I. Một nhận thức luận mới: một trật tự thế giới không còn được cho sẵn, mà được kiến tạo
Những nguyên nhân của bước chuyển từ thế giới khép kín sang vũ trụ vô hạn là cực kỳ phức tạp và đa dạng. Như bạn có thể nghĩ, rất nhiều nhân tố đã tác động và giờ đây chúng ta sẽ không bắt tay vào liệt kê chúng, lại càng không phân tích chúng tỉ mỉ. Ta hãy chỉ nói rằng, trong nhiều nhân tố, cần phải nhắc đến các tiến bộ kỹ thuật, nhất là sự xuất hiện các công cụ mới mẻ về thiên văn học, như kính viễn vọng, những công cụ này khiến ta có được những quan sát mà ở trong lòng các vũ trụ luận cổ thì không sao biện giải nổi.
Để đưa ra cho bạn một thí dụ duy nhất, nhưng đã làm xúc động các trí óc thời ấy: sự phát hiện các novae, tức là các ngôi sao mới, hoặc ngược lại sự biến mất của một số ngôi sao đã từng tồn tại, chẳng việc nào hợp với tín điều thân yêu của cổ nhân về “tính bất di bất dịch của trời”, tức là hợp với ý tưởng cho rằng sự hoàn hảo tuyệt đối của cosmos nằm ở sự thật là nó vĩnh hằng và bất di bất dịch, rằng không gì ở nó có thể thay đổi. Với người Hy Lạp, đó là điều gì đấy tuyệt đối trọng yếu - bởi xét cho cùng, sự cứu rỗi phụ thuộc vào điều ấy - vậy mà, các nhà thiên văn hiện đại phát hiện ra tín ngưỡng này là sai lầm, đơn giản là bị các sự thực phản bác.
Dĩ nhiên, có rất nhiều nguyên nhân khác dẫn tới sự suy tàn của các vũ trụ luận cổ đại, nhất là về phương diện kinh tế học và xã hội học, nhưng những nguyên nhân liên quan đến các tiến triển kỹ thuật là đáng kể. Bởi trước cả khi xem xét những đảo lộn mà sự tiêu tan của cosmos gây ra về phương diện đạo đức học, cần phải thấy rõ rằng điều hệ trọng nhất, chính là theoria sẽ thay đổi hoàn toàn ý nghĩa.
Tác phẩm chủ yếu về vấn đề này, tác phẩm sẽ đánh dấu toàn bộ triết học hiện đại và sẽ tồn tại như một tượng đài đích thực trong lịch sử tư tưởng, đó là Phê phán lý tính thuần túy của Kant (1781). Dĩ nhiên, ở đây tôi sẽ không tóm tắt tác phẩm cho bạn trong vài dòng. Nhưng, dù đây là một tác phẩm khó đọc ghê gớm, tôi vẫn muốn dù sao cũng thử cung cấp cho bạn một ý niệm về cách nó đặt lại vấn đề theoria, bằng những thuật ngữ hoàn toàn tân kỳ. Ngay sau đó chúng ta sẽ quay lại những chủ đề dễ hơn.
Chúng ta hãy trở lại một lát với mạch lạc của lập luận mà giờ đây bạn bắt đầu biết rõ: nếu thế giới, từ nay trở đi, không còn là một cosmos nữa mà là một cõi hỗn mang, một tổ thành của các lực không ngừng xung đột lẫn nhau, thì rõ ràng là nhận thức không còn có thể mang hình thái của một theoria theo nghĩa đen nữa. Bạn còn nhớ nguồn gốc của từ này: theion orao, “tôi nhìn thấy cái thần diệu”. Từ điểm nhìn ấy, có thể nói là, sau sự sụp đổ của trật tự vũ trụ đẹp đẽ và sau việc thay thế nó bởi một tự nhiên vừa không có ý nghĩa vừa mang tính xung đột, thì vũ trụ chẳng còn gì thần diệu mà trí não con người có thể lấy việc nhìn, việc chiêm ngưỡng, làm nhiệm vụ cho mình nữa. Trật tự, sự hài hòa, cái đẹp và cái tốt không còn được cho trước ngay lập tức nữa, chúng không còn nằm trong cốt lõi của bản thân thực tế một cách tiên thiên nữa.
