Điểm sách Tây Du Ký 1
I. Đời Sống Tư Tưởng Của Ngô Thừa Ân Và Nguồn Gốc Tây Du Ký
1. Đây là lời bàn về tác phẩm Tây Du Ký do Bộ Biên tập Nhà xuất bản Dân gian Văn học Bắc Kinh gửi cho Nhà xuất bản Phổ thông, và đã được Nhà xuất bản Phổ thông đưa vào ấn bản năm 1961.Tây du ký là một bộ tiểu thuyết thần thoại trường thiên, lãng mạn tích cực rất vĩ đại. Quá trình ra đời của bộ truyện này cũng giống như Tam quốc diễn nghĩa và Thủy hử: gốc gác của truyện đã lưu truyền lâu dài trong dân gian từ trước; sau đó một hoặc vài tác giả dựa trên cơ sở sáng tác tập thể của dân gian; lại sáng tạo thêm thành sách.
Song căn cứ vào tài liệu hiện có mà xét thì truyện Tam quốc diễn nghĩa và truyện Thủy hử, trước khi thành sách đã có đầy đủ về quy mô kết cấu trên đại thể. Còn Tây du ký thành được sách chủ yếu là do tác giả Ngô Thừa Ân sáng tạo ra: Tây du ký được đúc kết bởi sự lao động sáng tạo lớn lao của tác giả.
Ngô Thừa Ân (1500 (?) — 1582 (?) tên tự là Nhữ Trung, tên hiệu là Xạ Dương Sơn Nhân, là người ở huyện Sơn Dương, phũ Hoài An (nay là huyện Hoài An, tỉnh Giang Tô), ông sinh trong một gia đình quan lại cấp dưới lưu lạc sa sút thành tiểu thương. Cha tên là Ngô Nhuệ là một tiểu thương bán “chỉ màu vải hoa”, rất ham đọc sách, “từ lục kinh đến bách gia chư tử không sách nào là không xem” (Ngô Thừa Ân: Bài minh của mộ chí tiên phủ quân). Ngô Thừa Ân từ lúc thiếu niên, văn chương đã nổi tiếng nhất làng. Trong bài Xạ Dương tiên sinh tồn cảo bạt của Ngô Quốc Vinh có nói: “Xạ Dương tiên sinh khi còn để trái đào, văn chương đã có tiếng đồn ở vùng sông Hoài. Những người đến thăm, đến chơi, xin bài, hỏi chữ, luôn luôn không ngớt”… Sách Hoài An phủ chí của Thiên Khải có nói về ông: “Ông tính lanh lẹ, thông minh, xem rộng hết các sách; khi làm văn thơ, hạ bút là thành bài; thanh nhã tươi đẹp, có phong cách như Tần Thiếu Du. Ông lại giỏi hài kịch, viết được một số vở nổi tiếng một thời.” Nhưng ở cái thời đại kén người bằng lối văn bát cổ, một người trí thức có tài năng như thế, đành “lận đận mãi nơi trường ốc”, mãi đến năm năm mươi tuổi, ông mới thi đậu được chức tuế công sinh, ông đã lên kinh dự tuyển, vì thân phận là người khách lạ Bắc Kinh nên đã nếm đủ mùi lạnh nhạt của phố phường. Sau bởi mẹ già nhà khổ, ông miễn cưỡng phải ra nhậm chức thừa ở huyện Trường Hưng. Nhậm chức được một hai năm, ông “thẹn nỗi khom lưng, rũ áo ra về”. Sau ông lại đến Kim Lăng (Nam Kinh) tìm việc, nhưng vẫn không thi thố được gì. Lúc già, ông quay về làng, rượu thơ vui thú, làm công việc sáng tác văn học. Ông ở nhà được hơn mười năm thì qua đời. Tiểu thuyết Tây du ký áng chừng viết lúc tuổi già, thời kỳ ông ở quê nhà. Sáng tác của Ngô Thừa Ân rất nhiều, nhưng vì nhà nghèo, lại không có con nối dòng, nên một bộ phận lớn sáng tác của ông đều bị mất mát cả. Tác phẩm hiện còn, trừ Tây du ký ra, còn có bốn quyển Xạ Dương tiên sinh tồn cảo do người sau góp nhặt lại được.
Ngô Thừa Ân xuất thân ở một gia đình sỹ hoạn sa sút, lưu lạc thành tiểu thương. Tiểu thương hồi đó không có địa vị xã hội. Ông đã ghi thuật trong Bài minh của mộ chí tiên phủ quân về tình cảnh nhà ông luôn bị quan lại dọa nạt. Do bị tư tưởng phong kiến trói buộc, tuy ông đã hết sức viết về phụ thân mình cho thành người dân lành an phận trong xã hội đương thời, nhưng cũng không che đậy nổi sự tức giận đối với hiện thực đen tối. Phụ thân ông “thích bàn chuyện thời thế, hễ điều gì bất bình thì vỗ ghế tức giận, thái độ hầm hầm”, đó chính là phản ánh người tiểu thương lúc ấy, bị giai cấp phong kiến thống trị đè nén về mặt chính trị và mặt kinh tế.
Tư tưởng của Ngô Thừa Ân trên cơ bản vẫn là tư tưởng nhà nho truyền thống, chủ trương làm điều vương đạo, hết lẽ vua tôi. Cái xã hội mà ông mong tưởng là cái xã hội Tam đại, lưỡng Hán đã lý tưởng hóa. Bài phú Minh đường của ông là một bài ca tụng giai cấp thống trị phong kiến, còn thì khá nhiều thơ ca, nhất là văn xuôi của ông, cũng đều có ý thức phong kiến khá đậm. Nhưng cũng bởi địa vị xã hội của người tiểu thương, bởi đường khoa cử lận đận, nên cái hố ngăn cách giữa ông và bọn thống trị phong kiến ngày càng to. Nhờ kinh nghiệm thiết thân nên ông càng ngày càng nhận rõ hơn cái hiện thực đen tối của xã hội hồi đó. Qua một số thơ của ông có thể thấy được tính cách của ông là sốt sắng yêu tự do, hào phóng, không câu thúc. Ở dưới sự thống trị phong kiến đen tối và nghiệt ngã của triều Minh, ông căm ghét chủ nghĩa chuyên chế. Ở dưới sự chỉ đạo của tư tưởng nho gia truyền thống, ông có hoài bão về chính trị, hy vọng làm nên sự nghiệp một phen; nhưng trước cái hiện tượng xã hội “hàng ngũ ngày thưa, thuế dịch ngày nặng, cơ giới ngày nhiều, thói quen gian trá ngày càng đua nhau” (Bài tự tặng Vệ hầu Chương quân đi nhậm) khiến ông không thể không thốt ra lời cảm thán “phong tục lâu nay ta không nỡ nói rõ!” (Bài tự tiễn quận há là Thiệu Cổ Ngu được bổ đi làm hiến phó tỉnh Sơn Đông). Từ đấy sự bất mãn mạnh mẽ đối với hiện thực càng làm mạnh thêm chí lớn giúp thời sửa thế của ông. Trong bài ca ở tranh Nhị lang tìm núi, ông đã nói: “… Binh thần săn tà và săn muông thú; dò tận hang, phá cả tổ, không còn sót một con nào. Uy thế lúc bình sinh nay ở đâu? Nanh vuốt tuy còn, dám rong ruổi nhung nhăng chăng!… Người ở nơi đồng nội có hoài bão, cảm kích nhiều, thấy việc, ở trước gió thở dài ba cái. Ở trong bụng đã mài mòn đao chém tà, muốn vùng dậy, nhưng giận rằng không có sức. Cứu mặt trăng có tên, cứu mặt trời có cung, ở thế gian há bảo không có kẻ anh hùng? Ai hay đưa lại cho ta những người tài hiếm như con lân, con phượng, để khiến cho mãi mãi muốn nắm giữ được cái công trừ giặc yên dân…”
Ông đem thế lực hung ác, tàn hại dân gian ở trong xã hội ví với các quỷ quái lỵ, mỵ, võng, lượng; nêu rõ giai cấp thống trị là nguồn gốc tai nạn của dân gian. Ông muốn dùng “đao chém tà” để tiêu diệt những bọn hề ấy, nhưng “muốn vùng dậy dẹp chúng mà giận rằng không có sức”. Lý tưởng không thực hiện được, thế là nỗi căm giận hiện thực đen tối, cái nhiệt tình giúp thời sửa thế, trừ bạo an dân của ông liền phát sinh và thể hiện rõ trong Tây Du ký.
Ngô Thừa Ân lúc còn bé, thích những chuyện thần thoại. Lúc đứng tuổi, ông đã căn cứ vào truyện thần thoại dân gian viết một bộ tiểu thuyết ma quái tên là Vũ đỉnh chí. Tiếc rằng bộ ấy thất truyền, chỉ còn bài tựa. Trong bài tựa nói: “Ta lúc bé đã thích chuyện lạ. Lúc ở trường xã, học trẻ con, thường mua trộm những truyện vặt, dã sử, nhưng sợ cha và thầy mắng, phải tìm chỗ kín để đọc. Khi lớn lên, thích càng nhiều, nghe càng lạ. Đến lúc đã ba mươi tuổi, tìm tòi mua kiếm các sách, truyện, cơ hồ chứa đầy trong bụng… Tuy sách của ta tên là sách ma quái, nhưng không chuyên nói về ma quỷ, thỉnh thoảng cũng chép những biến dị ở nhân gian là có ý khuyên răn ngụ ở trong ấy…”
Ngô Thừa Ân không những thuộc nhiều chuyện thần thoại, dùng đề tài thần thoại viết ra được thành công, mà còn định rõ được ý muốn của sáng tác, hy vọng thông qua tác phẩm để đạt mục đích giáo dục xã hội, chứ không phải chỉ là viết để viết.
