III. Từ yêu mến minh triết đến thực hành minh triết: cái chết không đáng sợ, nó chỉ là một bước chuyển tiếp vì chúng ta là một mảnh vĩnh cửu của cosmos
Câu hỏi hết sức hiển nhiên thành thử người ta hầu như quên đặt nó ra. Tuy thế, nó chẳng có gì là hiển nhiên hết: vì sao có
theoria, thậm chí vì sao có đạo lý? Rốt cuộc, khó nhọc vất vả bao nhiêu để mà chiêm ngưỡng trật tự thế giới, để mà nắm bắt thực chất sâu kín nhất của bản thể, thì được cái gì? Và tại sao cứ một mực khăng khăng cố gắng để làm cho mình khớp vào đó? Mà lại có rất nhiều hình thái sống khác ngoài cuộc sống triết học, rất nhiều nghề nghiệp có thể làm. Chẳng ai bị buộc phải là triết gia... Ở đây, rốt cuộc, chúng ta đang chạm đến vấn đề cao nhất, đến câu hỏi tối hậu của mọi triết học: câu hỏi về sự cứu rỗi.
Bởi đối với các nhà khắc kỷ cũng như đối với tất cả các triết gia, quả là có một cái “ở-bên-kia” đạo lý. Trong biệt ngữ của các nhà triết học, người ta gọi điều đó là “sotériologie” (cứu linh luận), thuật ngữ xuất phát từ tiếng Hy Lạp
soterios, có nghĩa, thật đơn giản, là “cứu rỗi”. Mà tôi đã nói với bạn rằng điều này được quan niệm trong quan hệ với vấn đề cái chết, trong quan hệ với “tính hữu hạn” luôn dẫn chúng ta, ở thời điểm này hay thời điểm khác, đến việc tự vấn về tính chất không thể đảo ngược của tiến trình thời gian và, do đó, về việc sử dụng thời gian tốt nhất mà chúng ta có thể. Vả chăng về chuyện này, ngay như nếu tất cả mọi người không thành triết gia, thì tất cả, một ngày nào đó, đều bị những câu hỏi triết học động chạm đến. Như tôi cũng đã chỉ ra với bạn, triết học, khác với các tôn giáo lớn, sẽ hứa với ta là giúp ta “cứu rỗi”, giúp ta thắng được những nỗi sợ và những niềm lo lắng, không phải nhờ một Đấng khác, một Thượng đế, mà nhờ bản thân chúng ta, nhờ sức lực của chính chúng ta, bằng cách sử dụng lý tính đơn thuần của ta.
Mà, như một nữ triết gia đương đại, Hannah Arendt, đã giải thích - ở một đoạn trong cuốn sách của bà mang nhan đề
Sự khủng hoảng của văn hóa -, theo truyền thống, cổ nhân thường xem xét, trước cả khi triết học ra đời, hai cách đáp lại những thách thức mà hiện tượng phải chết không thể tránh nổi đặt ra với con người, có thể nói là hai kiểu mưu toan chiến thắng cái chết hoặc, ít ra, chiến thắng những nỗi sợ mà cái chết gây ra cho ta.
Cách thứ nhất, hoàn toàn tự nhiên, chỉ đơn giản là ở sự sinh đẻ: bằng cách một ngày kia có con cái, bằng cách đảm bảo, như người ta nói rất hay, “dòng dõi” của ta, theo một cách nào đó ta tự khắc ghi vào sự tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên, vào thế giới của những sự vật không thể chết. Vả lại, bằng chứng, đó là con cái chúng ta thường hay giống chúng ta về thể chất cũng như về tinh thần. Như vậy, chúng mang theo, qua thời gian, cái gì đó của chúng ta. Điều phiền muộn, chắc chắn rồi, đó là một con đường như vậy để đạt tới sự trường cửu chỉ có giá trị với giống loài: nếu giống loài có thể xuất hiện như là bất tử về tiềm năng, thì cá thể, ngược lại, sinh ra, phát triển rồi chết đi, thành thử khi mong mỏi được vĩnh tồn nhờ sinh đẻ, con người không chỉ thất bại, mà chẳng hề nâng mình lên cao hơn được thân phận các loài động vật khác. Nói rõ ra: tha hồ cho tôi sinh bao nhiêu con tùy thích, điều đó vẫn sẽ không ngăn được tôi chết đi và, tệ hơn nữa, không ngăn được tôi có khi nhìn thấy con cái mình đến lượt chúng chết đi! Dĩ nhiên, tôi sẽ đảm bảo được một phần sự sống sót của giống loài, nhưng không hề đảm bảo được sự sống sót của cá thể, của cá nhân. Vậy là không hề thực sự có cứu rỗi trong việc sinh đẻ…
Cách thoát thứ hai đã công phu hơn: đó là thực hiện những hành vi anh hùng và vẻ vang có thể làm đối tượng cho một truyện kể,
dấu vết thành văn có hiệu năng chủ yếu là thắng được theo nghĩa nào đó tính phù du của thời gian. Có thể nói rằng các sách lịch sử - và hẳn bạn phải biết là ở Hy Lạp cổ, đã có những sử gia vĩ đại như Thucydide hay Hérodote, chẳng hạn -, bằng cách thuật lại những hành vi phi thường do một số người thực hiện, đã cứu được họ khỏi sự quên lãng đe dọa tất cả những gì không thuộc giới tự nhiên.
Quả thực, các hiện tượng tự nhiên mang tính chu kỳ. Chúng lặp lại vô cùng vô tận, như ngày đến sau đêm, mùa đông đến sau mùa thu hoặc thời tiết đẹp sau giống bão. Và sự lặp đi lặp lại của chúng bảo đảm rằng không gì có thể quên được chúng: thế giới tự nhiên, theo một nghĩa hơi đặc biệt, hẳn thế, tuy vậy vẫn có thể hiểu được, dễ dàng đạt được một hình thái “bất tử” nào đó, trong khi “mọi thứ nhờ con người mà tồn tại, như các công trình, các hành động và các từ ngữ đều phải tiêu vong, có thể nói là bị lây nhiễm bởi tính phải chết ở các tác giả của chúng”. Mà chính thế lực này của tính phù du là điều mà sự vinh quang có thể cho phép chống lại, ít ra là một phần.
Theo Arendt, đó là mục đích thực sự của các tác phẩm lịch sử trong thời cổ đại, khi mà, bằng cách thuật lại những hành vi “anh hùng”, thí dụ như thái độ của Achille trong cuộc chiến tranh thành Troie, sách cố giằng những hành vi này khỏi khu vực của cái phải tiêu vong để khiến chúng ngang bằng với khu vực của tự nhiên*:
* Xem Sự Khủng hoảng của văn hóa, “Khái niệm lịch sử”, bản dịch tiếng Pháp Gallimard, tr. 60.“Nếu loài người thành công trong việc phú được tính bất biến nào đó cho các công trình, các hành động và lời lẽ của họ, và trong việc tước đi ở chúng đặc tính phải tiêu vong, thì khi ấy những điều này, ít ra đến một mức độ nào đó, coi như thâm nhập và tìm được chốn cư trú tại thế giới của những điều tồn tại mãi mãi, còn bản thân loài người thì tìm được vị trí của mình trong vũ trụ nơi mọi sự đều bất tử, trừ con người.”
