Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Truyện tình mùi mẫn, truyện ma kinh rợn hay các thể loại khác. Xin mời vào.

Moderators: Mười Đậu, SongNam, A Mít

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

VIII

Vào buổi sáng thứ ba, đến mười giờ anh em mới tập họp đông đủ. Sau khi điểm danh tôi để anh em chờ đợi chỗ sân cờ, một mình tới phòng làm việc của Trưởng ban 3 để gặp Thiếu tá Quy. Tôi đứng nghiêm chào kính xong, đứng chờ, vì ông đang có điện thoại nói chuyện với Sư đoàn. Nhưng tôi đợi không lâu, chừng năm phút.
Vừa gác máy, vị Thiếu tá hỏi:
- Sao, về đủ chưa?
- Dạ đủ. Anh em tập họp ở sân cờ.
Thiêu tá Quy rời ghế, rồi cùng đi với tôi. Hai người bước nhanh, đên chỗ toán lính tập họp, tôi làm đúng nghi thức trình diện bằng lệnh hô nghiêm nghỉ và chào kính.
- Được rồi, cho anh em đứng nghỉ.
Trước hàng quân, vị Thiếu tá nói:
- Trong số anh em vừa mới xong khóa học hỏa tiễn chống xe tăng, sẽ được lập thành một phân đội, và Chuẩn úy Thụy là Phân đội trưởng. Từ nay, phân đội sẽ thuộc quân số của Trung đoàn. Tạm thời, các anh tập trung ở khu nhà cạnh biệt đội Quân cụ, vấn đề tổ chức đơn vị nhỏ sẽ do Chuẩn úy Thụy sắp xếp. Ngày mai, các anh sẽ vào Sư đoàn để nhận các trang thiết bị cùng vũ khí, đạn dược. Theo bảng cấp số, thì một phân đội đảm trách 3 khẩu được gắn trên xe để di dộng khi hành quân. Ngoài ba chiếc có gắn súng, còn có một xe riêng để chở đạn, và loại đạn này như các anh đã học trong hai tuần lễ đi dự lớp huấn luyện. Đó là vài sự kiện tổng quát, thời gian tới theo biến chuyển của tình hình cuộc chiến, phân đội sẽ được điều động lên vùng hành quân hay hậu cứ. Tôi chỉ có mấy lời đó thôi, về mặt sinh hoạt, Chuẩn úy Thụy sẽ lo liệu. Anh em có điều gì cần hỏi không?
Trung sĩ Hiệu đưa tay, anh hỏi:
- Chúng tôi đây đều thuộc các đơn vị Tiểu đoàn, vậy có trở về đơn vị gốc để làm thủ tục mới hay không?
Thiếu tá đáp lời ngay:
- Các anh khỏi lo, Ban 3 sẽ điều chỉnh tình trạng lương bổng và quân số của các anh trong phân đội TOW.
Hạ sĩ Nghị hỏi:
- Chúng tôi còn dược hưởng tiền phụ cấp hành quân không?
- Không. Các anh thuộc quân số Trung đoàn. Phụ cấp hành quân dành cho Tiểu đoàn thôi. Trong các anh đây, ai muốn trở lại Tiểu đoàn?
Tất cả yên lặng. Một lúc sau, tôi bước đến gần vị Thiếu tá để nghe chỉ thị. Tôi lắng nghe, không hỏi gì nhiều, chỉ gật đầu. Rồi hàng quân giải tán, từ sân cờ, tôi đưa anh em đến chỗ trú quân được chỉ định.
Đây là một căn tiền chế, sàn lát ván, và có một số bàn ghế và giường gỗ. Tôi để anh em nghỉ tự do, trong lúc này, tôi và hai anh Trung sĩ đi quan sát quanh khu vực để đặt súng phòng thủ. Trong hai tuần lễ dự khóa học, tôi cũng như anh em đây đã nhận dạng được loại vũ khí này, tuy không thực tập bắn, nhưng phần kỹ thuật trong lý thuyết được giảng viên huấn luyện, tôi nắm vững. Có một sự kiện cần ghi nhớ là hai tuần dự khóa học, toán chuyên viên Mỹ về loại vũ khí này cũng đã đến dự một vài buổi và cho chiếu hình lên màn ảnh về từng bộ phận của cây súng, cách lắp ráp, cả những động tác bắn ở thế nằm cũng như di chuyển.
Ba người quan sát xong, quay trở vào và tôi cho anh em tập họp lại. Tôi nói:
- Trong ít ngày tới, anh em phải tổ chức sinh hoạt trong nề nếp về ăn ở. Tôi đề nghị, phân đội cần có hai người lo hậu cần, trước tiên là cơm nước hàng ngày, sau đó, đi nhận lãnh các mặt hàng cung cấp của quân tiếp vụ về phân phối cho phân đội.
- Không có gì khó đâu, Chuẩn úy.
- Tôi một mình, thì chẳng lo. Nhưng dù sao, ở đây tôi có trách nhiệm với phân đội, với anh em, thành ra, sự quan tâm của tôi là chung, như giữa các anh em với nhau vậy.
Tôi luôn nghĩ đến sự cụ thể trong lời phát biểu của mình. Anh em lính cũng đang nghe lời, không tranh luận.
Người lính tài xế nêu ý kiến:
- Thưa Chuẩn úy, - Tôi cười khoác tay, nhưng anh ta điềm nhiên tiếp lời - Phân đội TOW được coi là đơn vị riêng, dù không có KBC, nhưng có được riêng sinh hoạt đơn vị. Tôi nghĩ Chuẩn úy cũng như chúng tôi, đồng lương chẳng có mấy, vậy thì, có một số được ban 4 cấp cho mình, nêu xoay xở được, xin Chuẩn úy cho chúng tôi làm mấy thứ này.
Tôi nói:
- Ở phân đội, có thứ gì đâu mà săn nhặt. Có được lắm, một ít xăng nhớt, nhưng tôi nghĩ, họ chỉ cho mình vừa đủ để di chuyển.
- Không đâu Chuẩn úy, cấp số hàng tháng của đơn vị phải đầy đủ, ban 4 không có quyền tăng, hoặc cắt giảm.
- Có chắc không?
- Sua mà, Chuẩn úy.
- Ờ thì, nếu có, tôi để các anh liệu.
Cả phân đội vui cười. Tôi tiếp lời:
- Tôi ở bên anh em. Sinh hoạt ăn uống như thế nào, chúng ta chia đều. Thực ra, ngoài việc đi công tác hành quân, ở nhà, cũng chẳng có gì quan trọng, ngoài ứng chiến, trực gác thôi.
Sau mấy lời, tôi cho anh em nghỉ.
Bên ngoài, nắng trưa bắt đầu lắng đọng. Sự yên tĩnh cũng muốn gây một cảm giác buồn ngủ. Một số anh em bày ra một cái bếp gạch nấu cơm. Từ chỗ phân đội ở, tôi đi lên câu lạc bộ để ăn trưa. Tôi gặp một số sĩ quan của Trung đoàn cùng lúc đến ăn. Cứ bốn người một mâm như ở quân trường. Trong bữa ăn, anh em làm quen, chuyện trò. Trong các bạn này, có một sĩ quan mới ở trường Võ bị Đà Lạt mới mãn khóa. Sau bữa ăn, tôi đứng coi đánh cờ một lúc xong trở về chỗ ở của phân đội.
Đến chiều, đầu giờ làm việc, tôi làm một mình với những sổ sách cần thiết. Thời gian đi qua lẹ làng, với tiếng còi hụ báo giờ tan sở vang lên.
- Có anh nào ra phố không?
- Không.
- Tôi đi một mình nhé.
- Chuẩn úy có về không?
- Về chứ.
Ra ngoài, tôi bước đi nhanh lên sân cờ, vừa lúc gặp nhiều xe cơ hữu đang hướng ra cổng.
Khoảng chừng mười lăm phút sau, xe vào đến thị xã.
Xe ngừng lại ở ngả ba cuối phố, nhưng nơi này, lại sinh hoạt nhộn nhịp hơn. Có nhiều quán giải khát, quán ăn, nhà thuốc tây, và đặc biệt là hiệu sách lớn với người chủ lúc nào cũng ăn mặc rất lịch lãm. Trong thị xã này, có một số anh em văn nghệ thường đến, những bạn này thỉnh thoảng cũng có tên xuất hiện trên báo Văn, Bách khoa, phần nhiều bài chọn đăng là sáng tác thơ. Giữa người viết truyện và làm thơ, thì bên truyện được chú ý hơn, có sự ngưỡng mộ nữa và độc giả coi họ là nhà văn.
Tôi có ý định sẽ trở lại tiệm sách mua mấy tờ báo trước khi trở ra Trung đoàn. Bây giờ, tôi đi dạo chơi cho khuây khỏa, rồi đi ăn cơm chiều, và một nơi sẽ ghé tới là nhà của Liên. Nơi thị xã nhỏ bé thân thương này, gia đình Liên là một điểm tựa cần thiết với tôi. Tôi mong gặp lại người quen trong niềm vui hội ngộ, và Thiện chồng của Liên với tôi thời gian sau này là một đôi bạn cùng chí hướng.
Thiện sinh quán ở Nam Định. Năm 1954, anh theo gia đình di cư vào miền Nam, đi bằng đường bộ xuất phát từ điểm Thanh Hóa, đến Quảng Trị, đoàn xe đỗ người di cư xuống ở khu vực sân vận động và được chính quyền ở đây đón tiếp ân cần, chu đáo, nên họ dừng luôn không nuôi ý định đi xa nữa về phía Nam. Sau chiến tranh, miền Nam trở nên yên bình, nơi đâu cuộc sống cũng dễ chịu, ổn định. Bố của Thiện vốn là công chức ngành thủy lâm nên được thu nhận ngay và được hưởng bậc lương từ nhiệm sở cũ. Thiện có người anh đầu trong quân đội, còn anh là thứ hai, tiếp đến hai em gái. Thiện học trường Nguyễn Hoàng, thuộc lớp học sinh khá. Nhưng chuyện thi cử và chuyện học vẫn có một sự khác biệt mà người ta hay dùng vào cách nói của người đời là học tài thi phận. Trong bốn năm đệ nhất cấp, Thiện học vững vàng, thi thành chung đậu ngay khóa đầu. Cứ tưởng, chuyện học hành thông, không ngờ lên học ban Tú Tài Thiện bị đúp lớp, hai năm bốn khóa không cách nào qua nổi cái bán phần. Trong lúc nản chí, người bố khuyên anh thi vào trường sư phạm cấp tốc ra trường dạy tiểu học. Tuy nhiên, vào cuộc đời sớm ổn định với đồng lương và cuộc sống rồi, thì rất dễ có điều kiện học lại để thi Tú Tài. Muộn, chậm, nhưng mà chắc.
Thiện nghe lời bố và may mắn thi đậu. Học chín tháng xong, anh tốt nghiệp hạng trung bình và được bổ nhiệm ra dạy trường tiểu học Hải Lăng. Đây là trường quận, và tên trường cũng lấy tên quận mà đặt.
Khi Thiện bắt đầu nghề dạy học, thì bố anh, do nhu cầu thăng tiến trong ngành đã được thuyên chuyển vào Nha Trang làm việc. Vì anh đã lớn, nên gia đình để anh lại ngoài này không mang đi theo.
Quận Hải Lăng còn có thêm ba trường tiểu học dành cho cấp xã và thôn quanh vùng, nhưng trường chính, vẫn là trường nằm ngay bên quận. Ngôi trường này có mười hai lớp. Những lớp lớn được học các phòng có lợp ngói, tường quét vôi trắng, còn dãy nhà phụ cũng là nhà xây lợp mái fibro, dành cho mấy lớp nhỏ. Ngôi trường có sân chơi rộng và trồng cây để lấy bóng mát. Bên ngoài trường là một ngả ba có con đường tráng nhựa, nơi này rất yên tĩnh bởi không xa nó là một khoảng rừng trồng hai thứ cây dương liễu và thông. Nhà ga xe lửa nằm bên con đường sắt song song với quốc lộ I, phía cửa trước, nhìn ra một cánh đồng và trông thấy bóng dáng dãy núi Trường Sơn. Bên dưới dãy núi này, có nhiều ngôi làng, và cũng có một con sông và cây cầu sắt, mái uốn cong. Ngày trước, Hải Lăng là một quận có cuộc sống trù phú, đông dân, diện tích về nông nghiệp khá lớn, và có thêm nguồn lợi hải sản.
Thiện phụ trách lớp chính là lớp nhì, ở lớp nhất, anh thường thay thế cho đồng nghiệp lúc nghỉ phép hay ốm đau. Nỗi buồn lận đận thi cử rồi cũng qua đi, tan biến. Thiện bằng lòng với công việc và số phận của mình. Lương giáo viên của anh mỗi tháng được gần năm nghìn. Không có gia đình, anh thuê một chỗ trọ có căn gác biệt lập. Anh đến lớp vào buổi sáng, chiều được nghĩ. Để có trách nhiệm đúng đắn với lương tâm nghề nghiệp, Thiện luôn soạn bài giảng hẳn hoi cho từng môn dạy học. Hai môn Toán, Thường Thức, anh rất chú trọng và giảng kỹ ở lớp. Lớp học của anh có sáu mươi em học sinh, sống với gia đình ở trong quận và gần trường.
Khi dạy học về, Thiện và một số bạn cùng trường còn độc thân đi ăn cơm tháng ở quán. Sau đó, ai nấy về nhà mình. Lên gác, như thói quen, anh rót chén nước uống trước khi lên giường với một tờ báo cũ. Thiện, thích đọc báo, và luôn cất giữ lại không bỏ đi. Trên kệ sách đặt gần chỗ nằm, tầng trên, anh để sách giáo khoa học thi, tầng nhì là sách dạy học và tiểu thuyết, tầng ba dưới cùng anh để báo và những tạp chí Thế giới tự do, Chiến sĩ Cộng hòa, và nhật báo. Ở trong quận, có một cửa hàng bán sách báo và văn phòng phẩm. Quận lỵ này lớn nên có những sinh hoạt tương đối nhộn nhịp, đông vui như là một thị trấn. Từ nơi đây cách xa biển khoảng hơn mười cây số, trong hai ngày cuối tuần, bạn có thể đạp xe đi chơi biển, trước khi đến đó, bạn sẽ qua những ngôi làng thanh bình với bóng dừa, rặng tre, hàng cau, mái ngói, sân gạch, và mỗi hình ảnh đơn sơ có riêng từng nét đẹp rất dễ gây nguồn cảm xúc trong thơ văn. Mỹ Thủy là tên của biển, bãi cát trắng tinh và nước biển rất xanh. Quảng Trị tuy là tỉnh nhỏ, nhưng có hai tài nguyên phong phú về biển và rừng, đặc biệt các quận huyện lớn nhỏ, vùng nào cũng có dòng sông, và nhiều ngôi làng mở rộng các ngả đường đi ra biển.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 22 Mar 2017

