Kim Tuấn rời ghế đứng lên đi về phía quầy trả tiền gói thuốc và hai ly cà phê. Anh còn nán lại chuyện trò với cô chủ, và tôi ngồi ở ghế một mình đợi chờ.
Hai người rời quán, bên ngoài đêm đã khuya.
- Buồn ngủ chưa.
- Chưa.
- Một vòng phố đêm không?
- Lãng mạn là một cái thú.
Bây giờ đi bên nhau, tiếng bước chân giày đinh dội trên đường nghe thật là đơn độc.
Tôi bỗng hỏi:
- Anh có làm cho hãng thông tấn ngoại quốc, phải không?
- Sao bạn biết.
- Tôi biết, không cần hỏi ai cả.
- Có, nhưng tôi ngừng một năm nay rồi.
- Sao vậy?
- Tôi không đồng quan điểm với họ.
- Anh nói rõ hơn.
- Họ rất là khuynh tả.
Tôi nói:
- Tôi thấy phóng viên ngoại quốc thích Bắc Việt hơn là quân đội miền Nam.
- Đó là lý do tôi ngừng cộng tác.
- Những tin anh chuyển cho các hãng thông tấn ra sao?
- Tôi tường thuật lại các trận đánh, một cách xác thực.
Hai người đi lên một quãng dốc vắng. Trong sương mù bao phủ, ánh đèn xa hiện lên rất là đẹp như một cảnh trong tranh vẽ.
Tôi nói:
- Tôi không hiểu sao, phía miền Nam luôn dành ưu tiên cho các phóng viên ngoại quốc, vậy mà, bất cứ một thông tin nào họ cũng cố tình làm sai lạc để có lợi cho Bắc Việt. Có vẻ như họ coi đám du kích đội nón tai bèo cầm súng đánh với Mỹ và quân đội miền Nam là anh hùng, còn phía miền Nam là thực dân. Tôi thấy họ không hiểu một tí gì về Cộng Sản, sự tương phản của họ luôn thấy rõ qua những bức ảnh, phía miền Nam cố tình bôi bác, xuyên tạc, phía miền Bắc là một cuộc chiến đấu thần thánh. Không biết họ còn nhớ không, Bernard Fall chết vì những quả mìn của Việt Cộng, và một đám ký giả chết ngổn ngang trên xe Jeep trong vụ Mậu Thân. Khi nghĩ về họ, tôi luôn có một ý tưởng thù hận trong đầu hơn là với Cộng quân. Anh biết cứ mỗi lần theo phái đoàn báo chí của bọn chúng ra mặt trận, tôi cầu sao cho những trái pháo rớt tỏm đúng vào những chiếc máy ảnh và máy quay phim của đám này, để họ biết, bên nào mới là phía bảo vệ họ.
Sau một lúc suy nghĩ, Kim Tuấn nói:
- Anh biết không, nói thực lòng nghề báo là một nghề gián tiếp làm kẻ phạm tội. Nghề báo, muốn viết được hay gây ấn tượng, phải tìm sự dàn dựng trong các bi kịch, không có một ai, viết từ cuộc sống đời thường, trong đó, hạnh phúc mỗi con người, gia đình, xã hội là sự yên bình. Thử hỏi, không có chiến tranh bọn chúng tới đất nước mình làm gì, và không thảm cảnh của chết chóc, bom đạn, lấy đâu chúng có những bức ảnh ghê rợn để trở thành tác phẩm nghệ đoạt các giải thưởng quốc tế. Những tác phẩm, danh vọng và tiền bạc, chúng nó cũng đã lấy từ xác chết trên xứ sở của mình. Ở trong miền Nam, chúng nó cứ nghĩ chiến tranh là do tính cách thực dân của lính Mỹ và quân đội VNCH, ngoài miền Bắc, sự đau thương, tàn phá, là do bom Mỹ cả. Tôi không hiểu sao cuộc chiến Mậu Thân với hàng trăm nấm mồ chôn tập thể ở ngoài Huế, họ không tận mắt đưa những thước phim này cho thế giới thấy rõ tội ác người CS, mà chỉ tìm những cái bi kịch từ quân đội VNCH, cho rằng quân đội này là nguyên nhân của tội ác. Tôi cũng như ông, không chịu nổi sự thiên lệch của đám ký giả nước ngoài, nhất là Pháp. Với sẵn mối thù với người Mỹ hất chân Pháp ra khỏi Đông Dương, nên Pháp luôn luôn đứng về phía Bắc Việt. Đã nhiều lần tôi có một ý tưởng, tại sao miền Nam không thả dù cho họ xuống miền Bắc để họ nhìn thấy rõ một đời sống thực của người dân ngoài đó, tha hồ viết.
