by bevanng » 14 Apr 2017
Trên thực tế, giai đoạn này đáng chú ý bởi những thông điệp lẫn lộn của nó, như được minh họa bởi cuộc phỏng vấn dài giữa bà và Koelbl. Ban đầu, Merkel từng phải vật lộn để quen với cuộc sống của một chính trị gia, rồi dần dần cũng bớt. “Tôi vẫn không thể tưởng tượng rằng phần còn lại của đời mình sẽ như bây giờ,” bà rên rỉ vào năm 1993. Bà hồi tưởng về việc làm thế nào mà nghề nghiệp của bà đã tạo ra ảnh hưởng tiêu cực lên vài khía cạnh trong tính cách của bà mà gần đây bà mới phát hiện ra và không thích thú lắm: thiếu kiên nhẫn, thiếu thiện chí lắng nghe người khác và mất khả năng chìm đắm vào trong một quyển sách. “Tôi thấy mình trông ngóng thời khắc tất cả những căng thẳng này kết thúc,” bà vẫn nói thế vào năm 1997. “Với tôi, chất lượng cuộc sống đồng nghĩa với việc nấu các bữa ăn ở nhà và có mặt trong lịch hẹn của những người xung quanh.” Merkel tiếp tục đấu tranh tư tưởng về việc khi nào sẽ là thời khắc thích hợp để rời bỏ chính trường, có lẽ để trấn an bản thân rằng bà vẫn có thể làm điều gì khác với cuộc đời mình. “Tôi không muốn trở thành một kẻ thân tàn ma dại khi tôi rời bỏ chính trị,” bà nói. “Sau một thời gian nhàm chán tôi thích tìm thứ gì đó khác để làm hơn.”
Ngay cả bây giờ, bà vẫn đùa giỡn với ý nghĩ rời bỏ cuộc sống chính trị. Có vẻ bà đặc biệt bị thu hút bởi khả năng làm được điều gì hoàn toàn khác biệt - dù trong quá khứ nhiều hơn so với hiện tại. Vào cuối những năm 1990, bà nói với một phóng viên rằng bà có thể tưởng tượng ra cảnh đi cùng Joachim đến một viện nghiên cứu ở đâu đó, có thể ở Nam Phi. Một lần khác, bà bày tỏ khát vọng học tiếng Pháp sau khi kết thúc sự nghiệp chính trị, hay sống tại Mỹ trong một thời gian, hay chỉ đơn giản là ngồi nhà và sau đó tái xuất hiện, “để xem đang có gì.”
Song những mong muốn này chưa bao giờ thành hiện thực. Angela Merkel băng qua toàn cảnh chính trị của thập niên 90 với nhịp điệu vũ bão. Tháng 11 năm 1994, bà rời vị trí chuyển tiếp từ Bộ phụ nữ và thanh niên sang Bộ môi trường. Với việc đảng CDU quay trở lại làm đảng đối lập vào tháng 11 năm 1998, bà trở thành tổng thư ký đảng, và hai năm sau, sau tai tiếng tiền bạc và cú nghỉ hưu của Wolfgang Schäuble, bà được bổ nhiệm làm chủ tịch đảng. Vào lúc này, chính sách đối ngoại không được ưu tiên bằng việc củng cố quyền lực, chống lại phe đối lập và, trên tất cả, sống sót qua cơn khủng hoảng khó khăn nhất trong lịch sử đảng Liên minh dân chủ Cơ đốc giáo.
Tuy nhiên, còn một sự kiện nữa nổi bật hơn cả trong những năm đó, mà một trong số này vẫn được Merkel kể lại bằng đôi mắt lấp lánh, và là trải nghiệm giúp bà hiểu thêm về chính trị thế giới: hội nghị thượng đỉnh về khí hậu năm 1995 ở Berlin. Chính sách môi trường khi đó là một yếu tố mới trên sân khấu chính trị toàn cầu. Đại biểu của gần như mọi quốc gia đã gặp nhau lần đầu tiên tại Rio de Janeiro trong năm 1992 để thảo luận về biến đổi khí hậu. Đây là sự tiến bộ vĩ đại: loài người cuối cùng cũng đã nhận ra rằng khí hậu toàn hành tinh ảnh hưởng đến tất cả mọi người, song không ai có thể nhất trí rằng những thay đổi này tốt hay xấu, hay có thể làm gì với chúng. Và đó cũng là lần đầu tiên một hiệp ước ràng buộc có trọng tâm nói về biến đổi khí hậu được ký kết theo luật pháp quốc tế.
