hạn chế và vì thế nó cứ chia cắt cái bên ngoài và bên trong, cái “bạn” và cái “tôi”. Tư tưởng tranh đấu để trở thành một cái gì, cái bây giờ không có. Phải chăng sự chia cắt liên tục này, sự trở thành, sự mâu thuẫn, sự rập khuôn, sự so sánh, sự bắt chước về mặt tâm lý chính là những biểu hiện khác nhau của một nguyên nhân trung tâm?
Thế thì nguyên nhân trung tâm là gì, nguồn gốc của tất cả mọi thứ? Bạn đang xét tâm mình, do đó bạn ý thức về cách bạn tiếp cận vấn đề, bạn ý thức về mâu thuẫn nội tâm của mình, về sự tranh chấp, về sự chia cắt, về sự e ngại của mình. Ta có thể ý thức về tất cả những điều đó không? Hay ta chỉ ý thức về một mặt của nó, mặt này vốn đòi hỏi một câu trả lời tức khắc. Nếu tôi quan tâm về việc sinh nhai, tôi sẽ không quan tâm đến những điều khác vì đó là một yêu cầu tức khắc. Tôi cần tiền bạc, thực phẩm; tôi có con cái, trách nhiệm, vì thế sự tiếp cận của tôi đến vấn đề này là làm sao phải có công ăn việc làm. Hay nếu tôi đã quen nghĩ theo một khuôn mẫu, theo một chiều hướng và tôi không biết mình bị ràng buộc trong khuôn mẫu đó thì khi tiếp cận vấn đề này, tôi sẽ đến với nó theo cách mà tâm tôi hay nghĩ. Hay nếu tôi là người nhiều cảm tính, mơ mộng, thì cách tiếp cận của tôi sẽ là tùy tiện, không rõ ràng chính xác.
Do đó ta phải thật rõ mình tiếp cận vấn đề như thế nào vì nếu ta sử dụng bất cứ mẫu hình nào ta cũng không thể giải quyết được nó. Vì thế câu hỏi là tâm ta có được tự do không bị ràng buộc bởi mẫu hình nào cả hay không? Bởi những hình ảnh lý tưởng không? Bởi những ý hướng có sẵn không? Bạn có ý thức không về sự rối loạn trên thế giới, mỗi ngày mỗi tệ hại hơn? Và sự rối loạn trong tự tâm mà chúng ta đã thừa kế, mà chúng ta đã thêm vào? Bạn có ý thức hay không về xã hội mà chúng ta đang sống, nó cũng hoàn toàn rối loạn, trong đó có một sự bất công lớn lao: Có hàng triệu người thiếu ăn và có xã hội phong phú; có sự độc đoán và có tự do dân chủ muốn nghĩ gì thì nghĩ, nói gì thì nói?
Tâm và ý thức của chúng ta là tâm và ý thức của thế giới. Bất cứ chỗ nào cũng là những cảnh phiền não, lo âu, bất an, cô đơn, những người tuyệt vọng không ai chia sẻ, những con người bị thiêu đốt bởi đau buồn và bất ổn. Về mặt tâm lý, bạn là một người, bạn không tách rời khỏi thế giới loài người. Ý niệm cho rằng bạn là một cá thể riêng tư với một tâm thức đặc biệt của riêng bạn là một sự vô nghĩa vì bộ óc này đã tiến hóa thông qua thời gian. Đó là bộ óc của loài người, bộ óc này là một phần của loài người, về mặt di truyền v.v… Thế nên bạn là thế giới và thế giới là bạn. Đó không phải là một ý niệm hay một chủ trương, lại càng không phải là một câu nói viển vông vô nghĩa mà đó là sự thực. Và cái tâm này đang hoàn toàn bị rối loạn. Và chúng ta đang tìm cách phát hiện cội nguồn của sự rối loạn này.
Nguyên nhân của sự phân biệt giữa nam nữ, giữa các quốc gia, giữa nhóm người này và nhóm người khác, sự chia cắt giữa các niềm tin, ý niệm, chủ trương, nhận thức về lịch sử và các cách hành xử là gì? Sự phân biệt tất phải sinh ra tranh chấp. Đó là một thực tế. Với sự phân biệt chia cắt, chúng ta cho mình có sự an toàn; thế nên có sự phân biệt là người Anh, người Pháp, người Đức, mỗi nhóm người cùng nhau giữ lấy một ý niệm, một nội dung, đứng dưới một lá cờ, họ cho rằng như thế là sự an toàn. Sự cô lập này dĩ nhiên phải sinh ra phân biệt. Chúng ta có thấu hiểu một cách sâu xa sự thực rằng, bao lâu còn có chia cắt, bấy lâu còn có tranh chấp? Rõ là không có sự an toàn trong việc cô lập này, trong sự tách biệt này. Bạn có thể xây một bức tường quanh mình, dưới dạng một quốc gia, nhưng bức tường này đang đổ vỡ.
Nguyên nhân, nguồn gốc của sự chia cắt là gì? Mỗi một người trong thế giới này đều nghĩ và sống theo cách là mình tách biệt với người khác, với vấn đề riêng của mình, lo âu của mình, chứng thần kinh của mình, cách tư duy riêng tư của mình. Điểm trung tâm của điều này là ý niệm tôi tách biệt với bạn. Điều đó có đúng hay không? Có đúng là chúng ta tách biệt nhau, cá thể khác nhau, người này hoàn toàn khác người kia không? Vóc người bạn có thể cao, có thể thấp, tóc đen hay tóc trắng nhưng trong nội tâm liệu chúng ta có khác nhau? Về mặt nội tâm tất cả chúng ta đều trải nghiệm các điều như nhau hay tương tự với nhau, về mặt tâm lý không có sự chia cắt phân biệt. Cho nên bao lâu ta còn chấp nhận ý niệm rằng chúng ta bị chia cắt thì bấy lâu ta vẫn còn có tranh chấp, phân biệt và sự rối loạn.
Bạn nghe tôi một lời khẳng định như thế, là bao lâu bạn còn nghĩ mình tách rời ra khỏi người khác về mặt tâm lý, bấy lâu sẽ còn tranh chấp và rối loạn. Thực là thế. Khi bạn nghe vậy, chắc bạn trừu tượng hóa điều này thành một ý niệm, rồi xem thử ý niệm này được thực hiện thế nào đây? Hay nó là một thực tại? Nếu là thực tại thì bạn có thể làm một điều gì với nó. Thế nhưng nếu bạn chỉ trừu tượng hóa việc này thành một ý niệm thì sẽ hỏng mất, bởi vì bạn có ý niệm của bạn, tôi có ý niệm của tôi. Mà sự thực chung loài người chúng ta cùng có là, bao lâu còn có sự phân biệt bên trong giữa bạn và tôi thì bấy lâu còn tranh chấp, hoang mang và rối loạn. Nhưng tâm của chúng ta đã bị quy định mất rồi; từ hàng ngàn năm nay tâm ta đã bị quy định bởi những gì con người đã nói nên cứ nghĩ rằng chúng ta bị tách lìa. Tôn giáo cho rằng chúng ta bị tách lìa, mỗi người hãy lo cứu rỗi lấy mình; mọi khuôn mẫu cứ lặp đi lặp lại như thế mãi. Bị quy định như thế thì thật là khó mà chấp nhận một cái khác khả dĩ là chân lý. Tôi dùng từ “khả dĩ” vì tôi không muốn giáo điều; nhưng thực là như thế. Nếu bạn chấp nhận tôi phân tích điều này với các bạn, với lý luận, với trí năng, với lẽ hơn thiệt, cuối cùng thì chúng ta sẽ đến một điều chung.
Nếu muốn hiểu rõ tính chất của sự rối loạn và cách chấm dứt nó, hiểu một cách toàn triệt, không phải tương đối, thì phải chăng ta phải ý thức về điều rối loạn này? Và khi đã ý thức rồi, câu hỏi sẽ sinh ra là: bây giờ ta phải làm sao? Ta biết là ta bị chia cắt, ta phải dẹp bỏ sự chia cắt này ra sao?