Vào đầu giờ buổi chiều, Thiện thức giấc, anh luôn cảm thấy nhẹ nhõm nhờ lấy được giấc ngủ trưa. Từ nhà trọ, đi lên khu sinh hoạt gần nhà ga không xa lắm, Thiện ghé quán cà phê làm một ly, đốt điếu thuốc, bên hiên quán có đặt bàn bi da và luôn có người chơi. Đời sống trở nên dễ chịu, khi ý nghĩa về cuộc đời mình hiểu được và chấp nhận dễ dàng. Vào giờ này, cũng là giờ xe lửa đến ga, ngừng lại trong mười phút để đỗ khách và lấy thêm khách. Đôi khi, nó ngừng lâu vì đợi tránh tàu ngược. Rồi, lúc con tàu ra đi, xa về phía Nam hay ra ngoài phía Bắc, tiếng còi tàu cất lên, âm thanh vang vọng là sự rung động của nỗi luyến nhớ rất nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thân thiết.
Khi trở về lại căn gác, nỗi lo đầy mặc cảm hầu như buộc Thiện phải mở sách học để ôn bài thi. Nhưng anh tự nhủ, mình phải cố gắng. Rồi sẽ qua, và sẽ đến. Sau thêm hai năm lận đận. Thiện giựt được cái bằng bán, anh mừng vui xiết kể. Từ niên học mới vừa lo công việc dạy học, vừa nôn nóng đợi mùa thi để lấy nốt bằng toàn phần, những phút háo hức làm Thiện đứng ngồi không yên. Và, trong năm học này, cứ đến hai ngày cuối tuần là Thiện đi Huế, và lần nào trở về, anh cũng mua một ít sách và thêm mấy tờ tạp chí. Từ ban B trong năm thi phần một, qua phần hai, Thiện đổi học sang ban C, vì học ban này, tự học vẫn dễ dàng hơn. Nhưng rồi, cũng lận đận, thêm vài khóa thi nữa, cuối cùng. Thiện mới thỏa ước mơ với mảnh bằng Tú Tài II, và nay, thời tuổi trẻ đã qua, anh đã hơn tuổi ba mươi.
Không ước mơ đến một giảng đường Đại học, đậu xong Tú Tài đôi, Thiện làm đơn xin chuyển ngạch. Đơn anh xin được chấp thuận, và ngôi trường mới anh đến dạy nằm trong thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Tín.
Trước khi nhận nhiệm sở mới, Thiện dành một tháng hè vào Nha Trang để thăm gia đình. Hồi mới đến đây, gia đình anh ở nhà thuê, nay có được căn nhà riêng ở đường Lê Đại Hành. Nơi này, xa trung tâm thành phố nhưng gần phi trường. Nha Trang là một thành phố có nhiều quân trường, hai binh chủng được các cô gái cảm tình và ngưỡng mộ là Hải quân và Không quân. Vào hai ngày cuối tuần, thành phố biển sáng đẹp như mùa xuân, bên cạnh các chàng thủy thủ và phi công tương lai là những cô gái của miền thùy dương rất lãng mạn. Quả thực, vừa mới hân hoan với chút công danh, ông trời còn cho Thiện một mối duyên tình thật đẹp đôi, vừa lứa. Nàng tên Liên. Nàng tuy không còn là học sinh, sinh viên, nhưng nàng vẫn trẻ trung, tươi sáng với nụ cười và rất có duyên. Hai người trở nên ăn ý, thân thiết, và có được mấy buổi hẹn gặp, ở quán cà phê nghe nhạc hay vào buổi chiều cuối tuần đi bên nhau trên biển, đẹp, mơ mộng, và cũng tạo dáng như bao nhiêu chàng sinh viên sĩ quan của các quân trường. Mùa hè qua mau, nhưng nó sẽ còn mãi riêng với Thiện. Trước ngày chia tay Thiện và Liên đã dành cho nhau thời gian quý hiếm còn lại, một buổi sáng ở quán cà phê, một buổi chiều đón gió biển và nhìn cảnh hoàng hôn, sau hết là một buổi tối trong rạp hát xem cuốn phim tình cảm rất đậm đà. Trong một cảnh phim độc đáo, đầy ấn tượng, có hai người trong bóng tối yêu nhau, hương vị ngọt của nụ hôn, là sợi dây tơ bắt đầu buộc những kỷ niệm bền chặt về tình yêu cho hai người.
Khi chiếc xe đò ngừng đỗ bên trạm gác, hình ảnh của Liên mới mờ khuất. Thiện rời ghế đứng dậy, với tay lên giá xe kéo chiếc ba lô, rồi, quàng dây đeo lên hai vai. Anh xuống trạm ngừng với hai người khách đàn bà, cả ba cùng chờ cậu lơ xe đang đứng trên trần mở các múi buộc của những sợi dây thừng bằng nylon. Một chiếc xe đạp và chiếc va li của Thiện được chuyền xuống trước, sau đó, mấy bao hàng của hai người kia. Trạm gác có mái che lợp tôn, trong đó, phát ra một bài hát cải lương từ chiếc máy thu thanh. Trên xe, hành khách ồn vui tiếng trò chuyện, bên dưới mấy đứa trẻ bán quà đi quanh mời khách mua. Thiện nhận ra trong mùa hè, ánh nắng dậy lên mùi thơm của cây mía. Xe ngừng khá lâu, vì viên Cảnh sát của trạm kiểm soát hàng và giấy tờ của một đám thanh niên ngồi băng ghế trước rất kỹ. Cũng ở phía trước, ở băng ghế phụ có hai người lính ngồi. Buổi chiều còn đầy nắng, chuyến xe đò chỉ đến Quy Nhơn rồi ngừng. Buổi sáng nay, Thiện dón xe đò nơi bến của quận để đi Huế, rồi đổi xe từ Huế đi Đà Nẵng. Tới Hải Vân, các chuyến xe đều ngừng lại ngừng trên đỉnh chờ đổ đèo, vào phía Nam cũng như ra phía Bắc. Trời mưa bụi, nhẹ hạt. Sương mù trên mặt biển. Bên trên là núi, sương mù càng dày thêm trong mưa. Mưa của ngày ra đi, xa cách, và tưởng mộng nhiều đến cảnh tha hương. Vào tuổi niên thiếu, Thiện theo gia đình vào miền Nam, dừng ở Quảng trị, và sống qua nhiều năm ở thành phố nhỏ này. Thành phố này đây, đem cả tiếng nói và hồn nhân hậu bù đắp cho sự nghèo khó, khổ cực, qua ý tưởng đó, người ở đây luôn có sự ràng buộc, và buộc rất kỹ bao nhiêu mối thâm tình. Chính trong con người và đất đai hòa hợp, nên người di cư miền Bắc vào đến đây ở đông và dần dần phát triển, có được đời sống yên bình, an lạc. Nơi đây, phía Tây là núi, phía Bắc là rừng, sông, biển, và phía Nam là cát trắng và đồng bằng. Trong nửa giờ đợi trên đèo, thời gian cũng đủ cho khách vào quán dùng bữa ăn nhẹ, nhấm nháp ly bia, hay hút điếu thuốc khi gọi ly cà phê. Thiện ngồi lại trên xe, và trời cũng đang mưa. Khi bạn ở một nơi xa lạ, nhìn mưa bay, đó cũng là lúc bạn rất thèm một chút tình cảm lãng mạn. Trong mưa, bạn cất tiếng hát, đọc thơ, và rất thú vị để nhớ tới người mình yêu trong hai tiếng người và mình lúc ấy cũng như trời và đất đang gần nhau. Từ trên đỉnh đèo, ở phía Nam thành phố hiện ra dưới một vùng mây đang chói lòa ánh nắng. Nơi ấy, hình như trời không mưa. Và, ngồi đây Thiện đang ngắm biển với từng đợt sóng trôi xa, rồi trở về lại vỗ lên bờ đá cũng thật gần.
Tới giờ đỗ đèo, các chuyến xe đông hành khách. Từ đèo về tới thành phố hơn nửa giờ xe, và từ bến này, Thiện lại đón thêm chuyến xe đường phía Nam để đến Tam Kỳ.
Từ nãy giờ, tiếng máy xe vẫn nổ, đang chờ lên đường. Người tài xế mừng rỡ đi như chạy, trên tay còn cầm đủ các thứ giấy tờ. Thiện bỗng nhận ra, nơi mình dừng và bước xuống, không để lại một dấu vết, hay ghi lại gì nhiều đến các khoảnh khắc của thời gian.
Từ trạm, Thiện hướng lên thị xã. Tên phố chính trên phần quốc lộ là Trần Hưng Đạo. Con đường dài, và chỉ thấy các cột trụ đèn đường cách đều nhau, không thấy hai bên có trồng cây. Những khoảng bóng im in xuống lòng đường là cái bóng từ mái nhà cao đổ xuống, hoặc trải ra. Tới ngả ba, Thiện trông thấy một hiệu sách. Anh đừng lại, đưa mắt nhìn vào thấy khách trong cửa hiệu khá đông, rồi một lúc, thấy một người đàn ông có vẻ như là viên công chức từ trong đó trở ra, anh cất tiếng chào và xin phép hỏi địa chỉ ngôi trường trung học Trần Cao Vân, là ngôi trường chính của tỉnh. Không để ý dò xét, người kia chỉ lối cho Thiện khoảng cách từ đây tới nơi đó chỉ khoảng vài trăm mét.
Mùa hè, các trường học vẫn mở cửa thường ngày và nhân viên của trường vẫn làm việc theo giờ hành chánh. Tới trường, Thiện xuống xe đạp dắt bộ qua cổng. Trường tọa lạc trên một diện tích đất cũng khá rộng, dãy chính là một dãy phòng dài trông ra phía cổng, dãy phụ nằm bên dưới văn phòng, ngoài những lớp học, trường có nhà kho, và có thêm mấy phòng trống làm nơi vãng lai cho các vị giáo sư ở xa đến trong mùa coi thi.
Thiện cẩn thận coi lại tờ sự vụ lệnh bổ nhiệm của Nha học chánh Huế. Lên khỏi bậc cấp, anh rẽ trái đi về chỗ có văn phòng đang mở cửa, vừa lúc ấy có người đi ra, người này dừng bước lại ngay khi gặp anh.
- Chào ông, tôi xin gặp thầy Giám học.
- Thưa, tôi đây.
Thiện giới thiệu tên mình và trình sự vụ lệnh. Người kia cầm giấy, lưới mắt nhìn qua rồi mời Thiện vào phòng làm việc của mình, Căn phòng không rộng, nhưng cách bài trí gọn gàng, ngăn nắp. Trong phòng có dành một cái bàn nhỏ và ghế tiếp khách. Vị Giám học rót trà, mời Thiện một tách, hai người cùng uống xong bắt đầu vào chuyện liên quan đến công việc. Thiện được hỏi từng chi tiết về quá trình dạy học. Với giọng chậm rãi, từ tốn, Thiện nói về mình, thời gian còn là giáo viên tiểu học và hôm nay, năm đầu tiên được chuyển ngạch lên dạy bậc trung học, Trong khi nói về mình, Thiện rất tự tin, không có chút mặc cảm nào hết.
Vị Giám học là thầy Toản thuộc sinh viên lớp thế hệ đàn anh của Thiện. Ông tốt nghiệp Đại học Huế về ngành sử, ra trường năm 1964. Sau khi nghe Thiện nói hết về quãng đời mình, ông rất vui, cảm mến anh hơn và liền đó đã giúp anh về chỗ ở tạm rất chu đáo. Hai người rời phòng, đi dọc theo mái hiên hướng về phòng vãng lai được xây trong một khu riêng biệt có mảnh vườn nhỏ, và nơi này, cũng có một căn nhà lợp tôn dành cho gia đình bác phu trường. Trên lối đi, hai người nhắc đến Huế, thành phố của một thời tuổi trẻ, phiêu bạt của những sinh viên, học sinh từ xa đến đó học. Nói một cách chính xác, sau ngày chia cất đất nước, ở miền Nam, nền giáo dục mới tái lập, trường ốc còn thiếu, các tỉnh nhỏ chỉ có trường học ở bậc đệ nhất cấp, lên đệ nhị cấp, miền Trung chỉ có hai nơi là Nha Trang và Huế. Về phía Bắc, trường Huế nhận học sinh từ Quảng Ngãi ra, vào phía Nam, trường Nha Trang nhận học sinh từ Quy Nhơn đến Phan Rang. Tĩnh Phan Thiết, có thể được chọn Nha Trang, hoặc Sài Gòn.
Nhưng đó cũng chỉ là mấy năm đầu, với chính thể đệ nhất cộng hòa vững mạnh, giáo dục theo đà cải tiến, lần lần mỗi tỉnh, được Bộ cho nâng cấp lên trường lớn, trước tiên là Đệ Tam, năm sau thêm Đệ Nhị, rồi Đệ Nhất.
Hai người cùng cảm thấy vui, và rất thản nhiên trong sự gợi nhớ được về một thời còn là học sinh, sinh viên với nhiều kỷ niệm khó quên.
Lúc này, căn phòng ở vãng lai chỉ có một mình Thiện. Tới đây, vị Giám học cho gọi bác phu trường lên giới thiệu với Thiện, sau đó, ông nhờ bác ta giúp đỡ Thiện tạm một thời gian trước ngày tựu trường.
Ngày đầu tiên, một ngày đáng ghi nhớ trong đời. Thiện vẫn bâng khuâng với cảm giác đầy hương vị xa vắng, và nghĩ đến quê nhà. Sau khi thu dọn xong, Thiện có ý định ra phố. Có một chút nôn nao, mong đợi, khiến Thiện hơi lẫn lộn bản thân mình với bao nhiêu sự vật, không phải là dấu vết từ những kỷ niệm, mà nó đang bày ra trước mắt anh những thứ đồ dùng anh đã mang theo. Và, cũng như bản thân anh đang thể hiện, sự vật nào cũng có ý nghĩa hết.
Thời gian tưởng là trễ muộn, nhưng buổi chiều vẫn còn màu nắng tươi dịu. Thiện đóng cửa phòng, dắt chiếc xe đạp qua sân rộng hướng về phía cổng. Lúc đi ngang văn phòng nhà trường, anh thấy cửa đóng vì đã hết giờ làm việc.
Thiện lên xe đạp, trở lại chỗ ngả ba. Chỉ cách nhau vài trăm thước, mà phía ngôi trường thì yên lặng, còn nơi này trở nên một tụ điểm sinh hoạt ồn vui, nhộn nhịp. Trong các cửa hiệu đèn đã sáng, quán ăn, quán cà phê đông khách, nổi bật hơn hết là hiệu sách có hai cửa lớn mở rộng ra hai con đường.
Ít ra, đây cũng đáng gọi một tấm lòng hiếu khách mà tĩnh nhỏ này muốn dành cho người xa tới. Buổi chiều còn giữ nguyên vẹn trong màu nắng tất cả quang cảnh ngoài đường phố.
Chiếc xe đạp Thiện đang đi như là người bạn đường mới quen biết. Lòng Thiện đang vui, hạnh phúc đầy lên với cuộc sống có những ước ao, chờ mong, và luôn thật yên bình. Thiện nhớ ra được trên phố chính này, lúc anh xuống xe ở trạm gác, thì bên kia cây cầu là lối ra vùng ngoại ô và đi vào phía Nam, còn bên này, là thuộc về đời sống của thị xã. Tam Kỳ trước đây là một quận lỵ thuộc tỉnh Quảng Nam, nhưng ít năm sau hiệp định Genève, quận lỵ này được nâng lên thị xã trở thành tỉnh Quảng Tín. Có người nói, Tam Kỳ là thị trấn giữa đường, nó nằm đúng khoảng giữ; hai thành phố Đà Nẵng và Quảng Ngãi.
Nha Trang, màu cát và tiếng sóng biển lúc này đây vẫn còn âm vọng và nhắc Thiện nhớ đến Liên. Thiện về thăm gia đình đúng một tháng. Sự tình cờ anh gặp Liên, quen nàng, và khi xa cách, hai người trở nên đôi tình nhân để nhớ và hẹn hò. Thiện nhớ lại buổi chiều thứ bảy anh đến Bưu điện gởi đi một bức điện tín về trường cho một người bạn. Anh nhớ ra giòng chữ viết trên bức điện, hình dung trong đó sự việc đã ổn định, sau cùng, chiếc áo dài xanh và mái tóc của Liên. Rồi sau đó, anh thấy rõ đôi mắt của nàng, và không chỉ nghe tiếng giọng của nàng trong chuyện đối đáp, anh còn thấy cả tiếng nói ấy trong cặp mắt của nàng nữa. Còn hai tuần nữa Thiện sẽ trở lại trường cũ, chốn cũ. Nhưng hết mùa hè này, anh sẽ ra đi đến một nơi khác. Người bạn, anh Hạng sẽ nhận được bức điện tín này vào ngày mai, chậm lắm là ngày mốt.
Dọc phố chính, nhà ở san sát nhau, tất cả đều là nhà xây có chung tường, và nhà ở rộng hay hẹp, đều cũng làm chỗ buôn bán mưu sinh. Đi qua những nhà có nhiều đèn sáng, có bảng hiệu gắn trước mái hiên, thì đấy là những tiệm ăn, quán giải khát, hoặc một cửa hiệu bách hóa. Có những quầy bán báo trên vỉa hè, và có thêm hai hiệu sách nữa nhưng không lớn lắm. Lòng Thiện thấy vui trên con đường mình đang đi. Thiện rất dễ chịu với bản thân của mình. Trên con đường này, anh đi cho biết phố xá, biết sinh hoạt bình thường ở một thị xã, hay thị trấn, còn như ai đó, ai đó không hay biết mình chưa là một sự kiện quan trọng. Trong nắng chiều, thành phố phơi trải lồng lộng, lấy không gian đang mở rộng làm bóng dáng của mặt biển. Suốt phố chính, trên lối đi có vỉa hè, nhưng thị xã không trồng một thứ cây nào cả. Người ta để lộ thiên, nhưng thực cần thiết cho ánh sáng và mọi sinh hoạt.
Trên phố, chiếc xe đạp dẫn Thiện lang thang, anh không chỉ đi hết con phố chính mà còn ra đến các vùng ngoại ô, và lúc trời vừa tối, anh dừng xe trước một tiệm ăn.
Khi trở về trường, anh đến phòng vãng lai với nỗi cô đơn một mình. Đêm đã xuống sâu. Rồi trời mưa, mưa gây những tiếng động trên mái ngói, nhưng không lớn hạt. Một lúc sau, trong mưa, trăng bỗng tỏa sáng. Ngồi bên cửa sổ, Thiện nhìn ngắm mưa. Hạnh phúc thật hiền dịu như thấy qua ánh mắt, qua nụ cười và thật ấm với hương vị của mùa hoa trong những chiếc áo dài. Hình ảnh Liên đã đến, ngồi xuống bên anh trò chuyện.
Cũng đến hơn một tuần lễ sau ngày khai giảng Thiện mới rời phòng vãng lai của trường dọn đến chỗ ở mới. Nhà anh thuê ở năm cuối dãy phố, cách hai căn là một hiệu sách. Hiệu sách không lớn, nhưng anh cảm nhận được một vẻ thân tình, gần gũi. Trong hiệu sách, anh thường gặp một cô gái trông coi hàng. Cô gái không đẹp lắm, nhưng có nét duyên, và trầm lặng. Trong lúc coi hàng cô đọc sách truyện, không mấy bận tâm chú ý khi khách hàng đi qua các dãy kệ để tìm sách. Và, có thể cô nghĩ rằng, những người mua sách là những người cởi mở, thân thiện.
Năm học mới bắt đầu. Thiện dạy mỗi tuần 24 giờ, phụ trách ba lớp Thất, Lục, Ngũ với hai môn Toán và Việt Văn. Trong trường, vẫn còn thiếu giáo sư cả hai cấp, về việc sắp xếp Thiện dạy môn Toán vì xét qua văn bằng, Thiện đậu ban Toán ở phần nhất, còn ban văn chương sinh ngữ ở phần hai.
Kể như một hướng đi mới của Thiện có một sự khởi đầu may mắn, thuận lợi. Anh được đổi ngạch trật, nhưng lương bổng tạm thời còn ăn lương cũ của một giáo viên tiểu học. Ở xa gia đình, Thiện rất dè xẻn trong sự chi tiêu. Sau khi lấy xong được hai bằng Tú Tài, Thiện chẳng ghi danh học thêm trên Đại Học, nhưng anh bắt đầu chịu khó học thêm hai ngoại ngữ Anh, Pháp để được đọc tiểu thuyết nước ngoài qua nguyên bản. Về công việc dạy học, thực sự anh không cố gắng lắm. Với những năm là giáo viên đứng lớp ở tiểu học, anh có kinh nghiệm về lối giảng bài, và thực sự anh đã giảng hai môn dạy của mình đem lại sự dễ hiểu và gây hứng thú cho học sinh. Anh luôn giữ đúng tinh thần của một người thầy, việc cho điểm khi hỏi bài, hoặc làm bài tập, anh luôn chừng mực, không quá khắt khe, bóp nghẹt, cũng không rộng lượng một cách thái quá. Khi hỏi bài học sinh, anh luôn đặt những câu hỏi để giúp học sinh suy luận và trả lời được để có được số điểm cần thiết. Sự cố gắng và mong mỏi của Thiện luôn hướng về nguyện vọng các học sinh, giúp mỗi em trong lớp cùng tiến bộ đồng đều. Sự tuyệt đối anh tự ngăn chận mình, là không được phép bỏ một số học sinh kém để mà dành lợi thế và ưu tiên cho các học sinh giỏi.
Thời gian qua mau. Tết Nguyên đán, các trường học được nghỉ một tuần. Nhân dịp này, Thiện vào Nha Trang thăm gia đình và rất vui được gặp lại Liên. Chàng và nàng nhớ nhau lắm, không rời nhau khi có giờ phút được ở bên nhau. Cũng đã tới tuổi trưởng thành, nên gia đình cũng ưng thuận để cho anh và nàng làm lễ hỏi. Sau lễ hỏi hơn một năm, hai người trở nên vợ chồng. Chỉ xa cách vài tháng, rồi Liên xin được nhiệm sở mới ngoài này và cùng với Thiện xây dựng một mái nhà làm tổ ấm.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

IX

Tôi được gọi lên Ban 3 cầm sự vụ lệnh đi vào Sư đoàn để nhận lãnh súng hỏa tiễn TOW và các trang thiết bị. Khi ra đi, tôi lấy trong phân đội ba tài xế, thêm bốn người phụ và tôi nữa là tám người, số còn lại ở nhà làm tạp dịch và coi sóc doanh trại.
Mười giờ sáng, tôi cùng với cả toán lên GMC rời Trung đoàn đi vào căn cứ Chu Lai. Sau gần một giờ đường xe vào tới căn cứ, dừng lại ở trước bãi đậu của Phòng 4. Tôi xuống xe, đến trình diện ngay Thiếu tá trưởng phòng, vừa đúng lúc gặp ông.
Không cần xem SVL, ông hỏi:
- Anh ở Trung đoàn mấy?
- Trung đoàn 5, Thiếu Tá.
- Còn ba và bốn.
- Tôi không thấy.
Một giọng bình thường, ông nói:
- Đến ngày mai vũ khí mới xuất kho. Các anh cứ nghỉ đây, sáng mai trở lại đơn vị.
Tôi vâng lời ngay, không yêu cầu vị Trưởng phòng giải thích. Với lại, từ ngày Sư đoàn rời Quảng Ngãi ra ngoài này, tôi chưa hề đến, nhân lần này tiện có được dịp thăm căn cứ mới và bạn bè.
Khi trở ra ngoài, tôi báo cho anh em cùng đi hay, ai cũng vui, bằng lòng ở lại.
Bữa ăn trưa tự túc. Sau bữa ăn tôi uống cà phê, rồi đi thăm căn cứ của Sư đoàn. Căn cứ quá rộng lớn gấp đôi trại Hoa Lư ở Quảng Ngãi. Nhà ở, phòng làm việc đều lợp bằng fibro và rất đầy đủ tiện nghi. Trong căn cứ, có sân bóng chuyền, bóng tròn, quần vợt, một hội trường lớn, có hai câu lạc bộ dành cho sĩ quan, binh sĩ, và nhiều quán ăn, quán giải khát thuộc khu gia binh. Nơi đây cũng gần biển, cát trắng tinh, bãi bờ quá rộng và trải dài rất là xa, đến mùa hè hoặc mùa trăng, hưởng được vị mặn của gió biển ngon lành như cá tươi.
Thời gian thong thả. Vào giờ làm việc, tôi ghé câu lạc bộ cùng anh em trong phân đội chơi bóng bàn, bi da, để cho hào hứng là bắt độ bằng một chầu nước giải khát.
Buổi chiều sau tiếng còi tan sở, tôi tìm Thuyên, hai bạn gặp lại nhau ngạc nhiên, mừng vui, dù thời gian chỉ mới cách xa chưa đến sáu tháng. Thuyên vừa được thăng lên Trung úy, do vậy, khỏi cần yêu cầu, anh bạn dẫn tôi đến ngay câu lạc bộ làm một chầu khao lon. Cụng mạnh ly, làm một hơi cạn xong rót tiếp đầy ly khác, lại cụng cái nữa, lần này nhẹ nhàng hơn. Tiếng Thuyên hỏi:
- Ra đơn vị tác chiến có rét không?
- Bình thường, thôi bạn.
- Có đụng trận liên miên không?
- Chưa đến thời điểm.
Hai bạn cùng cầm đũa mời nhau bữa ăn. Với giọng trầm lắng có chút lo âu, tôi nói với người bạn về những ngày qua của mình ở đơn vị. Sau cùng, nhờ phần việc mới này, tôi có dịp được thăm căn cứ mới của Sư đoàn và gặp người bạn thuở đầu mới làm quen ở một tỉnh lỵ nhỏ bé trong mùa đông lạnh lẽo.
- Đi thăm căn cứ này chưa?
- Rồi, rộng lớn, đầy đủ tiện nghi quá.
- Bộ tư lệnh Sư đoàn đóng ở đây, quan trọng cả về mặt chiến thuật và chiến lược.
Tôi hỏi:
- Anh Thuyên có đi công tác đến các Trung đoàn không?
- Sao ở nhà được. Tôi mới vào Trung đoàn 4 tuần rồi.
- Đi theo đoàn thanh tra.
- Phải.
- Có việc gì quan trọng không?
- Không, đi có tính cách tham quan về tổ chức.
- Về tình báo thì sao?
- Chắc chắn, trong mùa hè này.
- Anh có biết đến súng TOW không?
- Tôi có nghe nói.
- Tôi đi học loại vũ khí này hai tuần. Đây là loại súng dễ di động bằng xe, và cả vị trí đặt súng cố định. Tuy nhiên, ở chiến trường đồng bằng thì rất khả dụng, còn chiến trường đồi núi, sẽ có trở ngại.
- Vì sao?
- Vì hệ thống đạn đạo được di chuyển bằng một sợi dây, nếu vướng mắc vào cây hay chướng ngại vật, mục tiêu sẽ bị lệch. Một sự bất lợi nữa là súng chỉ tác xạ với mục tiêu là chất kim khí, còn các công sự phòng thủ thì không phá được.
Thuyên lắng nghe điều tôi phân tích về loại súng mới mà hiện nay Mỹ đem qua cho chiến trường Việt Nam. Khi tôi ngừng lời, Thuyên định nói với tôi một vài tin tình báo, nhưng sau bữa ăn, cùng đi dạo một lúc về chỗ nghỉ, ngồi uống trà, Thuyên mới tiết lộ:
- Trong năm nay sẽ đánh lớn. Cộng quân đã chuyển quân, xe tăng, đại pháo đến gần sông Bến Hải, và lần này, sẽ xóa bỏ vĩ tuyến 17, mỡ màn cho trận chiến. Không chỉ ở vùng ngoài đó, mà cuộc chiến mới này cho toàn cả miền Nam.
Một giọng thờ ơ, tôi hỏi Thuyên:
- Tôi không hiểu sao, miền Bắc luôn gây hấn, xâm lăng.
- Bây giờ đây, họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc và lòng yêu nước của người miền Bắc. Sau khi đánh được Pháp, họ tạo lòng tin cho người dân ngoài đó, đến giai đoạn sau này, huyền thoại chống Mỹ nữa. Hầu như người ta tin, vì cho rằng, rồi sẽ thắng như đã đánh Pháp.
- Nhưng với nước Pháp, bọn chúng thực sự là thực dân, còn Mỹ, chỉ muốn bảo vệ miền Nam khỏi rơi vào tay chủ nghĩa CS.
- Lịch sử của miền Nam nói riêng, và đất nước mình nói chung, luôn luôn là một cuộc chiến bi thảm.
- Không bao giờ nữa, đất nước chúng ta có sự yên bình.
- Tại sao?
- Anh hãy nhớ rằng, người CS lúc nào cũng sử dụng bạo lực, hận thù,
Thuyên bỗng im lặng. Anh lấy một điếu thuốc ra khỏi bao châm lửa hút. Trong những sợi khói màu tím, anh nghĩ ngợi nhiều. Tôi cảm thấy buồn ngủ, hai mí mắt kéo nặng xuống và đang cố nhướng lên, trong lúc Thuyên vẫn đều giọng nói ra hết những ỷ tưởng về chiến tranh và thân phận nước nhược tiểu, rồi bất chợt ngừng lời, bên ngoài, cơn mưa trở lại Thuyên vội đứng lên, tới chỗ người bạn lay nhẹ đánh thức. Tôi giật mình, tay dụi mắt và đứng lên.
- Khuya rồi, ngủ đi.
Tôi qua chỗ nằm ở chiếc giường đơn, buông người xuống, xoải rộng hai chân vừa thở nhẹ để lấy lại giấc ngủ. Nhưng giấc ngủ vừa dịu đi và gây cho tôi một cảm giác mát lạnh qua tiếng cơn mưa ở bên ngoài cửa. Tôi rất thèm được ngủ, nhưng lòng lại như vương vấn nhớ đến Thúy Hà. Thúy Hà ơi, tôi gọi khẽ tên nàng. Bây giờ đây, tôi nhớ lại thật rõ một ngày ấy, một buổi chiều rồi một buổi tối, một ngày ấy kỷ niệm về một cái bóng chiếc áo dài, mái tóc, và từng ngọn đèn đường của thành phố, từng ghi nhớ ấy, nói với tôi rằng, Thúy Hà đã thực sự yêu tôi.
Nàng không xuất hiện trong giấc mơ khi tôi bắt đầu ấm dần trong hạnh phúc của một giấc ngủ ngon. Ánh sáng tràn qua cửa sổ và cùng lúc đánh thức hai người bạn cùng dậy. Sau khi rửa mặt mũi xong, Thuyên đưa tôi ra Câu lạc bộ ăn sáng uống cà phê.
Thuyên đến phòng làm việc còn tôi tìm lại anh em trong phân đội và đưa đến phòng 4 chờ lệnh. Hôm nay, phân đội TOW của các Trung đoàn bạn cùng về đủ. Tới 9 giờ, Trưởng phòng vật tư tiếp xúc với các phân đội, ngỏ một đôi lời, sau đó, dẫn đến nhà kho nhận xe, súng đạn và các trang thiết bị.
Nhận xong, anh em các Trung đoàn cùng đi một lúc. Đoàn xe đi ra phía cổng căn cứ như một cuộc duyệt binh. Từ các phòng, nhiều người đứng xem, quan sát và nhận định. Tôi cảm thấy vui, vừa có chút hãnh diện.
Ra khỏi cổng, tôi cho đoàn xe rẽ trái và tài xế bắt đầu phóng tốc độ nhanh, về đến Trung đoàn đã gần mười một giờ, anh em tập họp ngay chỗ sân cờ.
Tôi nhảy xuống xe, vào trình diện Thiếu Tá Quy rồi đến Trung đoàn phó. Khi có mặt hai vị này, tôi cho phân đội chào kính và nói sơ qua về công dụng của loại súng. Từ ống nhắm chữ thập, tất cả những mục tiêu di động đều trông thấy và được điều chỉnh vào hồng tâm rất là chính xác.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

