VIII
Vào buổi sáng thứ ba, đến mười giờ anh em mới tập họp đông đủ. Sau khi điểm danh tôi để anh em chờ đợi chỗ sân cờ, một mình tới phòng làm việc của Trưởng ban 3 để gặp Thiếu tá Quy. Tôi đứng nghiêm chào kính xong, đứng chờ, vì ông đang có điện thoại nói chuyện với Sư đoàn. Nhưng tôi đợi không lâu, chừng năm phút.
Vừa gác máy, vị Thiếu tá hỏi:
- Sao, về đủ chưa?
- Dạ đủ. Anh em tập họp ở sân cờ.
Thiêu tá Quy rời ghế, rồi cùng đi với tôi. Hai người bước nhanh, đên chỗ toán lính tập họp, tôi làm đúng nghi thức trình diện bằng lệnh hô nghiêm nghỉ và chào kính.
- Được rồi, cho anh em đứng nghỉ.
Trước hàng quân, vị Thiếu tá nói:
- Trong số anh em vừa mới xong khóa học hỏa tiễn chống xe tăng, sẽ được lập thành một phân đội, và Chuẩn úy Thụy là Phân đội trưởng. Từ nay, phân đội sẽ thuộc quân số của Trung đoàn. Tạm thời, các anh tập trung ở khu nhà cạnh biệt đội Quân cụ, vấn đề tổ chức đơn vị nhỏ sẽ do Chuẩn úy Thụy sắp xếp. Ngày mai, các anh sẽ vào Sư đoàn để nhận các trang thiết bị cùng vũ khí, đạn dược. Theo bảng cấp số, thì một phân đội đảm trách 3 khẩu được gắn trên xe để di dộng khi hành quân. Ngoài ba chiếc có gắn súng, còn có một xe riêng để chở đạn, và loại đạn này như các anh đã học trong hai tuần lễ đi dự lớp huấn luyện. Đó là vài sự kiện tổng quát, thời gian tới theo biến chuyển của tình hình cuộc chiến, phân đội sẽ được điều động lên vùng hành quân hay hậu cứ. Tôi chỉ có mấy lời đó thôi, về mặt sinh hoạt, Chuẩn úy Thụy sẽ lo liệu. Anh em có điều gì cần hỏi không?
Trung sĩ Hiệu đưa tay, anh hỏi:
- Chúng tôi đây đều thuộc các đơn vị Tiểu đoàn, vậy có trở về đơn vị gốc để làm thủ tục mới hay không?
Thiếu tá đáp lời ngay:
- Các anh khỏi lo, Ban 3 sẽ điều chỉnh tình trạng lương bổng và quân số của các anh trong phân đội TOW.
Hạ sĩ Nghị hỏi:
- Chúng tôi còn dược hưởng tiền phụ cấp hành quân không?
- Không. Các anh thuộc quân số Trung đoàn. Phụ cấp hành quân dành cho Tiểu đoàn thôi. Trong các anh đây, ai muốn trở lại Tiểu đoàn?
Tất cả yên lặng. Một lúc sau, tôi bước đến gần vị Thiếu tá để nghe chỉ thị. Tôi lắng nghe, không hỏi gì nhiều, chỉ gật đầu. Rồi hàng quân giải tán, từ sân cờ, tôi đưa anh em đến chỗ trú quân được chỉ định.
Đây là một căn tiền chế, sàn lát ván, và có một số bàn ghế và giường gỗ. Tôi để anh em nghỉ tự do, trong lúc này, tôi và hai anh Trung sĩ đi quan sát quanh khu vực để đặt súng phòng thủ. Trong hai tuần lễ dự khóa học, tôi cũng như anh em đây đã nhận dạng được loại vũ khí này, tuy không thực tập bắn, nhưng phần kỹ thuật trong lý thuyết được giảng viên huấn luyện, tôi nắm vững. Có một sự kiện cần ghi nhớ là hai tuần dự khóa học, toán chuyên viên Mỹ về loại vũ khí này cũng đã đến dự một vài buổi và cho chiếu hình lên màn ảnh về từng bộ phận của cây súng, cách lắp ráp, cả những động tác bắn ở thế nằm cũng như di chuyển.
Ba người quan sát xong, quay trở vào và tôi cho anh em tập họp lại. Tôi nói:
- Trong ít ngày tới, anh em phải tổ chức sinh hoạt trong nề nếp về ăn ở. Tôi đề nghị, phân đội cần có hai người lo hậu cần, trước tiên là cơm nước hàng ngày, sau đó, đi nhận lãnh các mặt hàng cung cấp của quân tiếp vụ về phân phối cho phân đội.
- Không có gì khó đâu, Chuẩn úy.
- Tôi một mình, thì chẳng lo. Nhưng dù sao, ở đây tôi có trách nhiệm với phân đội, với anh em, thành ra, sự quan tâm của tôi là chung, như giữa các anh em với nhau vậy.
Tôi luôn nghĩ đến sự cụ thể trong lời phát biểu của mình. Anh em lính cũng đang nghe lời, không tranh luận.