Khi Bộ trưởng Môi trường Angela Merkel thay mặt chính phủ Đức đến Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu Berlin một năm sau khi Công ước Rio có hiệu lực, câu hỏi rất đơn giản: làm sao để khiến thỏa thuận Rio có ý nghĩa. Hội nghị Berlin chính là phép thử: nếu Rio có ý nghĩa, thì nó phải được thực thi sâu sắc hơn. Nếu những nỗ lực bảo vệ môi trường lung lay ở giai đoạn này, thì toàn bộ dự án quốc tế có thể sẽ thất bại.
Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức sự kiện vĩ đại này. Trước đó ở Rio, Helmut Kohl đã hào phóng tiến cử Đức làm nơi tổ chức kỳ hội nghị tiếp theo, và giờ đây ông đang kêu gọi cam kết từ các vị bộ trưởng khác. Rốt cuộc, ông nói với họ, đây là “hội nghị quốc tế quan trọng nhất được tổ chức trên đất Đức trong tương lai nhìn thấy được.” Ngoại trưởng kiêm phó thủ tướng Klaus Kinkel mời các vị đại biểu đến dự bữa tối - được tổ chức bên dưới những bộ xương khủng long ở Bảo tàng lịch sử tự nhiên tại Berlin. Angela Merkel được chọn làm chủ tịch cuộc họp, và chủ trì sự kiện trong sảnh đường lớn của Trung tâm hội nghị quốc tế, bên dưới một quả địa cầu màu xanh khổng lồ lơ lửng trước những ngọn sóng trắng.
Khoảng 160 nước, cùng con số tương đương những tổ chức phi chính phủ khác, đã nhận lời mời, và bên cạnh hội nghị chính còn có chương trình bổ sung các sự kiện liên quan cùng một hội chợ môi trường.
Merkel yêu bầu không khí nơi đây khi, lần đầu tiên trong đời, bà phát biểu trước một đám đông khán giả khổng lồ: một ngàn đại biểu, hàng trăm các cá nhân liên quan, một tháp Babel ngôn ngữ, và một mạng lưới chằng chịt các cuộc thương thảo. “Đó là điều tôi luôn hình dung,” bà nói sau này. “160 nước. Tôi thật sự trở nên giác ngộ. Lần đầu tiên tôi có được cơ hội tìm hiểu các nền văn hóa khác nhau của thế giới và những cách thức hoạt động đa dạng của chúng.”
Với tư cách chủ tịch, Merkel đảm nhiệm luôn vai trò của một nhà môi giới: bà phải điều đình giữa các phe phái khác nhau. Cuối cùng, bà lắng nghe lời khuyên của người đồng nghiệp Ấn Độ giàu kinh nghiệm Kamal Nath. Nath đã làm Bộ trưởng Môi trường Ấn Độ nhiều năm, nên ông hiểu sự phức tạp của hội nghị và kéo Merkel ra một bên để nói chuyện riêng. Hãy cẩn trọng trong buổi tối cuối cùng, ông khuyên bà, hãy chia các đại biểu ra thành những nước đã công nghiệp hóa và những nước đang phát triển, và để họ trong hai căn phòng riêng biệt. Merkel làm theo những gì được khuyên: bà chia các đại biểu và đi qua đi lại giữa hai nhóm, với mục tiêu ngăn toàn bộ sự kiện sụp đổ cũng như ít nhất nhằm đạt được một thời hạn ràng buộc đóng vai trò nền tảng cho giai đoạn tiếp theo của chính sách về biến đổi khí hậu.