Phải chăng thực tế bị chia cắt này khác với chủ thể quan sát đang nhìn thực tế đó? Tôi xin giải thích một chút. Tôi quan sát lòng ham muốn. Tôi đang ham muốn. Phải chăng sự ham muốn mà tôi đang quan sát khác với tôi, khác với người quan sát, kẻ đang nói: “Tôi đang ham muốn đây”? Hay sự ham muốn chính là người quan sát? Đúng không? Như thế thì sẽ không có sự chia cắt giữa sự ham muốn và người quan sát đang nói: “Ta đang ham muốn” và cũng là người muốn tác động lên sự ham muốn đang nói: “Ta không được ham muốn. Ta phải kiềm chế nó. Ta phải đè nén nó. Ta phải vượt lên nó”. Có sự chia cắt và sự chia cắt này luôn luôn là tranh chấp và gây rối loạn. Thực tế là, người quan sát đang nói “Ta đang ham muốn”, chính nó là bản thân sự ham muốn. Bạn có theo kịp đến đây không? Nếu kịp thì tôi xin hỏi: Phải chăng sự rối loạn này, sự chia cắt này có khác với cái tôi đang quan sát nó? Hay sự rối loạn, sự chia cắt chính là tôi? Toàn bộ sự hiện hữu của tôi chính là nó? Tôi tự hỏi: Bạn đã đến kịp điểm này chưa, vì nếu không, bạn không thể đi xa hơn. Xin hãy đến với nó. Thật hết sức quan trọng nếu bạn thấu hiểu thực tế này một lần cho tất cả. Nếu bạn hiểu, nó sẽ làm đời bạn hoàn toàn khác vì trong đó không còn có sự tranh chấp nữa. Tôi muốn nêu rõ điểm này.
Hãy giả định tôi bị ràng buộc vào một người nào đó. Trong sự ràng buộc này và mọi hệ quả của nó có vô số phiền não, ghen tị, lo âu, phụ thuộc, tất cả mọi điều do ràng buộc sinh ra. Trong sự ràng buộc này thì lập tức sự chia cắt được hình thành. Bây giờ xin hỏi sự ràng buộc này, cảm giác bị phụ thuộc này, sự bám giữ vào một người, có khác với tôi hay không? Hay tôi chính là sự ràng buộc? Nếu ta thấy được điều này thì mối tranh chấp sẽ ngưng. Thật là như thế. Ngưng không phải là do tôi phải bỏ nó đi, tôi phải độc lập, tôi phải tách khỏi, sự tách rời chính là sự ràng buộc; nếu tôi cố tách rời tức là tôi lại bị ràng buộc nơi sự tách rời đó.
Do đó bây giờ tôi rất rõ là không có sự chia cắt. Khi nói tôi bị ràng buộc là nói tôi chính là sự ràng buộc, tôi là trạng thái của ràng buộc. Vì vậy mà tôi đã hoàn toàn xả bỏ mọi tranh chấp. Bạn có thấy điều này không? Tôi là trạng thái đó.
Thế nên bản thân tôi chính là sự rối loạn. Không phải tôi nhận thấy mình là sự rối loạn cũng không phải tôi nghe ai nói mình là sự rối loạn, mà thực tế là tôi, một con người, là trạng thái của sự rối loạn. Mọi việc tôi làm chỉ mang thêm rối loạn. Tôi đang nằm trong một tình trạng rối loạn toàn diện. Và tất cả các cuộc chiến để khuất phục nó, đè nén nó, tách rời ra khỏi nó, tất cả đã qua, mọi hành vi trốn chạy đã chấm dứt. Nếu không được thế thì hãy bất động. Thoạt tiên hãy từ bỏ mọi sự trốn chạy, từ bỏ tất cả mọi trốn chạy có tính chất ngôn từ, biểu tượng, và chỉ dừng lại với thực tế là bạn đang là người ở trong một sự rối loạn toàn diện. Sau đó thì điều gì sẽ xảy ra?
Chúng ta là hai người bạn đang nói chuyện với nhau, đây không phải là một phép chữa bệnh, hay một thứ phân tích tâm lý hay bất cứ gì tương tự với thứ vô nghĩa đó. Chúng ta là hai người cùng nhau trò chuyện, kể nhau nghe làm sao tới điểm đó, một cách có lý luận, có cân nhắc, không để cảm tính chi phối, và nhờ đó mà lành mạnh. Vì được lành mạnh chân chính là vấn đề khó nhất. Thế là chúng ta đã tới cái điểm: Tôi là như thế đó. Lúc này trong tâm sẽ xảy ra điều gì?
Trước kia, tôi phí năng lực để đè nén, tìm cách làm sao cho đừng rối loạn, đi tìm tới ông thầy nọ thấy kia. Tất cả những gì tôi làm chỉ là sự phí phạm năng lượng. Bây giờ thì thừa nhận là tôi rối loạn, điều gì đã xảy ra? Hãy đi cùng với tôi. Tâm tôi sẽ hoàn toàn tập trung đến sự rối loạn. Tâm tôi đang nằm trong một tình trạng tập trung hoàn toàn để nhìn sự rối loạn. Đúng không? Do đó, điều gì xảy ra? Khi có một sự chú tâm hoàn toàn, khi đó không có rối loạn. Chỉ nơi nào thiếu sự chú tâm, nơi đó sinh ra rối loạn. Sự rối loạn sinh ra khi có một sự chia cắt, đó là do sự thiếu chú tâm.
Khi có sự chú tâm hoàn toàn thì không có sự phát tán của năng lượng. Khi tôi nói: “Làm sao ta có sự chú tâm hoàn toàn đây?” thì đó đã là phí năng lượng. Khi bạn thấy rõ sự rối loạn luôn luôn do sự thiếu chú tâm sinh ra, thì sự thiếu chú tâm đó đã trở thành sự chú tâm rồi.
Bây giờ với sự chú tâm này ta tìm xét những tình trạng như lo sợ, ham thích, khổ não. Thật là quan trọng phải rũ bỏ cái sợ. Tâm không bao giờ thoát khỏi cái sợ. Bạn có thể che giấu nó, đè nén nó, bạn có thể không biết đến nó, hay bạn quá hân hoan vì thế giới bên ngoài mà không bao giờ để ý đến cái sợ đã bắt rễ sâu kín bên trong. Chỗ nào có sợ hãi, chỗ đó không có tự do tự tại, không có lòng yêu thương, chỉ có sự bất mãn. Muốn thấy điều này bạn phải có khả năng chạy nhanh - không phải chạy bằng chân mà là nội tâm, có khả năng chạy nhanh, nhảy cao - chứ không bò từng li như một con ốc sên.
Ta thấy sự sợ hãi sinh ra điều gì trong đời mình. Sự sợ hãi mang bóng tối lại cho tâm. Chúng ta không nói về loại sợ hãi đặc biệt do thần kinh sinh ra, mà nói bản thân sự sợ hãi. Khi ta hiểu nguồn gốc của sự sợ hãi thì cái sợ về một điều nhất định sẽ tan biến. Nếu tôi sợ bóng tối thì đó là cái sợ đặc biệt của riêng tôi và tôi muốn cái sợ đó phải được giải quyết; thế nhưng tôi không quan tâm đến toàn bộ sự sợ hãi là những gì. Ngược lại nếu tôi hiểu toàn bộ phạm vi của sự sợ hãi thì điều kia cũng không còn. Ở đây chúng ta quan tâm đến toàn bộ phạm vi của sự sợ hãi. Sự sợ hãi này có thể tan biến hoàn toàn không, để cho cái sợ thuộc về thể chất và cái sợ phức tạp hơn thuộc về tâm lý, niềm sợ hãi nội tâm biến mất? Sự sợ hãi thể chất thì ta có thể giải quyết một cách đơn giản, nhưng nếu bạn để ý đến cái sợ thể chất, chỉ quan tâm giải quyết cái sợ thể chất thôi thì bạn sẽ bị ràng buộc vào với cái gì đó hoặc sinh ra sự chia cắt và sự tranh chấp. Nếu trước hết ta hiểu cái sợ tâm lý thì sau đó bạn dễ giải quyết hơn cái sợ thể chất chứ không ngược lại. Cho nên hãy tìm hiểu sự sợ hãi một cách tổng quát; chiều sâu, tính chất và cái tối tăm của sự sợ hãi, thì sau đó bạn có thể giải quyết cái sợ thể chất riêng biệt. Đừng đi ngược lại, bắt đầu với cái sợ thể chất trước, đó là điều mà tất cả chúng ta hay làm.
Loại sợ hãi tâm lý là quan trọng hơn nhiều; chúng làm ta trở thành những con người xấu xí như thế này đây. Khi sợ, ta trở thành tàn bạo, ta muốn hủy diệt, nhân danh Thượng đế, nhân danh tôn giáo, nhân danh cách mạng xã hội, vân vân và vân vân. Bây giờ, là con người, đã sống với cái sợ này từ vô lượng thời gian, có thể giải thoát khỏi sợ được không? Chúng ta đã nêu lên câu hỏi này rồi; bây giờ thì bạn tiếp cận với vấn đề sợ như thế nào? Phải chăng bạn sẽ tiếp cận nó với mong muốn giải quyết nó? Nếu làm thế thì bạn lại tách rời mình ra khỏi thực tại của sợ hãi rồi. Phải chăng bạn tiếp cận như một quan sát viên, một chủ thể đang sợ hãi và muốn giải quyết nó hay bạn vừa thừa nhận mình đang sợ hãi?
