Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

VI

Xong buổi khám phòng, còn được nửa giờ nghỉ nhiều anh em đem công việc riêng ra làm. Tiếng trò chuyện cũng nghe râm ran, chỗ này chạy đến chỗ kia, bỗng chốc ồn ào lên với những tiếng cười hả hê, thoải mái. Rồi, cũng trở về yên lặng.
Tôi đang viết thư trong lúc rất nhớ Thúy Hà, và nàng diễn qua tâm trí tôi như một đoàn tàu hồi hương. Đến các nhà ga, hay một nơi nào đó, tôi cũng chỉ thấy sự xuất hiện một bóng dáng của nàng. Tình yêu, nàng và tôi luôn chỉ nằm trong tâm cảnh, và bạn tìm thấy ý nghĩa đó qua đôi mắt nàng, qua tiếng nói, rồi là nắng gió mênh mang trong thời tiết mỗi mùa.
Vừa lúc lá thư viết xong, hồi kẻng đánh lên báo giờ đi ngủ. Hôm nay, mới hết tuần lễ huấn nhục thứ nhì. Không một ai biết, thời gian thử thách qua giai đoạn này là bốn hay tám tuần. Có lẽ, chỉ bốn thôi, vì khóa học quân sự ba tháng, rồi trở về Sài Gòn vào trường Anh ngữ. Với tôi, không dám vụt bay cao, mà chỉ mong lên được từng bước. Những năm gian nan, lận đận trong thi cử tôi đã muốn quên, nhưng rồi nó lại vẫn cứ thôi thúc. Thực lòng, tôi rất ước mong lên Đại học, bốn năm trước có được tấm bằng Tú Tài I, tôi vẫn yên phận làm lính để có được thời gian rảnh học thi lấy bằng Tú Tài II. Khi giật được mảnh bằng này, không gian của tương lai mở rộng. Hoặc ghi danh vào Đại học, hoặc bằng hai lối thăng tiến, một xin đi học lớp Sĩ quan ngành kỹ thuật, hai là để cho tuổi trẻ trôi theo giấc mộng viễn phương của nhà văn Toàn Phong. Đời phi công thật là đẹp, lãng mạn khi mình được khoác áo hiệp sĩ không gian đứng bên cô Phượng. Và, nếu trong giấc mơ thành đạt, tôi sẽ tìm ra Phượng có thực ngoài đời.
Những lá thư quân trường tôi viết, đã gởi cho Thúy Hà, Lăng, Huê và chị Phượng Nga. Liên An đang ở Mỹ, mới ra đi cách đây vài tuần, những ngày đầu trên xứ lạ hẳn sẽ làm cho cô gái bỡ ngỡ, nhưng rồi cô cũng sẽ quen với không khí tự do và nếp sống ở xứ người. Với Liên An, cô em gái dành cho tôi một kỹ niệm như bài thơ, bài hát tôi yêu thích. Tôi luôn nhớ Huế, bóng dáng nhà ga, chuyến xe buýt ghé trạm ngừng, tôi và Liên An cùng xuống. Tôi vẫn nhớ buổi chiều trước khi ra đi sau thời gian hết nghỉ phép, tôi và Liên An đi bộ qua những chiếc cầu và nhìn xuống dòng sông. Tôi nhớ tiếng nói của Liên An rất là nhẹ như cơn gió mát, lúc này đây chắc nàng cũng đã gói kín Huế lại để thương yêu một mối tình.
Bỗng nhiên, trời đêm trở lạnh. Vừa kéo tấm chăn đắp lên người, tôi nghe tiếng mưa rớt hột. Trong đêm gió, mưa rơi xuống nhanh. Có nhiều người thức giấc lúc nghe mưa, rồi tiếng động những bước chân di chuyển, không lâu, căn phòng yên tĩnh trở lại, chỉ còn mưa bên ngoài. Mưa trở nên nặng hạt, mưa này có khi kéo dài đến sáng.
Bất thần, cuốn sách tôi để đầu giường rớt xuống sàn. Tiếng động làm anh bạn nằm giường bên giật mình thức giấc.
- Mưa hả.
- Ờ, trời đang mưa.
- Bạn không ngủ sao?
- Có, tôi mới chợt thức lúc trời mưa.
- Chưa qua đêm.
- Chưa.
Người bạn trở mình, nằm quay lưng ra phía cửa trước. Tôi vẫn thao thức, vì quá nhớ Thúy Hà. Sự ra đi của anh Bình ngày đó gây cho tôi một nỗi buồn, quyên luyến. Những ngày đầu vắng lặng, tôi rất nhớ đến anh.
Tôi nhớ những buổi tối có trăng ngồi đánh cờ, chuyện trò với anh, nhớ tới những cuốn sách truyện anh đưa cho mình đọc. Và, lại còn tình thân của anh với gia đình tôi nữa, mỗi lần chuyện trò tôi rất thích những chuyện anh kể về Hà Nội, về những tỉnh lỵ, những vùng quê miền Bắc.
Trưa hôm ấy, nằm nghe cơn mưa xuống thật nhẹ mát, tôi đọc lại cuốn truyện Bướm Trắng của nhà văn Nhất Linh. Cô Thu trong Bướm Trắng đã cho tôi hình dung một thiếu nữ đẹp, sắc nét, rất có thể rồi đây tôi sẽ gặp nàng qua hình ảnh một cô gái ngoài đời. Tối đọc xong trọn chương đầu, cảm thấy buồn ngủ rồi buông sách. Tôi ngủ ngon giấc và nằm mơ thấy Thúy Hà. Nàng và tôi ngồi trong lớp học ồn ào, đông bạn bè vây quanh. Các cô bạn mặc nhiều màu áo khác nhau, chỉ có Thúy Hà là một linh hồn áo trắng. Lớp học đang giờ nghỉ, học sinh nói chuyện, và hầu như ai cũng chú ý đến đôi tình nhân. Một lúc sau đó, Thúy Hà và tôi lên ngồi trên mặt bàn học cạnh bên nhau. Tà áo của nàng lấp qua một bên. Nàng đưa tay qua kéo tôi lại gần, rồi nàng hé môi. Tôi cúi xuống đặt môi hôn, vừa ôm nàng. Tôi cảm thấy cả môi tôi và nàng cùng thơm một thứ vị ngọt trái cây. Tôi ngửi được cả hương vị thơm gạo mùa nơi áo trắng nàng mặc. Hai người vẫn quấn quít trong cặp môi hôn, không rời nhau. Chiếc áo trắng Thúy Hà mặc trong lúc đó đã làm tỏa ngập ánh sáng khắp căn phòng.
Khi tôi thức giấc, trời tạnh mưa. Chiếc đồng hồ để trên bàn học chỉ 3 giờ chiều. Tôi ngồi dậy yên lặng, sau đó đi rửa mặt, rồi trở về phòng thay quần áo. Tôi mặc chiếc áo sơ mi màu nâu đậm, quần vải kaki vàng nhà binh. Tôi mở ngăn ví, thấy có ít tiền còn ở ngăn giữa.
Đường Trưng Nữ Vương bắt đầu từ Viện cổ Chàm chạy qua khu chợ Mới và lên thẳng đến vòng đai phi trường. Nhà dì Vân ở quãng giữa, cách một ngả ba đường đi ra phía biển chừng vài chục mét. Ở khu dưới này chỉ có một ít nhà xây, còn hầu hết là những xóm nhà lao động. Quán ăn, quán giải khát cũng mọc lên nhiều. Vào sáng thứ bảy, chủ nhật, con đường này đông khách ăn, vì các quán bán món ăn bình dân ngon và rẻ. Từ ngày ở Đà Nẵng, tôi đâm ra ghiền món mì Quảng. Món ăn này đặc biệt của người ở miền trong này, và khi bạn đến đây, ghé vào quán mì Quảng bạn sẽ thấy món ăn này thật hấp dẫn, no mắt và ngon miệng. Đó là những sợi mì dai và dày bỏ vào trong cái tô có rau, thịt kho ba chỉ, bánh tráng, đậu phụng. Khi bạn đói, có thể bạn ăn đến hai tô là thay thế cho bữa ăn trưa hoặc tối. Ở thành phố này những quán bán mì Quảng mở cửa từ sáng sớm đến chiều tối.
Buổi chiều vang lên giữa hư không tiếng còi tàu vọng từ bến Cảng. Tôi hình dung thấy một con tàu đang rời bến. Ngày mai, tôi ra Huế. Ngày mai, tôi về lại với gia đình. Còn lại buổi chiều nay cho tôi nhớ đến Thúy Hà. Trong giấc ngủ tôi mơ thấy nàng và giờ đã tan biến. Nhưng mà nàng vẫn còn đi từng bước chân qua trí tưởng khiến tôi, như nghe tiếng mình đang gọi một người ở xa.
Tôi đạp xe ngang qua khu công viên, đối diện với trường tôi học. Bên trong sân trường, có một số học sinh đang chơi bóng chuyền.
Gió thổi mát, bóng nắng in lên vai khi tôi dừng xe trước nhà Thúy Hà. Cửa hiệu luôn có khách ra vào mua các loại mỹ phẩm. Tôi nghĩ là nàng có ở nhà. Nếu như có Duy vào, rất có thể giờ này nàng ở nhà Duy trong căn phòng riêng của chàng. Duy và nàng đã gắn bó nhau cả tâm hồn và thể xác. Tôi có ý nghĩ, thân xác của hai người luôn đầy đủ, có lúc dư thừa. Và, họ sẽ nói gì với nhau ngoài chuyện thân xác. Trên gương mặt Thúy Hà, tôi luôn nhận ra, nàng có một đời sống riêng, một câu chuyện riêng mà Duy không thể biết. Tiếng nói của Thúy Hà khi dành cho tôi như biểu hiện điều đó.
Hai khách hàng rời cửa hiệu. Vừa lúc thấy tôi xuất hiện, ông Kha vui vẻ kêu lên. Tôi cũng lên tiếng chào hai ông bà.
- Cậu ngồi chơi. Tôi trở lại bây giờ.
Tôi đáp dạ, ngồi xuống chiếc ghế rộng cầm tờ báo đọc. Rồi ông Kha trở lên nhà, ông có vẻ thoải mái sau công việc vừa mới pha chế hàng mỹ phẩm xong.
Ông Kha đưa gói thuốc mời tôi một điếu. Tôi cầm lấy, mồi lửa từ cây diêm vừa bật cháy. Có tiếng nhạc từ trên căn gác vọng xuống. Tiếng hát Thái Thanh nghe rõ và trong.
Hoa xanh khi chưa nở
Tình xanh khi chưa lo sự
Em đâu, em đâu rồi
Anh đâu, anh đâu rồi

Tôi lắng nghe đến khi tiếng đàn đệm bản nhạc buông nhỏ dần, rồi tiếng hát ngưng. Sau ít giây còn xúc động, tôi định thần trở lại, vừa lúc ông Kha hỏi:
- Các trường có nghỉ lễ Phục Sinh không?
- Dạ có. Ngày mai cháu ra nhà.
Cửa hiệu chiếm hết một nửa phòng khách với nhiều tủ kính lớn nhỏ dựa lưng tường, ở ngoài mái hiên, một cái tủ lớn bày hàng và có bán cả thuốc lá.
Khi chị giúp việc đem lên hai cái ly lớn có nước đá, vừa nghe giọng mời, tôi đoán chừng chị là người ngoài quê mình.
Bà Uyên nói:
- Cậu đây là người ở Quãng trị.
- Chào cậu.
- Chào chị.
- Ở Quảng Trị, cậu ở ngay tỉnh.
- Dạ, ngay tỉnh.
Ông Kha rót bia vào hai ly.
- Tôi ở Trường Sanh, chị nói.
Trường Sanh gần Hải Lăng, quê nội của tôi.
Chị giúp việc tên Trà. Nói qua chuyện ít câu với tôi xong chị xuống nhà. Ở cửa hiệu, thường có hai người đến giúp việc vào ngày thường trong tuần. Công việc của họ là súc rửa chai, rồi cho hàng vào chai và dán nhãn.
Tôi cầm ly bia uống một ngụm đầy. Ông Kha nói:
- Các ông Tướng làm Cách Mạng bị quản thúc hết.
- Các ông bị đưa lên Đà Lạt.
- Tình hình vẫn chưa yên ổn.
- Bây giờ, ông Khánh được Mỹ ủng hộ. Ông ấy cũng là tay chân ông Diệm.
- Cậu có nghĩ là mấy ông Tướng trung lập không?
- Cháu không biết. Nhưng cháu nghĩ những vị Tướng bị quản thúc thân với người Pháp.
Nắng sáng lên ở ngoài. Lúc tôi rời khỏi nhà, trời còn âm u sau cơn mưa tự lúc trưa. Tôi nôn nao mong được gặp Thúy Hà. Bỗng tôi nhớ đến giấc mơ gặp nàng ở lớp học. Giấc mơ hẳn còn đây, đang dâng lên mùi thơm chiếc áo trắng nàng mặc.
- Uống đi cậu.
Tôi cầm ly bia ông Kha vừa rót thêm. Tôi nhìn lại gương mặt của ông. Mỗi lần nhìn ông, tôi như cố gợi nhớ trong đầu một con người tôi đã gặp ngày nào đó. Và, tôi luôn có cảm giác, lướt qua hình ảnh ông là một chuyến xe lửa trở về dừng lại bên tháp nước nhà ga. Dòng nước rất mạnh tràn chảy trên máng xối. Khói đầu máy tàu, buổi chiều xôn xao những tiếng động quanh vùng núi, rồi một lúc sau, con tàu rời ga xép ra đi.
- Uống bia tốt lắm cậu. Đỡ khát nước.
Lòng tôi vui hẳn lên cùng với men rượu và nụ cười chợt sáng khi ngước mắt trông về phía cầu thang thấy bóng Thúy Hà đi xuống. Tiếng bước chân nàng nghe thật rung động, nôn nao, và tôi đang nghĩ đến những lời mình mong tìm ra để thành một câu chuyện nói với nàng, và được ở lâu bên nàng.
Thúy Hà đi xuống nhà dưới, rồi một lúc sau trở lên gặp tôi.
- Ba cho con một ly.
Ông Kha khui chai bia lớn, rót vào cái ly nhỏ cho nàng uống.
- Anh có ra thăm nhà không?
- Có. Ngày mai anh đi.
Hai người đưa mắt nhìn nhau. Gần bên nhau, Thúy Hà luôn cho tôi thấy vẻ đẹp của nàng. Nàng không chỉ đẹp với những tà áo dài tôi thường gặp nàng ở lớp học. Nàng đẹp giản dị và quyến rũ cả trong bộ áo quần nhẹ mặc ở nhà. Nàng mặc quần áo nhẹ như gió mát và hương gió ấy chập chờn làm rung động những cây lá trong vườn. Hai cánh tay nàng để trần, vòng cổ thon thả và trên khuôn ngực, ánh sáng của làn da đầy lên một lớp sữa trắng đọng, đây hẳn là một phần của bức tượng nghệ thuật mà chất liệu sáng tạo là sự pha trộn các thứ trái cây.
- Em đang dọn lại căn gác.
- Xong chưa?
- Em nhờ anh đưa chiếc kệ lên căn gác, được không?
Không giấu được xúc động, tôi nhìn người bạn gái. Nàng hiểu, mỉm cười.
Ông Kha đứng lên nói:
- Tôi trở lại làm việc. Hết giờ nghỉ.
Ông nói với tôi một câu tiếng Pháp. Còn lại tôi và Thúy Hà bên nhau:
- Hai tuần nghỉ, em có tính đi chơi đâu không?
- Không.
Khi thấy tôi nhìn nàng lâu, nàng ra vẻ nghiêm trên cặp mắt. Rồi nàng bảo:
- Lên gác đi.
Tôi theo Thúy Hà xuống nhà dưới. Chiếc kệ chùi rửa xong được đặt cạnh bể nước. Tôi nhấc thử chiếc kệ, nói:
- Anh đem lên một mình được.
Tôi nhấc chiếc kệ để lên vai. Vào lối cầu thang, Thúy Hà nhường tôi đi trước, một tay nàng đỡ phía sau. Từng bước chậm, chắc chắn. Khi lên khỏi cầu thang hẹp, tôi thực sự cảm thấy sức nặng nhưng cố gắng đặt xuống nhẹ nhàng, lòng tôi cứ mãi vui vì được ở bên Thúy Hà.
Tôi nhìn qua lối cửa, hỏi:
- Em muốn đặt ở đâu?
Thúy Hà bên tôi, má ửng hồng làm tôi đắm say nhưng cố che giấu sự ngượng nghịu.
- Anh muốn đặt ở đâu?
- Bên cửa sổ.
- Em theo ý anh.
Tôi và Thúy Hà mỗi người một đầu nhấc chiếc kệ di chuyển đến chỗ đặt dựa vách tường sát cửa sổ.
Hai người yêu nhau qua ánh mắt. Tiếp đó, khung cảnh và những đồ đạc trên căn gác hiện ra. Chiếc giường ngủ, chăn màn, tủ đựng quần áo, bàn học, sách vở và báo chí. Chiếc radio nhỏ hiệu Nationale với cần ăng ten đã kéo lên.
- Em để lại anh một mình.
Thúy Hà cười, xong bỏ đi. Tôi gật đầu với vẻ mặt lo âu. Nàng đã rời căn gác đi xuống cầu thang. Tôi bâng khuâng nhìn theo bóng nàng, lòng tiếc nuối, và ước mong chỉ được ở bên nàng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Thúy Hà không ở bên mình nữa. Tôi nói thầm, giờ bạn biết mình làm gì. Căn gác bỗng dưng trông vắng, lạnh lùng. Bất chợt, tôi để ý đưa mắt nhìn những chiếc áo dài của Thúy Hà được để vào móc áo, treo thành hàng trên một sợi dây kẽm bên lưng tường. Ánh sáng từ ngoài chiếu lên, cái vẻ sáng mở ra màu sắc những chiếc áo dài vừa dửng dưng, buồn lặng. Tôi biết mình không thể nói, đôi mắt tôi lặng nhìn từng chiếc áo của nàng với cảm giác đang trông theo bóng dáng nàng đi qua một con đường trên các dãy phố. Trong phút này, tình yêu thương người bạn gái của tôi thật đằm thắm, lặng yên nghe lời nói an ủi, mỗi chiếc áo là một hình bóng, một quãng đời đã in dấu lên trên đó bao nhiêu kỷ niệm thân thương của nàng. Đến cả tiếng nói nữa, mỗi chiếc áo đã gói lại nỗi buồn, và tiếng nàng nói nghe như một lời gọi bâng quơ rất xa, rất nhớ của một người mẹ trong tình mẫu tử. Nàng rất đẹp, quyến rũ biết bao nhiêu mỗi khi nàng lấy một chiếc áo dài để mặc.
Bỗng tôi nghe tiếng nàng thốt lên:
- Anh cất giữ của em, phải không?
Thúy Hà lên gác, đứng ở cửa lúc nào tôi không hay. Trên tay nàng cầm hai ly nước đá chanh.
Tôi đang tìm một câu hay để nói. Thúy Hà đến gần đưa một ly nước cho tôi. Hai người kéo ghế ngồi xuống bàn học. Khi chiếc muỗng khuấy nhẹ trong ly nước ngừng tiếng động, tôi nói:
- Anh có được những chiếc áo dài của em. Có được trong đó nữa, biết bao nhiêu là hình ảnh của em.
Thúy Hà nhìn sang phía những chiếc áo đang treo ở sợi dây kẽm. Nàng bỗng hỏi tôi:
- Anh thương em, bạn anh có biết không?
- Bạn bè anh và em, ai cũng biết.
- Anh thấy màu áo có sặc sở lắm không?
- Không, màu nào cũng phác vẽ cho em một nét đẹp riêng.
- Em biết, những gì của em anh cũng đều thấy đẹp.
- Không lúc nào hình ảnh của em vắng trong anh cả. Em vắng đi, anh cứ đợi chờ.
Hai người uống nước, cảm thấy đỡ khát. Thúy Hà làm nước chanh thật ngon. Rồi một lúc sau, tôi đứng lên bắt đầu công việc.
Thúy Hà chuyển sách cho tôi sắp.
- Ở Huế, nhà anh ở đâu?
- Ở gần chùa Từ Đàm. Hồi ở Quảng Trị, em có hay đi Huế không?
- Có, một đôi lần. Em đi với ba bằng xe lửa.
Tôi cầm cuốn sách truyện Thúy Hà mới đưa lật coi nội dung vài trang rồi gấp lại. Tôi bỗng nói với người bạn:
- Nhà anh ở Quảng Trị đối diện với tháp nước. Những năm sống ở đó, anh luôn nhớ rõ những chuyến tàu khi về đến ga. Thời kỳ đó, mẹ anh có mở một quán hàng cơm ngày nào cũng đông khách.
- Anh có phụ giúp cho mẹ anh không?
- Có, bưng cơm nước phục vụ cho khách ăn. Công việc này, mẹ anh có cho anh tiền ăn quà.
- Anh giỏi lắm.
- Cám ơn em.
- Thúy Hà ạ.
- Gì anh?
- Anh nhớ thời xưa đó anh gặp một cô bé có cặp mắt giống em.
- Có em, anh lại tưởng tượng thêm nhiều hình bóng khác nữa.
- Có em, một hình ảnh thôi, chưa đủ.
- Anh ra Huế bao nhiêu ngày?
- Hết kỳ lễ Phục Sinh.
- Anh có đi Quảng trị không?
- Có. Anh muốn về thăm lại thành phố nhỏ đó.
- Anh nhớ thăm cả thành phố cho em.
- Anh nhớ đến em khi về lại ngoài đó.
- Nhưng mà…
- Sao em?
- Thôi, chẳng có gì cả.
- Em thích thứ quà gì ở Huế.
- Hay quá. Lúc vào, anh nhớ mua cho em mè xửng.
- Anh mua thêm bánh đậu xanh nữa. Em thích không?
- Rất thích.
Công việc đang làm như thể là cái cớ để cho tôi và Thúy Hà chuyện trò, gần gũi nhau, và có được chút cơ duyên vừa buộc ràng tình bạn, vừa thắt tình yêu thêm một gút. Bên ngoài, mây trời và quang cảnh phố trôi đi trong bình yên. Khi câu chuyện ngừng hẳn, tự dưng tôi có cảm giác lâng lâng, lạ thường. Những cuốn sách sắp thành hàng ngay ngắn, đẹp mắt, tôi hài lòng và cô bạn cũng cảm thấy vậy. Tiếng nói Thúy Hà hay lạ, rồi trong tiếng nàng xưng em dịu ngọt, tôi cố gắng ngăn chận cảm xúc ôm hôn nàng. Sau đó, tôi nghe âm thanh của hư vô và trong im vắng, tôi có cảm giác mình trải rộng cánh tay để đón lấy những tiếng nói của người yêu, nhẹ nhàng như trên vòm cây cao, lá đang rơi từ từ từng chiếc một.
Bỗng Thúy Hà cất tiếng:
- Đây này, cho anh Thụy xem.
Tôi vừa quay đầu lại, Thúy Hà đưa cho tôi cuốn album. Tôi vội ngừng công việc đứng lên đi tới chỗ bàn học kéo chiếc ghế ngồi xuống. Thúy Hà ngồi bên tôi gần hơn. Tôi cầm ly uống hớp nước, cố lấy sự tự nhiên.
Hai người cùng yên lặng. Tôi hơi run rẩy trên đầu hai ngón tay. Sau đó, sự rung động như muốn tôi bày tỏ bằng lời nói. Cuốn album lớn bằng khổ một cuốn sách. Tôi mở ra trang đầu, hạnh phúc thật mát lạnh, ùa ngập, tràn đầy lên cả mặt tôi. Rồi nhẹ nhàng, hương vị ấy tan dần. Những bức ảnh đen trắng, lớn có, nhỏ có, được dán thành hàng ngay ngắn, và mỗi tâm cho tôi đoán được tuổi của Thúy Hà trên gương mặt. Mỗi cái nhìn từ ánh mắt tôi tỏa xuống trên bức ảnh người bạn, đó là tình yêu mà tôi biết nàng rất hiểu. Không để yên lặng lâu, tôi hỏi chuyện để được nghe tiếng nói của Thúy Hà. Có một bức ảnh chân dung rất lạ tạo nên gương mặt Thúy Hà thành một bức tranh sống động, gần gũi, đam mê. Giọng nói nhỏ, mắt tôi nhìn qua người yêu.
Thúy Hà nói:
- Em chụp tấm hình này ở Quảng Trị.
- Anh cảm động nhớ em ngày trước ở đó.
Tôi vẽ lại thành phố cũ, căn nhà xưa, qua sự mường tưởng những âm thanh trong giọng nói của Thúy Hà, và tôi cố gắng tìm đúng trong lòng mình giọng nói trung thực để gửi hết một quê hương của tôi tới cho nàng.
Tôi lật xem những tấm ảnh khác, Thúy Hà đang ngồi bên tôi. Tôi có được Thúy Hà cả hình ảnh và con người. Từng phút giây thời gian cứ lũy thừa gấp nhiều lần cho tôi cảm tưởng rằng, hạnh phúc trong kỷ niệm, về sau sẽ được ghi nhớ và phải cất giữ.
Cuốn album xem xong dược gấp lại để trên bàn. Trở sang chuyện khác, hai người cùng nói về học hành, thi cử. Thúy Hà, nàng cho tôi hay nàng muốn theo ngành Dược khi lên Đại Học. Hình dung Thúy Hà với bao nhiêu nét trẻ đẹp, tươi vui, qua chiếc áo blouse trắng, thời gian sẽ trở thành vùng ánh sáng, ôi, hạnh phúc cho bất cứ ai được lấy nàng làm vợ.
Tôi nhận ra rằng, tôi chỉ là người bạn của nàng. Người bạn của nàng trong thời thơ ấu, và những kỷ niệm khi tìm kiếm, tôi luôn cố nhớ ra từng âm sắc trong tiếng nói của nàng.
Thúy Hà bật đèn sáng. Những hàng sách sắp trên kệ trông ngăn nắp, sạch sẽ, sáng sủa.
- Ngày mai anh ra Huế.
- Ngày mai anh về với ba mẹ và các em của anh.
- Anh có đi Quảng Trị không?
- Có.
Tôi nghe sự lập lại của bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lời nói và ghi nhận thêm một thoáng ý nghĩ trong đôi mắt Thúy Hà. Thành phố quê hương tôi, Thúy Hà đã ở đó, đã qua một thời thiếu nữ với những lớp học, bạn bè, những con đường đi học thân quen.
Khi thấy Thúy Hà mở cuốn album ra xem, tôi viết trong trí nhớ mình một dòng chữ. Đó là những dòng lưu luyến của tôi khi yêu nàng, và luôn nhớ đến nàng qua những chiếc áo dài nàng mặc.
- Em tặng anh.
Tôi nhận tấm ảnh của Thúy Hà. Dưới nhà, có tiếng ông Kha nói với người vợ.
- Anh sẽ đi giao hàng ba nơi.
- Có kịp không?
- Kịp chứ. Chừng một giờ thôi, anh về.
- Em đợi cơm.
- Nói với cậu Thụy ở lại ăn cơm.
- Vâng. Cậu đang ở trên gác.
Tôi cất tấm ảnh của Thúy Hà vào cuốn sách học nàng cho tôi giữ. Nụ cười Thúy Hà làm cho tôi nghe mình có một nỗi vui của giờ ra chơi. Tôi thật muốn nấn ná ở lại trên căn gác này, bên nàng.
- Em có bài học nào cần anh giúp không?
- Có.
Thúy Hà rút ra một tờ giấy lớn. Khi tôi cầm bút, nàng nói:
- Cho anh đi trước.
Tôi đánh dấu nhân lên ô giấy. Khi chơi, tôi và nàng nghĩ đến nhau trên mỗi quân cờ. Tôi cũng còn mường tượng những tờ giấy mà hai người thường chơi cờ ca rô ở lớp, Thúy Hà vẫn giữ làm kỷ niệm.
Ông Kha vừa rời nhà. Tôi nghe tiếng xe đạp lăn bánh ra ngoài thềm hiên.
- Anh đi tiếp.
Tôi lơ đãng đánh một dấu nhân gần hàng ba.
- Anh lơ đãng rồi.
Tôi nhìn lại Thúy Hà. Nàng cũng nhìn lại tôi và cuộc chơi như thể muốn ngừng.
- Anh chỉ muốn có em bên anh.
Tôi viết lên mặt giấy điều muốn nói.
- Em đang ở bên anh.
- Anh…
Tôi chỉ viết được một chữ, tay run lên. Thúy Hà cười, nàng bảo:
- Anh đánh tiếp đi.
Ván cờ chơi dở, lại tiếp tục. Trong lúc Thúy Hà cúi xuống với mái tóc, tôi đặt bàn tay anh lên tay nàng. Nàng để yên.
Cuộc chơi ngừng. Tôi đứng lên dịch chiếc ghế lại gần Thúy Hà. Ngồi bên nàng, tôi mở rộng vòng tay ôm lấy thân nàng. Nàng không có gì nôn nao, bối rối. Trong phút giây lặng yên, Thúy Hà vẫn để bàn tay nàng trong tay tôi. Rồi, từng ngón tay đan nhau, cho đến lúc cả hai cùng đứng lên, và ngay lúc đó Thúy Hà khép kín đôi mắt lại. Tôi ghé môi, cúi xuống hôn quanh vòng cổ nàng. Một chút sau, trên cặp môi nàng vừa hé mở, tôi nuốt thật chậm, thật sâu, hương vị ngọt của trái cây ứ đầy ướt ngập cả miệng tôi. Và, từ phút này, tôi và Thúy Hà chỉ muốn có được suốt đời một cuộc sống riêng chỉ hai người.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