Lúc 6 giờ sáng, sau một đêm thương thảo, kết quả đã đến: ủy nhiệm thư Berlin (Berlin Mandate). Cái tên này do Tim Wirth đặt ra, ông là nhà thương thuyết chính của đoàn Mỹ. Bản ủy nhiệm thư nói rằng, khi hội nghị tiếp theo diễn ra, được tổ chức vào năm 1997 tại Kyoto, các nước công nghiệp phải ký kết một thời gian biểu ràng buộc cho việc cắt giảm khí CO2. Những nước “cứng đầu” hơn cả trong số này, đặc biệt là Mỹ, đã tiến hành câu giờ song vẫn bị ràng buộc về mặt nghĩa vụ đối với các đề xuất. Merkel đã khiến bà trở nên nổi tiếng trong những nước đang phát triển, và ngay cả đến ngày hôm nay, danh tiếng của bà trong thế giới thứ ba đôi khi vẫn nhờ vào hội nghị môi trường năm 1995. Hội nghị Berlin đã hé mở một mặt thú vị khác của Merkel, vốn đặc trưng và thậm chí còn có thể định nghĩa cho cách hành xử của bà: bà cực kỳ thực dụng khi có cơ hội đạt được một sự thỏa hiệp. Bà không chấp nhận những thỏa thuận ràng buộc không cần thiết. Sau hội nghị Berlin, bà đã phát biểu, “dĩ nhiên một người có thể liên tục đưa ra những yêu sách tối đa suốt nhiều năm và từ chối thỏa hiệp. Tôi thường quyết định thúc đẩy mọi thứ tiến tới ít nhất một đến hai bước, dù biết tôi sẽ không nhận được sự nhất trí chung cho chúng [… ]. Có lẽ một sự thỏa hiệp chỉ có tác dụng khi những ai tham gia kết thúc bằng tâm trạng không vui - nên tôi đành phải ăn mừng một mình thôi.” Merkel nói về chính trị như một quá trình tuyến tính: những cuộc thương thảo đi kèm một dạng phạm vi. Nếu bà tranh cãi với một đối thủ về một vị trí nhất định, Merkel sẽ vẽ một đường thẳng và nhìn vào điểm trung tâm giữa hai vị trí. Dù vị trí đó chỉ hơi nhích về phía bà, bà vẫn xem cú thỏa hiệp là thành công. Song trên tất cả, bà vẫn thích một kết quả không mâu thuẫn với phong cách ôn hòa của bà hơn.
Berlin vào năm 1995 mang đến một minh chứng rõ rệt cho quá trình định lượng các cuộc tranh cãi và thẩm quyển của bà đối với vai trò điều phối viên, song cũng minh họa cho lòng nhiệt thành đôi khi thơ ngây của bà đối với chính trị trong giai đoạn đầu này. Mỗi năm, Merkel lại trở nên bớt non nớt đi một chút. Rồi một đặc tính mới xuất hiện, một đặc tính bà chưa từng thừa nhận trước đó: khoái cảm của cạnh tranh, hưng phấn của chiến thắng. Là một chính trị gia ngay sau thời hậu thống nhất, Merkel luôn tập trung vào vấn đề chính và thích thú những cuộc tranh luận đầy dữ kiện, trong khi Merkel “bộ trưởng” thì liên tục tận hưởng sự phấn khích của thành công chính trị. Bà đã thoải mái hơn với cuộc sống trước công chúng. Bà trở nên yêu thích những cú giáp lá cà khi tranh luận và nhìn xuyên thấu những chiến thuật mà đối thủ sử dụng. Khi bà bị làm cho bẽ mặt vài lần trước công chúng bởi Thủ hiến vùng Hạ Saxony, Gerhard Schröder, quanh vấn đề bảo quản vĩnh viễn chất thải hạt nhân, ban đầu bà đã phản ứng với cơn thịnh nộ không kiểm soát. Schröder đã luôn giở trò với bà, nên bà cảm thấy như bị lôi vào sự chú ý của công chúng chỉ để bị chơi khăm. Với tư cách Bộ trưởng Môi trường, bà càng lúc càng trở nên giống một Dì Sally 7 cho phe đối lập. Schröder miêu tả bà là một người “không biết chỉ huy, mà chỉ đáng khinh.” Và rồi, trong bài phỏng vấn với Herlinde Koelbl, bà đã đưa ra lời bình luận hăng hái sau: “Tôi đã nói với ông ta rằng sẽ đến lúc tôi cũng dồn được ông ta vào góc tường. Tôi vẫn cần thời gian để làm chuyện đó, nhưng ngày ấy rồi sẽ đến. Tôi đang mong chờ nó.” Schröder lẽ ra phải làm tốt để đón nhận lời cảnh báo một cách nghiêm túc.