Và đúng vậy: ở một số phương diện, các vị anh hùng Hy Lạp không chết hẳn, bởi ngày nay chúng ta vẫn còn tiếp tục đọc truyện kể về hành vi và sự nghiệp của họ, nhờ vào chữ viết bền vững hơn và vĩnh cửu hơn lời nói. Như vậy vinh quang có thể xuất hiện như một dạng vĩnh cửu của cá nhân và chắc hẳn vì lý do này mà vinh quang từng được và vẫn được đông đảo mọi người khao khát. Tuy nhiên, cần phải nói rõ rằng, với nhiều người khác, vinh quang mãi mãi sẽ chỉ là một niềm an ủi nhỏ nhoi vô giá trị, nếu không nói là một dạng hư vinh…
Cùng với sự ra đời của triết học, xuất hiện một
cách thứ ba để đáp lại những thách thức của tính hữu hạn. Tôi đã nói với bạn rằng nỗi sợ cái chết, theo Epictète - chắc chắn ông phát biểu ở đây xác tín của tất cả các nhà vũ trụ luận lớn -, là động cơ tối hậu đến chừng nào của mối quan tâm tới minh triết. Nhưng nhờ vào minh triết, cuối cùng mối lo âu hiện sinh, vượt sang bên kia những an ủi giả tạo của việc sinh đẻ và của vinh quang, sẽ nhận được một câu trả lời đưa triết học lại gần một cách lạ lùng với thái độ tôn giáo trong khi vẫn duy trì sự phân biệt mà bạn biết giữa sự “cứu rỗi nhờ một Đấng khác” và sự “cứu rỗi nhờ bản thân mình”.
Quả thực, theo các nhà khắc kỷ, nhờ một sự thực thi đúng đắn tư duy và hành động, bậc hiền minh có thể đạt đến một hình thái nào đó của con người, nếu không bất tử, thì chí ít cũng vĩnh cửu. Dĩ nhiên, người ấy sẽ chết. Nhưng với người ấy cái chết sẽ không là sự kết thúc tuyệt đối của mọi sự, mà đúng hơn là một sự biến hóa, có thể nói là một “bước chuyển tiếp”, từ một trạng thái này sang một trạng thái khác trong lòng một vũ trụ mà sự hoàn hảo tổng quát sở hữu một tính bền vững tuyệt đối, và chính vì thế mà thần diệu.
Chúng ta sẽ chết, đó là một sự thực, như việc những bông lúa mì, một ngày kia, sẽ được gặt hái, cũng là một sự thực. Epictète tự hỏi, có phải vì thế mà che mặt đi chăng và, như thể do mê tín, kiêng kỵ phát biểu lên những tư tưởng ấy vì chúng sẽ là “điềm xấu” chăng? Không, vì “những bông lúa tiêu vong, chứ không phải thế giới”. Lời bình luận về định thức trên đáng để bạn lưu ý:
“Lá rụng, quả vả khô thay thế quả vả tươi, nho khô thay thế chùm nho chín, theo con đấy là những lời mang điềm xấu! Thực tế, ở đó chỉ là sự biến hóa những trạng thái có trước sang những trạng thái khác; không có hủy diệt, mà là một sự sắp xếp và một sự bố trí có quy củ đúng đắn. Việc di trú chỉ là một thay đổi nhỏ. Cái chết là một thay đổi lớn hơn, nhưng sự thay đổi này không đi từ hữu thể hiện thời sang phi-hữu thể, mà sang phi-hữu thể của hữu thể hiện thời. - Vậy là con sẽ không hiện hữu nữa? - Con sẽ không hiện hữu như con đang hiện hữu, mà là một cái gì khác mà khi đó thế giới sẽ cần đến*.”
* Những nhà Khắc kỷ, sđd, tr. 1030.Hoặc, như một tư tưởng của Marc Aurèle nói lên điều đó theo cùng một nghĩa (IV, 14): “Ngươi tồn tại như một bộ phận: ngươi sẽ tiêu tan trong cái toàn thể đã sản sinh ra ngươi, hoặc đúng hơn, nhờ biến hóa, ngươi sẽ được thu nhận trong nguyên do mầm mống (raison séminale*) của cái toàn thể ấy.”
* Theo các nhà Khắc kỷ, trong mỗi sinh thể đều có hai căn nguyên, một căn nguyên thụ động, một căn nguyên hoạt động. Nhờ căn nguyên thứ nhất, sự vật có thể biến đổi, vận động. Còn căn nguyên thứ hai là nguyên nhân khiến cho sự vật biến đổi, nó xác định đặc tính của sự vật. Căn nguyên này không tĩnh tại như trong triết thuyết của Aristote, mà vận động trong lòng sự vật, như một mầm mống đang phát triển, bởi thế được các nhà Khắc kỷ đặt tên là nguyên do mầm mống (raison séminalte). N.D.Những đoạn văn trên có nghĩa gì? Về thực chất, chỉ là điều này mà thôi: đạt đến một trình độ minh triết nào đó về lý thuyết và thực hành, con người hiểu rằng cái chết không thực sự tồn tại, rằng nó chỉ là bước chuyển tiếp từ một trạng thái này sang một trạng thái khác, không phải một sự tuyệt diệt, mà một kiểu thức hiện hữu khác. Với tư cách là thành viên của một cosmos thần diệu và bền vững, cả chúng ta nữa cũng có thể tham gia vào tính bền vững và tính thần diệu ấy.
Miễn là chúng ta hiểu điều đó, chúng ta sẽ đồng thời nhận biết được nỗi sợ của ta đối với cái chết vô lý biết chừng nào, chẳng những về phương diện chủ quan, mà theo một nghĩa phiếm thần luận, thì cả về phương diện khách quan nữa, bởi vũ trụ là vĩnh cửu, và bởi bản thân chúng ta được chỉ định để mãi mãi vẫn là một mảnh của vũ trụ, nên chúng ta sẽ không bao giờ thôi tồn tại!
Vậy theo Epictète, hiểu rõ ý nghĩa của bước chuyển tiếp đó, chính là mục đích của mọi hoạt động triết học. Chính hoạt động này phải cho phép mỗi người đạt tới một sự sống tốt đẹp và hạnh phúc bằng cách dạy, theo định thức rất hay của ông, “sống và chết như một vị thần*”, ta hãy hiểu là: như một sinh thể, bằng cách nhận biết mối liên hệ đặc quyền của mình với tất cả các sinh thể khác trong lòng sự hài hòa vũ trụ, mà đạt tới được niềm thanh thản, đạt tới được nhận thức về sự thật là, phải chết theo một nghĩa, mình chẳng vì thế mà không vĩnh cửu theo một nghĩa khác. Đó là lý do, theo Cicéron, khiến truyền thống đôi khi đã “thần thánh hóa” một số danh nhân như Hercule hay Esculape: do tâm hồn họ “vẫn tồn tại và vui hưởng tính vĩnh cửu, nên người ta đã coi họ một cách chính đáng là các vị thần bởi vì họ hoàn hảo và vĩnh cửu**”.
