Sức mạnh “hoạt năng” hay là sự khẳng định cơ thể: những sức mạnh này biểu thị như thế nào trong nghệ thuật - chứ không phải trong khoa học - và đạt đỉnh cao như thế nào trong một cách nhìn “quý tộc” về thế giới
Tôi đã gợi ý cho bạn rằng ngược lại với những sức mạnh phản ứng, các sức mạnh hoạt năng có thể tự xác lập trong thế giới và phát huy mọi ảnh hưởng của chúng mà không cần phải làm tổn hại hay kìm hãm các sức mạnh khác. Chính là trong nghệ thuật, chứ không phải trong triết học hay khoa học nữa, mà những sức mạnh này tìm được không gian sống tự nhiên của chúng. Cũng giống như có một sự tương đương thầm kín giữa: phản ứng/kiếm tìm chân lý/dân chủ/cự tuyệt thế giới cảm tính để có lợi cho thế giới lý tính, cũng như vậy, một tuyến dẫn dắt nối liền với nhau nghệ thuật, quý tộc, sùng bái thế giới cảm tính hay là hữu hình, và các sức mạnh hoạt năng.
Ta hãy xem xét những điều này sát gần hơn một chút - việc ấy sẽ khiến cho bạn chẳng những hiểu được sự phán xét ghê gớm của Nietzsche chống lại Socrate, mà cuối cùng nhận ra những gì là “bản thể luận” của ông, định nghĩa hoàn chỉnh của ông về thế giới như là tổng thể các sức mạnh phản ứng và sức mạnh hoạt năng.
Trái ngược với “con người lý thuyết”, triết gia hay nhà thông thái mà ta vừa nói đến, nghệ sĩ ở cực điểm là người xác lập các giá trị mà không tranh cãi, người mở ra cho chúng ta những “viễn cảnh sống”, sáng tạo ra những thế giới mới mà chẳng cần chứng minh tính hợp thức của những gì mình đề xuất, càng ít cần chứng tỏ tính hợp thức ấy bằng việc bác bỏ những công trình khác có trước công trình của mình. Giống như nhà quý tộc, thiên tài ra lệnh mà chẳng biện luận chống bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì - nhân tiện bạn hãy lưu ý chính vì thế mà Nietzsche tuyên bố rằng “cái gì cần phải chứng minh để được tin thì chẳng mấy giá trị”…
Hiển nhiên là bạn có thể thích Chopin, Bach, nhạc rock hay nhạc techno, các họa sĩ Hà Lan hay họa sĩ đương đại mà chẳng ai nghĩ đến chuyện áp đặt cho bạn phải chọn một trong các tác giả và loại trừ những người khác. Trái lại, về phía chân lý, rất cần phải quyết đoán ở thời điểm này hay thời điểm khác: Copernic có lý, ngược lại với Ptolémée, và vật lý học của Newton chắc chắn là đúng hơn vật lý học của Descartes. Chân lý chỉ tự xác lập bằng cách gạt đi những sai lầm la liệt trong lịch sử khoa học. Lịch sử nghệ thuật, hoàn toàn trái lại, là nơi có thể có một sự cùng tồn tại của những công trình thậm chí tương phản nhau nhất. Chẳng phải là ở đó không có những căng thẳng và những cuộc cãi cọ. Hoàn toàn ngược lại, những xung đột mỹ học đôi khi là những xung đột dữ dội nhất và đam mê nhất mà người ta từng thấy. Chỉ có điều, những xung đột này không bao giờ được giải quyết dứt khoát bằng những vế “đúng hay sai”, chúng luôn để ngỏ, ít ra là sau sự việc, khả năng cho một sự ngưỡng mộ ngang bằng đối với các chủ xướng khác nhau của xung đột. Thí dụ chẳng ai nghĩ đến chuyện bảo rằng Chopin “có lý, ngược lại với Bach” hoặc Ravel “sai so với Mozart”!
Chắc hẳn, đó là lý do, từ buổi bình minh của triết học tại Hy Lạp, hai kiểu diễn ngôn, hai quan niệm sử dụng từ ngữ không ngừng đối địch nhau.