Bạn có chú tâm hoàn toàn về thực tế này không? Về cái thực tế là bạn, một con người và cũng chính là toàn thể nhân loại, là đang sợ hãi, đang sống trong lo sợ, một cách ý thức hay vô ý thức, với cái sợ nông cạn hay kín đáo sâu xa? Những cái sợ sâu kín sẽ hoàn toàn lộ diện khi bạn chú tâm.
Bạn đang xem xét, đang nhìn chính mình, chứ không gật đầu đồng ý với người đang nói đây, người đang nói không hề quan trọng. Thật sự, người nói không quan trọng. Điều quan trọng là bạn sẽ về nhà mà không có chút u ám nào của sợ hãi. Khi bạn đã ý thức về cái sợ, bạn còn trốn chạy nó hay không? Bạn còn tìm cho nó một câu trả lời nữa không? Bạn còn tìm cách đè bẹp nó không? Nếu có thì bạn chỉ phân tán năng lượng, bạn tự chia cắt mình và do đó mà có tranh chấp về sợ hãi và làm sao thoát khỏi nó. Tất cả điều này sẽ sinh ra. Nếu bạn thấy rõ cái sợ chính là bạn thì không có hành động gì cần thiết nữa cả. Không có điều gì phải làm nữa cả vì bạn là chính nó; và vì thế tất cả sự chú tâm được định hướng, trong sự chú tâm này sự sợ hãi được nhận diện.
Tùy nơi bạn. Bạn đã thấy, bao lâu ta còn tìm cách chế ngự thì cái tâm chế ngự đó cũng cần phải được chế ngự. Nhưng nếu bạn tự nhủ: “Đúng nó là một thực tế và ta không cần phải đi đâu cả” thì sự vật này sẽ tự tan biến - một cách hoàn toàn chứ không tương đối, không phải hôm nay ra đi mà ngày mai trở lại với toàn thể cái sợ. Nó sẽ ra đi nếu bạn chú tâm hoàn toàn về nó.
Cũng tương tự như khi ta xem xét sự vui thú dục lạc. Bây giờ hãy cẩn thận. Chúng ta hãy hết sức thận trọng ở đây.
Tôi không rõ bạn có để ý hay không, là ngay từ thời xa xưa nhất của loài người, một điều luôn luôn dẫn dắt ta là vui thú, lòng ham thích vui thú và sự tránh né lo buồn. Bạn có thể thấy điều này trong tranh ảnh, trong các văn bản cũ xưa, trong các biểu tượng. Tất cả đều khuyên nhủ, hãy theo đuổi điều này, hãy tránh né điều kia. Tư tưởng chia cắt đời sống thành ra sợ hãi, vui thú, phiền muộn, công việc; nhưng tất cả đều là một, không phải ư? Hãy xem chúng ta đã làm gì: Tâm của chúng ta đã được quy định, chấp nhận sống trong tiêu chuẩn này, đó là luôn luôn theo đuổi sự vui thú. Thượng đế, nếu bạn tôn thờ, chỉ là cái cốt tủy của lòng vui thú đó. Bạn gán cho hình ảnh đó với nhiều tên khác nhau nhưng mong ước của bạn là đạt được sự vui thú tối hậu và tinh tế này, làm sao cho bạn đừng bao giờ bị quấy rầy nữa, đừng bao giờ bị mâu thuẫn nữa, vân vân và vân vân. Và chúng ta phải thấu hiểu điều này, đừng đè nén, đừng trốn chạy.
Tại sao sự vui thú, cũng như phiền muộn, sợ hãi trở nên quan trọng như thế trong cuộc sống? Bạn có hiểu từ khổ* hay không, sự đau khổ của con người, sự đau khổ xuyên qua nhiều thế kỷ, sau cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, giết hại mạng người, tàn phá thiên nhiên, giết hại động vật, tàn hại tất cả mọi thứ. Con người không những chịu khổ thôi mà còn gây khổ thêm. Đó là một phần của chúng ta, một phần của ý thức chúng ta. Và chúng ta tìm cách tránh né nó vì không biết cách giải quyết. Chúng ta cho rằng theo đuổi vui thú là điều chính yếu, cho rằng trong đó có ít nhất ta được một cái đúng đắn, thực có, một cái tồn tại thực. Do đó mà sự vui thú trở thành quan trọng nhất, không phải chỉ thú vui tình dục thôi mà cả sự hồi tưởng, hình ảnh, những gì còn diễn ra trong tâm. Còn mọi thứ sợ hãi, lo âu, phiền não bị đẩy lùi thành thứ yếu. Nếu bạn chăm chú xem, bạn sẽ thấy điều gì xảy ra, điều gì chiếm trọn tâm bạn. Không phải xem hành động cụ thể bây giờ mà toàn thể những gì được xây dựng nên và tòa lâu đài được mệnh danh là tình yêu. Vì thế sự vui thú, tình yêu, khổ não, lo sợ, tất cả chúng đều có liên quan đến nhau.
* Sorrow.
Như thế thì phải chăng bạn nên xét lo sợ, vui thú, khổ não một cách riêng lẻ, từng thứ một? Hay bạn sẽ có khả năng giải quyết một cách toàn thể những điều này? Tâm của chúng ta vốn bị phân rã nên ta xét từng thứ một, hy vọng giải quyết từng thứ một, và hy vọng chấm dứt được sự phân rã và phiến diện. Bây giờ làm sao bạn tiếp cận được với cái toàn thể? Xem xét sự rối loạn của bạn, vui thú, sợ hãi, phiền não như là sự vận động chung của đời sống? Không xem chúng riêng lẻ mà là một cái toàn thể. Bạn có thể làm thế được không? Tức là, bạn có thể tự nhìn mình như thể nhìn vào một tấm gương của tâm, như là một con người trọn vẹn không? Hay bạn chỉ có thể nhìn một phần?
Bạn tự nhìn mình như thế nào? Bạn có thể xem công việc của bạn, vợ con bạn, tôn giáo, cách tư duy, kinh nghiệm, ý niệm, ý định, tham vọng của bạn… như một cuộc vận động duy nhất không? Đó là cách độc nhất để giải quyết toàn thể vấn đề, không đi qua từng mặt một.
Bây giờ làm sao một tâm thức, bộ não, các cảm xúc, vốn đã bị phân rã từ thế hệ này qua thế hệ khác, tiếp cận hay nhận thức được cái toàn thể? Phải chăng bạn sẽ tiếp cận tính toàn thể của đời sống một cách phiến diện, chuyện kinh doanh trước, tiền bạc trước, nhà cửa trước, vợ con, tình dục, cái này sau cái kia? Hay tâm bạn có thể thấy tính toàn thể của đời sống? Nó làm được vậy không? Hay bạn cố gắng để thấy cái toàn thể của nó? Nếu bạn dụng công cố gắng để thấy cái toàn thể đó thì chuyện đã hỏng, bạn không bao giờ có được đâu, vì đó là lúc bạn sinh ra một sự chia cắt, sinh ra tranh chấp, rối loạn. Muốn thấy đời sống là một cuộc vận động, bạn cần phải học thật sự. Học, nhưng không phải học nơi tôi. Học từ chính bạn bằng cách quan sát. Học cách quan sát sự chia cắt và thấy sự vô nghĩa của cách tiếp cận bằng lối chia cắt; thấy thực tế rõ ràng là không thể tiếp cận cái toàn thể bằng cái phiến diện. Bạn phải có một tâm thức đủ khả năng hứng nhận toàn thể vũ trụ và điều đó chỉ khả dĩ nếu tâm không còn rối loạn và sợ hãi nữa. Khi đó sẽ không có bóng tối của sự chia cắt, như cái “tôi” và cái “bạn”, xứ sở của tôi, xứ sở của bạn, tín điều của tôi, v.v… Tức là khi có sự tự tại hoàn toàn thì có sự tiếp nhận cái toàn thể. Và từ sự hiểu biết này, từ trí thông minh này, ta có thể tác động lên thế giới, thí dụ để có được một công ăn việc làm, hay để không có việc làm, để làm bất cứ điều gì. Còn bây giờ thì ta tiếp cận thế giới một cách phiến diện và chỉ gây ra sự tàn phá trong đó.