Có khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, lại giỏi vận dụng đề tài phong phú của truyền thuyết thần thoại nên Ngô Thừa Ân sáng tạo ra được Tây du ký, pho tiểu thuyết thần thoại trường thiên, lãng mạn tích cực vĩ đại như thế.
Nhưng Tây du ký lại không phải do riêng cá nhân Ngô Thừa Ân sáng tác ra. Gốc gác câu chuyện đã lưu truyền rộng rãi ở dân gian và không ngừng diễn biến, đã từ lâu trước khi có Ngô Thừa Ân.
Muốn khảo sát nguồn gốc Tây du ký, phải ngược lại những năm đầu nhà Đường. Năm thứ 2 niên hiệu Trinh Quán (628), có một vị sư thanh niên là Huyền Trang không sợ gian nan hiểm trở, một mình sang Thiên Trúc (Ấn Độ) lấy kinh. Ông đi lâu đến 17 năm, qua hơn năm mươi nước, trải hết trăm cay nghìn đắng, chín phần chết một phần sống, cuối cùng mang về được 657 bộ kinh. Lúc bấy giờ, giao thông chưa phát đạt, giữa nước này với nước kia sự giao thiệp không thân mật thì Huyền Trang sang Thiên Trúc thật là một việc kinh người.
Việc từng trải trên đường dài, việc sinh sống ở nước khác trong hơn mười năm của ông không những làm cho mọi người thán phục, mà còn đem lại cho mọi người một nguồn tưởng tượng phong phú. Thêm vào đấy, tín đồ đạo Phật muốn mở rộng ảnh hưởng đạo mình, nên cố ý tô vẽ thêm vào câu chuyện Huyền Trang đi lấy kinh, cho nên chuyện Huyền Trang đi lấy kinh, bắt đầu từ lúc học trò ông là Tuệ Lập viết ra quyển truyện ký Đại Đường Đại Từ Ân tự Tam Tạng pháp sư truyện liền có đủ màu sắc thần bí của tôn giáo. Nhưng truyện ấy được thần kỳ hóa lại chính là bắt đầu từ sau khi nó được lưu hành ở trong dân gian. Được lưu hành trong dân gian nó thành sở hữu của dân gian. Dân gian lao động xuất phát từ hứng thú nghệ thuật của bản thân mình, lại dựa vào nguyện vọng của mình, đã làm cho câu chuyện phát triển phong phú thêm lên. Câu chuyện dần dần tách khỏi lịch sử Huyền Trang đi lấy kinh để mỗi ngày một diễn biến kỳ lạ…
… Chuyện Đường Tăng đi lấy kinh, trong quá trình lưu truyền mấy trăm năm, đã dần dần được thêm thắt phong phú lên. Đến tay Ngô Thừa Ân, trải qua những sự lấy bỏ, thêm bớt, sáng tạo, mới thành ra một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại như thế.
Sự sáng tạo lớn lao của Ngô Thừa Ân, chủ yếu biểu hiện ở ba mặt dưới đây:
1. Cứ theo sự kết cấu và tình tiết truyện mà xét, tác giả đem mấy truyện đã có sẵn, nối liền chúng lại với nhau một cách khéo léo rồi tô điểm, mở rộng, sửa đổi và gắn vào trong sáng tác của mình, khiến chúng xoáy quanh chủ đề, trở nên một khối hoàn chỉnh. Nhờ ở sự ham thích thần thoại và óc tưởng tượng của mình, ông còn sáng tạo ra một số truyện khác dung hợp với chuyện có sẵn trong dân gian.
2. Xét trên mặt tư tưởng chủ đề, ông đã cải tạo và nâng cao câu chuyện đi lấy kinh vẫn lưu truyền trong dân gian, bồi bổ cho nó một ý nghĩa mới, khiến cho nó có một chủ đề rõ ràng và một tính khuynh hướng mạnh mẽ. Tác giả lại căn cứ vào sự quan sát và sự nhận xét của mình đối với hiện thực, mà tiến hành phê phán xã hội một cách sâu rộng.
3. Xét về mặt xây dựng hình tượng nghệ thuật, nhân vật trong truyện đi lấy kinh trước kia phần lớn chỉ là thô sơ, không có cá tính rõ rệt. Mà điều đáng chú ý là qua bản thân các nhân vật đó, ta không thấy khái quát được phần nào bản chất của lực lượng xã hội. Trải qua sự sáng tạo thiên tài của Ngô Thừa Ân, hình tượng sáng ngời, bất hủ của Tôn Ngộ Không mới được gọt giũa nên. Tôn Ngộ Không giữ một địa vị rất chủ yếu trong Tây du ký, ở Tôn không những có đủ cá tính rõ rệt, mà còn khái quát sâu sắc được nội dung xã hội. Nhờ đó mà Tây du ký đã hoàn thành được sự thay đổi về chất, đã từ một bộ truyện của các tín đồ tôn giáo trở thành một tác phẩm dùng đề tài thần thoại viết thành truyền kỳ của dân gian anh hùng.
Có thể nói như thế này: không có truyện đi lấy kinh của dân gian, thì không thể có Tây du ký của Ngô Thừa Ân; không có sáng tạo gia công thiên tài của Ngô Thừa Ân thì Tây du ký cũng không thể hoàn chỉnh được như thế, không thể đạt được đích cao về tư tưởng và nghệ thuật như thế.
II. Ý nghĩa tư tưởng của Tây Du Ký
Tây du ký là một bộ tiểu thuyết thần thoại trường thiên vĩ đại. Truyện rạng rỡ chủ yếu trên hình tượng nghệ thuật Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không là hình tượng anh hùng lý tưởng rất giàu màu sắc thần kỳ, tỏa sáng ra bốn phía trong phòng tranh văn học cổ điển nước ta.
Tôn Ngộ Không là đứa trẻ của tự nhiên, đứa trẻ từ một khối đá tiên sinh đẻ ra. Nó nhờ ở dũng cảm và trí tuệ của mình mà làm chúa đàn khỉ ở động Thủy Liêm, núi Hoa Quả. Tác giả tả động Thủy Liêm, núi Hoa Quả được mười phần tươi đẹp như là một lạc viên lý tưởng. Một bầy khỉ ở trong khoảng trời đất, tự do tự tại, “không chịu sự cai trị của kỳ lân, không chịu sự cai quản của phượng hoàng và cũng không bị sự câu thúc của vua chúa nhân gian”. Nhưng Tôn Ngộ Không lại phải chịu sự quản thúc của diêm vương; vận mệnh của Tôn lại không phải do chính Tôn nắm lấy được. Đối với một việc không thể nào chịu được ấy, Tôn Ngộ Không bèn rèn luyện tài nghệ của mình, náo động long cung, lấy của Đông hải long vương cái gậy gọi là “gậy Như Ý bịt vàng trấn đáy sông trời” nặng một vạn ba nghìn năm trăm cân, múa gậy đánh xuống âm phủ “làm cho quỷ đầu trâu kia sợ phải trốn đông trốn tây, quỷ mặt ngựa kia sự phải chạy nam chạy bắc”. Ngay cả diêm vương cũng sự phải lên tiếng “Xin thượng tiên cho biết tên là gì?”, phải đem sổ sinh tử ra để Tôn Ngộ Không xóa bỏ tên tuổi loài khỉ ở trong ấy. Rõ là Tôn Ngộ Không phản kháng bất cứ sự áp bách nào, Tôn khiêu chiến một cách táo bạo với số mệnh! Tôn Ngộ Không náo động long cung, khuấy rối âm phủ, long vương, diêm vương không làm gì được, đành phải kêu với chúa tể của họ là Ngọc hoàng, kẻ thống trị cao nhất của thế giới thần. Kẻ thống trị ở thiên đình ấy cũng lại chẳng cao minh gì hơn long vương và diêm vương, nhưng biết không thể đối phó được với Tôn, bèn bày ra kế đánh lừa Tôn Ngộ Không lên trời. Tôn Ngộ Không lên đến thiên đình, với thái độ một người thắng thế, vào yết kiến Ngọc hoàng; Thái Bạch kim tinh hướng vào Ngọc hoàng lạy, Tôn Ngộ Không cứ thẳng người đứng ở cạnh. Đến lúc Ngọc hoàng hỏi: “Đứa nào là yêu tiên?” Tôn Ngộ Không chỉ cúi mình trả lời một tiếng là: “Lão Tôn đây!” Thái độ ngang tàng của Tôn ở trước mặt Ngọc hoàng trong thế giới thần thoại, đã phản ánh một cách khái quát sự khinh miệt của dân gian lao động đối với sự quyền quý và chế độ đẳng cấp trong xã hội phong kiến, phản ánh yêu cầu và nguyện vọng của họ: dân chủ, bình đẳng. Khi Tôn Ngộ Không biết rằng việc mình được phong làm “bật mã ôn” chỉ là một việc lừa dối, Tôn bèn bừng bừng lửa giận, đánh ra Nam thiên môn. Thiên đình điều binh khiển tướng đến đánh, kết quả bị Tôn Ngộ Không đánh cho tơi bời, tán loạn như hoa trôi nước chảy. Từ đấy Tôn Ngộ Không lặng lẽ, dứt khoát dựng cờ hiệu, tự xưng là “Tề Thiên đại thánh”, chống lại với thiên đình. “Trời” là vương quốc của thần, là tượng trưng của thế lực thống trị cao nhất; Tôn Ngộ Không lại dựng lên hiệu cờ “Tề Thiên đại thánh”, việc ấy chứng tỏ rõ ràng là Tôn tự coi mình ngang với trời, quyết không chịu sự cai quản của thế lực thống trị trên “nước trời”. Tinh thần phản kháng của Tôn Ngộ Không lúc bấy giờ so với lúc náo long cung, náo âm phủ lại tiến lên một bước nữa, là dám chọi lại với thiên đình. Kẻ thống trị ở trên trời sự uy lực lớn lao của Tôn Ngộ Không, không thể không thừa nhận Tôn là “Tề Thiên đại thánh” được. Ấy là lần thứ hai trời lừa Tôn Ngộ Không lên thiên quốc. Tôn Ngộ Không ở trên thiên cung, vẫn hiềm vì bị người quản thúc, cuộc sống không được tự do, cho nên giả ngây giả dại. Không lâu, Tôn lại náo động ngay thiên cung một mẻ rối tùng phèng nữa sau đó lại ra khỏi cửa trời. Thiên đình tốn hết sức lực mới bắt được Tôn, nhưng không có cách nào giết nổi Tôn. Tôn bị bỏ vào trong lò Bát quái của Thái Thượng lão quân đang luyện thuốc. Lò ấy luyện được bảy bảy bốn mươi chín ngày; nhân lúc Lão quân mở lò để lấy thuốc, Tôn liền nhảy vọt ra, trèo lên trên lò Bát quái. Lão quân đến bên toan tóm bắt, bị Tôn xô ngã lộn nhào. “Lấy gậy Như Ý ở trong tai ra vung một cái, gậy trở thành to như cũ. Đại thánh cầm gậy Như Ý, không kể hay dở, lại đại náo thiên cung một lần nữa. Chín diệu tinh quân đóng chặt cửa ngõ, còn bốn đại thiên vương chạy đâu mất cả.” Ghế ngọc của Ngọc hoàng trước mắt cũng lung lay không yên. May sao có Như Lai đến cứu. Tôn Ngộ Không bèn nói trắng ra với Như Lai rằng: “Người tài làm chủ, nhường ta chứ? Thế mới anh hùng dám đứng lên.” Và lại nói: “Người ta thường nói: “Làm vua phải luân chuyển, sang năm đến nhà ta.” Bây giờ chỉ bảo cho y (chỉ Ngọc hoàng) ra đi, đem thiên cung nhường lại cho ta, thì ta thôi. Bằng không nhường ta sẽ quấy rối mãi, không bao giờ thanh bình được.” Đến đây, tinh thần phản kháng của Tôn Ngộ Không phát triển lên đến cùng tột, không những muốn là “Tề Thiên”, mà lại muốn cướp lấy quyền thống trị của thiên đình vào tay mình; đề ra khẩu hiệu phản kháng triệt để nhất lúc bấy giờ là lật đổ nền thống trị của Ngọc hoàng, như thế thật sung sướng biết nhường nào! Khí phách hùng vĩ biết nhường nào!