* Những nhà Khắc kỷ, sđd, tr. 900.
**Về bản chất các thần, II, 24. Ta gần như có thể nói rằng, theo quan niệm cổ này về sự cứu rỗi, có những cấp độ trong sự chết, cứ như thể người ta chết đi nhiều hay ít tùy theo người ta minh triết và “tỉnh táo” nhiều hay ít. Theo cách nhìn này, sự sống tốt đẹp, đó là sự sống, bất kể lời thú nhận tỉnh ngộ về tính hữu hạn của chúng ta, vẫn duy trì mối liên hệ mật thiết nhất có thể, với sự vĩnh cửu, ở trường hợp này, là với sự sắp đặt thần diệu của vũ trụ mà nhà minh triết đạt tới được nhờ theoria. Vả lại, trong khi phân định sứ mệnh tối cao này cho triết học, Epictète chỉ gia nhập một truyền thống lâu dài, ít nhất là từ Timée của Platon, truyền thống ấy đi qua Aristote và tiếp nối một cách kỳ lạ về một số phương diện, như lát nữa ta sẽ thấy, cho đến tận Spinoza, bất kể sự “giải kiến tạo” (déconstruction) nổi tiếng của ông đối với khái niệm bất tử.
Trước hết chúng ta hãy nghe Platon, ở đoạn dưới đây trong Timée (90 b-c) nhắc nhở đến quyền năng trác tuyệt của bộ phận ưu việt của con người, trí tuệ (cái chúng ta): “Thượng đế đã cho chúng ta bộ phận ấy như một thần linh, và đó chính là căn nguyên mà chúng ta bảo là cư trú ở trên đĩnh cơ thể của chúng ta, và nó nâng chúng ta từ mặt đất hướng lên thân tộc trên trời của ta, vì ta là một cây cỏ của trời, chứ không phải của đất, chúng ta có thể khẳng định như vậy hoàn toàn chân thực. Bởi Thượng đế đã treo đầu của chúng ta và cội rễ của chúng ta ở chỗ mà linh hồn từ khởi thủy được sinh ra và như vậy là đã dựng toàn bộ cơ thể chúng ta hướng lên trời. Mà khi một con người đã hoàn toàn phó mình cho những đam mê của y hoặc cho những tham vọng của y và sử dụng mọi nỗ lực của y nhằm thỏa mãn chúng, thì toàn bộ các tư tưởng của y tất yếu phải trở thành độc hại gây chết chóc, và y chẳng thiếu một điều gì để trở nên hoàn toàn có tính phải chết, đến hết mức có thể, bởi chính y đã tập luyện việc này. Nhưng khi một con người hiến mình trọn vẹn cho lòng yêu khoa học và cho minh triết thực sự và trong các năng lực của y, y đã đặc biệt tập luyện năng lực suy nghĩ đến những điều bất tử và thần diệu, nếu y đạt tới được chân lý thì chắc chắn là, trong chừng mực mà bản tính con người tham gia được vào sự bất tử, y không thiếu một điều gì để đạt tới chỗ đó.” Điều ấy, Platon lập tức bổ sung, ắt phải cho phép y “hạnh phúc một cách phi phàm”. Vậy là, muốn cuộc đời mình thành công, muốn khiến cho nó đồng thời vừa tốt đẹp vừa hạnh phúc, thì cần phải trung thành với bộ phận thần diệu của bản thân chúng ta, với trí tuệ. Chính nhờ bộ phận ấy mà chúng ta gắn bó, như nhờ những “cội rễ của trời”, với thế giới cao siêu và thần diệu của sự hài hòa trên trời: “Bởi vậy phải cố trốn chạy thật nhanh từ thế giới này sang thế giới kia. Mà chạy trốn như thế, chính là khiến cho mình giống với Thần thánh nhiều hết mức có thể, và giống với Thần thánh, đó là đúng đắn và lành mạnh nhờ sự giúp đõ của trí tuệ.”
Ta còn thấy một ghi nhận nữa, chắc chắn là không đồng nhất, nhưng tương tự, ở Aristote, tại một trong những đoạn được bình luận nhiều nhất của tác phẩm Đạo đức học tặng Nicomaque, khi cả ông cũng định nghĩa cuộc sống tốt đẹp, “cuộc sống hướng tới nhận thức hoặc trầm tư”, cuộc sống duy nhất có thể dẫn chúng ta đến “hạnh phúc hoàn hảo”, như là một cuộc sống nhờ đó chúng ta sẽ thoát được, ít ra là một phần, thân phận của những con người tầm thường phải chết, có lẽ một số người sẽ bảo rằng một “cuộc đời theo kiểu ấy sẽ là quá cao đối với thân phận con người: bởi người ta sẽ sống theo cách ấy không phải với tư cách người, mà với tư cách một yếu tố thần diệu nào đó hiện diện trong ta... Tuy nhiên, nếu như trí tuệ là một cái gì đó thần diệu so sánh với con người, thì cuộc sống theo trí tuệ cũng là thần diệu so với cuộc sống của con người. Vậy không nên nghe theo những kẻ khuyên con người, vì mình là người, nên hãy giới hạn suy nghĩ của mình ở những điều thuộc con người, và vì mình phải chết, nên hãy giới hạn suy nghĩ ở những sự vật phải chết, mà con người phải, trong chừng mực có thể, khiến mình thành bất tử và làm tất cả để sống theo cái bộ phận cao quý nhất ở trong mình.”Nói như vậy rồi, song nhiệm vụ không hề dễ dàng, và như giờ đây bạn kiểm nhận thấy, nếu triết học, đạt đến tuyệt đỉnh ở một thuyết cứu rỗi dựa trên việc sử dụng lý tính, muốn không chỉ dừng lại ở hy vọng đơn giản là hướng tới minh triết, mà còn chiến thắng các nỗi sợ và nhường chỗ cho bản thân minh triết, thì nó phải hóa thân vào những tập luyện thực tiễn.
Sự thật là, chính ở đó, thuyết cứu rỗi có được ý nghĩa thực sự của nó và đạt đến một chiều kích mới. Để nói hết với bạn, tôi không hoàn toàn bị thuyết phục bởi câu trả lời khắc kỷ - và nếu muốn, tôi có thể đưa ra nhiều điều phê phán đối với câu trả lời ấy. Vả chăng, ở thời đại của các nhà khắc kỷ, đã có những sự phản bác đó rồi. Nhưng trong khi trình bày những thời điểm quan trọng của triết học, tôi đã quyết định tránh mọi cái nhìn phủ định bởi vì tôi cho rằng thoạt tiên cần hiểu rõ trước khi phê phán, và nhất là vì trước khi “tự mình suy nghĩ lấy”, cần thiết phải có sự khiêm nhường “suy nghĩ qua người khác”, cùng với họ và nhờ ở họ.