Do vậy, để tìm thấy lại cái gì đó mạch lạc, để thế giới trong đó con người đang sống dù sao cũng tiếp tục có một ý nghĩa, thì bản thân con người, trong trường hợp này là nhà bác học, phải đưa trật tự có thể nói là từ bên ngoài vào cái vũ trụ thoạt nhìn chẳng mấy cho thấy trật tự nữa.
Từ đó, mà có nhiệm vụ mới mẻ của khoa học hiện đại: từ nay nó sẽ không còn là sự chiêm ngưỡng thụ động một cái đẹp cho sẵn, đã nằm trong thế giới rồi, mà là một công việc, một sự xác lập chủ động, thậm chí là một sự kiến tạo những quy luật cho phép đem lại ý nghĩa cho một vũ trụ tỉnh mộng chẳng còn ý nghĩa tiên thiên nào nữa. Vậy nhiệm vụ ấy không còn là một quang cảnh thụ động nữa, mà là một hoạt động của trí óc.
Để không dừng lại ở những định thức chung và trừu tượng, tôi muốn chỉ ra cho bạn ít ra là một thí dụ của bước chuyển từ thụ động sang chủ động này, từ cái được cho sẵn sang cái được kiến tạo, từ theoria cổ xưa sang khoa học hiện đại.
Bạn hãy xem xét nguyên lý về quan hệ nhân quả, tức là nguyên lý cho rằng kết quả nào cũng có một nguyên nhân, hoặc, nói theo cách bạn muốn, hiện tượng nào cũng phải có thể tự giải thích một cách duy lý, theo nghĩa đen: tìm ra lý do tồn tại của nó, giải nghĩa nó.
Thay vì chỉ khám phá trật tự thế giới nhờ chiêm ngưỡng, nhà bác học “hiện đại”, nhờ vào một nguyên lý như vậy, sẽ thử đưa sự mạch lạc và ý nghĩa vào cõi hỗn mang của các hiện tượng tự nhiên. Ông ta sẽ xác lập những mối liên hệ “lô gích” giữa một số hiện tượng, mà ông sẽ coi như kết quả, và một số hiện tượng khác trong đó ông phát lộ ra được những nguyên nhân. Nói theo cách khác, tư duy không còn là một sự “nhìn thấy”, một orao, như bản thân từ “théorie” (lý thuyết) khiến ta nghĩ như vậy, mà là một hành động, một công việc nối liền các hiện tượng tự nhiên với nhau sao cho chúng tự liên kết và tự giải thích lẫn nhau hiện tượng nọ nhờ hiện tượng kia. Đó là điều người ta sẽ gọi là “phương pháp thực nghiệm”, mà cổ nhân thực sự không biết, và nó sẽ trở thành phương pháp căn bản của khoa học hiện đại.
Để chỉ ra cho bạn một thí dụ cụ thể về hoạt động của phương pháp này, tôi sẽ nói với bạn đôi lời về Claude Bernard, một trong những nhà y học và sinh học lớn nhất của chúng ta, ông đã công bố vào thế kỷ XIX một tác phẩm trở nên nổi tiếng: Dẫn luận y học thực nghiệm. Ồng làm sáng tỏ một cách hoàn hảo nhận thức luận mà Kant đã tạo lập và nó sẽ thay thế cho theoria xưa như tôi vừa miêu tả vắn tắt với bạn.
Claude Bernard thuật lại chi tiết trong tác phẩm một trong những phát hiện của ông, phát hiện về “chức năng của gan kết tạo glucoza từ các glucogen” - tức là, để nói một cách đơn giản, khả năng của gan tạo ra chất đường. Quả thực, bằng cách làm thí nghiệm, Bernard đã quan sát thấy trong máu những con thỏ mà ông giải phẫu có đường. Vậy là ông tự đặt câu hỏi về nguồn gốc của chất đường này: nó đến từ các thức ăn được nuốt vào hay được tạo nên bởi cơ thể, và nếu đúng thế, thì bởi cơ quan nào? Thế là ông chia những con thỏ của ông thành nhiều nhóm: một số ăn thức ăn có đường, số khác ăn thứ không có đường, số khác nữa ăn kiêng (tội nghiệp những con này!). Rồi, sau vài ngày, ông phân tích máu những con thỏ để phát hiện ra rằng, trong tất cả các trường hợp, dù là ở nhóm nào, máu đều chứa chừng ấy chất đường. Do vậy, điều này có nghĩa là glucoza không đến từ thức ăn, mà được cơ thể tạo ra.