Trong chuyện đại náo thiên cung, tác giả Tây du ký đã hết sức kích động lạo nên hình tượng chói lọi của kẻ phản kháng triệt để ấy là hình tượng Tôn Ngộ Không. Tôn bạo dạn đi tìm lý tưởng, còn dám phá hoại quy củ cũ, không thừa nhận bất cứ uy quyền nào của kẻ thống trị vương quốc thần, tin tưởng vào lực lượng của mình, mưu nắm hoàn toàn lấy vận mệnh của mình. Tôn dùng sức thần kỳ của mình làm náo động tơi bời cả ba giới (trời, bể, đất) hoàn toàn làm rối loạn trật tự của vương quốc thần. Thiên đình, cái nơi được coi là thần thánh bất khả xâm phạm, đứng trước sự xung kích của lực lượng to lớn của Tôn Ngộ Không, đã hoàn toàn bộc lộ cái tướng con hổ già bằng giấy, ngoài thì oai nghiêm mà trong thì mềm yếu. Thiên cung của vương quốc thần là tượng trưng cho vương triều phong kiến ở nhân gian; Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung là sự khái quát cao độ bằng tưởng tượng cuộc đấu tranh khởi nghĩa của nông dân phản kháng vương triều phong kiến, ở bảy hồi đầu Tây du ký, tác giả đã tả Tôn Ngộ Không đại náo ở ba giới long cung, âm phủ và thiên cung, mà không tả Tôn đại náo ở nhân gian. Tác giả, một mặt đem kẻ thống trị ở long cung, âm phủ, thiên cung tả rõ ra là những kẻ hôn mê như thế kia; một mặt coi các triều đình ở nhân gian như không có trong trời đất này. Ở trong trời đất này, đánh một dấu hỏi để độc giả tự tìm tòi suy nghĩ. Việc đó không thể bảo là không ngụ một ý sâu sắc.
Tôn Ngộ Không là một hình tượng lý tưởng hóa, là hóa thân của lý tưởng và nguyện vọng của dân gian lao động trong xã hội phong kiến. Sự đấu tranh phản kháng của Tôn không thu được thắng lợi tối hậu; Tôn không hất được Ngọc hoàng ở trên ngôi báu hoàng đế xuống. Tôn Ngộ Không tuy có tài nhảy cân đẩu vân xa được mười vạn tám nghìn dặm, nhưng lại không thoát khỏi tay Phật Như Lai mà phải chịu chặn ép ở dưới núi Ngũ Hành. Cái kết cục khiến người ta than tiếc ấy đã khái quát như lối ngụ ngôn tấn bi kịch lịch sử của những cuộc khởi nghĩa nông dân bị thất bại trong xã hội phong kiến. Tác giả đã ca tụng tinh thần đấu tranh phản kháng triệt để của Tôn Ngộ Không nhưng vì bị hạn chế bởi thời đại và giai cấp, nên đã khoe khoang quá thế lực của giai cấp thống trị. Tác giả cho rằng dù là cuộc đấu tranh phản kháng dũng cảm nhất, triệt để nhất, cũng không hay thoát được lưới thống trị ấy. Ở một mức nhất định, tác giả đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính thống phong kiến, tư tưởng định mệnh, tìm không được lối thoát, nên chỉ xếp đặt được kết cục như thế.
Việc đại náo thiên cung chỉ chiếm bảy hồi trong một trăm hồi của Tây du ký, nhưng đây là bảy hồi sáng láng, rực rỡ, thể hiện được đầy đủ tinh thần phản kháng triệt để và lý tưởng dân chủ của dân gian, có đủ dân gian tính mạnh mẽ.
Tây du ký, từ bảy hồi đầu trở đi, lại chuyển vào chuyện đi lấy kinh. Xét theo sự phát triển của chuyện, đây là một bước ngoặt. Ở đây, việc đi lấy kinh đại biểu cho sự lần mò đi tìm một lý tưởng; phản ánh nguyện vọng mãnh liệt của dân gian mưu toan tìm cách thoát khỏi hiện thực khổ cực. Việc đi lấy kinh là sự kiện trung tâm của các sách Thủ kinh thi thoại, Thủ kinh tạp kịch, tác giả Tây du ký lợi dụng việc ấy làm một đường dây để miêu tả việc khắc phục tám mươi mốt tai nạn. Việc đi lấy kinh, được coi là mục đích của tác phẩm, vốn là một cái gì cực kỳ mờ ảo; cái được tác giả mô tả chủ yếu lại là những cuộc chiến đấu khẩn trương, quyết liệt để đạt tới mục đích ấy (cũng giống như hiến pháp để bảo vệ người dân). Những cuộc chiến đấu này thật thiết thực, rõ ràng, một bước là một in vết chân, ở trong sự miêu tả thực tế của tác phẩm, mục đích đi lấy kinh ấy khác xa, không trọng yếu bằng sự nỗ lực lớn lao phải bỏ ra để đạt tới mục đích ấy. Vì thế, chúng ta cần phân tích ý nghĩa tư tưởng của câu chuyện đi Tây Thiên lấy kinh; trọng điểm phải đặt vào sự đấu tranh của bọn Tôn Ngộ Không vì muốn đến được Tây Thiên, đã phải đấu tranh với bao nhiêu yêu ma quỷ quái trên đường đi.
Trong quá trình đi Tây Thiên lấy kinh, Tôn Ngộ Không đã đấu tranh để quét trừ bọn yêu ma. Ý nghĩa hiện thực của cuộc đấu tranh trong thế giới tưởng tượng ấy là ở chỗ: tuy biết tự mình không lật đổ được sự thống trị tối cao của vương triều phong kiến, nhưng cứ phải tiếp tục tiến hành đấu tranh để bừa sạch những thế lực tàn ác của vương triều phong kiến đương tác yêu tác quái, trực tiếp tàn hại dân gian trong xã hội.