Tại sao tâm lại sống trong thời gian? Nó bị cuốn theo thời gian. Tâm thức mà ta đang có hiện nay đã bị cuốn theo thời gian từ hàng ngàn năm. Và điều đó thì xem ra là bình thường và lành mạnh. Thế nhưng ta muốn biết tại sao thời gian lại trở nên quan trọng về mặt tâm lý, ở nội tâm ta. Xin hãy tự hỏi mình. Đó là vì ta luôn luôn tránh né cái đang là để trở thành một cái gì khác, để đi từ đây qua kia? Nội tâm tôi thì như thế này, nhưng tôi không nên thế này mà phải thế nọ. Nội tâm tôi thấy không hạnh phúc, nhưng tôi phải hạnh phúc. Cái “phải” hay “sẽ” hay “nên” chính là sự vận động của thời gian. Cho nên tâm bị vướng vào thời gian vì tâm luôn luôn bỏ cái đang là mà đi. Nó muốn theo thời gian mà thay đổi: “Tôi sẽ tốt đẹp, hãy cho tôi thời gian”. Bạn thấy điều này cũng giống như tập luyện cơ bắp. Cơ bắp của bạn có thể không đủ mạnh nhưng nếu bạn cứ làm hoài những động tác để tăng cường nó thì nó sẽ mạnh hơn. Cũng nghĩ như thế mà ta tự nhủ: “Tôi đang thế này, tôi muốn thế khác, cứ cho tôi thời giờ là được”. Nhưng liệu cái đang là có thể thay đổi theo thời gian? Khi tôi có một mối lo âu lớn, mối lo đó có thể thay đổi theo thời gian không? Tức là liệu tôi có trở nên, hay sẽ ở trong một tình trạng mà tôi không còn lo âu? Hãy xem tôi làm gì với điều này. Tôi có lo âu; rồi tôi phóng chiếu ra một tình trạng không lo âu; và muốn đến với tình trạng đó, tôi phải có thời gian. Nhưng tôi lại không bao giờ chịu hỏi liệu mối lo âu mà tôi đang mang có thể được thay đổi tức khắc, không cần thời gian không. Hãy xem điều gì xảy ra: Tôi đang lo âu; tôi hy vọng sẽ hết lo âu; đây đã có một khoảng thời gian rồi, một sự tụt hậu rồi, và trong sự tụt hậu thời gian đó thì mọi hoạt động khác, mọi áp lực khác, mọi lơ đễnh đã diễn ra; cho nên lo âu không bao giờ được giải quyết. Tôi nghĩ mình sẽ đến một tình trạng không còn lo âu, nên tôi phấn đấu, phấn đấu. Nó giống như một con người hung bạo. Anh ta nghĩ ra sự không hung bạo nhưng trong khoảnh khắc đó thì anh hung bạo, cho nên anh ta không bao giờ đạt đến sự không hung bạo.
Cho nên vấn đề là: Liệu cái đang là có thể chuyển hóa ngay tức khắc không, tức là không cho phép khoảnh khắc thời gian nào được chen vào? Bạn hãy lắng nghe điều này, bạn sẽ thấy, nó thật sự đơn giản. Nếu tâm ta chăm chú ta sẽ giải quyết được mọi chuyện. Người ta đã lên đến mặt trăng, đã chế tạo những chiếc tàu ngầm tuyệt diệu, đã làm những điều không ngờ được. Ở đây, trong lĩnh vực nội tâm thì chúng ta khiên cưỡng, kém cỏi, hay tự làm mình kém cỏi. Nếu bạn không cho phép có thời gian, hay không tư duy với yếu tố của thời gian thì không có vấn đề gì cả. Chỉ vì chúng ta cho phép có thời gian vấn đề mới trở nên trầm trọng. Nếu không có thời gian thì nó đã được giải quyết. Giả định rằng tôi chết ngay bây giờ thì không có vấn đề. Nếu cho phép tôi có thời gian thì tôi sẽ sợ chết. Nếu tôi sống hoàn toàn không có thời gian nội tâm thì đó là một việc phi thường. Thời gian có nghĩa là tích lũy. Thời gian có nghĩa là hồi tưởng. Thời gian có nghĩa là tri thức được tích lũy về chính mình. Thế nhưng nếu không có thời gian, nói về mặt nội tâm, thì không có việc gì cả.
Vì chúng ta cho phép có thời gian như là một yếu tố xen vào giữa sống và chết nên sinh ra sợ hãi. Tính chất của sự chết có thể thấy được trong khi sống. Điều đó có nghĩa chết là sự ngưng lại, sự ngưng lại của sở hữu của tôi, của vợ con, nhà cửa, tài khoản ngân hàng. Trong sự chấm dứt này không có xin xỏ. Tôi không nói được với cái chết: “Xin cho tôi thêm một phút”. Mà chỗ nào có chấm dứt, chỗ đó có bắt đầu. Tôi muốn đi sâu vào chỗ này.
Khi có sự chấm dứt ràng buộc - hoàn toàn, không phải chỉ là sự ràng buộc với con người hay khái niệm mà là cả quá trình của sự ràng buộc, với tất cả hệ quả của nó - thì có một dạng hoàn toàn khác của tâm thức. Thật vậy. Tôi bị ràng buộc bởi đồ đạc của tôi và sự ràng buộc là một gánh nặng. Khi gánh nặng này được chấm dứt thì tôi có tự do. Cho nên sự chấm dứt quan trọng hơn sự bắt đầu. Bây giờ thì tôi đang sống, liệu tôi chấm dứt được không? Chấm dứt lo âu, chấm dứt sợ hãi. Chấm dứt, không phải là chấm dứt tài khoản ngân hàng mà chấm dứt về mặt nội tâm. Chấm dứt sự bất an của tôi. Khi tôi bị rối loạn, muốn chấm dứt nó thì đừng tự nhủ: “Ta phải tìm hiểu tại sao ta rối loạn, đâu là nguyên nhân và ta phải thoát khỏi rối loạn”. Tất cả thứ đó đều là thời gian cả. Đó chỉ là sự lơ đễnh, ngược lại với chuyên tâm ý thức về toàn thể sự vận động của thời gian và chấm dứt sự lo âu ngay tức khắc. Do đó sẽ không có sự tích lũy về mặt nội tâm để sinh ra tri thức.
Chết là dừng lại. Mọi thứ dừng lại. Chết là sự dừng lại mà tôi thì vẫn sống. Chúng ta đều sống, đều hoạt động. Chúng ta có thể chấm dứt mọi sự về mặt tâm lý không? Bạn có thể ngưng tức thì sự ràng buộc của bạn không, ngay tức khắc - cũng như sự giận giữ, sự thô bạo, lòng ham muốn, chuyện này chuyện kia của bạn, ngưng ngay trong lúc còn sống không? Như thế sống chính là chết. Chứ không phải bây giờ sống và cuối cùng mới chết. Sống có nghĩa là phải chết đi thứ này, nếu không thì bạn không hề sống. Phần lớn chúng ta đều sợ chết vì chúng ta chưa bao giờ sống chân chính, chưa bao giờ chúng ta sống thật sự. Chúng ta chỉ sống trong mâu thuẫn, tranh chấp, đau khổ, lo âu và gọi nó là cuộc đời. Sống không phải là những thứ đó. Nếu những thứ đó chấm dứt thì mới là sống. Khi đó thì bạn đang sống và cũng đang chết. Cả hai đi chung với nhau, như một đóa hoa và mùi thơm của nó; mùi thơm không hề tách khỏi đóa hoa, nó ở đó.
Có sự chấm dứt thực thụ do thân già yếu; nếu bạn suy nghĩ thật kỹ thì sẽ thấy tâm không bao giờ già đi như một cỗ máy bị hao mòn do sự ma sát. Thế nhưng đó không phải là tâm của bạn, đó là tâm thức của loài người. Tâm là kết quả của hàng triệu năm, là tâm của những người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Nga, của tất cả những con người khác, tại vì họ cùng kinh qua những đau khổ như nhau, lo âu, sầu muộn, dục lạc, thỉnh thoảng có chút niềm vui, có chút tình thương. Thế nên trí não chúng ta, tâm chúng ta, là tâm của loài người. Nếu bạn có thể thấu hiểu thực tế này thì chúng ta sẽ sống không có sự chia cắt, điều đang gây tai họa trên toàn thế giới.