Tôi bỏ qua cho bạn các chi tiết về cách thức Bernard đi tới chỗ phát hiện được đường do gan sản sinh. Chuyện ấy ở đây không quan trọng. Ngược lại, điều quan trọng, đó là công việc của theoria đã hoàn toàn thay đổi kể từ những người Hy Lạp: vấn đề không còn là chiêm ngưỡng nữa, khoa học không phải là một quang cảnh nữa mà, như bạn thấy qua thí dụ vừa rồi, là một công việc, một hoạt động đúng là nối liền các hiện tượng với nhau, là kết hợp một kết quả (chất đường) với một nguyên nhân (gan). Và đó đúng là điều mà Kant, trước Bernard, đã phát biểu và phân tích trong Phê phán lý tính thuần túy, tức là tư tưởng cho rằng khoa học từ nay trở đi sẽ tự xác định như một công việc kết hợp hoặc, như ông nói bằng từ ngữ của riêng ông, “tổng hợp” (synthèse) - từ này trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “đặt cùng với nhau”, “để cùng với nhau”, vậy là, nói theo cách ta muốn: “nối liền”, giống như sự giải thích bằng điều kiện nguyên nhân và kết quả nối liền hai hiện tượng với nhau, trong trường hợp thí dụ của Claude Bernard, là chất đường và gan.
Tôi cần phải nói thêm với bạn đôi lời về cuốn sách của Kant, trước khi chúng ta đi vào điều cốt yếu, tức là chủ nghĩa nhân văn sẽ có ý nghĩa thế nào trên bình diện đạo đức học chứ không chỉ trên bình diện lý thuyết.
Khi tôi bằng tuổi bạn và lần đầu tiên tôi mở cuốn Phê phán lý tính thuần túy ra, tôi đã thất vọng ghê gớm. Mọi người từng bảo tôi rằng có lẽ đó là triết gia lớn nhất của mọi thời đại. Thế mà chẳng những tôi không hiểu gì hết, thực sự là không gì hết, mà hơn nữa tôi còn không thấy được vì sao, ngay từ những trang đầu của tác phẩm huyền thoại này, ông lại đặt một câu hỏi tôi thấy dường như hoàn toàn vô vị và, để nói cho hết, dường như chẳng có một chút lý thú nào: “Những phán đoán tổng hợp có thể có một cách tiên nghiệm như thế nào?” Như bạn thấy, không thể bảo rằng đó là một đề tài suy nghĩ đặc biệt ngon lành khi thoạt nhìn lần đầu - thực ra mà nói, thì ngay cả lần thứ hai…
Nhiều năm ròng, tôi gần như đã chẳng hiểu gì ở Kant hết. Dĩ nhiên, tôi đã đi tới chỗ đọc được các từ và các câu, tôi cấp được cho mỗi khái niệm một nghĩa gần như có thể chấp nhận, nhưng toàn bộ vẫn tiếp tục không có ý nghĩa, lại càng không tương hợp với bất kỳ điều được mất hiện sinh nào.
Chỉ khi tôi thức nhận được vấn đề tân kỳ căn bản mà Kant thử giải quyết sau sự sụp đổ các vũ trụ luận cổ xưa thì tôi mới nhận biết ra điều được mất của câu hỏi mà cho đến bấy giờ tôi vẫn thấy dường như thuần túy “chuyên môn”. Trong khi tự vấn về khả năng của chúng ta tạo nên những “tổng hợp”, những “phán đoán tổng hợp”, đơn giản là Kant đặt ra vấn đề của khoa học hiện đại, vấn đề của phương pháp thực nghiệm, tức là vấn đề biết được làm thế nào xây dựng những quy luật thiết lập nên những sự phối hợp, những mối liên hệ mạch lạc và có thể soi sáng, giữa những hiện tượng mà sự sắp đặt không còn được cho sẵn mà phải do chúng ta đưa vào từ bên ngoài.