Một lúc, anh em trong hậu cứ ùa ra sân cờ xem loại súng mới. Với dáng vẻ bên ngoài dềnh dàng của loại súng hỏa tiễn này, ai cũng chờ mong nó bắn hạ những chiếc xe tăng T54 của địch.
Rồi mọi người tản mác khi lệnh Thiếu tá Quy cho phân đội về khu trại của mình.
- Tối nay bắt đầu cho canh gác.
- Rõ.
Xe về tới nơi phân đội ở. Anh em ở nhà vui lên, chạy ra ngoài xem “chiến lợi phẩm.” Rồi mỗi người một tay, việc trước tiên là sắp xếp số trái đạn được cấp phát. Đạn hỏa tiễn khá nặng, mỗi trái có bọc ngoài lớp plastic và đựng trong cái hộp giấy dài hình chữ nhật. Tất cả, có sáu chục quả. Vị trí súng đặt trên xe, đậu ba góc.
Xong việc này, tôi cùng anh em dùng khăn lau chùi sạch sẽ cả xe và súng. Không khí làm việc vui, thân tình với nhau. Tự nghĩ mình là cấp sĩ quan nhỏ, tôi muốn được gần gũi anh em lính như người gia đình, cùng chung một công việc theo giờ giấc, và cũng cùng bữa ăn thường lệ hàng ngày. Phân đội TOW, quân số 14 người chỉ trực thuộc ban 3 về lệnh hành quân, còn việc hành chánh và sinh hoạt, hoàn toàn độc lập.
Thiếu tá Quy đến, tôi bỏ công việc ra đón ông. Tôi vừa đến, ông nhắc:
- Làm một danh sách phân đội hai bản, một cho ban lương, một bên công vụ.
Tôi hỏi lại:
- Không gởi cho ban 3, Thiếu tá.
- Khỏi, nhưng tiện, đánh thêm một bản.
Hai người dời bước ra ngoài nắng. Một giọng vui, vị Thiếu tá hỏi:
- Sao, giao cho em công việc này được không?
- Cám ơn Thiếu tá.
Tôi được mời hút điếu thuốc Pall Mall. Khi lửa que diêm cháy, tôi dược mồi trước.
- Em có được chỗ này cũng yên thân.
- Có phải đi tăng phái hành quân không, Thiếu tá.
- Sao không? Nhưng Trung đoàn đi, tụi em mới theo.
Được sự cởi mở của xếp, tôi cười nói:
- Bây giờ thấy hăng lắm, Thiếu tá. Có chiếc T54, là hạ ngay liền.
- Chắc không, hay thấy nó tụi em bỏ chạy.
- Không rét đâu, Thiếu tá. T54 cách hai cây số, là súng này bắn cho nó thành than.
Một giọng chân tình, vị Thiếu tá nói:
- Quân đội mình, Mỹ đưa qua thứ gì cũng chậm, cũng trễ.
Tôi không hỏi, lắng nghe ông tiếp lời.
- Tụi du kích, còn có súng AK, trong khi lính mình phải đợi xảy ra Mậu Thân mới được cấp phát M16.
- Súng M72, mình có lâu chưa?
- Mới đây thôi, Nói chung, lối điều hành về chiến tranh của Mỹ, rất nặng nề.
Tôi lên tiếng:
- Cũng không thực hết lòng nữa, Thiếu tá. Với Mỹ, quyền lợi của họ là hơn cả. Cùng đồng minh, nhưng áp dụng chính sách cây gậy, củ cà rốt. Ở miền Nam, du kích, chính quy hoạt động vùng nào, tình báo Mỹ biết hết ngọn ngành, nhưng họ muốn nuôi dưỡng chiến tranh, tạo ra một cuộc chiến bên ngoài lãnh thổ của mình, và cứ dai dẳng để thử nghiệm vũ khí, sách lược chính trị, ngoại giao. Chứ còn Mỹ muốn thắng, cả miền Nam này một năm thôi là dọn sạch hết.
- Nói chung, cả miền Nam và miền Bắc, đều thấy rõ ý đồ của Mỹ và Nga, nhưng do người lãnh đạo không biết cách ứng xử, đối phó, giành độc lập, mà lại còn thích gây hấn chiến tranh.
Tôi hỏi:
- Thiếu tá có nghĩ, khi Mỹ rút, miền Nam của mình có giữ được lâu không?
- Rồi đây, miền Nam sẽ có nhiều đổi thay về chính trị. Và, nếu như ông Thiệu sớm nhận thức cuộc diện, thì miền Nam còn. Nếu mà không xoay xở, Mỹ nó sẽ buông tay luôn.
- Trung cộng sẽ đưa quân giúp Hà Nội chiếm miền Nam?
Một lúc sau, vị Thiếu tá mới nói:
- Hà Nội ở gần Trung cộng, nhưng muốn làm thân với Nga hơn. Bộ chính trị ngoài đó, họ biết, Trung cộng không muốn Hà Nội chiếm miền Nam để thống nhất. Và, khi tận tình cung cấp vũ khí, lương thực cho Hà Nội gây chiến tranh, thực tâm Trung cộng muốn Hà Nội dần tự diệt và suy yếu, sau một thời đại Hồ chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh tàn lụi, lúc đó, nó mới tràn xuống Đông Dương chiếm cướp đất. Nhưng nó vẫn còn sợ nước Nga nên có giữ vẻ bề ngoài với Hà Nội.
Sau lời giãi bày của vị Thiếu tá, ông là người tôi rất có cảm tình và sự quý mến. Nhìn vóc dáng và khuôn mặt ông đúng là típ nhà binh, một con người thực bản lĩnh, lãnh đạo chỉ huy đúng phương pháp quân sự và rất có tinh thần trách nhiệm với chức vụ và đơn vị.
Xuất thân ở trường Võ bị, khóa 19. Thiếu tá Quy nhập ngũ năm hai mươi mốt tuổi. Rời trường Đại học với vốn liếng có một chứng chỉ dự bị khoa học. Hai năm thụ huấn, ra trường vì đậu hạng trung bình nên không thỏa ước mơ chọn binh chủng Nhảy dù, Thủy Quân Lục Chiến như người đậu thủ khoa, á khoa, nhưng ra đơn vị Bộ Binh về Tiểu đoàn chiến đấu chỉ sau hơn một năm là nắm chức vụ Đại dội trưởng, rồi lên Đại úy Tiểu đoàn phó, bị thương ở mặt trận Sa Huỳnh, xuất viện sau một tháng nghỉ dưỡng, về lại đơn vị và nhận chức vụ mới làm trưởng ban 3 ở Trung đoàn.
Trở lại thời gian ở quân trường của chàng trai này là kỷ niệm về tờ đặc san Đa Hiệu, và những trận đá bóng với những đội cầu chuyên nghiệp ở tỉnh, trong đó, số một là đội Nha Địa dư. Chàng đá vị trí cánh biên trái, nhưng thường tung cú sút cận thành bằng chân phải rất ác liệt. Và, cú ruột của chàng ta là đá phạt góc, luôn luôn bóng nhểu cao lơ lửng trước khung thành đối phương để cho đồng đội đánh đầu ghi bàn thắng. Thể thao có năng khiếu, văn nghệ cũng rất nhẹ nhàng với kèn harmonica, Tây ban cầm, và sáng tác thơ, truyện ngắn. Nhưng chàng ta nói, đó là một thứ sở thích, một nguồn vui trời cho.
Khi lên cấp Đại úy, chàng mới lập gia đình. Gia đình bên vợ khá giả, ở ngay thị xã, gần nhà sách Quang Phú. Từ nơi xa đến đây, bạn muốn tìm mấy anh em văn nghệ, xin đến nhà sách này, ông chủ cũng là mạnh thường quân cho cả nhóm, và họ thường có mặt đông ở đây vào mỗi kỳ các tạp chí Bách Khoa, Văn, Văn Học phát hành. Trong nhóm, hầu hết là thi sĩ, họ có được thơ đăng báo, nhưng về truyện thì chưa có ai cả. Vào con đường văn nghệ, bạn có truyện ngắn đăng báo thì sáng giá hơn là thơ, không chỉ vậy, ngoài cách gọi cho nhà văn, bạn còn được anh em trong nhóm nể vì. Chàng trai võ bị của chúng ta sáng tác khá nhiều, chưa có truyện đăng báo ngoài, nhưng báo Quân đội chàng có xuất hiện, không chỉ truyện, còn có những bài nhận định về chiến thuật đánh du kích, đánh trận chiến của một nhà chuyên môn am tường quân sự.
Hai người nói chuyện rất ăn ý, đồng cảm và cởi mở. Tôi biết mình cấp nhỏ, còn vị Thiếu tá mến thương vì thấy tôi cũng có chút năng khiếu về văn nghệ, nên ngoài công việc, những lúc tâm tình về thơ văn, hay nhạc, cả hai, luôn có những ý tưởng, những nhận định, tạo ra một sự bồi đắp cần thiết về nhận thức.
Tới giờ ăn trưa, vị Thiếu tá đi lên câu lạc bộ. Còn tôi, bắt đầu cùng ăn cơm chung với phân đội. Những ngày đầu mới tổ chức theo bảng cấp số ban 3 ấn định, tôi rất hăng hái và có trách nhiệm. Tôi đề nghị cắt hai hoặc ba lo hậu cần, phục vụ cơm nước và lãnh lương khô, gạo, và mua hàng quân tiếp vụ. Khi những thứ hàng này mang về, tôi giao cho hậu cần quản lý. Tuyệt đối, tôi không muốn mang tiếng lợi dụng, mà tôi cho là không đáng, không đúng cách. Vì rằng, lính đồng lương ít, ai cũng thiếu. Tôi cũng đã cho anh em biết, tôi có ba năm làm lính bên Không quân, đơn vị ở thành phố nên không có đối diện thực sự với cuộc chiến như bây giờ. Tôi cũng làm anh em trong phân đội hài lòng, nhất là các mặt hàng quân tiếp vụ, nhờ qua tiếng nói của Thiếu tá Quy mà tôi mua được thêm phần phụ trội cho toàn phân đội. Nói chung, thuốc lá, cà phê và sữa, anh em đều được mua và phân phát đầy đủ. Về lương bổng, đến kỳ lương, tôi đưa cả phân đội lên ban tài chánh, người nào lãnh phần của người đó, rất phân minh.
Bữa ăn trưa kéo dài cũng lâu. Trong bữa ăn, tôi có dịp hỏi thăm gia đình mỗi người lính về nhà ở, công việc làm và sinh hoạt hàng ngày. Tôi chưa có gia đình, nhưng lúc này thực sự không nghĩ tới. Có phút giây tôi đăm chiêu, nghĩ đến buổi tối qua với người bạn, và anh cũng tin rằng, từ mùa hè năm nay cuộc chiến miền Nam khởi sự, đúng nghĩa là chiến tranh quy ước. Đã tới lúc này, Hà Nội không giấu diếm được nữa ý đồ xâm lăng của mình, vì rằng, hội nghị Paris không giải quyết được những tham vọng của họ.
- Quê của Chuẩn úy ở đâu?
- Quảng Trị, nhưng tôi rời xa ngoài đó cũng đã lâu.
- Anh em chúng tôi đây người xứ Quảng hết.
- Tôi biết.
Một giọng vui, người lính nói:
- Thiếu tá Quy có em gái.
- Sao anh biết?
- Em đã làm tài xế cho ông một năm.
- Vậy hả.
- Em thấy ông thương Chuẩn úy lắm.
- Cũng mong vậy.
Tôi mỉm cười bâng quơ. Lạ thật, cứ mỗi ai gợi hình đến một bóng dáng người phụ nữ, là khơi dậy trong ký ức của tôi một hình bóng của Thúy Hà. Nàng đang ở đâu, về đâu?
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

X

Đối diện với sân cờ là một khán đài nhỏ, có mái lợp tôn và sáu băng ghế dài được sắp thành hàng cao thấp trên bục gỗ. Nơi này, dùng làm chỗ học tập về chính huấn, học lý thuyết về quân sự, chỗ nghỉ tạm của các Tiểu đoàn khi được về dưỡng quân, và cũng là nơi cần phải chạy vào đứng trú mưa để khỏi bị ướt quần áo, còn họa hoằn lắm ở đây mới được dùng làm sân khấu văn nghệ.
Tối hôm qua, rất đông quân nhân trong hậu cứ và của các tiểu đoàn đứng ngồi trên sân đất xem một buổi diễn đặc sắc của đoàn văn nghệ Tiểu đoàn 10/CTCT.
Trước khi chương trình mở màn, có lời ngỏ của vị Trung tá Trung đoàn phó. Ông là người Bắc, học trường Thủ Đức khóa 4. Với cách diễn đạt rõ ràng, cụ thể, cùng giọng nói lôi cuốn ông luôn làm mọi người chú ý nghe.
Vừa gặp tôi, Thiếu tá Quy hỏi:
- Công việc ở phân đội ra sao?
- Cũng tốt, Thiếu tá.
Rõ ràng thêm, tôi nói:
- Tối nào, anh em cũng canh gác cẩn thận.
- Em có đi kiểm soát không?
- Có, thường là giữa buổi và cuối buổi.
- Tốt. Ít ngày nữa, em đi theo Trung đoàn.
Tôi được mời điếu thuốc. Sau một vài hơi, Thiếu tá Quy hỏi:
- Lúc này, em có sáng tác được gì không?
- Không được gì cả, nhưng có đọc được vài cuốn truyện.
- Sư đoàn sắp kỷ niệm mười sáu năm. Sẽ có tờ Đặc san, em viết một bài đi.
- Em sẽ viết, tôi đáp.
- Em đọc tạp chí Tiền Phong chưa?
- Chưa, không có báo.
- Anh có một bài đăng trong đó. Ngày mai ghé ban 3, anh đưa cho đọc.
Bóng đêm xuống, đèn sân khấu sáng đẹp và buổi diễn bắt đầu. Kể ra, các bài hát đơn ca, đồng ca, vở kịch vui cũng lôi cuốn, sống động. Cô Tường Vy, hát bản Gợi giấc mơ xưa, thật buồn và đẹp. Khi cô mở đầu giọng hát, tôi chợt bâng khuâng, lòng lắng xuống, Tôi không có Thúy Hà, Liên An, hay Huê, bài hát nhắc tôi nhớ Lam Hương, Đà Lạt và Thùy. Trong ánh sáng pha trộn tiếng gió và màu xanh của thành phố biển, tôi cũng nhớ rất nhiều đến các bạn cùng khóa ở Nha Trang, nhớ thời gian chịu tám tuần lễ huấn nhục, nhớ gương mặt vị Đoàn trưởng, nhớ các niên trưởng làm cán bộ, nhớ đêm gắn alpha, và vị ngọt nước chanh đường dâng lên một mối tình xa lạ, vừa yêu thương của tôi và Lam Hương. Có Giáp trong đó nữa. về sau này, tôi không có dịp nào gặp lại người bạn xưa cùng lớp, nhưng qua tin của Định tôi hay biết là Giáp đã trở thành phi công và hiện đang phục vụ ở phi đoàn 110, ở Đà Nẵng.
Mười hai giờ đêm, chương trình buổi diễn kết thúc. Trung tá Quảng lên sân khấu, cầm micro nói lời cám ơn đoàn văn nghệ, trong lời phát biểu, ông có một vài góp ý là đề nghị anh em trong đoàn không nên hát một số bản nhạc của Trịnh Công Sơn, vì những ca từ phản chiến trong đó có ảnh hưởng đến tinh thần quân sĩ.
Đoàn văn nghệ được mời dự bữa ăn khuya với món xôi và cháo gà. Hầu hết các sĩ quan ở lại, nhưng tôi về cùng với anh em phân đội. Không buồn ngủ, tôi còn uống cà phê, hút thuốc.
Thượng sĩ Hùng nhắc:
- Hàng quân tiếp vụ cạn rồi.
- Đã tới đầu tháng đâu.
- Chuẩn úy coi vận động xin mua vài cây thuốc và ít lương khô.
- Vài cây thuốc, xin mua được, nhưng lương khô khi nào đi hành quân mới được cấp phát.
- Mình chỉ phòng thủ cho hậu cứ.
- Không, có đi hành quân. Lúc này, đầu mùa khô, Trung đoàn đang chuẩn bị.
Nói chuyện một lúc, tôi làm một vòng kiểm soát các vọng gác trước khi đi nghỉ, về phía khán đài, nơi đó đèn đã tắt. Trong đêm khua, bóng tối dày hơn. Trời thấm lạnh. Tôi nằm trên sạp gỗ, nhìn ra lối cửa trống, tôi trông thấy một khoảng bầu trời chớp sáng lên những ánh sao đang di chuyển.
Tôi nằm yên, nhưng không buồn ngủ. Dư âm bài hát của cô Tường Vy, trở lại với tôi như đó là tiếng hát của dòng sông, về nơi chốn ấy là Huế, kỷ niệm buồn của tuổi trẻ, những thất bại về thi cử làm tôi nản lòng để phải ra đi. Và, Huế cũng có một Liên An khác nữa. Kim Ly bây giờ đã lớn, trưởng thành, nhưng sẽ không bao giờ đổi khác. Vì Huế, tiếng nói thành phố ấy là sự thủy chung của dòng sông.
Đêm trôi qua, một ngày mới xuất hiện. Khoảng mười giờ, tôi đến Đại đội công vụ, gặp lại Chuẩn úy Thái, chuyện trò với ông và nêu một ít nhu cầu về hàng quân tiếp vụ mà anh em đang thiếu thốn. Tôi mua được ít hộp sữa và ba cây thuốc lá đem về chia cho anh em. Về tới phân đội, phần thuốc thì chia, còn sữa, anh em đồng ý dành cho Trung sĩ Trung có con nhỏ, cần dùng đến. Ngay lúc đó, anh em góp tiền lại, trả tiền thuốc và sữa tôi mua giúp, nhưng trừ phần tiền thuốc của tôi ra.
Từ hậu cứ, cách thị xã không xa, buổi chiều ra ngoài đó chơi phố, buổi tối quay về cũng tiện, nhưng từ hôm phụ trách phân đội, tôi ở căn cứ nhiều hơn. Với công việc chẳng có gì bận rộn nên tôi có được thì giờ đọc tiểu thuyết. Tôi không viết được gì cả, cũng chẳng mấy hứng thú để viết.
Ngày N. đến. Căn cứ Ross được chọn làm nơi đóng quân và đặt Bộ chỉ huy nặng của Trung đoàn. Một buổi họp sáng hôm nay có đủ mặt các vị Tiểu đoàn trưởng và các Trưởng ban 1 đến 5. Tôi cũng được tham dự, nhưng suốt buổi tôi chỉ nghe, và theo dõi kế hoạch hành quân của Thiếu tá Trưởng ban 3.
Trên tấm bản đồ lớn, cây bút mỡ màu xanh, vàng và đỏ vạch ra từng vùng trách nhiệm hoạt dộng và các vị trí đóng quân từ các Đại đội đến Tiểu đoàn. Theo kế hoạch, Tiểu đoàn 2 sẽ đóng ở đồi 41, vị trí phòng thủ thiết yếu vòng đai cho Trung đoàn. Ngọn đồi này nằm cạnh một ngả ba từ đường quận lên vùng Nông Sơn.
Từ đầu năm nay, các vị Tiểu đoàn trưởng đều là cấp bậc Thiếu tá. Trong bốn vị, chỉ có một xuất thân trường Thủ Đức, còn lại đều là của trường Đà Lạt trong thuộc hai khóa 19 và 20. Tôi được hay biết qua lời một sĩ quan hành quàn, Trung đoàn 5 thật vững, cứng cáp, nhờ khả năng chỉ huy của các Tiểu đoàn trưởng. Đến các Đại đội trưởng cũng đều rất khá, gan dạ. Người ta được biết, mỗi khóa học của trường Võ bị, sinh viên tốt nghiệp thường là trong số 200 hay nhiều hơn chút ít, và với các vị tân sĩ quan người thủ khoa, á khoa luôn chọn về đơn vị thiện chiến trước tiên là Nhảy dù, Thủy quân lục chiến rồi Biệt động Quân. Nếu phải đậu hạng trung bình, hay thấp, vẫn giữ tinh thần người lính trong tư tưởng súng đạn chiến tranh, nên ai cũng chọn đi Tiểu đoàn để làm Trung đội trưởng không có người nào lo cầu an tìm chỗ yên thân, phục vụ công việc nặng phần hành chính.
Ngày N. được quyết định vào hôm chủ nhật. Từ đầu giờ buổi sáng, nhiều chuyến trực thăng lên về lần lượt bốc dỡ các thành phần của Bộ chỉ huy gồm ban 3, ban 4, hậu cần, và những vật liệu xây dựng, cùng máy móc, trang thiết bị.
Trước đây, căn cứ Ross đã được quân Mỹ thiết lập, một Tiểu đoàn kỵ binh đóng ở đây. Vị trí của căn cứ là một quả đồi lớn, được họ san bằng để làm hai bãi đáp trực thăng và xây dựng nhiều công sự chiến đấu và phòng thủ. Mỗi công sự là một căn hầm rộng, kiên cố với sắt và đà gỗ, bên trên và bao quanh là những lớp bao cát sắp đều cạnh, được chèn rất chặt. Bên những dãy công sự có giao thông hào, hố cá nhân, và cách bố phòng cho căn cứ là những tấm lưới B40, những vòng kẽm gai nhọn chen kẽ với những cuộn concertinat, cứ cách quãng ngang dọc một mét là có đặt mìn bẫy và lựu đạn. Nơi này, có nhiều tảng đá thiên nhiên nằm quanh ngọn đồi cả phía trên và bên dưới sát cạnh vòng đai phòng thủ. Những tảng đá này không bị phá, ở bên trong nó được coi là vị trí nơi ẩn núp khi giao chiến, còn phía ngoài, nó hiện diện như là cái bẫy lừa bọn đặc công muốn xâm mình, đột kích. Và, khi chúng xuất hiện, ban ngày hay đêm, cũng bị phát hiện bởi đèn pha, phi cơ thám thính, hay trực thăng võ trang truy kích.
Ba căn cứ West và Siberia và Barbara nằm vị thế tam giác, các Tiểu đoàn 1, 3, 4, đang đóng quân ở đây. Từ Ross, đến ba căn cứ này khoảng bốn dặm đường chim bay.
Tiểu đoàn 2 của Thiếu tá Thương được chọn làm đơn vị đi theo Trung đoàn, và sáng nay đã chuyển quân rất sớm bằng đường bộ đến ngọn đồi 41. Ngọn đồi này án ngữ phía Tây, trước đây thuộc vùng trách nhiệm của một đơn vị địa phương quân.
Đây là một cuộc hành quân mở rộng của Trung đoàn, nên dù chỉ là phân đội, tôi cũng được lệnh đưa một khẩu đội lên căn cứ. Thay vì tự mình quyết định, tôi cho bốc thăm, và khẩu đội 1 phải đi. Tôi cười, và cùng vui chung với tất cả anh em một bữa nhậu lai rai tối hôm qua.
Tôi và bốn người lính nữa sẵn sàng. Mặc dù có xe, nhưng không di chuyển theo đường bộ mà được lên Ross bằng trực thăng. Vì rằng, đây là loại vũ khí mới, đắt tiền, cần được bảo quản và bảo mật. Tôi hỏi ý Trưởng ban 3, với một khẩu đội, số đạn đem theo mười quả. So với tiến trình chế tạo, mỗi quả đạn chi phí khá đắt đến một triệu đồng tiền VN.
Tới trưa, tôi đưa súng và anh em ra sân cờ, nơi trực thăng hạ cánh. Hai phi công và người xạ thủ đã đi ăn cơm ở Câu lạc bộ. Trong lúc chờ, tôi chia thuốc hút và nói chuyện với mấy người đi theo.
- Toán của mình đi bao lâu, Chuẩn úy?
- Tôi không rõ. Nếu lâu quá hai tuần, trừ tôi, sẽ xin toán khác lên thay các anh.
- Lương khô chỉ lãnh có một tuần.
- Đừng lo, lên đó, hàng tuần luôn có tiếp tế, cả ban hậu cần trên đó nữa.
Trong chiếc ba lô, tôi mang theo hai bộ quần áo trận, áo thun, quần đùi, vớ, kem đánh răng, bàn chải và ít cuốn truyện. Trong lần đi học ở Đà Nẵng, tôi tìm mua được bản dịch cuốn Điện biên Phủ của ký giả Bernard Fall, ngoài mấy cuốn sách ký và truyện của tôi còn có tờ tạp chí Tiền phong của Thiếu Tá Quy đưa cho. Mới xem qua mục lục, tôi thấy có bài của anh Nguyên. Anh Nguyên viết một tiểu luận về cuộc chiến tranh Cao Ly giữa Mỹ và Trung Cộng. Bài Thiếu tá Quy, một đoản văn nói về người lính VNCH trong thời chiến. Tôi vẫn nhớ về số báo đặc biệt kỷ niệm mười sáu năm của Sư đoàn 2, nhưng chưa có đề tài để viết, và đang nghĩ đến nó, rất có thể, tôi viết ngay về công việc của mình trong đơn vị.
Không chờ đến quá nửa tiếng, phi hành đoàn cơm nước xong trở lại phi cơ. Tôi hết sức bất ngờ, trong phi hành đoàn có Lê, bạn cùng khóa 69B.
Vẫn một khuôn mặt đầy đặn, nụ cười thân tình, bạn cũ hỏi:
- Sao mày lại ở đây?
Tôi đáp ngay:
- Tao ra Bộ Binh.
- Bây giờ làm gì?
- Coi phân đội súng TOW.
- Vậy hôm này mày có đi không?
- Đang chờ đây.
Nói chuyện với tôi ít phút, Lê lên tàu. Tôi và anh em đưa súng đạn lên máy bay, rồi thoải mái chọn chỗ ngồi. Đi lên vùng hành quân, tôi và toán lính đều mang ba lô, túi ngủ, và đủ cấp số súng đạn cá nhân.
Khi nghe tiếng động cơ nổ lớn, thân con tàu rung mạnh, sau ít giây là cất cánh. Từ khoảng không, tôi nhìn xuống bên dưới thấy toàn cảnh căn cứ, rồi phi cơ trôi xa dần bay về hướng núi.
Lê mới chỉ làm hoa tiêu phó, bạn ngồi ghế bên trái. Một chập sau, bất ngỡ người xạ thủ đưa chiếc nón bay cho tôi. Tôi ngạc nhiên, nhưng với cách ra dấu của Lê, tôi hiểu:
- Mày ra Trung đoàn lâu chưa?
- Được sáu tháng rồi. Còn mày, về nước lâu lúc nào?
- Mới được ba tháng.
- Còn anh em bên Mỹ không?
- Còn một số ít. Tụi nó, đi học khu trục và vận tải.
- Phi đoàn của mày đang ở Đà Nẵng, phải không?
- Đúng. Trong phi đoàn có bốn tên nữa cùng khóa mình.
- Kể hết đi.
Lê kể tên các bạn, có đứa tôi nhớ, có đứa không vì ở khác phòng và phi đội. Trong một chút bâng khuâng như cơn gió, tôi mơ hồ tưởng như mình đang bay qua một bầu trời cao rộng. Bên dưới là cánh rừng, con suối. Những căn cứ đóng quân của Tiểu đoàn hiện ra ở những quả đồi, nơi ấy, xuất hiện các công sự và một vài đám khói màu. Khi ngừng câu chuyện, vì máy bay sắp đến, tôi tháo chiếc nón bay ra đưa cho người xạ thủ, tiếng cám ơn của tôi không nghe rõ vì bị gió át mạnh.
Phi cơ xuống thấp, bay một vòng quanh tiền đồn trước khi hạ cánh. Một nỗi rộn ràng dậy lên trong lồng tôi khi tôi biết mình đã đến vùng hành quân. Nắng tràn ngập căn cứ và nhìn thấy ngọn đồi có một vẻ đẹp hùng tráng. Rồi thoáng giây biến mất, chiếc trực thăng đã hạ cánh.
Tôi nhảy xuống trước, trên tàu anh em chuyển trang thiết bị, súng và mười quả đạn xuống mặt sân. Từ Trung đoàn trưởng, vị Thiếu tá cố vấn cùng các Sĩ quan đi tới gần. Sau khi đưa súng và trang thiết bị xuống xong, tôi trình diện vị Đại tá. Có vẻ mọi người đang chú ý đến tôi, vừa quan sát loại súng mới. Một vài câu hỏi của vị Đại tá, tôi trả lời suôn sẻ.
Có một công sự còn để trống, tôi đưa anh em đến đó, và ngay lập tức, toàn bộ cây súng được lắp đặt, cái thế đứng của chân ba càng dựng ngay trên một tảng đá bằng phẳng. Từ nơi này, nòng súng có thể hướng nhiều mặt, đối diện là bờ suối và phía sau là cánh đồng và con đường cái từ quận lỵ đi qua ngọn đồi 41 và lên tới mỏ than Nông Sơn.
Lê đứng bên cạnh mà tôi không hay. Sau khi lắp ráp toàn bộ cây súng xong, tôi trình bày cho vị Đại tá và những người đứng chung quanh quan sát về cách vận hành và phương thức tác xạ. Về hiệu quả, loại súng có sức phá hủy xe tăng rất khủng khiếp vì sức nóng khi chạm vào khối thép lên tới 4000 độ, và rất chính xác nhờ có một hệ thống máy nhắm bằng tia hồng ngoại. Nhưng, có ưu điểm cũng có nhược điểm là súng này sử dụng thích hợp trên chiến trường đồng bằng, chiến trường miền núi, có phần trở ngại vì đường đạn khi bắn ra có một sơi dây hướng dẫn, nếu mắc phải vào cây cối là lệch mục tiêu. Một bất lợi khác nữa cũng quan trọng, là loại súng hỏa tiễn này chỉ công hiệu phá hủy những mục tiêu có chất kim khí, với các hầm công sự, súng này không thể công phá được như súng đại bác, hay súng cối của pháo binh.
Sự trình bày của tôi có tính cách lý thuyết với bài vở ghi nhớ được trong hai tuần tôi ra trung tâm Hòa Cầm dự khóa huấn luyện. Và, lúc này, có muốn thử nghiệm cũng không có mục tiêu, tỉ dụ đặt một chiếc connex, xa khoảng một cây số để nhắm bắn.
Tự nãy giờ, viên Thiếu tá cố vấn dáng người cao lớn, ông im lặng quan sát, đến khi mọi người hỏi chuyện tôi xong, ông ta mới nói với người thông dịch viên.
- Khi tác xạ, độ giật của súng mạnh không?
- Không.
- Hiệu quả tầm xa là bao nhiêu?
- Ba cây số trên lý thuyết.
- Có thể di động được bằng xe khi tác xạ không?
- Có. Súng được gắn trên xe, và di động khắp mọi vị trí.
Viên Thiếu Tá cố vấn hiểu, gật đầu. Ông quay qua nói chuyện với vị Đại tá, hai người quan sát quang cảnh chung quanh, rồi ông lại gần cây súng, thử độ xoay vòng của nòng súng tựa lên chân ba càng. Sau khi nhìn qua ống nhắm hướng đến một mục tiêu, ông điều chỉnh giác độ và khoảng cách, rồi lùi bước, đứng lên với một nụ cười hài lòng.
- Tốt lắm.
Anh em đứng quanh vui cười lớn tiếng, vì ông ta nói câu tiếng Việt rất rõ.
Thế là xong phần việc của mình. Tôi lên vùng hành quân, không biết ở đây bao lâu. Nhưng với một ngày, và chiều nay đang hiện hữu, tôi cảm thấy mình có thêm một ngày vui của đời lính.
Bây giờ, theo chiếc trực thăng rời căn cứ có một Sĩ quan và hai người lính thuộc ban 4.
Bằng cái vỗ vai thân mật, Lê nói lời chào với người bạn cũ cùng khóa, và kỷ niệm cũ, như thể đã quá xa cách một thời gian dài.
Không níu lại, cũng không có gì làm tôi cảm thấy buồn, ân hận, vừa nuối tiếc. Không, nhìn về phía núi, tôi trông thấy cả một vùng mây còn trắng xóa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