VII

Bên ngoài phạn xá, sáng nay bỗng nhiên thấy xuất hiện bốn cái thùng phi đặt cách đều khoảng dọc theo bờ tường, và lúc này, một anh lính cơ hữu đang cho bơm đầy nước. Nước lấy từ cái vòi lớn, sức chảy rất mạnh qua một ống dây nhựa màu xanh dài đến hai chục mét.
Tối hôm qua, giờ khám phòng rất nghiêm nhặt, gắt gao. Không một anh nào được thoải mái, đứng im nhìn các bạn mình thi hành lệnh phạt. Giờ khám phòng, khốn khổ nhất là màn móc giò lên tủ. Bên binh chủng dù, người lính tập nhảy từ chuồng cu, sau đó, mới thực hành trên phi cơ. Bên đây không quân, bạn lái máy bay tác chiến lúc lao vào phòng tuyến của địch tác xạ bằng súng máy hay dội bom, phi cơ từ độ cao phải cắm chúc xuống, thì đây là một màn diễn tập để sau này bạn quen khi lâm chiến. Đó, là một lý luận rất hữu lý của các bậc niên trưởng.
Khu trại của đoàn SVSQ có hai dãy nhà xây hình chữ L, dãy lớn nhất dành cho khóa 69B, gồm 218 tân khóa sinh, còn một dãy đối diện với sân cát và phạn xá là dãy đặc biệt của các bậc niên trưởng. Trong số bốn mươi niên trưởng, có một vị thuộc khóa 65 D, nay mang cấp Đại tá SVSQ. Những vị khác là sinh viên từ các khóa 67 C đến 68 B. Ở Nha Trang, các ngành chuyên môn và kỹ thuật, thời gian học có kỳ hạn hẳn hoi, còn ngành phi hành không thể xác định rõ được. Từ tân khóa sinh, học căn bản quân sự ba tháng, rồi đến học Anh ngữ phải đạt tiêu chuẩn từ 70 đến 80 điểm ECL, kế đó, là kiểm tra an ninh và sức khỏe. Hãy cứ để cho bạn dễ dàng rời Việt Nam đi du học, qua bên đó, trước tiên bạn phải vào trường Anh ngữ Lackland thi trắc nghiệm Anh ngữ, không đậu, bạn phải học lại cứ bốn tuần là thi lấy điểm, được phép ba lần thi, nếu mà rớt thì bạn phải khăn gói lên đường về VN, ở đây, Bộ Tư Lệnh làm giấy quyết định đưa bạn qua trường Thủ Đức học lớp Trung đội trưởng để ra đơn vị Bộ Binh. Mới nửa đường, bạn đã thấy nhiêu khê, rồi nếu có đi tiếp, nửa phần đường còn lại là học bay. Đây chính là phần đẹp nhất của cuộc đời bay bổng, nhưng rất gian nan, và có thể nói sinh mạng của bạn nằm trong phần bay quan trọng này. Những sinh viên phi công được chuyển qua trường bay, vừa học lý thuyết về khí tượng, về phi cơ, vừa thực hành bay với huấn luyện viên qua những động tác thao diễn lúc phi cơ khi cất cánh, lúc đang bay, rồi lúc đáp. Một khoảng thời gian học lúc ban đầu là 16 giờ, bạn phải được huấn luyện viên thả bay một mình. Nếu trong những giờ học bổ sung, huấn luyện viên vẫn không thể thả cho bạn bay một mình được, coi như bạn bị đánh rớt, hay từ giã giấc mộng bốn phương trời. Còn như, bạn pass qua phần bay đơn phi quan trọng này, bạn sẽ cảm thấy hãnh diện với chiếc nón, với nửa cánh bay trên ngực áo. Từ đó, các phần tiếp theo bạn sẽ học là về kỹ thuật như bay phi cụ, bay đêm, bay không hành, mỗi phần có cái khó của nó nhưng chắc chắn bạn sẽ vượt qua cho đến ngày thi mãn khóa, tốt nghiệp,
Tôi hiểu khá rõ về những điều kể trên, trong đó, tôi vốn có kinh nghiệm mấy năm làm việc ở ban hiệu thính viên ngành điều không. Trong phân ban này ở Trung tâm Không trợ, các Sĩ quan rất ít người là chính hiệu phi công, hầu hết đều ra trường từ những khóa quan sát viên, sau đó, thành sĩ quan không trợ. Về phần mình, trầy trật mấy năm qua không lấy nổi mảnh bằng Tú Tài đôi nên tôi đâm ra nản chí, nhân cơ hội sau biến cố Mậu Thân, cùng với lệnh tổng động viên và nhu cầu của binh chủng Không quân cần tuyển mộ thêm phi công trực thăng và khu trục, tôi nạp đơn, hy vọng đây là một cuộc đổi đời. Cho đến lúc này, tôi có nuôi chút hy vọng đến một ngày sẽ trở thành hoa tiêu, nhưng tôi vẫn chưa dám tự tin, vì đây là một ngành học rất khó, không chỉ đủ sức khỏe mà còn khả năng về cả lý thuyết và thực hành với những dụng cụ trên phi cơ.
Vừa mới nghe dứt xong hồi kẻng, bỗng tiếng la hét của mấy ông niên trưởng ra lệnh tập trung ầm ầm, dội xuống như trời sập. Từ nhà ăn, đám tân khóa sinh vụt chạy gấp về phòng, chuẩn bị ba lô và sac marin. Không ai biết có chuyện gì, vì trái ngày thường, hôm nay thứ sáu, vẫn còn là ngày học quân sự.
- Các anh nhanh lên coi.
Những tiếng bước chân rầm rập chạy ra các lối cầu thang ùa xuống sân tập họp.
- Điểm danh, đếm số.
- Một, hai, ba, bốn…
Tôi vẫn luôn chọn đứng xếp hàng phía sau. Hôm nay, không có người khai bệnh. Người cuối cùng đếm dứt, lập tức, đại diện khóa Lê văn Dui đằng sau quay đúng thế, đứng nghiêm chào kính, xong báo cáo quân số tập họp.
SV Không đoàn trưởng lớn tiếng ra lệnh:
- Thao diễn nghỉ.
Trong hàng đứng im, bất động.
- Các anh có biết chuẩn bị đi đâu không?
- Không.
Với một nụ cười mỉa mai, ngạo mạn, anh ta nói:
- Các anh ra phi cơ về Bộ Tư Lệnh nhận quyết định qua trường Thủ Đức.
Trong hàng, đám tân khóa sinh vẫn tỉnh bơ.
- Rõ không?
- Rõ.
Hai vị niên trưởng đứng sát hàng quân, một vị lật cổ tay nhìn đồng hồ. Bỗng nhiên, ông kia hỏi:
- Đã liên lạc với trạm tiếp liên chưa?
- Rồi. Mười giờ ra phi cơ.
Với một vẻ mặt nghiêm, ông ta lớn tiếng;
- Các anh còn một giờ nữa ra phi cơ bay về Sài Gòn.
- Rõ chưa các ông?
- Rõ.
Giáp đứng ở giữa. Một chút sau, chàng đi qua lại trước hàng quân rồi bỗng cất cao giọng.
- Đã qua tám tuần lễ huấn nhục, nhưng khóa các anh không có một tiến bộ nào cả. Phòng ốc bê bối, nếp sống bừa bộn, giày mũ không khi nào đánh bóng, vậy các anh không thể nào xứng danh là sinh viên Không quân.
Bất thần, một niên trưởng hạ lệnh:
- Tan hàng, ra sân cát tập trung từng phi đội.
- Nhanh lên.
- Qua 8 tuần rồi. Các anh còn chậm chạp như vịt đẹt.
Nắng buổi sáng đã bắt đầu lên, cao dần và tỏa rộng. Không khí căng thẳng đến nghẹt thở.
- Sac marin lên vai, chạy hai vòng sân.
- Thi hành ngay.
Sân cát bằng phẳng êm như mặt biển. Hai vòng sân, mỗi vòng hơn trăm mét, đây chỉ mới là khúc dạo đầu, hôm nay, chắc cũng là ngày đặc biệt như buổi đầu tiên chào quân trường.
Rất đông các niên trưởng mặc quần áo vàng, nón cát két, cầu vai đeo alpha, và từ khi bắt tân khóa sinh thi hành lệnh phạt, tiếng la hét không một ai ngừng. Ông này nói chưa hết lời, ông khác đã chen vào, lúc hầm hà nạt nộ, lúc khiêu khích để chờ các tân khóa sinh nổi máu mặt phản ứng.
Hai vòng sân chạy rất đều bước, đều nhịp. Những tuần lễ qua đã quen chịu đựng, nên anh nào trông cũng khỏe, hít đất, nhảy xổm, từ 50 đến 100 đều đạt tiêu chuẩn, nhưng càng đủ, cán bộ càng gia tăng thêm.
- Tất cả, bò hai vòng dã chiến.
Lệnh ra, thi hành ngay. Mới buổi sáng, mặt sân cát còn dịu, và trước lúc bò, người nào cũng kéo hai tay áo xuống.
Hình phạt bò dã chiến cũng như thi bơi. Nhưng lúc này, hàng ngũ trở nên rời rạc, người về trước, kẻ đến sau không đồng nhất.
Sau mỗi hình phạt, tân khóa sinh được một phút nghỉ để chỉnh trang quân phục và báo cáo. Rồi như cái máy, anh nào xong nhận tiếp những hình phạt khác không ai có thì giờ khiếu nại. Anh nào được các niên trưởng chỉ cho nhảy xổm, hít đất, anh đó còn được chút thời gian câu giờ, chứ còn chạy và bò, lê lết, một chặp thôi là bắt đầu thở dốc.
- Có người đang xỉu cán bộ.
- Ai?
- Phía đằng này.
- Nhanh lên, khuân tới chỗ phi nước.
Thì ra, lúc sáng anh lính cơ hữu đã làm một công việc rất là có tác dụng. Và, đến lúc này, trời gần trưa, không một tân khóa sinh nào không lừ đừ, ngất ngư, và lúc được dội vài nón nhựa nước là cảm thấy khỏe người. Có anh há mồm ra uống vài ngụm nước cho đỡ khát. Và, đám các vị niên trưởng cũng bắt đầu mệt theo, hét quá nghe khan tiếng cả rồi. Nhưng, các hình phạt không gia giảm, cứ đều đều, tiếp tục. Những trận dã chiến dồn dập không khác gì cả một đồn binh bị pháo kích. Nắng trưa dần lên cao, gay gắt, sân cát nóng bỏng, nhưng không ai hay biết gì về giờ giấc cả. Trên sân cát như là bãi chiến trường với cảnh người xỉu, ba lô, nón sắt, túi sac marin vương vãi. Lưng áo mấy anh tân khóa sinh đã ướt dầm, đến các xếp niên trưởng, áo kaki vàng cũng thấm nắng, thấm mồ hôi. Thình lình, đang nằm lim dim vì mệt xỉu, anh em vùng dậy nghe:
- 30 giây, tập trung toàn khóa.
- Nhanh lên, các anh còn tà tà hả.
Trở lại sân tập họp, ai cũng mừng. Khi hàng quân đã ngay ngắn, đại diện khóa lại cất tiếng hô nghiêm nghỉ, chờ lệnh mới. Lúc này, anh em được một ít phút để thở phào, nhẹ nhõm.
- Có ai chống đối không?
- Không.
- Đã có sẵn một đoàn xe đưa các anh ra Dục Mỹ huấn luyện sình lầy.
- Trong các anh, giờ có ai muốn chống đối không đi.
- Sao, các anh im lặng, không trả lời?
Bỗng nhiên, đám tân khóa sinh hết sức ngạc nhiên, chợt thấy vẻ mặt mấy ông niên trưởng tươi rói, nụ cười rạng rỡ, trông mặt ông nào cũng sáng lên.
Một ông, hai ông, rồi đến ba bốn ông niên trưởng cùng lên tiếng hỏi:
- Sao, các anh thấy đã chưa?
- Đã thấm người chưa?
- Rồi.
- Hãy nghe: Hôm nay là một ngày tưng bừng để các bạn nhớ mãi cuộc đời hoa mộng được làm SVSQ. Vậy, cơm nước xong, tất cả tân khóa sinh 69 B phải sạch sẽ từ trong ra ngoài để tối nay, dự lễ gắn alpha.
- Nghe rõ chưa các ông.
Vừa được lệnh tan hàng, anh em vội bay về phòng để cất ba lô và sac marin. Sau đó, tự động đi xuống phạn xá, vì đã có kẻng báo giờ ăn.
Ai cũng mệt, nhưng trong lòng người nào cũng thấy vui.
Trong bữa ăn, tôi uống nhiều nước. Lúc này các niên trưởng chuyện trò rất thân tình với tân khóa sinh như hôm đầu mới tiếp đón. Và, kỷ niệm về lễ gắn alpha, mỗi khóa mỗi khác, nhưng không khí rất là cảm động. Niên trưởng Tiến nói về đêm alpha của khóa mình, không khí bên ngoài và bên trong bặt im thật là sợ hãi lo lắng. Trong phòng, trên mỗi chiếc tủ cá nhân có gắn nến, tân khóa sinh mang lễ phục, đeo găng tay, quỳ gối, và một tay giữ nón cát két. Từ ngoài cửa, nghe vọng vào tiếng gót giày đinh, rồi, các vị niên trưởng tiến bước vào, đến mỗi giường dừng lại, lấy cặp alpha của mỗi tân khóa sinh gắn lên cầu vai. Lúc ấy, bạn biết nỗi lo lớn nhất là sợ đèn nến bị tắt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Tôi lắng nghe từ đầu lời kể chuyện, đến chỗ đó, tôi cũng thấy rùng mình toát mồ hôi.
Rồi một niên trưởng khác, tiếp lời:
- Khóa này, các anh nhẹ lắm đó. Những khóa chúng tôi, từ Liên đoàn trưởng đến Đoàn trưởng toàn là Sĩ quan Đà Lạt, ngày nào bọn chúng tôi cũng ngất ngư con tàu, có bữa ăn không nổi cơm, chỉ uống nước trà và nghỉ thở.
Tôi hỏi:
- Đại úy Hoàn mới đến, phải không niên trưởng.
Ông mới đến, các anh là khóa đầu tiên của ông. Trước ngày đón tiếp các anh, một buổi họp chung của Đoàn ông chỉ thị cho chúng tôi không được dùng hình phạt với tân khóa sinh quá nặng, có tính cách nhục hình như bên trường Đà Lạt, hay các trường Bộ Binh khác. Ông nói, chỉ áp dụng hình phạt nào giúp các anh tập chịu đựng và tăng cường sức khỏe để học bay. Rồi không khí trong nhà ăn bắt đầu ồn vui. Người nào ăn xong, muốn ngồi nán trò chuyện hay về phòng nghỉ, hoàn toàn tự do.
Khi về lại phòng, hôm nay, có một cảnh lạ mắt hơn ngày thường là quần áo, mũ, dây biểu chương, cà vạt được để sẵn trên tấm nệm trắng mỗi giường. Đôi giày dự lễ cũng được đánh bóng, tất cả rất đồng nhất.
Người nào cũng lo phần việc của mình, chăm chút cẩn thận vào bộ lễ phục, đến giày mũ, cà vạt, và còn soi gương lại khuôn mặt trẻ trung của mình.
Chừng một giờ sau, các niên trưởng xuất hiện và đem thư đến mỗi phòng phát cho tân khóa sinh. Tôi nghe có tên, lòng vui như thể nhận được quà.
Sáu giờ chiều, 218 tân khóa sinh mặc lễ phục đeo dây biểu chương hướng về Hội quán sinh viên, đây là địa điểm hành lễ. Không khí rất trang nghiêm trước sự hiện diện của hai vị chủ tọa là Thiếu tá Liên đoàn trưởng và Đại úy Đoàn trưởng.
Một SVSQ đại diện cấp Không đoàn được chỉ định làm chỉ huy buổi lễ.
Sau các nghi thức rước quốc và quân kỳ, phút mặc niệm chiến sĩ trận vong, phần chính thức bắt đầu:
- Quỳ xuống các tân khóa sinh.
Tất cả 218 khóa sinh cùng quỳ xuống. Anh khóa sinh đại điện, một mình ở vị trí hàng đầu, nón két bi dây viền trắng được đặt xuống ở phía gối bên trái. Rồi, SVSQ chỉ huy lên tiếng mời hai vị Chủ tọa xuống điểm hành lễ gắn cặp alpha danh dự cho tân khóa sinh trưởng khóa.
Hai người cùng xuống, cặp alpha danh dự, được mỗi người lấy một chiếc gắn lên cầu vai. Hai vị này gắn xong, lần lượt đến các SVSQ niên trưởng gắn cho cả toàn khóa. Rồi, những cánh tay, những lời tuyên thệ dõng dạc, hùng hồn cất vang lớn hội trường.
Tiếng người chỉ huy buổi lễ hô lớn:
- Đứng dậy, các SVSQ.
Toàn khóa cùng đứng dậy, nón két bi đội lên đầu.
Vị Đoàn trưởng đứng trước hàng quân của khóa hô lệnh nghiêm nghỉ, sau đó, quay người, đứng nghiêm chào kính trình diện khóa SVSQ 69 B trước vị Liên đoàn trưởng. Vị Thiếu Tá đáp lời chấp nhận, rồi đứng trước micro, ông ứng khẩu tự nhiên, nói với tất cả tân SVSQ những lời tâm tình, mà lúc này, ông cũng đã gợi lại những tháng năm xây dựng nên binh chủng Không quân, thành lập quân trường, và những hình ảnh của các phi công trong thời trẻ được qua Pháp học rồi về đất nước phục vụ ở các phi đoàn từ cấp Sĩ quan nhỏ Thiếu úy, đến ngày hôm nay đã trở thành những cấp chỉ huy ở các đơn vị Sư đoàn, Không đoàn, Phi đoàn.
Khi ông dứt lới, 218 tân SVSQ đồng loạt đọc lời tâm niệm:
Hào Hùng và Độc Đáo
Chúng tôi biết thương yêu và giúp đỡ đồng bào.
Chúng tôi biết nhào lộn trong không gian.
Chúng tôi biết nghiêng mình trước mỹ nhân
Chúng tôi biết quay cuồng theo điệu nhạc
Hào Hùng và Độc Đáo

Rồi, tiếp theo, là cả khóa cùng hát bản Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao.
Kết thúc buổi lễ, tất cả tân SVSQ cùng hướng về khu nhà ăn, đây là địa điểm được trang hoàng để tổ chức tiệc liên hoan. Từ đầu buổi chiều, ban tiếp tân đã đón thân nhân, khách mời từ ngoài cổng căn cứ Long Hoa vào đây để xem triển lãm và dự liên hoan. Khi được tận mắt xem triển lãm, người nào cũng thấy vui, ngạc nhiên trước những bức ảnh lưu niệm về khoảng thời gian huấn nhục qua các khóa trong quân trường. Trên ảnh, tiếng anh nào cũng ngố, lờ đờ như là những con gà chết. Và, rồi họ nói, những kỷ niệm quý hiếm như thế này, được ghi nhận tài tình, sống động qua ống kính máy ảnh, là những kỷ niệm cảm động, đẹp hơn bao giờ hết đối với tuổi trẻ khi quân trường là nơi họ được huấn luyện để trở thành người chiến sĩ.
Từng lúc một, thân nhân và nhiều khách mời đến đông. Thật là hương của gió mùa, đến đây hầu hết là nữ sinh các trường trung học công và tư thục của thành phố, và mỗi cô, người nào cũng thướt tha, duyên dáng trong chiếc áo dài.
Tôi không có thân nhân hay bạn gái, nhưng tôi được giới thiệu tên với thân nhân và khách mời của một số anh em bạn khác. Trong đêm nay, riêng tôi biết mình thay đổi hẳn một gương mặt. Ngày đó, nơi quân trường này buổi đầu tiên tôi là một người lính hèn mọn, tầm thường, có những lúc ngước mắt nhìn lên bầu trời, tôi cũng chỉ thấy đó là sự hiện diện của thiên nhiên như là núi sông, mà chẳng hề ước mơ mình sẽ trở thành phi công với những giấc mộng bồng bềnh giữa mây gió bốn phương.
Tới lúc này đây, rộn ràng trong tôi một đôi ý tưởng lãng mạn, hào hoa, thế nhưng tôi thực sự không muốn mình tạo dáng, làm một đôi chút kiểu cách như những bạn trẻ cùng khóa. Trong khóa này, đông thành phần trẻ là sinh viên, kiến thức các bạn này hơn tôi rất nhiều. Năm nay 25 tuổi, tôi vẫn còn được thời gian công nhận là thuộc lứa tuổi hai mươi, nhưng tôi cảm thấy mình già sau mấy năm làm người lính trong công việc hiệu thính viên hành quân. Chữ “nếu”, luôn luôn là một chữ để cho mỗi người tự lý giải về hoàn cảnh của mình. Tôi đi lính chuyên viên Không quân, nhập ngũ ngày 20 tháng tư năm 1965, hết ba tháng mãn khóa quân sự tôi may mắn thi Tú Tài I trong khóa thi đầu mùa hè năm dó. Sau bao nhiêu lận đận, lấy được một mảnh bằng, và qua được cửa ải của hai chế độ quân dịch, tôi trở nên hưng phấn, háo hức ước mơ được lên Đại học. Thế nhưng, cái may chỉ đến có một lần đó thôi. Từ mấy năm qua, tôi cũng lo chuyện sách đèn, thi cử, nhưng thi hoài không đậu nổi phần thứ nhì. Cho rằng, tôi hiểu được ngay trong thời gian vừa mới lấy được mảnh bằng Tú Tài I, là ngang sức đó, thì tôi đã tính ngay cuộc đổi đời bằng chuyện xin đi học lớp Sĩ quan, không được bên Không quân ngành phi hành, thì sang trường Thủ Đức, và dù cho ở Bộ Binh, lúc này đây, tôi cũng đã có được một, hoặc hai bông mai vàng in sáng trên ve áo trận rồi.
Giáp, bạn thân với tôi thuộc khóa 68 B đang học khóa 35 Cessna. Với Giáp cũng đã trễ muộn, vì bạn tôi cũng lận đận với thi cử. Người bạn còn cho tôi biết, sở dĩ không được xuất ngoại được vì lý do an ninh.
Trên sân khấu, ban nhạc đang chơi những đoạn nhạc dạo nghe thật vui, và rất hay. Đây là những điệu nhạc ngoại quốc được làm nhạc cảnh cho nhiều cuốn phim, bạn nào ghiền xem chiếu bóng thường nghe quen.
Trong buổi liên hoan tối nay, trên các bàn của quan khách cũng như sinh viên chỉ có nước giải khát đá chanh và bánh pâté chaud, bánh ngọt, kẹo. Thế nhưng, ai cũng thực hài lòng, cùng nhau vui trong nhiều câu chuyện, và đến cả các cuộc gặp gỡ cũng rất bất ngờ.
Ban nhạc càng lúc làm cho không khí buổi liên hoan thêm hào hứng, và tưởng như, ai cũng thích được lên sân khấu trình diễn bài hát của mình.
Khoảng trống của hội trường được dùng chỗ để khiêu vũ. Mỗi lần có một điệu nhạc tấu lên là khoảng trống được lấp đầy bởi những cặp tình nhân bước chân nhẹ nhàng theo từng nhịp điệu, và trong ánh đèn mờ ảo, những lứa đôi cùng nhận ra sự quyến rũ, vừa thân tình.
Từ đầu buổi chiều đến giờ, tôi cũng chỉ biết chia sẻ niềm vui chung của khóa, tôi không hát, không mời ai ra nhảy. Với nghệ thuật, âm nhạc và hội họa tôi không biết nhiều, nhưng tôi có được sự cảm xúc dồi dào khi nghe một bài hát, hay nhìn ngắm một bức tranh. Trong khóa tôi đang học, mỗi tuần luôn có hai giờ cho sinh viên thực tập môn khiêu vũ nên tôi cũng có biết một vài điệu nhảy căn bản. Nhưng, tôi là con người bị nhiều mối mặc cảm ức chế, rốt cùng, tôi luôn đơn độc. Và, cũng biết rằng, mình thuộc loại người tầm thường nên tôi không thích hợp với hình thức làm dáng, tạo dáng. Năm 1968, từ biến cố Mậu Thân mới nẩy ra một chương trình quân sự học đường. Và qua chương trình này, nở rộ rất mau phong trào tuổi trẻ trở thành những người hùng của chiến tranh trong thành phố. Ở ngay Sài Gòn, rất đông sinh viên các trường Đại học thích mặc bộ quần áo kaki vàng, đội nón kalo đi chơi phố, ngồi nhan nhản ở các quán cà phê, kể cả những buổi sáng chiều đến học ở giảng đường. Và, đây cũng là một mốt hiện sinh mới của tuổi trẻ miền Nam ưa thích một không khí chiến tranh trong phim ảnh, trong nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc du ca, và nhạc tiền chiến.
Tôi bỗng trông thấy Giáp vừa nắm tay một cô gái dìu đi. Vừa bụm hai tay lên miệng, tôi chưa kịp gọi thì Giáp đã trông thấy, liền kéo cô bạn theo tới bàn tôi ngồi. Giáp giới thiệu:
- Anh Thụy, bạn học cũ của anh,
Cô gái nhìn tôi qua bảng tên, cười nói:
- Anh giới thiệu như vậy, không có le cho anh Thụy.
- Ủa, phải giới thiệu sao?
- Đây là Sinh viên Sĩ quan Nguyễn Quân Thụy.
Tôi vui, nhưng hơi lấy làm ngượng. Tôi lấy thêm ghế để ba người cùng ngồi. Trên bàn đã có sẵn nước ngọt, tôi rót đầy hai ly mời bạn và cô gái. Trong lúc tôi rót nước vào ly, cô gái nhìn gương mặt tôi cố nhớ ra tôi là người mà cô đã có lần gặp. Mời cô gái xong, đến lượt mời bạn, tôi nói:
- Nãy giờ ngóng tìm bạn.
- Mình ra ngoài đón Lam Hương.
- Nhớ ra, anh Thụy rồi.
Cô gái bỗng thốt lên, Giáp hỏi:
- Hai người có quen nhau phải không?
- Đúng.
- Bạn nói về cô này đi.
- Có giọng hát hay lắm.
Giáp đưa tay cho tôi bắt.
- Vậy là lý lịch được xác nhận, phải không?
- Đúng.
- Chưa đủ. Cho bạn biết thêm, ngày trước Lam Hương học ở Đà Lạt trường Việt Anh, và tôi cũng học ở đó hai năm.
- Thì ra thế.
- Chứ sao.
Hình ảnh Lam Hương, cô em gái ngày xưa như hiện lên trước mắt tôi cả một vùng sương mù thành phố cũ. Nơi thành phố ấy, những kỷ niệm yêu thương luôn gây một chút lạnh vừa ấm cho tâm hồn tôi.
- Hai người nói chuyện đi, tôi ra ngoài gặp Sơn một chút.
Khi Giáp đi khỏi, tôi hỏi cô gái.
- Hương còn ở Đà Lạt không?
- Gia đình em vẫn ở trên đó.
- Hương ở Nha Trang một mình.
- Em ở nhà bà dì, em đang dạy học ở trường Nữ.
Tôi châm điếu thuốc. Hương cầm ly nước chanh lên uống từng ngụm. Chiếc áo dài màu hoa cải của Hương nổi bật lên trong không gian lễ hội và sáng dịu dưới ánh đèn. Nàng đang lắng nghe tiếng nói, trong lúc nói, tôi nhìn vào gương mặt và đôi mắt nàng. Tối hôm ấy, có một buổi ra mắt lớp học của Hương. Tại hội trường rất đông học sinh tham dự, và ai cũng cảm thấy vui thích khi chương trình văn nghệ bắt đầu.
Từ một khoảng hẹp trên sân khấu lúc bức màn vừa hé mở, Hương xuất hiện với chiếc áo dài tím rất đẹp dưới ánh đèn màu. Nhạc dạo một đoạn thật êm ái, rồi tiếng hát cô gái cất lên cao và rất trong. Bản nhạc có tên Mấy độ thu về, trong từng giây phút, tiếng hát của cô gái làm cho mọi người lắng đi, êm ả, để cùng với sự luyến nhớ mà đi tìm một mùa thu về nơi đâu không rõ. Khi tiếng hát dứt, riêng tôi thật mơ màng. Tôi giữ lại ảnh hình đầu tiên của cô gái cho đến khi bức màn trên sân khấu kéo khép kín lại, khuất lấp bóng dáng nàng.
Về phòng, tôi không ngủ được. Bản nhạc buồn như tiếng đàn vĩ cầm, mùa thu ấy trở về từ nơi nao, xa vắng quá. Hình dung lần nữa với cặp mắt, tôi thấy lại Lam Hương trong chiếc áo tím, và ánh đèn màu vẫn giữ rất lâu hình ảnh cô gái trên sân khấu, dù cho tiếng hát không còn nữa.
- Lam Hương có quen với Thùy không?
- Quen chứ. Chị Thùy cũng học ở trường mình, trên em một lớp.
- Anh có gặp Thùy, nhưng cách đây hơn ba năm.
- Em mới đến Nha Trang dạy năm ngoái.
- Lam Hương gặp anh Giáp lần đầu?
- Em cũng mới quen ít tháng nay thôi. Ngày hôm dó, anh đi tìm một người bạn cùng dạy ở trường em.
Tôi đã gặp lại Lam Hương, kỷ niệm đã cùng nhắc nhở tôi và nàng về một mối tình cũ. Sau nhiều năm xa cách, cô gái ngày xưa đã lớn và thay đổi nhiều. Đêm văn nghệ, vui nhộn và hết sức thân tình. Một lúc sau, từ sân khấu, người điều khiển chương trình mời Lam Hương lên hát. Nàng đứng lên vẫy tay chào quan khách và tất cả sinh viên. Quay sang tôi, nàng hỏi:
- Anh thích em hát bài gì?
- Em có nhớ bản Gợi giấc mơ xưa.
- Có chứ. Nhạc tiền chiến em thuộc nhiều lắm.
- Em hát cho anh nghe bản anh yêu cầu.
- Còn bản nào nữa không?
- Cũng tùy em. Bản nào, em thích hát cũng được.
Lam Hương lên sân khấu, nàng cầm micro với dáng điệu rất tự nhiên. Tôi ngước mắt nhìn người thương năm cũ với nụ cười hạnh phúc, tôi không ngạc nhiên mà còn cả một nỗi niềm dấu yêu nữa khi Lam Hương hát một bài ruột thuở xưa của nàng, Mấy độ thu về. Tiếng hát cất lên, tất cả đêm nay, sự vật và mỗi người tình, mỗi người bạn là sự đồng cảm với mùa thu. Tiếng hát dứt, bao nhiêu tràng pháo tay dội lên, ngưỡng mộ nàng. Và rồi, một giọng nói rất thân tình, nàng giới thiệu tiếp bài hát Gợi giấc mơ xưa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