Vì tâm con người luôn luôn chộn rộn, luôn luôn nhảy từ nơi này qua nơi khác, được dẫn dắt bởi sự thèm muốn, được lèo lái bởi lòng ham ân thưởng và trốn tránh đau khổ, con người triền miên đi tìm một dạng của sự an nghỉ, một dạng của sự hòa bình trong đó ít nhất mười phút được yên tĩnh. Người ta đã tìm thứ này. Người ta đến nhà thờ và ngồi yên lặng. Đến một giáo đường tuyệt đẹp, nếu gặp lúc không có một nghi lễ nào diễn ra thì họ được yên. Và điều kỳ lạ là trong tất cả những nhà thờ này không bao giờ có một khoảnh khắc của sự lặng yên, trừ khi vắng người. Vì rằng nếu bạn yên tĩnh, bạn có thể bắt đầu dò tìm. Nếu bạn yên tĩnh, bạn có thể bắt đầu đặt nghi vấn. Thế nhưng bạn bị bận rộn suốt buổi, bạn không bao giờ có thì giờ để nhìn quanh, để tra vấn, để nghi ngờ, để hỏi han. Đó có lẽ là một trong những trò láu lỉnh của tâm con người.
Thiền định là gì và tại sao ta nên thiền định? Nó có tự nhiên không? Phải chăng cũng như hít thở, như nhìn ngó, như nghe ngóng, có tự nhiên không? Và tại sao chúng ta lại làm nó mất tự nhiên thế? Tại sao phải lấy một tư thế, phải theo hệ thống thiền định của Phật giáo, của Tây Tạng, của Thiên Chúa giáo, của phép Tantra, và phép thiền định do ông thấy yêu mến của bạn đặt ra? Không phải tất cả chúng đều là không bình thường hay sao? Tại sao tôi phải ngồi một tư thế nhất định mới thiền định được? Tại sao tôi phải cứ tập luyện mãi như thế? Để đi đến đâu? Phải chăng tôi cứ theo một hệ thống - hai mươi phút buổi sáng, hai mươi phút buổi tối - để có một cái tâm yên tĩnh? Sau khi kiếm được chút tâm yên tĩnh tôi có thể ra ngoài và làm mọi thứ tai hại suốt ngày còn lại.
Có một cách nào thiền định mà không bị những thứ đó không? Mọi người nói thiền định là để an tâm, để có một cái tâm biết quan sát, để có một cái tâm hoàn toàn tập trung, hoàn toàn chú ý, để không có tư tưởng nào cả ngoài một tư tưởng, một hình ảnh, một ấn tượng, một tâm điểm mà bạn nhắm đến. Đúng thế không? Tôi không biết bạn có làm hết những thứ đó không? Người đang nói này đã thử nửa tiếng với từng thứ thiền định đó, mười phút, năm phút và chúng không có nghĩa gì cả.
Vấn đề là bạn phải đi vào câu hỏi ai là chủ thể điều khiển và ai là đối tượng bị điều khiển. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta, nếu bạn quan sát, là như thế này: Điều khiển và không điều khiển - tôi phải điều khiển cảm xúc của tôi, tôi phải điều khiển tư duy của tôi; tôi chỉ có thể điều khiển tư duy bằng cách liên tục tập luyện; và muốn tập luyện tôi phải có hệ thống. Một hệ thống hàm chứa một quá trình cơ giới, nó làm cho tâm ngày càng có tính cơ giới. Nó vốn đã cơ giới rồi và bây giờ ta muốn nó cùn lụt thêm. Tại sao chúng ta phải kinh qua những thứ đó? Bạn muốn có một chứng nghiệm và bạn biết là ma túy chỉ làm hại bạn nên bạn dẹp nó qua một bên, thế mà bạn lại hy vọng nhờ tập luyện cái gì đó để bạn chứng nghiệm một điều gì khác.
Tại sao con người lại đòi phải có kinh nghiệm? Phải chăng tâm đang hôn trầm và kinh nghiệm sẽ là một sự kích thích? Hay là khi tâm tỉnh giác thì nó không cần kinh nghiệm nữa. Bạn phải biết liệu tâm bạn đang hôn trầm hay tâm bạn nhàm chán với những kinh nghiệm đã có: tình dục, ma túy và tất cả mọi thứ khác. Bạn muốn có điều gì cao xa hơn, bạn luôn luôn khao khát kinh nghiệm hấp dẫn hơn, khác thường hơn. Tại sao tâm đòi có kinh nghiệm? Xin hãy tự hỏi mình.
Chỉ có một điều thôi. Một cái tâm rất sáng sủa thì không vướng mắc vào bất cứ ràng buộc nào. Một cái tâm như thế là ánh sáng cho bản thân nó. Do đó nó không cần kinh nghiệm, không có gì để chứng nghiệm cả. Bạn không thể chứng nghiệm được sự giác ngộ. Khái niệm chứng nghiệm được sự giác ngộ là một điều ngu xuẩn. Nếu nói: “Ta đã chứng nghiệm được sự giác ngộ” thì đó là một điều không thành thực chút nào. Bạn không thể chứng nghiệm được chân lý, vì như thế thì phải cần một người chứng nghiệm để mà chứng nghiệm. Nếu không có người chứng nghiệm thì hoàn toàn không có kinh nghiệm. Còn chúng ta thì bị ràng buộc nơi con người chứng nghiệm của chúng ta và vì thế mà cứ đòi thêm mãi.
Nói chung thiền định đang được thực hành hiện nay là phép tập luyện theo một hệ thống nhất định, hít thở đúng cách, tĩnh tọa trong một thế ngồi đúng đắn, chỉ làm ta ham muốn và khao khát một kinh nghiệm to lớn hơn, hay kinh nghiệm tối hậu. Đó là điều mà chúng ta đang làm. Và đó là một sự phấn đấu liên tục, một sự phấn đấu không bao giờ dứt. Đó là một cuộc chiến không bao giờ ngưng, với hy vọng sẽ đến với một sự ngưng chiến! Hãy xem chúng ta đang làm gì. Tôi đang phấn đấu, phấn đấu mãi để sẽ được chấm dứt việc phấn đấu một lúc nào đó trong tương lai. Hãy xem tôi chơi trò láu lỉnh gì với bản thân tôi. Tôi bị vướng trong thời gian. Tôi không tự nhủ rằng: “Tại sao ta phải phấn đấu chứ?”. Nếu tôi chấm dứt trận đấu thì đó là sự giác ngộ. Tôi không còn bóng tối của tranh chấp nữa. Thế nhưng chúng ta lại không chịu từ bỏ mọi nỗ lực đó; chúng ta bị vướng trong thời gian. Và thoát khỏi thời gian tức là tự do để có sự quan sát thuần túy và lúc đó thì tâm tĩnh lặng một cách phi thường. Bạn không cần làm tâm tĩnh lặng. Nếu bạn ngưng mọi tranh chấp, tâm tự nhiên tĩnh lặng. Và khi tâm hoàn toàn lặng yên, không có vận động nào của tư tưởng, thì có thể bạn thấy cái gì đó, có thể có cái gì đó thiêng liêng nằm ngoài mọi ngôn từ. Và đó là điều mà con người tìm kiếm từ vô thủy, một điều nằm trên mọi đo lường, vượt trên tư duy, một điều bất hoại, không thể định danh, miên viễn. Điều này chỉ có thể xảy ra khi tâm tuyệt đối tự do và hoàn toàn tĩnh lặng.
Cho nên chỗ bắt đầu của ta rất gần, rất gần. Và khi bạn bắt đầu rất gần thì không có gì xa cả. Khi bạn bắt đầu gần thì không có khoảng cách và do đó không có thời gian. Và đó chỉ có thể là cái thiêng liêng nhất.
Brockwood Park, 6 và 7.9.1980
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Đối Diện Cuộc Đời - Jiddu Krishnamurti

Postby bevanng » 22 Mar 2018

CHẤM DỨT PHIỀN NÃO


Này bạn, nếu bạn biết lắng nghe chính mình thì người đang nói này chỉ là một tấm gương mà trong đó bạn thấy mình ra sao. Nếu bạn đã thấy mình thế nào rồi, thì bạn có thể vứt bỏ tấm gương, đập vỡ nó đi. Tấm gương không hề quan trọng. Nó không có giá trị gì cả. Điều thực sự có giá trị là bạn thấy mình trong đó đúng như mình là, cái vụn vặt, cái chật hẹp, sự tàn bạo, mối lo âu, lòng sợ hãi. Khi bạn bắt đầu thấu hiểu chính mình thì bạn sẽ đi sâu vào điều nằm ngoài mọi đo lường. Thế nhưng bạn phải đi bước đầu. Và không ai có thể thay bạn đi bước đầu cả.