Tôn Ngộ Không ra không thoát được tay Phật Như Lai, bị chặn ở dưới núi Ngũ Hành, cái đó tượng trưng sự thất bại của cuộc đấu tranh phản kháng triệt để. Nhưng thiên đình cũng đã phải nếm đủ mọi sự lợi hại của “lão Tôn”. Biết rằng “lão Tôn” không phải là người thích sinh sự, nên thiên đình đã thỏa hiệp và nhượng bộ đối với Tôn Ngộ Không. Trên đường đi lấy kinh (hiến pháp đem lại công bình cho người dân), để chống lại sự phản kháng của Tôn, đã có cái Khẩn Cô Nhi trùm lên đầu Tôn, nó tượng trưng cho thế lực thống trị. Nhưng Tôn Ngộ Không lại không đầu hàng thiên đình, trở thành đứa đầy tớ cho Phật tổ, Ngọc hoàng, để cho họ sai khiến. Trái lại, Tôn lại đòi sơn thần, thổ địa, tứ hải long vương, nhật trực công tào, thiên binh, thiên tướng phải để cho mình sai khiến; thậm chí cả Phật tổ, Ngọc hoàng cũng phải phục vụ Tôn. Để đấu phép với yêu ma, Tôn Ngộ Không lại đòi Ngọc hoàng cho mượn trời đem gói kín lại độ nửa giờ, và đánh tiếng rằng: “Nếu hé nửa tiếng ‘không’, ta sẽ lên thẳng điện Linh Tiêu khuấy động binh đao cho mà xem!” Ngọc hoàng chỉ còn biết y theo thôi (hồi thứ 33). Tiếp xúc với thần, Phật, Tôn đều có thái độ khinh miệt mà giễu cợt trêu đùa họ. Ví như ở hồi thứ 51 lúc đi qua núi Kim Đâu, Tôn Ngộ Không đấu phép với con Hủy quái, bị mất gậy bịt vàng; Tôn Ngộ Không biết con Hủy quái nhất định là vị hung tinh nào đó ở trên trời xuống hạ giới để tác quái, liền đi tìm Ngọc hoàng hỏi tội “kiểm thúc không nghiêm”. Một khi gặp Ngọc hoàng, Tôn Ngộ Không liền hướng tới chào to mà rằng: “Thưa lão quan, phiền ngài quá! Phiền ngài quá!” Khi gặp Phật tổ, Tôn liền đem ngay Phật ra làm trăm thứ trò cười. Ví như ơ hồi thứ 77, khi qua động Sư Đà, núi Sư Đà, gặp ba con ma độc ác, Ngộ Không tìm được Phật Như Lai, nói với Phật rằng: “Bạch Như Lai, tôi nghe thấy người ta nói yêu tinh có họ thân thích với ngài!” Lại nói: “Bạch Như Lai, nếu đem so sánh ra, người vẫn là cháu của yêu tinh.” Tôn không nể nang chút nào, lột mặt nạ những kẻ gọi là tôn quý thống trị ở trên trời, đem chúng ra làm trò cười, trêu giễu chúng, đùa cợt chúng, ở Tôn Ngộ Không thật tuyệt nhiên không có bóng dáng “mặt đầy tớ, chân con hầu”, cúi luồn nịnh hót. Ở trước mặt thần, Phật, Tôn luôn luôn giữ thái độ ngạo nghễ anh hùng. Việc đó biểu hiện khái quát tinh thần bất khuất của dân gian lao động trong xã hội phong kiến nước ta, tha thiết yêu tự do, không cam chịu bất cứ sự áp bức nào, luôn luôn ngạo nghễ đối với giai cấp thống trị phong kiến. Việc đấu tranh của Tôn Ngộ Không trên đường đi lấy kinh là kế tục việc đấu tranh của Tôn khi đại náo thiên cung, có điều là phạm vi đấu tranh có hạn chế; phương thức và phương pháp đấu tranh có thay đổi.
Trên đường đi lấy kinh, Tôn Ngộ Không đã mở rộng cuộc đấu tranh ngoan cường với bọn yêu ma. Những yêu ma tưởng tượng này phản ánh một hiện thực đương thời là những thế lực hung ác của phong kiến (đám yêu ma tượng trưng cho đám hối lộ, quan lại, cường hào ác bá hà hiếp, cấu kết với nhau để bốc lột dân lành). Bọn ấy đều trực tiếp cấu kết với giai cấp thống trị thượng tầng. Như Hoàng Bào lão yêu là Khuê Mộc Lang tinh ở trên trời; Kim Giốc đại vương, Ngân Giốc đại vương ở núi Bình Đính là hai đồng tử trông coi lò thuốc của Thái Thượng lão quân; Độc Giốc Hủy đại vương ở động Kim Đâu là con trâu xanh của Thái Thượng lão quân… Tôn Ngộ Không, với trí tuệ vô cùng, dũng cảm phi thường, đã chiến đấu ngoan cường, để chiến thắng dần dần từng đứa một, đã rẫy sạch những thế lực hung ác tàn hại dân gian. Đó chính là thiện đã chiến thắng ác, sáng đã chiến thắng tối, phản ánh rõ nguyện vọng của dân gian. Thứ nữa, những thần quái yêu ma trong Tây du ký không những là thể hiện một số lực lượng xã hội mà cũng thể hiện một số lực lượng thiên nhiên đã nhân cách hóa; cả hai thường không tách rời nhau. Tôn Ngộ Không, trong truyện đi lấy kinh, không những đã thể hiện lý tưởng của dân gian lao động chiến thắng thế lực hung ác của xã hội trong cuộc đấu tranh giai cấp mà lại cũng đã thể hiện lý tưởng của dân gian lao động chiến thắng tự nhiên, chinh phục tự nhiên trong cuộc đấu tranh sản xuất. Còn như bọn Ngọc hoàng, long vương, diêm vương trên vương quốc thần trên trời chẳng những là bóng tối của kẻ thống trị phong kiến trong xã hội hiện thực, mà cũng là chúa tể của sức tự nhiên đã được thần hóa trong tưởng tượng của người. Tôn Ngộ Không đã chiến thắng những thần quái yêu ma ấy cũng chính là Tôn đã chiến thắng được thiên nhiên thường gây ra tai họa…
… Trong toàn bộ sách, tính cách của Tôn Ngộ Không đã giữ được tính thống nhất. Đi Tây Thiên lấy kinh là tính cách của Tôn phát triển tiến lên một bước, chứ nhất định không phải là phủ định tinh thần phản kháng khi đại náo thiên cung. Tôn Ngộ Không thủy chung vẫn là một kẻ anh hùng đã được lý tưởng hóa cao độ. Tôn không sợ trời, không sợ đất. Tôn có tinh thần chiến đấu phản kháng hết thảy sự áp bức của thống trị, kiên quyết khắc phục hết thảy các khó khăn; có trí tuệ và sức mạnh vô cùng; có phẩm chất cao quý, chí công vô tư, tha thiết yêu anh em, đồng tình và giúp đỡ những kẻ nhỏ yếu bị hại. Tất cả những cái đó đều là cái mà dân gian lao động vốn có, đồng thời lại là cái đã được lý tưởng hóa đến cao độ.
Cái tinh thần phản kháng, ngạo nghễ, bất khuất, đánh đổ hết thảy của Tôn Ngộ Không là nhằm vào giai cấp thống trị tha hóa mà chĩa mũi nhọn, điều đó có ý nghĩa tiến bộ rất lớn. Tính cách của Tôn là tích cực, hình tượng của Tôn mãi mãi được thanh thiếu niên yêu thích, rất có tác dụng đến sự hình thành tính cách của các em. Chúng ta phải giải thích chính xác cho các em hiểu rõ điều kiện lịch sử đã sản sinh ra hình tượng đó và vận dụng một cách đúng đắn hình tượng đầy màu sắc thần kỳ này trong văn học cổ điển nước ta, để giúp cho thanh thiếu niên của chúng ta phát triển ý chí không sợ khó khăn, ngoan cường đấu tranh để kiến thiết Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc.
Trong Tây du ký Ngô Thừa Ân, ngoài việc sáng tạo ra hình tượng rực rỡ Tôn Ngộ Không, lại còn sáng tạo thành công hình tượng Trư Bát Giới. Tính cách của Trư Bát Giới rõ và nổi lạ thường, gieo cho ta có một cảm giác thực, mạnh mẽ. Sở dĩ chúng ta thấy Trư Bát Giới chân thực, gần gũi là vì Trư là một nhân vật hiện thực đã được khoác cho cái ngoại hình của tưởng tượng. Tính cách của Trư Bát Giới rất là phức tạp, chính vì Trư đã có nhiều ưu điểm của người bình dân, nhưng lại có khuyết điểm nghiêm trọng của kẻ nhiều dục vọng.
Trư Bát Giới một khi xuất hiện tuy vẫn còn một ít yêu khí, nhưng cũng cho chúng ta một ấn tượng mạnh mẽ là Trư hay lao động. Sau khi đã làm đồ đệ cho Đường Tăng, tuy đối với công việc lấy kinh, Trư hoàn toàn không hiểu biết gì, cũng chẳng cảm thấy hứng thú gì, lại dễ dàng bị dao động, nhưng Trư Bát Giới lại là kẻ hết lòng với công việc chung của cả bọn, diệt trừ yêu quái ở trên đường để đi thông sang Tây Thiên lấy kinh. Trư Bát Giới ít can đảm, sự khó khăn, tuy đã nhiều lần bị yêu ma bắt được, nhưng chưa hề thỏa hiệp, đầu hàng. Như khi Bát Giới bị Hồng Hài Nhi bắt được bỏ vào trong túi da, Bát Giới vẫn cứ quát mắng như thường. Trên đường đi lấy kinh, Bát Giới đã làm khá nhiều công việc nặng nề khó khăn. Qua núi Kinh Cức, Bát Giới phát chặt gai góc; qua ngõ Hy Thị, Bát Giới dùng mõm dũi đường. Một gánh hành lý nặng nề kia của cả bọn cũng cơ hồ do một mình Trư Bát Giới từ Đông Thổ gánh đến Tây Thiên. Tính cách ngây thơ, thẳng thắn, lạc quan của Trư, lòng say mê cuộc sống, không câu nệ lễ phép phiền toái của Trư, khiến ta thấy Trư đáng yêu; và khẳng định rằng những phẩm chất đó đã hình thành tính cách của Trư.
Nhưng Trư Bát Giới cũng có khá nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Những khuyết điểm ấy luôn luôn tương phản với ưu điểm của Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới nhớ nhà, không quyết tâm đi lấy kinh, luôn luôn xin chia hành lý đòi giải tán đoàn thể để về nhà; Tôn Ngộ Không thì không vậy, trong đầu óc Tôn xưa nay không có cái quan niệm tiểu gia đình như thế. Trư Bát Giới nhát gan, ngại khó, gặp yêu ma là sợ hãi chùn lại không dám tiến, thậm chí khi lâm trận lại bỏ trốn; Tôn Ngộ Không thì là người không sợ trời, không sự đất, thấy yêu ma là đánh ngay và đánh đến cùng. Trư Bát Giới khí cục nhỏ nhen, chỉ nghĩ ích mình; điều đáng buồn cười nhất là Trư lại còn dành một món vốn riêng; Tôn Ngộ Không thì tuyệt nhiên không có chút tự tư tự lợi gì, ở đâu đâu cũng chỉ nghĩ đến người khác và sự nghiệp. Trư Bát Giới thích đưa lời gièm và đơm đặt chuyện; Tôn Ngộ Không thì tuyệt đối không có cái khuyết điểm ấy. Xem như thế đủ thấy Trư Bát Giới có rất nhiều khuyết điểm, mà những khuyết điểm ấy lại đối lập với khá nhiều ưu điểm sáng sủa của Tôn Ngộ Không. Nhưng Ngộ Không với Bát Giới lại thống nhất với nhau trên cơ sở cùng theo đuổi một sự nghiệp chung, một mục đích chung. Trư Bát Giới có đủ phẩm chất của người lao động, điều đó cũng nhất trí với Tôn Ngộ Không.