VIII

Ngày mai lênh đênh trên sông Hương
Theo gió mơ hồ hồn về đâu
Sóng sầu dâng theo bao năm tháng
Ngóng về đường lối cũ tìm em

Nhà Lam Hương ở đường Thi Sách. Từ trường, tôi đi bộ lên khu nhà thương, qua một quãng đồi thông rồi rẽ xuống con đường đất, đường này là Thi Sách. Lam Hương đang chơi trước sân bỗng vui mừng khi thấy tôi đến, cả hai cùng lên tiếng chào nhau.
- Anh đi đâu trên này?
Tôi nhìn lại cô gái nay đã lớn hẳn, giọng thân tình nói:
- Anh tới thăm Hương để từ giã.
- Từ giã. Có chuyện gì quan trọng, nói cho em nghe.
- Anh về Huế, ngoài miền Trung.
Cô gái lặng im nhìn và nghe tôi nói thêm:
- Anh về ngoài đó học, ở luôn với gia đình.
Đôi mắt cô gái có chút dò xét sau những điều tôi vừa giải thích.
- Anh vào nhà chơi.
Tôi theo Hướng vào nhà. Nhà vắng, đầy bóng tối vì cửa đóng và phía sau là khu vườn cây cối bao phủ. Nhưng rồi, ánh sáng tràn vào phòng khách khi Hương mở rộng mấy cánh cửa sổ. Sau đó, cô gái đi lấy nước để tôi đứng một mình.
Hương quay trở lại đặt khay nước xuống bàn, tôi mới vào ghế ngồi. Rót nước cho ly bên tôi xong, cô gái nói:
- Nước đậu ván rang có mùi cà phê.
- Anh rất thích thứ nước đậu này.
Tôi cầm ly nước đậu lên uống, cảm thấy đỡ khát. Hương có rót vào ly mình, nhưng chưa uống. Hai người chợt nhìn nhau. Tôi ngắm Hương ngồi, dáng tự nhiên, dễ thương.
- Hương có học lớp hè không?
- Không. Em nghỉ chơi cho đã.
Bắt đầu muốn vào chuyện riêng tư, tôi nói:
- Anh về ngoài đó xa Đà Lạt, buồn quá.
- Anh ở đây lâu chưa?
- Mới hai năm.
- Sao anh không ở học luôn?
- Thầy Hiệu trưởng là cậu anh bị gọi tái ngũ, trường sẽ chuyển giao cho người khác.
- Thầy Hiệu trưởng là cậu anh sao?
- Cậu của anh, cậu út trong gia đình. Mẹ anh là chị cả.
- Anh nói em mới biết.
- Anh ở nội trú, em không biết sao?
- Không.
- Năm tới, em vẫn học ở Việt Anh?
- Không, em chuyển trường. Em vào Bùi Thị Xuân.
- Tốt cho em. Học trường công đỡ trả học phí.
- Em không nghĩ vậy, nhưng em học Bùi Thị Xuân vì cô của em nay về dạy ở đó.
Tôi lặng im mấy giây nhìn Hương. Tôi muốn được nói hết những điều chân thực trong những ngày tôi quen nàng. Nàng chợt mỉm cười nhìn lại và có lẽ đoán hiểu được điều tôi muốn nói ra.
Bỗng, tôi nói:
- Buổi tối đó, Hương hát hay quá.
- Em thích hát, nhưng không đam mê.
- Hương hát rất hay, rất có tâm hồn. Anh nghĩ…, thoáng qua tôi định khuyên cô gái nên theo nghiệp cầm ca vì có tài năng, nhưng bỗng nhận thấy điều ấy không hay khi nói ra, nên thôi.
- Anh nghĩ sao? cô gái hỏi.
- Anh thấy Hương hát hay nên luyện tập thêm, tôi nói.
- Không có đâu, em lười lắm.
- Hai lần nghe Hương hát, anh khó mà quên.
Lam Hương nghe tôi khen, nàng vui, vừa xúc động. Tôi tiếp lời:
- Anh sẽ nhớ mãi tên hai bài hát đó.
- Bài nào anh?
- Mấy độ thu về và Trường làng tôi.
Ở đây, Hương sống với bà ngoại, hai bà cháu luôn bên nhau để có tiếng chuyện trò thân tình, ấm áp. Có lẽ, gia đình cô gái ở đâu xa, nhưng không bao giờ tôi hỏi hoặc cô tạo nên hoàn cảnh để mong biết rõ cuộc đời của cô cả. Có tình yêu chăng, tôi chưa biết, nhưng tôi nhận ra thấy Lam Hương có cảm tình với tôi như người em gái.
Rồi mai khi anh xa kinh đô
Em khóc cho tàn một mùa thương
Nhớ người em nương theo cơn gió
Ru hồn về dĩ vãng mộng mơ


Khi bước vào trong tiền sảnh, tôi vội đưa mắt tìm bản thông cáo mới yết thị để đọc. Đây là thông cáo của Bộ Quốc Phòng dành cho các lớp tuổi thanh niên còn đi học xin hoãn dịch vì lý do học vấn. Tôi chăm chú đọc từng giòng thấy có rất nhiều đề mục nêu ra từng trường hợp. Thật hết sức mừng, trường hợp của tôi nằm trong cột số bốn đã được cứu xét.
Tôi đọc lại lần nữa, rồi thở phào nhẹ nhõm.
Bên ngoài, buổi chiều đang theo bóng im từ những hàng cây đổ xuống, sân trường phía sau đang dội lên những tiếng reo hò, cổ vũ của đám học sinh đứng xem đánh bóng chuyền. Bất chợt, nghe có tiếng chân bước từ trên cầu thang vọng xuống tôi ngẩng mặt nhìn, lòng bỗng vui lên vì nhận ra Thúy Hà. Người bạn gái mặc áo màu xanh biển có chấm bông trắng, tay xách chiếc cặp da. Vừa trông thấy tôi, nàng mỉm cười vừa di nhanh bước về chỗ tôi đang đứng.
Tôi đón nàng bằng cặp mắt vui, trông chờ. Khi Thúy Hà tới gần, tôi hỏi:
- Hôm nay ra lớp trễ.
- Ở lại chép bài.
Sau câu hỏi đáp hơi ngập ngừng khi mở lời, hai người lặng im. Tôi định cho nàng hay là tôi vừa đọc thông cáo của Nha động viên và giờ bớt cảm thấy lo, nhưng rồi tôi không nói. Nhìn nàng, đột nhiên tôi buột miệng:
- Thúy Hà có cặp mắt đẹp quá.
- Trời đất, tự dưng lại khen người ta.
- Thúy Hà có cặp mắt đẹp quá. Và, trong cặp mắt lúc nào cũng thấy những niềm vui.
Nàng rất sung sướng trước lời khen của tôi. Ở phòng tiền sảnh của trường, thật là vắng lặng khi chỉ có riêng tôi và nàng. Tôi đăm đăm, đôi mắt nhìn gương mặt nàng lâu hơn. Nàng chỉ cười, rồi quay mặt để tránh nỗi e thẹn trước vẻ đắm đuối của người bạn trai.
- Nhà ở gần đây không?, nàng hỏi
- Chừng mười lăm phút đi bộ thôi, tôi đáp.
Hai bạn bên nhau, mà không biết gợi ra thêm chuyện gì để nói. Từ buổi đầu quen biết, một số chuyện trao đổi làm quen tôi và nàng đã nói rồi, giờ trở nên khó khăn. Nhưng trong im lặng, tôi càng muốn giữ nàng lại đây lâu hơn để nhìn nàng, yêu nàng qua mái tóc thật mượt mà đang buông thả xuống bên vai.
- Về chưa?, nàng hỏi.
Hai người dời bước. Khi ra khỏi tiền sảnh, xuống cầu thang hướng về cổng chính, mùi vị của lá, của cỏ, ánh nắng, cùng hơi gió mang chút vị mặn từ con sông dưới bến Cảng dâng lên làm hai bạn như cùng cảm thấy buổi chiều thật êm dịu. Bên kia cổng trường là công viên xanh với những hàng cây và bãi cỏ.
Tự dưng, tôi không biết nên nói điều gì để chia tay với người bạn. Thúy Hà hiểu ra sự bối rối của tôi, nàng cười nói một câu đùa trêu chọc. Tiếng tôi nói nhỏ:
- Cám ơn Thúy Hà nhiều lắm.
- Gì, mà phải cám ơn.
- Thúy Hà đã coi mình là bạn thân, đúng không?
Cô gái đưa cặp mắt nhìn lại tôi rất lâu, và tôi hiểu ra được cặp mắt ấy nói gì. Tôi cũng rất muốn nỗi buồn nhớ tan đi.
- Bây giờ Thúy Hà về.
Nàng không đáp lời, chỉ nhìn tôi. Nhìn lại gương mặt nàng, tôi bỗng nói nhỏ:
- Nhà gần, đi bộ một quãng nghe.
Thúy Hà gật đầu bằng lòng. Hai người vẫn còn bên nhau. Gió buổi chiều đang làm lay động cây lá và tung nhẹ chiếc áo dài của nàng. Tôi cảm thấy sung sướng, hãnh diện vô cùng vì mình đi bên cạnh một người con gái đẹp và được nàng yêu. Tôi cứ nghĩ nhiều đến vẻ đẹp Thúy Hà đang âm thầm trong lòng mình, sung sướng biết nhường nào khi nghe rõ từng tiếng nàng nói. Tôi biết nàng có người yêu rồi, rồi nàng sẽ lấy chồng với chàng trai ấy, nhưng mà chiều nay chỉ có tôi và nàng thôi.
Nhà Thúy Hà rất gần trường, nhưng câu chuyện đang nói bằng một giọng thân tình đã làm tôi nghĩ nó trở nên xa hơn, và tôi còn có cảm giác như được đặt bàn tay lên vai nàng, tựa theo bóng dáng nàng từng bước đi trong trí tưởng. Tôi sung sướng, lặng im. Đêm qua, trong giấc mơ hiền dịu, tôi gặp nàng. Bây giờ đây, nó là ảo tưởng, nhưng nếu tôi hiểu rằng giấc mơ là sự tái hiện của hình ảnh thật trong đời sống, thì sự hiện diện của tôi bên nàng trong giấc mơ cũng có thực như lúc này đây tôi đang bước đi bên cạnh nàng. Và, mình có nên nói ra cho nàng hay không, nhưng tôi nghĩ sự ấp ủ giấc mơ ấy vẫn là để cho mình biết tôn trọng, yêu quý nàng. Và, nàng với những âm sắc bao dung trong giọng nói của mình, thật sự nàng rất muốn cho tôi góp lại tất cả những gì của kỷ niệm theo ngày tháng qua mà tôi đã có được nàng. Hình như, nàng cũng đã biết tôi yêu nàng, sung sướng trong cặp mắt mỗi khi gặp nàng. Hôm nay, hai người là bạn học của nhau, rồi đây tình bạn sẽ làm cho lứa đôi tuy xa cách nhưng vẫn luôn nhớ đến nhau, và rồi đây, sự xa cách cũng sẽ đưa mỗi người đến một phương trời. Bạn đã thấy mình hạnh phúc trong tiếng nói cô gái, nhưng bạn sẽ ngạc nhiên vì mình chẳng còn nhớ được những điều gì mình nói với nàng cả. Tôi vui, nghe thầm được những tiếng nói đang nhủ trong lòng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Hai người về đến nhà. Không chú nhìn qua vẻ mặt, Thúy Hà bảo tôi vào chơi. Căn nhà tỏa sáng dưới ngọn đèn néon hầu như để suốt ngày, và tôi nhận ra những màu sắc của loại mỹ phẩm ánh lên một vẻ rực rỡ. Ông Kha đứng dậy, đón tôi bằng nụ cười hảo cảm.
- Cậu khỏe không?
Ông nói, vừa bắt tay.
- Dạ khỏe, thưa bác.
Tôi ngồi xuống ghế salon ở phòng khách. Ông Kha ngồi kế bên, hỏi nhỏ:
- Cậu biết tin gì chưa?
- Dạ chưa.
- Sài Gòn đang có đảo chánh.
Ông đưa điếu thuốc, bật chiếc máy quẹt zippo cho tôi châm lửa. Tôi hít nhẹ một hơi thuốc, vừa cố lắng nghe tin tức.
- Quân đội đã chiếm được Đài Phát Thanh.
Tôi ngạc nhiên, vừa mừng, vừa lo lắng. Chiếc cầu thang lên gác nằm bên lối cửa trống đi xuống nhà dưới. Tôi nhận ra cái bóng Thúy Hà, và lúc nàng quay nhìn lại phòng khách vẫn thấy tôi đang ngồi đó mắt còn trông theo nàng. Nàng mỉm cười, mái tóc rung nhẹ trên vai áo.
Bà Uyên sắp hàng mới vào trong tủ kính xong, tới bàn ngồi. Bà đã hiểu diễn tiến câu chuyện. Một giọng hơi e ngại, bà nói với tôi:
- Cầu mong cho Cách mạng thành công.
Tôi hết sức bồn chồn, nôn nóng khi hay được tin này. Bản tin đã dứt, giờ là âm nhạc đang trỗi lên.
- Cháu thật lo bác ạ.
- Cậu nghĩ sao?
Tôi nói:
- Trong này, hầu như không chuyện gì. Nhưng Huế, có thể là cả một tấn thảm kịch như ở Budapest.
- Tôi nghĩ cuộc Cách mạnh này sẽ thành công. Ông Nhu, ông Diệm đã thoát được hai lần rồi.
Tôi chợt nghĩ điều ông bác nói đúng. Nhưng sự kiện không chỉ hai lần, mà đã đến ba rồi. Ông Diệm bị ám sát hụt ở Ban Mê Thuột. Cuộc đảo chánh năm 1960 mà lúc đó tôi đang học ở Đà Lạt, rồi cuộc ném bom Dinh Độc Lập vào năm 1962. Quá tam ba bận, đó là câu ngạn ngữ thường hay dùng. Với cuộc đảo chánh đang diễn tiến, tôi tin chắc lần này Quân đội đứng lên sẽ thành công.
Khi trở xuống nhà, Thúy Hà mặc bộ quần áo thường có châm bông cải màu tím. Lúc thấy tôi, nàng mỉm cười rồi lấy chiếc ghế tròn thấp đặt ngồi gần bên phía tôi.
- Bác vừa cho biết, ở Sài Gòn có đảo chánh.
- Lúc nào ba?
- Hai giờ chiều nay.
Bên ngoài, nắng cuối ngày đã lan qua bên kia con đường. Tôi cảm thấy ngần ngại, vừa mừng thầm là đã được đến nhà nàng, ngồi đây bên nàng, nhưng tôi tự biết giới hạn cho mình. Kim đồng hồ treo tường đang chỉ 5 giờ 45, tôi nghĩ trong nhà chưa bắt đầu bữa cơm tối, chừng mười lăm phút nữa tôi có thể đứng dậy chào xin kiếu từ.
Thời gian có vẻ muốn chậm lại. Rồi sau đó, câu chuyện bình thường trong gia đình mà tôi được nghe qua lời người mẹ. Bà Uyên kể cho tôi nghe chuyện gia đình bà từ ngày di cư vào Nam, những nơi chốn đã ở và sinh sống. Trong chuyện kể của bà, tôi thấy có cái riêng từng cảnh ngộ gia đình, nhưng cũng có một tâm trạng chung của bao nhiêu đồng bào miền Bắc vào thời kỳ đó khi vào Nam. Rồi tôi được bà mẹ nói đến cô con gái đầu đang ngồi đây bên tôi lúc đó mới có tám tuổi thật đảm đang chịu khó, chịu khổ trong việc giúp mẹ buôn bán và chăm sóc mấy em còn nhỏ. Nàng cười nhìn qua tôi, và tôi vô cùng thích thú, hãnh diện thay cho nàng.
Sáu giờ mười lăm, tôi đứng dậy chào cả nhà để ra về. Ông Kha hết sứt cởi mở, cầm lên một gói thuốc đưa cho tôi với lời lẽ bình thường, tôi nhận ngay, vừa nói lời cám ơn ông.
Có vẻ cái bóng của tôi lớn hẳn qua chiếc áo sơ mi trắng đã cũ. Tôi cầm sách và tập vở trên tay nói lời chào lần nữa, và lúc đó, Thúy Hà cùng đi theo tôi ra ngoài.
- Về nghe, nàng nói.
Tôi nhìn lại gương mặt nàng, nói với nàng lời cám ơn bằng cặp mắt. Buổi chiều hôm nay không khí mang một vẻ lạ thường, và lần đầu tiên tôi nghĩ đến hiện tình đất nước mang trong một mối tình học trò của hai người, riêng tôi và nàng.
Trên đường trở về có hình ảnh Thúy Hà bên cạnh, đôi lúc tôi tưởng như mình nói chuyện với nàng, hay bộc lộ một cử chỉ vui sướng, bồng bột nào đó mà không nhìn thấy.
Từ mỗi căn nhà thấp nằm hai bên đường Trưng Nữ Vương, mỗi lúc tôi thấy nó cứ theo nhau, trải dài, vừa ra vẻ hoang mang trong âm thanh sôi nổi của nhiều điệu nhạc hùng vọng ra từ máy thu thanh, hay sau đó, lúc tôi chậm bước nó đang cùng tôi lắng nghe những bản tin tức thời sự về cuộc cách mạng mới xảy ra chiều nay. Tôi bỗng nôn nao, muốn nhập ngay vào đám đông người đang tụ họp để nghe tin radio và hăng say bàn luận cuộc đảo chánh. Trên gương mặt từng người, tôi nhận ra vẻ phấn khích, hoan hỉ đón nhận tin vui, rồi càng lúc tôi càng tin tưởng hơn vào cuộc đảo chánh do Quân đội dựng lên sẽ hoàn toàn thắng lợi. Suốt con đường mỗi lúc thêm đông người tụ tập, tràn lấn ra ngoài gây nên cảnh huyên náo. Tôi chợt dừng bước khi thấy một đoàn xe nhà binh xuất hiện, trên xe rất đông lính tráng ngồi mang súng ống, họ đang tươi cười, cởi mở, và cứ thấy dân chúng vẫy tay chào là họ đưa tay chào lại. Rồi, con đường trở lại sự bình thường khi bóng đoàn xe xa dần về hướng đi lên phi trường.
Khi tôi về đến nhà, đúng lúc gặp anh Bình nhưng anh vội vàng chỉ kịp trả lời câu tôi hỏi rồi lên xe đi.
- Tối nay anh không về?
- Không.
Tôi về phòng mình, nghỉ một lúc thấy chị Thuận lên mời tôi xuống ăn cơm. Tôi xuống phòng ăn, vừa ngạc nhiên lên tiếng hỏi thì chị cho biết hôm nay cả nhà đi ăn giỗ bên cô Chín, em bác Hội.
Hôm nay là ngày thứ sáu, đầu tháng 11. Ngày mai và mốt là hai ngày nghỉ, tự dưng tôi muốn bay ra Huế xem tình hình ra sao. Thế nhưng, trong lúc này quân đội cắm trại, di chuyển từ nơi này đến nơi kia có an toàn không? Tôi vừa ăn cơm, lòng cứ nôn nao nghĩ ngợi tới cuộc đảo chánh, từ giai đoạn này biến chuyển của đất nước sẽ như thế nào.
Trời mau tối. Sau bữa ăn, tôi uể oải đứng dậy lấy nước uống rồi trở về phòng mình. Ngày mai, môn Lý Hóa sẽ làm bài tập tại lớp. Tôi bước qua kệ, lôi ra cả ba cuốn sách giáo khoa Điện, Quang và Hóa để ôn bài. Thầy phụ trách môn dạy này cho học sinh biết, cứ mỗi tháng, thầy sẽ cho bài làm tại lớp một lần. Buổi làm bài này, được thử thách giống như trong kỳ thi lục cá nguyệt hay Tú Tài.
Tôi học bài đến khuya. Bỗng nhiên, nghe một loạt súng nổ làm tôi ngừng, nín im. Tiếng súng nổ nghe càng gần gây nỗi sợ hãi. Sau khi tiếng súng dứt, tôi nghe có tiếng động ầm ì của một đoàn xe đang chạy qua ngoài đường. Tôi chợt có ý nghĩ là tình hình cuộc đảo chánh hẳn chưa ngã ngũ.
Mười hai giờ đêm, gia đình bác Hội về tới nhà. Khi nghe tiếng cười nói các cô chị nhỏ lúc vào nhà, tôi vội rời phòng tìm gặp bác và dì để hỏi thêm tin tức. Vừa thấy tôi, bác hỏi ngay là tôi có biết tin đảo chính ở Sài Gòn. Tôi đáp có, trên vẻ mặt còn lo âu.
Các cô chị nhỏ đã trở về phòng của mình. Ngoài phòng khách, đèn sáng. Chiếc radio được vặn lên, âm thanh một bản nhạc hùng đang dạo càng lúc càng nhanh, sôi nổi. Khi điều chỉnh núm volume nhỏ lại vừa đủ nghe, bác Hội trở về ghế ngồi.
Sau vài giây im lặng, tôi lên tiếng hỏi:
- Đã có tin gì về Tổng Thống Diệm chưa bác?
- Chưa.
- Bác vẫn theo dõi từ lúc chiều đến giờ?
- Coi như cuộc đảo chánh đã thành công. Các tướng tá chỉ huy theo phe đảo chánh hầu hết đều xưng danh trên đài, lên tiếng ủng hộ.
Dì Vân bảo tôi:
- Dì chưa nghe tên cậu Nghiêm.
- Con cũng thấy lo. Theo dì, cậu có theo phe đảo chánh không?
- Cậu phải thức thời, chứ trung thành là không được đâu.
Sau khi tiếng nhạc kết thúc, Đài Phát Thanh Sài Gòn đọc bản thông cáo số 4 của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm mười điểm. Cả ba người lắng nghe. Và tiếp đó, là danh sách các vị Chỉ huy, các Bộ trưởng đứng lên xưng danh. Mười lăm phút trôi qua, tôi vẫn không nghe tên người cậu. Còn một số vị Tướng và Bộ trưởng nữa chưa xuất hiện, lên tiếng nói trên Đài Phát Thanh tối nay. Và, mặc dù quân đội đã làm chủ tình hình Sài Gòn Chợ Lớn, nhưng tin tức về hai ông Tổng Thống và ông Cố vấn vẫn chưa biết rõ.
Tôi nói với bác Hội:
- Vẫn chưa có tin tức ông Diệm.
- Bác đang lo nghĩ như cháu.
- Biến cố 60 thất bại, không biết lần này sẽ ra sao?
Trên vẻ mặt đanh lại, bác Hội nói:
- Cuộc đảo chánh này mà không thành công, số phận các Tướng tá chống đối sẽ vô cùng bi thảm. Lại thêm một vụ xử của năm 60 ở Tòa án Quân Sự.
Bác Hội nói xong, tôi chợt nghĩ đến cái chết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nhà văn này đã tự tử không chịu khuất phục chế độ và không chịu ra trình diện trước Tòa Án Quân Sự. Cậu Nghiêm em ruột của mẹ là người đã ngồi ghế Ủy Viên Chính phủ trong vụ xử này. Hiện giờ, cậu Nghiêm đang nắm giữ chức vụ Giám Đốc Nha Hiến Binh Quốc Gia, có thể nói là người rất thân tín với Tổng Thống Diệm. Lẽ đó, cậu sẽ không lên tiếng theo phe đảo chánh.
Giờ này đây, tình hình còn căng thẳng và mặc dù có thêm các Tướng tá, các vị Bộ trưởng xưng danh, nhưng tin tức về ông Diệm và Nhu vẫn chưa được loan báo.
Đã hơn một giờ khuya, ba người cùng đi nghỉ chờ đợi tin buổi sáng. Tôi trở về phòng, lên giường nằm.
Tôi chợt nghĩ đến Thúy Hà. Ngày tháng nhẹ nhàng trôi đi, mối tình của tôi và nàng càng trở nên gần gũi, thân thiết trong tình bạn, vừa có một sự cất giấu âm thầm để hiểu đích thực về tình yêu. Nhưng tôi cũng biết, đó là tình học trò lãng mạn, chứ tìm một cơ may hay đuổi theo mục đích thì không thể nào thực hiện được. Hẳn nhiên, tôi không phải so sánh giữa mình và Duy, là vị hôn phu của nàng.
Có tiếng súng nổ. Ngoài đường, sau khi đoàn xe nhà binh khuất xa, sự yên tĩnh trở lại. Đã ba giờ sáng, đầu óc tôi trở nên trống rỗng.
Tôi thiếp ngủ quên, thức dậy muộn nhưng cũng kịp giờ để tới trường. Khi tôi ra ngoài đường đã thấy các bạn chờ sẵn. Vừa gặp nhau, cả bọn vui vẻ mặt đứa nào cũng hứng khởi. Cát nói:
- Hôm nay, chắc chắn có mét tinh.
- Chắc rồi.
- Có tin gì mới không?
- Oa, mày không nghe tin đài B. B. C à.
- Không.
- Hai anh em ông Diệm Nhu bị thảm sát.
- Ghê vậy.
- Cuộc Cách mạng triệt để.
Từng đoàn học sinh cùng rảo bước, lòng rất vui, hăng say bàn chuyện đại sự. Trên đường Trưng Nữ Vương, giống như chiều qua, sáng nay vẫn bừng bừng khí thế sôi nổi, qua mỗi nhà, nhà nào cũng thấy tụ tập, nhóm họp nhiều người bàn tán về tin tức cuộc đảo chánh ở Sài Gòn. Và, tiếng vọng máy thu thanh loan tin tức mở rộng khắp trên các ngả đường.
Từ khu phố tôi và các bạn ở tới trường chỉ mất có mười lăm phút đi bộ. Khi đến đầu phố Độc Lập, nhìn xa trông con đường sáng hẳn, xanh tươi lá cây. Khu công viên cũng rất đông người đứng tụ tập kể cả học sinh của trường. Ngoài bến cảng, tiếng còi tàu hụ nối nhau như để chào mừng ngày chiến thắng của Quân Đội.
Tôi hơi chậm bước, dừng trước cổng chính của trường mắt tìm kiếm bóng Thúy Hà. Ở phía dưới khu Hải Quan, bắt đầu đông học sinh đi lên hướng về trường Sao Mai. Tôi rất mong gặp nàng để cùng chia niềm vui.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Hôm nay, một ngày náo nhiệt lạ thường. Sân trước và sân sau của trường, học sinh lớn nhỏ đều vui mừng trò chuyện về cuộc đảo chánh tại Sài Gòn xuất phát lúc một giờ chiều qua. Vào lúc 6 giờ sáng nay, đài Sài Gòn và các đài quốc tế đều xác nhận hai anh em ông Diệm Nhu đã chết. Tuy nhiên, các bản tin đều rất sơ lược không đi sâu vào chi tiết vụ thảm sát, và cũng không nói rõ nguyên nhân.
Giờ vào lớp với hồi chuông dài ngân lên, nhưng ngay lúc đó, từ loa phóng thanh thầy Tổng Giám thị thông báo cho tất cả học sinh Đệ Nhị Cấp tập họp ở sân sau để đi dự mét tinh. Rất vui vì được nghỉ học, các lớp vào hàng rất trật tự. Rồi tất cả học sinh cùng hướng về chỗ bậc thềm cao của nhà hội, nơi đó Cha Hiệu trưởng đang đứng trước máy vi âm. Bằng một giọng trầm ấm, Cha ngỏ lời với học sinh. Ngay khi bắt đầu, Cha vào đề về biến cố cuộc đảo chánh, và riêng Cha thật cảm thấy sung sướng, hân hoan trước sự thành công cho cuộc Cách mạng do Quân đội đảm nhận để đem lại tự do, đời sống ổn định cho toàn dân miền Nam. Sao Mai là một trường Công Giáo, nhưng không vì vậy mà tự đặt mình vào tình thế đối lập, và rất tha thiết, Cha mong rằng học sinh của trường hãy nên nhận thức sáng suốt về tình hình đất nước mà tỏ tình đoàn kết, không nên vì lý do khác tôn giáo để hiềm khích nhau.
Không đến nửa giờ, nói đầy đủ ý nghĩa cuộc Cách mạng và tình hình đất nước cho học sinh hiểu Cha Hiệu trưởng ngừng lời, rồi kết thúc bài nói chuyện bằng sự mong mỏi toàn thể học sinh cố gắng học để có một tương lai tươi sáng cho ngày mai.
Cuộc diễn hành đi dự mét tinh bắt đầu. Từ lối cổng sau, đoàn học sinh các lớp lớn của trường đi ra đường Lê Đình Dương rồi rẽ trái vào phố chính Độc Lập. Tôi đi hàng ngoài, cạnh Giáp và Hùng. Trên đường, bọn học sinh đùa giỡn, vừa trò chuyện rất vui. Lúc ngang qua nhà Thúy Hà, tôi đưa mắt nhìn vào thấy ông bà Kha đứng trước cửa hiệu nhìn ra vừa vẫy tay chào thân ái đoàn học sinh.
Ý nghĩa ngày Cách mạng làm không khí chính trị ở miền Trung rất là sôi nổi. Từ Huế vào đến Quảng Ngãi, luôn có những cuộc mét tinh, những cuộc hội họp cùng với rất nhiều thông cáo của các đảng phái. Đà Nẵng, thành phố tôi đang ở cũng rộn ràng sôi nổi, tôi và nhiều bạn bị lôi cuốn bởi những ngọn sóng đang dâng trong tinh thần cách mạng của tuổi trẻ. Suốt cả một tuần, hầu như tôi không mấy quan tâm chuyện học hành. Buổi chiều, sau giờ tan học tôi thường xuống phố ghé qua các hiệu sách để xem báo cọp. Vì muốn xem nhiều báo nên đứng mỗi nơi, tôi coi xong một tờ rồi lại đi. Với lại, tôi không thể coi hết cả tờ báo, mà chỉ đọc ở trang nhất và trang tiếp theo những bài tường thuật về những ngày vừa qua ở Sài Gòn. Nơi đây ở xa, nhờ đọc báo, tôi mới được biết những diễn biến trong ngày 1/11/63. Những bức ảnh trải rộng, bao quát trên nhiều đường phố Sài gòn cho thấy một khuôn mặt thủ đô vừa đổi thay khi cuộc cách mạng bắt đầu. Từ đầu buổi chiều ngày thứ sáu khi nghe tiếng súng nổ, dân chúng Sài Gòn đã ùa ra đường chạy theo các đoàn xe binh sĩ. Ai cũng lo sợ, hồi hộp, nhưng thích thú khi thấy từng đoàn quân tiến đi thật dũng cảm.
Ngày hôm sau 2/11, Sài Gòn náo nhiệt đông vui, trăm ngàn tờ truyền đơn tung bay trong gió sớm mừng ngày cách mạng như lễ hội. Bất cứ nơi đâu, người dân Sài Gòn cũng ùa ra khắp ngả đường mừng vui khôn xiết khi biết chắc chắn triều đại nhà Ngô đã sụp đổ. Tại khu chợ Bến Thành đồng bào vây quanh những chiếc xe GMC đông lính tráng, họ mang nước uống, bánh mì, và tranh nhau chuyền quà bánh lên xe đưa tận tay từng người lính. Mỗi khuôn mặt đều rạng rỡ, nhưng không giấu được những giọt nước mắt lăn trên má. Tại bến Bạch Đằng, nơi có bức tượng hai mẹ con bà Ngô Đình Nhu bị sinh viên học sinh kéo đổ xuống. Dân chúng vây quanh hai dinh Độc Lập và Gia Long, ồn ào bàn tán. Ở mọi con đường lớn nhỏ trong thành phố, dân chúng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt khi thấy có quân lính hay những đoàn xe quân đội đi qua. Tại các trường học, sinh viên học sinh cũng xuống đường, tổ chức hội thảo, tất cả đều ý thức về sự tự do, về cuộc cách mạng, đồng lòng muốn nhận lãnh một trách nhiệm trước tổ quốc. Và, tất cả những nhật báo lớn của Sài Gòn từ mấy ngày qua đều đăng hình đầy đủ các vị Tướng Lãnh trong chân trong Hội Đồng Cách Mạng. Ba vị Tướng đầu não cho cuộc đảo chánh này là Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Tôn Thất Đính.
Nỗi xúc động trước niềm tin đất nước rộng mở trong ngày mai khiến tôi không ngăn được mình khỏi khóc. Và, lòng tôi thật vui. Trên đường đi bộ về nhà, tâm tư tôi đầy ắp những hình ảnh nhân vật tiểu thuyết anh hùng. Tôi đã đọc cuốn Giờ Thứ 25 của nhà văn người Lỗ Ma Ni, Constant Virgil Gheorghiu. Tôi cũng nhớ đến nhân vật Antipov trong tiểu thuyết Doctor Zhivago.
Khi ngang qua nhà Thúy Hà, tôi dừng chân ghé vào. Căn nhà với các cánh cửa sơn màu xanh, sáng ánh đèn, và đông khách đến mua hàng mỹ phẩm làm cho khu phố Độc Lập trở nên vui, sống động. Lúc nãy, trên đường về nhớ những trang sách trong bản dịch cuốn Doctor Zhivago, tôi như mơ thấy có hình ảnh nàng Lara bên mình. Tôi có nên đem Thúy Hà người bạn gái tôi thương để so sánh với nàng Lara không? Tôi thật sự hạnh phúc được nhớ cả hai người trong cùng một thời gian với những tiếng động của bước chân, và tôi cũng có một ước ao về công việc viết văn. Tôi sẽ chờ đợi một ngày đó rất gần, tôi khởi sự sáng tác để tạo nên một tác phẩm văn chương, cố nhiên qua gương mặt, bóng dáng Thúy Hà là nhân vật mà tôi luôn hình dung trong trí tưởng.
Vừa thấy tôi đứng trước cửa, ông Kha lên tiếng:
- Vào nhà chơi đi cậu.
- Cháu đi xuống phố đọc báo, tôi đáp lời.
Ông Kha thở nhẹ một hơi khoan khoái rồi cầm bình trà rót nước ra tách. Từ lối cầu thang bên căn gác, bóng Thúy Hà đang đi xuống trên từng bậc gỗ. Tôi nghe tiếng bước chân nàng, lắng đợi một sự gói ghém để cho tình cảm của mình thêm phấn chấn.
Tôi cầm điếu thuốc ông Kha mời, bật cháy que diêm. Tôi luôn được hút những điếu thuốc ngon. Bên quầy, bà Uyên đang tính tiền và gói hàng cho khách. Khi gặp lại người bạn gái, tôi được thấy nàng chào tôi bằng nụ cười thân thiện.
- Ngày mai cháu ra thăm nhà, tôi nói với ông Kha.
- Tuần nào cậu cũng ra Huế cả.
- Dạ không. Có khi một tháng hoặc hai. Lần này, cháu muốn về thăm nhà để xem tình hình ngoài đó ra sao?
- Tôi nghĩ là thành phố Huế rất sôi động. Nơi đó là trung tâm đấu tranh. Cuộc cách mạng này, Huế xứng đáng được vinh danh.
- Cháu cũng có ý nghĩ như bác.
Tôi nói chuyện với ông Kha, và những điều tôi vừa nói ra rất muốn được Thúy Hà chia sẻ. Tôi yêu nàng, luôn ước mong được ở cạnh bên nàng. Và nghĩ đến nàng, tôi hình dung qua các nhân vật nữ trong tiểu thuyết mà tôi yêu thích. Tôi đọc khá nhiều truyện của Nhất Linh. Cô Thu “bướm trắng” cho tôi một vẻ đẹp thật quyến rũ. Cô Loan với mối tình “đôi bạn” làm tôi cảm động, nhớ rất nhiều đến một miền quê êm đềm. Loan, nàng là hình ảnh của sự yêu thương, của một quê nhà bao phủ mây trắng thanh bình.