7 Dì Sally là cách gọi một đối tượng hay một nhóm đối tượng hứng chịu chỉ trích. (ND)
Merkel bắt đầu miệt mài trong cuộc cạnh tranh: giết hoặc bị giết. Phải làm tốt hơn kẻ khác nhằm giành lấy lợi thế. Vài tháng trước khi đảng CDU bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1998 và Schröder trở thành thủ tướng, Merkel cho thấy bà đã sẵn sàng cho cuộc đối đầu. “Tôi đã tự hứa với lòng sẽ không chịu đựng quá nhiều,” bà nói với Koelbl bằng giọng gần như đe dọa. “Và tôi đang tận hưởng điều đó. Giống như đánh chìm một con tàu vậy - tôi cảm thấy tuyệt mỗi khi tôi ghi được một bàn.” về sau bà còn nói điều này một cách rõ ràng hơn. Khi được hỏi về niềm vui thú đi kèm với quyền lực, bà đáp: “Nếu là trước đây tôi sẽ nói rằng niềm vui là việc tạo ra các chính sách. Còn bây giờ tôi sẽ nói rằng đó là việc giật con mồi khỏi tay đối thủ.” Và bỗng nhiên người ta thấy ở đó, một Merkel - nữ thợ săn với một bản năng hoàn toàn quyết đoán, khả năng lần theo con mồi vào đúng thời điểm và cả lòng can đảm, khi mọi chuyện trở nên đáng nghi ngờ.
Ở Đức, trong thời gian “học việc” chính trị, trọng tâm chính vẫn nằm ở vấn đề đối nội. Và kết quả là Merkel đạt được rất ít cột mốc trong công tác đối ngoại trong quá trình bà dần trưởng thành hơn về chính trị. Với tư cách tổng thư ký đảng của mình, nhiệm vụ đầu tiên của bà là tấn công - và do khi đó, đảng CDU chủ yếu tham gia những cuộc chiến với bản thân đảng này cùng quá khứ của nó (bao gồm những khoản đóng góp cho đảng và tài khoản ngân hàng phi pháp), Merkel giáng cú đánh tối hậu lên chính Helmut Kohl khi đề xuất rằng CDU cần phải rời bỏ hình tượng người cha của đảng này. Dẫu vậy, bà không có khao khát từ bỏ chính sách đối ngoại của Kohl (và bà cũng không có quyền lực làm thế, dù ở thời điểm đó hay sau này). Bà không cảm thấy cơn bức bách phải tái định hình cục diện chính trị của CDU: rõ ràng Helmut Kohl đã để lại một trật tự tốt cho chính sách đối ngoại của CDU.
Chỉ từ năm 2002 trở đi, với tư cách chủ tịch CDU kiêm thủ lĩnh đảng Đối lập, bà mới làm được cú giáng trả quyết định đối với chính sách đối ngoại. Nên ai cũng ngạc nhiên khi Merkel lần đầu tiên hé lộ một vài trong số các chính sách cá nhân của bà trên vũ đài chính trị, cung cấp khẩu vị của bà đối với chính trị châu Âu. Và khẩu vị của một chính trị gia đặc biệt trở nên tham lam trong việc bổ nhiệm người vào những vị trí thích hợp. Năm 2004 chứng kiến cuộc tìm kiếm chức vụ chủ tịch ủy ban châu Âu trong một cuộc phô bày chính trị quyền lực. Từ ngày 10 đến 13 tháng 6 năm 2004, Nghị viện châu Âu được bầu lên lần thứ sáu. Đa số lá phiếu được dành cho Đảng Nhân dân châu Âu, cấu thành bởi nhiều đảng theo đường lối bảo thủ ở châu Âu. Sau đó, ủy ban châu Âu cần phải được bầu lại, với một chủ tịch đứng đầu, và người này phải được Nghị viện châu Âu cùng phe đa số theo đường lối bảo thủ trong đó chấp thuận.