Trư Bát Giới là nhân vật chính diện. Bản chất của Trư vẫn là tốt, nhưng ở trên một mức lớn, Trư không thể là khuôn mẫu cho người ta học tập được. Ý nghĩa hình tượng ấy của Trư Bát Giới một mặt là phụ vào làm cho hình tượng Tôn Ngộ Không thêm rực rỡ; mặt khác, khách quan mà nói, đã phản ánh những khuyết điểm và nhược điểm của kẻ tiểu tư hữu. Đối với độc giả, chuyện đó hẳn cũng có tác dụng răn dạy tốt.
Tác giả phê phán khắt khe những khuyết điểm và nhược điểm của Trư Bát Giới, nhưng lại là phê phán có thiện ý; tuy nghiêm khắc, nhưng lại là xuất phát từ lòng yêu thương và che chở. Tác giả phê phán đấy nhưng trước sau vẫn không quên mặt cơ bản phải hết sức khẳng định là mặt tốt của Trư; vì thế sự phê phán đã đạt được mục đích, mà lại không tổn hại đến hình tượng nhân vật ấy.
Đường Tăng là thủ lĩnh tập đoàn đi lấy kinh, song đọc Tây du ký chúng ta đều cảm thấy vai chính trong việc đi lấy kinh lại là Tôn Ngộ Không. Đường Tăng là một hình tượng tuy có tác dụng độc lập, nhưng chỉ có đem đặt vào trong quan hệ với các nhân vật khác, đặc biệt là Tôn Ngộ Không, mới có thể bàn xét một cách chính xác về ý nghĩa vai trò ấy ở trong tác phẩm. Đường Tăng và Tôn Ngộ Không thật khác nhau về giai cấp, tính tình và đặc điểm, nhưng Đường và Tôn cùng thống nhất được với nhau trong công việc chung là việc đi lấy kinh.
Đường Tăng là một vị danh tăng được hấp thụ một nền văn hóa phong kiến cao độ. Đường Tăng có tư tưởng phong kiến truyền thống nặng, trong đầu óc chứa đầy quan niệm đẳng cấp. Y giữ gìn lễ phép phong kiến thật cẩn thận. Bất cứ gặp vị thần Phật lớn nhỏ nào, y cũng đều phục xuống lạy; bất cứ gặp một quân vương nước nào, y cũng đều cung kính, hô câu vạn tuế. Lúc vào triều Ngọc Hoa vương ở phủ Ngọc Hoa vương nước Thiên Trúc, Bát Giới cất tiếng chào hơi to một chút làm vương tử kinh sợ. Đường Tăng liền trách mắng Bát Giới rằng: “Thường có câu: ‘Người có năm bảy dáng, của có chín mươi loài’, không biết thế nào là sang hèn ư?” Như thế chứng tỏ Đường Tăng là người tuyên dương và là người ủng hộ tích cực chế độ đẳng cấp phong kiến. Ở Đường Tăng đã biểu hiện sự nhu nhược vô tài của phần tử trí thức phong kiến nói chung, hễ thấy yêu ma là mất hồn mất vía, đến nỗi “ngồi không vững trên yên ngựa đẹp đẽ, ngã lộn nhào từ trên lưng ngựa trắng xuống”. Bởi thế Tôn Ngộ Không thường mắng Đường Tăng là “hình dáng như cái bọc mủ ấy”. Đứng trước sự khó khăn, Đường Tăng chỉ biết “nhăn mày, ròng ròng sa đôi hàng lệ”; hễ rời Tôn Ngộ Không ra thì không đi được nửa bước, thậm chí cả cơm ăn cũng không nuốt được. Khi tác giả viết về khí chất của phần tử trí thức phong kiến và tư tưởng phong kiến của Đường Tăng, là tác giả đã kèm theo thái độ phê phán rồi. Tác giả đem Đường Tăng tả ra đủ mười phần câu nệ, hủ lậu đáng cười, khiến độc giả thấy mà ngán ngẩm. Những cái ấy đều tương phản với tính cách của Tôn Ngộ Không. Khi viết ra sự so sánh ấy, tác giả đã bao hàm cả sự khen ngợi và sự phê phán rồi.
Ở Đường Tăng, tư tưởng phong kiến có truyền thống của Trung Quốc cùng tư tưởng nhà Phật đã kết hợp với nhau làm một. Tư tưởng nhà Phật sau khi truyền vào Trung Quốc, bèn gắn chặt với tư tưởng phong kiến truyền thống của Trung Quốc thành ra một hình thái ý thức của giai cấp thống trị. Đường Tăng thường cứ tuyên truyền luôn miệng những giáo điều nhà Phật, như “từ bi làm lòng”, “đừng giết sinh linh”, “quét nhà sợ thương tổn tính mệnh loài sâu, loài kiến”, “thương tiếc những con thiêu thân lọt vào đèn”… Cái “từ bi” rẻ giá vô nguyên tắc ấy chỉ có lợi cho giai cấp thống trị; nó làm tê liệt ý chí phản kháng của dân gian lao động. Đường Tăng đuổi Tôn Ngộ Không ba lần, nhưng sự thực lại chứng minh lần nào Tôn Ngộ Không cũng phải cả. Tác giả dùng sự thực phê phán cái từ bi giả dối, không phân biệt ta với thù của Đường Tăng, khẳng định cái tinh thần đấu tranh tích cực, yêu ghét phân minh của Tôn Ngộ Không; điều đó có ý nghĩa nhận thức sâu sắc. Cái đó chỉ ra cho lớp người thời đó biết rằng phải khéo phân biệt chân và ngụy, thiện và ác; đối với thế lực ác bất cứ nó ngụy trang xuất hiện dưới hình thức nào, đều phải tiến hành đấu tranh kiên quyết. Ngày nay chúng ta đang vạch trần âm mưu của chủ nghĩa độc tài bề ngoài thì giả vờ nói hòa bình mà kỳ thực bên trong thì chuẩn bị chiến tranh, vạch trần “chủ nghĩa nhân đạo” hình thức và giả dối của giai cấp thống trị, thì truyện này cũng lại có ý nghĩa giáo dục như truyện ngụ ngôn vậy.
Song tác giả đối với Đường Tăng, mặc dầu có phê phán, nhưng lại mô tả Đường Tăng là nhân vật chính diện. Trong tác phẩm, Đường Tăng không phải là người ác, Đường Tăng không quản trăm đắng nghìn cay, trèo non lội suối, để sang Tây Thiên lấy kinh; chính vì thế nên Tôn Ngộ Không lại có thể cùng Đường Tăng thống nhất được trên cơ sở của công việc chung đi lấy kinh.
Tây du ký là do chuyện một đồ đệ Phật giáo đi lấy kinh phát triển, diễn biến ra mà có; trước kia nó sặc màu mê tín tôn giáo. Trong quá trình phát triển ở dân gian, đặc biệt là sau khi đã qua tay Ngô Thừa Ân gọt giũa lại, câu chuyện đi lấy kinh đã từ một truyện ký của tín đồ tôn giáo biến thành một pho anh hùng truyền kỳ thần thoại. Tuy vậy nó cũng không thoát được cái vỏ lấy kinh đã có từ trước, vẫn là chuyện một đồ đệ Phật giáo đi lấy kinh làm đầu mối dẫn đến mọi tình tiết. Thêm vào đấy, tác giả phần nào cũng có tư tưởng tôn giáo, cho nên Tây du ký vẫn mang theo cái quan niệm Phật giáo nhất định.
Tôn giáo là thứ thuốc Tylenol để làm dịu tinh thần dân gian dưới áp lực rối ren của xã hội. Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo chủ yếu là một thứ vũ khí tinh thần mà kẻ thống trị thường dùng để làm mê hoặc dân gian, thống trị tư tưởng dân gian (Trong xã hội phong kiến, người nông dân khởi nghĩa cũng thường lợi dụng tôn giáo làm thủ đoạn tuyên truyền, tổ chức để cướp chính quyền, và khi thành công họ lại biến thành giai cấp thống trị, đây là vòng lẩn quẩn trong lịch sử loài người). Do bị áp bức giai cấp tàn khốc, sức sản xuất thấp kém và khoa học, văn hóa không phát triển, nên dân gian thường thường không thể không mê tín vào sức mạnh của số mệnh, do đó đề ra tư tưởng định mệnh của tôn giáo. Nhưng trong đời sống thực tế, dân gian đã thể nghiệm thấy tôn giáo có thể làm cho họ thoát khỏi đau khổ hiện thực không lối thoát. Cuộc sống hiện thực khiến dân gian không thể không sinh lòng hoài nghi và bất mãn ngày càng lớn đối với giai cấp thống trị và thúc đẩy họ đi đến chỗ chống đối lại vận mệnh, tích cực đấu tranh giai cấp và đấu tranh sản xuất. Vì thế mà trong dân gian lại nung nấu sẵn cái ý thức chống cường quyền. Ý thức chính trị và ý thức chống giai cấp thống trị ấy phản ánh ở trong Tây du ký tức là tác giả phê phán giai cấp thống trị ngay khi đang bị ý thức chính trị ràng buộc; ca ngợi đấu tranh chống vận mệnh ngay cả khi đang bị khốn khổ vì tư tưởng vận mệnh; do đó ta thấy rõ tính tiến bộ và tính hạn chế trong vấn đề nhìn xã hội trong Tây du ký.