Tôi ra đến Huế trong buổi chiều thứ sáu. Căn nhà thuê ở gần bên dòng Chúa Cứu Thế, nay gia đình tôi trả lại, dọn lên chỗ mới vùng Nam Giao, nằm sát bờ dốc bên dưới chùa Từ Đàm. Không riêng gia đình tôi, mà hầu như cả thành phố Huế ai cũng mừng vui chờ đợi mùa xuân đến để trong năm nay, đón một cái Tết thực sự an bình, tự do, không còn nỗi sợ hãi như trước đây nữa. Trong lần về trước, mẹ tôi có nói dự định bán nhà ở Quảng Trị, việc này đã thực hiện xong, còn chuyện muốn vào Nam sinh sống do tình hình thời cuộc đã đổi thay nên ba mẹ tôi vẫn cứ ở Huế. Với lại, dì Quyên dạy học ngoài Đông Hà nay cũng vào ở Huế, có vậy gia đình bên dì và bên tôi được sống gần nhau để giúp nhau.
Huế, thành phố khởi đầu cuộc nổi loạn vẫn đang còn sôi sục. Dòng sông Hương dậy sóng. Nắng trong thành phố đã thấm đậm vào niềm tin mỗi con người. Nơi đây, có những khát vọng qua tiếng kêu gào tự do, cả lòng thù hận. Nơi đây, nỗi phẫn uất còn nung nấu. Hai ngày ở Huế, tôi sống vui với bao cảm giác cùng những ý nghĩ mới mẻ, lạ thường. Sau cuộc Cách Mạng, thành phố đông người, ngập tràn đón mùa gió cách mạng trên những con đường như lễ hội. Giọng nói Huế luôn sôi nổi, đồng nhất. Tôi đi chơi, gặp những người lạ cũng thành quen, ai ai cũng tường thuật cho tôi nghe những giờ phút nghẹt thở của Huế khi hay tin có đảo chánh ở Sài Gòn. Hôm đó, từ đầu giờ buổi chiều mới nghe tin đồn, cả thành phố rất xao động, nôn nao, hồi hộp, vừa cảm thấy sợ hãi, lo âu. Tưởng như hôm ấy là một ngày phán xử, đang hết sức nặng nề. Bỗng dưng, mọi sinh hoạt đình trệ. Những cửa hiệu buôn bán vội vàng đóng cửa sớm. Và, mỗi lúc, các đường phố vắng dần, rồi các trường Đại học, trung học, sinh viên, học sinh rời trường ra về mà hầu như chưa có ai hiểu rõ về một biến cố đang xảy ra ở đây, hay là Sài Gòn. Đài phát thanh Huế hoạt động bình thường, nhưng không có tin tức thời sự, chỉ có ca nhạc, thỉnh thoảng loan ra vài tin ngắn địa phương. Và, ở giờ phút quan trọng của biến cố lịch sử, Huế cũng không tiếp vận đài Sài Gòn. Tuy nhiên, trong gia đình, nhà nào cũng đều chú tâm theo dõi diễn biến ngày Sài Gòn nổi dậy trong cuộc đảo chánh. Vào lúc hai chiều của ngày 1/11 bắt đầu những lời tuyên bố của quân đội loan báo có đảo chính do tất cả các vị Tướng lãnh đạo. Thế nhưng, một lúc lâu lại im lặng vô tuyến. Đột nhiên, có tiếng nói của Tổng Thống Ngô Đình Diệm qua làn sóng đài Sài gòn. Sự hiện diện của ông khiến mọi người lo ngại, vì uy quyền và triều đại của ông chưa sụp đổ. Huế, thành phố như đang hấp hối, hoang mang. Người nào đang ở ngoài đường cũng hớt hãi, mong sớm về nhà. Ngoài bến xe và nhà ga cũng rất vắng. Những chuyến xe buýt trong nội thành, những chuyến xe hàng đưa khách đến tỉnh khác, đều rất vội vàng sợ bị kẹt giữa giờ giới nghiêm. Và, người ta vẫn cứ tin rằng, hai anh em ông Diệm và Nhu vẫn còn nắm quyền chủ động. Nhưng lạ thay, sau một lần lên tiếng đó, tin tức về ông Diệm cũng im bặt luôn. Thời gian qua từng giờ, phía chính phủ, phía đảo chánh cả hai bên, không bên nào nắm được ưu thế. Chắc hẳn, đây phải là một trận chiến một mất, một còn. Và, cũng qua từng giờ, đài Huế vẫn chỉ có nhạc, không có tin. Những phố chính giờ này đã đóng cửa hết, nhưng người ta vẫn ra bên ngoài tụ tập từng nhóm trước nhà bàn tán về tin tức đảo chánh. Tới 5 giờ chiều, Đài phát thanh Sài gòn loan tin quân đội đã làm chủ tình hình cuộc đảo chánh. Ngay lúc đó, dân chúng nhảy múa, reo mừng và trên đường phố bắt đầu xuất hiện nhiều người đi xe gắn máy, xe đạp, tin đồn loan đi mỗi lúc một nhanh, khắp cả thành phố. Tới sáu giờ, Tướng tư lệnh vùng ban lệnh giới nghiêm. Và, đêm vừa xuống, thành phố Huế như là một nghĩa trang. Sau buổi cơm chiều nguội ngắt, mỗi gia đình đều tập trung một chỗ cố định quanh chiếc máy thu thanh, người nào cũng nín lặng với từng phút giây căng thẳng, nghẹt thở, từng phút giây mong được biểu lộ nỗi hân hoan, vui mừng, tin tưởng, và lúc đó, chắc không thể ngăn được dòng nước mắt. Vào giờ phút này, tất cả dân chúng miền Nam, chân tay người nào cũng cử động, cũng đưa ra bám níu lấy từng tiếng nói, từng cái tên của các vị Tướng. Khi nghe có thêm tên một vị Tướng, một vị công chức cao cấp xưng danh trên đài, đó cũng là lúc thấy được thêm những kết quả chiến thắng. Nhưng, sự chờ đợi, cứ trông vào sự chờ đợi trông vào mệnh trời, nó vẫn còn dai dẳng, chập chờn, vì, hoàn toàn không ai rõ về tin tức về Tổng Thống, ông cố vấn và cả gia đình nữa. Người ta được biết Đức Cha Ngô Đình Thục đi La Mã, bà Trần Lệ Xuân và cô con gái đang ở Mỹ giải độc, còn ở Huế, là vị lãnh chúa Ngô Đình Cẩn. Có thể lúc này, Huế vẫn rùng mình, lo sợ ông cậu. Ngày mai, nếu hai người anh của cậu còn nắm quyền, còn vững mạnh, cậu sẽ thực hiện ngay những việc sâu xa trong cái tâm mà cậu đang suy nghĩ.
Sông Hương vẫn lặng chìm giữa đêm tối. Người ta hầu như cố lắng tai để nghe, nhưng dòng nước đang chậm ngừng, không muốn chảy nữa. Người dân còn lo sợ với ảo tưởng, sông sẽ biến thành máu. Trong đêm khuya này, những gia đình theo đạo Phật, nhà nào cũng có hương khói trước bàn thờ, cũng có cái bóng của một người mẹ, hay người cha chấp hai tay lên ngực nguyện cầu cho đạo pháp và dân tộc được sống còn.
Tới nửa đêm, một tin quan trọng được loan báo trên Đài Sài Gòn là quân đội đang tấn công đánh thành Cộng Hòa và bao vây dinh Gia Long. Người chỉ huy hai mặt trận này là Tướng Tôn Thất Đính, dòng dõi bảo hoàng.
Nơi xa này, mọi người đang cố hình dung ra một trận đánh. Người ta nghe ra tiếng di chuyển của xe cơ giới, của đoàn quân, và tiếng súng nổ ồ ạt qua từng đợt xung kích.
Bất thần, nhà nào cũng mở toang cửa, dân chúng ùa hết ra đường ngay sau khi đài phát thanh ở thủ đô loan tin chính thức hai vị tướng Tư lệnh vùng 1 và 2 cùng lên tiếng ủng hộ cuộc đảo chánh.
Khắp các ngả đường, dân chúng ùn ùn chạy, rầm rập đổ về phía tòa tỉnh trưởng, các công sở, tòa lãnh sự Mỹ, và tập trung đông đảo nhất là nơi tư dinh của ông cố vấn Ngô Đình Cẩn. Trong đêm, những trái pháo từ bên kia kinh thành bắn lên vụt sáng lẫn với tiếng hoan hô chào mừng cuộc đảo chánh của các tướng lãnh là tiếng gào thét nguyền rủa, đả đảo chính quyền độc tài gia đình trị nhà Ngô. Và, có thể nói bao nhiêu biểu tượng về gia đình này, cùng một lúc sụp đổ, cùng một lúc mọi dấu vết đều bị xóa sạch.
Từ đêm khuya ấy của ngày cách mạng đến hôm nay đã qua hai tuần, nhưng cả thành phố vẫn không yên lặng. Ít khi, về đêm Huế có thể gây cảnh náo nhiệt, vậy mà, sự tự do trong cuộc cách mạng đã cho thành phố này những tháng ngày sôi nổi, hiếu động. Những nhà sách, quán báo, đông nghẹt người đứng chờ. Không đủ báo để mua, ở khu vực Đài Phát Thanh trước khuôn viên Đại Học Morin người ta xúm nhau coi chung một tờ báo, và có người sốt sắng tình nguyện đọc hết các bản tin, các bài phóng sự cho mọi người nghe. Rồi lại nghe tiếng cười vui, hoan hô, vỗ tay hài lòng. Hai ngày về thăm gia đình, tôi chỉ có mặt ở nhà trong bữa ăn tối, còn từ sáng sớm là lấy xe đạp đi chơi nhiều chỗ, bên trong cũng như ngoài nội thành. Huế, đã là thành phố tuẫn nạn trong biến cố Phật Giáo, vì thế, sự hồi sinh ở đây là sự sống lại của mỗi người dân. Vị thiền sư Nhất Hạnh đã viết hai câu thơ:
Nếu ngày về khung trời có đổ nát
Hãy tìm em nơi tận đáy hồn anh

Khi tôi đến thăm nhà Nguyệt, ai cũng ngạc nhiên và dồn dập hỏi tôi về tình hình ở Đà Nẵng.
Đứng bên Nguyệt, một giọng vui tôi nói:
- Không đâu có thể so sánh với Huế, kể cả Sài Gòn.
- Thụy nói đúng. Không tưởng tượng nổi cảnh tượng Huế trong ngày 2/11.
Tôi đưa mắt nhìn Nguyệt, thấy nàng có một vẻ đẹp rất là Huế.
- Không biết người Sài Gòn có hướng về Huế không?
- Có thể không. Nhưng nơi đó, là cả một niềm tin.
Hết hai ngày về thăm gia đình, tôi lại vào Đà Nẵng. Ngồi trên xe, một hình bóng trở lại trong tâm tưởng tôi là Thúy Hà.
Tháng mười một qua đi, tình hình trong thành phố Đà Nẵng thực sự lắng dịu. Mùa đông đã tới. Buổi sáng trời lạnh, đôi khi có những cơn mưa nhẹ hạt. Vào buổi chiều, lúc mặt trời lặn sương mù trên sông bao phủ cả khu bến Cảng. Và, những buổi chiều như vậy, sau giờ tan học tôi và mấy người bạn chưa muốn về nhà còn dạo chơi ở công viên nhìn những con tàu đậu, bóng dáng các thủy thủ trên boong, và đứa nào cũng thật thú vị với điếu thuốc hút ấm cổ họng, mắt nhìn từng làn khói lượn lờ, lãng đãng, có đứa tìm được những vần thơ hay liền đọc lên nghe rất dễ thương nhưng cũng men chút ngậm ngùi. Sau đó, cả bọn cùng kéo nhau lang thang dạo phố, nói cười thật ồn ào. Vui trong gió ấm mùa đông với cái lạnh của nắng, có khi là những cơn mưa nhè nhẹ đem buổi chiều dần dần vào bóng tối.
Sau lễ Giáng Sinh, kỳ thi Đệ Nhất lục cá nguyệt bắt đầu. Kỳ thi kéo dài đúng một tuần lễ. Mỗi môn thi được các giáo sư phụ trách ra đề và quây ronéo phát cho mỗi học sinh. Tôi vững tin về môn Toán, hy vọng sẽ lấy điểm cao. Hôm thi hai môn tiếng Anh và Pháp, tôi và Thúy Hà giúp nhau nên bài làm suôn sẻ. Giữa tôi và nàng, tình yêu đã có, và các bạn học ai cũng đều biết.
Rồi cả thành phố chuẩn bị đón Xuân. Trước kỳ nghỉ Tết, nhà trường khuyến khích các lớp từ nhỏ đến lổn làm bích báo, đồng thời tổ chức một chương trình văn nghệ liên hoan cuối năm.
Khu phòng hội ở lầu ba gần lớp Thúy Hà là nơi các lớp Đệ Nhị cấp tập trung để làm bích báo sau giờ học buổi chiều. Tại đây, sinh hoạt thật vui, anh em qua lại xem bài vở của nhau và lúc nghỉ cùng vui chuyện trò, ăn kẹo bánh của trường cho. Thúy Hà cũng có chân trong Ban báo chí ở lớp nàng, phụ trách phần vẽ tranh minh họa. Bên lớp tôi, bài vở các bạn đóng góp thật phong phú. Có thơ lục bát, thơ bảy chữ, thơ tự do, một bài nhận định của thầy cố vấn lớp, vài đoản văn, tùy bút, và đặc biệt, tôi viết truyện ngắn. Riêng truyện ngắn tôi sáng tác, tôi nhờ Thúy Hà vẽ giúp tranh. Nàng sẵn lòng, không ngại ngùng gì cả.
Khi ngồi bên cạnh nàng, nhìn nàng vẽ tranh cho truyện của mình, tôi rất hạnh phúc, sung sướng, coi bức vẽ này là kỷ niệm quý giá ví như là một món quà nhỏ mà tôi được nàng thân tặng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