Tôi cười sảng khoái. Và trong tỉnh lặng, những điếu thuốc đốt cho ấm cổ họng. Một giọng chân tình tôi nói:
- Tôi thấy miền Nam đã chịu đựng một cuộc chiến quá lâu dài.
- Người Cộng Sản không muốn có sự thương nhượng, họ chỉ luôn nuôi thù hận, gây hấn, với giá nào cũng nuốt trọn cả miền Nam để làm lợi cho phe chủ nghĩa CS. Thực sự chủ nghĩa Cộng Sản không đến từ phía nước ngoài mà chính ngay trong nước mình cố tình tạo ra một đảng phái theo công thức của thế giới để nắm quyền hành cai trị dân tộc. Từ 1954, với lịch sử họ luôn tự cho rằng, họ là người đánh đuổi Pháp dành độc lập cho tổ quốc.
- Nhưng tôi nghĩ, họ lợi dụng tinh thần kháng chiến của thế hệ thanh niên thời kỳ đó.
- Họ nói, những người trí thức đi theo họ, chứ không có sự lợi dụng.
- Có đúng chăng, Hà Nội gây hấn miền Nam vì Tổng Thống Ngô đình Diệm không chịu ký hiệp thương và thống nhất tuyển cử.
- Thực tế Hiệp định Genève chỉ nêu vấn đề ngưng chiến, không có sự chia cắt đất nước.
- Vậy sao dân miền Bắc di cư.
- Họ cũng như mình trong này, đều biết Cộng sản muốn thống trị đất nước, nên chính phủ ông Diệm từ chối thống nhất và khuyến khích người dân di cư vào miền Nam.
- Theo anh nghĩ, nếu hiệp thương thống nhất, miền Nam có thắng cử được không?
- Không đâu, mình thua.
- Người quốc gia ủng hộ ông Diệm.
- Hãy nhớ, Cộng Sản kiểm soát toàn bộ vùng nông thôn cả hai miền.
- Anh nói đúng. Khi ông Diệm về nước anh ở Sài Gòn, hay ở tĩnh.
- Tôi ở Sài Gòn.
- Anh nhớ được tháng ngày đó không?
- Có nhớ, nhưng chỉ thấy những cảnh tượng diễn ra thôi.
Hai người cảm thấy cháy nóng trong suy nghĩ mình về những ưu tư của xứ sở. Rồi đây, có được một dịp đi bên nhau như thế này, hay rồi đây, sẽ mỗi người tự mình thay đổi cuộc chiến.
Lặng lẽ, hai người trở về nhà và đi bằng lối cửa sau. Tôi căng chiếc ghế bố, trong khi Kim Tuấn vào nhà trong lấy chăm màn cho tôi.
Rồi căn nhà trở nên yên tĩnh. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn của mình như đang lớn trong ý tưởng về một ngày mai. Khi cho tay vào túi áo trên tìm gói thuốc, tay tôi đã chạm phải một phong thư, đó là thư của Thúy Hiền tôi nhận được vào lúc trưa nay. Khi đọc xong, tôi cất trên túi áo.
Anh Thụy thương mến,
Em gởi thư này báo cho anh biết tin vui của em, ngày mười hai tháng sáu tới đây em sẽ làm lễ cưới với Lân. Vâng, đây là người bạn trai, sinh viên cùng trường nhưng trên em một lớp. Hình như em cũng đã nói cho anh biết về người bạn này.
Sự lựa chọn của em cũng hòa hợp với ý muốn trong gia đình. Chắc anh cũng biết thầy Huynh dạy môn tiếng Pháp, năm đó anh và chị Thúy Hà có học với thầy, Lân chồng sắp cưới của em là con của thầy. Một chi tiết nữa cho anh biết, là em sẽ làm lễ cưới với Lân ở nhà thờ lớn của thành phố, về tương lai, em đã ra trường, sau hai tuần đi Đà Lạt hưởng tuần trăng mật, em và Lân sẽ về Sài Gòn. Ở đây, em sẽ làm việc cho Ngân hàng Tokyo, còn Lân, trở lại hãng cũ RMK.