XI

Hai tuần lễ sau, tôi gặp lại Lê trong phi vụ lên căn cứ Ross. Nhân chuyến này, tôi cũng sẽ theo Lê về lại hậu cứ, nghỉ một ít ngày xong lại đưa lên một khẩu đội nữa. Sự đổi phiên được ấn định là bốn tuần, thay vì hai.
Lúc nãy, ngồi trên phi cơ nhìn xuống nhận ra cái dáng của tôi, Lê vẫy tay, đến ít giây lâu tôi mới nhận ra, đưa cao tay chào lại, lòng hết sức vui.
Từ bên kia bờ suối, chiếc trực xuống thấp dần, rồi hạ cánh ngay bãi đáp bên cạnh căn hầm của ban hành quân.
Đây là chuyến tiếp tế định kỳ cho Trung đoàn. Ngay lúc vừa hạ cánh lính hậu cần đã chực sẵn để nhận hàng có gạo, thực phẩm tươi, lương khô và thuốc lá.
Không tắt máy nên hai phi công ngồi lại trên máy bay, tiếng động cơ vẫn nổ, cánh quạt quay đều, và chỉ sau mười lăm phút hàng tiếp tế chuyển xong, hai người lính đi phép và tôi cùng nhảy lên, rồi không chậm trễ, phi cơ cất cánh.
Mới hôm qua, vị Trung đoàn trưởng về hậu cứ để đứng ra chủ tọa buổi bàn giáo chức vụ Trung đoàn phó giữa Trung tá Quảng và Thiếu Tá Quy. Đã có tin phong phanh từ lâu, nay đã thành sự thực. Giữa hai vị, công việc bàn giao vui vẻ, với Trung tá Quảng sắp trở thành ông Quận trưởng một quận lớn ở tỉnh Mỹ Tho, với Thiếu tá Quy, nội trong năm nay thế nào cũng được đề bạt lên cấp Trung tá. Ở bên quân đội, các sĩ quan cấp nhỏ thì bình thường, tà tà thôi, ở cấp lớn từ Đại úy là bắt đầu có thể chọn lựa đường binh. Ở đơn vị Sư đoàn hay chiến đấu, muốn có bông mai bạc trên cái đế là phải được giữ chức Trưởng ban, phụ tá Trưởng phòng hay được làm Tiểu đoàn trưởng. Thiếu tá Quy làm Trưởng ban chức vụ cũng đến cấp trung tá, nhưng với thế giá là Trung đoàn phó, việc thăng thưởng dễ dàng hơn.
Sau buổi bàn giao có một tiệc trà nhỏ, khá vui. Nhưng cũng có thể, cái vui bên ngoài, buồn trong lòng của một số chức sắc ngồi hậu cứ lâu nay là vây cánh của ông phó cũ. Giờ ông phó mới lên chắc chắn sẽ có sự thay đổi, không cần ai dự đoán cả. Trong quân đội miền Nam, không có lập đảng nhưng cần có phe cánh ăn ý nhau mới dễ làm việc.
Có tôi đi cùng nên Lê lại có dịp hỏi chuyện qua cách liên lạc bằng vô tuyến trong chiếc mũ bay mà Lê nhờ người xạ thủ đưa cho tôi. Lần này, câu chuyện thoải mái hơn lần trước, và có quà cho nhau nữa. Với Lê, tôi sẽ tặng cho bạn mình cái nón còn mới, nón này tôi xin được một bạn quen làm ở ban 4.
Thời gian bay từ Ross về hậu cứ Trung đoàn vừa đúng hai mươi phút. Ngồi trên phi cơ, tôi được thỏa thích cặp mắt nhìn ngắm không gian có đủ loại mây đang di chuyển từng cụm, được nhìn bên dưới là cây rừng, con suối, làng mạc đồng ruộng, một vài nơi có chiếc cầu và dòng sông, từng thứ ấy, nói với tôi không phải như ước mơ về một đời làm phi công, mà hãy cố tạo cho được một ý nghĩa mới về quê hương, xứ sở, hãy đợi ngày mai đi tìm một nơi riêng biệt thanh bình. Không biết bao lâu nữa, nhưng tôi rất mong gặp lại Liên An, Thùy, những thiếu nữ khác nữa.
Tiếng Lê bỗng hỏi:
- Có muốn ra Đà Nẵng chơi không?
- Không đi được.
- Chút nữa, mày đi ăn với tụi tao?
- Ờ, nói vậy nghe hay. Hôm nay bay mấy chuyến?
- Ba chuyến phục vụ cho Trung đoàn của mày.
- Tốt.
- Mày về hậu cứ luôn hay sao?
- Không, ít ngày nữa lại trở lên hành quân.
Phi cơ bay dọc theo con lộ. Bên dưới, quốc lộ I hiện ra bóng những chiếc xe đò đang chạy ra phía Bắc và cả đi vào phía Nam. Lòng vui, tôi quan sát một cách hồn nhiên, hòa trong niềm vui này là tình bạn cũ của khóa 69 B. trong hoàn cảnh nào được gặp nhau là hạnh phúc, là một thứ tri ngộ tìm thấy ở trong nụ cười rất thân thiết, đậm đà.
- Mày còn làm thơ nữa không, Thụy?
- Không, ngưng làm thi sĩ rồi.
- Sao vậy?
- Đang ở trong cuộc chiến, thơ thẩn gì nữa.
Tiếng cười của Lê nghe rõ, vang lên trong chiếc mũ bay. Rồi một giọng thân tình, tôi nói:
- Tao có sáng tác truyện ngắn.
- In được tập nào chưa?
- Chưa.
- Mày tin đi. Có gì, tao nói tụi trong khóa mình ủng hộ cho.
- Hoan nghênh.
Phía bên trên cây cầu, hình ảnh thị xã hiện ra trong nắng trưa. Chiếc trực thăng vượt qua ngọn đồi đất đỏ xong hạ cánh trước sân cờ.
Thiếu tá Quy xuất hiện, Tôi đứng nghiêm chào kính. Ông đưa tay chào lại và đến gặp hai phi công.
- Hai giờ chiều, các anh lên West, rồi trở về, chuyến chót đi Barbara. Viên Trung úy hoa tiêu chánh nhận lệnh.
- Thiếu tá có xe không, cho mượn.
- Các anh ra phố.
- Vâng.
- Không lên câu lạc bộ ăn cơm.
- Chúng tôi ra phố một chút.
Tôi giới thiệu Lê với Thiếu tá Quy. Ông rất ngạc nhiên khi bắt tay Lê.
Phi cơ đậu trước sân cờ. Từ phía cơ xưởng ban 4, một chiếc xe Jeep chạy đến. Xe ngừng, anh ta hỏi:
- Trung úy lái hay là tôi?
- Anh cho tôi mượn xe. Tôi lái được.
Tôi cùng lên xe với hai chàng phi công. Anh lính xạ thủ không đi, nhân có thì giờ rảnh anh muốn thăm người làm việc bên ban 5.
Từ căn cứ ở Tuần Dưỡng xe vào thị xã Tam Kỳ chừng khoảng hai mươi phút.
Trên đường, viên Trung úy hỏi Lê:
- Bạn cùng khóa với ông?
Lê cười bảo:
- Hắn là thi sĩ của khóa đó, niên trưởng.
- Đúng là type thi sĩ.
Tôi hỏi:
- Niên trưởng thuộc khóa mấy?
- Tôi hả, khóa 67C.
Viên Trung úy nhỏ người hơn. Lê trông bệ vệ, dềnh dàng.
- Anh học bay bị out hay sao?
- Không, tôi chưa qua Mỹ, vì rớt Anh ngữ.
- Thì ra vậy.
Xe vào thị xã, chạy chậm lại rồi ngừng trước một quán cơm ngay giữa phố. Mọi người cùng xuống. Hai viên phi công tháo cặp kính mát ra khi vào tiệm ăn.
Lê cầm tấm menu, xong gọi cơm phần và bia. Khi người chạy bàn đi khỏi, vị niên trưởng hỏi Lê:
- Thiết cùng khóa với ông hay là khác.
- Thiết hả, trên tôi hai khóa.
- Nó sắp lấy vợ. Tối mai, tôi dự đám cưới của nó.
- Tôi không hay.
- Vợ nó học giỏi, cũng khá xinh. Đi học ở Mỹ về.
Bữa cơm dọn ra nhiều món và có bia uống giải khát. Tôi hỏi:
- Mày về nước, ra ngoài này luôn hay có ở Sài Gòn.
- Ra ngoài này luôn.
- Mày không xin về Sài Gòn cho gần nhà?
Lê nói:
- Tụi tao về thăm nhà cũng dễ. Máy bay đi lúc nào cũng được.
- Nhưng phải đi phép mới dễ.
- Đó là nguyên tắc.
- Mày còn nhớ hết đám mình trong khóa không?
- Làm sao nhớ hết. Bây giờ Đại úy Hoàn còn coi đoàn khóa sinh nữa không?
- Ông đeo bông mai bạc rồi. Đang ở Mỹ, làm Sĩ quan liên lạc.
- Tao nhớ ơn ông.
- Khóa mình là kỷ niệm của ông.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

Tôi nói với viên Trung úy:
- Không có Thiếu tá Hoàn, tôi sẽ không đậu nổi quân sự.
Viên Trung úy cười nhìn tôi. Một giọng hơi lớn, ông ta nói:
- Tên này lọng cọng quá.
Một giọng tự nhiên, tôi nói thêm:
- Tôi và bốn đứa nữa xém rớt, vì coi thường không lo học quân sự. Cũng may, có Thiếu tá Hoàn xin điểm vớt.
- Rồi, qua trường Bộ Binh ông học ra sao?
- Tôi học hành nghiêm túc. Nhưng ra trường, đậu thấp nên đi tác chiến.
- Bây giờ ông là gì.
- Tôi coi về hỏa tiễn TOW.
Viên Trung úy hơi ngạc nhiên, Lê tiếp lời:
- Đây là loại súng mới chống xe tăng.
- Ông hạ được chiếc nào chưa?
- Súng này mới cấp phát chuẩn bị cho chiến trường mùa hè.
Bữa ăn thong thả. Trong tình thân, tôi và Lê vẫn là bạn cùng khóa, còn Trung úy Tân là vị niên trưởng. Trong thoáng giây, tôi trở về ngày tháng cũ, tôi còn nhớ cả một giai đoạn vào thời tôi còn là người lính bên binh chủng Không Quân, giá mà lúc đó, tôi tính chuyện xin đi học ngành phi hành, dù là ngành quan sát viên thì lúc này đây, không những là đàn anh của Lê mà trên ve áo cũng có hai bông mai rồi. Vào thời kỳ đó, khóa quan sát viên tuyển từ trường Thủ Đức qua sau khi học xong giai đoạn một. Ra Nha Trang, họ lại bị lột alpha, huấn nhục trở lại và nhận tên khóa mới. Ở trung tâm huấn luyện Không Quân, các khóa học đều lấy năm vào trường và thứ tự trước sau theo vần alphabet. Trong một năm, thường là có bốn hoặc 5 khóa nhập học.
Uống xong tách trà, viên Trung úy gọi người chạy bàn đến tính tiền. Trưa nắng gắt, lần này, Lê ngồi vào ghế lái.
Xe trở ra hậu cứ, vì còn giờ nên cả đám kéo lên Câu lạc bộ uống cà phê. Trong câu chuyện, Lê hỏi:
- Mày vợ con gì chưa?
- Chưa. Mày, sao?
- Cũng chưa.
Tôi nhìn qua viên Trung úy:
- Còn niên trưởng.
- Tôi có một móng rồi.
- Bà ở đây, hay Sài Gòn?
- Người ngoài này.
Ba người uống cà phê đá. Lê nói:
- Tao còn giữ nhiều ảnh của khóa mình.
- Tao không có tấm nào cả.
- Lần sau gặp, tao cho mày coi.
- Gia đình mày ở Sài Gòn?
- Ờ, trong đó. Tao có thằng em, cũng đi Pilot.
- Cũng bay trực thăng.
- Không, nó đi vận tải.
Rồi trong yên lặng, lúc này, vị niên trưởng và người bạn cùng khóa nghe tôi kể chuyện về mình. Hồi ức của tôi là những ngày học ở trường Thủ Đức rồi sau đó đi ra Sư đoàn. Trong giọng kể của tôi, cho thấy tôi đã là một người lính đang chờ một chiến trận bùng nổ, và những giờ phút đương đầu khi tiếng súng đạn vào thời khắc khốc liệt nhất. Tôi chỉ nghĩ về mình thôi, chưa dám nói với một tập thể quân đội đang có sứ mạng, ý thức trách nhiệm bảo vệ tất cả phần đất, lãnh thổ miền Nam.
Từ câu lạc bộ, lối cửa trước mở ra một con dốc di xuống sân cờ. Sau buổi gặp nhau, ba người chia tay.
Tôi trở về nơi ở của phân đội, Vừa bước vào, tôi lên tiếng:
- Tôi về, đưa lên căn cứ một khẩu đội nữa.
- Ai đi Chuẩn úy.
- Khẩu đội 2 đi.
- Sao không đưa hết luôn.
- Tôi chỉ theo lệnh của Trung đoàn trưởng. Một ở lại, để phòng thủ cho căn cứ.
Tôi ngồi ở chiếc sạp của mình. Vài người lính ngồi quanh. Tôi hỏi:
- Ở nhà trực gác đều không?
- Đều cả. Cứ mỗi phiên, gác hai giờ.
- Tốt.
Buổi chiều, sau giờ làm việc, tôi gặp Thiếu tá Quy. Vào những lức riêng tư, ông thân tình với tôi như người bạn.
- Bây giờ, ai làm Trưởng ban 3, Thiếu Tá?
- Đại úy Bột.
- Đại úy Bột cũng xuất thân Đà Lạt.
- Cùng khóa với anh.
- Ủa, sao ông còn Đại úy.
- Đời nhà binh, sao nói được em.
- Ông có ở đơn vị tác chiến không?
- Đà Lạt, anh nào ra không làm Trung đội trưởng.
- Mấy ông Tiểu đoàn trưởng đàn em của Thiếu tá.
- Thiếu tá Quy gật đầu. Một giọng mềm, tôi nói vừa nhìn vị Thiếu Tá.
- Chắc trong năm nay, ve áo của Thiếu Tá thêm một cái bông mai bạc nữa.
Vị Thiếu tá cười, nói:
- Có anh em đỡ khổ.
- Cám ơn Thiếu Tá.
- Em vợ con gì chưa?
- Chưa. Nghe nói, Thiếu tá có em gái.
- Em của bà xã anh.
- Cô ấy làm gì?
- Bộ em muốn nhảy vô hả.
- Em nghe cũng lâu rồi.
- Bên bà xã anh, chỉ có hai chị em.
- Cô ấy làm gì?
- Làm việc bên Ty xã hội.
- Chắc cũng lớn tuổi.
- Không, nhưng nó chỉ mới học đến trung học.
Tôi không hỏi thêm. Một lúc, tôi gợi mở chuyện khác:
- Bây giờ nhân sự ở hậu cứ thay đổi không?
- Cũng sẽ có chứ.
- Tình hình năm nay ra sao Thiếu tá?
- Năm nay, có thể năm quyết định trên chiến trường.
- Hội nghị Paris tới đâu?
- Tụi Mỹ nó dây dưa lắm. Hà Nội, bọn nó càng ngoan cố.
- Nixon, muốn Việt Nam hóa chiến tranh.
- Đó là mối lo.
- Thiếu tá thấy quân đội mình ra sao?
Một giọng xa vắng, vị Thiếu tá nói:
- Quân số ngoài chiến trường của mình còn thiếu quá. Một triệu quân, hai phần ba là thuộc về các đơn vị hậu cứ và bộ chỉ huy. Ngay cấp trung đoàn cũng thuộc về quân số hậu cứ. Ở tiền đồn, thực lực chỉ có quân lính của Tiểu đoàn.
- Tình thế nghiêm trọng không?
- Chưa tới ngày N. giờ G. Nhưng chắc chắn, Hà Nội đã tập trung quân, càng ngày càng nhiều bên kia bờ bắc của sông Bến Hải.
- Quảng Trị là quê của tôi, Thiếu tá.
- Ngoài đó thuộc đơn vị Sư đoàn 3.
- Sư đoàn tân lập. Phần đông lính là lao công đào binh. Tôi nghĩ ở Quảng Trị, phải để hai Sư đoàn thiện chiến mới phải.
- Quân số mình rất thiếu. Dù và TQLC là hai đơn vị trừ bị, chỉ đánh các trận lớn.
Bỗng nhiên tôi hỏi:
- Trung đoàn mình, khá không Thiếu tá.
- Bốn ông Tiểu đoàn trưởng rất là cứng. Không có ai thay thế được.
- Tôi mới về, đang mong Trung đoàn có được chiến thắng lớn.
- Lên vùng hành quân, có chiến thắng, anh cho em huy chương.
- Cám ơn Thiếu tá.
- Bây giờ anh về. Em ra nhà anh chơi không?
Một giọng vui, tôi nói:
- Khi nào cột xong dây buộc, anh với em cùng nhau chèo nghe.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