Mà từ điểm nhìn này, ngay cả nếu bản thân tôi không phải là nhà khắc kỷ và không theo triết thuyết ấy, thì tuy thế tôi vẫn phải thừa nhận rằng nỗ lực do triết thuyết này đại diện thật kỳ vĩ, và những lời đáp mà nó định đem lại gây ấn tượng mạnh. Đó chính là điều tôi muốn chỉ ra cho bạn bằng cách giờ đây nhắc đến một số thực hành minh triết do thuyết này mở đường. Bởi triết học, như thuật ngữ đã chỉ rõ ở bản thân nó, chưa phải là minh triết, mà chỉ là yêu mến (
philo) minh triết (
sophia). Và, theo các nhà khắc kỷ, chính là trong và nhờ những thực hành cụ thể mà ta có thể đi từ triết học sang minh triết. Nếu triết học đạt đến tuyệt đỉnh ở một thuyết cứu rỗi, và nếu điều mà trước hết ta phải cứu mình thoát khỏi, là những nỗi sự liên quan đến tính hữu hạn, thì những thực hành này phải hướng trọn vẹn đến việc trừ bỏ lo âu - ở diều này tôi thấy dường như (nhưng bạn sẽ có thể tự mình xét đoán) những thực hành đó ngày nay vẫn còn giữ được một giá trị rất quý báu, ngay cả với những người không chia sẻ những kiến giải của các nhà khắc kỷ, ở khía cạnh khác.
Vài thực hành minh triết để thực hiện một cách cụ thể việc kiếm tìm cứu rỗi
Hầu hết những thực hành này đều liên quan đến mối quan hệ với thời gian, vì hiển nhiên thời gian là nơi đến nương náu những nỗi lo âu nuôi dưỡng các ân hận và hoài niệm dính dáng tới quá khứ, song cả những hy vọng và dự định mà người ta muốn đặt ở tương lai nữa. Những thực hành ấy càng lý thú và giàu ý nghĩa bởi ta sẽ gặp lại chúng, dưới những hình thái khác nhau, suốt chiều dài lịch sử triết học, ở một số nhà tư tưởng khác tuy thế lại vô cùng xa cách các nhà khắc kỷ, ở Epicure và Lucrèce đã thấy rồi, nhưng thật lạ là ở cả Spinoza và Nietzsche, thậm chí ở những truyền thống hoàn toàn khác với truyền thống triết học phương Tây, như Phật giáo Tây Tạng. Tôi sẽ chỉ nêu ra với bạn bốn sự thực hành, nhưng bạn hãy biết là còn nhiều thực hành khác nữa đặc biệt liên quan đến cách người ta có thể đạt tới chỗ hòa tan mình vào cái Toàn thể vĩ đại của vũ trụ.
Hai tai ương lớn: gánh nặng của quá khứ và những ảo ảnh của tương lai
Ta hãy khởi đầu bằng điều cốt yếu: theo một chủ đề mà tôi chỉ mới nhắc nhở sơ qua ở lời nói đầu cuốn sách này, nhưng về sau sẽ có những sự tiếp nối quan trọng, thì hai tai ương đè nặng lên cuộc sống của con người, trong mắt các nhà khắc kỷ, hai máy hãm chặn cuộc sống lại và ngăn cản nó đạt đến sự viên mãn là hoài niệm và hy vọng, niềm quyến luyến quá khứ và nỗi ưu tư về tương lai. Những điều đó không ngừng làm ta lỡ mất thời khắc hiện tại, ngăn cấm ta sống thời khắc ấy một cách trọn vẹn. Người ta đã có thể nói rằng, từ điểm nhìn này, thuyết khắc kỷ báo trước một trong những phương diện có lẽ sâu sắc nhất của phân tâm học: kẻ nào vẫn cứ bị quá khứ của mình giam cầm sẽ mãi mãi không có khả năng “vui hưởng và hành động”, như Freud nói. Như vậy là nói rằng, đặc biệt, hoài niệm về những thiên đường đã mất, về những niềm vui và nỗi khổ của tuổi thơ, đè nặng lên cuộc đời ta bằng một trọng lực càng lớn hơn bởi nó không được nhận ra.
Có lẽ đấy là xác tín đầu tiên, giản dị và sâu xa, biểu lộ theo cách hoàn toàn thực tiễn đằng sau công trình lý thuyết của minh triết khắc kỷ. Marc Aurèle, có lẽ rõ hơn ai hết, đã bày tỏ xác tín ấy ở phần đầu tập XII của Tư duy:
“Tất cả những gì ngươi ước mong đạt tới bằng một đoạn đường dài quanh co, ngươi có thể có được nó ngay từ bây giờ, nếu ngươi không tự khước từ nó cho bản thân. Chỉ cần bỏ lại đấy toàn bộ quá khứ, phó thác tương lai cho thượng đế và hướng hành động hiện tại đến niềm kính tín và chính nghĩa; đến niềm kính tín để yêu mến cái phần mà tạo hóa cấp cho ngươi; vì tạo hóa đã sản sinh ra phần ấy cho ngươi và sản sinh ra ngươi cho phần ấy; đến chính nghĩa, để nói lên sự thật một cách thoải mái không quanh co và để hành động theo luật pháp và theo giá trị.”
Vậy để được cứu vớt, để đạt tới minh triết vốn vượt lên triết học rất xa, ta phải khẩn thiết học cách sống không sợ hãi hão huyền cũng không hoài niệm vô ích, điều này coi như ta phải thôi trú ngụ thường xuyên ở những chiều kích quá khứ và tương lai của thời gian, những chiều kích thực ra không hề có sự tồn tại nào, để dựa nhiều hết mức có thể vào hiện tại;
“Sao cho hình ảnh về toàn bộ cuộc đời ngươi đừng bao giờ làm ngươi bối rối. Đừng nghĩ đến tất cả những điều buồn khổ có lẽ đã xảy ra, mà ở mỗi khoảnh khắc hiện tại hãy tự hỏi: trong biến cố này có cái gì khó chịu và cái gì hấp dẫn? Khi ấy hãy nhớ rằng không phải quá khứ hay tương lai, mà là hiện tại đang trĩu nặng trên ngươi*.”