Chúng ta đang cùng nhau suy nghĩ, cùng đi chung một con đường nhỏ đầy yên tĩnh và chứa biết bao vẻ đẹp. Ta tự hỏi vẻ đẹp là gì. Bạn có thể ngắm vài bức tượng, tranh ảnh hay bức bán thân dễ thương của Đức Phật trong viện bảo tàng, trong một ngôi nhà, và bạn tự nhủ thật tuyệt diệu biết bao; nhưng sau những ngôn từ, sau cấu trúc của bức họa, sau đường nét đậm nhạt, sau những hình ảnh cân đối, vẻ đẹp là gì? Phải chăng nó nằm trong cách mà bạn nhìn nó? vẻ đẹp nằm trong bức họa? Hay nó nằm trong khuôn mặt con người? Khi bạn thấy một ngọn núi tuyệt diệu in hình trên bầu trời xanh, với chiều sâu thẳm của thung lũng và chóp đỉnh đầy tuyết trắng, khi bạn nhìn ngắm tất cả vẻ đẹp đó, trong một khoảnh khắc bạn quên cả chính mình. Ngọn núi bao la, được chiếu sáng một cách lạ thường bởi ánh mặt trời ban mai, rực lên những đỉnh cao nhất, và tâm trí bạn rung động bởi sự vĩ đại, bởi sự tôn quý của cảnh quan này, và trong một giây bạn quên tất cả chính mình, quên mọi sầu muộn của mình; bạn quên chồng vợ bạn, con cái bạn, xứ sở bạn. Và bạn nhìn cảnh quan này với tất cả tâm thức mình, không có một cảm nhận nào của sự tranh chấp, của nhị nguyên. Cái tuyệt diệu xuất hiện và cái tự ngã, cái “tôi” bị cái cao cả của vẻ đẹp đẩy qua một bên trong một giây phút.
Khi ta mới vào nơi đây, ta nhìn trăng, trăng còn rất non, rất mới, đơn giản lạ thường. Và rồi ta nghĩ, tất cả điều này để làm gì? Để làm gì khi đọc kinh sách, tham gia luận bàn? Toàn bộ đời sống này để làm gì, nếu ta không thể nhìn sự vật giản đơn này một cách rõ ràng, với một lòng yêu thương và cảm khái lớn lao, để tới với đời sống trọn vẹn toàn diện này, đừng với những tri thức đã được tích lũy từ quá khứ, từ truyền thống của ta? Hãy nhìn ngắm sự vận động bao la của đời sống, một cách giản đơn thôi, với trí não không bị chất chứa, một tâm trí tích cực, sinh động, đầy năng lực, với sự trong sáng, dung dị.
Đã nói thế thì chúng ta cùng nhau đi tiếp. Loài người chúng ta đã chịu khổ rất nhiều. Chiến tranh liên miên. Từ năm ngàn năm qua thì cụ thể là mỗi năm có một cuộc chiến, con người giết chóc lẫn nhau, phá hủy những gì họ đã xây dựng nên, chỉ qua một đêm mà những công trình to lớn bị triệt hạ. Đó là lịch sử của con người, tranh chấp triền miên và chiến tranh. Qua chiến tranh con người đau khổ khủng khiếp. Bao nhiêu người đã rơi nước mắt - chồng con bỏ mình, tàn phế, cụt tay mất chân, mù lòa. Nước mắt con người đổ ra không bao giờ ngưng. Và chúng ta cũng đổ nước mắt vì đời chúng ta trống rỗng, cô đơn. Và chúng ta, tất cả chúng ta đều khổ, không phải chỉ vì thấy cảnh khổ của người khác mà vì sầu muộn, đau thương, lo âu về đời chúng ta, về sự nghèo nàn của con người, không phải nghèo nàn vật chất mà nghèo nàn trong ý thức và tâm hồn. Mà khi bắt đầu phát hiện ra sự nghèo nàn to lớn này, mặc dù có rất nhiều thông tin và tri thức, ta lại càng nuôi dưỡng thêm cái khổ.
Có cái khổ của sự cô đơn, cái khổ sinh ra do lòng bất nhân giữa người với người, cái khổ mất người thân, mất con cái, cha mẹ, anh em, v.v… Chúng ta đã mang những cái khổ này trong đời mình từ thế kỷ này qua thế kỷ khác. Và chúng ta cũng không bao giờ tự hỏi liệu khổ có thể chấm dứt. Bây giờ chúng ta cùng nhau đặt câu hỏi, cùng nhau nhìn cảnh khổ trong thế gian và cảnh khổ mà chúng ta đang chịu, ngay trong lòng chúng ta, trong tâm chúng ta, trong não chúng ta. Chúng ta đang tự hỏi liệu khổ có lúc nào chấm dứt được không, hay con người phải mang nó suốt từ quá khứ đến tương lai.
Cũng như có nghệ thuật trong lòng yêu thương và mọi thứ khác thì cũng có nghệ thuật trong cách tra hỏi, trong cách nghi vấn; nghi vấn về một kết luận, một ý kiến của con người, và đặt câu hỏi tại sao ta lại chịu chấp nhận cái gánh nặng to lớn này của sự khổ. Khổ cũng là lòng tự xót thương, cảm giác hoàn toàn cô đơn; là thứ khổ sinh ra do thất bại, do so sánh, do cảm nhận mình không liên hệ được với ai cả. Thế nhưng chúng ta không bao giờ đi tới chỗ tận cùng của nó cả. Chúng ta chỉ muốn trốn thoát nó, tìm một chỗ có tiện nghi, một dạng của ma túy giúp cho ta được khuây khỏa.
Vì thế, nên chăng chúng ta hãy tìm một câu trả lời, không hỏi làm sao vượt thắng cái khổ, mà hãy tỉnh giác để hiểu toàn vẹn ý nghĩa của chữ khổ. Khổ theo nguyên nghĩa là sự say mê - không phải thèm muốn mà là say mê*. Nếu không có say mê thì cuộc đời cùn lụt, vô nghĩa. Sự chấm dứt của khổ diễn ra liên quan với sự say mê. Nên chúng ta hãy cùng xem chữ này, nội dung của chữ này, ý nghĩa của cái được gọi là khổ, điều mà người ta mang theo cả đời - nhìn trực diện vào nó, không bàn lảng đi, không tìm nguyên nhân của nó. Có nhiều nguyên nhân của khổ - cái chết của con cái, không thành công, không đạt được sự chứng nghiệm, không hòa nhập được, vân vân và vân vân - nhưng nếu bạn tìm nguyên nhân của khổ thì bạn tự ngăn không cho mình thấy thẳng chữ này, thấy cái đẹp, cái mạnh của chữ này.
* Khổ: sorrow; thèm muốn: lust, say mê: passion.
Khổ có nghĩa sầu muộn, đau thương, lo âu, cô đơn tuyệt vọng, sự vô nghĩa của đời sống. Tất cả những điều này và hơn thế nữa được hàm chứa trong chữ này. Bạn có thể nhìn nó một cách trọn vẹn không, như bạn cầm một viên ngọc, một bức tượng tuyệt diệu trong tay không? Hãy nắm giữ nó, hãy ở lại với nó, và đừng cho tư tưởng tới với bất cứ cách nào và xen vào thực tế này. Nếu bạn ở lại được với nó thì bản thân chữ này, ý nghĩa của chữ này sẽ chấm dứt hoàn toàn. Thế nhưng chúng ta không chịu ở lại với bất cứ cái gì. Chúng ta luôn luôn muốn có một sự chấm dứt và vì thế luôn luôn bỏ viên ngọc mà đi, mà lẽ ra nó đã có thể cho ta một sự sinh động to lớn, một sức mạnh to lớn, một niềm say mê to lớn.
Phải chăng chúng ta đang đi dạo chung với nhau để bạn chỉ lắng nghe những câu nói này và lòng bạn có nhiều cảm xúc, nhiều mơ mộng và do đó không nhìn thẳng vào sự vật, sự đau thương, sự sầu muộn, sự trống rỗng của cái hiện hữu chúng ta? Nếu ta thật sự nắm giữ hoàn toàn viên ngọc này, thì đó là một viên ngọc tuyệt vời, nhưng ta lại tìm mọi cách trốn chạy ra khỏi nó; bao giấy mực đã viết quá nhiều về điều này. Thế nhưng những cuốn sách, những lời lý giải, những ngôn từ đều không thực. Hãy ở lại với cái thực có thì chính sự chú tâm mang lại cái chấm dứt cho điều mà ta gọi là khổ.
Chỗ nào có khổ chỗ đó không có lòng thương yêu. Lòng thương yêu không liên quan gì đến hoạt động của bộ não. Lòng thương yêu tự xuất hiện khi không có sợ hãi, khi cái khổ ngưng bặt. Lúc đó thì bản thân lòng thương yêu biến thành từ bi, mà từ bi chính là lòng say mê với trí thông minh vô cùng tận.