Trong Tây du ký còn tồn tại tư tưởng định mệnh của tôn giáo. Nó cho rằng “một hớp uống, một miếng ăn đều do có định trước”, trời đất vạn vật hình như bị một thứ lực lượng vô hình thống trị, cái gì cũng đều là do số. Trong Tây du ký cũng có quan niệm nhân quả báo ứng. Từng hồi từng mục trong Tây du ký đều đầy rẫy những tiếng nhà Phật. Thầy trò Đường Tăng sau khi đi lấy được kinh, thành được chính quả lên trời, cả Tôn Ngộ Không là người có tinh thần phản kháng nhất cũng được thành Phật. Kết cục ấy của Tôn Ngộ Không so với tính cách toàn thể của Tôn không được thống nhất. Điều ấy khiến cho hình tượng rực rỡ của Tôn Ngộ Không không thoát khỏi những ràng buộc của lịch sử. Những thứ ràng buộc ấy biểu hiện sự giới hạn của tư tưởng tác giả, nhưng cái đó là thứ yếu trong tác phẩm. Nhìn chung toàn bộ sự mô tả cụ thể và sự sáng tạo hình tượng của Tây du ký thì Tây du ký lại dồi dào tinh thần đấu tranh phản kháng đối lập với quan niệm giai cấp. Nhà Phật yêu cầu mọi người phục tùng sự an bài của số mệnh, yêu cầu nhịn nhục, chịu sự đau khổ kiếp này, tuyên truyền đối với ai cũng đều tỏ rõ “nhân từ”, nhưng Tôn Ngộ Không lại lấy tư tưởng và hành động ngời sáng của tự mình mà mạnh mẽ phủ định hết thảy những điều đó. Điều càng khiến người ta ngẫm nghĩ kỹ là ở trong sách tác giả đã nhạo báng và chê cười khắt khe, cay đắng đối với thần, Phật, tăng, đạo; thậm chí khinh nhờn và đại bất kính đối với thần, Phật, điều đó đã biểu hiện rõ một mặt khác thái độ đối với giai cấp của tác giả.
Các đạo sỹ được nói đến trong Tây du ký cơ hồ toàn là nhân vật phản phái cả. Những đạo sỹ ấy thường thường dùng những thủ đoạn như cầu mưa, dâng gái đẹp để làm quốc sư, quốc trượng; mê hoặc quốc vương; mưu toan cướp ngôi vua. Rồi thì triều chính bị đen tối, trăm họ gặp tai ương. Tây du ký công kích đạo giáo và đạo sỹ cũng không phải là do sự “sùng tăng diệt đạo” mà chính là muốn phê phán cái hiện thực xã hội thời Minh.
Trong khi phê phán đạo sỹ, tác giả cũng thường chĩa mũi giáo vào kẻ thống trị tối cao của vương triều phong kiến tức là quốc vương. Như tả: quốc vương nước Tỳ Kheo hoang dâm vô đạo, dùng tim gan của một nghìn một trăm mười một trẻ em làm dẫn thang chế thuốc; quốc vương nước Xa Trì bắt tất cả các hòa thượng về làm công việc khó nhọc, hơn hai nghìn hòa thượng bị vất vả chết đến già nửa, sau cùng, chỉ còn được năm trăm người sống. Nhưng tác giả vì bị hạn chế bởi tư tưởng chính thống phong kiến nên không chịu đem quốc vương ra tả cho xấu hẳn; bọn quốc vương ấy tuy là tối tăm, tầm thường, nhưng lại là “chân mệnh thiên tử”, sau này nhờ Đường Tăng và Tôn Ngộ Không khuyên răn, chỉ bảo, nên tự hồ tâm địa thốt nhiên mở mang, thành có sự “chuyển biến lớn”. Hình như tội ác hoàn toàn do bọn đạo sỹ, nịnh thần kia gây ra, chỉ cần quét sạch bọn ấy là nước được thịnh, dân được yên ngay. Kết cục của sự chuyển biến lớn ấy là giả dối, là thiếu cơ sở hiện thực. Điều đó đã chứng tỏ tư tưởng của tác giả bị hạn chế. Trên một chừng mực nhất định, nó đã làm giảm kém sức phê phán hiện thực. (cũng ví như vua nhu nhược bất tài làm mất nước thì đổ tội cho cung phi mỹ nữ, tướng bất tài thì đổ tội cho quân sĩ, trang thiết bị, chính phủ bất tài thì đổ tội cho dân ngu si, hoặc đảng cầm quyền trước đây.)
Tóm lại tư tưởng rực rỡ của Tây du ký chủ yếu là thể hiện ở Tôn Ngộ Không. Tinh thần đấu tranh phản kháng của Tôn Ngộ Không quét trừ hết thảy mọi thế lực tà ác, đã thể hiện đầy đủ lý tưởng của dân gian lao động và sự bất mãn của họ đối với hiện thực. Trong Tây du ký, Trư Bát Giới, Đường Tăng đã thể hiện diện mạo phẩm chất của những giai cấp, giai tầng nhất định. Bọn họ ở trong tác phẩm, tuy có tính chất đối sánh với Tôn Ngộ Không, nhưng họ đều có tư tưởng độc lập của họ. Bằng hình thức tưởng tượng Tây du ký, một mặt đã ca tụng tinh thần đấu tranh phản kháng của Tôn Ngộ Không, một mặt lại đã phơi trần và công kích các mặt đen tối. Những cái đó đều có ý nghĩa hiện thực rất lớn đối với xã hội đương thời, đó là nội dung tư tưởng chủ yếu của Tây du ký.
III. Thành Công Về Nghệ Thuật Của Tây Du Ký
Tây du ký là chóp đĩnh của các sáng tác về chủ nghĩa lãng mạn trong lịch sử phát triển về tiểu thuyết cổ điển của nước ta. Chủ nghĩa lãng mạn tích cực là đặc sắc nghệ thuật chủ yếu của nó. Nó đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của thần thoại cổ đại nước ta, đã thể hiện sức sáng tạo vĩ đại và sức tưởng tượng phong phú của dân tộc ta. Tây du ký chính là một bộ tiểu thuyết thần thoại trường thiên vĩ đại, tích cực. Thông qua hình thức ảo tưởng thần kỳ và nội dung bắt nguồn ở hiện thực mà cao hơn hiện thực. Tây du ký đã phản ánh đầy đủ, khúc chiết, phức tạp, lý tưởng cao quý và đời sống hiện thực của dân gian ta.
Cái được tả trong Tây du ký là một thế giới thần thoại kỳ diệu. Nhân vật trong đó tuyệt đại đa số không phải là người trong xã hội hiện thực, mà nơi hoạt động của họ cũng không phải là hoàn cảnh của đời sống xã hội loài người. Tây du ký mở rộng hết kho tưởng tượng phong phú không gì sánh dược, có đầy đủ tình tiết truyện đưa người ta vào cảnh thắng thú vị: đời sống vui vẻ, tự do tự tại của bầy khỉ ở núi Hoa Quả, việc đại náo thiên cung, địa phủ và long cung, bảy mươi hai phép biến hóa, tám mươi mốt nạn trên đường; cho đến chỗ chiến trường tung đá bay cát, sự thần quái đi mây về gió, cuộc chiến đấu thần diệu kỳ dị… Tất cả những cái ấy đã đưa người ta tiến vào một thế giới ảo tưởng thần diệu. Khi sáng tạo ra thế giới ảo tưởng ấy tác giả đã viết rất chi tiết về bối cảnh khiến ta như thấy ngay ở trước mắt. Tả nhân vật cũng có thanh có sắc. Nhưng hoàn cảnh và nhân vật ở đây lại không phải là bộ mặt của bản thân đời sống xã hội loài người; lối viết chi tiết như thế chỉ có thể hợp lý trong cái lô gích phát triển của tự thân câu chuyện thần thoại. Nó là cái hợp tình hợp lý của thần thoại.
… Tây du ký có nội dung bắt nguồn ở hiện thực mà lại cao hơn hiện thực. Nó thông qua hình tượng nhân vật mà biểu hiện ra. Hình tượng nhân vật của Tây du ký đều có đầy đủ ý nghĩa hiện thực, nhưng đều không na ná hoặc đơn giản bắt chước hiện thực, cũng không khái quát chung chung, mà cao hơn hiện thực trên một mức độ rất lớn. Ở đây thiện thì càng thiện, ác thì càng ác, đều từ trên phương hướng của bản thân mình vượt cao hơn hiện thực mà đi vào phạm vi ảo tưởng hóa, lý tưởng hóa.
Trong Tây du ký hình thức ảo tưởng kết hợp với nội dung hiện thực cực lớn, đã đạt tới sự thống nhất khéo léo. Chính vì thế sự tưởng tượng của Tây du ký mới được biểu hiện ra có ý nghĩa biết bao, khỏe khoắn tốt đẹp, sinh động và thú vị biết bao! Hợp tình hợp lý khiến người tin phục và sáng ngời trí tuệ biết bao!
Hoàn cảnh mà Tây du ký đã tả là thế giới ảo tưởng của thần thoại vì thế mà trong khi dựng nhân vật cũng phải dựa vào cái thế giới ảo tưởng thần thoại đó mà phát triển tính cách và hành động của nhân vật.