Người lính tài xế nêu ý kiến:
- Thưa Chuẩn úy, - Tôi cười khoác tay, nhưng anh ta điềm nhiên tiếp lời - Phân đội TOW được coi là đơn vị riêng, dù không có KBC, nhưng có được riêng sinh hoạt đơn vị. Tôi nghĩ Chuẩn úy cũng như chúng tôi, đồng lương chẳng có mấy, vậy thì, có một số được ban 4 cấp cho mình, nêu xoay xở được, xin Chuẩn úy cho chúng tôi làm mấy thứ này.
Tôi nói:
- Ở phân đội, có thứ gì đâu mà săn nhặt. Có được lắm, một ít xăng nhớt, nhưng tôi nghĩ, họ chỉ cho mình vừa đủ để di chuyển.
- Không đâu Chuẩn úy, cấp số hàng tháng của đơn vị phải đầy đủ, ban 4 không có quyền tăng, hoặc cắt giảm.
- Có chắc không?
- Sua mà, Chuẩn úy.
- Ờ thì, nếu có, tôi để các anh liệu.
Cả phân đội vui cười. Tôi tiếp lời:
- Tôi ở bên anh em. Sinh hoạt ăn uống như thế nào, chúng ta chia đều. Thực ra, ngoài việc đi công tác hành quân, ở nhà, cũng chẳng có gì quan trọng, ngoài ứng chiến, trực gác thôi.
Sau mấy lời, tôi cho anh em nghỉ.
Bên ngoài, nắng trưa bắt đầu lắng đọng. Sự yên tĩnh cũng muốn gây một cảm giác buồn ngủ. Một số anh em bày ra một cái bếp gạch nấu cơm. Từ chỗ phân đội ở, tôi đi lên câu lạc bộ để ăn trưa. Tôi gặp một số sĩ quan của Trung đoàn cùng lúc đến ăn. Cứ bốn người một mâm như ở quân trường. Trong bữa ăn, anh em làm quen, chuyện trò. Trong các bạn này, có một sĩ quan mới ở trường Võ bị Đà Lạt mới mãn khóa. Sau bữa ăn, tôi đứng coi đánh cờ một lúc xong trở về chỗ ở của phân đội.
Đến chiều, đầu giờ làm việc, tôi làm một mình với những sổ sách cần thiết. Thời gian đi qua lẹ làng, với tiếng còi hụ báo giờ tan sở vang lên.
- Có anh nào ra phố không?
- Không.
- Tôi đi một mình nhé.
- Chuẩn úy có về không?
- Về chứ.
Ra ngoài, tôi bước đi nhanh lên sân cờ, vừa lúc gặp nhiều xe cơ hữu đang hướng ra cổng.
Khoảng chừng mười lăm phút sau, xe vào đến thị xã.
Xe ngừng lại ở ngả ba cuối phố, nhưng nơi này, lại sinh hoạt nhộn nhịp hơn. Có nhiều quán giải khát, quán ăn, nhà thuốc tây, và đặc biệt là hiệu sách lớn với người chủ lúc nào cũng ăn mặc rất lịch lãm. Trong thị xã này, có một số anh em văn nghệ thường đến, những bạn này thỉnh thoảng cũng có tên xuất hiện trên báo Văn, Bách khoa, phần nhiều bài chọn đăng là sáng tác thơ. Giữa người viết truyện và làm thơ, thì bên truyện được chú ý hơn, có sự ngưỡng mộ nữa và độc giả coi họ là nhà văn.
Tôi có ý định sẽ trở lại tiệm sách mua mấy tờ báo trước khi trở ra Trung đoàn. Bây giờ, tôi đi dạo chơi cho khuây khỏa, rồi đi ăn cơm chiều, và một nơi sẽ ghé tới là nhà của Liên. Nơi thị xã nhỏ bé thân thương này, gia đình Liên là một điểm tựa cần thiết với tôi. Tôi mong gặp lại người quen trong niềm vui hội ngộ, và Thiện chồng của Liên với tôi thời gian sau này là một đôi bạn cùng chí hướng.
Thiện sinh quán ở Nam Định. Năm 1954, anh theo gia đình di cư vào miền Nam, đi bằng đường bộ xuất phát từ điểm Thanh Hóa, đến Quảng Trị, đoàn xe đỗ người di cư xuống ở khu vực sân vận động và được chính quyền ở đây đón tiếp ân cần, chu đáo, nên họ dừng luôn không nuôi ý định đi xa nữa về phía Nam. Sau chiến tranh, miền Nam trở nên yên bình, nơi đâu cuộc sống cũng dễ chịu, ổn định. Bố của Thiện vốn là công chức ngành thủy lâm nên được thu nhận ngay và được hưởng bậc lương từ nhiệm sở cũ. Thiện có người anh đầu trong quân đội, còn anh là thứ hai, tiếp đến hai em gái. Thiện học trường Nguyễn Hoàng, thuộc lớp học sinh khá. Nhưng chuyện thi cử và chuyện học vẫn có một sự khác biệt mà người ta hay dùng vào cách nói của người đời là học tài thi phận. Trong bốn năm đệ nhất cấp, Thiện học vững vàng, thi thành chung đậu ngay khóa đầu. Cứ tưởng, chuyện học hành thông, không ngờ lên học ban Tú Tài Thiện bị đúp lớp, hai năm bốn khóa không cách nào qua nổi cái bán phần. Trong lúc nản chí, người bố khuyên anh thi vào trường sư phạm cấp tốc ra trường dạy tiểu học. Tuy nhiên, vào cuộc đời sớm ổn định với đồng lương và cuộc sống rồi, thì rất dễ có điều kiện học lại để thi Tú Tài. Muộn, chậm, nhưng mà chắc.