* Tư duy, VIII, 36.Đó là lý do phải học rũ bỏ những điều nặng nề neo bám một cách lạ lùng vào hai hình tượng của hư vô. Marc Aurèle nhấn mạnh điều này:
“Hãy nhớ rằng mỗi kẻ chỉ sống trong thòi điểm hiện tại, trong giờ khắc tức thì. Cái còn lại, đó là quá khứ, hoặc một tương lai mờ mịt. Vậy phạm vi của đòi sống thật nhỏ bé”
cái phạm vi mà, trong thực tế, chúng ta phải đương đầu. Hoặc, như Sénèque còn nói trong những bức Thư gửi Lucillus:
“Cần phải gạt đi hai điều này: niềm lo sợ tương lai, hồi ức về những nỗi đau xưa cũ. Những nỗi đau ấy không liên quan đến tôi nữa còn tương lai chưa liên quan đến tôi*”
* Được Pierre Hadot viện dẫn và bình luận rất sâu sắc và tinh tế trong Thành trì bên trong, Fayard, tr.133.ta có thể bổ sung, để thêm vào một chút, rằng không chỉ những “nỗi đau xưa cũ” làm hỏng cuộc sống hiện tại của kẻ mắc sai lầm là thiếu minh triết, mà, nghịch lý thay và có lẽ còn làm hỏng nhiều hơn, đó là hồi ức về những ngày hạnh phúc mà ta đã mất đi vô phương cứu vãn và sẽ “không bao giờ nữa” còn trở lại: never more.
Nếu bạn đã hiểu rõ điều này, bạn cũng sẽ hiểu được vì sao, thật nghịch lý, nghĩa là ngược lại với ý kiến phổ thông nhất, thuyết khắc kỷ lại dạy đồ đệ rũ bỏ những hệ tư tưởng đánh giá cao hy vọng.
“Hy vọng ít đi một chút, yêu mến nhiều hơn một chút”
Như một triết gia đương đại, André Comte - Sponville, đã nhấn mạnh một cách đúng đắn, ở đây thuyết khắc kỷ gặp gỡ một trong những chủ đề vi diệu nhất của các minh triết phương Đông, đặc biệt là của Phật giáo Tây Tạng: hy vọng là nỗi bất hạnh lớn nhất trên đời, ngược với sáo ngữ theo đó người ta chẳng thể “sống không hy vọng”. Bởi về bản chất nó thuộc loại thức của sự thiếu khuyết, của trạng thái căng thẳng chưa thỏa mãn. Liên miên không ngớt, chúng ta sống trong chiều kích của dự định, chạy theo những mục tiêu được định vị trong một tương lai ít hay nhiều xa xôi và, ảo tưởng tột độ, chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào sự thực hiện rốt cuộc được mỹ mãn những mục đích, tầm thường hay kỳ vĩ, sao cũng được, mà chúng ta đã tự chỉ định cho bản thân. Mua chiếc MP3 đời chót, một máy ảnh nhiều tính năng hơn, có một căn phòng đẹp hơn, một xe máy hiện đại hơn, tiến hành một cuộc quyến rũ, thực hiện một dự định, thành lập một xí nghiệp dù nó thuộc loại nào chăng nữa: mỗi lần chúng ta lại chịu khuất phục ảo ảnh về một hạnh phúc hoãn lại, về một thiên đường còn phải kiến thiết, ở trần gian này hay ở cõi bên kia.
Chúng ta quên mất rằng chẳng có thực tại nào khác ngoài cái thực tại được sống ở đây và bây giờ, mà cuộc chạy trốn lạ lùng về phía trước chắc chắn khiến ta bỏ lỡ. Mục tiêu một khi đã chinh phục được, hầu như bao giờ ta cũng trải nghiệm một cách đau đớn nỗi thờ ơ, nếu không là niềm thất vọng. Giống như những đứa trẻ hôm sau ngày lễ Noël bỏ rơi đồ chơi của chúng, việc sở hữu những của cải được thèm muốn khát khao hết sức nồng nhiệt chẳng khiến chúng ta tốt hơn hay hạnh phúc hơn trước đó. Những khó khăn để sống và sự bi đát của thân phận con người chẳng vì thế mà thay đổi và, theo định thức trứ danh của Sénèque, “trong khi ta chờ đợi để sống, thì cuộc sống trôi qua”.
Đó là toàn bộ bài học của Perrette, nếu như bạn còn nhớ bài ngụ ngôn trứ danh của La Fontaine: bình sữa không chỉ vỡ vì những lý do giai thoại, mà thực ra là vì kiểu huyễn tưởng khiến Perrette phấn chấn chẳng bao giờ thành được. Cũng giống như khi ta chơi trò tưởng tượng mình là triệu phú: “cứ như thể mình trúng xổ số”… thế là, ta sẽ mua cái này rồi cái kia, ta sẽ tặng một phần cho chú Jean hay cô Ninette, một phần khác cho các công trình từ thiện, ta sẽ thực hiện chuyến du lịch này nọ… Thế rồi sao? Cuối cùng, vẫn là ngôi mộ thấp thoáng phía chân trời và ta nhanh chóng hiểu ra rằng sự tích lũy mọi của cải vật chất có thể có và có thể tưởng tượng, dù chẳng phải là không quan trọng (chúng ta đừng đạo đức giả: dù sao tiền bạc cũng giúp chịu đựng cái nghèo, như câu nói đùa bảo ta…), song chẳng giải quyết được điều gì cốt yếu.
Đó là lý do, theo một câu ngạn ngữ Phật giáo nổi tiếng, cần phải học cách sống như thể thời khắc quan trọng nhất của đời anh là thời khắc anh đang sống ở chính thời điểm này, và những người đáng kể nhất, là những người đang ở trước mặt anh. Bởi thật đơn giản là những điều còn lại không tồn tại, do quá khứ không hiện hữu nữa còn tương lai chưa hiện hữu. Những chiều kích ấy của thời gian chỉ là những thực tại tưởng tượng mà chúng ta chỉ “gánh vác” như những “súc vật chở nặng” bị Nietzsche nhạo báng, để mất đi nhiều hơn “tính vô tội của sự trở thành” và chứng minh ta bất lực không thể có điều mà Nietzsche gọi, hoàn toàn theo nghĩa của các nhà khắc kỷ, là “L’amor fati” (yêu mến số phận), yêu mến thực tế như nó vốn thế. Hạnh phúc đã mất, chân phúc sẽ tới, nhưng, vì thế, hiện tại vụt qua, bị xua về hư vô trong khi nó là chiều kích duy nhất của cuộc sống thực.
Chính theo cách nhìn này mà Đàm thoại của Epictète phát triển một trong những chủ đề trứ danh nhất của thuyết khắc kỷ, một chủ đề mà tuy thế tôi còn chưa nói với bạn bởi vì chỉ giờ đây bạn mới có được mọi yếu tố để hiểu rõ nó: sự sống tốt đẹp, đó là sự sống không hy vọng cũng chẳng sợ hãi, vậy đó là
sự sống hòa giải với cái đang hiện hữu, là sự tồn tại chấp nhận thế giới như nó đang diễn tiến. Bạn hiểu rõ sự hòa giải này không thể có được ở bên ngoài niềm tin chắc rằng thế giới là thần diệu, hài hòa và tốt đẹp.