IX

Buổi sáng ấy làm lễ tốt nghiệp, Phượng Nga nhớ lại rất lâu về Thụy, người em của Nguyên. Nàng cảm nhận một mối thân tình thật ấm áp, gần gũi, có lúc nàng hiểu được rằng, hai người bạn chân chính trong cuộc đời nàng là Nguyên và Thụy.
Phượng Nga đậu hạng khá, cô là nữ sinh viên duy nhất của lớp và của trường. Kỷ niệm ngày vui này, cô chụp nhiều bức ảnh với các thầy và các bạn cùng lớp. Riêng mỗi bạn, ai cũng ước mong được đứng bên cô trong một tấm hình làm kỷ niệm, nhưng cô từ chối. Với các vị giáo sư, cô cũng chỉ chụp hình chung để lưu niệm cho trường, chứ không riêng với vị thầy nào cả. Cô đã nhận được tấm bằng tốt nghiệp và một bó hoa hồng. Khi cô nhận lãnh phần thưởng này, ánh đèn chớp của những chiếc máy ảnh bùng sáng lên. Những nhà nhiếp ảnh đã chụp rất nhiều ảnh cho cô, và phần này, cô ưng thuận cho họ sử dụng một tấm để treo ở phòng ảnh làm mẫu của tiệm.
Mùa hè đã tới. Một ngày đầu hè, hoa phượng nở sáng đẹp. Và tên cô gái, những hình ảnh về cô nữa (trong ngày tháng năm qua, và hôm nay) làm cho ngày ra trường trở nên hân hoan như lễ hội. Một bông hồng trên tay cô gái là ánh sáng của nụ cười, biểu tượng một thành phố trong tâm hồn nghệ thuật. Những ánh mắt hướng về cô, những lời tán dương thì thầm, biểu lộ cho cô gái thấy đó là những vòng hoa của cuộc đời dành tặng cho cô. Cho đến các bạn, mỗi người với tấm lòng riêng luôn ước ao có được cho mình một khuôn mặt của cô.
Rồi, phần chương trình tiếp theo là tiệc trà và văn nghệ. Giữa chương trình, một bạn cùng khóa mời cô lên sân khấu hát một bài nhạc mà cô yêu thích. Không từ chối, cô đứng dậy, rời bàn lên sân khấu. Khi đứng trước máy vi âm, cô ngỏ lời chân tình cám ơn quan khách tham dự, cám ơn các thầy cô, rồi thật xúc động, tiếng nói của cô bỗng khô đi, nén chặt những lời chia tay với các bạn cùng lớp từ bốn năm qua. Có vài bạn được nhắc tên, bất ngờ lấy làm thích thú, trên gương mặt hạnh phúc sáng rỡ. Từ phút ấy, ai cũng đều chú tâm lắng nghe những lời cô gái phát biểu. Cách diễn đạt của cô qua từng ý rõ ràng, nhân hậu.
Mọi người cùng vỗ tay vang lên khi nghe cô giới thiệu bài nhạc mình sẽ hát, Bến Xuân của nhạc sĩ Văn Cao.
Tiếng hát cất lên, nghe dịu êm, lạ lùng, như chiếc thuyền đang dâng sóng. Tiếng hát lạnh và ngọt, âm thanh chuyển từng cảm xúc nghệ thuật đến người nghe, không những nghe, mắt còn chú ý đến ánh sáng từ những ngọn đèn làm rõ hơn gương mặt cô gái, mỗi một phút, mỗi một giây, nét đẹp đức hạnh của cô là nguồn sông tồn tại với cuộc đời. Không một ai phiêu bạt, giang hồ, và trở nên người lữ khách, nhưng tiếng cô hát, tâm hồn mình đã được chan hòa với sông nước.
Tới đây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng
Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng
Ngoài bến xuân
Ai tha hương…

Phượng Nga hát trở lại nguyên bài một lần nữa. Tiếng hát dứt, nỗi luyến lưu như vẫn còn. Và, cô gái đứng im lặng trong tiếng vỗ tay không ngừng. Ai cũng yêu cầu cô hát thêm bài nữa, nhưng cô nhường lại chiếc micro cho người khác.
Buổi tiệc trà trong ngày vui hôm nay, đây cũng là lúc cô gái thật hồn nhiên (như nắng mới, mời bạn hãy nghe, lắng nghe tiếng của cô đang chuyện trò)
- Một mình trong trường em là gái, có sợ không?
- Có, em sợ lắm. Năm đầu nhập học, em cứ nghĩ trường cũng có đông nữ sinh, đâu ngờ chỉ mình em thôi.
Nguyên lại đi công tác chiến dịch lên tiền đồn sau thời gian bốn tuần làm việc tại hậu cứ. Hầu như, đời lính đã gắn bó một cách chân thực với con người Nguyên. Anh làm việc, yêu thích công việc, hoàn tất nhiệm vụ trong khoảng thời gian cần thiết, đầy đủ.
Bộ chỉ huy nặng của Trung đoàn cố đô vẫn nằm trên căn cứ Bastonge. Lên đó, Nguyên cùng đoàn văn nghệ tâm lý chiến lội bộ đến các tiểu đoàn. Tại mỗi điểm, đoàn trình diễn văn nghệ cho lính xem, chương trình gồm các tiết mục kịch vui, đồng ca, đơn ca. Nguyên luôn dẫn dắt chương trình, anh có những lời giới thiệu hấp dẫn, dí dỏm, làm lính vui và khoái thưởng thức chương trình văn nghệ của lính. Sau khi phần văn nghệ kết thúc, đến phần chính là công tác học tập chiến tranh chính trị. Nguyên giảng giải cho binh sĩ nghe về các bài học chính trị một cách sáng sủa, vừa cụ thể. Lồng vào đoạn giảng, anh kể một câu chuyện, thường là chuyện xưa, tích cũ, những chuyện này để luận cổ suy kim, rất dễ cho trình độ người lính, và họ đã cảm nhận được ngay cho chính bản thân, cùng đồng đội. Có vài người lính bày tỏ niềm ngưỡng mộ nói với Nguyên rằng, bài anh giảng hiệu quả hơn cả ngàn tờ truyền đơn thả xuống vùng địch. Và, không chỉ văn nghệ mà còn có cả chiếu phim. Nguyên giỏi xoay xở, anh mượn những bộ phim thời sự bên phía đài truyền hình, bên các cố vấn Mỹ những phim về chiến tranh ca ngợi sự dũng cảm của người lính chiến đấu ngoài mặt trận. Và, hình ảnh những trận chiến trên màn ảnh thực sự đã có tác dụng vào trí tưởng tượng của những người lính đang hiện diện ngay trong vùng đóng quân trách nhiệm của mình.
Nguyên gắn bó với đời lính không chỉ riêng cho cá nhân anh, mà còn rất được tình cảm mến thương của đồng đội. Tình cảm đó như một dòng sông rẽ nhánh, càng cho anh có được thêm tình yêu và nỗi nhớ về Phượng Nga. Nguyên nhớ Phượng Nga, từng giây, từng phút trong công việc của mình. Nguyên làm việc để nhớ nàng và đặt nàng vào ngay trong công việc của mình. Phượng Nga cũng vậy, hình ảnh Nguyên là một vầng sáng của hào quang. Sự đam mê công việc của Nguyên rất hòa hợp với quan niệm sống của Phượng Nga. Trên nhung lụa của đời nàng, sự dũng cảm của một con người chiến sĩ được nàng thêu dệt, gói ghém. Nàng cũng luôn thể hiện cái hay, cái đẹp, cả hạnh phúc gia đình rồi đây sẽ hình thành với cuộc chung sống trong từng công việc của Nguyên. Vậy nên, hôm nay dù vắng Nguyên, nhưng nàng đang nhớ nghĩ đến anh nhiều hơn hết.
Về tới nhà, Phượng Nga thay quần áo xong lên giường nằm nghỉ. Giấc ngủ ngon làm nàng cảm thấy dễ chịu. Nắng ấm của ngày hè đọng lại như mật, rồi chỉ một thoảng gió lay động là mùi hương tản mác, nhẹ nhàng tan ra thành hương vị trái cây.
Khi một mình nằm lặng im trong thức giấc, Phượng Nga thường để trí tưởng mình nhớ đến cô em gái Mỵ Châu, và nhớ Đà Lạt hơn hết. Đó là thành phố đầy kỷ niệm đẹp của những tháng năm trong thời thiếu nữ của nàng. Và, nàng đến đó, để rồi về sau mang nỗi nhớ thương đau đến một người anh trai sống rồi cũng chết ở nơi đó.
Phượng Nga xóa nhẹ giấc mơ đã chảy thật ướt mát trên gương mặt nàng. Nàng ngồi dậy, đến ngăn tủ lấy quần áo đi tắm. Ánh sáng một bóng đèn vừa đủ cho căn phòng nhỏ và tối, nhưng thật là kín đáo. Nga đã múc nước đổ đầy trong cái xô lớn. Xong rồi, nàng bắt đầu tắm. Nàng dội ướt một gáo lớn lên thân người, tiếng nước vang lên, rồi những gáo nước khác, làm tiếng nước vang lên nữa, mỗi lúc, nước càng tuôn chảy rất mau. Sự trong trắng của nàng là hoa lan. Nàng luôn hiểu về mình, yêu thích cuộc sống mình, đó là cuộc sống mang những nét đẹp giản dị và thật uyển chuyển. Nàng thực sự luôn tạo dáng, nhưng đó là sự khéo tay làm bạn ngơ ngẩn người vì vẻ đẹp của nàng trong lối tạo dáng ấy rất là tự nhiên. Phượng Nga là nguồn sáng hiền dịu của bức tranh khỏa thân. Nàng có dáng đẹp từ ánh mắt của bạn nhìn nàng khi thấy rõ toàn thân người. Ở dáng đẹp này, nàng có thêm duyên may của trời cho một khuôn mặt dễ thương vừa gợi cảm, một đôi mắt âu yếm, một mái tóc yêu thương không hề biết đến sự lung lay của tiếng động, và còn nữa, nó nói tới ý nghĩa sự đợi chờ của tuổi thanh xuân.
Sau khi tắm xong, Phượng Nga dọn dẹp lại phòng tắm. Không khi nào nàng ở lâu để trang điểm hay ngắm kỹ nhan sắc của mình. Nàng cũng không chải tóc, mà cứ dể cho mái tóc ướt sủng, xong đem ra ngoài nắng ráo để hong khô. Khi tóc ướt và nắng pha trộn, nó làm thành hương vị của một thứ nước hoa có mùi dịu, ngây ngất.
Vừa lúc ra khỏi con dốc cuối vườn nàng chợt dừng bước khi trông thấy bóng bà Huyên từ phía đầu mái hiên đi về hướng căn phòng nàng thuê ở. Có lẽ, bà tìm nàng, nghĩ vậy, nàng bước nhanh. Hai người gặp nhau trong tiếng chào hỏi thân thiện.
- Bao giờ cháu mới nghỉ hè?
- Dạ, bắt đầu hôm nay.
- Ngày mai, cháu vào nhà chưa?
- Thưa bà, chưa. Cháu còn ở đây một tuần nữa.
Với nụ cười hiền hậu, bà Huyên nói:
- Cháu đừng đi xa bà lâu quá.
- Hôm nào có dịp đi Đà Nẵng, bà ghé chơi nhà cháu.
- Hẳn rồi.
Nàng mời bà Huyên vào nhà. Hai người đi lên phòng khách. Cánh cửa lớn mở rộng, ngoài sân đầy nắng, và dòng sông bên dưới kia con đường thấp thoáng hiện những chiếc thuyền đang ngược lên phía ngả ba sông.
- Mau chóng quá, mới ngày nào cháu đến ở, giờ đã qua hai mùa hè.
- Đến chừng nào cháu mới ra trường?
- Dạ, cháu mới ra trường hôm nay.
Bà Huyên liền đứng dậy nhìn ngắm cô gái. Hạnh phúc như sắp được thể hiện trong lời cầu mong của bà.
- Rồi đây căn phòng này sẽ vắng cháu, bà Huyên nói xong, lại ngồi xuống.
Một giọng chân tình của cô gái:
- Cháu vẫn có sự ràng buộc với Huế. Ở đây, cháu cũng luôn có được bà.
- Bà cần cháu giúp một việc được không?
- Cháu sẵn lòng.
Nàng vừa đáp, dịch người tới một chút ra dáng vẻ đợi và nghe.
- Bà có một bức ảnh cũ bà rất thích. Cháu vẽ lại tranh chân dung cho bà được không?
- Dạ được, cháu sẽ vẽ lại cho bà.
Bà Huyên nói:
- Kỷ niệm của bà là để nhớ cháu.
- Cháu rất cám ơn bà.
Rồi một lúc sau, nàng nghe tiếng bà Huyên nói:
- Hạnh phúc của mỗi người luôn tìm được trong sự thiếu thốn. Rồi đây căn phòng này không còn sự hiện diện của cháu, bà sẽ đóng cửa không cho ai thuê nữa. Thế nhưng, bà sẽ qua lại căn phòng này, và những gì nơi đây đều nhắc nhở bà tiếng nói của cháu. Sự luyến nhớ đem đến cho mình có thế thôi, nhưng bà vẫn nghĩ, những lúc ấy bà và cháu thật gần nhau.
Phượng Nga không biết nói gì, nàng đưa mắt nhìn bà Huyên bằng sự yên lặng trong buổi chiều. Nàng bỗng nhớ đến Thụy, phút chốc, trong tâm trí nàng hiện ra một thành phố biển xanh rất đáng yêu.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

X

Trong tuần lễ chờ Nguyên về, Phượng Nga vẽ xong bức chân dung cho bà Huyên. Nét vẽ của nàng thật kỹ và sắc, lột tả được một khuôn mặt trí thức của người phụ nữ của thập niên năm mươi.
Khi nhận món quà là bức chân dung, bà Huyên nói:
- Hãy nghĩ bà là một người mẹ nuôi của cháu.
- Vâng, cháu xin phép.
- Căn phòng này thuộc về của cháu. Những lúc nào cháu ra Huế, hay từ đâu đến Huế, cháu hãy ở căn phòng này.
- Cháu xin cảm tạ tình thương của bà.
Trưa hôm ấy, Phượng Nga dùng cơm với vợ chồng bà Huyên. Sau bữa ăn, dùng trà, bà Huyên kể câu chuyện đời mình cho cô con gái nghe. Phượng Nga thật hãnh diện được biết người mẹ nuôi mình là một phụ nữ trí thức, ngày ấy, đã từng nổi dậy trong những cuộc biểu tình bãi khóa, rồi với cách mạng tháng tám bà đi theo kháng chiến chống thực dân Pháp. Lòng yêu nước của bà rất sáng suốt, hiển lộ cái lý tưởng đẹp với tổ quốc.
Tới ngày thứ bảy, Nguyên dẫn đoàn công tác về Trung đoàn. Khi đoàn trình diện, vị Trung đoàn trưởng tưởng thưởng mỗi người một huy chương đồng và mời ra hội quán dùng bữa ăn trưa. Đoàn văn nghệ này thuộc quân khu I nên xong công tác họ đi Đà Nẵng. Nguyên ở lại hậu cứ và tường trình về chuyến công tác trong buổi họp. Vị Trung đoàn trưởng thật hài lòng khi đơn vị có một Sĩ quan trẻ, năng động, xông xáo, và rất thông minh. Nguyên không chỉ trách nhiệm trong lãnh vực về tâm lý chiến, anh còn được xem là cố vấn cho vị Trung đoàn trưởng về tham mưu ở hậu cứ cũng như ngoài chiến trường. Đã bốn lần Trung đoàn nhận cờ danh dự, và cuộc đón tiếp Tổng Thống vào hai tháng trước đây rất thành công.
Nguyên về, sau chuyến công tác rất vất vả vì thời tiết và đối diện với những ngày trận chiến xảy ra ngoài vùng hành quân. Nguyên thực sự cũng thấy mình thể hiện được tinh thần chiến đấu như binh lính và cấp chỉ huy trong đơn vị tiểu đoàn, địch quân đã bị loại khỏi vòng chiến, rút lui sau hai giờ giao tranh.
Căn cứ Trung đoàn nằm ở Dạ Lê, xa Huế khoảng hơn mười cây số. Nguyên lái xe một mình. Anh về thẳng nhà Nga đang ở, dừng xe bên con đường Huyền Trân ngoài cổng. Đây là con đường từ đầu thành phố ra ngoại ô, có một quãng chừng nửa cây số đi ven theo dòng sông.
Nguyên xuống xe với chiếc ba lô, anh bước nhanh chân, lòng cảm thấy mừng vui như một đứa trẻ đì xa về thăm nhà.
- Nga ơi, tiếng Nguyên gọi.
Vội vàng buông tờ báo, rời khỏi giường hai chân Nga thật cuống quít. Vừa mở cửa, nàng la lên khi thấy Nguyên xuất hiện trước mắt nàng.
Nàng cầm chiếc ba lô, hai người ngồi xuống phòng khách. Vừa mở gút dây buộc ba lô, nàng nói:
- Em đợi anh một tuần nay.
- Chuyến đi này thật vất vả.
- Anh hơi gầy đi.
Trong ba lô có mấy cuốn sách, tài liệu chính huấn, và một gói nylon cất những áo quần lính chưa giặt.
- Ngày lễ ra trường vui không?
- Vui lắm. Nhưng em cũng hơi buồn vì vắng anh.
- Ngày đầu đoàn mới đến, đơn vị Tiểu đoàn 1 chạm súng với địch.
- Ban đêm, đơn vị có bị pháo kích không?
- Không.
- Mỗi lần anh đi công tác tiền đồn, em lo. Có đêm không ngủ được.
- Nhưng em cũng đã quen với không khí chiến tranh.
Phượng Nga mỉm cười, gật đầu. Nàng rất hãnh diện cho Nguyên và cả mình nữa.
- Sao, em có muốn dạy học ngoài Quảng Trị không?
- Em đợi, để anh về đưa em đi.
- Thụy có viết thư cho em không?
- Có. Em cũng mới nhận. Đi Quảng Trị về, em sẽ đáp thư.
- Chắc nó viết thư thuyết phục em ra ngoài đó dạy.
- Rất đúng.
- Tội nghiệp, nó rất là quý em. Hình ảnh của em không chỉ là hạnh phúc của gia đình, mà riêng nó, ghi nhận nhiều hơn hết.
- Thụy hiểu tâm tình em hơn cả anh nữa.
- Anh biết.
Ngày hôm sau, Nguyên và Phượng Nga đi Quảng Trị. Khoảng chín giờ sáng xe khởi hành. Khi Nguyên đi công tác, xe công vụ đem tu sửa, và tài xế của anh nhận được xe một chiếc loại mới, trần thấp, tay lái nhẹ.
Huế - Quảng Trị, đi chừng gần hai giờ xe là tới. Nguyên và Phượng Nga nói đủ thứ chuyện sau một tuần lễ vắng nhau. Có lúc ngừng trong lặng yên, Nguyên chăm chú lái xe, còn nàng đưa mắt mơ mộng nhìn ngắm khung cảnh làng quê trong buổi sáng êm dịu, trời mát.
- Em thấy lạ, Huế và Đà Nẵng cách nhau một con đèo, mà giọng nói hai nơi rất khác nhau.
- Nhưng cách dùng chữ giống nhau nhiều.
- Một số chữ thôi.
Nguyên chợt hỏi:
- Tiếng Quảng Trị, em nghe hiểu hết không?
- Hiểu thôi, nhưng không đúng hết.
- Anh là người Quãng Trị.
- Làm như em không biết chi cả.
- Ý anh muốn em hiểu, anh nói tiếng Quảng Trị.
Nga phân tích:
- Rất ít chất Quảng Trị. Tiếng anh không quá nặng, nhẹ gần với giọng Huế và có tiếng của miền Bắc.
- Năm 1954, Quảng Trị nhận đến hơn mười ngàn người Bắc di cư. Nhà anh lúc đó, có đến ba gia đình người di cư thuê ở.
- Nhà rộng lắm hả?
- Đất hoang rộng nên ba anh có làm thêm một căn nhà phụ ngăn bốn phòng.
- Anh nói chuyện thời di cư, em không biết gì hết.
- Đó là năm anh vừa lên trung học.
Nàng đưa mắt nhìn qua Nguyên. Nàng hình dung lại gương mặt của Thụy. Hai anh em, mỗi người có một nét riêng, thân thiện và dễ nhớ. Nguyên vẫn giữ được dáng dấp trẻ của một thư sinh, còn Thụy khô khan, cứng cỏi, nhưng có giọng nói nghe ấm và đầy cảm xúc. Nàng hiểu rằng, dù Thụy không bao giờ nói ra những lời tâm tình của anh, nhưng nàng hiểu, và trong mắt nàng, sự giải thích về mối liên hệ bao giờ cũng đúng.
Bỗng Nguyên lên tiếng hỏi:
- Em có thấy lo lắng không?
- Dĩ nhiên là có. Nhưng không sao, đây cũng là một thử thách cho mình khi vào đời.
Một giọng thân tình, Nguyên nói:
- Tuy thành phố Quảng Trị nhỏ, nhưng cuộc sống cũng yên bình, dễ chịu.
Phượng Nga đáp bằng một giọng cố nhấn mạnh:
- Không, không thể có sự yên bình. Miền Nam, không nơi nào không có chiến tranh, không có tiếng súng. Chiến tranh luôn đe dọa từng ngày ở vùng núi, nông thôn, cũng như các thành phố.
- Em đừng bi quan với những điều mình lo nghĩ.
- Em ra ngoài quê anh, cũng là để chia sẻ với kỷ niệm cũ của gia đình.
- Em nói một ý hay.
Nguyên vừa lách tay lái, qua mặt xe trước rồi tăng ga cho xe hướng lên con đường dốc. Hai bên đường có trồng loại cây bồ đề, nhưng quang cảnh hoang vắng. Phía bên trái là đồng ruộng, cỏ hoang, bên phải hiện ra dãy đồi cát hình yên ngựa. Nga buột miệng:
- Quê nội anh, cát thật là trắng.
- Em có thấy những đồi cát tựa như đàn voi.
- Anh thực giàu tưởng tượng.
- Quê hương mỗi người luôn đẹp trong trí tưởng và cả thực tế nữa.
- Mùa hè này Thụy có về phép không?
- Chắc là không.
Con dốc khá cao. Lên tới đỉnh dốc, hai người trông thấy một ngôi làng xa, cách những đồi cát đến hơn một dặm. Từ quãng dốc này, hai cây số nữa là tới lằn ranh tỉnh lỵ.
Nguyên đưa chân qua rà thắng, đến lúc, anh cho xe ngừng trước sân một quán nước lợp tranh.
Hai người xuống xe, đi vào quán. Trong quán, hai bàn tròn có khách. Còn lại, ba bàn trống vắng. Khi chàng và nàng vào quán, khách đưa mắt nhìn, họ chú ý đến nàng hơn là viên Sĩ quan. Nàng mặc áo dài tím, tóc dài không buộc nơ mà buông thả xuống vai.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Chị bán quán đến chỗ hai người vừa ngồi, cầm khăn lau bàn.
- Thưa Đại úy và cô dùng chi?
Nguyên hỏi Nga:
- Em ăn gì không?
- Không.
- Uống cà phê nghe.
Nga gật đầu. Nguyên bảo chị bán quán:
- Cho hai cà phê sữa.
- Dạ, uống nóng hay đá.
- Uống nóng.
Khi chị bán quán rời bàn, Nguyên hỏi:
- Lâu nay Mỵ Châu có gởi thư cho em không?
- Có. Mỵ Châu cũng muốn em đi xa nhà ít năm.
- Vậy hả, em Châu nói lúc nào?
- Anh hãy tin Mỵ Châu lúc nào cũng có nhiều tâm sự với em.
- Anh biết, anh cũng rất thương Mỵ Châu.
Phượng Nga mỉm cười. Nụ cười trên mắt nàng rất hiền dịu. Trong những khoảnh khắc lặng thầm với suy tưởng, ánh sáng lạnh màu xám tro trên đôi mắt nàng như thể hạ thấp xuống và tìm một chỗ đậu lên hai bàn tay của nàng.
Hai phin cà phê mang ra. Những giọt cà phê chảy xuống đều, dần lấp kín lớp sữa dưới đáy ly.
Khi cà phê đã ngừng chảy, Nguyên nhấc phin ra, cầm chiếc muỗng khuây tan sữa rồi đưa cho Nga. Đến ly của mình, Nguyên cũng khuấy kỹ cho tan sữa vào cà phê. Hai người mời nhau uống. Cà phê không tệ, uống được, có chút vị thơm.
Trên khóe môi nàng, có dấu in một vệt sữa. Nàng đẹp, luôn luôn đẹp. Nguyên nói về Quảng Trị như là một bài giảng về môn địa lý.
- Có đúng là ngày xưa mẹ mở quán hàng cơm?
- Đúng. Kỷ niệm những ngày buôn bán của mẹ, anh nhớ cảm động.
- Em cũng tin. Đọc truyện của Thụy viết, mọi sinh hoạt của gia đình luôn hiển hiện trong đó.
- Những năm ấy anh vào học ở Huế, mỗi cuối tháng mới về thăm gia đình. Còn Thụy ở nhà, giúp mẹ chạy bàn cho khách. Thời kỳ đó, còn có thêm khách ăn cơm tháng.
- Anh là con đầu nên rất sung sướng.
- Thời đi học, anh nhớ được nhiều kỷ niệm đẹp.
- Bây giờ còn không?
- Còn, em cất giữ.
Nga cười, nụ cười thật có duyên ở cửa miệng. Ánh mắt nàng cũng cười, trong đôi mắt, những hạt cám vàng nở như hoa. Nga uống nốt phần cà phê còn lại.
- Kể ra, uống cà phê là một cái thú.
Nguyên hỏi:
- Em có biết ông Kim Thánh Thán không?
- Không.
- Kim Thánh Thán là một nhà phê bình lỗi lạc Trung hoa. Trong cuộc sống đẹp, ông nói con người có 32 cái thú.
- Ông có nói đến thú uống cà phê không?
- Thời xưa, bên Tàu chưa có cà phê.
Nguyên nhớ một vài mẩu chuyện nhỏ, anh kể lại cho Nga nghe. Nàng thích thú, và lúc mắt cười, nàng cứ nhìn sang gương mặt Nguyên.
Chị bán quán muốn nghe chuyện tâm tình của ông Sĩ quan và cô gái, nhưng chị vẫn đứng bên quầy hướng mắt nhìn về phía bàn hai người. Một lúc lâu, mấy người khách ngồi phía bàn gần quầy rời ghế đứng dậy. Hai thanh niên, bốn đàn ông và hai người đàn bà. Người trả tiền ra cửa sau cùng. Ngoài sân, tiếng người thanh niên nói với đứa bạn:
- Vợ ông Đại úy đẹp quá.
Đứa bạn nghe, vội quay đầu nhìn vào trong quán. Nàng đang cười nghe chuyện của chàng, mái tóc rung rung.
Nguyên chợt trông thấy chị bán quán mang khay trà đến.
- Bao nhiêu tiền cà phê đây chị?
- Dạ, xin sáu chục.
Nguyên mở nắp túi áo lấy tiền trả.
- Cám ơn. Mời cô và Đại úy uống trà.
Nga tráng tách trà xong, rót hai tách. Nguyên nhìn đồng hồ, uống xong chén trà nhỏ hai người rời quán ra xe.
Nắng trưa tràn ngập qua cánh đồng. Lên xe, Nguyên tra chìa khóa nổ máy. Tiếng máy nổ nghe êm, từ phía sân chiếc xe Jeep lăn bánh ra ra đường. Chiếc xe dừng bật đèn hiệu để rẽ, và đợi chiếc xe hàng vượt qua xong, Nguyên mới vào quốc lộ chính và tăng tốc độ.
Những cột cây số hiện ra trên đường.
- Đồng Hới, 60 km.
Nga quay sang hỏi Nguyên:
- Đồng Hới thuộc tỉnh nào, anh?
- Tỉnh Quảng Bình, phía miền Bắc.
- Anh ra tới ngoài đó chưa?
- Chưa. Nhưng anh có biết.
- Biết sao, nói em nghe.
- Đồng Hới là thị xã của tỉnh Quảng Bình. Ở thị xã này, nhà nào cũng có vườn trồng hoa hồng.
- Hay nhỉ.
Nguyên tiếp lời:
- Ngày xưa, thời chúa Nguyễn từ Quảng Bình vào đến miền Nam, người ta gọi là xứ đằng trong. Đây là những vùng đất mới của người di dân từ Thanh Hóa. Đến mỗi nơi, di dân lập nghiệp sống gần nhau, tạo thành thôn, thành xã. Cứ vậy, dân số phát triển dần dần theo cuộc Nam Tiến.
- Anh nhớ hết tên các vị Chúa không?
- Không nhớ hết. Người đầu tiên đem dân vào xứ đằng trong, lập nghiệp trên đất Ái Tử Quảng Trị là Nguyễn Hoàng, sử gọi ông là Chúa Tiên.
- Có bao nhiêu đời Chúa?
- Chín đời.
- Vị Chúa nào giỏi nhất?
- Chúa Hiền Vương. Thời đó, miền Nam trải dài đến vùng Cà Mau, là công lao bình định của Chúa Hiền Vương. Thời của vị Chúa này, miền Nam rất hưng thịnh.
- Đồng Hới, thị xã hoa hồng, còn tỉnh Quảng Bình có lớn hơn Quảng Trị không?
- Cũng nhỏ như đây thôi. Có động Phong Nha, đèo Ngang trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, và di tích lũy Thầy của Đào Duy Từ.
Một giọng vui, Nga nói:
- Em khen trí nhớ của anh. Chuyện anh kể, giống như học sinh thuộc bài hồi nhỏ.
Nguyên điềm nhiên hỏi:
- Em thấy anh dạy môn sử địa được không?
Liếc mắt nhìn qua, nàng cười nói:
- Người ta đã khen, còn làm bộ hỏi nữa.
Tới Quảng Trị, đã gần mười hai giờ trưa. Từ ngã tư quốc lộ rẽ vào đường tỉnh, Nguyên cho xe chạy chậm.
- Em muốn đi ăn, hay tới nhà thầy Hiệu trưởng.
- Tùy anh.
Anh nghĩ, giờ này thầy có ở nhà, mình tới dễ gặp.
Nga gật đầu. Phố Trần Hưng Đạo, trước đây có tên là đường Ga, đường này dẫn từ ngã tư ngoài quốc lộ I về đến trung tâm tỉnh. Trong tỉnh, cũng có nhiều đoạn ngã tư, ngã ba, mỗi ngả đi về một dãy phố, sinh hoạt quần tụ, liên kết, nối tiếp nhau như những con đường ngang dọc trên một bàn cờ. Khi xe vào trung tâm phố chính, Nguyên chú tâm lái còn Nga đưa mắt nhìn quang cảnh sinh hoạt phố vào giờ này tấp nập, đông vui. Tiếng nói người Quảng Trị nghe nặng thật, Nga mỉm cười nhưng không nhìn sang Nguyên. Trước khi đến ngã tư, con đường Trần Hưng Đạo có một cửa hiệu chụp ảnh và hai cửa hiệu sách.
- Em không thấy có hiệu thuốc tây.
- Chỉ có một hiệu thuốc tây nằm trong khu chợ.
Nguyên dừng xe ở ngã tư chờ cho người đi bộ băng qua đường, rồi rẽ phải vào đường Quang Trung. Nga hỏi:
- Thầy Hiệu trưởng dễ chịu không anh?
- Thầy là một người rất mẫu mực, tính tình thật điềm đạm.
- Thời anh còn học, thầy đã làm Hiệu trưởng chưa.
- Rồi, thầy nhận chức Hiệu trưởng đúng vào niên khóa anh lên lớp Đệ Tam.
Nga lại hỏi:
- Theo ý anh, thầy nhận em dạy không?
- Em đừng lo lắng. Anh đã nói chuyện trước với thầy rồi. Và, thầy còn mong nữa. Trường đang thiếu giáo sư phụ trách môn hội họa.
- Em cũng nghĩ môn này, ít giáo sư tốt nghiệp trường Mỹ Thuật nên thầy dễ nhận.
- Nếu em muốn dạy các môn phụ Việt văn, Nhạc, Sử địa, anh sẽ nói với thầy.
- Em dạy môn Việt Văn được không?
- Sao mà không được. Em có Tú Tài văn chương, thêm một năm học Dự bị nữa, quá đủ điều kiện.
Nga cảm thấy mình hết sức hưng phấn trong sự khích lệ của Nguyên. Ngoài môn Họa ra, nàng sẽ dạy thêm vài môn khác nữa.
Một giọng hồi tưởng rất ân tình, Nguyên nói với Nga về tiểu sử của vị Hiệu trưởng và ngôi trường cũ.
Thầy quê ở Cam Lộ, có bà con bên bà ngoại. Năm 1950, thầy thi đậu Tú Tài ban cổ ngữ. Vì Huế lúc đó chưa có trường Đại Học nên thầy về Quảng Trị với ý định làm nghề giáo. Năm 1951, thầy ở trong ban Hội đồng tỉnh vận động xin mở trường trung học, đầu tiên trường lấy tên Quảng trị, sau đổi thành Nguyễn Hoàng, tên trường này chính thức được Bộ Giáo dục chấp nhận. Những năm trường mới mở, thầy dạy các môn Anh, Pháp, Việt Văn. Niên khóa 1958 - 1959, từ chức vụ Giám học thầy được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng cho tới bây giờ.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