XII

Liên An đã lấy chồng. Sự ngạc nhiên không quá đỗi phiền muộn, nhưng tôi cảm thấy mất mát cũng rất nhiều. Liên An, nàng vẫn là tên một thành phố ở trong lòng tôi. Cả một buổi chiều ấy nữa, hai người đi bộ qua những cây cầu lên đến nhà ga rồi dừng lại bên cái tháp nước.
Về hậu cứ, thời gian nghỉ được vài ngày, buổi chiều tôi hay quá giang xe cơ hữu ra phố đi lang thang, ghé tạt vào một hiệu sách, sau đó tìm đến nhà Liên. Có vẻ như Liên sắp có tin vui, nhìn gương mặt thay đổi, dáng bước đi chậm, nàng đang bắt đầu trông đợi ngày tháng để trở thành người mẹ.
Hai người nói chuyện ở phòng khách, nhắc đến thành phố Đà Lạt. Nhưng Liên đã không có sự liên hệ, hay là từng quen biết hai cô bạn gái của tôi là Thùy và Hương.
Vì có lớp dạy giờ cuối nên Thiện về nhà muộn. Bỗng anh bạn vui lên ngay khi gặp lại tôi, đã đi vắng đến cả tháng trời nay.
Hai người bạn kéo nhau ra hiên ngoài, ngồi ở chiếc bàn vuông. Thiện khui chai bia lớn, rót vào ly bạn trước, rồi đến mình.
- Anh mới đi phép về?
- Không, tôi lên vùng hành quân.
- Tình hình ra sao?
- Năm nay cũng đáng lo.
Hai người cụng ly, chúc may mắn. Một lúc, Liên mang ra một dĩa đồ mồi và đậu phộng rang. Hai thứ đang còn nóng. Nhìn Liên, lòng tôi vui và cười qua ánh mắt khi nói với Thiện. Thiện ngước mắt nhìn bạn và vợ, anh hơi ngượng ngùng.
- Ngồi xuống đây em.
- Hai anh nhắm đi, em làm cơm.
Liên vào nhà. Hai người uống thong thả, nhìn ra buổi chiều.
Trên sân còn nắng và những chiếc lá rụng nằm vươn rãi. Nơi này yên tĩnh, nghe không khí vùng ngoại ô bảng lảng.
- Anh vẫn đi dạy bình thường.
- Tôi có thêm hai lớp bên trường Bồ Đề.
- Còn trường anh, không có gì thay đổi.
- Không.
Bia ngon, hai chai khổ lớn, phần mỗi người một chai.
- Liên bảo tôi gắng học thêm, nhưng thì giờ đâu.
Tôi nói:
- Anh em mình quá tuổi rồi. Về phần anh, đã có gia đình, bắt đầu nghĩ đến con cái, hạnh phúc về cuộc sống sẽ đến và bắt đầu.
- Tôi làm nghề giáo được sáu năm.
- Anh thực là chịu khó. Tôi, vừa vụng về, lại chậm lụt.
- Gia đình anh còn ở Quảng Trị không?
- Không, bây giờ ở Huế.
- Một đôi lúc hồi tưởng, tôi nhớ Quảng trị như quê tôi ngoài miền Bắc.
- Anh ở tỉnh, đi Hà Nội chưa?
- Chưa.
Với một giọng vui, Thiện nói:
- Ngày đó, tuổi thơ được đi Hà Nội là sang lắm.
- Người mình, giàu tình cảm và óc tưởng tượng. Trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn thời đó, thanh niên ai mà có một lần rời xa Hà Nội đi lên các vùng mạn ngược coi như đó là hành động của một người có đầu óc làm cách mạng.
- Anh chàng Dũng của Nhất Linh, bỏ Hà Nội đi lên vùng Tây Bắc sống với cuộc đời gió bụi, xa cách người tình cô Loan để mà nhớ, có phải là hình ảnh người đi làm cách mạng không?
- Anh hãy nhớ, vùng mạn ngược là vùng nước độc.
- Tôi nghĩ các nhà văn tưởng tượng cho nhân vật tiểu thuyết mang chút hồn nghệ sĩ.
- Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, anh đọc nhiều không?
- Không nhiều lắm, ngoài mấy tác phẩm mình phải học thi có thêm vài tập truyện ngắn.
- Nhất Linh đúng là một nghệ sĩ tài hoa. Tôi thích văn ông, lúc nào cũng làm cho tiếng Việt có ý nghĩa, thêm sự giàu có và trong sáng.
- Cho đến nay, ở miền Nam có cách viết mới, nhưng không nhà văn nào có được một vài tác phẩm quý như Hồn Bướm Mơ Tiến, Đôi bạn và Vang bóng một thời.
- Tôi luôn nghĩ, tiếng Việt thời tiền chiến giữ đúng tiếng nói và tính cách người Việt.
- Từ hôm ra đơn vị đến nay, anh viết được gì không?
- Không. Nhưng tôi có ghi chép. Kinh nghiệm của người viết văn, thường họ phải sống một cách đích thực, sau đó, mới dễ dàng viết ra giấy,
- Tôi cảm nhận được nghề giáo của mình, có lẽ, rồi tôi cũng sẽ viết.
Tôi uống bia, thấy ngon, ngấm chút ấm áp của mặt trời. Bên cạnh người bạn, tôi thấy mình hạnh phúc quên đi sự mất mát của tình yêu. Và, biết đâu, trong mất mát ấy là hương thơm và nỗi u hoài của Liên An.
Thiện đang suy nghĩ, bỗng lên tiếng:
- Tôi thấy lạ, truyện nhà văn nước ngoài với mình khác nhau, xa lạ hơn nữa. Cũng một đề tài về cuộc sống, về chiến tranh, tình yêu nhưng đọc của họ viết thấy có bề rộng, bề sâu, và câu văn nào cũng có một tư tưởng. Truyện của nhà văn mình, nhân vật, không mấy tạo ấn tượng, và cuộc sống cũng nghèo nàn, trầm lắng.
- Viết văn theo tôi nghĩ, phải có được cách viết. Chẳng hạn anh làm nghề giáo hay công chức, một nhân vật về đời thường rất giản dị. Nhưng viết cho người đọc thấy đó là anh, không lẫn được ai khác, đó là tài năng viết. Người được coi là bậc thầy truyện ngắn về các nhân vật như tôi nêu, không ai viết hay bằng nhà văn Nga, Tchékhov.
Thiện gật đầu, đồng ý.
- Anh có nhận xét đúng của người theo nghiệp văn.
Trời sắp tối. Buổi chiều như đã thấy muộn cho những ai đi trên con đường phía ngoài ra ngoại ô.
Liên bật đèn sáng trong nhà và dọn cơm. Tôi ăn thực tình, không khách sáo. Liên lên tiếng:
- Còn ông, nghĩ tới chuyện vợ con đi chứ.
Tôi cười, hỏi lại Liên:
- Có ai nói cho biết đi.
Thiện hỏi:
- Có thường liên lạc với Thu không?
Tôi nói:
- Không có. Gặp nhau lần đó chỉ tình cờ thôi. Tôi cũng hết mơ mộng rồi.
- Hết mơ mộng, làm sao bạn viết văn.
- Khi nào tới, mình hẳn hay.
Bữa cơm ngon miệng, đậm đà tình gia đình. Xong bữa ăn, Liên dọn dẹp. Tôi và Thiện uống xong chén trà, mỗi người đốt điếu thuốc đi ra đường dạo mát. Tối nay, trời sắp có trăng non.
- Ở Quảng trị, quê ông ở đâu?
- Tôi ở Hải Lăng, nơi ông đã có dạy học ngoài đó.
- Hải Lăng là quận, nhưng cũng là quận lớn.
- Ngày trước, ông Diệm làm tri phủ ở đó.
- Thực vậy sao?
- Tôi không biết, chỉ nghe ông già tôi kể chuyện.
- Ông bác làm gì?
- Cũng là giáo viên tiểu học. Thế hệ anh và tôi đều là lứa học trò của ông.
- Tôi thấy, giáo viên dưới tiểu học, các em học sinh có tình nghĩa với thầy hơn trên trung học.
- Anh tìm ra lời giải thích chứ?
- Tôi cảm nhận vậy thôi.
- Tôi có một ý chính để giải thích. Ở tiểu học, thầy đứng lớp thường trực với học sinh từng buổi, từng ngày, từng tháng, từng năm. Lên trung học, học theo môn, theo giờ, thầy giáo thay nhau đến các lớp trong giờ dạy của mình, nên ý nghĩa của thầy trò, tùy theo tình cảm từng học sinh nên không đồng nhất như dưới lớp tiểu học.
Thiện gật đầu, nhận là đúng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 23 Mar 2017

Trên đường, chỉ còn sự yên lặng của bước chân. Thiện bỗng hỏi:
- Anh không tính lấy vợ sao?
- Tôi chưa nghĩ đến. Một phần trong đó, tôi thấy mối đe dọa của chiến tranh. Ngày đó, ở quân trường nghe bài hát phổ nhạc của Phạm Duy: Ngày mai đi nhận xác chồng, tôi đâm ra lo sợ. Với riêng mình, không vướng lụy. Nhưng để một người vợ, tay bế, tay bồng, chít khăn tang nữa, đó là một ký ức vô cùng buồn thảm của chiến tranh,
Rất thông cảm với bạn, Thiện không nói gì thêm. Đi dạo một lúc, hai người trở về. Tôi vào nhà chào Liên, bắt tay Thiện rồi rời nhà bạn đi bộ một mình.

Ngày hôm sau, tôi đưa súng đạn và bốn anh em trong phân đội theo chuyến trực thăng trở lên căn cứ hành quân, vắng có mấy ngày, tôi cảm nhận một sự khác biệt, vừa mới lạ trong sinh hoạt căn cứ.
Khu vực hành chánh của quận nằm phía dưới cách xa vùng hành quân đến năm cây số, nhưng gần với Ross, có một ngôi làng, buổi chiều dưới đó có một vài quán ăn bán đồ nhậu với rượu bia, và một quán bán giải khát có cà phê vừa lọc phin, vừa nấu sẵn.
Từ căn cứ, vào giờ nghỉ hay đổi phiên trực, anh em lính cả Sĩ quan nữa đi xuống làng, ghé quán, lai rai dĩa đồ mồi và làm vài chai bia, hoặc mấy xị rượu đế.
Không khí trong quán đông vui, lâu lâu có tiếng đàn ghi ta, có giọng ca vọng cổ của mấy anh lính người miền Nam, quê quán ở miền Đông hay miền Tây, anh nào cũng có một vài câu cải lương hát lên, giọng ca cũng rất mùi mẫn, lâm ly.
Hôm qua, một Đại đội của Tiểu đoàn 1 đến tăng cường. Sự thể bất ngờ, tôi được gặp lại Đại úy Thụ. Với tình đồng hương, hai người rất thân thiết. Tới buổi chiều được giờ nghỉ, tôi đi theo Đại úy cùng một số đám lính nữa xuống làng vui chơi, nhậu nhẹt.
Hai người kéo một bàn riêng ở quán nhậu. Trước khi quán hàng mang thức nhắm hai người rót bia, nhìn tôi với nụ cười, Thụ hỏi:
- Em có quen với Thúy Hà hả.
- Phải, sao anh biết.
Thụ không trả lời ngay. Không cần mời mọc, cả hai người cùng cạn ly bia và rót thêm.
- Nói đi, anh Thụ.
- Cô là học trò của anh hồi xưa.
- Ủa, anh có đi dạy.
- Không, tao mở một lớp hè dạy thêm.
Tôi gật đầu, hỏi:
- Nhưng sao mà anh Thụ biết tôi quen.
- Tao có đọc một truyện ngắn em viết. Không sai chạy đâu hết, nhân vật trong đó là Thúy Hà.
- Anh thật nhạy bén và quá tài.
- Không khí trong truyện và cách tả của mày, tao nhận ra ngay.
- Rất tiếc, không biết chuyện của anh. Có biết, tôi đưa vào luôn.
Bữa nhắm dọn ra là một dĩa lòng, mấy con mực nướng và có chén tương đỏ.
- Làm đi.
Thật vui, được biết anh. Nói chung, anh em mình là người cùng quê cả.
Rồi tôi hỏi:
- Sao anh không xin về ngoài đó.
Thụ đáp:
- Đời lính ở đâu cũng được.
- Khóa các anh ở trường Võ bị, có đông dân Quảng trị không?
- Có chừng mươi tên thôi.
- Khóa với anh hay trước sau.
- Khóa tao chỉ có hai tên, tao và thằng Hàm.
- Anh Hàm hả?
- Ờ.
- Tôi biết. Là học sinh giỏi bên Nguyễn Hoàng. Anh Hàm học cùng lớp anh Khanh.
- Mày có tính học hành thi cử lại không?
- Hoàn toàn không, anh Thụ. Bài vở học bây giờ khó nhớ, làm sao mà qua hết được các môn chính và phụ.
- Tao cũng không học nổi cho xong Đại học.
- Anh phải được ở thành phố, hoặc là Huế, hay Sài Gòn mới có dịp học lại.
- Tao đã vào Đà Lạt, là phải tiến.
- Tôi có sáu năm lính rồi, mà chỉ được cái lon Chuẩn úy. Tính ra, đừng bị rớt bên Không quân, thì lúc này đã là Thiếu úy rồi.
Thụ chỉ cười, tôi tiếp lời:
- Anh lên lon có nhanh không?
- Vừa thôi, từ ngày ra trường đến giờ là 6 năm.
- Ông Tiểu đoàn trưởng đụng plafond, chắc sắp bàn giao cho anh và đi kiếm ghế quận trưởng.
- Ông đang vận động.
- Anh nắm Tiểu đoàn trưởng là có bông bạc ngay.
- Mày có về với tao không?
- Anh em mình, giữ cái tình mới quý. Thỉnh thoảng gặp nhau. Anh nhớ, quen biết quá không có lợi.
- Mày nói đúng.
- Người Quảng Trị mình khô khan lắm.
- Đến cả giọng nói và cách nói nữa.
- Nhưng mà sao, mày quen với Thúy Hà.
- Kể ra câu chuyện cũng là một trường hợp hiếm hoi, nhưng mà có.
Ngôi làng đang bình yên trong cảnh buổi chiều xuống thân tình, ấm áp. Trong quán, lính tráng ồn ào, chuyện trò, ca hát nhạc lính, không có đàn, họ dùng những chiếc muỗng gõ xuống bàn, đánh nhịp.
Một lúc sau, tôi mới nói ra lời tâm sự:
- Tôi gặp Thúy Hà, chỉ có một phần lưu lạc của tuổi trẻ, nhưng thấy trong đó ảnh hưởng trọn cả một đời của mình. Tôi và anh, chúng mình là người Quảng Tri, khô khan từ trong cuộc sống và tiếng nói. Có lẽ, tôi nghiệm ra được quê hương mình trong cách thế đó. Bởi vậy, Thúy Hà là của đời tôi. Khi nhớ nghĩ về nàng, tôi rất nhớ Quảng Trị. Nơi thành phố nhỏ đó, cảnh vật nào cũng xây dựng lên từ chiến tranh, lạ lùng thay, nó mọc lên, rồi bị tàn phá, rồi hồi sinh trở lại.
Một lần đó, nàng nói: Em không sinh trưởng ở Quảng trị, nhưng thành phố này của anh cũng chính là của em.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 
Món quà tinh thần gởi tặng bevanng từ: Que Huong