Đây là điều Epictète khuyên học trò mình: cần phải xua đuổi khỏi “đầu óc âu sầu của con”, ông bảo anh ta, “nỗi sợ, lòng ghen ghét, niềm vui vì những nỗi khổ của người khác, tính bủn xỉn, thói nhu nhược, sự không tiết dục. Nhưng không thể xua đuổi những thứ đó mà không lưu tâm duy nhất đến Thượng đế, không duy nhất ái mộ Người, không chuyên tâm vâng theo lệnh Người. Nếu con muốn điều khác, con sẽ than thở, con sẽ rên rỉ đi theo những kẻ mạnh hơn con, luôn kiếm tìm ở bên ngoài con một hạnh phúc mà con sẽ không bao giờ tìm thấy được; đó là vì con tìm nó ở nơi nó không tồn tại và con không chịu tìm nó ở nơi nó tồn tại*.” Ở đây lại cần phải hiểu lời truyền dạy theo một nghĩa “vũ trụ” hoặc phiếm thần luận, chứ không hề như một kiểu quay về với một nhất thần luận nào đó.
* Đàm thoại II, XXI, 45-47 (trong Những nhà Khắc kỷ, sđd, tr.924).Đặc biệt bạn chớ lầm lẫn điều này: Thượng đế mà Epictète nói đến không phải là một bản thể nhân vị như Chúa của các tín đồ Kitô, đó chỉ là một sự tương đương với
cosmos, một tên gọi khác của nguyên do phổ quát mà người Hy Lạp gọi là
logos, một diện mạo của số mệnh mà chúng ta phải chấp nhận, và thậm chí mong muốn bằng tất cả tâm hồn, trong khi mà, là nạn nhân của những ảo tưởng của ý thức cộng đồng, chúng ta luôn cho rằng mình phải chống lại số mệnh ấy để mưu toan làm nó chuyển hướng. Như bậc thầy vẫn luôn dặn dò đồ đệ:
“Cần phải làm cho ý muốn của chúng ta phù hợp với các biến cố sao cho không có biến cố nào xảy ra ngược với ý thích của ta và cũng không có biến cố nào không xảy ra khi ta muốn nó đến. Cái lợi, với những ai được chuẩn bị như thế, đó là không thất bại trong những ước ao của mình, không rơi vào những gì mình ghét, là được sống trong nội tâm một đời sống không buồn khổ, không sợ hãi và không xáo động*…”
*Đàm thoại II, XIV, 7-8 (trong Những nhà Khắc kỷ, sđd, tr. 914).Dĩ nhiên, những lời dặn dò như vậy có vẻ phi lý, một cách tiên nghiệm, với phần đông mọi người. Họ khó có thể thấy ở đấy cái gì khác ngoài một hình thái “tĩnh mịch luận” (quiétisme), nghĩa là một kiểu định mệnh chủ nghĩa, đặc biệt ngây ngô. Trước mắt đại đa số người, minh triết bị coi như một sự điên rồ, vì nó dựa trên một cách nhìn thế giới, một vũ trụ luận mà sự thấu hiểu thâm trầm coi như tất yếu phải có một nỗ lực lý thuyết khác thường. Nhưng chẳng phải chính điều này phân biệt triết học với những diễn ngôn thông thường hay sao, chẳng phải vì vậy mà nó có được sức hấp dẫn không hề giống một sự hấp dẫn nào khác?
Tôi phải thú nhận với bạn rằng bản thân tôi không chia sẻ sự cam chịu của thuyết khắc kỷ - và sau này, khi chúng ta nhắc đến duy vật luận đương đại, tôi sẽ có dịp nói rõ hơn với bạn vì sao. Mặc dù vậy nó vẫn miêu tả một cách tuyệt vời một trong những chiều kích mà cuộc sống con người có thể có, ở một số trường hợp - đại thể, khi mọi sự đều ổn! - chiều kích này quả thực có thể mang dáng dấp một hình thái minh triết. Quả thực, có những khoảnh khắc ta không ở đó để biến cải thế giới, mà đơn giản chỉ là để yêu mến thế giới, và tận hưởng hết sức mình những vẻ đẹp và những niềm vui mà nó tặng cho ta.
Thí dụ, khi bạn đi tắm biển, khi bạn đeo mặt nạ vào để ngắm cá, bạn chẳng lặn xuống để đổi thay sự vật, cũng chẳng để cải thiện chúng, hay sửa chữa chúng, mà ngược lại để ngưỡng mộ chúng và yêu mến chúng. Chính là phần nào theo kiểu mẫu này mà thuyết khắc kỷ truyền bảo chúng ta hòa giải với những gì hiện hữu, với hiện tại như nó đang diễn tiến, ở bên kia những hy vọng và những nuối tiếc của ta. Nó rủ chúng ta đến với chính những thời điểm ơn phước này, và để gia tăng những thời điểm ấy, để làm cho chúng thành nhiều hết mức có thể, nó xui chúng ta thay đổi những ao ước của mình hơn là thay đổi trật tự thế giới.
Cũng từ đấy mà có lời dặn dò chủ yếu khác của thuyết khắc kỷ đối với chúng ta: bởi chiều kích duy nhất của cuộc sống thực là chiều kích của hiện tại và bởi, chính theo định nghĩa, hiện tại này thường xuyên biến động, nên minh triết là tập quen không quyến luyến những gì trôi qua. Không thế, thì bản thân chúng ta sẽ tự chuẩn bị cho mình những đau khổ tệ hại nhất có thể có.
Biện hộ cho sự “không-quyến luyến”
Chính theo lẽ này mà thuyết khắc kỷ, trong một tinh thần hoàn toàn gần gũi với tinh thần của Phật giáo, biện hộ cho một thái độ “không-quyến luyến” đối với những sự sở hữu của thế gian này, như Epictète gợi ý, trong một đoạn văn mà các bậc thầy Tây Tạng có lẽ sẽ không chối bỏ:
“Sự thực hành đầu tiên và trọng yếu, sự thực hành lập tức dẫn ta đến trước cửa của cái thiện, đó là, khi một sự vật khiến ta quyến luyến, hãy xem nó như không thuộc những sự vật mà mọi người không thể lấy đi của ta, xem nó như cùng loại với một cái nồi hoặc một ly thủy tinh, mà ta không băn khoăn khi nó vỡ, vì ta nhớ lại nó là cái gì. Ở đây cũng vậy: nếu con ôm hôn đứa con của con, anh của con hay bạn con, đừng buông mình hoàn toàn cho trí tưởng tượng… Hãy nhớ rằng con yêu mến một con người, một sinh thể không hề là bản thân con. Người ấy được chấp nhận cho con vào lúc này, chứ không phải mãi mãi, cũng không phải người ấy chẳng thể bị lấy đi khỏi con… Có hại gì khi vừa thì thầm vừa ôm hôn con mình: ‘Mai kia nó sẽ chết’*?”