- Anh còn nhớ thật là rõ chi tiết.
- Ở Quảng trị, thầy là một biểu tượng không chỉ riêng ngành giáo dục mà còn là nhân sĩ của tỉnh. Một lá thư gởi đến thầy, không cần ghi địa chỉ, người Bưu tín viên cũng đưa đến tận tay.
- Anh rất là giỏi, em khen anh.
- Cám ơn em.
- Đồng ý, nhưng chỉ cần nói một lần thôi. Lập lại nhiều lần, em cất không hết.
Xe dừng bên ngoài đường, cách đường kiệt vào nhà thầy Hiệu trưởng khoảng vài chục mét. Nguyên và Nga xuống xe đi bộ.
Trên đường đi, Nguyên còn nhớ lời của thầy Hiệu trưởng nói với anh lần gặp trước đây.
- Hay lắm, trường Nguyễn Hoàng cũng đang thiếu thầy.
Và, nhớ lời thầy tâm sự:
- Ai đến dạy học ở Quảng trị cũng thân thương với thành phố này.
Nga cầm lấy tay Nguyên. Hai bên đường kiệt chỉ mọc lên vài căn nhà, và nhà thầy Hiệu trưởng ở cuối hết.
Cái bóng một người đàn ông dáng vừa cao trong bộ quần áo nhẹ màu lam đang chăm sóc mấy chậu hoa, đó là thầy Hiệu trưởng. Đến trước cổng, cả Nguyên và Nga dừng bước đợi, mắt chăm chú nhìn người chăm sóc mấy bông hoa, nhưng cả hai không lên tiếng gọi. Bất chợt, người đàn ông ngẩng đầu lên nhìn ra cổng, vừa ngạc nhiên, vui mừng. Đến bể nước rửa tay xong, thầy ra cổng mở cửa.
- Mời hai em vào nhà.
Trước sân là giàn hoa giấy có bông hồng, bông trắng nở rất đẹp. Có một bức bình phong và nhiều chậu hoa sắp thành hàng. Hoa lan có giàn riêng, mỗi chậu có móc hai vòng thép để treo lên giàn, bên dưới giàn là một bể nước hình chữ nhật vừa nuôi cá, vừa dùng lấy khí mát giữ độ ẩm ướt cho tốt những giò lan để lan được sống lâu.
Nhà lợp ngói âm, quay lưng với mặt đường phố, từ cổng sân nhìn qua hồ nước, phía trước là một cánh đồng ruộng, nhưng đất ruộng không phải là sở hữu của gia đình.
Phòng khách để chiếc bàn dài chính giữa, bốn ghế đẩu. Bàn gỗ đánh véc ni sáng bóng. Trên bàn có sẵn khay trà, bình trà, hộp trà, và một chiếc bình thủy. Nhà thường có khách hay viếng nên chủ nhân lúc nào cũng có sẵn trà nước để đón tiếp. Hai người khách ngồi yên lặng, thoáng để mắt quan sát cách bài trí, nổi bật là những bức hình chạm trổ và những chữ nho dát vàng trên mỗi câu đối. Người thầy đang pha trà, vừa hỏi mấy câu chuyện với khách.
Nước sôi đổ đầy trong ấm. Sau một phút đợi ra trà, thầy rót trà vào ba cái tách, Rất lịch thiệp, thầy đưa tách trà qua cho cô gái, giọng vui nói:
- Mời cô giáo mới của trường tôi.
Nga rất vui, nàng nói như reo lên:
- Như vậy, thầy đã nhận em vào dạy cho trường.
- Không nên giải thích nhiều.
- Em cám ơn thầy.
- Không có chi đâu.
Ba người cùng nâng tách, uống một hớp trà. Nguyên hỏi:
- Năm tới, trường có mở thêm lớp không thầy?
Một giọng chậm rãi, người thầy nói:
- Có xin, nhưng hẳn còn chờ phụ huynh đóng góp và ngân sách của tỉnh cho.
Tiếp lời, thầy nói:
- Mỗi năm, học sinh vào trường một nhiều. Nhưng trường lại thiếu lớp, thiếu thầy. Tỉnh Quảng Trị ở cuối miền Nam, đầu vùng giới tuyến nên ai cũng ngại đến vì lo sợ an ninh và chiến tranh. Nhưng đến đây dạy, tính người dân và học sinh của tỉnh chân chất, ai cũng yêu mến, lúc ra đi đều luyến tiếc. Nhưng trong cuộc sống, hoàn cảnh mỗi người một khác, nên ở Quảng Trị, nơi này có tình nghĩa mấy cũng chỉ giữ được các giáo sư tới đây dạy học chừng một hai, ba năm là cùng. Năm tới, một số thầy của trường cũng đã xin đi.
- Dạ, tiếng Nga đáp rất nhỏ.
Nàng đưa mắt nhìn vị thầy, thấy một nỗi băn khoăn hiện rõ trên gương mặt một con người lương tri, và đang giữ lấy tấm lòng.
- Uống trà đi em.
- Dạ.
Nguyên chợt hỏi:
- Cuốn sách thầy viết được tới đâu rồi?
- Được hơn một nửa. Về những chương sau này, tài liệu rất khó tìm.
Giọng rụt rè, Nga hỏi:
- Thầy có soạn sách.
Một cái gật đầu nhẹ, thầy Hiệu trưởng nói:
- Có. Tôi đang soạn một cuốn sách về địa lý, danh nhân và văn hóa tỉnh Quảng trị. Sách biên khảo này, cần có tài liệu chính xác nên không thể viết nhanh được.
Nguyên tiếp lời thầy, nói với Nga:
- Thầy là người Quảng trị, sống trong tâm tưởng quê nhà, ở đây thầy xây dựng trường học và gắn bó với trường đã bao nhiêu năm. Học sinh trong mỗi thế hệ đều rất quý thầy, và luôn nhớ đến thầy. Nhưng với bao nhiêu công việc của trường, thầy không thể cáng đáng nổi một mình. Như lúc nãy qua lời thầy tâm sự, ai dạy ở đây cũng quý mến tình người dân và học trò, nhưng họ không thể nào ở lâu, vì cần phải theo sự thăng tiến trong ngành. Chiếc quạt trần vẫn quay đều, nhẹ nhàng từ lúc ba người trò chuyện. Bất chợt, có bóng người đàn bà mặc áo dài, đội nón Huế, đẩy cánh cửa cổng vừa dắt xe đạp đi vào sân. Người đàn bà để ý, mắt nhìn vào trong, thầy Hiệu trưởng nói:
- Nhà tôi đó.
Khi người đàn bà xuất hiện, cả Nguyên và Nga đứng lên chào. Một giọng thân tình, người thầy nói:
- Đây là cô Phượng Nga, hôn thê của anh Nguyên. Niên khóa này, cô sẽ dạy ở trường Nguyễn Hoàng.
Cô Ý Tâm là vợ của thầy Hiệu trưởng. Với Nguyên, cô đã quen biết, còn rất thân tình nữa. Trước đây, cô học trên Nguyên đến hai lớp, và thời kỳ ấy, học sinh mỗi lớp và cả trường không đông lắm nên cũng dễ biết khi gặp nhau. Bây giờ, Nguyên đã trưởng thành, là một Sĩ quan.
Ý Tâm rất ngạc nhiên, nhưng mắt vui được gặp một thiếu nữ xinh đẹp.
- Hay quá, rất là hay, nàng nói - nhìn qua Nguyên đoạn tiếp lời - Nguyên thật là có tình với Quảng Trị, đem cho thành phố nhỏ một bậc hoa khôi nhi nữ. Ai đây nhỉ, các cô giáo trong trường, các cô nữ sinh, có đem ra so sánh được với Phượng Nga của Nguyên không?
- Thưa cô, quá khen em.
- Không. Mình nói thực mà, Nga hỏi anh Nguyên đi.
Thầy Hiệu trưởng qua ngồi ghế bên, nhường chỗ mình cho vợ ngồi. Trong lúc thầy dời chỗ, Phượng Nga cầm bình trà rót vào tách để mời cô chủ nhà. Ngồi đối diện với Phượng Nga, Ý Tâm nhìn nàng với đôi mắt vui, hạnh phúc và thiện cảm.
- Ra đây dạy học, Nga ở nhà ai?
- Em có thuê chỗ nhà người quen.
- Nếu chưa tìm ra, mình giúp cho.
- Cám ơn cô. Em tìm được chỗ rồi.
Bàn khách bốn người. Câu chuyện thân tình giữa khách và chủ như người trong gia đình. Nhưng thời gian ngồi lâu. Nga cũng lo lắng khi nhìn lên đồng hồ treo tường.
Ý Tâm, bằng một giọng quả quyết nói:
- Nguyên và cô Nga ở lại ăn cơm trưa với gia đình.
Hai người, Nguyên và Nga thật khó chối từ.
Thầy Hiệu trưởng tiếp lời vợ:
- Hai em ăn với gia đình thầy một bữa cơm. Người Quảng Trị chân tình lắm cô Nga ạ. Còn Nguyên, từ năm em rời xa trường đến nay đã lâu lắm.
Giờ ăn tuy hơi trễ, nhưng có được cái tình cũ của người thầy và học trò. Phượng Nga đứng lên cùng với cô Ý Tâm xuống gian bếp. Bốn đứa con, hai trai, hai gái được mẹ giới thiệu với cô giáo mới, các em cùng vui sướng, khoanh hai tay ra trước ngực vừa cúi đầu chào.
Phượng Nga được cô Ý Tâm cho biết tên mỗi em.
Gian bếp rộng, bày biện ngăn nắp. Lò bếp được nấu bằng ga, rất tiện lợi. Nồi canh và các món đã nấu sẵn được làm nóng lại trên lò bếp trước khi đem dọn ra trên dĩa. Cô con gái lớn lau chén bát, đũa để vào mâm. Cô em kế, lên nhà trên trải khăn bàn ăn. Ngồi lại ở nhà trên, Nguyên và người thầy bàn chuyện một cuốn sách. Nguyên nói:
- Em nghĩ, cuốn sách rất là cần thiết cho độc giả.
- Theo ý em, có nên xuất bản không?
Thầy đã bỏ công lao nghiên cứu, biên khảo, sách cần phải được in.
- Ở ngoài này, tỉnh không có nhà in.
- Huế có hai nhà in, Thuận Hóa và Đại Học. Thầy cứ viết cho xong, em sẽ giúp thầy in thành tác phẩm.
- Hay quá. Thầy cố gắng hoàn tất. Bữa ăn được dọn lên chỗ bàn ăn đặt gần cửa sổ. Lúc nãy dưới bếp, đứng bên nhau trò chuyện, Ý Tâm rất là thích thú được nghe tiếng nói của Phượng Nga, và được nàng kể một câu chuyện về buổi đầu tiên gặp Nguyên ở quán cà phê. Lòng Ý Tâm, vui, trong sáng, hãnh diện mình được trở thành người chị của cô gái. Các cháu cũng quân quít bên mẹ và cô giáo Nga. Cậu con trai út nói:
- Mẹ để cô Nga dạy lớp con nghe.
Ý Tâm cười bảo:
- Mẹ đâu có quyền, con phải nói với ba.
- Em học lớp mấy?
- Con học lớp Đệ Thất.
- Vậy là nhập học lên Đệ Lục.
- Dạ.
Trên bàn ăn bốn cái ly cao dùng cho người lớn, ly vừa cho đám trẻ nhỏ. Mỗi chai xá xị được khui đổ vào một ly có nước đá. Bốn đứa con, hai đứa được một chai. Khi nhìn gương mặt mỗi đứa con của thầy cô Hiệu trưởng, Phượng Nga cũng thầm ước hạnh phúc gia đình cho nàng và Nguyên sau này.
Bữa ăn thân tình qua tiếng trò chuyện của người lớn, bốn đứa nhỏ vừa ăn và cố chỏng tai nghe. Thằng út tên ở nhà là Bin, thèm được hỏi chuyện cô giáo, nhưng sợ mẹ không cho, nó chỉ nhìn ngắm cô giáo thấy cô hiền, đẹp, dễ thương, ước mong vào niên khóa được học với cô thôi.
Giọng người thầy luôn chậm rãi, đều tiếng trong cung cách thật điềm đạm. Nguyên nói:
- Anh Bảo đang dạy học ở Đà Nẵng.
Trong sự gợi nhớ, người thầy nói:
Trường Nguyên Hoàng có được nhiều học sinh giỏi, ra đời cũng thành danh.
- Có anh nào trở lại dạy cho trường không thầy?
- Có vài em thuộc lớp sau Nguyên.
Trong một thoáng hồi tưởng, gương mặt Nguyên bỗng tỏa sáng, anh nói:
- Em thuộc vào lớp học sinh đầu tiên trường được công nhận tên Nguyễn Hoàng của Bộ Giáo Dục.
- Có thực không?, Ý Tâm hỏi.
- Em nhớ rõ. Lớp đầu tiên của cô, lúc đó trường còn mang tên Quảng - Trị của tỉnh.
Ý Tâm hỏi chồng:
- Có đúng không anh?
- Nguyên nói đúng. Hai năm đầu em lên trung học, trường chưa đổi tên mới.
- Anh Bảo và cô là cùng một lớp đầu. Khi trường đổi tên, đúng vào năm cô ở lớp Đệ Tứ.
- Nguyên nhớ giỏi ghê.
Phượng Nga được nghe chuyện ba người bàn cãi, cảm thấy vui. Ý Tâm làm bộ vừa nghiêm, vừa buông một giọng vui nói với Phượng Nga:
- Chị là học trò của thầy. Lớp học sinh trung học đầu tiên của trường Quảng Trị.
Phượng Nga ngạc nhiên, trên gương mặt đỏ ửng. Và lúc ấy, nàng cũng ngừng đũa sau một bữa cơm khách ăn thật ngon miệng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

XI

Ngày chủ nhật, vào giờ này mới là đầu buổi chiều trong thành phố, ngồi trên xe Phượng Nga mặc áo dài tím sang đẹp như một bà hoàng. Nguyên lái xe cho chạy lòng vòng quanh những con đường, những nơi chốn cũ quen thuộc, mỗi nơi, anh kể từng mẩu chuyện cho người yêu nghe. Và, như thế này, bạn có ngay cảm tưởng được nhìn thấy Phượng Nga khắp nơi.
Từ trong một quán cà phê, tiếng hát Khánh Ly cất vọng:
Có đường phố nào vui cho ta qua một ngày
Có sợi tóc nào hay trong trí nhớ nhỏ nhoi.

- Anh thích nhạc Trịnh Công Sơn không?
- Không.
- Hoàn toàn, không.
Nguyên gật đầu.
Quán cà phê bỏ lại đằng sau, tiếng hát mất hút. Nga không hỏi thêm, nhưng Nguyên cũng nói ra ý nghĩ của mình.
- Nhạc của Trịnh Công Sơn là nhạc dành cho người chết hát. Người chết trong đó cũng có rất nhiều những góa phụ chiến tranh. Khi em nghe Khánh Ly hát, lời ca và tiếng hát như là vọng âm của các oan hồn.
- Trời, anh đừng làm em sợ. Lúc nãy nghe mấy câu Khánh Ly hát, em thấy hình ảnh đẹp, sinh động, hay lạ lùng.
- Bài hát dó cũng là oan khuất, ước mong của người chết được sống trở lại trên trần gian.
- Em cũng thấy lạ về anh, một người lính mà không sợ hãi nỗi đe dọa của chiến tranh.
- Anh rất ý thức và phân biệt đúng về lịch sử và chiến tranh.
Phượng Nga hơi ngả người phía sau lúc đưa hai tay sửa lại mái tóc. Trong khu hành chánh tỉnh, những con đường yên vắng, vỉa hè có lát đá và cây cối rất xanh. Xe chạy chậm, Nga có cảm tưởng đây như là khu phố cổ, tường thành rong rêu, những ngôi nhà ngói nâu, rồi bất ngờ ngôi nhà Bưu điện tỏa sáng lên một màu ngói đỏ, nằm bên con đường dẫn ra bờ sông, cách đó một ngả ba là thư viện của thành phố.
- Có phải chỗ này là khu phố cổ.
- Em nghĩ vậy cũng đúng. Đây là khu cổ thành, thành Đinh Công Tráng.
- Miếu đôi nằm ở đâu?
- Bên kia thành, ngoại ô đầu tiên của thành phố có một con đường rộng dẫn xa ra đến biển. Nhưng sao mà em biết Miếu Đôi.
- Em có đọc một truyện ngắn của Thụy viết về cô giáo Trâm, lớp học là mái nhà tranh, sân chơi có cây trứng cá, bên kia là một đầm sen.
- Ngày xưa, tĩnh lỵ nghèo, Ty giáo dục phải mướn nhà dân cho học sinh có chỗ học.
Nga im lặng nghe, không nói gì. Nguyên chợt hỏi:
- Em nghĩ sao?
- Đây là quê hương của tình người.
- Em có tâm hồn thi sĩ.
- Anh cứ tưởng, em chỉ biết về họa thôi sao?
- Không đâu, em còn tài hoa với những ngón tay xinh đẹp trên phím đàn dương cầm.
Phượng Nga đưa tay qua tát yêu bên má Nguyên, anh và nàng cùng cười với hạnh phúc của tình yêu.
- Em học nửa chừng, tự dưng bỏ. Nếu chịu khó học thêm vài năm nữa, giờ em sẽ đàn thuần thục hơn. Trong sự dang dở, đôi khi cũng cái hay.
- Thôi đi, ngài Đại úy.
- Thực chứ. Sự dang dở luôn làm mình nghĩ mà tiếc. Nhưng trong đó, mình hoàn toàn rất thành thực khi nhớ đến.
- Cuối cùng, em đã hoàn tất bốn năm ở trường Mỹ Thuật.
- Có vậy, em mới thấy mình rất tự tin.
- Anh nói đúng.
Thật quá bất ngờ, dòng sông trải rộng, nước xanh biếc hiện ra như là một bức tranh vẽ. Và, nó gây ngạc nhiên đến độ Phượng Nga thấy mình như đang khác hẳn đi.
Nguyên đang cho xe chạy trên con đường dọc bờ sông. Dòng sông miên man chảy, gió ập tới thổi tung mái tóc nàng, một cảm giác ngây ngất đến mê lịm đi. Rồi định thần trở lại, nàng bắt đầu nhìn quang cảnh dòng sông. Đây là con đường Gia Long, nước dòng sông thật êm đềm đang chảy bên dưới, trên đường những hàng cây cao nối tiếp nhau. Nắng chiều cũng đã làm đẹp dòng sông bằng những dải khăn lụa vắt qua hai bờ. Xe chạy trên con đường ven sông, mỗi lúc, nàng thấy dòng sông đã trải ra một mái tóc thiên nhiên giữa một quê hương đang đứng ở hai bờ.
- Sông này tên gì anh?
- Sông Thạch Hãn.
- Tên dòng sông như tên một vị tướng.
- Mùa nước lũ, nước sông dâng cao lắm.
Phượng Nga nhìn qua sông, phía bờ bên kia nắng đã lặng chìm nằm im trên một nửa bãi. Nửa bãi trong bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận. Nàng cất tiếng hát, bên dưới ấy, nước và dòng sông nghe những sóng vỗ vội vàng.
Xe chạy hết con đường ven dòng sông, lên tới cây cầu, Nguyên cho rẽ trái nhập vào đường quốc lộ, hướng thẳng con đường này đi Huế.
- Má nói với em, ngày mốt nhà có đám giỗ.
- Em tính ngày nào vào nhà?
- Anh được nghỉ mấy ngày?
- Anh xin nghỉ lúc nào cũng được, về hậu cứ công việc trở lại bình thường.
- Em không bận tâm gì hết, việc hôm nay đã xong.
- Việc của em, không khó khăn. Anh chỉ ái ngại, ở Quảng trị một mình em lại lo lắng, và nhớ nhà.
- Không sao cả.
Với một nụ cười thương yêu, nàng nói như chỉ là để mình nghe.
- Hương xa của cuộc đời.
- Mỗi tuần em dạy chừng 16 tiếng, trong ba buổi.
- Em vẫn mơ một cuộc triển lãm tranh mình.
- Cuộc sống mới sẽ là nguồn hứng cho em sáng tác.
- Ngài Đại úy nói đúng.
Trong câu chuyện, lúc này, muốn kéo dài hay lan man tới đâu cũng được. Ngày chủ nhật, có vẻ như là một ngày hạnh phúc của đời sống. Con người vui, thiên nhiên hài hòa, và ở đâu, cảnh vật cũng được sắp xếp như thể làm cho bạn có cảm tưởng như nó là các thứ quần áo sạch sẽ, thơm tho, được cất vào tủ hay là chiếc va li. Ngày mai tới, bắt đầu một ngày bận rộn.
- Bao giờ chiến tranh mới kết thúc anh nhỉ.
- Anh cũng rất nhiều lần thao thức với câu em hỏi.
- Em thấy đất nước mình có thiên nhiên quá đẹp, gắn bó, và rất ân tình. Nhưng rồi bao nhiêu cuốn sách học về các môn sử, Địa lý là sức mạnh vô song mà cũng không tìm ra được cách nào để dập tắt khói lửa.
- Lịch sử của đất nước mình chỉ được nghe trong tiếng hát.
Nguyên lặng im suy nghĩ rất lâu. Phượng Nga đang nói, bất chợt giật mình, cứ tưởng phút giây qua là ảo vọng.
Khi nghe tiếng rúc còi của đoàn tàu, trên quốc lộ đoàn xe bắt đầu giảm tốc độ chạy chậm lại. Khói đầu máy tàu dâng lên cao, đoàn tàu đang đi qua một chiếc cầu.
Nhiều chiếc xe ngừng xa trạm gác bên cây cầu chừng trăm mét. Đám trẻ bán quà rong từ trong ngôi chợ gần đó túa ra, vội vàng đi qua từng xe cất tiếng rao.
- Bé con, lại đây.
- Bánh nóng không?
- Mới nấu, thưa cô.
- Cho cô hai chục cái.
Con bé lấy bánh trong rổ cho vào túi nylon màu cam, rồi nhận tiền của nàng đưa.
Khi người bẻ ghi móc lại cây đèn báo động, cánh cổng giở cao, bọn trẻ hàng rong tản mác chạy về khu chợ. Đoàn xe nối nhau qua cầu. Từ các chuyến xe hàng đậu ở trước, tiếng ca nhạc từ trong radio vọng ra ngoài, rộn ràng, háo hức.
Phượng Nga trải rộng tờ báo trên chân, bắt đầu bóc lá. Bánh còn nóng, bóc xong một chiếc, nàng đưa qua cho Nguyên. Với hai chục bánh lọc gói lá ăn dặm, tuy không có nước mắm, nhưng bánh mềm nóng, dẻo thật ngon.
- Tối nay mình đi cơm tiệm hay ở nhà.
- Có em, anh vui, cứ vậy mà mình hưởng cơm nhà, quà của vợ.
- Có chắc không đấy.
- Em là đơn vị trưởng, lúc nào anh cũng theo lệnh cắm trại 100%.
- Không tin đâu, anh lông bông lắm. Hồi trước, quen một cô nhân viên Bưu điện, tuần nào anh cũng đến gởi thư và đánh điện tín cho Thụy.
Nguyên lặng im. Đường quốc lộ mới sửa xong, mở rộng thêm vài đoạn và lớp nhựa đổ dày nên xe chạy rất êm.
- Đúng không, ngài Đại úy.
Nguyên chỉ lặng cười trên cặp mắt, nhìn anh nàng cười theo. Rồi, nàng gói tờ báo lại để dưới chân.
Huế, 8 km. Nhà ga nằm bên phải quốc lộ. Không có tàu, không có khách, có hai chiếc toa hàng hóa nằm bên đường ray phụ. Nhà ga nà không có tháp nước.
Nga nói:
- Sáng thứ tư, em vào nhà.
- Đến lúc nào em trả lại nhà thuê cho bà Huyên.
- Bà Huyên nhận em làm con nuôi.
- Em nói sao?
Nga kể lại chuyện hôm gặp bà Huyên liên quan đến bức vẽ chân dung. Nguyên nói:
- Dì Kim Miên là bạn học cùng lớp với bà Huyên.
- Lạ không, lâu nay em không nghe anh nói.
- Bà Huyên có cuộc đời cũng bí ẩn.
- Em cũng hiểu như anh vậy. Bà là người tốt, phải không anh.
Nguyên gật đầu, tiếp lời thêm:
- Người phụ nữ trí thức hiếm có. Một hôm nào đó, em nhắc dì Kim Miên cho bà hay.
- Nay dì ấy ở đâu?
- Dì mất năm anh lên sáu tuổi.
- Vậy sao mà anh biết bà Huyên là bạn học của dì.
- Biết chứ.
Không cần Nguyên giải thích rõ thêm, Nga vẫn tin. Trong gia đình bên mẹ, dì Kim Miên là chị dì Quyên. Nguyên chợt thấy xuất hiện một mảnh trời của tuổi thơ, ngày xưa đó, bóng dáng ông bà ngoại, các cậu dì mặc đồ tang đứng trước quan tài dì Kim Miên. Dì Miên mất vì đau bệnh thương hàn, thời đó, thuốc ngoại chữa trị rất là hiếm hoi. Dì đã lấy chồng, nhưng không con cái. Chú ấy theo kháng chiến, chỉ được biết tin của dì mất mấy tháng sau dó. Rồi chú ấy, cũng ngã gục ngoài chiến trận trong một đánh ác liệt giữa quân đội Việt Minh và Pháp ở mặt trận biên giới Lào.
Trên vẻ mặt buồn trong một thoáng hồi tưởng, ánh mắt Nguyên tự nhiên xa vắng như gởi một cái nhìn tới tận nơi đâu. Anh cũng nhớ lại về mình, về đoàn công tác vừa qua trong những ngày lên tiền đồn, và anh nhớ rất rõ từng diễn tiến cuộc chạm súng của các đơn vị Tiểu đoàn và Cộng quân.
Nga chợt hỏi Nguyên:
- Trong nhà, mẹ là chị cả?
- Mẹ, dì Kim Miên, dì Quyên rồi đến cậu Nghiêm.
- Ủa, cậu Phiên, dì Phương là sao?
- Hai cậu dì em nói là con của bà ngoại em.
- Vậy ông ngoại, hai bà cũng là hai chị em ruột.
Nguyên gật đầu đắc ý. Nga mỉm cười, chợt hỏi Nguyên:
- Anh thì sao?
- Anh là của Phượng Nga.
Nàng không hỏi chàng điều gì nữa. Nụ cười giữ hạnh phúc thật lâu trên cặp mắt nàng, về tới Huế, Nga cảm thấy sự yên bình sau một chuyến đi. Nàng thở nhẹ, cảm thấy hài lòng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