Chúng ta trên đường đi đến cái chết nhưng con người chúng ta cứ đẩy điều này ra càng xa càng tốt; và vì thế mà có nhị nguyên: Sống và chết. Bạn có bao giờ xem xét sự nhị nguyên* là gì chưa, liệu nhị nguyên, sự đối lập có thực sự hiện hữu không? Chúng ta được giáo dục qua truyền thống, bởi trường lớp, bởi sách vở để nghĩ rằng có sự nhị nguyên, mâu thuẫn, có nam và nữ, có giận dữ và không có giận dữ, bạo động và bất bạo động, vân vân. Như thế mà ta chia đời sống nhất thể vào trong hai mặt nhị nguyên. Về mặt nội tâm, liệu có chăng một vật gọi là nhị nguyên, gọi là đối lập? Dĩ nhiên có sự đối lập giữa nam và nữ, giữa ánh sáng và bóng tối, mặt trời mọc và mặt trời lặn. Bạn cao hơn người khác, có người thẳng thắn hơn người kia, có người thông thái hơn người kia; có cái nhị nguyên vật lý, có cái đối lập, tóc đen tóc vàng, người đẹp kẻ xấu.
* Duality.
Nhưng về mặt nội tâm, bên trong, có sự đối lập không? Truyền thống của bạn nói có. Sách vở viết về điều này nói, chỉ những người giải thoát mới không bị nhị nguyên chi phối - điều đó thật hoàn toàn vô nghĩa. Xin lỗi. Bạn và tôi có thể nhìn vấn đề này rất giản đơn - giản đơn, không có mọi phức tạp của các nhà triết học. Có nhị nguyên ở bên ngoài, nhưng bên trong, về mặt nội tâm chỉ có một thứ duy nhất sau làn da. Thí dụ ở đó có sự giận dữ, và khi bạn nói: “Ta không được giận dữ” thì cái đó mới biến thành nhị nguyên, thành ý hướng mà tư tưởng đã chiếu hiện, đã xây dựng từ niềm đau của nó. Cho nên chỉ có sự giận dữ thôi. Bạo động là có thực, bất bạo động là phi thực. Thế thì tại sao chúng ta lại cho cái phi thực tầm quan trọng như thế, để cho nó trở thành cái đối lập? Chúng ta bị vướng trong những chuyện xấu xa của nhị nguyên, mà điều đó đồng nghĩa với so đo lựa chọn.
Có mặt đối lập trong nội tâm không, thể hiện trong bất cứ điều gì không? Có bạo động, có giận dữ, có thù hằn, có ghét bỏ. Đó là những cái có thực. Nhưng nếu nghĩ ra một cái phi thực như bất bạo động, rằng bạn phải yêu thương mọi người, vân vân và vân vân thì lại là điều không có. Do đó chỉ có những cái thực tế có thực. Và cái có thực không có đối lập. Khi ta sống với thực tế này thì ta không bị mâu thuẫn chi phối. Bạn có hiểu những gì vừa nói không? Thế nhưng toàn thể cách thức của chúng ta là dựa trên nhị nguyên: Ta là thế này, ta không được thế kia; tôi là hèn nhát, tôi phải can đảm; tôi không biết gì về mình cả, tôi phải học hành. Chúng ta bị ràng buộc trong điều này. Chúng ta đang nói là thực sự không có đối lập gì cả trong nội tâm. Cái đối lập là được bày vẽ, được xếp đặt bởi tư tưởng nhằm trốn chạy thực tại. Tôi đang bạo động, đó là điều thực có; thế nhưng rất nhiều người khuyên tôi phải là bất bạo động. Sự bất bạo động hoàn toàn không có thực, vì tôi đang bạo động. Nếu tôi ở lại với thực tại thì tôi có thể làm điều gì hay không làm điều gì với cái này, nhưng không thể giả vờ. Còn muốn theo đuổi ý hướng bất bạo động thì cũng như thể chơi một trò chơi với chính mình. Khi bạn theo đuổi cái bất bạo động thì chính lúc đó bạn đang bạo động. Cho nên ta nói, không có sự đối lập trong tâm, chỉ có cái đang là. Nếu bạn đã thấu hiểu điều này thì mối tranh chấp nhị nguyên có còn hay không?
Với tính chất này của não bộ nay đã hiểu câu hỏi về nhị nguyên, ta hãy xem cái được mệnh danh là sống và chết. Chúng ta thử loại bỏ mối tranh chấp giữa cái đang là và cái nên là. Được như thế thì não sẽ tự do và mang đầy năng lực để đối mặt với những điều đúng như chúng là. Sự sống và sự chết là hai mặt đối lập. Muốn hiểu cả hai, cái sống và cái chết, ta phải tiếp cận một cách phi nhị nguyên. Sống là gì, điều gì được bạn gọi là sống? Phải chăng là buổi sáng chín giờ đi làm đến sáu giờ chiều mỗi ngày trong đời bạn trong sáu mươi năm tới, bị sai khiến, bị bắt nạt và bạn bắt nạt người khác? Hay bạn là một thương nhân cứ muốn thêm tiền, thêm quyền, địa vị tốt hơn, rồi về nhà gắt gỏng với vợ, ngủ với nàng, rồi đánh đập nàng bằng lời nói hay bằng tay chân. Và sự tranh chấp liên tục này, sự thất vọng hoàn toàn, sự mất niềm tin cứ tiếp diễn. Đó là điều mà ta gọi là sống. Và trong đáy tim bạn là sự sợ hãi, thất vọng, lo âu, sầu muộn. Thực tế là vậy, đúng không? Nhưng bạn lại sợ phải giã từ chúng vì cái chết trờ đến. Con người tự đồng hóa mình một cách sâu xa với những cái được gọi là sống, đã bắt rễ trong đó, và sợ hãi khi chấm dứt những cái đó.
Và bạn còn nói sẽ có kiếp sau. Kiếp sau là sự tiếp tục của mẫu hình cũ, có thể trong một khung cảnh khác. Nếu bạn tin có kiếp sau, thì bây giờ bạn phải sống chân chính - về đạo lý, về đức hạnh, cần có đôi chút tính hóm hỉnh. Thế nhưng bạn không thực tin có kiếp sau, bạn chỉ nói về nó, bạn viết sách về nó. Nếu bạn thực sự tin có kiếp sau thì lẽ ra bây giờ bạn phải sống chân chính, vì điều gì bây giờ bạn đang là, thì tương lai của bạn cũng đúng y như thế. Nếu bây giờ bạn không chịu thay đổi thì tương lai của bạn cũng chỉ thế thôi. Thật là dễ hiểu. Thật là đúng lý.
Đối với chúng ta thì chết là chấm dứt hoàn toàn, chấm dứt mọi sự ràng buộc, chấm dứt tất cả những gì bạn tích lũy. Bạn không thể đem theo. Bạn có thể mong sở hữu tới phút cuối cùng, nhưng đem theo thì không. Bạn đã chia cắt cuộc đời ra sống và chết và sự chia cắt này sinh ra nỗi sợ hãi to lớn. Từ nỗi sợ này mà ta bày ra mọi lý thuyết rất tiện nghi; chúng có thể là ảo tưởng nhưng rất tiện nghi thoải mái. Ảo giác là loại bệnh tâm thần có tính chất tiện nghi. Nhưng có thể chăng, các thứ mà ta đang bị ràng buộc, cho chúng chết đi ngay khi ta còn sống? Nếu tôi còn quá chuộng danh tiếng của mình và cái chết đang trên đường đến, tôi ngày càng già yếu và do đó tôi sợ mình sẽ mất tất cả. Phải chăng tôi có thể thoát khỏi hình tượng này, khỏi danh tiếng này, cái mà mọi người đã gán cho tôi? Nếu thế thì tôi được chết trong lúc tôi còn sống. Như thế thì sự chia cắt giữa sống và chết không còn cách nhau hàng dặm nữa, chúng là một. Bạn có hiểu thấu chăng, vẻ đẹp vĩ đại của hằng ngày, hằng giây phút, nơi đó không có sự tích lũy, không có sự chồng chất nội tâm? Bạn có thể góp nhặt quần áo, tích lũy tiền bạc, vân vân, đó là chuyện khác, nhưng ở đây về mặt nội tâm, đừng có sự tích lũy để thành tri thức, để nói “cái này là của ta”.