*Đàm thoại, III, 84.Con hãy hiểu cho đúng điều Epictète muốn nói: đây không hề là thờ ơ, càng không phải là thiếu sót đối với những bổn phận mà lòng trắc ẩn buộc ta phải có với mọi người, nhất là với những ai ta yêu mến. Mặc dù vậy cần phải phòng ngừa như phòng ngừa bệnh dịch hạch, những sự quyến luyến khiến ta quên mất điều mà những người theo đạo Phật gọi là “tính vô thường”, cái sự thật là không gì bền vững trên cõi đời này, mọi sự đều đổi thay và trôi qua, và không hiểu điều ấy, là bản thân mình tự chuẩn bị cho mình những dằn vặt ghê gớm của hoài niệm và hy vọng. Cần phải biết hài lòng với hiện tại, yêu mến hiện tại đủ để không ao ước gì khác cũng không nuối tiếc bất cứ điều gì. Lý tính, dẫn dắt chúng ta và nhủ ta sống phù hợp với tự nhiên mang tính vũ trụ, phải được thanh lọc như vậy khỏi những cặn lắng làm cho nó nặng nề và sai lầm, khi nó lạc vào những chiều kích phi thực của thời gian là quá khứ và tương lai.
Nhưng một khi đã được trí tuệ nắm bắt rồi, chân lý này còn lâu mới được đem ra thực hành. Vì thế Marc Aurèle khuyên đồ đệ hãy là hiện thân cụ thể của chân lý đó:
“Ta bảo rằng, nếu như con tách ra khỏi năng lực chỉ đạo này toàn bộ những gì đã kết hợp vào nó do các đam mê, toàn bộ những gì ở bên kia hiện tại và toàn bộ quá khứ, thì con sẽ khiến bản thân con, như Empédocle nói, thành ‘một hình cầu thật tròn trịa, kiêu hãnh trong niềm vui của sự cô đơn của mình’. Con sẽ tập sống trong khoảnh khắc duy nhất con đang sống, nghĩa là trong hiện tại; và con có thể trải qua toàn bộ thời gian còn lại với con cho đến khi chết đi, không xáo động, một cách cao quý và một cách dễ chịu cho chính thần bản mệnh của con*.”
*Tư duy, XII, 3.Đúng là điều, như sau này ta sẽ thấy, mà Nietzsche gọi một cách hình ảnh là “tính vô tội của sự trở thành”. Nhưng để nâng mình lên được hình thái này của minh triết, lại còn phải có can đảm tư duy cuộc sống của mình dưới những hạng mục của “thì tương lai diễn ra trước” (futur antérieur).
“Khi tai họa (sẽ) xảy đến, tôi (sẽ) được chuẩn bị cho điều đó”: một tư tưởng về cứu rỗi cần phải viết ở thì tương lai diễn ra trước
Điều này có nghĩa gì? Như chắc hẳn bạn đã ghi nhận trong lời Epictète nói về đứa con của chính ông, vấn dề vẫn là về cái chết, và về những chiến thắng mà triết học có thể cho phép ta giành được đối với nó, hoặc ít ra, cũng là với nỗi sợ do nó gây nên và ngăn cản ta sống dễ chịu. Chính ở chỗ này, những thực hành cụ thể nhất tiếp giáp với tính tâm linh cao nhất: nếu vấn đề là sống ở thì hiện tại, là tháo cởi khỏi mình những ân hận, những nuối tiếc và những lo âu mà quá khứ và tương lai làm kết tinh lại, thì chính là để thụ hưởng mỗi thời khắc cuộc đời như nó xứng đáng được thụ hưởng, nghĩa là với sự thức nhận trọn vẹn và hoàn toàn rằng, với những kẻ phải chết như chúng ta, thời khắc ấy bao giờ cũng có thể là thời khắc cuối cùng. Vậy cần phải “thực hiện mỗi hành động của cuộc đời như thể đó là hành động cuối cùng” (Marc Aurèle, Tư duy II, 5,2).
Điều được mất về tâm linh của sự thực hành nhờ đó chủ thể rũ khỏi mình những quyến luyến nặng nề với quá khứ và tương lai vậy là rõ ràng, vấn đề là chiến thắng những nỗi sợ gắn với tính hữu hạn nhờ vận dụng một xác tín không phải thuộc tinh thần, mà sâu kín và hầu như thuộc xác thịt: theo xác tín này thì, kỳ thực, không có khác biệt giữa vĩnh hằng và hiện tại, một khi mà hiện tại ít ra không còn bị hạ thấp giá trị, so với các chiều kích khác của thời gian.
Trong đời có những thời điểm ơn phước, những khoảnh khắc mà chúng ta có cảm giác hiếm hoi là rốt cuộc ta được hòa giải với thế giới. Vừa rồi tôi cho bạn thí dụ về việc lặn dưới biển. Có thể thí dụ ấy chẳng nói lên điều gì với bạn, có thể, về những gì liên quan đến bạn, thì thí dụ ấy bị chọn sai, nhưng tôi chắc chắn rằng tự bạn có thể tưởng tượng ra nhiều thí dụ khác và mỗi người, tùy sở thích và tính tình, sẽ có trong đầu những thí dụ của mình: có thể là một cuộc dạo chơi trong rừng, một buổi tà dương, một trạng thái si tình, một cảm giác điềm tĩnh song lại vui vẻ vì một điều tốt đã được hoàn thành, là niềm thanh thản, đôi khi, có thể theo sau một thời điểm sáng tạo quan trọng, có hề gì đâu. Dù sao mặc lòng, đó là khi sự trùng hợp giữa chúng ta và thế giới bao quanh ta trở nên hoàn hảo, khi sự hòa hợp tự nó thực hiện, không ép uổng, trong tính hài hòa, thì cùng lúc, thời gian dường như triệt tiêu để nhường chỗ cho một hiện tại như kéo dài, một hiện tại có thể nói là được phú cho bề dày, một hiện tại mà chẳng có gì của quá khứ hay tương lai đến làm hỏng trạng thái thanh thản.
Làm sao cho toàn bộ cuộc đời giống những khoảnh khắc như vậy, về thực chất, đó là lý tưởng của minh triết. Chính ở điểm này chúng ta chạm tới điều gì đó thuộc loại thức của sự cứu rỗi theo nghĩa là không gì còn có thể đến khuấy động niềm thanh thản nảy sinh từ sự triệt tiêu những nỗi sợ gắn với các chiều kích khác của thời gian. Khi đạt tới trình độ giác ngộ như vậy, nhà minh triết có thể sống “như một thần linh”, trong sự vĩnh hằng của một khoảnh khắc mà không gì tương đối hóa được nó nữa, trong tính tuyệt đối của một hạnh phúc mà không một lo âu nào có thể đến làm hỏng.