Một bên, kiểu mẫu Socrate và phản ứng, nhờ đối thoại mà kiếm tìm chân lý, và để đạt được điều ấy phản đối những diện mạo khác nhau của sự dốt nát của sự ngu ngốc hay của tà ý. Bên kia, là diễn ngôn ngụy biện mà ban nãy tôi đã bảo bạn rằng nó không hề nhằm chân lý, mà chỉ tìm cách để làm xiêu lòng, để thuyết phục, để gây ra những tác động hầu như thể chất, ở một cử tọa mà vấn đề là phải giành được sự tán đồng, nhờ sức mạnh duy nhất của từ ngữ. Sắc thái thứ nhất là sắc thái của triết học và khoa học: ở đó ngôn ngữ chỉ là công cụ phục vụ cho một thực tại cao hơn nó, Chân lý dân chủ và lý tính, một ngày nào đấy sẽ buộc mỗi kẻ phải chấp nhận, sắc thái thứ hai là sắc thái của nghệ thuật, của thi ca: ở đó lời lẽ không còn là phương tiện đơn thuần, mà là những cứu cánh tự thân, chúng có giá trị do bản thân chúng một khi chúng gây nên những tác động thẩm mỹ - tức là, nếu ta tin ở từ nguyên học (aisthésis là từ Hy Lạp có nghĩa cảm giác), những tác động cảm tính, gần như thuộc cơ thể - ở những ai có khả năng nhận ra chúng.
Một trong những sách lược được Socrate sử dụng, trong các cuộc đấu khẩu với các nhà ngụy biện, minh họa hoàn hảo sự đối lập này: khi một nhà ngụy biện quan trọng, Gorgias hay Protagoras chẳng hạn, vừa kết thúc một truyện kể gây choáng ngợp, trước một công chúng hãy còn mê mẩn, thì Socrate giả vờ không hiểu, hoặc, hơn thế nữa, ông cố ý đến chậm, sau màn trình diễn. Cái cớ tuyệt hảo để yêu cầu nhà hùng biện hãy ‘'tóm tắt câu chuyện của mình”, hãy bày tỏ, ngắn gọn nếu có thể, nội dung chủ yếu diễn ngôn của mình. Bạn hiểu rõ rằng đó là điều không thể, - vì thế mà theo Nietzsche, yêu cầu của Socrate thuộc về sự hiểm ác thuần túy! Khác nào quy giản một cuộc trò chuyện yêu đương vào “hạt nhân duy lý” của nó, khác nào yêu cầu Baudelaire hay Rimbaud tóm tắt một trong những áng thơ của họ! Chim hải âu ư? Một động vật bay đang vất vả cất cánh… Con tàu say ư? Một tàu lớn trong cảnh khó khăn… Socrate ghi điểm chẳng hề khó nhọc gì: đối thủ vừa mới phạm sai lầm nhập cuộc chơi của ông là lập tức thua ngay, vì hiển nhiên là, về phía nghệ thuật, quan trọng không phải là nội dung của chân lý, mà là ma lực của những xúc động cảm tính, và ma lực này, tất nhiên, không thể chịu đựng được thử thách, có tác dụng giảm thiểu cực độ, của sự tóm tắt.
Ở đây cuối cùng bạn có thể thấy điều Nietzsche muốn nói trong đoạn văn tôi dẫn ra vừa rồi, khi ông nhắc đến sự “xấu xí” của Socrate, khi ông kết hợp sự xấu xí này với hệ tư tưởng dân chủ hoặc sau đó một chút ở cùng cuốn sách, khi ông sỉ vả “sự hiểm ác của gã còi cọc” thích thú vận dụng “nhát dao tam đoạn luận” chống lại những người đối thoại: bạn đừng nhìn thấy ở đó biểu hiện của những định thức thiên phát xít nhiều hơn là biểu hiện của một sự căm ghét đối với ý chí đạt chân lý (ít ra dưới những hình thái duy lý và phản ứng truyền thống của nó - vì bạn hiểu rõ rằng Nietzsche, có lẽ theo một nghĩa khác hãy còn cần phải xác định, cũng kiếm tìm một loại chân lý).