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

XIII

Thúy Hà vẫn luôn nhớ đến Thụy. Trong thành phố nhỏ Hội An, nàng sống cuộc đời trầm lặng, ẩn dấu. Đứa con trai, bắt đầu tới nhà trẻ học mẫu giáo. Nàng vẫn làm việc cho ngành du lịch. Vào mấy năm trở lại đây, thành phố đón nhiều khách du lịch từ Âu Châu sang, nhiều nhất là người Hòa Lan và Pháp. Với kiến thức về môn sử và rất khá ngoại ngữ, Thúy Hà đem lại cho du khách một ký ức đẹp về quá khứ, hình dung ra được những chiếc thuyền buồm ngày xưa từ nơi các xứ xa xôi đến bến cảng này. Thêm một hảo cảm khác nữa, khách ngoại quốc nam nữ rất yêu thích giọng nói của nàng, và tỏ lộ cho nàng biết rằng, nàng đẹp.
Nhưng, nàng vẫn cảm thấy mình bất hạnh. Duy càng trở nên tệ hại, sa vào cờ bạc không cứu vãn nổi. Về sau này, nàng quyết liệt không để cho Duy đụng đến số tiền để dành của nàng. Chàng có thua bạc, về nhà xin tiền cha mẹ mà đánh.
Rồi, nhớ mong, dò hỏi, tìm kiếm, đến một ngày Clair cũng tìm ra được nơi thành phố Thúy Hà ở. Anh ta đến, gặp lại Thúy Hà, săn đón, mời mọc, nhưng nỗi buồn riêng về mình, nàng từ chối.
Nàng nhớ đến Thụy luôn. Người bạn học thuở ấy, ấp ủ mãi trong con tim của nàng. Và, trong cuộc sống, mỗi giây phút nghỉ ngơi, là nàng nhớ đến anh. Coi như trong đời nàng, anh là một tấm lòng chân thực của quê hương.
Một buổi sáng mưa nặng hạt, Thúy Hà ở nhà. Nàng thu xếp công việc xong, lên phòng ngồi nghỉ, và tìm cho mình một thế giới riêng. Trên tường, bức ảnh đen trắng sáng rõ, đó là khuôn mặt nàng trong chiếc khung. Và, trên tay nàng một cuốn tập, bao nhiêu dòng chữ trong cuốn này là một kỷ niệm chung được nàng và người yêu cùng viết.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Sau một tiếng còi ngắn, đoàn tàu rời ga Đà Nẵng. Tàu chuyển bánh chậm, rồi bắt đầu nhanh. Ngồi bên cửa toa, tôi và người bạn gái vui thích nhìn ra quang cảnh thiên nhiên, từ những mái nhà, các dãy đồi, rồi biển và núi. Câu chuyện của chúng tôi vui, ríu rít tiếng cười nghe như những tiếng chim hót, và đứa nào cũng giành nói, cũng muốn cho rằng những ý tưởng mình về sự quan sát cảnh vật như thể sẽ viết ra được ngay một bài luận về cuộc du ngoạn trong lúc này. Rồi tới lúc mệt, chúng tôi cười lấy nước mời nhau uống xong chìa môi cho hôn nhau. Bỗng nhiên, con đường hầm Hải Vân bóng tối bao phủ, dài hun hút, nghe ồn lên trong tiếng động ầm ầm của chiếc đầu máy xe lửa.
Những nhà ga ghé lại rồi rời xa. Bây giờ, trước mắt chúng tôi là đồng ruộng, những thị trấn miền quê. Hình ảnh miền Trung nghèo khó làm cho Thúy Hà cảm động, thêm biết bao nhiêu ý tưởng về tình người để sau này lớn lên nàng sẽ là một người mẹ rất đáng quý. Nàng cho tôi nghĩ đến mẹ tôi qua hình ảnh nàng. Ngày xưa đó, mẹ tôi còn trẻ, và nàng bây giờ có gương mặt rất giống mẹ tôi, nhưng nàng đẹp hơn.
Tàu chạy hơn nửa ngày mới tới ga Diên Sanh, Đây là một ga nhỏ nằm trông ra cánh đồng trống, cách tỉnh lỵ Quảng Trị mười cây số. Hai chúng tôi xuống ga, dắt xe đạp đi bên nhau tới cửa kiểm soát vé. Một nhân viên hỏa xa vui vẻ chào chúng tôi. Anh là một cựu quân nhân giải ngũ, giọng nói nghe nặng như tôi, nhìn anh tôi chợt nghĩ đến những người thân của mình.
Đường Quốc Lộ I Nam Bắc chạy ngang qua nhà ga và thị trấn. Đây là con đường tráng nhựa rất tốt. Ở quãng này, quốc lộ cùng song song với đường xe lửa. Tàu đã rời ga đang chạy hướng về cây cầu. Bên dưới cây cầu, con sông chảy qua, đồng nước rất sâu. Hồi còi tàu cất lên rộn rã, những cụm khói cao ngất tỏa rộng xám cả vùng trời.
- Ở đây có gần Quảng Trị không anh?
- Mười cây số nữa em.
Tôi và Thúy Hà cùng lên xe đạp. Trong tôi, còn giữ lại âm sắc giọng nói cửa người yêu. Nắng xế trưa lan rộng khắp các ngôi làng. Có vài đám khói lam lượn lờ vươn lên khỏi rặng tre. Thúy Hà rất vui khi có tôi bên nàng. Thúy Hà đội chiếc mũ vải màu lam, mặc áo sơ mi trắng, quần tây màu xám tro. Hai chúng tôi đem theo mỗi người cái túi xách treo trước ghi đông xe. Trong túi xách có quần áo, nước uống và thức ăn khô. Chúng tôi dự trù đi nghỉ hè mười ngày. Giờ đây, tâm hồn quê không trú ngụ nơi tôi mà dành hết cho Thúy Hà. Thúy Hà và tôi là hai người bạn rất thương yêu nhau và quý mến nhau. Tôi viết tên nàng trong tim tôi và nàng lúc nào cũng nhắc nhở đến tôi. Nàng có một mối tình với tôi được sơn son, thếp vàng đóng trong một khung cảnh với tất cả thời thanh xuân của nàng. Ngày mai đây ra sao, hoặc mai sau thế nào, tôi và nàng hoàn toàn không biết được. Với tôi, hầu như đơn độc, trống không, vì tôi muốn rằng những gì tôi có, những gì tôi suy nghĩ, tất cả tôi đều muốn là của Thúy Hà, cất cho Thúy Hà, giữ cho Thúy Hà. Tôi chỉ còn có Thúy Hà để hiểu rõ thực trạng về tuổi trẻ của mình. Và, Thúy Hà rất hiểu tôi.
Bên cạnh ngã ba có một ngôi trường tiểu học. Có đông em nhỏ chơi đùa, chạy nhảy và đá bóng trước sân cờ. Có hai cô giáo trẻ đứng dưới mái hiên nhìn tôi và Thúy Hà đang đạp xe ngang qua. Chỉ một thoáng nhìn vào, tôi chợt nghĩ, hai cô gái ấy ước mơ gì về hạnh phúc của tôi và người bạn gái. Không đâu, hai chúng tôi không phải là đôi tình nhân. Tôi và Thúy Hà là hai người bạn sống hạnh phúc bên nhau cho hết thời thanh xuân. Rồi khi thực sự lớn lên, vào đời, mỗi chúng tôi ở xa cách một phương trời. Thời gian cứ vậy trôi qua. Nhớ nhau chăng nữa, chỉ có cuộc đời ôn lại bao nhiêu kỷ niệm, với chốn này hay chốn kia mà rũ thương một chút ngậm ngùi.
Nắng hè thật là ấm. Tiếng Thúy Hà cất lên, nghe trong trẻo như dòng suối đang chảy, từ đâu vang vọng lên một âm thanh tưởng như đó là tiếng đàn.
- Em rất là vui.
- Em vui một mình thôi, hay sao?
- Có anh Thụy nữa chứ.
Tôi bụm miệng gọi tên Thúy Hà. Nùng cũng bụm miệng gọi tên tôi. Vang âm trôi giạt, lênh đênh giữa nắng. Chúng tôi cười ngây ngất suýt nữa làm ngã xe sau khi thả hai tay.
Vui vẻ bên nhau, chúng tôi nói:
- Anh ước ao có được giọng nói hay như em.
Thúy Hà bảo:
- Anh nên viết văn. Khi viết văn, anh sẽ tìm ra những tiếng nói rất đẹp, rất hay từ những tấm lòng các thiếu nữ.
Gần tới phía cây cầu, chúng tôi nhìn thấy dòng sông và bờ sông. Nhưng hai người rẽ phải ở đầu ngã ba đi vào quận. Ngôi chợ giờ này còn nhóm họp đông người buôn bán và hai bên là các quán hàng ăn, giải khát. Đường qua chợ đông nên tôi và Thúy Hù cùng xuống xe dắt bộ.
- Em đói không?
- Em đang tính hỏi anh.
Hai chúng tôi lướt nhìn qua các quán. Bên trong, tiếng mờn chào khách vọng ra. Đến chỗ bóng cây, chúng tôi mới dựng xe vào quán nghỉ chân.
Tôi lấy cái bàn vuông và hai chiếc ghế thấp đưa ra ngoài, ngồi tách biệt với khách ăn trong quán. Cô bé con chị bán quán đi ra chào hỏi, tôi nói:
- Em cho hai dĩa bánh ướt chả.
Cô bé đi vào. Thúy Hà ngước cả khuôn mặt với làn da trắng để cho tôi ngắm nàng. Nàng mỉm cười với đôi mắt nhỏ thật đẹp.
Bữa ăn mang ra. Cô bé vừa đặt khay xuống, tôi nói:
- Gói riêng cho chú bốn cái bánh chưng.
- Dạ.
Tôi lau muỗng đũa đưa qua cho Thúy Hà. Trước khi mời nhau ăn, tôi nói:
- Em biết không, món này thổ sản ở làng quê anh.
- Chỉ có món này thôi.
Vừa bắt đầu ăn, tôi nói:
- Còn vài thứ khác nữa, nhưng thường thôi.
- Anh kể đi.
- Bánh nếp, bánh bột sắn, bánh tráng khoai.
Hai chúng tôi đều đói nên ăn rất ngon. Nước mắm chanh ớt cay phủ ra trong lời nói và làm vui thêm câu chuyện. Tim tôi đập đều nhịp, nhẹ nhàng, và tôi cảm thấy hạnh phúc của mình là Thúy Hà. Không ngừng trong ý nghĩ, và tôi muốn nói ra với Thúy Hà điều này. Hạnh phúc còn nói với tôi rằng phải luôn ở bên Thúy Hà không được rời nàng nửa bước. Thúy Hà chợt ngừng đũa, thốt lên:
- Ớt cay quá.
- Em sắp hết rồi. Gọi một dĩa nữa nghe.
- Anh gọi đi.
Tôi gọi thêm, dĩa bánh mới mang ra vừa mới được tráng hẳn còn nóng.
- Anh ăn đi, chừa lại em một ít thôi.
Tôi và Thúy Hà chia nhau một nửa. Khi ăn xong, tôi cảm thấy no, chỉ vừa để dành bụng để uống nước chè xanh. Tôi rót chè tươi vào hai ly chờ để nguội.
Thúy Hà cứ hít hà hơi cay. Nàng nhìn qua tôi với nụ cười trên cặp mắt. Tôi như cảm thấy hương vị ớt cay còn phảng phất. Nước chè đã nguội bớt, chúng tôi cùng cầm ly lên uống. Trong quán, khách ăn đang nói chuyện, Thúy Hà cố lắng nghe giọng nói người vùng quê. Tôi nghĩ tới một quê hương nghèo đã thương yêu Thúy Hà với cả một tấm lòng.
Sau một giờ nghỉ ở quán, chúng tôi đi.
Khi lên ngồi xe đạp, Thúy Hà nói:
- Bây giờ mình phải đạp xe nhanh anh ạ.
- Đạp chậm thôi. Rồi em còn kể chuyện cho anh nghe nữa.
- Thôi, em mệt. Trời nắng, hơi đâu mà chuyện trò.
- Cũng không hề gì. Có em đi, con đường quê trở nên đẹp rồi.
Thúy Hà sung sướng nhìn qua tôi. Chúng tôi đạp xe thong thả. Khung cảnh làng quê mà hôm nay tôi đưa Thúy Hà về thăm thật là thân thiết, đậm đà.
- Em có ước mơ gì không Thúy Hà.
- Có chứ.
- Em nói cho anh nghe đi.
- Em mơ ước đến một ngày đất nước thống nhất.
- Em đã nói thay điều anh nghĩ. Anh ước mơ ngày thống nhất, ngày đó, anh được cùng em ra miền Bắc, thăm Hà Nội, và về tìm nơi sinh quán của em.
- Anh biết quê em ở đâu không?
- Tôi biết rất rõ ngày tháng năm và nơi sinh của Thúy Hà nhưng giả vờ nói không. Tiếng Thúy Hà thật ấm:
- Em sinh ở Hải Dương.
- Hải Dương có xa Hà Nội không em?
- Không xa lắm. Khoảng 60 cây số đường xe.
- Em có hay đi Hà Nội không?
- Em ở Hà Nội chứ đâu.
- Vậy đó. Giọng nói em đúng là Hà Nội, phải không?
- Thôi, được rồi.
- Em là cả nguồn vui trong anh, tôi nói.
Thúy Hà đáp lời:
- Mỗi bức tranh, có cái khung của nó.
- Em nói đúng. Và, đây chính là làng quê chào đón em.
Giọng nhỏ lại, Thúy Hà nói với tôi:
- Đây là mùa hè kỷ niệm của anh và em.
Bỗng nhiên, tôi và Thúy Hà cùng dừng lại. Con kênh đào sâu với nước chảy dào dạt như dòng suối. Nước từ ngoài phía sông đang dẫn vào, giữa đồng ruộng, có hai cô gái ngồi trên xe đạp nước. Những tiếng bánh xe gỗ kéo nước lên nghe rất đều, thân thuộc. Hai cô gái cứ đạp đều chân. Thúy Hà mở túi xách lấy chiếc máy ảnh chụp vài tấm. Sau khi chụp xong, nàng đưa máy ảnh cho tôi. Nhanh như con sóc, nàng nhảy qua bờ kinh đứng phía bờ ruộng có chiếc xe đạp nước. Tôi chụp cho Thúy Hà nhiều tấm khác nhau.
Thúy Hà trở lại xe, chúng tôi đi tiếp.
- Em sẽ cảm thấy vui thêm với đời sống của mình.
- Đây là thuộc về đâu anh?
- Hòa Phong. Ngôi làng này giàu nhất quận Hải Lăng.
- Hải Lăng. Tên nghe hay hay.
Con đường quan trải ngôi làng này xa đến bốn cây số. Vì ngôi làng gần quận lỵ, nên sinh hoạt của người dân nhộn nhịp, đông vui như là ở thị trấn. Ruộng đồng xanh tốt, nhà ở lợp ngói. Sau rặng tre, thấp thoáng những ngôi nhà tranh. Tất cả, cho miền quê một sự yên bình.
Lên ngã tư con dốc, Thúy Hà bảo tôi dừng lại. Nàng nói:
- Anh chụp cho em mấy tấm ảnh.
Thúy Hà đứng tựa bên thành cầu, bên dưới là dòng nước đang chảy. Tôi nhắm qua ống kính, lấy góc độ, khi hình ảnh Thúy Hà hiện rõ nét, tôi mới bấm máy ảnh. Từng vị thế Thúy Hà đứng, tôi chụp theo góc cạnh. Và, sau đó tôi và nàng chụp chung vài tấm nhờ một người đi qua đường. Anh bạn đây là một giáo viên dạy học trên tỉnh về thăm quê. Khi chụp ảnh, Thúy Hà dành cho tôi tất cả sự thân tình của hai người bên nhau.
Nghỉ chân bên cây cầu, tôi chụp được cho Thúy Hà nhiều tấm ảnh mà tôi nghĩ là đẹp. Rồi, hai người lại đi. Nhưng vì sự nguy hiểm, nên chúng tôi không lên xe đổ dốc mà dắt bộ tới chỗ bằng phẳng rẽ trái để về làng.
Con đường bằng phẳng rợp bóng tre im mát. Gió thổi lào xào. Mới vào hạ, thời tiết ấm và dịu.
- Còn xa không anh?
- Hơn cây số nữa thôi.
Hình ảnh làng quê quá yêu thương qua gương mặt Thúy Hà. Tôi nói ra ý nghĩ đó, Thúy Hà bảo:
- Anh thương em rồi, cái gì anh cũng nhìn thấy em đẹp.
Lòng tôi cảm thấy nôn nao. Tôi mơ nghĩ đến một căn nhà, đến những ngày tháng yên bình trong cuộc sống chúng tôi bên nhau. Ước mơ của tôi tựa một cuốn sách. Không cần nhiều trí tưởng tượng, một cuốn sách tôi viết ra chỉ có một ý nghĩa mong rằng, đây là câu chuyện của lứa đôi khao khát cuộc đời hạnh phúc.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Chiếc cầu bắc qua con suối cạn. Bên đây cầu thuộc làng Đông Nghi, bên kia là cửa làng tôi. Và muốn vào làng tôi, ngôi chợ trước mặt là vị trí đầu tiên, bên cạnh chợ có một con đường cát nhỏ, hai bên trồng dứa, con đường dẫn sâu về đến làng và ra luôn đến biển.
Thúy Hà cất tiếng reo lên như muốn hát một khúc hát. Tôi vui, đặt tay qua vai nàng khi xe hai người chạy song song.
- Coi chừng anh làm em té.
- Không đâu. Anh luôn giữ được em.
Về tới trước cổng làng, tôi trông thấy anh Huề như mới ở ngoài đồng về. Anh cầm lưỡi hái trên tay, và anh nhận ra tôi ngay khi cả hai chúng tôi vừa dừng xe. Tôi giới thiệu Thúy Hà với anh. Rất vui, anh mời chúng tôi vào nhà anh. Tôi và Thúy Hà đi theo.
Nhà bà nội tôi là căn nhà gạch nằm bên trái, nhà anh quay lưng trông ra đồng ruộng, sân trước rất rộng có bầy gà vịt đang ăn, có tiếng heo kêu dưới đồng ruộng có con trâu đang được thuê cày.
Anh Huề có ba cháu nhỏ. Chị Huề làm việc nhà, coi sóc vườn, nuôi heo và gà vịt.
Ánh sáng tràn vào nhà khi anh mở cửa. Anh mời chúng tôi dùng cơm nhưng tôi đáp lời là đã ăn no khi đi xe lửa, rồi ăn ở quận, giờ muốn được nghỉ ngơi.
Ngồi không lâu, anh Huề đưa tôi qua nhà bà nội. Kể từ khi bà nội mất nhà đóng kín cửa, chỉ mở khi có khách trong gia đình về thăm. Vừa đi, vừa trò chuyện anh cho tôi hay nhà bà tôi nay thành nhà khách. Bên đó, có đầy đủ gạo, thức ăn khô, soong nồi, bình trà, bình thủy để chứa nước sôi. Anh cho biết, dự trữ như vậy để cho khách có được sự thoải mái như là nhà mình.
Anh Huề tra chìa khóa mở cửa, xong giao luôn chìa khóa cho tôi. Khi ánh sáng tràn vào, tôi nhìn thấy toàn diện căn nhà cũ của bà tôi, và hôm nay, tôi hết sức xúc động với ngày về. Căn nhà đóng cửa nhưng không bị bụi bặm vì anh Huề vẫn luôn chăm sóc, quét dọn, và cúng quảy vào những ngày mồng một, rằm, hay có giỗ.
- Tôi mới thắp hương và cúng trái cây hôm qua.
- Vậy là tôi về đây hưởng lộc của bà.
- Chú gặp may. Mong bà phù hộ chú.
Anh Huề phải về nhà ăn cơm để còn trở ra đồng phụ thợ gặt. Anh bắt tay tôi, nói lời chào với Thúy Hà. Nàng đáp lời chào anh rất lễ phép.
- Em mệt chưa?
Thúy Hà nhìn lại tôi nghiêm nét mặt. Rồi nàng cười nhìn tôi rất ý nhị. Tôi mở túi xách lấy ra ít bánh trái để lên dĩa quả trên bàn thờ thắp hương.
Nàng đứng ở cửa, đưa mắt nhìn tôi. Sau khi thắp thương, khấn vái với lời nguyện thầm xong tôi trở ra.
- Em có đói không?
- Không, anh đói, ăn một mình.
- Không.
- Em nghỉ đi một chút. Khi nào đói, thức dậy ăn.
- Còn anh làm gì?
- Về quê, còn có cái thú đọc sách.
Thúy Hà vào phòng thay quần áo. Nàng trở ra sau đó với bộ quần áo nhẹ. Tôi lấy chiếc gối đem qua giường đặt xuống. Chiếc giường đặt gần bên cửa sổ.
Trước khi nghỉ trưa, Thúy Hà tháo chiếc đồng hồ đeo tay đưa cho tôi. Tôi cầm lấy và đeo vào bên tay trái. Kim đồng hồ, chỉ hai giờ chiều.
- Anh không đi nghỉ sao?
- Không. Em nghỉ đi, anh đọc sách.
Thúy Hà mặc quần áo nhẹ màu vàng, có sẵn gối và chiếu trên chiếc giường gỗ. Chiếc giường đặt bên cạnh cửa sổ trông ra vườn. Thúy Hà vừa nằm xuống, tôi vội lấy tờ báo mang qua cho nàng đọc.
- Galant gớm.
- Em có muốn anh thức dậy không?
- Tùy anh.
- Em ngủ ngon.
Tôi quay bước, Thúy Hà gọi. Tôi tới gần, nàng nắm tay tôi kéo ngồi xuống bên nàng. Nàng nhỏm người dậy quàng tay qua cổ tôi, hôn tôi lên trán và môi. Tôi ôm giữ lấy Thúy Hà hôn xuống cặp môi chín đỏ của nàng. Rồi tôi để Thúy Hà nằm nghĩ. Tóc Thúy Hà xòa tràn trên mặt gối với gương mặt đầy đặn của nước da trắng in thành một vùng ánh sáng. Tôi luồn tay dưới mái tóc nàng, rồi cúi hôn lần nữa.
- Em ngủ ngon.
- Anh muốn thức em dậy lúc nào cũng được.
- Anh sẽ thức em dậy.
Căn nhà im vắng, dịu mát. Trời đã quá trưa, cảnh vật yên bình. Bên ngoài con đường bóng cây tre trải dài, mùi vị của cát có thể làm thơm giấc giấc ngủ của người mình yêu. Tôi trở về bàn, ngồi xuống ghế tôi đọc cuốn truyện dịch Le grand Meaulnes của nhà văn Pháp Alain Fournier. Vừa đọc, tôi nghĩ đến anh chàng Meaulnes, đến người bạn anh Françoise Seurel, và cô gái Yvonne de Calais trong chiếc áo đầm trắng, chiếc nón rơm rộng vành, tiếng đàn dương cầm vang lên nơi trang viện trong một buổi tối làm tôi nghĩ đến Liên An. Tôi luôn có Liên An với tất cả sự dịu dàng tuổi thơ. Liên An sẽ mãi mãi thơ dại với tuổi học trò. Tôi không bao giờ muốn Liên An lớn lên cả. Và, nếu ngày nào đó, khi đã lớn hẳn, Liên An sẽ đi xa không bao giờ gặp lại tôi nữa. Khi tôi nhớ đến Liên An, tôi sẽ nhìn thấy mây trắng bao phủ một góc trời.
Tờ báo nằm yên lặng như một chiếc khăn đắp qua người Thúy Hà. Tôi ngừng đọc sách ngắm người yêu đang ngủ. Thúy Hà đã về tới quê tôi, và tôi mong dành được hết hạnh phúc cho nàng trong giấc ngủ.
Tôi gấp cuốn sách lại để trên bàn rồi đi ra chỗ mái hiên. Tôi cảm thấy mình thực sự có hương vị cuộc sống. Chính hương vị đó tôi cảm nhận về tuổi trưởng thành như giờ đây tôi đã có gia đình, người vợ của tôi là Thúy Hà vừa mới cưới.
Bà nội tôi mất cách đây đã bốn năm. Căn nhà này được sửa sang lại vào thời gian hai năm trước khi bà mất. Kể ra, căn nhà mới tu sửa cho bà trọn vẹn niềm vui trong lòng. Nhìn căn nhà, ánh sáng cùng màu sắc trở nên mới. Gạch ngói ửng màu tươi, tường vôi quét lại sạch sẽ, nền đất được tráng bằng xi măng, và có hai cửa sổ mở thêm để đón lấy gió mùa hè từ ngoài vườn, xa nữa là gió biển. Ở gian bếp, bày biện ngăn nắp, có chạn tủ, vì muốn là chỗ vãng lai cho người thân về nên ở trong nhà kho cũng như nhà dưới đều có sẵn bếp, soong nồi, thức ăn khô và gạo.
Tôi đứng dưới mái hiên nhìn ra ngoài nắng. Tôi nghĩ nhiều đến người thân nhưng lại có cảm tưởng hình bóng mỗi người đang nhập nhòa trong nắng. Rồi, bỗng dưng nhìn cây khế sai quả, những quả vàng chín, những quả còn xanh treo chùm lơ lửng, lá rụng xuống thềm gạch gần bên giếng nước tôi có ý nghĩ mơ hồ về tiếng động, về tiếng gọi của thời gian. Trưa vắng quá, không có tiếng chim hót. Không có nữa, tiếng ai gọi từ ngoài đồng ruộng. Rất xa trong khoảnh khắc của đời người, tôi vừa thấy bóng dáng một con tàu chạy qua trí tưởng và trỗi dậy âm thanh những hồi còi dài, thật dài.
Một lúc, tôi quay vào nhà. Thúy Hà vẫn ngủ ngon giấc. Tôi đến gần, dừng bước, đôi mắt thương yêu nhìn ngắm nàng ngủ. Trong tôi, tiếng gọi thầm em là người vợ quý giá suốt đời anh luôn mong mỏi, khát thèm. Giấc ngủ của Thúy Hà thật đơn sơ. Chiếc gối cũ, mái tóc xõa tràn, Thúy Hà ơi, giấc ngủ của em là hồn quê trong bao nhiêu hương sắc của những mùa gió thanh bình. Tôi trở lại bàn, mở cuốn sách ra đọc. Sau giây lát, bất chợt Thúy Hà cất tiếng:
- Anh không đánh thức em dậy.
- Em ngủ ngon không?
- Thật là dễ chịu.
Từ một khoảng cách tôi và người yêu đưa mắt nhìn nhau. Không có một nỗi nhớ nào so sánh được với hạnh phúc của chúng tôi lúc này. Đôi mắt Thúy Hà lắng im, đẹp lạ thường. Đôi mắt tôi được hình dung qua cây lá, như có bóng im từ vùng ánh sáng đôi mắt người yêu nhìn tới.
- Em thức dậy nghe.
- Không ngủ nữa sao?
- Đủ rồi.
Tôi gấp sách lại, vừa lật cổ tay nhìn đồng hồ. Buổi chiều đã tới. Thúy Hà ngồi dậy đi ra chỗ bể nước gần gian bếp múc nước vào thau rửa mặt. Và giờ này, cảnh sinh hoạt làng quê lại bắt đầu với những tiếng động cùng nhiều âm thanh quen thuộc.
Lên nhà, Thúy Hà hỏi tôi:
- Làm gì bây giờ?