Với đảng Xã hội châu Âu (European Socialist), vốn bao gồm cả Thủ tướng Đức Gerhard Schröder, việc một thành viên của họ - dưới ánh sáng của sự cân bằng quyền lực mới trong nghị viện - có thể thắng là điều bất khả thi. Nhưng họ đã tìm thấy một ứng viên phù hợp nơi vị thủ tướng theo đường lối tự do của nước Bỉ: Guy Verhofstadt. Là một ứng viên, ông có một lợi thế to lớn khác: Verhofstadt đã được Tổng thống Pháp (thuộc phe bảo thủ) Jacques Chirac chấp nhận, bởi năm trước đó ông đã tổ chức “hội nghị thượng đỉnh hộp sôcôla” (chocolate-box summit) - một cuộc gặp giữa các lãnh đạo chính phủ Pháp, Đức, Luxembourg và Bỉ - với mục tiêu tạo ra một liên minh an ninh châu Âu, một mô hình tương tự NATO và, dưới bóng đen của cuộc chiến Iraq, được xem như lời đáp trả dành cho Mỹ.
Những ý tưởng này không hề phù hợp với Merkel. Mô hình cũ của khối đồng minh với Đức trong quan điểm của bà không được bàn tới, nên bà quyết định cản đường Verhofstadt. Không những thế, phe bảo thủ muốn trình diễn sức mạnh mới của mình, nên họ phải sở hữu một ứng viên riêng nhằm ngáng đường người Bỉ. Ngạc nhiên thay, vào buổi tối trước cuộc họp của Hội đồng châu Âu, Merkel xuất hiện tại buổi quy tụ những người đứng đầu chính phủ và lãnh đạo các đảng chị em châu Âu. Bà từng thuyết phục lãnh đạo đảng Bảo thủ Anh, Michael Howard, để xúc tiến việc đề bạt vị ủy viên Hội đồng châu Âu được kính trọng rộng rãi Chris Patten cho vị trí này. Ông là một địch thủ cạnh tranh mạnh mẽ, đặc biệt kể từ khi Tony Blair - vị thủ tướng đến từ đảng Lao động Anh và là người ủng hộ cuộc chiến Iraq - kiên quyết bỏ phiếu chống lại Verhofstadt và vị ứng viên người Anh. Như thường lệ, khi những chiến thuật “cản mũi” như thế được sử dụng, cả hai ứng viên đều bị hy sinh - và, như một phương án thỏa hiệp, chui ra khỏi chiếc nón chóp của nhà ảo thuật là thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Bồ Đào Nha, José Manuel Barroso. Ông không là lựa chọn ưa thích của Merkel, nhưng ít nhất ông cũng là một người theo phái bảo thủ, và ông còn đại diện cho một bước lùi đáng kể dành cho Gerhard Schröder. Tại Brussels, ai cũng tròn mắt vì ngạc nhiên - cho đến thời điểm đó, chưa ai ở châu Âu chú ý nhiều đến Angela Merkel.
Tuy nhiên, bất cứ ai quan sát kỹ hơn cũng thấy một bức tranh khác: một người phụ nữ biết chính xác mình đang làm gì. Là lãnh đạo phe đối lập, Merkel vô cùng tích cực: bà đi khắp châu Âu và gặp gỡ các chính phủ láng giềng của Đức. Tổng thống Pháp Chirac cũng nằm trong danh sách của bà, nhưng bất chấp lời khuyên của Helmut Kohl, bà không giấu diếm sự không ưa thích của bà đối với các chính sách của tổng thống Pháp. Và một lần nữa, ai quan sát kỹ cũng nhận thấy từng có một phụ nữ bắt đầu chính xác ở nơi Helmut Kohl đã bỏ lại. Merkel có ý tưởng rõ ràng về vai trò của Đức, cùng những bạn bè và đồng minh của nước này, trên thế giới.