XII

Thành phố Quảng Trị thật là xinh xắn nhờ lối kiến trúc do người Pháp xây dựng. Trên các khu phố chính, đường nào cũng có một dáng dấp mùa thu với nhiều ngôi nhà còn tươi màu ngói đỏ, bóng xanh mát của từng hàng cây trồng bên đường.
Nhà Phượng Nga thuê ở trên đường Gia Long.
Bến Hộ nằm ở ngay đầu ngã ba đường này và đường nhà đèn. Bến xây bằng đá lát, sạch sẽ, nơi bến này nước rất trong và sâu. Nhà Phượng Nga thuê nằm phía trên, cách bến chừng khoảng trăm thước. Căn nhà có gác riêng, cầu thang phía sau, và một mái hiên gác ở phía trước. Từ chỗ đứng ở hiên gác, buổi chiều bạn có thể phóng một tầm mắt xa nhìn các làng mạc và những cánh đồng lúa, những hàng tre, hàng dừa, để cảm thấy một sự rung động chân tình trước cảnh đồng quê thật êm ả. Nhưng, với nàng, đẹp và quyến rũ nhất là vào buổi sáng sớm. bạn được nhìn thấy dòng sông sương mù bao phủ. Khung cảnh hoàng hôn cũng thật kỳ diệu, lúc ráng đỏ hừng lên, đó là lúc trí nhớ của dòng sông nghe một tiếng ai vừa gọi vô cùng thân thương và xa vắng.
Nguyên chỉ có một ngày chủ nhật cuối tuần ra thăm Nga rồi trở lại Huế trong ngày. Và, anh luôn chia tay với nàng lúc mặt trời sắp lặn. Trên đường về. Nguyên nhớ Phượng Nga da diết. Vào những phút giây đó, anh ước mong vô cùng cuộc chiến tranh kết thúc, rồi từ cuộc sống yên bình của đất nước, anh và nàng sẽ được sống mỗi ngày, mỗi người làm những công việc theo ý thích và khả năng của mình, và cả hai luôn có những đêm trăng thu ngồi tình tự trước thềm cửa nhà, đến hai ngày cuối tuần hai người dã ngoại vui với đời sống thiên nhiên, mà, với họ, vẫn trời mây, biển, núi, sông nước, ao hồ, nhưng mỗi sự hiện diện bằng hình bóng của họ là mỗi cảnh trở nên khác đi. Từ cảm nhận đó, họ nhận ra, quê hương là một tấm lòng.
Tối đến, cơm nước xong Phượng Nga ngồi soạn bài trong một cuốn tập giấy ca rô đóng bìa thật khéo. Ngoài môn dạy Họa là chính, nàng còn phụ trách thêm Việt Văn và Địa lý ở hai lớp nhỏ Đệ Thất và Đệ Lục. Trong bài soạn, Nga làm một dàn bài chính, rồi ghi vào phụ chú những chi tiết cần giảng. Ở lớp, nàng không đứng giảng mà không cần sách hay xem bài soạn, với nàng, trách nhiệm việc giảng dạy luôn phải cẩn trọng, thấu đáo. Trong giờ dạy, cứ giảng xong một phân đoạn, nàng trở lại bàn, xem trong cuốn tập soạn bài đề mục tiếp, rồi nhẹ nhàng bước ra bục giảng. Vào giờ nàng có mặt ở lớp, các em học sinh rất ngoan ngoãn, hồn nhiên, đứa nào cũng chăm chú để hiểu bài, và đứa nào cũng rất muốn bày tỏ sự yêu thương, quý mến nàng. Khi học môn Địa lý, điều chúng thích nhất là hình vẽ bản đồ các nước, nàng vẽ, dùng cả phấn trắng và phấn màu khiến chúng thấy thích thú, ham học, vì nó đẹp mắt. Ở môn Việt Văn, giọng đọc thơ của nàng nghe thật êm ái, truyền cảm, nhưng giờ chúng thích nhất là giờ hướng dẫn thuyết trình các sách truyện mà chúng theo từng nhóm cần phải đọc và trình bày. Với 18 giờ dạy, mỗi tuần phụ trách sáu lớp, Phượng Nga dồn hết trong ba ngày, từ thứ hai đến thứ tư. Từ hôm lễ khai giảng, bắt đầu trở thành cô giáo trung học, Phượng Nga không tránh khỏi niềm ái ngại, vừa lo âu về khả năng giảng dạy của mình, nhưng rồi, người đem lại nghị lực và sự tự tin, vượt thắng cho nàng là Nguyên. Thêm vào đó, có thầy Hiệu trưởng, luôn quan tâm coi nàng như một người em. Khi nhắc đến Nguyên, người thầy tỏ ra hài lòng, mãn nguyện. Vào hôm ấy, trong bữa cơm khách với gia đình thầy, Phượng Nga cũng biết thầy đang biên soạn một cuốn sách giá trị, những lúc gặp ở trường, nàng thay Nguyên hỏi đến, và nàng hứa với người thầy rất đáng quý mến, khi nào cuốn sách hoàn tất đem in, nàng sẽ giúp thầy vẽ bìa sách.
Thời gian một niên học đã qua hai tháng. Nga đến trường đều đặn với các giờ dạy sáng chiều ghi trong thời khóa biểu. Nàng đi và về bằng xe đạp. Không chỉ học sinh lớp nhỏ quý mến nàng, mà học sinh lớp lớn dù không học, nhưng vẫn có lòng ngưỡng mộ và rất thiện cảm với nàng. Và, với đồng nghiệp, nàng không để mất lòng ai cả. Nàng chỉ gặp gỡ, trò chuyện với đồng nghiệp ở trường, không bao giờ nàng tiếp ai ở nhà riêng cả. Nguyên đã đeo chiếc nhẫn đính hôn vào ngón tay của nàng, nên không còn một ai khác trong tâm tưởng của nàng. Nàng luôn nhớ đến Nguyên trong bữa ăn tối dưới ánh đèn, những buổi sáng thức dậy sớm, và đôi lúc buổi chiều về đến nhà nghe những tiếng bước chân lên cầu thang nàng có cảm giác anh bên cạnh nàng.
Bỗng dưng tiết trời trở bất thường gây nên bệnh cúm. Trong thành phố, không khí như ngưng đọng, ngột ngạt, dưới một bầu trời đầy những tảng mây đen xám đang nặng nề di chuyển.
Phượng Nga mới bị mắc bệnh cúm, vì thế ý định vào Đà Nẵng thăm nhà đành dời đến dịp sau. Buổi sáng nay lúc rời nhà, đến cửa hiệu thuốc tây nàng phải đem theo áo mưa, và mặc cả áo ấm. Hiệu thuốc tây nằm trong khu chợ, ngay trước con đường Hoa Viên. Đây là con đường dài khoảng bốn trăm mét, dẫn ra tới bờ sông. Nơi này, có một cái bến dành cho thuyền bè của những người buôn hàng ở các làng xa đến. Họ đem bán các thứ nông phẩm, trái cây, và mua lại những thứ thuốc men, vải vóc, những mặt hàng tạp hóa tiêu dùng. Khu chợ khá lớn, cảnh buôn bán sầm uất, vừa rất là thân tình. Khi nàng bước vào hiệu thuốc, nàng thấy một người ngoại quốc cao lớn, tóc bạc, ông ta đang nói tiếng Pháp với một người Việt nhỏ thấp hơn, chắc là người chủ cửa hiệu. Trong hiệu thuốc có hai phụ nữ trẻ mặc áo blouse trắng đứng bán hàng. Nàng mua cả ba loại thuốc, trụ sinh, cảm cúm và ho. Người bán hàng bỏ các loại thuốc vào trong túi giấy, nhận tiến nàng trả, rồi thối lại.
Rời khỏi hiệu thuốc, nàng đạp xe tới nhà Bưu điện vào trong guichet mua tem và gởi đi mấy lá thư ngay ở quầy.
Không đi đâu nữa, nàng quay xe trên đường về nhà. Rồi nhân thể nàng ghé tiệm chụp ảnh lấy cuộn phim và ảnh được gởi sang tuần trước. Nhìn đồng hồ đã trưa, nàng liền ghé tiệm phở ăn một tô nhỏ để uống mấy viên thuốc. Nàng cảm thấy người mình hơi nóng, vẻ mặt hồng đỏ trong cặp mắt mệt mỏi. Trong lúc nàng bắt đầu ăn, bên ngoài trời mưa. Nàng nhìn ra mưa với nỗi lo ngại. Không đói, miệng vừa đắng nên nàng không ăn hết nổi tô phở. Ngừng bữa ăn, nàng lấy các viên thuốc đã mua uống cùng một lần với nước trà. Nàng chợt thèm một ly sữa nóng, nhưng tiệm ăn không có bán.
Mưa không lớn, nhưng vì cảm sốt trong người nên nàng thấy khó chịu. Nàng mở ví lấy chai dầu nhị thiên đường chấm vào ngón tay giữa xức vào giữa cổ và hai bên thái dương. Cũng may, những ngày đang bệnh rơi vào ngày nàng được nghỉ không có giờ dạy.
Một đứa nhỏ từ nhà trong đi ra, tay cầm khăn lau chùi những bàn trống. Tiệm ăn cũng lớn, sạch sẽ. Khi thấy nó làm việc, nàng nẩy ý định nhờ nó mua ít tờ báo ở hiệu sách cách tiệm ăn vài căn. Nàng cầm bút ghi vào miếng giấy nhỏ, và lấy tiền ra sẵn. Vừa xong việc, nó quay đầu lại khi nghe tiếng nàng gọi.
Đứa nhỏ rất lễ phép, lắng nghe lời dặn của nàng xong cầm tiền và mảnh giấy di ngay. Nàng đợi cũng lâu, nó mới trở về quán. Vừa thấy nó về, nàng vui, nở một nụ cười nhìn nó đi tới bàn nàng ngồi. Lúc này, tiệm có hai người khách ăn mới vào. Những tờ báo nàng nhờ nó mua, có đủ.
- Cám ơn cháu.
Nàng cho nó tiền lẻ, và bảo nó tính luôn tiền tô phở.
Mưa ngừng tạnh. Gió thổi những đám mưa còn lại bay qua trên dãy phố, một lúc sau tiếng động làm rớt rất nhanh những hạt mưa xuống lòng đường.
Về tới nhà, nàng lên gác bằng lối cầu thang phía sau. Mưa ướt xuống những tấm ván cầu thang, sợ ngã, nàng bước chậm. Khi mở cửa vào phòng, nàng bật đèn sáng, lấy khăn lau mặt, vội vàng thay bộ quần áo nhẹ, xong lên giường nằm nghỉ.
Trong giấc mơ, nàng khóc. Người anh ruột của nàng vắng bóng đã lâu, nay trở về. Anh ấy nói với nàng về căn nhà ỏ Đà Lạt hiện bỏ trống không người ở. Anh nàng chết trong một tai nạn xe hơi bị lật ở quãng đèo Prenn. Ngày đó, được tin nàng khóc sướt mướt, tiếng khóc than của cô em gái như thay cho người vợ, vì anh của nàng chưa lập gia đình. Những kỷ niệm về các món đồ chơi, quần áo người anh sắm cho nàng, nàng vẫn cất giữ. Khi nhớ đến người anh, nàng hay kể chuyện xưa cho cô em gái Mỵ Châu nghe. Nàng có một hộp giấy đựng thư từ, thư rất nhiều, số thư của Mỵ Châu chiếm gần một nửa.
Ngủ thiếp đi, mê mệt trong nhiều giờ tới quá nửa buổi chiều Phượng Nga mới thức dậy. Nàng cảm thấy đói nên xuống nhà bếp lấy củi nấu một soong nhỏ cháo. Gian bếp có cửa hông, bên ngoài trời gió, nàng húng hắng ho rồi khép cửa. Một lúc sau bị ngột khói, nàng lại mỡ cửa nhìn ra ngoài. Ngoài sân sau có giếng nước và hai cây khế đang ra hoa tím. Nhìn ngọn lửa, Phượng Nga thấy nhớ Thụy, nàng cảm thấy như mình có chút cơ duyên mến yêu vô cùng người em của Nguyên. Nàng nhận ra, Thụy hiểu nàng, và thấy được rằng nàng mới là người có hạnh phúc khi lấy Nguyên làm chồng.
Nồi cháo sôi, hơi đặc, nên nàng múc thêm một ly nước lạnh đổ vào, khuấy đều, và để cho sôi lại lần nữa. Trong lúc chờ cháo chín, nàng lấy cái bát nhỏ lau khăn xong để sẵn một bên. Và, cháo đã sôi lại, vừa chín tới nàng bắt đầu bỏ hai thứ gia vị, nước mắm và tiêu xong khuấy đều. Lửa bếp tắt, nàng múc cháo vào tô nhỏ xong đem lên nhà. Tô cháo hẳn còn nóng, nhưng nàng vẫn ăn cho ra mồ hôi, và để uống viên thuốc.
Mưa, bên ngoài trời đang mưa. Nàng ăn tô cháo cảm thấy vừa miệng hơn là tô phở ở tiệm lúc trưa, và sau khi uống một viên thuốc cảm, một viên trụ sinh, nàng bắt đầu cảm thấy khỏe người.
Nàng đứng lên rời khỏi bàn ăn ra ngoài phòng khách, trên tay đem theo mấy tờ báo và xấp ảnh mới sang. Đèn bật sáng, bên cửa sổ nhìn ra nàng thấy trời ảm đạm và con sông có nhiều lớp sương mù khuất che bờ bãi bên kia và những ngôi làng xa.
Nàng ngồi xuống ghế nệm, dựa lưng, cầm ly uống hớp trà nóng. Cuốn phim 32 tấm ảnh được sang đủ. Vào chủ nhật tuần trước Nguyên ra, đưa nàng đi chơi các vùng quê xem thắng cảnh, ra đến biển Cửa Việt, nơi nào cũng có một hai bức ảnh chụp lưu niệm. Phương Nga, tên nàng, và nàng đã đẹp rồi, những bức ảnh nào của nàng cũng tạo một vẻ đẹp riêng. Hai người ăn một bữa cơm ở quán nằm gần quận lỵ, đi chơi đói, ai ăn cũng ngon.
Khi về, Nguyên và Nga vào thăm ngôi trường cũ lợp mái tranh, nơi đây, Nguyên đã học hai lớp đầu tiên khi lên bậc trung học. Ngôi trường vắng, có chút xa lạ, hoang tàn nhưng vẫn còn nguyên vẹn. Ngôi trường cũ lợp tranh, nền đất bằng đã trải dài một căn nhà chia ra làm sáu lớp học. Ngày xa ấy, mùa đông Nguyên và các bạn đến lớp học trong những buổi sáng mưa và gió lạnh, buổi học chiều, vì mưa nên trời tối, lớp nào cũng thiếu đèn điện, giờ học đó, học sinh chỉ lắng nghe thầy giảng bài mà ghi nhớ.
- Em thay thế anh đứng trước mỗi cửa lớp.
Không cần tạo dáng, mỗi lớp Nga đứng bên cửa với bao nhiêu nụ cười rất hồn nhiên. Nguyên không chụp cho Nga ở bên trong lớp mà đưa nàng ra chỗ sân cờ và trước cổng trường, vẫn còn đó, tấm bảng gỗ mộc mạc với cái tên ngôi trường cũ ngày xưa.
Nguyên nói với Phượng Nga:
- Ngôi trường này vẫn lưu giữ để nhớ một thời trong quá khứ được xây dựng, hình thành. Nơi đây, những người học sinh trưởng thành, đi lưu lạc phương xa, về thăm lại Quảng Trị, những bạn nào trong thế hệ của các anh từng học ở đây đều có ghé lại để nhớ trường cũ, ngày tháng cũ, và để có được một nỗi xúc động với cuộc đời mình qua thời gian.
Lúc trưa, đứa nhỏ mua cho nàng hai tờ nhật báo và một tờ tuần báo Văn nghệ tiền phong. Tờ tuần báo này thay thế tờ Kịch Ảnh vì hiệu sách đã bán hết.
Khi Nga cầm tờ nhật báo lên đọc, tin tức chiến sự chạy dòng chữ lớn trên trang nhất, và rồi nàng không khỏi ngạc nhiên có bài phóng sự của Nguyên viết về các trận giao tranh của Trung đoàn với địch quân. Nàng phải đọc ngay bài chàng viết, cảm thấy người khỏe hẳn trong niềm hãnh diện.
Hình ảnh Tết Mậu Thân là cả một cơn ác mộng với Huế. Chiếc cầu Trường Tiền bị sập vài giữa chưa được sửa chữa lại. Đây là nỗi đau của Huế, vì chiếc cầu và con sông là một biểu tượng văn hóa của thành phố. Người ta yêu con sông thật đằm thắm, và dòng sông cũng nói với thành phố rằng nàng là hiện thân một mái tóc muôn thuở của người cung phi. Còn chiếc cầu ở đây thật là một dáng người học thức, thanh tú, yêu cái đẹp về cuộc sống, và anh ta là một người rất nghiêm túc với thời gian.
Trận chiến Mậu Thân đã gây tang tóc cho miền Nam, nhưng Cộng quân thất bại, hiện nay, Hà Nội - Sài Gòn đang đi đến cuộc hòa đàm để giải quyết chiến tranh. Nhưng hai năm qua rồi, diễn tiến cuộc hội đàm vẫn ngưng trệ, bế tắc.
Phượng Nga buông tờ báo, cầm tách trà uống một hớp đầy. Nước trà đã âm ấm, không còn nóng khói và thơm như lúc đầu.
Trong tờ báo Tiền Phong ở phần giữa có một truyện ngắn của Thụy. Nàng bỗng thốt lên:
- Sao mà hôm nay mình gặp cùng lúc hai anh em.
Giữ tờ báo trên tay, nàng chưa đọc, nàng ngả người dựa lưng ghế, đôi mắt khép lại. Trời vẫn còn mưa, nàng nghe rõ tiếng mưa nặng hạt.
Quảng Trị, cuối tháng mười
Thụy thân mến, Một thiếu nữ sinh trưởng nơi xứ Quảng, đến Huế học trường Cao đẳng Mỹ Thuật qua thời gian bốn năm, vừa mới tốt nghiệp xong, và nay đã trở thành một cô giáo. Trường trung học Nguyễn Hoàng là một nơi ghi dấu kỷ niệm đầu tiên buổi vào đời của nàng.
Vậy là mình giữ được một lời hứa với anh Nguyên và cả Thụy nữa. Sau chuyến đi công tác lên tiền đồn ba tuần lễ, anh Nguyên trở về hậu cứ ngày thứ bảy, sáng hôm sau chủ nhật anh lái xe đưa mình đi Quảng Trị, đến nhà thầy Hiệu trưởng. Và, mình không những hân hạnh được hai thầy cô nhận cho dạy, còn là khách mời dự một bữa cơm trưa thật ngon miệng với gia đình.
Thầy Hiệu trưởng là một người rất điềm đạm, nhân ái. Anh Nguyên và Thụy là học trò cũ của thầy, hẳn là hiểu rất rõ về thầy nhiều hơn chính mình.
Trường Nguyễn Hoàng, đúng là một trường công lập lớn nhất tỉnh. Trong sân trường, những cây lớn trồng để lấy bóng im, dáng hình vừa cao, chắc chắn và đẹp mắt. Những căn phòng học cũng rộng rãi, thoáng mát, tiện nghi.
Lễ khai giảng của trường là ngày thứ hai, đầu tháng 9. Đó cũng là một ngày mình rất đáng nhớ, và mình được trở thành cô giáo. Nỗi xúc động rất lớn, cho bản thân chính mình, và buổi sáng đó mình nghĩ nhiều lắm đến các em học sinh, khi đến cả ngàn em của toàn trường cất tiếng hát bài quốc ca lúc làm lễ chào cờ.
Rồi, cũng như bao nhiêu giáo sư khác đã nhận thời khóa biểu từ buổi họp tuần trước, mình đi đến lớp. Thụy ơi, bạn sẽ ngạc nhiên là lớp Đệ Lục đầu tiên mình đến đúng ngày phòng học ngày xưa Thụy được học ngôi trường này. Có vẻ như, khi mình sắp làm vợ anh Nguyên thì những gì mình có hay tìm thấy đều có chút liên hệ với cả những người thân bên gia đình anh.
Đây là lớp Đệ lục B4, hai giờ học đầu là môn Việt Văn. Khi mình vào nhận lớp, các em trố mắt nhìn. Có một em học sinh ngồi đầu bàn mình nhận ra trước tiên và em cũng thật sung sướng trong buổi gặp gỡ này, em đó không ai khác là con thầy Hiệu trưởng. Thụy biết không, em Bin khi biết mình là cô giáo dạy ở trường, cứ xin mẹ cho cậu được vào lớp học của mình. Hôm nay, cậu được mãn nguyện.
Trước bảy mươi em học sinh, mình tự giới thiệu tên mình, trường mình đã học, sau đó mình đề nghị chọn một em khá vững vàng làm Trưởng lớp. Về môn học, mình cho các em biết chương trình học cho cả năm chia làm hai lục cá nguyệt. Không để mất thì giờ, mình cầm phấn viết lên bảng và bảo các em chép chương trình ngay vào trang đầu tiên của tập vở.
Lớp học có cả nam và nữ, tuy khá đông nhưng các em ngoan ngoãn. Để dọa dẫm, mình nói các em ngoan ngoãn cô sẽ dạy suốt năm, còn như ồn, phá phách quá thì cô sẽ dạy ở lớp khác.
- Chúng em xin nghe lời cô.
Ngày xa ấy, bằng tuổi này, Thụy ngồi ở lớp tâm hồn như thế nào nhỉ. Có thể, cũng vào giờ đầu tiên Thụy gặp một cô giáo mới xinh đẹp như cô Trâm, nhưng hẳn rằng tâm trạng cậu bé Thụy lo lắng hơn, chứ không mơ mộng quá sớm như lúc đến tuổi trưởng thành.
Hôm nay, ngồi viết thư cho Thụy, một tháng bình yên của mình ở ngôi trường mình dạy đã trôi qua, không có một điều kiện chi khó khăn, hoặc vấn đề gì lo ngại. Với đồng nghiệp, khi giới thiệu mình đã là hôn thê anh Nguyên, học sinh cũ Nguyễn Hoàng nhiều giáo sư cũng đã biết và có lời nhận xét khen ngợi khả năng của anh.
Với thời khóa biểu dạy mỗi tuần 18 giờ nên mình có được chút thời gian rảnh rỗi làm công việc riêng, nhất là sáng tác tranh. Và, mỗi cuối tháng, mình lại đi xe lửa về thăm nhà, lúc ra thì ghé Huế thăm bên gia đình và gặp lại anh Nguyên.
Lúc này, việc học tập của Thụy ở quân trường ra sao? Nhận được thư của Thụy, mình mới hay là Thụy đang ở thời huấn nhục và còn là tân khóa sinh. Khi hết thời gian huấn nhục sẽ được gắn alpha để trở thành SVSQ. Rồi đây, những thư từ thành phố Nha Trang Thụy viết sẽ giúp mình biết thêm về thành phố biển này, nhất là với một cô Phượng nào đó ngoài đời Thụy mong gặp. Rồi, không chỉ là nơi thành phố biển ấy thôi, đến một ngày tận nước Mỹ xa xôi Thụy còn sẽ viết nhiều lá thư nữa gởi về cho mình đọc, trong đó, mình luôn theo dõi từng bước ngày tháng trong thời gian Thụy được huấn luyện để trở thành một phi công.
Có lẽ, công việc học của Thụy chiếm nhiều thời gian nên không có kỳ nghỉ phép. Và từ nay, Thụy vẫn luôn trông đợi đến ngày ra trường trở thành Sĩ quan phi công. Với tình cảm gia đình, mình rất mong Thụy thành đạt.
Nay thì mình đã khăn gói vào đời để thu xếp lấy một cuộc sống. Riêng Thụy, tuổi trẻ vẫn còn những giấc mộng viễn phương.
Thân mến,
Phượng Nga.