- Không làm gì nữa hết. Chỉ quanh quẩn bên em để nhìn ngắm em.
- Mới có một ngày đầu hè mà em cảm thấy êm đềm quá.
- Bởi vì đây là làng quê của anh.
- Không phải là của em sao?
- Không, em là của anh thôi.
Thúy Hà cười rung động mái tóc. Tôi lao người tới ôm gọn tấm thân của nàng. Nụ hôn của người yêu dành cho tôi có mùi vị sữa thơm lẫn với mùi trái cây. Tôi và Thúy Hà hôn nhau, hai cặp môi quấn quít, say đắm.
Bóng im từ vườn cây nghiêng đổ ra sân.
- Anh đã đói chưa?
Tôi kéo áo lên để hở bụng. Thúy Hà cười to, vừa đánh tay nhẹ vào bụng tôi.
- Em đi thổi cơm. Ăn xong, anh đưa em đi ngoạn cảnh.
Tôi và Thúy Hà đi xuống nhà bếp. Để có ánh sáng, tôi lấy hộp diêm đánh một que thắp lên ngọn đèn dầu con. Đất ẩm xông lên mùi vị mốc, nhưng rồi tan loãng dần khi các lối cửa được mở.
Thúy Hà rất nhanh nhẹn. Nàng tìm thấy soong nồi và thạp đựng gạo. Có sẵn mọi thứ, nàng bắt tay vào việc. Và cảm giác vui nhất trong lúc này là âm thanh trong tiếng nước.
Trong khi Thúy Hà vo gạo, tôi ở bên nàng phụ giúp rửa chén bát, gạn lọc cát trong mớ cá khô. Sau đó, khi Thúy Hà vo gạo xong đi vào bếp, tôi ra vườn hái ít rau để nấu canh.
Buổi chiều xuống thật nhẹ nhàng. Khi tôi trở vào với rổ rau vừa hái đầy, gian bếp sáng lửa với bóng Thúy Hà ngồi ở đó. Tôi lên tiếng:
- Em trở thành thôn nữ như trong tranh vẽ.
- Thôi được rồi, ông anh.
Tôi ngồi xuống bên người mình yêu. Rơm được đốt thay cho củi. Lửa tàn rồi lụi sáng lên. Tôi có chút nghĩ ngợi, mắt lặng nhìn ánh lửa. Tôi muốn nghe tiếng Thúy Hà nói. Nhưng sự im lặng trong chốc lát hiện lên trên vầng trán nàng một nỗi ưu phiền.
- Em tự nhiên nhớ đến quê hương của mình.
- Anh cũng như em, mơ ngày đất nước thống nhất.
- Đến ngày đó ra sao anh nhỉ?
- Đến ngày đó, ước mơ chỉ còn là dự tưởng.
- Sao thế anh?
- Lúc ấy, chúng ta đã trưởng thành. Anh sợ rằng em và anh phải xa nhau.
- Không đâu.
- Em vẫn cứ tin tưởng chúng ta lúc nào cũng giữ tuổi thanh xuân cho mùa hè.
- Không, em không nghĩ thế.
- Đó, em thấy không, em cũng lo sợ ngày mai như anh.
- Nhưng chúng ta phải luôn nhớ đến nhau, cố gắng giúp nhau mà sống.
- Bao giờ anh cũng có em.
- Em luôn ở bên anh.
Cơm đã chín. Hai món cá khô và canh nấu cùng một lúc, sau mười lăm phút là xong xuôi.
Những giọt mồ hôi đọng lụi trên vầng trán Thúy Hà, cả gương mặt cũng hừng đỏ vì lửa.
- Anh soạn bữa ăn, em rửa mặt.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Tôi có ý nghĩ lạ lùng, vội cất tiếng.
- Khoan em.
- Gì nữa đây.
Thúy Hà dừng lại dưới múi hiên. Tôi ôm chặt Thúy Hà trong hai cánh tay, hé môi đưa lưỡi thấm lấy những giọt mồ hôi trên trán và trên gương mặt nàng. Thúy Hà cảm động ôm lấy đầu tôi. Tôi chợt nghe tiếng nàng khóc. Tôi cứ để Thúy Hà khóc không dỗ dành, môi tôi hé mở ngậm lấy những giọt nước mắt nàng tuôn chảy. Hai đứa tôi ôm giữ chặt lấy nhau, một cảm giác nghẹn ngào cũng đã làm tôi ứa lệ.
- Em can đảm lên Thúy Hà.
- Anh, anh ơi.
- Anh, đây em.
- Vâng, em cám ơn anh.
Tôi để Thúy Hà múc nước rửa mặt. Vào bếp, tôi dọn cơm lên mâm rồi đem lên nhà. Thúy Hà trở lên, vẻ mặt tươi tỉnh hẳn.
- Ăn xong, chương trình anh sắp như thế nào cho em.
- Em đừng lo.
- Sao mà không được nào?
- Anh đã ghi sẵn từng mục vào giấy.
- Tốt. Về sau, em để anh đi dạy học.
- Còn em.
- Em lo việc nhà.
Cơm và canh còn nóng sốt. Dù là cơm gạo đỏ, thức ăn chẳng có gì nhưng chúng tôi ăn rất ngon. Thúy Hà hỏi tôi:
- Bà nội sống đến 80 không anh?
- Vừa đúng tuổi em nói.
- Còn ông nội.
- Khoảng năm mươi.
- Anh nhớ gì về ông nội không?
- Còn nhỏ quá, anh không nhớ.
- Ông bà nội em vẫn còn sống.
- Em nhớ ra được không?
- Có chứ. Em rời ông bà năm em lên tám tuổi.
- Tại sao ông bà không vào miền Nam?
- Ông bà giàu lắm. Có của cải ruộng vườn, làm sao bỏ đi được
- Mười năm, gia đình có nhận được thư ông bà cụ không?
- Chỉ có hai năm đầu. Sau đó, hai bên không còn viết thư cho nhau nữa.
Giọng Thúy Hà làm hiển hiện bóng hình hai người thân. Tôi nhìn lại nàng, muốn nghĩ đến một câu hỏi.
- Em vẫn mơ ngày trở lại đất Bắc.
- Có, vào mỗi đêm khuya.
- Em nhớ nhiều không?
- Em khóc, em nhớ nhiều tuổi thơ của em ở Hà Nội.
- Đã mười năm đất nước chia cắt.
Bữa ăn như trỗi dậy một giấc mộng đời. Sự bình thản trên gương mặt Thúy Hà, giọng nói ấy nữa làm tôi bâng khuâng nghĩ đến một chế độ Cộng Sản khắc nghiệt đối với toàn dân miền Bắc. Tôi đã được đọc cuốn Nhân Văn Giai Phẩm. Trước khi quen Thúy Hà, tôi gặp An. Hình ảnh thiếu nữ băng qua cánh đồng cỏ trong giấc mơ để trở về chốn làng quê của mình sau ngày rời xa Hà Nội, bóng dáng đó mãi hoài đem lại cho tôi một tình cảm thân thiết, nhớ nhung. Tôi hiểu rất rõ những tấm thảm kịch về cải cách ruộng đất, về những cuộc đấu tố dã man đối với những người ở lại như ông bà cụ của Thúy Hà bị ghép vào tội địa chủ, và tôi cũng đã được đọc những trang bút ký kiên gan bền chí của người dân Nghệ An trong cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu.
Vậy là, biết bao nhiêu người thân của gia đình Thúy Hà đành giấu biệt đời sống khổ ải của mình trên đất Bắc. Liệu, có ai tìm đường trốn thoát vào miền Nam.
Thúy Hà lặng im ngồi đó như pho tượng. Những giây phút qua với sự suy tưởng và bao nhiêu hình ảnh từ những trang sách trong văn chương miền Bắc hiện lên làm tôi tưởng thời gian đi qua lâu lắm.
- Thời gian sẽ làm cho chúng ta già đi, nàng nói.
- Em đừng bi quan. Ở đây đi ra biển chừng bốn cây số. Em có thích tắm biển không?
Thúy Hà vụt đứng dậy đưa tay qua nắm giữ lấy hai vai tôi.
- Em vào thay quần áo đi.
- Anh lúc nào cũng nói với em lời dịu ngọt.
- Với em, là hơn hết.
- Rồi sao nữa.
- Rồi anh sẽ có được tất cả.
- Không có gì hết. Hoàn toàn không.
Tôi đem mâm cơm ăn xong xuống bếp. Thúy Hà mặc quần áo xong, chờ tôi. Tôi rửa mặt cho tỉnh táo, sửa lại quần áo một chút.
- Em xong chưa?
- Anh hỏi một câu ngớ ngẩn.
Tôi thấy cặp mắt Thúy Hà có vẻ lo ngại. Khi tôi tới sát gần, nàng vẫn đứng yên.
- Áo trắng em mặc là tiếng nói của anh.
Đôi mắt Thúy Hà sáng lên một nụ cười. Và rồi, nàng để yên cho tôi đặt tay lên áo nàng mở nhẹ hai cúc áo trên.
Khi tôi đưa hai bàn tay áp lên đôi má Thúy Hà, đầu tôi cúi xuống và tôi có cảm giác mình buông một giấc ngủ trẻ thơ trên ngực nàng. Tôi ngửi mùi vị thơm sữa ướt. Trên ngực Thúy Hà in lên một khoảng ánh sáng từ lớp sữa đọng. Tôi ngừng hôn sau giây lát, rồi lại hôn lần nữa trên ngực nàng.
Vì có ý định đi tắm biển nên chúng tôi mang theo quần áo, máy ảnh, và cả bánh trái bỏ chung vào túi xách. Nắng chiều dịu hẳn. Gió mát, cảnh làng quê thoang thoảng vị mặn của muối biển trộn cùng cát và lá cây.
Không gian trôi giạt từng đợt sóng, từng tảng mây trời dâng lên cao trong cảnh khói chiều lan tỏa.
Chúng tôi đi bộ, vui với câu chuyện. Khi gặp con đường chính của làng, một rặng tre trải dài, nhưng nhà ở hai bên thưa thớt. Tôi đưa Thúy Hà ghé thăm gia đình mấy người bà con trong dòng họ còn ở đây. Những người thân của tôi, ai cũng hỏi chuyện về Thúy Hà, về gia đình nàng. Đây là một cô gái, ở trên tỉnh mới về, lạ lùng, thân thiết. Nàng thật đẹp, rồi không biết người làng quê ở đây chờ đợi bao nhiêu năm nữa nàng mới trở lại.
Mỗi nơi, chúng tôi ghé thăm chừng nửa giờ. Áo sơ mi trắng Thúy Hà mặc in dưới bóng tre và gây niềm vui cho ánh nắng. Con đường làng dài một cây số. Có một quán hàng nằm cạnh ngã ba. Về phía bên kia, gần với núi, một ngôi làng khác xuất hiện. Trong quán, có một vài người khách ăn. Chúng tôi vào quán mua bánh ướt, và mấy chiếc bánh lá. Lúc sáng ở quán hàng trên quận, chúng tôi có mua bánh chưng và đem theo trong túi xách. Bây giờ mới ăn cơm xong chưa thấy đói, nhưng ra biển tắm một hồi sau chắc là đói. Rất có thể, hai chúng tôi ở lại ngoài biển đến sáng mai mới về vì đêm nay có trăng.
Bây giờ, con đường cuối cùng sẽ đưa chúng tôi qua con suối, vượt khỏi đây, chúng tôi sẽ đi lên những đồi cát.
Hai chúng tôi dừng lại nhìn con suối chảy, nhìn cảnh trí chung quanh rồi xắn quần lên để lội nước. Túi xách tôi quàng dây chéo qua người.
Nhìn đôi bàn chân Thúy Hà mới tinh, trắng nõn, tôi nói:
- Ở đây ngày xưa có một trận lụt lớn.
Nàng cười, hồi lụi tôi:
- Anh có bịa chuyện không?
- Thật chứ.
- Không.
- Tụi sao em nói không?
- Em biết anh bịa chuyện ra để được nghe tiếng em nói với anh.
- Cũng đúng với ý anh. Quả thực ngày xưa ngôi làng này ngập nước vì một trận lũ lụt. Và sau nhiều năm vắng tin, có một cô gái từ nơi đâu xa lạ đã đến ngôi làng này.
- Đi bộ mệt đứt hơi. Làm gì còn sức mà trò chuyện với người mình không quen.
Nước dòng suối trong vắt. Ánh nắng theo dòng nước trôi đi, nhưng đôi bàn chân Thúy Hà được giữ lại. Mỗi một dấu vết, vẽ lại y nguyên đôi chân của nàng. Thời gian đưa chúng tôi qua dòng suối tưởng chừng lâu lắm.
Khi ngước mắt trông thấy những đồi cát đằng xa, tôi bỗng nhận thấy cảnh vật trở nên sáng hơn, Và nơi đó là đồi cát của khu nghĩa địa.
Những ngôi mộ lớn nhỏ trải dài và rộng. Người khuất mặt nằm dưới mộ nghe tiếng bước chân chúng tôi đi qua. Họ cũng biết, từ nơi đây chúng tôi tìm con đường ra biển. Và, chúng tôi cũng nghĩ rằng, nắng càng về xa một xứ bạn nào đó, đi theo là bóng dáng những đàn voi.
- Anh có chiếc áo mới mặc Tết của mợ cho.
- Chà, anh đúng là con cưng của Ba Mợ.
- Em không hay gì cả sao?
- Không. Hôm đó, em không có ở nhà.
Thúy Hà đưa mắt nhìn qua tôi như dò hỏi. Tôi nói:
- Chiếc áo của mợ, cũng bảo anh ráng đợi chờ em.
Đôi khi trên gương mặt Thúy Hà thay đổi một chút ánh sáng. Tôi nắm lấy bàn tay người yêu. Và, từng bước đi, lòng chúng tôi cũng đã làm cho cát dưới chân trở nên dịu mềm. Cát vẫn còn hơi nóng, vì đây là miền biển.
Rồi không lâu, khung cảnh khu nghĩa trang im bặt cuối buổi chiều.
Tối hôm ấy, Thúy Hà lịm ngất nhiều lần. Nàng tựa đầu ngủ trên cánh tay tôi. Mái tóc nàng xõa rộng, cồn ướt át chưa khô. Trên thân người nàng còn dính những hạt cát trắng. Trên gương mặt và toàn thân nàng là một vừng ánh sáng. Dưới trăng, nàng đẹp như thiên thần. Biển mênh mông, vang dội bao nhiêu tiếng sóng nổi chìm trôi giạt lên bờ cát và lúc rút đi, như kéo theo một phần đời. Tôi để nàng ngủ yên với từng nhịp thở nhẹ đều. Yêu nàng, tôi không thể nói gì được. Có lúc, tôi cúi đầu xuống đặt cặp môi hôn khẽ lên vầng trán nàng.
Vào lúc đứng trên đồi cát nhìn thấy biển, hai đứa tôi có cảm giác như mình tìm thấy sự tự do đích thực trong cuộc đời. Giọng reo vui, chúng tôi cùng cất lên tiếng gọi biển. Và, hơn thế nữa, tôi đã gọi lớn tên người mình yêu, Thúy Hà ơi, Thúy Hà ơi, theo biển về đi. Rồi tay nắm tay, chúng tôi kéo nhau chạy. Thúy Hà vấp ngã nhiều lần, tôi chỉ có bổn phận là đỡ nàng dậy. Khi chạy ra tới biển, đứng trước biển tầm nhìn đã bao quát tất cả, nơi rất xa cũng như chỗ thật gần. Biển rất xanh, cát vô cùng trắng, vậy mà chốn này rất hoang sơ.
- Sao, em vui không?
- Anh đừng hỏi ngớ ngẩn.
- Anh yêu em.
- Em không yêu anh thì sao?
- Thì chẳng sao cả. Em muốn tắm ngay bây giờ chưa.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Tôi chưa kịp phản ứng, Thúy Hà đã lao tới ôm người tôi. Hai đứa ôm chặt lấy nhau, hôn nhau với tất cả hạnh phúc vui mừng. Không cần đợi nghỉ mệt, tôi và Thúy Hà xuống biển tắm ngay.
Nắm tay nhau ra một quãng vừa sâu, tôi và nàng nhào người lên sóng xoải rộng hai cánh tay bơi ra xa. Sóng ngược nên chúng tôi bơi chậm. Càng lúc, cùng xa bờ. Dừng lại bên nhau, đứng nổi giữa sóng biển chúng tôi nhìn xa rất xa. Tôi mong đợi có bóng dáng một con tàu di chuyển. Hoặc là nơi xa đó, có một ngọn hải đăng.
- Em có nghĩ gì trong đầu không?
- À, để em nhớ thử xem. Không, em không nghĩ gì cả.
Tôi mỉm cười một mình, Thúy Hà hỏi:
- Còn anh?
- Anh có được em.
- Thực không có ai nghèo nàn như anh.
- Có em, anh chẳng cần giàu.
- Anh chỉ sống trong tưởng tượng thôi.
Nghỉ một lát, chúng tôi lại tiếp tục bơi. Với biển rộng, tôi tin rằng mỗi chúng tôi đều có một hoài bão sau này.
- Em không lập gia đình sớm chứ Thúy Hà?
- Em chưa biết.
Mặt trời sắp sửa lặn. Hai đứa tôi ngừng lại bên nhau và nhìn ngắm mặt trời chờ đợi từng khoảnh khắc nó sắp lặn. Những đợt sóng vỗ nhồi chúng tôi dập dềnh lúc va vào nhau, lúc rời xa.
- Ngôi làng biển này có tên không?
- Không.
- Tụi sao không?
- Dạ thưa cô giáo, vì em không biết.
- Em cho anh không điểm.
- Anh không nhớ ra, nhưng sau này có thể là anh nhớ.
- Anh không nhớ gì cả đâu. Em muốn đặt tên cho ngôi làng này.
- Hay đó. Biết đâu ở một phương trời xa, ngày nào đó em nhớ đến.
- Em chỉ nhớ biển thôi.
- Tại sao chỉ có biển làm em nhớ.
- Em có thể lấy chồng ở nơi xa.
- Em linh cảm sự việc này hay là chuyện có thực.
- Cả hai đều không rõ.
- Thôi, em đừng bận tâm. Anh không hỏi gì thêm chuyện này nữa.
Mặt trời đã lặn. Từ ngoài xa, tôi và Thúy Hà nương theo con sóng bơi về bờ. Chúng tôi bơi nhẹ nhàng nhờ sóng nước đẩy nhanh.
Hai đứa lên bờ cùng một lúc.
- Ai là người lo cho tiết mục tới.
- Anh chứ còn ai nữa.
- Nói nghe buồn quá. Hai cánh tay anh đã mỏi nhừ.
Thúy Hà đi lấy túi xách. Nàng lấy tờ báo trải ra và bày thức ăn. Bánh chưng, bánh ú, bánh tày, bánh ướt.
- Em đói rồi.
- Ai đói nhiều, ăn nhiều.
- Ngày mai em có muốn trở lại đây nữa không?
- Tùy anh.
- Chúng ta chỉ có mười ngày hè.
- Mọi việc, em để anh lo.
Chúng tôi ăn ngon miệng. Những chiếc bánh chưng nhỏ, lá mỏng, nếp xanh in màu rêu tươi. Đang đói, ăn ngon miệng, hai đứa tôi sẽ ăn hết những thứ mang theo.
- Rồi đây, biển sẽ làm cho anh và em nhớ mãi đến những ngày hè.
- Chúng mình phiêu lưu tới đây là tưởng tượng hay đang sống thực bên nhau.
- Em phải nhớ rằng, đại dương có tiếng nói lớn hơn cả.
- Anh có ý nghĩ đó bao giờ vậy?
- Không phải ý của anh. Anh đọc trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết luôn cho con người một sự tưởng tượng phong phú trước khi tiếp xúc với cuộc sống thực giữa đời thường.
- Nếu sau này em xa anh.
- Anh vẫn không bao giờ quên em cả.
- Tuổi trẻ không thể nào có một cuộc đời đích thực.
- Sao mà không? Biển là nơi vẫy vùng của tuổi trẻ.
- Đó là tưởng tượng. Ở trong sách vở, biển luôn mang một màu xanh cho con người dễ cảm nhận. Nhưng ở vào cái tuổi chính đáng với cuộc đời, biển làm cho người ta lo sự.
- Rồi đây, mọi việc sẽ ra sao? Có gì sẽ xảy ra với những điều chúng ta linh cảm.
Chúng tôi ăn hết gọn. Có vẻ, từng miếng ngon trở nên vô tình vì câu chuyện của chúng tôi nói về biển có tính cách lo ngại, nghi ngờ. Thúy Hà để cho tôi dọn dẹp. Nàng mở chai nước, uống vài ngụm. Tôi nghe hơi thở nàng trút nhẹ ra sau cái cảm giác ăn uống đã no. Nàng cười, mắt nhìn tôi, rồi hướng về xa nơi đó khi bóng nắng mặt trời vừa tắt.
Tôi đứng lên, cầm tờ giấy báo đã gói gọn đem tới bỏ vào thùng rác để ở gốc cây. Khi trở lại, tới gần người yêu tôi dừng một chút để ngắm nàng.
- Chúng mình về đây với biển vắng để vui hưởng những ngày đầu hạ.
- Anh không sợ em sẽ xa anh sao?
- Không.
Tôi tới ngồi xuống bên người yêu, nói:
- Có chứ. Ngày mai, không phải là sự mong chờ mà thực sự để nhớ. Ai cũng bồn chồn nghĩ tới ngày mai để được nhớ về mình. Luôn luôn, ngày sắp tới là như vậy. Bây giờ em đang ở bên anh.
Thúy Hà đưa chai nước qua cho tôi. Đây là phần nước nàng để dành. Tôi chợt có ý nghĩ, trong tình yêu, hẳn nàng đã sắp sẵn cho tôi một chỗ nghĩ ngơi bên nàng, và lúc đó, chỉ có mình tôi là nàng nhớ thôi.
Nước uống mang mùi vị vừa nhạt, ngấm hương thơm sau đó khi mình “tìm lấy một cảm giác cho mình.
Trời đất vẫn còn lãng đãng bóng dáng buổi chiều. Nơi đây hoang sơ, cả cát trắng và cây cỏ. Gió biển đang thổi lạnh. Người tôi yêu luôn đưa mắt ngắm biển. Khi gió biển đầy hơi, từng đợt gió phiêu bạt tràn vào bờ hất tung mái tóc của nàng làm tôi cảm thấy vui với ý nghĩ, nàng đi một mình trên biển với cánh buồm nâu căng gió. Gió thổi trùm kín mái tóc của nàng, tôi lại nghĩ cánh buồm này sẽ gợi cho tôi nhớ đến một hài hát. Hai đứa lặng lẽ bên nhau nhìn ra biển. Thế nhưng, chúng tôi chẳng chờ đợi, chẳng tìm một ý nghĩa nào trừu tượng trong tiếng nói của biển. Và, nếu mà nghĩ tới, tiếng nói đã xa mù, khuất dạng. Tối nay, trời sẽ có trăng sáng. Và, đang lúc này đây chúng tôi được nhìn thấy bóng đêm từ ngoài xa ùa tới, phủ lên bờ biển sự im lặng, sự đợi chờ, còn lại hai đứa tôi trong một niềm an ủi bên nhau. Hạnh phúc có thực. Tôi mở rộng bàn tay nắm lấy sự bao dung của biển, đây là phút Thúy Hà và tôi gần gũi nhất.
- Anh thương em không?
- Anh thương em.
- Nếu em phải đi xa, anh buồn không?
- Anh biết, anh không ngăn được em khóc. Nhưng anh luôn nhớ giọng nói của em, và khóc một mình.
Thúy Hà khóc. Tôi có ý nghĩ đó, và nàng đang khóc. Những giọt nước mắt lăn xuống bên gò má nàng. Ngồi bên nàng, tôi bỗng lo sợ bóng tối phủ xuống, và đêm nay sẽ rất lâu với thời gian dự tưởng. Hai người đứng dậy. Bên nhau, chúng tôi bước đi và cầu mong sự yên bình. Những dấu bàn chân của tôi và nàng để lại trên cát không bày tỏ một duyên cớ, một cơ sự nào cả. Ngày mai đây, chúng tôi rời xa biển, và hiểu được rằng tiếng nói của biển quá mênh mông.
- Một ngày nào đó, mình em nhớ lại hết.
- Không đâu.
- Em có nghĩ là mùa hè vẫn tồn tại.
- Không.
- Thế nào mùa hè cũng trở lại với anh, dù về sau, anh không còn gặp em nữa.
- Anh đi đâu?
- Anh muốn đi xa.
- Nếu em không mong lấy chồng nữa.
- Sao mà không được. Em đã chọn lựa rồi.
- Có thể là như thế thôi. Hoàn toàn, em không mong đợi.
- Anh rất muốn em tự do theo ý mình.
- Nếu em lấy anh, anh bằng lòng không?
- Anh chờ đợi em đến lúc nào cũng được hết.
- Em muốn anh nói bây giờ.
- Về nhà, sao?
- Về chứ.
Chúng tôi quay trở lại nơi chỗ cũ. Những bước đi nhẹ đều. Mỗi bước để lại trên cát, sóng sẽ xóa lấp đi. Những đợt sóng lên bờ nghe ấm áp, mỗi lần nó xóa dấu vết, chúng tôi cùng có ý nghĩ, nó sẽ vẽ lại từ tốn bằng ý nghĩ chân thực của chúng tôi.
Trăng sáng đã đầy. Với ánh trăng, biển không muốn trải rộng. Trăng sáng xuất hiện bóng chị Hằng. Vậy là chỉ có một bóng sáng cho hai người. Tôi chẳng hề dám so sánh mình với biển. Biển quá rộng, mang mang mối tình lớn của vũ trụ. Chúng tôi đây chỉ có hai người.
Hai người cùng ngồi xuống như thể là hai người khách đợi con tàu đến. Bỗng nhiên, tôi thấy một vệt sáng lạ lùng trên mái tóc Thúy Hà, tưởng chừng như vệt sáng này đổi màu tóc nàng. Thì ra, đấy là nỗi buồn chị Hằng rọi xuống, có vẻ như chị ghen tuông một mối tình. Giữa biển bao la, trên trời cao chị rất sáng, nhưng một mình. Nỗi buồn này của chị, dù có phép lạ, chẳng thể nào chị biến hóa trời đất lúc này trở nên đen tối.
Một giọng lạnh lùng, cô gái nói:
- Về thôi anh. Đêm đã lạnh.
- Em đứng lên đi.
- Anh ở lại một mình nghe.
- Ờ, anh ở lại đây.
Tôi trả lời cô gái bằng một giọng ngái ngủ. Tôi khép mắt, chập chờn trong khoảnh khắc. Cô gái vừa bỏ đi, đã trở lại.
- Về, thôi anh.
Tôi đứng dậy từ bàn tay nàng kéo lên. Bỗng dưng, nàng cười lớn.
- Anh không nhận ra em là ai sao?
- Anh đã nhận ra em.
Thúy Hà lao người tới.
- Anh sợ em không?
- Có.
- Đừng sợ. Em không phải là biển.
- Nhưng, em bảo anh hãy đợi chờ.
- Thôi. Em là cuộc đời của anh.
Bên nhau, tiếng nói đang thì thầm. Vậy là, từ buổi chiều rời khỏi làng quê, rời khỏi căn nhà của mình, chúng tôi đến đây với biển. Và, nàng bảo tôi ở lại đây với nàng.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