Cũng vậy, khi ông nói đến “tiến hóa tạp chủng”, và kết hợp ý tưởng về lai giống với ý tưởng về suy đồi, bạn đừng nhất thiết nhìn thấy ở đó một dấu vết phân biệt chủng tộc - ngay nếu những hàm nghĩa ở diễn ngôn của ông không thể không khiến ta nghĩ tới điều dó. Dù cách tỏ bày có mập mờ và khó ưa đến mấy, nó vẫn nhằm biểu thị điều gì đó sâu xa, nhằm chỉ một hiện tượng mà chúng ta sẽ phải làm sáng tỏ: đó là sự kiện các sức mạnh va chạm lẫn nhau, nghịch cản lẫn nhau - điều mà ông gọi là “lai tạp” - làm sự sống yếu đi và khiến nó thành kém mãnh liệt, kém thú vị.
Bởi, như giờ đây chúng ta đã hiểu rõ, trong mắt Nietzsche - hoặc có lẽ phải nói là “trong tai ông” vì từ ngữ của cách nhìn, của theoria là khả nghi đối với ông - thế giới không phải là một cosmos, một trật tự, không mang tính tự nhiên như ở Cổ nhân, cũng không được kiến tạo bởi ý chí của con người như ở các nhà Hiện đại. Ngược lại đó là một cõi hỗn mang, một số nhiều (pluralité) không thể quy giản của những lực, những bản năng, những xung năng không ngừng đối địch nhau: mà vấn đề, đó là trong khi va chạm lẫn nhau, các lực này có nguy cơ không ngừng nghịch cản lẫn nhau, ở trong ta cũng như ở bên ngoài ta, và chính vì thế mà phong tỏa lẫn nhau, làm cho nhau suy giảm và yếu đi. Chính là như vậy trong xung đột, mà sự sống suy nhược đi, trở nên kém sinh động, kém tự do, kém vui tươi, tóm lại, kém mạnh mẽ - ở chỗ này Nietzsche báo trước phân tâm học. Quả thật, theo phân tâm học, chính những xung đột tâm thần vô thức, những giằng xé bên trong, ngăn cản chúng ta sống dễ chịu, khiến chúng ta mang bệnh, làm chúng ta yếu đi và cấm đoán ta, theo một định thức trứ danh của Nietzsche, “vui hưởng và hành động”.
Nhiều nhà diễn giải Nietzsche, nhất là trong thời kỳ gần đây, đã phạm một lầm lẫn to lớn về tư tưởng của ông, và tôi mong bạn tránh được lầm lẫn ấy: họ đã hấp tấp tin rằng, để làm cho sự sống tự do hơn và vui tươi hơn, Nietzsche đề xuất hãy cự tuyệt các sức mạnh phản ứng nhằm làm sống riêng các sức mạnh hoạt năng, hãy giải phóng cái cảm tính và cơ thể bằng cách cự tuyệt “lý tính khô khan và lạnh lùng”.
Quả thực, điều này thoạt nhìn có vẻ khá “lô gích”. Tuy thế bạn hãy biết rằng một “giải pháp” như vậy là mẫu gốc của cái mà Nietzsche gọi là sự “ngu dại”: vì hiển nhiên, cự tuyệt các sức mạnh phản ứng, sẽ là tự mình chìm ngập vào một diện mạo khác của phản ứng, bởi đến lượt ta lại sẽ đối lập với một bộ phận của thực tế! Vậy không phải là ông sẽ khuyến dụ ta đi theo ông hướng về một hình thái nào đó hỗn loạn vô trật tự giải phóng cơ thể hay “giải phóng tình dục”, mà trái lại hướng về một sự tăng cường và phân định thứ bậc một cách chủ động hết mức có thể những sức mạnh phức tạp kiến tạo nên sự sống.
Đó là điều mà Nietzsche gọi là “phong cách cao cả” (grand style).
Và chính là với ý tưởng này mà chúng ta đi vào cốt lõi đạo lý của kẻ phi đạo đức.