Em rất mong anh Thụy về dự đám cưới của em, nhưng em cũng đoán biết, anh không thể rời đơn vị lúc này lúc tình hình cuộc chiến còn đang căng thẳng, cam go. Không về được, xin anh hãy mừng cho em. Em luôn nhớ nghĩ đến anh, và em vẫn giữ mãi một ý tưởng mà anh đã có nói với em lần gặp đầu tiên đó, em luôn là cô em gái có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của anh. Sự chân thật của anh là niềm tin nên không suy nghĩ lâu để xét đoán những điều anh nói, mà chính em, cũng nhận ra rằng, giữa em và anh có cùng nghe chung được một tiếng nói rung động lên từ nơi con tim và đôi mắt của hai chúng mình. Vậy anh đừng nghĩ, em lấy chồng rồi là quên hẳn đi một quá khứ, trong đó, có một chút tình yêu rất dễ thương và đằm thắm. Không, em không quên anh. Anh vẫn luôn ở trong tim em một bài hát, một dòng sông, hay đó là dĩ vãng nơi miền quê nào đó rất gần giống với quê anh.
Không cần thiết em phải nói gì về người bạn trai của em, nhưng một ngày ấy bên anh em kể ra câu chuyện, anh đã hình dung ra được một khuôn mặt đầy đủ các nét, đặc tính về người bạn của em.
Chị Thúy Hà vẫn ở Hội An. Chị nói với em, chị rất muốn quên anh vì mỗi lần nhớ anh, chị không thể nào chịu đựng nổi những thử thách của tình yêu. Chị thật muốn rằng anh cũng hãy quên chị, đừng chờ đợi, dù rằng, suốt đời anh yêu thương chị.
Và, anh cũng đã biết, chị không mấy vui với cuộc sống từ khi lấy chồng đến nay. Có thể đến một ngày không xa lắm, chị Thúy Hà và anh Duy sẽ chia tay. Anh Duy không thể tự thay đổi gì nơi mình được nữa. Rượu và con bạc, đã làm hỏng cuộc đời anh. Bây giờ đây, chị Thúy Hà chỉ sống với đứa con của chị và cho riêng mình chị thôi.
Trong lá thư gần nhất, anh cho em biết anh đã rời Quảng Tín đi đơn vị mới là Pleiku. Em không muốn hỏi cặn kẽ vì sao anh lại rời vùng đồng bằng lên miền núi, nơi mà cuộc chiến tranh có thể nói khốc liệt hơn các nơi khác. Hay là, anh muốn đến nơi đây để tìm một bối cảnh lạ cho cuốn tiểu thuyết dự tính của mình.
Những ngày qua, buổi chiều trời hay mưa. Trong cảnh mưa và gió, thành phố không có chi buồn nhưng mọi sinh hoạt đều chậm lại, từ tốn. Riêng em, những buổi chiều mưa làm em nhớ đến anh hơn hết. Và, bằng những lời tỏ tình muốn gởi tới anh, em mở máy cassette để nghe những bản nhạc mình thích. Chuyển bến, Đường về Việt Bắc, hai bài hát này em rất thích.
Qua bao đồi núi anh về đây
Nhớ em từng phút yêu từng giây
Anh Thụy của em và trong gia đình chúng ta nữa, vẫn luôn là một người lính sống thật hạnh phúc với bao nhiêu kỷ niệm, cùng với biết bao nhiêu bóng hình các thiếu nữ anh đã gặp trên đường đời.
Anh có thể tự ví mình như một con tàu, tới ga nào dừng lại, dù thời gian ở đó không lâu, nhưng mỗi nơi, luôn có trong anh một hình bóng cũ. Vậy nên chi, trong cuộc chiến tranh, tới mức nào anh cũng có sự bình tâm, và mỗi lần chuyển dịch công tác hay đi đơn vị, anh tự coi mình là lữ khách mang theo trong tâm tư những hình bóng của con tàu.
Chắc rằng, có những lúc anh nhớ nghĩ đến em bằng một nỗi buồn trong mưa, hay trong buổi chiều nhìn đám mây trôi và hình dung những cụm mây trắng kia hiện lên một bóng dáng thành phố. Và rồi sau đó, anh thấy bóng em khuất dạng. Có thể anh tin rằng em là người đem lại cho anh một chút niềm an ủi, và nụ cười thân thiết. Em rất biết, anh yêu chị Thúy Hà, nhưng không thể nào nhớ nghĩ lâu được về chị ấy. Một ngày nào đó, khi anh viết xong một cuốn tiểu thuyết, trong đó, chỉ nói về chị ấy thôi, thì lúc ấy bao nhiêu hệ lụy với sự phiền muộn trong lòng anh không còn nữa.
Ba mợ vẫn nhắc đến anh hàng ngày. Từ ngày anh xa gia đình em, những lá thư anh viết trong gia đình đều cất giữ. Trong gia đình, ba thương anh hơn cả, vì ba hiểu thấu mối tình của anh với chị Thúy Hà.
Em đang ở xa anh, không biết khi nào gặp lại.
Thúy Hiền