Re: Hình Bóng Con Tàu - Nguyễn Chí Kham

Postby bevanng » 26 Mar 2017

Tiếng nàng nói:
- Có lúc sự trống vắng làm cho con người cảm thấy hạnh phúc.
- Hạnh phúc trong cuộc đời ở trong giây phút muốn chúng ta nói thật.
Cảnh trăng sáng trên biển thật mầu nhiệm.
- Anh và em luôn nhớ đến nhau.
- Bao nhiêu năm tháng sẽ qua đi. Rồi đến một ngày, anh nhớ lại hết những gì em đã nói với anh.
- Nhìn con trăng, anh tính được giờ không?
- Có lẽ giờ này, đã nửa đêm.
- Anh nằm xuống đi. Gối đầu trên tay em.
Tôi ngã nhẹ đầu trên cánh tay Thúy Hà. Hai người nằm bên nhau trên cát. Thúy Hà tháo chiếc đồng hồ đeo tay đưa cho tôi. Tôi ngồi dậy, mở túi xách bỏ chiếc đồng hồ ở ngăn phía ngoài.
Tôi nằm xuống, lúc này cánh tay tôi trải rộng ra để Thúy Hà tựa đầu. Một chút yên lặng, môi tìm môi, hai người hôn nhau cảm thấy ấm áp. Trên cặp môi Thúy Hà hồng tươi như cánh hoa. Không còn có cảm giác về sự nhiệm mầu của ánh trăng, yêu nhau, trong cặp môi quấn quít, trong vòng tay ôm chặt chúng tôi lăn mình trên cát. Những hạt cát mềm mại bám vào thân thể chúng tôi. Mỗi lúc, Thúy Hà càng thở nhanh. Nàng chuyển động rồi trườn mình như con rắn. Tôi cố gắng tự chủ, nén hơi thở nhiều lần. Tôi nghe tiếng Thúy Hà gọi tên tôi. Tôi đáp lời ngay bằng cái tên của nàng. Nàng đã quá mê đắm, tột đỉnh với từng phút khoái cảm của ái ân, và trong cơn mê sảng, thác loạn nàng gọi tên tôi nhiều lần tưởng chừng tôi đang vắng mặt. Tôi không đáp lời, chỉ để cho nàng luôn cất tiếng gọi. Nhưng vẫn chưa hết, chưa thể nào ngưng, tôi vẫn còn giữ được sự chừng mực qua từng hơi thở của mình. Thúy Hà lịm ngất đi rồi. Nàng trôi giạt qua trí tưởng tôi như một con thuyền, và tôi đang cố bám giữ. Càng lúc, tôi siết chặt lấy nàng cho đến phút giây ngạt thở, bất ngờ, chúng tôi buông rời ra với hai cánh tay lỏng lẻo.
Thúy Hà nằm giấu mặt trên cát. Tóc nàng xỏa tung. Nàng cất tiếng hỏi tôi, nàng ở đâu. Rồi thiếp ngủ, nàng nằm đó một mình lạnh lẽo. Hình ảnh nàng khỏa thân nằm trên cát biển dưới trăng đẹp lạ lùng. Tôi tưởng như nàng đã chết. Nàng rũ rượi, oải mình trong giấc ngủ.
- Anh yêu em, em quý giá vô ngần.
Tôi cúi xuống hôn, nói nhỏ bên tai nàng. Nàng không nghe gì nữa cả. Nàng quá mệt, ngủ như chết. Tôi ngồi lại một mình bên nàng, nghĩ đến kiếp sau của nàng, nhớ lại khung cảnh lúc ban chiều khi hai chúng tôi tới đây. Chị Hằng vẫn để mắt nhìn xuống biển, nhìn xuống thấy người yêu của tôi nằm khỏa thân, nhìn thấy nỗi đơn độc của tôi. Chốc lát, bỗng dưng sóng trôi giạt không còn thấy dấu vết gì nữa. Trong trí tưởng tôi, tất cả trở nên xa vời, và tôi chỉ còn mường tượng thấy hai sợi tóc của tôi và Thúy Hà cột buộc lấy nhau, thấy quần áo chúng tôi gói lại với nhau giờ đang lênh đênh, vật vờ trôi trên biển. Tôi cũng nhớ lại điều tôi nói với Thúy Hà lúc nhìn cảnh mặt trời lặn.
- Ngủ đi em.
Thúy Hà trở người, cựa mình rồi ngủ tiếp. Tôi ôm giữ chặt lấy tấm thân kiều diễm, yêu quý của nàng, và nếu nàng là một con thuyền thì tôi và nàng sẽ theo biển đi xa.
Bình minh, ánh sáng hồng tươi của trời đất khẽ đánh thức nàng dậy. Chúng tôi mở túi xách lấy quần áo đem thay, mặc vào. Bây giờ, hai chúng tôi đã là vợ chồng rồi nên không có gì bẽn lẽn cả.
Về đến nhà, Thúy Hà lại ngủ vì còn quá mệt. Tôi đọc sách, xong tự mình lo cơm nước. Một ngày lại hết, đêm về, và chỉ còn lại đêm này thôi. …
Khoảng ba giờ sáng, tôi thức giấc. Một mình, tôi đun nước sôi để pha cà phê, rồi nấu cơm. Tôi cảm thấy mình đi tới tuổi trưởng thành và yêu Thúy Hà hơn hết. Ngày mai đây, nói khác đi là tương lai như thế nào chưa biết, nhưng từ nay, muôn kiếp sau nữa, tôi và Thúy Hà luôn có nhau.
Trời sáng hẳn. Tôi đánh thức Thúy Hà dậy. Thúy Hà luôn có được một vẻ đẹp trên gương mặt lạ lùng, gợi cảm lúc vừa mới ngủ dậy. Nàng để cho tôi đặt môi lên miệng nàng hôn trước khi nàng đi rửa mặt. Hai người hôn nhau rất lâu, vì chốc lát nữa, chúng tôi phải đi. rời quê nội ra quê ngoại, đến cuối ngày mới có thể bên nhau để ôm ấp, ân ái. Tối hôm qua, vợ chồng tôi qua thăm anh Huề. Củ anh chị hết sức cảm động trong chuyến về thăm lần này của tồi, nhất là bên tôi có một người bạn gái đi cùng. Tôi không nói rõ với anh về cơ duyên này. Vì rằng, chỉ hai chúng tôi hiểu được nhau trong chuyện này thôi. Cũng như tôi, Thúy Hà tỏ ra sự ân tình với người thân của bạn mình, chồng mình. Nàng mở ví, lấy một ít tiền để cho ba cháu nhỏ con anh Huề.
Vợ chồng tôi ra đi sớm. Đường làng quê trong buổi sáng còn sương ướt, hương quê thật là êm dịu. vẫn giữ hồn quê trong lòng, nhưng chúng tôi không quá sức quyến luyến.
Lên tới quận lỵ Hải Lăng, chúng tôi ghé vào quán ăn ở chợ. Buổi sáng sớm sực nức mùi vị các món bún, cháo, và các thứ bánh vừa mới nấu xong. Tôi và Thúy Hù ăn bún, sau đó, thêm một chiếc bánh chưng và uống cà phê. Mới qua đi ít ngày hè, tôi và Thúy Hà thấy đổi khác, ý thức được sự trưởng thành, tình nghĩa vợ chồng và đã hẳn từ nay chúng tôi lo nghĩ đến tương lai.
Ngồi nghỉ nửa tiếng, ăn uống xong, vợ tôi trả tiền và chúng tôi rời quán ngay lúc này.
- Quốc lộ l song song với đường xe lửa. Con đường ra tĩnh vắng vẻ. chúng tôi đạp xe thong thả và vui trong tiếng chuyện trò. Tôi hỏi vợ tôi: - Em thích con gái hay con trai?
Thúy Hà đâm ra ngượng ngùng, cười đáp:
- Mới lấy nhau có ít ngày mà đã mong rồi.
- Không, anh chưa mong. Nhưng anh muốn được biết chút riêng tư của em.
- Anh ước mơ như thế nào em cũng vậy. Em đã là vợ của anh, tất cả của anh.
- Cám ơn em. Anh có một ý nghĩ chân thực là anh và em thương yêu nhau hết kiếp này đến kiếp khác. Anh không mong gì con cái, cũng không mong trẻ mãi như thế này. Anh ước mong em và anh là vợ chồng suốt đời nhau. Anh ước mong em và anh có bên nhau không còn ai nữa khác. Anh và em ở bên nhau qua nhiều thế hệ, qua nhiều kiếp người, qua tất cả các dòng họ từ khởi đầu chúng ta vợ chồng, rồi là con cái, rồi là ông bà, tổ tiên, rồi trở về lại ban đầu theo hướng đi vòng tròn của quả đất.
- Em cũng có ý nghĩ đó, anh biết không?
- Chúng ta thương yêu nhau vì chúng ta hiểu nhau. Trong anh, có em là một người mẹ. Trong anh, có em là một người bạn. Trong anh, có em là cô em gái. Trong anh, có em là người yêu, và giờ đây, em đã là vợ của anh.
- Thương em lắm, biết không?
- Thương anh lắm, biết không?
- Cả hai, không ai biết hết. Cả hai đã thuộc về con người của trời, của đất, và chúng ta rất giàu có thiên nhiên.
Chúng tôi phá lên cười. Đoàn tàu vừa chạy qua cầu ầm ầm, rồi mất hút. Có ai đó ngồi bên cửa toa nhìn thấy chúng tôi. Hạnh phúc không diễn tả hết được, vợ chồng tôi như thể muốn khóc.
Khi cố gắng vượt lên cơn dốc, tôi lùi một chút ra sau vừa đạp, vừa đẩy phụ xe Thúy Hà. Thúy Hà đang gắng sức, cố đạp nhanh. Lên khỏi dốc, chứng tôi trông thấy rõ con tàu. Con tàu khá dài, kéo chừng khoảng mười toa cả hành khách và hành lý. Và rồi, chúng tôi buông chân đạp cho xe đổ dốc. Từ phía bên này con đường chạy theo cánh đồng, tôi trông thấy ngôi nhà cũ của tôi.
Hồi còi đoàn tàu đã trôi xa, nhưng hẳn còn vọng.
- Lúc này còn tàu chạy suốt vào miền Nam không anh?
- Vẫn còn.
- Anh đã đi máy bay chưa?
- Chưa. Em đi rồi?
- Cũng chưa.
Phong cảnh rừng, núi, rồi nhà ga hiện ra. Tới ngã tư quốc lộ, chúng tôi rẽ trái, từ quãng này đến nhà tôi nằm bên dưới ga chừng ba trăm mét. Nhà tôi ở, đối diện với tháp nước. Tàu suốt, hay tàu chợ đến ga đều ngừng lại lấy nước trong khoang mười phút. Ngày trước, phía chái hiên có cây trứng cá mẹ tôi mở quán hàng ăn và bán giải khát. Ngày đó, sau buổi học ở trường về đến nhà, hoặc hai ngày nghỉ cuối tuần anh em chúng tôi luôn phụ giúp mẹ phục vụ cho khách ăn.
Căn nhà cũ được nhìn thấy làm tôi xúc động. Và tôi thấy lại quán ăn như hồi đó của mẹ tôi. Tôi chưa nói gì cho vợ tôi biết cả. Hai người đẩy xe đạp vào quán, dựng xe ở gốc cây. Có khách ăn, nhưng bàn ghế còn trống nhiều. Chúng tôi chọn chiếc bàn ngay dưới tàng cây trứng cá gần chỗ hàng rào. Bóng nắng in đậm ngoài sân. Một cô bé đến, đang chờ chúng tôi. Vợ tôi gọi cơm phần hai người, nước uống là trà đá.
Lúc này, ngoài đường thưa vắng nhưng đây là sự yên lặng bình thường đối với cư dân vùng này mỗi khi có đoàn tàu đến rồi lại rời nhà ga. Hình ảnh con tàu, nhà ga, bạn sẽ cảm thấy trong tiếng động quen thuộc này làm người ta nhớ đến vẻ lạnh lùng của nắng và khói tàu.
Thúy Hà cầm chiếc nón vải quạt nhẹ. Trời bắt đầu nóng gắt. Tôi cầm cổ tay Thúy Hà lật nhìn đồng hồ.
- Mình đi lâu không anh?
- Mình đi gần hai tiếng đồng hồ.
- Đi xe độ mất chừng nửa giờ.
- Không đâu. Cũng lâu, vì xe còn ghé nhiều trạm gác và đón khách dọc đường.
- Anh đi nhiều nên chi tiết nào cũng nhớ.
Tôi nhìn lại Thúy Hà, sung sướng biết bao nhiêu với niềm vui. Và nay, Thúy Hà đã là vợ của tôi.
Bữa ăn mang ra. Khi cô bé dọn xong, lễ phép mời vợ chồng tôi dùng bữa, Thúy Hà cảm thấy vui với nụ cười thân thiện.
Hai người bắt đầu bữa ăn. Tôi nói:
- Ăn xong, mình nghỉ quanh đây. Chiều mát đạp xe xuống phố, thăm lại cảnh cũ của thành phố…
- Sao lại ngừng, nói tiếp đi. Khi mà nói về em là anh say sưa, không bao giờ hết chuyện.
- Về đây, em tìm lại được nhiều kỷ niệm thân thiết của mình. Căn nhà cũ em ở, các ngôi trường em đã học, những người bạn của em, những con đường em thường hay dạo chơi.
- Em có cảm tưởng từng chi tiết anh nói giống như tàu đến từng ga xe lửa.
Bữa ăn ngon và câu chuyện vui, vừa cảm động. Tôi đọc thấy hạnh phúc in dấu trên gương mặt Thúy Hà bằng sự hồi nhớ với nhiều nét thời gian lúc đậm, lúc nhạt.
- Về quê ngoại, còn xa nữa không?
- Chúng ta về tới quê trước khi mặt trời lặn.
- Anh tính ở lại bao nhiêu ngày?
Nhìn Thúy Hà, một giọng vui tôi nói:
- Em rất giống mẹ khi bà còn trẻ. Và mẹ còn nói, em đẹp hơn mẹ hoàn toàn.
Giọng nhấn mạnh, Thúy Hà lên tiếng:
- Em chỉ hỏi anh thời gian ở quê bao lâu?
- Anh chưa nói hết ý. Anh nói về mẹ trước, rồi đến quê mẹ, sau đó là con dâu thương quý của mẹ. Khi các chi tiết đầy đủ, lúc đó thời gian quê ngoại là tấm lòng của em đối với mẹ cũng như bây giờ, dù sau này không ở chốn quê nữa nhưng mẹ luôn nghĩ tới em.
Niềm vui của tôi hoàn toàn gởi hết cho người vợ mình mới cưới. Nụ cười trên đôi mắt Thúy Hà lúc này như thể phác vẽ qua trí nhớ tôi một quang cảnh đồng quê, buổi sáng mờ khuất sương mù trên sông, buổi trưa nghe quen thuộc tiếng người gọi từ một mái nhà tranh, từ ngoài cánh đồng, trên con đường cái của làng, buổi chiều, mang mang một sự ngóng trông nhìn bóng nắng mà đợi những chuyến đò có ai sắp về, và cuối cùng, tôi nhớ ra, mỗi buổi chiều như vậy trên con đê làng, từ phiên chợ buôn bán xong mẹ tôi gánh hàng trở về và khi xuất hiện trên đường đê là đã thấy nhà ở của mình.
- Ăn nữa đi em.
- Còn anh, sao không ăn. Anh ngồi đâu cũng mơ mộng cả.
Khi thấy chúng tôi ăn xong, cô bé bưng khay trà ra để cho tôi châm thêm nước vào ly. Vợ tôi nhìn cô bé, lòng nàng vui.
Bên kia bãi đất trống, tháp nước đầy nắng. Nắng cháy khô cả một vùng. Hồi đó, ở đây nhà cửa thưa thớt, nhưng từ dạo có cuộc di cư từ miền Bắc vào Nam nhà ga trở nên nhộn nhịp, số cư dân mỗi năm một nhiều. Tôi đưa mắt nhìn qua chỗ tháp nước, và nó, như là bóng dáng người bạn gợi tôi nhớ đến một thời kỳ đã sống ở đây, đã ở căn nhà này. Khi ba tôi bị đổi vào miền Nam, tôi theo ba tôi, rồi khi ở hẳn trong Huế, thì căn nhà này được bán đi. Nhà mua, nhà thuê, gia đình tôi ở nhiều nơi, nhưng nơi đây, với nhà ga cũ, kỷ niệm của đời tôi dường như luôn chìm nổi, vang vọng trong những hồi còi con tàu. Xưa cũ ấy, giờ đây, tôi đã tới tuổi trưởng thành.
Cuộc đời tôi, có một khoảnh khắc vĩnh cửu đó là lúc, tôi nhớ đến tháp nước nơi này con tàu luôn dừng lại để lấy nước.
- Ăn nữa đi. Em đang nghĩ chuyện gì đó?
Một thoáng hiện của thời gian trên gương mặt hiền dịu của nàng.
- Em nhớ lại nơi này anh ạ. Vào một buổi trưa đó, em và ba xuống tàu và đã ghé quán ăn cơm, đâu như chỗ này đây.
- Cô bé là em, bao nhiêu tuổi?
- Đó là năm di cư.
- Còn chi tiết gì nữa không?
- Còn chứ, nhưng em không nhớ.
- Mười năm, em ở đây bao nhiêu năm?
- Khoảng hơn sáu năm. Như vậy, em xa tỉnh này mới vài năm.
- Vậy là em vẫn còn nhớ được nhiều.
Tôi nhìn qua Thúy Hà, nói thầm với nàng trên cặp mắt trìu mến của mình:
- Bây giờ, em đã là vợ của anh. Chỗ này đây, nhà cũ ngày xưa của gia đình anh. Anh biết, anh đã gặp em rồi. Và, kỷ niệm cũ là cả một tâm hồn bao dung, chân thật, đón em trở lại nơi này.
Chúng tôi rời quán. Vợ tôi trả tiền, còn thừa tiền lẻ cho đứa bé. Khi chúng tôi đẩy xe ra khỏi cổng, chợt quay đầu vợ tôi trông thấy con bé nhìn theo có vẻ nghĩ ngợi.
Rồi vợ tôi nói:
- Con bé dễ thương quá.
- Em về đây, gặp em, ai cũng dễ thương hết.
- Thôi, nước đường em uống nhiều rồi.
- Không, em là hương thơm của trái cây.
bevanng
Quả Mít
Quả Mít
 
Tiền: $39,322
Posts: 14094
Joined: 22 Mar 2009
 
 

PreviousNext

Return to Truyện Ðọc



Who is online

Users browsing this forum: No registered users and 36 guests