Thiện nghe lời bố và may mắn thi đậu. Học chín tháng xong, anh tốt nghiệp hạng trung bình và được bổ nhiệm ra dạy trường tiểu học Hải Lăng. Đây là trường quận, và tên trường cũng lấy tên quận mà đặt.
Khi Thiện bắt đầu nghề dạy học, thì bố anh, do nhu cầu thăng tiến trong ngành đã được thuyên chuyển vào Nha Trang làm việc. Vì anh đã lớn, nên gia đình để anh lại ngoài này không mang đi theo.
Quận Hải Lăng còn có thêm ba trường tiểu học dành cho cấp xã và thôn quanh vùng, nhưng trường chính, vẫn là trường nằm ngay bên quận. Ngôi trường này có mười hai lớp. Những lớp lớn được học các phòng có lợp ngói, tường quét vôi trắng, còn dãy nhà phụ cũng là nhà xây lợp mái fibro, dành cho mấy lớp nhỏ. Ngôi trường có sân chơi rộng và trồng cây để lấy bóng mát. Bên ngoài trường là một ngả ba có con đường tráng nhựa, nơi này rất yên tĩnh bởi không xa nó là một khoảng rừng trồng hai thứ cây dương liễu và thông. Nhà ga xe lửa nằm bên con đường sắt song song với quốc lộ I, phía cửa trước, nhìn ra một cánh đồng và trông thấy bóng dáng dãy núi Trường Sơn. Bên dưới dãy núi này, có nhiều ngôi làng, và cũng có một con sông và cây cầu sắt, mái uốn cong. Ngày trước, Hải Lăng là một quận có cuộc sống trù phú, đông dân, diện tích về nông nghiệp khá lớn, và có thêm nguồn lợi hải sản.
Thiện phụ trách lớp chính là lớp nhì, ở lớp nhất, anh thường thay thế cho đồng nghiệp lúc nghỉ phép hay ốm đau. Nỗi buồn lận đận thi cử rồi cũng qua đi, tan biến. Thiện bằng lòng với công việc và số phận của mình. Lương giáo viên của anh mỗi tháng được gần năm nghìn. Không có gia đình, anh thuê một chỗ trọ có căn gác biệt lập. Anh đến lớp vào buổi sáng, chiều được nghĩ. Để có trách nhiệm đúng đắn với lương tâm nghề nghiệp, Thiện luôn soạn bài giảng hẳn hoi cho từng môn dạy học. Hai môn Toán, Thường Thức, anh rất chú trọng và giảng kỹ ở lớp. Lớp học của anh có sáu mươi em học sinh, sống với gia đình ở trong quận và gần trường.
Khi dạy học về, Thiện và một số bạn cùng trường còn độc thân đi ăn cơm tháng ở quán. Sau đó, ai nấy về nhà mình. Lên gác, như thói quen, anh rót chén nước uống trước khi lên giường với một tờ báo cũ. Thiện, thích đọc báo, và luôn cất giữ lại không bỏ đi. Trên kệ sách đặt gần chỗ nằm, tầng trên, anh để sách giáo khoa học thi, tầng nhì là sách dạy học và tiểu thuyết, tầng ba dưới cùng anh để báo và những tạp chí Thế giới tự do, Chiến sĩ Cộng hòa, và nhật báo. Ở trong quận, có một cửa hàng bán sách báo và văn phòng phẩm. Quận lỵ này lớn nên có những sinh hoạt tương đối nhộn nhịp, đông vui như là một thị trấn. Từ nơi đây cách xa biển khoảng hơn mười cây số, trong hai ngày cuối tuần, bạn có thể đạp xe đi chơi biển, trước khi đến đó, bạn sẽ qua những ngôi làng thanh bình với bóng dừa, rặng tre, hàng cau, mái ngói, sân gạch, và mỗi hình ảnh đơn sơ có riêng từng nét đẹp rất dễ gây nguồn cảm xúc trong thơ văn. Mỹ Thủy là tên của biển, bãi cát trắng tinh và nước biển rất xanh. Quảng Trị tuy là tỉnh nhỏ, nhưng có hai tài nguyên phong phú về biển và rừng, đặc biệt các quận huyện lớn nhỏ, vùng nào cũng có dòng sông, và nhiều ngôi làng mở rộng các ngả đường đi ra biển.