Bạn chịu làm như thế không? Bạn có chịu làm thế để cho mối tranh chấp giữa chết và sống, với tất cả đau khổ, sợ hãi, lo âu của nó, đến một chỗ ngưng bặt không? Như thế thì bạn - tức là não bộ - sẽ tái sinh. Lúc đó thì não đã tái sinh hoàn toàn mới mẻ, cho nên nó có một sự tự do vô cùng. Thế nên khi đang sống, hãy đi cùng cái chết, để bạn chỉ là khách trọ trên thế gian này, để bạn đừng bám rễ vào đâu cả, để bạn có một bộ não lúc nào cũng tươi nhựa sống. Vì nếu bạn cứ mang vác tất cả những gánh nặng của ngày hôm qua, bộ não của bạn sẽ cứ mãi mang tính cơ giới, mãi cùn nhụt. Nếu hàng ngày bạn biết bỏ lại đằng sau những ký ức nội tâm, những lần bị thương tổn, những điều đau xót, thì sống và chết chỉ là một. Nơi đó sẽ không còn chỗ cho lòng sợ hãi.
Những ai không chịu làm điều nói trên thì cái gì sẽ xảy ra cho họ? Xin nhớ cho, lời này được nói ra với lòng khiêm tốn, lòng yêu thương và lòng cảm thông to lớn. Họ nói: “Tôi được nghe các bạn nói về một cách sống hoàn toàn khác. Tôi thấy cái hữu lý của nó, cái lành mạnh và trong sáng của nó. Tôi hiểu nó bằng trí năng, về mặt ngôn ngữ tôi chấp nhận nó. Nhưng tôi thì cứ theo cách cũ kỹ của tôi, cách tôi sống mà tôi đã quen. Và tôi cũng sắp chết, tôi cũng lo sợ như phần lớn mọi người đều lo sợ. Nên tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra? Liệu tôi có tái sinh chăng? Ý thức tôi chấp nhận cách sống cũ này và hy vọng có lẽ đời sau tôi sẽ có cơ may tốt hơn”.*
* Xin xem “Cuộc sống, cái chết và sự tổn sinh” trong phần “Đối diện cuộc đời “ (ND).
Nhưng phải chăng cái ý thức này, cái mà tôi cho là “của tôi”, đúng là ý thức của tôi không? Ý thức này là ý thức của loài người. Mỗi người trong chúng ta đều chia phần trong ý thức này, cho nên nó không phải của tôi. Xin bạn hãy tự hỏi liệu ý thức của bạn là ý thức riêng biệt của bạn hay nó được chia bởi tất cả loài người. Tất cả loài người đều kinh qua những gì bạn đang kinh qua, trong một môi trường khác, trong một khung cảnh khác. Thực tế bạn không phải là một cá thể riêng biệt. Bạn có thể có một cơ thể khác người khác, bạn có thể có một ngân khoản khá hơn. Người này có thể bại liệt, người kia khỏe mạnh, nhưng trong nội tâm thì sự tồn tại của bạn được chia bởi tất cả loài người. Do đó bạn chính là loài người. Bao lâu bạn còn nghĩ mình là một cá thể riêng biệt thì bạn còn sống trong ảo tưởng, bởi vì ý thức của bạn, đời sống của bạn, được chia cho từng người trên trái đất này. Cho nên khi bạn chết đi, ý thức của bạn, vốn được chia cho toàn thể loài người, sẽ còn tiếp tục. Và ý thức này tự nó biểu hiện ra, thông qua một người, và người đó lại nói: “cái này của ta”, “ta là một cá thể riêng biệt”, là “Atman” “linh hồn” vân vân.
Cho nên có thực một cách sống hoàn toàn khác. Với cách đó thì bạn không còn quan tâm đến cái chết, mà là đến cái sống - một cái sống bao hàm cái chết, cùng vận hành với cái chết. Tôi để cho bạn tự suy. Nếu bạn không hiểu thì cũng đừng vội phủ định nó, hãy tìm hiểu, tra hỏi, hãy nghi vấn tính cá thể riêng tư của mình. Có thể sống một cuộc sống mà nội tâm không bao giờ còn có sự ghi nhận liên tục nữa, lúc đó sự ghi nhận sẽ ngưng bặt. Nói rằng, bạn thấy được thỏa mãn hay bị thương tổn, đó là ghi nhận. Bây giờ không ghi nhận sự thỏa mãn hay sự thương tổn tức là có một bộ não tự do, không còn bị đè nặng bởi hàng ngàn sự ghi nhận của hàng ngàn ngày hôm qua.
Các tổ chức tôn giáo đang tồn tại trên thế giới thì chấp nhận những giáo điều, những niềm tin hoang tưởng, những lễ nghi vô nghĩa. Muốn xác định tôn giáo là gì, ta phải biết nghi ngờ những gì được thừa nhận, phải có đủ sức sinh động, đủ sức mạnh để gạt bỏ nó đi. Ta phải tra hỏi, phải nghi vấn, phải dẹp bỏ tất cả những cấu trúc do tư tưởng bày ra. Muốn tra hỏi tất cả những cái đó, để tìm hiểu tính chất của một đầu óc tôn giáo, một tâm thức tôn giáo, thì bạn phải có sự tự do để xem xét. Nếu bạn có một giả thiết thì nó phải được chứng minh dưới kính hiển vi, hay dưới sự sáng suốt chú tâm của chính bạn. Và khi một người, như bạn, có ý định, có mong muốn, có năng lực, có say mê muốn xem có một cái gì thiêng liêng, thần thánh hay không, thì muốn thế bạn phải không có sợ hãi, không có cảm giác lo âu, phải có tự do hoàn toàn. Và đó là thiền định.
Thiền định chỉ có thể đích thực, chỉ mang lại chân lý, sự thật khi vắng bóng sự sợ hãi, tổn thương, lo âu, phiền não. Thiền định chỉ có thể xảy ra khi không có sự cố ý dụng công để thiền định. Nói thế tôi đang lo là nó ngược lại với tất cả những gì bạn đang tin tưởng.
Làm sao đến với cái được gọi là thiêng liêng? Có cái gì thiêng liêng chăng? Người ta đã tìm kiếm từ thế hệ này qua thế hệ khác về một cái gì ở bên kia. Từ thời của những người thượng cổ Sumerian*, người Ai Cập, người La Mã, con người đã tìm kiếm điều đó. Và họ thờ cúng thần sấm sét, thần mặt trời, thờ cúng cây cối, thánh mẫu, nhưng không bao giờ tìm ra được gì. Thế thì chúng ta có thể phát hiện ra hay tới với điều được gọi là thiêng liêng chăng?
* Người Sumerian được xem là sống khoảng 3.500 trước Công nguyên tại vùng Trung Đông ngày nay (ND).
Điều này chỉ có thể xảy ra khi có sự lặng yên tuyệt đối, khi tâm não lặng yên tuyệt đối. Bạn có thể phát hiện ra cho chính bạn - nếu bạn chú tâm, tỉnh giác, tỉnh giác về ngôn từ, ý nghĩa của ngôn từ, không bao giờ nói một đường làm một nẻo, nếu bạn luôn luôn tỉnh giác - thì bạn sẽ thấy bộ não có một nhịp điệu tự nhiên của nó. Thế nhưng tư tưởng luôn luôn đi ngược lại nhịp điệu tự nhiên này. Đối với chúng ta thì tri thức quan trọng vô cùng. Muốn làm điều gì thuộc phạm vi vật lý thì ta cần tri thức, nhưng tri thức tâm lý, loại tri thức mà bạn đã tích lũy về các lần bị tổn thương, về hư danh, về sự hợm hĩnh, về lòng tham vọng, tất cả những tri thức đó là chính bạn. Và với tri thức đó mà ta đòi tìm kiếm một cái gì rất thiêng liêng! Với tri thức bạn không bao giờ tìm ra bởi vì tri thức là giới hạn và nó mãi mãi bị giới hạn, dù trên lĩnh vực vật lý, kỹ thuật hay tâm lý.
Thế nên tâm não phải tuyệt đối lặng yên, không nhờ điều khiển, không nhờ phương pháp, hệ thống, không nhờ sự yên tĩnh được bày biện. Sự lặng yên bao hàm không gian. Bạn không để ý bộ não chúng ta có rất ít chỗ sao? Thế mà nó đầy ngập, chất đầy với hàng ngàn thứ; nó có rất ít chỗ. Và cho sự tĩnh lặng thì phải có chỗ cho cái không thể đo lường, cái không thể định danh, cái đó không thể được cảm nhận, được nhìn thấy bởi một bộ óc chật hẹp nhỏ nhoi. Nếu bạn có thể du hành được vào trong chính bạn thì hãy rũ bỏ tất cả nội dung mà bạn đã chất chứa và hãy đi, đi thật sâu vào, khi đó sẽ có một không gian mênh mông, cái được gọi là Không, cái đầy những năng lực.
Và chỉ trong tình trạng này thì có cái được mệnh danh là thiêng liêng nhất, thánh thiện nhất.
New Delhi, 13.11.1983
(Hết)
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Previous

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: tuvi and 46 guests