Tây du ký đã dựng nên rất nổi bật một hình tượng rực rỡ là hình tượng Tôn Ngộ Không. Trong khi gọt giũa hình tượng này, tác giả đã chọn lối nghệ thuật cao độ của chủ nghĩa lãng mạn tích cực, khiến Tôn Ngộ Không từ trong hòn đá sinh ra đã học biết được nhiều phép lạ, có thể lên trời xuống đất, không sợ lửa đốt, nước ngâm; có thể không ngủ không ăn, vẫn không mỏi mệt… Tất cả đều là thần kỳ mà ở trong thế giới thần kỳ ấy, nhân vật và hoàn cảnh đều điều hòa nhất trí. Tất cả hành động của Tôn Ngộ Không đều khoa trương cực độ. Như hồi thứ 45 tả cái quảng đại thần thông, hô mưa gọi gió của Tôn Ngộ Không như sau:
“… Đặng thiên quân nói: ‘Đại thánh đã truyền bảo gì thì ai dám không nghe, nhưng phải có hiệu lệnh mới dám theo hiệu lệnh mà làm. Không thế thì sấm mưa loạn xạ, hóa ra đại thánh làm việc không có điều khoản rành mạch ư?’ Hành Giả nói: ‘Ta đem cái gậy làm hiệu.’ Lôi công sợ lắm nói: ‘Cha mẹ ơi! Chúng tôi chịu sao được cái gậy ấy?’ Hành Giả nói: ‘Có đánh các người đâu, hãy nhìn vào cây gậy của ta ra hiệu. Ta trỏ lên một cái tức là cần nổi gió.’ Phong bà bà, Tốn nhị lang cuống quýt đáp ngay: ‘Xin thổi gió!’ — ‘Gậy trỏ lần thứ hai tức là cần kéo mây!’ Thôi Vân đồng tử, Bố Vụ lang quân nói: ‘Xin kéo mây! Xin kéo mây!’ — ‘Gậy trỏ lần thứ ba tức là cần sấm vang chớp lóe!’ Lôi công, Điện mẫu nói: ‘Xin vâng! Xin vâng!’ — ‘Gậy trỏ lần thứ tư là cần mưa xuống!’ Long vương nói: ‘Xin tuân mệnh! Xin tuân mệnh!’ — ‘Gậy trỏ lần thứ năm là cần trời nắng, mưa tạnh, nhất thiết không được sai trái!’”
Uy lực lớn mạnh và khí phách hùng vĩ của Tôn Ngộ Không trước thiên nhiên, phản ánh nguyện vọng tha thiết của dân gian lao động muốn chinh phục thiên nhiên. Bởi Tôn Ngộ Không là một hình tượng anh hùng của thần thoại gọt giũa trong thế giới ảo tưởng, tất cả các cái ấy càng làm nổi bật cái đặc trưng của bản chất hình tượng sáng ngời ấy.
Hình tượng Tôn Ngộ Không đã được lý tưởng hóa cao độ. Trong các cuộc chiến đấu, lúc nào Ngộ Không cũng vẫn là một anh hùng và chiến sỹ đội trời đạp đất, không sợ gì cả. Cái đó đã thể hiện lý tưởng chủ nghĩa anh hùng của nhân dân lao động thời cổ đại. Dân gian thời cổ đại, thông qua hình tượng rực rỡ ấy của Tôn Ngộ Không, đã thấy được sức mạnh và lý tưởng của mình, đã cổ võ ý chí phấn đấu của mình.
*
* *
Châm biếm và hài hước là môn sở trường của Ngô Thừa Ân. Đối với những hiện tượng xấu xa, lệch lạc trong hiện thực, ông dùng hình thức ảo tưởng để gián tiếp châm biếm rất chua cay trong Tây du ký. Thần, Phật, sư, đạo thường thường là đối tượng châm biếm của Ngô. Như trong đoạn kể chuyện Đường Thái Tông xuống âm phủ có mang một phong thư của Ngụy Trưng viết cho Thôi phán quan, vị phán quan ấy giúp đỡ Thái Tông rất nhiều, và đã chữa trộm thêm tuổi thọ Thái Tông. Lại như trong hồi thứ 16, tả một lão tăng ở viện Ọuan Âm trông thấy áo cà sa gấm của Đường Tăng rực rỡ, hoa cả mắt, bèn nảy ra lòng tham; đến lúc lừa được áo cà sa vào tay rồi thì lại nhìn tấm áo mà kêu gào khóc lóc đến hai trống canh vẫn chưa thôi, vì lo không thể chiếm giữ được vĩnh viễn cái áo để làm của riêng mình; cuối cùng y bèn giở thủ đoạn độc ác đến chỗ Đường nghỉ đỗ, phóng một mớ lửa đốt cả bọn Đường Tăng chết cháy. Lúc lửa bốc cháy làm kinh động Hắc Phong quái, con quái này đến cứu hỏa thì lại thấy của sinh lòng tham, thừa cơ lửa cháy cướp lấy áo cà sa đem về sơn động. Mũi nhọn châm biếm của tác giả không những chĩa vào phán quan, tăng, đạo và ma quái, mà lại còn trực tiếp chĩa vào ngay Phật Như Lai là vị thần tượng tối cao của nhà Phật, như ở hồi thứ 98, hai vị A Nan, Ca Diếp đòi bọn Đường Tăng đưa “Lễ vật”. Phật Như Lai cũng nói: “Ngày trước các tỳ kheo thánh tăng xuống núi tụng cho nhà trưởng giả họ Triệu một lượt kinh chỉ lấy được của nhà ấy ba đấu, ba thăng vàng cốm đem về. Ta vẫn còn bảo bọn họ bán rẻ quá, con cháu đời sau lấy tiền đâu mà dùng.” Những chuyện đại loại như thế đều là sự châm biếm nhọn sắc cả. Phán quan ở âm phủ, nghe nói là người mặt sắt vô tư nhất, mà cũng vì nể riêng tây; sư sãi phải làm gương mẫu cho sự dứt bỏ “năm tình sáu dục” của con người tục, thế mà lão tăng ở Quan Âm viện lại tham lam vô độ; nhà Phật thì nói từ bi, không sát sinh, nhưng lão tăng ấy lại tham của hại người; cứu hỏa vốn là điều thiện, việc hay, nhưng Hắc Phong quái trong khi đi cứu hỏa lại thừa cơ đi ăn cướp; Phật phải là bậc thanh cao nhất thần thánh nhất, thế mà từ A Nan, Ca Diếp cho đến Như Lai là vị thần tượng Phật tối cao, rút lại cũng bon chen tài lợi như bọn hạ lưu vậy. Những hành vi này đều không phù hợp với thân thế, tiếng tăm của họ nên đã trở thành một thứ mỉa mai chua chát. Đối với những sự chế giễu ấy, chúng ta không thể chỉ thấy ở trên sách mà phải đem đối chiếu và liên hệ với hiện thực xã hội.
… Trong Tây du ký, sự phê phán những khuyết điểm và nhược điểm của Trư Bát Giới cũng là thông qua hình thức khôi hài, cười cợt mà tiến hành. Hồi thứ 23 tả vị bồ tát biến thành bốn mẹ con mỹ nhân đến dò thử lòng thiền của bọn thầy trò Đường Tăng, ở đây tác giả đã phê phán tính hiếu sắc và lòng cầu an của Trư Bát Giới. Khi bà lái buôn vào trạc bốn mươi lăm tuổi đem ba người con gái của mình đến nói với Đường Tăng về việc kén rể, trong bọn, mọi người đều quyết tâm đi lấy kinh, không màng nghĩ đến việc ở lại, duy có Trư Bát Giới phơi bày ngay cái xấu ra: “Nghe nói đến giàu sang như thế, gái đẹp như thế, Bát Giới lại thấy ngứa ngáy, ngồi trên ghế, như kim châm vào hông, nghiêng bên nọ, ngả bên kia, nhịn không nổi, bèn chạy lên níu lấy sư phụ nói: ‘Bà đây nói chuyện với sư phụ, tại sao sư phụ cứ làm thinh, cũng phải quan tâm đến một tí chứ.’” Tác giả diễn tả tâm lý mâu thuẫn của Bát Giới: muốn ở lại, lại sợ Đường Tăng mắng, sợ cái gậy của Tôn Ngộ Không. Tâm lý ấy được biểu hiện ra rất buồn cười. Bát Giới cứ lảm nhảm oán trách Đường Tăng sao lại không vờ nhận lời, để đến nỗi “tro tàn bếp lạnh”, “cơm nước đều không”. Bát Giới mượn tiếng đi chăn ngựa, tìm mẹ con bà lái buôn. Khi đã gặp được, tức thì gọi người lái buôn ấy là “mẹ”, chào hỏi, và lén lút nhận làm rể. Tác giả thông qua việc người đàn bà lái buôn do bồ tát hóa ra ấy, đem Bát Giới ra trêu cợt một phen: bảo Bát Giới bịt mắt, chọn lấy một người con gái. Kết quả Bát Giới chưa mó đến được một người nào thì đã “ngã vều mõm sưng đầu”. Rồi lại bảo Bát Giới mặc thử áo trân châu của ba người con gái. Áo ấy vốn là mấy cái dây thừng biến ra, Bát Giới mặc vào, nó liền trói Bát Giới thật “đau đớn khó chịu”, quật hắn ngã xuống đất. Còn ngoài ra, như hồi thứ 18 tả Trư Bát Giới hiếu sắc, hồi thứ 32 tả Trư Bát Giới nhát gan, nói dối, đều là dùng bút pháp giống như thế để làm nổi bật cái hình tượng hài kịch ấy. Song cười thì cười, nhưng không ai ghét Trư Bát Giới cả. Bởi vì đối với Bát Giới, tác giả đã khẳng định trước cái nguyên cớ phê phán y rồi. Cái “tài hài kịch” của Ngô Thừa Ân khiến Tây du ký có đủ khí vị hài hước cực kỳ sâu sắc. Độc giả cảm thấy vui thích nhẹ nhàng trong khí vị hài hước ấy và được hưởng thụ một thứ mỹ cảm nghệ thuật. Đó là vì khi công kích cái xấu, câu chuyện có một nội dung sống rất phong phú. Khi chúng ta nhẹ nhõm đối với những sự việc đáng cười do tác giả đã diễn tả, chúng ta lại thấy luôn cả ý nghĩa nhận thức rất nghiêm túc.