Có lẽ bạn cũng lường được, trong thuyết khắc kỷ cũng như trong Phật giáo, chiều kích thời gian của cuộc đấu tranh chống lại nỗi lo âu về cái chết đúng là chiều kích của “thì tương lai diễn ra trước*” ở chỗ nào. Quả thực, chiều kích ấy tự tỏ bày theo cách sau: “Khi số mệnh (sẽ) giáng xuống, lúc ấy tôi (sẽ) được chuẩn bị cho điều đó.” Khi tai họa, hay ít ra điều mà thông thường mọi người coi là tai họa - cái chết, bệnh tật, sự cùng khốn, và mọi tai ương liên quan đến tính không thể đảo ngược của thời gian trôi chảy - sẽ xảy đến, tôi sẽ có thể đối mặt với nó nhờ đã có được năng lực để sống ở thì hiện tại, nghĩa là để yêu mến thế giới như nó vốn thế, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa:
* Cũng như các thì (temps) khác của động từ tiếng Pháp, thì tương lai diễn ra trước (le futur antérieur) có nhiều công dụng. Ở trường hợp này, nó được dùng để chỉ một hiện tượng coi như đã hoàn thành một cách chắc chắn trong tương lai. N.D.“Nếu xảy ra một trong những sự cố mà người ta thường gọi là khó chịu, thì thoạt tiên, điều sẽ làm vơi nhẹ nỗi buồn của con, đó là nó không bất ngờ… Con sẽ tự nhủ: ‘Mình đã biết là mình có thể chết. Mình đã biết là mình có thể rời xa quê hương, mình đã biết là người ta có thể lưu đày mình, mình đã biết là người ta có thể đưa mình vào nhà giam.’ Sau đó, nếu con tự xét lại mình, nếu con tìm xem sự cố thuộc lĩnh vực nào, con sẽ nhớ ngay ra rằng nó thuộc lĩnh vực những điều không phụ thuộc vào ý muốn của chúng ta, không phải là của chúng ta”
Mà chúng do tự nhiên gửi đến cho ta một cách đúng và tốt miễn là ta xem xét mọi điều, không phải theo kiểu nhìn cái nhỏ thành cái lớn, mà theo quan điểm của sự hài hòa tổng quát.
Ngày nay, sự minh triết này vẫn còn nói với chúng ta, ở bên kia những thế kỷ và những bất đồng căn bản gắn với lịch sử và với văn hóa đặc thù của những thời kỳ quan trọng của lịch sử. vả lại nó sẽ có một hậu thế lâu dài, thí dụ cho đến tận Nietzsche, như rồi đây ta sẽ thấy.
Mặc dù vậy chúng ta không còn sống trong thế giới Hy Lạp nữa. Những vũ trụ luận quan trọng và cùng với chúng, những “minh triết của thế giới”, chủ yếu, đã tiêu tan.
Từ đó ắt bạn phải bắt đầu tự đặt cho mình một câu hỏi lớn: vì sao và như thế nào mà người ta chuyển từ một cách nhìn này về thế giới sang một cách nhìn khác. Rốt cuộc vì sao - vẫn là lời chất vấn ấy được nhìn dưới một góc độ khác - có nhiều triết thuyết dường như tiếp nối nhau trong một lịch sử các tư tưởng, chứ không phải một tư tưởng duy nhất đủ để xuyên qua các thời đại và làm hết thảy mọi người toại nguyện dứt khoát một lần?
Điều tốt nhất, để bắt đầu xác định cụ thể hơn ranh giới câu hỏi, chỉ đơn giản là xuất phát từ thí dụ giờ đây đang khiến ta bận tâm, thí dụ về các thuyết cứu rỗi gắn với những vũ trụ luận quan trọng thời cổ. Vì sao minh triết khắc kỷ không đủ để ngăn cản sự xuất hiện những tư tưởng cạnh tranh, nhất là sự ra đời của Kitô giáo nếu không giáng cho thuyết này một đòn trí mạng (tôi vừa bảo bạn rằng thuyết khắc kỷ hãy còn nói với chúng ta!) thì chí ít cũng sẽ tống nó xuống bình diện thứ nhì trong nhiều thế kỷ.
Như vậy bằng cách xem xét việc chuyển từ một cách nhìn này về thế giới sang một cách nhìn khác tiến hành như thế nào, trong một trường hợp nhất định - ở đây là chuyển từ thuyết khắc kỷ sang Kitô giáo - chúng ta có thể còn rút ra được những bài học khái quát hơn về ý nghĩa của lịch sử triết học.
Nói về thuyết khắc kỷ, cần phải thừa nhận rằng, dù các cơ chế được tạo dựng công phu có kỳ vĩ đến mấy, thì một nhược điểm hết sức quan trọng vẫn ảnh hưởng đến câu trả lời của thuyết này cho vấn đề cứu rỗi, nhược điểm chắc chắn sẽ mở ra một lỗ hổng, để chỗ cho những câu trả lời khác, và, vì thế, cho phép bộ máy lịch sử tái khởi động.
Như có lẽ bạn đã tự mình ghi nhận, thuyết cứu rỗi khắc kỷ vẫn là vô danh và phi nhân vị. Nó hứa với chúng ta sự vĩnh hằng, hẳn thế rồi, nhưng dưới một hình thái vô danh, hình thái một mảnh vô ý thức của
cosmos: cái chết, với thuyết này, chỉ là một bước chuyển, nhưng chính thế, sự chuyển tiếp diễn ra giữa một trạng thái nhân vị và hữu thức, trạng thái của bạn và của tôi như là những con người sống và tư duy, sang một trạng thái tan hòa với
cosmos, trong tiến trình tan hòa này chúng ta mất đi tất cả những gì tạo thành cá tính hữu thức của chúng ta. Vậy không chắc là nó trả lời được hoàn toàn cho câu hỏi do nỗi lo âu về tính hữu hạn đặt ra. Đúng là nó tìm cách rũ bỏ cho ta những nỗi sợ gắn với hình dung về cái chết, nhưng với giá của một sự khuất lấp cái tôi, điều này tất nhiên chẳng phải ước nguyện tha thiết nhất của chúng ta, đấy còn là cách nói nhẹ hơn cả. Điều chúng ta mong muốn hơn hết thảy, đó là gặp lại những người mà ta yêu quý, cùng với, nếu có thể, những giọng nói và những gương mặt của họ, chứ không phải dưới hình dạng những mảnh vũ trụ không phân biệt, những hình dạng sỏi đá hay rau cỏ…
Mà chính ở điểm này, thì Kitô giáo, nếu tôi mạo muội nói, sẽ không bủn xỉn. Kitô giáo sẽ hứa với chúng ta tất cả, đúng là tất cả những gì chúng ta muốn, một sự bất tử cuối cùng có nhân vị, và sự cứu rỗi cho những người thân của chúng ta. Xuất phát từ những gì mà bản thân nó nhận thấy là một nhược điểm của minh triết Hy Lạp, Kitô giáo sẽ dụng tâm tạo dựng, với sự am hiểu rõ rành nguồn cơn, một thuyết cứu rỗi mới mẻ nhiều “hiệu năng” đến mức nó sẽ công kích kịch liệt các triết học thời cổ đại để thống trị thế giới phương Tây trong gần mười lăm thế kỷ.