Và trong tháng mười một này, khóa 69B bắt đầu bước vào tuần lễ thi các môn học quân sự. Hầu hết các môn học đều thi viết, chỉ vài môn thực hành như tháo ráp vũ khí, tác xạ, cơ bản thao diễn và đoạn đường chiến binh.
Trong thời gian học quân sự tại đây ai cũng nghĩ rằng, chỉ cần dự đủ môn, đủ thời gian ở lớp, còn thi mãn khóa thì có tính cách hợp thức hóa cho điều kiện ra trường sau khi học xong ngành bay, thế nhưng, từ bốn khóa trở lại đây, trường quân sự đã đánh rớt một số khóa sinh vì kém khả năng. Tuy nhiên, giấc mơ đến Mỹ vẫn là những câu chuyện lúc vào lớp học, và đến cả thời gian ở phòng.
San Antonio ở tiểu bang Texas là một thị trấn lớn, nơi đây có một trường huấn luyện hoa tiêu. Trước khi sang trường bay, các khóa sinh phải đậu được Anh ngữ với số điểm định mức là 80 ECL. Thời gian học bốn tháng, hai tuần thi test một lần, nếu rớt trường cho học lại bốn tuần để thi, và sau bốn kỳ không đạt được số điểm, những khóa sinh kém khả năng sẽ bị loại và trả về lại Việt Nam. Rồi theo số phận, các chàng trai không thỏa mộng giang hồ sẽ được đưa qua trường Thủ Đức, học chín tháng ở đây xong ra đơn vị bộ binh. Tôi hiểu rõ hiện trạng này, nên lúc nào cũng có sự lo lắng. Vào binh chủng Không quân, chọn theo ngành phi hành, khi mang được đôi cánh, khoác được chiếc áo bay, lúc ấy, bầu trời mới thật là màu xanh, và cuộc đời mới thật là đẹp. Nhưng, học ngành này không thể biết thời gian ra trường, rất nhiều cái nhiêu khê đến với bạn, nào là vấn đề sức khỏe, ba lần khám, qua được quân sự giai đoạn hai, sau cùng là khả năng thi đậu Anh ngữ. Với môn Anh ngữ, bạn phải đạt mức 90% về khả năng nghe, nói, và hiểu lý thuyết bài học. Còn lại, bước cuối cùng là lên ngồi chiếc máy bay học lái với huấn luyện viên. Khi một khóa sinh sau chừng hơn mười giờ học bay, được thầy tin tưởng thả ra cho bay một mình, đây là phút thành bại của một người muốn theo đuổi nghiệp bay. Vì, không lấy nổi mảnh bằng Tú Tài toàn phần để vào học bên kỹ thuật, nên theo ngành phi hành với tôi chỉ là mong thử thời vận. Nếu tôi thực hiện được giấc mơ của một cánh chim bằng lướt gió, thì một tác phẩm chiến tranh của người phi công trong thời chiến tôi sẽ viết ra được trọn vẹn bằng con tim mơ mộng và bằng những khát khao của sự suy tưởng.
Từ quân trường Nha Trang, lần nào gởi thư cho gia đình, bạn bè, tôi cũng đều có viết cho Phượng Nga đọc, và nàng luôn viết trả lời thư cho tôi. Không có ai thay thế một người bạn thân thương và đồng cảm với nàng bằng tôi. Và, qua tôi, nàng gắn bó với Nguyên, yêu Nguyên nhiều hơn cả tình anh có với nàng. Với nàng, tôi còn là một điều lý thú gợi ý cho nàng hương vị cuộc đời từ một ly cà phê thơm ngon, và nàng thật lãng mạn trong ánh mắt nhìn những sợi khói lãng đãng từ điếu thuốc tôi gắn trên môi.
Nguyên nói, trong nhà, anh thương nó nhất, và anh rất muốn em hiểu được tình cảm đó của anh.
- Em cũng rất là mến Thụy.
- Mỗi lần có thư em, chắc nó vui lắm.
- Thụy nói với em, ở Nha Trang, những ngày cuối tuần được phép xuất trại ra phố, lúc nào chàng cũng muốn tìm ra một cô Phượng ngoài đời, nhưng vẫn không thấy.
- Nó ít có bạn gái. Sự ước tưởng của nó luôn luôn mong tìm gặp người ngoài đời như là nhân vật trong tiểu thuyết.
- Đúng là tâm hồn của một nhà văn.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

XIII

Giáp có được mười ngày đi phép về thăm nhà ở Đà Nẵng. Về ngoài đó, anh có đến thăm trường Sao Mai, gặp cha Hiệu trưởng. Ngồi chuyện trò với cha, anh đọc thấy trên gương mặt một con người hiện thân ý Chúa đang có nỗi băn khoăn trước hiện tình đất nước. Trên mái tóc đã bạc nhiều, trông cha gầy yếu đi. Và trước khi từ giã anh học trò cũ, cha nói, năm tới cha sẽ thôi làm Hiệu trưởng và cha Huỳnh sẽ thay thế.
Giáp có đem thư của Thụy gởi thăm gia đình Thúy Hà. Nhưng anh chỉ gặp ông bà Kha, không gặp nàng. Thúy Hà đang ở Hội An.
Hết những ngày phép, Giáp trở lại quân trường. Khi trở về, buổi trưa Giáp tìm đến phòng ở của Thụy và cho anh một hộp kẹo gương. Cơm nước vừa xong, sẵn có nước trà trong bi đông, Thụy khui hộp kẹo mời Giáp và mấy bạn nằm gần ngồi ăn. Kẹo gương mỏng dòn, có ướp chút gừng nữa nên ngọt thơm, uống với nước trà là đúng ý.
- Sao, ông bà cụ khỏe không?
- Cũng khỏe.
- Đà Nẵng có chi thay đổi không, niên trưởng.
- Quán cà phê mọc đầy.
- - Anh em cười vui vẻ. Một bạn dân Huế nói:
- Cả miền Trung, chỗ nào cũng mọc quán cà phê và nghe nhạc Trịnh Công Sơn.
Một giọng nói nghe thật là nhẹ:
- Anh đó bây giờ đang sáng tác nhạc cho Việt Cộng hát.
Giáp hỏi:
- Thi cử xong chưa?
- Rồi, hết tuần này về Sài Gòn.
- Niên trưởng sắp ra trường chưa?
- Một tháng nữa.
Trước ngày đi phép, Giáp cho tôi biết anh đang ở giai đoạn hoàn bị của chương trình phi huấn. Đây là phần khó nhất, được chấm điểm rất kỹ để xác định khả năng tốt nghiệp. Trong phần này, khóa sinh thực tập các tác diễn: cất cánh và đáp với các độ cánh cản, triệt nâng có máy, triệt nâng không máy, nhào lộn số 8 chậm, chandelle, và hạ cánh bắt buộc. Từ phần này, khóa sinh phải bay với Huấn luyện viên mỗi ngày hai phi suất, sáng và chiều, mỗi phi suất thời gian bay một tiếng ba mươi phút.
Vừa mới kết thúc khóa học quân sự sau một tuần lễ thi khảo hạch các môn lý thuyết và thực hành nên lúc này khóa 69B được nghỉ không đến lớp, hàng ngày lo vệ sinh, tạp dịch doanh trại, thu xếp lại quân trang chờ ngày lên máy bay về Sài Gòn. Ngoài công việc đó ra, anh em có thì giờ nghỉ đi câu lạc bộ uống cà phê, đánh bóng bàn, bi da hay ngồi nhà tụ tập từng nhóm tán gẫu, phá phách. Khu trại của Liên đoàn sinh viên nằm trên một con dường rải đá. Xa cổng chính lối chừng hai trăm mét. Từ hai ngày nay, có một chương trình phát thanh đặc biệt của Liên đoàn với các bản tin liên quan đến những khóa học của sinh viên. Những thông báo về tuyển mộ, sinh viên được du học, hay vừa tốt nghiệp được coi là tin mới nhất làm mọi người chú ý, và hẳn nhiên rất lấy làm phấn khích. Ở văn phòng, viên Đại úy rất bận rộn. Trên bàn ông làm việc, luôn có sẵn một gói thuốc Salem và ly cà phê đá. Anh em khóa 69 B đã làm ông rất hài lòng, đây là một khóa mẫu của ông. Với trách nhiệm và tâm tư của một vị Đoàn trưởng, ông rất có lòng. Kết quả kỳ thi giai đoạn II quân sự, có đến năm bạn bị thiếu điểm đánh rớt, nhưng ông đã đứng ra, nhân danh là Đoàn trưởng xin trường quân sự dành cho điểm vớt để số người này giảm thiểu được một thời gian ba tháng học lại, và sớm được học bay để trở thành hoa tiêu. Trong số người thiếu điểm này có tôi. Tuy nhiên, xin vớt điểm là một chuyện nhưng ông rất nghiêm khắc khi đưa ra những lời cảnh báo, phải gắng nghe lời ông học tập chuyên cần, chăm chỉ, đạt mục đích sau cùng là ra trường với đôi cánh bay gắn trên ngực áo.
Uống hết ly trà, Giáp đứng dậy. Tôi tiễn chân bạn ra cửa phòng, xong quay lại. Hộp kẹo vẫn còn để trên tờ báo lót, tôi mời các bạn ăn cho hết luôn.
- Hồi trước ông là bạn của niên trưởng Giáp hả.
- Ờ, bạn học cùng lớp.
- Vào năm nào?
- Năm đảo chánh ông Diệm.
- Ủa, bạn học năm đó, sao giờ mới nhập ngũ.
Tôi đáp:
- Tôi đi lính trước mấy bạn ba năm.
- Rồi sao bạn được đi học Sĩ quan?
- Thì tôi có bằng Tú Tài I như mấy bạn?
- Bạn mới thi đậu trong năm rồi.
- Không có đâu. Vừa mới nhập ngũ được mấy tháng, khóa thi hè năm 65 tôi đậu được Tú Tài I rồi.
- Có bằng, sao năm đó không xin học sĩ quan.
- Tôi muốn lấy nốt phần hai rồi tính chuyện.
- Lúc ở lính, bạn thuộc binh chủng nào.
- Dạ, Không quân.
Mấy người kia à lên một tiếng, gật đầu hiểu ý của tôi.
- Rồi, bạn xong phần II chưa?
Tôi lắc đầu, cảm thấy mình thất vọng.
- Ý định của tôi là đi Sĩ quan kỹ thuật, không phải là phi hành.
Một người nhìn tôi nói:
- Trông bạn lóng cóng, vụng về, trói gà cũng không chặt.
- Rồi sao nữa?
Người đối diện cười đùa nói:
- Bạn không hiểu ý tôi nói sao?
- Không, tôi đáp.
- Tôi cần nói điều thật không?
- Bạn cứ nói.
- Bạn không lái máy bay được đâu? Lên máy bay, bạn làm rớt máy bay liền.
Có nhiều tiếng cười cùng giễu cợt. Tôi điềm nhiên hỏi:
- Vậy bạn cho biết tôi làm gì?
Với nụ cười tinh quái, anh ta nói:
- Bạn làm thơ được. Hai câu thơ bạn làm giữa nắng trưa, đọc nghe hay.
- Tôi không nhớ.
Mỗi ngày một miếng bánh mì
Với hai hớp sữa, còn gì cho em

Tôi ngồi dựa lưng tường. Chung quanh năm sáu người đang nghe chuyện, rồi thêm vài người tới nữa. Sau vài giây yên lặng, người kia hỏi:
- Sao tôi nhận xét vậy, bạn thấy đúng không?
- Bạn nhận xét rất là đúng.
Tôi đánh que diêm đốt điếu thuốc, một giọng bình thản tôi tiếp lời:
- Lúc đi học, tôi có nhiều mặc cảm với bạn bè và cả thầy dạy nữa. Một đứa bạn cùng lớp, nó nhỏ con nhưng rất ngổ ngáo, lúc nào cũng kiếm chuyện gây gổ, hay giấu sách vở tôi vào giờ ra chơi, nhưng tôi nhịn. Một bữa đó, tan lớp học chiều đi về cùng đường nhiều bạn, có nó nữa, nó vừa chọc ghẹo, vừa gây sự, lúc ấy, các bạn đi cùng xúi tôi đánh nhau với hắn. Lập tức, tôi dang tay ra thách thức, nó cười cợt, đứng nhìn tôi, rồi hai tay múa điệu võ quyền anh. Tôi chẳng cần võ, điên người từ lâu nay, tôi lao tới, và lúc đó hai đứa quần nhau. Khi nó tung cú đấm, tôi gạt được cánh tay, và không để chậm, tôi tống ngay vào mặt nó cú đấm tay trái, nó loạng choạng, tôi dồn tới đấm liên tiếp trong tiếng hò reo của lũ bạn, và cú cuối cùng, tôi đá một cú thẳng chân cho nó ngã xuống hố, ngay lúc ấy cơn điên giận của tôi kinh hoàng lắm, tôi nhấc một tảng đá nặng chừng hơn một ký, cũng may cho nó, các bạn đứng ngoài đã can không cho tôi bổ xuống đầu nó. Thực với các ông, tâm hồn tôi là của kẻ sát nhân, nếu giết nó, tôi không ân hận chút nào cả. Đó là chuyện nhớ đời về một thằng bạn cùng lớp. Tôi xin kể tiếp chuyện mấy ông thầy. Một ông thầy dạy sử ở lớp dưới trong lúc đang kể chuyện riêng của mình, chợt ngừng, hỏi ý kiến cả lớp điều ông vừa nói và cách hành xử là đúng hay sai, cả lớp im lặng, khi không tôi buột miệng khen ông làm đúng. Lập tức, ông cho tôi con zéro với lời giải thích là học trò khen thầy là vô phép, vô tắc. Khoảng bốn năm sau tôi được lên học lớp trên, vào một buổi học môn tiếng Pháp với ông giáo già, vì tôi có chuyện xích mích với một bạn ngồi gần bàn, hai bên xì xào tiếng cãi vã và chửi nhau, đi ngang ông thầy nghe được, tưởng là tôi chửi ông, ông liền giáng xuống người tôi một trận đòn oan nghiệt, tôi thấm lắm. Năm học sau, một vị thầy trẻ dạy môn Lý Hóa nhìn thấy bản mặt tôi coi bộ làm ông không ưa, đang giảng bài, đột nhiên ông nói với cả lớp rằng, con người như tôi rất là tầm thường, học hành không ra gì.
Và năm nay tôi sẽ thi không đậu, tôi đánh cá là không thi đậu, và cũng sẽ không thể nào đủ sức lấy nổi cái bằng Tú Tài I để cầu may ra đi lính được sĩ quan.
Tôi không hề có một phản ứng nào với ba vị thầy trong ba sự kiện vừa kể trên với các bạn. Về sau, tình cờ tôi được biết tin, ông giáo già bị án sáu năm tù vì can tội hiếp dâm một cô học trò bạn học cùng lớp con gái của ông, còn ông thầy trẻ tử nạn vì do bác sĩ chích nhầm một loại thuốc trụ sinh.
- Còn ông thầy cho bạn zéro điểm.
- Tôi đang chờ.
Không ngừng đến nửa giây, tôi nói:
- Rồi cũng tới số.
Những sợi khói thuốc bay lên trong một cảm giác đang phiêu bồng. Tôi cười nhẹ, nụ cười của tôi như hiện ra một cái nốt ruồi.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 18 Mar 2017

Một người trong đám bỗng hỏi:
- Ông có viết văn, phải không? Kể ra, thơ truyện ông làm cũng được.
- Hút một điếu thuốc nghe bạn.
- Cứ tự nhiên, tôi nói vừa đẩy nhẹ gói thuốc tới gần cho anh bạn.
Chung quanh tôi, có bạn ngồi trên giường, có bạn dưới sàn, bây giờ ai cũng chú ý đến mấy chuyện tôi vừa nói.
Một cái lon nhỏ được chế biến thành cái gạt tàn. Những tro tàn thuốc mới rải mỏng một lớp mỏng dưới đáy lon.
- Trong khóa mình, có ai ghét bạn không?
- Tôi không biết.
- Ai thân với bạn nhất?
- Không có ai cả. Tôi cũng chẳng nghĩ hay bận tâm tới bạn nào hết. Tôi chỉ biết rằng đây là khóa 69B, tôi đang học cùng với các bạn một khóa.
- Chúng tôi là lính trẻ, còn bạn là lính già.
Một vài anh thích chí, cười to lên.
Tôi luôn nhìn vào làn khói thuốc khi nói:
- Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi. Kể ra, tuổi này chưa già. Nhưng giữa tôi và các bạn không cùng một tâm tưởng. Trong các bạn, đa phần là sinh viên, tuổi trẻ nhanh nhẹn và có học thức, các bạn sẽ trở thành phi công. Trong các bạn, ai cũng đang mong chờ ngày tung mây, lướt gió. Còn tôi, chỉ rất muốn cầu an lấy cuộc sống bình thường, không ước mơ danh vọng và sự toại nguyện. Tôi cũng không là người gan dạ, hay trông lãng mạn,: hào hùng độc đáo như các bạn.
- Hào hùng độc đáo, phải là oai phong như Đại úy Đoàn trưởng chứ bạn.
- Đại úy Hoàn là một Sĩ quan rất thế giá. Tôi hết sức quý trọng viên Đại úy.
- Cũng may cho bạn. Chứ lớ ngớ như bạn, mấy ông niên trưởng phạt bạn đến ngất ngư, chẳng đùa đâu.
- Bạn này cũng đã có áo giáp của niên trưởng Giáp.
- Ngôi trường cũ mà tôi và Giáp học, nhiều kỷ niệm đáng nhớ lắm.
- Ở thành phố nào bạn.
- Đà Nẵng. Ngôi trường ấy cảnh trí đẹp, trông ra công viên và bến Cảng.
Tôi nuốt khói thuốc rất lâu. Tôi đang trầm ngâm, chợt nghe một bạn khác hỏi:
- Sao hồi là lính, bạn không xin về báo Lý Tưởng.
Tôi có làm ở đó ít tháng trước khi học chuyên môn.
- Bạn học gì trong ngành chuyên môn?
- Tôi học ngành điều không?
- Ngành này về phi hành mà?
- Không, hành quân dưới đất, liên lạc máy bay trên trời.
- Bạn viết văn đã lâu chưa?
- Tôi đi theo nghề này được bốn năm rồi.
- Vẫn tiếp tục.
- Bạn nói đúng. Tôi theo nghề này để kiếm sống, chứ không để có được tiếng nhà văn.
- Bạn kiếm sống bằng nghề này sao?
- Tôi viết truyện cho nhật báo và tuần báo. Khi đăng, họ trả tiền nhuận bút hẳn hoi.
- Họ không trả thì sao?
- Tôi viết thư nếu ở xa, còn ở Sài Gòn đến tòa soạn đòi.
- Rồi họ có trả không?
- Bắt buộc phải trả. Tôi nói với cả Chủ bút và Chủ nhiệm không đăng thì thôi, đăng là trả tiền.
- Nhưng họ không trả, bạn làm gì được họ.
- Tôi là một người giỏi chịu đựng, kiên trì và quyết liệt, ở miền Nam, hành nghề báo chí phải theo chính sách và luật pháp.
Một bạn trong đám ngồi quanh vươn người tới đưa tay ra cho tôi bắt. Anh ta nói:
- Bạn, như vậy là được. Tôi chịu.
- Đến lúc này, bạn thấy rằng tôi thuộc về lẽ phải, đúng không.
Với giọng thân tình, tôi kể cho các bạn ngồi quanh nghe những ngày tôi ở miền Trung vào Sài Gòn, tâm trạng chán nản, tuyệt vọng, bỗng nhiên có ý định viết văn, tôi viết truyện ngắn đầu tay, và được đăng ở một tờ tuần báo.
- Ông Chủ bút có khen bạn không?
Ông chỉ nói:
- Tôi viết được. Có triển vọng tương lai.
Có một giọng vui phát biểu:
- Khóa 69B chúng ta có một văn sĩ.
- Một thi sĩ nữa.
Tôi đáp lời:
- Tôi học hành dang dở, thất bại. Nhưng, duyên may tôi được ông trời cho cái năng khiếu viết văn. Không trốn quân dịch được tôi đi lính. Đi lính, tôi cũng tiếp tục nghề văn, và đề tài là người lính không chỉ là với lính không quân, mà còn nhiều người lính trong binh chủng khác. Các bạn không biết đấy, là hiệu thính viên điều không, tôi đã từng mang máy đi theo nhiều cuộc hành quân với Sư đoàn dù, Sư đoàn thủy quân lục chiến và cả với các Trung đoàn bộ binh. Những gì trong chiến tranh tôi quan sát và cảm xúc, tôi đều viết ra được hết. Tôi có một người thầy dạy tôi cách viết văn, và cách nói về đề tài chiến tranh là nhà văn Mỹ Ernest Hemingway.
- Ông đọc được truyện bằng tiếng Anh?
- Làm gì, tôi đọc truyện dịch. Sách dịch truyện ngoại quốc, nhiều lắm.
- Nếu là phi công, bạn có viết về nghề bay không?
- Thật là ước mong được nói ra với các bạn điều này.
Tôi bỗng lặng im.
- Bạn nói đi chứ.
Tôi rút trong bao thuốc ra một điếu, ngay lúc đó, một que diêm bật cháy sáng lên để tôi mồi. Một người lên tiếng:
- Tại sao lúc này trời không đổ mưa nhỉ.
- Và, cũng thiếu cà phê.
- Chút nữa, tôi mua một ly đãi ông văn sĩ này.
- Bạn nói đi chứ.
- Tôi ước mong được là người phi công. Không phải, mình sẽ tạo ra cái dáng đẹp của người hiệp sĩ không trung qua cách đội chiếc nón kao lô, mặc bộ đồ bay, đeo bông mai vàng nở, và thỏa chí tang bồng lướt gió tung mây, hay thật lả lướt với những điệu nhảy mê hồn với những nàng kiều nữ xinh đẹp. Không, đó chỉ là hình thức, ước muốn của tôi là hình thành nghiệp bay như tạo nên được tác phẩm giá trị dành cho những người phi công trong thời chiến.
Tôi đang sắp đặt những lời, những ý của nhiều chuyện nhỏ liên kết với nhau để trình bày thành một ý tưởng tổng thể và có sự trung thực, bỗng tôi ngước mắt nhìn về dãy cuối phòng, nơi ấy nhẹ khơi lên âm thanh tiếng đàn tây ban cầm xao xuyến như cơn mưa.
- Tiếp lời đi bạn.
- Tôi vừa nghe điệu nhạc rất quen.
- Bạn cũng thích âm nhạc.
- Bạn có biết bản nhạc gì đó không?
- Không biết được.
- Bẳn nhạc của Francis Lai trong phim Le passager de la pluie.
- Tay này có trí nhớ nhỉ.
Những nốt nhạc sau cùng của tiếng đàn nhỏ dần. Lúc đang nghe, tôi nhớ khung cảnh một công viên trông ra bờ sông, chiếc xe buýt ngừng ở trạm và một người lữ hành đơn độc xuống khỏi xe đi bộ dưới cơn mưa đến một căn nhà.
Tôi bắt đầu vào chuyện:
- Ngày tôi học xong khóa tân binh, nhận được sự vụ lệnh về Không đoàn 33, trình diện ở liên đoàn tác chiến, sau mấy ngày làm thủ tục, tôi và một bạn nữa được gởi đến phục vụ trong phi đoàn 217 trực thăng. Tôi làm việc tại đây với chức vụ thư ký hành quân, mỗi ngày lên ca, buổi sáng hỏi tin tức khí tượng, làm trang mới trong cuốn sổ bay hàng ngày, trực điện thoại hành quân khi sĩ quan trực vắng mặt, và nhật tu quân số phi đoàn khiển dụng, bất khiển dụng, đi phép, công tác hay dưỡng sức. Ngày cuối tháng, thêm một công việc là làm tính cộng về số giờ bay của mỗi phi công. Những việc linh tinh này không đòi hỏi chuyên môn hay khả năng, và thời gian xong mỗi việc chừng năm, mười phút. Thế nhưng, trong ba tháng ở đơn vị này, tôi hiểu được giá trị của những người phi công. Khi người phi công cất cánh đưa phi cơ ra vùng mặt trận để thực hiện một phi vụ tiếp tế hay tản thương, đó là những giờ khắc của sự hiểm nghèo, vì phi cơ có thể bị hỏng máy, bị súng lớn của địch bắn cháy, hay bị đạn lạc trong vùng giao tranh, nên sau một phi vụ, thấy người phi công trở về là biết họ sống sót. Ngày cũng như đêm, người phi công trong mỗi phi vụ, đều thấy rõ mối hiểm nghèo, thấy rõ sự đối diện với cái chết qua nhiều tình huống, nhưng dù vậy, họ vẫn luôn ý thức được trách nhiệm của mình. Ở phi đoàn, mỗi ngày lên công việc tại văn phòng, khi nhìn ra cánh cửa thấy các phi công trở về an toàn sau một phi vụ trong ngày hay trong đêm, tôi nhìn họ với sự ngưỡng mộ. Một lần đó, viên sĩ quan trực cho tôi đi theo một phi vụ tản thương ở ngoài tiền đồn Hậu Nghĩa. Khi phi cơ mới xa khuất đèn điện thành phố Sài Gòn, bóng đêm đã bao trùm cả một bầu trời, trong bóng đêm, chốc chốc tôi lại thấy lóe sáng lên từng ánh chớp của lằn đạn đang bay. Và, khi đến mục tiêu, tôi nhìn thấy rõ quang cảnh trận chiến, nghe tiếng nổ ầm ầm của trọng pháo, tiếng súng đạn đôi bên đang giao tranh. Từ độ cao, phi cơ xuống thấp, hạ cánh và bốc đi ngay được hai binh sĩ bị thương nặng đưa về tới bệnh viện Cộng hòa. Từ một chuyến bay đêm này, tôi ngửi thấy không khí chiến tranh. Và, trong cuộc chiến này, người phi công từ trên cao nhìn xuống, thấy rõ hơn hết. Với những ghi nhận trong một giới hạn, một góc cạnh tôi nói với bạn, tôi đã hình dung, ngưỡng mộ và rất cảm kích về cái hào hùng của những phi công làm tôn vinh giá trị cái đẹp của tuổi trẻ trong con người, nhưng đáng tiếc là có ít, hay không thấy nữa một người nào trong số họ viết và lột tả những suy nghĩ lớn lao về chiến tranh để hình thành nên một tác phẩm.
- Vậy là chúng tôi đợi đến bạn.
- Tôi đang chờ đợi và ước mong.
- Nhưng nếu bạn không thành Pilot thì sao?
- Thì, tôi sẽ viết về tất cả các bạn.
Tôi tiếp lời, với giọng nói như khẳng quyết.
- Tới ngày chúng ta học xong, ra trường đi đơn vị, sẽ đúng vào thời điểm cuộc chiến tranh ở miền Nam leo thang, và những ngày tháng ấy sẽ vô cùng khốc liệt.
- Có vẻ bạn là một nhà quân sử.
- Không đâu, tôi hơn tuổi các bạn trong chiến tranh. Có ai, ngờ được rằng Hà Nội đã dám tung trọn quân miền Bắc vào đánh chiếm hết các tỉnh miền Nam. Vậy mà, năm Mậu Thân đã xảy ra,
Một người dáng cao, vẻ mặt khắc khổ, từ giường bên kia lên tiếng:
- Bạn nhận định tình hình rất đúng.
Vài bạn ngồi trên sàn quay lưng lại nhìn, anh ta tiếp lời:
- Tôi ở đơn vị BĐQ, làm Tiểu đội trưởng. Ở đơn vị Tiểu đoàn 21 của chúng tôi, đụng trận với bọn chính quy liên miên.
Tôi và anh bạn cũng là Hạ sĩ quan đi học nêu lên những vấn đề chiến sự, đến lúc này, anh em trẻ hiểu được điều tôi nói. Từ hôm vào quân trường đến nay, tôi có mặc cảm nên ít muốn gần gũi, làm quen với những bạn trẻ tuổi hơn trong khóa. Lẽ đó, một số tưởng nghĩ tôi là người khác thường, tuy chẳng lập dị, nhưng hầu như không mấy giống ai. Có cách đặt tên, có sự đùa cợt, trêu chọc, mỉa mai, với tôi chẳng lấy làm giận dữ, hay thách thức. Tôi là người đã quen với sự chịu đựng, vốn sống mỗi ngày trong đời mình là kinh nghiệm từ cái nhìn của mình thấy kẻ khác, và nơi kẻ khác, mỗi người tôi liên hệ với những nhân vật hư cấu trong những cuốn tiểu thuyết mình đọc. Dù rằng, tôi chưa phải là một nhà văn, nhưng tôi thấy rằng nhà văn là một giá trị phải được công nhận.
Hôm nay, có lẽ tôi làm các bạn trẻ hiểu mình và tin mình. Với lại, đang là những ngày cuối khóa học, trong anh em, có điều gì không phải với nhau cũng bỏ qua. Rồi đây, sớm hay muộn anh em cũng rời quân trường ra đơn vị, lúc ấy, ai cũng bỗng dưng cảm thấy nhớ đến nhau, và thật có tình nghĩa với nhau.
Trong khói thuốc, ánh màu xanh ngả sang tím. Những làn khói chờn vờn, mỏng dần, vừa tan giữa vũng nắng. Mới lúc trưa, bạn Giáp đến thăm, từ lúc ấy đến giờ, lần đầu tiên tôi mới thấy đông bạn hữu ở quanh mình.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,326
Posts: 14095
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 23 guests