Lại cần chỉ ra rằng Ngô Thừa An vận dụng hình thức khôi hài trong Tây du ký không phải là không có chỗ kém. Như hồi thứ 53 tả Đường Tăng khi đi qua Tây Lương nữ quốc, uống phải nước sông Tử Mẫu, Đường Tăng và Bát Giới có thai, tình trạng thật đáng cười khác thường. Nhưng cười rồi thì không còn lại một cái gì cả. Do đó có thể thấy hình thức khôi hài (chế giễu hay bông đùa) trong biểu hiện nghệ thuật, hễ đã mất nội dung sống, liền lập tức mất hẳn cái đẹp, biến thành một cái gì không thiết thực, không trang trọng, vô ý nghĩa.
Ngữ ngôn trong Tây du ký vận dụng được thành công phi thường; đó là những câu nói cửa miệng đã chọn lọc, uốn nắn, thêm thắt mà viết ra. Trên cơ sở thành tựu của người đời trước, Ngô Thừa Ân đã có công hiến lớn, có sáng tạo tính trong việc phát triển ngữ ngôn văn học ngữ Hán. Ngô có sự rèn luyện ngữ ngôn rất cao; có năng lực chế ngự ngữ ngôn rất mạnh, ông không những giỏi miêu tả và kể chuyện, mà lại giỏi vận dụng hình thức đối thoại nữa. Trong toàn bộ Tây du ký, đối thoại chiếm địa vị rất trọng yếu. Đó là một cách trọng yếu tác giả hay dùng để biểu hiện tính cách nhân vật. Đối thoại trong Tây du ký được cá tính hóa; ngôn ngữ của mỗi nhân vật đều hợp với thân phận họ; thậm chí trong mỗi câu đối thoại đều thấm qua cái đặc biệt về cá tính của mỗi nhân vật. Ngôn ngữ trong Tây du ký còn mang phong cách độc đáo của Ngô Thừa Ân, là sinh động, hoạt bát, thông thường, trôi chảy, hài hước ý nhị, câu ngắn mà sắc. Trong đó cũng có lẫn phương ngôn vùng Hoài An, nhưng bởi không vận dụng quá nhiều, hơn nữa phương ngôn vùng Hoài An về cơ bản thuộc vào hệ thống tiếng bắc phương, cho nên đọc lên ta không thấy khó chịu.
Trong Tây du ký lại có khá nhiều văn vần như loại thơ, từ, ca, phú, kệ, tụng, bằng văn ngôn truyền thống viết ra, phần lớn dùng để miêu tả phong cảnh tự nhiên, trạng mạo nhân vật, khu trường chiến đấu, hoặc giảng về huyền lý, luận về cùng thông… Hình thức dùng tản văn, vận văn xen lẫn ấy là thừa kế lối thoại bản của đời Tống, đời Nguyên, đến đời Minh thì hình thức ấy đã là lỗi thời rồi. Trong sách có một số ít văn vần, do dùng thích hợp, tả khéo, nên đã gây được tác dụng tốt; nhưng cứ toàn thể mà nói, thì những văn vần ấy kém xa sự thành tựu của văn xuôi; đa số còn thiếu sức biểu hiện.
Trong Tây du ký, tình tiết câu chuyện biến hóa khôn lường, đối với lòng hiếu kỳ của trẻ em có sức hấp dẫn đặc biệt. Những cái miêu tả về Đông hải long cung, thiên cung, địa phủ, hang quỷ, động tiên, đều có nhiều thú vị; việc đánh võ đấu phép lại biến hóa khôn lường. Nhân vật tuy đều là thần, quái, yêu, ma, cũng không làm cho người ta thấy ghê sợ âm thầm. Những nhân vật chủ yếu là Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới lại đều rất đáng yêu, rất thân mật đối với trí tuệ ngây thơ của các trẻ em. Trong Tây du ký có khá nhiều hình tượng do cá tính của người cùng đặc điểm của động vật kết hợp với nhau một cách khéo léo, như Tôn Ngộ Không là con khỉ, Trư Bát Giới là con lợn. Những chi tiết tưởng tượng trong mọi tình tiết lại thường là hợp tình hợp lý, phù hợp với quy luật cuộc sống, như tả Nhị Lang thần đuổi theo Tôn Ngộ Không, Tôn biến thành một cái miếu thổ địa, lấy đuôi hóa thành cột cờ, nhưng ngược đời chưa, cột cờ lại cắm ở sau miếu, bị Nhị Lang thần biết thóp. Chuyện đó khiến các em nhi đồng rất thích. Phong cách khôi hài của Tây du ký cũng hợp với ý thích của nhi đồng. Tây du ký có thể giúp đỡ nhi đồng hiểu được đời sống, làm cho nhi đồng nhận thức được ở trong đời sống cái thiện với cái ác, người tốt với người xấu, biết giận những thế lực đen tối, thấy phải đấu tranh với chúng; hiểu lẽ phải, tìm tòi ánh sáng và chân lý; nuôi dưỡng cho nhi đồng tính gan dạ, hăng hái. Cho mãi đến ngày nay truyện ấy vẫn được một số lớn thiếu niên nhi đồng yêu thích, không phải là không có lý do vậy.
*
* *
Tây du ký là đỉnh cao nhất của chủ nghĩa lãng mạn tích cực trong sự phát triển của tiểu thuyết cổ điển; là một trang chói lọi trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc. Truyện ấy đã mở ra phong trào về tiểu thuyết thần thoại của một thời đại, có rất nhiều ảnh hưởng đối với tiểu thuyết thần ma sau này. Sau khi Tây du ký ra đời, khá nhiều người bắt đầu coi trọng việc thu thập và chỉnh lý những truyện thần quái ở dân gian, lại xuất hiện ra nhiều Tây du ký tục thư, nhưng những quyển ấy đều còn kém xa mức của Tây du ký, cái đó sẽ bàn ở trong sách sau.
Truyện Tây du ký lưu truyền rộng rãi ở dân gian, có ảnh hưởng rất sâu xa. Dân gian rất thuộc và rất yêu truyện và người trong Tây du ký, cơ hồ nhà này nhà khác đều hay, người trẻ người già đều biết. Đặc biệt là hình tượng Tôn Ngộ Không có ảnh hưởng tốt và tác dụng tích cực đối với tinh thần dân gian.
Tây du ký cũng ảnh hưởng đến những hình thức văn nghệ khác. Đặc biệt là hý kịch, đã lấy từng đoạn trong Tây du ký ra viết thành bản. Nhiều gánh tuồng địa phương và tạp hý dân gian (múa rối, chiếu bóng…) đến nay vẫn còn giữ những tiết mục truyền lại về Tây du ký. Kinh kịch Náo thiên cung không những là một tiết mục được dân gian nước ta yêu thích, mà còn được dân gian thế giới nhiệt liệt hoan nghênh.
IV. Phê Phán Về Nghiên Cứu Tây Du Ký
Tây du ký là một bộ tiểu thuyết thần thoại trường thiên tích cực mà lại có ý nghĩa hiện thực dồi dào, từ lâu đến nay đã có tác động tích cực trong dân gian. Dân gian vô cùng yêu thích.
Hồ Thích cho rằng dân tộc TQ là một “dân tộc không giàu sức tưởng tượng”; văn học cổ điển của Trung Quốc “rất thiếu sức tưởng tượng”; vì thế ông quả quyết rằng “văn học lãng mạn của Trung Quốc là con đẻ của văn học Ấn Độ”. Ông nói: “Ta vẫn ngờ con khỉ thần thông quảng đại ấy không phải là nội hóa mà chính là một thứ hàng ở Ấn Độ nhập cảng vào” (Tây du ký khảo chứng).
Dân tộc TQ là một dân tộc giàu lý tưởng và ảo tưởng. Con khỉ Tôn Ngộ Không là do dân gian TQ dùng trí tuệ và lý tưởng của chính mình, thông qua hình thức ảo tưởng mà sáng tạo ra. Ở trong thần thoại thời cổ xưa của chúng ta, đã có những hình tượng đầy sức phản kháng như Cung Công và Hình Thiên; cũng đã có truyện thần thoại như hòn đá vỡ mà sinh ra con ông Vũ là Khải, giống như truyện Tôn Ngộ Không ra đời. Về hình tượng con khỉ, ở trong lĩnh vực văn học nước ta, cũng đã có từ trước. Lời chú của Vi Chiêu trong Lễ ngữ nói: “Con quỷ có một chân, người Việt gọi nó là con ‘sơn tiêu’. Nó mặt người, thân khỉ, nói được.” Điều Lý thang ở quyển thứ 467 bộ Thái bình quảng ký chép: “Vua Vũ giận, triệu tập bách linh… bèn được thủy thần ở sông Hoài, sông Qua tên là Vô Chi Kỳ ứng đối giỏi biết phân biệt chỗ nông chỗ sâu của sông Giang, sông Hoài, nơi gần nơi xa của đồng bằng, đất thấp, hình nó như con vượn…” Trong tạp kịch Tây du ký của Ngô Xương Linh thời Nguyên có câu: “Vô Chi Kỳ là chị em Tôn Ngộ Không”. Truyền kỳ thời Đường có truyện Bổ Giang tổng bạch viên kể việc con yêu vượn trắng. Trong truyện Trần tuần kiểm Mai Lĩnh thất thê ký ở Tống, Nguyên thoại bản cũng nói đến truyện con khỉ. Do đấy đủ thấy Tôn Ngộ Không coi như hình tượng con khỉ thần không phải là trường hợp xuất hiện lần thứ nhất, càng không phải là ngẫu nhiên. Nhất là tinh thần chống đối và chí công vô tư của Tôn Ngộ Không lại hoàn toàn là phẩm chất của dân lao động vốn sẵn có.
TẾ XUYÊN dịch